HẸP VAN HAI LÁ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

HẸP VAN HAI LÁ

Hẹp van hai lá (HHL) vẫn còn là bệnh rất phổ biến ở nước ta cho dù tỷ lệ mắc bệnh này đã giảm nhiều ở các nước đã phát triển khác.

I.   Triệu chứng lâm sàng

A.  Triệu chứng cơ năng

1.   Đa số bệnh nhân không hề có triệu chứng trong một thời gian dài. Khi xuất hiện, thường gặp nhất là khó thở: mới đầu đặc trưng là khó thở khi gắng sức, sau đó là khó thở kịch phát về đêm và khó thở khi nằm (do tăng áp lực mạch máu phổi). Cơn hen tim và phù phổi  cấp  khá  thường  gặp  trong  HHL  -  là  một  điểm đặc biệt của bệnh: biểu hiện suy tim trái mà bản chất lại là suy tim phải.

2.   Các  yếu  tố  làm  bệnh  nặng  thêm:  sự  xuất  hiện  rung nhĩ trong HHL với tần số thất đáp ứng rất nhanh là yếu tố kinh điển dẫn đến phù phổi cấp. Sự giãn nhĩ trái là yếu tố dự đoán xuất hiện rung nhĩ ở bệnh nhân HHL.  Thai  kỳ  của  phụ  nữ  HHL  cũng làm cho triệu chứng nặng thêm.

3.   Có thể gặp các triệu chứng liên quan với nhĩ trái giãn to như:

a.   Ho ra máu do tăng áp lực nhĩ trái và tăng áp lực động mạch phổi.

b.   Khàn tiếng (hội chứng Ortner), do nhĩ trái giãn to đè vào dây thần kinh quặt ngược hoặc nuốt nghẹn do nhĩ trái to đè vào thực quản.

c.   Tắc  mạch  đại  tuần  hoàn  (mạch  não,  thận,  mạc treo,  mạch  chi)  do  huyết  khối  hình  thành  trong buồng nhĩ trái giãn nhất là khi có kèm rung nhĩ.  

d.   Rung nhĩ (cơn kịch phát hoặc dai dẳng) gây biểu hiện hồi hộp trống ngực, có thể gây choáng hoặc ngất (rung nhĩ nhanh), góp phần hình thành huyết khối và gây ra tắc mạch đại tuần hoàn... 

4.   Lâu dần sẽ có các triệu chứng của suy thất phải (gan to, phù chi dưới…) do tăng áp động mạch phổi. Khi tăng  áp  lực  động  mạch  phổi,  bệnh  nhân  có  thể  đau ngực gần giống cơn đau thắt ngực, do tăng nhu cầu ôxy thất phải.

5.   Mệt cũng là triệu chứng hay gặp do cung lượng tim giảm thấp.   

B.  Triệu chứng thực thể

1.   Chậm phát triển thể chất nếu HHL có từ khi nhỏ: dấu hiệu “lùn hai lá”.

2.   Lồng  ngực  bên  trái  có  thể  biến  dạng  nếu  HHL  từ nhỏ.

3.   Dấu hiệu của ứ trệ tuần hoàn ngoại biên khi có suy tim phải: tĩnh mạch cổ nổi, phản hồi gan tĩnh mạch cổ  dương  tính,  phù  chi  dưới,  phù  toàn  thân,  gan  to, tràn dịch các màng...

4.   Các dấu hiệu của kém tưới máu ngoại vi: da, đầu chi xanh tím.

5.   Sờ có thể thấy rung miu tâm trương ở mỏm tim. Một số trường hợp khi tăng áp động mạch phổi nhiều có thể thấy tiếng T2 mạnh và tách đôi ở cạnh ức trái.

6.   Gõ diện đục của tim thường không to.

7.   Nghe  tim:  là  biện  pháp  quan  trọng  giúp  chẩn  đoán bệnh HHL.

a.   Tiếng  clắc  mở  van  hai  lá,  nghe  rõ ở mỏm tim, khoảng  cách  từ  T2  đến  tiếng  này  càng  hẹp  thì mức  độ  HHL  càng  nhiều  (<80  ms  trong  HHL khít). Tuy nhiên, một số trường hợp không nghe thấy  tiếng  này  khi  van  hai  lá  đã  vôi  cứng,  mở kém.  Tiếng  này  cũng  có  thể  gặp  trong  HoHL, thông liên thất, teo van ba lá kèm theo thông liên nhĩ.

b.   Tiếng  rung  tâm  trương  ở  mỏm  tim:  âm  sắc trầm  thấp,  giảm  dần,  nghe  rõ  nhất  ở  mỏm,  thời gian phụ thuộc vào chênh áp (dài khi HHL khít), có  tiếng  thổi  tiền  tâm  thu  nếu  còn  nhịp  xoang. Nghe  tim  sau  gắng  sức  hoặc  ngửi  Amyl  Nitrate làm  tăng  cường  tiếng  thổi  do  tăng  chênh  áp  khi tăng  dòng  chảy  qua  van  hai  lá.  Tuy  nhiên  tiếng rung tâm trương này có thể không có nếu van hẹp quá  khít  hoặc  dây  chằng  cột  cơ  bị  vôi  hoá  xơ cứng nhiều,  hoặc khi suy tim nặng, kèm theo hẹp van động mạch chủ làm giảm dòng máu qua van. Tiếng rung tâm trương còn có thể gặp trong một số  truờng  hợp  khác  như  HoC,  tăng  cung  lượng qua  van  hai  lá...  Tiếng  thổi  tiền  tâm  thu  cũng thường  gặp  nhất  là  khi  bảo  bệnh  nhân  gắng  sức hoặc  dùng  một  ít  khí  Amyl  Nitrate.  Tiếng  thổi này sẽ không có khi bệnh nhân đã bị rung nhĩ.

c.   Tiếng T1 đanh khá quan trọng trong HHL. Tiếng T1  có  thể  không  rõ  đanh  nữa  khi  van  vôi  hoá nhiều  hoặc  giảm  sự  di  động  của  lá  van.  Nghe  ở đáy  tim  có  thể  thấy  tiếng  T2  mạnh  và  tách  đôi, biểu hiện của tăng áp động mạch phổi.

d.   Một số tình trạng có thể giống biểu hiện của hẹp van hai lá như u nhầy nhĩ trái hoặc tim ba buồng nhĩ. Tiếng đập của u nhầy có thể nhầm với tiếng clắc mở van. Khi bệnh nhân có rung tâm trương luôn cần chẩn đoán phân biệt với u nhầy nhĩ trái. Các tình trạng khác có thể gây nên tiếng rung tâm trương bao gồm: thông liên nhĩ, hoặc thông liên thất, tiếng thổi Austin-Flint của hở chủ (giảm khi giảm hậu gánh) hoặc của hẹp van ba lá (nghe rõ nhất ở bờ trái xương ức và tăng lên khi hít vào).

II.  Nguyên nhân

A.  Đa số trường hợp HHL đều là do di chứng thấp tim dù 50% bệnh nhân không hề biết tiền sử thấp khớp. 

1.   Đợt  thấp  tim  cấp  thường  hay  gây  ra  hở  van  hai  lá. Sau một số đợt thấp tim tái phát, hẹp van hai lá bắt đầu  xuất  hiện,  tiếp  tục  tiến  triển  nhiều  năm  cho  tới khi biểu hiện triệu chứng.

2.   Thương  tổn  chính  là  thâm  nhiễm  xơ,  dày  lá  van. Dính  mép  van,  dính  và  co  rút  dây  chằng  góp  phần gây  nên  HHL.  Xuất  hiện  vôi  hoá  lắng  đọng  trên  lá van, dây chằng, vòng van, tiếp tục làm hạn chế chức năng bình thường của van. Những thương tổn này tạo thành van hai lá hình phễu như hình miệng cá mè.

B.  Các nguyên nhân gây hẹp van hai lá

1.   Di chứng thấp tim.

2.   Bẩm sinh:

a.   Van  hai  lá  hình  dù:  do  có  một  cột  cơ  xuất  phát các dây chằng cho cả hai lá van, dẫn đến hở hoặc hẹp van.

b.   Vòng thắt trên van hai lá.

3.   Bệnh hệ thống có thể gây xơ hoá van hai lá:

a.   U carcinoid.

b.   Lupus ban đỏ hệ thống.

c.   Viêm khớp dạng thấp.

d.   Lắng đọng mucopolysaccharide.

e.   Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn đã liền sẹo.

III. Sinh lý bệnh

1.   Bình thường diện tích lỗ van hai lá là 4-6 cm2. Khi diện tích lỗ van hai lá < 2cm2, dòng chảy qua van hai lá bị cản trở tạo thành chênh áp qua van hai lá giữa nhĩ trái và thất trái trong thời kỳ tâm trương. Chênh áp này và áp lực nhĩ trái sẽ càng tăng khi diện tích lỗ van càng giảm. Tuỳ theo mức độ diện tích của lỗ van hai lá mà người ta chia thành các loại: 

a.   HHL rất khít khi diện tích lỗ van < 1,0 cm2.

b.   HHL khít khi diện tích lỗ van từ 1 đến < 1,5 cm2.

c.   HHL vừa khi diện tích lỗ van từ 1,5-2,0 cm2.

2.   Dòng chảy qua van hai lá tăng làm chênh áp qua van tăng  theo  cấp  số  nhân  (vì  chênh  áp  là  hàm  bậc  hai của  dòng  chảy).  Vì  vậy,  gắng  sức  hoặc  thai  nghén (tăng  thể  tích  và  dòng  máu  lưu  thông)  sẽ  làm  tăng đáng  kể  áp  lực  nhĩ  trái.  Nhịp  tim  nhanh  làm  giảm thời gian đổ đầy tâm trương cũng làm tăng chênh áp qua  van  và  áp  lực  trong  nhĩ  trái.  Do  đó  trong  giai đoạn sớm, hội chứng gắng sức rất thường gặp ở bệnh nhân HHL.

3.   Tăng áp lực nhĩ trái dẫn đến tăng áp trong hệ thống mạch phổi gây ra các triệu chứng ứ huyết phổi. Tăng áp lực thụ động trong hệ mạch phổi sẽ gây tăng sức cản  mạch  phổi  (tăng  áp  động  mạch  phổi  phản  ứng, hàng rào thứ hai). Tình trạng này có thể mất đi và trở về  bình  thường  nếu  tình  trạng  hẹp  van  được  giải quyết. Tuy nhiên, nếu hẹp van hai lá khít kéo dài sẽ dẫn đến bệnh cảnh tắc nghẽn mạch máu ở phổi.

4.   Mặc  dù  thất  trái  ít  bị  ảnh  hưởng  bởi  các  quá  trình bệnh sinh trên nhưng 25-30% số trường hợp có giảm phân số tống máu thất trái, có lẽ là do giảm tiền gánh thất trái vì giảm dòng chảy đổ về thất trái lâu ngày.

5.   Những  trường  hợp  hẹp  van  hai  lá  khít  có  thể  gây giảm cung lượng tim đến mức gây triệu chứng giảm tưới  máu.  Tình  trạng  cung  lượng  tim  thấp  mạn  tính sẽ gây phản xạ tăng sức cản mạch đại tuần hoàn và tăng hậu gánh, càng làm tiếp tục giảm chức năng co bóp  thất  trái  hơn  nữa.  Phân  số  tống  máu  sẽ  trở  lại bình thường nếu giải quyết chỗ hẹp ở van hai lá (khôi phục tiền gánh và hậu gánh). Một số bệnh nhân vẫn tiếp tục rối loạn co bóp cơ tim kéo dài sau khi đã mở chỗ hẹp, nguyên nhân hay được nghĩ tới là tình trạng viêm cơ tim âm ỉ do thấp tim.

IV. Các xét nghiệm chẩn đoán

A.  Siêu âm Doppler tim: là biện pháp thăm dò cực kỳ quan trọng để chẩn đoán xác định và chẩn đoán mức độ hẹp van hai lá, chẩn đoán hình thái van, tổ chức dưới van hai lá  và  các  thương  tổn  kèm  theo  (thường  có  trong  HHL) giúp chỉ định điều trị.

1.   Kiểu TM: lá van dày, giảm di động, biên độ mở van hai  lá  kém,  hai  lá  van  di  động  song  song,  dốc  tâm trương EF giảm (EF < 15 mm/s là HHL khít).

2.   Siêu âm 2D: hình ảnh van hai lá hạn chế di động, lá van hình vòm (hockey-stick sign), vôi hoá lá van và tổ chức dưới van. Siêu âm 2D còn cho phép đo trực tiếp diện tích lỗ van hai lá, đánh giá chức năng thất trái và các tổn thương van khác có thể kèm theo.

3.   Siêu  âm  Doppler  đặc  biệt  quan  trọng  để  đánh  giá mức độ hẹp:

a.   Vận tốc đỉnh dòng chảy qua van hai lá > 1 m/giây gợi ý có HHL, song dấu hiệu này không đặc hiệu, có thể xảy ra do nhịp nhanh, tăng co bóp. Hở hai lá và thông liên thất cũng gây tăng dòng chảy dù không có HHL.

b.   Chênh áp qua van hai lá (đo viền phổ dòng chảy qua van hai lá) cho phép ước lượng mức độ nặng của hẹp van. 

•    HHL  nhẹ:  chênh  áp  trung  bình  qua  van  <  5 mmHg, 

•    HHL  vừa: chênh áp trung bình qua van từ 5-12 mmHg, 

•    HHL khít: chênh áp trung bình qua van > 12 mmHg.

c.   Ước  tính  áp  lực  động  mạch  phổi  (ĐMP),  thông qua việc đo phổ của hở van ba lá kèm theo hoặc hở van ĐMP kèm theo (thường gặp trong HHL).

d.   Cho phép đánh giá tổn thương thực tổn kèm theo như  HoHL,  HoC  và  mức  độ,  điều  này  rất  quan trọng giúp cho quyết định lựa chọn phương pháp can thiệp van hai lá thích hợp. 

4.   Siêu  âm  Doppler  tim  dùng  để  đánh  giá  diện  tích  lỗ van hai lá khá chính xác, từ đó xác định và đánh giá mức độ hẹp. Thường có hai cách đo trên lâm sàng:

a.   Đo trực tiếp lỗ van trên siêu âm 2D:

•    Mặt  cắt  trục  ngắn  cạnh  ức  trái,  cắt  qua  mép van,  lấy  lỗ  van  hai  lá  vào  trung  tâm,  dừng hình trong thời kỳ tâm trương khi lỗ van mở rộng  nhất.  Sau  đó  dùng  con  trỏ  để  đo  được trực tiếp diện tích van hai lá.

•    Hình  ảnh  mờ  (do  thành  ngực  dầy,  khí  phế thũng),  van,  tổ  chức  dưới  van  dầy,  vôi,  méo mó  hoặc  biến  dạng  sau  mổ  tách  van...  là những  yếu  tố  khiến  rất  khó  xác  định  được chính xác lỗ van. Nếu cắt không vuông góc sẽ ước lượng sai diện tích lỗ van (tăng lên). Vôi hoặc xơ dày mép van cũng làm sai lệch (giảm đi).  Độ  phân  giải  thấp  làm  mờ  mép  van  và tăng quá diện tích, độ phân giải cao làm diện tích  giảm  đi.  Tuy  vậy  phương  pháp  này  vẫn được dùng rộng rãi.  

b.   Phương  pháp  PHT  (thời  gian  bán  giảm  áp  lực): Thời  gian  bán  giảm  áp  lực  (thời  gian  để  áp  lực giảm một nửa so với giá trị ban đầu), là thời gian để vận tốc giảm còn 70% vận tốc đỉnh. Hẹp hai lá làm thời gian giảm áp lực của dòng chảy qua van hai lá bị kéo dài ra. Càng hẹp nhiều thì mức thời gian  này  càng  dài,  Sóng  E  của  phổ  hai  lá  được dùng để tính diện tích lỗ van theo PHT:

•    Diện tích lỗ van hai lá = 220/PHT

•    Nếu không tính tự động thì PHT = 0,29 × thời gian  giảm  tốc  sóng  E.  Nếu  dòng  chảy  tâm trương  không  tuyến  tính,  có  thể  dùng  dòng chảy giữa tâm trương để ước lượng ra vận tốc tối đa. Nếu có rung nhĩ, cần lấy trung bình từ 5-10 nhát bóp liên tiếp để tính.

•    Phải  đảm  bảo  dòng  Doppler  song  song  với hướng của dòng chảy.

•    PHT bị thay đổi không phản ánh đúng thực tế nếu có thay đổi nhanh chóng của huyết động qua  van  như ngay sau nong van hai lá. PHT cũng bị sai lệch nếu nhịp tim nhanh (EA gần như trùng nhau). Hở van động mạch chủ, làm thất  trái  đầy  nhanh,  cũng  gây  giảm  PHT→ tăng diện tích lỗ van hai lá giả tạo.

5.   Siêu  âm  tim  gắng  sức  chỉ  định  cho  bệnh  nhân  có triệu chứng song siêu âm tim  khi nghỉ không biểu lộ HHL  khít  rõ  hoặc  khi  đã  có  HHL  khít  mà  chưa  có biểu  hiện  lâm  sàng.  Có  thể  đánh  giá  chênh  áp  qua van hai lá trong khi thực hiện gắng sức (bằng xe đạp lực  kế)  hoặc  ngay  sau  khi  gắng  sức  (bằng  thảm chạy).  Siêu  âm  Doppler  cũng  dùng  để  đo  vận  tốc dòng hở van ba lá, dòng hở qua van động mạch phổi để ước lượng áp lực động mạch phổi khi gắng sức.

6.   Siêu âm tim qua thực quản: với đầu dò trong thực quản cho thấy hình ảnh rõ nét hơn, dùng để đánh giá chính  xác  hơn  mức  độ  hẹp  van  cũng  như  hình  thái van  và  tổ chức  dưới  van,  hình  ảnh  cục  máu  đông trong nhĩ trái hoặc tiểu nhĩ trái. Từ đó giúp chỉ định phương  thức  điều  trị  can  thiệp  van  hai  lá.  Siêu  âm qua  thực  quản  nên  được  chỉ  định  thường  quy  trước khi quyết định nong van hai lá nếu có điều kiện. Tuy nhiên, với các trường hợp nhịp xoang và khi hình ảnh khá rõ trên siêu âm qua  thành ngực thì cũng đủ để đánh giá cho chỉ định nong van hai lá.

B.  Thông  tim:  là  phương  pháp  rất  chính  xác  để  đo  các thông số như: áp lực cuối tâm trương thất trái, áp lực nhĩ trái (trực tiếp hoặc gián tiếp qua áp lực mao mạch phổi

bít),  áp  lực  động  mạch  phổi,  cung  lượng  tim  (phương pháp Fick hoặc pha loãng nhiệt), nhịp tim và thời gian đổ đầy tâm trương (giây/nhịp tim). Trên cơ sở hai đường áp lực  đồng  thời  ở  thất  trái  và  nhĩ  trái,  có  thể  tính  được chênh  áp  qua  van  hai  lá (bằng  phần  diện  tích  giữa  hai đường áp lực × hệ số đo). Nếu dùng đường áp lực mao mạch phổi bít, nên dịch đường áp lực sang trái 50-70 ms là phần thời gian để truyền áp lực từ nhĩ trái đến mạng lưới mao mạch phổi.

   Không  thể  dùng  áp  lực  mao  mạch  phổi  bít  để  tính diện  tích  lỗ  van  hai  lá  nếu  bệnh  nhân  có  hẹp  động mạch hoặc tĩnh mạch phổi, tắc mao mạch phổi hoặc tim  ba  buồng  nhĩ  hay  khi  cung  lượng  tim  quá  thấp. Đồng  thời  ống  thông  đo  áp  lực  mao  mạch  phổi  bít phải đặt đúng vị trí. Hơn thế nữa, phương pháp pha loãng nhiệt ít chính xác nếu có hở van ba lá hoặc tình trạng cung lượng tim thấp. Dòng hở van hai lá hoặc luồng thông do thông liên nhĩ gây ra ngay sau nong có thể làm ước lượng sai dòng chảy qua van hai lá.

C.  Điện tâm đồ: hình ảnh P hai lá (sóng P rộng do dày nhĩ trái)  thường  gặp  nếu  bệnh  nhân  còn  nhịp  xoang.  Trục điện  tim  chuyển sang phải. Dày thất phải xuất hiện khi có tăng áp lực động mạch phổi. Rung nhĩ thường xảy ra ở bệnh nhân HHL.

D.  Chụp Xquang ngực:

1.   Giai  đoạn  đầu,  có  thể  chưa  thấy  biến  đổi  nào  quan trọng,  bờ  tim  bên  trái  giống  như  đường  thẳng. Tiếp đó, khi áp lực ĐMP tăng sẽ thấy hình ảnh cung ĐMP nổi và đặc biệt là hình ảnh 4 cung điển hình ở bờ bên trái của tim (từ trên xuống: cung ĐMC, cung ĐMP, cung tiểu nhĩ trái, cung thất trái). Một số trường hợp có  thể  thấy  hình  ảnh  5  cung  khi  nhĩ  trái  to  và  lộ ra bên trái dưới cung tiểu nhĩ.

2.   Hình ảnh 2 cung ở phần dưới bờ tim bên phải do nhĩ trái ứ máu nhiều có 3 giai đoạn: giai đoạn đầu là hình ảnh song song hai cung với cung nhĩ trái vẫn ở bên trong  cung  nhĩ  phải,  giai  đoạn  tiếp  là  hai  cung  này cắt nhau, và sau cùng là nhĩ trái to nhiều với hình ảnh hai  cung  song  song,  cung  nhĩ  trái  ở  ngoài  cung  nhĩ phải.  

3.   Một số trường hợp HHL rất khít có thể thấy thất trái rất sáng trong thời kỳ tâm trương do máu đổ vào thất trái ít. Cũng có thể thấy hình ảnh vôi hoá van hai lá. Đường Kerley B xuất hiện trên phim chụp thẳng khi có tăng áp lực động mạch phổi. Thất phải giãn (giảm khoảng sáng sau xương ức trên phim nghiêng trái).

4.   Hình ảnh gián tiếp khác như nhánh phế quản gốc trái bị đẩy lên trên hoặc nhĩ trái đè thực quản ở 1/3 dưới, thực  quản  bị  đẩy  ra  sau  trên  phim  chụp  nghiêng  có uống thuốc cản quang. 

5.   Có thể thấy hình ảnh vôi hoá của van hai lá hoặc tổ chức dưới van trên phim chụp hoặc chiếu dưới màn tăng sáng. 

V.  Điều trị

A.  Điều trị nội khoa

1.   Nếu bệnh nhân không có triệu chứng cơ năng thì chỉ cần điều trị kháng sinh dự phòng viêm nội tâm mạc khi có kèm HoHL hoặc HoC. 

2.   Nếu bệnh nhân mới chỉ khó thở khi gắng sức ở mức độ nhẹ thì điều trị thuốc lợi tiểu để làm giảm áp lực nhĩ  trái.  Phối  hợp  thuốc  chẹn  β  giao  cảm  (tác  dụng giảm  đáp  ứng  tăng  nhịp  tim  khi  gắng  sức)  sẽ  tăng được khả năng gắng sức. Tránh dùng các thuốc giãn động mạch.

3.   Rung nhĩ là nguyên nhân rõ ràng gây nặng bệnh, vì thế  cần  điều  trị  triệt  để  rung  nhĩ  (chuyển  về  nhịp xoang) hoặc ít nhất phải khống chế nhịp thất để tăng thời gian tâm trương đổ đầy thất trái và giảm chênh áp  qua  van  hai  lá.  Những  thuốc  thường  dùng  là digitalis và nhóm chẹn β giao cảm. Dùng các thuốc chống  loạn  nhịp  hoặc  sốc  điện  chuyển  nhịp  có  thể chuyển rung nhĩ về nhịp xoang song hiệu quả lâu dài để tránh tái phát rung nhĩ còn phụ thuộc vào việc giải quyết mức độ hẹp van. 

4.   Bắt buộc phải điều trị chống đông ở bệnh nhân HHL có rung nhĩ vì nguy cơ huyết khối gây tắc mạch cao: nên duy trì INR trong khoảng từ 2-3. Việc điều trị dự phòng  huyết  khối  nhĩ  trái  và  tắc  mạch  ở  bệnh  nhân nhịp  xoang  còn  chưa  thống  nhất,  song  nên  điều  trị nếu bệnh nhân đã có tiền sử tắc mạch đại tuần hoàn, có  cơn  rung  nhĩ  kịch  phát  hoặc  khi  đường  kính  nhĩ trái lớn (≥ 50-55 mm) sẽ dễ dàng chuyển thành rung nhĩ. Một số tác giả khác có xu hướng điều trị thuốc chống đông cho tất cả bệnh nhân HHL cho dù mức độ hẹp và kích thước nhĩ trái tới đâu. 

5.   Nếu triệu chứng cơ năng nặng lên (NYHA ≥ 2) bệnh nhân  cần  được  chỉ  định  mổ  hoặc  can  thiệp  qua  da. Một  số  tác  giả  còn  coi  tăng  áp  lực  ĐMP  (≥  55 mmHg) hoặc rung nhĩ cũng là chỉ định để can thiệp hoặc mổ do việc can thiệp sớm giúp  kiểm soát rung nhĩ tốt hơn và giảm bớt tỷ lệ nguy cơ, biến chứng về lâu  dài.  Nếu  không  can  thiệp  hoặc  mổ  thì  tỷ  lệ  tử vong  sau  10  năm  là  40%  ở  bệnh  nhân  trẻ,  tăng  lên gấp  đôi  sau  20  năm  và  tỷ  lệ  này  là  60-70%  sau  10 năm ở bệnh nhân già. 

B.  Nong van bằng bóng qua da  

1.   Nong  van  bằng  bóng  qua  da  là  kỹ  thuật  đưa  ống thông  đầu  có  bóng  vào  nhĩ  trái  qua  chỗ  chọc  vách liên  nhĩ  rồi  lái  xuống  thất  trái  và  đi  ngang  qua  van hai lá, sau đó bóng sẽ được bơm lên-xuống dần theo từng  cỡ  tăng  dần  để  làm  nở  phần  eo  của  bóng  gây tách hai mép van cho đến khi kết quả nong van đạt như ý muốn. Nong van hai lá qua da (NVHL) đã trở thành phương pháp được lựa chọn hàng đầu cho các bệnh nhân HHL trên toàn thế giới và đây là thủ thuật chiếm  vị  trí  thứ  2  (về  số  lượng  cũng  như  ý  nghĩa) trong can thiệp tim mạch. Tại Việt nam, NVHL bắt đầu từ 1997, đến nay đã trở thành phương pháp điều trị  thường  quy.  Kết  quả  nong  bằng  bóng  (tách  hai mép van bị dính) thường tốt, diện tích lỗ van tăng 1-2 cm2,  chênh  áp  qua  van  hai  lá  và  áp  lực  động  mạch phổi giảm khoảng 1/3 so với áp lực động mạch phổi trước đó. NVHL được ưu tiên lựa chọn vì: 

a.   NVHL có tỷ lệ thành công cao, ít biến chứng qua nhiều nghiên cứu.

b.   NVHL cải thiện đáng kể tình trạng huyết động và diện tích lỗ van.

c.   NVHL có kết quả trước mắt và khi theo dõi lâu dài  tương  tự  hoặc  thậm  chí  còn  hơn  nếu  so  với mổ tách van cả trên tim kín lẫn tim mở.

d.   NVHL là thủ thuật ít xâm phạm, nhiều ưu thế so với  mổ  như:  thời  gian  nằm  viện  ngắn,  ít  đau, không có sẹo trên ngực, tâm lý thoải mái hơn...

e.   NVHL  có  thể  thực  hiện  được  trong  một  số  tình huống  đặc  biệt  mà  phẫu  thuật  khó  thành  công trọn vẹn hoặc nguy cơ cao như: ở phụ nữ có thai, ở  người  suy  tim  nặng,  ở  bệnh  nhân  đang  trong tình trạng cấp cứu...

 2.   Chọn lựa bệnh nhân NVHL bao gồm: 

a.   HHL  khít  (diện  tích  lỗ  van  trên  siêu  âm  <  1,5 cm2)  và  có  triệu  chứng  cơ  năng  trên  lâm  sàng (NYHA ≥ 2).

b.   Hình  thái  van  trên  siêu  âm  tốt  cho  NVHL,  dựa theo thang điểm của Wilkins: bệnh nhân có tổng số điểm ≤ 8 có kết quả tốt nhất. 

c.   Không có huyết khối trong nhĩ trái trên siêu âm qua thành ngực (hoặc tốt hơn là trên siêu âm qua thực quản).

d.   Không có hở hai lá hoặc hở van động mạch chủ mức độ vừa-nhiều kèm theo (> 2/4) và chưa ảnh hưởng đến chức năng thất trái.

3.   Chống chỉ định NVHL: ở bệnh nhân hở van hai lá vừa-nhiều  (≥3/4)  hoặc  có  huyết  khối  mới  trong  nhĩ trái hay tiểu nhĩ trái.

4.   Thang  điểm  Wilkins  trên  siêu  âm:  để  lượng  hoá tình  trạng  van  và  dây  chằng  giúp  cho  dự  báo  thành công của NVHL (do Wilkins đề xuất năm 1988) có độ nhạy cao, được hầu hết các trung tâm trên thế giới sử  dụng  như  một  tiêu  chuẩn  quan  trọng  trong  chọn bệnh  nhân  NVHL.  Trong  thang  điểm  này  thì  tình trạng  dày  của  lá  van  và  tổ  chức  dưới  van  có  ảnh hưởng  nhiều  đến  việc cải thiện diện tích lỗ van sau nong. Các nghiên cứu theo dõi ngắn hạn và trung hạn đều chỉ ra rằng với điểm Wilkins trên siêu âm ≤ 8 thì tỷ lệ thành công rất đáng kể. Có một khoảng “xám” từ 9 - 11 điểm, khi đó kết quả NVHL vẫn có thể tốt nếu có kinh nghiệm. Tuy nhiên, với điểm Wilkins > 11 thì không nên nong van hai lá bằng bóng do kết quả NVHL không tối ưu, tỷ lệ biến chứng, suy tim, tái  hẹp  sau  nong  rất  cao.  Hiện  nay  phương  pháp NVHL bằng dụng cụ kim loại do Cribier đề xuất vẫn cho kết quả tốt ngay cả ở bệnh nhân có tình trạng van xấu (điểm siêu âm cao).

5.   Biến chứng sau nong van hai lá:

a.   Tử  vong  (<  1%)    thường  do  biến  chứng  ép  tim cấp hoặc tai biến mạch não.

b.   Ép  tim  cấp  do  chọc  vách  liên  nhĩ  không  chính xác  gây  thủng  thành  nhĩ  hoặc  do  thủng  thất  khi NVHL bằng bóng/dụng cụ kim loại (< 1%).

c.   HoHL  luôn  là  biến  chứng  thường  gặp  nhất  (hở hai  lá  nặng  sau  nong  chỉ  từ  1-6%,  theo  nghiên cứu tại Viện Tim mạch Việt nam là 1,3%).

d.   Tắc mạch đặc biệt là tắc mạch não (< 1%).

e.   Còn tồn lưu thông liên nhĩ: phần lớn lỗ thông này tự  đóng  trong  vòng  6  tháng;  những  trường  hợp còn  tồn  lưu  (10%)  thì  lỗ  nhỏ,  shunt  bé  và  dung nạp tốt.

6.   Siêu  âm  qua  thực  quản:  có  vai  trò  rất  quan  trọng trong nong van hai lá: nhằm xác định không có huyết khối  nhĩ  trái  và  tiểu  nhĩ  trái  trước  khi  nong.  Trong

một  số  trường  hợp  đặc  biệt,  siêu  âm  qua  thực  quản hướng dẫn lái bóng nong và đánh giá kết quả sau mỗi lần nong (diện tích lỗ van, mức độ hở hai lá, chênh áp qua van hai lá...). 

7.   Diện tích lỗ van hai lá sau nong: nên được đánh giá bằng cách đo trực tiếp trên siêu âm 2D. Diện tích lỗ van hai lá tính bằng phương pháp PHT thường ít tin cậy  trong  vòng  24-48  giờ  sau  nong  (do  huyết  động thay đổi nhanh chóng).

8.   HoHL: là biến chứng khó kiểm soát nhất (1-6% theo các  nghiên  cứu).  HoHL  có  xu  hướng  tăng  lên  sau NVHL  vì  thế  HoHL  >  2/4  là  chống  chỉ  định  tương đối  của  NVHL,  tuy  nhiên,  mức  độ  HoHL  nhẹ  sau nong  là  hoàn  toàn  chấp  nhận  được  và  dễ  dung  nạp. Các yếu tố như HoHL trước nong, tình trạng van vôi hoá  góc  mép  van...  có  khả  năng  thấp  trong  việc  dự báo  HoHL  sau  NVHL.  Thang  điểm  của  Padial  và Palacios  đề xuất có khả năng dự báo khá tốt HoHL nặng sau NVHL. Khi điểm Padial >10, khả năng HoHL nặng sau NVHL  sẽ  tăng  lên  nhiều.  Nghiên  cứu  tại  Viện  Tim mạch Việt nam cho thấy, với điểm Padial > 10, khả năng bệnh nhân bị HoHL (RR) tăng 53 lần. Cơ chế chính gây hở van hai lá sau nong là thương tổn của tổ chức dưới van, của mép lá van hoặc do lá van bị co rút  gây  đóng  không  kín.  Dòng  HoHL  nhẹ  sau  nong

thường  xuất  phát  từ mép van trong khi dòng HoHL nặng thường do đứt dây chằng hoặc rách lá van. Một số trường hợp kết quả rất tốt sau nong van, không có hoặc  HoHL  rất  nhẹ  ngay  sau  nong  nhưng  sau  một thời  gian  lại  xuất  hiện  HoHL  nhiều  hơn  thường  do hiện  tượng  co  rút  lá  van,  hoặc  tổ  chức  dưới  van  di chứng thấp tim. 

9.   Tái hẹp sau nong van hai lá: là khi nong van thành công về kết quả nhưng qua theo dõi thì (1) diện tích lỗ van hai lá giảm đi nhỏ hơn giá trị tổng diện tích lỗ van  hai  lá  trước  nong  và  một  nửa  số  diện  tích  gia tăng  sau  nong  và    (2)  triệu  chứng  lâm  sàng  rõ (NYHA > 2). Ví dụ: một bệnh nhân có diện tích lỗ van hai lá trước nong van là 1 cm2 và ngay sau nong đạt được 2 cm2, phần gia tăng là 1 cm2, 1/2 lượng gia tăng là 0,5 cm2  nên gọi là hẹp lại khi diện tích lỗ van < 1,5 cm2. Tỷ lệ tái hẹp van hai lá nói chung thay đổi từ 6-21%, sau 4 năm tỷ lệ sống còn là 84%. Nghiên cứu bước đầu tại Viện Tim mạch Việt nam (trên 600 bệnh nhân, trung bình 2 năm) cho thấy 100% số bệnh nhân  sống  sót  sau  2  năm,  trong  đó  85%  bệnh  nhân không có những triệu chứng cơ năng gây ra do hẹp hai lá, chỉ có 3,4% bệnh nhân tái hẹp van.

a.   Tuổi cao, NYHA cao, rung nhĩ, diện tích lỗ van trước  nong  nhỏ,  áp  lực  động  mạch  phổi  cao,  hở van ba lá nhiều, hở van hai lá tăng sau nong, diện tích lỗ van hai lá sau nong thấp là những yếu tố tiên lượng xấu về lâu dài.

b.   Kết quả lâu dài (>10 năm) sau nong van tuy rất ấn tượng (tương đương với mổ sửa van tim mở) song  mới  chỉ  dừng  lại  ở  những  bệnh  nhân  trẻ tuổi, van còn chưa vôi mà chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ ở những bệnh nhân lớn tuổi hơn.   

C.  Phẫu thuật 

1.   Mổ tách van tim kín: là biện pháp dùng một dụng cụ  tách  van  hoặc nong van bằng tay qua đường mở nhĩ, thông qua đường mở ngực (không cần tuần hoàn ngoài  cơ  thể).  Hiện  tại  phương  pháp  này  hầu  như không được dùng vì đã có nong van hai lá bằng bóng qua  da  hoặc  phẫu  thuật  tim  mở.  Mổ  tách  van  hoặc mổ sửa van tim có trợ giúp của tuần hoàn ngoài cơ thể cho phép quan sát trực tiếp bộ máy van hai lá, lấy cục vôi, xẻ và tạo hình mép van và dây chằng van hai lá. 

2.   Bệnh lý dưới van nặng thường ưu tiên lựa chọn phẫu thuật  so  với  can  thiệp.  Bệnh  lý  van  tim  khác  kèm theo  HHL  cần  điều  trị  (như  hở  hoặc  hẹp  van  động mạch  chủ)  cũng  là  một  ưu  tiên  cho  phẫu thuật. Đối với bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi và hở van ba lá nặng thứ phát, nong van bằng bóng đơn thuần làm giảm áp lực động mạch phổi cũng không đủ để làm giảm hở van ba lá nhất là ở những bệnh nhân lớn tuổi, vì thế phẫu thuật van hai lá kết hợp với tạo hình van ba lá có thể là chiến lược điều trị phù hợp hơn.

3.   Phẫu thuật thay van hai lá:

a.   Thay van hai lá thường được chỉ định khi van vôi và co rút nhiều hoặc có kèm HoHL phối hợp.

b.   Lựa  chọn  thay  van  hai  lá  cơ  học  hoặc  sinh  học tuỳ thuộc vào nguy cơ của việc dùng thuốc chống đông kéo dài khi có van cơ học so với mức độ dễ thoái  hoá  của  van  sinh  học.  Tỷ  lệ  sống  sót  sau thay van 5 năm từ 80-85%.    

c.   Quan  điểm  bảo  tồn  tổ  chức  dưới  van  trong  mổ hẹp van hai lá cũng giống như hở van hai lá nhằm duy trì cấu trúc và chức năng thất trái sau mổ.  

4.   Mổ sửa van hai lá: tuy khó hơn song vẫn thực hiện được ở một số trường hợp. Sau 10 năm tỷ lệ sống sót > 95%, tỷ lệ mổ lại do tái hẹp sau mổ < 20%.

5.   Tăng áp lực động mạch phổi làm tăng nguy cơ của phẫu  thuật  song  tiên  lượng  của  bệnh  nhân  sau  mổ còn tốt hơn nhiều so với chỉ điều trị nội khoa.

6.   Phẫu thuật Maze điều trị rung nhĩ mạn tính có thể kết hợp ngay khi tiến hành mổ van hai lá. 

D.  Theo dõi sau thủ thuật

Theo dõi sau mổ hoặc sau nong van hai lá phải tiến hành ít nhất 1 năm/1 lần, hoặc nhanh hơn nếu như xuất hiện  triệu  chứng  lâm  sàng,  nhất  là  khi  có  các  dấu  hiệu gợi ý có tái hẹp van hai lá hoặc hở van hai lá phối hợp. Siêu âm tim cần được làm định kỳ để theo dõi diễn biến lâm sàng của bệnh nhân.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro