hlucp

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I.

Các đặc trưng cơ bản của LQT

1.

Luật quốc tế có thực sự là luật không? vai trò của LQT như thế nào?

LQT ko phải là luật theo nghĩa quốc gia. Vì: Nó là hệ thống qppl, do các quốc gia xây dựng trên cơ sở đàm phán thỏa thuận. Khi có chủ thể vi phạm, không có cơ quan giám sát, cơ quan thi hành luật, không có cq xét xửthẩm quyền bắt buộc.

*Vai trò của lqt:

·

Công cụ nhân tố quan trọng bảo vệ hòa bình an ninh quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của mỗi chủ thể lqt trong qhqt.

·

Nền tảng điều chỉnh các mối quan hệ quốc gia.Có thể dự đoán các xu hướng.

·

Có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển văn minh nhân loại, thúc đẩy cộng đồng quốc tế phát triển theo hướng ngày càng văn minh.

·

Thúc đẩy việc phát triển quan hệ hợp tác quốc tế đặc biệt là quan hệ kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay.

*Đánh giá vai trò :

§

Giữa các nước

có nhiều sự điều chỉnh quan hệ thông qua lqt. ( thương mại, viễn thông)

§

Nhiều khi người ta khôngđánh giá cao vai trò của lqt là do họ tập trung những vấn đề lqt không làm được, lĩnh vực lqt chưa phát huy được hiệu quả( an ninh, sử dụng vũ lực)

2.

Hãy phân tích những đặc trưng của LQT về phương pháp xây dựng luật và so sánh với luật quốc gia.

Sự hình thành LQT

khác

với trình tự xây dựng LQG

,

bởi vì việc hình thành luật quốc tế là quá trình mang tính chất tự nguyện của các quốc gia, thể hiện ở sự tự điều chỉnh quan hệ lập pháp mà các quốc gia tiến hành theo phương thức thỏa thuận công khai bằng quan hệ điều ước hoặc mặc nhiên thừa nhận quy tắc xử sự trong tập quán

.

 Tính tự điều chỉnh trong hoạt động xây dựng luật quốc tế thông qua 2 giai đoạn:

·

Giai đoạn thỏa thuận của quốc gia về nội dung quy tắc .

·

Gi

a

i đoạn thỏa thuận công nhận tính ràng buộc của các quy tắc đã được hình thành.

Việc tạo ra hai giai đoạn này không nhằm tạo ra ý chí tối cao, duy nhất mà là sự tự nguyện thảo thuận của các quốc gia dựa trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền.

So sánh với LQG:

Khi tiến hành LQT thiếu vắng cơ quan lập pháp (LQG có cquan xây dựng luật là Quốc hội), hệ thống lập pháp mà các cơ quan tiến hành theo phương thức thỏa thuận công khai. Việc hình thành LQT là quá trình tự nguyện của các quốc gia, thể hiện ở sự tự điều chỉnh bằng quan hệ điều ước hoặc mặc nhiên thừa nhận quy tắc xử sự trong tập quán Qt.

3.

Hãy phân tích những đặc trưng của LQT về các biện pháp đảm bảo thi hành luật và so sánh với luật quốc gia.

Khái niệm:

T

hực thi luật quốc tế là quá trình các chủ thể áp dụng cơ chế hợp pháp

phù hợp

để đảm bảo các quy định của luật quốc tế được thi hành và được tôn trọng đầy đủ trong đời sống quốc tế.

Đây là quá trình chủ thể luật quốc tế,

thông qua

các cơ chế quốc tế và quốc gia (do luật quốc tế quy định) để thực thi các quyền và nghĩa vụ pháp luật quốc tế. Quá trình này được tiến hành bằng nhiều hoạt động pháp lý có liên quan với nhau trong yêu cầu chung là đảm bảo lợi ích riêng của từng chủ thể phù hợp với lợi ích chung

c

ủa cả cộng dồng, hướng đến phát triển và ngày càng hoàn thiện luật quốc tế.

+) Chủ thể của LQT áp dụng nhiều cách thức, biện pháp để bảo đảm thi hành luật như: sử dụng điều ước QT và các cách thức pháp lý khác, tận dụng các yếu tổ chính trị, xã hội để tạo động lực cho sự thực thi LQT.

+) Khác so với LQG, LQT không có cơ quan hành pháp trong việc cưỡng chế thi hành luật, không có cơ quan giám sát việc thi hành luật (như Viện kiểm sát)

4.

 Hãy phân tích những đặc trưng của LQT về các chế tài và so sánh với luật quốc gia.

+) Luật QT có những chế tài nhưng việc áp dụng chế tài của LQT do chính QG tự thực hiện bằng những cách thức riêng lẻ hoặc tập thể. Các biện pháp chế tài do QG áp dụng trong trường hợp có sự vi phạm quy định QT của một chủ thể khác (VD: cấm vận, cắt đứt quan hệ ngoại giao, sử dụng các biện pháp hạn chế trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học…sử dụng các sức mạnh quân sự để thực hiện quyền tự vệ hợp pháp hoặc để chống lại các hành động tấn công vũ trang…). Hiện nay LQT mở rộng các biện pháp chế tài do các tổ chức QT đảm nhiệm với vai trò chủ yếu của LHQ

+) So sánh với luật Quốc gia: LQG có cơ quan hành pháp thực hiện các chế tài thường trực như cảnh sát, công an, quân đội, tòa án…còn LQT thì các chế tài do chính các quốc gia tự thực hiện.

5.

Có những loại chủ thể nào của LQT? Hãy giải thích các thực thể sau có phải là chủ thể của LQT không: cá nhân, tổ chức quốc tế phi chính phủ và công ty đa quốc gia?

a.

Các loại chủ thể của luật quốc tế

Để xác định chủ thể của luật quốc tế thường phải dựa và các dấu hiệu cơ bản sau:

·

Có sự tham gia vào những quan hệ quốc tế do luật quốc tế điều chỉnh (tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế)

·

ý chí độc lập trong sinh hoạt quốc tế (ko phụ thuộc vào chủ thể khác)

·

Có đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với cá chủ thế khác thuộc phạm vi điều chỉnh của luật quốc tế

·

Có khả năng độc lập gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà chủ thể đã thực hiện gây ra.

Ø

Chủ thể của luật quốc tế là thực thể độc lập tham gia vào những quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh, có đầy đủ quyền. nghĩa vụ và khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chủ thể thực hiện.

v

Quốc gia

quốc gia là chủ thể truyền thống và phổ biến của LQT. Điều 1 Công ước Montevideo năm 1933 về quyền và nghĩa vụ quốc gia thì một thực thể được coi là quốc gia theo pháp luật quốc tế phải có 4 yếu tố cơ bản sau:

- Dân cư thường xuyên

- Lãnh thổ được xác định

- Chính phủ, chính quyền thống nhất từ trung ương tới địa phương

- Năng lực tham gia vào các quan hệ với các chủ thể khác

Trong các văn kiện quốc tế hiện đại, cá

quyền cơ bản

của mỗi quốc gia:

·

Quyền bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi

·

Quyền được tự vệ cá nhân hoặc tự vệ tập thể

·

Quyền được tồn tại trong hòa bìnhđộc lập

·

Quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ

·

Quyền được tham gia vào việc xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế

·

Quyền được trở thành thành viên của tổ chức quốc tế phổ biến

Tương ứng với quyền cơ bản các quốc gia có

nghĩa vụ

cơ bản sau:

·

Tôn trọng chủ quyền của các quốc gia

·

Tôn trọng sự bất khả xâm phạm lãnh thổ của các quốc gia khác

·

Không áp dụng vũ lực và đe dọa bằng vũ lực

·

Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau

·

Hợp tác hữu nghị với các quốc gia khác nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế

·

Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế

·

Tôn trọng những quy phạm Jus cogens và những cam kết quốc tế

·

Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình

v

Tổ chức quốc tế liên quốc gia

Điều kiện để một tổ chức quốc tế trở thành tổ chức liên chính phủ đó là phải có cơ cấu tổ chức bộ máy riêng; hoạt động một cách thường xuyên, liên tục và có tư cách độc lập khi tham gia vào các mối quan hệ quốc tế.

Hiện nay, khi nói đến các TCQT người ta thường nhắc đến 2 loại hình tổ chức quốc tế:

TCQT liên chính phủ:

TCQT mà thành viên của nó là các quốc gia độc lập, có chủ quyền TCQT liên chính phủ (LHQ, EU, ASEAN...)

TCQT phi chính phủ:

TCQT mà thành viên của nó là các chủ thể khác (không phải quốc gia) TCQT phi chính phủ (WHO, ILO, FAO, FIFA...).

 Dấu hiệu để nhận biết thành viên của TCQT đó là quốc gia hay không thể hiện ở chỗ, các phái đoàn tham gia các TCQT đó không phải nhân danh bất kỳ một cá nhân hay pháp nhân nào mà nhân danh chính quốc gia mình. TCQT là sản phẩm của các quốc gia sáng lập ra nó.

 Các quyền cơ bản của tổ chức liên chính phủ:

·

Được kí kết các điều ước quốc tế

·

Tiếp nhận cơ quan đại diệnquan sát viên thường trực của các quốc gia chưa là thành viên tại tổ chức trên

·

Được hưởng những ưu đãi miễn trừ ngoại giao

·

Được trao đổi đại diện tại các tổ chức của nhau

·

Được yêu cầu tư vấn của tòa án quốc tế của Liên hợp quốc

·

Được giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các thành viên và tổ chức quốc tế

v

Các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết

Xuất phát từ chủ quyền dân tộc nguyên tắc dân tộc tự quyết, các dân tộc đang đấu tranh nhằm thành lập một quốc gia dộc lập có những quyền quốc tế cơ bản sau:

·

Được thể hiện ý chí nguyện vọng của mình trong bất cứ hình thức nào, dưới bất cứ dạng nào, kể cả việc áp dụng những biện pháp để chống lại những nước đang cai trị mình

·

Được pháp luật quốc tế bảo vệ và các quốc gia, các dân tộc và các nhân dân trên thế giới, các tổ chức quốc tế giúp đỡ

·

Quyền được thiết lập những quan hệ chính thức với các chủ thế của luật quốc tế hiện đại

·

Được tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tếhội nghị quốc tế liên chính phủ

·

Được tham gia vào việc xây dựng những quy phạm của luật quốc tếđộc lập của việc thực thi luật này

b.

Cá nhân và công ty đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủ không là chủ thể của Luật quốc tế.

Vì:

·

Về đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tế:

Ø

LQT điều chỉnh các quan hệ quốc tế phát sinh giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế trên nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu và quan trọng nhất vẫn là chính trị.

Thật vậy, xu hướng tất yếu hiện nay đó là tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các quốc gia với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng... Nhưng ẩn sau hầu hết các quan hệ này đều ít nhiều có liên quan đến chính trị. Trong khi đó, các quan hệ mà cá nhân, công ty đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủ tham gia lại chủ yếu là các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) - phi chính trị.

   Vì thế có thể suy ra rằng các quan hệ xã hội mà cá nhân, công ty đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủ tham gia với các quan hệ mà Luật Quốc tế điều chỉnh là không thống nhất với nhau.

·

Về các đặc điểm cơ bản để xác định một thực thể là chủ thể của Luật Quốc tế:

 Chủ thể của LQT là những thực thể đang tham gia hoặc có khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quốc tế cũng như thực hiện một cách độc lập các quyền và nghĩa vụ quốc tế đó trên cơ sở các quy phạm Luật Quốc tế

   Theo như khái niệm trên, ta có thể rút ra được các dấu hiệu cơ bản của chủ thể Luật Quốc :

-

 Thứ nhất, thực thể đang và có khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế.

  Thực tế cho thấy rằng cá nhân, công ty đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủ chỉ có khả năng tham gia “rất hạn hữu” vào một số các quan hệ quốc tế xác định hoặc tham gia các quan hệ này một cách gián tiếp thông qua Nhà nước. Điều này xuất phát từ những quyền tự nhiên của con người, vị thế của công dân, pháp nhân của quốc gia.

-

Thứ hai, chủ thể Luật Quốc tế có ý chí độc lập, không phụ thuộc vào các chủ thể khác.

   Hiện nay, khi tham gia vào tất cả các quan hệ của đời sống xã hội thì cá nhân, công ty đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủ vẫn chịu một sự chi phối rất lớn từ ý chí, từ quyền lực chính trị của chủ thể đặc biệt đó là Nhà nước. Một mặt, cá nhân và công ty đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủ không được làm trái, đi ngược lại các quy định của pháp luật quốc gia. Đồng thời hai loại chủ thể này không thể tự mình tham gia vào một số các quan hệ quốc tế mà phải thông qua nhà nước.

-

Thứ ba, được hưởng quyền và các nghĩa vụ pháp lý quốc tế và gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi của mình gây ra.

   Theo quan điểm của B.M Shurshaloff “Các Điều ước Quốc tế được ký kết giữa các quốc gia với nhau, quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các Điều ước này là dành cho nhà nước và nhà nước phải đảm bảo cho cá nhân có những quyền trên, vì bản thân những Điều ước đó không thể nào được thực thi nếu không được nhà nước cụ thể hóa trong Luật quốc gia”.

-

Thứ tư, không một chủ thể nào có quyền tài phán chủ thể của Luật Quốc tế, trên nó không tồn tại quyền lực chính trị nào chi phối hoạt động của nó và khi tham gia vào các quan hệ quốc tế thì các chủ thể có vị trí độc lập, bình đẳng với nhau.

   Thực tiễn ta thấy rằng, trong mối tương quan về địa vị pháp lý trong Luật quốc gia thì nhà nước luôn có quyền tài phán đối với công dân, công ty đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủ nước mình, phần lớn các quan hệ phát sinh giữa cá nhân, công ty đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủ với nhà nước đều được điều chỉnh bởi phương pháp quyền uy, mệnh lệnh phục tùng. Mặt khác, chúng vẫn có thể bị tài phán bởi các cơ quan quốc tế khác (ví dụ như Tòa án binh Quốc tế) theo Luật Quốc tế. Vì vậy, khi tham gia vào các hoạt động, cá nhân công ty đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủ luôn bị chi phối ảnh hưởng bởi quyền lực chính trị và khi tham gia vào quan hệ với các chủ thể khác của Luật Quốc tế thì chúng khó có thể có được vị trí độc lập và bình đẳng.

·

Về các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế :

   Nội dung các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện nay chủ yếu là tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chất điều chỉnh các quan hệ của các quốc gia xuất phát từ nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình.

   Các nguyên tắc được coi như một cam kết, đã có sự tán thành của các nước hội viên và bắt buộc các nước phải tuân thủ theo.

Ø

Tóm lại :

   Luật Quốc tế cũng như Luật quốc gia đều có sự phát triển, thay đổi theo quá trình phát triển khách quan của xã hội. Vì vậy với sự phát triển và hội nhập toàn cầu như hiện nay thì mở rộng khái niệm “Luật Quốc tế” là điều cần thiết nhưng cần có sự nhìn nhận phù hợp với khoa học pháp lý của từng chế độ, từng hình thức chính trị của mỗi quốc gia

6.

Phân tích quy định của Công ước Montevideo về điều kiện để trở thành một quốc gia.

   Quốc gia là một khái niệm địa lý và chính trị, trừu tượng về tinh thần, tình cảmpháp lý,  để chỉ về một lãnh thổchủ quyền, một chính quyền và những con người của các dân tộc có trên lãnh thổ đó, họ gắn kết với nhau bằng luật pháp, quyền lợi, văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo… họ cùng nhau xây dựng một tương lai chung trên vùng lãnh thổ có chủ quyền.

 Những yếu tố chính dẫn đến sự hình thành quốc gia:

-

lãnh thổ xác định: đây là yếu tố cơ bản để hình thành nên quốc gia. Nếu không có lãnh thổ thì sẽ đồng nghĩa với việc không có quốc gia. Lãnh thổ được coi là cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia, nó cũng là ranh giới để xác định chủ quyền đối với dân cư của mình.

-

cộng đồng dân cư ổn định: có nghĩa là những người sinh sống ổn định (không phải là những người du canh) trên lãnh thổ một quốc gia và chịu sự quản lý theo hệ thống pháp luật của quốc gia đó.

-

hệ thống chính quyền: với tư cách là đại diện cho quốc gia.

Chủ quyền của quốc gia phát sinh cùng với sự hình thành của quốc gia là thuộc tính không thể tách rời đối với quốc gia. Vì thế khi một quốc gia mới được thành lập thì quốc gia đó là chủ thể của quan hệ pháp lý quốc tế mà không phụ thuộc vào ý chí hoặc hành vi của bất kỳ chủ thể nào khác. Quyền năng chủ thể của nó tồn tại trên tất cả các lĩnh vực hoạt động và quá trình tồn tại của quốc gia, nó chỉ chấm dứt cùng với sự chấm dứt tồn tại trên thực tế của quốc gia đó mà thôi (VD: một quốc gia đang tồn tại gia nhập vào một quốc gia khác theo hình thức liên minh hoặc liên bang, hoặc một quốc gia đang tồn tại chia thành hai hay nhiều quốc gia độc lập).

-

 Có khả năng độc lập tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế: được xuất phát từ chủ quyền quốc gia khi thực hiện chức năng đối ngoại của mình.

7.

Nêu các đặc tính pháp lý của quốc gia. So sánh quyền năng chủ thể của các tổ chức quốc tế với các quốc gia

v

Khái niệm:

   Trong thời đại ngày nay, tổ chức quốc tế giữ vai trò quan trọng trong việc hợp tác quốc tế, giải quyết các vấn đề quốc tế quan trọng, duy trì hòa bình và an ninh thế giới. Tổ chức quốc tế là chủ thể của Luật Quốc tế được hiểu là tổ chức quốc tế liên chính phủ, là tổ chức do các quốc gia thành lập trên cơ sở một điều ước quốc tế nhằm thực hiện các quyền năng nhất định theo mụch đích thành lập của tổ chức đó, phù hợp với pháp luật quốc tế hiện đại.

v

Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ:

   Các tổ chức quốc tế liên chính phủ có được quyền năng chủ thể Luật Quốc tế không phải căn cứ vào “những thuộc tính tự nhiên” vốn có như quốc gia mà do thỏa thuận của những quốc gia thành viên trao cho. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ xuất hiện vào khoảng giữa thế kỉ XIX nhưng vấn đề quyền năng chủ thể luật quốc tế của thực thể này chỉ được đặt ra trong lý luận và thực tiễn sinh hoạt quốc tế từ nửa đầu thế kỷ XX. Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ dựa trên điều kiện (hiến chương, quy chế…) của mỗi tổ chức, trong đó quy định rõ phạm vi quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ chức này. Như vậy, các tổ chức quốc tế liên chính phủ khác nhau thì sẽ có những phạm vi quyền năng chủ thể Luật Quốc tế không giống nhau

   Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế của quốc gia bao gồm quyền và nghĩa vụ mà quốc gia có được khi tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế. Nội dung các quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản của quốc gia được hình thành và phát triển tương ứng với sự phát triển ngày càng tiến bộ của Luật Quốc tế.

·

Các quyền quốc tế cơ bản của quốc gia bao gồm:

-

Quyền bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi.

-

Quyền được tự vệ cá nhân hoặc tự vệ tập thể.

-

Quyền được tồn tại trong hòa bình và độc lập.

-

Quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ.

-

Quyền được tham gia vào các quy phạm của Luật Quốc tế.

-

Quyền được tự do quan hệ với các chủ thể khác của Luật Quốc tế.

-

Quyền được trở thành hội viên của tổ chức quốc tế phổ biến.

·

Các nghĩa vụ quốc tế cơ bản của quốc gia bao gồm:

-

Nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền của các quốc gia khác.

-

Nghĩa vụ tôn trọng sự bất khả xâm phạm lãnh thổ của các quốc gia khác.

-

Nghĩa vụ không dùng sức mạnhđe dọa dùng sức mạnh trong quan hệ quốc tế.

-

Nghĩa vụ không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.

-

Nghĩa vụ tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế.

-

Nghĩa vụ tôn trọng những quy phạm mang tính chất mệnh lệnh và những cam kết quốc tế.

Ø

Các quốc gia có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong sinh hoạt quốc tế một cách độc lập theo ý chí của mình hoặc bằng cách hợp tác với các quốc gia khác.

v

Ưu nhược điểm

QĐTT:

·

Ưu điểm:

   Đây được coi là quan điểm chính thống của các nước XHCN, chủ thể của Luật Quốc tế chỉ là Quốc gia, các Tổ chức Quốc tế Liên Chính Phủ, các Dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và các chủ thể đặc biệt khác.

   Đưa ra được các tiêu chí để đánh giá đâu là chủ thể của Luật Quốc tế, phân định rõ ràng giữa các chủ thể, không mơ hồ hay gây nhầm lẫn.

   Quốc gia là chủ thể cơ bản của Luật Quốc tế có một số lượng xác định, sự thay đổi về số lượng các quốc gia không lớn, mặt khác Quốc gia “không di động” giúp dễ dàng kiểm soát trong việc Quốc gia tuân thủ các Điều ước quốc tế đa phương như Hiến chương Liên Hợp Quốc, Luật biển Quốc tế…

   Các chủ thể của Luật Quốc tế có một địa vị pháp lí ngang bằng nhau trong các Điều ước Quốc tế song phương hay đa phương mà họ kí kết hay tham gia do đó khi thực hiện các Điều ước này họ ý thức được nghĩa vụ và quyền lợi của mình.

   Về mặt hình thức theo quan điểm này thì chủ thể Luật Quốc Tế được định nghĩa rõ ràng, có những đặc điểm nhận biết riêng biệt tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc các chủ thể này kí kết ĐƯQT hoặc tham gia ĐƯQT; ta có thể nhận biết đâu là chủ thể Luật Quốc tế khi dựa vào các định nghĩa và đặc điểm này.

·

Nhược điểm:

   Không đa dạng loại chủ thể, không công nhận cá nhân và pháp nhân là chủ thể của Luật Quốc tế nên dẫn đến một số vụ việc không giải quyết được làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những chủ thể này như vụ các nạn nhân Việt Nam bị nhiễm chất độc màu da cam kiện các công ty hóa chất Mỹ.

   Xã hội luôn vận động phát triển, đang thay đổi từng ngày mà quan điểm này là một quan điểm “cứng nhắc” nên có thể nó không còn phù hợp cho xã hội ngày nay nữa.

II.

Nguồn của LQT

8.

Hãy giải thích khái niệm nguồn của LQT (phân biệt với nghĩa của từ “nguồn” trong ngôn ngữ thông thường). Cho ví dụ minh họa về nguồn của một số ngành luật quốc tế cụ thể.

+) Nguồn trong ngôn ngữ thông thường là nguồn gốc, nguyên nhân dẫn đến một sự vật, hiện tượng. VD: Nguồn gốc của loài người là quá trình tiến hóa từ.vượn.thành.người.

Nguồn của luật quốc tế liên quan tới quan hệ pháp luật quốc tế và quá trình thực thi LQT

Về pháp lý, nguồn của luật quốc tế là hình thức chứa đựng hoặc biểu hiện quy phạm pháp lý quốc tế

Có 2 loại nguồn là nguồn: thành văn(điều ước quốc tế) và bất thành văn (tập quán quốc tế)

·

Theo nghĩa hẹp:

 N

guồn là hình thức chứa đựng, ghi nhận các nguyên tắc, các quy phạm pháp lý quốc tế nhằm xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp lý quốc tế. Theo đó, LQT gồm 2 loại nguồn cơ bản là điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.

·

Theo nghĩa rộng:

N

guồn của LQT là tất cả những cái mà cơ quan có thẩm quyền có thể dựa vào đó để đưa ra các quyết định pháp luật.

9.

Phân tích ý nghĩa của Điều 38 Quy chế TAQT.

Khi nào Điều 38 được áp dụng?

Điều 38 Quy chế TAQT:

1Tòa án với chức năng giải quyết phù hợp với luật quốc tế,các vụ tranh chấp được chuyển đến Tòa án, sẽ áp dụng:

Các ĐƯQT chung hoặc riêng, đã quy định các nguyên tắc được các bên tranh chấp thừa nhận.

Các tập quán quốc tế như những chứng cứ thực tiễn chung được thừa nhận như những quy phạm pháp luật.

Nguyên tắc chung của luật được các quốc gia văn minh thừa nhận.

Với cá điều kiện nêu ở điều 59, các án lệ, các học thuyết của các chuyên gia có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế của cá quốc gia khác nhau được coi là phương tiện để xác định quy phạm pháp luật.

 Điều 59: Phán quyết của tòa án chỉ có hiệu lực với cá quốc gia tham gia vào vụ tranh chấp và coi trọng vụ tranh chấp đó.

   2 Quy định này không nằm ngoài quyền giải quyết vụ việc của tòa án nếu các bên thỏa thuận điều này.

Phân tích ý nghĩa của điều 38 Quy chế TAQT:

Điều 38(1) Quy chế tòa án công lý quốc tế đã đưa ra danh sách các nguồn truyền thống của LQT như: các công ước quốc tế chung hoặc cụ thể, tập quán quốc tế, các nguyên tắc cơ bản của LQT, các quyết định của tòa án và các bài giảng của các học giả có chuyên môn cao.

 Tuy vậy, Điều 38(1) chưa đề cập một cách đầy đủ các loại nguồn bổ trợ của luật quốc tế. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, ngoài các loại nguồn đã nêu trong điều 38(1) các chủ thể LQT còn thừa nhận một số các nguồn khác, có tính chất là nguồn bổ trợ cho nguồn cơ bản của LQT như: Nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ, hành vi pháp lý đơn phương của các quốc gia...Do đó, ngoài điều 38(1), thực tiễn áp dụng nguồn của các chủ thể LQT cũng là cơ sở để hình thành các loại nguồn của LQT.

10.

Phân tích nội dung Điều 38 Quy chế TAQT về nguồn chính thức(cơ bản) và nguồn bổ trợ của LQT.

2 loại nguồn

- Nguồn cơ bản: chủ yếu bao gồm điều ước quốc tế (nguồn thành văn) và tập quán quốc tế (nguồn bất thành văn).

- Nguồn bổ trợ: đây là các phương tiện bổ trợ nguồn của LQT, chúng bao gồm các phán quyết của tòa án công lý quốc tế, các nguyên tắc pháp luật chung, nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ, hành vi pháp lý đơn phương của các quốc gia, các học thuyết của các học giả danh tiếng về LQT.

a.

Nguồn cơ bản

v

Điều ước quốc tế

·

Khái niệm:

Theo Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước quốc tế ký kết giữa các quốc gia thì điều ước quốc tế được xác định là "một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và với bất kể tên gọi riêng của nó là gì".

Như vậy, với tư cách là nguồn cơ bản của LQT, điều ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các chủ thể của LQT với nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm thiết lập những quy tắc pháp lý bắt buộc gọi là những quy phạm LQT, để ấn định, thay đổi hoặc hủy bỏ những quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Trong quan hệ quốc tế hiện nay, điều ước quốc tế chủ yếu được trình bày dưới dạng thành văn, nhưng cũng một số điều ước quốc tế chỉ là thỏa thuận miệng - đó là các điều ước quân tử. Tuy nhiên, hiện nay các điều ước quân tử hầu như rất ít xuất hiện trong quan hệ giữa các chủ thể LQT.

·

Điều kiện để một điều ước quốc tế trở thành nguồn của LQT:

Không phải tất cả các điều ước quốc tế được ký kết đều là nguồn của LQT. Một điều ước muốn trở thành nguồn của LQT phải thỏa mãn các điều kiện sau:

- Điều ước đó phải được ký kết dựa trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng;

- Nội dung của điều ước phải phù hợp với những nguyên tắc cơ bản và các quy phạm Jus Cogens(Quy phạm mệnh lệnh chung) của LQT;

- Điều ước đó phải được ký kết phù hợp và tuân theo các quy định có liên quan của pháp luật của các bên ký kết về thẩm quyền và thủ tục ký kết.

(Câu hỏi: Mọi văn bản pháp lý quốc tế đều là điều ước quốc tế? Sai. Nếu văn bản pháp lý quốc tế đó không thỏa mãn 1 trong 3 điều kiện nêu trên không phải là điều ước quốc tế).

·

Ý nghĩa, vai trò của điều ước quốc tế:

Xuất phát từ bản chất của điều ước là sự thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ pháp lý quốc tế, điều ước quốc tế có ý nghĩa:

- Là hình thức pháp luật cơ bản chứa đựng các quy phạm LQT để xây dựng và ổn định các cơ sở pháp luật cho các quan hệ pháp luật quốc tế hình thành và phát triển.

- Là công cụ, phương tiện quan trọng để duy trì và tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế giữa các chủ thể.

- Là đảm bảo pháp lý quan trọng cho quyền lợi và lợi ích hợp pháp của chủ thể LQT.

- Là công cụ để xây dựng khung pháp luật quốc tế hiện đại, cũng như để tiến hành hiệu quả việc pháp điển hóa LQT.

v

Tập quán quốc tế

·

Định nghĩa:

So với điều ước quốc tế, tập quán quốc tế ra đời sớm hơn. Đó là những quy tắc xử sự chung ban đầu do một hay một số quốc gia đưa ra và áp dụng trong quan hệ với nhau. Sau một quá trình áp dụng lâu dài, rộng rãi và được nhiều quốc gia thừa nhận như những qui phạm pháp lý nên những qui tắc xử sự đó đã trở thành tập quán quốc tế. Vậy, tập quán quốc tế là những qui tắc xử sự chung, hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể của luật quốc tế thừa nhận rộng rãi là những qui tắc có tính chất pháp lý bắt buộc.

VD: Hành vi phóng tàu vũ trụ qua không phận của các nước láng giềng được được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần cộng đồng quốc tế thừa nhận là hành vi không cần xin phép và trở thành tập quán quốc tế.

·

 Đặc điểm:

Từ định nghĩa nêu trên, chúng ta có thể thấy tập quán quốc tế có những đặc điểm sau:

- Về hình thức: Quy phạm tập quán quốc tế tồn tại dưới dạng các hành vi xử sự của các chủ thể LQT. Do đó, tập quán quốc tế luôn ở dạng bất thành văn.

- Về nội dung: tập quán quốc tế có nội dung là các nguyên tắc và quy phạm tập quán quốc tế, chứa đựng các quy tắc điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể LQT. Quy phạm tập quán quốc tế được cấu tạo bởi 3 bộ phận là giả định, quy định và chế tài. Giả định là những yếu tố tạo nên hoàn cảnh thực tiễn. Quy định là tổng thể hành vi mà chủ thể LQT thực hiện. Khả năng phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế khi các chủ thể này xử sự không đúng, hoặc không đầy đủ yêu cầu của quy phạm tập quán quốc tế là chế tài của quy phạm tập quán quốc tế.

- Về chủ thể: Chủ thể của quy phạm tập quán quốc tế là chủ thể của LQT.

- Quá trình hình thành: Không thông qua hành vi ký kết mà nó được hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được sự thừa nhận của các chủ thể LQT.

 Các con đường hình thành tập quán quốc tế: Quá trình hình thành tập quán quốc tế rất lâu dài và đòi hỏi phải có sự liên tục. Không có một thước đo chung cho thời gian hình thành các tập quán, có thể là 50-100 năm, hoặc nhiều hơn nữa, thậm chí hàng trăm năm. Tuy nhiên, tập quán quốc tế chủ yếu hình thành theo các con đường sau:

- Con đường truyền thống

: hình thành từ thực tiễn quan hệ quốc tế

VD: Các qui định liên quan đến quan hệ ngoại giao, lãnh sự cũng hình thành từ nhu cầu bang giao giữa các quốc gia trên thế giới.

- Từ thực tiễn thực hiện các nghị quyết có tính chất khuyến nghị của các tổ chức quốc tế.

VD: Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ số 3314 ngày 14/12/1974 đã chỉ rõ hành vi xâm lược là hành vi của quốc gia này sử dụng bất hợp pháp lực lượng vũ trang để tấn công vào lãnh thổ quốc gia khác...việc các quốc gia đồng tình với nghị quyết trên về định nghĩa xâm lược đã thể hiện sự thừa nhận hiệu lực thực tế của nghị quyết, để từ đó các quốc gia hành động theo những chuẩn mực được quy định trong nghị quyết này. Điều này cũng có nghĩa là các quốc gia đã thừa nhận áp dụng áp dụng tập quán quốc tế mới với tư cách là quy phạm pháp lý ràng buộc mình.

- Từ thực tiễn thực hiện các phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế

VD: Vụ tranh chấp giữa Nauy và Anh về quyền đánh cá trong khu vực biển ngoài khơi Nauy đã hình thành nên tập quán quốc tế về cách thức xác định đường cơ sở thẳng.

- Hình thành từ một tiền lệ duy nhất

VD: Năm 1975, Liên Xô là nước đầu tiên phóng tàu vào vũ trụ. Sự im lặng đồng tình của các quốc gia cũng đồng nghĩa với sự công nhận một quy phạm tập quán mới của LQT, đó là quy phạm tập quán về quyền bay qua không gây hại trong vũ trụ bên trên khoảng không lãnh thổ của các quốc gia khác.

- Hình thành từ điều ước quốc tế

: Từ điều ước quốc tế, tập quán quốc tế có 2 cách hình thành khác nhau:

Thứ nhất

, tập quán quốc tế được hình thành từ điều ước quốc tế được pháp điển hóa. VD: Trước khi Công ước luật Biển có hiệu lực, các quốc gia đã áp dụng như các tập quán.

Thứ hai

, tập quán quốc tế được hình thành từ thực tiễn thực hiện điều ước quốc tế của bên thứ 3.

VD: 2 quốc gia A và B thỏa thuận 1 điều ước liên quan đến việc tránh đánh thuế 2 lần, nước C thấy hợp lý nên áp dụng các quy định trong điều ước này. Các quy định được C áp dụng với tư cách là quy phạm tập quán.

·

 Ý nghĩa, vai trò của tập quán quốc tế:

- Góp phần quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển các quy phạm LQT.

- Điều chỉnh hiệu quả các quan hệ pháp luật quốc tế phát sinh giữa các chủ thể LQT.

 Điều kiện để một tập quán trở thành nguồn của LQT: Không phải qui tắc xử sự nào hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế cũng trở thành nguồn của LQT. Những tập quán là nguồn của LQT phải thỏa mãn các điều kiện sau:

- Quy tắc xử sự được coi là tập quán quốc tế phải lặp đi lặp lại nhiều lần, trong một thời gian dài liên tục và được các quốc gia thỏa thuận thừa nhận hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với mình.

- Phải là quy tắc xử sự chung, hình thành trong quan hệ giữa các quốc gia, được các quốc gia tuân thủ và áp dụng một cách tự nguyện..

- Quy tắc xử sự đó phải có nội dung phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của LQT.

b.

Các nguồn bổ trợ của LQT

v

Nguyên tắc pháp luật chung

Đây là các nguyên tắc pháp lý được cả pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế thừa nhận và được áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia (theo điều 38(1) Quy chế tòa án công lý quốc tế). VD: nguyên tắc gây thiệt hạit hì phải bồi thường, nguyên tắc không ai là quan tòa chính trong vụ việc của mình...trong thực tiễn, nguyên tắc pháp luật chung chỉ áp dụng sau điều ước quốc tế và tập quán quốc tế với ý nghĩa để giải thích hay làm sáng tỏ nội dung của quy phạm LQT

v

Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế

- Trong đời sống quốc tế, tồn tại nhiều loại tòa án khác nhau như: Tòa án công lý quốc tế của Liên hợp quốc, Tòa án nhân quyền Châu Âu, Tòa án luật biển, Tòa án Châu Âu...Tuy nhiên, khi nói đến phán quyết của tòa án với vai trò là nguồn bổ trợ của LQT, chúng ta chủ yếu đề cập đến các phán quyết của tòa án công lý quốc tế.

- Bản thân các phán quyết là kết quả của quá trình áp dụng pháp luật của tòa án trong quá trình giải quyết tranh chấp quốc tế, và các quyết định tài phán này chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Điều 59 Quy chế Tòa án quy định "Quyết định của tòa án có giá trị bắt buộc chỉ đối với các bên tham gia vụ án và chỉ đối với các vụ án cụ thể đó". Sở dĩ các phán quyết này không thể trở thành nguồn cơ bản của LQT vì các nguồn cơ bản phải được hình thành trên cơ sở của sự thỏa thuận giữa các chủ thể LQT.

- Vai trò của các phán quyết: Từ một quy tắc, quy phạm chưa được giải thích, còn chung chung, mơ hồ, khó hiểu, sau khi được các thẩm phán có trình độ và uy tín cao giải thích, các quy tắc, quy phạm LQT sẽ trở lên rõ ràng, sáng tỏ hơn. Đây là đóng góp quan trọng của các phán quyết của tòa án quốc tế đối với quá trình giải thích LQT và tạo tiền đề cho sự hình thành các quy phạm mới (VD: Trong vụ tranh chấp giữa Nauy và Anh. Phán quyết của tòa trong trường hợp này đã tạo tiền đề cho sự hình thành quy phạm về việc xác định đường cơ sở thẳng đối với các quốc gia có đường bờ biển khúc khuỷu trong quan hệ quốc tế liên quan đến biển).

v

Nghị quyết của các tổ chức quốc tế

- Nghị quyết: Là văn bản do các cơ quan có thẩm quyền của tổ chức quốc tế thông qua. ở đây, do LQT chỉ đề cập đến tổ chức quốc tế liên chính phủ nên các nghị quyết là nguồn bổ trợ của LQT cũng chỉ dừng lại ở các nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ, mà tiêu biểu là nghị quyết của Liên hợp quốc - tổ chức quốc tế đa phương toàn cầu lớn nhất hiện nay.

- Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ được chia làm 2 loại:

+ Nghị quyết có giá trị bắt buộc: các nghị quyết này chủ yếu quy định các vấn đề liên quan đến các đóng góp cho hoạt động cua tổ chức... những nghị quyết này sẽ là nguồn luật được viện dẫn đến để giải quyết các quan hệ phát sinh giữa các quốc gia thành viên của tổ chức đó.

+ Nghị quyết có tính chất khuyến nghị: nhằm hướng dẫn, giải thích các quy phạm LQT và thể hiện cách nhìn của tổ chức quốc tế về một vấn đề nào đó.

(Câu hỏi đặt ra: Nghị quyết của tổ chức liên chính phủ có tính chất là điều ước quốc tế và được gọi là điều ước quốc tế hay không? Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ không được gọi là điều ước quốc tế vì nghị quyết được đưa ra nhân danh một chủ thể nhất định, chứ không phải là sự thỏa thuận của các chủ thể. Do đó, mặc dù nó có giá trị bắt buộc với các quốc gia thành viên, nhưng nó không phải điều ước quốc tế.

- Trong quan hệ quốc tế, các chủ thể LQT thường quan tâm đến các nghị quyết của Liên hợp quốc vì tính chất toàn cầu của tổ chức này. Lưu ý rằng, không phải mọi nghị quyết của tổ chức liên chính phủ đều được xếp vào nhóm này, chỉ những nghị quyết chứa đựng nội dung liên quan đến các vấn đề kinh tế, xã hội...còn những nghị quyết có tính chất gây hại đến quan hệ giũa các quốc gia sẽ không được xếp vào nhóm này. (Mọi nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đều có giá trị ràng buộc với các quốc gia thành viên, ngoại trừ các nghị quyết liên quan đến hành chính và thủ tục).

v

Hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia

- Đây là những hành vi thể hiện ý chí độc lập của chủ thể LQT. Hành vi đơn phương của các quốc gia có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức: tuyên bố, công hàm, phát biểu của các vị lãnh đạo Nhà nước, tuyên bố chung...bất cứ hành vi nào cũng làm phát sinh nghĩa vụ đối với quốc gia đưa ra hành vi đó. Những nghĩa vụ đó có thể là những nghĩa vụ mang tính chính trị, đạo đức. Việc từ chối không thực hiện những cam kết đơn phương này sẽ làm giảm sút uy tín của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Hiện nay, các hành vi đơn phương ngày càng đóng vai trò quan trọng.

- Về bản chất, hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia không được coi là nguồn của luật quốc tế, vì nó không đảm bảo yếu tố "thỏa thuận" trong đó. Tuy nhiên, nó sẽ trở thành nguồn bổ trợ của luật quốc tế khi hành vi đơn phương này "có khả năng" tạo ra quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể khác trong quan hệ quốc tế.

VD: Thụy sỹ đơn phương đưa ra tuyên bố sẽ trở thành quốc gia trung lập vĩnh viễn.

 Hành vi pháp lý đơn phương của chủ thể LQT thường có các dạng sau:

+) Hành vi công nhận: là hành vi thể hiện một cách minh thị hoặc mặc thị ý định xác nhận một tình hình hoặc yêu cầu nào đó phù hợp với pháp luật.

VD: - Việt nam công nhận Đông Timo là quốc gia độc lập, có chủ quyền.

- Ngày 1/10/2008 Somali cũng tuyên bố đang tiến hành chuẩn bị các thủ tục cần thiết cho việc công nhận nền độc lập của hai khu vực mới ly khai khỏi Gruzia là Nam Ossetia và Apkhazi thông qua tuyên bố đơn phương muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với các khu vực này.

+) Hành vi cam kết: là hành vi tạo ra các nghĩa vụ pháp lý mới bằng cách đơn phương chấp nhận ràng buộc với một nghĩa vụ pháp lý quốc tế vì quyền lợi của chủ thể khác.

VD: Tuyên bố của chính phủ Ai Cập năm 1957 về việc cho phép tàu thuyền qua lại tự do trên kênh đào Xuy-ê.

+) Hành vi phản đối: là cách thức một quốc gia thể hiện ý chí không công nhận một hoàn cảnh, một yêu cầu hoặc một thái độ xử sự của chủ thể khác. Hành vi này phải được biểu thị minh thị, do cơ quan có thẩm quyền tiến hành.

VD: Phản đối hành vi công nhận nền độc lập của Nam Ossetia và Apkhazia từ phía Nga, đại diện của Mỹ (cụ thể là tổng thống và ngoại trưởng Mỹ) đã phát biểu công khai yêu cầu Nga phải xem xét lại hành vi công nhận của mình và cho rằng việc Nga công nhận nền độc lập của 2 khu vực này là đi ngược lại với các qui định của pháp luật quốc tế, đồng thời Mỹ cũng đưa ra tuyến bố rằng sẽ sử dụng quyền phủ quyết của mình để ngăn chặn mọi xử sự không phù hợp của Nga nhằm công nhận hoặc thiết lập quan hệ với 2 khu vực này.

+) Hành vi từ bỏ: là hành vi thể hiện ý chí độc lập của chủ thể tự nguyện từ bỏ các quyền hạn nhất định.

VD: Trường hợp của Thụy sỹ, hoặc Nhật bản sau chiến tranh thế giới thứ II đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của mình đối với quần đảo Fonmôsa.

v

Các học thuyết của các học giả danh tiếng về LQT

- Các học thuyết về LQT là những tư tưởng, quan điểm thể hiện trong các công trình nghiên cứu, tác phẩm và kết luận của các tác giả về những vấn đề lý luận cơ bản của LQT. Do vậy, trong các học thuyết này đôi khi lại đưa ra các kiến giải góp phần làm sáng tỏ nội dung của các quy phạm pháp luật quốc tế và giúp các chủ thể LQT áp dụng chúng dễ dàng hơn.

- Các học thuyết của các học giả danh tiếng về LQT không phải là nguồn cơ bản của LQT vì: chúng không phải văn bản pháp lý ràng buộc các quốc gia, không thể hiện ý chí của các quốc gia được nâng lên thành luật; bản thân các học thuyết này không chứa đựng các quy phạm pháp luật làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho các quốc gia; chúng không được áp dụng một cách thường xuyên trong quan hệ quốc tế. Tuy vậy, các học thuyết này được coi là nguồn bổ trợ của LQT vì những ảnh hưởng tích cực của chúng đến quá trình phát triển của LQT và quá trình nhận thức của con người về khoa học luật quốc tế.

VD: Các luận điểm trong tác phẩm "Biển quốc tế" của tác giả Hugues Grotius có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình xây dựng Luật biển quốc tế.

11.

So sánh TQQT với ĐUQT, phân tích mối quan hệ giữa hai loại nguồn này.

Vấn đề nguồn của luật quốc tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về pháp lý và thực tiễn vì nó liên quan chặt chẽ đến việc xác định sự hình thành của quan hệ pháp luật quốc tế nói riêng và quá trình thực thi luật quốc tế nói chung.

Về mặt pháp lý, nguồn của luật quốc tế là hình thức chứa đựng các quy phạm luật quốc tế. Căn cứ khoản 1 Điều 38 Quy chế tòa án công lý quốc tế thì nguồn của Luật Quốc tế gồm:

- Điều ước quốc tế ( ĐƯQT);

- Tập quán quốc tế ( TQQT);

- Các nguyên tắc pháp luật chung;

- Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế;

- Học thuyết của các luật gia danh tiếng về luật quốc tế.

Tuy nhiên, khoản 1 Điều 38 chưa phản ánh hết các nguồn, căn cứ thực tiễn, nguồn của Luật Quốc tế còn bao gồm các nghị quyết của tổ chức quốc tế và hành vi pháp lý đơn phương của các quốc gia.

Trong các loại nguồn trên thì điều ước quốc tế và tập quán quốc tế có thể coi là hai loại nguồn chính yếu và quan trọng nhất, giữa chúng có những điểm tương đồng và khác biệt cụ thể ra sao, bài viết này xin được làm rõ.

v

Khái niệm

- Theo công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế và Luật về ký kết gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế năm 2005 của Việt Nam thì “ Điều ước quốc tế là văn bản ghi nhận thỏa thuận của các chủ thể luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào tên gọi của văn bản cũng như không phụ thuộc vào việc nó được ghi nhận trong một hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau”.

- “Tập quán quốc tế là hình thức pháp lý chứa đựng quy tắc xử sự chung, hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể luật quốc tế thừa nhận là luật”.

v

Sự giống nhau

- Chủ thể của điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều là chủ thể của luật quốc tế nói chung.

- Cả điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều chứa đựng các quy tắc xử sự điều chỉnh các quan hệ của luật quốc tế. Để trở thành nguồn của luật quốc tế thì đương nhiên, điều ước quốc tế, tập quán quốc tế hay bất kỳ loại nguồn nào khác cũng đều phải chứa đựng cá quy tắc xử sự, điều chỉnh các quan hệ quốc tế.

- Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều hình thành bằng con đường thỏa thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế. Như đã biết, thỏa thuận chính là bản chất của luật quốc tế, trên cơ sở cân nhắc về lợi ích của chính mình mà các chủ thể của luật quốc tế ký kết, tham gia các điều ước quốc tế, cũng như áp dụng một tập quán quốc tế nào đó.

- Đều có hiệu lực pháp lý bắt buộc.

v

Sự khác nhau

·

Về con đường hình thành.

- Điều ước quốc tế: được hình thành bởi hai hay nhiều chủ thể của luật quốc tế, luật áp dụng trong quá trình đàm phán ký kết điều ước quốc tế là luật quốc tế ( công ước Viên 1969, công ước Viên 1986 về Luật ký kết điều ước quốc tế giữa quốc gia với tổ chức quốc tế, giữa tổ chức quốc tế với nhau).Ngoài ra,cũng có thể dùng tập quán quốc tế để điều chỉnh. Một thỏa thuận quốc tế giữa hai chủ thể luật quốc tế nếu được điều chỉnh bằng luật quốc gia sẽ không có giá trị pháp lý là điều ước quốc tế. Trình tự ký kết một điều ước quốc tế giai đoạn:

+ Giai đoạn hình thành văn bản dự thảo điều ước gồm có đàm phán, soạn thảo và thông qua văn bản. Việc thông qua văn bản tùy theo mức độ quan trọng mà áp dụng một trong các nguyên tắc : nguyên tắc đa số, nguyên tắc nhất trí, hoặc nguyên tắc đồng thuận. Sau khi thông qua, điều ước quốc tế chưa có hiệu lực ngay mà bước này chỉ có ý nghĩa xác thực cá nội dung kết quả của quá trình đàm phán, từ lúc này, văn bản không bị sửa đổi.

+ Giai đoạn các quốc gia thực hiện các hành vi ràng buộc của quốc gia với điều ước quốc tế, từ giai đoạn này điều ước quốc tế mới phát sinh hiệu lực. Việc thực hiện hành vi ràng buộc có thể là ký điều ước quốc tế;phê chuẩn hoặcyệt điều ước quốc tế; hành vi gia nhập điều ước quốc tế.

- Tập quán quốc tế : sự hình thành đa dạng hơn điều ước quốc tế.

Nếu như các quy phạm tập quán quốc tế trước đây phải trải qua quá trình hình thành lâu dài thì nay lại được hình thành rất nhanh chóng, trong một thời gian ngắn nhất do điều kiện thông tin liên lạc của các quốc gia ngày càng hiện đại.

Với tư cách là nguồn của luật quốc tế, tập quán quốc tế được hình thành bởi các con đường sau:

Hình thành từ nghị quyết của tổ chức quốc tế; từ một tiền lệ duy nhất; từ hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia và cuối cùng là từ điều ước quốc tế.

Từ điều ước quốc tế, tập quán quốc tế có 2 cách hình thành khác nhau:

+)Thứ nhất, tập quán quốc tế hình thành từ điều ước quốc tế được pháp điển hóa.

+)Thứ hai, có những điều ước quốc tế phổ cập gồm các quy phạm của luật quốc tế chung, có sự tham gia của đại đa số các quốc gia trên thế giới, các quốc gia không phải thành viên trong quan hệ với các quốc gia khác thường áp dụng quy phạm điều ước với tư cách là quy phạm tập quán.

·

Về hình thức

- Điều ước quốc tế : hình thức của Điều ước quốc tế là văn bản (đôi khi cũng có thể chấp nhận hình thức khác), tên của văn bản này thì không được quy định cụ thể, gồm có Công ước, Hiệp ước, Nghị định thư, Hiến chương, Quy chế. Các văn bản này có giá trị pháp lý như nhau.

- Tập quán quốc tế :Trong luật quốc tế hiện đại tồn tại hai quy phạm tập quán quốc tế:

Loại thứ nhất mang tính truyền thống, bao gồm các quy tắc xử sự không thành văn, hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các quốc gia thừa nhận hiệu lực pháp lý ràng buộc của mình

Loại thứ hai bao gồm các quy tắc xử sự được ghi nhận trong một số văn kiện, được các quốc gia thừa nhận hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với mình với tư cách là tập quán pháp lý quốc tế.

·

Về hiệu lực pháp lý

Về mặt lý luận, điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều có giá trị pháp lý như nhau, việc áp dụng loại quy phạm nào của luật quốc tế là tùy thuộc vào từng lĩnh vực và từng mối quan hệ cụ thể, từng sự ràng buộc cụ thể có tính chất pháp lý của mỗi quốc gia với loại quy phạm nào đó.

b.

 (Câu hỏi đặt ra:

1.

Trong cùng một vấn đề, nếu tồn tại cả điều ước quốc tế và tập quán quốc tế điều chỉnh thì áp dụng nguồn nào? Tại sao? Về nguyên tắc, việc chọn áp dụng nguồn nào là do các bên thỏa thuận lựa chọn áp dụng. Tuy nhiên, trong thực tiễn quan hệ quốc tế, nếu có sự xung đột pháp luật giữa hai loại nguồn này, các bên hữu quan thường sẽ thỏa thuận để áp dụng các quy phạm điều ước vì các quy phạm thể hiện trong điều ước quốc tế rõ ràng hơn, minh bạch hơn và mức độ ràng buộc trách nhiệm cao hơn so với tập quán quốc tế. Trong điều 38(1) Quy chế tòa án công lý quốc tế có đưa ra một trật tự áp dụng các nguồn của LQT, theo đó điều ước sẽ được áp dụng trước sau đó mới đến tập quán. Điều này không tạo ra sự bất hợp lý, vì tòa án công lý quốc tế vốn không có thẩm quyền đương nhiên, mà được các quốc gia thỏa thuận trao quyền. Do đó, việc đưa tranh chấp ra giải quyết tại tòa là do sự tự nguyện đồng ý đưa tranh chấp ra giải quyết tại tòa cũng đồng nghĩa với của các bên việc các bên chấp nhận quy chế của tòa.

2.

Khi một tập quán được pháp điển hóa vào một điều ước thì tập quán đó có còn tồn tại với tư cách tập quán hay không? Tập quán đó vẫn tồn tại. Trong vụ các hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragoa và chống lại Nicaragoa, Tòa án quốc tế đã đưa ra nhận định (cũng có thể coi là lời giải thích cho vị trí của tập quán quốc tế trong trường hợp này) rằng "việc các nguyên tắc tập quán được pháp điển hóa hoặc được đưa vào các điều ước quốc tế đa phương không thể nói rằng chúng đã chấm dứt tồn tại và được áp dụng như là những nguyên tắc của tập quán quốc tế, ngay cả với các quốc gia là thành viên của các công ước đó".

VD: nguyên tắc tự do biển cả, dù được pháp điển hóa trở thành nguyên tắc cơ bản của Công ước Luật Biển 1982 nhưng nó vẫn tồn tại với tư cách là tập quán quốc tế.

3.

Trong quan hệ quốc tế hiện đại, với sự gia tăng các hình thức điều ước như hiện nay, có khi nào tập quán mất vai trò của mình và bị thay thế hoàn toàn bằng các điều ước hay không? Điều ước quốc tế dù hiện đại đến đâu cũng không thay thế được sự tồn tại của các tập quán quốc tế. Đây là 2 loại nguồn có sự độc lập nhất định và tồn tại trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Nhiều điều ước quốc tế có thời hạn 5năm, 10 năm hay nhiều hơn, khi hết hiệu lực này điều ước không còn tồn tại, và nếu các bên vẫn muốn áp dụng những quy định trong điều ước mà không muốn ký kết điều ước các quy định trong điều ước được áp dụng sẽ trở thành tập quán quốc tế. )

12.

Khái niệm nguồn bổ trợ của LQT được hiểu như thế nào? Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ có được quy định là nguồn bổ trợ của LQT không?

Nguồn bổ trợ là các phương tiện bổ trợ nguồn của LQT, chúng bao gồm các phán quyết của tòa án công lý quốc tế, các nguyên tắc pháp luật chung, nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ, hành vi pháp lý đơn phương của các quốc gia, các học thuyết của các học giả danh tiếng về LQT.

Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ là nguồn bổ trợ của LQT

.

Nghị quyết: Là văn bản do các cơ quan có thẩm quyền của tổ chức quốc tế thông qua. ở đây, do LQT chỉ đề cập đến tổ chức quốc tế liên chính phủ nên các nghị quyết là nguồn bổ trợ của LQT cũng chỉ dừng lại ở các nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ, mà tiêu biểu là nghị quyết của Liên hợp quốc - tổ chức quốc tế đa phương toàn cầu lớn nhất hiện nay.

13.

Tập quán quốc tế là gì? Việc xác định TQQT được dựa trên những yếu tố cơ bản nào?

v

Định nghĩa:

So với điều ước quốc tế, tập quán quốc tế ra đời sớm hơn. Đó là những quy tắc xử sự chung ban đầu do một hay một số quốc gia đưa ra và áp dụng trong quan hệ với nhau. Sau một quá trình áp dụng lâu dài, rộng rãi và được nhiều quốc gia thừa nhận như những qui phạm pháp lý nên những qui tắc xử sự đó đã trở thành tập quán quốc tế. Vậy, tập quán quốc tế là những qui tắc xử sự chung, hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể của luật quốc tế thừa nhận rộng rãi là những qui tắc có tính chất pháp lý bắt buộc.

VD: Hành vi phóng tàu vũ trụ qua không phận của các nước láng giềng được

"

được cộng đồng quốc tế thừa nhận là hành vi không cần xin phép áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần và trở thành tập quán quốc tế.

v

Để xác định TQQT cần dựa trên các yểu tố sau:

·

Về hình thức:

Quy phạm tập quán quốc tế tồn tại dưới dạng các hành vi xử sự của các chủ thể LQT.

Do đó, tập quán quốc tế luôn ở dạng bất thành văn.

·

Về nội dung:

Tập quán quốc tế có nội dung là các nguyên tắc và quy phạm tập quán quốc tế, chứa đựng các quy tắc điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể LQT. Quy phạm tập quán quốc tế được cấu tạo bởi 3 bộ phận là giả định, quy định và chế tài. Giả định là những yếu tố tạo nên hoàn cảnh thực tiễn. Quy định là tổng thể hành vi mà chủ thể LQT thực hiện. Khả năng phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế khi các chủ thể này xử sự không đúng, hoặc không đầy đủ yêu cầu của quy phạm tập quán quốc tế là chế tài của quy phạm tập quán quốc tế.

·

Về chủ thể:

Chủ thể của quy phạm tập quán quốc tế là chủ thể của LQT.

·

Quá trình hình thành:

Không thông qua hành vi ký kết mà nó được hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được sự thừa nhận của các chủ thể LQT.

14.

 Phân tích các yếu tố vật chất góp phần hình thành một TQQT.

 Các con đường hình thành tập quán quốc tế:

Quá trình hình thành tập quán quốc tế rất lâu dài và đòi hỏi phải có sự liên tục. Không có một thước đo chung cho thời gian hình thành các tập quán, có thể là 50-100 năm, hoặc nhiều hơn nữa, thậm chí hàng trăm năm. Tuy nhiên, tập quán quốc tế chủ yếu hình thành theo các con đường sau:

+

Con đường truyền thống: hình thành từ thực tiễn quan hệ quốc tế

VD: Các qui định liên quan đến quan hệ ngoại giao, lãnh sự cũng hình thành từ nhu cầu bang giao giữa các quốc gia trên thế giới.

+Từ thực tiễn

thực hiện các nghị quyết có tính chất khuyến nghị của các tổ chức quốc tế.

VD: Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ số 3314 ngày 14/12/1974 đã chỉ rõ hành vi xâm lược là hành vi của quốc gia này sử dụng bất hợp pháp lực lượng vũ trang để tấn công vào lãnh thổ quốc gia khác...việc các quốc gia đồng tình với nghị quyết trên về định nghĩa xâm lược đã thể hiện sự thừa nhận hiệu lực thực tế của nghị quyết, để từ đó các quốc gia hành động theo những chuẩn mực được quy định trong nghị quyết này. Điều này cũng có nghĩa là các quốc gia đã thừa nhận áp dụng áp dụng tập quán quốc tế mới với tư cách là quy phạm pháp lý ràng buộc mình.

+Từ thực tiễn thực hiện

các phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế

VD: Vụ tranh chấp giữa Nauy và Anh về quyền đánh cá trong khu vực biển ngoài khơi Nauy đã hình thành nên tập quán quốc tế về cách thức xác định đường cơ sở thẳng.

+ Hình thành từ một tiền lệ duy nhất

VD: Năm 1975, Liên Xô là nước đầu tiên phóng tàu vào vũ trụ. Sự im lặng đồng tình của các quốc gia cũng đồng nghĩa với sự công nhận một quy phạm tập quán mới của LQT, đó là quy phạm tập quán về quyền bay qua không gây hại trong vũ trụ bên trên khoảng không lãnh thổ của các quốc gia khác.

+ Hình thành từ điều ước quốc tế: Từ điều ước quốc tế, tập quán quốc tế có 2 cách hình thành khác nhau: Thứ nhất, tập quán quốc tế được hình thành từ điều ước quốc tế được pháp điển hóa. VD: Trước khi Công ước luật Biển có hiệu lực, các quốc gia đã áp dụng như các tập quán.

Thứ hai, tập quán quốc tế được hình thành từ thực tiễn thực hiện điều ước quốc tế của bên thứ 3.

VD: 2 quốc gia A và B thỏa thuận 1 điều ước liên quan đến việc tránh đánh thuế 2 lần, nước C thấy hợp lý nên áp dụng các quy định trong điều ước này. Các quy định được C áp dụng với tư cách là quy phạm tập quán.

15.

Opinio juris là gì và liên quan như thế nào đến việc xác định TQQT?

Opinio juris là quy phạm pháp lý bắt buộc.

Theo đ

iều 38, Khoản 1, Điểm b, Quy chế Tòa án Quốc tế quy định 2 yếu tố hình thành tập quán quốc tế là sự áp dụng thường xuyên của quốc gia và được thừa nhận là quy phạm pháp lý bắt buộc (opinio juris).

Tuy nhiên, nội dung của Điều 38, hướng dẫn Tòa án Quốc tế áp dụng tập quán quốc tế đã được thừa nhận là quy phạm pháp luật, bị chỉ trích đã đảo ngược tiến trình hình thành tập quán. Vì vậy, trong tranh chấp thềm lục địa Libya – Malta (Libya – Malta Continental Shelf Case) 1, Tòa án Quốc tế nhận xét trước hết phải có sự áp dụng của các quốc gia và sự thừa nhận là quy phạm pháp lý bắt buộc thì tập quán mới được hình thành. Như vậy, cần lưu ý rằng cả hai yếu tố này phải được bảo đảm trước khi một tập quán có giá trị ràng buộc toàn cầu, khu vực hoặc giữa một số quốc gia liên quan đến tiến trình hình thành tập quán. Trong trường hợp không thể hiện rõ ràng ý định thừa nhận, sự áp dụng thường xuyên của các quốc gia phải được xem xét có xuất phát từ sự tán thành của quốc gia hay không.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro