HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG THEO ISO 9000 va he thong qtri CL TOAN DIEN

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Put your story text here...HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG THEO ISO 9000

By NNL. Friday, 25. January 2008, 13:49:53

Quản trị sản xuất, ISO 9000:2000

1. Sự ra đời, ý nghĩa của bộ Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000

Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 được tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế (ISO) công bố năm 1987. Sự ra đời của bộ tiêu chuẩn ISO-9000 đã tạo ra một bước ngoặt trong hoạt động tiêu chuẩn và chất lượng trên thế giới nhờ nội dung thiết thực của nó và ở sự hưởng ứng rộng rãi, nhanh chóng của nhiều nước, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp. Trong lịch sử phát triển 50 năm của Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế thì bộ tiêu chuẩn này là những tiêu chuẩn quốc tế có tốc độ phổ biến áp dụng cao nhất, đạt được kết quả chung rộng lớn nhất.

Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 qui tụ kinh nghiệm của Quốc tế trong lĩnh vực quản lý và đảm bảo chất lượng trên cơ sở phân tích các quan hệ giữa người mua và người cung cấp (nhà sản suất). Đây chính là phương tiện hiệu quả giúp các nhà sản xuất tự xây dựng và áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng ở cơ sở mình, đông thời cũng là phương tiện mà bên mua có thể căn cứ vào đó tiến hành kiểm tra người sản xuất, kiểm tra sự ổn định của sản xuất và chất lượng sản phẩm trước khi ký hợp đồng. ISO 9000 đưa ra các chuẩn mực cho một hệ thống chất lượng và có thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất , kinh doanh và dịch vụ. ISO 9000 hướng dẫn các Tổ chức cũng như các doanh nghiệp xây dựng một mô hình quản lý thích hợp và văn bản hoá các yếu tố của hệ thống chất lượng theo mô hình đã chọn.

Những triết lý cơ bản mà ISO 9000 đưa ra về một hệ thống quản lý chất lượng là phù hợp với những đòi hỏi của các doanh nghiệp hiện nay. Thể hiện ở những điểm sau:

- Hiệu quả chất lượng là vấn đề chung của toàn bộ tổ chức. Chỉ có thể tạo ra một sản phẩm, một dịch vụ có chất lượng, có tính cạnh tranh cao khi mà cả hệ thống được tổ chức tốt - đó là sự phối hợp để cải tiến hoàn thiện lề lối làm việc.

- Phải làm đúng, làm tốt ngay từ ban đầu.

- Nêu cao vai trò phòng ngừa là chính trong mọi hoạt động của tổ chức. Việc tìm hiểu, phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng tới kết quả hoạt động của hệ thống và những biện pháp phòng ngừa được tiến hành thường xuyên với những công cụ kiểm tra hữu hiệu.

- Thoả mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng, của xã hội là mục đích của hệ thống đảm bảo chất lượng, do đó vai trò của nghiên cứu và cải tiến sản phẩm hay nghiên cứu sản phẩm mới là rất quan trọng.

- Đề cao vai trò của dịch vụ theo nghĩa rộng, tức là quan tâm đến phần mềm của sản phẩm, đến dịch vụ sau bán hàng. Việc xây dựng hệ thống phục vụ bán và sau bán hàng là một phần quan trọng của chiến lược sản phẩm, chiến lược cạnh tranh của một doanh nghiệp. Thông qua các dịch vụ này uy tín của doanh nghiệp ngày càng lớn và đương nhiên lợi nhuận sẽ tăng.

- Trách nhiệm đối với kết quả hoạt động của tổ chức thuộc về từng người. Phân định rõ trách nhiệm của từng người trong tổ chức, công việc sẽ được thực hiện hiệu quả hơn.

- Quan tâm đến chi phí để thoả mãn nhu cầu- cụ thể là đối với giá thành. Phải tìm cách giảm chi phí ẩn của sản xuất, đó là những tổn thất do quá trình hoạt động không phù hợp, không chất lượng gây ra, chứ không phải do chi phí đầu vào.

- Điều nổi bật xuyên suốt bộ tiêu chuẩn ISO 9000 là các vấn đề liên quan đến con người. Nếu không tạo điều kiện để tất cả mọi người nhận thức được đúng vai trò và tầm quan trọng của chất lượng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của họ và không tạo cho họ có điều kiện phát huy được mọi khả năng thì hệ thống chất lượng sẽ không đạt được kết quả như mong đợi.

2. Cấu trúc của Bộ tiêu chuẩn ISO 9000

Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 được ban hành vào năm 1987, sau một thời gian áp dụng, Ban kỹ thuật TC - 176 đã nghiên cứu các nhận xét và góp ý của các nước trong quá trình áp dụng,tiến hành xem xét, bổ sung và ban hành lần 2 năm 1994. Trong những năm cuối của thế kỷ 20, các tiêu chuẩn ISO 9000 lại được xem xét, sửa đổi, bổ sung theo các yêu cầu mới và tháng 12 năm 2000,

ISO 9001: 2000 đươc ban hành lần thứ 3 thay thế cho bộ 3 tiêu chuẩn ISO 9001, 9002 và 9003 : 1994.

ISO 9001: 2000 với tiêu đề chính thức là Hệ thống quản lý chất lượng - Các yêu cầu (Quality management systems - Requirements ), không gọi là Hệ thống đảm bảo chất lượng (Quqlity Assurance) như lần ban hành thứ nhất (1987) và thứ hai (1994).

Tiêu chuẩn ISO 9004: 2000 cũng đồng thời được ban hành trên cơ sở soát xét lại tiêu chuẩn ISO 9004: 1994. ISO 9004: 2000 đươc sử dụng cùng với ISO 9001: 2000 như là 1 cặp thống nhất các tiêu chuẩn về hệ thống quản lý chất lượng. ISO 9004: 2000 đưa ra các chỉ dẫn về đối tượng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ở một phạm vi rộng hơn.

3. Nội dung của ISO 9001: 2000

Các yêu cầu của Hệ thống quản lý chất lượng (HTQLCL) theo ISO 9001: 2000 đươc trình bầy trong các mục 5, 6, 7, 8 của tiêu chuẩn này. Hình vẽ dưới đây minh hoạ tổng quát mô hình quản lý chất lượng theo ISO 9001: 2000 với phương pháp tiếp cận quá trình. Trong đó khách hàng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định yêu cầu đầu vào và theo dõi sự thoả mãn của khách hàng là cần thiết để đánh giá và xác nhận các yêu cầu của khách hàng có được đáp ứng hay không.

Các yêu cầu của HTQLCL được sắp xếp trong 4 mục lớn:

mục 5 : Trách nhiệm của quản lý/ lãnh đạo

mục 6 : Quản lý nguồn lực

mục 7 : Thực hiện sản phẩm

mục 8 : Đo lường, phân tích và cải tiến

Phương pháp tiếp cận quá trình coi mọi hoạt động tiếp nhận đầu vào và chuyển hoá chúng thành cac đầu ra là một quá trình. Một tổ chức thường phảI quản lý nhiều quá trình có liên hệ mật thiết với nhau và đầu ra của quá trình này sẽ trở thành đầu vào của quá trình tiếp theo. Phương pháp tiếp cận quá trình là việc xác định và quản lý một cách có hệ thống các quá trình đươc thực hiện trong 1 tổ chức và sự tương tác giữa chúng với nhau.

ISO 9001: 2000 coi mọi kết quả đầu ra của 1 quá trình là sản phẩm và xác định có 4 loại sản phẩm thông dụng là: phần cứng, phần mềm, dịch vụ và vật liệu chế biến. Hầu hết các sản phẩm là sự kết hợp của một vài hoặc cả 4 loại thông dụng trên. Sản phẩm kết hợp này được gọi là phần cứng, vật liệu chế biến, phần mềm hay dịch vụ tuỳ thuộc vào thành phần chính của nó.

4. Các bước áp dụng ISO 9000 tại doanh nghiệp

Muốn xây dựng và áp dụng thành công Hệ thống chất lượng theo ISO 9000 cần tuân theo các bước sau đây:

Bước 1: Phân tích tình hình và hoạch định phương án

- Lãnh đạo phải xác định rõ vai trò của chất lượng và cam kết xây dựng và thực hiện Hệ thống quản lý chất lượng cho tổ chức mình.

- Thành lập Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện Hệ thống quản lý chất lượng.

- Phổ biến, nâng cao nhận thức về ISO 9000 và tiến hành đào tạo cho các thành viên trong Ban chỉ đạo.

- Quyết định phạm vi áp dụng Hệ thống.

- Khảo sát Hệ thống kiểm soát chất lượng hiện có; thu thập các chủ trương, chính sách hiện có về chất lượng và các thủ tục hiện hành.

- Lập kế hoạch xây dựng và thực hiện Hệ thống chất lượng theo ISO 9000 và phân công trách nhiệm.

Bước 2: Xây dựng Hệ thống chất lượng

- Đào tạo cho từng cấp về ISO 9000 và cách xây dựng các văn bản.

- Viết chính sách và mục tiêu chất lượng dựa trên yêu cầu của ISO 9000 và mục tiêu hoạt động của tổ chức

- Viết các thủ tục và chỉ dẫn công việc theo ISO 9000.

- Viết sổ tay chất lượng.

- Công bố chính sách chất lượng và quyết định của tổ chức về việc thực hiện các yếu tố của Hệ thống quản lý chất lượng. Có thể áp dụng thí điểm rồi sau đó mới mở rộng.

- Thử nghiệm hệ thống mới trong một thời gian nhất định.

Bước 3: Hoàn chỉnh

- Tổ chức đánh giá nội bộ để khẳng định sự phù hợp và hiệu lực của Hệ thống quản lý chất lượng.

- Đề xuất và thực hiện các biện pháp khắc phục sai sót.

- Mời một tổ chức bên ngoài đến đánh giá sơ bộ.

- Đề xuất và thực hiện các biện pháp khắc phục sai sót để hoàn chỉnh Hệ thống chất lượng.

Bước 4: Xin chứng nhận

- Hoàn chỉnh các hồ sơ và xin chứng nhận của 1 tổ chức chứng nhận ISO 9000.

Giới thiệu hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000

( Bình chọn: 2 -- Thảo luận: 5 -- Số lần đọc: 32574)

ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn về hệ thống quản lí chất lượng. Bộ tiêu chuẩn này bao gồm các tiêu chuẩn:

• ISO 9000:2000: Hệ thống quản lí chất lượng - Cơ sở và từ vựng. ISO 9000:2000 mô tả cơ sở của các hệ thống quản lí chất lượng và quy định các thuật ngữ dùng trong các hệ thống quản lí chất lượng thuộc nhóm này

• ISO 9001:2000: Hệ thống quản lí chất lượng - Các yêu cầu. ISO 9001:2000 quy định các yêu cầu đối với hệ thống quản lí chất lượng khi một tổ chức muốn chứng tỏ năng lực của mình trong việc cung cấp các sản phẩm đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các yêu cầu chế định tương ứng và nhằm nâng cao sự thỏa mãn của khách hàng. Đây là tiêu chuẩn được sử dụng để đánh giá hệ thống quản lí chất lượng của một tổ chức và cấp chứng chỉ phù hợp.

• ISO 9004:2000: Hệ thống quản lí chất lượng - Hướng dẫn cải tiến. ISO 9004:2000 cung cấp các hướng dẫn xem xét, cải tiến tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống quản lí chất lượng. Bộ tiêu chuẩn này mở rộng mục tiêu nhằm tới là thỏa mãn khách hàng và cả các bên liên quan.

Để tận dụng tối đa các lợi ích của bộ tiêu chuẩn, các tổ chức nên sử dụng các nguyên tắc, yêu cầu, hướng dẫn của cả ba tiêu chuẩn này (không chỉ tiêu chuẩn ISO 9001:2000) để thiết lập nên hệ thống quản lí chất lượng.

ISO 9001:2000 là tiêu chuẩn dùng để đánh giá. Một hệ thống quản lí chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9001:2000 là một hệ thống được thiết lập, được văn bản hóa và phải chứng tỏ được tính hiệu lực (đưa được bằng chứng khách quan, có thể kiểm tra xác nhận) trong việc duy trì thực hiện, liên tục cải tiến và đáp ứng các yêu cầu của khách hàng.

Các yêu cầu của ISO 9001:2000 bao gồm:

• Yêu cầu chung đối với hệ thống quản lí chất lượng (Mục 4, ISO 9001:2000)

• Trách nhiệm lãnh đạo (Mục 5, ISO 9001:2000)

• Quản lí nguồn lực (Mục, ISO 9001:2000)

• Tạo sản phẫm (Mục 7, ISO 9001:2000)

• Đo lường, phân tích, cải tiến (Mục, ISO 9001:2000)

Tính đến hết 2005, trên toàn thế giới đã có hơn 750.000 tổ chức được cấp chứng chỉ ISO 9001:2000. Trung Quốc đang là nước dẫn đầu về số chứng chỉ ISO 9001:2000 được cấp với hơn 150.000 chứng chỉ. Theo thống kê không chính thức, đến nay đã có gần 5000 tổ chức của Việt Nam được cấp chứng chỉ ISO 9001:2000 cho hệ thống quản lí chất lượng của mình.

Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000

Giấy thông hành để các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam trở thành nhà thầu chính.

________________________________________

TS. NGUYỄN CÔNG PHÚ

Chính sách đổi mới của Việt Nam từ mười năm qua đã bắt đầu đem lại những thành tựu nhất định và hứa hẹn nhiều triển vọng cho thập niên tới. Những thành tựu này được thể hiện một cách đa dạng trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội. Trong thời gian qua cơ chế quản lý hành chính đang được cải cách và năng động hơn: Nền kinh tế tự điều chỉnh, phát triển trên những cơ sở vững chắc và đặc biệt một số dự án công nghiệp lớn có tầm cỡ quốc tế đã đi vào hiện thực. Các nhà máy thuỷ điện, các khu công nghiệp, đường dây cao thế 500 KV, các công trình dầu khí...đã đưa vào hoạt động. Chính sự phát triển công nghiệp này có thể đưa các công ty xây dựng Việt Nam đến những khó khăn bức bách sau đây:

- Những dự án công nghiệp quan trọng (ví dụ Dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất) đòi hỏi các công ty xây dựng Việt Nam phải huy động bộ máy tổ chức và quản lý của mình để sao cho đảm bảo được chất lượng của công trình theo những tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, nhưng cũng phải đạt được hiệu quả kinh tế với những áp lực của cơ chế thị trường. Vì vậy các công ty xây dựng phải tốI ưu hoá giải pháp kỹ thuật, công nghệ để đạt được hiệu quả kinh tế tối ưu.

- Các công ty xây dựng Việt Nam đã, đang và sẽ phải hợp tác với các đối tác quốc tế để thực hiện các công trình có quy mô lớn. Sự hợp tác đó chỉ thực sự có lợi cho cả hai bên khi các công ty xây dựng Việt Nam quán triệt công thức sau: " Công trình được thiết kế và thi công có chất lượng nhưng giá thành phải tối ưu"

Có như thế các tổng công ty xây dựng Việt Nam (như LILAMA, VINACONEX, LICOGI...) sẽ có thể trở thành những nhà thầu chính cho các công trình lớn tại Việt Nam, và (trong một tương lai gần) tại các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và khối ASEAN.

Để giải đáp bài toán đầy góc cạnh trên, các doanh nghiệp Việt Nam phải đặt quản lý chất lượng như là một yếu tố chiến lược cho sự phát triển của doanh nghiệp mình. Sơ đồ sau đây tóm tắt bối cảnh chất lượng mà một công ty xây dựng cần nắm vững để xây dựng và triển khai "chiến lược chất lượng" phù hợp nhất.

Các quốc gia phát triển hiện nay thường sử dụng bộ Tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 để xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng cho công ty mình.

ISO 9000 là gì? Đó là bộ Tiêu chuẩn quốc tế về quản lý và đảm bảo chất lượng được Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá biên soạn. Được công nhận năm 1987 và sửa đổi vào năm 1994. Bộ Tiêu chuẩn này ngày càng được công nhận và sử dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới.

Bộ Tiêu chuẩn ISO 9000 quy tụ tất cả những kinh nghiệm quý báu của thế giới trong vấn đề quản lý và đảm bảo chất lượng, dựa trên việc phân tích mối quan hệ giữa khách hàng và nhà cung cấp. Tiêu chuẩn ISO đưa ra các yêu cầu và chuẩn mực cần thiết trong vấn đề quản lý từ khâu thiết kế đến dịch vụ sau khi bán hàng. Bộ Tiêu chuẩn ISO 9000 gồm các tiêu chuẩn chính như sau:

- ISO 9000: Hướng dẫn lựa chọn và sử dụng.

- ISO 9001: Hệ thống chất lượng, mô hình đảm bảo chất lượng trong thiết kế,

triển khai thiết kế, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ.

- ISO 9002: Hệ thống chất lượng, mô hình đảm bảo chất lượng trong sản xuất,

lắp đặt và dịch vụ

- ISO 9003: Hệ thống chất lượng, mô hình đảm bảo chất lượng trong kiểm tra và

thử nghiệm cuối cùng.

- ISO 9004: Hướng dẫn thực hiện

- ISO 10011: Hướng dẫn đánh giá hệ thống chất lượng

- ......

Hiện nay trên thế giới có gần 140.000 doanh nghiệp đã có giấy chứng nhận ISO 9000 và các cường quốc kinh tế đều có số lượng lớn các doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000. Ngày nay nó được coi như giấy thông hành chất lượng để vượt qua các rào cản về kỹ thuật và địa lý, tạo ra sự mua bán tin cậy, không cần sự uỷ thác kiểm tra.

Một công ty có được một hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000 phảI có những điều kiện cần thiết sau đây:

- Chất lượng con người

- Chất lượng phương pháp (thiết kế, thi công)

- Chất lượng máy móc

- Chất lượng nguyên liệu (vật liệu)

- Chất lượng thông tin đào tạo

- Tổ chức quản lý công ty hợp lý

- Kiểm soát: Chứng minh sự kiểm soát chất lượng; Bằng chứng về kiểm soát chất lượng; Phân bổ trách nhiệm rõ ràng

Quản lý chất lượng theo ISO 9000 phải được chính thức áp dụng một cách nghiêm túc để đảm bảo hiệu quả và khách hàng tin tưởng, việc thực hiện sẽ đáp ứng yêu cầu của các tiêu chuẩn. Bộ Tiêu chuẩn ISO 9000 chính là chuẩn mực về chất lượng. Nó cung cấp cho các công ty những định hướng cơ bản về các yêu cầu thiết yếu để đạt được sự thoả mãn của khách hàng đối với sản phẩm hoặc dịch vụ.

Khách hàng có thể đặt niềm tin lên người cung ứng một khi biết rằng ngườI cung ứng sẽ đảm bảo chất lượng. Niềm tin ấy dựa trên cơ sở khách hàng biết rõ cơ cấu tổ chức, cách tổ chức, điều hành sản xuất và nguồn lực của nhà cung ứng qua một hệ thống chất lượng bằng văn bản để chứng tỏ rằng hệ thống này phù hợp với yêu cầu của hệ thống chất lượng trong tiêu chuẩn.

Những hồ sơ báo cáo được cập nhật trong hệ thống này là bằng chứng chứng minh khả năng duy trì mức chất lượng của nhà cung ứng.

Như thế ISO 9000 sẽ mang đến cho công ty một niềm tin

Đây là niềm tin của khách hàng đối với công ty. Và thực hiện theo ISO 9000 sẽ tạo ra niềm tin của chính công ty về một sự thành công chắc chắn

Qua trao đổI với Bộ Xây dựng và các Tổng công ty xây dựng tại Việt Nam, tôi lấy làm phấn khởi vì tại Việt Nam, Ngành Xây dựng đã đặt vấn đề quản lý và đảm bảo chất lượng cùng một thời điểm với Ngành Công nghiệp. Trong khi đó tại các nước công nghiệp cao, ngành xây dựng lúc nào cũng đi sau các ngành các ngành công nghiệp khác từ bảy đến mười năm về vấn đề áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng. Ngoài ra, qua quá trình làm việc ở các nước khác và nhất là tại Việt Nam, tôi dám mạnh dạn nhận định rằng các công ty xây dựng Việt Nam đã có một cơ cấu tổ chức quản lý chất lượng 70% phù hợp với bộ Tiêu chuẩn ISO 9000. Nhưng để thực hiên được 30% còn lại, cũng là một bước dài phải thực hiện một cách có kế hoạch và khoa học.

Tôi xin tóm tắt đơn giản về bộ Tiêu chuẩn ISO 9000. Đó là:

1. Viết những gì phải làm (kế hoạch)

2. Làm những gì đã viết (triển khai kế hoạch)

3. Kiểm soát những gì đã làm có phù hợp với những gì đã viết hay không (kiểm soát và điều chỉnh kịp thời kế hoạch)

Bộ Tiêu chuẩn ISO 9000 như một công cụ hữu hiệu cho bài toán kinh tế Việt Nam, sẽ là bước đi tắt để đến đích "Công nghiệp hóa, hiện đại hoá" và hội nhập với các nước. Vì đây là những đúc kết từ lý luận cũng như thực tiễn của các ngành kinh tế và nhiều nền kinh tế ở các khu vực trên thế giớI

Trong tương lai, nếu có cơ hội, tôi xin được trở lại sâu hơn với chuyên đề này - một chuyên đề tâm đắc trong ngành nghề của mình và cũng là một đóng góp nhỏ của tôi với đất nước.

Quản trị chất lượng toàn diện

I.

KHÁI NIỆM

1.Tầm quan trọng:

Ngày nay quá trình toàn cầu hóa, tính cạnh tranh, nhu cầu người tiêu dùng ngày càng gia tăng đã làm thị trường biến đổi. Các doanh nghiệp muốn tồn tại trong thị trường đầy biến động này họ phải giải quyết những yếu tố, trong đó chất lượng là một yếu tố then chốt.

Các sản phẩm công nghệ cao của Nhật luôn được đón nhận trên toàn thế giới do họ là những người tiên phong trong lĩnh vực chất lượng sau chiến tranh thế giới thứ hai.

Nhu cầu của khách hàng là không ngừng thay đổi, do đó các doanh nghiệp phải cung cấp những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng đáp ứng và vượt mong muốn của họ. Để thu hút được càng nhiều khách hang các doanh nghiệp cần phải đưa chất lượng vào nội dung quản lý hệ thống hoạt động của mình.

Toàn cầu hóa về kinh tế và sự ra đời của tổ chức thương mại quốc tế WTO đã làm phá vỡ biên giới các nước. Sự phát triển của công nghệ thong tin đã làm cho thế giới ngày càng phẳng.

Từ các đặc điểm dó đã khiến chất lượng trở thành một yếu tố cạnh tranh cho

các doanh nghiệp để xâm phạm vào những thị trường đem lại lợi nhuận cao.

Hiện nay, ở các nước kém phát triển các nguồn lực tự nhiên không còn là một lợi thế cạnh tranh lâu dài. Mà thong tin kiến thức, nhân viên có kĩ năng, có văn hóa, và phong cách làm việc mới là nguồn đem lại sức mạnh. Ở các nước phát triển các doanh nghiệp thành công luôn là những doanh nghiệp giải quyết thành công vấn đề về chất lượng, làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng mọi lúc, mọi nơi.

Chất lượng là yếu tố quan trọng quyết định khả năng sinh lời của hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo số liệu thống kê, những doanh nghiệp có vị thế hang đầu về chất lượng đã thiết lập giá ở mức cao hơn 8% so với đối thủ cạnh tranh cóa vị thế thấp hơn về chất lượng.

Trong những năm lien tiếp theo các nhà quản lý doanh nghiệp sẽ tham gia nhiều hơn vào các vấn đề chất lượng và hòa nhập chất lượng vào mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. " Chất lượng và cạnh tranh là những vấn đề phải được đặc biệt chú ý đến trước bậc thềm của thế kỷ 21 - Thế kỷ chất lượng"

2. Chất lượng và đặc điểm của chất lượng:

a. Định nghĩa: Chất lượng là một khái niệm quá quen thuộc với loài người ngay từ những thời cổ đại, tuy nhiên chất lượng cũng là một khái niệm gây nhiều tranh cãi.

Quản trị chất lượng toàn diện

Tùy theo đối tượng sử dụng, từ "chất lượng" có ý nghĩa khác nhau. Người sản xuất coi chất lượng là điều họ phi làm để đáp ứng các qui định và yêu cầu do khách hàng đặt ra, để được khách hàng chấp nhận. Chất lượng được so sánh với chất lượng của đối thủ cạnh tranh và đi kèm theo các chi phí, giá cả. Do con người và nền văn hóa trên thế giới khác nhau, nên cách hiểu của họ về chất lượng và đảm bảo chất lượng cũng khác nhau.

Nói như vậy không phải chất lượng là một khái niệm quá trừu tượng đến mức người ta không thể đi đến một cách diễn giải tương đối thống nhất, mặc dù sẽ còn luôn luôn thay đổi. Tổ chức Quốc tế về Tiệu chuẩn hóa ISO, trong dự thảo DIS 9000:2000, đã đưa ra định nghĩa sau:

"Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay qúa trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan".Ở đây yêu cầu là các nhu cầu và mong đợi được công bố, ngụ ý hay bắt

buộc theo tập quán

b. Đặc điểm của chất lượng:

Từ định nghĩa trên ta rút ra một số đặc điểm sau đây của khái niệm chất lượng:

Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu. Nếu một sản phầm vì lý do

nào đó mà không được nhu cầu chấp nhận thì phải bị coi là có chất lượng kém, cho dù trình độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại. Đây là một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà chất lượng định ra chính sách, chiến lược kinh doanh của mình.

Do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu, mà nhu cầu luôn luôn biến

động nên chất lượng cũng luôn luôn biến động theo thời gian, không gian,

điều kiện sử dụng.

Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, ta phải xét và chỉ xét đến mọi

đặc tính của đối tượng có liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể. Các nhu cầu này không chỉ từ phía khách hàng mà còn từ các bên có liên quan, ví dụ như các yêu cầu mang tính pháp chế, nhu cầu của cộng đồng xã hội.

Nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các qui định, tiêu chuẩn

nhưng cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử dụng chỉ có thể cảm nhận chúng, hoặc có khi chỉ phát hiện được trong chúng trong quá trình sử dụng.

Chất lượng không phi chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hóa mà ta vẫn

hiểu hàng ngày. Chất lượng có thể áp dụng cho một hệ thống, một quá trình. Khái niệm chất lượng trên đây được gọi là chất lượng theo nghĩa hẹp. Rõ ràng khi nói đến chất lượng chúng ta không thể bỏ qua các yếu tố giá cả và dịch vụ sau khi bán, vấn đề giao hàng đúng lúc, đúng thời hạn đó là những yếu tố mà khách hàng nào cũng quan tâm sau khi thấy sản phẩm mà họ định mua thỏa mãn nhu cầu của họ.

Quản trị chất lượng toàn diện

3.Chất lượng trong sản xuất chế tạo và trong dịch vụ.

Chỉ tiêu

Chất lượng trong sản xuất,

chế tạo

Chất lượng trong dịch vụ

- Nhu cầu khách hang

- Tính chuyên biệt

hóa

- Đầu ra các hệ thống

- Các tiêu chuẩn chất

lượng

- Sản phẩm của hệ

thống

- Sản xuất và tiêu thụ

- Tồn kho

- Kiểm tra chất lượng

trước khi giao

-Có sự liên quan của

khách hàng

- Nguồn lực

Dễ nhận diện và đo lường

Thấp - ít

Hữu hình

Được cụ thể hóa bằng các

tiêu chuẩn cụ thể

Có thể thay thế và sửa chữa

Không đồng thời

Kiểm tra được

Không

Vốn

Khó nhận diện và đo lường

Cao

Hầu như vô hình

Không thể cụ thể hóa được

bằng các tiêu chuẩn cụ thể

Không thể thay thế và sửa

chữa

Đồng thời

Không

Không kiểm tra được

Có liên quan

Con người

Như vậy chúng ta đã biết sản phẩm trong sản xuất chế tạo và trong dịch vụ có nhiều sự khác biệt. Điều này tạo ra những cách thức tiếp cận khác nhau trong việc xác định các tiêu thức để đo lường chất lượng của hai loại hình này. Vấn đề này đặt ra phương pháp quản lý chất lượng trong dich vụ khác với trong sản xuất chế tạo. tuy nhiên sản xuất chế tạo có thể xem như một tập hợp các dịch vụ tương quan nhau. Điều đó không chỉ phản ánh trong mối quan hệ giữa công ty với khách hàng mà còn mối quan hệ trong nội bộ tổ chức. Từ những sự khác nhau đó dẫn đến chất lượng trong sản xuất chế tạo và trong dịch vụ cũng có những sự khác biệt nhau.

4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng.

 Nhóm yếu tố bên ngoài doanh nghiệp.

Nhu cầu của nền kinh tế: Chất lượng sản phẩm bao giờ cũng bị chi phối,

ràng buộc bởi hoàn cảnh điều kiện và nhu cầu nhất định của nền kinh tế

được thể hiện ở các mặt:

Nhu cầu của thị trường: Phải theo dõi, nắm chắc, đánh giá đúng tình hình

và đòi hỏi của thị trường mà có lối sách đúng đắn.

Trình độ kinh tế, trình độ sản xuất: Muốn sản phẩm đầu ra có chất lượng

tốt thì trên cơ sở phải phát triển sản xuất, nâng cao trình độ sản xuất, trình độ kinh tế. Do đó, phải đảm bảo chất lượng quản lý, chất lượng công việc, chất lượng sản phẩm ngay từ đầu trong quá trình sản xuất và quá trình phát triển kinh tế.

Chính sách kinh tế: Hướng đầu tư, phát triển sản phẩm theo nhu cầu của

chính sách kinh tế quốc dân. Chẳng hạn, chính sách khuyến khích sản xuất sản phẩm gì và không khuyến khích sản xuất sản phẩm gì, khuyến khích sản xuất sản phẩm nào, khích lệ người lao động ra sao...

Quản trị chất lượng toàn diện

Các chính sách giá cả.

Sự phát triển cua khoa học, công nghệ.

Sáng tạo ra vật liệu mới hay vật liệu thay thế

Cải tiến hay đổi mới công nghệ, sắp xếp các dây chuyền hợp lý nhằm tiết

kiệm cho nền kinh tế mang lại hiệu quả nhanh chóng.

Cải tiến sản phẩm cũ và chế thử sản phẩm mới nhằm đáp ứng mục đích

và nhu cầu một cách tốt hơn như là:độ bền, độ an toàn, tính chịu lực, tính

an toàn sức khỏe cho người tiêu dung...

Hiệu lực của cơ chế quản lý:

Phát triển kinh tế có kế hoạch chiến lược.

Giá cả phải định mức theo chất lượng.

Chính sách đầu tư chiều sâu cho công tác ứng dụng

Có cơ chế tổ chức quản lý về chất lượng.

 Nhóm yếu tố bên trong doanh nghiệp: chúng ta đặc biệt chú ý đến 4 yếu tố cơ

bản ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.

Men: con người, lực lượng lao động (yếu tố quan trọng nhất)

Methods: phương pháp quản lý đo lường sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp

có thể khai thác tốt nhất nguồn lực hiện có, góp phần nâng cao chất lượng

sản phẩm.

Machines: khả năng về công nghệ, máy móc thiết bị tác động nâng cao

những tính năng kỹ thuật của sản phẩm và năng suất lao động.

Materials: vật tư, nguyên nhiên liệu và hệ thống cung cấp sẽ tạo ra việc cung

cấp đúng số lượng, đúng thời hạn để đảm bảo và nâng cao chất lượng sản

phẩm

Ngoài 4 yếu tố cơ bản trên, chất lượng còn chịu ảnh hưởng các yếu tố khác:

Information, Environment, Measure, System...

II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC TƯ TƯỞNG CHẤT LƯỢNG

Để thông hiểu tầm quan trọng của chất lượng trong kinh doanh hiện nay, chúng ta

hãy xem xét khái quát về lịch sử phát triển của nó.

- Trước cách mạng công nghiệp, lao động thủ công hoạt động trong cả hệ

thống dịch vụ và chế tạo, họ làm việc với tư cách vừa là người sản xuất vừa là người kiểm tra, họ tự xây dựng chất lượng cho sản phẩm của mình thông qua khả năng, tài nghệ của họ Không thông hiểu mong muốn về chất lượng của khách hàng.

- Cách mạng công nghiệp: Khái niệm "những chi tiết có thể thay thế cho

nhau" của Honorix Le Blanc, cộng với khái niệm của Frederick W. Taylor về "quản trị một cách khoa học" đã tạo ra những ảnh hưởng lớn đối với chất lượng. Bằng cách tập trung vào hiệu quả của sản xuất và chia công việc thành những bước công việc nhỏ, dây chuyền sản xuất hiện đại đã phá huỷ hệ thống sản xuất truyền thống. Để đảm bảo sản phẩm được sản xuất một cách chính xác người ta dựa vào bộ phận "kiểm soát chất lượng". Bộ phận này thực hiện chức năng kiểm tra chất lượng. Và do vậy, việc phân loại sản phẩm thành tốt và xấu trở thành ý tưởng chính trong đảm bảo chất lượng.

- Một số người tiên phong trong kiểm soát chất lượng, như Walter Shewhart,

Harold Dodge, George Edwards, đã phát triển lí thuyết và phương pháp mới về kiểm

Quản trị chất lượng toàn diện

soát và duy trì chất lượng. Biểu đồ kiểm soát, kĩ thuật lấy mẫu, và công cụ phân tích

kinh tế là nền tảng cho những hoạt động đảm bảo chất lượng tiên tiến.

- Sau chiến tranh thế giới II, Deming và Juran đã giới thiệu kiểm soát chất lượng bằng thống kê cho các công nhân Nhật. Mặc dù không có nhiều khác biệt so với Mỹ , nhưng nó có một sự khác biệt mang tính sống còn. Họ đã tiên đoán cho những nhà quản trị cấp cao Nhật Bản rằng cải tiến chất lượng sẽ mở ra một thị trường mới và điều đó cần thiết cho sự sống còn của quốc gia họ. Nhà quản trị tin tưởng, và ủng hộ hoàn toàn những khái niệm mới cải tiến chất lượng. Hơn thế, người Nhật đã có một vị thế lí tưởng để nắm bắt triết lí này. Đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh, và họ có rất ít nguồn lực ngoại trừ con người. Trong suốt 20 năm, trong khi người Nhật cải tiến chất lượng với một tốc độ chưa từng thấy thì mức chất lượng tại phương Tây bị đình trệ. Những nhà sản xuất chế tạo phương Tây ít tập trung vào chất lượng. Mĩ có một sự độc quyền trong sản xuất chế tạo, và nền kinh tế sau chiến tranh gần như "đói" mọi sản phẩm tiêu dùng. Nhà quản trị cấp cao tập trung vào marketing, số lượng sản xuất và hiệu quả tài chính.

Học thuyết Quản lý chất lượng của Deming

Học thuyết chất lượng của Deming và những yếu tố cần thiết để nâng cao chất

lượng được tóm tắt trong "Hệ thống những kiến thức sâu rộng". Những kiến thức này

đã biên soạn thành 4 yếu tố chính:

• Đánh giá đúng một hệ thống

• Hiểu biết về những biến động trong quá trình thực hiện sản xuất, dịch vụ

• Nguyên lý của kiến thức

• Hiểu biết về tâm lý học và hành vi của con người.

Trong tác phẩm "Thoát khỏi cơn khủng hoảng", ông đã dưa ra 14 điểm nhằm Quản lý cải tiến chất lượng. Đối với văn hóa Mỹ, những thay đổi như vậy không được chấp nhận dễ dàng. Chính vì vậy đã khiến cho nền công nghiệp Mỹ không đạt được những kết quả ấn tượng như người Nhật đã đạt được.

1. Xây dựng những mục đích bất biến dành cho sự cải tiến sản phẩm và dịch vụ nhằm mục tiêu để có thể cạnh tranh, tồn tại trong giới kinh doanh, và tiếp tục tạo ra công ăn việc làm.

2. Người quản lý phải ý thức được trách nhiệm của mình và đảm nhiệm vị trí dẫn

đầu trong mọi thay đổi.

3. Xây dựng kiểm tra chất lượng sản phẩm ngay từ đầu vào.

4. Đầu tư thời gian và kiến thức giúp cải tiến chất lượng và giảm thiểu toàn bộ chi

phí. Lợi nhuận được tạo ra bởi các khách hàng trung thành và thường xuyên.

5. Quá trình không bao giờ hoàn toàn tối ưu. Phải luôn luôn cải tiến và hoàn thiện kế hoạch, sản phẩm, dịch vụ. Nâng cao chất lượng và năng suất dẫn đến giảm bớt chi phí đầu tư.

6. Tiến hành các lớp huấn luyện công việc. Đây là những hoạt động hằng ngày

của mọi nhân viên trong doanh nghiệp.

7. Huấn luyện cách thức lãnh đạo. Mục tiêu của sự giám sát là giúp đỡ nhân viên, và cải tiến thiết bị và máy móc để làm cho công việc tốt hơn. Sự giám sát trong quản lý, trong việc kiểm tra cũng kỹ lưỡng như việc giám sát các công nhân sản xuất.

8. Nỗi lo sợ bị phạt sẽ dẫn đến tàn phá. Loại bỏ các nguyên nhân gây ra nỗi sợ

hãi, nhờ vậy mọi người có thể yên tâm làm việc một cách có hiệu quả hơn cho công ty.

9. Phá vỡ các rào cản giữa nhân viên các phòng ban. Nhân viên của phòng thiết

kế, nghiên cứu kinh doanh hay sản xuất phải tạo thành một nhóm làm việc, để cùng

Quản trị chất lượng toàn diện

nhau nhìn thấy trước những vấn đề có thể xảy ra cho sản phẩm và trong việc sử dụng

sản phẩm đó hay dịch vụ đó.

10. Loại bỏ những khẩu hiệu, những lời hô hào và các tiêu chí "khuyết tật ở mức zero" và sự vươn tới mức một năng suất mới. Những câu hô hào chỉ tạo ra các mối quan hệ đối phó, vì phần lớn những nguyên nhân dẫn đến chất lượng và năng suất thấp thuộc về hệ thống và nằm ngoài quyền năng của công nhân viên.

11. Loại bỏ những tiêu chuẩn công việc (định mức) trong các công xưởng, thay thế vào đó bằng sự lãnh đạo khoa học. Loại bỏ quản lý bằng những số, những mục đích bằng con số. Thay vào đó là khả năng lãnh đạo

12. Hầu hết các biến đổi đều do hệ thống tạo ra, cần xem xét lại hệ thống. Phê phán, phạt, xếp thứ bực công nhân dưới trung bình có thể phá đi tinh thần đồng đội của công ty. Loại trừ những rào cản đã cướp mất của người lao động lòng tự hào trong nghề nghiệp. Loại bỏ các hệ thống đánh giá hàng năm hay bổ nhiệm nhân viên dựa trên công trạng của họ.

13. Thiết lập một chương trình giáo dục mạnh mẽ và tự cải tiến trong mỗi người. Hãy để cho mỗi người tham gia và tự chọn cho mình một lĩnh vực thích hợp để phát triển.

14. Đặt nhân viên trong công ty luôn làm việc để đạt đến sự thay đổi. Thay đổi là

công việc của mọi người.

Trong các bài báo của ông sau khi ông tốt nghiệp ĐH Yale, chủ yếu nêu lên những

khía cạnh lý tính của vấn đề, tuy nhiên cũng có vài điểm chứng tỏ mối quan tâm của Deming về phương pháp luận thống kê. Từ một nhà toán lý trở thành một nhà thống kê đã giúp bản thân Deming rất nhiều.

Ngoài ra, kết quả phân tích thực nghiệm trong lĩnh vực vi khuẩn học và hóa học đã giúp Deming có cơ hội tìm hiểu thêm về điều chỉnh thống kê các dữ liệu. Trên tạp chí Triết học, ông đã viết về "Ứng dụng của những hình vuông bé nhất." Trong tác phẩm của mình-"Điều chỉnh thống kê dữ liệu" (Statistical Adjustment of Data), ông đã kết hợp tất cả các kiến thức mà ông đã học để viết về đề tài này. Hiện nay, tác phẩm này vẫn còn được sử dụng như một tài liệu tham khảo chỉ dẫn cho việc ứng dụng

phương pháp tính toán thấp nhất trong nhiều trường hợp khác nhau.

Các công trình nghiên cứu của Ed Deming đã đem lại hiệu quả trong việc cải tiến chất lượng. Và ông được cả thế giới gọi là nhà "tiên tri chất lượng" và là nhà triết học của quản lý.

Những đóng góp to lớn của Deming trong lĩnh vực thống kê vẫn còn ảnh hưởng cho tới nền kinh tế hiện đại. Suốt cuộc đời ông, ông đã bảo vệ cho niềm tin rằng lý thuyết thống kê cho thấy rằng toán học, sự phán xử, kiến thức thực tiễn được kết hợp chung với nhau trong công việc sẽ đem lại nhiều thuận lợi. Ông là bậc thầy của ngành lôgich học và là kiến trúc sư của thống kê học.

- Cuộc "cách mạng chất lượng" tại Mỹ bắt đầu từ những năm 1980, khi NBC tung ra một bài báo với nhan để "Nếu Nhật có thể.. .. Tại sao chúng ta không thể ?". Ford Motor là công ti đầu tiên mời Deming giúp chuyển đổi sản xuất. Trong một vài năm, lợi nhuận của công ti tăng cao nhất trong lịch sử ngành xe hơi, mặc dù thị trường xe hơi và xe tải Mỹ giảm 7%, vốn đầu tư tăng cao và chi phí marketing tăng. Năm

Quản trị chất lượng toàn diện

1992 phương tiên truyền thông tôn vinh rằng Ford Taurus bán được hơn Honda và nó

đã trở thành người lãnh đạo trên thị trường nội địa.

- Mỹ đã thức tỉnh vấn đề chất lượng trong suốt những năm 1980 tại hầu hết các công ti lớn trong một chiến dịch cải tiến chất lượng. Năm 1984 chính phủ Mỹ chọn tháng 10 làm tháng chất lượng quốc gia. Năm 1987- 34 năm sau khi Nhật thiết lập giải thưởng Deming- quốc hội Mỹ thiết lập giải thưởng Malcolm Baldrige National Quality Award, tạo ra một sự hấp dẫn ấn tượng về chất lượng cho các đơn vị kinh doanh Mỹ.

- Năm 1991 Business week đã gọi chất lượng là "một cuộc cách mạng toàn cầu ảnh hưởng đến mọi mặt của kinh doanh. . . . Từ những năm 1990 trở về sau, chất lượng được coi là chính sách kinh doanh chính."

- Trong suốt những năm 1990, lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ, chính phủ và giáo dục bắt đầu quan tâm đến chất lượng. Ví dụ tại một bệnh viện số sự cố đã giảm còn 1/5 nhờ ứng dụng những công cụ chất lượng.

III. CÁC HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG

Bắt đầu từ năm 1969, Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO chọn ngày 14 tháng 10 hàng năm làm Ngày Tiêu chuẩn Thế giới. Đây là dịp để tôn vinh đóng góp của hàng ngàn chuyên gia trên toàn thế giới đã cộng tác với các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ITU, IEC, ISO trong việc phát triển các tiêu chuẩn quốc tế với mục tiêu thuận lợi hóa thương mại, phổ biến kiến thức và chia sẻ tiến bộ công nghệ trên quy mô toàn cầu.

Trên thế giới hiện có hơn khoảng 40 tổ chức tiêu chuẩn hóa trong đó có ba tổ chức tiêu

chuẩn hóa hàng đầu là

Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế - ISO

ISO là tên viết tắt của Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (International Organization for Standardization), được thành lập vào năm 1946 và chính thức hoạt động vào ngày 23/2/1947, nhằm mục đích xây dựng các tiêu chuẩn về sản xuất, thương mại và thông tin. ISO có trụ sở ở Geneva (Thuỵ sĩ) và là một tổ chức Quốc tế chuyên ngành có các thành viên là các cơ quan tiêu chuẩn Quốc gia của 156 nước. Tuỳ theo từng nước, mức độ tham gia xây dựng các tiêu chuẩn ISO có khác nhau. ở một số nước, tổ chức tiêu chuẩn hoá là các cơ quan chính thức hay bán chính thức của Chính phủ. Tại Việt Nam, tổ chức tiêu chuẩn hoá

là Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng, thuộc Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường. Việt nam tham gia ISO từ năm 1977 và đến nay có khoảng 1380 tiêu chuẩn ISO được chấp nhận thành tiêu chuẩn Việt nam (TCVN). Mục đích của các tiêu chuẩn ISO là tạo điều kiện cho các hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên toàn cầu trở nên dễ dàng, tiện dụng hơn và đạt được hiệu quả. Tất cả các tiêu chuẩn do ISO đặt ra đều có tính chất tự nguyện. Tuy nhiên, thường các nước chấp nhận tiêu chuẩn ISO và coi nó có tính chất bắt buộc. ISO có khoảng 180 Uỷ ban kỹ thuật (TC) chuyên dự thảo các tiêu chuẩn trong từng lĩnh vực. ISO lập ra các tiêu chuẩn trong mọi ngành trừ công nghiệp chế tạo điện và điện tử. Các nước thành viên của ISO lập ra các nhóm tư vấn kỹ thuật nhằm cung cấp tư liệu đầu vào cho các Uỷ ban kỹ thuật và đó là một phần của quá trình xây dựng tiêu chuẩn. ISO tiếp nhận tư liệu của đầu vào từ các Chính phủ các ngành và các bên liên quan trước khi ban hành một tiêu chuẩn. Sau khi tiêu chuẩn dự thảo được các nước thành viên chấp thuận, nó

Quản trị chất lượng toàn diện

được công bố là Tiêu chuẩn Quốc tế. Sau đó mỗi nước lại có thể chấp nhận một phiên

bản của tiêu chuẩn đó làm Tiêu chuẩn quốc gia của mình.

Ủy ban kỹ thuật điện quốc tế - IECđược thành lập vào năm

1906, mục tiêu của IEC là thúc đẩy sự hợp tác quốc tế về tiêu chuẩn hóa trong lĩnh vực điện - điện tử. Tính đến tháng 9 năm 2006, IECcó 68 nước thành viên. Tháng 4/2002, Việt nam tham gia IEC với tư cách là thành viên liên kết. Vì phí gia nhập IEC tương đối cao, nên cho đến nay Việt Nam chưa phải là thành viên IEC. Đến nay Việt Nam đã có khoảng 188 tiêu chuẩn IEC được chấp nhận.

IEC xuất bản các ấn phẩm:

- Tiêu chuẩn IEC

- Báo cáo kỹ thuật

- Chỉ dẫn

Hiện nay khoảng 3500 tiêu chuẩn IEC đã được công bố.

Liên minh viễn thông quốc tế - ITU được thành lập theo

Công ước điện báo quốc tế và Hiệp ước thành lập liên

minh viễn thông quốc tế, với họat động chính bao trùm

tất cả các vấn đề thuộc lĩnh vực viễn thông. ITU hiện có 191 quốc gia thành viên. Việt nam tham gia vào họat động ITU từ năm 1976, công tác tiêu chuẩn hóa chủ yếu tập trung vào việc tham gia vào lĩnh vực nhạy cảm và có ảnh hưởng đến quyền lợi quốc gia như tính cước, thanh tóan cước quốc tế.

Hệ thống chất lượng Q-Base

Hệ thống chất lượng Q-Base đưa ra các chuẩn mực cho một loại hình Hệ thống chất lượng và có thể áp dụng cho một phạm vi rộng rãi các lĩnh vực công nghiệp và kinh tế. Hệ thống Q-Base đề cập đến các lĩnh vực chủ yếu trong quản lý chất lượng: chính sách và chỉ đạo về chất lượng, xem xét hợp đồng với khách hàng, kiểm soát thành phẩm, xem xét đánh giá nội bộ, kiểm soát tài liệu, đào tạo, cải tiến chất lượng. Hệ thống Q- Base là tập hợp các kinh nghiệm quản lý chất lượng đã được thực thi tại New Zealand và một số quốc gia khác như australia, Canada, Thuỵ Điển, Đan Mạch. Các nước trong khối ASEAN cũng rất quan tâm đến Q-Base.

Hệ thống chất lượng Q-Base chưa phải là tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000 nhưng đang được thừa nhận rộng rãi, làm chuẩn mực để chứng nhận các hệ thống đảm bảo chất lượng. Hệ thống Q-Base sử dụng chính các nguyên tắc của ISO9000 nhưng đơn giản và dễ hiểu hơn. Hệ thống đảm bảo chất lượng theo mô hình ISO 9000, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, khó thực hiện và phức tạp, đặc biệt đối với các xí nghiệp vừa và nhỏ. Hệ thống Q-Base là lý tưởng đối với các công ty đang chập chững trên con đường chất lượng và những công ty nhỏ là đơn vị cung cấp hay nhận thầu cho các công ty lớn. Mặc dù đơn giản và dễ áp dụng, nhưng Hệ thống Chất lượng Q-Base có đầy đủ những yếu tố cơ bản của một Hệ thống Chất lượng, giúp doanh nghiệp kiểm soát được các lĩnh vực chủ chốt trong hoạt động của mình. Nó tập trung vào việc phân công trách

hiệm và giao quyền hạn và khiến cho mọi nhân viên chịu trách nhiệm về hành động

của mình.

Kaizen

Kaizen là sự thành công lớn từ những cải tiến nhỏ. Việc áp dụng Kaizen kết hợp các công cụ khác như 5S, ISO 9000, TQM sẽ đem lại hiệu quả to lớn giúp các doanh nghiệp đứng vững và tăng cường khả năng cạnh tranh trong môi trường kinh tế toàn cầu.

Kaizen là một phương pháp cải tiến, hơn nữa là cải tiến liên tục, với sự tham dự của tất cả mọi người từ lãnh đạo đến những người công nhân, tập trung vào các hoạt động xác định và loại trừ các loại lãng phí. 2 yếu tố đặc trưng của Kaizen là cải tiến và tính liên tục. Nếu thiếu một trong 2 yếu tố trên thì không được xem là hoạt động Kaizen. Kaizen khác với đổi mới (Innovation) vì Kaizen cải tiến dựa trên cơ sở hiện tại không đòi hỏi các khoản đầu tư lớn.

QS-9000

Các yêu cầu hệ thống chất lượng hay QS-9000 là tiêu chuẩn chất lượng chung của nhà cung cấp được thiết lập bởi một nhóm làm việc do 3 Công ty lớn của Mỹ trong ngành công nghiệp ô tô, đó là Chrysler Daimler, Ford và General Motors thành lập, với sự trợ giúp từ các nhóm ủng hộ khác nhau như Nhóm hoạt động Công nghiệp Ô tô, Hội đồng Tư vấn các nhà cung ứng và Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế (ISO). Nó được xây dựng trên cơ sở của ISO 9000 và bao gồm thêm những yêu cầu đặc biệt khác đối với ngành công nghiệp ô tô.

Mục tiêu của QS-9000 là phát triển hệ thống chất lượng cơ bản phục vụ cho việc cải tiến liên tục, chú trọng vào việc ngăn ngừa các khuyết tật và giảm độ dao động và lãng phí trong chuỗi cung ứng.

QS-9000 có thể áp dụng với những đối tượng nào ?

QS-9000 áp dụng cho các nhà cung cấp vật liệu sản xuất, sản xuất các bộ phận sản xuất và dịch vụ trong nước hay ngoài nước như dịch vụ cuối cùng đến 3 Công ty lớn và các công ty cùng tham gia. QS-9000 chủ yếu tác động mạnh đến các nhà cung cấp cấp 1 (nghĩa là các nhà cung cấp đưa trực tiếp các bộ phận và dịch vụ đến 3 công ty lớn). Bản thân Ford, GM và Chryler Daimler không chịu tác động trực tiếp của các nhà cung cấp cấp 2 và cấp 3. Tuy nhiên, nhà cung cấp cấp 1 có thể và cuối cùng sẽ tác động đến các nhà thầu bên dưới họ (nhà cung cấp cấp 2 và cấp 3) đề thoả mãn những yêu cầu của QS-9000, khoản 4.6 về mua hàng.

QS-9000 chỉ có thể áp dụng cho lĩnh vực sản xuất ?

QS-9000 mở rộng với cả các công ty địa phương và ngoài nước, giống như chứng nhận ISO 9000. Nó có thể áp dụng cho tất cả các công ty là nhà cung cấp các bộ phận sản xuất hay dịch vụ đến các công ty sản xuất ô tô, trực tiếp hoặc gián tiếp. Nó không thể áp dụng cho các công ty phần mềm và các nhà cung cấp thiết bị.

Hệ thống HACCP

Quản trị chất lượng toàn diện

HACCP nghĩa là hệ thống phân tích mối nguy và xác định điểm kiểm soát trọng yếu. Nó là sự tiếp cận có tính khoa học, hợp lý và có tính hệ thống cho sự nhận biết, xác định và kiểm soát mối nguy trong chế tạo, gia công, sản xuất, chuẩn bị và sử dụng thực phẩm để đảm bảo rằng thực phẩm là an toàn khi tiêu dùng, (tức là nó không có mối nguy không thể chấp nhận cho sức khoẻ). Hệ thống này nhận biết những mối nguy có thể xảy ra trong quá trình sản xuất thực phẩm và đặt ra các biện pháp kiểm soát để tránh những mối nguy xảy ra.

Mối nguy là gì và mối nguy chủ yếu của thực phẩm là gì ?

Mối nguy được định nghĩa như tác nhân hoặc điều kiện sinh học, hoá học hoặc vật lý, thực phẩm có khả năng gây ra hậu quả có hại cho sức khoẻ. Ví dụ, mối nguy của thực phẩm là các mảnh kim loại (thuộc vật lý), thuốc trừ sâu (thuộc hoá học) và chất gây ô nhiễm thuộc vi trùng học như vi khuẩn pathogenic (thuộc sinh học). Nguy cơ đáng kể hơn đối đầu với công nghiệp thực phẩm ngày nay là các chất ô nhiễm thuộc vi trùng học, như khuẩn Salmonella, E. coli O157:H7, Lysteria, Compylobacter và Clostridium Botulium.

5S

5S là nền tảng cơ bản để thực hiện các hệ thống đảm bảo chất lượng. Xuất phát từ quan điểm, nếu làm việc trong một môi trường lành mạnh, sạch đẹp, thoáng đãng, tiện lợi thì tinh thần sẽ thoải mái hơn, năng suất lao động sẽ cao hơn và tạo điều kiện cho việc áp dụng một hệ thống quản lý chất lượng đem lại niềm tin cho khách hàng.

5S là chữ cái đầu của các từ tiếng Nhật "SERI", "SEITON", "SEISO", SEIKETSU"

Và "SHITSUKE", tạm dịch sang tiếng Việt là "Sàng lọc", "Sắp xếp", "Sạch sẽ", "Săn

sóc" và "Sẵn sàng".

- SERI (Sàng lọc)

Là sàng lọc những cái không cần thiết tại nơi làm việc và loại bỏ chúng

- SEITON (Sắp xếp)

Là sắp xếp mọi thứ ngăn nắp trật tự đúng chỗ của nó để có thể tiện lợi khi sử dụng

- SEISO (Sạch sẽ)

Là vệ sịnh mọi chỗ tại nơi làm việc để không còn rác trên nền nhà, máy móc và thiết bị

- SEIKETSU (Săn sóc)

Là luôn săn sóc, giữ gìn về sinh nơi làm việc bằng cách liên tục thực hiện Seri, Seiton

và Seiso.

- SHITSUKE (Sẵn sàng)

Là tạo cho mọi người thói quen tự giác làm việc tốt và luôn tuân thủ nghiêm ngặt các

qui định tại nơi làm việc.

IV. KẾT LUẬN

Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và toàn cầu hóa. Việc tạo ra sự khác biệt về sản phẩm là khổng dễ dàng chút nào. Do đó để tồn tại và phát triển trên thị trường đầy cạm bẩy thì các doanh nghiệp phải đảm bảo chất lượng ở tất cả các lĩnh vực. "Chất lượng trong công việc, chất lượng trong dịch vụ,

Nhóm 8Bs- lớp 30K12

1

Quản trị chất lượng toàn diện

chất lượng thông tin, chất lượng của quá trình, chất lượng của các bộ phận, chất lượng con người, kể cả công nhân, kỹ sư, giám đốc và nhân viên điều hành, chất lượng của công ty, chất lượng của các mục tiêu"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro