hd222222222222222222222222222222222222

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ra đi trên con đường dẫn ra ngoài thành Sài Côn đầy nắng.

- Chỉ còn chục người ở lại với ta, chúa công. – Trần Văn Học nói. Bá Đa Lộc vội vã đi từ Cục Chế tạo lại nói chuyện với đám thủy thủ. – Đó là những người không có thân thích ở Phú Lang Sa.

- Thế thì họ sẽ ở lại với ta đến cuối cùng. – Chúa Nguyễn nói, nhìn theo bóng dáng cao lớn của những thủy thủ Tây dương trên bến cảng. Bá Đa Lộc không thể cản được họ, bây giờ, dù với bất cứ điều kiện gì.

- Họ bảo, chúa công sẽ ổn thôi mà không cần có họ. Vì chúa công đã ngăn họ thảm sát dân chúng của đất nước mình. – Trần Văn Học chợt nói. Chúa Nguyễn vẫn không quay lại.

- Tự do, người ta đã nhân danh mi mà thực hiện bao nhiêu là tội ác. – Chúa Nguyễn nhìn những chiếc buồm bắt đầu được giương lên trong nắng, buột miệng.

Ngài ta vẫn nhìn theo những con thuyền cho đến khi chúng khuất bóng ở đầu bến sông.

34

Ngay sau thành công không hoàn chỉnh ở Quy Nhơn, sự ra đi đột ngột của các thủy thủ Tây dương đã gây ra một sự chấn động nho nhỏ trong lòng quân đội Gia Định. Dù không phải ai cũng ưa thích những tên lính Tây dương buông tuồng kiêu ngạo, nhưng sự quan trọng của họ trong quân đội là không thể bàn cãi. Chỉ còn hơn chục người Tây dương ở lại, chúa Nguyễn liền cho họ đảm trách việc huấn luyện các đội tinh binh người Việt. Chúng ta đủ khả năng thay thế người Tây dương, vị chúa khuyến khích họ. Và hiệu năng của những chiếc thuyền Tây dương trong trận chiến vừa qua cũng khiến các thủy thủ người Việt bị mê hoặc. Cùng với hơn trăm chiếc thuyền bắt được của Tây Sơn và thuyền vẫn tiếp tục được xuất xưởng trong khu đóng tàu bên sông Tân Bình, lực lượng thủy quân của chúa Nguyễn ngày càng đông đảo.

Nhưng những con sóng ngầm vẫn không mất đi trong triều đình Gia Định. Sự ra đi của các thủy thủ Tây dương đã làm cho tin tức cuộc nổi loạn trong nước Phú Lang Sa, với tất cả mọi khía cạnh của nó, cả tốt lẫn xấu, cả tin đồn lẫn sự thật, loan truyền với tốc độ chóng mặt. Khi Nguyễn Phúc Thăng đến tìm gặp chúa Nguyễn, ngài ta không có vẻ ngạc nhiên lúc người Quốc thúc nhắc đến quan hệ với Tây dương.

- Các giáo sĩ có vẻ rất chấn động. – Nguyễn Phúc Thăng nhẹ nhàng nói. Anh ta vẫn ngồi ở ghế dưới so với vị chúa. Căn phòng trông ra khoảng sân có cái hồ nhỏ, mùa này chỉ có hoa súng tím.

- Kẻ đang cầm quyền ở Phú Lang Sa đã cấm cả đạo Gia-tô, đặt nó ngoài vòng pháp luật. – Chúa Nguyễn làm một cử chỉ như thể nhún vai. – Hắn cho đập phá nhà thờ, tàn sát các giáo sĩ, thậm chí bỏ cả lịch đang dùng vì cho đó là lịch Công giáo. Hàng ngàn giáo sĩ đã bị giết. Có một đạo luật ra lệnh có thể giết bất cứ giáo sĩ nào nếu họ không thề trung thành với hiến pháp mới và cả ai che chở họ. Tháng chín năm ngoái, ba giám mục và hai trăm tu sĩ bị thảm sát ở Ba Lê. Tu sĩ bị dìm chết trong các cuộc tử hình tập thể, ngay cả các nữ tu. Hàng vạn người bị bắt đi đày. Cả những đợt cấm đạo tồi tệ nhất ở Nhật Bản, Mãn Thanh cũng không đến thế. Những kẻ nổi loạn đang muốn hủy hoại hoàn toàn đạo Gia-tô. Điều đáng buồn cười là khi không công nhận Thiên Chúa nữa, họ lại muốn quay về với niềm tin về một thế lực siêu nhiên, đặt trọng tâm ở con người, một chủ trương Lý học.

- Điều mà chúng ta đã cố theo đuổi cả mấy trăm năm nay. – Nguyễn Phúc Thăng cười khẽ. – Nhưng không phải vô nguyên cớ mà họ làm thế, phải không?

Chúa Nguyễn nhìn người Quốc thúc cân nhắc một lúc rồi mới trả lời.

- Xu hướng chống Nhà thờ đang rất thịnh hành ở Tây dương. Họ cho rằng Nhà thờ dựa vào Gia-tô giáo để mê hoặc con người. Ngay cả trường học của họ cũng phải dạy Thần học, đạo học, bị Nhà thờ kiểm soát hoàn toàn. Nhiều người Tây dương không tin vào Chúa nữa. Ngay cả một vị vua ở Áo cũng đã ra lệnh cấm Gia-tô.

- Một tôn giáo bị ngay cả vùng đất tổ của mình chống đối thì chắc chắn không tốt lành. Vậy mà đợt tiến quân đến Phú Yên vừa rồi, chúa công cho các giáo sĩ đi theo truyền đạo, chẳng lẽ ngài cho rằng đạo giáo ấy là tốt với đất nước ta?

- Đó chỉ là một tôn giáo, Quốc thúc. – Chúa Nguyễn lắc đầu. – Khi nó đã bị Tây dương chối bỏ, cắt đứt sự liên hệ của Nhà thờ với chính trị trong đất nước họ, thì Gia-tô giáo sẽ mang ít màu sắc chính trị hơn. Quốc thúc nên nhìn dân ta vào nhà thờ làm gì, họ cầu nguyện và xin xỏ y hệt như bất cứ tôn giáo nào khác. Ở các địa phương, thậm chí linh mục cũng làm lễ trừ ma qủy, ban con cái. Sự khe khắt của Gia-tô giáo khó có thể phổ biến trong dân ta, chỉ là các giáo sĩ huênh hoang kể công đấy thôi.

- Thần không cho là vậy, chúa công. – Nguyễn Phúc Thăng lặng lẽ nói. – Chúa công nên nhận ra địa vị của mình. Ngài thân cận với người Gia-tô giáo, tin dùng họ, thì sẽ tạo ra cái ấn tượng rằng đạo giáo ấy là tốt. Những kẻ muốn lấy lòng ngài, những kẻ tôn sùng ngài, cả những thuộc hạ của ngài cũng sẽ bắt chước theo. Và ta không thể không công nhận rằng một vài giáo điều của Gia-tô giáo rất có sức mê hoặc kẻ cùng khổ. Khi ấy, đạo giáo sẽ không còn chỉ đơn thuần là đạo giáo nữa. Mất ảnh hưởng ở Tây dương, các giáo sĩ sẽ đổ xô vào phương Đông này. Chúng ta không thể để đến một ngày đám đông giáo dân kề dao vào cổ chúng ta bắt phải để Nhà thờ của họ bên cạnh ngôi vua. Hay thậm chí, Bá Đa Lộc và những kẻ đi theo ông ta sẽ lần hồi lập ra một thứ Tòa án Giáo hội ngay bên cạnh con cháu ngài. Chúa công, ngài có nhận ra rằng mình đang tạo một thứ trào lưu nguy hiểm? Đội thuyền của ngài, sức mạnh của nó, chiến thắng của ngài, tất cả đang khiến Gia-tô giáo trở thành một thứ lý tưởng mà chúng ta biết rằng hoàn toàn không phải.

Các nước Tây dương đang phải vùng vẫy để thoát ra khỏi Gia-tô giáo, đủ thấy sức mạnh của nó nguy hiểm thế nào. Chúng ta không lẽ nào lại thu nhặt một thứ mà người ta chối bỏ về, trong khi văn minh của chúng ta đã vạch ra con đường đúng đắn mà cả người Tây dương hiện tại cũng phải công nhận. Chúa công dung thứ với Gia-tô giáo là phúc phần của họ, nhưng ngài đừng nên tạo ra một ấn tượng sai lầm, nhất là trong chúng dân còn mê muội của chúng ta.

Ngài là một vị chúa. Tất cả những gì quanh ngài cũng biến thành vấn đề chính trị.

Vị chúa im lặng. Một lúc sau, ngài ta ngả người ra sau, nhìn Nguyễn Phúc Thăng, mỉm cười.

- Ta còn chưa cám ơn Quốc thúc đã hòa đàm với Xiêm La hộ ta. Từ ngày xưa, khi còn đi học, Quốc thúc luôn là một người rất sáng suốt.

- Không, đây là việc thần tin chắc rằng chúa công cũng đã nhận biết rất rõ, nhưng ngài vẫn chưa chắc chắn đấy thôi.

- Có người đã bảo rằng ta nhu nhược. – Chúa Nguyễn cười nhẹ. – Nhưng một tôn giáo nào đó và những kẻ đi theo nó vì niềm tin thì không có tội, phải không? Giết họ, tàn sát họ theo cái cách mà người Phú Lang Sa đang làm là qúa tàn nhẫn. Ta vẫn nghĩ có thể dung hòa tất cả khi giữ chúng chỉ ở khía cạnh tôn giáo đơn thuần. Như đạo Phật, đạo Lão, đạo Đồ Bà, đạo Thần… chúng chẳng can dự vào chính quyền, dù có mê tín đến thế nào.

- Ngài có thể không biết, chúa công. – Nguyễn Phúc Thăng ngắt lời vị chúa. – Nhưng Nguyễn Nhạc đã dựa vào một thứ tà thần mà tập hợp lực lượng của mình vào lúc ban đầu. Hắn bịa ra chuyện một thanh kiếm nào đó cho chân mệnh hoàng đế của mình, phong các em trai của mình làm Long Nhương, làm thầy tu Lữ… Ở xứ nào đó có thể người ta đang phải lấy vô thần chống tôn giáo, chứ ở xứ ta thì dân chúng lại đang muốn lấy tôn giáo hất cẳng việc học hành. Hàng trăm năm nay ta đã cố gắng truyền dạy Lý học, vậy mà có bao nhiêu tác dụng? Sức mạnh của lòng tin tôn giáo, chúng ta không thể tưởng được đâu.

Nếu ngài không muốn đến lúc phải tiêu diệt họ, thì lúc này ngài phải tìm cách kiềm chế họ lại, chúa công.

Câu chuyện của Nguyễn Phúc Thăng và chúa Nguyễn chẳng mấy chốc đã được người trong triều rỉ tai nhau. Sự xuất hiện của Nguyễn Phúc Thăng, ngay vào thời điểm này, đóng vai trò quyết định, họ bảo. So với một Bá Đa Lộc vừa có ơn vừa có nghĩa với vị chúa, chỉ người Quốc thúc mang thân phận trưởng bối này mới có thể lên tiếng. Đây là thời điểm tốt nhất để hạn chế sự ảnh hưởng của các giáo sĩ Gia-tô, khi mà không còn bất cứ một trợ lực nào cho họ, cả ở Phú Lang Sa, cả ở quốc gia này. Chúa Nguyễn vẫn còn cần đến các giáo sĩ để liên hệ với người Tây dương, nhưng với xu thế mới ở châu Âu, mọi sự rồi sẽ thay đổi. Nguyễn Phúc Thăng, có thể vì sự nhờ vả của một vài vị quan khác nữa, đã đến nói chuyện với vị chúa. Nếu nghe chuyện, Bá Đa Lộc cũng chỉ có thể làm thinh. Sự xoay chuyển địa vị của Nhà thờ ở Phú Lang Sa cùng làn sóng chống Thiên Chúa giáo tràn khắp châu Âu làm ông phải thận trọng, lúc này.

Lúc này, không chỉ ở châu Âu, những kẻ chống đối Thiên Chúa giáo cũng đã bắt đầu ra mặt tại vùng đất đầy những tôn giáo lẫn lộn nhau này. Cuộc thi Hội cuối năm đã xét đậu gần ba chục tiến sĩ, đưa họ về các làng quê thành thầy dạy học, thành quan lại địa phương. Các giáo sĩ chưa bao giờ cảm thấy số lượng các nhà Nho nhiều đến thế ở vùng đất Gia Định. Không chỉ chống Thiên Chúa giáo, họ bài xích cả Phật, Lão, Thần, tất cả những gì gắn với thần thánh. Một bọn Hébertists, các giáo sĩ thầm gọi sau lưng vị chúa, đặt ngay cho những học trò Nho học cái tên của kẻ đặt ra Lý học giáo ở Phú Lang Sa hiện tại. Nhưng trong khi kẻ nổi loạn ở Phú Lang Sa vẫn còn phải thờ một nữ thần, những người Đông phương này chỉ tôn vinh nào Khổng Tử, nào Mạnh Tử - những con người bằng xương bằng thịt, mà vẫn tiếp tục cúi lạy, tổ chức lễ nghi cho những hồn ma. Chẳng có thứ lo-gic nào trong suy nghĩ của họ, những giáo sĩ cau có, họ chỉ làm thế để chống lại chúng ta.

Nhưng trong tình thế này, họ biết mình tốt nhất nên yên lặng. Tình hình xoay chuyển trên đất Quy Nhơn cho thấy cục diện vẫn chưa thể định đoạt. Nguyễn Nhạc bị bức tử chết trong thành, tin tức từ Quy Nhơn lẫn Phú Xuân báo về gần như cùng lúc. Quân của Ngô Văn Sở đến Quy Nhơn giải vây rồi tuyên bố Nhạc không còn đủ sức giữ thành nữa, giải giáp quân của Nhạc để chiếm thành. Nhạc tức ói máu mà chết, có người chứng kiến bảo. Thái tử của Nhạc là Quang Bảo bị phế truất làm Hiến công, đưa về huyện Phù Ly. Quân Quang Toản đã kiểm soát toàn bộ từ Phú Xuân đến Phú Yên, trực tiếp đối đầu với Gia Định.

Nghe tin, chúa Nguyễn cho gọi Nguyễn Văn Thành về, đưa Đông cung Nguyễn Phúc Cảnh đến giữ thành Diên Khánh. Các quan Thị học đều đi theo Đông cung, vị chúa nói, trước khi đến tìm Bá Đa Lộc. Vẫn còn hy vọng “cải huấn” người Thái tử Đông phương này theo về với Thiên Chúa, Bá Đa Lộc nhanh chóng nhận lời. Các quan đi theo gồm cả những vị tướng đã từng sang Phú Lang Sa cùng Cảnh như Phạm Văn Nhân, người tướng thân tín Tống Phúc Đạm, và Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành. Võ Văn Lượng, Nguyễn Long, Nguyễn Văn Nhơn ở lại trấn thủ Phú Yên để Huỳnh Đức, Nguyễn Phúc Hội rút về. Những viên quan Tây dương còn ở lại cũng được cử đi Ấn Độ, Hạ Châu, Nam Dương mua vũ khí.

Thành Gia Định những ngày cuối năm Qúy Sửu có một tình trạng yên ắng là lạ. Không còn đội quân Tây dương, không còn cả những giáo sĩ vẫn thường ngày đi theo Bá Đa Lộc khắp nơi trong thành. Chúa Nguyễn cùng những vị đại tướng của mình chỉ chuyên chú tập trận và họp bàn chuẩn bị cho cuộc chiến năm sau. Đó cũng là lúc nàng gặp người Tây dương nọ.

Hôm ấy, nàng vừa từ Quy thành ra về sau khi đến an ủi Quốc mẫu. Bà không muốn đứa cháu đích tôn của mình ra trận, nhất là trấn giữ một thành trì nằm ngay địa đầu đối kháng với Tây Sơn. Cha nó qúa tin vào cái thành kiểu Tây, bảo dù thế nào thì bọn Tây Sơn cũng không phá được. Quốc mẫu cằn nhằn khi Vương hậu bên cạnh bà chỉ lặng im. Cặp mắt hoe đỏ của cô dõi vào khoảng không nào đó. Đông cung Nguyên soái Cảnh quận công, đứa con mười bốn của cô đang phải trả nợ cho cái danh hiệu mà nó được nhận. Như khi xưa nó đã từng lênh đênh trên hàng vạn hải lý đến bên kia bờ đại dương. Như cô đã không thể giữ nó lại.

Nỗi đau của Quốc mẫu chứng tỏ một sức sống lạ lùng, nàng đang nghĩ đến điều ấy khi đi dọc bến sông cỏ đang tàn đi trong mùa nắng, xao xác tiếng gió. Chừng ấy mất mát, chừng ấy tháng năm, bà vẫn có thể còn một trái tim để khóc than cho tất cả mọi người quanh mình, bà vẫn còn có thể giữ một niềm yêu thương và căm hận với trời xanh đến nỗi luôn phản ứng với những gì nó giáng xuống bà. Ngay cả điều đó, nỗi đau ấy, cũng làm nàng không thể nào hiểu nổi. Người già, nàng nghĩ về họ, về những gì sẽ tới. Khi đã già, trái tim con người liệu có khô cứng, già nua như cái vẻ ngoài của họ? Hoặc là chỉ khi ấy, khi tất cả đã trở nên yếu đuối và mỏng manh, họ lại cảm thấy tất cả những gì mà thời trẻ tuổi họ đã bỏ qua? Khi ấy, những nỗi đau mới thực sự trở lại, với đầy đủ sức công phá của nó?

Có lẽ nàng đã thở dài. Có lẽ nàng đã đứng lại bên dòng sông một ngày ngập nắng. Nàng không biết, chỉ giật mình khi người Tây dương nọ mỉm cười với nàng. Anh ta đang đứng cạnh một gốc cây buông tán xuống mặt nước, châm một điếu thuốc trong tẩu theo kiểu Tây dương. Thấy nụ cười của anh ta, nàng đã nhìn quanh, không thể nghĩ anh ta cười với mình. Khi nàng quay lại, anh ta đã đứng trước nàng, cách chừng ba bước chân.

Người Tây dương này có lẽ là ăn mặc bảnh bao theo lối của Tây dương, tuổi vẫn còn trẻ, chắc chỉ vừa qua đôi mươi. Anh ta cao hơn nàng cả cái đầu, khiến nàng bất giác lùi lại.

- Tôi vừa thấy cô đi từ trong thành ra. – Tiếng Việt của anh ta không chuẩn, ngữ điệu ngang ngang theo lối người Tây dương bắt chước nói, nhưng cũng đủ để nàng hiểu. – Xin hỏi Cha Cả có trong thành không?

Nàng nhướng mày. Anh ta biết cả cách gọi Bá Đa Lộc của người bản xứ.

- Không. Ông ấy có việc gấp rời khỏi thành rồi. – Nàng trả lời, không nói về lý do mà Bá Đa Lộc rời đi. Người Tây dương cũng không hỏi. Anh ta chỉ gật đầu, rồi lại nhìn nàng.

- Cô trông có vẻ không vui.

Một lần nữa, đôi mày nàng hơi cau lại. Đây có phải là lối nói chuyện của người Tây dương bọn họ? Chúa Nguyễn không để lính Tây dương của mình tiếp xúc với người trong gia đình nhưng nàng cũng đã nghe được Bá Đa Lộc cằn nhằn về lối sống của đám thủy thủ. Ồ, giờ thì nàng không thấy lạ. Qủy tha ma bắt, chắc anh ta lại tưởng nàng là những đứa con gái sống trong các bến cảng.

- Xin lỗi, tôi không phải là dạng người anh cần tìm. – Nàng nói, bước qua anh ta. Người Tây dương vẫn đi theo nàng, tuy cách một hai bước chân đằng sau.

- Không, thực ra… tôi chỉ muốn hỏi cô cách nào để tìm gặp chúa Nguyễn. – Anh ta nói. – Trước kia thì chỉ cần tìm những giáo sĩ, nhưng họ không còn trong thành nữa. Những người lính của ngài ấy mà tôi quen cũng không có mặt ở Sài Côn.

Nàng đứng lại, quay nhìn người Tây dương. Lại là một thủy thủ đến tìm vận may trong chiến tranh, nàng thầm nghĩ, chỉ tay về phía cửa thành bên kia, phía Xưởng thuyền.

- Từ sáng đến trưa mỗi ngày, ngài ấy vẫn có mặt ở đó. Anh đến báo danh với người coi cửa xin gặp.

- Cám ơn cô. – Người Tây dương hơi cúi mình, lịch thiệp cúi chào theo cách mà nàng đã thấy họ hay chào. Trước khi quay đi, anh ta cười khoe hàm răng trắng bóng. - Trong một ngày đẹp trời thế này, không nên u sầu.

Khi người Tây dương bước, chiếc đinh thúc ngựa trên gót giày anh ta chạm vào mặt đường đất loạt xoạt. Nàng nhìn theo anh ta một lúc, rồi lắc đầu quay đi. Ồ, anh ta làm nàng nhớ đến Võ Tánh ngày đầu tiên gặp nàng. Cũng kiểu nhìn lom lom như vậy, cũng kiểu nói như mặc nhiên là mình đúng. Nhưng tiếng Việt của anh ta, ngoài ngữ điệu ra, phải công nhận rằng rất tốt. Một điều lạ đối với các thủy thủ. Chỉ có các giáo sĩ học nói tiếng bản địa rành rẽ, và các thủy thủ hầu hết dựa vào họ để không phải bận tâm đến ngôn ngữ trong qúa nhiều nơi đi qua.

Dù quân Tây dương đã bỏ đi gần hết, thi thoảng vẫn có thêm người tới. Nàng nghĩ về chuyện ấy khi nhìn lại một lần nữa Xưởng thuyền. Ồ, nàng đã thấy người thủy thủ này mang dây chuyền thánh giá. Một con chiên ngoan đạo thực sự trong hàng ngũ những kẻ phiêu lưu. Trong biến động đang xảy ra tại Phú Lang Sa, những người như vậy không còn đường quay trở lại tổ quốc, phải chăng?

- Phải, hôm nay có người Tây dương tìm chúa công. – Võ Tánh gật đầu xác nhận với nàng vào tối hôm đó. - Anh ta là chỉ huy một chiếc thuyền của Phú Lang Sa bị chính quyền Bồ Đào Nha ở Ma Cao tịch thu, liền tìm đến đây. Phú Lang Sa đang rối loạn như thế, cả các thủy thủ của họ ở ngoài khơi cũng bị kẻ địch làm khó dễ.

- Tiếng Việt của anh ta rất tốt. – Nàng nói. Võ Tánh nhún vai.

- Anh ta thân quen với Bá Đa Lộc, vả lại cũng ở châu Á lâu rồi, đi lại Gia Định luôn. Chỉ vì gặp khó khăn, đi không được về không xong nên mới phải đến nhờ chúng ta.

Nhưng sao nàng lại chú ý đến anh ta thế? – Chàng chợt hỏi. Nàng cười khẽ, không trả lời. Chẳng lẽ lại nói rằng người Tây dương ấy làm nàng nhớ đến chàng trước kia? Ồ không, chàng biết thái độ của mình lúc ấy bất lịch sự thế nào.

- Người Tây dương rất thích phụ nữ bản xứ. – Chàng cau mày khi không thấy nàng nói. Giờ thì tiếng cười của nàng không nén được. Khoanh chân ngồi xuống giường, nàng hơi nghiêng đầu.

- Thật à? Thế sao Cảnh lại bảo phụ nữ của họ rất đẹp?

- Nó chỉ là trẻ con lúc sang bên ấy, thấy người da trắng quen mắt mới bảo thế. Chứ người Tây dương thì nói rằng người xứ họ hôi hám kinh khủng. Họ ba ngày rửa tay một lần, chỉ dùng khăn sạch lau mình rồi thoa phấn. Quần áo thì vải vừa cứng vừa dày. Họ kị nước, bảo nước đem lại dịch bệnh. Tuy nhiều vùng không còn nghĩ thế nữa, họ vẫn không quen dùng nước. Đường xá của họ cũng chẳng sạch, người ta vứt đủ thứ ra mà không có ai dọn.

- Cả phụ nữ cũng vậy?

- Phải. So với những phụ nữ rắc phấn khắp người, bị bó chặt trong hàng đống vải lẫn sắt, phụ nữ phương Đông rõ ràng là hơn. Các thủy thủ Tây dương nói, da của phụ nữ phương Đông mượt như nước, lúc nào cũng thơm.

- Này, - Nàng bật cười. – Thế mà cứ tưởng mỗi ngày mọi người chăm chỉ luyện tập, hóa ra là tụ họp với nhau để nói những chuyện như thế à?

- Không, đó là họ nói chuyện với chúa công, rồi người bên cạnh chúa công nói ra ngoài đấy chứ. – Chàng cũng cười, ngồi xuống sau nàng.

- Cứ thế thì chúng ta sẽ có một đội nữ binh. – Nàng lắc đầu. Phía sau nàng, chàng duỗi chân, vươn vai uể oải.

- Không đâu. Lúc trước có người đùa vậy, chúa công bảo ghét nhất là phụ nữ đi đánh trận. Loại phụ nữ nào mà lại không biết nỗi đau của sự sinh thành, không có trái tim trân trọng sự sống để đi đánh giết con cái của người phụ nữ khác? Ngài ấy bảo thế đấy.

Ngọc Du im lặng. Không có trái tim, nàng nhắc lại, ngẩn ngơ. Võ Tánh vòng tay qua vai nàng, ôm lấy nàng vào ngực chàng. Có lẽ chàng cũng nhận ra đã làm nàng động lòng. Nàng thở dài, cầm lấy tay chàng.

Có lẽ Vương hậu đã lại bắt đầu những buổi cầu kinh dài đằng đẵng, nàng nghĩ. Có lẽ Quốc mẫu và mẹ nàng vẫn tiếp tục, từng đêm, từng ngày, khấn nguyện cho vong hồn những đứa con chết không tìm thấy xác của họ.

Mỗi mùa gió đến rồi lại đi. Những người đàn ông ra đi rồi lại trở về, hoặc sẽ không bao giờ trở lại. Những mùa mưa trong Gia Định chìm trong màn nước và làn sóng nắng quạnh quẽ u sầu. Khi mùa màng đã gieo trồng cày cấy xong, chỉ chờ đến lúc thu hoạch, những người đàn ông lại được gọi ra đi. Và rồi bên khung cửi, bên quang gánh trong những buổi chợ, bên các đứa trẻ, những người phụ nữ chờ đợi. Chờ đợi và nguyện cầu.

Mùa gió đến cùng với những cơn mưa. Đến cùng với những cuộc chia ly, tạm thời hay vĩnh viễn.

Có lẽ Ngọc Tú đã lại chìm trong cõi lặng im mông lung cho những gì đã không còn tìm lại được. Có lẽ Nhị phi đã bắt đầu học cách cầu kinh cho tương lai đứa con mình. Có lẽ bên bờ sông, khói hương trăm ngày cho những người chết trận trong mùa gió vừa qua vẫn còn thoang thoảng.

- Giết người có cảm giác thế nào? – Nàng thì thầm. Đây là điều nàng chưa từng nói ra, chưa từng.

- Khi ta vừa tới Ba Giồng, quân Tây Sơn đến. – Chàng nói sau một lúc im lặng. – Chúng rất đông, ta không chống lại được. Chúng ta mở đường máu cho phụ nữ, trẻ con chạy trước. Máu bắn khắp nơi. Ta thậm chí không biết kẻ đứng trước mặt mình trông như thế nào.

Ngón tay nàng chạm vào chỗ chai sần trên đầu ngón tay chàng, lòng bàn tay. Đã bao nhiêu ngày qua kể từ ngày ấy, nàng tự hỏi. Đã bao nhiêu trận đánh? Đã bao nhiêu lần nhìn thấy người trước mặt mình ngã xuống? Nàng đã thấy khi chàng đưa bệnh binh, hàng binh về Gia Định. Những phụ nữ đổ xô tới, nhao nhác hỏi tìm. Những người quấn băng đỏ máu, những người đã vĩnh viễn trở thành tàn phế, những người về đến quê hương để trút hơi thở cuối cùng. Còn những người khác chỉ có bạn bè mang cái tin báo tử về, cho biết xác thân của họ đã vùi chôn nơi hẻm núi, rừng sâu nào mà họ cũng không biết rõ. Nàng đã thấy đoàn quân ấy, những đoàn quân ấy, những gì đã tiếp diễn trước mắt nàng trong suốt gần hai mươi năm. Những gì đã hầu như trở thành quen thuộc, hiển nhiên đến phi lý.

Họ đã quen với nỗi đau đến mức coi nó như một phần không thể tách rời khỏi sự sống. Và rồi họ lại đau đớn về điều đó.

Giết chóc là việc bào mòn tâm hồn và nhân tính con người, em trai nàng đã nói, trước khi ra lệnh chém đầu tướng lĩnh của chính mình. Một thứ lý luận mà nàng đã nghĩ rằng mình không hiểu nổi. Họ tin vào những gì mình đang làm, và họ cũng căm ghét chính mình vì điều ấy.

Nàng thấy ngột ngạt trong sự bức bối này. Những mùa gió và những cơn mưa nối tiếp nhau thay đổi. Những gì có lý và vô lý đều cũng thật là vô nghĩa. Những cuộc chiến, nàng đã quen với nó từ khi mở mắt chào đời. Cuộc chiến với Chân Lạp, cuộc chiến với Xiêm La, những vụ trừ khử nhau trong triều đình, rồi cuộc nổi dậy. Luôn luôn, những đội quân gồm toàn thanh niên trẻ diễu qua trước mắt nàng. Cái chết và giết chóc là một phần gần như hiển nhiên của sự sống.

Gần như là một phần hiển nhiên của sự sống, nỗi đau của họ.

Nàng quay nhìn chàng. Chàng lại thấy bất an trong đôi mắt nàng.

- Có thật rằng sẽ đến lúc không còn đánh nhau nữa không? – Nàng hỏi. Cho phép mình ngây thơ như một đứa trẻ. Cho phép mình không hiểu như một đứa trẻ. Chàng không trả lời nàng.

Thậm chí chàng không thể hứa rằng chỉ cần thắng cuộc chiến này, chàng sẽ đưa nàng đi. Nàng nghĩ trong nỗi u buồn.

Tháng ba năm Giáp Dần, Thái úy Phạm Văn Hưng và Tổng quản Trần Quang Diệu dẫn bốn vạn quân vào Quy Nhơn. Phạm Văn Nhân vội vã rút quân khỏi Phú Yên. Cuối tháng ba, bốn mặt thành Diên Khánh đã bị vây kín. Tấn công bằng đại bác không hiệu qủa, Trần Quang Diệu cho xây lũy đất bao vây thành.

Ngược gió, tàu thuyền Gia Định không thể tiến quân. Chúa Nguyễn cho thủy quân đậu lại chờ đợi, chỉ cho Nguyễn Văn Thành cầm Tiền phong dinh đến ngoài thành.

- Trong thành Diên Khánh chỉ có Đông cung cùng Thượng sư Bá Đa Lộc, Tống Phúc Đạm. Mạc Văn Tô và Nguyễn Đức Thành đã được Đông cung sai đi giữ Phú Yên. – Người liên lạc của họ nói khi gặp chúa Nguyễn ở Bà Rịa. – Thượng sư Bá Đa Lộc cho để đại bác trên thành nghi binh, chủ trương đánh đột kích tiêu hao quân địch bằng những đường hào và cửa phụ. Trong thành chỉ có bảy ngàn quân.

- Không cần phải lo về Bá Đa Lộc. – Chúa Nguyễn nói, vẫn bảo họ chờ đợi. – Ta đã nói không bỏ thành thì Thượng sư sẽ không bao giờ trái lời đâu.

Hết mùa gió bấc, chúa Nguyễn mới đem đại binh đến cứu Diên Khánh. Tây Sơn liền rút quân thủy về Quy Nhơn, quân bộ ra Phú Yên. Nghe tin, chúa Nguyễn cho Võ Tánh đến tiếp quản quân trong thành Diên Khánh của Cảnh. Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên Khánh, Võ Tánh đưa Đông cung cùng Bá Đa Lộc vòng qua núi An Tượng về Phú Yên. Nguyễn Phúc Hội đánh Tiêu Cơ, Mai Hương lấy được 40 đại bác. Nguyễn Đình Đắc đánh núi Tam Tòa, bắt hơn 800 người.

Thủy quân Gia Định càn quét khắp mặt biển. 8000 quân Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Thận ở bãi Nhạn bị phá tan. Tháng sáu, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhơn đánh cửa An Dụ rồi cửa Đại Cổ Lũy lấy hết lương của Tây Sơn tiếp tế.

Rời khỏi thành Diên Khánh, Võ Tánh cùng quân Cảnh đóng giữ La Hai, Hà Nhao. Biểu xin tiến quân của họ đã bị chúa Nguyễn ngăn cản, bảo phải giữ chặt các đồn lũy. Quân lính tình cờ tìm được đường vòng qua núi Chúa đánh sau lưng Tây Sơn, vị chúa mới cử các tướng tới giúp quân. Dưới lệnh Đông cung, quân Nguyễn tiến đánh điểm tập kết của Trần Viết Kết ở Hà Nhao, đồng Cây Cầy, bắt hơn ba ngàn người. Quân Nguyễn Văn Thành truy đuổi bị phục binh phải rút về. Chúa Nguyễn cũng không tiếp tục tiến đánh, ra lệnh cho Cảnh về Gia Định.

Trên đường về, Cảnh có vẻ buồn bực.

- Chỉ vì Nguyễn Văn Thành bị phục binh mà phụ hoàng không cho ta đánh nữa. – Cậu Đông cung mười lăm tuổi nói với Võ Tánh, đủ để người xung quanh không nghe thấy. – Phụ hoàng qúa cẩn thận.

- Quân thủy chưa phá vỡ cửa Thị Nại được thì không nên đánh qúa sâu. – Võ Tánh trả lời. – Đánh qúa sâu vào địa phận địch, ta không thể chống lại hàng vạn quân của chúng. Cả Nguyễn Văn Thành thận trọng như vậy mà cũng bị chúng phục kích.

- Cũng không nên bắt ta phải về sớm. – Cảnh nhún vai, nói với vẻ luyến tiếc. – Ta hai, ba lần dâng biểu xin đánh, hẳn phụ hoàng lại sợ ta liều mạng gì đây.

Võ Tánh chỉ cười. Cậu công tử trẻ tuổi ra trận lần đầu với sự hăng hái khó mà kiềm hãm được. Ngay khi ra trận lần đầu, cậu ta đã dùng bảy ngàn quân giữ được thành Diên Khánh trong vòng bốn vạn quân địch, đã đánh tan cả đội quân của Tây Sơn, bắt được hàng ngàn tù binh. Với thành tích ấy, chẳng trách chúa Nguyễn đã phải cản cậu con trai lại.

Vả lại, quân giữ thành Diên Khánh rồi trải qua một chuyến đi vòng núi An Tượng cheo leo đá sỏi cũng đã kiệt sức, chàng thầm nghĩ và nhìn quanh. Tống Phúc Đạm đã bị bệnh nặng, phải lấy xe kéo đưa về theo họ. Bá Đa Lộc đang cưỡi ngựa cạnh xe của Tống Phúc Đạm, trong khi Olivier và các linh mục tùy tùng của ông ta đi trước. Cảnh nhìn theo Võ Tánh, cau mày.

- Hai ông ấy ngồi nói chuyện trên trời dưới đất với nhau, rồi Tống Giám quân cứ thế mà bàn chuyện đạo với Cha Cả. Ta e ông ấy đã theo đạo mất rồi.

Chàng nhướng mày. Khi vừa giải cứu Diên Khánh, chàng đã nghe thấy trong các tướng bị bệnh có người xin làm lễ rửa tội, chẳng lẽ đó là Tống Phúc Đạm?

Một vị tướng như Tống Phúc Đạm, người tướng thân tín của chúa Nguyễn, của Đông cung, lại theo đạo Gia-tô? Chàng thầm nghĩ, nhìn Cảnh đã lại hướng sự chú ý của mình về con đường trước mặt. Cậu ta đã bày tỏ sự không hài lòng khi nói về chuyện Tống Phúc Đạm, như thể cậu ta chưa từng là tín đồ Gia-tô.

- Thật là rắc rối. – Như thể đoán được ý nghĩ của chàng, Cảnh thở ra. – Nếu Tống Giám quân mà theo Gia-tô thật, triều đình lại chẳng một phen náo loạn?

- Chỉ là một đạo giáo thôi, Đông cung. – Chàng ướm lời. Cảnh liếc nhìn chàng, rồi cậu bé mười lăm tuổi thủng thẳng cười.

- Nếu chỉ là một đạo giáo, người ta sẽ không phải giết chừng ấy người ở Phú Lang Sa, Tham thặng tướng quân.

Đó là việc của con người, không phải vì Thiên Chúa, chàng muốn nói nhưng nghĩ lại. Đông cung có còn tin vào Thiên Chúa, chàng tự hỏi rồi cũng tự nghĩ mình đã có câu trả lời.

Cậu bé Nguyễn Phúc Cảnh ngày xưa đã không còn nữa. Giờ đây cậu là Đông cung Nguyên soái Chưởng Tả quân. Cậu đã vào đời bằng trận thắng hàng vạn địch quân trên chiến trường. Và ngay cả cha cậu cũng cảm thấy phải cản cậu lại.

35

Nghe tin Cảnh trở về Gia Định, Ngọc Du vội vã đến Quy thành. Trong điện Đông cung, hầu như cả nội cung của chúa Nguyễn đã dồn về để đón Cảnh. Thấy nàng, Cảnh lắc đầu.

- Võ Tham thặng chỉ đưa cháu đến Thuận Thành trấn rồi trở về họp quân với phụ hoàng. – Cậu Đông cung thông báo với Ngọc Du. Nàng im lặng gật đầu rồi lui ra, cùng với cô hầu gái và bé Hồi rời khỏi thành. Quân của Tả quân dinh đang sắp xếp lại chỗ ở, những con tàu của quân đội cũng vừa về bến cảng lấy lương làm Quy thành đông đúc chộn rộn những con người lăng xăng tất bật.

- Công nương không báo với tướng quân sao? – Cô hầu gái hỏi. Ngọc Du lắc đầu. Con bé ngước mắt nhìn nàng, rồi nhìn quanh. Cảnh nhộn nhịp này làm nó thấy thích thú. Sắp đến tháng tám, một vài cửa hiệu đã bắt đầu bán lồng đèn. Nó giật tay áo mẹ, đòi đi xem chợ. Ngọc Du bảo cô hầu dẫn con bé đi, còn nàng ngồi lại cái quán trà nhỏ bên sông chờ đợi.

Nắng dịu đi khi bầu trời phủ mờ mây trắng nhưng không có dấu hiệu sẽ đổ mưa. Quán nhỏ đông đúc người vào ra, nàng chọn một chỗ ngồi nhìn ra sông nơi góc vắng. Mông lung, nàng nhìn ra những con thuyền đậu san sát bên bờ cỏ, gió thổi lồng lộng mang đầy mùi nước táp vào mặt nàng. Thở dài, nàng chạm vào bụng, làn da đã căng ra dưới những lớp áo. Lại một đứa trẻ nữa, và nàng không có ý định báo cho người ngoài chiến trận. Nàng vẫn còn nhớ những sự rắc rối trước đây, và chàng có biết hay không cũng chẳng có khác biệt gì. Lần này, nàng sẽ kiên nhẫn đợi.

Lại một tiếng thở dài, nhưng lần này lại vang bên cạnh nàng. Nàng nhìn sang bàn bên cạnh, chợt nhận ra người Tây dương đã gặp lần trước. Anh ta đang nhìn ra dòng sông, có lẽ tiếng thở dài vừa rồi là của anh ta. Tiếng thở dài là của anh ta, nàng nghĩ khi thấy nước mắt chầm chậm rơi xuống má người Tây dương. Anh ta khóc. Nàng cau mày, thấy hơi hơi ngạc nhiên. Đàn ông không hay khóc, và họ không khóc ở một nơi đông đúc như thế này. Có vẻ trong lúc nàng còn đang mải suy nghĩ, anh ta đã ngồi xuống bàn này và khóc. Anh ta nhìn ra dòng sông mà khóc.

Linh cảm thấy ánh mắt Ngọc Du, người Tây dương quay nhìn. Nàng vội vã quay đi. Nhưng có vẻ như anh ta đã nhận ra nàng, người Tây dương nhìn nàng một lúc rồi cười nhẹ.

- Chúng ta lại gặp nhau.

Ngọc Du miễn cưỡng quay lại, gật đầu. Anh ta đã lau nước mắt, nhưng đôi mắt xanh vẫn còn đẫm ướt. Nụ cười của anh ta có vẻ buồn bã không che giấu, anh ta cũng chẳng ngượng ngùng về những giọt nước mắt của mình. Nhìn ở khoảng cách này, nàng nhận ra người Tây dương có lẽ còn ít hơn nàng vài tuổi. Chỉ mặc một chiếc áo trắng phanh cổ, anh ta trông có vẻ lạc lõng, cả ở trong bến cảng tấp nập người Tây dương này.

- Tôi cứ nghĩ anh đã vào quân đội. – Cuối cùng, nàng nói. Em trai nàng đã đưa tất cả lính Tây dương của mình đến Thị Nại, phải chăng?

- Chúa công cho tôi về lấy lương. – Người Tây dương trả lời nàng. Rồi anh ta lại bối rối cười. – Vì qúa nóng lòng muốn biết việc ở nhà, tôi đến chợ để gặp những người khác.

Vậy ra anh ta khóc vì nghe chuyện ở Phú Lang Sa, Ngọc Du nghĩ thầm. Nhận ra ánh mắt nàng, người Tây dương quay nhìn mặt nước màu nâu đỏ trước mặt. Có điều gì đó ở anh ta mà nàng cảm thấy rất quen thuộc, cái nhìn này, thái độ này, cả ánh mắt không muốn nhìn thẳng vào nàng.

- Đất nước của tôi thật là khốn khổ. – Người Tây dương hít sâu vào trước khi nói. Tiếng Việt của anh ta đã tốt hơn trước, ngữ điệu dần dần hoàn chỉnh. Thậm chí giờ đây nàng đã có thể cảm thấy nỗi buồn trong cách anh ta nói. – Chỉ trong vòng một năm, năm vạn người đã chết. Năm vạn người, họ giết lẫn nhau, họ giết nhau. Ban đầu là Jacobin giết Girondin, rồi cái gọi là Công xã Paris đó bắt đầu sát phạt nhau. Robespierre giết Jacques Hébert, Robespierre giết George Danton. Rồi tất cả, tất cả những kẻ dám trái lời hắn ta đều phải chết. Tất cả những kẻ trái ý hắn đều phải chết. Cách mạng? Hắn gọi đó là cách mạng vì kẻ cùng khổ khi hàng vạn người, ba phần tư là công nhân, nông dân đã chết? Hắn gọi đó là công lý khi hắn đặt ra cái Luật thứ 22, tử hình bất cứ ai mà không cho họ bào chữa, không cần cả nhân chứng – và rồi giết cả gần 1300 người chỉ trong vòng 40 ngày? Hắn cho đó là “Cách mạng cho đến khi hòa bình”? Cách mạng cho đến khi chỉ còn bọn hắn tồn tại trên đời này! Tên cuồng tín ấy, tên độc tài ấy! May mà hắn đã bị lật đổ. Nhưng đất nước tôi sẽ thế nào đây? Đất nước tôi sẽ ra sao? Mọi kẻ chỉ lao vào đánh nhau. Chẳng còn Chúa Trời, chẳng còn luật pháp, chẳng còn cả Lẽ phải. Họ đang sử dụng Lẽ phải để chém giết nhau. Đất nước khốn khổ của tôi!

Đôi lần, tiếng nói của người Tây dương vỡ bục ra, gần như là nức nở. Giờ thì nàng nhận ra cảm giác quen thuộc vì lý do gì. Bất lực, sự bất lực chua cay đến kiệt cùng, nàng thấy nó trong mắt người Tây dương trẻ. Đất nước khốn khổ của tôi, người tha nhân này nói, và nàng thấy nhoi nhói trong lòng. Khốn khổ, nàng lặp lại. Mọi người đều thật là khốn khổ, mọi người đều đang giết chóc nhau, trên mặt đất này.

Nhưng nàng không lên tiếng. Chẳng có gì để nói với anh ta, trong nỗi đau buồn này. Nàng cũng là một người bị đẩy khỏi quê hương, không còn đường quay lại. Nhưng nói điều đó thì có ý nghĩa gì? Thậm chí hỏi rằng, chúng ta tại sao lại phải chịu số phận ấy, thế cũng có ý nghĩa gì?

Nàng chỉ lặng im nhìn ra mặt sông ngầu phù sa, cuồn cuộn sóng. Những cành cây khô, gỗ mục, bèo và cả những gì không thể gọi được tên đang trôi theo dòng nước. Chúng giết tất cả mọi người, qúy tộc, tăng lữ, trung lưu, dân thường, người bên cạnh nàng vẫn nói, nhưng nàng không còn chú ý đến nữa. Phải thôi, nàng nghĩ. Niềm tin, làm gì có niềm tin nào trên cõi đời này. Kẻ chống đối phải chết – đó là lý lẽ duy nhất của những kẻ mang trong mình một điều gọi là Niềm tin. Cả lòng trung thành, cả lẽ phải, cả đạo lý, cả những điều được ngợi ca và xưng tụng như Tổ quốc và gia đình, tất cả, đến lượt nó, lại phủ định tất cả những giá trị tạo nên nó.

Dòng sông này đã từng đỏ máu người, mặt đất này đã bao lần bị cày xới trong chiến trận. Từ đất nước Phù Nam, từ đất nước Cao Miên, từ Gia Định của Nguyễn triều. Than khóc cho một mảnh đất thế này liệu có phải là vô ích? Than khóc trên một mảnh đất như thế này phải chăng là vô ích?

Anh còn người thân nào ở Phú Lang Sa? Có lẽ đó là điều nàng muốn hỏi nhưng không dám. Anh ta đã không thể trở về.

Cho nên nàng chỉ lặng im, ngả lưng vào gốc cây đằng sau mà nhìn ra bầu trời cùng mặt nước. Đám rau bên sông dập dờn xanh. Tiếng lao xao của chợ và bến cảng. Bóng của tòa thành và nắng le lói qua những cụm mây mỏng. Những mùa mưa trong Gia Định quạnh quẽ và u sầu khi chỉ còn bóng những người phụ nữ lặng lẽ đợi chờ. Nàng nghĩ tới sinh linh đang lớn dần trong bụng, một lần nữa lại thiếu vắng cha nó ở bên. Thậm chí chàng không biết đến sự hiện diện của nó. Lần này trở về, nàng phải tự mình tìm lấy nhũ mẫu, phải tự lo toan cho mình. Cả than trách hay an ủi cũng trở thành vô nghĩa lý, bây giờ.

Ngày tháng vẫn qua đi như vậy. Nàng nghĩ khi nhìn đám mây đổi thay hình dạng cuối trời. Chẳng mấy năm nữa, nàng sẽ già nua, sẽ chỉ còn lại là hồi ức và những đứa trẻ. Còn chàng, ngay cả sự thiếu vắng chàng thì nàng cũng đã quen. Những cảm giác phụ thuộc ban đầu đã qua đi, để lại trong nàng dư vị đắng chát mà nàng không muốn nhớ lại. Nàng trở nên bình thản với những cuộc ra đi và trở lại của chàng. Ngày cũng như tháng. Một tháng và nhiều tháng. Những cơn mưa qua rồi lại đến, bên nàng chỉ có đứa bé ngày càng lớn, ngày càng ít nhắc về cha nó hơn. Ngay cả nó cũng đã quen với sự vắng mặt liên tục của người cha. Và rồi đứa trẻ này có lẽ cũng vậy.

Chúng cũng như nàng, đã học cách ngóng đợi trong im lặng. Những con người nơi đây dần dà đã quen với nỗi đau không lời ấy.

- Đã có khi tôi nghĩ rằng thật là lạ khi tất cả lại xoay chuyển thành như thế. – Người Tây dương nói, một lúc sau. – Kẻ độc tài khát máu Robespierre lại không phải là người xấu, nói điều đó thì có phải là lạ lùng không? Anh ta là một luật sư lương thiện có tiếng, ai ai cũng biết. Anh ta đức hạnh, thanh liêm, chỉ nói đến đạo đức. Anh ta chỉ muốn nước tôi hùng mạnh, người dân được bình đẳng, ấm no. Vậy mà cuối cùng lại thành như thế đấy. Chúng tôi phá ngục Bastille, hạ bệ đức vua để mong được tự do, vậy mà cuối cùng lại trở thành như thế đấy. Chúng tôi hạ bệ đức vua để rồi có một tên bạo chúa! Chúng tôi muốn bình đẳng để rồi có một tập thể độc tài! Chúng tôi muốn tình anh em rồi lại tàn sát lẫn nhau khắp nơi!

- Những kẻ luôn cho rằng mình đúng sẽ luôn gây ra tội ác. – Ngọc Du chậm rãi nói. - Chúng ta đều là con người, những kẻ ấy lại không chịu hiểu điều đó. Họ chỉ biết khái niệm của đạo lý, không hề biết thế nào là đạo lý.

- “Tất cả đều run rẩy trước bạo lực. Tất cả đều yêu cuộc sống. Tất cả đều sợ cái chết. Hãy nhìn thấy chính ngươi trong kẻ khác. Rồi ngươi có thể làm tổn thương ai? Rồi ngươi có thể hủy hoại cái gì?”, Phật đã nói như thế. – Người Tây dương lặng lẽ lẩm nhẩm. - Thiên Chúa cũng bảo “Nếu ai không phạm tội lỗi gì thì hãy ném đá người phụ nữ này”.

- Trong Kinh Thánh có đoạn Chúa Trời làm một trận Đại hồng thủy quét sạch tội lỗi trên thế giới. Vậy thì người cho rằng đó không phải là tội ác? Thế giới hiện tại mà người xây dựng lại thì tốt hơn thế giới cũ?

- Vì thế mà chúng ta luôn hình dung thần thánh dưới dạng một con người.

- Đổ lỗi cho một người có nhiều quyền lực và đứng cao hơn mình bao giờ cũng dễ dàng hơn. – Ngọc Du nhếch môi. Người Tây dương nhìn nàng, rồi cười nhẹ.

- Cô có điểm gì đó rất chua cay.

Có điểm gì đó? Nàng nhướng mày. Tiếng Việt của anh ta hẳn là vẫn có vấn đề. Người Tây dương lắc đầu.

- Không biết phải nói thế nào. Thường ở những vùng đất tôi đi qua, tôi không biết ngôn ngữ bản xứ của nơi ấy, nên tôi học cách quan sát con người và thái độ của họ. Khi gặp cô, tôi đã nghĩ cô giống như… người không tìm được nơi ở của mình.

Ngọc Du cau mày. Người Tây dương này, anh ta nghĩ mình là ai?

- Còn tôi thì đã nghĩ anh là một con chiên ngoan đạo. – Nàng cười. – Nhưng hóa ra anh biết cả Phật, anh nghi ngờ cả Thiên Chúa của mình.

- Người ta nên giữ lại một chút nghi ngờ để không trở thành mù quáng, trước bất cứ chuyện gì. Nhưng nếu không có gì để tin, cuộc sống lúc ấy thật là khổ sở. – Người Tây dương vẫn bình thản trả lời nàng. Nàng lại không lên tiếng.

Có tiếng con bé Hồi gọi ở đầu chợ, nàng quay lại, rồi đứng dậy, đi qua người Tây dương mà không chào. Anh ta cũng không gọi nàng, quay ra nhìn dòng sông. Hẳn anh ta lại nhớ đến nó, đất nước Tây dương đang quằn quại trong những rối loạn và hận thù. Hẳn anh ta lại chìm vào trong những ký ức và suy tưởng. Dòng sông này, nơi mảnh đất đã bị cày xới, hủy hoại bao lần, chẳng thể trả lời cho anh ta.

Khi nàng dẫn con và cô hầu gái đi qua quán nước về nhà, cái bóng của người Tây dương vẫn không chuyển động. Anh ta bất động, như một hòn đá. Như khi anh ta đứng trên con thuyền đi xuyên qua bão táp và những cơn gió. Vẻ bất động của anh ta lại chứa đầy những bất an.

Như sự bình yên này của bầu trời cùng mặt đất, nàng nghĩ khi ngẩng đầu nhìn những chiếc lá nhỏ bay trong làn bụi bị cuốn theo cùng gió. Bàn tay đứa con nóng như một đốm lửa lạc loài trong tay nàng.

Tháng chín năm Giáp Dần, hết mùa gió nồm, chúa Nguyễn cho lui quân về Gia Định, để Võ Tánh ở lại giữ thành Diên Khánh.

Đón chờ vị chúa trở lại là một rối loạn nho nhỏ ngay trong triều đình. Sự việc Tống Phúc Đạm theo Gia-tô giáo đã trở thành giọt nước tràn ly của sự bất mãn trong ngoài triều với cuộc sống trong gia đình chúa Nguyễn. Dù đầu năm, trước khi đi giải cứu Diên Khánh, chúa Nguyễn đã cho trùng tu Văn miếu ở Trấn Biên, sự bất mãn của các quan cũng chỉ tăng lên mà không giảm bớt. Các giáo sĩ, đứng đầu là Hồ Văn Nghị và Liot, đã bày tỏ thái độ chống đối không che giấu, sử dụng tất cả mối quan hệ của mình để giáo dân không đóng góp tiền xây Khổng miếu, kể cả các quan mang đạo cũng chống lời vị chúa. Hơn lúc nào, tiếng đồn về quyền lực của các giáo sĩ đối với triều đình đã trở thành một mối đe dọa thực sự, trong những tin tức về Phú Lang Sa không ngớt chuyển đến bến cảng Sài Côn. Bây giờ mới chỉ là việc chấn hưng văn hóa quốc gia, họ đã chống lại, sau này còn những việc hệ trọng hơn thì sẽ ra sao? Những lời xì xầm chỉ nguôi đi cùng cuộc vây thành Diên Khánh của quân Tây Sơn, rồi lại thổi bùng lên khi Đông cung trở lại. Những quan Thị học của Thái tử, người cũng đã cùng ở thành Diên Khánh, trở thành nhân chứng cho sự biến đổi của vị Giám quân rất được lòng người này.

Ông ấy cùng Bá Đa Lộc nói chuyện về Nho học, rồi bàn luận về Gia-tô, cuối cùng ông ấy lại theo Gia-tô, họ kể. Đứng trước hai bên thầy dạy học, một là Thượng sư, một là Phụ đạo, Đông cung chỉ có thể làm thinh. Rồi trên đường về, Tống Phúc Đạm cứ xin gặp Bá Đa Lộc để rửa tội, cuối cùng phải chết dọc đường. Cái chết của Tống Phúc Đạm làm quan triều rúng động sâu sắc. Lòng thương tiếc một người bạn đồng liêu đã thổi bùng lên ngọn lửa căm hận với Bá Đa Lộc.

Những mâu thuẫn ngấm ngầm trong mấy tháng trời ấy chỉ chờ chúa Nguyễn về để bùng nổ.

Nhưng quân vừa đặt chân đến Gia Định, người báo tin đã chạy theo sau vị chúa đưa tin khẩn. Quân Nguyễn vừa rút, Tây Sơn lại tràn đến. Võ Văn Lượng và Nguyễn Long ở Phú Yên phải rút về Bình Khang. Gió ngược, Gia Định không thể xuất quân, chúa Nguyễn chỉ có thể cho Tiền phong quân và Hữu quân đóng ở Phan Rang tiếp ứng.

Cho nên, Phúc Cảnh không có vẻ ngạc nhiên khi thấy người cha đã đùng đùng nổi giận.

- Thượng sư ở đâu? – Chúa Nguyễn hỏi người con trai qua hàm răng nghiến chặt. Cảnh làm một cử chỉ như nhún vai.

- Ông ấy lại lánh đi đâu đó, hẳn vậy. Hoặc là tin tức từ Phú Lang Sa ngày càng xấu, ông ấy lại đang phải nghe ngóng tình hình. Giờ thì những người Phú Lang Sa sau khi giết Robespierre lại bắt đầu trả thù, giết toàn bộ đảng Jaconbin. Nghe đâu họ kéo nhau đi hàng đoàn, bắt bất cứ ai có dấu hiệu ủng hộ cho Jaconbin để đánh cho đến chết. Cả những người ủng hộ Gia-tô giáo cũng thoát ra khỏi tù ngục, tìm kiếm những kẻ thù của họ để giết cho bằng hết. Các giáo sĩ ở xứ ta đang nghe ngóng xem những kẻ vừa lên lãnh đạo ở Phú Lang Sa có cởi trói cho đạo Gia-tô hay không.

- Con có vẻ theo dõi rất sát động thái ở Phú Lang Sa. – Chúa Nguyễn nói, cậu Đông cung mười lăm tuổi mỉm cười.

- Chúng ta chắc chắn là muốn xem ai sẽ thắng, phải không phụ hoàng? Những người Gia-tô giáo ở Phú Lang Sa sẽ tồn tại được bao lâu?

- Họ sẽ không bị hủy hoại chỉ đơn giản như thế. – Chúa Nguyễn lắc đầu. – Còn chúng ta lại đang phải lãnh hậu qủa của những kẻ bên bờ đại dương. Chuyện của Tống Phúc Đạm cụ thể là thế nào? Tại sao chỉ nói chuyện với Bá Đa Lộc mà ông ấy lại thay đổi?

- Khi nghe ông ấy nghiêng về đạo Gia-tô, con có đến gặp. – Phúc Cảnh nhũn nhặn trả lời. - Khi con đến, quyển Kinh Thánh của Tống Phúc Đạm vẫn được đặt đường hoàng trên bàn. Bắt gặp ánh mắt của con, Tống Phúc Đạm chỉ mỉm cười.

“Khi trước ta nghe ông nói rằng tin có Trời, bây giờ ông lại tin hẳn vào Chúa.” Con nói. Tống Phúc Đạm rót trà vào ly cho con, ngồi xuống vị trí thấp hơn rồi mới mở lời.

“Trời và Chúa thật ra có khác gì nhau đâu, Đông cung. Chúng ta tin rằng có một thế lực siêu nhiên điều khiển thế giới này, ban cho vạn vật sự sống, làm thế giới xoay chuyển, biến đổi, thời thế vận hành, lưu động. Tất cả những điều đó đều có thể dùng để mô tả Thiên Chúa.”

“Không, chúng ta không chờ đợi kẻ khác quyết định cho cuộc sống của bản thân mình.” Con cau mày, còn Tống Phúc Đạm điềm đạm cười.

“Nhưng có phải chúng ta đều có thể quyết định được cuộc sống của mình không, Đông cung? Có thật là chúng ta mạnh đến như thế không? Sự thất bại của chúng ta trước kia, sự thành công của chúng ta hiện tại, cái chết của kẻ thù, và cả sự tồn tại của chúa công, tất cả liệu có phải rằng do chúng ta tự quyết định lấy? Ngài không cảm thấy nó sao, sự xoay chuyển của đất trời? Ngài không cảm thấy nó sao, một thế lực to lớn nào đó đang quyết định mọi sự trong thế gian? Chúng ta đúng hay sai, tốt hay xấu, cố gắng hay không cố gắng, hy vọng hay tuyệt vọng, tất cả đều có ý nghĩa gì? Tất cả đều đâu có thể giúp chúng ta sống sót? Tất cả đều đâu có giúp cho chúng ta tồn tại? Từ ngàn xưa, chúng ta đã biết điều đó, chúng ta mới viện dẫn đến Trời, đến thiên mệnh, đến quy luật. Nhưng thật rằng có một quy luật, hay chúng ta chỉ tưởng tượng ra để tự giải thích cho mình? Hay thật sự có một điều gì gần giống như quyết định của một đấng bề trên, có thể đổi thay, có thể lay chuyển? Chúng ta phủ định sự tồn tại của thánh thần, nhưng chúng ta cũng phải tuân phục một điều gì đó cao hơn, sâu hơn mà chúng ta không thể hiểu. Thiên Chúa là cách giải thích đúng đắn và hợp lẽ. Gia-tô giáo rất gần với cách hiểu của chúng ta về thế giới. Chúa ba ngôi và tam phân Thiên, Địa, Nhân, ngài có thấy sự tương đồng của chúng?”

“Ông nói như vậy là phủ định bao công sức của chúng ta, thành qủa của mọi người. Không có điều gì là ngẫu nhiên. Không điều gì tự dưng mà có. Nhân định thắng thiên, đó là những gì chúng ta được dạy, ông đã quên rồi à?”

“Vì Đông cung và chúa công là thiên tử, người được tin rằng có sức mạnh thay đổi cả trời đất.” Tống Phúc Đạm vẫn giữ nụ cười an bình trên gương mặt. “Còn thần chỉ là một con người. Một con người có quyền quyết định tin hay không tin. Thần đã già rồi. Trong những tháng năm đã sống, thần đã nhìn thấy bao sự biến đổi, xoay chuyển. Thần đã biết sợ hãi sức mạnh của đất trời. Thần đã biết sợ. Chúng ta thật nhỏ bé biết bao nhiêu trong vũ trụ này. Chúng ta bất lực biết bao nhiêu trong thời đại này. Chúng ta lọt thỏm trong mạng lưới của số phận. Chúng ta được tạo thành từ số phận. Chúng ta cứ cố gắng chống lại, chống lại. Nhưng con người thật sự rất nhỏ bé, rất nhỏ bé. Ngài nhìn mà xem, bao nhiêu con người quanh ngài đã sống và đã chết. Chỉ cần một cơn đột tử, kẻ mà muôn người sợ hãi kia đã chết, ngài có thấy? Chỉ cần một cái phất tay của định mệnh, hắn đã chịu thua và khuất phục. Chúng ta sống và chết vì muôn vàn lý do mà thực sự có lý do nào? Chúng ta luôn cố gắng lý giải, nhưng chúng ta vẫn phải chịu cúi đầu.

Từ khi ra đời, từ khi có mặt, con người đã luôn cố lý giải, đã có bao nhiêu đạo giáo và thánh thần được ra đời. Tôn giáo sẽ sống, mãi mãi sống, vì chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được lý do của sự tồn tại của mình.”

“Ông đã nói rằng con người sinh ra đạo giáo. Cứ cho rằng thật sự có một thế lực siêu nhiên, thật sự có thánh thần, thì tại sao phải là Thiên Chúa?” Con nói.

“Vì thần là một lão già, Đông cung. Thần đã già rồi. Vì đó là những gì thần tin. Thần đã biết sợ hãi, và do đó, thần cần một niềm tin để tiếp tục. Bao nhiêu năm đã sống, làm tướng chinh chiến trên chiến trường bao trận, tay thần đã nhuốm máu bao nhiêu sinh mạng con người. Cuộc sinh tồn, tàn sát của chúng ta qủa thật qúa khắc nghiệt. Nhiều khi thần không biết mình phải sống, phải tiếp tục vì lẽ gì. Nhiều khi thần muốn phát điên lên được vì bao nhiêu sinh mạng mà mình đã giết. Bao nhiêu người đã chết vì chúng ta? Vì sự tồn tại mà chúng ta hủy hoại bao nhiêu người? Thần cần một niềm tin để tiếp tục. Phó mặc định mệnh cho Chúa, chấp nhận sự an bài của Chúa, thần sẽ đi tiếp trong cuộc tồn sát này. Có một Địa ngục để sợ hãi và một Thiên đàng để ước mơ, thần sẽ giữ được lương tri của bản thân mình, không để mình bị biến thành mù quáng vô đạo. Thần tin rằng có một sự giải thoát, cho chúng ta, cho tất cả mọi số phận đáng thương trên cõi đời này, trong tất cả sự rối loạn và tàn ác trên cõi đời này.

Tất cả mọi đạo giáo đều đưa ra cách giải thoát con người, nhưng đồng thời cũng đặt ra qúa nhiều yêu cầu. Phải trong sạch, phải lương thiện, phải thành tâm. Ngay cả dù có hạ đầu đao, ta cũng phải hối lỗi để có thể siêu thoát. Không, con người không được như vậy. Đó chỉ là cách giải thoát dành cho các bậc thánh nhân để trốn lánh khỏi cuộc đời. Còn chúng ta, những kẻ như chúng ta, có ai nghĩ đến chúng ta? Tại sao lại bắt chúng ta hối cải trong khi chính chúng ta lại không biết mình phải hối cải vì điều gì? Chỉ có Thiên Chúa chấp nhận chúng ta, chấp nhận tất cả những con người, chỉ cần chúng ta tin tưởng. Chỉ có Thiên Chúa chấp nhận xóa bỏ mọi tội lỗi cho con người, không cần lý do, không cần biện giải. Thần không cầu xin Thiên đàng, cũng không ngại ngần Địa ngục, nhưng thần cần một niềm tin.

Nếu như điều đó làm cho cuộc sống chết của chúng ta có một lý lẽ nào.”

- Ông ấy nói như thế, và con không biết phải thế nào nữa. – Phúc Cảnh lặng lẽ nói. – Cái chết của ông ấy, con cũng có một phần trách nhiệm.

Chúa Nguyễn đã lặng im. Ngài ta cũng không nói nữa, những điều về thân phận và trách nhiệm của Giám quân trước triều đình, cơn bão ngầm đang cuộn sóng mà người đàn ông này không hay biết. Không hay biết, khi ông ấy đã chết. Trước cái chết, ông đã cầu xin sự giải thoát, một lần duy nhất. Ơn huệ duy nhất mà ông cầu xin suốt một cuộc đời bôn ba lặn lội.

Đó là việc của ông ấy, vị chúa nói, làm ra vẻ không để ý đến nữa.

Nhưng các quan trong triều, kể cả các Nho sĩ từ Bắc Hà vừa tới từ đầu năm, vẫn không thể bỏ qua. Đầu năm, Nguyễn Đình Đắc từ Bắc Hà lại trở lại, mang theo những nhân sĩ bạn bè của anh ta, trong đó có Đặng Trần Thường và Nguyễn Bá Xuyên. Theo quân Nguyễn Đình Đắc đến Thị Nại, Đặng Trần Thường đã bày trận thắng núi Tam Tòa. Luận công ban thưởng, chúa Nguyễn cho Thường làm Tham tri Bộ Lại. Và chẳng mấy chốc, anh ta cũng đã biết chuyện không hay ho của những giáo dân chống nộp tiền quyên góp xây Khổng miếu. Có lẽ nào lại như thế, vị quan Bắc Hà nói, hoàn toàn không thể hiểu được sức ảnh hưởng của các giáo sĩ trong chính quyền lẫn sự nhượng bộ của chúa Nguyễn. Một câu nói được lặp lại khắp nơi.

Nghe đâu Tây Sơn còn đem vàng bạc liên hệ với Xiêm La. Phía Bắc thì Ba Phủ mới thu phục ở Thuận Thành trấn không chịu theo ta. Phụ hoàng thật là bận bù đầu. Phúc Cảnh kể với Ngọc Du khi ghé lại báo tin Võ Tánh. Cậu không nói về việc quân Tây Sơn đã đến ngoài Phú Yên. Nghe chuyện, Ngọc Du chỉ gật đầu, im lặng.

Vậy là chàng không về, nàng nghĩ trong cảm giác nghèn nghẹn dâng lên cổ. Cũng chẳng thể trách người em trai khi nàng đã không báo. Nhưng chàng sẽ ở lại đó bao lâu? Hết mùa gió bấc rồi đến mùa gió nồm, trận chiến sẽ tiếp diễn, tiếp diễn mà không có ngày ngơi nghỉ. Nàng nghĩ đến điều đó, trong sự quạnh quẽ của bóng đêm cô tịch.

Căn nhà chỉ có mấy người phụ nữ, kể cả nàng, con gái và những cô hầu. Nàng không muốn làm phiền mẹ mình lúc này. Nếu thấy nàng lúc này, mẹ nàng hẳn sẽ đau lòng. Rốt cuộc, cuộc đời này là do nàng tự chọn cho mình, có phải?

Nàng đã luôn biết, luôn luôn biết, ngay từ khi mới bắt đầu.

Nhưng như một định mệnh tinh ranh qủy quái nào đó đã sắp đặt sẵn, nàng không thể thoát ra được. Con đường nào đã đưa nàng đến đây? Nàng đã học cách chấp nhận, nhưng không thể đừng mà chua xót. Chua xót vì điều gì, nàng cũng không thể biết.

Con người thật sự rất nhỏ bé, rất nhỏ bé. Trong đêm, nhìn ngọn lửa nhỏ hình giọt nước lay động nên chiếc đèn, nàng lại nhớ đến lời vị Giám quân vừa mất mà Phúc Cảnh đã kể lại. Thần cần một niềm tin để tiếp tục. Đó cũng chẳng phải như lời người Tây dương kia đã nói? Cuối cùng, con người qủa là yếu đuối biết bao nhiêu. Kể cả người Giám quân kia, vị tướng bôn ba bao trận, người đã hết lòng vì vị chúa, hết lòng chống lại số phận. Người đã từng giết cả bạn mình vì phép nước. Năm ngoái, một vị Tham tướng Hậu quân, bạn của Tống Giám quân, vì muốn lấy lòng nàng mà bắt người hầu của nhà khác dâng cho nàng. Tống Phúc Đạm nghe chuyện, phá cả cửa phủ của nàng mà bắt người rồi đem đi thắt cổ. Một con người như thế, cuối cùng cũng biết sợ hãi trước sự phi lý của cuộc đời này. Một con người như thế, cuối cùng cũng biết sợ hãi trước cõi vô cùng mà không một đạo lý nào có thể biện giải. Ông ấy có lẽ đã linh cảm thấy kết cuộc của mình, sự phi lý đến cực cùng của cuộc đời và con người.

Rồi sẽ ra sao, những năm tháng này? Nàng tự hỏi, hỏi mãi trong bóng tối. Chúng ta có là gì đâu, dù chỉ với một cái phất tay của định mệnh. Thành Diên Khánh đã được đánh dấu bằng cái chết của Tống Phúc Đạm. Cái chết của Tống Phúc Đạm và những hệ lụy theo sau, những làn sóng đang lan mãi, lan mãi.

Cả đất nước Tây dương kia nữa, đất nước đang quay cuồng trong thù hận. Giết vua, giết Girondin, giết giáo sĩ, giết Jacobin, những vòng quay tàn sát cứ lớn mãi, lớn mãi trong sự điên cuồng mù lòa của chúng. Người người chỉ lao vào chém giết nhau, Cảnh tóm tắt bằng một câu khô khốc khi kể lại. Trả thù kẻ ác, trả thù kẻ trả thù, trả thù kẻ giết người, giết người để trả thù, nàng muốn bật cười trước sự phi lý đến ngu dại của những con người nơi ấy. Nàng muốn khóc cho sự thù hận đang đè nặng trên đất nước này.

Những vòng sóng lan mãi, lan mãi. Một mình trong đêm, nàng thấy sợ cho cả tương lai và hiện tại. Trả thù và trả thù, liên tiếp, nối tiếp, không thể nào kết thúc. Không thể nào dừng lại. Cái tương lai ấy cũng chập chờn và xao động như thể ánh lửa trong ngọn gió thổi từ cửa sổ, mang theo mùi vị của bóng tối vào phòng.

Ngoài kia, sen trong hồ cũng đã bắt đầu tàn. Sen do chàng mang hạt giống từ tận xứ Ba Thắc xa xôi về, tự tay gieo xuống. Sen đã bắt đầu tàn, sau một mùa mưa nở rực rỡ. Nàng nghe mùi của tàn phai và níu kéo, những gì sắp lụi tàn và những gì đã sinh ra qúa muộn. Đã qúa muộn màng, sen trong hồ nước mùa thu.

Ồ, giờ đây nàng lại ước gì mình có thể khóc lên như người Tây dương nọ. Có lẽ nàng nên khóc. Có lẽ nàng nên đau buồn. Nhưng giờ nàng chỉ thấy trống trải và mỏi mệt.

Nàng nhắm mắt, nghe đứa con cựa nhẹ trong mình. Lại một sinh linh nữa ra đời, trong tương lai chập chờn như lửa.

Nếu là con trai thì sẽ khổ biết bao, nàng nghĩ. Nó lại như Phúc Cảnh, trở thành Nguyên soái năm mười bốn tuổi, tay vấy máu, chân đạp lên xác người từ năm mười lăm tuổi. Đứa trẻ ấy lại có cặp mắt trong sáng biết bao. Sự trong sáng dần dần mất đi, trong chàng, trong đứa trẻ. Rồi nó sẽ như Tống Phúc Đạm, chết đi trong sự căm phẫn phi lý với cuộc đời. Rồi nó sẽ như em trai nàng, chế nhạo và đau đớn trước mọi điều, mọi lẽ. Nàng chỉ có thể sinh nó ra rồi lại không thể bảo vệ được nó. Chẳng có gì bảo vệ được con người, trong vòng quay của số phận.

Nàng có gì để tin, trong cuộc đời này?

Chỉ hai tháng sau cuộc tấn công đầu tiên, quân Tây Sơn tràn xuống Diên Khánh. Trần Quang Diệu xây lũy đất bao vây Diên Khánh, quân tiếp viện của Gia Định bị đẩy lui. Lê Trung đánh Huỳnh Đức phải lui về Phan Rý.

Tin cấp báo về đến Gia Định trong những cơn gió vẫn đang thổi ngược khi tháng cuối năm sắp qua. Cùng lúc, chúa Nguyễn nhận được tin công nương Hồ Dương vừa sinh một bé trai. Vị chúa đến phủ của người chị khi vẫn còn mặc triều phục. Lần này, Ngọc Du đón người em với vẻ điềm tĩnh mệt mỏi. Sau khi sinh ba ngày, nàng mới cho người đến báo về cung. Đứa bé trong lòng nàng đã có vẻ hồng hào tươi tỉnh. Thấy người lạ, nó mở mắt nhìn, chớp hàng mi tơ mỏng.

- Chúc mừng chị. – Vị chúa nói, tự ngồi xuống. Ngọc Du nhướn mày.

- Chúa công đến đây để chúc mừng hay báo cho thần về tin Diên Khánh? Quân của ngài chộn rộn vội vã đến mức cả các cô hầu cũng nhận thấy.

- Thành rất chắc chắn, khó có thể phá được. Ta trước khi về cũng đã trữ lương thực đầy đủ. Chính Võ Tánh nói rằng quân ta rút đi thì quân Tây Sơn sẽ đến, xin ở lại giữ. Võ Tham thặng đã chuẩn bị đầy đủ rồi.

Ngọc Du nhếch môi quay đi. Ra là vậy. Chàng xin ở lại.

- Từ phi cũng sắp được đưa tới. – Sau một lúc thấy nàng không lên tiếng, vị chúa nói. – Đáng lẽ chị nên báo với ta.

- Chúa công đã có qúa nhiều việc rồi. – Nàng cười, hoàn toàn không có vẻ mỉa mai. – Vả lại, cả vợ ngài sinh, ngài cũng không ở cạnh được, huống hồ là người khác.

Vị chúa không nói. Nàng quay người, thấy bếp lửa để dưới giường đã hơi qúa nóng. Con bé Hồi từ ngoài cửa chạy vào, bối rối cúi chào chúa Nguyễn rồi trèo lên giường cạnh nàng. Ngồi thêm một lúc, vị chúa đứng lên, cáo từ nàng.

- Thật sự không có gì nguy hiểm chứ, chúa công? – Khi người em đã ra đến cửa, nàng chợt hỏi.

- Không. – Vị chúa trả lời, không quay lại.

Đó không phải là sự thật. Tin cáo cấp từ Diên Khánh được gửi đi vì trong thành đã thiếu muối ăn. Tuy nỗ lực triệt hạ nguồn nước vào thành của Trần Quang Diệu thất bại, thành đã bị bao vây hoàn toàn. Súng đã cản được những đợt tấn công của Tây Sơn, cũng như những đợt đột kích đã hạ được nhiều quân địch, nhưng quân của Lê Trung tràn khắp Phú Yên, cản đường từ tận Thuận Thành, tạo nên trùng trùng lớp lớp bao vây khó có thể phá được. Rút kinh nghiệm của đợt công thành trước, Tây Sơn khóa chặt các đường tiếp viện trên bộ, dồn dập công thành quyết hạ Võ Tánh trước khi mùa gió nồm bắt đầu.

Điều đó, chỉ có chúa Nguyễn và những vị tướng thân cận được biết. Võ Tánh đã đoán trước đợt công thành quyết liệt này nên xin ở lại giữ. Tây Sơn đã quen đường đi nước bước và thực lực của chúng ta, trái với đợt tấn công thăm dò trước đây, họ sẽ dồn quân quyết chiếm Diên Khánh lần này cũng như chiếm lại Phú Yên, đem toàn lực giải quyết trên bộ. Chàng nói, và sự thực đã diễn ra đúng như thế. Đối với tin cấp báo được gửi tới, chúa Nguyễn cũng chỉ có thể bảo vị Tham thặng của mình chờ đợi. Tiền quân của Nguyễn Phúc Hội nhanh chóng được triệu tập. Những ngày đầu năm Ất Mão đi qua trong đợt gọi quân ráo riết khắp Gia Định.

Nhưng những vị quan, nhân đúng lúc này, đưa ra yêu sách với chúa Nguyễn.

Đã đến lúc phải quyết định, họ nói. Mười chín vị quan tướng trong triều, bao gồm cả Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Phúc Thăng, dâng sớ xin tách rời Bá Đa Lộc khỏi Đông cung. Chức vị Thượng sư của Bá Đa Lộc đã trở thành mối đe dọa với tương lai của triều đình cùng đất nước. Nếu vị chúa không quyết ý, họ cũng sẽ đuổi bằng được Bá Đa Lộc đi, thậm chí giết ông ta. Nhận sớ, chúa Nguyễn tìm tới tận nơi Bá Đa Lộc đang lẩn tránh, đòi gặp người giám mục.

- Thầy còn định lánh mặt đến bao giờ? – Chúa Nguyễn hỏi ngay sau khi Bá Đa Lộc đưa ngài ta vào phòng nguyện trong nhà thờ ông đang trú ngụ. Ông giáo sĩ già lắc đầu.

- Tôi không muốn gây khó xử cho tất cả mọi người. Các vị  ấy, nếu thấy tôi còn ở cạnh bên Đông cung lẫn ngài bây giờ, chắc chắn sẽ càng làm qúa thêm.

- Vậy thì thầy cũng biết rằng thầy không nên ở cạnh Đông cung thêm nữa? – Chúa Nguyễn mỉm cười. Bá Đa Lộc cau mày nhìn vị chúa.

- Tôi đã từng hết lòng vì ngài, vì triều đình này, để rồi bị vứt đi như thế? Triều đình này có một phần đóng góp của tôi. Để rồi bây giờ thuộc hạ của ngài coi tôi như cái gai trong mắt, chỉ muốn giết tôi bằng được? Vả lại, tôi ở đây với tư cách là đại sứ của nước Phú Lang Sa, thay mặt đức vua, không phải là thuộc hạ của cha con ngài.

- Trong lúc hiệp ước không được thực hiện, đức vua đã bị lật đổ. – Nụ cười càng đậm nét trên gương mặt chúa Nguyễn. – Nhưng đúng vậy, ơn nghĩa của thầy, ta không bao giờ quên. Cũng như ta đã phong thầy làm Thượng sư dạy cho con trai ta, bảo vệ cho con trai ta. Nhưng thầy biết lý do mà bọn họ lại đưa ra yêu sách đúng vào lúc này. Thành Diên Khánh bị vây khốn, ta cần bọn họ.

- Vâng, vậy thì ở đây tôi là kẻ vô dụng. Ngài còn cần gì ở tôi nữa? Đội quân Tây dương đã tan, những kẻ còn ở lại chỉ vì lòng trung thành với ngài. Những giáo sĩ chúng tôi đã trở thành kẻ bị chối bỏ ngay trong tổ quốc mình, không còn bất cứ một thế lực nào. Thuyền ngài đã có, khoa học ngài đã nắm, người ngài đã làm chủ, vậy thì ngài còn cần gì đến tôi? Nếu ngài không cần tôi nữa, xin cho tôi một chiếc thuyền trở lại Phú Lang Sa, để bọn vô thần cùng dòng máu giết chết còn hơn bị bọn vô thần ngoại quốc chém đầu!

Trước những lời cay đắng của Bá Đa Lộc, chúa Nguyễn chỉ lẳng lặng nhìn người bạn vong niên của mình, nhẹ lắc đầu.

- Thầy lại nóng nảy qúa rồi. Ta cần họ, nhưng ta cũng cần thầy. Vả lại, thầy nghĩ ta có thể để cho đám thuộc hạ của mình lợi dụng đưa yêu sách với ta sao?

Bá Đa Lộc im lặng. Chúa Nguyễn đi vòng quanh nhà nguyện, nhìn bức tượng Chúa trên thánh giá bằng đồng gắn lên tường, rồi nhìn về phía bục cầu nguyện.

- Cả hai bên phải biết nhượng bộ nhau một chút, thầy Cả. Thầy còn cả sự nghiệp truyền đạo lâu dài, đâu phải chỉ trong một lúc mà vứt bỏ. Thầy không còn tổ quốc, nhưng thầy còn nước Chúa. Người khôn ngoan như thầy đâu phải không biết tiến thoái. Ta muốn bảo vệ thầy nhưng ai bảo vệ ta? Vì bản thân thầy cũng được, vì ta cũng được, vì Chúa cũng được, thầy nên nhượng bộ, thầy Cả.

Việc của Tống Phúc Đạm vừa rồi, chẳng lẽ thầy không thấy mình hơi qúa đáng? – Chúa Nguyễn nói, sau một lúc. – Thầy nên biết lựa thời thế hơn, thầy Cả. Cho các giáo sĩ theo sau quân truyền đạo, thậm chí vào tận trong quân thuyết phục quan tướng, có phải các thầy đang cố phô trương thanh thế? Nếu vậy thì ta không lạ hậu qủa trong đất Phú Lang Sa, các thầy đang cố gắng chọc tức kẻ khác, phải không?

Các đại thần của ta đã ra mặt, đã phản kháng. Nếu không có họ, ta có thể tồn tại không? Nếu không có ta, thầy có thể tồn tại không?

Khôn ngoan và thận trọng, đó là những gì thầy đã khuyên ta trước kia, thầy Cả. Chẳng lẽ bây giờ ta phải đi khuyên nhủ ngược lại với thầy?

Bá Đa Lộc vẫn không trả lời. Hạn chế các giáo sĩ dưới quyền và cả bản thân lại, ông hiểu chúa Nguyễn đang yêu cầu điều gì. Vị chúa không muốn làm mất lòng kẻ dưới khi vào lúc nước sôi lửa bỏng. Và ông biết mình nên nhượng bộ.

Những sự biến chính trị trên đất Pháp ngày càng khó đoán định. Nhưng sự bền bỉ của giáo dân và những người ủng hộ Giáo hội vẫn còn mạnh mẽ. Để củng cố sự tồn tại của chính quyền, những kẻ cầm đầu sẽ phải nghĩ đến họ. Ồ, bất cứ nơi đâu cũng thế, dù là triều đình phương Đông hay những kẻ tự xưng là Cộng hòa phương Tây! Cứ thử chạm vào niềm tin của người khác, người sẽ bị phản kháng, sẽ bị nguyền rủa, sẽ phải trả giá. Ông tự nhủ điều đó, ông nghĩ mình biết điều đó. Vấn đề chỉ là thời gian.

Ngay cả cuộc chiến trên đất nước phương Đông này. Nguyễn Phúc Hội được cử ra tiếp viện Phan Rý nhưng thua trận, phải chạy về tận Bà Rịa. Chúa Nguyễn cách chức cả hai tướng Nguyễn Văn Thành và Huỳnh Đức đóng ở Ma Ly vì không tiếp cứu Nguyễn Phúc Hội, tống giam vào ngục. Trước đó, vị chúa cũng đã hạ ngục Dayot vì tội làm hư hại nặng một chiếc thuyền. Cả hai phía, Tây dương và quan lại, vừa hả hê vừa dè chừng, vừa mừng vừa sợ. Cả hai phía đều nhận ra mình nên thối lui. Đó là lời cảnh cáo của vị chúa đối với những ai dám lợi dụng tình thế đưa ra yêu sách với ngài ta.

Và họ cũng đã nhận ra sức kháng cự mãnh liệt của Tây Sơn, đủ để đoàn quân này đánh đến tận Trấn Biên. Cuộc xâm nhập làm rúng động Gia Định. Bá Đa Lộc xin thả hai tướng, phục chức cho họ. Những vị quan im lặng trước tình thế đang diễn ra. Với cuộc tấn công của Tây Sơn, giờ đây cả Gia Định đều biết tin thành Diên Khánh đang nguy cấp.

Chúa Nguyễn biết điều đó khi nhìn người chị. Nghe tin, Ngọc Du đã vội vã ôm con đến thành. Ngài nói dối, vị chúa nhận ra ý nghĩ đó trong ánh mắt nàng.

- Ta sẽ cứu Võ tướng quân. – Ngài ta nói. Ngọc Du chỉ chớp mắt.

Chúa Nguyễn cho quân Miên củng cố phòng thủ Bà Rịa, định ngày xuất quân dù gió vẫn còn thổi ngược, đích thân đến cứu Diên Khánh.

Like

36

– Tôi thèm canh chua cá lóc qúa!

Võ Tánh quay lại khi tiếng nói chợt vang lên trong phòng chỉ huy. Một người Đội trưởng vừa ngả ra chiếc chiếu trải dưới đất, nhắm mắt mà nói. Bên cạnh anh ta, có người cười khẽ, có người lại thở dài thườn thượt.

- Tôi thì chỉ cần chút nước mắm. – Một Trưởng chi ngồi cạnh cửa sổ thở ra. Giờ thì không còn ai cười nữa.

Đã năm tháng liền cố thủ trong thành, thức ăn của họ chỉ có lương khô, cá khô. Đã tới mùa hạn, nước từ giếng đào đục ngầu nhưng vẫn phải cố lọc mà uống. Những vườn rau được trồng trong các khoảng đất nhỏ cũng đủ cho họ đỡ cồn ruột, nhưng càng làm bữa ăn của họ nhạt thếch. Thiếu muối ăn, sức lực của họ dần cạn, nhiều người đã choáng váng mà ngất. Những hạt muối cuối cùng đã được chia cả vài tháng trước đây. Giờ thì cái tinh thể trăng trắng nho nhỏ ấy lại trở thành nỗi ám ảnh thường trực của họ, ngang ngửa với đội quân đang bao vây bên ngoài, bất cứ lúc nào cũng tấn công họ, cả ngày lẫn đêm.

Ngay cả trong đêm như thế này, họ vẫn phải cắt phiên canh gác. Ngay cả trong những giấc ngủ, họ vẫn phải sẵn sàng để choàng tỉnh bất cứ lúc nào để vào vị trí chiến đấu khi tiếng cồng báo động vang lên. Họ thèm muối, họ thèm cả giấc ngủ. Không như hàng vạn địch quân ngoài kia có thể thay phiên nhau tấn công, tất cả người trong thành chỉ có thể căng sức ra mà đối phó với bất cứ động tĩnh nào. Họ thèm muối, họ thèm ngủ, họ thèm cả một chút yên tĩnh. Ngay cả trong đêm sâu thế này, họ vẫn nghe tiếng lao xao từ đoàn quân ngoài tường thành. Những phiên trực kéo dài mệt mỏi được họ khỏa lấp bằng vài trò bài bạc nhỏ, nhưng rồi cả những trò đó cũng trở nên chán chường, bị cảm giác uể oải trong từng tấc da thịt lấn át. Cơ thể họ gào lên đòi được nghỉ ngơi, đòi muối. Đến lúc nó trở thành đề tài thường trực trong tất cả câu chuyện của họ.

- Tôi chỉ cần ra khỏi thành để vục mặt vào nước biển. – Một người nữa lên tiếng. Và chàng nghĩ có nên đặt luật cấm họ nói ra những điều này hay không.

Qủy tha ma bắt, nghe họ nói, đến chàng cũng thấy mủi lòng!

Mà có thể nào không nghĩ khi cả chính chàng cũng đã thấy mệt mỏi, khi cơ thể chính chàng cũng đã có những triệu chứng đầu tiên của căn bệnh thiếu muối? Những cơn khát thường trực dày vò chàng, những cơn xây xẩm bất chợt đến nhiều khi làm chàng lảo đảo. Chàng chưa từng nghĩ đến lúc mình có thể choáng váng vì nắng, nhưng điều này đã xảy ra, ngày càng nhiều hơn. Những lớp áo đã che giấu được thân thể đang bị rút kiệt, nhưng không thể giấu được lớp da ngày càng khô sần, ram ráp như da rắn. Những người lính, thủ hạ chỉ lặng lẽ nhìn chàng, rồi nhìn nhau, quay đi, coi như không nhận thấy những lần chàng phải chống tay vào tường để đứng vững. Họ đều là những tinh binh của Gia Định, là Chiến tâm binh, những người sẵn sàng đương đầu với mọi hoàn cảnh, tình nguyện dấn thân mà không hề ca thán. Nhưng họ cũng là những con người, con người mà sự yếu đuối của họ thể hiện trong bóng đêm. Đèn trong căn phòng chỉ huy chập chờn tối, họ uể oải người nằm kẻ ngồi, đôi lúc cất tiếng để không ai ngủ quên đi mất. Ác thay, những câu chuyện lại trở về với nỗi ám ảnh của họ.

- Phải ít nhất một tháng nữa gió mới đổi chiều. – Người Đội trưởng đã khơi chuyện lại nói. Tiếng thở dài, dù đã nén lại, vẫn tưng tức trong lồng ngực tất cả mọi người.

Hai tháng nữa, và không biết đến bao giờ mới có thể giải vây. Tây Sơn đã quyết chiếm lại Phú Yên, Diên Khánh, tạo đà đến Gia Định sau khi nắm được thực lực quân Nguyễn. Họ sẽ không rút đi dễ dàng như lần giải cứu cho Phúc Cảnh. Ngoài thành đã yên lặng trong mấy tháng ròng, thậm chí không nghe thấy bất cứ động tĩnh nào của quân tiếp viện. Hẳn quân Nguyễn đã bị đẩy đi xa, rất xa. Trong lá thư chúa Nguyễn gửi tới hai tháng trước mà khó khăn lắm Đội trưởng Nguyễn Văn Trừ mới có thể đưa vào thành, vị chúa cũng vẫn bảo họ chờ đợi. Sự chờ đợi nặng nề từng ngày.

Lần đầu tiên chàng và số quân lính quanh chàng mới biết tới sự nhớ nhà đến nôn nao như thế. Đã gần một năm họ xa Gia Định, quãng thời gian lâu nhất từ trước đến giờ. Thành trì rộng bao bọc họ trong sáu bức tường, quây lại thành một khoảng đất chỉ có thể nhìn lên trời cao, mùa mưa qua rồi nắng đến, không khí ngàn ngạt, hanh nồng. Họ nhớ đến nôn nao, đến cồn cào dòng sông, con nước của Gia Định giăng mắc đan dệt vào nhau ẩn dưới những lùm cây rậm. Và những con người, con người nơi quê hương của họ. Hơn cả cảm giác uể oải trên thân thể, hơn cả những khát thèm thường trực chạy râm ran trong từng mạch máu, nỗi nhớ được sự trợ giúp của nỗi khốn khó và một tương lai chông chênh trong những bức tường thành trở thành nỗi day dứt khôn nguôi. Nhưng họ lại không nói về nó, họ rất ít khi nói về gia đình của mình, ít ra là đối với chàng. Có lẽ, họ sẽ kể với nhau trong bóng tối, với những người bạn thân thiết. Những người lính sẽ gửi cho người bạn thân thiết của mình một vật nào đó làm bằng, làm sự chứng tỏ cho cuộc sống của họ, sự hiện diện của họ - để rồi người còn sống sẽ đem về cho gia đình họ nếu như có bất trắc xảy ra. Chàng đã thấy họ gửi cho nhau những vật như thế, trong chiến trường, trong những nơi chữa trị của thương binh, sau mỗi cuộc chiến. Nhưng họ không kể với chàng, cũng không hỏi chàng. Vợ chàng là một công nương, chỉ điều đó đã làm họ e ngại. Gia đình của chàng là gia đình chúa Nguyễn, đó là điều khiến ai cũng ngại ngần.

Bây giờ cũng vậy, những người Đội trưởng, Trưởng chi quanh chàng lại hạ giọng thì thầm khe khẽ với nhau câu chuyện riêng tư của họ, có thể là cả nỗi sợ hãi của họ. Chàng ngả người về sau, nhìn qua cửa sổ đến màn đêm đang bao phủ khu thành. Đã sắp hết phiên trực, chàng nghĩ khi nhìn trăng đã ngả trên mái lầu vọng gác. Đứng lên, chàng ra hiệu cho những người còn lại rằng muốn đi tuần một vòng rồi ra ngoài. Sương đêm cùng khí lạnh ở vùng miền Trung bộ táp vào mặt chàng theo cơn gió. Những người lính canh gật đầu chào chàng uể oải. Dưới bóng của những chiếc đèn, những ngọn lửa được thắp lên trong sân để sưởi ấm, khuôn mặt ai cũng có vẻ ngái ngủ. Chàng vỗ vai một vài người đi ngang qua, mỉm cười với họ. Chàng ngẩng lên khi có cánh chim ăn đêm nào vỗ cánh bay qua trên đầu, một vài tiếng dơi xao xác trong lùm cây tối. Trăng vẫn sáng, soi tỏ con đường đất. Khu thành được xây vội vã, rồi được Bá Đa Lộc sửa sang lại, vẫn còn dấu vết của đồn lũy xưa. Cả những khu nhà cho quân lính cũ kỹ vẫn còn nguyên vẹn cạnh vài khu được xây mới. Ngoài khu ở của thương binh, nhiều người đã dậy, đốt lửa đun nước. Vài thứ thuốc lá được trồng ngay trong thành đã chứng tỏ sự hữu hiệu của chúng trong việc điều trị các vết thương. Tuy vậy, đằng sau thành, trong khu đất trống, ngày càng nhiều những gò đất mới mọc lên cho những người không may bỏ mình. Đến khi được giải vây, họ sẽ lại đào những gò đất ấy lên, khâm liệm để đem về Gia Định.

Ngẫm nghĩ một lát, thay vì đến khu lán trại, chàng lại quay sang khu đất trống sau thành.

Đêm sắp qua, không khí ngày càng lạnh. Sau hàng cây, ánh trăng quét quạnh quẽ lên những gò đất đắp cao, những khúc cây khắc tên họ người đã mất được đóng xuống để đánh dấu. Có cả những chân nhang cắm vào đất. Ai đó đã đem theo nhang, hoặc đã tìm thấy nhang trong đồn. Những chân nhang nhỏ và mảnh như ngọn cỏ, khó có thể phân biệt được trong cỏ. Cỏ cũng đã mọc lên, chàng nghĩ. Họ đã ở đây gần nửa năm. Đủ để cỏ mọc lên sau một mùa mưa dài. Thời tiết ở đây trái ngược với Gia Định, mưa kéo dài trong mùa thu và mùa đông rồi đột ngột chấm dứt. Thời tiết đang bắt đầu nóng lên, và chàng đã bắt đầu nghĩ tới cái nóng hanh hao đến khô kiệt của vùng đất này, y như khi ở ngoài chiến trường.

Không có muối, họ sẽ khó mà chịu đựng được cái nóng này. Dưới nắng bỏng cháy, gay gắt và khô hạn kéo dài, thân thể đã thiếu nước, thiếu muối của họ sẽ khó mà chịu đựng nổi. Một điểm yếu trong suy tính của chàng khi hoàn toàn không có kinh nghiệm cho những cuộc phòng thủ kéo dài, chàng thở ra. Chàng đã nhận lãnh trách nhiệm này, vậy thì phải làm cách nào để bảo toàn nó, bảo toàn những con người nơi đây, tránh cho họ cái thất bại chỉ vì sự thất thố của mình.

Ồ, chàng làm sao biết được, khi chàng chưa từng biết đến hoàn cảnh này. Ở Kiến Hòa, Nguyễn Văn Hiếu đã lo toan tất cả việc quân dụng và lương thực. Còn chàng chỉ là một thanh niên có chút ít sức lực, chút ít cơ duyên. Trước đây, có lẽ chỉ vài năm trước đây, chàng còn chưa từng có cái ý nghĩ mình sẽ ở vùng đất này, vị trí hiện tại. Bình Tây Tham thặng tướng quân, Phò mã của chúa Nguyễn, làm sao chàng có thể nghĩ ra được con đường số phận của mình sẽ dẫn đến đây? Trong khi chàng luôn biết bản thân mình vẫn còn qúa non nớt. Tình cảnh hiện tại là do sai lầm của chàng.

Cả những con người này, chàng nhìn quanh khu đất rộng, gò cao nhấp nhô trong ánh trăng trắng bạc. Những ngọn cỏ, lá cây cũng loáng thoáng sắc bạc như được làm bằng thép. Không biết bao nhiêu người trong số họ đã choáng váng trong cái nắng gay gắt để rồi phải ngã gục dưới mũi tên ngọn giáo. Vài tháng nay, chàng đã cho hạn chế các đợt đột kích, chỉ chuyên tâm phòng thủ chờ đợi, nhưng thỉnh thoảng vẫn có người trúng đạn trong các đợt công thành, vẫn có người trúng gió, trúng nắng rồi không thể nào qua khỏi. Chỉ cần một căn bệnh nhỏ, người ta dễ dàng chết đi, chết đi khi không thể có một sự cứu chữa đầy đủ nào. Cả thầy thuốc trong quân cũng chỉ có thể sử dụng tối thiểu số thuốc ít ỏi mà họ dự trữ.

Trái ngược với những cuộc tấn công, đối đầu trực diện, sự sống và cái chết trong cuộc thủ thành này thật là lạ. Một cảnh tượng chậm rãi, một cuộc thách thức trí não và sức chịu đựng được đẩy đến giới hạn tối đa, dai dẳng. Trái ngược với sự ồ ạt của cuộc chém giết trên chiến trận, cái chết tiêu diệt những con người trong vòng phong tỏa của nó từ từ. Trái ngược với sự thoải mái ung dung khi ở trong rừng núi quê hương, khu thành được xây trên vùng đất lạ lẫm này bao vây họ trong cái bức bối xa lạ. Một cuộc thử thách dằng dai với con người, thử thách từ thể xác, tâm trí đến trái tim của họ.

Chàng vẫn lặng lẽ đứng nhìn khu đất rộng bạc ánh trăng.

Quân lính của chàng vẫn tới nơi đây. Họ đến thăm bạn cũ. Họ nguyện cầu. Họ cầu xin. Trong đêm vắng, những ánh lân tinh xanh vẫn chập chờn cháy sau hàng cây thấp. Khi còn nhỏ, chàng vẫn cùng lũ trẻ trong làng rủ nhau đi xem những ánh ma trơi như thế. Chàng không quen nguyện cầu. Chàng chẳng có ai để cầu xin. Ngay cả anh chàng, người anh thân xác đã thất lạc trong cuộc dâu bể, chàng cũng chỉ có thể lập bàn thờ cúng trong mỗi dịp Tết đến xuân về. Sự vĩnh cửu của linh hồn, người Tây dương đã bắt đầu tin như thế, vị chúa đã có lần từng kể. Nhưng chàng chưa bao giờ gặp một linh hồn, một linh hồn thực sự, không phải những ánh sáng lẩn khuất trong bóng tối. Giờ đây, trước vùng đất vùi lấp bao nhiêu sinh mạng con người, chàng chỉ lặng lẽ nhìn, lặng lẽ nghĩ về họ khi còn sống.

Đã bao nhiêu tháng năm qua kể từ ngày ấy, cái ngày chàng rời khỏi Trấn Biên về Phiên Trấn? Đã bao nhiêu ngày kể từ trận đánh đầu tiên? Đã bao nhiêu ngày kể từ trận chàng thiêu cháy hàng ngàn quân Tây Sơn trong đầm lầy gò Tre ấy? Lúc đó, cái chết và sự sống mới đơn thuần làm sao. Lúc đó, chàng và những người bạn của mình ra tay dễ dàng làm sao với kẻ thù. Họ đã tiêu diệt cả một đoàn quân, đốt cháy và bắn chết đến kẻ cuối cùng, vùi xác chúng trong đầm lầy. Đi theo vị chúa, ngài ta đã trói tay họ lại, buộc họ phải nhìn thấy kẻ trước mắt. Ngài ta đã cản họ lại, bao nhiêu lần. Ồ, mới hơn một năm trước đây, ngài ta đã gần như ném tất cả thành qủa của họ xuống bùn khi ngăn cản việc tiêu diệt thành Quy Nhơn. Không chiếm được Quy Nhơn, họ bị đẩy ngược lại, rồi bị bao vây như hiện tại. Cửa Thị Nại đã bị phong tỏa, Phú Yên đã bị phong tỏa. Giờ đây, nếu mất cả Diên Khánh, họ sẽ phải lui về Gia Định, lại phải phập phồng phòng thủ những đợt tấn công xuống Gia Định của hàng chục vạn quân Tây Sơn. Thế đấy, lòng nhân từ của ngài ta là như thế đấy. Lòng nhân từ của ngài ta để được kết qủa như thế đấy.

Nhưng ngài ta đã áp đặt cái suy nghĩ của mình lên họ, lên chàng. Hãy nhìn người trước mặt, ngài ta nói. Đó là con em của chúng ta bị đẩy ra trận, ngài ta nói. Ngài ta thậm chí bắt Nguyễn Văn Thành phải trân trọng đối xử với hàng tướng địch quân, “không được khinh mạn”. Sẽ có ngày ngài ta hại chết họ vì cái lối nhân từ không phải lúc này.

Ồ, nhưng ngài ta lại có lý. Cái lý mà chàng không thể lý giải, chỉ cảm giác được. Cái lý mà chàng không thể cắt nghĩa, chỉ biết rằng nên tuân theo. Chàng đã đưa bao lượt hàng binh về Gia Định. Chàng đã thấy ánh mắt sợ hãi và lạc loài trên gương mặt các thanh niên trẻ, nhiều người trong số họ vừa chỉ trạc tuổi Cảnh. Nhiều người trong số họ tưởng như chỉ vừa bước khỏi ruộng đồng. Họ chỉ vừa bước khỏi ruộng đồng, cũng như binh lính của chàng. Buông cái cầy cây cuốc xuống, họ lại được gọi ra trận, không có cách nào tránh né, không có lựa chọn nào khác. Rời khỏi Tiên phong dinh, chàng đã dần dà làm quen với số quân nghĩa vụ ấy, những người hoàn toàn khác với số quân lính tình nguyện anh em của chàng. Nhiều người trong số họ không cần biết, không cần hiểu cuộc chiến này vì mục đích gì. Họ được đọc cho bản Hoài Nam khúc, họ có một niềm tin ngây thơ và chân chất về ơn nghĩa triều đình, họ có một nỗi căm hận hồn nhiên với kẻ thù. Họ mong chờ cuộc chiến này nhanh chóng kết thúc.

Con đường mà họ vạch ra vừa đơn giản mà cũng lại qúa sức mập mờ. Có phải chỉ cần tiêu diệt Tây Sơn – cái triều đình do một đứa trẻ cầm quyền bây giờ - thì họ đã có thể bình yên? Bình yên, rốt cuộc, chàng chỉ mơ ước đến thế, không hơn. Vì Gia Định mà chàng đã chiến đấu, rồi sau đó? Gia Định chỉ có thể bình yên khi không còn kẻ thù. Nhưng kẻ thù là ai? Là Tây Sơn, là Cao Miên, là Xiêm La, hay thậm chí, Tây dương – những kẻ đang dòm ngó sang châu Á? Đánh nhau, liệu đánh nhau là cách giải quyết duy nhất? Là con đường duy nhất? Tiêu diệt kẻ thù, đó có phải là cách giải quyết duy nhất? Nhưng tiêu diệt ai? Tiêu diệt cái gì? Tiêu diệt như thế nào? Chẳng lẽ chàng phải tiêu diệt cả đến những thanh niên mặt còn măng sữa, ngơ ngác và hồn nhiên y như quân lính của mình? Chẳng khác gì nhau, quân lính của cả hai bên. Chẳng khác gì nhau, chàng và họ. Chàng không căm hận họ, chưa từng. Có một lúc nào đó chàng đã căm ghét những kẻ xâm nhập Gia Định, cướp bóc và tàn sát, nhưng những kẻ ấy đã chết rồi. Những kẻ cầm đầu đã chết, còn lính của họ, có thể có những người đã tham gia hạ sát hàng vạn người bên bờ sông Tân Bình dạo nọ, cũng đã được trút bỏ mọi tội lỗi. Mọi tội lỗi cần có một nơi để trút xuống, và không thể đổ tội cho họ. Bây giờ thì chàng không căm hận, ngay cả với kẻ đang bao vây ngoài kia. Có một lý lẽ nào đó mà chàng không hiểu nổi bây giờ, nhưng chàng tin vào cảm giác của mình. Chàng vẫn đang cố tìm kiếm sự lý giải cho nó, ngay trong những ngày đối diện với cái chết này.

Tiếng mõ báo canh đổi phiên vang trên vọng gác. Chậm chạp, chàng quay về phòng. Đã đến lúc nên đi nghỉ, chuẩn bị cho ngày mai. Đều đặn mỗi ngày, Trần Quang Diệu lại mở một đợt công thành. Những khẩu đại pháo được đặt trên lũy thỉnh thoảng lại bắn về phía thành bất kể ngày đêm. Không có tiếp viện để chia sẻ quân lực của địch, thành Diên Khánh trân mình chịu trận. Một giấc ngủ đối với chàng thật là qúy giá.

Ngày mai, chàng nghĩ khi nằm xuống giường, không cần cởi áo ngoài. Phải hơn ba mươi ngày mai nữa cho đến khi gió đổi chiều, và một quãng thời gian không biết là bao lâu để quân đến ngoài thành tiếp viện. Tốt nhất là chàng không nên đếm thời gian nữa. Sống, chỉ giản đơn là như thế. Phải sống, cho đến khi nào còn có thể.

Chàng vẫn muốn trở về. Gia Định, vùng đất mà chàng đã lấy làm quê hương. Gia đình, Ngọc Du và đứa con gái nhỏ. Khoảng sân nhà rợp bóng cây, hoa dạ lý hương và nguyệt quế ngan ngát trong những đêm trăng sáng. Tiếng cười khanh khách của đứa trẻ. Mùi tóc thơm và đôi mắt buồn của nàng. Nàng luôn có vẻ buồn bã và cô độc, từ ngày đầu tiên gặp chàng cho đến hiện tại. Vẻ cô độc dường như không thể tách rời khỏi nàng. Hiện tại, chắc nàng lại tựa cửa nhìn vào bầu trời đêm, trước khoảng sân trống không một bóng người.

Chàng vẫn muốn trở về, giản đơn chỉ vì nỗi nhớ ấy.

Tiếng súng lại đánh thức chàng khỏi giấc ngủ chập chờn. Mặt trời đã lên cao, toả ánh chói chang. Chàng vội vã lao ra khỏi phòng. Quân lính cũng nhao nhác cầm gươm súng tập hợp ở ngoài sân. Nhưng lính trực phiên trên vọng gác vẫn chưa phát cồng báo động. Ở vọng gác phía Đông, người lính lấy ống nhòm nhìn ra khoảng đất ngoài xa, rồi lấy tay làm loa hét xuống:

- Quân ta đến! Ở cửa Cầu Hin!

Tiếng xôn xao càng lớn trong quân lính khi thông báo được truyền đi. Nhưng bây giờ gió vẫn còn thổi ngược, họ nói và nhìn nhau. Võ Tánh vội đến vọng gác, lúc chàng vừa định trèo lên, lại một loạt súng đại bác nữa nổ. Năm tiếng súng liền sau ba phát súng ban đầu. Dấu hiệu của chúa Nguyễn.

Chúa Nguyễn đã tới cửa Cầu Hin.

Giờ thì quân lính cũng đã nhận ra rõ ràng hướng của tiếng súng nổ. Tiếng hò reo bùng nổ trong thành. Leo lên vọng gác, chàng nhìn ra khoảng đất phía xa qua chiếc ống nhòm. Thấp thoáng cột buồm bên dòng nước xa. Ở lũy đất bao quanh thành, nhiều quân Tây Sơn cũng đã chạy ra nhìn.

Gió vẫn rào rạt thổi quanh chàng trên vọng gác cao vút. Gió bấc, và vị chúa đã bất chấp quy luật của chính mình để tiếp cứu chàng. Cuộc tấn công làm kinh ngạc quân Tây Sơn vẫn ỷ y quân thủy của Gia Định phải khởi hành theo chiều gió nổi.

- Anh em, chúa công đến! – Chàng hét xuống khu đất phía dưới. Giờ thì ngay cả quân trong trại thương binh cũng đã chạy ra. Những khuôn mặt tái xanh ngời lên.

Ta sống rồi. Chàng nghĩ khi tiếng súng đại bác xa dần rồi những cánh buồm biến mất. Chúa Nguyễn lại rời đi, nhưng cuộc phản công của họ đã bắt đầu. Hy vọng của họ đã sống dậy, trong sáu bước tường dày.

Tháng ba năm Ất Mão, chúa Nguyễn đến Sử Châu, Phú Yên chặn đường về của Tây Sơn rồi đánh ngược về Nam, hợp cùng quân của Nguyễn Phúc Hội đóng tại Xuy Miệt và Tống Viết Phúc đánh lên từ vũng Diên. Quân Gia Định chiếm lại Bình Khang sau khi hạ lũy Lạp Trường. Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Xuyên chiếm thêm lũy Gò Đúc. Võ Văn Lượng, Mai Tấn Vạn mộ người Thượng đánh sông Đà Rằng đuổi quân Tây Sơn về Hội An. Quân Nguyễn chiếm được Phan Rang nhưng lại bị đẩy lui về Ba Ngòi.

Tháng năm, Nguyễn Long đưa quân Thượng xuống khe Sương, giả thế đánh vào Diên Khánh. Ban đêm, Võ Tánh đưa quân tập kích đốt bốn sở trại Tây Sơn từ núi Sĩ đến cầu Hoa Vông, chiếm một góc lập đồn giữ. Nhưng quân Tây Sơn từ Phú Yên bị đuổi dồn về Diên Khánh càng vây chặt. Dựa lưng vào núi, khu đồn mới chiếm cũng không giúp quân Võ Tánh có đường thoát ra ngoài. Thiếu lương, chúa Nguyễn phải cho Cảnh giữ Gia Định thu thêm một kỳ thuế của điền hộ và lính không đánh trận.

Ba tháng kể từ khi chúa Nguyễn xuất quân, Gia Định chìm trong nỗi sợ hãi phập phồng. Mùa gió bấc đã qua, gió nồm đã đến, nhưng Diên Khánh vẫn chưa có biến chuyển. Tin thu gấp quân lương càng làm trận chiến nơi phương Bắc xa xôi thêm phần cam go quyết liệt đối với người ở nhà. Vẫn chưa thể giải vây, Phúc Cảnh lắc đầu khi Ngọc Du đến hỏi lúc nghe tin người liên lạc đã về. Nhưng quân ta đánh tới từ mọi phía, Tây Sơn phải căng sức đối phó, không thể dồn dập công thành như trước.

Đánh ra bốn sở trại, Võ Tham thặng thu được nhiều vũ khí và lương thực, Cảnh an ủi người cô, tuy biết chính Tây Sơn cũng thiếu lương khi các kho tiếp tế của họ đã bị quân Nguyễn chiếm. Xuất quân lần này, Dayot đã bị giam, Nguyễn Văn Thành, Huỳnh Đức bị giáng chức giữ lại ở Gia Định. Cảnh đã cho thả Dayot, Bá Đa Lộc đã xin tội cho cả Đức và Thành, nhưng quân Nguyễn trong lúc chinh chiến vẫn không nhiều xáo trộn. Quân bộ không thể tiến sâu vào, trong khi Tây Sơn tránh những cuộc đụng độ trên biển. Thế trận như một ván cờ vây dằng dai, không biết đến lúc nào mới có thể giải quyết. Hết mùa gió nồm rồi lại gió bấc, quân trong thành Diên Khánh khó có thể trụ nổi khi thiếu thứ thực phẩm quan trọng nhất.

Đã từng ở thành Diên Khánh, cậu Đông cung biết sự nguy hiểm của những vòng vây, nhưng không nói ra với Ngọc Du. Đã được nửa năm, đứa bé trong tay nàng đã cứng cáp, càng giống cha nó đến từng đường nét. Ngồi lại trong điện Đông cung, Ngọc Du ôm đứa trẻ mà lặng lẽ nhìn trời. Mưa đã lại kéo về, vang vang tiếng trên mái ngói, tán lá, khoảng sân. Sấm chớp thi thoảng lại giật ầm ào, những tia sáng tách qua làn mây dày rẽ ngang bầu trời xám xịt. Đứa bé vẫn ngủ, không sợ gì sấm chớp lẫn gió mưa. Nó là một đứa trẻ có vẻ trầm lặng kỳ lạ, ít khóc, ít quấy, không cả thức đêm. Nó chỉ hay im lặng nhìn tất cả xung quanh, nhìn nàng, nhìn người chị, nhìn bầu trời và khoảng đất xanh màu lá cỏ. Như thể nó đã thấm đẫm thói quen chờ đợi ngay từ lúc mới được tạo thành.

Chờ đợi. Việc duy nhất mà nàng có thể làm là chờ đợi. Ngồi nhìn những bóng người mặc áo tơi lấp xấp lại qua trong mưa, Ngọc Du thầm nhủ. Một vài người dừng lại trước điện Đông cung, báo danh và chờ đợi. Họ bao giờ cũng thật tất bật, những người quan này. Họ bao giờ cũng có nhiều việc để làm. Thu thêm một kỳ thuế để trừ vào sang năm, cái lối thu thuế kỳ quặc này của em trai nàng lại đặt ra tiền đồ nguy hiểm: Sang năm, họ không thể đánh trận vì thiếu lương. Như vậy, có lẽ quân đội sẽ được nghỉ ngơi.

Nếu như chàng có thể quay trở lại. Nàng thở ra. Nàng ghét cái ý nghĩ này, ghét cả sự chờ đợi này. Cô độc thì nàng đã quen, nhưng nỗi sợ hãi thắc thỏm này làm sao có thể quen, làm sao có thể chấp nhận? Thành Diên Khánh đã bị ghi dấu bằng cái chết của Tống Phúc Đạm. Tống Phúc Đạm, người Giám quân đã tồn tại qua bao đợt thăng trầm, từ Phú Xuân, Quảng Nam đến Gia Định, Xiêm La, vậy mà đã gục ngã trong thành Diên Khánh. Định mệnh, và trước nó, con người chỉ có thể cầu nguyện. Cầu nguyện ai, cầu nguyện thế nào, nàng cũng không biết. Nàng chưa bao giờ tin vào sự tồn tại của các linh hồn cũng như sự đáp ứng cho những lời cầu nguyện.

Tiếng chân dừng lại bên nàng. Nàng ngẩng lên, nhận ra người Tây dương trẻ với chiếc áo tơi kiểu bản xứ. Đôi mắt xanh của anh ta nhìn xuống nàng, thoáng vẻ ngạc nhiên.

- Chúng ta lại gặp nhau. – Anh ta nói. Nàng gật đầu. Đã bảo Cảnh thu thêm lương, chúa Nguyễn hẳn cho người về lấy, và lại là người Tây dương này. Trước điện Đông cung, nàng không muốn tiếp chuyện với người lạ. Năm trước, chuyện xôn xao với người Tham tướng Hậu quân cũng đủ để nàng phải cảnh giác. Nàng đã có chồng, không thể thân cận với những tướng lĩnh thuộc hạ như trước.

Nhưng người Tây dương hình như không nhận ra điều đó. Anh ta cởi áo tơi khoác lên lan can, đứng dựa vào cột hàng hiên mà nhìn nàng lẫn đứa trẻ.

- Vậy ra cô là người trong cung. – Anh ta hơi ngập ngừng. Nàng nhướng mày. Ồ, anh ta lại đang nghĩ nàng là một người trong hậu cung của chúa Nguyễn, phải chăng?

- Tôi là Hồ Dương công nương. – Nàng nói. Đáng lẽ phải là Trưởng công nương, nhưng sao cũng được. Biết được thân phận nàng, anh ta sẽ lễ độ hơn chăng?

- Ồ, - Người Tây dương lại nở nụ cười rất rộng. – Phải rồi, đáng lẽ tôi phải nghĩ ra. Cô rất giống Ngọc Tú công nương. Cả hai đều rất đẹp.

Đó có phải là thói thường của Tây dương khi nhận xét như thế về một góa phụ, Ngọc Du cau mày khi nhìn lên người Tây dương. Anh ta ngồi xuống lan can, nhìn ra trời mưa như chưa hề nghĩ rằng mình đã nói điều gì vô phép.

- Vậy cô là Tham thặng phu nhân. Võ Tham thặng là một anh hùng. – Anh ta nói. Lần này nàng im lặng nhìn theo ánh mắt anh ta đến những giọt mưa đang rơi liên hồi trên mặt đất.

- Tôi không thích anh hùng. – Cuối cùng, nàng nói. Người Tây dương nhìn nàng. Câu hỏi trong mắt anh ta, rồi lại được thay thế bằng ánh nhìn cảm thông dịu dàng.

- Khi tôi muốn bỏ nhà đi theo nghiệp thủy thủ, mẹ tôi cũng nói như thế. Ồ, khi còn trẻ, người ta dễ bị cuốn theo những ánh hào quang mà không nhận ra vực thẳm trước mặt trời. Khi ấy, chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Anh Cát Lợi, Phú Lang Sa đang diễn ra ở Bắc Mỹ. Người ta kêu gọi chúng tôi đến, “Vì quyền lợi của Tổ quốc”, họ nói. Họ làm cho chúng tôi có cái ý nghĩ rằng chỉ cần tham gia vào trận chiến thì mình đã trở thành anh hùng. Nhưng đến đó rồi, tôi lại chẳng biết mình phải chiến đấu vì cái gì. Những người Hoa Kỳ, họ chỉ muốn độc lập. Ở Canada thì lạnh đến cóng cả tai. Tôi lúc đó còn nhỏ, bị bệnh nằm bẹp trên giường rồi được chuyển lại về nhà. Rồi Phú Lang Sa thua trận, những người “anh hùng” lại trở thành kẻ thảm bại, thất thểu trở về mà không hề nhận được lời đón mừng nào.

- Các anh đánh nhau vì lý do gì? – Nàng tò mò hỏi. Các địa danh mà anh ta nói, nhiều nơi nàng chưa từng được nghe đến.

- Tranh giành nhau, nhiều lúc là thế. – Người Tây dương nhún vai. – Nhưng Phú Lang Sa và Anh Cát Lợi đã có nhiều ân oán từ thưở lập quốc. Anh Cát Lợi đã từng chiếm đất nước chúng tôi, tàn sát rất nhiều người. Chúng tôi ở bên cạnh nhau, và rồi thường xuyên đánh nhau. Trên biển, chúng tôi lập ra cả những đoàn thuyền săn biển, cướp phá tàu thuyền lẫn nhau. Ở châu Mỹ, Ấn Độ, châu Phi, chúng tôi tranh nhau từng tấc đất. Người Anh Cát Lợi rất mạnh, họ chiếm được nhiều hơn chúng tôi, hơn bất cứ ai. Mặt trời không bao giờ lặn trên đất Anh, có một câu nói như thế. Lãnh thổ mà họ chiếm được trải rộng khắp nơi trên thế giới.

- Các anh sống bằng việc cướp phá các đất nước khác? – Nàng nhướng mày. Nàng cũng đã thỉnh thoảng nghe người em trai hoặc Cảnh kể lại. Người Tây dương bối rối cười.

- Chúng tôi đi buôn, thực sự là vậy. Chúng tôi mua gia vị, vải vóc, đồ sứ từ phương Đông đến phương Tây, rồi bán lại thuốc súng, vũ khí, đạn dược, những gì mà người phương Đông cần, cả thuốc phiện nữa. Nhưng chúng tôi phải tranh chiếm với nước khác để có đường đi, để có nơi buôn bán. Nước nào cũng muốn thân cận với chính quyền sở tại để độc quyền buôn bán, cung cấp, thu mua vật phẩm. Nước nào cũng muốn có vị trí thuận lợi để neo đậu tàu thuyền. Và thế là từ tranh chấp lẫn nhau, chúng tôi dẫn đến việc chiếm hẳn cả một vùng đất cho mình. Chúng tôi tranh giành với nhau trên biển, trên đất, bất cứ nơi đâu mà chúng tôi đi qua. Chúng tôi đánh lẫn nhau để giành lấy vùng đất tốt, thậm chí dùng cả phương cách chính trị. Sau cuộc chiến ở châu Mỹ vừa rồi, Anh Cát Lợi và Hoa Kỳ ra cái luật quốc gia nào đặt quan hệ với Hoa Kỳ thì sẽ trở thành kẻ thù của nước Anh Cát Lợi và ngược lại. Thủy thủ vừa là thương buôn, vừa là chiến binh, thỉnh thoảng, cả cướp biển.

- Vậy sẽ đến lúc các anh dòm ngó đến vùng đất này? – Nàng cau mày. Người Tây dương nghiêng đầu ra chiều suy nghĩ.

- Bây giờ thì chưa, chưa đâu. Sau khi tàu Đông Ấn của Ô Lan bị đánh bại, tất cả đều nhận ra đất nước này rất mạnh. Còn Phú Lang Sa chúng tôi thì chưa nhìn đến phương Đông. Anh Cát Lợi, Ô Lan, Bồ Đào Nha đã khóa mọi nẻo đường đến phương Đông. Bọn họ tràn ngập khắp nơi, cô có thấy? Đại Thanh cũng còn rất mạnh, sự tồn tại của nó che chở cho tất cả các quốc gia xung quanh, cả Nhật Bản, Cao Ly, Miến Điện, Vạn Tượng, Xiêm La. Nhưng nếu Đại Thanh gục ngã, châu Á này sẽ trở thành châu Phi, châu Mỹ. Nếu Đại Thanh gục ngã, vùng biển Đông này sẽ trở thành chiến trường.

Nàng im lặng. Chúng ta sẽ có lúc trở thành kẻ thù của nhau, nàng nghĩ. Cùng với những người Tây dương đến ngày càng nhiều trên bến cảng, họ lại linh cảm thấy một cơn sóng khác đang tràn tới. Cùng với những chuyến tàu đến Ấn Độ, Hạ Châu, Xiêm La, Nam Dương, Ma Cao, họ lại thấy một nguy cơ mới mở ra trước mắt. Tây dương đã chiếm toàn bộ những hòn đảo ngoài khơi, nàng đã nghe vị chúa nói chuyện với những quan tướng của mình. Bằng những bước đi chậm chạp, họ đang tiến tới, từ phương Tây. Bằng những chiếc tàu khổng lồ mang sức mạnh vô địch và những khẩu pháo ngày càng mạnh. Nếu không theo họ, ta sẽ bị nuốt chửng, vị chúa nói, luôn nói với người con trai. Trong khi những người khác, sau khi nghe những gì Anh Cát Lợi đã làm ở Ấn Độ, sau khi nghe về các thủ đoạn thao túng kinh tế rồi lấn dần quyền quyết định của vua, kích động hận thù, chiến tranh của người Hồng Mao trên đất Ấn, lại mang một sự cảnh giác cao độ đến mức chỉ muốn tất cả người Tây dương phải biến mất khỏi đất nước. Không cho chúng có cơ hội, họ nói.

Trong khi đó, người Tây dương này nêu ra một nguy cơ khác từ phương Bắc: Đại Thanh. Sự tồn tại của Đại Thanh gắn liền với sự thịnh suy của phương Đông. Đại Thanh, vùng đất mênh mông, giàu có và đông đúc, mục tiêu của bất cứ ai muốn nhắm đến ngôi bá chủ.

- Vì thế, mẹ tôi cũng chưa từng muốn tôi làm anh hùng. – Người Tây dương lại nói. – Đó là cướp bóc và giết chóc, bà bảo. Đất nước chúng ta đẩy hàng triệu thanh niên ra biển để cướp bóc và giết chóc người khác, rồi lại phong huy chương anh hùng cho hành vi ấy. Cho nên, công việc mà tôi đang làm cũng phải nói là… nhẹ nhàng, hay là có từ nào khác chăng? Chiến đấu, vì một lý tưởng nào đó, vì một vùng đất, vì một vị vua, có phải vẫn còn ý nghĩa hơn là đánh nhau trên biển để tranh chút tiền bạc?

Ngọc Du mỉm cười. Anh ta thật là đơn giản, người Tây dương này, cả cái ý nghĩ của anh ta.

- Mẹ anh sao rồi? – Nàng hỏi. Người Tây dương vuốt sợi tóc ướt mưa dính vào má, lắc nhẹ đầu.

- Bà mất rồi. Ngay sau khi tôi từ châu Mỹ trở lại. Con là một thằng ngốc, bà mắng tôi như thế trước khi qua đời.

Và anh vẫn đi theo con đường này, nàng nhìn bóng người Tây dương trên đất, nghĩ với niềm u buồn chợt ào đến. Rốt cuộc thì có ai giữ được các anh? Chẳng ai đủ sức giữ được các anh, có lẽ ngoại trừ vị chúa tể. Vị chúa của đất nước này. Hấp lực không thể cưỡng lại của quyền lực và sức mạnh.

Nàng lại nhớ đến người đang ở thành Diên Khánh. Người đang chống chọi để giữ lấy sự sống trong thành Diên Khánh. Người đang cố gắng xuyên thủng hàng lũy phòng ngự để hoàn thành lời hứa với nàng. Cuộc chiến này có sự quẩn quanh phi lý nào đó mà nàng không thể hiểu. Cứ đánh lẫn nhau như thế đến bao giờ?

- Cô có biết không, các thủy thủ có một bài ca. – Người Tây dương chợt nói sau một lúc quan sát nàng. – Người chờ đợi hãy thắp lên một ngọn nến, và dù ở nơi đâu, các thủy thủ cũng sẽ biết đường quay trở lại. Hãy thắp lên một ngọn nến để soi sáng bóng tối trong lòng người ra đi.

- Thật là lãng mạn. – Nàng cười. – Thế anh nghĩ mình biết được ai đã thắp nến cho mình không?

- Với những người tôi yêu thương, tôi tin. – Anh ta trả lời nàng.

Cung nhân trong điện Đông cung ra gọi người Tây dương vào. Anh ta cúi chào nàng trước khi quay bước. Còn lại một mình ngoài hiên, nàng lại ngẩn ngơ nhìn trời. Bầu trời dày đặc mưa. Bầu trời vỡ nát tia chớp. Đứa trẻ đã dậy từ lúc nào không biết, cũng đang mở to đôi mắt trong veo nhìn những giọt mưa không ngừng rơi xuống. Rơi xuống, bầu trời vỡ nát trong mưa.

- Ba sẽ về, con ạ. – Ôm đứa bé vào lòng, nàng thì thầm. Thì thầm như một lời cầu nguyện.

Cuối tháng năm, trên chiến trận, chúa Nguyễn bất chợt nhận được tin từ Phú Xuân báo tới: Võ Văn Dũng đã giết cha con Thái sư Bùi Đắc Tuyên, Ngô Văn Sở và hơn mười người khác trong triều. Nghi ngờ Lê Trung cùng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng cho năm trăm quân chặn đường ở Quy Nhơn, không cho bọn Diệu trở về thành.

- Giặc giết nhau, có thể thừa cơ được. – Vị chúa nói, rồi ra lệnh lập một loạt đồn điền giăng trước cửa Phú Yên, chặn đường rút lui của Trần Quang Diệu về Phú Xuân, cho đánh mạnh vào. Trương Phúc Luật giữ suốt từ Đại lãnh đến Lão lãnh. Lê Trung bị đánh bại ở Do Lâm, phải rút về Diên Khánh. Quân Trần Quang Diệu không qua được Võ Văn Lượng ở Gian Nan lãnh. Dằng dai thêm một tháng, quân Tây Sơn không qua được núi mà quân Nguyễn cũng không chiếm được cứ điểm Núi Kho.

Rồi cũng vào mùa hạn gay gắt nhất, Võ Tánh nghĩ khi lại phải chống tay vào tường ngăn một cơn choáng váng. Đã bốn tháng qua kể từ khi chúa Nguyễn đến, và đúng như chàng lo sợ, quân khó có thể đánh vào. Quân trong thành đã dần dà gục ngã dưới sự thiếu hụt thực phẩm. Ngay cả bản thân chàng cũng khó còn có thể đứng vững dưới nắng. May mắn, vì một lý do nào đó, Tây Sơn không đánh nữa, chỉ muốn phá vây thoát ra. Nhưng nếu tình trạng kéo dài, trong thành sẽ chẳng còn ai sống sót. Đã vào mùa hạn gay gắt nhất, và da thịt họ đang bị rút kiệt. Nhiều người đã choáng váng ngất xỉu, không bao giờ tỉnh dậy. Họ đang chịu đựng bằng một ý chí phi thường, chống đỡ cả bản thân và khu thành bằng một ý chí phi thường. Nhưng đến bao lâu?

Tiếng chân đi đến bên chàng và tiếng gọi. Người Trưởng chi dưới quyền chàng dẫn một tên lính Tây Sơn vào. Chúng tôi bắt được hắn, anh ta nói, hắn xin đầu hàng.

Võ Văn Dũng đang giữ Phú Xuân, Trần Quang Diệu chỉ muốn rút quân. Tên lính kể. Họ đang giữ Núi Kho chống cự quân Nguyễn. Nguyễn Văn Huân từ Đà Rằng đuổi đến định giết Diệu diệt trừ hậu họa. Quân Diệu phải trông chừng hai phía, nếu đánh bất ngờ có thể phá được.

Võ Tánh đưa mắt nhìn các tướng. Có nên liều lĩnh không? Chàng thấy câu hỏi trong mắt họ.

- Không thể chờ người khác đến được. Ta liều thôi. – Chàng nói, cho họ đi gọi quân.

Trong thành còn được bao nhiêu người đứng vững, tập hợp hết lại. Chàng nói.

Đêm tháng bảy, ba trăm quân cùng Võ Tánh bơi qua sông Ngư Trường đến đồn Tây Sơn, phóng hỏa đốt trại. Cùng lúc, trong thành bắn pháo hiệu cho quân Nguyễn bên kia núi đến tiếp ứng. Quân Tây Sơn náo loạn ùa ra. Quân Diên Khánh vừa chạy vừa ném hỏa khí, áo đã đốt cháy của mình vào trại giặc. Trong ánh lửa sáng trời, họ chạy về phía thanh âm gào thét từ bên kia núi vọng đến. Quân Nguyễn nhanh chóng tràn tới tạo thành vòng vây bao quanh đội quân đang bối rối trong lửa. Trong bóng tối, chàng thấy lá cờ vàng phấp phới sau đoàn quân.

Chúa công, chàng nghĩ. Từng tấc phân cơ thể chàng gào thét trong sự mệt mỏi rời rã.

- Chúa công tới! – Chàng quay lại, gào lên.

Nhưng không có ai ở đằng sau chàng.

Ánh lửa chói sáng đỏ quạch những bóng người đang chạy nhao nhác, đang quằn quại, đội quân vừa tới ào vào chém giết. Nhưng không có một thanh niên cởi trần nào còn lại.

Trên đất, chàng thấy một dáng người nằm sấp, mảng lưng cháy xém trong lửa.

Tiếng ồn lại một lần nữa gầm lên xung quanh chàng. Tiếng chân chạy gần lại. Họ đang tới. Họ đang tới. Chàng nghĩ mà không quay lại. Có tiếng hỏi, có tiếng gào sau chàng. Có người chạy đến trước mặt chàng.

- Võ Tham thặng! – Chàng nghe tiếng một ai đó rất quen. Anh ta ôm lấy vai chàng lắc mạnh. Chàng rời mắt khỏi ngọn lửa, quay lại đoàn quân đang tới. Chúa Nguyễn thấy chàng, vội nhảy xuống ngựa đến gần.

- Võ Tham thặng. – Vị chúa gọi. Chàng nhìn ngài ta, rồi lại nhìn ngọn lửa. Ngọn lửa vẫn đang phừng lên. Đoàn quân phía sau lại ào tới. Những bóng người đen thẫm trong ánh lửa hắt ngược tạo thành một hoạt cảnh lạ kỳ.

Lửa. Chàng nghĩ tới lửa đã cháy lên trong gò Tre năm xưa. Lửa đã gào thét trong gò Tre năm xưa.

- Không còn ai cả, chúa công. – Chàng nói. Khi bóng tối đang dần sụp xuống. Những bóng người nhòe đi trước mắt chàng cùng ngọn lửa.

Chàng vẫn nhìn, nhìn mãi về phía ngọn lửa. Nhưng không một ai chạy về phía chàng.

37

Khi tỉnh dậy, chàng đã lại thấy mình nằm trong khu nhà của thành Diên Khánh. Bên ngoài có nhiều tiếng xôn xao, cả trong căn phòng chàng đang nằm. Quay lại nhìn, chàng thấy Võ Văn Lượng đang đứng gần, ông ta quay lại nói chuyện với Nguyễn Phúc Hội. Ngoài cửa, thấp thoáng bóng cờ vàng trên bức tường thành.

Vậy là mọi chuyện đã thực sự xảy ra, cuộc tấn công của họ, thành Diên Khánh đã được giải vây, chàng nghĩ trong những cơn chuếnh choáng vẫn còn mập mờ. Nguyễn Phúc Hội đi ra, Võ Văn Lượng quay lại, thấy chàng đã tỉnh liền cười.

- Chúng ta đuổi được Trần Quang Diệu rồi. Tiếc qúa, không bắt được hắn. Nguyễn Văn Thành chạy theo truy đuổi nhưng hắn đã vòng qua đường núi trốn mất. – Đó là điều đầu tiên ông ta nói với chàng. Chớp mắt, chàng ngồi dậy, đón lấy tô nước mà Võ Văn Lượng đưa cho, uống cạn. Vị muối mằn mặn trên lưỡi chàng, nhưng vẫn chưa thể dứt được cơn uể oải chỉ muốn ném chàng nằm lại.

- Những người đi cùng với tôi còn ai nữa không? – Chàng hỏi, tô nước vừa uống đã thấy khô khốc trong cổ. Có lẽ vì muối mặn.

Võ Văn Lượng nhìn chàng.

- Chúng tôi tìm được vài người trong bụi rậm, nhưng cũng như anh, họ kiệt sức cả rồi.

Ông ta chỉ nói như thế, và im lặng về tất cả những con người, những xác thân còn lại. Lửa đã cháy hết mười hai trại Tây Sơn, đã thiêu rụi hàng trăm kẻ không thể thoát ra. Không thể thoát ra, cả những người đã đốt lên ngọn lửa ấy, những người đã bị vắt kiệt sức lực trong hàng tháng trời, đã bơi qua con sông rộng, đã không còn đủ sức để chạy. Họ không phải là chàng, vậy mà chàng không thể nghĩ ra, một lần nữa không thể nghĩ ra.

- Chúa công ở đâu? – Chàng hỏi, cuối cùng. Võ Văn Lượng trả lời, và chàng đứng dậy, lảo đảo mặc áo, bước ra ngoài.

Chúa Nguyễn đang ở trên thành, gần cửa chính. Ngài ta chắp tay sau lưng nhìn ra bên ngoài. Trong thành, lính của đội quân vừa đến đang dọn dẹp, sắp xếp lại, kể cả những gò đất sau đồn. Đứng trên tường thành, chàng nhìn thấy những bóng người trong khu đất thấp thoáng sau hàng cây. Nghe tiếng chân chàng, vị chúa quay lại.

- Võ tham thặng phải vất vả rồi. – Ngài ta nói sau một lúc quan sát chàng. Chàng lại nhìn về khu đất trống và những bóng người tất bật.

- Lần này qủa là khó khăn. – Vị chúa lại nói khi không thấy chàng lên tiếng. Chàng chống tay ngồi xuống, không còn có thể đứng nổi. – Thành bị hư hại cũng nhiều, chúng ta lại phải sửa thành. Nhìn thế này, chúng đã tấn công quyết liệt lắm, phải không?

- Phải. – Chàng nói, chậm chạp. – Chúa công đã phá được cả vòng vây từ Phú Yên đến Thuận Thành, ngài cũng phải vất vả rồi.

- Cuộc tấn công của Võ Tham thặng chuyển đổi cả chiến cuộc. – Vị chúa cười. – Nếu Võ Tham thặng không đánh ra, ta cũng không biết phải hạ Trần Quang Diệu thế nào. Thấy lửa cháy, lại nghe quân ta la hét, hắn tưởng bị tấn công tập hậu nên mới vội vã rút lui.

- Thần không ngờ chúa công lại ở ngay bên ngoài. – Chàng nói. Chúa Nguyễn lại cười, nụ cười rất nhạt nhòa.

- Ta biết rằng mọi người đã mệt mỏi, không thể cố hơn được nữa.

Chàng lại im lặng. Đã thoát rồi, chàng nghĩ. Theo những gì được biết, hẳn Trần Quang Diệu về lần này là để trả thù cho Bùi Đắc Tuyên. Triều đình Tây Sơn lại xáo trộn, lại suy yếu, lại là cơ hội cho họ. Đã thoát rồi, chàng sẽ có thể trở về Gia Định. Nhưng trong chàng, một nơi nào đó, hẫng xuống.

- Khi quay lại, bất chợt không còn thấy ai cả. – Chàng nói, như chỉ tự nhủ với mình. Ngọn gió thổi qua cánh đồng trống bên ngoài khô ram ráp bụi cát. Nắng đã lại lên cao rồi nghiêng đổ xuống thành trì còn đầy những vết đổ vỡ cùng khu đất hoang tàn. Vệt hoang tàn kéo dài theo bóng nắng, hút đến tận chân trời. Một khung cảnh quen thuộc, đã trở thành qúa quen thuộc với chàng, nhưng giờ đây chàng lại đang nhìn nó với thứ cảm xúc không thể nào hiểu nổi. Tưởng chừng sau bấy nhiêu năm tháng, cái gì đó đã vỡ bục ra trong chàng. Dòng thác đã đổ xuống, cuốn trôi, để lại khoảng trống hẫng hụt. Chàng thấy mình như vừa bước ra khỏi một giấc mơ, mọi thứ xung quanh đều trở nên không thực một cách lạ kỳ.

Đêm qua, trong ánh lửa, chàng đã quay nhìn. Trong niềm vui được sống, chàng lại thấy ảo tượng của cái chết. Cảnh tượng ngày xưa lại ập đến trong ký ức chàng, đỏ thẫm màu lửa và những thanh âm cuồng loạn. Tại sao chàng lại nhớ đến ký ức ấy, chàng vẫn không thể hiểu. Cái chết, chàng đã quen với cái chết, qúa quen rồi, ngay cả với những kẻ thân cận xung quanh. Chàng đã quen với những nỗi buồn và sự đau lòng khi thấy kẻ bên mình gục ngã. Từ lâu, cái chết đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống của chàng. Nhưng đó không phải là cảm giác này.

- Lần đầu tiên thua trận, ta cũng đã trải qua cảm giác ấy. – Vị chúa nói, bên cạnh chàng. Ngài ta ngồi xuống trên bậc gác súng của thành, vịn tay vào khẩu đại bác mà nhìn ra khu rừng phía xa. Mặt trời đã xuống chếch qua cột cờ. – Khi những gì ta xây dựng lần lượt bị phá vỡ, mọi người đã giục ta trốn đi. Khi quay lại, chỉ còn một vài người bên cạnh.

Và rồi, ta đã từng có cảm giác muốn bỏ cuộc. – Ngài ta nói, sau một lúc im lặng dài. – Lần đầu tiên ấy, bị đẩy ra Thổ Châu, ta đã nghĩ rằng thế là kết thúc. Nhưng Châu Văn Tiếp kéo quân từ Phan Rí đến lấy lại Gia Định, gọi ta trở về. Lúc ông ấy chiến đấu ở Gia Định, ta lại đang quẩn quanh trên đảo chẳng biết làm gì. Rồi ông ấy gọi ta trở về. Ông ấy bao giờ cũng vậy, không bao giờ chịu bỏ cuộc. Hết lần này đến lần khác, ông ấy một mình chống chọi, một mình cố gắng. Bị bắt sang Xiêm La, nhưng rồi lại thấy ông ấy qùy dưới chân ta mà khóc, ta không thể đành lòng mà bỏ cuộc. Những người như ông ấy, thật khiến cho người ta thương cảm.

Gió vẫn lồng lộng thổi quanh họ, mang hơi thở hanh hao của ngày cuối mùa hạ. Vùng đất này lại sắp có mưa, những cơn mưa trái mùa so với Gia Định. Chúa Nguyễn thu chân ngồi hẳn lên bậc thành, nhìn xuống chàng bằng cặp mắt thông hiểu.

- Khi quay lại, bất chợt thấy những người đã đi theo mình chẳng còn ai. Lần thua trận thứ hai, toàn bộ các tướng đều đã bị bắt, bị giết, thất lạc, bên ta chỉ còn chừng một trăm lính tráng. Rồi nghe tin những đứa em, cả trai lẫn gái, đều chết. Cả ngàn người, cả vạn người, chẳng còn ai. Có lần ta cùng Đức Xuyên, chỉ có hai người bọn ta, đi qua rừng, ghé vào nhà dân xin cơm mà ăn. Cái ý nghĩ rằng tất cả bọn họ đều đã chết cả rồi còn tồi tệ hơn là thua trận.

Sau này, ta lại nghĩ rằng tất cả đều có cái tốt của nó. Ta cho rằng mọi người đều nên một lần biết thất trận, biết ngoái nhìn. Có thế thì người ta mới biết mình đã phải trả cái giá như thế nào, và không phí phạm sinh mệnh. Chẳng có gì đáng vui mừng với trận thắng nhiều thương vong, không một chút nào.

Một vị vua như Hán Vũ Đế, đánh Đông dẹp Bắc bao nhiêu năm, uy quyền vô hạn, bốn phương phục tùng, vậy mà khi nhìn lại thì đất nước kiệt cùng, đói khổ. Đó chính là vì không biết thất bại. Khi thắng mãi, người ta chỉ nhìn số quân địch bị giết mà quên đi số quân mình đã hao tổn. Người ta chỉ biết đến vinh quang mà không nhìn đến những gì đã phải hy sinh.

Chàng vẫn lặng im. Nhìn về phía trước, nhìn lại phía sau. Ngài ta đang yêu cầu qúa nhiều ở bọn họ. Cuộc chiến này chẳng phải là đã qúa nặng nề?

- Ta vẫn thường nói: Dũng tướng không bằng trí tướng, trí tướng không bằng phúc tướng. – Chúa Nguyễn chợt cười nhẹ bên chàng. – Nghĩ lại thì Nguyễn Văn Trương qủa là phúc tướng của ta. Ông ấy đi đến đâu thì kẻ địch nghe tên đã chạy mất, chẳng phải giết chóc nhiều.

- Còn thần là loại tướng nào, chúa công? – Chàng mỉm cười. Chúa Nguyễn hơi nghiêng đầu.

- Từ khi nghe tiếng khanh, trước cả khi quen biết, ta vẫn nghĩ khanh là một hào kiệt.

Nghĩa là thế nào, chàng muốn hỏi nhưng lại thôi. Im lặng, họ nhìn bóng hoàng hôn đang đổ xuống, màu trời xanh chuyển sang tím phớt, vàng chói chang, rồi đỏ bầm. Trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, trời đổi liền năm sắc. Gió vi vu thổi trong tiếng lao xao vẫn liên tục không ngơi nghỉ của thành trì sau cuộc chiến. Chàng chợt thấy thèm rượu. Giá mà có một vò rượu bây giờ để quên đi cơn nhức nhối đang lan khắp cơ thể, trong trí não còn đầy mơ hồ này.

- Ta không uống rượu. – Chúa Nguyễn lên tiếng, và chàng chợt nhận ra mình đã buột miệng nói ý nghĩ kia. Đến lúc ấy, chàng mới nghĩ ra, trong bao nhiêu năm ở gần vị chúa, chàng chưa từng thấy ngài ta uống một giọt rượu nào.

- Ngài không uống được rượu à, chúa công? – Chàng tò mò hỏi. Có những người không uống được rượu, chàng biết thế, chỉ hơi thấy lạ. Chúa Nguyễn lắc đầu.

- Thời trẻ ta uống rất nhiều, nhưng sau này thì không… Chờ về Gia Định, chị ta sẽ uống cùng khanh.

Ngài ta cười, chặn trước câu hỏi của chàng. Qủa thật câu hỏi tại sao đã chực chờ trên đầu lưỡi chàng. Rượu là một phần cuộc sống của họ, hầu như tất cả mọi người trên vùng đất này, kể cả các phụ nữ. Kể cả các phụ nữ, đôi lần họ cũng phải tìm đến những cơn chuếnh choáng say để tìm vui, tìm quên. Các tướng lĩnh, từ Nguyễn Phúc Hội cho đến Nguyễn Văn Thành, đều là con sâu rượu đến nỗi chúa Nguyễn phải nhiều lần khiển trách. Cả các văn quan như Nguyễn Thái Nguyên cũng nhiều lần say khướt đến quên cả buổi chầu. Trong cuộc sống bất trắc này, rượu là thứ không thể thiếu. Rượu xua tan đi mùi tanh, xua tan đi mệt mỏi và sợ hãi, làm người ta quên đi qúa khứ, hiện tại lẫn tương lai. Họ tìm đến rượu như thứ giải trí giản đơn nhất, chẳng cần phải suy nghĩ. Đến mức chẳng ai có thể nghĩ mình không có nó. Ngay cả trong thành những ngày bị vây bức vẫn còn có rượu. Chàng chưa hề nghĩ được rằng đời mình lại có thể thiếu vắng nó.

- Cảm giác như thế nào, chúa công? – Sau cùng, chàng hỏi một câu thay thế. – Bỏ rượu thì có cảm giác thế nào?

- Thấy cuộc đời dài ra thêm một chút. – Vị chúa cười khẽ. Chàng cũng cười theo.

Mặt trời đã ở phía đối diện với họ, ánh hào quang vàng cam nhưng nhức mắt. Ta xuống thôi, chúa Nguyễn nói, và chàng gật đầu đứng dậy. Bước chân ngài ta chậm lại đợi chàng vịn tường thành đi theo.

Ồ, từ lúc nào họ lại giống như hai người bạn, chàng nghĩ khi nhìn lưng người đi trước. Ở trên tường thành hồi nãy, giá như có rượu thật, có lẽ chàng đã cạn với ngài ta vài ly, mặc kệ ngài ta muốn uống rượu hay không. Có một nỗi niềm hân hoan lẫn u sầu nào đó đã lan đi trong họ, trong những mối ràng buộc quanh họ, trong khoảnh khắc nào đó giữa cuộc đời của họ. Anh em, chàng thầm nhủ, phải, nói theo một cách nào đó, thật ra thì họ là anh em. Đã có một mối liên kết, ràng buộc giữa họ. Vậy mà chàng vẫn chưa từng cảm thấy cho đến bây giờ.

- Khanh và các tướng có lẽ về Gia Định trước, ta xây sửa thành này xong rồi về sau. – Phía trước chàng, vị chúa chợt nói. – Tây Sơn còn rối loạn chưa biết thế nào. Ồ, nếu biết quân của Nguyễn Văn Huấn đến để giết Trần Quang Diệu, ta đã chẳng mất công phải chặn hắn lại, cứ để bọn chúng giết nhau cho xong.

Đã trở về với giọng điệu tính toán lạnh lùng, chàng cười nhẹ sau lưng vị chúa. Trở về Gia Định, cuối cùng chàng cũng được trở về.

- À phải rồi, ta quên mất. – Vị chúa đột ngột đứng lại, vỗ tay vào trán, quay nhìn chàng. – Chúc mừng Tham thặng, nhà họ Võ đã có người nối dõi. Công nương Hồ Dương cuối năm ngoái đã sinh qúy tử.

Chàng chớp mắt. Chớp mắt thêm lần nữa. Nhìn thái độ của chàng, chúa Nguyễn cười khẽ.

- Chị ta không báo cho khanh biết, theo tính khí của chị ấy thì hẳn là vậy. Lần này trở về, khanh hãy liệu mà chịu cơn lôi đình của chị ấy.

Vừa cười, ngài ta vừa vỗ vai chàng. Chàng bối rối cười. Qủa thật, hơn một năm rồi chàng chưa nhận được tin tức gì của Ngọc Du. Vậy mà chàng đã không hỏi, cảm giác tự hối lại trào lên trong chàng. Chàng chưa hề hỏi về nàng, ngay cả với em trai nàng.

- Nó gần một tuổi rồi mà vẫn chưa được đặt tên. Công nương Hồ Dương không cho ta đặt tên, bảo chờ Tham thặng về. – Chúa Nguyễn nhún vai quay đi.

- Ngày xưa ở bên sông Tân Bình, thần đã nghe một câu thơ “Thái bình khánh hội tri hà nhật?” – Võ Tánh lặng lẽ nói. – Thế thì đặt tên nó là Khánh vậy.

- Phải, nên chúc mừng. – Một lần nữa, vị chúa đứng lại. Họ đã đến đầu thang xuống thành. Hoàng hôn đổ nghiêng trên họ những vệt mực tím mờ nhạt đan xen cùng ánh sáng. Chàng một lần nữa nhìn về phía đồng trống đã lại khuất sau hàng cây. Trước sân, những chiếc xe kéo đã được chuẩn bị sẵn để đưa bệnh binh, thương binh về. Lượng thi thể qúa nhiều, họ chỉ có thể khâm liệm rồi đưa ra ngoài thành chôn cất.

Câu nói của chúa Nguyễn càng làm đảo lộn những cảm xúc đan xen trong chàng, một khoảnh khắc lại làm chàng nghĩ rằng ngài ta đang mỉa mai mình. Nhưng ngài ta chỉ phác tay.

- Trẻ con thì nên vui vẻ. Chúng nó có biết tới những ngày này đâu.

Một lần nữa, chàng chớp mắt. Con chàng đang ở Gia Định. Hoàn toàn xa rời khu thành tanh mùi máu, nồng mùi thuốc súng này. Nó không biết, không hề biết.

Con chàng đang ở một Gia Định bình yên.

Chàng thở ra. Khối u uất vẫn không cách nào gỡ bỏ, nhưng chàng nghĩ mình đã tìm được cách chịu đựng nó. Chàng sẽ chịu đựng nó, một mình. Những gánh nặng này, chàng sẽ mang chúng một mình.

Tin giải vây thành báo về đến Gia Định cũng trong một buổi chiều mưa tầm tã. Lần này đích thân Vương hậu đến tận nhà báo cho Ngọc Du. Có vẻ như vừa nghe tin trong điện Đông cung, cô đã vội tới phủ công nương. Khi cởi áo tơi, chiếc áo mặc ngoài của Vương hậu chỉ như vừa mới từ Phật đường bước ra, lớp vải màu xanh lam nhạt đã hơi đổ lông. Cô cũng không trang điểm, chỉ gài trên tóc một chiếc trâm nhỏ. Nhiều năm nay Vương hậu đã ăn chay, Ngọc Du nghĩ khi nhìn người phụ nữ chỉ vừa trạc tuổi nàng. Lối sống ấy lại tạo cho cô một vẻ thanh trần thoát tục là lạ, cả trong nét mơ hồ lơ đãng của đôi mắt.

- Chị sao vậy? – Vương hậu nhìn nàng, hơi nhíu mày. Khi nghe tin báo giải vây cho Diên Khánh, nàng lại không hề lộ ra một xúc cảm nào, chỉ ngẩn người nhìn cô.

Nàng chớp mắt, quay sang cửa sổ đẫm mưa. Bóng chiều xanh xám hiu hắt thoảng qua trong làn nước đục mờ.

- Đã bao nhiêu năm rồi nhỉ? – Nàng chợt hỏi. – Nhanh qúa, mới đó mà sáu năm rồi.

Sáu năm với biết bao lần ra đi và trở lại. Sáu năm với bao lần ngóng đợi phập phồng. Thêm một lần nữa, một cuộc chia ly lâu thật lâu nữa, có khác gì chăng? Chàng vẫn còn sống, nàng chỉ cần biết như thế, nào có thể mong chờ điều gì khác?

Vương hậu nhìn nàng, rồi lại nhìn tay áo cầm ô ướt nước mưa. Vệt nước loang đến tận khủy tay. Nàng gọi cô hầu đưa vào phòng một lò sưởi nhỏ. Tuy những cơn mưa của phương Nam chỉ thoáng qua, nhưng nàng luôn giữ khí hậu trong phòng đủ ấm cho đứa trẻ. Vương hậu hơ tay áo lên lò than, quan sát những ánh lửa hồng lập lòe trên mảnh than đen cháy.

- Ngày xưa chị có học Kinh Thi không? – Vương hậu nói, khẽ khàng. – Ngày còn nhỏ, chẳng biết là bao nhiêu tuổi, đi ngang qua lớp học trong nhà, ta đã nghe một bài trong Đường phong thế này: “Đông chi dạ. Hạ chi nhật. Bách niên chi hậu. Quy vu kỳ cư.” Đêm mùa đông, ngày mùa hạ, trăm năm sau, cùng chung một mộ. Thầy đồ đã đọc phần chú giải rằng: Ngày mùa hạ dài, đêm mùa đông cũng dài, một mình mà sầu tư nên nỗi niềm càng thắm thiết. Ngày trở về của chồng không kỳ hạn, nhưng cũng còn có thể gặp được nhau. Phải chờ cho đến chết để ở bên nhau. Lúc ấy, ta lấy làm lạ, đã bảo rằng có thể gặp được nhau mà sao lại chờ cho đến chết để ở bên nhau?

Qủa nhiên, có những chuyện chỉ trải qua rồi mới hiểu được.

Bàn tay Vương hậu lùa vào tóc. Mái tóc chỉ cài hờ một cây trâm đã buông xuống trên vai một nửa. Cô có vẻ mệt mỏi. Trong ánh sáng mờ của chiều hôm và bếp lửa, nàng loáng thoáng thấy trong mái tóc cô có màu bạc, khẽ giật mình.

- Cùng chung một mộ. Có nghĩa gì chứ? – Lẩm nhẩm, người phụ nữ trước mặt nàng nhìn ra ngoài màn mưa, vẫn chống tay tựa vào giường. – “Đó là lời của người phụ nữ chuyên nhất, ân tình chung tận”, đúng là đàn ông chú giải Kinh Thi mới có thể nói ra những lời ấy.

Ngọc Du vẫn không lên tiếng. Từ lâu trong cung nàng đã nghe lời đồn đại về cuộc sống của vợ chồng người em trai. Nhị phi đã sinh công tử thứ hai, trong khi Vương hậu chỉ chuyên tâm cầu kinh khấn Phật. Tuổi Vương hậu vẫn chưa già nhưng dường như lửa lòng người thiếu phụ này đã tắt từ lâu. Phúc Cảnh càng lớn, sự quan tâm của Vương hậu càng dồn hết cho người con trai, chẳng còn để ý điều gì khác, ngay cả chồng mình. Nàng đã nghe nhiều mà chưa bao giờ thật sự để tâm vì qúa quen với những kiểu phỏng đoán chuyện trong cung nội của người ngoài. Bây giờ, nhìn thiếu phụ có khí sắc rất lạ này, nàng lờ mờ nhận ra cảm giác của mình đến từ đâu. Phải, bề ngoài thì cô trông thanh trần thoát tục, nhưng lại không có vẻ của người tu hành. Có cái gì đó dường như vẫn níu kéo cô lại với sự sống, cuộc sống.

- Phải, chỉ có đàn ông mới nghĩ thế. – Nàng cười, một lúc sau. – Họ thì làm sao hiểu được cơ chứ.

Vương hậu đưa mắt về phía nàng. Ngọc Du tựa vai vào thành giường, mỉm cười. Ồ, nàng dám cá bằng tất cả số gia sản mà mình có rằng khi có việc gì cần quyết định, nàng sẽ là điều cuối cùng chàng nghĩ tới. Không phải chàng không yêu thương nàng, chàng thậm chí có thể chết vì nàng. Nhưng chỉ giản đơn là như thế, con người ngốc nghếch ấy! Con người ấy vốn chẳng nghĩ nhiều cho cảm xúc của người khác, rồi liên tục gây ra rắc rối cho bản thân.

Ngày mùa hạ, đêm mùa đông, quãng thời gian kéo dài, dài ra mãi. Có những điều đã chết đi, lần lượt, vĩnh viễn, vô cùng. Rồi họ sẽ đem tất cả vùi chôn cùng mình xuống huyệt mộ. Tình yêu, hy vọng, trông chờ. Trăm năm, ngàn năm, tất cả có là gì so với những ngày đã qua trong cuộc đời họ?

Vương hậu nhấp môi ly rượu nàng mời rồi đặt xuống. Nàng lại rót cho mình một ly khác, uống cạn trước ánh mắt người khách. Từ lâu nàng đã không để tâm nữa. Vương hậu còn có người con trai lớn để chăm sóc, bảo ban, nàng chỉ có hai đứa con nhỏ để suốt ngày bận rộn, rồi đêm về lại ngẩn ngơ ngồi khêu đèn một mình trong tiếng thở khe khẽ của chúng. Nàng lại trở về với thói quen uống rượu, không biết từ bao giờ. Bình rượu trong góc phòng lại được nàng lôi ra. Những bình rượu mới được ủ, được nàng đong đếm từng bát gạo, chén nước.

Vương hậu nhướng mắt. Không chỉ uống rượu, dù ở nhà một mình, nàng vẫn trang điểm, một thói quen mà nàng không có khi còn trẻ. Sau khi lấy chồng, nàng đã học thói quen điểm trang, và rồi không hề tiết giảm ngay cả khi chỉ ở một mình. Không còn những vất vả thời niên thiếu, nàng lại trông có vẻ trẻ ra. Nhưng vẻ đẹp này cũng phảng phất ngầm biểu lộ một sự chống đối, một sự bất cần, có thể. Đã ở bên gia đình này lâu đủ để hiểu tính tình từng người, cô biết rằng Ngọc Du không an phận, trầm tư như Ngọc Tú. Trong sáu năm qua, nàng ở nhà làm một người vợ, người mẹ tốt, nhưng ánh mắt ngày càng sâu lại, ẩn chứa một sự xáo động ngày càng chênh chao hơn. Có sự bất mãn ngấm ngầm, có cả sự chán chường. Trong ánh lửa hợp cùng bóng chiều tà bây giờ, nàng trông như thể chỉ cần chạm vào là biến đổi. Biến đổi, đôi mắt dưới hàng mi kia, đôi môi nhếch nhẹ kiêu kỳ, bàn tay trắng xanh. Biến đổi, tất cả cuộc sống xung quanh nàng.

Vì điều gì, cô tự hỏi, rồi cũng nghĩ rằng mình biết.

- Có lẽ họ sẽ về trước Trung thu. – Vương hậu xoay chiếc ly trong tay, nhẹ nhàng nói. Ngọc Du lại rót cho mình một ly rượu khác, hơi nghiêng đầu nhìn màn mưa sầm sập.

Sen trong hồ vẫn chưa tàn. Hoa dạ lý lại tiếp tục tỏa hương. Cúc đã bung nở trong những khoảng sân nhỏ. Lúa vàng đồng và rơm êm êm trên những lối đi xuyên qua hàng tre dày.

Mùa lại mùa đi qua, năm rồi năm đi qua. Mùa này năm trước nàng đã hâm lại bình rượu chờ đợi, rồi lặng lẽ cất vào. Mùa này năm trước, nàng nghe tiếng ve kêu ran suốt những ngày đêm dài rồi lụi tắt. Như một trò đùa, những khi nàng cần chàng bên cạnh, chàng không bao giờ có mặt. Đáng tiếc, đó chẳng phải lỗi của chàng, hay ít ra đó là điều nàng nên nhắc mình. Nàng lại không phải là một cô gái độ lượng, chưa từng. Nàng không đủ bao dung và cao cả đến mức cổ vũ cho chàng đi bất cứ đâu, để không cảm thấy thương cho bản thân mình. Thế mà đó rốt cuộc vẫn là cuộc đời nàng đã chọn. Cuối cùng, nàng thừa nhận, đó là cuộc đời nàng đã chọn.

- Về được thì tốt. – Lời nói của nàng hững hờ.

Khi Vương hậu ra về, mưa đã ngớt và đêm đã buông. Đi theo tiễn Vương hậu một đoạn xa, nàng mới chia tay. Ngần ngừ một thoáng, nàng lại rẽ về phía khu chợ bên dòng sông, định mua vài món qùa cho con gái. Khi màn đêm xuống, trong chợ chỉ còn người Đường và Tây dương. Bảo cô hầu vào một quán ăn Tàu gọi phần bánh hấp, nàng khoanh tay đứng trước cửa quán chờ đợi. Gió từ cơn mưa hồi chiều vẫn âm ẩm lạnh, len vào hai tay áo nàng.

Con đường tràn ánh sáng dài trải trước mắt nàng ra tận bến cảng. Sáu năm, sáu năm dài họ đã biến Sài Côn tịch mịch hoang tàn thành nơi phồn hoa đô hội này. Nàng chớp mắt, trong một thoáng có vẻ ngỡ ngàng. Sáu năm, từ một nơi đồng hoang cỏ mọc, nhà xiêu khói tán, một đô thị mới đã mọc lên, đủ các con đường thiên lý, các chợ búa huyên náo, hội quán dập dìu. Sáu năm, Gia Định manh mún, phân tán, hoang liêu đã đông đúc gấp hai, gấp ba lần thưở trước. Dường như không còn thấy bóng dáng của những trận chiến khốc liệt, những cuộc giết chóc say cuồng đâu nữa.

Tất cả tưởng như đã trôi đi cùng dòng sông. Dưới bóng ngôi thành trầm mặc, dòng sông lặng lẽ chảy, chảy qua những con thuyền neo đậu, chảy qua những khu chợ sáng ánh đèn, chảy qua bóng tối dưới các lùm cây.

Đây có phải là ước vọng của họ? Ngẩng đầu nhìn quanh, nàng nghĩ. Đây có phải là điều mà họ đã ước mơ, đã muốn tạo thành? Đây có phải là điều mà họ muốn bảo vệ? Đây có phải là điều đã khiến họ ra đi?

Tại sao đứng nơi đây nàng lại cảm thấy cô đơn đến thế?

Qủa là khi Võ Tánh trở về Gia Định, tết Trung Thu vẫn chưa đến. Đoàn thuyền thả họ xuống bến sông trong một ngày âm u mây xám. Những chiếc cáng đưa bệnh binh, thương binh xuống trước, đi qua con đường tụ tập rất đông người. Thân nhân của những tướng lĩnh thủ thành Diên Khánh đã đổ dồn về Sài Côn chờ đợi từ khi nghe tin đoàn quân trở về. Đứng trước cửa thành, Ngọc Du chờ đợi, và Võ Tánh chỉ xuất hiện khi đám đông đã tan dần. Vẫn còn rất đông người đứng lại, dõi mắt kiếm tìm. Chàng đi qua họ, không nhìn vào mắt họ, không nhìn ai. Thậm chí chàng đã đi qua nàng mà không nhận ra cho đến khi nghe tiếng gọi.

Dáng bộ của chàng đã khiến nàng giật mình. Làn da tái mét, xanh xám lại trên dáng hình gầy guộc, đôi mắt sâu tối. Chỉ một năm ngắn ngủi mà hầu như đã rút đi hết sự sống của chàng. Ngay cả ánh lửa trong mắt chàng, trong nụ cười cũng không còn. Chàng quay nhìn nàng, ánh vui mừng chỉ thoáng qua, để lại nụ cười mệt mỏi trên gương mặt. Trên đường về, chàng tựa đầu vào vai nàng, không lên tiếng, chỉ nhắm mắt như ngủ say. Chàng nhẹ bỗng trên vai nàng, nhận biết ấy làm tim nàng thắt lại.

Vậy mà Phúc Cảnh không hề nói cho nàng biết rằng chàng đã bị bệnh. Cả đoàn quân đã bệnh. Họ trở về mà không hề có phong thái của một đoàn người chiến thắng. Nàng đã thấy họ đi qua trước mặt, những con người tím tái, khô kiệt, tàn úa, u uất in hằn lên từng đường nét trên khuôn mặt. Họ đi qua trước nàng, những bước chân lảo đảo, nhiều người phải dựa vào nhau mà bước. Họ đi qua trước nàng, vẻ trầm lặng chịu đựng cằn cỗi của những gốc cây cháy nắng. Chàng đi cuối bọn họ, và vừa rời khỏi đám đông, rời khỏi ánh mắt con người, đã gục đầu vào vai nàng trong chiếc xe ngựa.

Vậy mà nàng không biết, chưa từng biết.

Nàng ôm lấy vai chàng trong xe, vỗ nhè nhẹ. Khi đến cửa nhà, nàng gọi thêm người đỡ chàng xuống. Vẫn ở trạng thái nửa thức nửa ngủ, chàng để nàng cởi áo, lau mặt rồi nằm vật xuống giường. Con bé Hồi chạy ra đón cha nó, xanh mặt trước bộ dạng của chàng. Nàng ra hiệu cho nó im lặng bế em ra ngoài. Khi đã đắp chăn cho chàng, dọn dẹp xong xuôi, nàng mới nhận ra con bé vẫn còn thập thò ở cửa.

- Vào đây. – Nàng khẽ khàng gọi nó. Con bé nhón chân vào phòng, chạm tay vào cánh tay cha nó rồi rụt lại rất nhanh, như thể phải bỏng. Nàng định vuốt tóc con bé, chợt nhận thấy mắt nó đã ầng ậng nước.

- Ba không sao chứ? – Nó hỏi, giọng nói nén lại như bị ngạt. Nàng thở ra.

- Ba con chỉ mệt thôi. Đi đường xa qúa, để ba nghỉ một lát rồi dậy.

- Ba trông giống như… - Con bé ngập ngừng. Trong căn phòng tối, gương mặt tái xám của chàng trông càng như một khúc gỗ mục. Cái chết của Tống Phúc Đạm năm trước vẫn còn ám ảnh người trong triều, cả con bé cũng biết khi vào chơi với những công tử. Giờ đây, ánh mắt nó đầy sợ hãi.

- Ba chỉ mệt thôi. – Nàng nhắc lại. Nhưng giờ thì chính nàng cũng không tin chắc vào những gì mình nói. Con bé ngước mắt nhìn nàng, rồi leo lên giường ngồi cạnh cha nó. Đến đêm, nàng giục mãi, nó mới chịu đi ngủ. Chàng từ đầu đến cuối vẫn tịnh không hay biết, chỉ nằm thở khe khẽ. Hâm lại một chén cháo, nàng đến lay chàng dậy. Phải mấy lần, đến lúc nàng đã định cạy miệng chàng đổ cháo vào, chàng mới lơ mơ mở mắt.

- Cố dậy ăn một chút đã. Ngủ cũng quan trọng, nhưng phải ăn mới được. – Nàng dịu dàng nhắc. Chàng chớp mắt vài lần rồi chống tay ngồi dậy tựa vào thành giường. Nàng múc từng muỗng cháo, thổi nguội rồi đút cho chàng. Ăn xong, chàng vẫn ngồi, nhìn nàng đứng dậy cất chén, rót nước đem lại.

- Tắm không? – Nàng hỏi. Nghĩ ngợi một lát, chàng gật đầu. Nàng định ra khỏi phòng gọi người, nhưng chàng đã giữ tay nàng lại.

- Đỡ ta ra giếng là được rồi. – Chàng nói. Nàng nhướng mày rồi ghé vai cho chàng tựa. Chàng vẫn có thể bước đi hầu như bình thường, chỉ đôi lần lỡ nhịp lảo đảo. Cơn sa mù buổi sáng đã tan, trăng gần đến ngày rằm sáng vằng vặc trên bầu trời. Nàng để chàng ngồi xuống bên giếng, lấy tấm màn tre quây lại rồi chuẩn bị khăn chậu. Khi nàng ngẩng lên, chàng vẫn đang nhìn nàng. Dưới mi mắt chàng là bóng tối chênh chao. Nàng nghĩ mình không thể hiểu nổi ánh mắt chàng trong khoảnh khắc ấy.

- Thằng bé… khỏe chứ? – Chàng ngập ngừng. Nàng vuốt lọn tóc rơi xuống mắt, chợt nhớ ra chàng vẫn chưa gặp con trai. Nàng sợ thằng bé khóc kinh động đến cha nó nên đã cho vú nuôi đưa sang phòng khác.

- Nó ngoan lắm. – Nàng mỉm cười, cởi áo cho chàng. Thân hình chàng khiến nàng thầm kinh hãi. Lớp da khô mốc, rạn nứt nhiều chỗ, bao bọc tấm thân hầu như chỉ còn da bọc xương. Nàng mím môi tháo khăn buộc tóc cho chàng, thấy cả tóc chàng cũng rụng, khô xác trong tay nàng. Nàng cởi áo ngoài, lặng lẽ múc từng gáo nước đổ lên người chàng, dùng khăn lau sạch. Không khí bức bối của cuối mùa mưa đổ xuống họ trong ánh trăng dày. Tỉ mẩn, nàng tắm cho chàng như cho một đứa trẻ. Đến lượt lau người lại thứ ba, nàng mới tạm hài lòng khi lớp khô mốc trên da đã gần hết. Tóc chàng cũng đã mềm lại trong nước, dài đến qúa ngang lưng. Lấy khăn khô lau sạch nước cho chàng, nàng buột miệng lẩm bẩm.

- Mai phải lấy lá xông rồi cắt tóc đi thôi. Người đã lớn mà sao lại chẳng biết chăm sóc cho bản thân thế này?

Chàng nghe nàng nói, môi mỉm thành một nụ cười. Nàng không biết về khu thành ấy, vùng đất khô hạn và kiệt cùng, nơi họ phải cố mà sống từng ngày. Nàng không biết về những khốn khổ mà chàng đã phải chịu. Nàng đã quen thấy chàng khắp người đầy bùn lầy, đất cát. Nàng đã quen tắm cho chàng mỗi lần trở lại, và lần nào nàng cũng không tránh khỏi mà kêu ca về từng lớp đất dày đóng lên thân thể chàng, về mái tóc, khuôn mặt không hề được chăm chút. Bàn tay nàng êm và nhẹ trên làn da chàng, xóa tan đi những mệt mỏi, u uất. Hương thơm từ nàng dịu nhẹ khi nàng cầm áo khoác vòng qua vai chàng. Thắt xong dải dây lưng, nàng ngẩng đầu nhìn, vuốt tay lên mặt chàng.

- Lạ nhỉ, lần này lại biết cạo râu trước khi về. – Nàng vừa nói vừa cười.

- Ta nghe nói có trẻ con nên không muốn làm chúng sợ. – Chàng cũng bắt chước giọng đùa cợt của nàng. Ánh trăng xao động trong mắt nàng.

- Người lớn cũng sợ chết khiếp đi được. – Nàng nói, lặng lẽ.

Chàng lại lặng im. Tựa vào vai nàng, chàng đứng dậy, bước về phòng. Thoáng có ý nghĩ muốn gặp đứa con trai, nhưng lại không muốn quấy rầy giấc ngủ của nó, chàng ngần ngừ đứng lại ngoài hành lang. Thuận tay, chàng ôm lấy nàng, tựa lưng vào cây cột chống.

Nàng nghe tiếng chàng thở khẽ, cằm cử động như muốn nói điều gì đó, nhưng cuối cùng chàng lại không lên tiếng.

Gia Định, chàng nghĩ trong tâm trí vẫn chênh chao như khi ở trên chiếc thuyền đi trên biển. Trong thuyền, chàng đã ngủ vùi, đã cố ăn uống tất cả những gì mà thầy thuốc đưa tới để phục hồi sức khỏe một cách nhanh nhất, nhưng rốt cuộc, chàng không lại nổi với sự suy kiệt từ tận cao hoang này. Sức khỏe có thể đã khá hơn, nhưng vết thương trong lòng chàng lại càng loét sâu thêm, không có cách nào cứu chữa. Chàng thấy đau đớn, đau đớn như khi ở trên tường thành nhìn xuống hoàng hôn buổi ấy. Như khi nghĩ về đứa con trai mà mình vẫn chưa biết mặt. Như khi nghĩ về sự sống và cái chết vốn chỉ thoáng qua như ngọn lửa, thiêu cháy rồi lụi tắt. Như khi nghĩ về những giấc mơ sẽ trở thành không thực vĩnh viễn tự bây giờ.

Chàng đã từng mơ ước được trở lại, đưa nàng đi. Cùng nhau, cùng những đứa trẻ, họ sẽ xây một ngôi nhà giữa cánh đồng, sống cuộc đời bình yên không vướng bận. Khi chiến tranh kết thúc, khi chiến tranh kết thúc, chàng đã luôn nhắc nhở mình. Nhưng rồi giờ đây chàng biết mình không bao giờ thực hiện được. Cuộc chiến ấy không bao giờ kết thúc, với chàng. Không bao giờ kết thúc, món nợ mà họ đã mang, con đường mà họ đã chọn, cho dù có kết thúc cả cuộc sống này.

Trong cái chớp mắt giữa màn đêm rực màu lửa ấy, chàng đã chợt nhận ra sức nặng của tất cả những tháng năm qua đè xuống mình. Những mảnh vụn đến lúc tích tụ rồi rơi xuống, thành một cơn lũ. Những cay đắng và mất mát, vô hình hay hữu hình, lặng im hay gào thét, đã tượng thành trong những cái bóng nhảy múa giữa màn lửa, trên nền lửa.

Chàng muốn kể cho nàng nghe về trận chiến đầu tiên ở Ba Giồng, trận chiến trong đầm lầy gò Tre, rồi trên những dòng sông, cánh rừng phương Nam đan nhau chằng chịt. Chàng muốn kể cho nàng nghe những nông nổi và mải mê thưở ấy, những ước mơ mà chàng đã có, đã nắm trong tay. Chàng muốn nói về những cảm xúc hỗn loạn bây giờ, như thể một người vừa chợt tỉnh khỏi cơn mơ. Cơn ác mộng của bắn giết và tính toán, của sự sống chập chờn trên lửa, của sinh mệnh mong manh đến tuyệt cùng.

Nàng ấm áp trong tay chàng. Trong khu vườn, những loài hoa đêm lặng lẽ xòe cánh, tỏa hương đằm đằm ngan ngát, đàn dế ca hát trong bóng tối. Khung cảnh vẫn bình yên đến hầu như là không thực. Dường chỉ cần mở mắt, tất cả sẽ tan biến. Sinh mệnh vốn mong manh như vậy, sinh mệnh vốn phù du như vậy. Trong thời tuổi trẻ bừng bừng hoài bão, chàng đã tưởng mình có thể chống lại cả trời, có thể chinh phục cả đất. Hóa ra, tất cả mọi điều đều có cái giá của nó. Tất cả đều có cái giá của nó.

- Đi nghỉ đi. – Bàn tay nàng vỗ nhẹ lên lưng chàng, giọng nói như dỗ dành. – Khỏe rồi thì hôm nào ta uống rượu.

Câu sau đó, nàng nói với một tiếng cười hay là thở dài. Chàng gật đầu, loạng choạng mở cửa phòng, nằm xuống chăn chiếu đã lạnh. Nàng tháo trâm cài, nằm bên chàng. Những ngón tay nàng đan vào tay chàng. Khi chàng nhắm mắt, nàng vẫn tựa cằm lên ngực chàng, nhìn chàng cho đến lúc ngọn đèn cạn dầu lụi tắt.

Mắt nàng vẫn dõi vào bóng tối, bóng tối bập bềnh như hơi thở.

38

Tết Trung thu năm nay đến Sài Côn trong vẻ vừa rộn ràng vừa lạnh lẽo là lạ. Chúa Nguyễn đã cho tướng lãnh đưa quân về sớm hơn lệ thường, và cùng với những người còn sống, các tin báo tử cũng được đưa về. Vị chúa vẫn còn ở lại thành Diên Khánh, trong cung điện chỉ có tiệc nhỏ do Đông cung Phúc Cảnh mở mời các quan. Cáo bệnh, Võ Tánh ở lại nhà. Từ sáng, con bé Hồi đã lôi về một mớ tre và giấy bóng, kéo tay cha nó cùng làm đèn Trung thu. Thằng bé cũng lẫm chẫm bò ra nhìn, đôi lần vục tay vào đống giấy hay hồ dán để con chị phải vội vàng hất tay nó đi. Ngồi dựa vào tường, chàng vừa vót tre vừa nói chuyện. Thỉnh thoảng, quan trong triều lại tới thăm chàng. Trịnh Hoài Đức thậm chí còn đi cùng với vị quan phương Bắc Đặng Trần Thường. Chàng mới chỉ gặp anh ta thoáng qua năm trước, khi Nguyễn Đình Đắc trở về vừa đúng vào lúc chúa Nguyễn định giải cứu cho Cảnh.

- Anh ấy là dòng dõi của nhà Trần. – Trịnh Hoài Đức tươi cười giới thiệu trong khi Đặng Trần Thường vẫn chỉ im lặng. – Sau khi họ Hồ chiếm ngôi, rồi qua mấy lần chính biến, họ Trần mới đổi thành họ Đặng. Tiếng là quan văn nhưng Đặng Tham tri cũng rất giỏi binh pháp.

- Vậy là cũng giống như cậu Trần Đại Luật của ta. – Võ Tánh cười nhìn Trịnh Hoài Đức, thấy cậu ta nhún vai. Trần Đại Luật là con của Ký lục dinh Vĩnh Trấn, cùng làm Hàn lâm Chế cáo với viên quan họ Trịnh. Một lần nói chuyện với các quan võ, bị chê văn quan nhút nhát, không nói chuyện chiến trận được, Trần Đại Luật tức mà trở về nói với viện Hàn lâm. Trịnh Hoài Đức cười nói “Ngươi giỏi thì ngươi làm đi”, vậy là viên quan họ Trần liền xin đổi qua làm quan võ, được chuyển vào Thuộc nội Cai đội. Từ một câu khích mà quan văn lại biến thành quan võ, cậu chuyện đã trở thành truyền kỳ trong triều, mà Trịnh Hoài Đức cũng trở thành “nhân vật phụ chính”.

- Cậu ta nói, Ban Định Viễn ngày xưa ném bút phong hầu cũng đâu phải là quan võ. Luật từng sang Xiêm La, lăn lộn ở ngoài hải đảo lẫn Gia Định, tất nhiên khí chất không như người thường. – Trịnh Hoài Đức chống tay lên bàn thở ra, nhìn chàng vẫn ngồi vót tre gần cửa. – Chẳng qua tài năng mỗi người mỗi khác, chúng ta có nhiều Nho tướng nhưng lại thiếu những mưu sĩ như Khổng Minh nên việc gì cũng đến tay chúa công. Nguyễn Văn Thành thì giỏi nhưng lại qúa sức ngang ngạnh, vừa rồi chúa công phải giam anh ta lại cả gần hai tháng.

- Có chuyện gì thế? – Chàng ngẩng lên. Trong cả năm ở Diên Khánh, chàng không hề hay biết sự việc trong Gia Định. Trịnh Hoài Đức nhìn Đặng Trần Thường rồi nhún vai.

- Lại liên quan đến Bá Đa Lộc. Tống Phúc Đạm từ Diên Khánh về bệnh mất, trước khi chết lại xin được rửa tội. Lần chần mãi ở ngoài nên ông ấy mới không về Gia Định kịp, có thảm cảnh ấy. Trong ngoài triều ai thấy thế cũng lo, sợ Bá Đa Lộc cứ ở gần rồi quyến dụ Đông cung theo thói cũ. Các quan liền họp lại xin tách Bá Đa Lộc khỏi Đông cung, có người hăng máu xin chém cả ông ta. Thế là chúa công một mặt thì để Bá Đa Lộc ở ngoài, lúc hai tướng Nguyễn Văn Thành với Huỳnh Đức thua trận liền tống giam luôn họ vào ngục, cách chức. Sau đó Bá Đa Lộc thấy thế trận nguy cấp liền xin thả họ ra, phục chức cho.

À, chàng nhìn thái độ bất mãn của hai vị văn quan. Từ lâu chàng đã biết trong triều có nhiều người không ưa thích Tây dương lẫn Gia-tô giáo, nhưng xin chém Bá Đa Lộc thì qủa là bây giờ sự tức giận ấy mới bộc lộ qua cái chết của Tống Phúc Đạm. Chàng cũng chợt hiểu ra tại sao chúa Nguyễn phải đích thân cất quân đến tận Phú Yên khi gió vẫn còn đang thổi ngược. Vị chúa không còn tin tưởng, nhờ cậy được vị tướng nào của mình nữa. Sự rạn nứt trong triều đình đã lộ diện, và nếu không khéo léo, tất cả sẽ vỡ toác.

- Gọi một người Tây dương là thầy thì lạ thật. – Đặng Trần Thường đến lúc ấy mới lên tiếng. – Đông cung học được gì ở ông ta?

Võ Tánh không trả lời. Cái chức Thượng sư tưởng chừng hữu danh vô thực của Bá Đa Lộc hóa ra lại là nghiêm túc. Đi theo Đông cung ở mọi nơi, kể cả thành Diên Khánh, coi sóc toàn bộ Cục Chế tạo, Bá Đa Lộc đã dịch rất nhiều sách vở Tây dương ra tiếng Việt cho cả hai cha con vị chúa. Nhưng chàng không muốn tranh cãi với hai vị quan bây giờ về sự cần thiết hay không cần thiết của một giám mục trong triều đình. Có cởi mở đến mấy, ai cũng phải gai mắt với các giáo sĩ lẵng nhẵng bám theo quân đến khắp mọi nơi. Từ cái năm nào dân chúng nổi loạn ngay trong lúc xây thành, thái độ của vị chúa đã bị đặt thành nghi vấn. Tin tức từ Phú Lang Sa quê hương Bá Đa Lộc lại càng làm tình hình trở nên tồi tệ.

- Lúc trước vua chúa anh chẳng lấy một phụ nữ Tây dương là gì? – Trịnh Hoài Đức chợt cười. – Các anh lại chẳng phải gọi một bà Tây dương là phu nhân đấy à?

- May mà ông ta không còn nữa. – Đặng Trần Thường cũng không vừa, trả lời ngay. Câu nói khiến cả Võ Tánh lẫn Trịnh Hoài Đức hơi nhướng mày.

Từ lâu họ đã quen nghĩ các thần tử ở Bắc Hà vốn trung thành với vua Lê, ngay cả những người vào Nam bây giờ. Hai năm trước, ngay sau khi Nguyễn Huệ mất, hoàng thân Lê Duy Vạn đã gửi người đi đường Vạn Tượng vào Nam liên lạc với chúa Nguyễn, rồi người đó lại lạc sang Xiêm La khiến vị chúa phải cử sứ thần đón về. Từ lâu vị chúa đã có ý định liên lạc với Bắc Hà, nhưng họ chưa từng nghĩ về điều gì sâu xa hơn một sự kết liên đồng minh để đánh bại kẻ thù chung. Nay nghe trong lời Đặng Trần Thường một sự bực bội pha lẫn khinh miệt khi nói về nhà vua của chính mình, họ không nói ra mà thầm kinh ngạc.

Trịnh Hoài Đức đưa mắt cho chàng rồi nói sang chuyện khác. Sau vài câu chuyện, Đặng Trần Thường cáo từ ra về, Trịnh Hoài Đức mới sà xuống bên hai cha con chàng đang làm lồng đèn mà cười.

- Chúa công bảo hướng dẫn cho anh ta làm quen với mọi người, nhưng mà ở bên một người như thế thì bao giờ cũng căng thẳng. – Khoanh chân ngồi xuống, ôm lấy chiếc lồng đèn đang làm dở, Trịnh Hoài Đức nhẹ nhõm nói. – Họ Đặng nghe đâu là danh gia vọng tộc Bắc Hà, anh ta cũng trịnh trọng kiêu bạc lắm, làm người bên cạnh phải trịnh trọng theo.

- Đó là hậu nhân nhà Trần thật à? – Chàng hỏi. Trịnh Hoài Đức vuốt hồ lên nan tre, gục gặc đầu.

- Ở Bắc Hà có câu “Làm quan họ Đặng”, nghe Nguyễn Đình Đắc nói là thế. Họ Đặng ở Lương Xá cùng họ Nguyễn ở Tiên Điền, họ Nguyễn Gia ở Liễu Ngạn, họ Nguyễn Đình ở Phù Ninh đều là danh gia vọng tộc lâu đời. Cha Đặng Tham tri là Xuyền Thái Bá, mẹ là con quan Thượng thư, nhưng chẳng may cha mẹ mất sớm, nhà cửa sa sút nên dù thi đậu Tam trường năm 16 tuổi rồi mà đường học hành vẫn bị đứt đoạn, Đặng Tham tri lang bạt nhiều nơi kết giao huynh đệ, chuyển sang nghiệp võ. Chí hướng của anh ta là tìm một đấng minh quân để làm nên nghiệp lớn.

- Phải minh quân mới được à? – Võ Tánh cười hỏi. Trịnh Hoài Đức vẫn cắm cúi xoay trục đèn để dán giấy, không ngẩng lên.

- Lúc trước anh ta theo hoàng thân nhà Lê một thời gian rồi thất vọng. Kể riêng với tôi, anh ta bảo cũng đã từng tìm đến thuộc hạ của Nguyễn Huệ là Ngô Thì Nhậm để dò xét thế nào. Rốt cuộc, Ngô Thì Nhậm nhìn người bằng nửa con mắt, khinh khỉnh nói “Kẻ biết thời thế mới làm nên nghiệp lớn, dạng thất phu cố chấp chỉ biết mình thì làm được gì”, thế là anh ta phất tay áo bỏ đi, bảo phải giết kẻ đó cho bằng được. Ôi, nghe anh ta kể về giới sĩ phu Bắc Hà mới hay ho. Ngô Thì Nhậm trước vốn bị gọi là “Tứ phụ thị lang”, o bế Trịnh Cán cùng Quận Huy đến nỗi cha ông ta xấu hổ uống thuốc độc mà chết, rồi bị Trịnh Khải đuổi về quê. Tây Sơn đến, ông ta một bước lên tiên, rồi bây giờ Nguyễn Huệ vừa mất, ông ta từ một Thượng thư Hình bộ bị ném trả về chùa. Thời thế đảo lộn, kẻ sĩ chẳng còn chút phẩm cách nào để đáng gọi là kẻ sĩ. Nếu không theo đạo thánh hiền được để mà trung can tiết nghĩa thì cũng phải biết chọn chủ mà thờ, đâu ra loại sĩ phu đặt chữ “thời” lên trên hết mà còn dạy bảo người khác kiểu ấy?

Có một loại gọi là phường hương nguyện. Với kẻ cuồng giả - kẻ sĩ có chí tấn thủ trên đường đạo lý, không làm được cũng cố sức mà làm – thì chúng trách “Những ông ấy có chí cao nguyện lớn để làm gì?” Với kẻ quyến giả - kẻ sĩ giữ gìn khí tiết, không làm chuyện bất nghĩa – thì chúng chê “Mấy ông ấy làm gì mà ăn ở khác đời? Làm gì mà lãnh đạm với đời? Đã sinh ra và lớn lên trong đời này thì cứ làm việc đời này đi. Miễn được khen là tốt rồi.” Loại xu thời nịnh thế, gió thổi chiều nào theo chiều nấy, lấy thứ tiêu chuẩn của hiện tại rũ bỏ đạo lý mà dám còn có thể xưng là kẻ sĩ được à? Cái loại đặt chữ “thời” trên hết mà không biết tự xấu hổ, lấy đó làm hãnh diện để đi khinh rẻ kẻ khác, đúng là “Đạo chi tặc dã”, kẻ phá hoại đạo lý rồi. Kẻ sĩ tồn tại ở trên đời để nắm giữ lương tri, hướng đạo rèn đức cho người, làm gì có loại đạo lý nào là tuân theo thời thế, thuận theo kẻ mạnh, bất chấp luân thường?

Tử Lộ hỏi về chữ cường. Khổng Tử đáp: Cường theo kiểu phương Nam ư? Cường theo kiểu phương Bắc ư? Hay cường theo kiểu riêng ngươi? Khoan dung dịu dàng giáo huấn, không báo thù kẻ vô đạo, ấy là sự cường của người phương Nam, quân tử theo lối ấy. Làm bạn cùng gươm giáo, chết không sợ, đó là kiểu cường của người phương Bắc, kẻ cường giả theo lối này. Quân tử hòa mục với mọi người nhưng không buông tuồng theo thói tục, cường chân chính; trung lập mà không thiên lệch, cường chân chính. Nước có đạo vẫn không thay đổi tiết tháo lúc khốn khó, cường chân chính. Nước vô đạo thì thà chết chứ không đổi phẩm chất của mình, cường chân chính.

Đặng Tham tri tâm cao khí ngạo, coi đó là sỉ nhục lớn nhất nên bỏ tất cả vào đây.

- Vậy anh ta nếu thấy không thỏa mãn với chúa công thì cũng chẳng trung thành? – Chàng vẫn giữ giọng nửa đùa nửa thật. Trịnh Hoài Đức ngẩng lên, nụ cười phớt qua nửa miệng.

- Chúng ta lúc đầu cũng thế… - Cậu ta nháy mắt. – Nhưng Đặng Tham tri qủa thật rất ngông ngạo. Chúa công bảo anh ta là bậc anh kiệt của đất Bắc Hà, tôi thì bảo rằng dưới mắt anh ta, cả đất Bắc Hà cũng chẳng có ai, huống hồ là ở đây. Từ lâu vốn nghe người Bắc Hà sĩ diện, trọng danh, tâm cơ mà kèn cựa với nhau kinh khiếp, bây giờ mới thấy tận mắt. Hậu nhân của đời vua trước, con cháu danh thần của đời vua này, tính khí bất phục của anh ta thì hẳn nhiên rồi…

Nên Đặng Trần Thường mới nói như thế về tiên vương nhà Lê, Võ Tánh nghĩ thầm. Trong sự im lặng cuối câu của Trịnh Hoài Đức, chàng cũng mơ hồ nhận ra ẩn ý của viên quan này. Họ có thể đi cùng nhau một con đường, nhưng những người như họ Đặng không bao giờ phục tùng hoàn toàn triều đình của một vùng đất xa lạ, dù có là minh quân mà anh ta hằng tìm kiếm. Kể từ khi Nguyễn Đình Đắc xuất hiện năm năm trước, khoảng cách của họ và Bắc Hà đã dần gần lại trong những chuyến đi liên tục do vị chúa sai phái. Lê Duy Vạn rồi thống lĩnh đạo Thanh Hóa đã liên lạc với họ. Họ Lê đã suy vi hoàn toàn, khó còn có thể gượng dậy, Bắc Hà đang chờ đợi họ, sau những chiến thắng liên tục của vị chúa họ Nguyễn. Thậm chí, những người như Đặng Trần Thường đã không còn hy vọng ở triều đại cũ. Vị chúa đã cho các nhóm ở Bắc Hà tập trung lực lượng chờ đợi, họ sẽ tiến ra Bắc, đó là điều chắc chắn.

Tiêu diệt hoàn toàn. Năm xưa, chúa Nguyễn đã ban lời thệ giữa toàn quân, và họ sẽ đi đến cuối con đường của mình. Trong ánh mắt Trịnh Hoài Đức, trong khoảng trầm tư của anh ta, chàng cũng đã thấy sự ngẫm ngợi. Hơn hai trăm năm chia cách, vùng đất bên kia sông Gianh đang nhích lại gần họ, trong những con người vẫn đang kéo đến. Cái ý nghĩ thoáng qua năm xưa của chàng đang dần biến thành hiện thực.

Chàng vẫn nghĩ mãi về chuyện đó sau khi Trịnh Hoài Đức đã ra về. Ngọc Du đi ra, nhắc con bé để cho cha nó nghỉ. Buông cái lồng đèn đã làm xong xuống, chàng đi ra hàng hiên khi bóng chiều đã buông. Trăng sớm hiện lên mờ nhạt phía chân trời xanh thẫm. Ngoài kia, tiếng lao xao của đám trẻ rước đèn sớm đã rộn rã đầu làng. Hàng tre vẫn rì rào tiếng gió. Không khí thoang thoảng mùi cỏ rơm lẫn với hơi nước ngòn ngọt. Bầu trời trải ra trước mắt chàng, sau hàng hiên, sau rặng tre, sau những cành cây đong đưa tối lại, hút sâu. Đêm trăng tròn không còn ngôi sao nào tỏa sáng, chỉ có sao Hôm lấp lánh cuối trời.

Gió vẫn chưa đổi chiều, chàng thầm nhủ. Gió nồm vẫn thổi từ Nam ra Bắc. Vị chúa hẳn vẫn còn gấp gáp sửa lại thành trì tại Diên Khánh cho kịp lúc gió đổi chiều. Chỉ đi ngược về phương Bắc một quãng, họ lại trở về với một chiến trường còn chưa phai mùi thuốc súng. Chàng đã từ Gia Định đi đến Thuận Thành, rồi Phú Yên, Quy Nhơn. Con đường đến Phú Xuân vẫn còn dài và xa hơn thế, con đường đến Thăng Long vẫn vời vợi như là không thực.

Có tiếng cửa mở khi con bé Hồi ôm lồng đèn chạy vụt ra ngoài. Thằng bé khóc o e vài tiếng rồi im lặng. Ngọc Du bước đến cạnh chàng, đem theo một đĩa bánh đã cắt sẵn đặt xuống ghế. Chàng quay nhìn khi nàng ngồi xuống bên, đưa bánh vào tận tay chàng.

- Phú Xuân là một nơi thế nào? – Chàng chợt hỏi. Nàng nhướn mày rồi nghiêng đầu trông ra sân.

- Khi nóng thì rất là nóng, khi mưa thì mưa hàng tháng trời. Nóng hơn ở đây, lạnh cũng hơn ở đây.

Nàng chỉ nói như thế rồi im lặng. Chẳng có gì để nàng nói về vùng đất ấy, bây giờ. Quê hương của nàng, nơi nàng đã sinh ra, lớn lên. Vùng đất ghi dấu những ký ức đau buồn, những ảo vọng không còn tồn hiện. Tru gia. Diệt tộc. Mất nước. Vùng đất chứa đựng những gì họ đã mất. Là nơi mà họ ao ước muốn trở về rồi lại sợ phải đối diện với nó. Tru gia. Diệt tộc. Mất nước. Tất cả thảm cảnh của một đời người tưởng chỉ gói gọn trong vùng đất ấy. Nàng không muốn nói về nơi ấy nữa, bây giờ.

Chàng cũng không hỏi nữa. Nàng có vẻ như không thích nói về vùng đất cũ. Nàng luôn giữ một khoảng cách khi chàng muốn hỏi. Nàng không thích kể về những ngày tháng cũ. Chẳng có gì ở đó, nàng nói, một lúc nào đấy. Chẳng có gì ở đó, chỉ là sống trong một ngôi nhà rồi rời đi. Đến bây giờ chưa chắc còn nhớ được con đường trong thành, mọi thứ hẳn đều đã thay đổi cả rồi. Hơn hai mươi năm còn gì.

Hơn hai mươi năm, cuộc thương hải trầm luân của họ. Hơn hai trăm năm, cuộc ra đi của họ. Chàng nghĩ mình không thể hiểu được cảm giác của họ. Chàng thậm chí còn không biết quê hương thực sự của mình ở đâu. Trong một năm thủ thành, chàng nhớ Gia Định, nhớ những con người nơi ấy, nhưng hẳn là không phải nỗi nhớ của những người bị buộc phải rời bỏ quê hương. Nàng không bao giờ nói về nỗi nhớ của mình, như thể nàng chẳng có gì để nhớ tiếc. Không còn nữa, những gì khiến nàng nhớ tiếc và hy vọng trở về. Không còn nữa, tuổi thơ và những giấc mơ. Tất cả còn vương vấn trong ký ức nàng là những mảnh vụn mang màu mưa và ánh nắng lấp lánh xuyên qua tán cây dày, bàng bạc như một ngôi sao xa tít.

Vầng sao Hôm lóe lên một lần cuối rồi chìm vào trời đêm.

- Chúng ta vào ăn cơm thôi. – Nàng đập nhẹ vào vai chàng, đứng lên. Ngoảnh nhìn ra cửa, nàng lẩm bẩm. – Con bé ăn vội ăn vàng sớm để chạy đi chơi rồi.

Chẳng bù với hai năm trước, nó lúc nào cũng quấn lấy chân cha nó không rời, chàng nghĩ khi đứng dậy. Hơn một năm xa cách, chàng đã thấy ánh mắt lạ lẫm của nó khi gặp mình. Chàng biết bộ dạng của mình rất đáng sợ, nhưng không thể không có chút buồn phiền. Không cần nói đến thằng bé, nó giật nảy mình mà khóc khi được chàng ôm lấy. Dần dà, cả hai đứa trẻ cũng đã quen, nhưng con bé đã lớn lên, đã bắt đầu tìm tới thế giới bên ngoài.

Rồi chẳng mấy chốc, những đứa trẻ sẽ lớn lên.

Nàng sắp đũa cho chàng. Bàn ăn chỉ có hai người ngồi. Thằng bé đã ăn no ngửa bụng ngủ trong giường. Tiếng ca của bọn trẻ vang ngoài xa. Bên cạnh chén cơm, nàng cũng đã để sẵn một chén thuốc. Chàng bắt đầu thấy mình ngán ngẩm mùi vị của thuốc đắng.

- Uống hết rồi cắt bánh cho ăn. – Thấy ánh mắt chàng, nàng nói. Một lần nữa, chàng lại cảm thấy nàng dùng giọng điệu như thể với một đứa trẻ.

Đã bao lâu rồi, lần cuối họ ngồi cùng nhau như thế này? Chàng đã liên tục về muộn, liên tục vắng nhà. Bên nàng hẳn chỉ có đứa con gái, và thỉnh thoảng là những phu nhân đến chơi. Những tối như thế này, khi chàng không có nhà, khi con cái đã lớn lên, đã có những quan tâm, mải mê khác của riêng chúng, nàng hẳn chỉ còn một mình ngồi trước bàn ăn hiu quạnh. Nàng nói với chàng như thể dỗ dành một đứa trẻ, nàng tận tâm một cách mỏi mệt. Trong đêm, khi nghĩ chàng đã ngủ, nàng lại ngồi lên tựa vào thành giường, dõi mắt vào bóng tối bên kia cánh cửa sổ. Những cành cây rung động, lung lay, phất phơ, rì rào. Hoang mang, nàng đã từng nói. Luôn có chuyện để cảm thấy hoang mang. Và ngay cả nàng, nàng nữa, có một nơi nào đó trong nàng đã bị xói mòn, vết thương cứ thế loang ra, sâu mãi.

Chàng cắm cúi vào chén cơm, không ngẩng lên nhìn nàng. Nàng ăn lấy lệ, khi chàng buông đũa, nàng đã chuẩn bị đứng lên lấy nước.

- Tối nay ta ra ngoài đi. – Chàng nói khi nàng đã quay lưng lại. Nàng quay nhìn chàng, hơi cau mày. Chàng nhoẻn cười. – Chúa công phải cả tháng nữa mới về, ta cũng đã lâu lắm rồi mới về Gia Định. Ta cũng muốn đi xem phong cảnh một chút. Đã mấy năm rồi, ta chưa từng thấy Trung thu.

Nàng vuốt sợi tóc rơi bên tai, ngẫm nghĩ một chút rồi chầm chậm gật đầu. Dọn dẹp xong xuôi, nàng giao đứa bé cho nhũ mẫu, dặn dò cô hầu trông nom con bé cẩn thận rồi khoác áo đưa chàng ra ngoài. Lặng lẽ, họ đi dưới bóng của hàng tre được ánh trăng vằng vặc in dấu đen thẫm trên mặt đường đất. Từng vết đá sỏi cũng được ánh sáng bàng bạc khắc hằn lên. Đã có bóng mây thoảng bay qua bầu trời. Theo tiếng rì rầm của dòng nước, họ đến bên bờ sông bên làng. Ở phía miếu đình, tiếng trẻ con hát, tiếng trống đánh văng vẳng. Có cả tiếng chiêng từ một đoàn múa lân của người Tàu vừa đi qua, còn vẳng lại đôi thanh âm chung choeng rộn ràng.

Họ dừng lại bên sông, trên bậc thềm gỗ dẫn xuống dòng nước. Chiếc cọc gỗ đóng trên bờ đất vẫn còn lại một đoạn dây thừng. Sau lùm cây ruối rậm rạp, họ thấy thấp thoáng ánh lửa của nhà đò. Bóng cây ngả xuống dòng nước lăn tăn đen tuyền như mực loang, hòa cùng với vệt trăng sắc mỏng kéo dài liên tiếp trên các con sóng nhỏ.

Gió và nước cùng rì rầm, lung lao, lay chuyển. Tiếng chim bìm bịp văng vẳng đầu nguồn. Ánh trăng dệt nên trên mặt sông một làn sương ánh sáng trắng bạc, thi thoảng lại lóe lên lấp lánh như thể một con bướm dạ quang. Bên kia sông, những bóng cây im lìm đóng khung dòng nước, tạo thành vệt chia cách với bầu trời. Mây vẫn không ngừng tụ lại, biến chuyển, tan hòa.

- Cảnh tượng này thật giống như đêm hôm đó. – Chàng chợt lên tiếng. Nói lên điều mà họ cùng đang nghĩ.

Dòng sông và bậc thềm, chiếc cọc gỗ và bóng cây ngả xuống nước, vệt cong cong của nơi đầu nguồn nước chia đôi, ánh trăng và cơn gió. Dòng sông Long Hồ và bến đò bỏ hoang sau những năm chiến tranh. Họ cùng nghĩ về ngày tháng ấy, bây giờ. Những xôn xao của nỗi buồn sáng trong đau đớn. Những say mê run rẩy tưởng đã chạm tới được tận tâm can.

Nàng ngồi xuống bậc thềm, ngẩn ngơ nhìn ra mặt nước lấp lánh trăng nhưng nhức mắt. Nghe tiếng chàng ngồi xuống bên nàng. Nhưng chàng không chạm vào nàng, nàng cũng không quay lại.

Cái gì đã đi qua? Nàng thầm tự hỏi. Sau tất cả những năm tháng dài, sau những đứa trẻ, những tận tâm và cuộc sống đều đặn chậm rãi không nhiều biến đổi của một gia đình, cuối cùng họ còn lại được điều gì? Nàng đã mơ ước gì trong đêm ấy? Nàng đã từng mơ ước gì khi lần đầu tiên chạm tới người thanh niên còn mang trên mình mùi khói từ trận chiến vừa tan? Những ước mơ mà nàng biết rằng cả đời mình cũng chẳng bao giờ chạm tới được.

Rồi cũng đã đi qua, những ưu phiền và sầu muộn của tuổi thanh xuân. Thanh xuân đã đi qua như chưa từng có bao giờ. Những lựa chọn và quyết định mà đến tận bây giờ nàng vẫn không biết là nên hay không nên, phải hay không phải. Định mệnh đã kéo họ lại bên nhau, hai cuộc đời méo mó, thiếu hụt nằm lại bên nhau. Và họ tiếp tục cuộc đời của mình bằng cách bỏ qua các giấc mơ, bằng cách tiếp tục các giấc mơ. Bằng cách gói ghém lại các vết thương, cất đi những gì muốn nói xuống tận đáy lòng. Cả cuộc đời, có khi là cả cuộc đời, họ cũng sẽ không thể cất lên thành tiếng điều mà mình muốn nói.

Rồi cũng đã đi qua, những đam mê. Cuối cùng, trong những tháng ngày cô đơn dài dằng dặc, nàng thừa nhận rằng mình đã gắn kết với chàng sâu sắc hơn nàng tưởng. Không chỉ đơn thuần là phụ thuộc, ngóng trông. Có lẽ mọi điều đã bắt đầu vào đêm ấy. Trái tim mong manh, run rẩy và sợ hãi của nàng đã tìm được một chỗ dựa. Một chỗ dựa cũng bất an, xáo động, không chắc chắn mà lý trí của nàng đã khuyên bảo nên lánh xa. Cái lý trí ấy đã bị tình thế bắt phải khuất phục, nhưng trái tim cũng chẳng còn có thể cất lại tiếng hát của nó bao giờ.

Trong đêm, dòng sông rì rào. Dưới muôn trùng con sóng, nàng nghĩ đến cõi thẳm sâu của dòng nước và dưới đó, dưới nữa, mặt đất dưới lòng sông. Nàng nghĩ tới phía bên kia bầu trời, sau lưng các đám mây và mặt trăng, mặt trời, cõi thinh không vô cùng vô tận sau lưng ánh sáng. Nàng nghĩ tới những điều có thực và không thực. Mặt đất cùng bầu trời trải ra xa, xa mãi. Dòng sông cứ chảy trôi, cứ đổi thay trong luồng ánh sáng lung lay biến ảo. Nàng vừa thấy mình như tan ra cùng ánh sáng, vừa cảm thấy mệt mỏi đến mức chỉ muốn ôm lấy mình mà khóc lên.

Nàng nghĩ tới Ngọc Tuyền, đứa em bạc mệnh mà thân xác đã trôi theo, hòa tan vào trong nước. Đứa em gái cùng dòng máu, cùng ký ức. Đứa em mà đôi lần nàng vẫn thấy bóng hình trong đêm, lặng lẽ đứng trong đêm. Mảnh đất phương Nam với những dòng sông đan nhau chằng chịt, em gái nàng cũng đã trở thành một phần máu thịt của nơi này. Máu của họ Nguyễn đã thấm đỏ mảnh đất phương Nam.

Máu đã chảy trôi theo dòng nước. Máu đã chảy xuôi theo dòng nước. Để lại cho họ một mảnh đất muôn thưở hiền hòa dưới ánh trăng, muôn thưở lặng yên dưới ánh trăng. Kể cả cuộc đời của nàng, của họ, của chàng, rốt cuộc cũng sẽ chỉ là một mảnh vụn nằm trong đất, dưới lòng sông. Kể cả cuộc đời đầy những khát khao của nàng, cuộc đời đầy xao động của chàng, rốt cuộc tất cả những gì không được nói ra sẽ trở thành vô nghĩa.

Sinh mệnh thực sự vốn phù du như vậy. Thế mà sao lại chất chứa qúa nhiều? Cay đắng qúa nhiều? Đôi lúc họ thấy yêu cuộc sống này muốn khóc lên được, cũng có đôi lúc họ căm ghét nó như thể một kẻ cừu thù.

Một con chuồn chuồn sải cánh bay chấp chới, đậu vào dòng nước rồi lại búng chân bay vụt lên.

Nàng cầm lấy tay chàng. Không cần quay lại, nàng cũng đã biết đích xác nơi bàn tay chàng đang đặt trên mặt đất. Nàng nắm lấy tay chàng, bàn tay đầy vết chai sần, làn da khô ram ráp, xương xương. Nàng vẫn nhận biết được mùi của trận chiến thoang thoảng quanh chàng, mùi vị của cái chết thấm đẫm quanh chàng, trong chàng. Từ lần ôm lấy chàng trong chiếc xe ngựa, trong những đêm vắng lặng, nàng đã nhận biết cái mùi ấy. Nàng đã qúa quen với nó. Dù có bao nhiều lần nàng muốn gột sạch nó ra khỏi chàng, nó vẫn còn lại, luôn luôn còn lại. Ngấm sâu vào trong chàng như một niềm tuyệt vọng.

- Chuồn chuồn kìa. – Nàng nói một câu không đâu vào đâu. Vẫn là giọng điệu như khi nàng nói với đứa trẻ. Như khi dỗ dành một đứa trẻ. Đừng khóc, chuồn chuồn kìa.

Chàng thở dài, ôm nàng vào lòng.

Ngày xưa, chàng đã từng hứa sẽ vì nàng mà lao vào vạc dầu chảo lửa. Ngày xưa, chàng đã hứa sẽ vì nàng mà đi bất cứ đâu. Ngày xưa, chỉ cần nàng phiền muộn, chàng hứa sẽ vì nàng mà triệt tiêu mọi nguyên nhân. Lúc đó, mọi điều đối với chàng thật qúa dễ dàng. Giờ đây chàng mới hiểu nụ cười mà nàng đã luôn luôn cười khi nghe chàng nói. Nàng vốn không tin những gì chàng nói, chưa bao giờ.

Giờ đây, khi tuổi không còn trẻ nữa, khi mọi giấc mơ đều đã qua đi, khi trái tim đã chai sạn trước những va đập, đổi thay, một góc nào đó trong cõi lòng họ lại nghi hoặc, lại khát khao. Trong những đau đớn, họ lại tìm thấy một niềm an ủi lặng thầm trong ký ức. Lửa đã sáng lên, khoảnh khắc ấy, miên miên trải trên sóng nước và bầu trời. Sưởi ấm bằng cách đốt cháy chính cõi lòng họ.

Nhưng chỉ còn một điều cuối cùng, điều cuối cùng mà họ có thể ước mơ, giờ đây chàng cũng không thể hứa. Nàng nhận biết điều đó, nên nàng đã im lặng. Chàng nhận biết điều đó, nên chàng đã thở dài. Chàng đã từng hứa rất nhiều với nàng, nhưng giờ đây lại không thể nói đến một điều giản đơn nhất.

Họ ngồi nhìn dòng sông một lúc, rồi lặng lẽ đứng dậy trở về. Trăng đã lên cao. Đám tiệc ở đình đã bớt huyên náo. Đàn dế vẫn kêu ran quanh họ.

- Lâu như vậy mà không có chiếc thuyền nào qua.- Nàng chợt nói. Nàng đang nhắc đến những thuyền thương hồ trên sông, đôi lần vẫn thấy đi lang thang trong đêm.

- Hẳn họ tập trung ở các chợ đêm Trung thu cả rồi. – Chàng trả lời. Nàng ngẩng nhìn chàng. Chàng chợt có cái ý muốn ôm hôn nàng. Những ngày tháng chia cắt đã tạo nên nỗi nhớ thường trực trong chàng. Chàng đã nhớ nàng bằng những ký ức say mê ngày cũ. Vậy mà, bên bờ sông hồi nãy, có điều gì đó đã cản chàng lại.

Đã có một niềm cay đắng lẫn muộn phiền tồn tại giữa họ, ngay cả trong lúc này. Nàng lại nhìn về phía trước, bước đi bằng những bước chân nhẹ nhàng đều đặn. Chàng nhìn xuống bờ vai nàng ngay bên cạnh, thấy ánh trăng cùng bóng lá rơi xuống giữa họ. Khoảng cách chợt trở nên xa vời vợi.

Tháng chín, chúa Nguyễn rời thành Diên Khánh trở về, để Nguyễn Phúc Hội ở lại coi thành. Cùng về với vị chúa là tin tức từ Phú Xuân: Tuy đã hòa giải được Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng, không để hai tướng đánh giết nhau, Quang Toản đã tước toàn bộ binh quyền của Trần Quang Diệu, để vị Thái phó này làm một pho tượng hữu danh vô thực ở một góc Phú Xuân.

Cùng với Bùi Đắc Tuyên, Ngô Văn Sở và một loạt tướng khác cũng đã bị giết. Tây Sơn đã tự triệt tiêu lực lượng mình. Chúa Nguyễn nói, trầm ngâm. Nhưng nói như vậy thì Bắc Hà đã xích lại gần Phú Xuân. Ta nghe bọn Tề Ngôi ở căn cứ Giang Bình trên đất Quảng Tây đã lại có chuyển động. Mấy năm vừa rồi, thủy quân ta đã kiểm soát mặt biển, nay lại phải trông chừng bọn Tề Ngôi đổ xuống.

Tây Sơn rối loạn khó có thể mở cuộc tấn công vào mùa gió bấc này. Tuy vậy, vừa rồi chiến trận cam go, đã phải dốc hết toàn lực Gia Định vào cuộc chiến, khó có thể tiến đánh năm sau. Ta có dịp để nghỉ ngơi chuẩn bị vậy.

Vị chúa nói với một cái nhún vai, trước khi cho mở tiệc ăn mừng. Trong buổi tiệc, vị chúa xét công ban thưởng cho tất cả các tướng tham gia trận Diên Khánh. Võ Tánh được thăng chức Bình Tây Tham thặng tướng quân Quận công. Do chàng vẫn cáo bệnh không vào triều, một vị quan đã tới tận phủ công nương đọc chỉ sai cùng ban thưởng.

Chàng vẫn chỉ lặng im nghe, lặng im đón chỉ, trước sau vẫn không lên tiếng. Khi vị quan đã ra về, Ngọc Du cho người cất tất cả đồ ban thưởng. Võ Tánh vào trong mặc áo rồi bảo rằng chàng sẽ ra ngoài.

- Không phải đi đâu. – Ngọc Du lắc đầu, ấn vai chàng xuống ghế. – Ngài ấy sẽ tới tận đây cho mà xem.

Nàng nói với nụ cười là lạ. Qủa nhiên, đến gần chiều tối, chúa Nguyễn đến phủ. Đi cùng vị chúa chỉ có cận tướng và một vài quân lính. Nghe tin báo, hai vợ chồng Võ Tánh ra đón ngài ta vào.

- Thần sắc khanh có vẻ khá hơn rồi. – Chúa Nguyễn nói khi vừa ngồi xuống. Ngọc Du cho người sắp xếp trà nước rồi lui ra ngoài. Khi không thấy chàng lên tiếng, ngài ta nói tiếp bằng giọng có vẻ phật ý. – Nhưng tâm trạng khanh chẳng lẽ vẫn cứ vậy?

- Giữ thành là nghĩa vụ của thần, không phải để ban thưởng, chúa công. – Chàng nói, nhưng vị chúa ngắt lời chàng.

- Có công thì thưởng, có tội thì phạt, đó là phép nước xưa nay. Không phải chỉ mỗi mình khanh, tất cả những người có công đều được thưởng.

Chàng không lên tiếng. Quận công, một chức tước trước nay chỉ dành cho người trong hoàng tộc, trong các khanh tướng dòng dõi. Một sự vinh danh mà chàng hoàn toàn không tưởng tượng được. Chẳng lẽ ngài ta cho rằng đây là đền đáp xứng đáng cho những gian khổ của chàng? Chẳng lẽ đây là sự trả giá mà ngài ta cho rằng nên làm?

Vị chúa vẫn quan sát chàng. Rồi ngài ta ngả người ra ghế quan sát khu vườn qua khung cửa mở rộng. Con bé Hồi đã đem về một loài hoa nào đó nhỏ bằng đồng xu màu hồng đào trồng ngay gần cửa, dưới bụi hoa thiên lý. Cảnh tượng những cành hoa tím, hồng quấn quýt vào nhau trông cũng thật vui mắt.

- Vừa về cảng, ta đã nghe một tin hay ho ở Phú Lang Sa. – Vị chúa chợt cười khẽ. – Có một kẻ tên là Napoleon Bonaparte đã đặt súng thần công ngay trên đường, chĩa vào đám đông nổi loạn mà bắn. Chỉ trong một lúc, đoạn đường được quét sạch. Quét sạch, hai ngàn người.

Chàng nhìn vị chúa. Ngài ta đan hai bàn tay vào nhau để trên bàn, chậm rãi nói bằng giọng chỉ to hơn tiếng thì thầm một chút.

- Hẳn khanh đã nghe chuyện ta giam Dayot, Nguyễn Văn Thành, Huỳnh Đức lại rồi. Một kẻ là linh hồn của thủy quân ta, hai kẻ là tướng tâm phúc đã đi cùng ta qua bao nhiêu gian khổ. Vậy mà cuối cùng ta không thể chọn lựa, vậy mà cuối cùng ta cũng phải cảnh cáo họ. Vậy mà khi ta cần họ nhất, họ lại làm như vậy. Không phải họ không trung thành với ta, ta biết thế.

Đã đến lúc ta phải lựa chọn thôi, Tham thặng tướng quân của ta.

Ngày xưa, đã có lúc ta tự hỏi: Đất nước nghĩa là gì? Là đất đai à? Không, đất đai này do ta chiếm được, rồi cũng có thể biến chuyển, đổi dời. Là dòng họ ư? Không, đất nước này đã có bao nhiêu vua chúa, thời đại. Có phải là chỉ cần giữ cho được đất, chiếm được thật nhiều đất, còn lại dân chúng đói khổ, suy kiệt là được không? Có phải chỉ cần giữ được sự thống trị của mình, trong lúc dân chúng oán than nơi nơi? Đất nước đâu có phải là một khái niệm rỗng không. “Dân vi qúy, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, từ ngàn xưa Khổng Tử đã biết đặt điều gì lên trên hết. Nhưng dân chúng cũng có thể kéo riệt một đất nước xuống, đáng tiếc là như vậy. Nhưng có khi quyền lợi của chúng dân lại không đồng thuận với sự phát triển của một đất nước, đáng tiếc là như vậy.

Ồ, cứ để kẻ ngây thơ nào đó tin tưởng một định nghĩa đẹp đẽ về đất nước, còn ta, đứng ở vị trí này, ta biết mọi điều không giản đơn như vậy. Ta thống trị, ta cai trị, ta chiếm hữu, ta trao đổi. Điều gì là đúng, điều gì là nên làm đây, Tham thặng tướng quân? Hùng mạnh hay bình yên? No bụng đủ đầy hay cường thịnh? Rối loạn hay an lạc? Điều gì nên đặt lên trước, điều gì mới là nên ưu tiên?

Đất nước này, chỉ chạm tay vào là đổ vỡ. Vùng đất đầy tranh chấp ở Cao Bằng, An Quảng sau khi họ Mạc và Ngô Tam Quế xung đột với Đại Thanh. Vùng đất mập mờ chủ quyền với Vạn Tượng. Vùng đất đầy những thổ hào, phiên liêu ở miền Thượng Nam Hà. Vùng đất tranh chấp với Cao Miên. Vùng Hà Tiên, Thuận Thành tự chủ tự trị. Khi sửa thành Diên Khánh vừa rồi, ta đã sắp xếp lại trong đầu cơ cấu của đất nước này, và rồi ta phải kinh ngạc về sự phân tán, manh mún của nó. Không chỉ là đất đai, chúng ta có vô số các tộc người, nhóm người, và không phải kẻ nào cũng muốn quy thuận. Đất nước, họ Nguyễn chúng ta đã khởi đầu từ vùng đất đầy xung đột ấy, đã dựng xây nên đất nước đầy xung đột này, đã lấy thanh gươm mà thống trị kẻ khác. Nhưng đất nước nghĩa là gì – với những kẻ bị mất đi tổ quốc, với những kẻ bị buộc phải quy thuận, với những người vốn coi vùng đất này là quán trọ? Khi ấy, đất nước nghĩa là gì?

Điều gì mới nên ưu tiên đây, Tham thặng tướng quân? Ta đã nghĩ mãi về điều đó, khi đang xây thành. Cho đến tận bây giờ, ta cũng không biết chắc chắn.

Giọng vị chúa chỉ to hơn tiếng thì thầm một chút, thanh âm dừng lại xung quanh ngài ta. Ngài ta vẫn hướng ánh mắt ra giàn hoa, bụi hoa bên ngoài. Thậm chí chàng còn nghĩ rằng ngài ta vốn cho rằng chàng không hiểu những gì đang được nói. Chàng thật sự không hiểu những gì ngài ta đang nói.

Lần đầu tiên từ khi gặp, chàng thấy vị chúa có vẻ hoang mang. Bối rối, có lẽ.

- Tử viết: Thuấn kỳ đại trí dã dư! Thuấn hiếu vấn nhi hiếu sát nhĩ ngôn, ẩn ác nhi dương thiện, chấp kỳ lưỡng đoan, dụng kỳ trung ư dân, kỳ tư dĩ vi Thuấn hồ? – Ngài ta vẫn tiếp tục nói, tiếp tục nói mà không nhìn chàng, không nhìn người trước mặt. – Khổng Tử viết: Thuấn là bậc đại trí. Thuấn ham học hỏi ngay cả những lời thiển cận mà rút lấy cái thiện trong cái xấu xa, phát huy cái hay mà bỏ cái dở, nắm lấy cả hai phía đối lập, chọn lấy cái trung hòa mà áp dụng vào trong dân chúng, đó là cách mà Thuấn trở thành Thuấn chăng? Ta đã luôn tâm niệm câu nói ấy. Nhưng Thuấn rốt cuộc vẫn là vị hoàng đế trong truyền thuyết, còn ta cũng chỉ là một con người. Thời thượng cổ, Thuấn dùng Đức mà thu phục được các bộ lạc, nhưng đến đời Khổng Tử, môn sinh Tử Cống của ông đến thuyết phục Tề không đánh Vệ, người Tề nói “Anh nói rất hay, rất đúng. Anh nói không sai. Tuy nhiên, chúng tôi cần đất đai, ruộng vườn chứ không cần lời nói”, rồi đánh sang tận nước Lỗ. Người ta ca ngợi chém giết chừng nào còn có lợi cho mình, người ta tung hô bạo chúa chừng nào còn có danh vọng về phía mình, mọi giá trị như tổ quốc, như gia tộc thật ra đều là như vậy.

Ta cũng chỉ là một con người. Nếu không có số đông, ta sẽ bị nhấn chìm. Nếu không có sự ủng hộ, ta sẽ bị bỏ rơi. Ta cũng không biết, bản thân ta cũng không biết đích xác, điều gì mới là đúng, là phải. Có ai nói được cho ta đây?

Hồ Qúy Ly kia, hùng tâm tráng chí là mấy, manh tâm đổi thay bao nhiêu, rốt cuộc nếu không được lòng người thì tất cả cũng đổ sông đổ biển. Kẻ mà chỉ biết có mỗi ý muốn của mình thì rốt cuộc sẽ bị triệt tiêu, mặc kệ hắn sai hay đúng. Từ lâu ta đọc Trung Dung mà lại cứ chú giải trung dung thành “điều đúng đắn”, thế lại là sai vậy. Trung dung là trung dung, là cái dung hòa ở nhiều thái cực.

“Nhân giai viết dư trí, khu nhi nạp chư cở hộ hãm tỉnh chi trung nhi mạc chi tri tỵ giã. Nhân gia viết dư trí, trạch hồ trung dung nhi bất năng cơ nguyệt thủ giã.” Người ta đều cho mình là trí, nhưng bị xua đuổi vào trong lưới rập, cạm bẫy mà chẳng biết tránh. Người ta đều cho mình là trí, nhưng đã chọn đạo trung dung rồi mà chẳng giữ trọn được một tháng.

Không phải là người không giữ được, mà vốn là người không cho ta lựa chọn vậy.

Nếu không muốn đến lúc phải tiêu diệt họ, thì phải biết cách kiềm giữ họ. Quốc thúc của ta qủa là thấu đáo hơn người.

Bây giờ thì chàng nhận ra ngài ta đang nghĩ về điều gì. Cả những cận tướng cũng đã ra mặt chống đối trước trận chiến quan trọng nhất, vết nứt vỡ đã thành hình, đã trở thành mối nguy thực sự. Hẳn ngài ta cũng không muốn tình hình trở thành như Tây Sơn hiện tại, các tướng đánh giết nhau bất chấp tình thế. Bất chấp mối nguy hiểm trên chiến trường, suýt nữa chính họ cũng đã tự đẩy mình vào chỗ chết. Tây Sơn đánh đến tận Trấn Biên khi hai tướng ở Ma Ly không tiếp cứu, suýt nữa họ đã tự đẩy mình vào chỗ chết.

- Khanh là Tham thặng tướng quân của ta. – Quay sang chàng, vị chúa nói. – Tham thặng, khanh hiểu ý nghĩa của nó chứ? Khanh là người đi cùng với ta.

Nên ngài ta phong cho chàng làm Bình Tây Tham thặng tướng quân Quận công, chàng hiểu điều đó trong những gì vị chúa chưa nói ra. Sáu năm, từ một thanh niên bố y trong đầm lầy, chàng đã mang một chức phận cao hơn tất cả các tướng trong đoàn quân Gia Định, hơn tất cả những người đã đi theo chúa Nguyễn từ hai mươi năm về trước. Sáu năm, từ hai kẻ cừu thù, chàng đã trở thành người ở cạnh bên chúa Nguyễn trên tất cả các chiến trường, chiến địa. Trong những bất an và đổ vỡ, trong những rạn nứt và lay động, chàng là kẻ cuối cùng ngài ta đã bất chấp tất cả để cứu về, là kẻ cuối cùng còn cùng ngài ta chống chọi, giữ cho được mảnh đất mà họ cay đắng đêm ngày mới có.

Chàng lại nghĩ đến hoàng hôn buổi ấy đã nghiêng trên vạt tường thành đổ nát, cái khoảnh khắc thoáng qua của nỗi cảm thông sầu muộn. Chàng nhìn ngài ta bây giờ, bên kia chiếc bàn gỗ. Đó là kẻ đã giết anh chàng. Đó là kẻ đã ra lệnh trấn áp quân nổi loạn ở Ba Giồng, giết chết người chủ tướng là anh chàng. Đã có nỗi muộn phiền nào lan đi giữa họ, trong những mối kết liên vô hình và hữu hình, hiện tại và cả qúa khứ. Chàng lại nghĩ đến trận đòn ngài ta đã giáng xuống chàng ngày ấy, sự lạnh lùng đến khắc nghiệt ẩn giấu sau con người này. Ngọc Du đã từng coi người em trai này hơn cả sự sống của mình, điều mà chàng đã nghĩ mình không thể hiểu nổi, điều mà chàng đã lấy làm tức giận. Bây giờ, đến lượt chàng vì ngài ta mà hết lần này đến lần khác quên đi nàng. Đó là một vị chúa buồn, chàng đã nói. Chàng đã tin ngài ta bằng nỗi cảm thông dành cho một con người.

Tham thặng, đi cùng nhau trên con đường đã chọn. Con đường họ đã chọn. Trong nỗi hoang mang này, trong những tháng ngày đầy bất trắc này.

Ngài ta nhìn chàng như chờ đợi. Và một lần nữa, chàng lại tự hỏi mình có thể làm được gì? Chàng có thể làm được gì, trong cơn lũ đang cuốn họ đi? Những trận chiến, trên chiến trường và trong cuộc sống, liên tục quăng quật họ. Chàng vốn chưa bao giờ là một người nhiều tham vọng. Chàng từ Trấn Biên về Phiên Trấn, từ Ba Giồng về gò Tre, từ gò Tre đến nơi này, tất cả như là con đường mà định mệnh đã vạch sẵn.

- Khi nào hồi phục sức khỏe, thần sẽ vào triều bái kiến chúa công. – Cuối cùng, chàng nói. Vị chúa chầm chậm gật đầu.

Trong bóng chiều, chàng vẫn thấy những xao động trong đôi mắt đóng khép của ngài ta. Tựa như mặt hồ phản chiếu bầu trời đang đổi thay liên tục giữa cơn gió mưa vần vũ.

39

Khi chúa Nguyễn cáo từ Võ Tánh trở về, đi ra đầu làng, Ngọc Du vẫn đang đứng dưới rặng tre trong bóng hoàng hôn tím sẫm. Nàng ra ngoài mua thêm mấy thứ đồ dùng và đang đứng đợi cô hầu ghé vào quán nước mua đường. Thấy đoàn của vị chúa đến, nàng hơi cúi mình chào.

- Võ Tánh thì trông khỏe lên, chị lại trông xanh xao đi. – Vị chúa nói, sau một lúc quan sát người chị. – Cả hai đã phải vất vả rồi.

Ngọc Du mỉm cười. Nàng đứng thẳng người, nhìn lên người em.

- Chỉ e rằng vết thương bên ngoài thì lành, vết thương bên trong lại càng nặng thêm thôi, chúa công.

Vị chúa không trả lời nàng. Nàng nheo mắt nhìn ngài ta rồi quay sang phía con đường rẽ vào sau rặng tre, cười nhẹ bỗng.

- Trong những ngày vừa rồi, thần tự dưng lại nhớ tới Giám quân Tống Phúc Đạm. – Khoanh hai tay, Ngọc Du chậm rãi nói. – Từ lâu thần vẫn nghe rằng ông ấy sợ tiếng đại bác, mỗi lần dàn quân đánh trận xong thì đào hầm trốn xuống nấp. Nhưng mà nghĩ lại thì thật là lạ. Một cái hầm thì có thể ngăn được tiếng đại bác sao? Thần cũng đã từng ở nơi chiến địa, đã từng nấp trong những ụ đất như thế. Trong đất, tiếng súng lại càng mạnh thêm, sự rung chuyển càng dữ dội hơn, có cảm giác như mình sẽ bị chôn sống bất cứ lúc nào.

Tự dưng, thần lại nghĩ rằng, sợ tiếng đại bác chỉ là cái cớ của Tống Giám quân. Ông ấy dàn quân đánh trận xong rồi lánh đi, chỉ vì không muốn nhìn thấy cảnh chém giết thành qủa của chính mình.

Ngọc Du quay lại, nhìn vào mắt người em. Bóng chiều nhập nhoạng không soi sáng được đôi mắt đóng khép.

- Võ Tánh qúa lương thiện. – Ngài ta nói, vẫn nhìn nàng. Cái nhìn thẳng và trầm tĩnh. – Ta đã cho Tham thặng quản Hậu quân. Nhưng đó hẳn lại giống như đào hầm tránh tiếng súng rồi.

Ngài ta không cười. Cô hầu gái trở lại cùng bọc đường trên tay. Ngọc Du vẫn khoanh tay nhìn vị chúa. Có ẩn ý gì đó trong ánh mắt ngài ta mà nàng cảm thấy không thích.

- Chị biết trước rằng ta sẽ tới, phải không? Có người đã nói với ta rằng, cái gì ta cũng muốn thì sẽ rất khó khăn. Nhưng ích kỷ có khi làm người ta mạnh lên, chị có biết?

Chị có cái lối rất lạ của những người muốn yêu bản thân mình mà không được.

Có điều gì đó ngừng lại trên đầu lưỡi ngài ta, những gì ngài ta muốn nói nhưng rồi lại thôi. Cô hầu gái đến sau lưng nàng, khép nép dừng lại. Ánh mắt ngài ta đi qua cô gái như thể một cái cây.

Ngọc Du lặng lẽ mỉm cười.

- Nghe nói mỗi ngày ngài đều đọc cuốn Bách khoa toàn thư hải hành của Tây dương. Ngài tìm thấy gì ở đó, chúa công?

Dù chỉ trong một khoảnh khắc, một sát na, nàng cũng đã nhận thấy ánh mắt lơ đãng ấy dừng lại. Ánh mắt lơ đãng giống như con người đã ngồi trên tảng đá trông ra biển trước kia. Biển và những con sóng xô vào bờ, vỡ nát rồi tan biến.

- Ngài đã từng nói, danh phận qúa cao thì áp lực cũng rất lớn. Bây giờ ngài cho Võ Tánh một danh phận cao không thể tưởng được, ngài biết mình đang làm gì không, chúa công?

Ngọc Du giữ giọng mình chỉ vừa đủ cho hai người nghe. Người em trai nhìn nàng, giễu cợt ánh lên trong mắt.

- Ta chưa từng muốn chị cưới Võ Tánh. – Lại kiểu nói chế nhạo quen thuộc. – Ta chỉ cố hết sức mình, nhưng có những việc mà ta cũng đâu được chọn lựa.

Vị chúa cười khẽ khi Ngọc Du trừng mắt. Ngài ta gật đầu chào nàng rồi đi. Nàng vẫn nhìn theo cho đến khi bóng họ khuất hẳn sau hàng tre dày.

Nàng vẫn mang tâm trạng bực tức khi trở về, lại thấy Võ Tánh ngồi cạnh hồ sen đã tàn, chỉ còn vài cụm hoa súng trắng và tím hồng đang rã cánh. Chàng thậm chí không nghe nàng bước vào. Nàng cũng để mặc, nấu cơm rồi mới gọi chàng vào ăn. Sau bữa cơm lặng lẽ, nàng quay ra chơi đùa với mấy đứa trẻ, chàng lại ra ngoài bờ hồ, ngồi trên tảng đá. Đến đêm, nàng bất đắc dĩ phải ra gọi chàng lần nữa. Nghe tiếng nàng, chàng lại ra hiệu cho nàng đến gần.

- Hoa súng trắng nở về đêm này. – Chàng chỉ về phía bông hoa nở lẻ loi giữa hồ, không quay lại. – Hoa chỉ nở đến hết buổi sáng thì tàn. Các loài hoa súng có tuổi thọ rất ngắn, thường chỉ xế trưa là khép cánh. Nên người ta còn gọi hoa súng là thủy phù dung, loài hoa phù dung trên mặt nước. Không như hoa sen, súng đột nhiên xuất hiện rồi biến mất, không để lại một vết tích nào. Chúng ngẩng đầu nhìn trời, mang phong độ quân tử của hoa sen, nở to như pháo hoa rồi héo tàn. Như một phát súng bắn đi. Như lửa.

Như lửa. Từ ngữ ngập ngừng trong chàng. Trên hồ chỉ còn lại những mảnh lá tròn nối tiếp nhau, những đài sen đã kết hạt và một bông hoa súng trắng giữa mặt nước. Ánh trăng nhạt phủ lên màu trắng xanh mờ chút hư ảo như sương phủ. Nàng ngồi xuống tảng đá bên chàng, thở ra.

- Chúa công nói gì với nàng? – Chàng chợt hỏi. – Ta nghe con hầu nói nàng gặp chúa công đầu làng.

- Vài chuyện vặt vãnh. – Nàng miễn cưỡng trả lời, tuy biết rằng không thể giấu được chàng. Khi đã hỏi cô hầu, chàng hẳn đã nhận ra thái độ của nàng. – Anh có muốn nhận chức Quận công không?

- Có. – Chàng nói, quay nhìn ánh mắt ngạc nhiên của nàng. – Ngài ấy đang cần người bên cạnh. Hai năm qua, những sĩ phu Bắc Hà kéo tới ngày càng đông, những hàng tướng ngày càng nhiều, cả các tướng thân cận với chúa công cũng chia bè với nhau. Ngài ấy đang cần có người thân tín bên cạnh.

Nàng muốn nói, nhưng lại thôi. Người thân tín, hẳn rồi. Chẳng còn ai có thể vô tư lự được như chàng. Lương thiện, em trai nàng đã nói. Còn những khi cáu giận, nàng lại gọi đó là ngốc nghếch.

Như lúc này, nàng đang cáu giận. Nhưng nàng là ai để trách cứ? Đã có một thời nàng cũng y như thế, cũng đã từng có thể bỏ mạng vì ngài ta. Nhưng nàng khác chàng, nàng không đủ cao cả đến mức không nghĩ gì cho bản thân mình. Vì thế mà nàng đã dần dần rời xa người em mình. Chàng là người đã xen vào giữa, rồi lại thay thế vị trí của nàng ở bên cạnh ngài ta. Bây giờ, nàng cảm thấy tức bực, cho cả hai người, vì cả hai người, vì cả bản thân mình.

- Hoa cứ mọc, cứ tươi, rồi cứ tàn, có nghĩ đến lá thế nào đâu. – Nàng nói. Chàng im lặng.

- Ta yêu nàng. – Một lúc sau, chàng nói. Nàng ngẩng nhìn chàng. Chàng vẫn dõi ra cành hoa súng. Bông hoa vẫn đang bung nở, chiếc cánh rung động trong ánh trăng. – Vừa rồi, chúa công đã nói với ta rằng chính ngài ấy cũng không biết điều gì là đúng, là nên làm. Vừa rồi, Trịnh Hoài Đức đã kể cho ta nghe về chuyện cãi cọ của những sĩ phu rằng thế nào là đạo lý và nhân cách. Ta cũng không biết, thực sự ta cũng không biết. Ta không phải là kẻ có học hành nhiều để hiểu được các thánh nhân cùng lý thuyết của họ. Ta không phải là vua chúa, không nhận lãnh trách nhiệm như vua chúa để quyết định. Những năm vừa rồi, ta đã chứng kiến qúa nhiều sự đổi thay. Cả sự thay đổi của con người. Nguyễn Phúc Huy đã từng hỏi, chúng ta đang biến thành cái gì? Đội quân này đang biến thành cái gì? Đội quân này trước đây là quân đội của họ Nguyễn, vì họ Nguyễn, nhưng rồi ta đến, Nguyễn Văn Nghĩa của Trấn Biên đến, Nguyễn Văn Trương về, Nguyễn Đình Đắc vượt biển vào, dân quân Phú Yên, Quảng Ngãi gia nhập, quân Miên, quân Chiêm, quân Thượng tập hợp, cứ thế mà lớn dần lên. Cả người Tây dương, cả người Gia-tô giáo, họ nữa. Chúng ta cứ thế mà lớn dần lên. Ta thay đổi, những kẻ đến từ Bắc Hà thay đổi, những quan tướng của Tây Sơn thay đổi. Có kẻ đã ba bốn lần đổi chủ, có kẻ đã hết lần này đến lần khác thay lòng. Có kẻ vốn là kẻ thù của nhau, như ta và chúa công. Chúng ta vốn là kẻ thù của nhau, thực sự là như vậy.

Có lẽ đến cuối cuộc đời này, ta cũng không thể tha thứ cho bản thân mình vì đã bỏ qua mối thù ấy.

Ta biết mình không làm tròn trách nhiệm với nàng, với các con. Ta nợ nàng rất nhiều, có lẽ cả đời ta cũng không trả được.

Trong những ngày bị vây ở thành Diên Khánh, ta không nghĩ về những lý do cao cả khiến ta đang ở vị trí ấy. Thật sự, không có lý do cao cả nào. Ta yêu Gia Định, yêu mảnh đất này, tình yêu như là một loại bản năng. Ta yêu Gia Định, vùng đất đã từng là một phần Phù Nam, Chân Lạp, vùng đất mà ta đã đến lúc còn chưa biết nhận thức, ta thậm chí còn không biết tình yêu ấy là đúng hay sai. Đối với vùng đất có lịch sử như thế, cứ giữ riệt nó cho mình, đó là đúng hay sai? Và sự thật là ta yêu đất hay yêu con người trên mảnh đất này? Bao nhiêu con người trên mảnh đất này, người Minh Hương, người Thanh Hà, người Miên, người Chiêm, người Đồ Bà, người Tây dương, người Xiêm nữa, đâu phải mọi người đều cùng chung chí hướng. Bắt ép kẻ khác phải theo mình rồi gọi đó là hạnh phúc ư? Có thể chà đạp lên kẻ khác rồi nhân danh dân tộc, tổ quốc của mình sao? Ta nói mình yêu Gia Định, yêu con người Gia Định, nhưng trong trận chiến này, ta đang vắt kiệt lực của đất, của người, ta đang gây khổ đau cho chính những gì ta yêu thương. Người Gia Định cũng vậy, nàng cũng vậy, ngay cả các con ta cũng thế. Tất cả đang tổn thương, tất cả đang mất mát, tất cả đang bị hủy hoại.

Ta biết, mình không thể bắt người khác phải hy sinh cho điều mình tin. Ta biết nàng không hạnh phúc.

Những gì ta làm, những gì ta theo đuổi, rốt cuộc chỉ làm tổn thương tất cả những gì ta yêu thương.

Đã từng có lúc ta nghĩ rằng ta sẽ đưa quê hương trở lại cho nàng. Ta đã từng nghĩ rằng đó là thể hiện tình yêu của ta. Nhưng rồi ta nhận ra nàng không cần điều đó.

Trong thành Diên Khánh, ta đã biết sợ. Ta sợ chết, ta sợ cái chết. Ta nghĩ đến nàng sẽ cô đơn biết bao khi ta không trở lại. Ta nghĩ đến đứa con, rồi nó sẽ giống nàng, giống ta, không nhớ cả mặt cha mình. Ta nghĩ đến bao nhiêu người sẽ vì ta mà chết, vì sự thất bại của ta mà phải chết. Sự sống của ta không phải chỉ là của mình ta nữa. Ngay cả bản thân mình ta cũng không tự quyết được nữa.

Lúc ấy, ta không còn nghĩ đến những điều cao cả, những lý tưởng, kể cả thù hận. Ta chỉ biết rằng, đây là con đường duy nhất mà ta phải đi. Một mình ta không thể tạo nên một cuộc chiến. Một mình ta không thể tự chủ được một cuộc chiến. Một mình ta không thể tiến hành cuộc chiến. Ngay cả ngày xưa, khi đến Ba Giồng, ta vẫn chỉ là một thanh niên rất ngây thơ, hoàn toàn không hiểu thế nào là lãnh đạo, thế nào là triển khai một cuộc chiến tranh. Những người ở đó đã chọn ta, đã đi theo ta vì chính ý muốn của họ. Rất nhiều người, cuộc chiến này là ý muốn của rất nhiều người, từ rất nhiều người. Và rồi, một khi đã bước vào, ta chỉ có thể đi đến cùng. Nếu ta thất bại, tất cả sẽ bị tiêu diệt theo ta.

Ta đã nghĩ điều ấy khi ở thành Diên Khánh. Nếu ta thất bại, những người lính ở đó cũng sẽ bị tiêu diệt, Thuận Thành bị đe dọa, Gia Định sẽ bị tấn công. Tất cả những gì ta bảo vệ sẽ chẳng còn. Tất cả những người ta yêu thương sẽ bị hủy hoại. Gia đình ta sẽ bị hủy hoại. Nàng sẽ lại phải tiếp tục lưu lạc, con ta sẽ mất đi tất cả.

Rồi ta trở nên cảm thông, ngay cả với kẻ đang ở ngoài tường thành. Thật ra, con đường mà chúng ta đi đều giống nhau. Yêu qúy cuộc sống của mình, yêu qúy những con người bên mình đâu phải là xấu xa. Nhưng chúng ta lại không biết cách nào khác, bây giờ. Những hủy hoại đã được tạo thành, những hận thù đã được xác lập, chúng ta cũng không biết phải làm thế nào, bây giờ. Chúng ta chẳng có cách nào để lẩn tránh. Chúng ta chỉ muốn được sống, chỉ muốn được tồn tại, vì sự sống của bản thân mà chúng ta chiến đấu. Chỉ vì chính bản thân mình thôi.

Nguyễn Phúc Huy đã hỏi, rốt cuộc chúng ta đang biến thành cái gì? Chẳng có lòng trung thành duy nhất, chẳng có lý tưởng duy nhất, chẳng có mục tiêu duy nhất, thậm chí, chẳng có tổ quốc và quê hương duy nhất. Mỗi người trong chúng ta chỉ cố để tồn tại theo cách của mình, thực hiện nguyện vọng theo cách của mình, theo đuổi chí hướng của riêng mình.

Tất cả rồi sẽ đổi thay. Cả đạo lý và đạo nghĩa. Cả giá trị và cách nhìn. Cả những điều như quê hương và tổ quốc. Thật ra, điều mà con người cần là gì? Mọi kẻ đều có thể sống, mọi kẻ đều có thể tồn tại, mọi kẻ đều có thể lựa chọn, đó phải chăng mới chính là Tự do đích thực? Đất nước đâu phải là một khái niệm rỗng không, chúng ta là một cộng đồng sống cùng nhau, đó phải chăng mới là tình anh em đích thực? Chúng ta đánh nhau vì quyền sống của chính mình, không phải vì tầng lớp hay chia cách, đó phải chăng mới là Bình đẳng đích thực?

Ta cũng không biết, bản thân ta cũng không biết, cái giá mà ta phải trả ngày hôm nay đáng hay không đáng. Nhưng ta yêu nàng, ta yêu những đứa trẻ, ta yêu Gia Định này, ta cũng yêu chính bản thân mình. Ta vẫn hy vọng. Ta vẫn hy vọng có thể trả được món nợ mà ta đã mang.

Càng nói, giọng chàng càng nhỏ lại. Hai bàn tay chàng đan vào nhau dưới cằm khi hai cánh tay chống lên trên gối. Lại một lần nữa, nàng thấy bóng hình của con người ngồi nhìn ra biển ngày hôm ấy. Sự nhỏ bé đáng kinh ngạc của con người trước bầu trời cùng mặt nước trải rộng, biến động, đổi thay. Càng thu mình lại, càng sợ hãi. Càng thu mình lại, càng dao động.

Ta yêu nàng, lần đầu tiên chàng nói câu ấy. Có thể chàng đã từng nói ra, lúc nào đó, trong những say mê dịu dàng, nhưng chưa từng vào lúc bình thường. Như thể chàng biết nàng không muốn nghe, không muốn tin vào bất cứ điều gì chàng nói.

Bởi vì, rốt cuộc, nàng vẫn là điều cuối cùng chàng nghĩ tới khi cần quyết định.

Ta chưa bao giờ muốn chị lấy Võ Tánh. Người em trai nàng đã chế giễu, luôn luôn chế giễu. Chúa công muốn chị là người hạnh phúc nhất, câu nói xa xưa ấy nàng cũng đã không muốn tin. Có những điều mà nàng không muốn nhớ lại. Có những điều mà nàng biết rằng cả đời không thể chạm tới được.

Nàng vẫn muốn cảm thông, nàng vẫn luôn cố gắng. Bây giờ, nàng vẫn luôn thấu hiểu, nàng đã cảm động. Ta yêu nàng, chàng nói ra điều ấy, bình yên như thể nói về mây trời và mặt đất. Nhưng lời nói ấy chỉ làm nàng thêm cay đắng. Nàng có yêu chàng không, đến bây giờ nàng cũng không biết, càng ngày nàng càng cảm thấy mơ hồ.

Đã bên nhau bao nhiêu năm tháng, sao lại vẫn xa xôi như vậy?

Chàng đã không còn là người thanh niên thưở xa xưa nhìn thẳng vào nàng mà nói sẽ khiến cho nàng yêu mình. Bây giờ thì chàng hẳn biết rằng có những điều chàng không làm được.

Tất cả chỉ còn là nỗi cảm thông sầu muộn. Trong nàng giờ đây chỉ mênh mang một nỗi sầu muộn khó cất thành lời. Nắm lấy tay chàng, nàng gật đầu nhè nhẹ.

- Ta đi uống rượu nào. – Nàng cười.

Họ lại ngồi trên chiếu với hai bình rượu lớn trước mặt. Lặng lẽ, họ rót cho nhau và uống cạn. Được nửa bình rượu, nàng ngẩng lên, thấy chàng đang nhìn mình.

- Ngày xưa ta đã nói là không tìm ở đâu được một cô gái uống rượu cùng ta như nàng. – Chàng cười. Nàng nhướng mày.

- Thế mà có nhiều người thấy thế rồi lại chạy mất. Anh qủa là có gan hơn kẻ khác. – Nàng đùa.

- Nàng đã từng uống rượu với ai à? – Chàng cau mày. Nàng nghiêng đầu, hơi bĩu môi.

- Tất nhiên là có chứ. Bên cạnh chúa công toàn là con sâu rượu, anh không thấy sao? – Nàng thích thú thấy chàng tức giận. Nàng tự dưng muốn trả đũa cho sự bực bội ban nãy của mình. Vả lại, chàng biết cuộc sống trước đây của nàng. Đã mời chàng uống rượu, tất nhiên nàng cũng từng ngồi chén tạc chén thù với các tướng, các quan. Tất cả đều chẳng có vẻ nghiêm túc như chàng tưởng.

Chàng có vẻ định nói gì đó nhưng rồi lại thôi. Nàng cười khẽ, nâng ly rượu của mình lên, uống cạn. Nàng lại thấy nhớ những ngày tháng cũ, tuổi trẻ có vẻ đẹp của nó, dù trong hoàn cảnh nào. Những ngày tháng tự do của nàng khi nhớ lại vẫn có sự thích thú riêng nó.

Chàng lầm lì uống rượu, không lên tiếng. Cuối cùng, nàng cười khẽ.

- Lớn rồi mà sao trẻ con qúa thế? – Nàng nghiêng người cầm lấy bàn tay cầm ly rượu của chàng, đặt xuống chiếu. Chậm rãi, nàng đặt lên môi chàng một nụ hôn. Đã gần hai năm xa cách, cả nụ hôn cũng trở nên lạ lùng, nàng nghĩ. Cả phản ứng của chàng, bàn tay chậm chạp quàng ôm lấy nàng. Đó là do năm tháng hay cả họ cũng trở nên khác biệt, nàng không biết chắc chắn. Họ hôn nhau như hai người xa lạ, như hai người chưa từng quen thuộc nhau suốt bốn năm trời.

Nàng lại nhớ đến đêm giữa vườn phong lan ngày xưa ấy, những đam mê và ngập ngừng của hai kẻ xa lạ. Lúc ấy, nàng nghĩ mình có thể buông vào vòng tay người thanh niên này bất cứ lúc nào. Một cảm giác rất gần với tình yêu. Như giờ đây, ánh trăng mờ len qua những kẽ hở của cánh cửa chỉ soi sáng được đường nét của khuôn mặt, bờ vai, mái tóc chàng. Như thể nàng buông mình vào bóng tối. Không cần ưu tư mà cũng không phiền muộn.

Nàng biết, thực ra nàng chỉ đang sợ hãi.

Lúc nào nàng cũng sợ. Cho nên, nàng không muốn yêu chàng. Nàng sợ phải yêu chàng.

- Bây giờ thì phải vui vẻ mới được. – Nàng thì thầm trên môi chàng. Bây giờ, lúc này. Lúc nào còn có thể.

Chàng gật đầu, thở dài. Trong cái siết chặt của vòng tay chàng, nàng thấy một sự níu kéo nhỏ và mảnh. Tựa như là sợ hãi.

Khi Võ Tánh trở lại, triều đình Gia Định đang có những chuyển biến lớn. Năm trước, sau Đặng Trần Thường và Nguyễn Bá Xuyên, Nguyễn Trí Thái, Hồ Sĩ Thù, các nhân sĩ Bắc Hà đã lần lượt kéo đến: Vũ Nguyên Lượng, Đinh Đạt Biểu, Vũ Bá Diên, Nguyễn Duy Hàn, Đỗ Thành Lâm, Ngô Đức Tuấn, Nguyễn Quang Lâm, Nguyễn Viên, Trương Công Vĩ… cả thảy hơn hai mươi người đều được chúa Nguyễn bổ dụng vào làm văn thần hoặc võ tướng. Vị chúa còn đang định đưa người về Bắc Hà chiêu tập thêm nữa. Vũ Nguyên Lượng được ban chức Khâm sai Chiêu thảo sứ, định sẵn ngày ra Bắc năm sau.

- Võ Văn Dũng giết Bùi Đắc Tuyên, bức Trần Quang Diệu có thể làm suy yếu bộ quân của Tây Sơn ở một nhánh quân riêng của Diệu, nhưng thực ra vẫn chưa làm suy chuyển toàn cục. Ngược lại, diệt cha con Bùi Thái sư, chúng lại trừ được mâu thuẫn giữa hai phe phái trong triều. Hai năm vừa qua, Bắc Hà do Ngô Văn Sở cai trị rối loạn nên người mới trốn đi vô số. Nay Võ Văn Dũng về triều Phú Xuân để canh chừng Diệu, Bắc Hà do con trai cả của Nguyễn Huệ cai trị, lại quy thuận vào Phú Xuân. Cai trị theo kiểu nhà Chu, chư hầu mạnh thì lấn lướt thiên tử, chư hầu suy thì lại quy phục, giúp ích. Phú Xuân bây giờ có trợ lực của Bắc Hà, dù có suy thì vẫn là hai kẻ hơn một kẻ. Ta muốn phá Tây Sơn thì phải phá từ Bắc Hà trở xuống, không cho chúng dồn toàn lực tiếp cứu Phú Xuân, Thuận Hóa.

Đặng Trần Thường đã kể cho ta về tình hình Bắc Hà. Từ Sơn, Kinh Bắc liên tục rối loạn, Thanh Hóa có rất nhiều kẻ đang ẩn nhẫn đợi thời, Nghệ An từ sau khi Huệ sang quấy phá Vạn Tượng thì không lúc nào yên, Cao Bằng có nhiều hoàng thân nhà Lê tụ họp nổi dậy liên tục. Đã thế, Ngô Văn Sở chủ trương cấm đạo, giết chóc giáo dân khiến nhiều người phẫn nộ. Kinh Bắc, Thăng Long tập trung rất nhiều cựu thần nhà Lê chống đối, chỉ cần cơ hội là phát tác. Ở Giang Bình, bọn Tề Ngôi ngày càng lớn mạnh, Tổng đốc Lưỡng Quảng đã nhiều phen phải lao đao với chúng. Vừa rồi Bạch Liên giáo lại nổi loạn, lan tràn khắp từ Hồ Bắc đến Tứ Xuyên, Hà Nam. Người Mèo ở Hồ Bắc, Qúy Châu, Tứ Xuyên chiếm cả một vài thị trấn, giết quan địa phương, giết người Hán. Tổng đốc Vân Nam, Qúy Châu là Phúc Khang An phải đích thân đi dẹp loạn. Nếu cứ giữ bọn hải tặc, Tây Sơn sẽ kết oán với nhà Thanh không lâu nữa.

Lợi dụng được những điểm yếu này, ta có thể cắt rời Bắc Hà khỏi Phú Xuân.

Vị chúa nói với chàng khi đi qua hàng hiên từ Sở Công đồng đến Phương điện. Những vị quan văn đang chờ đợi ngài ta ở đó, không hiểu vì lý do gì ngài ta lại gọi chàng theo.

- Nếu Thanh triều quyết diệt hải tặc, chúng ta không phải cũng có liên quan sao, chúa công? – Chàng hỏi. Từ bảy năm trước, bọn Hà Hỷ Văn đã có mặt trong quân đội của Gia Định, và năm nay chúng vừa đem thêm về cho vị chúa 23 tàu hải tặc nữa.

Chúa Nguyễn nhìn chàng, hơi cau mày.

- Ta chiêu dụ bọn hải tặc đánh trận cho ta chứ không bảo chúng đi ăn cướp. Cũng như ta chiêu dụ thảo khấu vào làm quan triều đình chứ không phải để chúng tiếp tục hành nghề đạo tặc. Khanh có biết lịch sử của bọn hải tặc đang ở Giang Bình? Tuy sau khi nhà Thanh chiếm nước Minh, lực lượng chống đối tập trung ở Lưỡng Quảng đã thành lập các đoàn hải tặc, nhưng chúng chưa có quy mô như bây giờ. Trước đây, chúng chỉ là loại cặn bã của biển cả, hoạt động riêng rẽ, độc lập.

Hai mươi năm trước, sau khi Tập Đình, Lý Tài rời khỏi Tây Sơn, họ cũng đã đem theo gần hết thủy quân của Tây Sơn. Tập Đình, Lý Tài vốn xuất thân nhà buôn kiêm hải tặc đấy. Thiếu họ, lực lượng thủy quân của Tây Sơn suy yếu đến mức trong cả năm năm mà không thể đánh vào Gia Định vượt qua được cửa Cần Giờ. Tây Sơn liền thực hiện các vụ chiêu tập người mới, trong đó chúng bắt được Trần Thiên Bảo, kẻ đang lãnh đạo bọn Tề Ngôi hiện tại, cho ông ta cai quản thủy quân. Rồi sau đó, Trần Thiên Bảo tập hợp được ngày càng nhiều hải tặc như Lương Văn Canh, Phan Văn Tài, Mạc Quan Phù, Trịnh Thất… Nhóm này đã giúp cho Tây Sơn đánh Gia Định, đánh Trịnh ở Phú Xuân. Định tấn công Thanh, Nguyễn Huệ đã cho chúng đánh phá khắp Quảng Đông, Phúc Kiến, Triết Giang. Kế hoạch không thành, chúng lui về, tụ tập ở vùng đảo Giang Bình, Quảng Tây, nơi đã trở thành căn cứ địa của chúng. Trần Thiên Bảo bây giờ là Đại Đô đốc của Tây Sơn.

Từ một loại cặn bã của biển, bọn hải tặc này được Tây Sơn cấp thuyền chiến, vũ khí, cơ cấu lại thành một đội quân. Bây giờ, chúng đi ăn cướp dựa trên danh nghĩa của một quốc gia, làm nhiệm vụ phục vụ cho một triều đình. Không phải quan tâm đến việc tìm kiếm cách để tồn tại, trú ẩn, chúng chỉ chú ý đến tổ chức cơ cấu. Nhờ thế mà bây giờ chúng trở thành một vương quốc riêng thực sự rồi. Trịnh Thất có hàng chục nhóm hải tặc dưới quyền khắp biển cả, Mạc Quan Phù đã có đội quân cả ngàn người cho riêng mình. Chúng câu kết với bọn thổ phỉ địa phương để đánh vào bất cứ đâu. Việc nổi loạn khắp Quảng Đông, Phúc Kiến vừa rồi cho thấy chúng đã mạnh lên đến mức nào.

Giang Bình bây giờ đã trở thành một vương quốc hải tặc. An Quảng của đất Bắc cũng đã trở thành bến đậu của bọn hải tặc. Tây Sơn đã giúp chúng từ những kẻ cướp riêng lẻ thành một tập đoàn kẻ cướp.

Chúng nổi loạn lần này, Thanh triều không ít thì nhiều cũng phải biết kẻ nào đứng sau. Dẹp xong loạn ở Phúc Kiến, Vân Nam, nhà Thanh liệu có để yên cho hải tặc lập căn cứ ở An Nam?

Đối với nạn hải tặc, những hoàng đế Tàu thường chọn cách “hải phòng” hơn là “hải chiến”, trước hết vì hạn chế về tàu thuyền. Thuyền chạy trên sông thì không thể đi biển, thuyền chạy trên biển thì không thể đối phó với các vùng nước cạn. Hải tặc không có nơi chốn ổn định, thường chọn chỗ có lợi cho chúng mà ẩn náu, thuyền chinh phạt đến thì chúng chạy mất. Do đó, triều đình thường lập các đồn phòng thủ duyên hải, hàng rào để ngăn xâm nhập, dùng các phương cách chính trị để trị an vùng biên giới. Ngày nay cũng vậy, nếu nạn hải tặc trở nên nghiêm trọng, nhà Thanh sẽ không ngần ngại dùng toàn lực đội quân đã từng chinh phạt Tây Tạng đánh xuống.

Vậy là Hà Hỷ Văn trở lại để báo cáo tất cả những chuyện này, Võ Tánh nghĩ khi đi theo vị chúa. Loạn ở Lưỡng Quảng, chẳng mấy chốc vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, An Quảng cũng sẽ rối loạn theo. Cả các vị quan Bắc Hà hẳn cũng đã nghe chuyện, họ có vẻ bồn chồn rõ rệt. Vị chúa gật đầu chào họ khi bước vào điện. Vũ Nguyên Lượng báo cáo với ngài ta về việc chuẩn bị cho chuyến về Bắc. Vị chúa lại lắc đầu.

- Ta hoãn lại đã. Võ Văn Dũng vừa mới diệt Ngô Văn Sở, lại có loạn ở Lưỡng Quảng, Bắc Hà hẳn đang kiểm soát rất ngặt nghèo, trong khi Phú Xuân thì vô chủ. Ta chuyển mục tiêu về Thuận Quảng, đã cho Đỗ Văn Huy làm Khâm sai Chiêu thảo sứ cùng vài người nữa về vùng Quảng Nam, Thuận Hóa, Quảng Ngãi kêu gọi quân dân nổi dậy. Các khanh cứ ở lại đây luyện tập quân sĩ, củng cố lực lượng. Năm sau ta mở khoa thi Hội lần đầu tiên trong Gia Định, hẳn phải nhờ các khanh phụ giúp.

Như các khanh hẳn đã biết, việc thi cử trong Nam Hà trước nay vốn dễ dãi chiếu lệ, vốn chỉ cần người viết được văn, làm được bài. Nay ta mở khoa thi theo lối của các tiên vương, gồm ba trường gồm sử học Kinh Thư, văn bài, thơ phú. Trường nhất để tìm người đi học biết qua kinh sách. Trường nhì để tìm người viết được văn, biết lập luận. Trường ba để tìm người có chí khí, biết sáng tạo. Hưng ư Thi, thơ ca là cách để chấn hưng văn hóa, là biểu thị của cả nền văn hóa. Người đi học biết lễ nghi, nắm quy luật, kiến thức, rèn luyện đạo đức, tâm hồn, biết phát huy tài năng thì mới viết được thơ ca cho đáng là văn học, không phải lời thêu rồng vẽ phượng. Nhà Thanh bỏ thơ phú, chỉ chuyên chú vào văn bài theo cách nói của Chu Tử “Thơ văn chỉ là chuyện bên lề của người đi học”, thật lại là cách giảm bớt giá trị của sự học. Nhà Lê theo lối ấy khiến thi cử chỉ còn là chốn đua nhau nói lời sáo rỗng, học thuộc lòng, để bọn xiểm nịnh lên chức lấy quyền, nhà nhà đua nhau học theo lối văn bài làm sẵn cũng hủy hoại cả phong hóa. Không thể trách kẻ đi học học sai, mà là kẻ trên muốn tìm người như thế nào thì được người thế ấy. Thi theo kiểu thuộc lòng chép chữ thì được kẻ chép chữ thuộc lòng, chỉ cần tìm người biết đọc vanh vách lời kẻ khác như con vẹt thì tìm được kẻ muốn thăng quan tiến chức đúng theo lối ấy. Muốn thay đổi hậu qủa thì phải thay đổi nguyên nhân đã.

Sách thì chẳng qua cũng chỉ bấy nhiêu chữ, học để biết trong sách rồi phải biết vận dụng, phải biết dùng kiến thức trong sách mà bồi bổ cho tâm hồn mình. Kinh Thư chỉ dạy đạo lý, nói chuyện xưa để bàn hiện tại, rút ra kinh nghiệm cho bản thân, kẻ học không nên thân lại đi trách rằng sách chỉ dạy những điều vô bổ. Ta nay phục cổ, bỏ lối hủ bại của cách học văn bài, khuyến khích nhân tài. Ta từ nhỏ đã lưu lạc, không tinh thông sử sách, phải nhờ các nhân sĩ bàn luận định chế, thể thức, đầu đề.

Rồi câu chuyện lại được chuyển hẳn sang cuộc thi Hội năm sau. Ngồi chếch bên vị chúa, Võ Tánh vẫn chưa thể hiểu được tại sao ngài ta lại gọi chàng đến cuộc họp này. Chỉ đến khi các vị quan đã cáo từ ra về hết, chúa Nguyễn mới quay sang chàng.

- Cuộc thi này, nhờ khanh làm Giám thí. – Vị chúa nói. Chàng không phải đã không kinh ngạc.

- Nhưng thần không phải là người đi học, chúa công. – Chàng vừa nói thì vị chúa đã chặn lại.

- Khanh làm Giám thí nghĩa là coi thi thôi, xem như thay mặt ta. Cuộc thi này lần đầu tiên được mở ở Nam Hà, với ta có ý nghĩa rất quan trọng. Có một hoàng thân ngồi ở thí trường, người ta cũng cảm thấy long trọng hơn nhiều.

Còn Quốc thúc và Đông cung, chàng muốn hỏi nhưng lại nghĩ ra. Hai người ấy địa vị qúa tôn qúy, khó có thể ngồi suốt buổi trong trường thi. Chàng là Quận công, danh thế vẫn cao hơn Nguyễn Phúc Mão hay các hoàng thân khác. Nguyễn Phúc Hội đã ở Diên Khánh.

- Nhưng tổ chức thi Hội ở Gia Định thì có nên không, chúa công? – Sau cùng, chàng quyết định hỏi. – Gia Định là đất mới, người còn chưa chú ý đến sự học. Người có học tập trung vào nhóm Minh Hương hay con cháu quan lại. Ngài cho chỉ tiêu chấm đậu cả vài trăm người, e rằng vét cả Gia Định cũng chỉ được chừng ấy.

- Phải, ta muốn vét Nho sĩ khắp trên Gia Định này. – Chúa Nguyễn bật ra tiếng cười. – Khanh có thấy những kẻ Bắc Hà đó không? Hằng trăm năm nay, họ đã khinh khi người Nam Hà là ít học, thô lậu. Nay muốn hòa hợp được cả hai vùng thì phải rút bớt khoảng cách lại, cũng là để người dân ở đây quen với tập tục người Kinh. Để Bắc khinh nhờn Nam, Nam bất phục Bắc, chẳng mấy chốc lại có bất hòa, làm sao mà sống chung với nhau được?

- Không phải chỉ có Bắc và Nam sẽ mâu thuẫn với nhau bây giờ đâu, chúa công. – Chàng mỉm cười. Chúa Nguyễn đưa mắt nhìn chàng, rồi đứng dậy mở cửa ra ngoài sân. Gió thổi vào mang hơi nắng và mùi cỏ đăng đắng.

- Khanh lại đây cùng ta một lúc. – Vị chúa vừa nói vừa bước ra ngoài. Đi qua khoảng sân, họ lại đến Cục Chế tạo bên cửa thành nhìn ra Xưởng thuyền. Hết đường Cấn Chỉ, họ bước qua dãy nhà ngói để súng. Nhìn qua các ô cửa mở, các thân súng, mũi súng đen trũi hướng ra ngoài, đủ cả các loại bằng đồng, bằng sắt, súng thần công hỏa xa vẽ thân đen đỏ. Ở dãy nhà phía bên phải, những thợ thuyền đủ mọi ngành vẫn cắm cúi làm việc. Lửa cháy phừng phừng trong các lò rèn, hơi khói bốc nghi ngút trong các nồi thuộc da; tiếng nói chuyện từ những thợ may, thợ giày; những mảnh vải bay phần phật trên giàn phơi. Vẫn đi về phía bên trái để tránh bị chú ý, họ đến cửa thành, thả bộ cạnh dòng sông. Trên sông, thuyền bè đi lại tấp nập, từ tàu đồng Tây dương lớn đến thuyền tam bản, độc mộc của các thương hồ. Ánh mắt vị chúa lướt qua những cột buồm cao vài chục trượng đến những mái thuyền cong cong buộc đầy bó hành, tỏi, ớt lủng lẳng lắc lư theo con sóng.

- Vừa rồi Đông cung bắt được bọn Cai cơ Tiền quân là Nguyễn Văn Triệu, Ngô Văn Bình, Nguyễn Văn Đại trốn tránh không chịu ra Diên Khánh mà tập hợp ở Trấn Định, Vĩnh Trấn họp đảng cướp bóc của dân. – Vị chúa chợt nói. – Ta đã cho chém đầu thị chúng, nhưng qủa thật rất đáng lo. Ta đã biết ngay từ đầu thể nào cũng có bọn lười biếng tham lam gia nhập vào quân đội để mưu việc bất lương. Dù ta đã định lệ xử nặng với quan quân hơn một bậc, nếu bắt được thì chém ngay lập tức, kể cả cha mẹ vợ con cũng đều phải tội chết, vẫn có kẻ càn quấy làm liều. Các quan tâu xin định lại lệ làm tín bài, kiểm soát tất cả người trong vùng, từ quan đến dân. Gia Định mấy năm qua qúa nhiều xáo trộn, hàng binh hàng tướng, quân dân tập hợp từ Phú Yên, Quảng Ngãi về; từ dạo Chiêu Chủy Biện bị ta đẩy về Bắc Tầm Bôn, tàu thuyền từ Chân Lạp vẫn qua lại buôn bán luôn, người vùng khác đói kém chạy đến. Có kẻ táo gan giả dạng quan quân đi ăn cướp nữa. Ta lo việc chinh chiến mấy năm nay không để tâm được việc trong ngoài, đến lúc phải sắp xếp lại trật tự thôi.

Họ dừng lại trước bụi cây. Trên đầu mũi ghe tam bản đậu trước họ, một đứa bé trai chừng một tuổi bò ra, làn da nó đã đen trũi vì nắng gió.

- Khanh đã bao giờ thấy tức giận trước sự bất lực của mình chưa, Võ tướng quân? – Vị chúa nghiêng đầu ngắm đứa trẻ, ngắm dòng nước xám xanh dưới nắng. – Ta muốn làm nhiều điều, rất nhiều điều, nhưng một mình ta thì không làm được. Ta gọi người này, ta bảo người kia, nhưng ta không thể điều khiển được họ hoàn toàn. Bao giờ cũng có cái gì đó đi ngược lại với ý muốn của ta. Nhà vua nào cũng muốn đất nước mình thịnh trị, nhưng không phải ai cũng biết cách để làm, có qúa nhiều điều không theo ý họ. Bây giờ, dưới tay ta có rất nhiều người, rất nhiều lựa chọn, và ta nên lựa chọn số đông. Nghĩ ra thì thật là đơn giản, phải không? Vì số đông mà lựa chọn, đó bao giờ cũng là quyết định nên có của kẻ cầm quyền.

Hai trăm năm trước, tổ tiên ta đã đến đây. Gần một trăm năm trước, chúa Minh đã cho thay đổi hầu hết phong tục, quần áo so với Bắc Hà. Giờ khanh có thấy không, những người đi giày vải, những phụ nữ tóc vấn để xõa xuống một bên cổ, những kiểu ăn mặc pha trộn giữa Minh và Thanh ở Hà Tiên rồi lan đến đây? Thậm chí có người còn mặc áo kiểu Tây, trong quân ta còn có xưởng làm giày theo kiểu Tây. Ngôn ngữ chúng ta nói đệm đủ các các từ của Cao Miên, Tàu, Tây dương. Chúng ta pha trộn cùng nhau như vậy, chúng ta đã hoàn toàn khác với Bắc Hà bọn họ. Rất khác. Chúng ta không cùng một ý nghĩ, chúng ta không cùng một lối sống, lối suy tưởng.

Ta cũng không nhận ra điều đó cho đến khi tiếp xúc với những người Bắc Hà kia. Tổ tiên ta đã từng tự hào, rất tự hào khi đã “thay đổi tất cả các hủ tục ở Đàng Ngoài”, lập nên một phương Nam giàu mạnh. Chúng ta đón mọi người mọi kẻ vào đất nước mình, không cần để tâm đến ngôn ngữ, tiếng nói, dòng máu, thậm chí cả màu da. Nhưng chúng ta cần một tư tưởng chung nhất. Tư tưởng, đó là thứ duy nhất kết liên mọi kẻ lại. Hà Tiên có họ Mạc, Thuận Thành có chúa Chiêm, người Minh Hương có bảy hội đoàn riêng của mình, người Thượng có thủ lãnh của họ, Bắc Hà có sự tự hào về lịch sử lâu đời của họ… Tất cả, tất cả cần có một sự kết nối. Tất cả cần phải biết rằng họ có một thủ lãnh duy nhất. Tất cả cần phải được kiềm chế cho đến khi họ thật sự bước vào đất nước này.

Họ Lý đã dùng Phật giáo, họ Lê đã dùng Nho học, rốt cuộc tất cả cũng chỉ là cách để kết liên tư tưởng mọi người trong những vùng đất bị phân hóa qúa nhiều. Ta cần một điều có thể kết nối con người. Ta cần một điều để mọi người có thể sống cùng nhau. Giết chóc và trấn áp chỉ là biện pháp đầu tiên và cuối cùng, không giải quyết được gì. Ta cần dựng xây một đất nước toàn vẹn, không phải là những mảnh vỡ ghép nối lại với nhau.

Ngài ta lại quay lưng đi. Im lặng, họ bước trên con đường đến Xưởng thuyền. Chúa Nguyễn ngửa mặt nhìn trời, mặt trời đã chênh chếch trên đầu họ. Ngài ta hơi nheo mắt.

- Khi khanh còn ở Diên Khánh, ta đã đuổi được Chiêu Chủy Biện, khanh có biết? Nhân dịp Tây Sơn sai người đem vàng bạc định quyến dụ Xiêm vương, ta ép Xiêm phải trao trả Nặc Ấn dòng dõi vương Chân Lạp, đưa về làm vua Chân Lạp, đẩy Chiêu Chủy Biện về Bắc Tầm Bôn. Ba năm nay thuế má của Ba Thắc do Chân Lạp lãnh quyền thu, nhưng ta sẽ lấy lại vùng đất ấy sớm thôi. Nặc Ấn là kẻ chịu ơn của ta, Chân Lạp giờ đây đã nằm trong tay ta rồi, Chân Lạp phải nhờ ta mở đường thông thương, ngày càng phụ thuộc vào ta. Không cần phải tốn một tên quân, một phát súng, ta đã có thể bình định biên ải phía Tây. Mọi chuyện đều có thể từ từ mà làm, không nên nóng vội.

Ta vẫn chỉ đang học. Ta lưu lạc từ nhỏ, học hành không nhiều. Ta đang học mọi thứ lại từ đầu. Cái gì là chân lý, cái gì là tất yếu, cái gì là quy luật, cái gì là nguyên nhân, cái gì là hệ qủa? Ta thật tình muốn biết, rất muốn biết.

Chàng từ đầu đến cuối vẫn không lên tiếng. Chàng nghe Gia Định xôn xao, xôn xao quanh mình. Tiếng của những con tàu vào bến. Tiếng của những phiên chợ trên sông, trên bờ. Tiếng nói của đủ mọi vùng miền, tiếng Việt, tiếng Bắc Kinh, tiếng Quảng Đông, tiếng Tiều, tiếng Miên, tiếng Thượng, tiếng Phú Lang Sa, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Anh Cát Lợi, tiếng Ô Lan… đủ mọi tiếng nói cùng cất lên, hòa lẫn vào nhau. Chàng nghe thanh âm ấy, trong những lời nói của vị chúa đều đều, lặng lẽ, u buồn.

Phải, khi ấy, chàng đã nghe thấy nỗi u buồn thoáng qua như cơn gió thổi quanh đám mây cao vời vợi.

Chú thích:

An Quảng: Quảng Ninh.

40

Ngọc Du lại đang nổi giận. Ngồi trên con thuyền, dưới mái vòm cong cong che nắng, nàng không thể đừng mà ném cái nhìn tức tối về phía ngôi thành. Nắng chang chang như đổ lửa xuống mặt đất cùng dòng nước trong lúc nàng đã lang thang trên sông lẫn trên bờ gần nửa ngày, giờ thì nàng cũng thấm mệt.

Tất cả chỉ vì Bá Đa Lộc, Ngọc Du thầm nhủ. Vì ông giáo sĩ già ấy đem đủ thứ sách Tây dương về dịch, vị chúa mới nghĩ ra phương cách thu thuế lạ lùng này. Cách thu thuế của Tây dương với các mặt hàng khó kiểm soát, ông ta nói với nàng, trong tay vẫn còn cầm cuốn Bách khoa hay Tài chính nào đó đang dịch dở. Đối với các mặt hàng khó kiểm soát, Tây dương chủ trương nộp thuế rồi mới cấp phép cho hoạt động trong một thời gian nhất định để hạn chế những cơ sở sản xuất lén lút. Rượu là thứ mặt hàng được sản xuất trong dân gian, khó phân biệt được làm để dùng hay để buôn bán, cũng khó kiểm soát được những địa điểm làm rượu nhỏ lẻ, thay đổi liên tục. Cho nên, thứ thuế này – gọi là thuế môn bài – là để cấp phép những nơi sản xuất rượu, sau này chỉ cần kiểm tra giấy phép là biết có phải nơi làm lậu hay không, người làm cũng không thể trốn thuế được.

Cho nên đúng vào lúc này, mọi nơi làm rượu trên Gia Định đều dừng lại đợi nộp cho xong thuế và lấy phép. Đúng vào lúc này, Ngọc Du cau mày. Đúng vào lúc nàng cần mua rượu cho buổi tiệc trong nhà. Đã đi cả nửa ngày, nàng chỉ mua được chục vò rượu Thạch Than. Mệt mỏi, nàng đã có ý định vào thẳng cung điện để xin rượu nhưng lại nghĩ ra. Vị chúa không uống rượu, Cảnh bị hạn chế, các phi tần cũng vậy, trong cung chẳng có rượu để cho nàng. Chẳng lẽ bây giờ nàng lấy thân phận công nương để bắt chủ xưởng rượu mở kho bán cho mình? Ha, nàng chắc cái tin ấy sẽ bay nhanh như cắt về Phương điện. Trong nỗ lực có phần tuyệt vọng để hạn chế nạn rượu chè trong quân của chúa Nguyễn, việc một công nương dùng mọi cách để mua được rượu sẽ là chọc tức ngài ta hơn lúc nào.

Nhưng một buổi tiệc thì cần có rượu, nàng lại không muốn phải chia sẻ với người ngoài những vò rượu cất kỹ trong phòng, dưới hầm. Ngón tay Ngọc Du gõ lên đầu gối khi nàng cau mày nhìn quanh. Thuyền của nàng đang đi qua bến cảng. Trong mùa gió bấc này, tàu thuyền từ Đại Thanh về Sài Côn lũ lượt như trẩy hội. Đầu năm, chúa Nguyễn đã định lệ thuế riêng cho người Thanh để thu hút họ đến Sài Côn. Bạch Liên giáo đang nổi loạn ở Lưỡng Quảng, các bến cảng tại Thanh đều bị phong tỏa bởi chiến tranh, Sài Côn trở thành nơi mà hầu hết các thương nhân người Thanh chọn để lưu trú buôn bán. Từ dạo người Minh Hương đến chạy loạn, bây giờ họ mới thấy đợt người Tàu đông đúc đến thế. Mắt nàng quét qua từ những chiếc tàu kiểu Hải Nam thấp thoáng những bóng người dóc tóc thắt bím đến tàu Tây dương mới vào cảng, bất chợt dừng lại ở một chiếc tàu đồng gắn cờ vàng trên buồm. Tàu của triều đình vừa đi công cán về.

Ngọc Du gọi người chèo thuyền, bảo lại gần chiếc tàu ấy. Thuyền tấp vào bên mạn tàu, gần mép nước, nàng với tay cầm lấy dây cột thuyền đu lên bờ. Chiếc tàu này hẳn vừa mới về, các thủy thủ trên boong còn chưa tháo dỡ hàng hóa. Nàng gọi thủy thủ đứng gần mình nhất, bảo anh ta tìm thuyền trưởng. Lát sau, người thủy thủ này quay lại cùng với một kẻ không hề xa lạ với nàng. Người Tây dương mắt xanh.

Thấy nàng, anh ta cười khoe hàm răng trắng trên khuôn mặt rám nắng màu đỏ đồng.

- Chào công nương. – Người Tây dương lịch sự hơi cúi mình xuống. – Công nương gọi tôi có việc gì?

Ồ, do trên bến cảng đông người hay do đã quen với phép tắc, anh ta đã lễ độ với nàng hơn hẳn trước kia, Ngọc Du nghĩ rồi lại đưa mắt về phía chiếc tàu.

- Chuyến hàng này đi đâu, mua hàng gì thế? – Nàng hỏi. Người Tây dương nhìn theo ánh mắt nàng, nhún vai.

- Chúa công sai tôi đưa các quan Nội viện đến Thanh mua sách và hàng hóa.

Sách? Nàng khẽ nhướn mày khi nghe nói. Vị chúa hẳn đang định gom sách trong khắp châu Á này lại. Tuy nhiên, khác với đủ loại sách mà thủy thủ gom được trên các bến cảng do người Tây dương kiểm soát, lần này nàng biết sách được mua từ Thanh về để làm gì. Cùng với lần thi Hội đầu tiên, vị chúa muốn phát triển việc học hành ở Gia Định. Nhưng đó chỉ là một ý nghĩ thoáng qua với nàng. Điều nàng quan tâm bây giờ không phải là sách.

- Hàng hóa gì thế? – Nàng mỉm cười. Người Tây dương nhìn nàng, đôi mắt xanh hơi nheo lại. Ồ, nàng biết những chuyến đi Thanh của vị chúa không hẳn là để mua hàng. Chuyến đi trước của đội thuyền là ngay sau lúc quân Thanh phải rút khỏi Thăng Long.

- Những vật phẩm như bình thường thôi, công nương. Vải vóc, giấy tờ, vật dụng, đá… - Người Tây dương nói chậm rãi như thăm dò.

- Có rượu không? – Không vòng vo, Ngọc Du hỏi thẳng. – Không phải rượu cồn của Tây dương. Tôi có việc cần nhiều rượu nhưng trong Gia Định lại đang kiểm soát những nơi nấu rượu.

- Không, chúng tôi không mua rượu, cũng không chở rượu. – Người Tây dương lắc đầu, rồi im lặng một lúc. – Nhưng nếu công nương cần, tôi có thể tìm cho cô. Tôi biết một nơi nấu rượu gần đây, chỗ quen thân có thể nhờ họ được.

Anh ta sẽ lấy danh nghĩa của mình để thay nàng mua rượu, Ngọc Du nhận ra ẩn ý trong câu nói ấy. Nàng gật đầu. Người Tây dương cười, bảo nàng đứng đợi rồi quay lại sắp xếp công việc trong tàu, một lúc sau mới trở ra. Ở gần đây thôi, anh ta nói, chỉ tay về một làng nhỏ ngay bên cảng. Nàng liền cùng cô hầu gái đi theo anh ta đến nơi ấy. Họ dừng lại trước một ngôi nhà có hàng rào tre kết cao qúa đầu người. Một đứa trẻ đang đứng ở cửa, thấy người Tây dương liền chạy vào gọi. Một cô gái trẻ đi ra, thoáng ngạc nhiên khi thấy nàng.

- Anh vừa về à? – Lối nói chuyện của cô gái như thể họ đã thân mật từ lâu. Người Tây dương gật đầu, chỉ tay về phía nàng mà nói.

- Phu nhân đây cần mua rượu gấp, em giúp được không? Nghe nói trong Gia Định đang khó mua được rượu…

- Chúa công bắt phải lấy phép nấu rượu. – Không đợi người Tây dương nói hết câu, cô gái cướp lời, mở rộng cửa cho họ vào, vẫn liến thoắng luôn miệng. – Người thì đông, việc kiểm tra thì chậm, tía mấy ngày nay phải chầu chực ở Sở thuế, không buôn bán được. Thật chẳng ra sao!

- Ở Phú Lang Sa, đây là việc rất bình thường. – Người Tây dương vừa cười vừa bước vào sân. – Ở đây mới lần đầu làm nên không quen. Chỉ mấy ngày thôi, rồi tất cả sẽ ổn mà.

- Vẽ chuyện. – Vẫn lẩm bẩm tức tối, cô gái đóng nửa cánh cửa lại, dẫn họ vào khoảng sân rộng chất đầy chum vại đến khu nhà cất rượu. Bên kia nhà, làn khói trắng bốc lên qua mái lá, hơi rượu ngòn ngọt trong không khí. Vuốt sợi tóc rơi xuống mắt, cô gái trẻ chỉ vào những chiếc chum đất lớn trong phòng, nói rất nhanh:

- Đây là rượu gạo loại một được bán ở chợ. Các chị nếm thử xem. – Miệng nói, tay làm, cô lật nắp đậy một chiếc chum, lấy chén múc rượu đưa cho Ngọc Du. Rượu được cất theo lối Tân Nhuận, thoang thoảng mùi nếp than ngòn ngọt chan chát. Nàng gật đầu, đặt mua ba mươi vò. Cô gái tất tả ra ngoài gọi người đưa xe đến vận chuyển.

- Đây hẳn là rượu nếp than thật. – Còn lại trong phòng, Ngọc Du nghiêng người quan sát chum rượu được phủ khăn tím sẫm nằm ở một góc. Người Tây dương vẫn đứng gần cửa lắc đầu.

- Không, đó là rượu của tôi. Hôm trước tôi bày cách cho cô ấy, rồi cô ấy làm theo, ủ thử một bình.

- Rượu của anh? – Ngọc Du ngẩng lên nhìn người Tây dương bước lại. Người Tây dương mở chum rượu, lấy chén múc đưa cho nàng. Rượu trong chén màu tím đỏ, mùi ngọt không giống như rượu gạo. Nhấp thử một ngụm, nàng hơi nhăn mặt trước vị lạ của rượu. Có cả vị chua chua, thoáng cay đằm đằm. Nàng nghĩ mình từng biết cái mùi này, nhưng không nhớ ra được từ đâu.

- Rượu cất từ nho. – Người Tây dương nhìn nàng, hơi mỉm cười. - Ở xứ chúng tôi, rượu được làm từ hoa qủa, nhiều nhất là nho. Chúng tôi bỏ hoa qủa vào ủ, cũng giống như người ở đây ủ rượu gạo. Khi đến đây, thấy các vườn nho ở vùng sa mạc phía Bắc, tôi rất ngạc nhiên là không ai đem chúng đi nấu rượu.

Vùng sa mạc phía Bắc mà anh ta nói hẳn là Thuận Thành, nàng nghĩ thầm. Nàng không chắc mình có thích loại rượu này hay không.

- Ở xứ chúng tôi, ngũ cốc cũng được đem làm rượu như lúa mì, đại mạch… ở các vùng phía Bắc dùng cả khoai. – Người Tây dương vẫn say sưa nói. – Phú Lang Sa nổi tiếng về rượu nho. Rượu làm từ vỏ và nước ép có màu đỏ, rượu làm từ ruột nho có màu trắng. Từ rượu lên men này, chúng tôi chưng cất thêm lần nữa để được loại rượu đậm đặc hơn gọi là brandy. Ở một nơi gọi là Cognac, rượu cất xong lại được để vào thùng gỗ sồi, ủ hàng chục năm dưới đất. Mùi gỗ cùng thời gian làm mùi vị rượu thành đặc biệt ngon ngọt không nơi nào có được. Vì vài chục năm mới ra một mẻ nên loại rượu này rất đắt. Nho ở đây không được ngọt như Phú Lang Sa, mùi rượu cũng khác, nhưng lại có đặc trưng riêng rất thú vị.

Ngọc Du nhìn người Tây dương, thoáng ngạc nhiên. Lại một lần nữa, anh ta gợi nhắc nàng đến Võ Tánh, chàng cũng đã từng say sưa nói với nàng về rượu như vậy. Phải chăng mọi thanh niên vào độ tuổi này đều hao hao giống nhau?

Cô gái trẻ trở lại, báo với nàng là mọi việc đã chuẩn bị xong. Gật đầu, nàng cùng cô đi khỏi căn hầm ủ rượu. Những chiếc xe kéo chất đầy rượu đã chờ phía bên ngoài, cùng với cả một chiếc xe cho nàng. Thanh toán tiền với cô gái, nàng lên xe đi về, người Tây dương cưỡi ngựa bên cạnh đoàn xe. Dù sao rượu này cũng do anh ta mang danh nghĩa mua hộ, ắt phải đưa đi đến tận nhà.

- Anh có vẻ quen thân với cô chủ rượu? – Đi trên đường một lúc, nàng vén màn xe nói chuyện với người bên ngoài. Người Tây dương nghe nàng hỏi liền cười.

- Nhà cô ấy theo Gia-tô giáo, chúng tôi thường gặp nhau ở nhà thờ. Vì quen thuộc với các cố đạo nên thái độ của họ với chúng tôi cũng cởi mở hơn.

Những người khác không cởi mở với Tây dương như thế, nàng nghĩ mình hiểu những gì anh ta không nói ra. Người Tây dương này là kẻ không thể trở về quê hương, đất nước Phú Lang Sa vẫn tiếp tục rối loạn không biết đến ngày nào. Vùng đất này cũng là nơi hoàn toàn xa lạ cả đến màu da, sắc mắt. Bỗng dưng, nàng lại tự hỏi anh ta cảm thấy thế nào nơi đây? Anh ta đã từng kể rằng mình tự chọn cuộc sống tha hương này, vì lý do nào mà nàng không thể hiểu.

- Lúc trước anh nói rằng mẹ anh không đồng ý cho con làm thủy thủ, thế sao anh vẫn tiếp tục? – Nàng hỏi như thể vừa bất chợt nghĩ ra. Người Tây dương nhìn nàng rồi lại nhìn về con đường trước mặt, đôi mắt trở nên mơ màng.

- Vì dù sao đi nữa, đây cũng là con đường tốt nhất… Ở Phú Lang Sa, gia đình tôi sống trong khu vực dành cho người nghèo. Gia đình tôi rất nghèo. Trường học chỉ dành cho con cái nhà khá giả, con nhà nghèo vào trường công của Nhà thờ - tôi cũng đi học ở đó cho đến khi trưởng thành rồi không đủ tiền để vào các trường nghề, trường đại học. Mà nếu không đi học trường nghề, tôi không thể nào thành kỹ sư, làm những ngành nghề cao hơn được, chỉ có thể hoặc vào nhà máy, hoặc ra đồng làm việc. Nhà máy của chúng tôi là nơi tồi tệ hơn cả địa ngục. Mấy trăm người bị dồn vào một căn phòng bất kể thời tiết thế nào, làm việc gần hai mươi tiếng mỗi ngày – nghĩa là hơn mười giờ tính theo lối ở đây, công việc thì quẩn quanh, nhàm chán đến phát điên lên được. Cô tưởng tượng được không – đứng cả ngày chỉ để lắp ống sợi vào dây chuyền hay để siết đinh ốc, đóng cây búa vào thành phẩm… Cả công việc ở nông trại bây giờ cũng vậy, người cuốc đất cứ cuốc đất, người hái cứ hái, người trồng cứ trồng. Suốt cả đời như vậy, cuộc sống còn là cái gì? Cả đời chỉ cắm cúi vắt kiệt sức mà làm, mà lo ăn uống, nhưng nghèo vẫn cứ nghèo, khổ vẫn cứ khổ. Làm thủy thủ là cách duy nhất để chúng tôi đổi đời. Chỉ cần liều lĩnh một chút, nhanh nhẹn một chút, có rất nhiều cơ may cho chúng tôi trên những vùng đất lạ. Lương chủ thuyền trả thì cũng khá hơn làm công nhân. Đến khi già không đi biển được nữa, chúng tôi gom góp ít nhất cũng đủ tiền mở quán rượu. Khi bắt đầu làm thủy thủ, tôi đã hứa với mẹ rằng khi đủ tiền mở một quán rượu, tôi sẽ bỏ nghề.

Người Tây dương cười khẽ. Tiếng cười mênh mang buồn. Ngọc Du không hỏi nữa, chỉ chống tay lên bậc cửa sổ xe nhìn ra bên ngoài. Những kẻ phiêu lưu mà các quan thường gọi, đệ tử của Voltaire như giáo sĩ thường trách cứ, những người đem tính mạng lênh đênh trên gió nước, đương đầu với bão tố, đánh giết và chiến tranh; nàng chưa từng có ý niệm thật sự nào về họ cho đến bây giờ. Đây là con đường duy nhất, người Tây dương bên cạnh nàng nói. Đất nước Phú Lang Sa tráng lệ rực rỡ mà Cảnh từng nhìn thấy lại chứa đựng những con người như vậy. Họ ra sao rồi, nàng lại bắt gặp mình thắc mắc về hiện trạng của những thủy thủ đã rời vùng đất này. Ở lại đây là những con người đã từng rời khỏi quê hương, rồi lại không thể trở về, không muốn trở về. Dù có bao nhiêu cuộc nổi loạn, bao nhiêu cuộc thay vua đổi chúa, cuộc đời họ vẫn chẳng có gì thay đổi. Thậm chí, giờ đây họ còn chẳng có nơi để trở về. Ánh mắt nàng vô tình nhìn qua chiếc thánh giá bằng bạc vẫn lấp lánh dưới cổ người Tây dương trẻ. Phó mặc số phận cho Chúa, liệu anh ta có cùng niềm tin như Tống Phúc Đạm? Trong những vẫy vùng để thoát khỏi số phận, để chống lại định mệnh, anh ta có phải vẫn cần một chỗ dựa để có thể chấp nhận cả những thất bại, đắng cay, để có thể chấp nhận cái chết và nỗi phi lý cho sự sống của chính mình? Đến nơi đây và ở lại, anh ta mong chờ điều gì? Ước mơ ngày thơ trẻ ấy về một quán rượu cho mẹ già có lẽ đã tan vỡ, nhạt phai cả rồi, anh ta còn mong muốn điều gì?

- Cho nên tôi nghĩ người xứ này khó có thể đi biển được. – Người Tây dương chợt nói, cau mày như ngẫm nghĩ. – Dù chúa công có muốn làm một đội thuyền y hệt như Tây dương, người xứ này vẫn không thích hợp để đi biển. Những đất nước mạnh về hàng hải là nơi có nhiều vùng đất xấu và nghèo khó, sự thật là như vậy. Do không thể gắn bó với đất, họ phải di chuyển, phải tìm cách sống, hoặc bằng cướp bóc, hoặc bằng buôn bán. Những đất nước có thủy quân mạnh là những đế quốc sống bằng chiến tranh, có rất nhiều tham vọng. Thậm chí người xứ này không được như người Tàu, không có được sự ham muốn vô cùng về của cải của họ, không có được tham vọng bá quyền của họ, không có cả sự kiêu ngạo tin chắc vào bản thân của họ. Mà không có những điều này, người ta không thể biến thành một cường quốc. Không có tham vọng, lại qúa gắn bó với đất, đủ đầy bởi đất, người ta sẽ không muốn rời đi, chẳng có động lực để rời đi. Cả người Tàu, dù có tham vọng bao nhiêu thì họ cũng chẳng muốn rời khỏi đất mình, họ chỉ muốn chiếm hữu của kẻ khác, chỉ muốn mở rộng lãnh thổ của mình, mở rộng sự thống trị của mình. Họ cứ lớn, lớn mãi nhưng càng ngày càng phân tán, càng suy nhược. Họ giống như một cái tổ kiến, tuy lớn thì rất lớn, rất có tổ chức, trật tự, nhưng khi bị phá thì mỗi con kiến bé nhỏ chạy về một hướng, cuồng cuồng đốt bất cứ vật thể nào chạm tới được.

Vậy mà ở châu Âu hiện tại lại có những người hâm mộ cái vẻ ngoài hào nhoáng này. – Người Tây dương nhếch mép như một nụ cười. – Đổ lỗi cho cái nghèo, người ta xua những kẻ khốn cùng đi cướp chiếm; đổ lỗi cho những kẻ giàu có, người ta cổ vũ cho hận thù chém giết. Rốt cuộc, kẻ được lợi chỉ là bọn đứng sau lưng xúi bẩy. Danh tiếng là của chúng, địa vị là của chúng, tài sản là của chúng, thành phẩm là của chúng. Chúng trở thành kẻ thay thế cho những người vừa bị chúng hô hào quyết giết kia. Còn những kẻ đã sống chết đi theo chúng thì được cái bánh vẽ vinh quang ảo. Ngay cả ở các thuộc địa, thuế thu được cũng đem về cho nhà nước, tiền cướp được cũng đem về ngân khố, người chính quốc được hưởng cái gì? Tất cả chỉ vỗ béo cho cỗ máy chiến tranh nhân danh đủ thứ nhân đạo lý tưởng cao cả kia.

Còn chúng tôi, dù ai đánh ai đi chăng nữa, chúng tôi vẫn cứ lênh đênh ngoài biển, chẳng có gì khác biệt. Chúng tôi sống vì danh lợi, cho nên những trò hô hào ấy với chúng tôi thật nực cười. Sống trong hoàn cảnh này, phải ném tất cả ý tưởng ngô nghê đi thì mới tồn tại được.

- Nghĩa là người xứ này theo anh vừa gắn bó qúa với đất đai, vừa có nhiều ý tưởng ngô nghê? – Nàng cười, một lúc sau. Người Tây dương quay nhìn nàng, đôi mày nâu hơi nhướng lên.

- Muốn hiểu sao cũng được, công nương. Nhưng cô không thấy mệt mỏi sao, với tất cả mọi chuyện đang xảy ra trên thế giới này?

- Phải, lòng tin thật qúa ngô nghê. – Nàng vẫn giữ nụ cười trên môi, nhìn người Tây dương lần cuối rồi bỏ rèm xuống, quay vào trong xe. Đã đến khu chợ đông đúc, nàng không muốn bị người quen nhìn thấy. Qua tấm rèm mỏng, nàng vẫn thấy người Tây dương nhìn về xe nàng.

Bây giờ thì nàng đã biết tại sao em trai nàng lại thân thiết với những người Tây dương này đến thế. Họ thật là giống nhau, sự bất cần của họ, dường như trên đời chỉ tồn tại bầu trời cùng mặt đất. Lòng tin? Cuộc rối loạn trên đất Đại Thanh khi những người tự xưng dòng giống Hán tộc không chịu quy phục Mãn Thanh. Cuộc nổi loạn trên đất Phú Lang Sa mà theo tin mới nhất thì đất nước này đã khai chiến với Ý. Phương Đông nhìn về phương Tây vừa e dè vừa thán phục sức mạnh khoa học của họ, phương Tây nhìn về phương Đông vừa ngưỡng mộ vừa tức bực trước những vùng đất bao la cùng các vương quốc rộng lớn của họ. Cả hai đều đang cố với tới những gì mình chưa có được. Nói cho cùng, cái gọi là lòng tin chỉ là thứ ngưỡng vọng của những kẻ chưa biết thứ mà mình hướng đến có hình dạng nào.

Đoàn xe đến trước nhà nàng, dừng lại. Ngọc Du gọi người ra sắp xếp rồi quay về người Tây dương, cúi mình rất nhẹ.

- Cám ơn anh rất nhiều về sự giúp đỡ ngày hôm nay. – Nàng nói cùng một nụ cười. Người Tây dương gật đầu chào nàng rồi lên ngựa trở về.

Tuy vậy, sự xuất hiện của một người Tây dương trước phủ công nương cũng đủ làm cho người ta chú ý. Đêm đến, khi trở về, Võ Tánh ra vẻ vô tình mà hỏi nàng về “người Tây dương đưa rượu đến”. Nàng nhún vai, kể lại việc ban sáng.

- Vẫn là người ngày trước à? – Chàng hỏi. Nàng nhìn lên chàng qua chiếc đèn. Nàng đang đọc một cuốn sách mở rộng trên bàn – thứ mà vị chúa vừa cho đem từ Đại Thanh về. Chàng nhìn nàng bằng đôi mắt khó hiểu, nàng nghĩ mình không thích cái nhìn ấy.

- Phải. – Nàng trả lời lơ đãng. Nàng chẳng cần phải giải thích rằng thỉnh thoảng mới gặp anh ta, giải thích như thế chẳng khác nào chống chế dù đó là sự thật.

Lại một lần nữa, chàng im lặng. Chàng bước ra sau nàng, cúi xuống cuốn sách mà nàng đang đọc.

- Sách dạy cho trẻ con. Con bé nhà mình đến lúc phải đi học một chút rồi. – Nàng nói. – Anh nghĩ có nên đưa nó vào lớp học trong cung không?

- Ở đó tốt hơn. – Chàng gật đầu. – Anh ta cũng đưa cho nàng cuốn này à?

- Vương hậu cho người đem tới ngay sau khi nhận được. – Nàng hơi cau mày, thở ra. Gấp cuốn sách lại, nàng quay nhìn chàng. – Dạo này anh sao thế?

Có điều gì ở chàng hiện tại mà nàng không hiểu được, nàng nghĩ mình không hiểu được. Chàng biết nàng thậm chí rất thân thiết với một vài quan trong triều. Chàng biết tính tình của nàng. Nghi ngại nàng với một người Tây dương? Nàng thậm chí còn chưa nghĩ đến điều đó.

Mắt chàng tránh ánh mắt nàng, nhìn xuống đôi môi nàng trước khi chàng xốc nàng lên, ôm lấy mà không đợi nàng đồng ý. Ngay cả cách ái ân của chàng giờ cũng khác, nó bày tỏ một sự chiếm hữu mà nàng chưa từng biết trước đây. Tưởng như sau khi từ thành Diên Khánh về, chàng đã biến thành một người khác. Sau những ngày lặng lẽ suy tưởng dài, chàng lại đột ngột trở nên nồng nhiệt, với mọi điều, với cả nàng. Nhưng đằng sau đó, nàng lại cảm thấy một nỗi sợ hãi đang dần chìm sâu xuống, đóng lại, đông cứng. Nỗi sợ hãi, nàng biết về nó như thể một phần bản thân mình.

Bây giờ, họ không nói với nhau về những diễn biến trong triều, ở Phú Xuân, Bắc Hà hay Đại Thanh, họ cũng chẳng nói về tình hình bên ngoài, thậm chí dự định cho tương lai. Họ chỉ thỉnh thoảng nói về những đứa trẻ, sự lớn lên của chúng. Như thể chẳng có, không có bất cứ gì bên ngoài họ. Sau hai năm chia cách, cuộc đoàn tụ này của họ vẫn có cảm giác gì đó không thực. Đôi lần, trong những cơn mơ chập chờn trước khi chìm vào giấc ngủ, nàng lại giật mình tỉnh thức, hoang mang nhìn vào bóng tối, nghe tiếng tim chàng đập gần bên. Những ngày tháng này vẫn có vẻ gì đó không thực đối với nàng, như thể chỉ một cái chớp mắt, tất cả sẽ tan biến.

Nỗi hoang mang lớn dần lên trong họ, trong bóng tối, khi đêm về và những công việc của ngày được cất đi. Nỗi hoang mang mà họ cất giấu xuống tận đáy lòng, không muốn để lộ ra dù nghĩ rằng người kia đều hiểu.

Nàng vẫn nhìn chàng khi môi chàng rời khỏi môi nàng. Năm tháng và chiến chinh khiến chàng có vẻ già dặn hơn số tuổi thật của mình. Trong ánh sáng của chiếc đèn vẫn được thắp lớn để đọc sách, nàng có thể thấy nếp nhăn sau đuôi mắt chàng. Nàng biết, khi cười chàng sẽ có nếp nhăn quanh khóe miệng. Thời gian và dòng chảy của nó chẳng tha thứ cho bất cứ ai. Nàng nghĩ tới bản thân mình và những gì đã đổi thay. Rất mờ nhạt, một vài nếp nhăn cũng đã hằn lên đuôi mắt khi nàng cười. Chàng đôi khi lơ đãng đưa ngón tay vuốt lên chúng. Những khi ấy, mắt chàng như thể đang dõi theo một cánh chim bay về tận cuối chân trời.

Tiếng trống điểm canh vang từ phía xa đi qua căn phòng.

- Thiếp cũng già rồi. – Nàng nói như thở dài. Nàng nói và rùng mình. Chàng nhìn nàng. Nàng thấy nỗi hoang mang của mình phản chiếu trong mắt chàng. Nàng thấy đôi mắt mình trong mắt chàng.

Rồi chàng cười.

Vùi mặt vào vai nàng, chàng cười dài, bàn tay vẫn kéo lớp vải khỏi tay nàng. Khi tiếng cười lặng xuống, chàng vẫn chỉ ôm nàng đứng lặng lẽ. Ngọn đèn lay động làm cái bóng của họ trên tường cũng chao đảo theo. Chao đảo. Theo cơn gió.

Chiếc áo đã rơi xuống hông nàng, nhưng chàng vẫn đứng yên. Nàng lại nghe tiếng tim chàng đập, nhịp đập đều đặn, trầm sâu tựa như tiếng kêu vọng qua những tầng đất dày.

- Ta… - Chàng nói, rồi đột ngột lặng im.

Chàng vốn dĩ cũng không biết mình nên nói điều gì.

Tuổi già, chàng chợt nghĩ về nó. Thời gian khiến mọi điều đều mang một vẻ điềm nhiên đến đương nhiên. Tuổi già, bất chợt nàng nói đến nó, gợi nhắc điều mà họ đã luôn tránh nói tới cho đến lúc này.

Được cùng nàng già đi, đi hết cuộc đời này, đó là giấc mơ của chàng bây giờ. Nàng thuộc về chàng, chàng đã từng nghĩ thế khi cưới nàng. Nhưng hoàn toàn không phải. Khi không có chàng, nàng có cuộc sống khác của riêng mình, cuộc sống mà chàng không biết tới, không thể biết. Ý nghĩ ấy đột nhiên dày vò chàng, chợt làm chàng nhận ra chiều dài của những ngày xa cách, chiều dài của những ngày tháng chàng mải mê theo đuổi mục đích của mình. Ý nghĩ ấy dày vò chàng rất nhiều đêm, mỗi khi nắm được nàng, mỗi khi lại gần nàng. Chàng bị thôi thúc bởi thứ bất lực gần như là cay đắng. Điều chàng muốn có và điều chàng không rõ mình có thể làm được hay không. Chàng không lựa chọn được.

Nàng hôn lên giữa hai lông mày chàng, nơi đang cau lại. Như mọi khi, nàng hiểu những gì chàng không nói. Và như mọi khi, họ ra vẻ như không hề nhận thấy.

Môi nàng lướt qua những nếp nhăn nơi đuôi mắt, khóe miệng chàng. Bàn tay chàng chạm vào khoảng da mịn màng sau lưng nàng, trong một tiếng tim đập, kéo hẳn nàng vào trong chàng. Cõi mênh mang hỗn loạn trong chàng.

Khi nàng chợt thức giấc, màn đêm đã qua và ánh sáng xanh mờ đã thoảng vào cửa sổ mở rộng. Trong mùa hạn oi ả, gió sớm chỉ thoang thoảng chút hơi sương mang mùi trong mát của cỏ lá. Vén màn lên, không cần cả khoác áo vào, nàng ngẩn người nghe tiếng chim vang ríu rít bên ngoài, tiếng động như thể vô số sinh vật đang bừng tỉnh, chen vào nhau.

Nàng nhỏm dậy định ngồi lên thì một cánh tay ôm quàng qua, giữ nàng lại. Mắt chàng vẫn nhắm, hơi thở sâu như thể vẫn còn say ngủ, nhưng cánh tay chàng ôm ngang lưng nàng, giữ chặt lấy. Thở ra, nàng nằm xuống, xoay mình về phía chàng. Trong ánh sáng ngày nhập nhoạng len qua màn, nàng ngắm nhìn chàng, để mình chìm trong hơi thở và mùi vị trong căn phòng. Mùi của chàng và nàng quấn quýt, đan quện vào nhau, hơi thở chàng phả qua mặt nàng, hơi ấm trong chăn và từ lồng ngực chàng.

Đã bao lần họ thức dậy cùng nhau như thế, nhưng lần nào cũng như lần đầu tiên, nàng bao giờ cũng thoáng chút ngỡ ngàng khi phát hiện ra có người bên cạnh.

Nàng nhẹ đẩy cánh tay chàng ra, nằm sấp xuống, quay lại phía cửa sổ mở. Có lẽ đêm qua gió đã đưa cánh cửa lật ra ngoài. Cũng có lẽ là chàng đã trở dậy mở cửa khi trong phòng trở nên qúa nóng. Mùa hạn, ngay cả ban đêm cũng lặng gió, oi nồng. Mùa hạn, nắng sớm nhanh chóng chuyển thành sắc vàng nhạt khi tiếng chim ngày càng inh ỏi, tưởng như vang ngay trên tường nhà, ngay trước đầu giường. Nàng thấy một con sẻ nâu nhảy qua nhánh cây, mổ vào cành hoa tím trước khi cất cánh bay vù đi. Bên nàng, tiếng thở của chàng vẫn khe khẽ vang. Nàng sẽ có thể biết ngay khi nào chàng thức dậy chỉ qua tiếng thở ấy. Tiếng gù rù rất khẽ, vô cùng khẽ trong lồng ngực như thể một con mèo khoan khoái duỗi mình. Thanh âm ấy sẽ biến mất khi chàng thức dậy.

Nàng nghe những thanh âm bên ngoài ngày càng hỗn loạn cho đến khi đầu óc trở nên mông lung. Nàng nhắm mắt, lại nằm xuống, kéo chăn lên ngang ngực. Đã đến giờ gọi chàng dậy nhưng nàng không muốn gọi. Những ngày vào chầu, chàng phải dậy từ lúc lờ mờ sáng. Vị chúa và thói quen dậy sớm đều đặn của ngài ta bắt ép mọi người phải theo. Hôm nay nàng không muốn làm theo ngài ta nữa.

Nàng nghĩ với một nụ cười.

Ngày thi Hội đầu tiên ở Gia Định không có vẻ nhộn nhịp lắm khi chỉ có vài trăm thí sinh đến trường thi. Ngồi ở bàn giám thí, Võ Tánh nhìn Nguyễn Thái Nguyên đọc bản quy định cho các thí sinh rồi sắp xếp họ dựng lều trên khoảng đất trống rộng. Trời lại có vẻ âm u như thể sắp đổ mưa. Đã bắt đầu những ngày mưa trong Gia Định, dù mưa chỉ thoảng qua bất chợt. Gió thổi thành những cơn lốc nhỏ trên đất, cuốn theo đám lá cỏ khô bay tứ tán. Nguyễn Thái Nguyên vừa quay người, gió đã lật tà áo ông ta lên gần quét qua mặt. Ơ hờ hất tà áo xuống, Nguyễn Thái Nguyên lại phải cuống quýt giữ lại chiếc mũ đội không chặt lắm trên đầu. Khi ông ta ngồi xuống cạnh Võ Tánh, chàng nhận ra hơi rượu phảng phất, hẳn ông ta đã lại say.

Từ lâu, thói say sưa của Nguyễn Thái Nguyên đã trở nên quen thuộc trong triều. Chúa Nguyễn đã nhiều lần cấm ông ta uống rượu, nhưng cuối cùng cũng vị chúa phải mềm lòng mà bỏ qua. Cùng với tài năng của mình, khoa thi này do chính Nguyễn Thái Nguyên đề xuất cách phân tam trường, ông ta cũng mang một tính cách buông tuồng xuề xòa khó mà thích hợp với vị trí một Lễ bộ Thượng thư theo lệ thường. Bây giờ cũng vậy, gác một chân lên ghế, ông ta lại sai người đem ống điếu tới hút, phả khói mù mịt. Chàng ngoảnh đi.

Hẳn Nguyễn Đức Xuyên đã tới Hà Tiên, chàng nghĩ thầm. Sứ Xiêm theo thông lệ đến, nói chuyện về bọn hải tặc Đồ Bà chắn Hà Tiên trở ngại thông thương, vị chúa liền sai Nguyễn Đức Xuyên đưa thuyền đến đánh dẹp. Đầu năm, vị chúa đã thúc đẩy việc đóng thuyền, lấy cả vải thuế cho năm sau dành may buồm. Ít nhất phải đóng được chục thuyền lớn trong năm nay, ngài ta nói. Có vẻ như những biến chuyển ở biển Bắc, tại Lưỡng Quảng đã làm chúa Nguyễn quyết tâm củng cố thêm đội thủy quân của mình, ngừng lại tất cả các chiến dịch tấn công. Bọn hải tặc Đồ Bà cũng theo thế mà lớn lên, chiếm cứ vùng biển Xiêm La, cho thấy Tề Ngôi đang bành trướng thế lực của mình. Bạch Liên giáo nổi loạn, các nhóm phiến loạn trong Đại Thanh nổi dậy, kết cuộc sẽ đẩy thêm càng nhiều người ra biển để trốn tránh cuộc càn quét của triều đình. Bọn hải tặc mới này không giống như những người Minh chạy loạn năm xưa, chúng sống nhờ vào cướp bóc, bất kể đó là thường dân, tàu buôn hay quân triều. Bị nhà Thanh càn quét trên đất liền, Tề Ngôi hải tặc sẽ lớn mạnh với tất cả sức tàn phá, hận thù và căm giận của những gì đã không hoàn thành trong thực tế.

Bọn hải tặc Đồ Bà không chừng có liên hệ với Tề Ngôi, vị chúa đã căn dặn Nguyễn Đức Xuyên trước khi xuất quân. Xiêm La không vô cớ mà đánh động với ta. Phải cắt đứt mối liên hệ này, không để chúng tràn ngập biển ta.

Mải mê trong ý nghĩ, chàng đã không nghe Nguyễn Thái Nguyên gọi. Ông ta đã nói gì đó và đang hỏi chàng. Vẫn mùi rượu cùng mùi thuốc nồng nặc khi chàng quay sang.

- Tôi nghĩ rằng sắp mưa rồi, cho quân đi hỗ trợ những thí sinh một chút chứ? – Ông ta nhắc lại. Chàng nhìn ra ngoài trời. Mây đã nặng hơn một chút, chàng gật đầu.

- Tùy ông. – Chàng nói có vẻ lơ đãng. Chàng không biết phải cho quân lính hỗ trợ gì, chàng không quen thuộc với quang cảnh này.

Nguyễn Thái Nguyên nhìn chàng, rồi đột ngột cười.

- Tham thặng khinh ta à? Nếu ta mà còn trẻ như Tham thặng, công nương Hồ Dương không bỏ ta đâu. – Ông ta nói, trước khi quay lưng đi lại chỗ những người lính dặn bảo công việc. Võ Tánh nhìn theo ông ta, môi hơi mở ra trong ngạc nhiên.

Không bỏ ta? Chàng biết Nguyễn Thái Nguyên đã có giao tình với gia đình chúa Nguyễn từ rất lâu, từ khi còn ở Phú Xuân, nhưng chưa từng nghĩ đến liên hệ của ông ta và Ngọc Du. Nàng đã từng thừa nhận thân thiết với các quan “con sâu rượu”. Còn ai ở đây mê rượu hơn Nguyễn Thái Nguyên?

Lời nói của Nguyễn Thái Nguyên, vô tình hay cố ý, đánh mạnh vào nơi đang hỗn loạn trong chàng. Đã thế, ông ta lại lấy làm đắc ý, cứ thỉnh thoảng mơ màng cười. Không biết nói sao, cũng không thể mở miệng hỏi về quan hệ của ông ta và Ngọc Du, chàng nín lặng suốt buổi coi thi. Chàng mang cả tâm trạng vừa bực dọc vừa nặng nề đến báo cáo cho chúa Nguyễn về cuộc thi.

- Khanh sao thế? – Vị chúa hỏi khi chàng đã báo xong. Ngài ta chẳng khó khăn gì để nhận ra màn mây tối đang bao phủ sắc diện chàng.

- Thần có thể hỏi chúa công một chuyện được không? – Chàng nói sau một lúc im lặng. – Trước kia công nương Hồ Dương có hứa hẹn với ai không?

Chàng thấy sự kinh ngạc trong đôi mắt vị chúa, trên đôi mày ngài ta hơi nhướng lên.

- Khanh muốn biết điều gì? – Cuối cùng, ngài ta lại cười. Nụ cười mà chàng không đọc được những gì ẩn chứa trong đó.

- Nguyễn Thái Nguyên nói, nếu không vì thần thì công nương đã không bỏ ông ấy. – Chàng nói, hơi ngập ngừng. Nụ cười của vị chúa đột nhiên lại mở rộng hơn.

- Công nương Hồ Dương mà lại chịu lấy một người vừa già vừa quê mùa thế sao? – Vị chúa cười thành tiếng. – Lão già ấy đùa đấy thôi. Bao nhiêu năm rồi, chẳng lẽ khanh không nhận ra chị của ta là người thế nào à?

Khanh không thấy lạ khi Ngọc Tuyền là em mà cưới trước sao? – Ngài ta nói khi chàng im lặng. – Chồng Ngọc Tuyền là Nguyễn Hữu Thụy, kể cũng là một người tuổi trẻ tài cao, thay ta lo việc Xiêm La, giao kết với Xiêm vương. Vậy mà chị ta vẫn không chịu lấy đấy. Nếu chị ấy muốn lựa chọn, trong quân ta hẳn cũng không thiếu người, không phải lấy chồng muộn như thế.

… Mà ta cũng không đồng ý dễ dàng như thế khi thấy chị ấy và khanh. – Đến lượt vị chúa có vẻ ngập ngừng. Ngài ta nhìn chàng, nheo mắt. Chàng biết ngài ta lại nhớ đến cảnh tượng đêm ấy, khi ngài ta phát hiện ra họ. Một chút bối rối thoáng qua trong chàng.

- Vấn đề là thần cũng không biết chị của ngài thế nào. – Chàng nói, rất nhỏ như chỉ có mình nghe được. Một lần nữa, vị chúa nhướng mày.

- Chị ấy không phải người dễ dàng mở lòng với người khác, bất cứ ai. – Ngài ta nói, quan sát chàng. Những ngón tay nhịp rất nhẹ trên tay ghế đang ngồi. – Nhưng thật ra khanh muốn biết gì, Tham thặng? Mỗi người đều có những khoảng không muốn người khác biết tới. Người ta có khi còn không hiểu được bản thân mình, nói gì đến kẻ bên ngoài? Có khi người ta chỉ yêu thương con người mà người ta nghĩ là ta, chứ không phải những gì thực sự là ta, vậy đấy. Yêu thương rốt cuộc chỉ vì chính bản thân mình, là cảm giác chỉ của bản thân mình mà thôi. Con người rồi sẽ thay đổi, ai cũng sẽ thay đổi, vậy thì tình cảm cũng sẽ thay đổi theo phải không? Người ta yêu chính con người trong tâm mình đấy thôi. Khanh cứ muốn biết thêm những điều khác để làm gì?

Chàng im lặng. Có những điều ngài ta nói chàng hiểu và không hiểu. Có những điều chàng muốn hiểu và không muốn hiểu. Chàng cũng không biết cảm giác này đến từ đâu, bất an này đến từ đâu, nhưng sau ngày trở về từ thành Diên Khánh, chàng bỗng trở nên thấy xa lạ với cuộc đời, nhiều điều trong cuộc đời. Chàng bất chợt nhận ra khoảng cách của mình và Ngọc Du, cái khoảng cách đã có, luôn luôn có. Nhiều khi, ngay cả lúc ôm nàng trong tay, chàng vẫn cảm thấy “mình” ở bên ngoài, đang quan sát chính mình bằng cặp mắt lạnh lùng xa cách. Luôn luôn, chàng cảm thấy một đôi mắt đang dõi xuống, soi vào chính chàng. Rồi cả sự sống này cũng trở nên mơ hồ.

Khanh muốn biết gì? Chàng cũng không rõ. Như thể chàng đã chờ đợi ngài ta công nhận rằng Nguyễn Thái Nguyên và Ngọc Du thực sự đã từng có quan hệ với nhau, như thế ít ra chàng có thể lý giải được cho cảm giác của mình. Nỗi hoang mang không có lý do, vô lý và vô nghĩa đang dần chiếm cứ vị trí giữa chàng và nàng, mơ hồ như một biển sương không cách nào bước qua được.

Chàng nhìn lên, cáo từ vị chúa rồi lui ra. Khi đến cửa, chàng vẫn thấy ngài ta nhìn theo mình. Cánh cửa đóng khép trong đôi mắt ngài ta lại giống với Ngọc Du kỳ lạ.

Chú thích:

Hải tặc Đồ Bà: Hải tặc Indonesia, Malaysia.

sợ vừa say mê nhìn. Trên cổ mỗi con voi, nơi tiếp giáp giữa đầu và thân, người quản tượng lắc lư theo từng bước đi, cầm cái búa lớn trong tay giữ nhịp. Đây đã là đợt voi thứ ba đến Sài Côn trong vòng mấy tháng ngắn ngủi. Trước đó, vua Chân Lạp đã đưa hơn hai mươi con voi đến tặng cho chúa Nguyễn, Xiêm La cũng vừa đưa voi làm qùa. Những con voi trong núi khổng lồ, hung dữ đã làm náo động Sài Côn lẫn khu Trường đà đang ngày càng một mở rộng.

- Voi này do người Chiêm ở Thuận Thành trấn bắt về theo lệnh của phụ hoàng. – Không biết từ lúc nào, Cảnh đã đứng bên nàng. Cậu ta vừa nói vừa nhìn về phía đàn voi. – Phụ hoàng đang định thành lập một đội Tượng binh thật sự, gồm cả Tiền, Trung, Hậu như một đội quân thường.

Trong cặp mắt của cậu thiếu niên, Ngọc Du tưởng như thấy được cái nhìn say mê thơ trẻ xa xưa, khi cậu ta lần đầu tiên thấy khu thành lớn được xây lên chỉ trong mười ngày. Hai ngàn con voi, câu nói của cậu bé Phúc Cảnh đã có thể thực sự tác động đến người cha. Chúng ta sẽ có voi, chúa Nguyễn nói, và thực hiện. Giờ đây, họ đã thực sự có một đội Tượng binh.

Cậu Đông cung trẻ tuổi say mê nhìn quang cảnh này. Vẻ say mê như vẫn của một đứa bé.

- Ai sẽ lãnh đạo đội Tượng binh? – Ngọc Du thuận miệng hỏi. Theo như nàng biết, không vị tướng nào ở Gia Định thực sự biết quản lý voi, tuy họ đã dần dà làm quen với những con voi được đem về Gia Định trong cả mấy năm nay.

- Nguyễn Đức Xuyên. – Cảnh trả lời người cô, ngắn gọn. – Xuyên nhanh nhẹn khỏe mạnh, nhất là có quan hệ tốt với người Chiêm.

Nàng gật đầu. Sau khi được lệnh chúa Nguyễn dẹp giặc biển Đồ Bà, Nguyễn Đức Xuyên đưa thuyền đến Phú Quốc, chỉ một trận đã đánh tan bọn hải tặc, diệt cả sào huyệt của chúng trước khi người Xiêm La kịp tới nơi. Tới nơi, nhìn thấy thành qủa của Xuyên, quân tướng Xiêm La cũng phải lấy làm khiếp sợ. Danh tiếng của Nguyễn Đức Xuyên đã lan truyền khắp vùng biển Hà Tiên, Chân Lạp. Dùng một vị tướng vừa mới đánh tan giặc biển Đồ Bà quản lý tượng binh, chúa Nguyễn hẳn chú ý đến quan hệ giữa con người hơn là tìm một người chuyên môn nuôi dạy voi.

- Chúa công đâu rồi? – Ngọc Du hỏi khi những con voi đã được đưa hết vào Trường đà, đám trẻ cũng dần tản đi. Con bé Hồi lại chạy đi chơi với bạn nó. Cảnh và nàng xuống thành trên những bậc thang dốc.

- Đi lễ chùa. – Cảnh nói với một cái nhún vai. - Hôm nay nghe nói là ngày lễ gì đó của Phật giáo.

- Lại lễ chùa? – Ngọc Du hỏi, tủm tỉm cười. Cảnh nhìn nàng có vẻ hơi phật ý.

- Vì sư trụ trì đến mời, không đi không được. – Cậu Đông cung nói, đến lượt nàng nhún vai.

Cậu ta không biết thái độ của cha mình trước đây với những “ông sư”, Ngọc Du nghĩ thầm. Đánh người đem tượng Phật vào phòng vợ, đánh người đến làm lễ cầu kinh trong nhà, không chịu đựng được ở cùng một chỗ với người tu hành, đến nàng cũng phải lấy làm ngạc nhiên về ác cảm ngùn ngụt không che giấu ấy. Nhưng đầu năm nay, sau khi đến chùa lễ Phật cầu quốc thái dân an, vị chúa đã cho trùng tu lại các chùa chiền, miếu mạo, thỉnh thoảng còn đến tham dự lễ với các trụ trì. Những chuyến đi này vừa đủ ít để các Nho sĩ trong triều vốn ghét Phật, Lão không lấy làm phật lòng, vừa đủ để các giáo sĩ phải kinh ngạc nhốn nháo, vừa đủ cho “bên ngoài” biết rằng vị chúa vốn chẳng theo “đạo của Tây dương”.

Ồ, ngài ta hiện chắc đang phải trân mình chịu đựng, Ngọc Du nghĩ và cười thầm. Chỉ có Quốc mẫu là vui mừng hỉ hả trước sự nhượng bộ của người con. Cuối cùng ngài ta đã chịu nhượng bộ, trước những áp lực lớn trong nhà, trong triều, trong Gia Định. Trong Gia Định với những đạo giáo, thần thánh chen chúc nhau đến mức khi muốn lập miếu thờ thần chung cho mọi người, chúa Nguyễn phải gọi là miếu Tam đẳng chư thần, thờ tất cả thần linh từ trên trời dưới đất đến địa phủ.

Đến lúc những tranh cãi trong triều đình phải được giải quyết, và vị chúa phải bày tỏ thái độ của mình. Thái độ, nói cho cùng mọi người chỉ cần đến thế. Họ chỉ cần biết rằng vị chúa vẫn còn ở phía họ. Họ cần biết rằng vị chúa vẫn coi trọng những gì thuộc về họ. Chúa Nguyễn vẫn đang chơi trò chơi thăng bằng với những kẻ xung quanh, nghiêng về bên này một chút, bên kia một chút.

- Cô cô đã nghe Quốc mẫu nói về việc chọn vợ cho cháu chưa? – Bên cạnh nàng, Cảnh chợt nói. Nàng nhìn cậu thiếu niên mười bảy tuổi, thoáng kinh ngạc.

- Vợ à? – Nàng hỏi. Cảnh bật cười trước ánh mắt của nàng.

- Khi bằng tuổi cháu, phụ hoàng đã có vợ. – Cậu Đông cung thong thả nói, vẫn đều đặn bước. – Quốc mẫu cùng mẫu hậu đang chọn lựa, có thể là con nhà họ Tống và vài người nữa.

- Vài người nữa? – Ngọc Du hỏi lại như không nhận ra ý nghĩa trong câu nói ấy. Cảnh nhìn nàng, đôi mắt bình thản.

- Một phu nhân và vài hầu thiếp. Quốc mẫu nói, có thể năm sau phụ hoàng lại ra lệnh tấn công. Vậy thì phải gấp rút lo cho xong việc gia đình của cháu.

Nàng chớp mắt, rồi gật đầu, giấu vẻ ngạc nhiên của mình lại. Ồ, thằng bé đã lớn rồi, nàng nghĩ. Nó đã không còn là đứa trẻ năm xưa, đứa trẻ đã từng thề chỉ lấy một người vợ duy nhất, đứa trẻ đã cho rằng tục lệ năm thê bảy thiếp là “trái với tự nhiên”. Nó đã chấp nhận, đã thay đổi, đã chấp nhận cả những nỗi niềm của người mẹ. Nó đã lớn lên và đổi thay. Nó làm như mình đã quên, hoàn toàn quên những gì mình đã từng nghĩ, từng tin.

Có thể, đó cũng là yêu cầu của chúa Nguyễn. Phúc Cảnh, cậu Đông cung nguyên nhân của hầu hết mọi tranh cãi trong triều. Giáo sĩ giành giật sự ủng hộ của cậu ta, các quan đong đếm thái độ của cậu ta. Cậu ta đánh bạn với các thủy thủ Tây dương, đọc sách Tây dương, nói được cả một vài câu tiếng Tây dương – kết qủa của sự gần gũi với Bá Đa Lộc. Để xua tan mọi nghi ngại trong triều, chúa Nguyễn – có lẽ là cả hai cha con – đã quyết định tấn công vào điều luật quan trọng nhất trong những điều luật của Gia-tô giáo. Cũng giống như ngày xưa chúa Nguyễn mười chín tuổi cười cợt Bá Đa Lộc. Đông cung đã lớn lên, đã dần rời xa những giáo điều Gia-tô giáo, đã tìm thấy sự hỗ trợ trong những người đồng chủng hoàn toàn khác biệt. Đến thành Diên Khánh theo Đông cung, có lẽ Bá Đa Lộc vẫn còn hy vọng ảnh hưởng lên tới cậu ta, nhưng rốt cuộc vị giáo sĩ chỉ lôi kéo được một Tống Phúc Đạm sắp chết, đã chết. Đông cung đứng bên, bên tất cả những hoạt cảnh ấy, sự tranh cãi ấy, nhìn tất cả bằng cặp mắt bình yên và thản nhiên, xa lạ đến lạnh lùng.

Lần này, bằng cuộc hôn nhân của mình, cậu ta đã dứt khỏi Gia-tô giáo, cắt đứt tất cả các ràng buộc để không còn đường quay lại. Chính thức, rạch ròi.

Trong lặng yên, họ đang vá sửa lại vết nứt vỡ đang hiện diện. Nàng nghĩ điều đó với nỗi buồn không biết đến từ đâu. Đó là cuộc sống của họ, nàng đã biết, luôn biết, đã quen thuộc. Nhưng nàng lại đang bâng khuâng nhớ đến cậu bé Phúc Cảnh ngày xưa, cậu bé lặng lẽ ngồi trong khoảng sân tối một mình.

Rồi nàng lại nghĩ đến những gì Cảnh nói trên đường về nhà. Năm sau vị chúa hẳn sẽ ra lệnh tấn công, điều đó hầu như là chắc chắn. Võ Tánh sẽ lại ra đi. Ra đi không biết chừng nào mới trở về. Và như bị một khối đá đè nặng lên lồng ngực, nàng cảm thấy khó thở.

- Năm nay hoãn lại để xem xét tình hình, năm sau chúng ta sẽ lại tiếp tục. – Võ Tánh thừa nhận với nàng khi được hỏi. – Các quan ở Bắc Hà đến ngày càng nhiều, cả các nghĩa quân ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thanh Hóa, Kinh Bắc… cũng không thể kiên nhẫn chờ đợi nếu chúng ta cứ im hơi lặng tiếng mãi. Chúa công đang chờ đợi thông tin từ cơ sở ở Phú Xuân để quyết định.

Nàng không lên tiếng, chỉ nhìn chàng. Ánh mắt nàng khiến chàng quay đi. Họ lại đang ra vẻ như không nhận thấy câu hỏi lửng lơ giữa họ.

- Cảnh năm sau sẽ cưới vợ. Anh cũng có muốn nạp thêm người không? – Nàng chợt hỏi. Chàng như thể giật mình mà quay sang nàng. Vẻ kinh ngạc trong ánh mắt chàng khiến nàng thấy buồn bực.

- Nàng lại đùa à? – Chàng hỏi, gượng cười. Nhưng ánh mắt nàng không có vẻ gì đùa cợt. Nó lạnh băng khi nàng thu chân ngồi hẳn lên trên giường, dựa lưng vào đầu giường.

- Cần có người đi theo chăm sóc cho anh. – Nàng nói như thể đang bàn công việc. Chàng vừa mở miệng, nàng đã ngắt lời chàng. – Sao có thể để cho anh tệ như khi ở thành Diên Khánh kia được nữa chứ?

Câu nói làm chàng lặng im. Câu nói gay gắt, khó chịu mà nàng thường dùng khi có điều phật ý, ra vẻ như không muốn người khác tranh cãi với mình. Nàng ném về phía chàng một cái nhìn cũng khó chịu như vậy rồi quay ra phía cửa sổ.

Mình đang làm gì thế này, nàng bắt gặp mình tự hỏi. Ý định ấy buột ra khỏi miệng mà chính nàng cũng không chủ ý, nhưng lại biết rằng cần phải như vậy. Cần phải như vậy, như ngày xưa mẹ Cả đã đưa Nhị phi đến cho em trai nàng. Trên chiến trường, chàng cần một người chăm sóc, và đó không phải là nàng, không thể là nàng. Trong cơn đau trĩu nặng trong lồng ngực, nàng cần một giải pháp, nàng cần phải làm một điều gì đó để an ủi chính mình.

Có quan trọng gì đâu, nàng lại tự thuyết phục mình, bây giờ. Mọi người đều như vậy. Mọi người đều sống như vậy. Nàng là một công nương, có gì có thể đe dọa được nàng, các con nàng? Chẳng có gì thay đổi, chỉ là thêm một người trong nhà , chẳng khác gì thêm một cô hầu. Chẳng có gì thay đổi nếu người đàn ông có thêm một phụ nữ. Mỗi người đàn ông đều có nhiều phụ nữ, nàng đã biết điều đó từ lâu. Chẳng có gì ngăn chặn họ được, kể cả các giáo điều của thánh thần.

- Ta không cần. – Chàng nói trước khi quay lưng ra khỏi phòng. Giọng chàng trầm xuống như thể gió trong cơn bão. Chàng nổi giận.

Chàng ra khỏi phòng mà không một lần nhìn lại nàng. Chàng cũng không quay lại khi đêm đã buông. Khi đi tìm, nàng phát hiện ra chàng đã nằm ngủ trên chiếc phản kê ở phòng ngoài. Trong đêm mưa gió ầm ào, mưa tạt qua cửa sổ bên chiếc phản hắt vào ngay sau lưng chàng. Lặng lẽ, nàng trèo lên phản đóng cánh cửa sổ. Khi quay lại, nàng bắt gặp chàng đang nhìn mình.

- Thôi, không muốn thì thôi. Anh về phòng ngủ đi, ở đây lạnh lắm. – Nàng đấu dịu. Chàng vẫn chỉ đăm đăm nhìn nàng. Ánh sáng lờ mờ từ chiếc đèn từ hành lang rọi vào không để nàng nhận ra nỗi buồn trong mắt chàng.

- Nàng biết ta vẫn ghét nhất ở nàng tính cách này không? – Chàng nói, một lúc sau đó. – Ngay từ đầu ta đã tự nhủ rằng vốn không thể tin nàng được. Nàng rất giỏi thuyết phục người khác làm cho người ta phải theo mình, nhưng chỉ có thế. Ta biết là mình không thể tin nàng được.

Nàng ngồi xuống chiếc phản gỗ lành lạnh, quan sát chàng trong bóng tối mà không lên tiếng. Chàng lại nằm quay lưng về phía nàng.

- Thế thì phải làm sao đây? – Nàng hoàn toàn không có ý giễu cợt. Giọng nàng tan vào trong tiếng mưa. Nàng buông câu hỏi vào đêm, thoáng ngơ ngác.

Lưng chàng cứng lại. Cơn giận lại trào lên trong chàng không sao kiểm soát được. Chàng nhắm mắt, nghe hơi mưa sộc lên cổ họng.

- Nàng đi đi. Muốn làm gì thì làm. – Cuối cùng, chàng mở miệng. Nàng vẫn ngồi yên.

À, nếu vậy thì phải làm thêm một phòng riêng cho chàng, nàng nghĩ khi nhìn ra ánh sáng từ những giọt mưa đang rơi xuống. Chàng sẽ không ở cùng phòng với nàng nữa, khi có thêm một người cho chàng chọn lựa. Mọi việc trong nhà sẽ phải sắp xếp lại. Mà cũng chẳng có gì nhiều nhặn. Cô gái ấy sẽ đi theo chàng chủ yếu trên các chuyến hành quân. Chàng sẽ vắng nhà sáu, bảy tháng một năm, có thể là nhiều hơn thế. Vậy thì chẳng có nhiều xáo trộn.

Trẻ con, nàng muốn nói khi nhìn lưng chàng quay lại. Có người nào lại phản ứng như chàng? Đáng lẽ nàng mới là người phải buồn bực lẫn tức giận, đáng lẽ nàng mới là người mà chàng phải thuyết phục. Nàng nghĩ đến việc này để làm gì nếu không vì chính bản thân chàng? Trong một đoàn quân nghiêm khắc như của chúa Nguyễn, thậm chí cấm cả con hát vào trước trại, đây chẳng phải là cách đường hoàng nhất, giải pháp tốt nhất? Nàng đâu phải là trẻ con mà ghen tức những chuyện như vậy. Nàng đâu phải trẻ con mà cố chấp đến mức có thể để chàng ra sao thì ra như khi từ Diên Khánh trở về. Chàng chẳng hề nghĩ cho nàng lẫn những đứa trẻ dù chỉ một chút hay sao? Chàng là chồng, là cha, sao lại có thể khinh suất với bản thân mình?

Nghĩ đi nghĩ lại rồi nàng cũng nổi nóng. Phải, đáng lẽ ở đây nàng mới là người bị tổn thương. Đáng lẽ nàng mới là người mất mát. Đáng lẽ nàng mới là người được quyền đau buồn. Chàng thậm chí không thèm nghe nàng nói. Chàng thì có gì để tức giận, để tỏ thái độ này?

Đồ trẻ con. Nàng lẩm bẩm trước khi đứng lên, trở về phòng. Gọi cô hầu đến, nàng ném cho cô ta tấm chăn với cái gối.

- Đưa ra cho Tham thặng! – Nàng bảo trước khi đóng sập cửa. Chàng muốn ngủ ở ngoài đó luôn cũng được, nàng không cần. Trong cơn giận, nàng không thấy hình bóng nhỏ bé lấp ló bên kia cửa vườn nhìn qua.

- Hai con làm sao thế? – Từ phi hỏi ngay khi vừa thấy nàng. Theo lệ từ khi con bé vào lớp học trong cung, nàng đến đón nó mỗi buổi chiều. Nghe nàng đến, mẹ nàng gọi vào. Nhìn ánh mắt bà vừa lo lắng vừa phật ý, Ngọc Du nghĩ ra ngay con bé đã mách cho bà nó chuyện tối qua. Con bé nghe được đến đâu rồi?

- Không ai như nhà con, ai lại vì chuyện cưới hầu cho chồng mà cãi nhau như thế? – Không thấy nàng trả lời, Từ phi cau mày nói. – Sáng nay con bé buồn so, mếu máo vào mách bà, cả chúa công cũng nghe.

- Chúa công cũng nghe? – Ngọc Du ngẩng lên, thấy mẹ mình lắc đầu.

- Chúa công bảo với con bé, sau này ngài ấy sẽ làm luật bắt Phò mã chỉ có một vợ, không được cưới thêm ai nữa. Áp dụng cho bất cứ ai cưới vợ họ Nguyễn Phúc.

Ngọc Du nhướng mày. Giọng điệu nghe ngang ngược như thể đúng là em trai nàng. Nhưng một lần nữa, ở đây nàng mới là người thiệt thòi, có phải?

- Chồng con sao rồi? – Từ phi lại phá đi sự im lặng trong phòng. Ngọc Du ngoảnh mặt nhìn ra ngoài cửa cung.

- Sáng nay nghe nói là dọn đồ vào doanh trại ở. – Nàng lầm bầm trả lời trong cơn giận. Chàng đã cho cô hầu vào phòng sắp đồ, thậm chí không báo cho nàng một tiếng. Đến chiều, quân của chàng về lấy thêm đồ đạc, nàng mới biết. Từ khi cưới, đây là lần đầu tiên chàng dọn ra khỏi nhà khi không có công việc. Vì một cuộc cãi vã không đâu mà nàng vẫn không thể hiểu được chàng đang giận cái gì.

Từ phi cau mày nhìn nàng. Cơn giận trong Ngọc Du bùng phát.

- Sao lại có người vô lý đến như thế? – Nàng rít lên qua kẽ răng. – Người khác còn phải trăm phương ngàn kế thuyết phục vợ cho cưới thêm hầu thiếp, đằng này lại đâm ra giận ngược là lẽ gì chứ?

- Bởi vì vợ họ không muốn. – Từ phi chậm rãi nói. – Còn con có muốn không?

Ngọc Du chớp mắt nhìn mẹ như không hiểu ý bà. Bà thở ra.

- Ta là vợ đầu tiên của cha con, nhưng do thân phận không cao nên chỉ làm lẽ. Tuy thế thì ta cũng biết cảm giác của người thấy chồng lấy thêm vợ. Ta biết con làm gì cũng có lý lẽ của mình, nhưng con thử nghĩ đến điều mình muốn thay vì điều mình thấy cần thử xem. Ta là mẹ, tất nhiên ta thương con, ta muốn con có được thứ mình muốn hơn là thấy con lúc nào cũng đi lo lắng cho người khác. Chúa công cũng vậy. Mà chắc là chồng con cũng thế.

Nếu con thật sự muốn chồng lấy thêm vợ khác, thì hẳn là con không cần chồng con nữa. Đến con của con nó còn biết lo sợ, lẽ nào con lại vô tình đến như thế? Con không nghĩ chồng con có cảm giác thế nào à?

Ngọc Du im lặng. Ta biết mình không thể tin nàng được. Nàng lại nghĩ đến câu nói ấy. Đêm qua, nàng đã không hiểu được. Điều nàng muốn và điều nàng thấy cần… Nhưng rốt cuộc thì có khác biệt gì? Dù nàng có đau lòng, có ghen tức đến bao nhiêu đi nữa, đây vẫn là điều nàng thấy nên làm. Dù có thật sự đau lòng đến bao nhiêu đi nữa thì có khác biệt gì? Có thêm nước mắt, có thêm tiếng khóc, có thêm dằn vặt rồi xáo trộn, gia đình sẽ chẳng lúc nào yên. Tình cảm không cần thiết chỉ đẩy hoàn cảnh thành tồi tệ thêm. Nàng nghĩ sự tự chủ bản thân này của mình là tốt. Luôn luôn, nó giữ cho nàng sự thăng bằng, giữ cho những đứa trẻ lớn lên an bình không sợ hãi, giữ cho ngôi nhà trở thành nơi chàng có thể nghỉ ngơi mà không phiền muộn. Có ích lợi gì nếu nàng thể hiện tất cả những gì mình nghĩ? Nàng có thể khóc khi thấy chàng tàn tạ trở về, nàng có thể khóc khi một mình sinh ra, nuôi nấng những đứa trẻ; nàng có thể khóc vì đủ mọi lý do. Để làm gì? Để tất cả mọi người xung quanh nàng trở thành bất hạnh, trở nên đau khổ hơn cả bây giờ? Để cuộc sống trở thành một địa ngục không có lối ra? Thật là những băn khoăn vô ích!

Những tỏ bày vô ích như thế thật chẳng để làm gì!

Con bé hết giờ học đi ra, mắt đo đỏ. Đây là lần đầu tiên thấy cha bỏ nhà đi, hẳn nó đã phải sợ biết bao. Con bé mím môi, xin nàng cho nó ở lại với các công nương nhỏ trong cung. Nàng gật đầu đồng ý, biết rằng nó sợ phải về thấy không khí trong nhà.

Còn lại một mình, nàng thả bước lang thang ra bến cảng.

Chính nàng cũng không muốn về nhà bây giờ. Chỉ còn thằng bé đã được các nhũ mẫu chăm sóc. Đã hết tuổi bú sữa, giờ thì nó có thể đi vững, lo được vài chuyện vệ sinh cá nhân cho mình. Bữa ăn của nó nàng cũng đã nấu xong trước khi ra khỏi nhà. Trong lòng buồn bực, nàng thậm chí không muốn nhìn thấy cặp mắt hoàn toàn giống chàng trên gương mặt thằng bé. Giờ thì nàng chỉ muốn được yên tĩnh một mình. Vào quán rượu, chọn một chiếc bàn trong góc, nàng chẳng ngần ngại mà gọi liền mấy vò. Rốt cuộc, chính chàng là người dọn ra ngoài, ra vẻ như không cần nàng. Vậy thì nàng phải lo lắng níu kéo làm gì?

Lúc này, nàng thấy vừa giận vừa thất vọng khủng khiếp. Với chàng, với chính mình, với cái hiện trạng này.

Rượu trôi qua môi nàng như nước lã. Đã bao lâu rồi, nàng tự hỏi, đã bao lâu rồi từ lần cuối nàng cảm thấy vị rượu đáng chán thế này? Có lẽ là khi đến đảo Phú Quốc lần ấy, nghe tiếng khóc văng vẳng trong đêm. Dường như cả vùng biển mênh mông đang khóc. Nàng đã uống như uống nước mắt. Đến bây giờ, đôi lần nàng vẫn tưởng thấy tiếng rì rầm vọng vang quanh đảo như thể sóng đánh dưới chân ngôi nhà. Sóng đánh dập dềnh dưới chân ngôi nhà, xung quanh nàng, rì rầm như ngàn cơn bão cuộn xoáy từ ngàn xưa đã trôi xuống bãi đá.

Những bất an thưở ấy lẫn bây giờ đều chẳng khác gì nhau.

Thật ra nàng đã làm gì sai? Mà đúng hay sai thì cũng có ý nghĩa nào? Có những việc nàng biết mình nên làm, phải làm. Việc duy nhất mà nàng có thể làm cho bản thân là chôn vùi những bộc phát xuống, chỉ duy nhất như thế, vậy mà không thể được. Việc duy nhất mà nàng có thể làm là giữ cho mình một chút bình an. Lo lắng cho kẻ khác và muốn được yên thân, phải chăng từ dạo ấy đến bây giờ nàng đã luôn như thế? Nàng chỉ cầu chút yên ổn cho mình mà nào có được. Chàng nghĩ gì cho nàng? Chàng có muốn biết nàng nghĩ gì?

Chàng có biết những đêm sau khi chàng về từ Diên Khánh, nàng chẳng mấy khi ngủ được? Trong đêm, nghe tiếng thở khô khan trong lồng ngực chỉ còn da bọc xương của chàng, ngửi mùi khói, mùi đất, mùi cái chết ngấm sâu trong chàng, thỉnh thoảng lại nghe chàng nói trong cơn mê về những hiệu lệnh lẫn tên người, nàng không ngủ được. Cái chết của Tống Phúc Đạm ám ảnh nàng. Nàng sợ nếu ngủ đi, sáng mai bên cạnh nàng chỉ còn là một xác chết lạnh ngắt, đông cứng. Một viễn cảnh mà nàng thậm chí không dám thừa nhận rằng mình đã nghĩ tới. Chàng cứ đùa cợt, cứ tỏ ra mình bình thường, cứ theo đuổi những ý nghĩ cao xa nào đó của mình, trong khi nàng phập phồng lo sợ cho từng hơi thở của chàng. Những điều ấy, chàng có bao giờ nghĩ tới chăng? Hay là chàng chỉ mải mê đi, mải mê nhìn theo vị chúa, rồi trở về với nàng bằng một thân xác rách bươm, mặc cho nàng sợ hãi lẫn đau lòng? Nàng cũng mệt mỏi rồi, nàng mệt mỏi với những lo sợ và bất an. Nàng sai sao, khi chỉ muốn tìm một giải pháp nào đó để lo lắng cho chàng? Nàng làm thế vì cái gì?

Nàng cắn môi nhìn ra ngoài cửa sổ quán rượu. Mặt trời đang xuống phía bên kia dòng sông. Bầu trời hồng lên một màu ráng chiều phơn phớt, thắm xanh lại. Cảnh sắc đẹp đẽ này chỉ làm nàng càng cảm thấy u buồn. Chớp mắt, một ngày đã qua, đã qua trong sắc màu rực rỡ của nó, sự tàn lụi huy hoàng. Còn nàng, khi đã bước vào buổi hoàng hôn của cuộc đời này, vẫn còn qúa dại dột, qúa chông chênh.

Nàng nhìn hoàng hôn trải mình trong cơn gió ấm, không để tâm đến quán rượu ngày càng đông cho đến khi nghe tiếng gọi bên cạnh. Công nương, người Tây dương mắt xanh nghiêng người nhìn xuống nàng như ngạc nhiên. Có lẽ anh ta không ngờ lại gặp nàng trong một quán rượu hầu như chỉ toàn đàn ông qua lại.

Anh ta nói ra điều đó với một nụ cười.

- Với nghĩa vụ là người bảo vệ cho chúa công cùng gia đình, tôi có nên đưa công nương ra khỏi đây không? – Anh ta nói với giọng nói nhẹ bỗng, chẳng có mấy thật lòng. Nàng ngoảnh đi.

- Thay vì thế, anh đuổi hết quán rượu đi thì tốt hơn. – Nàng nói như thách thức. Người Tây dương nhún vai, đi về phía ông chủ quán sau quầy rượu. Một lúc sau, nàng nghe tiếng nói bên mình lặng dần khi người trong quán đã lục đục đứng lên. Ông chủ quán đứng trước cửa cúi đầu xin lỗi họ bằng một gương mặt có vẻ vô cùng miễn cưỡng. Người Tây dương ngồi xuống trước nàng, vẻ mặt vẫn thản nhiên.

- Đây là việc rất bình thường khi chúa công cùng thân tộc, bộ hạ ra ngoài. – Anh ta nói khi thấy thái độ của nàng. – Cứ trả tiền bao cả quán là xong.

- Anh thật là hộ vệ tốt. – Nàng nói, thoáng mỉa mai. Cả anh cũng đi luôn thì tốt, nàng nghĩ thầm. Nàng không có tâm trạng để nói chuyện lúc này.

Nhưng người Tây dương làm ra vẻ chẳng quan tâm đến cả câu nói lẫn ý muốn của nàng. Anh ta lôi sau lưng ra một chai rượu tây, tự rót tự uống. Hết ly rượu rồi anh ta mới nhìn nàng chăm chú.

- Công nương có chuyện gì buồn bực à?

Nàng nhếch mép, không trả lời. Sự buồn bực của nàng hẳn đang thể hiện qua khuôn mặt, và còn lý do gì khác mà nàng đang ngồi ở nơi đây uống rượu một mình? Tiểu nhị đang đi thắp đèn trong quán khi màn đêm dần buông. Nàng lại nhớ đến cuộc gặp trong quán rượu Long Hồ một ngày xa xôi nào. Ký ức làm tim nàng nhoi nhói.

- Các thủy thủ như anh vẫn có vợ chứ, phải không? – Nàng chợt lên tiếng hỏi. – Các anh mấy năm mới về một lần thì những phụ nữ thế nào?

- Họ ở nhà đợi. – Người Tây dương trả lời nàng ngắn gọn.

- Nếu chồng họ không về nữa thì sao? – Nàng nhìn vào đôi mắt xanh đang sẫm lại trong bóng chiều của người Tây dương. Đôi mi dày của anh ta khẽ chớp.

- Thế thì cũng phải khá lâu họ mới biết. Nhưng luật của Gia-tô giáo cấm ly dị, nếu muốn đi bước nữa thì họ phải tìm được chứng tử, thường là do các chủ thuyền cấp cho thủy thủ của mình. Dù thế thì họ cũng không được vào nhà thờ làm lễ hôn phối.

Chuyện đó thì quan trọng gì, suýt nữa nàng đã buột miệng thốt ra. Nàng lại rót một ly rượu khác, nhìn người Tây dương nhấm nháp thứ nước cay của mình.

- Nếu có một người phụ nữ giống như vợ các anh đi theo trên thuyền mà không gặp rắc rối, các anh có chấp nhận không? – Nàng nói, vẫn săm soi cặp mắt xa lạ cả về màu sắc lẫn dáng hình kia.

- Nghe giống như tàu của hải tặc Hải Nam. – Người Tây dương cười khẽ. – Nhưng nếu công nương hỏi rằng phụ nữ có cần cho đàn ông trên đường lênh đênh không – thì Có. Chúng tôi ghê tởm người đồng tính ái, nhưng trong giới thủy thủ vẫn loan truyền những câu chuyện như thế, đủ thấy sự bức bách của những chuyến tàu dài ngày, có khi kéo cả năm, vài năm. Chúng tôi không phải là các linh mục. Cuộc sống của chúng tôi không êm đềm. Những khu nhà bên bến cảng bao giờ cũng đầy những trò thác loạn chính là để các thủy thủ giải tỏa trầm uất. Ngay cả với người Tây dương, giới thủy thủ vốn cũng nổi tiếng như bọn du đãng trên mặt biển.

- Anh không giống như bọn họ. – Nàng cau mày. Qua Bá Đa Lộc, nàng cũng đã biết về thành viên ngoan đạo gần như duy nhất trong đoàn quân Tây dương. Người Tây dương nhìn nàng, không trả lời.

- Công nương buồn bực vì Võ Tham thặng? – Thay vì thế, anh ta hỏi. Nàng không thích cái lối thẳng thắn này. Anh ta không được phép hỏi về chuyện gia đình của người khác, anh ta có biết? Theo ánh mắt anh ta lẫn lối anh ta nói, nàng biết người Tây dương đang hiểu sự việc thành hoàn toàn khác.

- Từ lâu tôi đã hâm mộ hai vợ chồng công nương. – Người Tây dương nói, sau một lúc lâu quan sát nàng. – Ngay từ khi nghe chuyện hai người, tôi đã rất hâm mộ. Một qúy tộc và một kẻ thảo dã, chỉ nội điều đó thôi cũng làm cho người ta kinh ngạc. Ngay cả ở Phú Lang Sa, người ta đang đánh giết nhau, qúy tộc và thảo dã đang đánh giết nhau, chẳng ai làm được như hai người. Ngay cả trong những câu truyện lãng mạn của chúng tôi, các cặp nhân vật chính cũng phải ở cùng chung địa vị.

- Ngốc thật. – Nàng bật cười. Có lẽ nụ cười của nàng khá chua chát nên đôi mắt người Tây dương hơi nheo lại như vừa bị nhận một cú đánh phớt qua.

- Chẳng lẽ hai người… không yêu nhau? – Anh ta hỏi, ngập ngừng. Nàng nghiêng đầu nhìn ra dòng sông tối.

Lại một lần nữa, anh ta hoàn toàn hiểu sai. Hẳn anh ta lại đang nghĩ đến những cuộc hôn nhân chính trị đầy rẫy ở bất cứ nơi đâu. Ha, nàng là ai mà có thể chấp nhận cuộc hôn nhân như vậy? Và chàng yêu nàng, chắc chắn. Nàng không nghi ngờ điều đó, không một khoảnh khắc nào.

Giá mà không phải như vậy, mọi chuyện có lẽ sẽ giản đơn hơn.

- Chúng tôi có những câu chuyện cổ tích về nàng tiên yêu người phàm trần. – Nàng nói, một lúc sau. – Cuối cùng, tất cả nàng tiên đều bay về trời. Cả cô gái trên dòng sông, cô gái trong tranh vẽ, cô gái bị biến thành thú vật, cô gái trong qủa bầu, nàng Giáng Hương thăm cảnh chùa làm gãy cành mẫu đơn… Tất cả bọn họ đều bay về trời.

Khi nói, nàng vẫn nhìn vào bóng đêm. Bóng đêm trĩu trên cành nhánh đen thẫm ngả bóng là đà trên mặt sông. Bóng đêm lấp lánh trên mặt sông. Bóng đêm thoang thoảng trong cơn gió. Nàng muốn nói gì, chính nàng cũng không hiểu được. Bỗng dưng nàng nghĩ đến những câu chuyện ấy, sự chia ly tất yếu nằm trong kết cuộc của chúng. Bỗng dưng nàng rùng mình. Bỗng dưng nàng nghĩ đến nỗi chia ly và rùng mình.

Không phải Thạch Sanh giải cứu công chúa, không phải Chử Đồng Tử và Tiên Dung, nàng lại đang nghĩ đến câu chuyện về các nàng tiên phải bay về trời. Dù có yêu thương nhau đến đâu chăng nữa, trần gian này không phải chỗ cho họ, không phải là nơi để họ ở lại. Dù có yêu thương đến đâu chăng nữa thì vẫn phải chia ly. Mang thắt lưng, đôi cánh hay chiếc áo choàng vào rồi họ bay mất. Sự chia ly điềm nhiên và chắc chắn như số kiếp vốn không thể thay đổi.

Người Tây dương im lặng. Nàng im lặng uống hết số rượu đã gọi rồi đứng dậy ra về. Anh ta vẫn đi theo nàng. Trăng chiếu sáng trên con đường họ đi, biến cả thế giới xung quanh thành một biển sương trắng. Khu phố chợ vẫn sáng ánh lửa, đông đúc và huyên náo. Nàng nghĩ đến thằng bé hẳn đã ăn xong, lủi thủi chơi cùng những cô hầu, tự dưng lại cảm thấy có lỗi. Ghé vào một hàng bánh còn mở cửa, nàng mua một vài con giống cho trẻ con chơi, cả chong chóng nữa.

Khi nàng ngoảnh lại, người Tây dương vẫn ở đằng sau nàng.

- Công nương đi vào ban đêm chỉ có một mình thì không nên. – Không đợi nàng hỏi, anh ta nói. Nàng ngần ngừ một lát rồi gật đầu. Chàng cũng chẳng có nhà để hỏi nàng nếu như bắt gặp anh ta.

- Nước Phú Lang Sa của anh sao rồi? – Đang đi, nàng chợt hỏi. Có lẽ nàng cần điều gì đó để nói.

- Đang đánh Ý Đại Lợi, cướp bóc khắp nơi, từ khẩu đại pháo đến miếng giẻ rách. – Người đằng sau nàng hình như đã khịt mũi. – Đánh cả các quốc gia trung lập, cả các nước không hề liên quan. Ngay từ đầu Napoleon đã nói thế: “Các ngươi qúa nghèo khổ, ta dẫn các ngươi đến những vùng đất trù phú hơn…” Đội quân của hắn là một đoàn kẻ cướp không ai chịu nổi. Ở Paris, dân và lính đánh nhau liên tục. Tại một vùng trong đất Ý, dân giết năm tên lính rồi thành phố bị trừng phạt: Hàng trăm người bị giết, lính vào cướp bóc từng nhà, giết tất cả những ai không vừa mắt chúng. Hàng trăm thành phố bị như vậy. Đây là cách mà Napoleon dùng để lấy được đồ quân dụng, tiền cho chiến tranh và khích lệ tinh thần quân lính trước khi tiến đánh La Mã.

Nàng đột ngột đứng lại, quay nhìn. Người Tây dương đút hai tay vào túi quần, nhướng mày. Trong mắt anh ta là dòng thủy triều xanh thẫm.

- Đó là kẻ đã gia nhập vào nền Cộng hòa, dưới lá cờ ba sắc Tự do – Bình đẳng – Bác ái. – Người Tây dương nhếch mép như cười. – Kết tội Chúa và các con chiên, chúng đang định đánh vào Vatican. Chúng đang định lấy máu của cả châu Âu để dựng nên tượng đài cho mình. Napoleon, con trai luật sư nghèo ở hòn đảo thuộc địa, đang định lấy máu của cả châu Âu để làm một anh hùng. Như khi hắn dùng súng thần công quét sạch hai ngàn người trên đường để thành một vị tướng trong Nội các.

Nàng nuốt khan, lại quay đi. Người Tây dương này không còn khóc nữa, nàng nghĩ. Đất nước khốn khổ của tôi, anh ta đã thốt lên ngày ấy. Cả nỗi đau cũng đã đông cứng lại, trở thành quen thuộc, trở thành một nỗi niềm tất nhiên không thể tránh. Đất nước khốn khổ của tôi, nàng thấy tiếng kêu đó trong đôi mắt anh ta.

Ôm bọc bánh trong tay, nàng ngẩng nhìn trời. Rượu vừa uống vẫn còn thoang thoảng vị cay trong cổ. Chiếc chong chóng trên tay nàng quay nhẹ, cạ vào vai nàng. Trong một khoảnh khắc, nàng thấy cái chạm khẽ ấy an ủi mình. Những buồn giận trong lòng nàng dịu lại.

Thật ra chuyện này không đáng để cãi nhau, nàng thầm nhủ. Chàng rồi sẽ trở về thôi, nàng biết tính chàng chẳng để bụng chuyện gì lâu được. Rồi họ sẽ nói chuyện đàng hoàng, sẽ dẫn những đứa trẻ đi đâu đó chơi. Đã lâu rồi chúng không được đi ra ngoài Sài Côn. Lần con bé theo Phúc Cảnh đến Trấn Biên chơi cũng đã xa lắm rồi.

Đến trước nhà, nàng quay lại chào và cám ơn người Tây dương. Khi nàng đẩy cửa định vào, anh ta vẫn đứng khoanh tay nhìn nàng.

- Có chuyện gì thế? – Nàng hỏi, thoáng ngạc nhiên.

- Nếu có chuyện gì, công nương nên nói ra. Nếu quan tâm đến công nương, người kia sẽ rất muốn nghe. – Người Tây dương nói trước khi cúi mình, quay bước. Rất nhanh, bóng tối dưới những rặng tre nuốt lấy hình bóng anh ta.

Chú thích:

Ý Đại Lợi: Italia. Lúc này Italia còn chia làm các tiểu quốc nhỏ. Napoleon đánh từng tiểu quốc một.

42

Ba ngày sau Võ Tánh cũng không về nhà. Rốt cuộc nàng phải cho người đến doanh trại gọi chàng. Hai ngày sau nữa, chàng mới trở về. Thấy chàng, thằng bé đang ngồi trên giường chỉ giương mắt nhìn, vẫn không bỏ cái chong chóng xuống. Từ gần một năm trước, khi chàng về đến nhà, nó chỉ kịp làm quen với cha qua những ngày ngắn ngủi chàng dưỡng bệnh, sau đó chàng lại chỉ trở về nhà khi đêm xuống. Sự vắng mặt của chàng đã trở thành quen thuộc, và khi có đồ chơi mới, thằng bé sẵn sàng quên mất cha mình. Ngồi bên cạnh nó, Ngọc Du cũng chỉ ngước mắt nhìn, thậm chí không bỏ cái chong chóng còn lại đang cầm trên tay.

- Anh ăn gì chưa? – Nàng hỏi. Chàng lại về khi bóng tối đã bao phủ bên ngoài. Chàng không trả lời nàng, chỉ lắc đầu, tự tìm lấy chiếc ghế cho mình, ngồi xuống.

Ngọc Du quay về chơi với thằng bé. Một lúc sau nàng mới gọi nhũ mẫu đưa con về phòng. Khi nàng nhìn lại, chàng vẫn ngồi yên chỗ cũ quan sát nàng. Ánh lửa chập chờn trong mắt chàng.

- Mấy hôm rồi anh làm gì thế? – Ngồi thẳng người dậy, nàng hỏi, giọng nói vẫn bình thường như thể chàng vừa mới ra khỏi nhà buổi sáng.

- Làm công việc. – Chàng trả lời, dường như vẫn còn muốn thử xem câu chuyện này sẽ dẫn đến đâu.

- Rồi ban đêm? – Nàng nhướng mày. Chàng chợt cười rất nhẹ.

- Bọn quan tướng rảnh rỗi việc quân bắt đầu bày ra đủ thứ trò giải trí. Từ Nguyễn Văn Thành, Lê Quang Định, Nguyễn Văn Trương, Lê Văn Duyệt, Trần Phúc Tri, Nguyễn Thái Nguyên đến bọn Cai cơ, Cai đội, Tri bạ, Tham luận… đều sa đà vào đánh bạc, đá gà, đá cá cho chí đá dế ăn thua với nhau. Chẳng mấy nữa chúa công lại phải đi trách phạt hàng loạt người cho xem.

- Thế ra anh vào doanh trại là để thăm dò cho chúa công? – Thả chân xuống giường, nàng làm như vô tình hỏi. Chàng nhìn nàng, ánh lửa vẫn lay động trong mắt chàng như thể một tấm kính phản chiếu màn đêm, như một ô cửa sổ nhìn vào từ màn đêm.

- Ta cần phải suy nghĩ một chút. – Chàng nói, chậm rãi, một lúc sau. – Dường như mọi việc đã xảy ra qúa nhanh, qúa nhiều. Qúa nhiều việc đã xảy ra, ta lại qúa chú tâm đến những điều khác nên chẳng bao giờ thật sự suy nghĩ về điều ta lưu tâm bây giờ. Có thời gian rỗi rãi này, ta thật sự muốn suy nghĩ một lúc.

- Về điều gì? – Nàng hỏi nhưng lại có cảm giác e ngại câu trả lời. Chàng gõ ngón tay lên mặt bàn, ngoảnh ra cửa sổ.

- Về chuyện ta đã gặp một cô gái rất lạ. Một cô gái xinh đẹp, thông minh và có đầu óc chính xác. Chính xác, nghĩa là cô ấy thông minh, có thể nhìn và mô tả lại tất cả mọi điều, dù có thấy được hay không thấy được, dù là ở trong lòng người khác. Chính xác, nghĩa là cô ấy biết mình phải làm gì, nên làm gì, mọi chuyện đều phân biệt rất rạch ròi. Cô ấy khiến người khác run rẩy, cảm động, và có thể là say mê nữa. Vì thứ cảm xúc mà cô ấy gợi ra, vì vẻ đẹp của cô ấy, vì cả sự bất toàn của cô ấy. Nhưng là vì thế, vì thứ cảm xúc mà cô ấy gợi ra chứ không phải vì bản thân cô ấy, chẳng ai hiểu được cô ấy nghĩ gì.

Thậm chí, ta đã nghĩ rằng cô ấy là một người có trái tim lạnh lùng. Chỉ lạnh lùng thôi, không độc ác, đó là hai khái niệm khác nhau. Vì thế mà không thể ghét cô ấy được. Vì thế mà cô ấy chỉ nghĩ điều lợi cho người khác, đáp ứng được điều người khác cần. Chỉ lạnh lùng thôi, không nhẫn tâm, cũng không độc ác.

- Cô ấy chẳng biết yêu thương bất cứ thứ gì. – Nàng chậm rãi nói. Chàng quay nhìn nàng, thấy nàng mỉm cười. – Đó là điều anh đã nói, trước kia.

Họ nghe tiếng chiêng báo canh vang từ phía đầu làng. Tiếng dép cỏ đi trên mặt đường xa. Mọi thanh âm trong đêm đều vang vọng.

- Vậy ra, dù có làm gì hay không làm gì thì cũng chẳng có gì khác biệt, đúng không? – Nàng nói, nghiêng đầu để mái tóc xõa xuống vai. Nàng biết chàng thích hình ảnh ấy của nàng. – Đâu phải anh bỏ đi chỉ vì một lời gợi ý như thế.

Chàng không trả lời, chàng chỉ nhìn nàng. Nàng thở dài, đứng dậy đến ngồi ở cái ghế trước mặt chàng, bên kia chiếc bàn gỗ tròn.

- Ta không muốn bắt ép nàng bất cứ điều gì. – Chàng nói khi hai bàn tay nàng đan lại với nhau trên mặt bàn. – Ta cũng không yêu cầu gì ở nàng. Ngay từ đầu, ta biết mình không thể bắt ép hay yêu cầu được gì ở nàng. Chỉ là vì ta thôi. Chỉ vì tâm trạng ta lúc này không tốt.

Giọng điệu chàng nằm ở giữa khoảng cách của một lời xin lỗi và chút tiếc nuối, chua cay. Chàng qủa thật đã nghĩ về cuộc cãi vã này khi ở trong doanh trại, ngay cả trong những lần tham gia các trò đá cá, đá gà của quân tướng. Chàng đang đòi hỏi qúa nhiều, có phải? Chàng đã tự vấn trong những đêm dài hiu quạnh một mình. Một gia đình êm ấm, những đứa con ngoan, một người vợ hết lòng, chàng còn có thể đòi hỏi gì hơn nữa? Chàng còn hơn biết bao nhiêu người, trong thời đại này, thời gian này. Chàng đã qúa may mắn, đã qúa hạnh phúc rồi, sao lại có thể vì một chuyện không đáng mà nổi giận? Rốt cuộc thì nàng có lỗi gì? Không và có. Chàng không thích lối chăm sóc như thể đối với một đứa trẻ của nàng. Nàng đối với chàng tận tâm và mệt mỏi. Sự mệt mỏi rõ dần trong mắt nàng, trong sự trầm lặng có thể tưởng nhầm là dịu dàng đằm thắm. Bên cạnh nàng, chàng cảm thấy chỉ nội sự tồn tại của mình cũng đã là có lỗi.

Từ câu cợt đùa của Nguyễn Thái Nguyên, chàng giật mình nhớ đến câu mà chàng đã nói ngày xưa. Nàng tìm một văn quan nào đó mà lấy. Một người có thể ở bên nàng. Một người có thể chăm lo cho nàng. Nàng vốn dĩ không cần tình yêu. Trong lòng nàng là một khoảng không trống rỗng của bầu trời trên những gì đã sụp đổ, là khoảng không trên sa mạc. Ngày xưa chàng đã chỉ nghe theo ý muốn của mình, nhắm mắt bỏ qua mọi điều nàng đã nói. Đến bây giờ thì chàng lại thấy hối hận. Hối hận thay cho nàng. Nàng chắc chẳng hối hận. Nàng có một khả năng thích ứng và chấp nhận mạnh mẽ đến lạ kỳ. Nàng đón lấy cuộc sống, chấp nhận mọi điều nó đưa đến và lấy đi. Nàng tiếp tục cuộc đời mình, êm đềm và bình yên. Như thể chẳng gì có thể làm nàng gục ngã.

Có thể, chính cả vì điều đó nữa, làm chàng tức giận. Thất vọng, đau lòng.

Dù vậy, chàng biết mình đang vô lý, đang làm chuyện không nên. Chàng còn có những đứa trẻ, một gia đình bình yên, không thể vì chút cảm giác của mình mà làm tổn thương đến họ. Những ngày qua, khi cơn giận dịu xuống, sự đau lòng lắng lại, chàng nghĩ mình nên trở về và xin lỗi. Tiếp tục, giống như nàng, sống cuộc sống mà họ đang có, chấp nhận tất cả. Chẳng ai có được tất cả điều mình muốn trên đời này, vậy thì phải biết qúy trọng thứ mà mình có.

Nàng nhìn chàng, bên kia chiếc bàn. Chàng đã nói trước khi nàng cất tiếng. Bây giờ, nàng nghĩ đến những gì mình định nói, sắp xếp nó trong đầu. Rồi nàng lại phân vân lưỡng lự.

- Ngày xưa… anh có nhớ cha mẹ mình không? – Chàng có vẻ bất ngờ trước câu hỏi của nàng. Ngày xưa, nàng muốn biết tuổi thơ của chàng, những gì chàng chưa từng kể. Những gì chàng chỉ nhún vai hờ hững mỗi lần nhắc tới. Chàng không biết đến họ, chàng là một người không cội rễ, nàng muốn biết điều gì?

- Thỉnh thoảng ta có nghĩ đến họ. – Cuối cùng chàng trả lời. – Thỉnh thoảng ta muốn họ còn sống.

Ngọn lửa trên đèn chợt giật mình lay chuyển trong cơn gió. Từ đằng xa, họ nghe thanh âm của tiếng sấm vọng về, tiếng rào rào của một bầu trời bao la vô định.

- Thiếp có mẹ, có anh chị em, vậy mà nhiều lúc vẫn thấy rất cô đơn. – Hai bàn tay nàng vẫn đan vào nhau trên bàn. – Thật ra, thiếp chưa từng biết đến chuyện một mình sống là như thế nào. Thiếp nghĩ rằng không ai muốn cô đơn…

- Nàng đừng nói nữa. – Chàng đột ngột ngắt lời nàng. Chàng không muốn nghe nàng nói. Chàng sợ rằng sẽ bị nàng cuốn vào lý lẽ của mình, lý lẽ của nàng biến tất cả trở thành có lý để thuyết phục chàng. – Ta đừng nói đến chuyện này nữa, được không?

Nàng chớp mắt.

- Dù gì thì cũng chẳng làm được nữa đâu. – Nàng chợt cười. – Chúa công đã nghe chuyện rồi, bảo rằng sẽ làm luật cấm Phò mã cưới thêm vợ. Ngài ấy nói rồi sẽ làm thật đấy. Dù có “trái với tự nhiên” thế nào thì ngài ta cũng sẽ làm.

Chẳng qua chỉ muốn hỏi là: Có phải nhiều khi anh cảm thấy rất cô đơn? – Nàng nói, giọng trầm xuống, nhỏ nhẹ như thì thầm.

Chàng nhìn nàng, không nói.

Đã bao nhiêu năm tháng rồi, làm sao chàng còn có thể nhớ được? Chàng không biết, chưa từng biết thế nào là một gia đình. Vì không biết nên chàng cũng chưa từng cảm thấy tiếc nuối hay đau thương. Phải, đúng thật là không gì cả. Theo người anh trai, chàng đi qua những đường đất, núi cao, biển rộng, lăn mình vào trong những công việc phải làm để sống còn, tiêu khiển cùng những người bạn gặp gỡ trên đường đi.

Ắt hẳn lúc khó khăn, khi đau ốm, chàng cũng đã từng mơ về một gia đình, sự chăm sóc của người cha, người mẹ; nhưng rồi chàng đã quên.

Khi không còn là một đứa trẻ, mọi chuyện đã trở nên không quan trọng nữa.

Mắt nàng nhìn chàng từ bên kia bàn vẫn dịu dàng bình yên trầm lặng. Chàng thấy hiển hiện trong đó cuộc đời mình, những gì đã đi qua. Cùng với một cái chớp sáng lên của ánh lửa, tất cả đã tan vào hư không, biến mất.

- Vậy mà lúc nào cũng chỉ có anh hỏi han… - Nàng nói, hơi nghiêng đầu, mái tóc lại xõa qua trán nàng.

Lúc này, nàng thấy con người trước mặt chợt hóa thành lạ lùng. Những gì chàng đã trải qua, nàng không thể hiểu được. Nàng không thể hiểu được một con người đáng lẽ phải cô đơn như thế mà lại cũng bình thản như thế. Mất đi mọi thứ, không có mọi thứ, vậy mà vẫn có thể bình yên và thản nhiên đón nhận. Ngay cả với người thân duy nhất, người anh duy nhất và mối thù đáng lẽ không thể chung trời, chàng cũng đã chấp nhận. Chàng không cố chấp như nàng, không để bản thân bị hủy hoại như nàng. Chàng đón nhận cuộc sống và những gì nó đem tới bằng tấm lòng bao dung, bằng sự trong sáng mà nàng vốn đã không thể hiểu.

Nàng đã chưa từng bao giờ nghĩ nhiều về điều ấy, về chàng, cho đến bây giờ.

Mọi người đều mất mát, mọi người đều tổn thương. Nhưng họ vẫn tiếp tục sống, cuối cùng thì họ vẫn tiếp tục sống. Và không thể lấy đó làm lý do cho mình, có phải? Được và mất, tương phùng và chia ly, cuối cùng tất cả cũng chỉ là một – mẹ nàng đã nói khi dẫn nàng vào ngôi chùa nhỏ bà thường lui tới trên đảo Phú Quốc. Hạnh phúc trùng phùng hay thống khổ biệt ly, tất cả cũng chỉ là một. Mọi phiền não trên đời đều bắt đầu từ khi tất cả không còn là một. Được để rồi mất, gặp để rồi tan, mọi thứ đều xuất phát từ một căn nguyên duy nhất. Con cũng đừng cố chấp. Rốt cuộc, dù có thế nào thì mọi người vẫn tiếp tục sống, chẳng thể nào khác được.

Con có nhìn thấy không, những người quanh mình? Máu đã nhuộm đỏ Cù lao Phố, Chợ Lớn, Hội An; những xác người đã chất chồng lên nhau mùa hạn năm ấy ở Quảng Nam, Thuận Hóa… nhưng rồi những người còn lại vẫn tiếp tục sống. Bao nhiêu nước mắt, đắng cay, hoảng loạn, những nỗi niềm, cảnh tượng khủng khiếp nhất đã xảy ra, dù có mất đi tất cả, dù có khó khăn thế nào, con người vẫn tiếp tục sống.

Nàng chưa từng có hứng thú về Phật cũng như đạo giáo, nàng đã lơ đãng nghe và quên. Lúc ấy, nàng vẫn chưa có điều mà nàng coi là quan trọng với bản thân mình. Nàng vẫn còn đau lòng, rất đau lòng để có thể chấp nhận điều được coi như hiển nhiên mà mẹ nàng tâm niệm, “Được để rồi mất, gặp để rồi tan”, rốt cuộc chỉ còn có hư không là vĩnh cửu. Sắc tức thị không, không tức thị sắc, bà nói, nhìn sâu vào mắt nàng. Nàng ngoảnh đi, nghe tiếng sóng vang dội từ bốn phương. Nàng nghe biển ầm ào tiếng vang không chạm được tới lòng nước. Ở dưới đó chỉ là một khoảng lặng bập bềnh tới tức thở, những ngư phủ mò trai từng kể. Lặng yên, và càng xuống sâu càng cảm thấy bản thân như sắp tan thành từng mảnh, như bị ép nát, nghe tiếng sôi trào trong từng mạch máu như thể sắp vỡ tung. Hư không, có lẽ đó là hư không mà mẹ nàng muốn nói tới.

- Đừng khóc. – Chàng chợt lên tiếng. Chàng có vẻ ngạc nhiên lẫn bối rối. Một giọt nước rơi xuống ngực áo nàng, làm nàng nhận ra mình đang rơi lệ.

Chàng vội vã đứng lên tới bên nàng. Như chàng đã luôn làm khi nàng khóc. Lần cuối cùng như thế cũng đã lâu rồi. Nàng nghĩ và quẹt tay lên mắt, nhưng lệ cứ tiếp tục tràn lên, nỗi buồn đầy ứ trong nàng. Hóa ra đến bây giờ nàng vẫn cứ là con người chấp nhất ngày xưa, mãi vẫn không thể chấp nhận được, mãi vẫn không thể học được cách chấp nhận và tha thứ. Cả thiên mệnh của đất trời, cả sự an bài của thần Phật hay Thiên Chúa, cả những biến chuyển của thế thời. Trước những điều tưởng như an nhiên ấy, nàng chỉ thấy đau lòng đến muốn vỡ cả trái tim trong lồng ngực.

- Không phải lỗi tại anh đâu. – Nàng lắc đầu khi tay chàng chạm vào nàng. Giọng nàng vẫn bình thường. Vọng vào tai nàng như thể một người khác đang nói.

Nỗi tuyệt vọng đã ăn sâu, bén rễ trong nàng giờ đây lại trổ cành đơm hoa. Nàng nghe sự rung động của nó. Gió thổi bời bời qua cánh cửa, và nàng nghe thanh âm vọng về từ khoảng không bao la của bóng tối.

Chàng ôm lấy vai nàng. Có vẻ chàng không tin lời nàng nói. Nhưng chàng chỉ để yên cho nàng khóc.

Rồi ai cũng sẽ phải sống tiếp, với bất kỳ vết thương nào, nàng nghĩ. Bất cứ ai. Không có cách nào tránh né. Nàng đã tìm cách tránh né, nhưng đó chỉ là sự ngốc nghếch của nàng.

Chị đang làm một việc ngốc nghếch. Nhị phi nói khi gặp nàng trong điện. Sự việc nhà nàng đã lan truyền trong những người thân, nhưng theo thói quen, họ không muốn can thiệp vào. Sự thẳng thắn pha lẫn bực dọc của Nhị phi làm nàng thấy lạ. Cô đã quen với nàng qúa lâu để có thể bày tỏ thẳng những gì mình nghĩ mà không sợ nàng phật lòng. Tuy vậy, sự bực dọc trong lời nói của cô khiến nàng thấy lạ.

Làm như vậy là giao chồng chị cho người khác. Cô nói tiếp, không để nàng lên tiếng. Chị qúa tự tin vào mình à? Chị có tất cả mọi thứ, địa vị, danh phận, cả sự yêu thương của chồng; cho nên chị nghĩ rằng không thể mất anh ấy được ư?

Dù sao thì anh ấy cũng trở về thôi. Nàng nói, tự dưng lại cảm thấy đuối lý trước đôi mắt sắc của cô gái nhỏ hơn mình bảy tuổi. Cặp mắt nhìn thẳng vào mọi thứ, không khoan nhượng.

Để em nói cho chị điều này: Tình yêu có thể đẩy người ta ra xa nhau đấy. Có khi sống với người mình yêu rất mệt mỏi, cho nên người ta thấy sống với người mình không yêu lại dễ dàng hơn. Nhất là đàn ông, chị biết rằng họ có xu hướng tìm người làm cho cuộc sống của họ trở nên dễ thở hơn? Tình yêu nhiều khi rất mệt mỏi, nhiều xung đột và những tình cảm nhiễu loạn. Nhất là những tình yêu đã bị tổn thương.

Nếu buông tay ra, chị sẽ mất anh ấy hoàn toàn. Cô gái nói, nhìn thẳng vào mắt nàng. Trong mắt cô, nàng thấy một sự thật hiển nhiên đã được chứng minh. Nàng biết những lời này của cô gái đến từ đâu. Cô đã lớn lên từ qúa sớm, sáng suốt và rạch ròi. Cô đã trưởng thành từ qúa sớm, không hề biết đến những giấc mộng lẫn mơ ước thiếu thời. Trong lời nói của cô, nàng thấy một sự quan tâm chân thành. Có lẽ người em trai cũng sẽ nói với nàng những lời y hệt như thế. Sự chân thành có thể làm tổn thương người khác.

Từ cung trở về, nàng cho người đến gọi chàng.

Rốt cuộc, nàng vẫn không khác gì khi ở độ tuổi đôi mươi, vẫn muốn níu kéo và phản kháng, vẫn không có được sự chấp thuận buông tay tỉnh táo mà nàng luôn theo đuổi. Đó là cội nguồn của đau khổ, mẹ nàng nói. Ngọc Tú có lẽ đã nhận ra, sự chối từ cuộc đời của cô không chỉ vì đau buồn hay thất vọng. Lấy được kinh đô cũ sẽ xuất gia thờ Phật, cô chỉ đang đợi câu trả lời cho cuộc đời mình. Trong tất cả bọn họ, nàng hóa ra lại là người khờ khạo nhất, chẳng thể nào hiểu được những biến thiên lẫn bất biến của đời.

Gió đưa cơn mưa ập xuống trong tiếng ầm ù vang động màn đêm. Nàng nắm lấy ngón tay chàng vẫn đặt trên vai, hít sâu vào một làn hơi đăng đắng.

- Đừng đi mất như thế. – Nàng thì thầm, thì thào. Trong làn không khí ngày càng đặc lại trong lồng ngực, ép chặt đến khó thở. Nàng lại nghĩ đến những người mò trai và lời họ kể về cảm giác khi trồi lên mặt nước. Cái đau xé đâm thấu qua từng mạch máu.

Mãi sau này, nàng mới biết đó là cảm giác khi chạm tay vào vĩnh cửu. Hư không vĩnh cửu.

Lúc này, chàng nắm lấy tay nàng, bao bọc cho nàng khỏi cơn mưa bên ngoài bằng hơi ấm của mình.

Cuộc thi Hội trong Gia Định năm Bính Thìn chấm đậu gần ba trăm Nho sĩ. Người đậu trường nhất được miễn binh dao từ hai đến sáu năm; người đậu trường nhì được bổ cao nhất là Lễ sanh, hạng cuối là Nhiêu học; người đậu trường ba được bổ đầu là Huấn đạo, Cống sĩ, Lễ sanh, ba hạng sau là Huấn đạo, Lễ sanh, Nhiêu học. Toàn bộ những người này được bổ về các địa phương để trông coi việc giảng dạy. Những trường công được thành lập trong Gia Định với sự bảo đảm miễn binh dao cho học trò của triều đình.

Chúa Nguyễn đã gọi Nguyễn Phúc Hội về, cho Huỳnh Đức ra trấn thủ thành Diên Khánh. Có lẽ cũng nhờ thế mà hai vị tướng này thoát được sự trách phạt của vị chúa. Đúng như Võ Tánh đã dự báo, ngài ta không hề hài lòng với tình trạng bài bạc lan truyền trong toàn quân, ngay từ những tướng lĩnh, quan lại cao nhất. Chỉ trách phạt được ban ra, hàng loạt cuộc cá cược bị dẹp. Thủy quân được cơ cấu lại, thêm hai dinh Tả, Hữu như bộ quân.

- Mọi việc đang dần hoàn thiện. – Nguyễn Văn Trương nói với Võ Tánh khi chàng đến cảng xem xét tiến độ đóng thuyền mới theo lệnh của chúa Nguyễn. - Năm sau chúng ta sẽ có thể tấn công tốt hơn nhưng chưa biết tình hình thế nào. Năm trước chúng ta bị chặn ở trên bộ vì đàn voi của Tây Sơn. Năm nay Tây Sơn nhận ra điểm yếu về thủy quân đã cho bọn Tề Ngôi phòng thủ chặt. Gia Định vẫn không ổn định, tín bài kiểm soát có thể bảo đảm ngăn chặn được một số vụ gây rối nhưng Thuận Thành lại bắt đầu phản kháng. Chúa công đến bây giờ mới bảo họ cấp voi nhưng vẫn cứ đánh động lòng người. Năm xưa người Chiêm được các chúa Nguyễn dùng như một đội quân rất hữu hiệu chống lại Trịnh. Hẳn họ lại nhớ tới chuyện ngày trước, không muốn bị họ Nguyễn thao túng.

- Anh đã từng ở đại bản doanh Tây Sơn, đó cũng là vùng đất Chiêm có phải? – Chàng hỏi. Đây là việc rất bình thường giữa họ, nhắc đến qúa khứ của Nguyễn Văn Trương. Ông ta được hầu hết mọi người trong triều coi trọng, kể cả những kẻ ghét bỏ Tây Sơn cùng cực như Tống Viết Phúc.

- Không có liên hệ nhiều lắm đâu. – Nguyễn Văn Trương làm một cử chỉ nằm giữa cái gật và lắc đầu. – Từ sau khi vua Chiêm bị đẩy khỏi thành Đồ Bàn, người Chiêm dần lui về phía Nam, vùng sa mạc. Chúa Nguyễn cho dân Việt mới tới khai phá, sống lẫn với người Chiêm và người Tàu. Dân Việt ở khu vực ấy có một phần rất lớn là tù nhân trong các đợt tấn công Nghệ An của chúa Nguyễn bị đày đến. Anh em Tây Sơn có thể có tổ tiên như vậy – quê hương của họ ở Nghệ An, hẳn thế. Rồi dần dà người Tàu đến, mà lại thường là lái buôn. Đại Chiêm trước kia nổi danh về thương cảng, sống bằng buôn bán và cướp biển. Khi người Tây dương đến, người Tàu ngày càng phát triển thông thương, họ bị mất ưu thế, dần dà suy sụp. Cứ thế tích tụ lại, chúa Nguyễn đã tự tạo cho mình một vùng đất chống đối. Chỉ cần thêm một mồi lửa, tất cả đã nổ bùng.

Chàng im lặng ngẫm nghĩ khi đi qua những con tàu đứng yên bập bềnh trên mặt nước. Nắng chói chang trải trên họ, báo hiệu một năm sắp qua.

- Thế thì ta hoàn toàn có thể thu phục được người Chiêm, người Thượng về phía mình. – Hiểu những gì chàng đang nghĩ, Nguyễn Văn Trương nói. – Nhưng đó cũng vẫn là một công việc khó khăn. Ký ức của ngày xưa khó có thể một sớm một chiều tan được. Họ sớm đầu tối đánh cũng vì thế. Người Miên coi như đã ổn sau khi chúa công đưa vua họ về lập lên ngôi để họ thoát được sự cai trị của Xiêm La.

Năm sau đi đánh sâu vào đất địch thì cần rất nhiều sự hỗ trợ của dân sở tại. Chàng hiểu những gì Nguyễn Văn Trương chưa nói ra. Từ Thạch Thành của người Chiêm ở Phú Yên đến vùng Quảng Nam của dân Thượng đầy những thổ hào. Quãng đường đến Phú Xuân của họ bị chia cắt thành muôn vàn mảnh nhỏ. Quy Nhơn nằm đó, chắn giữa họ, như một bức tường kiên cố bướng bỉnh.

- Đại Thanh đã bắt đầu siết chặt bọn hải tặc. – Nguyễn Văn Trương một lần nữa đổi đề tài. – Sau khi hoàng đế Càn Long mất đầu năm nay, ông vua mới hẳn đang muốn làm một việc gì đó củng cố địa vị của mình. Nghe nói họ đã bắt được một số thuyền hải tặc có mang dấu sắc phong của triều đình Việt.

- Bọn Hà Hỷ Văn sao rồi? – Chàng hỏi, nhận ra cách dùng từ kỳ lạ của Nguyễn Văn Trương. Ông ta thở ra.

- Ta cho chúng toàn quyền đi chiêu tập người. Nhưng chúng là một bọn tham lợi bừa bãi, chỉ e rằng chúng cứ sắc phong bậy bạ. Ta phải nói với chúa công kiểm soát chúng lại thôi. Tuy rằng nhà Thanh bắt được sắc phong của Tây Sơn là nhiều, ta cứ chờ xem họ sẽ phản ứng thế nào.

- Chúa công lo chuyện trong đất đã đủ mệt rồi. – Chàng nói. Nắng vẫn lấp lóa trên mặt nước. Nguyễn Văn Trương nhìn chàng qua đôi mày hơi nheo lại. Nhưng ông ta không lên tiếng.

Chuyện trong đất đã qúa nhiều rồi, chàng nghĩ thầm. Cấp thẻ bài cho người trong Gia Định, bắt phải kê khai lý lịch hàng loạt từ dân đến tướng, toàn bộ quan lại địa phương đã bị huy động vào công việc chất chồng không có hy vọng sẽ hoàn thành sớm. Quan từ Bắc Hà đến, vừa được kết nạp sau cuộc thi Hội, từ những người chạy về tự tiến cử đã làm triều đình xáo trộn. Vừa sắp xếp lại triều đình, vị chúa vừa nghĩ tới chuyện đưa họ vào quy củ. Bộ Lễ được chỉ định đặt ra phẩm phục, nghi lễ mới. Tiền dùng trong Gia Định cũng đã hư hỏng nhiều, các quan đề nghị đúc loại tiền mới cho vị chúa tên gọi Gia Hưng thông bảo. Các mỏ sắt, diêm tiêu được khai phá, cùng với đợt khuyến nông đưa ra hồi đầu năm làm công việc của họ càng bận rộn hơn lúc nào.

- Tất cả đều phải vất vả. – Nguyễn Văn Trương gật đầu, một lúc sau. Chàng đột nhiên bật lên tiếng cười.

- Chỉ có tướng chúng ta thời bình thật là an nhàn. Nghe nói anh cũng bị khiển trách trong vụ đánh bạc vừa rồi? – Chàng nói với giọng cợt đùa nhẹ nhàng. Nguyễn Văn Trương như thể chỉ chờ chàng nhắc đến việc ấy, dễ dãi cười.

- Ồ, chúng ta đã biết đến cung vàng điện ngọc, quy củ phép tắc bao giờ đâu. Đánh trận thế này, ai biết ngày nào chúng ta sẽ chết? Dù cho anh có nằm trong Tứ trụ đại thần đi nữa, cũng đừng nên qúa khe khắt.

- Tứ trụ đại thần? – Chàng đột ngột đứng lại, cau mày. Nguyễn Văn Trương nhún vai.

- Chúa công đã bỏ chức vị này lâu rồi, hình như ngay sau khi Đỗ Thanh Nhơn chết, hoặc sau khi Châu Văn Tiếp mất, tôi cũng không rõ. Nhưng trong triều chúa Nguyễn có chức vị gọi là Tứ trụ đại thần mà Tây Sơn đang bắt chước bây giờ. Từ khi chúa Nguyễn đến miền Nam, trong đoàn người đi theo đã có nhiều kẻ thân tín thế lực tương đương với chúa, liền đặt ra Tứ trụ gồm bốn người Tiền, Hậu, Tả, Hữu là bốn thế lực mạnh nhất, đến chúa còn phải kiêng nể. Anh có biết là suốt từ chúa Tiên cho đến Định vương, các chúa Nguyễn đều phải canh chừng, bị kiềm hãm bởi bốn vị Tứ trụ của mình? Nếu chỉ huy được họ, nhà chúa sẽ rất mạnh. Nếu bị họ lấn lướt, nhà chúa sẽ tan tác vì Tứ trụ không ai chịu ai, sẽ đánh lẫn nhau để giành quyền lực. Đó là trường hợp của Trương Phúc Loan xưa. Quân đội nhà Nguyễn vẫn mạnh để có thể đánh bại Xiêm La nhưng lại không thể bảo vệ mình, khi có việc thì mỗi người chạy một hướng, trong lúc Trương Phúc Loan dẹp Đông dẹp Tây bảo vệ quyền lực của mình, rồi bị các quan giao cho quân Trịnh. Sự thua trận lại có thể dẹp bớt đi tranh chấp trong triều, cả chức vụ Tứ trụ đại thần. Đó là con dao hai lưỡi. Ban qúa nhiều quyền lực cho kẻ dưới thì sẽ đến lúc bị phản ngược lại.

Nhưng vị trí của anh cũng tương đương như vậy. – Nguyễn Văn Trương nhìn chàng cười. – Trong triều chỉ có bốn vị Quận công, một là Đông cung, một là Quốc thúc; và thứ ba là Tham thặng, người còn lại là Nguyễn Phúc Hội. Xem ra cũng đủ bộ Tiền, Hậu, Tả, Hữu. Chỉ khác là bây giờ không ai nằm ngoài bàn tay của họ Nguyễn Phúc được nữa.

Nguyễn Văn Trương nói tất cả những chuyện này rất điềm nhiên khiến chàng phải lấy làm lạ. Hẳn ông ta đã học, đã biết về công việc của triều đình họ Nguyễn từ những ngày trong Tây Sơn. Hẳn ông ta đã phải phân tích để chọn lựa, tìm đường cho mình. Hiện tại, ông ta vẫn quan sát, vẫn phân tích, vẫn ngẫm ngợi. Chàng không biết đó là thói quen hay là con người thật của Nguyễn Văn Trương. Nguyễn Văn Trương – vị tướng ghét giết chóc trên chiến trường, trầm tĩnh và tận tụy với bất cứ điều gì mình làm.

Và cũng rất tinh ý. Nguyễn Văn Trương nhận ra khoảng im lặng của chàng, nụ cười càng mở rộng với một cái lắc đầu.

- Từ khi còn nhỏ, tôi đã luôn mơ ước trở thành một vị tướng. – Ông ta nói với một chút trầm ngâm. – Từ khi còn chăn trâu trong đồng cỏ, tôi đã hay cùng với bọn trẻ con chơi trò đánh trận giả. Rồi họ tới, anh biết đấy, ta chẳng cần phải mang họ Trương, họ Tống để có thể trở thành tướng quân. Chỉ cần thắng trận, chỉ cần đánh thắng trận, ta đã có thể rũ bỏ được thân phận nghèo khổ ô nhọc của mình. Lúc ấy, mọi điều đáng lẽ có thể là rất đẹp…

Thật ra tôi là một người không nhiều tham vọng. Tôi chỉ muốn thay đổi cuộc đời mình. Tôi không muốn cả đời mình chỉ là kẻ cắt cỏ, chăn trâu, sống và chết một cách phi lý, vô nghĩa. Tôi đã chăn trâu cho đến khi gần ba mươi tuổi, một quãng thời gian thật là dài. Thế là tôi nghĩ, ta phải thay đổi thôi. Một triều đình là một triều đình, dù cho ai làm vua cũng vậy. Anh đã nói với tôi ngày xưa ấy, nhớ không? Thật ra kẻ nào cũng xuất phát từ chung một điểm, tự lấy cái mà mình muốn. Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn chẳng qua cũng như tôi, chăn trâu trên đồng; Lý Thái Tổ là con rơi trong chùa; Trần Thủ Độ là kẻ ngư phủ cướp ngôi vua… Ngay cả Nguyễn Trãi kia, làm bài Bình Ngô đại cáo say mê biết mấy, hy vọng biết mấy, hào hùng biết mấy, nhưng rồi ông ấy thay đổi được gì? Hay triều Lê ấy, ngay sau khi đuổi được quân Minh rồi vẫn giữ nguyên y hệt những cách cai trị của nhà Minh, cho địa chủ thỏa sức bóc lột; dồn đuổi người Thượng đã từng giúp họ những ngày khốn khó; tranh giành giết chóc nhau, giết cả vua, cả quan, cả thái tử lẫn hoàng tử? Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn đáng thương kia hy vọng được gì, được đền đáp gì? Hy vọng của họ được đáp trả như thế nào? Đằng sau những câu chữ trong bài văn đẹp đẽ kia là ngày tháng khốn khổ thế nào?

Một triều đình là một triều đình, chẳng có gì khác biệt. Đánh lừa niềm tin của người khác là tội lỗi đê mạt nhất thế gian. Ước mơ của tôi là làm một vị tướng, chỉ có vậy. Tôi muốn mình là một vị tướng có thể dựng xây nên triều đình đủ sức tồn tại, không phải vì bất cứ nguyên nhân nào khác.

Chàng lại nhớ đến ngày chàng đến Sài Côn để gặp Nguyễn Văn Trương trong cái quán được dựng đúng trên bến cảng này. Bây giờ ông ta nhắc lại đúng những lời chàng đã nói, đến mức chàng phải tự hỏi bản thân mình đã khác biệt với ngày ấy đến mức nào. Anh hoặc là giản đơn, hoặc là qúa ngây thơ – Nguyễn Văn Trương đã bảo chàng. Một câu nói được chúa Nguyễn nhắc lại sau đó, ngay lần đầu gặp chàng.

Bây giờ hẳn những ngây thơ ấy đã phôi pha cả rồi. Chàng dựa lưng vào hàng rào bao quanh cảng, nhìn ra những chiếc thuyền vẫn trôi trên dòng sông.

- Bây giờ tôi-Tứ trụ khác với Tổng nhung thế nào? – Chàng cười, một lúc sau. Nguyễn Văn Trương cũng đứng dựa vào hàng rào bên cạnh chàng, vươn vai nhìn về phía ngôi thành.

- Anh vẫn có thể nói với tôi những lời như ngày xưa được không? – Ông ta vừa cười vừa nói. – Nếu có gì không hợp ý, anh sẽ chống lại, dù phải trả bằng bất cứ giá nào?

Chàng quay lại, nhìn vào mắt Nguyễn Văn Trương. Đột nhiên, chàng thấy một nỗi đau mơ hồ trong ánh mắt, lời nói ấy. Bất cứ giá nào. Khi những gì đã từng tin tưởng yêu thương sụp đổ. Chàng đột nhiên nghĩ tới những gì ông ta và kẻ khác đã mất đi. Tất cả đều có cái giá của nó. Không chỉ đơn thuần là chọn lựa, thay đổi, đúng sai, đạo nghĩa.

Anh có trả giá không – bằng vợ con, bằng hữu? Anh có trả giá không – những tháng ngày đã bị phí hoài? Anh có trả giá không – nếu phải quay lại hủy hoại những gì đã từng trân trọng? Có những kẻ không thể trả giá. Có lẽ chàng cũng không thể.

Đó là điều khác biệt của một Quận công.

- Tôi chưa từng muốn giết họ. – Nguyễn Văn Trương nói nhỏ, một lúc sau. - Thật may, vị trí của tôi là ở trên tàu.

Phúc tướng của chúa Nguyễn, chàng muốn kể với ông ta những gì vị chúa đã nói. Vị hàng tướng được ngài ta coi trọng hơn cả thuộc hạ của mình. Nhưng thôi, chàng không cho rằng ông ta quan trọng điều ấy.

- Thêm hai dinh, thủy quân sẽ rất bận rộn. Chúa công tin rằng tướng quân sẽ làm tốt. – Thay vì thế, chàng đổi đề tài lại về công việc. – Ngài nghe rằng các thủy thủ Việt ngày càng tiến bộ, mong rằng có ngày chúng ta sẽ tự điều khiển được tàu lớn.

- Chúng ta đã tự điều khiển được, nhưng vẫn còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn. – Nguyễn Văn Trương trầm ngâm. – Năm sau, tôi sẽ xin chúa công cho chúng ta thử sức với Tề Ngôi hải phỉ. Thử xem hai bên, ai là kẻ kiểm soát được mặt biển!

À, chàng thấy ánh mắt sáng rực của một vị tướng. Có lẽ ánh mắt ấy không khác nhiều với cậu bé cưỡi trâu dàn trận năm xưa.

- Thế thì hẳn thú vị hơn đá cá. – Chàng cười. Nguyễn Văn Trương ngập ngừng cười theo.

Chàng lại nhìn ra mặt sông. Tự nhiên thấy trong lòng có chút chùng chình như trên chiếc tàu trôi trên biển lớn.

43

Những ngày đầu năm Đinh Tỵ đến Gia Định với hàng loạt lễ lớn nhỏ trong triều. Tết Nguyên đán, chúa Nguyễn ban áo cho các quan văn võ, chính thức chấm dứt tình trạng lôi thôi về phẩm phục khi vào chầu. Ngay sau Tết, lễ kết hôn của Đông cung diễn ra rộn rã. Đã lâu rồi không có ngày vui nào trong họ, Quốc mẫu vừa chấm nước mắt vừa nghe tiếng kèn sáo inh ỏi vang cùng tiếng pháo ngoài thành. Hầu như tất cả Sài Côn đổ dồn ra đón xem lễ rước dâu của Đông cung, cả các quan lại cũng đón chờ chúc mừng trước thành. Chúa Nguyễn cho đãi tiệc ba ngày để mừng lễ cưới của con trai cả.

Trong đám đông ấy chỉ thiếu mất một người. Thầy của Đông cung, Bá Đa Lộc.

Ngọc Du tìm thấy ông trong khu nhà của Cục Chế tạo vắng người. Mọi công việc trong Sài Côn đã được hoãn lại, chỉ còn vài người trực phiên ở coi vật dụng. Bá Đa Lộc ngồi trong phòng được dành riêng cho mình, cắm cúi trước một bản vẽ. Khi lại gần, Ngọc Du nhận ra đó là mô hình súng thần công loại nhỏ.

Nghe tiếng chân nàng, Bá Đa Lộc ngẩng lên. Một nụ cười miễn cưỡng đến trên gương mặt ông ta.

- Công nương không dự lễ à? – Ông ta hỏi, rồi chợt dừng lại, nhìn xuống bộ quần áo nàng đang mặc. – Công nương lại có tin vui?

Nàng gật đầu. Phụ nữ mang thai không nên đến dự lễ cưới nên nàng đã ở lại hậu cung. Ngồi xuống chiếc ghế kê cạnh cửa sổ, nàng nhìn Bá Đa Lộc rồi công việc dang dở của ông.

- Sao thầy không đến dự lễ? – Nàng hỏi, tuy nghĩ rằng mình biết câu trả lời. Bá Đa Lộc tránh ánh mắt nàng.

- Một tín đồ Thiên Chúa không thể chúc phúc cho một lễ cưới có đến ba người vợ, thưa công nương. – Sự lễ phép của ông ta lại có vẻ gì đó khá buồn bực. Nàng vẫn nhìn ông ta.

- Chỉ có một vợ thôi, Thượng sư. Còn lại là hai hầu thiếp của phu nhân Đông cung đem theo.

- Thế thì khác biệt gì, công nương? – Bá Đa Lộc ngắt lời nàng. Sự buồn bực của ông ta bộc phát không cần che giấu.

- Thế thì khác biệt gì khi tất cả mọi người đều sống như thế? – Nàng đáp lại, không khoan nhượng. Tay nàng chống lên tay ghế gỗ lạnh. – Cảnh là một Đông cung, nghĩa vụ của người kế thừa là sinh thật nhiều con cháu để nối dõi dòng họ, nhất là dòng họ đã gần như tuyệt diệt này! Đến bây giờ thầy cũng không hiểu sao?

- Người Tây dương không sống như thế cũng chẳng sao. Các người chỉ đang cố bảo vệ lý lẽ của mình về những hủ tục. Các người chỉ đang cố hủy hoại thằng bé. Nó không có gia đình, không biết đến tình thương, không biết hối hận, rồi cũng không biết cả tình yêu! Và các người đua nhau ngợi khen: Đông cung thật là tài giỏi, Đông cung thật nhân từ, Đông cung thật đáng kính. Các người chẳng hề thấy rằng nó không hề có bất cứ thứ gì hay sao?

Trước giọng nói gay gắt của ông giáo sĩ già, nàng chỉ lẳng lặng nhìn ông ta, không chớp mắt.

- Cả thầy cũng thế thôi, thầy Cả. – Nàng nói, một lúc sau. – Thầy là người Đông cung yêu qúy, nhưng thầy đâu có muốn gặp cậu ta bây giờ. Bây giờ, hẳn là Đông cung đang đưa mắt tìm kiếm thầy trong đám đông, trong lúc thầy ở đây chầm hầm tức tối vì chuyện tranh cãi của người khác với thầy.

Bá Đa Lộc im lặng. Cây viết lông chim trên tay ông lơi xuống. Ngọc Du nói tiếp, giọng khẽ khàng trong tiếng chiêng trống từ đám rước ngoài thành vang đến.

- Dù sao đi nữa, Đông cung rất yêu qúy thầy. Chẳng lẽ chúng ta không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài tư tưởng, thân phận của mình hay sao? Chẳng lẽ thầy định bỏ mặc học trò của mình à? Khi thầy biết tất cả người xung quanh chỉ tung hô thằng bé, thầy cũng định bỏ mặc nó, để nó day dứt với mặc cảm tội lỗi với thầy cho bằng được?

Vẫn chỉ có tiếng chiêng trống trả lời nàng. Bá Đa Lộc lại cắm cúi vào bản vẽ, ghi chú những dòng chữ la-tinh vào ngoài lề tờ giấy.

- Tôi đã già rồi, công nương. – Một lúc sau, ông mở miệng. – Nhiều khi tôi muốn rời khỏi nơi đây để trở về…

- Trở về? – Nàng hỏi rồi đột ngột im lặng. Muốn và được là hai chuyện khác nhau. Giờ đây Bá Đa Lộc không còn có thể dùng chiêu bài bỏ đi để ép chúa Nguyễn được nữa. Sau một thời gian hy vọng ngắn ngủi với sự cầm quyền trở lại của Girondin ở Phú Lang Sa, những giáo sĩ đã bị một đòn nặng nề khi Napoleon tuyên chiến với Ý Đại Lợi. Tuy Vatican là thánh địa bất khả xâm phạm trước nay của Âu châu, không thể nói trước điều gì với đội quân tàn bạo, vô thần của vị tướng nước Phú Lang Sa. Hàng vạn giáo sĩ đã bị trục xuất, lưu đày, hàng ngàn người tu đạo đã bị giết. Trở về, dù là Phú Lang Sa, dù là Vatican hiện tại, cũng đồng nghĩa với cái chết.

Sự quay lưng tuyệt đối của Cảnh trong thời điểm này đối với Bá Đa Lộc qủa là một đòn nặng. Vậy là hy vọng cuối cùng được làm một điều gì cho nước Chúa của ông cũng đã mất. Nàng nghĩ mình có thể cảm thông với tình cảm của người giáo sĩ, dù có thể không cùng ông đi một con đường.

Tôi đã già rồi, ông nói. Và nỗ lực của cả cuộc đời ông đang dần vuột trôi, trở thành vô nghĩa. Đến đoạn cuối của cuộc đời, ông lại đang nghẹn ngào trước những nỗ lực vô ích, những ước mơ không nắm được. Đến cuối cuộc đời, ông lại thấy những gì mình đã tôn thờ, tin tưởng bị đập vụn, phá nát. Không còn bất cứ nơi nào để ông có thể trở về.

- Các ông vẫn có thể ở lại nơi đây… - Nàng chậm rãi nói, một lúc sau. Cây bút rung rung trên tay Bá Đa Lộc. Một giọt nước lớn rơi xuống tờ giấy, làm Bá Đa Lộc vội vã lau đi. Nhưng nước vẫn tiếp tục tràn trong mắt ông, nàng đã thoáng thấy trước khi người giáo sĩ ngoảnh mặt tránh ánh mắt nàng.

Cuối cùng, ông gật đầu, chậm chạp đứng dậy rời khỏi phòng. Nhìn qua cửa sổ, nàng thấy bóng áo chùng đen đi qua đường Cấn Chỉ, hướng về phía tiếng chiêng trống đang vang.

Ông vẫn còn có những giáo sĩ dưới quyền, những tín đồ để bảo vệ. Nàng nghĩ ông hiểu những gì nàng định nói. Dù đã có những điều không thể chạm tới được nữa, họ vẫn còn sự sống để giữ gìn. Ông đang ở xứ sở này với nhiệm vụ của một Cha Cả, thay Chúa bảo vệ cho tất cả những con chiên. Sự an toàn của họ lại đang nằm trong tay kẻ lãnh đạo đất nước này, phụ thuộc vào cuộc chiến này.

Dù sao đi nữa, vẫn phải tiếp tục.

Lần xuất quân này, Cảnh sẽ đi theo vị chúa. Không còn phải lo ngại về biên ải phía Tây, họ sẽ dốc toàn lực đánh vào Quy Nhơn. Chỉ trong một năm, họ đã đóng được hàng chục thuyền lớn, đội voi chiến đã tăng hơn gấp đôi. Những lực lượng mới tăng cường này cần được thử sức. Ta muốn xem có thể tiến đến đâu, vị chúa nói. Dù sự thận trọng của ngài ta vẫn còn, nàng đã cảm thấy một chút nôn nóng – có phải không ở ngài ta mà trong những quan tướng đã được nghỉ ngơi hơn một năm dài.

Hơn một năm dài… Và đã chín năm kể từ khi họ trở lại Gia Định. Hai mươi năm kể từ khi vị chúa lãnh quyền Nguyên soái chỉ huy đội quân trong Gia Định.

Tất cả đều đã mệt mỏi. Tất cả đều đã nôn nóng. Hai mươi năm ròng họ không vượt qua được thành Quy Nhơn. Thách thức ấy bây giờ lại trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Với quân lực mạnh nhất từ trước đến giờ, họ đều muốn tiến xa hơn.

Chiếc áo chùng đen khuất sau những dãy nhà. Nàng rời mắt khỏi cửa sổ, đứng dậy về điện của Quốc mẫu.

Nàng đến khuyên nhủ Bá Đa Lộc vẫn còn vì một lý do khác. Đưa Cảnh ra chiến trận, vị chúa không thể để con trai mình thiếu người Thượng sư bên cạnh. Từ hơn mười năm trước, Bá Đa Lộc đã gắn bó với Cảnh gần như hình với bóng. Dù cậu Đông cung không bao giờ thừa nhận, luôn luôn muốn tỏ ra là không phải như thế. Dù Bá Đa Lộc đã cảm thấy bị bỏ rơi, bị xúc phạm, tổn thương ghê gớm. Họ đáng lẽ có thể là bạn tốt, nàng đã nghĩ. Bạn, hay một tình cảm sâu xa hơn như ông cháu, thầy trò, thậm chí cha con. Rốt cuộc, Bá Đa Lộc đã là chiếc neo duy nhất mà Cảnh bám víu ngay từ lúc nhận thức được thế giới xung quanh. Bá Đa Lộc đã là người đầu tiên dạy cậu bé cách nhận biết thế giới quanh mình – bằng những bài kinh và cuốn từ điển tiếng la-tinh, ngôn ngữ của người Gia-tô giáo. Người em trai nàng cũng nhận ra điều ấy, sự cần thiết của người giáo sĩ. Không chỉ vì ông cũng giỏi giang không kém gì những vị tướng trong quân. Ở thành Diên Khánh năm nọ, khi những vị tướng ít ỏi còn lại trong thành nao núng trước bốn vạn quân, những văn quan run rẩy trước tiếng đại pháo nổ sập từng mảng tường, Bá Đa Lộc đã vững vàng vừa đọc kinh cầu nguyện vừa chỉ huy phòng thủ. Người đàn ông Phú Lang Sa được gọi với chức danh Cha Cả ấy là một khối ý chí tưởng không có gì lay chuyển nổi. Ông ta có thể làm chỗ dựa tinh thần cho bất cứ ai.

Với điều kiện chúa Nguyễn phải điều khiển được ông ta.

Ồ, giờ đây nàng lại cảm thấy hơi bất nhẫn, nàng nghĩ khi nghe tiếng pháo nổ gần đến mức tưởng như chỉ ở ngay bên cạnh tường thành. Một viên pháo đại rất lớn đã nổ. Nàng nghĩ đến tàn tích tan tác có thể còn lại của khối giấy dày. Nàng nghĩ đến giọt nước mắt của Bá Đa Lộc hẳn vẫn còn lại vết ố trên tờ giấy.

Phụ hoàng đã đến gặp Thượng sư, Cảnh kể với nàng vài ngày trước lễ cưới. Phụ hoàng muốn Thượng sư đi theo cháu, nhưng Thượng sư không đồng ý. Ông ấy nói rằng các giáo sĩ đang bấn loạn về cuộc tấn công của nước Phú Lang Sa vào trụ sở Giáo hội nên phải ở lại trông nom công việc. Thuyết phục mấy lần không được, phụ hoàng liền nhân khi tế lễ bắt một viên quan theo Gia-tô giáo phải lạy bài vị các tiên vương. Khi ông ta không chịu, phụ hoàng liền bảo “Khanh ăn lộc nhà ta bao lâu rồi, cho khanh hưởng bao nhiêu danh vọng rồi mà không chịu lạy tổ tiên ta là lẽ gì? Khanh chưa từng lạy các thánh của mình sao? Họ cũng đã chết cả rồi, không trở lại nữa. Ta không tin ông bà ta có trong đền, có thể trở về mà ăn uống, nhưng đó chỉ là cách biểu thị lòng biết ơn của ta. Khanh là người Việt mà chỉ máy móc học theo, nghĩ theo những cách người ta bảo, không hiểu một chút nào cốt lõi văn hóa của chúng ta hay sao? Mỗi quốc gia có cách biểu thị văn hóa riêng của mình. Với Phú Lang Sa kia là những hội hè lễ lạc nhân ngày các thánh, với Xiêm La kia là cách ký gửi tâm linh, sự kính trọng vào Phật. Khanh có muốn ta gửi khanh đến Xiêm La để Phật vương bắt lạy Phật không? Lúc ấy khanh còn có thể từ chối được à? Hay là ta đã qúa dễ dãi với các khanh?”

Hay là ta đã qúa dễ dãi với các khanh? Ngọc Du cũng hiểu, toàn bộ những lời ấy là lời vị chúa muốn gửi đến Bá Đa Lộc. Vẫn còn kính trọng, vẫn còn gọi ông giáo sĩ Tây dương ấy là thầy, ngài ta không thể bắt ép ông. Nhưng giờ đây, với vận mệnh của Tòa thánh Vatican như ngọn đèn treo trước gió, khi đã bị cắt đứt hoàn toàn với giới qúy tộc ở Phú Lang Sa và cả Tây dương khi Âu châu run rẩy trước đoàn quân hung bạo của Napoleon, Bá Đa Lộc chỉ còn một nơi bám víu duy nhất là ơn nghĩa với triều đình Gia Định. Vận mệnh của tất cả các tín đồ, linh mục, giáo sĩ đã nằm trong tay chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn, chứ không phải ai khác. Ở Phú Xuân, những đạo luật hạn chế Gia-tô giáo bắt đầu được ban ra khi họ đã bắt được những bức thư liên lạc giữa các giáo sĩ báo tin cho chúa Nguyễn.

Nguyễn Văn Vân trở lại sau lần bị bắt bốn năm trước ở Phú Xuân khi đến thăm dò tình hình đã cho biết kẻ đang phòng thủ Quy Nhơn là Lê Trung cùng Nguyễn Văn Huấn. Tây Sơn cũng đang cử người đến lung lạc, quấy rối Thuận Thành. Đầu năm, Ba Phủ ở Thuận Thành, vùng tiếp giáp với Phú Yên, nổi loạn. Chúa Nguyễn phải phái Khâm sai Đô đốc Hiệu úy tiền chi Trung quân dinh Nguyễn Công Thái, hàng thần Tây Sơn người Phú Yên, điều đội Tượng binh hợp lực cùng Chưởng cơ và Chưởng trấn Thuận Thành dẹp loạn.

Sự kiên nhẫn của vị chúa cũng đến giới hạn, và Bá Đa Lộc biết mình không thể cứng rắn mãi bây giờ. Bây giờ, hoặc là ông phải tự quy phục thành một người trong hàng ngũ quần thần của chúa Nguyễn, hoặc là bị đào thải. Ngoài vị chúa, không còn nơi nào dung nạp ông, ngay cả trong triều đình đầy những kẻ chỉ hằm hè muốn lấy mạng ông này.

Nhưng vừa rồi, nàng đã thấy chạnh lòng.

Nhờ cô cô thuyết phục Thượng sư, Cảnh đã nói với nàng trước khi ra ngoài đón dâu. Vẫn là ánh mắt của đứa trẻ ngày xưa cứ ngoái mãi theo Bá Đa Lộc khi bị tách rời khỏi ông giáo sĩ. Vẫn cứ thảng thốt và lạc loài như ngày xưa ấy. Một ánh mắt thoáng hiện lên rồi tắt lịm.

Các người tước mất tất cả của nó. Bá Đa Lộc đã nói với nỗi muộn phiền thật sự. Một đứa trẻ không có tuổi thơ, không có thời niên thiếu lẫn thanh xuân. Nó lớn lên, trong triều đình, trong những trận đòn của mẹ, trong những giấc mơ tan vỡ và những hồi ức chỉ còn lại nỗi xót xa. Nó lớn lên, trưởng thành trong tiếng súng đại bác vang vọng quanh sáu bức tường thành, lăn mình vào chiến trận và chiến thắng. Nó chưa bao giờ biết đến thất bại, thằng bé ấy. Thay mặt cha mình, nó cai trị Gia Định hầu như tất cả các tháng trong năm. Một thiên tài, có người đã nói. Ảnh hưởng của thằng bé lên Gia Định này có lẽ ngang bằng với cha nó. Người ta đã không dùng chữ Cậu Cả nữa, tất cả mọi đứa con trưởng trong nhà đều bị đẩy xuống hàng thứ hai để tỏ lòng kính trọng với “ông hoàng Cả”. Trong Gia Định không bao giờ còn dùng chữ “cậu Cả” nữa, để dành cho một người duy nhất – Đông cung của chúa Nguyễn.

Nhưng cũng như Bá Đa Lộc, nàng nghe trong những thanh âm rộn rã này sự muộn phiền đang tràn lên từng đợt như những cơn sóng dưới mặt nước. Thậm chí, sau khi lấy vợ, Phúc Cảnh cũng sẽ không ở lại. Gió nồm sắp thổi, và nó sẽ lại ra đi.

Chúa Nguyễn đã để Võ Tánh hợp lực với Cảnh, để Bá Đa Lộc đi theo phù trợ cho đứa con. Đó là tất cả những gì vị chúa có thể làm.

Mỗi cuộc ra đi và gặp gỡ đều có thể là cuối cùng, trong thời gian này. Họ chỉ cố gắng để được ở bên nhau, mặc cho những khác biệt và tổn thương. Bá Đa Lộc hiểu điều ấy. Mặc cho bao khác biệt và tổn thương, họ vẫn còn yêu thương nhau đến thế.

Tháng tư năm Đinh Tỵ, bốn vạn quân Nguyễn cùng 447 thuyền xuất quân đến đánh Quy Nhơn. Nguyễn Văn Trương đánh dạt Tây Sơn tại cửa Tiên châu rồi Đầm nước ngọt. Trên bộ, Nguyễn Văn Thành cùng Võ Tánh đánh chợ Hội An tại Phú Yên đến La hai. Những trạm thông tin được đặt suốt từ Xích ram đến Ma ly để các đội quân thông suốt liên lạc. Chúa Nguyễn đến Cù Huân, lấy Huỳnh Đức đi theo, để Nguyễn Văn Khánh giữ Diên Khánh.

Nhưng ở Quy Nhơn, Lê Trung đã dàn quân giữ chặt mạn Nam, không cho quân Nguyễn tiến lên. Nhân lúc gió đang thổi mạnh, chúa Nguyễn đưa hơn một trăm thuyền đến tận Đà Nẵng. Thống lãnh Đặng Văn Chân của Tây Sơn liền rút hết thuyền chiến về cuối sông, dựa vào bộ binh của Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn để chống cự. Chúa Nguyễn tiếp tục phái Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành, Trần Văn Tứ đánh đến Hải Vân, gần sát Phú Xuân. Triều đình Phú Xuân vội vã sai Trần Quang Diệu đến phòng thủ Cửa Eo ngoại vi kinh đô của mình.

Trong vòng hơn một tháng, thủy quân Nguyễn làm chủ mặt biển suốt từ Thuận Thành đến Phú Xuân, tạo thành một màng lưới bao vây quân Tây Sơn trên bộ, cắt đứt mọi cuộc hành quân tiếp ứng. Cả những hải tặc Tề Ngôi cũng không thể giúp ích trước những con tàu Tây dương đầu bọc thép.

Tây Sơn bị phân tán tại các đồn quân rải từ Phú Yên đến Quảng Nam, dồn về Thuận Hóa để phòng thủ kinh thành. Thừa dịp, chúa Nguyễn sai Đông cung Cảnh đánh cửa Đại Chiêm lấy Chiêm dinh ở Quảng Nam, Hậu quân của Võ Tánh đi sau trợ giúp. Võ Tánh đụng độ với Đô đốc Nguyễn Văn Ngữ của Tây Sơn và đội Tề Ngôi, bắt được ba mươi thuyền hải tặc. Đông cung Cảnh đóng ở dinh Quảng Nam, Võ Tánh chiếm Hà Thân. Trong một nỗ lực phản công, Lê Trung đánh vào Đông An khiến Nguyễn Văn Thành phải lui về Bình Khang. Nhưng ở mạn Bắc Quy Nhơn, quân Nguyễn vẫn tiếp tục khuấy đảo. Nguyễn Văn Trương đánh bại phó tướng của Trần Quang Diệu là Lê Văn An, chiếm gò Phù gia. Ở sông Mỹ Khê, Võ Tánh đánh bại Tiết độ Nguyễn Văn Giáp, tạo đà cho Cảnh tiến quân đến núi La Qua. Tại đây, cùng với Olivier, Chiến tâm quân của Gia Định lẻn vào đốt sạch thuyền Tây Sơn.

Quảng Nam nguy khốn, gần như bị cắt rời khỏi cả Phú Xuân lẫn Quy Nhơn nhưng Tây Sơn cũng không thể tiếp cứu. Đội quân bốn mươi thớt voi và hai ngàn quân của Lê Chất được Lê Trung phái đến Quảng Nam bị chặn giữa đường đánh tan. Chúa Nguyễn phái thêm Nguyễn Văn Biện đến Bến ván chặn đường cứu viện của Quy Nhơn. Lê Văn An không thể vượt qua Nguyễn Văn Trương ở Trạm dã.

Tuy nhiên, Tề Ngôi thấy không thể trực diện đối đầu với thủy quân Nguyễn liền đổi chiến lược, tấn công vào các thuyền lương tiếp tế. Trương Phúc Luật đưa lương đến Quảng Nam bị chặn đường cướp sạch. Quảng Nam còn có năm ngày lương, chúa Nguyễn bắt buộc phải ra lệnh lui quân khẩn cấp. Nguyễn Văn Thành chiếm được Phú Yên cũng phải lui về giữ Diên Khánh cùng Đặng Trần Thường. Chiến dịch đánh xa đầu tiên của quân Nguyễn kết thúc sau bốn tháng đe dọa thẳng vào Phú Xuân.

Tháng bảy, quân Nguyễn rút về Gia Định. Chiến dịch kết thúc sớm hơn hẳn mọi lần.

Đông cung Phúc Cảnh trở về trong vinh quang với thành tích khuấy đảo Quảng Nam. Trong lễ xét công, chúa Nguyễn thưởng cho người con trai một ngàn quan tiền. Tuy vậy, khi ra ngoài, Cảnh lại có vẻ không vui.

- Phụ hoàng rút quân sớm vì sợ ta gặp bất trắc. – Đông cung nói với Võ Tánh, người đã cùng ở Quảng Nam. – Thuyền lương đã tới Quảng Ngãi, nếu chỉ vài ngày thiếu lương thì ta có thể lo liệu được. Đáng lẽ ta đã có thể chiếm Phú Yên, thậm chí diệt Quy Nhơn. Phụ hoàng bao giờ cũng qúa thận trọng.

- Đó là vì ngài không sẵn sàng trả giá đắt để thắng. – Võ Tánh cười. Lại một lần nữa, chàng phải đi hòa giải mối bất mãn ngấm ngầm của nhiệt huyết người thanh niên trẻ với sự cẩn trọng của vị chúa. – Không chỉ Đông cung, còn có bao nhiêu quân ta ở Quảng Nam. Phía Nam là Quy Nhơn, phía Bắc là Phú Xuân, đi sai đường một bước là nguy khốn biết chừng nào. Thiếu lương là một việc nghiêm trọng.

- Thì cứ thu lương của dân sở tại. – Cậu Đông cung nhìn vào mắt chàng. Cái nhìn kiên quyết lạnh lẽo. – Đây là chiến tranh. Phụ hoàng ta cứ mãi do dự không quyết, qúa mềm lòng như thế là tự hại mình.

Võ Tánh lẳng lặng nhìn cậu thanh niên trẻ măng.

- Tôi nhớ đã có người nói như Đông cung, Đây là chiến tranh… À, tôi nhớ ra rồi, đội quân Tây dương ở thành Quy Nhơn bốn năm trước.

- Phụ hoàng vẫn như vậy. – Cậu Đông cung mỉm cười, ngước nhìn bầu trời trên mái hiên khu điện. Tiếng hát từ lễ mừng công trong điện văng vẳng bên tai họ. – Phụ hoàng không muốn trả giá, rất sợ phải trả giá. Nhưng nếu cứ như thế, cái giá mà ta phải trả sẽ còn lớn hơn nữa. Tại sao lại không có ai nói điều này cho phụ hoàng?

- Ngài là một vị chúa, Đông cung. – Võ Tánh lắc đầu, rồi chàng chợt cười. – Một vị chúa có những chuyện không thể làm được, chúng ta phải làm thay ngài ấy.

- Đúng vậy, ta phải làm thay ngài ấy. – Cảnh quay sang nhìn chàng, chớp mắt. – Tại sao ta lại không nhận ra chứ? Có những việc mà ta phải làm thay phụ hoàng.

Không nói không rằng, cậu Đông cung vội vã quay mình bỏ đi. Võ Tánh nhìn theo Cảnh, không hiểu sao lại thấy bất an.

- Nó vẫn chỉ là một đứa trẻ. – Ngọc Du nói khi nghe chàng kể lại. – Nó bao giờ cũng qúa căng thẳng.

- Không chỉ thế đâu. – Chàng cau mày, nhìn xuống chén cơm đang cầm trên tay. – Đông cung giống như… người vừa vứt bỏ được một gánh nặng.

- Anh cũng nhận ra à? – Ngọc Du mỉm cười. Khi ngẩng lên, chàng thấy nàng đang nhìn mình, ánh mắt nàng lại đưa xuống bàn tay cầm đũa của chàng. – Vừa bỏ được một gánh nặng về những điều được và không được. Cuối cùng, nó vẫn đã lớn lên với những giáo điều Gia-tô giáo…

Gia-tô giáo với những giáo luật về sát sinh và lòng từ ái, Gia-tô giáo cùng những mối kết liên với Bá Đa Lộc mà hẳn lúc nào đó Cảnh đã phải bối rối vì nó. Giờ đây, khi đã phá vỡ giới luật, đã được giải thoát hoàn toàn khỏi qúa khứ, cậu ta lại có vẻ nhẹ nhõm. Cậu ta đã chấp nhận và thích ứng với hoàn cảnh chiến trường, với cuộc chiến tranh tốt hơn cả cha mình. Có một sự kết hợp lạ kỳ giữa một ông hoàng Cả nhân ái của Gia Định với vị tướng lãnh đạo đội quân tại Quảng Nam. Nhưng Ngọc Du không cảm thấy lạ. Cái sự mâu thuẫn ấy rất dễ dàng giải thích khi nhìn vào những tư tưởng đối lập nhau trong cậu thanh niên trẻ.

Cả cách nhìn thẳng thắn của cậu ta: Nếu không chịu trả giá, cái giá mà ta phải trả còn lớn hơn nữa. Câu nói được kể lại ấy đã làm nàng khẽ giật mình. Cậu ta đã nói ra thật dễ dàng, và nàng tự hỏi đâu là cái giá mà cậu cảm thấy đáng để trả? Họ sẽ trả như thế nào?

Trong lúc đó, Võ Tánh vừa ăn vừa trầm ngâm suy nghĩ. Vị chúa đã kết thúc chiến dịch tấn công sớm, hẳn nhiên không chỉ vì thiếu lương. Sự chuyển đổi cách tấn công của bọn Tề Ngôi hẳn mới là mối đe dọa thực sự. Các đội thuyền lương nặng nề lại không được vũ trang mạnh của họ có thể trở thành mồi cho cướp biển trên những đoạn hành trình dài. Đây là cuộc tập trận của đội thủy quân trên một chiến trường dài hàng ngàn hải lý và họ đã hoàn thành tốt đẹp. Các đội quân trên bộ của Tây Sơn bị dồn ép, cắt nát, thao túng, không thể di chuyển trên đồng bằng ven biển. Đây là cuộc phô trương thanh thế khuấy động miền Thuận Hóa, Phú Xuân và cả Bắc Hà của vị chúa. Ngài ta rất giỏi trong những việc như thế, ngay từ lúc trở về Gia Định này, chàng nghĩ và cười thầm trên mép miệng chén. Không vô tình mà vừa đánh trận, chúa Nguyễn vừa cử Vũ Nguyên Lượng ra Bắc Hà, đưa hàng tướng Tây Sơn là Từ Văn Tú đến thuyết Tiểu triều Nguyễn Bảo con Nguyễn Nhạc tại Quy Nhơn. Nếu không có vụ rắc rối quân lương, có lẽ họ đã có thể phối hợp cùng Nguyễn Bảo đánh Lê Trung. Chiếm được Quy Nhơn, con đường đến Phú Xuân sẽ chẳng còn xa nữa.

Ồ, nhưng đó chỉ là giả thuyết. Dù đã nói như thế để an ủi Cảnh, chàng cũng đã nhận ra sự chùng chình của vị chúa có thể tác động rất lớn đến việc tiến quân. Ở bên cạnh ngài ta cần có những thuộc hạ cương quyết hơn. Nguyễn Văn Thành thậm chí còn thận trọng toan tính hơn cả ngài ta, Nguyễn Phúc Hội đã già, Cảnh còn nhỏ, Nguyễn Văn Trương tuy nhanh nhẹn nhưng lại chỉ ở thủy quân. Thủy quân có thể kiểm soát tình thế, nhưng giải quyết lại phải dựa vào đoàn quân trên bộ.

Mải suy nghĩ, chàng đã không nghe Ngọc Du gọi, chỉ ngẩng lên khi nàng đập nhẹ vào bàn tay chàng.

- Anh còn và cái gì nữa thế? – Nàng hất cằm về phía cái chén trên tay chàng. Chàng nhận ra chén đã hết cơm, vội bỏ xuống. Con bé Hồi bật lên tiếng cười trước khi làm ra vẻ cắm cúi vào chén cơm của nó.

- Anh chưa hề hỏi han gì về việc của mấy đứa trẻ. – Nàng chống tay nhìn chàng. Nàng đã ăn xong từ lâu. Giọng nàng mang sự phiền trách nhẹ nhàng trong khi cái đầu của con bé càng cúi thấp hơn. Không một đứa trẻ nào thích cha mẹ hỏi đến chuyện học hành.

Chàng chỉ cười. Hơi bối rối, có lẽ.

- Con đi học sao rồi? – Chàng quay sang con bé để khỏa lấp sự khó xử với người mẹ nó. Con bé hé mắt trên miệng chén cơm, lúng búng.

- Vẫn thế thôi. Nhưng mà… - Đột nhiên nó bỏ cái chén xuống, mắt sáng lên. – Trong lớp vừa có một thần đồng. Tứ công tử ấy, vừa vào lớp học đã đọc được Ngũ kinh. Thầy bảo cậu ấy là một thần đồng!

- Con trai của Nhị phi? – Chàng quay sang nàng ra ý dò hỏi. Nàng gật đầu, có vẻ hờ hững.

- Cậu ấy có phải thần đồng hay không thì cũng đâu liên quan đến việc con trốn học ra ngoài thành chơi. – Nàng liếc nhìn con bé. Nó lại ra vẻ săm soi đĩa cá chỉ còn cái đuôi trên bàn. – Giữa trưa đi bắt dế. Thầy không dám đánh các cô cậu trong điện nhưng mẹ lại không dám à?

Mặt con bé xịu xuống thành một bộ dạng rất đáng thương trước lời đe dọa của người mẹ.

- Tại ba nói sẽ đem dế về cho con nhưng mãi chẳng thấy đâu… - Nó lúng búng nói trong miệng. Nàng đưa mắt nhìn chàng, thấy chàng như có vẻ vừa bị đánh một cái vào đầu.

- Ba qu… à, ba bắt rồi nhưng lúc đang ngủ lại sơ ý đè bẹp mất, không đem về cho con được. Rồi ba sẽ đền cho con. Nhưng con phải ngoan ngoãn để cho mẹ vui mới được chứ…

Nghe giọng giải thích dường như rất khổ sở của chàng, Ngọc Du dường như muốn bật cười. Lắc đầu, nàng đứng dậy dọn dẹp bàn ăn, bẹo má thằng bé con vừa được cho ăn xong trong góc. Đến khi cho cả hai đứa về phòng riêng, nàng mới khoanh tay nhìn chàng mà cau mày.

- Không nên hứa lèo với trẻ con. – Nàng nói. Giọng nàng vẫn mơ hồ nét khó chịu. – Nếu không làm thì đừng hứa.

- Ta có hứa với nàng gì không? – Chàng cười xòa ra vẻ như cầu hòa. Nàng liếc chàng một cái, quay đi. Nghe tiếng chân chàng tới đằng sau nàng.

- Lần này ta về sớm, may thật. – Chàng nói khi tay đặt lên bụng nàng. Có thể cảm thấy sự cựa mình rất nhẹ sau làn da ấm.

- Không hứa gì hết. – Nàng nói, vẫn không quay lại. Bây giờ thì chàng đã nhận ra căn nguyên cơn giận của nàng.

- Trước mặt bọn trẻ, ta làm sao nói được rằng ta nhớ nàng lắm. – Chàng cười. Hơi thở phả qua tai nàng. Nàng cau mày, nhưng cơ mặt đã giãn ra.

- Lớn rồi nhé. – Nàng nói, trong lòng vừa có chút êm đềm vừa vẫn lợn cợn bất an.

Không phải nàng giận vì chàng không hỏi gì đến nàng. Chẳng là, vừa nãy, chàng đã ngẩn người không hề nhận ra mình đang ở đâu. Dù đã trở về, hồn phách chàng dường như vẫn còn lửng lơ ngoài trận chiến.

Chiến cuộc đã rất tốt đẹp đối với họ, ngoại trừ một vài tình thế cản trở nhỏ hoàn toàn có thể khắc phục được. Nhưng cùng với chiến thắng, mỗi con người, từng chút một, bị cuốn đi về phương Bắc. Cảnh cũng vậy, chàng cũng thế, và khắp nơi trong Gia Định đang chúc mừng nhau này. Khắp nơi trong Gia Định đang rùng mình trước sức mạnh mà họ đang có. Kiểm soát mặt biển, họ đã làm được. Hoàn toàn.

Chàng trở lại, nhưng cả chàng, chàng nữa, cũng đã bị cuốn đi.

44

Vừa trở về Sài Côn, tin từ Xiêm La đã báo cho chúa Nguyễn: Miến Điện đang họp quân chuẩn bị đánh Xiêm. Vị chúa liền sai Trần Phúc Chất nhân khi mang quốc thư sang báo việc binh ở Quảng Nam, vừa gợi ý sẽ đem thủy quân đánh giúp. Vua Xiêm cảm tạ, gửi mười vạn cân diêm tiêu cho Gia Định. Đồng thời, Phật vương nước Xiêm còn mở đường Vạn Tượng, bảo chúa Nguyễn gởi quân tướng tới hội binh với Xiêm La ở Vạn Tượng đánh Nghệ An nhằm chặn cứu viện từ Bắc Hà, đánh vào sau lưng Phú Xuân, người Vạn Tượng sẽ cung ứng hoàn toàn quân nhu cho đội quân.

- Nghe tốt tới độ không thể tin được. – Chúa Nguyễn mỉm cười buông lá thư xuống sau khi đọc xong. Trong phòng chỉ có Võ Tánh cùng Nguyễn Phúc Hội đã được vị chúa gọi tới. Nguyễn Phúc Hội có vẻ không hiểu ý vị chúa.

- Xiêm mở đường Vạn Tượng là tốt cho chúng ta, tại sao lại không thể tin được? – Ông ta hỏi. Chúa Nguyễn dựa đầu vào cánh tay chống lên tay ghế. Lá thư vẫn mở để trên bàn trước mặt ngài ta.

- Xiêm vương gợi ý đánh vào Nghệ An là địa phận tranh chấp của Việt với Vạn Tượng, khanh không nghĩ “đội quân phụ giúp” ấy có thể thừa nước đục thả câu à? Đã phải nhờ đến Xiêm binh, lại có thể giữ chúng ở ngoài được sao? Lâu nay Vạn Tượng vẫn muốn lấy lại Trấn Ninh, thổ hào ở đó cũng nhiều không kể xiết, thêm quân Xiêm bên ngoài khích vào, chỉ sợ loạn này chưa xong loạn mới đã tới rồi. Chưa đến lúc bắt buộc thì không cần phải nhờ cậy đến Xiêm La.

Người Xiêm gian trá vốn không thể tin được. Nhưng nhờ cậy Vạn  Tượng cũng là một ý hay. Khi trước ta đã hỏi thăm Chiêu Chủy Biện cách liên lạc với Vạn Tượng nhưng chưa hoàn thành được. Nếu tiến sâu thêm ra Bắc, ta phải chú ý đến vùng biên giới với Nghệ An đấy thôi. Cắt đứt viện binh từ Bắc Hà thì ta cũng có thể làm mà không cần nhờ đến quân ngoài. Những tổ chức phản kháng ở Bắc chỉ cần hoạt động mạnh thêm nữa thì Tổng trấn Bắc Hà chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ cho Phú Xuân.

- Trong lúc đó thì ta cũng phân tán lực lượng đi Xiêm La, có nên không chúa công? – Nguyễn Phúc Hội có vẻ ngập ngừng. – Hồng Mao liên kết với Miến Điện ắt không phải thường. Hồng Mao thế lực lớn, ảnh hưởng khắp nơi, ta gây chiến với họ e rằng không ổn.

- Anh Cát Lợi và Phú Lang Sa mâu thuẫn với nhau từ lâu. – Vị chúa nhẹ gật đầu. – Nhưng ta không nghĩ Anh Cát Lợi sẽ cử lực lượng lớn đến giúp Miến Điện. Miến Điện là quốc gia mạnh nhất trong toàn vùng Nam Á, sát ngay cạnh Ấn Độ, vùng đất thuộc địa của Hồng Mao. Ngay cả nhà Thanh cũng phải sợ sự lớn mạnh ấy mà phát quân chinh phạt Miến Điện bốn lần và bị đánh bại cả bốn. Đại Thành quốc của Xiêm La cũng đã từng bị Miến Điện phá hủy hoàn toàn. Từ hơn một trăm năm mươi năm trước, hết Bồ Đào Nha, Phú Lang Sa đến Anh Cát Lợi đã thử xâm chiếm Miến Điện nhưng đều thất bại. So với một vùng đất giàu có như Miến Điện, Xiêm La không phải là mục tiêu của Anh Cát Lợi. Anh Cát Lợi chỉ đang cố gắng xây dựng quan hệ với Miến Điện đấy thôi.

Nghe Xiêm vương nói, một vùng trong lãnh thổ Miến Điện đang có tranh chấp biên giới với vùng đất thuộc địa Anh Cát Lợi tại Ấn Độ. Ba năm trước, vùng đất này nổi dậy, và người Anh Cát Lợi đang rất quan tâm đến quốc gia Miến Điện, họ đã cử người liên hệ tới.

Qua trận diệt giặc biển Đồ Bà năm trước, tiếng tăm thủy quân ta đã loan truyền khắp vịnh Xiêm La. Mười năm trước ta cũng đã đánh bại đội quân Miến Điện trên bộ đến hai lần. Lần xuất quân này, ta chỉ cần phô trương thanh thế một chút. Nói cho cùng Miến Điện đánh Xiêm chỉ như chuyện cơm bữa của hai nước này. Chẳng qua cả hai chỉ đang đe dọa nhau đấy thôi. Cả hai sẽ không dùng những trận đánh lớn để giải quyết xung đột nữa đâu.

- Không đánh nhau mà có thể giải quyết xung đột ư? – Nguyễn Phúc Hội tỏ vẻ tò mò. Đã từng sang Xiêm La theo vị chúa, nhưng như mọi tướng khác, ông không để tâm đến đất nước cách họ ngàn dặm này.

Chúa Nguyễn khép mắt cười nhẹ.

- Đã qua cái thời đổ quân xuống tiêu diệt, thống trị nhau rồi. Ngay cả Thanh bây giờ cũng không thể dùng phương cách ấy được nữa. Dùng áp lực quân sự lên Tây Tạng nhưng họ vẫn phải dùng thái thú để cho Tây Tạng quyền tự trị. Bây giờ quốc gia nào cũng có qúa nhiều áp lực, qúa nhiều mối bận tâm, tổ chức một cuộc chiến tranh lớn là tự làm hại mình. Thời đại của các vương quốc nhỏ lẻ đã qua rồi. Tất cả đã được sát nhập, bị chinh phục vào những đất nước rộng lớn hơn, mạnh hơn, trở thành một phần của đất nước ấy. Đại Thanh cũng vậy, Xiêm La, Miến Điện cũng thế. Và bên ngoài thì ngoại trừ “kẻ hàng xóm tham lam ra”, còn có vô số kẻ chờ chực kiếm phần. Quốc gia nào bây giờ cũng đầy xung đột nằm trong chính bản thân mình. Mấy năm trước, Xiêm La lại hỗ trợ cho một tỉnh lỵ trong Miến Điện nổi dậy, vừa mới dẹp yên. Đó là cách làm của họ bây giờ: Chinh phục các quốc gia nhỏ, khuyến khích chia cắt trong các quốc gia lớn, khuấy loạn trong từng vùng rồi nhân đó chiếm phần lợi cho mình. Họ sẽ không làm gì nếu không có sự hậu thuẫn từ bên trong quốc gia đối địch. Họ không cố tiến đánh những trận phải thương vong lớn nếu không có hy vọng.

Chỉ cần sơ sẩy một chút, chỉ cần rối loạn một chút, sẽ trở thành mồi ngon cho các lân bang. Mà bất cứ một phần nào trong đất nước cũng đều có tiềm năng trở thành tổ chức gây loạn. Một quốc gia lớn là tập hợp của những phần tử nhỏ, bên ngoài chỉ cần khéo léo khuấy động bằng cách phương cách chính trị. Từng phần, từng phần một của đất nước ấy sẽ bị lấy đi, tách ra, phân tán dần dần đến mức không thể hợp lại được nữa.

Hãy nhìn cách nhà Thanh đang cai trị các thuộc địa, Anh Cát Lợi, Phú Lang Sa chia nhau Ấn Độ, Miến Điện và Xiêm La đang làm gì với nhau bây giờ.

Ngay cả tiên vương của ta nữa. – Chúa Nguyễn bật ra một tiếng cười ngắn. – Gả một công nương cho vua Cao Miên, đưa người Tàu đến sống trong vùng đất Cao Miên, rồi chỉ cần một trận đánh nhân danh giải quyết rắc rối trong vùng, lấy luôn Sài Côn này.

Bây giờ người ta không cần những đội quân đông đảo để chinh phạt nữa đâu. Ngược lại, cái hàng rào to lớn lại có thể đổ sập bất cứ lúc nào khi mối nối vỡ ra.

Tiếng mưa sầm sập bên ngoài tô thêm phần lạnh lẽo cho lời nói của vị chúa. Trong đôi mắt nhìn xuống, chàng vẫn nhận thấy sự tính toán hẳn đang tuôn chảy trong ngài ta. Phải chăng họ đang làm đúng như thế? – Chàng chợt nghĩ. Khuấy động từng vùng miền trong Bắc Hà, Quảng Nam, Thuận Hóa, không quyết đánh thắng, cũng không chấp nhận hy sinh để quyết thắng – phải chăng vị chúa đang muốn thử cách thức chiếm hữu mới? Ngay ở biên ải phía Tây của họ bây giờ cũng vậy. Nặc Ấn vừa mất, con trai Nặc Chân lên ngôi đã hứa kết liên với triều đình Gia Định. Trong sự trợ giúp cho Xiêm La này, ngài ta lại chẳng thu được những điều ước có lợi cho mình? Ngài ta hẳn đang tính toán, tính toán những gì ngài ta có thể lấy được. Như ba năm trước, chỉ vì vụ liên lạc của Tây Sơn với Xiêm vương, ngài ta đã đòi được Nặc Ấn về, rồi từ đó dứt Chân Lạp khỏi bàn tay Xiêm La từ từ, chậm chạp. Ngài ta hẳn đang nghĩ mình có thể tiến được tới đâu, trong động thái này.

- Nếu Miến Điện chiếm được Xiêm, ta cũng chẳng yên. – Vị chúa chợt nói tiếp. – Xiêm yếu, Chân Lạp suy nhược lại trở thành vách chắn hữu hiệu của ta với biên Tây. Liên kết với nước gần đánh nước xa, đó cũng là cách Liên hoành mà nước Tần dùng thưở trước, tuy nhiên không thể lạm dụng bây giờ. Hồng Mao can dự vào, thật cũng không thể coi thường được.

Tư thế của vị chúa vẫn không đổi, ngài ta vẫn chống tay, dựa đầu lên bàn tay nắm. Ngài ta dường như chỉ đang nói cho mình nghe, xoay trở những suy nghĩ trong đầu. Nguyễn Phúc Hội một lần nữa lại muốn hướng sự chú ý của ngài ta về công việc trước mắt khi cất tiếng.

- Phú Lang Sa và Anh Cát Lợi xung đột, chỉ e rằng khi cất quân thì ta sẽ khó có thể tiếp tục giao thương với một số vùng. Trước nay ta giao hảo với Phú Lang Sa nhưng không chống đối Anh Cát Lợi, bây giờ nếu đánh nhau thì e sẽ gây oán. Anh Cát Lợi lực lớn thế mạnh không dễ gì đối phó.

- Ta chỉ có chục người Phú Lang Sa, không thể gọi là giao hảo tốt với Phú Lang Sa được. – Vị chúa phẩy tay làm một cử chỉ như muốn đuổi một con ruồi quấy nhiễu. – Chính thức kết liên với nước nào bây giờ cũng đều là dại dột. Cái hiệp ước gì đó của bọn họ chẳng nói rõ là nước nào liên kết với kẻ đối địch cũng trở thành đối địch hay sao? Nhưng đây là việc của Miến Điện và Xiêm La, Hồng Mao can dự vào đã là việc ngoài lề rồi.

- Ta cử thủy quân đến chẳng phải là để đối đầu với Anh Cát Lợi hay sao? – Chàng chợt lên tiếng. Vị chúa nhìn về phía chàng, hơi nhướng mày. Chàng mỉm cười. – Dù xung đột nhỏ xảy ra chăng nữa, cũng không thể nói rằng không có.

- Thì sao? – Chúa Nguyễn ngồi dựa vào lưng ghế, xuôi hai tay trên tay vịn, cũng phảng phất cười. – Hai quốc gia quan hệ với nhau lại có thể giống như hai bà nuôi gà, để bụng xét nét nhau từng tí một, nhớ thù nhớ oán từng tí một à? Cứ cho họ biết ta là ai. Anh Cát Lợi tham vọng khôn cùng, phải cho họ biết ta là ai mà không đối xử với ta theo lối với Xiêm La.

Gió đập cánh cửa sổ va vào tường một tiếng rầm ồn ĩ. Nhưng vị chúa vẫn nhìn vào mắt chàng, dường như không hề để tâm.

- Thật ra, so với họ, so với những Xiêm La, vương quốc cổ Đại Thành, Xương Mai kia, Miến Điện kia, thậm chí là Chân Lạp xưa, Chiêm Thành xưa… chúng ta là gì? – Ngài ta nói, giọng như tiếng gió thở qua đôi môi. – Ngoài kia, không ai gọi chúng ta là Đại Việt hết – Họ gọi chúng ta là An Nam, cái tên mà người Hán đã ban cho từ thời chiếm đóng!

Chúng ta cứ việc tự xưng mình là Đại Việt, là Vạn Xuân, là Đại Ngu, Đại Cồ Việt hay bất cứ gì tùy thích, nhưng lại chẳng hề biết bên ngoài người ta gọi mình là gì. Hàng ngàn năm nay, bao nhiêu triều đại, chúng ta vẫn cứ để người ta gọi mình với cái tên một tỉnh lỵ của Tàu.

Thật ra, chúng ta đã làm được gì ngoài chống trả nữa, chống trả mãi, từ Hán đến Tống đến Mông Cổ đến Minh, từ vương quốc lớn phía Bắc đến cả Chiêm Thành, Vạn Tượng, Chân Lạp phương Nam? Hàng ngàn năm, chúng ta đã làm được gì ngoại trừ thêm được hai châu Ô, Hóa? Hàng ngàn năm, chúng ta để người khác đánh mình hết lần này đến lần khác, cố gắng chống giữ sự tồn tại bé nhỏ của một An Nam. Chúng ta vui khi thắng trận, tự hào khi thắng ngoại xâm, nhưng tự hỏi, trong tất cả những đất nước xung quanh, chúng ta là gì? Chúng ta đã bao giờ nếm trải được cảm giác của một đại quốc như Miến Điện chưa? Chúng ta đã bao giờ có khả năng khống chế kẻ khác như Chân Lạp cổ chưa? Chúng ta thậm chí đã bao giờ tự hào được với nhà bạc nhà vàng như Xiêm La chưa? Hay là ta chỉ chống trả, chống trả tất cả những kẻ ấy đánh vào ta?

Bên ngoài, người ta chỉ gọi chúng ta là An Nam. Chỉ là An Nam mà thôi.

Vị chúa nói, rồi đột ngột lặng im như thể nhận ra mình đã nói qúa nhiều. Trong phòng chợt lặng yên, chỉ còn nghe tiếng mưa vẫn sầm sập, sầm sập đổ xuống. Chúa Nguyễn đưa tay lên ngang trán, thở ra, rồi lại ngẩng lên nhìn hai vị tướng trước mặt.

- Ta gọi các khanh đến để mật sai một việc. Vừa rồi Đông cung đã báo với ta về tình hình Gia Định trị an không ổn. Quan quân trong những nhóm tiểu sai, thuộc nội thường lẻn trốn ra ngoài lường gạt dân, cướp bóc kiếm lợi. Đặc biệt, trên những vùng sông nước vắng vẻ càng khó đối phó, chúng chặn đường các thuyền bè buôn bán để cướp. Nay các khanh bí mật cho người tuần tra trên sông để phòng trộm cướp. Nếu bắt được kẻ nào có tang vật rõ ràng, chém bêu đầu tại chỗ ngay không cần báo!

Võ Tánh và Nguyễn Phúc Hội đưa mắt nhìn nhau. Mật sai, vậy là họ sẽ bí mật hành động để bắt được kẻ gây nhiễu loạn trong chính đội quân mình. Giết ngay không cần hỏi, vị chúa đã quyết chọn một cách trừng trị tàn khốc. Ngài ta không tha thứ cho những hành động ấy trong quân mình, với bất kỳ ai.

- Đó hẳn là quân trong đội tinh binh. – Nguyễn Phúc Hội nói khi cả hai đã phụng chỉ ra ngoài. – Chỉ có đội quân ấy là quân thường trực, hưởng ưu đãi nhiều mà tính hung bạo cũng nhiều. Đông cung báo lên hẳn cũng đã bắt được một số rồi, lần này chúa công chắc quyết phải trừ cho hết.

- Đông cung làm việc gì cũng muốn rốt ráo. – Võ Tánh nói, giọng chàng không biểu lộ điều gì. – Ngày xưa khi chúa công đề ra hình phạt, Đặng Đức Thuật nói là qúa nặng, xin giảm bớt. Chúa công không nghe, ông ấy từ luôn chức Giám nghị bỏ đi khiến ngài ấy phải đi gọi trở lại. Tuy nhiên, càng ngày lại càng phải mạnh tay.

- Giết kẻ trộm cướp không cần báo, lần này đến lượt chúng ta phải vất vả rồi. – Nguyễn Phúc Hội lắc đầu. – Rồi cái lệ cũ, quân thuộc chi hiệu nào thì kẻ cai quản bị liên quan, nhẹ đánh roi, nặng chém đầu, chúng ta cứ bí mật mà làm thì khối người bị liên lụy.

- Cho nên chúa công mới bảo chúng ta bí mật. – Võ Tánh cười nhẹ. – Tiền tướng quân có nghĩ rằng chúa công ngày càng khe khắt không?

- Làm thuộc hạ của ngài ấy có bao giờ dễ dàng đâu. – Nguyễn Phúc Hội cũng cười. Họ đã ra tới bên ngoài hành lang. Mưa xối xả xuống từng đợt nước trắng mờ mịt. Nguyễn Phúc Hội dựa lưng vào tường, khoanh tay nhìn lên bầu trời xám xịt mờ ảo trong làn nước.

- Ồ, tôi không thích liên can đến trận chiến của Xiêm chút nào. – Ông ta chợt nói, vẫn không nhìn chàng. – Dù chúa công nói đúng rằng những toán quân của Miến Điện không mạnh, can dự vào với Hồng Mao cũng rắc rối lắm. Vả lại, lúc chúng ta ở Xiêm, Xiêm vương cũng chẳng trọng hậu đối đãi gì. Ông ấy vứt cho chúng ta một mảnh đất ở ngoài Vọng Các, làm lấy mà ăn. Nhớ đến những năm ấy, chúng ta chẳng khác gì bọn người chạy loạn từ miền Bắc đến Gia Định bây giờ. Đã vậy, Xiêm vương dò xét từng bước, rốt cuộc phải trốn đi mới về được. Chúa công hết lần này đến lần khác bày tỏ lòng kết giao với Xiêm La, trong khi bên ấy chỉ chờ lúc nào có thể lợi dụng ta là trở mặt ngay.

- Thì chúa công cũng đâu có tin bọn họ. – Võ Tánh mỉm cười. – Nhưng biên ải là việc trọng, có chiến tranh trong đất ta thì dân chúng mới là kẻ bị thua thiệt. Đánh kẻ xa hòa kẻ gần thì nước mới yên, dân mới ổn định. Lâu nay Chân Lạp, Xiêm La, Vạn Tượng cứ thỉnh thoảng lại gửi quân vào quấy nhiễu, thật cũng nên tìm cách chấm dứt đi thôi thì mới gọi là an bình thịnh trị được.

- Ta có lòng đối đãi người nhưng người đâu có thật lòng với ta. – Nguyễn Phúc Hội nhếch môi. Nhưng ông ta cũng không nói tiếp. Họ ngẩng đầu nhìn trời.

- Nghe nói nhà Thanh vừa mới ra tối hậu thư với Tây Sơn về việc hải tặc. – Đến lượt Võ Tánh lên tiếng, chuyển đổi đề tài câu chuyện của họ. Nguyễn Phúc Hội phì ra một tiếng cười chế nhạo không lẫn vào đâu được.

- Nhà Thanh bắt được mấy kẻ giả trang thành người Việt làm hải tặc, mang cả ấn tín sắc phong của Tây Sơn, thế là vua Gia Khánh ra chỉ thị tất cả các hải tặc Việt bị bắt trong lãnh thổ Hải Nam sẽ lập tức bị chém đầu, bắt Tây Sơn phải hành động diệt hải tặc. Ừ thì chúng cũng ra vẻ như thực hiện, giao nộp chừng sáu chục tên hải tặc cho Thanh, phá căn cứ ở Giang Bình. Khi đại diện nhà Thanh đến Giang Bình vẫn còn thấy thuyền chiến của Tây Sơn lẫn chừng trăm căn nhà bị đốt, thế là họ vui mừng thưởng vàng thưởng gạo, giấy, vải lụa cho Tây Sơn. Ồ, nhưng mà khi dẫn đám hải tặc ấy về tra hỏi, người ta mới té ngửa ra rằng chúng chỉ là bọn trộm cướp lặt vặt ở Phúc Kiến. Bọn hải tặc chỉ dọn khỏi Giang Bình, để trống một thời gian rồi trở lại, lập căn cứ còn lớn mạnh hơn trước. Mạc Quan Phù bây giờ tự xưng là Đông Hải vương, cùng với Trịnh Thất, Phan Văn Tài, Trần Thiên Bảo lãnh ấn Tổng binh An Nam.

Tất nhiên, hoàng đế Gia Khánh vô cùng tức giận. Thương buôn từ Hoa Nam tới vừa cho biết là nhà Thanh đã từ bỏ chiến lược “Hải phòng” để chuyển sang “Hải chiến”. Hải tặc nào bị bắt trong lãnh hải nhà Thanh sẽ bị giết, bất kể là người Việt hay Hán. Kẻ nào cải trang thành dân Việt, mang các sắc phong của Việt sẽ còn bị tùng xẻo đến chết. Giết ngay không cần báo về Bắc Kinh. Nhưng ta phải nói rằng với sự bảo vệ của Tây Sơn, bọn hải tặc chỉ việc trốn đi là xong, nhà Thanh có kiên quyết đến mức nào cũng chẳng ăn nhằm gì đâu.

- Ít ra thì họ cũng kiên quyết làm. Nhưng ta hẳn không thể trông chờ gì vào Đại Thanh được. Họ còn phải lo loạn trong đất họ chưa xong. – Võ Tánh nhún vai ngồi xuống lan can hàng hiên. Mưa đã ngớt hạt. Chẳng mấy chốc mưa sẽ tạnh, chàng nghĩ.

- Nghe nói anh vừa rồi đã bắt được ba chục thuyền hải tặc? – Nguyễn Phúc Hội nhìn chàng hỏi. Chàng lắc đầu.

- Bọn dưới quyền là hải tặc, nhưng cầm đầu chúng lại là Đô đốc của Tây Sơn. Chúng đã biến thủy quân mình thành một đoàn hải tặc rồi. Đến mức không thể phân biệt được nữa.

- Cho nên Thanh mới phải ra luật riêng về hải tặc người Việt… - Nguyễn Phúc Hội trầm ngâm nhìn ra những sợi mưa lác đác mà nói. Võ Tánh nhún vai ra vẻ ơ hờ. Việc này chàng đã nhận ra từ khi còn ở Quảng Nam tra hỏi bọn tù binh vừa bắt được.

- Một phần lớn cư dân ven biển ta đã gia nhập hải tặc. – Chàng nói. – Khi Tề Ngôi lấy những bãi bờ ven biển của chúng ta làm căn cứ, chúng cũng quyến dụ được khá nhiều người đi theo. Giang Bình có rất nhiều dân Việt sinh sống, hẳn đó là lý do chúng chọn nơi ấy làm căn cứ.

- Tôi không thích ra Bắc để giải quyết đám cướp đó đâu. – Nguyễn Phúc Hội lẩm bẩm. – Nội việc tuần tra mấy con sông ở Gia Định này đã đáng sợ rồi, đối đầu với các sào huyệt chứa đầy pháo với đại bác ấy thật khiến người ta kinh hãi.

Võ Tánh bật ra tiếng cười. Mưa đã tạnh, chàng đứng lên cáo từ Nguyễn Phúc Hội sau khi định ngày dàn xếp cuộc tuần tra của hai đội quân. Khi bước xuống bậc thềm, giày chàng chạm vào làn nước còn xâm xấp trên đất, vang tiếng lõm bõm nho nhỏ.

Bắc Hà – Tề Ngôi, Xiêm La – Miến Điện và cả những đội quân Tây dương tham dự. Chàng nghĩ khi đi dưới những hàng cây vẫn thả từng sợi nước lóng lánh dưới những cành nhánh đong đưa. Miến Điện trăm năm trước đã từng đánh bại Bồ Đào Nha, vị chúa nói. Và chàng đã thoáng giật mình. Những hòn đảo ngoài khơi đã nằm dưới quyền kiểm soát của Tây dương, chàng đã từng nghe nói. Và trên đất liền, trên mảnh đất này, người Tây dương cũng đang tiến tới. Vượt qua Chân Lạp, vượt qua Xiêm La, vượt qua Miến Điện, sẽ đến phần đất của người Hồng Mao trên Ấn Độ. Ngàn dặm đất đai ấy hóa ra lại rất gần.

Chàng chợt hiểu ra sự ngần ngại, thậm chí thù địch của những quan viên với người Tây dương. Chàng đã nghe câu chuyện về cuộc tấn công của người Ô Lan thưở trước vào vùng đất chúa Nguyễn nhưng chưa từng coi đó là nghiêm trọng. Trăm năm mươi năm trước, chẳng phải cùng thời gian với cuộc tấn công Miến Điện của Bồ Đào Nha, với những cuộc lấn chiếm của Tây dương trên khắp các đảo? Hóa ra, tất cả đều nằm trong một làn sóng lớn lao, khổng lồ, nếu chỉ nhìn từng sự việc riêng lẻ sẽ không nhận thấy được.

Hóa ra, mảnh đất của họ cũng đã từng lọt vào tầm nhắm của Tây dương. Và điều ấy không bao giờ là cũ.

Chúa Nguyễn không nói tới những việc thưở trước của ngài ta cùng Bá Đa Lộc. Nhưng ngài ta chọn lựa Phú Lang Sa chứ không phải những quốc gia kia, như Tống Viết Phúc đã có lần từng tức tối nguyền rủa Bá Đa Lộc, có thể cũng chỉ vì sự đe dọa của họ? Với Anh Cát Lợi, Ô Lan và Bồ Đào Nha chắn đường ở Mũi Hảo Vọng, Phú Lang Sa không thể đưa quân đội lớn tiến về phía Đông. Những trận đánh trên biển cũng đã dạy chàng cách quan sát tình thế. Để khống chế được hoàn toàn bờ biển, thủy quân sẽ cần nhiều hơn trăm chiếc thuyền. Tây dương sẽ không thể dồn quân đánh một lúc, chỉ có thể khống chế từng vùng. Phú Lang Sa dù có muốn cũng không thể đe dọa được họ khi không có căn cứ trong biển Đông và bị những kẻ thù vây bọc. Ồ, một lần nữa, vị chúa không hề ngần ngại khi cuộc tấn công của ngài ta có thể khoét sâu vào mâu thuẫn của Anh Cát Lợi và Phú Lang Sa. Ngài ta muốn điều đó. Như ngài ta đã cẩn thận nuôi dưỡng mối hiềm khích giữa các thủy thủ Phú Lang Sa, Bồ Đào Nha, Tây Ba Nha, Anh Cát Lợi trên bến cảng Sài Côn này.

Nước từ trên ngọn cây vẫn lắc rắc rơi xuống đầu và vai chàng, nhưng chàng chìm trong suy nghĩ mà không hề để tâm đến. Chàng cũng không nghe tiếng chân đi qua cổng trước Phương điện cho đến khi một người phụ nữ gần như va cả vào chàng. Đằng sau cô ta, một người lính chạy vội theo, nắm tay cô lại.

- Phu nhân phải đợi chúa công nghe thông báo đã mới được vào! – Người lính nói như quát, nhưng giọng anh ta vẫn cố kềm xuống. Người phụ nữ vuốt tóc rơi xuống trán, ngẩng nhìn người mà cô ta suýt va vào. Chàng nhận ra một khuôn mặt quen quen, nhưng không nhớ được đã thấy ở đâu.

- Có chuyện gì vậy? – Chàng hỏi. Người phụ nữ chớp mắt, có vẻ nhận ra chàng qua bộ triều phục, liền sụp xuống mảng sân vẫn còn xâm xấp nước, cúi đầu.

- Tôi là vợ của Khâm sai Chiêu thảo sứ Vũ Nguyên Lượng, có chuyện gấp cần gặp chúa công. Xin tướng quân cho phép. – Cô ta nói giọng miền Bắc, và chàng cũng chợt nhớ ra đã thấy cô ở đâu. Khi Vũ Nguyên Lượng xuống tàu đến bái kiến chúa Nguyễn, ông ta có đem vợ đi theo. Cả hai dường như chưa có con.

- Có chuyện gì? – Chàng hỏi một lần nữa. Người phụ nữ ngẩng đầu nhìn chàng. Chàng thấy những vằn đỏ hằn trong mắt cô ta.

- Phu quân tôi đầu năm nay vâng mệnh ra Bắc Hà chiêu tập nghĩa sĩ đánh úp tại Nghệ An, bị Nguyễn Quang Thùy đem quân đến giết chết. Thuộc hạ của phu quân tôi vừa đến báo lại. Tôi nghĩ chúa công cần biết.

Giọng cô ta có một sự tự chủ kỳ lạ, như thể cô ta đã nói đi nói lại câu này hàng trăm lần. Giờ đây chàng cũng nhận thấy trong tay cô ta là một bọc vải nhỏ.

Gật đầu, chàng bảo cô gái đứng dậy, dẫn đường cho cô vào điện sau khi để lính kiểm tra kỹ. Vị chúa nghe báo liền gọi cả chàng lẫn cô gái vào. Ngồi sau bàn, ngài ta im lặng nghe cô ta kể lại những gì người thuộc hạ đã nói. Vũ Nguyên Lượng vâng mệnh ra Bắc khi quân Gia Định còn đang đánh nhau với Tây Sơn ở Quảng Nam. Để cắt đứt nguồn tiếp viện từ Bắc Hà về Phú Xuân, ông ta chiêu nạp, khuyến khích những nhóm chống đối tại Nghệ An, Thanh Hóa, Kinh Bắc nổi lên đánh phá. Trong cuộc thanh trừng, Nguyễn Quang Thùy đã bắt được Vũ Nguyên Lượng, giết ngay tại chỗ.

Trong chiếc gói nhỏ mà cô gái dâng lên, vị chúa lấy ra một tín bài nhỏ đã gãy làm đôi. Tín bài Khâm sai Chiêu thảo sứ mà ngài ta đã ban cho Vũ Nguyên Lượng để chiêu tập người Bắc Hà. Có lẽ thuộc hạ của ông ta đã lén nhặt đem về.

- Thật đáng tiếc. – Vị chúa thở dài, nhìn xuống người phụ nữ vẫn qùy trước bàn. Nhưng trước khi ngài ta tiếp tục nói, cô ta đã lên tiếng. Vẫn giọng nói trầm sâu, không hề biểu hiện một sắc thái nào.

- Ở Bắc Hà hiện vẫn đang tiếp tục bố ráp khắp nơi, tình hình rất nguy hiểm cho những ai muốn chống đối. Cả những người muốn trốn về Gia Định đã bị bắt lại rất nhiều. Chúa công muốn thăm dò cũng không thể dễ dàng như trước. Như vậy thì xin chúa công để thần thiếp đi làm thay nhiệm vụ của phu quân. Thần thiếp là phụ nữ, sẽ dễ dàng hơn.

- Ta không cho rằng chúng ngại giết phụ nữ. – Vị chúa nói sau một lúc im lặng quan sát cô gái. – Chồng ngươi vì việc nước bỏ mình, ta sẽ không quên. Những việc chu cấp trong ngoài, ta sẽ lo lắng…

- Trong gia đình chỉ có một mình thần thiếp. – Một lần nữa, cô ta lại ngắt lời vị chúa. Ánh mắt cô ta nhìn thẳng vào người trước mặt, vẫn đôi mắt ráo hoảnh, đỏ vằn.

- Được, ta nhờ phu nhân vậy. Ta sẽ cho chuẩn bị để phu nhân khởi hành. Người tên gì?

- Hoàng Thị Hân. – Người phụ nữ trả lời rồi dập đầu bái tạ. Vị chúa gọi người dẫn cô ta đi đến mật viện. Sự đồng ý của ngài ta nhanh hơn chàng nghĩ.

- Cho cô ta đi sao, chúa công? – Khi cánh cửa đã đóng lại, chàng mới quay sang vị chúa. Lần thứ hai trong ngày, ngài ta lại nghiêng đầu dựa vào bàn tay chắn ngang trán, trông như có vẻ rất mệt mỏi. – Cô ta… trông có vẻ không ổn.

- Rất không ổn. – Vị chúa trả lời chàng, khoé môi hơi nhếch lên. – Nếu ta không cho cô ta đi, cô ta sẽ nhảy xuống biển mà bơi ra Bắc Hà. Khanh nghĩ, chỉ còn có một mình thì cô ta sẽ thế nào đây?

Chàng lặng im. Trước nay vị chúa cũng như họ, không quen sử dụng phụ nữ trong quân. Ngoại trừ những thân tộc.

- Cô ta cũng không tầm thường đâu. – Vị chúa nói. Ánh mắt ngài ta quét qua nửa tấm tín bài vẫn để trên bàn. – Tin tức của Vũ Nguyên Lượng ta vẫn chưa biết, thế mà cô ta đã biết. Liên lạc của họ được giữ vững hơn với ta. Tình nguyện một mình ra ngoài ấy trong tình trạng hiện tại, cô ta cũng không tầm thường đâu. Đáng tiếc…

Ngài ta thở dài, gói tấm thẻ bài lại. Vậy là nỗ lực đầu tiên để với đến Bắc Hà của ngài ta đã bị cắt đứt. Những người trốn đến Gia Định cũng bị bắt lại. Thế là họ đã hiểu lý do tại sao hai năm nay không còn kẻ nào tìm tới. Từ sau khi giết Bùi Đắc Tuyên, kẻ đang cai trị Bắc Hà đã buộc nó trong sự kiểm soát không còn ai lọt qua được. Không còn nữa, những sự lỏng lẻo như sau khi Nguyễn Huệ chết. Họ đã phải chịu thiệt hại đầu tiên khi muốn nhắm đến Bắc Hà.

Lê Duy Vạn đã không còn tin tức, nhóm nổi dậy ở Kinh Bắc hình như đã bị dẹp năm trước. Họ có lẽ không thể trông mong vào những tổ chức trong Bắc Hà. Gợi ý mà Xiêm vương đưa ra lại có sức thuyết phục lạ lùng.

- Đến lúc rồi ta cũng phải liên lạc với Vạn Tượng thôi. – Chúa Nguyễn chợt nói lên ý nghĩ của họ.

Chú thích:

Đại Thành: Ayutthaya. Thái Lan cổ gồm 2 vương quốc Ayutthaya và ChiangMai. Cuối thế kỷ 18, Miến Điện tấn công phá huỷ hoàn toàn Ayutthaya.

45

Gần ngày sinh, nàng lại gặp người Tây dương trẻ. Anh ta tìm tới tận phủ của nàng vào một buổi sáng, khi mặt trời đã lên tới đầu ngọn cây cao, để đưa cho nàng – vẫn còn bất ngờ - một tấm thiếp đỏ.

- Tôi sắp cưới vợ. – Người Tây dương nói và mỉm cười. – Hẳn phải hai tháng nữa, nhưng mời sớm thì hay hơn.

- Ồ, - Ngọc Du chớp mắt, nhìn xuống tấm thiệp vẫn cầm trên tay. Bên ngoài, nó được viết bằng cả hai thứ tiếng, tiếng Hán và tiếng La-tinh mà nàng thấy người Gia-tô giáo hay dùng. – Anh cưới vợ ở đây à?

- Cô ấy là người Việt. – Người Tây dương hiểu ý câu hỏi của nàng liền gật đầu. – Công nương cũng đã gặp cô ấy, ở nhà làm rượu.

- Là cô ấy? – Nàng vừa nói vừa cười nhẹ. À, nàng cũng không ngạc nhiên, hẳn vậy. Điều nàng ngạc nhiên là khác kia. – Chúa công nói sao?

- Ngài ấy đồng ý. Thậm chí cùng ngày cũng có một người nữa làm đám cưới chung với chúng tôi. Laurent Barizy, tên Việt là Thành, công nương hẳn đã nghe nói về anh ta. Vợ anh ấy cũng là một người Việt.

Nàng hơi nhướng mày rồi lại cúi xuống tờ giấy trên tay. Ồ, Laurent Barizy, nàng đã nghe cái tên ấy, người thay mặt chúa Nguyễn trong hầu hết các công việc giao thiệp mua bán ở biển Đông. Hai người Tây dương cưới vợ cùng lúc, đám cưới dị tộc đầu tiên trên mảnh đất này. Đám cưới dị tộc được cho phép đầu tiên trong mảnh đất này.

- Chúng tôi sẽ đến nhà thờ làm lễ trước rồi đãi tiệc, phong tục có lẽ hơi khác so với mọi người ở đây. – Người Tây dương tiếp tục nói. Nàng hơi nghiêng đầu, cảm thấy là lạ.

- Vào nhà thờ, có nghĩa là…

- Cô ấy sẽ là vợ chính thức của tôi, dưới sự chứng giám của Chúa. Chúng tôi chỉ lấy một vợ. – Một lần nữa, người Tây dương hiểu câu hỏi nàng không nói ra. Hoặc là anh ta đã quen với những thắc mắc như thế. Điệu bộ anh ta khá thoải mái khi dựa lưng vào ghế, chân duỗi ra dưới gầm bàn. Trong thời tiết nóng nực này, anh ta đã bỏ đôi ủng cao để đi một đôi giày đặc trưng cho vùng Gia Định pha trộn giữa kiểu giày Tàu và cách lót đế bằng gỗ mỏng. Anh ta cũng đang mặc một bộ quần áo mà nàng nhận ra không lầm lẫn được là may bằng vải của Trấn Biên, những cái nút như được làm từ gỗ dừa. Mái tóc nâu dày của anh ta được buộc gọn về phía sau, đôi lọn rơi xuống trán, phớt qua mắt.

- Chúc mừng anh. – Cuối cùng, nàng mỉm cười. – Hai tháng sau có lẽ tôi sẽ đến chúc mừng anh được rồi. Tôi chưa từng dự tiệc của người Tây, cũng chưa bao giờ vào nhà thờ. Người ngoại đạo như tôi có được đến nhà thờ không?

- Vào những dịp này, tôi nghĩ có lẽ được. – Người Tây dương cười hơi có vẻ bối rối. – Tôi chưa từng thấy lễ cưới nào ở vùng ngoại đạo, nhưng tôi nghĩ là được. Chúa công bảo có lẽ ngài cũng sẽ tới chúc mừng ở buổi đãi tiệc. Thế thì chúng tôi phải đứng đắn hơn rồi.

Nàng cười khẽ. À, cái viễn cảnh đến tham dự một buổi tiệc của Tây dương hẳn cũng khá thú vị. Có lẽ nàng sẽ dẫn cả mấy đứa trẻ đi theo, chúng vẫn thường rất tò mò về những con tàu trên bến cảng. Đám cưới với một người Tây dương, nàng vẫn nghe điều ấy có vẻ là lạ. Dù đã quen thuộc với người Tây dương suốt hơn hai chục năm, nàng vẫn khó có thể coi những con người có màu tóc, màu mắt và làn da lạ lùng ấy như những kẻ giống mình. Họ không giống như người Tàu, người Nhật, thậm chí như người Cao Miên, Xiêm La. Tất cả mọi điều về họ đều khác biệt, sự khác biệt từ tận trong bản chất, không chỉ ở bên ngoài. Họ chẳng có gì giống với những người nơi đây, hoàn toàn. Luôn luôn, họ có điều gì đó cách biệt mà nàng không hiểu được.

Có lẽ, người con gái theo đạo Gia-tô kia hiểu được họ, sự khác biệt cốt lõi mà nàng không nắm được kia. Đạo giáo, đó chẳng phải là linh hồn của những tín đồ, của con người trong vùng đất mà nó ngự trị? Nàng lại nhớ về cô gái đã gặp trước cổng nhà làm rượu, cô ta không có gì khác biệt với vô số những cô gái nàng đã gặp. Ồ, sẽ thế nào khi lấy một người Tây dương, nàng tự hỏi. Dù người đó có là cận thần của chúa Nguyễn, là kẻ lãnh quyền điều khiển một trong những chiếc tàu đáng sợ của Gia Định, hẳn đối với những người xung quanh, đó vẫn không phải là việc dễ dàng chấp nhận. Nàng vẫn nhớ những lời nguyền rủa của Nguyễn Huệ năm nào với người Tây dương “xác chết trôi”, “đôi mắt của con rắn”. Dù sao đi nữa, những lời này cũng đã thể hiện một thái độ có trong dân chúng, thậm chí còn có thể tác động lớn đến dân chúng. Từ những giáo sĩ Bồ Đào Nha vẫn còn có mái tóc đen, mắt đen, họ đã dần dà làm quen với các thủy thủ Ô Lan, Hồng Mao với mái tóc, đôi con ngươi đầy màu sắc. Tuy vậy, sự xa lạ vẫn làm họ sợ hãi. Họ mới chỉ nhìn thấy những bộ dạng ấy trong các bức tranh về qủy sứ của đền chùa, miếu mạo. Người Tây dương, một cách nào đó, hoàn toàn giống với hình dung của họ về ma qủy – những kẻ mang hình dáng con người nhưng khác biệt dị thường. Hàng trăm năm cũng đủ để họ làm quen với những con người kia, nhưng vẫn còn điều gì đó lưu lại trong họ, sự khác biệt không thể nào mờ đi được.

- Gia đình cô ấy thế nào? – Không ngăn được tò mò, nàng hỏi. Người Tây dương nhìn nàng, vẫn ánh mắt như thể đã quen thuộc với tất cả mọi thắc mắc xung quanh anh ta.

- Cha cô ấy rất tự hào. Nhưng mẹ cô ấy thì chỉ lo họ hàng không ai tới dự lễ. Dù sao đó vẫn là một vùng Gia-tô giáo, hẳn họ cũng chẳng chấp nhất lắm đâu.

Mà người trong vùng đất này cũng chẳng chấp nhất. – Anh ta nói với một cái nhún vai, đổi chân duỗi dưới bàn cho thoải mái hơn. – Tôi không biết trước chiến tranh thì ở miền Bắc thế nào, ý tôi nói là miền Thượng Nam Hà và Bắc Hà ấy. Các giáo sĩ vẫn bảo là mọi chuyện tốt đẹp, hẳn thế, tôi thì vốn không tin lắm lời họ nói. Nhưng đó là việc của những kẻ cầm quyền. Tôi thì thấy là ngoài một chút tò mò thái qúa ra, ở đây tôi cũng không gặp rắc rối gì nhiều.

Ở đây có cảm giác giống như Nagasaki trước kia. Đó là bến cảng duy nhất ở Nhật Bản trước kia cho phép tàu thuyền Tây dương cập bến. Người Gia-tô ở Nhật cũng tập trung về đó rất nhiều. Đó là chuyện mà người ta kể lại bây giờ, sau lệnh bài đạo và lệnh bế quan tỏa cảng của Mạc Phủ thì không ai được vào đó nữa. Nhật Bản tự xưng là một thần quốc, nhưng họ hầu như không hề giao thiệp với bên ngoài. Họ bài bác súng ống, thuốc nổ, tôn trọng mỗi thứ vũ khí duy nhất là kiếm đao. Tôi cho là nhiều người trong bọn họ còn không biết ngoài vùng đất của họ và Tàu ra còn có những vùng đất khác, huống hồ đến sự hiện diện của chúng tôi. Nhiều vùng ở Tàu cũng vậy. Đi khỏi các bến cảng, chúng tôi khó có thể sống cùng với dân bản địa.

Nơi này thì không như vậy. Có bài đạo, có ghét bỏ, hẳn vậy, nhưng vì những lý do khác chứ không phải vì bản thân chúng tôi. Người dân xứ sở này cởi mở, tò mò – tôi đã nói là hơi qúa tò mò chưa nhỉ, và say mê cái mới. Tôi cho rằng đó là những đặc tính rất hay ho.

Một lần nữa, Ngọc Du nhướng mày. À, người Tây dương này đã đến sau khi tin đồn về Tây dương khoét mắt người phù phép, về những trò giả ma giả qủy của gián điệp Tây Sơn đã làm ồn ã Gia Định lắng xuống. Anh ta đã không chứng kiến Olivier và Lebrun bị dân và cả quân lính rượt đánh trong lúc xây thành, cũng không chứng kiến những phát súng lục và cái khinh khí cầu của giáo sĩ Boisserand làm kinh hoảng quan triều. Anh ta đã đến sau khi đoàn thuyền của chúa Nguyễn chiến thắng ở cửa Thị Nại, đốt sạch tàu thuyền của Nguyễn Nhạc. Anh ta đã đến sau khi thành Diên Khánh chứng tỏ sức chống cự vượt bậc của nó trong vòng vây hàng vạn địch quân, ngày này qua tháng khác. Anh ta đã đến sau khi người nơi đây đã tận mắt chứng kiến sức mạnh Tây dương, sử dụng được nó để bảo vệ cho mình, và chấp nhận với lòng nhiệt tâm có phần bắt buộc, để rồi dần dần làm quen với nó.

Tuy vậy, những tị hiềm không phải đã được cất đi, dù giờ đây đã nghiêng về một sắc thái khác. Từ ngày đến miền Nam này, đón mọi thương thuyền vào bến cảng Hội An, họ đã từng chứng kiến những xung đột của người Tây dương cùng thương buôn Tàu, Nhật Bản. Sau khi Mạc Phủ ra lệnh bế quan tỏa cảng, người Nhật đã không còn đến nữa. Xảy ra xung đột với Ô Lan, rồi được tin nhà Trịnh nhờ Ô Lan xây dựng hệ thống phòng thủ, người Tây dương trong mắt những quan viên vùng đất này mang đầy lý do để ngờ vực, để đề phòng. Những thầy tu Gia-tô lại càng chẳng giúp ích gì hơn khi tất cả những gì họ tuyên giảng là lòng trung thành với một tòa thánh Tây dương xa tít, để rồi dân chúng theo đạo ngày càng tỏ rõ thái độ chống đối với những phong tục sở tại.

Vì những lý do khác, không phải vì chính bản thân bọn họ.

- Mọi thứ đều cần thời gian. – Nàng nói, một lúc sau. Người Tây dương nhìn nàng, nhè nhẹ gật đầu, nhìn xuống ly trà đang cầm trên tay.

Nàng nhìn người Tây dương trẻ, vẻ xa lạ kỳ quặc của anh ta với căn phòng được xây bằng gỗ với những bức liễn Hán tự. Dù đã dầu dãi dưới nắng nhiệt đới, làn da anh ta cũng chỉ nâu lại, hồng đỏ chứ không mang sắc tai tái như phần lớn dân chúng xứ sở này.

- Vậy thì anh sẽ ở lại đây? – Vẫn là một câu hỏi xuất phát từ sự tò mò. Lấy vợ bản địa, làm phép công trong nhà thờ, sự nghiêm túc này hẳn không phải dành cho người chỉ coi nơi này để ghé chân qua.

Người Tây dương ngẩng lên. Trong ánh nắng ngày, mắt anh ta mang sắc đùng đục như mặt biển Đà Nẵng.

- Có lẽ còn lâu mới về được. – Anh ta trả lời nàng, trầm lặng. Giọng nói mang âm sắc của ngọn gió luồn qua dưới những bụi ruối sau nhà, âm u. – Napoleon đang chiến thắng ở khắp nơi, đánh bại đại quân của Áo, buộc Giáo hoàng phải ký hiệp ước nhượng phần lớn đất đai, tài sản và cả những gì nằm trong viện bảo tàng cho Phú Lang Sa. Của cải khắp châu Âu đang đổ về Phú Lang Sa, trong lúc người dân trong nước tiếp tục bạo động đòi lật đổ chính phủ. Họ không còn biết phải làm gì nữa, và gây chiến ở bên ngoài chính là cách để trị an bên trong.

Như ở các nước phương Đông. – Người Tây dương mỉm cười. – Như các hoàng đế phương Đông đã làm hàng ngàn năm nay. Để dập tắt các cuộc bạo loạn trong nước, hãy gây chiến với nước ngoài, đặt tất cả mọi người vào trong tình thế không đứng cạnh chính phủ thì sẽ bị tiêu diệt, tạo nên một lòng ái quốc mang tính thời vụ và cuồng loạn. Khi một đất nước bị đặt trong tình trạng chiến tranh, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, sự sống còn của chính phủ được đánh đồng với sự sống còn của đất nước, lòng trung thành là bắt buộc không được nghi ngờ, bất cứ hành động phản kháng nào đều là phản bội. Những tài sản cướp đoạt được coi như là chiến công xoa dịu tình hình và tiếp tế cho đất nước, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Các hoàng đế phương Đông đã làm điều này rất khéo léo. Napoleon là một kẻ tôn thờ các đế quốc phương Đông. Và điều đáng sợ là ở chỗ, hắn sẽ trở thành anh hùng của Phú Lang Sa, niềm tự hào của Phú Lang Sa. Sau các cuộc thất trận liên tục ở Bắc Mỹ, Phi châu, cùng cái mặc cảm đứng bên cạnh một đất nước qúa hùng mạnh như Anh Cát Lợi, bị Anh Cát Lợi thao túng cả trăm năm, những chiến thắng của Napoleon qủa thật là rất hấp dẫn.

Chỉ có điều, Phú Lang Sa bây giờ là một khối rối loạn khổng lồ. Ồ, ta có thể trông chờ gì ở một kẻ như Napoleon, kẻ đã từng gọi đám người nổi loạn là “lũ dân đen ghê tởm” nhưng vẫn nói “Ta hãy đi theo bọn vô lại này”, kết bạn với anh em Robespire. Tất cả chẳng qua là phương tiện để hắn đạt được mục đích của mình. Và cả những tên trong Đốc chính viện hiện tại, chúng cũng dùng hắn như một phương tiện để giải quyết đám dân nổi loạn, để đem thật nhiều của cải cướp phá về cho chúng. Tất cả bọn chúng đều mưu lợi cho chính bản thân mình.

Ồ, tôi sẽ không trở về chừng nào bọn chúng còn hiện diện trong Phú Lang Sa. Tôi không phải là phương tiện của chúng.

Người Tây dương lôi từ trong túi áo ra một tẩu thuốc, ngoảnh lại xin cô hầu chút lửa để châm hút. Nàng nhìn cụm khói bay lên trong nắng, màu xám bàng bạc mang mùi khen khét là lạ. Nàng không biết phải nói sao.

Phú Lang Sa là một khối rối loạn khổng lồ, và nàng biết rằng sẽ chẳng dễ dàng gì để dẹp yên tình trạng đó, chẳng biết sẽ mất bao lâu mới có thể dẹp yên tình trạng đó. Người Tây dương này, cùng với bạn của anh ta, đã quyết định ở lại. Chẳng biết đến bao lâu, sự đợi chờ của họ. Chẳng biết sẽ còn bao lâu, cuộc tha hương của họ.

- Gia Định là một nơi rất cởi mở. – Cuối cùng, nàng nói. Người Tây dương vẫn ngậm chiếc tẩu, mỉm cười. Đôi mắt xanh của anh ta sáng lên một ánh nhìn dịu dàng. Và bất an, bất an nữa.

Khói từ chiếc tẩu thuốc bồng bềnh như những suy nghĩ của họ. Bất an như những suy nghĩ của họ.

Có lẽ vì vậy mà nàng đã hơi lơ đãng khi nghe Võ Tánh hỏi về tấm thiếp mời. Đây là chuyện rất bình thường khi người ta đến mời đích danh nàng. Nàng là chị gái của chúa Nguyễn, và thường người ta chỉ mời công nương trong những dịp quan trọng chứ không phải là Phò mã.

- Anh ta đến tận đây à? – Vẫn ngắm nghía tấm thiếp trên tay, chàng hỏi khi ngồi xuống đối diện với nàng bên kia bàn. Nàng đang ăn một chén cháo mà chàng mới mua về. Từ khi trở về, chàng dường như lại thấy có nghĩa vụ phải chăm sóc cho nàng bằng đủ thứ linh tinh như những món ăn khuya.

- Ừ. – Nàng nói, không ngẩng lên. Chàng rời mắt khỏi tấm thiếp để nhìn nàng.

- Nàng định đến nhà thờ à? – Chàng hỏi, đến lượt nàng cũng phải ngẩng đầu nhìn chàng. Chàng lắc nhẹ đầu. – Chúa công sẽ không thích đâu. Lại thêm lời đồn đại là một người trong họ theo đạo thì ngài ấy sẽ gặp rắc rối to.

- Thế thì thôi vậy… - Nàng nói sau một lúc ngẫm nghĩ. – Thật cũng muốn xem họ cử hành lễ thế nào. Lần đầu tiên mới thấy đám cưới của Tây dương, hẳn sẽ có nhạc và vũ đạo kiểu Tây. Đâu phải bao giờ cũng có sự kiện như thế.

- Vậy thì nàng cải trang mà đi vậy. – Chàng cười. – Nhưng ta không tin tưởng người Tây dương đến mức để nàng ở cạnh bọn họ.

Nàng nhướng mày. Sự buông tuồng của các thủy thủ ở bến cảng đã tạo một ấn tượng không hay ho lắm cho người bản xứ. Đặc biệt là thói quen của người Phú Lang Sa khi hôn tay đối tượng họ kính trọng và thích ôm lấy nhau bất cứ lúc nào. Ồ, một thói quen qủa thật khiến người ta phải tự mình tránh xa khỏi tầm với của họ.

- Anh không đi à? – Nàng hỏi. Qủa thật nàng vẫn muốn đi xem đám cưới Tây dương. Nhưng chàng lắc đầu, vẻ không chắc chắn lắm.

- Ta không biết có đi được không. Miến Điện đang chuẩn bị đánh Xiêm La, chúa công đã bảo thủy quân đi tiếp viện cho họ.

- Tiếp viện cho Xiêm La? – Nàng lập tức dứt khỏi trạng thái lơ đãng. – Sao lại phải cứu họ?

- Nàng hỏi giống hệt như Nguyễn Phúc Hội. – Chàng cười. – Chúa công không thích đánh nhau với Xiêm nên muốn dàn hòa với họ, hẳn vậy. Ngài ấy còn bảo, hai nước giao thiệp với nhau đâu thể giống như hai bà nuôi gà hẹp hòi để bụng…

- Cái gì có lợi thì làm. – Ngọc Du nhếch môi. – Hẳn vậy.

Giọng nói chua chát của nàng không khiến chàng lấy làm lạ. Rốt cuộc, nàng cũng không phải người đầu tiên phản ứng như vậy trong những người nghe chuyện. Nhất là những người đã phải xuống thuyền trốn đi đêm ấy cùng vị chúa với làn tên đạn rít lên trên đầu. Dường như chúng thà giết chết chúng ta còn hơn để chúng ta trốn đi, họ nói. Rồi sau đó, nhớ không, Xiêm vương đã định cất quân đánh Gia Định ngay khi thấy ta lớn mạnh. Từ khi chúa công cùng Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Quân đánh bại Miến Điện hai lần trên đất Xiêm La, Phật vương đã coi chúng ta là mối đe dọa tiềm ẩn. Bây giờ Miến Điện đánh Xiêm thì đỡ cho chúng ta mối lo về biên ải phía Tây, tại sao lại phải đi cứu viện?

Phụ hoàng muốn Phật vương tin tưởng. Chỉ có Phúc Cảnh lên tiếng bênh vực cho người cha. Các nước giao hảo quan trọng nhất là chữ Tín, có thế thì người mới tin tưởng, chư hầu mới dám theo về. Xiêm La chỉ là một trong trăm đất nước, nếu không giữ chữ Tín thì làm bá không được, làm vương cũng chẳng xong, nước nhỏ sợ mà khinh, nước lớn ghét mà hại, làm sao giao thiệp với bên ngoài? Phật vương mở đường Vạn Tượng, dù ta không muốn nhờ binh Xiêm thì cũng không lo bị chắn đường nếu muốn giao thiệp với Vạn Tượng, cũng là một điều lợi. Sau này việc chinh tiến Bắc Hà ắt phải nhờ rất nhiều vào đó.

Ngọc Du chỉ im lặng khi Võ Tánh kể lại lời Cảnh, hơi chớp mắt khi nghe đến việc Bắc Hà. Chàng cũng kể về cuộc gặp với vợ Vũ Nguyên Lượng hồi sáng. Chỉ vài ngày nữa, cô ta sẽ lên một chuyến tàu buôn đi về Thăng Long.

- Nguy hiểm lắm. – Nàng nói khi vừa nghe xong. – Vũ Nguyên Lượng làm quan cho nhà Lê tới chức Câu kê, hẳn nhiều người biết mặt hai vợ chồng họ. Về thẳng Bắc Hà thì khác nào chui đầu vào rọ?

- Là do cô ấy tự chọn. Ta thì cho rằng cô ấy chỉ muốn về quê hương để xem tình hình thế nào, hay là muốn xác định việc của phu quân.

Nàng cau mày, không nói nữa. Nàng cũng đã gặp Hoàng Thị Hân vài lần, tuy không có ấn tượng sâu sắc. Trở về một vùng đất qúa nhiều người biết là cầm chắc cái chết, nàng nghĩ thầm. Không giống như Gia Định này thưở nàng còn lang bạt, Bắc Hà hẳn đang bị kiểm soát ngặt nghèo từng ngôi nhà, thôn xóm, nhất là những người có mối liên hệ với triều Lê. Không giống như Gia Định phân tán, rối rắm và mới mẻ này, nơi sự xuất hiện của một vài người lạ không gây nên chú ý, Bắc Hà với những ngôi làng tách biệt, những họ tộc chung sống thành từng nhóm là nơi rất khó để trà trộn và di chuyển.

Nhưng chẳng ai hy vọng Hoàng Thị Hân thực sự làm nên một kỳ tích nào, hẳn vậy. Bắc Hà không phải là Gia Định, và họ đã trễ một bước khi những nhóm nổi loạn chính đã bị dẹp dần sau đợt bùng nổ khi Nguyễn Huệ mất. Tin cuối cùng mà họ biết về phương Bắc là tất cả những thần tử cũ của Lê Trịnh đã bị quản thúc như Nguyễn Gia Thiều ở Tây hồ, Lê Quýnh ở Kinh Bắc… Những người định trốn đến Gia Định bị bắt lại đã cho thấy điều ấy.

Nhưng đó là lựa chọn của cô ta. Võ Tánh đã nói. Và có lẽ nàng cũng hiểu. Như ngày nào cô hầu thiếp của một tướng Tây Sơn mà thậm chí nàng quên tên đã chết.

Đã qúa nhiều những con người như vậy, đến mức nàng không còn thấy xót thương, chỉ là một sự chấp nhận. Chấp nhận sự lựa chọn của bọn họ, cuộc đời của họ, như vốn dĩ đã là như thế.

- Nàng ăn đi không nguội. – Chàng chợt lên tiếng. Gật đầu, nàng cúi xuống tiếp tục ăn. Không ai trong họ tiếp tục nói về những chuyện ấy nữa.

Từ sau lần cãi nhau, cả hai đã học cách cắt đứt những luồng suy nghĩ không hay, không bao giờ tiếp tục những câu chuyện có thể khiến họ buồn lòng. Về một mặt nào đó, cách ấy cũng đem đến cho họ chút nhẹ nhõm. Họ có thể sống như một gia đình bình thường, vào những lúc chàng trở lại. Nhiều khi họ còn có thể đưa những đứa trẻ đi chơi. Trên con thuyền trôi trên sông, nhiều khi nàng còn nhớ lại những ngày chàng đã chở nàng đi trong cuộc chiến lan khắp Gia Định. Ký ức đem lại nhiều êm đềm cùng xót xa nho nhỏ.

- Cô ấy có khóc không? – Cuối cùng, không kềm được, nàng vẫn bật lên tiếng hỏi khi đã ăn xong. Đang cầm cái chén dọn đi, chàng nhìn lại nàng. Thoáng ngần ngừ trước khi chàng trả lời.

- Ta nghĩ là có.

Chàng không thích cái cách hầu như là chấp nhận của cô gái. Có đau đớn, trong đôi mắt đỏ, nhưng là một niềm tuyệt vọng chứ không chỉ là đau khổ. Dường như cô đã biết, đã chờ đợi, đã hy vọng và cuối cùng là chấp nhận. Chàng không thích ánh mắt ấy. Sự tuyệt vọng điềm nhiên, đương nhiên trong đó.

Cô ta làm chàng nhớ đến nàng những ngày đầu mới gặp. Chàng đã từng tưởng rằng nàng có thể sống chết cho vị chúa, nhưng hóa ra không phải. Nàng chỉ đi theo tiếng gọi của một nỗi đau đã đông cứng lại trong mình, với niềm tuyệt vọng đã bám rễ trong tiềm thức. Có lẽ, như cô gái ấy bây giờ, nàng cũng đã trở lại Gia Định với đôi mắt đỏ, với linh hồn không thể nào cứu chuộc.

Nghe câu trả lời của chàng, nàng chỉ hướng ánh mắt về ngọn lửa trên bàn. Lưỡi lửa liên tục uốn mình chuyển động.

Ba ngày sau, Ngọc Du sinh hạ đứa con thứ ba của họ, lại là một bé gái. Đó là một ngày mưa dầm, cơn mưa trút xuống trắng xóa cả khoảng trời bên ngoài. Từ bếp chạy lên, cô hầu gái đã ướt sũng. Đứng ngoài cửa, chàng bồn chồn nghe tiếng kêu đã cố được nén lại trong phòng, thở ra nhẹ nhõm khi nghe tiếng trẻ con khóc bên trong. Nhưng sau một khoảng thời gian tưởng như dài đằng đẵng để dọn dẹp, chàng mới được đưa vào phòng. Khói bốc nghi ngút từ thanh củi hướng vào trong, mùi khen khét từ bếp than để dưới giường và cả hơi lá xông được đốt lên làm chàng phải ngạc nhiên rằng nàng có thể thở được. Ngọc Du nằm khép mắt trên giường, nhưng ngón tay vỗ nhè nhẹ lên đứa bé được bọc trong chăn dày làm chàng biết rằng nàng không ngủ. Nghe tiếng chàng, nàng mở mắt, đôi mắt thoáng đỏ, trái ngược với khuôn mặt nhợt nhạt xanh tái.

Nàng im lặng quan sát chàng đón lấy đứa trẻ, lật tấm vải quấn quanh nó, để lộ ra khuôn mặt với những đường nét nhăn nhó và làn da đỏ hỏn.

- Trẻ mới sinh thường rất đỏ, phải cả tháng sau mới hết. – Nàng nói. Chàng gật đầu, nhưng vẻ tò mò vẫn còn trên gương mặt. Chàng chưa từng thấy trẻ sơ sinh, ngay cả con mình. Sự nhỏ bé mỏng manh và cả sắc màu của làn da đứa trẻ làm chàng phải cảm thấy thầm kinh ngạc.

- Sao thế? – Nàng thoáng ngạc nhiên trước cảm xúc hiện lên trên gương mặt chàng. Không biết có phải do sự mệt mỏi gây ra hay không, nàng lại thấy chàng có vẻ như buồn bã, thậm chí, sợ hãi. Những trạng thái mà nàng không thể nào hiểu nổi.

- Ta nghĩ… nó đã rất đau đớn khi chào đời. – Chàng ngập ngừng nói, vẫn chăm chú nhìn khuôn mặt đứa trẻ, nếp nhăn giữa đôi mày, trên sống mũi, trên đôi mắt nhắm nghiền. Đứa bé đã ngủ, nhưng không hiểu sao chàng vẫn thấy nét đau đớn còn sót lại trên khuôn mặt chỉ lớn hơn nắm tay một chút này. – Nó khóc thật là to.

- Đúng vậy. – Nàng nhìn chàng, mỉm cười với nếp hằn bên khoé miệng. – Bị ép ra khỏi bụng mẹ, cắt rốn, phải tự hít thở, nó phải rất đau đớn.

- Nàng cũng vậy. – Chàng nhìn nàng. Nàng cúi đầu.

- Dù bao nhiêu lần cũng không thể nào quen được. – Nàng khép mắt, ngả lưng lại xuống giường. Bất giác, nàng nhìn ra phía cửa. Bên ngoài mưa vẫn mờ mịt đổ xuống.

Vậy là ngài ấy sẽ không tới, nàng chợt nghĩ. Bây giờ đã có Võ Tánh bên cạnh nàng, em trai nàng sẽ không cần phải tới để xem tình hình của nàng. Mẹ nàng sẽ tới, nhưng nàng chưa cho người đi báo, có lẽ chàng cũng đã quên mất.

Thật ra ở một mình lại dễ chịu hơn, nàng thầm nghĩ. Nàng không muốn chàng nhìn thấy mình trong trạng thái này, không muốn để chàng thấy sự đau đớn này. Khi cơn đau dội đến muốn xé toạc cả người, điều nàng cần không phải là một bàn tay để nắm lấy, mà là được yên ổn một mình. Mỗi cuộc sinh nở đều có thể là cái chết đối với phụ nữ, nhưng nàng vốn chẳng sợ, không còn nữa kể từ ngày nàng sinh con bé Hồi chỉ với mẹ nàng bên cạnh. Nàng đã biết rằng mọi thứ đều sẽ qua đi, ngay cả cơn đau cùng cực nhất, vậy thì nàng chỉ muốn chịu đựng nó một mình. Khi nãy, nàng đã cắn vào tấm khăn để nén lại tiếng kêu của mình. Nàng cũng chẳng muốn chàng nhìn nàng lúc này, nhợt nhạt, tái mét và xơ xác.

Đứa bé cựa nhẹ bên hông nàng khi chàng quay hỏi bà đỡ cùng cô hầu gái những chuyện vụn vặt. Nàng lơ mơ như thiếp đi. Nàng chỉ muốn ngủ, bây giờ. Mọi cơn đau rồi sẽ đi qua, nàng tự nhủ. Đã là đứa trẻ thứ ba. Và nàng cũng đã quen cả với tâm trạng như có hòn đá rơi xuống nặng chình chịch trong lòng này. Nàng cảm thấy lạnh giá và trống rỗng mà ngay cả khói lửa từ bếp than dưới giường cũng không thể hun nóng được. Chỉ là tâm trạng sau khi sinh, nàng tự nhủ, tất cả sẽ qua đi sau một giấc ngủ. Chàng nói gì đó, nhưng nàng không còn nghe nữa.

Hai đứa trẻ vào phòng khi mẹ chúng đã ngủ. Chàng ra dấu cho chúng im lặng. Nhũ mẫu đã bế đứa bé sang giường bên kia. Sau một hồi ngắm nghía nó, con chị cũng dắt tay đứa em ra ngoài.

Khi nàng tỉnh dậy, bóng chiều đã ngả, mưa ngớt dần, chỉ còn tiếng lách tách trên mái nhà, tiếng nước chảy róc rách trong những máng xối. Đèn trong phòng đã được thắp lên, thanh củi gài trước cửa đã được đưa đi. Cô nhũ mẫu đang ngồi trên chiếc giường chênh chếch phía đối diện, ôm đứa bé trong tay ru khe khẽ. Ngoài ra, trong phòng không còn ai khác.

Nghe tiếng nàng trở dậy, nhũ mẫu vội ôm đứa trẻ đến bên giường nàng. Nàng lên tiếng trước khi cô gái nói.

- Tham thặng đâu? – Nàng hỏi và nhìn quanh. Giờ thì nàng đã nghe tiếng cười của thằng bé ngoài hiên. Có lẽ con chị đang chơi với nó.

- Buổi chiều nay có người trong quân đến gọi, tướng quân ra ngoài rồi ạ. – Cô nhũ mẫu trả lời, mắt nhìn nàng không chớp, như thể cô ta đang chờ đợi phản ứng của nàng.

Nhưng nàng chỉ gật đầu, đưa tay đón đứa con. Khi nhỏm dậy, nàng nhận ra lưng mình đã mướt mồ hôi vì hơi nóng dưới giường. Khắp người nàng vẫn đau đớn như dần. Thấy cái nhăn mặt của nàng, cô nhũ mẫu vội đưa đến chén thuốc đã được để sẵn trên bàn. Uống thuốc và nước xong, nàng lại nằm ngả xuống giường. Mơ hồ, ngoài xa, cùng với tiếng mưa, nàng nghe thanh âm của một chiếc xe ngựa đi qua.

Có lẽ mẹ sẽ tới nhanh thôi, nàng nghĩ thầm, lấy làm ngạc nhiên về sự chậm trễ này. Có lẽ mẹ nàng cũng không lấy làm vội vã khi nàng đã có chồng bên cạnh. Nàng nghĩ với cách nhếch mép nhẹ.

- Lấy khăn và quần áo mới cho ta lau mình. – Nàng nói với cô hầu vừa đẩy cửa vào. – Cả gương và lược nữa.

Đốt thêm lá xông. Nàng dặn với theo. Cô nhũ mẫu trẻ tuổi nhìn nàng với vẻ ngạc nhiên. Cô ta có vẻ chưa đến hai mươi tuổi. Nàng cười với cô ta, vẻ bao dung thờ ơ, bảo cô đưa đứa bé về nghỉ.

Rốt cuộc thì nàng cũng có một mình. Ngồi dựa vào tường bên giường khi chờ đợi cô hầu đưa đồ đạc đến, nàng nhìn ra ngoài cánh cửa khép hờ lọt qua chút ánh chiều vàng mật.

Thậm chí nàng không nghĩ đến có việc quan trọng gì khiến chàng phải ra đi. Nàng chỉ tận hưởng sự đơn độc này, một mình.

Nàng nghe tiếng mưa đi qua cùng bóng nắng chiều, rời rạc từng hạt nhỏ trong thanh âm của căn nhà trong khu làng đang xôn xao đón người trở lại.

46

Võ Tánh được gọi gấp đến điện vì có tin từ Diên Khánh báo về. Hóa ra, ở cửa Phú Yên, Phó tướng Tiên phong dinh Nguyễn Văn Tánh nhận được thư liên lạc của Đại Đô đốc Tây Sơn Lê Chất xin làm nội ứng bắt Lê Trung trong thành Quy Nhơn. Cùng lúc, Nguyễn Văn Thành báo về việc đánh tan một đợt tấn công mới của hải tặc Tề Ngôi vào Thuận Thành. Vì việc hệ trọng, chàng đích thân đưa thư đến cho chúa Nguyễn. Đọc xong lá thư của Lê Chất, vị chúa lắc đầu.

- Lê Chất là con rể của Lê Trung, với Lê Trung vừa là cha con, vừa là chủ tớ, nay lại có thể bán đứng Lê Trung hay sao? Bây giờ ngược gió, tiến quân không lợi, hắn biết thế sao lại bảo ta tấn công lúc này? Không chừng đây là cái bẫy của chúng. Lê Chất giảo hoạt, khó có thể tin được.

- Nếu Chất muốn phản Trung thật thì đâu phải cũng không có thể, chúa công. – Chàng nói. – Chúng em phản anh, tôi phản chúa đã thành lệ, đâu phải là lần đầu tiên. Đợt tấn công vừa rồi của ta hẳn cũng khiến vài kẻ phải nao núng, thay tâm đổi ý cũng không lạ.

- Rồi ta phải làm gì với Lê Chất đây? – Chúa Nguyễn nheo mắt nhìn chàng. – Hàng tướng về với ta trong tình thế chẳng đặng đừng, ta có thể dung thứ, cũng như những kẻ hồi tâm chuyển ý, tự chọn con đường cho mình. Nhưng Lê Chất muốn đem nhạc phụ mình, chủ tướng của hắn, kẻ đỡ đầu cho hắn làm lễ vật nhử ta, nhận một kẻ trong tình thế như vậy về thì ta phải để hắn ở đâu đây? Thân thiết không ai bằng cha con, nghĩa tình không ai bằng chồng vợ, ơn sâu không ai bằng chủ tớ, Lê Chất này hoặc là kẻ vô cùng nhẫn tâm, hoặc là vô cùng giảo hoạt. Đằng nào thì ta cũng không thể tin hắn được.

Vả lại, đánh vào lúc này cũng không phải là ý hay. – Vị chúa gấp lá thư của Lê Chất, nhét vào trong chiếc hộp để trên bàn. – Vừa rồi ta cũng thấy Lê Trung phòng ngự chặt chẽ mạn phía Nam, bốn vạn quân của ta so với chúng thật cũng là một con số nhỏ, chỉ bằng đạo quân Trần Quang Diệu đến vây thành Diên Khánh năm ấy. Không có thủy quân chặn đường, để chúng kéo từ Đà Nẵng, Phú Xuân xuống thì ta cũng chẳng làm cách nào giữ thành được. Tề Ngôi cứ liên tiếp tấn công vào Bình Thuận hẳn là để ngăn chặn thủy quân ta có bất cứ động thái nào. Nguyễn Văn Thành báo là vừa rồi đích thân Tổng binh Trần Thiên Bảo đưa cả trăm thuyền Tề Ngôi tấn công, ý định lấy lại cửa Phú Yên của chúng hẳn là nghiêm túc.

- Nhưng chúng ta cứ ngồi yên thì chúng cũng đâu có tự tan rã. - Chàng nói, không phải không có ý phê phán. Chúa Nguyễn nhìn chàng, mỉm cười.

- Ai bảo chúng ta ngồi yên, Tham thặng? Ta cho tướng quân biết một chuyện nho nhỏ: Ni cô Vân Dương của chúng ta đang cho con rể mình đi chiêu tập lực lượng khắp vùng Phú Xuân, Phú Yên, Quy Nhơn. Việc ở Quảng Nam, Thuận Hóa của ta đang tiến triển rất tốt. Ngay cả những giáo sĩ cũng đã được đưa vào cuộc. Với Bá Đa Lộc ở đây, ta không phải lo về sự ủng hộ của các giáo dân Gia-tô. Ngay cả ở Bắc Hà, bọn họ cũng không chịu sự kiểm soát của Tây Sơn thêm nữa.

Ni cô Vân Dương là cái tên không xa lạ với họ. Thái trưởng công nương Nguyễn Phúc Ngọc Tuyên, người đã xuất gia tại một am đường ở Vân Dương, lãnh đạo mạng lưới điệp báo ngay trong vùng đầu não của Tây Sơn. Từ khi nối được liên lạc với người cô, chúa Nguyễn đã gửi cho bà các bản chỉ sai trống để bà tùy nghi liệu định, có nghĩa bà là người quyết định thay cho vị chúa tất cả việc ở Thượng Nam Hà. Không phải Tây Sơn chưa từng nghi ngờ người con gái còn lại của Võ vương, nhưng mỗi lần chúng kéo đến lục soát am lại phải ra về không vì không tìm được bất cứ bằng chứng nào. Dần dà, cùng với thời gian và các trận đánh của quân Gia Định, người công nương đã quy y này mở rộng dần lực lượng của mình, vươn đến tận Quy Nhơn, vào ngay trong triều đình, kết nối cả với những giáo sĩ Gia-tô. Năm nào, ni cô Vân Dương đã gửi cho chúa Nguyễn toàn bộ kế hoạch hành quân của Nguyễn Huệ xuống Gia Định. Và những tin tức trong Phú Xuân vẫn đều đặn tới chỗ họ bây giờ, bằng đủ mọi phương cách.

Với chúa Nguyễn, công nương Ngọc Tuyên còn có ơn cứu được hài cốt cha ngài ta, một việc vẫn còn được giữ bí mật cho đến bây giờ.

- Vừa rồi ở Đà Nẵng ta đã nhận thấy một việc rất lạ. – Vị chúa trầm ngâm nói tiếp sau đó. – Ta nghe Trần Quang Diệu đưa quân đến cửa Eo nhưng lại chỉ có Phó tướng của hắn ra đối đầu với Văn Trương. Quân ta đe dọa Phú Xuân, tình thế cấp bách nên Nguyễn Quang Toản mới phải đưa Trần Quang Diệu ra trận, tuy thế vẫn không cho thực quyền. À không, không phải Quang Toản – Trần Quang Diệu là thân thích của vua, làm sao mà lại không tin thân thích của mình? Vậy là sau vụ việc của Bùi Đắc Tuyên, phe phái chống đối vẫn còn nắm quyền trong triều. Năm nào khanh bị vây ở thành Diên Khánh, nhớ chứ, Nguyễn Văn Huấn đã đuổi đến định giết Diệu, chặn đường giữa Quy Nhơn và Diên Khánh của Lê Trung và Diệu. Trần Quang Diệu và Lê Trung như hình với bóng ra trận cùng nhau, Lê Trung lại là người của Nguyễn Nhạc trước kia. Trần Quang Diệu bị hắt hủi trong triều, Lê Chất lại đưa thư thông mưu với ta, hẳn là đã nhận thấy rằng Lê Trung đang ở trong tình cảnh khó khăn, khó có thể nào làm việc lớn được. Ở Đà Nẵng, ta đã nhận thấy thế, giờ có bức thư của Lê Chất thì chứng thực như vậy.

Vừa rồi ta đã liên lạc với Nguyễn Bảo, con cả của Nguyễn Nhạc, trước khi về ta cũng đã nói Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường giữ kết nối với hắn. Cùng với Vân Dương cô cô và người Gia-tô giáo trong vùng, bất cứ rối loạn nào bây giờ ở Quy Nhơn đều có thể gây ra biến động không lường được. Ta thật muốn xem bọn chúng sẽ đánh giết nhau thế nào. Ồ, Tứ trụ đại thần – Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh - ta thật muốn xem bọn chúng sẽ đánh giết nhau thế nào.

Chàng không thích nụ cười trên gương mặt vị chúa lúc này, sự tính toán và chua chát trong đó, cả sự đắc chí ngấm ngầm. Chàng không thể đừng mà nghĩ tới lời Nguyễn Văn Trương khi trước về sự bất đồng trong triều Định vương và chức vị Tứ trụ đại thần do chính chúa Nguyễn đặt ra. Những kẻ ấy lại thật chẳng biết học hỏi người trước, chàng thấy ý nghĩ ấy trong mắt vị chúa.

- Chúng ta lại chờ đợi sao? – Phúc Cảnh hỏi ngay khi được chàng kể lại. Cậu ta đã đứng đợi ngoài cửa từ khi vừa mới nghe có tin Diên Khánh đến. Bây giờ, như thường lệ, cậu Đông cung có vẻ sốt ruột. – Nếu không đánh lúc này, ta có thể tấn công lúc gió thuận, sao phụ hoàng lại nhất quyết không chấp nhận sự quy hàng của Lê Chất chứ?

- Ngài ấy vốn chẳng muốn đánh. – Võ Tánh trả lời, lơ đãng nhìn màn mưa dần tạnh. Chàng sốt ruột muốn trở về nhà. Khi tỉnh dậy không thấy chàng, hẳn Ngọc Du sẽ buồn lòng.

- Khi Thượng sư không còn có thể tạo áp lực lên phụ hoàng được nữa, ngài ấy liền tỏ ngay thái độ thiếu quyết đoán. – Cảnh thở ra, chắp tay sau lưng. – Nhớ ngày xưa không, Thượng sư phải mấy lần đe dọa, ngài ấy mới chịu cất quân đi. Sau khi cứu Tham thặng từ Diên Khánh về, phụ hoàng lại càng uể oải. Nghỉ quân hẳn một năm rồi đánh chỉ vẻn vẹn bốn tháng, thậm chí chúng ta còn chưa có kế hoạch gì cho sang năm ngoại trừ việc cứu viện Xiêm La. Ta sẽ không ngạc nhiên nếu như bọn thần tử Bắc Hà nản lòng. Bọn họ đến đây để tìm sự báo phục, thế mà chẳng thấy chúng ta có lòng quyết chiến. Cũng y hệt như với người Tây dương thưở trước. Nhiều khi ta phải hỏi phụ hoàng thực sự muốn gì?

- Nếu ở vị trí của ngài ấy, có lẽ Đông cung sẽ hiểu. – Võ Tánh mỉm cười. Để chấm dứt sớm câu chuyện này, chàng liền đổi ngay đề tài. – Nghe nói Đông cung đã ra lệnh sửa lại các nhà ngục trong Gia Định?

- Phải, ta muốn để nam nữ tách biệt ra. – Cảnh gật đầu. – Nhà ngục là nơi lộn xộn dơ bẩn, khi bị giam chung thì người nữ rất thiệt thòi, dễ bị xâm hại. Dù là tù phạm thì họ cũng có tự trọng, ngoài hình phạt đích đáng ra thì không nên làm tổn thương đến họ.

- Hẳn họ rất cảm ơn ngài đã có lòng thương đến. – Chàng nói sau một lúc im lặng. Việc ở nhà giam có lẽ mọi người đều biết nhưng chưa ai nghĩ đến chuyện thay đổi cho đến khi cậu Đông cung trẻ măng này ra lệnh, điều đó làm chàng cảm thấy hơi hổ thẹn. Cậu ta là người có quyền lực thứ hai sau vị chúa quản Gia Định. Việc quân tướng trốn lánh ở lại cướp bóc cũng do cậu ta bắt, việc trộm cướp trên sông cũng do cậu ta báo lại, và bây giờ là chuyện nho nhỏ như nhà tù và can phạm. Điều đó đáng lẽ họ phải nghĩ tới trước, vậy mà hình như không mấy ai quan tâm.

Cảnh nghe chàng nói chỉ nhếch miệng nhẹ như cười. Cậu ta đã cao gần bằng chàng, chàng nghĩ với sự ngạc nhiên thoáng qua. Mười tám tuổi, cậu ta đã thực sự trưởng thành, đã trở thành chủ một gia đình với ba người vợ và có lẽ sẽ sớm trở thành cha. Chỉ trạc tuổi chàng nhưng chúa Nguyễn đã có người con lớn đến vậy, chàng nghĩ và nhớ đến đứa con trai còn nhỏ xíu ở nhà. Chàng thực muốn có người con như cậu thanh niên đang đứng cạnh mình lúc này, chàng thực muốn nhìn thấy thằng bé lớn lên và trở nên giống như cậu ta. Và cả hai chị em gái của nó nữa. Cả đứa trẻ đỏ hỏn mà chàng mới thấy hồi sáng.

Vẻ bồn chồn của chàng đã bị cậu Đông cung nhận biết. Cậu ta nhướng mày nhưng không hỏi, để chàng đi. Bước ra khỏi Phương điện dưới những giọt mưa nhỏ như bụi vẫn còn rải rác trong nắng chiều nhạt dần, chàng không nghĩ đến việc phải đứng lại lần nữa. Lần này là Ngô Tùng Châu. Anh ta ôm một chồng sách trước mặt, không thấy rõ đường để rồi gần như đâm sầm vào chàng. Chàng nhanh tay chụp được mấy cuốn sách trước khi chúng rơi xuống mặt đất còn lấp xấp nước.

- Cám ơn. – Ngô Tùng Châu nói, hạ cánh tay ôm sách để có thể nhìn qua chúng đến chàng. – Đây là sách mà Đông cung muốn tìm, tôi đang định đưa đến Thái học đường.

- Để tôi đem bớt cho. – Không thể đừng được, chàng lên tiếng, lấy một nửa chồng sách của Ngô Tùng Châu. Nghe tiếng anh ta thở ra nhẹ nhõm bên cạnh.

- Đáng lẽ có thể nhờ mấy đứa tiểu đồng, nhưng mấy ngày nay nhiều việc, sai chúng đi cả rồi. – Ngô Tùng Châu lắc đầu khi cùng chàng rẽ vào Thái học đường ngay cạnh Phương điện.

- Có việc gì thế? – Chàng hỏi.

- Đông cung đang muốn soạn sách về những trung thần nghĩa sĩ làm gương cho đời. – Ngô Tùng Châu trả lời, gương mặt không biểu lộ điều gì. – Đông cung bảo, thời thế càng rối loạn thì càng phải đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Mất nền tảng đạo đức thì cương thường bị hủy hoại, xã hội rối loạn, con người suy đồi. Trước là trung thần, sau là nghĩa sĩ, rồi con thảo vợ hiền, lần lượt làm sách mà dạy người.

- Nghe như là ý kiến của chính anh vậy. – Chàng cười. Họ đã đến Thế điện. Chàng và Ngô Tùng Châu trao sách cho hai người lính canh để họ đưa vào. Anh ta quay sang chàng, vẻ nghiêm nghị lại càng sắc trong bóng chiều đang dần tắt.

- Anh nói vậy là xem nhẹ Đông cung qúa rồi. – Trong giọng Ngô Tùng Châu vừa có sự phật ý, vừa có vẻ kiêu hãnh ngấm ngầm. – Đông cung không phải kiểu người để ai muốn nói gì cũng nghe theo vậy. Vừa rồi tôi giảng Nhạc ký cho Đông cung, chính ngài ấy lại đi thuyết giảng lại cho tôi.

- Và chúng ta lại có thêm việc để làm. – Chàng vẫn giữ nụ cười trên môi. Nhắc đến Nhạc ký, chàng lại nhớ đến lệnh tuyển người học nhạc của chúa Nguyễn vừa ban. Hóa ra đó xuất phát từ cậu Đông cung này.

- Đông cung nghe tôi giảng xong Nhạc ký liền bảo: Nhạc là linh thiêng, là lòng thành chúng ta gửi lên trời đất. Người xưa đã nói “Thành ư nhạc”. Thành là đạo của trời đất, muốn đạt được Thành thì người phải thấu được đạo. Khổng Tử dạy, đạo vốn chẳng xa người, thứ đạo rời xa con người vốn không thể gọi là đạo. Thành không phải miễn cưỡng cũng tự nhiên thích hợp, không phải suy nghĩ cũng tự nhiên có được, cứ ung dung mà hợp với đạo thì chỉ có thánh nhân mới làm được. Còn người ta muốn đạt đến Thành trong thực tiễn thì phải giữ lấy điều thiện. Nếu không có điều thiện thì không thể biết thế nào là lòng thành. Làm vương cai trị thiên hạ cũng chỉ tóm gọn trong một chữ Thành. Thi hành chính sự cốt ở con người, chọn dùng được người là cốt ở mình. Sửa mình thì phải theo đạo. Theo đạo trước hết phải Nhân – kính yêu người thân là điều lớn nhất trong chữ Nhân. Sau đó là Nghĩa, cư xử cho hợp lẽ, tôn trọng người hiền. Muốn nên người thì phải tu thân, muốn tu thân phải kính thờ cha mẹ, muốn kính thờ cha mẹ thì phải hiểu đạo làm người, muốn hiểu đạo làm người thì phải thấu đạo trời. Phải tu thân rồi mới biết cách trị lý người khác, trị lý được người khác rồi mới trị lý được thiên hạ.

“Tự thành minh, vị chi tính. Tự minh thành, vị chi giáo. Thành, tắc minh hỹ. Minh, tắc thành hỹ”. Hiểu được đạo trời do sáng suốt, đó là tính trời. Hiểu được đạo trời rồi trở nên sáng suốt, đó là do giáo huấn. Thành là bản tính của thánh nhân, lặng yên bất động, rộng lớn trong sáng, soi vào trời đất, cảm thông với mọi việc trong thiên hạ. Chỉ có người đạt được Thành rồi mới có thể phát huy hết bản tính của mình. Phát huy được tính của mình rồi mới phát huy được tính của người. Phát huy được tính của người rồi mới phát huy được tính của vật. Thế rồi mới có thể giúp cho sự hóa dục của Trời Đất, cùng Trời Đất đứng sánh làm ba.

Đạo của Trời Đất chỉ khái quát trong một chữ Thành. Núi cao sông sâu trời rộng biển dài đều do vạn vật hợp thành, thiên biến vạn hóa, sâu rộng khó lường, không gì không bao chứa, không che chở. Muôn vật cùng nhau sinh trưởng mà không làm hại lẫn nhau. Các quy luật cùng nhau vận hành mà không trái ngược. Vô hình vô dạng, vô thanh vô khí mà lưu chuyển vạn vật, giáo hóa con người.

Nhạc là biểu hiện của đạo lý sâu xa ấy, là để rèn luyện tính người, giáo huấn bản thân, tu dưỡng thiên tính. Thế mà chúng ta lại qúa ư coi nhẹ. Trong dân gian thì ưa chuộng loại nhạc dễ dãi trống rỗng, dâm loàn ngược ngạo. Ở triều đình thì ngay trong cả các buổi tế tự cũng dùng các ca nhi con hát, hỗn tạp lố lăng thế thì dạy được ai? Ngày xưa Văn vương đàn, muông thú tụ về lắng nghe tán thưởng. Ngày nay tuyền chỉ là thứ nhạc pha lẫn giữa Tàu, Miên, Việt, ai oán não nề, nhạc khí nhạc cụ pha trộn không hề có chút thứ tự nào, nhạc trở thành thứ để mua vui. Âu rằng trong dân gian là như thế, người ta cũng chỉ đàn hát mua vui qua ngày qua buổi, nhưng là kẻ nắm giữ đạo đức để chỉ dạy cho người, sao lại có thể dùng thứ nhạc khí thấp kém của bọn con hát để biến triều đình thành nơi lầu Tần quán Sở, những buổi tế tự trang nghiêm thành nơi phô diễn tìm vui? Thế thì Lễ để làm gì, lòng thành để làm gì?

Nghe như Bá Đa Lộc nói những câu sau đó, Võ Tánh nghĩ thầm nhưng không nói ra. Y hệt như năm xưa ông ta đã nói với chúa Nguyễn về những tục lệ “mê tín” không hề có lợi gì về mặt thực chất, nhưng vào trong lời Cảnh chúng lại trở thành điều phê phán mang tính xây dựng. Mà điều này hẳn chẳng cần phải nói với các quan triều làm gì. Hôm trước chàng đã được vị chúa cho xem bản sớ xin chém đầu Bá Đa Lộc của Trần Đại Luật đã xóa đi tên người gửi. “Cái hại Phật Lão tệ hơn Dương Mặc, mà cái hại Gia-tô còn tệ hơn Phật Lão, nên trị mối dị đoan thì thánh nhân răn về hại ấy, giữ về tà đạo thì tiên vương nói ắt phải giết, là vì ghét sự loạn chính dối dân để họa về sau. Nay Bá Đa Lộc mang đạo Chúa Trời lừa dối dân ngu, không có tình thân cha con, nghĩa lớn vua tôi, lại cậy mình bảo hộ Đông cung có chút công lao, sinh lòng kiêu ngạo, không sợ hãi gì, nay đã như thế, ngày sau sẽ thế nào, kẻ ấy mà không giết, sao gọi là pháp luật được. Thần xin được thanh gươm vua dùng để chém đầu y treo ở cửa chợ, tạ người trong nước mà trừ bỏ sự mê hoặc của mọi người”. Ta không muốn gây bất hòa nên đã xóa tên của Trần Đại Luật đi, vị chúa nói. Nhưng Bá Đa Lộc từ nay phải cẩn thận, cả những ai muốn bảo vệ cho ông ta cũng vậy. Ta đã bảo Trần Đại Luật rằng bây giờ là lúc cần người, kẻ gian người ngu cũng phải dùng, không nên hẹp hòi để bụng.

Nên sớ tâu kể tội Phật, Lão cũng đúng mà luận tội Gia-tô cũng hay, chàng nghĩ. Khen xong rồi thì vị chúa lại đi tôn tạo chùa chiền, dùng Bá Đa Lộc như chưa từng xảy ra chuyện gì. Bên cạnh ngài ta, chàng cũng đã học được cách im lặng trước mọi xung đột của các phe phái, thậm chí, sử dụng ngay chính sự xung đột ấy để kiềm chế tất cả mọi kẻ quanh mình. Phải, ngài ta nuôi dưỡng sự xung đột, mối mâu thuẫn như một cách để cai trị. Phúc Cảnh, với sự hăng hái và non nớt của một thanh niên trẻ, cũng đã lọt vào tầm ảnh hưởng của ngài ta, bằng một cách khác. Đông cung, thay mặt cha mình, chỉnh đốn lại ngay hàng ngũ các văn quan vốn kiêu hãnh với sở học của họ. Như cậu ta đã khiến chàng cảm thấy hổ thẹn với sự lộn xộn trong nhà giam Gia Định. Câu nhận xét của cậu Đông cung trẻ về lễ nhạc hẳn khiến nhiều vị văn quan phải đỏ mặt, vì đó là nhiệm vụ của họ, nghĩa vụ của họ.

Ngô Tùng Châu, vừa là thầy dạy học vừa là quan lại, hẳn đã thấy vừa hãnh diện với người học trò vừa bối rối. Chàng nhận ra cảm giác ấy trong lời nói của anh ta. Soạn sách về trung thần lần này, chẳng biết còn ai trong triều cảm thấy chờn chợn sau gáy hay không? Nhất là hàng ngũ hàng tướng, hàng quan, quan lại Bắc Hà vừa mới về. Ồ, Đông cung đang muốn khống chế họ, thâu tóm họ trong tiềm thức, ý thức, cho họ biết vị trí của mình. Một việc mà chỉ có cậu ta ở địa vị người thừa kế của chúa Nguyễn mới làm được.

Rồi chính vị chúa cũng phải bối rối về Lê Chất. Ta sẽ phải làm gì với hắn đây? Ngài ta hỏi và từ chối. Thu nhận một kẻ như thế là không có lợi, ít nhất là trong triều đình mà ngài ta đang muốn tạo thành, ít nhất là trong tình thế mà hắn ta theo về. Từ chối Lê Chất, họ chỉ còn chờ đợi động thái biến chuyển trong những nhóm chống đối tại Quy Nhơn, Phú Xuân. Trong lúc bọn Tề Ngôi thỉnh thoảng lại mở đợt tấn công quấy phá Thuận Thành, Diên Khánh.

Không thể trách bọn quan tướng Bắc Hà khi ngay cả chàng cũng thấy sốt ruột, Võ Tánh nghĩ khi đã cáo từ Ngô Tùng Châu trở về. Bóng đêm đã buông trên con đường tối. Lại một ngày nữa đi qua khi gió nồm vẫn còn đang thổi mạnh. Gió nam vẫn còn đang thổi và họ đáng lẽ vẫn còn có thể tiến công. Nhưng ngược lại, vị chúa đã thu quân trở về, cho họ chuẩn bị đến cứu Xiêm La, một việc mà rất ít người muốn làm.

Vừa về tới cửa nhà, chàng đã nghe thấy tiếng trẻ con khóc. Tiếng Ngọc Du dỗ dành và hát khe khẽ. Những tiếng động đem tới một nụ cười nhẹ trên khóe môi chàng. Nghe thấy chàng bước vào, Ngọc Du vẫn không ngẩng lên, đứa trẻ trên tay nàng vẫn vung nắm tay nhỏ xíu của nó lên trời, ngoạc miệng hét gào.

- Con sao thế? – Chàng hỏi khi lại gần, chạm tay vào má đứa trẻ. Lạ thay, nó nín khóc, giương mắt nhìn chàng.

- Nó ngủ dậy thấy cha nó tự dưng đi mất nên khóc đấy mà. – Chàng không thể không nhận thấy sự hờn mát trong câu nói của Ngọc Du, cũng đành chỉ cười, đón lấy đứa bé từ tay nàng. Ngọc Du thở ra, lại nằm xuống. Trong ánh nến vàng, khuôn mặt nàng vẫn tỏ vẻ mệt mỏi. Mái tóc đã được chải lại, thắt thành một bím dài vắt sau lưng, quần áo cũng đã được thay, nhưng vẻ tai tái xanh xao trên làn da, đôi má nàng không cách nào che giấu được. Mùi nghệ, mùi thuốc lá đã quẩn quanh trong căn phòng, phả ra từ nàng.

- Có tin khẩn từ Diên Khánh nên ta không đến không được. – Chàng nói như thanh minh. Nhưng nàng không hỏi, chỉ gật đầu. Nàng mệt đến nỗi không thể bận tâm suy nghĩ đến việc nào khác lúc này.

- Ta có cái này cho nàng. – Chàng nói trước khi mắt nàng nhắm lại, trao đứa bé đã im lặng lại cho nhũ mẫu rồi thò tay vào trong áo lấy ra một gói vải nhỏ. – Phấn mạt lị ta lấy ở trong cung. Người ta nói dùng để tránh mẩn ngứa, dị ứng vào thời tiết nóng rất tốt.

Nàng nhìn chàng, cười nhẹ. Ồ, phụ nữ, nàng nghĩ. Thật dễ bị động lòng bởi những thứ nho nhỏ như thế này.

- Ta cũng đã vào Hậu điện tìm mẹ, nhưng nghe nói bà đang bị cảm, bệnh thường thôi. Ta vào thăm bà một lúc rồi, nghĩ để bà nghỉ ngơi thì hơn. – Chàng nói, nhìn khuôn mặt nàng giãn dần ra. Nàng khẽ gật đầu. Cầm lấy gói vải trong tay chàng, nàng mở ra, chạm khẽ ngón tay vào lớp phấn trắng mịn thơm mùi hoa nhài thoang thoảng. Phấn loại hảo hạng được mua từ Đại Thanh về. Mùi thơm này khiến đầu óc nàng dịu lại.

- Con bé coi bộ thích anh lắm. – Nàng nói khi đã gói bọc phấn, nhìn sang cô nhũ mẫu vẫn hát ru khe khẽ đứa trẻ bên giường kia. Hẳn nàng lại đang nhớ tới thằng bé đã khóc thét lên khi cha nó chạm vào. – Nghe nói những đứa con gái bao giờ cũng hợp với cha chúng hơn.

- Con bé Hồi cũng thế. – Chàng cười. – Rồi nàng lại suốt ngày rầy la ta nuông chiều nó.

Nàng có vẻ như định nói gì nhưng mím môi im lặng. Cô hầu đưa đến thuốc buổi tối cho nàng và chàng đỡ nàng dậy, cho nàng uống thuốc. Khi chạm vào nàng, chàng thấy ngạc nhiên về sự yếu ớt của nàng, như thể nàng không thể tự ngồi dậy được.

- Sức khỏe đã yếu nhiều rồi. – Nàng nói, nhận ra thái độ của chàng. – Sau này anh tìm người khác sinh con cho mình đi.

Chàng không trả lời câu nói của nàng, chỉ đỡ nàng nằm lại. Trong khí trời oi bức cuối hạ, chàng không ngạc nhiên về tâm trạng liên tục thay đổi của nàng. Nàng chỉ đưa mắt về phía cửa, nơi hắt vào chút ánh sáng của ngọn đèn treo trước hiên. Anh đi ăn đi, nàng nói, một lúc sau đó, giọng đã có vẻ dịu xuống. Chàng gật đầu rời khỏi phòng. Khi chàng trở lại, nàng đã thiêm thiếp ngủ, hơi thở đều đặn khe khẽ. Ngay cả lúc chàng chạm tay vào má, nàng cũng không động đậy. Có vẻ nàng đã thực sự kiệt sức.

- Xin lỗi. – Không biết nói sao, chàng thì thầm. Ở giường bên kia, con bé o oe khóc vài tiếng trong giấc ngủ.

Những ngày cuối năm Đinh Tỵ trong Gia Định mang không khí có phần kỳ lạ. Lần đầu tiên trong suốt hơn chục năm qua, họ lại không chuẩn bị để đối đầu với Tây Sơn mà là một đất nước chẳng mấy ai biết đến: Miến Điện. Dường như ngay sau trận chiến khuấy đảo Quảng Nam, vị chúa đã không còn coi việc đối đầu với Tây Sơn là nghiêm trọng. Ngài ta cho phủ binh của các đội quân về, chỉ còn thủy binh tập trung rèn luyện, chờ tin tức từ Xiêm La. Thái độ ấy đã gây khá nhiều điều tiếng trong quân. Cuộc rút quân vội vã khi đang chiếm lợi thế làm những người máu nóng cảm thấy tiếc rẻ như thể đã đánh mất một cơ hội chiến thắng trong tầm tay.

Nhưng ngay cả trận chiến với Miến Điện cũng không xảy ra. Cuối năm, nghe tin Miến Điện tập trung ở vùng biên giới, đội thủy quân Gia Định do Nguyễn Văn Trương và Huỳnh Đức chỉ huy xuất trận. Nhưng chỉ vừa đến Côn đảo, họ đã nghe Miến Điện rút lui. Nguyễn Văn Trương để Huỳnh Đức đến Xiêm bàn chuyện với Phật vương, rút quân về. Từ Xiêm La trở lại, Huỳnh Đức mang theo một tin tức quan trọng với chúa Nguyễn: Phật vương đề nghị giao kết với Gia Định.

Đời đời giúp nhau, Huỳnh Đức chuyển lại lời nói của Phật vương cho vị chúa. Quân Miến Điện vừa rồi nghe thấy thanh thế của thủy quân ta mà rút đi, Phật vương nhận thấy giao kết với ta thì có thể giúp ích cho việc trị an đất nước Xiêm La nên đề nghị ký kết chính thức việc giao hảo. Không phải quan hệ chư hầu mà là hai đất nước ngang hàng, từ nay chúng ta là bạn, việc của nước này là trách nhiệm của nước kia, đời đời giúp đỡ lẫn nhau.

Nghe như thật ấy, trong hàng ngũ quan lại, chàng thấy tiếng thì thầm. Xiêm La thấy ta lớn mạnh, có thể nhờ cậy tiếng tăm của ta mà khiến Miến Điện phải e dè nên mới đề nghị như thế. Còn chúng ta thì có thể nhờ cậy được gì ở Xiêm vương?

Nhưng vị chúa vẫn đồng ý. Đoàn sứ giả hùng hậu được cử sang Xiêm vào những ngày cuối năm Đinh Tỵ đưa về một giao ước được viết bằng bốn chữ vàng “Đời đời giúp nhau” do đích thân Phật vương Xiêm La trao cho. Ở biên giới phía Tây Bắc, con đường Vạn Tượng đã được mở hoàn toàn cho họ. Cùng với những lễ mừng của vua Chân Lạp cho việc giao kết này, họ đã thấy, lần đầu tiên trong cả trăm năm qua, những đội quân ở biên Tây xếp vũ khí. Lần đầu tiên trong cả trăm năm qua, chiến tranh đã lùi xa khỏi mảnh đất Gia Định, bằng giao kết được ký  bằng con dấu của cả hai quốc gia.

- Chúc mừng. – Khi ra khỏi điện chầu sau lễ đón bản ký kết, chàng thấy người Tây dương đưa tay về phía mình, liền nắm lấy tay anh ta. Đây có lẽ là phong tục của người Tây dương bọn họ.

Chàng đã làm quen với người Tây dương này khi đưa Ngọc Du đến dự lễ cưới của anh ta. Cuối cùng thì họ cũng không vào nhà thờ xem lễ, chỉ đứng ở ngoài cửa nhìn vào. Khi trở về, những đứa trẻ vẫn còn nhắc mãi về nhạc lễ của người Tây dương, âm điệu khác hẳn so với những gì mà họ vẫn thường được nghe; về phong tục của người Tây dương – thật ra cũng chẳng có gì khác biệt lắm với họ. Cũng cô dâu được đưa tới, và thay vì quỳ lạy tổ tiên thì họ làm lễ với Chúa, những đứa trẻ bảo, họ cũng cử nhạc, cũng chúc mừng, cũng dặn dò nhau. Thật ra họ cũng chẳng có gì khác biệt lắm, Ngọc Du nói khi nhìn những thủy thủ khoác tay nhau nhảy múa quanh đám lửa. Chúng ta cũng thường nhảy múa như vậy, trong những dịp lễ tết, khi vui vẻ. Thật ra họ cũng giống như thường dân của chúng ta.

Ồ, chẳng lẽ đến bây giờ nàng mới nhận ra? Chàng vui vẻ cười. Những ngày tháng trong quân đã khiến chàng làm quen với những thủy thủ và cả thương buôn Tây dương. Thấy chàng tới, họ đã nâng ly chúc mừng. Chàng nhận ra người Tây dương nọ là thủy thủ đã luôn ở bên cạnh vị chúa trong những chuyến ra quân.

Bây giờ, anh ta bắt tay chàng, như thể đang chúc mừng một việc quan trọng. Nụ cười mở rộng trên khuôn mặt anh ta.

- Đây là bước đầu tiên. – Người Tây dương nói, có thể đã nhận ra vẻ bỡ ngỡ của chàng. – Kết giao được với Xiêm La là bước đầu tiên để mở rộng ảnh hưởng. Thời đại bây giờ, những nước có thế lực mạnh là nước có nhiều đồng minh – một điều mà phải nói rằng Phú Lang Sa làm không được tốt lắm. Xiêm La bây giờ có thể quân đội không mạnh, nhưng họ có vị trí rất tốt, là nơi luân chuyển hàng hóa, đường đi, đường biển của họ rất quan trọng. Kết giao được với Xiêm La, có thể nhờ được tầm ảnh hưởng của họ với các lân bang.

- Đúng vậy. – Chàng trả lời, tuy vẫn chưa thể hiểu được những “ảnh hưởng” mà người Tây dương đang nói tới. Anh ta vỗ vai chàng, cùng chàng đi xuống những bậc thang lên điện. Một vài vị quan nhìn theo họ, nhưng người Tây dương có vẻ không để tâm.

- Chúa công trước đây cũng đã từng kể với chúng tôi rằng việc liên kết giữa các quốc gia phương Đông thực ra chỉ tồn tại về hình thức, hoặc là phương cách để các triều đình nhờ cậy sự bảo trợ lẫn nhau. Thật là phí phạm, tôi bảo. – Người Tây dương vẫn tiếp tục nói bên cạnh chàng. Anh ta có vẻ còn vui mừng vì sự liên kết này hơn cả những người Việt. – Với Tây dương chúng tôi, liên kết là tiền bạc và lợi lộc. Có những việc mà chúng tôi không thể làm một mình, thế là chúng tôi kêu gọi để chia phần. Chúng tôi buôn bán thì phải có bạn hàng, thị trường, nguồn hàng, thế là chúng tôi phải đi tìm. Kể cả sự bảo trợ chư hầu của các quốc gia phương Đông cũng có thể đem lại lợi lộc ngoại trừ những cống vật mà họ bắt buộc phải nộp. Đó là tài nguyên, đó là con người. Bất cứ khi nào cần, anh cũng có thể sử dụng, kêu gọi họ, điều đó chẳng phải là một nước thì nhỏ nhưng lại có sức mạnh lớn sao?

- Sử dụng? – Chàng nhướng mày. Ồ, chàng chưa nghĩ đến điều đó. Ngay cả nước Thanh rộng lớn kia cũng chưa từng nghĩ đến điều đó, hẳn vậy. Vị chúa đã kể cho họ rằng chúa Nguyễn từng sử dụng quân đội Chiêm Thành, nhưng khó có thể xác định được đó là quan hệ chư hầu hay vua tôi. Rồi chàng chợt nhớ ra Hà Tiên của họ Mạc, những người họ Mạc đã làm mọi cách để ủng hộ vị chúa.

- Đó là nghệ thuật cai trị. – Người Tây dương cười. – Rồi anh hãy xem, quyền lực của chúng ta sẽ không chỉ gói gọn trong mảnh đất này. Chư hầu sẽ tới, bạn bè sẽ tới. Ảnh hưởng sẽ được mở rộng mà không cần phải đụng đến đao kiếm tranh chiếm đất đai. Các anh hãy chuẩn bị trở thành bá chủ của biển Đông Dương.

- Trong khi chúng ta còn chưa đánh xong kẻ thù ngay trong nước. – Chàng buột miệng cười. Người Tây dương vốn kiêu ngạo và xốc nổi, chàng lại nghĩ đến nhận xét của các quan viên. Qủa cũng có mấy phần sự thật trong đó. Họ có ý thức rất rõ về sức mạnh mà mình đang nắm giữ và cách sử dụng sức mạnh ấy để tạo nên quyền lực và lợi ích cho mình. Những điều nằm ở mặt thực chất. Điều đó như một loại bản năng đối với họ.

Người Tây dương nhún vai bên cạnh chàng. Chàng biết anh ta đang nghĩ gì. Họ biết rõ mình đang nắm giữ điều gì và làm sao để có được điều mình muốn. Điều mà cả chúa Nguyễn cũng không giải thích cho họ trong ván cờ mà ngài ta đang đánh với biên ải phía Tây.

Biên ải phía Tây, vượt qua Chân Lạp, vượt qua Xiêm La, vượt qua Miến Điện, họ sẽ đến vùng đất của Hồng Mao trên Ấn Độ. Biên ải phía Tây, đi qua vịnh Xiêm La, đi qua La Tống, đi qua Nam Dương, đi qua Hạ Châu, họ sẽ đến mũi Hảo Vọng, mở ra một vùng biển hoàn toàn xa lạ.

Chú thích:

La Tống: Singapore.

47

Rất sớm, lời nói của người Tây dương về “ảnh hưởng” của bọn họ đã được đưa ra thử thách. Ngay đầu năm Mậu Ngọ, tin từ biển Tây báo về cho vị chúa: Laurent Barizy, người lãnh tàu của chúa Nguyễn đến Ấn Độ mua vũ khí đã bị tàu chiến của Anh Cát Lợi bắt giữ.

Căng thẳng đang lên cao trong các quốc gia Tây dương, các giáo sĩ nói. Trả thù cho một vị tướng thân cận với anh em Napoleon bị giết chết ở Rome, quân đội của tướng dưới quyền Napoleon đánh vào Vatican, bắt giữ Giáo hoàng Pope Pius VI, lên tiếng thành lập nước Cộng hòa. Từ chối thoái vị theo yêu cầu của quân Phú Lang Sa, Giáo hoàng bị giam giữ, đưa từ nhà tù Siena tới Florence. Vatican, thánh địa của Thiên Chúa giáo hàng trăm năm, đã bị đoàn quân Phú Lang Sa phá nát.

Cái tin đã làm rúng động những ai liên quan đến Tây dương, kể cả những người đạo Tin lành như Ô Lan, Anh Cát Lợi. Giáo hội đã bị hủy diệt, lần đầu tiên trong lịch sử tồn tại của nó. Ý Đại Lợi cùng hàng chục vương quốc lớn nhỏ bị phá tan, dày xéo, cướp bóc kiệt cùng trong khi Đốc chính viện phát đi bản tuyên bố ca ngợi nhân dân nước Ý đã quẳng đi ách mê tín áp bức đè nặng bao đời nay, cầm vũ khí để giải phóng cùng nước Phú Lang Sa. Cùng bản hiệp ước được ký với Áo, vị tướng Napoleon trở về trong vinh quang, được Paris đón chào như một người hùng.

Chiến thắng nước Áo, thế lực còn lại ở Âu châu mà Phú Lang Sa phải lật đổ để giành quyền thống trị là Anh Cát Lợi, câu nói ấy đã được lan truyền khắp nơi. Từ lâu, Ô Lan đã không còn là kẻ thù chính của Phú Lang Sa mà là Anh Cát Lợi – Kẻ chắn đường ở khắp châu Mỹ, châu Phi và đang chắn lối ở Ấn Độ, mũi Hảo Vọng. Chiến thắng nước Áo, Phú Lang Sa giành được quyền lực ở Âu châu, nhưng Anh Cát Lợi mới là đối thủ thực sự về nguồn lợi khai thác được trong thương nghiệp. Người Anh Cát Lợi biết điều đó, các thủy thủ đã nói với nhau. Họ đang chờ đợi một cuộc chiến mới do Phú Lang Sa phát động. Khi đã cướp cạn kiệt các kho tàng ở Ý Đại Lợi, khi người Ý Đại Lợi ra mặt phản kháng, những kẻ lãnh đạo Phú Lang Sa sẽ cần phải có một cuộc chiến tranh mới. Anh Cát Lợi, kẻ thù truyền kiếp, đế quốc không biết đến lúc mặt trời lặn, sẽ là mục tiêu mới của Phú Lang Sa. Căng thẳng đang dâng cao trên khắp thế giới, bất cứ nơi nào có mặt người của hai quốc gia này, mà người Anh Cát Lợi cũng không muốn bất cứ một kẻ mang dòng máu Phú Lang Sa nào đặt chân vào lãnh thổ của mình.

Dựa vai vào sườn tàu còn đang làm dang dở trong Xưởng thuyền, vị chúa im lặng nghe người Tây dương nói. Bên cạnh ngài ta, Võ Tánh và Cảnh thỉnh thoảng lại liếc nhìn thái độ của vị chúa. Không gì biểu hiện trong đôi mắt nhìn xuống, gương mặt rám nắng như được tạc bằng đá.

- Nghe nói Phú Lang Sa cũng có phần đất ở Ấn Độ? – Ngài ta nói khi người Tây dương đã im lặng. Anh ta lắc đầu.

- Không, Ấn Độ do người Anh Cát Lợi kiểm soát hoàn toàn. Chính phủ thay đổi liên tục, bây giờ ở đó như rắn mất đầu, không còn quyền lực gì. Mấy năm trước, chính thuyền của tôi cũng bị Bồ Đào Nha ở Ma Cao bắt mất mà không ai can thiệp, chúa công hẳn còn nhớ?

- Vậy là ta phải ra mặt rồi. – Vị chúa mỉm cười. – Anh có viết được chữ Anh Cát Lợi?

Vậy thì viết cho ta một lá thư theo lối của các anh. – Chúa Nguyễn nói sau khi người Tây dương gật đầu. – Bảo họ trả lại thuyền cho ta, Nguyễn vương của Nam Hà, đầy đủ người và vật không được thiếu một thứ gì. Ta không cần biết các nước Tây dương tranh chấp gì với nhau, nhưng Barizy là thủy thủ của ta, là người của ta, đó là thuyền của ta. Vì lợi ích của Hồng Mao trên lãnh hải Đông Dương và vịnh Xiêm La, đừng để ta phải đối xử với họ theo đúng như những gì họ đã làm với thuyền của ta. Vì lợi ích của chính Hồng Mao, hãy hỏi họ muốn trở thành bạn hay muốn đối đầu với ta?

Người Tây dương nhìn chúa Nguyễn, rồi đưa mắt nhìn chàng và Cảnh. Sau đó, anh ta cúi đầu.

- Vâng, chúa công. – Anh ta nói, bình thản và kiên quyết.

Như thế là qúa cứng rắn, Cảnh cau mày nói với người Tây dương khi chúa Nguyễn đã trở về cung để họ ở lại sắp xếp thuyền cho sứ giả đến Ấn Độ. Dù gì đây cũng là một sự hiểu lầm, theo lẽ thường thì ta nên đưa lễ vật đến giải thích cho họ, xin lại thuyền.

- Không đơn giản như ngài nghĩ đâu, Đông cung. – Người Tây dương cười. – Ngài nghĩ đây chỉ vì Barizy là người Phú Lang Sa thôi sao? Đầu năm nay người Miến Điện đưa thuyền Hồng Mao định đánh Xiêm La nhưng nghe thấy cứu viện của ta thì lại rút về, hẳn Hồng Mao vẫn còn để bụng. Người Anh Cát Lợi từ lâu vẫn muốn làm chủ biển Đông nhưng còn vướng bận Tây Ba Nha, Bồ Đào Nha nên không tiến lên được, lại mấy lần vượt qua Miến Điện không xong. Thủy quân của ta lớn mạnh, lại sử dụng người Phú Lang Sa, Anh Cát Lợi là kẻ cảnh giác hơn ai hết. Nhân dịp này, thù cũ hận mới, họ mới bày ra việc để nắn gân chúng ta. Mềm mỏng đối xử với họ là hạ sách, họ lại nghĩ chúng ta sợ họ. Nay chúa công đã kết giao với Xiêm La, Vọng Các cũng là một thương cảng quan trọng của Hồng Mao, vịnh Xiêm La hầu như do ta làm chủ, ta hoàn toàn có thể ra điều kiện với họ. Chỉ có như thế, các nước khác nhìn vào mới biết lệ của ta, chứ đưa lễ vật, mềm mỏng lúc này, các nước lại tưởng có thể sách nhiễu, thủy thủ ta đến đâu cũng sẽ gặp rắc rối. Một đất nước có lực thì phải có thế nữa mới đứng vững được. Ta không phải bạn nhưng cũng không phải thù của Anh Cát Lợi, bắt giữ thuyền của ta là họ làm sai trước, vốn không việc gì ta phải xử nhũn với họ.

Người trên biển cũng phải xử sự có luật. – Người Tây dương nói. - Muốn được tôn trọng thì phải chứng tỏ cho họ biết mình là ai.

Cảnh gật đầu im lặng. Họ nhìn theo những thủy thủ chất hàng lên thuyền một lúc rồi chàng mới mở lời.

- Thượng sư đã ra sao rồi? – Chàng hỏi mà không nhắm vào ai. Cảnh không trả lời chàng, chỉ có người Tây dương lắc đầu.

- Các giáo sĩ hoảng loạn. So với việc này, nước Anh Cát Lợi đổi đạo trước kia cũng chỉ là chuyện nhỏ. Cha Cả phải đi an ủi, trấn tĩnh bọn họ. Giáo hội có mất đi nữa thì họ vẫn còn có Chúa.

Chàng nhìn sang Cảnh. Cậu Đông cung vẫn nheo mắt nhìn nắng trên mặt sông. Có vẻ cậu ta không muốn nói về Bá Đa Lộc lúc này. Ngay cả Ngọc Du cũng không biết ông đang ở đâu. Chuyện về Giáo hội Gia-tô bị diệt, Giáo hoàng bị bắt đã lan trong bến cảng Sài Côn vài hôm nay, đến tai cả những người hoàn toàn không quan tâm đến đạo giáo. Bá Đa Lộc biến mất, không còn ai trong triều biết tin của ông. Ngay cả vị chúa khi biết tin con tàu của mình bị bắt giữ, muốn tìm vị giáo sĩ này để bàn chuyện cũng không được.

Đây là tháng ngày đen tối nhất với các tín đồ Gia-tô, chàng đã nghĩ điều đó khi đi qua những nhà thờ im lìm hoặc vang tiếng kinh cầu. Sự chống đối Gia-tô giáo lại lên đến một mức độ mới cùng với thái độ chống đạo ngay tại Tây dương. Ngay cả tại Tây dương, người ta cũng đang kết tội Gia-tô giáo là mê tín và lợi dụng để bóc lột giáo dân, những câu chuyện được thì thầm kể lại trên các con đường, trong các góc phòng của cung điện, gác chầu. Mê tín và lợi dụng, đó chẳng phải là những gì chúng ta luôn luôn nói, luôn luôn cảnh báo? Đó là một cái mầm độc phải trừ khử. Trước hết là Bá Đa Lộc, kẻ cầm đầu phe phái của những người Gia-tô giáo trong triều đình. Họ sẽ đưa mầm độc vào triều đình, y như đã làm ở Tây dương.

Bá Đa Lộc lại lánh đi, và Cảnh cũng như vị chúa đã im lặng khi nghe hỏi về người Thượng sư. Đã vậy, mới buổi sáng này, họ bắt được một sư trụ trì phạm tội. Với địa vị của nhà sư ấy, người ta đã phải chần chừ khi xét xử, phải đến hỏi vị chúa. Có tội thì xử, ngài ta nói, thờ ơ.

Nhưng đó là bậc chân tu. Quan trong triều nói, kể về chức vụ của nhà sư và ngôi chùa của ông ta. Chúa Nguyễn ngắt lời bực dọc.

Chân tu thì ích gì cho nước? Có tội thì xử, pháp luật là bình đẳng. Có thể vào chùa để trốn tội lỗi được hay sao? Trước nay những kẻ lười biếng muốn trốn trách nhiệm, dao dịch chỉ cần gọt tóc giả bộ tu hành, thế là cho rằng ta không làm gì được. Đạo giáo chỉ là một phần tín ngưỡng, đâu thể nào được can dự ảnh hưởng tới pháp luật. Thời xa xưa khi họ Lý, họ Trần cầm quyền, cho sư sãi nghiễm nhiên hưởng đặc quyền đặc lợi khiến cả nửa dân số trong nước vào chùa, chùa chiền còn lớn hơn cung điện, tài sản nhà chùa còn lớn hơn quốc khố; rốt cuộc thì việc không ai làm, pháp luật rối loạn nhiễu nhương. Có những kẻ chỉ muốn ngồi không hưởng lợi, lười biếng làm lụng nên vào chùa để thu vén lợi ích, hưởng tài vật của tín đồ dâng tặng, trốn tránh pháp luật - Ấy chính là vì đã để qúa nhiều đặc quyền cho giới tăng ni. Có là thầy tu của bất kỳ đạo giáo nào thì cũng là thần dân của đất nước này, phải có trách nhiệm lẫn ràng buộc với pháp luật như bất cứ ai khác. Từ nay cho đi kiểm kê tất cả chùa chiền trong vùng, ghi lại từ hòa thượng cho đến đạo đồng, kẻ nào dưới năm mươi tuổi thì phải chịu dao dịch như dân.

Nhưng ông ta có rất nhiều tín đồ. Vẫn vị quan nọ thì thầm. Vì thế mà các quan viên mới phải chần chừ. Ảnh hưởng của sư trụ trì này rất lớn. Nếu xử nặng ông ta, e rằng sẽ gây ra bất mãn. Cả các chùa cũng vậy, sư sãi được dân chúng kính trọng tôn thờ, bắt họ ra làm việc dao dịch thì e họ lại xách động dân chúng phản kháng. Ngay cả trong triều đình, số quan theo đạo Phật cũng không phải là nhỏ, lệnh ban ra khiến người ta nói ra nói vào là một, mà họ lại chẳng hăng hái thực thi, thông đồng với nhau là hai. Xin chúa công cân nhắc. Ví dụ như ngài xử Bá Đa Lộc, chẳng phải sẽ gây ra rối loạn trong các giáo sĩ, giáo dân? Ngài có thể cân nhắc cho ông ta thì lần này cũng nên nghĩ tới phản ứng của Phật tử.

Khi nói đến Bá Đa Lộc, vị chúa đã phải im lặng. Bá Đa Lộc, người đã bị hàng chục vị quan trong triều nói gần nói xa xin chém đầu mà chỉ có ngôi vị của chúa Nguyễn mới bảo vệ được ông ta. Lần này, các quan theo đạo Phật đã trả đũa, đã phản ứng. Nhà sư trụ trì kia đã trở thành thước đo sự công tâm của vị chúa. Toàn bộ đang dõi mắt vào ngài ta, chờ đợi.

Cả Đông cung. Cả cậu Đông cung gọi Bá Đa Lộc là thầy. Người giữ im lặng tuyệt đối mỗi khi được hỏi đến Thượng sư. Ngay cả khi xong công việc, trở về cung điện cùng chàng, cậu ta cũng vẫn trầm tư. Từ Xưởng thuyền, họ đi qua bến sông, đi qua chợ Bến Thành nhộn nhịp người qua lại, đi qua cổng thành đang có hai con voi đứng sừng sững đứng canh. Trong sân điện, chúa Nguyễn cũng đang đứng trước một con voi lớn. Nó bồn chồn đập vòi xung quanh khi người nài ngồi trên cổ nó lăm lăm chiếc búa. Xung quanh con voi có vài người lính cầm đủ loại vũ khí gồm cả dao, súng, gươm, cung tên và dây thừng. Vị chúa đang cầm một khẩu súng hếch mũi nhắm vào người nài. Nghe tiếng Cảnh, ngài ta gật đầu, một lúc sau mới bỏ súng xuống.

- Có lẽ đắp gò đất chếch hai bên có lợi hơn, không bị vướng. – Chúa Nguyễn nói với người lính cầm cung tên bên cạnh. Anh ta liền chạy về phía bên kia sân.

Lại tìm hiểu cách hạ voi, Võ Tánh nghĩ thầm khi nhìn họ. Trong cuộc chiến ở Quảng Nam năm trước, chúa Nguyễn đã đề ra cách đánh Tượng binh mới: Thay vì dùng voi chiến đấu với voi, họ sẽ tìm cách hạ gục người nài để cướp voi. Cách đánh ấy đã chứng tỏ hiệu qủa khi họ cướp được hàng chục voi của Tây Sơn sau chiến dịch. Nhưng không vừa lòng với thương vong mà lính phải chịu khi tiếp cận những con voi to lừng lững, vị chúa đang tìm cách tối ưu nhất để hạ người điều khiển voi.

Cảnh khoanh tay bên cạnh chàng chờ đợi người cha. Sau mấy lời trao đổi về chuyến tàu chuẩn bị đến Ấn Độ, cậu Đông cung lại chủ động nói đến nhà sư đang bị giam giữ.

- Nghe nói phụ hoàng còn chưa quyết? – Phúc Cảnh hỏi khi họ đã đi vào hàng hiên ngoài sân. Vị chúa liếc nhìn người con, không trả lời. Phúc Cảnh như không nhận thấy cái nhìn ấy, vẫn tiếp tục nói. – Phụ đạo Ngô Tùng Châu nghe về việc ấy trong triều, có bàn riêng với con: “Chúa công bài trừ đạo Phật ấy là việc rất hay, bầy tôi không biết tán thành lại còn rườm lời. Tôi sợ việc này mà nửa chừng bỏ thì kẻ kia lại ngông cuồng hơn trước. Tôi không ghét riêng gì nhà sư, nhưng mối hại của Phật Lão còn quá hơn Dương Mặc, không thể không nói được”.

- Rồi con trả lời thế nào? – Không hiểu sao, vị chúa cau mày. Phúc Cảnh buông hai cánh tay vẫn khoanh trước ngực, vòng chúng chắp ra sau lưng, nhìn lên bầu trời thơ thẩn vài cụm mây trắng.

- Con đồng tình. Ngô Phụ đạo đã chuẩn bị viết sớ dâng lên cho phụ hoàng đẩy mạnh việc kiểm kê người tu hành.

Chúa Nguyễn quay nhìn Cảnh, cái cau mày càng sâu lại. Không nói không rằng, ngài ta quay bước về phía Phương điện, ném một cái nhìn lại hướng Cục Chế tạo.

- Con hiểu điều đó nghĩa là gì chứ? – Cuối cùng, vị chúa nói khi chỉ còn lại ba người bọn họ bước trên con đường vắng. Cây ngả bóng nắng lốm đốm xuống họ.

- “Kẻ kia lại càng ngông cuồng hơn trước”, kẻ kia là kẻ nào? – Cảnh mỉm cười. – Chúng ta đụng chạm đến Phật Lão là tín ngưỡng dân gian, quốc giáo từ thời xa xưa, vốn là một việc vô cùng nhạy cảm, rồi lại có thể dung thứ cho bất kỳ đạo giáo nào khác hay sao? Cái hại của Phật Lão cho là có, thế lại có ngoại lệ cho kẻ khác hay sao? Việc này một khi đã thực thi thì phải làm cho toàn diện, kẻo người ta có điều tiếng không hay rằng ta nhất bên trọng nhất bên khinh. Coi kẻ tu hành như thứ dân thì tất cả phải đồng đẳng. E rằng bây giờ ta không chỉ phải bận việc xem xét ở chùa chiền. Người theo đạo Gia-tô vốn không được hưởng ưu đãi như sư sãi, đó cũng là một việc dễ xử cho ta bây giờ. Nhưng đã tách đạo giáo ra khỏi chính trị thì bất cứ đạo nào bây giờ cũng thế. Ngay cả những người bên cạnh chúng ta cũng không thể viện cớ không hiểu phong tục, công lớn nghĩa nhiều để đòi hỏi ưu đãi, ngông cuồng bừa bãi như trước được nữa. Pháp bất vị thân, vua chúa có tội thì cũng xử như thứ dân.

- Ngô Tùng Châu tính tình cứng rắn. Việc này bên ngoài là để xử trí với sự lộn xộn của đạo Phật Lão, qủa tình thì hắn buộc chúng ta phải cứng rắn theo. – Chúa Nguyễn thở dài. – Hắn đã biết rồi, phải không, việc Giáo hoàng Gia-tô bị bắt ở Tây dương?

- Chuyện đó đang trở thành ví dụ cho các quan về cái hại của việc tôn giáo can dự vào chính trị và tầng lớp tăng lữ hưởng đặc quyền đặc lợi. – Cảnh nhếch miệng như cười. – Sự việc càng lớn thì người ta càng biết được nhiều chuyện không nên biết. Kể cả những chuyện không hay ho gì cho lắm. Bây giờ thêm việc thuyền của ta bị Hồng Mao bắt giữ, không khó để nghĩ xem người ta sẽ phản ứng thế nào.

- Ta định cử Trần Văn Học đến Ấn Độ. – Vị chúa có vẻ như muốn chuyển đề tài câu chuyện. – Hẳn cần thêm vài người Gia-tô nữa đi theo ông ta, những người biết nói tiếng La-tinh. Con xem có ai được thì chọn. Đưa ít người Phú Lang Sa đến đó thôi, họ tính tình hung hãn, khó nói chuyện được.

Vả lại, nếu gặp Thượng sư… - Chúa Nguyễn nói khi Cảnh đã cúi đầu. Từ đằng sau, chàng có thể thấy vai cậu ta giật nhẹ. – Thì con bảo ông ấy cứ cư xử như bình thường. Ông ấy còn bao nhiêu việc phải làm, đừng để người ta nói này nói nọ rằng ông ấy trốn việc kháng lệnh, lại càng chẳng có lợi cho ông ấy lúc này đâu.

Thượng sư là bạn của ta, cũng như các thủy thủ trong quân là thần dân của ta. Lần này ta nhất quyết đòi cho được Barizy về. Thần dân của ta, người của ta, những người đã nhờ cậy ta thì ta phải bảo vệ họ.

Cảnh ngẩng lên nhìn người cha đã đi lên một bước phía trước, ánh mắt thoáng chút ngỡ ngàng.

- Vâng, thưa cha. – Cuối cùng, cậu nói. Cây lá xạc xào quanh họ. Vào trong điện, chúa Nguyễn lại bàn lấy ra một xấp giấy, đưa cho Võ Tánh.

- Vừa rồi người Phiên ở dinh Vĩnh Trấn kiện cáo rằng người Việt lấn chiếm đất đai của họ. Ta đã cho kiểm tra lại, bắt trả đất cho dân Phiên, khanh đến đó một chuyến xem sự thể thế nào.

Quan lại ta thường bao che cho nhau, phải mấy lần kiểm tra mới được. Chàng hiểu câu nói ấy trong đôi mắt vị chúa. Lãnh bản điều trần cùng đơn kiện của Phiên dân, chàng khởi hành đến dinh Vĩnh Trấn. Trước đó, Khâm sai Chưởng cơ Hồ Văn Lân và Cai bạ Phạm Ngọc Uẩn đã đi khám. Nơi nào người Miên đã trồng trọt thì bắt kẻ lấn chiếm phải trả lại, vùng đất nào bỏ hoang thì người Việt được phép khai thác.

- Nơi này rộng lớn hoang vắng, kể cũng khó xác định rằng vườn tược ấy là do ai làm ra. – Phạm Ngọc Uẩn nói với Võ Tánh khi đưa chàng qua các khu ruộng. – Có những nơi tranh chấp, ai cũng tự nhận vùng đất đó là do mình khai phá, người Phiên lại bảo vệ người Phiên, người Việt bao che cho người Việt. Trên danh nghĩa đây lại là đất của Hà Tiên, người Phiên người Đường người Việt đều có sổ sách riêng để tự quản. Phân chia công bằng là một lẽ, mà nhiều khi cũng phải dùng tình cảm để điều đình, khuyên giải họ nhường nhịn nhau.

Chàng nhìn quanh khu đất đai rộng lớn. Đã từng ở nơi đây trong những ngày đầu quân Nguyễn cai quản Gia Định, chàng nhận ra nhiều đổi khác. Những khu ruộng mới được hình thành nơi trước đây là rừng hoang, nhiều xóm làng quây trong phiên lũy tre mọc lên, và đường đất đã in thêm nhiều dấu xe ngựa. Không thể phân biệt được đâu là khu đất của người Miên hay người Việt, Phạm Ngọc Uẩn nói, và chàng nhận ra lý do tại sao. Thậm chí không thể phân biệt bằng mắt thường người dân là Phiên hay là Việt khi cách ăn mặc của họ đã từa tựa giống nhau.

- Người Phiên sống ở đây đã lâu, lần này lại bị người Việt xâm lấn thì hẳn người Việt có kẻ đỡ đầu. – Chàng nói sau một lúc quan sát. – Trong những đợt khuyến nông, chúa công ban cho các quan Điền tuấn quyền mộ người lập đồn điền, có phải các nhóm làm đồn điền đã lợi dụng lấy cả đất đai đã khai thác của Phiên dân?

- Có vẻ là như vậy. – Phạm Ngọc Uẩn nói với một cái lắc đầu. – Các nhóm đồn điền có khi tới cả trăm người, lập hẳn một thôn ấp riêng. Rồi nhiều nhóm như vậy tới ngày càng đông, người Phiên tuy số lượng lớn nhưng dù sao cũng phải kiêng dè. Nhiều kẻ trong chúng ta… nói cho cùng, cũng không phải là kẻ thân thiện cho lắm.

Võ Tánh gật đầu, không lên tiếng. Chàng cũng biết điều đó, chuyện nhiều người dân Việt khinh rẻ Phiên dân. Dấu ấn của ngày tháng cũ và cả xung đột về văn hóa, phong tục còn để lại những vết thương. Thậm chí trong vùng đã xuất hiện nhiều điền chủ với tiền bạc và thế lực lớn đi mộ người khai hoang lập ấp cho mình; người Miên nghèo khổ càng không thể chống lại được.

- Cả những vụ đã nhận tiền mua đất rồi kiện đòi lấy lại nữa chứ. Họ không biết luật pháp thì mệt một phần, họ lợi dụng luật pháp thì còn rắc rối gấp đôi. Vụ xung đột này sẽ còn kéo dài. – Phạm Ngọc Uẩn thở dài. Chàng mỉm cười với anh ta như khích lệ. Là một học trò của Võ Trường Toản, được chúa Nguyễn cử về làm Điền tuấn tại dinh Vĩnh Trấn ngay trong những ngày đầu, anh ta hiểu hơn ai hết tình hình trong vùng. Chàng sẽ không nghi ngờ một học trò của Võ Trường Toản, hẳn vậy.

- Chúng ta cứ cố gắng thôi. – Chàng nói, và nghĩ đến Ba Phủ tại Thuận Thành trấn lại nổi lên khiến Nguyễn Văn Thành phải ở hẳn Diên Khánh trông coi. Hoang mang thoáng qua trong chàng khi nghĩ về cách để ổn định mảnh đất này – một việc tưởng chừng như không thể. Xung đột sẽ còn kéo dài, Phạm Ngọc Uẩn nói. Tưởng chừng như không thể bình an được. Suốt từ ngày chàng đến đây trông coi doanh trại Phiên dân.

- Người đồng tộc còn chém giết nhau, huống hồ gì kẻ bên ngoài. – Một tiếng nói vang lên bên hai người, khiến họ giật mình. Họ đã không để ý đến chiếc thuyền độc mộc đậu bên sông, sau đám cỏ lau cao đến ngực. Người ngồi ở đầu thuyền đội một chiếc nón rách tả tơi, màu nâu xám lại vì mưa nắng. Áo của anh ta cũng có một miếng rách lớn trên vai vẻ như đã từ lâu nhưng không được vá. Anh ta đang ngồi đan một tấm lưới, không ngoảnh lại. Bên cạnh anh ta chỉ có một con vịt đang nhìn bọn họ bằng cặp mắt to như hai hạt đậu, cái mỏ dài lép nhép, không phát ra tiếng.

- Thật là làm chúng ta giật mình. – Phạm Ngọc Uẩn lẩm bẩm, định quay đi. Nhưng Võ Tánh nhíu mày. Giọng người đàn ông này mang âm sắc của vùng Quy Nhơn, Phú Yên rất rõ. Tuy những năm qua có nhiều người từ miền Thượng đến Gia Định, kể cả binh lính của Tây Sơn ở lại, một người thường dân lên tiếng như vậy với hai vị quan nha vẫn không phải là chuyện thường xảy ra.

- Anh là ai thế? – Võ Tánh quyết định lên tiếng hỏi. Con vịt kêu một tiếng nho nhỏ, đập cánh vào tay người đàn ông như giục ông ta quay lại. Buông tấm lưới xuống, người đàn ông hất vành nón lên nhìn cho rõ chàng. Hôm nay chàng không mặc triều phục, chỉ đeo gươm.

- À, Võ Tham thặng, thật hân hạnh. – Người đàn ông mỉm cười, bỏ nón ra. Chàng nhận ra ông ta đã qua tuổi trung niên, tóc đã chớm bạc. Trông vẻ ngoài, ông ta bình thường như bao nhiêu kẻ khác. Nhưng ông ta nhận ra chàng, chàng nghĩ và thấy lạ. Dù hẳn là nhiều người ở Gia Định này đã thấy chàng.

- Hóa ra là hai vị quan nhân, thật thất lễ. – Người đàn ông nói, quay hẳn người về phía họ nhưng không cúi mình. – Hai quan nhân có muốn xuống thuyền uống một ly?

Phạm Ngọc Uẩn nhướng mày. Nhưng chàng cười.

- Có rượu sao lại không uống chứ?

Vừa nói, chàng vừa vẹt đám cỏ, bước lên thuyền. Ngần ngừ một lát, Phạm Ngọc Uẩn cũng đi theo chàng. Người đàn ông xua con vịt về phía cuối thuyền, lôi dưới chỗ ngồi lên một bình rượu và cái chén lớn bằng gỗ. Rót rượu ra chén, ông ta ngửa cổ uống trước rồi mới đưa cho Võ Tánh. Rượu mang mùi dừa nước ngọt thanh, là loại hảo hạng của Vĩnh Trấn.

- Anh thật biết thưởng thức. – Chàng nói khi đưa chén cho Phạm Ngọc Uẩn, nhìn con thuyền cùng vẻ ngoài xuềnh xoàng của người chủ nó. Ông ta ngả người ra mạn thuyền, nheo mắt nhìn chàng.

- Quan nhân nhận rượu của kẻ khác dễ dàng như vậy lại chẳng sợ người ta ám hại mình hay sao? – Ông ta liếc nhìn Phạm Ngọc Uẩn khi nói. Chén rượu đã đưa đến môi của anh ta liền dừng lại. – Dù tôi có uống trước đi nữa, quan nhân cũng nên cẩn trọng. Thời buổi bây giờ, không thiếu gì kẻ liều mạng mình để giết cho được ngài đâu.

- Thế thì thật quái lạ là sao tôi còn sống đến bây giờ. – Võ Tánh thản nhiên cười. Đôi mắt người đàn ông càng nheo lại rồi ông ta cũng bật cười. Tiếng cười ngắn và khàn. Phạm Ngọc Uẩn có vẻ lúng túng, chén rượu vẫn còn đầy nguyên trong tay anh ta.

- Tôi rất kính trọng Phạm Cai bạ từ ngày ngài đến đây. – Người đàn ông quay lại nói với Phạm Ngọc Uẩn. Nụ cười của ông ta mở rộng. - Dù ở tại Long Hồ, tôi vẫn thường ghé lại Vĩnh Trấn luôn.

- Anh làm nghề gì? – Võ Tánh hỏi khi Phạm Ngọc Uẩn đã chậm chạp uống cạn chén rượu, đưa lại cho người đàn ông. – Anh có vẻ biết rõ quan quân trong triều.

- Không, tôi không phải thương hồ. – Người đàn ông ngắt lời chàng. – Nhưng tôi đã từng thấy Võ tướng quân, lúc ngài đến Long Hồ ra mắt chúa Nguyễn. Phải, tôi cũng đứng xem lúc ấy. Tôi chỉ là một thầy đồ nho nhỏ, đôi lúc phải viết chữ, viết thư thuê để kiếm tiền uống rượu.

Không chủ ý, chàng đưa mắt nhìn người đàn ông từ đầu đến chân. Qủa thật, ông ta không có điểm gì khác lạ. Những ngón tay dài, không có vết chai, cơ thể cũng mảnh mai không cơ bắp. Khi rót rượu, tay ông ta đưa lên vừa tầm ngực, chàng mang máng nhớ ra cử chỉ tương tự như vậy của Nguyễn Phúc Thăng.

- Anh đã từng ở trong triều? – Chàng đột ngột hỏi. Người đàn ông ngẩng nhìn chàng. Phạm Ngọc Uẩn ở bên cạnh cũng quay sang chàng. Chàng thấy vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt bọn họ.

Tôi vừa mới chợt nhớ ra rằng khi tôi đến bái kiến chúa công, Tây Sơn vẫn còn rất mạnh ở Gia Định. – Chàng mỉm cười trước đôi mắt của bọn họ. – Những người Quy Nhơn tại Gia Định thời điểm ấy thường chỉ có hai dạng: một là quân Tây Sơn, hai là quan triều đình. Nạn đói năm Ngọ khiến nhiều người vùng Quảng Nam, Thuận Hóa phải bỏ xứ vào Gia Định, nhưng rất ít trong số đó là người Quy Nhơn. Anh hẳn không phải là loạn quân Tây Sơn còn phải trốn lánh tại Long Hồ trong thời điểm ấy để đến xem tôi, vậy thì nhiều khả năng anh là người trong nhóm còn lại.

- Một khả năng nữa là tôi nói dối. – Người đàn ông thản nhiên nói. – Tôi không gặp Võ tướng quân khi ngài đến Long Hồ.

Nhưng qủa đúng tôi từng ở trong triều đình. – Vẫn giọng nói bình thản kỳ lạ ấy. – Chỉ là một chức quan nho nhỏ thôi. Tôi không phải là bậc cường liệt như Võ Danh Sở, Bạch Doãn Triều, cũng chẳng phải trung thần như Nguyễn Thái Nguyên, dù có dạy học thì cũng chẳng nức tiếng xa gần như Đặng Đức Thuật, chẳng nên kể đến. Chẳng qua là vì chút tò mò nên vẫn thường dõi theo các ngài.

- Nước đang hồi loạn, sao anh không nghĩ đến việc ra giúp nước? – Bên cạnh, Phạm Ngọc Uẩn chợt lên tiếng. – Chúa công đã trở về, tôi nghĩ các thần tử của ngài cũng nên trở lại…

- Những việc như vậy đã có các quan nhân đây lo. Khi nghe nói học trò của Gia Định xử sĩ ra giúp chúa công, tôi biết rằng mình không còn việc để làm nữa. Đã bảo tôi chỉ là một viên quan nho nhỏ trong viện Hàn lâm, vốn không thể so sánh với người khác được.

- Nghe như anh không hề muốn đóng góp gì. – Võ Tánh vừa tự rót cho mình một chén rượu vừa nói. Con vịt nhảy xuống từ đầu thuyền bên kia, lạch bạch chạy lại cọ đầu vào chủ nhân. Ông ta vuốt tay lên thân hình mập tròn của nó.

- Võ tướng quân trong vòng mấy năm mà đã có danh vọng tột bậc, ngài ở quan trường có thấy vui không? – Người đàn ông nhìn bàn tay chàng bỏ chén rượu cạn xuống, hỏi bằng thái độ lơ đãng. Không đợi chàng trả lời, ông ta lắc đầu. – Chẳng giấu gì, tôi cũng thường tự hào có chút sở học, mười sáu tuổi đã thi đậu Hương tiến, vào thẳng viện Hàn lâm. Làm quan cũng được gần chục năm cho đến khi dấy loạn, tôi từng biết thế nào là triều đình thối nát. Người với người bên ngoài thì ngọt nhạt đối đãi, giấu nanh giấu vuốt bên trong chực chờ giết hại lẫn nhau. Thật là một nơi đáng sợ mà người trong đó cũng đáng khinh đáng tởm! Bây giờ đang trong thời khó khăn hoạn nạn, chúa tôi đoàn kết chung lòng, đến khi công thành danh toại thì lại tranh giành đấu đá, đời nào cũng thế. Thời loạn, tôi về trú ẩn trong góc nhà của mình được chút bình yên, nghĩ lại khi ở quan trường vẫn lấy làm kinh khiếp.

Ồ, tôi biết lẽ lăn mình vào thế tục để giúp đời. – Người đàn ông xua tay khi Phạm Ngọc Uẩn vừa mới mở miệng. – Nho gia ghét Dương Chu vì thói “nhổ một cọng lông làm lợi cho thiên hạ cũng không làm”, nhưng lý lẽ của ông ta về những kẻ “muốn làm lợi cho thiên hạ mà đề ra vô số phương cách, cuối cùng làm thiên hạ đại loạn” ấy chẳng có phần đúng hay sao? Nhìn bây giờ mà xem, kẻ nào cũng tự xưng là danh gia, là cứu thế, là minh chủ, là vì thiên hạ. Thiên hạ, thiên hạ nào? Kẻ nào cũng tự cho mình là đúng, cuối cùng lại khiến người ta đánh giết nhau – đó là cái họa của những kẻ tự xưng là người đi học. Quan nhân học Nho đạo, nhưng ngài chắc cũng biết Lão Tử từng nói “Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm. Thánh nhân bất nhân, coi trăm họ như chó rơm”. Vương Phu Chi chẳng phải cũng từng có câu “Thiên địa thực nhiên, vô nhân vi nhân ngụy dã” – Trời đất qủa thật như vậy, không có sự bày đặt của người? Khổng Tử chẳng dạy phải thấu được lẽ trời để hiểu việc trong thiên hạ? Đâu phải cứ hăng hái là xong, nhiệt tình là đủ. Cái họa của những kẻ đi học muốn làm lợi cho thiên hạ còn khủng khiếp hơn những kẻ cứ ngồi yên mà không làm gì.

- Vậy anh đã tìm được cách làm nào có lợi cho thiên hạ chưa, ngoài cách không làm gì? – Phạm Ngọc Uẩn nói, hơi có ý phật lòng sau khi bị người đàn ông ngắt lời. – Chúng tôi dù chỉ là những kẻ thô tục, sở học yếu kém thì cũng xoay sở tìm cách cho người có cái ăn cái mặc, không tranh chấp lẫn nhau. Sức ít thì làm việc nhỏ, chẳng lẽ cứ phải cầu xoay chuyển thiên hạ cho được?

- Đừng nói vậy, Phạm Cai bạ. Võ xử sĩ thầy của anh với “Mười phương cách phục quốc và cứu quốc” đã giúp ích rất lớn rồi. – Người đàn ông mỉm cười. – Gia Định được như ngày nay cũng chẳng phải là công lao của mọi người hay sao? Chẳng qua tôi là kẻ trên không thấu được lẽ trời, dưới không cảm thấy bằng lòng với mặt đất nên để bản thân trở thành thừa thãi. Ai cũng có lựa chọn của riêng mình, phải không?

- Vậy anh đã quyết định “coi trăm họ như chó rơm”? – Phạm Ngọc Uẩn cau mày. Người đàn ông nhịp ngón tay trên miệng bình rượu, lơ đãng nhìn ra sông.

- Chó rơm là những con chó được kết bằng rơm để bày biện cúng tế, dùng xong rồi đốt bỏ, anh có biết? Nếu có thể coi trăm họ như chó rơm thật thì tôi đã không ngồi đây. Tôi không phải trời đất, cũng không phải là thánh nhân, làm sao tôi có thể coi người ta như vật hiến tế? Việc ấy tôi qủa thật không làm được.

Phạm Ngọc Uẩn có vẻ định nói gì nhưng lại mím môi im lặng. Võ Tánh vẫn quan sát người đàn ông, những ngón tay ông ta khép trên thân chén cẩn trọng và nhẹ nhàng như thể vẫn cầm một cây bút lông.

- Vậy anh là ai? – Cuối cùng, chàng hỏi. Người đàn ông đưa mắt nhìn chàng. Nét thách thức thoáng qua đôi mắt ông ta trước khi một nụ cười đến thế chỗ.

- Tôi họ Đặng, tên Siêu. Đặng Đức Siêu. – Ông ta trả lời. - Hôm nay tôi mời hai vị quan nhân uống rượu chỉ vì lòng hâm mộ, chúng ta đừng nên tranh cãi về sở học, được không?

- Được. - Chàng lấy bình rượu, lại rót ra chén, nâng lên và cười lớn. – Trời đất coi vạn vật như chó rơm, tranh cãi để làm gì?

Chú thích:

Dinh Vĩnh Trấn: thuộc châu Định Viễn.

48

Ngày cuối ở Vĩnh Trấn, trở về ngang qua Long Hồ, chàng ghé lại nhà Đặng Đức Siêu theo chỉ dẫn mà ông ta đã nói. Ngôi nhà nằm giữa một ngôi làng nhỏ, có vẻ tươm tất nhưng xuềnh xoàng y hệt như chiếc thuyền. Vẫn con vịt trắng lạch bạch đi đi lại lại trước cửa phát hiện ra sự có mặt của chàng trước tiên, phát ra mấy tiếng kêu khàn khàn. Đặng Đức Siêu ló đầu qua cửa sổ, rồi ra mở cửa. Trong nhà vẫn còn mấy đứa trẻ đang ngồi sắp giấy bút. Chàng lại chiếc ghế trong góc nhà chờ đợi. Khi chúng đã cúi đầu chào thầy ra về hết, ông thầy chúng đến lấy chiếc ấm nhỏ trên bếp, pha trà mời chàng lại.

- Tôi cứ nghĩ Võ tướng quân chỉ nói thế thôi chứ không ghé đây. – Đặng Đức Siêu vừa nói vừa rót trà cho chàng. Võ Tánh cười, ra dấu về phía con ngựa đang cột ngoài cửa, gần đó là vài cái vại nhỏ.

- Tôi thấy nên cám ơn Đặng tiên sinh về chén rượu hôm trước. Đêm nay tôi ở đây một mình cũng buồn, nghĩ có người quen để uống rượu cùng thì sao không ghé?

À, Đặng Đức Siêu gục gặc đầu tỏ vẻ đồng tình. Khi đêm đã buông, ông ta sắp cơm cho chàng rồi chuẩn bị hai cái chén lớn để uống rượu. Chỉ cần mấy con cá khô và xoài sống xắt nhỏ, họ đã có một bữa rượu ngoài sân. Trăng sáng vằng vặc trong đêm, gió nhẹ, thoảng mùi bùn đất từ sông vào.

- Anh sống một mình à? – Khi rượu đã ngà ngà, Võ Tánh nhìn quanh khoảng sân được rào một phên dậu thấp, lún phún cỏ như có vẻ không được chăm sóc. Trên chiếc rào phơi đồ sau nhà cũng chỉ có quần áo đàn ông.

- Không. Tôi có một người vợ ở đây, nhưng cô ấy đi buôn bán vắng rồi. – Đặng Đức Siêu làm một cử chỉ như cái nhún vai và gật đầu. – Vợ cả tôi còn ở Phú Xuân.

- Sao cô ấy không đi theo anh? – Chàng bắt đầu thấy lạ. Đặng Đức Siêu nhìn chàng, không trả lời. Nhưng chàng vẫn không ngăn được sự tò mò của mình mà nói tiếp. – Vả lại không phải quân phiến loạn giết tất cả các quan, phải không? Nhất là anh trong viện Hàn lâm, không giữ một chức vụ cao. Nếu không muốn làm quan nữa, anh chỉ việc về làng làm ruộng, đâu phải trốn đến tận nơi này?

- Nếu được thế đã tốt. – Đặng Đức Siêu nhếch mép, bỏ miếng cá khô vào miệng rồi hớp một ngụm rượu. – Quân Trịnh rồi Tây Sơn lần lượt chiếm Phú Xuân, kéo tới quấy nhiễu liên tục bảo tôi ra làm quan cho chúng. Lúc ấy tôi thấy Gia Định là nơi hoang vắng vô chủ, có thể ẩn náu được nên đến đây.

- Vậy là anh tới vào khoảng thời gian chúa công trở về? – Chàng nhướng mày. Được Tây Sơn chèo kéo, vậy là ông ta đã ở Phú Xuân đến khi Nguyễn Huệ đánh bại Trịnh, và chỉ một thời gian ngắn sau đã xảy ra cuộc chiến của Nhạc – Huệ. Nhưng ông ta không hề có ý muốn làm quan cho triều Nguyễn, càng nghĩ lại càng thấy lạ về mục đích cuộc di chuyển của người đàn ông này.

Đặng Đức Siêu chỉ trầm mặc uống rượu. Đến chén thứ ba, ông ta mới mở miệng.

- Vợ tôi lọt vào mắt một đại quan Tây Sơn. Thế là tôi bị buộc phải ra đi, không thể nào ở lại được. – Lời nói lặng trong cổ họng ông ta thành tiếng thì thầm. Chàng nhìn ông ta, không biết phải nói sao.

Họ tiếp tục uống rượu trong im lặng. Vò rượu mới được đưa ra khi trăng đã lên cao qúa đầu ngọn tre. Ngà ngà say, Đặng Đức Siêu ngả người vào chiếc ghế thấp bên cạnh, nheo mắt nhìn chàng.

- Võ tướng quân sao không hỏi tại sao tôi không vào triều làm quan rửa hận? Tôi cứ nghĩ một vị quan như anh phải hỏi ngay câu ấy, thế mà cứ làm tôi đợi mãi. – Giọng nói của ông ta mang nhiều sự cợt nhạo. Chén rượu đang nâng lên trên môi Võ Tánh ngừng lại. Chàng nhìn người đàn ông trước mặt, mỉm cười.

- Tôi cho rằng người có tâm tư lớn thì không hành động dựa vào thù hận. – Chàng nói, thấy người đàn ông trước mặt nhướng mày. – Khi nói chuyện với Đặng tiên sinh trên thuyền, tôi cho rằng tiên sinh không phải là kẻ tầm thường. Tiên sinh phải là người ôm ấp hoài bão rất lớn.

Đặng Đức Siêu đăm đăm nhìn chàng. Khuôn mặt ông ta đã đỏ lên vì rượu, nhưng đôi mắt vẫn mang vẻ tỉnh táo kỳ lạ. Ông ta nhìn như thể muốn xuyên thấu qua chàng bằng đôi mắt lạnh như băng. Trong ánh trăng, vẻ lạnh lẽo ấy trở thành sắc như kiếm khí.

Và chàng thấy trong đó có một điều gì gần như độc địa.

- À phải, Võ tướng quân cũng đã có mối thù với chúa Nguyễn. – Ông ta mỉm cười. – Anh có biết chuyện Quản Di Ngô thời Xuân Thu làm đến chức Trọng phụ nước Tề? Lúc ấy, bên cạnh vua Tề có ba người thân tín là Dịch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương. Dịch Nha khi thấy vua chán thức ăn trong cung liền làm thịt con dâng cho vua. Thụ Điêu tự hoạn mình để chầu vua. Khai Phương là công tử nước Vệ nhưng bỏ cả ngôi thế tử để đi theo vua Tề, cha mẹ mất cũng không về đưa tang. Khi Quản Di Ngô sắp mất, vua Tề hỏi kẻ nào có thể thay cho vị trí của ông, có hỏi đến ba người ấy, cho rằng họ là kẻ yêu vua nhất. Quản Trọng trả lời: Những kẻ như thế chắc chắn không thể dùng được. Dịch Nha thịt con mình cho vua, nhưng tình người không yêu gì hơn con, đến con mình mà còn như thế thì làm sao có thể yêu được kẻ khác? Thụ Điêu tự hoạn mình để vào triều, nhưng người ta vốn không trọng gì hơn thân, đến thân mình còn như thế thì có thể trọng thị gì được nữa? Khai Phương bỏ cha bỏ mẹ theo vua, nhưng tình thân trên đời không gì bằng cha mẹ, đến cha mẹ còn đối xử như thế thì còn giữ đạo với ai được nữa? Rồi qủa thật sau này ba kẻ ấy làm phản, giết vua. Những chuyện như thế cứ kéo dài mãi trong thời loạn ấy, chồng giết vợ, cha ăn thịt con, tất cả đều được cảnh báo rằng đó là những kẻ có dã tâm không vừa.

Điều trước nhất trong chữ Nhân là yêu người thân, kẻ muốn biết cách hành xử với người khác thế nào cho đúng thì soi vào bản thân mình. – Giọng Đặng Đức Siêu ngày càng trầm sâu, nụ cười của ông ta ngày càng thấm đẫm nét chế nhạo sâu cay khi nhìn chàng. – Không có lý tưởng cao cả nếu không có những đạo lý thuộc về thiên tính, không có điều thiện lớn lao nếu không giữ được những điều thiện nhỏ. Kẻ không làm được người hiền thì không làm được thánh nhân. Không thể đem mục đích, thành qủa biện minh cho tội ác. Kẻ không thương người thân, không trọng bản thể, không màng đạo lý thì tuyệt đối không có lý tưởng thực thi điều thiện cao cả. Cái gì gọi là trung thành, là xã tắc, là chủ nhân, là triều đại, là thiên hạ? Con người, chỉ có con người mới là quan trọng. Người ta có thể làm đúng, có thể làm sai với chuẩn mực của thiên hạ, nhưng có những điều không bao giờ thay đổi. Con người, rốt cuộc chỉ có con người là điều duy nhất đúng. Con người trọng bản thân mình nhất, yêu kẻ bên mình nhất, qúy kẻ có ơn với mình nhất, luôn luôn, đó luôn luôn là sự thật không đổi, không thể thay đổi.

Có thể nhân danh lý tưởng để chà đạp lên thân thuộc ư? Có thể nhân danh cái lớn để hy sinh cái nhỏ à? Có thể nhân danh những thứ cao cả để thực thi điều ác nhỏ sao? Không, ta biết rằng không phải. Ta gọi đó là giả nhân giả nghĩa, là thứ lý tưởng giả danh, là thứ con người mang dã tâm thay vì nhân tính.

Đừng nên tin, Quản Di Ngô ngày xưa từng nói. Đừng nên tin, chúng ta nên ghi nhớ điều nhỏ nhặt đó bây giờ.

- Tôi cho rằng mọi điều nên xét từ Tâm. – Võ Tánh nói khi Đặng Đức Siêu đã im lặng, cầm chén rượu dốc vào miệng. – Cũng ăn thịt con, nhưng người ta không trách Văn vương vì ông ấy đã đau khổ. Chính nỗi đau của ông ấy, không điều gì khác, đã làm hồi sinh người con trai. Tôi không muốn biện bạch cho bản thân bây giờ, nhưng tôi tin rằng có sự khác biệt giữa làm hại kẻ thân thuộc để kiếm lợi cho mình với lựa chọn một con đường khác với họ.

Ngày xưa, tôi cũng từng nghe kể chuyện Chiến quốc. – Chàng cười nhẹ. – Đồ Ngạn Giả hại chết cả gia đình họ Triệu, giết cả già trẻ lớn bé cả nhà, chỉ còn đứa bé chưa sinh là Triệu Vũ. Sau này Triệu Vũ phục thù, giết chết Đồ Ngạn Giả, còn đem cả gia đình Đồ Ngạn Giả ra giết cũng y như xưa. Đặng tiên sinh, người đời bảo việc làm của Triệu Vũ là nên làm. Nhưng nghĩ đến những số phận vô tội trong hai gia đình ấy, có phải là rất đáng buồn không?

- Rất đáng buồn, phải, rất đáng buồn. – Đặng Đức Siêu nhìn chàng qua vò rượu đang được cầm lên ngang mặt. Ông ta đã có vẻ lờ đờ của người say. – Nên chúng ta không thể hành động dựa vào mối thù của mình được. Chúng ta không thể quyết định dựa vào bản thân chúng ta được, có phải? Ồ, những kẻ kia, chúng tự xưng là người chịu thiệt thòi, là nạn nhân, là kẻ bị đày đọa để làm loạn, để chống đối. Nhưng chúng ta chẳng phải mới đúng là nạn nhân đó sao – Chúng ta, chúng ta mới đúng là nạn nhân của tất cả bọn chúng. Cả anh, cả chúa công của anh, mới đúng là nạn nhân bị Trương Phúc Loan chà đạp, làm hại, các anh mới đúng là kẻ bị đày đọa. Thế nhưng chúng ta dám kêu ai không? Chúng ta có được buông tha không? Chúng ta mới là nạn nhân cơ mà, thế nhưng tại sao chúng ta lại tiếp tục bị đày đọa?

Hận, phải, chúng ta hận chứ. Nhưng cả nỗi hận của chúng ta cũng có ý nghĩa gì? Chúng ta làm được gì?

Giọng Đặng Đức Siêu đã khàn đi, lè nhè. Chàng nhìn ông ta nghiêng người dưới ánh trăng như một cành cây gãy. Ông ta nghiêng người nằm xuống chiếc chiếu trải trên sân, ngửa mặt nhìn bầu trời trong vắt ánh sáng trắng mờ.

Ông ta vẫn cứ nhìn đăm đăm lên bầu trời trước khi nhắm mắt, thầm thì đọc khe khẽ mấy câu thơ mà chàng nghe tiếng được tiếng mất.

“Tháng lụn năm cùng sự chẳng cùng
Nửa đêm xuân lại nửa đêm đông
Chi lan tiệc cũ hương man mác
Đào lý vườn xuân tuyết lạnh lùng


Gà kêu, pháo nổ năm canh trót
Mừng tưởng mai đà gặp chúa đông.”

Này, chàng gọi sau một hồi lâu thấy ông ta không lên tiếng nữa. Nhưng ông ta đã ngủ.

Thật là một người kỳ quái, chàng nghĩ khi nhìn hình dáng thẳng đuỗn trước mặt, cạnh mấy vò rượu rỗng ngả nghiêng. Chàng đến đây qủa cũng vì mấy phần tò mò, nhưng càng nghe ông ta nói, chàng càng chẳng biết phải nghĩ sao.

- Đặng Đức Siêu? – Ngọc Du cau mày khi chàng kể về người đàn ông gặp ven đường. Nàng ngẫm nghĩ một lát rồi lắc đầu. – Lâu qúa rồi, không thể nhớ được. Trong triều có bao nhiêu người, quan trong Hàn lâm viện lại chỉ làm việc sổ sách, không mấy bon chen với bên ngoài, lúc ấy còn nhỏ, ít gặp họ.

Hỏi Nguyễn Thái Nguyên thử xem. – Nàng nói, không nhận ra cái chớp mắt của chàng. Từ hôm bị Nguyễn Thái Nguyên châm chọc, chàng vẫn có chút khó xử khi gặp ông ta. Cả sự không bằng lòng thoáng qua mỗi khi Ngọc Du nhắc đến người đàn ông này. Chàng biết rằng đó là không phải, nhưng không thể kềm lòng lại được.

- Nhưng những người như thế hẳn còn rất nhiều. – Nàng nói sau một lúc quan sát chàng. – Đâu phải kẻ nào cũng muốn tiếp tục tham gia vào cuộc chiến này, anh biết đấy. Đi theo chúa công thì đầy bất trắc, theo kẻ kia thì làm trái với đạo nghĩa, thế nên rất nhiều người lui về nơi hẻo lánh, không tiếp tục ra làm quan nữa, cũng không muốn tham gia vào thế sự. Sao anh lại quan tâm đến ông ta như vậy?

- Vì ông ta không giống kẻ muốn ở ẩn. “Mừng tưởng mai đà gặp chúa đông”, một kẻ muốn ở ẩn sẽ không nói ra những câu như thế. – Chàng hơi cau mày, có cảm giác không chắc chắn lắm về điều mình nói. – Mười sáu tuổi đã vào Hàn lâm viện, hẳn đó cũng không phải là người tầm thường.

- Chắc ông ấy lại muốn làm Khương Tử Nha chăng? – Ngọc Du ngừng tay gấp áo cho chàng, cười khẽ. – Hay là anh bảo Trịnh Hoài Đức đi gặp ông ta thử đi. Anh ta vừa mới làm bài thơ Họa Bắc Hà Đặng Trần Thường đầu Nam tự sự nguyên vận, rằng kẻ sĩ mừng nhất trên đời là gặp được minh quân, không nên câu nệ tiểu tiết. “Anh hùng quý được minh quân mà thờ”. Không chừng họ lại hợp nhau.

- Minh quân? – Chàng nhướng mày. Ngọc Du lại gần, gác tay lên vai, nhìn vào mắt chàng.

- Ồ, còn ai vào đây lôi được anh ra khỏi gò Tre, lôi bọn Trịnh Hoài Đức ra khỏi trường học, thu phục được bọn Đặng Trần Thường, đến cả bọn như Nguyễn Kim Phẩm, Hà Hỷ Văn? – Nàng nói như châm chọc. – Nhờ bài thơ của Trịnh Hoài Đức mà bây giờ nhiều người mới biết lúc Đặng Trần Thường từ Bắc Hà đến, đi ngang qua Diên Khánh có vào chào Đông cung nhưng không chịu lạy. Anh ta bảo, chưa gặp chúa Nguyễn để biết đó là người thế nào thì không lạy. Ra vẻ rằng nếu chúa công không đáng để anh ta phò tá thì không phải là chúa của anh ta.

Hay là anh đi hỏi chúa công xem ngài ta có muốn thêm một kẻ gàn dở trong triều nữa không? – Bàn tay nàng vỗ nhẹ vào vai chàng khi nàng vuốt tóc ra sau tai, đi về phía cửa sổ, khép nó lại. Gió đang giật ầm ào ngoài khu vườn tràn bóng tối. Một mùa mưa nữa lại về. Năm nay không có cuộc tiến quân nào khi vị chúa cho rằng họ nên củng cố đội quân của mình và lo việc giao thiệp với lân bang. Thông báo này đã làm khá nhiều người thất vọng. Chỉ có thằng bé là vui mừng, nó ngay lập tức đã đề ra kế hoạch đi chơi vòng quanh Gia Định trong cả năm, bắt chàng phải đưa đi. Ngọc Du, như thường lệ, chẳng biểu lộ thái độ với bất kỳ sự việc gì, nhưng thi thoảng chàng bắt gặp ý cợt nhạo trong lời nàng nói. Như bây giờ.

Thực sự chàng chưa bao giờ hiểu được thái độ có thể khá vô lý của Ngọc Du với người em trai - mà nhiều khi nàng giận lây cả sang chàng. Nhiều khi, nàng làm cho chàng cảm thấy đó là lỗi của chàng khi quan hệ của hai chị em trở thành như vậy.

- Kẻ gàn dở à? – Không biết nói sao, chàng cười. Nàng đến bên giường của con bé út, diềm mép màn cho nó rồi mới quay sang nhìn chàng. Ánh mắt nàng rơi xuống mái tóc để xõa trên vai chàng. Chàng vừa mới gội đầu, tóc vẫn còn ướt.

- Anh phải lau tóc cho khô chứ. – Nàng nói, với tay lấy chiếc khăn lau cho chàng. Khi nàng định quay đi, chàng nắm tay nàng giữ lại.

- Có chuyện gì nữa à? – Chàng hỏi, nhìn vào mắt nàng. Nàng thở ra, cuốn chiếc khăn vô thức thành một vòng tròn quanh tay.

- Không. – Nàng nói sau một lúc im lặng. Chàng thả tay nàng ra, và nàng vắt chiếc khăn lên thành ghế, quàng tay ôm lấy vai chàng. Cử chỉ ấy đã khiến chàng giật mình.

- Nàng bắt chước người Tây dương đấy sao? – Chàng cười, cố gắng để phá vỡ bầu không khí kỳ lạ giữa họ. Có một trạng thái ngập ngừng khó hiểu lơ lửng giữa họ bây giờ. Chẳng biết từ bao giờ, có thể là sau khi sinh đứa con thứ ba, tâm trạng nàng đã trở thành khó nắm bắt, thay đổi và xáo động bất kỳ lúc nào.

Nàng mỉm cười bên vai chàng. Chàng ngửi thấy mùi phấn hoa ngòn ngọt từ nàng. Mùi thơm lẳng lặng như cánh bướm chấp chới bay trong đêm.

- Hôm nay vừa ghé qua Ba Giồng. – Nàng thì thầm nói, vẫn giữ nụ cười trên môi. – Có việc đi qua Ba Giồng nên ghé lại. Ở đó bây giờ người ta gọi là Mười tám thôn vườn trầu. Chúa công đã cho lập đồn điền trồng trầu ở Ba Giồng. Trầu và cau, rất nhiều khu vườn nối tiếp nhau, mênh mông. Gần đó có cả vườn trồng hoa nữa, hoa để ướp trà. Buổi chiều, những cô thôn nữ đến vườn, mang theo thúng để hái hoa từng đoàn một. Khi chúng ta ở đó, anh có nhớ không, chúng ta chỉ thấy toàn cỏ là cỏ.

Có một sự run rẩy khẽ trong vai chàng, dưới bàn tay nàng, khi nàng nhắc đến nơi ấy. Ba Giồng, vùng đất mà anh chàng đã chết, nơi mà chàng đã đến để bắt đầu cuộc hành trình này, nơi mà chàng đã cầu hôn nàng. Chàng vẫn nhớ buổi sáng hôm ấy, dòng nước đã chảy qua đồng cỏ và những cụm hoa trinh nữ rung rung dưới bàn chân, có cả chút nhoi nhói khi đạp lên đám gai lẩn trong lớp lá dày. Mười năm đã qua, chàng vẫn thỉnh thoảng đi ngang nhưng chưa một lần ở lại vùng đất ấy. Có thể vì chàng vẫn muốn tránh né một điều gì đó, một ký ức, hoặc là một nỗi buồn.

Cho nên chàng chỉ gật đầu. Trong căn phòng đóng khép, chàng thấy như thế giới bên ngoài rộng ra đến mênh mông. Mọi điều đều đã thay đổi, chàng nghĩ, từ những tháng năm ấy, mọi điều đều đã đổi thay. Chàng không biết mình nên buồn hay nên vui bây giờ. Những dấu vết xưa rồi sẽ được xóa sạch. Không còn nữa, đạo quân Đông Sơn, đạo quân Kiến Hòa. Không còn nữa, như nước quét qua, cả những đau thương cũng không còn hiện diện. Mọi sự tồn tại đều không còn hiện diện.

- Trời đất coi vạn vật như chó rơm, Đặng Đức Siêu đã nói thế đấy. – Chàng thở ra, thấy vòng tay nàng siết lại. – Lúc ấy, ta đã nghĩ rằng ông ta là kẻ giống như chúng ta.

- Phải. – Nàng nói, sau một lúc. Nàng biết chàng không muốn nói về Ba Giồng, từ sau khi từ Diên Khánh trở về. Từ sau khi chạm đến cái chết, chàng lại biết sự cẩn trọng trước nó, trước sức mạnh của nó. Thời gian và sự hủy hoại mà nó đem theo.

Hỏi chúa công xem thế nào. – Nàng nói, chân thành. Nàng buông tay rời khỏi chàng, ra ngoài sân. Chàng cũng không giữ nàng lại.

Trăng rực sáng trên đầu nàng trong bóng tối vẫn không ngừng chuyển động bởi các cành cây lung lay trong gió. Nàng lại nghĩ đến cảm giác hồi sáng khi đi qua vườn trầu, mênh mông vườn trầu của Ba Giồng. Nàng đã ngẩn người mất một lúc, đăm đăm nhìn, có vẻ như không thể nào tin được. Không thể nào tin được đây là nơi nàng đã đứng thưở ấy, đoàn quân đã đứng thưở ấy khi vị chúa đưa kiếm chỉ về phía Sài Côn. Tất cả đã không còn vết dấu, chỉ có dòng nước vẫn mải miết chảy, muôn đời không thay đổi. Cảnh tượng ấy lại khiến nàng sợ hãi.

Sự yên bình trong tháng năm này làm nàng sợ hãi. Không tấn công, cũng không còn phải sợ một cuộc tấn công nào ở phía Tây, vị chúa có vẻ như đang chờ đợi. Ngài ta đang chờ đợi một điều gì đó, không ai biết, rất ít người biết. Sự chần chừ của ngài ta, sự im ắng của ngài ta, tất cả như khoảng lặng trước một cơn bão. Như trước một cơn bão, tất cả đang lặng im trước khi bị cuốn xoáy vào lốc cuộn, tan nát. Chậm rãi, rất chậm rãi, trong mười năm ròng, nàng đã mường tượng thấy đường đi của họ, con đường của họ. Tất cả chỉ còn đang chờ đợi – Một khúc quanh quyết định, một bước quyết định, một điều gì có thể đổi thay hoàn toàn cả bầu trời và mặt đất. Nàng biết điều đó, bây giờ, trong sự cân nhắc im lìm của người em trai. Rồi sẽ đến lúc mà ngài ta cảm thấy phải quyết định, tất cả phải đến lúc được quyết định. Sẽ sớm, rất sớm thôi, trong sự yên ắng này, nàng đã nghe thấy tiếng ầm ù của gió.

Đó là một linh cảm, không, dự cảm đã gây cho nàng nhiều sợ hãi. Rồi sẽ thay đổi, cuộc sống của họ, những gì mà họ đang có được. Rồi sẽ phải đến lúc mọi điều được quyết định, và tất cả phải chọn lựa giữa sống và chết. Nàng biết sự khủng khiếp của những cơn vẫy vùng để tồn tại ấy. Nàng biết những điều gì sẽ diễn ra khi chỉ một bên còn có thể tồn tại.

Mùa gió năm sau, nàng nghĩ khi trái tim nàng lặng xuống, như bị bóp nghẹt dần. Từng ngày của họ đang trôi đến lúc tận cùng, đoạn cuối của con đường. Từng ngày của họ, như dòng sông buộc phải đến nơi kết thúc. Gió đang thổi, lồng lộng thổi, trên khoảng đại dương vắng những chiếc thuyền.

Hai đứa bé đã ngủ yên trong giường của chúng. Nàng khép lần lượt từng cánh cửa, đi về phòng mình. Từ cửa nhìn vào, chàng đang ngồi khoanh tay trên mặt bàn, đăm đăm nhìn ngọn lửa trên chiếc đèn. Những cái bóng nhảy múa xung quanh bốn bức tường gỗ trong câm lặng. Tóc chàng vẫn còn ướt, từng lọn tóc bết vào nhau buông trên vai chàng, làm cho chàng có vẻ của một người vừa lên khỏi mặt nước.

Nàng nghĩ đến biển và những con sóng không ngừng đập mãi, đập mãi vào vách đá.

- Đặng Đức Siêu? – Không ngoài dự đoán của chàng, chúa Nguyễn cũng ngơ ngác khi được hỏi về cái tên này. Ngài ta nhìn sang Nguyễn Thái Nguyên, thấy ông ta có vẻ đăm chiêu.

- Anh nói đó là người Quy Nhơn? – Nguyễn Thái Nguyên quay hỏi chàng. – Thi đậu Hương tiến năm mười sáu tuổi?

Có lẽ là anh ta thật. – Ông ta nói khi chàng gật đầu. Nhìn về phía chúa Nguyễn, Nguyễn Thái Nguyên vòng tay. – Chúa công, ngài nên gọi ông ta đến. Đặng Đức Siêu làm quan chung thời với thần, tuy chỉ là một chức quan nhỏ trong viện Hàn lâm nhưng kẻ này tài năng hàn mặc siêu quần. Lúc ấy Trương Phúc Loan chuyên quyền, triều đình chỉ toàn những nịnh thần, con ông cháu cha, Đặng Đức Siêu không có chỗ để phô bày sở học, nhưng thần xin cam đoan đây là kẻ không dễ gì tìm được.

- Vậy sao khanh chưa đi tìm ông ấy về cho ta? – Chúa Nguyễn cười. Nhìn thái độ của ngài ta, chàng không thể biết được ngài ta có coi chuyện này là quan trọng hay không. Vị chúa lại đang lật mấy tờ giấy ghi chép vụ kiện ở Vĩnh Trấn mà chàng vừa đưa về, có vẻ không để ý đến câu chuyện của họ nữa. Nguyễn Thái Nguyên đưa mắt nhìn chàng, tự hiểu đó đã là nhiệm vụ của ông ta.

Nhưng ông ta cũng tìm cách đưa được Đặng Đức Siêu từ Long Hồ đến Sài Côn vào mười ngày sau. Buổi sáng hôm ấy, khi đang đi trên bờ sông trước Xưởng thuyền, chàng thấy hình dáng quen quen của chiếc mũ cũ rách đổi màu và người đàn ông đội nó trên con thuyền tam bản đậu gần đó. Có lẽ linh cảm được ánh mắt chàng, ông ta ngẩng lên.

- Võ tướng quân. – Vẫn tiếng chào quen thuộc, cả cái gật đầu và một bên mép hơi nhếch lên. Chàng lại gần, bước xuống thuyền như hôm nào ông ta mời chàng uống rượu.

- Sao Đặng tiên sinh lại ở đây? – Chàng hỏi. Đặng Đức Siêu nheo mắt, vẻ giễu cợt rất rõ trong mắt ông ta.

- Nếu Võ tướng quân đã đem chuyện gặp tôi ra kể thì có lẽ đã chờ tôi xuất hiện rồi. – Ông ta nói, thản nhiên. Chàng chớp mắt, Đặng Đức Siêu nói tiếp trước khi chàng lên tiếng. – Tôi đang đợi chúa công của anh. Kìa, ngài ta đến rồi.

Ngoảnh lại, qủa thật chàng thấy bóng vị chúa đang đi tới. Chàng vừa định đứng lên, Đặng Đức Siêu đã phẩy tay.

- Anh cứ ở lại. – Ông ta vừa nói vừa nhìn chúa Nguyễn đang đến gần, vẫn không đứng lên. Khi vị chúa đã tới bên thuyền, vẫn ngồi chỗ cũ, Đặng Đức Siêu cúi mình, chào ngài ta như một thường dân. Chúa Nguyễn nhướng mày khi thấy chàng, rồi cũng bước lên thuyền. Nhìn vào trong khoang thuyền, dưới cái mái che cong cong, chàng thấy một bàn tiệc nhỏ đã được bày, chỉ gồm cá khô và rượu y hệt như buổi nhậu của họ hôm trước. Không đợi mời, vị chúa vào trong khoang. Cận tướng của ngài ta là Nguyễn Văn Trị đứng lại đầu mũi thuyền, cầm lấy mái chèo như thể đợi lệnh.

- Thứ lỗi vì đã để Đặng tiên sinh đợi lâu. – Vị chúa nói khi họ đã vào cả khoang thuyền. Ngài ta tự cầm lên bình rượu, rót ra những chiếc chén để sẵn. Có hai chén rượu cả thảy, và ngài ta đẩy cái chén kia về phía Võ Tánh. Đặng Đức Siêu nhìn cử chỉ của ngài ta, lẳng lặng cười.

- Đã hơn hai mươi năm rồi, thêm một buổi sáng cũng đâu là gì. Tôi chỉ nghĩ đến những đứa trẻ mà mình đang dạy, chúng mất một buổi học, chẳng biết đang lêu lổng chơi bời ở đâu.

- Vậy thì ta sẽ kết thúc việc này nhanh thôi cho tiên sinh trở về dạy học. – Vị chúa cũng cười. Ngài ta ra hiệu cho họ uống rượu và ngoảnh ra ngoài bảo Nguyễn Văn Trị chèo đi. Dựa lưng vào thành khoang, ngài ta duỗi chân thoải mái nhìn họ uống rượu. Thái độ này làm chàng cảm thấy ngài ta chỉ miễn cưỡng mà đến theo lời của Nguyễn Thái Nguyên chứ chẳng xem Đặng Đức Siêu là một người khiến ngài ta phải quan tâm.

Con thuyền lẳng lặng trôi trên sông. Họ đang đi qua một rặng dừa nước xanh rì. Nắng oi ả tỏa xuống dòng nước khi trời đang chuyển sang trưa. Cả hai người bọn họ không ai lên tiếng. Vị chúa hết nhìn quanh khoang thuyền rồi lại quan sát cảnh vật bên bờ sông. Đặng Đức Siêu chỉ trầm mặc uống rượu.

Cuối cùng, chàng phải là người lên tiếng.

- Chúa công, ngài cho gọi Đặng tiên sinh đến đây hẳn không phải để dạo chơi uống rượu? – Chàng nói. Chúa Nguyễn dứt mắt khỏi những tán dừa đung đưa quét vào bầu trời, quay lại nhìn chàng. Nụ cười vẫn không đổi trên môi ngài ta.

- Sao lại không? Ta vốn chỉ định mời Đặng tiên sinh một bữa rượu để mừng gặp người quen cũ. Nguyễn Thái Nguyên kể với ta về Đặng tiên sinh, nhưng ta nghĩ mãi không ra đã gặp tiên sinh bao giờ, kể cũng là điều đáng tiếc.

- Tôi cũng không nhớ là đã từng gặp chúa công. – Đặng Đức Siêu cười nói bằng giọng giống hệt như vị chúa. – Ngày ấy tôi chỉ biết là Định vương đón con trai của Nhị công tử vào triều nuôi nấng. Có ai nghĩ rằng cậu bé ấy lại có thể thành Nguyễn vương bây giờ?

- Ta thì vốn ghét viện Hàn lâm, toàn mùi giấy mốc với mùi mực khét. – Chúa Nguyễn bật ra tiếng cười. – Định vương chẳng mấy quan tâm đến chúng ta, nên chẳng có dịp nào chúng ta đến viện Hàn lâm để học hỏi.

- Ồ không, tôi lại nghĩ Định vương rất quan tâm đến ngài. Ngài đã đi theo Định vương khi cả Quốc thúc, cả những hoàng thân khác phải ở lại Phú Xuân…

- Đó là vì những người anh của ta đang làm việc trong triều, họ dẫn ta đi theo. – Chúa Nguyễn ngắt lời Đặng Đức Siêu bằng một cái nhún vai. Nụ cười biến mất trên môi ngài ta, ánh mắt ngài ta tối lại. – Đêm ấy nghe quân Trịnh đánh vào, Định vương chỉ kịp vét tất cả những gì còn lại trong cung, đưa tất cả mọi người trong cung xuống thuyền. Chúng ta thậm chí không thể đem theo cả gia đình mình. Em gái út của ta đã thất lạc trong dân gian vào lúc ấy.

Nhưng Định vương qủa thật đối xử với ta rất tốt. – Chúa Nguyễn trầm lặng nói, sau đó. – Ngay cả nếu mọi người đều về phe Tân Chính vương, ta cũng sẽ nói rằng Định vương không đáng phải chết.

- Vì những người như ngài, triều Nguyễn chia đôi rồi bị diệt vong. – Đặng Đức Siêu cười khẽ. Chàng hơi giật mình, nhưng khuôn mặt vị chúa vẫn điềm nhiên khi Đặng Đức Siêu tiếp tục nói. – Ngài có từng nghĩ đến không, nếu mọi người đều đồng lòng ủng hộ Tân Chính vương, đưa Đông cung Dương lên ngôi sớm, sự rối loạn sẽ bị hạn chế đến mức tối đa, lòng dân sẽ không đến nỗi chia năm xẻ bảy, triều Nguyễn lúc ấy đang dồn đuổi Tây Sơn vào góc Quy Nhơn, có thể diệt chúng được…

- Tiên sinh có lẽ quên rồi. – Chúa Nguyễn cười nhẹ, ngắt lời Đặng Đức Siêu. – Khi quân ta đang dồn đuổi Tây Sơn vào Quy Nhơn, Trịnh lại tấn công Trấn Ninh. Chính vì ta không thể lưỡng đầu thọ địch, các quan mới ép được Trương Phúc Loan giao cho Trịnh tìm kế hoãn binh nhưng cuối cùng bị Trịnh trở cờ. Chính vì nghĩ có thể cầu hòa với Tân Chính vương, Định vương mới ban cho ông ấy làm vương, nhưng cuối cùng ông ta cũng không thể ngăn Tây Sơn tiến đánh. Chính kế cầu hòa lúc ấy mới chính là tác nhân đẩy triều ta vào diệt vong, thất bại hoàn toàn.

Chính vì tin tưởng qúa nhiều mà chúng ta mới bị diệt vong. Tin tưởng? Có thể tin tưởng được kẻ thù hàng trăm năm của mình khi chúng nói chỉ muốn trừ kẻ làm lũng đoạn triều chính cho mình ư? Có thể tin tưởng một hoàng thân mà thậm chí không có đủ lực để tìm cho mình một chỗ dựa chính thống, phải cho bọn phiến loạn lấy danh nghĩa của mình ư? Ta chưa bao giờ tin tưởng Tân Chính vương. Kẻ có thể làm tốt hơn Định vương thì phải có tài để đối đầu được với Trương Phúc Loan, có thể kiểm soát được những kẻ dưới mình, phải có khả năng điều khiển được đại cuộc, không phải chỉ dựa vào vũ lực để ép buộc mọi người theo ý mình. Qủa thật rồi Tân Chính vương đã không thể khống chế được ngay cả đám quân phiến loạn mà ông ta gọi bằng nhạc phụ, bị chúng thao túng, bị chúng bắt giữ, đuổi giết. Tân Chính vương không thể sử dụng được ngay cả tiếng tăm lớn mà ông ta đã xây dựng được trong dân chúng để tìm thế lực làm chỗ dựa cho mình. Lần này đến lần khác, Tân Chính vương hết bị Nguyễn Nhạc thao túng đến Tập Đình, Lý Tài lợi dụng, hết là con cờ của Tây Sơn rồi đến chỗ dựa cho quân Hòa Nghĩa tranh chấp thế lực.

Tin tưởng? Ta chỉ có thể tin tưởng những thứ đã thấy trước mắt mình chứ không phải những thứ hay ho rỗng tuếch. Kẻ nào cũng có thể nói rất hay.

- Cho nên chúa công đã giết Đỗ Thanh Nhơn ngay khi thấy ông ta định lấn lướt mình? – Nụ cười không đổi trên môi Đặng Đức Siêu. Giờ thì ông ta nhìn vị chúa có vẻ tò mò. – Không phải vì ông ta có hay không có tội lỗi, mà là chúa công không muốn mình giống như Tân Chính vương?

- Và vì ta không muốn để Đỗ Thanh Nhơn trở thành Nguyễn Nhạc thứ hai. – Hơi nghiêng người về phía Đặng Đức Siêu, chúa Nguyễn chống cằm vào tay gác trên gối. – Thật ra thì tiên sinh nghĩ kẻ kia có ý định làm vương làm tướng ngay từ đầu không? Là chủ một tài sản kha khá, có ảnh hưởng, có thế lực để quy tập được một nhóm thuộc hạ quanh mình, lại vào lúc thời thế rối loạn mà nắm được cơ hội thành chủ tướng, Đỗ Thanh Nhơn cũng như thế đấy. Đông Sơn đã thành lập trước khi ta đến Gia Định, tiên sinh có biết? Họ ủng hộ họ Nguyễn ư? Nhầm. Họ đánh nhau với Hòa Nghĩa, khi Hòa Nghĩa về thì họ bỏ Nguyễn quân mà đi, chính ta phải đến năn nỉ họ trở lại. Sau khi Định vương, Tân Chính vương bị giết, ta trở về Gia Định, tập hợp người cũ ở Long Hồ, lại một lần nữa ta phải đến thuyết phục quân Đông Sơn. Họ không trung thành với triều Nguyễn, không hề. Ta là kẻ hết lần này đến lần khác tới thuyết phục họ, ta biết họ hợp tác với ta vì lẽ gì. Hợp tác, chúng ta chỉ hợp tác với nhau, dựa trên lợi ích của chính mình. Hết lần này đến lần khác họ bỏ ta mà đi. Họ chỉ cần danh nghĩa của ta, tiếng tăm của ta, họ Nguyễn của ta. Giống hệt như Nguyễn Nhạc lúc khởi đầu. Đưa qúa nhiều danh nghĩa, tiếng tăm, quyền lực cho họ, rồi dù lúc đầu không có ý định phản ta, họ cũng sẽ phản. Dù lúc đầu không hề có ý muốn phản loạn, khi nắm qúa nhiều quyền lực, sức mạnh trong tay, không mấy ai lại muốn trở về vị trí của kẻ dưới. Đó là một cơn lũ sẽ cuốn bất cứ ai vào dòng chảy của nó.

Phải, Đỗ Thanh Nhơn không có lỗi, ta cũng chưa bao giờ bài bác ông ta, có phải? Toàn Gia Định này vẫn xem ông ta là một anh hùng, có phải?

- Và một nửa thuộc hạ của Đỗ Thanh Nhơn đã về với chúa công. – Sự tò mò trong mắt Đặng Đức Siêu ngày càng rõ. Chúa Nguyễn lại ngả người ra thành khoang, cười khẽ.

- Nghĩ lại lúc ấy ta thật là một đứa trẻ vụng về. Cưỡi ngựa thì ta rơi xuống ngựa, cả người lẫn ngựa lọt vào một đám bùn, phải để Huỳnh Đức lôi lên. Đi thuyền thì ta làm đắm thuyền, lọt vào nhà Lê Văn Duyệt. Chạy bộ đuối sức, Nguyễn Văn Trị cũng phải cõng ta lên vai mà chạy. Cưỡi ngựa, đánh gươm, bắn súng, chèo thuyền, tất cả đều do bọn họ truyền dạy cho ta. Phải rời khỏi Phú Xuân khi mới mười ba tuổi, cả chữ nghĩa ta vẫn chưa học đến nơi đến chốn, phải nhờ Nguyễn Cửu Thống cất công vào Gia Định này giảng giải. Đến bây giờ, nếu tiên sinh hỏi họ, họ sẽ kể cho tiên sinh vô số việc xấu hổ của ta ngày xưa.

Thấm thoắt mà đã hơn hai mươi năm rồi.

Ngài ta nói và thở ra, nhìn Đặng Đức Siêu đưa chén rượu lên môi, uống chậm chạp. Thuyền họ đang trôi trên một đoạn sông vắng, nhìn ra chỉ thấy nước cuồn cuộn đến chân trời. Xa xa, có bóng dáng một con tàu lớn đang giương buồm đến. Vị chúa gọi Nguyễn Văn Trị, bảo anh ta chèo trở về. Chúng ta đi qúa xa rồi, ngài ta nói.

- “Trị cầm búa” đó phải không? – Đặng Đức Siêu ra vẻ lơ đãng hỏi. Chúa Nguyễn gật đầu.

- Anh ta tính thật thà, thô hào lười biếng, không cầm quân được nên làm quân Túc vệ. – Vị chúa nói, như thể đang tán ngẫu. Chàng nhìn Đặng Đức Siêu, lấy làm lạ vì ông ta biết cả biệt danh của Nguyễn Văn Trị, người cận vệ của chúa Nguyễn đã được phong Kim bài miễn tử. Anh ta thường cầm phủ việt đi trước dẹp đường nên có biệt danh “Trị cầm búa”.

- Việc dạy học của tiên sinh có sung túc không? – Chúa Nguyễn vẫn giữ cái giọng tán ngẫu nửa vui đùa nửa thờ ơ. – Ta nghe nói tiên sinh viết cả sách nữa, nhưng chưa từng thấy tác phẩm của tiên sinh.

- Đó là những thứ vô dụng không bán được. – Đặng Đức Siêu phác tay, đến lượt ông ta cũng ngả người ra khoang thuyền, khoanh tay sau đầu. – Người ta ai cần đến những thứ vô dụng như thế chứ?

- Tiên sinh nói thế là hơi tự hạ thấp mình rồi. – Vị chúa nói, trong khi Đặng Đức Siêu bật cười.

- Những thứ văn chương thuyết lý rốt cuộc đều vô dụng, đó là một sự thật thôi. Chúa công nghĩ xem, trong bao nhiêu người có mấy ai biết chữ? Mà nếu tất cả đều biết chữ, có mấy ai quan tâm đến văn chương triết lý trong khi người ta có bao nhiêu việc để mà làm, nội tìm cách để sống không đã chiếm hết tâm trí người ta. Sách vở viết ra chỉ dành cho những kẻ rỗi rãi, những kẻ phải làm việc liên quan đến sách vở. Chứ còn người bên ngoài quanh năm suốt tháng lo toan kiếm sống, họ có đọc sách cũng chỉ để giải trí, tìm thú vui thoáng qua cho mình, có hay không có sách vở cũng chẳng khác gì nhau. Sách chỉ dành cho một phần rất nhỏ con người. Những kẻ vùi đầu vào sách vở lại cứ ảo tưởng rằng mình có thể đổi thay thế giới, có thể chấn chỉnh con người, có thể vì những kẻ cùng khổ… tất cả đều là ảo tưởng cả. Văn chương cuối cùng chỉ là thứ vô dụng bậc nhất, không bằng viết sách cày cấy, chỉ phương cách đi buôn, kể chuyện vui cười qua ngày đoạn tháng – những thứ ấy mới thật là đem lại lợi ích cho thiên hạ.

- Cho nên tiên sinh viết Trương Lương trùy chứ không phải là ai khác. – Chúa Nguyễn đón cái nhìn của Đặng Đức Siêu với sự bình thản của người đang tán ngẫu. – Nguyễn Thái Nguyên cũng kể cho ta. Lúc ấy, ta cứ nghĩ mà lấy làm lạ. Tiên sinh ở ẩn nhưng không viết về Khương Tử Nha hay Khổng Minh, những bậc tài trí chờ thời. Trương Lương kia, hậu duệ của tướng quốc nhà Hàn, vì mối thù đất nước nên bôn ba lặn lội phục quốc, gặp Lưu Bang rồi hết lòng phò tá, cuối cùng lại chính là người khuyên Lưu Bang không nên lập lại cách phân phong chư hầu phục hồi lục quốc trước kia. Tiên sinh ở ẩn hơn hai mươi năm trong đồng ruộng, nhưng trong lòng lại ẩn chứa một Trương Lương.

- Ồ không, tôi chỉ là một kẻ bình thường đem lòng hâm mộ Trương Lương, kẻ có thể vứt bỏ thù nhà nợ nước để làm điều đổi thay hoàn toàn thiên hạ. – Đặng Đức siêu cười, một lúc sau. Giọng ông ta lại thoáng vẻ giễu cợt. - Tôi chỉ là một kẻ bất đắc chí nhát gan đem lòng hâm mộ người bôn ba trăm bận, thất bại bao phen cũng không nản chí mà làm cho được điều mình muốn. Tôi làm sao có thể so được với một bậc tài trí như Trương tướng quốc?

- Có lẽ thế. – Chúa Nguyễn cười xòa. Ngài ta lắc bình rượu đã gần cạn, rót ra ly cho họ. – Những kẻ muốn bắt chước bậc anh hào trong thiên hạ thì vô số, nhưng kẻ là anh hào thì có được mấy người?

Đặng Đức Siêu nhìn ngài ta, cau mày trước khi cầm chén rượu uống cạn. Thuyền đã tấp vào bến cũ. Nguyễn Văn Trị với tay lấy sợi dây cột thuyền neo lại. Vị chúa ngẩng nhìn mặt trời, lắc đầu.

- Đã trễ rồi, ta còn có việc phải làm chiều nay, xin cáo từ tiên sinh vậy. Rất vui được nói chuyện với tiên sinh. Nếu có việc gì cần, tiên sinh cứ đến gặp ta. Với người cũ, ta bao giờ cũng rất hoan nghênh.

Nói xong ngài ta đứng dậy, gọi Nguyễn Văn Trị trở về. Quay lại nhắn nhủ với chàng mấy lời về công việc, ngài ta bước lên bờ. Chẳng mấy chốc, bóng vị chúa đã khuất trong bến cảng đông đúc người qua lại.

Đặng Đức Siêu thở ra, nằm xuống trong khoang thuyền. Nước bập bềnh dưới lưng ông ta. Chàng nhìn ông ta, không biết nên nói gì. Cuộc gặp gỡ này hoàn toàn không giống như những gì chàng đã nghĩ.

- Bao giờ tiên sinh trở về Long Hồ? – Cuối cùng chàng hỏi. Đặng Đức Siêu đã nhắm mắt, một lúc sau mới trả lời.

- Chiều nay. – Trong giọng ông ta, lần đầu tiên chàng thấy một sự không chắc chắn thay vì mơ hồ như trước nay ông ta vẫn nói. Cũng có thể đó chỉ là cảm giác của chàng khi nước vẫn đang đập liên tiếp vào bờ sông, sủi bọt đùng đục, làm con thuyền cứ chao đảo mãi.

49

Tháng sáu năm Mậu Ngọ, đoàn sứ giả đến Ấn Độ trở lại với con thuyền bị bắt cùng đầy đủ người và vật của nó, bao gồm cả Laurent Barizy. Anh Cát Lợi đã phải nhượng bộ trước phản ứng của chúa Nguyễn. Thắng lợi ngoại giao đầu tiên của chính quyền non trẻ Gia Định đã mang tiếng tăm của vùng đất Nam Hà lan xa. Người Anh Cát Lợi đề nghị giao kết buôn bán, Barizy báo với vị chúa. Họ đã đưa tới cả đoàn sứ giả hiến phương vật để kết giao với Gia Định. Ngài ta an ủi người thủy thủ rồi cho anh ta về, nhận những lễ vật của người Hồng Mao rồi cho họ vào buôn bán theo lệ cũ, đánh thuế theo lệ của thuyền buôn Quảng Đông.

Những ngày ấy, cuộc viễn chinh Ai Cập của đoàn quân Phú Lang Sa đã bắt đầu tại Tây dương. Ba vạn quân dưới quyền của Napoleon khởi hành chiếm đảo Malta, đến bến cảng Anlexandria tại Ai Cập. Trên đường đi, họ đã tránh được hạm đội Nelson của Anh Cát Lợi khi phao tin sẽ tấn công các mục tiêu khác. Sự xuất hiện của đoàn quân Phú Lang Sa tại Ai Cập làm kinh ngạc cả Âu châu. Hắn ta điên rồi, nhiều người nói về Napoleon, về cái nắng đến hơn năm mươi độ và vùng sa mạc mênh mông cát cháy sẽ nuốt chửng đoàn quân này. Ai Cập, tại sao lại là Ai Cập?

Hắn nhắm đến Anh Cát Lợi, những người Tây dương châu đầu với nhau ở bến cảng Sài Côn nói. Trong một lúc, họ không còn là công dân của những quốc gia riêng biệt, giáo sĩ hay thủy thủ, họ đều có chung một sự tò mò và sợ hãi. Ai Cập nằm giữa Địa Trung Hải và Hồng Hải, có ảnh hưởng rất lớn tới vùng Trung Đông. Để tấn công Anh Cát Lợi thì phải chiếm được Ai Cập, đã có ai đó nghe chính Napoleon nói. Hắn định thao túng những người đạo Hồi ở Trung Đông và Ấn Độ, làm đối trọng với chính phủ thân Anh Cát Lợi của Ấn Độ. Trong khi đó, những kẻ cầm đầu Đốc chính viện, những thương buôn ở miền Nam nước Phú Lang Sa, cũng cần ảnh hưởng, thị trường để buôn bán, để thu lợi tại châu Phi, châu Á. Chúng đã dễ dàng phê duyệt một cuộc tấn công như vậy.

Cuộc tranh chấp của Tây dương đã lan đến châu Phi. Trong khi đó, Giáo hoàng vẫn tiếp tục bị áp giải quanh các nhà tù khắp các miền của đất Ý Đại Lợi. Trong vẻ bình yên của bến cảng Sài Côn cách đó nửa vòng trái đất, những cơn sóng ngầm vẫn sôi sục, những cặp mắt thăm dò vẫn không ngừng xét đoán, chờ chực. Thế đấy, Tây dương, những kẻ thương buôn Tây dương vì lợi ích của mình mà gây chiến tranh khắp nơi, đánh phá khắp nơi, người ta nói với nhau. Chiếc thuyền vừa được trả lại vẫn chỉ làm sự nghi ngờ tăng lên. Anh Cát Lợi muốn tiếp cận chúng ta có phải vì chúng muốn tìm một nơi khác với Ấn Độ? Năm nào khi Tây Sơn đã đánh lui chúa Nguyễn khỏi Gia Định, một đoàn quân Anh Cát Lợi đã chiếm Côn Lôn rồi bị dân ở đó bắt phải ra đi. Chúng đã chờ chực, luôn luôn chờ chực như vậy. Chúng đã luôn chờ chực ngoài khơi.

Trong lúc đó, chúa Nguyễn lại tiếp tục cho mở những lò luyện kim để khai thác mỏ quặng sắt mới khai thác được. Những chiếc thuyền đến La Tống mua binh khí vẫn tiếp tục được phái đi. Các đội Mộc dĩnh đến tận Quang Hóa tìm cây về đóng thuyền lớn. Những đồn điền, trang trại tiếp tục đẩy mạnh việc sản xuất của họ. Bầu không khí trong Gia Định mang một vẻ bình yên hiếm có, chưa từng có. Lần đầu tiên họ đã thấy biên giới phía Tây yên ổn, những đoàn thuyền Tây dương ngoài biển yên ổn, thậm chí trận chiến ở phía Bắc Thuận Thành trấn cũng trở nên xa xôi. Trong cung nội lại tiếp tục đón một tin vui mới khi Thái phi của Đông cung mang thai. Quốc mẫu đã ngay lập tức đến đình chùa để cầu đảo cho đứa chắt chưa sinh.

Nhưng có những người biết rằng sự bình yên này chỉ là lớp vỏ cho những xáo trộn không ngừng diễn ra. Tin tức từ am Vân Dương vẫn liên tục gửi tới Quy thành. Những nhóm nổi loạn nhỏ lẻ đã sẵn sàng, và cả triều đình Phú Xuân, Thăng Long cũng đã bị đánh động bởi các tin tức từ Tây dương. Đã có những ý định bài đạo được đưa ra bàn luận trong triều đình Phú Xuân, người liên lạc của ni cô Vân Dương kể. Và chỉ một tháng sau, thư từ Phú Xuân tới thông báo một lệnh bài đạo khắc nghiệt đã được ban hành khắp miền Thượng Nam Hà và Bắc Hà: Người theo đạo bị cấm đoán, bị bắt đi cắt cỏ cho voi ăn; các giáo sĩ bị bắt phải đạp chân lên ảnh Chúa hoặc bị giết chết. Những cuộc truy lùng, hành hình đã bắt đầu. “Kiến thức điều khiển quốc gia đều nằm trong Tam cương, Ngũ thường, trong khi đạo Hoa Lang lại đầy mê tín, dối gạt dân chúng và đảo lộn trật tự xã hội.” Thư của một giáo sĩ được chuyển đến Gia Định kể về sắc luật mới được ban hành. Ở Quảng Ngãi, hàng loạt các nhà thờ bị phá, giáo dân bị bắt đi đày. Ở Quy Nhơn, Lê Trung ra lệnh lùng tìm giáo sĩ Dominique do Bá Đa Lộc gửi tới, bắt giam hết thầy tu này đến giáo sĩ khác.

Từ Diên Khánh, Đặng Trần Thường và Nguyễn Văn Thành dâng sớ cho chúa Nguyễn xin đem thuyền Tề Ngôi bắt được để làm cớ xin cầu kiến vua Thanh. Nhà Thanh vẫn giữ thái độ băng giá với triều đình họ Nguyễn, nay nhân lúc Tề Ngôi trở thành mối lo thiết yếu của họ, có thể bàn chuyện hợp tác. Trước hết là phải tiếp cận được với triều đình nhà Thanh vẫn đóng cửa với Gia Định, sau đó là dò tìm tin tức của nhà Lê cùng các thần tử Lê triều, nghĩ cách đưa họ về Bắc Hà gây thanh thế. Con đường từ phía Nam ra Bắc Hà đã bị chặn, chỉ có thể hy vọng vào con đường phía Bắc. Sau khi đội quân Tôn Sĩ Nghị lếch thếch trở về Lưỡng Quảng và dưới áp lực của Tây Sơn không ngớt đưa thư đến, vua quan nhà Lê đã bị vua Thanh tách ra mỗi người ở một nơi, mất hẳn tin tức lẫn liên lạc. Binh bộ Tham tri Ngô Nhơn Tịnh lần này được chúa Nguyễn phái đưa quốc thư đến Thanh triều để thăm dò, đi nhờ một thuyền buôn Hoa Nam.

Nhưng Nguyễn Quang Bảo vẫn chưa có động tĩnh, hai vị quan ở Diên Khánh vẫn chỉ có điều đó để báo cho chúa Nguyễn. Thư vị chúa đã được gửi đi cho con trai cả của Nguyễn Nhạc rằng “tội cha không bắt đến con”, khuyên Nguyễn Bảo nổi dậy đòi quyền lợi chính đáng của mình, trả thù kẻ giết cha. Vị Tiểu triều huyện Phù Ly này vẫn chưa trả lời. Nhưng tin từ thân tín ở Quy Nhơn cho biết hắn đang âm thầm quy tập lực lượng, vị chúa nói với họ. Nguyễn Nhạc bị chính những kẻ trong triều Phú Xuân hại chết, mối thù đó những kẻ thân tín với hắn sẽ không quên. Thù hận cứ loang ra, loang ra mãi. Ngay từ khi bắt đầu, ngay từ lúc đầu, phản bội và hận thù đã nằm ngay trong chúng. Việc của chúng ta chỉ là khơi gợi, là nuôi nấng mối thù hận ấy, sự bội phản ấy, khắp nơi, nơi nơi. Khắp nơi, nơi nơi, từ Bắc Hà của Lê triều đến Phú Xuân, Quảng Ngãi của họ Nguyễn, đến Quy Nhơn nơi ghi dấu cuộc tranh chấp của anh em Tây Sơn. Những thần tử Lê triều được đưa về Bắc Hà; bài ca Hoài Nam khúc được truyền đi trong vùng đất chứng kiến nạn đói lịch sử; và Quy Nhơn, Quy Nhơn sẽ là nơi khởi đầu và kết thúc của tất cả những mối hận thù quay cuồng quanh chúng, do chính chúng tạo thành. Nhưng hạt giống đã được gieo, và ta chỉ đang chờ ngày hái qủa. Tất cả mọi sự trên đời đều có quy luật và có sự trả giá. Tất cả mọi điều.

Sự chờ đợi ấy chỉ có vài người xung quanh vị chúa được biết, hay cảm thấy được nhờ vào linh cảm của mình. Họ đang chờ đợi, hai vị quan ở Diên Khánh, biết hay không biết điều đó, vẫn tiếp tục công việc của họ. Họ đang chờ đợi, chỉ một vài cận tướng nhận ra điều đó trong những tin tức vẫn được chuyển về, trong công việc vẫn đang được ráo riết tiến hành. Những đoàn sứ giả vẫn ráo riết xuôi ngược Nam Bắc Đông Tây. Từ những lò luyện kim, những khẩu súng, những cỗ đại bác mới được luyện thành. Từ những con tàu xuôi ngược biển Đông, vũ khí đang được chuyển về lấp đầy kho súng ở Gia Định. Từ những mỏ diêm tiêu, thuốc súng được luyện ở Cục Chế tạo lấp đầy kho trong Quy thành. Trong Trường đà, đoàn voi lên đến vài trăm con đang được huấn luyện, đoàn ngựa vẫn đang tiếp tục được bổ sung. Và đoàn thuyền của Gia Định, niềm tự hào của chúa Nguyễn, đã lên tới hàng ngàn chiếc. Cả lò đúc tiền cũng đã được chính thức triển khai làm việc. Tất cả công việc chuẩn bị cho chiến tranh đang tiếp diễn, tích trữ, tràn đầy.

Những kẻ bên ngoài cũng nhận thấy điều đó. Người Tây dương nói với Ngọc Du khi ghé lại thăm nàng sau chuyến trở về từ Ấn Độ, mang theo món qùa là một chai nước hoa sóng sánh sắc vàng. Tây dương chiết xuất tinh dầu từ những loài hoa và hương liệu, tập hợp chúng vào những chiếc lọ nhỏ thế này, anh ta nói. Chúng tôi rất ngại chạm đến nước vì sợ dịch bệnh, cho nên nhiều người dùng hương thơm để át đi mùi cơ thể mình. Lâu dần, một nền sản xuất nước hoa hình thành. Phú Lang Sa là vùng sản xuất nước hoa hàng đầu Tây dương.

Lâu rồi mới trở về Ấn Độ, thấy mọi thứ đều đổi khác. Người Tây dương nói, ngả người ra lưng ghế, trông anh ta có vẻ mệt mỏi. Anh ta không nói về sự đổi khác ấy, chỉ bảo, người bên ngoài đang chờ đợi kết cuộc tại An Nam.

- Tất cả đều không thể nói trước. – Nàng nhẹ nhàng nói. – Mọi điều đều có thể xoay chuyển không thể lường trước được.

- Nhưng mọi thứ đã được chuẩn bị, đó là điều tốt nhất chúng ta có thể làm. – Người Tây dương lắc đầu. – Chúng ta đã tận dụng được tất cả sức mạnh của mình, sức mạnh của toàn vùng đất này, không nhờ vào bất cứ ai, không phụ thuộc vào bất cứ ai. Tiền bạc do chúng ta tự làm ra, vũ khí do chúng ta tự làm được. Bây giờ dù không còn người Tây dương nào, các thủy thủ Việt cũng đã tự có thể điều khiển được đội thuyền. Ngay cả dù chúa công có rời khỏi Gia Định, các Lưu trấn thần cũng đã thay thế rất tốt vị trí của ngài. Đông cung hoàn toàn có thể làm thay cha mình. Chúng ta không phải cướp bóc, có thể duy trì sự tồn tại bằng chính thực lực của mình.

- Không thể nói trước được. – Nàng nhắc lại, nhìn người Tây dương, ngón tay nàng chạm vào chiếc chai thủy tinh lành lạnh. – Tất cả những việc này đều là như các tiên vương trước từng làm. Họ Nguyễn đã đến phương Nam này một mình, tự mình tìm cách sống sót, đối chọi với họ Trịnh, với Chiêm Thành. Đi qua dải Hoành Sơn, trước mặt những người Việt chỉ là vùng đất hoang đầy sỏi cát, rừng rậm vực sâu. Từ sau cuộc chiến với nhà Trần, sau khi nhà Minh xâm lấn, Chiêm Thành đã lấy lại gần hết hai châu Ô, Hóa mà cuộc chiến của vua Lê Thánh Tông chỉ đẩy họ ra được ngoài vùng Thuận Hóa. Ở vùng Thuận Hóa, chúa Nguyễn đã dần phát triển thế lực của mình bằng mọi cách, bằng cách mở rộng buôn bán, giao thương, bằng cách khai hoang lập đất. Rồi dần dà, họ Nguyễn đánh ra đến Phú Xuân, đến Quy Nhơn, Phú Yên, Thuận Thành, Gia Định… Mọi điều mà chúng ta có là do chúng ta tự lấy được, chúng ta tự tạo thành. Nhưng chỉ cần một rối loạn, tất cả đã tan tành.

Bao giờ cũng nên dè chừng. Như thế thì mệt mỏi lắm, phải không? – Nàng cười khi người Tây dương toan nói. – Nhưng đâu phải lúc nào cũng có thể lý giải mọi thứ theo quy luật. Có nhiều thứ rất vô lý vẫn cứ xảy ra đấy thôi.

Ánh mắt người Tây dương nhìn xuống bàn tay nàng. Nắng đang len qua những kẽ ngón tay nàng, hắt qua thứ nước vàng sánh trong chiếc lọ, đổ xuống bàn tia sáng lay động óng ánh. Nàng nhìn theo anh ta, trong một khoảnh khắc lại nhớ đến nắng mặt trời trên đỉnh núi, ánh hoàng hôn chói chang nhuộm vàng trên sông, trên từng ngọn cỏ, mặt đất, lá cây.

Nàng mở nắp chai, đưa lên mũi. Hương thơm kỳ lạ mà nàng chưa từng ngửi thấy trước đây nhưng vẫn có cảm giác quen thuộc. Hương thơm tựa như của một loài hoa nào đó trong sương mù, hương của đất và cả mùi gỗ phảng phất, cả mùi của lá cây. Nàng thậm chí có thể nghe được tiếng của gió đang thổi qua khu rừng vắng.

- Chai này do một người bạn của tôi làm ở Ấn Độ. – Người Tây dương nói mà không đợi nàng hỏi. – Anh ta bảo đây là tinh dầu của những loài hoa, cây cỏ nhiệt đới.

Nàng mỉm cười, đóng nắp chai lại, ngẩng nhìn người Tây dương.

- Cám ơn anh. – Nàng nói, hơi nghiêng đầu. – Chị nhà vẫn khỏe chứ?

- Chúng tôi sắp có con. – Người Tây dương đón câu hỏi của nàng bằng một nụ cười mở rộng. – Cô ấy bảo khi nào đầy tháng thì mời công nương đến làm lễ mừng.

- Ồ, hay thật. – Nàng thốt lên. Một đứa trẻ Tây dương, nàng nghĩ. Một đứa trẻ lai Tây dương. Nàng tự hỏi không biết màu sắc làn da, cặp mắt và mái tóc nó sẽ thế nào. Có đôi lần nàng nghe nói về những đứa trẻ lai sinh ra trong nhà chứa, nhưng chưa bao giờ thực sự tin vào đó. Những kỹ nữ hẳn khôn ngoan hơn là sinh ra những đứa trẻ như vậy. Chúng không thể sống được ở vùng đất này.

Như thể đọc được ý nghĩ của nàng, cặp mắt xanh của người Tây dương hơi nheo lại. Anh ta nhìn ra ngoài sân, khoảng nắng vẫn đang đổ xuống. Hai đứa trẻ con nàng đang chơi ở gần cửa ra vào, sắp những hòn đá vào trò ô ăn quan. Bất chợt, nàng bắt gặp một thoáng chông chênh trong ánh mắt anh ta.

- Tôi vẫn chưa từng nghĩ đến điều này. – Người Tây dương nói, một lúc sau. – Sẽ rất khó khăn, phải không? Trước đây tôi chỉ có một mình, mọi chuyện thật dễ dàng, đơn giản. Nhưng có một đứa con là điều thật lạ lùng.

Dù cho anh ta có tin tưởng đến thế nào về sự liên kết với Tây dương của vị chúa, về sự cởi mở của người Gia Định với người Tây dương, rốt cuộc thì anh ta vẫn lấy làm e ngại. Ngọc Du nhận ra ý nghĩ ấy trong mắt người Tây dương trẻ. Người Phú Lang Sa kết hôn với người bản xứ không phải là chuyện hiếm, anh ta từng kể với nàng. Đã có rất nhiều cuộc hôn nhân như vậy ở Canada, ở Phi châu, cả với những tộc người du mục. Nhưng một đứa trẻ là chuyện khác. Đứa trẻ lai có thể là duy nhất trong xứ sở này. Không ai đoán được tương lai sẽ ra sao, khi cuộc rối loạn tại Phú Lang Sa, tại Âu châu đang tiếp tục diễn ra. Khi người tướng Phú Lang Sa đã bộc lộ tham vọng của mình.

Chúng đang dùng chiêu bài tự do, bình đẳng và tình thương để cướp đoạt và thống trị. Võ Tánh đã kể cho nàng về những gì quan triều đang nói. Ở Ý Đại Lợi, ở Ai Cập, ở bất cứ nơi đâu, người Hoa Lang giương lên ngọn cờ giải phóng con người, vì nhân dân, vì kẻ cùng khổ để tấn công, cướp đoạt, giết chóc, xâm lược. Đó là thứ vũ khí mới của Tây dương. Đó sẽ trở thành vũ khí mới của Tây dương. Vừa thuyết giảng về quyền con người, chúng vừa dựng lên giá treo cổ, máy chém, cướp chiếm bất cứ thứ gì lọt vào tay chúng, giết bất cứ ai cản đường chúng.

Lá cờ ba sắc của Phú Lang Sa nhuốm máu ngay từ lúc khởi đầu. Có lần nàng nghe người em trai buột miệng chế nhạo, có thể là sau khi đoàn sứ giả Anh Cát Lợi đến hiến phương vật trở về Ấn Độ. Ngài ta đã đứng trên bến cảng nhìn theo lá cờ hình chữ thập bay phần phật trên đầu cột buồm, chợt thốt ra. Khi ấy, có lẽ một ai đó đã nhận xét về lá cờ của người Tây dương, của Phú Lang Sa. Lá cờ hẳn đang bay ở một vùng sa mạc xa xôi, dẫn đầu cho đoàn quân hăng hái, nhiệt thành, đói khát và tàn bạo. Trên bến cảng ngày hôm đó, nàng đã nghĩ về đất nước Tây dương ấy, ngạc nhiên về sự đổi thay của nó trong ý nghĩ mình. Từ đất nước hiền hòa mà Bá Đa Lộc kể cho họ nghe đến đất nước hùng vĩ, đẹp đẽ, thơ mộng, cao sang mà Cảnh đã từng chứng kiến; rồi đất nước hiện tại đầy những bất an. Tựa như một giấc mơ đã tan vỡ. Không ai còn mơ nữa, về đất nước bên kia bờ đại dương. Bây giờ, thậm chí nhiều người còn nhắc đến nó với sự khinh ghét. Chúng còn tệ hơn cả Anh Cát Lợi, hơn cả Ô Lan. Người Anh Cát Lợi gian ngoan giảo quyệt, nhưng Phú Lang Sa với lá cờ ba sắc, với thứ đạo lý dối trá bất lương kia thì còn đạo đức giả hơn gấp nhiều lần. Đứng trên bến cảng, nàng đã nghe lời nói đó, và bắt gặp ánh mắt Cảnh. Ánh mắt trống rỗng, xa xôi và xa lạ. Ánh mắt không thay đổi kể từ ngày nó bước chân xuống bến cảng Sài Côn. Lúc ấy, nàng đã nghĩ rằng trái tim của thằng bé đã để lại ở bên kia bờ biển.

Cậu ta đứng sau đoàn người, sau lưng cha mình. Có thể cậu Đông cung đã nghe thấy lời nói của cha mình. Cậu ta chỉ lặng im, ngước nhìn bầu trời xanh và những cánh chim chao lượn. Cậu ta nghĩ gì, nàng không thể biết.

Bây giờ, nàng cũng không thể hoàn toàn hiểu được những gì người Tây dương trước mặt đang nghĩ. Nàng nghĩ về số phận của một đứa trẻ chưa được ra đời, mối liên kết lỏng lẻo giữa con người với con người, tương lai khó đoán định, mịt mờ trước họ. Mọi chuyện đều có thể đổi thay, họ biết điều đó, những khúc quanh vô lý lẫn có lý bày ra trên quãng thời gian dài thăm thẳm. Họ đã sống hơn nửa cuộc đời, và họ đã nhìn ra được quãng đường kết nối từ vô số tháng ngày của họ, lịch sử được tạo thành từ vô số thân phận bé nhỏ của những con người quanh họ. Tất cả như một bãi biển, một sa mạc mà bất cứ làn gió, cơn sóng nào cũng đều có thể xóa tan đi vết tích tồn tại của những điều nhỏ bé như hạt cát và số phận.

Nàng nghĩ phải nói điều gì để trấn an người Tây dương, nhưng rốt cuộc lại không biết phải nói gì. Bất cứ điều gì cũng có vẻ vô lý một khi được thốt ra.

- Những đứa trẻ có lẽ sẽ rất thích nhau. – Nàng nói, cuối cùng. Nàng nhìn những đứa trẻ đang châu đầu với nhau ngoài cửa, nghe tiếng cãi cọ của chúng. Người Tây dương bên cạnh nàng bật ra một tiếng cười khẽ và ngắn.

Khi tiễn anh ta ra về, Ngọc Du đứng lại bên cửa. Vô thức, nàng nhìn những hòn đá đã được đặt vào cái ô kẻ méo mó trên đất bằng viên phấn vôi. Những bàn tay nhỏ nhắn không ngừng lướt qua chúng. Nàng nghĩ đến Võ Tánh và cho rằng nàng biết chàng đang ở đâu: Ở trường luyện bắn súng, nơi các đội tinh binh đang hoàn thiện khóa tập bắn súng và sử dụng đại bác cỡ nhỏ của họ. Mọi thứ đang được hoàn thiện. Mọi điều đang được tập trung hoàn thành. Những kẻ quấy rối trong quân cuối cùng đã bị bắt trên các bờ sông, đã bị bêu đầu trước các xóm làng. Vị chúa đang siết dần bàn tay kiểm soát với họ, với tất cả mọi người. Ngay từ đầu nàng đã biết ngài ta không phải là con người dễ dãi. Ngay từ đầu.

Cái chai thủy tinh vẫn lành lạnh trong tay nàng. Một lần nữa, nàng đưa nó lên ngang tầm mắt. Đây có thể là thứ rất qúy giá, ngay cả người Tây dương cũng không mấy ai có được. Nàng đang cầm trên tay một thứ từ bên kia đại dương đem đến, chứa đựng mùi hương của vùng đất bên kia đại dương. So với mảnh đất ấy, mảnh đất ngoài kia, vùng đất mà nàng đang đứng trở nên nhỏ bé và chông chênh đến lạ. Chông chênh, như thể nàng có thể nghe tiếng sóng đánh dưới chân mình.

Vẫn còn sớm khi mặt trời vừa mới qua đỉnh cao nhất của nó, nàng gửi đứa bé út lại cho nhũ mẫu dụ nó ngủ trưa, đến Quy thành định để tìm mẹ. Tới nơi, cung nhân báo cho nàng rằng Từ phi đã cùng Quốc mẫu đi lễ chùa, nàng thở dài quay về. Ngang qua khoảng sâu rộng sau vườn, nàng chợt dừng lại khi bắt gặp một bóng áo chùng đen sau lùm hoa dâm bụt. Ngả người trên chiếc bàn đá kê bên hồ nước, Bá Đa Lộc đang cắm cúi viết những chữ nhỏ li ti trên tờ giấy dài. Khi Ngọc Du đã tới cạnh bên, ông ta mới giật mình ngẩng lên.

- Công nương. – Bá Đa Lộc hơi cúi người chào nàng. Nàng nhận thấy hai quầng mắt của ông trũng sâu.

- Lâu không gặp Thượng sư. – Nàng nói, chân thành. Từ lâu Bá Đa Lộc đã trở thành gần như một người trong gia đình, có lẽ còn hơn cả Nguyễn Phúc Mão. Từ sau tin đồn về sự sụp đổ của Giáo hội Tây dương đến cảng Sài Côn, nàng đã không còn gặp ông ta nữa. Bá Đa Lộc gần như thu mình rút hẳn về Cục Chế tạo hay nhà thờ của ông.

Giờ đây, nàng nhận thấy những nét mệt mỏi đã in hằn trên khuôn mặt ông giáo sĩ già. Không còn nữa sự tự tin, nét phốp pháp đầy vững chắc, ông trở thành con người đúng với số tuổi của mình. Gần sáu mươi tuổi, ông già hơn nàng vẫn nghĩ.

- Mọi việc của Thượng sư vẫn ổn chứ? – Nàng nói sau khi họ đã trao đổi mấy câu xã giao có lệ, ngồi xuống chiếc ghế đá ngay trên bờ hồ. Làn nước gần đó nổi lên liên tiếp nhiều đợt sóng tròn khi những con cá không ngừng đớp nắng. Nàng thấy những cái bóng màu cam vàng không ngừng di chuyển ẩn hiện dưới lớp bèo xanh.

Bá Đa Lộc lại nhìn xuống tờ giấy đang viết dở. Có lẽ ông không thích trả lời nàng, cũng có thể vì ông không biết phải trả lời nàng thế nào.

- Cha Dominique vẫn chưa bị bắt. – Bá Đa Lộc chợt nói, mắt vẫn nhìn theo những dòng chữ La-tinh trên tờ giấy. – Tôi vừa nhận được tin từ Phú Xuân, việc cấm đạo lần này là do triều Tây Sơn bắt được thư của chúa công gửi cho giám mục Labartette. Chúng cho bốn đạo binh vây bắt các giáo xứ ở Dương Sơn, Cổ Biên, Kim Long, Thợ Đúc. Cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu từ Thăng Long trở về không biết đi trốn nên bị bắt, bị xử tử cùng với đám trộm cướp. Ba mươi hai người nữa bị đưa vào căn phòng có hai cửa Sinh môn và Tử môn. Cửa Sinh môn để hình Chúa, muốn ra phải đạp qua ảnh. Cửa Tử môn có đao phủ chờ ngay trước cửa. Ba mươi người qua cửa Tử môn lần lượt bị chém đầu.

Có kẻ bị đóng đinh vào tấm ván gỗ, có người bị đổ dầu vào rốn mà đốt, có người bị buộc tóc treo lên, có người bị buộc ngón chân dốc ngược đầu xuống đất, có người bị buộc từng chùm lại với nhau. Các quan thích nhất là hình phạt trói người vào cột rồi buộc vải tẩm dầu vào ngón tay hay nhúng cả bàn tay vào bát dầu rồi đốt. Có nơi người ta bị trói vào cọc, rồi mỗi người trong đội quân đi qua xẻo một miếng thịt ăn sống ngay trước mặt kẻ bị trói.

Ở Bắc Hà, trong khi Nguyễn Huệ tại vị, giáo dân bị bắt phải nộp tiền cho quan; nhà thờ, trường dòng, trường học bị phá sạch. Hai ngàn người đã chạy trốn sang Vạn Tượng. Từ khi nghe tin tôi đem thuyền trở về giúp cho chúa công, triều đình Tây Sơn ra lệnh bắt tất cả các giáo sĩ Tây dương, may mà các quan Bắc Hà không nghe theo, khuyên họ đi trốn. Đến thời Ngô Văn Sở cai trị dưới quyền Bùi Đắc Tuyên, việc cấm đạo ngày càng khe khắt. Khâm sai Nguyễn Quang Thùy nhậm chức mới bỏ lệnh cấm đạo, trả nhà thờ cho giáo dân. Nhưng lần này lệnh lại được chính thức ban ra, tôi e rằng các quan Bắc Hà dù có muốn che chở cho chúng tôi cũng không thể được nữa.

Đang có luật rằng ai bắt được một linh mục, dù người Việt hay ngoại quốc, đều được thưởng một trăm nén bạc. Thời buổi khó khăn đói kém này, ai lại chẳng bỏ công đi săn lùng chúng tôi kiếm lợi?

Giọng Bá Đa Lộc vẫn đều đều, thấm đẫm vẻ mệt mỏi, ngay cả khi ông nói về những luật pháp khốc liệt hay những hình phạt dã man. Nàng nghe tiếng cá vẫn không ngừng đớp dưới làn nước. Bóng râm và mùi ngai ngái của bụi dâm bụt ngả xuống nàng. Nàng nhìn ngón bàn tay trái Bá Đa Lộc bấm xuống bàn đá, gân xanh nổi trên mu bàn tay.

Ông ta không nhìn nàng, cũng không còn nhìn tờ giấy và những hàng chữ ríu vào nhau, ông nhìn ra mặt hồ, lớp bèo tan rồi hợp chậm chạp trên sự chuyển động của những sinh vật sống trong nước. Bên kia hồ, cụm sen đang nở rực rỡ, những chiếc lá tròn lan cả về phía bên này. Màu hoa đỏ của bụi dâm bụt chói chang trong nắng, tạo thành những ảo ảnh lay động như máu đọng trên mặt nước.

- Tôi đã đến Gia Định này năm hai mươi mốt tuổi. – Bá Đa Lộc nói khi nàng không lên tiếng. – Hai mươi mốt tuổi, vừa rời khỏi trường dòng, thụ phong ở tòa thánh Vatican, tôi đã lên tàu đến vùng đất này. Lúc ấy, tôi đã biết gì đâu ngoài nhà thờ và những tín điều của Chúa. Tôi đã cho rằng mình đến vùng đất này với một sứ mệnh cao cả biết bao nhiêu. Vùng đất hoang vu này, nơi người ta sống như cỏ dại, chết như cỏ dại đã qua hết mùa mọc rồi đến mùa tàn. Phương Đông này, nơi người ta coi cực hình và sự tàn ác là đương nhiên. Giống người man rợ này, những bộ tộc ăn thịt người vẫn còn sống đâu đó trong chúng ta, những kẻ có thể ăn thịt người như một chiến lợi phẩm. Hai mươi mốt tuổi, tôi đã biết gì đâu, ngoài những điều trong sách vở. Tôi thậm chí còn không biết quê hương mình thực sự có diện mạo thế nào, tôi thậm chí còn không biết rằng nơi đã sinh ra tôi thực sự là như thế nào. Tôi rời khỏi nơi ấy và ra đi, hy vọng có thể cứu rỗi được người khác, cải tạo được kẻ khác.

Mười lăm năm trước khi gặp chúa công, tôi đã lang thang khắp mọi vùng đất phương Nam; Gia Định, Chiêm Thành, Chân Lạp, Xiêm La, Miến Điện… Mười lăm năm, tôi đã nhận biết rằng con đường của mình không đơn giản. Đây không phải là cuộc khai hóa hòa bình mà là một cuộc chiến – một cuộc chiến với đầy đủ máu xương, cái chết, cực hình, vũ khí, súng gươm, quyền lực và hủy diệt. Nhưng tôi vẫn tin, trái tim vẫn còn ngây thơ của tôi vẫn tin rằng, đây là con đường đúng đắn để giúp ích cho con người. Như những người bạn đồng đạo của tôi đang chết ở phương Bắc, như những người đã chết. Chúng tôi tin rằng thế giới và niềm tin của mình là tốt đẹp. Chúng tôi biết chứ, những gì đã xảy ra trăm năm trước, lịch sử đẫm máu của chính chúng tôi, nhưng chúng tôi đổ tội cho sự mê muội của toàn bộ con người thời kỳ ấy, sự hỗn mang và u tối của thời kỳ mà khoa học chưa phát triển, chúng tôi đổ tội cho những ông vua vị chúa đã lợi dụng đạo giáo để tìm kiếm quyền lực cho mình. Chúng tôi, từ khi mới bước vào trường để học những con chữ đầu tiên, đã được dạy về sự cao cả của Chúa, về lòng yêu kính Chúa và những điều tốt đẹp của đạo. Chúng tôi, ngay khi vừa mở mắt, ngay khi vừa mới được sinh ra, đã được các linh mục rửa tội, ban phúc, ban tên thánh. Chúng tôi, ngay khi vừa biết nhận thức, thế giới của chúng tôi đã có Thiên Chúa. Chúng tôi lớn lên, và một số lớn trong chúng tôi đã chọn con đường mà chúng tôi cho là cao cả nhất, tình yêu mà chúng tôi cho là cao cả nhất, vượt trên tất cả mọi điều trên thế gian này, trên cả bản thân mình, quan trọng hơn cả bản thân mình – con đường mà chúng tôi có thể hy sinh cả cuộc đời để đi, hiến dâng cả cuộc đời mình mà không hề cần bận tâm suy nghĩ.

Tôi đã bước vào cuộc chiến này như thế, sau mười lăm năm làm quen với phương Đông, khi nghĩ rằng mình đã hiểu phương thức chiến tranh của phương Đông, khi đã chấp nhận rằng con đường của mình là một cuộc chiến dài không ngừng nghỉ, không có lúc kết thúc. Cuộc chiến – đó là khi người ta phải hủy diệt kẻ khác để sống còn. Nhưng đồng thời tôi cũng sợ hãi biết bao nhiêu trước những sinh mạng lần lượt ngã xuống, bị cướp đi, hủy hoại như cỏ dại, như cánh đồng bị đốt cháy. Tôi đã đến miền biển Đông này trong thời kỳ hỗn loạn nhất của nó. Miến Điện hủy diệt Xiêm La, nội chiến ở Xiêm La, nhà Nguyễn đánh Chân Lạp, nội chiến ở Chân Lạp, Xiêm La đánh Hà Tiên, Miến Điện và Xiêm La liên tục khai chiến, rồi Tây Sơn đánh Gia Định. Sinh mạng con người, số phận con người thật giống như cỏ dại, không bằng cả cỏ dại. Cái sinh mạng mà chúng tôi trân qúy, cái cuộc đời mà chúng tôi tình nguyện hiến dâng ấy nếu đem so ra thì lại hóa thành qúa nực cười. Nếu đem so với những người không được sống, không hề sống một ngày, một giờ nào thì thật qúa nực cười – “sự hy sinh” của chúng tôi. Và tôi biết rằng mọi nơi trên thế giới này đều như thế, những cuộc chiến diễn ra khắp mọi nơi, những cuộc tàn sát diễn ra khắp mọi nơi. Ngay cả Tây dương chúng tôi cũng đang giết chóc nhau, cũng đang tàn hại kẻ khác.

Vì lẽ ấy, tôi cho rằng tham gia vào một cuộc chiến để tìm cách sống còn, để thực hiện lý tưởng cũng là một điều đương nhiên.

Nhưng bây giờ thì tôi không còn tin những gì mình từng tin nữa. Không còn là chuyện đúng hay sai, làm hay nên làm. Khi nghe về những cái chết, tôi đã thấy đau lòng tưởng chết đi được theo họ. Giá mà tôi có thể đổi mạng cho họ, giá mà tôi có thể làm gì để ngưng tất cả mọi chuyện này lại.

Quê hương của tôi, tôi cũng không biết phải nghĩ gì về nó bây giờ. Tôi đã bỏ nó mà đi ngay từ khi còn rất trẻ. Tôi nghĩ mình chưa từng hiểu được bất cứ điều gì về nó. Ồ không, tôi nghĩ rằng mình hiểu. Tự do, bình đẳng, bác ái – Đó là một vùng đất rất đẹp và những con người lãng mạn, đầy mơ mộng. Chúng tôi qúa nhiều mơ mộng, qúa để mình tin vào những giấc mơ, để những giấc mơ dẫn đường. Giáo điều của Thiên Chúa cũng vậy, những điều mà kẻ xưng là triết gia Ánh sáng nói bây giờ cũng thế, chúng tôi đã luôn dễ dàng tin vào đó. Chúng tôi đi theo, bồng bột và xốc nổi, hăng hái và nhiệt thành, ngây thơ và cuồng tín. Nhưng chúng tôi đồng thời là những kẻ tham lam, đói khát, bị ràng buộc chặt với nhau bằng lợi ích và toan tính. Những điều đẹp đẽ rơi vào tay chúng tôi đều trở thành công cụ. Chúng tôi vừa lợi dụng nó vừa cố dỗ dành mình tin tưởng. Tôi cũng không biết mình đang đứng ở đâu bây giờ - là kết thúc hay khởi đầu, là nguyên nhân hay hệ qủa? Tôi cũng không biết mình phải làm gì bây giờ - rốt cuộc mọi điều mà tôi đang làm có ý nghĩa gì? Tôi đã sinh ra, lớn lên với niềm khát khao, ước vọng vào nhà thờ Vatican; nhưng bây giờ thì tôi cũng không rõ điều tôi thực sự muốn là gì. Dù nhà thờ Vatican có được dựng lại, dù những kẻ phiến loạn tại Phú Lang Sa bị đánh bại, dù mọi điều được phục hồi, tất cả sẽ không còn như xưa nữa. Tôi sẽ không thể tin tưởng như ngày xưa được nữa.

Ngoài kia, tất cả mọi người đang chết vì tôi, cho tôi, cho những gì chúng tôi tin là đúng; trong khi tôi chỉ muốn quát họ dừng lại, xin họ làm ơn dừng lại. Qúa thảm khốc, những cái chết ấy qúa thảm khốc! Tôi không muốn họ chết như thế.

Bá Đa Lộc đã nói một mạch, rất lâu. Đôi lần ông ta ngừng lại, đôi lần như ông ta đang chìm hẳn vào ký ức của mình. Đôi lần giọng nói ông ta nhỏ xuống, thì thầm. Giọng nói mệt mỏi và khô kiệt. Nàng nghĩ đến tiếng gió cuốn cát bay rào rào trên sa mạc.

Bầu trời vẫn xanh với những cụm mây trắng đổi dạng thay hình. Chiếc bàn đá kê trong góc tối bên hồ trông ra khoảng tường đá xanh rêu, được che chắn bởi lùm cây dâm bụt, khuất sau con đường nhỏ. Nàng nhìn thấy bóng vài cung nhân đằng xa, nhưng họ dường như không phát hiện ra có người nơi đây.

Bá Đa Lộc đã nói và lại lặng im. Có lẽ đây là điều ông ta cũng chưa từng nói ra, với bất cứ ai. Có ai sẽ nghe ông nói? Vị chúa và Cảnh qúa phức tạp, qúa dễ gây cho ông hồ nghi để có thể thực lòng tâm sự với họ. Cảnh đã dần dần rời xa ông, đã quay lưng với niềm tin mà ông đã đặt vào cậu, đã không còn muốn biết nữa những điều ông nghĩ. Làm sao ông có thể nói với các giáo sĩ, con chiên rằng ông đang sợ hãi, đang đau lòng? Với họ, ông là đức Cha Cả, là Tổng giám mục, là kẻ thay mặt thánh thần – không phải và không thể là một con người. Họ sẽ có thể chết vì ông, nhưng họ không thể nghe ông nói.

- Có cuộc chiến nào mà chỉ vì một người à? – Cuối cùng, nàng nói và mỉm cười. Bá Đa Lộc nhìn sang nàng. Cái bóng của nụ cười đông cứng trên khuôn mặt ông ta.

- Hơn hai mươi năm rồi. – Ông nói. Nàng hiểu ông đang nghĩ đến thời điểm câu nói ấy được thốt ra.

Có vẻ như ký ức ấy an ủi được ông ta, được họ. Có điều gì đã khiến trái tim của họ dịu lại. Nỗi đau đớn vừa mới được khơi lên của họ dịu lại. Ngọc Du nhìn xuống những vòng sóng không ngớt nổi lên mặt nước. Một bông hoa dâm bụt đỏ rơi xuống hồ, bọn cá liền ngay lập tức uốn mình lao tới, tiếng nước sục rất rõ trong buổi chiều yên tĩnh.

- Ngoài tin về đạo, thầy còn nhận được tin gì ở Bắc Hà nữa không? – Nàng chợt hỏi, một lúc sau. Nàng vẫn nhìn ra hồ, nắng đang ngả chếch qua những mái nhà, tạo thành khoảng bóng hình cong cong trên đất. – Có ai nói gì về một người phụ nữ?

- À, có. – Bá Đa Lộc trả lời nàng như thể vừa chợt nhớ ra. – Có một phụ nữ nghe nói là vợ của quan Bắc Hà đã về với ta bị bắt. Nguyễn Quang Thùy đã xử tử cô ấy.

Đúng như nàng đã nghĩ, Ngọc Du nheo mắt nhìn nắng, không quay lại. Hoàng Thị Hân không thể vượt qua được màng lưới giăng mắc khắp trong Bắc Hà. Cô đã chết, trong tay chính kẻ đã giết chồng mình, có lẽ cũng chính tại nơi chồng cô đã chết.

Tiếng nước lục bục ngày càng to. Bông hoa biến mất dưới làn nước đang sủi bọt. Màu đỏ hắt lại cuối cùng trong mắt nàng chấp chới như cánh bướm đang vùng vẫy.

Hẳn mẹ nàng đang ngồi trên nền gạch lạnh của một ngôi chùa nào đó trong cái nóng oi ả, gay gắt này, tiếp tục đọc kinh và nguyện cầu. Bà tin vào điều gì, nàng chưa từng hỏi. Những lời kinh kệ ấy có ý nghĩa gì với bà, nàng chưa từng biết. Nàng chưa từng tin vào điều kỳ diệu của những đấng vô hình. Rốt cuộc sinh mạng lẫn con người chỉ như cỏ dại, như hạt cỏ dại, như cát.

Tất cả những thứ ấy đang đan kết nên thế giới này. Nàng nghĩ khi tiếng chuông đổ lúc bóng chiều ngả xuống. Thật ra thì nàng lại đang dần hiểu câu nói mà nàng đã nghe đâu đó, khi đi cùng mẹ: Vĩnh cửu chỉ nằm trong một cái chớp mắt.

Vĩnh cửu của một hạt cát.

50

Trên cao nhìn xuống, đoàn người đứng trên sân cát chia thành từng hàng đều chằn chặn cách nhau chừng ba bước chân. Cứ chừng sáu hàng như vậy lại chia thành từng nhóm một. Mỗi người trong đội cầm một khẩu súng dài, lưỡi lê dắt vào thắt lưng, đứng im phăng phắc đối mặt với bức tường rơm dày cao ngất chất bên kia sân. Bên cạnh đội quân ấy có một người mặc áo bào của tướng lĩnh, không cầm súng mà đeo ở sau lưng, tay cầm cờ lệnh cùng thanh la. Gõ một tiếng thanh la, vị tướng quát sang sảng:

- Đội Một hàng thứ nhất, phía bên trái. Bắn!

Ngay lập tức, hàng lính đầu tiên bên phía tay phải làm động tác nằm xuống, hàng thứ hai qùy gối, hàng thứ ba đứng nâng cao súng lên vai. Đồng loạt, ba hàng quân nổ súng vào bức tường rơm. Ngay sau khi nhả đạn, họ nhanh chóng thu súng, đứng dậy rút về phía sau để những hàng sau tiến tới thế chỗ, những động tác được lập lại y hệt cho những khẩu súng sẵn sàng nhả đạn.

- Đội Ba hàng thứ hai, đội Năm hàng thứ nhất. Phía bên phải. Bắn!

Tiếng súng lại rền rã vang lên, lớn hơn cả đợt đầu. Bức tường rơm rung rinh dưới sức công phá của những viên đạn bắn vào, rơm bay lả tả trong mùi khói khen khét. Những người lính vừa bắn thậm chí không kịp nhìn lại thành qủa của họ, vội vã đứng dậy để hàng sau thay thế. Tiếng súng nổ liên tiếp từng hồi dài sau mỗi tiếng hô của vị tướng.

Đứng dựa lưng vào bức phiên gỗ quây quanh sân tập, chúa Nguyễn cùng Võ Tánh nheo mắt nhìn đoàn quân. Bên cạnh họ, người sĩ quan Phú Lang Sa De Forcans cùng Trần văn Học đang trao đổi mấy câu ngắn bằng tiếng La-tinh. Khi tiếng súng đã ngưng một lúc, Trần Văn Học quay sang vị chúa mà nói:

- Ông Lăng bảo rằng đội quân của ta đã sử dụng súng thành thạo, rất tốt rồi. Điều quan trọng là giữ vững tinh thần trên chiến trường. Đội pháo binh và quân dùng súng cần nhất là đội hình và kỷ luật để phát huy hết uy lực. Chỉ cần một rối loạn nhỏ, đội hình bị phá vỡ thì súng có mạnh đến bao nhiêu cũng thành vô dụng. Súng chỉ bắn được từng phát một mà lại không có sự hỗ trợ nhau tuần tự thì chỉ có cách lắp lưỡi lê vào để giao chiến còn hơn.

Và điều quan trọng không kém là tướng chỉ huy. – Trần Văn Học phác tay về phía tiếng súng lại vang. – Anh ta phải nắm rõ thời điểm ra lệnh và dùng đội nhóm nào cho tốt, không để trình tự rối rắm, giữ vững đội hình, chủ động đo lường khoảng cách. Lại một lần nữa, điều này yêu cầu rất nhiều ở tinh thần người ra trận.

- Còn diễn tập thực tế thế nào? – Chúa Nguyễn gật đầu, nhìn về phía bức tường rơm. – Ta nghe trong trận đánh với Thanh, Tây Sơn đã dùng các tấm rơm ướt để chặn súng và hỏa hổ. Trong trường hợp như vậy sẽ phản ứng ra sao?

- Dùng pháo, thưa chúa công. – Trần Văn Học trả lời sau khi quay lại trao đổi với người sĩ quan Tây dương. – Đại bác cỡ nhỏ của ta chính là để đối phó với quân bộ, thậm chí chặn đường voi. Như người tướng Phú Lang Sa hiện tại, hắn ta đã dùng đại bác đi trước trong hầu như tất cả những trận đánh để dẹp đường. Đại bác của ta khống chế được tầm bắn và độ cao, đường đi của đạn, sức công phá mạnh có thể hất tung cả người lẫn ngựa.

Vị chúa cau mày khi nghe nhắc đến người đang lãnh đạo quân đội ở Phú Lang Sa. Nhưng ngài ta không nói, một lúc sau mới chậm rãi tiếp tục bàn luận:

- Phương cách này chỉ dùng để tấn công các mục tiêu cố định ở địa thế rộng. Quy Nhơn, Phú Yên toàn núi cao hẻm sâu, bọn địch chỉ tụ tập từng nhóm nhỏ tấn công bất ngờ. Chúng lại nấp sau thành lũy đá, súng đạn mạnh đến đâu cũng vô hiệu.

- Nên tùy thuộc vào cách điều phối đội hình hành quân của chúng ta, chúa công. Bộ, pháo, tượng, kỵ binh phải đi chung, gắn kết với nhau, điều chỉnh cho phù hợp với từng quãng đường, từng hoàn cảnh chiến trường. Mấy năm vừa qua, quân tướng ta cũng đã học hỏi được nhiều, trận đánh năm trước cũng cho ta nhiều kinh nghiệm.

Chúa Nguyễn chỉ mỉm cười khi nghe Trần Văn Học phiên dịch lại lời của người Tây. Nói thêm vài câu nữa, ngài ta gật đầu chào anh ta, cùng Võ Tánh đi dạo quanh sân xem xét quân đội. Vị tướng đã cho đổi đội hình. Cắp súng vào bên hông, những hàng quân đi chuyển đan nhau, chiếm cứ những điểm cao trong khu đất, nhìn họ như những đường chỉ đang quấn vào nhau nhưng không một chút rối loạn.

- Khanh cho rằng quân ta còn yếu nhất ở điểm nào? – Vị chúa chợt hỏi. Võ Tánh không nhìn sang ngài ta, đáp ngay không do dự.

- Tinh thần, chúa công. Đúng như người Tây dương đã nói, trong đội hình thế này, chỉ cần tinh thần một người dao động là ngay lập tức gây ra hỗn loạn.

Vị chúa nhè nhẹ gật đầu. Trông ngài ta có vẻ trầm tư. Nắng vẫn gay gắt chiếu xuống họ. Nhìn gần, họ đã thấy mồ hôi chảy ròng ròng bên má những người lính.

- Nếu nghỉ quân qúa lâu, e rằng tinh thần họ còn xuống thấp hơn. – Võ Tánh nói tiếp, sau một lúc quan sát. – Trạng thái yên bình kéo dài, chẳng ai muốn ra trận nữa.

- Tình trạng hòa bình là thứ sẽ giết chết một quốc gia, có phải? – Chúa Nguyễn chợt cười. – Đó là điều mà ông lão có con vịt kia đã nói.

Ông lão có con vịt – Đó là cái tên chúa Nguyễn đã đặt cho Đặng Đức Siêu, kể từ ngày ông ta dọn đến ở gần bến cảng Sài Côn. Sau lần gặp vị chúa, có thể là vì cả sự sắp xếp, chèo kéo của Nguyễn Thái Nguyên, Đặng Đức Siêu đã thu xếp gia đình, gác lại việc dạy học để chuyển về trong một làng ở Sài Côn. Ông ta viết sách, Nguyễn Thái Nguyên thông báo với chàng tình trạng hiện tại của Đặng Đức Siêu, nhưng chàng chưa bao giờ thấy điều gì gần gần với việc viết sách trong ngôi nhà ông ta mỗi lần ghé lại. Luôn luôn, chào đón chàng là con vịt lạch bạch đi đi lại lại ngoài sân, căn nhà sạch sẽ, ngăn nắp đến mức chàng chưa từng thấy một vết mực dây nào. Nghiên bút và lọ mực để trên bàn vẫn như không người đụng đến. Còn chúa Nguyễn cũng biết sự di chuyển chỗ ở của Đặng Đức Siêu, thậm chí từng đến thăm ông ta, nhưng họ vẫn chẳng nói gì khác ngoài những chuyện đâu đâu không đầu không đuôi. Và vị chúa – khi vắng người – gọi người cựu quan họ Đặng bằng cái tên “ông lão có con vịt”.

Hòa bình sẽ giết chết một quốc gia, Đặng Đức Siêu đã từng nói một lần chơi cờ với vị chúa. Vui miệng, vị chúa vừa đánh cờ vừa kể cho người xung quanh nghe về lịch sử của bàn cờ. Môn cờ này xuất phát từ Ấn Độ, rồi theo những thương buôn đi khắp nơi trên thế giới, đi về phương Tây thì nó thành cờ vua – là thứ cờ mà những thủy thủ Tây dương hay chơi, đi về phương Đông thì nó thành cờ tướng của chúng ta. Chúng ta bỏ các ô đi, chỉ dùng đường, lại lấy con sông phân chia ranh giới, lập cấm cung, quân cờ nào cũng như nhau. Đến thời Đường thì chúng ta thêm quân Pháo vì lúc ấy pháo mới được dùng trong quân.

- Chúng ta đổi quân vua thành quân Tướng để kẻ khác đừng khi quân phạm thượng. – Đặng Đức Siêu vừa cười vừa nói. – Chúng ta lại có thế cờ tàn, “Tướng lộ mặt” sức mạnh hiểm ác, Sĩ làm ngòi cho Pháo tấn công. Trong bàn cờ, Xe là quân mạnh nhất, Tướng là quân yếu nhất, nhưng trong thế cờ tàn thì Tướng lại hoàn toàn mạnh như Xe. Không như cờ vua tập hợp quân cờ mạnh nhất để bảo vệ cho mình, lấy kẻ lập công cao làm Hậu, vua từ đầu đến cuối chỉ chạy loanh quanh, nương nhờ kẻ khác – Với chúng ta, quân Tướng đã yếu, quân Sĩ ở bên cạnh làm cố vấn cho cũng chẳng hơn gì, nhưng vào tình thế nguy hiểm thì kẻ liều chết cho chủ, kẻ tung hết sức để tự bảo vệ mình có nhiều khi lật ngược được cả ván cờ.

Hòa bình, được bảo bọc qúa đáng thì tướng sĩ nào chẳng như vậy, vừa yếu ớt vừa nhu nhược. Xua quân Tốt lên, một khi đã qua sông thì Tốt không còn đường quay lại, thâm nhập cấm cung của kẻ khác là sa chân vào bẫy – Con đường nào cũng là tuyệt lộ với kẻ bị bắt hy sinh. Xe, Pháo, Mã tùy theo khả năng mà tung hoành, bảo vệ hay tấn công. Lực lượng ngang nhau, nhưng thắng bại dựa vào tài của kẻ bên ngoài bàn cờ. Trong thế cờ tàn, để sử dụng được sức mạnh của Tướng thì vẫn cần có Xe, Pháo, Mã, chứ Sĩ và Tượng có trung thành bao nhiêu thì cũng chỉ đủ sức phòng thủ; nếu không, Tướng lộ mặt chỉ đi vào con đường chết. Dù có anh dũng chống chọi bao nhiêu thì vẫn chẳng làm gì được.

Cái cuối cùng quyết định thắng bại là khả năng tính toán lực lượng, không phải là sức mạnh cá nhân.

- Tiên sinh lại nhắc đến chuyện cũ. – Chúa Nguyễn không ngẩng lên khỏi bàn cờ, chỉ cười nhẹ. – Hay tiên sinh lại đang tìm cách chê cười ta rằng cả Xe, Pháo, Mã, Tượng cũng đều không có, chỉ có mấy kẻ Sĩ, Tốt chạy theo?

- Không phải là không có, mà vì đã mất đấy thôi. Ngày chúa Tiên đến Thuận Hóa cũng chỉ mang theo có bao nhiêu người, vậy mà họ Nguyễn đã chống chọi được với Chiêm Thành, chiếm được dần ra Gia Định, tiêu diệt Chiêm Thành. Chỉ một cái chớp mắt trong mười năm mà đội quân hùng mạnh ấy đã trở thành như thế.

- Vì tướng sĩ đều đã yếu nhược trong hòa bình? – Vị chúa ngắt lời Đặng Đức Siêu, đưa quân Tốt của ngài ta lên một bước. – Nghĩ cũng có phần đúng thật. Sau khi ép Chân Lạp giao nộp Ba Thắc, Trà Vinh, quân ta được nghỉ ngơi dài. Ngay từ thời Võ vương, chúng ta đã xây thêm nhiều cung điện. Cái thời phải đối phó với Trịnh, với Chân Lạp, Chiêm Thành thì tất cả mọi người đều đồng lòng, nhưng khi yên ổn rồi thì nảy nòi ra Trương Phúc Loan. Rốt cuộc khi bị tấn công, chúng ta lại phải nhờ đến đội quân kéo lên từ Gia Định của ông lão Tống Phúc Hiệp.

- Hòa bình là liều thuốc độc cho một quốc gia. – Đặng Đức Siêu vừa đi quân cờ của mình vừa nói. – Trạng thái hưởng lạc, cầu an sẽ kéo lùi cả một quốc gia. Binh tướng không được cọ xát, không có động lực để luyện tập sẽ trở thành biếng nhác, yếu ớt. Con người không quen với gươm đao, súng đạn sẽ trở thành nhát sợ, nhu nhược. Thần dân không có ý chí sẽ trở thành đàn gà không chí khí. Mọi thứ đều được sắp xếp vào trật tự, không suy chuyển, không thay đổi, không tiến bộ. Một đất nước cầu an là một đất nước bại vong.

- Nhưng một đất nước hiếu chiến có thể còn bại vong nhanh hơn nữa. – Một quân cờ của Đặng Đức Siêu đã lọt vào tay chúa Nguyễn. Ngài ta nhấc nó lên bằng hai ngón tay, ngón trỏ đẩy quân cờ của mình tới. – Từ thời cổ đại đến bây giờ đã có bao nhiêu quốc gia như thế? Những quốc gia đánh đông dẹp bắc, đạt đến lãnh thổ rộng lớn nhất của chúng rồi cuối cùng tan thành từng mảnh? Ngay cả người hàng xóm của chúng ta cũng thế. Đất nước Chiêm Thành hùng cường kia đã đi về đâu? Sống nhờ vào cướp bóc lân bang, vào đoàn thuyền buôn bán và cướp biển, vắt kiệt chính mình. Khi không còn đủ sức để thực hiện chiến tranh nữa, họ lụn bại. Tương tự như người Liêu, người Hồ, người Mông Cổ… trên đất Thanh. Họ bại vong và biến mất, không thể phục hồi.

Cho nên chúng ta mới có khái niệm về một vòng thịnh suy. – Vị chúa thả tay buông quân cờ xuống chiếc hộp gỗ bên bàn. Quân cờ gỗ chạm vào bốn thành gỗ tạo thành tiếng vang nhỏ đùng đục. – Mọi thứ tồn tại chỉ vì chính nó. Không một điều có thể áp dụng được cho tất cả. So sánh thì thật lạ đời. Nếu có thể so sánh, ta đã có thể hỏi tại sao trong hơn cả ngàn năm, chúng ta chưa bao giờ được như Mãn Thanh, Mông Cổ, Liêu, Hồ nhỏ bé nhưng đã chiếm lĩnh, chia đôi đất Hán? Tại sao chúng ta thậm chí không được như những đất nước mạnh mẽ lân cận? Phải, ta có thể đi tìm nguyên nhân, ta có thể trả lời rằng vì chúng ta qúa cầu an, qúa yếu nhược – Đất nước này cầu an và yếu nhược như một con rùa chỉ cần lẩn vào trong mai nó an toàn – Rồi thế thì sao? Ta xua bọn họ đi đánh nhau, cướp chiếm à? Những kẻ như thế thì có thể hy vọng vào một cuộc chiến đấu lâu dài ư?

Chưa kể đến… - Vị chúa đưa mắt nhìn lên, bắt gặp ánh mắt của Đặng Đức Siêu. – Càng đi xa, chúng ta càng tan loãng ra dần dần, phân hóa dần dần. Đặng tiên sinh có thấy không, chúng ta dường như đã tự thắt cổ mình rồi đó.

Tốt đã sang sông là không còn đường quay lại. – Ngài ta lại cúi xuống bàn cờ, ngón tay mơ hồ vạch qua khoảng trắng giữa những ô đường chằng chịt. – Chúng ta có một dòng sông chắn ngay giữa con đường của mình.

Tiểu đồng tới dâng trà và cả hai người họ quay sang nhận lấy. Cầm tách trà trong tay, Đặng Đức Siêu nheo mắt nhìn bàn cờ.

- Thế trận của chúa công thật khác thường. – Ông ta nói, một lúc sau. – Trong khai cuộc là lúc bày trận, người ta có thể hy sinh vài con Tốt để lập thế. Chúa công lại có vẻ như lập thế cho chính những con Tốt của mình. Ngài cứ dùng dằng như vậy, đến bao giờ chúng ta mới vào trung cuộc được đây?

- Tiến quân thì nên từ từ. – Vị chúa uống trà chậm rãi, trả lời.

Đến khi tiểu đồng dâng bình trà thứ ba, Đặng Đức Siêu lại thẳng lưng nhìn bàn cờ. Đôi mày ông ta cau như châu hẳn vào nhau. Nhưng ông ta không lên tiếng.

- Mời tiên sinh. – Chúa Nguyễn nói khi đã uống xong ly trà, đặt trở vào khay cho tiểu đồng. Nhưng hai bàn tay của Đặng Đức Siêu vẫn đặt trong lòng đôi chân khoanh lại. Tách trà cầm trong tay, nhưng ông dường như không cảm thấy sức nóng đã nguội dần của nó.

- Tôi chịu thua. – Đặng Đức Siêu chợt ngẩng lên, hơi cúi mình, rồi đưa lại tách trà cho tiểu đồng. Chúa Nguyễn nhướng mày.

- Chúng ta vừa mới triển khai, thua là thua thế nào?

- Tôi nhầm rồi. – Đặng Đức Siêu xua tay. Có vẻ như đã chồn chân, ông co một đầu gối lại về phía ngực. – Thế trận này, trong lúc tôi còn đang bận đối phó với Xe, Pháo, Mã, quân Tốt của chúa công đã tràn đầy cung rồi. Tôi đã nhầm khi để chúng sống đông đúc đến thế mà qua sông.

Vị chúa toan nói, nhưng rồi lại nhún vai. Nhìn bàn cờ lần cuối, ngài ta xoa tay lên mặt quân, gom tất cả lại. Khi đã cất cả quân lẫn bàn cờ, ngài ta mới nhìn Đặng Đức Siêu, mỉm cười.

- Cám ơn Đặng tiên sinh đã có ý nhường ta. Thế trận của Đặng tiên sinh xuất kỳ bất ý, biến động khôn lường, ta không biết có cách nào để đối phó hay không.

- Ngài thu quân rồi mới nói về một cuộc cờ không thể diễn ra được nữa, đó cũng là một cách chơi cờ của ngài đấy à? – Đặng Đức Siêu bật ra tiếng cười. Đó là lần duy nhất ông chơi cờ với chúa Nguyễn. Sau này, mỗi lần vị chúa tìm đến, ông ta vẫn ngà ngà say và lấy cớ đó từ chối cuộc chơi.

Tuy thế, thỉnh thoảng vị chúa vẫn tìm đến ngôi nhà của “ông lão có con vịt”, và Nguyễn Thái Nguyên vẫn trả lời “ông ta đang viết sách” mỗi khi được hỏi tới người đàn ông này. Khi nghe nhắc tới ông ta bây giờ, Võ Tánh không thể đừng mà thắc mắc rằng họ đang nghĩ gì – Đặng Đức Siêu và cả vị chúa nữa, họ đang nghĩ gì khi cứ tiếp tục trò chơi dằng dai của mình? Họ đang chờ đợi điều gì?

Ngài ta biết tôi sẽ tới đây, Đặng Đức Siêu đã nói khi chàng tới phụ ông ta đưa đồ đạc về căn nhà mới ở Sài Côn. Đó là lần đầu tiên chàng gặp lại ông ta sau chuyến đi vòng quanh sông với vị chúa. Trả lời câu hỏi về lý do dọn nhà của mình, Đặng Đức Siêu lầm bầm như thể có gì uất ức. Ngài ta biết tôi sẽ tới, còn tôi biết thế mà vẫn cứ đâm đầu vào. Ngay từ khi đồng ý gặp ngài ta, tôi đã thật là dại. Gần năm mươi tuổi rồi mà vẫn còn dại!

Giọng nói cáu gắt của Đặng Đức Siêu khiến chàng không thể hỏi thêm. Nghe tin Đặng Đức Siêu dọn về Sài Côn, chúa Nguyễn chỉ nhướng mày nói, Ồ, vậy à. Như thể ngài ta chẳng hề quan tâm đến. Nhưng rồi ngài ta vẫn cứ tới “căn nhà có con vịt” để thăm hỏi người cựu thần. Mỗi lần ngài ta rời khỏi, Đặng Đức Siêu lại giữ chàng lại uống say lướt khướt. Ngọc Du chẳng hề hoan nghênh việc đó lẫn “ông lão có con vịt” này. Mỗi khi đón chàng nồng nặc mùi rượu trở về, nàng trông có vẻ như chỉ muốn tống chàng ra khỏi cửa. Do đó, chàng cũng khó có thể bàn luận với nàng về Đặng Đức Siêu và vị chúa em trai nàng. Vả lại tâm trạng nàng lúc này trồi sụt vô cớ, chàng không muốn tìm thêm một lý do nữa để nàng đâm giận, chỉ có thể nhe răng cười xin lỗi.

Những người xung quanh chàng ai cũng có vẻ căng thẳng, bức bối. Ngay cả những vị quan tướng vốn nổi danh về thói lêu lổng vô tổ chức cũng trở nên trầm lặng, vị chúa không còn phải đi trách cứ họ về những trò đánh bạc, chơi bời. Có thể vì những hình phạt với kẻ trộm cướp mà đầu chúng được bêu mỗi buổi sáng trên bờ sông đã có tác dụng răn đe, khiến họ phải tập trung chấn chỉnh quân đội chính mình. Hoặc cũng có thể vì cái linh cảm đang lớn dần lên trong họ, cùng với những chiến thắng, cùng với ảnh hưởng mà họ đang chiếm được tại biển Đông – linh cảm về một sự đổi thay. Ngay cả những vị quan tướng xuất thân từ ruộng đồng cũng đã cảm thấy sự đổi thay đang tới với cuộc đời của họ, mới ý thức được vị trí mà họ đang có. Thật sự, đó là một cảm giác dễ gây ra căng thẳng và sợ hãi.

Thêm Nguyễn Phúc Hội lại chọn đúng lúc này để ngã bệnh. Ông ấy già rồi, sức khỏe đã suy kiệt nhiều, thầy thuốc sau khi thăm bệnh trở về báo với chúa Nguyễn. Những thầy thuốc Tây dương cũng nói tương tự. Tuổi già, đó là căn bệnh vô phương cứu chữa. Cùng với nỗi lo lắng, đau buồn cho người họ hàng thân thiết, vị chúa còn một nỗi bận tâm to lớn khác khi Nguyễn Phúc Hội nắm giữ dinh Tiền quân, đội quân tấn công quan trọng nhất của ngài ta.

Tuổi già, căn bệnh của Nguyễn Phúc Hội với những người khác còn là tiếng chuông đánh động đến họ. Hơn hai mươi năm đã qua, họ chợt nhận ra quãng thời gian đằng đẵng ấy khi tuổi già đã đến với người đi cùng với họ suốt một quãng đời. Một cuộc đời đã sắp đi qua, đã sắp kết thúc trong hơn hai mươi năm ấy. Sự đằng đẵng của quãng thời gian ấy, bây giờ họ mới cảm nhận được.

Từ Trường súng, họ trở về cung, đi ngang qua Trường đà. Mùi hoi hoi của động vật lan xa cả dặm đến bao phủ con đường họ đi. Nằm sau Quy thành, đây là biệt khu dành riêng cho quân lính, giữa nắng trưa gay gắt lại càng ít người qua lại. Họ nghe tiếng chân dậm rùng rình, tiếng voi gầm, tiếng ngựa hí. Có lẽ người ở bên trong Trường đà vẫn đang tiếp tục luyện tập, huấn luyện những con voi. Voi mới bắt được của Tây Sơn về chỉ tuân theo lệnh điều khiển bằng tiếng Thượng, tiếng Chăm, họ nghe tiếng người quát bằng ngôn ngữ vừa quen vừa lạ ấy xen lẫn tiếng hú hét của bầy thú.

- Ta phải gọi Nguyễn Văn Thành về thôi. – Vị chúa chợt nói. Đây có lẽ là điều ngài ta đã suy nghĩ suốt trên đường đi.

- Nhưng việc ở Diên Khánh đang cần kíp. – Chàng nói. Cần kíp, hoặc là cần thiết. Ở Quy Nhơn, Nguyễn Quang Bảo đang chực chờ cơ hội để nổi dậy chiếm thành, đến lúc ấy, anh ta sẽ cần sự hỗ trợ của họ. Bất cứ lúc nào, cơ hội sẽ đến bất cứ lúc nào. Và những con thuyền Tề Ngôi vẫn lẩn quẩn đánh vào cướp bóc cũng cần được canh chừng.

- Ta sẽ cho Đông cung ra giữ Diên Khánh. Việc trong Gia Định đã có quân đội của khanh, vả lại quân của Huỳnh Đức không phải giữ biên ải phía Tây nữa cũng rảnh rỗi. Nguyễn Văn Thành giữ Tiên phong dinh, giờ đây về để trông coi quân của Nguyễn Phúc Hội tốt hơn.

Giọng vị chúa vẫn đều đều, trầm tư. Nhưng còn đứa con chưa sinh của Đông cung? Chàng muốn hỏi nhưng cuối cùng im lặng. Đó là việc của ngài ta, của họ. Đưa Tiên phong dinh của Nguyễn Văn Thành về để thay thế Tiền quân là việc bắt buộc phải làm, và trong tất cả những người còn lại, đủ khả năng để giữ Diên Khánh và ứng phó với hoàn cảnh chỉ là Đông cung – Đông cung và Thượng sư, hai con người như hình với bóng.

Những việc còn lại là chuyện của họ. Những cung phi của chúa Nguyễn cũng sinh nở một mình, Ngọc Du của chàng cũng luôn chỉ có một mình. Đó là chuyện luôn luôn xảy ra.

Chàng nghĩ đến ngôi thành nằm trong vùng hoang mạc nắng cháy quanh năm, khí trời oi ả như muốn hút cạn khô con người. Sáu bức tường thành như một cái hộp, một cái ống khói vây quanh muốn tức thở. Giờ đây, mỗi lần nghĩ đến nơi ấy, chàng đều không thể đừng mà thấy da nổi gai, thấy nỗi buồn dâng lên từng đợt như sóng đánh. Cuối năm ngoái, chúa Nguyễn đã cho xây đền Tinh trung để thờ binh lính chết trận tại Diên Khánh. Ngồi đền ấy nằm trên mỏm núi, chàng nghe người trở về kể lại. Từ trong thành nhìn lên, từ bãi biển, từ ngoài biển nhìn vào đều có thể thấy được. Chàng không biết những người giữ thành sẽ cảm thấy gì mỗi lần ngước lên nhìn thấy ngôi đền ấy. Tự hào hay chua xót, vinh dự hay sợ hãi trước một tương lai khó bề tránh khỏi, bùi ngùi hay sẵn sàng đón nhận? Cậu Đông cung đã ở trong ngôi thành ấy, sống sót qua trận đánh vây thành đầu tiên của bốn vạn quân Tây Sơn, nhìn Tống Phúc Đạm suy kiệt rồi chết đi trong thành, bên thành. Cậu ta sẽ cảm thấy gì khi trở lại? Cậu ta, người thanh niên trẻ đầy nhiệt huyết, đầy tự tin đến mức tự cao, dường như chẳng biết sợ hãi điều gì, có thể cậu ta sẽ chỉ cảm thấy càng tự hào, mạnh mẽ hơn khi trở lại nơi đánh dấu chiến công đầu tiên của cậu. Cậu ta không như chàng, không cảm thấy cay đắng, vốn dĩ không thể so sánh được.

Vả lại còn Bá Đa Lộc. Trong những năm tháng này, sự ghét bỏ trong triều đình với ông ta ngày càng tăng cao, chẳng mấy ai còn bận tâm che giấu. Sau khi chúa Nguyễn ra lệnh kiểm soát tăng lữ của các đền chùa, bắt họ phải nhập vào gạch đinh như lệ thường, sự ghét bỏ với đạo Gia-tô càng tăng lên như lửa bắt dầu. Bên cạnh những người ủng hộ Phật Lão đem lòng uất ức trút sang Gia-tô, những vị quan trung lập cũng yêu cầu đồng loạt siết chặt đạo giáo này, nhắc nhớ lại những việc làm “càn quấy” của các giáo sĩ thưở trước. Họ nhắc lại việc các giáo xứ chống lệnh quyên góp, chống lại các lễ tế bái tổ tiên trong triều, các giáo sĩ đã dựa hơi Bá Đa Lộc để làm oai làm tướng với các quan, và việc trầm trọng nhất, tội lỗi không thể tha thứ của Bá Đa Lộc khi làm chết Tống Phúc Đạm... Tất cả được đồng loạt nhắc lại, hờn oán và cảm thán. Đưa Đông cung ra Diên Khánh lần này, Bá Đa Lộc tất nhiên vẫn sẽ đi theo, vị chúa có vẻ như muốn tách Bá Đa Lộc ra khỏi cặp mắt dò xét của triều đình, sự đấu đá mâu thuẫn của các mối quan hệ đan xen chằng chịt.

- Còn việc mà Ngô Nhơn Tịnh vừa nói thì sao, chúa công? – Chàng lên tiếng hỏi, chuyển sang việc khác. Ngô Nhơn Tịnh từ Đại Thanh trở lại, báo rằng vua Lê Chiêu Thống và cả con trai nhỏ đều đã chết. Đứa con trai có lẽ vì không chịu được cực khổ, không được cứu chữa mà chết sớm, một năm sau vua cũng qua đời. Những thần tử nhà Lê khác bị phân tán cả, thậm chí không liên lạc được với nhau, nhiều người bị nhà Thanh bắt gọt đầu mặc kỳ bào như dân bản xứ. Nghe tin vua Lê đã chết, Ngô Nhơn Tịnh lập tức trở lại, thậm chí không theo ý định ban đầu của họ là tìm cách gặp vua quan nhà Thanh để bàn việc.

- Họ không muốn liên quan đến nhà Lê. – Chúa Nguyễn nói sau một lúc im lặng. Trường đà đã lùi phía sau họ, chỉ còn nghe văng vẳng tiếng thanh la. – Từ khi nghe Đặng Trần Thường nói về việc liên hệ với vua Lê, họ đã không bằng lòng. Nay thấy vua Lê không còn, họ coi việc chính yếu của mình thế là xong.

Hoặc là Ngô Nhơn Tịnh thấy vua Thanh đối xử với bọn vua quan nhà Lê như thế, cho rằng hai bên vẫn quan hệ tốt với nhau, không thể nhất thời mà chia rẽ được nên trở về. Bọn quan lại bản xứ không thể đối xử với vua chúa phiên thuộc như thế nếu không có sự đồng ý của bên trên. Tây Sơn nhiều lần gửi thư sang kể tội vua Lê, ép nhà Thanh phải ngược đãi họ. Thanh đối với Tây Sơn vẫn còn ưu ái, nên vua Lê cùng các quần thần ở đó hẳn là sống không bằng chết. Lúc ta còn ở Xiêm La, Tây Sơn cũng đã nhiều lần định dựa vào thế lực của Thanh ép Phật vương phải trục xuất ta. – Vị chúa nói thêm.

Nhưng chàng đã nhận thấy ý nghĩ của ngài ta. Ngài ta đã nhận ra, mối nghi ngại của thuộc hạ thân tín của ngài ta với những thần tử Bắc Hà vừa mới về đầu quân. Không ít người trong số họ tìm đến ngài ta để phục thù cho họ Lê, mong chờ dựng lại họ Lê. Đặng Trần Thường, người mà Trịnh Hoài Đức đã làm bài thơ riêng dành cho anh ta để khuyên nhủ “tìm về minh chúa”, muốn liên lạc với họ Lê – Vì lý do gì, điều đó cũng gây ra nghi ngại. Đặng Trần Thường, con người cứng cỏi, cố chấp, ngang ngạnh đến mức có thể vì một câu nói mà bôn ba ngàn dặm – cả sự kiên định của anh ta cũng gây ra nghi ngại. Lần trước Ngọc Du đã kể cho chàng về chuyện Đặng Trần Thường không chịu lạy Đông cung, bây giờ chàng chợt hiểu lý do tại sao quan trong triều chọn đúng thời điểm này để nhắc lại.

- Trước sau gì ta cũng phải tìm cách liên hệ với nhà Thanh, chúa công. – Chàng nói. – Nếu không, lại như khi với nhà Lê, nhân lúc ta đánh nhau với Tây Sơn, quân Thanh có thể thừa cơ mượn danh nghĩa bảo hộ để can thiệp vào.

- Mối quan tâm của Thanh bây giờ là bọn Tề Ngôi. – Chúa Nguyễn trả lời chàng ngay lập tức. – Để giải quyết bọn cướp biển ấy, Thanh có hai phương cách: Một là mong chờ sự hợp tác của ta để chống lại chúng, hai là thừa cơ rối loạn lấy đất ta để làm căn cứ tiêu diệt chúng. Cách thứ nhất thì nhà Thanh biết không thể trông chờ vào Tây Sơn. Cách thứ hai thì vẫn qúa cực nhọc và phiêu lưu. Nhà Thanh bây giờ đến loạn ở Lưỡng Quảng, Tứ Xuyên còn chưa dẹp được, huống hồ lấy thêm đất ta để đánh nhau với Tề Ngôi. Ta chỉ cần chứng tỏ cho nhà Thanh thấy hợp tác với kẻ nào thì có lợi hơn, và chứng tỏ thực lực của ta. Gia Định trước giờ với Thanh chỉ là vùng đất hoang, ta trong mắt họ chỉ là bọn tầm thường, phải chứng tỏ được cho họ thấy thực lực của mình. Đáng tiếc, Ngô Nhơn Tịnh vừa rồi hành động nôn nóng cảm tính. Đáng lẽ anh ta có thể ở lại tìm cách liên hệ thêm với Tổng đốc Lưỡng Quảng chẳng hạn, ta không nhờ được trước thì cũng nhờ được sau.

Trong giọng ngài ta là sự phiền trách rõ rệt. Ngô Nhơn Tịnh nôn nóng trở về ngay sau khi được tin nhà Lê đã tuyệt hậu dòng chính chứ không để tâm đến công việc mà vị chúa đã giao là tìm cách liên hệ với nhà Thanh. Lại một lần nữa, ngài ta cảm thấy phiền lòng với sự mâu thuẫn của các vị quan trong triều, sự mâu thuẫn khiến họ có thể bỏ qua ngay lệnh của ngài ta để làm theo ý mình. Mà Đặng Trần Thường thật đã khiến nhiều người phật lòng, dù trong sớ có ghi rõ rằng ý muốn của anh ta là tìm cách liên hệ với nhà Thanh chứ không phải vua Lê. Anh ta là một kiểu người khiến kẻ khác phải nghi ngờ; sự cao ngạo của anh ta có thể bị hiểu lầm thành xa cách; sự nghiêm cẩn của anh ta dễ bị nhìn thành khinh bạc; và sự khôn ngoan của anh ta có thể bị cho rằng giả trá.

- Ngày xưa có chuyện về Quản Trọng nước Tề, khi sắp mất được hỏi về người thay thế. – Chàng cười nói, một lúc sau. Đây là chuyện mà Đặng Đức Siêu đã kể lại đầy đủ cho chàng. – Trong đó có một người mà ông ấy chê là “ghét điều ác qúa, không dùng được”. Yêu điều thiện thì tốt, nhưng qúa ghét điều ác thì không nên. Thấy người khác làm điều ác một lần thì mãi không quên mà giữ lòng khinh ghét, vậy là qúa cố chấp.

Chúa Nguyễn bật cười. Ngài ta thả bàn tay vẫn giữ cương ngựa, để ngựa đi chầm chậm trên đường đất. Họ đã đến gần cửa thành. Những người lính hai bên đường qùy xuống khi vị chúa đi ngang qua. Ánh mắt ngài ta lướt qua họ như giữa khoảng đất trống.

- Lão già có con vịt kể phải không? – Vị chúa nói, không quay nhìn chàng. – Khanh có biết toàn bộ câu chuyện về Quản Trọng? Khi ấy nước Tề rối loạn, Tề Hoàn công đã giết chết chủ nhân của Quản Trọng. Ông ấy vì chủ nhân, thừa cơ bắn được Tề Hoàn công trúng vào dây đai, suýt nữa giết chết ông vua này. Tề Hoàn công lại không bắt tội Quản Trọng, phong làm Trọng phụ, dùng lễ đối đãi như cha. Sau này, Quản Trọng phục vụ nước Tề suốt cả cuộc đời.

Lão già ấy kể cho khanh thật có dụng ý khác. Chàng nghĩ mình hiểu câu ẩn ý trong tiếng cười của vị chúa. Trong một lúc, chàng lấy làm ngơ ngẩn.

- Không biết ông ta đã viết sách xong chưa? – Chúa Nguyễn chợt nói, như chỉ lẩm bẩm với chính mình.

Tháng mười năm Mậu Ngọ, Đặng Đức Siêu vào triều dâng cuốn Bình Tây phương sách cho chúa Nguyễn.

Đó là một buổi sáng nắng đẹp, và chàng đã phát hiện ra Đặng Đức Siêu đang đứng trong sân điện, trên người là bộ quần áo tươm tất nhất chưa từng thấy trước đây, ông ta cũng đã chịu bỏ cái mũ ngả màu ra. Đã gần đến buổi trưa, nắng chiếu gần như thẳng đứng xuống khoảng sân mà cây lá không đủ che chắn, nhưng Đặng Đức Siêu vẫn đứng yên trong nắng, mắt nhìn vào bức tường hoặc cái cây gần đó. Cái cây đang ra hoa, mấy bông hoa tím rũ xuống dưới tán lá lay động bởi gió nhè nhẹ.

Nghe tiếng chàng chào, Đặng Đức Siêu quay lại. Chàng thấy một cảm xúc khó hiểu trên mặt ông ta. Khuôn mặt như đã đông thành đá, và nắng đang phản chiếu những sắc thái khác nhau lên những đường nét trên tảng đá ấy, tạo thành muôn vàn màu sắc chuyển động.

- Tôi vừa vào triều dâng sách cho chúa công. – Đặng Đức Siêu nói khi chàng chưa kịp hỏi lý do ông ta có mặt ở đây. Giọng ông ta cao lên một cách kỳ dị. – Bình Tây phương sách. Chúa công đã cho tôi làm Tham mưu của Trung quân.

À… Chàng ngập ngừng. Không biết có nên chúc mừng Đặng Đức Siêu hay không khi khuôn mặt của ông ta chẳng có vẻ gì vui mừng. Dưới mắt ông ta là hai quầng thâm lớn. Chàng nhớ ra rằng cả nửa tháng nay không gặp mặt ông ta. Sách? Có vẻ ông ta đã dùng quãng thời gian ấy để viết.

- Vậy là cuối cùng anh đã quyết định. – Chàng thận trọng nói, nhìn Đặng Đức Siêu gật đầu. Giờ thì chàng lờ mờ nhận ra cảm xúc của ông ta, như thể ông ta không thể tin được việc mà mình vừa làm.

- Anh phải nhìn cách ngài ta đánh cờ. – Đặng Đức Siêu nói, giọng đã dần trở về cao độ bình thường. Ông ta đã cùng chàng ra ngoài điện, ngồi xuống bộ bàn ghế kê dưới tán cây. – Anh phải thấy cách ngài ta biến những con Tốt thành vũ khí quyết định của mình như thế nào. Những quân Tốt, chỉ là những quân Tốt.

Anh biết gì về những quân Tốt? Chúng đứng ở trước trận, là những quân đầu tiên bị tiêu diệt để sắp xếp, để mở đường, khai triển thế trận. Chúng được xua qua sông để bắt đầu cuộc tấn công. Ở khoảng cách ấy, chúng làm mọi cách để sống còn. Nhưng khi qua sông rồi, chúng được phép di chuyển mọi phương hướng để giết chóc, để quấy phá mà khó ai bắt được. Chúng bắt đầu cuộc tàn sát của mình, bất cứ quân cờ nào nằm trước đường đi của chúng. Rồi sau đó, chúng sẽ quyết định số phận của mình. Nếu rơi vào nơi hiểm địa, chúng sẽ bị mắc kẹt, bị bỏ quên, phế truất, lạc loài, thất chí. Nếu vào được cung nội, chúng có thể gây tác hại khôn cùng. Ngay cả lúc cờ tàn, những con Tốt ẩn nhẫn cũng có thể thay đổi tình thế. Nếu bất phân thắng bại, người ta cũng dùng quân Tốt còn lại trên bàn cờ để quyết xem ai thắng.

Cờ là một trận chiến. Người ta dùng Xe, Pháo, Mã, Tượng để tượng trưng cho những binh đoàn. Người ta lo sắp xếp những binh đoàn đạt đến mức tối ưu để giết được quân địch giành phần thắng. Trong khi đó, ngài ta sắp xếp những con Tốt của mình. Chỉ một lúc sơ hở, tôi đã bị nắm thóp. Thắng hay bại cũng chẳng quan trọng gì nữa.

Vừa nói, ngón tay của Đặng Đức Siêu vừa vạch lên trên bàn như đang vẽ ra một trận cờ. Nhìn ông ta, chàng không biết nên nghĩ gì trước trạng thái vừa bối rối vừa cương quyết đan xen, trộn lẫn, thay thế nhau liên tục trên khuôn mặt lấm tấm mồ hôi. Bình Tây phương sách, Đặng Đức Siêu đã đem tới cho chúa Nguyễn không phải là sách trị quốc an dân, cũng không phải văn học thơ ca, mà là binh pháp, là cách để chiến thắng trong một trận chiến. Đó là cuốn sách ông ta đã muốn viết ra, họ đã chờ đợi ông ta viết ra, và chàng đã thấy nghiên bút mực để yên trong hàng tháng trời dài.

Vị chúa đã thừa lòng kiên nhẫn để chờ đợi. Và cuối cùng, Đặng Đức Siêu đã viết.

51

Tháng mười năm ấy, đã có một chuyện xảy ra mà mãi về sau này họ mới hiểu được sự xoay chuyển của nó với tình thế chiến tranh. Tiểu triều Nguyễn Quang Bảo nhân lúc Lê Trung được gọi về Phú Xuân, chiếm lấy Quy Nhơn. Tổng quản Quy Nhơn lúc ấy là Lê Văn Thanh phải cùng quân lính chạy trốn lên núi. Quang Bảo cho Đại đô đốc Đoạn Văn Cát, Đô đốc Nguyễn Văn Thiệu ở Đông An đưa biểu xin hàng chúa Nguyễn.

Nhưng quân Nguyễn cũng đang có sự xáo trộn không thể ứng phó kịp với tình hình. Trước đó, chúa Nguyễn vừa cho gọi Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường về, đưa Đông cung Cảnh cùng Bá Đa Lộc, Tống Viết Phúc, Nguyễn Công Thái đến Diên Khánh. Quân tạm giữ thành Diên Khánh nhận được tin phải đợi Đông cung đến, rồi việc sắp xếp kéo quân đi không thể ngay lập tức tiến hành. Trong lúc đó, Tây Sơn nhanh chóng có phản ứng. Quân trong thành Quy Nhơn không tuân lệnh Nguyễn Quang Bảo, bỏ trốn ngay khi vừa đụng trận, để quân cứu viện dễ dàng chiếm lại thành. Quân Nguyễn đến sông Đà Rằng nghe tin vội rút về.

Nguyễn Quang Bảo bị lệnh “Tam ban triều điển” xử tử, còn Lê Trung bị chặt tay chân, chém đầu bêu trên thành, thân bị đốt ra tro; toàn gia những người làm phản bị bắt giết. Thái bảo Nguyễn Văn Huấn cũng bị liên lụy phải chịu xử tử. Người báo tin từ thành Quy Nhơn chuyển lời lại cho vị chúa. Và ngài ta còn có một bức thư riêng của thuộc hạ Vân Dương ni cô. Trong đêm gia đình Lê Trung bị truy lùng, đã có một người trốn thoát khỏi thành Quy Nhơn và được nhóm thuộc hạ nhà Nguyễn tiếp cứu. Lê Chất đã trốn khỏi Quy Nhơn lẩn vào rừng.

Vị chúa cau mày đặt lá thư của Vân Dương ni cô sang bên. Đó đã là chuyện một tháng trước, cuộc phối hợp nổi loạn không thành của Nguyễn quân và con trai Nguyễn Nhạc. Ngài ta đã gác qua một bên sự bực bội và thất vọng, mà sự trốn thoát của Lê Chất cũng chẳng khích lệ gì tình hình này, và ngài ta đang có mối quan tâm to lớn hơn. Nguyễn Phúc Hội vừa mới mất, sau vài tháng lâm bệnh nặng. Người họ hàng quan trọng nhất của chúa Nguyễn đã mất, bỏ lại một vị trí trong quân khó mà lấp đầy. Vị chúa vừa cho ban bố lại vị trí của các tướng trong các dinh quân. Phó tướng Tiên phong dinh Nguyễn Văn Tánh làm quản Tiên phong dinh, Nguyễn Văn Thành chuyển về làm Chưởng Tiền quân. Nguyễn Văn Tánh là người Trấn Biên, thuộc hạ của Châu Văn Tiếp, trước đó làm Lưu thủ Bình Thuận dinh. Anh ta tuy dũng mãnh can đảm nhưng không phải là kiểu người tâm cơ sâu sắc như Nguyễn Văn Thành, vị chúa nói, Tiên phong dinh từ nay lại phải bớt tầm hoạt động đi thôi.

Đứng bên cạnh bàn của chúa Nguyễn, Đặng Đức Siêu đưa mắt nhìn theo bàn tay của ngài ta cất lá thư của Vân Dương ni cô vào chiếc hộp nhỏ. Ngài ta không nói với họ về nội dung bức thư. Ngài ta thường không nói về những mật báo của người cô cho đến khi cần thiết.

- Tin từ Quy Nhơn à, chúa công? – Đặng Đức Siêu quyết định cất tiếng hỏi. Chúa Nguyễn ngẩng nhìn ông ta, nhướng mày.

- Chỉ là thông báo về các hình phạt với Quang Bảo và Lê Trung. Đại Đô đốc Tây Sơn là Đoàn Văn Cát chạy tới Diên Khánh xin hàng.

- Thần cho rằng ở Diên Khánh không chỉ có Đoàn Văn Cát. – Đặng Đức Siêu vẫn cười, nhìn vị chúa đầy vẻ khó hiểu. – Đông cung ở đó nghe nói là đang chứa chấp rất nhiều người.

- Thế thì sao? – Chúa Nguyễn nói với vẻ ơ hờ. Đặng Đức Siêu khoanh tay, nhún vai.

- Chuyện của Quang Bảo lần này đâu phải tự dưng mà phát sinh, phải không chúa công? Anh em chú bác tranh giành đánh nhau, lại được kẻ bên ngoài khích lệ vào, thật làm người ta nhớ tới chuyện xưa. Chỉ đáng tiếc là màn kịch kết thúc hơi sớm, thật ngoài dự kiến.

- Tiên sinh có ý gì đây? – Bây giờ bóng của nụ cười cũng đã phảng phất trên mặt chúa Nguyễn. Ngài ta ngồi ngả lưng ra ghế, hai bàn tay đan vào nhau trước bụng.

- Không, thần chỉ nhớ đến một câu nói có vẻ hơi sáo rỗng mà người ta thích nói: Số phận nằm trong tay con người. – Đặng Đức Siêu gại gại ngón tay trỏ vào má, đổi lại chân trụ, lơ đãng nói. – Qủa là nằm trong tay con người. Con người có thể tạo ra số phận, nhất là một khi người ta đã biết cách để thực hiện nó, cách thức, đường đi để tạo thành nó.

Ngài đang muốn cho bọn chúng nếm tất cả những gì đối thủ của chúng từng phải chịu đấy à?

Câu cuối, Đặng Đức Siêu đã nói rất nhanh, bằng giọng ơ hờ cợt nhạo. Chúa Nguyễn nheo mắt, trong một khoảnh khắc, ánh mắt ngài ta tối lại.

- Đó là việc chúng tự chuốc lấy. – Ngài ta nhún vai. – Nhưng qủa là mọi việc đã hỏng rồi. Ta định khi Nguyễn Bảo nổi loạn sẽ phối hợp cùng với những nhóm nằm vùng của ta, nhưng lệnh chưa ban, chưa ai dám hành động thì hắn đã bị dẹp. Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn chẳng lẽ lại mất lòng người đến thế - Đến mức mà con trai hắn không được kẻ nào ủng hộ? Người Quy Nhơn chẳng lẽ ưa thích một ông vua trẻ con như Quang Toản, kẻ đã giết chết Nguyễn Nhạc?

- Ngài nói “người Quy Nhơn” thì bao gồm cả thần nữa, chúa công. – Đặng Đức Siêu mỉm cười. Ông ta tự lấy một chiếc ghế để ngồi xuống trước mặt chúa Nguyễn, chống hai khủy tay lên bàn. – Nhưng nếu ngài muốn biết về Quy Nhơn thì qủa thật là thế. Không giống như khi Đông cung Dương mượn sức kẻ khác để nổi loạn, Quy Nhơn là một địa điểm đặc biệt. Ngài biết tại sao tiên vương lại đặt tên thành Đồ Bàn là Quy Nhơn chứ? Quy tập tất cả mọi con người. Từ ngày chúa Nguyễn đánh thành Đồ Bàn, phá tan triều đình cuối cùng còn lại của Chiêm Thành; rồi đưa những tù nhân “chiến lợi phẩm” từ Nghệ An đến, kêu gọi người Việt về khai hoang, người Tàu cũng chọn đó làm nơi đậu thuyền trước khi đến Đà Nẵng, Hội An… Ở đó đã quy tập đủ mọi loại người. Nhưng có một điểm chung là gì, chúa công có biết? – Thân phận. Kẻ bị tiêu diệt, kẻ bị tù đày, kẻ tha hương, kẻ bị khinh rẻ… Đó là nơi của những thân phận bị bỏ quên. Các tiên vương đã mải mê Nam tiến, đã dùng tất cả những kẻ mang dòng máu Việt để chiếm lĩnh vùng đất mới lấy được rồi lại bỏ quên họ.

Đây là lần đầu tiên họ mới biết đến niềm kiêu hãnh của kẻ đứng đầu một quốc gia, niềm tự hào của vùng đất tạo nên một vương triều. Phải, ngài có thể nói đó là phù phiếm, là tư tưởng vùng miền thiển cận bó hẹp, rằng cái danh ấy thì cho họ được gì ngoài những trận chiến liên miên mà rất nhiều người trong số họ đã phải chết. Nhưng ngài có thể cảm thấy bầu không khí ấy ở Gia Định này bây giờ mà, chúa công. Họ tự hào được đi theo ngài, họ bảo vệ cho ngài, cho con em họ, những anh hùng của họ. Ngài có thể biết điều này khi ngài gọi Thuận Hóa là “đất thang mộc” của họ Nguyễn. Ngài có thể nhìn thấy điều này ngay cả trong các vị quan Bắc Hà của mình nữa - nếu chọn giữa ngài và vua Lê, họ sẽ chọn ai? Họ cho rằng đó là vương triều “của họ”, và họ sẽ làm mọi cách để giữ cho được nó. Nhạc hay Huệ, Quang Bảo hay Quang Toản, cuối cùng thì có khác gì nhau? Tất cả chỉ là một khái niệm. Chỉ cần kẻ nào khiến họ tin tưởng rằng có thể giữ được vương triều, họ sẽ thuận lòng theo.

- Tiên sinh đã đọc Hoài Nam khúc chứ? – Chúa Nguyễn nói, sau một lúc im lặng. – Khanh có nhận ra rằng tác giả của nó phê phán sự hủ bại của triều Nguyễn y hệt như phê phán sự tàn ác của Tây Sơn? Tiên sinh có nhận thấy ông ấy chê trách và thù oán với những quan tướng bất nhân, vô lương của chúng ta y hệt như với kẻ thù? Tiên sinh có nhận ra rằng ông ấy ủng hộ Đông cung Dương là người “làm phản” chứ không phải Định vương? Ông ấy ủng hộ “triều Nguyễn” – nhưng đó là cái triều Nguyễn đem lại hòa bình, ấm no chứ không phải triều Nguyễn của Định vương. Nếu như vậy, ông ấy hoàn toàn muốn thay thế cả chúa, cả quan, cả tướng.

Thử nghĩ, trong trường hợp này, nếu Tây Sơn làm loạn một cách hòa bình hơn, ít gây chết chóc hơn, đem lại an bình, no ấm thay vì nạn đói khủng khiếp kia, thay vì những cuộc tàn phá kéo dài, thì ông ấy có còn chọn triều Nguyễn nữa không? Ông ấy có than vắn thở dài tiếc thương cho chúng ta nữa không? Lòng trung thành của dân chúng rốt cuộc là như thế.

- Vậy thì ngài nghĩ bọn họ tin ngài ư, chúa công? – Đặng Đức Siêu vẫn mỉm cười. – Nguyễn Văn Phong ở Thuận Thành lại vừa nổi loạn kìa, ngài biết lý do tại sao. Dù ngài đem vải vóc, cơm gạo đến cho họ, mua muối của họ, không phải ai cũng muốn làm thuộc hạ của ngài. Triều Nguyễn đã lập nghiệp bằng chiến tranh và thống trị, đó là điều không thể thay đổi. Ngài có gì để cho họ xem ngoại trừ một lời hứa – Lời hứa của dòng dõi kẻ đã chà đạp, thống trị họ? Bằng cách để một người đồng hương lên ngôi, lập một triều đình của họ, họ tìm thấy giá trị và tự do của mình. Dù ngài có đem lại tất cả, tất cả mọi điều cho họ, họ vẫn sẽ không quên, họ vẫn sẽ không cám ơn ngài. Họ sẽ nguyền rủa ngài vì tước đi niềm tự hào của họ.

Con người rồi sẽ chết, thịnh rồi suy, thời thế sẽ thay đổi. Cái còn lại là niềm tự hào, là điều khiến người đời sau có thể kiêu hãnh. Con người có ký ức như thể là nhân phẩm, dù có là dối trá hay ảo tưởng. Tước đi điều đó của bọn họ, ngài sẽ bị bọn họ nguyền rủa. Họ sẽ quên, quên tất cả những số phận không tên đã sống hay đã chết, đau đớn hay thống khổ. Lịch sử có sự cuồng tín, phi lý và ngu dại của nó, như tất cả các giá trị mà con người tôn thờ khác, ngài đừng hy vọng có thể thay đổi.

Vị chúa chỉ nhìn viên quan Tham mưu mới trong lặng im. Ta chưa bao giờ hy vọng, ngài ta có lẽ muốn nói nhưng nghĩ rằng không quan trọng.

- Cuối cùng thì tất cả lại đảo ngược. – Ngài ta cười nói, một lúc sau. – Nhưng cứ công nhận là như thế đã, dù gì việc của ta cũng bị phá ngang rồi. Ta chỉ còn cách nghe theo Đặng tiên sinh để tìm phương sách bình Tây thôi. Dù sao thì ta cũng đã diệt được Lê Trung, Nguyễn Văn Huấn. À, tại sao lại là Nguyễn Văn Huấn? Năm nào ta đã nghe chính Nguyễn Văn Huấn đuổi theo định giết Trần Quang Diệu đó sao?

- Lúc ấy Nguyễn Văn Huấn chưa phải là Tứ trụ. – Đặng Đức Siêu nói, ông ta cũng đan hai bàn tay vào nhau để trên gối. – Tứ trụ đại thần, Trần Quang Diệu đã bị tước binh quyền, Nguyễn Văn Huấn đã bị giết. Chúng đang đánh lẫn nhau.

Một lần nữa, ông thấy tia sáng kỳ lạ trong mắt vị chúa. Ông nghĩ mình biết cảm xúc đó là gì.

- Một khi đã khơi lên, tất không thể dừng. – Ông nói tiếp, với chút lặng lẽ. Chúa Nguyễn đưa mắt nhìn ông, rồi quay về phía cánh cửa ra vào đang đóng khép. Một ngón tay ngài ta chạm lên môi.

- Còn ta sẽ xem thử mình tiến được tới đâu. Ta đã ban lệnh thu trước thuế của năm sau, đem về Diên Khánh. Năm sau ta chỉ việc tiến đánh để thử nghiệm những phương sách bình Tây của Đặng tiên sinh.

Cũng như chơi cờ, người ta thắng vì lợi dụng được sơ hở của đối phương đấy thôi. – Ngài ta nói và mắt ánh cười trong vực sâu thăm thẳm.

Lại có một cơn bão nữa, Ngọc Du nghĩ khi ngẩng nhìn trời kéo đầy mây xám. Mây đã kéo về rất nhanh cùng gió thổi ù ù lạnh buốt. Cuối tháng mười một, mùa mưa đã qua đi, cơn mưa bất thường này chỉ có thể vì trận bão xa nào đó gây nên. Nàng chưa từng thấy bão vào Gia Định trong hơn hai chục năm ở nơi đây, chỉ có những cơn mưa do bão gây nên. Mùa bão hẳn đang hoành hành ở phương Bắc, nàng nghĩ khi chạy vội vào một mái hiên khi những giọt mưa đầu tiên rơi xuống. Nàng không đem theo ô và không có cả thị nữ đi theo. Có lẽ cô hầu sẽ nhận ra trời mưa mà đem ô tới cho nàng, nàng nhìn những hạt mưa rơi liên tiếp trên đất mà than thầm. Nàng vừa từ nhà Nguyễn Phúc Hội đi ra, hẳn người nhà nàng sẽ biết nàng đang ở đâu. Chiều đang xuống rất nhanh, bầu trời tối sầm lại trong cơn mưa. Trong hơi gió lạnh, nàng vẫn nghe hương trầm thoang thoảng, có lẽ từ quần áo nàng. Hương trầm từ khói nhanh vẫn nghi ngút trong nhà Nguyễn Phúc Hội. Vị chúa đã phong tặng ông làm Nguyên phụ công thần Đặc tiến Thượng trụ quốc Chưởng dinh. Những người họ hàng trong gia đình đã tới đông đủ, kể cả những phi tần của chúa Nguyễn, nam nhân thay phiên nhau lần lượt canh linh cữu. Nàng đã ở lại phụ giúp phu nhân Nguyễn Phúc Hội lo sắp đặt việc trong ngoài, đến chiều mới về. Và cơn mưa đã bất ngờ sầm sập đổ xuống.

Có lẽ đã có những cơn gió của phương Bắc tràn qua Hải Vân, Ngọc Du nhủ thầm khi gió luồn lách qua tay áo nàng vào cổ lành lạnh. Bỗng dưng nàng lại nhớ tới những mùa đông Phú Xuân ngập trong mưa. Mưa trắng xóa bầu trời cùng mặt đất, mặt sông và những cánh đồng, gió trắng xóa cả không gian mờ trong sương. Khung cảnh ấy giờ trong ký ức nàng chỉ còn vài nét chấm phá rời rạc, ngày càng lùi xa như một bức tranh đông cứng trên giấy.

Đã hai mươi năm rồi, nàng nghĩ với chút ngẩn ngơ thoáng qua. Nàng đã không còn nghĩ nhiều về Phú Xuân, những ký ức cũng đã trở thành xa lăng lắc như ở một kiếp sống khác. Mọi thứ đã trôi qua qúa nhanh, qúa nhanh, tuổi thơ và những biến động suốt thời niên thiếu. Để rồi khi nhìn lại, nàng chỉ có cảm giác của người xa lạ nhìn về cuộc đời của một kẻ khác. Gia Định này mới là nơi ghi dấu tất cả những mất mát, đau thương, tình yêu, cuộc sống của nàng. Nàng đã không còn mơ nữa về Phú Xuân. Phú Xuân với cơn nắng đổ trong những ngày mùa hạ và cơn mưa kéo dài thê thiết mùa đông giờ đây đã lùi xa như một giấc mơ nằm sâu ở góc tận cùng của ký ức.

Nhưng những người khác thì không như vậy. Phú Xuân là giấc mơ của họ. Là cuộc đời của họ. Xin lỗi, em trai nàng nói, khi ngồi bên giường Nguyễn Phúc Hội lúc ông đang hấp hối. Xin lỗi vì đã không thể đưa khanh về Phú Xuân, ngài ta nói, cầm lấy bàn tay đã trở nên mỏng mảnh, gầy xác của người tướng. Đôi mắt tràn đầy thương cảm của Nguyễn Phúc Hội chỉ lặng im nhìn vị chúa. Thương cảm, cho một cuộc đời sắp đi qua và một giấc mơ đã không thành sự thật. Nàng chợt nhớ tới Bạch Doãn Triều, viên quan đã chết trên con đường đến Xiêm La, và có lẽ đó là lần cuối cùng nàng nhìn thấy người em trai rơi nước mắt.

Lấy lại được kinh đô sẽ xuất gia thờ Phật, Ngọc Tú có lẽ là người đầu tiên trong số họ đã thốt ước muốn ấy ra lời. Phú Xuân, đó là đích đến cho quãng đời lưu lạc của họ, là khởi đầu và kết thúc. Kết thúc, hoặc khởi đầu.

Có những người đã không chạm đến được cái kết thúc ấy. Võ Danh Sở, Bạch Doãn Triều, Tống Phúc Đạm, Nguyễn Phúc Huy, Nguyễn Phúc Hội, Nguyễn Phúc Dụ và những anh em nàng, tất cả bọn họ lần lượt ra đi, lần lượt trên con đường hai mươi năm dài thăm thẳm. Từng người lần lượt ra đi. Xin lỗi, đó là điều duy nhất mà vị chúa có thể nói, và Nguyễn Phúc Hội chỉ nhìn ngài ta bằng đôi mắt đầy nỗi bi thương trước khi vĩnh viễn khép lại. Phú Xuân, nàng đã nghe âm vọng ấy trong khoảnh khắc ấy, trong những ngày sau đó, trong mỗi con người đến trước linh cữu, đứng yên. Ngọc Tú đã khoanh tay đứng bên nàng trong gia quyến chúa Nguyễn đến viếng tang. Nàng nghe thanh âm ấy trong đôi mắt cô nữa, đôi mắt nhìn như không chớp về phía bài vị đen bóng. Nàng nhớ đến lúc Ngọc Tú vật mình khóc không ra tiếng trước bài vị người chồng. Bài vị bằng gỗ mà họ chính tay đục khắc trên đảo, trong rừng, trong những ngày mà Tây Sơn vẫn còn phong toả vịnh Xiêm La. Những chiếc bài vị đặt cạnh nhau, nối tiếp, song song, kéo dài ra cùng với tháng năm. Đó là thứ cuối cùng và duy nhất họ còn làm được, đó là thứ duy nhất họ giữ được khi tất cả chẳng còn đến cả mảnh xác thân. Những người đó đã biến mất, biến mất, tan tành, tuyệt diệt. Chẳng còn gì.

Ngọc Du chớp mắt, nhìn lại về phía bầu trời đã tối đen, chỉ thỉnh thoảng lóe lên vài tia chớp sáng. Đêm đang đến, nàng nhận biết điều đó trong ánh sáng tắt hẳn sau những đám mây. Khu nàng đứng chỉ có một ngôi nhà duy nhất trong khoảng đất trống rộng. Quan sát kỹ, nàng nhận ra mình đang đứng ở sau hiên một nhà thờ, trên cánh cửa mờ mờ dấu thánh giá. Điều đó lý giải được cho sự yên ắng cùng mảnh sân rộng này. Ngôi nhà thờ xây giống hệt với những nhà lớn xung quanh đã làm nàng không nhận ra.

Có lẽ nên vào xin họ một chiếc ô, Ngọc Du thầm nghĩ khi quay người mở cánh cửa sau hiên. Ánh sáng mờ nhạt hé ra sau khe cửa cùng một thanh âm văng vẳng. Tiếng đàn, và tiếng hát. Nàng đã không nghe được tiếng hát trong mưa, nhưng giờ đây nó len qua khe cửa đến với nàng, rõ ràng và trong vắt. Nàng đã từng nghe dàn đồng ca trong nhà thờ khi đến dự lễ cưới của người Tây dương, nhưng đây là một bài hát khác. Buồn hơn và trong vắt như tiếng ngân khánh lanh canh. Không giống bài ca trong lễ cưới, khúc thánh ca của người Gia-tô lúc này cao vút và sâu như bầu trời đêm. Tiếng đàn Tây dương cùng với giọng ca của các cô bé đang lặp đi lặp lại một điệp khúc mà nàng không nghe rõ, chỉ có điều gì đó trong âm điệu của nó khiến nàng khẽ rùng mình.

Tiếng đàn từng giọt lẩn vào trong mưa vẫn rơi sầm sập.

Tiếng hát đan vào mưa, lạc loài với tiếng mưa. Hoàn toàn không giống với giai điệu của phương Đông. Hoàn toàn không giống như thanh âm của người phương Đông. Tiếng hát nở bừng như bông hoa lơ lửng giữa trời đêm, mở những chiếc cánh trong suốt vô hình. Hoàn toàn không giống những khúc ca của phương Đông. Như là một tiếng gọi, ý nghĩ ấy lóe lên trong nàng, thoảng qua như cơn gió. Trong gió mưa vần vũ, bài ca dịu dàng cất lên, chậm rãi, chậm rãi trôi. Tiếng gọi tan thành tiếng thở dài trong mưa, kết thúc ngay khi vừa chạm tới ngưỡng cửa, kết thúc khi vừa chạm tới cơn mưa.

Nàng đã nghĩ tới tiếng những đứa con khóc lúc chào đời, tiếng con chim đêm cất mình bay qua nhánh cây gầy, tiếng đàn cá vẫy đuôi dưới đám bèo loang, và cả tiếng súng. Tiếng súng nữa. Có điều gì vừa dịu dàng vừa thê thiết, và lạnh lùng vừa đau đớn trong thanh âm ấy của ký ức nàng. Tiếng kêu, tiếng nấc nghẹn, và trong hầm, nàng nghe như ngàn giọt mưa đổ xuống, tiếng sinh mạng chấp chới bay lên, tiếng cái chết thét gào trong niềm yêu sự sống vẫn còn lắt lay bám lấy, đổ tràn trên mặt đất. Nàng nghĩ đến chúng bây giờ, những ký ức vừa không hề liên quan, gắn kết với nhau, vừa hiện hữu sống động, trồi lên bề mặt của trí nhớ ngay khi tiếng hát này chạm đến.

Không biết nàng đã đứng đó bao lâu, tay vẫn để trên cửa mà đứng yên như bị hóa thành đá. Nàng đã không nghe thấy tiếng chân người cho đến khi một bàn tay chạm vào vai nàng. Võ Tánh, một tay cầm ô, một tay đặt lên vai nàng, cau mày nhìn nàng.

- Nàng sao thế? – Chàng hỏi, nhìn nàng có vẻ lạ lùng. Nàng đã giật mình đến mức suýt nữa hụt chân trên bậc cửa. Nàng vội vàng đóng cánh cửa lại, lắc đầu.

- Không. Nghe thấy dàn đồng ca nhà thờ hát thì lại không biết có nên vào hay không. Định vào xin họ một cái ô, phải, định vào xin một cái ô.

Nàng nghe tiếng nói mình vấp nối vào nhau. Có lẽ Võ Tánh cũng nhận thấy nhưng chàng không gặng hỏi. Nàng vuốt lại tóc, ngẩng nhìn chàng. Niềm mê hoặc của tiếng thánh ca đã dứt. Chàng hẳn đã đi tìm nàng khi thấy trời mưa xuống, nàng nghĩ thầm.

- Ta đến nhà Nguyễn Phúc Hội đón nàng nhưng họ bảo nàng đã về một mình rồi. – Như đoán được ý nghĩ của nàng, chàng nói. – Trời tối thế này, đáng lẽ nàng không nên đi một mình.

Nàng mỉm cười trước lời chàng. Quên mất, nàng muốn nói điều đó, nhưng lại thấy mình ngớ ngẩn. Nàng đã quên mất là mùa đông trời sụp tối rất nhanh, trước khi nàng kịp nhận ra.

- Ta về thôi. – Nàng cười, lấy chiếc đèn trên tay chàng. Ngọn lửa ấm nóng trong đèn làm nàng thấy mình dịu lại.

Họ bước trên con đường tối sẫm tràn đầy mưa. Trong bóng tối phía trước họ chỉ có nước đan vào nhau chằng chịt, không thể nhìn qúa ba bước chân. Những lùm cây ngả nghiêng quanh họ như bóng trên những bức tường. Gió vẫn thổi lạnh buốt trong hơi nước ẩm.

- Cuối tháng mười một rồi. – Nàng nói như vừa chợt nhớ ra. – Phải rồi, người Gia-tô có mùa lễ trong thời gian này.

- Nàng có vẻ thích lễ của người Tây dương. – Chàng cười. Nàng nhún vai.

- Họ khác với chúng ta, nhưng có điều… - Trong một lúc, nàng không biết phải nói từ đâu, như thế nào. – Trong khi tất cả các đạo giáo của chúng ta chỉ dạy cách phải sống như thế nào, từ bỏ hay dấn thân, hờ hững hay nhiệt tâm… thì đạo Gia-tô bảo rằng chỉ cần yêu thương là đủ. Luôn luôn, họ nói rằng ít nhất có một người yêu thương tất cả bọn họ, ít nhất có một người yêu thương họ.

- Giống như Mặc Địch. – Chàng cười khẽ. – Từ ái, yêu thương tất cả con người, ông ấy nói thế rồi trở thành kẻ thù của Nho gia. Cứ có chuyện là họ lôi Dương Mặc ra kể lể.

Nàng cau mày rồi mím môi. Câu đùa của chàng hoàn toàn không đúng lúc. Nhưng rồi nàng thở ra.

- Nghĩ lại, có phải chúng ta rất là thực dụng? – Ngọn đèn như đang bơi đi trên một đại dương nước trước mắt nàng. Thế giới phủ tràn bóng đêm và mưa kéo dài không dứt. Nàng lại nghĩ đến cơn bão ở nơi xa xôi nào đó, cuốn đi trên biển khơi. – Nho cũng thế, Lão cũng vậy, rồi cả Phật nữa – một khi vào tay chúng ta, chúng ta chỉ luôn tìm cách nào đó để sống sót. Tất cả đạo giáo của chúng ta đều phát sinh trong thời Chiến quốc, trong chiến tranh quay cuồng, tất cả đều là để tìm cách sống sót cho con người. Nho học là một đạo lý thực dụng bậc nhất, có phải? Dương Chu, Mặc Địch cũng thế rồi Phật, Lão sau này cũng bị đối xử như vậy. Không làm gì là ích kỷ, kêu gọi yêu thương là vô vọng, từ bỏ là hèn nhát, tu hành là trốn tránh; bác bỏ đi tất cả mọi lối khác, chỉ có cách lao vào, lao vào đến kiệt cùng.

Chúng ta thật ra thực dụng và cứng rắn đến thế, cả tàn ác nữa. Phải, tàn ác nữa. Người Tây dương kia hóa ra lại mang trong mình trái tim mơ mộng, yếu đuối hơn nhiều. Họ cầu nguyện tình yêu, họ van xin tình yêu, họ tin vào tình yêu. Còn chúng ta chỉ tin vào bản thân mình. Họ nghĩ rằng luôn có một người yêu thương họ, trong khi chúng ta phủ nhận rằng lòng từ ái có thể giúp ích được gì trong đời này. Mọi người yêu thương lẫn nhau thì sẽ tránh được chiến tranh, Mặc Địch nói, các thánh thần nói. Còn ta cho rằng đó chỉ là một giấc mơ khốn khổ.

- Bởi người ta đánh nhau nhiều khi không phải vì ghét bỏ nhau. – Chàng nói, sau một lúc im lặng. Nàng đã nghe tiếng mưa kéo dài giữa những lời nói của chàng. – Phải, đó chỉ là một giấc mơ.

Ngọn đèn vẫn chao qua lại trước mặt nàng, ánh sáng nhòa nhạt trong muôn vàn giọt mưa ẩm lạnh. Mưa ngày càng lớn, nàng thấy chiếc ô như trĩu hẳn, như lúc nào cũng có thể đổ ập xuống họ. Gió mạnh hơn, cuốn mưa hất tung vào chỗ nàng. Chàng kéo nàng sát vào chàng, đổi tay cầm ô để ôm lấy vai nàng.

- Không ai thấy chúng ta đâu. – Chàng cười khẽ khi thấy nàng định vùng ra. – Nếu thấy nàng ướt, mấy đứa trẻ sẽ mắng ta cho xem.

Ta làm được gì nếu cả che chở cho nàng trước một cơn mưa cũng không được. – Có thể chàng đã nói, nhưng tiếng nói nhỏ, rất nhỏ đến mức nàng cảm thấy nó đi xuyên qua nàng từ hơi ấm của chàng, qua bàn tay, bờ vai. Bỗng dưng nàng thấy trong lòng có chút ngậm ngùi. Hai mươi năm đã qua rồi, nàng lại nghĩ đến nó, quãng thời gian ấy. Cuộc đời nàng đã đi về phía bờ dốc bên kia. Và những ngọt ngào dịu dàng này khiến nàng thấy sợ. Nàng đột nhiên thấy sợ đến muốn khóc lên được. Rồi nàng đổ lỗi cho một ngày qúa nhiều sự kiện và cảm xúc này. Thật lạ, cơn mưa đổ xuống, và trong khói nhang từ một tang lễ, nàng đã nghe thấy tiếng hát vọng vang của một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ, rồi chàng đến ôm lấy nàng. Trong cơn mưa bất ngờ đổ xuống. Cơn mưa từ một trận bão xa.

Qúa nhiều thanh âm đã lẫn vào nhau trong buổi chiều tối này. Thanh âm đã bị hòa tan trong tiếng mưa.

Nàng thấy nước len vào dưới đôi giày. Nhưng nàng không để tâm nữa.

- Nguyễn Phúc Hội mất rồi, chúa công sẽ định thế nào? – Nàng chợt lên tiếng. Nàng không thích sự im lặng này. Nó khiến nàng cảm thấy bất an còn hơn cả khi đối mặt với những bất an thực sự. Hỏi rồi nàng mới nhận ra rằng mình đang quan tâm đến điều nàng đã luôn tránh né. Nàng đã không nói tình hình chiến tranh với chàng kể từ khi chàng từ Diên Khánh trở về.

- Ngài ấy lấy Nguyễn Văn Thành thay thế. – Chàng vẫn trả lời nàng. – Năm sau chúng ta vẫn tiếp tục tấn công. Đặng Đức Siêu vừa về, Tây Sơn lại vừa có rối loạn ở Quy Nhơn, chúa công đã cho đóng hàng chục tàu năm nay, lại cho thu trước thuế, ngài ấy nhất định sẽ tấn công rất mạnh, lần này.

Có lẽ vì cơn gió đang thổi, nàng đã khẽ rùng mình. Chàng vẫn nhìn về phía trước. Câu hỏi của nàng có vẻ như đã cuốn chàng lại với những dự định và kế hoạch đang bộn bề trong triều đình. Chàng có vẻ như lại nghĩ về chúng, lại bị cuốn đi.

Chàng đã không nghe thấy tiếng thở dài của nàng. Tiếng thở dài rất khẽ. Mưa đã chặn nó lại.

Đầu năm Kỷ Vị, chúa Nguyễn ban ra ba mươi điều quân lệnh mới. Điều mười sáu trong quân ghi rõ: “Ra trận mà lùi chạy thì chém. Những chi, hiệu, đội, thập, ngũ nào mà lui chạy thì người Trưởng chi, Trưởng hiệu, Cai đội, Đội trưởng, Ngũ trưởng đều bị chém đầu để răn mọi người. Nếu Trưởng chi bị thất lạc thì các Trưởng hiệu cùng thuộc viên trong chi phải chịu đồng tội, Trưởng hiệu, Cai đội, Đội trưởng, Ngũ trưởng bị thất lạc thì Cai đội trong hiệu, Đội trưởng trong đội, Ngũ trưởng trong thập, binh đinh trong ngũ đều chịu đồng tội. Bị tên đạn mà chết thì không kể”.

Một đoàn sứ giả của Nguyễn Văn Thụy, Lưu Phúc Tường được phái sang Xiêm La, xin vua Xiêm đưa quân Vạn Tượng, Chân Lạp đến quấy rối phía Tây Nghệ An để chặn quân Tây Sơn từ Bắc Hà xuống tiếp viện. Như lệ thường, mọi công việc chuẩn bị cho chiến tranh được sẵn sàng để đoàn quân ra trận ngay khi gió vừa đổi chiều. Hai mươi vạn vuông gạo, năm vạn vuông lúa cùng ba ngàn cân thuốc đã được chứa sẵn ở Diên Khánh. Nguyễn Văn Thành đưa quân bộ lên trước dẫn đường.

Nhưng chúa Nguyễn lại đang có vướng mắc nhỏ. Ở Diên Khánh, người của ngài ta vừa báo về là Tống Viết Phúc hục hặc với Bá Đa Lộc, hễ uống rượu say lại đem tên Bá Đa Lộc ra mắng chửi. Vị chúa lập tức triệu tập Tống Viết Phúc về, tống giam vào ngục. Người con thứ hai của chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Hy được phong làm Khâm sai Cai đội, trấn thủ Gia Định cùng Nguyễn Văn Nhơn. Một chỉ dụ khiển trách cũng được đưa đến tận Diên Khánh cho Phúc Cảnh vì đã không bảo vệ Bá Đa Lộc. Đoàn quân ra đi còn mang nguyên sự tức giận của chúa Nguyễn.

- Con làm gì vậy? – Vị chúa lạnh lùng hỏi người con cả khi gặp nhau ở Cầu Hin. Bản dụ truyền đã tới trước và Cảnh đã hoàn toàn đón đợi cơn thịnh nộ của người cha. Cậu ta chỉ đứng yên một chỗ, tay nắm lại bên hông.

- Con nghĩ đó là việc cá nhân của họ, thưa phụ hoàng. – Cảnh thận trọng nói, đo lường thái độ trên mặt người cha. – Trong thời điểm này, con nghĩ không nên có thêm xung đột khiến người trong triều phật lòng.

- Con sợ người khác phật lòng chứ không sợ Thượng sư của con đau lòng? – Chúa Nguyễn cau mày. Trong ánh mắt ngài ta là cơn giận dữ mà Cảnh chưa từng thấy, kể cả khi nghe việc Tống Phúc Đạm. – Con là Đông cung, là kẻ có quyền với toàn thiên hạ này, thế mà đến thầy của con, con còn không bảo vệ được. Thế thì con làm kẻ đứng đầu để làm gì? Con có tư cách làm chúa kẻ khác à?

Trong chỉ dụ ta trách con “qúa nhân từ” chỉ là vì muốn giữ thể diện cho con. – Vị chúa nói qua kẽ răng. Giọng ngài ta ngày càng trầm xuống. – Nếu kẻ khác biết con vì sợ xung đột, vì tuân theo kẻ đang chiếm giữ lợi thế mà quay lưng với thầy mình thì ta còn biết giấu mặt vào đâu?

- Không phải là quay lưng, phụ hoàng! – Không thể đừng được, Phúc Cảnh buột miệng. – Thượng sư cũng đã quen với những lời thế này, con nghĩ rằng ông ấy cũng chẳng để tâm đâu. Những lời nói như thế này chẳng làm hại Thượng sư được.

- Con biết gì, Cảnh? – Chúa Nguyễn gọi tên người con như thể đâm một lưỡi dao. – Ta đã nói là kẻ bên ngoài. Kẻ bên ngoài sẽ nhìn con ra sao – một vị chúa muốn lấy lòng kẻ khác mà hy sinh danh dự của thầy mình? Khi dẫn con đến bái ông ấy làm Thượng sư, ta đã nói gì? Thầy còn hơn cả cha! Một vị chúa có thể khiến người ta phật lòng lúc này lúc khác, nhưng tuyệt đối không thể để kẻ khác khinh thường! Ta đang nói với người khác rằng Tây Sơn vô đạo tuyệt tình anh em máu mủ, thế rồi ta chấp nhận cho một hành vi như thế sao? Thầy còn hơn cả cha, nếu thầy con mà còn bị như thế, con sẽ chấp nhận hy sinh cả những người khác nữa, rất nhiều kẻ khác nữa cho mục đích của mình à? Nếu đến thầy mình mà con còn không bảo vệ được thì con bảo vệ được ai? Dù cả thế giới này chống lại thầy con, thì một khi con còn có thể bảo vệ ông ấy, con phải làm cho bằng được!

Bá Đa Lộc đã ấp ủ con qúa đáng rồi! Ta cũng đã yêu cầu ở con qúa sai lầm rồi. Con không biết đánh giá nặng nhẹ đã đành, nhưng tại sao con lại có thể coi nhẹ tình cảm của người khác như vậy?

- Như phụ hoàng đã làm thôi. – Phúc Cảnh mím môi. – Hết lần này đến lần khác, phụ hoàng tìm cách trấn áp Thượng sư, bắt cả quan viên Gia-tô phải lạy bàn thờ để thao túng Thượng sư. Phụ hoàng nói về tình cảm ư? Thượng sư đã tổn thương vì người hơn bất cứ ai khác rồi. Tống Viết Phúc lẫn bao nhiêu kẻ nữa to gan như vậy chính vì phụ hoàng, vì những gì phụ hoàng đã làm!

Giọng của cậu Đông cung ngày càng sắt lại, giờ đây cũng mang cơn thịnh nộ không kém gì người cha. Cậu ta trừng trừng nhìn cha mình. Hai bàn tay càng nắm chặt.

- Vì những gì phụ hoàng đã làm, vì những gì chúng ta đã làm, con có thể làm gì khác đây? Phụ hoàng bảo con còn có thể làm gì khác đây? Con lên tiếng bảo vệ Thượng sư, thế còn ai bảo vệ con, bảo vệ phụ hoàng? Chỉ cần con cất một lời, phụ hoàng biết mọi sự sẽ ra sao, sẽ như thế nào! Tại vì con sao? Tại vì con đã từng tin Thượng sư, tin vào Thiên Chúa của ông ấy, thế nên con còn có đường nào để quay lại? Con có thể làm gì đây?

Vị chúa lặng im. Ngài ta đã lặng im trong một quãng thời gian dài, rất dài. Sóng đánh dưới chân họ, trên bến cảng Cầu Hin. Họ đang đứng trên bãi đá, và sóng đánh dưới chân họ, cuốn trôi lại cả lời họ nói, cả tiếng gió, về phía biển.

- Ta sẽ đưa Bá Đa Lộc theo ta. – Cuối cùng, chúa Nguyễn nói. – Từ nay, ông ấy sẽ theo ta.

Và ngài ta quay đi, quay đi mà không nhìn lại con mình. Cậu thanh niên mang đôi mắt xa lạ và lạc loài ngay bên biển.

Ghi chú: Hoàng Lê nhất thống chí cho rằng Quang Toản đến vây thành Quy Nhơn, và nhiều sử liệu khác dựa vào cũng nói tương tự. Nhưng ở đây, Hoàng Lê với những tác giả ở Bắc có lẽ hoàn toàn không nắm được tình hình ở Quy Nhơn khi nhầm lẫn lung tung giữa Quang Bảo và Quang Thiệu, Trần Quang Diệu và Lê Trung… Quãng đường từ Huế đến Quy Nhơn dài gấp đôi quãng đường từ Diên Khánh đến, huống hồ quân Nguyễn khi ấy đã xuất hiện ở gần sông Đà Rằng – Quang Toản không thể nào xuất hiện, đánh thắng ở Quy Nhơn, đoạt thành trước khi quân Nguyễn đến. Quãng thời gian này qúa ngắn để điều quân từ tận Phú Xuân tới, thậm chí Lê Trung ở Quảng Nam cũng không quay về kịp. Có lẽ đây chỉ là lính vây thành phao tin để uy hiếp Quang Bảo.

(Ngoài một lý do nữa là Hoàng Lê muốn nhấn mạnh đến khía cạnh “anh em giết nhau” nên viết như vậy).

52

Sau này, mỗi người trong số họ sẽ hình dung lại về những ngày tháng ấy, trận đánh ấy theo nhiều cách khác nhau, từ hướng nhìn của mình. Mỗi người trong số họ, theo nhiều cách, sẽ nhận ra sự biến chuyển của nó, của những ngày tháng ấy, của chiến dịch tấn công cuối mùa xuân năm ấy. Với những người lính, đó có lẽ là điều quân lệnh mới được ban không cho bất cứ ai trong số họ quay lùi. Với những thường dân Gia Định, họ sẽ nhớ tới lần thu thuế ngay khi vừa mới thu hoạch để chuẩn bị cho sang năm. Với những người thợ, họ sẽ nhớ tới những ngày làm việc trong các xưởng, các bãi bờ. Với những viên quan đi sứ sang Xiêm, họ sẽ nhớ tới lời chúa Nguyễn nhắn cho Phật vương: Tây Sơn đang cốt nhục hại nhau, nghi ngờ giết cả binh tướng cũ, sắp đến ngày diệt vong. Với những vị tướng, họ sẽ nhớ đến lúc Nguyễn Văn Thành, Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương đều được đẩy đi trước. Và với những điệp viên nằm vùng của nhà Nguyễn, họ sẽ nhớ tới các mật lệnh được đóng dấu chúa Nguyễn do Vân Dương ni cô gửi đi kêu gọi họ sẵn sàng chuẩn bị để tiếp ứng khi có quân tới…

Theo nhiều cách khác nhau, mỗi người trong số họ sẽ hồi tưởng để tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh của cơn sóng mà đến cuối mùa xuân năm Kỷ Vị, nhiều người trong số họ vẫn còn chưa nhận biết: Một cuộc tấn công toàn diện đã được sắp xếp. Nhiều người trong số họ vẫn còn chưa nhận ra, cho đến khi cơn sóng ấy ập xuống, cuốn họ đi. Có thể vẫn còn có sự may mắn nữa, một chút tình cờ của lịch sử, nhưng đó là một cuộc tấn công tổng lực, không gì khác. Một cuộc tấn công mà mỗi người, mỗi người trong số họ chỉ là một phần của cơn sóng. Họ đã không nhận ra. Không hề nhận ra.

Mười năm đã qua đi từ khi chúa Nguyễn quay trở về Sài Côn. Đã năm chiến dịch như thế được tiến hành. Và họ đã quen với những cuộc tấn công rồi trở lại. Họ không biết, nhiều người trong số họ vẫn không thể biết khúc quanh lớn đã ngoặt vào lúc nào trên con đường của họ. Hay đúng hơn, họ không chờ đợi nó đến vào lúc ấy. Họ đã không nghĩ nó đến vào lúc ấy, sự biến chuyển này – Như thể một mảng đá núi đã đổ ập xuống, rồi cơn lũ quét qua, ầm ào, vang động, quay cuồng – Sau một khoảng thời gian dài ít biến động, không biến động. Rất ít người trong số những kẻ ra đi cuối mùa xuân năm ấy lại nghĩ rằng họ sẽ chứng kiến một sự chuyển biến lớn lao sau những năm tháng nghỉ ngơi dài. Trong những năm tháng mà Gia Định dường như thiêm thiếp ngủ, đội quân Gia Định thiêm thiếp ngủ, đã có một chuyển biến, những chuyển biến chảy trôi. Rất nhiều, rất nhiều những hạt cát và đá nhỏ đã di chuyển, xê dịch, để cuối cùng trở thành một cơn lũ.

Và rồi, dù tất cả trong số họ đều hồi tưởng, đều cố gắng vẽ nên một bức tranh cho những biến động cuối mùa xuân năm ấy, tất cả đều cảm thấy có điều thiếu hụt. Và cả những vị quan viết sử sau này cũng vậy, những sự kiện viết ra đều có cảm giác thiếu hụt. Cảm giác, đó là điều chỉ xuất hiện và tồn tại trong một quãng thời gian nào đó, không thể lưu truyền. Đó là điều mà sau này, mãi sau này, khi những cơn sóng đã lắng xuống, mọi tình cảm khổ đau hay hạnh phúc đều đã trôi qua, người ta hồi tưởng lại mọi thứ, nhưng không còn có thể nắm bắt được cái cảm giác ấy nữa. Lịch sử mang dạng hình, tính chất của một sinh vật sống; và những điều được viết trên giấy, được kể lại, đều đã chết, đã chết thành một cái xác khô. Bức tranh mà họ dựng lại thiếu, luôn luôn thiếu, hơi thở và sự sống của một sinh vật. Cái ý chí đã cuốn họ đi, đã sắp xếp và chọn lựa. Cái điều đã tạo nên một làn sóng để thay đổi và nhấn chìm.

Họ đã nhận ra điều đó, những người đã tham gia trong cuộc chiến đã từng bước nhận ra, nhưng chỉ bằng linh cảm. Họ chỉ là một phần nhỏ bé, qúa nhỏ bé, mỗi con người chỉ là một phần qúa nhỏ bé của lịch sử. Họ - chỉ bằng linh cảm – nhận ra rằng mình đã rơi vào một điều được sắp xếp sẵn. Số phận, định mệnh, thời thế… Bất cứ điều gì mà con người có thể gọi tên hay không thể gọi tên. Nhưng nó – chính cái thứ tự đã diễn ra, điều đã xảy ra, chính sự không lầm lẫn, không khoan nhượng ấy, sự chính xác đến lạ lùng ấy – khiến họ có một cảm giác rằng mình chỉ đứng trên một sân khấu lớn, rất lớn. Và có ai đó, đã có một ai đó mà hơi thở còn nóng ấm sau gáy họ, điều khiển, điều khiển tất cả. Lại một lần nữa, đó là một linh cảm xác tín đến mức ai cũng cho là thật.

Nhưng đó là chuyện sau này. Sau này. Còn trong mùa xuân năm Kỷ Vị, cuộc sống vẫn diễn ra theo nhịp điệu của nó, dù là cuộc sống trong chiến tranh. Những tráng đinh trong Gia Định được gọi lên đường, những người vợ, người mẹ gấp áo quần cho họ, dặn dò họ, ôm lấy họ bằng vòng tay siết chặt và những giọt nước mắt. Gió đã đổi chiều tuy vẫn còn rất nhẹ. Mưa đã thoảng về trên bầu trời. Mưa đã ôm lấy họ trong khi gió đang cuốn họ đi. Dù vẫn còn rất nhẹ, đôi lần hoang mang quanh quẩn giữa ra đi và ở lại, phương Nam và phương Bắc, gió nồm cuối cùng cũng đã tới. Những cánh buồm đã sẵn sàng được đẩy ra khơi.

Ngày hôm ấy, họ đã đứng trên bến cảng nhìn về phía những chiếc thuyền. Hoàng hôn đang xuống và sắc đỏ trên bầu trời đang khô dần, thẫm lại. Thẫm lại, khi mây đang kéo về theo gió. Họ ngửi thấy mùi hơi đất sau những ngày hạn dài đang bốc lên trong gió. Cơn mưa đang kéo về. Trong hoàng hôn, họ đứng nhìn những chiếc thuyền và nghe mưa đang kéo về.

Trong tay nàng là bọc quần áo mới lấy. Áo nàng đã đặt may cho chàng. Gói vải đã âm ấm trong tay nàng. Ánh mắt nàng nhìn theo những chiếc thuyền rất gần bên bến. Ở khoảng cách này, nàng có thể nhìn rõ những bóng người đang đi lại trên boong. Nắng chiếu qua họ, và trong khoảnh khắc, nàng đã bắt gặp một ánh vàng trên những bóng người.

- Người Tây dương vẫn đi cùng chúng ta chứ? Họ vẫn còn làm thuyền trưởng? – Nàng hỏi, vì tò mò hơn là quan tâm. Vì muốn có điều gì để nói hơn là vì muốn nói.

- Chỉ vài người thôi. – Chàng trả lời. – Có rất nhiều thuyền, và do chúng ta tự lái.

- Người Tây dương nói… - Nàng vẫn nhìn mông lung về phía cái bóng lừng lững in vào nền trời. Trời đang tối lại. Ánh nắng chói chang đang cố vượt qua bức tường mây ngày càng dày, tạo thành những nét viền như ráng vàng. – Thuyền là sinh mạng của thuyền trưởng, sinh mạng thuyền trưởng gắn với những chiếc thuyền. Khi thuyền chìm, thuyền trưởng sẽ ở lại với thuyền chứ không rời đi. Chết cùng thuyền, dù có được sống. Họ rất yêu thuyền, họ gọi thuyền là một phụ nữ.

Vì biển cả qúa hung hiểm, qúa lớn. – Nàng ngừng lời, lại không biết phải tiếp tục thế nào. Nàng không biết phải nói ra sao. – Khi có chuyện xảy ra, trong khi mọi người khác, hành khách, thủy thủ, người hầu, nô lệ… đều được phép rời đi, nhưng thuyền trưởng thì không thể.

Tại sao lại có điều luật kỳ lạ ấy, đó có lẽ là điều nàng muốn hỏi, ngay khi vừa nghe người Tây dương nói. Nhưng nàng đã không hỏi, lúc ấy và bây giờ. Nàng hiểu, nàng nghĩ rằng mình hiểu. Vì biển cả qúa lớn. Và vì mạng sống qúa nhỏ bé.

Bên cạnh nàng, chàng chỉ im lặng. Ta về thôi, chàng nói khi một đợt gió mạnh cuốn thốc vào bờ, đem theo cả bụi và lá cỏ khô quấn chân họ.

Chàng biết lý do nàng đã nói đến chuyện này – Điều quân luật mới của chúa Nguyễn đã ban ra, cấm họ quay đầu lại. Không được phép bỏ chạy, chỉ tiến lên, chỉ đi về phía trước. Và những vị quan văn cũng được đưa đi theo quân để lo việc quân lương. Lấy lương tại chỗ, vị chúa nói với họ. Nếu lương không đến kịp, lấy lương tại chỗ, trong thuế mà Tây Sơn chưa kịp thu năm nay. Đó là điều họ chưa từng làm. Tất cả đều là chuyện họ chưa từng làm. Nhưng giờ đã đến lúc. Đã đến lúc để họ phải quyết định.

Cuộc chiến này sẽ phải kết thúc. Ai đó đã nói trong những ngày ấy – có thể là vị chúa, có thể là một trong những viên quan của ngài ta, có thể là cả chính chàng nữa. Trong những điều luật khe khắt và viễn cảnh của một cuộc chiến khó khăn đang tới, chàng đã nghe câu nói ấy vang vọng. Đây là phương thức mà quân Nguyễn đã tiến hành chiến tranh ở Gia Định – lấy thuế mà dân chúng chưa kịp nộp cho Tây Sơn để duy trì sự sống cho đoàn quân – Ai đó đã nhắc. Và chàng đã nghĩ, may mà tất cả đã sớm kết thúc. Không ai biết sách của Đặng Đức Siêu đã ghi điều gì, điều gì đã tạo thành sự kiên quyết hiện tại, nhưng họ nghĩ rằng, họ cho rằng, họ biết rằng: Đó là con đường đi tới sự kết thúc.

“Họ” là một vài người. Một vài người, trong đó có cả chàng, được vị chúa cho biết về kế hoạch và cách thức tiến quân. Họ sẽ giữ bí mật về điều đó. Do vậy, chàng không nói gì với nàng. Lúc này, chàng lại càng không biết phải nói gì với nàng. Họ đã im lặng đi qua bến sông và những bãi bờ, những chiếc thuyền độc mộc, tam bản, thuyền hai cột buồm của Hoa Nam đến thuyền một cột buồm để đi ven bờ biển, tàu đồng của Tây dương hay thuyền ba cột buồm đặc trưng cho Phú Lang Sa. Có cả những chiến hạm đi ngang qua họ, mái chèo khua động mặt sông đang nổi sóng. Trong nắng chiều sắp tắt, chàng vẫn thấy được ánh lấp lánh từ những chiếc câu liêm, ngọn súng và cả mũi đại bác thấp thoáng. Trước đây người Việt chỉ đánh thủy quân bằng cách dùng câu liêm kéo thuyền địch vào cận chiến, dùng hỏa khí để bắn phá hay dùng bẫy dưới lòng sông – Nguyễn Văn Trương đã giảng giải cho họ nghe từ cái ngày đầu tiên họ làm quen với đội quân trên nước này. Tuy không phải là những người xa lạ với sông nước, họ đã phải rất khó khăn để học được những phương thức lạ lùng để xoay chuyển, để điều khiển, những loại vũ khí dành riêng và cả thế trận trên sông. Cần có một thế trận trên sông – Nhất là với rất nhiều chủng loại thuyền mà chúng ta có. Chúng ta có thêm thuyền chứa pháo và đại bác, những con thuyền mũi bọc đồng, và phải tìm cách để sử dụng chúng cho tối ưu nhất. Tất cả cần phải được huấn luyện đầy đủ, vào khuôn phép. Đội quân của họ đã được đưa vào huấn luyện lại từ đầu – Những người chiến binh tự phát như họ vốn không biết đến binh pháp hay thế trận, không có khái niệm về nó. Từ khi Nguyễn Đình Đắc tới, chúng ta mới được huấn luyện về binh pháp cổ điển. Vị chúa nói, bên cạnh Nguyễn Văn Trương. Ngài ta mỉm cười. Ban đầu, quân đội của chúng ta hoàn toàn là những đội quân chắp nối tự phát, ta lại không được học hành đầy đủ để có kiến thức huấn luyện cho kẻ khác. Các tướng của ta cũng chỉ có khả năng quân sự thiên bẩm. Nhưng binh pháp là điều rất quan trọng, hy vọng ta sẽ có được đội quân bài bản thực sự. Có binh pháp, có thể đối phó với bất cứ quân đội hay tình thế nào. Khi ở Xiêm La, đánh trận với Miến Điện, ta mới lần đầu tiên biết ứng dụng binh pháp mà Bá Đa Lộc đã dạy, dùng một ngàn quân đánh bại đại quân Miến Điện. Mọi điều là ở cách thức, chứ không phải ở thứ có sẵn. Bây giờ chúng ta không chỉ học binh pháp cổ mà còn cả binh pháp châu Âu, binh pháp của người Thượng, Miên, Chiêm… Tất cả đều đáng để học. Ta muốn có đội quân có thể đối phó được với bất cứ lực lượng nào.

Những gì họ muốn, họ đã có được, đã làm được. Giờ là lúc để quyết định, để kết thúc. Đi bên bến cảng tấp nập tàu thuyền trong nắng hoàng hôn dần tắt cùng gió, đi bên nàng trong hương thơm lẩn khuất của một loài hoa đầu mùa hạ lẫn trong hơi nước và đất ẩm, chàng đã nghĩ đến rất nhiều điều, những gì mà họ đã trải qua, khởi đầu và kết thúc của con đường ấy. Hai mươi năm, hai mươi năm đã trôi qua từ ngày anh trai chàng đi về Phiên Trấn. Cả cuộc đời chàng là một quãng hành trình dài, với cái nghĩa gần sát nhất của nó, và chàng đang muốn được đứng lại, dừng lại. Như chiếc thuyền ghé mình vào bến, thiêm thiếp ngủ trong đêm, mặc gió mưa đang tới, dòng nước hết dâng lên rồi hạ xuống.

Chàng đã nghĩ tới chiều hôm ấy, ý nghĩ ấy cả bây giờ nữa, bên đám lửa được đốt lên trên bến cảng Cầu Hin. Trước khi tiến ra, chúa Nguyễn đã ghé lại Cầu Hin bên ngoài Diên Khánh. Rất nhiều đám lửa đã được đốt lên trên bờ cát, dọc theo bờ cát dài với những bụi cây xanh vút rì rào khi đoàn quân hạ trại nghỉ lại. Quân của Nguyễn Văn Thành đã đi trước, quân đóng tại Diên Khánh, thủy quân vừa đến cùng tụ họp bên cảng Cầu Hin tạo thành một đồn trại lớn như đốt cháy cả bờ biển. Bên cạnh đám lửa của trại chỉ huy, vị chúa và Bá Đa Lộc đang trò chuyện. Chàng được vị chúa gọi tới nhưng ngài ta vẫn còn đang nói với Bá Đa Lộc, chỉ ra dấu cho chàng ngồi xuống bên họ. Chàng liếc nhìn qua Bá Đa Lộc, trong ánh lửa khó có thể nhận ra sắc diện của ông, nhưng chàng thấy ông ta có vẻ đã xuống sức. Vẻ mệt mỏi trên gương mặt ông ngày càng rõ.

- Đừng trách Đông cung. – Bá Đa Lộc đang nói, đang tiếp tục câu chuyện dang dở với chúa Nguyễn. – Tống Viết Phúc ngang tàng thô lỗ, đó đâu phải chuyện gì lạ. Tôi cũng chẳng để ý đến lời hắn nói làm gì.

- Một kẻ nói được, một trăm, một ngàn kẻ sẽ bắt chước theo, rồi chẳng biết sẽ dẫn đến đâu. – Vị chúa ngắt lời ông giáo sĩ. – Thầy không thể coi đây chỉ là chuyện riêng của thầy được.

- Cảnh cũng có cái khó của nó. – Bá Đa Lộc nói sau một lúc im lặng. Có thể ông đã muốn nói điều gì khác nhưng cuối cùng lại thôi. – Vì còn có chúa công nên Đông cung muốn chờ ngài. Đông cung vẫn còn qúa trẻ, nhiều chuyện không thể nhất thời mà quyết định.

- Bằng tuổi nó, ta đã phải tự quyết nhiều việc. – Vị chúa ném một nhánh cây vào đám lửa. Bá Đa Lộc nhìn theo cành gỗ bốc cháy, lửa liếm dần trên thân nó cùng tiếng lách tách khe khẽ.

- Khi ấy, tôi cũng phải ngăn chúa công lại nhiều lần. – Ông cười khẽ. – Việc của Đỗ Thanh Nhơn, tôi đã bảo chúa công nhẫn nhịn, ngài không nghe. Sau khi Đỗ Thanh Nhơn chết, qủa thật loạn đã xảy ra khắp nơi trong Gia Định, quân đội của ngài chia năm xẻ bảy, người trung lập cũng nghi ngờ mà bỏ rơi ngài.

- Ta cũng đã tự quyết. – Ánh mắt của vị chúa không đổi. – Điều quan trọng nhất của kẻ đứng đầu là phải biết tự mình quyết định. Như thế thì mới chịu trách nhiệm được cho kẻ khác. Thượng sư đã bảo bọc thằng bé qúa nhiều. Ngay cả ta, nó cũng không thể dựa dẫm. Ta biết chuyện vừa rồi nó cũng chỉ chờ ta lên tiếng, nhưng cả ta, cả thầy cũng đều không thể làm chỗ dựa cho nó. Quen như thế rồi, nó làm sao tồn tại được?

- Trái tim của nó rất mềm yếu. – Bá Đa Lộc nói, ngay khi vị chúa vừa mở miệng, ông đã tiếp tục. – Khi ngài trách nó “qúa nhân từ” chẳng lẽ ngài không nhận ra, không hiểu? Nó muốn tránh một cuộc xung đột liên quan đến nhiều người, nhiều kẻ nữa. Ngài tống giam Tống Viết Phúc, thế rồi sao, có thay đổi được gì không? Hay là lòng căm phẫn chỉ bị nén lại, đợi cơ hội để bộc phát? Hay người ta chỉ càng căm giận chúng tôi hơn? Hay ngài chỉ bịt được miệng đời trong một lúc rồi người ta sẽ vẫn ca thán ngài, nguyền rủa tôi? Ngài biết rằng đó chẳng giải quyết được gì cả, ngoại trừ giữ thể diện cho ngài. Ngài biết rằng đã sống trong xứ sở này chừng ấy năm, tôi chẳng để tâm đến những lời như thế. Những lời ấy có bằng sớ xin chém đầu tôi của một vị quan của ngài đâu. Ngay từ khi đến xứ sở này, tôi đã chuẩn bị tinh thần để bị giết, bị chém đầu, phân thây như bao nhiêu người đi trước. Đó không phải là chuyện tôi để tâm, không phải, những lời của một tên võ biền thì đáng là gì.

- Đó là “qúa nhân từ”. – Lửa đã nuốt hết cành cây khô vào trong ánh vàng của nó. Họ nghe biển ầm ì như tiếng thở của một loài vật khổng lồ. Ngồi trên bãi cát, hai tay vị chúa để trền đầu gối vẫn còn dính cát. – Có người đã nói với ta “Nếu không muốn đến lúc phải tiêu diệt họ, thì phải biết cách kiềm giữ họ”. Nếu lúc này nó sợ xung đột, lúc khác sẽ có kẻ đến lấy đầu thầy, nhân danh trung thành, nghĩa cả, đại nghĩa gì đó. Sẽ có người sẵn sàng chịu chết để làm việc đó, nếu như họ tin là đúng. Nếu lúc này không bị ngăn lại, sẽ có kẻ làm việc đó.

Bá Đa Lộc cười khẽ.

- Ngài đã giữ mạng sống cho tôi bằng cách nói rằng bây giờ còn cần dùng tôi, có phải? Nhưng khi mọi việc kết thúc rồi sẽ ra sao? Khi cuộc chiến này kết thúc, khi ngài đã lên ngôi, tất cả chúng tôi sẽ lại bị ném đi như những thứ đã không còn tác dụng? Ngài đã nghĩ ra lý do nào để tiếp tục kéo dài mạng sống của tôi nữa không?

- Chừng nào ta còn sống, ta sẽ không để điều đó xảy ra. – Vị chúa nói, chẳng có một cái chớp mắt. Ngài ta vẫn nhìn lửa. Lửa đang phừng lên trong gió, và tiếng biển vẫn ầm ào như dội vang trong lồng ngực họ. – Ta đã nói với Cảnh rằng từ nay thầy sẽ đi theo ta. Nó đã đủ sức tự lập một mình, nó sẽ xoay sở được. Nó phải học cách tự lập.

- Đi theo ngài? – Bá Đa Lộc nhướng mày. Rồi ông nghiêng đầu nhìn ngọn lửa. Ánh sáng của nó, sức nóng của nó, vũ điệu của nó, và cả thanh âm của nó.

Như hai mươi năm trước. – Bá Đa Lộc lắc đầu nói, sau đó. – Khi ấy cũng là một đám lửa bên bờ biển thế này. Trăng cũng sáng như thế. Chỉ có điều, lúc đó là tôi đề nghị đi theo ngài.

Vị chúa bật ra tiếng cười. Có vẻ như ngài ta đã không định cười. Ngài ta lại ném thêm một cành củi khô nữa vào lửa để khỏa lấp tiếng cười của mình.

- Bây giờ nghĩ lại, tôi chợt nhận ra, - Bá Đa Lộc vẫn nói, hầu như chẳng có điều gì còn nằm trong giọng nói của ông ngoài ký ức. Ở ngay bên cạnh, nhưng giọng nói của ông chợt trở thành xa xôi đến lạ. – Khi tôi rời khỏi Phú Lang Sa, cũng là khi chúa công sinh ra. Chúng ta cùng trải qua một khoảng thời gian như nhau trên mảnh đất này, chúng ta cùng lớn lên trên mảnh đất này một khoảng thời gian như nhau, chúng ta cùng hành trình trong khoảng thời gian như nhau. Hành trình của chúng ta.

Đó có lẽ là sự an bài của Chúa. – Bá Đa Lộc làm dấu thánh trong khi vị chúa quay sang ông ta. Lửa bập bùng trong mắt chúa Nguyễn. Đôi mắt đóng khép như không muốn cho đi mà cũng không muốn nhận lại. Nhưng ngài ta chỉ lặng im. Thượng sư về để chuẩn bị đi, ngài ta nói, và quay sang chàng khi Bá Đa Lộc đã đi khuất.

- Khanh sẽ cùng Huỳnh Đức dẫn quân đến mạn Nam Quy Nhơn. – Chúa Nguyễn nói. Chàng gật đầu. Đây là điều họ đã bàn luận trước. Bây giờ quân Tây Sơn đã biết họ sẽ tấn công cả mặt Nam Bắc nên họ sẽ phân tán quân đều ra cả hai bên. -  Ở Quy Nhơn, sẽ có người ra hợp đồng tác chiến với ta.

Lê Chất. – Vị chúa trả lời cho ánh mắt thắc mắc của chàng. – Từ khi hắn đi trốn trong lúc Tây Sơn truy diệt Lê Trung, người của Vân Dương ni cô đã liên lạc với hắn, dụ hắn quy thuận. Hắn đã nhận lời. Giờ hắn đã trở vào Quy Nhơn, làm bộ để xin Tổng quản Lê Văn Thanh che chở cho hắn. Khi chúng ta đến, hắn sẽ làm nội ứng cho ta đánh thành.

- Ngài tiếp nhận Lê Chất sao, chúa công? – Chàng không tránh khỏi thắc mắc mà hỏi. Mới năm ngoái ngài ta còn bảo Lê Chất “giảo hoạt, khó tin”, rằng không nhận một kẻ thí cha.

- Lê Trung bị giết không phải vì Lê Chất, ngược lại, lần này Lê Chất mang thù sâu oán lớn với Tây Sơn. – Thuận tay, chúa Nguyễn ném cả hai cành cây vào đám lửa. – Hắn biết không còn con đường nào đi nữa, bây giờ dù có nương nhờ được vào Lê Văn Thanh, số mạng hắn chẳng biết sẽ ra sao trong một triều đình như thế. Hắn chỉ còn cách về theo ta. Đó là một dũng tướng, ta không nên bỏ qua.

Ta không phán xét kẻ khác. – Nhận ra điều vẫn còn vướng vất trong mắt, trên mặt chàng, ngài ta mỉm cười. – Có lẽ ta không thích đánh bạn với một kẻ như Lê Chất, nhưng với tư cách là kẻ đứng đầu, ta không phán xét kẻ khác mà chỉ xem họ có thể dùng được hay không. Chừng nào kẻ ấy chưa phạm trọng tội, ta không thể phân biệt đối xử với họ. “Qúa ghét cái ác” là không nên, chính khanh đã nói. Ta cũng không biết cá nhân Lê Chất là người thế nào, trong thời này kẻ thay liền ba bốn chủ nhân cũng đâu phải là ít, kẻ muốn thay đường đổi lối cũng đâu phải là hiếm. Ngay cả những kẻ tự xưng là sĩ phu Bắc Hà kia, mấy đời ăn lộc vua rồi lại thờ kẻ giết vua mình đến tuyệt tự tuyệt tôn, xét về tình còn làm người ta ghê sợ hơn nhiều. Nếu cho mình cái quyền phán xét thiên hạ, ta có lẽ không sống được, hoặc thiên hạ đã không sống được rồi.

Ta sẽ ở Cù Mông để điều phối. – Chúa Nguyễn quay lại câu chuyện còn dang dở. – Bá Đa Lộc sẽ đi cùng với khanh. Ông ấy là người có rất nhiều kinh nghiệm về cách sử dụng khí cụ Tây dương và kêu gọi được người Gia-tô ở Quy Nhơn. Có ông ấy đi theo, mọi việc sẽ dễ dàng hơn.

Ngài ta đang nói như thể chàng sẽ hiềm khích với Bá Đa Lộc, Võ Tánh thầm nghĩ nhưng không nói ra. Chàng chỉ gật đầu. Phúc Cảnh đã được lệnh của chúa Nguyễn ở Diên Khánh để phân phối lương. Sự quấy phá của những chiếc thuyền Tề Ngôi khiến họ chia đường chuyển lương thành từng đoạn ngắn.

- Xiêm vương lại từ chối đề nghị giúp cho ta, bảo rằng đang bận việc Miến Điện, nói ta tự sang liên lạc với Vạn Tượng. – Chúa Nguyễn trầm ngâm nói tiếp. – Ta đã bảo Nguyễn Văn Thoại sang Vạn Tượng, nhưng việc nhờ Vạn Tượng có lẽ không được trong thời điểm qúa gấp này. Vạn Tượng từ khi bị Xiêm chiếm hoàn toàn phụ thuộc vào Xiêm, lại cũng không muốn phục tùng Xiêm. Từ khi Nguyễn Huệ giết chết vua Vạn Tượng trong trận đánh Viêng Chang trước, Vạn Tượng đã cầu hòa với Tây Sơn, định nhờ thế Việt để dứt khỏi ảnh hưởng của Xiêm. Muốn kết liên riêng với Vạn Tượng, ta không thể nhờ đến ưu thế của Xiêm La, mà cũng không thể qúa hứa hẹn với Vạn Tượng.

Cho nên ta phải dứt điểm thật nhanh những mục tiêu đổ bộ. – Tay vị chúa vạch lên trên cát những hình vẽ nhỏ. – Khanh ở Phú Trung, quân Thần sách ở Gò Cũ, từ biển vào phải chiếm vùng duyên hải thật nhanh, tạo điều kiện cho những đoàn quân sau tiến vào mạn Bắc ngăn quân tiếp viện. Các khanh được toàn quyền chỉ huy, điều động quân và lương, không thể xảy ra tình trạng vì thiếu lương mà rút quân hay gây ra rối loạn. Ngay cả quân nữa, thu được người nào thì lấy người đó. Mọi người phải giữ vững nơi đóng quân của mình, bằng bất cứ giá nào. Khanh lãnh bộ, pháo, tượng binh cứ tiến vào mạn Nam. Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Thiện dũng mãnh sẽ quyết tử bảo vệ mạn Bắc cho các khanh. Nhớ, nhất định không lùi lại. Khanh là Tổng binh chỉ huy toàn bộ chiến dịch này của ta.

Chàng vẫn chỉ nhìn vị chúa, gật đầu. Ngài ta chỉ nhắc lại những gì họ đã nói. Tổng binh, chiến dịch đánh Quy Nhơn này phụ thuộc hoàn toàn vào chàng, do chàng mặc tình quyết định. Nhận trọng trách ấy, trước ba quân, chàng đã gánh nhận lấy cuộc sống của hàng vạn con người. Không được lùi lại, không được bỏ chạy, không được rút lui, tất cả mọi người bị thúc tiến lên, và chàng là kẻ nắm giữ sự sống của tất cả bọn họ.

Chàng nhìn chúa Nguyễn, bây giờ, trong ánh lửa. Ngài ta đã không cho họ con đường quay lại, và chàng biết ngài ta rất có thể kiên quyết đến khắc nghiệt khi cần thiết. Ngài ta lại đang đặt tất cả những sinh mệnh ấy vào tay chàng. Và thốt nhiên, chàng lại nghĩ đến cảnh tượng của buổi chiều hôm ấy, bên Ngọc Du, bên bến cảng tràn ngập ánh hoàng hôn đỏ lay lắt qua những áng mây như cũng đang cháy sáng lên tựa than lửa. Người thuyền trưởng và chiếc thuyền giữa mênh mông biển cả, nàng đã nói, đã nhắc lại. Ngài ta đã đặt trọng trách ấy vào cho chàng, và chàng đã đột nhiên hiểu được cảm giác của người thuyền trưởng phải đưa con thuyền về đến bến.

Chàng nhớ đến cả ý nghĩ đã thoảng qua khi đó. Được trở về. Ký ức ấy không hiểu sao đã gây ra một cái nhói nhẹ trong tim chàng.

Nhưng chàng chỉ lặng im, nghe vị chúa tiếp tục nói về những luận bàn của họ. Chính xác, rạch ròi như một cỗ máy, như đang phân tích một cỗ máy, một cấu trúc của thuyền hay cỗ pháo, ngài ta bàn luận về trận chiến của họ như thế, bằng giọng điệu như thế. Không ai trong họ nói về chuyện khác, những gì sẽ tới hay sẽ xảy ra nếu như… nếu như có một điều thay đổi. Thắng hay thua, thành hay bại, họ không nói đến điều đó, chỉ bàn về con đường và cách thức họ sẽ đi, sẽ tiến lên. Tương lai là một điều rất khó nắm bắt với họ bây giờ, tựa như đường chân trời đã khuất trong đêm và bị nhận chìm bởi biển. Hiện tại của họ chỉ có ánh lửa rừng rực cháy và tiếng sóng ầm ào, ầm ào như tiếng thở đều đặn, đều đặn muôn đời không thay đổi.

Chàng nghe những lời nói của vị chúa, của họ, lẫn vào trong tiếng sóng, trong tiếng ồn ào của trại quân đang dần im ắng. Đêm đã hút sâu, bầu trời trải rộng trên họ trở thành một hố vực thăm thẳm. Trăng sáng, ánh bạc ngà lạnh lẽo như bị phủ che bằng một làn sương.

Cuối cùng, chúa Nguyễn ngừng lại. Đã hết điều để nói, để dặn dò, để bàn luận. Ngài ta ném thêm vài nhánh cây nữa vào lửa, đứng dậy vươn vai, nhìn ra biển. Biển đêm được phủ lên ánh trăng lăn tăn vài con sóng bạc. Cái tổng thể đen ngòm rộng lớn hút tầm mắt mang tiếng ầm ì như đang sống ấy có một lúc lại làm cho người ta choáng ngợp hơn cả khi nó phơi bày trong ánh sáng ngày.

- Lần ta trốn khỏi Xiêm La cũng vào một đêm thế này. – Ngài ta chợt nói. – Đến sáng, thuyền Xiêm vẫn còn đuổi theo ta, vào một vùng biển gió lặng thì họ đã gần đuổi kịp. Lúc ấy, ta đã rút kiếm định tự sát. May mà gió lại mạnh lên, cuốn chúng ta đi khỏi. Từ đó, ta đã có ước muốn làm ra những chiếc thuyền không bị phụ thuộc vào gió. Ta cũng có bao nhiêu cái mạng đâu chứ.

Chỉ là, đôi khi nhớ, ta lại hình dung ra được rất rõ cảm tưởng khi định tự sát. Đó là một cảm giác rất rõ. Rất rõ, khanh có hiểu không? Ta muốn nói là… khi ấy, sự sống lại trở nên rõ ràng một cách không thể tin được.

Khanh có hiểu không, nắm cái chết trong chính bàn tay mình, cắt ngang một ranh giới qua nó, kết thúc tất cả?

Thoát ra khỏi cái chết, ta nghĩ mình đã không còn sống nữa. Sống và chết đều không quan trọng nữa.

Từ hôm ấy, ta đã luôn nghe tiếng biển. Nó đã vẫy gọi ta, luôn luôn vẫy gọi ta. Vẫy gọi ta như cái chết.

Chàng không biết đã thực nghe thấy những câu nói sau hay không, hay vị chúa chỉ kể cho chàng nghe đoạn đầu câu chuyện của ngài ta. Câu chuyện của ngài ta và biển. Chàng thật ra chỉ nghe có tiếng sóng. Tiếng sóng lớn dần khi màn đêm yên lặng đã buông, khi những xôn xao của con người đã lắng xuống. Khi lời của vị chúa nhỏ dần, nhỏ dần. Ngài ta vẫn chỉ quay lưng về phía chàng, đứng nhìn ra biển. Biển đen và áo khoác của ngài ta cũng màu đen thẫm. Chàng chỉ phân biệt được bằng những đường viền ánh bạc mà trăng đã tạo thành.

Tất cả ranh giới đã trở thành mơ hồ, trong đêm.

Tháng tư năm Kỉ Vị, quân Nguyễn do vị chúa đích thân chỉ huy đánh vào Thị Nại. Huỳnh Đức, Võ Tánh chỉ huy đổ bộ vào Phú Trung, Thần sách quân do Chưởng cơ Phạm Văn Nhân dẫn đầu qua sông Càn Dương chiếm suối Tre. Thế trận cơ bản cho những lần tiến công của quân Nguyễn đã được xác lập.

Trong khi đó, thủy quân Nguyễn nhanh chóng tiến ra Quảng Ngãi. Nguyễn Văn Trương càn quét mặt biển để trên bộ Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Thiện chiếm núi Cung Quăng, Bến Đá; Đoàn Văn Cát giữ núi Thái An, Vĩnh Thuận chặn đường tiếp viện của quân Phú Xuân. Những nhóm quân ứng nghĩa của dân Quảng Ngãi, dân Thượng theo Lê Văn Duyệt giữ hang Tối Trời, núi Sa Lung.

Ở đồng Cây Cầy, Võ Tánh cùng Huỳnh Đức đuổi Tây Sơn đến cầu Tân An. Ở Phú Yên, Nguyễn Văn Thành dẫn Tiền quân đến hạ Tham đốc Nguyễn Văn Điềm, đến tháng sáu đã tiến đến Đầm Sấu.

Không thể tiến lên bằng đường thủy, quân tiếp viện của Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đến Quảng Ngãi phải bỏ thuyền lên bờ. Diệu đóng lại tại Bến Đá để Võ Văn Dũng đưa quân định tập kích quân Gia Định từ phía sau. Trong đêm, đoàn quân của Võ Văn Dũng vì một việc tình cờ mà rối loạn, để Tống Viết Phúc tiêu diệt. Thủy binh Gia Định lại thắng ở Mỹ Á, đánh đến Sa Kỳ. Trần Quang Diệu phải bỏ Bến Đá, quay về Thanh Hảo. Tống Phúc Lương đánh tan đội thuyền Tề Ngôi của Phan Văn Tài, hợp cùng Tống Viết Phúc giữ chặt Mân Khê, không cho quân tiếp viện tiến lên một bước.

Ở mạn Nam, bị tách rời khỏi Phú Xuân, đoàn quân sáu ngàn người của Lê Văn Ứng định ra ngoài thành Quy Nhơn lấy lương bị Võ Tánh điều Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đức Xuyên và vị hàng tướng mới về đầu quân Lê Chất hợp đánh tan ở Kha Đảo. Thế trận nhanh chóng được quyết định. Trong thành Quy Nhơn thân cô thế cô, thiếu hụt lương thực, Tổng quản Lê Văn Thanh cùng Lê Văn Ứng cùng Binh bộ Thượng thư Nguyễn Đại Phác, Thiếu úy Trương Tấn Thúy phải đưa hơn bốn vạn quân và một trăm hai mươi voi ra hàng. Cuộc vây thành kết thúc sau chưa đầy một tháng.

Quân Nguyễn tiến vào Quy Nhơn vào ngày cuối tháng sáu năm Kỷ Vị. Lần đầu tiên trong vòng hai mươi sáu năm.

- Đây là Quy Nhơn sao? – Chúa Nguyễn nhìn quanh khu thành đã được sắp xếp lại trước khi vị chúa vào. Quân Nguyễn đã đóng tại các vọng đài, các khu trọng yếu, để bốn vạn hàng quân đứng giữa sân, kể cả các tướng Tây Sơn. Ánh mắt ngài ta chỉ nhìn qua họ, rồi quan sát khu thành cổ. Đã được xây từ khi vua Chiêm Thành còn tại vị, tòa thành ghi rõ dấu vết chắp vá của bao nhiêu năm tháng cùng những cuộc công thành trước còn để lại. Trong thành, ngay cả nhà cửa cũng mang một dáng vẻ chắp vá như vậy. Nhà mới xen lẫn nhà cũ, điện mới lẫn với điện cũ, và có dấu vết không thể che giấu được của một cuộc rối loạn vừa xảy ra. Cung điện vừa xây của Nguyễn Nhạc trong thành cũng đã mang một vẻ tàn tạ vì không được chăm sóc.

Chúa Nguyễn quan sát nó như cảnh tượng hoàn toàn xa lạ, với vẻ tò mò đậm nét. Bên cạnh ngài ta, Đặng Đức Siêu chỉ khoanh tay. Dù đã có chiếc mũ mới thay cho cái nón rách nát trước kia, vẻ lơ đãng của ông cũng chỉ như khi ngồi cạnh con vịt trên chiếc ghe của mình. Cả hai người vẫn giữ thái độ ấy kể cả khi Võ Tánh cùng Nguyễn Bảo Trí đến báo về việc kiểm soát trong ngoài thành. Chỉ đến khi Nguyễn Bảo Trí nói về việc tiếp tục thu lương ở Quy Nhơn, Đặng Đức Siêu mới lên tiếng:

- Quân ta vừa đến đất địch, còn cần phải thu phục nhân tâm, không phải như với Quảng Ngãi, Phú Yên là nơi dân chúng đồng lòng theo ta. Tây Sơn đặc biệt ưu ái cho Quy Nhơn, không thu thuế thân của người ở đây, chúa công cũng nên nghĩ lại.

- Thế thì thôi. – Chúa Nguyễn gật đầu. – Kiểm soát binh lính cho chặt. Kẻ nào muốn lấy của, hiếp đáp người dân thì cứ dùng quân pháp mà xử.

Đó là câu ngài ta nói với chàng. Ngay khi vừa vào thành, một tướng trong quân đã bị lôi ra chém đầu vì tội lên núi cướp của, hiếp đáp phụ nữ. Chàng chỉ cúi đầu vâng mệnh.

- Đây là Quy Nhơn à? – Ngài ta lại nhìn quanh, lại buông câu hỏi vu vơ. Đôi mày ngài ta cau lại như có một điều vẫn không thể hiểu. Vị chúa nhìn về phía hàng quân, bốn vạn hàng quân đứng chật một khoảng sân. Ngài ta đã gặp các hàng tướng, và bây giờ có trời mới biết ngài ta đang nghĩ gì.

- Lần đầu tiên chúng ta mới có một đội ngũ hàng binh đông như vậy. – Võ Tánh nói, nhận thấy ánh mắt của vị chúa. – Chúa công nói chúng ta nên sắp xếp thế nào?

- Không thể cho họ về được, tất nhiên phải thu nhận họ. – Chúa Nguyễn nói, nhìn sang Đặng Đức Siêu. Trong mắt ngài ta ánh lên nét cười. -  Tất nhiên, ta không thể cho chừng ấy quân muốn ở đâu thì ở. Theo lệ cũ ở Gia Định, cứ ai khai báo một quân tướng trốn nấp thì được thưởng, ta phải gom hết bọn họ về thôi. Quân đông như vậy, hoàn toàn có thể lập thành một đội quân. Đánh cho ai cũng là đánh, thu phục họ về với ta thì có lợi hơn cho họ.

- Ngài có vẻ qúa khinh suất, chúa công. – Đặng Đức Siêu khoanh tay vào trong tay áo, lặng lẽ nhìn cảnh tượng trước mặt. – Thần đã nói trước với ngài rằng vùng này hoàn toàn không giống như những vùng đất khác của họ Nguyễn. Đưa một số lớn quân như thế vào đội quân của mình, thần e rằng đó là rước hổ vào nhà. Tây Sơn vẫn còn cố đánh ở Mân Khê, do chính Quang Toản cầm quân tới, mọi chuyện ta vẫn còn chưa quyết được.

- Vậy Đặng tiên sinh khuyên ta nên làm thế nào? – Chúa Nguyễn cười khẽ, tiếng cười khô khốc. – Ngày xưa quân Tần do Bạch Khởi chỉ huy đánh Triệu, bốn mươi vạn quân ra hàng; Bạch Khởi nhân lúc đêm khuya cho lính giết sạch. Thành Hàm Đan ngập trong nước mắt. Hạng Vũ năm xưa cũng giết hơn một vạn hàng binh bắt được. Hay là người đời chỉ biết chê trách Bạch Khởi, Hạng Vũ tàn ác mà không biết rằng họ đã lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan thế nào?

Ta không thể cho họ trở về với Tây Sơn, vậy thì chỉ còn cách thu nhận hoặc giết họ. Đặng Đức Siêu cũng đã phải im lặng trước câu chưa nói ra của vị chúa.

- Tất nhiên chúng ta không phải quân Tần. – Cuối cùng, ông nói. – Chúa công gia ơn, kiểm soát rồi thu nhận họ, cho họ thành một đội quân riêng để dễ bề kiểm soát. Ơn mưa móc lâu dần rồi họ sẽ hiểu.

- Ơn mưa móc? – Chúa Nguyễn vẫn chỉ lẳng lặng cười. – Ta không tin vào cái “ơn mưa móc” đó đâu. Quy Nhơn? Thật là một cái tên đẹp, ý định rất tốt đẹp. Nhưng tất cả đã đổi khác rồi. Những tín điều cũ kỹ mà không ai còn tin được thì còn có tác dụng gì? Hết Chiêm Thành rồi đến Tây Sơn – loạn do khu thành này gây ra đã qúa đủ rồi. Bao nhiêu máu xương, xung đột của chúng ta cả mấy trăm năm vẫn chỉ quay quanh khu thành này, thế là qúa đủ rồi.

- Ý ngài là…? – Đặng Đức Siêu ngập ngừng. Chúa Nguyễn hạ khẩu súng vẫn còn đeo trên vai, chống mũi súng xuống đất. Ngài ta nghiêng đầu quan sát mỏm núi tạo thành một đường viền cong cong bên kia tường thành. Tường thành vàng màu cát đá. Bầu trời ngả sang màu xám đùng đục, gió thổi hơi rừng núi vào nơi họ đứng.

- Oán khí, có nhận thấy không? – Ngài ta nói, như thì thầm. Giọng nói không nhỏ, nhưng vẫn nghe như tiếng thì thầm. – Vùng đất này mang đậm oán khí. Từ ngày vua Lê Thánh Tông giết hơn sáu vạn người nơi đây, oán khí đã tích tụ. Chúng ta phải trả giá. Người Việt phải trả giá bằng chính sinh mạng của dòng máu mình. Máu người Việt phải đổ tại nơi đây như máu Chiêm Thành đã đổ.

Tất cả phải kết thúc đi thôi. – Đổi chân trụ, chúa Nguyễn vẫn nhìn về phía núi, về phía đầu ngọn gió đang đẩy mây thổi tới. Ngài ta có vẻ như không nhận ra ba vị quan đứng cạnh. Ngài ta có vẻ như không cảm thấy ánh mắt kinh hãi của họ. – Tất cả phải kết thúc. Vùng đất này từ nay sẽ mang tên là Bình Định.

53

Việc sắp xếp ổn định Quy Nhơn, bây giờ mang tên là thành Bình Định, khó hơn họ đã nghĩ. Không chỉ phải kiểm kê, điểm danh hết hơn bốn vạn hàng quân, phải thu gom những quân lính trốn tránh khắp trong vùng để chia họ vào đội Ngự lâm quân, đội quân vừa mới được thành lập cho hàng binh, những dự định của chúa Nguyễn còn vấp phải sự phản đối ngay trong hàng ngũ quân Nguyễn. Nguyễn Văn Thành là người lên tiếng trước tiên.

- Không thể thu nhận bọn chúng, chúa công. – Vị Chưởng Tiền quân nói. Mắt anh ta chằm chằm nhìn Lê Chất đang đứng trên sân. Ở Diên Khánh, Nguyễn Văn Thành là người đã nhận được lá thư quy hàng của Lê Chất trước kia để chuyển đến cho vị chúa. – Qúa nguy hiểm. Bốn vạn quân còn lớn hơn số quân của chúng ta, cho chúng gia nhập thì lúc chúng phản sẽ nuốt chửng cả chúng ta, huống hồ còn có cả thống lãnh của chúng ở đây. Chúng tổ chức gắn bó chặt chẽ với nhau đã lâu, chỉ trong tình thế chẳng đặng đừng mới về hàng, lòng chúng vẫn không phục. Khi có chuyện, chỉ cần bọn chủ tướng hô một tiếng, tất cả sẽ biến chuyển không biết đường nào.

- Đúng thế, chúa công. - Ở bên cạnh Nguyễn Văn Thành, Huỳnh Đức cũng sốt ruột nói theo. – Nhắc đến điều này thì không phải, nhưng chúa công có còn nhớ đến lúc Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc định dùng tôi thần nhà Nguyễn? Có nhiều kẻ bị bức nghe theo, trong đó có cả thần, nhưng chỉ cần chúa công trở lại, bọn thần cũng ngay lập tức quay về. Không những thế, thần còn làm Nguyễn Văn Duệ đem cả một toán quân đối đầu với Huệ. Dùng người của địch là đem hổ vào nhà. Chừng nào bọn thần phản chúa công thì chúng mới phản chúa của chúng.

- Nghĩa là… khanh đánh đồng ta với Tây Sơn? – Chúa Nguyễn nhướng mày. Rồi ngài ta chậm rãi cười trước gương mặt thoáng thất sắc của vị tướng trước mặt. – Điều các khanh nói, ta cũng đã từng nghĩ đến. Nhưng đây không phải là lần đầu tiên chúng ta thu nhận người của Tây Sơn, có phải? Và nhiều người trong số họ đang đánh nhau ở Mân Khê, kềm chân Tây Sơn để chúng ta có thể chiếm được Quy Nhơn này. Nhiều người trong số họ đã đi theo ta từ ngày ta trở về Gia Định, thành qủa mà ta có ngày hôm nay có một phần công sức của họ. Nếu không cho họ một cơ hội, ta cũng sẽ mất đi một cơ hội. Hãy để họ thấy ta có lòng dung thứ họ chứ không phải như bọn Tây Sơn kia loan truyền rằng chúng ta đến để giết chóc trả thù, như vậy thì lính trên chiến trường cũng không mang tâm trạng giết chóc hận thù, mà người trong thiên hạ cũng sẽ về với ta. Chiến thắng một hai đội quân thì dễ, chiến thắng toàn diện mới là việc khó.

- Ta không thể tin chúng được, chúa công. – Đặng Trần Thường vẫn đứng khoanh tay bên cạnh chợt lên tiếng. Anh ta nhìn theo ánh mắt Nguyễn Văn Thành đến Lê Chất, khuôn mặt lộ rõ vẻ ghét bỏ sâu cay. – Chúng là bọn phản chủ. Nhạc đã cho chúng bao nhiêu ân tình, đã đưa chúng đến danh vọng ngày hôm nay, thế mà chúng theo kẻ khác giết chết Nhạc rồi con trai Nhạc, coi đó là việc như không. Khi gặp chuyện thì chúng đấu đá nhau tranh giành quyền lực, không sự hèn hạ nào không dám làm, sự thua trận ngày hôm nay cũng do chúng tự gây ra. Đã thế chúng cũng chẳng đáng mặt kẻ làm tướng lâm trận. Tham thặng tướng quân của ta giữ thành Diên Khánh đến sức cùng lực kiệt cũng không bỏ chạy, nay chúng mang tiếng là quan giữ thành mà chỉ vì thiếu chút lương, vì run sợ mà kéo nhau ra hàng, mong giữ cho được cái mạng hèn mạt của chúng. Chúng nổi loạn đã là bất Nhân, giết chết chủ là bất Nghĩa, đấu đá sa đọa là bất Lễ, vì chút quyền lợi mà tranh giành hại nhau là bất Trí, giữ thành mà không tròn bổn phận là bất Tín, vì nhát sợ mà đầu hàng là bất Dũng.

Bọn chúng khi gặp thời thì nghênh ngang tàn ác, khi gặp cơ hội thì hèn hạ tranh giành, khi gặp vận thì mạnh ai nấy sống, qụy lụy thảm thương. Để có được quyền lợi, chúng không việc gì không dám làm, dưới thì giết người, trên là giết chủ, ngang hàng thì giết đồng liêu. Vì mình, chúng không việc gì không dám làm. Thu nhận bọn này về, chúng chỉ làm loạn triều chính, hàng ngũ của ta. Buộc đứng chung với chúng, thần cũng phải cảm thấy xấu hổ.

Dù họ không cử động, sự đồng tình trong những quan tướng quanh chúa Nguyễn vẫn có thể cảm thấy được như có hàng loạt cái gật đầu. Chẳng ai lạ gì tính cách cứng rắn của Đặng Trần Thường – anh ta bỏ vào Nam chỉ vì không chịu nổi chữ “tùy thời” của giới sĩ phu – nhưng lúc này đó là điều mà mọi người, rất nhiều người cùng cảm nhận. Chiến thắng dễ dàng ở Quy Nhơn làm vị trí của những kẻ theo hàng hạ thấp không thể thấp hơn trong mắt kẻ chiến thắng. Bốn vạn quân là một con số lớn mà họ không tưởng được cho một đoàn hàng binh. Và cũng đáng cười cho một đoàn hàng binh chưa đánh đã hàng. Hàng với sự kháng cự yếu ớt trong vòng chỉ có mấy ngày.

- Đã nói rằng đừng so sánh chúng với ta, đừng so sánh Tham thặng với chúng. – Chúa Nguyễn nói như thở ra sau một lúc trầm ngâm. – Phải, chúng chỉ là bọn quan tướng nhỏ, tư cách không đáng để tâm. Nhưng khi Tây Sơn tại vị, đem hết Đông cung Dương rồi vua Lê ra lừa gạt, hoặc hứa hẹn những chuyện hão huyền, rất nhiều người tin lời mà đi theo, rồi không thể nào phản đối được nữa. Các khanh cũng là những người từng trải việc đời, đâu phải không biết những ấm lạnh của nhân tình thế thái, không nên câu chấp qúa. Ngày xưa triều Định vương, triều Trịnh mạt, những kẻ anh hào bị cuốn vào vòng tranh chấp, làm những chuyện chẳng đặng đừng đâu phải là không có, hoặc là người trong hoàn cảnh của riêng mình mà lựa chọn sai lầm cũng đâu phải là ít ỏi. Triều Tây Sơn suy tàn, quân tướng của chúng chẳng có động lực chiến đấu, cũng chẳng có ý muốn bảo vệ một triều đình mục ruỗng bất nhân nên không muốn đối đầu với ta. Khi hàng ta, họ muốn bảo toàn sinh mạng cho hàng vạn con người của họ là một, mà cũng đỡ cho ta sự hy sinh, tránh được tai kiếp cho dân chúng là hai. Họ vì tin ta không làm hại họ mà hàng ta, ta nên đem lòng tin tưởng mà đãi ngộ họ. Dù có kẻ phản ta, đó cũng là lỗi của chúng, không thể đổ lỗi cho ta được.

- Chúng là bọn phản phúc, nói chuyện đạo nghĩa với chúng phỏng có ích lợi gì? – Đặng Trần Thường vẫn khăng khăng nói. – Ta tha cho chúng, nhưng nếu có cơ hội, chúng có tha cho ta?

- Vậy thì phải giết tất cả những kẻ mà mình không thích sao? – Chúa Nguyễn ngắt lời Đặng Trần Thường. – Kẻ cai trị được người khác là làm sao cho họ không có cơ hội chống đối mình. Cả vùng đất này đều không ít kẻ muốn không tuân theo ta, giết người của họ thì ta làm sao thu phục được? Giết các tướng của chúng thì đám hàng quân này lại chẳng có kẻ làm phản báo thù cho chủ chúng à? Lúc ấy loạn nối tiếp loạn, làm sao mà trị yên? Thời điểm bây giờ và địa điểm này rất nhạy cảm, chẳng lẽ một người như khanh lại không biết?

Ta sẽ phân tán các hàng quân, hàng tướng ấy ra cho các khanh cai quản. Muốn chém muốn giết hay muốn cảm hóa gì thì tùy các khanh, nhưng chúng có muốn làm phản thì cũng các khanh chịu trách nhiệm.

Câu nói cuối là một lời đe dọa. Các tướng nhìn nhau, rồi dù có không ít những cái cau mày, họ cũng không còn phản đối nữa. Họ phải chấp nhận rằng hoàn cảnh mà vị chúa nói là đúng. Không thể giết cũng như làm hại đám hàng quân, hàng tướng, phải giữ chúng lại, và tất cả trách nhiệm ấy đặt vào tay họ.

Nhưng vẻ bất mãn sâu cay không thể nào mất đi trên khuôn mặt những người như Đặng Trần Thường. Khi ra khỏi cuộc họp, cả Ngô Tùng Châu cũng phải lầm bầm.

- Tôi không thích cái thành này. – Anh ta nói, chỉ đủ cho Võ Tánh nghe thấy. Lãnh việc kiểm kê số hàng quân và dân chúng quanh vùng, công việc của các văn quan đi theo quân rất vất vả. Chàng đã thấy mắt Ngô Tùng Châu trũng sâu. Nhưng anh ta không thể giấu được vẻ tức bực.

- Nghe nói anh là người Quy Nhơn mà. – Chàng tò mò hỏi. Nghe nói, vì chàng cũng không biết đích xác quê của Ngô Tùng Châu ở đâu, chỉ nghe rằng anh ta khai trong lý lịch mà vị chúa bắt làm vài năm trước là quê quán Quy Nhơn. Ngô Tùng Châu cau mày nhìn chàng.

- Cũng đâu có nghĩa tôi thích cái thành này. Thu phục được thành rồi phải giữ thành. Trong khi anh ra ngoài mà xem, dân chúng xem ta không khác gì bọn xâm lăng. Trong thành thì chúa công giữ hơn bốn vạn quân, gấp đôi quân số của chính chúng ta! Chẳng lẽ ở cái thành này, anh có thể ngủ yên được à?

- Từ khi đi đánh trận thì chẳng đêm nào ngủ được đầy giấc. – Võ Tánh cười nhẹ. – Nhưng anh mong chờ gì ở đất địch? Tây Sơn khởi nghiệp ở đây, tất nhiên coi đây là đất thang mộc, quan hệ của chúng cũng khác với xung quanh chứ. Đã hơn hai mươi năm rồi, người ta cũng đã quen, đã quên mất họ Nguyễn là gì rồi.

- Cảnh chúa Nguyễn đánh Chiêm Thành được lặp lại, hử? – Ngô Tùng Châu nhướn một bên mày. – Bây giờ ta làm gì đây? Hát cho họ nghe bài Hoài Nam khúc? Bảo những người Gia-tô giáo đến thuyết phục đồng hương?

- Không đợi anh nói, chúa công có lẽ đã làm rồi. – Chàng vẫn chỉ cười. Ngô Tùng Châu có vẻ mất kiên nhẫn, hoàn toàn trái ngược với vẻ trầm tĩnh thường ngày. Có vẻ như sự mệt mỏi đã cùng với thời tiết khắc nghiệt, cảm giác bất mãn với các “đồng liêu” mới và thái độ của người bên ngoài đã tác động đến không chỉ anh ta mà còn nhiều người nữa. Chiếm được thành nhưng họ không được nghỉ ngơi một giờ khắc nào, khối công việc nặng như núi đè xuống họ ngay lập tức.

Đã tháng tám, trời oi bức ngột ngạt giữa những cơn mưa rừng ẩm ướt. Họ phải sắp xếp nhanh cho kịp đến lúc gió đổi chiều. Đó mới thực sự là khó khăn đối với họ. Gió đổi chiều, thủy quân sẽ phải rút lui khỏi Quảng Ngãi, để quân Tây Sơn tràn xuống. Cũng giống như tại Diên Khánh, nhưng không như Diên Khánh, ở đây chỉ có mình họ cô độc – Nếu để tình hình tệ hơn, thì là bốn vạn hàng binh mà đúng như Đặng Trần Thường nói “không thể nào tin được”.

Rồi sẽ phải sắp xếp ra sao với Quy Nhơn? Chàng cũng không thể đừng mà băn khoăn khi bước về phía phòng chỉ huy được bố trí trong điện. Khu điện này tươm tất hơn chàng nghĩ. Khi ở nơi đây, Nguyễn Nhạc đã xây một vương quốc khá tiện nghi cho mình không thua gì điện đài nơi khác. À, mà chàng cũng chưa từng biết điện đài nào ngoài Quy thành để so sánh. Nhìn cách tổ chức chẳng khác một cung đình thực sự ở nơi đây, chàng biết mình đang phải đối phó với thứ cơ cấu chặt chẽ thế nào. Đã hơn hai mươi năm qua đi từ khi Tây Sơn chiếm lĩnh vùng Quy Nhơn, xây dựng nền thống trị, áp đặt lên chúng dân triều đình và thói quen của mình. Quân trong thành cũng là người Quy Nhơn, là con em của dân chúng trong vùng, do đó họ đối xử với quân Nguyễn đầy nghi kỵ. Chẳng trách một người điềm tĩnh như Ngô Tùng Châu cũng phải phát cáu.

Và chúa Nguyễn cũng chẳng làm tình hình khá hơn lên với lệnh kiểm soát quân đội của mình chặt chẽ nhưng lại nương tay với kẻ địch. Quá nương tay, thậm chí đến chàng cũng có thể nói. Thu nhận tất cả hàng tướng, từ Tổng trấn Quy Nhơn Lê Văn Thanh đến Thượng thư Binh bộ Nguyễn Đại Phác, những viên quan nhất nhị phẩm trong triều Tây Sơn, mà không có một hình thức thẩm tra xử lý nào, quả thật quá dễ dãi lẫn phiêu lưu. Thậm chí, chàng nghe nói vị chúa đã cho thả cả một kẻ bắn lén ngài ta, một đại tướng Tây Sơn không chịu khuất phục, vì thích khí phách của hắn. Quá phiêu lưu, chàng quả thật đã nghĩ. Điều mà ngài ta tin tưởng và theo đuổi, cái đạo lý và lẽ phải mà ngài ta đưa ra trước toàn quân, có thể sẽ phải chịu thử thách lớn lao. Trước hết là trong chính đội quân của ngài ta, những viên quan phản đối và bất mãn ra mặt. Đạo lý, họ hiểu rõ, nhưng họ còn là những con người, và họ hiểu rằng kẻ địch cũng là những con người. Con người không sống vì đạo lý hay chỉ sống theo đạo lý của riêng mình.

Chàng đi qua thành Quy Nhơn rộng mênh mông, bao quanh bởi bốn bức tường cao đã bị tróc lở khá nhiều vì những cuộc công thành. Thế đất trong thành không bằng phẳng như Quy thành tại Gia Định, có những gò, đồi cao hẳn lên, nhấp nhô tháp canh lẫn điện đài, nhà cửa nối tiếp nhau như một thành thị thực sự. Triều đình của Nguyễn Nhạc đã không còn ở đây hơn sáu năm, cung tẩm lẫn nội điện của Hoàng Đế thành đã trở thành nơi trú đóng của gia đình các quan lại hoặc bị bỏ hoang. Cũng khó bắt gặp bóng phụ nữ trong thành, có lẽ họ đã được đưa ra ngoài gần hết khi nghe tin quân Nguyễn tiến đánh. Thành bị hạ khá nhanh, và hầu như vẫn còn nguyên vẹn khi không có cuộc đào thoát hay cướp phá nào xảy ra.

Trước phòng chỉ huy lố nhố một đám lính. Thấy chàng đến gần, bọn họ tản ra, người có vẻ như Chưởng chi của họ bước ra cúi đầu trước chàng.

- Vụ của Nguyễn Công Hu đã xử xong, còn lại xin tướng quân định đoạt.

Chàng nhướng mày trước câu nói lạ lùng ấy. Nguyễn Công Hu là viên tướng đã bị bắt khi vào vùng của dân chúng hiếp đáp phụ nữ, bị chúa Nguyễn ra lệnh chém đầu. Việc đã xử xong, sao “còn lại”?

Hơi nghiêng đầu, chàng nhìn qua viên Chưởng chi đến đám lính vẫn còn đứng. Bên cạnh, sau họ, chàng thấy thấp thoáng một mái tóc dài. Một phụ nữ. Chàng chợt hiểu ra. Cô gái đã bị làm nhục.

- Cô ấy sao rồi? – Chàng hạ giọng hỏi, cốt để cô gái đằng xa không nghe thấy. Viên Chưởng chi biết ý, cũng hạ giọng.

- Cô ta bị câm, lại không biết chữ, hỏi gì cũng chỉ gật với lắc. Thậm chí hỏi về chuyện… hắn có làm gì… thật sự làm gì cô ta không, cô ta cũng không làm cách nào trả lời được. Được chăm sóc một thời gian, cô ta đã khỏe rồi, cũng đã bình tĩnh lại, nhưng hình như cô ta không có thân thích trong làng, không ai đến nhận. Chúa công bảo chúng ta phải có trách nhiệm chăm sóc cho cô ta, nhưng chúng ta giữ cô ta lại không tiện. Bà mụ mà ta nhờ chăm sóc cho cô ta cũng đã cáo từ về nhà, chúng tôi định đưa cô ta đến hỏi xem chúa công và tướng quân định đoạt thế nào.

Một cô gái câm không thân thích? Giờ thì họ phải đối đầu với rắc rối gì nữa đây? Chàng lắc đầu nhẹ, bước đến trước cô gái vẫn ngồi trên bậc thềm, hình như không hề cảm thấy gì quanh mình, cả lời nói lẫn sự xôn xao của họ. Cô ta đang nhìn lên trời. Cho đến tận khi chân chàng đã bước lên bậc thềm, cô gái mới quay đầu lại. Dễ nhìn, và rất trẻ, cô ta dường như chưa đến đôi mươi. Không có gì đặc biệt trên gương mặt cô gái, chỉ trừ đôi mắt buồn buồn, đen nhánh. Một gương mặt rất trong trẻo, trong trẻo đến kỳ lạ. Thậm chí nhìn cô ta bây giờ, không ai nghĩ đó là nạn nhân của một cuộc cưỡng bức. Thấy chàng, có lẽ nhận ra cả sắc phục tướng quân của chàng, cô gái cũng chỉ nghiêng đầu. Những ngày ở đây, có vẻ như cô đã quen với người trong quân, rồi coi họ như cỏ, như cọng cỏ mà cô đang cầm trên tay.

- Ta là Tham thặng tướng quân, Tổng chỉ huy ở đây. – Chàng nói, hạ chân nửa ngồi nửa qùy để đối diện với cô gái. Cô ta cũng chỉ chớp mắt khi nghe chàng giới thiệu. – Ta thay mặt mọi người, xin lỗi về chuyện đã xảy ra với cô. Cô khỏe chứ?

Có vẻ như đó không phải là câu chàng định hỏi. Nhưng cô gái cũng gật đầu. Chàng lại đang thầm nguyền rủa mình. Chàng không hề quen với việc đối mặt với phụ nữ để xử lý những chuyện thế này. Có lẽ nên nhờ Trịnh Hoài Đức hay thậm chí là vị chúa, họ biết cách nói chuyện khéo léo hơn chàng.

- Thế này, - Chàng vượt qua một khoảng ngập ngừng để nói tiếp bằng giọng bàn luận công việc. – Chúng tôi biết rằng cô không có thân thích, lại khó có thể trở về, vậy cô có nguyện vọng gì không? Chúng tôi có thể đưa cô về Gia Định, tìm cho cô một việc làm tốt?

Cô gái trân trân nhìn chàng, lắc đầu. Cái lắc đầu kiên quyết đến mức chàng biết rằng mình đã gặp rắc rối.

- Vậy là cô muốn ở lại đây? – Chàng vừa hỏi vừa khẳng định. Cô gái gật đầu rất nhẹ. – Chúng tôi sẽ cho cô một khoản tiền, dựng nhà, hay quán nước, quán cơm nào đó để cô kiếm sống, được chứ?

Giọng chàng vẫn rất nhẹ nhàng, nhưng cô gái cau mày. Cô ta đang mím môi, và sắc giận không thể lầm lẫn được trên gương mặt vừa mới có vẻ rất bình yên.

- Chúng tôi phải có trách nhiệm với cô. – Chàng vẫn không hiểu mình vừa nói sai điều gì, cố gắng để biện bạch lý do của mình. – Hoặc là… chúng tôi biết việc này tổn hại đến cô rất lớn. Nếu không… chúng tôi sẽ tìm cho cô một người chồng. Chúa công sẽ tìm trong quân người nào tốt để làm mai cho cô…

Xoạch! Cử động bất ngờ của cô gái cắt ngang lời nói của chàng. Làm tướng trên chiến trận, phản ứng của chàng đủ nhanh để nghiêng đầu tránh bàn tay cô gái. Cọng cỏ trên tay cô ta ném vào mặt chàng, quét ngang qua đuôi mắt. Chưa dừng lại, cô ta gần như lao vào chàng, bàn tay kia lại nắm thành một nắm đấm lao đến. Chàng vội giữ tay cô ta lại. Qua lúc kinh ngạc ban đầu, những người lính xung quanh cũng ùa tới nắm lấy cô gái vùng vẫy, lôi cô ta lùi xuống thềm.

- Dẫn đi, bảo mấy cô hầu làm cô ta dịu xuống! – Người Chưởng chi vội quát. Quay về phía chàng vẫn còn kinh ngạc, ông ta xua tay như thanh minh. – Cô ấy từ sau việc đó thường nổi nóng bất thình lình như vậy. Nghe nói rằng lúc đầu cô ta dở điên dở dại mất mấy ngày.

- Nhẹ tay với cô ấy thôi. – Chàng lắc đầu, nói to cho cả những người lính đang đem cô gái đi cũng nghe thấy. Mái tóc cô gái xổ tung trong khi đầu lắc qua lắc lại trong cuộc gào thét câm lặng. Vẫn ngồi trên bậc thềm, chàng nhặt lên cọng cỏ rơi vào trong áo, thở dài.

- Tướng quân… - Người Chưởng chi vẫn đứng cạnh chàng như chờ đợi. Chàng đứng dậy, lắc đầu.

- Để cho cô ấy bình tĩnh lại đã, ta sẽ hỏi chuyện sau.

Lần sau sẽ do người khác hỏi cô ta, chàng nghĩ thầm khi bước đi. Đúng thật là chàng không hề có duyên nói chuyện với phụ nữ. Ngay cả với Ngọc Du, nhiều lần chàng đã làm cho nàng nổi nóng. Có lẽ chàng chỉ hợp được với con bé út, nhất là khi nó vẫn chưa biết nói. Khi chàng đi, nó đã nói khá sõi và có thể “Chào ba” rành rọt, còn cố bá cổ chàng hôn một cái. Có lẽ nó vẫn tưởng rằng chàng chỉ đi xa một vài ngày như những chuyến tuần hành Gia Định trước đây. Đã bốn tháng rồi, không hiểu nó có nhớ chàng không? Trong những đứa con, bé út lại là đứa mà chàng cảm thấy có sự gắn kết sâu sắc nhất. Có lẽ vì chàng đã ở bên nó ngay từ lúc ra đời, đón nó vẫn còn nhỏ xíu, đỏ hồng, nhăn nhó. Hình ảnh ấy vẫn làm chàng mỉm cười mỗi khi nhớ lại.

Lúc chàng đi, con bé không khóc. Không đứa trẻ nào khóc. Hai đứa lớn đã quen, đã biết về những chuyến đi của chàng. Con bé Hồi còn rất hãnh diện về chàng, nó đem đủ chuyện mà người ta kể về những chiến công của chàng trong triều nói cho đứa em trai. Và hẳn bây giờ nó lại đang kể như thế để dỗ dành con bé út. Khi chàng đi, bé út chỉ nắm tay áo chàng, nhắc đi nhắc lại “Ba nhớ về sớm”. Ngọc Du đã đưa chàng đến thành để từ đó đoàn quân sẽ ra đi. Trên đường, nàng cũng chỉ nắm lấy tay áo chàng. Chàng cảm nhận thấy cái siết tay của nàng trên lớp vải căng cứa vào da. Nhiều đêm, chàng vẫn hồi tưởng lại cái cứa nhẹ ấy ở cổ tay.

Đó là lý do chàng thấy sợ những ngày bình yên kéo dài, qúa dài. Bên cạnh nàng, bên cạnh những đứa trẻ, chàng không muốn rời đi. Chàng chỉ muốn được sống như thế, mỗi đêm được trở về nhà, nghe tiếng của những đứa con, được thấy chúng lớn lên từng ngày, ôm lấy Ngọc Du và quên đi ngày tháng trong vòng tay của nàng. Mặc cho những xa xót lặng thầm và những vết thương không bù đắp được, cuộc sống của họ vẫn cứ trôi, rồi đã tạo thành một ký ức êm đềm trong lòng chàng mỗi lúc rời xa. Ký ức tựa như ánh lửa trước đoạn đường của khách lữ hành.

Có thể là lạ lùng, nhưng gặp cô gái nọ lại làm chàng nhớ Ngọc Du. Đã bốn tháng rồi. Và thực lòng, chàng đã thấy nhớ nhà. Đó lại là điều chàng không thể nói với ai được. Không ai. Chàng chỉ có thể đổ lỗi cho những ngày yên bình kéo dài đã tạo thành một thói quen biếng lười thường trực.

Nhưng có thể vẫn không bằng kẻ khác, chàng nghĩ khi ánh mắt dừng lại ở nơi Đặng Đức Siêu đang đứng. Ông ta đã không dự họp cùng họ, giờ đây lại đứng dựa vào cột hàng hiên phe phẩy quạt trong dáng điệu nhàn rỗi đến mức tưởng như đây là một buổi tổng dợt cho lễ hội. Chỉ có điều, khi lại gần, chàng nhận ra ánh mắt Đặng Đức Siêu đang hướng về phía Lê Chất cùng đám hàng quân, ánh mắt khiến chàng nghĩ đến thái độ của Nguyễn Văn Thành, Huỳnh Đức và Đặng Trần Thường vừa nãy.

- Tiên sinh đang nghĩ gì vậy? – Chàng cười, đánh tiếng để Đặng Đức Siêu nhận ra. Ông ta đưa mắt nhìn sang chàng rồi quay về phía sân, vẫn phe phẩy quạt. Khi nói, giọng ông ta mơ mơ màng màng.

- Tôi đang nghĩ lại chuyện xưa khi Tần đánh Triệu. Hai mươi vạn quân Tần đã bao vây thành Trường Bình, tuyệt lương khiến bốn mươi vạn quân Triệu phải ra hàng. Lúc ấy, tướng Tần là Bạch Khởi nói: Ta đã hạ hai thành, nhưng dân hai thành không theo ta mà vẫn hướng về Triệu. Nay có thêm bốn mươi vạn hàng quân, lỡ chúng làm phản thì biến động khôn lường. Bạch Khởi liền chia bốn mươi vạn hàng quân thành mười đội, khuyến dụ họ rằng ai muốn theo mình thì theo, không thì cho về nhà. Liền sau đó, Bạch Khởi cho chuốc say đám hàng binh, trong một đêm giết sạch, chỉ còn một trăm bốn mươi người về Hàm Đan báo tin.

Ngày nay chúng ta cũng mắc vào tình thế như vậy. Thành đã hạ mà dân không theo, hàng binh còn đông gấp đôi quân ta. – Đặng Đức Siêu thở ra khi chàng không lên tiếng. – Chúa công nhắc lại chuyện Bạch Khởi, ngài ấy qủa cũng có nghĩ đến rồi. Ngay trong đám hàng binh ấy cũng chia bè kéo cánh. Mấy ngày nay tôi quan sát, nhận ra rằng chúng cũng chẳng ưa gì nhau. Lê Văn Thanh thù Lê Chất vì chuyện lừa gạt hắn, Từ Văn Chiêu hục hặc với tướng cũ của Nguyễn Nhạc. Nếu để Đoàn Văn Cát về đây gặp Lê Văn Thanh, Lê Văn Ứng thì lại chẳng đánh nhau báo thù cho Nguyễn Quang Bảo hay sao? Càng nghĩ càng thấy rối.

- Tiên sinh nhắc lại chuyện Bạch Khởi, chẳng phải cũng đang suy nghĩ đến cách làm ấy à? – Chàng nghĩ mình hiểu được sự cân nhắc trong lời của Đặng Đức Siêu. Ông ta vẫn chỉ thong thả cười.

- Qủa là có như vậy. Nhưng làm thế cũng không có lợi. Chúng ta còn phải giữ danh tiếng của mình để mưu việc lâu dài, đâu thể như quân Tần đem sức mạnh áp chế kẻ khác. Đám quân dân Quảng Ngãi đang giúp chúng ta ở Mân Khê, đám dân Thượng ở Phú Yên, Quảng Nam, đâu phải tự dưng mà tập hợp được. Dù có mộ dân giữa đường, chúng ta cũng phải tìm cách để họ không bỏ trốn mất. Chúng ta người ít, lương ít, vốn chỉ dựa vào những chiếc thuyền cắt vụn trận địa quân địch được có mấy tháng ít ỏi, không tìm được hậu thuẫn trong ngoài thì làm cách nào cũng không thể thắng.

- Lời của tiên sinh qủa thật rất lạnh lùng. – Chàng chỉ lặng lẽ nói trước thái độ của Đặng Đức Siêu. Thái độ thờ ơ hờ hững y như khi ngồi trên con thuyền uống rượu dạo nọ. Chàng bắt đầu ngờ rằng nhịp độ tấn công gấp gáp, việc tận dụng sức người, sức của ngay trên đường hành quân này là do ý kiến của ông ta đưa ra.

Đặng Đức Siêu cười nhẹ, gấp chiếc quạt lại.

- Nếu có lòng nhân từ, tôi đã chẳng tham dự vào cuộc chiến này, thưa Tham thặng. – Ông ta kéo dài giọng như chế giễu. – Khi đã tham gia, tôi chỉ đặt ra một mục đích duy nhất: Chiến thắng. Làm cách nào để thắng – đó là việc của tôi. Nhân từ với kẻ khác trong chiến tranh là hủy hoại chính mình. Tôi không thể đặt lên bàn cân sinh mạng nào qúy hơn sinh mạng nào, ai đáng chết hơn ai. Đây là quê hương của tôi, đội quân Gia Định lại nằm trong sự quyết định của tôi. Anh nói xem, ai là kẻ đáng chết ở đây? Anh nói xem, nếu chúng ta không đến đây, cô gái mà anh vừa gặp kia đã chẳng sống yên bình trong rừng núi, đâu có ra như thế.

Đã đoạt quyền của trời đất thì phải có cái công bằng tỉnh táo của trời đất. “Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm”. Nếu anh không muốn chết, không muốn thất bại, thì anh phải tỉnh táo. Anh không có quyền hy sinh bất cứ ai chỉ vì cảm xúc của riêng mình. Anh nhìn xem ở đây ai là kẻ đáng chết?

- Vậy thì tiên sinh nghĩ nên để cho ai sống? – Chàng nói, sau một lúc. Điều mà Đặng Đức Siêu nói, có chỗ chàng vẫn chưa hiểu được, nhưng chàng nghĩ mình hiểu ý ông.

- Chuyện này không phụ thuộc vào tôi. – Lại xòe chiếc quạt ra, Đặng Đức Siêu trở về trạng thái lờ đờ cũ. – Oán khí chồng chất mấy trăm năm, chỉ có linh khí ngất trời may ra giải được.

Chàng nhướng mày trước câu trả lời của Đặng Đức Siêu. Nhưng ông ta dường như không có hứng thú nói chuyện nữa, đã chìm vào trong cõi im lặng mông lung của riêng mình.

“Bây giờ đã hẳn mặt chăng?
Phấn tô trung nghĩa, mực nhằng tà gian.
Làm cho thiên hạ lầm than,
Tội danh biết để mấy ngàn muôn thu?
Bây giờ coi thế đã cô
Quân thần ban tối, cừu thù bữa mai.
Làm vua ví chẳng mệnh trời
Nếu tranh mà đặng nhiều người cũng mơ.
Xưa kia cờ đã về ta
Trong tay chẳng phất để ra tay người.
Có thân thì đoái sau nầy,
Chẳng ngay cùng chúa ai ngay cùng mình.
Cáo kia chớ cậy có thành.
Trần Hòa dễ chống dân tình đặng đâu.
An nguy còn tưởng khoe mầu.
Thành cao oan nghiệp, ao sâu tội tình.
Sao chẳng học phép dụng binh?
Lấy trung làm giáp, mài thành làm gươm.
Nghĩa nhân trận ấy thường đàm
Giữ bền, đánh đặng, ai làm chi hơn.
Cớ sao rước oán, gây hờn.
Một mình khiến chống cho hơn cả trời.”

Ông nghe tiếng đọc văng vẳng sau bụi tre trúc, nhưng vẫn đều đặn bước, không đứng lại. Hoài Nam khúc, bài thơ mà chúa Nguyễn sử dụng trên tất cả những chặng đường mình tới. Lần đầu tiên nghe, có nhiều đoạn khiến ông phải mỉm cười. Qúa ngô nghê, ông đã nghĩ. Nhưng dần dần, ông đã phải lấy làm kinh ngạc về sự chính xác của những lời tưởng chừng phán đoán ngô nghê ấy. Bài thơ đã được viết hai chục năm về trước, và lại đúng đắn với tình hình hiện tại đến kỳ lạ. Người phương Đông với triết lý thâm sâu và lịch sử lâu dài của họ hẳn đã đạt được đến sự minh triết mà ông nghĩ mình không có được, dù có sống thêm trăm năm nữa. Bảy năm đầu khi đến phương Đông này, ông đã dành hết thời gian để học tiếng nói, ngôn ngữ, chữ viết của họ. Những năm sau đó, ông lao vào tìm hiểu văn hoá của họ, kể cả những trường phái triết học khó hiểu và mập mờ nhất của phương Đông. Ông cho rằng không thể cải đạo người dân mà không biết gì về cội nguồn văn hoá, niềm tin của họ. Và ông đã có một niềm tự hào nho nhỏ về hiểu biết của mình, hiểu biết không thua bất cứ một nhà Nho Đông phương nào. Ông có thể thuyết phục cả một Tống Phúc Đạm cứng rắn và già dặn, ông có thể cuốn hút cả một chúa Nguyễn được dạy dỗ và lớn lên trong những tín điều cũ kỹ, ông có thể đứng trong triều đình phương Đông mà không phải cúi đầu trước bất kỳ ai. Ông vốn rất tự hào về bản thân mình, thực sự. Đã rất tự hào.

Nhưng cũng có những lúc như thế này, ông cảm thấy mình nhỏ bé và nông cạn. Dù có hiểu biết về phương Đông đến đâu đi nữa, ông vẫn là một người Tây dương, vẫn suy nghĩ theo lối của người Tây dương, cố sắp xếp mọi thứ thành những lý lẽ có thể hiểu được, bằng những cơ sở mà mình tin tưởng.

Nắng chiều đang dần tắt khi mây kéo về dày đặc. Đó là một nhịp điệu đều đều chán ngán của trời đất miền nhiệt đới. Nắng rồi lại mưa, gió rồi lại mây. Gần bốn mươi năm sống tại nơi đây cũng đủ để ông làm quen và trở nên thân thuộc đến mức có thể đoán biết cả sự chuyển động của thời tiết. Ông nghe mùi đất bốc lên ngàn ngạt và thấy đàn kiến đỏ ruổi nhau đi trên cành cây náo loạn. Mưa sắp đến, và đó là một cơn mưa lớn.

Tiếng đọc thơ vẫn vang như chẳng hề nghe thấy tiếng gió mưa. Người phương Đông, ông thầm nhủ khi nghĩ đến những vị quan của chúa Nguyễn. Những viên quan ghét bỏ ông đến độ chỉ muốn lấy đầu ông treo trên cổng chợ, mặc cho những gì ông đã làm. Họ cho rằng đó là đương nhiên, ông đã làm mọi thứ cho chúa của họ là đương nhiên, rồi ông đã được trả công bằng những chuyến buôn bán hàng hóa của các thủy thủ Tây dương, bằng sự tự do chưa từng có cho các giáo sĩ, con chiên, bằng các nhà thờ và cả sự khoan thứ “không chấp nhận được” của vị chúa cho thái độ “dị giáo” của những người của ông, bằng cả sự chấp nhận cho thái độ chống đối và kháng lệnh của những giáo xứ Gia-tô mà không một nhà nước nào có thể bỏ qua. Thế đã là qúa đủ. Và ông nợ họ, nợ tính mạng của Tống Phúc Đạm, thanh danh của vị chúa, tuổi thơ của Đông cung Phúc Cảnh, cả những lần các viên quan vì chống đối ông mà bị tống vào ngục. Sẽ đến lúc họ đem tất cả các món nợ này ra đòi, ra tính toán để bắt ông phải trả. Ông cũng tự biết điều đó, như ông cũng đang tính toán các sự được mất trên đường đi. Dù thật lòng ông cảm thấy tất cả những điều này phi lý đến không thể chịu được.

Gió ào ào thổi, rít lên trong những khu rừng, trên đỉnh núi nghe như tiếng kêu khóc của ngàn vạn con người. Mùi núi rừng tanh tanh lành lạnh xộc vào khứu giác ông. Nhưng ông không đứng lại, cũng chẳng rảo bước nhanh thêm. Mặc cho trời đất đang quằn quại thét gào, ông thấy lòng mình nhẹ hẫng. Nhẹ đến mức như không hề có. Nhẹ đến mức ông thấy cả sự hiện diện của mình cũng như biến mất. Ông cứ bước, đều đặn. Đều đặn.

Nhưng cũng chỉ khi ông đã bước chân lên bậc thềm đá của nhà thờ, mưa mới rơi xuống những giọt đầu tiên to nặng. Khi ông đã đóng cánh cửa nhà thờ lại sau lưng, mưa mới ầm ào đổ xuống như một tràng cười gầm rú rít dài trong rừng trước khi lao đến ngoài cánh cửa. Ông đã không nghe thấy nó nữa, cũng không nhìn thấy. Ông đã khép cánh cửa lại, và dù có thắp nến, bóng tối trong nhà thờ vẫn làm ông phải mất một lúc mới làm quen, phân biệt được khung cảnh những hàng ghế nối nhau kéo dài trước một cây thánh giá lớn gắn trên tường, sau bục giảng kinh. Đến lúc ấy, ông mới nhận ra hình dáng của một người đã ngồi yên lặng trên ghế hàng đầu, nhìn ông đi vào. Người ấy vẫn yên lặng nhìn ông bước đến, chỉ mở miệng khi ông đã lên tiếng trước.

- Chúa công đến tìm tôi có việc gì? – Ông hỏi, hơi cúi đầu. Những giọt mưa đã kịp rơi xuống vai giờ làm ông cảm thấy lạnh. Tiếng mưa bị chặn lại ngoài khu nhà nghe như thanh âm từ ngàn xa dội đến. Khuôn mặt vị chúa khuất nửa trong bóng tối không được ánh nến soi sáng. Ông không thấy ai trong nhà nguyện, hẳn họ đã bị vị chúa bắt đi ra sau nhà thờ.

- Công việc của Thượng sư ổn chứ? – Vị chúa không trả lời ông, vẫn chỉ ngồi yên, thậm chí không cử động lấy một ngón tay. Ngài ta chỉ nhìn ông như thể thăm dò. Ông mỉm cười trước cái nhìn ấy, tự mình ngồi sang ghế hàng bên kia lối đi. Nếu thấy thế, hẳn các quan sẽ nổi giận. Nhưng giờ thì không có ai trong nhà thờ. Không ai, ngoài họ.

- Tôi đã đi thăm các giáo xứ quanh vùng. Thấy chúng ta đến, họ rất mừng. Những người phải trốn tránh vì việc bắt đạo của Tây Sơn cũng đã trở lại. Có được sự ủng hộ của họ, công việc của chúa công sẽ thuận lợi hơn. Nơi này giáo dân khá nhiều. Từ dạo Tây Sơn làm ra vẻ nương tay với họ rồi hết Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đến Lê Trung bắt đạo, cấm đạo, tróc nã giáo dân, đánh thuế nặng, thì họ đã chỉ mong ta đến giải thoát cho họ.

Ông nói và cởi áo khoác ngoài, ngón tay chạm vào nơi những hạt mưa đã rơi. Không khí trong nhà nguyện bao giờ cũng mát lạnh, giờ so với khí hậu bên ngoài lại có vẻ ấm áp hơn. Đã đến mùa thu, ông thầm nghĩ. Trên đường đi, ông đã thấy những chiếc lá đầu tiên ngả vàng. Nơi đây có mùa rõ rệt hơn so với phương Nam. Phương Nam, Gia Định vốn không mùa, chỉ có lá xanh và dòng nước chảy mãi, chảy mãi như không bao giờ kết thúc hay thay đổi. Ồ không, ông biết rằng mọi thứ đều có kết thúc và thay đổi, chỉ là “dường như”. Đó là một khoảnh khắc, một cảm giác, một cảm giác trong khoảnh khắc, một khoảnh khắc của cảm giác.

Ông lại đang có ý nghĩ giống như Phật tử hay đạo sĩ, ông nhún vai, dứt khỏi những suy nghĩ ấy. Hẳn ông đã ở nơi đây, trong những thứ xáo trộn này qúa lâu rồi.

Chúa Nguyễn vẫn nhìn ông. Ông không thích ánh mắt của ngài ta bây giờ. Sự tính toán trong mắt ngài ta giờ cũng khác. Trong mắt ngài ta, ông lại thấy một niềm… cảm thương, có lẽ. Một niềm cảm thương dành cho ông.

- Thượng sư đã vào thành phải không? – Ngài ta hỏi, vẫn không chịu nói về điều ngài ta có lẽ đang muốn nói. Ông gật đầu. Ông cảm thấy mệt mỏi với thứ lịch sự vòng vo của người phương Đông.

- Tôi cũng biết rồi, chuyện của Giáo hoàng. – Ông nói, lộ rõ vẻ mệt mỏi. Và nói tiếp ngay sau đó. – Tôi cũng đã nghĩ về điều này nhiều lần rồi.

Ông đã nói như thể trấn an vị chúa, nhưng chính ông, ông nghe thấy giọng mình trống rỗng. Trong đợt chuyển lương đến Quy Nhơn, các thủy thủ Tây dương đã vội vàng chuyển thư cho giáo sĩ, thông báo với ông một cái tin khiến bất cứ trái tim người Gia-tô giáo nào cũng phải chùng xuống: Giáo hoàng Pius VI đã chết trong ngục ở Valence, sau hơn một năm bị Napoleon giam giữ.

Nhưng trái ngược với suy nghĩ của ông, không ai hoảng loạn. Các giáo dân ở đây vốn chẳng có một khái niệm thật sự nào về Giáo hoàng lẫn vùng đất xa xôi như ở thiên đường. Chúa sẽ phù hộ chúng ta, họ nói. Còn các giáo sĩ Tây dương, như ông, họ đã phập phồng, đã hy vọng, nhưng cũng đã học cách chấp nhận. Từ ngày giáo hội bị diệt vong, họ đã biết rằng thế nào cũng đến ngày người đứng đầu của họ phải trả giá, phải tử vì đạo. Chết trong ngục, cái chết ấy dù sao vẫn còn nhẹ nhàng hơn trên máy chém hay giá treo cổ. Máy chém, đó thật sự là một “phát minh” mới mang đầy tính ứng dụng thực tế của cuộc cách mạng Phú Lang Sa. Từ cái ngày ấy, chẳng ngày nào lưỡi máy chém ngừng rơi. Ở đất Phú Lang Sa, loạn lại xảy ra khi Đốc chính viện trừ diệt nhau – nhưng ông không để tâm đến cái tin ấy. Cả cái sự rối loạn ấy cũng trở nên mệt mỏi đến chán chường. Chúng giết người, rồi chúng giết nhau, ông nói, hờ hững, thậm chí chẳng cần nghe đến lần này ai sẽ - hay đã - chết.

- Chúa công không phải vì thế mà đến tận đây. – Một lúc sau, ông nói. – Mọi việc vẫn ổn. Dù sao đi nữa, các giáo sĩ vẫn ủng hộ ngài. Họ chẳng còn tin vào ai được nữa, ngoài ngài. Ngoài ngài, chẳng còn ai bảo vệ cho họ nữa.

Ông đã nói điều này rất thật tâm, không hề có ý muốn ép buộc ngài ta. Dù sao, ngài ta cũng là cậu bé mà năm xưa ông đã cứu sống, đã đi theo, đã tin tưởng. Dù sao, giữa họ cũng đã tồn tại một điều gần như tình bạn. Ông không thể cuốn hút ngài ta vào Gia-tô giáo, nhưng lòng say mê khoa học của ngài ta là do ông tạo thành. Ông, phải, chính ông từ ngày còn nhỏ cũng rất say mê khoa học, sáng tạo. Ông đã học vẽ những khẩu súng, những cỗ xe mà ngày nay ông vẽ cho ngài ta. Nếu không trở thành thầy tu, có lẽ ông đã học thành kỹ sư. Ông nghĩ về điều đó bây giờ với nụ cười mỉm nhẹ bẫng.

Vị chúa gật đầu, ngồi thêm một lát rồi đứng dậy. Khi ngài ta mở cửa ra, tiếng mưa dội thẳng vào phòng như một cơn lũ, một dòng thác. Ngài ta gọi qua sân, qua tiếng mưa đến người cận vệ mà ông đã đi ngang không nhận thấy, bảo chuẩn bị ngựa để đi về. Rồi ngài ta khép cửa, để tiếng mưa ở bên ngoài, quay lại nhìn ông.

- Cả hai chúng ta đều có chung mục đích. – Ngài ta nói, sau một lúc quan sát ông. – Con người vốn rất ngu dại, có phải?

- Chúa giận loài người tàn ác ngu muội nên làm cơn Đại Hồng Thủy. – Ông nói. – Chúa lại cho chiếc thuyền của Noa đi cứu họ. Chỉ có con người mới cứu được con người.

Tiếng gõ cửa bên ngoài cắt ngang lời vị chúa. Ngài ta chào ông, đi ra, khoác áo tơi vào. Hình ảnh cuối cùng của ngài ta mà ông thấy là gương mặt nghiêng nghiêng ướt mưa. Tiếng ngài ta thúc ngựa, và rồi tiếng vó ngựa lẫn vào trong mưa.

Ông qùy xuống trong căn nhà nguyện chập chờn ánh nến, cúi đầu trước thánh giá.

- Thiên Chúa nhân từ. – Ông nhắm mắt, thì thầm.

Ngày hôm sau, người trong nhà thờ làng Mỹ Cang chạy vội đến thành Bình Định báo tin cho chúa Nguyễn: Giám mục Thượng sư Bá Đa Lộc đã qua đời.

54

Mưa đã rơi suốt đêm về sáng rồi đột ngột tạnh hẳn khi tiếng chim chợt đồng loạt cất lên vang dội khắp núi rừng cùng ánh mặt trời ươn ướt ló ra sau đám mây. Trong sự yên lặng của sân điện, họ nghe rõ tiếng gió đang xào xạc xung quanh.

Vị chúa vẫn chỉ vừa mới khoác áo ngoài lên vai, ngài ta đứng lặng trước người giáo sĩ trông coi nhà thờ đang qùy trong sân. Người dọn dẹp nhà thờ đã tìm thấy Thượng sư trong phòng nguyện, nằm sấp trền sàn đá lạnh, giơ hai tay sang bên như đang cầu nguyện. Khi được tìm thấy, Bá Đa Lộc đã không còn thở nữa, toàn thân lạnh toát. Có vẻ như ông đã mất hồi đêm, khi đang nằm trên sàn đá. Không có dấu hiệu của một cuộc xô xát, thậm chí là cử động. Bá Đa Lộc nằm đó, chỉ như đang ngủ. Người trong nhà thờ cùng viên thầy thuốc người Tây dương là Dominique Desperles đã cuống quýt đỡ ông dậy, xoa bóp, thậm chí cho thuốc dốc đổ vào miệng, nhưng không còn kịp nữa.

Chúa Nguyễn vẫn chỉ đứng lặng khi người giáo sĩ đã kể xong, khuôn mặt ngài ta trắng bệch trong ánh sáng xanh của buổi sáng ngày. Không ai quanh ngài ta dám lên tiếng.

- Thượng sư vẫn ở nhà thờ à? – Vị chúa hỏi, sau đó, giọng nói âm u như gió đang thoát qua những rặng rừng sâu.

- Vâng… - Người trông coi nhà thờ lại có vẻ ngập ngừng. – Các giáo sĩ đi theo Thượng sư và ở quanh vùng nghe tin đã tập hợp, định làm lễ an táng cho Giám mục ở cạnh nhà thờ.

- Thượng sư là thầy của con trai ta, sao lại có thể đối xử với ông ấy như thế? – Chúa Nguyễn cau mày. Ngài ta quay đầu sang nói với Nguyễn Văn Trị đang đứng sau lưng. – Sắp xếp thêm vài người nữa đến nhà thờ đón Thượng sư về thành, làm lễ cho tử tế.

- Nhưng Giám mục là người Gia-tô… - Người giáo sĩ đang qùy biến sắc. Cũng như mọi người, ông ta biết chúa Nguyễn đang định làm gì. Khâm liệm Bá Đa Lộc theo lối những “nghi thức China”, điều mà Giáo hội đã triệt để ngăn cấm, và không một giáo sĩ nào có thể chấp nhận.

- Đưa ông ấy về đây nhanh nhất. – Chúa Nguyễn chỉ nói với Nguyễn Văn Trị trước khi quay vào điện, có vẻ như thậm chí chẳng buồn tranh cãi với người giáo sĩ Quy Nhơn kia.

Tuy vậy, công việc mà ngài ta giao cho Nguyễn Văn Trị không hề dễ dàng. Mãi đến chiều tối, khi cửa thành sắp đóng, đoàn người của anh ta mới kéo chiếc xe ngựa phủ kín về, theo sau lại là một đoàn giáo sĩ, người Gia-tô giáo, người Tây dương. Khi chiếc xe ngựa vừa dừng lại trước sân, đoàn người cũng đồng thời đứng thành hàng sau nó, những người Việt qùy xuống trước mặt chúa Nguyễn.

- Giám mục là người Gia-tô, xin chúa công cho phép Giám mục được hoàn thành ước nguyện của người. – Người giáo sĩ đứng đầu trong bọn họ nói. Có vẻ như Nguyễn Văn Trị đã phải xô xát với họ để lấy được xác Bá Đa Lộc, áo vài người bị rách. Nhưng đã đến tận đây để đi theo quan tài Bá Đa Lộc, họ cũng không có vẻ sẽ bỏ cuộc.

Chúa Nguyễn nhìn họ, nhìn qua quan tài của Bá Đa Lộc đã được cởi bỏ tấm vải phủ ngoài, rồi nhìn lại người giáo sĩ đứng đầu.

- Ước nguyện của Thượng sư là giúp đỡ triều ta bằng hết sức của ông ấy. – Ngài ta nói, đều đều không cảm xúc. – Nếu ta để một người công lớn nghĩa trọng như ông ấy phải vùi thân nơi rừng núi cô quạnh này, người khác sẽ nhìn ta ra sao?

- Đồng không mông quạnh? Chúa công không định để Giám mục ở nơi đây? – Người giáo sĩ chớp mắt, vẻ ngạc nhiên rất thật lòng.

- Ta sẽ đưa di thể Thượng sư về Gia Định. – Chúa Nguyễn vẫn nói bằng giọng không để ai có dịp bàn luận. Ngài ta vẫy tay ra hiệu cho Nguyễn Văn Trị đẩy chiếc xe về phía nhà khâm liệm đã được sắp đặt sẵn trong thành. Đoàn quân bao quanh tách ra để chiếc xe đi qua, liền sau đó khép đội hình lại, đẩy những người Gia-tô giáo muốn đi theo về chỗ cũ. Người giáo sĩ vẫn chăm chăm nhìn vị chúa, đôi mắt ngày càng thảng thốt.

- Ngài định… Không thể được, chúa công! Ngài không thể đối xử với Thượng sư như thế! Nghĩa tử là nghĩa tận, làm ơn, chúa công… – Ông ta lắp bắp, gần như là kinh hãi. Chúa Nguyễn nheo mắt nhìn ông ta. Khi nói, giọng ngài ta hạ xuống, chỉ cho hai người nghe được.

- Thầy coi như không biết, thế là không sao cả. – Ngài ta nghiêng đầu, hơi ghé lại về phía người giáo sĩ. – Ta nhất định phải đem Thượng sư về, thầy cũng nhất định muốn chống đối ta? Ta làm việc này để bày tỏ lòng trân trọng với Thượng sư, chẳng lẽ chỉ có thế cũng không được, chẳng lẽ các thầy muốn người ta nghĩ rằng ta khinh rẻ Thượng sư? Vậy thì công lao bao nhiêu năm của Thượng sư thành đổ sông đổ biển à?

Môi người giáo sĩ run run, nhưng ông ta cũng chỉ đứng lặng yên. Chúa Nguyễn chắp tay sau lưng đi vào thành sau khi bảo quan của mình tiếp đãi những người Gia-tô giáo rồi cho họ về. Có nhiều tiếng phản đối yếu ớt vẫn còn vang trong họ. Và cả sự không bằng lòng trong chính hàng ngũ quân tướng Gia Định.

Cái chết đột ngột của Bá Đa Lộc khiến nhiều người phải kinh ngạc, cả những người đã vô cùng ghét bỏ ông ta. Rồi sau đó, lệnh của vị chúa phải đưa bằng được Bá Đa Lộc về thành, bí mật chuẩn bị quan tài cùng quy trình ướp xác đã cho thấy ngài ta quyết định chuyển di thể Bá Đa Lộc về Gia Định. Về Gia Định, khi gió nồm đang vào lúc cuối mùa, Quang Toản ở Mân Khê cũng vừa rút quân. Trong những xáo trộn đang diễn ra, họ không chờ đợi thêm một cái chết nữa. Nhà khâm liệm được nhanh chóng dựng lên, càng làm không khí cuối hạ đầu thu trong thành trở nên u ám. Điều tốt duy nhất là không dùng khí nhạc cùng kinh kệ đọc trong tang lễ, có ai đó đã thì thầm. Căn phòng liệm chỉ có bên ngoài giăng vải trắng cùng khói hương nghi ngút là mang vẻ Đông phương, còn lại, khi bóng đêm tràn xuống, căn phòng nằm ở góc cung điện trong thành chỉ được bao phủ bằng sự quạnh quẽ cô liêu tịch mịch.

Võ Tánh và Đặng Đức Siêu đi qua hai người lính vừa ngáp vừa dựa vào cây cột trước phòng liệm để đi vào. Quan tài Bá Đa Lộc được đặt giữa phòng, đã thay chiếc quan của người Gia-tô có hình thánh giá đắp nổi bằng quan gỗ đen nặng nề. Bài vị của ông đã được làm xong, đặt sau lư hương đang cháy ngút khói. Đèn trong phòng được thắp sáng, nhưng chỉ làm cho màu trắng của những tấm màn càng thêm u ám lạnh lẽo. Tại chiếc bàn kê ở góc phòng, vị chúa đang ngồi một mình cùng bình trà trước mặt. Thấy họ vào, ngài ta chỉ nhướng mày.

- Chúng ta chuẩn bị về Gia Định. – Ngài ta nói trước khi họ cất tiếng hỏi, ra dấu cho họ ngồi xuống những chiếc ghế xung quanh. Đặng Đức Siêu vẫn chỉ đứng dựa vào tường sau lưng chàng, tay khoanh lại. Họ không ngạc nhiên trước quyết định của vị chúa. Dù sao cũng đã tháng chín, sắp đến mùa gió bấc, thủy quân phải rút khỏi Quảng Ngãi, đại quân phải lui khỏi nơi hiểm địa này.

- Không có xáo trộn nhiều chứ, chúa công? – Chàng hỏi. Có nhiều việc khiến họ phải bận tâm hơn là đi hay ở lúc này. – Những người Gia-tô sau việc này có thay đổi thái độ với chúng ta?

- Bây giờ dù có Bá Đa Lộc hay không, họ cũng sẽ theo ta. – Vị chúa nhẹ nhàng nói. Một nếp nhăn xuất hiện giữa đôi mày của ngài ta. – Giáo hoàng của Tây dương vừa mất, Bá Đa Lộc qua đời, ta sẽ dễ dàng thu phục họ lúc này, chỉ cần bảo đảm rằng họ sẽ an toàn. Chỉ cần bảo đảm được những nhu cầu tối thiểu nhất của họ đã là quá đủ.

- Bá Đa Lộc đột ngột mất à? – Đằng sau chàng, Đặng Đức Siêu chợt lên tiếng. Trong giọng nói của ông ta có điều gì khiến chàng cũng phải thấy lạ. Vị chúa nhìn lên ông ta, đôi mày càng cau lại. Ngay cả trong ánh mắt ngài ta phảng phất ánh nhìn bực bội và phật lòng trước câu hỏi của Đặng Đức Siêu. Dường như cũng thấy mình đi qúa lố, ông ta vội nói tiếp rất nhanh. - Gia-tô giáo cấm tự sát. Hẳn Thượng sư không bao giờ làm điều đó đâu.

Nhưng ngài định tổ chức tang lễ truyền thống hay tang lễ Gia-tô cho Thượng sư, chúa công? – Đặng Đức Siêu nói như thể bàn công việc. – Nếu là tang lễ Gia-tô, quan triều sẽ không vừa lòng. Nếu là tang lễ truyền thống, người Gia-tô sẽ phản đối. Huống hồ bây giờ chúa công cho ướp thi thể Thượng sư, người bên ngoài mà biết được, nhất là những người Tây dương, họ sẽ kinh hãi thế nào? Nơi đây không phải là cung điện để tìm được những cỗ quan tốt khâm liệm trong hàng tháng trời, chúng ta còn cách nào khác để chuyển di thể Thượng sư về Gia Định?

- Bá Đa Lộc là Thượng sư của ta, nhất định phải tổ chức lễ xứng đáng với vị trí của ông ấy. – Vị chúa nói mà không mở miệng. Chàng nghe Đặng Đức Siêu cười nhẹ.

- Có nhiều cách để bày tỏ lòng thương tiếc, thần chỉ định hỏi về chuyện đó, chúa công. Ví dụ như, ngài có thể để người Gia-tô giáo lãnh phần chôn cất Thượng sư như một vị thánh của họ, xây nhà thờ tưởng niệm ông ấy, ngôi mộ lớn cho ông ấy, tất cả những gì theo phong tục của họ.

- Thượng sư của ta thì làm lễ theo kiểu của ta. – Vị chúa ngắt lời Đức Siêu. Ngài ta trông càng lúc càng giận. – Thượng sư là người trong nhà ta, dùng lễ Thái phó mà tổ chức cho ông ấy.

Đây là việc trong nhà của ta, không ai được can thiệp vào, chàng nghĩ mình hiểu ý nghĩa ấy, và Đặng Đức Siêu cũng vậy. Ông ta vẫn còn định nói gì nhưng lại thôi. Vị chúa đã gọi họ đến bàn việc, mà Bá Đa Lộc cũng chỉ là một phần vấn đề của họ.

- Tây Sơn sẽ lại tràn xuống. – Vị chúa nói, một lúc sau. Giọng ngài ta đã trở về vẻ tính toán điềm tĩnh. – Vừa rồi ta không cho đuổi theo Quang Toản vì quân Lê Văn Duyệt ở Mân Khê cũng không đông, trực diện đối đầu thì bất lợi. Nhưng quân ta rút đi, chúng sẽ lại tràn xuống. Chiếm được Bình Định, ta cũng kiểm soát được vùng Phú Yên, nhưng quân ta không thể đông bằng chúng. Thành sẽ lại bị vây cho đến khi gió nồm thổi năm sau.

- Thần sẽ ở lại giữ Bình Định, chúa công. – Võ Tánh nói. Chàng đã nghĩ về việc này trong hơn một tháng trời ở trong thành, và chàng cũng đã nhất quyết về điều này y như khi ở thành Diên Khánh năm nọ. – Thành Bình Định phức tạp hiểm yếu, là nơi chúng ta khó khăn lắm mới lấy được, nhất định phải giữ cho chặt thì chúng ta mới có cơ xoay chuyển tình thế, diệt trừ Tây tặc.

Vị chúa có vẻ như muốn nói điều gì, nhưng ngài ta chỉ im lặng gật đầu. Đặng Đức Siêu lại lên tiếng.

- Chúng ta tạm hãy phân tán các đội quân dọc theo Phú Yên đến Gia Định. Thần và Nguyễn Bảo Trí đã bàn định với nhau cho Tiền quân của Nguyễn Văn Thành về giữ Phú Yên trợ lực cho Hậu quân của Tham thặng ở Bình Định, Tả quân ở Diên Khánh, Trung quân ở ngoài biển sẵn sàng ứng cứu, để Hữu quân theo chúa công về lo việc trong Gia Định. Về các hàng binh, chúng ta đã chia họ thành bốn đội Ngự lâm quân nhưng cũng không thể để họ túm tụm một chỗ. Bốn đội này, chúng ta hãy tạm chia một đội cho Nguyễn Văn Thành ở Phú Yên, một đội cho chúa công đưa về Gia Định, hai đội ở lại Bình Định này cho Tham thặng tùy nghi sắp xếp. Các hàng tướng cũng theo từng đội Ngự lâm quân mà chia đi các nơi. Như vậy, ta tận dụng được binh lực của họ mà không gây xáo trộn cho đội ngũ mình.

Thần cho rằng nên để đội của Lê Văn Thanh, Lê Chất ở lại Bình Định, hai tướng này quen thuộc với Bình Định, dễ quản hơn. Vả lại, Lê Chất và Lê Văn Thanh không ưa nhau, để hai người này coi chừng lẫn nhau là tốt nhất. Phạm Văn Điềm vì tình thế mà theo ta, thật ra rất khó lường thái độ của hắn, ta nên chuyển hẳn hắn về cho Nguyễn Văn Thành coi giữ. Chưởng Tiền quân cẩn thận sáng suốt, có thể trông chừng đám người này được. Từ Văn Chiêu theo ta đã lâu, để anh ta ở Diên Khánh tốt hơn.

Việc ở Bình Định thực ra vẫn còn bề bộn, chúa công nên để thêm vài người nữa cùng Tham thặng trông nom.

Chúa Nguyễn nhè nhẹ gật đầu tán đồng lời nói của Đặng Đức Siêu. Bàn thêm vài chuyện nữa, ngài ta cho viên Tham mưu họ Đặng đi về, giữ Võ Tánh ở lại. Rót trà ra ly cho chàng, ngài ta nhìn theo cái bóng vừa khuất của Đặng Đức Siêu, cười nhẹ.

- Sự khôn ngoan của ông ấy thật cũng nhiều khi gây khó xử cho người khác. – Ngài ta nói, như tình cờ đưa mắt về phía quan tài Bá Đa Lộc. Chàng không trả lời. Ngài ta lại nói tiếp một lúc sau. – Tham thặng thật gây khó xứ cho ta.

- Vị trí ở Bình Định, chỉ có một mình thần có thể đảm đương. – Chàng nói. Chúa Nguyễn vẫn chỉ gật đầu.

- Nguyễn Văn Thành có cơ mưu, rất khôn ngoan, nhưng sự khôn ngoan của anh ta chỉ để giữ mình chứ không phải giữ thành. Ta dù cho anh ta giữ Diên Khánh lâu ngày, cũng không phải ở vị trí phòng ngự. – Vị chúa vẫn giữ nụ cười đông cứng trên môi. – Các tướng khác của ta hoặc là uy không đủ, hoặc chỉ dũng mãnh chứ không kiên cường. Lần này Tây Sơn hẳn sẽ phản ứng rất mạnh. Bình Định là đất thang mộc của chúng, chúng bằng mọi giá phải cướp lại. Tuy thành Bình Định rất vững vàng, năm xưa Huệ đánh Nhạc, nghe nói dùng đại bác nã vào thành suốt ngày đêm vẫn không phá được, nhưng chúng ta cũng sẽ rất khó khăn để phá vây, cũng như tại Diên Khánh.

- Chừng nào còn sống, thần sẽ giữ thành bằng được. – Chàng nói. Vị chúa chớp mắt, nhìn lên chàng.

- Ta cần thành, nhưng ta cũng cần khanh. Thành mất có thể chiếm lại, người mất thì ta lấy gì để đền bù?

- Thần đã nợ chúa công một mạng ở Diên Khánh, thần không bao giờ quên điều đó. – Chàng vừa nói, vị chúa đã lắc đầu, ngắt lời chàng.

- Ta nợ khanh thành Diên Khánh mới đúng. Nếu thay vì khanh mà người khác ở đó, Diên Khánh đã không giữ được. Diên Khánh làm ta mất Tống Phúc Đạm, Nguyễn Phúc Hội cũng bị vắt kiệt sức ở Diên Khánh. Lần này về mang theo di thể Bá Đa Lộc, Đông cung của ta hẳn sẽ không vui đâu. Để khanh ở lại Bình Định, ta thật không biết phải trả lời chị ta ra sao.

Chàng im lặng. Họ lặng lẽ uống trà trong màn đêm tịch mịch. Gió đang lay những tấm màn trắng làm ánh nến trong phòng trở nên chênh chao.

Chàng cũng đã nghĩ về điều này, về Ngọc Du và những đứa trẻ. Nhưng họ có thể đợi, còn thành Bình Định thì không. Nhìn đi nhìn lại, chỉ một mình chàng có thể ở lại trong thành. Không phải chàng thích thú gì việc giữ thành này, nhưng chàng biết đó là việc phải làm. Có những khi họ phải chọn những điều mình không muốn, chẳng thể nào khác được.

- Chúa công có còn nhớ khi chuyển thần về Hậu quân, ngài đã nói gì? – Một lúc sau, chàng cười. – Thần là người thay mặt cho chúa công. Vì ngài tin rằng thần biết phải làm gì.

- Không phải bao giờ ta cũng nói thật đâu. – Ngài ta cũng cười. Chàng nhớ đến lời nói của Ngọc Du thưở trước cùng một cái nhún vai. Điều đó không quan trọng.

Uống hết bình trà, vị chúa lên tiếng gọi người lính đứng ngoài sân. Đưa một bình trà khác, ngài ta nói, và tiếp sau một lúc ngần ngừ - Gọi cô gái ở sau bếp đến đây.

Một lúc sau, người lính đưa cô gái mà chàng đã gặp trước phòng chỉ huy tới. Cô ta qùy xuống trước cửa, cúi đầu thấp đến gần như chạm nền nhà. Trong ánh nến, chàng không nhận rõ cảm xúc trong mắt cô ta. Nhưng cô đã có vẻ dịu lại, đầu tóc không rối tung như cũ mà đã được vấn gọn gàng, dù được gọi vào giữa đêm.

- Ta đặt tên cô ấy là Viên. – Vị chúa nói, quan sát chàng. – Khi khanh ở đây, cô ấy sẽ theo hầu khanh.

- Chúa công… - Chàng không giấu được vẻ ngạc nhiên. Dưới sàn nhà, cô gái cũng ngẩng đầu lên, nhìn chàng rồi đến vị chúa, cau mày. Ngài ta làm một cử chỉ như thể phác tay.

- Ta đã cho cô ấy làm việc trong điện, bếp núc lẫn lau dọn, đưa cô ấy đến hầu khanh cũng đâu có khác biệt gì. Nếu chị ta ở đây, chị ấy cũng làm thế. Để mặc khanh ở đây, ta mới thật không biết phải nói sao với chị của ta.

Cô gái cắn môi, rồi lại cúi đầu. Chàng nhìn lại vị chúa, không nói. Có thể ngài ta đúng. Nếu Ngọc Du ở đây, nếu phải chọn lựa, nàng sẽ làm theo ngài ta, thậm chí còn nhẹ nhõm hơn khi đã thực hiện xong “nhiệm vụ”. Trong nàng có sự tính toán đến lạnh lùng như thế, như thể đó là một phần dòng máu vương giả mà họ kế thừa. Trong sự tính toán ấy, nàng lại rất ít khi để tâm đến cảm xúc, của chàng hay thậm chí là của chính nàng.

- Tuân lệnh chúa công. – Chàng lặng lẽ nói, một lúc sau. Không ngoảnh lại, chàng không nhận thấy gương mặt lạnh lùng như tạc bằng đá của cô gái. Cô ta nhìn vị chúa, rồi nhìn quan tài cùng bài vị choán gần hết căn phòng. Cả cô, cả chàng cũng không nghe được lời vị chúa nói.

- Nhờ cô đi theo chăm sóc cho Tham thặng.

Tháng chín, chúa Nguyễn ban sư về Gia Định, để thành Bình Định lại cho Tham thặng Quận công Võ Tánh coi giữ. Quãng đường từ Phú Yên đến Diên Khánh đã được sửa soạn sẵn hương án cho đoàn người đi qua. Chúa Nguyễn ban lệnh tha thuế thiếu cho dân Phú Yên trước khi về lại Diên Khánh. Đông cung Cảnh đã đứng đợi họ trước thành. Thấy linh cữu của Bá Đa Lộc, cậu Đông cung dường như hơi giật mình thảng thốt dù đã được thông báo trước, khuôn mặt cậu ta tái nhợt. Ta về nhanh thôi, vị chúa nói với con trai, rồi vội vàng đi sắp xếp mọi việc. Đêm đó, đoàn quân nghỉ lại trong thành, quan tài Bá Đa Lộc được để trong căn nhà dựng sẵn trong sân.

- Con nên ra thắp cho Thượng sư một nén nhang. – Vị chúa nói khi tìm được Phúc Cảnh đứng trong hiên nhìn ra căn chòi chứa quan tài. Cậu Đông cung trả lời người cha mà thậm chí không quay lại.

- Những việc như vậy chỉ để làm trước mặt người khác. Thượng sư đâu có cần ta thắp nhang cho thầy. – Giọng cậu thanh niên ngàn ngạt, trầm trầm. – Phụ hoàng làm tất cả những việc này để làm gì? Lễ để dành cho người sống chứ không phải người chết, chẳng phải chính phụ hoàng đã nói?

- Đến bây giờ con cũng không hiểu được ý nghĩa của việc thắp một nén nhang thì đó qủa là lỗi của ta. – Vị chúa khoanh tay nhìn theo người con đến căn chòi sáng ánh lửa. – Phải, lễ là dành cho người sống, nhưng ta cũng phải hoàn thành tâm nguyện của Thượng sư lúc sinh thời.

- Sinh thời… - Cảnh lẩm bẩm. Giọng nói của cậu ta tắc nghẹn trong cổ họng. – Sao Thượng sư lại có thể mất vào lúc này? Sao lại đúng vào lúc này? Phụ hoàng bảo rằng sẽ đưa Thượng sư đi theo ngài, tại sao lại để Thượng sư ra đi như thế?

- Tại sao là lúc này, con không hiểu sao? – Giọng nói của vị chúa vẫn lặng lẽ và lạnh lẽo sau lưng con trai. – Danh vọng có đỉnh cao của nó, công nghiệp có tột vời của nó, oan khiên cũng có nút thắt của nó. Giáo hoàng Tây dương đã chết, Giáo hội bị triệt tiêu, giáo dân Gia-tô trở thành lũ con chiên không người dẫn dắt, sự chống đối Thượng sư trong triều đã đến lúc không thể hòa giải được. Con nghĩ tại sao Thượng sư lại chọn lúc này để ra đi? Tâm nguyện của thầy lúc sinh thời là gì, ta nghĩ con phải hiểu hơn ai hết.

Cảnh cười khẽ. Tiếng cười bật ra khô, ngắn như thể tiếng gãy của một cành cây. Cậu ta quay nhìn cha mình, ánh mắt vừa đau thương vừa phẫn nộ.

- Tâm nguyện của thầy, tâm nguyện của phụ hoàng, tâm nguyện của chúa công – Tất cả mọi điều ngài đều có thể đem ra đong đếm như thế được sao, phụ hoàng? Tất cả mọi điều ngài đều có thể đối xử như thế được sao? Cái gì là tình, cái gì là nghĩa, cái gì là điều phụ hoàng đã bảo con phải biết? Ngài đem Thượng sư… di thể của Thượng sư… ra để diễn màn kịch cuối cùng, rồi ngài gọi đó là tâm nguyện của Thượng sư à? Ngài bảo Thượng sư đã chọn chết vào lúc này sao? Thượng sư mà lại tự sát à?

- Điều đó trái ngược với giáo điều Gia-tô, phải, nhưng có quan trọng gì. – Vị chúa vẫn điềm tĩnh trước câu nói vấp nối vào nhau của người con. Ngài ta nheo mắt nhìn chàng thanh niên. – Ta không bảo Thượng sư tự sát, nhưng người ta có thể làm chủ sự sống và cái chết của mình, con có biết? Thượng sư là một người sáng suốt, rất sáng suốt. Ở đây chỉ có con là đang bị cuốn theo cảm xúc của mình. Bình tĩnh lại mà nghĩ xem mình có thể làm gì cho Thượng sư. Ta cần con làm chủ tang cho tang lễ này. Ta sẽ tổ chức một tang lễ thật lớn. Tang lễ lớn nhất của Gia Định từ trước đến nay.

Cảnh nhìn người cha ra vẻ như không thể tin được. Ngài ta đi qua đứa con, bước xuống bậc thềm ngoài hàng hiên, tay vẫn khoanh trước ngực.

- Hãy để Thượng sư yên nghỉ như một công thần của ta. Hào quang của người sẽ che chở cho những kẻ mà người bảo vệ. Danh vọng có điểm tột cùng của nó, thời gian có khúc quanh của nó. Qúa sớm hay qúa trễ đều có thể là vô ích.

Ta đang nghĩ xem nên để kẻ nào viết một bài văn tế thật hay. – Vị chúa hơi nghiêng đầu trước ánh lửa trong đêm. Ngón tay ngài ta nhịp nhẹ vào khuỷu. – Trịnh Hoài Đức đã ở Bình Định mất rồi. Đặng Trần Thường thì chẳng bao giờ chịu làm. Ta phải nhờ đến ông lão Đặng Đức Siêu vậy. Ông ta là một người thông minh, rất thông minh, ông ấy biết ta muốn gì.

Cuối năm Kỉ Vị, đám tang Bá Đa Lộc được tổ chức trọng thể tại Gia Định. Gần hai trăm con voi được huy động trong đám tang. Vị chúa ban tặng cho Bá Đa Lộc tước hiệu Thái tử Thái phó Bi Nhu quận công, tên thụy là Trung Ý. Đông cung Cảnh làm chủ tang cùng tất cả người nhà chúa Nguyễn, kể cả các phi tần đi đưa tang.

Chúa Nguyễn đã đích thân đọc bài văn tế cho người giáo sĩ trước toàn quân dân Gia Định, trước lăng thờ mà ngài ta đã ra lệnh xây.

“Hỡi ơi,
Người nước khác mà dạ lòng chẳng khác, công non sông thẻ lụa đương cài;
Ân nghĩa tròn mà báo đáp chưa tròn, đường sống thác sớm chầy khó liệu.
Êm giấc hoè, hồn đó thanh thanh;
Nhớ ơn trước, sầu đây triều triệu!
Thủa ta mới trao quyền Nguyên suý, bạn tóc răng vui nghĩa sơ giao;
Ngày ngươi vừa làm khách viễn phương, lòng vàng đá phỉ nguyền tương chiếu.
Nghĩ lúc lưng gầy bước ngặt, đình Nam Vang, bầu Tân Lữ, phiêu lưu cho khỏi kẻ bạo tàn;
Tưởng khi mặt ủ gan phiền, trời cố quốc, bến Hậu Giang, tìm hỏi chẳng từ nơi hiểm yếu.
Cực đến nỗi cha con khôn giữ, gởi gia nhi, trao quốc bảo, trời Tây phương muôn hộc ai hoài;
May vừa đâu nhà nước mới về, đưa ấu tử, cầu lương bằng, đất Đông Phố một đoàn vinh hảo.
Công giáo dưỡng mấy thu khẩn khẩn, phước ta nhiều gần sánh Tam Vương;
Nghiệp tổ công nghìn thuở miên miên, công gã giúp ngõ toàn cửu miếu.
Đạo Tây Vực một niềm riêng giữ, chẳng cậy ai quốc tử hoàng tôn;
Nạn Nam bang trăm chước mưu lo, dựa thế sức mưu mầu chước diệu.
Nhà Thái học chia ngôi tây tịch, trải tín thành đôi buổi huân đào;
Dặm cô thành hộ giá Đông Cung, thêm khẳng khái mấy lần thượng biểu.
Mưu tế quốc kinh luân dạ đỏ, từng hay liệu địch chia đồn;
Phép dùng binh thao lược mắt tường, chi quản xông tên đụt pháo.
Chế hỏa xa, bày trái phá, dẹp loài loạn tặc thủa long đong;
Đoạn thiết tử, tán hoa ngân, giúp vận nước nhà khi thốn thiếu.
Ân nặng đó mười phần công của, trước sau trọn nghĩa tiên thi;
Lẽ cùng ta ngàn thủa tôn vinh, đây đó phỉ nguyền hậu báo.
Mấy thu trấn biên thành Diên Khánh, tặc đảng đều mất vía kinh hồn;
Một trận hàng hiểm địa Qui Nhơn, cố nhơn sớm phân bào chia áo.

Ôi!
Núi Nhạc về thần;
Trời Nam để dấu.
Giọt đồng long ô yết dễ đoanh;
Lụy lạp chúc sụt sùi khôn ráo!
Trăng tối chợt ngờ nhan sắc, mở rèm đợi khách gia tân;
Mây chiều ngắm tưởng phong nghi, thiết ỷ mong người cố lão.
Chữ “Đạo đồng sinh, dưỡng” chế tâm tang con chút đáp ân:
Câu “Vinh cập một, tồn” tặng thái phó ta đưa tình thảo.
Theo ý chúng, dõi nghi ngoại quốc, cuộc tống chung xác cất hồn cầu;
Hết lòng thành, lấy lễ Trung Hoa, cơn tử biệt bài văn lễ điếu.
Trước sống đã suy tình bằng hữu, lòng thành lo sự nghiệp trung hưng;
Nay thác rồi nhớ nghĩa quân thần, linh xin giúp cơ đồ tái tạo.

Hỡi ơi! Thương thay!
Hỡi ơi! Tiếc thay!”

Đông cung Phúc Cảnh cũng đọc cho người thầy một bài văn tế:

“Hỡi ơi!
Mấy năm dư tri ngộ, tính chửa rồi trong cuộc chinh tru;
Năm mươi lẻ xuân thu, sao vội rẽ ngoài vòng cực lạc?
Tục người khác mà tấm lòng chẳng khác, chia vàng đã rõ bạn tương tri;
Thù nước riêng mà tấc dạ chẳng riêng, rèn đá quyết vá trời Việt quốc.
Ngõ thấy nhà Lưu vận ách, đất Hứa Xương rộng rãi, đã khó khăn giặc quỷ Tào Man;
Từng than thế Hán thiếu binh, nơi Tân Dã hẹp hòi, lại khôn dụng đồ chiêm Gia Cát.
Cùng thuyền bá việt, dìu dắt đưa lá ngọc cành vàng;
Kể nỗi gian truân, nhục nhằn trải non xanh bến bạc.
Ra Thổ Châu, vào Phú Quốc, giặc sau lưng theo đuổi, cùng nhau hầu không chước giải nguy.
Đồ khôi phục, liệu tá binh, con dưới gối lìa trao, muôn việc đã đành lòng ký thác.
Ra công giúp của, khi loạn ly từng đỡ ngặt nước nhà;
Nối gót di tai, việc triều chính đã in nhau gan mật.
Dải Diên Khánh bốn bề sa mạc, lòng bền dạ gắng; giúp Đông cung khỏe sức chống thành;
Thu Quy Nhơn một lũy Đồ Bàn, thẻ vận màn che, khiến Sơn tặc cúi đầu quay bước.
Ra Bến Đá đưa nên bệnh quỷ, bệnh lại thêm dũ nhật dũ tăng;
Về Kỳ Sơn cần chuộc thuốc tiên, thuốc khôn giúp tư nhân tư tật.
Nào thủa nước Lang Sa, thành Vọng Các, đường xa dặm thẳm, mấy năm trời ai được gặp nhau;
Bây giờ miền âm giới, cõi dương gian, kẻ mất người còn, ba tấc đất mà không thấy mặt.
Đối con trẻ cho mà dạy đó, lối cổ nhân dấu hãy rành rành;
Dứt nghĩa này chẳng gác về đâu, trông thiên giới gót đà phần phật.
Phân tân chủ, xẻ chia hai ngả, bồi hồi xiết cạnh lòng đau;
Tả ân tình, lạo thảo một văn, điếu tế tạm dùng lễ bạc.
Công nặng đó, của thêm nặng đó, ngàn vàng chưa dễ đền bồi;
Còn tưởng nhau chết cũng tưởng nhau trăm thửa hãy còn ghi tạc.
Than ôi! Thương thay.”

- “Còn tưởng nhau chết cũng tưởng nhau”, người viết câu này thật hiểu lòng Đông cung lắm. – Bên cạnh Ngọc Du, trong đám đông, khi lễ nhạc được cử hành, Nhị phi nghiêng đầu về phía nàng thì thầm. Nàng gật đầu, nhận ra vẻ xanh xao không thể lầm lẫn được trong khí sắc người cháu, mắt cậu ta trũng sâu. Nhưng điều nàng quan tâm không phải là tình cảm của hai cha con vị chúa với Bá Đa Lộc, ai cũng biết điều đó.

- Nhìn họ kìa. – Ngọc Du làm dấu về phía những quan viên trong triều. Nhị phi để thoát ra một tiếng thở không rõ là cười nhạo hay chế giễu.

- Cuối cùng thì họ cũng hòa thuận với nhau. - Cô nói, vẫn chỉ thì thầm.

Cuối cùng, Ngọc Du thầm nhủ. Những viên quan được huy động đến đám tang không còn có vẻ tức tối bất mãn. Thái độ ấy, ngược lại, nằm trên khuôn mặt các giáo sĩ khi chứng kiến tang lễ nửa Nho nửa Gia-tô dành cho Bá Đa Lộc. Bá Đa Lộc được thông báo rằng đã mắc bệnh trên đường chinh chiến hạ thành Quy Nhơn, do Dominique Desperles chứng thực rằng ông đã mắc bệnh, và cái chết của ông cũng được xem như một sự hy sinh cho chiến thắng đầu tiên mà họ đạt được trong vòng hơn hai mươi năm, góp phần cho chiến thắng của họ. Cái chết đã xóa tan đi mọi bất đồng, giận dữ lẫn cay đắng. Để vị chúa có thể chính thức tôn vinh người giáo sĩ Tây dương như một công thần hạng nhất của triều đình. Bài văn tế của ngài ta là một bản tóm tắt những công sức của Bá Đa Lộc, không gì khác. Bài văn của Cảnh còn chứa đựng nhiều tình cảm hơn. Hai bài văn tế nối tiếp nhau thực sự đã tạo ra một hiệu ứng làm người ta phải ngậm ngùi.

Cuối cùng, có lẽ họ cũng đã đạt được đến một thỏa ước, một sự đồng lòng hòa hợp nào đó, Ngọc Du nghĩ khi nhìn họ bây giờ - các giáo sĩ và các quan lại. Không còn gì để họ tranh chấp nữa, bây giờ. Không còn danh vọng, cũng chẳng còn vinh quang, quyền lực. Tất cả đã ra đi theo Bá Đa Lộc. Tất cả chỉ còn lại lòng tưởng thương với một người đã khuất. Trong khi giáo hoàng Tây dương đã bị vùi xác trong nhà ngục lạnh lẽo, giám mục Bá Đa Lộc lại được vinh danh nơi đây. Trong khi các tín đồ Gia-tô bị truy đuổi trên đất Phú Lang Sa, run rẩy cầu nguyện trên đất Ý Đại Lợi, những giáo sĩ và con chiên lại có thể ngẩng cao đầu ở vùng đất này vì người giám mục của mình. Không còn gì để họ tranh chấp nữa, tất cả đã trở về trạng thái cũ, triều đình cũ của người phương Đông. Cũng không còn gì để họ khinh ghét hay kỳ thị, khi một người Tây dương đã được chính thức vinh danh trên đất Việt. Lăng mộ Bá Đa Lộc ở nơi đây, vùng đất của giáo xứ Gia-tô này, sẽ trở thành chứng cớ che chở họ, đạo giáo của ông, của họ, đánh một dấu ấn không thể xóa nhòa vào lịch sử. Có lẽ sẽ có kẻ cau mày khi nghĩ về việc ấy, nhưng bây giờ, Bá Đa Lộc đã làm được điều ông muốn. Nàng nghĩ với cái thở dài.

Nắng trưa oi ả làm sự ồn ào trong tang lễ càng trở nên inh ỏi hơn. Cả đàn voi đi theo lễ cũng trở nên bồn chồn. Phương Bắc bây giờ đã là mùa đông, nàng chợt nghĩ. Và sự lo lắng đến mức dường như là cơn chuếnh choáng lại tràn lên trong nàng. Võ Tánh đã ở lại Bình Định, bất kể chuyện gì sẽ xảy ra. Lần này lại là do chàng tự quyết, nàng nghĩ mình biết điều đó. Bốn, năm năm ròng, vị chúa đã không còn gọi chàng ra trấn thủ Diên Khánh, ngài ta biết tâm lý của chàng. Lần này chỉ có thể là tự chàng quyết định.

Dẫn những đứa trẻ ra cảng đầu thành đón chàng, nàng chỉ nhận được một cái lắc đầu “Tham thặng không trở về”. Đứa con gái út đã khóc. Nó đã luôn luôn khóc mỗi lần nhớ đến cha nó. Còn nàng, sự sợ hãi đã dâng lên nghẹn cả cổ như muốn nôn ra. Đoàn quân đã đi qua, đi qua trong sự chộn rộn và vội vã để chuẩn bị cho đám tang của Thượng sư. Còn nàng, nàng cứ đứng đó, trong nắng hạn, trong tiếng khóc của những đứa con và gió không ngừng nổi lên từ mặt sông, cùng với thân nhân của những người không trở về, ngơ ngẩn. Rất nhiều người đã đứng trong bến ngày hôm ấy, nàng nhớ lại điều đó sau này. Có rất nhiều người đã đứng ngơ ngẩn trên bến khi đoàn quân của họ ở lại Bình Định, Phú Yên, Diên Khánh…

Đáp lời cho câu hỏi của nàng chỉ là cái gật đầu của người em trai. Ngài ta trông cũng có vẻ mệt mỏi, rất mệt mỏi. Và bận rộn nữa, khi ngài ta ra lệnh tổ chức gấp tang lễ cho Bá Đa Lộc trong lúc một nửa quan của ngài ta đã ở lại chiến trường. Đã vậy, trong Gia Định mấy tháng nay lại có hỏa hoạn. Những đám cháy liên tiếp xảy ra, có lần đám cháy đã đốt trụi kho thóc ở dinh Vĩnh Trấn. Đám gián điệp của Tây Sơn quấy phá chúng ta, Phúc Hy báo cho người cha, cùng với sự xác nhận của Quốc thúc Phúc Thăng. Chúng một là muốn hủy lương của ta, hai là làm cho dân tình rối loạn. Chúng ta phải kiểm soát thật nghiêm ngặt toàn bộ Gia Định, đặt vùng đất vào trong tình trạng chiến tranh.

Đáp lời nàng, do đó, chỉ là một cái gật đầu khi vị chúa thậm chí không ngẩng lên khỏi đống giấy tờ. Tham thặng vẫn khỏe, chị không phải lo. Tham thặng bảo chị và những đứa trẻ giữ gìn sức khỏe, có thư riêng nữa, ta sẽ bảo người soạn đưa cho chị. Ngài ta nói, và khi nàng đã ra đến cửa, lại nói tiếp như vừa sực nghĩ ra.

- Ta đã cử người lo cho Tham thặng. – Ngài ta vẫn không nhìn nàng, cắm cúi vào hàng chữ đang viết dở. Nàng nhìn ngài ta, rất lâu.

- Cám ơn chúa công. - Nàng nói, cụt ngủn. Nàng thậm chí không biết đó có phải là điều nàng muốn nói hay không.

55

Ngọc Du phải chờ một lúc khá lâu trước khi vị chúa về điện. Dù đã cho người đến báo, nàng cũng phải đợi đến gần hai giờ mới thấy người em trai trở về khi chiều đã buông. Ngày cuối thu đầu đông, ánh mặt trời tắt rất nhanh, tưởng như chỉ trong một cái chớp mắt. Trong một cái chớp mắt, bóng chiều màu tím sẫm đã bao phủ nàng, thay thế cho nắng vừa kịp dịu lại. Khi cung nhân đưa những chiếc đèn tới, vị chúa cũng bước lên thềm đến bên nàng. Nàng vẫn còn nghe rõ tiếng nước róc rách dưới ngôi nhà thủy tạ khi ngài ta cất tiếng hỏi.

- Chị tìm ta làm gì?

Nàng nhướng mày trước câu nói ấy. Có sự bực bội trong nó như thể ngài ta thấy cuộc đời của nàng chẳng hề khiến ngài ta bận tâm.

- Chúa công đã nói rằng Tham thặng có gửi thư, nhưng thần chờ mãi vẫn không thấy. – Nàng nói, nhìn người em ngồi xuống ghế trước mặt, vỗ nhẹ tay vào trán.

- Ta quên mất. – Ngài ta lắc đầu, quay lại nói với người thị vệ đi theo mình. – Vào bàn của ta, lấy phong thư ở dưới chồng giấy trên bàn.

Xin lỗi. – Ngài ta quay lại, mỉm cười. Nàng để thoát ra một tiếng thở.

- Chúa công thật là bận rộn. – Nàng nói, vừa mỉa mai vừa thăm dò. Nàng đang muốn biết một vài điều, vì tò mò, có lẽ. Trong những tháng vừa qua, sống ở Gia Định, nàng cũng phải cảm thấy sự chộn rộn của cuộc chiến trong những tin báo hỏa hoạn thỉnh thoảng lại đưa về cung. May mà năm ngoái họ đã hoàn thành công việc kiểm kê dân cư, bây giờ thì nàng hiểu mục đích của nó, sự chuẩn bị cho thời gian này.

- Ta thật muốn đánh cho mỗi kẻ coi sóc ở đây một trận. – Vị chúa cũng dùng lối nói nửa đùa nửa thật mà trả lời nàng. – À, ta cũng đã định cho Ký lục dinh Vĩnh Trấn năm mươi roi rồi, nhưng con trai lão là Trần Đại Luật lại ra xin chịu đòn thay, làm ta cũng chẳng dám đánh mạnh tay.

Năm sau ta phải để Đông cung ở lại Gia Định thôi. – Ngài ta nói tiếp khi thấy nàng cau mày. – Bọn chúng cũng đã biết dùng chính cách làm của ta rồi, Gia Định này không thể để loạn được. Càng gần lúc tận diệt, sự vùng vẫy càng mạnh.

Ngọc Du nhìn xuống chiếc bàn đá, nghe tiếng nước lách tách ngày càng rõ, rồi xa dần. Nàng không biết có nên nói điều mình định nói hay không.

- Phải, nên để Cảnh ở lại Gia Định. Tâm trạng nó dạo này không tốt. – Nàng nói, sau một lúc im lặng. Nhìn lên, nàng thấy bóng chiều đang đổ xuống trong mắt người em trai. Bóng chiều đang dần tan biến, để thay vào đó là bóng tối. Màu tím sẫm tắt dần như một hơi thở ngắn trong lồng ngực.

Nàng không biết có nên kể cho ngài ta nghe hay không, chuyện Cảnh đã đến tìm nàng đêm hôm ấy, ngay trước đám tang Bá Đa Lộc. Cậu ta đến vào nửa đêm, khi mọi người đều đã ngủ say, thậm chí bảo người hầu coi cửa đừng lên tiếng. Vì không ngủ được, nàng đã nghe tiếng cửa mở ra rồi đóng lại, tò mò mà bước khỏi phòng. Cảnh đang ngồi trên bậc thềm trước hàng hiên, khoanh tay quanh gối nhìn lên trời. Bầu trời tràn ngập ánh trăng vằng vặc. Đã vào rằm, nàng chợt nghĩ. Nghe thấy tiếng chân nàng, Cảnh cũng không quay lại.

Làm phiền cô cô, cậu ta nói. Làm phiền cô để cháu ở đây một đêm.

Có chuyện gì vậy, có lẽ đó là điều nàng đã suýt nữa buột miệng nói ra. Nhưng rồi nàng chỉ ngồi xuống bên cạnh cậu ta, cũng ngửa mặt nhìn trời. Nàng nhớ đến mùa thu năm đó, đêm Trung thu đã xa diệu vợi như ở kiếp sống nào, Bá Đa Lộc đã ở đây, nhè nhẹ vuốt tóc đứa trẻ. Ông thương thằng bé qúa, Võ Tánh đã nói. Chàng có sự nhạy cảm kỳ lạ trong sự vô tâm đáng bực mình, có lẽ do sự cả tin của chàng đem tới. Không hiểu sao, những điều chàng nói lại thường chính xác. Nàng cũng tin vào điều đó bây giờ, khi tất cả đã chẳng còn có thể chứng minh hay bác bỏ được nữa.

Đừng qúa buồn. Nàng đã nói như thế, một lúc sau. Nàng nghe tiếng côn trùng và loài vật của đêm vang vọng trong tiếng nói mình. Thượng sư đã an nghỉ, đã đến được thiên đường.

Dù biết rằng lời của mình sáo rỗng, nàng cũng đã không chờ đợi cái cười của Cảnh. Cậu ta nhếch miệng, để thoát ra một tiếng cười chua cay và khinh miệt đến nỗi nàng phải giật mình.

Thiên đường? Thiên đường nào cho Thượng sư? Cậu thanh niên nói qua kẽ răng trong khi gương mặt thanh tú nhăn nhúm lại trong đau khổ. Thiên đường nào cho một người bị chôn cất theo lối China, thân xác được bỏ trong thùng muối để đưa về, trái ngược với mọi lẽ tử sinh của đất trời? Thiên đường nào cho một người tự chọn cái chết?

Tự chọn? Nàng không thể đừng được mà thầm hỏi. Cơn giận dữ trong Cảnh dịu lại dần trong bài ca của sinh vật của đêm cùng với gió. Mây thổi qua trăng, che lấp nó lại trong một thời gian ngắn. Cậu ta rời mắt khỏi bầu trời, cúi dần xuống. Cậu ta đưa mắt nhìn xung quanh khoảng sân rộng, khung cảnh trong bóng tối. Cậu ta nhìn xuống mặt hồ đằng xa thẳm sâu như mực. Cuối cùng, cậu ta lại gục mặt vào lòng bàn tay. Trong khoảnh khắc, tất cả sự sống của người thanh niên chỉ vừa hai mươi tuổi trước nàng như cạn sạch. Cậu ta hóa thành một cái cây xơ xác và khô kiệt trên sa mạc.

Cháu đã đẩy Thượng sư đến cái chết. Cảnh nói, thì thầm, thì thào. Cậu ta như thể đang xưng tội, xưng tội với kẻ không nhìn thấy được ở bên kia bức tường – như tục lệ của người Gia-tô. Nếu lúc đó cháu bảo vệ ông ấy, có lẽ ông ấy đã không thấy cần phải chết. Nếu lúc đó cháu đủ sức để bảo vệ thầy, có lẽ thầy sẽ không phải chết. Nếu bây giờ cháu có đủ sức lực, cháu đã có thể không để cho Thượng sư phải chịu thảm kịch này, không để cho thân xác ông ấy phải chịu dày vò này. Cháu không thể làm gì hết, không làm gì hết. Cháu đã không bảo vệ Thượng sư, chưa bao giờ. Phụ hoàng nói rằng Thượng sư đã qúa bảo bọc cháu, đúng vậy. Từ Thổ Châu, Phú Quốc đến Ấn Độ, Phú Lang Sa; từ Gia Định đến Diên Khánh, bao giờ cũng chỉ có ông ấy bảo vệ cháu. Ngày từ lúc cháu mới vừa sinh ra, cô cô nhớ không – Khi Tây Sơn đánh xuống lúc cháu vẫn còn bế ngửa, ông ấy đã cứu chúng ta, đưa chúng ta khỏi Sài Côn, ra Phú Quốc. Ông ấy không trao cháu vào tay kẻ khác, không đánh đổi cháu, không để kẻ khác làm hại cháu. Giữa bốn vạn quân, ông ấy chỉ huy giữ thành. Ông ấy theo cháu vượt qua núi, những chặng núi rừng khúc khuỷu đến kiệt sức. Nhờ có ông ấy, cháu mới có thể sống được. Vậy mà cháu đã không hề làm gì cho ông ấy, không hề làm gì. Kẻ khác tranh cãi với ông ấy, cháu để yên; kẻ khác đòi chém đòi giết ông ấy, cháu im lặng; kẻ khác nhục mạ ông ấy, cháu nín nhịn. Nếu làm chúa mà không thể bảo vệ được ngay cả thầy của mình thì để làm gì, có thể làm gì? Phụ hoàng đã mắng cháu như vậy đấy, nhưng cháu rốt cuộc cũng chẳng làm được gì. Cháu đã làm trái với mọi điều Thượng sư mong chờ ở cháu, đã gây ra tất cả những tranh cãi và thất vọng của ông ấy. Cháu đã luôn làm ông ấy thất vọng, đau buồn, rồi cuối cùng cháu lấy hết cả hy vọng cuối cùng của ông ấy. Thượng sư đã hy vọng cháu sẽ bảo vệ đạo giáo của ông ấy, nhưng rốt cuộc cháu để mặc kẻ khác nhục mạ thầy mình – Thượng sư biết không thể trông chờ gì ở cháu được nữa. Lần này, lần này chính cháu đẩy Thượng sư đến cái chết.

Thiên đường, thiên đường nào dành cho những kẻ có trái tim tan vỡ? Thiên đường nào dành cho những kẻ mất hết hy vọng? Thiên đường nào dành cho người bị đọa đày ngay cả trong cái chết?

Cô cô biết không, Đặng Đức Siêu vừa đưa cho cháu một bài văn. Một bài văn tế mà khi đọc xong, cháu chỉ muốn chết. Với tất cả những điều mà Thượng sư đã làm cho cháu, cháu là kẻ tệ bạc nhất trên đời. Vậy mà cháu còn nổi nóng với phụ hoàng, còn dám hỏi rằng phụ hoàng sao để Thượng sư chết! Cháu mới chính là người giết chết ông ấy.

Nàng nghe những tiếng nói lẫn trong bài ca u tịch của đêm, lẫn trong tiếng nức nở bị nén lại, nén lại. Nàng nhìn người thanh niên cạn khô và kiệt cùng, rõ ràng thấy được khoảng trống trong trái tim cậu ta nứt toác giữa khoảng đêm vắng lặng.

Cháu có làm Giáo hoàng Tây dương bị giết không? Cuối cùng, nàng nói, kéo áo khoác sát hơn vào mình để tránh cơn gió lạnh. Trăng vẫn lù mù không qua nổi lớp mây dày. Cháu có làm Giáo hội ở Ý Đại Lợi bị diệt không? Cháu có làm nhà thờ ở Phú Lang Sa bị phá nát không? Cháu có làm đất nước Phú Lang Sa sụp đổ không? Cháu có làm cho đất nước này thay đổi được lịch sử của nó không? Cháu có thể quay ngược lại hàng trăm, hàng ngàn năm để thay đổi được người dân ở đây không? Các giáo sĩ vẫn hy vọng rằng cháu sẽ như ông hoàng nào đó ở Tây dương, gia nhập Gia-tô giáo rồi bắt người dân theo mình – Nhưng họ chỉ là kẻ bên ngoài không hiểu gì về chúng ta. Nếu làm điều đó, kẻ trước tiên bị hủy diệt là cháu, là chúng ta, và rồi cả Gia-tô giáo nữa. Chúng ta chưa từng biết đến trận chiến tôn giáo nào, nhưng chúng ta biết rằng kẻ đông hơn, mạnh hơn sẽ thắng, chúng ta biết rằng mảnh đất này không cần thêm một cuộc chiến nào nữa. Ước vọng của họ ngay từ đầu đã là không thể nào thực hiện được.

Do đó, việc cháu làm cũng chỉ là để giúp họ. Nàng nói, dịu dàng. Nàng không biết mình có tin vào điều đang nói hay không, nhưng nàng đã học được cách nghe theo linh cảm của mình. Cháu giúp họ, nghĩa là không để họ bị hại, không để họ bị khinh ghét, căm thù. Cháu giúp họ không có nghĩa là nghe theo mọi ý muốn của họ. Ước muốn của con người là vô cùng, lòng tham của con người là vô đáy. Mọi thứ cần phải được điều chỉnh, phải có giới hạn. Thượng sư không bao giờ trách cháu. Ông ấy có buồn bã, nhưng ta tin rằng ông ấy hiểu. Ông ấy đã sống ở nơi đây bao nhiêu năm rồi. Người ta có nhiều khi rất cố chấp, nhưng không phải lúc nào họ cũng đúng. Ông ấy chắc chắn đã hiểu.

Cô cũng tin rằng cháu hiểu việc làm của chúa công. Nàng nhìn người thanh niên chậm chạp hạ bàn tay xuống, chậm chạp đến mức mỗi cử chỉ của cậu ta như thể kéo dài hàng giờ. Người ta chống đối một Giám mục cố gây ảnh hưởng trong triều đình, chứ người ta không thể chống đối sự nhớ ơn với một công thần. Đệ nhất công thần. Chúa công đã ban tên thụy cho Thượng sư, có phải? Trung Ý – trung thành nhu thuận, ngài ấy muốn nói gì với cái tên ấy, muốn kẻ khác nói gì với cái tên ấy? Một công thần trung thành và khiêm nhường, ông ấy sẽ được ghi nhớ như thế. Không ai chống đối ông ấy nữa, không ai đòi chém đòi giết, đòi đuổi tất cả người Gia-tô giáo khỏi đất này nữa, một khi ông ấy còn đó, còn có sự hiện diện của ông ấy – Một khi ông ấy vẫn còn có thể che chở họ. Đó là ý nghĩa của việc chúng ta thờ cúng tổ tiên mình, nhớ ơn tất cả những gì tiền nhân đã làm. Đó là lý do mà chúng ta xây nên những lăng mộ lớn nhỏ. Đó là lý do tại sao chúng ta đau buồn khi tổ tiên mình bị xúc phạm. Đó là sự sống sau cái chết của tất cả chúng ta.

Chúng ta không tin vào thiên đường, phải. Chúng ta tin vào sự hủy hoại. Nàng ngẩng lên khi đám mây vừa bay ra khỏi mặt trăng. Trăng rằm tròn vành vạnh, vàng ngăn ngắt đến nhức mắt. Chúng ta tin vào sự hủy hoại, rồi tin rằng mọi thứ sẽ lại tái sinh. Vòng luân hồi của chúng ta. Vòng tròn biểu trưng cho tất cả mọi điều trong vũ trụ này. Cô cũng chưa từng để ý đến lời nói của Phật, thật vậy. Nhưng mọi đạo giáo chẳng phải đều hóa thành từ trời đất? Tất cả đều có cái giá của nó. Ta tin rằng tất cả đều có cái giá của nó.

Tất cả đều có cái giá của nó, nàng lại nghĩ đến câu nói của chính mình khi nhìn người em trai bên kia bàn. Bóng chiều đang đổ xuống, chấp chới và heo hắt trước khi tắt hẳn. Bóng đêm đang tràn xuống, trôi xuống. Như những cái bóng của sự sống phản chiếu trên gương mặt ngài ta.

- Bá Đa Lộc đã nói với ta rằng, trái tim của Cảnh rất mềm yếu. – Ngài ta trầm lặng nói. Kể cũng lạ lùng khi nghe nhắc đến cái tên của một người vừa mất. – Trái tim của nó rất mềm yếu.

- Chúa công có nhớ khi còn nhỏ, lúc vừa mới trở về, nó đã nói tâm nguyện lớn nhất của đời nó là gì? – Ngọc Du mỉm cười. Sau đuôi mắt nàng, bóng chiều tím sẫm vừa tan như khói trên mặt nước. – Tử vì đạo. Nó nói rằng tâm nguyện lớn nhất của nó là được tử vì đạo. Ai đã dạy nó những điều như thế? Bá Đa Lộc, phải. Nhưng cả chúa công nữa, ngài cũng đã bảo rằng nó phải ra đi, rằng nó không được đau buồn. Nó chỉ biết sống cho người khác, thực hiện nguyện vọng của người khác đặt vào nó. Tử vì đạo, chết vì nước – có khác gì nhau? Vậy mà nó lại có trái tim mềm yếu đến thế. Hay là vì trái tim của nó vẫn còn đập? Hay là vì trái tim của nó chưa chết?

Ngài ta không trả lời nàng. Vốn dĩ chẳng có gì để nói, để trả lời, để thay đổi. Tất cả đã được sắp xếp vào vị trí, tất cả đều phải tuân theo định mệnh của mình. Nàng nói những điều đó lúc này chỉ để thỏa mãn bản thân mình, giải thoát nỗi u uất trong lòng mình bằng cách trút nó cho kẻ khác, không hơn. Nàng không phiền trách ngài ta. Là một người mẹ, nàng cũng hiểu rằng có những điều nàng nên làm cho con mình thay vì bảo bọc nó. Giá mà nàng có thể bảo bọc được chúng, nhưng nàng biết rằng không thể. Là một người mẹ, nàng biết rằng có những điều mà chỉ có người đã trải qua mới hiểu được.

Nhưng làm sao nàng có thể nói với ngài ta về nỗi lo lắng lớn dần lên trong nàng về người cháu? Đây là lần đầu tiên cậu ta về với người con trai mới sinh của mình, nhưng cuộc đoàn tụ bốn thế hệ trong cung điện lại bị phủ một màn mây u ám. Người cha tuổi đôi mươi ấy như chỉ vừa sực tỉnh khỏi tuổi thơ, giữa cơn bão thời cuộc. Đến tận bây giờ nàng mới nhận ra sự bảo bọc mà cậu ta được hưởng. Đến tận bây giờ cậu ta mới thật sự biết đến sự cô độc. Cô độc và lạc loài. Trong đêm, lớp vỏ đã tróc ra từng mảnh, rơi rơi như bụi cát trên mặt đất tràn ánh sáng vàng. Trong đêm, cậu thanh niên thu mình lại, và nàng nghĩ rằng cậu ta như đã bỏ mặc cả thế giới. Thế giới chẳng còn là gì đối với cậu. Nàng lại nghĩ đến cậu bé ngơ ngác năm xưa trên bến cảng, cậu bé lặng im trong góc vườn trống vắng, cậu bé kiêu hãnh cứng đầu giữa triều đình… Cậu ta luôn luôn chỉ có một mình, một mình và Bá Đa Lộc, một mình cùng Bá Đa Lộc. Nàng chưa từng hỏi cậu ta về những ước vọng và giấc mơ. Những giấc mơ, ước vọng đã bị triệt tiêu, đã bị hủy hoại, đã suy tàn và rơi vào hủy diệt, đã bị đẩy sang bên, đã bị lãng quên, đã nằm ở một góc qúa khứ không thể sống dậy nổi trong đời. Chỉ mới hai mươi, nhưng cậu ta đã sống qúa lâu, qúa lâu, đã trải qua qúa nhiều và mất mát qúa nhiều. Những điều đã mất đi mà không ai có thể nhìn hay cảm thấy, kể cả cậu ta.

Cậu ta đã ngồi rất lâu bên nàng, cho đến khi trăng đã ngả về phía bên kia rặng tre, cho đến khi nàng nghe làn gió đêm đã nhạt dần hơi sương, chuyển về hanh hao lạnh. Cô cô về phòng đi kẻo bị cảm, Cảnh nói và đứng dậy, cử chỉ cũng bất ngờ như khi cậu ta xuất hiện tại nơi này. Trăng đã gần lặn, và ảo ảnh của ký ức cũng đã tan. Ngày mai, họ sẽ cử hành tang lễ cho Bá Đa Lộc, chôn cái thân thể đã được bảo lưu bằng mọi giá để vượt ngàn dặm đường trở lại nơi này. Ảo ảnh đã tan, cũng nhẹ nhàng như màn đêm đã đi qua. Và họ không ai bảo ai, không ai cất tiếng, rùng mình trước sự biến mất của một con người, một sự sống. Tất cả diễn ra điềm nhiên và tất nhiên đến mức ngay cả nỗi đau của họ cũng hóa thành – có vẻ như – vô nghĩa.

Lúc nàng đã quay mình đi, nghĩ rằng Cảnh sẽ về, cậu ta lại nói nho nhỏ, rất nhỏ. Ngoảnh lại, nàng thấy cậu ta đứng trên sân, cách chỗ vừa ngồi chỉ chừng một bước chân. Cậu ta đang nói, không, đang đọc, âm điệu ngân nga.

“Hoàng tử bé bỏng ơi, hãy vui lên
Một ngày kia Hoàng tử sẽ lên ngôi,
Bá Đa Lộc rất thương yêu Hoàng tử.”

Có điều gì đó lại rất trong trẻo trong giọng nói cậu ta, trong giọng nói của người thanh niên. Thốt nhiên, nàng nhớ đến bài thánh ca ở nhà thờ hôm nào. Cũng một âm điệu ấy, dù là bằng thứ ngôn ngữ mà nàng không hiểu. Cũng một cách ngân nga, một lối kéo dài sau mỗi câu. Cảnh đang đọc bài thơ như một thánh ca. Thánh ca của riêng cậu ta.

Nhận biết ấy đã làm nàng phải bàng hoàng.

- Cảnh không còn liên quan đến Gia-tô giáo nữa chứ? – Không thể đừng được, nàng hỏi, với sự quan tâm của một người trong nhà. Vị chúa có lẽ cũng nghĩ không cần phải đề phòng với nàng.

- Không. Nhưng nó ở cạnh Bá Đa Lộc, quen biết thân thiết với nhiều người Tây dương, kể cả thủy thủ lẫn giáo sĩ, cả những tín đồ Gia-tô, ta nghĩ nó đã quen với đạo giáo ấy.

Ngài ta vẫn cân nhắc, nàng nghĩ mình nhận ra. Quen, đó là một từ ngữ khó hiểu và chính xác. Và nàng lại càng không thể nói ra điều mình đã phát hiện trong đêm ấy. Sự ngây thơ trong sáng của trái tim một đứa trẻ khiến nàng phải ngẩn ngơ. Và chiều sâu trong trái tim một con người khiến nàng phải bàng hoàng.

Họ có thể đổi thay tất cả. Nhưng con người, con người với những tầng sâu của ý thức trùng trùng điệp điệp, với những xúc cảm phức tạp và đa đoan như sóng triều trên mặt nước, vĩnh viễn không nằm trong bàn tay của họ. Họ - em trai nàng, Bá Đa Lộc, các giáo sĩ, các quan lại, các Thái phó, cả mẹ và bà của Cảnh – tất cả đều nghĩ rằng mình nắm được cậu ta, huấn luyện được cậu ta theo ý mình. Nhưng nàng đang sợ, nàng có một linh cảm rất rõ ràng rằng họ - tất cả bọn họ - sẽ thất bại như Bá Đa Lộc, như các giáo sĩ đã thất bại.

- Để Cảnh biết những gì chúa công làm với thân xác Bá Đa Lộc cũng là không nên. – Nàng nói với một chút phiền trách. Vị chúa nhìn xuống bàn đá, rồi lại đưa mắt về phía mặt hồ.

- Thật ra thì người đã chết cảm thấy được gì chứ? Ngay cả tin rằng có thiên đường địa ngục thì thân xác trần tục cũng chỉ là cái vỏ còn lại. Chỉ cần hiểu được như vậy thì có gì phải bận tâm qúa nhiều?

- Ngài biết rằng không phải thế, không phải ai cũng nghĩ như thế, nên ngài mới tổ chức tang lễ lớn như vậy cho Thượng sư. – Nàng cười, không có ý cợt nhạo. Người em trai nhìn nàng. Vẫn bóng tối chập chờn trong mắt ngài ta.

- Ý chí của người chết là do người sống tạo thành. Bây giờ ta có thể tôn vinh, nhưng sau thì ta cũng có thể bỏ mặc. Một việc có ý nghĩa này lại có thể được nhìn theo ý nghĩa khác. Con người sướng khổ là do mình, sao lại phải cố chấp? – Giọng nói của ngài ta vẫn dửng dưng. - Làm chủ được bản thân mình rồi mới làm chủ được người.

- Thế chúa công tin những gì ngài nói thật à? – Ngọc Du nhướng mày. Vị chúa chỉ cười. Đúng lúc đó, nội thị đưa phong thư mà ngài ta bảo tới, đưa cho nàng. Phong thư giấy dày, nằng nặng và cồm cộm. Ngọc Du cầm lấy nó trong tay, không mở ra, đứng lên cúi đầu chào vị chúa. Ngài ta cũng đứng dậy, gật đầu với nàng rồi quay bước. Nàng nhìn theo ngài ta một lúc rồi mới gọi cô hầu gái ra về.

Ngoài cửa cung vẫn còn vài mảnh vải trắng. Vải trắng vẫn phất phơ bay trước điện của Đông cung. Lại một người nữa ra đi, nàng không thể đừng được mà thở dài. Những người cao tuổi đã lần lượt ra đi. Họ không đợi được, trong hơn hai mươi năm đằng đẵng. Hai mươi năm, những người đàn ông tráng kiện, chỗ dựa của họ, nơi nhờ cậy vững chắc của họ, đã úa tàn, già nua và cuối cùng là giã biệt. Những cái chết nối tiếp nhau như một vòng quay chắc chắn, vĩnh viễn, không thể đổi thay của đất trời.

Bức thư của Võ Tánh vẫn cồm cộm trong tay nàng. Nàng vốn định về nhà mới mở ra, nhưng không thể đừng được mà đưa nó lên ngang mặt. Đã bị vùi lâu trong đống giấy tờ của vị chúa đi qua biết bao nhiêu chặng đường, bức thư chỉ bốc ra mùi đặc trưng của giấy. Nhưng còn một mùi hương gì đó ngọt dịu phảng phất mà nàng không thể lầm lẫn được từ bên trong. Nàng biết phong thư không chỉ có giấy, căn cứ vào vết cộm, nhưng không đoán ra được là gì.

Nàng cũng ngăn được sự tò mò cho đến khi về tới nhà. Vội vã đóng cửa phòng, nàng bẻ dấu sáp niêm phong lá thư. Một hòn đá trượt qua tay nàng rơi xuống bàn, nối theo sau là một chiếc túi hương nhỏ xíu và hai cái túi nhỏ khác. Mùi thơm mà nàng đã cảm thấy từ chính chiếc túi hương này. Nhặt tất cả mọi vật gom lại một chỗ, nàng mở phong thư. Thư rất ngắn. Thậm chí chẳng có ngày tháng lẫn đề mục theo lối thông thường.

“Ngọc Du,

Ta đã nghĩ mãi có nên viết thư cho nàng hay không, vì ta biết nàng không vui khi không thấy ta về. Dù có đứng trước mặt nàng lúc này, ta cũng chẳng thể nói được với nàng điều gì. Ta vốn không có khiếu ăn nói, nàng biết đấy.

Ta chỉ muốn nói với nàng rằng, Quy Nhơn đối với ta rất quan trọng. Khi đặt chân vào thành Quy Nhơn, ta đã nghĩ: Thế là mình chỉ còn một nửa quãng đường. Chỉ còn một nửa quãng đường nữa, ta sẽ đưa nàng về được Phú Xuân. Về Phú Xuân, sẽ không còn chiến tranh, không còn phải đánh nhau. Ta chưa bao giờ biết đến Phú Xuân, ta không hình dung ra được nó. Nhưng ta nghĩ đó là một vùng đất rất đẹp.

Khi đặt chân vào thành Quy Nhơn, trong ta trào dâng một ý muốn không thể nào cưỡng lại được: Đưa nàng về Phú Xuân.

Nàng hãy đợi ta, chỉ một ít lâu nữa. Chỉ một ít lâu nữa, chúng ta sẽ kết thúc được chặng đường này. Chỉ một ít lâu nữa, chúng ta sẽ được sống bên nhau mãi mãi.

Ta biết rằng nói như thế này với nàng rất khuôn sáo. Nhưng thật sự ta rất vui khi đến được nơi đây, được làm công việc này. Như đi trong một đường hầm, ta đã thấy được ánh sáng của lối ra. Vì ta rất muốn được ở bên nàng, vĩnh viễn không phải rời xa.”

Nàng đọc đi đọc lại lá thư vài lần nữa, kể cả cái dấu Tham thặng tướng quân được đóng bên dưới những dòng chữ bị cắt đột ngột như thể người đang nói chợt ngừng lại. Đó qủa cũng giống như thói quen của chàng. Mặt sau của bức thư là mấy hàng chữ nhỏ.

“Hòn đá nằm trong sông Côn, một lần đi tắm ta đã lặn xuống lấy được. Qùa cho Khánh.

Hai túi là bông tai kết bằng đá của người nơi đây, ta nghĩ có lẽ làm theo kiểu người Chiêm. Qùa cho hai con gái.

Túi hương này được làm từ những loài hoa và gỗ thơm lấy được trong rừng, trên đường ta đi. Chính ta đã sao, làm khô, tán bột. Kỹ thuật này ta học ở Trấn Biên, đã lâu qúa rồi không biết có còn tốt không, hy vọng nó giữ được hương lâu. Nàng giữ nó nhé.”

Chậm chạp, nàng đặt lá thư xuống, cầm lấy cái túi hương. Đúng là hương thảo mộc và một chút ngọt dịu của hoa. Bất chợt nàng có cảm giác muốn mỉm cười. Nàng cười một mình.

Nàng lại chợt nghĩ tới khu vườn ở gò Tre ngày xưa. Đã hơn mười năm rồi. Sau này, khi chàng trở về, họ sẽ thử đi tìm lại nơi ấy. Nàng biết chàng vẫn còn tiếc khu vườn ấy.

Chiếc túi hương nhẹ bẫng trong tay nàng, thơm như mưa đi qua khu rừng.

Nhưng ở Bình Định, mọi việc không êm đềm. Bắt đầu từ cuộc bỏ trốn của Lê Văn Ứng. Vị chúa vừa đi khỏi, tên Thái phó của Tây Sơn đã ngay lập tức bỏ trốn khỏi Quy Nhơn. Hắn sợ Lê Chất và Đoàn Văn Cát trả thù, Ngô Tùng Châu nói qua kẽ răng. Chúa công còn ở đây, chúng còn phải nể mặt mà không đánh nhau. Chúa công đi rồi, Lê Văn Ứng sợ bị trả thù vì việc dèm pha giết Lê Trung nên trốn đi.

Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu cho một loạt những cuộc bỏ trốn lẻ tẻ khác. Quân từ Mân Khê trở về, trong đó có cả Đoàn Văn Cát, đã được lệnh Võ Tánh trấn thủ lại ở Bến Đá để ngăn cuộc thanh toán nhau tiếp theo với Lê Văn Thanh để trả thù cho Quang Bảo. Đã thế, thái độ của các tướng với hàng quân vẫn chỉ ngày càng tệ hơn khi không còn vị chúa ở đó để kềm giữ họ. Tống Viết Phúc - mà dường như cả tháng bị giam trong ngục vì tội xúc phạm Bá Đa Lộc vẫn chẳng làm anh ta thay tâm đổi tính - hễ chạm mặt hàng quân là mắng. Không may mắn sao, dưới quyền của Tống Viết Phúc lại là Từ Văn Chiêu. Từ Văn Chiêu - người bị đồn đại thông gian với vợ của Nguyễn Nhạc đến nỗi phải bỏ Nhạc mà về với Huệ, rồi đầu hàng quân Nguyễn – trở thành cái gai trong mắt viên Chánh thống Hậu đồn quân Thần sách trực tính.

- Cứ như thể anh ta cho rằng mình mắng ai là người ấy lăn ra chết. – Trịnh Hoài Đức nhận xét vào một buổi sáng khi họ lại nghe tiếng mắng mỏ vọng từ đâu đó vào hàng hiên. Ngô Tùng Châu không thể đừng được mà bật cười. Viên quan họ Trịnh đang nhắc đến án phạt của Tống Viết Phúc trước đây và cái chết của Bá Đa Lộc không lâu sau.

Nhưng chàng thì thấy việc ấy chẳng có gì đáng cười.

- Anh ta vẫn không học được gì hay sao? – Chàng cau mày. – Chúa công đã bảo rằng không nên nhục mạ họ.

- Nói thì dễ, làm thì khó. Anh đối mặt với bọn chúng hàng ngày mà không thấy khó chịu à? – Trịnh Hoài Đức lắc đầu. – Nhớ năm xưa chúng đưa quân xuống tàn sát chúng ta, già trẻ không từ; em trai của chúa công, Lê Phúc Điển, Nguyễn Phúc Cốc bị bắt, vì mắng lại chúng mấy câu, Huệ giết mà không thèm để lại cái xác cho ta chôn cất. Rồi chúng nói gì? “Dân Gia Định nhút nhát lại nổi lên”. Bây giờ thì sao? Thậm chí chưa đánh đã hàng, chưa mất một cái móng tay đã kéo nhau ra hàng như đàn chuột. Anh nói xem chúng có gì đáng để tôn trọng?

- Ta ở đây là nơi đất địch, phải dựa vào người để sống còn, tình thế rất nguy hiểm, không thể dựa vào cảm tính của riêng mình được. – Võ Tánh cũng phải thoáng bực mình trước vẻ mặt của Trịnh Hoài Đức.

- Họ không nghe đâu. – Ngô Tùng Châu thở dài. – Đến chúa công còn không bắt buộc được họ thì ta làm gì được? Nay có lẽ phải sắp xếp lại, nếu không cả hai bên bất mãn nhau, người không bùng nổ thì ta cũng không chịu đựng nổi. Để Tống Viết Phúc về Diên Khánh thì hơn. Anh ta ở đây, hung bạo nóng nảy như thế thì trước sau gì cũng đánh nhau. Đặng Trần Thường cũng nên lui ra vòng ngoài, về Phú Yên.

- Còn Lê Chất? – Chàng hỏi. Thấy ánh mắt hai viên quan hướng về mình.

- Hắn không phản ta được. – Ngô Tùng Châu chậm rãi nói như thăm dò ý nghĩ của chàng. – Nhưng cả hai bên, cả ta và Tây Sơn, đều không ưa hắn. Tuy vậy, hắn cầm quân trong thành đã lâu, là phó của Lê Trung, rất nhiều người nghe theo hắn.

- Vậy là Lê Chất không nên ở lại trong thành, nhưng cũng đồng thời rất có khả năng làm lợi cho ta. – Chàng nói. – Anh đã nghĩ đến việc đẩy những viên tướng nghi ngờ ra vòng ngoài, cũng phải nghĩ đến việc kềm giữ họ. Để Lê Chất đem một số lớn hàng quân ra ngoài, anh ta vừa có thể quản lý số quân ấy, vừa có thể cản được nếu có nội loạn xảy ra.

Và cả các anh cũng nên đi nếu Tây Sơn đánh xuống. – Chàng nói, và ngắt lời hai viên văn quan vừa mới mở miệng. – Giữ qúa nhiều quân trong thành không có lợi. Chủ yếu là bố trí quân mặt ngoài để tranh chiếm chứ không nên giữ nhiều quân trong thành. Lương thực, nước uống đều khó khăn, càng nhiều người càng khó giữ. Ở bên ngoài các anh còn làm được nhiều việc chứ chết dí trong thành thì làm được gì?

- Để quản lý. – Ngô Tùng Châu nói khẽ khàng nhưng kiên quyết. – Tướng lo việc điều quân, quan văn lo việc cai quản bọn họ, không thể để xảy ra tình trạng rối loạn rồi tướng phải đi kiểm kê từng người, từng số thóc gạo trong thành, lúc ấy còn tâm trí đâu mà phòng thủ. Trong những trường hợp nguy cấp, quan văn còn phải khích lệ tinh thần quân sĩ. Tôi biết tướng các anh vẫn khinh rẻ văn quan nhút nhát, nhưng chúng tôi theo quân bấy lâu nay cũng đã quen với súng đạn rồi.

- Nhưng chúng ta cũng cần ít người thôi. – Biết vấp phải một bức tường, chàng hạ giọng nói. – Một quan văn và một quan võ quản lý, thế là đủ.

- Tôi sẽ ở lại. – Ngô Tùng Châu nói trước bất cứ ai. – Hoài Đức còn có vợ con, tôi thân cô thế cô, ở lại giữ thành là hợp lý.

- Sao lại nhắc đến vợ con làm cớ ở đây? – Trịnh Hoài Đức dường như đỏ mặt. - Ở trong thành có mấy bức tường cao chống đỡ, tôi lại chẳng nằm khểnh an nhàn hơn băng rừng vượt suối, đạn pháo ì ùng trên đầu à?

- Ngô Thượng thư ở lại. – Võ Tánh nói, như thể chấm dứt cuộc tranh cãi. Ngô Tùng Châu biết ý, lấy giấy bút ra ghi lại kết qủa cuộc bàn luận vừa rồi của họ. Chàng lại gần, nói thêm vài ý nữa cho anh ta viết rõ ràng hơn. Trịnh Hoài Đức khoanh tay ra ý bất mãn nhưng chỉ im lặng. Một lúc sau, anh ta lại khẽ rùng mình, nhìn ra bên ngoài.

- Lạnh qúa. – Viên quan họ Trịnh nói. – Tôi không biết là mới tới đây mùa đông lại lạnh như vậy. Chúng ta chưa bao giờ ở đây mùa đông.

Chàng gật đầu. Mùa đông gió bấc là lúc họ đã rút về. Trong núi, khí lạnh như cô đặc lại, càng khó quen với những người chỉ biết tới nắng nóng phương Nam như họ.

- Trữ thêm củi và áo ấm trong thành. – Chàng nhắc Ngô Tùng Châu viết thêm. Đúng lúc đó, cô hầu câm của chàng mở cửa đem khay trà vào. Trịnh Hoài Đức tò mò nhìn cô ta. Dù vẫn gặp luôn, vẻ tò mò vẫn không mất đi trong mắt anh ta, vì lý do gì chàng cũng không rõ.

Khi cô gái đã đóng cửa ra ngoài, anh ta nghiêng đầu về phía chàng, nói nhỏ:

- Anh có hay ăn uống đồ ăn cô ta làm không đấy? Cứ phải thủ sẵn cái đũa bạc mà dùng, Tham thặng ạ.

- Anh nghĩ cô ta đầu độc tôi à? – Chàng nhướng mày. Trịnh Hoài Đức nhún vai, ngồi xuống cái ghế cạnh bàn mà Ngô Tùng Châu đang viết.

- Ai biết được. Người ta đổi mặt tùy vào tình thế nhanh chóng lắm. Anh là tướng giữ thành là một, giữ mạng của vạn người là hai, sinh mạng anh qúy lắm, mà cái đầu anh cũng qúy với kẻ thù của ta lắm.

Đối với người ở đây thì không tin ai được. – Cậu ta thở ra. Hơi thở đã có một màn khói trắng trong khí lạnh vừa xộc vào phòng khi cửa mở ban nãy. Chàng nhìn cậu ta, không nói.

- Tôi chỉ thấy lạ là Tây Sơn sao chưa có động tĩnh gì. Chúng ta đã rút khỏi Mân Khê gần ba tháng rồi, có phải? – Ngô Tùng Châu hơi ngẩng lên sau khi viết xong mà hỏi. Trịnh Hoài Đức thủng thẳng cười.

- Chúng thua trận, rồi chúng sợ, khi sợ thì chúng loạn lên, thế mà lại không biết à? Trong cả mười mấy năm nay, lúc nào mà chẳng thế. Ta đánh Quy Nhơn, Nhạc bị ép chết. Ta chiếm Diên Khánh, Bùi Đắc Tuyên bị Võ Văn Dũng xử tử. Ta đánh Quảng Nam, Lê Trung bị phân thây. – Anh ta nói, giọng cợt nhạo không lẫn vào đâu được. – Nội tìm người đổ lỗi cho trận thua này cũng khó rồi. Nhưng mà ngoài việc qúa ngu ngốc ra, chẳng ai trong chúng có lỗi cả. Hai năm trước chúng ta đã thử nghiệm thành công rồi mà – Đưa thủy quân lên, đe dọa kinh đô, cắt đứt tiếp viện, đánh vào thành, thế là chúng chỉ có nước chịu chết. Giống như chơi cờ vậy. Bây giờ thì chắc chúng đang nghĩ cách đối phó với chúng ta thế nào.

- Cờ à? – Chàng vô tình mà lặp lại lời nói của viên quan họ Trịnh. Có lẽ, vì vô tình mà chàng đã giật mình. Rồi chàng lại nghĩ, đó là vì gió lạnh vẫn còn ở lại trong căn phòng. Gió đang trở lạnh khi mùa đông đang vào những ngày băng giá nhất.

56

Họ không phải chờ đợi lâu. Cuối tháng mười một, quân Tây Sơn do Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu chỉ huy từ Phú Xuân vượt qua Quảng Ngãi đánh vào Bình Định. Trần Quang Diệu mang quân bộ đánh Bến Đá, Võ Văn Dũng theo thủy quân đánh Thị Nại. Trong thành, lực lượng cũng vừa sắp xếp xong khi Lê Chất đã đưa quân bản bộ về Diên Khánh cùng với các hàng tướng Tây Sơn như Phạm Văn Điềm, Lê Văn Thanh, Từ Văn Chiêu… đã được phân bổ đi các nơi gần hết. Lương tiền từ Phú Yên vừa mới được đem tới chất đầy kho. Để phòng ngự Bến Đá, cửa Thị Nại, Võ Tánh cho gọi quân từ Phú Yên đến. Nhưng lần này, việc xảy ra lại đảo lộn mọi dự tính của họ.

Phạm Văn Điềm cùng hàng loạt tướng Tây Sơn thuộc hạ được Lưu thủ Phú Yên phái đến tiếp viện lại trở cờ ở Cù Mông, chiếm lấy cửa ngõ Phú Yên, đuổi quân Nguyễn giữ ở đây chạy về Diên Khánh. Việc xảy ra bất ngờ và trong thời điểm rối rắm đến mức họ không kịp trở tay. Từ trong đất, Phạm Văn Điềm liên kết với Võ Văn Dũng ở Thị Nại chiếm cứ hoàn toàn đất Phú Yên, đắp thành lũy ngăn quân Nguyễn, bắt tất cả dân trong vùng làm lính, chẳng mấy chốc mà được cả vạn người. Ở Bến Đá, quân Nguyễn không giữ được cũng buộc phải lui về thành Bình Định.

Tháng mười hai, quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu chỉ huy đã bao vây hoàn toàn thành Bình Định.

Tin báo về Quy thành kết thúc bằng việc mất liên lạc hoàn toàn với thành Bình Định và thậm chí Diên Khánh cũng đang nguy cấp khi quân Phạm Văn Điềm đã chiếm giữ Phú Yên. Chỉ trong một lúc, thế trận đã thay đổi hoàn toàn.

- Bây giờ chính quân Tây Sơn lại đang cắt đứt tiếp viện của ta với Bình Định. – Nguyễn Văn Thành nói, không phải không có ý bực bội trách cứ. Chúa Nguyễn đã gọi anh ta về, chỉ để Tiên phong dinh trông coi Phú Yên. – Ta cứ nghĩ giữ được mạn Nam Quy Nhơn là ổn, bây giờ thì bọn phản quân ấy lấy mất Phú Yên rồi bao vây bốn mặt Quy Nhơn. Thần đã nói là không thể dùng chúng được.

Vị chúa không trả lời viên tướng Tiền quân. Dù rất mờ nhạt, khuôn mặt ngài ta cũng thoáng trắng bệch, thể hiện cơn giận dữ khó mà che giấu. Ngài ta im lặng một lúc lâu. Ở chếch bên Nguyễn Văn Thành, Đặng Đức Siêu khoanh tay, hơi nghiêng đầu mà nói:

- Tình thế này không phải là lúc để đổ lỗi. Chúng vây thành thì ta phá vây. Lực lượng chúng tập trung ở đây là thuận lợi cho ta. Đằng nào cũng đến lúc ta phải tìm cách phá vỡ đại quân của chúng, đối đầu ở Quy Nhơn dù sao cũng tốt hơn nơi khác.

- Nơi khác? – Nguyễn Văn Thành nhướng mày. Đặng Đức Siêu chỉ cười, quay lại phía vị chúa.

- Đến lúc chúng ta tung đại quân ra sống mái một phen với Tây Sợn thôi, chúa công. – Viên Tham mưu họ Đặng chưa nói xong, Nguyễn Văn Thành đã bực bội ngắt lời.

- Ông có vẻ lạc quan qúa đấy, Đặng tiên sinh! Toàn bộ lực lượng của Tây Sơn đã dồn về Quy Nhơn, gấp mấy lần quân ta. Đó lại là đất của chúng. Những năm vừa rồi ta dựa vào thủy quân để chia nhỏ chiến trường vì cớ gì? Chẳng phải vì ta không thể trực diện đối đầu với đại quân của Tây tặc? Bây giờ ông bảo: Thôi, cứ đánh đi. Thế thì dễ dàng qúa!

- Những năm vừa rồi là thủy quân, bây giờ là bộ binh. – Đến lúc này vị chúa mới mở miệng. – Chiến tranh mới không chỉ dựa vào quân lính và chiến thuật cổ điển nữa. Những trận pháp, những voi ngựa, những thành lũy không chống lại được với đạn pháo. Ta chế ra hỏa xa, trái phá để làm gì? Ta hoàn toàn có thể đối đầu với chúng.

- Nhưng thiệt hại sẽ không phải nhỏ. – Nguyễn Văn Thành dường như vẫn còn vô cùng tức giận. – Đáng lẽ ta không lâm vào tình thế phải tử chiến này nếu không thu nhận những tên phản phúc kia. Rồi chúng ta đối xử với những kẻ còn lại thế nào đây, chúa công? Đội Ngự lâm quân mà ngài vừa lập ra?

- Chừng nào họ còn chưa gây tội lỗi thì ta không có lý do để trừng phạt. – Vị chúa nói, nhận ra ánh lửa giận trong mắt viên Chưởng Tiền quân.

- Đến chừng chúng gây tội lỗi thì không còn cách nào để sửa nữa. – Nguyễn Văn Thành nói qua kẽ răng. – Chúa công, quân tướng của ngài quan trọng hay đám hàng quân khốn kiếp đó quan trọng? Tính mạng của chúng thần quan trọng hay mạng sống của đám phản tặc ấy?

- Đại cuộc quan trọng. – Chúa Nguyễn lạnh lùng trả lời. – Làm quan làm tướng mà không kiểm soát được những kẻ dưới quyền mình thì không đáng để ở vị trí ấy.

Nguyễn Văn Thành trừng mắt nhìn chúa Nguyễn, dường như đã giận đến nghẹn cả giọng. Đặng Đức Siêu lại một lần nữa phải lên tiếng cười cầu hòa.

- Vừa rồi Lưu thủ Phú Yên có lẽ qúa bối rối nên đã cử cả một toán hàng tướng đi cùng nhau, chúng mới có khả năng gây họa lớn. Bây giờ ta chia nhỏ các toán quân, các hàng tướng, chúng có muốn phản cũng chỉ có thể bỏ trốn chứ không thể làm gì được.

- Cũng chỉ bỏ trốn, Đặng Tham mưu nói nghe hay thật. – Nguyễn Văn Thành phì ra một tiếng chế nhạo. – Khi bỏ trốn, chúng đem theo bí mật hành quân, vị trí trú đóng, cách bố trí doanh trại, lực lượng của ta cùng bao nhiêu thứ khác. Chưa kể chỉ cần một tên cho ta một mồi lửa là cả doanh trại đi đời. Trong Gia Định chưa có đủ bọn gián điệp hay sao? Đến ngày chúng đốt cả cung điện này thì mới gọi là nguy hiểm à?

- Tướng quân qúa lời rồi. – Đặng Đức Siêu vẫn chỉ điềm đạm cười. – Trên đường hành quân, tướng quân chẳng phải cũng mộ dân, bắt dân đinh theo? Trong đám đông ấy, có mấy kẻ thuận tòng, có mấy kẻ đem lòng ấm ức, có mấy kẻ thậm chí là gián điệp phản nghịch? Hàng quân cũng chỉ là dân bị Tây tặc bắt theo về, vốn không thể lựa chọn được, trong họ cũng có kẻ thuận kẻ nghịch. Tướng quân đã đảm đương cả một dinh quân, chắc hẳn biết thuật dùng người. Tướng quân biết dùng đám hàng quân ấy ở đâu, nhìn xem kẻ nào trung thành, kẻ nào có thể dùng và dùng thế nào cho thích hợp. Tướng quân đừng vì chút nổi nóng che mờ lý trí, quy kết cả bốn vạn con người. Làm như vậy, quân tướng trung thành với ngài cũng cho rằng ngài qúa đa nghi, tâm tư dao động thì không có lợi. Trận địa mất có thể chiếm lại, nhưng danh mất thì khó mà phục hồi. Tướng quân đã theo chúa công từ những ngày khốn khó, mất hết tất cả rồi lại tay trắng làm nên, ngài biết chúng ta có thể trở lại được Gia Định này vì lẽ gì. Dân gian có câu “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”, tướng quân nên suy nghĩ kỹ.

Trong thuật trị quốc cũng đã dạy: Muốn thắng thiên phải đắc địa, muốn đắc địa phải dụng nhân, muốn dụng nhân phải thuyết nhân. Nay người không theo mà ta cũng ruồng bỏ người, đất không lấy được, lấy cũng không giữ được, như vậy làm sao có thể nghĩ tới việc thắng lợi sau này? Tướng quân là người giỏi giang tri lý, đâu phải những tướng sĩ võ biền cạn nghĩ mà hồ đồ trách cứ người.

Giờ đây khuôn mặt viên tướng Tiền quân cũng chuyển sang sắc trắng. Nhưng anh ta đã không to tiếng chống đối nữa. Chúa Nguyễn phẩy tay như thể ngừng cuộc tranh luận này lại.

- Giờ đây các tướng đã ở ngoài biên ải, ta chỉ còn các khanh để định kế sách, đừng tiếp tục cãi vã. Ta đã lệnh cho Đặng Trần Thường và Nguyễn Văn Tánh giữ chặt Diên Khánh, Cù Huân. Thành Bình Định vững chắc, lại có Tham thặng tướng quân ở đó, ta tin rằng sẽ giữ được cho đến khi chúng ta tiến ra. Tiền Đại tướng quân, khanh sẽ lãnh vị trí điều bát bộ chư quân của ta.

Lần này, ta phải nhờ tới họ rồi. – Chúa Nguyễn nói tiếp sau một lúc trầm ngâm. – Ta sẽ lấy thêm quân Miên, liên hệ với Chân Lạp để mượn quân. Ta đãi đằng họ bao nhiêu lâu, chỉ lúc này có thể nhờ tới. Vừa rồi Nguyễn Văn Thoại từ Vạn Tượng trở về, nói rằng vua Vạn Tượng đã đồng ý giao kết với ta đánh Nghệ An, Thoại xin thêm quân để làm việc. Ta cũng nên cử người ra liên lạc với các nhóm Bắc Hà phân tán lực lượng Tây Sơn. Vừa rồi quân binh ở Quảng Nam theo ta rất nhiều, ta đã chia quân tượng thành năm đội cho Nguyễn Đức Xuyên quản lãnh. Chân Lạp, Vạn Tượng, Hồng Mao, Bắc Hà. Tất cả đồng loạt tấn công.

Tất cả, hai vị quan trong phòng nhíu mày trước từ ngữ ấy. Nhưng Nguyễn Văn Thành có vẻ đã quy phục. Khi anh ta đã rời khỏi phòng hội họp để đi làm công việc chúa Nguyễn giao phó, vị chúa nhìn sang Đặng Đức Siêu. Ngài ta mỉm cười:

- Đặng Tham mưu có kế sách gì không? – Ngài ta hỏi, như thể đã chờ đợi Đặng Đức Siêu nói ra một điều gì. Viên Tham mưu chỉ nhún vai.

- Từ khi chiếm Bình Định, hẳn chúa công đã chờ đợi Tây Sơn đưa đại quân xuống lấy lại đất thang mộc của chúng, thế thì ngài cũng đã biết rằng ngài phải tử chiến một phen. Chẳng thế mà hai năm trước ngài chỉ dàn quân rồi vội vã quay về - vì lúc ấy ngài biết chưa chuẩn bị đầy đủ để quyết chiến? Bây giờ việc đã dàn xếp xong, lương đã đủ, quân đã dư, các nước lân bang cũng đã đồng lòng theo ngài, thì chúng ta đánh thôi. Thần còn có mưu chước gì khác được?

Những con Tốt của chúa công cũng đã vào vị trí rồi. – Ông ta nói thêm, sau đó. Chúa Nguyễn vẫn chỉ lặng lẽ cười.

- Không, những con Tốt của ta chỉ là để dàn trận, tạo thế. Tốt muôn đời cũng chỉ là Tốt. Ta cần cách để chiếu tướng kia.

- Thế thì phải tùy thế trận mà định liệu. Ngài chơi cờ thì hẳn biết mà, chiến thắng dựa phần lớn vào khả năng, nhưng cũng còn tùy thuộc vào vận may. Ngài không bao giờ hiểu rõ được kẻ ngồi bên kia bàn cờ nghĩ gì. Ngài chỉ sắp xếp để hắn lọt vào thế trận của ngài – mà điều này còn phụ thuộc vào tạo hóa của hắn.

Chúng ta cứ đánh đi đã. – Đặng Đức Siêu phất chiếc quạt trong tay, nhìn qua cửa sổ mở rộng. Nắng chói chang bên ngoài. – Nhưng phải đợi đến lúc trời mưa mới được.

Ông nói và gật gù với câu nói của mình. Chúa Nguyễn chống cằm lên tay nhìn ông ta, rồi đưa mắt nhìn theo đến khoảng vườn ngoài cửa sổ. Mùa hạn nắng hanh hao.

- Ở đó đang là mùa đông. – Ngài ta nói như thở dài.

Tiếng ồn ào đang lắng dần. Đóng cánh cửa lại sau lưng, chàng ngồi xuống cạnh bàn mà thở ra. Lại một đợt công thành nữa, tuy chỉ có một phía hành động. Chàng đã cho quân sĩ không phản ứng trước bất cứ khiêu khích nào. Tuy vậy, đạn pháo bắn vào thành rung chuyển và cả tiếng hò reo, la hét kéo dài ngày này qua ngày khác thật dễ tạo cơn nhức đầu cho kẻ trong thành. Y như cảm giác trong Diên Khánh trước kia. Và cũng là kẻ đã bao vây chàng ở Diên Khánh đang đánh bên ngoài. Chàng với hắn thật có nhiều duyên nợ.

- Anh có thấy cái lũy bên ngoài không? – Ngô Tùng Châu đã vào trước chàng, đang tự rót cho mình một ly trà, vừa uống vừa nói. – Cái lũy vây toàn bộ thành, hắn quyết không để ta lọt thậm chí chỉ một người ra.

- Hắn cũng biết rút kinh nghiệm ở Diên Khánh dạo trước. – Chàng lầm bầm. – Lũy ở Diên Khánh có thể phá được, giờ thì chúng dùng lũy đất. Thành Diên Khánh xây theo kiểu Tây dương, ta có thể tấn công bất ngờ mà ra; cái thành cổ này muốn ra phải mở cửa, đánh động cả vùng. Ta không phải liều với hắn, cứ đóng cửa giữ chặt thì hắn chẳng làm gì được.

Ngô Tùng Châu như có điều định nói nhưng lại thôi. Chàng nghĩ mình hiểu anh ta muốn nói gì. Khi thấy cái lũy đất đắp cao ngất gần bằng thành bao quanh bên ngoài, chàng cũng phải cảm thấy động tâm. Vậy là nếu muốn, họ cũng khó có thể thoát ra. Hầu như không có cơ hội đột kích nào dành cho họ. Và ngay cả quân Nguyễn muốn thông tin vào trong thành cũng không thể được. Ở đây, họ chỉ có một việc duy nhất là chờ đợi. Chờ đợi không biết đến bao giờ, không hề biết tình hình như thế nào. Bây giờ họ có thể vững lòng chờ đến mùa gió nồm, nhưng nếu thời gian kéo dài như ở Diên Khánh, thậm chí hơn nữa? Quân Tây Sơn bên ngoài không ngừng khiêu khích, kêu gọi những hàng quân “trở về”. Khi trận chiến xảy ra, chàng không nghi ngờ sẽ có những tin tức bất lợi hoặc ngụy tạo được truyền vào thành, và lúc đó, trong bốn bức tường cao ngất này, tinh thần con người không thể không dao động. Chàng đã biết qúa rõ điều đó. Và thậm chí chàng hiểu được cảm giác của bốn vạn quân Tây Sơn khi quyết định ra hàng. Cảm giác bị bỏ rơi đến cực độ khi không thấy bóng dáng của bất cứ kẻ thân thuộc nào.

Dù sao khi ở lại đây, chàng cũng đã chuẩn bị để đối đầu với tình thế này.

- May mà bọn họ đi cả rồi. – Chàng ngả đầu ra sau, nhắm mắt lại.

Bọn họ, những hàng tướng mới về đầu đã được chàng phân phát đi hết, chỉ giữ lại một vài viên tướng nhỏ. Không còn những kẻ đầy nghi ngờ ấy trong thành, chàng đỡ một mối lo. Cũng không còn qúa nhiều người khi chàng chỉ chú tâm giữ lại những viên tướng người Bình Định như Đoàn Văn Cát – Đô Thống chế quản Tiền đồn, hai tướng Hoàng Công Thành, Nguyễn Văn Phát – Thống chế quản Tiền đồn, Hậu đồn đã đi theo quân Nguyễn gần mười năm. Ngay cả Ngô Tùng Châu cũng là người Bình Định, chàng nghĩ và cười thầm. Chỉ có một vài ngoại lệ như Võ Văn Lượng. Trong những lúc như thế này, chàng thật muốn có người như ông ta bên cạnh. Và Nguyễn Văn Hiếu khi chuyển lương từ Phú Yên đến cũng bị buộc phải ở lại trong thành. Tình cờ sao, trong Bình Định này, ba thủ lĩnh của Kiến Hoà quân lại tập hợp.

Trong nhà, cô hầu của chàng bước ra, cúi đầu, ra dấu rằng bữa ăn đã xong. Chàng gật đầu với cô, quay lại mời Ngô Tùng Châu. Anh ta đồng ý ở lại ăn tối cùng chàng. Những người còn lại đang trong phiên trực quanh thành. Cô hầu liền quay đi.

- Anh vẫn cho cô ta làm mọi việc à? – Ngô Tùng Châu nhìn theo cô gái mà hỏi. Chàng lại nghĩ đến sự nghi ngờ của Trịnh Hoài Đức.

- Dùng người ở đây cũng vậy thôi. Chúa công tin cô ta thì tôi tin. – Chàng trả lời. Ngô Tùng Châu nở một nụ cười khó hiểu.

- Chúa công vốn luôn tin những kẻ không thể tin được. – Anh ta buột miệng. Chàng không trả lời.

Chàng vốn không định giải thích, không định nói rằng ngài ta – chúa công của họ - thật lòng vốn chẳng tin ai. Tin – theo ngài ta – nghĩa là dùng kẻ nào vào vị trí của người ấy. Và chàng tin vào cảm giác của ngài ta, ngay cả trong tình cảnh bây giờ, ngay cả khi quân Phú Yên đã không lên tiếp viện khi đám Phạm Văn Điềm quay đầu làm phản. Lòng tin đó cần thiết bây giờ để chàng có thể đứng vững.

Cô hầu trở lại, bưng theo mâm cơm nghi ngút khói. Khi cô ta lại gần, chàng nhận thấy tóc cô ta đã lại rối bù, xõa xuống vai, khuôn mặt rất xanh xao.

- Cô trông có vẻ không khỏe. – Chàng nói khi cô gái vừa ngẩng lên. – Không sao đâu, tường thành rất vững. Đạn pháo nổ mạnh thế thôi chứ không xâm phạm được.

Ánh mắt cô ta chạm vào mắt chàng với chút ngạc nhiên thoáng qua. Rồi cô ta lại cúi đầu lui ra. Chàng lấy đũa ra so cho họ. Bữa cơm trong thành chỉ có chút rau và ít thịt khẩu phần cho tướng. Khi chàng đưa đũa cho Ngô Tùng Châu, anh ta lại đang nhìn chàng.

- Có việc gì vậy? – Chàng nhướng mày. Ngô Tùng Châu làm một cử chỉ như cái nhún vai.

- Chợt phát hiện ra dạo này Tham thặng lại biết dịu dàng với phụ nữ. – Anh ta cười. Chàng nghĩ mình hiểu ẩn ý trong câu nói ấy.

- Để phụ nữ ở trong tình cảnh này đã là không nên. Ngay cả nếu quân sĩ xuống sắc như vậy, tôi cũng nói thế thôi. – Chàng lắc đầu. Ngô Tùng Châu có vẻ như cũng không muốn bàn thêm, anh ta cẩn trọng rút cây trâm bạc trong túi thắt lưng, nhúng vào trong các món ăn. Dù Trịnh Hoài Đức đã nói như thể một câu đùa, họ cũng nhận ra rằng cẩn thận là cần thiết, trong vị trí khó khăn mà họ đang phải đảm đương.

Cây trâm không có dấu hiệu biến màu nào. Xong bữa cơm, Ngô Tùng Châu cáo từ chàng trở về phòng làm việc. Chàng ra khoảng sân giữa thành, leo lên đài Bát Giác. Đây là tháp canh cao nhất trong thành, các tướng ở đây để hô hiệu lệnh tập trung quân lính. Giờ đã vào đêm, chỉ có một người lính đứng trên đài. Chàng bảo anh ta xuống ăn cơm khi ca trực đã gần hết. Một mình, chàng đứng trên tháp canh mà quan sát xung quanh. Những trại lính sáng đèn, vài nhóm vẫn còn đang ăn bữa tối muộn. Trên tường thành, trong các vọng gác, chàng thấy bóng đen của những người lính trực ca. Ngoài xa, bên kia tường thành, chàng thấy mờ mờ nét viền đen của lũy đất mà Trần Quang Diệu đã xây, ánh lửa cũng hắt sáng rực bên ấy. Những đỉnh núi cong cong biến đường chân trời thành những khúc nhấp nhô. Núi Một, chàng nghĩ khi nhìn đỉnh núi cao nhất ở phương Bắc. Như thể chàng đang chờ đợi một điều gì.

Gió vẫn lạnh, ngày càng lạnh, thổi ù ù bên tai chàng. Phải thêm áo khoác cho những lính trực canh, chàng lại suy tư, ở trên vọng gác qủa thật rất lạnh. Đã cuối đông đầu xuân, hơi lạnh càng đặc lại, rét buốt. Những người lính Bình Định có vẻ đã quen với khí hậu này, nhưng lính Gia Định thì không. Vài người đã bị cảm. Và chàng đã biết, từ rất lâu, chỉ một căn bệnh nhỏ trong điều kiện thiếu thốn trong thành cũng sẽ khiến người ta phải chết. Chàng lại ở nơi đây, lại ở vị trí này, cốt nhiên không thể làm tệ hơn khi đã có sẵn kinh nghiệm.

Có tiếng động sau lưng chàng như người đang leo lên vọng gác. Không phải là quân lính, chàng nhận ra anh ta mặc áo Vệ úy. Một khuôn mặt mà chàng không quen, hẳn là trong các hàng tướng đã gia nhập quân Gia Định. Chàng vẫn chưa quen hết bọn họ trong cả vạn quân mới theo về.

Thấy chàng, người mới đến có vẻ ngạc nhiên. Trong ánh lửa đốt trên tháp canh, chàng thấy anh ta nhướng mày, nhưng ngay lập tức, nụ cười đến thế chỗ trên mặt anh ta.

- Chào Tham thặng, tôi cứ nghĩ chỉ có anh bạn của tôi ở đây. – Anh ta nói, không có vẻ gì là nhún nhường hay khúm núm trước vị đại tướng quân như chàng. Ngược lại, bằng linh cảm, chàng nhận ra cốt cách khinh bạc trong con người này.

- Ta bảo anh ta xuống ăn cơm rồi. – Chàng nói, vẫn quan sát người mới đến. Có gì đó ở anh ta khiến chàng cảm thấy thú vị. Anh ta nói giọng Nghệ An, chàng cũng đã nhận ra âm vực quen quen của một vài viên quan Nghệ An trong triều. – Anh tên gì, ở đơn vị nào?

- Tôi tên Ngô Văn Sở, Vệ úy vệ Nhuệ Phong. – Người mới đến nói, đến lượt chàng nhướng mày.

- Ở triều Tây Sơn cũng có một người tên gọi là Ngô Văn Sở… - Chàng nói, không chắc chắn. Người trước mặt chàng vẫn đeo nụ cười trên mặt, nhún vai.

- Đó là một cái tên phổ biến. Người đó là Đại tư mã, Tổng trấn Bắc Hà, còn tôi chỉ là một viên Vệ úy nho nhỏ. Người ta nhiều khi có rất nhiều điểm trùng hợp, nhưng số phận lại thật khác xa nhau. Tôi cũng thích là một anh Vệ úy nho nhỏ hơn ông tướng khốn khổ ấy, đem thân dốc sức ra để rồi người ta trừ diệt mình.

- Thế thì có gì là lạ. – Chàng mỉm cười trước lời nói của người mang tên Ngô Văn Sở này. – Ngay từ đầu Nhạc giết Đông cung Dương, Huệ giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm đã chẳng phải thói lợi dụng được người rồi giết người hay sao? Đã biết thế mà còn đi theo thì phải biết mình sẽ nhận được gì, có gì đáng than trách?

- Nguyễn vương cũng giết Đỗ Thanh Nhơn đấy thôi. – Nụ cười của Ngô Văn Sở rơi mất một ít sự thản nhiên. – Và Võ tướng quân chẳng phải có người anh từng giúp cho quân Nguyễn, dù là thuộc hạ của Đỗ Thanh Nhơn nhưng cũng đã từng giúp quân Nguyễn, rồi bị chính chúa công của tướng quân giết chết? Bây giờ còn cần dựa vào nhau, còn chúa chúa tôi tôi, anh em bạn hữu, đến khi lấy được cái bánh rồi lại hận nhau chia không đều. Nếu hận thì chỉ hận anh không có được phong thái coi khinh quyền thế của Phạm Lãi để dong thuyền bỏ đi. Nếu đã vào vòng tranh cướp quyền lực, mưu cầu công danh thì kẻ nào lại chẳng như nhau?

- Chẳng lẽ trên đời này lại chỉ có việc tranh cướp quyền lực, mưu cầu công danh? – Chàng khoanh tay dựa vào cột tháp canh mà hỏi. Ngô Văn Sở nhìn chàng, nhìn đống lửa, rồi nhìn ra bầu trời bên ngoài, lặng lẽ cười.

- Không, chắc là không. Nhưng có nhiều việc khó mà nói trước. Có nhiều việc mà khi nhớ lại thực sự làm người ta phải não lòng. Con người mà, đâu phải là thánh nhân.

Ngay cả nếu anh vì đại nghĩa nào mà tới đây cũng vậy thôi. – Anh ta nhìn chàng, ánh lửa nhảy múa trong đôi đồng tử đen tuyền. – Đội quân của Nguyễn vương là “đội quân nhân nghĩa” như các anh tự nhận. Nhưng thực sự các anh có thể vì cả thiên hạ này? Tôi biết, Tây Sơn đã làm những việc không phải với Gia Định, người Gia Định không ưa thích, không chấp nhận Tây Sơn là phải. Nhưng các anh tới Bình Định này có phải vì yên ấm, vì an lạc của dân chúng ở đây? Hay các anh vẫn nghi ngờ, vẫn đề phòng, và trong trường hợp bắt buộc, các anh cũng sẽ hy sinh người ở đây để cứu cho được người của mình? Các anh sẽ hy sinh chúng tôi để đạt được điều mình muốn – Điều ấy nói cho cùng so với việc giết người Đường có khác gì nhau? Chỉ là một bên tay không nhuốm máu mà thôi. Tây Sơn cướp phá Gia Định để nuôi sống mình, đến lượt các anh vì bình yên của Gia Định mà xâm phạm đất này. Oan oan tương báo, có khác gì nhau?

- Đó là lý lẽ của bọn bất nhân. – Chàng nói, rất nhẹ nhàng. – Lạm sát dân vô tội mà vẫn có thể cho rằng đó là cần thiết sao? Nói được câu ấy là đã đáng phỉ nhổ rồi. Võ Văn Lượng bạn ta đã nói “Ta có thể đánh bạn với kẻ cướp, nhưng ta không tha thứ được cho bọn coi rẻ người khác”. Phải, ta vào chiến tranh đã là tàn ác. Nội tìm lý lẽ cho việc chém giết nhau trên chiến trường đã là qúa miễn cưỡng và phi lý, tìm lý lẽ cho việc chém giết đàn bà trẻ con thì còn tởm lợm đến mức nào? Tìm lý lẽ cho việc phải lấy của dân cho chiến tranh đã là không đành lòng, biện giải gì cho việc phá hoại tất cả của cải của người vô tội? Chính vì những kẻ bất nhân như thế mới làm xương trắng đầy đồng, thây chất thành non như từ xưa đến nay!

Ngô Văn Sở không nói. Anh ta im lặng. Rồi cuối cùng, anh ta lại mỉm cười.

- Anh tin rằng mình sẽ không cần phải “bất nhân” thế sao, Tham thặng? Ranh giới gì giữa có tội và vô tội? Khác biệt gì giữa phải chết và bị giết chết?

Anh có biết không, Tham thặng - Cảm giác khi bị buộc phải hy sinh cho người khác? Phải chết vì tranh chấp của người khác? Anh có biết thân phận con sâu cái kiến như thế không? Anh có biết nỗi bất lực và phẫn nộ đó không?

Lại có tiếng chân người lên vọng gác, cắt đứt câu chuyện của họ. Đã đến phiên trực mới. Ngô Văn Sở cúi đầu chào chàng, đi xuống tìm người bạn. Đứng thêm một lát, chàng cũng xuống khỏi đài Bát Giác, quay về. Tâm trạng chàng vẫn nằng nặng khi chàng ngồi xuống giường, ngẩn người nhìn ra chiếc đèn trên bàn. Cô hầu gõ cửa, vào phòng để thêm củi vào lò lửa dưới giường. Chàng nhìn theo dáng loay hoay của cô gái trẻ. Cô ta đã cột tóc lại gọn gàng. Chàng cũng đã quen với sự có mặt của cô ta như vật dụng hàng ngày quanh mình. Chàng chưa bao giờ thực sự để tâm đến cô gái này, vị trí đầy bất trắc của cô ta ở đây…

Nếu chúng ta không đến đây, cô ta đâu có ra như thế. Chàng nhớ đến lời Đặng Đức Siêu, lòng lại trĩu xuống. Cô gái ngồi thẳng lên, quẹt tay lên má lấm tấm mồ hôi, để lại một vết nhọ kéo dài. Khuôn mặt cô ta bao giờ cũng mang vẻ bình yên ấy, vẻ thơ trẻ đến mức khiến chàng nghĩ đến những đứa con gái ở nhà.

- Này, - Chàng đưa cho cô ta cái khăn của mình, ra dấu chỉ vào má. Cô gái chớp mắt, định đưa tay nhận lấy nhưng lại ngần ngừ. Tay cô vẫn còn đầy vết nhọ. – Cầm lấy đi, không phải trả cho ta.

Chàng nói, và lại nhận ra sự ngạc nhiên của cô gái. Như thể cô ta không quen với sự nhẹ nhàng của người khác. Nhưng rồi cô ta cũng đưa tay nhận, cúi mình ra vẻ cám ơn rồi đi ra. Khi cô đã đến cửa, không hiểu nghĩ sao, chàng chợt nói:

- Xin lỗi về chuyện trước kia. Lúc ấy chắc cô phải giận lắm.

Bàn tay cô gái dừng lại trên cửa. Nhưng cô không quay lại, một lúc sau cô mở cửa đi ra ngoài. Chàng nằm xuống giường, không bận tâm cả đến việc cởi áo. Trong khoảng yên ắng hiếm hoi này, có lẽ nên ngủ một giấc lấy sức, chàng nghĩ. Đã qúa rõ Trần Quang Diệu, chàng cũng biết những đợt nã pháo bất ngờ vào thành của viên tướng này.

Tên Ngô Văn Sở ấy là kẻ dùng được, chàng thầm nhủ khi nhắm mắt. Hắn không mang lòng trung thành với bất cứ ai, cũng chẳng sợ hãi, lại rất biết nói lý lẽ. Những kẻ như thế thường lại rất phù hợp với chàng. Từ nay chàng sẽ để ý lưu tâm đến hắn ta.

Đầu năm Canh Thân, chúa Nguyễn duyệt quân ở đồng Tập Trận. Ngài ta ban lời chiếu trước toàn quân Gia Định:

“Vậy năm ngoái thu thành Bình Định, rất đỗi cần lao; Tưởng năm nay nghỉ chốn Đồng Nai, yên bề hưu đức.

Song liệu chừng thế nó, tướng phẫn binh tàn, hạ lăng thượng phế, dù chẳng đánh cũng lui; Nhân tính lại việc ta, đồn quân tích hướng, trữ súng tăng thuyền, phải sắm thêm mới mạnh.

Nên nỗi: Theo đường phú liễm; Nặng việc công sưu.

Dân thời cung cống lương tiền, nhịn mặc nhịn ăn, gian khổ ta đâu chẳng rõ; Quân thời tân cần chinh dịch, gắng công gắng sức, huân lao ta vốn không quên.

Trước tuy nhật xúc kinh doanh; Rày đã sẵn rồi chiến cụ.

Cũng muốn dưỡng uy súc nhuệ, trời Gia Định nghỉ ngơi cho khỏe, ngỡ chư quân đều được lạc sinh; Nào ngờ cùng khấu xương cuồng, lũy Bàn Xà vào vây, đời nghịch tặc tự lai tống tử.

Huống nó em phản anh, tôi phản chúa, lại thêm ngoại viện tăng vi, trường thành thất hiểm, tai phần sào đã quyết từ nay; Mà ta lương thì đủ, quân thì ròng, sẵn có tướng tài quy phụ, chư quốc liên binh, thế phá trúc chờ bao thủa nữa.

Cứ ấy: Vội vàng trục Bắc; Hăm hở bình Tây.

Trước là lo tôn xã mà phục thù, lăng tẩm một trời man mác; Sau là vị thần dân mà tiết phẫn, kẻo thương sanh khắp chốn than van.”

Năm ngàn quân Miên đã được gọi để tiếp ứng cho Gia Định. Nguyễn Văn Thoại đã ra đi, đem theo một trăm năm mươi quân cùng với Phan Văn Ký và Trần Thái Tín hội họp cùng Chiêu Ấn ở Vạn Tượng. Những vị quan Bắc Hà như Đinh Đạt Biểu, Vũ Bá Diên được phong chức Khâm sai Chiêu thảo sứ đi đường thượng đạo về nối liên lạc với Thống lĩnh đạo Thanh Hóa Hà Công Thái, kêu gọi phiên liêu ở Nghệ An nổi dậy. Tống Phúc Ngoạn đưa năm ngàn quân do vua Chân Lạp cử tới hội quân.

- “Sẵn có tướng tài quy phụ”? – Đằng sau đám quân, gần rìa của đồng Tập Trận, Ngọc Tú khoanh tay mà bật ra một tiếng vừa tức giận vừa chế nhạo. Khuôn mặt cô khuất dưới chiếc nón rộng. – Ngài ấy đang nói tới đám đã chiếm Phú Yên? Hay là vẫn còn đang cố lấy lòng đám phản vua phản chúa đó? “Thà để người phụ ta chứ ta không phụ người” à? Đâu ra cái lý lẽ ấy? Bao nhiêu lần rồi mà ngài ấy vẫn còn chưa biết sợ hay sao?

Ngọc Du không trả lời cô. Bàn tay đứa con gái út vuột khỏi tay nàng đã lâu nhưng nàng không để ý đến. Nó đang đi bằng hai chân ngắn cũn tới bên cạnh người anh trai đã chạy tới trước để nhìn cho rõ đoàn quân. Đoàn tượng binh vừa đi qua, tiếng gầm còn vọng vang. Rồi tới đoàn pháo binh với những hỏa xa đại pháo trên những bánh xe tròn, những cỗ pháo lớn nhỏ, cả pháo buộc lên lưng trâu để di chuyển trong núi. Đây là những phát minh của Bá Đa Lộc, nàng nghĩ với một cái nhói nhẹ trong tim. Trên đài cao, chúa Nguyễn cùng người con trai đang đứng nhìn đoàn quân duyệt qua trước mắt. Xa xa, những đội quân khác đang chờ đến lượt mình. Thần sách quân, Ngự lâm quân, Tiên phong, Tiền quân, Tả quân, Hữu quân. Không có Hậu quân.

Không xa chỗ nàng đang đứng là người trong cung điện. Những đứa trẻ con của em trai nàng tụ tập nhìn đoàn duyệt binh lớn. Chúng cũng mang đầy vẻ kích động. Thằng Khánh sau một hồi quan sát quay lại với đám trẻ, chạy tới nắm tay một đứa trạc tuổi con bé Hồi – Tứ công tử Phúc Đảm.

- Anh thích đoàn quân nào nhất? – Thằng bé hỏi với vẻ phấn khích. Cậu công tử nhỏ có vẻ già dặn trước cái tuổi lên chín của mình mỉm cười.

- Tượng binh trông thì lớn nhưng cồng kềnh, dùng để thị uy thì được nhưng khó cầm giữ. Chúng ta chỉ một hai trận mà bắt được gần trăm voi, đó cũng là lực lượng chẳng có gì đáng sợ. Pháo càng mạnh thì những trò trẻ như voi ngựa, như phiên liếp, như khiên thuẫn, như thế trận kiểu Tôn Tử với chẳng Nhạc gia binh pháp chỉ còn cách đem vứt đi. Những đội Tượng binh rồi sẽ như xa luân, chẳng còn có thể dùng tới được.

- Nhưng thế sao chúa công lại cần chúng? – Khánh chớp mắt. Tứ công tử cười nhẹ.

- Vì chúng ta vẫn cần phải đối phó với bọn chúng, những kẻ dùng voi. Ta chỉ đang nói đến sau này. Sau này, những kẻ đối đầu với chúng ta sẽ không dùng voi, hoặc là ta không cần phải dùng những con voi cồng kềnh để đối đầu với chúng. Thật phiền phức, lối chiến tranh cổ xưa này!

Nghe câu nói, nàng quay nhìn sang hai đứa bé. Lối chiến tranh Trung cổ này, nàng đã từng nghe những người Tây dương nói y hệt như thế. Ngày xưa, rất lâu rồi, Bá Đa Lộc cũng nói với vị chúa: Tương lai chiến tranh phụ thuộc vào vũ khí, vào sức mạnh của vũ khí. Cậu công tử nhỏ dường như đã vô tình mà lặp lại lời họ.

- Vậy em sẽ đưa pháo đến Bình Định! – Khánh chợt nói, nhìn về đoàn pháo binh vẫn đang diễu qua trước đài. – Nếu chúng không chịu thả ba, em sẽ lấy pháo bắn chúng. Em không nâng được pháo nhưng em đốt được.

Cậu công tử không trả lời, đưa mắt nhìn sang Ngọc Du. Nàng quay đi, ra vẻ như không nghe thấy câu chuyện của hai đứa trẻ.

Nàng không thể ngăn được nỗi sợ trào lên như thành vị trong cổ. Ra trận, nghe thấy thằng bé nói đến chuyện đó, nàng đã thấy sợ đến buốt người. Đoàn binh đang diễu qua trước mắt nàng, những tiếng hô vang động. Nguyễn quân, Hòa Nghĩa quân, Đông Sơn quân, Lương Sơn quân, Kiến Hòa quân, quân Tây Sơn, quân Bắc Hà, quân Miên, quân Chăm, quân Minh Hương, quân Thượng, quân Chân Lạp, quân Vạn Tượng, quân Tây dương… một vài người, hoặc rất nhiều người trong số họ đã hợp thành dòng người này. Nàng như thấy bóng của qúa khứ, của vô số con người diễu qua, diễu qua trước mắt. Dòng chảy mãi mãi không ngừng.

Nàng vẫn còn như thấy hình bóng họ, những Đỗ Thanh Nhơn, Châu Văn Tiếp, Nguyễn Tịnh, Bạch Doãn Triều, Võ Danh Sở, Tống Phúc Hiệp, Tống Phúc Đạm, Bá Đa Lộc… Và cả chàng, chàng nữa. Trong chỗ khuyết của đoàn quân.

Ngọc Tú quay nhìn, ngạc nhiên thấy ánh mắt của Ngọc Du đang hướng lên trời. Bầu trời phương Nam xanh ngắt với những cụm mây trắng như đứng yên một chỗ.

- Em nhìn gì vậy? – Cô hỏi. Ánh mắt Ngọc Du vẫn không động khi nàng trả lời.

- Bao giờ thì mưa tới? – Nàng nói mà không nhắm vào ai.

Trong bấy nhiêu năm, lần đầu tiên nàng đã mong đợi đến mùa gió và những cơn mưa.

57

Đầu tháng tư năm Canh Thân, đoàn quân Gia Định chuẩn bị xuất trận.

Ngọc Du đến cung điện khi mới tờ mờ sáng, nhưng chúa Nguyễn cũng đã rời khỏi phòng. Dò hỏi theo những cung nhân, nàng đi tới cổng thành phía Nam, nơi nhìn ra bến cảng và dòng sông. Vị chúa đang ở một mình trên tường thành, nhìn ra không gian vẫn lờ mờ sương trắng loang trong ánh sáng xanh nhạt của ngày chưa lên. Khi nhìn theo ánh mắt ngài ta, nàng không biết ngài ta đang nhìn gì. Trước mặt họ chỉ có sương trôi lờ lững từng vạt, từng vạt nối tiếp nhau như hàng ngàn mảnh lụa mỏng được thổi bay qua trước mắt.

- Chị đến sớm thế này làm gì? – Nghe tiếng chân nàng, vị chúa quay lại, có vẻ hơi ngạc nhiên. Nàng cúi đầu chào ngài ta, mỉm cười.

- Thần có việc muốn nói với chúa công nhưng sợ đến lúc gần ra đi, người níu người kéo lại chẳng thể nói được, nên đến sớm nhất có thể. – Nàng nói, không thể ngăn được cơn rùng mình nhẹ nơi sống lưng. Sự thật thì nàng đến lúc cầu treo còn chưa hạ, cổng thành còn chưa mở, nàng đã phải đứng gọi bọn lính canh mất một lúc.

- Có việc gì? – Vị chúa nói, ngài ta lại quay nhìn đám sương trước mặt. Như thể ngài ta sợ bỏ qua một khoảnh khắc chuyển động của nó, nàng nghĩ thầm.

- Có thể liên lạc được với Bình Định không, chúa công? – Nàng quyết định hỏi thẳng. Lúc này, ngài ta không đủ tâm trí để nói những chuyện vòng vo với nàng.

- Không. – Vị chúa nói, sau một lúc. – Trần Quang Diệu đã xây một cái lũy đất bao vây toàn thành. Tuy vậy, ta nghĩ sẽ tìm cách để liên lạc bằng được với Tham thặng. Dù sao cũng sẽ có cách.

- Nếu vậy, xin nhờ ngài một việc… - Nàng ngập ngừng. Nàng cũng nhận thấy cơ hội rất mong manh trong cái cách ngài ta nói, cách ngài ta im lặng. – Nếu có thể liên lạc vào Bình Định, nhờ ngài chuyển cho Tham thặng cái này.

Người em trai quay lại, nhìn xuống lá thư trong tay nàng. Lá thư nhỏ, rất nhỏ, được hàn một vòng sáp kín quanh thân. Nàng biết sự liên lạc khó khăn trong quân đội nên đã chuẩn bị trước. Ngài ta lại nhìn lên nàng. Nàng không thích ánh mắt ngài ta bây giờ. Ánh mắt giống như màn sương đang tan đi quanh họ, trước họ, mờ nhạt ánh thẳm xanh của mặt nước xao động không ngừng.

Nhưng rồi ngài ta cũng nhận lấy lá thư, gật đầu, cất vào trong áo. Họ trông ra không gian trước mặt đang dần sáng lên. Những bóng hình mờ nhạt đang chuyển động trong một vũ khúc lặng thầm trước khi tan vào tĩnh lặng. Rất nhanh, ánh sáng tràn xuống, tràn qua họ. Họ nhìn vầng thái dương đang xuất hiện, đang ló dạng, ban đầu là một khối cầu hồng rồi chuyển sang màu sáng bạc. Tiếng chim đột ngột cất lên. Hàng ngàn, hàng vạn con chim trên đất dường như cùng một lúc bừng tỉnh, hót ríu rít. Tiếng hót ngày càng lớn dần, lớn dần. Sương dần tan hết, để lộ mặt nước trắng bạc như thủy ngân cùng đoàn tàu thuyền nằm lặng yên bên bến cảng. Những chiếc cột buồm mang hình chữ thập khi được cuốn lại chằng chịt gỗ ghép tạo thành một cơ cấu cực kỳ phức tạp tựa như những cái cây đã trơ lá. Trên cảng, trên đường, đã có một vài người dậy sớm đi đi lại lại. Trên vài mái nhà, khói đã bốc cao thành một cột trắng mỏng tan lẫn vào mây. Sài Côn đang trở dậy, trong ánh sáng rực rỡ của một buổi sớm cuối xuân đầu hạ, cuối mùa hạn và trước những cơn mưa.

- Nhiều khi cảm thấy giống một giấc mơ. – Nàng cất tiếng, phá vỡ sự im lặng của họ. – Mọi sự chuyển biến nhanh như vừa mới trải qua một giấc mơ.

- Nhiều khi ta vẫn nhìn khung cảnh này mà tự hỏi: Chẳng lẽ tất cả là do ta dựng nên? – Vị chúa cười nói. – Đến ta cũng không thể tin được. Khi còn ở Phú Xuân, làm sao ta nghĩ được rằng có ngày mình lại ở đây, xây nên tất cả những thành thị, phố xá, đồng ruộng, đồn điền này? Vậy mà đã hai mươi lăm năm kể từ ngày ta đến đây.

Ngài ta nói và chợt lặng im. Nàng nhìn người em trai. Ánh mắt ngài ta vẫn đăm đắm nhìn ra dòng sông, dòng sông chảy trôi về phía biển. Ánh dương lan trên mặt nước như một lớp bạc đang đổ xuống. Gió đang thổi, mây đang đùn lên phía chân trời như ngàn ngọn núi lớn nhỏ chen chúc nhau. Xa xa, họ còn thấy cả một đàn chim đang bay lên, những chiếc cánh nhỏ đập tao tác. Họ nghĩ đến dòng nước uốn mình chảy qua những khe lách xanh ngắt bóng cây lá, những chiếc rễ cây thả xuống nổi lập lờ. Cây xanh, dòng nước xanh, họ trôi đi trên một vùng đất xanh thẫm, không gian xanh thẫm và sự lặng yên như có thể chạm tay đến được. Phương Nam, mùi mặn của gió và vị ngọt của những cơn mưa, dòng chảy vĩnh viễn bất tận của sông và chút phù du của cánh đom đóm nhỏ, sự êm đềm của ruộng đồng và cơn hung tàn của lũ cùng những sinh vật sống trong rừng thẳm, sắc xanh của bầu trời và bóng tối dưới những lùm cây. Phương Nam, sắc xanh bình yên như chưa từng trải qua, chưa từng biết tới đau thương, nơi sự sống vẫn tiếp tục nảy mầm trên tàn tro và cái chết. Dòng sông mang những đau thương đổ về biển lớn, đem phù sa bù đắp cho sự sống. Dòng sông xoay vòng vĩnh viễn bài ca về sự sống và cái chết dưới bầu trời.

- Nếu thắng, ta sẽ phải về Phú Xuân… - Vị chúa chợt nói. Chợt nói như thể những gì không nén lại được đã vuột ra. Nàng vẫn chỉ nhìn ngài ta.

Rồi tất cả sẽ đến lúc kết thúc. Ngay cả một giấc mơ. Giấc mơ của họ. Duyên phận này. Tình yêu này. Phải, làm sao họ có thể nói ra tình yêu với nó – tình yêu với vùng đất đã che chở họ, nơi chứa đựng giấc mơ và nỗi đau của họ? Vùng đất đã thắm đỏ dòng máu của họ. Vùng đất đã chứa xương thịt, linh hồn của những người thân thương nhất với họ. Ngài ta sẽ ra đi, nàng nghĩ mình biết ý nghĩ của người em trai lúc này. Ngài ta sẽ ra đi, tiếp tục con đường của mình, dựng xây nên những thành trì và đồng ruộng, những con sông và bãi bồi. Đó là số phận của ngài ta, định mệnh của ngài ta – người con lạc loài của họ Nguyễn. Hai mươi lăm năm, qúa nhiều điều đã đến và đi. Qúa nhiều người đã ra đi. Còn ngài ta vẫn bước, vẫn bước.

Dù có thế nào, cũng không thể ở lại.

- Chúa công sẽ xây dựng ở Phú Xuân một ngôi thành lớn hơn ở đây, đẹp hơn ở đây. – Nàng cười, một lúc sau. – Chúng ta đều rất yêu Gia Định, nhưng biết đâu ngài sẽ gặp một tình yêu mới ở Phú Xuân. Chẳng phải chúng ta cũng đã từng rất yêu Phú Xuân?

- Tất cả tình yêu đều phù du. – Em trai nàng nói, tay khoanh lại. – Tất cả đều ra đi.

Nàng nhìn ra khoảng không đã tan hẳn sương. Bến cảng đã đông hẳn lên. Dưới cửa thành, vài đoàn người ngựa cũng đang đi qua, hẳn vài vị quan đã đến.

- Nghe cứ như thể ngài đã nghe qúa nhiều kinh Phật. – Cuối cùng, nàng cười. – Mẹ thần cứ bảo rằng, đến một lúc nào đó con sẽ hiểu chân lý của nó.

- Có thể. – Vị chúa nhún vai, nhìn theo những chiếc xe vào thành rồi quay bước đi xuống. – Nhưng tất cả những lý thuyết ấy thật chẳng để làm gì, chẳng giúp được gì.

- Để bớt đau lòng, có lẽ. – Đi theo sau ngài ta, nàng dịu dàng nói. – Gặp, tan, ly, hợp, đó chẳng qua cũng là lẽ tất nhiên; khi nghĩ như vậy có lẽ sẽ bớt đau lòng.

Người ở trước nàng cười khẽ. Nàng không nhận ra được sắc thái của nụ cười ấy. Nhưng nàng nghĩ có lẽ mình cũng sẽ cười như thế khi nghe những lời này. Rốt cuộc, nàng vẫn là con người cố chấp không thay đổi. Chẳng gì có thể đổi thay sự thật đã diễn ra, điều đã xảy ra, kể cả cảm giác trong trái tim con người. Nàng nói những điều mà chính mình cũng không tin tưởng, nàng tin ngài ta đã nhận ra.

Cả hai yên lặng đi xuống thành, trở lại con đường về Phương điện. Mọi người có lẽ đang tụ tập để chờ vị chúa sắp xếp những việc cuối trước lúc lên đường. Nàng lại nghĩ đến bức thư nhỏ xíu đang nằm trong áo ngài ta, muốn nhắc ngài ta về nó. Lần này, nàng thật sự lo lắng ngài ta sẽ lại vỗ tay lên trán mà nói “Quên rồi” trong việc chuyển thư của người khác. Có lẽ nàng nên tìm một vị quan thân cận của ngài ta mà nói kẻ đó nhắc nhở vị chúa. Lá thư này rất quan trọng, vô cùng quan trọng với nàng.

Nắng đã lên rực rỡ trên mặt đất. Nàng lại nghĩ đến buổi sáng thời gian này năm trước đã tiễn chàng đi. Qua năm tháng và những trận chiến, nàng đã học được lòng kiên nhẫn và vững vàng để chờ đợi. Ngay cả trong tình thế này, nàng cũng không để mình kinh hoảng, việc ở thành Diên Khánh đã dạy cho nàng biết bình tĩnh, biết hy vọng. Ngay cả những đứa trẻ cũng không lo sợ. Trong tâm trí thơ trẻ của chúng, cha chúng là một anh hùng bất khả chiến bại, người đã đánh bại cả hổ. Khi chúa công đến, cha sẽ phá vây đi ra, y như ở Diên Khánh, chúng nói với nhau, với những đứa trẻ khác. Chỉ có nàng thầm nghĩ, khi ấy chúng còn qúa nhỏ để biết được tình trạng thực sự của chàng khi trở về. Bây giờ chúng vẫn còn qúa nhỏ, qúa nhỏ để biết Bình Định – Quy Nhơn là nơi như thế nào. Tuy vậy, sự lạc quan của chúng cũng nâng đỡ nàng. Những ngày như thế này, họ chỉ có thể sống cho hiện tại. Hiện tại của họ là trận chiến đang diễn ra trước mắt.

Ta sẽ đưa Tham thặng trở về. Vị chúa đã nói với nàng ngày ấy. Nhưng giờ thì ngài ta không hứa nữa. Thậm chí ngài ta không thể hứa sẽ đưa lá thư nho nhỏ của nàng đến tay chàng. Nàng cũng không ép buộc ngài ta.

Người em trai chợt đứng lại, quay nhìn nàng khi họ đã đến đầu con đường đi về Phương điện hoặc rẽ khỏi thành. Vẫn là ánh mắt mà nàng không thích ở ngài ta. Ánh mắt xao động như sóng trên mặt nước, như cát trên sa mạc, như mây trên bầu trời. Những sự xao động xác xao tan tác chuyển dời trên bề mặt của sự lặng yên vĩnh cửu. Nàng lại nhớ đến buổi sáng hôm ấy, con người ngồi trên tảng đá nhìn ra biển. Có sự tương đồng nào đó trong sự lặng yên bất động ngàn đời của đá và chút phù du tao loạn của sóng nước. Có sự tương đồng nào đó giữa tuổi thiếu niên đơn độc và cõi già nua lặng thầm. Có sự tương đồng nào đó giữa những quãng thời gian ấy, giữa sự chết đi và cái còn tồn tại dai dẳng trên cõi thế, giữa sự sống và cái chết, giữa khoảnh khắc và vĩnh cửu, giữa muộn phiền và niềm vui. Ngài ta đã nhìn nàng như thế, như thể đã nhìn nàng từ rất lâu, lâu như từ muôn ngàn năm trước. Nàng lại nghĩ đến những giấc mơ thưở xa xưa về cậu bé đứng bên kia con đường. Bên kia con đường, cậu ta nhìn nàng qua những bụi mù cuốn lên dưới bánh xe và vó ngựa, dưới những bóng cây xao xác và nắng trải hanh hao. Những con người lướt qua như thể bóng trên lồng đèn kéo quân. Họ cứ đi qua, đi qua. Bên kia con đường, cậu bé nhìn nàng bằng đôi mắt của những ngày xưa thơ ấu, của những tàn phai và những gì chưa kịp sống đã lụi tàn. Đó là giấc mơ lâu rồi, qúa lâu. Qúa lâu, khiến nó trở thành một phần gắn liền với sự ra đời của ký ức trong nàng.

Như thể ngài ta đã muốn nói với nàng điều gì, một điều gì đó, nhưng không thể tìm ra điều định nói, không biết mình muốn nói điều gì. Nàng không thích cái nhìn này, và linh cảm rằng sẽ càng không thích điều ngài ta định nói.

- Có việc gì vậy, chúa công? – Nàng cất tiếng. Thoáng xao động biến mất, trả lại đôi mắt bình yên lạnh lẽo như vốn có.

- Chị không cần phải đến tiễn ta. – Ngài ta nói. - Ở nhà cũng nên bảo trọng, nếu có gì thì chị đến tìm Đông cung ngay. Bây giờ bọn gián điệp trong Gia Định rất nhiều, ta sẽ cử thêm người đến bảo vệ cho gia đình chị, nhưng đi đâu cũng nên cẩn thận. Cả những đứa trẻ nữa, không nên chạy chơi lung tung. Nếu có linh cảm xấu, cứ bảo Đông cung đưa cả gia đình vào cung. An toàn của nhà ta là trên hết, nhà chị chỉ có mấy mẹ con, lại càng phải cẩn trọng mới được.

Nàng nhè nhẹ gật đầu. Nàng biết rằng không vô cớ mà ngài ta lần này lại lo lắng như vậy. Những vụ cháy liên tiếp trong Gia Định đã khiến họ phải đặt ra luật phòng chống hỏa hoạn, trừng phạt nặng kẻ gây hỏa hoạn, nhưng chiến tranh đang vào lúc cam go nhất.

- Vâng, chúa công. – Nàng mỉm cười. Nàng cúi đầu chờ ngài ta quay đi.

Nắng sớm đang rực rỡ trên đất. Nắng sớm rực rỡ trên những con tàu đang quay đi vào cuộc hải hành. Nắng sớm rực rỡ trên đoàn người chỉ hắt lại chiếc bóng đổ dài trên bờ sông dài. Lại đứng trên bờ thành, nàng nhìn theo họ, sự chuyển động thường lệ và bất thường. Như cuộc ra quân trước đó, những cuộc ra quân trước đó. Muôn vạn con người, vạn vạn con người. Sinh mạng thật mỏng manh như sợi chỉ. Cái nắm tay thưở ấy của nàng với chàng thật cũng qúa mỏng manh. Không còn ở độ tuổi để muộn phiền trách cứ, vậy mà mỗi lần nhìn họ ra đi, nàng vẫn không ngăn được nỗi thương tâm.

Người lính canh trên thành nhìn qua nàng rồi vội vã quay đi. Anh ta cảm thấy như xâm phạm sự riêng tư của công nương khi nhìn nàng rơi nước mắt.

Tháng tư nhuận năm Canh Thân, chúa Nguyễn đến Cù Huân, lưu Phúc Hy giữ Diên Khánh. Nguyễn Đức Xuyên đã đưa tượng binh đi trước cùng Đặng Trần Thường đánh Phú Yên. Nguyễn Văn Thành đến cửa Xuân Đài, sai Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc, Trương Tấn Bửu đánh Đất Đỏ, Thanh Kỳ, Hội An. Quân của Phạm Văn Điềm phải lui về gò Ải Thạch, rồi bị Nguyễn Đức Xuyên đẩy về La Hai. Hai đô đốc mà Trần Quang Diệu phái tới bị bắt sống.

Nhưng ở thành Bình Định, không ai biết những tin tức ấy trong những ngày đầu chiến cuộc bên ngoài. Võ Tánh vẫn nhất quyết đóng chặt cửa thành, mặc Trần Quang Diệu khiêu khích. Và đúng như chàng đã nghĩ, khi gió vừa đổi chiều, những tin tức bất lợi được liên tục gào lên bên ngoài, bắn cả vào thành. “Quân ta đã chiếm Phú Yên, Thị Nại, đánh bại quân Nguyễn Đức Xuyên”, “Quân ta tập trung hàng ngàn thuyền, hàng chục vạn binh, nhất định quân Nguyễn sẽ bị đè bẹp”, “Đàn voi của ta nghe gọi là quay về, chẳng lẽ con người không làm được như thế?”…

- Chúng biết rằng không thể phao những tin nhảm như đã đánh bại quân của chúa công hay bắt sống Nguyễn Văn Trương nên đều hạn chế tin ở mức “chấp nhận được”. – Nguyễn Văn Hiếu nhận xét khi cầm lấy tờ giấy trong đống tên vừa được gom lại đem tới. – Chúng chủ yếu nhấn mạnh yếu điểm của quân ta là người ít, quân mỏng. Cho nên mọi thứ đều có vẻ rất đáng tin.

- Chẳng lẽ anh cũng tin vào những thứ này? – Chàng nhướng mày, vứt cả một cụm giấy vào lửa. Những quan tướng đang ngồi quanh một đám lửa được đốt lên giữa sân điện. Năm xưa, có lẽ nơi này dùng để triều kiến bá quan văn võ của Nguyễn Nhạc. – Quân ta dùng súng, dùng đại bác, số lượng đáng kể gì?

- Đó là tôi đang nói đến những gì người khác sẽ nghĩ. – Nguyễn Văn Hiếu cười. – Quân sĩ “bên kia” thì biết gì đến những súng với đại bác của ta có khả năng thổi bay cả đoàn quân, cả voi ngựa? Những kẻ biết điều đó thì có bao nhiêu? Họ chỉ biết rằng quân Gia Định chỉ có một nhúm nhỏ, chưa kể đến “toàn là bọn nhút nhát”.

Võ Văn Lượng khịt mũi khi nghe những lời Nguyễn Văn Hiếu vừa nhắc lại. Nhưng ai cũng hiểu đó là việc thực sự nghiêm trọng. Không thể thuyết phục binh tướng điều mà họ chưa từng thấy, chưa từng hiểu khi mà không một liên lạc nào có thể đưa vào thành.

- Ngay từ đầu đã thế… - Đoàn Văn Cát ngập ngừng nói. Khi thấy không có ai tỏ ý gì, ông ta mới tiếp tục. – Khi bị vây năm trước, chúng tưởng rằng quân triều đình Tây Sơn không xuống cứu. Mọi người cũng biết mà, cái triều đình ấy nay thế này mai thế khác, lại có Lê Văn Ứng ở đây là người vốn ít ai ưa. Bị vây một tháng mà không thấy bóng dáng quân cứu viện đâu, tưởng bị bỏ rơi nên chúng ra đầu hàng. Nay thấy Trần Quang Diệu kéo đến, chủ cũ người xưa, nhiều kẻ lung lay lắm.

Nói cho cùng, chúng vốn không thù không oán, lại là người đồng hương, chỉ là quân lính thì đánh cho bên nào cũng thế, ở bên ngoài có vẻ vẫn tốt hơn nơi đây. Chàng hiểu ý ấy trong sự ngập ngừng của Đoàn Văn Cát. Sự ấy lại có vẻ đúng một cách lạ lùng.

Nhưng chàng không thể để thoát ra, dù chỉ một người nào. Dù chỉ một người thoát ra, tinh thần của tất cả mọi người sẽ sụp đổ. Chẳng ai muốn ở nơi đây, đúng vậy, trong cuộc thử thách tinh thần và thể xác đến kiệt cùng này. Đã bốn tháng trôi qua, những dấu hiệu đầu tiên của sự xuống sức đã thấy trong họ khi nhiều người lần lượt ngã bệnh, dù lương thực đã được trữ đủ. Bốn tháng trôi qua, cuộc vây thành hẳn dài nhất từ trước đến nay với những binh lính ở Bình Định này.

- Ta cần phải để ý kỹ. – Cuối cùng, chàng nói, nhìn Hoàng Công Thành và Nguyễn Văn Phát, hai viên Thống chế Ngự lâm quân. Ánh mắt chàng nhìn ra cả phía xa, nơi Ngô Văn Sở đang đứng. Chàng đã lấy anh ta làm tướng bản bộ cho mình.

Nghĩ cũng thật lạ lùng khi ngồi nơi đây, cùng với họ. Đoàn Văn Cát, thuộc hạ của Nguyễn Nhạc, rồi của Quang Bảo, vì mối thù của chủ nhân mà trở giáo. Hoàng Công Thành, Nguyễn Văn Phát, hai viên tướng ngay sau khi Nguyễn Huệ chết, chứng kiến triều đình Tây Sơn đánh giết nhau mà bỏ đi. Ngô Văn Sở kia, chẳng trung thành với ai mà cũng chẳng tôn thờ ai, cốt chỉ giữ được mạng sống của mình. Võ Văn Lượng, người đã từng thề không đội trời chung với Tây Sơn, và chàng nữa, vốn là kẻ thù với họ. Nhưng giờ đây chàng chỉ có thể đặt lòng tin vào bọn họ. Chàng tin bọn họ. Mỗi người có một lý do để chọn con đường này, nhưng giờ đây họ phải dựa vào nhau để sống còn. Mỗi người một lý do, nhưng họ sẽ kiên quyết đi theo con đường này đến hơi thở cuối cùng.

Chàng không thể làm gì khác hơn bây giờ là đặt lòng tin vào bọn họ.

Khi buổi họp đã tan, chàng một mình đi dạo quanh thành. Thành Đồ Bàn được Nguyễn Nhạc cơi nới thêm càng rộng mênh mông, những điện đài dành cho vua chúa giờ đây để quan lính ở đã phai nhạt đi nhiều sắc sang cả. Những doanh trại hầu hết đã tắt đèn, chỉ để lại ngoài cửa vài tên lính canh gà gật dưới ngọn đèn lồng nhỏ. Trước cửa phòng lính nọ thậm chí có một kẻ đã ngồi hẳn xuống, dựa vào tường mà ngủ. Sương đêm đã buông lành lạnh, chàng với tay lấy chiếc mền bên cạnh đắp lên cho hắn. Nhận biết cử động ấy, tên lính choàng tỉnh, hoảng hốt khi nhận ra chàng.

- Nếu mệt thì cứ ngồi xuống, đứng làm gì. – Chàng chỉ cười bảo. Tên lính có vẻ còn rất trẻ, như chỉ vừa qua tuổi mười lăm. Dưới ánh đèn, chàng thấy mặt hắn đỏ rựng lên, đến nhạt cả những vết tàn nhang lấm tấm. Chàng gật đầu, vỗ vai hắn rồi quay đi.

Đi được một quãng, chàng quay lại, bắt gặp ngay kẻ đi theo mình. Ngô Văn Sở, chàng có cảm giác anh ta đã đi theo chàng ngay từ lúc ra khỏi buổi họp.

- Tướng quân không nên đi một mình, nhất là trong đêm thế này. – Ngô Văn Sở nhẹ nhàng nói khi bị bắt gặp, như thể anh ta coi đây là việc tất nhiên. – Dù tướng quân sức địch muôn người, cũng cần phải cẩn thận mới được.

- Anh đã thấy dấu hiệu bất lợi? – Chàng hỏi khi anh ta lại gần. Họ đi song song bên nhau.

- Tất nhiên là có. – Ngô Văn Sở nở nụ cười khó hiểu. – Nếu nói không có thì là nói dối vậy. Dù anh đối xử tốt với họ, thế vẫn chưa đủ đâu. Con người thì ai cũng yêu bản thân hơn hết thảy.

- Đội quân của ta đã ở bên ta cả mười năm. – Chàng nhẹ nhàng nói, đã không lấy làm lạ nữa trước thái độ khinh bạc của Ngô Văn Sở. – Còn những hàng quân kia, họ sẽ hiểu rằng ta không làm hại họ.

- Chưa lâm vào cảnh khốn cùng thì chưa rõ lòng người. – Ngô Văn Sở vẫn cười. Anh ta có nụ cười miên viễn như không thể thay đổi. – Trong thời đại này, những lời hứa không còn làm người ta tin nữa. Và những kẻ ngu dại thì chỉ biết làm theo cảm giác của mình trước khi có bất kỳ minh chứng nào, họ sẽ thử tự cứu mình trước khi trông chờ vào người khác. Tham thặng, sẽ có kẻ làm loạn trong đây, sớm muộn thôi.

Chàng nhìn Ngô Văn Sở. Vẻ thản nhiên của anh ta. Sự tin chắc của anh ta. Anh ta không cảnh báo, anh ta thông báo với chàng. Một tình thế mà họ không thể thay đổi.

- Vậy thì ta nâng cao cảnh giác, không để việc đó xảy ra. – Chàng nói, thấy Ngô Văn Sở lại cười.

- Vâng, Tham thặng. – Không hiểu sao, trong giọng anh ta, chàng lại cảm thấy điều gì như chế giễu.

Khi trở về phòng, chàng như vẫn nghe giọng nói ấy lởn vởn trong đầu. Anh ta đã qúa quen với cách làm của Tây Sơn, chàng thầm nghĩ. Với bất cứ việc gì cũng dùng vũ lực và cách trừng trị tàn khốc, đó là cách làm của họ. Nhưng đó có phải cách duy nhất để giải quyết vấn đề?

Giấc ngủ đến với chàng cũng nặng nề và mệt mỏi như sự tỉnh thức. Chàng bị đánh thức bằng tiếng ồn trong doanh trại. Tiếng ồn gầm lên trong doanh trại như một cơn bão. Tiếng súng nổ đanh dường như ngay trong thành. Rất nhiều tiếng súng nổ, rồi cả tiếng đại bác. Tiếng xô đẩy, va đập, tiếng kêu gào. Tiếng chân người lẫn ngựa chạy ầm ĩ.

Chàng vừa mở cửa chạy ra, cô hầu đã xô cả vào chàng. Khuôn mặt cô ta trắng xác hoảng loạn. Không kịp nhìn lại, chỉ gạt cô qua một bên, chàng chạy vội ra ngoài. Ở sân, chàng thấy khói và bụi mù bốc cao ở cửa thành phía Tây, tiếng ồn cũng bắt đầu từ đó.

- Tham thặng! Bọn lính Ngự lâm làm loạn, mở cửa thành trốn ra! – Đoàn Văn Cát cưỡi ngựa chạy đến quát lên át tiếng ồn như muốn vỡ tung cả thành. Tim thót lên một cái như nhảy vào cổ, chàng vội vàng lấy ngựa, phóng đến cửa thành Tây, quát bảo Đoàn Văn Cát và Cai cơ Nguyễn Văn Hiếu đem đại quân tới. Cửa thành mở, không ngoại trừ khả năng quân bên ngoài sẽ thừa thời cơ tràn vào thành. Nghĩ tới việc đó, chàng cũng phải thấy sợ đến lạnh người.

Nhưng khi chàng tới, cửa thành đã vừa kịp đóng lại. Tiếng hai cánh cửa đóng “Đoành” một tiếng nghe xa cả dặm. Quân Gia Định đã tràn lên chiếm mặt thành và trước cổng, hai bên đường, dồn một đám quân khác vào giữa. Xác chết ngổn ngang trên đất. Ngay cả những cỗ đại bác bắn gần cũng đã được kéo tới, và hắn chúng đã có tác dụng cắt đứt đoàn người ngựa đang phóng ra khỏi thành, cho quân Nguyễn đến đóng cổng lại.

- Võ Tham thặng! – Ngô Văn Sở bước ra khỏi toán quân ngay khi vừa thấy chàng xuống ngựa. Toán đại quân rùng rùng kéo tới đằng sau cũng khiến sự náo loạn nơi cổng thành yên lặng. Toán quân bị bao vây không vùng vẫy chống cự nữa, nhiều kẻ đã mất vũ khí, rồi đang tiếp tục bị tước khí giới trong tay, dồn lại một bên.

- Anh đã chỉ huy đóng cổng thành? – Chàng hỏi, đưa mắt nhìn quanh. Ngô Văn Sở gật đầu. Nhìn gần, mồ hôi chảy ròng ròng bên má anh ta, có cả một vệt cắt dài như lưỡi lê chém phải.

- Chúng giết lính canh, mở cửa chạy ra. – Ngô Văn Sở nói. – Không biết chúng đã lọt ra bao nhiêu đứa. Bọn này cũng định chạy theo nhưng ta bao vây bắt kịp.

- Chúng mở cửa thành là định ám thông với bên ngoài. – Đoàn Văn Cát đi tới bên chàng, nghiến răng nói. Nguyễn quân sắp hoàn thành xong việc tước khí giới của đám hàng quân. – Chúng định giết sạch chúng ta bằng cách ấy!

- Có kẻ đầu đảng lôi kéo chúng. – Võ Tánh nhìn đám quân còn lại trong thành đang đứng nép sát vào nhau. Nhiều kẻ không tránh khỏi run rẩy. – Đưa chúng đến đài Bát Giác để tra hỏi!

Còn lại phải hơn trăm người bị giải đến khoảng sân trước đài Bát Giác. Rất nhanh, chúng khai ra kẻ đã âm mưu dẫn đám quân này ra khỏi thành, mở cửa định để cho Trần Quang Diệu đánh vào: Trưởng chi Hậu đồn Ngự lâm quân Võ Văn Sự và Trưởng chi Hữu đồn Nguyễn Bá Phong. Hai kẻ này đã âm mưu với nhau hàng tháng trước, đưa người lẩn lút trong quân lính để thuyết phục họ hợp lực với mình. Nhân lúc đổi canh khi vừa tảng sáng, chúng bao vây giết lính canh cửa rồi mở rộng thành, ồ ạt xông ra. Ngay cả những tên lính chưa hợp mưu với bọn bỏ trốn cũng động lòng định chạy theo thì bị Ngô Văn Sở đem quân đến chặn lại.

- Chúng định giết sạch chúng ta! – Vẫn còn căm tức, Đoàn Văn Cát đứng bên mà nghiến răng lẩm bẩm. – Bọn phản phúc này làm thế đâu chỉ một lần. Khi công tử Quang Bảo giữ thành, cũng chính chúng mở cửa cho bọn bên ngoài vào giết công tử.

- Bọn chủ mưu đã chạy trốn cả rồi, làm gì với đám này đây? – Ngô Tùng Châu khe khẽ nói sau họ. Anh ta nhìn đám lính đã bị tước khí giới, thậm chí nhiều kẻ còn bị thương sau cuộc xô xát vừa rồi đang qùy giữa sân. Nắng đang lên, chói gắt đổ xuống họ. Nhiều kẻ trong chúng cúi đầu, nhiều kẻ vẫn mang bộ mặt như đeo đá, nhiều kẻ run rẩy như đang đứng trong gió bão.

- Phải giết hết đi. – Tiếng nói vang lên trả lời cho họ. Ngô Văn Sở. Anh ta khoanh tay đứng bên cạnh họ mà nói. Dù chỉ là một Vệ úy nhỏ, vừa rồi anh ta đã chỉ huy đóng cửa giữ thành, nghiễm nhiên trở thành một người có công lớn mà tiếng nói lẫn vị trí trở nên quan trọng.

Tiếng nói rành rọt ấy không chỉ làm động tâm vài viên tướng mà còn rung chuyển cả đám hàng binh đang qùy giữa sân. Có tiếng khóc bật lên trong đám đông. Cả những kẻ đang cúi xuống cũng ngẩng lên, sự kinh hoảng in hằn trong mắt họ, hàng trăm khuôn mặt như thể một đoàn người vừa kéo lên từ địa ngục.

- Lần này may mà ta phản ứng kịp thời, nếu không hậu họa khôn lường. – Ngô Văn Sở vẫn giữ giọng nói trầm lặng nhưng rõ ràng. Trong giọng anh ta, không hiểu sao cũng có cảm giác giận dữ băng giá sôi sục, gần như là căm thù. – Quân lệnh như sơn, trong chiến trận đi lùi lại cũng đáng tội chém, một kẻ bỏ trốn thì anh em gia đình bị bắt tội theo, đâu ra thói phản phúc mà vẫn giữ được mạng sống? Nếu lệnh không nghiêm, tội không bị trừng phạt, chúng không biết sợ thì chúng sẽ vẫn cứ làm, cho đến khi giết hết chúng ta mới thôi. Nếu ngay cả mở cửa thành mà vẫn được tha, vẫn giữ được mạng sống thì chúng sẽ quyết giữ cái mạng hèn mạt của chúng mà phản ta bằng được. Không những thế, phản phúc như một loại bệnh dịch, không bị trừng phạt thì chúng càng lớn lên không gì cản nổi.

Từng lời anh ta nói như gió quét qua đồng cỏ, làm chấn động những thân người đang qùy. Từ một vết thương nào đó, máu vẫn tiếp tục nhỏ xuống, nghe rõ thanh âm trên đất, trong tâm trí họ.

- Phải vậy thôi. – Một lúc sau, Hoàng Công Thành thở ra. – Giam chúng cũng không ổn. Trong này không biết còn kẻ nào mang lòng ám muội, chúng hợp mưu với nhau thì nguy to. Vả lại quân lương của ta phải dè sẻn, không đâu mà nuôi đám phản phúc như chúng.

Nguyễn Văn Phát cũng gật đầu. Chàng vẫn đứng yên như chờ đợi. Cuối cùng, Ngô Tùng Châu lên tiếng. Lần này anh ta tới bên chàng, nói với giọng vừa cứng rắn vừa kiên quyết.

- Thành là việc lớn, hàng vạn mạng của chúng ta là việc lớn. Hàng chục vạn mạng quân Gia Định chúng ta ngoài kia, hàng chục năm gian khổ của chúng ta không thể uổng phí được. Hồi nãy suýt chút nữa chúng đã giết tất cả chúng ta, chúng chiếm thành này thì công sức chúng ta bỏ sông bỏ biển mà quân ta đang chiến đấu ngoài kia cũng tan vỡ mất. Kẻ phản nghịch không bị trừng phạt thì sao gọi là lệnh? Âm mưu phản nghịch không bị cảnh cáo thì sao gọi là uy? Giết vài kẻ để cảnh cáo bao nhiêu kẻ khác, giữ người mà giữ thành, giữ vài vạn mạng sống này. Chúa công cũng đã nói, ta thu nhận bọn chúng, đối đãi trọng hậu với chúng là đã làm hết công đức, tận tâm tận lực, nhân nghĩa thiện tâm rồi, thế mà chúng còn phản ta thì đó là lỗi của chúng, không thể trách ta được.

Võ Tánh vẫn đứng yên. Rồi chàng chầm chậm gật đầu.

- Lôi chúng lên thành chém cho bọn ngoài thành cùng thấy. – Chàng nói.

Tiếng gào thê thảm không thể nén lại trong lồng ngực kẻ nào đó như xói vào tai họ. Theo lệnh chàng, những viên tướng gọi quân áp lại, lôi những kẻ đang qùy đứng lên sắp hàng chuẩn bị giải đi. Trong đám đông, chợt một kẻ lao về phía chàng, về phía những quan tướng đang đứng. Bị cản lại, hắn vùng vẫy, vùng vẫy. Tóc hắn rối tung.

- Tham thặng, làm ơn, Tham thặng… - Không thể vượt qua những cánh ta đang lôi hắn lại, kẻ ấy qùy sụp xuống đất, dập đầu lia lịa. Khi hắn ngẩng lên, qua mớ tóc rối và vẻ kinh hoàng méo mó, chàng nhận ra khuôn mặt trẻ con của tên lính canh đã ngủ gục đêm hôm trước. Giọng nức nở của hắn vẫn như một đứa trẻ. – Tôi không có âm mưu với chúng. Chẳng qua… chẳng qua sáng này đi trực tự nhiên thấy chúng chạy ra… chúng chạy ra. Tôi nghĩ… tôi nghĩ… nếu chạy ra khỏi đây thì tôi được về nhà… Tôi chỉ muốn về nhà thôi, Tham thặng… Tôi không dám thế nữa, Tham thặng… Làm ơn tha cho tôi lần này, Tham thặng…

- Giải hắn đi! – Ngô Văn Sở nói với những người lính, cắt đứt tràng van xin của tên lính nhỏ. Đã có nhiều kẻ đứng lại, vùng vẫy kêu van. Đã có nhiều kẻ qùy sụp xuống dập đầu lia lịa, không chịu đứng lên. Tất cả tạo nên một cảnh tượng cực kỳ hỗn loạn.

- Oan ư? Các người cho rằng mình oan, nhưng chúng ta thì sao? – Ngô Tùng Châu lớn tiếng nói, mắt anh ta vằn đỏ. – Các người có nhà cửa, người thân, nhưng chúng ta không có sao? Các người biết qúy sinh mạng của mình, chúng ta thì không sao? Hàng vạn người ở đây không có sinh mệnh, nhà cửa sao? Chúng ta đã tha cho các người, dung nạp các người, sống chết để giữ gìn mảnh đất này cho các người. Nhưng các người thấy bọn phản nghịch ấy làm sai mà chạy theo, thấy cửa thành mở mà không hề nghĩ cho chúng ta sẽ bị giết chết nếu chúng xông vào. Nếu bị giết, chúng ta có kêu oan với ai được không? Hay các người sẽ cười cợt, dẫm đạp lên thân xác chúng ta mà cười cợt? Quân lệnh đặt ra để làm gì? Để tất cả phải biết trách nhiệm của mình với quân đội, biết hành vi của mình có ảnh hưởng đến nhiều người, biết qúy trọng mạng sống của anh em. Nay hành vi của các người khốn kiếp như thế, coi rẻ chúng ta như thế, các người lại có thể kêu oan được sao?

- Giải chúng đi. Kẻ nào chống lại thì chém ngay tại chỗ. – Võ Tánh nói. Sau hai cánh tay ngăn trở, khuôn mặt đứa trẻ con – lính kia trắng xác như giấy. Hắn trừng trừng nhìn chàng, đôi mắt như cặp mắt cá chết. Thậm chí không đứng lên được nữa, hắn để mặc người ta lôi mình đi.

Trong nắng ngày đầu hạ, hàng người rối bù tả tơi qùy trên tường thành trở nên sáng rõ đến nhức nhối. Cả những thanh gươm đã tuốt khỏi vỏ của những người lính đứng bên họ cũng hắt ánh sáng chói chang. Ngoài thành, trước lũy đất, quân Tây Sơn cũng đã sắp hàng nhìn sang. Thấp thoáng bóng của vài cái áo quân Gia Định của đám người vừa trốn được.

- Nhìn cho rõ vào, Tây tặc! – Viên tướng có giọng nói lớn được cử chỉ huy cuộc hành quyết sang sảng nói trên tường thành. – Bọn muốn làm phản sẽ có kết cuộc như thế này. Nếu các người còn biết qúy trọng sinh mạng những anh em cũ thì đừng tiếp tục trò ngụy tạo tin lừa dối để lôi kéo họ. Những mạng sống này là do chính các người giết chết!

- Chừng nào các người còn theo ta, ta sẽ bảo vệ các người, không có gì phải sợ. – Võ Tánh nói, trước đài Bát Giác. Chàng vừa nói vừa nhìn quanh bọn họ, những người lính mang đủ tâm trạng khác nhau: sợ hãi, giận dữ, bối rối, căm thù, hoảng hốt… Họ nhìn chàng, vẫn bằng tất cả những trạng thái ấy. Chàng lại nhớ đến lời của Ngô Văn Sở vài giờ trước đây: Những lời hứa hoàn toàn vô nghĩa trong thời gian này.

- Chém! – Tiếng hô lanh lảnh trên bờ tường như ngọn đông phong xô thẳng vào tim người trong lẫn ngoài thành. Những kẻ qùy trên tường vẫn lặng yên như tượng đá, như đã chấp nhận số phận của mình, như vẫn còn mải mê nhìn ngắm mạng sống đang trôi đi như gió cát trượt trên bức tường thành cổ đã hàng trăm, hàng ngàn năm. Những kẻ đang qùy vẫn lặng yên như hóa đá cho đến khi lưỡi kiếm chém xuống. Những cái đầu rơi xuống tường thành cao hàng chục trượng như đá lăn. Những thân thể rơi xuống tường thành hàng chục trượng như lá rơi. Ở phía lũy đất, văng vẳng tiếng kêu gào, la hét. Trong thành vẫn lặng yên. Người ta lo dọn dẹp dấu vết của cuộc chiến hồi nãy, dọn dẹp xác của những người bị giết chết – không biết ai là kẻ đã giữ thành và kẻ nào đã định thoát ra, lo cứu chữa những người bị thương, kiểm kê số quân, siết chặt tuần phòng. Tất cả những việc ấy được làm trong sự yên lặng như bị đè xuống trong nắng.

- Hơn bốn trăm tên thoát ra được. – Ngô Tùng Châu báo cáo cho chàng khi việc kiểm kê quân số đã xong. Trời đã về chiều. Nắng oai hắt vào thành vàng rực. – Thật là nguy hiểm!

Chàng chỉ gật đầu. Họ đã sắp xếp lại các đội quân, các cuộc tuần phòng, các thủ lĩnh, quân tướng. Cuộc nổi loạn vừa rồi lại giúp cho họ lọc hết tất cả những kẻ mang tâm tưởng phản nghịch trong quân, có lẽ.

Ngô Văn Sở bước vào khi Ngô Tùng Châu vừa đi ra. Viên Thượng thư họ Ngô liếc nhìn anh ta, nhưng không nói gì, chỉ gật đầu chào. Từ một viên Vệ uý nhỏ, anh ta đã là ân nhân của họ. Từ một hàng tướng, anh ta đã trở thành người cứu sống họ.

- Từ nay anh là Thống chế quản Hữu đồn. – Chàng nói khi Ngô Văn Sở vừa cúi đầu chào. Anh ta nhìn chàng, nhướng mày nhưng không nói, cũng chẳng thể hiện vẻ vui mừng trước chức tước mới. – Việc vừa rồi, anh đã phản ứng rất nhanh.

Ngô Văn Sở mỉm cười trước câu nói của chàng, như anh ta đã nhận ra ẩn ý ấy.

- Đó là vận may của tôi. – Anh ta nói, nửa như là chế nhạo. – Thôi được, những kẻ ấy đã bắn tiếng thử lôi kéo tôi, và nhiều kẻ trong thành này hẳn cũng đã nhận được.

- Nhưng không ai lên tiếng. – Chàng chậm chạp nói. Nụ cười vẫn đeo dính trên khuôn mặt Ngô Văn Sở bây giờ lại có vẻ trêu ngươi kỳ lạ.

- Vì dù không định phản ngài, hay không có gan phản ngài, họ vẫn là anh em với nhau. Còn tôi thì cho rằng việc này xảy ra thì tốt hơn là không xảy ra. Những kẻ như thế cần thanh lọc bớt trước khi chúng ta thực sự đối đầu với sự việc nghiêm trọng như đợt công thành hay giữ thành khó khăn nào đó. Những kẻ trong thành này cần phải được xác định lòng trung thành của mình đặt vào đâu.

- Anh là kẻ có tài, rất có tài, Ngô tướng quân. – Chàng nhìn anh ta trong bóng hoàng hôn đỏ quạch đang chiếu vào phòng. – Đầu óc anh giống như một thanh gươm. Sắc và đầy sát khí.

- Vì chúng tôi đã quen với chiến tranh, thế thôi. Nhiều khi tôi nghĩ, các ngài, hay thậm chí là chúa công của ngài nữa, đã bị chiêu bài “Nhân nghĩa” của mình bao bọc qúa đáng chăng? Chúng tôi đã quen với sự tàn khốc, sự lựa chọn tàn khốc lẫn sự ích kỷ tàn khốc của con người, thế thôi.

Ranh giới gì giữa có tội và vô tội, tướng quân? – Anh ta nheo mắt, lặp lại câu nói ngày trước. - Trong đám đông vừa bị giết, bao nhiêu kẻ có tội? Hay những kẻ chủ mưu đã trốn ra rồi, cao chạy xa bay cả rồi, chỉ để lại cho chúng ta đám con nít chậm chạp, hoảng hốt, run rẩy? Chúng ta vừa giết những kẻ thế nào vậy, tướng quân?

Anh ta đang thách thức. Thách thức chàng, thách thức cả thiên hạ. Cả lẽ đời. Ranh giới? Ranh giới nào? Ranh giới nào cho cậu bé đã ngủ gục dưới chân tường và đã vùi xác nơi chân thành gió cuốn?

Nhưng còn chúng ta, mạng sống của chúng ta? Tương lai của chúng ta? Mạng sống của hàng chục vạn con người?

- Anh là Thống chế, vậy thì hãy đặt thiết quân lệnh cho ta: Kẻ nào bị phát hiện đem lòng tạo phản, chém ngay. – Chàng nói. Chàng không trả lời anh ta. Chàng chẳng có gì để trả lời cho anh ta.

Ngô Văn Sở nhìn chàng một lần nữa, rồi tuân lệnh đi ra. Anh ta vẫn để cánh cửa mở. Khung cửa nhìn ra bóng hoàng hôn đang đổ xuống bên ngoài, trên tường thành, trên mái vòm cong của điện đài hàng trăm, hàng chục năm đã chứng kiến bao cuộc đổi thay dâu bể.

Thành Đồ Bàn của Chiêm Thành một thời rực rỡ. Thành Đồ Bàn của những trận chiến tắm máu vạn người. Thành Đồ Bàn oán khí ngất trời cao. Thành Đồ Bàn mà mạng người vẫn tiếp tục đổ xuống như mưa, như lá, như đá. Hoàng hôn đang trượt qua nó, đổ xuống nó màu đỏ rực như máu. Trả lại cho nó màu đỏ rực như máu.

Tôi chỉ muốn về nhà. Lời nói của đứa trẻ ấy vẫn còn vọng mãi bên tai chàng. Về nhà. Về nhà. Về nhà. Ngôi nhà mà từ đó nó đã bị bắt đi để sung vào quân. Ngôi nhà mà nó chưa kịp quên đi. Ngôi nhà mà nó đã thấy trước mắt qua cánh cửa thành rộng mở. Ngôi nhà mà nó có lẽ đã thấy trên tường thành vào khoảnh khắc cuối cùng và vĩnh viễn.

Cô hầu của chàng lặng lẽ vào phòng từ cửa hậu đằng sau. Cô đứng lại trên cửa, nhìn trân trối vào lưng chàng.

Trong bóng hoàng hôn đỏ rực chiếu qua thành trì và điện đài hùng vĩ, vị Đại tướng quân đang gục đầu xuống bàn, đôi vai rộng run rẩy không che giấu nổi.

58

Tháng năm năm Canh Thân, Nguyễn Văn Thoại cùng Chiêu Ấn ở Vạn Tượng kết hợp đánh vào Nghệ An. Cùng lúc, Thống lãnh Thanh Hóa Hà Công Thái, thổ ty Hưng Hóa là Phan Bá Phụng cùng thổ tù, phiên liêu các vùng khắp Bắc Hà nổi dậy. Nguyễn Đình Đạc ở Đồn Bố, Phò mã Tây Sơn Phan Văn Trị ở Đồn Lam, Nghệ An phải chạy về Thanh.

Trong lúc đó, quân Gia Định do Huỳnh Đức, Lê Chất chỉ huy cũng đã tiến tới Cù Mông. Thuyền chúa Nguyễn tiến sát theo sau, bắn đại bác báo cho thành Bình Định.

Trong thành, mọi cái đầu cùng ngẩng lên khi nghe tiếng pháo nổ. Ba đợt, mỗi đợt ba tiếng một. Đích thân chúa Nguyễn đã tới.

Nhận biết ấy như một làn gió thổi qua họ, giữa những ngày bức bối đổ lửa tháng hè. Từ căn nhà bên cạnh, Ngô Tùng Châu chạy vội sang nơi ở của Võ Tánh. Nơi ấy, các tướng cũng đã tập trung đông đủ. Dù rất dè dặt, trên mặt mỗi người đã lộ rõ vẻ phấn khích. Những tháng thắc thỏm của họ đã qua khi quân Nguyễn đã chiếm lại trận địa vòng ngoài Phú Yên.

- Ta cần liên lạc với chúa công. – Võ Văn Lượng đang nói. – Báo rằng thành vẫn giữ vững. Những người ra ngoài được biết đâu sẽ tìm ra cách liên lạc cho chúng ta, thậm chí tìm được cách cho ta đánh ra.

- Nếu vậy, ta phải tìm cách đánh dạt một góc quân của Diệu. – Võ Tánh trầm lặng nói. – Nhưng hắn đã đắp lũy rất cao. Quân có thể đánh lùi, nhưng lũy đất khó hạ. Dù đánh tan quân, người của ta cũng khó lòng vượt qua lũy an toàn mà ra được.

- Cũng phải thử xem sao. – Hoàng Công Thành khoanh tay nói. – Chúng ta đã phòng thủ qúa lâu rồi, nếu quân ta đến thì cũng nên phối hợp hành động. Thử xem lối phòng thủ của Diệu ra sao, biết đâu lại có thể thông báo được cho bên ngoài điều gì có ích?

Vì mọi người đều đồng tình như thế, họ quyết định phương thức tấn công: Một toán quân sẽ mở cửa Đông đánh ra nghi binh cho nhóm đột kích xông từ mạn Bắc. Để thu hút quân địch, Võ Tánh sẽ cầm cánh quân nghi binh.

- Mọi người đều hăng hái. – Ngô Tùng Châu nói khi họ đã ra khỏi cuộc họp bàn, chuẩn bị cho cuộc tấn công ngày mai. Đêm đã lại xuống. Khu thành rực ánh lửa. Có thể vì lửa đỏ, cũng có thể vì những tiếng súng ban ngày, khuôn mặt mọi người đã được xua tan đi sắc tái ngoét ảm đạm đã có sau cuộc nổi loạn của hàng quân. Võ Tánh không trả lời anh ta, chàng chỉ gật đầu, đi vòng ra sau điện, đến khu vườn nằm khuất ở sân sau, nơi mà ngày xưa có lẽ Nguyễn Nhạc đã định xây một vọng các nhưng chưa hoàn thành, chỉ để lại một gò đất cỏ mọc dày mượt, xanh um. Chàng nằm xuống cỏ, ngẩng đầu nhìn bầu trời mùa hạ cao tít nhấp nháy sao trên đầu.

- Họ cũng nôn nóng qúa. – Chàng nói, rất lâu sau đó. Ngô Tùng Châu đã đứng dựa vào một cây liễu cong cong bên cạnh. – Tiếng súng vừa rồi, hẳn bên ngoài cũng nghe được. Chúng chắc chắn đã đợi ta phá vòng thoát ra. Dù có tấn công vào đêm đi chăng nữa, ở thành này ta cũng đã mất đi một nửa sự bất ngờ, khó lòng mà thoát nổi. Diệu là chiến tướng lão luyện, quân chúng lại đông, chúng sẽ khó lòng mà bỏ trống một góc lũy nào, chúng đắp luỹ chính là để chống lại hoả lực của ta, mà nhóm quân vừa về với ta cũng chưa rành rẽ sử dụng hoả lực.

- Đã biết thế sao anh không nói? – Ngô Tùng Châu chớp mắt, tỏ vẻ ngạc nhiên. Chàng mỉm cười với bầu trời.

- Vì ai nấy cũng đều nôn nóng. Ta khó lòng bắt họ ở trong thành cố thủ lâu hơn được nữa.

Lâu hơn nữa, sự bức bối sẽ làm họ phát điên mà phát sinh ra những hành động rồ dại. Những tháng thấp thỏm kéo dài đã được trả lời bằng tiếng súng từ xa vọng đến, và nếu không phản ứng, không thử một cơ hội, chàng cũng không biết phải trả lời với họ thế nào. Làm sao chàng có thể nói với họ, kể với họ rằng, ở Diên Khánh, từ khi nghe tiếng súng của chúa Nguyễn ngoài cửa biển cho đến khi thành được giải cứu – dựa vào một vận may ngẫu nhiên đến thần kỳ - chàng đã phải chờ đợi đến hơn nửa năm, đến gần như kiệt quệ? Lần này, chàng còn có thể hy vọng vào một điều thần kỳ nào nữa? Đại quân Gia Định và đại quân Phú Xuân sẽ so tài trên vùng đất này, quyết định sự thắng thua của cả đại cuộc. Không còn sự may mắn nào cứu được họ, ngoại trừ thực lực của chính bản thân.

Tiếng súng kia, niềm hy vọng của họ, còn xa hơn cả tiếng súng chàng đã nghe được ở Diên Khánh. Vậy là quân Nguyễn đã thâm nhập vào địa phận Phú Yên, nhưng đón chờ họ lần này không còn là đội quân suy nhược của Nguyễn Nhạc, cũng không phải là đội quân rối loạn của Tây Sơn sau những cuộc đổi thay liên tiếp, không còn là đội quân bị họ cắt đứt nguồn tiếp viện ngay từ ở Quảng Ngãi. Đại quân của Tây Sơn với hàng chục vạn người đóng giữ khắp đất đai quen thuộc của chúng, đại quân của Tây Sơn với hàng ngàn thuyền chắn cửa Thị Nại. Không còn vận may nào nữa cho họ, có thể cứu họ lần này, nơi mà cả những mưu chước cũng trở nên vô ích. Những lần tiến đánh Bình Định đã làm chàng quen thuộc cả với địa hình, địa thế nơi đây. Thậm chí chàng còn có thể xác định được rằng từ Cù Mông, quân Nguyễn sẽ phải tiến theo đường nào để đến, quân Trần Quang Diệu đã bố trí như thế nào để phòng thủ. Từ Cù Mông, họ sẽ đi qua sông Phú Huề, đến đồng Bình Thạnh, Phú Trung để vòng ra sau Thị Nại. Con đường thứ hai, ở phía Tây từ thung lũng sông La Hai và sông Hà Thanh len qua khe núi đến núi Chúa, đồng Cây Cầy, nơi mà chàng đã đi qua hơn hai lần để bao vây Bình Định.

Khi chàng tiến đánh Bình Định trước kia, khu thành này còn đang xáo trộn. Sau vụ việc xảy ra với Nguyễn Nhạc, sau vụ việc xảy ra với Bùi Đắc Tuyên, rồi Lê Trung, Nguyễn Bảo, thành Bình Định liên tục xáo trộn, tạo thời cơ cho họ tấn công dễ dàng. Xuyên qua con đường từ Phú Yên, được sự hỗ trợ của thuỷ quân đánh vào Thị Nại, chắn đường quân tiếp viện – đó là cách họ tiến công. Và quân Tây Sơn giờ đây cũng đã nhận ra điều đó để đổ quân bao vây thành, chắn cửa Thị Nại – Trong lúc, nguy hiểm hơn hết, bất ngờ hơn hết, họ để mất Phú Yên, bị Phạm Văn Điềm chắn đường ở Phú Yên hoàn toàn. Vậy là đối sách trước giờ của họ đã không thể sử dụng. Chỉ có thể trực diện đối đầu. Dù có tăng cường thêm bốn vạn hàng quân, dù có thêm quân Miên, thậm chí cả Xiêm La, số quân mà họ có vẫn còn quá chênh lệch với phần miền Bắc Đại Việt. Cuộc tấn công xuyên qua hàng luỹ này càng khó khăn gấp bội.

Con đường đến đồng Cây Cầy hẳn đã bị phong tỏa khi đánh du kích là sở trường của quân nơi đây. Con đường từ đèo Cù Mông phải qua Thị Nại – sự xuất hiện của chúa Nguyễn hẳn là để đốc thúc thủy quân đánh vào giải vây cho con đường này. Cả hai việc đều khó khăn như nhau. Hơn cả ở Diên Khánh. Ở Diên Khánh, họ chỉ phải đối phó với Trần Quang Diệu, bây giờ thì có cả Võ Văn Dũng phụ giúp. Đã vậy, dù có vượt qua vòng trong Quy Nhơn, họ cũng phải đối đầu với lũy đất Trần Quang Diệu đã xây thành nơi phòng thủ cho cả chục vạn người. Một trận huyết chiến sẽ xảy ra mà không biết phần thắng sẽ nghiêng về ai.

Liệu còn có cách nào khác? Nhìn lên những vì sao, chàng cau mày nghĩ, không nhớ đến cả sự hiện diện của Ngô Tùng Châu ngay bên cạnh. Giờ đây chàng lại ao ước có khả năng của những kẻ có thể nhìn thấu tương lai, thiên hạ qua sự chuyển dịch của các ngôi sao. Giá mà chúng có thể trả lời chàng bây giờ. Giá mà có ai đó trả lời cho chàng bây giờ.

Chàng đã đồng ý với cách làm của các thuộc tướng vì ngay cả chàng, chàng nữa, cũng khao khát có được một mối dây liên hệ nào với bên ngoài, muốn biết chuyện đang xảy ra trong những tin xấu cứ được gào lên ngoài thành, muốn nhận được một lời nào – bất cứ lời nào – của họ. Chàng cũng muốn nắm bắt lấy một cơ hội, một vận may khả dĩ nào đó. Chàng cũng trở nên nôn nóng, mặc cho bao trải nghiệm đã có.

- Lần này mở cửa thành, liệu có thêm kẻ nào nữa chạy ra? – Ngô Tùng Châu chợt cất tiếng hỏi. Cuối cùng, anh ta đã nói ra điều mà họ lo nghĩ. Trong đám quân “phá vây” sắp tới, liệu còn có kẻ nào chạy ngược về phía Tây Sơn?

- Không có đâu. – Chàng trả lời, giọng vẫn trầm lặng. – Chúng nghe tiếng quân ta bên ngoài, biết rằng ta sẽ bày cách liên lạc. Bây giờ, ngay cả chúng cũng không tiếp nhận đám quân “trở về” nữa. Chúng cũng phải cảnh giác chứ.

Ngô Tùng Châu thở ra. Chàng nghe như gánh nặng lâu ngày của anh ta đã được hạ xuống. Bây giờ, ngay cả Trần Quang Diệu cũng không thể tiếp nhận đám hàng quân kia, khi mà không thể biết được có bao nhiêu kẻ là gián điệp của quân Gia Định. Vậy là họ không còn phải lo đám quân chạy trốn.

- Lương còn bao nhiêu? – Chàng chợt hỏi, dù biết rằng vẫn còn qúa sớm để quan tâm đến việc quân lương. Họ đã trữ lương đủ để dùng cả năm, thậm chí là hơn nữa khi đã có một số quân bỏ trốn và bị giết. – Từ nay cũng phải dè sẻn dần đi.

- Anh nghĩ thành sẽ bị vây lâu đến thế? – Ngô Tùng Châu ngập ngừng hỏi. Sự lo sợ không giấu được. Một năm, quãng thời gian ấy đã là qúa lâu.

- Cẩn thận vẫn hơn. – Chàng nói, vẫn giữ cảm xúc trong giọng ở mức thấp nhất. Chàng lấy làm may mắn vì có Ngô Tùng Châu bên cạnh lúc này. Anh ta không dễ xúc động như Trịnh Hoài Đức, và sự cứng rắn vốn đã nổi tiếng của anh ta lại có thể chấn hưng tinh thần mọi người, làm họ không lo sợ trước những thay đổi, biến chuyển. Ngay cả trong cuộc nổi loạn vừa rồi của đám hàng quân, anh ta đã tìm được lý lẽ để trấn an tất cả mọi người – cả quân Bình Định lẫn quân Gia Định. Lý lẽ - họ cần điều gì đó có thể giải thích cho những ngày tháng này để tiếp tục tồn tại.

- Đã ba tháng rồi. – Ngô Tùng Châu bỗng nói. Anh ta đang đếm thời gian như thể đếm số quân lương, như thể chàng đang đếm các vì sao. Việc mà người đã trải qua thời gian dằng dặc giữ thành như chàng không bao giờ làm nữa.

Ba tháng, nửa quãng thời gian của họ. Tháng chín, gió sẽ đổi chiều, quân Gia Định sẽ phải quay về, và Tây Sơn mặc tình dồn sức công thành. Chỉ còn ba tháng nữa, trong khi quân Nguyễn mới chỉ vừa đến đèo Cù Mông. Qua sự nhắc nhở về quân lương của chàng, Ngô Tùng Châu hình như đã chợt nhận ra ý nghĩ ấy. Chỉ còn ba tháng gió thuận, cơ may cho cuộc giải vây trong năm này của họ thật qúa mỏng manh. Nhưng anh ta chỉ nói như tính toán, như thừa nhận, như đã chấp nhận.

Khi Ngô Tùng Châu đã về phòng, chàng vẫn nằm trên gò cỏ mà nhìn trời. Chàng có thể đến tìm Võ Văn Lượng và Nguyễn Văn Hiếu bây giờ mà uống cùng họ vài chén, nhưng bỗng dưng chàng không muốn trở dậy nữa. Trời thật đẹp. Màu xanh ngắt lạ lùng của đêm thăm thẳm và muôn ngàn vì sao nối tiếp nhau sâu hút. Thậm chí không có một bóng mây bay qua. Trăng mờ, chỉ là một mảnh bàng bạc in hằn vào bầu trời.

Chàng chợt nhớ đến đêm xa xôi nào, bên nàng trong đống rơm còn thơm mùi cỏ lá dưới bóng trăng mờ. Chàng không muốn tìm đến Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu với những ly rượu say chuếnh choáng, những cuộc trò chuyện nghiêm trang lẫn bông đùa của những người đàn ông lúc này. Chàng chợt thấy xa lạ với họ như xa lạ với chính quá khứ của mình. Chàng khát hơi ấm của một con người. Hơi ấm của nàng đã ở trong vòng tay chàng đêm ấy. Làn da nàng. Mái tóc. Đôi môi. Tiếng cười của nàng. Tất cả đã an ủi chàng lúc ấy. Lúc ấy, nỗi muộn phiền của chàng bây giờ nhớ lại thật qúa nhỏ nhoi và buồn cười. Vậy mà nàng đã ở bên chàng, an ủi chàng, lặng yên chấp nhận. Bàn tay nàng đã xoa dịu chàng. Trong ngàn ngày sau đó, trong hơn ba ngàn ngày sau đó. Nàng đã chỉ luôn im lặng đón chàng về mà không truy vấn, không tra gạn, không trách cứ, thậm chí chẳng bao giờ rơi nước mắt. Lần duy nhất nàng khóc là do lỗi của chàng. Chàng đã ngốc nghếch, qúa ngốc nghếch để làm nàng phải buồn lòng. Giờ đây chàng nhận ra điều đó, nhận ra những gì nàng đã làm cho chàng, cõi lòng bao dung của nàng. Chàng đã qúa ngốc nghếch để không nhận ra, để đòi hỏi, để yêu cầu những gì không thuộc về nàng. Chàng đã qúa ngốc nghếch để không nhận ra tình yêu của nàng. Phải, tình yêu. Bây giờ thì chàng tin vào điều đó, tin vào ký ức mình, tin vào nỗi xót xa tiếc nuối ngày càng lớn dần lên trong lòng. Đó là tình yêu của nàng, vậy mà chàng không nhận ra, mãi vẫn không nhận ra.

Nỗi tiếc nuối phiền muộn này lại đang tiếp thêm sức cho chàng chống chọi với chuỗi ngày nặng nề đằng đẵng. Về nhà. Thanh âm ấy đôi lần vẫn bật lên trong chàng, trong những lúc vắng người hay giữa khoảng đêm tịch mịch, nỗi cô đơn giữa muôn vạn con người đổ ập xuống chàng như dòng thác, như cơn mưa rừng. Thanh âm ấy vang mãi, có khi mang theo âm giọng của cậu bé đã chết, có khi mang giọng nói của những đứa con. Sự mong chờ trong trẻo ngây thơ của tiếng vang ấy những lần đầu đã khiến chàng phải giật mình. Rồi theo thời gian, nó chuyển thành một nỗi thương tâm thường trực, thành một bầu không khí lơ lửng giữa thành trì. Chàng như có thể thấy được nó len lỏi như màn sương ngấm vào từng người, từng người một.

Phải, cái chết đối với họ có khi còn ít đáng sợ hơn là nỗi nhớ. Trong bức tường thành, dưới khoảng trời được vây tròn, cắt vụn, cõi lòng họ bị quây lại thành một khối cô đặc, đăng đắng vị của ký ức, của những hạnh phúc và tiếc nuối trong đời.

Chàng đưa bàn tay lên ngang mặt, nhìn chăm chăm vào cổ tay. Vết hằn của tay áo bị nắm chặt đã tan đi từ lâu lắm, cả cảm giác về nó cũng đã trở nên mờ nhạt dù chàng vẫn cố tình ghi nhớ. Chàng qủa thật là một kẻ ngốc nghếch khi không nhận ra tình yêu của nàng qua cái nắm tay chặt đến thế, lâu đến thế mà cũng run rẩy đến thế. Mười năm, vậy mà chàng đã chưa bao giờ nhận ra.

Chàng lăn mình trên gò cỏ. Thấy lòng dịu lại. Những ngày tháng này, ý nghĩ về nàng làm chàng dịu lại. Vẫn như năm xưa khi chàng tìm đến nàng. Người thanh niên mang đầy ấm ức muộn phiền tìm đến nàng.

Những ngôi sao nhấp nháy qua kẽ ngón tay chàng. Chớp mắt một lần nữa, chàng ngồi dậy. Đã đến lúc đích thân chàng phải đi xem việc tuần phòng. Và chuẩn bị cho ngày mai, trận đánh ngày mai. Rồi những ngày sau đó. Những công việc, sự kiện nối tiếp nhau, nối tiếp nhau không bao giờ ngừng.

Vừa ra khỏi cửa điện, chàng đã gặp ngay Võ Văn Lượng. Ông ta lại đang đi cùng cô hầu của chàng. Thấy chàng, ông ta gật đầu, bảo cô hầu đi về.

- Tôi đi tìm anh nên nhờ cô ta dẫn đường. – Võ Văn Lượng nói. Chàng đưa mắt nhìn theo lưng cô gái, tự hỏi tại sao cô ta lại biết chàng đang ở đây. Võ Văn Lượng nói tiếp mà không đợi chàng hỏi. – Anh đã định làm cách nào chuyển tin ra ngoài chưa?

- Phải ra ngoài mới tìm được cách. – Chàng cũng đã thấy hơi bực mình với những câu hỏi giống nhau. Nhưng Võ Văn Lượng không truy hỏi thêm, ông chỉ nhìn chàng bằng đôi mắt sâu hút trong bóng tối.

- Nếu thương vong nhiều, tình hình sẽ rất tệ. – Ông ta nói. Chàng nhìn ông ta. – Quân ta rất ít, không thể để mất được.

- Nếu thấy tình hình nguy cấp, tôi sẽ lập tức rút quân. – Chàng gật đầu.

Càng lúc, chàng lại càng thấy bối rối. Không cố đánh thì không phá vây được. Cố đánh cũng chưa chắc đã thắng. Họ đang dò tìm vận may nào ở tòa thành này?

Không chỉ quân Nguyễn ở thành Bình Định bối rối. Ở đồng Cây Cầy, quân Nguyễn cũng bị chặn lại trong các hẻm núi. Trong các hẻm núi, sức mạnh hỏa lực của họ bị chặn lại, và những đợt phục kích trở thành nỗi ám ảnh thường xuyên. Tây Sơn lui về núi Chúa nhưng lại được quân tiếp viện đổ tới chống giữ, cản Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đức Xuyên, Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc. Đã vậy, hàng quân đã bỏ trốn ngay từ ngày đầu đến Phú Yên lại càng ồ ạt kéo về phía quân đội cũ. Sau trận núi Chúa, Lương Văn Cương, Nguyễn Văn Vân mang cả hai trăm lính Ngự lâm quân bỏ về phía Tây Sơn. Ở Cù Mông, chúa Nguyễn đưa Lê Văn Duyệt, Mạc Văn Tô đánh Phú Trung nhưng không phá được, định gọi Nguyễn Văn Thành chuyển một nửa voi chiến sang cho quân của Duyệt. Nguyễn Văn Thành kháng lệnh vì phải đối phó với lực lượng chính của Tây Sơn đóng tại núi Chúa và trông giữ đám quân đang tan rã dần dần. Tháng bảy, Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Điềm đem năm trăm quân bỏ trốn, kéo theo một trăm năm mươi lính Ngự lâm quân ở Đông An chạy trốn. Quân Lê Văn Duyệt vừa chiếm được núi Hoa An, viên tướng người Miên của Tiền quân lại thông đồng với Tây Sơn khiến chúa Nguyễn phải trả Nguyễn Đức Xuyên và Lê Chất lại cho Nguyễn Văn Thành để chống cự, đưa quân Miên về Cù Mông. Tháng chín, Lê Văn Thanh chèo thuyền nửa đêm bỏ đi mất dạng.

Trận chiến cứ thế kéo dài dằng dai đến gần hết mùa gió nồm. Một sự kiện an ủi cho quân Nguyễn khi họ đã cắt được quân lương từ Bắc Hà chuyển vào cho Tây Sơn khi Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương, Nguyễn Văn Tánh chặn thuyền lương bắt được ba vạn vuông gạo cùng thuốc, đạn, binh khí.

- Nhưng cũng không đủ để hạ Tây Sơn. – Chúa Nguyễn nói khi buông bản báo cáo xuống. Quân của vị chúa vẫn đóng tại Cù Mông, đốc thúc hướng tấn công vào sau Thị Nại. Vừa chiếm được núi Hoa An lại xảy ra sự việc quân Miên trở lòng khiến phải trả quân về cho Nguyễn Văn Thành, rốt cuộc trong ba tháng trời họ vẫn chưa tiến lên được. Sự nóng nảy của vị chúa được kiềm nén trở thành tâm trạng u uất thường xuyên.

- Tất nhiên. – Chếch bên ngài ta, Đặng Đức Siêu cũng chỉ nhún vai. Vị chúa nhìn ông ta, nhưng quyết định không hỏi nữa. Cứ đánh đi, đó là tất cả những gì ông ta nói. Dù sao ông ta cũng chỉ là một người hoạch định chiến lược, không phải là nhà binh pháp, ngài ta nghĩ thầm.

- Đã tiến đến đây thì không thể lui về. – Chúa Nguyễn trầm ngâm nói. – Lui về lúc này, Tây Sơn thừa cơ tràn xuống, đại quân của chúng ở đây, đất đai ta đã lấy lại được không thể để mất thêm nữa. Lui về lúc này, quân tướng sẽ đồng loạt nản lòng. Giữa chiến trường ta còn hạn chế được sự xung đột của quân ta với hàng binh, về Gia Định thì quyết không thể.

- Vậy thì ta ở lại. – Đặng Đức Siêu vẫn nói bình thản như trêu ngươi. Nhưng rồi ông ta chợt đổi giọng. – Ta đã thu trước lương ở Gia Định liền ba năm rồi, bây giờ muốn thu thêm cũng khó. Cố được đến bao lâu nữa?

- Ta còn Thuận Thành, Chân Lạp, Hà Tiên. – Vị chúa nói mà không chớp mắt. – Lúc này không gọi đến họ thì lúc nào?

Đặng Đức Siêu hơi nghiêng đầu, rồi ông nheo mắt nhìn vị chúa.

- Chúa công, thật ra thì lo lắng của ngài về chuyện quân tướng ngài và hàng binh xung đột với nhau chiếm mấy phần trong quyết định ở lại?

Chúa Nguyễn quay nhìn ông. Rồi đi về phía cửa doanh trại. Họ đang đứng trong một khu đồn lớn được dựng lên ngoài cửa Cù Mông.

- Thật ra bọn họ đã rất ức chế, ta hiểu chứ. – Vị chúa lặng lẽ nói. – Thân làm tướng xông pha hòn tên mũi đạn ngoài trận tiền mà còn phải quản cả đám quân bất tín. Qúa nhiều người đã phải bỏ mạng – thương vong lớn nhất của chúng ta từ trước tới nay. Phải ở lại lần này, không ít người bất mãn. Nguyễn Đức Xuyên đã dâng sớ cho ta xin dừng binh, đợi gió thuận hãy đánh. Lúc này thủy binh của ta còn tiếp tế được quân lương, đến lúc gió thuận cho Tây Sơn, bọn Tề Ngôi đổ xô cả xuống đây, mọi việc sẽ còn rắc rối cho ta bội phần.

- Mà lỗi phần lớn ở chúa công thu nhận đám hàng quân ấy. – Đặng Đức Siêu vẫn giữ giọng nói bỡn cợt. – Ai dám chắc rằng trong những ngáng trở này không có sự góp sức của những kẻ làm phản, báo cáo lại tình hình quân ta với kẻ địch? Ta tấn công không được, chẳng phải vì đã có kẻ nắm rõ được đường đi nước bước của ta?

Bốn vạn người là con số lớn, kẻ bỏ đi làm phản là con số nhỏ, nhưng oán thù thì không nhỏ. – Đặng Đức Siêu khoanh tay nhìn vào lưng vị chúa. – Nếu ngài không cẩn thận, oán thù ấy sẽ dội ngược vào chính ngài. Chính ngài phải chịu trách nhiệm cho cái chết của thuộc hạ ngài.

Chúa Nguyễn cau mày nhìn viên quan họ Đặng. Thoáng tức giận hiện lên trong mắt ngài ta. Gò má ngài ta giật khẽ. Trước sự giận dữ ấy, Đặng Đức Siêu chỉ mỉm cười.

- Chúa công biết không, ngay cả những kẻ tàn ác nhất, đế vương tàn ác nhất cũng có người sẵn sàng chết cho chúng. Ngay cả những kẻ bị người Gia Định nguyền rủa này cũng có người trung thành đến chết với chúng, ngài đã thấy rõ rồi đó. Nhân nghĩa, đạo đức, yên bình, hòa hợp ngài nói ra, hứa hẹn với họ có chút ý nghĩa nào không? Ngài hiểu lý do không? Vì những kẻ mà ngài nguyền rủa kia dù sao cũng đem lại được chút gì cho những người dưới quyền chúng. Đến Kiệt, Trụ cũng còn có kẻ sẵn sàng chết cho mình. Chúng là những kẻ áo vải, giơ tay mà kêu gọi được cả vạn người; bên cạnh sự gian trá, sự tráo trở, chúng cũng đã đáp ứng được nguyện vọng của những người dưới trướng chúng. Những kẻ đơn thuần chỉ biết đến thế thôi. Dù triều đại ấy có mục nát, hỗn loạn, suy vong đến mức nào, chúng cũng sẽ theo đến cùng.

Còn ngài, chúa công, ngài đối xử với những kẻ theo ngài qúa khắc nghiệt. Khi thiếu lương, thiếu tiền, ngài bắt các quan đóng góp. Quân sĩ ngài phạm lỗi, ngài giết không tha. Quân đội của ngài đến vật vứt ngoài đường cũng không nhặt. Nhưng họ có vui sướng không, chúa công? Những người đi theo ngài đã bao giờ biết đến thế nào là sung sướng chưa? Bây giờ ngài còn bắt bọn họ phải bỏ mình vì những kẻ đã từng giết chóc họ sao, chúa công? Tại sao ngài lại có thể tàn nhẫn với chính những thuộc hạ của mình đến vậy?

- Tiên sinh muốn nói gì? – Chúa Nguyễn lên tiếng, một lúc sau. Giọng ngài ta trầm xuống. Đặng Đức Siêu hướng mắt nhìn lên bầu trời trải rộng trên họ.

- Đáng lẽ phải hỏi: Chúa công, ngài muốn gì? Oán thù là một loại sinh vật không có mắt, và không tự mất đi. Oán thù tập thể là một khối sắt nung cháy đỏ chỉ càng ngày càng cứng lại, bất khả triệt tiêu. Khắp nơi trên đất nước này tràn ngập oán thù. Và ngài nữa, chúa công, khi ngài sử dụng oán thù để kêu gọi mọi người theo mình thì ngài cũng đã phải nghĩ đến cách giải quyết mối thù đó.

Chúa công, ngài sử dụng oán thù để lớn mạnh. Oán thù của họ Nguyễn. Oán thù của chúng dân Quảng Nam, Thuận Hóa trong trận đói xương trắng đầy đồng. Oán thù của Gia Định ngày Cù lao Phố bị phóng hỏa cướp phá, ngày Chợ Lớn máu nhuộm đỏ sông. Oán thù của Phú Xuân ngày Tây tặc bắn đại bác vào thành khiến cả ngàn người chết. Oán thù của họ Lê, họ Trịnh. Oán thù của Bắc Hà ngày Tây tặc theo đuổi vua Lê mà giết hết làng này đến làng khác. Ngài sử dụng bản Hoài Nam khúc để kêu gọi oán thù. Ngài gọi kẻ địch là bạo Tần để gợi nhớ oán thù. Nhân nghĩa mà ngài dựa vào chính là đối trọng của hình ảnh oán thù ngài muốn xây nên. Ngài dùng cả lăng tẩm tổ tiên để gợi nhắc oán thù khắc vào trong tâm khảm. Ngài phải cẩn thận, chúa công, sinh vật ấy có thể thoát khỏi tầm khống chế của ngài.

Ngài còn có thể kêu gọi nhân nghĩa được sao khi mà cả những quân lính thường nhỏ bé nhất cũng đã bộc lộ mình là một mối hiểm nguy? Ngài còn có thể kêu gọi người ta ngừng tay sao khi họ thấy trước mặt mình chỉ là kẻ địch? Ngài còn có thể bắt người ta phân biệt được đâu là kẻ có tội và vô tội sao khi tất cả chỉ biết đến báo thù? Khi mà người người, nhà nhà, nơi nơi đều kêu gào đòi phải trả thù, phải trả thù đến bao giờ mới đủ?

Ngài đã nuôi dưỡng mối thù oán này, thì đến lúc ngài phải làm nó no nê, thỏa mãn để nó nguôi dần tính hung hăng đi. Nếu không nó sẽ quay ngược lại cắn vào ngài. Ngay cả những người đã đi theo ngài nữa, chúa công. Thuộc hạ nhà Nguyễn đòi báo thù. Dân Gia Định đòi báo thù. Người nhà Lê Trịnh đòi báo thù. Những xác chết cũng cần được báo thù. Máu đã đổ cần phải được đền bù. Hàng chục năm gian khổ cần phải được báo đáp. Nỗi đau của người còn sống phải được xoa dịu. Nhân nghĩa của ngài cũng là oán thù của ngài. Báo oán cũng là công đức mà ngài có thể làm cho họ.

Trận chiến này vẫn còn tiếp diễn, ngài còn chưa phải đối mặt với hậu qủa của nó đâu, chúa công. Nhưng thần muốn nói trước với ngài điều này, điều mà có lẽ ngài cũng đã nhận ra rồi. Những gì đang diễn ra trên chiến trận bây giờ chẳng lẽ chưa xóa sạch điều ngài còn ảo tưởng, còn hy vọng? Ồ, hãy trả tất cả những lý lẽ về thứ tha và nhẹ nhõm cho các ông Phật, ông Chúa. Chúng ta còn sống trên mặt đất này vì chúng ta còn chưa thể trở thành Phật, thành thần. Có những mối thù cần phải được trả. Có những nỗi đau cần được khép lại. Có những sự hỗn loạn cần được dẹp yên. Ngài đã nắm trong tay một thứ vũ khí có sức mạnh vô cùng và cũng có sức hủy diệt vô cùng. Càng xung đột, càng phản kháng, càng tranh chấp mãnh liệt thì oán khắc càng sâu, lan càng rộng. Từ một người đến vạn người quanh hắn, từ vạn người đến muôn vạn người cũng chỉ là vấn đề thời gian.

Ngài đã thấy chưa, chúa công? Những lời kêu gọi của ngài, mọi nỗ lực của ngài đã hầu như hóa thành vô ích. Trong tình thế này, ngược lại, có thể ngài còn phải chịu phản ứng dội ngược của nó. Những tháng vừa qua, ngài hết đi an ủi Lê Chất đến Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Đức Xuyên… Tốt nhất là ngài nên thắng trận, chúa công. Trận này ta nhất định phải thắng, nếu không ngài sẽ không chỉ mất Tham thặng trong Bình Định đâu. Chỉ có chiến thắng mới khỏa lấp được sai lầm, ngài cũng biết rõ điều đó mà.

- Sai lầm, tiên sinh bảo…? – Vị chúa chưa nói xong, Đặng Đức Siêu đã ngắt lời ngài ta.

- Chúa công không cần phải nói với thần. Ngài nên nói với những kẻ đang phải chết ngoài trận kia vì những hàng quân ngài đã tha. Ngài nên nói với những người đã đi theo ngài, trung thành với ngài, sống chết vì ngài, con cháu của vùng đất đã che chở ngài, của những người đã giúp ngài làm nên ngày hôm nay. Ngài đối xử với họ tệ qúa, chúa công.

Gò má chúa Nguyễn lại giật nhẹ. Nhưng đôi mắt ngài ta chỉ tối đi. Ngài ta im lặng. Ngài ta im lặng trong một thời gian dài. Ngài ta nhìn lên bầu trời, bầu trời với những áng mây trôi ngang, với những làn gió đang cuộn xoáy trong thoáng thời gian trước khi đổi chiều từ Nam ra Bắc. Ngài ta nhìn quanh đồn lũy và doanh trại với những đội quân, những con người không ngừng chuyển động.

Trên mặt trận núi Chúa, Nguyễn Văn Sử, Nguyễn Công Trọng, Hồ Văn Huệ lần lượt chết. Mặt trận mà hàng ngày lại có tin hàng quân bỏ trốn báo về. Mặt trận mà Nguyễn Văn Thành phải đứng yên tại chỗ, mọi kế sách tấn công của anh ta đều bị phá hỏng. Đại quân của Gia Định phải dồn về đồng Cây Cầy, không thể triển khai tấn công phía Cù Mông. Thủy quân không thể đánh vào khi chưa có sự hỗ trợ của bộ binh. Và từng ngày, từng giờ, dân Gia Định vẫn đang phải dốc sức người, sức của để đóng thuế. Đã ba năm, và sắp là bốn năm thực hiện thu thuế trước, thậm chí sắp phải tăng cả điền tô. Chân Lạp, Thuận Thành, Hà Tiên cũng bị kéo vào. Ngài ta đang đặt cả Gia Định, cả công lao mười mấy năm trời vào cuộc cờ này. Thời gian, thời gian đang dồn ép ngài ta. Thời gian càng kéo dài, Gia Định sẽ bị rút kiệt, sẽ thua, cái thua chắc chắn không thể nào vực dậy được. Thời gian càng kéo dài, quân đội của ngài ta sẽ càng rối loạn. Cuộc cờ của ngài ta đang bị thời gian đánh bại. Gia Định, Gia Định của ngài ta thực ra lại mỏng manh và nhỏ bé đến thế. Ngài ta nhận biết điều đó bây giờ, vượt qua tất cả những niềm kiêu hãnh và nỗi đau lòng. Vùng đất nhỏ bé ấy có thể bị khối nước lớn lao kia đổ xuống vùi lấp bất cứ lúc nào. Vùng đất nhỏ bé chỉ đủ để nuôi sống ngài ta từng ngày, từng năm. Vùng đất nhỏ bé có thể bị rút kiệt, bị triệt tiêu, bị tan vỡ bất cứ lúc nào.

- Khi gió đổi chiều thì ngưng tấn công nhưng không lui về, lập đồn giữ cho chặt. – Cuối cùng, vị chúa nói. – Đặng tiên sinh, khanh chuẩn bị viết chỉ sai về cho Lưu thủ Thuận Thành trấn: Cứ tùy tiện làm việc, không cần nệ lệ thường. Và Lưu trấn thần Gia Định cử người sang Chân Lạp thu cho ta một ngàn xe gạo, với Hà Tiên thì tùy mùa vụ mà thu. Nếu quân không đủ ăn, Nguyễn Văn Thành cứ thu gạo của người Thượng ở Đồng Hương.

Ta cũng ở lại đây, không về Gia Định. Ở ngoài cửa Thị Nại có nhóm đảo nhỏ. Ta sẽ ở đó.

Đặng Đức Siêu có vẻ như vẫn còn định nói gì, nhưng ông ta chỉ nhún vai. Vâng, ông ta nói, gọn và khẽ khàng.

Buổi chiều cuối mùa mưa tháng chín, nhà Ngọc Du lại đón một vị khách quen. Vương hậu, đi cùng với cô là Nhị phi, cả hai vị phu nhân này không báo mà chợt đến thăm nàng.

- Chúng ta muốn mời chị làm một việc. – Nhị phi nói trước khi nàng chưa kịp hỏi lý do mà họ đến đây. Cô xoay tách trà nóng trong tay, hít hà hương thơm của nó trong hơi lạnh ẩm của mưa mù. Vương hậu đón ánh mắt nàng, tiếp lời cho Nhị phi một cách hơi ngập ngừng.

- Chúng ta định phân bổ người đi khắp nơi khuyến khích việc nông tang. – Vương hậu nói, quan sát thái độ của Ngọc Du như thể sợ nàng phật ý. Trước ánh mắt ngơ ngác của nàng, Nhị phi bật lên tiếng cười khẽ.

- Chúa công đã quyết định năm nay không lui quân, ngài ấy cũng ở lại hẳn Cù Mông. – Cô nói, lấy lại thái độ nghiêm túc. – Ngài ấy sắc chỉ về cho Đông cung thu thuế của Chân Lạp, Hà Tiên nếu cần thiết. Quân lương của Gia Định cũng khó có thể thu mãi.

“Thu thuế của Hà Tiên?” Phúc Cảnh nhướng mày khi nghe đọc chỉ sai của người cha. Cậu ta nhìn sang Nguyễn Phúc Thăng cũng đang ở bên cạnh. “Hà Tiên vừa xin cứu đói, có phải?”

“Phải, Hà Tiên năm nay mất mùa, Mạc Tử Thiêm vừa cho người sang xin ta cho đong gạo.” Nguyễn Phúc Thăng gật đầu. “Lưu trấn thần Gia Định Phạm Văn Nhân đã định từ chối, nhân cớ chúng ta không bán gạo ra nước ngoài. Chúng ta còn không đủ gạo mà ăn, phải lấy của người khác thì làm sao có thể lo được việc Hà Tiên?”

“Thế không được, dân Hà Tiên cũng là con dân của ta, không thể thấy họ chết đói mà không cứu.” Phúc Cảnh cau mày. “Năm xưa họ Mạc trung thành với chúng ta mới bị lãnh họa tru diệt, họ về với ta là để mong nhờ cậy. Nay con cháu họ kêu gọi mà ta không đáp thì ta lãnh nhiệm việc bảo trợ họ sao được? Hà Tiên là nơi hiểm yếu, việc Xiêm La, Chân Lạp nhờ cậy hoàn toàn vào đó, không thể làm họ bất mãn. Bảo Lưu trấn thần cho Mạc Tử Thiêm mười xe gạo cứu đói, xin lỗi ông ấy vì ta cũng đang gặp lúc khó khăn, mong ông ấy thông cảm.

Còn việc Chân Lạp hẳn dễ thôi.” Cậu Đông cung nhìn xuống tờ chỉ sai đã được đưa đến trước mặt. “Chân Lạp với ta như môi với răng, vua Chân Lạp sẵn sàng tiếp ứng ta. Nhưng tăng điền tô thì qủa là khó.”

“Dân Gia Định biết không còn đường lùi nữa, Đông cung.” Nguyễn Phúc Thăng nói, vẫn quan sát cậu công tử trẻ. “Nhưng quân ta mùa gió bấc năm nay không trở về, lấy đâu ra người làm việc? Đồng ruộng đến mùa thu hoạch rồi mà đàn ông không về. Thuế cũng không có người thu. Cả các quan văn của chúng ta cũng đã bị điều ra trận lo việc quân lương…”

“Lập thêm chi binh để sai bảo, chiêu mộ tất cả những quân trốn và dân ngoại tịch chưa ghi vào sổ.” Phúc Cảnh nói, khoanh tay lại. “Bây giờ là lúc cần người, xá tội trốn dao dịch cho tất cả mà kêu gọi họ. Gia Định còn bao nhiêu đinh, kể cả sư sãi của các đền chùa, cũng sung vào làm việc…”

“Ngày xưa những tướng quân như Tôn Tử, Điền Đan đem cả thê thiếp, gia quyến của mình sung vào việc giữ thành, ngày nay đang lúc thiếu người mà sao Đông cung không nghĩ đến?” Một tiếng nói chợt vang lên sau họ. Vương hậu không biết đã đến từ lúc nào, đang đứng ở cửa mà nhìn cậu con trai. “Không có đàn ông thì phụ nữ làm việc, đã như từ xưa đến nay ở đất nước đầy chiến tranh này.”

“Nhưng các mẹ và bà…“ Cậu Đông cung chớp mắt. Vương hậu lại gần con trai, cười nhẹ.

“Ngày xưa ta may áo cho quân có đến cả trăm chiếc, phụ hoàng con đánh trận thì ta đánh trống thúc quân. Ngày xưa các bà, các di nương của con xông pha trận mạc lo lương cho quân, đến nỗi kẻ bị giết người mất tích. Lúc ấy con còn chưa biết gì đâu, con trai ạ.”

“Nhưng nhà ta ít người, làm được bao nhiêu?” Nguyễn Phúc Thăng vừa nói, Vương hậu đã nhìn sang anh ta, nụ cười vẫn rất trầm tĩnh.

“Trước nay nước ta vẫn làm lệ Tịch điền, ngày đầu năm vua ra cày mấy đường để con dân noi theo, việc ấy để làm gì? Bây giờ đàn ông đều đã ra trận, Gia Định còn lại chỉ là những người đã được miễn dao dịch, binh đao. Muốn kêu gọi họ thì ta phải làm gương trước. Nhà ta ít người, nhưng cung nhân, thê thiếp, vương tôn, gia đình quan lại không thiếu. Đông cung, con chỉ cần dành cho chúng ta một khoảng ruộng, để ta toàn quyền kêu gọi, việc Gia Định này ta có thể lo được.”

- Đem người trong cung đi thu hoạch lúa, làm việc đồng áng. Ta và các chị em sẽ đi các vùng khuyến khích những phụ nữ và cả người ngoài dao dịch. Họ Tống của ta với Gia Định rất được tôn trọng, cha của Nhị phi cũng là Tham tri Lễ bộ giúp chúng ta được rất nhiều. – Vương hậu vẫn đăm đăm nhìn nàng mà nói. – Chúa công ở biên ải để khuyến khích tinh thần binh sĩ, chúng ta cũng phải làm điều gì đó cho người ở Gia Định.

- Nói cách khác, chúng ta đã gặp rắc rối to. – Nàng mỉm cười trước vẻ nghiêm trọng của hai người cung phi. – Hà Tiên không thu thuế được, thậm chí phải cho họ cái ăn. Việc thì không ai làm, chỉ còn toàn những kẻ ăn không ngồi rồi như chúng mình. Chúng mình cứ tưởng được mấy năm an nhàn, bây giờ lại phải lăn lưng ra đồng.

Nhị phi bật ra tiếng cười. Vương hậu cũng cười khẽ. Nhị phi cười đến mức phải đặt cái ly trà xuống.

- Phải, phải. – Nhị phi vừa nói vừa cười. – Chúng mình đã làm ruộng đến nửa cuộc đời rồi, thế mà Đông cung cứ phải đi lo. Bây giờ chúng mình tập hợp lại không khéo được cả một đội quân “qúy tộc cày ruộng” đấy chứ, cả Quốc thúc, Phúc Liêm, Phúc Dịch cho đến Mạc Tử Thiêm kìa. Những kẻ tự xưng là nông dân với cả “bố y” kia không khéo chưa từng cày ruộng nhiều như chúng mình. Rõ là cái tiếng chẳng mài ra mà ăn được.

- Vậy chị cũng quyết định phải không? – Vương hậu đập tay vào vai Nhị phi mà quay hỏi Ngọc Du. – Thế thì ngày mai chị vào cung để chúng ta tập hợp bàn công việc nhé.

Ngọc Du gật đầu. Những đứa trẻ cũng lớn cả rồi, nàng nghĩ thầm. Và làm một việc gì đó là tốt nhất trong thời điểm hiện tại. Dù không nói ra, không biểu lộ, nàng đã thấy nỗi lo lắng thoáng hiện trong mắt hai người cung phi khi nói về tình hình chiến trận. Không trở về, vị chúa đã quyết định ở lại chiến trận lần đầu tiên trong cả hàng chục năm. Lần đầu tiên, toàn quân Gia Định được giữ lại qua mùa gió bấc, và khoảng thời gian không biết đến khi nào. Nàng có thể đoán được cái tin ấy sẽ gây xáo trộn như thế nào trong Gia Định.

Chiến trận khó khăn hơn họ đã nghĩ. Và họ chỉ có thể ngồi đây chờ đợi, chờ đợi mà không biết vận mệnh người đàn ông của họ sẽ ra sao. Trong những tháng qua, tin báo tử của vài vị tướng đã được báo về thành, tạo nên một nỗi lo lắng cháy bỏng trong họ. Thành Bình Định vẫn bặt tin. Không hề có bất cứ tin tức nào từ Bình Định báo ra. Điều duy nhất an ủi nàng bây giờ là quyết tâm của vị chúa. Ngài ta quyết định ở lại “chia lửa” cùng Bình Định. Và không có tin tức cũng có thể là một điều tốt đẹp, báo rằng chàng vẫn bình yên. Bình yên giữa bốn bức tường thành.

Khi tiễn hai người cung phi ra về, nhìn bóng họ khuất trong làn mưa dày đặc vẫn không ngừng đổ xuống, nàng không thể đừng mà nhớ tới thanh xuân của nàng, của họ. Vô tình, Nhị phi đã gợi nhắc cho nàng đến quãng đời khốn khó nào. Ngôi nhà nằm trong một góc Phú Xuân với nước nổi từng mùa trắng đồng, bàn tay bao lần bị cào xước trong đồng lúa, mũi kim, khung cửi. Những năm tháng nắng cháy trên đảo Phú Quốc, bàn tay tiếp tục bị cào nát trên các bãi đá để cào nghêu, bắt cá hòng kiếm cái ăn. Những đêm đi qua Gia Định hoang vu rừng rậm với những tiếng thú kêu văng vẳng trong bóng tối. Hầu như chẳng có gì mà họ chưa từng trải qua, ngoại trừ cái chết – mà cũng có thể ngay cả cái chết. Một nửa cuộc đời của họ. Thân phận thật sự của họ. Định mệnh thật sự của họ. Những vết sẹo đã in hằn trên thân thể họ, trong trái tim họ mà không một danh xưng, một tước hiệu nào có thể xóa nhòa được.

Tại sao? Đêm nào nàng đã hỏi chàng, bên ly rượu và trong nỗi lo lắng khôn cùng, nỗi bất an chênh chao như biển. Tại sao, tại sao lại là họ? Nói cho cùng, họ có tội lỗi gì? Chàng đã không trả lời nàng. Chàng nhìn nàng bằng cặp mắt của bóng tối, của niềm bao dung và nỗi đau tương tự. Tại sao, có lẽ chàng cũng muốn hỏi nàng, lúc ấy.

Nàng nhìn xuống lòng bàn tay mở ra rồi nắm lại. Kỷ niệm đang cồn lên trong nàng vị chát đắng đến cay cả mắt. Đã lâu rồi, nàng tự nhủ. Đã qúa lâu, qúa lâu rồi nàng mới cảm thấy lại cảm giác này – thứ cảm giác có thể khiến nàng muốn thét gào, muốn hỏi mãi câu “Tại sao?” như thế. Nàng thật muốn hỏi ông trời, ngửa mặt mà hỏi ông trời. Trong màn mưa này, mưa như trút, như gào thét, như cười cợt, như cuốn trôi, như dửng dưng.

Nàng biết, cảm giác này gọi tên là Thù hận.

59

Cơn bão trên biển đang dần tan, để lộ bầu trời xanh mờ qua đám mây mù vẫn còn tái xám. Tiếng sóng đập vào vách đá cũng dịu xuống, không còn thanh âm cuồng nộ như hàng ngàn tiếng thét gào. Mưa vẫn còn nhỏ giọt trên các mái lều vừa được chỉnh lại, nhưng các binh lính sau hồi lâu vật lộn với gió bão đã có thể yên tâm nằm nghỉ. Những chiếc thuyền được đưa vào bãi khuất gió tránh bão giờ đang bập bềnh trên mặt nước vẫn còn sóng lớn. Trên boong, bóng dáng ướt lướt thướt của một vài thủy thủ đã xuất hiện. Hòn Nan Dự sao cơn bão mang vẻ ẩm ướt u ám thấm đẫm trong làn mây mù bao phủ cả hòn đảo nhỏ.

Nhưng trên khuôn mặt chúa Nguyễn, đám mây đang được xua tan bớt. Bão vừa ngớt, người liên lạc từ Cù Mông đã đưa thuyền chở một người đến hòn Nan Dự, mang theo tin tức từ thành Bình Định và thư của Võ Tánh.

- Võ Tham thặng đã đánh ra ngoài vài lần, có vài anh em chạy ra khỏi lũy nhưng mất tích. – Người lính đang nói, sau khi dâng lên cho chúa Nguyễn bức thư được hàn sáp phong kín chỉ nhỏ bằng một ngón tay. – Thần may mắn chạy được ra khỏi lũy, nhưng bị quân Tây Sơn đuổi sát sau lưng, túng thế mà nhảy xuống sông, lấy thanh tre để hít thở. Thần vốn giỏi nghề bơi lặn nên không bị phát hiện ra, rồi cứ thế xuôi theo dòng nước để tránh đám quân địch mà trở ngược về thành. Lúc ấy, thần nghĩ sao lại không thử lặn qua cổng chặn nước của thành – thế là thần lấy một cái ống tre kín làm vật giữ khí, lặn một hơi vào thành. Tham thặng biết lối đi ấy liền phái thần đưa thư đến cho chúa công.

Chúa Nguyễn nhẹ gật đầu. Lá thư được đóng dấu Tham thặng tướng quân đã chứng thực điều người lính nói. Và qủa là chữ của Ngô Tùng Châu, dù những con chữ rất nhỏ như dính sát vào nhau. Tình hình trong thành được báo bằng những dòng vắn tắt rằng mọi việc vẫn còn ổn định. Ngoại trừ một vụ nổi loạn của hàng quân.

- Bao nhiêu kẻ đã trốn đi? – Rời mắt khỏi lá thư, vị chúa ngẩng lên hỏi người lính đưa tin.

- Bẩm chúa công, chừng bốn trăm người. Tham thặng đã cho giết những kẻ tòng phạm nên người trong thành đã ổn định trở lại.

À, vị chúa thốt khe khẽ trong cổ. Ngài ta nhìn qua người lính đến cửa lều trại, khoảng đất mờ mây biển xám ngoét trong nắng nhạt. Rồi ngài ta nhìn lại người đưa tin, ánh mắt dịu xuống.

- Ngươi đã phải vất vả qúa rồi. Đi nghỉ đi, ta còn cần ngươi đưa tin cho Tham thặng. – Ngài ta nói, người lính cúi đầu vâng mệnh. Khi anh ta đã được dẫn ra ngoài, ngài ta lại nhìn xuống bức thư mỏng manh đang cầm trên tay. Thái độ của ngài ta khiến cả Đặng Đức Siêu ở bên cạnh cũng không lên tiếng. Không nói không rằng, ngài ta đứng dậy đi ra ngoài, viên Tham mưu Trung quân lặng lẽ đi theo.

Cơn bão vẫn đang tàn dần đi bên họ, xung quanh họ, âm vang tiếng của biển cả như từ đáy nước vọng đến. Từ bãi đá nhìn ra, chỉ có sóng nước nối tiếp mênh mông, không phân biệt được đến cả đường chân trời khi sương mù của biển cả đã xóa tan đi ranh giới. Gió lạnh thổi qua mặt họ như từng nhát cắt của một con dao vô hình. Biển, trời, đất, không khí cùng xung động, cùng chênh chao, cùng thét gào, cùng bất an. Biển thật vô cùng nguy hiểm và bất trắc. Họ lại nghĩ đến tin tức về đoàn thuyền tiếp tế lương thực bị bão lật vừa được báo đến. Mối nguy hiểm thường trực trong biển, trên biển, cùng với bọn Tề Ngôi quấy phá họ đến tận Thuận Thành cướp tàu buôn. Đã ngưng mọi chiến dịch tấn công, vị chúa về hòn Nan Dự này để trong coi đường vận chuyển trên biển. Ngài ta vẫn coi trọng đội thủy quân do chính mình xây dựng, vẫn tìm cách để giải quyết mối gút mắc trên chiến trường bây giờ.

- Đặng tiên sinh, khanh là người Bình Định. – Chúa Nguyễn chợt nói, trong tiếng gió vẫn thổi ầm ù bên họ, trong tiếng biển vẫn ào ạt quanh họ. Đá lẫn vào trong cát nhói dưới chân họ. Gió chạm vào đỉnh hòn đảo nhỏ với những cây rừng rậm rì tạo thành tiếng lao xao rầm rĩ. – Việc mà tiên sinh đã nói với ta trước kia, thực ra tiên sinh nghĩ đến cách nào để giải quyết?

Với người bên ngoài, đó thực sự là một câu hỏi khó hiểu. Nhưng Đặng Đức Siêu chỉ chớp mắt. Vị chúa quay lại nhìn ông ta, lưng tựa vào một cây dừa mọc lẻ loi bên bờ biển. Sau cơn bão, nó có vẻ tả tơi, chỉ còn vài tán lá ngả nghiêng quét vào bầu trời.

- Ngài có muốn nghe câu chuyện thật là xưa không, chúa công? – Ngồi xuống một tảng đá lấm tấm rêu bùn nhưng không hề để tâm đến cái áo mình đang mặc, Đặng Đức Siêu hơi nghiêng đầu nhìn vị chúa. – Về mảnh đất của chúng ta, của dòng họ ngài?

Rất xưa rồi, hơn một ngàn năm trước, có một quốc gia gọi là Lâm Ấp. Quốc gia ấy được hình thành khi dân chúng Bách Việt cổ nổi dậy chống lại nhà Hán tại huyện Tượng Lâm. Nhà Hán buộc phải chấp nhận sự độc lập của quốc gia này, đổi Tượng Lâm thành Lâm Ấp. Quốc gia ấy hiện thời vẫn không biết rõ nằm ở đâu. Có người nói nó nằm ở Quảng Bình đến Quảng Nam, có người nói nó ở phía Nam huyện Nhật Nam, bên cạnh sông Hương ngày nay, có người nói nó nằm ở Bình Định và Phú Yên. Nhưng dù sao đi nữa, quốc gia ấy cũng đã khởi đầu cho văn hóa Chiêm Thành sau này.

Trải qua bốn triều vương, Lâm Ấp lại bị nhà Tùy thôn tính. Vua Lâm Ấp lui về sông Thu Bồn dựng kinh đô Sư Tư. Sau đó chừng trăm năm, một tiểu vương ở Lâm Ấp nổi lên giết vua, thống nhất vương quốc, thành lập nối tiếp theo sau là Hoàn Vương quốc, tên Phạn là Panduranga, kinh thành của họ đặt tại An Phước, Thuận Thành trấn ngày nay. Chỉ mới được vài chục năm, người Nam Đảo tức Nam Dương và Mã Lai đến cướp phá, vua phải chạy đến Bình Định. Tại đây, được dân Thượng và Chăm giúp đỡ, vua kéo quân xuống đánh đuổi quân Nam Đảo. Nhưng chiến tranh giữa Hoàn Vương quốc và Nam Đảo vẫn cứ thế diễn ra, rất nhiều lần quân Nam Đảo đến cướp phá tài vật, bắt phụ nữ, giết người.

Rồi đến thời vị vương Harivarman đệ nhất, Hoàn Vương quốc hưng thịnh, vua quyết định trả thù những quốc gia đã từng cướp phá mình. Ban đầu là châu Hoan, châu Ái, tức Thanh Hóa, Nghệ An ngày nay; sau đó là đánh Nam Dương, Mã Lai; rồi hai lần đánh người Miên ở Đồng Nai. Hoàn Vương quốc trở thành giàu có cực thịnh – nhưng rồi lại trở thành nạn nhân của sự giàu có ấy. Khi vương quốc suy yếu, vương quốc Angkor – tức Chân Lạp ngày nay – đã nhiều lần tiến đánh Hoàn Vương quốc, chiếm lấy phần đất tả ngạn sông Đồng Nai.

Hoàn Vương quốc rối loạn, rồi một vương tôn được đưa lên ngôi, đổi tên quốc gia này thành Campapura, tiếng Hán đọc là Chiêm Thành. Chiêm Thành bao gồm năm tiểu quốc là Indrapura – Quảng Trị, Phú Xuân ngày nay, Amaravati – Quảng Nam ngày nay, Vijaya – Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay, Kauthara – Phú Yên, Khánh Hòa ngày nay, và Panduranga – Thuận Thành trấn bây giờ.

Lúc ấy, Đại Việt cũng đã giành được độc lập, bắt đầu xây dựng quốc gia mới. Xung đột của Chiêm Thành và Đại Việt liên tục diễn ra. Đơn cử như vua Lê Đại Hành đánh Chiêm Thành, giết vua Ba Mỹ Thuế, phá hủy tông miếu Chiêm Thành rồi tiếp tục đánh châu Địa Lý; vua Lý Thái Tông đánh thành Phật Thệ, bắt tất cả vợ và cung nữ của vua Chiêm, trong đó có nàng Mỵ Ê nổi tiếng; vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành, vua Chiêm phải dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý, Mai Linh – việc này dẫn đến kết qủa là đời vua sau của Chiêm Thành xung đột với Lý Thường Kiệt đòi lại ba châu; vua Trần Anh Tông đánh Chiêm Thành, bắt vua đem về giam ở Gia Lâm; vua Trần Minh Tông tiếp tục những cuộc quấy phá này; rồi xung đột của nhà Trần với Chế Bồng Nga đã dẫn đến việc vua Trần Duệ Tông bị giết chết…

Bên cạnh đó, Chiêm Thành còn xung đột với Chân Lạp. Chân Lạp chiếm được Vijaya sau một trận đánh. Cách đây chừng hơn sáu trăm năm, vương quốc Chiêm Thành chia làm hai tiểu quốc Vijaya và Panduranga, rồi lại hợp nhất.

Quân Minh đánh Chiêm Thành, kinh đô Vijaya thất thủ, dân chúng đổ xô xuống Panduranga. Rồi quân đội nhà Hồ đánh chiếm Chiêm Động, Cổ Lũy, vây thành Đồ Bàn hơn cả tháng.

Đến thời Lê, Chiêm Thành cầu viện nhà Minh hợp sức đánh Đại Việt, vua Trà Toàn đi đánh Hóa châu. Vua Lê Thánh Tông thân chinh đánh Chiêm Thành, giết sáu vạn người ở thành Đồ Bàn, bắt hơn ba vạn tù nhân. Vua Lê Thánh Tông chia đất Chiêm Thành thành ba nước là Chiêm Thành, Hóa Anh và Nam Phan, đặt quan cai trị. Vương quốc Vijaya diệt vong.

Rồi chúa Tiên ta vượt Hoành Sơn vào Thuận Hóa, vua Chiêm Thành tiến đánh Quảng Nam. Đáp lại, chúa Tiên đánh Chiêm Thành chiếm lấy từ đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi, đặt làm phủ Phú Yên, dời biên giới đến đèo Cả, đặt làm Trấn Biên dinh. Chúa Hiền nhân khi vua Chiêm Thành đánh Phú Yên liền tấn công đuổi họ đến phía Tây sông Phan Rang, bắt vua Chiêm đem về Phú Xuân, dời biên giới đến Cam Ranh. Vương quốc Kauthara đổi thành dinh Thái Khang và Diên Khánh. Thời chúa Minh ta, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh chinh phục Chiêm Thành rồi đổi Chiêm Thành quốc thành Thuận Thành trấn, rồi Bình Thuận phủ. Dân Chiêm Thành nổi dậy, giết chết mười ba tướng Nguyễn và một ngàn quân, chúa Minh phải cầu hòa, đặt lại Thuận Thành trấn vương, cho vương hoàn toàn tự trị, có quân đội, thuế khóa riêng. Hòa ước được ghi trong Nghị định Ngũ điều năm chúa Minh thứ hai mươi, cách đây gần tám mươi năm.

Tiếng gió vẫn ù ù thổi quanh họ khi bóng chiều ngả xuống mà không hề có một dấu hiệu gì khi ánh sáng mờ nhạt trên bầu trời vẫn không thay đổi, không suy chuyển. Vị chúa vẫn không lộ vẻ sốt ruột trước giọng nói kéo dài của Đặng Đức Siêu. Ngài ta khoanh tay chờ ông ta nói hết. Đôi lần, thoáng cau mày mờ nhạt hiện lên trên gương mặt ngài ta.

Đặng Đức Siêu im lặng một lúc, rồi cười.

- Như vậy đấy, chúa công. Chúng ta đã xung đột với Chiêm Thành từ ngày đầu lập quốc, từ thời Tiền Lê, thời Lý kia, thậm chí còn trước nữa, vào thời châu Ái, châu Hoan của Hán thuộc. Ân oán trải dài hàng ngàn năm, ngài nói một tiếng kết thúc là kết thúc sao? Lịch sử của quốc gia trải dài hàng ngàn năm ấy, nói quên đi là quên đi được sao? Chúng ta là một tộc người tiêu diệt tộc người khác để lớn mạnh. Từ thời xa xưa còn ghi lại trong truyền thuyết kia, vua Hùng là con trai của Lạc Long Quân – thái tử của nước Xích Qủy địa phận Bách Việt, Thục vương An Dương Vương tiêu diệt Lạc Việt, Nam Việt vương Triệu Đà tiêu diệt Âu Lạc. Rồi Triệu Việt vương đánh đuổi người Lương, rồi Đinh, Lý, Trần tiếp tục mở rộng lãnh thổ xuống tới Nghệ An… Chiêm Thành chỉ là một phần trong lịch sử của chúng ta, dù quốc gia ấy là một nửa đất nước này, là một nửa Đàng Trong này. Hàng ngàn năm, chúng ta đã đánh nhau hàng ngàn năm mà nếu kể đến lỗi lầm do ai đều cũng trở thành vô nghĩa lý. Trên mặt đất này, kẻ còn đủ sức tồn tại thì sẽ còn lại. Trời ban cho vạn vật sự sống, nhưng Trời không có ân; Trời tước đoạt của vạn vật sự sống, nhưng Trời không ác nghiệt. Không có gì cao cả bằng Trời mà cũng không có gì khó lường bằng Trời. Đừng cố chống lại Trời, cũng đừng cố gắng biện giải với Trời, chúa công. Thuyết nhân là cần thiết, nhưng con người đâu có sống mãi với thời gian. Những gì ngài có thể làm chỉ tồn tại được một khoảng thời gian ngắn ngủi so với ngàn năm trước hay sau đó. Sự tồn tại của con người so với đất trời thật ra đâu có ý nghĩa gì.

- Tiên sinh có một cách rất hay để trốn tránh. – Chúa Nguyễn nheo mắt. – Trốn tránh, thật đúng y như cách mà đạo Lão vẫn thường kêu gọi. À, ta biết, thật ra đó gọi là hiểu thiên mệnh, thuận đạo trời. Nhưng đối với con người, những người vốn chẳng biết thế nào là đạo trời, đó là lý do cho họ trốn tránh và biện giải cho chính mình.

- Hẳn ngài cũng nghe cậu chuyện về cuộc gặp của Lão Tử và Khổng Tử. – Đặng Đức Siêu chỉ cười. – Khi ra về, Khổng Tử tái mặt vì sợ, vì nể nang và vì cả kinh hãi nữa. Vì Khổng phu tử đã gặp được người lý giải được điều mà ông cố gắng lý giải, phải chăng? Đó là thái độ của con người khi chạm mặt mệnh Trời, phải chăng? Đó là nỗi sợ của con người khi thấu sự nông sâu của Trời, phải chăng? Chúng ta học theo Khổng Tử, từ đất nước Hán rộng lớn kia cho đến Nhật Bản, Cao Ly… nhưng chúng ta đã bao giờ bình yên, đã bao giờ thôi tranh chấp? Con người chọn đạo cho chính bản thân mình. Và chúng ta chọn con đường này cho chính bản thân mình, không phải Phật, không phải Lão. Chúng ta đã chọn con đường chống lại Trời. Chúng ta nhân danh thuận theo lẽ Trời chứ chúng ta có biết Trời là gì, lẽ ra sao.

Con người phạm nhiều tội lỗi vì qúa ngông cuồng, qúa tin rằng mình đúng. Làm gì có đúng và sai – Chỉ có lẽ Trời xoay chuyển và quyết định. Những kẻ sống trên đất, bị bó buộc trong thời gian hữu hạn và thói ngu muội ngông ngạo lại căn cứ vào kết qủa, vào cái kết qủa đã có sau sự xoay chuyển khôn lường kia để mà đánh giá. Đó là lối suy nghĩ của bọn ngu dốt. Qúa nhiều sự ngu dốt trên cõi đời này mà chắc chắn rằng chúng ta không thể bận tâm hết được.

- Nghĩa là, tiên sinh nói rằng, - Chúa Nguyễn nói từng từ chậm rãi. – Ta không thể lo được đâu, đừng lo nữa?

- Không, thần chỉ nói rằng con người là hữu hạn. Con người là duy nhất. Không thể đánh đổi con người hôm nay cho con người ngày mai. Không thể nói rằng ngày mai đáng giá hơn hôm nay hay người này đáng sống hơn người khác. Không có tình cảm thì tất cả mọi điều nghĩa nhân, mọi lý tưởng đều là giả dối. Ngài nên coi trọng người xung quanh ngài. Nói cho cùng, người ta chỉ lo được việc hiện tại thôi. Những gì là công đức trăm năm đều do người đời sau nói phét ra đấy.

Chúa Nguyễn bật cười. Ngài ta nhìn vị Tham mưu rồi quay ra biển mà cười. Vừa cười, ngài ta vừa lắc đầu.

- Đặng tiên sinh, tiên sinh thật là tráo trở. Vừa chỉnh trị Nguyễn Văn Thành xong rồi tiên sinh lại quay sang trách cứ ta; vừa mới nói với ta rằng oán thù của Bình Định rất khó giải, tiên sinh lại quay sang nói rằng ta chẳng làm gì được đâu. Thật ra thì tiên sinh muốn gì đây?

- Ngài lại qúa đa nghi rồi. – Đặng Đức Siêu nhũn nhặn mỉm cười. – Tôi nào có ý gì. Chẳng qua là con người thì luôn luôn thay đổi ý nghĩ của mình. Tùy theo hoàn cảnh, người ta sẽ thay đổi những gì mình nghĩ, thế thôi.

Chúng ta đâu phải sống trong thời xa xưa yên ả ác độc dã man của vài quốc gia, vài bộ lạc đánh lẫn nhau giành cái ăn. À, cái thời ấy thì thật dễ dàng làm sao, thật dễ lựa chọn làm sao. Bây giờ chúng ta sống giữa những làn gió. Gió thuận thì ta ra khơi, gió ngược thì ta trở về, gió lốc thì ta chống chọi. Đất nước này nằm giữa biển và đất liền, giữa những làn gió. Chúng ta cứ thuận theo gió vậy. Nói cho cùng, chúng ta chỉ có thể giữ cho được chiếc thuyền của mình trong cơn bão mà thôi.

- Giữ cho được con thuyền của mình. – Chúa Nguyễn vẫn nhìn ra mặt biển mà thở dài. Ngoài khơi, từ trong rặng đá tránh bão, những chiếc thuyền trong đội của ngài ta đang tiến ra từ từ, từng chiếc một. Mặt biển vẫn cồn cào sóng xanh xám, sủi bọt đục ngầu. – Thuyền trong bão chỉ còn cách tránh vào bãi thôi.

Đặng Đức Siêu không trả lời vị chúa, nụ cười vẫn muôn thuở không đổi trên môi. Nhìn theo ánh mắt vị chúa, ông quay đầu ngắm biển. Mặt trời đang lặn, chỉ là một quầng sáng trắng mờ sau những tầng mây. Những con sóng cuồn cuộn đổ đến như biển đang xô về phía họ.

Lại một ngày nữa, Võ Tánh thầm nghĩ khi nhìn xuống dòng sông chảy qua thành đang tối lại trong bóng đêm. Từ khi chàng phái người lính ấy đi đã gần một tháng. Giờ này có lẽ quân Gia Định đã rút về, anh ta càng khó khăn hơn để tìm được họ. Hơn nữa, đi xuyên qua rừng, giữa trùng vây của Tây Sơn là một việc qúa nguy hiểm. Chàng đã ngầm cho các tướng tìm trong quân những người lặn giỏi để lo việc liên lạc sau này, không biết có nên tiếp tục chờ đợi nữa không hay phái kẻ khác đi.

Một ngày nữa trôi qua, và không khí từng ngày một trong thành lại trầm xuống như đeo đá. Mùa gió bấc đã sang, mùa gió nồm đã hết, hy vọng được giải cứu năm nay của họ đã hoàn toàn cạn kiệt. Đã vậy, tiếng súng lác đác rải rác từ ngoài xa vẫn không có dấu hiệu tiến đến gần hơn. Quân Tây Sơn ngoài thành vẫn vững như bàn thạch, không có dấu hiệu suy chuyển cho thấy một chuyển biến lớn nào có thể xảy ra trên chiến trường. Dù đã được chuẩn bị tinh thần trước đó, sự thất vọng đã hiện diện trên hầu như tất cả mọi người. Vậy là đã một năm họ ở lại khu thành này, và hy vọng vào cuộc chiến năm sau đối với họ trở thành xa vời vợi. Còn chàng thì đã sốt ruột với tin tức từ người đưa thư. Anh ta đi từ khi gió nồm vẫn còn đang thổi, chàng đã hy vọng anh ta sẽ đem về một tin tức khả dĩ nào cho họ. Mỗi ngày đi qua, chàng lại nhìn xuống dòng sông chảy qua thành, thấy lòng chùng xuống. Anh ta sẽ vào thành lúc trời tối, đây là giao ước của họ để giữ bí mật cho lối đi này. Mỗi tối chàng đều đến ngóng nhìn, nhiều khi ở lại hẳn khu nhà kế bên.

Như đêm nay, chàng lại tới khu nhà bên cạnh dòng sông, lấy cớ là để trông coi việc canh phòng ở cửa thành. Cô hầu đang đem chăn gối tới cho chàng, đập đập cái giường đã lạnh, để lò sưởi lại trong phòng. Mùa thu đã sang, mỗi khi lên thành chàng lại thấy lá rừng bên ngoài ngả dần, sắc vàng loang ra lác đác. Vẫn là mùa thu phương Nam chỉ thoáng chút gió lạnh mà không đủ sắc màu. Đêm dài hơn, thăm thẳm khi những cơn mưa dần ngớt, trả lại bầu trời trong vắt. Thi thoảng, sương mù buông xuống trắng thành, như nhuộm bạc cả tóc họ, vai họ. Chàng thấy màn sương ấy đang tan đi trên tóc cô gái, trong ánh sáng của ngọn đèn lù mù vừa được thắp chưa kịp tỏa sáng. Dường như cũng đang định chuẩn bị đi ngủ, cô đã thả tóc ra, để mái tóc chảy dài trên lưng như một dòng sông. Nhìn từ đằng sau, trong thứ ánh sáng này, cô lại giống Ngọc Du kỳ lạ. Bình thường thì không, chàng luôn thấy cô khác nàng, dù chỉ ở vóc dáng đằng sau. Cô gái trẻ này không có sự kiêu hãnh của nàng, sự kiêu hãnh khép kín đã thu hút chàng ngay từ đầu, ngay từ lúc chàng nhìn theo bóng dáng cô gái mặc áo xanh trên bến đò. Cô khép nép và rụt rè, lặng lẽ và đầy e ngại, ngay cả dáng đi của cô cũng thế. Chỉ là trong đêm này, trong bóng tối và ánh sáng chập chờn, trong dáng cúi xuống và mái tóc xõa, cô làm chàng nhớ nàng tới thắt lòng. Đã rất nhiều lần chàng thấy vóc dáng này nơi nàng – khi nàng chuẩn bị giường cho những đứa con, cho bọn họ. Nàng thậm chí còn cẩn thận lấy hương rắc xung quanh giường, thói quen mà chàng nghĩ nàng đã có từ khi còn ở Phú Xuân. Nàng dù sao vẫn là một cô gái kinh kỳ mà sự cẩn trọng, sang cả đã in dấu vào trong cốt cách. Sau khi xong việc, nàng sẽ quay lại, vén tóc và mỉm cười với chàng. Rất nhiều đêm say đắm của họ đã bắt đầu như thế. Êm đềm và dịu ngọt như thế, trong ánh lửa.

Chàng chớp mắt, quay nhìn ra cửa sổ khi cô gái thẳng người dậy, buông màn xuống. Rốt cuộc chàng đã hiểu tại sao vị chúa lại cho cô ta ở bên cạnh chàng. Cô ta sợ đàn ông. Dù mỗi sáng chải tóc, mặc áo cho chàng, cô ta vẫn không động chạm đến một phần da thịt nào của chàng. Mỗi khi ngẫu nhiên đụng phải, cô ta lại run bắn người. Ngài ta thật khéo nghĩ, chàng cười thầm với bóng đêm ngoài cửa. Nhưng thật lòng chàng vẫn chưa bao giờ nghĩ rằng cô ta là phụ nữ. Gương mặt trong trẻo một cách kỳ quái ấy, đôi mắt bình lặng đến thản nhiên kia, và thậm chí cả sự sợ hãi của cô ta đều tự động làm cho chàng tránh xa. Chẳng là đôi lần chàng vẫn lấy cô ta làm cái cớ để hình dung về nàng. Nói ra điều này có thể rất buồn cười, nhưng giữa một thành trì chỉ toàn đàn ông với súng ống, gươm giáo, với tiếng súng và kế hoạch chiến trận, chàng có cảm giác mình đã quên đi cả dáng hình, hình dung của một người phụ nữ. Cô gái này, dù chỉ là cái bóng lặng lẽ mờ nhạt di chuyển giữa các bức tường, vẫn là chút gì an ủi cho họ. Chàng đã thấy ánh mắt ấy ở cả những quân tướng bên cạnh, xung quanh. Những ánh mắt khao khát nhưng không thèm muốn, những ánh mắt bao giờ cũng buồn. Cô ta, cô gái câm này, là sự hiện diện của cái thế giới bên ngoài bốn bức tường thành, là sự gợi nhắc đến một cuộc sống mà họ đã không còn chạm đến được. Họ nhìn ngắm cô, khát khao cô, ghi nhớ cô như thể một áng mây trên bầu trời, như bức tranh treo trên tường, như một ngưỡng vọng mang đầy tính tôn thờ và nỗi đau không kết thúc. Không ai bảo ai, họ đều tự động giữ khoảng cách với cô. Những trò trêu đùa nghịch ngợm của bọn đàn ông không phải là không có, nhưng không ai tiến xa hơn. Hoặc là họ e ngại chàng, hoặc là họ, tất cả bọn họ, đều không muốn phá đi điều duy nhất còn an ủi họ bây giờ. Dường như cô gái câm cũng nhận ra điều đó. Có lần chàng đã thấy cô đến doanh trại thương bệnh binh để đem thêm chăn màn, thức ăn, thuốc men cho họ. Đôi lần cô còn cười. Đôi lần cô rơi nước mắt khi thấy ai đó lìa trần. Chỉ cần không ai chạm đến cô, cô có vẻ hoàn toàn là một cô gái bình thường. Bầu không khí trong thành, những tình cảm vui mừng hay oán thương được nén lại đến cực độ này, dường như lại giải phóng tình cảm chôn chặt trong cô.

Phải, đã tiếp tục rồi, những gì đã xảy ra ở Diên Khánh. Chàng đăm đắm nhìn vào màn đêm, quên bẵng cả sự hiện diện của cô gái vừa chiếm một phần tâm trí chàng. Sau những đợt phản công phá vây, số thương binh trong thành tăng lên, một số trong họ đã không qua khỏi. Dù có súng, có pháo và voi che chắn, số quân bao quanh họ vẫn qúa đông, qúa dày. Những người hăng hái nhất, liều lĩnh nhất cố vượt qua được lũy đất đã phải nằm xuống. Và mùa thu về, sau những cơn mưa sầm sập, nắng gay gắt, khí hậu ẩm ướt rồi hanh nồng đã làm nảy sinh một vài căn bệnh. Khu doanh trại dành cho thương bệnh binh ngày càng đông. Số mộ phần được chôn vội sau thành cũng ngày càng nhiều. Dù đã được chuẩn bị chu đáo hơn hẳn lần ở Diên Khánh, số quân đông đảo này vẫn không thể đừng được mà hao mòn. Hao mòn, cả tinh thần của họ.

Chàng chợt thấy một bóng người xuất hiện bên bờ sông. Trong ánh lửa, chàng nhận ra sắc áo đỏ của tướng lĩnh. Ngô Văn Sở, chàng nghĩ khi anh ta quay gương mặt nghiêng nghiêng lại. Không nói không rằng, chàng đứng lên, nhảy qua cửa sổ đến bên anh ta. Nghe tiếng động, Ngô Văn Sở quay nhìn, rồi mỉm cười khi thấy chàng.

- Sao anh lại ở đây? – Chàng hỏi. Phiên trực của Ngô Văn Sở đã hết, và sự hiện diện của anh ta nơi con đường liên lạc bí mật của chàng thật dễ gây e ngại.

- Lấy nước. – Ngô Văn Sở nhún vai, đưa cái ống tre trong tay lên. – Tôi vẫn bảo quân lính mỗi giờ đi lấy nước một lần để thử, không ngoại trừ trường hợp quân Tây Sơn đầu độc nguồn nước.

- Sông này chảy khắp vùng, Tây Sơn sẽ không dám làm thế đâu. – Chàng nói, nhìn Ngô Văn Sở cúi xuống hứng nước vào ống tre. – Lần trước Trần Quang Diệu đã định triệt hạ nguồn nước của Diên Khánh, lần này hắn không dám làm vậy, cũng không thể làm.

- Quan trọng là phải nghĩ trước và phòng bị tất cả những gì người khác có thể làm chứ không phải đợi họ làm mới phòng bị. – Ngô Văn Sở lạnh lùng nói, đóng ống tre nhưng vẫn không đứng lên. Khuôn mặt anh ta khuất hẳn trong bóng tối. – Chỉ một khắc lơi lỏng, họa sát thân đến không biết chừng.

Chàng quan sát anh ta, quan sát hình dáng đang qùy bên dòng sông. Nước sông loáng thoáng phản chiếu vài đốm lửa nhạt từ trên thành chiếu xuống, tạo thành vết chảy lăn tăn sóng đỏ. Trong bộ giáp hai sắc đỏ đen, anh ta lại có vẻ gì đó hòa hợp với dòng chảy này kỳ lạ. Anh ta và bóng tối của dòng sông.

- Lần trước ta đã không hỏi Ngô tướng quân. – Chàng nói, một lúc sau. Ngô Văn Sở hơi quay đầu lại. – Khi nhận được lời kêu gọi mở cửa thành làm phản, anh đã nghĩ gì? Tại sao anh lại chọn chúng ta chứ không phải bọn chúng?

- Vì ở trong thành này thì tôi sống được chứ bên ngoài thì không thể. – Tiếng nói của Ngô Văn Sở nghe như cười. Chàng cau mày.

- Anh làm ta nghĩ tới một người. Đại tư mã Ngô Văn Sở. – Chàng nói và quan sát anh ta. Tiếng cười giờ đây bật ra rõ và sắc.

- Người đó đã bị dìm xuống sông Hương rồi, Võ Tham thặng ạ. – Ngô Văn Sở nhún vai và đứng dậy, móc cái ống tre vào thắt lưng. – Tôi chỉ có một lý do rất đơn giản là: Trong những kẻ bên ngoài có người mà tôi không muốn gặp. Kẻ đó sẽ giết chết tôi nếu tôi chạm mặt hắn. Ai trong đời mà chẳng có một vài trường hợp khó xử như vậy? Ra ngoài không được thì tôi phải cố sức mà giữ thành, còn con đường nào khác?

- Vị Đại tư mã có thể cũng nói như vậy. – Chàng cười. – Chắc chắn có nhiều người mà anh ta không muốn gặp.

- Khi xuống âm phủ thì sẽ gặp nhau cả thôi. – Ngô Văn Sở thản nhiên nói. – Mà khi ấy thì chẳng còn gì quan trọng nữa. Uống một bát canh Mạnh Bà hay bị đày xuống chín tầng địa ngục cũng như nhau cả. Người ta cố níu kéo sự sống vì những thứ mà người ta không bỏ được, chứ những điều khác có ý nghĩa gì. Vị Đại tư mã ấy nếu có thành con qủy trôi sông thì vẫn còn oán hận giữ lại trên cõi đời, không làm cách nào siêu sinh được. Anh ta sẽ trở thành con qủy khóc gào đòi mạng trên sông mỗi ngày mỗi đêm. Nhưng bọn Trần Quang Diệu thì sợ gì mấy chuyện như thế? Hắn đã chẳng đá văng cả thần Xã tắc xuống đất, lấy đại bác bắn vào mộ hai con ma bên sông đấy à?

Chàng nhìn viên Thống chế mới của mình, càng lúc càng thấy mình bị cuốn vào câu chuyện của anh ta, nỗi oán hận của anh ta. Oán hận, phải, dù giọng nói anh ta lạnh lùng thản nhiên đến cực độ. Kẻ còn tồn tại trên đời vì oán hận. Qủy đòi mạng trên sông. Từng lời, từng lời đều là nỗi cay đắng sâu cay. Nỗi thống khổ đã khô kiệt và trở thành oán hận. Trước đây chàng vẫn nghĩ anh ta là con người lý tính đến khô khan, nhưng giờ đây thì chàng không chắc. Con người này có thể rất nguy hiểm, theo một cách nào đó.

- Vậy vị Đại tư mã ấy có định giết tất cả kẻ đã giết mình để trả thù không? – Chàng khoanh tay, làm ra vẻ như vô tình, như bông đùa mà hỏi. Bóng của nụ cười u ám như bóng tối thoáng qua khuôn mặt Ngô Văn Sở.

- Không. Chắc không đâu. Cái chết đâu có đáng sợ đến thế. Dù gì cũng chỉ là âm phủ với bát canh Mạnh Bà. Anh ta sẽ làm như Ngũ Tử Tư, xin treo đầu mình trước cửa thành để nhìn quân Việt tiến vào giết vua Ngô, phá hủy nước Ngô. Nhìn, anh có hiểu không? Nhìn những kẻ tưởng rằng mình đúng nhận lãnh kết cuộc của chúng, những gì chúng tự chuốc lấy. Những con qủy còn sống trên nhân gian đều chỉ vì chúng không thể siêu thoát, khi chúng vẫn còn chưa thể chấp nhận cái chết của mình. Cái chết đâu có đáng sợ đến thế. Nhưng chết mà không hiểu lý do, không thể nhắm mắt, không thể lý giải thì không thể chịu đựng được. Oan hồn là gì, gồm những ai? Là những kẻ chết bất đắc kỳ tử, là những trinh nữ chưa từng biết yêu đương, là những cô nhi không người nuôi nấng… là những kẻ chưa từng hiểu thế nào là sống, chưa hoàn thành được ước nguyện cuộc sống cho mình. Cái chết đâu có đáng sợ mà coi đó là hình phạt. Cái chết đâu có đáng sợ mà coi đó là báo thù. Cái oan hồn ấy sẽ ở trên dòng sông Hương mà nhìn quân Nguyễn tràn vào thành Phú Xuân.

Lại một khoảng im lặng nữa tràn lên họ. Chàng nhìn dòng nước vẫn không ngừng trôi đi dưới chân. Dòng nước ánh lên sắc lửa đỏ quạch. Dòng nước thăm thẳm sắc đen không thấy đáy. Chẳng còn gì nữa để hỏi, để tìm hiểu. Chàng luôn tin vào linh cảm của bản thân mình. Chàng biết tin vào linh cảm của bản thân mình.

Tiếng sáo hay một loại nhạc cụ thổi hơi nào đó chợt vang khe khẽ. Tiếng sáo từ ngay tòa nhà chàng vừa bước ra. Ngô Văn Sở nhìn về phía tiếng sáo, rồi quay sang nhìn chàng. Chàng nhún vai.

- Cô hầu của ta. Bây giờ thỉnh thoảng cô ta hay thổi sáo, ta bảo thổi khe khẽ thôi để đừng đánh động người khác. Nhất là âm điệu tiếng sáo của cô ta thật là lạ.

- Tiếng sáo của Chiêm Thành. Cô ta là người Chiêm? – Ngô Văn Sở nói, nhìn đăm đăm vào ô cửa sổ của ngôi nhà. – Âm nhạc của Chiêm Thành rất buồn, buồn đến não nề. Người ta bảo âm nhạc ấy là điềm mất nước của họ. Tiếng nhạc bao giờ cũng như than khóc, thương tiếc điều gì. Đó là điềm mất nước của họ. Anh không nên để cô ta thổi sáo, quân sĩ nghe được sẽ không hay.

- Không, họ thích nghe cô ta thổi. – Chàng lắc đầu. – Trong doanh trại thương binh.

Ngô Văn Sở mím môi nhưng không lên tiếng nữa. Tiếng sáo nỉ non trong đêm như xuyên qua họ, trôi đi trong dòng nước. Khu vực này nằm trong góc tòa thành, tiếng sáo không vượt qua được khoảng không cây lá dày và tường cao, cô đặc rơi xuống quanh họ. Lá thu rơi quanh họ. Bầu trời cao trong như miệng vực. Tiếng sáo ai oán như tiếng khóc, như ngàn bàn tay với lên trời cao, như ngàn tháp cao vụn vỡ dưới trời, như muôn vạn tiếng chân đi trên đất hoang rừng thẳm. Chàng nhớ đến tiếng chim bìm bịp đêm đêm kêu đầu nguồn nước, thanh âm phương Nam trong vắt đối lập với sự ngột ngạt nơi đây, sự ngột ngạt trong tiếng sáo này. Chiêm Thành, một quốc gia đã bị triệt tiêu, đã không còn nữa. Nếu như Ngô Văn Sở không nói, có lẽ chàng đã không bao giờ hiểu được nét ai oán cùng vài âm vực kỳ lạ trong tiếng sáo của cô gái câm.

- Nếu như oan hồn là có thật, anh có nghĩ rằng họ đang chờ đợi gì đó ở khu thành này? – Chàng chợt hỏi, chợt lên tiếng. Ngô Văn Sở không trả lời.

Anh ta đứng thêm một lúc nữa rồi cáo từ về doanh trại. Chàng vẫn đứng cạnh dòng sông, nghe tiếng sáo run rẩy trong bóng tối. Không hiểu sao âm điệu buồn thương này lại làm chàng cảm thấy được an ủi, nỗi lo lắng trong thâm tâm chàng dịu xuống. Chàng nghĩ mình hiểu những gì các thương bệnh binh cảm thấy khi yêu cầu cô gái câm thổi sáo. Dù sao thì họ vẫn là con người. Con người muốn được cảm thấy buồn vui. Một cách nào đó, nỗi buồn và nước mắt che chở được cho họ, giúp họ sống còn tốt hơn là những lời hịch xa vời cao cả lẫn những lời khuyên nhủ, khích lệ từ những người xa lạ.

Tiếng nước lục bục khe khẽ làm đứt mạch suy nghĩ của chàng. Ngẩng lên, chàng phát hiện ra bọt khí nổi lên đầu dòng nước, ngay trước cửa chắn dòng sông. Tim nhảy lên một cái, chàng chạy vội đến chân thành. Một cái đầu ướt đẫm đang ngoi lên từ dưới dòng nước. Thấy chàng, anh ta hươ tay, nói bằng giọng còn ngạt nước hổn hển.

- Tham thặng, thư của chúa công gởi đến!

- Giỏi lắm! – Chàng nói nhỏ như reo lên. Qùy xuống đón lá thư của người lính chuyển vào tay, chàng không đừng được nôn nóng mà bóp vỡ lớp sáp bao ngoài ngay tại chỗ. Dưới ánh lửa chập chờn ở chân thành, nét chữ của chính chúa Nguyễn đen nhánh trước mắt chàng.

- Quân ta không về Gia Định, đang đóng ở Cù Mông và núi Chúa, chúa công thì đang ở hòn Nan Dự ngoài cửa Thị Nại. – Người lính vừa lóp ngóp lên bờ vừa nói những nội dung được viết trong thư. – Chúa công bảo người trong thành giữ vững lòng, chúa công nhất định sẽ đến giải vây.

- Ngài ấy không bao giờ bỏ chúng ta. – Chàng thì thầm nói, nghe như giọng chính mình nghẹn lại. Không trở về, ngài ta đã ở lại. Tất cả đã ở lại. Cũng như ở Diên Khánh, ngài ta bất chấp gió ngược để đến cứu chàng. Ngài ta đang ở ngay ngoài vòng vây này. Chỉ vì thế thôi, chàng cũng đã thấy như tim mình nghẹn lại.

Chàng đứng bật dậy, định đi báo cho các quan tướng. Người lính vội vàng lên tiếng gọi chàng, móc trong ngực áo ra một mớ giấy dầu chống thấm nước, trong bọc một lá thư rất nhỏ.

- Tham thặng, chúa công bảo đây là thư riêng cho ngài.

Nhưng chàng đã chạy đi về phía ánh lửa chói sáng của doanh trại, không nghe thấy tiếng anh ta gọi nữa.

Like

Dù đã vào đêm, tiếng trống vẫn vang dồn thúc giục quân lính tập trung trong sân điện. Trước đài Bát Giác, lá thư của chúa Nguyễn được đọc lên cùng tờ hịch mà ngài ta đã viết cho dân chúng Gia Định, lời nhắn mà ngài ta gửi đến quân trong thành Gia Định. Ngô Tùng Châu, giọng nói vẫn còn xúc động, giơ tay để ngăn sự ồn ào lan đi trong đám đông.

- Chúa công và mọi người đã ở lại, quyết chiến với Tây tặc để giành lại Bình Định. Quân ta đã chiếm được vòng ngoài Phú Yên, trái ngược với sự huênh hoang dối trá của Tây tặc, tin rằng không lâu nữa có thể phá được vòng vây. Chúng ta càng phải quyết tâm giữ cho được thành này. Đây là điểm quyết định của chúng ta với Tây tặc, cơ hội để tiêu diệt hoàn toàn Tây tặc. Chúa công và mọi người đang dốc lòng dốc sức, chúng ta quyết không thể thua kém được! Chúa công luôn ở bên chúng ta!

Những ngọn lửa trong đêm, trên những chiếc đuốc cùng nhảy múa và chói sáng khi những cánh tay vung lên. Quân Gia Định ở lại, chúa Nguyễn ở lại, chỉ điều đó thôi đã làm những kẻ đang bị giam giữ trong bốn bức tường thành này xúc động đến tận tâm can. Từng lời, từng lời của vị chúa vang mãi trong họ, “Thành Quy Nhơn chỉ Bắc, đạp phá trùng vi. Đô Thuận Hóa rung cờ, dẹp yên đảng ngụy.” Tất cả đã cho họ thấy một quyết tâm cao ngút, một lời hứa không suy chuyển, một tương lai chắc chắn, chắn chắn sẽ đến. Và Gia Định đã dồn toàn lực vào trận chiến, một trận chiến không thể rút lui, không còn đường rút lui. Họ đang ở đây, địa điểm quyết định, thời khắc quyết định cho hàng chục năm dài. Bên ngoài, bên ngoài là trùng vây đồi núi cùng rừng thẳm, là đội quân của họ vẫn đang tiến tới, không lùi. Từ quân lệnh được ban ra năm trước, đội quân của chúa Nguyễn đã chỉ biết tiến tới mà không lùi bước, không bỏ chạy. Sinh mạng ngôi thành này là sinh mạng của toàn cuộc chiến tranh hàng chục năm dài. Là sinh mạng của họ. Là sinh mạng của tất cả những người họ yêu thương, tương lai và qúa khứ. Họ vung những ngọn đuốc trên tay lên trong đêm, reo hò bằng tiếng hô đã bị thời gian làm khàn đục, nghe tâm trí đã mòn mỏi vì chờ đợi của mình lại bừng lên tia hy vọng, thấy sự sống của mình lại được tiếp thêm nguồn sức mới. Những nỗ lực của họ đã không uổng phí, cho đến bây giờ. Hy vọng của họ lại được thắp lên và gìn giữ, cho đến bây giờ.

Ngay cả doanh trại dành cho thương bệnh binh cũng rộn lên với tin tức được đưa đến. Đoàn Văn Cát chống tay lên tường lần đến tận cửa để đón Võ Tánh, để được cầm vào tờ thư của vị chúa. Ông ta đọc đi đọc lại tờ giấy, rồi gật đầu. Căn bệnh thương hàn đã quật ngã Đoàn Văn Cát sau những ngày đứng trên thành trông nom công việc. Ông ta đã sút đi nhanh chóng, như cái lệ thường của người bị giam hãm trong thành mà không được chăm sóc thích hợp. Tuy nhiên, lúc này, trong căn bệnh hoành hành và thể trạng kiệt cùng sức lực, Đoàn Văn Cát vẫn cười, ông ta cười thành tiếng.

- Được lắm. Không bỏ cuộc, được lắm! – Đoàn Văn Cát lẩm bẩm khi ngồi xuống giường bệnh, không thể đứng nổi. Võ Tánh đưa lá thư lại cho Võ Văn Lượng, để ông ta chuyền đọc cho mọi người. Chàng ngồi xuống cạnh Đoàn Văn Cát, đỡ ông ta nằm xuống. Thân hình nhẹ bỗng của viên Đô Thống chế này khiến chàng phải giật mình.

- Tệ qúa, đúng lúc này lại ngã bệnh. – Đoàn Văn Cát nói, vẫn bằng giọng khàn đục gần như tiếng thì thào. – Thiếu tôi, mọi việc vẫn ổn chứ Tham thặng?

- Mọi việc vẫn ổn. – Chàng gật đầu. – Đã tìm được cách liên lạc, chúng ta không cần phải cố sức đánh ra nữa, chỉ chờ đợi xem tình hình thế nào. Đoàn tướng quân cứ cố tịnh dưỡng nghỉ ngơi cho khỏe.

- Lúc này lại ngã bệnh… - Đoàn Văn Cát vẫn chỉ lắc đầu, cau mày. – Nếu phải chết lúc này thì thật không đành lòng, không đành lòng…

- Đoàn tướng quân… - Chàng vừa mở miệng định khuyên nhủ, Đoàn Văn Cát đã ngắt lời chàng, ông ta mở mắt nhìn thẳng vào chàng. Đôi mắt đục mờ vì căn bệnh giờ lại được ánh lửa phủ lên khí sắc tối tăm sâu hút.

- Không việc gì phải nói những lời vô nghĩa, Tham thặng ạ. Nếu có mệnh hệ gì, tôi chỉ lo rằng vị trí của mình sẽ gây ra lỗ hổng lớn, nếu Tham thặng cho rằng đã ổn rồi thì tôi không cần phải bận tâm nữa. Ở lại giữ thành này, ngay từ đầu tôi đã không cầu sống. Chỉ là không đành lòng khi chưa xong công việc của mình mà đã chết, chưa trả thù được cho công tử mà đã chết, thế thì không nhắm mắt được. Nhưng chúa công đã không bỏ cuộc thì nhất định ngài ấy sẽ làm được. Nhất định ngài ấy sẽ làm được.

Tiếng ho cắt đứt lời nói của Đoàn Văn Cát khi ông ta cúi xuống ôm ngực. Chàng nhìn viên Đô Thống chế, không phải không hiểu được ý của ông ta trong những lời nói rối rắm. Đoàn Văn Cát đã về với Nguyễn quân khi cuộc nổi loạn của Quang Bảo thất bại, khi Quang Bảo bị giết chết ngay trong thành Bình Định này. Ông ta nhanh chóng trở thành một trong những viên tướng hăng hái nhiệt thành nhất của quân đội Gia Định, sự hăng hái nhiệt thành thậm chí đã làm ông ta kiệt lực dẫn đến tình trạng hiện giờ. Trả thù cho chủ nhân, dường như đó là điều duy nhất còn có ý nghĩa trong cuộc đời người đàn ông này.

Chàng nghe tiếng reo mừng khe khẽ lan đi trong doanh trại thương binh khi lá thư được đọc lên, khi tin tức loan truyền từ người này sang người nọ. Dứt cơn ho, Đoàn Văn Cát phải nằm hẳn xuống giường, cắn môi để ngăn tiếng rên bật lên, chàng có thể cảm thấy cơn đau đang xé nát thân thể người đàn ông này qua những đường nét nhăn nhúm trên khuôn mặt tái xám. Nhưng khi nói, giọng ông ta lại điềm tĩnh đến lạ.

- Nhất định phải giữ cho được thành, Tham thặng. Chúng ta nhất định phải thắng. Chúng ta sẽ thắng. Khi ấy tôi đã đến qúa trễ, qúa trễ nên không thể cứu được công tử.

Nhưng các anh thì cần biết gì đến chuyện của chúng tôi. – Đoàn Văn Cát chợt mở mắt nhìn chàng. Nhìn như muốn xuyên thẳng qua chàng. – Các anh không cần biết. Các anh sử dụng chúng tôi để đạt được mục đích của mình, và tôi cũng dùng các anh để báo thù.

- Mỗi người có một mục đích khác nhau. – Chàng mỉm cười khi nghe lời nói của Đoàn Văn Cát. – Chúng ta được quyền lựa chọn, chúng ta được quyền ước ao và thực hiện điều mình muốn. Điều đó không có gì là xấu cả. Mọi người đều sống như thế.

- Hà, ban đầu chúng tôi cũng đã từng nghĩ như thế. – Đoàn Văn Cát mỉm cười theo chàng. – Nhưng rồi mọi chuyện đã dẫn về đâu, đến đâu? Mỗi người có một mục đích, rồi mỗi người chỉ lo hoàn thành mục đích của mình, thỏa mãn điều mình muốn, bất kể chà đạp lên kẻ khác, lên đạo nghĩa, lên luân lý. Tại sao? Tại sao vậy? Tại sao họ lại có thể đối xử như thế với Thái Đức đế? Không có ông ấy, tất cả bọn họ có ngày hôm nay ư? Không có ông ấy, Tây Sơn sẽ hình thành được sao, có thể sống sót được ngay trong lúc quân Nguyễn tràn đến Quy Nhơn định trừ diệt “quân phiến loạn” đó sao? Ai đã dựng xây nên cơ ngơi này, làm nên vinh quang này, gìn giữ đội quân này? Vậy mà chúng nhất định phải ép chết ông ấy, ép ông ấy hộc máu mà chết ngay trên điện. Mỗi người có một mục đích của mình đấy sao?

Chàng không trả lời, không lên tiếng. Tâm trí chàng lại đang hướng về thanh âm của doanh trại, thanh âm của khu thành bên ngoài. Chàng đã mệt mỏi với những câu chuyện của họ, những câu chuyện về oán thù và cay đắng của những tướng lĩnh Tây Sơn cũ xung quanh chàng. Thậm chí, nhiều khi chàng không thể đừng mà thấy sự căm ghét trào lên trong lòng – căm ghét họ, chính những kẻ đang nói. Ký ức của những ngày trong đầm lầy gò Tre vẫn chưa tan hết. Và chàng không thể đừng mà nghĩ tới khi những kẻ đang than oán này ở trong giờ khắc huy hoàng hỉ hả nhất của họ - trên những của cải cướp được từ Hội An, từ Cù lao Phố, từ Gia Định – là lúc mà Gia Định đang gạt nước mắt chôn cất người thân, vùi lấp đi đống tro tàn. Chàng không thể đừng mà nghĩ khi quan sát đền đài này – đâu là những gạch đá, rường cột cướp được từ Gia Định dạo ấy? Chàng không thể đừng mà nghĩ tới và căm ghét. Chàng qủa thật cảm thấy hoàn toàn dửng dưng với những oán thù và căm hận của họ, những tranh chấp của họ. Những tranh chấp, thủ đoạn nhỏ mọn đến mức phi lý, đến mức nực cười. Và cả cái kết qủa của nó, cái hiện tại bây giờ, sự hiện diện của bọn họ nơi đây, trong đoàn quân mà họ đã từng chống lại, cũng mang một vẻ phi lý kỳ quặc dù chàng đã hiểu được nguyên do, hoàn cảnh. Dù hiểu được nguyên do, hoàn cảnh, chàng vẫn không thể quên những gì đã diễn ra khi được nhắc lại quãng thời gian ấy. Dù không còn mang thù hận đến mức muốn giết chết tất cả bọn họ, chàng vẫn không thể quên quãng thời gian ấy, những gì đã đưa chàng đến con đường này, quyết định số phận của chàng. Thậm chí, nhiều khi chàng lại thấy sự căm ghét trào lên không chủ định.

Đoàn Văn Cát đã ngừng lời một lúc lâu nhưng chàng vẫn không nhận ra. Đến khi chàng nhìn xuống, ông ta đang nhìn chàng, đôi mắt trở về vẻ mệt mỏi buồn bã của người bệnh. Ông ta đăm đăm nhìn chàng khiến chàng phải cảm thấy khó xử.

- Đoàn tướng quân nghỉ đi, khuya rồi. Mai tôi sẽ lại thăm anh. – Chàng nói và đứng dậy, định đi sang khu giường bên cạnh. Đoàn Văn Cát vẫn dõi theo chàng. Ông ta đột ngột nắm lấy vạt áo chàng.

- Công tử Quang Bảo… - Đoàn Văn Cát ngập ngừng như không chắc chắn lắm về điều định nói. Bàn tay ông ta vẫn nắm lấy vạt áo chàng. – Công tử Quang Bảo đã từng đánh nhau với Võ Tham thặng, tướng quân nhớ không? Ở Thuận Thành.

- Phải… - Chàng cũng không biết nên trả lời ra sao. Qủa tình thì chàng đã quên. Qúa nhiều trận chiến đã xảy ra. Chàng chỉ lờ mờ nhớ cái tên Quang Bảo này trong một cuộc đụng độ với Lê Văn Quân.

- Chúng ta trở thành kẻ thù của nhau vì lẽ gì? – Đoàn Văn Cát chớp mắt. Bóng tối mờ đục lại phủ lên đôi mắt ông ta. Bàn tay nắm lấy vạt áo chàng thả xuống. Ho vài tiếng nữa, viên tướng đang bệnh nghoẹo đầu nhắm mắt, thở khò khè khe khẽ. Chàng nhìn ông ta thêm một lúc rồi quay đi, không quên nhắn nhủ người thầy thuốc trong quân chú ý đặc biệt đến viên Đô Thống chế.

Ông ấy bệnh nặng qúa rồi, chàng nghĩ khi rời khỏi doanh trại thương binh, sau khi an ủi quân tướng. Những lời nói rối loạn, hoàn toàn không ăn nhập với nhau và không làm chàng hiểu được một chút gì ấy thể hiện một tâm trí đã không còn sáng rõ. Hoặc là ông ta không nói để chàng hiểu, chính ông ta cũng không hiểu điều mình đang định nói, ông ta tìm kiếm nó, tìm kiếm trong ký ức mình. Đó là một biểu hiện đáng ngại của những người đang bước dần đến cái chết. Chàng thấy cái chết trong mắt ông ta. Chàng đã học cách nhận ra, làm quen với cái chết trong những năm tháng dài, đủ để chàng nhận ra biểu hiện ấy bây giờ.

Đoàn Văn Cát, Đô Thống chế Tiền đồn Ngự lâm quân, cái chết của ông ta sẽ gây ra xáo trộn không nhỏ. Chàng thở dài mà nhìn quanh khu thành rực ánh đuốc. Sự mừng rỡ thoáng qua rồi để lại cho chàng một nỗi lo nặng trĩu. Vị chúa đã ở lại, nhưng quân trong cả mấy tháng trời không vượt qua được đèo Cù Mông. Chuyện gì đã xảy ra bên ngoài, chàng tự hỏi mà không khỏi lấy làm nôn nóng. Qúa mừng rỡ khi nhận được tin, chàng đã không hỏi rõ người lính. Chàng vội vàng quay bước về chính điện trong thành, hy vọng anh ta đã đến trước tướng doanh đợi lệnh.

Khi chàng đến, qủa thật người lính đang đợi trước cửa điện, đã thay một chiếc áo mới khô ráo. Nhưng khi thấy chàng, anh ta lại dập đầu xuống đất.

- Xin Tham thặng tha lỗi. – Người lính nói, không ngẩng dậy, trong khi chàng vẫn còn ngơ ngác. Tay anh ta nắm chặt một cuộn giấy sáp. Thấy ánh mắt chàng, người lính vừa ngẩng lên đã vội cúi thấp đầu.

- Có chuyện gì? – Chàng hỏi. Môi người lính đưa tin mím lại trước khi anh ta ngập ngừng trả lời chàng.

- Chúa công đã gửi cho Tham thặng một lá thư riêng. Nhưng hồi nãy, ở cạnh sông, thuộc hạ đem ra đưa cho Tham thặng mà không kịp… Lỡ tay, thư đã rơi xuống sông rồi. Tham thặng, thuộc hạ đáng chết.

Thư riêng? Chàng tự hỏi mà nhìn xấp giấy dầu trong tay người lính. Lệnh cho anh ta đứng lên, chàng đón lấy xấp giấy còn ướt nước. Chúng chỉ là những tờ giấy bình thường, không có một dấu hiệu nào.

- Chúa công có nói đó là thư gì không? – Chàng hỏi sau khi lật qua lật lại xấp giấy một lúc. Người lính lắc đầu.

- Không ạ. Ngài chỉ nói rằng nhất định phải đưa cho Tham thặng. Thư kia có thể chỉ cần chuyển lời lại, không cần giữ, nhưng thư này thì phải đưa tận tay Tham thặng… Tham thặng, thuộc hạ đáng chết…

Chàng chớp mắt, an ủi người lính mấy câu rồi cho anh ta về. Đứng trước điện một lát, chàng cầm đèn quành trở về khúc sông hồi nãy. Bờ sông được xây đắp dốc đứng, dòng nước triều lên chảy xiết. Chàng đứng nhìn dòng nước đen thẫm một lúc lâu rồi đành quay lại phòng của mình.

Thư từ mất trong chiến trận là chuyện thường xuyên xảy ra, chàng vẫn còn dịp liên lạc để hỏi vị chúa về lá thư nọ. Nhưng hẳn đó là chuyện vô cùng quan trọng mà ngài ta đã nói nhất định phải chuyển đến tận tay chàng, chỉ cho mình chàng. Dù sao đi nữa, lá thư cũng đã mất không còn hy vọng nào tìm lại. Trong tay chàng chỉ còn một nắm giấy hoàn toàn vô ích. Bằng thói quen kiên nhẫn đã học được, chàng cố dằn nỗi thất vọng và nóng lòng xuống với những bước chân nặng nề. Đã vậy, đứng đợi chàng trước cửa lần này lại là một tin không tốt lành. Võ Văn Lượng từ doanh trại thương binh về đem theo gương mặt mang nỗi buồn thương sâu sắc.

- Đoàn Văn Cát chết rồi. – Ông ta nói ngay khi vừa thấy bóng chàng. – Ông ấy trút hơi thở cuối ngay khi anh vừa đi. Mất một lúc người xung quanh mới nhận ra.

- À.. – Chàng thốt ra một tiếng kinh ngạc. Dù đã đoán trước, chàng không ngờ cái chết của Đoàn Văn Cát lại sớm đến thế. Hóa ra chàng là người cuối cùng nói chuyện với ông ta. Cả gương mặt buồn bã của Võ Văn Lượng lúc này cũng làm chàng thấy lạ. – Đã thông báo cho Thượng thư Ngô Tùng Châu chưa để làm lễ?

- Rồi, anh ta đang ở đó. – Võ Văn Lượng gật đầu. Chàng cúi đầu, nhắm mắt thở dài. Vị trí của Đoàn Văn Cát đã có người thay mấy ngày mà ông ta lâm bệnh, nhưng hiện thời chàng phải nghĩ đến tìm người có thể thay hẳn ông ta.

Khi ngẩng lên, chàng thấy Võ Văn Lượng vẫn còn quan sát mình. Nét buồn bã của ông ta giờ lại pha thêm sự ngạc nhiên là lạ.

- Anh đang nghĩ đến người thay Đoàn Thống chế à? – Võ Văn Lượng hỏi. Chàng nhẹ gật đầu. Ông nhìn chàng một lúc rồi thở ra. – Không trách được, anh là chỉ huy thì phải suy nghĩ cho sáng suốt.

Chàng không thích giọng Võ Văn Lượng bây giờ. Dường như ông ta đang cho rằng việc chàng không đau buồn trước cái chết của Đoàn Văn Cát là một tội lỗi. Trong khi qủa tình chàng chỉ mới biết Đoàn Văn Cát hơn một năm nay, ngoài công việc thì vẫn chưa hề có một mối liên hệ nào. Công việc trong khu thành mênh mông này đã chiếm hết tâm trí của chàng.

- Còn anh thì thật khác xưa. – Chàng nói, một lúc sau. – Ngày xưa anh đã từng thề không đội trời chung với họ.

Chàng không định khích Võ Văn Lượng, chỉ nói điều mà chàng nhận ra với chút tò mò. Tuy vậy, Võ Văn Lượng cau mày. Im lặng một lát rồi ông mới mở miệng, giọng trầm xuống đáng sợ.

- Anh cũng khác xưa qúa, Tham thặng. Ngày xưa anh ngây thơ hơn, nhưng cũng đáng yêu hơn. Nếu như là anh bây giờ, chúng tôi đã không đi theo anh.

Chàng cười.

- Vì thế mà một người có tài như anh vẫn chỉ làm Cai cơ. – Chàng nói. – Hành xử theo tình cảm không phải bao giờ cũng tốt.

- Không, tôi không nói cách hành xử của anh. Tôi hiểu. – Võ Văn Lượng lắc đầu. Chàng chợt thấy tóc ông ta đã điểm bạc, vài sợi sáng trắng trong ánh lửa. – Ngày xưa anh đã cứu chị gái của người giết anh mình. Anh đâu phải con người chỉ biết có thắng và bại như bây giờ. Việc giết đám hàng quân chạy trốn trước kia anh đã không gọi tôi đến, nhưng anh nghĩ tôi không thấy sao?

Chàng nhìn Võ Văn Lượng với thoáng ngạc nhiên. Ông ta đã không hề nói đến việc này trong nhiều tháng trời, rồi chọn đúng lúc này để nhắc lại. Tuy vậy, chàng chẳng có gì để nói với ông.

- Phải, tất cả đã thay đổi rồi. – Chàng lặng lẽ nói, gỡ miếng giáp trên tay ra để đỡ bức bối. Chàng nghĩ đến việc hạ lệnh cho người trong thành đi nghỉ, đã qúa khuya để đánh động quanh vùng bằng tiếng ồn này. Chàng thật chẳng có gì để nói với Võ Văn Lượng, không một điều gì.

- Điều tôi ghét nhất ở quân đội là gì, anh biết không, Tánh? – Ông ta gọi chàng lúc chàng vừa quay đi. Ông lại gọi tên chàng như ngày xưa. – Số đầu người được coi như chiến công và mọi cái chết đều được tìm lý lẽ để biện minh.

- Người ta thấy cái mà mình tìm. – Chàng nói, không quay đầu lại. Đến bây giờ ông ấy vẫn không đổi khác, chàng nghĩ thầm. Không đổi khác, điều mà ông tìm kiếm và coi trọng. Vì nó, ông có thể hy sinh cả sự nghiệp, cả gia đình, cả cuộc đời mình. Còn chàng, trong khu thành này, chàng chỉ tìm kiếm duy nhất một điều: Sự tồn tại.

Làm sao để nói rằng chàng đang cố giữ sự tồn tại của khu thành này bằng những cái chết lần lượt của binh tướng? Làm sao để nói rằng chàng đã cố tình chọn bọn họ - các hàng tướng chứ không phải ai khác - ở lại với mình trong cuộc tử thủ? Làm sao để nói rằng chàng đang thực hiện một cuộc sàng lọc khắc nghiệt bằng cách ném họ vào đây?

Đoàn Văn Cát đã chết rồi, chàng nghĩ khi mạch máu giật nhẹ trong thái dương. Mới bắt đầu vào mùa thu, mới bắt đầu những tháng khắc nghiệt nhất của trời đất đang chờ đợi họ. Mọi người vẫn còn đang ồn ào khi hy vọng vừa được thắp lên. Nhưng ngọn lửa ấy đã lụi tắt trong chàng, đầu tiên trong tất cả. Làm sao chàng có thể nói với họ về những gì mình đã trải qua, nỗi sợ hãi đã trở thành ám ảnh trong cả những năm tháng sau đó? Làm sao chàng có thể nói với họ về giấc mơ mà chàng đã thấy, trong suốt những năm tháng sau này? Làm sao để chàng có thể nói với họ về những gì chàng đã thấy trong ánh lửa ngày ấy – ánh lửa đã soi suốt cả chiều dài cuộc đời chàng, rạng rõ con đường chàng phải đi? Chàng đã đi con đường ấy, đã tự chọn lấy nó. Và chàng sợ, qủa thật chàng cũng biết sợ. Chàng đã sợ mỗi lần ôm lấy nàng, thấy cuộc đời trôi tuột qua tầm tay. Chàng đã sợ, mỗi ngày sống trên cuộc đời này đều trở thành mong manh đến thành như ảo ảnh. Bốn năm trôi qua chỉ đủ cho nỗi sợ ấy dịu lại, nhưng nó vẫn còn trong tiềm thức, vĩnh viễn trong tiềm thức. Mỗi ngày, trong khu thành này, nó lại lục đục trở dậy, đòi được lớn mạnh và thống trị. Cuộc sống, khi ấy, trở thành một nỗi đau khôn bề lý giải.

Đoàn Văn Cát đã chết rồi, chàng nghĩ khi đi ngày càng nhanh, với một nỗi sợ không thể đừng được mà bùng lên. Chàng đi qua những lớp người, những nhóm đông người được soi sáng trong ánh lửa. Sương vẫn đang buông trắng xóa trong làn gió lạnh dần. Chàng mỉm cười với họ, phác tay gọi họ trở về. Chúng ta còn nhiều việc phải làm, chàng nói. Chúng ta còn rất nhiều ngày phía trước. Ngay cả những hận thù, tình yêu, số phận của chúng ta, của những người như Đoàn Văn Cát, cũng chẳng là gì. Cho đến tận cùng, ông ta vẫn không thể tìm được điều định nói với chàng. Ngay cả oán thù hay tình yêu đến khắc cốt ghi tâm cũng chẳng thể nào vượt qua được thời gian.

Làm sao để nói rằng, giải thích được rằng, sự tồn tại có khi là điều khắc nghiệt nhất trên thế gian?

Khi nàng đi ngang khu vườn ấy, trời đã về chiều. Cơn bão đã qua, trả lại bầu trời mùa hạn nóng ngốt cho đất phương Nam. Khoảng đất chiều hôm lặng gió, chỉ có mùi hoa thơm tụ lại đến ngàn ngạt. Ngọc Du ghìm cương ngựa, nhìn xung quanh. Những tùy tùng đi cạnh nàng cũng dừng lại, chờ đợi. Không để tâm đến họ, nàng dõi mắt nhìn con đường rẽ qua về phía sông. Nàng đã nghe tiếng lục lạc sau lùm cây. Và qủa nhiên, chỉ một lát sau, đoàn người ngựa của Phúc Cảnh xuất hiện. Cậu Đông cung đang ngồi trên lưng con ngựa trắng đã thoáng ngạc nhiên khi thấy nàng.

- Sao cô cô lại ở đây? – Cậu ta hỏi sau khi chào nàng. Nàng ghìm ngựa đi bên cạnh người cháu, lại quay nhìn khoảng đất trồng toàn hoa nhài trắng. Đã thấy bóng những cô thôn nữ thấp thoáng giữa các luống cây.

- Ta đi ngang qua. Đáng lẽ hôm nay Nhị phi đến đây trông coi việc thu hoạch, nhưng con út của Nhị phi bệnh, nương nương phải ở trong cung, ta đi thay. – Nàng nói, ra dấu về phía những giấy tờ, sổ sách mà tùy tùng đem theo. Việc thu hoạch của Gia Định kéo dài từ cuối tháng chín đến tận tháng ba năm sau, công việc của họ không bao giờ ngớt. Đến cả Phúc Cảnh cũng phải đích thân đến trông coi việc thu gom dân đinh ngoại tịch để sung quân ở mỗi vùng. Cậu ta nghe nàng nói thì chỉ gật nhẹ đầu.

- Vừa rồi bão, thuyền của ta bị lật, mất đến bốn vạn vuông gạo. – Phúc Cảnh thở dài. – Trời đất qủa là không lường được. Mùa này ngược gió mà cũng là mùa bão, di chuyển trên biển rất nguy hiểm. Chuyển lương bằng đường bộ an toàn hơn, tuy hơi chậm.

- Đoạn đường rất dài. – Nàng nói, không ra ý thanh minh cũng chẳng tỏ vẻ đồng tình. – Thủy quân là sở trường của ta, đó chỉ là sự cố đáng tiếc thôi.

- Sở trường… - Phúc Cảnh cười khẽ. – Đến mức quân Tây Sơn có một câu thế này “Bộ chiến thì Tiên phong chậm, thủy chiến thì Trung quân hăng”.

- Chúng ta lập nghiệp từ thủy quân. – Ngọc Du mỉm cười, chiếc roi trong tay nàng đập nhè nhẹ vào lớp bờm dày khi nàng đặt tay cầm cương lên cổ ngựa. – Khi Trịnh Kiểm âm mưu tiếm quyền, giết chết anh trai chúa Tiên ta, chúa liền nhờ công nương Ngọc Bảo xin với Trịnh Kiểm vào trấn thủ Thuận Hóa rằng: “Đất ấy hiểm trở, xa xôi, khí hậu khắc nghiệt, lại là mặt Nam dễ bị tập kích, quân Mạc có thể dùng thuyền đánh sau lưng bất cứ lúc nào.” Vì trong triều chỉ có họ Nguyễn ta giỏi thủy quân, Trịnh Kiểm buộc phải đồng tình. Từ đây, chúa Tiên đánh bại đội thủy quân nhà Mạc, giúp vua Lê đánh dẹp Phan Ngạn, Dương Đình Hàm, Bùi Văn Khuê ở Sơn Nam Hạ. Vào Thuận Hóa, cùng với người nhà ta và quân bản bộ chỉ có nhóm nghĩa dũng Tống Sơn, Thanh Hóa, tất cả chừng vài ngàn người. Tất cả đặt cứ điểm vào các hạm đội đi chuyển trên vùng biển Quảng Nam, Thuận Hóa, ra vào cửa biển sông Hồng, Thái Bình.

Từ đây, chúng ta đã dần tiến về phương Nam. Thủy quân đi trước, làm thế cho dân chúng theo lập nghiệp. Cả trong những trận chiến của mình, chúng ta cũng dựa vào thủy quân. Ban đầu, quân cướp biển Nhật Bản hay đến quấy phá ta. Chúa Sãi đã điều binh đánh chìm hai chiếc tàu Ngọa khấu của chúng, thiết lập nền ngoại giao với Nhật Bản. Khi người Tây dương kéo đến ngày càng đông, bắt đầu có ý định xâm chiếm đất ta, chúa Hiền đã lãnh đạo thủy quân đánh tan hạm đội Hà Lan ở Cù lao Chàm. Chúa Minh ta đặt đồng hồ Tây dương ở các công sở, đồn tàu dọc biển để việc hải hành được thuận tiện. Đào Duy Từ đã viết cả một chương Thủy chiến trong cuốn sách Hổ tướng khưu cơ của ông. Nhờ việc hải hành mà thương nghiệp, quân sự, biên phòng của chúng ta vững chắc, phát triển thịnh vượng.

Ban đầu là người Tàu, sau đó là giao thiệp với Nhật Bản, Tây dương, chúng ta tồn tại ở mảnh đất đói nghèo, khắc nghiệt này bằng thủy quân, bằng cách di chuyển trên nước, trên biển. Đó là trước khi Tây Sơn đến. Bọn người sống trong đồng ruộng đó lại không hề hiểu chút gì về Nam Hà này, chúng phá hủy tất cả các trung tâm kinh tế, triệt tiêu mọi nguồn thương nghiệp, chặn đứng dòng chảy mà chúng ta đã vất vả hàng trăm năm để xây nên. Sự suy vong của chúng hiện tại chính vì không hiểu gì về mảnh đất mà chúng có, là kết qủa cho chính những hành động của chúng.

Tiếng vó ngựa lộc cộc trên nền đất khi họ đi dưới bầu trời đã ngả sắc màu hồng tím. Phúc Cảnh không ngắt lời nàng, cậu ta trông về phía dòng sông vẫn ánh sắc đồng cuồn cuộn chảy. Nàng nghe mùi hoa xa dần, lùi về sau lưng. Phúc Cảnh lại quay nhìn nàng, cậu ta mỉm cười.

- Mảnh đất mà chúng ta có… vốn không thuộc về chúng ta. – Nụ cười của cậu thanh niên trẻ có vẻ rất bình yên. – Hàng trăm năm, chúng ta đã làm việc mà cả ngàn năm đất nước này không làm được. Nhưng rồi chúng ta phải trả giá. Chúng ta phải trả giá bằng tất cả những gì mình có được. Có gì đó rất ác nghiệt ở đây, phải không?

Nàng quay sang người cháu, thoạt tiên không hiểu thái độ của cậu ta. Nhưng rồi nàng chỉ nhún vai.

- Nếu việc gì cũng luận giải bằng cách ấy thì rất nặng nề. – Nàng nói và nhìn theo đầu ngọn roi mình vạch lên bầu trời. – Ta nghĩ, ban đầu khi vào Thuận Hóa, chúa Tiên ta chỉ tìm cách tránh được sự tru diệt của Trịnh Kiểm. Để tìm cách tồn tại, chúng ta phát triển dần xuống phương Nam, qua những cuộc tranh chấp với người Chiêm, người Miên mà có được mảnh đất này. Ban đầu, thật ra đó chỉ vì chúng ta tìm cách tồn tại, thực tình là như thế. Ngay cả bây giờ cũng vậy. Vì muốn tồn tại mà chúng ta phản kháng.

- Chúng ta tiêu diệt. – Cậu Đông cung trẻ nheo mắt nhìn nàng. Nhưng rồi cậu ta lại bỏ rơi câu nói của mình, thúc ngựa đi nhanh hơn. Chiều đã ập xuống rất nhanh trong những tháng cuối năm này. Nàng nhìn theo lưng người cháu, tự nghĩ mình không hiểu được tâm trạng của cậu ta hiện tại. Sau cái chết của Bá Đa Lộc, cậu ta dần dần dịu lại, trở về vẻ bình yên thầm lặng. Nhưng nàng đã nghe, thảng hoặc trong cung hay trong quân tướng, về cuộc sống cá nhân của cậu thanh niên này. Có thể “say mê tửu sắc” là câu nhận xét qúa đáng của các giáo sĩ Tây dương quen với việc đàn ông chỉ có một vợ, nhưng cũng đã cho thấy thái độ của cậu ta với bên ngoài. Không kiêng dè, không giấu diếm, cậu ta đang sống cuộc đời hoàn toàn khác xa với con đường mà Bá Đa Lộc đã muốn cậu ta đi theo. Bây giờ, trong lối nói chuyện của Cảnh, nàng lại càng cảm thấy sự phản kháng ngấm ngầm, sự bất mãn nào đó mà nàng không xác định được.

Nàng nhìn cậu ta, bây giờ, ngài Đông cung được người người ngưỡng mộ, đã trở thành một thanh niên tuấn tú mà vẻ đẹp phát tiết từ những ngày thơ ấu chỉ càng rực rỡ. Đông cung Cảnh, Nguyên soái chưa từng biết đến thua trận, người cai trị Gia Định trong những tháng năm này, từ khi mười lăm tuổi. Cậu ta đã lớn lên, đẹp đẽ và tài năng, mạnh mẽ và quyết liệt. Sợi dây của Bá Đa Lộc nối với tuổi thơ cậu ta đã đứt lìa. Lúc này, cậu ta đang làm mọi điều mình muốn, nhưng nàng lại thực tình nghĩ rằng cậu ta không biết mình muốn gì. Như một con chim bị giam hãm qúa lâu phân vân trước khoảng trời và thế giới trải rộng ra trước mắt.

- À, người từ hòn Nần về nói, - Phúc Cảnh nói như vừa chợt nhớ ra, cắt đứt dòng suy nghĩ của nàng. Cậu ta ghìm cương ngựa đợi nàng đi tới để thông báo bằng giọng sôi nổi. – Có tin của Tham thặng đưa tới hành tại của chúa công. Tham thặng bằng cách nào đó phái được người ra ngoài liên lạc với chúa công. Mọi việc trong thành vẫn ổn.

Đáp lại nụ cười của người cháu, Ngọc Du chỉ gật đầu. Nàng thậm chí không nhìn cậu ta, chỉ đưa mắt hướng về con đường phía trước đã mờ trong bóng tối. Cây roi trên tay nàng chúc mũi xuống đất khi nàng buông hai tay bên hông. Cái tin này không làm cho nàng ngạc nhiên. Nàng chỉ có cảm giác đã chờ đợi nó, mong chờ nó nhiều đến mức sự thực đến không còn làm cho nàng ngạc nhiên được nữa.

- Thế thì tốt. – Nàng nói, một lúc sau. Biết tính nàng, Phúc Cảnh cũng im lặng. Cậu ta quay sang nói chuyện với người tùy tùng về công việc. Nàng nghe loáng thoáng những tiếng “Gia Định”, “Hà Tiên”, “thuế tô” lướt qua. Nàng cũng không còn để tâm nữa.

Thật giống như ngày xưa, nàng chợt nghĩ. Những ngày mà chàng chưa xuất hiện trong cuộc đời nàng, chưa ở bên nàng. Giống như ngày xưa, khi nàng đi theo người em trai, trám vào chỗ trống mà cô cô Ngọc Đảo để lại. Những công việc này, tính toán này, thậm chí nàng còn nhớ như in lịch mùa vụ của Gia Định, các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Định Tường, Vĩnh Trấn. Lần này, để những đứa trẻ trong cung, nàng lại cất bước đi khắp Gia Định. Có rất nhiều điều đã đổi thay, vùng đất này đã không còn là nơi hoang tàn, heo hút, lạnh lẽo thưở nàng còn trẻ. Nhưng mùi đất vẫn như thế, mùi bùn từ dưới những gốc lúa nhổ bật lên, mùi nước trên những dòng sông, mùi của sương đêm và khí trời dưới những cánh rừng vẫn không thay đổi. Lần này, nàng lại một mình cất bước, không thay đổi. Bây giờ, bên cạnh nàng không phải là người em trai mà là con của cậu ta, cũng ở độ tuổi mà họ đã từng, thanh xuân mà họ đã có.

Nhưng điều này nàng có thể nói với ai? Những nơi nàng tới, các phụ nữ nhìn nàng bằng đôi mắt cảm thông và cam chịu. Chồng con họ cũng ở ngoài mặt trận, cũng đang phải chống chọi từng ngày để giữ lấy sự sống. Sự xuất hiện của nàng, do đó, là nguồn an ủi lớn với bọn họ. Tham thặng phu nhân, họ gọi nàng, nắm lấy tay nàng, tìm kiếm nơi nàng chỗ dựa trong những lo lắng này. Nàng an ủi bọn họ, nàng khuyến khích bọn họ, nàng bảo bọn họ chịu đựng và chờ đợi. Vì những người ngoài trận, nàng nói, không phải vì Gia Định hay những điều cao cả, xa vời khác. Họ không biết đến những điều đó, họ không sống vì nó.

Nàng có thể nói với ai, về nỗi ấm ức muốn đổ tràn trong những đêm vắng? Mạnh mẽ lên, nàng bảo họ. Đừng lo lắng, nàng bảo họ. Nàng bảo họ những gì mà chính nàng cũng không làm được. Gia Định chìm trong lo sợ. Gia Định chìm trong không khí u uất căng thẳng như chực chờ bùng nổ bất cứ lúc nào. Gia Định rối loạn và tất bật trong vẻ lặng lẽ hoang vắng bất thường. Như ngày xưa, Gia Định lại trở về dáng vẻ của ngày xưa. Hơn mười năm, tất cả những gì họ xây dựng trong mười năm đã đổ vào cuộc cờ này, trận chiến này. Như ngày xưa, nàng lại chỉ có một mình. Nỗi lo sợ lớn dần lên trong nàng, trong từng ngày trôi qua, trong công việc lặp đi lặp lại, trong màn đêm đổ ập xuống sau ngày dài. Như một giấc mơ, nàng đã nói ngày tiễn vị chúa ra đi. Và bây giờ, nàng đang sợ hãi chính lời nói của mình.

Khu đô thành Sài Côn đang trải ra trước mắt nàng. Đỉnh của bức tường thành cao hiện lên phía chân trời. Đèn đã thắp sáng trong thành, kéo dài bên dòng sông. Khu dân cư đông đúc được quy hoạch lại thành từng ô riêng biệt theo lối Tây dương mà Trần Văn Học đã đem về sau chuyến đi khắp vùng biển rộng nhìn như một bàn cờ trải dài bên sông. Ánh lửa tạo cho nó đường nét viền sáng rõ trong bóng tối. Những tia sáng tím cuối trời dần tan hết, để lại chút bóng mờ trên con đường họ đi, trước vó ngựa của họ.

- Người Tây dương bảo năm nay là bắt đầu một thế kỷ mới. – Cảnh chợt lên tiếng bên cạnh nàng. – Thế kỷ là mỗi trăm năm một, tính theo lịch Tây dương. Người Tây dương tính lịch theo sự ra đời của Chúa Trời. Như vậy, năm nay là bắt đầu thế kỷ mới của họ.

Nàng đã tự hỏi lý do cậu ta bỗng dưng nói đến điều này, nhưng rồi nhận thấy bóng một cây thập giá trước con đường. Một ngôi nhà thờ có vẻ như vừa được xây nằm bên đường, những tia sáng đỏ hắt bóng qua khe cửa hẹp tạo thành những đường ánh sáng cắt trên đất. Đã vào những ngày cuối năm tính theo lịch Tây dương, nàng bỗng nghĩ ra với cái nhói nhẹ trong ngực. Tiếng thánh ca văng vẳng sau cánh cửa năm nào trở về trong tâm trí nàng. Vòng tay chàng trong buổi chiều hôm ấy xa lắc tựa như bóng mây vừa tắt cuối chân trời.

- Một thế kỷ mới. – Cảnh nghiêng đầu. Chiếc roi ngựa trong tay cậu ta nhảy múa khi bất chợt được vung lên không khí. – Phú Lang Sa vừa bị đánh bại ở Ai Cập, người Ý Đại Lợi nổi loạn, một Giáo hoàng mới được lập nên. Người Anh Cát Lợi lấy lại hai đảo từ tay Phú Lang Sa. Quân Phú Lang Sa đánh bại Áo, Đức Phổ. Chúng ta đang sống ở một thời điểm cực kỳ rối loạn.

- Không, trước nay vẫn như vậy. Trước nay người ta vẫn đánh nhau ở mọi nơi. – Nàng lặng lẽ nói. – Chỉ là người ta không biết đấy thôi. Hàng bao nhiêu năm nay người ta vẫn sống như vậy, chỉ là người ta không nhận ra đấy thôi.

Chú thích:

Sơn Nam hạ:  Nam Định.

Tháng mười một năm Canh Thân, tại núi Chúa, Nguyễn Văn Thành được người Thượng cho biết con đường đi vòng về phía Tây Nam đến đồn Tây Sơn. Viên Chưởng Tiền quân vội vã báo về cho chúa Nguyễn, xin thêm quân để tấn công. Vị chúa liền cho Lê Chất đưa Ngự lâm quân về La Hai, thế chỗ cho Lê Văn Duyệt, Tống Viết Phúc đến nơi đóng quân của Nguyễn Văn Thành. Nguyễn Văn Thành để Lê Văn Duyệt giữ chính binh tấn công mặt trước, đích thân dẫn quân đánh tập hậu. Quân đi vào ban đêm vòng qua núi Bột Khê, nhân lúc trời mưa đốt đồn Tây Sơn làm hiệu cho Lê Văn Duyệt đánh vào. Quân Gia Định với hai mươi khẩu đại bác bắn gần và đội súng giáp trận đánh tan quân Tây Sơn đồn trú, giết Đô đốc Hoan. Truy đuổi đến Tuần Dã, quân Nguyễn lại gặp hàng chục vạn quân của viên hàng tướng làm phản Từ Văn Chiêu. Không chống cự được hỏa lực của Gia Định, Tây Sơn vỡ trận, Từ Văn Chiêu bỏ chạy, Đô đốc Thu đem quân đầu hàng. Tại đồng Dài, Tống Viết Phúc đánh núi An Tượng. Quân Tây Sơn bị quét sạch tại Đầm Sanh, Sơn Chà, rút đến núi Hoa An, Hoa Lục. Quân Nguyễn chiếm được đồng Cây Cầy, đóng dọc sông Hà Thanh.

- Nhưng chúng ta vẫn chưa thể tiến. – Đứng sau lưng chúa Nguyễn, nghiêng người nhìn vào bức địa đồ mà vị chúa đang quan sát, Đặng Đức Siêu nói. Mắt ông ta hơi cau lại. Đến bên vị chúa, ông đưa tay chỉ vào đường cong hẹp ngay trước cửa Cù Mông. – Quân Võ Văn Dũng vẫn đóng ở Thị Nại, nếu Nguyễn Văn Thành tiến lên thêm nữa thì sẽ bị đánh ngay sau lưng. Thủy quân Tây Sơn đóng ở vị trí này cản đường hoàn toàn thủy quân ta, muốn đánh Quy Nhơn cũng khó lòng chuyển lương vào.

- Võ Văn Dũng đem hai chiếc đại hiệu thuyền chắn cửa Thị Nại. – Chúa Nguyễn khoanh tay, hơi nghiêng đầu nhìn bức địa đồ. – Chúng còn có cả mấy ngàn thuyền, hàng vạn đại bác, ít nhất vài vạn quân.  Nghe nói bọn Tề Ngôi đã tập trung ở đó, cả những viên chỉ huy chủ chốt nhất của chúng.

Đặng Đức Siêu mỉm cười khi nghe lời nói của vị chúa. “Nghe nói”, đó chỉ là cách ngài ta gọi những nguồn tin hầu như luôn chính xác mà bằng cách nào đó ngài ta có được từ Phú Xuân. Nhưng ông chỉ lặng lẽ đứng bên ngài ta nhìn tấm địa đồ. Gió biển và tiếng sóng réo ù ù bên tai họ. Mãi một lúc sau, Đặng Đức Siêu mới lên tiếng.

- Nhìn cửa biển Thị Nại này, chúa công có nghĩ đến điều gì không? Cửa biển hẹp, đội thuyền lớn, bị chắn ngay bên ngoài. Phía sau là cánh đồng mà quân ta đã chiếm được…

Chúa Nguyễn quay nhìn viên Tham mưu của mình. Trong ánh mờ chiếu vào lều trại của ngày mùa đông trên biển cả, mắt ngài ta mang một tia sáng tối tăm – nếu như đó là một miêu tả chính xác.

- Có, ta nghĩ đến những kẻ không biết gì về thuật dùng thủy binh. – Ngài ta mỉm cười, giọng nói như gió thổi ngoài bãi đá. Ngài ta chờ đợi, và Đặng Đức Siêu đã bật lên tiếng cười.

- Năm xưa Tào Tháo đưa quân đánh Đông Ngô cũng bị nhận xét một câu như thế. – Ông ta nói, lẫn trong tiếng cười khàn khàn. – Tập trung một đội thuyền lớn như vậy trong cửa sông hẹp là điều tối kỵ. Nay ta không có sông nhưng có biển, ta không dùng tên lửa mà là đại bác. Tuy vậy, nhìn địa thế này, ai lại không nghĩ đến một trận Xích Bích cơ chứ?

- Tiên sinh không phải không nghĩ tới, nhưng thời cơ chưa thích hợp đấy thôi. – Chúa Nguyễn quay lưng lại với tấm địa đồ, lắc đầu. – Khi trước Tây Sơn còn tập trung ở đồng Cây Cầy, ta đánh được vào Thị Nại cũng rất nguy hiểm. Nay thì còn đợi gì nữa?

- Hỏa công là việc dễ, chỉ cần một mồi lửa là xong. – Đặng Đức Siêu ngồi xuống bàn, chống cằm lên tay nhìn vị chúa đang tự rót cho mình một ly trà. – Nhưng để làm được một trận Xích Bích bây giờ thì ta cần ba điều kiện:

Một, gió thuận. Cửa Thị Nại mở về phía Nam, ta cần gió từ Bắc vào Nam. Đây là lúc thuận tiện nhất cho chúng ta. Gió vẫn còn thổi rất mạnh cho đến tháng ba năm sau.

Hai, phải tìm cách làm rối loạn đội hình thuyền địch, không để chúng tháo chạy. Ngày xưa Tào Tháo không biết thuật thủy chiến nên đem xích sắt buộc các thuyền của mình lại với nhau để ngăn chúng tròng trành. Nay chúng ta không có được vận may như vậy đâu.

Ba, thời cơ. Sở dĩ chúng có thể để cả hạm đội trong vịnh như thế này vì chúng tin tưởng vào sự phòng ngự chặt chẽ của mình. Ngày nay chúng ta không thể dùng thuyền lửa để xông vào một cửa biển toàn đại bác chĩa xuống được. Kế trá hàng vẫn còn qúa nguy hiểm, qúa lộ liễu. Ta cần sự bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ để những khẩu đại bác kia thậm chí không kịp khai hỏa.

- Trong điều hai và ba mà tiên sinh nói, ta cần một đội quân đột nhập. – Chúa Nguyễn đặt ly trà xuống khay, nhịp ngón tay vào mặt bàn gỗ. – Móc các chiếc thuyền lại với nhau, khai hỏa ngay trong thủy trại Tây Sơn để quân ta lợi dụng lúc rối loạn đánh vào. Tây tặc dùng Tề Ngôi là những kẻ chỉ giỏi trộm cướp trên biển chứ không nắm được ngọn nguồn thuật thủy chiến, nhưng chúng tập trung ở vịnh này vì qúa tin tưởng vào hàng vạn khẩu đại bác của mình. Tám năm trước ta đã tấn công đội thuyền của Nguyễn Nhạc ở Thị Nại này dựa vào hỏa lực của tàu đồng Tây dương, nay chúng biết điều đó nên tập trung đại bác trên núi. Hai bên bờ vịnh là vách núi đá cao, ta khó lòng từ vịnh đánh lên mà tiêu diệt được đội pháo binh của chúng. Chúng đã lập cả hai đồn binh ở Nhạn Châu và núi Tam Tòa. Như vậy, ta cần thêm đội bộ binh để từ trên núi đánh xuống. Trên bộ Tây Sơn có chừng sáu mươi voi cùng vạn quân nữa. Đường từ Bình Định đến Thị Nại vẫn mở, các đội quân khác vẫn còn có thể tiếp cứu. Ta cần chặn cả lối đi từ Tiêu Cơ sang.

Vừa nói, ngài ta vừa lại gần tấm bản đồ, đưa ngón tay chỉ theo đường viền vẽ cửa biển. Đặng Đức Siêu gục gặc đầu. Đầu quạt của ông chỉ vào hình vẽ mảnh đất phía bên phải.

- Núi Tam Tòa cao, rất khó chiếm, ta tránh thì hơn. Nhạn Châu có đồn lũy giữ, nếu đánh tập hậu thì có thể phá được. Khi có biến, chắc chắn chúng sẽ phá chạy ra, ta nên có đội tuần tiễu vòng ngoài để bắt được tàu thuyền trốn chạy.

- Trước Thị Nại, chếch bên Nhạn Châu có một nhóm đảo nhỏ. Chúng ta sẽ đóng quân ở đó để canh phòng. – Chúa Nguyễn cũng gật đầu. Đặng Đức Siêu khoanh tay, lùi ra xa quan sát tấm bản đồ thêm một lúc nữa.

- Nhưng quan trọng nhất vẫn là thời điểm. Chúa công đã nghĩ tới một thời điểm thật sự bất ngờ nào chưa? – Ông ta hỏi, thấy vị chúa mỉm cười.

- Tây Sơn chuyên đánh vào những ngày lễ tết, coi đó là dịp bất ngờ, vậy thì chúng cũng đề phòng rồi. Chúng ta không thể lợi dụng những lúc ấy được. Nhưng ta biết có một ngày lễ mà chúng cho rằng đối với chúng ta rất quan trọng.

Lễ Vạn Thọ, sinh nhật của ta. – Tiếng cười bật lên trong phòng khi vị chúa quay người hẳn lại nhìn Đặng Đức Siêu. – Lễ Vạn Thọ nhằm ngay Tết Nguyên tiêu, sau Tết Nguyên đán. Chúng chắc chắn cho rằng ta không đánh vào hôm ấy, trong khoảng ba ngày quanh hôm ấy. Và còn bọn Tề Ngôi kia nữa, chúng chắc chắn phải ăn lễ Nguyên tiêu theo tục người Tàu, sẽ tụ tập cả lại.

- Tết Nguyên tiêu là ngày vía của Phật. – Nụ cười của Đặng Đức Siêu chợt tắt. – Lễ Vạn Thọ là ngày cầu chúc quốc thái dân an cho cả quốc gia. Chúa công mở trận đại khai sát giới vào ngày này e rằng không hợp lẽ.

- Ngày tháng là do người đặt ra, ta chẳng lẽ lại theo thói mê tín của người đời hay sao? – Chúa Nguyễn xua tay. Ngài ta ngồi xuống ghế cạnh bàn của mình, lấy từ trong đống giấy một tờ sớ, vẫy nó ra để đọc. – Cả Ty Chiêm hậu cũng nói như thế này: “Tháng giêng đầu năm có lệ chọn ngày tốt xuất quân, xét từ ngày 15 trở về trước chỉ có ngày Kỷ Mùi mùng 6 là tốt nhất, nhưng hiềm có Lục hại nên chưa dám quyết”. Thật là phiền phức! Người Tây dương không kiêng cữ theo lối của ta thì họ chết cả à? Lục hại thì Tý hại Mùi, Đông cung mạng Tý thì sợ gì?

Đặng Đức Siêu không nói một lúc, rồi ông ngoảnh mặt cười khẽ.

- Chúa công, ngài cũng nên biết sợ trời đất, đó mới là lẽ của người giữ việc cai trị thiên hạ. – Ông nói, rồi tiếp tục trước khi vị chúa kịp lên tiếng. – Nhưng nếu ngài đã quyết định đánh vào tháng giêng sang năm thì bây giờ phải chuẩn bị mới kịp. Lần này theo lối dùng hỏa công mà đối phó với thuyền địch, ngài định sắp xếp thế nào?

- Tàu thuyền càng lớn thì càng dễ bị đại bác bắn vào. Quân dùng càng đông thì càng khó điều khiển. Lực lượng của ta cần phải nhanh, càng khó phát hiện càng tốt, lấy thuyền nhỏ mà dùng, lại được đám tàu chiến của Tây Sơn che đỡ cho. Đóng đinh sắt vào đầu thuyền để phá bớt chướng ngại. Ta biết có một loại hỏa khí cực kỳ dễ vận chuyển, lửa cháy rất đượm: Nhựa trám. Khi còn ở Phú Xuân, ta thường lấy nó làm hương đốt.

Ngài ta nói với một tiếng cười, rồi đứng dậy, đi đến cửa lều trại nhìn ra bãi biển. Đội thuyền của ngài ta vẫn ở đó, những cột buồm cao được cuốn lên đâm vào bầu trời xanh ngắt.

- Lúc này thì ta cần biết chi tiết chính xác về bọn chúng. – Vị chúa nói như đang tự nhủ với chính mình. – Lúc này chúng ta cứ giữ yên đã. Sau khi đồng Cây Cầy bị chiếm, chúng sẽ tập trung dồn về Thị Nại. Chúng sẽ tập trung tất cả về Thị Nại. Ta cũng cần phải cho chúng thời gian. Phải cho chúng thời gian để tập trung về đó đã.

Đặng Đức Siêu nhìn theo chúa Nguyễn, rồi nheo mắt nhìn nắng trời bên kia ô cửa. Ông lại khoanh tay ngồi xuống ghế, mắt lờ đờ như đang nghĩ chuyện xa xôi nào.

Tháng chạp cho đến ngày Tết năm Tân Dậu ấy có những biến chuyển là lạ trong quân đội Gia Định. Ở ven sông Hà Thanh, Nguyễn Văn Thành nhận được thư liên lạc của chúa Nguyễn chỉ vẻn vẹn một câu duy nhất “Đó là chữ Hỏa ở trong bàn tay ta” và lệnh sắp đặt quân làm ra vẻ cướp trại ban đêm. Viên Chưởng Tiền quân liền ngay lập tức đi tới doanh trại của Nguyễn Đức Xuyên, gặp lúc Quản đội tiểu sai của chúa Nguyễn cũng đang đem nhân sâm tới cho viên Chưởng Tượng quân đang bị bệnh. Nguyễn Đức Xuyên đọc đi đọc lại lá thư của vị chúa, rồi ngước mắt nhìn Nguyễn Văn Thành. Vị Chưởng Tiền quân nhún vai trả lời cho ánh mắt thắc mắc của Đức Xuyên.

- Trong truyện Tam quốc, Chu Du và Khổng Minh bàn kế đánh Tào, viết kế của mình ra lòng bàn tay. Cả hai cùng viết chữ Hỏa.

- Chu Du? – Nguyễn Đức Xuyên cau mày rồi chớp mắt như đã kịp nhận ra. – Xích Bích hỏa công?

Nguyễn Văn Thành gật đầu, nhìn lại viên tiểu sai tên gọi Nguyễn Cửu Kỷ đang đứng cạnh họ, cười nhẹ.

- Việc này chúa công hẳn đã bàn luận trong quân rồi, ngài đã định ai đảm nhiệm chưa?

Viên tiểu sai vốn quen thuộc với Nguyễn Văn Thành, cũng cười mà trả lời.

- Thưa tướng quân, thuộc hạ nghe rằng tướng quân Tống Viết Phúc tình nguyện xin đi. Chúa công đã chuẩn y.

- Tống Viết Phúc? – Nguyễn Đức Xuyên chống tay ngồi thẳng người lên. Anh ta ngẫm nghĩ một lát rồi lắc đầu. – Theo ý ta, Tống Viết Phúc có dũng nhưng nóng tính vội tiến, ứng phó kém. Đây là việc quan trọng, lại nguy hiểm, cần người có dũng nhưng cũng phải có mưu, biết tiến thoái mới được.

- Chánh thống Tả đồn quân Thần sách Lê Văn Duyệt thích hợp nhất. - Ở bên cạnh, Nguyễn Văn Thành chợt nói. – Anh ta chẳng bảo rằng có giặc mạnh trước mặt cũng coi như không đó sao?

Nguyễn Đức Xuyên liếc nhìn Nguyễn Văn Thành nhưng im lặng. Sau trận Tuần Dã, giữa Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành đã nảy sinh ác cảm. Tất cả chỉ vì trong tiệc rượu mừng công của họ, Nguyễn Văn Thành đã rót rượu cho Lê Văn Duyệt mà nói “Uống rượu để thêm sức mạnh”. Lê Văn Duyệt trả lời “Ai tính hay sợ mới phải uống rượu để thêm sức mạnh, còn tôi trước mặt coi không trận dữ, cần gì phải uống rượu?” Câu nói của viên Chánh thống này như châm chọc thẳng vào vị Tiết chế bát bộ quân Nguyễn Văn Thành. Từ lâu ai cũng biết rõ thói thận trọng của Nguyễn Văn Thành, thậm chí quân Tây Sơn còn có câu “Bộ quân Tiên phong chậm”. Mấy năm trước, bàn việc quân với chúa Nguyễn, Lê Văn Duyệt từng bảo: “Tống Viết Phúc có dũng nhưng ít mưu, Nguyễn Văn Thành có mưu nhưng ít dũng”. Câu nói đã truyền tụng trong triều ngoài ngõ, giờ đây được nói thẳng trong quân, giữa lễ mừng công, trong trận thắng mà Nguyễn Văn Thành đã phải vất vả cả nửa năm trời cũng không làm được, đã làm viên Chưởng Tiền quân giận tái cả mặt.

Nhưng viên Chưởng Tượng quân vẫn giữ im lặng cho đến khi người tiểu sai được cho ra ngoài nghỉ ngơi. Đến lúc nằm xuống giường, Nguyễn Đức Xuyên mới quay đầu nhìn Nguyễn Văn Thành mà cười.

- Anh đề nghị Lê Văn Duyệt đi trận này để anh ta chứng minh lòng can đảm hay để anh ta thành một Hoàng Cái, đem thân mình lãnh hỏa thuyền đi trước trận?

Nguyễn Văn Thành nhìn Nguyễn Đức Xuyên, hơi nhướng mày.

- Lúc anh nhận xét như thế về Tống Viết Phúc thì chẳng lẽ lại chưa nghĩ đến ai thay thế hay sao? Nếu chỉ cần một Hoàng Cái lao đầu vào thuyền địch thì ai đi chẳng được, anh đề nghị thay làm gì?

- Phải, - Nguyễn Đức Xuyên nhè nhẹ gật đầu. – Trong trận lần này hẳn có mặt Nguyễn Văn Trương. Nguyễn Văn Trương tính tình qúa nhân từ, chúa công thì hay mềm lòng. Tống Viết Phúc tuy bề ngoài nóng nảy bạo dạn nhưng thực ra sợ chúa công một phép. Những người như thế tập trung với nhau khó lòng mà đánh lớn được.

Cũng như anh và Lê Văn Duyệt. – Viên Chưởng Tượng quân cười khẽ. – Nếu chỉ có một mình anh đánh trận Tuần Dã, anh có dám xông thẳng vào chục vạn quân ấy mà nã đạn không? Lê Văn Duyệt không biết sợ. Ngay cả với chúa công, anh ta cũng chỉ thân chứ không sợ.

- Hắn chẳng biết sợ ai. – Nguyễn Văn Thành khoanh tay trước ngực, nét mặt thoáng cau có. Nhưng rồi anh ta thở ra. – Phải, đúng là những trận đánh lớn thì phải dùng những kẻ như hắn ta mới được. Chúa công cần người có thể chặn bớt tính hay do dự của ngài ấy.

- Vậy để tôi nói với Cửu Kỷ. – Nguyễn Đức Xuyên vẫn cười, nhắm mắt lại. – Nói với chúa công rằng đó là ý của tôi.

Còn anh thì lo sắp xếp người thay Lê Văn Duyệt đi. Đã chuyển tất cả Ngự lâm quân cùng Lê Chất về La Hai, mọi việc phải tiến hành bí mật mới được.

Nguyễn Văn Thành gật đầu. Đang tựa vào chiếc bàn trong lều trại, tay anh ta chạm phải cuốn sách trên bàn. Sách vẫn mở, và kín trang giấy là nét chữ của Nguyễn Đức Xuyên. Không thể ngăn được tò mò, Nguyễn Văn Thành nghiêng đầu đọc qua mấy dòng chữ. Nghe tiếng động, Nguyễn Đức Xuyên mở mắt nhìn, nhưng cũng chẳng cản Nguyễn Văn Thành hay lấy cuốn sách lại, chỉ cười.

- Đó là cuốn ghi lịch trình tiến quân của tôi. – Nguyễn Đức Xuyên chống một tay nghiêng người nhổm dậy mà nói. Nguyễn Văn Thành rời mắt khỏi cuốn sách, nhướng mày. Nguyễn Đức Xuyên phác tay kia lên không làm một cử chỉ uể oải. – Tự dưng tôi muốn ghi lại những gì đã làm trong ngày, chúng ta đã làm gì, như thế nào. Hai mươi năm rồi, bây giờ có nhiều chuyện mà tôi không thể nhớ được nữa, nên tôi định ghi tất cả lại. Có những chuyện mà mình nghĩ rằng không thể quên được nhưng rồi cũng mờ nhạt theo thời gian. Ghi lại, để sau này còn có thể nhớ.

- Con người thì hữu hạn, những dòng chữ này thì lại sống lâu hơn chúng ta. – Nguyễn Văn Thành cười nhẹ. Anh ta gấp cuốn sách, cất cẩn thận vào chiếc hộp trên bàn. Một áng mây thoáng qua mắt người Chưởng Tiền quân. – Phải, sinh mạng có khi không bằng một tờ giấy.

- Anh lại xúc động rồi. – Nguyễn Đức Xuyên nheo mắt, giọng như trêu chọc. – Vì thế mà những kẻ giản đơn như Lê Văn Duyệt cho rằng anh nhát sợ đấy. Anh cũng dễ xúc động qúa, Tiền Đại tướng quân.

- Đại tướng quân… - Nguyễn Văn Thành mỉm cười khi nghe lời nói. – Trong những trận đánh lớn, không thể dùng những người qúa dễ xúc động. Tôi biết mình không thể tranh giành thứ vinh quang ấy. Những gì chúng ta làm trong hơn hai mươi năm cũng không thể qua những kẻ trong vài năm này. Những kẻ kết thúc được trận chiến này không phải chúng ta.

Anh lại cay đắng rồi. Nguyễn Đức Xuyên có lẽ muốn nói. Nhưng anh ta chỉ im lặng, nghe những tiếng động ồn ào bên ngoài doanh trại. Dù ở giữa trận tiền, họ cũng đang chuẩn bị cho ngày Tết Nguyên đán. Vẫn chưa ai hay biết, không ai hay biết kế hoạch tuyệt mật mà chúa Nguyễn đang tiến hành, trong những kẻ bên ngoài.

Cả Gia Định cũng không hay biết kế hoạch của vị chúa trong những ngày Tết năm đó. Ngoại trừ lệnh đóng thêm thuyền nhẹ và chuyển một số đinh sắt cho quân, Phúc Cảnh cũng chỉ thoáng thắc mắc về lệnh cho tổ chức lễ xuất quân sớm ngay sau tết Nguyên đán, nhất quyết phải trước lễ Vạn Thọ. Nhưng sự bận rộn cũng làm cậu Đông cung quên đi. Những ngày này, gián điệp Tây Sơn trong Gia Định dường như đã ồ ạt kéo vào cùng với đám người chạy xuống từ Phú Yên, Quảng Ngãi. Lâu lâu lại có một tin đồn bất lợi được loan ra, càng gây xáo trộn hơn trong tình trạng rối rắm này. Chủ yếu là tin về thành Bình Định – khi Nguyễn quân đã chiếm được sông Hà Thanh. Những ngày Tết năm Tân Dậu đến trong vẻ u ám của thời chiến, trong sự giản đơn và thậm chí khắc khổ khi tất cả lương tiền đã tập trung ra ngoài mặt trận. Chỉ có hội quán của người Tàu vẫn mở cửa tổ chức lễ hội, treo đèn kết hoa và đốt pháo. Những đoàn sứ giả của Chân Lạp, Xiêm La vẫn đến như lệ thường, giờ đây có thêm cả Vạn Tượng. Đoàn sứ giả Vạn Tượng đem theo một món qùa đặc biệt cùng với những chiêng đồng và sừng tê trắng: Địa đồ Nghệ An và Phú Xuân. Sứ giả Vạn Tượng được đưa tới hòn Nần gặp chúa Nguyễn để ước hẹn ngày đánh Tây Sơn. Đoàn thuyền đưa ông ta đi chất thêm vài trăm bình nhựa trám.

Những viên quan Tây dương cũng tập trung về hòn Nần, ngoại trừ Laurent Barizy bị giam giữ vì bị tố cáo giết một người Bồ Đào Nha. Nhân ngày lễ tết, vị chúa đã thực hiện việc tập trung quân tướng của mình một cách êm thắm, chuyển hỏa khí và vật dụng trong những chuyến phân phát qùa thưởng tết. Nguyễn Văn Thành thỉnh thoảng lại cho quân quấy nhiễu đồn Tây Sơn như thể vẫn muốn tiến lên vượt sông Hà Thanh. Ngày Tết cho họ một cái cớ để nghỉ quân, án binh bất động. Lê Văn Duyệt được bí mật gọi về hòn Nần, không đem theo cả thuộc hạ Thần sách quân của mình. Đón viên Chánh thống này là đội Cảm tử quân chừng bốn ngàn người đã được tuyển chọn. Trong lặng lẽ, họ âm thầm chuẩn bị một trăm hỏa thuyền nhỏ đầu đóng đinh sắt, chất đầy gỗ rưới dầu trám. Những chiếc Loan Phi, Phụng Phi, Bằng Phi cũng được đưa về đậu bên bãi đá, thực hiện tuần phòng ngoài cửa Thị Nại.

Tết Nguyên đán trôi qua rồi đến tết Nguyên tiêu. Ngày rằm, hòn Nần rực sáng ánh lửa khi hàng ngàn quân Cảm tử được tập trung nghe lệnh. “Đây là lúc các người báo đền ơn nước, sống thì phú qúy đồng hưởng, chết thì ân điển chẳng quên”, lời dụ của vị chúa vang vang trong gió biển. Trong lặng lẽ, đoàn thuyền nối đuôi nhau di chuyển về phía hòn Đất ngoài cửa Thị Nại. Khi ấy trăng chỉ vừa mới ló qua khỏi đám mây cuối trời. Nguyễn Văn Trương và Tống Phúc Lương đưa thuyền nhẹ đi trước đến Tiêu Cơ. Trên bộ, Tiền chi Hoàng Văn Khánh đã đưa quân đến vũng Dừa chờ đợi giáp công. Bắt được thuyền tuần tra của Tây Sơn, truy ra mật khẩu, đội thuyền của Nguyễn Văn Trương liền nhân bóng tối đến thủy trại Tây Sơn ở Hổ Cơ dưới núi Tam Tòa. Qua cửa Thị Nại, những chiếc móc sắt được lôi ra dưới khoang thuyền, móc những chiếc thuyền đang đậu san sát trên biển vào nhau. Nấp dưới bóng những chiếc tàu lớn của Tây Sơn, các con thuyền nhỏ lướt đi ngang dọc thủy trại, phân tán khắp nơi. Những tiếng lạch cạch khe khẽ bị nhòa tan trong gió và sóng biển. Trong thủy trại, trên các đồn trú dọc vách đá, quân Tây Sơn sau những ngày tết yên ả và tin chắc vào sự đình chiến trong lễ Vạn Thọ của quân Gia Định đã say ngủ khi trăng lên cao.

Khi trăng lên cao, khoảng canh ba đêm ấy, cùng với tiếng hô khẽ “Bắt đầu!” không biết do ai phát ra trong thủy trại im lìm dưới bóng trăng, hàng loạt ngọn đuốc được đốt lên, làm mồi cho những hỏa khí chất đầy các con thuyền. Đồng loạt, những hỏa khí là các thanh gỗ tẩm nhựa trám được ném vào thuyền Tây Sơn, từ khắp mọi hướng trong thủy trại. Từ khắp mọi hướng trong thủy trại, lửa đồng loạt bốc cao, bùng lên với gió và phát nổ đinh tai khi một kho súng đạn nào đó trên thuyền bắt lửa. Không để quân Tây Sơn kịp tỉnh khỏi cơn bàng hoàng, đoàn thuyền của Nguyễn Văn Trương ở Hổ Cơ nổ súng, bắn thẳng vào đồn canh trước cửa biển. Khu đồn lập tức hóa thành bó đuốc cháy rực.

Xuất hiện từ trong bóng tối của đêm và biển, đoàn thuyền Gia Định sắp hàng theo gió xông thẳng vào cửa Thị Nại sáng rực ánh lửa và vẫn không ngừng phát nổ đinh tai. Từ đồn canh vẫn còn sống sót, một viên đạn bay ra lấy đầu viên tướng Võ Di Nguy dẫn đầu đoàn thuyền. Không quay lại, Lê Văn Duyệt thúc quân tiến tới. Một trăm chiếc thuyền nhỏ đầu đóng đinh sắt len vào giữa thuyền chiến Tây Sơn, ném hỏa khí khắp nơi. Hai chiếc đại hiệu thuyền to lừng lững của Tây Sơn trở thành mục tiêu dễ dàng cho các bó đuốc, bắt đầu phát cháy.

Ở mặt sau đồn Nhạn Châu, núi Tam Tòa, đoàn bộ binh ẩn dưới cát đá của Gia Định nghe tiếng súng cũng đồng loạt tấn công. Những phát đạn đại bác nhắm thẳng vào đồn Tây Sơn mà bắn. Theo gió, lửa lan đi với một tốc độ không ai tưởng được. Chỉ trong phút chốc, một nửa thủy trại Thị Nại đã ngập trong lửa.

Nhưng quân Tây Sơn sau lúc hoảng hốt ban đầu cũng đã phản công, dù rối loạn. Những cỗ đại bác trên núi bắn vãi xuống như mưa. Đạn từ những tàu thuyền còn chưa bắt hỏa cũng bắn ra đan dệt vào nhau. Trên các boong tàu, quân Nguyễn và Tây Sơn đã bắt đầu giáp chiến bằng câu liêm và đao kiếm. Theo đà tiến của đoàn thuyền Gia Định, lửa lan đi từ thuyền này sang thuyền nọ, bắt cháy đến cả giàn súng trên các vách đá. Các kho súng bắt đầu phát nổ bởi lửa cháy từ mọi hướng. Ngọn lửa bốc cao đến gần như gần chạm vào đỉnh núi.

Trên hòn Đất, các sĩ quan Tây dương sau khi đậu tàu thuyền trở về bên vị chúa nhìn đám cháy mà nôn nao. Chúa Nguyễn đã không cho họ tham chiến. Giờ đây ngài ta cũng chỉ khoanh tay nhìn đám lửa cháy rực trời, tiếng nổ của hàng vạn, hàng triệu viên đạn được bắn ra từ mọi hướng, phát nổ từ mọi kho súng vang xa hàng dặm, muôn dặm này. Đoàn thuyền của Nguyễn Văn Trương vẫn bao vây cửa biển, bắt giữ bất cứ tàu thuyền nào tháo chạy. Hai chiếc đại hiệu thuyền của Tây Sơn trở thành hai bó đuốc khổng lồ, bắt đầu phát ra tiếng răng rắc và tiếng nổ đinh tai. Trong khoang, đạn từ một khẩu đại bác gắn vào thuyền bắt lửa, bắn ngang qua thủy trại, hất tung tất cả những gì cản đường nó, đâm thẳng vào đồn canh trên vách đá. Trong một cái chớp mắt, lửa đã nuốt chửng cả vách núi.

- Lùi lại! – Vị chúa chợt nói. Ngài ta gọi người tiểu sai đến, vội vàng ra lệnh. – Cho thuyền đến bảo Lê Văn Duyệt cho quân lùi lại!

Người tiểu sai vâng mệnh chạy đi trong tiếng răng rắc vẫn phát ra từ hai chiếc đại hiệu thuyền. Viên sĩ quan De Forcan len lén chạy theo, đem thuyền nhập vào đoàn quân đang đánh nhau ở cửa biển. Khi quay lại, gương mặt bị nhuộm đen vì khói lửa, viên tiểu sai lắc đầu.

- Chúa công, Lê Chánh thống nói rằng có chết cũng phải đánh, không chịu lùi.

Người tiểu sai chưa nói dứt câu, sau lưng anh ta đã vang lên tiếng gãy như cả một vách núi đổ ập xuống. Trong một tiếng vang trời, ánh sáng chói lòa mắt, giữa thân chiếc đại hiệu thuyền cháy sáng, nổ tung. Tất cả những thuyền, những người xung quanh bị hất bay lên không, những hình bóng cháy đen quằn quại trước khi tiêu tan trong lửa. Vị chúa đẩy viên tiểu sai sang bên, gương mặt giận dữ cực độ, ngài ta tiến lên mấy bước như muốn đi ra bến thuyền. Ở bên cạnh, Đặng Đức Siêu vội vàng đưa tay giữ ngài ta.

- Chúa công, ngài bảo Lê Văn Duyệt phải tiêu diệt hết thuyền địch, anh ta đang làm đúng chức phận của mình, sao ngài lại cản? – Đặng Đức Siêu nói mà không cần hạ giọng. Không thể hạ giọng khi tiếng nổ vẫn vọng vang, tiếng súng, tiếng thét gào vẫn liên tục đập vào vách đá mà dội đến, ông ta nói như hét lên. Trong ánh lửa từ chiếc thuyền vừa phát nổ đang rừng rực cháy, hất tung đám khói bụi, gỗ đá và đạn lên bầu trời, ra xung quanh, con ngươi mắt ông ta cũng như đang cháy sáng. Ông ta nói như hét lên. – Ngài không làm gì được nữa đâu, chúa công!

Cánh tay vị chúa cứng như đá trong tay Đặng Đức Siêu. Cuối cùng ngài ta gật đầu, dứt tay ra khỏi cái nắm của ông. Đằng sau, những viên sĩ quan Pháp đang khe khẽ nói chuyện với nhau. Giọng họ bày tỏ nỗi phấn khích cực độ. Những binh lính xung quanh vẫn nhìn như bị thôi miên vào ánh lửa. Những hình bóng nhảy múa và tan nát trong lửa. Gió cuối đêm đầu ngày thổi mạnh khi triều đang rút xuống, đánh lửa vào sâu trong bờ vịnh. Trăng đang mờ đi khi sắc xanh thẫm của trời nhạt bớt. Nhưng họ không nghe thấy một tiếng chim, không nhìn thấy một cái vẫy đuôi của cá, cả những con còng nấp dưới cát cũng không ló mặt. Tất cả những gì họ nghe là tiếng đạn bắn, tiếng gào thét, tiếng gãy vỡ, tiếng nổ, tiếng lửa cháy, tiếng binh khí. Từ sâu trong đất liền, tiếng đại bác cũng đã vọng đến. Tiếng voi gầm rú, tiếng ngựa hí. Và tiếng sóng. Tiếng sóng đều đặn đập vào vách đá, nhịp điệu không thay đổi, không biến động. Tiếng sóng đều đặn âm vang trong tai họ, dưới thanh âm quay cuồng của chiến trận.

- Không ai nói đâu, phải không? – Đặng Đức Siêu thì thầm. Nhưng lạ thay, người bên cạnh lại nghe rõ tiếng thì thầm ấy. – Không sử sách nào ghi đâu, phải không, cảnh tượng này? Không ai biết đâu, cho đến khi giáp mặt với nó.

Một tràng nổ dài kết thúc lời nói của ông ta. Từ vị trí này, họ cũng có thể thấy một đường viền dài của lửa lan đi trên vách núi. Dường như một ổ súng nào đã bắt lửa, và nổ tung cả một giàn súng trong đồn. Họ thấy đá rơi xuống cùng với thây người, những mảnh vỡ bị hất tung xuống mặt biển.

Tiếng ồn ào này vang đến tận Quy Nhơn. Trên thành Bình Định, người gác tháp canh đã thấy ánh lửa chói sáng từ cửa biển hắt qua rừng núi, thấu đến tận trời. Binh lính cùng trở dậy, xôn xao. Đèn đuốc thắp sáng cả trong đồn lũy Tây Sơn ngoài thành, con đường dẫn ra khỏi Quy Nhơn khi một toán quân có lẽ được phái đi để tiếp viện. Trên vọng gác, họ thấy ánh lửa cháy sáng trên các đoạn đèo chập chùng.

- Xem chúng tán loạn kìa. – Ngô Tùng Châu khe khẽ nói. Võ Tánh gật đầu. Sự rối loạn của Tây Sơn cho thấy một cuộc tấn công của Nguyễn quân, dù họ đã không hề được báo trong cả tin chúc năm mới của vị chúa chuyển vào thành. Một cuộc tấn công được giữ tuyệt mật ngay cả với chàng. Và chàng nhận ra hướng của Thị Nại. Quân Nguyễn đang đánh cửa biển Thị Nại.

- Đúng vào hôm nay. - Võ Văn Lượng đã chạy lên đài đến bên họ từ lúc nào. Trong tay ông ta là một bình rượu lớn. Đêm nay họ đã uống một ít để mừng lễ Vạn Thọ và Nguyên tiêu.

– Chúng không thể ngờ chúng ta đánh vào hôm nay. – Ngô Tùng Châu cười khẽ khi nhìn thấy bình rượu trong tay Võ Văn Lượng. – Ta cũng phải uống mừng thêm một ly chứ?

Võ Văn Lượng gật đầu, đưa bình rượu lên tu trước. Ông ta đưa cho Ngô Tùng Châu, anh ta uống một hớp rồi chuyền sang cho chàng. Chàng lại tiếp tục đưa cho người lính bên cạnh để anh ta chuyền ra xung quanh.

- Chúc mừng sinh nhật chúa công. – Ngô Tùng Châu cười nói khi quay nhìn ánh lửa hắt vào bầu trời. Tiếng nổ vẫn không ngừng vọng đến trong đêm vắng lặng, trong tiếng gió ầm ù. Thành Bình Định đỏ rực ánh lửa dưới chân họ khi mọi người đều xôn xao. Không ngăn được sự phấn khích, Võ Văn Lượng chống tay hét vọng xuống.

- Ta đánh Thị Nại! Lấy đầu Tây tặc mừng sinh nhật chúa công!

Tiếng hô vang vọng trong thành trả lời cho Võ Văn Lượng. Không quay lại, chàng vẫn nhìn đăm đắm vào ánh lửa. Lửa, lửa sáng cả một góc trời, làm mờ đi cả ánh trăng. Tiếng hoan hô trong thành chuyển sang tiếng kêu gọi truyền đi râm ran khi những xáo động của quân Tây Sơn ngoài thành có thể nhìn thấy rõ. Nguyễn Văn Hiếu chạy lên bên chàng, nói nhanh sau một lúc quan sát:

- Nếu đánh ra lúc này, chúng ta có thể thắng được.

Võ Tánh vẫn im lặng. Quả thật, đây có thể coi là một cơ hội cho họ thử cách chiếm một góc luỹ. Quân Tây Sơn rối loạn rõ rệt, và chúng đang đổ về phía Thị Nại tiếp ứng. Nếu tấn công bất ngờ, họ có thể thắng. Nhất là góc luỹ phía Đông, nơi mà quân lính đang đổ dồn về mạn Nam, ánh lửa ít hơn hẳn những khu vực khác.

- Anh chuẩn bị quân đi, chúng ta quan sát một lúc nữa xem thế nào. – Chàng nói. Nguyễn Văn Hiếu gật đầu, vội vã đi xuống. Chàng nghe tiếng gọi tập trung quân trong thành, đệm bằng tiếng nói phấn khích của vài người lính vẫn còn hơi rượu. Rượu và tin đánh trận khiến họ cảm thấy như thể mình có thể thoát ra khỏi thành này ngay bây giờ. Khiến cuộc đánh ra khỏi thành bây giờ có vẻ phấn khích đến không thể tưởng được.

Rất nhanh, quân lính đã nai nịt gọn gàng, vũ khí sẵn sàng xung trận. Võ Tánh nhìn lần nữa đến đoàn quân nhao nhác bên ngoài. Đây là một cơ may, chàng thầm nhủ. Một cơ may khó có. Và cũng để trợ lực cho đoàn quân Nguyễn tại Thị Nại. Khi quân Tây Sơn ở Bình Định không thể đến tiếp viện, đoàn quân ở Thị Nại sẽ không còn đáng ngại. Chúa công đã đánh Thị Nại, thì công việc của chàng là hỗ trợ cho ngài ta. Ở bất cứ đâu.

Mở cửa thành phía Đông. Chàng hét hiệu lệnh với Nguyễn Văn Hiếu. Ông ta nhìn chàng. Trong cái nhìn của người bạn thâm niên, chàng bỗng thấy một sự thông hiểu sâu xa thoáng qua giữa họ. Chàng thậm chí không cần phải dặn Nguyễn Văn Hiếu phải làm gì, như thế nào.

Kéo dài cuộc tiến công. Để tiếp sức cho Thị Nại.

Bình minh đến, khi bầu trời nhạt dần rồi sáng lên, xóa tan dần ánh lửa, chỉ còn tiếng nổ vẫn vang. Ở Thị Nại, lửa vẫn đang cháy rừng rực trong ánh ngày đang lên. Quân Tây Sơn vẫn cố bám trụ trong đồn lũy trên núi Tam Tòa, hướng súng bắn xuống. Tuy nhiên, khi triều xuống, gió lại hất ngược thổi lửa lên vách núi. Hỏa lực Tây Sơn ngày càng yếu dần. Ngoài khơi, vài trận đánh lẻ tẻ cũng xảy ra khi các thuyền Tây Sơn tháo chạy được khỏi đám cháy đụng độ đội tuần tra của quân Nguyễn. Sự mất tích của viên sĩ quan De Forcan vẫn chưa được phát hiện. Vị chúa vẫn đứng trên bờ biển khi viên tiểu sai đưa rượu đi phân phát cho những quan tướng để giữ ấm. Ngài ta lắc đầu từ chối ly rượu được dâng lên. Đặng Đức Siêu uống hết ly rượu, khà một tiếng dài rồi yêu cầu thêm ly khác. Trước ánh mắt của chúa Nguyễn, ông ta nhún vai.

- Ta đã thắng rồi, chúa công. Trong hoàn cảnh này ngài cũng không thể tự thưởng cho mình một ly hay sao?

- Cảnh này làm ta nhớ tới một chuyện. – Vị chúa đáp lời Đặng Đức Siêu bằng nụ cười nhạt thếch. – Trước trận Xích Bích, Tào Tháo có làm một bài thơ.

“Đối tửu đương ca
Nhân sinh kỷ hà?
Thí như triêu lộ
Khứ nhật khổ đa
Khái đương dĩ khảng
Ưu tư nan vong
Hà dĩ giải ưu?
Duy hữu đỗ khang”

Đặng Đức Siêu mỉm cười khi nghe chúa Nguyễn chậm rãi đọc trong tiếng ồn ào của trận chiến, trong tiếng sóng của buổi bình minh. Ông ta nghiêng đầu đọc tiếp theo.

“Thanh thanh tử khâm
Du du ngã tâm
Đãn vị quân cố
Trầm ngâm chí câm
Ao ao lộc minh
Thực dã chi bình
Ngã hữu gia tân
Cổ cầm suy sinh
Minh minh như nguyệt
Hà thời khả xuyết?
Ưu tùng trung lai
Bất khả đoạn tuyệt.”

- Ta đã thực tình không biết. – Chúa Nguyễn nheo mắt nhìn ra biển. Biển nhấp nhô những con sóng. Biển kết thúc phía chân trời. – Ta đã thực tình không biết cảm giác của ông ta.

Lửa cháy đền gần trưa mới tắt. Từ hòn Đất, vị chúa cùng tùy tùng lên thuyền đi về Thị Nại. Mặt vịnh trải dài những than tro và xác tàu, xác người. Sóng vẫn đang đánh tất cả những mảnh vỡ này vào bờ cát. Một viên đạn từ trên núi bắn xuống xuyên qua đầu thuyền của chúa Nguyễn, cách nơi ngài ta đang đứng chỉ vài bước chân. Vị chúa nheo mắt nhìn lên khi các tùy tùng giương súng nhắm lên núi mà bắn. Tuy vậy, đón họ trên bờ biển Thị Nại chỉ là đoàn quân Gia Định do Lê Văn Duyệt mặt mũi đen nhẻm vì khói đứng đầu. Bộ quân đã đến lãnh nhiệm việc trông coi tù nhân và kiểm kê đồn lũy. Họ không đuổi theo đám quân của Võ Văn Dũng đã tháo chạy về phía Bình Định. Quân từ Bình Định đã tới tiếp cứu cho Võ Văn Dũng.

Trên bờ biển chỉ tràn ngập xác tàu và xác người mà sóng vẫn không ngớt đánh xô vào. Nắng ngày đầu xuân đổ xuống họ. Những quân lính còn lại sau trận chiến vẫn không ngừng đáp thuyền trở lại vào bờ hoặc ra khơi tìm gom xác bạn bè. Dưới chân vách đá, một hàng dài xác chết đã được đưa lên bờ, lấy chiếu hoặc vải đắp tạm lên. Nhận ra ánh mắt của vị chúa, Nguyễn Văn Trương thận trọng cất lời.

- Chúng ta mất tướng quân Võ Di Nguy và Cai cơ Hoàng Văn Định, Phó Vệ úy Thần sách Nguyễn Vĩnh Hựu. Quân thiệt mạng chưa biết là bao nhiêu.

- Quân Tây Sơn thì sao? - Vị chúa chầm chậm gật đầu, nhưng mắt ngài ta không rời khỏi đám quân lính đang khuân một thi thể vừa đưa từ ngoài khơi vào. Nguyễn Văn Trương hơi ngẩng lên, giọng nói mang vẻ cực kỳ nghiêm túc.

- Chúng ta bắt được toàn bộ thủ lãnh thủy quân của chúng, thưa chúa công. – Câu nói của Nguyễn Văn Trương khiến chúa Nguyễn phải quay hẳn đầu nhìn lại. – Tàu chỉ huy của chúng định thoát ra thì bị bắt. Mạc Quan Phù, Phan Văn Tài, Lương Văn Canh đã nằm trong tay chúng ta.

- Tốt lắm. – Chúa Nguyễn nói khi tiếng ồ vang lên quanh họ. – Tốt lắm! Vậy thì đội thủy quân của Tây Sơn đã ra tro.

Cái tin làm vẻ mệt mỏi qua một đêm thức trắng của nhiều người biến mất. Ba thủ lãnh Tề Ngôi của Tây Sơn đã lọt lưới. Thủy quân Tây Sơn, với hàng ngàn chiếc thuyền và cả đội ngũ Tề Ngôi cốt lõi của nó đã ra tro chỉ sau một đêm. Vị chúa vội vàng sai người báo tin cho các nơi, giữ yên dân chúng quanh vùng. Khi nhìn lại, Lê Văn Duyệt vẫn đứng cạnh ngài ta. Viên Chánh thống Thần sách quân cúi đầu, thậm chí chưa buồn lau đi khuôn mặt đen khói.

- Xin chúa công trị tội. – Lê Văn Duyệt nói, giọng cứng như gỗ. – Xin chúa công trị tội đã kháng quân lệnh.

Chúa Nguyễn nhìn viên tùy tướng thân cận một lúc, rồi lắc đầu.

- Không, đó là lỗi của ta. Ban đầu ta đã bảo khanh cố mà quyết thắng. Khanh chỉ làm đúng như thế mà thôi.

- Cám ơn chúa công. – Lê Văn Duyệt đứng yên, rồi lầm thầm nói. Anh ta rời khỏi vị chúa, đến bên đám xác người được đưa vào càng nhiều hơn, đã chiếm hẳn một khoảng đất dưới vách đá.

Viên Chánh thống qùy xuống bãi cát, dập đầu trước hàng xác chết. Từ anh ta, không thể lầm lẫn, tiếng khóc ngàn ngạt vang lên, ngày càng lớn như thể một tiếng gào, như tiếng gió đập mãi vào vách đá mà khói vẫn còn đang cuộn lên không ngớt. Dưới bãi đá, những mảnh tro đen cuộn trong sóng sủi bọt đục ngầu.

Tại thành Bình Định, những cổng thành nặng nề đóng sập lại vang rền báo hiệu cho trận chiến bên ngoài kết thúc. Quân Nguyễn trong thành đã mở cửa Đông đánh ra, trận chiến kéo dài từ nửa đêm về sáng đến qua sáng hôm sau. Khi ngày dần rạng, quân Tây Sơn ở Thị Nại cùng các vùng lân cận kéo về đồng loạt giáp chiến, đẩy quân Nguyễn lui khỏi luỹ. Dẫn đầu đoàn quân, Nguyễn Văn Hiếu vẫn cố chống trả cho đến khi một viên đạn bắn từ luỹ Tây Sơn ghim thẳng vào người ông, hất ông ngã lăn xuống đất. Trên thành, nhìn thấy cảnh tượng ấy, Võ Tánh vội vã phái thêm một toán nữa đến hỗ trợ cho quân Nguyễn Văn Hiếu, đồng thời nổi hiệu lệnh thu binh.

Tuy nhiên, trong toán quân quay lại thành không có Nguyễn Văn Hiếu.

- Chúng cướp được ông ấy. – Viên Vệ uý đã ở bên cạnh Nguyễn Văn Hiếu nói gần như nức nở. Tay anh ta bị một vết thương dài đầm đìa máu, nhưng anh ta hầu như không để ý đến. – Ông ấy ngã xuống rồi không gượng dậy được, không biết đạn đã bắn ông ấy ở đâu. Lúc tôi vừa định đến đỡ ông ấy thì chúng đã tràn đến… Tôi thật có lỗi…

- Không phải lỗi của anh. – Võ Tánh vội nói. Chàng nghe giọng mình vang trong tai như giọng của một người khác. Võ Văn Lượng trân trối nhìn cánh cửa vừa đóng như thể muốn xuyên thấu qua nó, như thể muốn xông qua nó để đến luỹ Tây Sơn. Trận chiến quá hỗn loạn, và ông đã không nhận thấy người bạn đã bị bắt. Giờ đây, trông ông ta như thể chỉ muốn xông ra ngoài lần nữa.

Nhưng họ biết rằng không thể. Quân Tây Sơn từ Thị Nại đã kéo về, củng cố thêm phòng tuyến Quy Nhơn - Bình Định. Thậm chí họ còn không biết Nguyễn Văn Hiếu đã bị đưa đi đâu, còn sống hay đã chết.

- Ông ấy chắc không sao đâu. – Võ Tánh nói với Võ Văn Lượng khi họ chỉ còn lại hai người trong tướng doanh. - Chúng chắc không liều mạng tranh cướp một cái xác về làm gì. Hẳn ông ấy bị trúng đạn nhẹ thôi.

- Rồi sau đó? – Mắt Võ Văn Lượng vằn đỏ khi ông ta nhìn chàng. Rồi ông ấy có chết không, khi vết thương như thế, khi bị lọt vào tay quân địch? Đó có lẽ là điều ông ta muốn nói. Và còn nhiều điều nữa, trong đôi mắt đỏ. Lần đầu tiên, Võ Tánh thấy Võ Văn Lượng tỏ ra mất bình tĩnh. Nguyễn Văn Hiếu đã là người bạn thâm giao hàng chục năm của ông, của họ.

- Ông ấy sẽ ổn thôi. – Chàng nói, ngồi xuống trước mặt Võ Văn Lượng với bình rượu vẫn còn ban tối. Không nói không rằng, ông ta nâng bình rượu lên tu ừng ực. Chàng chống tay lên gối, tựa trán vào lòng bàn tay, nhắm mắt nghe tiếng gió đông ù ù thổi trong cánh rừng bên ngoài thành, vang vọng qua các ngọn núi. Tiếng xôn vao vẫn vang quanh họ. Tiếng của quân trong thành, tiếng của quân ngoài thành. Tiếng của kẻ đã ở đây hay vừa mới tới. Đêm qua đã có một việc lớn xảy ra, chàng biết điều đó. Và lúc này, đáng lẽ chàng nên đến nơi họ truy hỏi những quân Tây Sơn vừa bắt được để tìm hiểu. Nhưng lòng chàng trống rỗng, cồn cào. Trong cõi trống rỗng ấy, chàng chỉ nghe thanh âm duy nhất vang vọng: Cái tên của Nguyễn Văn Hiếu.

Thậm chí chàng không dám nghĩ tới những gì có thể đang diễn ra với ông ở luỹ đất bên ngoài. Thậm chí chàng không thể nghĩ tới điều gì khác ngoài ông ấy sẽ bình yên. Chàng tưởng mình đã quá quen với cái chết, nhưng hoá ra, cái chết vẫn làm chàng đau lòng đến thế. Đến mức chàng chỉ ước có thể chết thay cho ông.

Võ Văn Lượng ném bình rượu đã cạn vào tường. Nó bể toang trong tiếng vỡ khô khốc. Ông cũng gục đầu vào gối. Và thanh âm khàn khàn, nghe như thể tiếng thở ngạt của người chìm dưới đáy sâu, như một tiếng gào đứt hơi tắc nghẹn, vang trong tướng doanh đóng kín.

Ngày rằm tháng giêng năm Tân Dậu, quân Nguyễn tiêu diệt toàn bộ thuỷ quân Tây Sơn ở cửa Thị Nại. Trận chiến sau này được sử quan ghi là “Đệ nhất võ công”, đánh dấu khúc quanh quan trọng nhất trong cuộc chiến Tây Sơn – Nguyễn.

Chú thích:

Đoản ca hành kỳ I của Tào Tháo:

Đối rượu nên hát
Đời người bao lâu?
Thoáng như sương sớm
Ngày qua khổ đau
Nghĩ tới ngậm ngùi
Buồn lo suốt đời
Lấy gì quên được?
Chỉ rượu mà thôi

Xanh xanh áo ai
Lòng ta bồi hồi
Chỉ vì ai đó
Trầm ngâm đến nay
Hươu kêu rao rao
Cùng ăn qủa bình
Ta có khách qúy
Gảy đàn thổi sênh
Vằng vặc như trăng
Lấy được lúc nào?
Trong lòng lo lắng
Không thể đoạn tuyệt.

Tin chiến thắng ở Thị Nại báo về Gia Định một ngày nắng rực. Nhưng ở Quy thành, sự mừng vui chỉ thoảng qua rồi mất hút trong lo lắng. Đông cung Phúc Cảnh đột nhiên ngã bệnh, rơi xuống từ lưng ngựa trong một cuộc tuần du quanh Gia Định, rồi được chuyển về cung khi đã sốt cao, thỉnh thoảng lại lên cơn mê man. Lúc này, tựa vào đầu giường bệnh, cậu Đông cung chỉ uể oải ngước mắt nhìn người đưa thư, gật đầu. Ánh sáng yếu ớt thoáng qua mắt cậu thanh niên nhanh chóng mất đi, trả lại khoảng tối trống rỗng. Ngồi bên cạnh cậu ta trên giường, Vương hậu chỉ chăm chăm nhìn người con, hầu như chẳng nghe lấy một chữ trong tin báo vừa tới.

- Chúa công nói rằng Gia Định nên phái người sang báo cho Chân Lạp, Xiêm La. – Người đưa tin chần chừ nói. Vương hậu rời mắt khỏi Đông cung, cau mày.

- Việc ấy cho Lưu trấn thần làm, nếu cần thì sang báo Quốc thúc lo liệu. – Vương hậu nói khẽ nhưng giọng đầy bực bội. Phúc Cảnh trở mình trong chăn, nằm xuống giường mà thở dài khi người đưa tin sợ sệt cáo lui.

- Tệ qúa, đúng lúc này lại bệnh. – Cậu ta nói, giọng đã khàn đi qua những cơn sốt. – Đây là lúc quan trọng nhất của chúng ta. Thị Nại, mẹ biết Thị Nại quan trọng thế nào không? Phá được toàn bộ thủy quân của Tây Sơn, thật không thể tin được! Không thể tin được! Giá mà con được tham dự trận đánh ấy.

- Đừng nên xúc động qúa. – Vương hậu lo lắng chặn lại cơn phấn khích của người con. Phúc Cảnh nhìn mẹ mỉm cười. Dù mệt mỏi, nụ cười trên khuôn mặt thanh tú đẹp đẽ ấy vẫn có sức làm nao lòng người đối diện.

- Bệnh con đã đỡ rồi, mẹ không thấy à? – Cậu ta nói, Vương hậu không trả lời. Qủa thật, sau vài ngày lên cơn sốt vật vã, nhiệt độ của Phúc Cảnh đã hạ xuống. Hôm nay cậu ta có vẻ tỉnh táo, thậm chí còn ngồi lên được.

Cô chống tay nhổm dậy, lấy khăn lau khuôn mặt lấm tấm mồ hôi của Phúc Cảnh, rồi cổ cậu ta. Khi chiếc khăn đã di chuyển xuống ngực cậu thanh niên, những chiếc nút áo bật mở, bàn tay Vương hậu chợt dừng lại. Cô cau mày, rồi ngẩng lên quát cô thị nữ đứng cạnh cửa sổ.

- Mở cửa sổ ra, vén rèm lên! Mở tất cả rèm ở cửa sổ ra, cả cửa chính nữa!

Phúc Cảnh ngạc nhiên nhìn người mẹ, rồi nhìn xuống bàn tay vẫn đặt trên ngực mình. Căn phòng, theo lối dành cho những người bệnh, được đóng cửa, bao giờ cũng mờ mờ tối. Khi tất cả cửa đã được mở cho ánh sáng tràn ngập trong phòng, Vương hậu phanh áo người con trai lên đến tận vai. Trong ánh nắng, trên làn da cậu thanh niên hiện rõ những nốt tròn nhỏ bằng đầu ngón tay. Trên mặt cậu ta cũng đã nổi rõ các mụn tròn – mà khi nãy Vương hậu đã bỏ qua vì cho rằng con trai bị nhiệt. Giờ đây, khi nhìn kỹ, trên khắp mặt, cổ, vai của cậu thanh niên nổi những mụn nhỏ trăng trắng gần giống hệt như nhau.

Phúc Cảnh thất sắc, nhưng sự kinh ngạc của cậu ta không thể sánh được với khuôn mặt trắng nhợt của người mẹ. Vương hậu ngẩng lên, quát đến khản cả giọng.

- Đóng tất cả cửa lại. Gọi thái y vào đây, nhanh lên!

Chỉ một lúc, trong cung náo loạn. Những cô thị nữ chạy va cả vào nhau để đóng cửa, gọi thầy thuốc. Qua khoảnh khắc kinh ngạc ban đầu, Phúc Cảnh hất tay người mẹ vẫn để trên ngực mình, giọng lạc đi.

- Mẹ đừng đụng vào con! – Cậu ta nói, rồi ngay lập tức hạ giọng thanh minh khi thấy ánh mắt người mẹ. – Bệnh này không biết thế nào, mẹ đừng đụng vào con nữa. Cả mẹ nữa, mẹ cũng phải đi rửa tay, tắm rửa, đốt bỏ quần áo này ngay đi.

Vương hậu như hóa đá đứng nhìn con, môi cô run rẩy. Phúc Cảnh quay nhìn người thầy thuốc vừa hấp tập chạy vào, rồi vẫy tay với người thị tì bên cạnh.

- Đưa Vương hậu ra ngoài ngay đi! – Cậu ta nói, không để bất cứ ai có dịp kháng lời. Người thị nữ vội vã kéo tay Vương hậu, dẫn cô ra ngoài trong khi người thầy thuốc qùy xuống cạnh Phúc Cảnh để chẩn bệnh. Cánh cửa phòng đóng sập vào ngay khi cô vừa bước ra.

Khi Ngọc Du nghe tin chạy tới, Vương hậu vẫn đứng cạnh cánh cửa, đăm đăm nhìn vào hai miếng gỗ khép. Trong lẫn ngoài điện Đông cung náo loạn khi những thị tỳ chạy đôn đáo; người lo lấy dụng cụ cho thầy thuốc; người lo tháo tất cả rèm cửa, đồ đạc, chăn màn xuống, hất tung vào đám lửa đang bốc ngùn ngụt giữa sân; người lại lo điều dẫn thị nữ trong điện ra khỏi phòng.

- Đừng đến gần ta! – Vương hậu đột ngột lên tiếng khi Ngọc Du định chạm vào cô. Nhìn qua vai Vương hậu, nàng thấy bóng của vợ và thê thiếp Phúc Cảnh, họ cũng đứng bên kia cửa cung, mặt tái nhợt, nhưng cách xa nơi Vương hậu đứng, cẩn thận để không chạm vào cả tường, cột trong điện.

- Đại phu nói sao? – Ngọc Du thì thầm hỏi. Nàng thấy cả chiếc giày Tây dương ngoài cửa điện. Thầy thuốc Tây dương cũng đã được gọi tới.

- Ông ấy đang soi. – Giọng Vương hậu khàn khàn khi trả lời nàng. – Nốt này có thể là sởi mà cũng có thể là đậu. Ông ấy đang soi xem gốc đậu nông sâu thế nào.

Đậu? Ngọc Du không thể đừng mà kinh ngạc khi cơn rùng mình chạy khắp châu thân nàng. Điều đó lý giải được cho cảnh náo loạn này khi mọi người vội vàng đốt bỏ những vật dụng trong điện để ngăn mầm bệnh phát tán. Và cả khuôn mặt không còn thần sắc của Vương hậu cùng những người vợ Cảnh. Hai bàn tay Vương hậu nắm chặt, nổi gân xanh, nàng có cảm tưởng ngón tay cô đang bấu vào da thịt muốn bật máu.

- Chị kiểm tra trong cung đi. – Không quay lại, Vương hậu nói với nàng. – Chị kiểm tra đồ đạc trong cung, xem còn có ai bệnh nữa không. Gọi lính canh đến cách ly tất cả người trong điện, nhất là những kẻ đã hầu hạ Đông cung. Bất kể ra sao cũng phải cách ly họ ra. Cách ly toàn cung điện cho đến khi kiểm tra xong. Bảo Quốc thúc kiểm tra trong vùng nữa.

Ngọc Du gật đầu. Biết không thể làm gì được ở đây, nàng vội vã quay đi, để họ ở lại. Báo cho Quốc mẫu và Nhị phi, nàng bắt đầu công việc của mình. Quốc mẫu nghe tin định chạy đến điện Đông cung, nàng phải cho Từ phi cản lại. Dù mới giữa trưa, cửa thành đóng sập vào, chỉ thi thoảng hé ra cho vài người được gọi đến. Lính canh dàn trước điện Đông cung một hàng rào dày, không để ai lọt qua. Những đống lửa được đốt lên khắp nơi trong cung, các nồi nước lớn sôi sùng sục để ngâm vải vóc, lấy nước tắm rửa. Khu ở của lính canh, thị tì cũng được khám xét, thanh tẩy. Những đứa trẻ sau khi kiểm tra được giữ yên ở một khu vực. Từng người một được thầy thuốc đến khám.

- Bệnh này phải vài ngày sau mới phát. – Ông thầy thuốc được gọi đến vừa kiểm tra từng người vừa nói. – Ban đầu là sốt, sau đó là nổi mụn nhọt. Lúc nổi mụn nhọt là lúc họ truyền bệnh. Những ai tiếp xúc với họ qúa vài giờ thì có khả năng lây bệnh rất cao. Ngày xưa Hải Thượng Lãn Ông làm thầy thuốc mà con trai ông mất vì đậu mùa. Bệnh này không có cách nào trị được, chỉ tùy vào cơ may của người bệnh. Gốc đậu nông, huyết hoạt thì có thể sống được, huyết khô thì nguy kịch lắm.

Đông cung đi làm việc trong dân gian, có thể nhiễm bệnh từ đó. Ông thầy thuốc già vẫn lẩm bẩm nói, không để tâm đến người được khám đã tái mặt đi vì sợ. Đám lửa trên sân điện vẫn cháy đến đêm, không ai trong thành thiết ăn uống. Vừa thúc những cô cung nữ đang thút thít khóc đi nấu nướng, nàng phải vừa sắp xếp chỗ cho đám người được gọi từ bên ngoài vào nghỉ ngơi. Công việc xong lúc đã nửa đêm, nhưng khi nàng đến, điện Đông cung vẫn sáng rực ánh lửa, ồn ào không thua lúc sáng sớm. Những cô vợ của Cảnh không còn đứng được nữa, họ ngồi bệt xuống hành lang được trải chiếu. Vương hậu ngồi trên bậc thềm, mắt đỏ hoe. Người thầy thuốc Tây dương đã đứng ở bên ngoài, khe khẽ nói chuyện với một vị giáo sĩ mà nàng nhận ra là cha Liot, người thân cận của Bá Đa Lộc. Nhóm thầy thuốc Việt đứng tụ tập với nhau ngoài cửa, khuôn mặt vừa căng thẳng vừa lo sợ. Cả Laurent Barizy cũng được gọi ra khỏi nhà giam, anh ta đang đứng bối rối bên một cây liễu như thể chờ được gọi vào.

- Đậu khô. – Vị thái y nói với nàng khi được kéo ra hỏi riêng. Mồ hôi chảy ròng ròng bên má ông ta. Bàn tay ông vặn vẹo vào nhau. – Trong vòng mười hai giờ thì mọc tràn lan khắp thân thể, đến mức này thì chỉ cố hạ sốt cho Đông cung để xem vận số ngài ấy thế nào. Nhưng Đông cung đã cấm người lại gần, cho quây màn quanh giường.

- Tên thủy thủ Tây dương bảo ở Tây có cách chữa bệnh. - Người thầy thuốc bên cạnh nói, đưa mắt về phía Barizy. – Họ lấy cái gì đó ở núm vú bò cho vào bệnh nhân. Nhưng phương pháp đó mới chỉ được truyền hai năm trước, ngay cả ở Tây dương cũng không nhiều người biết. Bây giờ ta có đến tìm cũng không kịp.

Nghĩa là không có cách nào – Nàng hoang mang nhìn những khuôn mặt tái xanh run rẩy của bọn họ, rồi vội vã đến bên Vương hậu. Cô đã đứng lên, đến trước cánh cửa mà nhìn vào, tay đẩy hé cửa. Qua khe hở, nàng thấy ánh sáng mờ trong căn phòng hắt ra. Qủa thật, Cảnh đã cho quây màn quanh phòng, nàng chỉ thấy vài cái bóng mờ của người qua lại.

- Nó không muốn gặp người khác. – Nghe tiếng chân nàng đến, Vương hậu khe khẽ nói. Ngay cả sự kinh hoảng hồi sáng cũng đã không còn nữa. Giọng cô kiệt quệ và trống rỗng. – Đến tối này thì mụn nhọt đã mọc đầy mặt nó. Nó không muốn ai trông thấy mình nữa. Nó đã là một đứa bé đẹp đẽ biết bao…

Giá như cô khóc, nàng đã có thể an ủi cô. Nhưng cô chỉ thì thầm, thì thầm bằng giọng nói trống rỗng kiệt quệ. Cô trân trân nhìn vào tấm màn sau khe cửa như thể muốn đâm thấu qua nó. Tiếng khóc rấm rức của những thê thiếp Cảnh, do đó, như vọng từ cõi xa lạ nào đến. Những đứa con của cậu ta đã không được gọi, bị giữ yên bên ngoài. Trong điện chỉ gồm toàn những người đã bị buộc phải ở hẳn lại đây. Đám lửa đốt đồ đạc, nấu nước sôi của họ vẫn không tắt, có chỗ còn làm cháy xém cả một góc vườn. Lửa được thắp sáng trong mọi khu, mọi điện, cả trên mặt hồ nhỏ. Với một cái giật khẽ trong thái dương, nàng nhận ra góc hồ mà nàng đã nói chuyện với Bá Đa Lộc. Giờ đây, trên cái bàn đá là một thau quần áo ướt lớn. Giàn hoa dâm bụt trĩu xuống, những nụ hoa đã khép màu đỏ sậm lại trong ánh lửa như từng vệt máu.

- Vương hậu cũng phải giữ sức khỏe mới được. Biết mẹ thế này, Cảnh không yên lòng đâu. – Nàng nói, gọi những cô hầu đi theo mang các khay đồ ăn, nước uống lại cho họ. Vương hậu đón chén cháo trong tay nàng, hít sâu một hơi khi chậm chạp múc một muỗng đưa vào miệng. Cô ăn như không hề biết mình đang ăn gì. Ở cạnh cánh cửa điện, họ thấy những thầy thuốc thỉnh thoảng chạy vào rồi đi ra. Giáo sĩ Liot đến nói chuyện với Barizy bằng thứ ngôn ngữ Tây dương xa lạ. Những cung nhân, thị nữ mệt mỏi đến nỗi ngồi bệt xuống cả đất vườn. Nàng phải gọi người cai quản họ đến, bảo phân công ca trực cho họ, để những người đã mệt về nghỉ.

- Chị cũng vất vả rồi, về nghỉ đi. – Vương hậu nói khi nàng quay lại. Cô đặt chén cháo vừa ăn hết xuống bàn. – Còn mấy đứa trẻ nữa, chị cũng phải lo cho chúng.

- Chúng lớn rồi, có thể tự trông nom nhau được. – Nàng lắc đầu, ngồi xuống cạnh Vương hậu. Thau quần áo đã bị dẹp xuống, để chiếc bàn đá bên hồ cho họ. – Quốc mẫu đã lớn tuổi, Nhị phi thì phải trông nom ngoài thành, trong điện chỉ còn ta.

- Sao có thể nghĩ con cái không cần mình chứ? Dù có thế nào, chúng cũng cần có mẹ ở bên. – Vương hậu chợt gắt. Nhưng nàng không trả lời, không lên tiếng.

Nàng biết, những lời này không phải là dành cho nàng. Từ cái ngày nào đưa Phúc Cảnh ra đi rồi đón cậu con trai trở lại, giữa cha mẹ Phúc Cảnh đã nảy sinh mối hiềm khích thầm lặng về cậu. Cậu con trai nhỏ mới chín, mười tuổi đầu ấy đã bộc lộ thái độ bất cần với gia đình, rồi vị chúa thu hút cậu ta về với những công việc của một Đông cung Nguyên soái. Hết Bá Đa Lộc rồi vị chúa, cậu ta bị thu hút vào công việc, lý tưởng của những người đàn ông, bị hút về phía cha mình. Dù kính cẩn, tôn trọng, khoảng cách giữa cậu ta và người mẹ qua năm tháng chỉ ngày càng giãn rộng, bất khả vãn hồi. Càng lớn, Cảnh càng rời xa mẹ mình. Vương hậu đã mất người con, từ khi cậu ta mới lên bốn.

Giữa họ đã không có, không còn, không còn có thể nữa, thiết lập một mối liên hệ ấm áp, thiết thân của bàn tay chăm sóc thời thơ ấu. Cảnh không cần điều đó, chưa bao giờ. Từ khi trở về, cậu ta đã không bao giờ còn cần nữa, gia đình của mình, bàn tay của người mẹ. Tất cả là những mối liên hệ đạo đức và giáo điều cần phải tuân theo. Giờ đây, câu nói của Vương hậu chỉ như một lời nói cay đắng đã thoát thai qua bao nhiêu tháng năm, và không dành cho nàng.

Cô lại đứng dậy đến bên cánh cửa khi một thầy thuốc mới đã ra. Từ khoảng cách này, nàng thấy cái lắc đầu của ông ta, khuôn mặt hoảng sợ và bối rối. Nàng không muốn nghĩ tới khả năng xấu nhất mà thái độ ấy biểu hiện, nhưng tim nàng cũng hẫng xuống một nhịp, lạnh ngắt.

Nàng rời khỏi điện Đông cung, bắt gặp ngay Nguyễn Phúc Thăng đang đi tới. Giữ việc kiểm kê bên ngoài, anh ta hẳn cũng vừa mới xong công việc. Nàng lắc đầu, bảo anh ta không cần tới quấy rầy giấc ngủ của Đông cung. Cậu ta qủa thật đã ngủ, trong cơn sốt hầm hập và những nốt mụn trắng không ngừng mọc lên, đan dày khắp cơ thể.

Phúc Thăng khẽ rùng mình khi nghe nàng kể lại, dù anh ta không tận mắt thấy cảnh tượng ấy, như nàng. Như nàng, có lẽ anh ta cũng đã nghĩ về cậu thanh niên đẹp đẽ xưa kia. Ngay cả với những người vượt qua được căn bệnh đậu mùa quái ác, nó cũng vĩnh viễn để lại dấu ấn tàn phá trên họ. Như nàng, anh ta biết điều đó và rùng mình nghĩ về vẻ đẹp đã từng làm xúc động cả cung điện Phú Lang Sa xa lạ. Và nàng đã nghĩ, với cơn đau đến thắt cả tim, về căn bệnh có sức tàn phá, hủy hoại khủng khiếp như thế - Người thanh niên ấy, tạo vật đẹp đẽ ấy, lại có thể bị hủy hoại như vậy, tàn khốc như vậy.

- Ngay trong lúc này. – Phúc Thăng nói khẽ khi anh ta đưa nàng ra khỏi điện Đông cung, trở về Hậu điện. Hàng cây ngả bóng tối xuống họ. Trăng hạ huyền mờ nhạt không chiếu sáng qua khỏi lớp mây dày. – Ngay lúc mà chúng ta vừa chiến thắng. Sáng nay chúa công báo tin thắng trận Thị Nại.

Nàng gật đầu. Tin tức ấy cũng đã đến tai nàng. Ngẫm nghĩ một lát về điều định nói rồi nàng mới mở miệng.

- Chiến thắng ấy… có lẽ là đúng ngay lúc Đông cung mắc bệnh. – Nàng nói. Phúc Thăng đột ngột đứng khựng lại, quay nhìn nàng. Dù chỉ thoáng qua, nàng thấy nỗi sợ tràn ngập trong mắt anh ta, trước khi biến mất, được giấu đi.

- Đừng nói thế. – Cuối cùng, anh ta nói. Nàng cười, cái cười mệt mỏi.

- Ở đây nào có ai. – Nàng nhún vai. – Nhưng thời gian… thời gian, có phải là rất đáng sợ? Có phải rất đáng sợ, chuyện đang xảy ra? Tại sao lại là ngay lúc này, Quốc thúc? Chú giải thích được không, Quốc thúc? Tại sao lại là ngay lúc này? Ý trời ư? Ta gọi là ý trời ư? Ý trời muốn gì?

- Đừng nói thế. – Nguyễn Phúc Thăng hạ giọng, gần như năn nỉ nàng. Nàng nhìn anh ta. Mắt nàng cũng ngầu đỏ sau một ngày dài. Trong sự giận dữ vì lý do nào không biết đã dâng lên trong nàng.

- Không nói thì chúng ta sẽ nói gì đây, Quốc thúc? – Nàng nói qua kẽ răng, trong cơn giận bất chợt dâng lên ngùn ngụt. – Chúng ta nói gì đây, với bên ngoài? Chúc mừng đã tiêu diệt được năm vạn quân Tây Sơn, gần hai ngàn thuyền, toàn bộ thủy quân của chúng – Trong khi Đông cung của ta đang chờ chết, và sáu trăm người thiệt mạng. Sáu trăm người, Quốc thúc! Sáu trăm gia đình khác đang khóc, như chúng ta! Ta chúc mừng họ sao, Quốc thúc? Phải, đáng lẽ chúng ta sẽ ăn mừng, nếu như không có việc này xảy ra. Đáng lẽ chúng ta sẽ ăn mừng rất to! Ông trời không muốn chúng ta mừng rỡ như thế, ông ấy bắt chúng ta phải nếm mùi đau đớn này! Ý trời đấy, phải không?

Bây giờ chúng ta sẽ làm gì đây? – Nàng vẫn nói khi Nguyễn Phúc Thăng trân trối nhìn nàng. Đôi mắt mở to của anh ta chỉ phản chiếu bóng tối chập chờn trong các lùm cây. – Quốc thúc đã viết rồi, phải không, tin báo tiệp cho các nơi? Quốc thúc đã chuẩn bị rồi, phải không, tiền an tuần cho người thiệt mạng? Hay là, lúc này, Quốc thúc đã chuẩn bị cả rồi, tang lễ cho Đông cung? Quốc thúc đã nghĩ ra sẽ viết gì gửi cho chúa công chưa? “Chúc mừng ngài thắng trận, và báo tin buồn là con trai ngài đã qua đời”?

- Đừng nói thế! – Giờ thì Phúc Thăng cũng gằn giọng nạt ngang nàng. Nàng im lặng cắn môi. Cơn giận trong nàng chợt tan biến. Nàng biết mình đã qúa lố, nói ra những điều không nên nói. Những lời ấy giờ lại khiến nàng run lên vì sợ. Nàng cúi đầu, thấy khóe mắt nóng rực, cay cay.

- Bây giờ chúng ta sẽ làm gì đây, Quốc thúc? – Cuối cùng, nàng thì thầm. – Chúng ta làm gì đây?

Phúc Thăng không nói. Nàng chỉ nghe tiếng gió thổi qua hàng cây xào xạc. Khu thành lặng yên, ở góc thành này thậm chí không có cả tiếng di chuyển của người hay vật. Sự im lặng đổ ập xuống họ, khiến nàng cảm thấy muốn ngạt thở.

Rồi sẽ thế nào đây? Nàng nghĩ khi hơi thở nghẹn lại trong lồng ngực. Cái chết – nàng đã không còn quen với nó từ lâu. Ở những người như Tống Phúc Đạm, Nguyễn Phúc Hội, cái chết còn có vẻ tự nhiên như nó phải thế. Còn với Phúc Cảnh, cái chết sao lại phi lý đến thế? Tại sao cậu ta lại có thể phải chết đi, bị tiêu diệt bằng một phương cách như thế? Tại sao một con người lại có thể bị hủy hoại như thế? Sự phi lý này khiến nàng muốn ngạt thở - Vì tức giận, vì phẫn nộ, vì đau thương. Phải, nàng cũng yêu thương cậu ta. Nàng đã thấy cậu ta ra đời, lớn lên và trưởng thành. Nàng đã mong chờ, đã hy vọng, đã tự hào. Và tất cả những gì nàng nhận được bây giờ là một thân xác không còn hình hài, không còn có thể nhận ra được hình hài trong căn bệnh nhất sinh thập tử.

Tại sao? Đó có lẽ là điều nàng muốn hỏi. Tại sao ông trời lại có thể đối xử với cậu ta như thế, đối xử với họ như thế? Tại sao cái chết lại có thể thảm khốc như thế, điềm nhiên như thế? Một thứ điềm nhiên đến đương nhiên, đến phi lý, đến không cần lý lẽ. Nàng đã tìm cách đổ lỗi, tìm cách lý giải, để rồi chính nàng lại phát sợ chính cách lý giải của mình, điều mà mình đã nhìn thấy.

Bằng một cử chỉ cứng nhắc, Phúc Thăng đặt tay lên vai nàng. Nàng nhìn anh ta, con người đã không còn quen nữa, với sự tiếp xúc của con người. Hai mươi năm thanh xuân đã trôi qua trên những dòng nước, mười năm trong Quy thành và Gia Định đầy náo động. Anh ta có hiểu không, nàng tự hỏi, điều mà nàng đang cảm thấy? Hay anh ta cũng đã trở nên cạn khô với mọi niềm xúc động, với cảm xúc của con người, đã có khả năng chấp nhận mọi điều – dù phi lý đến cực độ - xảy ra trong đời này? Bàn tay anh ta vỗ nhè nhẹ lên vai nàng. Nhưng nàng đã không còn muốn khóc nữa.

- Dù thế nào thì cũng phải mạnh mẽ lên. – Cuối cùng, Nguyễn Phúc Thăng mở miệng. Một câu nói hoàn toàn không cần thiết, có lẽ. Nàng nghĩ đến những lời mình nói với các phụ nữ trong Gia Định tháng năm này. Và lần đầu tiên, nàng nghĩ ra rằng họ vốn không cần cả đến những lời nói của nàng.

- Quốc thúc biết không? – Nàng nói với một cái cười mờ nhạt. – Khổng Tử đã nói rằng phụ nữ vốn không thể giáo hóa được, không thể theo đạo của ông ấy được. Phải đấy, ông ấy bao giờ cũng muốn chống lại. Ông ấy bao giờ cũng muốn kháng cự. Ông ấy không bao giờ chịu chấp nhận. Vì thế, những người đàn ông theo đạo của ông ấy bao giờ cũng thật là đáng sợ. Còn phụ nữ thì chỉ biết chấp nhận thôi. Dù thế nào thì cũng phải chấp nhận. Người ở xứ sở này quen chấp nhận như thế đấy.

Quốc mẫu hẳn lại tụng kinh rồi. Nàng quẹt tay ngang mắt mà nghĩ, lại bước đi. Lại tụng kinh, như ngày xưa trên con tàu đi ra Phú Quốc. Như ngày xưa, chỉ còn các bài vị trở về. Như ngày xưa, đưa thằng bé ra đi biền biệt. Họ đã tiễn thằng bé ra đi, và chỉ còn nắm giữ chút hy vọng. Hy vọng đã giúp họ sống sót. Nó đã là hy vọng của họ, trong suốt những năm tháng ấy. Nhưng họ không nắm giữ được nó. Họ không có bất cứ quyền năng nào. Hết lần này đến lần khác, họ chỉ có thể chấp nhận. Quốc mẫu hẳn lại đang tụng kinh, van xin một đấng tối cao nào giữ mạng sống cho đứa cháu. Đó là điều duy nhất họ có thể làm, van xin và gục ngã khi không được đáp lời.

Nàng nghe gió dưới hàng cây im lìm trong bóng tối, nghe tiếng chân Phúc Thăng đi bên cạnh. Dù thế nào cũng phải mạnh mẽ lên, lời nói ấy có sự xác tín đến mỉa mai. Dù thế nào thì cũng phải sống, giản đơn như thế, trần trụi như thế. Rồi nàng sẽ đem những lời ấy an ủi Vương hậu, Quốc mẫu, Từ phi, mọi người mọi kẻ mà nàng sẽ gặp. Dù có khóc cạn nước mắt của cả cuộc đời này, họ cũng phải sống. Cuộc sống, sự bám giữ phi lý trên mặt đất này, mang vẻ tang thương và tàn khốc còn hơn cả địa ngục. Địa ngục chỉ có hình phạt vào máu thịt, không thể đánh vào trái tim.

- Điều ta lo là… - Nguyễn Phúc Thăng chợt lên tiếng. Giọng nói của anh ta đầy cân nhắc. – Gia Định đang rối loạn thế này, các tặc đảng của Tây Sơn lẩn lút hội họp, Quy thành cần phải cẩn thận lắm mới được. Công nương nhớ nhắc tất cả mọi người cảnh giác.

Nàng gật đầu, không nói. Dù sao thì mọi việc vẫn đang tiếp tục, cuộc chiến này vẫn đang tiếp tục, bất chấp mọi đau buồn của họ.

Phúc Cảnh đã chống chọi được cả gần một phần ba tuần trăng. Nhưng sắc mặt của các thái y tái sạm xuống mỗi ngày, trước căn bệnh vô phương cứu chữa. Dù vài chiếc thuyền đã ngay lập tức được phái đến Ấn Độ, Ma Cao, thực lòng họ chỉ có hy vọng rất mong manh về phương thuốc mà chưa ai từng biết tới. Đêm ngày thứ mười, mắt trũng sâu, tóc tai tả tơi và khuôn mặt xanh rớt không còn một giọt máu, Vương hậu bất chấp lời can ngăn của mọi người và cả sự nghiêm cấm của Phúc Cảnh, đẩy cửa vào phòng con trai, bước qua tấm màn che chắn. Cậu ta cũng đã không còn nhận ra được sự hiện diện của người mẹ. Mụn nhọt mọc trên khắp người cậu thanh niên, đùn lên dày cộm như một tảng đất, che cả mắt, môi cậu, đôi chỗ còn lở loét ra mảng thịt đỏ. Phúc Cảnh nằm trên giường, hơi thở khò khè khe khẽ. Các thái y vẫn còn tận tụy hạ sốt cho cậu bằng đủ mọi phương cách họ có thể nghĩ đến được. Nhưng cậu không còn biết nữa, chỉ nằm thở dồn,  không còn đủ sức để nhấc tay lên. Cậu thậm chí đã không nghe được tiếng nấc nghẹn của người mẹ ngay đầu giường.

- Thái y. – Phúc Cảnh chợt gọi, giọng nói như tiếng thì thào, nhưng rõ ràng và tỉnh táo. – Cha Liot có ở ngoài đó không?

- Cha đã về lo việc ở nhà thờ rồi, thưa Đông cung. – Người thái y vừa nói vừa lo lắng ngước nhìn Vương hậu. Phúc Cảnh thở ra một tiếng dài.

- Nhờ ông cho người đến tìm cha Liot, nhờ ông ấy… nhờ ông ấy làm lễ cho ta, đến rửa tội cho ta. Mời ông ấy đến đây. Ta muốn được rửa tội.

- Đông cung… - Người thái y càng thất sắc. Khuôn miệng méo mó của Phúc Cảnh giật thành cái cười xệch xoạc.

- Con người có thể chống lại Trời ư? Dối trá! Tất cả là dối trá. Tất cả là dối trá. Thiên tử là những người có thể chống lại được Trời ư? Dối trá! – Giọng thều thào của cậu ngày càng cao. Hai bàn tay bất động đã nắm lại, làm những vết mụn càng vỡ toác thêm, mủ lẫn máu loét cả ra tấm vải trải giường. Cậu như thể đang lên cơn co giật. – Ta không muốn chết! Ta không muốn chết như thế này! Tại sao? Tại sao chứ? Ta đã làm gì sai? Sao ta lại phải chết cơ chứ? Sao là ta? Sao lại là ta?

Giọng nói cậu thanh niên chuyển thành tiếng thổn thức. Cậu ta thổn thức, nước mắt chảy qua kẽ hở của khe mắt bị bịt kín. Không nói không rằng, Vương hậu quay lưng chạy ra. Thấy tùy tùng bên ngoài, cô hét lên đến lạc giọng.

- Đi gọi cha Liot đến đây! Gọi tên Tây dương trong thành đến đây! Đến ngay lập tức!

Một lần nữa, Quy thành náo loạn. Khi chạy đến, Ngọc Du va cả vào người giáo sĩ cũng vừa tới. Ông ta lẩm bẩm xin lỗi nàng rồi vội đến gặp Vương hậu. Nàng không thể nhận ra được Vương hậu nữa. Cô như một bóng ma của chính mình. Đứng trong bóng tối, trong ánh lửa, cô xanh mét và gầy rộc, trắng xác như thể đã không còn thuộc cõi con người. Dù bị cản ngăn, Quốc mẫu cũng đã tới, đứng khóc nức nở trong sân. Bằng một cái nhói lạnh buốt trong tim, nàng nhận ra rằng giờ khắc cuối cùng của Phúc Cảnh đang đến.

Mọi người trong cung đã tập hợp về, duy có những người chỉ dám đứng bên ngoài căn điện. Cửa căn điện mở toang khi người hết ra lại vào. Dù vậy, căn phòng cậu Đông cung nằm hoang vắng, chỉ có tấm màn quây che lại. Cha Liot cũng đứng ngoài tấm màn, lầm rầm trò chuyện với Phúc Cảnh. Giọng cậu có vẻ tỉnh táo, tuy hoàn toàn giống như giọng của một người xa lạ, chậm chạp và đầy đau đớn. Nàng nghĩ tới những vết lở loét trong miệng cậu, trên toàn mặt lẫn thân cậu.

- "Mỗi người lãnh nhận trong linh hồn bất tử của mình phần trả công đời đời cho mình ngay sau khi chết trong một cuộc phán xét riêng, chiếu theo cuộc sống của mình hướng về Chúa Kitô, để hoặc sẽ trải qua một sự thanh luyện, hoặc lập tức bước vào hưởng diễm phúc Thiên Đàng hoặc lập tức bị án phạt đời đời." – Cha Liot đang nói. – Đông cung, ngài sẽ không phải nhận án phạt đời đời vì khước từ Chúa và tình thương của Người khi ngài hướng về Người trong giờ phút này. Để được rửa tội, ngài phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự và yêu anh em như yêu chính mình; ngài phải từ bỏ mọi tội lỗi để sống như lời Chúa dạy.

- Nghĩa là bây giờ có làm gì cũng vô ích, phải không? – Phúc Cảnh thì thào nói. – Ta đã kháng lại Chúa, đã không vâng lời Người, đã sống ngược lại với lời Người, vậy thì bao nhiêu phép rửa tội cũng là vô ích, phải không?

- Không, Thiên Chúa tha thứ cho tất cả các lỗi lầm, chỉ cần con người tin tưởng. Chỉ cần ngài hối lỗi, hướng về Người, ngài sẽ được tha thứ. – Cha Liot nói, trong tiếng thở ngày càng nặng nề đến từ bên trong bức màn.

- Cha làm lễ cho ta đi. Ta muốn được rửa tội, cha Liot. Ta đã muốn được rửa tội, nhưng Bá Đa Lộc đã không kịp làm cho ta. Cha làm lễ cho ta nhanh lên.

Bên cạnh Ngọc Du, tiếng thở của Vương hậu nghe như tiếng gãy của một cành cây. Nước mắt tiếp tục lăn trên khuôn mặt cô, từ đôi mắt mở to như bàng hoàng. Ông giáo sĩ nhìn về phía họ, rồi gật đầu. Ông gọi thêm người đem đồ lễ tới, thắp sáng thêm đèn trong căn phòng kín. Trong ánh lửa đỏ, ông giáo sĩ lật cuốn kinh, lầm thầm đọc. Phúc Cảnh đọc theo ông. Cậu ta đọc ngay sau khi lễ đã kết thúc.

“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.”

Ông giáo sĩ có vẻ kinh ngạc. Vương hậu nắm lấy vai Ngọc Du, ngón tay cô run bắn. Trong màn, Phúc Cảnh vẫn đọc, giọng dửng dưng đau đớn. Cậu ta đọc, như thể đang hát thánh ca.

“Lạy Chúa con, Chúa là Ðấng trọn tốt trọn lành vô cùng. Chúa đã dựng nên con và cho con Chúa ra đời, chịu nạn chịu chết vì con, mà con đã cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa, thì con lo buồn đau đớn, cùng chê ghét mọi tội con trên hết mọi sự, con dốc lòng chừa cải, và nhờ ơn Chúa, thì con sẽ lánh xa dịp tội, cùng làm việc đền tội cho xứng. Amen.”

“Lạy Chúa con, con ở dưới vực sâu kêu lên Chúa con, xin Chúa con hãy thương nhận lời con kêu van, hãy lắng nghe tiếng con cầu xin. Nếu Chúa con chấp tội, nào ai rỗi được? Bởi Chúa con hằng có lòng lành, cùng vì lời Chúa con phán hứa, con đã trông cậy Chúa con. Linh hồn con cậy vì lời hứa ấy thì đã trông cậy Chúa con. Những kẻ làm dân Đức Chúa Trời, đêm ngày hãy trông cậy Người cho liên, vì Người rất nhân lành hay thương vô cùng, sẽ tha hết mọi tội lỗi kẻ làm dân Người thay thảy. Lạy Chúa con, xin ban cho các linh hồn được nghỉ ngơi đời đời, và được sáng soi vô cùng. Lạy Chúa con, xin cứu lấy các linh hồn cho khỏi tù ngục mà được nghỉ yên. Amen.”

Giọng Phúc Cảnh ngày càng yếu dần, chậm chạp, nhưng lại như một dòng nước chảy mãi không ngừng. Người trong phòng, tất cả mọi người, như hóa đá. Mọi ánh mắt nhìn trân trân vào hình bóng sau bức màn. Im lặng một lúc, rồi cậu ta hát, thực sự đang hát. Bài thánh ca của người Gia-tô.

“Khi Chúa thương gọi tôi về, hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ. Miệng tôi nức tiếng vui cười, lưỡi tôi vang lời ca hát. Ngàn dân tung hô tôi thật vinh phúc.

Khi dân Si-on qua khỏi kiếp lưu đày, tôi vẫn còn sống hoài, giấc mơ triền miên. Hôm nay chư dân loan truyền với nhau rằng: Thiên Chúa rất nhân từ đã làm biết bao kỳ công.

Bao nhiêu anh em lưu lạc chốn quê người, xin Chúa dẫn đưa về như dòng nước xuôi miền Nam. Gieo trong đau thương sẽ gặt giữa vui mừng, đi khóc lóc u sầu sẽ về giữa muôn lời ca.”

Dường như không còn chịu đựng nổi, Vương hậu bỏ chạy khỏi phòng. Nàng vội vàng chạy theo, thấy cô đã ngồi gục ngay chân tường điện. Đôi vai vẫn run rẩy khi cô nói trong nước mắt loang tràn mặt.

- Nó… nó vẫn đọc như thế, khi mới về. Khi mới về, nó đã đọc kinh… mỗi đêm. – Cô nói, lời lẫn vào trong tiếng thổn thức. Không biết phải nói gì, nàng ôm lấy cô. Bàn tay cô bấu vào lưng nàng khi người cô run rẩy như sắp gãy vỡ. Nhìn sang bên, nàng thấy Quốc mẫu đã ra khỏi phòng, tựa hẳn người vào Từ phi. Những cung nhân gần như sợ hãi. Những tùy tùng bối rối. Dường như việc đang xảy ra trong phòng là điều gì đó vượt qúa sức tưởng tượng của họ. Như là điều không thể xảy ra trên trái đất này.

Phúc Cảnh vẫn hát, suốt đêm. Giọng nhiều khi lạc đi không còn nghe rõ. Nửa đêm về sáng, khoảng canh ba, giọng của cậu ta chợt tắt. Nhưng rồi, đáp lại tiếng xao xác bên ngoài, cậu ta lại nói, lần này giọng rất rõ ràng.

- Nói với phụ hoàng, ta xin ngài… Ta xin ngài, hãy che chở cho bạn bè ta, ngài hãy che chở cho những người bạn ta. Jean Marie Dayot, Philippe Vanier, Jean Baptiste Guillon, Guillaume Guilloux, De Forcant, Jean Baptiste Chaigneau, Laurent Barizy, Julien Girard de l' Isle Sellé, Charles Stanislas Le Fèbr, Jean Marie Despiaux và Dominique Desperles. Ta xin ngài, hãy che chở cho những giáo đồ Gia-tô. Ta xin ngài, hãy che chở cho những kẻ lạc lối, những kẻ cùng khốn này. Ta xin ngài, phụ hoàng. Hãy nói với phụ hoàng cho ta. Hãy nói với phụ hoàng, nhất định phải che chở họ. Jean Marie Dayot, Philippe Vanier, Jean Baptiste Guillon, Guillaume Guilloux, De Forcant, Jean Baptiste Chaigneau, Laurent Barizy, Julien Girard de l' Isle Sellé, Charles Stanislas Le Fèbr, Jean Marie Despiaux và Dominique Desperles.

Cậu ta nhắc đi nhắc lại những cái tên, giọng lại lạc mất, rồi yếu dần. Một khoảng im lặng nữa đến, khi tiếng thở dài vang nhẹ.

- Ta… thật muốn nhìn thấy… bình minh.

Bầu trời chợt sáng lên. Đã vào cuối mùa hạn, những đợt chớp khô không mưa thỉnh thoảng vẫn còn lóe trên bầu trời. Nhưng dường như thế đã là đủ cho Phúc Cảnh, cậu ta nấc lên. Rồi im bặt.

Im lặng tràn đến. Im lặng đổ đầy căn phòng. Không ai dám ngay cả thở. Mọi người chờ đợi, chờ đợi cậu Đông cung cất tiếng. Thân thể Vương hậu cứng như gỗ trong tay nàng. Người giáo sĩ lại là kẻ phản ứng trước tiên, như thể ông ta đã qúa quen với việc này. Ông vạch màn bước vào, rồi quay ra làm dấu thánh với họ.

- Đông cung đã qua đời rồi. – Ông nói. Ngay cả ông cũng đã khóc.

Bằng hết sức bình sinh, nàng mới có thể ôm lại Vương hậu khi cô lao đến bức màn. Móng tay cô cào cả vào mặt nàng. Thêm hai cung nhân nữa, nàng mới giữ được cô.

- Không được. Không được đâu. – Nàng cố sức nói với cô, với ánh mắt điên dại ấy. Nàng thấy ngay cả miệng mình cũng đã mặn. Tiếng khóc như ri cất lên trong căn phòng. Thê thiếp của Cảnh ôm nhau khóc. Ngoài sân, những đứa con còn bé của cậu ta vẫn còn ngơ ngác, khóc theo. Ôm lấy Vương hậu để ngăn những vùng vẫy cuối cùng của cô, nàng tình cờ lại nhìn lên bầu trời. Bầu trời vẫn tối. Sao vẫn sáng. Trăng vẫn đang sắp nhạt. Bình minh, cậu ta đã không đợi được đến bình minh.

Vương hậu chợt gào lên. Nàng vội vàng buông cô ra. Nhưng cô không còn lao vào giường đứa con. Cô gục xuống, gục xuống nền đất lạnh. Tiếng gào của cô như muốn vỡ toang lồng ngực. Như tất cả nỗi thống khổ đã thoát ra. Như tiếng nổ, vang lên và kéo dài mãi mãi, mãi mãi trong ký ức những người còn sống.

Mái tóc cô xổ tung trên vai. Mái tóc đã gần như bạc đi trong đêm. Mái tóc đã bạc chỉ trong một đêm.

Khi nàng đưa Vương hậu cùng mọi người – chỉ là những hình bóng thất thểu bước - về phòng nghỉ, Phúc Thăng cũng đã đưa người tới. Nàng thấy những dụng cụ mộc trong tay họ, cả những túi vải to.

- Đông cung mất vì bệnh, phải rắc vôi bột lên xác ngài, không thể tẩm liệm trong thành được. – Nguyễn Phúc Thăng khe khẽ nói với nàng khi cho đội an táng vào làm việc. Nàng nuốt khan vị đắng ngắt trong cổ, gật đầu.

Lửa lại được đốt lên giữa sân, trong ánh bình minh xanh ngắt. Những đồ đạc mới lại được tung vào. Nàng nghe tiếng động trong phòng bệnh của Đông cung từ góc tối sau hàng dâm bụt. Không thể chịu đựng được cảnh tượng trước mắt, nàng gục đầu xuống hai cánh tay khoanh trên bàn đá. Nàng, chính nàng cũng không thể chịu đựng được sự thật này, sự phi lý đến cùng cực của nó. Thế nào, thế nào, nàng tự hỏi. Một đứa trẻ đẹp đến thế, người thanh niên đẹp đến thế, lại có thể trở thành hình hài ấy, lại có thể trở thành một xác chết lở loét phủ trắng vôi này? Làm thế nào nàng có thể chấp nhận được?

Có tiếng nói gần đó khiến nàng ngẩng dậy. Họ đang đưa quan tài ra khỏi phòng. Ánh sáng vẫn đang lên, dần rọi sáng mặt đất. Trước mặt nàng, bên kia bờ hồ, người giáo sĩ cùng viên thủy thủ Tây dương, những giáo đồ của họ đang đứng. Có vẻ như họ không nhận ra sự hiện diện của nàng. Họ đang khe khẽ hát. Lại là bài thánh ca Gia-tô.

“Khi tôi nằm xuôi tay xuống, nói chi khi biệt ly? Nói chi cho người đừng khóc, đừng gọi tên kẻ đã qua đời? Thân tôi như lá về cội, sông về nguồn, ai hỡi xin hãy đừng buồn, vì tôi đi không phải chia ly, tôi chết mà không lụi tàn.

Hôm qua còn, tôi đang sống góp vui, chung khổ đau. Có nhau bao ngày yêu dấu mà ngờ đâu giờ cách xa rồi. Hôm nay đưa tôi về trời, xin mọi người nghĩ đến dòng đời. Đời mau vui cũng đời mau qua.

Trăm năm dòng sông trôi mãi, có ai không tàn phai? Có ai như thuyền không bến? Đời dần qua, người sẽ qua đời, ra đi như tình cờ. Ôi ngày giờ ai biết mà ngờ.

Tôi tin tình yêu Thiên Chúa đón tôi trong vòng tay phút giây tôi vừa nằm xuống, mặt trời lên ở phía chân trời. Tôi tin thương yêu tuyệt vời. Cha hiền từ không chấp tội đời. Lòng tôi vui tiếng cười, trên môi tôi hát tụng ca đời đời.”

- CÚT ĐI! – Nàng quát. Nàng đứng lên, thuận tay cầm lấy hòn đá bên cạnh ném thẳng về phía họ, những kẻ đang hát. Bây giờ, đến lượt nàng cũng gào như muốn vỡ tung lồng ngực. – Các người cút đi!

Những người Tây dương qua khoảnh khắc kinh ngạc cũng nhận ra nàng. Làm dấu thánh, ông giáo sĩ cúi đầu chào nàng rồi kéo các giáo đồ ra về. Khi nhìn họ đi qua cửa, nàng vẫn còn thở dồn, mắt nàng rát bỏng.

- Bọn dối trá. Dối trá. – Nàng muốn gào lên, vẫn muốn gào lên. Nhưng giọng nàng chỉ còn là một tiếng thì thầm. Nàng giận đến mờ cả mắt.

Cười ư? Cậu ta đã cười ư? Cậu ta muốn sống cơ mà, các người không thấy sao? Hạnh phúc ư? Hạnh phúc gì khi chết đi như thế?

Lừa dối. Nàng muốn gào lên. Với cảnh tượng này. Cảnh những người phu phen đang vác chiếc quan tài đen bóng ra khỏi cửa, chất lên một chiếc xe lớn. Những đám lửa vẫn rừng rực cháy. Người ta đã tháo rời giường bệnh của Cảnh, lấy tất cả vật dụng trong phòng để ném vào lửa. Tất cả, tất cả dấu vết của cậu ta đang bị xóa sạch trong lửa.

Ngoài sân điện, tiếng kinh cầu lại vang cùng tiếng chuông báo tử. Kinh cầu, giờ thì đến lượt những nhà sư đến tụng kinh cho Cảnh được về cõi Tây Thiên cực lạc. Nàng đột nhiên muốn bật cười, muốn được cười lớn, cười cho đến khi bật khóc. Cho đến cái chết của Cảnh, người ta vẫn đang giành giật cậu ta. Nhưng không ai, không ai, không ai trong số họ, dù là Phật hay Chúa, hay con người, hay Trời hay Đất, có thể giúp được Cảnh. Không lời cầu nguyện nào, dù của Quốc mẫu hay Vương hậu, của ông giáo sĩ hay chính Cảnh – có thể giúp được cậu ta. Cậu ta đã bị tiêu diệt. Tàn khốc và vĩnh viễn. Như thể một chiếc lá bị gió dứt qua.

Nàng quay đầu, chạy ra khỏi điện, chạy trốn những thanh âm hỗn loạn quay cuồng.

63

Tháng ba năm Tân Dậu, xác công tử Nguyễn Phúc Hy được chuyển về từ Diên Khánh.

Những cờ phướn cho lễ tang của Phúc Cảnh vẫn chưa được hạ xuống. Hạn cấm tang điếu của chúa Nguyễn ban cho Gia Định, Thuận Thành vẫn chưa hết. Nước mắt vẫn chưa kịp khô trên khuôn mặt nhiều người. Quan tài cậu Nhị công tử của chúa Nguyễn đi qua những con đường của đô thành xôn xao, trước vẻ ngơ ngác, đau đớn lẫn kinh hãi của nhiều người. Cửa thành rộng mở đón xe đưa áo quan khi đã có người đi trước báo. Điện thờ lẫn các nhà chòi xây cho tang lễ Phúc Cảnh chưa kịp dỡ đi tiếp tục được lưu dụng. Các nhà sư, đạo sĩ được gọi trở lại. Đám tang của Nhị công tử nhỏ hơn Đông cung vì địa vị của người mẹ, nhưng lại như nắm muối cuối cùng xát vào lòng họ, những người còn sống. Sự lặng lẽ của đám tang này, trong khí mù của cơn mưa đầu mùa đến sớm, làm không khí trong Quy thành càng thêm ảm đạm.

- Chuyện gì đang xảy ra vậy? – Trong một đêm thức canh linh cữu, Ngọc Tú đã buột miệng hỏi. Ánh mắt cô trân trối nhìn về phía chiếc quan tài. – Chuyện gì đang xảy ra vậy, với chúng ta?

Ngọc Du không trả lời cô. Nàng thảy thêm một xấp giấy tiền nữa vào lửa. Thậm chí người trong thành chẳng còn hơi sức nữa để khóc. Trong đêm chỉ còn sự lặng yên, sự lặng yên kéo dài trong bóng tối, dưới những tấm vải trắng của cờ phướn, màn che như một linh hồn lẩn khuất. Thậm chí Quốc mẫu đã chẳng còn sức để thương khóc đứa cháu thứ hai, bà đã phải được đỡ về phòng nghỉ ngay khi vừa nghe tin dữ. Hai đứa cháu trai liên tiếp ra đi, ngay trong ngày xuân rực rỡ nhất của chúng, đã quật ngã bà - người phụ nữ đã trải qua không biết bao nhiêu dâu bể, đã đối diện không biết bao nhiêu cái chết. Thậm chí họ chẳng còn có thể thương khóc nữa, chỉ còn sự sợ hãi bao trùm lên họ. Sợ hãi. Chuyện gì đang xảy ra, họ tự hỏi. Bệnh đậu mùa trong Gia Định đã giết chết vài người, nhưng ở Diên Khánh xa xôi ấy, điều gì đã quật ngã Phúc Hy? Nhị công tử ngã bệnh rồi mất, người báo tin nói. Một thanh niên khỏe mạnh lại không thể chống chọi được hoàn cảnh ở khu thành? – Một điều phi lý đến không thể tin được.

Vậy là hai cái chết đã diễn ra, với hai người con đầu của chúa Nguyễn. Lần lượt, lần lượt, từng người một. Họ như nghe thấy một lời nguyền từ thinh không. Họ thấy nỗi sợ ập đến từ thinh không. Cô tỳ thiếp Lâm Thức của vị chúa đã thực sự hoảng hốt với sinh mệnh đứa con của mình, Tam công tử Nguyễn Phúc Tuấn. Mọi ánh mắt đổ dồn vào đứa trẻ ấy, như thể chờ đợi nó ngã xuống, ngã xuống để chứng minh cho một lời nguyền độc địa, quái ác đã áp đặt lên gia đình chúa Nguyễn. Để có thể cho nỗi sợ của họ một nguyên cớ, một chỗ dựa. Như thể đang ở trong cơn bão đêm mịt mùng, họ muốn nhìn thấy được sự tàn phá mà nó gây ra, sự chắc chắn của một cái chết đang đến. Một điều gì đó khốc liệt và đương nhiên, ập đến, đổ lên họ. Một điều gì đó có thể chặn đứng hoặc thổi bùng lên nỗi xao động cực độ này.

Khắp Gia Định chìm trong màu tang. Khắp Gia Định tràn tiếng khóc. Cuối cùng, tin chính xác từ Thị Nại cũng đã được báo về, cùng với danh tính người đã mất trong trận, tuy chưa đầy đủ. Và dường như ngay lập tức, ngay sau đó, tin đồn thổi đã lan đi trong thành về một lời nguyền ứng vào gia đình chúa Nguyễn. Qủa báo, tiếng thì thầm lan đi trong Gia Định. Tàn sát vào ngày lễ Phật, đó là sự trừng phạt của thánh thần. Tiếng thì thầm bao trùm Quy thành như những dải băng tang, bùng lên với cái chết của Phúc Hy, và âm ỉ như lửa cháy. Những kẻ gián điệp, không bỏ lỡ cơ hội, đã loan truyền về một “mệnh trời chưa diệt Tây Sơn, trừng phạt họ Nguyễn”. Giờ đây, nàng nghe câu nói ấy, sự nghi hoặc ấy trong lời Ngọc Tú. Cô cũng không biết, chính cô cũng không biết, phải lý giải ra sao với hoàn cảnh này.

Xấp giấy nàng vừa thảy vào lò bắt lửa bùng cháy, những mảnh giấy vàng mỏng quăn lên rồi đen xạm, bốc ra mùi khen khét. Nàng đã thấy mệt mỏi, sau những ngày tất bật quay cuồng và cả nỗi bất an thường trực. Rồi như một người đã học quen với sự khổ đau, nàng đã không còn quay quắt tìm cách lý giải hay thậm chí là chống lại, chỉ có thể chấp nhận. Nàng biết mình chẳng thể làm gì, ngay cả nếu như thực sự có một lời nguyền nào, sự trừng phạt nào của thánh thần hay qủy dữ đang giáng xuống họ. Chẳng thể làm gì.

Ngồi đây, cùng với Ngọc Tú, nàng lại nhớ về những tháng ngày trên Phú Quốc. Định mệnh có sự lặp lại của vòng quay ác nghiệt nào mà nó sắp đặt. Họ lại ngồi bên nhau, đốt giấy tiền trước bài vị của các chàng thanh niên trẻ - chết đi đều vào đúng một độ tuổi. Họ lại ngồi bên nhau trong nỗi bất lực tận cùng và đau đớn vô biên. Chỉ có điều, lần này họ không biết phải thù hận ai, thù hận cái gì? Chẳng còn gì để đổ lỗi, ngoại trừ một định mệnh, một số mạng nào đó mà họ đang phải gánh chịu.

- Có ích lợi gì không? – Nàng chợt nói khi xấp giấy đã tan vào trong lửa. Ngọc Tú quay nhìn nàng. – Chị, mẹ và Vương hậu cầu kinh bao nhiêu lâu, có ích lợi gì không?

Nàng biết giọng mình cay đắng. Nàng cũng biết trước ánh mắt mà Ngọc Tú sẽ nhìn: Ngạc nhiên, giận dữ và thậm chí là choáng váng. Nàng chỉ cười nhạt.

- Thôi đi, không có gì đâu. – Nàng lại nói như thể bỏ qua mọi chuyện, ngoảnh đầu nhìn ra sân. Vốn dĩ từ bao lâu nay nàng đã chưa bao giờ hiểu được họ, ít nhất là trong sự tin tưởng về một thế giới – hoặc một giáo lý, hoặc là bất cứ gì – theo cách của họ. Vì thế, khi họ cầu khẩn và chờ đợi, nàng đã trở về Gia Định. Vì thế, khi họ tiếp tục khẩn cầu và chờ đợi, nàng đã lấy chồng, đã sống một cuộc đời khác cho riêng mình. Vì thế, nàng đã không thể ở cùng với họ, cho rằng họ sẽ nhấn chìm mất nàng. Nguyên nhân mà nàng quyết định lấy chàng vốn chỉ giản đơn là như thế, bây giờ khi nghĩ lại thì nàng biết là như thế. Vì nàng không thể tin vào bất cứ ai, bất cứ điều gì. Nhưng tranh cãi vì việc này là một chuyện cực kỳ vô ích, như thể nói chuyện bằng hai thứ ngôn ngữ khác nhau.

Nhưng trong nỗi bất an này, sự xao động lan khắp Gia Định như lửa cháy, nàng lại thấy một sự mỉa mai cay đắng ngày càng lớn dần. Lời nguyền – còn lời nguyền nào nữa có thể đến với họ, sau những gì đã xảy ra? Lời nguyền, loại lời nguyền nào với những phụ nữ chỉ biết cầu kinh khấn phật và những đứa trẻ? Nàng nhìn Ngọc Tú bây giờ, người phụ nữ đã sống gần hết cuộc đời trong cô độc, một nhan sắc đã bị hủy hoại, tàn phai, vô ích, vô nghĩa lý. Nàng nghĩ tới Vương hậu, tới Quốc mẫu, những người phụ nữ ngoài yêu thương ra thì chẳng còn biết điều gì khác. Và sự mỉa mai đến gần như nực cười lớn dần lên trong nàng. Sự lo sợ của Ngọc Tú về một lời nguyền nào có một sự mỉa mai kỳ lạ. Vừa thành tâm khấn nguyện với thánh thần, họ vừa lo sợ, vừa phải gánh chịu hình phạt vô lý, hoàn toàn bất công và vô lý của thánh thần? Ha, ngay cả thật sự có loại thần thánh nào như vậy, nàng cũng sẽ không bao giờ chịu cúi đầu, chịu kính phục kẻ ấy – Trước thứ sắp xếp phi lý mà kẻ ấy áp đặt lên thế gian này, sau những gì đã xảy ra.

Trong nỗi bất an này, điều làm nàng có thể bình yên lại là hoàn toàn chối bỏ và quay lưng, là hoàn toàn phản kháng và bất tuân. Như vậy, nàng lại có thể trụ vững một cách chắc chắn, một cách kiên quyết giữa những làn gió như một cái cây bám chặt vào mặt đất. Không gì có thể làm nàng lo sợ, và cũng chẳng gì có thể làm nàng lung lay. Đổi lại, nàng trở nên cợt nhạo với mọi điều trên cõi thế, mọi sự xảy ra trên cõi thế.

À, đó lại là điều không thể nói cho người khác, không thể làm cho kẻ khác hiểu được. Nàng cũng chẳng có ý muốn ấy, chỉ là một câu hỏi bật ra, thay cho cái cười chế giễu trước sự lo sợ của Ngọc Tú. Nàng vốn dĩ đã không phải là người biết an ủi kẻ khác. Đã thế, càng ngày nàng lại càng thấy mình trống rỗng. Như một cái lò lửa – nếu như đó là một mô tả chính xác. Một cái lò lửa trống rỗng – vì lửa vốn là trống rỗng – và nóng, và đốt cháy tất cả những gì rơi vào, như cái lò lửa trước mặt nàng đang liên tiếp đốt cháy những xấp giấy, thở ra chỉ toàn những tàn tro đen cháy tan tác theo gió. Nàng thấy cõi lòng mình đang trở thành như vậy, nóng rực và thiêu cháy tất cả cảm xúc đã chạm vào. Nóng, hơi nóng không chỉ đơn thuần là khí hậu cuối mùa hạn của đất phương Nam, nàng thấy nó bốc lên trong lòng mình, như ngọn lửa. Ngay cả điều này nữa, cũng không thể nói cho người khác hiểu được.

- Em biết không, - Ngọc Tú chậm chạp nói, một lúc sau đó. – Con người thật là có nhiều thứ để sợ qúa. Cho nên bao giờ cũng phải bám víu, cũng phải lý giải, cũng phải tìm cho mình chỗ dựa. Tin vào những thứ chính mình cũng không thấy được. Người ta cả đời sống có khi chỉ vì sợ. Nhưng giống như khi bị một vết thương, bị thương chảy máu rồi thì lại nghĩ rằng cơn đau không đáng sợ đến thế. Lần đầu bị thương thì khóc, nhưng những lần sau thì ngoại trừ cắn răng chịu đau, buộc vết thương lại chờ nó lành, thì chẳng làm gì khác được. Ngay cả với cái chết cũng thế. Nó đến, và thật lòng thì nó không đáng sợ đến thế. Em có hiểu không, nó không đáng sợ đến thế? Thật ra thì mọi nỗi sợ cũng đều mang trình tự như vậy.

Nghĩ đến như thế thì mọi sự dường như đều có thể chấp nhận được. Nghĩ như thế thì không cần phải mang một cái vỏ cứng để ngăn lại, phòng chống mọi sự nữa. Cái vỏ ấy là vô ích, mọi kháng cự là vô ích. Nói cho cùng, điều có thể làm khi bị thương là buộc vết thương lại và chữa trị mà thôi.

- Chị còn nhớ anh Phúc Điển không? – Nàng hỏi sau một khoảng lặng im quan sát chị. Câu hỏi làm Ngọc Tú có vẻ giật mình. Cô quay nhìn sang em, ánh mắt thoáng ngỡ ngàng. Nàng mỉm cười. – Nói thật lòng đi, bao nhiêu năm rồi, chị còn nhớ anh ấy không?

Chị còn có thể nhớ chính xác gương mặt anh ấy như thế nào không? Hơi thở của anh ấy? Làn da của anh ấy? Mái tóc? – Nhìn chị mình không chớp mắt, nàng nói, đều đều. – Chị có còn nhớ không? Thật lòng mà nói, chị còn nhớ được không? Không, thật sự là không đâu. Phải không?

Chị bảo rằng không cần phải sợ ư? Chị bảo rằng không cần phải cố chấp à? Chị bảo rằng hãy chấp nhận đi sao? Chấp nhận rằng cuối cùng là chẳng còn gì hết! Ngay cả một chút ký ức cũng không còn, cũng bị xóa sạch. Sạch bách! Chị nghĩ điều đó không đáng để sợ sao? Sống như vậy, sống để cuối cùng chỉ còn có như vậy, không đáng sợ sao? Mất, mất sạch, không còn bất cứ thứ gì, không đáng sợ sao?

Nàng đã không định to tiếng. Nàng đã không định gặng hỏi. Nhưng qủa thật sự nóng nảy của nàng đã không còn có thể kiềm chế được. Ngay cả những thị tỳ đứng gần đó cũng quay đầu nhìn nàng. Nàng cũng đã không định xâm phạm vào cuộc sống riêng tư của Ngọc Tú đến thế. Bao nhiêu năm, nàng đã không hỏi đến Lê Phúc Điển, đến ký ức của chị mình về cuộc hôn nhân ngắn ngủi này. Cô nhìn nàng, trong sự giận dữ lại có vẻ đau thương, nét đau thương như của một người bị trúng tên. Và nàng biết, nàng đã đánh trúng vào vết thương ấy, nơi nhược yếu nhất của nó. Nơi nhược yếu nhất của tình cảm con người: Sự lãng quên.

- Xin lỗi… - Nàng ấp úng nói. Nhưng không còn kịp nữa, Ngọc Tú đã đứng lên, bước nhanh ra ngoài. Không đuổi theo, nàng ngồi thừ người cạnh lò lửa, lừ mắt nhìn những thị nữ khiến họ phải quay đi.

Nàng thở ra. Sự nóng nảy của nàng trong những ngày này khiến cả những đứa con cũng phải đâm ra sợ mẹ, sợ sự bùng nổ bất cứ giờ khắc nào. Nhưng sự bộc phát ấy mau đến cũng mau qua, và mỗi lần lại làm cho sự hối lỗi trong nàng nặng thêm một chút. Trong những ngày này, nàng lại liên tục gây ra tổn thương cho người bên cạnh. Dường như nàng đã không còn giữ được nữa, sự bình tĩnh đã từng có. Trong sự an toàn chắc chắn mà nàng tìm được bởi thái độ chối bỏ và quay lưng, nàng lại có ý muốn – không, ý thức – xóa bỏ và hủy hoại, một điều gì, một thứ gì, nhiều điều và nhiều chuyện. Ngọn lửa đã rừng rực trong nàng, kêu gọi được phá bỏ và hủy hoại, lấp đầy sự trống rỗng trong lòng nàng bằng hơi nóng thiêu đốt. Nàng cũng không biết, chính nàng cũng không biết, phải ngăn cản mình bằng cách nào. Dường như từ thái cực này nàng bị đẩy qua một thái cực khác. Sau mỗi lần gây chuyện là mỗi lần nàng lại thấy lạnh lòng. Như bây giờ, nhìn bóng Ngọc Tú đi qua khoảng sân tối, chiếc áo nâu gần như chuyển màu đen thẫm trong đêm, nàng thấy ghét mình đến cực độ.

Nguyễn Phúc Thăng đi thẳng đến chỗ nàng ngồi khi vào điện thờ. Anh ta cũng có vẻ hốc hác hẳn đi sau những sự việc liên tiếp xảy ra. Bây giờ, anh ta là người trông coi hoàn toàn Gia Định, là người gánh vác toàn bộ cơn rối loạn và sợ hãi này. Anh ta đến thẳng chỗ nàng đang ngồi, thậm chí không dừng lại thắp cho Phúc Hy một nén nhang. Nhìn thái độ trên gương mặt Phúc Thăng, nàng biết có chuyện không hay xảy ra.

- Nguyễn Văn Thoại từ Vạn Tượng bỏ về. – Nguyễn Phúc Thăng nói ngay khi vừa ngồi xuống đối diện với nàng bên kia lò lửa. Nàng nhướng mày. Nguyễn Văn Thoại lo việc cùng Vạn Tượng đánh vào Nghệ An, đáng lẽ anh ta phải rất bận rộn vào khoảng thời gian gió nồm sắp thổi này. – Anh ta nói việc ở Bắc Hà lại không thuận. Vũ Bá Diên và Đinh Đạt Biểu bị quân Tây Sơn giết rồi. Bắc Hà phòng thủ nghiêm mật, khó lòng đánh sâu vào. Những tổ chức ngoài ấy cũng bị phá, tinh thần mọi người rất dao động. Quân ta ở Vạn Tượng không còn được tiếp ứng. Nguyễn Văn Thoại tự ý bỏ về lần này là để nói chuyện với chúa công. Nếu việc tấn công vẫn cứ chùng chình, không tiến lên được, e rằng việc ở Bắc Hà sẽ hỏng cả.

Dù đã được giản lược bớt, sự nghiêm trọng trong lời nói của Nguyễn Phúc Thăng nàng vẫn nhận thấy được. Chuyển biến ở Bắc Hà phải thực sự xấu đến mức nào thì Nguyễn Văn Thoại mới bỏ về Gia Định đòi gặp cho được chúa Nguyễn? Hai viên Khâm sai Chiêu thảo sứ tiếp theo của họ bị giết, chỉ trong chưa đầy một năm. Bắc Hà đã chứng tỏ sự phòng ngự chặt chẽ của nó. Và nếu mất đi mặt trận Nghệ An, Thanh Hóa, toàn bộ lực lượng viện binh Bắc Hà đổ xuống miền Nam thì họ không còn cách nào chống đỡ.

- Quân ta thế nào rồi, Quốc thúc? – Nàng hỏi. Nàng yêu cầu được biết. Không còn Phúc Cảnh, người mà nàng có thể hỏi để biết tường tận sự thật chỉ là Nguyễn Phúc Thăng. Trong một khoảnh khắc, anh ta tránh ánh mắt của nàng.

- Sau trận Thị Nại, Võ Văn Dũng đưa quân về Bình Định. – Sau một lúc ngần ngừ, anh ta cũng quyết định nói với nàng. – Dù Nguyễn Văn Trương đã đốt kho Cổ Lũy, chiếm được dinh Quảng Nam, quân ta vẫn chưa tiến lên ở phía Nam Quy Nhơn được. Tống Viết Phúc bị phục binh ở Thạch Cốc, mất đến ba Vệ úy, một Phó Thống chế. Tên Phạm Văn Điềm quấy rối Hội An, hết đuổi Lưu trấn đến giết chết Lưu Tấn Hòa. Thượng đạo tướng quân Nguyễn Long cũng đã bị phục binh giết chết. May mà Lê Chất đã lấy lại Hội An, đuổi Phạm Văn Điềm chạy đi.

Trong một lúc, nàng đã không thể nói được gì. Những ngày qua, qúa bận rộn với đám tang mà nàng đã không để tâm đến tình hình chiến trận nhiều như trước. Có vẻ những tin đồn mà gián điệp Tây Sơn tung ra trong Gia Định cũng có sự xác đáng. Thượng đạo tướng quân Nguyễn Long, người duy nhất còn lại của đội quân Lương Sơn tá quốc, người đã giữ con đường thượng đạo trong suốt hai mươi năm không để Tây Sơn đánh qua, đã chết. Nàng biết cái tin này sẽ gây rung chuyển ra sao ở Thị Nại. Bây giờ, thêm Nguyễn Văn Thoại và tin xấu đến từ Bắc Hà, con đường tiến lên của họ dường như đã bị bịt kín.

- Sao lại có thể như vậy? – Nàng hỏi một câu mà tự biết mình ngớ ngẩn. Nhưng đó là điều duy nhất mà nàng có thể thốt ra.

- Tuy đã tiêu diệt thủy quân Tây Sơn, quân bộ chúng lại càng tập trung nhiều hơn về Bình Định. Địa thế ấy, lực lượng ấy vượt hơn hẳn chúng ta. – Nguyễn Phúc Thăng lặng lẽ đáp lời nàng. – Vì thế chúa công mới gọi tập trung thêm quân. Nhưng vẫn không thể đủ. Chúng đã định quyết tử cùng ta.

Nàng lại chỉ có thể gật đầu. Tập trung quân, đó là việc cuối cùng mà Phúc Cảnh đã làm trước khi ngã bệnh. Thêm một vạn dân đinh nữa của Gia Định lại được đưa ra trận, kể cả lính đồn điền vốn được miễn quân dịch. Nhưng vẫn không thể đủ.

- Có tin của Bình Định không? – Nàng cố gắng lắm mới có thể mở miệng hỏi, thực sự mà sợ câu trả lời. Nguyễn Phúc Thăng lần này quay nhìn ra khoảng sân bên ngoài một lúc rồi mới trả lời.

- Nghe rằng vẫn không có chuyển biến lớn. Nhưng dự kiến lương trong thành cũng vào lúc khó khăn rồi. Thành đã bị vây gần một năm rưỡi còn gì.

Nàng không nhận ra tay mình đã nắm lại cho đến khi những góc cạnh của xấp giấy bị vò nát đâm vào lòng bàn tay. Nàng nhìn Phúc Thăng một lúc lâu, rất lâu, như thể đang chờ đợi anh ta nói thêm điều gì khác, bất cứ điều gì. Qủa thật rồi thì anh ta cũng lên tiếng.

- Nhưng việc ở thành Bình Định không phải qúa lo. Chúa công nhất quyết không để mất Tham thặng. Ngộ nhỡ có sự bất đắc dĩ…

- Không bao giờ đâu. – Nàng ngắt lời Phúc Thăng, nhận ra ý anh ta muốn nói. – Con người ấy không bao giờ chịu hàng đâu.

- Không, ý ta là… Có khi không phải hàng mà cũng có thể thoát ra được. – Nguyễn Phúc Thăng lắc đầu, ra vẻ như thanh minh. Nàng im lặng.

Ngọn lửa băng giá lại rít lên trong nàng thanh âm cuồng nộ. Nàng nghe rõ thứ tiếng ấy âm u vang trong tai, trong não mình cùng một khối đè tràn ứ tâm can. Không bao giờ đầu hàng, nàng hiểu rõ con người ấy, sự ngang ngạnh bướng bỉnh của chàng ta, sự cố chấp của chàng ta. Thậm chí, nàng nghi ngờ rằng chàng sẽ chấp nhận chạy trốn, chạy khỏi vị trí mà chàng đã nhận, ngôi thành mà chàng đã hứa giữ. Chàng là người coi trọng lời hứa của mình hơn hết thảy. Hơn hết thảy.

- Quốc thúc, chú có thể làm một việc, được không? – Nàng nói, chồm hẳn người qua ngọn lửa. Nàng thậm chí không để tâm đến một lọn tóc mình đã rơi vào lửa, cháy khét. – Chú đích thân đến Thị Nại để nói với chúa công về chuyện Nguyễn Văn Thoại. Và chú nói với chúa công, bảo với ngài ấy nhắn cho Tham thặng rằng: Thế nào cũng phải thoát ra. Thoát ra đi, không cần phải giữ Bình Định nữa. Nếu ngài ấy nói, nhất định Tham thặng sẽ nghe. Lệnh giữ Bình Định là của ngài ấy, chỉ có ngài ấy mới bảo Tham thặng được.

Nàng nhận biết rõ ánh mắt mà Phúc Thăng đang nhìn mình. Thương cảm, gần như là thương hại. Nàng mặc kệ, nàng bất chấp. Nàng thậm chí không cần biết Bình Định sẽ ra sao, tình thế chiến trận sẽ như thế nào. Mọi điều mất đi họ đều có thể lấy lại. Thậm chí, nàng không cần đến cả Phú Xuân lẫn cơ nghiệp họ Nguyễn, nàng không cần biết đến nó, chỉ cần được sống tại nơi đây, Gia Định này. Cùng với chàng.

Nàng biết sự thương hại này có ý nghĩa gì. Dù có là lời vị chúa nói ra, mọi điều họ quyết trên chiến trận dựa vào tình thế chứ không thể chỉ là cảm tính. Nàng đang van xin anh ta một chuyện gần như là tội ác. Tội lỗi, khi nàng đang bảo anh ta che giấu việc của Nguyễn Văn Thoại – cái tội sẽ dẫn đến án chém đầu cho bất cứ ai mà chỉ là Quốc thúc của chúa Nguyễn mới có thể tránh được. Tội ác, khi hậu qủa nó gây ra có thể làm thay đổi cả chiến trận. Quân tiếp viện Bắc Hà có thể đè bẹp đội quân đang giữ Quảng Nam của họ dễ như trở bàn tay.

- Không thể được. – Nguyễn Phúc Thăng lắc đầu. Giọng anh ta cứng ngắc. – Nhưng ta sẽ đích thân đến nói chuyện với chúa công. Nhất định ta sẽ chuyển lời cho chúa công. Lần này ta sẽ đi.

Nàng thả rơi người xuống trên hai chân qùy gập, vẫn trân trân nhìn Nguyễn Phúc Thăng. Chuyển lời? Anh ta có thể chuyển lời gì? Anh ta có thể chuyển tất cả đau thương này đến cho Thị Nại? Anh ta có thể chuyển tiếng thét gào này đến cho Bình Định? Anh ta có biết rằng tất cả những lời nàng nói ra với chàng đều là vô ích, vô nghĩa lý? Anh ta có biết nàng là điều cuối cùng chàng nghĩ tới khi có việc cần quyết định? Không, nàng cần một tiếng nói khác, một thế lực khác.

- Đàn ông đều như thế, phải không? – Nàng nói, cuối cùng. Nàng nghe hơi thở đắng ngắt qua cổ như thể vừa từ đáy nước thoát lên. Giọng nàng nghe như của một người xa lạ. – Phải, vì thế mà Quốc thúc mới có thể giả chết bỏ đi. Dù có thế nào, dù có thế nào thì tình cảm chúng tôi cũng đâu quan trọng với các người. Các người là bọn khốn kiếp!

Từ những lời thì thầm, nàng đã chợt quát lên. Những cung nhân canh linh cữu mơ mơ màng màng trong đêm bật dậy hoảng hốt. Hất tung cả lò lửa đốt giấy tiền sang bên, nàng đứng lên, nhìn xuống Nguyễn Phúc Thăng vừa kinh ngạc vừa bối rối. Gạt bàn tay anh ta nắm nàng lại, nàng bất chấp ánh mắt trong điện thờ mà quát không cần hạ giọng.

- Các người đánh nhau vì cái gì, để được gì, hả? Nhìn đi, để được gì? Quốc thúc, ngài nhìn đi! Cháu của ngài giữ thành mà chết vì bệnh đấy. Ngài nhìn đi, khắp Gia Định không còn một bóng dân đinh! Ngài nhìn đi, cái gia đình này còn lại gì? Ngay cả người thân của mình cũng không bảo vệ được thì các người đánh nhau để làm gì, hả? Để người khác phải khóc vì mình thì các người đánh nhau để làm gì, hả?

Tiếng xôn xao vang lên trong đêm khi người ta quay nhìn nhau, chạy đến xem sự ồn ào trong khu điện quàn linh cữu và đứng lại khi thấy đó là nàng. Gió đang thổi những mảnh vải rèm, cờ phướn bay phần phật, tạo nên những hình bóng trắng nhảy múa trước mắt nàng đã mờ đi vì lệ. Nước mắt chảy tràn trên mặt nhưng nàng không buồn lau đi, chỉ trừng trừng nhìn Nguyễn Phúc Thăng. Anh ta chậm chạp đứng lên, đối diện với nàng. Anh ta mím môi, như thể chờ nàng dịu xuống, như thể có điều không thể nói ra. Nhưng nàng chỉ trừng trừng nhìn anh ta.

- Đó là quyết định của Tham thặng. – Cuối cùng, Phúc Thăng kết thúc cuộc đấu nhãn lực của họ. Anh ta quay người đi. – Ta sẽ đến gặp chúa công.

Người đứng trên đường đi của Nguyễn Phúc Thăng vội vàng tránh như thể sợ hãi con người bao giờ cũng mang vẻ rất trầm lặng này. Ngọc Du cắn môi, thấy vị mặn len vào trong cổ. Cơn giận lui dần, và nàng lại đang cảm thấy hối tiếc. Phúc Thăng đã đến tìm nàng để hy vọng tìm một lời khuyên trong tình thế này, ngược lại, nàng chỉ làm mọi sự tồi tệ thêm. Kể cho nàng nghe mọi chuyện, anh ta hy vọng nàng sẽ nghĩ ra cách nào giải quyết, không phải là để nàng la hét và đổ lỗi. Dù có la hét đến vỡ cả lồng ngực, khô cả cổ họng, cũng chẳng thể thay đổi được những gì đang diễn ra. Họ không phải là nàng, không giống như nàng, trong tay họ là hàng chục vạn con người. Họ và nàng vốn đã không thể có suy nghĩ giống nhau.

Mùi khói nhang trong căn phòng ngột ngạt làm nàng cay mắt. Không nói không rằng, nàng cũng bước khỏi điện quàn. Cái chết, cái chết thường trực trong những tháng năm này như đang nhấn chìm nàng vào trong vòng trắng tang tóc của nó, phủ vây cả giấc mơ của nàng với những tiếng kinh cầu ê a, tiếng khóc hời rền rĩ. Khắp nơi trong Gia Định chìm trong cái chết. Quy thành tràn sắc trắng của màu tang. Đám tang Đông cung. Đám tang các tướng lãnh lần lượt bỏ mình. Đám tang Phúc Hy. Và còn tiếp tục không biết đến bao giờ, không biết là ai. Nàng, cũng như mọi người, đã không còn dám nghĩ tới tương lai. Mỗi ngày, họ không dám mở mắt khi trời sáng, sợ phải nhìn thấy màu trắng giăng giăng khắp nơi ấy, sợ phải nhận thêm một tin dữ nữa báo về. Tiếng vó ngựa của lính báo tin đã không còn mang cho họ hy vọng. Họ nghe nó như tiếng chuông báo tử, như tiếng quạ kêu trên tường thành. Phải, những tháng ngày này, đàn quạ đã vần vũ trên Quy thành, bị mùi của cái chết lôi kéo tới. Trong đêm, thi thoảng tiếng chim lại vang lên từ bóng tối, khiến những phụ nữ giật mình hoảng hốt. Thậm chí họ đã không dám ở riêng nữa. Tất cả đã tập trung về Hậu điện của Quốc mẫu, mỗi đêm ôm lấy nhau trong nỗi sợ đến tê cứng cả người và linh hồn cạn kiệt trơ xác như cánh đồng mùa hạn. Những đứa trẻ thậm chí không dám khóc, chúng ngơ ngác nhìn trong bầu không khí ảm đạm này. Những lớp học vẫn được mở, cố gắng duy trì cuộc sống thường nhật, giờ đây lại do cậu Tứ công tử mới mười tuổi dẫn đầu, đốc thúc. Họ như những cái bóng lướt qua các tấm màn trắng giăng khắp thành, họ sống trong những tấm màn trắng như màn sương lung lay trong gió, phủ mờ cả qúa khứ lẫn tương lai. Cái chết cũng đã trở thành qúa mức. Qúa mức, và giờ đây nàng lại không biết phải trốn đi đâu. Ngày xưa nàng đã trốn đi, đã trở về Gia Định; bây giờ thì không thể. Đây là gia đình của nàng, đô thành của nàng, mảnh đất của nàng, thế giới của nàng. Không thể chạy trốn khỏi thế giới, dù có đến vùng đất của sự chết. Mà nàng thì lại không thể làm điều đó. Ngay cả Vương hậu cũng không thể làm điều đó. Dù có trở thành một cái xác khô, họ cũng vẫn phải sống.

Gió bao bọc lấy nàng khi nàng bước ra khoảng sân rộng, khiến nàng khẽ rùng mình. Bầu trời với trăng đang gần tròn, với những ngôi sao và áng mây như muôn kiếp không thể nào thay đổi. Mùi hoa đêm ngọt đắng thay thế cho mùi khói nhang trong điện làm nàng dịu xuống. Nàng thèm rượu. Nàng nghĩ đến bình rượu trong góc phòng, khi trở về có lẽ nàng sẽ phải uống một ngụm. Càng ngày nàng lại càng phụ thuộc vào nó, thứ nước cay cay nồng nồng uống chỉ để uống này. Không còn ai để cản nàng lại hay uống cùng nàng, thứ nước này chỉ là thứ giải cơn khát cháy cả cổ, cả tim họng cho nàng. Vì thế mà nàng phụ thuộc vào nó, như thể nó là điều duy nhất có thể an ủi cho nàng trên thế giới này. Dường như trên thế giới phù du, biến động và bạc bẽo này, thứ cảm giác cay nồng thoáng qua ấy lại là điều có thể xác tín duy nhất. Khi ngay cả chàng, chàng nữa, cũng không thể làm cho nàng tin tưởng. Nàng chưa từng tin, chưa bao giờ. Nàng chưa từng hy vọng, chưa bao giờ. Nàng chưa từng van xin, cho đến bây giờ. Và nàng biết cảm giác ấy gọi là tuyệt vọng.

Nỗi tuyệt vọng đã nuốt chửng nàng, trong những ngày tháng này. Mọi con người trong Quy thành này đã dần bị nuốt chửng. Bốn bức tường thành quây lại thành một nhà giam. Hình vuông tượng trưng cho đất, thế giới của họ biến thành nơi bất khả vãn hồi.

Thậm chí nàng đã không còn nghĩ đến việc bỏ chạy. Chạy đi đâu? Đã không còn nữa, những ngày tháng cũ, khi nàng chạy trốn và gặp chàng, đi trên những dòng nước uốn mình trong lau lách của Gia Định đầy khói lửa hoang tàn. Cuộc đời nàng đã trôi qua, trôi qua. Và nàng đang đứng tại đây, kiệt quệ và mỏi mệt cả trái tim lẫn tâm hồn, cả chờ đợi và hy vọng. Không, nàng hy vọng, nhưng nàng không dám nắm lấy nó. Nàng có cảm giác đã bị hất đến bờ vực, và sẽ rơi. Chỉ cần thêm một chút, một chút nữa, nàng sẽ rơi. Cuối con đường của nàng là vực thẳm.

Trong đêm chợt vang lên tiếng ồn ào. Có ai đó đã la hét. Rất nhiều tiếng chân chạy. Tiếng thanh la vang dội. “Cháy! Cháy!” Tiếng hét dội đến cùng với tiếng thanh la. Giật nảy mình, nàng nhìn quanh, xác định phương hướng của tiếng hét. Khu điện ngoài nằm cạnh cửa thành, nhìn vào trong, nàng thấy ánh sáng đỏ bốc lên từ phía tay phải, cả tay trái và đằng xa. Điện Thái tử, các kho chứa trong thành. Tim nhói lên một cái, nàng nghĩ đến hậu điện, nơi người nhà chúa Nguyễn đang tề tựu.

Nàng chạy về phía tiếng la hét. Đoàn quân trong thành đã ngay lập tức chạy đến với những dụng cụ dập lửa của họ. Náo loạn xảy ra trong khắp thành. Náo loạn bùng nổ trong Hậu điện của Quốc mẫu. Các cô cung nhân tán loạn chạy đi, hét rền rĩ, mọi sự khống chế hay đe nẹt của Từ phi, Quốc mẫu, Nhị phi trở thành vô ích. Những đứa trẻ bám vào nhau la khóc inh ỏi. Từ mọi phòng trong điện, người túa ra, tập trung trong sân, nhìn về phía ngọn lửa bốc từ điện Thái tử mà khóc gào. Ngay cả Vương hậu, người đã không hề thốt ra một tiếng nào trong cả tháng này, cũng đã chạy ra nhìn về phía điện cũ của người con. Ánh lửa nhảy múa trong đôi mắt trợn trừng khô hoảnh của cô như tia sáng từ mắt một người điên.

- Đừng náo loạn nữa! – Nhị phi đang hét, cố gắng khống chế những cô gái trẻ đã phát điên vì sợ đang chạy tán loạn, vò đầu bứt tóc. Trong ánh lửa, cảnh tượng này lại có vẻ giống địa ngục, như bức tranh ngày tận thế mà nàng đã từng thấy của người Tây dương. Kẻ qùy xuống cầu nguyện, người la hét, kẻ khóc gào. Bên ngoài, quân trong thành đang túa ra trên mọi nẻo đường, quyết bắt cho được kẻ đã phóng hỏa. Vừa chạy từ bên ngoài đến chưa kịp lấy lại hơi, nàng chỉ có thể ôm lấy cây cột bên cửa mà nhìn vào. Những đứa con nàng đang ôm nhau đứng trong đám đông, thất sắc nhưng vẫn bình an.

Tiếng ngựa hí vang ngay bên cạnh khiến nàng giật bắn mình. Tứ công tử Phúc Đảm từ bóng tối phi ngựa chạy ra. Cậu bé đã đeo súng trên lưng, cầm trên tay một thanh gươm, ném thanh gươm khác cho Nhị phi đang đứng trong sân.

- Còn ai náo loạn, mẹ cứ chém đầu! – Cậu ta nói với Nhị phi như ra lệnh. Ánh mắt cậu ta cùng thanh gươm vừa được ném xuống khiến những cô cung nhân gần đó đứng khựng lại. – Thấy ai khả nghi thì giết ngay. Con đi đốc thúc chữa cháy.

Cậu ta vừa nói vừa cầm cương ngựa định chạy đi. Nàng vội nắm lấy tay cậu ta.

- Cho ta đi với! – Nàng nói. Phúc Đảm nhìn nàng, rồi gật đầu. Nàng nhảy lên ngựa, sau lưng người cháu, phóng thẳng đến đám cháy đang bốc cao. Nguyễn Phúc Thăng đã có mặt ở đó, đang la hét dập lửa. Lưu trấn thần Gia Định Phạm Văn Nhân cũng đã tới.

- Có chuyện gì vậy? – Phúc Đảm hét lên với Phạm Văn Nhân qua tiếng ồn ào. Lưu trấn thần Gia Định thấy cậu Tứ công tử liền vội vàng đi tới, cúi đầu.

- Có kẻ phóng hỏa, thưa công tử. Các kho của ta cũng bắt lửa, khắp cả bốn phía, may mà phát hiện sớm dập kịp nên không có mất mát. Chỉ có điện Đông cung hoang vắng, phát hiện trễ nên lửa bốc cao. May mà khu này rất ít người ở. Đã cho phong tỏa thành và bảo vệ các điện, công tử đừng lo.

- Khốn kiếp! – Phúc Đảm nghiến răng nói khi nàng tuột khỏi lưng ngựa. Mắt cậu ta nhìn trừng trừng vào đám lửa đang cháy. Không nói thêm tiếng nào, cậu ta quay ngựa phóng về phía cửa thành.

- Chúng đã lọt cả vào thành này. – Phúc Thăng vừa thở vừa chạy ra, nói bằng giọng hụt hơi. – Mấy ngày vừa qua rối loạn, hẳn chúng đã trà trộn vào. Nguy hiểm qúa.

- Bọn khốn kiếp, ngay cả di điện của Đông cung cũng không từ. – Phạm Văn Nhân rời mắt khỏi bóng ngựa của Phúc Đảm, quay lại đáp lời. Đã từng đi theo Phúc Cảnh sang Phú Lang Sa, rồi theo cậu ta ở mọi nơi đến lúc trưởng thành, giữa người Lưu trấn thần Gia Định này và Phúc Cảnh có một tình cảm gắn bó sâu sắc. Ông nói, như nghẹn lời, nhìn trân trân vào đám lửa đang nuốt chửng tất cả những gì còn lại của khu điện Phúc Cảnh từng ở.

Nàng nhìn theo ông ta đến những cờ phướn trắng đang cháy xém, đỏ rực rồi đen nhẻm, thành than bốc lên trên bầu trời. Nàng nhìn những cột, những trụ, những mái, những hành lang và cửa sổ bị lưỡi lửa liếm vào, chìm trong ánh sáng chói chang. Nàng như vẫn nhìn thấy bước chân cậu bé Phúc Cảnh bước đi trên bậc thềm ấy, từ ngày mười lăm tuổi. Nàng như vẫn nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của cậu ta khi đưa tay vẫy từ trong cửa sổ. Nàng như vẫn nhìn thấy gia đình nhỏ của cậu ta tụ tập dưới hành lang này ngắm trăng tròn. Trăng đang tròn, chiếu sáng mặt đất cùng ánh lửa. Lửa và trăng chói sáng trên mặt hồ. Giàn hoa dâm bụt đã ngã xuống, sắc đỏ nát bấy trên cỏ. Vũ điệu của lửa nhức nhối, quay cuồng.

Ánh mắt Nguyễn Phúc Thăng chợt bắt gặp nàng. Trên mặt nàng có vẻ gì đó khiến anh ta phải quay đi. Nàng nghĩ đến cuộc nói chuyện vừa nãy của họ, sự nổi nóng vừa rồi. Lạ thay, trong đám lửa này, hơi nóng này, trái tim nàng chỉ ngày càng lạnh, ngày càng như sắt lại. Nàng ngơ ngẩn nhìn lửa, nhìn tất cả những bóng hình ký ức của người cháu tan biến, bị xóa sạch, thành than bay lên trên bầu trời. Bầu trời vẫn thế, trăng vẫn sáng, gió vẫn thổi, sao vẫn nhấp nháy, mây vẫn bay như số kiếp không thể thay đổi.

Nàng không nghe thấy tiếng la hét, nàng không nghe thấy tiếng thanh la, nàng không nghe thấy tiếng gươm khua và bước chân vội vã. Tất cả lùi xa, lùi xa dần trong tâm trí nàng, tựa như thanh âm từ tiền kiếp dội về.

Nàng nghĩ đến biển và những cơn sóng không ngừng xô trên mặt nước. Và cõi lặng yên chìm sâu dưới nó. Cõi lặng yên ngạt thở dưới muôn trùng đáy nước.

- Thành Bình Định sắp hết lương?

Dù chỉ rất nhỏ, rất nhẹ nhàng, có điều gì trong câu hỏi của chúa Nguyễn, lời nói của chúa Nguyễn khiến tim người bên cạnh phải đập hụt một nhịp. Người đưa tin từ thành Bình Định ngẩng đầu lên nhìn ngài ta chồm hẳn người tới. Vết hằn sâu giữa lông mày ngài ta. Anh ta lại cúi đầu.

- Vâng, Tham thặng ước lượng rằng chỉ được chừng tháng nữa thôi, thưa chúa công. – Anh ta lặng lẽ nói. – Hai tướng Hoàng Công Thành, Nguyễn Văn Phát đã mắc bệnh qua đời rồi, thưa chúa công.

Chúa Nguyễn ngồi dựa hẳn ra tấm gỗ đằng sau. Chếch bên cạnh, Nguyễn Phúc Thăng khoanh tay nhìn ngài ta. Đây có lẽ là đòn cuối cùng với vị chúa. Hai tướng Thống chế còn lại cũng đã chết, sau Đoàn Văn Cát. Cơ may để thành Bình Định có thể đánh ra đã tan thành bọt nước. Chỉ còn Võ Tánh cùng vài viên tướng Hậu quân giữ thành Bình Định, thậm chí sinh mạng khu thành cũng trở nên mong manh như ngọn nến trong gió.

Đưa tin từ Gia Định đến, người Quốc thúc đã không nghĩ tới tình trạng hoang mang hiện tại trong quân đóng tại Thị Nại. Có một sự rối loạn nào đó đã xảy ra mà anh ta không xác định được. Giờ đây, nhìn ánh mắt Đặng Đức Siêu, Nguyễn Phúc Thăng dường như đã lờ mờ đoán ra điều đó. Ánh mắt Đặng Đức Siêu đầy chê trách và bất mãn lúc người lính đưa tin được cho ra ngoài. Ông ta quay lại phía vị chúa, nói mà không buồn hạ giọng.

- Ngài phải quyết định thôi, chúa công! – Đặng Đức Siêu gằn giọng. – Còn chùng chình thêm nữa, quân của ngài sẽ tan vỡ. Thành Bình Định không cứu được mà quân đội của ngài sẽ tan vỡ mất, chúa công.

Vị chúa không trả lời ông ta. Ngài ta tựa trán vào bàn tay, mắt nhắm lại. Đặng Đức Siêu đứng dậy, ông có vẻ như đã mất hết kiên nhẫn.

- Ngài đã mật báo cho Nguyễn Văn Trương chiếm Quảng Nam cả hai tháng nay rồi, sao vẫn chưa quyết định đi, chúa công? Ngay từ đầu ngài đã biết phải làm gì rồi, sao chưa quyết định đi, chúa công?

- Không thể được. – Vị chúa mở mắt, gằn giọng. – Khi đó, quân Tây Sơn sẽ tập trung lại cả ở Bình Định. Chưa tìm được lối giải vây cho Bình Định, làm như vậy là tiêu diệt Bình Định, ông không hiểu sao?

- Chưa tìm được lối giải vây thì ngài quyết định hy sinh cả đoàn quân sao, chúa công? – Giọng Đặng Đức Siêu gay gắt hơn cả chúa Nguyễn. – Ngài gửi thêm quân ra Vạn Tượng, nhưng được bao lâu nữa trước khi bọn họ thất vọng mà bỏ ngài, trước khi bọn họ bị tiêu diệt hết? Lúc ấy chúng ta có đương đầu nổi với cả đội viện binh từ Bắc Hà không? Trong lúc Phú Xuân đã hoàn toàn bỏ trống rồi, chúa công! Hoàng cô của ngài thậm chí còn vẽ cả địa đồ phòng thủ Phú Xuân cho ngài rồi, ngài còn đợi gì nữa? Ngài đợi đến lúc chúng nhận ra sai lầm của mình, phản công để tiêu diệt chúng ta à?

- Im đi! – Chúa Nguyễn quát. Ngài ta dường như cũng đã mất hết bình tĩnh. Nắm đấm của ngài ta hất bay cả chiếc bàn kế bên. Đặng Đức Siêu cũng không chịu thua. Ông ta đến trước mặt vị chúa, nghiêng đầu mà nhếch mép rít lên.

- Chúa công, tất cả những chuyện ngày hôm nay xảy ra vì sai lầm của ngài! Chúng ta mắc kẹt ngoài Quy Nhơn này cũng vì sai lầm của ngài. Rồi ngài định làm gì đây, chúa công? Mất thêm vài vạn mạng người nữa để cứu cho được Tham thặng tướng quân của mình à? Ngài đánh đổi tất cả vì anh ta để rồi tất cả cùng ôm nhau chết hay sao? Con trai ngài chết rồi đó, hết đứa này đến đứa khác, ngài còn gì để đánh đổi nữa không, chúa công?

Đôi mắt chúa Nguyễn ngầu đỏ khi ngài ta nắm lấy cổ áo Đặng Đức Siêu, tay kia chạm đến đốc kiếm bên hông. Nguyễn Phúc Thăng vội vàng đứng dậy, gạt hai người ra. Anh ta đứng cản giữa viên quan Tham mưu và chúa Nguyễn, lắc đầu.

- Lúc này là lúc cần suy nghĩ cho bình tĩnh, sao lại trở thành như thế?

- Người cần bình tĩnh là ngài ấy. – Đặng Đức Siêu gài lại cổ áo, lầm bầm. – Đã có ai nói với ngài chưa, chúa công, thứ gì ngài cũng muốn thì sẽ không được gì đâu?

Chúa Nguyễn hơi ngẩng lên, cau mày nhìn Đặng Đức Siêu. Nguyễn Phúc Thăng vội vàng đẩy ông ta ra ngoài. Đi ra đi, anh ta nói. Khi đã khép cánh cửa sau lưng, anh ta mới quay nhìn vị chúa, lúc này đã ngồi xuống ghế, tựa trán vào lòng bàn tay che ngang mặt. Ngài ta có vẻ mệt mỏi, cực kỳ mệt mỏi.

- Chúa công… - Nguyễn Phúc Thăng mở lời, ngập ngừng. Anh ta cũng không biết phải nói gì.

Chúa Nguyễn để thoát ra một tiếng cười qua những kẽ ngón tay.

- Không được để Tham thặng mất, Quốc thúc đã biết những gì chú yêu cầu là thế nào chưa? – Ngài ta nói, giọng mỏi mệt. Phúc Thăng đến bên bàn, tới trước mặt vị chúa, ngồi xuống, đưa mắt nhìn quanh phòng.

- Đó là vì mọi người đã có cách giải quyết khác đấy thôi. – Nguyễn Phúc Thăng nói, một lúc sau. – Chiếm dinh Quảng Nam hai tháng trước, đưa lính từ Gia Định đến, đóng thêm tàu thuyền các loại… Chúa công đã có phương cách, nhưng chưa định làm, phải không? Vân Dương ni cô ở Phú Xuân đã đưa tin gì vậy?

- Phú Xuân hoàn toàn bỏ trống. – Chúa Nguyễn dựa lưng ra sau, nhìn người chú. – Sau trận Thị Nại, chúng đã quyết chiếm lại Bình Định, rút hết quân đến.

À, Phúc Thăng thốt khe khẽ trong cổ. Khi nghe những lời cãi cọ của Đặng Đức Siêu và vị chúa, anh ta cũng đã đoán ra tám chín phần. Và anh ta lấy làm ngạc nhiên.

- Không còn cách nào khác đâu, chúa công. – Nguyễn Phúc Thăng lên tiếng sau hồi lâu im lặng. Chúa Nguyễn đưa mắt nhìn anh ta. Không còn sự giận dữ trong mắt ngài ta, chỉ có nét u ám. – Nhưng chúng ta vẫn còn có thể cứu được Tham thặng. Ngài bảo Tham thặng trốn ra đi, chúa công. Chỉ có ngài mới bảo được Tham thặng. Tìm một lý do nào đó, bảo Tham thặng tìm cách ra khỏi thành đi, chúa công.

Chúa Nguyễn vẫn nhìn người Quốc thúc, không đáp. Bằng mọi giá phải cứu Tham thặng, Nguyễn Phúc Thăng đã từ Gia Định đích thân đến Thị Nại chỉ để nói một câu như thế. Người Quốc thúc, người bạn từ thưở nhỏ của ngài ta đã qùy xuống giữa phòng chỉ để nói một câu như thế. Yêu cầu duy nhất của anh ta trong suốt những năm tháng dài. Anh ta đã mang theo mùi của cái chết từ Gia Định đến. Bắc Hà, và ngay cả Gia Định nữa, đang trong tình trạng có thể tan vỡ bất cứ lúc nào. Nhưng anh ta không nói về điều đó. Chúa công cứu Tham thặng đi, anh ta van xin, người Quốc thúc này van xin. Để rồi bây giờ chính anh ta bảo rằng họ phải tìm một phương cách khác.

- Chỉ có ta mới bảo được Tham thặng? Các người đang tìm cách đẩy mọi trách nhiệm cho ta, phải không? – Cuối cùng, ngài ta cười.

Miệng ngài ta nhếch lên thành một cái cười mai mỉa. Mắt ngài ta u ám. Trong một khoảnh khắc, Nguyễn Phúc Thăng cảm thấy như ngài ta muốn quát lên. Nhưng ngài ta chỉ im lặng, nụ cười đông cứng trên khuôn mặt.

64

Khi Nguyễn Phúc Thăng đột nhiên tỉnh thức, trời vẫn còn tối, ánh sáng bên ngoài lọt qua cửa sổ mới lờ mờ xanh. Ngẩn người một lúc, anh ta nghe tiếng sóng rì rào dội đến mà nhớ ra rằng mình đã ở Thị Nại. Không thể dỗ lại cơn buồn ngủ đã tiêu biến, anh ta trở dậy, khoác áo, rửa mặt và đi ra ngoài bãi, định ngắm bình minh. Bình minh trên bãi biển có sự lặng yên u tịch mà bình minh trên rừng núi, trong phố xá không thấy được. Bãi biển nằm cách nơi đóng quân chỉ có một đoạn ngắn, đi trên con đường hằn dấu bánh xe chồng chéo lên nhau chừng trăm bước là tới. Khi Phúc Thăng đến bờ biển, đầu bãi cát, mặt trời mới chỉ vừa ló dạng sau đường chân trời mù mịt mây. Đầu bãi cát, nơi mà cát còn lẫn vào trong đá sỏi, hàng dương cùng với dừa và muôn loài cây anh ta không biết tên vẫn còn rì rào, rì rào trong gió xanh sẫm. Con đường đi qua rặng cây cắt đứt một cách đột ngột đầu bãi cát. Bờ biển chỉ toàn cát trắng chen lẫn vài hòn đá to trải trước mặt anh ta, vẽ nên một đường cong cong tràn ra hai bên, mất hút dưới chân những ngọn núi.

Ánh sáng vẫn còn xen lẫn với bóng tối ấy khiến Phúc Thăng mất một lúc mới nhận ra hình bóng trên bãi biển – Nói đúng hơn, cái hình dạng nằm trên bãi cát, ngay sát mép nước mà sóng không ngừng xô vào, vẽ nên một vòng cung sẫm màu trên nền cát trắng. Một hình dạng tối sẫm mang dạng của một chiếc thập giá – mà ngay lập tức, anh ta nhận ra rằng vì người đó dang hai tay ra. Những đường nét bị xóa mờ bởi cát đã làm cho anh ta nhìn con người ấy thành một hình thập giá. Phải, đó là một con người. Một người đàn ông nằm trên bãi biển, gần sát mép nước, dang hai tay mà ngửa mặt nhìn lên trời.

Khi Phúc Thăng lại gần, anh ta nhận ra đó chẳng phải là ai xa lạ. Chúa Nguyễn Phúc Ánh nằm trên bờ cát, chỉ đưa mắt nhìn khi anh ta đến, khi nghe bước chân anh ta. Bãi biển này nằm trong tầm kiểm soát của quân đội, và ngoại trừ ánh sáng vẫn không tắt trên các vọng gác nằm tít trên đỉnh núi cao nhìn ra biển, từ các đồn lũy lác đác người qua lại, không sự hiện diện nào của con người xuất hiện ngoại trừ họ. Những con còng ló đầu qua các lỗ tròn nhỏ mà chúng đục trên cát, rón rén chạy qua họ. Gió vẫn còn lạnh, nhưng vị chúa đang cởi trần, chỉ mặc một chiếc quần ngắn. Ngài ta có vẻ như vừa từ trong nước lên. Nước phủ ướt ngài ta vẫn chưa khô kịp trong làn gió rào rạt thổi lúc bình minh.

Ngài ta chỉ hơi ngoảnh đầu nhìn Phúc Thăng đến bên. Người Quốc thúc cũng chỉ mặc một chiếc áo ngắn, quần đã xắn lên, tóc búi vội, đi chân đất. Ngài ta có vẻ thú vị khi nhìn thấy Phúc Thăng đã đi trên con đường đến bờ biển trong bộ dạng này. Hai bàn tay ngài ta lẫn vào trong cát, lòng bàn tay lật ngửa. Cát vẫn còn âm ẩm quanh ngài ta.

- Chúa công đi bơi sớm thế. – Phúc Thăng mở lời khi ngồi xuống cạnh vị chúa. Mặt trời vẫn chưa tỏ, sương mù ngoài biển vẫn chưa tan. Vị chúa không trả lời anh ta, ngài ta chỉ cười, nhìn theo ánh mắt anh ta đến quầng sáng nhợt nhạt cuối trời và biển. Mặt trăng vẫn còn in rõ hình dạng của nó trên nền trời.

- Quốc thúc này, chú cưới vợ đi. – Ngài ta chợt nói. Câu nói chẳng biết đã xuất hiện từ đâu chợt vọng lên từ ngài ta. Nguyễn Phúc Thăng ngạc nhiên quay nhìn vị chúa. Ngài ta cười nhẹ. – Bao nhiêu năm rồi, chú cứ định ôm ấp qúa khứ đến bao giờ? Khi mọi chuyện yên ổn rồi, chú cưới vợ đi.

Nguyễn Phúc Thăng không lên tiếng. Anh ta lại quay đầu nhìn mặt trời đã bắt đầu chuyển hồng. Nhưng chúa Nguyễn không để câu nói của mình rơi vào quên lãng như thế. Ngài ta lại tiếp tục nói, lần này bằng giọng trầm hơn.

- Nghĩ ra thì chúng ta, tất cả chúng ta, phải học cách bỏ qua qúa khứ thì mới sống được. Từ lúc mười ba tuổi, chú đã sống như thế này, chẳng phải là uổng phí sao? Chú cứ sống như thế này thì chỉ làm những kẻ như Trương Phúc Loan vui mừng thôi.

Nguyễn Phúc Thăng cười khẽ. Anh ta đổi chân gác, nằm xuống bên vị chúa, cũng ngẩng nhìn trời. Triều đang xuống, nước đã rút hắn một đoạn dài cách xa họ. Những chiếc vỏ sò ốc đâm nhoi nhói dưới lưng.

- Phải rồi, khi ấy Trương Phúc Loan cho thần ra trận cốt là để triệt hạ. – Nụ cười trên môi Phúc Thăng vẫn mang vẻ bình yên. – Định vương là con thứ mười sáu mà được lên ngôi, chẳng xét tới cả thứ bậc lẫn dòng dõi thái tử, vậy là bất cứ ai cũng đều có khả năng gây nguy hiểm với ngôi vị ông ta, nhất là khi Đông cung Dương khởi loạn. Mười ba tuổi làm tướng ra trận, đối đầu với Tây Sơn, chúa công có nhớ chúng ta đã phản ứng thế nào khi nghe tin ấy?

- Chúng ta đã tổ chức một buổi tiệc, Hồ Dương công nương cũng có tham gia. – Chúa Nguyễn đáp lời Phúc Thăng, mắt ngài ta dõi theo một cánh chim sớm bay ngang qua. – Chúng ta cầu chúc cho Quốc thúc ra trận yên lành.

- Có lẽ vì thế mà thần sống được. – Phúc Thăng lặng lẽ cười. – Sau này, hai mươi năm sau này, sống giữa các dòng sông, thần chỉ nhớ duy nhất điều mà chúa công nói ngày ấy: Chú phải sống. Chú không được để Trương Phúc Loan đánh bại, làm hại. Không kẻ nào có thể đánh bại, hãm hại chúng ta. Dù thế nào, dù không kẻ nào muốn chúng ta được sống, chúng ta cũng phải sống.

Gần ba mươi năm qua rồi. – Nguyễn Phúc Thăng nói tiếp sau một lúc lặng im. Họ nghe tiếng sóng xô đến dưới chân, tiếng biển rì rầm dưới lưng. Rất nhanh, mặt trời đã ửng đỏ. – Bây giờ nhớ lại, những ngày trong cung Dương Xuân ấy thật đáng sợ. Những cuộc ám sát liên tục diễn ra. Đến ngay cả chúng ta cũng không biết khi nào mình bị vứt xuống sông Hương. Khi có chuyện xảy ra, Trương Phúc Loan liền ngay lập tức cử thần ra trận, thần nghĩ: “Thế là mình chết chắc rồi”. Chẳng có ai bảo vệ chúng ta, cảm giác ấy thật là đáng sợ.

- Phải, nhiều khi ta nghĩ các anh của ta mất sớm vì bị đẩy đi đầu như thế. – Chúa Nguyễn chậm chạp nói. – Bị đẩy đi, lên đầu trận tuyến, và chết. Từng người một, lần lượt từng người một. Cuối cùng là Đông cung Dương và Định vương. Khi ấy, dòng họ ta đã gần hết sạch cả người. Chúng ta đã bị giết như thế.

Họ lại lặng im, nghe tiếng xôn xao của biển và bình minh. Phúc Thăng chờ đợi, chờ đợi điều mà vị chúa chưa nói ra. Nhưng ngài ta không có ý định tiếp tục, ngài ta chỉ thở dài, cất bàn tay khỏi cát, đưa về phía mặt trời. Nắng chiếu qua những kẽ ngón tay, biến da thịt thành gần như trong suốt. Ngài ta nheo mắt như thể đang quan sát mạch máu chạy trong bàn tay mình.

- Nhưng những kẻ kia thì biết gì đến chuyện ấy? Chúng gào thét “giết hết họ Nguyễn”, chúng làm như chúng và ta là kẻ cừu thù từ mấy đời mấy kiếp. Ta thật nhiều khi vẫn không hiểu nổi. Chúng ta đáng giết đến thế ư?

Ngài ta bật ra tiếng cười. Tiếng cười khô khốc, ngắn và lạnh. Vài con còng bên cạnh sợ hãi rụt đầu vào hốc cát. Những ngón tay vị chúa nắm lại, ánh sáng hồng trượt qua bàn tay ngài ta, loang khắp trên những đám mây. Ngài ta chống tay ngồi dậy, lưng vẫn còn trắng cát. Cát phủ trắng cả nửa mái tóc ngài ta. Từ đằng sau, Phúc Thăng nhìn thấy một lớp bụi cuốn theo vị chúa.

- Đặng Đức Siêu đã nói với ta rằng, chúa công phải biết sợ trời đất đi. Qủa là như thế thật. – Vị chúa đột ngột chuyển hướng câu chuyện. Ngài ta lấy chiếc khăn bên cạnh phủi cát trên tóc và thân thể, khoác áo vào. Nước biển đã khô, để lại một lớp muối mỏng trên chân mày ngài ta. – Nếu ta biết thận trọng hơn, mọi sự đã không rắc rối đến thế. Dù việc này có phải là thánh thần nào gây ra hay không, người ta cũng đã tin như thế. Thật là phiền phức.

- Chúa công nghĩ không phải là do quyền phép nào à? – Nguyễn Phúc Thăng mỉm cười hỏi, nhìn chúa Nguyễn cài lại chiếc nút áo cuối cùng và đứng dậy. Ngài ta nhìn xuống người Quốc thúc, nhướng mày.

- Cho đến chết, ta cũng không tin các thánh thần. – Giọng ngài ta vẫn êm và nhẹ, nghe như tiếng gió đang thổi trên mặt biển. Ánh sáng ngày đã tràn đến họ. Nguyễn Phúc Thăng ngồi dậy, đứng lên đi theo chúa Nguyễn. Có những điều anh ta muốn hỏi ngài ta, bây giờ, nhưng không biết mở lời ra sao. Nhưng rồi anh ta nghĩ rằng không cần thiết nữa.

Cho đến chết vẫn không tin. Đó chẳng phải đã là câu trả lời?

Khi chàng ngồi xuống cạnh đám lửa, bọn họ đã đang hát. Nhưng vì không để tâm tới, mất một lúc chàng mới nhận ra lời hát của bọn họ. Một bài ca của phương Nam, lẫn rất nhiều âm Quảng. Ngoái đầu nhìn, chàng không khỏi thầm ngạc nhiên khi nhận ra đó là một nhóm lính Bình Định. Nhưng nghĩ lại thì mọi sự không lạ đến thế, những người lính Gia Định cũng đã học được vài bài hát miền này. Cuộc sống buộc phải nương tựa vào nhau trong thành khiến mọi người thân cận, gắn bó hẳn lại. Tựa như trong một ngôi làng, một hoang đảo, một thế giới cô lập hẳn với bên ngoài, họ trở thành một cộng đồng gắn kết với nhau. Và hơn nữa, trải qua một năm dài, chứng kiến bao nhiêu cái chết, sự gục ngã, những lo lắng, xáo động cũng đã trầm mặc hẳn. Mọi người, từ kẻ kiên cường nhất đến những thiếu niên nhỏ tuổi nhất, đã quen với cuộc sống trong thành, như thói quen của người trên một hòn đảo, một hoang đảo. Sống, tồn tại, và chờ đợi. Những xôn xao cũng đã lắng xuống, thành một khối nghèn nghẹn nằm tuốt dưới đáy lòng họ. Họ dần tập quen với cuộc sống giống-như-bình-thường này, mỗi ngày làm những công việc giống nhau, rảnh rỗi thì nghỉ ngơi, thậm chí là ca hát, vui đùa. Họ lùng tìm trong những điện đài ngày xưa của Nguyễn Nhạc ra đủ thứ khí cụ, công cụ và đồ dùng của cung đình, những thứ có lẽ rất giá trị nếu được mang ra bên ngoài. Nhưng ở đây, mọi thứ đối với họ trở thành vô giá trị, họ dùng chúng để đùa vui và ca hát.

Bài hát phương Nam mang âm giọng Phú Yên nằng nặng này chỉ là một minh chứng nữa cho mối kết liên giữa họ. Thậm chí cả chàng nữa. Khi chàng vừa ngồi xuống, đám quân lính bên cạnh đã tụ tập về xung quanh, lắng tai nghe câu chuyện giữa chàng và các tướng. Họ đã không còn sợ sệt hay giữ kẽ với chàng. Những công việc trong ngày vừa được nói xong, một tên lính trong bọn đã lên tiếng nhắc.

- Võ Tham thặng nói rằng tối nay sẽ kể tiếp chuyện người Gia Định bắt hổ. – Cậu ta nói trong tiếng ồn ào tán đồng, lôi kéo thêm một toán lính nữa ở đống lửa bên cạnh đến. Chàng nhìn sang Võ Văn Lượng như ra hiệu cho ông ta trả lời. Ông ta cười.

- Chúng ta đặt bẫy. – Võ Văn Lượng lên tiếng thay cho Võ Tánh. Sẵn cành cây trong tay, ông ta vạch nó xuống mặt đất thành hình những chiếc bẫy theo kiểu Gia Định. – Cũng giống như ở mọi nơi thôi. Chúng ta sắp xếp những hố bẫy rồi dụ hổ chui vào. Nhiều người quây thành vòng tròn, đánh cồng chiêng hay trống làm hổ sợ lùi dần vào giữa vòng rồi mắc bẫy. Nhưng bộ da hổ rất qúy nên chúng ta không đâm chết nó theo kiểu thông thường. Chúng ta cố gắng giết nó bằng một nhát duy nhất. Chà, lúc gần chết, hổ vùng vẫy rất mạnh.

Chắc chắn đó không phải là một lối kể chuyện thú vị. Nhiều cái đầu lại quay về phía Võ Tánh. Không biết kẻ nào đã nói ra, cái tên “anh hùng đả hổ” đã làm mọi tên lính trong quân tò mò. Chàng hắng giọng, trả lời cho bọn họ bằng lối kể cũng không hơn Võ Văn Lượng là mấy.

- Ừ, lúc đó ta đi từ Trấn Biên đến Phiên Trấn, giữa đường gặp hổ. Có con dao trong tay, ta đâm chết nó.

Khi chàng nói xong, những khuôn mặt quanh đám lửa vẫn còn đang nhìn chàng chờ đợi. Chàng nhìn lại bọn họ, bối rối cười.

- Thật ra thì chỉ có vậy thôi. Thậm chí ta chẳng nhớ lúc đó đã làm gì với nó nữa.

Nhiều kẻ đã lộ vẻ thất vọng ra mặt. Chàng nhún vai, làm như không nhận ra. Thật sự thì chàng không nhớ, và do đó chẳng có gì để kể. Cũng như trận đánh ở Ba Giồng ngày đầu tiên chàng đến, chàng chỉ phản ứng hoàn toàn bản năng, gần như là mù lòa. Đưa họ đi, chàng có lẽ đã hét, trước khi quân Tây Sơn ập tới và trận đánh xảy ra. Cùng với những thanh niên Ba Giồng, chàng đã phá vây chạy ra, xuyên qua hàng lớp người đang tràn tới bao vây họ. Sự sống, quyết tâm sống đã làm họ lòa cả mắt. Đứng trên lằn ranh của sống chết, chàng đã hành động mà cho đến bây giờ vẫn không thể nhớ được mình đã làm gì, như thế nào. Dường như chỉ có một tấm màn đỏ bao phủ trước mắt chàng, chắn ngang lối ký ức chàng. Đối mặt với hổ dữ, với con người, chàng ngày ấy đã hoàn toàn phản ứng dựa vào bản năng, như một con thú hoang. Nhưng chuyện đó thì khó kể ra cho người khác hiểu được.

- Tham thặng nói ngài dùng dao? – Vẫn tên lính táo tợn không buông tha chàng. Cậu ta hỏi, mắt hấp háy. – Ai dạy võ cho ngài thế?

- Anh trai ta. – Chàng trả lời sau một chút ngần ngừ. – Thật ra ở Gia Định, hầu như mọi thanh niên đều biết chút ít võ công. Trên rừng thì có hổ dữ, voi, tê giác, dưới nước thì có cá sấu, rắn, trăn… Cả cướp nữa. Cướp lẩn lút khắp nơi, ở mọi quãng sông, quãng rừng, khi đói thì cướp ở Chân Lạp, Xiêm La cũng tràn qua. Chúng ta phải tự võ trang để bảo vệ làng của mình. Mỗi làng đều có nhóm thanh niên bảo vệ như vậy. Lúc ấy Gia Định mới lập, quan quân còn đang bận việc Chân Lạp, Xiêm La, chúng ta phải tự tìm cách bảo vệ mình. Những người như Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Đức Xuyên, Lê Văn Duyệt cho đến các phó tướng của ta đều là tự học võ công để bảo vệ mình…

Chàng ngừng lại, và không nói đến những việc sau đó, trong đó. Nhưng có vẻ như người quanh đám lửa đã nhận ra. Tên lính vừa hỏi ngậm miệng đang mở hé, im lặng. Ánh lửa chập chờn sáng trong đôi mắt cậu ta. Đó là một thanh niên còn rất trẻ. Có lẽ cậu ta được sinh ra khi chiến tranh vừa bùng phát. Cậu ta, và nhiều kẻ ở đây nữa, không biết gì về ngày tháng ấy, những gì mà họ đã trải qua. Hẳn họ đã được nghe kể lại, nhiều lần, trong quân đội mà chúa Nguyễn cho quan văn đi giảng giải cho hàng quân, trong những người bạn Gia Định, trong những câu chuyện kể lại. Nhưng chàng không biết nói với họ thế nào, ra sao, về những gì đã qua. Mọi việc, khi nhớ lại bây giờ, đều mang sắc thái gì đó mù quáng lẫn phi lý đến không thể tin được. Bây giờ, khi nhìn những người quanh mình, những con người đến từ vùng đất, từ đội quân mà chàng đã từng căm ghét, nghĩ về những cuộc giết chóc đã xảy ra trên Gia Định, chàng cảm thấy có sự gì phi lý đến không thể tin được.

Vậy đấy, có lẽ chàng muốn nói điều này với đôi mắt đang mở to bên kia đám lửa. Vậy đấy, chúng ta đã đến Gia Định – vì đói nghèo, vì lưu lạc, vì rối loạn, vì chiến tranh, vì đày đọa, vì bất hạnh. Vậy đấy, chúng ta đã vạt lau lách mà đi, đẵn rừng mà tiến, kiếm sống trên những con sông đầy cá sấu và những cánh rừng đầy hổ báo, trong khí trời đầy mây mù mưa độc, trên bùn lầy muỗi mòng của phương Nam. Vậy đấy, chúng ta đã xây dựng cuộc sống của mình như vậy, bằng máu và nước mắt, và cả mạng sống. Vậy đấy, chúng ta là những kẻ bị lưu đày, lưu vong trong cả kiếp sống của mình. Vậy đấy, tại sao chúng ta lại bị hủy hoại?

Nhưng đó là điều chàng không nói ra. Đến lượt cậu ta, tên lính đang im lặng kia, cũng có thể kể cho chàng về cuộc sống của mình, y như vậy. Những cánh đồng bậc thang khô hạn, heo hắt trên sườn núi. Sơn lam chướng khí, núi rừng hung hiểm, biển cả hãi hùng. Đến lượt cậu ta, có thể cậu ta sẽ nói về cuộc đời của những người Chiêm sau trận chiến với họ Nguyễn, bị đẩy lùi, phải trở thành kẻ lưu vong trên quê hương của chính mình. Có thể cậu ta sẽ kể về cuộc đời của những người Thượng trên núi cao như ngọn cỏ giữa những ngọn gió. Có thể cậu ta sẽ kể về cuộc đời của những lưu dân được chúa Nguyễn đưa tới vùng đất này để tranh chiếm đất đai, để dựng xây quốc gia cho mình. Càng nói, càng hiểu rõ, mọi sự lại càng trở thành phi lý đến không thể tin được.

Nhưng ít ra, tại nơi này, chàng có thể nhìn thẳng vào mắt cậu ta mà nói: Chàng không phải là nguyên nhân. Sự phi lý này bắt đầu không phải từ chàng, từ họ. Ngay từ khi bắt đầu, chàng đã không quyết định đến nơi đây. Chàng không định hủy hoại hay tranh giành. Đó là sự thật. Đó là điều khiến cho chàng có thể nhìn thẳng vào mắt cậu ta. Đôi mắt vẫn còn rất nhiều sự ngây thơ, vẫn còn trong trẻo và ngây thơ. Thật ra họ đã không còn tìm cách lý giải cho sự thù hằn ngày xưa nữa, thậm chí chẳng buồn nghĩ đến thế nào là “chính nghĩa” của đối phương. Trong ngôi thành bị bao vây và cuộc sống buộc phải gắn kết, nương tựa vào nhau này, họ đã không còn nghĩ tới những chuyện đó. Sự im lặng của cậu ta hiện tại, có lẽ phần nhiều là do sợ chàng lại nghĩ tới chuyện ngày xưa. Nói cho cùng, cậu ta chẳng làm gì, chẳng liên quan gì đến cái tình trạng hiện tại, cái hiện tại của họ. Điều đó lại là lý do làm cậu ta có thể nhìn thẳng vào mắt chàng.

Nhưng câu hỏi mà cậu ta khơi ra qủa thật đã làm chàng ngơ ngẩn mất một lúc. Không còn chuyện để nói, đám quân lính lại quay ra hò hát xướng hoạ cùng nhau. Những ngày này, quân của Võ Văn Dũng từ Thị Nại về bao bọc thêm vòng trong vòng ngoài, nhưng mọi sự chú tâm đều đã hướng ra đoàn quân Nguyễn ngoài Quy Nhơn. Đã có cuộc tấn công vào sâu trong Bình Định, và chàng không thấy ngạc nhiên khi biết đó là đoàn quân của Tống Viết Phúc. Vị tướng nóng nảy này thất bại cũng chẳng làm cho chàng ngạc nhiên. Nhưng sự tấn công của quân Gia Định qủa đã làm hầu hết sự tập trung của Tây Sơn trong lũy phải hướng đến bên ngoài, không còn công thành nữa. Do đó, dù trong tình trạng thiếu thốn hiện tại, thành Bình Định vẫn còn có thể giữ vững. Dù trong tình hình nguy cấp bên ngoài, thành Bình Định lại có một khoảng yên ắng, đủ cho các đêm hội họp cùng nhau của họ kéo dài. Chàng nhìn những người lính của mình, bây giờ, trong ánh lửa cháy sáng và những lời rì rầm, tiếng hát khe khẽ, không thể không động lòng nhớ tới bức thư đã gửi cho chúa Nguyễn.

Chàng đã không nói với họ, rất ít người trong số họ biết về kẻ đang bị giam giữ trong hầm dưới điện. Trong một cuộc đột nhập ra ngoài, quân Nguyễn đã bắt được một người lính Tây Sơn. Và thông qua anh ta, chàng đã biết được sự việc đang diễn ra, ngoài lũy đất, ngoài những gì chúa Nguyễn đã cho người liên lạc kể với chàng. Cuộc tấn công thất bại của Tống Viết Phúc chỉ là một phần trong sự bối rối của đoàn quân Gia Định. Và ác thay, mọi điều xảy ra chính vì những viên hàng tướng mà chúa Nguyễn đã tha mạng, đã lưu dụng. Từ Văn Chiêu lừa Tống Viết Phúc đến Thạch Cốc phục binh. Phạm Văn Điềm lẩn quẩn ở Phú Yên đánh giết quan trấn thủ, giết chết Nguyễn Long. Vì những kẻ ấy, quân Nguyễn vẫn còn mắc kẹt ngoài cửa Bình Định. Đã từng chứng kiến sự phản ứng dữ dội của quan tướng Gia Định ngày chúa Nguyễn thu nhận đám hàng tướng, chàng nghĩ mình biết tình trạng mà vị chúa hẳn đang cảm thấy bây giờ.

Rất ít người trong số họ biết được tình trạng thực sự của đoàn quân. Và lại càng ít người biết được tình trạng quân lương đã đến hồi cạn kiệt của họ. Để bảo đảm sức giữ thành, số lương phát mỗi ngày không thể giảm. Mỗi ngày trôi qua, nguồn sống của họ cạn đi dần dần. Chàng đã nghĩ đến những giải pháp tìm lương khác, nhưng sự thiếu hụt tướng lãnh khi thêm hai viên tướng mất vì bệnh trong quân làm hy vọng có thể tấn công lũy trở nên cực kỳ mong manh. Thêm Võ Văn Dũng bên ngoài, cơ hội để tấn công của họ hầu như không còn nữa. Gửi thư cho vị chúa, qủa thật chàng đã không nghĩ ra được cách nào khác. Chàng chờ đợi vào ngài ta. Chàng chờ đợi, và nén nỗi lo lắng của mình xuống, không để nó bộc lộ ra bên ngoài. Trong khu thành này, cuộc sống bịt kín và mịt mùng, mọi điều đều có thể tan vỡ, bùng nổ bất cứ lúc nào.

Có người ngồi xuống bên chàng, tiếng kim loại khua khi một thanh kiếm được đặt xuống. Ngô Văn Sở, anh ta có vẻ như vừa mới từ trên thành lại, tóc vẫn còn rối trong gió và áo khoác ẩm ướt. Chàng nhìn lên trời. Mây đang kéo về. Có vẻ như đêm nay sẽ lại có một cơn mưa.

- Phải, sẽ có mưa. – Như thể đoán được ý nghĩ của chàng, Ngô Văn Sở nói, vuốt mái tóc nằm ép xuống. – Tôi đã cho người hạ khu điện bên phải, lấy gỗ đưa đi các doanh trại rồi.

Chàng gật đầu. Từ giữa mùa đông, để đối phó với khí lạnh và bệnh thương hàn, cảm hàn lan tràn, họ đã phải phá dần những khu vườn, rồi điện đài trong thành để nhóm lửa. Nhưng họ cũng không ngăn được cả vài chục người nữa chết vì bệnh, trong đó có cả hai viên Thống chế. Cả khu điện đài Hoàng Đế thành của Tây Sơn đã tan tác. Từng cây cột chống, từng khu nhà đã trở thành củi, những khu vườn đã bị phá nát làm chỗ ăn của voi ngựa, cả rèm cửa cũng trở thành chăn màn, quần áo cho đội quân, đến gạch ngói cũng được họ đem trưng dụng thành vũ khí cản quân công thành. Họ như một đàn sâu đang tàn phá cành nhánh chúng sống thành một đống đổ nát, chàng nghĩ và không tránh khỏi cười thầm.

Thuận tay, Ngô Văn Sở đang ném thêm một cành củi nữa vào lửa. Củi có mùi rất thơm, hẳn là một loại gỗ qúy. Loại lửa này cháy cũng rất đượm, rất lâu mới tắt. Gỗ trăm năm thì khác hẳn gỗ vài mùa. Chàng nhìn theo cử động của bàn tay anh ta mà thầm nghĩ. Dù sao, dù thế nào, chàng vẫn còn có cảm giác không đành lòng.

- Lại thấy tên Nguyễn Văn Tồn lảng vảng bên ngoài. – Ngô Văn Sở chợt nói, nheo mắt nhìn chàng. Nguyễn Văn Tồn là tướng quân của Gia Định, trong một lần tấn công ra ngoài mà bị Tây Sơn bắt, từ đó hắn theo về hẳn Tây Sơn, đánh vào trong thành.

Chàng không trả lời Ngô Văn Sở, chờ đợi anh ta nói tiếp. Đúng là chỉ một lúc sau, anh ta đã lại lên tiếng.

- Thời điểm bây giờ không thể tin ai được. – Đó không phải là một lời khuyên, đó là một câu nhận xét, thậm chí có phần hơi mai mỉa. Nguyễn Văn Tồn là quân Gia Định, đã đi theo chàng bao lâu nay, đã đi theo vị chúa từ ngày ngài ta mới về Gia Định. Chàng nhận thấy ý mỉa mai ấy của anh ta, nhưng im lặng. Thậm chí chàng còn hơi hơi ngạc nhiên về địa vị của người thốt ra câu nói này, anh ta cũng là một hàng tướng – Là một hàng tướng có học, tài giỏi, và quay lưng lại với qúa khứ của mình đến cực cùng.

Dù không chủ định, nhưng có thể ánh mắt chàng đã bộc lộ ý nghĩ ấy, khiến Ngô Văn Sở lại cười.

- Anh có biết không, Tham thặng, thật ra những kẻ đơn thuần và ít chữ nghĩa, ít học hành, ít suy nghĩ nhất mới là những người sống chết theo niềm tin của mình, lòng trung thành của mình. Còn những kẻ học nhiều, biết nhiều thì lại dùng chính hiểu biết để bao biện, che đậy cho mình. – Anh ta nói, lần này khiến chàng nhướng mày.

- Chẳng phải những gì như lòng trung thành, sĩ tiết đều do các Nho sĩ truyền dạy à? Chẳng phải những kẻ có học đều phải tâm niệm điều đó? – Chàng hỏi với sự ngạc nhiên và tò mò thành thực. Ngô Văn Sở nheo mắt nhìn chàng, cái nhìn nửa giễu cợt nửa thương hại.

- Không, không đâu. Những gì như “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” hay kẻ sĩ chỉ thờ một chủ đều là do bọn Pháp gia dạy đấy, không thuộc về bản chất của Nho gia. Nho sĩ đặt cái lợi của thiên hạ lên trên hết, chọn chủ mà thờ. Ngay cả Khổng Tử kia cũng bôn ba đi qua hàng loạt nước, cầu mong tìm người có thể thực thi ý chí của mình, đâu có ở lại quê hương đã tha hóa. Sau này Hán Vũ đế dùng Nho gia nhưng thực tế lại là dương Đức, âm Pháp, rồi đến Chu Hy càng chặt chẽ, cố chấp, xu hướng Pháp gia mới lấn hết cả ý chí của Nho gia.

Thấy không, Tham thặng, anh có thể nói theo cách nào cũng được. – Ngô Văn Sở đột nhiên bật cười trước vẻ ngơ ngác của chàng. Anh ta nghiêng đầu, đặt hai tay lên gối như thể bắt chước một thầy đồ đang dạy. – Với những kẻ ít chữ nghĩa, họ chỉ biết Trung là Trung - là trung thành với người chủ của mình, Hiếu là Hiếu – là hiếu thảo với cha mẹ của mình, làm khác những điều ấy là sai, là hèn kém, là rác rưởi. Chuẩn mực của họ đơn giản và rạch ròi, cuộc sống của họ chỉ cần tuân theo chuẩn mực ấy, lý tưởng của họ cũng chỉ cần tuân theo chuẩn mực ấy, thế là xong. Họ trở thành anh hùng hay kẻ bị nguyền rủa cũng đơn giản như nhau. Còn những kẻ đi học, những kẻ biết sử dụng chữ nghĩa và kiến thức cho mục đích của mình, cách nào chúng biện giải cũng được. Trắng hay đen là bàn tay chúng, lật qua một cái là xong. Kẻ mạnh nhất thiên hạ là kẻ có thể tạo ra được chuẩn mực cho riêng mình và cuốn hút người ta theo cái chuẩn mực ấy. Nói cho cùng, từ bậc đế vương vạn thế lưu danh đến bà bán quán cơm đầu chợ cũng như nhau – làm ra được những thứ để cuốn hút kẻ khác theo mình, làm lợi cho mình. Điều đầu tiên phải làm để chống Trời là “thuyết nhân”. Thuyết nhân – đẩy người ta vào cái chí hướng của mình. Đúng hay sai, thuận hay nghịch, đều có thể nói được.

Thậm chí, những điều mà mới ngày hôm qua là tội đại ác bất đạo đáng tởm thì hôm nay lại là ý muốn cứu thế cho thiên hạ, vì nghĩa diệt thân, thuận theo thời thế, nghĩa cả chí cao – Cách nào mà anh chẳng nói được? Ngay cả những điều tưởng đâu là thiên kinh địa nghĩa như dân tộc hay đất nước, rốt cuộc còn có bao nhiêu giá trị trong vùng đất này? – Chẳng phải chúng ta đang ngồi trong kinh thành của một quốc gia cổ đó sao? Và chúng ta có ca ngợi lòng yêu nước của họ không? Chúng ta có cổ vũ cho họ không? Hay là những quan lại trong triều đình đang tìm cách khuyên nhủ người ta vứt bỏ chính đạo nghĩa của mình? Những kẻ đi học là một loài lươn, anh biết không? Chúng trơn nhẵn, luồn lách và lẩn nhanh hơn hết thảy, chúng cả đời sống trong thứ lầy nhầy như bùn đất mà tưởng rằng đó là nơi êm ái tuyệt vời. Cũng có khi chúng là con rắn lẩn vào đám hỗn độn đó. Trong một đám lươn nhờn nhẫy, loại có nọc độc có thể cắn chết người sẽ là thống trị.

Chàng không lên tiếng. Lại cái giọng này, cái giọng chất chứa một sự oán hận sâu cay, giấu dưới bề mặt khinh khỉnh và dửng dưng. Nhưng Ngô Văn Sở đột nhiên ngừng lời. Anh ta đột nhiên cau mày, ngừng lời. Có vẻ như anh ta đã suy nghĩ một lúc khá lâu. Có vẻ như anh ta đã nghĩ ngợi và xoay chuyển ý nghĩ ấy trong đầu, ngắm nghía nó từ mọi hướng. Chàng cũng không có hứng thú với ý nghĩ của anh ta, liền quay mặt nhìn đám đông xung quanh, nghĩ đã đến lúc phải gọi họ đi nghỉ. Những người như Ngô Văn Sở không làm cho chàng cảm thấy yêu thích hay gần gũi đến mức tìm hiểu suy nghĩ của anh ta. Anh ta chỉ là một người bạn đồng hành cùng chàng. Trong những tháng năm này, con người ta có thể bao dung nhiều hơn với những điều mình không ưa thích. Mọi chuyện đã trở thành không quan trọng như khi ở trong thế giới bên ngoài. Thật sự, nếu người ta nhìn được ranh giới mỏng manh giữa sống và chết lẫn sự phù du của cuộc đời một con người – có lẽ họ sẽ cảm thấy bao dung với nhau hơn, hoặc là ngược lại.

Vừa đúng lúc chàng chống tay định đứng dậy, Ngô Văn Sở chợt nói. Giọng anh ta ngay bên cạnh chàng, khẽ khàng và tính toán, chỉ cho hai người có thể nghe thấy được.

- Tham thặng, anh cũng không cần cố chấp. – Anh ta chợt nói bên cạnh chàng. Chàng quay lại, thấy anh ta đang nhìn mình, đôi mắt tính toán và sáng rõ. – Khi có việc xảy ra, anh cũng không cần cố chấp. Anh có thể bảo toàn cho chính mình, cho kẻ khác. Anh hiểu chứ?

Chàng đã hiểu ý Ngô Văn Sở, ngay khi anh ta nói đến câu thứ hai. Nhưng trong một lúc, chàng vẫn chỉ nhìn anh ta, sự ngạc nhiên thoáng hiện trong mắt. Dường như hiểu lầm ý chàng, Ngô Văn Sở tiếp tục nói, giọng càng trầm xuống.

- Anh đã làm hết sức rồi, Tham thặng. Mọi người cũng đã làm hết sức rồi. Nếu cố chấp qúa, mọi người sẽ đều bị tiêu diệt – chẳng phải là hoàn toàn vô ích hay sao? Chẳng ai có thể trách được anh lúc này, sau tất cả mọi chuyện. Chỉ cần còn sống, anh sẽ làm được nhiều việc khác. Như những Huỳnh Đức, Hồ Đồng kia chẳng phải đã cố giữ lấy mạng sống của mình đó sao? Triều Nguyễn đầy những kẻ ba, bốn lần đổi chủ, chỉ cần có tài, anh sẽ được trọng dụng ngay thôi.

Có lẽ câu nói cuối của Ngô Văn Sở đã là giới hạn đối với chàng. Chàng đứng dậy, bước đi mà không nhìn anh ta.

Những người lính tụ tập cùng nhau bên đám lửa vẫn xôn xao khi chàng đi qua, gọi họ về nghỉ. Ngoái nhìn lại, Ngô Văn Sở vẫn ngồi chỗ cũ, đang ném thêm một cành củi vào lửa như thể không nghe chàng gọi đã đến lúc dập lửa. Chàng nhún vai quay đi.

Chàng không giận lời nói của Ngô Văn Sở. Chàng phải thú nhận rằng mình cũng đã từng nghĩ đến khả năng này – nếu rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Trước khi gửi thư đi cho vị chúa, chàng cũng đã phải cân nhắc đến mọi hoàn cảnh có thể xảy ra, lúc ấy, chàng sẽ phải phản ứng thế nào? Nhưng đầu hàng là một ý nghĩ chưa từng hiện hữu trong chàng – với bản thân chàng. Từ ngữ ấy xa lạ đến như không thể nào có thực. Chàng đã nghĩ đến đánh ra và trốn đi, mọi phương cách có thể. Chàng chưa từng nghĩ đến đầu hàng cũng là một phương cách, mà như Ngô Văn Sở đã nói, đã thể hiện ra, một phương cách toàn mỹ. Nhưng cách mà anh ta nói ra, cách mà khóe miệng anh ta đã khẽ nhếch lên, cách mà anh ta khinh khỉnh và chế nhạo, đã làm lời nói của anh ta có sự nhục mạ sâu cay, dù không nhắm vào chàng. Chàng cho rằng mình hiểu rõ anh ta, con người chỉ cầu sự sống cho bản thân, đặt bản thân lên trên hết thảy, do đó, lời của anh ta, suy nghĩ ấy dường như là một sự đương nhiên. Nhưng vì không ưa thích anh ta, chàng không chấp nhận được lời nói ấy, điều mà anh ta đã gợi ra. Hoặc là chính vì không thể chịu đựng nổi cách nói của anh ta.

Khi lên vọng gác nhìn xuống lần cuối trong đêm, qủa thật chàng vẫn thấy bóng của Nguyễn Văn Tồn – mà chàng nhận ra bằng sắc áo đỏ của quân Gia Định, họ thậm chí không có áo để thay đổi trong những ngày này – đang ở cách xa một tầm tên bắn ngoài lũy Tây Sơn. Anh ta đã ở đó, đúng như chàng đã nghĩ, họ đã định liệu.

Anh sang bên Tây Sơn đi. Chính chàng đã nói với Nguyễn Văn Tồn trước một trận đánh ra ngoài. Thành đã bị vây qúa lâu, tình hình chiến trận không còn định liệu được, không biết thế nào. Anh ra ngoài trá hàng Tây Sơn, ở đó để thám thính, mà cũng để lo liệu cho anh em ta. Nếu quân ta đánh vào được, ta bên trong phối hợp đánh ra, nhất định sẽ phải nhờ tới anh. Quân ta bị bắt hay có liên lạc cũng phải nhờ đến anh gìn giữ. Hãy nhớ, Tây Sơn đang đề cao cảnh giác với người trong thành, sang bên ấy anh hãy làm mọi cách chiếm được lòng tin của chúng, kể cả đánh vào quân ta. Khi chưa cần thiết, anh hãy đóng vai trò hoàn toàn là quân Tây Sơn.

Đó là việc mà ngoài chàng ra, không ai hay biết. Giờ đây, mọi người nhắc đến cái tên Nguyễn Văn Tồn với sự căm hận sâu sắc. Phản tặc, họ gọi anh ta, và chàng không thể đừng mà cảm thấy áy náy. Giờ đây, chàng lại nghĩ đến tiếng gọi ấy và những lời tương tự như thế. Phản tặc, hàng tướng, đầu hàng, nhát sợ, hèn hạ… Chàng nghĩ tới thái độ trong chính quân đội Gia Định với những người đã quay lưng. Chàng nghĩ tới lời nói của Đặng Trần Thường và Nguyễn Văn Thành, và cả Lê Văn Quân. Phải, Lê Văn Quân, giờ đây thì chàng lại nhớ đến ký ức xa xôi ấy. Nếu thua trận thì có nhảy vào lửa cũng không hết nhục. Ông ta đã nguyền rủa chàng, và rồi bản thân ông ta là người không chịu đựng được nhục nhã, xúc phạm để quyết định kết thúc chính cuộc đời mình. Chàng vẫn nhớ đến ông ta, trong suốt những năm tháng dài, bằng niềm hối tiếc khôn nguôi mà không một lời an ủi nào có thể xóa mờ. Chính ông ta, không phải ai khác, đã dạy cho chàng thế nào là niềm kiêu hãnh đến cao ngạo, đến cực đoan của kẻ đứng đầu ba quân, của người đứng trên kẻ khác, của người thống lĩnh và nắm quyền lực trong tay. Chính ông ta, không phải ai khác, đã cho chàng thấy, ngay ngày đầu bước vào chính trường, vào cuộc đời của một tướng quân, về sức ép và mặt trái của quyền lực họ nắm được, điều mà họ nắm được khi đứng ở vị trí này. Lê Văn Quân đã chết không phải vì chàng, cuối cùng thì chàng hiểu điều đó, ông ta đã chết vì vị trí của chính mình, vì vị trí mà ông ta đảm trách, vì sự khắc nghiệt của nó, sự nghiêm khắc của nó, sự cực đoan của nó. Ông ta là người đầu tiên đã dạy cho chàng thế nào là một tướng quân. Chàng bây giờ đang đứng ở vị trí của ông ta, thậm chí còn cao hơn. Chàng có thể cho Nguyễn Văn Tồn sang doanh trại Tây Sơn, có thể chuẩn bị cho cả một cuộc vỡ trận trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, có thể sử dụng cả những phương cách không quang minh chính đại nhất để giành phần thắng… nhưng tất cả đều là bí mật. Bí mật của riêng chàng.

Cho đến ngày cuối cùng, thậm chí là sau đó, những bí mật này sẽ được giấu kín, sẽ không ai hay biết. Chàng đang âm thầm chuẩn bị tất cả, sửa soạn tất cả, chỉ còn chờ đợi tin tức của vị chúa, điều mà ngài ta đang nhắm đến.

Lúc này, một mình trên vọng gác, nhìn theo bóng áo đỏ của Nguyễn Văn Tồn – có lẽ anh ta cũng đang nhìn về thành – chàng lại nghĩ đến những dự tính của riêng mình, đến điều mà chàng đã có cảm giác rất rõ, ngày càng rõ, nhất là từ khi bắt được tên lính Tây Sơn kia để dò hỏi tin tức bên ngoài. Quân Võ Văn Dũng đã về Bình Định, và chỉ quan sát bằng mắt thường, chàng cũng đã nhận ra sự tăng vọt đột biến của số quân ngoài lũy. Chiến trận đang vào lúc căng thẳng, quyết liệt nhất khi ai cũng đang muốn giành được Bình Định. Và không thể đừng, chàng đã nghĩ đến những cuộc tấn công trước đây của Gia Định: Đánh vào phía Nam Quy Nhơn để dùng thủy quân bọc ra mạn Bắc, thậm chí tiến cao hơn nữa. Năm nào họ đã đến tận cửa Eo ngoài Phú Xuân, mà chỉ có lệnh rút lui của vị chúa mới làm cho họ không đánh sâu vào. Tình trạng bây giờ cũng giống y như lúc đó. Giờ đây, chỉ còn một mình, chàng đang bị một mối thôi thúc mãnh liệt hướng đến viễn cảnh ấy, thực hiện cuộc tiến công ấy. Nếu ở ngoài, nếu đang chỉ huy ở bên ngoài, hẳn chàng đã làm điều đó.

Nhưng chàng lại đang ở đây, trong khu thành này, cố gắng giữ gìn sự sống của nó bằng mọi cách, cố gắng để gìn giữ sự sống cho mọi người trong thành. Và trong sự thôi thúc về một chiến thắng dường như hiển hiện ngay trước mắt lại bị lòng áy náy buồn bã che phủ. Tiến về Phú Xuân, thành Bình Định sẽ bị bỏ lại. Và hàng vạn, hàng chục vạn quân Tây Sơn không còn nơi trú ẩn sẽ quyết chiếm lấy Bình Định làm nơi nương tựa. Đó là một đòn hy sinh. Chàng biết, bản thân chàng hiểu rõ, tại sao Tây Sơn lại có thể tập trung nơi đây, tại sao cuộc chiến lại kéo dài. Vì vị chúa không bỏ chàng, và cả quân Tây Sơn cũng biết điều đó. Chúa Nguyễn không bỏ Bình Định, và Tây Sơn biết điều đó. Bọn họ tập trung tất cả nơi đây vì sự hiện diện của chàng. Chàng, không ai khác. Tham thặng Đại tướng quân Quận công, Phò mã của chúa Nguyễn. Không còn ai khác nữa nơi đây, khi mà toàn bộ số quân tướng, ngoại trừ một vài người như Võ Văn Lượng, Ngô Tùng Châu, và số quân bản bộ, là những hàng quân, hàng tướng mà chàng đã cố tình chọn lựa. Chính chàng chọn lựa bọn họ là người ở lại. Rồi họ đang trở thành những người sống chết cùng chàng, trong những tháng năm này.

Sự thể đang có một sự ngang trái ngập ngừng nào đó não lòng kỳ lạ. Làm lòng chàng chùng xuống và sự thôi thúc về một viễn cảnh chiến trận huy hoàng cũng nguội bớt. Chàng nhìn ra cái lũy bên ngoài lần nữa rồi quay vào quan sát khu điện đài hoang tàn đổ nát trong bóng đêm. Trong bóng đêm và ánh trăng nhạt qua vô số mây mù cùng trận mưa đang chuyển, khu đất đã từng là Hoàng Đế thành hiện ra như một khoảng sa mạc đột ngột xuất hiện, chỉ gồm đất trống mà cỏ cây chưa kịp mọc, đá sỏi vung vãi, gò đống nhấp nhô. Những cuộc triệt hạ điện đài để lấy vật dụng đã không được dọn dẹp gọn gàng cho lắm, để lại những ụ đất chôn giấu cái gì không rõ nằm khắp nơi trong các ô vuông ngang dọc vẫn còn nhìn rõ hình dạng nền nhà, đường đất. Và ngay cả cảnh tượng này cũng làm cho chàng thoáng buồn.

Từ trên cao nhìn xuống, khu điện bị đục lỗ chỗ như một cái lá sâu. Và chàng đoan chắc chỗ tàn phá chỉ rộng ra thêm với sự hiện diện của họ nơi đây. Rồi tất cả chỉ là cát bụi, là những gò đống không rõ dạng hình. Rồi tất cả chỉ là cát bụi. Đất nước Chiêm Thành ngàn năm, thành Đồ Bàn trăm tuổi, đến Tây Sơn một thời khuynh đảo. Tất cả đến lúc bị hủy hoại, đã đến lúc bị hủy hoại.

Trong những ngày tháng này, sự sống trở thành một điều gì dường như không có thực trong mắt chàng. Không có thực, và mập mờ, khó hiểu y như màn sương trong đêm, ánh trăng qua bóng tối. Khi tất cả đang chết, chết dần. Khu thành đang chết dần, qúa khứ đang chết dần, những bóng ma đang chết dần, và cả con người, con người cũng đang dần rơi rụng. Sự rơi rớt của sinh mạng con người là thứ dễ thấy nhất, hiển hiện nhất, khi mỗi buổi sáng, bọn họ đều đặn rảo quanh các doanh trại và nhận được tin về số người đã qua đời trong đêm. Vào những tháng mùa đông, sự đều đặn của những tin báo này nhiều lúc làm họ có cảm giác không thể chịu đựng nổi. Nhưng rồi họ đã quen đi. Và rồi sự sống trở thành một điều gì vừa chắc chắn, rõ ràng như thể chạm tay đến được, vừa mong manh lạ lùng như thể tất cả những gì đang xảy ra quanh họ chỉ là một giấc mơ, một giấc mơ đến sau khi họ qua đời. Họ bám víu lấy nó, sự sống này, bằng tất cả bản ngã, bằng tất cả ký ức tạo nên bản thể, tạo nên cuộc sống mà họ đã từ đó chào đời. Ngay cả cảm giác ngập ngừng của đám cỏ đâm chồi khi xuân đến, ánh nắng vàng lên và ấm dần, cũng là một điều ủi an khôn xiết. Họ đã nhìn những cành mai trong góc điện nở vàng như ngàn cánh bướm rồi kết qủa xanh biếc. Họ đã nhìn khu rừng biến đổi trong suốt bốn mùa cựa mình qua đông lạnh. Và họ cảm thấy như mình đã sống qua cả trăm năm.

Làm sao để nói ra rằng, thật sự họ lại thấy sinh mệnh đáng yêu và đáng thương đến thế?

Tất cả như đang bị kéo dài ra, từng ngày, từng giờ. Ánh nắng như mãi không tắt và mặt trời như mãi không lên. Sự sống chậm chạp trôi và trong vô thức, đôi lần chàng nhớ tới hũ mật vàng óng nắng chàng đã từng cất giấu trong góc tủ. Sự quánh đặc và hương thơm ngất ngây của nó, vị ngọt của những loài hoa cùng ánh nắng phương Nam. Ký ức trở về, không có lý do và có thể là vô lý. Nhưng chàng nhớ đến nó, bây giờ, như một niềm ủi an bất tận, như bài ca cất lên trong đêm, xuyên qua bóng tối, lặng thinh. Cái chết không còn ám ảnh nữa, chỉ là một nỗi buồn.

Cái chết không còn ám ảnh nữa, chỉ là một điều tồn tại cùng với họ, song song cùng họ, sống cùng họ. Trong đêm, bài ca lặng thinh cất lên trong muôn ngàn lá rừng thổi mãi, dưới ánh trăng. Không còn nữa, ngàn năm trước hay chỉ vài mươi năm trước, ngàn năm sau cũng không hiện diện. Họ thấy sự sống của chính mình chỉ như hạt bụi bay trong cơn gió. Cái chết, khi ấy, chỉ là một nỗi buồn.

Khi chàng tỉnh dậy, mưa vẫn đang rơi. Ánh bình minh xanh biếc đã hiện diện bên ngoài các ô cửa nhưng vẫn còn nhạt mờ, lay lắt. Bằng trí óc mơ màng, chàng nghĩ tới cơn mưa đã rơi vào giữa đêm, mùi đất ẩm mốc nồng nồng sồng sực trong cổ họng, lồng ngực chàng, tạo nên cơn bải hoải rã rời khiến chàng chỉ muốn nhắm mắt lại, cố giữ giấc ngủ vẫn níu chặt lấy bờ mi.

Nhưng chàng không ngủ được nữa. Trong cơn mơ màng nửa thức nửa ngủ ấy, chàng đưa tay ôm lấy chiếc chăn quanh mình, vùi mặt vào chiếc gối cũng đã mang một mùi rất đặc trưng của cái lạnh trong cơn mưa. Từ những khe cửa, hơi mưa ùa vào bủa vây chàng ngay từ lúc chàng còn chưa tỉnh. Giờ đây chàng thấy mùi và hơi lạnh của nó phả vào đủ lục giác, nôn nao cồn cào.

Bằng trí óc xa xôi và ký ức mong manh chập chờn trong giấc mơ không chạm đến được, chàng lại nhớ đến căn phòng nằm nép sau khu vườn có hồ nước. Mùa mưa đến cùng hoa sen nở rộ mỗi buổi sớm mai thoảng vào phòng. Hương thơm cuối cùng phảng phất của loài hoa đêm còn sót. Mùi chăn màn ấm hơi người, và nàng. Nàng thường nằm quay lưng lại phía chàng, tóc nàng xõa qua cả mặt và vai chàng. Hương phụ nữ thơm ngọt dịu ủ trong mái tóc và gáy nàng. Bờ vai nàng sẽ ló qua chăn, cùng với một phần chiếc lưng trần. Trong ánh sáng xanh của cơn mưa lúc bình minh, làn da nàng cũng xanh mờ và trong suốt. Cái dáng nằm gần như là khoanh người lại, thu gối lên gần ngực ấy thường làm chàng cảm thấy mủi lòng. Chàng sẽ đưa tay kéo nàng lại, ôm chặt nàng vào lòng, và nhắm mắt ngủ trong cơn biếng lười không muốn trở dậy. Chàng sẽ nghe tiếng mưa vẫn lác đác, lộp độp rơi trên mái nhà, trên các tán lá, tiếng nước chảy róc rách, rỉ rả. Bình minh mưa, cả những con chim cũng không dậy sớm để loét cha loét choét như mọi khi, chúng rúc mình trong ổ, giấu mỏ vào cánh. Vùi mặt vào tóc, vào bờ vai nàng, chàng sẽ nhắm mắt tránh ánh nắng bên ngoài. Hương thơm của nàng sẽ xoa dịu chàng. Hương thơm của nàng, khó mà mô tả được nó, khó mà dùng từ ngữ nào để mô tả được mùi hương đặc trưng của từng người phụ nữ. Ngay cả khi nàng dùng hương, tắm gội bằng hương liệu, chàng vẫn nhận ra mùi hương của nàng sau tất cả những lớp hương kia, khi tất cả những phù phiếm đã phai mờ. Làm sao để mô tả một điều không hiện diện? Làn da nàng sẽ vuốt ve chàng. Qua năm tháng, nàng đã bù đắp cho mình sự êm ái mượt mà của một người phụ nữ. Nàng đã không còn thói quen vùng khỏi vòng tay chàng, dù vẫn trong giấc ngủ. Nàng nằm đó, trong vòng tay chàng, êm đềm và ấm nóng, thở khe khẽ và ngay cả mi mắt cũng không động đậy. Chàng sẽ nằm đó, nghe tiếng mưa rơi vào mái, vào tường nhà, vào bậc thềm, vào đất, vào lá, vào cây, vang ra xa, xa mãi. Mưa rơi trong một thế giới mênh mông đến như không thực. Sau đôi mắt nhắm, chàng nghĩ đến những chiếc lá xanh ngắt đang rung động, những bông hoa tim tím lung lay hay đã rơi rụng nằm sõng soài trên đất mềm, những cánh sen tách mình để lộ chiếc nhụy vàng bên trong, những chiếc lá tròn trên hồ nghiêng ngả, nghiêng ngả, và mặt hồ hiện lên những vòng tròn sóng liên tiếp, nối tiếp, đan vào nhau như bước chân của cơn mưa đang chầm chậm xoay mình trong vũ điệu của gió. Bên ngoài hàng rào, trên con đường vắng, thậm chí không có bóng một con vật nhỏ nào chạy qua, mưa đang vẽ lên khoảng không những đường vạch dọc ngang vô tình của các giọt nước rơi xuống từ muôn dặm xa xăm khác. Mưa trên đồng ruộng đã thu hoạch xong hay vừa bước vào gieo hạt mang vẻ yên ắng lạ lùng. Mưa trên cánh rừng như mất hút vào muôn trùng xanh xao gió nổi. Thế giới mênh mông trải ra dưới cơn mưa, trải dài theo cơn mưa. Thế giới mênh mông dừng lại bên ngoài bốn bức tường nhà, bên ngoài chiếc màn mỏng giăng quanh. Chàng chỉ nghe âm vọng của nó, sự bừng nở hay mất đi vĩnh viễn của sự vật trong thời gian. Nàng trong tay chàng ấm áp và chắc chắn như điều duy nhất thực sự hiện diện trên mặt đất. Nhịp tim nàng đập, hơi nàng thở, cả cái cọ nhẹ của tóc nàng trên ngực chàng, thảy đều sống động đến như thể nàng là một phần bản thân chàng. Tất cả thế giới đang chuyển biến thành hơi ấm của nàng lẩn vào trong chàng. Nàng biến chuyển vào trong chàng, từ từ, chậm rãi, điềm nhiên như tiếng mưa.

Đã bao nhiêu buổi sáng như thế, chàng không biết. Nhưng hẳn là không nhiều, không nhiều lắm, so với cuộc hôn nhân mười năm của họ. Mười năm, khi chàng luôn ra đi cùng với những cơn mưa, khi chàng luôn luôn vắng nhà. Giờ đây, khi nhớ lại, chàng có một niềm hối tiếc nho nhỏ và dai dẳng. Nỗi hối tiếc ăn sâu vào trong chàng. Chàng thật lòng muốn có được nhiều buổi sáng như thế, lặng im trong cơn mơ màng và nghe mưa đi qua. Mười năm, rốt cuộc, qua những say đắm lẫn đắng cay, qua những mặn nồng và cãi vã, qua những gì đã sẻ chia và những gì đã mất, điều có thể gắn kết họ với nhau, hai thực thể hoàn toàn riêng biệt và hai cuộc đời vốn chẳng hề liên quan, chỉ là thứ cảm giác đã hiện diện trong những buổi sớm mai như thế. Tỉnh thức và nhận ra nhau dưới bóng của cơn mưa đang trôi qua.

Buổi sáng này, khi ôm lấy chăn gối lạnh mang mùi vị xa lạ của vùng đất khác, mùi hương cô độc và buồn bã của một mình chàng, chàng lại mơ màng nhớ đến nàng. Ký ức hiện diện trong cơn mơ chập chờn buổi sáng rõ ràng đến như có thể chạm vào được. Cảm giác xót xa không thể gọi tên như hơi lạnh đang phủ vây, gặm nhấm chàng. Chàng buộc mình mở mắt, chấm dứt giấc mơ và cơn đau đầu âm ỉ. Khi chớp mắt lần thứ ba, chàng đã có khoảnh khắc nghĩ mình nhìn lầm khi thấy bóng một phụ nữ ngoài cửa. Rồi chàng nhận ra đó là cô hầu câm của chàng. Cô ta đang đứng ngoài cửa, lặng phắc.

Một lúc sau, có thể là rất lâu sau, cô ta mới ngập ngừng gõ cửa. Cô ta không nói được, chỉ gõ cửa.

Chàng uể oải trở dậy, mặc quần áo đi ra ngoài. Cô hầu chỉ cho chàng về một người đang đợi ở tiền sảnh. Một người ướt đẫm như thể mới từ cơn mưa đi ra.

Buổi sáng hôm ấy, chàng nhận được thư của chúa Nguyễn chuyển vào thành.

65

Người chuyển tin không vội đưa thư cho chàng. Thay xong quần áo, anh ta mới đến trước mặt chàng, ngồi xuống bên kia chiếc bàn. Anh ta không phải là người chàng đã gửi đi. Người lính ấy đã đưa anh ta về. Anh ta là một người trong đội tiểu sai của chúa Nguyễn, một người mà chàng đã quên tên, và hẳn được chọn để vào Bình Định không chỉ vì tài năng bơi lặn. Chàng đã kiên nhẫn ngồi đợi anh ta trong khi bình minh đang dần ửng và cơn mưa không ngừng rả rích. Ngồi xuống trước chàng, anh ta bắt đầu nói, giọng cũng y hệt như tiếng mưa bên ngoài, đều đều, rỉ rả, lạnh lẽo và nồng hơi đất. Nồng hơi đất, đó là điều chàng đã cảm thấy, cái cảm giác lợn cợn nơi sống lưng, cái lạnh xâm nhập dần dà vào thân thể, thấm trong từng mạch máu.

Đông cung mất rồi. Người đưa tin nói, như thể đó chỉ là một cái tin. Anh ta không nói thêm điều gì nữa, và chuyển sang tình hình chiến trận. Nguyễn Long chết rồi, Lưu Tấn Hòa cũng chết rồi, cùng những tướng thiệt mạng trong vụ phục kích của Từ Văn Chiêu với Tống Viết Phúc, đó là những điều chàng đã biết. Và sau đó, anh ta nói về những điều chàng chưa biết. Chuyện Nguyễn Văn Thoại bỏ về từ Vạn Tượng, Vũ Bá Diên và Đinh Đạt Biểu bị giết tại Bắc Hà. Chuyện Nguyễn Văn Trương đã chiếm dinh Quảng Nam. Chuyện về đội thủy quân của Tây Sơn đã hoàn toàn ra tro sau cái đêm rực lửa ấy. Anh ta nói, từ từ, chậm rãi, và nhìn thẳng vào mắt chàng như thể chờ đợi một phản ứng. Vì thái độ không thay đổi, không xúc động, không biến chuyển ấy, khi anh ta im lặng một lúc lâu, chàng mới nhận ra rằng anh ta đã nói xong. Khi đã nói xong, anh ta vẫn cứ nhìn trân trân vào chàng.

Đây không phải là điều chàng đã chờ đợi ở người đưa tin của chúa Nguyễn, hẳn vậy. Chàng đã chờ đợi một giải pháp, một lời khuyên, chứ không phải là những sự kiện được thông báo nối tiếp nhau. Những cái tên người chết nối tiếp nhau đã làm cho chàng thấy ngạt thở. Trong suốt một năm rưỡi phá vây, những cái tên người chết kéo dài đến ngạt thở. Chàng, trong suốt những năm dài trong quân đội Gia Định, chưa từng biết đến lượng thương vong nhiều đến thế. Chàng không chờ đợi người đưa tin đến để báo những việc này, coi như là lời đáp cho lá thư kêu cứu của chàng. Chàng không chờ đợi anh ta nói xong và khoanh tay trên mặt bàn nhìn mình, cái nhìn nửa như chờ đợi, nửa như muốn hỏi chàng: Anh có thể làm được gì đây, Tham thặng? Hoặc là, đây chính là điều chúa Nguyễn định nói với chàng. Đây là lời đáp của ngài ta với lá thư của chàng. Có thể làm được gì đây, Tham thặng?

Không chịu nổi ánh mắt của người đưa tin, chàng đứng lên, đi đi lại lại trong phòng. Mưa vẫn rơi bên ngoài, rả rích trong ánh bình minh nhạt lạnh. Hơi mưa thúc dồn vào lồng ngực chàng đến khó thở.

Cuối cùng, chàng dừng lại trước bàn, trước mặt người đưa tin, mím môi.

- Chúa công có thư không? – Chàng quyết định hỏi. Người đưa tin nhìn lên chàng, lắc đầu, rồi lại gật đầu.

- Cá nhân thì chúa công không có thư riêng cho Tham thặng. Chúa công chỉ muốn bàn luận với ngài phương cách tiếp theo.

Cá nhân? Chàng nhướng mày khi nghe cách dùng từ ấy. Rồi chàng nghĩ đến lá thư bị thất lạc mà vừa rồi chàng mới nhớ ra để hỏi vị chúa. Như đoán được ý nghĩ của chàng, người đưa tin lấy từ trong người ra một túi vải được tẩm nhựa để không thấm nước, trút một bức thư nhỏ bằng ngón út vào lòng bàn tay, đưa cho chàng.

- Chúa công bảo rằng đưa cho Tham thặng thư này, nói rằng đáng tiếc thư nguyên bản đã bị mất, ngài ấy chỉ có thể viết lại những gì đã đọc được trong lá thư đầu tiên. Xin lỗi vì trong tình trạng thư từ luôn thất lạc, ngài ấy phải sao lại thư của Tham thặng đề phòng, chứ không có ý xâm phạm.

Chàng chớp mắt nhìn anh ta khi đưa tay nhận lấy lá thư. Như giật mình, chàng vội vã bóp vỡ lớp sáp bao ngoài, trải tờ giấy chỉ nhỏ bằng nửa lòng bàn tay trước mắt. Đọc đi đọc lại những gì viết trong giấy, chàng chậm chạp ngồi xuống ghế, hướng mắt về phía ô cửa xanh biếc màu mưa. Không rõ chàng đã ngồi như thế bao lâu, cho đến khi ngày đã lên sáng rõ và thanh âm của khu thành đang trở dậy vọng vào tai họ, mưa vẫn lác đác rơi. Trong cả quãng thời gian ấy, người tiểu sai của chúa Nguyễn chỉ khoanh tay chờ đợi. Chờ đợi điều gì, chàng tự hỏi.

- Rốt cuộc chúa công nói thế nào? – Cuối cùng, chàng lên tiếng. Vị chúa không chuyển thư cho chàng, anh ta chính là thư, là những gì ngài ta muốn nói hoặc giấu kín với chàng khi chưa đến lúc.

- Chúa công bảo, “Thà mất Bình Định chứ không mất tướng giỏi của ta”. – Người đưa tin chậm rãi đáp lời chàng. Một lần nữa, chàng có cử động như thể giật mình. Ánh mắt anh ta bình lặng nhìn chàng. – Chúa công sẽ cố hết sức, nhưng tình thế ngài không thể định liệu được. Chúa công sẽ cố hết sức, nhưng tình thế qủa đang rất khó khăn. Chúa công bảo, Tham thặng hãy tìm cách thoát ra nếu không thể cố được nữa. Tham thặng hãy tìm cách thoát ra đi, không cần phải giữ Bình Định.

- Quân lệnh nói sẽ chém đầu bất cứ kẻ nào bỏ chạy. – Chàng nói và nhìn người tiểu sai như thăm dò. Anh ta cười.

- Quân pháp cũng phải xét đến tình. Vả lại, Tham thặng biết địa vị của ngài với chúa công, với quân ta quan trọng thế nào. Chúa công đã nói trước ba quân, với các tướng rằng thà mất Bình Định chứ không mất Tham thặng – ai cũng đã biết rằng ngài ấy sẽ bảo vệ Tham thặng. Dù Tham thặng lựa chọn thế nào, chỉ cần ngài còn sống là được.

Dù sao thì thành Bình Định cũng không còn quan trọng thế nữa. – Viên tiểu sai nói, một lúc sau, như thể ngập ngừng. Trước ánh mắt chàng, anh ta nói tiếp bằng giọng rắn rỏi hơn. – Tham thặng hẳn cũng nhận ra sự tình này. Nếu hết lương mà quân ta chưa kịp giải cứu, thành Bình Định sẽ không có cách nào giữ được. Đó là một sự tất nhiên, nhưng không phải là lỗi của Tham thặng.

- Không phải lỗi của ta, thế thì đó sẽ là lỗi của ai? – Võ Tánh nheo mắt. Viên tiểu sai há miệng như muốn nói. Nhưng anh ta đã hiểu ra ngay ý chàng, liền im lặng. Một lần nữa, chàng đứng dậy, đến bên cửa nhìn ra ngoài. Tướng doanh nhìn ra đài Bát Giác, khoảng sân rộng giờ đã thưa thớt người qua lại, cảnh vật uể oải dưới màn mưa trắng. Bầu trời xám bạc một màu đè trên thành. Bức thư đã gấp lại vẫn nằm trong những ngón tay chàng.

Trong một khoảnh khắc, chàng nhớ đến giấc mơ buổi sáng này, cảm giác ngây ngất đã nằm trong lồng ngực, hương thơm phảng phất của ký ức đã từng len vào trong mưa. Giờ đây chàng chỉ ngửi thấy mùi mưa lạnh, hơi đất ẩm và gạch ngói bị xới tung, đăng đắng mùi rêu, mùi khói.

- Nói thật đi, - Chàng nói mà không quay lại. – Hẳn chúa công đã có phương cách rồi nên mới bảo Bình Định không còn cần thiết nữa, phải không?

Người tiểu sai im lặng sau lưng chàng. Một lúc vẫn chưa thấy anh ta lên tiếng, chàng cười nhẹ, ngẩng nhìn bầu trời vẫn loáng thoáng những đường vạch trong suốt của mưa.

- Nếu không phải thì ta nhờ anh chuyển lời cho chúa công: Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đã tập trung hết ở đây rồi đó, ngài ấy nhân dịp này mà tấn công Phú Xuân đi, chắc chắn sẽ chiếm được, thậm chí bắt được cả vua chúng. Như vậy, Tây Sơn chắc chắn sẽ tan vỡ. Lấy ngói đổi vàng, được Phú Xuân cũng đủ cho một mạng ta rồi.

Ở giữa chừng câu nói, chàng đã nghe người tiểu sai thở khẽ, rất khẽ. Anh ta kinh ngạc, nhưng khi nhìn lại, chàng nhận ra sự kinh ngạc của anh ta là dành cho chàng. Anh ta không kinh ngạc với điều chàng nói, mà kinh ngạc về chàng.

- Ai cũng phải nhận ra điều đó, phải không? – Chàng mỉm cười trước khuôn mặt của viên tiểu sai. Giọng chàng đột ngột sắt lại. – Thế thì tại sao còn ở đây mà thuyết phục ta đi trốn này nọ?

- Thà mất Bình Định chứ không mất Tham thặng. – Trước giọng nói đột ngột gằn xuống của chàng, viên tiểu sai dường như đã lấy lại bình tĩnh. Anh ta thẳng người, nhìn vào mắt chàng. – Chúa công nói, tất cả những gì ngài ấy nhờ thuộc hạ chuyển đến cho Tham thặng chỉ có thế. Việc cần làm thì ngài ấy sẽ làm, nhưng Tham thặng phải biết tùy thời mà ứng biến. Thời gian, Tham thặng. Ngài cần ứng biến linh hoạt với Thời gian. Ngài cần chọn thời gian mà thoát ra, Tham thặng. Thà sớm chứ đừng nên trễ. Mọi việc chúng ta đã sắp xếp xong rồi. Chúng ta đã chiếm được dinh Quảng Nam, cản đường về của Tây Sơn, thế trận đã được xác lập.

- Nhưng nếu thành Bình Định mất lúc này, chẳng đánh động Tây Sơn sao? – Lấy lại vẻ bình tĩnh, chàng ngồi xuống chiếc ghế cũ. – Thời gian, anh cũng đã biết rồi đó. Ta còn ở đây ngày nào thì còn tập trung được sự chú ý của Tây Sơn ngày ấy. Phú Xuân bỏ trống là cơ hội chỉ có một, không nắm bắt thì mãi vẫn không thể kết thúc được. Còn dằng dai ngày nào, sinh linh còn khổ ngày ấy.

Ta sẽ tự biết lo. – Chàng nói trước khi người tiểu sai kịp lên tiếng. – Ngay cả có tìm cách trốn thoát lúc này thì quân bên ngoài vẫn còn qúa đông, không thể đánh ra được. Nếu chúng ta may mắn, sau khi nghe tin Phú Xuân bị chiếm, chúng sẽ chia nửa số quân tìm cách chiếm lại Phú Xuân, Bình Định lại đỡ bị bao vây. Thậm chí, nếu bắt được vua tôi Quang Toản, đánh rắn dập đầu, Tây Sơn sẽ không cần đánh mà tự tan.

- Chúng vẫn còn dòng dõi ở Bắc Hà, con trai cả của Nguyễn Huệ. - Người tiểu sai lắc đầu. – Như vậy thì chúng chỉ cần lập lên vua mới. Trường hợp xấu nhất, chúng sẽ tập trung cả vào Bình Định thang mộc này, coi như làm lại từ đầu. Tham thặng, chúa công bảo, bằng mọi cách ngài phải bảo toàn cho mình…

Bằng mọi cách, Tham thặng. – Dường như không còn kiên nhẫn, người đưa tin của chúa Nguyễn buông hai cánh tay đang khoanh, chồm lại phía chàng mà hạ giọng. – Thậm chí, Tham thặng, thậm chí khi nhận được hiệu lệnh của chúa công trước khi tấn công Phú Xuân, ngài hãy hạ thành đi, và lựa thời cơ trốn thoát trước khi tin Phú Xuân bị tấn công chuyển đến đây. Chúa công đã nói rồi, Tham thặng…

- Thà mất Bình Định chứ không mất ta. – Chàng cười, nói trước khi người tiểu sai kịp hoàn thành câu nói của mình. – Nói với chúa công, ngài ấy dại dột qúa. Tại sao ngài ấy lại dại dột qúa như vậy? Tại sao qua bao nhiêu chuyện rồi mà ngài ấy còn dại dột qúa như vậy?

Môi người đưa tin mở ra rồi khép lại trong kinh ngạc. Nhưng chàng không nhìn anh ta. Chàng cũng không nhìn buổi sáng đang bừng lên ngoài cửa. Chàng nhìn vào bức thư trong lòng bàn tay mình. Lá thư ngắn với những hàng chữ nhỏ như ríu vào nhau, được viết bằng thủ bút của chúa Nguyễn. Nét chữ của chúa Nguyễn. Ngài ta viết lại lá thư mà Ngọc Du gửi cho chàng. Nhìn lá thư lúc này, trong lòng chàng không tránh khỏi có chút chua xót lẫn trong sự bực bội mà chàng đang cảm thấy.

Dại dột. Thực sự là qúa dại dột. Tại sao ngài ta lại có thể nói với kẻ khác như vậy, sau bao nhiêu chuyện đã xảy ra, bao nhiêu người đã chết – vì Bình Định, vì chàng? Ngài ta, chính người đã đánh chàng hàng trăm gậy ngày ấy để dạy chàng thế nào là một tướng quân, để trừng phạt chàng tội đã bỏ rơi quân lính và đồng đội. Rồi bây giờ ngài ta lại có thể nói rằng chàng hãy trốn đi, hãy hạ thành – chỉ là một cách nói khác của “đầu hàng”. Rồi bây giờ ngài ta lại có thể thốt ra rằng chỉ cần chàng chứ không cần Bình Định – trước bao nhiêu con người? Trốn ra, hạ thành, đầu hàng, làm như vậy thì chàng sao còn có thể đối mặt với những người đã chết? Sự tồn tại của chàng, khi ấy, là một vết nhơ với ngài ta, là sự gợi nhắc vĩnh viễn đến cái giá ngài ta đã trả để chàng được sống. Sự tồn tại của chàng, khi ấy, là sự lật đổ đối với tất cả những gì ngài ta đã dựng xây – cái quân lệnh mà ngài ta áp dụng, cái triều đình mà ngài ta gìn giữ, cái chính nghĩa mà ngài ta theo đuổi, tất cả bị đánh đổi để chàng có thể sống. Tất cả sẽ đổ sụp, đổ sụp dựa vào hành động của chàng. Ấy là chưa nói đến cái tình thế mà họ mắc vào bây giờ cũng vì ngài ta mà ra, những kẻ ngài ta đã tha mạng mà ra. Bây giờ có thể người ta còn chưa nói đến, chưa nhắc nhở, chưa oán hờn, chưa phản kháng, chưa bất mãn. Nhưng sau này, sau này thì họ sẽ nhắc lại – Những sai lầm của ngài ta đã đẩy họ đến tình cảnh này, những niềm tin ngài ta theo đuổi rồi cũng chính ngài ta phá vỡ, và tất cả, hóa ra tất cả những gì ngài ta làm cũng chỉ vì mình – vì chàng là Phò mã của họ Nguyễn. Họ sẽ nhắc lại danh vị Phò mã của chàng như một minh chứng cho sự thiên vị và bất công của vị chúa, như sự áp đặt và độc ác của ngài ta đối với họ. Nói cho cùng, chàng không phải là những công thần tòng vong Vọng Các, cũng không phải dòng dõi trung lương, chàng đã về với Nguyễn quân ngày Gia Định lọt vào tay vị chúa. Chàng chẳng có gì để so sánh với họ, ngoại trừ danh vị Phò mã của họ Nguyễn, chồng của chị chúa Nguyễn. Ngài ta phải nhận ra chứ, những gì người ta sẽ nghĩ. Sao ngài ta lại có thể dại dột như vậy?

Nhưng nhìn bức thư trong tay, cơn giận của chàng dịu xuống thành vị chua xót trong cổ. Phải, chàng là chồng của chị chúa Nguyễn, chỉ điều đó đã có thể nói lên tất cả, trả lời cho tất cả. Sự cố chấp của ngài ta lúc này, lời kêu gọi của ngài ta, lá thư mà ngài ta chuyển tới, tất thảy đều mang theo ý nghĩa ấy. Phúc Cảnh mất rồi, tin báo được nói đầu tiên, đã chuyển đến cho chàng những gì hẳn Gia Định đang cảm thấy, ngài ta đang cảm thấy. Rốt cuộc, chàng đã đi theo ngài ta từ ngày đầu tiên chẳng phải vì quyền uy lẫn hy vọng. Chàng biết ngài ta, con người ấy, chỉ là một con người.

Chàng lặng lẽ đứng dậy, lại bên bàn viết một lá thư. Rất nhanh, chàng đã viết xong. Trong lúc đợi mực khô đi, chàng quay nhìn ra cửa. Nắng sáng đã chiếm giữ hoàn toàn khoảng sân rộng. Mưa đã tạnh.

- Anh đi nghỉ đi. – Chàng chợt nói, nhìn về phía viên tiểu sai. – Tối nay ta sẽ đưa thư cho anh chuyển cho chúa công.

Anh ta đứng dậy, gật đầu tuy vẫn còn có vẻ muốn nói gì. Chàng gọi cô hầu của mình đưa anh ta đi, chuyển cho Ngô Tùng Châu thù tiếp. Còn lại một mình, chàng nhìn xuống lá thư vừa viết, rồi đưa nó vào ngọn đèn vẫn còn đang được thắp trên bàn từ lúc bình minh. Tờ giấy thành tro rơi xuống bấc đèn. Chàng không cầm lên cây bút vẫn còn đang gác trên nghiên, vẫn đứng yên, gần như ngẩn người mà nhìn ánh sáng đã trở nên mờ nhạt và hoàn toàn không cần thiết của ngọn lửa trên đèn.

Bây giờ không phải là lúc vội vàng quyết định. Chàng nhủ thầm, cố giữ cho cơn nóng nảy trong lòng mình nguội bớt. Bây giờ là lúc chàng phải quyết định. Chàng, không ai khác, không phải chúa Nguyễn. Ngài ta còn đang đợi chàng, vẫn đợi chàng.

Tất cả đã được sắp xếp xong, viên tiểu sai kia đã nói. Và chàng là kẻ quyết định, như khi đứng trên chiến trường, như thể chàng vẫn là vị tướng điều khiển toàn bộ chiến trường. Nhưng chàng sẽ quyết định thế nào đây?

Mọi chuyện dường như rất đơn giản. Chúa công, đánh Phú Xuân đi, chàng đã viết trong lá thư bị đốt cháy. Đó là chuyện rất đơn giản, chỉ cần xem xét tất cả những điều kiện và khả năng. Đó là điều nên làm, nhất định phải làm, đương nhiên phải làm. Nhưng ngài ta chờ đợi ở chàng không phải là lời cổ vũ hay đồng tình với hành động ấy. Và rồi, khi nghĩ đến điều đó, mọi chuyện đã không còn đơn giản nữa.

Chàng là Phò mã của họ Nguyễn, là anh rể của chúa Nguyễn, vấn đề rốt cuộc lại là như thế. Cả về tình và lý, cả về đạo đức và tình thân, ngài ta vốn đã không thể bỏ mặc được chàng. Từ khía cạnh này, họ bị đẩy sang một khía cạnh khác. Và khi nghĩ kỹ, lời nói của ngài ta lại không mang vẻ dại dột như chàng đã tưởng. Mọi chuyện tưởng như rất đơn giản, cái quyết định này, cái phương hướng này. Chàng biết mình phải làm gì, nhưng không biết làm thế nào cho chính xác, cho hoàn hảo. Rồi sự mong đợi của chúa Nguyễn đối với chàng không còn giản đơn như một quyết định, một phương sách trên chiến trường. Chàng có một ngày để nghĩ về nó. Chàng có một ngày để quyết định.

Ngày hôm ấy lại có một cuộc tấn công của quân Tây Sơn vào thành. Ồn ào đến chiều, quân bên ngoài mới rút hết. Khi chàng về tướng doanh, người đưa tin đã đứng trước cửa chờ đợi. Anh ta đã sửa soạn xong đồ đạc quần áo như thể sẵn sàng đi khi đêm xuống. Chàng gật đầu, sắp cơm ra ăn cùng anh ta khi hoàng hôn đang tắt dần. Trong bữa cơm, người tiểu sai vẫn đưa ra những câu hỏi như thăm dò, nhưng chàng chỉ cắm cúi ăn và trả lời nhát gừng. Đến khi đèn đuốc được thắp sáng trong thành, chàng mới lại bàn, viết lá thư ngắn cho chúa Nguyễn. Dùng sáp niêm phong lá thư, bỏ nó vào trong chiếc bao thẩm nhựa cây của viên tiểu sai, chàng nhìn anh ta, nói nhỏ.

- Tất cả những gì ta muốn nói với chúa công ở lá thư này. Nhớ, nhất định phải chuyển đến tay ngài ấy.

Viên tiểu sai gật đầu. Khi cùng chàng ra cổng chặn nước dưới chân thành, đã bỏ một chân xuống nước, anh ta vẫn còn ngoái lại.

- Tham thặng, ngay cả lúc nguy cấp nhất ngài cũng có thể dùng đường lặn nước này. Ngài ở Gia Định thì hẳn rất thạo bơi lội mà. Không lâu lắm đâu, chỉ cần lấy đồ giữ khí áp vào mặt là sẽ lặn qua được.

Chàng chỉ cười, vỗ vai anh ta. Bảo trọng, chàng nói khi người thanh niên này chuồi xuống dưới mặt nước. Rất nhanh, hình bóng anh ta đã biến mất trong lòng sông tối, tiếng nước động cũng lắng dần rồi mất hắn. Chàng quay bước về phía tướng doanh, nghĩ ngợi một lúc rồi đổi ý đi về đài Bát Giác. Gió lành lạnh, như thể trời sẽ lại tiếp tục đổ mưa. Khu đài Bát Giác vẫn còn có vài nhóm lính tụ tập, chàng đi qua họ trong bóng tối, lên đài. Đám lửa của lính phiên canh gác vẫn còn sáng trong đài nhưng hẳn người thay phiên chưa tới. Lúc khác thì chàng có thể sẽ than phiền, nhưng bây giờ chàng không mấy để tâm.

Gió đã thổi bạt hơi thuốc súng của cuộc công thành trong ngày. Sự mệt mỏi cũng làm người trong thành đi nghỉ sớm, yên lặng hẳn. Mới vào đêm, trăng còn chưa nhích qua đỉnh vọng gác, nhưng thành đã vắng vẻ, im lìm chờ đợi cơn mưa dưới bầu trời đỏ quạch, xa xa thi thoảng lóe lên một tia chớp ngắn.

Đưa tay vào trong áo, chàng chạm đến tờ giấy mỏng. Nhưng không cần mở ra, chàng đã có thể nhớ lại từng chữ trong bức thư ngắn ấy. Thư ngắn, rất ngắn. Dường như viết chỉ để bỏ nó vào trong một cuộn sáp nhỏ bằng nửa ngón tay.

“Khi nào anh trở lại, chúng ta sẽ cùng uống rượu.

Thiếp đã nói rồi, phải không, đừng quên những gì mình từng hứa.”

Ngay khi đọc, chàng đã biết đây là thư của ai. Lá thư chàng đã đánh mất một năm trước, lá thư mà nàng đã viết một năm trước, giờ đây nó trở lại, bằng nét chữ của vị chúa. Như thể, ngài ta, bằng lời nói của mình, đang ra lệnh cho chàng. Ngài ta nhìn chàng bằng đôi mắt rất giống Ngọc Du. Qủa thật họ giống nhau, không chỉ đơn thuần vì là chị em. Cái nét ấy, đúng như nàng từng nói, “mở mắt đã thấy ngài ta bên cạnh”. Đó là nét của những người đã đi cạnh nhau suốt cả cuộc đời. Ngay cả những cặp vợ chồng sống với nhau qúa lâu cũng mang nét tương đồng như vậy. Họ phản chiếu lẫn nhau như ánh sáng trên hồ nước. Mối quan hệ mà ban đầu chàng đã lấy làm khó chịu; mối quan hệ mà về sau này, mãi sau này, chàng vẫn có chút bối rối như thể chàng đã xen vào giữa họ, đã làm hỏng nó, dù chàng biết rõ thói quen chua chát và nhạo báng của Ngọc Du vốn chẳng nhắm vào một người duy nhất. Đúng hơn, sự cay đắng của nàng là do chàng gây ra.

Vị cay đắng ấy, chàng có thể nhận thấy rõ qua bức thư này. Có thể, đối với người khác, đối với cả chàng lúc bình thường, đây là một lá thư đầy ắp yêu thương, là lời nhắn nhủ đầy yêu thương của nàng. Có thể nàng đã viết nó bằng niềm thương yêu trìu mến và hy vọng, một năm trước đây. Nhưng bây giờ, khi đã quyết định và chọn lựa, chàng lại thấy nỗi cay đắng trong từng chữ, từng chữ của bức thư ngắn như đang bóp nghẹt tâm chàng. Nàng luôn luôn cay đắng, yêu thương của nàng cũng cay đắng.

Đừng quên những gì mình từng hứa. Một mình trong đêm, chàng ngửa mặt nhìn bầu trời đầy mây như thể vẫn đang kiếm tìm vô vọng một ngôi sao còn sáng. Chàng đã hứa gì? Chàng không thể đừng mà tự hỏi. Ngày thanh niên, chàng đã nói rất nhiều điều mà mình không chủ tâm, đã hứa nhiều điều chỉ do thuận miệng mà nói. Ngày bận rộn trong quân đội, chàng cũng đã vô số lần thất hứa với nàng, với những đứa trẻ. Không làm thì đừng hứa, có lần nàng đã phiền trách. Nhưng rồi mọi việc lại được bỏ qua, hết lần này đến lần khác. Đến mức bây giờ chàng lại phải tự hỏi rằng nàng đang muốn nhắc đến lời hứa nào – Lời hứa từ cái ngày đầu tiên ấy sẽ ở bên nàng bất cứ khi nào nàng cần, hay lời hứa cuối cùng trên bến tàu với đứa con út rằng sẽ đem cho nó đồ chơi khi trở về, hay lời hứa chàng đã nói khi ôm lấy nàng trong đêm rằng sẽ yêu thương nàng cả đời? Qủa thật đã qúa nhiều, qúa nhiều những lời hứa như thế, có lời hứa được thực hiện, có chuyện bị bỏ quên. Chàng nhớ về chúng bây giờ với đôi chút khổ sở. Bây giờ, chàng nhìn những dòng chữ mờ trong bóng tối như thể tìm kiếm ngôi sao xa tít trên bầu trời màu đồng đỏ.

Những hy vọng chưa phải đã hết, chàng biết điều đó. Chàng vẫn còn hy vọng vào một chuyển biến khi tấn công Phú Xuân. Vua tôi Quang Toản bị bắt có lẽ sẽ làm Tây Sơn rối loạn. Phú Xuân bị tấn công có lẽ sẽ làm phân tâm Trần Quang Diệu. Với bản thân chàng, con đường trở về vẫn còn rộng mở. Thậm chí, như viên tiểu sai kia nhắc, chàng chỉ cần trốn đi theo cách anh ta đã lẩn vào thành. Một câu nói vẫn làm chàng cảm thấy buồn cười cho đến tận giờ. Anh ta nghĩ qúa đơn giản. Chàng lại có thể trốn đi như thế? À, đó có thể là một cách rất hay để di tản quân tướng, những người không thể ở lại trong thành. Nhưng cầu sống bằng cách lẩn đi, lẩn như một con lươn dưới chân thành, dưới chân lũy của kẻ địch, với chàng thì còn khốn khổ hơn cả chết. Cầu một cuộc sống như thế, chàng làm sao còn có thể ngẩng mặt nhìn kẻ khác?

Ngay cả ý tưởng đầu hàng cũng là một chuyện buồn cười. Quân Tây Sơn sẽ không để chàng sống ngay khi vừa bắt được chàng. Chàng là Quận công của họ Nguyễn, Tứ trụ của họ Nguyễn, thân nhân của họ Nguyễn. Tây Sơn đã không tha cho những Võ Danh Sở, Nguyễn Tịnh, Trần Công Xán, Nguyễn Quýnh, và ngay cả các công nương họ Nguyễn, thì sao có thể tha cho chàng? Họ biết, họ không mang một mối hoài vọng và ảo tưởng như chúa Nguyễn, rằng có thể thay đổi kẻ khác chỉ trong một sớm một chiều. Họ sẽ không đủ kiên nhẫn lẫn sự sẵn sàng trả giá của ngài ta. Họ đã thấy cái giá mà ngài ta phải trả, như Huỳnh Đức nói ngày trước – Anh ta đã dạy cho họ một bài học rằng không thể tin tưởng kẻ địch. Nếu có cơ may sống sót thì chỉ trước khi chiếm Phú Xuân. Còn sau đó, trong sự rối loạn và căm hận sẽ tới, chàng chẳng còn đường tồn tại trong tay kẻ địch.

Vì thế, ngài ta mới bảo chàng tìm đường trốn ra lúc này. Ngay lúc này, khi mọi người mọi kẻ đều không ngờ nhất. Không ai biết rằng lương sắp hết. Không ai biết thuyền Gia Định đang định đánh ra Phú Xuân. Không ai nghĩ rằng thành Bình Định bất chợt buông tay. Không ai nghĩ rằng chàng bỏ trốn và buông tay.

Chàng biết, ngài ta đã bất chấp tất cả khi nói với chàng điều đó. Để rồi, trong niềm xúc động, chàng biết rằng chỉ còn một con đường duy nhất cho mình.

Lá thư trong ngực áo chàng ấm nóng. Chàng nghe nhịp tim mình đập dưới lớp giấy mỏng. Chàng nhìn xung quanh, rồi hướng mắt về đỉnh núi khuất mờ trong đêm. Chàng nghĩ về giấc mơ buổi sáng với chút ít u hoài và rất nhiều cay đắng. Giờ thì chàng đã cảm thấy nó, nỗi cay đắng thường trực của nàng về những giấc mơ không chạm tới được, về những chọn lựa không thể quay đầu và về phận số mang muôn vàn bất lực. Và cả bản thân, cả bản thân của chàng nữa. Chàng không biết, đến cái tình cảnh cam go nhất, đến tình thế tuyệt cùng nhất, chàng có thể bỏ qua cả bản thân để trốn đi hay không.

Có lẽ vì thế mà bức thư được chuyển đến. Lời thỉnh cầu phiền muộn và cay đắng, lời kêu gọi khẩn thiết và cay đắng.

Chàng đã không ngờ, không thể ngờ được đến lúc mình phải lựa chọn như thế này. Chàng không thể ngờ đến lúc lại nhận được loại mệnh lệnh như thế - Trốn đi, bỏ mặc tất cả và trốn đi. Chỉ cần còn sống, chỉ cần chàng còn sống. Dường như tất cả đang gào lên với chàng. Dường như cả những mạch máu của chàng cũng đang gào lên. Chàng nhìn ngọn núi in vào trời đêm, lẫn trong trời đêm. Chàng nghĩ đến những qủa mai đã chuyển màu đen nhánh rồi khô lại, rơi rụng trên nền đất ướt mưa. Chàng nhìn khu thành đang được gió cuốn bớt đi mùi khói và đổ nát, khu thành chỉ còn những đống đổ nát im lìm trong đêm. Chàng nghĩ tới quyết định của mình, lá thư đã được chuyển đi. Chàng nghĩ tới những chọn lựa không thể khác và những gì không thể thay đổi trong đời mình. Chàng nghĩ tới nàng, những đứa trẻ và Gia Định, những hình ảnh thân thương như đã thuộc về một cuộc đời khác.

Người lính thay ca lên đài, nhìn thấy chàng và bối rối cúi đầu chào. Chàng mỉm cười với anh ta, nói mấy câu khích lệ rồi đi xuống. Những đám đông đã tản hết và những hạt mưa đầu tiên đã rơi khi chàng vừa đặt chân lên thềm tướng doanh. Vài giọt nước lớn rơi xuống vai chàng, thấm qua lần áo, lành lạnh. Cô hầu câm đang ngồi khoanh gối ở nhà ngoài, khe khẽ thổi cây sáo của cô ta. Thấy chàng, cô đứng dậy. Chàng gật đầu.

- Cứ thổi đi. – Chàng nói và đi qua cô ta. Đến cửa phòng, chàng đột nhiên đứng lại, quay nhìn cô gái. Cô ta vẫn ngồi yên trong căn phòng tối, trước khung cửa gỗ nhìn ra khoảng sân heo hắt ánh đèn và những hạt mưa đầu tiên đã rơi. Bỗng nhiên, chàng nghĩ đến cuộc đời của cô ta và tự hỏi những gì cô đang nghĩ. Cô đã nghĩ gì khi ở lại nơi đây, làm một cái bóng giữa những người đàn ông, nếm trải những gì mà họ nếm trải? Cô không phải những người đàn bà trong đoàn quân Tây Sơn, cũng chẳng phải như nàng. Cô có chọn lựa không, thậm chí, có suy nghĩ gì không? Cái vẻ bình yên ngơ ngác của cô nhiều khi làm chàng nghĩ tới những người bị chứng thiểu năng, họ sống cả cuộc đời vật vờ không suy nghĩ, không cảm giác. Nhưng có thể không phải như vậy, khi cô đã định tát chàng ngày đầu tiên. Có vẻ như cô chọn cho chính mình cái dáng vẻ ấy, hoặc là chính tâm hồn ấy.

Ánh sáng nhạt bên ngoài chiếu vào làm bóng cô trượt dài trên nền nhà. Chàng nhớ đến buổi tối hôm nào nằm trên phản ở nhà ngoài nhìn bóng nàng sau khung cửa khi nàng tức giận bỏ đi. Cả hai hình ảnh đều gây cho chàng một cảm xúc giống nhau: Sự mất mát như thể tim mình lạnh giá.

Cô gái không thổi sáo nữa, cô ngẩn người nhìn trời. Những hạt mưa rơi ngày càng dày, đan qua ánh sáng mờ của hai ngọn đèn trước cửa. Chàng quay lại phía chiếc bàn hồi sáng đã nói chuyện với người đưa tin, dọn dẹp giấy bút viết dở, bỏ tất cả những tin tức tối mật không thể lưu giữ vào ngọn lửa trên bàn. Lửa bùng lên, chỉ trong phút chốc đã nuốt trọn đám giấy. Chàng ngồi xuống ghế sau bàn, lôi bức thư trong ngực áo ra, ngẩn người nhìn những đường mực đen nhánh tạo thành chữ, thành câu. Trong khoảnh khắc, chàng có cảm giác muốn bỏ nốt nó vào trong lửa. Nhưng rồi chàng chỉ đăm đăm nhìn nó, bức thư được viết bằng nét chữ của một người đàn ông.

Khi ngẩng lên, chàng đã thấy cô gái đăm đăm nhìn chàng. Cô ta đã rời mắt khỏi màn mưa và quay nhìn ánh lửa chợt bừng sáng trong phòng. Chàng nhìn cô. Khuôn mặt thơ trẻ như chưa từng biết đến đau buồn, đôi mắt bình yên như chưa từng biết thế nào là bão tố. Cô xõa tóc, và vạt tóc đen nhánh đổ trên vai cô viền lấy khuôn mặt mềm mại lại dưới ánh đèn. Cô trông như tượng sáp trong ánh đèn. Cô hoàn toàn không giống nàng. Nàng chông chênh. Ngay cả trong những bình yên và lặng lẽ nhất, nàng vẫn chông chênh. Nàng như một làn nước, trôi chảy và không bình yên. Nàng không có sự chế ngự bản thân như cô. Chàng biết những gì cô đã trải qua, cuộc đời mà cô đã có. Và chàng biết, thực sự nàng lại chông chênh và yếu đuối đến mức nào. Nàng có thể quyết định những việc ngông cuồng trong một cái chớp mắt, trong đó có cả việc lấy chàng, tất cả chỉ vì nàng qúa bất ổn.

- Đừng lo. – Bỗng dưng chàng nói với cô. – Mọi chuyện sẽ ổn thôi.

Cô gái chớp mắt. Chàng nhìn ra mưa đã dệt trắng ngoài khung cửa cô ngồi. Tiếng mưa âm vang trong điện, trong khu thành. Chàng lắng tai nghe khu rừng núi xung quanh cũng âm vang tiếng gió. Ngón tay khẽ vuốt lên mặt tờ giấy với những dòng chữ nhỏ xíu một lần nữa, rồi chàng cẩn thận gấp gọn bức thư, bỏ nó trong cái túi vải vẫn đeo bên mình.

Chúa Nguyễn thật ra đang ở rất gần thành Bình Định. Hơn một vạn quân đã được tập trung tại Gia Định chuyển thẳng đến Quy Nhơn trên gần ba mươi tàu Ô. Thuyền Nguyễn quân đi tuần tiễu dọc Tân Hội đến đầm Nước Mặn, từ sông Tam Kỳ tới sông Dinh để nghiêm cấm người qua lại, giữ bí mật cho việc chuyển quân. Lưu trấn thần Gia Định Phạm Văn Nhân sau khi đưa quân đến đã lập tức được phái lãnh ba thuyền Long Phi, Phượng Phi, Bằng Phi đi trước đến Đà Nẵng mà quân Nguyễn đã chiếm được hai tháng trước.

Bức thư của Võ Tánh chuyển đến tay ngài ta ngay ngày hôm sau, trong khí trời mờ mịt mưa mù. Ngài ta nhận được thư, trầm ngâm một lát rồi chuyển nó cho Nguyễn Phúc Thăng cạnh bên. Anh ta đọc thư, nhíu mày, ngẩng nhìn vị chúa.

- Tham thặng không chịu chạy ra, nhưng ở lại thành Bình Định thì còn làm được gì nữa? – Nguyễn Phúc Thăng ngập ngừng. Chúa Nguyễn thở dài.

- Đã biết quân lệnh ngày xưa chứ? Tướng thua trận thì chỉ có chém đầu, bất kể lý do gì.

- Nhưng chúa công nói với Tham thặng… - Nguyễn Phúc Thăng có ý không hiểu. Vị chúa nhìn người chú, vẫn đôi mắt u ám.

- Quốc thúc đã đọc những lời Tham thặng viết trong thư? “Quân Tây Sơn tập trung cả về đây, Phú Xuân tất bỏ trống, chúa công đánh nhất định sẽ chiếm được. Lấy ngói đổi vàng, có mất mạng thì thần cũng vui lòng”. Tham thặng viết như thể hoàn toàn đó là ý của anh ta. Như thể Tham thặng tự đề nghị. Quốc thúc không hiểu sao?

Quốc thúc không hiểu sao? – Tay vị chúa nắm chặt trên bàn khi ngài ta nghiêng người về phía Nguyễn Phúc Thăng. Ngài ta nói mà như không mở miệng ra. – Tham thặng tự nhận lấy tất cả trách nhiệm về phía mình rồi. Bây giờ tất cả mọi việc ở Bình Định là anh ta tự quyết, không can hệ đến chúng ta nữa.

Lại cái cảm giác ấy. Lại cái cảm giác như thể vị chúa có thể quát lên, có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Nhưng ngài ta ngồi thẳng lại, nhìn vào cánh cửa lều trại đóng kín. Ngài ta cứ ngồi yên như thế, ngay cả một ngón tay cũng không động. Rồi bất chợt ngài ta đứng dậy, đi đi lại lại trong lều trại chật hẹp bằng những bước chân chậm và nặng nề. Nguyễn Phúc Thăng nhìn theo ngài ta, một lúc sau mới lên tiếng.

- Tham thặng có định thoát ra không, chúa công? – Anh ta hỏi. Vị chúa ngẩng lên nhìn anh ta bằng một cử chỉ đột ngột và nhanh đến mức anh ta đã thoáng giật mình.

- Phải có dấu hiệu. Nguyễn Văn Thành đang giữ Vân Sơn, Võ Tánh đang giữ Bình Định. Phải cho họ biết dấu hiệu để tự định thời gian hành động. Mấy ngày nữa, trước khi đi thì cho người lên núi Một đốt lửa.

Dù chỉ thoáng qua, mắt vị chúa đã ánh lên tia nhìn cuồng dại mà Nguyễn Phúc Thăng chưa thấy bao giờ, khiến anh ta cũng phải giật mình. Anh ta đã phải thực sự giật mình trước ánh mắt ngài ta, Nguyễn Phúc Thăng thầm nghĩ khi nhìn vị chúa tiếp tục những bước chân qua lại của mình. Ngài ta thỉnh thoảng nói, bất cứ ý tưởng nào hiện trong đầu ngài ta.

- Nếu bắt được vua tôi Quang Toản, Tây Sơn sẽ vỡ trận. Truyền ra trong quân, ban thưởng trọng hậu cho kẻ nào bắt được vua tôi Tây Sơn.

- Chúng ta phân quân ra ba đoạn. Bình Định, Quảng Nam, Phú Xuân, phải ngay lập tức hành động khi nhận được tin. Nguyễn Văn Thành phải hợp binh với Võ Tánh, thừa cơ bọn Diệu rối loạn mới có cơ may phá vây được Bình Định.

- Ta chỉ đem theo Lê Văn Duyệt, Lê Chất, đại quân của Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đức Xuyên vẫn còn ở đây, ngay cả những người Tây dương cũng không di chuyển, chỉ có Barizy theo ta, hẳn không ai nhận ra được.

- Phải làm cách nào để phá tinh thần quân Tây Sơn, không để cho chúng còn hăng hái chiến đấu được nữa.

Dù đã biết rõ tính khí nóng nảy của vị chúa, Nguyễn Phúc Thăng cũng phải bồn chồn theo sự khẩn trương của ngài ta. Đi lại một lúc, ngài ta ngồi xuống sau bàn, nhặt lấy bức thư nhỏ bằng nửa bàn tay mà nhìn hồi lâu. Hồi lâu, ngài ta thở ra, giọng nhỏ xuống như tất cả sức lực lẫn nôn nóng đã thoát qua những bước chân đi hết.

- Ta bảo Tham thặng chạy trốn có sai không, Quốc thúc? – Đó là một câu hỏi thật lòng. Nhưng Nguyễn Phúc Thăng cũng không biết trả lời ngài ta ra sao. Cũng như anh ta không thể trả lời Ngọc Du, không biết phải làm gì để xoa dịu nàng.

Một khoảng im lặng nữa trôi qua giữa họ. Rồi vị chúa lặng lẽ đứng dậy, đi ra ngoài lều trại. Phúc Thăng nghe tiếng ngài ta gọi quân tướng đến bàn việc, rồi ngài ta rời xa dần. Bức thư đã được ngài ta cầm theo. Còn lại một mình, anh ta cầm lên miếng sáp đã từng bao bọc lá thư. Miếng sáp dường như vẫn còn hơi âm ấm.

Ngày 22 tháng tư năm Tân Dậu, trên núi Một, một đám lửa bỗng nhiên được đốt lên, làn khói đen thẫm bốc cao ngoài vài trăm dặm vẫn nhìn rõ. Trong bí mật, quân Nguyễn rời đi, chúa Nguyễn lấy Lê Văn Duyệt, Lê Chất theo mình. Bốn ngày sau, đại quân đến Đà Nẵng. Tại đây, Nguyễn Văn Trương cùng Phạm Văn Nhân đã đợi sẵn. Ngoài ba chiếc đại hiệu thuyền, hàng trăm tàu thuyền chiến đã sẵn sàng cùng vài ngàn quân giữ Quảng Nam trước đó.

Chúa Nguyễn đích thân chỉ huy một chiếc đại hiệu thuyền, ban ra điều quân lệnh, kế hoạch tấn công lẫn phần ban thưởng cho người lập được đại công. Đại quân lưu lại Đà Nẵng một ngày. Cuối ngày hôm ấy, quân thứ của Nguyễn Văn Trương đến tìm ngài ta. Bắt được một người trong thân tộc Tây Sơn, người lính nói. Lệnh ban thưởng vừa nói ra đã có tác dụng ngay lập tức. Đám lưu dân trong vùng dẫn tới một người phụ nữ là thê thiếp của Nguyễn Huệ, con gái của một vị quan họ Lê trong triều Phú Xuân.

- Họ đang đợi bên ngoài, thưa chúa công. – Anh ta thận trọng nói và nhìn chúa Nguyễn. Ngài ta chỉ hơi ngẩng đầu lên khỏi tấm bản đồ mà Vân Dương ni cô gửi tới đã được sao lại, phóng lớn. Những viên tướng bên cạnh quay nhìn người lính báo tin rồi nhìn vị chúa. Lệnh ban ra để bắt thân tộc Tây Sơn tại Phú Xuân, không ngờ có kết qủa sớm đến thế.

- Ban thưởng cho họ y như quân lệnh đã ban. Còn người đàn bà ấy… Đem vứt xuống biển đi. – Chúa Nguyễn thậm chí không buồn rời mắt khỏi vòng phấn mà ngài ta đã vẽ tại đồn phòng thủ ngoài cửa Eo. Nhiều người trong phòng không khỏi giật mình.

- Đó chỉ là một người đàn bà thôi, chúa công. – Nguyễn Văn Trương lên tiếng. Vị chúa quay nhìn ông ta, rồi gật đầu nói với người lính.

- Trước khi hành quyết, nói cho mọi người biết: Đây là kẻ đền mạng cho hoàng cô Ngọc Quận của ta. Hoàng cô Ngọc Quận của chúa Nguyễn, kế mẫu của Vương hậu, bị bọn phản loạn ném xác xuống sông tại Hội An – Năm bà mới hai mươi bốn tuổi.

Nói cho mọi người mọi kẻ đều biết. – Chúa Nguyễn gằn từng chữ trước khuôn mặt thất sắc dần của người lính. – Mỗi mạng của họ Nguyễn sẽ đòi lại một mạng của Tây Sơn. Tất cả những gì chúng làm, ta sẽ bắt chúng trả đủ.

Thi hành đi. Ngài ta nói với người lính đã tái bệch cả làn da rám nắng. Anh ta vội vã chạy đi. Vị chúa quay về phía tấm bản đồ như không hề nhận biết không khí đang đặc lại trong phòng. Nói thêm vài câu chuyện nữa, ngài ta gấp bản đồ, nhìn quanh bọn họ, mỉm cười.

- Nào, bây giờ thì có ai muốn đi xem xử tử hoàng phi của Tây Sơn?

Câu hỏi của ngài ta rơi vào im lặng. Một lần nữa, ra vẻ như không hề nhận ra, ngài ta mở cửa lều, bước về phía đèn đuốc đang thắp sáng trong đám đông cạnh bờ biển ồn ào.

66

Đó là một cảnh tượng có phần kỳ lạ. Một người phụ nữ bị trói chặt trên thuyền, khuôn mặt sợ hãi đến thất thần, đến không còn giống như khuôn mặt con người. Những người cầm mái chèo định đưa thuyền ra khơi. Và trên bờ, trên bãi cát, thanh âm xô tới như một đàn ong rào rào từ đám đông tụ họp. Có kẻ thích thú, có kẻ ngần ngại, có kẻ hả hê, có kẻ thương xót, có cả những kẻ khoanh tay bàng quan, nhưng tựu chung, chẳng ai có ý định bước tới chiếc thuyền. Lửa từ những ngọn đuốc soi sáng từng khuôn mặt, từng thái độ. Nhưng chẳng ai có ý định bước tới chiếc thuyền. Người phụ nữ vẫn run rẩy, trắng xác và run rẩy, trong gió biển, trong những lời nhục mạ được ném tới, trước cái định mệnh đang diễn ra, đang xảy đến. Trong đêm và ánh lửa, sóng biển mang màu tím tái sủi bọt lấp lánh ánh đỏ, duềnh lên quanh họ.

Từ trên boong chiếc đại hiệu thuyền nhìn xuống, những khối màu sắc, ánh sáng hỗn độn ấy nhập nhèm vào nhau làm cho cảnh tượng càng kỳ dị hơn. Ngoài xa, bóng những chiếc thuyền lớn nhỏ nối tiếp nhau như đâm nát bầu trời tối đen đêm trăng hạ huyền. Những bóng đen như đổ ập xuống đám đông ấy, viền lấy đám đông ấy trong những ngón tay cong cong đen đúa. Bờ biển mở ra một khoảng đỏ rực màu lửa cho một vạn rưỡi quân đóng lều hạ trại. Nhưng hiện thời thì dường như họ đã tập trung hết cả về trước chiếc thuyền này, lắng tai nghe người trên thuyền nói. Anh ta nói bằng thái độ tin chắc và hùng dũng, bằng sự cả quyết và căm hận như thể đó là chuyện của anh ta, quyết định của anh ta.

- Hắn nói nhiều qúa, sao chưa kết thúc đi chứ? – Từ sau lưng chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Thăng chẳng biết ở đâu xuất hiện, chợt lên tiếng. Ngài ta hơi quay đầu nhìn người Quốc thúc. Nguyễn Phúc Thăng, cũng đã mặc quần áo sắc đỏ của quân Gia Định, bước đến nơi vị chúa đang đứng, gác tay lên lan can tàu mà nhìn xuống cảnh tượng bên dưới. Giọng anh ta vẫn nhẹ nhàng, gần như điềm nhiên. – So với cái chết của công nương Ngọc Quận, thế này vẫn còn nương tay qúa. Ngày ấy công nương lọt vào tay đám loạn quân, chẳng biết trước khi bị ném xuống sông thì đã bị chúng dày vò thế nào.

Vị chúa đưa mắt nhìn anh ta, không lên tiếng. Ngài ta ngồi xuống boong tàu, dựa người vào lan can, lưng quay về phía đám đông. Nguyễn Phúc Thăng nhìn lại lần cuối người tiểu sai vẫn say sưa nói, rồi ngồi xuống cạnh ngài ra, vuốt lọn tóc đang bị gió thổi bạt ra sau.

- Cảm giác này thật là khó chịu, phải không? – Nguyễn Phúc Thăng cất tiếng, một lúc sau. – Càng tiến gần, ký ức hiện ra càng rõ ràng. Cũng khó hiểu tại sao lúc ấy mình lại có thể chịu đựng nổi.

Vị chúa cúi đầu mỉm cười. Trong gió biển có vị mằn mặn của muối.

- Thế mà ta cứ nghĩ Quốc thúc sẽ phiền trách ta. – Ngài ta nói. Nguyễn Phúc Thăng làm một cử chỉ như cái gật đầu.

- Đó chỉ là một người đàn bà, hả? Nhưng rốt cuộc, phụ nữ họ Nguyễn còn được bao nhiêu người? Rốt cuộc, chúng có tha cho ta đâu. Người ta sẽ hiểu thế đấy. – Giọng anh ta kéo dài ra như chế giễu. – Nhưng lệnh đã ban rồi, lời đã nói rồi. Rốt cuộc thì người ta cảm thấy đã chạm đến được một cái đích nào đó. Trong giờ khắc này mà còn nói đến cản ngăn với chả tha thứ chẳng phải là làm nhụt chí người qúa ư?

Chúa Nguyễn để bật ra tiếng cười. Ngài ta ngẩng đầu nhìn trời. Qua khóe mắt ngài ta, con thuyền đã bắt đầu rời đi. Đêm cuối tháng không trăng, chỉ có sao đan kín khoảng không xanh sẫm.

- Không đâu, họ nghĩ cũng đúng đấy. Ta thật có một chút thất vọng.

- Thất vọng? – Nguyễn Phúc Thăng nhướng mày. – Báo thù là việc đoạt quyền thần thánh. Ngài chưa bao giờ tin vào thần thánh, thì không thể thất vọng ở thần thánh được chứ?

- À, có đấy. – Lại một tiếng cười nữa đáp lời Phúc Thăng. – Giờ này ở Gia Định, những kẻ khốn kiếp ấy lại chẳng đang bảo “Trời trừng phạt họ Nguyễn” với chả lời hươu vượn gì về qủa báo với luân hồi đấy à? Ồ, thế thì ta sẽ “thay trời hành đạo”. Trời đã cho ta cơ hội, thế thì ta phải thay mặt trời mà đòi lại công bằng, ta thay mặt trời mà bắt chúng trả giá. Đó mới là “Thiên đạo” của ta.

Lời nói ấy, thực sự mang nhiều chế nhạo đến mức Nguyễn Phúc Thăng không biết có nên tin hay không. Vị chúa đã đứng dậy, khoanh tay trên lan can tàu. Đám đông đã tan dần, tuy còn rất nhiều kẻ đang đứng trò chuyện trên bãi biển. Con thuyền nhỏ đã cách bờ một quãng, nhưng vẫn nhìn rõ được. Ngài ta quan sát họ, những người còn trong tầm mắt ngài ta, với đôi mắt của một người ngoài cuộc. Xa lạ và lạnh lùng.

- Nhưng rốt cuộc thì ta còn thất vọng sâu xa hơn thế. – Ngài ta nói và mỉm cười với bóng tối.

Nguyễn Phúc Thăng lại không lên tiếng. Anh ta biết rằng trong những lúc như thế này, vị chúa không trả lời anh ta hay bất cứ ai, ngài ta giữ những ý nghĩ ấy cho riêng mình. Dù là bạn từ thưở nhỏ, giờ đây ngài ta mang vẻ xa lạ của người đã cách biệt hàng chục năm dài. Ngài ta xa lạ như luôn luôn xa lạ, như đã hoàn toàn cách rời với thế giới.

Thay vì thế, anh ta nói một câu vu vơ với bầu trời.

- Phú Xuân không rõ thế nào rồi? Chỉ vài ngày nữa là về được, hả?

- Ta không giữ hy vọng qúa cao với bất kỳ chuyện gì. – Vị chúa nói, vẫn nheo mắt nhìn con thuyền đang đi vào bóng tối trên biển. Ánh sáng loang loáng, lấp lánh của đồn trại và đài canh gác trước cửa biển quét qua cảnh tượng này, qua ô cửa, phân thành những đoạn sáng tối đều đặn, rồi mất hút trên những con sóng không ngừng xô bờ. Nguyễn Phúc Thăng hơi quay nhìn ngài ta, khuôn mặt lạnh lùng trái ngược với sự phấn khích mới vài giờ trước khi hiệu triệu quân lính. Ngài ta đang tính toán, tính toán từng chi tiết nhỏ nhất, cho tới lúc này. Trong khi mọi điều hầu như đã hoàn hảo. Ở Phú Xuân, thậm chí Vân Dương ni cô đã bí mật kêu gọi, tập hợp người Gia-tô giáo cùng những thân tín trong vùng đợi thời cơ phối hợp nổi dậy. Họ đã nắm được bản đồ toàn bộ các đồn phòng thủ của Tây Sơn đang đặt tại Phú Xuân. Các quân lính – vốn là lính đồn điền cùng những tân nhân mới được vét từ Gia Định đến – đang hoàn toàn phấn khích. Anh ta có thể nhận thấy sự phấn khích của họ trong cuộc tuyên án xử tử người cung phi hồi nãy. Dưới quyền của một Lê Văn Duyệt táo bạo đã đánh là không biết lùi cùng một Lê Chất dũng mãnh, thao lược, một đội thuyền có thể quét sạch cả Thị Nại của Nguyễn Nhạc, Phú Xuân đang bị bỏ trống kia là một mục tiêu dường như qúa dễ dàng.

Nhưng vị chúa vẫn không ngừng lo lắng. Dường như, cùng với thời gian và những sự không như ý xảy ra liên tiếp, ngài ta đã không còn bao giờ tự cho phép mình hy vọng, kỳ vọng qúa cao. Và Phúc Thăng nghĩ đến những gì họ đã bỏ lại đằng sau: một Gia Định sầu muộn, hoang tàn; một Bình Định nằm trong mối hiểm nguy thường trực. Và anh ta, không hiểu do sự lo lắng hồi hộp gây nên hay không, cũng cảm thấy nó, một linh cảm xấu. Một thứ linh tính khó có thể gọi tên, như bàn tay vô hình bóp nghẹt lấy tim họ. Trở về Phú Xuân lần này, họ chỉ thấy u sầu và lo lắng. Nơi ấy đã từng là quê hương họ, là nơi họ đã nghĩ đến trong suốt những năm dài, gần ba mươi năm dài, là giấc mơ của họ, giấc mơ suốt cả cuộc đời của họ. Nhưng rồi, trước cái ngày gặp gỡ và tái ngộ, họ lại có cảm giác như e sợ phải đối mặt với nó. Qúa nhiều, vùng đất ấy đã chất chứa qúa nhiều, cả ký ức, cả yêu thương lẫn thù hận, cả ước mơ lẫn sự ám ảnh của họ. Một phần cuộc đời họ, một thứ qúa khứ đã mất đi và vĩnh viễn không còn có thể tìm lại được. Vùng đất đã chôn vùi cả họ, họ nữa, một phần của họ.

- Bình tĩnh lại. – Nguyễn Phúc Thăng nói, một lúc sau. Anh ta vẫn nhìn bầu trời trên biển nhấp nháy sao, kéo dài đến tưởng như vô tận, sâu hút đến tưởng như vô tận. – Chúa công giết cô ta vì người khác hay vì bản thân mình vậy?

- Đằng nào cũng thế. – Không ngoảnh lại, chúa Nguyễn đáp lời người Quốc thúc một cách uể oải. – Nhưng nếu nói rằng không cảm thấy gì thì là nói dối đấy, phải không? Có còn nhớ lúc nghe tin về công nương Ngọc Quận, Quốc thúc đã như thế nào?

- Thần thề sẽ giết hết bọn Tây tặc. – Nguyễn Phúc Thăng mỉm cười. – Nhưng rồi mọi chuyện đã không đơn giản như thế nữa.

- Ta không giống như Quốc thúc. – Vị chúa nói, nhát gừng và lạnh lùng. Nguyễn Phúc Thăng nhướng mày.

- Nên thần nói là bình tĩnh lại đi, chúa công. – Giọng Phúc Thăng mềm mại, gần như là dịu dàng. Giọng nói như âm vang giữa các dòng sông, trên các dòng nước. Dường như họ nghe tiếng nước động mơ hồ của một vật bị ném xuống, không chủ ý mà cùng quay nhìn về phía ấy. – Nếu ngay cả ngài cũng như thế này, có thể nhờ cậy vào ai được nữa?

- Đã có ai nói với Quốc thúc rằng không thể tin ta được chưa? – Vị chúa cười khẽ. Ngài ta cúi đầu nhìn Phúc Thăng vẫn ngồi trên sàn tàu, chân khoanh tròn. Anh ta ngẩng lên về phía ngài ta, cũng đáp lại bằng nụ cười tương tự.

- Có, chúa công nói rằng thần thánh lẫn con người đều không thể tin được. – Phúc Thăng nói, giản dị và điềm nhiên. Tiếng cười bật khỏi môi chúa Nguyễn.

- Quốc thúc, - Ngài ta vẫn giữ nụ cười trên môi, vết hằn giữa đôi lông mày cũng không còn nữa. – Có chú bên cạnh thật là tốt. Theo cách mà chú nói, mọi sự đều trở thành như là đương nhiên vậy.

- Phải, không đáng thất vọng thế đâu. – Phúc Thăng gục gặc đầu. Anh ta đứng dậy, quay nhìn về phía biển đúng lúc con thuyền nhỏ trở về lọt vào vùng sáng của đám người trên cảng. Một tiếng thở dài khe khẽ lan trong lồng ngực. – Chúa công, ngài nghỉ ngơi đi, những việc tiếp theo còn phải định liệu nhiều lắm.

À, vị chúa gật đầu, thốt khe khẽ trong cổ. Đứng yên một lúc nữa, ngài ta rời khỏi lan can đang dựa vào, đi dọc mạn tàu đến nơi xuống bến. Dường như ngẩn người, ngài ta đứng đó, nhìn bầu trời đen nhánh lấp lánh sao sâu hút tầm mắt mà như chỉ vươn tay ra là đã chạm đến được. Khối bóng tối u lệ bí hiểm bao vây họ, như sẵn sàng rơi xuống họ, đè nặng lên cảm giác của họ, từng khối tri giác của họ.

- Quốc thúc, - Vị chúa chợt nói, vẫn đứng yên ngẩng nhìn trời. – Không biết đám lửa trên núi Một đã tắt chưa?

Đám lửa trên núi Một đã tắt, chỉ còn gợn khói lờ mờ tan trong đêm, không thể thấy được trong đêm. Võ Tánh lại nhìn về phía nó với chút nôn nao trong cổ. Đám lửa đã cháy suốt ngày liền, khói ngùn ngụt trước khi tan biến. Đám lửa đã làm xôn xao thành Bình Định cũng như lũy Tây Sơn. Bất cứ ai cũng biết không phải tự dưng mà có lửa trên ngọn núi cao nhất vùng, đó phải là một hiệu lệnh, một dấu hiệu. Nhưng chỉ có một vài người hiểu được dấu hiệu này, dấu hiệu của chúa Nguyễn đánh động đến xung quanh. Cuộc tấn công đã bắt đầu, chàng nghĩ với sự nôn nao trong ngực. Đoàn quân của vị chúa đã rời đi, và chẳng mấy chốc, thời khắc mà chàng chờ đợi bao nhiêu năm nay sẽ tới. Phú Xuân, cuối cùng họ đã đặt chân đến được Phú Xuân.

Và thời khắc của thành Bình Định sẽ điểm, cùng lúc với nó. Sáng nay, khi nhìn thấy đám lửa và cột khói bốc cao trên núi, chàng đã ngay lập tức đến kho cất trữ quân lương. Chỉ còn vài ngày nữa, nhiều lắm là thêm được nửa tuần trăng, Ngô Tùng Châu lắc đầu với chàng. Đó là giới hạn cuối cùng của họ. Đoàn quân của vị chúa đã ra đi, còn vài ngày nữa trước khi họ đến được Phú Xuân. Trong vài ngày ấy, chàng phải quyết định. Vài ngày trước khi chiếm được Phú Xuân là thời hạn để chàng đầu hàng, giữ được mạng sống của mình. Vài ngày sau khi tin từ Phú Xuân vừa chuyển đến là thời gian cho chàng cố sức mà thoát ra. Tất cả, gom lại chỉ trong nửa tuần trăng. Đã trấn giữ khu thành này suốt một năm rưỡi, chàng biết thời hạn nửa tuần trăng ấy thật ra lại ngắn ngủi đến mức nào.

Khi đám lửa dần tắt, sự xôn xao cũng mất đi khi không thấy có một sự chuyển biến nào xảy ra. Cả những người nôn nóng nhất cầm ống nhòm lên vọng gác nhìn bốn phía cũng không thấy được động tĩnh nào trong khu rừng rậm, dưới những tán cây dày. Đã thế, trời theo thói quen lại cứ chiều tối là chuyển mưa, xong bữa cơm, mọi người tản về doanh trại ngủ. Dường như trong hơn một năm rưỡi này, không sự lạ nào mà họ chưa từng thấy qua, bao nhiêu tình cảm vui buồn hy vọng rồi thất vọng họ đã từng trải. Đám lửa trên núi Một chỉ là một thắc mắc nho nhỏ, nhưng rồi sẽ bị người ta quên đi. Chỉ có chàng lúc này lại ngồi trong lầu Bát Giác mà ngẩn ngơ nhìn về phía ngọn núi đã lẫn trong bóng tối.

Vài ngày. Thời hạn cho chàng là vài ngày ấy. Dù thâm tâm không thể chịu đựng nổi chỉ một ý nghĩ “đầu hàng” – Dù sao chàng với Trần Quang Diệu đang đóng giữ ngoài kia cũng đã là cừu nhân suốt cả mười năm, đụng độ với nhau bao nhiêu trận, đầu hàng như thế thật mất mặt, trong khi chàng vẫn chưa thua bao giờ - chàng vẫn phải cân nhắc đến nó. So với cái hy vọng có phần mong manh về một trận đánh ra ngoài mà chàng đang chịu thiệt cả về quân sĩ lẫn tướng lãnh thì hạ thành ngay bây giờ, hoặc chạy trốn ngay bây giờ lại có khả năng hơn. Vị chúa nhất quyết đốt lên đám lửa trên núi cho chàng chỉ để nhắc nhở về thời gian, quãng thời gian ngắn ngủi mà ngài ta có thể dành cho Bình Định. Vì sự cương quyết ấy của ngài ta, chàng lại phải đem cái ý tưởng “đầu hàng” vốn đã nhét sâu dưới tâm trí, định vứt bỏ ấy, lên suy nghĩ. Có một giọng nói nào đó – nghe rất giống giọng Ngô Văn Sở - ong ong trong tai chàng: Đó là cách toàn mỹ nhất. Anh có mất gì đâu, Tham thặng. Huỳnh Đức kia chịu khuất trước Nguyễn Huệ để rồi giữ mạng trở về, vẫn là hào kiệt. Giọng nói nghe đáng ghét đến mức không thể tưởng được.

Thậm chí chàng đã nghĩ đến cách thử trá hàng. Với Nguyễn Văn Tồn đang trong quân Tây Sơn, có lẽ chàng sẽ làm nên chuyện. Nhưng đó là “có lẽ”, một sự mạo hiểm qúa mức trong tình thế này, khi vị chúa vẫn chưa nắm được Phú Xuân trong tay, mà trời mới biết được có thể lại sự biến nào xảy đến. Chàng không sợ thất bại hay bị giết, nhưng trá hàng nghĩa là đưa Tây Sơn vào thành Bình Định. Thắng thì không sao, nhưng thất bại thì họ sẽ mất Bình Định trong khi vẫn chưa có Phú Xuân. Công lao gìn giữ của chàng trong cả ba năm thế là mất sạch. Lúc ấy, vị chúa không giết chàng thì chàng cũng chỉ còn cách nhảy xuống biển.

Phải, chàng không thể hạ thành Bình Định bây giờ - khi vẫn chưa có được Phú Xuân. Dù chỉ còn một người, chàng vẫn phải giữ thành Bình Định khi chưa có tin từ Phú Xuân. Chàng không tin chắc vào vận may của ông trời – trong những ngày này. Trong những ngày này, chàng phải liệu định cả đến những rủi ro khó có thể nghĩ tới. Nếu rủi ro xảy ra tại Phú Xuân, họ chỉ còn có Bình Định. Nghe tin Phú Xuân bị tấn công, thế nào quân ở Bình Định cũng phải rút lui, Bình Định lại được giải cứu. Thế trận đã xác lập – hoặc Phú Xuân, hoặc Bình Định. Một trong hai, họ chỉ có thể được một trong hai, họ sẽ được một trong hai. Chàng phải ở đây, cho đến khi có kết qủa cuối cùng.

Vậy là cơ hội đầu tiên – vài ngày trước khi tấn công Phú Xuân – đã bị chàng gạch qua trong tâm trí.

Nhưng tim chàng lại chùng xuống. Một trong hai. Hẳn Trần Quang Diệu cũng phải thấy rõ điều đó khi nghe tin. Nếu Phú Xuân chỉ bị bao vây, hẳn hắn sẽ phải đưa đại quân về để giải vây cho kinh đô và triều đình. Nhưng nếu Phú Xuân bị chiếm, hắn cũng phải nhận ra rằng mình chỉ có thể chọn một, một mục tiêu duy nhất còn lại. Cơ hội thứ hai của chàng nghĩ ra lại càng mỏng như khói. Làn khói vẫn đang bốc trên đỉnh núi kia. Làn khói đang tan, và dù dõi mắt tìm kiếm kỹ càng, chàng chỉ nhận ra một đường mảnh như sợi chỉ vương qua trời.

Càng suy nghĩ, chàng lại càng hóa ra gần như là ngơ ngẩn. Mắt chàng dõi theo làn khói biến nhòa trong gió, không rõ mình đang nghĩ điều gì. Chàng không nhận ra cả tiếng của người lên đài cho đến khi một bàn tay vỗ vào vai chàng.

- Tánh. – Người đằng sau gọi trước khi vòng đến trước mặt chàng, chắn khung cảnh làn khói mà chàng đang nhìn. Chỉ có một người trong quân vẫn gọi chàng như vậy. Võ Văn Lượng nhìn vẻ hơi kinh ngạc của chàng, mỉm cười. – Anh vẫn còn nghĩ đến việc hồi sáng à?

Chàng gật đầu. Khi đám lửa bốc cao, đã có nhiều người dò hỏi chàng về ý nghĩa của nó, nhưng chàng lắc đầu không biết. Tuy nhiên, nhìn Võ Văn Lượng lúc này, chàng biết mình không giấu được ông ta. Dù sao, chàng và ông ta đã ở bên nhau cả gần hai mươi năm rồi.

- Anh đã định nói cho tôi biết chuyện gì đang diễn ra chưa? – Qủa đúng là Võ Văn Lượng tìm chàng để truy hỏi. Ông ta ngồi xuống bên đám lửa giữa đài. Chàng rời khỏi lan can, đi theo ngồi đối diện với ông. Võ Văn Lượng cả hơn mười năm vẫn chỉ mang chức Cai đội sau lần bị chúa Nguyễn trừng phạt tội vô lễ với Vương hậu, mà chàng ngờ rằng do ý muốn của ông ta nhiều hơn là không có cơ hội cất nhắc. Chuyện quân lương, chuyện liên lạc với vị chúa, và chuyện tối mật liên quan đến sinh mệnh thành Bình Định, chàng không hề hé lộ cho cả người bạn chí thân này. Bây giờ, ông ta nhìn chàng. Vẫn là đôi mắt của chục năm trước đây, kiên nhẫn nhìn ngắm và đánh giá mọi thứ quanh mình, ước lượng tình thế, xét đoán thái độ. Ông ta vẫn như thế, ngồi yên để quan sát, và chỉ đứng sau thúc đẩy chàng.

Nhìn Võ Văn Lượng bây giờ, đột nhiên chàng lại nhớ đến doanh trại giữa đầm lầy gò Tre ấy, những người anh em giờ đã phiêu dạt. Không, ngoại trừ chàng và Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, bọn họ vẫn ở ngoài kia, chiến đấu và chống chọi. Họ vẫn theo đuổi giấc mơ của mình, tuy mỗi người một lối khác nhau. Giờ đây, bên đám lửa quạnh hiu chỉ có hai người, chàng lại nhớ đến khung cảnh xưa kia tới thắt lòng. Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô, Trần Văn Tín – họ là những người anh em thiết thân nhất của chàng. Và bao nhiêu người khác nữa, những thanh niên trẻ đã cùng chàng phiêu bạt từ Ba Giồng đến gò Tre, rồi chia tay khi chàng về Hậu quân. Từ dạo ấy, ngoại trừ vài lần dự tiệc cùng nhau, họ chưa có dịp ngồi lại đủ đầy. Ngọc Du luôn chú ý mời họ đến khi có tiệc, nàng luôn chú ý mời đủ những anh em cũ của chàng, nhưng không khí không còn giống như xưa nữa. Tự bản thân chàng, với danh phận và địa vị ngày càng cao, đã tạo ra một cảm giác không còn như xưa với họ. Và trong đám đông, họ cần phải biểu thị sự kính trọng với chàng.

Chỉ có Võ Văn Lượng vẫn gọi chàng bằng cách gọi ngày xưa khi vắng người. Đôi mắt ông ta bây giờ cũng vẫn như xưa, khi chàng còn là một thanh niên trẻ xốc nổi và dễ dàng gây sai lầm, cần ông ta chỉ lối. Ông ta nhìn chàng bây giờ, với đôi mắt của một vị trưởng bối mà chàng kính trọng. Và chàng nghĩ, có lẽ sự phân vân của chàng cuối cùng đã không giấu được.

Chàng nhìn quanh khu đài. Võ Văn Lượng nhún vai.

- Đừng lo, tôi đã cho người canh gác xung quanh, không để ai lên đài đâu.

Chàng cười. Qủa đúng là ông ta vẫn suy tính chu đáo như thế.

Lặng lẽ, chàng kể cho ông nghe về những việc mà chàng nghĩ phải nói ra. Quân lương trong thành sắp cạn. Quân Nguyễn bên ngoài không tấn công vào được. Ngập ngừng, chàng nói về cái kế hoạch tối mật của vị chúa, tuy chỉ thoáng qua. Điều quan trọng bây giờ là làm cách nào với thành Bình Định, chàng nói. Nên làm gì với thành Bình Định? Nên lựa chọn cách làm nào?

Khi chàng nói hết, Võ Văn Lượng vẫn nhìn chàng. Đôi mắt ông ta sâu hút trong ánh lửa, lại chập chờn điều gì đó mà chàng cảm thấy không thích.

- Anh chỉ nghĩ thế thôi sao, Tánh? – Một lúc sau, ông nói. Chàng hơi cau mày nhìn ông. – Anh chỉ nghĩ rằng làm gì với Bình Định, làm gì để tốt nhất cho chúa công của mình, cho đại cuộc, thế rồi những người ở đây thì sao?

- Tôi đã hứa sẽ bảo vệ họ, sống chết với họ. – Chàng nói, chớp mắt rất nhẹ. Võ Văn Lượng lắc đầu, cắt ngang lời chàng.

- Anh lại nghĩ qúa đơn giản rồi. Đoàn quân này là những ai? Đoàn quân này đâu phải anh em ta ở gò Tre, đâu phải là tinh binh Gia Định, đâu phải là quân đội của anh, đi theo anh bất kể sống chết. Đoàn quân này đâu phải những kẻ tôn thờ, kính trọng “Gia Định tam hùng” như anh hả Tánh. Anh nghĩ họ muốn chết cùng với anh sao?

- Tôi sẽ cố không để họ chết. – Chàng vội nói. Nhưng một lần nữa, Võ Văn Lượng tỏ ý bất bình.

- Chẳng lẽ trong hơn cả năm trời anh vẫn không nhận ra sao? – Ông ta hạ giọng nói như giảng giải cho chàng. – Những người này tin cậy anh vì lẽ gì? Anh có nhớ những kẻ định thoát ra đã bị anh giết chết? Anh có nhớ thiết quân luật đã được áp đặt trong thành? Anh không nhận ra không khí lúc ấy sao? Trong toán quân này, bao nhiêu kẻ bị bắt buộc phải ở lại? Trong toán quân này, bao nhiêu kẻ đã nản lòng? Phải, thậm chí trong cả các tinh binh Gia Định nữa, bao nhiêu kẻ đã nản lòng? Nhưng họ ở đây, trong tay anh, kiểm soát lẫn nhau. Dần dà, giữa anh và họ lại thiết lập một mối quan hệ thiết thân. Anh tốt với họ, họ biết. Anh từng ngày coi sóc họ, từng đêm tuần tra lo cho mỗi một cái lò sưởi một, họ cũng biết. Anh là kẻ nắm bắt họ, kiểm soát họ, nhưng đồng thời anh cũng là người chăm lo cho họ, là hy vọng của họ.

Anh còn nhớ mình đã nói gì trong ngày mà anh giết đám quân làm phản? Anh sẽ không để họ chết. Anh đã nói, rồi anh làm được mấy phần? Họ vẫn chết, vì đánh nhau, vì bệnh, nhưng hẳn đó không phải là lỗi của anh, hoặc họ vẫn chưa nghĩ đó là lỗi của anh. Họ dựa vào anh, họ tin anh, họ hy vọng vào anh. Họ nghĩ rằng anh sẽ bảo vệ họ - Dù cho anh là kẻ đang giam giữ họ nơi này.

Rồi anh sẽ nói gì với họ đây? – Ánh mắt Võ Văn Lượng chợt hướng lên, sắc lại như muốn xuyên qua chàng. – Anh sẽ nói với họ rằng anh hy sinh Bình Định, hy sinh họ cho chúa công của anh? Anh sẽ nói với họ rằng anh đẩy họ vào tuyệt lộ cho thắng lợi của chúa công mình? Anh nghĩ lúc ấy còn ai đi theo anh, tin tưởng anh? Anh nghĩ lúc ấy còn ai không hận anh lừa dối họ?

Đừng đánh giá con người qúa cao, Tánh à. Thật ra thì mọi người đều coi trọng mạng sống của mình, dù ở mức độ khác nhau. Thật ra thì với những kẻ như đám đông xung quanh anh, họ chỉ biết bảo toàn mạng sống của mình. Họ ở đây để bảo toàn mạng sống của mình. Họ muốn trở về nhà. Họ muốn sống. Trong lúc bình thường còn anh em bạn hữu, còn chúa chúa tôi tôi. Đến lúc nguy cấp thì kẻ nào lại chẳng nghĩ cho mình? Anh không thể bắt họ cùng phải hy sinh như mình. Thậm chí, dù tình nghĩa của anh với họ sâu nặng bao nhiêu, anh có đối xử tốt với họ thế nào, cũng không thể bắt họ phải chết vì mình, không thể đâu.

Chàng lặng im. Chàng lặng im nghe từng lời nói của Võ Văn Lượng như nước lạnh xối vào tâm khảm. Thật ra chàng muốn tranh cãi với ông, nhưng không nghĩ ra điểm gì để phản bác. Phải, chàng đã không nhận ra điều ông đang nói, khi đang qúa bận tâm suy nghĩ cho vị chúa, cho Nguyễn quân, và cho cả chính mình. Cho chính mình, vì thế chàng không thể phản bác lại ông. Qủa thật chàng cũng muốn sống, chàng muốn được sống và trở về nhà. Chàng đã không hề nghĩ rằng đó là cảm giác chung cho tất cả, chàng đã không nghĩ đến cảm giác của người khác khi nghe những bí mật mà chàng đang giấu kín. Lời nói của Võ Văn Lượng như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào chàng, làm chàng thức tỉnh. Ông ta có vẻ như đã quan sát những chuyện này qúa lâu, để rồi nhận ra được điều mà chàng không nhận ra, đã bỏ qua.

Phải, chàng đã qúa tin cậy vào tình thân đã được thiết lập trong năm tháng này, để rồi quên mất thân phận thực sự giữa chàng và những người lính ấy, những gì họ sẽ nghĩ. Những điều mà chàng không thể dùng lý luận cùng lý tưởng, cùng đạo lý hay đại nghĩa – bất cứ gì – để thanh minh hay thuyết phục bọn họ. Chàng đã qúa nôn nóng trước những mất mát của Nguyễn quân, của Gia Định rồi quyết định – chỉ bằng một mình ý mình – rằng thành Bình Định phải hy sinh. Chàng có thể hy sinh, nhưng còn họ? Họ không phải là Cảm tử quân, họ chưa hề hứa hẹn sẽ hiến cuộc đời cho quân đội, họ không muốn chết cùng chàng. Chàng đã hy sinh họ - dù lý do là gì, đơn giản chỉ có thế.

- Tôi cứ nghĩ anh sẽ hỏi ý mọi người. – Võ Văn Lượng nói, vẫn nhìn chàng bằng ánh mắt có nhiều phiền muộn. – Nhưng qủa là anh trước nay vẫn chẳng thay đổi được.

Có điều gì trong giọng nói của ông khiến chàng phải mỉm cười dù lòng rối như tơ vò. Trước nay vẫn thế, như Ngọc Du từng mắng chàng “vô cảm trơ lì khờ khạo”. Chàng nghĩ tới lúc ở gò Tre tự quyết trận thiêu đầm Vạn Thắng, tự đưa quân đi đánh Kỳ Hôn giải vây cho quân Nguyễn, tự ý khăng khăng ở lại trong gò Tre vì không chịu gặp chúa Nguyễn, cả lúc đưa quân về bỏ mặc Lê Văn Quân ở Phan Rang. Qủa là như vậy, chàng không nghĩ tới cảm nhận của người khác, đó luôn là điểm yếu của chàng. Bây giờ chàng đã thực sự phải lãnh hậu qủa, không chỉ đơn thuần là một vài lời phiền trách của Ngọc Du hay thậm chí trận đòn thừa sống thiếu chết của chúa Nguyễn.

- Xin lỗi. – Chàng chậm chạp nói. Võ Văn Lượng không lên tiếng, như ông ta cho rằng lời xin lỗi của chàng là đương nhiên.

Thậm chí chàng không hỏi ông: Nhưng bây giờ đã thế này, chúng ta phải làm gì đây? Chàng biết, nếu có cách giải quyết thì ông ta đã nói với chàng. Võ Văn Lượng hiểu chàng hơn ai hết, để không phiền trách hay bỏ rơi chàng, ngay cả trong lúc này. Ông ta chỉ thở dài, nhìn về phía ngọn núi xa, dưới bầu trời màu đồng đỏ. Rất nhanh, mây đã kéo về, phủ đỏ rực trời đêm. Ngay cả làn khói từ đám lửa trên núi cũng đã mất trong gió. Họ nghe rừng núi chuyển mình ào ạt trong cơn mưa đang đến.

Ngọn lửa trong đài canh lay động, lay động. Lặng lẽ, chàng đứng lên, đi xuống đài. Đã sắp mưa, chàng nên về tướng doanh trước khi mưa xuống. Sức khỏe của chàng không phải là thứ để phung phí với những cơn mưa. Ba viên tướng đã chết, cùng bao nhiêu kẻ khác. Giờ đây chỉ còn một nhúm người này lưu giữ khu thành.

Võ Văn Lượng đi theo chàng. Ông ta nán lại nói chuyện với vài người lính canh về việc coi giữ đài rồi bước theo chàng. Anh về nghỉ đi, chàng nói. Mọi chuyện tôi sẽ suy nghĩ, chàng hứa với ông ta. Chàng biết rằng không thể giấu họ, những quan tướng của mình, lâu hơn nữa. Theo tính toán thời gian này, chàng tốt nhất nên nói với họ trước khi quân Tây Sơn ngoài lũy gào lên những tin tức bất lợi. Giờ thì chàng hầu như đoán ra được những gì họ sẽ nói.

Bằng trái tim nặng trĩu, chàng về phòng một mình. Thậm chí chàng không nhìn lại đỉnh núi xa. Ngọn lửa đã mất. Và cảm giác nôn nao buổi sáng giờ chuyển thành nỗi cô đơn như thể chàng đã bị bỏ rơi. Bỏ rơi, thật vậy, đoàn quân của vị chúa đã đi rồi. Không còn như ngày xưa nữa, ngài ta đã không còn ở ngay bên ngoài. Ngài ta đã ở đó, nhưng giờ thì không còn nữa.

Chàng biết đó là cảm giác mà mọi người trong quân hẳn sẽ cảm thấy khi nghe những gì chàng đã làm. Tồi tệ hơn nữa, họ sẽ thấy như mình bị phản bội. Chàng đã phản bội họ, vị chúa đã phản bội họ, quân Nguyễn đã phản bội họ. Chàng có thể nghe thấy tiếng cười của Ngô Văn Sở “Các anh cũng hy sinh chúng tôi cho mục đích của mình, thế thôi.” Thế thôi, đó đơn giản thực sự là những gì chàng đã làm.

Đứng lại trước hiên tướng doanh, chàng ngoảnh đầu nhìn khu thành quanh đài Bát Giác. Tất cả đã im lìm trong cơn mưa đang ập đến. Ngoài cửa từng khu trại, một vài bóng lính đứng canh vẫn ở đó. Trên tường thành, trên những vọng gác, bóng dáng những người lính vẫn còn in rõ, hẳn họ đang co ro trong gió. Những ngày mùa đông, họ vẫn đứng đó, luân phiên đổi canh cho nhau trong cơn gió lạnh cắt da cắt thịt. Và rồi họ rơi rụng, kiệt sức và rơi rụng, từng người một. Khu mộ sau thành dày lên theo từng ngày.

Về nhà. Chàng nghe thanh âm ấy theo gió cuốn đến, quấn tròn quanh chàng rồi bay ra xa, xa tít. Về nhà, chàng nghĩ đến ngôi nhà của mình, Ngọc Du và những đứa trẻ. Đứa con gái đầu lòng mà chàng đã thấy nó sắp trở thành thiếu nữ, đứa con trai mà khi chàng đi nó đã bắt đầu đi học, đứa con gái út còn thơm mùi sữa. Hai năm, hẳn chúng đã lớn cả rồi. Con bé út thậm chí hẳn đã quên cả chàng rồi. Về nhà, ngôi nhà của chàng. Thanh âm ấy đang vọng lên trong mọi người mọi kẻ. Trong nỗi khát khao mong nhớ đến gần như đau đớn của mình, chàng lại thấy xót thương. Chàng đã thấy xót thương đến rơi nước mắt cái buổi hoàng hôn rực đỏ ấy. Chàng thấy nỗi xót thương ấy bây giờ. Tất cả đều là những điều chàng đã quyết định. Tất cả đều là những điều chàng quyết định. Tất cả sinh mạng này đều do chàng quyết định.

Khu thành vẫn im lìm trong bóng tối. Những hình bóng con người cũng im lìm trong bóng tối và ánh lửa. Cảnh sắc này chợt trở nên xa lạ như thể chàng mới nhìn thấy nó lần đầu tiên. Chàng không thấy nó nữa. Trước mắt chàng chỉ là ánh lửa. Ánh lửa to dần, to dần, rồi trở thành ảo tượng của khung cảnh ngoài thành Diên Khánh năm ấy. Trái tim chàng đã rơi xuống, đang rơi xuống, trước nỗi cô đơn của sự sống phi lý đến cực cùng.

Võ Văn Lượng đã nói cho chàng biết để chàng cân nhắc trước sự việc sẽ xảy ra. Chàng biết điều đó. Nhưng trước khi đi tìm gặp Ngô Tùng Châu, Ngô Văn Sở, Nguyễn Tấn Huyên để bàn luận những gì sẽ nói với họ, những gì sẽ nói với binh lính để ổn định tình hình, để thuyết phục người trong thành, chàng đang cho phép mình đau lòng. Cái nhìn của Võ Văn Lượng đã xuyên thấu chàng, qua ánh lửa. Ông ta là qúa khứ của chàng. Là giấc mơ mà chàng đã theo đuổi. Kiến Hòa quân, đó là giấc mơ của họ, giấc mơ suốt cuộc đời của họ.

Khi ấy, và cho đến gần tận bây giờ, chàng vẫn chưa hiểu ra rằng: mỗi giấc mơ đều phải trả giá. Cho đến tận lúc này, chàng vẫn chưa thể hình dung ra được cái giá phải trả cho một giấc mơ.

Thuyền chúa Nguyễn rời Đà Nẵng ngày cuối tháng tư. Ngày đầu tháng năm năm Tân Dậu, quân Nguyễn dàn trận trước cửa Ông, tấn công đồn phòng thủ đầu tiên ngoài Phú Xuân. Phò mã Tây Sơn Nguyễn Văn Trị đóng trên núi Quy Sơn cùng một vạn quân đóng cọc gỗ trên bờ sông ngăn thuyền tiến vào, từ trên núi bắn xuống. Đợt tấn công đầu tiên của quân Nguyễn bị chặn lại khi ghe thuyền vướng vào cọc. Đánh từ mờ sáng đến tối, quân Nguyễn vẫn chưa qua được.

Đến đêm, Lê Chất đem hai mươi thuyền đi vòng sau bờ cát tập hậu, bắt được Nguyễn Văn Trị và Phan Văn Sách trong đồn, phá tan tuyến phòng thủ ngoài cửa Ông. Đại quân Gia Định kéo thẳng vào cửa Duyên Hải. Tại đây, họ gặp chừng sáu mươi thuyền Bắc Hà tiếp viện mang cờ đỏ của Tây Sơn. Nhưng đội thuyền ấy không phải là đối thủ của tàu Tây dương, bị đánh tan nhanh chóng.

Ngày ba tháng năm, quân Nguyễn đổ bộ lên bến Phú Xuân khi mặt trời vừa nghiêng bóng, sau khi những chống cự yếu ớt của binh triều Tây Sơn trên bờ đã tan. Quân do Lê Văn Duyệt dẫn đầu tràn lên cung điện Phú Xuân khi Lê Chất đem quân đuổi theo vua tôi Quang Toản. Nhưng cả ngày hôm đó, chúa Nguyễn không xuất hiện.

- Nghe nói đang bố ráp? – Nguyễn Phúc Thăng tỏ vẻ nôn nóng khi hoàng hôn đã buông và những xôn xao trong thành đã lắng bớt. Tay anh ta nắm chặt lan can chiếc tàu lớn. Vẫn chưa có lệnh của chúa Nguyễn cho họ xuống tàu, anh ta chỉ có thể đứng trên bờ mà nhìn lên đô thành Phú Xuân xanh bóng cây, lặng im tịch mịch trong chiều. Họ vẫn nghe tiếng ồn ào trong khu điện đài Dương Xuân và các khu dành cho quan lại bên cạnh vọng tới.

- Lê Văn Duyệt làm việc kiên quyết nhưng không tàn ác đâu. – Đặng Đức Siêu nói, vỗ vai người Quốc thúc. – Họ đang dò xét trong thành. Tấn công bất ngờ, quan triều Phú Xuân vẫn chưa kịp chạy trốn, hẳn còn rất nhiều phần tử chống đối bên trong.

Mà nếu có chuyện gì thì chúa công không xuất hiện cũng tránh được điều tiếng. – Đặng Đức Siêu cười khẽ sau chiếc quạt. Nguyễn Phúc Thăng cau mày nhìn ông ta. Nhưng anh ta không nói, chỉ đưa mắt về cung Dương Xuân. Thấp thoáng bóng áo đỏ qua những lùm cây dày. Một hàng quân áo đỏ vừa chạy qua trước mắt họ.

- Không biết Lê Chất ra sao? – Đặng Đức Siêu lẩm bẩm. – Chúa công đã cho cả Nguyễn Văn Trương chặn đường thủy rồi.

- Nếu không bắt được Quang Toản thì vận số của chúng vẫn còn thêm được một lúc. – Nguyễn Phúc Thăng trầm ngâm nói. Ánh mặt trời lịm tắt trong mắt anh ta. – Mà cũng là số kiếp của chúng ta vậy.

67

Cả ngày hôm sau, chúa Nguyễn vẫn không xuất hiện. Trong khi đó, cuộc bố ráp trong thành Phú Xuân vẫn tiếp tục diễn ra. Quân lính, dưới sự điều động của Lê Văn Duyệt và Phạm Văn Nhân cùng các tướng Thần sách quân, sau khi chiếm giữ cung điện Dương Xuân liền ngay lập tức bủa vây nhà các quan lại Tây Sơn, phong tỏa Phú Xuân. Từng góc phố, căn nhà bị lục tung. Các quan Tây Sơn còn trong Phú Xuân, chưa kịp cùng Quang Toản trốn đi và ngay cả thân nhân của họ cũng bị đem đến cung Dương Xuân giam giữ. Cuộc tấn công và chiếm giữ bất ngờ chỉ trong vòng ba ngày của quân Gia Định đã làm người ở Phú Xuân hoàn toàn trở tay không kịp. Quang Toản đã kịp chạy trốn, để lại một cung Dương Xuân hầu như còn nguyên trạng, ngay cả những người em chưa thành niên cũng không kịp được đưa đi. Bùi Thị Xuân khi hộ tống vua đi đã để lại đứa con gái cùng mẹ chồng, em gái chồng, họ bắt được cả vợ của Võ Văn Dũng, thân nhân của những viên tướng còn đang ở Bình Định… Chỉ trong một ngày, cung điện Dương Xuân cùng khu nhà bên cạnh dành cho quan lại của nó như bị một cơn bão quét qua, để lại những đống nát bấy. Quân lính trong sự hăng hái của kẻ chiến thắng và cơn say máu, đã không từ mà đập nát nhà của các viên quan Tây Sơn, bất cứ gì thuộc về Tây Sơn lọt vào mắt họ.

Trong khi đó, chúa Nguyễn vẫn không xuất hiện.

Chiếc đại hiệu thuyền Bằng Phi của ngài ta đậu ngoài cửa sông, gần cửa ngõ của Phú Xuân. Nguyễn Phúc Thăng tìm được ngài ta khi xuống khoang tàu, thấy ngài ta đang chơi cờ cùng Phạm Văn Nhân. Đèn trong khoang tàu vẫn thắp suốt ngày đêm. Lệnh cho người xuống thuyền vẫn chưa được ban. Nguyễn Phúc Thăng có vẻ như đã mất hết kiên nhẫn.

- Ngài đang đợi gì vậy, chúa công? - Phúc Thăng hỏi. Chúa Nguyễn không ngẩng đầu lên khỏi bàn cờ, trả lời bằng giọng lơ đãng.

- Đợi Tết Đoan ngọ hãy lên. Tết Đoan ngọ chính dương, là lúc dương khí cường thịnh nhất trong năm, người người bày lễ cúng bái gia tiên, thêm người Việt ta đi cúng Quốc mẫu Âu Cơ, ta lên thành chẳng phải trang trọng hơn sao?

Từ bao giờ ngài lại đi xem trọng những việc thế này? Nguyễn Phúc Thăng suýt nữa đã buột miệng hỏi. Nhưng anh ta cũng nghĩ ra. Dùng tết Đoan ngọ đối lại với lễ Nguyên tiêu, ngài ta qủa là đã “biết sợ trời đất” rồi. Lên đúng lúc người người nhà nhà bày bàn thờ gia tiên, chẳng phải ngài ta lại ra ý người ta bày bàn thờ đón mình đó sao? Nhưng sự việc có vẻ không đơn giản như vậy.

- Phải rồi, trong ngày này các chàng rể còn đi lễ bố mẹ vợ. – Vị chúa chợt nói. Một con cờ của Phạm Văn Nhân lọt vào tay ngài ta khiến ngài ta hơi ngẩng lên. – Quốc thúc đã nhắm sẵn đám nào rồi thì ta chuẩn bị qùa cho lễ sêu của chú?

Nguyễn Phúc Thăng không biết nên cười hay nên bực mình với câu hỏi của chúa Nguyễn. Phạm Văn Nhân không đừng được buột ra một tiếng cười. Ông ta vội ho khẽ để khỏa lấp. Phúc Thăng liếc nhìn ông ta, rồi tìm đến ngồi trên một cái ghế thấp gần đó.

- Đã có tin của Lê Chất, chúa công. – Anh ta nói, một lúc sau đó. Bàn tay đang cầm quân cờ của vị chúa dừng hẳn trên không khi ngài ta quay đầu nhìn vị Quốc thúc. Nguyễn Phúc Thăng lắc đầu. – Quang Toản thoát rồi. Nghe Lê Chất nói rằng đàn ngựa đuổi theo bị voi dọa bỏ chạy.

- Khốn kiếp! – Phạm Văn Nhân buột miệng, trước cả chúa Nguyễn. Ông ta còn có vẻ căng thẳng hơn cả chúa Nguyễn. Bàn tay của ông ta gần như đẩy hẳn bàn cờ sang bên. – Sao có thể như vậy? Ngựa của ta đánh trận với voi bao lâu nay, sao lại có thể như thế? Mà nếu ngựa không đuổi được, hắn cứ dùng đại pháo mà nã nát đám vua quan ấy ra, sao lại có thể về tay không?

Nguyễn Phúc Thăng nhún vai. Nhìn ánh mắt anh ta, có thể đoán ra rằng Lê Chất qủa thật đã quay về tay không để phục mệnh trong thành.

- Quan tướng đã nói với nhau rằng: Quang Toản thoát được không phải do trời mà là do người. – Nguyễn Phúc Thăng thận trọng nói, mắt không rời chúa Nguyễn. – Thần nghĩ ngài nên biết, chúa công.

Phạm Văn Nhân đưa mắt nhìn vị chúa. Một lần nữa, vết mâu thuẫn, chống đối lại nứt toác ra trong quân đội Gia Định. Lê Chất, viên Đại Đô đốc cũ của Tây Sơn, đã để Quang Toản thoát khỏi tay mình, đã để đội tàn quân chỉ gồm toàn phụ nữ của Bùi Thị Xuân qua mặt, trong khi anh ta đã quen thuộc, cực kỳ quen thuộc với quân đội Tây Sơn. Bắt Quang Toản là mục tiêu trọng yếu của họ khi đánh vào Phú Xuân này, và Lê Chất đã thất bại. Lê Chất, không ai khác, một viên hàng tướng của Tây Sơn. Hơn một năm qua khốn đốn vì những hàng tướng trở giáo, bất cứ sơ suất nào của Lê Chất cùng vị chúa đều trở nên nghiêm trọng.

- Nghĩ ra thì không phải không có lý. – Phạm Văn Nhân chậm rãi nói. – Lê Chất giảo hoạt, cầu lợi mà bất chấp thủ đoạn. Nay thấy ta cùng Tây Sơn vẫn thắng bại chưa phân, hắn quyết định chơi bài nước đôi. Hắn không thể về với Tây Sơn vì vụ của Lê Trung, nhưng với cái ơn thả cho vua chạy thì với Tây tặc hắn lại lập được đại công rồi. Từ nay hắn chỉ cần xem xét tình hình, thấy bên nào thắng thế thì ngả về bên ấy, chẳng thiệt đi đâu. Hắn đánh trận cũng chừa đường về cho mình. Đó chẳng phải là phong cách của hắn từ trước đến giờ sao?

- Đừng có ngay cả khanh cũng như vậy. – Chúa Nguyễn cau mày. Không còn lòng dạ đánh cờ, ngài ta đã đặt quân cờ xuống. Bàn cờ trong phút chốc đã bị bỏ quên. – Bây giờ là lúc cần người, cứ nghi kỵ lẫn nhau thì làm được gì?

Nguyễn Văn Trương chưa có tin? – Vị chúa quay sang Nguyễn Phúc Thăng mà hỏi, nhận được cái lắc đầu. Ngài ta ra ý như không thấy ánh mắt của Phạm Văn Nhân. Bây giờ là lúc cần người, đó là câu ngài ta luôn nói để áp chế họ. – Hẳn chúng cũng biết lui vào trong núi mà chạy rồi. Phải bảo Nguyễn Văn Trương nhanh mà tập kích chúng, kẻo qua Nghệ An thì chẳng còn cơ hội cho chúng ta.

Nghệ An có quân của Vạn Tượng xâm nhập. Phải nhanh chóng gửi người đến thông báo cho Vạn Tượng cùng các thổ mục, bảo chặn đường Quang Toản lại, không cho chúng chạy trốn.

Nguyễn Phúc Thăng vẫn chỉ gật đầu. Vị chúa chỉ có thể nói như thế lúc này, chứ không thể đưa người theo Nguyễn Văn Trương được nữa. Toàn bộ việc điều động quân đuổi theo Quang Toản đều do ông ta xếp đặt. Quang Toản đã vượt khỏi địa phận Phú Xuân vào Thuận Hóa, giờ này hẳn đã chạy đến gần Nghệ An. Xâm nhập vào địa phận địch, cơ may của họ thật qúa nhỏ. Dù có thông báo cho các thổ mục, Nghệ An đất rộng mênh mông, núi rừng hiểm trở, chính là một nơi khó truy đuổi bậc nhất.

Nhưng họ cũng không còn nói về việc của Lê Chất, khi vị chúa có vẻ không muốn. Trong năm vừa rồi, Lê Chất qủa đã hoạt động rất hiệu qủa ở Phú Yên, nhiều lần đẩy lui Phạm Văn Điềm, giữ vững La Hai. Dù trong lòng ngờ vực, cũng chẳng ai có thể kết tội Lê Chất chỉ vì hiềm nghi của mình. Họ chỉ tỏ vẻ bất mãn ngấm ngầm. Nguyễn Phúc Thăng đã thấy điều đó trong ánh mắt các quan tướng khi nghe tin bắt hụt Quang Toản. Do người chứ nào phải do trời, không biết ai đã thốt ra câu ấy, nhưng nó đã lan đi như lửa cháy. Sự suy diễn của Phạm Văn Nhân cũng chỉ là một phần những gì mà kẻ khác đang nghĩ.

Nhưng Nguyễn Phúc Thăng chỉ im lặng. Vị chúa trầm ngâm một lúc rất lâu sau đó, sau khi Phạm Văn Nhân đã cáo từ rời đi để làm tiếp việc trong quân. Ngài ta ngồi trước bàn cờ dang dở, luân chuyển quân cờ gỗ giữa những ngón tay. Vẻ thinh lặng ấy lại có một sự nguy hiểm mà Nguyễn Phúc Thăng không dám đánh động, như thể khắp ngài ta đang tỏa ra một luồng sát khí bức người. Sát khí, điều khó mà thấy được ở con người luôn có vẻ ngoài hòa nhã này. Nhưng giờ đây nó lại rõ ràng, rõ ràng như có thể chạm đến được. Vì thế, Nguyễn Phúc Thăng chỉ khoanh tay chờ đợi.

- Lê Văn Duyệt đã kiểm kê được những kẻ bị bắt trong cung Dương Xuân chưa? – Vị chúa chợt hỏi, giọng đều đều. Nguyễn Phúc Thăng như chỉ chờ đợi câu hỏi ấy, liền thấp giọng nói.

- Chưa kiểm tra được hết, thưa chúa công. Họ vẫn còn đang lục soát Phú Xuân… Nhưng Duyệt nói, trong nội cung của Tây Sơn còn rất nhiều người. Trước mắt, anh ta đã xác định được có trong tay ba đứa con trai của Huệ cùng một số con gái, phi tần, thê thiếp… Bên ngoài thì có gia đình Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng. Số quan Tây Sơn vẫn chưa có danh sách.

À, vị chúa thốt khe khẽ trong cổ. Khóe miệng ngài ta hơi nhếch lên. Như đoán được ý nghĩ trong đầu ngài ta, Nguyễn Phúc Thăng hắng giọng.

- Dù có đem người nhà Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng ra uy hiếp thì chúng cũng không suy chuyển đâu, chúa công. Bùi Thị Xuân đi cùng vua mà bỏ cả con trẻ mẹ già ở lại, chúng đã là loại người như thế rồi. Ngài giết bọn họ thì chỉ càng làm chúng điên cuồng thêm thôi.

- Ta là muốn chúng điên cuồng như thế. – Vị chúa vẫn lẳng lặng cười. Ngài ta chống cằm lên tay, bàn tay bên kia vẫn không ngừng hoạt động, dịch chuyển con cờ. – Nhưng bây giờ chưa phải lúc. Giữ người còn tốt hơn giết người. Những cái mạng ấy lại không đổi được cho ta chút gì hay sao?

- Đổi? – Mắt Nguyễn Phúc Thăng hơi mở lớn. Anh ta có vẻ như đã hiểu ý của chúa Nguyễn. – Chúa công…

- Quốc thúc là bậc đại đức, những việc này không nên xen vào làm gì, cũng không nên hiểu. – Vị chúa điềm đạm đặt lại quân cờ lên bàn, đứng dậy đi qua Nguyễn Phúc Thăng. – Khi ta nói rằng không tin cả người lẫn trời, chính vì ta không tin những gì họ nói. Lê Chất cũng vậy, hắn trung hay không trung, ta không quản, ta cũng không màng. Những kẻ ngoài kia cũng thế, muốn sống chết ra sao thì tùy ý họ, ta không quan tâm. Ta chỉ cần làm được điều ta muốn.

Con người. Ta thật muốn xem con người rốt cuộc là thế nào. – Tiếng cười khẽ lướt qua Nguyễn Phúc Thăng khi vị chúa đi lên boong tàu. Tiếng cười có sự phấn khích kỳ lạ. Ngoại trừ phần tăm tối trong nó, anh ta nghĩ mình nhớ đến tiếng cười của cậu bé ngày xưa khi có được món đồ chơi mới lạ. Cậu ta đã cười, đúng y như thế.

Nhưng tiếng cười này đã khiến anh ta phải rùng mình.

Khi vị chúa đặt chân lên boong tàu, ngài ta thấy Đặng Đức Siêu đã đứng ở gần lan can, quạt phe phẩy trong tay. Bầu trời loang lổ như thể sắp đổ mưa, hoặc đã đổ mưa. Sàn tàu có vẻ âm ẩm. Trên con sông dài đen thẫm trong bóng tối, vẽ thành một đường cong cong giữa hai bờ sáng ánh lửa, chỉ có thuyền quân đội neo đậu. Tàu thuyền dân chúng Phú Xuân đi tránh chiến cuộc vẫn chưa trở lại. Trên bờ, ngay cả những ngôi nhà gần sông cũng khép kín cửa, chỉ có đôi ánh sáng lọt qua. Ánh lửa lại bốc sáng trong cung Dương Xuân như thể đang có hỏa hoạn, và cả những điện đài, những chùa chiền mà Tây Sơn trưng dụng làm nơi ở cũng sáng choang. Đồi núi nhấp nhô bao bọc vùng đất này trong hình cong đen thẫm của chúng, tách biệt với bầu trời. Mùa hạ, khí hậu Phú Xuân oi nồng giữa những cơn mưa. Qủa cũng không lạ nếu như cơn mưa vừa qua đã gần như khô kiệt.

Nghe tiếng chào của quân lính, Đặng Đức Siêu quay lại, mỉm cười với chúa Nguyễn.

- Lễ Đoan ngọ sẽ không long trọng lắm đâu. Có vẻ như nhiều người đã phải hoảng sợ. – Đặng Đức Siêu nói như thể đang bàn chuyện phiếm. Cái quạt đập nhè nhẹ vào ngực ông ta. – Hết Trịnh rồi Tây Sơn, vùng đất khốn khổ này đã phải biến động nhiều. Chỉ sợ đặt chân lên bờ rồi ngài cũng không nhận ra được nữa.

Cung Dương Xuân thay đổi nhiều lắm. – Đặng Đức Siêu nói tiếp khi thấy vị chúa không lên tiếng. – Ngày đó quân Trịnh vào, đem hết cột kèo đi làm củi đun, lại gặp phải bệnh dịch đói kém nên chúng cướp được gì thì cướp. Tây Sơn nối tiếp phá nhiều hơn nữa. Ngài nhìn lên đỉnh núi mà xem, ngọn Thiên Mụ đã biến mất rồi.

- Thì ta sẽ xây lại. – Vị chúa nói với vẻ hờ hững. Ngài ta chỉ chăm chú nhìn quanh như thể tìm kiếm điều gì trong bóng tối trên hai bờ sông. Có vẻ như ngài ta cũng chẳng để tâm đến điều mà Đặng Đức Siêu đang nói.

- Không có thuyền đâu. – Đặng Đức Siêu chợt nói sau một lúc quan sát vị chúa. Mắt ông ta hấp háy. Ngài ta liếc nhìn ông, hơi nhướng mày.

Nhưng Đặng Đức Siêu chỉ thủng thẳng cười với dòng sông. Trong bóng tối và ánh sáng hắt xuống từ những chiếc thuyền, họ thấy những đợt sóng vàng cam ẩn hiện trên làn nước tối.

- Quân bộ đánh xuống thì dùng thuyền chạy đi. Thủy quân đánh vào thì dùng đường bộ mà chạy. Vây hãm Bình Định rồi để trống Phú Xuân. Kể ra, tất cả những điều này qủa là lời đáp ngọt ngào vậy.

- Ồ, đừng nói thế khi chính tiên sinh là người vạch ra kế hoạch, suốt từ trận Thị Nại. – Vị chúa khẽ cười. Đặng Đức Siêu nghiêng đầu.

- Ngài cũng đừng nói rằng mình không nhận ra, khi ngài đã cho giết người cung phi ấy trên đường đến đây. – Ông ta nói, mơ màng và lãnh đạm. – Ngài biết, ngay từ khi bắt đầu rồi. Tất cả đang lặp lại, y như ngày xưa. Ngài đang làm cho mọi chuyện y như ngày xưa. Tây Sơn khởi loạn, giết chết công nương Ngọc Quận ở Hội An. Nguyễn quân vây hãm Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc bắn tiếng cho quân Trịnh đánh xuống. Định vương tháo chạy thậm chí không kịp đem theo gia quyến. Triều đình Nguyễn phân tán vì Đông cung Dương, đánh nhau vì Trương Phúc Loan. Anh em tương đấu, chú cháu đương đầu, tôi thần khi chủ, đồng liêu lưỡng bại câu thương, nhao nhác tan vỡ, thảm thảm bại vong. Tấn kịch ba mươi năm trước được diễn lại trong mười năm này, qủa là khiến người ta phải kinh sợ.

- Tiên sinh đánh giá ta qúa cao rồi. Đó là những gì chúng tự chuốc lấy, ta làm sao có khả năng điều khiển thiên cơ? – Vị chúa nhún vai. – Triệu Đà dùng kế hôn nhân chiếm Âu Lạc rồi con cháu bại dưới tay đàn bà người Hán. Lê Hoàn tiếm ngôi họ Đinh rồi con cháu bị Lý Công Uẩn tiếm ngôi. Lý Công Uẩn dựa vào chức quan thần mà lấy ngôi họ Lê thì họ Trần là quan thần mà lấy ngôi họ Lý. Họ Trần bức Lý Huệ Tông thắt cổ chết, giết con cháu họ Lý rồi Trần Phế Đế bị bức thắt cổ, con cháu họ Trần bị Hồ Qúy Ly tận diệt. Họ Hồ cướp ngôi họ Trần rồi bị quân Minh dùng vũ lực cướp nước. Họ Trịnh dùng cường quyền danh nghĩa phù vua mà có thiên hạ, rồi bị kẻ dùng cường lực danh nghĩa ấy mà hất cẳng. Thiên lý tuần hoàn, đạo trời báo ứng miên miên, gieo nhân gì gặt qủa ấy, đó là chuyện xưa nay vẫn vậy.

- Phải, phải. – Đặng Đức Siêu bật cười. Ông ta bật cười giòn giã. Chiếc quạt đã gấp lại đập vào lòng bàn tay ông ta như tán thưởng. – Chúa công, ngài nói rất hay, rất có đạo lý. Những kẻ trong thiên hạ lại phải một phen rùng mình trước lẽ trời hiển hiện rồi!

Nhưng mà, chúa công… - Ông ta đột nhiên ngưng cười, nghiêng người về phía chúa Nguyễn, giọng trầm xuống. – Chúa công, ngài đã biết thế thì sao lại ôm nhiều hận thù đến vậy?

- Hận thù? – Một lần nữa, vị chúa nhướng mày. – Ta hận thù cái gì?

- Ngài hận trời. Ngài hận người. Ngài hận cái thiên lý vừa nói. – Đặng Đức Siêu dựa lưng vào lan can, quay mặt nhìn lên lá cờ treo đầu cột buồm ủ rủ khi không có gió. Ông ta thở ra, từ tốn buông từng lời. – Ngài ôm một mối hận qúa lớn, lớn hơn bất kỳ ai. Đến mức ngài không thể tha thứ cho chính mình được.

Nghe lời nói của Đặng Đức Siêu, vị chúa chỉ lặng lẽ cười. Ánh mắt ngài ta lại nhìn xuống dòng sông, những con sóng lăn tăn liên tục trôi chảy, chảy trôi, bàng bạc ánh lửa dưới những chiếc thuyền đậu san sát. Ngài ta nhìn lên đường viền nhấp nhô giữa bầu trời và mặt đất. Không khí man mác mùi nước càng dễ nhận ra trong cái hanh khô của khí trời. Ngài ta nhìn Phú Xuân trong màn đêm yên tĩnh cất giấu những hỗn loạn không thể gọi tên. Ngài ta chăm chú ngắm nhìn mảnh đất quê hương, cơ nghiệp tổ tông đã dựng xây bằng cặp mắt của một người xa lạ.

Như thể ngài ta đang đánh giá nó. Như thể ngài ta đang xem xét nó.

- Đằng kia, - Vị chúa chỉ tay về phía bờ Bắc sông Hương. – Chúa ta đã xây một khu điện đài ở đó, tuy không lớn lắm, hiện giờ chắc đã điêu tàn cả rồi. Ngày xưa ta đã rất thích nơi ấy. Theo những gì ta còn nhớ, đó là nơi có địa thế rất tốt.

- Đất nơi ấy không chuẩn, chúa công. – Hiểu ý vị chúa, Đặng Đức Siêu lắc đầu. – Nếu ngài muốn xây cơ nghiệp của mình, đất nơi ấy không chuẩn. Tuy có dãy Bằng Sơn chắn phía Tây Bắc, đất nơi ấy lại nghiêng về phía Đông Nam, dòng chảy ngược hướng, Kim thịnh mà Mộc hại. Khí mạch cũng không đủ. Lại có dòng sông chảy qua Kim Long cắt ngang, rất khó xây dựng.

- Khí mạch không đủ thì ta tự tạo, có sông thì ta lấp. – Vị chúa cười. – Nghiêng về phía Đông Nam cũng tốt, về phương diện phòng thủ thì dễ dàng ngăn chặn các đợt tấn công trên sông nước hơn, về phong thủy cũng không chênh lệch lắm. Chùa Thiên Mụ là chấn sơn chi bảo của vùng đất này, khi ta cho xây lại thì sẽ tạo thành một thế phối tuyệt hảo, át bớt đi khí núi. Bờ Nam thuận lợi cho việc phòng thủ chống tấn công từ trên núi xuống, nhưng nhấp nhô không đều, chỗ cao chỗ thấp. Nếu ta muốn xây một khu thành lớn giống như tại Gia Định, bờ Nam hoàn toàn không thích hợp. Bờ Bắc đã có nền sẵn, đất lại gồm toàn đá vững, ta chỉ cần khảo sát thêm một chút, tin rằng có thể xây được.

- Ngài nghĩ đến việc xây thành bây giờ e rằng hơi qúa sớm. Ngài đã đặt ra mục tiêu Bắc Hà rồi, phải không, dù chỉ chưa thông báo cho kẻ khác? Bây giờ ngài mới chỉ bất thần mà chiếm được Phú Xuân, cốt yếu là vẫn chưa tiêu diệt được lực lượng địch. Hàng vạn quân còn đang tập trung ở Bình Định, thậm chí chúng muốn tiến xuống đánh Gia Định thì vẫn còn trong khả năng – À, dù biết rằng thủy quân đã mất hết, chúng khó lòng mà bắt chước ta được. Bắc Hà đất rộng người nhiều, địa thế hiểm yếu, vượt qua Nghệ An là chúng ta hoàn toàn không biết gì về nó nữa. Ngài đã nghĩ ra phương cách gì để thu phục nó chưa? Ngày nào Tây Sơn còn chưa diệt vong, ngài còn chưa thể yên ổn ngày ấy. Hay là lại như Trịnh cùng ta phân tranh hàng trăm năm? Hoặc ngài, hoặc Tây Sơn, chỉ một trong hai có thể tồn tại. – Đặng Đức Siêu nhìn vị chúa thăm dò. Ngài ta khoanh tay vào trong áo, nhìn người Tham mưu của mình bằng đôi mắt có phần tò mò.

- Ta không nghĩ bây giờ. Ta đã nghĩ suốt bao nhiêu năm rồi. – Ngài ta nói, một lúc sau. – Ta đã nghĩ, khi đang xây thành Gia Định và Diên Khánh, ta sẽ làm như thế nào với Phú Xuân? Ta sẽ làm gì, sau tất cả mọi chuyện này?

Bây giờ hẳn hơi qúa sớm. Thật là mất hứng. – Vị chúa quay người nhìn lại bờ Nam. – Giờ này không biết quân xin cứu viện của Tây Sơn đã đến Bình Định chưa?

Họ im lặng. Trong thâm tâm, họ biết câu trả lời cho câu hỏi của vị chúa. Khi họ vừa tấn công, Phú Xuân hẳn đã ngay lập tức cho người cấp báo với Bình Định. Đã bốn, năm ngày trôi qua, kẻ ấy hẳn đã đến nơi. Và kẻ đưa tin Phú Xuân thất thủ cũng đang trên đường tới. Cái tin Phú Xuân thất thủ có lẽ đã loan truyền với tốc độ của một tia chớp trong đám dân chúng, thương thuyền, theo bóng dáng của những chiếc thuyền Gia Định giăng khắp từ Phú Xuân đến Thuận Thành.

Và cái tin Quang Toản trốn thoát khỏi bàn tay họ có lẽ cũng đã được xác định.

- Thiên định, tiên sinh nói. – Vị chúa chậm chạp cất lời, một lúc sau. – Qủa thật giống như năm xưa, phải không? Kẻ đứng đầu trốn thoát. Thế thì ta sẽ quét sạch Bắc Hà, truy lùng đến người cuối cùng của chúng.

Phải, ta căm ghét ông trời và cả cái thiên lý của ông ta đến cực cùng. Ta, bằng chính bàn tay này, sẽ đòi lại thiên lý cho mình. Ta sẽ chống lại trời, cho đến cùng.

Đặng Đức Siêu không lên tiếng. Chiếc quạt đã mở ra lại đập khe khẽ vào ngực khi ông ta phe phẩy nó trong tay. Ông ta dõi mắt ra dòng nước xa. Dòng nước cuốn trôi về phía cửa biển, rồi đổ ra biển lớn.

Ông làm ra vẻ như không nghe thấy tiếng chân của vị chúa rời nơi đang đứng, đi về phía cuối thuyền. Tiếng ngài ta nói khi cho gọi người, sắp xếp công việc.

Cuối cùng, ông thở dài. Tiếng thở dài phiền muộn tan vào trời đêm.

Ngày mùng năm tháng năm năm Tân Dậu, chúa Nguyễn đặt chân lên đất Phú Xuân. Khu cung điện Dương Xuân nằm giữa các chùa miếu và khu tập trận, võ đường cùng lăng tẩm giờ đây đã biến dạng thành đủ mọi hình thù vẫn còn con đường đá dẫn vào cánh cổng to nặng mở ra ken két. Những hỗn loạn của cuộc tấn công và tháo chạy hai ngày trước đã được dọn dẹp, để lại cảnh vật quang đãng. Hai hàng quân lính đứng bên đường đón tiếp vị chúa cùng những thân thuộc của mình tiến vào. Cả vài người dân táo gan xung quanh cũng lấp ló nhìn ngó. Trước khi lên bờ, chúa Nguyễn đã ban phủ dụ vỗ yên dân chúng, cam đoan không xâm phạm nhà dân, tạm thời làm họ yên lòng. Tuy vậy, Phú Xuân, sau những năm tháng thay chủ, đón liền ba đội quân Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn, mang đầy vẻ bất an. Ngay cả đám người đi đón xem chúa Nguyễn cũng mang đầy vẻ thắc thỏm và bất an. Lẫn trong họ, một nhóm khác, yên lặng hơn và phục sức chỉnh tề hơn, đã mang hương án ra đón tiếp đoàn quân. Đứng đầu bọn họ là một ni cô trạc lục tuần, mái tóc trắng như cước. Một nhóm khác, trang phục như tín đồ Gia-tô, đang thì thầm với nhau khe khẽ. Có cả nhóm của những ông già phục trang theo lối Nho sĩ. Đứng tách ra, có phần hơi ngượng ngập, hay bị xa lánh, sau hàng quân thưa thớt, là các viên quan hôm trước còn ở trong triều Phú Xuân. Cái đám đông phân chia khá là trật tự ấy mang đầy đủ những sắc thái tình cảm trên khuôn mặt.

Thấy chúa Nguyễn xuống thuyền, không ai bảo ai, người trên bờ thảy thảy đều qùy xuống. Những chúng dân ngơ ngác nhất cũng giật mình qùy theo. Thậm chí không ai ngẩng đầu nhìn lên vị chúa – người mà hầu như không ai ở Phú Xuân còn nhớ mặt, chỉ có danh tính đã trở thành gần như một loại truyền thuyết từ đất phương Nam truyền tới. Ngài ta cũng chỉ đưa mắt nhìn qua bọn họ, rồi đi thẳng đến người ni cô đang ở trước đám đông bà dẫn theo.

- Tuyên cô cô. – Vị chúa gọi, đỡ bà đứng dậy. Giọng ngài ta nghe như tiếng reo mừng. – Để cô cô phải vất vả đến tận đây, đáng lẽ ta phải đến đền thỉnh an cô cô mới phải.

- Không dám để chúa công phải nhọc lòng. Đón tiếp chúa công là bổn phận của thần. – Người ni cô già, Vân Dương ni cô, Ngọc Tuyên công nương con gái của Võ vương, trả lời bằng giọng hơi nghẹn ngào. Bà đưa mắt ra sau lưng vị chúa, mỉm cười với Nguyễn Phúc Thăng, người em út. Anh ta cũng vội vã tiến tới nắm lấy tay người chị.

- Chị vẫn còn nhận ra em à? – Nguyễn Phúc Thăng cười. Bà nhìn họ, chớp mắt rồi lặng lẽ lắc đầu.

- Thần qủa thật không nhận ra hai người được nữa. Ba mươi năm rồi. Nhưng nghe nói rằng có cả Quốc thúc đi theo chúa công, thần nghĩ đó là Phúc Thăng.

- Khi đi ta chỉ là đứa trẻ, khi về thì tóc đã điểm bạc rồi. – Chúa Nguyễn mỉm cười. Ngài ta có vẻ như muốn nói điều gì nhưng lại thôi. Vân Dương ni cô vuốt tay lên tóc mình, cười với đôi mắt dân dấn nước.

- Phải, tóc đã bạc cả rồi. Từ ngày chồng đi mất, ta vào am xuất gia, chẳng biết tóc đã bạc từ lúc nào.

Bàn tay Phúc Thăng nắm lấy người chị rung động khẽ. Chồng của Ngọc Tuyên công nương là Tiết chế Chưởng dinh Nguyễn Cửu Thống, đã chạy khỏi Phú Xuân trong loạn năm Giáp Ngọ đến Gia Định, khi bà mới ngoài ba mươi. Giờ đây, khi bà vẫn còn chờ đợi, Nguyễn Cửu Thống đã không thể trở về, đã vĩnh viễn ở lại Gia Định. Ba mươi năm đã qua, cuộc sinh ly tử biệt một lần là vĩnh viễn. Câu nói của bà, do đó, lan đi trong họ với nỗi tưởng thương ngậm ngùi khôn xiết.

Nhóm tín đồ Gia-tô bên cạnh lặng lẽ tiến đến gần vị chúa, cúi mình. Phong tục Gia-tô không vái lạy người sống, nhưng người có vẻ như là đứng đầu bọn họ đã qùy xuống, cất tiếng rành rọt.

- Người Gia-tô giáo Phú Xuân nghênh đón chúa công, đa tạ ngài ơn cứu mạng.

Nhiều người trong đám quan lại Tây Sơn đang đứng ngoài rìa có vẻ như giật mình. Bốn hôm trước, khi bị quân Nguyễn tấn công và bắt được một lá thư đóng dấu triện của chúa Nguyễn gửi cho một linh mục ở Phú Xuân, triều đình Tây Sơn đã ra lệnh tru diệt tín đồ Gia-tô giáo vào đúng ngày Đoan ngọ. Sự chiến thắng nhanh chóng của quân Gia Định đã chặn được cuộc thảm sát ấy. Vị chúa quay nhìn vị giáo sĩ, cười lớn, kéo tay Vân Dương ni cô đến trước.

- Các người nên cám ơn Vân Dương ni cô. Nhờ có bản đồ đồn lũy của cô cô, ta mới có thể tiêu diệt Tây Sơn nhanh chóng đến thế. Nếu không, ta còn phải vất vả ở cửa Ông khá là lâu nữa.

Một khắc ngượng ngập thoáng qua giữa người giáo sĩ Gia-tô trước vị ni cô áo nâu sồng, nhưng rồi ông ta cũng cúi đầu.

- Đa tạ công nương. – Ông ta nói, và những tín đồ đằng sau cũng đồng loạt cúi mình. Vân Dương ni cô, có vẻ như không còn quen với sự cung kính này, vội vã cúi mình đáp lễ, an ủi họ với đôi chút bối rối.

Chúa Nguyễn quay mình đi, gật đầu và giơ tay đón lời chúc tụng của những người ủng hộ họ Nguyễn tại Phú Xuân đến đón tiếp ngài ta, những cựu quan triều Nguyễn đang ở ẩn tại Phú Xuân cùng gia đình họ, những người dân tò mò bị lôi cuốn vào đám đông tung hô. Ngài ta gật đầu, đi qua những viên quan triều Tây Sơn lúng túng nhưng xoắn xít, cung kính một cách hơi qúa trớn. Ở bên cạnh ngài ta, Phạm Văn Nhân không tránh được một cái khịt mũi mà người người đều nghe rõ. Nhưng vị chúa vờ như không nhận thấy. Ngài ta đi trước, trên đường vào điện Dương Xuân xanh bóng cây mùa hạ, ngập tràn nắng đang nhạt dần dưới đám mây đang kéo về. Đàn chim ríu rít trên những tầng lá, tiếng ve kêu ran, tiếng lao xao của con người làm huyên náo cả một con đường dẫn ra sông. Đám đông chỉ dừng lại trước cánh cửa cung điện, dưới chân gò cao. Vị chúa đều đặn bước. Nguyễn Phúc Thăng đỡ Vân Dương ni cô đi sau. Trước cổng điện Dương Xuân, Lê Văn Duyệt đang đứng cùng quân lính mang hương án, cờ quạt nghênh đón. Lá cờ của họ Nguyễn đã bay phần phật trên điện. Theo từng bước chân của chúa Nguyễn đi lên, hàng quân hô vang từng nhịp. Cờ được phất khắp nơi. Có cả tiếng súng bắn. Cả những con tàu ngoài bờ sông cũng inh ỏi tiếng la hét, tiếng nhịp tay chân.

- Họ còn phấn khích hơn cả ta. – Chúa Nguyễn khe khẽ nói với Lê Văn Duyệt khi lại gần hương án mà anh ta đã chuẩn bị sẵn, đưa tay nhận lấy nắm nhang để đốt bái tạ tổ tiên. Lê Văn Duyệt vội đưa tay ra hiệu cho mọi người im lặng. Thi lễ xong với bàn thờ gia tiên, chúa Nguyễn đứng tại cửa cung trên gò cao, nhìn xuống đám đông bên dưới. Họ đã im lặng. Tất cả cùng nhìn lên vị chúa, chờ đợi. Ngài ta nhìn họ, nhìn xuống con đường dẫn ra bến sông, nhìn những mái nhà khuất dưới tán cây xanh, nhìn Phú Xuân với đồi núi, ruộng đồng, sông ngòi trùng trùng nối tiếp. Dòng sông uốn một khúc quanh cong cong duyên dáng xanh biếc giữa hai bờ.

Trong sự im lặng đột ngột của con người, tiếng ve đột nhiên cất cao đến gần như là chói lói. Tiếng ve đột nhiên cao dội lên. Và xa xa, họ nghe tiếng sấm của một cơn mưa đang chuyển mình bao phủ bầu trời mùa hạ.

Vân Dương ni cô cùng Nguyễn Phúc Thăng đứng lại sau lưng vị chúa. Mắt người công nương già vẫn còn hoe đỏ. Tay Nguyễn Phúc Thăng đã vững vàng nắm lấy tay bà. Tản mác bên cạnh, đằng sau, đằng xa, những viên quan của chúa Nguyễn nhìn chúa công của mình chờ đợi. Trong đợt tấn công này, ngài ta hầu như chỉ đem theo các vị tướng Gia Định. Lê Văn Duyệt, Phạm Văn Nhân, Phan Văn Triệu, Tống Viết Phúc, những viên tướng Thần sách quân, đội quân dùng súng hoàn toàn theo lối Tây dương do đích thân ngài ta huấn luyện. Ngoài xa, những chiếc thuyền theo lối Tây dương của ngài ta trải dài bên bến sông, những mũi đại pháo đen ngòm in bóng nắng thấp thoáng, những cột buồm phức tạp và vững chãi đan vào nhau, vào dòng sông đang chảy trôi. Xung quanh ngài ta là những người lính Gia Định, những người ngài ta đã đem từ Gia Định đến.

Thoáng ngỡ ngàng đã thoảng qua trong mắt ngài ta như bóng của một đám mây.

- Phú Xuân, ta đã trở về. – Cuối cùng, ngài ta nói. Một câu duy nhất. Tiếng nói rõ ràng vang trong sự lặng im của con người, trong tiếng ve kêu dưới bầu trời mùa hạ, dưới ánh nắng mặt trời ngày Đoan ngọ chính dương.

Sự lặng im kéo dài trong đám đông sau câu nói, trước khi tiếng rì rầm lan truyền trong họ như tiếng gió thổi qua tán lá. Vị chúa nhìn quanh họ lần cuối, rồi quay mình vào trong điện, nơi hàng lính đang đứng vạch thành con đường cho ngài ta tiến bước. Cổng đại điện lần lượt mở ra trong tiếng hô của đoàn quân. Sự ồn ào lại được khuấy động khi súng đại bác trên tàu Tây dương nổ đanh từng tiếng.

Nhưng trong đám đông, tiếng rì rầm vẫn lan truyền, lan truyền như sóng dưới mặt nước. Người ta vẫn rì rầm nói với nhau, hạ giọng hay không hạ giọng, phấn khích hay sợ hãi, hả hê hay e ngại, phỏng đoán hay đoan chắc, về câu mà vị chúa vừa nói. Nguyễn Phúc Ánh, con trai thứ ba của Nhị công tử của Võ vương, đã trở về Phú Xuân. Đem theo mình là đội quân của Gia Định và gần ba mươi năm phiêu bạt. Phú Xuân, vùng đất mà nghe rằng là nơi Lâm Ấp khởi đầu, là nơi nhà Trần đã lấy được của Chiêm Thành, là nơi họ Nguyễn đã lấy làm thủ phủ để tiến xuống phương Nam, là nơi đã chứng kiến những cuộc phân tranh liên tiếp của Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn. Ba mươi năm, và hàng trăm, hàng ngàn năm trước nữa, giờ đây Nguyễn vương Nguyễn Phúc Ánh là kẻ thắng lợi cuối cùng.

Ngài ta, vị chúa ấy, không nói với họ, những con người. Ngài ta nói với vùng đất này, với hàng ngàn năm lịch sử của nó, với cái thiên mệnh đã dứt ngài ta khỏi nó. Ngài ta nói, như thể đang phán quyết với trời xanh. Dưới mặt trời.

Họ Nguyễn đã trở lại.

Khi việc kiểm kê trong ngoài cung Dương Xuân kết thúc, trời đã chuyển sang trưa, mưa đổ u ám khoảng sân bên ngoài. Chúa Nguyễn cho gọi Lưu Phúc Tường đưa gấp thư cho Vạn Tượng cấp báo với các thổ mục. Cho Phúc Thăng đưa Vân Dương ni cô và các quan lại đi nghỉ, ngài ta ngồi xuống sau chiếc bàn trong chính điện, nơi vẫn dành cho vua Tây Sơn, lơ đãng lật qua các bản sách mà Lê Văn Duyệt thu được trong cung, tay kia gạt mớ ấn tín mà Quang Toản bỏ lại. Ngài ta cầm lên một cuốn sách bọc vàng, bỗng chăm chú đọc rồi ngẩng lên, gọi Lê Văn Duyệt tới.

- Họ hàng Tây Sơn bắt được gồm những ai? – Vị chúa hỏi, tay vẫn cầm cuốn kim sách ghi phả hệ hoàng gia của Tây Sơn. Lê Văn Duyệt cau mày như suy nghĩ, rồi thận trọng trả lời.

- Bẩm chúa công, theo kiểm kê đến giờ thì bắt được ít nhất năm con trai chưa thành niên của Nguyễn Huệ, bốn hoặc năm con gái của Huệ. Số phi tần, thê thiếp của chúng còn chưa thống kê hết, nhưng…

- Họ hàng nhà Lê gồm những ai? – Dường như hiểu được khoảng ngập ngừng của Lê Văn Duyệt, chúa Nguyễn hỏi. Viên tướng Chánh thống nhìn cuốn sách trong tay ngài ta, làm một cái nhún vai rất khẽ.

- Bẩm chúa công, ngoại trừ hai con trai và gái của công chúa Ngọc Hân với Huệ - Công chúa Ngọc Hân đã chết hai năm trước rồi – thì còn vợ của Quang Toản, công chúa Lê Ngọc Bình, con gái út của vua Lê Hiển Tông. Tất cả đang được ta giữ trong nhà giam.

- Cha con lấy hai chị em à? – Một nụ cười phớt qua môi vị chúa. Ngài ta đóng cuốn kim sách, nhíu mày như suy nghĩ một lát rồi vẫy tay gọi Lê Văn Duyệt lại. Khi viên tướng đến gần bàn, ngài ta hạ giọng. – Sau khi thu xếp xong việc ở đây, khanh đem Lê Chất cùng các quân vào cứu Bình Định, phải nhanh lên mới được. Hai dinh Chấn võ quân, Tề võ quân cũng do khanh sai phái. Lê Chất cùng khanh thân thiết, lựa lời bảo hắn hăng hái lập công, ta không bao giờ phụ người có công.

Lê Văn Duyệt nhìn vị chúa, lẳng lặng gật đầu. Ngài ta đặc biệt lưu ý đến Lê Chất hẳn vì điều tiếng đã lan đi như lửa trong quân sau khi Lê Chất bắt hụt Quang Toản. Nhanh chóng phái cả anh ta lẫn Lê Chất đi, ngoại trừ việc cứu cấp cho Bình Định thì còn để dập bớt dư luận với viên hàng tướng này.

- Khanh lựa một người trong đám con trai Nguyễn Huệ mà đưa theo. – Vị chúa chợt nói, hơi mỉm cười trước vẻ ngạc nhiên của Lê Văn Duyệt. – Đến Bình Định, đưa nó ra trước quân Tây Sơn mà uy hiếp tinh thần chúng. Nói với chúng, một mạng của họ Nguyễn đổi bằng một mạng của Tây Sơn.

Chúng có thể xem nhẹ người thân chứ có thể xem nhẹ chủ mình được không? – Giọng nói của chúa Nguyễn ngày càng trầm xuống, sâu lại, tối tăm. Tối tăm như ánh mắt ngài ta nhìn viên tướng họ Lê rõ ràng đang bối rối. – Khanh lựa cả hai tên khác cho ta đưa về Gia Định. Hai con trai Nguyễn Huệ và Phò mã Nguyễn Văn Trị của Tây Sơn – Đền mạng cho hai em trai ta và Lê Phúc Điển.

Ta không tính đến Ngọc Tuyền tự sát và Nguyễn Hữu Thụy do người Chân Lạp giết, hay cô cô Ngọc Đảo bị phản quân sát hại. – Vị chúa cười dịu dàng. Tay ngài ta đan lại trước ngực. – Ta chỉ cần mạng hai tên con trai Nguyễn Huệ và một Phò mã của hắn. Đền mạng cho người nhà ta.

68

Tin chiếm được Phú Xuân báo đến Gia Định chỉ vài ngày sau khi quân Nguyễn vào kinh thành cũ. Như lần phóng hỏa Thị Nại, kết qủa bất ngờ từ chiến dịch tấn công tuyệt mật của chúa Nguyễn làm mọi người mọi kẻ phải kinh ngạc. Người giữ chức Lưu trấn thần Gia Định trong những ngày này là Nguyễn Văn Nhơn không tránh được mừng rỡ mà ngay lập tức cho quân lính đốt pháo nổ giòn cả Quy thành. Trong tiếng pháo nổ, người trong Quy thành đổ ra. Đoàn xe giải tù cũng đi dưới màn xác pháo bay trên cổng thành mà tiến vào. Những chiếc thuyền đã thả đoàn xe này xuống cảng, do đó các tù nhân không có vẻ dãi dầu vất vả, chỉ xanh xao. Hai cậu bé trên dưới mười hai, mười ba tuổi tái nhợt, trong khi người thanh niên thì lầm lì, sắc mặt tối tăm.

- Hai con trai của Huệ và Phò mã của hắn là Nguyễn Văn Trị. - Nguyễn Văn Nhơn nói với Quốc mẫu vừa vội vàng đến chính điện. Ông ta thậm chí không để tâm đến cái tên của hai thiếu niên này, cũng chẳng ai cần biết. Đó là minh chứng của việc chiếm được Phú Xuân, họ nghĩ thế. Qủa thật trong chỉ sai, chúa Nguyễn cũng đã bảo họ đem giải những tù nhân này đi diễu khắp phố phường. Ngài ta cần mọi người mọi kẻ biết minh chứng của việc chiếm được Phú Xuân - Một việc mà dù ở ngay trước mắt, vẫn chưa ai có thể tin được. Họ vẫn còn đang ngơ ngẩn nhìn đoàn xe áp giải tù nhân vào trong sân, trên con đường xanh bóng cây của Quy thành.

Sau những tin tức bất lợi liên tục báo về của đoàn quân, họ đã không thể tưởng được rằng quân Nguyễn hiện lại đang ở Phú Xuân – kinh đô của họ Nguyễn. Đó chỉ là thuật nghi binh của chúa công, có kẻ phấn khích nào đó đã thì thầm, đã loan truyền. Nghi binh, khi tập trung đại quân ở Bình Định, bị Tây Sơn lấn lướt ở Bình Định, rồi đưa tân quân Gia Định đánh vào Phú Xuân – một chiến dịch tuyệt mật từ đầu đến cuối. Người ta đã nói với nhau, nhắc nhở nhau về lệnh tập trung quân từ đầu tháng hai của chúa Nguyễn gửi cho Gia Định, về việc Nguyễn Văn Trương chiếm dinh Quảng Nam từ tháng hai, ngay sau khi phá hủy thủy quân Tây Sơn ở Thị Nại. Đó là một chiến dịch được hoạch định ngay từ đầu, từ giữa mùa đông năm Canh Thân ấy. Thậm chí, trước đó nữa, có thể là ngay khi quân Nguyễn chiếm Bình Định. Bình Định, chúa công đã đặt tên cho nó như thế - cái tên đầy ẩn ý, như thể ngài ta sẽ dùng khu thành ấy để bình định Tây Sơn. Và người ta đã nhắc đến cả đợt tấn công ba năm trước của quân Gia Định – đánh phía Nam Quy Nhơn rồi luồn ra phía Bắc, khuấy đảo Quảng Nam. Tất cả giờ đây được nhắc lại, kể cả những chi tiết mơ hồ, rời rạc nhất, có thể là vô tình nhất, cũng đã trở thành một tổng thể với tuần tự khiến người ta kinh ngạc. Kinh sợ, có thể, khi cái tuần tự xảy ra của các sự kiện lại khớp vào nhau đến mức khiến họ phải rùng mình.

Những xôn xao, xáo trộn của Gia Định trong suốt những tháng này đã lắng xuống, im tiếng, bất động trước chiến thắng của quân Nguyễn tại Phú Xuân.

Một chiến thắng có thể đổi thay hoàn toàn tình thế.

Những xôn xao, xáo động trong từng con người dậy lên như sóng triều. Kết thúc, lần đầu tiên trong hàng chục năm dài, họ thấy được, dù còn mơ hồ, cái kết thúc của cuộc chiến này. Dù còn mơ hồ, tâm can tất thảy con người hiện diện trong Gia Định đều xao động.

Có những giọt nước mắt đã rơi, dù có thể không vì mừng vui. Đứng trong hàng hiên Phương điện, nhìn đoàn xe áp giải tù nhân và nghe người tiểu sai đọc lớn chỉ sai phủ dụ chúng dân Gia Định của chúa Nguyễn, Ngọc Tú đã bật khóc. Cô khóc không thành tiếng, chỉ có nước mắt lăn tròn trên má, từ đôi mắt chỉ tràn ngập nỗi bi thương. Phú Xuân, điều mà cô chờ đợi hàng chục năm nay, đã tới. Những giọt nước mắt được kiềm hãm trong hàng chục năm cũng đã rơi, trong nỗi bi thương và thống khổ không thể cất thành lời.

Quốc mẫu, như tính cách dễ xúc động của bà, cũng đã khóc. Nắm lấy tay bà, Nhị phi vừa khóc vừa cười. Phú Xuân, chúng ta đã có thể trở lại Phú Xuân, cô nói khi lệ ngân ngấn trong mắt. Phú Xuân, vùng đất mà cô đã sinh ra và phải rời khỏi từ rất sớm, qúa sớm. Phú Xuân, nơi mà cô có lẽ đã mơ về trong những tháng ngày lưu lạc nơi đất lạ. Đứng quanh Quốc mẫu, những thân thuộc của họ cùng nhớ đến vùng đất ấy mà bật khóc, cùng bà.

Ở một góc khác, lặng yên hơn và ít xôn xao hơn, là Vương hậu và những thê thiếp của Phúc Cảnh. Họ gần như ngơ ngác. Họ dường như không thể tin được, hoà nhập được vào cái hiện thực đang diễn ra. Phú Xuân, nơi mà Phúc Cảnh chưa từng biết tới, nơi mà cậu ta đã cống hiến cả cuộc đời vì nó mà chưa từng biết tới – Như một giấc mơ không thực đối với họ lúc này. Những góa phụ trẻ âm thầm khóc, tay che miệng mà âm thầm khóc cho những giấc mơ không bao giờ thành hiện thực, cho những điều đã vuột qua khỏi tầm tay. Vương hậu đứng yên, trầm lặng, hai tay vẫn nắm chặt bàn tay của hai đứa cháu nhỏ, còn qúa nhỏ. Phú Xuân, cô lẩm nhẩm trong miệng, đôi mắt dưới mái tóc điểm bạc vẫn như nhìn vào nơi xa xăm vượt ngoài thế giới của con người. Tên gọi vùng đất ấy trên môi cô nghe như lời cầu nguyện âm thầm trong bóng tối.

Đoàn xe tù dừng lại sau khi sắp hàng ngang trên sân, hướng ba khuôn mặt thanh thiếu niên về nơi họ đang đứng. Ba khuôn mặt xa lạ, hoàn toàn xa lạ. Cổ và vai bi đóng chặt trong chiếc gông nặng, chúng chỉ còn cách ngẩng đầu lên nhìn đoàn người đổ ra ngắm nghía, nhìn khung cảnh lạ lẫm của nơi sẽ chôn xác mình.

Viên tiểu sai vẫn đang nói, đanh thép và hùng dũng, kiên quyết và hăng hái, về thành qủa, về quyết tâm của chúa Nguyễn khi chiếm được Phú Xuân, cổ vũ và an ủi người Gia Định trong những ngày cực khổ. Ngày tàn của Tây tặc đã đến, ít nhất lời anh ta nói lúc này qủa thực có điểm xác tín.

Viên pháo đại trên dây nổ bùng trong tiếng hô hân hoan của người trong thành. Tiếng hô được lặp lại trên bến cảng, trên các con đường, trên các dòng sông. Kết thúc, cuối cùng cũng đã đến lúc kết thúc. Trái tim của tất thảy con người cùng rung lên, nhảy thót lên trong một nhịp đập giống như nhau.

Dựa lưng vào cột chống của Phương điện, hơi lùi về phía sau, Ngọc Du lặng lẽ quan sát họ. Tiếng gọi “Phú Xuân” thoáng qua tâm trí nàng và biến mất như làn khói. Từ lâu, vùng đất ấy đã trở thành một giấc mơ xa tít của nàng. Nàng đã không còn mơ về nó nữa, cũng không còn qúa nhớ nhung, không còn qúa nuối tiếc. Chiếm được Phú Xuân, nàng nghe cái tin này với tâm trạng hoàn toàn khác, và giờ đây nàng đang chìm trong suy nghĩ và tính toán, trong lúc vẫn quan sát xung quanh. Ánh mắt nàng lướt qua ba chiếc xe tù như nhìn những cái cây.

Đánh Phú Xuân bằng đội tân quân, vậy là đại quân vẫn chưa rời khỏi Bình Định. Nhưng Bình Định sẽ ra sao? Nghe tin Phú Xuân bị chiếm, quân Tây Sơn có lui về? Vua Tây Sơn đã không bị bắt, vẫn chưa bị bắt, vậy là cuộc chiến của họ vẫn chưa kết thúc. Phú Xuân, bất qúa như dinh Quảng Nam, chỉ là những vùng đất đã lọt vào tay họ mà không gây biến động nhiều lắm với Tây Sơn. Phú Xuân chỉ có ý nghĩa với những người nhà Nguyễn, chứ hoàn toàn không có – hoặc có rất ít – ý nghĩa với Tây Sơn. Nguyễn Huệ trước khi chết đã định xây kinh đô cho mình tại Nghệ An, Phú Xuân chỉ là nơi trú chân của Tây Sơn. Chưa bắt được vua Tây Sơn, vậy là cuộc tấn công Phú Xuân của họ chỉ thành công có phân nửa. Chiếm được một vùng đất không qúa nhiều ý nghĩa với kẻ địch, vẫn chưa tiêu diệt được lãnh đạo hay lực lượng địch quân – Nàng cảm thấy sự vui mừng lúc này có hơi qúa đáng.

À, nàng biết Phú Xuân có ý nghĩa như thế nào với họ. Nhưng cục diện của cuộc chiến này vẫn chưa thay đổi. Nàng nghĩ đến điều đó và chỉ lặng lẽ đưa mắt quan sát khung cảnh xung quanh. Dây pháo đã cháy hết, tiếng pháo đại nổ đanh một tiếng kết thúc.

Viên tiểu sai vẫn nói. Người xung quanh nàng vẫn xôn xao. Nhưng nàng chỉ có cảm giác nôn nóng đến gần như bực mình. Nàng chỉ muốn hỏi viên tiểu sai về tình hình trên chiến trường Bình Định, nhưng lúc này thì không thể. Có thể anh ta cũng chẳng biết nhiều hơn những gì người ở đây đã biết. Chẳng ai biết điều gì đang thực sự diễn ra nơi ấy. Hết Thị Nại rồi đến Phú Xuân, những cuộc tấn công hoàn toàn bất ngờ của chúa Nguyễn khiến không ai có thể lường được. Và ngài ta còn đang che giấu chuyện gì nữa trong cái hồ lô của mình? Ngài ta còn đang che giấu điều gì trong cái kế hoạch không ai lường được kia của mình? Bây giờ, Phúc Cảnh đã mất, Phúc Thăng đã đến chỗ chúa Nguyễn, nàng không còn ai để dò hỏi những tin tối mật như vậy. Bây giờ, ở lại đây chỉ là những người điều hành việc nông tang, trị an cho Gia Định, hầu như không còn liên quan đến chiến trường. Nguyễn Văn Nhơn đã lớn tuổi, đủ thâm trầm và xa cách để không làm phật lòng vị chúa.

Nhìn quang cảnh trước mắt, nàng thấy mình dửng dưng trong sự nôn nóng không liên quan gì đến khí trời mùa hạ. Ngược lại, trời ảm đạm mây trắng xám dù có vẻ sẽ không đổ mưa. Gió thổi mạnh. Và trong một khoảnh khắc, ánh mắt nàng lướt qua cậu bé da ngăm trong cũi, thấy cậu ta chớp mắt. Có thể là gió đã thổi bụi vào mắt cậu ta, nhưng trong khoảnh khắc ấy, nàng nghĩ cậu bé như suýt bật khóc. Cậu ta chớp mắt, nhìn xuống, nhăn mặt. Trên gương mặt cậu ta tràn đầy nỗi thống khổ câm lặng. Nàng nhìn cậu ta một lúc, rồi quay đi.

Rốt cuộc, đó cũng là những người xa lạ đối với nàng. Nàng nghĩ mình biết những gì sẽ đón đợi chúng trên con đường tuần diễu cho dân chúng. Được kích động bởi cuộc chiến đang diễn ra, mất mát mà họ đã phải chịu, sự mệt mỏi trong những năm tháng này, cừu hận của ba mươi năm dài, cừu hận mà vị chúa đã cẩn thận nuôi dưỡng trong họ và được chiến thắng mới thổi bùng lên, những thanh thiếu niên này sẽ trở thành mục tiêu trút thù oán của dân chúng, việc không thể nào khác được. Mọi oán thù cùng sự căng thẳng cần có một nơi để giải tỏa, đó có lẽ là lý do mà vị chúa đưa những tù nhân này về Gia Định. Ngài ta định dùng họ để xoa dịu tinh thần của con người nơi đây, khi cuộc chiến này vẫn chưa kết thúc.

Hai người con trai của Nguyễn Huệ - rốt cuộc vẫn chỉ là hai đứa trẻ xa lạ đối với nàng. Nàng thấy dửng dưng với chúng, trước cả cái chết mà chúng đang phải đối mặt. Chúng phải chết cho dòng máu mà chúng đang mang trong người, đó là chuyện đương nhiên. Vô lý và có lý – rốt cuộc thì có ý nghĩa nào? Bao nhiêu người đang chết, đã chết, rốt cuộc thì có ý nghĩa nào?

Sự ồn ào huyên náo này cuối cùng cũng kéo dài đến hết ngày. Đám đông rời khỏi Quy thành và tuần hành qua các nẻo đường Sài Côn, đến cả địa phận Trấn Biên. Họ sẽ còn đi như vậy đôi ba ngày nữa, qua hết bốn dinh, hầu như toàn vùng Gia Định, trước khi số phận của những tù nhân được quyết định. Trên con đường của họ, cờ quạt được mang ra, cùng cả gạch đá, rau củ thối hay bất cứ thứ gì dơ bẩn có thể ném được. Kích động, đó là một thủ thuật rất phổ biến trong giới quan trường, nhất là trong thời điểm thế này. Nàng chỉ cần nghe tiếng huyên náo ngoài Quy thành cũng đã có thể đoán được chuyện gì đang xảy ra. Nàng nghĩ với cái nhếch môi.

Nhưng viên tiểu sai đã dẫn đầu đám đông đi mất. Những người trong hậu điện tản ra dần, đám trẻ kéo nhau lên thành xem đám diễu hành. Chớp mắt, con bé Hồi đã không còn thấy bóng dáng đâu. Nàng nắm được thằng Khánh trước khi nó chạy theo đám trẻ, lắc đầu.

- Không, con về học đi. – Nàng cau mày nói với nó, nhét bàn tay con bé út vào tay nó bắt trông giữ. Với những đám diễu hành thế này, nàng đã có kinh nghiệm ngay từ những ngày còn ở Phú Xuân. Đám đông có thể trở thành cuồng dại hoặc dã man một cách không thể tưởng được. Gia Định, sau những ngày bị nén chặt đến tức thở, có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Đây là thời điểm để nó bùng nổ. Và nàng không muốn con mình nhìn thấy khung cảnh ấy.

Giao hai đứa con đang phụng phịu cho nhũ mẫu coi giữ, nàng lên thành tìm con bé Hồi. Trên thành nhìn xuống, đám đông như một đàn kiến đã tràn đầy những con đường Sài Côn, tiếng hò hét vang động, có cả tiếng trống, tiếng thanh la, tiếng gõ của các vật dụng trong nhà hẳn đã được đem ra phụ trợ. Đám trẻ trong thành nối đuôi nhau chạy theo đoàn xe tù, ném đủ thứ vào “kẻ thù”. Hai đứa trẻ cùng người thanh niên bị gông chặt không còn đường cựa quậy, thỉnh thoảng lại lúc lắc đầu như cố gắng tránh một cách vô vọng. Trên thành, đám trẻ hoàng gia quan sát khung cảnh ấy với sự khích động thầm lặng. Mắt chúng sáng lên, dù thân thể vẫn bất động. Chúng nhìn quang cảnh này, quang cảnh “kẻ thù” của mình bị triệt hạ, như thể bị thôi miên. Chúng lắng nghe âm thanh “Giết chết Tây tặc” của đám đông bên dưới như thể là lời ca hát.

Nàng không tìm thấy con bé Hồi. Trên thành, bên kia đám trẻ, Ngọc Tú quay nhìn khi thấy nàng đến. Từ lần giận dữ bỏ đi trong đám tang Phúc Hy, rồi được nàng xin lỗi, cô đã không còn trách cứ nàng, chỉ tỏ ra hơi xa cách. Bây giờ, mắt cô vẫn còn hoe đỏ, và nàng lấy làm ngạc nhiên bắt gặp cô ở đây, cùng với đám trẻ con và các cung nhân tò mò.

- Vương hậu gọi con bé về rồi. – Như thể đoán được lý do nàng tới, Ngọc Tú nói. Một lần nữa, nàng ngạc nhiên. Ngọc Tú khoanh tay nhìn xuống thành, vẻ lặng im tịch mịch khiến nàng cuối cùng cũng phải lên tiếng.

- Chị xem cái gì ở đây vậy? – Nàng hỏi, không phải không có ý châm biếm. Ngọc Tú hơi ngẩng lên, nhưng vẫn không nhìn nàng.

- Ta chỉ đang nghĩ. Nói rằng ba mạng này thường mạng cho người nhà ta, rốt cuộc lại có gì không đúng lắm. Lần trước khi Quang Bảo định quy hàng, chúa công đã nói “tội cha không bắt đến con”, dù Nguyễn Nhạc kể ra mới là kẻ mang thâm thù với họ Nguyễn ta. Bây giờ lại làm thế này, không sợ người ta nói rằng có lời lại nuốt lời sao?

- Vì mục tiêu của chúa công không phải là Nguyễn Huệ, mà là Quang Toản. – Nàng điềm nhiên nói. Ngọc Tú quay sang nàng, ngạc nhiên ánh lên trong mắt. Nàng nhún vai. – Đó là em trai và anh rể của Quang Toản, nói như thế mới đúng thân phận.

- Nghĩa là gì? – Ngọc Tú có vẻ không hiểu. Ngọc Du liếc nhìn qua đám đông rồng rắn đã rời khỏi bến cảng, nhếch môi.

- Ngài ta đang chơi đùa đấy. Thân phận của Quang Toản bây giờ chẳng phải là giống với ngày xưa lắm sao? Thứ ngài ta muốn, không phải là trả thù người, mà là trả thù trời. Tất cả phải lặp lại giống hệt như ngày xưa. Kẻ địch phải nếm tất cả những gì ta đã trải qua ngày xưa.

Đó thật sự giống như một trò chơi. – Nàng nghiêng đầu quan sát ánh nắng nhạt dần phía chân trời, cuối dòng sông. Lời nói khẽ thoát qua môi như hơi thở. Ngọc Tú đăm đăm nhìn nàng.

- Sao em lại nghĩ thế? – Cô hỏi, một lúc sau. Nàng nghe như có sự sợ hãi trong lời cô, không phải là nghi ngờ. Nàng vẫn chỉ cười.

- Vì ngài ấy không tin trời, cũng chẳng tin thần. Cái gì là luân hồi, cái gì là qủa báo? Ngay cả cái gì là báo thù, là thường mạng? Ngài ấy thậm chí không tin vào cả linh hồn. Người chết là hết. Tất cả chỉ vì người sống chứ người chết thì biết gì, có ích lợi gì? Người chết thì đã chết rồi, có giết bao nhiêu kẻ thì cũng làm gì được nữa? Những kẻ này trước sau cũng sẽ chết, tội của cha chúng làm đã đáng tru di tam tộc rồi, ngài ta còn bày vẽ như thế này để làm gì?

- Nhưng nhắm vào Quang Toản thì chẳng phải là hơi vô lý qúa sao? – Ngọc Tú chăm chú nhìn Ngọc Du như thể nhìn một người lạ lẫm. Nàng cười với đám mây đang dồn về, ánh tán sắc loang đầu tầng mây như sóng.

- Việc đời thật ra mấy chuyện có lý đâu. – Nàng chỉ nói như thế rồi im lặng. Ngọc Tú, nói cho cùng, hoàn toàn không có kiểu suy nghĩ ấy, và cô vĩnh viễn sẽ vẫn không hiểu. Nàng không muốn tranh cãi với cô một lần nữa.

Dưới đường, đám diễu tù đã cách thành một quãng khá xa, khuất sau bóng cây. Ngọc Tú thở ra, trầm ngâm. Nàng một lần nữa nghĩ mình phải cất lời.

- Chị cũng chẳng cần áy náy làm gì. – Nàng lạnh lùng nói, quay người định đi. Cảnh tượng này hoàn toàn khiến nàng không có hứng thú. – Những người này chẳng phải vì anh Phúc Điển hay anh em ta mà chết, cũng chẳng vì ta đau lòng hay thương hại mà sống. Nếu muốn, chị cứ nghĩ rằng chúng phải trả cho tội nghiệt trước đi vậy.

Như đám người dưới kia, nàng đưa mắt nhìn theo tiếng chiếng trống lại vang. Cuộc thảm sát hai mươi năm trước tại Chợ Lớn, cuộc phóng hỏa cướp bóc tại Cù lao Phố, những cuộc quấy phá Gia Định đã để lại một nỗi hận không phai đi được, dù cho thân xác những kẻ tạo nên oán thù ấy đã tan dưới ba tấc đất. Từ lâu, oán thù đã được kết tụ, rồi mang vóc dáng của một khái niệm duy nhất: “Tây Sơn”. Rồi tất cả trách nhiệm đã được kết thành trên vai những kẻ mang dòng máu của anh em Nhạc, Huệ, cho kẻ đứng đầu khối kẻ thù ấy. Bây giờ, họ không thấy trước mặt mình ba thanh thiếu niên, chỉ là “Tây tặc”. Bây giờ, tất cả những gì họ thấy là cái chiến thắng trước mắt. Giết chết Tây tặc, tiếng hô hào vang đến tận chỗ họ.

Nàng rời khỏi đám đông trên thành mà không quay nhìn.

Con bé Hồi qủa nhiên đang ở chỗ Vương hậu, dù hoàn toàn có vẻ miễn cưỡng. Cô đã nhờ nó may một cái áo mấy hôm trước và bây giờ đang giữ nó lại để nói về cái áo ấy. Con bé nhìn mẹ, trề môi. Đã mười hai tuổi, nó bắt đầu để tóc thả trên vai, mặc áo dài. Nàng nhìn nó, nghĩ đã đến lúc đặt cho nó một cái tên trưởng thành. Nhưng việc này nếu có cha nó thì tốt hơn. Nàng cắn môi.

Không khí trong phòng Vương hậu hoàn toàn bình lặng, gần như là dửng dưng, càng lạ nhất là khi có tin mới từ Phú Xuân như hiện tại. Vương hậu cúi xuống cái áo có vẻ như được may cho thằng bé Mỹ Thùy, gương mặt hoàn toàn mang vẻ dửng dưng. Nàng nghĩ mình biết những gì cô đang cảm thấy. Sau cái chết của Phúc Cảnh, chỉ có hai đứa cháu nội làm cho cô có thể tiếp tục sống. Mọi việc khác đã trở nên hoàn toàn không quan trọng. Thậm chí, cô như đã quên hẳn có một cuộc chiến đang diễn ra.

Tuy vậy, cũng có vẻ không phải như nàng nghĩ.

- Ngoài kia sao rồi mẹ? – Con bé Hồi ngẩng lên, không kìm được nôn nóng mà hỏi. Nàng liếc nhìn nó, rồi dựa mình vào ghế, lơ đãng trả lời.

- Giải tù thì là giải tù, có gì để nói?

- Chúng là dòng dõi Tây tặc. – Con bé cau mày trước thái độ của nàng. Nó đặt cái áo đang may với cả kim lẫn chỉ xuống, tay nắm lại. – Tên Phò mã ấy đã đánh nhau với ta ở Nghệ An, rồi chống đối ta rất nhiều việc. Hai thằng bé ấy là con của ngụy Huệ, phải đánh cho tan xương. Phải phanh thây xẻ thịt chúng ra.

Ngồi đối diện với con bé đầu bên kia giường, Vương hậu giật mình mà ngẩng lên nhìn nó. Ngọc Du cau mày, nhưng không lên tiếng. Qủa thật, đám trẻ đã được dạy như vậy mà lớn lên, ngay cả những đứa con nàng. Nhất là những đứa con nàng, chúng đã lớn lên trong tháng năm này với sự phập phồng lo sợ cho cha mình. Do đó, tâm thức chúng đã mang một mối oán thù sâu nặng với những kẻ đang vây hãm chàng. Oán thù của chúng còn lớn hơn những kẻ đang hò hét ngoài kia, và chúng có lý do. Nàng nhất thời cũng không biết phải nói gì.

- Chúng chỉ là trẻ con. – Vương hậu chợt lên tiếng. Cô lại cúi xuống may tiếp đường chỉ đang dang dở. – Tội nghiệt không phải do chúng gây ra, nghĩ cũng đáng thương.

- Chúng không chết thì ta không thắng được. – Con bé ra vẻ như không chấp nhận. Dưới rèm mi, Vương hậu khẽ liếc về phía nàng. Một lần nữa, nàng không biết phải nói gì.

- Đám trẻ vẫn ở trên thành à? – Vương hậu hỏi nàng khi cô nhờ con bé sang phòng bên lấy chỉ. Không đợi nàng đáp, cô lắc đầu. – Cứ thế này, lớn lên chúng sẽ còn căm thù hơn cả chúng ta.

- Tất nhiên. – Nàng chỉ nói như thế. Tất nhiên, khi tất cả những gì chúng biết là những kẻ ấy đã hủy hoại cơ nghiệp tổ tông, đã đuổi tận giết tuyệt dòng họ, cha ông, chú bác mình, đến cả phụ nữ trẻ con cũng không tha; rằng những kẻ ấy đã gây vô số tội ác; rằng những kẻ ấy dã man tàn bạo vô luân. Và ngay cả nàng cũng không thể nói rằng điều đó là sai. Nhưng với họ, những con người đã trải qua bao thăng trầm, đã chứng kiến bao nhiêu điều, họ biết không chỉ đơn giản vạch ra một ranh giới cho tất cả mọi thứ, mọi con người. Điều đó thì khó có thể truyền đạt được.

- Tội nghiệt của chúng ta cũng nặng qúa. – Vương hậu lặng lẽ nói. Gương mặt trông nghiêng của cô trong ánh sáng nhạt hắt vào căn phòng như phủ một lớp phấn thạch, bàng bạc như sương phủ. Nàng mỉm cười, nhìn ra ngoài cửa. Mưa đang đến, mùi đất theo gió cuốn về, len dưới những tán cây.

Rốt cuộc, con bé của nàng lại chính xác. Chúng không chết thì ta không thắng được, giản đơn như thế, trả lời cho câu nói của Vương hậu. Chúng phải chết – có tội hay không có tội. Mà thật sự thì mọi chuyện giản đơn hơn thế. Những hình pháp tru di tam tộc, cửu tộc được đặt ra đã là qúa đủ. Qúa đủ để chúng phải chết. Chưa cần phải xét đến những hoàn cảnh khác.

Cái gọi là lương tâm, tình thương hay bất cứ tình cảm gì của con người, thật ra lại chẳng có ý nghĩa gì, trong những việc thế này.

Ngay cả điều gọi là oán thù hay tha thứ, cũng thật ra chẳng có ý nghĩa gì.

- Chúng biết thù oán thì cũng tốt. – Nàng nói khi mắt nhìn ra hàng cây phía xa. Nàng không nhận thấy ánh mắt của Vương hậu. Nàng chẳng để tâm.

Căm thù, thật ra lại là một dạng thức phòng vệ của con người. Truyền đi lòng căm thù, chính là để kẻ thù không còn nguy cơ trỗi dậy, không còn cơ hội để sống, từ trong trứng nước. Lòng căm thù càng mù quáng, càng to lớn, sự cảnh giác càng cao, sự trừng phạt càng khốc hại.

Có những điều vốn không thể cùng tồn tại, dung hợp với nhau ngay từ đầu. Hoặc là từ bây giờ.

Có những điều mà càng dùng lý lẽ để phân tích, để lý giải thì càng mờ mịt; càng dùng đạo nghĩa để phân định thì càng mơ hồ.

Cho nên em trai nàng mới có thể ngang ngược như thế mà cũng mỉa mai như thế, dùng phương cách này để ổn định Gia Định. Những kẻ hận thù hả hê vui sướng, những kẻ nghi ngờ phải im tiếng, những kẻ bất nhẫn phải câm lặng, những kẻ chống đối như thể bị một cái tát. Nói gì đây, khi ngài ta đáp lại sự vô lý này bằng một sự vô lý khác? Nếu tận mắt chứng kiến cảnh chộn rộn dưới chân thành này, hẳn ngài ta sẽ cười. Ngài ta sẽ được một trận cười đủ cho cả mười năm sau, cho đến hết đời. Thậm chí, đời đời kiếp kiếp.

Vương hậu lại cúi xuống chiếc áo đang may. Một lúc lâu sau, cô mới thở dài.

- Có đáng không cơ chứ? – Cô nói. Con bé Hồi đã trở về và họ làm như không có cuộc nói chuyện này.

Nàng ra vẻ như không nghe thấy sự cay đắng trong lời Vương hậu, sự trống rỗng ngột ngạt trong đó. Phúc Cảnh, từ năm mười hai tuổi, đã đặt mục tiêu trong đời là báo thù – Báo thù cho những người mà chính nó cũng không biết, chưa từng biết. Phúc Cảnh, từ năm bốn tuổi, đã ra đi, lênh đênh ngàn vạn dặm vì cái giang sơn, vì những người mà nó không hề có chút khái niệm thực sự nào. Phúc Cảnh, đứa trẻ đã ra đời trong cuộc hôn nhân vội vã để xây dựng thế lực của vị chúa. Cả cuộc đời, cả cuộc đời ngắn ngủi phù du, cậu ta chưa từng nắm được bất cứ điều gì, thứ gì trong tay. Ngay cả một giấc mơ, ngay cả một ánh lửa lập lòe như bóng đom đóm cuối con đường, cậu ta cũng không nắm được. Chẳng có gì, chẳng có gì cho đến tận cùng.

Và Vương hậu, mẹ cậu ta, cũng chỉ có thể âm thầm đau đớn. Nỗi đau đớn kéo dài hàng chục năm mà không xác định rõ được nguyên cớ như đã ăn sâu vào xương thịt. Chẳng có gì, rốt cuộc thì cô cũng chẳng có gì, từ người con ấy, máu thịt duy nhất của mình. Để nó ra đi, và mất nó, vĩnh viễn. Cho đến tận cùng, Phúc Cảnh cũng không nhớ về cô, về cái gia đình mà mình có. Cậu ta gọi tên Chúa, gọi tên những người bạn Tây dương, gọi cha mình. Trái tim của cậu ta đã bị biển cướp mất, đã hoàn toàn mất. Có lẽ, vì lý do đó, Vương hậu mới có thể sống tiếp và hồi phục. Cô đã mất Cảnh, đó là sự thực, hiện thực đã kéo dài hàng chục năm, kéo dài đủ để trái tim cô có thể làm quen và chấp nhận. Cô đã có thể chấp nhận cả sự mất mát sau cùng, tuyệt đối, bằng trái tim đau đớn và nhẫn nhịn của mình.

Có đáng không? Cô hỏi. Cho đến tận bây giờ, cô vẫn còn hỏi câu ấy. Có đáng không, những gì mà họ theo đuổi? Những gì mà những người đàn ông trong đời cô theo đuổi. Cha cô, người đã để công nương Ngọc Quận giận dữ ra đi vì mâu thuẫn trong nhà, trở về Quảng Nam và bị phản quân giết chết. Chồng cô, chúa Nguyễn, mà cả cuộc đời ngài ta là một cuộc hành trình dài, đã bị số phận cướp mất khỏi cô, từng chút một. Rồi đến đứa con đầu vừa sinh đã mất. Rồi đến Phúc Cảnh. Ngày xưa, cô đã từng đi theo họ. Cô đã đánh trống thúc quân, đã đi theo vị chúa mà làm tất cả những gì có thể, đã hy sinh ngay cả đứa con mình. Và rồi bây giờ cô lại hỏi, có đáng không? Câu hỏi có sự chân thật thắc mắc trong nó, điều mà cô vẫn không biết, không lý giải được.

Nhưng nàng không trả lời, với sự hờn oán trong nó.

Gió xao xác qua những tán cây, rồi mưa lác đác đổ xuống, dần dà trở nên ào ạt. Cung nhân mang thêm đèn vào phòng. Ngọc Du nhìn ra ngoài cửa sổ, khoảng trời trước đây bị mái nhà cao của Thế điện che ngang. Sau vụ cháy ấy, những gì còn lại của Thế điện bị dỡ bỏ, để lại một khoảng đất trống. Nàng đã nghe quan quân bàn việc xây một căn nhà thay thế vào đó, nhưng không dành cho người ở. Cùng với việc chiếm lại được Phú Xuân, có lẽ họ không còn ở đây bao lâu nữa.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro