ho bieu chanh 5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ðoạn tình

Chương 1

C

hẳng luận người Việt Nam, người Pháp hay người Tàu, ai có xe hơi thảy đều biết hãng "Thuần Hòa" ở Sài Gòn, tại đường Phan Thanh Giản. Hãng ấy choán trọn một dãy phố 5 căn: căn đầu thì bán vỏ ruột cùng các đồ phụ tùng xe hơi; căn kế đó thì chia phòng cho ông Chủ hãng với mấy thầy cô làm việc giấy; còn ba căn chót thì chứa mười mấy cái xe hơi mới tinh để bán, lớn có nhỏ có, thứ nào cũng đẹp.

Ở phía sau lại còn có một cái xưởng rộng lớn, trong ấy có đủ máy để sơn xe và tiện hoặc đúc các đồ phụ tùng theo máy móc xe hơi.

Thầy thợ trong hãng đông đầy, mà khách tới mua đồ, coi xe hoặc sửa xe cũng nườm nượp, trước hãng thường có đôi ba chiếc xe hơi đậu luôn luôn.

Một buổi chiều, Thuần là chủ hãng, mình mặc áo sơ mi cụt tay, đi qua đi lại một mình trong phòng làm việc, bộ như suy nghĩ một việc gì quan hệ lắm vậy. Thuần mới 28 tuổi, lại nhờ hồi nhỏ có tập luyện thể thao nhiều, nên vai ngực nở nang, tay chân cứng cỏi, tướng mạo coi rất mạnh mẽ. Thuần không ưa nói nhiều, song ưa suy nghĩ. Gương mặt nghiệm nghị mà ôn Hòa vui vẻ, làm cho ai ngó thấy cũng biết liền là người chân chất mà quyết đoán. Chuông điện thoại reo reng reng. Thuần bước lại đứng dựa bàn viết, một tay thọc vào túi quần tây, một tay nắm ống dây thép nói kề vào tai mà nghe rồi nói: "A lô!... Phải, đây là hãng Thuần Hòa... Phải tôi.... Còn tôi được hân hạnh mà nghe ai nói đó?.. À! Tôi kính chào ngài... À... được, được lắm... Ngài nói chỗ nào?... Ðường Quản Hạt số 1, chỗ Gò Ðôi? Tôi biết, tôi biết, đường đi Tây Ninh, khỏi ngã ba Bà Ðiểm một chút đó mà... Ðược, tôi sẽ biểu đi liền, xin ngài an tâm... Chào ngài".

Thuần gác ống nói rồi bước ra ngoài cửa phòng kêu thầy hai Tịnh, là người trộng tuổi, làm Quản lý trong hãng, mà nói:

- Thầy Hai, ông Ðốc tờ[1] Huỳnh kêu dây nói cho tôi hay rằng xe của ông chết máy nằm trên đường đi Tây Ninh, tại chỗ Gò Ðôi, và ông cậy hãng cho xe lên kéo về mà sửa cho ông. Thầy làm ơn biểu dưới xưởng cho một cái xe đi liền kẻo tối.

Ông Hội đồng Bính ở Gò công, lúc ấy ông đương bước xuống xe hơi mà vô hãng. Thuần quen biết nhiều, nên lật đật đi ra cửa tiếp đón.

- Ông mới lên? Xưa rày lâu gặp ông dữ...

- Tôi lên hồi trưa. Mấy tháng nay không có việc chi nên tôi không có đi Sài Gòn.

- Ông mua xe hơi mới mà đi, xe của ông cũ rồi, đi coi xưa quá.

- Thôi, bề nào cũng tiếng "có xe hơi", mới cũng cũng vậy; xe mới nhiều tiền lắm.

- Ông đổi thì tôi tính giá nhẹ cho.

- Không. Cái xe của tôi hên lắm. Tôi đem lên tính cậy hãng sơn lại cho mới mà thôi.

- Ðược. Xe ông để cũ quá. Phải sơn cho thường kẻo thùng bị sét rồi mục hết.

- Xe tôi nước sơn còn tốt lắm mà. Tôi giữ kỹ lắm, hễ đi về thì tôi biểu rửa chùi lau sạch sẽ rồi bỏ mùng xuống bao trùm hết, bụi cát không đóng được, bởi vậy 4 năm nay tôi không sơn mà vẫn còn tốt. Sơn xe của tôi đó giá bao nhiêu?

- Ông muốn sơn cọ hay là sơn máy?

- Sơn cọ là sơn cách nào?

- Sơn tay... Sơn máy tốt hơn.

- Vậy thì sơn máy.

- Sơn máy thì mắc hơn.

- Bao nhiêu?

- Ông đừng lo giá cả mà. Hãng tôi không bao giờ tính mắc đâu. Xin ông bước lại đây rồi thầy hai tính giá cho.

Thuần dắt ông hội đồng Bính lại giao cho thầy hai Tịnh rồi đi vô phòng. Thấy có hai phong thơ để trên bàn viết, Thuần liền ngồi xé bao thơ mở thơ ra mà đọc. Bức thơ đầu là thơ của ông Võ Ðại Ðộ, điền chủ Ô Môn, hỏi muốn đổi xe cũ lấy xe mới và hỏi phải bù cho hãng bao nhiêu. Còn bức thơ sau là thơ của thầy năm Thiện, ở dưới coi ruộng cho Thuần dưới Cái Bè gởi cho hay ruộng nước lớn quá, đã ngập lúa hai ngày rồi, sợ mùa nầy thất nhiều và hỏi có nên ra lúa cho tá điền mượn ăn nữa hay là phải ngừng lại.

Thuần ngồi chống tay nơi trán mà suy nghĩ một hồi lâu rồi bước ra ngoài đưa hai bức thơ cho thầy hai Tịnh và dạy trả lời liền với ông Võ Ðại Ðộ, xin ông đem xe cũ của ông lên cho hãng xem rồi mới định giá cả được; còn với thầy năm Thiện thì biểu thầy cứ phát lúa cho tá điền mượn ăn như thường, nếu mùa nầy rủi thất, họ không trả được, thì để cho họ thiếu đó, chớ nếu bặt[2] lúa ăn, thì tá điền tản lạc hết, rồi mùa tới còn ai mày cày cấy. Thuần dặn viết não và biểu đánh máy ký tên gởi trong buổi chiều ấy, rồi Thuần đi xuống xưởng mà xem xét công việc của thợ làm.

Mặt trời gần lặn, Thuần trở lên phòng làm việc. Cô Như, là người đánh máy trong hãng, đánh hai bức thơ trả lời vừa xong, nên cầm vào cho Thuần ký tên. Thuần đọc mỗi bức thơ, ký tên rồi trao lại cho cô Như, tuy cô mới 21 tuổi, gương mặt sáng rỡ, mắt hữu tình, miệng hữu duyên nhưng mà Thuần không ngó cô và cũng không một tiếng chi cho vui lòng cô đứng chờ đợi.

Cô Như bước ra thì thầy hai Tịnh liền vào nói:

- Chín Sung sửa xe của ông huyện Hội mới rồi nó đem ra chạy thử máy rủi cán một thiếm xẩm trên đường Hai mươi. Bầy trẻ mới về nói cán nặng lắm.

Thuần đứng dậy nói:

- Chín Sung kỹ lưỡng lắm mà; tại sao chạy xe lại cán người ta kìa?

- Gặp rủi ro, biết làm sao được.

- Ðể tôi lên đó tôi coi thử coi. Cán trên đường Hai mươi mà lối nào?

- Bầy trẻ nói ngang xóm lao động.

- Tôi đi... Nếu trễ thì tôi về luôn trong nhà.

Thuần lấy áo bận, lại đứng ngay cái gương mà chải tóc sửa cravate[3] rồi ra đường leo lên cái xe riêng của mình cầm bánh mà chạy qua đường Verdun, đặng lên đường hai mươi. Lên tới xóm lao động, không thấy gì hết. Thuần bèn ngừng xe ngang một cái quán mà hỏi thăm. mấy người ở đó chỉ chỗ xe cán cho Thuần coi, nói lỗi tại thiếm xẩm[4] chớ không phải tại sớp-phơ bởi vì thiếm gánh nước đi một bên đường thì phải lắm chừng xe hơi tới gần, thiếm vụt băng ngang qua lộ, sớp-phơ không thể tránh hay là ngừng kịp, tự nhiên phải đụng thiếm. Họ lại nói xe hơi chở thiếm xẩm với chồng thiếm vào nhà thương Chợ Rẫy rồi.

Họ còn nghị luận về sự xe hơi cán. Có người nói: "Hễ nghe có tai nạn xe hơi thì ai cũng định lỗi tại xe, bởi vì xe chạy mau nên mới cán người ta. Song tôi thường thấy nhiều người đi đường họ kỳ lắm: có người họ đi giữa lộ, chớ không chịu đi một bên, có người họ muốn đâm ngang qua lộ thì họ đâm đại không thèm ngó trước ngó sau. Còn có bọn đi ba bốn người, họ đi dăng ngang bít đường hết, xe kéo la, hoặc xe máy reo chuông, họ không thèm tránh. Ði đường như vậy không bị đụng, không bị cán sao được. Tôi tưởng ở Sài Gòn nầy nhà nước nên ra lịnh cho mấy thầy đội gác đường phải gia công mà dạy cách đi bộ mới được hay là nhà nước lập luật định cách đi bộ ai đi sái luật thì phạt cho họ thật nặng, thời may mới bớt tai nạn về xe dụng xe cán". Thuần nghe những lời ấy thì chúm chím cười. Vì phải đi riết vô nhà thương mà thăm bịnh tình thiếm xẩm thế nào, nên Thuần xin mấy người trong quán nếu cò bót có đòi, thì làm chứng giùm cho công bình, rồi leo lên xe đi Chợ Lớn.

Vô nhà thương gặp chín Sung hỏi lại, thì chín Sung cũng thuật việc rủi ro y như lời của mấy người trong quán ngang xóm lao động nói hồi nãy.

Ðốc tờ khám bịnh thiếm xẩm rồi nói thiếm gẫy hết một cái xương ống chân trái, có lẽ phải nằm nhà thương một tháng mới mạnh.

Thuần liền đóng tiền nhà thương một tháng cho thiếm xẩm, lại đưa 10 đồng bạc cho chú khách chồng thiếm xẩm, mà nói:

- Nị lấy tiền đây đặng đi xe ra vô thăm vợ. Ðể mai sớp-phơ lên nhà nị tính toán, đừng có đi thưa cò bót thất công.

Không biết chú khách nầy vì nghĩ xe đụng lỗi tại vợ chú, hay là vì thấy 2 tấm giấy bạc 5 đồng mà choá mắt, mà chú lấy bạc rồi chú cười ngỏn ngoẻn nói:

- Ồ! Ðược mà, hông có sao... Thưa cò bót làm chi.

Chín Sung nói:

- Hồi đụng rồi đó có thầy Ðội lại biên số xe, biên tên họ của tôi, thầy biết tôi làm trong hãng Thuần Hòa, nên không bắt tôi, biểu tôi chở thiếm xẩm vô nhà thương mà thôi.

Thuần gật đầu biểu chín Sung đem xe về hãng. Thuần lên xe riêng mà chạy thẳng về nhà.

Hồi chiều hay tin lúa bị ngập, bây giờ lại thêm vụ xe cán thiếm xẩm nữa. Trong một buổi chiều mà xảy ra tới hai việc hại, thế thì vui làm sao được, bởi vậy Thuần cầm tay bánh cho xe chạy mà trí lơ lửng không an.

Ðoạn tình

Chương 2

Nhà riêng của Thuần ở trong đường Cây Quéo, thuộc tỉnh Gia Ðịnh. Một toà nhà lầu cất kiểu tối tân, giữa một cái vườn rộng rãi. Ðường xe vô nhà dọn trịch qua bên phía tay phải bởi vậy trước nhà còn nguyên một khoảng đất rộng lớn. Trong hàng rào đúc sạn rào dọc theo lộ Cây Quéo, mà đối với cửa cái trong nhà ngay bót, thì có cây xoài thật lớn, gốc cả ôm, tàn chần vần, lá xum xuê, dưới gốc cây cổ thụ ấy có một cái băng đá, để lúc chiều mát, hoặc trăng trong, ngồi mà hứng gió. Sân thì xẻ đường ngang đường dọc, dài theo mỗi đường thì đắp lề thành liếp, rải phân rồi khoảng trồng hường, khoảng trồng gấm (?), khoảng trồng chuối nước[1] khoảng trồng cẩm nhung. Dài theo đường xe vô và trong mấy vuông đất trước sân trì trồng mít tố nữ, sa bô chê[2], mãng cầu xiêm, lu-cu-ma[3], tuy cây còn nhỏ nên chưa có trái, song nhờ có giếng đào tại gốc rào, nước có sẵn cho gia đinh tưới hàng ngày, nên cây lên sởn sơ, đọt đơm mạnh mẽ.

Còn trong nhà, từng dưới, mà phía trước, thì để trọn làm phòng tiếp khách, phía trong, mà chính giữa là phòng ăn cơm, bên tay mặt là phòng khách đàn bà, bên tay trái là phòng đọc sách. Phía sau nữa, một bên là phòng rửa mặt, còn một bên là phòng tắm, hai phòng nầy có đặt máy nước kim thời.

Từng trên lầu, phía trước dọn chỗ thờ ông bà, phía sau dùng làm buồng ngủ, trước sau đều khoảng khoát mát mẻ.

Cuộc ở đẹp đẽ rộng rãi nầy, Thuần mới tạo ra vừa một năm nay mà thôi, về mua đất, về cất nhà, tốn gần 40 ngàn đồng bạc. Thuần thuộc về hạng tân học, có chí làm ăn lớn. Cách 6 năm trước, Thuần học bên Pháp thi đậu bằng Bác vật[4] rồi trở về lập hãng xe hơi và cưới vợ, thì quyết dùng hết nghị lực và trí não mà tranh lợi quyền chớ không tính hưởng mùi sung sướng của tiền bạc. Nhờ cuộc làm ăn càng ngày càng thêm thạnh phát, tiền bạc dư dả nhiều. Thuần thấy vợ con mướn nhà ở ngoài Sài Gòn chật hẹp, nực nội, nên mới tạo cuộc nầy cho vợ con vui hưởng chút thanh nhàn hạnh phước, đặng mình an lòng mà tranh đấu trong trường thương mại kỹ nghệ với thiên hạ.

Hôm nay Thuần về nhà đã quá 7 giờ rưỡi tối rồi, mệt trí nhọc lòng cả ngày, tính sẽ hiệp với vợ con đặng vui thú gia đình mà tạm quên các việc lo lắng. Thuần cho xe chạy thẳng vô nhà sau mà cất. Thằng bé Hậu là con của vợ chồng Thuần, năm nay đã được 4 tuổi, đương chạy chơi trên cái sân gạch ở phía sau, có con xẩm giữ ràng theo một bên mà coi chừng, nó thấy xe của ba nó về thì lăng xăng chạy lại kêu: "Ba... Ba..." inh ỏi, con xẩm phải nắm tay mà ngừng bớt nó lại, Thuần cất xe rồi bước ra. Bé Hậu a lại ôm chân cha mà mừng, tóc bay phất phơ, miệng cười hịt hạt. Thuần cúi xuống ôm con mà hôn mấy cái rồi bồng luôn đi lại cửa sau mà vô nhà.

Vợ của Thuần là cô Hòa năm nay đã đuợc 25 tuổi. Vì có thai nghén hơn 5 tháng, nên không trang điểm, cô mặc quần lụa trắng với áo pyjama[5] lụa màu hường, nghe chồng về thì cô ra đứng dựa cửa sau mà chờ.

Thuần bồng con xâm xâm bước lên thềm, ngó thấy vợ thì thầm mong vợ nói một vài câu vui vẻ mà tỏ ý thân thiết ái ân, đặng mình quên hết những nỗi mệt nhọc. Trái với sự mơ ước của chồng, cô Hòa đã không giải phá dùm nỗi lo cho Thuần, mà cô lại cau mày quạu quọ nói:

- Ði đâu mà chừng nầy mới về, để người ta ở nhà đợi chờ đói bụng muốn rã ruột. Muốn ta bà (đi chơi rày đây mai đó) thì ít nữa cũng phải nói trước cho người ta biết chớ.

Mấy lời trách cay đắng ấy lọt vào tai Thuần chẳng khác nào một thùng nước lạnh xối vào tâm can, bởi vậy Thuần thở dài một cái để con đứng xuống gạch mà nói:

- Bầy trẻ sửa xe rồi cho chạy thử máy, rủi đụng người ta gẫy chân, tôi phải lo đi điều đình vụ ấy cho êm chớ đi đâu. Ở nhà đói bụng sao không ăn cơm trước đi, chờ làm chi.

Cô Hòa dường như không muốn để ý tới vụ chồng nói đó, cô không hỏi thăm, mà cô lại kêu người nhà bảo dọn cơm cho mau.

Thuần cổi áo máng trên giá rồi vô phòng rửa mặt mà gội rửa cho mát mẻ. Chừng Thuần trở ra thì thấy cô Hòa đã ngồi tại bàn ăn mà ăn trước một mình, gương mặt điềm nhiên. Thuần không biết đói bụng hết muốn ăn cơm, đi thẳng ra cửa trước đứng ngó mông, trong lòng bàng hoàng, ngoài mặt lơ lửng.

Bé Hậu đi theo, vói níu tay cha mà hỏi:

- Sao ba không đi ăn cơm vậy ba? Má ăn kia, ba vô ăn với má đi.

Thuần chúm chím cười và vỗ đầu con mà đáp:

- Ðể ba nghỉ chút rồi ba sẽ ăn. Con ăn cơm rồi hay chưa?

- Con ăn rồi hồi chiều.

- Con muốn ăn thêm hay không?

- Không. Con no lắm.

- Con buồn ngủ hay chưa?

- Chưa.

- Thôi, con vô đây coi ba má ăn chơi.

Thuần nắm tay dắt con trở vô bàn ăn, để con ngồi trên cái ghế tại đầu bàn, rồi mình ngồi ngang mặt vợ mà ăn, con ngồi chính giữa.

Ðèn khí[6] chiếu trong nhà sáng trưng làm cho cái quang cảnh có vẻ rất đẹp đẽ mà cũng rất đầm ấm. Trong nhà bàn ghế rực rỡ, lại thêm vợ chồng với con sum hiệp một bàn, cảnh hạnh phúc nào bằng cảnh gia đình phong phú hòa hiệp nầy. Tiếc thay bề ngoài thì là vậy, vì cô Hòa không vui rồi làm Thuần cũng không vui, bởi vậy cái hạnh phúc gia đình của Thuần đã dày công tạo nó vẫn phảng phất lờ mờ, chớ không hiện ra tỏ rõ được.

Thuần đang ngồi ăn mà trong lòng lạnh ngắt, thình lình nghe tiếng xe hơi chạy vô sân rồi ngừng. Không hiểu xe ai đến, vợ chồng Thuần chăm chú ngó ra cửa. Vợ chồng giáo sư Kiểm là bạn học của Thuần hồi ở bên Ba Lê[7] bước vô. Giáo sư Kiểm thấy vợ chồng Thuần đương ăn cơm thì la lớn: "Người ta mời 8 giờ rưỡi dự tiệc đám cưới mà sao lại lén ăn cơm vậy?"

Vợ chồng Thuần buông đũa đứng dậy chào mừng khách và mời ngồi.

Thuần bợ ngợ nói:

- Ma-pham (ma femme, vợ tôi) có nghén không đi đám cưới được, còn moa thì công việc đa đoan mệt quá, nên hồi sớm mơi moa đã có viết thơ cho Thậm mà cáo từ rồi.

Giáo sư Kiểm lắc đầu nói giọng quả quyết:

- Không được, không được! Anh em đã nhứt định không ai được trốn ở nhà. Ma-phăm Thuần có thai nghén có lẽ được viện cớ ấy mà cáo từ, tuy bây giờ bọn tân học chúng ta không cố chấp mấy tục lệ dị đoan hủ bại đó nữa. Còn phần toa thì toa không được phép kiếm cớ mà trốn anh em. Thậm mời đám cưới nó có nói: Bọn tân học chúng ta ở bên Pháp trở về xứ, ai cũng mắc lo chức nghiệp, nên ít có dịp hội nhau mà đàm luận vui chơi. Nhân lễ cưới của nó, nó kiếm mời đủ anh em hết thảy đặng hội nhau vui chơi một đêm. Nó rước ban nhạc Ma-Ní (Manille, ý nói ban nhạc Phi Luật Tân) tài tình; nó lại còn kêu bọn xẩm khiêu vũ Thượng Hãi, để ăn uống xong rồi chúng ta nhảy đầm chơi tới sáng. Nó có cái hảo ý với chúng ta nên mới sắp đặt như vậy đó, anh em ai cũng hứa đi hết thảy, sao toa lại thối thác không muốn đi? Toa tính phân rẽ bạn xưa mà chơi riêng hả? Ðừng có làm như vậy anh em phiền. Toa thay đồ cho mau đặng đi với moa, kẻo trể.

Cô Hòa hỏi Kiểm:

- Ông Thậm làm đám cưới mà đãi tiệc ở đâu?

- Ðãi tiệc trong Chợ Lớn, tại tửu lầu "Tiểu Ðịa Võng".

- Nhà tôi có nói với tôi sự ông Thậm mời đám cưới, song tôi không nhớ mời bữa nào. Phận tôi có mang nên không thể đi được, tôi tưởng nhà tôi đi một mình, chớ tôi có dè cáo từ đâu.

- Thôi ma-đam ở nhà, để Thuần đi với tôi nghe hông.

- Nhà tôi phải đi chớ, trốn ở nhà coi sao được.

Kiểm day qua nói với Thuần:

- Thuần, ta-pham[8] cũng xử toa phải đi, toa có nghe hay không? Đi thay đồ đi cho mau, a lê!

Thuần đã chán cảnh gia đình buồn hiu hồi nãy, rồi nghe những lý luận của Kiểm trưng ra mà ép đi, lại còn thấy ý vợ muốn thôi thúc mình nữa, bởi vậy chàng đã xiêu lòng, song còn gượng mà cãi với Kiểm:

- Anh em bày đặt buộc phải bận áo dài, bịt khăn đen. Moa không có khăn đen áo dài nên moa đi không được.

- Phải, anh em nghĩ bọn lão thành thủ cựu họ khinh bỉ nhóm thanh niên tân học chúng ta, họ thường chê chúng ta học theo Âu Tây rồi vong bổn. Anh em muốn phản đối lời chê khờ khạo ấy, nên nhứt định hễ trong nhóm thanh niên tân học chúng ta mà có lễ quan hôn tang tế, thì chúng ta phải giữ lễ nghi của nước nhà, chúng ta phải mặc quốc phục, khăn đen áo dài đàng Hòang. Tuy anh em định như vậy, song mình không sẵn khăn đen áo dài, mình mua sắm không kịp, thì mình mặc Âu phục chớ biết làm sao. Toa thay đồ Tây mà đi, moa cũng mặc đồ tây đây vậy.

- Moa mệt quá nên không muốn đi. Moa tính ăn cơm rồi thì chạy xe một vòng hứng mát và giải trí đặng ngũ cho khoẻ.

Kiểm đưa hai tay nắm vai Thuần mà xô mà nói:

- A-Lông[9], a-lông! Ði thay đồ cho mau, đừng có nhiều chuyện nữa. Nếu toa còn dụ dự nữa, thì moa dẽ bắt trói toa mà bỏ lên xe rồi moa chở toa đi đa.

Cô Hòa tiếp lời:

- Mình phải thay đồ đi với ông giáo sư chớ. Chẳng nên vắng mặt mà làm cho anh em phiền.

Thuần rùn vai rồi đi lên lầu mà thay y phục.

Cô Hòa mời vợ chồng Kiểm uống trà và hỏi Kiểm:

- Không biết ông Thậm cưới vợ ở đâu vậy?

- Cưới con một vị thương gia ngoài Sài Gòn.

- Chắc bên vợ ông giàu lắm hả?

- Tự nhiên. Bọn thanh niên đời nay họ nghĩ nếu cưới vợ nghèo là đem cái hoạ lớn vào nhà, còn cưới vợ xấu thì phải chịu tiếng nhạo báng trọn đời, bởi vậy ai cũng phải ráng mà kiếm vợ giàu, vợ đẹp.

- Nếu vậy con gái nghèo với con gái xấu làm sao có chồng cho được?

Kiểm rùn vai tiếp:

- Họ làm sao được thì họ làm, hơi nào mình lo cho họ.

Bà Kiểm tiếp lời:

- Ðời nay hễ có tiền nhiều dầu không có sắc đẹp cũng dễ lấy chồng, chớ không có tiền, dầu có sắc hay có hạnh cũng không mong có chồng được.

Kiểm lật đật kết luận câu chuyện:

- Nói tóm lại, thì đời nầy giấy xăng[10] quý hơn tài, sắc, đức, hạnh hết thảy!

Ba người cười xoà.

Thuần thay đồ rồi ở trên lầu lon ton đi xuống, chân mang giày da láng ngời, mình mặc bộ đồ xăn tung thật khéo, cổ thắt nơ đen đàng hoàng. Vợ chồng Kiểm đứng dậy thúc Thuần ra xe mà đi liền. Cô Hòa đưa ra sân, xe chạy đã lâu mà cô vẫn cứ thơ thẩn hoài, không chịu đi nghỉ.

Vô tới tửu lầu "Tiểu Ðịa Võng", Kiểm đậu xe sát trong lề đường, khoá máy kỹ lưỡng, kéo ống quần sửa bâu áo, rồi dắt vợ và Thuần lên lầu; nhạc đánh rập rình. Lúc lên thang Thuần đưa đồng hồ tay ra mà coi rồi nói với Kiểm:

- Ðã 8 giờ 40 rồi. Mình đi trễ một chút.

Kiểm day lại mà đáp:

- Thiệp mời 8 giờ 30 mình đến 8 giờ 40 mà trễ nỗi gì?

- Trễ 10 phút, chớ sao lại không trễ.

- Toa quê mùa quá. Theo lễ nghi của Việt Nam bây giờ, tiệc mời 8 giờ 30, nếu mình đến đúng giờ thì mình là nhà quê. Người sang trọng thượng lưu phải để 9 giờ rồi sẽ đến. Ðể lên lầu rồi toa sẽ biết, mình đến đây sớm hơn người ta nhiều.

- Lễ nghi gì mà kỳ vậy! Khách mời đông người, chớ không phải một mình mình. Nếu mình đi trễ để người ta chờ đợi thì mình thất lễ quá.

- Ấy! Bực sang trọng thì phải làm như vậy, phải để cho người ta chờ đợi, rồi họ đói bụng họ hỏi còn chờ ai nữa, đặng cho chủ tiệc nói: "Còn chờ ông nầy, còn thiếu ông kia", làm thế ấy mới có danh, hiểu chưa?

- Danh gì vậy?... danh thất giáo hả?

- Không. Họ tính làm quảng cáo cho tên tuổi của họ chớ.

- Gớm quá!

- Còn nhiều cái gớm hơn nữa kia chớ!

Y như lời của Kiểm đoán trước, lên tới phòng tiệc thật quả Thuần chưa thấy một bạn nào hết.

Thậm mặc quốc phục vừa thấy Thuần với vợ chồng Kiểm thì lật đật chạy ra cửa mời vào. Thậm nói với Thuần:

- Hồi sớm mai moa được thơ toa kiếu từ, moa giận lung lắm. Nếu chiều nay không có mặt toa, thì moa sẽ tuyệt giao với toa. Toa vô đây là may lắm. Thôi, ngồi uống rượu khai vị mà chờ anh em.

Kiểm nói:

- Thuần tính trốn. Moa ghé nhà moa bắt nên mới đi với moa đó.

Thuần gật đầu cười.

Thuần đứng ngó cùng khắp trong phòng tiệc, thấy dọn hai bàn song song, bàn nào cũng chưng bông rực rỡ, cũng có để rượu ê hề, song một bàn thì khách ngồi gần đủ, còn một bàn thì còn trống trơn, chưa có ai ngồi hết. Ðầu ngoài, gần chỗ nhạc, lại có dọn thêm một cái bàn ngang để cho đàn bà ngồi, bàn ấy cũng có khách đủ rồi, có bà già, có đàn bà, có con gái, người nào y phục cũng xinh đẹp.

Thậm cắt nghĩa cho Thuần với vợ chồng Kiểm hiểu rằng khách ngồi một bàn dài với một bàn ngang là đàng gái, còn cái bàn chưa ai ngồi là bàn của khách đàng trai.

Thuần liếc thấy họ đàng gái có vài người Pháp, có viên quan Việt Nam, có ít vị Hội đồng, có vài vị thi văn sĩ, còn bao nhiêu đều là thương gia có tên tuổi trong xã hội Sài Gòn. Trong đám khách ấy chỉ có một ông già mặc quốc phục, còn bao nhiêu đều mặc Âu phục.

Thuần với Kiểm thấy họ đàng trai chưa tới nên không chịu ngồi, dắt nhau ra ngoài đứng ngó xuống đường chơi, để mặc cho Thậm thong thả mà sắp đặt cuộc tiếp khách.

Quá 9 giờ, họ đàng trai mới lần lượt đến, có người dắt vợ, song phần nhiều thì đi một người, mà hầu hết đề là hạng thanh niên tân học, duy có vài vị mặc Âu phục, còn gần 30 vị bịt khăn đen, mặc áo dài, cũng như chàng rễ.

Hai họ ngồi riêng, nên không ai chào ai, bởi vậy tuy hội chung một phòng, hai bàn cách nhau chừng vài thước, mà cũng như có vách tường phân rẽ hay là có đường mương cản ngăn.

Mấy vị mặc quốc phục buộc mấy vị mặc Âu phục phải ngồi riêng một khoảng với phụ nữ, để cho hạng giữ lễ xưa ngồi chung với nhau.

Thuần không làm theo phần đông nên trong lòng ái ngại, song thầm nghĩ bàn bên kia của họ đàng gái đều mặc y phục như mình, thì chắc mình không đến nỗi thất lễ.

Khách ngồi vừa yên thì bồi bưng rượu mời khai vị. Mấy vị tân học mặc quốc phục, vị nào cũng biểu rót rượu mạnh thật đậm, rồi cụng ly với nhau. Ban đầu còn có thứ tự, câu chuyện nghe êm ái. Uống được vài tuần rồi, không hiểu vì bị ông men hành, hay vì là nhớ lễ nghĩa quen thuở nay, mà mỗi vị đều lớn tiếng om sòm, ai cũng nói hết thảy, tuy ai không thèm nghe ai, kẻ nói người la, chẳng khác nào trong sân đá banh, thiên hạ nhốn nhao lúc banh lọt vô lưới vậy.

Thuần thấy thái độ hai bàn khác nhau, một bên ồn ào một bên trầm tĩnh, thì trong lòng khó chịu, ra dấu vợ chồng Kiểm bảo ra về. Kiểm chau mày suy nghĩ, có lẽ thầm tính thoát thân. May tiệc gần mãn mấy ông quốc phục bây giờ muốn khiêu vũ, nên xin mấy bà ngồi cái bàn ngang đứng dậy đặng lo dọn cho trống chỗ mà nhãy. Bàn khiêng đi rồi, bồi chưa kịp quét, mà họ đã đốc nhạc đánh lên, rồi có ông thì cặp đàn bà, có ông thì cặp anh em bạn mà nhảy.

Có một điều rất tức cười, là có hai ông ôm nhau nhẩy rồi té lăng cù đùng, gây một trận cười cho bọn tửu bảo chi-na[11]. Còn một điều đáng tức cười hơn nữa, là có một vị tân học mặc áo bà ba trắng quần[12] một phụ nữ mà nhảy, sắc mặt hân hoan như thường, không dè việc mình làm đó là một việc nhục nhã, nhục nhã cho mình, nhục nhã cho điệu khiêu vũ là cái điệu chơi thanh nhã của người Âu châu.

Nhờ có khiêu vũ lộn xộn, nên Thuần mới kêu vợ chồng Kiểm mà rủ về, rồi dắt nhau đi êm, không thèm giã từ ai hết, dường như chạy trốn cho khỏi cái chốn nhục nhã gớm ghiếc ấy.

Kiểm cho xe chạy lên đường Bình Hòa, tính về ngã Lăng Cha Cả, đặng hóng gió một chút. Thuần ngồi một bên Kiểm, cái quang cảnh tồi tệ dơ dáy hồi nãy còn chàng ràng trước mắt, làm cho trong lòng khó chịu, nên buồn hiu không nói chi hết.

Chừng xe ra tới đường trống, Kiểm mới nói với Thuần:

- Mới lần thứ nhứt moa thấy tiệc cưới như vậy đó. Nếu moa biết trước, dầu Thậm nó lạy mà mời, moa cũng không thèm đi. Moa xin toa tha cái tội moa ép buộc toa đi với moa đó. Ma-đam Thuần ở nhà thật là may lắm.

Bà Kiểm ngồi một mình ở phía sau, mà tức giận quá, dằn lòng không được nên bà nói lớn:

- Khốn nạn hết sức! Tôi thề từ rày sắp lên tôi không dự tiệc với những người ấy nữa. Họ không biết lễ nghĩa gì hết, không phải Tây mà cũng không phải Việt Nam.

Thuần day lại nói với bà Kiểm:

- Bà giận đáng lắm, bởi vì người ta thất lễ với phụ nữ nhiều. Mà hai anh em chúng tôi đây thuộc trong bọn tân học, chúng tôi còn giận nhiều hơn nữa. Họ làm nhục lây cả bọn chúng tôi hết thảy.

- Phải, họ làm xấu chung cho cả bọn.

- Chớ chi trong tiệc duy có bọn chúng tôi mà thôi, thì họ muốn vui chơi cách nào cũng được. Ngặt vì trong tiệc có cả trăm người, có đàn bà, có người sang trọng tử tế, có mấy người Pháp, có một đám tửu bảo, rồi đây những người ấy họ sẽ bình phẩm về nhân cách, về giáo dục của bọn chúng tôi mới là khổ. Thuở nay bọn chúng tôi thường khoe khoang: "Thanh niên tân học là hy vọng của nước nhà, là hoa thơm của non sông". Chắc từ rày người ta sẽ lấy quang cảnh bữa tiệc nầy làm bằng cớ mà nói: "Non sông có những đám hoa như vậy coi dơ chớ không đẹp; nước nhà có thanh niên tân học như vậy ắt thất vọng chớ không hy vọng". Họ nói như vậy rồi chúng tôi làm sao mà cãi với họ?

Kiểm liền thở ra mà đáp với Thuần:

- May trong bọn tân học còn nhiều người khác nữa chớ chẳng phải bao nhiêu đó.

- Nói ngay ra thì anh em họ phiền, chớ moa coi trong bọn mình có nhiều người không kể luân lý không biết giáo dục gì hết, họ chỉ trù nghĩ phương chước làm cho có tiền, dầu phải dùng phương pháp nào cũng được, có tiền cho nhiều đặng hưởng, đặng sung sướng xác thịt, đặng loè loẹt bề ngoài, họ không kể gì đến mạng vận của nhà nước, đến luân lý của xã hội, đến quyền lợi của chủng tộc.

- Toa nói trúng lắm. Moa cũng thấy như toa vậy. Moa lại thấy cái làn sóng vô luân lý, vô giáo dục nầy nó càng lên mạnh thêm hoài; nếu không ai tìm phương mà ngăn cản, thì nó sẽ tràn khắp trong nước rồi cái xã hội Việt Nam, khi xưa tôn trọng đạo đức nên được cao thượng cứng cỏi, sẽ thành ra một xã hội hỗn độn tham lam, nên phải thấp hèn yếu ớt. Nền luân lý xưa của chúng ta đã xiêu ngã, bây giờ cần phải bồi đắp lại cho mau, phải tập cho người mình có cái óc tấn thủ cho cứng cỏi, có cái chí lập gia đình cho vững chắc, có lòng ái quốc nồng nàn, thì hoạ may mới khỏi hổ với thiên hạ.

- Toa làm giáo sư, toa có thiên chức giáo dục. Ðó là phận sự của toa.

- Một mình moa mà chống muôn xe sao nổi?

- Toa cũng phải ráng, chẳng nên thối chí.

Câu chuyện mới tới đó thì xe đã tới nhà Thuần, nên ngừng. Thuần từ giã vợ chồng Kiểm rồi mở cửa rào đi vô, đường kia nẻo nọ ngổn ngang trong trí.

[1] một loại kiểng đặc biệt ở miền Nam

[2] (sapotier), giống cây được nhập từ Java, trái chín ngọt đậm

[3] (lékima), loại cây du nhập từ Java

[4] kỹ sư

[5] áo ngủ

[6] ý nói đèn điện

[7] ( Paris ), thủ đô Pháp

[8] (ta femme), vợ anh

[9] (allons), chúng ta đi

[10] (cent=100), giấy bạc 100 đồng

[11] ( China ), Trung quốc

[12] đưa tới đưa lui

Ðoạn tình

Chương 3

Thường ngày cô Hòa ngủ đến 7 giờ cô mới thức dậy. Mà bữa nào cũng vậy, hễ cô dậy thì cô thấy Thuần đã dậy trước rồi, khi đi thơ thẩn ngoài sân mà xem bông, khi thì lui cui xách nước tưới kiểng, khi thì dắt con đi lên xuống ngoài lộ.

Bữa nay đúng 7 giờ cô cũng thức dậy, nhưng mà cô thấy Thuần vẫn còn nằm ngủ im lìm. Vì hồi hôm Thuần về cô không hay, cô tưởng ăn tiệc rồi ở khiêu vũ chơi đến gần sáng, nên mới ngủ trưa như vậy, bởi vậy cô đi nhẹ xuống lầu, có ý muốn để êm cho Thuần nghỉ. Cô coi cho bồi lược cà phê, nướng bánh mì, soạn hột gà, đặng cho Thuần thức dậy có sẵn mà điểm tâm.

Quá 8 giờ Thuần mới dậy.

Thấy Thuần xuống lầu, cô Hòa mới hỏi:

- Thế khi gần sáng mới về hay sao nên ngủ trưa dữ vậy?

- Không. Hồi hôm tôi về nhà mới 11 giờ 10. Vì tôi phiền quá, nên nằm trằn trọc hoài, gần 4 giờ tôi mới ngủ được, nên sáng mệt, dậy không nổi.

- Phiền ai?

- Anh em dự tiệc đám cưới họ trửng giỡn đồi bại, làm xấu hổ cả bọn hết thảy. Tôi cáo từ không chịu đi thì hay quá, tại anh Kiểm đốc đi, nên tôi mới thấy việc khốn nạn như vậy.

- Họ làm sao mà phiền mình?

- Ðể tôi có rảnh rồi tôi sẽ thuật lại cho mình nghe.

Cô Hòa không hỏi nữa, cô mở máy lạnh mà lấy bơ lạt, bưng thịt đùi heo ra, kêu bồi biểu luộc hột gà, pha cà phê, rồi kêu bé Hậu lại đặng ăn lót lòng với cha mẹ.

Thuần ngó đồng hồ, thấy đã 8 giờ 30, nên ăn riết đặng thay đồ mà ra hãng. Chừng Thuần sửa soạn ra lấy xe mà đi, cô Hòa bèn nói:

- Chị Vân gởi thơ nói chị lên ở chơi với tôi ít bữa, song từ khi mình cất nhà rồi tới nay chị không có lên, chị không biết mình ở chỗ nào, nên chị biểu tôi 11 giờ trưa nầy ra ga xe lửa đón chị. Chừng 10 giờ mình biểu sớp-phơ đem xe về cho tôi đi được không?

- Ðược chớ, hễ tôi ra tới Sài Gòn, tôi biểu đem xe về liền.

- Thôi mình đợi tới 10 giờ tôi đi một lượt với mình.

- Tôi phải ra trước ngoài hãng coi có việc gì hay không, nhứt là phải lo tính vụ xe đụng thiếm xẩm.

- Mình muốn đi gấp thôi thì đi đi.

Thuần ra đi. Cô Hòa phiền, vì cô thầm nghĩ trong trí mà cho sự chồng đi trước đó là cố ý không muốn đi chung với mình. Tuy vậy mà cô không lộ sự phiền ấy cho người trong nhà biết, cô vẫn coi cho mấy đứa ở quét nhà, lau ghế chùi tủ, dọn dẹp như mỗi ngày.

Chưa tới 9 giờ 30 mà sớp-phơ đã đem xe về rồi. Cô Hòa kêu con xẩm mà biểu tắm gội và thay đồ cho bé Hậu rồi cô lên lầu sửa soạn đặng đi Sài Gòn. Vì có thai nghén nên cô không mặc đồ màu, cô mặc một bộ đồ trắng mới may, cô dồi phấn thiệt khéo, cô gỡ[1] đầu thiệt láng, rồi cô đeo hột xoàn vô nữa, nên dầu tướng mạo của cô không có dáng thanh nhã, song cũng có cái vẻ sang trọng.

Quá 10 giờ cô dắt bé Hậu lên xe, biểu con ở lên ngồi phía trước với sớp-phơ, rồi dặn xe chạy ra nhà ga xe lửa Mỹ Tho. Ra tới ga thấy còn dư thời giờ nhiều, cô bèn xuống xe đi dài theo mấy tiệm, biểu con xẩm bồng bé Hậu đi chơi, coi đồ bán chơi. Cô mua cho con cô một cái kèn, một trái banh, lẩn quẩn đợi gần 11 giờ cô mới trở lại nhà ga, biểu con xẩm mua giấy rồi dắt nhau vô trong vòng chỗ xe đậu mà đón cô Vân.

Nghe síp-lê[2] một chút rồi ngó thấy xe lửa rần rần chạy tới. Bé Hậu mừng rỡ nên đứng vỗ tay la om sòm. Xe đậu yên rồi, hành khách tuôn xuống. Cô Hòa kiếm thấy cô Vân còn đứng yên trên xe, ló đầu ra cửa sổ mà ngóng, thì cô ngoắc và kêu. Cô Vân cười rồi lấy đồ đặng xuống xe. Cô Hòa dắt con lại đứng tại cửa xe mà chờ. Cô Vân tay cầm dù, tay ôm choàng mà xuống xe, anh cu-ly xách va-ly theo sau, chị em gặp nhau vui kể không xiết.

Cô Vân ngó bụng cô Hòa và hỏi:

- Chị có thai nữa à? Có phước quá! Ðược mấy tháng đây?

- Hơn năm tháng.

- Tôi mừng cho chị.

Cô Vân lại thấy bé Hậu nắm tay đứng bên cô Hòa thì hỏi:

- Cháu đây phải không?

- Phải.

- Hai năm nay tôi không gặp, bây giờ cháu trộng cảy[3]. Dễ thương quá.

Cô Vân ôm mặt bé Hậu mà hôn rồi chị em dắt nhau đi ra cửa, biểu người cu-ly xách va-ly cho cô Vân đi theo.

Cô Vân là chị em bạn học của cô Hòa hồi trước, cũng đồng thời một tuổi với cô Hòa. Vì cô Hòa có chồng nên thôi học trước, cô Vân ở lại học thêm, cách hai năm đã thi đậu bằng thành chung[4], nên về ở nhà với mẹ là bà chủ Hào, một bà sương phụ giàu có ở dưới Kỳ Sơn, thuộc tỉnh Tân An.

Cô Vân hình vóc chắc chắn mạnh mẽ, bộ đi đứng gọn gàng bặt thiệp, nước da trắng, gương mặt tròn, văn nói bãi buôi, tư cách thanh nhã. Cô mặc áo màu nước biển, áo may khéo, lại màu hợp với nước da nên làm cho dáng đẹp cô càng đẹp hơn nữa. Khi ra tới đường, cô Vân thấy xe hơi thì cười và nói:

- Chị sắm xe tốt quá.

Ðể đồ lên xe xong rồi, cô Vân mới hỏi cô Hòa:

- Năm ngoái chị gởi thơ nói chị đã về nhà mới ở đường Cây Quéo,

- Cây Quéo là chỗ nào?

- Nhà quê quá! Ðường Cây Quéo ở trong Gia Ðịnh.

- À! Nãy giờ quên hỏi coi anh mạnh giỏi thế nào?

- Cám ơn. Nhà tôi mạnh luôn luôn.

- Có ảnh[5] ở nhà hay không?

- Có chớ, song ban ngày ở ngoài hãng xe hơi.

- Hãng của ảnh ở đường Phan Thanh Giản phải không? Tôi chưa biết hãng. Thôi, mình lại đó đặng thăm ảnh và coi hãng chơi một chút rồi sẽ về được không?

- Ðược. Lại đó rồi tôi rước cả nhà tôi về luôn thể.

Hai chị em lên xe rồi biểu sớp-phơ chạy lại hãng, chừng xe ngừng cô Vân bước xuống thấy trước hãng có tấm bảng đề chữ lớn: "Thuần Hòa Hãng xe hơi" thì cô cười và nói:

- Hai ông bà lấy tên mình mà đặt hiệu cho hãng thật hay quá. Thuần Hòa hai chữ song song... Hai ông bà khắng khít với nhau mà lại có con sớm, thế thì hãng phải vững bền, mà rồi đây sẽ có chi nhánh thêm nữa.

Cô Hòa nghe khen thì vui lòng, nên chúm chím cười và nói:

- Tôi cầu chúc cho lời chị nói đó có y như vậy.

Hai chị em song song bước vô nhà giấy của hãng, con xẩm dắt bé Hậu theo sau.

Thầy hai Tịnh thấy bà chủ hãng thì lật đật đứng dậy tiếp chào, mấy thầy làm việc trong hãng cũng đứng dậy hết thảy.

Cô Hòa không thấy chồng, thì hỏi thầy hai Tịnh:

- Nhà tôi đâu, thầy Hai?

- Ông chủ đương coi thơ trong phòng. Mời bà đi thẳng vô trong.

Cô Hòa đi lại cái cửa gió, đưa tay xô cánh cửa mà dòm vô phòng, thì thấy Thuần mặc áo sơ mi đương ngồi tại bàn viết mà ký tên. Có cô Như thơ ký đánh máy đứng một bên. Cô Hòa đứng khựng lại và châu mày, không bước vô.

Thuần ngước mắt lên ngó thấy vợ thì cười và hỏi:

- Mình có rước cô Vân hay không?

Cô Hòa đáp:

- Có chớ. Tôi dắt chỉ[6] lại thăm mình đây.

Thuần nghe nói như vậy thì buông cây viết, đưa giấy tờ cho cô Như, rồi đứng dậy bước lại cửa phòng mà tiếp khách. Cô Như cúi đầu chào cô Hòa và cô Vân rồi cầm giấy tờ đi ra ngoài. Thuần chào cô Vân và mời vô phòng, lăng xăng nhắc ghế cho vợ và cho cô Vân ngồi trước bàn viết, rồi nói với cô Vân:

- Cô lâu lên chơi quá, nhà tôi nhắc cô hoài. Bà ở dưới nhà mạnh?

- Cám ơn anh. Má em mạnh. Ðã hai năm nay em không có đi Sài Gòn.

- Tôi nhớ lúc cô thi đậu, cô ra trường ở chơi với nhà tôi một bữa, rồi từ ấy đến nay tôi không có gặp cô nữa, phải không?

- Thưa phải. Từ ngày em thi đậu rồi về tới nay em không có lên trên nầy nữa.

- Dữ hông! Dưới Tân an lên đây là bao xa, sao không lên chơi. Cô ở dưới ruộng thét rồi thành gái nhà quê cho mà coi.

- Phận em có hai mẹ con mà thôi. Nếu em đi chơi thì má em ở nhà tiu hiu một mình, sợ má em buồn, vì vậy em không muốn đi đâu hết. Còn em mời má em đi chơi với em, thì má em nói lên Sài Gòn xe cộ rần rần, má em mệt lắm, nên không chịu đi. Tại như vậy đó, nên em thành gái nhà quê thiệt. Em quê, hễ đi xa em sợ quá, nên em mới gởi thơ trước mà xin chị Hòa ra ga rước dùm em.

Cô Hòa nẫy giờ ngồi lặng thinh, song cô liếc mắt ngó cùng trong phòng nhứt là ngó cái ghế "canapé"[7] để dựa vách tường, chỗ Thuần máng áo. Chừng nghe cô Vân nói tới tên cô, thì cô mới nói:

- Tôi được thơ của chị nói chị muốn lên ở chơi với tôi ít ngày, thì tôi mừng quá. Chị phải ở chơi với tôi có mau lắm là một tháng, chớ tôi không cho chị về sớm đâu.

Cô Vân cười và đáp:

- Ở lâu sợ không được. Tôi nói với má tôi chừng năm bữa tôi về.

Chuông điện thoại reo reng reng. Hai cô day lại ngó. Thuần vội lấy ống nói kề vào tai mà nghe rồi nói: "A lô... Phải, đây là hãng Thuần Hòa... Phải.... Tôi... còn tôi hân hạnh mà tiếp chuyện với ai đó? A! Bonjour Thoại... Cám ơn moa mạnh luôn, còn toa?.. Có việc chi vậy? Hội làm gì?... Chừng nào?... Tối nay... tối nay không được, mà tối bữa nào cũng không được hết thảy. Moa bận việc lắm, không thể đi hội gì được hết... Phải, moa làm việc cho tới ban đêm nữa... Anh em ai muốn nói thế nào moa cũng chịu hết... Thây kệ... Moa không cần... Au revoir".

Thuần buông ống nói mà như có sắc giận. Thình lình nghe phía ngoài có kèn thổi te te. Thuần hỏi vợ, mới hay có con ở ngoài thì cười, rồi đứng dậy nói với vợ:

- Thôi, mình rước cô Vân về trong nhà đặng cô nghỉ, cô đi xe lửa đã mệt rồi.

Cô Vân nói:

- Em muốn đi xem hãng của anh một chút, anh cho phép hay không?

Thuần đáp:

- Ðược lắm, được lắm, để tôi dắt đi.

Thuần bèn dắt hai cô ra phòng làm việc giấy, thấy con xẩm bồng bé Hậu đương đứng coi cô Như đánh máy, thì bươm bả bước lại ôm con mà hôn, rồi bồng luôn con mà đi với hai cô. Dắt coi những xe hơi mới để đầy ba căn, rồi dắt qua coi chỗ bán đồ phụ tùng, đi đến đâu cô Vân cũng đều thấy cách sắp đặt có thứ tự, nên cô trầm trồ khen ngợi không ngớt. Thuần mở cửa sau chỉ cho hai cô thấy cái xưởng sửa xe đương rần rộ, mà không chịu dắt xuống đó, vì nghĩ chỗ ấy dầu mỡ bụi bặm, sợ hai cô xuống đó dơ áo dơ quần.

Ði coi cùng hết rồi Thuần mới đưa hai cô ra xe. Cô Hòa nói:

- Gần 12 giờ rồi thôi thì mình về luôn mà ăn cơm, chớ còn ở lại hay sao?

Thuần coi đồng hồ tay, thấy đã 11 giờ 45 thì gật đầu đáp với vợ: "Ừ, thôi, để tôi về luôn thể. Mình chờ tôi vô lấy áo dặn thầy hai một chút rồi tôi về với".

Thuần để bé Hậu lên xe, rồi trở vô hãng. Cách một lát Thuần trở ra vừa đi vừa bận áo. Thuần bảo con xẩm kéo ghế trong mà ngồi. Thuần bước lên cầm tay bánh để bé Hậu ngồi một bên, còn sớp-phơ ngồi bên kia, rồi mở máy chạy về Cây Quéo. Lúc xe quanh vô cửa, cô Vân thấy vườn hoa đẹp đẽ, nhà lầu nguy nga, thì cô nói lớn, cố ý cho Thuần ngồi phía trước nghe:

- Ô! Anh chị sắm chỗ ở xinh đẹp quá! Em không dè chút nào hết. Tốt quá, ban ngày anh đi lo việc thương mại công nghệ, ban đêm về sum họp với vợ nơi cảnh nầy thì vui lắm, hạnh phúc như vầy còn hạnh phúc nào hơn.

Thuần ngừng xe tại cửa trước, ngó vợ mà cười, mở cửa xe cho vợ với cô Vân xuống, dạy sớp-phơ coi đem đồ vô nhà, rồi chạy xe vô nhà xe mà cất.

Bé Hậu vô nhà biểu con xẩm đưa cái kèn rồi thổi te te, bộ đắc ý lắm. Cô Vân ngó vợ chồng Thuần rồi ngó bé Hậu mà cười, trong lòng rất mừng cho người bạn yêu được hưởng gia đình hạnh phúc.

Cô Hòa kêu bồi bếp mà dạy dọn cơm, rồi mời cô Vân đi thẳng lên lầu, nói rằng đã dọn phòng riêng cho khách ở từng trên.

Thuần biểu con xẩm thay đồ cho bé Hậu rồi Thuần đi rửa mặt.

Chừng hai cô trở xuống thì thấy Thuần với Hậu, hai cha con đương hất trái banh lăn qua lăn lại ngoài hàng ba, con la om sòm, cha cười ngả ngớn[8], cảnh coi thuận hòa đầm ấm lắm.

Cơm dọn rồi, bốn người ngồi lại ăn, hai cô ngồi một bên.

Cô Vân cứ ngó Thuần và ngó bé Hậu mà cười hoài lại khen Hậu giống Thuần như một khuôn. Cô Hòa hỏi chồng:

- Hồi nẫy ngoài hãng có ai kêu dây nói mời mình đi hội gì đó phải không?

- Ừ, mông-xừ Thoại mời tối nay nhóm tại nhà hàng Cửu Long đặng bàn tính gom hết bạn thanh niên trí thức mà lập một hội ái hữu. Tôi xin kiếu, không dám hội hiệp với mấy bác đó nữa. Mấy bác đó lập hội đặng ăn uống say sưa làm việc tồi bại, chớ phải lập hội đặng lo công ích gì hay ho mà theo.

- Mình làm trái ý anh em, rồi họ tẩy chay mình chớ.

- Ô... Từ hồi hôm tôi đã nhứt định tẩy chay họ rồi, mình khỏi lo họ tẩy chay tôi.

- Tại sao mình nghịch với anh em dữ vậy?

- Chớ chi hồi hôm có mình đi dự tiệc đám cưới thì mình cũng nghịch như vậy... Khốn nạn, xấu hổ lắm... Thôi đừng có kể thanh niên trí thức gì nữa. Dầu ở xứ Việt Nam, dầu ở bên Tàu, hay là ở bên Tây cũng vậy, những lễ quan hôn tang tế là lễ trọng. Mình đi dự mấy tiệc ấy, thì phải mặc y phục cho trúng lễ, ngồi ăn mình phải giữ lễ cho hẳn hòi, sớt đồ ăn không được lựa miếng ngon, nói chuyện phải lựa lời, không được kêu nói vói. Cách ít năm nay tôi có đi một đám cưới, thấy có một nhóm thể tháo[9] gia họ đến dự tiệc họ mặc y phục cũng như đi đá banh hay là đánh tennis vậy, chừng ngồi, họ lột áo rồi mặc sơ-mi lòi cánh tay cũng như ngồi ăn theo mấy quán chung quanh chợ. Hồi hôm nầy nhóm thanh niên trí thức dự tiệc đám cưới họ mặc y phục trúng lễ, song chừng ngồi ăn họ lột khăn đen rồi dùng đựng đồ mà ăn, họ vật lộn rách cả áo dài, rồi chừng khiêu vũ họ mặc áo bà ba mà nhảy. Ðó, tấn bộ văn minh là vậy đó!... Tôi ngán quá... Thôi, tôi làm dã man cho khỏi hổ. Từ rày tôi cứ lo làm ăn, có rảnh thì tôi vui chơi với vợ con mà thôi, tôi không dám bè bạn với ai hết.

Cô Vân cười mà nói :

- Anh lập tâm như vậy thì chị Hòa và cháu Hậu hữu hạnh, còn xã hội thì vô phước lắm.

Thuần suy nghĩ một chút rồi đáp:

- Sanh nhằm đời hỗn độn, nếu ai lo giữ thân danh của mình cho vẹn toàn, thì người ấy là thượng trí.

Ăn cơm rồi Thuần lên lầu nghỉ trưa. Hai cô vào phòng khách đàn bà nằm nói chuyện. Gần ba giờ Thuần thức dậy tắm gội rồi thay đồ mà đi ra hãng.

[1] chải

[2] (siffler), kèn xe lửa

[3] lớn đại

[4] bằng trung học theo chương trình cũ của Pháp

[5] anh ấy

[6] chị ấy

[7] trường kỷ

[8] ngả nghiêng, lả lơi

[9] thể thao

Ðoạn tình

Chương 4

Bốn giờ rưỡi chiều, mặt trời trịch xuống khuất ngọn cây, hết dọi nắng vào vườn hoa nữa. Gió chướng thổi loa xao xô lá cây lúc lắc, lại đưa hơi nắng hồi trưa đi mất hết.

Cô Hòa mời cô Vân ra trước sân mà xem cây trồng, nhứt là thưởng hoa nở chơi cho mát. Hai cô dắt nhau đi dài theo mấy liếp bông, lúc cúi xuống ngưởi bông hường vừa chớm nở, khi đứng trầm trồ bông cẩm nhung tươi tốt. Mùi hoa pha lộn với mùi thơm của hai cô, làm cho quang cảnh rực rỡ lại thơm tho bát ngát.

Ði tới cây xoài lớn dựa rào, hai cô bèn ngồi xuống cái băng dưới gốc cây xoài, day mặt vô nhà. Trước mặt một cái sân hoa nở đủ các màu pha lộn nhau. Ngó xa vô nữa thì một toà nhà nguy nga đẹp đẽ. Cô Vân ngắm cảnh một hồi, cô sanh cảm trong lòng nên cô day qua nói với bạn:

- Chị có phước lắm. Tôi thấy chị được như vầy thật tôi mừng biết chừng nào. Người ta nói mấy ông học bên Tây, nếu họ về xứ mà họ lập gia đình, thì chủ ý kiếm tiền cho nhiều đặng ăn chơi sung sướng. Anh Thuần không có ý đó, anh lập gia thất đặng lo làm ăn, làm ăn cho có tiền đặng bồi đắp nền hạnh phúc cho vợ con hưởng. Đàn bà con gái có chồng như vầy thì phỉ nguyện rồi. Tôi mừng cho chị lắm.

Cô Hòa chau mày lặng thinh một chút rồi thủng thẳng đáp:

- Ở đời chẳng có hạnh phúc nào mà được hoàn toàn bao giờ, hễ được cái nầy thì mất cái kia...

- Chị khó quá! Vậy chớ chị còn muốn thế nào mới gọi là hoàn toàn hạnh phúc?

- Tôi có muốn gì đâu? thế nào tôi cũng bằng lòng hết thảy... Nhưng mà tôi nghĩ hạnh phúc gia đình ở chỗ nào chớ không phải nhờ nhà đẹp, xe tốt, ăn ngon sung sướng, bạc tiền đầy dãy, mà gây ra được. Có người lấy chồng rồi ở trong một cái chòi tranh mà họ còn vui vẻ hơn nhiều...

Nghe mấy lời ấy, cô Vân lấy làm lạ, nên ngó sững bạn rồi hỏi nho nhỏ:

- Anh Thuần không thương chị hay sao?

- Thương chớ, vợ chồng ở với nhau hơn 5 năm đã có con có cái, sao lại không thương.

- Vậy thì sao chị lại nói như có ý phiền anh? Anh có khinh rẻ chị hay không?

- Không, trọng tôi lắm chớ.

- À, nếu vậy thì tôi không hiểu ý chị rồi.

- Ðể thủng thẳng rồi tôi nói việc nhà của tôi cho chị hiểu.

- Ðược. Mà tôi muốn hiểu liền bây giờ, bởi vì tôi thương chị như ruột thịt, nếu chị buồn tôi chịu không được.

- Không, tôi chưa đến nỗi buồn.... Tôi mới không được vui mà thôi.

- Không vui thì là buồn chớ gì.

Cô Hòa chúm chím cười, rồi không muốn nói việc riêng của mình nữa, nên xoay câu chuyện mà hỏi Vân:

- Chị thi đậu về nhà đã hai năm rồi, sao chị chưa chịu lấy chồng?

Cô Vân cười ngất mà đáp:

- Chồng không chịu cưới thì tôi làm sao mà lấy chồng được?

- Sao lại không chịu cưới?

- Họ không chịu cưới, nghĩa là không chịu cưới chớ có sao đâu?

- Chị nói khó hiểu quá. chị cứ giễu cợt hoài. Nói rõ cho tôi nghe nào.

- Tâm sự của chị thì chị muốn giấu, chị không chịu nói thật cho tôi biết, sao chị lại ép tôi phải nói tâm sự của tôi cho chị nghe? Chị nói thật chuyện của chị trước đi, rồi tôi sẽ nói chuyện của tôi.

- Chuyện của tôi nhỏ mọn, không có gì đáng nghe. Chuyện của chị là quan trọng, chị phải nói trước.

- Có gì đâu mà quan trọng. Chồng nói rồi nó hồi, nó không thèm cưới.

- Chuyện như vậy mà chị nói không quan trọng, vậy chớ còn đợi sao nữa?

- Quan trọng lắm hay sao? Tôi cho là việc nhỏ mọn, tôi không để ý chút nào. Chị muốn biết thì tôi nói cho chị biết... Trong làng của tôi có một vị hương chức có ít mẫu ruộng, cày cấy đủ ăn, chớ không phải nhà giàu. Nhưng mà ông có một người con trai tên là Toàn, học giỏi, mới 20 tuổi đã thi đậu tú tài, trong làng ai cũng khen giỏi. Toàn muốn đi qua Tây mà học thêm nữa, ngặt vì cha mẹ không đủ sức chịu tốn hao, nên Toàn buồn lắm. Lúc ấy tôi mới 19 tuổi đương học trên Sài Gòn. Má tôi nghe chuyện Toàn muốn đi học nữa mà không tiền, thì mời cha mẹ Toàn xuống nhà hỏi thăm, rồi nói nếu hai ông bà hứa làm sui thì má tôi sẽ ra tiền cho toàn đi học, chừng nào thành danh trở về rồi sẽ làm lễ cưới tôi. Hai ông bà mừng nên hứa làm sui liền. Cách ít ngày, nhân dịp lễ nghỉ học, tôi về thăm nhà. Má tôi cho cha mẹ Toàn hay, rồi hai ông bà dắt Toàn xuống nhà tôi đặng cho tôi với Toàn biết nhau. Trong ít bữa sau đó, má tôi đưa một ngàn đồng bạc cho Toàn đi Tây. Từ ngày ra đi, mỗi tháng Toàn đều có gởi một bức thơ về mà thăm má và tôi, thơ gởi ngay cho má, và viết thơ cũng kêu má tôi bằng má như con rể vậy. Toàn học y khoa, mỗi bức thơ đều nói sự học cho má tôi biết. Má tôi thương Toàn lung lắm, hễ tôi về nhà thì má tôi đưa hết thơ của Toàn cho tôi coi, rồi khen ngợi Toàn và khuyên tôi phải ráng mà học cho giỏi, ráng tập rèn công, dung, ngôn, hạnh, đặng ngày sau làm vợ một vị Ðốc-tơ cho xứng đáng. Trong 5 năm trường, hễ vài ba tháng thì má tôi đưa 300 đồng bạc cho ông già Toàn đặng gởi qua cho Toàn ăn học. Năm ngoái gởi thơ về nói đã đậu thi bằng Ðốc-tơ được rồi, song còn phải ráng ở học thêm nữa, học chuyên môn về bịnh mắt. Má tôi lấy làm vui lòng nên cũng cứ đưa bạc đặng gởi cho Toàn hoài. Thình lình hôm tháng chạp năm ngoái, ông già Toàn xuống nhà đưa một bức thơ của Toàn cho má tôi coi, trong thơ Toàn nói vì lỡ thương cô đầm, ăn ở với nhau đã được một mặt con, không thể dứt được, nên cậy cha mẹ xin lỗi dùm với má tôi và khuyên tôi đừng trông đợi, bởi vì Toàn không thể về cưới tôi được!

Cô Hòa nghe thuật chuyện tới đó thì cô nổi giận, dằn lòng không được, cô vụt nói:

- Người gì mà vong ân bội nghĩa quá như vậy?

Cô Vân vỗ vai cô Hòa cười mà đáp:

- Người Việt Nam chớ người gì. Người thanh niên trí thức đời nay đó.

- Khốn nạn, khốn nạn lắm, không có luân lý gì hết! Thuật chuyện như vậy mà chị cười được, thật tôi không hiểu chị là người gì!

- Tôi cũng là người Việt Nam chớ người gì?

- Sao chị không nổi giận.

- Giận ai? Giận Toàn hay là giận người Toàn yêu?

- Giận hết thảy.

- Chị nóng nảy quá. Trai họ có cái óc mới, thì mình cũng phải có cái óc mới như họ vậy chớ, giận làm chi. Tôi cười, chớ tôi không giận. Chị nghĩ kỹ lại coi. Toàn rèn tập theo cách giáo dục kiếm ăn, thì tự nhiên trí não tánh tình như vậy, có gì lạ. Mình có giận thì giận cách giáo dục kiếm ăn đó, chớ không nên giận Toàn. Còn người Toàn yêu và yêu Toàn đó, thì họ có biết mình đâu mà mình giận họ.

- Người ta giựt chồng chị mà chị nói nghe như chơi...

- Chớ chị bảo tôi phải khóc, phải la hay sao?

- Phải làm sao, chớ để êm đềm sao được.

- Người ta không cưới thì thôi, chớ làm sao bây giờ? Tôi chắc tại tôi không có duyên nợ với Toàn, nên trời khiến như vậy đó đa chị. Mà tôi khỏi kết duyên với Toàn có lẽ đó là cái may của tôi, biết chừng đâu.

Cô Hòa ngồi trầm ngâm suy nghĩ một hồi rồi nói:

- Tôi hiểu rồi, mất chồng mà chị không tức giận, ấy là tại chị không có tình với Toàn, chớ không phải là duyên nợ hay là tại cớ nào khác phải không?

Cô Vân gật đầu đáp:

- Có lẽ chị nói trúng.

Cô Hòa vội lấy một nhánh cây khô cầm mà vẽ trên cát rồi hỏi tiếp:

- Bây giờ chị tính lẽ nào? Thôi, lấy chồng khác phứt đi, kẻo họ tưởng hễ họ không cưới thì chị ế chồng.

- Chồng ở đâu mà lấy? Mà lấy chồng có ích gì hay sao, nên chị khuyên tôi phải lấy chồng? Lẽ trời và tục người đều buộc con gái lớn lên thì phải lấy chồng. Tôi đã vâng theo lẽ trời và tục người rồi; nếu người ta không cưới thì lỗi tại người ta chớ không phải tại tôi. Trả nợ hồng trần theo phận gái đã xong rồi, bây giờ tôi được thong thả mà học vẽ học đờn, tập làm thi chơi, khỏi lo phải làm mọi người ta nữa, thì tôi vui lắm vậy.

- Chị nói như vậy mà tôi chắc bề nào rồi đây chị cũng phải lấy chồng. Chị ưa đờn ưa vẽ ưa ngâm thì tự nhiên chị sẵn có cái tâm hồn lãng mạn, thì dễ cảm ái tình lôi cuốn, rồi dầu chị không muốn, chị cũng phải có chồng.

- Thuở nay tôi chưa biết ái tình là cái gì, mà dầu tình ấy có phát ra, tôi cũng kiếm thế xa lánh, chớ tôi không cho nó làm lụy cái tự do của tôi.

- Chị không chịu lấy chồng mà sao chị thấy có chồng có con, chị lại khen tôi có phước?

- Tại ý chị khác hơn ý tôi; chị thích gia đình hơn tự do. Nay chị được hưởng gia thất đầm ấm, thì tôi mừng cho chị chớ sao. À, hồi nãy tôi khen chị có hạnh phước gia đình thì chị nói hạnh phước ấy không hoàn toàn, tại sao vậy? Tôi tỏ tâm sự của tôi rồi bây giờ chị phải nói việc nhà của chị cho tôi nghe một chút.

- Việc của tôi khó nói ra được... Mà việc cũng không đáng nói nên chị chẳng cần biết làm chi.

- Chị cứ giấu hoài! Chuyện tuy không đáng nói mà tôi muốn nghe. vậy chị phải nói... Anh chơi bời hay mèo chuột nên chị ghen chớ gì, phải như vậy không?

Cô Hòa cúi đầu lặng thinh không chịu đáp.

Cô Vân chưa chắc lời mình nói đã trúng ý bạn, cô muốn dọ lòng thêm nữa nên cô nói tiếp: "Ðời nay đàn ông họ rộng đường giao thiệp, nhứt là bậc trí thức có anh em nhiều, dầu không muốn chơi bời, mà cũng phải ép lòng đi chơi với anh em. Làm đàn bà chẳng nên cố chấp thái quá; phải để cho chồng thong thả, miễn họ giữ trọn đạo làm chồng thì thôi. Tôi tưởng vợ chồng nếu người nầy có quấy chút đỉnh, người kia phải nhắm mắt, đừng thèm ngó, thì gia đạo mới hòa thuận vững bền.

Cô Hòa châu mày mà nói:

- Chị chưa có chồng, chị không hiểu tình vợ chồng là thế nào, nên chị mới nói dễ như chuyện chơi. Ðể chừng chị có chồng rồi chị sẽ biết. Có nhiều cái nó làm cho mình muốn điên, muốn chết đa chị.

Bây giờ cô Vân biết mình đã rờ nhằm chỗ đau của bạn rồi, bởi vậy cô cười ngất mà hỏi:

- Chị ghen lắm hả? Chị bị chứng ghen hèn chi chị không vui. Mà chị biết chắc anh có vợ bé hay là có mèo ở đâu không mà chị ghen?

- Nếu tôi biết thì tôi phanh thây nó liền, tôi có để yên đâu mà nói.

- Chị không biết mà chị ghen nỗi gì?

- Bởi không biết nên mới tức chớ?

- Nếu chị không biết thì phải lập thế đặng biết, rồi chị ghen mới có cớ chớ. Tôi khuyên chị đừng nói chi hết, chị cứ vui vẻ như thường mà dọ dẫm. Chừng nào chị biết anh có tình với ai rồi, chị sẽ to nhỏ mà khuyên lơn anh. Theo con mắt tôi thấy, thì anh là người biết trọng gia đình, chớ không phải là người hoang đàng. Nếu rủi anh có lỡ đi chơi lầm đường quấy, chị êm ái mà cắt nghĩa cho anh nghe, tôi chắc anh sẽ bỏ liền, chị chẳng cần phải ôm ấp sự phiền não trong lòng chị.

- Hễ tôi nhớ tới sự đó, thì tôi bực tức sùng sục trong lòng, không vui được thì làm sao mà êm ái.

- Mà cử chỉ của anh thế nào nên chị ghen như vậy?

- Tôi nói thật với chị, nhà tôi đối với mẹ con tôi thì đúng lắm, tôi không có chỗ nào mà trách được. Tôi phiền có một điều là cứ đi hoài, bỏ mẹ con tôi tiu hiu ở nhà như vãi giữ chùa, đi tối ngày, có khi còn đi thâm tới ban đêm nữa. Tôi buồn là buồn chỗ đó.

- Ảnh làm chủ hãng, tự nhiên anh phải bổn thân quản xuất. Nếu anh lơ mơ ở nhà hoài, không xem xét việc trong hãng, thì cuộc làm ăn hư hại còn gì. Chị trách ảnh về khoản đó tôi e quá đáng.

- Nói ra ngoài hãng. Mà tôi có biết ra đó hay là đi đâu?

- Chị nghi quá vậy sao được. Vợ chồng phải tin bụng nhau thì ở đời với nhau mới được chớ.

- Tôi biết bụng tôi, chớ làm sao tôi biết bụng nhà tôi được mà tin.

- Ồ! Cái nhiệt độ về sự ghen của chị cao quá! Chị phải nguội bớt, chị phải dằn xuống chớ.

- Tôi dằn hết sức đa chị. Nếu tôi không dằn thì có còn vợ chồng gì nữa đâu. Như hồi trưa mình ghé ngoài hãng đó, chị thấy hay không?

- Thấy việc gì?

- Hồi hai chị em mình xô cửa vô phòng làm việc của nhà tôi đó, chị không thấy giống gì hay sao? Có con đánh máy nó ở trong phòng với nhà tôi đó.

- Người phụ sự đem đồ vô cho chủ ký tên, ấy là sự thường, có lạ gì đâu.

- Mướn người phụ sự mà mướn đàn bà con gái chi vậy, thiếu gì mấy thầy sao không mướn?

- Cha chả! Chị ghen tới kẻ phụ sự của ảnh à? Chị để ý tới chỗ đó thì tôi sợ nhẹ danh giá cho ảnh.

- Chỗ nào tôi cũng để ý, mà dầu ai tôi cũng ghen hết thảy. Người giúp việc thì mướn con gái; trong phòng làm việc lại có sắm ghế "canapé", làm như vậy biểu đừng nổi xung sao được. Tôi nói thiệt với chị, gia đạo của tôi người ngoài dòm vô ai cũng cho là có phước hết thảy. Nhưng mà tôi buồn lắm. Tuy ở nhà lầu đi xe hơi, đeo hột xoàn, muốn vật chi cũng có, song tôi không biết vui chút nào hết. Tôi sợ một ngày kia tôi phải tự vận mà chết, bằng không chết thì tôi cũng điên.

Cô Hòa nói tới đây thì sắc mặt cô rất buồn bực. Cô Vân thấy bạn đau đớn như vậy, thì cô không dám giễu cợt nữa, cô nghiêm sắc mặt mà nói:

- Chị Hòa, chị bị bịnh ghen nặng quá. Tôi biết vì chị thương chồng nhiều nên chị mới ghen. Nhưng mà bịnh ghen là cái họa lớn trong gia đình. Vậy phải làm thế nào mà trừ cho gấp, nếu để dây dưa sợ nó phá gia đình rời rã. Nay tôi biết chứng bịnh của chị rồi, không lẽ tôi làm lơ, để cho gia đình chị xào xáo. Thôi, để mai mốt tôi thừa dịp nào anh Thuần rảnh, tôi sẽ tỏ bày nỗi phiền não của chị cho anh hay biết, đặng anh liệu đường làm chị hết ghen. Chị cho phép tôi nói thiệt với anh không?

Cô Hòa do dự một chút rồi mới đáp:

- Có lẽ nhà tôi đã dư biết nỗi buồn của tôi; song muốn để như vậy cho tôi chết đặng cưới vợ khác!

- Ồ! Sao chị coi anh Thuần rẻ quá vậy? anh là người biết trọng gia đình, nên tuy mắc lo làm ăn, song cũng sắm nhà cửa tử tế đặng vợ con ở cho sung sướng. Người có ý tốt như vậy, lẽ nào lại có cái ý xấu như vậy.

- Thôi chị muốn nói thì nói, nói thử coi nhà tôi đáp thế nào?

- Chị cho phép phải không?

- Tôi cho.

- Mà tôi nói chuyện với ảnh, tôi sợ chị ghen tới tôi nữa!

Cô Vân nói câu nầy rồi cười ngất. Cô Hòa cũng cười mà đáp:

- Tôi với chị thương nhau như ruột thịt. Có lẽ nào chị đành giựt chồng tôi hay sao mà tôi ghen.

Hai cô cười xoà.

Thuần ở ngoài hãng về, ngừng xe trước thềm nhà. Bé Hậu đương chơi phía sau chạy ra mừng cha, rồi cha con ôm nhau mà hôn.

Cô Hòa với cô Vân đứng dậy thủng thẳng đi vô nhà.

Thuần ngó vợ mà nói:

- Mới 6 giờ 15, thay đồ đi chơi một vòng, chừng 7 giờ 30 sẽ ăn cơm. Ði đặng cho cô Vân hứng gió một chút.

Hai cô thay đồ rồi dắt bé Hậu lên xe. Thuần cầm tay bánh cho xe chạy qua phía Gò Vấp.

Ðoạn tình

Chương 5

Qua ngày sau...

Gần 3 giờ chiều, Thuần sửa soạn lên xe đi ra hãng. Cô Hòa kêu chồng mà dặn hễ ra tới hãng rồi thì biểu sớp-phơ đem xe về liền đặn cô với cô Vân đi Sài Gòn mua đồ, đúng 5 giờ cô sẽ lại hãng rước Thuần đi Thủ Ðức ăn nem chơi một bữa. Thuần làm y theo lời vợ dặn.

Coi đồng hồ đã 5 giờ, Thuần rửa mặt chải đầu rồi bận áo ra ngoài đứng nói chuyện với thầy hai Tịnh, mắt cứ ngó chừng ngoài đường, có ý trông xe lại, đặng đi chơi một vòng. Ðợi đến 5 giờ rưỡi cũng chưa thấy xe lại, Thuần lấy làm lạ, bèn bước ra ngoài cửa đi lên đi xuống mà chờ. Chờ hoài không thấy, bây giờ Thuần bắt đầu lo, vì không biết có sự rủi ro chi hay không. Ðến 6 giờ, Thuần nóng nảy quá, không thể chờ nữa được bèn trở vô hãng dặn thầy hai Tịnh, nếu có xe cô Hòa lại thì nói Thuần chờ không được, nên đã về trong nhà rồi. Dặn xong thuần mới vô trong xưởng lấy một cái xe cũ mà về Cây Quéo, thầm tính nếu về nhà mà không gặp vợ thì sẽ chạy ra mà kiếm.

Xe vô tới sân, Thuần liền thấy cô Vân đương nắm tay dắt bé Hậu đi dài theo mấy liếp bông mà chơi. Thuần hết lo nữa, song không hiểu tại duyên cớ nào mà vợ thất ước, nên vừa bước xuống xe vừa hỏi cô Vân:

- Hẹn 5 giờ lại hãng rước tôi mà, tôi chờ hoài không thấy, tôi lo quá, không biết có gặp việc rủi ro gì hay không. Nhà tôi không có đi Sài Gòn với cô hay sao?

Cô Vân cười rất hữu duyên mà đáp:

- Xin anh tha lỗi cho chị Hòa. Thiệt cũng vì có một sự rủi nên chị Hòa mới thất ước với anh như vậy đó.

- A! Rủi sao đó?

- Hồi xế xe trở về, hai chị em tôi sửa soạn đi Sài Gòn mua đồ chơi. Chị em tôi chưa kịp đi, thì có một người đem thơ của chị hai ở trong Rạch Cát nói chị hai bịnh và mời chị Hòa vô nói chuyện. Chị Hòa dục dặc muốn để sáng mai sẽ đi. Em nói chuyện mình đi chơi không quan hệ gì, bữa nay đi không được thì mai sẽ đi, chớ còn chị hai có bịnh đã sai người ra kêu, nếu không đi liền thì lỗi lắm vậy. Em ép chị Hòa phải đi Rạch Cát nên mới lỗi hẹn với anh đó.

- À, mà có đi Rạch Cát thì ghé hãng nói cho tôi hay một chút rồi sẽ đi; không thèm nói trước; làm cho tôi lo quá.

- Chắc chị Hòa gấp đi nên không kịp nói, xin anh chớ phiền... Em quen với chị Hòa thuở nay mà em chưa có dịp gặp chị hai lần nào. Không biết chị hai bịnh sao đó?

- Chị hai của nhà tôi trái tim yếu lắm, nên hay mệt. Thuở nay có chứng bịnh đó mà uống thuốc hoài không dứt được.

- Bịnh đó hiểm nghèo lắm.

- Phải. Ðau tim thì không được giận, không nên lo.

Bé Hậu thấy con xẩm ở trong nhà đi ra, liền kêu mà biểu dắt đi ra đường chơi. Thuần biểu bồi nhắc một cái bàn nhỏ với hai cái ghế để giữa hoa viên rồi đem nước đá, nước cam ra uống chơi cho mát. Thuần mời cô Vân ngồi, rót nước cam mời cô Vân uống.

Cô Vân vui vẻ hỏi Thuần:

- Chị hai gốc ở Chợ Lớn. Vậy chồng chị gốc ở Rạch Cát hay sao nên chị phải về Rạch Cát mà ở?

- Không. Ảnh gốc ở Cần Ðước. Ảnh đặt nhà máy xay gạo trong Rạch Cát, nên vợ chồng phải về trỏng[1] mà ở. Ảnh tên Năm Quyền.

- Chồng tên Quyền, vợ tên Quý, rồi lập nhà máy đặt hiệu là "Quyền Quý" cũng như anh đặt hiệu "Thuần Hòa" cho hãng của anh đó chớ gì.

- Phải. Hồi tôi lập hãng, ở nhà tôi bắt chước theo cách của anh hai chị hai tôi, nên biểu tôi đặt hiệu như vậy đó.

- Nếu vậy thì chị Hòa với chị Quý chắc tình ý giống nhau lắm, phải không?

- Cái đó tôi không hiểu được, bởi vì tôi ít gần gũi với chị hai tôi, nên tôi không biết tánh ý chị.

- Tuy em chưa biết chị hai, mà chắc chị ghen lung lắm.

- Tại sao cô dám nói chắc như vậy?

- Tôi cũng không biết có bịnh ghen hay không. Mà anh làm chủ nhà máy lớn, anh lo bạc đầu, có chơi bời chi được đâu mà chị ghen. Ghen là một chứng bịnh, hễ ai mang chứng bịnh ấy thì ghen tự nhiên, chớ không phải đợi chồng chơi bời mới ghen.

Thuần ngẫm nghĩ một chút rồi cười mà hỏi:

- Tại sao cô đoán tình ý nhà tôi giống tình ý chị hai, rồi cô lại nghi chị hai Quý có bịnh ghen? Tuy cô nói vòng ở ngoài, song cũng đủ làm cho tôi hiểu rằng, cô tỏ ý chê nhà tôi có bịnh ghen, phải như vậy hay không.

Cô Vân lắc đầu, đáp:

- Không. Lời anh nói đó trúng có phân nửa thôi. Anh nói em biết chị Hòa ghen thì trúng, còn anh nói em chê chị Hòa ghen thì không trúng. Bịnh ghen là bịnh chung của các đàn bà có chồng, trừ ra ai có chồng mà không thương chồng thì mới khỏi chứng bịnh ấy. Ấy vậy dầu em biết chị Hòa ghen em cũng không phép chê chị. Chị thương anh, nên chị mới ghen, thế thì làm sao mà em chê chị được.

- Phải. Ðàn bà vì thương nên mới ghen, bởi vậy thói quen có thể dung chế được. Nhưng mà, không hiểu đàn bà ghen họ có biết rằng nhiều khi họ làm cho chồng buồn bực chán ngán lắm hay không?

- Nếu vợ ghen mà chồng buồn, thì chồng không biết phương pháp nào làm cho vợ khỏi ghen hay sao?

- Phương pháp nào?

- Mình đừng làm những việc gì có cớ cho vợ ghen được.

- Vợ chồng phải tin bụng nhau thì gia đình mới được đầm ấm. Nếu mỗi giây phút đều phải chú tâm về sự vợ ghen, đặng cứ lo mà tránh, thì đi đứng mất tự do, làm ăn hết phấn chấn, rồi gia đình cũng hết vui vẻ.

- Em hỏi thiệt anh, vậy chớ anh có biết chị Hòa ghen hay không?

- Có lẽ nào tôi không biết.

- Nếu anh biết thì anh phải làm sao, chớ không lẽ để chỉ ghen, chỉ phiền não, anh bực bội trọn đời hay sao?

- Biết làm sao bây giờ...?

Thuần than mấy tiếng rồi chau mày ngồi buồn hiu.

Cô Vân đã hứa kiếm phương thế gỡ mối sầu dùm cho bạn, nay gặp cơ hội nầy cô muốn tỏ tâm hồn của cô Hòa cho Thuần hiểu, rồi khuyên Thuần phải sửa đổi cách đối xử đặng cho gia đạo bình an, mà cô tư lự không biết phải mở đầu nói thế nào cho khỏi mang tiếng thày lay[2]. Thuần ngước mặt ngó mông ngoài đường rồi thở dài mà nói:

- Tôi thuộc về hạng tân học. Nếu tôi cưới vợ, ấy là tại tôi không có tính ham chơi bời như chúng bạn, tôi quyết lập gia đình đặng có sẵn cái cơ sở vững chắc, an ổn ở trong, rồi phấn chí tranh đấu về cuộc làm ăn ở ngoài. Tôi tưởng từ ngày tôi cưới vợ cho tới bây giờ tôi chẳng hề có một chút lỗi gì trong đạo làm chồng. Thế mà vợ tôi nó không hiểu bụng tôi, nó cứ ngấm ngầm ghen tuông hoài, nhiều khi nó làm cho tôi chán ngán hết muốn làm ăn, hết vui với sự sống nữa. Bây giờ tôi mới hiểu cái hạnh phúc gia đình thiệt khó tạo, dầu mình có chí muốn tràn trề, dầu mình có bạc tiền đầy dãy, mình cũng không dễ mua cái hạnh phúc ấy được. Tôi đã thấy cái đời cũa tôi hỏng rồi. Nếu tôi sống, ấy là vì lẽ trời nên phải sống, sống đặng làm tôi mọi cho đời như triệu ức người khác, chớ không có vui vẻ gì mà mong.

- Anh chẳng nên thối chí; bây giờ anh tiếc sự anh cưới vợ hay sao?

- Ngó ra đường trước mặt buồn hiu, làm sao mà không thối chí cho được! Nhớ tới sự mơ ước thì nó như giấc mộng, làm sao mà khỏi ăn năn chút đỉnh.

- Cha chả! Em không dè chị Hòa ghen đến nỗi làm cho anh chán ngán quá như vậy. Em xin tỏ thiệt với anh, em lên ở chơi hai bữa rày, em nói chuyện với chị Hòa, em dòm thấy chỉ vì bịnh ghen nên trong lòng không được vui. Em dọ ý chỉ thì em hiểu chỉ phiền là tại anh ham lo làm ăn hơn là ưa vui với vợ con, chớ chẳng có cớ chi khác. Phiền như vậy cũng dễ dãi, chớ không phải khó. Em xin anh hãy vì gia đình mà sửa đổi bề cư xử lại một chút, đặng anh hưởng hạnh phúc cho hoàn toàn.

- Tôi phải đóng cửa hãng, đừng làm ăn nữa, đặng ở nhà với vợ con hay sao?

- Không cần phải thôi làm ăn. Em tưởng anh mướn một người làm tổng lý coi hãng thế cho anh, rồi mỗi bữa anh ra hãng chừng một vài giờ đặng xem xét cũng được, chẳng cần phải ở tối ngày ngoài hãng.

- Ai cho bằng mình được mà mình dám phó thác.

- Ðã biết như vậy, song xin anh hãy nghĩ lại, dầu hãng có thất lợi bao nhiêu đi nữa nhắm cũng ít hại hơn là gia đình xào xáo.

- Tự nhiên. Nhưng mà sự làm việc là cái thú vui của tôi, nếu tôi ở không chắc là tôi hết vui.

- Anh cũng làm việc chớ, song làm ở nhà.

- Làm người mà câu thúc như vậy thì sự sống có thú vui gì đâu.

- Xin anh nhớ, ở đời phải có cực mới có vui. Phải tìm mà mua cái vui, chớ có bao giờ người ta đem cái vui dưng cho mình đâu.

- Cô luận đứng lắm, mà tôi ra làm chủ hãng, tôi chịu cực thân nhọc trí hết sức, đặng cho vợ con được sung sướng, công của tôi đó không đủ mua vui được hay sao?

- Tại người bán cái vui cho anh họ không chịu giá đó, họ đời giá khác, nếu anh muốn mua thì anh theo ý người bán mới mua được chớ.

- Người ta nói chốn dương trần là khổ ải, nghĩ thiệt trúng lắm, phải không cô?

- Phải. Mà mình kiếm thế qua cho khỏi biển khổ mới giỏi chớ. Em còn muốn tỏ với anh một chuyện nữa, song em sợ nói ra anh phiền.

- Cô cứ nói, đừng ngại chi hết.

- Em coi ý chị Hòa không vừa lòng về sự anh mướn đàn bàn con gái giúp việc trong hãng.

- Ồ! Vợ tôi ghen đến người bộ hạ của tôi nữa à?

- Em đã nói ghen là một chứng bịnh mà. Như mụn ghẻ, dầu chỗ nào nó mọc cũng được, chớ không phải nó lựa trên mặt hoặc trên vai nó mới mọc.

- Cô Như đánh máy chữ trong hãng là em gái của một người bạn thiết của tôi. Bạn tôi suy sụp nên hôm tháng trước đem em lại hãng xin với tôi để em phụ sự trong hãng đặng mỗi tháng có ít chục đồng lương mà nuôi sự sống. Vì vậy nên tôi phải cho vào làm, chớ nào phải tôi có ý xấu nên mướn con gái đâu. Không được, không được, ghen đến thế thì nhục cho tôi quá.

- Thấy không, hồi nãy em có nói trước, em sợ là hễ nói ra thì anh phiền, té ra nói trước mà cũng không khỏi.

Bây giờ trời đã tối rồi, tuy mặt trăng đã mọc lên ở hướng đông, nhưng còn bị cây áng nên hoa viên vẫn lờ mờ chưa được sáng.

Thuần đứng dậy đi qua đi lại, không nói chuyện nữa. Cô Vân thấy Thuần buồn thì ái ngại, tưởng Thuần đã muốn dứt câu chuyện, nên cô cũng đứng dậy tính đi vô nhà. Ý Thuần muốn lưu cô lại, nên nói:

- Cô là bạn thân thiết với nhà tôi. Nhà tôi tin bụng cô lắm nên mới tỏ tâm sự cho cô biết đó. Tôi chắc trong lúc nói chuyện, nhà tôi phiền trách tôi nhiều lắm phải không ?

Cô Vân đứng ngó trân Thuần mà đáp:

- Có. Chị Hòa có trách anh. Mà chị trách là trách anh ham lo bề làm ăn, còn ít ưa vui thú vợ chồng chớ không có trách anh điều chi khác. Ấy vậy nếu anh sửa tánh ý một chút, thì vợ chồng sẽ thuận Hòa vui vẻ, không có chi khó.

- Người có học ai cũng có chủ trương riêng. Mỗi người đều đeo đuổi theo chí hướng của mình, phấn chấn làm cho đạt được mục đích, đặng vừa lòng phỉ dạ. Mình đương hăm hở đi trong một cái đường mình vui thích đó, bây giờ người ta buộc mình phải ngừng lại, rồi bắt mình phải qua con đường khác là con đường mình không ham không mộ: mình gặp cái hoàn cảnh như vậy tự nhiên phải lơ lửng chán ngán. Tiếc đường cũ, chê đường mới, thế thì làm sao mà vui được. Chớ chi người vợ hiểu tánh ý của mình, rồi sửa đổi tâm hồn mà theo một chí hướng với mình, thì vui biết chừng nào... Cô Vân, cô thương nhà tôi không?

- Trong bọn chị em bạn học, có một mình chị Hòa em thương nhiều hơn hết.

- Nếu cô có thương nhà tôi, thì xin cô làm ơn khuyên dùm nhà tôi sửa đổi tánh nết lại, phải tin cái tình của tôi, đừng nghi ngờ nữa, phải biết vui việc tôi vui, phải biết buồn chỗ tôi buồn. Cô làm thành được việc tôi cậy đó thì tôi mang ơn cô lắm.

- Vâng. Em hứa chắc sẽ hết lòng khuyên giải chị Hòa đặng chỉ làm cho anh vui. Mà em xin anh cũng nhượng bộ một chút, kiếm thế làm cho chị Hòa hết nghi ngờ, đặng hết buồn bực. Anh chịu nhận lời xin hay không?

Thuần cúi mặt ngó xuống đất mà suy nghĩ một chút rồi nói với giọng quả quyết.

- Tôi sẽ ráng làm cho vừa lòng vợ tôi.

- Em cám ơn anh. Nếu được vậy thì em vui lắm.

- Ðể tôi kiếm người tôi cậy làm Tổng lý trong hãng đặng tôi rảnh mà vui với vợ con. Tôi nghĩ lại từ ngày tôi có vợ thì tôi mắc ham làm ăn rồi tôi phế các sự lại. Bắt đầu từ sáng mai đây tôi sẽ cho tiền rồi biểu cô Như đi kiếm sở khác làm. Tôi sẽ tận tâm làm đủ cách cho nhà tôi hết có cớ mà ghen, rồi coi còn phiền trách chi tôi hay không.

- Nghe lời anh nói em nghĩ anh giận lẩy. Nếu như anh giận lẩy nên anh đổi cách cư xử, thì sự sửa đổi ấy kết quả không hay ho gì hết.

- Không. Không phải tôi giận lẩy. Vì tôi có cái óc trọng gia đình, vì tôi nặng lòng thường vợ con tôi lắm, nên tôi mới nhứt định như vậy chớ. Cô có biết tại cớ nào mà tôi trọng gia đình, vì ý gì mà tôi thương vợ hay không?

- Chắc là tại anh cảm nhiễm gia đình giáo dục; tuy theo học thức mới song vẫn trọng luân lý xưa, nên anh mới yêu gia đình như vậy.

- Có lẽ cũng tại như vậy. Mà cái duyên cớ lớn nhứt là thế nầy: Ngày tôi học thành công rồi tôi trở về xứ, tôi thấy xã hội mình tôi chán ngán, hết muốn lo việc khai hoá. Cô nghĩ lại coi, ở đời nầy có nhiều người nghị lực yếu ớt, tinh thần vắng hoe, bậc thượng lưu trí thức thì chăm lo cầu quyền, nhứt là chăm lo kiếm tiền đặng ăn chơi cho thân sung sương; bậc trung lưu thì hí ha hí hửng như kẻ không hồn, còn bậc hạ lưu thì vất vả lờ đờ, ai biểu đâu đi đó, không biết nhục vinh, không hiểu lợi hại chi hết. Ở giữa một xã hội như vậy, thì vui sướng chỗ nào đâu? Vì vậy nên tôi chán ngán, tôi quyết lập gia đình đặng tôi vui thú gia đình, tôi quyết lập cuộc làm ăn đặng tôi chú tâm vào đó, cho tôi khỏi buồn khỏi tức vì xã hội. Tôi trọng gia đình, tôi ham làm ăn là tại như vậy đó. Hai cảnh ấy là chỗ để cho tôi tránh mà kéo dài sự sống, cô hiểu chưa?

- Em hiểu rồi, em hiểu rồi. Em không dè anh bị cái tâm hồn bất mãn nó làm cho anh phải khốn khổ về phần trí đến thế. Anh có tỏ niềm riêng ấy cho chị Hòa hiểu hay không?

- Tôi có tỏ nhiều lần, mà dòm thấy nhà tôi không hiểu... hoặc không muốn hiểu.

Cô Vân chau mày thở dài. Liền khi ấy thấy ánh đèn xe hơi rọi sáng ngoài đường rồi vội vô sân. Cô Vân nói:

- Xe chị Hòa về.

Thiệt quả xe ngừng, cô Hòa bước xuống.

Thuần hỏi vợ:

- Chị Hai đau sao đó?

- Cũng bịnh cũ, trái tim yếu nên mệt. Ðốc tơ biểu chỉ phải đi Long Hải mà tịnh dưỡng ít tuần lễ. Chỉ cho kêu tôi về đặng rũ đi với chỉ.

- Chừng nào chỉ đi?

- Sáng mai.

- Mình có hứa đi với chỉ hay không?

- Không. Tôi nói tôi có khách. Tôi khuyên chỉ đi trước rồi ít bữa tôi sẽ ra thăm. Bữa nào có rảnh mình đưa tôi với chị Vân đi Long Hải được không?

- Ðược. Mình nhứt định bữa nào đi thì mình nói trước đặng tôi sắp đặt công việc trong hãng rồi tôi đi với.

Ba người dắt nhau vô nhà.

[1] trong ấy

[2] làm tài khôn gánh vác việc người

Ðoạn tình

Chương 6

Vì đã nhứt định trước rồi, nên sáng bữa chủ nhựt cả nhà Thuần đều thức dậy sớm, đặng sửa soạn đi Long Hải thăm cô Quý.

Thuần thay đồ rồi trước, dòm cô Hòa với cô Vân còn trang điểm, coi thế cả giờ nữa sắp đặt hành lý cũng chưa xong, Thuần bèn lấy xe chạy ra Sài Gòn. Cô Hòa nghe xe chạy thì hỏi:

- Ủa! Ði đâu đó vậy kìa?

Cô Vân sợ bạn phiền nên nói bừa:

- Chắc anh Thuần đổ xăng thêm hay là ra hãng lấy đồ chớ gì.

- Hồi hôm có nói đổ xăng đầy rồi mà.

- Nếu vậy thì chắc ảnh đi lấy đồ gì đó... Chị thấy không. Bữa hôm tôi mới nói sơ sịa, mà ảnh đã đổi ý bộn rồi. Ảnh hứa với tôi anh sẽ đuổi cô đánh máy, thiệt qua bữa sau ảnh đuổi liền. Hôm qua ảnh lại nói ảnh đương kiếm người mà phú quyền Tổng lý trong hãng đặng anh rảnh rang mà lo cho vợ con. Ảnh đối đãi với chị như vậy đó thì đủ thấy ảnh yêu chị lung lắm. Vậy chị chẳng nên phiền trách ảnh nữa mà ảnh buồn.

- Tôi cảm ơn chị nhiều lắm. Nhờ có chị nói nên bữa rày mới được như vậy đó, chớ hồi trước coi bộ như quên vợ con hết.

- Tại ảnh mắc chăm chú về cuộc làm ăn, ảnh không để ý tới việc khác. Chị có chỗ nào không vui thì chị tỏ thiệt cho ảnh hay biết. Nếu chị phiền mà không chịu nói ra thì ảnh biết ngứa chỗ nào mà gãi.

- Nói làm chi. Người có học thức, tự nhiên biết phân biệt chỗ phải chỗ quấy, người thiệt có lòng thưong vợ con, tự nhiên lo cho vợ con luôn luôn, cần gì phải nhắc!

- Vợ chồng phải đồng tâm, đồng chí, đồng ý, đồng tình, thì gia đạo mới thuận hòa, làm ăn mới phấn chấn. Vậy tôi xin chị cũng phải đổi tánh, hễ có việc chi không vừa lòng, thì nhỏ nhẹ mà tỏ với ảnh, chớ đừng hờn mát giẫn lẩy rồi ôm ấp phiền não trong lòng.

- Tánh tôi khác hơn người ta lắm, tôi phiền, tôi không muốn nói ra.

- Với thiên hạ thì không hại gì, chớ đối với vợ chồng mà chị phiền chị không chịu nói ra, thì vợ chồng làm sao vui vẻ mà ở đời với nhau cho được. Mà bây giờ chị còn phiền ảnh về chỗ nào nữa hay không nè?

- Không. Bây giờ tôi không còn phiền nữa.

- Ờ, nếu được vậy thì tôi mừng lắm. Từ rày sắp về sau hễ có phiền thì nói ngay ra cho ảnh biết.

Hai cô sửa soạn rồi, con xẩm thay đồ cho bé Hậu cũng vừa xong, thì xe của Thuần trở về tới.

Thuần vô nhà cười ngỏn ngoẻn và hỏi:

- Sửa soạn đã xong rồi hay chưa? Bảy giờ rồi, đi sớm cho khỏi bị nắng.

Cô Hòa đáp:

- Chị em tôi xong rồi hết. Tại mình còn đi ta bà nên trễ, chớ có phải tại chị em tôi đâu.

- Tôi chạy ra Sài Gòn mua bánh mì sốt đem theo ra Long Hải ăn. Hồi hôm tôi thấy đồ hộp mình mua ít quá, nên tôi phải mua thêm, chớ ở chơi đôi ba bữa mà mua có mấy hộp, ăn sao đủ?

- Mình tính ở chơi lâu hay sao?

- Tự ý mình, muốn ở ba bốn bữa cũng được.

- Vậy tôi tưởng ra chơi một bữa rồi sáng mai về, tôi có dè đâu. Ở ba bốn bữa rồi mình bỏ hãng ai coi?

- Tôi dặn thầy hai Tịnh rồi hết, thầy thế đỡ cho tôi được. Còn như có việc gì quan hệ thì thầy kêu dây thép nói cho tôi hay.

- Nếu được như vậy thì tiện lắm. Ở chơi với chị hai vài ba bữa cho chỉ vui.

Bây giờ cô Hòa hết quạu nữa, cô kêu bồi bếp mà dặn coi nhà, rồi hối cô Vân đi. Bồi với sớp-phơ[1] đem va ly lên xe. Thuần sắp con xẩm ngồi trước với sớp phơ, còn Thuần ngồi phía sau với vợ con và cô Vân.

Xe ra khỏi nhà, Thuần kêu sớp phơ mà dặn:

- Tư a, chạy cho kỹ lưỡng, nghe không. Cô mầy có bầu đừng có chạy mau lắm.

Cô Vân ngó cô Hòa cười và nói:

- Anh Thuần biết lo cho vợ lắm chớ.

Thuần cười mà đáp:

- Ấy là phận sự của người chồng, có chi lạ đâu.

Cô Hòa ngồi lặng thinh, chồng lo cho cô mà coi bô cô không cảm tình chút nào hết.

Vì xe chạy chậm nên 9 giờ rưỡi mới ra tới Long Hải. Xe ghé vô nhà mát Minh Nguyệt, là chỗ cô Quý mướn hứng gió.

Cô Quý ra cửa chào mừng. Cô Hòa tiến dẫn cô Vân cho chị biết. Cô Quý vui vẻ tiếp khách, ôm bé Hậu mà hôn, rồi mời hết vô nhà; câu chuyện hàn huyện nói vừa xong, thì ba cô sang qua câu chuyện quần áo, coi thế khó dứt. Thuần không cần phải biết tiệm nào bán hàng rẻ, thợ nào may áo khéo, bởi vậy ngơ ngáo một hồi rồi đội nón dắt bé Hậu ra bãi biển đi chơi cho đến 11 giờ. Cô Hòa sai con xẩm đi kêu, cha con mới chị trở về ăn cơm trưa.

Gần 4 giờ chiều, nước lớn, gió ngoài khơi thổi vô lao xao cuốn mặt biển thành vồng[2] rượt nhau tấp lên bãi rồi rã tan phun bọt trắng xoá. Nam thanh nữ tú, tốp 5 tốp 3, dắt nhau đi dọc theo bãi mà chơi, người nói cười cười, kẻ kiếm cua kiếm ốc mà cũng có người đứng im lìm ngó mông ra biển, dường như muốn tính coi trời cao mấy độ, biển rộng mấy ngàn.

Thuần bèn rủ mấy cô xuống bãi đi hứng gió, Thuần dắt bé Hậu đi trước ba cô thủng thẳng theo sau. Xuống tới mé nước, bé Hậu muốn chạy theo hớt bọt mà chơi. Thuần biểu con Xẩm lột hết quần áo giầy vớ của con, rồi để thong thả cho giỡn với nước, cứ đi theo coi chừng, đừng cho nó ra ngoài sâu mà thôi.

Trước mặt sóng bủa lao xao, bên mình gió phất mát mẻ. Thuần với ba cô đi chơi, trong lòng khoẻ khoắn, ngoài mặt tươi cười. Ði được một hồi bỗng gặp Ðốc tờ Huỳnh. Thuần quen nên bắt tay chào và hỏi:

- Xe của ông sửa rồi, bây giờ máy chạy êm không?

- Êm lắm, không có dục dặc[3] nữa. Tôi cám ơn ông.

- Ông ra ngoài nầy hồi nào?

- Tôi ra hồi hôm.

Ðốc tơ Huỳnh nói chuyện mà mắt ngó cô Vân trân trân. Ông là một người vui vẻ, lại có tánh ưa nói chuyện với đàn bà con gái, bởi vậy ông xin Thuần làm ơn tiến dẫn ba cô cho ông biết, Thuần liền trình diện chị và vợ. Chừng tới cô Vân, Thuần nói:

- Cô Vân đây là chị em bạn học với nhà tôi; cổ[4] ở dưới Tân An lên thăm, rồi nhà tôi mời ra ngoài nầy hứng gió chơi ít bữa.

Ðốc tơ Huỳnh cúi đầu chào từ cô. Chừng tới cô Vân, ông nghe Thuần tiến dẫn như vậy, thì ông cười mà nói với cô Vân:

- Tôi lấy làm may mắn mà được biết cô. Xin lỗi cô, không biết cô ở Tân an vậy cô ở tại chợ hay là ở trong làng?

- Dạ, thưa em ở dưới Kỳ sơn.

- Kỳ Sơn... Kỳ Sơn là chỗ nào mà tôi không biết?

- Thưa Kỳ Sơn ở theo đường Tham Nhiên, cách Châu Thành Tân An 5 cây số.

- Chắc ông ở nhà là điền chủ, nên cô mới ở trong ruộng như vậy chớ gì.

- Thưa em không có ông nhà nào hết.

- A, xin lỗi cô tôi đoán lầm. Tôi không dè cô chưa có chồng.

- Thưa, ông có lỗi chi đâu mà xin. Theo đời nay mấy ông có học thức đều bu ở chốn thị thành hết thảy. Ông nghe em ở trong ruộng rẫy, tự nhiên ông tưởng chồng của em là ông chủ nhà quê, nghĩ không lạ gì.

- Tôi tưởng lầm, mà tôi mừng lắm đó cô!

- Xin ông cho em biết coi tại sao ông lầm mà ông lại mừng.

- Tôi mừng là vì tướng mạo thanh nhã như cô rủi có chồng ở dưới ruộng thì uổng lắm vậy.

- Theo lý thuyết của ông, thì người ở ruộng không được phép cưới vợ thanh nhã hay sao?

- Tôi nói "uổng", chớ không phải nói "không được phép".

- Ở đâu cũng có kẻ khôn người dại, chớ không phải người ở ruộng đều dại hết, hay là ở thành thị đều khôn hết. Em xin ông đừng khinh bỉ người ở ruộng tội nghiệp cho họ.

- Cô binh vực mấy cậu nhà quê quá! Tôi chắc cô sẽ lấy chồng nhà quê.

- Luận nhân vật là một việc, còn lấy chồng là một việc khác nữa. Hai việc ấy không dính líu gì với nhau hết.

- Nếu vậy thì tuy cô binh vực người nhà quê, song lấy chồng thì sẽ chọn người trí thức phải không?

- Sự lấy chồng em chưa nghĩ tới, mà chắc dầu đến chừng nào em cũng không nghĩ tới làm chi.

- Cô tính tu hay sao?

- Có lẽ.

- Uổng lắm, uổng lắm!

- Ông nói như vậy em lấy làm tội nghiệp cho ông.

- Tại sao mà cô tội nghiệp cho tôi?

- Ông là một vị bác sĩ, ông đứng vào hàng thượng lưu trí thức. Nghe em tỏ ý muốn bước vào chánh đạo, lẽ thì ông phải nâng cao trí dục lòng dùm cho em, làm như vậy ông mới xứng đáng với địa vị của ông, chớ nghe em tỏ ý như vậy, rồi ông than uổng nghĩa là ông cản trở, thế thì ông thiếu đạo đức nhiều lắm. Em tội nghiệp cho ông là như vậy đó.

Thuần vỗ vai ông Huỳnh cười và nói:

- Cô Vân tuy ở ruộng, song cô có học thức, chớ không phải gái quê. Ông cãi không lại đâu.

Ba cô cúi đầu chào ông Huỳnh rồi dắt nhau đi tới trước.

Ông Huỳnh nắm tay Thuần kéo lại, hai người đứng nói chuyện một chút rồi thủng thẳng đi theo sau xa xa, chớ không đi chung với ba cô.

Ông Huỳnh nói với Thuần:

- Cô Vân đã có sắc đẹp, mà văn nói lại khôn ngoan nữa. Bộ cô trộng tuổi rồi, mà sao chưa có chồng?

- Cô mắc lo học, mới thi đậu về nhà chừng vài năm nay?

- Thi đậu trường nào?

- Cô thi đậu bằng thành chung.

- Chà chà! Hèn chi cô nói chuyện lanh quá. Mà thi đậu hai năm rồi sao chưa lấy chồng?

- Tôi nghe nhà tôi nói hồi trước bà già cô có hứa gả cô cho một anh học sinh nào đó không biết, rồi bao anh qua Pháp học thêm. Anh học xong rồi anh cưới đầm, bởi vậy cô Vân lỡ duyên rồi chán ngán không muốn lấy chồng.

- Tội nghiệp dữ không! Thế khi cha mẹ cô giàu lắm hay sao nên bao cho người đi học đặng sau gả con?

- Cô Vân mồ côi cha, cô còn bà mẹ, mà không có anh em chi hết. Bà già cô là bà chủ gì đó không biết nghe nói giàu lớn, nhà tôi biết chớ tôi không hiểu rõ.

- Con một của nhà giàu lớn, mà lại có học thức có nhan sắc nữa thì quý biết chừng nào. Anh học sanh nào đó sao lại bỏ người ta, khờ quá. Vợ tôi chết mấy năm nay, tôi tính cưới vợ khác, nhưng chưa thấy chỗ nào vừa con mắt... Tôi muốn cưới cô nầy phứt cho xong... Thiệt bà già cô giàu hay không?

- Cái đó không dám chắc. Nhà tôi biết, chớ thiệt tôi không hiểu.

- Ông làm ơn hỏi thăm ma đam lại cho chắc thử coi bà già cô Vân có được bao nhiêu ruộng đất.

- Ðể rồi tôi hỏi lại nhà tôi.

- Ví như tôi xin cưới, ông nghĩ thử coi cô Vân chịu hay không?

- Cái đó tôi biết sao được.

- Ông dọ trước ý cô thử coi, được không?

- Ðược. Ðể tối nay hoặc ngày mai tôi thử ý cô rồi tôi sẽ cho ông biết.

- Ông cũng nhớ dọ dùm bà già cô có đứng bộ ruộng đất được bao nhiêu nhé.

- Tôi nhớ. Tôi sẽ hết lòng giúp ông.

- Cám ơn. Ông còn ở ngoài nầy ít bữa chớ?

- Phải. Thứ ba hoặc thứ tư tôi mới về.

- Tôi cũng ở tới sáng mốt mới về. Thôi, tôi từ giã ông. Xin ông nhớ dọ giùm rồi chiều mai chúng ta ra đây gặp nhau, ông sẽ nói lại cho tôi rõ.

- Vâng.

Hai người bắt tay từ giã nhau rồi Thuần đi theo ba cô, miệng chúm chím cười.

Cô Hòa thấy chồng theo kịp thì hỏi:

- Thằng cha dê đó có chuyện gì mà nói dai dữ vậy?

- Sao mà mình kêu người ta là "thằng cha dê".

- Gặp đàn bà thì liếc ngó, rồi kiếm lời mà trêu hoa ghẹo nguyệt, người đàn ông như vậy thì là dê chớ gì.

- Theo lễ nghĩa đời nay hễ đàn ông gặp đàn bà thì phải ghẹo chọc như vậy mới trúng cách lịch sự về xã giao. Ông Ðốc tơ Huỳnh noi theo lễ nghĩa ấy, chớ phải dê đâu.

- Thiệt lễ nghi của mấy ông là vậy đó hay sao?

- Phải.

- Mình cũng thuộc về hàng trí thức, té ra mình cũng phải ăn ở theo lễ nghĩa đó hay sao?

- Kể tôi làm chi. Tuy tôi cũng ở trong hàng trí thức, song tôi thuộc phe trí thức nhà quê, nên trong giao thiệp tôi không biết làm như mấy ông.

Cô Quý nói:

- Dượng ba đâu có ăn ở kỳ cục như họ vậy. Tôi coi đời nay người có học họ không kể phong hoá gì nữa hết, họ làm nhiều việc tồi bại quá chừng. Ðàn ông nói chuyện với đàn bà thì họ lẳng lơ ghẹo chọc mà đàn bà gặp đàn ông họ cũng thong thả nói cười. Tại như vậy đó nên bây giờ mới có nhiều nhà hoặc chồng bỏ vợ, hoặc vợ bỏ chồng, con cái bơ vơ, gia đình tan rã. Tôi tưởng chừng ít năm nữa, trong nước mình, hai chữ "vợ chồng" không có nghĩa lý gì nữa.

Cô Vân gật đầu nói:

- Lời chị hai nói đó thật đúng lắm. Người mình bây giờ có học thức nhiều, tiếc vì sự học của người mình không giống với sự học của người khác. Người ta học đặng mở mang trí thức, học đặng mỹ tục thuần phong, học đặng cải lương nghiệp nghệ. Còn mình học là học để nói chuyện nghe cho lanh lợi, học đặng mặc y phục ngồi xe hơi cho khỏi quê, học đặng kiếm tiền mà ăn chơi cho sung sướng. Tại học sai đường như vậy nên phong hoá suy đồi rồi, mà nay mai đây gia đình cũng sẽ tiêu tan nữa. Chị hai nói trúng lắm.

Cô Hòa nói:

- Ối! Họ làm sao mặc kệ họ, hơi nào mà lo bao đồng[5]; miễn mình giữ phận mình cho xong thì thôi.

Thuần đáp:

- Dầu mình có lo cũng không bổ ích chút nào; bởi vì phần đông người ta cho cái tồi bại là cái cao thượng, thế thì mình có cãi lẽ cho hết nước miếng đi nữa, người ta cũng chê mình nói bậy. Như hồi nãy ông Huỳnh nói chuyện với tôi, ổng (ông ấy) thổ lộ với tôi nhiều câu thô bỉ quá chừng, nhưng mà ổng nói tự nhiên, không rụt rè ái ngại chi hết. Tôi lấy làm hổ thẹn cho ổng hết sức, nhưng mà tôi nghĩ những lời ổng tỏ với tôi đó, muôn ngàn người khác cũng nói in như ổng vậy chớ không phải một mình ổng, thế thì tôi cãi làm sao được, bởi vậy tôi giả ngu đứng lóng tai nghe, không thèm cãi.

Cô Hòa hỏi:

- Ổng hỏi giống gì?

- Dài lắm, để về nhà tôi sẽ thuật lại cho mà nghe.

- Chắc ổng cậy mình làm mai chị Vân cho ổng chớ gì.

- Mình đoán lầm, song không trúng chánh...

Thuần mới nói tới đó, kế con xẩm dắt bé Hậu lại, rồi bé Hậu níu mẹ ôm cha nói lăng líu làm câu chuyện bứt ngang. Trời đã chạng vạng tối. Cô Quý than lạnh, nên mấy người dắt nhau trở về nhà mát.

[1] người lái xe, tài xế

[2] luống, chỗ được đắp cao và dài nằm song song với nhau: cuốc vồng, đắp vồng, vồng khoai

[3] trục trặc

[4] cố ấy

[5] tầm ruồng, vô ích

Ðoạn tình

Chương 7

Ăn cơm tối rồi, mặt trăng lên đã cao, rọi những lượn sóng ngoài biển sáng loà.

Thuần mời mấy cô xuống bãi đi chơi. Cô Quý sợ lạnh, cô Hòa than mỏi chân, nên không chịu đi. Thuần bèn kêu bồi biểu nhắc ghế để ngoài trước sân đặng mấy cô hứng gió ngó trăng, nhìn trời xem nước. Cô Quý nằm trên cái ghế bố để phía trong. Còn Thuần với cô Hòa và cô Vân ngồi phía ngoài. Gió thổi hiu hiu, trăng soi vằng vặc, cảnh mát mẻ nầy làm cho mọi người thơ thới[1] trong lòng.

Cô Hòa vụt hỏi chồng:

- Hồi chiều mình nói ông Ðốc tơ Huỳnh cậy mình làm mai. Vậy chớ ông nói sao đâu mình thuật lại nghe thử coi.

Cô Vân vỗ vai cô Hòa mà nói:

- Thôi mà! Thuật chuyện đó làm chi. Chuyện không đáng nghe, nên anh Thuần không muốn nói lại, chị không thấy hay sao?

Thuần chúm chím cười mà nói:

- Không. Chuyện cũng đáng nghe lắm chớ. Mà dầu không đáng nghe tôi cũng phải nói, bởi vì ông Huỳnh cậy tôi nên tôi không nói không được.

Cô Hòa muốn nghe, nên hỏi riết tới:

- Ổng cậy sao, mình nói phứt cho tôi nghe một chút. Không lẽ ổng mới gặp chị Vân rồi ổng cậy làm mai liền.

- Ban đầu ổng khen cô Vân có nhan sắc mà thêm khôn ngoan, rồi ổng hỏi tại sao cô Vân coi bộ trộng tuổi mà chưa có chồng. Tôi tỏ thiệt cuộc căn duyên lỡ dở của cô Vân cho ổng nghe. Ổng hỏi tôi vậy chớ bác ở dưới giàu lắm hay sao nên dám bao cho rể qua Tây mà học. Tình thiệt tôi tỏ thiệt, tôi nói tôi nghe bác giàu, song tôi không hiểu bác giàu đến bực nào.

- Ổng tính đoạt của người ta hay sao, nên hỏi người ta giàu bực nào?

- Ổng suy nghĩ một chút rồi ổng nói vợ ổng chết đã lâu rồi. Ổng muốn chắp nối, song mấy năm nay chưa thấy ai vừa con mắt. Nay gặp cô Vân, ổng nghe chuyện của cô ổng cảm, nên muốn cưới cô, song không biết cô ưng hay không. Ổng cậy tôi hỏi chuyện thứ nhứt là dọ dùm coi Bác dưới nhà đứng bộ được bao nhiêu ruộng đất, thứ nhì dọ ý cô Vân coi như ổng xin cưới, cô Vân ưng hay không.

Cô Quý nghe như vậy thì cô cười lớn:

- Ổng cậy dượng hai việc, mà cậy có ngần lắm. Phải dọ coi ruộng đất nhiều hay ít đã. Như ít thì thôi, còn như nhiều thì sẽ dọ thêm ý cô Vân coi cổ ưng hay không. Sao dượng lại nói luôn hai khoản một lượt?

Cô Hòa giận nên la lớn:

- Thằng điếm!

Cô Vân can cô Hòa:

- Xin chị đừng có giận. Người ta hỏi đàng hoàng, mình phải trả lời đàng hoàng. Người ta muốn biết mình sợ gì mà giấu. Em xin anh Thuần như có gặp ông Ðốc tơ Huỳnh, thì anh làm ơn trả lời từ khoảng cho rành rẽ. Về khoản thứ nhứt, thì anh nói má em đứng bộ trên 5 trăm mẫu ruộng, ruộng ở trong tỉnh Tân An hết thảy, ruộng thượng hạng với hạng nhứt, chớ không phải ruộng Tháp Mười. Huê lợi mỗi năm má em góp trên 20 ngàn giạ lúa. Em là con một, nên ruộng đất ấy ngày sau sẽ về em hưởng hết. Còn về khoản thứ nhì, thì anh nói em cám ơn ổng có tình chiếu cố, song em không thể ưng ổng được. Em không ưng là tại em nhứt định không lấy chồng, chớ không phải em dám chê ổng. Em xin anh nói lại với ổng cho đàng hoàng rành rẽ như vậy.

Cô Quý nói:

- Dượng ba nói lại như vậy, tôi sợ ông Huỳnh nghe rồi ổng mang bịnh ho lao. Mà ông la thì ông chịu, chớ ổng cậy dọ giùm, bây giờ dượng không tỏ cho ổng biết sao được.

Thuần chau mày nói:

- Tôi xin cô Vân đừng phiền, cô phải suy nghĩ lại, chẳng nên trả lời gấp về khoản thứ nhì.

Cô Vân cười mà đáp:

- Tại sao mà anh khuyên em phải suy nghĩ? Người có cái óc tham tiền đê tiện như vậy, dầu em muốn lấy làm chồng đi nữa, em cũng không thể ưng được, cần gì phải suy nghĩ.

- Ông Huỳnh ham tiền thật. Mà đời nay ai cũng ham tiền, chớ có phải một mình ổng đâu. Những lời ông Huỳnh nói thì nghe thô bỉ thật, nhưng mà trong chỗ thô bỉ ấy nó có cái ý can đảm, lại có cái nét thành thật. Người ta cũng ham tiền như ông Huỳnh, song người ta nhút nhát, sợ thiên hạ chê cười, nên phải giả dối, làm mặt quân tử đặng che đậy cái óc tiểu nhân. Ông Huỳnh cứng cỏi, không sợ ai chê cười, không chịu giả dối, ổng nói ngay ra, nếu cô có nhiều ruộng thì ổng sẽ xin cưới, cái thái độ của ổng như vậy không phải hơn người ta hay sao?

- Anh là trạng sư hay dữ! Sao hồi trước anh không học luật khoa, lại học nghề bác vật làm chi?

- Không phải tôi bào chữa cho ông Huỳnh, tôi lấy tâm lý mà luận nhân tình chớ. Cô phải suy nghĩ lại.

- Em nhứt định rồi, khỏi suy nghĩ nữa.

- Nếu cô chê ông Huỳnh về khoản nào khác thì tôi không dám cãi. Còn nếu cô chê ổng tham tiền thì tôi không chịu. Tôi đã có nói đời nầy ai cũng tham tiền hết thẩy, mà ai cũng cưới vợ được hết, có ai bị đàn bà con gái chê nên cưới vợ không được, phải chịu phận cô thân trọn đời đâu. Sanh đời nào phải ở theo đời nấy. Những phụ nữ đời nay ai cũng có chồng tham tiền hết thảy, có ai chê ai được mà cô phải ái ngại.

- Chị Hòa cũng mắc chồng tham tiền nữa hay sao?

- Phải. Ðời nầy là đời kim tiền, ai cũng mắc chứng bịnh tham tiền hết thảy, nhà tôi lấy chồng thì làm sao mà chạy khỏi người chồng tham tiền được.

- Trời ơi! Anh Thuần là người tham tiền, vậy mà mấy năm nay tôi có dè đâu!

- Tôi cũng tham tiền như họ vậy, song tôi tham theo cách của tôi.

- Em không ưa cái cách tham tiền của ông Huỳnh. Em cho phép anh lập y lời nói của em lại cho ổng nghe.

- Việc trăm năm của cô thì tự ý cô quyết định. Tôi luận nhân tình thế thái mà chơi đó thôi, chớ tôi đâu dám ép cô. Song tôi khuyên cô phải suy nghĩ, trong ít bữa, hoặc phải dọ tánh tình ông Huỳnh cho kỹ rồi sẽ quyết định. Chuyện nầy không gấp gì.

Cô Vân lặng thinh, không cãi nữa.

Cô Hòa nói:

- Nhà tôi nói phải lắm. Chị Vân phải suy nghĩ lại.

Cô Vân liền đứng dậy vừa cười vừa nói:

- Ngộ quá! Em lên thăm chơi, bây giờ anh chị muốn bắt em mà gả hay sao?

Ai nấy đều tức cười.

Thuần đốt một điếu thuốc mà hút, rồi thủng thẳng đi một mình xuống bãi biển. Ba cô nói chuyện chơi một hồi nữa rồi cô Hòa với cô Quý than buồn ngủ nên rủ nhau đi ngủ. Thuần đi qua đi lại dưới bãi mấy vòng rồi trở lên nhà thấy có một mình cô Vân nằm trên cái ghế bố thì hỏi:

- Chị hai với nhà tôi đi đâu rồi?

- Hai chị buồn ngủ nên đi ngủ nãy giờ.

- Ngủ sớm quá. Gió mát trăng tỏ, cảnh như vầy phải thức mà hưởng, sao lại ngủ đi.

- Chị Hai trong mình không được mạnh giỏi, còn chị Hòa có bầu tự nhiên mệt mỏi, nên buồn ngủ sớm.

Thuần vô nhà rót nước uống, rồi trở ra kéo ghế ngồi ngay trước mặt cô Vân mà nói:

- Hễ lên Ðà Lạt thì ban đêm tôi ngủ sớm lắm, ăn cơm tối rồi đi ra đi vô một lát thì tôi ngủ liền. Còn hễ ra Long Hải hoặc Nha Trang mà hứng gió biển, nếu gặp đêm có trăng thì tôi thức hoài, không biết buồn ngủ.

- Tại anh thích thanh phong minh nguyệt, gặp cảnh như vậy anh sanh cảm trong lòng, nên không buồn ngủ chớ gì.

- Có lẽ... Thấy gió mát trăng trong, rồi trong lòng thơ thái vui vẻ, quên hết các chuyện lo lắng ở đời.

- Em cũng vậy, tánh em cũng ưa trăng lắm. Ở dưới nhà em, trong mấy đêm trăng tỏ, em nhắc ghế nằm ngoài sân mà chơi đến khuya em mới vô.

- Cô ở dưới ruộng với bác, không có chị em đặng nói chuyện chơi, chắc cô buồn lắm hả?

- Phải. Nhiều khi em ngụ được một ý gì lạ, mà không có người cho em bày tỏ, thì em buồn thiệt. Anh biết em buồn rồi em làm sao không?

- Không.

- Em buồn rồi em học đờn, em tập vẽ, em tập làm thi em chơi. Ðêm khuya thanh vắng một mình, nằm mà đờn vài bài, tiếng đờn to nhỏ, rỉ rả, nó dắt tâm hồn mình lên trên mây xanh, hoặc chơi vơi vào chốn non cao nước biếc, làm cho lòng mình thanh nhàn an ổn không biết chừng nào. Mình thấy một cảnh đẹp làm cho mình sanh cảm, mình muốn lưu cái cảnh ấy trong trí, thì mình họa nó ra trên giấy rồi lúc buồn mình lấy ra mà ngắm, làm như vậy cũng đủ cho mình thơ thái hết buồn. Mình thấy một việc gì nó làm cho mình cảm xúc trong lòng, mình tả ra thành một bài thi để ngâm nga chơi, thiệt là thú lắm. Nhờ em làm như vậy nên em ít buồn.

- Tâm hồn mỹ thuật!

- Anh là người ham làm ăn, nghĩa là người ưa thực hành, anh thấy tâm hồn mơ mộng của em như vậy chắc anh ghét lắm hả?

- Không. Mọi người đều có ý trí riêng, mà ý trí của cô là ý trí cao thượng, tôi nghe tôi kính phục lắm chớ. Tôi thấy có nhiều người họ có cái tâm hồn mỹ thuật mà vì nghèo nên phải đi làm cực xác đặng có tiền mà nuôi sự sống hàng ngày. Song ban đêm rảnh rang, họ còn lọ mọ thức mà đờn, hoặc vẽ, hoặc viết văn chơi cho thoả thích ý nguyện. Cô đã có giờ rảnh, lại khỏi lo nuôi sự sống, nếu cô trao dồi mỹ thuật, thì sự chơi của cô thanh nhã và hữu ích quá. Tôi rất tiếc phụ nữ trong xứ mình họ không chịu chơi như cô vậy, họ cứ đánh bài, hoặc cá ngựa, hoặc khiêu vũ, hoặc ngồi nhà hàng, họ làm cho chồng phải buồn, mà có nhiều khi còn làm cho gia đình nghiêng ngả nữa.

- Nếu họ không chơi như em thì có lẽ tại cha mẹ hoặc tại chồng họ không muốn cho họ chơi cách đó.

- Không phải cha mẹ hay là chồng muốn được. Sự ưa thích của người ta dễ gì mà ép uổng được đâu cô.

- Hay là tại gia đình giáo dục?

- Phải. Trí ý ta ngày nay sa ngã vào những chỗ chơi đê tiện, ấy là tại thiếu gia đình giáo dục. Con người hồi nhỏ không ai tập luyện giùm tánh tình cho cao thượng, để lớn rồi làm sao mà tập luyện cho được.

- Nếu vậy trong nước mình cần phải lập nhiều trường để luyện tập con gái cho có tánh tình cao thượng, cho biết tôn trọng gia đình, cho biết đường phải mà đi, đường quấy mà tránh mới được.

- Tôi ao ước sự ấy lắm. Con gái của mình phải vào những nhà trường ấy mà rèn tập trí não, thì ngày sau có chồng mới có thể xây đắp nền hạnh phúc cho gia đình được. Mà ai xướng lên lập nhà trường ấy bây giờ...? Phải người có chí và có tiền thì mới làm được...

Cô Vân nằm lặng thinh, trong trí suy nghĩ.

Thuần đứng dậy, đi qua đi lại một hồi rồi nói tiếp:

- Chớ chi cô lấy chồng, thì có lẽ cô làm sự ấy được?

- Tại sao em phải lấy chồng em mới làm được?

- Lập nhà trường như vậy phải lập ở Sài Gòn. Cô không có chồng thì cô phải ở dưới Kỳ Sơn, làm sao mà lập được.

- Lời anh nói đó em sợ sai lầm. Hễ em có chồng thì mất quyền tự do, có thể nào em làm theo ý em muốn được. Có chồng thì phải được người chồng đồng tâm đồng chí kia. Mà bao giờ có chồng được như vậy mà mong. Em có tiền, hễ em lấy chồng thì chồng em nó buộc em phải để tiền cho nó xài, chớ nó có chịu cho em làm việc công ích mà nó không được hưởng đâu.

Thuần chau mày, trong trí công nhận lời nói của cô Vân là chánh đáng, nên không phản đối được.

Cô Vân nói tiếp:

- Anh biểu chị Hòa xướng ra làm đi.

Thuần rùn vai, trề môi, mà đáp:

- Không có cái chí như vậy thì làm sao được.

Thuần buồn hiu, không nói chuyện nữa, cứ cúi mặt xuống đất đi qua đi lại hoài. Cô Vân bị cái vấn đề khó khăn ấy nó làm cho trí cô phải nghĩ ngợi, nên cô cũng hết vui. Cô nằm lặng thinh mà ngó trăng một hồi rồi đi vô nhà mà ngủ.

Thuần cứ thơ thẩn trước sân, đến 2 giờ khuya rồi mới chịu dẹp ghế đóng cửa mà nghỉ.

Sáng bữa sau ba cô ngồi xe hơi đi qua Phước Hải kiếm cá ngon mà mua. Thuần xuống bãi biển thơ thẩn một mình, hễ nhớ tới những câu chuyện nói với cô Vân hồi hôm qua thì thở dài rồi đứng ngó mông ra ngoài khơi, miệng chúm chím cười, miệng cười mà cặp mắt có cái vẻ buồn lo tỏ rõ. Chừng ba cô về, Thuần cũng không chịu trở vô nhà mát, dường như muốn xa lánh mọi người đặng trí thong thả mà nghĩ ngợi việc riêng.

Ðến trưa sớp-phơ phải đi kiếm Thuần mời về dùng cơm, Thuần mới chịu về. Mà bữa nay Thuần trầm tĩnh, ít nói ít cười, chớ không phải hớn hở sốt sắng như mấy ngày trước. Cô Hòa vô ý, nên không thấy sự thay đổi thái độ của chồng, còn cô Vân là người có tánh ưa quan sát tự nhiên bởi vậy ngồi ăn cơm thì cô liền thấy tâm hồn của Thuần đã khác, nên cô cứ liếc ngó Thuần, ý muốn hiểu thấu chỗ kín đáo của tâm hồn ấy. Mà Thuần vẫn giữ cử chỉ trầm tĩnh chẳng bao giờ ngó cô Vân, ăn cơm rồi kiếm thế đứng ngồi riêng một mình, làm cho cô Vân thất vọng, vì không hiểu sự buồn lo của Thuần ở chỗ nào.

Buổi chiều Thuần cũng dắt mấy cô ra bãi biển đi chơ như bữa trước. Gặp ông Huỳnh, Thuần liền tách ra mà đi nói chuyện với ông. Mấy cô không hiểu hai người nói chuyện gì, mà nói đến tối hai người mới phân rẽ.

Ngày sau không thấy mặt ông Huỳnh nữa. Thuần ở chơi tới bữa thứ tư rồi mới trở về Sài Gòn với vợ con và cô Vân.

[1] khoan khoái, không bận rộn

Ðoạn tình

Chương 8

Ở Long Hải trở về nhà mấy bữa rày, mỗi ngày Thuần đi ra hãng một lần thôi, hoặc đi buổi mơi, hoặc đi buổi chiều, mà đi lần nào cũng ở chừng một vài giờ rồi về, chớ không ở trọn buổi như trước nữa.

Mà hễ ở nhà thì Thuần hoặc lo săn sóc hoa viên hoặc tập con nói chuyện, chớ không chịu đàm luận với vợ và cô Vân, nhứt là có ý tránh mấy việc phải một mình đối diện với cô Vân.

Một bữa, đương ngồi ăn cơm tối, cô Hòa hỏi chồng:

- Ngày mai mình có cần dùng cái xe hay không?

- Xe để đi ra ngoài hãng vậy thôi, chớ có cần dùng làm việc gì khác nữa đâu. Mình hỏi chi vậy? Mình muốn đi đâu hay sao?

- Chị Vân tính sáng nay chị về. Tôi muốn lấy xe đưa chị và luôn dịp đi xuống Kỳ sơn chơi cho biết nhà chị.

- Ðược lắm. Mình lấy xe mà đi ở nhà tôi có đi đâu thì tôi lấy xe cũ ngoài hãng tôi đi cũng được. Mà sao cô Vân không ở chơi, lại tính về gấp vậy?

Cô Vân ngó ngay Thuần vừa cười vừa đáp:

- Em hứa với má em chắc chắn em đi chơi chừng năm bữa em về. Em lên ở chơi với anh chị đã gần hai tuần lễ rồi, em sợ má em ở nhà trông, nên em không dám ở nữa.

Bây giờ Thuần mới ngó cô Vân, hai cặp mắt gặp nhau hẳn hòi, không ai chịu trốn tránh ai.

Cô Hòa nói:

- Có chị Vân ở đây hổm nay tôi vui quá. Tôi muốn cầm chị ở chơi ít tuần nữa. Ngặt sợ bác trông nên tôi không dám ép. Mà chỉ có hứa chừng tôi sanh sẽ lên ở chơi lâu. Ðể tôi xuống dưới tôi xin phép trước với bác.

Cô Vân nghiêm nét mặt mà nói:

- Tôi hứa chắc mà. Chừng chị sanh chị cho tôi hay, tôi sẽ lên ở chơi một tháng mà giúp chị. Mà chị phải sanh cho tôi một đứa em gái nghe không, sanh em gái đặng tôi hiệp với chị mà dạy dỗ nó cho nó thành một phụ nữ có đủ tư cách mà chống chỏi với thời đại kim tiền hỗn độn nầy.

Cô ngừng một chút rồi ngó Thuần mà nói tiếp:

- Em xin mời anh Thuần nhân dịp nầy đi với chị Hòa xuống nhà em chơi một lần đặng biết má em. Anh chị xuống chơi chắc má em mừng lắm.

Thuần chau mày dụ dự một chút rồi mới đáp:

- Cám ơn cô. Tôi cũng muốn xuống thăm cho biết bác, ngặt vì lúc nầy ngoài hãng có việc nhiều cần phải có tôi ở nhà, vậy để một mình nhà tôi đi, phận tôi xin đình lại dịp khác.

- Em nghĩ anh không muốn đi, chớ không có việc gì hết. Anh nói ngoài hãng có việc nhiều, mà sao hổm rày mỗi ngày anh ra có vài giờ mà thôi. Như anh muốn đi thì sáng mai anh ra ghé hãng sắp đặt một chút rồi đi, chiều về anh ghé một chút nữa cũng được. Ðây xuống Kỳ sơn mà xa xôi gì, xe chạy chừng một giờ thì tới.

- Xin cô tha lỗi. Tôi liệu đi không tiện. Ðể khi khác rồi tôi sẽ đi.

- Anh nói chắc không?

- Chắc.

- Anh phải nhớ lời hứa. Mà sau anh với chị Hòa có đi thì phải xuống ở chơi có mau lắm ít nữa là một ngày với một đêm nghe không.

- Ðược.

- Ðể em liệu lúc nào có trăng tỏ, em sẽ lên em mời.

Cô Hòa nói:

- Chị về ở dưới ruộng buồn chết. Thôi, chi lấy chồng rồi về Sài Gòn ở đặng chị em gần nhau chơi cho vui, chị Vân.

- Chồng đâu mà lấy?

- Ưng ông Ðốc tơ Huỳnh cho rồi đi.

- Cám ơn... Mình bằng lòng làm vợ người nào thì trước hết mình phải kính phục tài đức, phải yêu mến tánh tình của người ấy, rồi mình mới bằng lòng được. Tôi tuy chưa biết ông Huỳnh, nhưng mà theo những lời anh Thuần thuật cái cách ổng muốn cưới tôi, thì đủ cho mình thấy nhân phẩm của ổng rất tầm thường, tài đức chưa đủ cho mình kính trọng, tánh tình không đáng cho mình yêu mến, thế thì tôi làm bạn trăm năm với ổng sao được. Vợ chồng mà không kính, không thương nhau thì làm thù địch chớ nào phải vợ chồng. Gia đình mà vợ khinh bỉ tánh chồng, chồng cướp giựt của vợ, ấy là cái cảnh địa ngục, hoặc chốn sơn trại, có vui vẻ gì mà mong tạo lập. Mà có chồng rồi lợi ích gì sao chị cứ theo giục tôi lấy chồng hoài vậy.

- Lấy chồng đặng chị em mình gần nhau, đặng có con nuôi cho vui.

- Ðể tôi về tôi đốc má tôi mua một chiếc xe hơi. Có xe hơi sẵn thì tôi lên thăm chị thường thường cũng được, chẳng cần phải lấy chồng. Còn con thì sẵn có con của chị đó, hoặc tôi sẽ xin con nhà nghèo tôi nuôi, đặng tôi lo dạy dỗ cũng được, chẳng cần phải có con riêng làm chi.

- Phận sự của đàn bà con gái là giúp với đàn ông con trai mà lập gia đình. Tôi không hiểu tại sao mà chị lại có ý muốn trốn lánh cái phận sự của trời đất sắp đặt cho bọn mình đó.

- Hôm trước tôi đã có cắt nghĩa với chị một lần rồi, chị quên hay sao? Cũng như các chị em khác, tôi đã vâng theo mạng trời và tục người mà lãnh chức "vợ" một lần rồi. Có lẽ tại trời phật thương tôi, không muốn bắt tôi làm tôi mọi đàn ông nên ân xá cho tôi. Ấy vậy nợ quần thoa tôi đã trả rồi, tôi có giấy chuẩn miễn rành rẽ, chị không phép buộc tôi nữa được. Bây giờ tôi lo nuôi mẹ già, có giờ rảnh tôi tĩnh tâm dưỡng chí. Chừng nào má tôi trăm tuổi già rồi thì có lẽ tôi sẽ hiến thân cho xã hội phụ nữ. Tôi tưởng chưong trình về sự sống của tôi như vậy dầu không rực rỡ bằng chương trình của chị em, song cũng không đến nỗi lem luốc danh dự của đoàn phụ nữ.

Nghe cô Hòa với cô Vân đàm luận. Thuần ngồi tư lự không muốn chen vô mà cãi đặng phán đoán ai nói phải, ai tính quấy.

Thình lình cô Hòa hỏi chồng:

- Mình nghe chị Vân nói đó hay không? Chị quyết độc thân ở đời, không thèm lấy chồng. Theo ý mình, chị Vân tính như vậy phải hay là quấy.

Thuần nghiêm chỉnh đáp:

- Cô Vân lập cái chương trình cho sự sống của cô như vậy thì có ý nghĩa cao thượng lắm, cao thượng đến nỗi sợ trong đoàn phụ nữ đời nay không có một ai nói tới, mà cũng sợ cô Vân không đủ nghị lực can đảm mà tán thành cái hy vọng của cô được. Tôi còn lo một nỗi nầy nữa: đeo đuổi theo cái chủ nghĩa phi thường, khó khăn quá như vậy, tôi sợ cái đời của cô Vân chẳng khỏi phải chịu thống khổ lung lắm, mà thống khổ về tâm hồn nó càng đau đớn bằng mười thống khổ xác thịt. Tôi khuyên cô Vân nên suy nghĩ lại. Theo ý tôi, thì cô Vân phải lấy chồng, ấy là cái đường thuận tiện dễ đi hơn hết.

Cô Vân vội vã đáp:

- Nữa! Hai ông bà đồng tâm hiệp ý quá! Anh muốn ép em ưng ông Huỳnh phải không?

- Không. Cô tự do chọn lựa, nên ưng ai thì cô ưng. Tôi khuyên cô lấy chồng, chớ không phải tôi buộc cô phải ưng ông A hay ông B nào hết.

- Em hiểu ý anh rồi... anh sợ em nói hay mà làm không hay, rồi hoá ra dở tệ... Cám ơn anh... Em có đức tin về nghị lực của em. Mà ví dầu nghị lực ấy không đủ sức chịu nổi cái chủ nghĩa tối cao kia, có phải sụm (ngã) giữa đường đi nữa, thì em sẽ lập thế mà cứu vớt cái thân danh của em, em không để nó sa ngã đâu mà anh sợ.

- Tôi mong lắm, ngặt sợ sự mong ấy không thành.

- Anh phải ráng giúp em mà làm cho thành mới hay.

- Tôi sợ quá...

- Sao mà sợ?... Ở đời đừng sợ giống gì hết chớ.

- Tôi sợ mênh mông, không biết sợ giống gì mà nói.

Thuần buông đũa thôi ăn rửa tay và uống nước rồi ra ngoài hoa viên đi thẩn thơ một mình.

Cô Vân nói lén với cô Hòa:

- Lên ở chơi hai tuần nay tôi khảo cứu tâm hồn của anh Thuần rất kỹ lưỡng. Ảnh là người chán ngán cuộc đời, chớ không phải ảnh không thương vợ con. Nếu ngày trước ảnh cưới người nào khác chớ không cưới chị, thì cử chỉ của ảnh cũng giống như vậy. Chị phải bỏ tánh ghen, ráng làm cho anh Thuần biết yêu cuộc đời hết chán ngán nữa, thì gia đình của chị vui vẻ lắm. Anh Thuần giáo dục hoàn toàn học rộng, chí cao, chớ không phải như đám trí thức lạm xạm kia vậy đâu.

Cô Hòa gật đầu đáp:

- Cám ơn chị, nhờ chị lên chơi mấy hôm nay mà gia đình tôi hết buồn như hồi trước. Xin chị rảnh lên chơi cho thường đặng làm trung gian giùm cho tôi với nhà tôi được hòa thuận. Tôi trông cậy chị lắm.

Cô Vân cười ngất và đáp:

- Trời ơi, tôi nghĩ giùm chỗ bất mãn của hai ông bà đặng thấy mà lo phương mà chữa cho hết nghi kỵ nhau, chớ tôi ở hoài trên nầy với chị sao được. Thôi, để tôi xin má tôi mua xe hơi rồi tôi sẽ lên thường.

Thuần bước vô lấy thuốc đốt mà hút, làm cho hai cô phải ngừng câu chuyện riêng.

Sáng bữa sau, Thuần thay đồ rồi xuống lầu hứa hễ ra tới hãng thì biểu sớp phơ cầm bánh xe đem về liền đặng hai cô đi Kỳ Sơn. Thuần thấy cô Vân y phục đoan trang, đương đứng một mình tại bàn ăn, thì ngó cô trân trân rồi nói:

- Cô về dưới mạnh giỏi. Tôi kính lời thăm bác.

Cô Vân cười và đáp:

- Cám ơn anh, hễ chị Hòa sanh thì anh phải cho em hay liền nghe không?

Thuần giả không nghe, nên không trả lời, xây lưng đi liền ra nhà sau lấy xe mà đi, cô Vân lại cửa sau đứng ngó theo, miệng chúm chím cười, mà trong lòng bâng khuâng dường như có việc chi bất mãn.

Ðoạn tình

Chương 9

Cô Hòa sanh đã được hai ngày rồi, cô sanh đứa con gái phương phi ngộ nghĩnh, tại Việt Nam Y Viện ngoài Sài Gòn.

Buổi sớm mơi, Cô Quý ra tại y viện thăm em. Cô thấy cô Hòa khoẻ khoắn, thấy em nhỏ cứng cát thì cô mừng, rồi cô nói:

- Em đã được hai đứa con rồi; còn chị chưa có đứa nào hết. chớ chi chị có được một đứa con gái như vầy thì chị vui lắm.

Cô Hòa cười mà đáp:

- Chị không chịu đẻ, làm sao mà có con được.

- Sao lại không chịu? Tại không đẻ biết làm sao. Chị tưởng có con hay là không con đều là số mạng, chớ nào phải muốn thì được, còn không muốn thì không được sao.

- Em nói cho chị giữ mình, nếu chị không chịu đẻ, đố khỏi anh cưới vợ bé cho mà coi.

- Ðâu dám! Lấp lững chị phanh thây đi chớ.

- Anh cưới lén, chị làm sao mà biết được.

- Không dám đâu... Em nằm trong nầy ban đêm dượng ba có vô ở với em hay không?

- Không. Có người nuôi họ ở với em, chớ bắt nhà em ở thì có chỗ đâu mà ngủ.

- Nếu chị sanh thì chị bắt anh hai em phải ở nuôi chị, chớ chị không chịu ai nuôi hết.

- Anh mắc công việc làm ăn, anh nuôi sao được.

- Bỏ hết, làm việc gì cũng phải bỏ.

- Chị khó quá. Chị sợ để anh ở nhà anh đi chơi phải không?

- Vợ đẻ chồng phải chịu cực, chớ không phải sợ để họ ở nhà rồi họ ta bà. Mà đàn ông họ có tánh xấu lắm, trông vợ đẻ đặng họ thong thả, mình cũng phải ngừa chỗ đó.

- Chị nói phải. Ðàn ông họ có cái tật đó dễ ghét lắm. Mà bình thường mình không giữ họ được, đến chừng nằm co một chỗ, thì làm sao mà giữ.

Cô Hòa nói tới đó rồi sắc mặt buồn hiu.

Cô Quý bước lại gần cái nôi, vẹt mùng lên mà dòm em nhỏ rồi nói:

- Dượng ba ham con không?

- Em biết sao được. Hễ vô thì dở mùng dòm rồi thôi, có nói gì đâu.

- Dượng không bồng ẵm hay sao?

- Không.

- Chị thấy đàn ông họ hễ vợ đẻ thì họ bồng con nòng nòng trên tay, coi bộ họ mừng lắm.

- Nói lọt tay lọt chân bồng không được.

- Nếu vậy thì chắc dượng nầy không ham con. Mà sao coi bộ dượng cưng bé Hậu lắm mà.

- Làm bộ chớ cưng giống gì.

Hai chị em nói chuyện tới đó thì Thuần xô cửa bước vô. Thuần thấy cô Quý liền hỏi:

- Em chào chị hai. Chị ra hồi nào?

- Ra nãy giờ. Hổm nay anh sớp phơ vô cho hay, chị không được khoẻ, nên không dám đi liền. Bữa nay khoẻ khoắn, nên chị ráng ra thăm một chút. Mẹ con nó giỏi chị mừng lắm.

- Nhà em sanh lần nầy, nhờ chuyển bụng mau nên ít mệt hơn lần trước. Em mới gặp ông Ðốc tờ, ổng nói khoẻ như thường, không có chi lạ hết.

- Tuy vậy mà dượng cũng phải vô thăm cho thường cho con ba nói vui, đừng bỏ nó nằm một mình nó buồn.

- Em vô hoài chớ, mỗi bữa em vô hai ba lần.

- Chắc sanh con gái dượng ít mừng hả.

- Con nào cũng là con, con trai hay là con gái cũng vậy.

Cô Hòa hỏi chồng:

- Mình ở trong nhà ra hay ở ngoài hãng về?

- Tôi ở ngoài hãng về.

- Sao hồi sớm mai mình đi mình không đem bé Hậu ra đây nó chơi, để nó ở nhà một mình chắc nó buồn lắm.

- Hồi sớm mai tôi đi sớm, nếu đem nó ra đây nó làm om mình nghỉ không được. Tôi mới biểu xe về rước nó rồi.

- Tội nghiệp quá! Nếu không muốn đem nó ra đây thì dắt dùm nó ra ngoài hãng... Ðể nó ở nhà có một mình, tôi lo quá, làm sao tôi nằm yên được.

- Ngoài hãng người ta rần rần, lộn xôn, đem nó ra đó sao được.

- Có con xẩm choi chừng nó mà hại gì.

Thuần rùn vai rồi bước lại cửa sổ ngó ra sân.

Con xẩm dắt bé Hậu bước vô phòng. Bé Hậu thấy mẹ nằm trên giường thì chạy riết lại ôm mừng nói lăng xăng.

Cô Hòa biểu con:

- Con lại thưa dì hai kia con.

Bé Hậu lại đứng ngay trước mặt cô Quý rồi khoanh tay cúi đầu mà chào. Cô Quý ôm mà hun rồi nắm tay nó lại cái nôi chỉ em nhỏ mà hỏi:

- Con thương em hay không?

- Con thương lắm. Chừng nào biết đi, con dắt em đi chơi. Con dắt em đi ra Sài Gòn con mua bánh cho em ăn.

Thuần đứng ngó hai đứa con, miệng chúm chím cười.

Cô Quý nói:

- Hai đứa nhỏ có một mặt, giống dượng ba như khuôn đúc.

Bé Hậu kéo tay em nhỏ mà hôn, làm cho Thuần cảm xúc hết sức.

Cô Quý chơi một chút rồi từ giã vợ chồng Thuần lên xe mà về.

Thuần nói với vợ để bé Hậu ở đây chơi đặng Thuần xuống hãng dầu nói chuyện một lát rồi Thuần sẽ trở lại mà rước. Thuần ra đi chưa được bao lâu thì con xẩm bước vô phòng nói với cô Hòa:

- Có cô hai lại.

- Cô hai nào?

- Cô hai ở dưới chỗ gì mà mấy tháng trước lên ở nhà mình chơi rồi cô lấy xe đưa về đó.

- Chị Vân phải không?

- Ồ, phải, phải... cô Vân.

Cô Vân đứng ngoài cửa dòm vô phòng, thấy con xẩm với bé Hậu thì chẳng còn nghi ngại gì nữa, nên xốc vô la lớn:

- Chị Hòa chị sanh hồi nào? Tôi đã dặn chị mà sao chị không cho tôi hay?

Cô Hòa chưa kịp trả lời, thì cô Vân đã ôm bé Hậu mà hôn và hỏi lăng xăng:

- Cháu nhớ dì hay không? Em cháu đâu? Trai hay gái?

Cô Hòa cười mà đáp:

- Con gái.

- Tốt quá! Vừa ý tôi muốn lắm rồi. Ðâu để tôi coi con gái tôi ra sao.

Cô Vân vén mùng bồng em nhỏ ra mà nhìn. Cô rờ tay rờ chân, dở mũ ra mà coi đầu coi tai cùng hết rồi nói:

- Con phải lớn cho mau nghe không, lớn đặng má với dì dạy con học, làm cho con trở nên một phụ nữ Việt Nam đứng đắn đủ các phương diện.

Cô Hòa vui vẻ nói:

- Chị giỏi lắm. Có bé Hậu là con trai cho anh Thuần dạy rồi, thì phải sanh con gái cho chị em mình dạy chớ. Tôi mừng quá. Mà chị sanh được mấy bữa rồi, sao chị không cho tôi hay?

- Tôi sanh hồi 2 giờ trưa hôm kia. Sanh rồi tôi có nhắc nhà tôi đánh dây thép cho chị hay, mà chị không được dây thép hay sao?

- Không. Tôi có đặng thơ hay là dây thép gì đâu?

- Chắc họ đem dây thép trễ chớ gì.

- Nếu đánh giây thép buỗi chiều hôm kia thì ngày hôm qua tôi phải được. Mà sao tới sớm mai nầy tôi cũng chưa thấy gì hết.

- Nếu chưa được dây thép mà sao chị hay chị lên đây?

- Tôi lên thình lình, tôi có dè đâu. Tôi đi xe lửa lên tới tôi kêu xe kéo chạy thẳng vô nhà. Tôi hỏi, bồi nó nói chị sanh, xe hơi mới về rước cháu Hậu, rồi nó chỉ chỗ tôi mới biết mà ra đây.

- Té ra chị đi thình lình mà gặp, thiệt là may.

- May lắm... Chị sanh lần nầy ăn cơm có biết ngon và nghe trong mình có khoẻ hay không?

- Tôi ăn ngon lắm, trong mình khoẻ như thường. Tại ông Ðốc tơ cấm, ông không cho ngồi, chớ bây giờ tôi ngồi dậy tôi đi cũng được.

- Ý! Không nên đâu chị. Ðừng có ỷ sức, chị phải nằm, chừng nào Ðốc tơ cho phép chị mới ngồi dậy.

- Tôi nói cho chị hiểu sức mạnh của tôi chớ tôi đâu dám cãi Ðốc tơ. Chị coi con nhỏ nó giống ai vậy chị? Hồi nãy chị hai tôi nói nó giống cha nó. Chị coi nó có giống tôi chút nào hay không.

Cô Vân kéo bé Hậu lại đứng gần, cô nhìn mặt hai đứa nhỏ mà so sánh một hồi rồi nói:

- Gương mặt nó giống hệt cháu Hậu, nghĩa là giống anh Thuần. Nhưng mà bàn tay bàn chân với cái càm nó giống chị.

- Chắc hay không?

- Chắc chớ. Chị không tin thì đợi ít bữa chị ngồi dậy rồi chị coi. Anh đặt tên gì đây?

- Chưa khai sanh. Tôi muốn đặt tên theo Tây, mà nhà tôi không chịu tính đặt tên Việt Nam.

- Mình Việt Nam thì lựa tên Việt Nam mà đặt phải hơn.

- Tên Việt Nam bây giờ biết đặt chữ gì?

- Ðể thủng thẳng tôi kiếm. Ðặt tên quan hệ lắm, phải lựa tên cho tốt và có ý nghĩa mà đặt thì sau nầy nó mới phát đạt, mới thanh nhã.

- Chị kiếm tên giùm đi rồi nói cho nhà tôi biết mà khai sinh.

- Biết anh Thuần cho phép hay không. Ðàn ông họ có quyền làm cha mạnh lắm.

- Sao lại không cho. Tôi làm mẹ tôi cũng có quyền vậy chớ. Tôi nhượng quyền đặt tên cho chị đa.

Cô Vân ngó em nhỏ mà cười và nói:

- Ðược. Ðể tôi kiếm tên cho tốt mà đặt cho con tôi.

Cô để em nhỏ nằm êm ái lại trong nôi, kéo mùng kín đáo rồi đứng ngó cùng trong phòng.

Cô Hòa mời kéo ghế lại ngồi đặng nói chuyện chơi.

Cô vân liền nhắc ghế để khít bên giường mà ngồi, đỡ bé Hậu lên ngồi trong lòng cô, rồi cô hỏi cô Hòa:

- Chị sanh con gái, chắc anh Thuần mừng lắm hả?

- Coi bộ không mừng gì.

- Sao vậy? Té ra hai ông bà chưa hết nghi kỵ nhau hay sao?

- Lúc chị lên chơi, nhờ chị khuyên lơn, nên nhà tôi đổi tánh chút đỉnh. Chừng chị về rồi, thì tánh cũ trở lại lần lần, cũng như chị không có nói gì hết.

- Hứ! Anh nầy kỳ dữ không kìa!

- Mấy tháng nay, nhiều khi tôi buồn, tôi muốn lấy xe đi xuống dưới chị đặng xin phép bác mời chị lên ở chơi với tôi lâu lâu. Mà tôi nghĩ bác có một mình chị, nếu chị đi chơi thì bác ở nhà tiu hiu, tại vậy nên tôi muốn mà tôi không dám làm. Chớ chi chị có xe hơi, chị lên xuống thường, thì chị giúp ích cho tôi không biết chừng nào. Xe mới xe cũ ngoài hãng thiếu gì, tôi biểu chị coi chiếc nào vừa ý thì lấy mà dùng. Tại sao chị không chịu không biết.

- Không phải tôi không chịu. Tại má tôi không muốn sắm xe hơi chớ. Hôm chị xuống nhà tôi chơi, chị nói chuyện đó, má tôi trả lời gắt quá, chị không nhớ hay sao? Má tôi nói không phải sợ tốn tiền, ngặt vì đi xe hơi sợ rủi ro quá, nên má tôi không muốn.

- Thiên hạ đi xe hơi hết thảy, có sao đâu mà sợ.

- Mấy bà già nhát lắm. Bận đó chị về rồi tôi đốc hết sức, mà má tôi cũng không chịu.

- Chị lên tôi mừng quá. Mấy tháng nay không gặp được chị tôi buồn dữ, có nhiều chuyện không biết nói với ai.

- Mấy tháng nay mắc giúp má tôi thâu góp lúa ruộng nên không đi đâu được. Mới rảnh mấy bửa nay nên tôi tính chạy lên trước thăm coi chừng nào chị sanh, sau hỏi thăm anh Thuần một vài công chuyện của tôi.

- Chị phải ở chơi với tôi lâu lâu.

- Cha chả, tôi hứa với má tôi ngày mốt tôi sẽ về, ở lâu không tiện.

- Chị viết thơ gởi về xin phép với bác đặng ở chơi. Chị có hứa hễ tôi sanh chị lên ở nuôi tôi một tháng. Hôm xuống dưới nhà tôi cũng đã xin phép bác rồi. Bây giờ chị về có được đâu.

Cô Vân ngồi lặng thinh suy nghĩ.

Cô Hòa nói tiếp:

- Tôi mắc nằm ở đây, mà nhà tôi cứ đi ra hãng, bỏ thằng nhỏ ở nhà bơ vơ, buồn hết sức. Chị ở chơi, đặng ở nhà giùm với thằng nhỏ, cho tôi an lòng một chút. Tôi muốn chị lấy xe chạy về dưới thưa cho bác hay rồi trở lên. Ðây xuống đó, đi ít giờ đồng hồ, chớ xa xôi gì. Chị ở đây chơi, đợi nhà tôi trở lại rước vô trong nhà ăn cơm rồi chị lấy xe chị đi.

Cô Vân là người bặt thiệp, mà nghe mấy lời của cô Hòa như vậy thì bối rối, không biết phải nhứt định lẽ nào. Cô đứng dậy bước lại gần cái nôi mà dòm em nhỏ, tính lập thế suy nghĩ rồi sẽ trã lời.

Bé Hậu đương đứng một bên cô, vụt la lớn: "Ba".

Thuần bước vô phòng, thấy cô Vân thì chưng hửng, nên nói được có hai tiếng: "cô Vân".

Cô Vân chúm chím cười và nói:

- Em mừng cho anh được hạnh phúc hoàn toàn, có con trai con gái đủ hết.

Thuần cũng chúm chím cười, chớ không cám ơn mà cũng không hỏi cô Vân lên hồi nào.

Cô Hòa hỏi chồng:

- Trưa hôm kia sanh rồi, tôi nhắc mình đánh dây thép cho chị Vân hay. Mình có đánh hay không mà chị nói chị không có được dây thép:

Thuần ú ớ đáp:

- Tôi... quên.

Cô Hòa chau mày mà trách chồng:

- Hay dữ! Trí mình mắc tưởng việc gì ở đâu không biết mà tôi cậy có một chút đó cũng không nhớ mà làm!

- Mình biểu đánh dây thép. Tôi nghĩ chuyện không gấp gì nên tôi tính để viết thơ cũng được. Té ra lộn xộn rồi tôi quên lửng. Mà cô Vân đã lên đây rồi thì việc cũng xong.

Cô Vân muốn cho vợ chồng dứt cãi nhau, nên cô nói với Thuần:

- Anh nói phải, việc đã xong rồi thì không cần trách anh làm chi. Anh quên đánh dây thép cho em, thì bất quá anh mất một dịp lãnh lời cám ơn của em mà thôi, chớ không quan hệ chi đó, phải không?

- Cô trách thế nào tôi cũng vâng chịu hết thảy. Mà tôi quên cho cô hay, vậy chớ tại sao cô hay nên lên thăm đây.

- Em với chị Hòa là bạn đồng thinh đồng khí. Bởi vậy chị Hòa có việc thì trái tim của em nó mách cho em hay, chớ không nhờ ai hết. Thôi chuyện đó bỏ đi. Bây giờ em thưa cho anh hay, chị Hòa đã phú cho em trọn quyền lựa tên mà đặt cho em nhỏ. Anh có lời gì ngăn cản xin nói ngay ra.

- Nhà tôi muốn thế nào cũng được, tôi ngăn cản làm chi.

- Nếu vậy anh cũng cho phép em nữa hay sao?

- Tôi cũng cho phép.

- Cám ơn. Theo tục thường hễ con trai thì đặt theo tên cha, còn con gái thì đặt theo tên mẹ. Anh tên Thuần, sanh con trai đặt tên Hậu, thì phải lắm. Vợ tên Hòa, bây giờ chị sanh cón gái, thì đặt nó tên Hảo. Ðặt như vậy thì bên phe nam "Thuần Hậu", bên phe nữ "Hòa Hảo", anh nghĩ thử coi được hay không?

- Ðược lắm, được lắm.

- Còn chị Hòa? Chị chịu hay không?

Cô Hòa gật đầu mà chịu.

Cô Vân lấy làm đắc ý nên cô vui vẻ mà nói:

- Trong gia đình mà được thuần hậu, hòa hảo, thì có chi quý bằng. Sáng mai khai sanh cho em đi.

Con xẩm bước vô tới nói với cô Vân: "Anh kéo xe mượn tôi hỏi cô coi anh phải chờ cô nữa hay là đem đồ vô".

Cô Vân gật đầu biểu phải chờ.

Cô Hòa chưng hửng hỏi cô Vân:

- Chị neo xe nẫy giờ hay sao?

- Phải. Ðể nó chờ...

- Có xe nhà, còn biểu nó chờ làm chi? Trả tiền cho nó đi đi, rồi đi xe hơi mà về trong nhà.

- Tôi còn để va ly trên xe kéo.

- Ủa! Hồi nãy vô trong nhà sao không để va ly ở trỏng, lại chở theo ra đây làm chi?

- Ðể một chút rồi tôi đi nữa.

- Chị đi đâu?

- Tôi đi có chuyện riêng.

- Không được. Dầu có đi đâu thì cũng đem đồ vô trong nhà ăn cơm và nghỉ trưa rồi xế mát lấy xe mà đi, chớ đi đâu bây giờ.

- Cô Vân bợ ngợ, không biết lời gì mà cãi nữa.

- Cô Hòa nói tiếp:

- Chị lên đây thì phải ở tại nhà tôi chớ không được phép ở chỗ khác. Chị ở đặng coi chừng giùm bé Hậu cho tôi chớ.

Cô vừa nói vừa thò tay dưới gối lấy một đồng bạc đưa cho xẩm biểu ra trả tiền xe kéo rồi xách đồ của cô Vân đem qua xe hơi.

Cô Vân nghe giọng buồn của cô Hòa thì động lòng, nên cản không cho con xẩm lấy tiền, rồi bổn thân cô ra đường trả tiền xe kéo và biểu con xẩm xách va ly để lên xe hơi của Thuần.

Lúc ấy, ở trong phòng, cô Hòa nói với Thuần:

- Có chị Vân lên tôi mừng quá. Chị lên thình lình mà thiệt là may. Chị nói chị không dè nên không có nói trước với bác mà ở lâu được. Mình ráng cầm chị ở lại nghe không.

- Mình cầm, chớ tôi làm sao mà cầm cổ được.

- Tôi có nói rồi, mà chị còn dục dặc chưa nhứt định.

- Cổ không nói trước, nếu mình cầm cổ ở lại, sợ dưới bà già cổ trông nhớ.

- Buổi chiều nay mình có rảnh hay không?

- Mình hỏi chi vậy?

- Tôi muốn nếu mình có rảnh thì xế mát mình lấy xe đi với chỉ xuống Kỳ Sơn xin phép với má chỉ đặng cậy chị ở dùm trên nhà mình chơi với tôi, chừng tôi cứng cáp rồi chị sẽ về.

- Tôi đi không tiện.

- Tôi cậy mình việc gì cũng không được hết thảy. Ngộ quá! Không biết tại sao mà không chịu làm cho tôi vui lòng một chút.

Thuần chau mày suy nghĩ một chút rồi đáp:

- Tôi mắc hẹn lỡ với ông hội đồng dưới Bạc Liêu, buổi chiều nay phải ở nhà đặng nói chuyện với ổng. Thôi để tôi biểu sớp phơ đưa cô Vân về dưới đặng cổ cho bà già cổ hay rồi trở lên được không?

- Nếu mình đi được thì quý hơn. Như mình có việc thì biểu sớp phơ đưa chị đi cũng được.

- Ðể tôi nói với cổ rồi biểu sớp phơ đưa đi.

- Chị có muốn dắt bé Hậu đi theo chơi, thì biểu con xẩm sửa soạn cho em rồi đi với nó.

Cô Hòa thấy cô Vân trở vô liền nói:

- Chị Vân nè, tôi tính để xế mát rồi nhà tôi lấy xe hơi đi với chị về dưới nhà đặng thưa với bác cho phép chị trở lên ở với tôi ít ngày. Rủi nhà tôi mắc việc nên đi không được. Thôi, để sớp phơ đưa chị đi nghe không. Chị dắt bé Hậu đi với chị.

Cô Vân ái ngại đáp:

- Cha chả, lúc nầy tôi có việc, sợ ở chơi với chị không tiện.

- Chị hết thương tôi rồi hay sao?

- Chị hỏi kỳ quá! Sao lại hết thương?

- Chị thương tôi, mà sao tôi muốn có một chút đó, chị lại dục dặc, kiếm thế từ chối? Mà việc đó chị đã có hứa trước với tôi, nên tôi mới dám cậy[1] chớ. Tôi nói thiệt, nếu chị không chịu ở trên nầy ít ngày, trước nói chuyện chơi cho vui, sau coi chừng giùm bé Hậu, thì tình chị em sẽ dứt, bởi vì chị có thương tôi đâu mà tôi dám làm chị em với chị nữa.

- Tôi muốn để tôi thăm chị một chút rồi tôi về; khi nào chị về nhà rồi tôi sẽ lên ở chơi lâu lâu.

- Tôi cần có chị bây giờ đây chớ. Nằm trong nầy buồn quá, phải có chị vô ra nói chuyện chơi tôi mới vui.

Cô Vân ngó ngay Thuần mà hỏi:

- Chị Hòa ép tôi phải ở chơi với chị, mà anh Thuần bằng lòng hay không?

Thuần xây mặt chỗ khác mà đáp:

- Nếu được vậy thì tôi mang ơn cô lắm, sao lại không bằng lòng.

Tiếng chuông nhà thờ đổ vang rân. Cô Hòa nói với chồng:

- Mười hai giờ rồi. Thôi mình rước chị Vân với em về ăn cơm đi kẻo đói bụng. Chị Vân xế mát lấy xe đi với bé Hậu về Kỳ sơn nghe không. Thưa với bác rồi chị trở lên ghé cho tôi hay trước đặng tôi mừng.

Thuần từ giã vợ, dặn người nuôi lo dọn cơm cho vợ ăn, rồi mới ra xe mà về Cây Quéo với cô Vân và bé Hậu.

Bồi bếp dọn cơm rồi Thuần mời cô Vân đi ăn. Trong lúc ăn cơm Thuần ít nói chuyện, mà coi bộ như có việc gì làm cho trí Thuần lo ra. Chừng ăn cơm rồi, Thuần than mệt, nên xin lỗi cô Vân đặng lên lầu mà nghỉ liền. Ðúng hai giờ rưỡi Thuần tính lấy xe mà đi, hứa với cô Vân hễ ra tới hãng sẽ biểu sớp phơ đem xe về liền đặng cô đi Kỳ Sơn với bé Hậu.

Cô Vân hỏi:

- Em đi một lượt với anh, ra hãng anh xuống rồi biểu sớp phơ đưa em đi Kỳ Sơn không được hay sao, nên phải bắt xe chạy ra chạy vô nhiều bận?

- Cô đi bây giờ còn nắng lắm.

- Xe mui mà nắng giống gì, đi sớm đặng về sớm.

- Cô muốn đi một lượt cũng được.

Cô Vân biểu con xẩm thay đồ cho Bé Hậu rồi dắt nhau lên xe mà đi một lượt.

Ðến 6 giờ chiều cô Vân đi Kỳ Sơn và ghé Việt Nam Y Viện, cô Hòa vừa thấy bạn với con bước vô phòng, liền hỏi:

- Chị về Kỳ Sơn mới trở lên phải không?

- Phải. Tôi mới lên tới đây.

- Bác có vui lòng cho phép chị ở trên nầy chơi với tôi không?

- Bà già cho, song dục dặc lắm.

- Tại sao bác dục dặc?

- Má tôi nói chị mắc nằm trong nhà thương, tôi ở nhà một mình với anh Thuần thì coi không được.

- Mấy bà già xưa gắt về phong hoá quá. Con trai với con gái không được trao đồ cho nhau trên tay, không được ngồi chung một chiếc chiếu, không được ăn chung một mâm cơm.

- Theo phong hoá xưa thì vậy đó. Mà ở trong làng phần nhiều họ cũng còn giữ chính chắn lắm chị.

- Chúng ta học theo mới, nên quen theo phong hoá mới, chúng ta không kể những tục xưa nữa. Chị đi một xe, chị ở một nhà với chồng tôi, rồi sao mà khó coi? Chị là bạn thiết của tôi, lại đến ở trong nhà tôi, chồng tôi là người có học thức, dầu cho có máu dê tràn trề trong trái tim đi nữa, cũng không lẽ dám chọc ghẹo chị. Chị có cắt nghĩa cho bác hiểu hay không?

- Có chớ. Má tôi nói như vậy, chớ không có cản.

- Ồ, được... Tôi nói riêng cho chị biết: Tôi năn nĩ xin chị ở trên nầy chơi là có ý muốn chị giảng nghĩa giùm cái đạo làm chồng cho nhà tôi biết mà đổi tánh lại. Chuyến trước chị nói sơ qua mà coi có kết quả bộn. Lần nầy chị ở lâu, chị nói nhiều, chắc nhà tôi hết làm cho tôi cực lòng nữa. Chị ở nhà một mình, chị nói tiện lắm. Xin chị làm ơn ráng nói giùm, mỗi bữa chị nói một chút, chắc nhà tôi nghe.

- Tôi sẽ hết lòng làm cho vừa ý chị.

- Tôi cám ơn lắm. Thôi, chị dắt bé Hậu về trong nhà mà nghỉ. Nhà tôi có ghé hồi nãy, đã về trỏng rồi, chắc đợi chị về ăn cơm.

Cô Vân lại cái nôi mà dòm em nhỏ, rồi dắt bé Hậu ra Cây Quéo.

Thuần mặc đồ mát đi thơ thẩn trong hoa viên, ngó thấy xe cô Vân, lật đật bước ra chào rồi hiệp nhau đi vô nhà.

[1] nhờ, mượn người khác giúp mình

Ðoạn tình

Chương 10

Bé Hậu yêu cô Vân. Hồi trưa nó nghe nói sẽ được đi với cô xuống Kỳ Sơn chơi, thì rộn rực trong lòng, ngủ trưa không được. Ăn cơm tối rồi nó liền buồn ngủ, nên nó kêu thiếm xẩm biểu đem nó lên lầu đặng nó ngủ.

Thuần kêu con nhỏ ở biểu nó lo giăng mùng trong phòng khách ở từng dưới cho sẵn đặng cô Vân nghỉ bởi vì đi lên đi xuống Kỳ sơn hai lần chắc cô mệt, nên phải nghỉ sớm. Thuần lại mắc có việc phải đi Sài Gòn một chút, rồi xin lỗi với cô Vân lên xe mà đi.

Cô Vân ở nhà có một mình cô buồn, nên biểu bồi đóng cửa rồi cô vô phòng đọc sách của Thuần mà ngồi xem nhựt báo. Ngồi lâu mỏi lưng, nên nghe đồng hồ gõ 10 giờ, cô bèn tắt đèn vô mùng nằm rồi ngủ quên. Thuần về hồi nào cô không hay.

Sáng bữa sau, lúc ăn điểm tâm, cô Vân hỏi Thuần:

- Hồi hôm anh đi tới mấy giờ anh mới về?

- Tôi về hồi 12 giờ.

- Anh có ghé ngoài Việt Nam Y Viện hay không?

- Có. Tôi ra nói chuyện chơi với nhà tôi trót giờ.

- Hồi hôm em có ý chờ anh về đặng em hỏi ý kiến anh về một việc em đương tính mà làm. Té ra em nằm ngủ quên, anh về em không hay.

- Cô muốn hỏi việc chi?

- Không gấp gì mà vội. Thôi, để tối nay anh có rảnh rồi em sẽ nói cho anh nghe.

- Ðược... Tôi sẽ để xe riêng của tôi ở nhà. Bất luận giờ nào, cô muốn ra y viện mà thăm nhà tôi hay là muốn đi đâu, thì cô biểu sớp phơ cầm bánh cho cô đi.

- Còn anh, xe đâu anh đi?

- Tôi có xe khác, xe cũ ngoài hãng thiếu gì.

Ăn rồi Thuần lấy xe cũ mà đi. Cô vân biểu thiếm xẩm thay đồ cho bé Hậu rồi cô cũng dắt nó lên xe mới mà ra Y Viện thăm cô Hòa.

Buổi sớm mai hôm đó đã vậy, mà buổi chiều cũng vậy, cô Hòa thấy cô Vân với bé Hậu thì cô vui vẻ vô cùng, mẹ con mừng nhau, chị em trò chuyện với nhau không dứt.

Tối bữa ấy, ăn cơm rồi, cô Vân thấy Thuần cũng sửa soạn như bữa trước, dường như muốn đi đâu thì cô hỏi:

- Anh muốn đi đâu hay sao?

Thuần dụ dự một chút rồi đáp:

- Tôi muốn đi một vòng ra Sài Gòn.

- Ðêm nào anh cũng đi, nếu chị Hòa hay, chắc chỉ sẽ ghen cho mà coi.

Thuần chau mày suy nghĩ.

Cô Vân cười nói tiếp:

- Em tính tối nay em hỏi thăm anh một việc, té ra anh mắc đi thì thôi.

Thuần kéo ghế ngồi và hỏi:

- Cô muốn hỏi thăm việc gì?

- Việc nầy phải nói dài lắm, mà có lẽ phải cãi, phải bàn tính, bởi vậy nếu ít giờ thì nói không tiện.

- Việc quan hệ lắm hay sao?

- Quan hệ lắm.

- Tôi đi chơi, chớ không có việc gì gấp. Nếu cô muốn nói chuyện, thì tôi sẽ ở nhà, không hại chi.

- Nếu anh bằng lòng ở nhà, thì anh thay đồ mát cho thong thả, rồi em sẽ nói cho anh nghe.

Thuần ngó cô Vân mà thở dài, rồi đi thay đồ mát.

Cô Vân qua phòng đọc sách mà ngồi có ý muốn Thuần cũng vô đó đặng đàm luận thong thả.

Thuần thay đồ rồi, ở trên lầu đi xuống dòm thấy cô Vân đương ngồi trong phòng khách, nét mặt nghiêm nghị làm cho tướng mạo thanh nhã xinh đẹp càng thêm khả ái, thì chau mày rồi dụ dự không muốn bước vô. Thuần lấy một gói thuốc với một hộp quẹt ra cửa đứng đốt thuốc mà hút dường như cần phải định tâm định trí một chút rồi mới hăng[1] trở vô.

Cô Vân chỉ cái ghế dựa bàn viết mà mời Thuần ngồi ngay trước mặt cô, đặng nói chuyện cho tiện.

Thuần ngồi ngó cô Vân rồi nghiêm chỉnh hỏi:

- Cô có chuyện chi đâu nói phứt (nói liền ra ngay) cho tôi nghe thử coi.

Cô Vân trầm ngâm một chút, đưa tay vuốt mái tóc xem rất dịu dàng, nhích miệng mà trổ một nụ cười rất hữu duyên rồi chậm rãi nói:

- Bước chân vào thế cuộc ai cũng phải vẽ một cái đường trước cho sẵn để noi theo đó mà đi, nếu may nhằm đường bằng thẳng, hay là rủi gặp đường chông gai, cũng phải ráng đi cho cùng cho tột. Phận em là gái, lúc nhỏ phải tùng quyền cha mẹ, bởi vậy cách năm năm trước má em định căn duyên cho em, nghĩa là vẽ sẵn con đường đời để cho em bước tới, khỏi phải nhọc lòng tìm kiếm. Em nói thiệt, dầu em không có tình gì với người hứa hôn cùng em, nhưng mà căn duyên của mẹ định, thì em phải ghi tâm khắc cốt, bởi vậy trót 5 năm trường em khắc trong trí hình dáng người ấy là bạn trăm năm của em, em rèn lòng tập tính đặng làm vợ người cho xứng đáng. Chẳng dè cách một năm nay người ấy gởi thơ xin hồi hồn!... Vì em không có tình trước, nên sự hồi hôn không động tâm loạn trí em được. Tuy vậy mà sự mơ tưởng của em thình lình vỡ tan, cảnh gia đình em toan sắp đặt trước thình lình sập nát, rồi phận em cũng như chiếc thuyền ra giữa biển mà gẫy bánh lái, cái đường đời của em cũng như đã bít ngang. Anh nghĩ đó mà coi cái khổ về phần trí của em đến bực nào!... May em có học thức, mà lại không nhiễm ái tình của người hứa hôn; may em tập tìm xu hướng về mỹ thuật, không kể đến gia đình nữa, nên một năm nay em mới được vui với sự sống mà lo báo hiếu cho mẹ già. Nhưng mà có đêm em ngồi đón gió trăng mà suy nghĩ, thì em thấy đời của em, tuy thơ thái, song trống rỗng. Ở đời phải làm cho sự sống có ý nghĩa, phải làm việc gì cho có ích, chớ mà sống mà hưởng gió vui trăng, sống đặng ăn ngon ngủ khoẻ, thì sống làm gì, cái đời của chị Hòa có mục đích rõ ràng: chị sống đặng làm vui cho chồng, sống đặng nuôi con cho khôn lớn mà duy trì xã hội. Còn cái đời của em có mục đích gì đâu?

Nãy giờ Thuần chăm chú ngó cô Vân mà nghe cô nói. Chừng nghe tới đó thì cúi mặt xuống bàn, chống tay lên trán mà thở ra.

Cô Vân ngó ngay Thuần mà nói tiếp:

- Nếu khi nào em buồn là buồn ở chổ đó, buồn mà không biết tỏ với ai được. Má em già cả, có hiểu tâm hồn em được đâu mà em nói... Ðêm nọ ở ngoài Long Hải, em được đàm luận việc đời với anh. Trong lúc nói chuyện anh có than rằng đời nầy con gái xứ mình ham sự giáo dục về trí thức, mà thiếu giáo dục về gia đình, bởi vậy chừng có chồng không biết xây nền móng cho hạnh phúc gia đình vững bền. Anh ước ao người có tiền có chí xướng ra lập nhà trường chuyện dạy con gái cho tánh tình cao thượng, cho biết tôn trọng gia đình, cho biết đường phải mà đi, đường quấy mà tránh. Anh lại tỏ ý muốn cho em ra làm việc ấy, anh nhớ hay không?

Thuần gật đầu, đáp:

- Tôi nhớ. Cô cứ nói tiếp đi.

- Xưa rày về nhà, em suy nghĩ lại, thiết lập nhà trường mà dạy như vậy, là một điều hữu ích đệ nhứt trong buổi nầy. Làm việc đó là xây nền hạnh phúc cho tương lai mọi gia đình. Mỗi nhà đều có một người vợ hiền chuyên lo giúp vui, giải buồn, trưởng chí cho chồng, chuyên lo nuôi dưỡng sắc sóc, dạy dỗ con, cho chồng rảnh trí mà cạnh tranh với thiên hạ ở ngoài, nếu gia đình hết thảy đều được như vậy, phong hoá mới thuần mỹ, xã hội mới tấn phát. Em có tỏ việc ấy má em nghe, rồi em xin phép cho em lập thử một nhà trường tại Sài Gòn đặng em giúp ích cho đời và làm cho sự sống của em có ý nghĩa. Má em vui lòng cho phép em rồi. Em mừng lắm. Em lên đây là có ý cậy anh giúp em tán thành việc ấy. Anh phải giúp em kiếm mà mua hoặc mướn nhà hay là phố, chỗ nào mát mẻ thanh tịnh để mở nhà trường, anh cũng phải giúp em sắp đặt cái chương trình giáo dục cho có thể thức rành rẽ và cần ích đặng đi cho khỏi lạc đường. Phải có anh giúp sức thì em mới làm được. Vậy chớ anh sẵn lòng giúp em hay không?

Thuần biến sắc, đứng dậy đi tới đi lui trong phòng, không dám ngó cô Vân, mà cũng không biết phải trả lời thế nào. Cách một hồi lâu Thuần mới đứng lại mà hỏi:

- Cô đã có tỏ sự cô tính đó cho nhà tôi nghe chưa?

- Không. Chị Hòa không ưa lo việc bao đồng, mà lúc nầy chị mắc sanh, nếu nói cho chị biết thì rộn trí chị chớ không ích gì. Em muốn tính riêng với anh mà thôi, chừng nào xong rồi sẽ cho chị Hòa hay, nghĩ không muộn gì.

Thuần đốt thuốc mà hút rồi đi tới đi lui nữa, sắc mặt có vẻ lo lắng lắm.

Cô Vân bước ra ngoài mà uống nước rồi rót bưng vô một tách nước trà nóng cho Thuần uống. Thấy Thuần lơ lửng thì cô hỏi:

- Bộ anh không sốt sắng giúp em. Tại sao vậy?

Thuần ngó ngay cô mà đáp:

- Cô không hiểu tại cớ nào mà tôi không sốt sắng hay sao?

- Không. Anh nói cho em nghe thử coi.

- Xin cô đừng buộc tôi phải nói... Tôi sợ tôi không có thể giúp cô được, nói bao nhiêu đó thì đủ rồi.

Cô Vân cười mà nói:

- Em đã nhứt định rồi. Dầu anh không chịu giúp em cũng làm. Hễ em làm rồi thì tự nhiên anh phải chỉ bảo, chớ không lẽ anh làm lơ được.

Thuần rùn vai lắc đầu mà nói:

- Khó hết sức! Xin cô để tôi suy nghĩ một vài bữa rồi tôi sẽ trả lời. Nói dứt lời Thuần liền bước ra ngoài rồi đi thẳng ra sân, dường như muốn tìm cái không khí khác đặng khoẻ trí, muốn nhìn cái quang cảnh khác đặng nhẹ lòng.

Trong ba ngày sau, Thuần cứ lập thế mà lánh không dám ngó cô Vân, mà cũng không muốn nói chuyện với cô. Ðến bữa ăn, phải ngồi chung, thì Thuần ép con lên ngồi đặng chọc con nói hoang đàng cho khỏi phải đàm luận với cô Vân về câu chuyện mình không muốn động đến nữa.

Một đêm, trong nhà vắng hoe, trên dưới im lìm, mà Thuần nằm trằn trọc hoài, không ngủ được. Thuần khoác mùng chun ra, đốt thuốc mà hút rồi nhè nhẹ xuống thang lầu, tính xuống phòng đọc sách kiếm một cuốn sách lên xem đặng dỗ giấc ngủ. Chẳng dè xuống phòng đọc sách lại thấy cô Vân đương ngồi tại bàn viết mà viết, cái đèn đứng, bao chụp màu xanh, để trên bàn rọi mặt cô sáng rỡ. Thuần đứng dụ dự ngoài cửa, dường như muốn thối lui; mà rồi không biết Thuần nghĩ thế nào mà Thuần chau mày hăm hở bước nhầu vô và đứng dựa bàn, gần một bên cô Vân mà hỏi:

- Khuya rồi sao cô chưa ngủ? Cô còn viết giống gì đó?

Cô Vân ngó lên, thấy Thuần thì cười mà đáp:

- Em tính đặt cái chương trình giáo dục cho nhà trường của em. Anh không chịu giúp em thì em làm một mình. Ðể em sắp đặt xong rồi em đọc cho anh nghe và cậy anh bình phẩm. Dầu anh không giúp song anh cũng bình phẩm chút đỉnh chớ, phải không?

Thuần không trả lời, bước lại vặn cái đèn plafond[2] bựt cháy lên sáng loà rồi ngồi tại cái divan có lót nệm xanh dựa vách tường mà ngó cô Vân trân trân.

Cô Vân hỏi:

- Từ hồi hôm tới bây giờ anh đã ngủ hay chưa?

- Chưa.

- Sao anh biết em còn thức mà anh xuống đây? Sự lập nhà trường nó làm rộn trí em ngủ không được. Hồi 10 giờ, em nghe trên lầu im lìm, em tưởng anh đã ngủ rồi, nên em lén vô đây vặn cái đèn nhỏ mà đặt thử chương trình. Em không dè anh còn thức.

- Ðêm nay tôi ngủ không được, tính xuống kiếm một cuốn sách mà đọc đặng gây giấc ngủ. Tôi cũng không dè cô còn thức.

- Anh muốn uống ca phề không? Ðể em kêu con nhỏ ở đây nấu nước rồi em làm cà phê cho anh uống.

- Thôi đừng kêu để cho nó ngủ. Tôi có đèn nấu nước, để tôi lấy mà nấu cũng được.

Thuần đứng dậy bước ra ngoài phòng ăn, mở tủ rượu lấy đồ lộp cộp.

Cô Vân đứng ngó cùng trong phòng đọc sách. Cô mặc một bộ đồ mát bằng lụa trắng, vì lụa mỏng nên nó tỏ bày cái hình vóc yểu điệu khả ái của cô càng thêm rõ ràng, vì áo bâu nhỏ nên nó để cho thấy cổ, cái ót của cô trắng trong mềm mại.

Cái phòng đọc sách của Thuần dọn cũng thiệt đẹp, làm cho cảnh với người xứng nhau vô cùng. Phòng rộng rãi, phía trong để cái bàn viết; phía ngoài mà đối diện với bàn ấy, thì lót cái divan để nghỉ trưa. Dưới cửa sổ, bên tay mặt có để một cái bàn bát giác thấp với hai cái ghế xích đu đặng nằm lúc lắc mà giải trí. Trên vách tường phía sau bàn viết có treo một cái khuôn hình lớn, vẽ bằng dầu, vẽ hình gia quyến của Thuần; cô Hòa ngồi ôm bé Hậu trong lòng; Thuần đứng sau lưng cô, tay vịn ghế miệng chúm chím cười, tỏ vẻ bảo hộ cho vợ con luôn luôn.

Cô Vân đương đứng mà xem tờ giấy cô đã viết, thì Thuần trở vô, tay bưng một mâm có đủ bình cà phê, bình đường, đèn nấu nước, ve nước với hai cái ly lọc cà phê. Thuần để mâm trên bàn bát giác dưới cửa sổ rồi quẹt hộp quẹt đốt đèn nấu nước. Cô Vân bước lại đứng một bên và nói:

- Anh sắm đủ hết.

- Ban đêm tôi hay thức khuya đọc sách. Tôi sắm đồ sẵn đặng làm cà phê, hoặc nấu trà mà uống, khỏi phải kêu đứa ở làm mất giấc ngủ của nó.

- Bữa nay anh để em làm cho.

Cô Vân dành rót nước lạnh vào ấm mà đặt lên cái đèn. Cô ra ngoài lấy cái khăn bàn mà lau ly; cô làm lăng xăng, chờ nước sôi đặng chế cà phê. Thuần lại divan mà ngồi, chống tay trên gối, mắt ngó cô Vân; vóc cô thanh nhã gọn gàng mặt cô sáng rỡ vui vẻ, tay cô dịu nhiễu trắng trong; hình dung đẹp đẽ ấy ở trong thơ phòng thanh nhã nầy, làm cho rực rỡ. Ngó người, ngó cảnh lòng Thuần ngẩn ngơ, lại thêm đêm khuya vắng vẻ im lìm gây ra không khí chứa chan tình tứ, nên Thuần ngẩn ngơ rồi cảm xúc, Thuần nhớ có nhiều đêm Thuần cũng ngồi tại đây mà đọc sách, cô Hòa cũng vô đây rồi khi thì ngồi, khi thì đứng mà nói chuyện với Thuần, nhưng mà chẳng có lần nào Thuần cảm xúc như bây giờ, vừa vui vẻ vừa buồn bực, ngổn ngang trăm mối trong lòng, muốn nói ra, nói không được, muốn xa lánh, xa không nỡ.

Nước sôi, cô Vân xúc cà phê đổ vô ly lọc rồi chế nước vô, mắt chăm chú ngó, tay dãnh mấy ngón, cặp mắt rất hữu tình, ngón tay nhỏ rức. Làm xong, cô đứng ngắm nghía rồi kéo một cái ghế phô tơi lại để ngay trước mặt Thuần và nói:

- Ðể cà phê xuống rồi em sẽ bưng lại cho anh uống.

Thuần lặng thinh.

Cô Vân trở lại bàn bát giác, cúi dòm hai cái ly coi cà phê nhểu thông hay không và nói tiếp:

- Chị Hòa vẫn phiền anh hoài. Chị than với em nữa. Em xin anh phải thương chị. Nếu anh cứ lơ lảng, làm cho chị không thỏa mãn về đạo vợ chồng thì em buồn lắm vậy.

Thuần cũng cứ lặng thinh.

Cô Vân thấy cà phê xuống gần đầy ly, cô mới bưng một ly đem lại để trên ghế phô tơi, trước mặt Thuần, rồi lại lấy bình đường với cái muỗng rồi hỏi:

- Anh muốn mấy miếng đường?

Cô thấy Thuần đương cầm khăn mu soa mà chậm nước mắt, thì cô chưng hững, đứng ngó Thuần mà hỏi:

- Có chuyện chi mà bữa nay anh buồn dữ vậy?

Thuần cứ chậm nước mắt, không trả lời.

Cô Vân để bình đường dựa bên ly cà phê cho Thuần, rồi xây lưng đi lại bàn bát giác, vừa đi vừa nói: "Ở đời việc nào nó cũng có thể làm cho mình chán ngán được hết thảy. Mình phải lấy cặp mắt hiền triết mà khinh thị nó, mình phải lấy lòng đạo đức mà phân xử nó, thì mình mới khỏi buồn".

- Anh buồn về việc làm ăn hay buồn về việc nhà?

Bây giờ Thuần mới thở dài mà đáp:

- Về việc làm ăn thì tôi đắc ý lắm, có chi đâu buồn. Tôi buồn là buồn về việc nhà, vì nó không làm cho tôi vui sướng chỗ nào hết.

Cô Vân day lại hỏi:

- Té ra anh cũng còn phiền chị Hòa nữa hay sao?

- Tôi không phiền ai hết. Tôi buồn về mạng số của tôi mà thôi.

- Anh buồn về khoản nào? Anh có tỏ cho chị Hòa biết hay không?

- Tỏ làm chi? Nhà tôi có hiểu tâm hồn của tôi đâu mà phải tỏ.

- Vợ chồng ở với nhau đã có hai mặt con, lẽ nào chị Hòa không hiểu tánh ý anh.

- Thiệt nhà tôi không hiểu tâm hồn của tôi, hoặc không muốn hiểu. Cô lên chơi mới vài lần mà có lẽ cô hiểu hơn.

- Phải. Em hiểu lắm. Em tưởng chị Hòa còn hiểu nhiều hơn em chớ.

- Không. Không phải vậy đâu. Cô hiểu tôi, chớ nhà tôi không hiểu.

- Em hiểu anh, vậy thì anh buồn về chỗ nào anh tỏ cho em nghe một chút.

- Khó nói lắm.

Cô Vân bưng ly cà phê lại để gần ly của Thuần rồi cô nhắc một cái ghế phô tơi nữa đem để trước divan mà ngồi và nói:

- Tại chị Hòa không chịu bỏ cái thói ghen, nên anh cực lòng phải không?

Thuần bỏ vài miếng đường vô ly cà phê, mà cầm muỗng vừa khuấy vừa đáp:

- Thói ghen đã làm cho tôi bực mình rồi, mà cũng còn nhiều thói khác nữa, chớ không phải ghen mà thôi.

- Chị còn làm sao nữa?

- Tôi đã tỏ với cô hôm nọ, tôi là người chán đời. Tôi phải mượn cảnh gia đình với cuộc làm ăn mà làm chỗ để trốn đặng kéo dài sự sống. Cô nhớ hay không?

- Em nhớ lắm. Em cũng hiểu tại như vậy nên anh để hết tâm chí vào cuộc làm ăn đặng khỏi suy nghĩ về việc khác; tại như vậy nên anh lo xây nền hạnh phúc gia đình đặng vui hưởng mà quên hết việc khác.

- Rõ ràng cô hiểu, còn nhà tôi không hiểu, bởi không hiểu nên cứ theo cằn nhằn về sự tôi ham làm ăn, cứ theo phiền trách đặng.

Thuần bưng ly cà phê uống, cô Vân đưa tay lên vuốt mái tóc mà suy nghĩ, rồi nói giọng rất buồn:

- Tại giáo dục bất đồng, tâm chí bất hiệp nên mới ra như vậy đó.

- Phải. Cô nói phải lắm. Giáo dục đã khác, mà tâm chí cũng khác, bởi vậy tuy vợ chồng ở với nhau đã có hai mặt con, mà không được một dịp nào vui vẻ hết. Chớ chi nhà tôi nó có giáo dục như cô, có tâm chí như cô, thì hân hạnh sung sướng biết chừng nào.

- Về căn duyên anh chẳng nên ăn năn.

- Nói thiệt cho cô nghe, chớ không phải ăn năn. Trong đạo vợ chồng, gặp may thì nhờ, gặp rủi phải chịu, ăn năn sao được. Huống chi đã có con lòng thòng rồi, rứt bỏ sao đành mà ăn năn.

- Khó quá! Gặp chị Hòa thì nghe chỉ trách anh; gặp anh thì nghe anh trách chị Hòa. Em biết liệu thế nào bây giờ; em phải ở gần, em mới giải lòng nghi kỵ cho hai ông bà được. Vậy thì anh giúp em lập nhà trường cho mau đi, đặng em về Sài Gòn em ở, rồi em lập thế làm cho hai ông bà thuận Hòa.

Thuần lắc đầu:

- Xin cô đừng nhắc tới việc đó... Việc đó là việc tôi lo sợ lung lắm.

- Sao vậy...? Anh sợ nỗi gì...?

- Cô gần tôi thì tôi càng buồn nhiều hơn nữa.

Cô Vân đương bưng ly cà phê mà uống, cô nghe Thuần nói như vậy, thì cô lấy làm lạ, nên cô ngó Thuần trân trân.

Thuần đốt thuốc hút và hỏi:

- Cô có hiểu tại cớ nào mà tôi không muốn gần cô hay không?

- Không...

- Ðêm ở ngoài Long Hải, cô đàm luận việc đời với tôi, cô làm cho tôi thấy rõ cô cũng là một người chán đời như tôi, cô cũng có cái tâm hồn giống hệt như tôi. Cô với tôi thiệt là đồng tâm đồng chí. Nghe cô nói chuyện rồi tôi sanh mối cảm tình trong lòng. Tại sự cảm tình ấy mà tôi lo sợ, không muốn gần cô, cô hiểu hay không?

- Cô Vân biến sắc, ngước mắt ngó ngay Thuần, Thuần cũng ngó cô. Hai người nhìn nhau rồi dường như hổ thẹn, nên Thuần đứng dậy mà đi trong phòng, cô Vân thì cúi mặt, lấy cái muỗng khuấy cà phê mà suy nghĩ.

Thuần đi qua đi lại một hồi rồi nói: "Cô nhớ lại mà coi, từ đêm ấy trở về sau, tôi không dám ngồi một mình với cô, tôi không dám đàm luận với cô nữa. Hiểu tâm hồn nhau, mà không tỏ niềm riêng với nhau được thì ngồi chung với nhau rất khó chịu, đàm luận với nhau rất hiểm nguy. Thấy hình dạng cô, nghe câu chuyện cô nói tự nhiên tôi phải so sánh trong trí. Hễ so sánh thì quấy lắm, hại lắm cô hiểu không?... Tôi sợ lắm, tôi lo lắm, bởi tôi sợ, tôi lo, nên lần trước tôi nài nỉ xin cô lấy chồng... Cô có chồng, thì hoặc may tôi mới yên lòng yên trí được. Bây giờ cô hiểu được ý tôi chưa? Tôi lo sợ nên hôm cô lên lần nầy tôi không vui; mà hổm nay tôi cứ tránh cô, tôi không dám nói chuyện, tôi không muốn cho cô lập nhà trường, ấy là tại như vậy đó cô hiểu chưa...?

Cô Vân xây ghế lại ngồi ngó Thuần mà hỏi:

- Anh có biết những lời anh nói với em nãy giờ nó làm em buồn nhiều lắm hay không?

- Tôi biết lắm chớ. Tuy biết mà tôi phải nói, ấy là vì tôi muốn cho cô hiểu rõ tâm hồn của tôi, đặng chúng ta liệu phương tránh cho khỏi cái hoạ tan nát cửa nhà hư hại danh dự.

- Em phải làm sao bây giờ?...

- Tôi cũng không hiểu tôi phải làm sao!... Phải chung chạ với người không đồng tâm đồng chí, còn phải xa lánh người đồng giáo dục, đồng tâm hồn, sống với cảnh đời như vậy, thì có thú vị gì mà sống! Có lẽ chết là một phương giải thoát hay nhứt...

- Anh Thuần, anh đừng có nghĩ như vậy chớ. Anh quên hai đứa con của anh hay sao?

- Tôi nhớ lắm chớ. Bởi tôi nhớ, nên thà tôi chịu thống khổ về tâm hồn như vầy đây chớ tôi không dám thương người tôi thương. Cô còn muốn cho tôi phải làm gì nữa?

- Em muốn anh coi em như em ruột của anh: anh đừng nuôi ý gì khác.

- Tôi cũng muốn như vậy lắm, ngặt vì cái bịnh ái tình nó lậm vào trái tìm tôi rồi, làm sao mà đem ra được.

Cô Vân bối rối trong trí quá, nên rưng rưng nước mắt.

Thuần chau mày mà nói tiếp:

- Tôi với cô là một cặp vợ chồng mới phải. Tại sao trời lại khiến bà già hứa gả cô cho người vô tình bất nghĩa đặng ngày nay cô thất chí chán đời. Tại sao hồi tôi ở bên Tây về, trời khiến tôi lật đật cưới vợ làm chi, nên tôi phải chịu cảnh đời vô vị? Ông trời vô ý lắm! Nếu ông hữu ý, ông biết thương loài người, thì ông lựa cặp đồng tâm đồng chí như tôi với cô đây mà cho kết tóc trăm năm, thì cảnh đời vui vẻ biết chừng nào! Ban ngày tôi ra ngoài lo cạnh tranh cùng thiên hạ, cô ở nhà lo nuôi con lo dạy con, lo sắp đặt việc nhà cho thanh thản, đặng chiều tôi về tôi có sẵn cảnh vui vẻ mà thưởng thức cho hết mệt trí nhọc lòng. Ban đêm hoặc ngồi chung với nhau trong phòng, rồi tôi đọc sách cho cô nghe, cô ngâm thi cho tôi hứng, vợ chồng luận đàm thế sự bình phẩm nhân tình, hoặc dắt nhau ra hoa viên mà hứng gió xem trăng, rồi cô đờn một hai bài cho tôi nghe, tôi bẻ vài đóa hoa mà thưởng cô giữa đám hoa thơm, chồng mê mẩn thú ái ân, dưới bóng trăng tỏ, vợ nhỏ to lời đạo nghĩa. Gia đình như vậy là gia đình xuất chúng. Cảnh đời như vậy là cảnh đời thần tiên, Tại sao mà ông trời không cho chúng ta lập gia đình ấy, không cho chúng ta hưởng đời ấy? Tức lắm! Tức lắm!

Cô Vân là gái đa tình đa cảm, nghe những lời lãng mạn như vậy thì cô dằn lòng không được, nên cô kêu lớn:

- Anh Thuần, nín đi đừng có nói nữa!

Thuần ngó sững cô rồi biển tình lai láng trong lòng, không còn kể phải quấy gì nữa, nên vội vã bước lại đứng một bên cô mà nói:

- Tức quá, không thể nín được! Ðã không được làm vợ chồng với nhau bây giờ nói chuyện cho hả hơi cũng không được phép hay sao?

Cô Vân xúc cảm quá nên không nói được nữa, cô ngồi ngoẻo đầu nhắm mắt mà giọt lệ chan hòa.

Thuần cũng vừa khoan khoái, vừa cảm động, vừa dan díu, vừa mê mẩn, nên đứng im lìm, không nói một tiếng nào nữa hết.

Cách một hồi lâu, cô Vân mở mắt ra, chợt thấy cái khuôn hình gia đình của Thuần treo trên vách, thấy hình cô Hòa ngồi ôm con trong lòng mà cặp mắt ngó cô trân trân, thì cô vừa kinh khủng, vừa hổ thẹn, tái mặt run tay, cô lật đật xô Thuần dang ra xa, rồi chỉ khuôn hình vừa khóc vừa nói:

- Chết, chết, còn gì, anh Thuần!... chị Hòa ngồi ngó chúng ta kia kìa...! Nhơ nhuốc lắm, xấu hổ lắm!

Thuần cũng ngước mặt nhìn khuôn hình, thấy cảnh gia đình của mình sum vầy, thì bủn rủn tay chân, rối loạn tâm thần, nên đứng chần ngần như người mất trí. Cô Vân đứng dậy bước lại bàn viết rồi lấy khăn lau nước mắt và nói:

- Chúng ta đã quấy nhiều lắm rồi. Anh nên lên trên lầu mà nghỉ đi... Sáng mai em về liền, không thể ở nữa được... Chúng ta phải xa nhau; từ rày chúng ta phải tránh nhau, nếu còn gần nhau nữa sợ chẳng khỏi mang tai hoạ.

Thuần chau mày suy nghĩ, mà hai hàng nước mắt nhễu ròng ròng, chắc là trong lòng tức giận mà lại đau đớn lắm. Suy nghĩ một hồi lâu rồi Thuần day lại mà nói quả quyết:

- Xưa rày tôi tưởng một mình tôi cảm mến tánh tình tâm chí cô mà thôi, chớ tôi không dè cô cũng cảm như tôi vậy. Hôm nay chúng ta biết được tình của nhau rồi, thế thì chúng ta phải nuôi mối thâm tình ấy, dại gì phải trốn lánh mùi tri kỷ tri âm, đặng mang mãi nỗi sầu nỗi thảm.

- Anh Thuần, đừng nói quấy nữa, anh quên gia đình, anh quên hai đứa con của anh hay sao?

- Gia đình!... Con!... Tôi muốn bỏ hết cảnh đời cũ mà lập cảnh đời mới cho thích hợp với tâm hồn của tôi, đặng tôi hết cực lòng nhọc trí nữa.

- Anh điên rồi hay sao? Hai đứa nhỏ là máu thịt của anh. Chị Hòa là người anh hứa hẹn trăm năm. Anh không được phép khinh rẻ. Em không cho anh phạm điều bất nghĩa ấy. Em khuyên anh có can đảm mà đoạn tình với em đi. Ðạo nghĩa và phong hoá đều buộc anh phải làm như vậy. Cử chỉ của chúng ta hồi nãy đã trái đạo nghĩa, đã phạm luân lý nhiều lắm rồi. Ðối với chị Hòa em đã hổ thầm không biết chừng nào. Từ rày em hết dám ngó ngay chị nữa. Nếu anh có chút cảm tình với em, thì xin ráng giữ cho cái tình ấy cao thượng, xin anh tránh để cho danh dự của em vẹn toàn, đừng cho thấp hèn, đừng làm danh dự của em lem luốc. Chúng ta phải quyết định đoạn tình của chúng ta liền bây giờ, đoạn tình đặng làm vững gia đình của anh, đoạn tình đặng bảo hộ danh dự của em. Nếu chúng ta dục dặc không đành xa nhau, thì anh sẽ lỗi đạo vợ chồng, em sẽ phụ nghĩa chị em: mà rồi còn gây tại hoạ khác nữa, là gia đình anh nát tan danh giá em nghiêng ngả. Vì em thương anh lắm, nên em mới khuyên anh như vậy. Nếu anh thương em, thì anh phải nghe lời em.

Thuần đứng trầm ngâm một chút rồi gục gặt đầu mà đáp:

- Tôi rất cám ơn cô về mấy lời chánh đáng cô mới nói đó. Thế tôi điên, điên vì tình, nên tôi không kể phải quấy chi hết. Cô nói phải, chúng ta không nên gần nhau, gần nhau ắt chẳng khỏi tai hoạ. Xưa rày tôi lo sợ hết sức, mà lo sợ rồi cũng không khỏi. Hồi nãy vì dằn lòng không đậu nên tôi bày tỏ niềm riêng của tôi, rồi làm cho cô cảm động mà phải hổ thầm, hổ với tình nghĩa chị em mà cũng hổ với danh dự nhi nữ. Tôi xin cô tha lỗi cho tôi... Thiệt, tôi không được phép đánh đổ danh dự cao thượng của cô. Vậy tôi vâng lời mà đoạn tình, đoạn liền bây giờ... Nhưng mà... trước khi từ biệt nhau, tôi xin tỏ thiệt cùng cô, vì gia đình, vì danh dự nên tôi phải đoạn tình tri kỷ; song tôi sẽ ôm chặt khối tình ấy trong lòng tôi cho tới giờ tôi thở hơi cuối cùng, tôi cũng ôm theo xuống cửu tuyền, không ai làm sao mà gỡ ra được.

Nghe những lời đa tình đau đớn ấy, cô Vân cảm xúc hết sức, nên cô chảy nước mắt mà đáp nho nhỏ.

- Em cũng vậy.

Thuần ngó ngay cô mà nói: "Cám ơn". Nói có hai tiếng ấy, rồi Thuần cúi đầu xây lưng thủng thẳng bước ra khỏi phòng mà đi lại thang lầu.

Cô Vân ngó theo, mừng vì giữ vẹn danh dự, mà đau vì đoạn mối chung tình, bởi vậy cô ngao ngán trong lòng, rồi tuôn rơi giọt lụy.

Sáng bữa sau. Cô Vân thức dậy thì Thuần đã đi ra ngoài hãng bao giờ rồi cô không hay. Cô thấy bé Hậu xẩn bẩn một bên thì cô ôm nó mà hôn, mà vì hôn nầy là hôn từ biệt, nên cô ứa nước mắt.

Cô thâu xếp y phục bỏ vào va ly, ăn lót lòng rồi cô dặn thiếm xẩm ở nhà coi em, cô mới kêu sớp phơ biểu đem xe đưa cô ra Việt Nam Y Viện.

Vì hổ thầm nên vừa bước vô thềm thì cô liền nói với cô Hòa rằng cô mới tiếp được thơ ở dưới nhà cho hay bà già cô có bịnh và biểu cô phải về liền, nên cô ra từ giã cô Hòa đặng đi xe lửa về. Cái tin quan hệ ấy là một cớ làm cho cô Hòa hết dám cầm ở được, bởi vậy cô Hòa nhắn lời thăm, song buộc cô Vân phải để xe hơi đưa cô về Kỳ Sơn cho mau, chớ không chịu cho cô đi xe lửa.

Cô Vân nhận lời rồi từ giã mà đi. Song ra tới cửa phòng cô lại dụ dự một chút rồi trở vô nói với cô Hòa.

- Tôi về sợ bận việc nhà rồi lên nữa không được. Vậy tôi chúc chị với hai cháu ở trên nầy mạnh giỏi. Tôi khuyên chị phải ráng lấy tính hòa nhã mà đối đãi với anh Thuần, chẳng nên ghen tuông phiền trách mà làm cho ảnh buồn. Ảnh là người đứng đắn, chẳng trọng chi hơn gia đình, chẳng thương ai hơn vợ con. Chị đừng nghi kỵ nữa.

Cô Hòa gật đầu mà cười, làm cho cô Vân hổ thầm, nên lật đật ra đi, không kịp hôn em Hảo nằm loi nhoi trong nôi.

[1] hăm hở, sốt sắng

[2] trần nhà

Ðoạn tình

Chương 11

Ngày lụn tháng qua, trót hơn một năm rồi cô Vân không dám lên Sài Gòn, vì sợ gặp mặt cô Hòa thì phải thẹn lòng hổ mặt, nhứt là sợ gặp Thuần, rồi Thuần khêu gợi lửa tình phừng lên lần nữa, mà sanh chuyện lôi thôi. Cô cứ xẩn bẩn ở nhà, hằng ngày chăm lo thờ mẹ đặng phôi pha cái vết thương tâm, canh khuya cô buồn thì mượn thú cầm thi mà nâng cao tình tứ.

Tuy những lời than thở của Thuần hôm nọ nó còn văng vẳng bên tai cô hoài, tuy cái cảnh dan díu với Thuần vẫn cũng còn phảng phất trong trí cô hoài, nhưng từ ngày đoạn tình đặng cách biệt nhau, Thuần đã không gởi thơ lại cũng không làm cách gì để tỏ ý thấy mặt cô nữa.

Hôm tháng trước, nhân dịp ăn thôi nôi cho bé Hảo, cô Hòa có gởi thơ mời và trong thơ có trách cô Vân về sự lạt lẽo tình chị em, không chịu lên chơi nữa. Cô Vân hồi âm, trong thơ cô mượn cớ bận việc nhà nên không thể đi được.

Ðoạn tình đặng chống vững gia đình cho Thuần là người yêu, đoạn tình đặng giữ vẹn danh dự cho mình là gái có học thức. Nhớ tới hai ý nghĩa cao thượng ấy, thì cô Vân thường đắc chí thoả lòng, mừng thầm đã tránh khỏi nhuốc nhơ, mà lại còn làm được một việc đại nghĩa. Bây giờ tâm hồn cô Vân an ổn bình tĩnh, tâm hồn ấy phát ra làm cho giọng đờn của cô trong veo, làm cho câu văn của cô thanh nhã.

Một buổi chiều cô thấy trời trong gió mát, cô mới bước ra hàng ba[1] rồi nằm trên ghế xích đu dựa cửa nhà ngó ra sân. Chim bay về ổ kêu nhau chéo chét; gió thổi đầu nhành lay lá phất phơ. Mặt trời chen lặn nhuộm mấy cụm cây ở hướng tây ra màu hồng hồng, ao sen nước đầy, đưa những đoá hoa lên trên cao nên coi lố xố.

Cô Vân nằm ngắm cảnh rồi động tình. Cô vô trong nhà lấy cây đờn kìm ôm ra, rồi nằm mà đờn khúc "Ðoạn tình", là khúc cô đặt ra trong đêm trước. Cô vừa đờn vừa ngâm nho nhỏ như cô không muốn cho người khác nghe. Khúc đoạn tình cô ngâm như vầy:

Biển ái vừa xao động,

Giựt mình em đoạn tình,

Kiếp trần dầu giấc mộng,

Em khỏi thẹn gương trinh.

Biển ái vừa xao động,

Dằn lòng anh đoạn tình,

Dần dần im lượn sóng,

Anh chống vững gia đình.

Gia đình, danh dự đều tròn,

Tâm hồn thơ thái, nước non rõ ràng,

Tiếng ngâm với giọng đờn to nhỏ,

Xét lòng em rất vui lòng.

Cô Vân ngâm vừa tới đó, thì có người trạm làng thường bữa đi phát thơ, bước lên thềm mà trao cho cô một tờ nhựt báo với một phong thơ lớn và nặng. Cô tỏ lời cám ơn, miệng chúm chím cười rất hữu duyên.

Người trạm xây lưng trở xuống sân, vừa đi vừa nói:

- Bữa nay ai gởi thơ cho cô mà dán cò nhiều dữ.

- Thơ nặng nên phải dán cò nhiều chớ sao.

Người trạm nói tự nhiên, chớ không có ý muốn biết thơ của ai làm chi. Cô Vân cũng đáp tự nhiên, cô chưa hiểu thơ của ai, và thơ nói chuyện gì mà viết nhiều, nên nặng quá lệ thường như vậy. Người trạm đi rồi, cô liền dựng cây đờn dựa cánh cửa rồi cầm bao thơ mà coi. Cô thấy tuồng chữ đề bao, lại thấy con dấu đóng trên cò là con dấu của nhà thơ Sài Gòn, thì cô nghiêm sắc mặt, nghi trong lòng, nên thủng thẳng mở bao thơ rất kỹ lưỡng.

Trong bao có một bức thơ viết dày hai trương giấy với một tập giấy nhỏ đóng bìa đẹp đẽ bằng giấy màu khói nhang. Lúc ấy trời đã chạng vạng tối, nhưng mà cô xem bức thơ thì thấy rõ ràng chữ Thuần viết và ký tên, còn tập giấy nhỏ thì ngoài bìa đề bốn chữ "Ðoạn tình nhựt ký".

Cô chau mày ngẫm nghĩ. Có lẽ cô nghi bức thơ và tập nhựt ký nầy có chứa nhiều câu chuyện làm mất sự an ổn bình tĩnh của cô hay sao, nên cô suy nghĩ rồi xếp mà đút hết vô bao lại, cô không chịu đọc. Cô để bao ấy trong lòng rồi cô với lấy cây đờn mà đờn nữa, đờn đặng quên bớt lo lắng.

Trời tối, trong nhà đốt đèn đã lâu rồi mà cô cứ nằm hoài. Bà chủ Hào, là mẹ cô Vân, bước ra hỏi:

- Bửa nay trạm đã phát nhựt trình rồi hay chưa? Sao con không đọc cho má nghe?

Chừng ấy cô Vân mới chịu thôi đờn và lấy cái bao thơ với tờ nhựt trình mà đi vô nhà.

Dựa cửa sổ bên tay trái có lót một bộ ván cẩm lai[2], trước bộ ván có cái ghế ghi[3] để trầu nước cho bà chủ dùng. Ban ngày bà chủ thường ngồi tại đó; ban đêm bà chủ cũng nằm tại đó mà nghe con đọc nhựt trình hay là đọc truyện.

Cô Vân đi thẳng vào phòng riêng của cô mà để cái bao thơ trên bàn viết rồi cầm tờ nhựt báo trở ra. Thấy mẹ nằm sẵn trên bộ ván cẩm lai, lại cũng có sẵn cái đèn trên ghế nghi, cô mới đi lại đó ngồi đọc nhựt trình cho mẹ nghe.

Bà chủ chưa được 50 tuổi, sức còn khoẻ mạnh, tóc còn đen huyền. Bà nằm nghe con đọc, mắt ngó con mặt vui vẻ ôn hòa, bộ không lo buồn về việc gì hết.

Cô Vân đọc hết mục thời sự rồi qua tiểu thuyết. Bà chủ thấy con đọc mà trí dường như lo ra, bà tưởng con mệt, nên biểu thôi, để sáng mai sẽ đọc tiếp. Bà uống nước rồi bà đi vô phòng mà nghỉ. Cô Vân kêu người ở đóng cửa rồi cô bưng cái đèn đem vô phòng riêng của cô mà để trên bàn viết. Thấy phong thơ cô cầm lên đưa gần đèn mà xem ngoài bao thơ nữa. Xem bao mà cô không chịu mở ra mà đọc thơ, cô bỏ lại trên bàn, vặn đèn lu lu, rồi qua giường nằm, gác tay qua trán, cặp mắt lim dim.

Bây giờ trong nhà vắng teo. Chỉ ngoài đường có tiếng dế gáy réo rắt, và đàng xóm có tiếng chó sủa xa xa mà thôi. Cô Vân trong trí bứt rứt khó chịu, bởi vậy cô nằm một hồi rồi cô vụt đứng dậy đi lại bàn viết ngồi vặn đèn sáng loà và mạnh dạn rút bứt thơ và tập nhựt ký trong bao kính thơ ra.

Cô xem bước thơ trước, thơ viết như vầy:

Cô Vân ôi!

Bức thơ nầy tới tay cô thì tôi xa cách quê hương đã ngàn dặm rồi, dầu cô có tội nghiệp cho gia đình của tôi, hay là cô có lo sợ về bước phiêu lưu của tôi, cô cũng không biết làm sao mà cản đường tôi được.

Tại sao mà tôi phải bỏ vợ con lìa xứ sở?

Tâm sự của tôi dài lắm, khó viết ra cho hết được.

Từ ngày đôi ta quyết định phải phân ly đặng bảo toàn danh dự, chống vững

gia đình, thì tôi liền mở một tập "Ðoạn tình nhựt ký" để ghi chép niềm riêng của tôi, khi nào trong lòng tôi cảm xúc. Nay tôi gởi tập ấy lại đây cho cô. Cô xem rồi thì cô sẽ thấu hiểu tâm hồn của tôi trong khoảng một năm nay, mà cô cũng sẽ rõ biết tại cớ nào tôi đoạn tình đoạn nghĩa.

Cô Vân ôi, đêm nọ cô vừa lăm le hạnh phúc cho tôi thấy rồi cô liền lấy lại mà khuyên tôi hai điều: 1. Phải trọng danh dự. 2. Phải yêu gia đình. Tuy tôi đau đớn lung lắm, nhưng vì tôi trọng cô, tôi yêu cô quá nên tôi phải ép lòng mà vâng lời cô liền.

Danh dự thì tôi đã lo tròn, giữ cho cô, mà cũng giữ cho tôi nữa.

Còn gia đình.... Là cái gốc của xã hội, là mục đích của luân lý, là cái tôi kính trọng từ lúc còn thơ ngây mà cũng là cái tôi đã phí nhiều công phu mới gây dựng ra được, có lẽ nào tôi lại đành xô cho nó sập ngã. Ngặt vì cảnh gia đình của tôi nó nghịch tình nghịch ý thái quá, tôi ráng đã hết sức rồi, không còn thể giữ gìn cho vững chắc nữa được, bởi vậy tôi phải chịu thất ước với cô. Tôi xin cô tha lỗi cho tôi. Tôi đã xét kỹ rồi, tôi không làm theo lời cô khuyên được, chẳng phải là lỗi tại nơi tôi, mà chính là tại người bạn nội trợ của tôi, thiếu gia đình giáo dục, không biết đạo làm vợ, nên đã không làm cho tôi hưởng hạnh phúc mà, lại còn làm cho tôi phải chịu phiền não đêm ngày.

Ðêm đôi ta đàm luận với nhau ngoài mé biển, cô đã công nhận phụ nữ của nước ta phần nhiều thiếu gia đình giáo dục, rồi cô tỏ ý muốn lập nhà trường chuyên dạy về khoa ấy, dạy cho nhi nữ Việt Nam biết đạo làm vợ, biết đạo làm mẹ, đặng chừng xuất giá thì có đủ tài đủ đức mà xây dựng nền hạnh phúc cho gia đình, làm cho gia đình vững bền, vui vẻ. Tôi ước trông cô đừng đổi cái hảo ý ấy, cô ráng thực hiện các lý tưởng mà cô đã bày tỏ với tôi năm ngoái, được như vậy thì sau nầy gia đình nhờ lắm, xã hội nhờ nhiều.

Thôi, tôi viết mấy hàng nầy để lại cho cô, gọi là lễ từ biệt nhau, từ biệt mà trong trí tôi chẳng bao giờ quên hình dạng cô, chẳng bao giờ hết kính mến cô, là bạn tri âm tri kỷ trăm năm của tôi.

Thuần kính thơ.

Ban đêm trời mát, nhưng mà cô Vân đọc thơ rồi thì cô toát mồ hôi.

Gia đình của anh Thuần đã tan nát rồi! Anh Thuần đi đâu? Chị Hòa liệu thế nào? Hai đứa nhỏ ra làm sao? Ấy là mấy câu cô Vân tự hỏi thầm trong trí, hỏi mà không đáp ứng[4], chỉ nhìn ngọn đèn, nước mắt chảy ròng ròng.

Theo lời nói trong thơ, thì tại vợ chồng không đồng tâm hiệp ý, nên gia đình mới tan rã. Nhưng mà vợ chồng ở với nhau đã năm, sáu năm, đã có hai mặt con, vì cớ gì anh Thuần đành đoạn tình chồng vợ, đành dứt nghĩa cha con như vậy? Cô Vân suy nghĩ rồi muốn biết cái duyên cớ ấy nên cô lau nước mắt và dở tập "Ðoạn tình nhựt ký" của Thuần ra mà đọc:

Ðoạn Tình Nhựt Ký

10. Mars- Mấy bữa trước lượn sóng tình dồn dập ầm ầm, nung nấu trong tâm can tôi, nó làm cho tôi nằm hay ngồi cũng cứ bâng khuâng tư lự, khó chịu hết sức.

Ðêm hôm qua, chịu không được nữa, tôi mới mổ phứt nhọt[5] kín ấy cho rồi. May quá! Nhờ cô Vân có diệu thuật, cô sẵn có thuốc để trị bịnh tình của tôi, cô liền đâm nhỏ hai hoàn linh dược mà rắc vào cái vết thương tâm của tôi. Hai hoàn linh dược ấy cô đặt hiệu một hoàn là "gia đình", một hoàn là "danh dự".

Thuốc thiệt là hay! thuốc rắc rối, tuy vết thương tâm chưa lành liền được, song sự đau đớn đã tiêu hết. Bữa nay lòng tôi an tĩnh, trí tôi thơ thái vô cùng, ngó vợ biết vui nhìn con biết cảm.

Gia đình!... Danh dự!...

Sống trong cái đời thiên hạ đều trọng kim tiền hơn luân lý, đều ham sự vui sướng hơn mùi đạo đức. Sống trong cái buổi thiên hạ đều lo tranh đấu mà đoạt cho được kim tiền, để mua sự vui sướng, giày đạp hết thảy đạo đức luân lý dưới chân. Thấy đời như vậy, tôi chán ngán quá, tính kiếm chỗ mà trốn, đặng khỏi nghe những việc trái tai khỏi gặp những điều gai mắt. Tôi suy nghĩ kỹ lưỡng rồi, tôi nhứt định gây dựng gia đình để vui với vợ con mà dẹp mối buồn riêng. Lập cuộc thương mại để hội trí đặng hết nhớ các việc nào khác.

Ái tình quý báu gì, hay ho gì mà say mê, để nó dắt đường cho mình đi, rồi nó làm mình gần phải sa ngả!

Tiết trinh với trung tính là hai đức lớn của đàn bà con gái. Phụ nữ mà thiếu hai đức ấy thì chẳng có giá trị gì hết. Cô Vân biết giữ tiết trinh của cô, biết giữ trung tín với bạn, rõ ràng cô là gái cao thượng.

Hôm qua cô lấy lời chánh đáng mà khuyên tôi. Tôi chịu nghe theo, thiệt là may lắm. Nếu tôi để ái tình bừng lên; nó chà đạp đạo nghĩa, thì thấp hèn hơn cô Vân nhiều lắm vậy.

Tôi rất cám ơn cô Vân vạch dùm con mắt cho tôi thấy đường phải mà đi. Mà tôi cũng mừng cho tôi biết dừng trước, khỏi lạc vào nẻo quấy.

Từ rày tôi chẳng dám quên cô Vân, tôi phải nhớ cô luôn luôn, nhớ đặng kính đức của cô, nhớ đặng vững chí của tôi.

15 Avril- Hồi chiều tôi ngồi dưới bóng cây xoài lớn mà ngắm xem kỳ hoa đua nở trong vườn. Ngọn gió hiu hiu, mùi hoa ngào ngạt, làm cho tôi cảm xúc. Tôi nhớ hồi năm ngoái, cũng một buổi chiều như vậy, tôi ngồi nói chuyện với cô Vân tại vườn hoa nầy. Những lời cô khuyên tôi phải đổi tánh ý đặng vợ chồng hòa thuận, vẫn còn văng vẳng bên tai tôi. Giọng cô nói nó thanh cao làm sao, dáng cô ngồi nó đẹp đẽ biết chừng nào, bây giờ tôi tưởng tượng lại mà trong lòng tôi vui vẻ vô cùng.

Tôi đương sung sướng cảnh hoa thơm gió mát, tôi đương suy niệm câu ý vị cao thâm, rồi tâm hồn tôi mê mẩn dường như thoát khỏi cõi trần. Vợ tôi ở trong nhà đi ra hồi nào tôi cũng không hay, thình lình kêu tôi mà nói lớn: „Mình! Cơm dọn rồi nãy giờ, sao không chịu vô mà ăn, để nguội lạnh hết„. Mấy lời ấy làm tôi giựt mình, rồi giấc mộng khoái lạc của tôi vỡ tan... Cô Vân biến mất... Uổng hết sức!

2. Mai.- Bữa nay chúa nhựt, tôi ở nhà.

Trí rảnh rang, rồi sinh buồn bực khó chịu quá.

Hồi chiều tôi ra hoa viên xách nước tưới cây chơi, đặng giải muộn. Vợ tôi ngồi trên thềm cửa, tay bồng bé Hảo mà nựng nịu, lại có bé Hậu ôm bắp vế đứng một bên, mẹ hôn con, con cười ngả ngớn, cảnh xem phải cảm xúc.

Tôi đứng ngó vào cảnh mẹ con dan díu ấy, tự nhiên tôi bồi hồi trong lòng. Tôi muốn chung hưởng chút đỉnh cái mùi gia đình, thân ái, nên thủng thẳng tôi đi vô, rồi tay tôi vịn vai vợ tôi, miệng tôi chúm chím cười, tôi cúi xuống mà hôn bé Hảo.

Vợ tôi chau mày không vui, rồi lại lấy tay mà xô cái đầu tôi dang ra và nói: „Ê! Làm giống gì vậy nào! Hôn con nhỏ sổ gò mà cho mà coi. „

Mấy lời ấy làm cho sự vui của tôi hoá ra buồn liền, chẳng khác nào thùng nước đổ vào ngọn lửa mới phát cháy. May lúc ấy nhờ có bé Hậu chạy lại ôm cánh tay tôi mà nói: "Ba hôn con nữa chớ". Tôi lật đật bồng bé Hậu mà hôn trơ trất, mượn tình cha con nồng nàn để thế cho tình vợ chồng lợt lạt.

Tại sao vợ tôi không muốn cho tôi hưởng chút mùi hạnh phúc trong gia đình?

Tôi phải tìm hạnh phúc khác mà hưởng hay sao?

Ngồi nhựt ký việc nầy, tôi ứa nước mắt?

Mạng số gì mà muốn vui vẻ lại không thể vui vẻ được.

5. Juin.- Ðêm nay trời mưa rỉ rả từ hồi mới đỏ đèn. Tôi ngồi trong thơ phòng mà xem xét lại mấy cuốn sổ thâu xuất của hãng tôi đã đem về hồi tối. Tôi đương chăm chỉ dò mấy hàng số. Vợ tôi bước vô. Tôi hay, nhưng vì trí mắc chăm lo công việc tôi đương làm, nên tôi không lưu tâm đến. Vợ tôi đi lại cái ghế xích đu mà nằm.

Thình lình vợ tôi hỏi: „Mấy tháng nay chị Vân không đến nhà mình nữa, tại sao, mình?" Tôi chưng hửng, ngước mặt lên mà đáp: „Sao mình lại hỏi tôi?"

„Tôi chắc mình hiểu, nên tôi mới hỏi chớ sao? „. „Làm sao mà tôi hiểu được. „

„ Thiệt mình không hiểu hay sao? „ „... Không"

Vợ tôi đứng dậy ngó tôi, thấy tôi cứ xem xét sổ sách, thì bỏ đi ra, mà sắc mặt đầm đầm. Tại sao vợ tôi lại hỏi tôi về sự cô Vân mấy tháng nay không đến nhà? Vợ tôi ghen với cô Vân hay sao? Nếu ghen thì tại sao trong ba tháng nay không nói động đến cô Vân, đợi tới bây giờ mới hở môi? Mấy đứa ở trong nhà kẻ vạch hay sao? Hay là hồi sớm mai chị Quý ra thăm rồi đặt điều sao đó?

Juin.- Ba bữa rày trí tôi không an... Nếu vợ tôi ghen cô Vân, thì nhục cho thái độ cao thượng của cô lắm.

Cô Vân đã khổ tâm lo chống vững gia đình cho tôi. Nếu cô không được thưởng công, mà lại còn phải mang tiếng xấu, thì tội nghiệp cho cô, mà cũng hổ cho tôi lắm.

Không được. Tôi không cho ai được phép nói nhục cô Vân, là người tôi trọng, mà ai cũng phải kính.

9 Juin.- Không thể ôm ấp cái điều nghi hoặc trong lòng được nữa, nên tối nay tôi thấy vợ tôi nằm một mình trong phòng khách đàn bà, tôi bèn hỏi: „ Tại sao cô Vân không lên chơi nữa, mà bữa hổm mình lại hỏi tôi?" Vợ tôi ngồi dậy, rồi cười lạt mà đáp: „Tôi hỏi mình là vì tôi nghi hôm tôi sanh, chị Vân lên chơi với tôi, mình chọc ghẹo chị, làm cho chị phiền nên chị không lên nữa chớ gì. Phải vậy hay không?" „Mình coi giá trị của tôi rẻ quá." „Thứ đàn ông thấy đàn bà con gái cũng như bươm bướm thấy ngọn đèn, cứ bu vô, kể gì là phải quấy." „Té ra mình sắp tôi theo hạng hạ lưu kia, thấy ai cũng ve hết thảy hả?" „Hạ lưu hay là thượng lưu cũng vậy." „Cha chả! Bây giờ mình nghĩ tôi kết tình với cô Vân nữa à?" „Không. Mình làm sao kết tình với chị Vân được mà tôi nghi. Tôi làm chị em với chỉ thuở nay, tôi biết rõ tánh chỉ, nên tôi tin chỉ lắm, tôi có nghi bậy như vậy đâu. Tôi nghi là nghi mình trổ tài dê với chỉ, mình làm cho chỉ buồn nên chỉ không thèm tới nhà ta nữa chớ." „Nhục tôi quá" „Nhục chỗ nào?... Tôi hỏi mình, vậy chớ mình có bụng muốn chị Vân hay không mình nói thiệt đi. „

Vợ tôi hỏi câu đó mà chong mắt ngó tôi lườm lườm.

Tôi bối rối hết sức, không biết phải trả lời thế nào. Nếu tôi chối, thì tôi là người chồng giả dối. Nếu tôi chịu thiệt tôi yêu cô Vân thì niềm vợ chồng sẽ ra làm sao?

Tôi chau mày lưỡng lự. Vợ tôi hối thúc: „Tôi mới hỏi mình có bụng muốn chị Vân hay không? Trả lời đi. „ Tôi nghiêm sắc mặt mà đáp: „Không phải tôi muốn cô Vân. Vì tôi là người có giáo dục hoàn toàn, cô đồng tâm hiệp ý với tôi, nên tôi yêu cô, yêu mà tôi kính, chớ không phải tôi muốn." Vợ tôi nói: „Hừ! Thứ đàn ông thúi, thấy ai cũng muốn hết. Muốn tới chị Vân, đố khỏi bị chị mắng mà mang xấu." Tôi rùn vai rồi bỏ đi qua thơ phòng.

Yến tước khởi tri hồng hộc chí![6]

18 Aout.- Trót hai tháng nay, tuy vợ tôi không nhắc tới cô Vân nữa. Song cứ ghen gió ghen mây, theo kiếm chuyện gây gổ với tôi hoài, gây chuyện quá vãng[7] rồi gây hờ chuyện tương lai, làm cho gia đình buồn tanh, buồn đến nỗi tôi thất chí, hết muốn lo việc thương mại nữa.

Cảnh đời như vậy có thú vị gì đâu mà quyến luyến.

Hôm nay sao trong trí tôi nẩy ra cái ý muốn hoặc chết phứt cho rồi đặng thoát khỏi cái vòng khổ não về tâm hồn, hoặc cạo đầu đi tu đặng xa các thói đê tiện ở trần tục. Tôi nghĩ như vậy mà tôi thấy hai đứa con của tôi còn ngây thơ, thì tội nghiệp cho chúng nó quá, nên tôi không đành chết, mà cũng không nỡ đi tu.

Tôi buồn quá cô Vân ôi! Cái đời của tôi thuở nay tôi hưởng hạnh phúc có một vài phút đồng hồ mà thôi, là lúc đôi ta phát biểu ái tình cùng nhau đêm nọ trong thơ phòng đó. Hưởng hạnh phúc được bao nhiêu đó, nghĩ thiệt là ít lắm.

Cô Vân ôi, tôi khổ tâm lắm, cô có biết giùm cho hay không?... Vì gia đình, vì danh dự mà tôi phải chịu đau đớn buồn thảm như vầy... Cái giá của thái độ thanh cao thiệt là mắc, muốn mua cho được nó, phải tốn không biết bao nhiêu nước mắt, phải mất không biết bao nhiêu giấc ngũ.

Tôi buồn rầu, chớ chi có người tri kỷ ở gần mà khuyên giải, có lẽ khuây lãng được. Ngặt vì người tri kỷ của tôi, tôi không gần được... Mà thiệt không nên gần, bởi vì hễ gần nhau thì chắc phải mang tiếng nhơ, không làm sao tránh khỏi. Khổ lắm!

15 Octobre- Vợ tôi cũng vẫn giữ thói ghen hoài. Khờ khạo quá! Ðàn bà nếu muốn cho chồng thương trọn một mình, đừng thương người nào khác nữa, thì phải gia tâm làm thế nào cho chồng vui với mình. Không thể nhớ ai khác; chớ ghen làm chi, ghen rồi nói bậy làm cho chồng buồn, khiến trí nó tưởng tới người khác, làm sao hiểu thấu.

Vợ tôi càng ghen bao nhiêu, thì tôi càng yêu cô Vân bấy nhiêu. Vợ tôi có biết được cái tâm hồn của tôi như vậy đâu. Mà có lẽ cô Vân cũng không biết.

Cô Vân biết hay là không biết cũng không quan hệ gì. Tôi yêu cô, tôi biết thì đủ rồi, vì yêu cô đặng bớt sự buồn về gia đình, yêu nhau mà chẳng làm lụy nhau, thì không phạm danh phạm nghĩa chi đó mà sợ.

Không được yêu về phần xác, thì yêu về phần trí, ai ngăn cản tôi được, ai biết được mà chê cười.

8 Décembre.- Hồi trưa, có một người bạn học ghé thăm tôi. Người ấy thuật cho tôi nghe một chuyện hết sức lạ. Hai nhà trí trức thân thích với nhau lắm, thường tới lui chơi với nhau, nhiều khi người nầy dắt vợ người kia đi xem hát, hoặc người kia đi hóng gió với vợ người nầy. Cách cư xử như vậy đã không hợp luân lý rồi, mà hai nhà trí thức ấy gần gũi nhau, thì lấy vợ nhau còn luân lý gì nữa mà nói!

Người ta có một đời, mỗi ngày thêm một văn minh, mà kỳ thiệt mỗi ngày một thoái hoá, trở lại dã man, họ không hay, bởi vì thêm văn minh về hình thức, còn trở lại dã man về phong tục.

Ðời như vậy thì còn gì là danh dự, còn chi là gia đình.

Dư giáo dục trí thức, thiếu giáo dục luân lý, xã hội mới hoá ra như thế.

Chán ngán quá...!

8 Janvier- Có một quyển tiểu thuyết mới xuất bản. Tôi buồn quá nên mua mà đọc chơi đặng giải trí. Trời ơi! Ðọc quyển tiểu thuyết ấy tôi rởn óc từng hồi.

Gớm quá!

Tác giả tả một người trai tân thời. Ðối với cha mẹ thì nói rằng vì cha mẹ ham vui mà sanh mình ra nên chẳng có ơn nghĩa gì; tả một cô gái có chồng rồi bỏ chồng đi theo trai, lại nói rằng trái tim tự do không ai được phép kiềm chế! Khốn nạn cực điểm!

Ðời dường ấy có đáng cho mình quyến luyến hay không?

14 Fevrier- Cô Vân ôi! Theo ái tình của bậc cao thượng thì thương tưởng nhau, yêu mến nhau trong trí cũng đủ chẳng cần phải ở chung nhà tuy vậy mà người cao thượng cũng có máu thịt cũng có ruột gan như hạng bình dân, bởi vậy nhiều khi cũng biết đau đớn về sự thương mà không được gần về sự nhớ, mà không được nói ra.

Vì trọng luân lý mà phải thống khổ như vậy.

Cô thấu hiểu hay không, cô Vân?

25 Mars- Ngày nay tôi thấy rõ gia đình của tôi là cảnh địa ngục. Nếu lân la ở đó hoài, thì khổ thêm hoài. Vậy tôi phải giải thoát cái vòng khốn nạn ấy, dầu ý tôi không muốn và dầu cô Vân không vui.

Giải thoát cách nào?

Trí tôi còn lờ mờ, chưa nhứt định.

5 Avril- Bữa nay tôi quyết định cái đường tương lai của tôi rồi. Tôi sẽ bỏ hết mà bước qua đường ấy. Vì gia đình của tôi buồn bực, nên tôi phải lo làm ăn cho muôn ngàn gia đình khác ngày sau được đầm ấm thuận hòa.

Vì luân lý của xã hội suy bại, nên tôi phải lo làm sao mà thuần mỹ luân lý ấy lại. Việc tôi tính làm đây dầu thành hay là không thành nó cũng làm cho tôi quên được những nỗi buồn vì gia đình vô phước, vì ái tình bất mãn của tôi.

Cô Vân đọc dứt tập "Ðoạn tình nhựt ký" của Thuần rồi thì cô ngẩn ngơ, trong lòng càng cảm động hơn là đọc bức thơ hồi nẫy nữa. Tứ bề vắng vẽ, trước ngọn đèn dầu leo lét, giọt lụy tầm tã tuôn rơi.

Cô Vân áo não là vì biết trọn một năm nay Thuần khổ tâm lung lắm, khổ tâm vì gia đình bất hòa, mà cũng khổ tâm vì ái tình bất mãn. Cô đã lo giữ giùm cho gia đình của cô Hòa được bền vững, té ra chung cuộc rồi cũng phải rã rời. Cô đã giữ danh tiết của cô được vẹn toàn, mà rồi Thuần phải khổ tâm thất chí! Cô tự nhận cô có tội ít nhiều trong sự rời rã gia đạo của bạn, mặc dầu tiết nữ nhi của cô vẫn thanh cao, tình bằng hữu của cô khỏi hổ thẹn.

Anh Thuần đã bỏ nhà cửa vợ con đi rồi! Ði đâu? Anh nói anh đi lo làm cho gia đình tương lại được đầm ấm, và lo làm cho luân lý xã hội được thanh cao. Anh làm cách nào? Trí viễn vọng của anh sẽ làm cho anh được thỏa mãn, hay là sẽ làm cho anh thất chí nữa? Bước phiêu lưu sẽ đưa anh đến cảnh an nhàn, hay là sẽ dắt anh vào nơi khổ não khác?

Còn anh Thuần đi rồi, bây giờ chị Hòa với hai đứa nhỏ ra làm sao? Chị Hòa có buồn rầu chăng? Hai đứa nhỏ nhớ cha hay không? Hãng "Thuần Hòa" ai chỉ huy sản xuất?

Cô Vân áo não về những nỗi ấy, mà cô khóc một hồi rồi cô lại tức giận. Anh Thuần còn thấp trí, còn yếu tánh quá, vì thấp và yếu nên mới để cái tiết nhỏ đè trên tiết lớn được. Gia đình là một cơ quan trọng hệ. Anh biết như vậy, nên anh đã dày công gây dựng gia đình. Mà sao anh lại không biết ngó lơ những cái bất hòa nhỏ nhen trong gia đạo, sao anh lại không biết đàn áp mầm ái tình bất nghĩa trong thâm tâm, mà báo thù gia đình, để thất chí về chỗ bất hòa của vợ và bất mãn về chỗ cao khiết của tình, rồi xô ngã cả gia đình, cả cuộc làm ăn, cả một đời sống chứa chan hứa hẹn.

Dở! Dở lắm!

Cô Vân bứt rứt, không ngồi yên được nữa. Cô đứng dậy mở cửa sổ mà ngó ra vườn. Ngoài vườn im lìm. Cây cỏ sững sờ, dường như lóng nghe tiếng cô Vân thở than, rồi chờ đợi cô xử trí. Cô đứng ngó vào cảnh lờ mờ một hồi rồi cô quyết định phải lên Sài Gòn, lên coi gia đạo của Thuần trở ra thế nào, nhứt là lên đặng an ủi và giúp đỡ cô Hòa, mặc dầu cô không hiểu mà nghĩ cho tình của mình cũng được.

Ðã quyết định rồi, cô Vân mới đóng cửa, bỏ thơ từ của Thuần vào hộc tủ, rồi lên giường mà nằm, nhờ trí ý thanh cao, nên lương tâm an tịnh.

[1] phần trước nhà, dưới mái nhưng không có vách

[2] một loại "bàn" thấp để nằm hoặc ngồi bằng gỗ quí

[3] một loại bàn nhỏ, cao hơn bàn thường, dùng để khai trầu hay món ăn

[4] trả lời

[5] chỗ ung thúi

[6] „những loài yến tước biết đâu chí hồng". Ý nói người có ý chí thấp thỏi không thế hiểu được người có chí cao

[7] quá khứ

Ðoạn tình

Chương 12

Qua bữa sau...

Vì nhà người anh ở dưới chợ Tham Nhiên có đám kỵ cơm, nên sớm mai bà chủ Hảo ngồi xe ngựa xuống đó mà ăn giỗ.

Cô Vân phải ở nhà coi nhà. Cô chưa kịp phân trần việc cô Hòa cho mẹ rõ. Ở nhà một mình cô buồn, nên vô phòng riêng ngồi đọc lại bức thơ của Thuần một lần nữa.

Cách một hồi, cô nghe dường như có tiếng xe hơi ngừng ngoài ngõ, nhưng vì trí cô mắc chăm chỉ về những câu của Thuần viết trong thơ, nên cô làm biếng bước ra coi. Con nhỏ ở bước vào phòng mà nói:

- Thưa cô, có cô ba xuống.

Cô Vân chưng hửng, hỏi gọn gàng:

- Cô ba nào?

- Cô ba ở trên Sài Gòn, năm ngoái có đưa xe hơi cô về dưới nầy đó.

Cô Vân biến sắc, lật đật đứng dậy đi ra ngoài.

Cô Hòa đương bước lên thềm, cặp mắt đỏ hoe, sắc mặt buồn nghiến, mình mặc đồ đen, không son phấn chút nào hết, sau lưng lại có con xẩm dắt bé Hậu và con vú bồng bé Hảo đi theo.

Cô Vân vừa ngó thấy thì la lớn:

- Chị Hòa!...

Cô Hòa vô ngó cô Vân trân trân và nói:

- Tôi tưởng không có chị ở nhà.

- Tôi ở nhà luôn, ít đi đâu lắm.

Cô Vân bước lại hôn bé Hậu vài cái, rồi đưa tay mà bồng bé Hảo và nói:

- Con tôi đã trộng cảy rồi.

Cô Hòa ngồi trên một cái ghế, lấy khăn lau nước mắt và hỏi:

- Bác đi đâu vắng?

- Má tôi đi ăn giỗ dưới chợ Tham Nhiên. Mới đi hồi nãy đây.

- Bác mạnh hả?

- Mạnh, cám ơn chị.

Cô Vân muốn dọ ý cô Hòa, nên làm tuồng như không hay biết việc Thuần. Cô bồng bé Hảo ngồi một bên cô Hòa và hỏi:

- Có chi mà coi bộ chị buồn dữ vậy?

Cô Hòa đáp:

- Nhà tôi bỏ mẹ con tôi mà đi mất rồi.

- Dạ!... anh đi đâu?

- Tôi có biết đi đâu mà nói.

- Tại sao anh bỏ vợ con mà đi? Chị biết không?

- Nói với tôi buồn bực chịu không nổi, nên phải đi. Ðiên lắm! Hôm qua tôi có được thơ gởi về đây. Ðể tôi đưa cho chị xem.

Cô Hòa mở bóp lấy ra một phong thơ mà đưa cho cô Vân.

Cô Vân trao bé Hảo lại cho vú. Rồi đứng dậy mời cô Hòa đi vô phòng riêng của mình mà nói chuyện cho tiện. Vô phòng rồi, cô Vân kéo ghế mời cô Hòa ngồi trước bàn viết. Cô mở bét cửa sổ cho sáng sủa, rồi mới ngồi ngay cô Hòa, mở phong thơ ra đọc.

Mình ơi!

Tôi viết bức thơ nầy mà từ biệt mình và từ biệt hai đứa nhỏ.

Tôi phải đoạn tình vợ chồng, đoạn tình cha con. Tôi phải bỏ cảnh gia đình, bỏ cuộc thương mại, mà đặt chốn phiêu lưu trong thế giới, ấy là vì tôi thống khổ về tâm hồn nhiều quá không thể chịu được nữa, nên tôi mới quyết định phân ly như vậy.

Tôi thống khổ là tại vợ chồng giáo dục bất đồng, tâm tánh bất hiệp, nó làm cho gia đình đã không được vui sướng như cảnh thiên đàng, mà lại còn hoá buồn bực như miền địa ngục.

Có lẽ mình cũng thấy mấy năm nay trong gia đình, tôi muốn vui hết sức mà không bao giờ vui được, tôi cũng hết sức lo làm cho mình vui, mà mình cũng không thể vui. Niềm vợ chồng như vậy thì kéo dài ra nữa không ích gì, thà dứt phứt bây giờ là hay hơn.

Tôi viết thơ nầy trí tôi bình tĩnh, không phiền trách mình chút nào hết. Tôi xin mình cũng đừng phiền trách tôi. Ngày nay vợ chồng ta phải rời rã, lỗi ấy không phải tại mình, mà cũng không phải tại tôi. Tôi thấy rõ rồi, lỗi tại phong hoá của xã hội cứ chăm lo làm con người vui sướng về hình thức, không chịu lo bồi đắp nền luân lý, để cho luân lý suy sụp, rồi lôi kéo luôn gia đình phải ngã theo. Con người nếu không biết tôn trọng gia đình thì có thể nào mà làm cho gia đình vững chắc được.

Trước khi tôi phế gia đình của tôi, để lo đem luân lý tại cho xã hội, thì tôi đã sắp đặt việc nhà rành rẽ rồi hết.

Tôi đã sắm sẵn nhà cửa đẹp đẽ chắc chắn cho mình ở với con.

Tôi đã khai khẩn xong sở ruộng dưới Cái Bè để cho mình thâu huê lợi tuy không nhiều lắm, song cũng đủ cho mình nuôi con ăn học.

Còn hãng "Thuần Hòa" thì cuộc thương mại vẫn tấn phát như thường, mỗi năm dầu thế nào cũng có lời từ năm tới mười ngàn đồng. Tôi có lập tờ tại Nô Te mà giao quyền cho mình làm chủ hãng. Tôi cũng có lập tờ phú quyền Tổng Lý trong hãng cho thầy hai Tịnh, thầy lãnh lương mỗi tháng, mà cuối năm thầy còn được hưởng huê hồng tính 15 phần trăm trong số lời, làm như vậy đặng thầy tận tâm lo cho hãng. Thầy hai Tịnh đã thông thạo mà lại trung tín nữa. Người đó đáng tin cậy. Mình tự do muốn sang hãng cho người khác hay là muốn để làm luôn, có thầy hai Tịnh quản xuất cho cũng được, sự ấy tôi để mình thong thả mà liệu định.

Ra đi tôi lấy đem theo có 20 ngàn đồng bạc mà thôi, còn tôi để hết sự sản lại cho mình, để có trên 100 ngàn. Tôi xin mình ráng giữ gìn sự nghiệp ấy mà nuôi con.

Tôi giao hết hai đứa con cho mình dạy dỗ. Bé Hậu là trai, chừng nó lớn khôn, xin mình ráng ép nó học đặng mở mang trí thức, mà cũng phải học đặng tôn trọng luân lý nữa mới được. Còn bé Hảo là gái, dầu giáo dục trí thức thiếu sót đi nữa cũng chẳng hại gì, chớ giáo dục luân lý cần phải hoàn toàn nhứt là trước khi gả nó lấy chồng, mình phải xem xét lại cho kỹ nếu nó biết đạo làm vợ biết đạo làm mẹ rành rẽ rồi mình sẽ gả.

Tôi còn xin mình hãy nhớ hai điều chót nầy nữa:

1) Ðừng nghi ngại tình của tôi với cô Vân vì tình ấy là tình tri kỷ cao thượng, chớ không phải tình theo sắc dục đê tiện như tình của thiên hạ.

2) Ðừng tập rèn hai đứa con tôi chừng lớn khôn chúng nó oán hận tôi, vì con oán cha là điều đại ác.

Thôi tôi khuyên mình hãy quên tôi đi đừng thèm kể tới thằng chồng vô tình bất nghĩa là tôi nữa.

Thuần kính thơ.

Cô Vân đọc thơ, thấy Thuần tuy không oán hận cô Hòa, song cũng không có tỏ một chút tình nào với cô Hòa hết, thì cô lấy làm tội nghiệp cho duyên phận của bạn, bởi vậy khi đọc dứt rồi, cô ngước lên thấy sắc cô Hòa ảo não, thì cô động lòng, nên cô ứa nước mắt. Cô bước lại nắm cánh tay cô Hòa mà nói:

- Tôi biết được tâm hồn của anh Thuần thì tôi lo sợ cho cuộc trăm năm của chị hết sức, mà lo sợ rồi cũng không cứu chữa được! Tai hoạ đã tới rồi, bây giờ chị tính lẽ nào?

Cô Hòa đứng dậy choàng tay ôm ngang mình cô Vân mà khóc và nói:

- Tôi bây giờ chẳng khác nào như chiếc thuyền linh đinh ngoài khơi, mà lại bị sóng gió dồn dập. Tôi bối rối, không còn trí mà tính việc gì được, lại cũng không biết ai mà cậy tính giùm, bởi vậy tôi xuống đây nhờ chị liệu giùm cho tôi.

Cô Vân thấy bạn còn yêu mến tin tưởng mình, chớ không ló mòi nghi ngờ, thì cô càng thêm cảm xúc, nên cô hỏi:

- Chị không nghi tôi có tư tình với anh Thuần hay sao?

- Trong một năm nay thiệt tôi có lòng nghi chút đỉnh. Hôm qua tôi tiếp được thơ của nhà tôi, ban đầu tôi nghi nhà tôi vì thương chị nên bỏ tôi; tôi chắc đã dắt chị đi rồi, đi ra khỏi xứ đặng lập cảnh đời khác với chị. Tôi xuống đây thiệt có ý muốn dọ coi sự tôi nghi đó có nhằm hay không. Chẳng dè tôi gặp chị ở nhà, tôi rất hổ thầm về sự tôi nghĩ quấy. Xin chị tha lỗi cho tôi.

Cô Vân dang ra, rồi kéo ghế ngồi một bên cô Hòa. Cô ngó ngang qua cửa sổ, thấy ngoài vườn nắng dọi ngọn cây sáng trưng, gió thổi tàu chuối lúc lắc. Cô suy nghĩ một chút, rồi chậm rãi nói với cô Hòa:

- Anh Thuần là người chán đời. Anh có nói với tôi mấy lần, anh lập gia thất là cố ý muốn tìm sự vui với vợ con để giải bớt nỗi buồn vì xã hội. Ảnh lập cuộc thương mại là cố ý muốn đem hết trí não mà chăm lo về sự ấy, đặng khỏi nhớ tới cách cư xử đê tiện của thiên hạ. Ảnh như người có bịnh, nếu chị biết cách điều trị, thì tự nhiên bịnh của ảnh sẽ dứt. Tôi đã cố khuyên chị phải lập thế làm cho ảnh vui lòng luôn luôn: hễ ảnh vui lòng thì gia đạo vững bền, chị khỏi lo điều chi khác. Có lẽ tại chị quên lời tôi dặn chị đã không làm cho ảnh vui, mà chị còn ghen tuông hoài, nên ảnh não nề cuồng trí rồi ảnh bỏ hết mà đi chớ gì.

- Chị nói phải. Tại tôi không nghe lời chị nên gia đạo tôi mới xào xáo như vầy. Chứng bịnh ghen thiệt là khốn nạn. Tôi biết tôi ghen, tôi làm cho nhà tôi buồn bực lung lắm. Tôi muốn bỏ cái thói ấy hết sức, mà không hiểu tại sao tôi bỏ không được, trong trí cứ ghen ngấm ngầm hoài, cứ lo sợ nhà tôi thương người khác mà bỏ mẹ con tôi. Chị nói phải lắm. Tại tôi ghen tôi làm cho nhà tôi bực lòng cuồng trí, nên mới phủi hết mà đi. Tôi khốn nạn lắm. Ðã biết vì thương chồng nên mới ghen. Mà thưong chồng lại làm cho chồng buồn rầu, cách thương như vậy thiệt là dại quá. Chị Vân ôi, bây giờ tôi mới biết tôi có lỗi với nhà tôi nhiều, tôi ăn năn lung lắm. Năm, sáu năm nay nhà tôi làm cực khổ hết sức mới sắm được nhà cửa tử tế, mới có cái hãng phát đạt. Tại tôi mà bây giờ nhà tôi phải bỏ hết, không thèm hưởng, đem thân lưu lạc xứ người, đau ốm không ai nuôi, nghèo nàn không ai giúp. Tôi nhớ tới nỗi ấy, thì tôi muốn chết phứt cho rồi, chớ sống đặng sung sướng tấm thân, còn nhà tôi thì bơ vơ nơi hải ngoại thì sống làm sao được.

- Họa chưa đến thì phải lo ngăn ngừa trước. Mà hễ ngăn ngừa không được, để hoạ đến rồi, thì phải tĩnh trí vững lòng mà đảm đương, chẳng nên não nề thất chí. Thôi, bây giờ chẳng nên buồn rầu làm chi, chị phải ráng bình tâm định trí mà lo quản xuất việc nhà, lo nuôi dưỡng sấp nhỏ. Trong thơ anh Thuần không có nói rõ đi đâu và đi làm việc gì. Vậy mà chị có nghe anh tính đi đâu hay không?

- Trưa hôm qua tôi tiếp được thơ rồi, tôi bủn rủn tay chơn. Tôi chạy ra ngoài hãng mà hỏi thầy hai Tịnh với mấy thầy, thì ai nấy đều chưng hửng không dè chuyện gì hết. Họ nói cách ba ngày trước nhà tôi than mệt, dặn thầy hai Tịnh coi hãng đặng nhà tôi ra Long Hải nghỉ ít bữa. Từ bữa đó nhà tôi không có ra ngoài hãng nữa. Mà trong ba bữa trước nhà tôi cứ ở trong nhà với tôi, chớ không có đi Long Hải. Sớm mai hôm qua mới đi, nói đi ra hãng. Ðến trưa thì tôi được thơ. Tôi không được đi đâu.

- Chị có hỏi thăm coi buổi sớm mai hôm qua có tàu chạy đi Tây hay không?

- Có. Tôi nghe nói hồi 8 giờ sáng hôm qua có hai chiếc tàu đò đi qua Pháp. Tôi qua Xóm Chiếu coi sổ hành khách đi hai tàu đó, thì không có tên nhà tôi, mà tôi hỏi Sở Mật Thám, thì nhà tôi cũng không có xin giấy thông hành.

- Nếu vậy thì anh đi đường bộ, chắc anh ra Hà Nội.

- Hôm qua tôi có cậy một thầy ký trong hãng lấy xe chạy ra Long Hải, Nước Ngọt, Vũng Tàu mà kiếm. Hồi khuya thầy về thầy nói kiếm không có. Tôi cũng có cậy hai thầy khác một thầy đi Ðà Lạt, một thầy đi Hà Nội mà kiếm nữa. Tối nay họ sẽ đi.

- Tôi tưỡng kiếm không ích gì. Anh Thuần đã quyết đi, nên anh sắp đặt công việc nhà rành rẽ hết. Dầu mấy người đi kiếm có gặp anh đi nữa, chắc họ không tài gì mà nói cho anh trở về được.

- Cũng phải kiếm cho biết đi đâu chớ.

Cô Vân suy nghĩ một chút rồi cô chậm rãi nói:

- Dầu không kiếm; rồi đây anh Thuần cũng sẽ về.

- Thơ đã nói quả quyết, lại sự nghiệp đã giao hết cho tôi, bởi vậy tôi sợ không về đâu.

- Sẽ về. Tôi chắc ảnh về, là vì ảnh thương con và yêu gia đình. Lúc cuồng trí, không ai an ủi, nên ảnh làm liều. Rồi đây ảnh nhớ con, ảnh sẽ ăn năn hối hận mà trở về.

- Tôi vái cho lời chị nói đó sẽ có y như vậy. Mà từ hôm qua tôi được thơ rồi thì trong lòng tôi buồn rầu lo sợ quá.

- Anh Thuần là một người có tài nghề, có trí thức, lại có giáo dục hoàn toàn. Tôi chắc dầu đến xứ nào ảnh cũng khỏi vất vả cực khổ, mà dầu làm công việc gì ảnh cũng không chịu để nhục nhã thanh danh. Vậy chị chẳng cần phải lo cho phận ảnh. Mà dầu chị muốn lo, chị cũng có phương thế lo được. Tôi xin chị phải để trí mà lo sắp đặt việc nhà. Những việc ảnh phú thác cho chị đó, chị tính làm thế nào mà tán thành theo ý ảnh muốn? Chị dạy dỗ hai cháu cách nào? Chị để hãng mà cai quản hay là chị phải bán.

- Tôi bây giờ như người không có hồn, tôi không tính việc chi được hết. Tôi xin chị thương tôi chị tính giúp giùm cho tôi. Việc của tôi cũng như việc của chị. Chị liệu coi phải làm thế nào thì tôi sẽ theo ý chị định.

Cô Vân nắm tay cô Hòa và ngó ngay mặt mà hỏi:

- Chị tin bụng tôi lắm sao?

- Nếu tôi không tin chị, thì còn biết tin ai.

- Chị có biết anh Thuần có tình với tôi, mà tình ấy nặng lắm hay không?

- Tôi đã nói tôi nghi.

- Chị phải tin chắc chớ đừng có nghi nữa. Thiệt anh Thuần có tình với tôi nặng lắm. Có tình mà vì ảnh trọng gia đình của ảnh, ảnh trọng danh dự của tôi nên ảnh không gần tôi được. Sự ghen tuông của chị đã làm cho ảnh buồn, mà sự tôi gieo tình còn làm ảnh buồn thêm nữa, nên ảnh chịu không nổi ảnh mới đi đi. Vì chị tin tôi, nên tôi phải tỏ thiệt với chị. Gia đình của chị rời rã, tôi nghĩ lại tôi cũng có tội một phần trong đó.

Cô Hòa chưng hửng, ngồi ngó cô Vân sửng sốt rồi nói:

- Có lẽ nào mà có chuyện kỳ cục như vậy. Chị muốn chọc cho tôi phát điên hay sao chớ.

Cô Vân bước lại kéo hộc tủ bàn viết mà lấy ra bức thơ với tập nhựt ký của Thuần, rồi đưa hết cho cô Hòa và nói.

- Chiều hôm qua tôi cũng có tiếp được thơ của anh từ biệt. Chị coi thì chị sẽ biết tôi nói thiệt hay là phỉnh phờ.

Cô Hòa mở thơ ra ngồi đọc.

Vân lên giường nằm rồi kéo mền đậy mặt mà khóc.

Bé Hậu biểu con xẩm dắt nó ra ngoài vườn hái ổi cho nó ăn, nói cười nói om sòm, không dè cha nó đã cách xa dặm ngàn, mẹ nó đương ưu sầu nát ruột.

Cô Hòa ngồi chăm chỉ đọc rất kỹ lưỡng, đọc bức thơ rồi đọc luôn tập nhựt ký. Chừng đọc dứt rồi cô thấy cô Vân nằm trên giường, cô dở cái mền ra vừa khóc vừa nói:

- Chị Vân, theo thơ với lời nhựt ký của nhà tôi gởi cho chị đó, thì chị có lỗi gì đâu. Chị cao thượng lắm, chị hết lòng chống vững giùm gia đình cho tôi. Tại tôi khờ khạo nên phá hoại; ấy lỗi tại nơi tôi mà thôi, chớ nào phải tại chị. Tôi cám ơn nết tốt của chị, tôi kính phục thái độ của chị lắm. Ðọc tập nhựt ký của nhà tôi rồi, tôi càng thấy lỗi của tôi rõ hơn nữa, tôi càng ăn năn nhiều hơn nữa. Trước kia chị đã thương tôi, thì bây giờ chị còn phải thương tôi nhiều hơn nữa. Ngày nay tôi như người té dưới giếng, lạc trong rừng, xin chị kéo giùm tôi lên, xin chị chỉ đường cho tôi ra. Nếu chị bỏ tôi thì chắc tôi phải chết.

Hai cô nắm tay nhau mà khóc.

Cô Vân nói:

- Nhìn mặt chị tôi hổ thẹn quá...!

- Tại sao vậy?

- Tôi được biết anh Thuần có tình với tôi rồi, thì tôi cũng có tình với ảnh nữa. Tuy tôi đoạn tình được, song tôi cũng có lỗi với chị.

- Có tình mà rồi chị đoạn tình được, thì có lỗi gì đâu mà hổ thẹn. Ðoạn tình tức nhiên đau đớn lắm, mà chị có đủ can đảm làm như vậy, thì chị cao thượng lắm, ít ai sánh kịp.

- Thiệt chị không trách tôi hay sao?

- Chị có lỗi chỗ nào mà tôi trách được. Tôi kính phục chị lắm chớ. Xin chị đừng ái ngại nữa. Chị ngồi đây mà tính giùm coi tôi phải làm sao bây giờ.

Cô Vân ngồi dậy. Hai cô lau nước mắt.

Cô Hòa nói:

- Trong bọn chị em thuở nay, tôi tin bụng chị hơn hết, tin hơn chị hai tôi nữa. Thiệt tôi tin không lầm. Chớ chi tôi được ở gần chị, nhờ chị chỉ bảo hàng ngày thì chắc ngày nay vợ chồng tôi khỏi rời rã như vầy.

- Cái đó không chắc....!

Cô Hòa đương buồn rầu, mà nghe mấy lời nầy thì cô chúm chím cười.

Cô Vân lơ lửng nói tiếp:

- Ở gần nhau hiểm nghèo lắm, bởi vậy tôi sợ, nên hơn một năm nay tôi lánh mặt, không dám lên thăm chị nữa, đến ngày ăn thôi nôi cho bé Hảo chị gởi thơ mời, mà tôi cũng không dám lên.

- Cám ơn chị... Cha chả, nếu chị không thương tôi, chị đánh úp[1] với nhà tôi, thì chắc tôi tự vận chết liền.

- Chị thấy hay không...?

- Bịnh ghen dữ tợn lắm, chị à.

- Bây giờ chị bớt ghen hay chưa?

- Còn gì nữa mà ghen!...

- Chắc không?

- Chắc. Chị làm ơn tính giùm việc nhà cho tôi.

- Tính lẽ nào...? Anh Thuần bỏ vợ con nhà cửa mà đi, dầu ảnh không nói rõ, mà anh giao hết sự nghiệp cho chị trọn quyền làm chủ, thì cho mình thấy ý ảnh không muốn trở về. Tuy vậy mà tôi tưởng, bây giờ ảnh đương buồn trí nên ảnh đoạn tình vợ chồng, đoạn nghĩa cha con mà đi, chớ một ngày kia hoặc ảnh trộng tuổi rồi đổi tánh, hoặc ảnh gặp hoàn cảnh làm cho ảnh nhớ lại vợ con, thì có lẽ ảnh sẽ trở về. Huống chi ảnh có nói ảnh đi đặng anh làm cho các gia đình khác được thuận hòa đầm ấm, lo làm cho luân lý của xã hội được thuần mỹ rõ ràng. Nếu ảnh không trở về, thì ảnh làm sao mà đạt được cái mục đích ấy của ảnh. Vậy xin chị dằn lòng an phận. Tôi tin chắc chẳng sớm thì muộn, thế nào ảnh cũng về.

- Tôi vái van cho lời chị nói đó sẽ có y như vậy.

- Sẽ có. Vậy tôi khuyên chị phải gắng chí mà giữ gìn cho bền vững cái sự nghiệp của ảnh sáng tạo, đặng ngày ảnh trở về chị khỏi hổ với ảnh.

- Nhà cửa ruộng đất thì tôi chắc giữ vững, duy có cái hãng khó quá, tôi sợ lo không kham.

- Sao mà chị sợ? Nếu vậy đàn bà không làm nổi những việc lớn lao hay sao?

- Phải có chị giúp sức với tôi, thì cai quản hãng mới được. Thôi, chị hùn vốn vô, rồi chị đứng cai quản thế cho tôi.

- Ý tôi muốn lo làm việc khác.

- Việc gì?

- Trong thơ anh Thuần gởi cho tôi anh có khuyên tôi lập nhà trường để chuyên dạy nhi nữa về khoa gia đình giáo dục. Ðời nầy người ta ham trí thức giáo dục thái quá, ham đến nỗi bỏ dẹp gia đình giáo dục, bởi vậy gia đình không có luân lý để làm gốc, nên không vững bền, không vui vẻ. Gia đình của chị mà bị rời rã đây, ấy cũng tại thiếu giáo dục nên mới ra như vầy. Sự lập nhà trường đó tôi đã có ý muốn làm từ hồi năm ngoái. Má tôi cũng đã cho phép tôi rồi. Tôi chưa làm là tại tôi sợ gần anh Thuần, nên tôi phải đình sự ấy lại. Bây giờ không còn cái sợ đó nữa, có lẽ tôi sẽ lên Sài Gòn mà lập trường dạy trẻ em gái hiểu đạo làm vợ, hiểu đạo làm mẹ, đặng xây nền hạnh phúc gia đình, cho xã hội hưởng ngày sau. Làm như vậy có ba điều tiện lợi: một là đạt được cái mục đích của tôi ham muốn thuở nay, hai là vâng theo lời khuyên của anh Thuần, ba là ở gần chị đặng giúp sức cho chị cai quản hãng "Thuần Hòa" được thạnh lợi luôn luôn, và giúp sức cho chị dạy dỗ hai đứa nhỏ cho chúng nó ngày sau trở nên người đứng đắn, trai có tánh nghĩa dõng, gái có tiết trung trinh, trai và gái đều biết tôn trọng gia đình, biết giữ gìn danh dự.

- Chị tính hay quá! Tôi mừng lắm. Ðể bác về chị thưa cho bác hay rồi chị đi liền với tôi lên Sài Gòn mà tác thành việc ấy.

- Mời chị ở chơi, đợi xế mát má tôi về, tôi thưa lại với má tôi rồi tôi sẽ đi với chị.

- Cám ơn. Tôi cám ơn chị lung lắm.

- Chị khỏi cám ơn. Vì tình tri kỷ nên tôi phải ráng mà lo.

- Tôi không cần biết chị vì cái gì, tôi chỉ biết trước kia chị có lòng lo nâng đỡ gia đình tôi, bây giờ chị lại lo cứu vớt tôi lúc tôi đương nguy ngập, nên tôi cám ơn chị.

- Chị đừng ghen nữa nghe hôn.

- Chị vì tôi mà đoạn tình, lẽ nào tôi không vì chị mà bỏ ghen.

Hai người nhìn nhau mà cười, rồi đi ra ngoài chơi với hai đứa nhỏ.

Ðến xế bà chủ Hào về thấy mẹ con cô Hòa thì bà rất vui mừng. Vì ít con cháu nên gặp bé Hậu với bé Hảo thì bà nâng nịu hoài. Cô Hòa dạy con, biểu kêu bằng bà ngoại, thì bà càng vui lòng thêm nữa.

Cô Vân thuật chuyện cô Hòa bị chồng bỏ lại cho mẹ nghe và xin phép đi lên Sài Gòn ở ít ngày đặng trước an ủi cô Hòa, sau kiếm nhà lập trường học luôn thể. Bà chủ bằng lòng cho phép liền.

Cô Hòa với cô Vân từ giã bà chủ, bồng hai đứa nhỏ lên xe, tình thân ái tràn trề, trí tiến thủ hăng hái.

Xe hơi phát chạy, chở theo hai khối tình, tuy tánh chất khác nhau, mà cũng nồng nàn như một.

[1] chiếm lấy

Ðoạn tình

Chương 13

Một năm đã qua.

Cô Hòa nhờ cô Vân an ủi, khuyên lơn và giúp đỡ, nên cô đã bớt buồn nỗi chồng bỏ, lại hăng hái lo cho hãng "Thuần Hòa" thạnh phát như thường, và lo dạy dỗ nuôi dưỡng hai đứa con, đứa nào cũng sởn sơ ngộ nghĩnh.

Bé Hậu từ nhỏ đã yêu mến cha, nên nó thường nhớ và nhắc cha. Mỗi lần nó hỏi cha nó đi đâu, thì cô Hòa lạnh ngắt trong lòng; cô kiếm cách nói gạt con cho dứt câu chuyện, mà cặp mắt cô ướt rượt. Hễ nghe con nhắc, thì cô ăn năn, cô tự nhận tại cô mà con phải xa cha, chồng phải lưu lạc. Rồi cô đi kiếm cô Vân mà tỏ lời hối hận, để nghe những câu an ủi của bạn đặng vững chí bền lòng.

Còn cô Vân bây giờ cô quản xuất một nhà trường lớn gần chợ Tân Ðịnh, trường ấy tên là "Việt Nữ Học Ðường" chuyên dạy nữ hạnh nữ công, gần 10 căn lầu, chứa đến hai trăm rưỡi nữ sanh viên. Hai hạng thượng lưu và trung lưu ở Lục tỉnh, vì ái mộ tôn chỉ của trường, và nhứt là kính mến dung hạnh của người sáng lập, nên ai cũng xin gởi con gái ở học, quyết đem lại cho gia đình cái tinh thần chân chánh thanh cao để thay thế cho những thói vật dục gian tà, đê tiện trót mấy năm đã tràn lan trong xã hội. Ðược lòng tín nhiệm của công chúng, cô Vân rất hài lòng mà cũng rất lo sợ, bởi vậy ngày đêm cô phải đau đầu với cái thiên chức "đào tạo người vợ hiền, với bà mẹ lành cho gia đình Việt Nam".

Tuy nhiệm vụ của cô Vân rất nặng nề, nhưng mà cô còn phải lo giữ gìn tinh thần cho cô Hòa và lo quản xuất giùm cho hãng "Thuần Hòa" bền vững nữa. Mỗi ngày cô phải gặp cô Hòa một lần, nếu cô Hòa không ghé trường, thì cô vô Cây Quéo.

Một buổi chiều chúa nhựt, cô Hòa mời cô Vân vô nhà cô ăn cơm đặng nói chuyện chơi cho vui.

Lúc trời chạng vạng, hai cô ngồi giữa hoa viên, bé Hậu rượt bắt con chó xi, còn bé Hảo đi lẫm đẫm trước mặt cô Vân mà chơi. Thình lình có xe hơi ngừng ngoài ngõ, rồi một người đàn ông và một người đàn bà xuống xe đi vô.

Vì trời đã lờ mờ, khó thấy rõ được, nên cô Hòa đứng dậy, có ý trông khách lại gần đặng xem cho biết. Chừng cô thấy rõ ràng hai vợ chồng ông giáo sư Kiểm cô vừa muốn cất tiếng chào mừng thì ông Kiểm la lớn: "May dữ! Có madame Thuần ở nhà đây!"

Cô Hòa chào khách, tiến dẫn cô Vân cho vợ chồng ông Kiểm biết, rồi mời hết vô nhà.

Ông Kiểm cản mà nói: "Khoan. Tôi xin madame cho phép tôi hỏi một câu đã. Bạn tôi là mông xừ Thuần bỏ nhà mà đi hơn một năm nay, madame có giận hay không?" Câu hỏi lạ lùng làm cho cô Hòa chưng hửng. Cô chau mày, dụ dự rồi thủng thẳng đáp:

- Nhà tôi giận nên bỏ mẹ con tôi, chớ tôi có giận đâu.

- Té ra madame không giận mông xừ Thuần.

- Thưa không.

- Ví như mông xừ Thuần trở về. Madame có vui hay không?

Cô Hòa chúm chím cười, chớ không trả lời.

Ông Kiểm liền day mặt ra ngoài đường mà kêu lên: "Ê! Thuần, vợ bạn không có giận bạn. Vậy bạn vô đây" Cô Hòa và cô Vân nhìn nhau chưng hửng.

Bà Kiểm ngó hai cô mà cười.

Thiệt quả Thuần xuống xe thủng thẳng đi vô sân.

Bé Hậu vừa thấy dạng cha, thì chạy riết ra đón và ôm cha mà mừng. Thuần cúi xuống bồng con vừa hôn vừa đi vô.

Cảnh cha con mừng nhau làm cho ai nấy đều cảm xúc, nên đứng lặng lẽ mà ngó, không ai nói chi hết.

Thuần vô tới, ngó thấy bé Hảo đương đi lẫm đẫm để bé Hậu xuống, rồi đưa tay ẵm bé Hảo. Tuy cách biệt cha con đã hơn một năm rồi, song bé Hảo dường như có tình máu thịt mách bảo, nên không nhát để cho Thuần bồng, lại ngó Thuần mà cười ngỏn ngoẻn.

Cô Hòa cảm động quá, dằn lòng không được vói tay vịn vai cô Vân, mà nước mắt tuôn dầm dề.

Thuần bước tới nói với vợ: "Tôi làm mình phải buồn rầu cực nhọc hơn một năm nay, tôi lỗi với mình nhiều lắm. Năm ngoái tôi điên, nên tôi đi lạc đường xa gia đình rồi tôi mới thấy chỗ quấy của tôi. Không thể bỏ dứt vợ con được, nên tôi phải trở về đây, xin mình tha lỗi cho tôi".

Cô Hòa úp mặt vào ngực chồng mà khóc.

Thuần quay qua nói với cô Vân:

- Tôi rất cám ơn cô Vân, ở nhà hết lòng bảo bọc cho gia đạo của tôi.

Cô Vân cười mà đáp:

- Tôi biết anh sẽ trở về mà cái bịnh ái tình của anh đó, anh đã trị được hay chưa?

- Thuần gật đầu đáp:

- Tôi trị đã dứt rồi, từ rày cô là em gái quý của tôi.

- Cô Vân hỏi cô Hòa:

- Còn chị Hòa đã trị bịnh ghen của chị dứt rồi hay chưa?

Cô Hòa cứng cỏi đáp:

- Tôi hứa tôi sẽ bỏ dứt tánh cũ, mà làm cho chồng vui thú gia đình mãn đời.

Ông Kiểm vỗ tay la lớn:

- Hay lắm! Hay lắm! Tôi mừng cho chồng vợ thuận hòa, cha con sum hiệp. Ê! Trong nhà đã dọn cơm xong rồi kìa, thôi vô ăn cơm chung với nhau mà mừng ngày phu thê tái hội nè.

Thuần một tay bồng bé Hảo, một tay dắt bé Hậu đi trước còn mấy người kia đi theo sau mà vô nhà, cảnh nhà vui vẻ đèn đốt sáng trưng.

Lạc Ðường

Hồ Biểu Chánh

Chương I

Vợ trách con phiền

Trời chạng-vạng tối.

Dãy nhà lá ở dài theo bờ kinh Dérivation, là cái kinh đào từ Lăng-Tô vô Rạch-Cát để chở lúa gạo trong các nhà máy Chợlớn đem ra thương-khẩu Sàigòn, lần lần lu lờ, làm cho phai bớt cái vẻ nghèo hèn thấp thỏi được chút ít.

Tuy vậy mà đám con nít chạy chơi ngoài lộ, đứa quần áo lang-thang, đứa mặt mày dơ-dáy; những người đờn-bà ngồi ngoài cửa hứng mát, hoặc đút cơm cho con ăn, phần nhiều hình vóc ốm-o, tóc tai xụ-xọp; những đờn-ông làm ở các sở, mãn giờ đi về dập-dều, người nào cũng da nám tay chai; quang cảnh ấy, cũng đủ chứng cho cái xóm nầy là xóm bình dân lao động.

Anh Lý-trường-Mậu, làm Cặp-rằng[1] phụ trong một hãng vận tải dưới Xóm-Chiếu, đạp xe máy chạy chậm-chậm trên bờ kinh này. Anh trạc chừng 40 tuổi, nước da đen, con mắt lớn, mặt dài, trán rộng, rõ ràng là tướng mạo người khí khái, quyết đoán. Anh mặc một cái áo bành-tô[2] bố xanh với một cái quần vải đen, chân mang guốc vông[3], đầu đội nón trắng. Anh biết đọc và biết nói tiếng tây đủ dùng, hồi trước trong nhà anh thường có bạc ngàn, nhưng vì anh mê bài bạc lỡ thua cụt vốn, nên anh đi làm mướn mỗi tháng có 25 đồng. Vợ lớn của anh chết, có để lại cho anh một đứa con trai tên Hiệp, năm nay nó được 14 tuổi. Anh chấp nối với cô Ba Trâm sanh được một đứa con gái nữa, tên Hào, năm nay nó được 11 tuổi.

Gió chiều hiu-hiu mát-mẻ, nước kinh cuộn-cuộn chảy vô tàu kéo ghe thổi xúp-lê[4] vang rân, bên Sàigòn đèn khí đã bực cháy sáng quắc.

Cặp-rằng Mậu đạp xe máy thủng-thẳng chạy mà hứng cảnh, khi run chuông cho con nít tránh, khi dở nón mà chào người quen. Thình lình gặp thím Hai Tiền, là vợ của Hai Cư làm cu-li[5] vác hàng dưới bến tàu, thím đi xăng-xái dựa lề đường, tay cầm cái khăn, và đi và lau nước mắt. Anh liền ngừng xe bước xuống hỏi Hai Tiền rằng:

- Thím đi đâu về tối vậy thím Hai? Có việc gì mà thím khóc?

- Cha con Lê té bị bịnh nặng lắm anh Ba ơi!

- Té ở đâu?

- Té dưới tàu.

- Hồi nào?

- Mới hồi trưa này. Hổm nay tôi bịnh nên tôi ở nhà, không đi mua bán được. Hồi trưa con Lê đếm bánh dừa đem đi bán, nó chạy về cho tôi hay rằng cha nó té bị thùng hàng đè hết thở, họ sửa soạn chở đem lại nhà thương thí. Tôi lật-đật ra đó, té ra quan thầy thuốc coi rồi lại dạy chở luôn vô nhà thương Chợ-Rẩy. Tôi tuốt theo vô Chợ-Rẩy mới gặp. Thiệt té nặng lắm anh Ba ơi!

- Quan thầy thuốc nói bịnh thế nào? Có lẽ cứu được hay không?

- Họ có nói đâu mà mình biết, song tôi coi thế nặng lắm, sợ chịu không nổi. Cha con Lê thấy tôi thì biết, mà cứ ngó tôi rồi lắc đầu chảy nước mắt, chớ không nói được. Mặt xanh lè, bộ mệt lắm, lại máu đâu trong họng một lát tuôn ra cả búng.

- Nghèo đi làm ăn, phải bị nguy hiểm như vậy đó, chết rồi ai nuôi vợ con! Sao thím không ở trong nhà thương với chú, lại bỏ đi về?

- Họ nói ban đêm họ không cho ở. Lại tôi đói bụng, nên phải chạy về kiếm ăn ba hột cơm rồi khuya tôi trở vô.

- Ở nhà còn tiền bạc gì hay không?

- Hổm nay tôi bịnh, có đi mua bán gì được đâu mà có tiền, nhờ cha con Lê đi làm kiếm bữa nào ăn bữa nấy.

Cặp-rằng Mậu móc túi lấy ra bảy cắc bạc, đếm năm cắc mà đưa cho Hai Tiền mà nói rằng: „thim lấy đở ít cắc để đi xe ra vô mà nuôi chú. Khuya thím trở vô nhà thương nói giùm tôi gởi lời thăm chú nghe"

Hai Tiền lấy mấy cắc bạc và đáp rằng: „Cám ơn anh Ba. Nhờ trời cho cha con Lê mạnh, tôi đi mua bán rồi tôi sẽ trả lại cho anh Ba".

Cặp-rằng Mậu khoát tay, rồi leo lên xe máy mà đi.

Một cái nhà lá hai căn tum húm, thấp thỏi, vách phênh xịch xạc, mái sau muốn đổ, ở gần bến đò Kinh, ấy là nhà của Cặp-rằng Mậu.

Anh về tới, nhảy xuống xe, thấy trong nhà tối mò, lại có con Hào ngồi chơi trước cửa, thì hỏi rằng:

- Má con đâu?

- Má nằm trong buồng.

- Tối rồi sao chưa đốt đèn?

- Hồi nãy con muốn đốt. Má nói đốt tốn dầu nên má không cho.

Cặp-rằng Mậu dắt xe máy vô nhà, bóp hộp quẹt máy cho ra lửa, rồi kê vào đèn để trên bàn mà đốt.

Ba Trâm tóc tai dã dượi ở trong buồng bước ra. Tuy cô hẩm hút trong cái chòi lá, tuy cô mặc cái áo cụt vải trắng với một cái quần lãnh đen cũ xì, nhưng mà nước da trắng trong, mái tóc dợn sóng, tay chân dịu nhiễu, môi má ửng hồng, tuổi đã quá ba mươi mà sắc vẫn còn xinh đẹp. Nhan sắc nầy lẽ thì phải ở nhà lầu, ngồi xe hơi mới xứng đáng.

Cặp-rằng Mậu thấy vợ thì nói rằng:

- Chú hai Cư đi làm, chú té bị bịnh nặng lắm, họ chở chú vô nhà thương Chợ-Rẩy rồi.

- Sao mình hay?

- Tôi mới gặp thím đây. Tôi có cho thím năm cắc bạc.

- Mình nghèo mà cứ làm cái mửng đó hoài gặp ai mình cũng cho tiền.

- Chú lai Cư gặp việc rủi-ro, mình phải giúp chú chút đỉnh chớ. Mà thím Hai Tiền bộ thím cũng bịnh lắm, mét chằng.

- Nghe nói thím đau ban hổm nay mà. Ở cái chỗ sình lầy, thấp thỏi như vầy, tự nhiên phải đau ban, chạy đâu cho khỏi. Chẳng những là thím Hai Tiền, tôi sợ rồi đây tôi với con Hào cũng phải đau nữa chớ.

- Cái gì mà đau! Vậy chớ thiên-hạ họ ở đây đó sao?

- Họ ở nhà cao ráo sạch sẽ, chớ họ có ở cái nhà dơ-dáy thấp-thỏi như nhà mình vầy đâu.

- Ai lại không muốn ở nhà cho rộng lớn sạch sẽ. Ngặt vì mình nghèo biết làm sao?

- Tại ai mà nghèo đó? Nếu hồi trước mình nghe lời tôi can gián, mình đừng có mê sa bài bạc, thì đâu đến nỗi vợ con phải cực khổ như vầy.

- Thôi, chuyện xưa còn nhắc lại làm chi! Hễ mình nhắc tới chuyện đó thì chẳng khác nào mình đâm kim vào ruột tôi vậy.

- Tại mình than nghèo, nên tôi mới nói chớ nhắc chuyện cũ rồi làm giàu được hay sao?

- Con người giàu hay nghèo cũng tại cái mạng. Bởi cái mạng tôi phải nghèo, nên năm đó trời mới khiến cho tôi sanh tâm bài bạc, làm cho tiêu hết của tiền. Tôi chắc nếu tôi không thua thì cũng bị trộm cướp giựt hết.

- Thua bài bạc hết rồi bây giờ khéo kiếm lời mà chữa mình! Ăn cơm hay chưa đặng tôi dọn cho?

- Ở nhà ăn rồi chưa?

- Mẹ con tôi ăn rồi. Tối ngày không có bánh hàng chi hết, nên đói bụng, hồi chiều cơm chín mẹ con tôi ăn trước.

- Thôi để tôi đợi thằng Hiệp về rồi tôi sẽ ăn với nó.

- Nó đi lưu linh[6], biết chừng nào nó về mà chờ.

- Chừng nào cũng được. Bữa nay tôi không đói.

Cặp-rằng Mậu cổi áo bành-tô đen máng trong buồng; bây giờ còn mặc cái áo thung trắng, lên võng mà nằm, đưa nghe trèo-trẹo. Ba Trâm kéo ghế ngồi dựa đèn ăn trầu, ánh sáng đèn chói mặt cô ta coi thiệt là đẹp đẽ, mà cô nhai trầu cái miệng của cô lại càng hữu duyên.

Trường-Mậu nằm ngó vợ một hồi rồi kêu con Hào mà nói rằng: "Hào a, vô ba biểu một chút coi, con".

Con Hào mặc bộ đồ hàng đen, tóc hớt bom-bê[7], ngặt mày sáng rỡ, giống hệt mẹ nó. Nó bước vô thì cha nó nắm tay kéo lại biểu ngồi trong lòng rồi hỏi rằng:

- Chiều nay con đi học, con có bị đòn hay không?

- Con thuộc bài mà bị đòn giống gì.

- Giỏi! Ráng học nghe không, con. Học đặng sau làm cô giáo như cô giáo của con vậy đó.

- Học đến chừng nào mới làm cô giáo được ba?

- Học cho tới chừng thi đậu, có bằng cấp, mới làm cô giáo được chớ.

Ba Trâm xen vô nói rằng: "Thứ học trường tư trong xóm làm sao mà thi lấy bằng cấp cho được. Muốn đi thi phải học trường lớn, người ta dạy đủ lớp rồi mới đi thi chớ".

Cặp-rằng Mậu nói rằng: "Thì nó còn nhỏ, phải học trường nhỏ. Chừng nó học đủ lớp, nó khá rồi, mình sẽ đem nó đến trường lớn: chớ bây giờ dầu mình cho nó học trường lớn nó cũng phải ngồi lớp nhỏ, có ích gì đâu mà phải đi xa. Để nó học một vài năm nữa rồi sẽ liệu chớ".

Ba Trâm thở ra nói giọng buồn rằng:

- Thấy con Hào tôi rầu hết sức. Con người ta 11 tuổi đã ngồi lớp nhì lớp nhứt rồi, còn nó thì lụt đụt ở dưới lớp chót! Chẳng nói ai đâu xa, đến con của con Tư, là con chệc khách, mà nó cũng hơn con Hào nữa, thì hổ thẹn biết chừng nào.

- Hơi nào mà phân bì. Thủng thẳng nó học có gấp gì đâu.

- Thủng thẳng rồi nó già, làm sao mà học nữa được. Chớ chi mình mướn phố bên Cầu-kho, hoặc ngoài chợ Ông-Lãnh mình ở thì nó học trường Cầu-Kho, hoặc trường Đống-Cát, tiện biết chừng nào. Con của con Tư, nhờ cha nó ở Ông Lãnh nên nó học mới mau đó.

- Tôi cũng muốn như vậy lắm chớ. Ngặt mình ăn lương ít, còn phố xá ở miệt bển mắc quá, làm sao mà mướn nổi.

- Vợ chồng con Tư không ra gì. mà coi thế nó làm ra tiền nhiều, con nó ăn mặc phủ phê.

Con Hào vỗ vai cha nó mà nói rằng:

- Tháng nầy ba lãnh lương rồi ba mua cho con một chiếc vòng nghe không ba; vòng chạm như của con Kiên đeo vậy đó, con muốn quá.

- Vòng mắc tiền lắm, ba mua sao nổi, con.

- Ba của Kiên mua cho nó đó sao?

Cặp-rằng Mậu day mặt vô vách, không trả lời được.

Ba Trâm ngồi xỉa thuốc và than rằng: "Con đến bây lớn rồi mà không có một phân vàng trong mình. Phận tôi chẳng nói làm chi, có vàng đeo chơi, bằng không có thì thôi. Tội nghiệp cho con Hào, nó thấy con người ta đeo vàng, nó muốn, nó ngó, bộ thấy thương quá".

Cặp-rằng Mậu cứ day mặt vô vách, không nói một tiếng chi hết.

Ngoài sân có tiếng hút gió nghe lảnh lót, hút gió theo điệu bản đờn hành-vân, rồi thằng Hiệp hăng-hái bước vô nhà. Nó mặc một cái quần vải đen, hai ống cụt trên đầu gối, với một cái áo vải trắng cũ mà lại dơ, hai vạt trước có hai cái túi thiệt lớn, trên đầu nó lại đội muột cái nón nỉ đen, nón cũ quá nên vành sụp xuống, còn dây băng[8] đứt đâu mất. Nó vừa vô khỏi cửa thì nó đứng chằn miệng mà cười, lòi hai hàm răng trắng trong mà nhỏ rứt. Nó thấy con Hào ngồi trên võng với cha nó, thì nó bước lại, móc trong túi, lấy ra một gói giấy mà đưa cho con Hào mà nói rằng: "Anh có mua cho em một cái bánh sữa đây, em ăn đi".

Cặp-rằng Mậu thấy vậy ứa nước mắt.

Thằng Hiệp móc túi nữa lấy ra hai cắt bạc mà đưa cho Ba Trâm, tiếng xu vẫn còn khua trong túi rôn rổn.

Con Hào hỏi rằng:

- Bữa nay anh bán nhựt trình khá lắm hay sao mà xu nhiều dữ vậy?

- Bữa nay kiếm được bốn các, xài hết một cắc ba, còn có hai cắc chín.

- Dữ hôn! Anh cho em một đồng xu đặng sáng mua khoai lang ăn.

Thằng Hiệp móc xu ra đếm, rồi đưa cho con Hào hai đồng xu và nói: "Cho em hai đồng đây còn bảy đồng để sáng anh ăn bánh mà đi bán nhựt-trình".

Ba Trâm đứng dậy bước vô trong và kêu thằng Hiệp mà nói: "Hiệp a, bưng đèn vô đây đặng tao dọn cơm cho mà ăn". Cách chẳng bao lâu, thằng Hiệp bưng ra một cái mâm chỉ có một tượng cơm, một dĩa cá với một dĩa rau luộc mà thôi. Nó để cái mâm trên bàn thì kế Ba Trâm bưng đèn ra theo, tay lại có cầm hai cái chén và hai đôi đũa. Cô ta nói trổng rằng: "Thôi, đi ăn cơm đi, khuya rồi".

Cặp-rằng Mậu buông con Hào ra rồi đứng dậy bước lại bàn mà dòm mâm cơm. Anh ta châu mày mà nói rằng: "Ăn cực quá!"

Ba Trâm nói rằng: "Có đi chợ được đâu mà ăn sướng. Hổm nay con Hào nó thèm thịt, mà có dám mua đâu".

Con Hào nằm đưa tòn ten trên võng, nghe mẹ nói như vậy thì nó nói tiếp rằng: "Đầu tháng ba lãnh lương rồi mua thịt heo ăn nghe không ba. Hổm nay con biểu má mua hoài, mà má không chịu mua".

Cặp-rằng Mậu không trả lời, cứ ngồi lại bàn mà ăn cơm với thằng Hiệp.

Ba Trâm gật đầu đáp với con Hào rằng: "Ừ, để ba con lãnh lương rồi, má sẽ mua thịt heo cho con ăn. Con ăn bánh rồi, thôi đi uống nước đi con; uống nước rồi ngủ đặng sáng có đi bọc".

Con Hào vâng lời, đi uống nước rồi đi vô buồng.

Thằng Hiệp ngồi ăn cơm với cha nó, rau luộc chấm với nước cá mà nó ăn ngon lành, bộ mặt coi rất hân hoan. Nó thấy cha nó không vui, thì nó hỏi rằng:

- Sao ba không mua giấy số ba?

- Số gì?

- Số tương tế họ bán đó. Trúng độc-đắc 10 ngàn lận ba à. Ba liều một đồng bạc mua thử nuột số, may trúng thì ba giàu to.

- Dễ gì mà trúng.

- Vậy chớ họ trúng đó sao. Họ trúng được thì mình cũng có thể trúng vậy chớ. Chớ chi con có một đồng bạc con mua một số liền. Nếu con trúng độc-đắc thôi thì sướng lắm.

- Nếu con trúng số rồi con làm giống gì?

- Trước hết con thôi làm nghề bán nhựt-trình. Tuy bán nhựt-trình không phải cực khổ hay xấu hổ gì, mình thả đi chơi các nẻo đường rao bậy bạ mà kiếm cũng đủ cơm ăn, song mình trúng số được bạc muôn thì cần gì phải theo nghề ấy nữa phải không ba?

- Ừ... Không đi bán nhựt-trình nữa, con ở nhà, rồi con làm việc gì?

- Con đi học chớ.

- Học thứ gì?

- Con học chữ Tây cho giỏi rồi con học chữ Ăng-Lê, đặng lớn con làm nuôi ba. Mà hễ trúug số rồi, thì con không cho ba đi làm nữa, làm cực khổ mà lại bị tiếng nặng tiếng nhẹ, làm chi. Con mướn phố tốt bên Sàigòn cho ba ở, con bắt ba ở không đi chơi, không cho ba làm việc gì hết.

- Ở không mà ăn, chừng hết tiền rồi làm sao?

- Dễ hết đâu! Trúng 10 ngàn đồng, dầu ăn xài nhiều đi nữa, thì cũng năm mười năm mới hết, chớ có lẽ nào một hai năm mà hết được, mà chừng hết tiền thì con giỏi rồi, con làm mà nuôi ba được, có sao đâu mà sợ.

Cặp-rằng Mậu và riết cho hết chén cơm, rồi đứng dậy bưng tô nước mà bước ra sân.

Ba Trâm đi vô buồng, vừa đi vừa nói rằng: "Hiệp ăn rồi thì dọn rửa giùm một chút rồi sẽ ngủ, nghe không con".

Hiệp gật đầu, rồi ngồi ăn cho hết tượng cơm, ăn vẫn ngon, bộ vẫn vui hoài. Chừng ăn rồi, nó mới bưng hết chén dĩa đem ra sau mà rửa, và úp vô sóng tử-tế. Nó bưng đèn trở ra ngoài, thì thấy cha nó, miệng ngậm điếu thuốc, đương lấy cái áo bành-tô bố xanh mà mặc, nó bèn hỏi rằng:

- Ba đi đâu mà bận áo vậy ba?

- Đi làm.

- Đi làm ban đêm nữa sao?

- Ừ.

Cặp-rằng Mậu dắt xe máy đem ra ngoài sân rồi mới đốt đèn. Thằng Hiệp đi theo ra đó, Cặp-rằng Mậu dặn rằng. "Dì con có hỏi ba, thì con nói ông chủ sai ba đi xa không biết chừng năm ba bữa ba mới về". Nói dứt lời rồi leo lên xe máy đạp đi tuốt.

[1] tiếng Pháp: caporal 1) cai thợ; 2) (quân hàm) hạ sĩ

[2] tiếng Pháp: áo ngắn cổ kín mặc như áo veste ngày nay, thích hợp cho đàn ông lẫn đàn bà

[3] guốc làm bằng gỗ cây vông đồng (Hura Crepitans). Gỗ vông rất nhẹ, tỉ trọng 0,35-0,40 kg/dm3, nên làm guốc bằng gỗ vong để đi đường xa ít mỏi chân. Guốc gỗ vong đi mau mòn vì phẩm chất gỗ rất thấp, thường được giới bình dân dùng.

[4] tiếng Pháp: souffler: còi tàu (tiếng hơi nước xuyên qua ống khói như tiếng thụt ống bễ của thợ rèn).

[5] dịch âm từ tiếng Hindi sang tiếng Anh: cooly; tiếng Pháp: couli: 1) giai cấp thấp nhứt của người Ấn độ, 2) phu khuân vác ở Mỹ và ở các xứ thuộc địa

[6] lưu=trôi; linh=lẽ loi. Lưu linh : rày đây mai đó, lang thang không định hướng

[7] tiếng Pháp: bombé. Mái tóc phía trước hớt phủ trán vòng qua đến trái tai

[8] tiếng Pháp: bande=dây cột quà cáp hay hàng hóa, dây niền trên nón nỉ

Lạc Ðường

Hồ Biểu Chánh

Chương II

Thí thân liều mạng

Lối 3 giờ khuya. Trên bờ lộ dọc theo mé kinh Dérivation vắng teo, không có bóng người qua lại, không nghe tiếng chó sủa, mà những nhà lá ở dài theo đường cũng im lìm, cửa gài kín mít.

Cặp-rằng Mậu sẻ[1] lén đi trên khúc đường ấy, vừa đi vừa chăm chỉ dòm phía trước mặt, một lát lại ngoái lại mà ngó phía sau lưng, dường như sợ người ta đón, hoặc người ta theo mình vậy.

Đi ngang qua nhà Hai Cư, anh thấy trong nhà có đốt đèn, lại nghe có tiếng khóc rỉ-rả, có lẽ anh sợ người trong nhà thấy dạng anh hay sao, nên anh bước tránh qua phía bên kia đường rồi đi nhẹ nhẹ, không dám cho động đất. Mà chừng qua khỏi rồi anh lại dừng chân, suy nghĩ một chút, rồi xăng xớm trở lại, bước vô cửa Hai Cư đứng dòm vô nhà và kêu nho nhỏ rằng:"Thím Hai a, thím Hai, có việc gì mà thím khóc vậy, thím Hai?".

Tiếng khóc dứt. Hai Tiền mở cửa, thấy Cặp-rằng Mậu thì bệu-bạo nói rằng: "Anh ba ơi, cha con Lê mất rồi, anh Ba à!"

Cặp-rằng Mậu bước vô nhà, đứng trệch[2] qua chỗ tối và hỏi nho nhỏ rằng:

- Chú mất hồi nào?

- Mới tắt hơi hồi mặt trời lặn đây.

- Chết trong nhà thương hay sao?

- Thì nằm ở trỏng mấy bữa rày, tưởng quan thầy thuốc cứu được; té ra bịnh càng ngày càng thêm nặng, chịu không nổi phải chết.

- Bây giờ thím tính làm sao?

- Tôì có biết tính giống gì đâu. Hồi tối họ dặn tôi như muốn lãnh xác về mà chôn thì sáng mai vô mà lãnh; còn như không lãnh thì trưa mai trong nhà thương họ chôn.

- Thím tính lãnh xác về không?

- Tôi muốn như vậy lắm, ngặt vì hễ lãnh xác đem về thì phải làm dám ma, phải xin phép, phải mướn đất mà chôn cất, tốn hao lung lắm, tôi ughèo tôi làm sao nổi. Còn nếu để nhà thương họ chôn thì hất hủi thân của cha con Lê, tội nghiệp lắm. Từ hồi hôm đến bây giờ tôi điên trong bụng không biết làm sao cho được. Chớ chi tôi có một hai chục đồug bạc, tôi mua một cái hòm và vải sồ chút đỉnh đem vô nhà thương cậy họ liệm cho kín đáo rồi khiêng đi chôn luôn cũng còn ấm cúng một chút...

Hai Tiền nói tới đó rồi tủi trong lòng nên khóc rống lên.

Cặp-rằng Mậu đứng nép vào vách, khoát tay ra dấu biểu Hai Tiền đừng khóc và hỏi nho nhỏ rằng:

- Trong nhà có ai hay không?

- Không.

- Con Lê đâu?

- Nó ngủ trong buồng.

Cặp-rằng Mậu liền xây mặt vô vách, móc túi lấy ra một bó giấy bạc hai chục đồng, rút một nắm không biết mấy tấm, mà cầm trong tay, rồi bỏ bó giấy bạc vào túi lại. Việc rồi anh mới day ra đưa nắm giấy bạc cho Hai Tiền mà nói rằng: "Thím lấy cái nầy đặng lo chôn cất chú".

Hai Tiền đưa tay lấy nắm giấy, thấy nhiều quá thì giựt mình, nên ngó Mậu mà nói rằng: "Anh đưa chi nhiều quá vậy? Chừng vài chục cũng đủ mà".

Cặp-rằng Mậu khoát tay, biểu đừng nói.

Hai Tiền nói ráng rằng: "Cám ơn anh Ba quá, em biết làm sao mà trả ơn được."

Cặp-rằng Mậu khoát tay nữa và nói nhỏ rằng: "Tôi thấy chú hai nghèo nhà bị việc rủi ro đến bỏ mạng nên tôi thương, tôi giúp cho thím tống táng chú. Tôi dặn thím môt điều nầy gắt lắm: thím phải kín miệng, đừng nói cho ai biết sự tôi đưa tiền cho thím đây. Hễ thím nói ra, thì là thím giết tôi đa, thím nhớ không?"

Hai Tiền gật đầu.

Cặp-rằng Mậu liền bước ra ngoài, biểu Hai Tiền khép cửa lại. Hai Tiền ngó theo thì thấy hai túi áo bành-tô cua Mậu kè-nè đầy nhóc[3], song không hiểu đựng những vật gì.

Cặp-rằng Mậu ra lộ đứng ngó trên dưới; rồi xâm-xâm đi riết lên phía bến đò Kinh. Về đến nhà anh thấy trong nhà im lìm, tối mò. Anh đi dọc theo vách đầu xông mà vô phía sau, rồi mở cửa sau mà vô nhà. Anh lò mò đi ra chỗ cái bàn ăn cơm phía trước, rờ đụng cái đèn, bưng đèn vô buồng mà để trên một cái ghế, rồi bóp hộp quẹt máy cho ra lửa mà đốt đèn.

Anh dở mùng lên thấy Ba Trâm đang ngủ với con Hào, thì nắm tay Ba Trâm mà kéo.

Ba Trâm giựt mình mở mắt, ngó thấy chồng thi ngồi dậy và hỏi rằng: "Về hồi nào vậy? Đi đâu mà biệt mất mấy bữa rày?"

Cặp-rằng Mậu khoát tay, biểu vợ đừng nói, thấy cái đèn cao ngọn thì vặn bớt xuống lu-lu rồi móc trong túi áo bành-tô lấy ra mấy bó giấy bạc mà bỏ trên ghế, giấy 100 có, giấy 20 có, giấy 5 đồng cũng có.

Ba Trâm thấy bạc nhiều quá thì chóa mắt, nên vùng đứng dậy hỏi nhỏ rằng: "Tiền ở đâu mà nhiều dữ vậy?"

Cặp-rằng Mậu khoát tay nữa, anh không nói chi hết, lại cổi áo bành-tô ra, trong mình chỉ còn bận một cái áo thung mát thôi, trong áo thung lại có mấy gói độn u lên từ trước tới sau. Anh rút áo thung lên thì mấy gói ấy rớt xuống đất. Ba Trâm chụp lượm đem để trên ghế, thì mấy gói ấy đều là giấy 100 đ. Cô run bây bẩy nửa mừng nửa sợ, mừng có tiền bạc nhiều, lại sợ không biết có xài được hay không.

Ba Trâm hỏi nửa rằng: "Cha chả! Bạc tiền ở đâu mà nhiều quá như vầy hử? Đem về nhà đây biết có hại gì hay không?"

Cặp-rằng Mậu lấy áo bành-tô mà bận vô lại mà nói nhỏ rằng:

- Mình phải làm thế nào đem giấu hết tiền nầy liền bây giờ đi. Làm cho mau, để trễ không được.

- Trời ơi! Biểu giấu ở đâu bây giờ . . . Tôi lén đem qua gởi con Tư, được không?

- Minh liệu thế nào cũng được, miễn giấu cho nhẹm thì thôi, chớ để trong nhà sợ họ xét, họ lấy hết, rồi họ bắt tới mình nữa.

- Cha chả! biết làm sao bây giờ!

- Kiếm cái gì mà đựng đi cho mau.

- Biết lấy cái gì mà đựng bây giờ... Ờ, ờ thôi để lấy cái giỏ mây đựng áo quần đó mà đựng đỡ.

Ba Trâm liền bước lên giường, vói xách cái giỏ mây là cái giỏ tuy nhỏ, song có khóa chắc chắn. Cô móc túi lấy ra nuột cái chìa khóa nhỏ mà mở giỏ, sắp mấy cái áo ra, rồi Cặp-rằng Mậu phụ để hết mấy bó giấy bạc vô. Bạc sắp ở dưới, áo sắp lên trên, khóa giỏ lại.

Ba Trâm bỏ chìa khóa vô túi rồi hỏi chồng rằng:

- Bây giờ có biết chỗ nào mà giấu cho kín. Thôi để xách cái giỏ ra gởi cho con Tư dễ hơn. Gởi cho nó được không?

- Tôi tỏ thiệt với mình, vì tôi thấy vợ con nghèo cực tôi chịu không được, nên tôi cướp giựt của người ta đem về cho mình đó. Mình phải liệu thế nào cất để dành mà xài và nuôi con, liệu thế nào tự ý mình, miễn là đừng để mất hết, hoặc họ bắt họ lấy lại.

- Mình làm việc như vậy, biết có hại chi tới mình hay không?

- Thân tôi không kể gì, dầu bị đày hay chết chém tôi cũng cam tâm, miễn là mình với hai đứa nhỏ được sung sướng thì thôi. Thà tôi thí cái mạng của tôi cho vợ con được giàu có sung sướng, chớ tôi sống mà phải cực cho hết cả nhà, thì sống có ích gì.

Chồng nói như vậy, mà Ba Trâm cứ đứng ngó cái giỏ, không nói được một lời tạ ơn.

Cặp-rằng Mậu châu mày nói tiếp rằng: "Tôi phải đi liền bây giờ đây, chớ ở nhà không tiện. Mà hễ tôi đi, tôi sợ tôi không gặp mình nữa được. Vậy tôi xin nói với mình một điều nầy: tôi gởi thằng Hiệp lại cho mình. Thuở nay nó không có mẹ, mà kể từ bữa nay nó lại không còn cha nữa. Tuy mình không đẻ nó, song mình có công nuôi dưỡng nó từ nhỏ cho tới bây giờ, thì mình cũng là mẹ nó. Vậy tôi xin mình nghĩ tình tôi mà thương yêu dạy dỗ nó giùm tôi. Hễ việc của tôi làm đây mà êm được, thì chẳng nói làm chi. Còn nếu có đổ bể ra mà tôi phải bị hại, thì mình ở nhà ráng bảo bộc nó cũng như con Hào vậy, chừng Tòa xử rồi, mình sẽ lấy lần số bạc nầy ra mà xài, lấy mỗi lần một mớ đặng khỏi người ta nghi. Đừng có cho thằng Hiệp đi bán nhựt-trình nữa, cực khổ thân nó tội nghiệp. Mình kiếm trường cho nó đi học đặng nó biết chữ với người ta. Mình hãy nhớ mấy lời tôi dặn đó nghe. Nếu mình làm y như vậy, thì dầu tôi chết, tôi cũng vui lòng, mà tôi lại còn cám ơn mình lắm"

Cặp-rằng Mậu nói tới đó thì rưng rưng nước mắt. Ba Trâm cũng cảm động, song đứng trân trân chớ không nói tiếng chi hết.

Cặp-rằng Mậu mới bưng cái đèn đi ra phía trước, thấy thằng Hiệp nằm ngủ trên cái võng, quần áo lang thang, đứng ngó một hồi rồi lắc đầu trở vô buồng, nước mắt tuôn dầm dề. Anh dở mùng, rọi con Hào rồi mới để đèn lên ghế mà nói nhỏ với vợ rằng: "Thôi, để tôi đi. Gần sáng rồi, nếu ở trễ sợ người ta ngó thấy. Ai có hỏi tôi thì mình cứ nói tôi rầy lộn với mình rồi tôi đi đâu mất mấy bữa rày không có về nhà. Dặn sắp nhỏ, cũng phải nói như vậy nghe không. Thôi, tôi đi. À hễ tôi đi rồi, mình kiếm chỗ mà giấu hay là gởi cái giỏ tiền đi nghe".

Ba Trâm gật đầu. Cặp-rằng Mậu dở cửa sau mà bước ra ngoài, song đi được chừng vài bước rồi anh lại trở vô nhà. Ba Trâm đương mở cái giỏ tính đếm bạc, bỗng thấy chồng trở lại thì chưng-hửng . Mậu bước lại ôm vợ vào lòng mà hun hai ba cái rồi nói nhỏ rằng: "Tôi thương mình lắm, dầu thế nào mình cũng đừng quên tôi nghe".

Ba Trâm gật đầu lia lịa. Mậu cười rồi bước đi. Ba Trâm đứng suy nghĩ một hồi lâu, dở cái giỏ lên mà coi bạc nữa rồi mới chịu khóa lại, bỏ chìa khóa vào túi. Cô bưng cái đèn đem để trên bàn ngoài trước mà tắt, rồi trở vô buồng xách giỏ dở cửa sau mà ra ngoài.

Ra lộ đi được một khúc cô thấy có một người lớn với một đứa nhỏ phía dưới đi lên, xăng-xái đi theo cô. Cô hồi hộp nên đứng lại rồi để cái giỏ bên đường làm bộ đội khăn. Người lớn di tới vụt hỏi rằng: "Chị Ba phải không?"

Ba Trâm coi lại, té ra mẹ con Hai Tiền, cô vững bụng mới hỏi rằng:

- Thím Hai mà tưởng ai chớ. Thím đi đâu khuya vậy? Nghe nói chú nằm nhà thương, vậy mà chú mạnh hay chưa?

- Cha con Lê chết rồi, chị Ba à. Mẹ con em vô nhà thương đặng lo chôn cất đây.

- Tôi nghiệp chú Hai quá! Gặp việc rủi ro đến bỏ mạng! Chú năm nay được mấy mươi tuổi?

- Mới 35 tuổi .

- Còn nhỏ quá! . . .Không biết năm giờ bay chưa?

- Còn khuya mà. Bây giờ chừng bốn giờ.

- Vậy mà tôi tưởng gần sáng rồi chớ. Tôi đi qua bên Chợ-Đũi có chuyện. Đường vắng teo.

Thôi, chị em mình đi cho có bạn.

Ba Trâm với mẹ con Hai Tiền đi trên đường, Hai Tiền thấy Ba Trâm xách cái giỏ, song không hỏi giỏ gì. Ra tới bến đò Cầu-kho, mẹ con Hai Tiền đi bộ vô Chợlớn, còn Ba Trâm nói đi Chợ-Đũi, mà lại xách giỏ be-be đi ra phía Cầu Ông-Lãnh.

[1] 1) nhẹ (khẻ); 2) nhạy

[2] chệch, chịch

[3] phương ngữ Nam bộ: thật đầy

Lạc Ðường

Hồ Biểu Chánh

Chương III

Bị bắt

Gần 2 giờ chiều, con Hào sửa soạn đi học. Ôm sách vở bước ra cửa, thì Ba Trâm kêu nó lại mà nói rằng: "Thôi, đừng có đi học con, ở nhà nghỉ ít bữa.

Con Hào khỏi đi học thì nó mừng nên lật-đật đem cất sách vở và hỏi mẹ nó rằng:

- Ở nhà chừng ba về rồi sẽ đi học, phải không má?

-Ừ

- Ba đi đâu mà mấy bữa rày không thấy ba về nhà vậy má?

- Đi đâu có nói đâu mà biết. Bữa hổm nói với thằng Hiệp sao đó rồi đi mất mấy bữa rày, có thấy tâm dạng gì đâu.

- Còn hồi khuya má đi đâu mất! Con thức dậy không thấy má, con sợ quá. Má đi đâu vậy má?

- Đi mua đồ về cho con ăn hồi sớm mơi đó chớ đi đâu. Nè ai có hỏi ba con thì con nói đi đâu mất ba bốn bữa rày không có về nhà. Còn như họ hỏi má có đi đâu hay không, thì con nói má ở nhà hoài, không có đi đâu hết.

- Sao vậy má?

- Thì cứ nói như má dặn đó vậy. Con nói bậy, ba con ở tù chết.

- Còn cái giỏ đựng quần áo má để trong mùng đó, sao đâu mất từ sớm mơi tới giờ, con không thấy nữa.

- Má bán má lấy tiền mua đồ cho con ăn đó. Con cũng phải giấu, đừng có nói cho ai biết nghe không.

- Nói làm chi. Nói cho họ biết rồi họ cười minh, phải không má?

- Ừ.

Mẹ con nói chuyện tới đó thì Sáu Thêm, làm cu-li Hãng gạo ở ngoài bước vô hỏi rằng:

- Có chị Ba ở nhà hay không?

- Có qua đây, em hỏi chi vậy, Sáu?

- Anh Ba bị lính bắt về bót[1] rồi, chị Ba à.

- Úy, bị bắt hồi nào?

- Mới bắt tức thì, tôi gặp ảnh đương bị lính còng mà đem lên xe, nên tôi lật-đật chạy về cho chị hay đây.

- Trời ơi! Làm giống gì mà bị bắt?

- Có biết đâu. Ảnh có đánh lộn với ai hay không?

- Không có đâu, ảnh giận qua rồi bỏ nhà đi mấy bữa rày, làm giống gì qua có biết đâu.

- Đâu chị lên bót lóng nghe thử coi ảnh bị tội gì.

- Ừ, để rồi qua đi chớ.

Sáu Thêm từ giã mà về. Ba Trâm nằm lại trên võng đưa tòn ten, không tính đi kiếm chồng. Con Hào nghe cha bị lính bắt thì nó sợ, nên đứng buồn hiu, không nói một tiếng chi hết.

Cách chẳng bao lâu, có một cái xe hơi lớn ngừng ngay trước nhà Ba Trâm. Con Hào ngó ra thì thấy hai người Biện Tây với bốn thầy Đội Việt-nam đương leo xuống xe, lại có cha nó trong đám người ấy nữa. Nó vụt nói lớn: "Ba về kia má. Mà sao có lính đi theo đông quá".

Ba Trâm vụt ngồi dậy chạy ra cửa, thì quả thấy ông Cò và lính đương dắt chồng chị vô nhà. Cô đứng nép một bên cửa; con Hào chạy lại níu áo mẹ nó mà đứng gần đó.

Một thầy Đội kêu Ba Trâm mà nói rằng: "Con kia, mẹ con mầy ra ngồi dựa mé lộ đây nè. Ngồi đó chớ đừng có đi đâu đa".

Mẹ con Ba Trâm ríu-ríu ra ngồi trên lề đường, có một thầy Đội đứng giữ.

Một thầy Đội khác dắt Cặp-rằng Mậu vô nhà, biểu ngồi dưới đất, rồi đứng một bên mà giữ.

Còn ông Cò, một người Biện, và hai thầy Đội khác nữa thì lục soát cùng trong nhà. Họ bưng bàn dẹp ghế; họ khiêng chõng mở mùng, họ mò từ tấm vách, họ lần kiếm trên mái nhà, họ xom[2] đất, họ rọi đèn, họ lục soát từ nhà trên xuống tới nhà bếp, mấy chỗ hóc hẻm họ lại càng kiếm kỹ không bỏ sót một chỗ nào hết. Xét trong nhà rồi lại xét tới ngoài sân, xét tới sau hè nữa.

Xét tới chiều mà kiếm không được vật chi hết, ông Cò mới kêu một mình Ba Trâm vô rồi biểu một thầy Đội làm thông ngôn mà nói rằng:

- Chồng mầy chém người ta mà giựt bạc đem về giấu ở đâu, mầy phải chỉ cho mau?

- Bẩm ông, chồng tôi làm sự gì tôi có hay biết đâu. Vợ chồng rầy lộn với nhau, chồng tôi giận bỏ nhà mà đi bốn năm bữa rày, không có về đây.

Ông Cò đưa tay muốn đánh Ba Trâm, song ông không đánh, lại nạt rằng:

- Nói láo, con chó.

- Bẩm ông, tôi nói thiệt. Nếu ông không tin, ông hỏi thử chòm xóm coi mấy bữa rày có ai thấy chồng tôi về đây hay không.

- Nó về ban đêm, chòm xóm làm sao mà thấy được?

- Bẩm ông, không có về hồi nào hết. Nếu có về, dầu ban đêm đi nữa, cũng có một hai người thấy chớ, thiệt không có.

Ông Cò dạy dắt Ba Trâm ra ngoài, rồi dắt con Hào vô.

Con Hào sợ run lập-cập, thấy cha nó ngồi dưới đất mà nó không dám ngó.

Ông Cò biểu hỏi nó rằng:

- Hổm nay cha mầy ở nhà hay đi đâu?

- Ba tôi đi đâu mất mấy bữa rày, không có về nhà.

- Đi hồi nào?

- Đi bữa hổm, đi ban đêm.

- Đi bữa hổm là bữa nào?

- Tôi không nhớ.

- Phải đi hồi hôm nầy hay không?

- Không. Đi lâu rồi.

- Chừng mấy bữa?

- Bốn năm bữa rồi.

- Đi rồi có trở về hay không?

- Không.

Ông Cò rùn vai, kêu một thầy Đội mà sai đem con Hào ra ngoài, rồi đi hỏi chòm xóm coi mấy bữa rày có ai thấy Cặp-rằng Mậu về hay không.

Ông lại day qua hỏi Cặp-rằng Mậu rằng:

- Mấy bữa rày mầy không có về nhà, vậy chớ mầy đi đâu?

- Tôi rầy lộn với vợ tôi, hổm nay tôi không về nhà, tôi ở dưới nhà Tám Thiệt.

- Tám Thiệt ở đâu?

- Tám Thiệt làm một sở với tôi, nhà ở dưới Xóm-Chiếu.

- Hồi hôm mầy có ở đó hay không?

- Có đêm hồi hôm tôi ngủ tại nhà Tám Thiệt tới sáng.

- Mầy ngủ ở nhà Tám Thiệt mà sao lính lại lượm được cái xe máy của mầy gần chỗ Mái-Chín[3] Cúng bị giựt bạc?

- Xe máy của tôi mất hổm nay.

- Mất xe máy mầy có cớ bót hay không?

- Không. Việc nhỏ mọn nên tôi không cớ.

Thầy Đội mà ông Cò sai đi hồi nãy đó, thầy trở về nói rằng mấy người ở gần đều khai mấy bữa rày không thấy Cặp-rằng Mậu về nhà.

Ông Cò biểu một thầy Đội nói với Mậu nữa rằng:

- Nếu mấy bữa rày mầy không có về đây, tức thì tiền bạc mầy giựt của người ta hồi hôm mầy đem giấu chỗ khác. Giấu chỗ nào mầy phải chỉ liền bây giờ, nếu mầy không chỉ tao đánh mầy chết.

- Trời đất ơi! Tôi có giựt tiền giựt bạc của ai hồì nào đâu mà biểu tôi chỉ.

- Mầy cứ chối hoài hả?

Ông Cò vừa nói vừa tống cho Mậu một bạt tay chảy máu răng rồi hăm rằng: "Để rồi mầy coi tao". Ông lại biểu người Biện Tây dắt Mậu ra xe. Ông với mấy thầy Đội cũng ra theo.

Lúc ấy mặt trời đã chen lặn, thợ thuyền đi làm về dập dều, ai thấy nhà Mậu có Cò lính tới đông cũng đều đứng lại mà ngó.

Khi Mậu ra tới lộ, anh thấy vợ con đứng đó, vì có lính cặp hai bên nên anh không dám nói chuyện song anh ngó con rồi ngó vợ cười chúm chím, không lộ sắc buồn hay là lo chút nào hết. Mậu và lính lên rồi thì xe chạy thẳng xuống phía Xóm-Chiếu.

Chòm xóm và người quen đi ngang nãy giờ đứng xa xa mà coi, chừng thấy xe của Cò và lính đi rồi, mới áp lại hỏi Ba Trâm tại cớ nào mà Mậu bị lính bắt.

Bây giờ Ba Trâm mới khóc thút thít mà nói rằng: "Tôi có biết chuyện gì đâu. Giận tôi rồi bỏ nhà đi biệt mấy bữa rày. Làm việc gì mà bị bắt đó tôi có hiểu đâu".

Có người nhắc rằng: "Chắc là đánh lộn đâu đó, bị họ khai, nên Cò bót bắt chớ gì".

Người khác cãi rằng: "Đánh lộn thì lính bắt giam mà tra hỏi rồi giải tòa, chớ xét nhà làm chi. Cò bót đến xét nhà đây, tôi sợ họ nghi về vụ trộm cướp nào đó chớ".

Chòm xóm bàn bàn luận luận một hồi rất lâu rồi thủng-thẳng rút đi về nhà. Trong đám đó có Hai Tiền. Chị ta chảy nước mắt, chớ không nói chi hết.

Ba Trâm trở vô nhà thấy bàn ghế giường chõng nghênh ngang như nhà hoang, bèn lo dọn-dẹp lại rồi lên võng mà nằm. Con Hào hỏi mẹ nó rằng: "Họ kiếm giống gì trong nhà mình vậy má?"

Ba Trâm lặng thinh một hồi rồi đáp rằng:

- Ai biết họ kiếm giống gì.

- Con thấy ông Cò con sợ quá.

- Mình có tội gì mà mình sợ.

- Họ dắt ba đi rồi chừug nào họ thả ba về, má?

- Mai mốt họ thả.

Thằng Hiệp đi bán nhựt-trình về, nó bước vô, cũng đưa một cái bánh cho con Hào như mấy bữa trước, lại cười ngỏn-ngoẻn.

Con Hào 1iền nóì với nó rằng:

- Ba bị lính bắt rồi, anh Hiệp à.

- Bắt hồi nào?

- Bắt hồi nào không biết, mà cò với lính dắt về nhà lục kiếm cùng hết, rồi chở ba đi nữa: mới đi hồi nãy đây.

Hiệp nghe nói thì ngẩn ngơ. Nó day lại thấy Ba Trâm nằm trên võng bèn hỏi rằng:

- Tại sao ba tôi bị bắt vậy dì?

- Mấy bữa rày đi làm giống gì ở đâu rồi bị bắt, tao ở nhà tao có biết đâu.

- Họ có dắt ba tôi về đây rồi họ xét nhà nữa sao?

- Chớ sao. Họ xét nhà làm tan hoang hết.

Hiệp đứng suy nghĩ rồi nói rằng: "Nếu họ xét nhà thì chắc họ nghi ba hoặc chứa đồ lậu, hoặc ăn trộm, hoặc ăn cắp chớ gì. Bữa nay mấy tờ nhựt-trình không có tờ nào nói chuyện bắt đồ lậu hay là trộm cắp mà... À, à, có một tờ nói đêm hồi hôm, lối mười giờ, có một người Mái-Chín ở trong Chợ-lớn đi ra Sàigòn, đi xe kéo, gần tới xóm Bàn-Cờ thì bị người ta chận đường giựt cái cặp da có đựng hai mươi lăm ngàn đồng bạc. Người Mái-Chín la lên và rượt kẻ gian mà lấy cặp da lại, nên bị kẻ gian chém một dao trên đầu nặng lắm, té xỉu máu ra linh-láng. Kẻ gian lấy bạc chạy mất. Sở Cảnh-sát đương tìm kiếm gắt lắm. Không lẽ ba liên can trong vụ ấy ... Tối rồi, không biết lính đem ba về bót nào đặng kiếm mà hỏi thăm thử coi".

Ba Trâm nói: "Hồi chiều xe hơi của ông Cò chở ba mầy đi ngã Xóm-Chiếu, không biết đem đi đâu. Vậy đi kiếm thử coi may có gặp hay khỏng".

Hiệp móc túi lấy hai cắc bạc mà đưa cho Ba Trâm rồi bước ra cửa mà đi. Trời tối mò mà lại chuyển mưa nữa, Hiệp đi riết xuống bót Khánh-Hội nghểu nghến trước bót trót giờ đồng hồ, mà không thấy chi hết, lại cũng không dám hỏi thăm lính. Trời mưa gió ầm-ầm, nó ướt mình hết, lạnh lẽo chịu không nổi, nó phải trở về nhà.

Ba Trâm mở cửa cho nó vô và hỏi rằng:

- Kiếm được ba mầy không?

- Không được. Bót nhiều quá, không biết họ đem ba về bót nào. Trời mưa lạnh quá, nên tôi về rồi sáng tôi sẽ đi kiếm nữa.

- Hồi chiều đến giờ ăn cơm rồi hay chưa?

- Chưa.

- Còn cơm dưới nhà sau. Bưng đèn xuống dưới lấy mà ăn.

- Tôi không đói. Hồi chiều tôi có ăn bánh.

Ba Trâm trở vô buồng mà nghỉ. Thằng Hiệp cổi quần áo ướt mà vắt cho ráo nước, rồi gắn theo nẹp vách mà phơi. Nó lấy bộ khác mà bận vô, mà bộ đồ nầy rách rả, nên lòi vai lòi đít hết. Nó tắt đèn rồi lên võng mà nằm, nghe đầu trên có tiếng chó sủa vang-rân, rồi lại nghe dưới kinh tàu dắt ghe chạy ngang súp-lê inh-ỏi. Nó nằm suy nghĩ hoài, mà không hiểu cha nó có tội gì mà bị lính bắt. Nó thao thức sáng đêm ngủ không được.

Trời hừng sáng, thằng Hiệp rờ bộ đồ ướt hồi hôm đã khô rồi, nó bèn thay áo quần rách ra mà bận bộ đồ ấy vô, lấy cái nón nỉ cũ của nó mà đội rồi mở cửa ra đi. Nó qua bót Quận nhì trước, nó đi qua đi lại trước bót, chờ coi lính có dắt cha nó ra mà tra hỏi hay không. Nó không thấy tâm dạng chi hết, mới đi ra bót Quận-nhứt rồi lần lên bót Quận ba.

Đã trưa rồi mà tìm không ra mối, nó mới trở xuống chợ Bến-Thành, đi nghểu-nghến chung quanh chợ. Thình lình ở sau lưng có tiếng hỏi rằng: "Hiệp, mầy đi đâu đó? Sao bữa nay mầy không bán nhựt-trình?"

Thằng Hiệp day lại thì thấy thằng Cao là bạn bán nhựt-trình như nó; tay ôm một bó nhựt-trình đủ thứ hết. Nó bèn hỏi thằng Cao rằng:

- Bữa nay bán khá không mậy?

- Không khá mấy. Từ hồi sớm mơi tới bây giờ mới bán được có ba mưoi mấy số.

- Ba mươi mấy số còn gì nữa?

- Sao bữa nay mầy không bán, lại thả đi chơi?

- Tao mắc đi kiếm ba tao.

- Ba mầy ở đâu mà kiếm?

- Hôm qua ba tao bị lính bắt, không biết họ đem về bót nào, mà từ hồi hôm tới giờ tao đi ngang mấy bót đủ hết, song tao không thấy.

- Cò bót bắt, họ giam trong khám, mầy đi ngang ngoài đường làm sao mà thấy được. Ba mầy làm giống gì mà bị lính bắt?

- Không hiểu. Đâu mầy cho tao mượn mấy thứ nhựt-trình của mầy đặng tao kiếm thử coi có nói chuyện ba tao bị bắt hay không.

- Không đươc đâu mầy. Mầy mở ra mầy coi, rách băng rồi tao làm sao.

- Tao biết mở mà, không rách đâu. Mầy tưởug tao dại lắm sao? Nhà nghề mà. Tao mở ra tao coi một chút rồi tao xin bún tao dán lại được mà.

- Thôi, đi qua gare[4] đây mà coi.

Hai đứa dắt nhau qua gare xe điện, lại cái băng[5] trong góc mà ngồi rồi thằng Hiệp mới lập thế gỡ băng mở tờ "Nam-Kỳ Tân-Văn" ra mà coi. Trương đầu có bài tựa đề chữ lớn như vầy:

Vụ cướp hai mươi lăm ngàn

Người bị cướp sợ không sống

Hai gian nhơn đã bị bắt.

Thằng Hiệp thấy tựa như vậy thì đọc thử coi ai bị bắt đó. Bài ấy nói như vầy:

"Số báo hôm qua chúng tôi có thông tin vụ Mái-Chín Cúng bị ăn cướp giựt một số bạc rất lớn mà lại còn bị bọn cướp chém rất nặng. Nay chúng tôi xin thuật rõ ràng vụ ấy cho độc giả biết thói tàn nhẫn của kẻ gian.

Mái-Chín Cúng tuổi gần năm mươi, vóc ốm yếu, nhà ở Sàigòn, đường Lefèbvre có vợ xẩm, mà lại có một vợ người Nam nữa ở tại Ngã Sáu trong Chợlớn. Không ai biết chú làm nghề gì song người ở miệt Xóm-Chiếu thường thấy hễ có tàu hàng ở bên Tàu qua thì chú hay xuống tàu. Thường ngày chú đi một cái xe kéo nhà và chú hay dùng cái xe kéo ấy mà ra vô trong Chợ-lớn, chớ không đi xe điện.

Theo lời của Mái-Chín Cúng khai, thì đêm hôm qua, đúng mười giờ tối, chú ở Ngã-Sáu ngồi xe kéo mà về Sài-gòn. Chú có đem theo một cái cặp da, trong ấy có một số bạc hai mươi lăm ngàn đồng, có giấy một trăm, giấy hai chục và giấy năm đồng. Ngồi trên xe, chú để cái cặp da khít bên mình. Về gần tới xóm Bàn-Cờ thình-lình có hai người Việt-Nam, tay cầm dao chận xe kéo chú lại, rồi một người giựt cái cặp da mà chạy vô phía đồng Tập-trận. Chú lật-đật nhảy xuống xe mà chạy theo và la om sòm, quyết giựt cái cặp da lại. Thằng gian thứ nhì nhảy theo chém chú hai dao té quị xuống đất, rồi nó chạy theo thằng trước mà vô đồng.

Tên Năm là người kéo xe kéo Mái-Chín Cúng, thấy chủ bị nguy, nhưng vì không có khí giới nên không dám tiếp cứu. Phải chạy ra phía Chợ-Đũi mà la Mã-tà[6]. Lính gác chạy vô tới chỗ thì bọn cướp đã trốn mất, chỉ thấy Mái-Chin Cúng nằm dựa lề đường bị hai vết dao chém, một vết tại cánh tay mặt, đứt thịt thấu xương và một vết tại bàng tang phía trái, làm đứt lìa cái tai, máu chảy lai-láng.

Lính liền báo cho bót hay. Ông Cò quận ba ngồi xe hơi chạy vô, khám thương tích Mái-Chín Cúng rồi cho xe chở vô nhà thương Chợ-Rẩy. Ông truyền lịnh cho lính đi rảo trong đồng Tập-Trận mà tìm kiếm gian-nhơn, song kiếm không được bọn cướp, chỉ được hai cái xe máy bỏ trên cái gò mả. Trong hai cái xe máy ấy, một cái không có khắc tên chủ xe, còn một cái gắn tấm plaque[7] khắc tên: Lý-trường-Mậu".

Thằng Hiệp đọc tới đó thì biến sắc, kêu thằng Cao mà nói rằng:

- Cao ơi, chắc ba tao bị bắt về vụ 25 ngàn đây chớ gì. Có xe máy của ba tao đây.

- Nếu vậy thì mầy no.

- No cái gì? Ba tao có phải là người cướp trộm đâu mậy. Ba tao làm ăn mà.

- Đâu, mầy đọc hết bài coi mà.

Thằng Hiệp đọc tiếp như vầy:

"Nhờ bắt được hai cái xe máy nầy, sở cảnh-sát phăng lần mới bắt được Lý-trường-Mậu, nhà ở Vĩnh-Hội, làm Cặp-rằng phụ trong một hãng vận tải. Mậu khai ra mới bắt thêm đồng lõa là Tám-Thiệt, nhà ở Xóm-Chiếu, làm cu-ly trong hãng ấy. Tuy gian-nhơn cứ chối hoài, song Cò bót xét nhà Thiệt có tìm được một số bạc năm ngàn đồng, nên nhà đương cuộc định chắc hai tên ấy là kẻ cướp và cũng chắc trong vài ngày nữa sẽ tìm ra được số bạc của Mái-Chín Cúng bị giựt.

Còn Mái-Chín Cúng thì đương nằm tại nhà thương, bịnh coi nặng lắm, quan thầy-thuốc chưa dám chắc cứu được hay không.

Được tin gì thêm nữa, bổn báo sẽ đăng cho công-chúng biết".

Thằng Hiệp đọc dứt bài rồi thì rưng-rưng nước mắt và nói quả-quyết với thằng Cao rằng:

- Tuy nhựt-trình nói như vậy, song tao chắc ba tao không có giựt của đâu.

- Không có sao mà cò bót bắt.

- Họ nghi rồi họ bắt nhầu chớ gì.

- Bị họ bắt được cái xe máy của ba mầy đó, nên tao sợ khó gỡ chớ.

- Ừ, xe máy ở đâu mà lại đem bỏ đó không biết. Tao muốn kiếm ba tao đặng tao hỏi thử coi. Không biết bây giờ họ giam ở đâu.

- Theo bài nhựt-trình đó thì ông Cò quận ba tra xét, chắc ba mầy bị giam trên bót quận ba chớ đâu.

- Mầỵ nói có lý: để tao lên bót Giếng-Nước tao lập thế hỏi dọ thử coi.

- Mầy tưởng dễ lắm sao? Mầy láng-chán lên đó lính đánh mầy chết.

- Tao ở ngoài lộ, có làm việc chi đâu mà họ đánh.

- Ở ngoài lộ làm sao mà hỏi thăm ba mầy được.

- Thây kệ! Lên đó rồi sẽ hay.

- Mầy ăn cơm chưa?

- Từ hồi chiều hôm qua cho tới bây giờ tao không có ăn cơm, hôm qua bán nhựt-trình về tao giao cho dì tao hai cắc, dư mấy xu tao ăn bánh trừ cơm.

- Thằng nhịn đói giỏi dữ!

- Từ sớm mơi tới giờ tao bán được ba mươi mấy số nhựt-trình. Thôi tao với mầy xuống chợ cũ ăn cơm cho no rồi sẽ đi kiếm ba mầy chớ.

- Mầy bao cho tao nghe không, chớ thiệt tao không có tiền đa.

- Được mà, tao bao.

- Mà rồi mầy cũng phải cho luôn tao số nhựt-trình "Nam-kỳ" nầy đa, cho đặng tao đem về tao đọc cho dì tao nghe.

- Được. Tao sẵn lòng với mầy luôn luôn mà.

Hai đứa dắt nhau xuống chợ cũ ăn cơm hết sáu xu, rồi phải phân rẽ nhau, thằng Cao đi bán nhựt-trình, còn thằng Hiệp cầm tờ "Nam-kỳ Tân-văn" lên bót Giếng-Nước.

Thằng Hiệp ngồi ngoài lộ mà chờ tới tối mò mà không thấy tâm dạng cha nó. Nó bèn đi về nhà kiếm cơm ăn và đọc bài nhựt-trình cho Ba Trâm nghe.

Ba Trâm thì chăm chỉ nghe đọc, song sắc mặt coi không buồn chi lắm.

Qua ngày sau, thằng Hiệp lên bót Giếng-Nước mà đón. Gần 10 giờ nó thấy có một cái xe hơi ở phía sau chạy ra đậu trước cửa bót, rồi một ông Cò với hai thầy đội dắt cha nó với môt người nữa đem lên xe. Nó lật-đật chạy lại thì bị lính đuổi, nên nó không nói được một tiếng chi với cha nó. Xe hơi mở máy mà chạy, nó đứng ngơ-ngáo, không hiểu họ đem cha nó đi đâu. May lúc ấy có hai người lính nói chuyện với nhau, nó nghe một người nói: "Bọn nầy cứ chối hoài! Giải xuống Tòa coi chúng nó có chịu khai hay không". Thằng Hiệp nghe như vậy mới biết họ giải cha nó ra Tòa, nên đi riết xuống Tòa đứng ngoài cửa mà đón nữa.

Đến 11 giờ rưỡi, hai thầy đội mới dắt Cặp-rằng Mậu và Tám Thiệt trong Tòa đi ra. Mậu vừa thấy thằng Hiệp thì nói rằng: "Tòa giam ba rồi. Con về đi. Không có sao đâu mà sợ".

Thằng Hiệp khóc ròng, đứng ngó theo người ta dắt cha nó vô khám lớn.

Nó trở về nhà thuật lại cho Ba Trâm nghe, rồi bữa sau đi bán nhựt-trình đặng kiếm tiền ăn.

[1] tiếng Pháp: poste, hiểu ngầm: poste de police, trạm cảnh sát/đồn công an. Poste còn có nghĩa là đồn lính.

[2] Xom hay xăm (tiếng Khmer): dùng chỉa có 3 đầu nhọn đâm cá.

[3] phát âm theo Triều Châu: 買進 (mãi tấn), người thay mặt hãng buôn lớn nước ngoài để làm môi giới, giao thiệp với khách hàng

[4] tiếng Pháp đã được Việt hóa gare=ga: trạm, bến xe lửa, xe điện.

[5] tiếng Pháp: banc= ghế dài trong các nơi công cộng để nghỉ chân.

[6] tiếng Mã-Lai: mata-mata= cảnh sát

[7] ( tiếng Pháp: plaque) = bảng số xe, miếng nhôm mỏng khắc tên chủ xe sau khi đóng thuế lưu hành .

Lạc Ðường

Hồ Biểu Chánh

Chương IV

Tòa xử

Cách hai tháng sau, các nhựt-báo đều đăng tin Tòa Đại-Hình Sàigòn định ngày nhóm xử, lại cũng đăng luôn chương trình Tòa định ngày nào sẽ xử những vụ nào.

Thằng Hiệp đi bán nhựt-báo, nó đọc chương trình ấy, nó thấy có vụ cha nó và Tám Thiệt bị cáo về tội chém Mái-Chín Cúng mà giựt bạc, nên tối nó về nhà nó thuật lại cho dì ghẻ nó hay.

Ba Trâm, tuy chồng bị giam, song bề ăn ở cũng như thường, nếu ai hỏi thăm Cặp-rằng Mậu thì cô làm bộ buồn, còn ở trong nhà với con thì cô cũng vui vẻ như không có tai họa chi hết.

Cô nghe thằng Hiệp nói cha nó sẽ bị Tòa Đại-Hinh xử, thì cô không lộ sắc lo sợ hay là buồn rầu. Cô chỉ hỏi nó:

- Không biết Tòa Đại-Hình xử, mình đi coi được hay không?

- Được chớ. Ai vô cũng được hết thảy. Tôi đi coi hai ba lần rồi. Dì muốn đi, thì bữa đó tôi dắt dì đi.

- Ừ, bữa đó mầy dắt tao đi với con Hào vô Tòa đặng tao thấy mặt ba mầy một chút. Không biết họ có cho nói chuyện hay không?

- Nói chuyện đâu được!

- Tưởng nói được thì tao nói cho ba mầy hay, ở nhà vợ con no ấm. Không có sao đâu mà lo.

- Mấy tháng nay ba bị giam, không có lãnh lương nữa, rồi làm sao đủ tiền ăn vậy dì?

- Thì mỗi bữa mầy bán nhựt-trình mầy đưa cho tao hai cắc đó, tao mua gạo ăn. Có nhiều ăn nhiều, có ít ăn ít, phải tiện tặn chớ sao; còn bữa nào có thiếu hụt thì tao chạy qua dì Tư mầy bên Cầu Ông-Lãnh tao xin. Xưa rày dì Tư mầy nó giúp cho tao có mấy chục đồng rồi.

- Dì Tư giúp thì chừng ba về ba làm rồi ba trả lại cho dì.

- Biết có về được hay không!

- Sao lại không về. Tôi chắc ba tôi chẳng bao giờ cướp giựt của ai. Cò bót lượm được cái xe máy của ba đó, họ nghi như vậy thôi, thế nào chừng xử, Tòa cũng tha bổng.

- Nếu được như vậy thì nói gì!

- Để bữa xử rồi dì coi.

Tới ngày Tòa xử, thằng Hiệp thức dậy sớm, nó xin dì ghẻ nó sửa soạn đặng nó dắt dì đi. Ba Trâm mặc một cái áo xuyến với một cái quần lãnh mới, tóc bới vẻm vang, răng đánh sạch bốp, con Hào thì bận quần lãnh đen với áo bà ba lụa trắng, đầu có cài lược cài. Còn thằng Hiệp thì nó cũng còn mặc cái quần vải đen cụt với cái áo vải trắng cũ như hồi trước.

Ba mẹ con dắt nhau qua Cầu Ông-Lãnh rồi lên Tòa.

Tuy chưa tới giờ, song biện Tây, Sen-đầm[1] đã đứng bao chung quanh phòng xử và bà con của tội nhơn cùng là chứng và Trạng-sư đều tựu lại đông nức.

Ba Trâm với hai đứa nhỏ lại đứng trong một góc trước phòng xử với nhiều người đờn bà khác, cách chẳng bao lâu lính giải tội nhơn nắm tay nhau mà đi hai hàng, hai bên thì lính theo giữ.

Thằng Hiệp kéo tay dì ghẻ nó và chỉ trong đám tội nhơn mà nói: "Ba kìa, dì". Ba Trâm gật đầu. Con Hào nói: "Ba bận quần áo sao mà nhàu nhè hết vậy má há? Còn ba cạo đầu trọc lóc chi vậy?".

Lính dắt tội nhơn vô phòng xử mà sắp cho ngồi có thứ tự rồi đứng chung quanh mà giữ.

Cách một lát, người ta cho phép chứng và bà con của tội nhơn cùng là công chúng vô phòng xử. Mẹ con Ba Trâm đi theo họ vô ngồi một cái băng để gần cửa với nhiều người khác.

Thằng Hiệp ngó đám tội nhơn ngồi phía trước mà kiếm cha nó. Cặp-rằng Mậu day lại thấy vợ con thì cười, coi bộ không lo sợ buồn rầu chi hết.

Lần lần người ta vô càng thêm đông, chen lấn nhau mà ngồi. Quan chưởng-Lý, quan Lục-Sự, Trưởng-Tòa và Trạng-Sư cũng đều tựu đủ.

Đồng hồ gõ 8 giờ, kế nghe tiếng chuông run ở trong, rồi ba quan Tòa bận áo đỏ với ba ông Hội-Đồng thẩm án Việt-Nam bận áo dài, bịt khăn đen, mở cửa phía trong mà bước ra. Ông Trưởng-Tòa hô một tiếng lớn, ai nấy đều đứng dậy hết thảy.

Các quan Tòa ngồi hàng giữa ngó ra phía ngoài, một bên thì quan Chưởng-Lý, còn một bên thì quan Lục-Sự với thầy thông-ngôn ngồi. Các quan Trạng-Sư ông thì đứng, ông thì ngồi tại hai cái bàn trước. Trong phòng xử đều lặng trang, cái không khí oai nghiêm làm cho người hung dữ đến đây thế nào cũng phải khiếp sợ.

Thằng Hiệp hồi hộp trong lòng, lấy tay cào Ba Trâm mà nói nhỏ rằng: "Tôi ghê quá dì". Ba Trâm cũng sợ, nên hất tay nó và lắc đầu, tỏ dấu biểu đừng nói chuyện.

Quan Lục-Sự kêu tên Lý-trường-Mậu và Lê-văn-Thiệt, và đọc một tờ dài lắm. Chừng đọc dứt rồi, thầy Thông-ngôn mới kêu Mậu đứng dậy biểu đưa tay lên mà thề khai thiệt, rồi hỏi tên họ gì, mấy tuổi, sanh đẻ ở đâu, làm nghề nghiệp gì, nhà cửa ở đâu, có vợ hay không.

Cặp-rằng Mậu trả lời rõ ràng rằng: "Tôi tên Lý-trường-Mậu, 40 tuổi, sanh đẻ ở Sàigòn, làm Cặp-rằng phụ cho hãng vận-tải tại Xóm-Chiếu, nhà ở dựa kinh Dérivation, có vợ và có hai đứa con.

Tòa hỏi: Anh giúp việc cho hãng vận-tải được bao lâu?

Mậu đáp: Hơn ba năm rồi.

Tòa hỏi: Anh ăn lương mỗi tháng bao nhiêu?

Mậu đáp: Hai mươi lăm đồng.

Thầy thông ngôn nói: Anh bị cáo trong đêm 12 tháng ba Tây năm nay, lối chừng mười giờ tối, anh hiệp với tên Tám Thiệt, là người làm việc một sở với anh, mà núp dựa mé đường Chasseloup-Laubat nối dài vô Chợlớn, nơi khoảng vắng vẻ không có nhà, tay lại có cầm khí giới, rồi chận xe kéo của người khách-trú tên Mái-Chín Cúng mà giựt cái cặp da, trong ấy có đựng 25 ngàn đồng bạc giấy. Theo hồ sơ thì chính mình anh giựt cái cặp ấy mà chạy. Mái-Chín Cúng chạy theo níu anh mà la. Tên Tám Thiệt nhảy đến chém Mái-Chín Cúng hai dao té quị, rồi hai người mới chạy vô đồng Tập-trận mà thoát thân. Tài chủ và anh xa phu đã nhìn anh một cách quả quyết mà cò bót lại lấy được hai cái xe máy trong đồng Tập-trận, gần chỗ cướp giựt ấy, một cái plaque khắc tên họ anh rõ ràng. Anh có nhận các điều mới nói, sự thiệt hay không? Hay là anh có điều chi để chữa mình thì khai hết cho Tòa nghe.

Mậu đứng êm một chút rồi tằng hắng và đáp rằng: "Bẩm quan Tòa, những điều Tòa mới nói đó thiệt tôi không hay biết chút nào hết. Tôi vô can mà. Mái-Chín Cúng với tên Năm là người kéo xe lại nhìn mặt và khai quả quyết tôi giựt bạc. Thiệt đêm 12 tháng ba, tôi ngủ tại nhà Tám Thiệt bên Xóm-Chiếu. Đêm ấy tên Tân lại chơi và nói chuyện với tôi và Tám Thiệt quá mười một giờ khuya, rồi mới về. Nếu mười một giờ tôi còn ở nhà Tám Thiệt bên Xóm-Chiếu thì làm sao mà hồi mười giờ tôi đón Mái-Chín Cúng tại Bàn-Cờ cách Xóm-Chiếu ba bốn cây số ngàn mà giựt bạc cho được. Xin Tòa thẩm xét lại kẻo oan cho tôi tội nghiệp.

Tòa nói: Phải, theo lời khai chứng của anh, là tên Tân, thì hồi 11 giờ anh với Tám Thiệt còn ở tại Xóm-Chiếu. Song lời khai ấy không tin được là vì tên Tân là bạn hữu làm chung một sở với anh, có lẽ là tên Tân khai như vậy đặng cứu anh.

Mậu đáp: Bẩm, tôi có tội hay là vô tội là do lời khai của tên Tân. Vả lại tên Tân có ngồi nói chuyện chơi với tôi tới 11 giờ, nên nó khai sự thiệt như vậy, mà Tòa muốn xử tôi cách nào tôi cũng cúi đầu vưng chịu hết.

Tòa nói: Anh đừng nói vậy. Nếu xét ra mà anh vô tội thì Tòa có lẽ đâu lại làm tội anh. Tiếc vì lời khai của chứng anh là một bằng cớ mỏng mảnh quá, không đủ chỉ rõ anh vô tội, còn có nhiều việc khác làm cho Tòa quả quyết anh có tội kia mà. Sở cảnh-sát lấy được cái xe máy của anh gần chỗ Mái-Chín Cúng bị cướp giựt, đó là một cái bằng cớ chắc chắn quá, anh có thế nào mà cãi được.

Mậu đáp: Bẩm quan Tòa, vụ cái xe máy thì tôi đã khai với quan Thẩm-Án rằng tôi bị người ta ăn cắp mấy bữa trước. Người ăn cắp xe của tôi rồi đi cướp giựt người khác, tôi cũng phải bị liên can về sự cướp giựt đó hay sao? Tôi chắc Tòa chẳng bao giờ gắt gao đến thế.

Tòa nói: Anh bị người ta ăn cắp xe máy mà anh không có cớ Cò bót. Bây giờ đổ bể, anh khai như vậy, làm sao Tòa tin anh cho được. Huống chi anh ở chung một nhà với Tám Thiệt...

Mậu chận mà cãi: Bẩm, tôi có nhà riêng, tôi có vợ con; thuở nay tôi ở nhà tôi, chớ không phải ở chung với Tám Thiệt, vì tôi có việc xích mích với vợ tôi, nên tôi lại ở với Tám Thiệt có ba bốn ngày mà thôi.

Tòa nói: Phải. Tòa muốn nói trong lúc Mái-Chín Cúng bị giựt bạc và bị chém thì anh ở một nhà với Tám Thiệt, mà chừng Cò bắt anh thì anh cũng còn ở đó. Anh với Tám Thiệt ở chung một nhà, sở cảnh-sát lấy được cái xe máy của anh với một cái xe máy khác nữa gần chỗ Mái-Chín Cúng bị cướp, lại tìm được gần nhà Tám Thiệt năm ngàn đồng bạc, những việc ấy há không đủ cớ cho Tòa đoán quyết anh với Tám Thiệt hiệp nhau mà cướp giựt hay sao?

Mậu đáp: Bẩm, Cò bót xét lấy năm ngàn đồng bạc gần nhà Tám Thiệt, chớ không phải trong nhà.

Tòa nói: Anh dụng tâm mà cãi như vậy không hay. Cách cãi như vậy thì làm cho Tòa thấy anh kiếm lời chữa mình, chớ không phải nhận anh vô tội đâu.

Mậu đáp: Mà dầu kiếm được năm ngàn đồng bạc đó trong nhà đi nữa, tôi cũng không có tội bởi vì nếu tôi có giựt bạc thì tôi đem về nhà tôi giấu, mà ông Cò xét nhà tôi không có một đồng bạc nào hết.

Tòa nói: Anh chữa mình thật là khôn lanh. Dầu anh nói giống gì, cũng không khỏi Tòa nghi anh giựt bạc, anh chia cho Tám Thiệt năm ngàn, còn hai chục ngàn anh giấu chỗ khác.

Mậu đáp: Cái "nghi" của Tòa tôi không thế nào cãi được. Tôi chỉ lạy Tòa kiếm cho đủ bằng cớ rồi sẽ làm tội tôi, chớ không có bằng cớ, cứ dùng cái "nghi" mà kêu án thì oan cho một người vô tội.

Tòa nói: Tòa sẽ cho anh thấy bằng cớ.

Quan Chánh Tòa dạy Mậu trở lại chỗ cũ mà ngồi, rồi kêu Mái-Chín Cúng đứng lên trước mặt Tòa mà khai.

Mái-Chín Cúng đứt mất một cái tai bên trái, tại màng-tang lại có một cái thẹo rất lớn vừa mới lành. Lời khai của chú giống in như lời của quan Chánh-Tòa nói hồi nãy. Tòa dạy chú chỉ trong đám tội nhơn coi người nào giựt cặp da đựng bạc, người nào chém. Chú Mái-Chín day lại, ngó qua đám tội nhơn rồi chỉ Lý-trường-Mậu nói quả quyết rằng tên ấy giựt cái cặp da, lại chỉ Tám Thiệt mà nói tên đó chém chú.

Tòa kêu tên Năm, là người kéo xe cho Mái-Chín Cúng, lên mà hỏi thì người nầy khai và chỉ tội nhơn y như Mái-Chín Cúng.

Trong phòng xử im lìm, dường như có một luồng gió làm lạnh hết thảy trong lòng dạ của những người ngồi trong đó.

Một vị Trạng-sư đứng dậy nói: Tôi rất cung kính xin Tòa hỏi Mái-Chín Cúng với tên Năm coi thuở nay có biết mặt tên Mậu và tên Thiệt hay không.

Quan Chánh-Tòa nói: Theo hồ sơ thì hai người nầy đã có khai tại phòng Thẩm-án rằng: trước vụ cướp giựt thì chẳng hề gặp Mậu và Thiệt lần nào. Như Trạng-sư muốn hỏi thêm Tòa sẵn lòng nhậm lời xin.

Quan Chánh-Tòa hỏi Mái-Chín Cúng với tên Năm thì hai người đều khai trước vụ cướp giựt hai người không quen biết với Mậu và Thiệt.

Trạng-sư nói: Xin Tòa nhớ giùm lời khai nầy cho bị cáo nhờ. Mái-Chín Cúng ăn cơm với vợ Việt-Nam, thế nào cũng có uống rượu chút đỉnh. Ngồi xe kéo trở về Sàigòn lúc mười giờ tối, trời trong gió mát, tự nhiên trong lòng khoẻ khoắn, cặp mắt lim dim. Còn tên Năm kéo xe, chạy đường dài tự nhiên phải mệt thân thể, lả mồ hôi, cặp mắt đổ hào quang. Thình lình bọn cướp chận đường, chủ ngồi trên xe, tớ kéo ở dưới, tự nhiên cả hai đều phải hết hồn mất vía. Đã vậy mà cái thời gian giựt cặp da và chém, nó ngắn ngủn mau lẹ như nháy mắt, phần ban đêm tăm tối, có lẽ nào Cúng với Năm nhớ mặt kẻ cướp cho được.

Quan Chưởng-lý chận mà nói: Tôi xin cãi với ông Trạng-sư rằng chỗ "cướp giựt" đó không phải tăm tối. Đường có đèn khí sáng quắc.

Trạng-sư cười và đáp: Tôi vẫn biết đường ấy có đèn khí. Nhưng tôi xin cãi lại rằng nhà nước cắm đèn khí tới năm chục thước mới có một ngọn, bọn cướp không dại gì núp dưới ngọn đèn mà chờ đặng chận đường, tự nhiên chúng nó núp cho xa ngọn đèn, nghĩa là cách 25 thước, thì làm sao thấy rõ gương mặt chúng nó được.

Quan Chánh-Tòa hỏi: Quan Chưởng-lý chưa buộc tội mà sao ông lại cãi?

Trạng-sư đáp: Không. Tôi chưa cãi. Tôi chỉ xin Tòa ghi nhớ mấy khoản tôi đã vạch ra đó mà thôi.

Quan Chánh-Tòa gặt đầu rồi kêu Lý-trường-Mậu đứng dậy mà nói: Anh muốn có bằng cớ, thì Mái-Chín Cúng với anh Năm là bằng cớ hiển hiện đây, anh vừa lòng chưa?

Mậu đáp: Bẩm đó là chứng, chớ không phải bằng cớ. Nếu Tòa tin lời chứng đó, thì tôi xin cũng tin lời chứng của tôi với.

Quan Chánh-Tòa nói: Tòa sẽ hỏi chứng của anh.

Quan Chánh-Tòa biểu kêu tên chứng, là tên Tân. Ngài dạy tên Tân đưa tay mặt lên mà thề rồi hỏi tên Tân đêm mười hai tháng ba có nói chuyện với Mậu và Thiệt hay không, nói ở đâu, từ giờ nào tới giờ nào?

Tên Tân khai rõ ràng đêm ấy nó ghé nhà thăm Tám Thiệt hồi tám giờ tối, có Cặp-rằng Mậu ở đó. Ba người ngồi nói chuyện chơi tới mười một giờ khuya nó buồn ngủ nên mới từ giã mà về nhà. Hồi nó ra về thì Mậu đương giăng mùng sửa soạn ngủ.

Tòa hỏi: Anh thấy trong nhà Tám Thiệt có đồng hồ hay không?

Tân đáp: Tôi không để ý đến sự đó.

Tòa hỏi: Bữa đó anh có đồng hồ trái quít trong túi anh hay không?

Tân đáp: Tôi không có sắm đồng hồ nhỏ.

Tòa nói: Nếu anh không có đồng hồ mà anh cũng không thấy đồng hồ trong nhà Tám Thiệt, thì sao anh dám chắc hồi anh lại là tám giờ và quá mười một giờ anh mới về.

Tân đáp: Bẩm, tôi nhắm chừng.

Tòa nói: Tòa cũng nhắm chừng anh lại đó hồi sáu giờ rồi bảy giờ anh về cũng được vậy. Mà thôi, Tòa chỉ hỏi thêm anh một câu nầy nữa: theo lời khai của anh, thì đêm ấy anh ở nhà Tám Thiệt trên ba giờ đồng hồ. Anh nói chuyện gì mà ngồi lâu dữ vậy, anh thuật lại cho Tòa nghe thử coi.

Tên Tân đứng lơ-láo một hồi lâu, không trả lời.

Tòa thúc: Khai đi?

Tân đáp: Tôi không nhớ hôm đó nói chuyện gì.

Tòa hỏi: Mới hai tháng nay, có lẽ nào anh quên hết?

Tân đáp: Tôi không nhớ được.

Quan Chánh-Tòa dạy Tân ra ngoài rồi kêu bị cáo là Tám Thiệt ra đứng trước mặt Tòa. Ngài dạy đưa tay mặt lên mà thề rồi hỏi tên, họ, tuổi, nghề nghiệp, nhà cửa, vợ con.

Tám Thiệt cao lớn, mạnh dạn, đứng khai rằng: Tôi tên Lê-văn-Thiệt, hai mươi tám tuổi, sanh đẻ tại Chợlớn, chưa có vợ, làm cu-li trong hãng Vận-tải, nhà ở tại Xóm-Chiếu.

Quan Chánh-Tòa cũng nói y như mấy lời ngài nói với Lý-trường-Mậu hồi nãy và hỏi Tám Thiệt chịu nhìn nhận tội ác của mình làm hay không?

Tám Thiệt lắc đầu đáp rằng: Tôi không có cướp giựt tiền bạc của ai hết.

Tòa nói: Tài chủ Mái-Chín Cúng với chứng là tên Năm đồng khai quyết cho anh và chánh anh cầm dao chém Mài-Chín Cúng, anh còn chối gì nữa?

Thiệt đáp: Họ khai gian.

Tòa nói: Sở cảnh-sát lại có xét lấy được năm ngàn đồng bạc, anh bỏ vào hộp bánh mì mà chôn dựa bên hè anh. Phải số bạc ấy là phần của tên Mậu chia cho anh hay không?

Thiệt đáp: Không. Ai lén đem chôn bạc ở đó tôi không hay.

Tòa hỏi: Đã có bằng cớ và chứng khai hẳn hòi, như vậy mà anh cứ chối hoài hay sao?

Thiệt đáp: Tôi không có ăn cướp, làm sao mà tôi chịu có cho được.

Quan Chánh-Tòa rùn vai rồi khoát tay biểu Tám Thiệt trở về chỗ mà ngồi.

Quan Chưởng-lý đứng dậy buộc tội, bác bẻ mấy lẽ của Lý-trường-Mậu và Lê-văn-Thiệt viện lẽ mà chữa mình, nói hai bị cáo đã cướp giựt một số bạc rất lớn mà lại còn gần giết một mạng người, luận những lời chối là một cách chữa mình rất vô lý, xin Tòa phải vì cuộc an cư lạc nghiệp của xã-hội mà trừng trị hai bị cáo thiệt nặng nề, để cho kẻ khác kiêng nể, không dám cướp giựt nữa.

Nghe lời buộc tội gắt gao nghiêm nghị ấy, thì trong phòng lặng trang, ai cũng chắc bị cáo sẽ bị án.

Vị Trạng-sư cãi lẽ hồi nãy về sự Mái-Chín Cúng với tên Năm nhìn mặt Lý-trường-Mậu, bây giờ đứng dậy mà biện luận đặng cứu tên bị cáo ấy. Ban đầu ông nói chậm rãi nho nhỏ, lần lần ông cất giọng lên cao, lời nói hùng-hào, bộ tướng mạnh-mẽ, khi tha thiết như than, khi ồ ào làm giận, khi phĩnh-phờ kiêu ngạo, khi chúm chím miệng cười. Ông nói sự lấy xe máy tại đồng Tập-trận không phải là cái bằng-cớ chứng chắc tên Mậu ăn cướp, sự nhìn mặt của tài-chủ và của xa-phu không đúng. Ông nài xin phải tin lời khai của chứng là tên Tân. Chừng kết luận, ông xin Tòa hãy nghĩ Lý-trường-Mậu thuở nay là một người chân thật lo làm mướn mà nuôi vợ con, không có án tiết chi hết, hãy nghĩ xét nhà tên Mậu không kiếm được bạc, mà từ ấy đến nay sở Cảnh-sát thám dọ thì cũng không thấy vợ con Mậu ăn xài chơi bời; xin ông hãy lấy công tâm mà xét lại, tên Mậu bị lôi ra trước Tòa Đại-Hình về tội cướp giựt chỉ vì tình nghi mà thôi, chớ không có bằng-cớ chắc-chắn. Vậy Tòa phải tha bổng mới công bình, mới khỏi làm án lầm một tên vô tội.

Ông cãi rồi ông ngồi xuống. Thính giả đều thở ra phỉ dạ.

Một vị Trạng-sư khác đứng dậy biện luận giùm cho bị cáo Lê-văn-Thiệt. Ông nói nhỏ nhẹ, êm ái, ông không dùng khẩu khí, chỉ trưng lý luận mà bác bẻ tờ buộc tội. Ông cho lời quả quyết của tài-chủ và của tên Năm là lời cáo gian, bởi vì đến mười một giờ khuya mà Tám Thiệt còn nói chuyện với khách tại nhà, thì không thế nào hồi mười giờ mà chận đường cướp giựt Mái-Chín Cúng tại Bàn-Cờ cho được. Còn năm ngàn đồng bạc kiếm được gần hè Tám Thiệt, thì ông nói rằng Tám Thiệt mướn một căn nhà lá mà ở, theo luật Việt-Nam, thì ngoài căn nhà ấy, Thiệt không có quyền gì hết. Nếu nghi Thiệt cướp bạc về giấu tại đó, sao Tòa không nghi cho chủ đất, hoặc người căn phía bên kia cũng gần chỗ giấu đó mà lại nghi cho Thiệt. Ông xin Tòa xét chỗ đó mà tha bổng Lê-văn-Thiệt.

Trang-sư cãi xong rồi, quan Chánh-Tòa hỏi hai bị cáo còn muốn khai thên điều chi nữa. Các quan Tòa và Thẩm-án đồng đứng dậy đi vô phòng phía sau mà nghị án.

Cách nửa giờ, Tòa mới ra nhóm lại và quan Chánh-Tòa đọc án phạt:

1.- Lý-trường-Mậu, mười năm khổ sai.

2.- Lê-văn-Thiệt, mười hai năm khổ sai.

Thằng Hiệp nghe Tòa lên án cha nó mười năm khổ sai, thì nó bủn-rủn tay chân, vừa khóc vừa đứng dậy kéo tay Ba Trâm biểu đi về. Chừng mấy mẹ con đi ngang qua cửa khám lớn, thằng Hiệp đứng ngó vô khám, nhớ cha nó sẽ ở trong đó mười năm thì nó ngậm ngùi nên nước mắt nhỏ giọt.

Thình lình có tiếng ồn ào phía bên Tòa. Mấy mẹ con Ba Trâm day lại thì thấy lính Săn-Đầm đương dắt Trường-Mậu và Tám Thiệt xuống khám.

Cặp-rằng Mậu kêu vợ và nói rằng: "Má con Hào, ở nhà ráng dạy giùm hai đứa nhỏ, nghe không. Mười năm rồi tôi sẽ về".

Lính xô Mậu đi riết, không cho nói nữa.

Thằng Hiệp đứng ngó theo đau-đớn như dao cắt ruột.

[1] hay săng đá, săn đá: tiếng Pháp gendarme: cảnh sát.

Lạc Ðường

Hồ Biểu Chánh

Chương V

Mẹ ghẻ con ghẻ

Tại Cầu Ông-Lãnh, dọc theo đường Lò heo, hồi trước có một dãy phố lầu cũ, trong hai căn phố đầu có dọn một tiệm bán cà-phê nước trà và bánh ngọt, bánh mặn đủ thứ, mỗi buổi trưa và buổi tối người ta đến ăn uống nườm nượp.

Chủ tiệm nầy tên là Từ-Hữu, là người Minh-hương, có vợ người Nam tên là Tư Hường, là em ruột của Ba Trâm.

Cách mấy tháng trước, Ba Trâm xách giỏ bạc đi ra Cầu Ông-Lãnh là đem gởi cho Tư Hường.

Bữa Tòa xử Cặp-rằng Mậu rồi, mẹ con Ba Trâm dắt nhau đi về, tới Cầu Ông-Lãnh thì thằng Hiệp đi một mình về nhà, còn Ba Trâm với con Hào thì ghé lại tiệm nước của Từ-Hữu.

Vừa bước vô tiệm, con Hào gặp con Kiên là con gái của Từ-Hữu, chị em mừng nhau nên ở đó mà chơi, Ba Trâm bước vô trong nói nhỏ với Từ-Hữu rằng: "Ba con Hào bị Tòa lên án mười năm". Từ-Hữu chưng hửng hỏi rằng: "Cha chả! Tới mười năm hay sao?" Ba Trâm gật đầu rồi đi thẳng lên lầu.

Tư Hường đương nằm trên bộ ván mà cho con bú, ngó thấy chị lồm cồm ngồi dậy hỏi rằng: "Chị nói bữa nay Tòa xử ảnh, sao chị không đi lên Tòa hỏi thăm coi ảnh được Tòa tha hay là bị án?"

Ba Trâm vén áo ngồi một bên em mà đáp nho nhỏ rằng:

- Qua đi coi Tòa xử từ hồi sớm mơi tới giờ, qua mới về tới đây.

- Tòa xử sao đó?

- Tòa kêu án mười năm.

- Chết chưa!

- Tài-chủ với người kéo xe họ nhìn mặt, họ khai quả quyết, tự nhiên Tòa phải kêu án nặng chớ sao.

- Tòa có hỏi số bạc giựt đó đem giấu chỗ nào hay không?

- Không ... ờ, may quá! Tòa không có hỏi cái đó. Tại sao vậy không biết.

- Tuy vậy mà chị cũng phải dè dặt, đừng có chộn rộn, rủi đổ bể ra họ lấy lại mà mình còn phải ở tù cả đám.

- Em tưởng qua dại lắm sao? Mấy tháng nay qua lấy có mấy chục đồng bạc đặng mua gạo, cá mà ăn, còn bao nhiêu thì còn nguyên đó, qua có dám động tới đâu.

- Ừ, thủng thẳng vậy, đừng có gấp. Đợi năm bảy tháng, hoặc một năm nguôi ngoai rồi chị sẽ xài.

- Thằng Tư nó hiểu việc đó hay không?

- Không. Tôi giấu, tôi không dám nói.

- Ừ, em đừng có nói cho nó biết làm chi. Để sau rồi qua sẽ giúp cho một hai ngàn làm vốn buôn bán. Qua khá thì em cũng khá vậy mà.

- Còn thằng con riêng của ảnh, nó biết hay không?

- Không. Nó cũng không biết gì hết. Đêm cha nó lén đem về thì nó ngủ nên không hay. Mấy tháng nay qua có nói ra đâu mà nó biết.

- Bữa nay nó có lên Tòa coi xử hay không?

- Có, nhờ nó dắt, chớ không thì qua có biết đâu mà đi coi.

- Tôi sợ nó đọc nhựt trình, rồi nó coi Tòa xử nữa, nó phát nghi chớ.

- Không có đâu. Ba con Hào chối hoài, không chịu có cướp giựt, thì nó có dè đem tiền bạc về nhà đâu mà nghi.

- Bữa hổm chị đếm hết thảy bao nhiêu?

- Mười chín ngàn chín trăm đồng. Theo như lời trên Tòa hồi nãy, thì Mái-Chín Cúng bị giựt 25 ngàn. Cò bót xét lấy lại được 5 ngàn ở sau hè Tám Thiệt. Lẽ thì phải còn 20 ngàn. Không biết lạc ở đâu mất hết 100 đồng.

- Ối! Mất 100 đồng cũng không hại gì. Không biết chừng ảnh chận lại để bỏ theo lưng mà xài.

- Em cất giùm cho kỹ nghe không, đừng có hơ-hỏng đa.

- Dễ không! Tôi bỏ cái giỏ trong tủ áo, tôi khóa tủ, chìa khóa tôi giữ trong túi luôn luôn đây.

- Ừ, phải giữ cho gắt mới được.

- Chị có tính chừng nguôi ngoai rồi, chị lấy bạc ra mà làm việc gì hay không?

- Thủng thẳng rồi sẽ hay. Bây giờ có biết làm việc gì đâu. Có lẽ qua sẽ mua một cái nhà mà ở cho sạch sẽ, rồi sắm một cái xe hơi để qua đi chơi.

- Chị mua sắm như vậy thì đồng tiền của chị chết, chị có lợi gì đâu.

- Phải ăn ở cho sung sướng đã, rồi tính giống gì sau sẽ hay.

- Có vốn, phải lo buôn bán làm ăn cho có lợi thêm nữa chớ.

- Em nói theo điệu vợ chệc hoài, hễ mở miệng thì tính lời tính lỗ. Ai mà làm như vậy cho được.

Tư Hường cười. Cô nghe nói Ba Trâm chưa ăn cơm, nên kêu bạn trong tiệm sai đi mua đồ về dọn cho mẹ con Ba Trâm ăn.

Còn thằng Hiệp về thẳng bên nhà, nó nằm chèo queo trên cái võng, nước mắt cứ tuôn ra hoài, không ăn không uống chi hết. Đến xế, Hai Tiền bước vô nhà, thấy thằng Hiệp nằm lim-dim thì hỏi rằng:

- Chị Ba đi đâu vắng vậy cháu?

- Dì tôi còn ghé bên chợ Ông-Lãnh.

- Nghe nói bữa nay Tòa xử anh Ba phải không?

- Phải. Tòa xử rồi hồi sớm mơi.

- Xử sao đó cháu?

Thằng Hiệp bệu-bạo đáp rằng "Xử mười năm tù, thím Hai à!"

Hai Tiền la ba tiếng: "Trời đất ơi!", rồi ngồi trên ghế mà khóc rấm rứt. Thằng Hiệp thấy vậy càng thêm động lòng nên nó cũng khóc. Cách một hồi, nó vụt đứng dậy mà nói rằng: "Ối! Mười năm cũng không lâu gì, ba tôi ở tù oan hay là ưng, dầu người ta không biết, chớ trời cũng biết. Tôi làm mà nuôi dì tôi với em tôi được, không hại gì".

Hai Tiền thấy Hiệp còn nhỏ mà nói mấy lời khẳng khái ấy thì ngồi ngó nó trân trân.

Thằng Hiệp day qua rồi hỏi Hai Tiền rằng:

- Xưa rày thím dọn nhà đi đâu mất vậy thím Hai?

- Qua ở bên Bến-Thành đặng mua bán kiếm cơm ăn, chớ không có đờn ông mà ở bên nây thì khó làm ăn lắm. Cháu còn đi bán nhựt trình hay không?

- Còn chớ.

- Chị Ba cho cháu đi làm như vậy nữa hay sao?

- Cho. Nếu không cho thì cơm đâu mà ăn.

Hai Tiền đứng dậy ngó thằng Hiệp trân trân rồi nói rằng: "Chừng chị Ba về, cháu nói lại có thím qua thăm nhá. Thôi, thím về".

Thằng Hiệp đưa Hai Tiền ra cửa, thấy một đám con nít đương giỡn chơi ngoài đường, nó men men đi lại đó, mà chừng lại gần thì nó châu mày rồi thủng thẳng trở về nhà.

Đến chiều, Ba Trâm với con Hào về, có xách hai ba gói bánh đưa cho thằng Hiệp mà biểu ăn. Hiệp đói bụng nên phải ăn, nhưng mà nó không vui chút nào hết.

Sáng bữa sau, thằng Hiệp đi lãnh nhựt-trình mà bán như thường, rồi chiều có được bao nhiêu đều đưa hết cho Ba Trâm. Bữa nào nó cũng làm như vậy, mà nó không buồn, không vui chi hết, dường như nó tưởng sự cực khổ đó là bổn phận của nó. Nó lang-thang lưới-thưới, còn con Hào thì quần áo nhổn nha, nhiều khi Ba Trâm đi chợ về lại ngồi xe kéo nữa, nhưng mà nó không để ý mấy việc đó.

Một bữa, thằng Hiệp đi bán nhựt-trình đến tối mò mới về nhà, thấy trong nhà không đèn, mà cửa lại khóa phía ngoài. Nó đói bụng nên lại quán mua một ổ bánh mì nguội, với một táng[1] đường mà ăn rồi nằm trên cái chõng nhỏ trước hàng ba mà ngủ. Đến khuya, có một cái xe hơi lại đậu ngay trước cửa, đèn chói sáng lòa. Thằng Hiệp giựt mình, ngóc đầu dậy thì thấy Ba Trâm với con Hào trên xe đương leo xuống, rồi con Hào đi vô cửa, còn Ba Trâm thì chống tay lên xe đứng nói chuyện nho nhỏ với một người đờn ông bận đồ tây ngồi trên xe. Một lát rồi người đờn ông ấy ló đầu ra mà hun Ba Trâm. Hai người cười với nhau rồi xe chạy. Ba Trâm đi vô nhà.

Thằng Hiệp giận quá không thế dằn được, nên chừng Ba Trâm vô tới cửa thì nó vụt ngồi dậy hỏi lớn rằng: "Dì đi đâu mà chừng nầy mới về? Đi với thằng cha nào nó hun dì đó?"

Mấy lời hỏi lớn mà cứng cỏi làm cho Ba Trâm hổ thẹn quá, nên cô bước lại mà chạt trong mặt thằng Hiệp và mắng rằng: "Đồ chó đẻ! Mầy nói giống gì đó? Mầy dám bỉ sử tao hả?"

Thằng Hiệp bị vả đau, nên nhảy xuống đất mà chạy. Ba Trâm còn giận lắm, song không lẽ rầy rà làm vở lỡ trong xóm lúc nửa đêm, bởi vậy cố dằn lòng, lấy chìa khóa trong túi ra mà mở cửa rồi đi vô nhà với con Hào. Cô vừa đốt đèn rồi, thì thằng Hiệp cũng ló mó vô nhà, nó đi lại cái võng mà nằm, không thèm nói một tiếng chi nữa hết, mà mặt nó lầm lầm, bộ giận dì ghẻ nó lắm.

Ba Trâm mặc một bộ đồ hàng trắng còn mới tinh, chơn lại có mang giày, còn con Hào thì cũng bận áo quần bằng hàng trắng, đầu lại có cái lược cài, chân mang guốc quai nhung.

Ba Trâm đi vô buồng thay đồ. Con Hào cầm gói bòn-bon đưa ngay mặt thằng Hiệp mà nói rằng: "Anh ăn bòn-bon[2] không anh Hai? Như ăn thì lấy vài cục đây mà ăn".

Thằng Hiệp đương quạu, nghe hỏi như vậy nó càng thêm giận, nên hất tay con Hào một cái thiệt mạnh, làm văng cả gói xuống đất, đổ bòn-bon tứ tung.

Con Hào lầm bầm nói rằng: "Ăn hay không thì nói, chớ sao lại hất cho đổ bòn-bon của người ta".

Thằng Hiệp nói rằng: "Hứ! Mầy vui sướng dữ lắm, nên đi xe hơi ăn bòn-bon!"

Con Hào ngồi lượm bòn-bon mà đáp rằng:

- Ớ! Thấy người ta đi xe hơi nên ganh rồi nói bậy!

- Tao nói như vậy đó là nói bậy hả? Ba bị đày mầy vui sướng lắm mà!

- Bị đày thì thôi, chớ ai biết làm sao bây giờ. Anh giỏi thì anh làm sao cho ba ra khỏi khám đi.

- Tao có tài gì mà làm cho ba ra khỏi khám được. Nhưng mà tao nhớ thân ba ở tù, bận áo xanh, ăn cơm lứt, tao thương, tao không muốn ăn chi hết, chớ không phải như mầy, cứ lo mặc quần hàng áo lụa, lo mang guốc mang giày, kiếm thế mà đi xe hơi, không biết thương xót ai, không kể xấu hổ chi hết.

Ba Trâm thay đồ rồi bước ra nói rằng:

- Nầy, tao nói cho mầy biết, mầy không được phép kiếm chuyện mà gây với con Hào đa.

- Tôi đâu thèm gây với nó. Tôi nói chuyện phải quấy tốt xấu cho nó nghe mà thôi chớ.

- Cái tuồng mặt mầy mà biết giống gì, nên dám nói chuyện phải quấy tốt xấu.

- Tuy tuồng mặt tôi như vầy, song tôi biết nhiều chuyện lắm.

- Mầy biết chuyện gì?

- Dì hỏi chi vậy? Dì ở với ba tôi hơn mười năm, có sanh được một đứa con, mà dì không biết thương ba tôi ... Ba tôi rủi bị ở tù mới mấy tháng nay mà dì ở nhà lại đi lấy trai.

Ba Trâm nghe nói tới đó thì giận run, xốc lại toan đánh thằng Hiệp. Thằng Hiệp chạy ra cửa đứng nói rằng:

- Tôi có lỗi gì mà đánh tôi?

- Tao đánh tới con gái mẹ mầy dưới mồ nữa, nói cho mà biết.

- Mẹ tôi có làm đĩ lấy trai như họ đâu mà đánh.

Ba Trâm giận quá, nhưng vì sợ đánh thằng Hiệp rồi nó đổ nùi chòm xóm hay, càng thêm xấu hổ, nên cố dằn lòng giận mà nói rằng: "Mầy phải đi cho khỏi nhà tao. Đồ ngỗ nghịch, tao không chứa nữa. Đi cho mau". Cô nói dứt lời liền đóng cửa lại.

Thằng Hiệp vừa đi ra lộ vừa nói rằng: "Đuổi thì đi, ở còn gai con mắt, chớ ở mà làm gì".

[1] hay tảng: một dạng của đường, miếng đường táng có hình tròn dẹp, chiều dày 10-20 mm, một táng đường là một miếng đường táng (đường táng đường thẻ, đường cát là ba dạng của đường thời Pháp thuộc).

[2] tiếng Pháp:bonbon: một cách gọi kẹo viên.

Lạc Ðường

Hồ Biểu Chánh

Chương VI

Lưu lạc

Thằng Hiệp ra khỏi nhà nhằm lúc nửa đêm, nên ngoài đường vắng hoe, không có một người qua lại. Tuy vậy mà trên trời mặt trăng vừa lướt qua khỏi cụm mây nên ánh sáng dọi xuống đường, chiếu cỏ cây tỏ rõ như ban ngày. Cảnh thú dường ấy dễ làm cho người đi đường phải cảm xúc. Tiếc vì thằng Hiệp còn mang cái khối giận mẹ ghẻ ở trong lòng canh cánh, nên nó lầm lũi đi xuống phía Xóm-Chiếu, không cảm được cái cảnh ìm-lìm, không thưởng thức được vừng trăng tỏ rạng.

Vì nó không nhứt định phải đi đâu, nên xuống tới chợ Xóm-Chiếu nó đứng dụ-dự một chút, rồi men-men lên cầu mống mà qua Bến-Thành. Đi ngang qua nhà ga xe điển ở gần chợ cũ, nó sực nhớ đến anh em bạn của nó, có nhiều đứa ban đêm thường hay ngủ tại đó, nó mới ghé lại mà coi có đứa nào. Bước vô ga xe điển nó thấy có ba đứa nhỏ một trang với nó đương nằm ngủ trên cái bàn dài lót dựa vách tường. Nó cúi xuống dòm mặt từ đứa thì là thằng Hai, thằng Cao với thằng Cứ đều là bạn bán nhựt-trình như nó. Nó bèn lúc lắc mà kêu thằng Cao dậy.

Thằng Cao ban đầu hất tay rồi day vô vách không chịu dậy, bị thằng Hìệp cứ theo phá hoài, cực chẳng đã nó phải ngồi dậy, lấy tay giụi mắt và nói lầm bầm rằng: "Ở trong rạp hát về mới ngủ có một chút, cứ theo phá hoài".

Thằng Hiệp nói rằng: "Mầy dậy cho tao nói chuyện riêng một chút mà".

Thằng Cao mở mắt thấy thằng Hiệp thì hỏi:

- Mầy đi đâu qua bên nây chừng nầy vậy mậy?

- Dì ghẻ tao đuổi, không cho tao ở nhà của ba tao nữa.

- Sao mà ngang vậy? Nhà của ba mầy thì mầy ở, có phép nào mà đuổi mầy được.

- Dầu không đuổi, tao cũng đi chớ không thế nào ở đó nữa được.

- Mầy ngu quá. Có nhà mà không chịu ở chớ. Mầy không thấy thân tao đây hay sao? Vì không nhà nên đụng đâu ngủ đó, muỗi cắn có ghẻ cùng mình, qua tháng gió bấc lạnh rút ruột teo gan, mầy tưởng sướng lắm hay sao?

- Thà là tao chịu cực, chớ ở nhà tao thấy dì ghẻ của tao, sao ghét lắm.

- Dì ghẻ nào cũng vậy, bao giờ mà có dì ghẻ dễ thương đâu mậy.

- Phải. Dì ghẻ thương sao được. Nhưng mà dì ghẻ của người ta thì dễ chịu, còn dì ghẻ của tao khốn nạn quá chịu không đặng.

- Trông thế mầy bị bả đào[1] hả, nên mầy oán mầy nói xấu bả đây chớ gì.

- Không phải vậy. Thuở nay tao thương dì tao lắm chớ. Có khi tao kỳ khôi, dỉ cũng đánh chưởi tao mà tao có phiền đâu. Mấy năm nay đi bán nhựt-trình mỗi bữa tao đem về đưa cho dì tao hai cắc luôn luôn. Từ hôm ba tao bị ở tù tới nay, tao càng thương dì tao nhiều hơn nữa, tao lo hết sức, bán nhựt trình bao nhiêu tao không dám ăn xài, tao đem về đưa hết cho dỉ đặng mua gạo mà ăn. Tao ở với dì tao như vậy mà dì tao khốn nạn lắm, không biết thương ba tao ...

Thằng Hiệp nói tới đó rồi nó khóc. Thằng Cao chưa rõ tâm sự của nó nên nói pha lửng rằng:

- Có thương cũng để bụng, chớ ba mầy mắc ở tù mà làm sao?

- Ba tao ở tù, càng thương nhiều hơn mới phải. Chớ thương cái gì mà ba tao mới bị án, thì ở nhà làm đĩ lấy trai.

Thằng Cao chưng hửng, nó ngó thằng Hiệp trân trân rồi chậm rãi nói rằng:

- Mầy nói bất tử, có lý nào mà khốn nạn dữ vậy?

- Thiệt như vậy chớ. Tao thấy rõ ràng, chớ phải tao nghe phong phanh hay sao. Tao mới bắt được hồi nãy đây.

- Bắt ở đâu?

- Tao mắc đi bán nhựt-trình, ở nhà dắt con em tao đi đâu không biết. Đến khuya có một người đờn ông đưa xe về, rồi người ấy ôm dì tao mà hun, tao thấy rõ ràng như vậy.

- Khốn nạn quá! Mầy thấy như vậy sao mầy không chơi thằng cha đó một cái.

- Thình lình quá tao làm không kịp. Mà nó hun rồi xe chạy liền, chớ không có vô nhà.

- Dì mầy hư như vậy, mà sao lại còn đuổi mầy?

- Tao dóa, tao xài dì tao, nên dỉ giận dỉ đuổi tao chớ sao.

- Mầy nói mầy có em gái. Mầy giận mầy đi rồi mầy bỏ nó cho ai nuôi?

- Dì tao nuôi. Con ruột của dì tao mà.

- À! Tao tưởng là em ruột của mầy chớ.

- Nó là con của ba tao chớ, song nó với tao khác mẹ. Dì tao như vậy, tao sợ nó ở với dì tao rồi ít năm nó lớn nó cũng hư nữa.

- Ôi! Chuyện đó còn xa, hơi nào mà lo. Phải lo chuyện gấp bây giờ đây. Tao hỏi thiệt mầy, vậy chớ mầy tính đi ít bữa rồi về nhà hay mầy đi luôn?

- Về làm gì nữa! Về nhà tao gai con mắt rồi sợ có án mạng đa mầy.

- Mầy không về nhà rồi mầy đi đâu mà ở?

- Vậy chớ mầy không có nhà, rồi mầy ở đâu? Không có nhà mà mầy sống được, thì tao cũng sống được chớ. Tao vái trời cho tao sống tới ba tao mãn tù, đặng tao thuật chuyện tao thấy cho ba tao nghe.

- Con nhà nghèo có bao giờ chết đâu mà sợ mậy. Tụi mình phải sống đặng giúp đời chớ. Nếu mình chết rồi ai đi bán nhựt trình cho thiên hạ đọc.

Thằng Hiệp buồn, đương giận mà nghe những lời pha lửng của thằng Cao thì nó bớt buồn. Nó ngó thằng Hai với thằng Cứ rồi nói rằng: "Hai đứa nầy ngủ ngon dữ!" Thằng Cao ngáp và nói rằng: "Thôi, ngủ mầy. Tao buồn ngủ quá. Mầy nằm đầu nầy đây, để tao nằm đầu kia cho. Ngủ đặng sáng có đi bán nhựt-trình".

Thằng Cao nói chưa dứt lời thì đã nằm chùi trên cái băng. Thằng Hiệp ngồi ngó qua phía bên kia đường, thì thấy một gánh mì để trên lề đường, hai ba người ngồi ăn mì nói chuyện om sòm, lại có mấy chú xa phu kéo xe đi nhởn nhơ gần đó. Nó móc túi mà đếm tiền thì còn được hai cắc rưỡi, vì hồi tối nó về không có Ba Trâm ở nhà, nên nó không nạp tiền. Sợ bỏ túi ngủ rớt mất, nên nó lấy số tiền mà lận trong lưng chắc cứng, rồi day lại mà nói rằng: "Mầy ngủ hay sao Cao?" Không nghe Cao trả lời, nó mới nằm xuống mà nghỉ. Đồng hồ nhà gare chỉ ba giờ.

Thằng Hiệp nằm suy nghĩ đến phận của nó từ nay không còn cha mẹ, bà con, anh em gì nữa hết thì tủi trong lòng, nên nó ứa nước mắt. Đã biết thuở nay nó cũng không sung-sướng gì hơn bây giờ, nhưng mà sớm mơi đi, chiều tối về thành thói quen, bây giờ bước vô cái đời vô gia-đình, vô thân-tộc, là cái đời chẳng hề tính tới bao giờ, thì tự nhiên nó phải lo buồn, phải ái ngại. Nó nghĩ phận nó rồi nó nghĩ tới thân cha nó nữa. Cha nó bây giờ ở đâu? Người ta nói tội bị án trên 5 năm thì bị đày ra Côn-Nôn. Vậy thì cha nó đã đi Côn-Nôn rồi hay còn ở Khám Lớn? Sự ấy nó không biết được. Mà dầu ở tù chỗ nào, thân cha nó cũng phải chịu cực khổ đáo để cho đến 10 năm. Nghĩ quanh nghĩ quất, mệt trí nên nằm ngủ quên.

Gần 5 giờ sáng, xe điển sửa soạn chạy chuyến nhứt, người ta qua lại trong nhà gare lộn-xộn làm cho thằng Hai giựt mình thức dậy. Nó kéo chân, kéo tay mà kêu mấy đứa kia, chừng lại đến chỗ thằng Hiệp nằm, nó thấy thằng nọ thì nó chưng hửng, nên hỏi rằng: "Thức dậy mầy Hiệp, mầy lại đây hồi nào?".

Thằng Hiệp lồm cồm ngồi dậy, vừa dụi mắt vừa đáp rằng:

- Tao lại hồi khuya.

- Mầy coi hát cọp[2] rồi mầy lại đây ngủ cọp nửa hả?

- Không mà. Tao ở nhà tao ra đây chớ.

- Có nhà sao không ngủ nhà, lại ra đây mà ngủ chực[3]? Mầy phạm luật rồi. Tao nói cho mầy biết, mấy đứa tao không có nhà, nên mấy đứa tao độc quyền ngủ nhà gare với hàng ba các căn phố trống ở Sàigòn này. Mầy có nhà, mầy không được phép giựt quyền của mấy đứa tao. Tao sẽ kêu lính bắt mầy giải đi Ông Yệm[4] bây giờ.

Thằng Cao chận lại mà nói rằng: "Đừng nói nhiều chuyện mầy. Nó có nhà mà nó bị dì ghẻ nó không cho nó ở nữa, nên nó ra đây chớ sao ...".

Thằng Cứ chạy lại nói rằng: "Té ra thằng Hiệp bây giờ cũng ra như tụi mình rồi hả? Được lắm. Nhập tụi thêm đông vậy mới vui".

Thằng Hai nguýt một cái rồi bỏ đi ra đường, vừa đi vừa nói: "Vậy nó mới hết làm phách, chớ không thì bữa nào hễ chiều rủ nó đi lại rạp hát kiếm giấy coi cọp chơi, nó cứ nói: "Mắc về nhà, mắc về nhà", nghe ghét quá".

Xe điển rút chạy, bốn đứa dắt nhau đi lại fontaine[5] ở ngã tư gần đó mà rửa mặt. Thằng Hiệp mắc rửa chân rửa tay nữa nên lâu, thằng Hai với thằng Cứ đi trước qua phía chợ cũ Bến-Thành. Thằng Cao đứng chờ nó, thấy lâu thì thúc rằng: "Ê, mau mau, mầy Hiệp. Mầy muốn tắm hay sao?"

Thằng Hiệp vừa đi vừa đáp rằng:

- Còn sớm mà. Nhựt-trình chưa ra đâu mà lật đật.

- Hai đứa mình vô chợ mới kiếm mua đồ ăn rồi sẽ lại nhật trình. Dì mầy đuổi mầy, vậy mà từ ngày rày sấp lên mỗi bữa mầy phải đem về nạp hai cắc nữa hay không?

- Nạp giống gì nữa mậy. Dì tao lấy trai thì để trai nạp cho dì tao ăn.

- Vậy từ nay sắp lên mầy xài sướng lắm.

- Phải. Tao kiếm được bao nhiêu, tao xài bấy nhiêu, khỏi nuôi ai nữa hết.

Thằng Hiệp nói như vậy mà sắc mặt nó buồn hiu, không biết nó buồn là tại nó mất thói quen, hay là tại nó còn thương dì ghẻ với em nó.

Hai đứa vô chợ mới mua xôi ăn rồi lại đi kiếm Cặp-rằng lãnh nhật trình đi bán. Trước khi rẽ ra, hai đứa hẹn nhau chiều lại chợ mới đặng gặp nhau rồi đi ăn cơm một lượt.

Y như lời hẹn, gần năm giờ chiều, Hiệp lại trước chợ mới thì đã thấy thằng Cao đứng chờ nó tại đó. Hiệp hỏi Cao rằng:

- Bữa nay mầy kiếm đặng bao nhiêu?

- Bốn cắc rưỡi, còn mầy?

- Tao kiếm được có bốn cắc hai.

- Từ sớm mơi tới giờ mầy xài hết bao nhiêu?

- Hết một cắc hai.

- Vậy thì mầy còn ba cắc; mà mầy khỏi nạp cho dì mầy thì mầy còn dư tiền nhiều lắm.

- Hôm qua tao còn dư hai cắc rưỡi nữa.

- Ồ! Nếu vậy thì bây giờ trong lưng mầy có tới năm cắc rưỡi.

- Ừ.

- Mầy giàu lớn rồi, xài sao cho hết.

- Có năm cắc rưỡi bạc mà giàu giống gì mầy.

- Tao nói chơi, chớ tụi mình giàu giống gì cho được. Xài như trời mà.

- Nè Cao, tao muốn nói với mầy một chuyện.

- Chuyện gì?

- Mầy có tật ăn hàng lung quá.

- Ủa! Làm thì phải ăn chớ; không ăn thì làm làm chi.

- Tao nói cho mầy nghe, tụi mình không có cha mẹ bà con. Mỗi bữa ăn cơm ăn bánh rồi, còn dư được bao nhiêu mình phải để dành mới được.

- Thôi đi cha! Để dành rồi chỗ đâu mà cất. Gởi cho họ thì họ giựt mà ăn. Năm ngoái tao để dành được năm đồng bạc, tao gởi cho họ rồi họ đoạt hết đó, tao có nói chuyện cho mầy nghe rồi mà.

- Phải. Mầy có nói chuyện đó cho tao nghe. Thiên hạ xấu lắm, thôi thì mình đừng có gởi cho ai hết, mình giữ trong lưng mình.

- Trời ơi, không được. Tiền để trong lưng tao chịu sao nổi. Hễ có tiền thì thấy vật gì tao cũng thèm hết thảy.

- Phải nhịn chớ.

- Tội gì có tiền lại phải nhịn đói mà để dành?

- Phải để dành tiền đặng rủi khi đau ốm mình mua thuốc mà uống chớ.

- Cần gì mậy. Đau thì có nhà thương đó chi. Nhà nước lập nhà thương là có ý để nuôi tụi mình đó đa, mầy không biết hay sao?

- Biết. Thôi, đau thì có nhà thương đã đành, còn quần áo nữa chi?

- Quần áo gì?

- Phải sắm quần áo mà bận, chớ bận đồ rách rưới dơ dáy, coi khốn nạn quá.

- Mầy nói bậy quá. Tụi mình phải bận đồ rách rưới dơ dáy, chớ bận đồ tốt thì sái luật còn gì.

- Sao mà sái luật?

- Để tao cắt nghĩa cho mầy nghe. Mình bận đồ tốt có hai cái trái: thứ nhứt là người ta tưởng mình là con của ông nầy bà kia, mà mình đi bán nhựt-trình, thì hư danh giá của mấy ông bà tử tế hết; thứ nhì, hễ mình bận đồ tốt thì mình phải lên hạng như ngựa đua vậy, lên hạng trên mà mình không có học, không có xu, nghĩa là mình chạy dưới chân người ta thì khổ quá. Vậy thì thà mình ở hạng bét mà dẫn đầu, còn hay hơn lên hạng trên mà chạy chót.

- Mầy nói giọng trường đua quá!

- Trời ơi! Tao bảnh lắm mà, mầy không biết hay sao? Có hai ba nhà báo cậy tao chấp bút về mục "Bàn ngựa", mà tao còn dục-dặc tao chưa chịu đó đa mậy.

- Nói dóc quá! Nếu có nhà báo cậy mầy bàn ngựa mà sao mầy còn dục-dặc?

Thằng Cao cười ngất, nắm vai thằng Hiệp mà đẩy nó đi và nói rằng: "Sợ bàn bậy, họ đánh theo, họ thua tiền rồi họ rầy chớ sao. Thôi, thả xuống chợ cũ ăn cơm, đói bụng rồi".

Hai đứa dắt nhau đi xuống chợ cũ. Đi dọc đường, thằng Hiệp vịn vai Cao mà nói rằng:

- Tao nói thiệt mà mầy giễu cợt hoài.

- Tao giễu cợt hồi nào? Mầy nói thiệt, tao cũng nói thiệt vậy chớ. Mầy muốn nói chuyện gì?

- Tao muốn nói chuyện để dành tiền.

- Nữa! Cứ bao nhiêu đó nói hoài. Tao nói tiền lận trong lưng để dành khó lắm mầy ơi!

- Tao tính như vầy thì được lắm.

- Tính sao?

- Mình xin với nhà nước lập trong mỗi quartier một cái kho Tiết-Kiệm, để cho con nhà nghèo có thể gởi tiền mà để dành được bền, lập tại Khánh-Hội một cái, tại Cầu Ông-Lãnh một cái, tại Chợ-Đũi một cái, tại Đa-Kao một cái, tại Tân-Định một cái; cho phép có năm đồng xu gởi cũng được, thì dễ cho mình biết chừng nào.

- Nếu được như vậy thì tao chịu, chớ gởi cho người ngoài thì tao chạy ngay, thà để tao ăn hàng cho sướng hơn là giao cho họ xài.

- Để bữa nào tao với mầy đi với mấy ông chủ-bút nhựt-báo và nói với mấy ông Hội-Đồng Thành-Phố, cậy mấy ổng, người thì viết báo, người thì vô giữa Hội-Đồng, kêu nài xin cho được việc ấy.

- Thôi đi mầy! Mấy ổng mắc những việc lớn lao, có giờ đâu mà lo cho mình mỗi ngày có thể gởi năm bảy xu mà để dành. Mà lập cái đó tao coi khó lắm, tụi mình gởi vô, đứa rút ra lộn-xộn, tính sao được.

- Sao lại không được. Thiên hạ kể có năm ba ngàn người, kẻ đánh con ngựa nầy, người đánh con ngựa kia, rồi con về nhứt, con về nhì, lộn xộn, mà người ta còn tính được đó sao.

- Còn cái nầy khó nữa, như mầy biết chữ mầy ký tên được, còn có nhiều đứa không biết chữ, rồi chừng muốn rút tiền ra mới làm sao? Nếu hết tiền, xin rút tiền ra mà phải chờ năm bảy ngày thì chết đói ngủm[6] cù-đèo.

- Có khó gì. Mình gởi tiền thì họ phát cho mình một cuốn sổ, trong sổ dán hình của mình. Chừng mình muốn lấy tiền ra, mình cứ trình cuốn sổ hình, họ coi hình phải của mình thì họ phát tiền, có chi đâu mà khó.

- Mầy giỏi thì mầy xin đi.

- Tao có quen một ông Hội-Đồng, bữa nào ổng cũng mua nhựt-trình của tao, tao sẽ nói với ổng.

Hai đứa ra đại lộ La Somme, thì thấy thằng Hai với thằng Cứ đương ngồi dựa lề đường mà ăn cơm với nhiều người lao-động khác. Chúng nó lựa một chỗ trống mà ngồi, rồi mua một tô canh ba xu, một dĩa thịt ba xu, với hai tô cơm mỗi tô hai xu mà ăn chung với nhau, chỗ ngồi hèn hạ, đồ ăn không quí, mà chúng nó ăn ngon lắm.

Thằng Hiệp liếc mắt ngó thằng Hai, thì thấy thằng nọ nghiêm chỉnh, chớ không phải liến xáo như mấy bữa trước. Chừng ăn cơm rồi nó với thằng Cao trả tiền đứng dậy thì thằng Cứ đã đi đâu mất, còn thằng Hai thì đứng dựa gốc cây mà chờ. Hai đứa đi ngang qua lộ thì thấy thằng Hai đi theo, chừng đi khỏi đám đông người nó mới móc trong túi lấy ra một cái đồng-hồ nhỏ, rồi đưa cho thằng Cao coi mà nói rằng:

- Đồng hồ nầy tốt hay không mậy?

- Mầy làm gì có đồng hồ.

- Tao mua năm đồng bạc đó mầy. Rẻ không?

- Mầy nói dóc. Mầy làm gì có tới năm đồng bạc mà mua? Thế thì mầy ăn cắp chớ gì?

- Đừng nói bậy mậy. Tao mua thiệt chớ. Như mầy muốn, tao bán lại cho mầy.

- Không thèm.

- Tao bán rẻ. Tao bán hai đồng mà thôi.

- Mầy cho không đi nữa, tao cũng không thèm lấy.

- Thôi một đồng đây nè, chịu không?

- Tao nói không thèm, mà cứ nài hoài.

- Đồ ngu quá.

Thằng Hiệp nghe thằng Hai mắng thằng Cao thì nó giận, nên nói rằng:

- Đồ mầy ăn cắp, người ta không thèm, sao mầy lại mắng người ta ngu.

- Mầy nói tao ăn cắp hả?

- Chớ gì.

- Dầu tao ăn cắp đi nữa cũng còn khá hơn ba mầy chận đường cướp giựt người ta, nên mới bị đày đó.

Thằng Hiệp nghe mấy lời nói ấy thì nó lùng bùng lỗ tai, chóa lòa con mắt, nghẹn cứng họng, đứng trân trân không nói được nữa.

Thằng Hai bỏ đi lộn trở lại.

Thằng Cao bèn cập tay thằng Hiệp dắt đi và nói rằng: "Thằng Hai gian giảo lắm, mình chơi với nó có ngày mình mang họa. Thôi mình thả vô rạp hát Việt-Nam lập thế coi hát cọp chơi, chừng buồn ngủ mình lên gare Taberd mà ngủ êm hơn, đừng ngủ với thằng Hai nữa".

Thằng Hiệp lưu linh trót một tháng, tuy trong lưng nó có tiền luôn luôn, không bữa nào bị đói khát, nhưng mà ban đêm, hễ nó nhớ đến thân cha nó bị ở tù, nhứt là nhớ tới lời của thằng Hai mắng nó, thì nó đau đớn trong lòng, không muốn sống chút nào hết.

Một bữa, nó nhớ cha nó quá, nên ban đêm nó lén trở về cái xóm nó ở hồi trước, đặng thấy cái nhà là cái dấu tích của cha nó. Mà chừng đi ngang qua nhà, nó thấy cửa đóng, trong nhà không đèn, nó tin chắc dì ghẻ nó đã dắt em nó mà đi chơi với trai, thì nó uất ức trong lòng, vừa buồn rầu, vừa oán hận vô cùng.

Một buổi sớm mơi, nó đi bán nhựt trình, có một cô đã trộng tuổi, ngồi trên xe hơi, kêu nó đem lại mua hai số báo. Cô trả tiền rồi cô hỏi nó có cha mẹ hay không. Nó nói không có. Cô mới hỏi nó muốn ở thì cô mướn nó ở bồi, mỗi tháng cô trả cho nó năm đồng bạc.

Thằng Hiệp chán ngán vì nỗi mẹ ghẻ lấy trai, mà lại đau đớn vì nỗi chúng bạn ngạo báng, nên đã có ý bỏ xứ Sàigòn mà đi, ngặt sợ đến xứ khác không nghề làm ăn rồi phải đói khát. Nay nó nghe cô nầy mướn nó, thì nó hỏi rằng:

- Bẩm cô, nhà cô ở đâu?

- Qua có lập vườn cao su ngoài phía núi Chứa-chan.

- Xa quá há?

- Không xa bao nhiêu. Qua muốn mướn em là vì qua cần dùng một đứa nhỏ lanh lợi đặng năm ba bữa qua sai đi xe lửa xuống Sàigòn một lần mà mua đồ. Còn công việc trong nhà thì có bồi khác, chớ không phải một mình em đâu.

Thằng Hiệp suy nghĩ một hồi rồi chịu đi. Cô biểu nó leo lên xe hơi, chạy lại nhà Cặp-rằng mà trả nhựt trình, rồi mới chở nó về Chứa-chan.

[1] chửi bới (đào ông, đào cha...).

[2] lậu, không trả tiền

[3] chực=trực= đứng sẵn mà đợi (chực sẵn, chực việc, ăn chực, chầu chực)

[4] tên một trại giam trẻ con sống lang thang ngoài đường.

[5] tiếng Pháp: vòi nước phun.

[6] Hay ngỏm: chết.

Lạc Ðường

Hồ Biểu Chánh

Chương VII

Gặp người quen

Cách năm năm sau.

Thằng Hiệp bây giờ đã trở nên một người trai mười chín tuổi.

Một buổi sớm mai, nó đi lại trước của nhà thương thí, mình mặc cái áo bành-tô trắng, chân mang guốc vông. Tuy nó ăn mặc sạch sẽ, nhưng mà tướng mạo nó coi bịnh nhiều, hình vóc ốm nhách, nước da vàng ẻo.

Nó đương thơ thẩn, bỗng đâu thằng Cao cỡi xe máy chạy ngang, vừa thấy nó thì nhảy xuống hỏi rằng:

- Hiệp, mấy năm nay mầy trốn tao mà mầy đi đâu mất vậy mậy?

- Tao ra ở ngoài Chứa-chan.

- Ở làm giống gì đó?

- Ở bồi với Tây.

- Sao hồi đó mầy lén tao mầy đi, mầy không cho tao hay?

- Bị thình-lình quá, tao không cho mầy hay kịp.

- Mấy tháng nay mầy làm ăn khá không?

- Làm tháng nào ăn hết tháng nấy, chớ không khá gì.

- Bây giờ mầy đi đâu?

- Tao bị rét rừng chịu không nổi, nên xin thôi đặng trở về Sàigòn kiếm thuốc uống. Nếu ở ngoài đó nữa, chắc phải chết.

- Phải. Bộ mầy coi bịnh nhiều lắm. Phải uống thuốc cho gắt mới được. Đi làm chi ra Chứa-chan không biết. Lệu-khệu ờ Sàigòn lại đói khát gì hay sao.

- Bây giờ mầy làm việc gì?

- Tao làm planton[1] cho nhà báo "Nam-kỳ".

- Lương đủ xài không?

- Không đủ cũng phải đủ.

Hai đứa nói chuyện tới đó, kế có một cô chừng mười bảy mười tám tuổi, mặc một bộ đồ trắng may thiệt khéo, một tay ôm cái bốp, một tay cầm dù màu hường, cô xâm-xâm đi lại, chừng gần tới cô ngó Hiệp trân-trân vừa cười vừa hỏi rằng: "Xin lỗi anh, phải anh là anh Hiệp hay không?".

Hiệp chưng-hửng nên đứng ngó cô nọ mà đáp rằng: "Phải, tôi tên Hiệp. Cô ở đâu mà biết tôi?"

Cô nọ cười, lòi hàm răng trên trắng tươi và nhỏ rức, hai bên má lại có mang hai đồng tiền coi rất hữu duyên. Cô nói rằng: "Coi kìa, anh quên em hay sao anh Hiệp? Em là con Lê, con của Hai Tiền hồi trước ở bên Kinh đó".

Hiệp gật đầu đáp rằng: "Trời ơi, vậy mà tôi quên chớ! Không gặp nhau đã hơn năm năm rồi, lại cô lớn rồi coi khác, nên tôi nhìn không ra".

Cao thấy Hiệp gặp người quen, mà là một cô nhan sắc đẹp đẽ, y phục đàng hoàng, nên nó không muốn xẩn bẩn ở đó nữa. Nó leo lên xe máy và nói với Hiệp rằng: "Thôi, để bữa khác rồi sẽ nói chuyện dài. Mầy phải lại kiếm tao nghe không. Bất luận là giờ nào, mầy lại nhà báo Nam-kỳ thì có tao".

Hiệp gật đầu. Cao đạp xe máy chạy qua chợ mới. Cô Lê hỏi tiếp rằng:

- Sao anh ốm, lại nước da mét quá vậy?

- Tôi đau.

- Đau bịnh gì? Đau bao lâu rồi?

- Tôi bị bịnh rét rừng đã hai năm rồi, cái gốc nó lậm trong máu hay sao không biết, mà uống thuốc không dứt được.

- Mấy năm nay má em kiếm anh dữ quá. Mà em cũng vậy, hễ có dịp đi ra ngoài đường thì em để ý kiếm anh, song không được gặp anh lần nào hết. Anh đi đâu mất vậy?

- Tôi ở ngoài Chứa-chan.

- Dữ không! Đi xa quá, hèn chi mấy năm nay em với má em kiếm không gặp. Anh về trong nầy hồi nào?

- Tôi mới về hồi hôm.

- Thôi, em mời anh đi theo em mà về nhà em ở trên Đất-Hộ, đặng má em thăm anh một chút.

- Cám ơn cô. Để bữa khác rồi tôi sẽ lên thăm thím Hai. Bữa nay tôi chờ nhà thương mở cửa, tôi vô cho quan thầy thuốc coi mạch đặng xin thuốc tôi uống.

- À! Anh muốn xin thuốc nhà thương thí đây anh uống hay sao?

- Phải. Tôi có bịnh lâu quá, nên trở về đây là về đặng kiếm thuốc uống.

- Không được. Má em dặn gắt lắm. Má em biểu hễ gặp anh, thì dầu thế nào cũng phải mời anh về nhà cho được. Thôi anh lên nhà chơi, để mai rồi anh sẽ xin thuốc. Anh nói anh đau lâu rồi, bây giờ đi xin thuốc, dầu trễ một bữa cũng không hại gì, xin anh phải đi với em. Nè, mà ở trên Đất-Hộ có ông thầy thuốc Ẩn giỏi lắm. Ổng quen với má em, ổng cho thuốc bịnh nào cũng mạnh hết, mà ổng tử tế quá, không cắt cổ thân chủ như mấy ông khác, mạnh rồi ai muốn đền ơn bao nhiêu cũng được, ổng không kèo nài, nhà nghèo không có tiền thì ổng trị giùm. Anh lên trên nhà, rồi em dắt anh lại cho ổng coi mạch, ổng cho thuốc anh uống cũng được vậy.

- Tôi nghèo, đâu dám uống thuốc của thầy ngoài.

- Không có sao đâu mà anh ngại, em nói ông thầy thuốc Ẩn tử tế lắm. Anh nghèo, ổng cho thuốc thí, không có đòi tiền. Thế nào anh cũng đi với em mới được. Nếu anh không đi, em về em nói với má em rằng em có gặp anh, mà em không dắt anh về nhà, thì má em rầy em chết.

Hiệp dụ-dự, mà bị cô Lê nài-nỉ hối thúc quá, không thể từ chối được, nên phải đi với cô lại gare xe điển, rồi cô mua giấy mà đi Đakao.

Hai người lên xe điển ngồi ngang mặt nhau, cô Lê nói nói cười cười, tỏ ý gặp được Hiệp thì cô vui mừng lắm vậy. Hiệp nhớ lại cô Lê nhỏ hơn mình 1 hoặc 2 tuổi, hồi trước nước da cô trắng trẻo, gương mặt cô sáng sủa, song cô là con nhà nghèo, áo quần lam lũ, mỗi ngày cô lãnh bánh trái đi bán kiếm lời năm bảy xu. Bây giờ sao cô nên một người gái xinh đẹp, mà ăn mặc sang trọng đến thế nầy?

Còn thím Hai Tiền là người hồi đó ở một xóm với mình, nhưng không có tình bà con thân thiết chi lắm, sao mấy năm nay thím có ý kiếm mình làm gì? Nhớ lại ngày Tòa xử cha mình rồi, thì thím ghé hỏi thăm, nghe nói bị án 10 năm, thím khóc, khóc xong rồi về, chớ không nói chi hết. Tại sao bây giờ thím lại kiếm mình?

Hiệp còn suy nghĩ những việc ấy, thì xe đã tới gare Đakao. Cô Lê mời Hiệp xuống, rồi dắt trở lại đường Albert 1er, đi lên gần tới ngã tư Mayer, cô mới ghé vào một tiệm may, chưng dọn rực rỡ, thợ may đông tới tám chín người. Hiệp đứng bợ ngợ ngoài cửa, thì cô Lê day lại cười rất hữu duyên và nói rằng: "Mời anh vô. Nhà em đây".

Cô Lê hỏi một cô thợ may rằng:

- Má tôi đi đâu?

- Bà chủ mới lên trên lầu.

Cô đưa tay ngoắt Hiệp mà nói rằng: "Má em ở trên lầu. Mời anh đi thẳng lên trên nầy".

Hiệp càng bợ-ngợ hơn nữa, song đã đến đây rồi, không lẽ trở lại, nên cứ theo cô Lê mà lên lầu.

Thím Hai Tiền đang nằm trên bộ ván gõ láng lẫy, xỏa tóc ra cho một đứa con gái nhỏ vạch kiếm tóc ngứa mà nhổ. Thím nghe có tiếng giày lên thang, thím tưởng có khách, nên lồm cồm ngồi dậy.

Cô Lê vừa lên tới đầu thang, thì kêu mà nói lớn rằng: "Má, con gặp được anh Hiệp rồi má à".

Hai Tiền ngồi dậy vừa bới tóc vừa hỏi rằng:

- Gặp ở đâu? Sao con không dắt nó về đây?

- Có chớ. Con có mời ảnh về đó.

- Nó đâu?

- Ảnh đi sau con đây.

Hiệp ló đầu lên thang. Hai Tiền vừa ngó thấy thì la lớn rằng: "Dữ ác không! Mấy năm nay cháu đi đâu mất mà thím kiếm hết sức không được vậy hử? Thím gặp ai quen thím cũng hỏi thăm, nhưng mà không ai biết cháu ở đâu mà chỉ cả. Vậy chớ cháu đi đâu?"

Hiệp cười ngỏn-ngoẻn mà đáp rằng:

- Cháu ra ở ngoài Chứa-chan.

- Dữ không! Ra làm gì ở ngoải?

- Cháu ở bồi với Tây ở sở cao-su.

- Sao cháu ốm mà nước da vàng ẻo vậy? Cháu đau hay sao?

- Thưa, cháu đau nên mới xin thôi mà về đây đặng kiếm thuốc uống. Cháu bị rét rừng.

- Ra ở chi chỗ rừng cao nước độc, không mang bịnh sao được. Cháu ngồi chớ, ngồi ghế đó đặng thím hỏi thăm một chút.

Cô Lê tiếp mời Hiệp ngồi tại bộ ghế salon[2] để trước bộ ván gõ chỗ Hai Tiền nằm hồi nãy đó, rồi cô bước lại cái bàn nhỏ để phía trong, rót một tách trà bưng ra mời Hiệp uống.

Hai Tiền đi rửa mặt và nói nho nhỏ với con rằng: "Con biểu con Hà nó đi mua cà-phê về cho anh con lót lòng chớ".

Cô Lê ngoắt con nhỏ nhổ tóc ngứa hồi nãy vô trong buồng.

Hiệp ngồi ngó trong nhà thì thấy bàn ghế, ván, tủ, cái nào cũng đẹp, lại có kiếng lớn để soi cả mình, có đồng hồ tốt để coi giờ nữa. Còn Hai Tiền, tuy mặc một cái quần lãnh đen với một cái áo bà ba lụa trắng, chớ không chưng diện chi lắm, nhưng mà bây giờ thêm sắc sảo, sạch sẽ, chớ không phải lam lũ cùi đày như hồi trước.

Hai Tiền rửa mặt rồi lại ngồi bộ ván gần cái ghế của Hiệp ngồi. Cô Lê đã thay cái áo dài mà bận một cái áo bà ba lụa màu bông hường, rồi lại ngay cái kiếng lớn đứng soi mà sửa mái tóc.

Hai Tiền hỏi Hiệp rằng:

- Té ra mấy năm nay cháu ra ở bồi hay sao?

- Thưa, phải.

- Tại sao khi anh Ba bị Tòa kêu án rồi, cháu không ở với chị Ba cho sung sướng tấm thân, lại đi ở đợ cho cực khổ rồi phải đau ốm vậy?

- Cháu không thế ở với dì cháu được. Nếu cháu chịu nhịn nhục mà ở đó sợ e cháu gai mắt rồi cháu phải mang họa lớn.

- Sao vậy? Cháu ra đi, chị Ba có cho cháu tiền bạc gì không?

- Thưa, không. Tiền bạc đâu mà cho. Từ ngày ba cháu bị bắt rồi, thì mỗi bữa cháu đi bán nhựt-trình có tiền được bao nhiêu, cháu đem về đưa hết cho dì cháu xài. Vậy mà dì cháu chưa vừa lòng, đành đi làm việc xấu hổ, cháu nói rồi lại đánh cháu, đuổi cháu nữa chớ.

- Té ra chị Ba đuổi cháu nên cháu mới đi đó sao?

- Thưa, phải.

- Tại sao chị Ba đuổi cháu?

- Thím không hay, hay sao?

- Có hay đâu.

- À, phải, ba cháu bị bắt được ít ngày rồi thím qua ở đâu bên Sàigòn, thím không có ở đó nữa, nên thím không hay. Vậy để cháu thuật chuyện tồi tệ của dì cháu cho thím nghe. Ba cháu bị Tòa kêu án rồi, thì cháu để ý thấy dì cháu lần lần chưng diện, áo nầy quần kia, có ai tới hỏi thăm ba cháu thì dì cháu làm bộ buồn, còn ở nhà thì vui cười như thường, chẳng có vẻ thương xót ba cháu chút nào hết. Cách chừng một tháng, tình cờ một đêm nọ, cháu bắt được dì cháu lấy trai. Cháu tức giận cháu cự. Dì cháu mắc cỡ mới đánh đuổi cháu ra khỏi nhà đó.

- Trời đất ơi! Thiệt như vậy hay sao?

- Thiệt như vậy. Cháu thấy rõ ràng. Đi chơi xe hơi với trai, chừng về tới cửa, ôm trai mà hun, có con Hào đó nữa.

- Hứ! Chồng thí thân, không kể bị đày lưu, đi cướp giựt đặng đem bạc muôn về cho mà hưởng. Chồng ở như vậy mà không biết thương chồng, ở nhà lại đành đoạn đi lấy trai!

- Thưa, thím nói như vậy sợ e oan cho dì cháu. Dì cháu không thương ba cháu, nên ba cháu ở tù thì ở nhà lấy trai: cái tội ấy thì có thiệt. Còn việc ba cháu cướp giựt mà đem về bạc muôn cho dì cháu, thì cháu chắc việc ấy không có, bởi vì tuy ba cháu bị án cướp giựt, nhưng mà bao giờ cháu cũng tin chắc rằng ba cháu không có làm việc hung ác như vậy.

Hai Tiền ngồi suy nghĩ, không nói nữa. Hiệp nghe nhắc tới cha thì buồn hiu.

Con Hà bưng một mâm cà-phê, bánh mì, xíu mại mà lên thang lầu. Cô Lê ngó thấy thì cô rước[3] bưng đem để ngay trước mặt Hiệp, rồi mời Hiệp ăn lót lòng. Hai Tiền khoác tay biểu con Hà đi xuống từng dưới, rồi bước lại ngồi cái ghế ngang mặt Hiệp mà mời Hiệp ăn. Hiệp buồn nên không muốn ăn, mà vì mẹ con Hai Tiền theo ép quá, nên phải ăn một chút bánh mì và uống một ly cà-phê.

Chừng Hiệp ăn rồi, Hai Tiền mới kéo ghế lại ngồi gần một bên và nói nho nhỏ rằng:

- Vì cháu thương yêu kính trọng anh Ba, nên hồi nãy cháu cãi với thím, cháu nói anh Ba bị án oan, chớ không có cướp giựt, thím sợ cháu buồn nên thím không cãi lại liền. Nhưng mà theo chỗ thím thấy, thì trước khi anh Ba bị bắt, anh Ba có đem tiền cho chị Ba nhiều lắm.

- Không lẽ có như vậy, bởi vì bữa Tòa xử có cháu đi coi, ở giữa Tòa ba cháu nói quả quyết không có cướp của ai hết.

- Anh Ba sợ tội, nên ra giữa Tòa anh Ba phải chối chớ.

- Còn nếu ba cháu có cướp giựt mà đem tiền bạc về cho dì cháu, thì sao cháu không thấy dì cháu lấy tiền đó ra mà xài?

- Chị Ba khôn lắm. Chỉ sợ đem ra xài liền rồi thiên hạ hay, chỉ phải bị tội nữa, bởi vậy chỉ giấu nhẹm cho tới năm kia đây chỉ mới lấy ra mà mua nhà cửa, sắm xe hơi đồ đó.

- Có mua nhà, có sắm xe hơi hay sao?

- Chớ sao. Nếu không phải tiền bạc của anh Ba, vậy chớ tiền bạc ở đâu mà chỉ làm kinh dinh dữ vậy? Mà thôi, chuyện của chỉ để một lát rồi thím sẽ thuật cho cháu nghe. Bây giờ để thím nói việc nầy cho cháu nghĩ thử coi thím nghi anh Ba có đem tiền về cho chị, vậy mà thím nghi đúng hay không. Thím nhớ chắc, ba con Lê chết nhằm ngày mười hai tháng hai Việt Nam, hồi mặt trời lặn. Tối lại họ đem xuống nhà xác, họ không cho thím ở trỏng, nên thím trở về nhà. Đêm đó thím buồn rầu chong đèn ngồi khóc hoài, không biết làm sao cho có tiền mà chôn cất cha con Lê. Đến khuya, lối hai hoặc ba giờ gì đó, thình lình anh Ba xô cửa bước vô, hỏi thím vậy chớ chuyện gì mà khóc. Thím thuật việc cha của con Lê chết mà không có tiền bạc lãnh xác về chôn. Anh Ba mới móc túi lấy ra một xấp giấy bạc đưa cho thím, biểu lấy đó mà chôn cất cha con Lê, lại căn dặn thím đừng nói cho ai biết. Xấp bạc đó tới 5 tấm giấy 20, mà thím coi hai túi áo bành-tô của anh Ba đầy nhóc, chắc là giấy bạc còn trong đó nhiều lắm. Đến 4 giờ khuya, thím dắt con Lê đi vô nhà thương. Ra đường, đi được một khúc thì thím gặp chị Ba đang xách một cái giỏ mây mà đi. Hai chị em đi với nhau qua Cầu-Kho, rồi thím dắt con Lê ra Chợlớn, còn chị Ba thì xách giỏ đi ra phía Cầu Ông-Lãnh. Chiều bữa sau, chôn cất cha con Lê rồi, thím trở về thì nghe anh Ba đã bị cò bót bắt. Việc thím thấy rõ ràng như vậy đó, nên thím mới đâm nghi đêm đó anh Ba đem bạc về đưa cho chỉ, rồi chỉ bỏ vô giỏ mây mà đem đi giấu, hoặc gởi cho ai đó, nên bữa sau cò bót đến xét nhà mà kiếm không được bạc, cháu nghĩ coi thím nghi trúng hay không?

Hiệp ngồi châu mày suy nghĩ một hồi rồi nói rằng:

- Nếu như vậy thì thím nghi phải lắm. Dì cháu đi ra Cầu Ông-Lãnh thì chắc là đem gởi cho người em gái là Tư Hường chớ gì.

- Qua không hiểu đem gởi cho ai. Vưng theo lời anh Ba dặn nên mấy năm nay thím không dám nói việc ấy cho ai biết. Bây giờ thím mới nói cho cháu nghe đây mà thôi.

- Nếu thiệt như vậy, thì ba cháu giao cho dì cháu một số bạc lớn lắm.

- Thím không rõ bao nhiêu.

- Mái-Chín Cúng bị giựt hết hai mươi lăm ngàn. Theo lời khai giữa Tòa, thì kiếm được có năm ngàn tại nhà Tám Thiệt, còn lại tới hai chục ngàn thì ba cháu giao cho dì cháu hết.

- Có cho thím hết một trăm.

- Thì còn tới mười chín ngàn chín trăm. Nếu có tiền bạc nhiều rồi, mà sao mỗi bữa cháu đem về đôi ba cắc lại còn lấy làm chi?

- Phải lấy đặng khỏi thiên hạ dị nghị. Mà thím chắc anh Ba giao tiền nhiều lắm, nên mới có mà mua nhà, đất, sắm xe hơi đó chớ.

- Sao thím biết dì cháu mua nhà, đất, sắm xe hơi?

- Thím với con Lê gặp hoài. Con Hào có dắt con Lê vô tới trong nhà nữa chớ.

- Nhà ở đường nào?

Cô Lê bước lại đứng gần Hiệp rồi chống tay trên bàn mà đáp rằng:

- Nhà ở gần nhà thờ Chợ-Quán. Nhà tốt lắm, có nhà xe, nhà bếp đủ hết, đàng trước lại có sân nữa. Con Hào khoe với em mua về nhà về đất trên tám ngàn.

- Không biết năm nay em tôi nó bao lớn?

- Ý. Nó lớn lắm, mà chắc anh gặp anh quên nó. Vóc dạc nó lớn hơn em nữa. Em mới gặp nó ngoài Catinat hôm tuần trước đây.

- Không biết nó có chồng hay chưa?

- Nó nói với em nó chưa có chồng. Mà sao em gặp nó đi chơi, hoặc ngồi nhà hàng với đờn ông con trai hoài.

Hiệp nghe nói như vậy thì châu mày, lộ sắc buồn hiu.

Cô Lê mới kéo ghế ngồi một bên mà nói rằng:

- Anh Hiệp, bác Ba hồi trước có lòng thương tưởng đến cha em, nên lúc cha em mất, bác cho tiền bạc mà chôn cất tử tế, rồi má em cũng nhờ tiền ấy mà làm vốn mua bán lần lần khá lên, nên ngày nay mới có tiệm như vầy đây. Cái ơn ấy chẳng bao giờ mà má em với em quên được. Việc nhà của anh, em coi cũng như việc nhà của em vậy. Mấy năm nay em ngó thấy, em lấy làm buồn hết sức. Em tưởng anh biết rồi, chớ em không dè anh không hay. Nếu em giấu anh, thì té ra em không thiệt tình. Vậy để em tỏ việc của anh cho anh hiểu.

Hiệp ngó Hai Tiền rồi day qua ngó cô Lê trân trân, dường như cầu xin cô nói cho mau.

Cô Lê nghiêm sắc mặt mà tiếp rằng: "Nói hết lời sợ anh buồn, chớ thiệt bác Ba gái là một người đờn-bà nhơ nhớp khốn nạn lắm. Bác trai bị án đâu chừng một năm, thì em thấy bác gái dọn ở một căn phố tại đường Hamelin. Bác làm bé một ông Huyện nào đó em quên tên; bà Huyện ghen nên bả mướn người ta đánh, lột quần giữa chợ xấu hổ hết sức. Bác gái không dám gần ông Huyện đó nữa, mà rồi bác lại cặp với người khác, thường thường dắt nhau đi chơi tự do không ái-ngại chi hết. Còn con Hào bây giờ bộ nó cũng tự do quá, nay đi chơi với thầy nầy, mai đi chơi với ông kia, mà bác gái không cấm cản chi hết. Bác gái hư mà con Hào cũng hư nữa, không còn gì mà kể".

Hiệp ngồi nghe, hai hàng nước mắt nhểu ròng ròng.

Hai Tiền muốn khuyên giải cho Hiệp bớt buồn nên nói rằng: "Anh Ba không có hạnh phước về gia-đình, nên ảnh thương vợ con mà trời lại khiến vợ bạc, con hư, ấy là tại cái phần số của ảnh. Thôi cháu cũng chẳng nên buồn làm chi, vái trời phò hộ cho ảnh mạnh giỏi, ít năm nữa ảnh về đây, rồi coi chỉ lấy mặt mũi nào mà đối đãi với ảnh cho biết".

Hiệp nghe nhắc tới cha thì càng thêm đau đớn nên vừa khóc vừa đáp rằng:

- Dì cháu hư, thì cháu đã thấy tận mặt, nên bây giờ nghe dỉ làm những điều tồi bại thì cháu chẳng lấy làm lạ. Còn con Hào, ngày cháu ra khỏi nhà, thì cháu có ý sợ ngày sau nó bị cái gương xấu của dì cháu mà nó không khỏi hư, té ra cháu lo sợ trước mà rồi cũng không khỏi! Cháu tưởng cháu sống đặng cho tới ngày ba cháu mãn tù, đặng cha con sum hiệp. Chuyện nhà như vậy làm sao mà sống cho tới năm năm nữa, trời đất ơi!

- Cháu đừng nói như vậy, không nên. Ai có phần nấy. Họ hư mặc họ, có can cập gì đến cháu đâu mà cháu buồn. Cháu có bịnh, cháu phải làm lảng để lo uống thuốc cho mạnh, đừng thèm buồn chi hết.

- Thím thương cháu nên thím khuyên như vậy, chớ không buồn sao được.

- Nầy cháu, thím nói thiệt với cháu, hồi trước thím nhờ anh Ba cho một trăm đồng bạc, thím chôn cất chú Hai hết 20, còn 80 thím làm vốn mua bán. Nhờ số tiền đó thím gầy dựng lần lần nên bây giờ mới có được cái tiệm may như vầy. Chẳng giấu cháu làm chi, tiệm của thím khá lắm, mỗi tháng trừ sở phí rồi thím lời trên 100 luôn luôn. Hồi trước thím tưởng cháu theo ở chung với chị Ba mà thím biết chị Ba có tiền thì chắc cháu cũng được sung sướng. Chừng con Lê gặp con Hào mới hay cháu không có ở chung. Thím mới tính kiếm cháu đặng thím đem cháu về thím nuôi, mà kiếm hết sức không được, không dè cháu phải đi ở bồi cực khổ, lại còn mang bịnh hoạn nữa. Mẹ con thím mang ơn anh Ba nhiều lắm, hễ nhớ tới thân anh Ba bị tù rạc, thì mẹ con thím cũng buồn như cháu vậy. Nay cháu về đây không muốn vô Chợ-Quán ở với chị Ba, thôi thì ở đây với thím, chớ đừng có đi ở bồi ở bếp nữa.

Hiệp lắc đầu nói rằng:

- Dì cháu như vậy, có thế nào mà cháu ở với dì cháu được. Còn cháu ở đây thì bất tiện cho thím, cháu đâu dám.

- Có bất tiện chỗ nào đâu, thím nhờ anh Ba mà trả nghĩa cho chồng được, rồi lại làm ăn khá nữa. Nay thím nuôi cháu mà thím sợ nhọc lòng hay là sợ tốn hao hay sao?

- Cháu bịnh hoạn mà ở làm rộn cho thím ...

- Ậy! Bởi thím thấy cháu bịnh hoạn, nên thím mới biểu cháu ở đây đặng thím kiếm thầy cho cháu uống thuốc. Gần đây có ông thầy thuốc Ẩn giỏi lắm, mà tử-tế nữa. Thím quen nhiều lắm, trong tiệm hễ có cô thợ may nào đau, thì thím rước ổng coi mạch, chớ thím không chịu ông nào khác. Cháu ở đây mà nghỉ, rồi xế thím biểu con Lê dắt cháu lại nhà ổng coi mạch thử coi cháu bị bịnh gì. Cháu phải uống thuốc cho cần mới được, thím coi cháu bịnh nhiều lắm.

Cô Lê thình-lình la lớn rằng: "Ý má! Coi mặt anh Hiệp kìa. Sao ảnh xanh quá vậy?"

Hai Tiền đứng dậy hỏi Hiệp rằng: "Ừ, sao vậy cháu? Trong mình cháu bây giờ thế nào?"

Hiệp rùng mình đáp rằng: "Trong ruột cháu lạnh dữ! Chắc cháu tới cữ rét rồi".

Hai Tiền day lại biểu cô Lê: "Con lấy chiếc chiếu trải trên bộ ván nầy cho anh Hai con nó nằm đỡ đi. Ôm một cái mền ra đây nữa, cho nó đắp. Mau mau đi. Để nằm đỡ rồi chiều má sẽ mua một bộ ván nhỏ lót thêm phía trước kia, rồi giăng mùng cho nó nằm kín đáo".

Cô Lê trải chiếu rồi ôm mền gối đem ra. Hai Tiền biểu Hiệp lên ván mà nằm, lấy mền đắp cho Hiệp. Cô Lê thấy Hiệp run thì cô sợ, nên nói với mẹ rằng: "Không được đâu má. Để con đi rước thầy thuốc liền bây giờ mới xong". Hai Tiền gật đầu chịu. Cô Lê liền thay áo rồi đi rước thầy thuốc.

Cách một lát, ông thầy thuốc Ẩn theo cô Lê mà lại tới, ông có xách theo một cái hộp đựng thuốc và đồ dụng cụ để tiêm thuốc. Ông bắt mạch, coi lưỡi, coi con mắt cho Hiệp và nói rằng: "Bị rét rừng, mà lâu quá không uống thuốc, nên bịnh phải nặng. Tuy vậy mà không hại lắm, uống thuốc riết tự nhiên hết được; song tôi nói trước cho bà biết, phải tiêm thuốc lâu lắm".

Hai Tiền nói: "Xin ông ráng điều trị giùm. Bao lâu cũng được, miễn là mạnh được thì thôi".

Ông thầy thuốc mở hộp lấy ra tiêm cho Hiệp một ống thuốc, rồi ngồi lại bàn viết toa và nói rằng: "Để rồi bà sai ai đó đi xuống nhà thuốc mua ba thứ thuốc tôi biên đây. Ve[4] thuốc nước thì hai giờ đồng hồ, bà cho uống một muỗng cà-phê, còn thuốc bột thì trước mỗi bữa cơm bà cho uống một cachet[5], hộp thuốc để tiêm thì mỗi bữa tôi lại tôi tiêm cho".

Ông đua toa cho Hai Tiền rồi từ giã mà về, hứa sáng mai ông sẽ trở lại mà tuần mạch và tiêm thuốc.

Hai Tiền đưa cái toa cho cô Lê và nói rằng: "Thôi, con kêu xe kéo mà đi mua thuốc, chớ sai bầy trẻ nó có hiểu đâu. Má coi nó bịnh nhiều lắm, bịnh về phần xác, mà cũng bịnh về phần trí nữa. Mẹ con mình phải ráng nuôi nó mà đền ơn đáp nghĩa cho bác Ba con".

Cô Lệ gật đầu nói: "Phải vậy chớ sao", Rồi cô bước xuống thang lầu mà đi mua thuốc.

[1] tiếng Pháp: tùy phái.

[2] tiếng Pháp, salon= phòng khách, bộ ghế salon là bàn ghế có kiến trúc tây phương, đặt ở phòng khách .

[3] giành, tranh.

[4] chai.

[5] tiếng Pháp, cachet trong dược học có nghĩa là viên (thuốc) hình bầu dục như trứng nhện. Có thể vào thời đó, thuốc bột cũng được bọc, vo từng phần như thuốc viên nên cũng gọi là cachet.

Lạc Ðường

Hồ Biểu Chánh

Chương VIII

Kẻ bạc - Người hậu

Một buổi chiều, trời mưa rỉ-rả, gió thổi lao xao. Hiệp nằm trên bộ ván gõ nhỏ, ngó ra cửa sổ, thấy hột mưa lác-đác, hột nầy tiếp hột kia, như giọt nước mắt của trời nhỏ xuống, rồi lại thấy ngọn cây phía bên kia đường quặc xuống, ngóc lên như ai xô, ai đẩy, thì lòng ngao ngán, trí bàng-hoàng.

Cô Lê ở từng dưới đi lên lầu, rồi đi ngay lại chỗ Hiệp nằm, mắt ngó, miệng cười mà hỏi rằng: "Trời mưa dầm-dề từ hồi trưa đến giờ, vậy mà anh có lạnh hay không?"

Hiệp lật đật ngồi dậy đáp rằng: "Không. Trong mình tôi như thường, không biết lạnh nữa".

Cô Lê kéo ghế ngồi ngay mặt Hiệp mà nói rằng:

- Trời nầy mà anh không biết lạnh thì chứng bịnh rét của anh, ông thầy thuốc trị đã dứt rồi. Em nói ông Ẩn giỏi lắm mà, anh coi phải thiệt ổng giỏi hay không?

- Ổng giỏi thiệt, nhưng mà ổng trị đã hơn ba tháng rồi...

- Thì hồi coi mạch lần đầu, ổng đã có nói bịnh của anh phải uống thuốc lâu lắm mới thiệt mạnh được. Em tưởng phải uống tám chín tháng hoặc một năm, té ra mới ba tháng mấy mà anh dứt được bịnh rét, vậy thì giỏi lắm chớ còn sao nữa?

- Không phải tôi nói ổng cho thuốc tới ba tháng mấy mới dứt bịnh rét đó là dở. Tôi biết chứng bịnh của tôi khó lắm, tôi sợ phải uống thuốc tới một hai năm kìa chớ, mà có khị trị không hết rồi phải chết nữa. Ngoài Chứa-chan nhiều người mang bịnh như tôi vậy, tôi thấy họ chết thiếu gì.

- Ừ, nếu anh biết như vậy, thì phải công nhận ông Ẩn là thầy thuốc giỏi chớ.

- Phải, tôi chịu ổng giỏi. Ý tôi muốn nói hơn ba tháng nay, tôi làm tốn hao của thím Hai nhiều quá.

- Thôi, anh cứ nói câu đó hoài, má em nghe đây má em buồn lắm.

- Xin cô để tôi nói hết cho cô nghe.

- Anh muốn nói việc gì em cũng chịu hết thảy; em chỉ xin anh đừng có nói tới chuyện đó, em buồn lắm vậy.

- Không nói sao đặng. Mấy tháng nay thím Hai đã nuôi cơm tôi, mà còn tốn tiền thuốc không biết bao nhiêu mà kể cho xiết. Rồi đây còn phải trả tiền coi mạch, tiêm thuốc cho ông thầy thuốc nữa, thiệt tôi ái ngại hết sức.

- Anh nói rồi phải không? Bây giờ anh phải cho em cãi lại. Má em tốn với anh chút đỉnh mà anh ái-ngại, vậy chớ bác Ba hồi trước giúp cho má em chôn cất cha em, mà rồi bác phải bị đày lưu đó, má em với em lại không ái-ngại hay sao?

- Cô đừng nhắc việc của ba tôi chớ. Hễ nhắc tới thì tôi buồn, tôi muốn chết phức cho rồi.

- Xin lỗi anh. Tại em ham cãi với anh, nên em quên dè-dặt. Mà em xin anh cũng đừng nói tới sự tốn hao nữa, hễ anh nói tới thì em cũng buồn lắm. Người ở đời, nếu biết nhơn nghĩa, thì phải thi ân báo đức vần công với nhau vậy mà. Em nói thiệt, nhờ Trời Phật cho má em làm ăn khá, nên có tiền mà tốn hao chút đỉnh với anh đó, em mừng lắm vậy.

- Người biết nhơn nghĩa như cô, thiệt là ít có. Để tôi mạnh rồi đây tôi cũng phải làm sao mà xử nghĩa lại tôi mới vừa lòng cho.

- Anh làm sao? Đâu anh nói nghe thử coi.

Cô Lê hỏi câu đó rồi liếc mắt ngó Hiệp, ý đợi coi chàng đáp thế nào. Hiệp ngó ra cửa sổ mà suy nghĩ một hồi rồi chẫm rãi đáp rằng: "Để mạnh rồi tôi kiếm công việc làm, mỗi tháng đem về cho thím Hai năm ba đồng cũng phải, miễn có như vậy thì tôi mới vừa lòng".

Cô Lê thất vọng, cô châu mày buồn xo. Cô đứng dậy đi lại cửa sổ ngó xuống đường, xem giọt mưa lác-đác, lòng cô lạnh tanh. Cô đứng ngó xuống đường mà đáp với Hiệp rằng: "Anh đang mới vừa khá khá, còn ốm quá, mà tính đi làm việc gì! Anh nằm nhà mà chơi cũng có cơm ăn vậy mà, cần gì phải đi làm cho cực khổ".

Hiệp cũng ngó chỗ khác, trí vẩn-vơ, lòng ngao ngán, nói bông lông rằng: "Làm người, mà nhứt là làm đờn ông con trai, thì phải lo làm ăn chớ... Mà trước hết phải đi kiếm dì tôi với con Hào coi..."

Cô Lê nghe mấy tiếng ấy thì cô day lại nói cứng cỏi rằng:

- Em không muốn anh nhớ tới bác gái với con Hào nữa! Em biểu anh bỏ đi, nhớ tới làm gì?

- Không nhớ sao được?

- Nếu anh cứ nhớ tới hai người đó hoài, thì làm sao uống thuốc cho mạnh được!

- Thiệt tôi cũng muốn vâng lời cô, ngặt vì con Hào là con của ba tôi, nghĩa là nó là em ruột của tôi.

Hiệp nói tới đó rồi cảm động nói không được nữa, nước mắt tuôn ra dầm-dề, phải lấy khăn mà lau.

Cô Lê lật đật trở lại ngồi trên cái ghế hồi nãy, nhìn Hiệp trân trân rồi cũng chảy nước mắt mà nói giọng bi ai rằng: "Em xin lỗi anh. Vì em thương anh nên em nặng lời, chớ chẳng phải em có ý chi khác. Xin anh nghĩ lại mà coi, mấy tháng nay anh về ở đây, anh đau nhiều lắm, em thấy anh bị rét rừng nên anh đau về phần xác đã nặng rồi, mà anh nhớ chuyện nhà của anh thì anh buồn bực, nên anh còn đau về phần trí nữa. Má em với em ráng sức nuôi anh, em làm cho bịnh phần xác của anh đã gần dứt được rồi, thì em mừng hết sức. Bây giờ còn cái bịnh phần trí của anh nữa, bịnh nầy gốc tại buồn rầu mà sanh ra, phải đốn cái gốc ấy thì trị bịnh mới mạnh. Tại vậy đó, nên em nghe anh nhắc tới bác gái với con Hào, thì em giận quá, phải nói nặng lời, anh hiểu không?"

Hiệp gật đầu đáp rằng:

- Tôi hiểu.

- Ừ, anh hiểu, thôi thì đừng thèm nhớ tới chuyện đó nữa; anh có buồn thì lấy nhựt-trình với tiểu-thuyết em mua đó mà đọc.

- Tôi cũng muốn nghe lời cô lắm, không thèm tưởng tới chuyện khốn nạn đó nữa, ngặt bụng tôi định như vậy, mà nó khiến cái trí không nổi. Trí bắt nhớ hoài hoài, tôi không biết làm sao quên được.

Cô Lê nhìn Hiệp rất lâu, rồi cô hội ý nên cười mà nói rằng:

- Em tìm được phương thuốc hay rồi, chắc sẽ trị cái bịnh buồn của anh được.

- Phương thuốc gì?

- Để em nói với má em cưới vợ cho anh, hoặc may anh mới hết buồn.

- Ý, sao được.

- Sao lại không được? Năm nay anh đã 19, 20 tuổi rồi, cưới vợ phải lắm chớ. Anh có vợ, chắc trí anh mắc thương vợ mà quên các chuyện khác hết ...

- Tình thương vợ làm sao mà hơn tình thương cha cho được, nên cô chắc có vợ rồi quên cha?

- Phải, tình thương vợ không thế nặng hơn tình thương cha được. Mà hai tình đều khác nhau, so sánh sao cho được. Anh có vợ, tuy không phải anh thương vợ mà quên cha, nhưng mà có vợ tự nhiên anh vui thú vợ con, rồi trí khuây lãng, bớt nhớ chuyện buồn về nỗi cha hay là em nữa.

- Ý của cô thiệt là tốt, mà cái chước của cô bày đó, tôi coi không hay. Ngày nào ba tôi còn mắc chốn lao tù, thì tôi có lòng dạ nào mà nỡ cưới vợ. Đã vậy mà cái trí của tôi bị bịnh sầu não, nếu tôi cưới vợ thì tôi sợ chứng bịnh của tôi đã không tuyệt, mà nó còn truyền nhiễm lây cho một người thiếu-nữ vô tội, thì tội nghiệp cho người ta biết chừng nào.

- Nếu có người thiếu-nữ sẵn lòng thương anh, không sợ nhiễm cái bịnh của anh, tình nguyện hiệp chung cái đời vui vẻ của họ với cái đời buồn thảm của anh, đặng kiếm phương thế mà trị cái bịnh của anh, dường ấy anh cũng không chịu nữa hay sao?

- Tôi đâu nỡ vị kỷ đến nỗi làm hư hại cái đời vui vẻ tốt đẹp của người hảo tâm như vậy.

Cô Lê lắc đầu, rồi đứng dậy hỏi lảng rằng:

- Hộp thuốc để tiêm cho anh đã hết rồi, hồi sớm mới anh đi tiêm thuốc, ông thầy thuốc có biểu mua hay không?

- Ổng có nói với tôi rằng tiêm đã nhiều rồi, thôi để nghỉ ít ngày; nếu rét không tái lại, thì chẳng cần phải tiêm nữa.

- Còn thuốc uống?

- Ổng biểu cứ mỗi đêm uống một viên ký-ninh[1] mà thôi.

- Nếu vậy thì mỗi ngày khỏi phải lại cho ông coi mạch nữa?

- Thôi.

- Anh thèm mì không? Để em sai con Hà đi nấu cho anh ăn nghe?

- Cám ơn. Ông thầy thuốc dặn phải cữ ăn một ít lâu, nhứt là phải cữ đồ có dầu mỡ.

- Cữ mỡ, thôi thì ăn đồ ngọt.

- Thôi, ăn làm chi, tôi không đói.

- Ông thầy thuốc đã cho phép anh đi chơi hay chưa?

- Ổng nói đi chơi đặng rồi.

- Hứ, ổng giỏi mà ổng cho phép như vậy, em không phục. Đi chơi rủi bị mưa gió rồi bịnh phát lại mới làm sao? Em cấm, không cho anh đi đâu hết. Chừng nào em liệu ra ngoài được rồi em sẽ cho phép.

- Cô gắt hơn thầy thuốc sao?

- Phải, em gắt lắm. Ông thầy thuốc coi mạch định thuốc, còn em thì lo điều dưỡng. Em cũng có quyền như ổng vậy chớ.

Cô Lê nói câu sau đó và vừa liếc, vừa đi xuống thang lầu. Hiệp ngó theo lững đững lờ đờ, rồi nằm xuống lấy khăn đậy cặp mắt lại.

Một bữa, lối 3 giờ chiều, thím Hai Tiền sai cô Lê đi với một cô thợ may vô Chợ-lớn mua hàng. Cô Lê ra khỏi nhà rồi, thì Hiệp nói với Hai Tiền cho chàng đi chơi một chút. Hai Tiền thấy trời tốt, lại cũng muốn cho Hiệp giải trí, nên cho Hiệp đi chơi và mở tủ lấy cho một đồng bạc để đi xe.

Hiệp sợ lại gare Đakao mà đi xe điển, rủi gặp cô Lê rồi cô không cho đi, nên chàng đi bộ xuống Bến Thành rồi đi xe điển đường trong mà vô Chợ-quán. Chàng đi thủng thẳng lại đường Nhà Thờ rồi thơ thẩn kiếm nhà Ba Trâm. Chàng đi ngang qua một cái nhà nhỏ mà đẹp, đàng trước có sân, lại có một cái xe hơi đương đậu dựa thềm. Chàng ngó trước dòm sau, thấy cái nhà nầy giống y như lời của cô Lê chỉ vẽ hôm nọ, nên chàng nghi là nhà của Ba Trâm. Chàng đương đứng ngoài đường ngó vô, bỗng thấy Ba Trâm y phục toàn một màu nước biển, mặt dồi phấn trắng nõn, môi thoa son đỏ lòm, chẳng khác nào một cô gái mới lớn lên, trong nhà bước ra đứng dựa bên xe hơi, rồi kế một người đờn ông, mặc âu phục, cũng trong nhà đi ra đứng khít một bên đó, hai người nói chuyện vui cười. Người đờn ông lại lấy tay sửa dây chuyền, vuốt mái tóc cho Ba Trâm.

Hiệp thấy bức tranh nầy, liền nhớ bức tranh khác cũng đem treo trước mắt mình trong một đêm nọ, cách năm năm trước, thì tay chơn lạnh ngắt mà trong ngực hừng hực, cặp mắt chóa lòa. Chàng dợm xốc đi vô cửa ngõ, kế thấy cặp ấy bước lên xe hơi rồi xe rút chạy ra. Hiệp đứng tránh một bên cửa ngõ, mà cặp mắt ngó xe hơi lườm lườm. Xe ra tới, Hiệp cũng thấy Ba Trâm ngó mình trân trân, mà xe cứ thẳng ra đường rồi chạy tuốt.

Lúc ấy Hiệp như ngây, như dại, không còn trí khôn gì nữa, nên không biết tính lẽ nào, không biết phải đi đâu.

Chàng ngồi chồm hổm trên lề đường, vừa giận, vừa buồn, vừa thẹn thùa, vừa khinh bỉ. Cách chẳng bao lâu, có một người trai ở trong đi ra đóng cửa ngõ. Hiệp bước lại hỏi rằng:

- Nhà nầy phải nhà cô Ba Trâm hay không vậy anh?

- Phải. Hỏi chi vậy?

- Tôi bà con với cô, nên kiếm thăm cô.

- Cô tôi đi Vũng-Tàu hứng gió, không có ở nhà. Xe mới đi hồi nãy đây.

- Té ra xe mới chạy ra đó là xe của cô Ba Trâm hay sao?

- Phải.

- Vậy mà tôi không dè chớ. Tôi thấy có một người đờn ông ngồi trên xe nữa.

- Ừ, cô đi với ông Hội-đồng.

- Ông Hội-đồng nào?

- Ông Hội-đồng ở dưới Mỹ-Tho, là chồng của cô, bà con sao mà không biết?

- Bà con mà không gặp lâu rồi rồi, nên tôi không hay cô Ba có chồng.

- Đụng ông Hội-đồng đã gần một năm rồi.

- Tôi không hay. Ông Hội-đồng đó tên gì vậy anh?

- Anh hỏi nhiều quá. Muốn biết tên gì thì anh đợi cô về anh hỏi cô.

- Không biết cô Ba đi hứng gió chừng nào mới về?

- Cái đó tôi không hiểu. Mà cô tôi đem quần áo theo nhiều nên tôi chắc ở lâu.

- Còn cô Hào ở đâu mà không đi chơi với cô Ba?

- Cô Ba nhỏ không chịu đi Vũng-Tàu, nhưng mà cô đi chơi chớ không có ở nhà.

- Đi chơi đâu?

- Đi đâu ngoài Sàigòn.

Hiệp nghĩ Ba Trâm đi hứng gió, bỏ Hào ở nhà một mình, vậy thì chàng có thể gặp em đươc, nhưng mà Hào đi chơi không biết chừng nào về mà chờ, nên chàng từ giã tên trai đóng cửa đó mà đi, tính mai mốt sẽ trở vô kiếm Hào.

Lại gare xe điển mua giấy trở ra Sàigòn, thấy đồng hồ chợ mới chỉ 5 giờ, nghĩ còn sớm, nên thả đi chơi một vòng rồi sẽ về Đất-hộ.

Hiệp đi gần tới một nhà hàng bán rượu ở đường Bonard, bỗng thấy một cái xe hơi mới ngừng ngay trước cửa nhà hàng, rồi trên xe bước xuống hai cô y-phục thiệt đẹp, với hai thầy con trai, mà trong hai cô ấy có một cô gương mặt giống in con Hào.

Bốn người đi vô nhà hàng ngồi chung một bàn, rồi kêu bồi lấy rượu, hai cô giỡn với hai thầy, nói cười ngả-ngớn. Hiệp đứng ngoài nhìn coi, thấy rõ một cô là con Hào, bèn men men đi vô đứng một bên cô đó rồi cúi xuống nói nhỏ rằng: "Em, anh có vô trong nhà mà không gặp em".

Cô Hào ngước lên ngó Hiệp rồi nghiêm nét mặt và nạt rằng:

- Ê! Em nào nà! Tôi có biết chú là ai đâu, chú lầm rồi.

- Coi kìa! Anh là Hiệp đây, em quên hay sao?

- Tôi nói chú lầm rồi, tôi không biết Hiệp Hẹo nào hết.

Cô Hào đứng dậy la lớn rằng: "Sao chú dám đến chỗ nầy mà làm nhục tôi? Chú muốn tôi kêu lính bắt chú hay sao? Đồ khốn nạn! Đi ra cho mau".

Hai thầy cũng đứng dậy vừa xô Hiệp vừa bảo rằng: "Đi đi".

Hiệp giận, cặp mắt đỏ au, tay run bây bẩy, vừa đi ra đường vừa nói lầm bầm rằng: "Phải! Khốn nạn. Khốn nạn thiệt mà! Hèn chi cô Lê không muốn cho tôi đi chơi phải lắm".

Hiệp trở ra gare mua giấy xe điển mà về Đakao. Về tới tiệm, Hiệp đi thẳng lên lầu, mà vừa lên hết cái thang thì gặp cô Lê đứng cản đường. Cô hỏi rằng: "Sao anh thừa dịp em đi khỏi, anh lén em mà đi chơi? Anh đi đâu từ hồi ba giờ cho tới bây giờ?".

Hiệp rưng rưng nước mắt mà đáp rằng: "Tôi dại hơn cô nhiều lắm. Cô biết trước nên cô không muốn cho tôi đi, mà tôi cãi lời cô, nên tôi mới phải gặp cái cảnh đau đớn nhục-nhã như vầy. Tôi xin cô tha lỗi cho tôi".

Cô Lê nhìn Hiệp rồi chắc lưỡi lắc đầu nói xuôi rằng: "Thôi rồi! Tôi giữ hết sức mà cũng không khỏi! Ối! Mà cũng nên mổ cái mụn nhọt đó một lần cho rồi, thà đau một lần, mà rồi nó lành, chớ để nói nhức ngấm ngầm khó chịu lắm".

Hiệp đi lại bộ ván nhỏ, chỗ chàng ngủ đó mà ngồi, rồi chống hai tay lên trán mà khóc.

Cô Lê để cho Hiệp khóc một hồi thiệt lâu đặng phai bớt nước sầu não, rồi cô mới lại ngồi trước mặt, lấy lời dịu ngọt mà hỏi coi buổi chiều ấy Hiệp đi đâu, gặp ai, hay là nghe thấy những việc gì, mà về phải đau đớn trong lòng đến thế. Hiệp to nhỏ tỏ thiệt lại cho cô Lê nghe việc mình đi vô nhà Ba Trâm, thấy Ba Trâm mà cô không thèm hỏi, hay Ba Trâm có chồng là một ông Hội-đồng ở dưới Mỹ-tho, gặp cô Hào ngồi nhà hàng với trai, mình vô chào cô, mà cô không nhìn nhận, lại mắng nhiếc và hăm kêu lính bắt.

Cô Lê nghe rõ đầu đuôi rồi cô thở ra mà nói rằng:

- Em vẫn biết ý anh muốn thấy rõ ràng cái bạc của bác Ba với cái hư của con Hào. Mà em nghĩ, anh thấy rõ rồi anh càng thêm buồn, rồi sợ anh đau lại, vì vậy mà em không muốn cho anh thấy, nên em không muốn cho anh đi chơi. Nay anh nghĩ coi có phải anh thấy đã vô ích, lại thêm hại hay không?

- Phải lắm, phải lắm, hại thiệt. Mấy tháng nay tôi nghe nói con Hào hư, nhưng mà nó với tôi có tình cốt nhục, nên dầu thế nào tôi cũng thương nó hoài, chớ chi tôi nghe lời cô, tôi không ra khỏi nhà, tôi không gặp nó, thì cái tình anh em vẫn còn phưởng-phất, tôi còn có chỗ nương dựa trí mà nhớ gia đình. Tôi cãi lời cô làm chi, mà tôi gặp con Hào cho nó dứt cái tình anh em ấy như vầy. Trời ơi! Bây giờ trí tôi như người chơi vơi giữa biển, nhìn tứ phía mênh-mông, không bờ, không bến, tôi biết níu cái gì mà sống, đặng gặp mặt ba tôi!

Hiệp nói tới đó thì khóc dầm, nằm chúi xuống ván, lạnh run lập cập.

Cô Lê lật đật xổ mền mà đắp cho Hiệp và nói rằng: "Còn em đây chi. Anh níu mà sống được chớ".

Hiệp ngó cô Lê rồi gật đầu đáp rằng: "Cám ơn cô".

[1] tiếng Pháp: quinine, tên loại thuốc trị bịnh rét rừng (màu vàng hoặc trắng).

Lạc Ðường

Hồ Biểu Chánh

Chương IX

Mãn tù

Cách năm năm sau nữa.

Hiệp bây giờ đã được 24 tuổi, tướng mạnh mẽ, nước da sậm, chớ không phải đau ốm mét xanh như hồi ở Chứa-chan mới về đó vậy.

Vì Hiệp quyết chí kiếm công việc mà làm cho giải khuây lòng phiền não, nên thím Hai Tiền nhờ tiệm may mà thân thiết được với nhiều bà, nhiều cô, chừng thấy Hiệp thiệt mạnh rồi, thím mới nói với bà phó chủ Hãng dầu mà gởi Hiệp vô làm trong Hãng; ăn lương mỗi tháng được ba chục đồng bạc.

Một buổi trưa, thím Hai Tiền ngồi trong tiệm đương sửa soạn hàng mà giao cho mấy cô thợ may, thình-lình anh sáu Thêm ghé lại hỏi rằng: "Chị Hai, mấy tháng nay chị mạnh giỏi hả?"

Nguyên Sáu Thêm hồi trước làm cu-li cho Hãng gạo bên Xóm-Chiếu, nên thím Hai Tiền quen nhiều, bởi vậy thím nghe hỏi thì thím ngó ra mà đáp rằng:

- Ờ, mạnh. Em đi chơi phải không em Sáu? Mấy tháng nay em đi đâu mất biệt vậy em?

- Tôi bị ở tù hết tám tháng, mới mãn hôm qua đây.

- Ủa, sao mà ở tù?

- Đánh lộn, tôi chém thằng đó đứt hai ngón tay, nên bị án.

- Bất nhơn dữ không! Qua có hay đâu. Ngồi đó chơi em Sáu.

Sáu Thêm bèn ngồi trên ghế để dựa một bên cái máy may. Hai Tiền mở tủ lấy một đồng bạc mà đưa cho Sáu Thêm và nói rằng:

- Em lấy đồng bạc đi uống nước chơi. Lo làm ăn, đánh lộn làm chi mà phải bị tù tội không biết.

- Cám ơn chị Hai. Tôi có ham gây gổ với ai đâu. Tại hôm đó giống gì ám cho tôi, nên tôi dằn không được, mới sanh chuyện đó chớ.

- Ở trong khám cực lắm hả?

- Cái đó khỏi nói. Kêu là tù mà sướng nỗi gì. À, nè, tôi có gặp anh Ba Mậu. Chị biết ảnh không?

- Biết lắm chớ. Em gặp ở đâu?

- Gặp ở trong khám lớn. Ảnh gần mãn rồi, nên ở ngoài Côn-nôn họ gởi ảnh về.

- Phải. Anh Ba Mậu ở tù năm nay đúng mười năm, mà không biết bữa nào mãn. Qua nhớ ảnh bị bắt nhằm ngày mười ba tháng hai, song không hiểu ngày Tây nhằm ngày nào, nên tính không được.

- Ảnh nói với tôi tuần tới ảnh mãn. Ảnh có nói ngày nữa. mà tôi quên.

- Chắc tuần sau phải không? Để qua nói cho thằng Hiệp hay đặng nó xin phép tuần sau nó ở nhà nó đi đón ảnh.

- Thằng Hiệp nào?

- Con ảnh đó. Mấy năm nay nó ở với qua đây.

- Cha chả! Bà vợ của ảnh mấy năm nay làm nhiều việc khốn nạn quá, không hiểu ảnh tính làm sao.

- Ôi! Còn vợ con gì nữa mà nói! Không biết trong khám ảnh có nghe việc đó hay không?

- Không, ảnh không hay gì hết, nên gần mãn ảnh vui lắm.

- Em có nói cho ảnh nghe hay không?

- Không. Nói làm chi. Việc nhà của ảnh để ảnh về ảnh xử lấy. Thôi, để tôi kiếu chị Hai tôi đi chơi. Cám ơn chị nghe không chị Hai.

Sáu Thêm ra khỏi cửa, rồi kế Hiệp đi làm việc về, mình mặc một bộ đồ tây bố xám coi mạnh mẽ lắm. Hiệp đi thẳng lên lầu. Hai Tiền hớn hở đi theo sau lưng.

Cô Lê đương ngồi thêu khăn trên lầu, vừa thấy Hiệp ló lên thang thì kêu con Hà mà biểu dọn cơm.

Hiệp mới ngồi mở giày thì Hai Tiền nói rằng:

- Nè cháu, tuần sau đây anh Ba mãn đa.

- Cháu cũng biết tháng nầy mãn, song không hiểu ngày nào. Sao thím biết tuần tới mãn?

- Sáu Thêm ở tù về, nó mới ghé, nó nói gặp anh Ba trong khám. Anh Ba nói tuần tới đây ảnh mãn.

- Nếu vậy thì thứ bảy cháu xin phép ở nhà ít bữa đặng cháu đi đón ba cháu.

Cô Lê chen vô nói rằng: "Tôi cũng đi nữa". Hai Tiền cản rằng: "Con đi làm chi, để thứ hai má đi với anh con, mình đón thứ hai không gặp thì đón hôm tối thứ ba, thứ tư, đón hết tuần tự nhiên phải gặp, chớ gì. Nè, mà thím dặn trước cháu: Hễ gặp anh Ba thì đừng có nói chuyện chị Ba với con Hào nghe không. Để mình rước ảnh về nhà rồi thủng thẳng mình sẽ xì ra, chớ nói gấp ảnh hay rồi ảnh buồn".

Hiệp gật đầu mà đáp rằng: "Thím nói phải lắm, việc nhà để thủng thẳng năm ba bữa rồi mình sẽ nói. Còn đi đón, cháu đi một mình cũng được. Thím với cô Hai đi làm chi mất công".

Hai Tiền nói: "Thím phải đi chớ. Con Lê ở nhà coi tiệm được mà. Vậy một lát, chừng con Hà dọn cơm rồi mình nên nói chuyện chi khác hơn là chuyện đi xuống cửa khám lớn đón rước Cặp-rằng Mậu".

Sáng thứ hai, thím Hai Tiền đi với Hiệp xuống ngồi ngay cửa khám lớn, chờ không thấy chi hết, mới về ăn cơm, rồi buổi hầu chiều xuống đón nữa. Đón tới chiều thứ ba gần bốn giờ, Hai Tiền thấy có một người bận áo bành-tô xanh, quần vải đen, ở trong cửa khám bước ra đường, đứng ngó dáo dác. Thím ngó sững người ấy rồi la lớn rằng: "Anh Ba kia kìa cháu. Ảnh chớ ai! Anh Ba, anh Ba!".

Hiệp chạy lại gần, thấy quả là cha nó, thì kêu lớn rằng: "Ba, ba, con đây ba. Con đón hai bữa rày".

Ba Mậu ngó Hiệp trân trân, miệng cười ngỏn ngoẻn mà hỏi lạt lẽo rằng: "Vậy hả".

Hiệp nắm cánh tay Ba Mậu mà dắt đi qua lề đường bên kia. Hai Tiền đi riết lại và nói rằng: "Mừng anh Ba". Ba Mậu cười. Hiệp nói: "Thím Hai hồi trước ở một xóm với mình bên Vĩnh-Hội, ba quên hay sao?"

Ba Mậu gật đầu đáp: "Thím Hai Tiền mà, dễ quên không".

Thím Hai Tiền nói:

- Phải, em đây. Em cũng đón anh Ba mấy bữa rày.

- Vậy hay sao? Sao biết bữa nay tôi mãn mà đón?

- Sáu Thêm nó nói nên mới hay chớ.

- Ờ. Sáu Thêm nó mãn hôm trước.

- Thôi, để mời anh Ba về nhà rồi sẽ nói chuyện. Cháu kêu ba cái xe kéo đi cháu.

Hiệp kêu xe. Ba Mậu ngó quanh quất rồi hỏi:

- Hiệp, còn dì mầy đâu?

Hai Tiền rước mà đáp rằng:

- Chị Ba không hay.

- Còn con Hào?

- Chắc nó cũng không hay.

- Ủa! Sao thằng Hiệp hay?

Hai Tiền không biết lời chi mà đáp cho xuôi, may nhờ ba cái xe kéo chạy lại, nên nói: "Thôi, mời anh Ba lên xe kéo mà về".

Ba người bước lên xe. Ba Mậu cười hịt hạt mà nói lớn rằng: "Tôi bị đày mười năm, mà vợ con tôi được sung sướng, thiệt tôi khoái chí lắm".

Hai Tiền với Hiệp ứa nước mắt, song không dám nói chi hết.

Ba cái xe lên tới Đất Hộ, ngừng ngay trước cửa tiệm. Cô Lê vừa thấy thì lật đật chạy ra xá Ba Mậu. Ba Mậu ngó cô trân trân. Hai Tiền nói rằng: "Con nhỏ tôi đó đa. Con Lê đó anh Ba quên nó hay sao?"

Ba Mậu gật đầu và cười, rồi đi theo Hai Tiền mà vào tiệm. Hai Tiền mời đi theo thẳng lên lầu; cô Lê trả tiền xe rồi cũng lên theo.

Hai Tiền mời Ba Mậu ngồi tại ghế salon rồi nói rằng:

- Tôi tưởng anh Ba ở trỏng chắc anh Ba ốm lắm, té ra không ốm, mà lại có da thịt hơn hồi trước nhiều.

- Tôi mập hơn hồi trước hay sao?

- Hơn nhiều, mà anh Ba coi già hơn, tóc bạc da giùn.

- Ở trong chốn lao tù mười năm mà không già sao được thím. Còn sống đây là may.

- Anh Ba về được thiệt em mừng quá.

- Tôi cũng mừng lắm. Mà mười năm nay tôi ở tù cực khổ, song tôi không buồn. Mình đã quyết chí thì buồn cái gì. Cực khổ một mình mà cả nhà được sung sướng, thì khoái lắm vậy.

Hai Tiền ngó Hiệp rồi biểu cô Lê coi mua đồ thêm đặng nấu cơm ăn cho sớm. Cô Lê đi xuống từng dưới, còn Hiệp thì đương thay đổi quần áo.

Ba Mậu ngó Hiệp mà hỏi rằng:

- Nhà nầy là nhà của ai vậy Hiệp?

- Thưa, nhà của thím Hai.

- Còn mầy ở đâu?

- Con ở đây nữa.

- Còn dì mầy với con Hào ở đâu?

- Ở trong Chợ-Quán.

- Ủa! Sao lại không ở chung với nhau?

- Thưa, con ở riêng.

- Bày ở riêng tư làm chi; ở chung với nhau không được hay sao? Thôi, để thăm thím Hai một chút rồi mầy dắt tao về nhà đặng tao thăm dì với em mầy chớ.

- Thủng thẳng rồi sẽ về ba, gấp làm chi.

- Xa cách nhau tới mười năm lận mà; dì mầy với con Hào nhớ tao lung lắm chớ. Về đặng cho mẹ con nó mừng một chút.

Hai Tiền thấy Hiệp bối-rối không trả lời được nữa, thì hớt mà nói rằng:

- Anh Ba mới ra, vậy anh Ba ở nhà em mà chơi ít bữa cho khỏe đã anh Ba.

- Bây giờ tôi khỏe lắm, có mệt đâu.

- Anh Ba ở đây đặng ăn uống tiếp dưỡng ít bữa.

- Về nhà rồi tiếp dưỡng cũng được vậy. Trong khám ra rồi ở đây, không về nhà, làm như vậy coi sao được.

- Em mang ơn anh Ba nặng quá, trong mười năm nay chẳng giây phút nào mà em quên. Anh Ba về được em mừng hết sức, nên em muốn anh Ba ở đây cho em nuôi ít ngày, đặng em đền ơn đáp nghĩa với anh Ba, cho phỉ lòng em.

- Ơn gì đâu?

- Anh Ba quên hay sao? Nhờ anh Ba cho em một trăm đồng bạc, em chôn cất cho cha con Lê tử tế, mà còn dư tiền em để làm vốn mua bán, gầy dựng lần lần, nên ngày nay mới có tiệm như vầy, mẹ con em no ấm, đó là ơn nặng lắm chớ.

- À, tôi nhớ rồi. Tôi cho thím bạc đêm hôm đó phải không?

- Thưa phải.

- Tôi lấy tôi đưa đại, tôi không kịp đếm. Té ra được có một trăm hay sao?

- Thưa, một trăm lận.

Ba Mậu ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói rằng: "Nếu vậy thì tôi đem về cho má con Hào tới mười chín ngàn chín trăm đồng, bởi vì Mái-Chín Cúng khai mất hết hai mươi lăm ngàn, thằng Tám Thiệt nó lấy phần nó năm xấp giấy săn[1], sau cò xét lấy hết, thì còn có năm ngàn. Còn lại phần tôi hai chục ngàn. Mà tôi cho thím một trăm, thì còn mười chín ngàn chín trăm đồng, phải rồi".

Hiệp bước lại hỏi rằng:

- Té ra thiệt ba giựt bạc của Mái-Chín Cúng hay sao?

- Thiệt có chớ. Nếu không có thì làm sao mà bị đày.

- Ba làm việc đó vô ích quá.

- Sao mà vô ích! Tao thấy vợ con nghèo cực tao chịu không được, nên tao thí thân tao; thà tao bị đày mà vợ con được sung sướng, tao làm như vậy có ích cho vợ con lắm chớ.

Hiệp uất ức trong lòng chịu không được, nên dợm muốn nói thiệt việc nhà cho cha nghe. Hai Tiền ra dấu biểu đừng cãi nữa, nên Hiệp phải dằn lòng, ngậm miệng.

Cô Lê bưng đồ ăn, sắp dọn đầy một bàn, rồi Hai Tiền mời Ba Mậu ăn. Trong lúc bốn người ăn uống thì Hai Tiền kiếm chuyện vui mà nói, đặng cho Ba Mậu quên việc vợ con. Mà chừng ăn rồi, thì Ba Mậu hối thúc Hiệp phải dắt về nhà đặng gặp mặt Ba Trâm và con Hào.

Hiệp hết phương giấu giếm nữa được, nên phải nói bùng ra rằng: "Con không thế để cho ba gặp mặt dì với con Hào được, bởi vì ngày ba bị Tòa kêu án rồi thì dì lấy trai cùng hết, nay thằng nầy, mai thằng khác. Mấy năm sau đây dì làm bé Hội-đồng nào ở dưới Mỹ-Tho, còn con Hào thì nó bắt chước gương của dì nên nó cũng làm "đĩ", nó gặp con, nó không thèm nhìn con là anh nó. Những đồ như vậy mà ba còn đòi gặp mặt làm chi!"

Hiệp đứng nói một dây. Ba Mậu nghe mà dường như không hiểu, nên hỏi gạn rằng:

- Mầy nói sao? Dì mầy có chồng khác, còn con Hào thì làm đĩ?

- Thưa, phải.

- Trời đất ơi! Còn mười chín ngàn chín trăm đồng bạc của tao đem về cho đó, làm gì hết đi, mà mẹ con phải mất tiết hư thân đến thế?

- Con có biết đâu.

- Mầy không biết tao đem bạc muôn về giao cho dì mầy đặng nuôi con Hào với mầy sao?

- Dì có nói đâu mà biết. Tòa kêu án ba được chừng một tháng, dì lấy trai, con bắt được; dì mắc cở dì đuổi con đi, rồi từ đó đến giờ con có léo tới nhà nữa đâu.

Ba Mậu dựa ngửa vào ghế mà thở dốc, mặt mầy tái lét, cặp mắt lim-dim. Hai Tiền với cô Lê ngồi trên ván, còn Hiệp thì đứng một bên cha, ba người biết Mậu đau-đớn lắm, nên ngó chừng mà thôi, chớ không dám nói chi hết.

Cách một hồi lâu, Ba Mậu mở mắt ra rồi vùng đứng dậy, hai bàn tay ôm cái đầu chặt cứng mà nói rằng: "Tôi đi lạc đường! Trời ơi! Cái đầu tôi muốn bể rồi!"

Hai Tiền thấy vậy nên khuyên rằng: "Xin anh Ba chẳng nên buồn. Việc đã lỡ rồi, biết làm sao. Tại mình vô phước, nên trời mới khiến làm phải mà lại gặp quấy. Anh Ba còn cháu Hiệp đây, nó thương, nó trọng anh Ba lắm, vậy cũng đủ rồi, cần gì phải buồn".

Ba Mậu té ngồi trên ghế lại, rồi khóc, nước mắt nhểu ròng ròng. Hiệp thấy cha như vậy thì động lòng nên cũng khóc theo.

Nhờ khóc, nó giải nỗi uất ức trong lòng được, nên thủng-thẳng Ba Mậu tĩnh trí lại, rồi biểu con thuật tiếp việc nhà cho mình nghe.

Hiệp bèn kéo ghế ngồi một bên cha, rồi thủng thẳng tỏ hết các việc ở nhà; cha bị bắt, rồi mình lo đi bán nhựt-trình lấy huê hồng mà nuôi mẹ ghẻ với em, mỗi ngày kiếm được bao nhiêu cũng đem về đưa hết cho mẹ ghẻ. Cha bị Tòa kêu án rồi thì mẹ ghẻ với em ăn mặc lòe lẹt; cách chừng một tháng, mẹ ghẻ lại lấy trai, mình bắt được mình gây, mẹ ghẻ hổ thẹn mới đánh, đuổi ra khỏi nhà, không cho ở nữa. Mình lưu linh trót một tháng, ngày đi bán nhựt-trình, tối ngủ mấy nhà gare. May gặp một cô vợ Tây mướn ở bồi, mới dắt ra vườn cao-su ở ngoài Chứa-Chan. Ở Chứa-Chan năm năm, thân tuy no ấm, nhưng mà phải mang chứng bịnh rét rừng, sợ ở đó nữa phải chết, nên xin thôi, trở về Sàigòn kiếm thuốc uống. Cô Lê đi chợ gặp, mới dắt về tiệm. Thím Hai Tiền không cho đi nữa, thím rước thầy thuốc tiêm thuốc, trị bịnh gần bốn tháng mới lành mạnh, rồi thím gởi cho làm trong Hãng dầu từ ấy đến nay. Còn Ba Trâm thì cô làm nhục nhã đã thèm, rồi mới mua nhà ở đường Nhà thờ Chợ-Quán và làm bé người ta. Hiện bây giờ cô giàu có, ở nhà tốt, bận áo màu, đeo hột xoàn, ngồi xe hơi coi sang trọng lắm. Con Hào thì không có chồng, nhưng mà đêm nào cũng nhảy đầm, ngồi nhà hàng, đi chơi với trai luôn luôn, nay người nầy, mai người kia, không sợ ai chê cười khinh bỉ.

Hiệp thuật đủ hết, không sót một khoảng nào.

Ba Mậu nghe rõ đầu đuôi rồi thì mặt buồn xo, ngồi chắc lưỡi than rằng: "Lòng người không biết sao mà đo được. Tôi thí thân đi ăn cướp đem về giao cho gần hai muôn đồng bạc. Tôi căn dặn hết lời, tôi gởi con tôi; tôi xin nuôi giùm nó. Có dè đâu, đã không thương tưởng đến tôi, mà cũng không nhớ tiền bạc là tiền của tôi, đành lòng đánh đuổi con tôi đi, không cho nó một đồng nào, để nó lưu linh cực khổ, đau ốm, may nhờ có thím Hai hảo tâm nuôi dưỡng bảo bọc cho nó, chớ không thì nó đã chết rồi, ngày nay tôi về, tôi đâu còn thấy mặt con tôi".

Ba Mậu càng nói càng giận, nên đứng dậy đi qua đi lại, rồi trợn mắt châu mày mà la lớn rằng: "Tôi phải kiếm con Võ-Hậu nầy mà buộc nó phải trả đủ tiền bạc lại cho tôi mới được! Hiệp, mầy nói nhà nó ở đường nào, nhà số mấy?"

Hiệp đáp rằng: "Ở đường nhà thờ trong Chợ-Quán. Con không nhớ số nhà, song con nhớ cái nhà đó nền đúc, vách tường, đàng trước có sân rộng, hai bên có nhà xe, nhà bếp".

Ba Mậu nói: "Tao muốn đi bây giờ".

Hai Tiền nói: "Em khuyên anh Ba đừng có nóng. Chị đã có chồng khác rồi, anh có gặp chỉ rồi anh nói giống gì? Em biết anh đụng chỉ hồi trước anh không có làm hôn thú, nên bây giờ chỉ bỏ anh, thì anh không nói chi được. Còn anh muốn đòi tiền bạc lại, việc đó còn khó hơn nữa. Anh giao tiền cho chị, anh có bằng cớ gì đâu. Bây giờ anh đòi, chỉ nói không có thì anh làm sao? Em tưởng người đờn bà đã không nghĩ tình anh nên lấy chồng khác, thì có lẽ cũng dám làm hại anh lắm. Vậy em xin anh bỏ hết việc cũ đi, đừng thèm nhớ tới nữa, để lập đời khác làm ăn thì hay hơn".

Ba Mậu cười mà đáp rằng: "Bỏ sao được thím Hai. Tôi ở tù mười năm lao khổ lắm mà. Tại thím là bàng-quan, nên thím không biết giận, chớ chi thím là người trong cuộc như tôi, thì thím cũng không nín được".

Hai Tiền cười. Cô Lê chen vô và nói: "Bác gái ở bạc lắm, nên bác Ba giận cũng phải. Mà thôi chuyện đó còn đó, bác mới về, trong mình còn mệt mỏi, vậy xin bác Ba dưỡng sức ít ngày cho khỏe rồi bà con mình sẽ tính lại coi phải làm sao. Bây giờ phải lo nghỉ đã".

Hai Tiền khen con nói phải, nên biểu con trải chiếu giăng mùng trên bộ ván lớn, rồi mời Ba Mậu nằm nghỉ.

[1] tiếng Pháp: cent=một trăm, giấy xăn (săn, xăng, săng) là giấy bạc 100 đồng.

Lạc Ðường

Hồ Biểu Chánh

Chương X

Gặp vợ con

Một buổi sớm mai, Ba Trâm đưa chồng sau lên xe hơi đi về Mỹ-Tho rồi cô trở vô nhà nằm trên cái ghế xích đu mà xem mấy tấm hình của cô mướn thợ chụp, cô mới lấy về hồi hôm.

Cô bận một bộ đồ mát bằng lụa mỏng, màu bông hường; nước da cô đã trắng, mà nhờ màu áo giọi thêm, làm cho nhan sắc của cô pha vẽ lả-lơi với vẽ nghiêm nghị, nên coi đẹp-đẽ vô cùng.

Cô nằm lúc-lắc cái ghế mà coi hình, bỗng thấy có người bước lên thềm.

Cô ngó ra thì thấy có một người đờn ông, mặc áo bành-tô xanh, quần vải đen, đương xâm-xâm đi vô cửa; mới ngó thoáng qua thì cô biết là Cặp-rằng Mậu, nên cô ngồi dậy làm mặt nghiêm mà hỏi rằng: "Chú đi đâu?"

Mậu ngó ngay Ba Trâm và cười mà hỏi lại rằng:

- Trời đất ơi! Mình quên tôi hay sao nên kêu tôi bằng chú?

- Tôi nhớ chớ. Chú là Cặp-rằng Mậu chớ ai.

- Nếu biết tôi là Cặp-rằng Mậu, sao lại kêu tôi bằng chú?

- Vậy chớ chú muốn tôi kêu chú bằng cái gì?

- Hồi trước mình kêu tôi bằng gì?

- Hồi trước khác, bây giờ khác.

- À! Bây giờ mình có chồng khác, nên mình phải kêu tôi bằng chú hả?

- Phải.

- Tôi xin mời chồng mình ra đây cho tôi nói chuyện một chút.

- Chồng tôi không có ở nhà.

- Vậy chớ đi đâu?

- Chú không có quyền gì mà được tra hỏi việc nhà của tôi.

Ba Mậu nghe mấy lời ấy thì châu mày xụ mặt coi bộ giận lắm. Anh chống tay trên một cái bàn nhỏ, đứng ngó Ba Trâm mà hỏi rằng: "Thiệt mình lấy chồng khác hay sao mình?"

Ba Trâm gật đầu, song mắt ngó chỗ khác, chớ không ngó Ba Mậu.

Ba Mậu đứng trân trân một hồi rồi lắc đầu nói rằng:

- Thiệt tôi không dè mình nhẫn tâm đến thế! Bây giờ mình muốn cho tôi xử trí cách nào, đâu mình nói cho tôi nghe coi?

- Tôi muốn chú đừng léo hánh đến nhà tôi nữa, bởi vì bây giờ tôi có chồng, mà vợ chồng tôi có hôn thú hẳn hòi, nên chú đến nói bậy bạ, sợ e chú phải mang họa.

Mậu đập tay trên cái bàn một cái rầm mà la lớn rằng: "Mang họa! Mang họa! Mình phải biết cái thân khốn nạn nầy mà còn sợ gì nữa! Nãy giờ mà tôi không móc họng, bẻ cổ mình đó, là vì ... là vì tôi thương mình quá, nên không nỡ đụng tới mình đó mà thôi chớ".

Ba Trâm đứng dậy nói rằng: "Nè, tôi nói cho chú biết, nếu chú ào ào trong nhà tôi, tôi sẽ kêu lính bắt chú liền bây giờ đây cho chú coi".

Mậu té ngồi trên một cái ghế, rồi chống tay lên trán mà khóc.

Ba Trâm thấy vậy thì cười mà nói rằng:

- Tôi khuyên chú hãy về đi.

- Mình đuổi tôi hay sao?

- Vậy chớ chú có quyền gì mà được tới nhà tôi ngồi mà khóc?

- Cho tôi ngồi đặng tôi khóc một chút, cho hơi giận nó hạ xuống, kẻo bể cái ngực, nứt cái đầu tôi bây giờ đây, biết không? Hổm nay người ta nói mà tôi không tin, bây giờ tôi mới thấy rõ ràng mình không còn một chút tình gì với tôi nữa hết.

- Thôi, chú khóc rồi thì đi về đi.

- Khoan, đi được đâu. Nếu mình muốn cho tôi đi, thì phải đem trả mười chín ngàn chín trăm đồng bạc của tôi lại cho tôi, rồi tôi mới đi.

- Bạc gì mà đòi? Tôi có thiếu nợ chú hay sao?

Ba Mậu đứng dậy trợn mắt hỏi rằng:

- Mình không nghĩ tình tôi, mình bỏ tôi mà lấy chồng khác, mà mình còn đoạt tiền bạc của tôi nữa hay sao?

- Tôi đoạt tiền bạc của chú hồi nào?

- Tôi chận đường mà cướp giựt của người ta đem về giao cho mình gần hai muôn đồng bạc đặng mình nuôi con. Mình đã không nuôi con tôi, mà mình lại lấy chồng khác, vậy thì mình phải trả tiền bạc đó lại cho tôi chớ.

- Tôi có biết tiền bạc gì đâu.

- Mình chối hả?

Ba Mậu đưa tay chờn-vờn muốn nắm cổ Ba Trâm. Ba Trâm kinh hải nên vừa la vừa chạy. Lúc ấy có một cô nhỏ, chừng 20, 21 tuổi, mình mặc áo sơ-mi, đầu bỏ tóc xõa, ở trong buồng bước ra nạt rằng: "Thằng cha kia, muốn cái gì hử?".

Mậu ngó cô ấy, rồi cười ngỏn-ngoẻn mà hỏi rằng:

- Con Hào phải không? Năm nay con tôi bây lớn lận hay sao?

- É! Con cháu gì nà! Đi ra, đi cho mau.

- Con cũng đuổi ba nữa hay sao?

- Không biết cha con gì hết, cha gì vậy?

Mậu đấm ngực than rằng: "Trời đất ơi! Vợ bạc tình, con bạc nghĩa, cái đời gì mà khốn nạn như vậy nè!"

Cô Hào nguýt một cái rồi bỏ đi lại cửa sổ mà đứng.

Mậu lắc đầu, rồi thủng thẳng đi ra cửa, đi nghiêng qua ngả lại, bộ như kẻ không hồn. Ra tới đường thì đầu nặng như treo đá, ngực nóng như lửa đốt, cặp mắt đổ hào-quang, không thế đi nữa được, nên ngồi trên lề đường, cứ ngó sững trước mặt, không giận, không khóc, mà cũng không cựa quậy.

Lúc ấy Hiệp với cô Lê ở trên đầu đường, đương xâm-xâm đi lại. Hiệp vừa thấy dạng cha ngồi thì chạy riết lại rồi vịn tay trên vai cha mà nói rằng: "Trước khi đi làm, con có dặn ba ở nhà mà nghỉ, đừng có đi đâu hết, sao ba lén đi vô trong nầy làm gì?"

Mậu ngó con mà cười hịt-hạt, song không nói chi hết.

Cô Lê đi tới, cô kêu mà nói rằng: "Bác Ba, bác đi đâu vậy? Tôi mắc lui-cui dưới bếp, lo chế cà phê cho bác uống, còn má tôi thì mắc lo tiếp khách, bác lỏn đi đâu mất, làm tôi hết hồn hết vía, nên chạy xuống Hãng kêu anh Hiệp đặng đi kiếm bác đây. Bác làm giống gì mà ngồi đây?"

Mậu cứ cười hoài. Cô Lê thấy có một cái xe thổ mộ chạy ngang, cô bèn kêu ngừng lại, rồi hối thúc Mậu lên xe mà về. Khi Hiệp dắt cha lên xe, thì Mậu nói: "Tao đi lạc đường vì tao tính sai, nên mới ra cớ sự như vậy đó".

Xe về tới tiệm. Hai Tiền chạy ra mừng và hỏi Mậu đi đâu. Mậu cười mà đáp rằng: "Tôi đi thăm mẹ con con Hào, hai đứa nó làm giống gì mà đi kiếm lộn-xộn quá".

Hai Tiền nói: "Thăm viếng mà làm gì. Anh Ba nằm nhà mà nghỉ có lẽ tốt hơn nhiều".

Mậu lên lầu rồi nằm dài trên ván, không nói chi nữa hết. Hiệp để cho cha nghỉ một lát, rồi òn-ĩ hỏi thăm coi cha vô Chợ-Quán vậy mà có gặp mẹ con Ba Trâm hay không. Mậu không chịu nói tới chuyện ấy, mà lại cứ nói: "Tao đi lạc đường".

Hiệp coi bộ cha mệt, nên không dám hỏi nữa. Mậu cứ nằm thiêm-thiếp, tới trưa dậy ăn cơm, rồi cũng nằm lim-dim hoài, không lộ sắc buồn hay giận chút nào hết.

Tối lại, khi tiệm đóng cửa rồi, Hai Tiền mới lên lầu, thấy Mậu đương ngồi hút thuốc tại bộ ghế salon, Hiệp đứng xớ rớ gần đó, còn cô Lê thì ngồi dưới bóng đèn khí mà thêu khăn. Thím lại ngồi ngay trước mặt Mậu mà nói rằng:

- Em có một việc nhà, em muốn tỏ với anh Ba, song mấy bữa rày em thấy anh Ba không được vui, nên không dám nói.

- Thím có việc gì thì cứ nói ra. Người như tôi thì còn biết buồn hay là còn biết vui gì nữa mà thím ngại.

- Không phải chuyện gì lạ. Em muốn nói chuyện hai đứa nhỏ đây. Em xin tỏ thiệt với anh Ba, em nuôi thằng Hiệp trong nhà mấy năm nay, em thương nó cũng như con ruột của em vậy. Nó với con Lê đã lớn tuổi rồi, mà em coi ý hai đứa nó thương yêu nhau lắm. Mấy năm nay em muốn gả con Lê cho thằng Hiệp đặng chúng nó có đôi bạn mà làm ăn. Em có tỏ ý ấy với thằng Hiệp, thì nó nói nó thương con Lê thiệt, ngặt vì anh mắc trong chốn lao tù, nó buồn bực hoài, nên không đành cưới vợ, nó đợi chừng nào anh mãn tù, anh về, nó xin phép anh rồi sẽ tính việc hôn nhơn. Nay anh Ba về rồi, vậy em xin anh Ba nghĩ thử coi có nên cho hai đứa nó kết nghĩa vợ chồng với nhau hay không?

Mậu quăng điếu thuốc rồi day qua hỏi Hiệp rằng:

- Mầy muốn cưới vợ sao Hiệp?

- Thưa ba, thím Hai nuôi con mấy năm nay, ấy là ơn nặng, mà lúc con đau, cô Lê cực khổ săn sóc con, nên con mới khỏi chết, ấy là nghĩa dài. Ơn nghĩa ấy con không bao giờ mà quên được. Đã vậy mà con ở chung một nhà với cô hai Lê năm năm nay, con yêu nết, con mến tình cô lắm; con chắc nếu con được một người bạn trăm năm như cô, thì gia-đình của con hạnh phúc nhiều lắm vậy.

- Hạnh phúc! Mầy cũng muốn đi lạc đường nữa! Làm thế nào kìa, chớ có phải cưới vợ mà đặng hạnh phúc đâu mầy. Vậy chớ mầy không thấy thân tao đây hay sao, mà mầy còn muốn có vợ?

Hiệp cúi đầu, không biết lấy lời chi mà đáp với cha. Hai Tiền cũng ngồi lặng thinh, song sắc mặt buồn lắm.

Cô Lê buông đồ thêu và bước lại mà nói rằng: "Bác Ba nói vậy thì tôi nghiệp cho phận đờn-bà con gái lắm. Bác thương vợ thương con, mà bị vợ con phụ bạc, làm cho bác uất ức trong lòng, nên bác cho gia đình là cái ngòi phiền não, chớ không phải là cái nền hạnh phúc. Cháu xin phép bác cho cháu cãi lại đôi lời. Đờn-bà có người quấy, mà cũng có người phải, chớ không phải hết thảy đều là phường vong ân bội nghĩa đâu. Xin bác Ba nghĩ lại".

Mậu ngó sững cô Lê, rồi chẫm rãi nói rằng: "Thằng Hiệp lớn rồi, nó muốn thế nào tự ý nó, tôi ngăn cản sao được. Nhưng vì tôi là cha nó, nghe nó muốn cưới vợ, tôi phải nhắc chuyện của tôi cho nó nhớ, chớ không phải cản. Vợ con! Vợ con! Tôi vì vợ con mà phải bị đày mười năm, mà có lẽ nay mai đây, tôi còn phải chết với vợ con tôi nữa cho mà coi!"

Hai Tiền nghe mấy lời thì biến sắc, nên lật đật khuyên rằng:

- Anh Ba đừng có nói như vậy, không nên. Em xin anh Ba hãy quên hết chuyện cũ đi, đừng thèm nhớ tới vợ con hay là tiền bạc làm chi. Thằng Hiệp nó cưới con Lê rồi, vợ chồng nó làm mà nuôi nhau cũng được vậy.

- Không nhớ chuyện cũ sao được.

- Anh cho chuyện cũ là một giấc chiêm bao, không có chi là thiệt sự, rồi tự nhiên trí anh bình tĩnh, ít ngày anh sẽ quên được.

- Khó lắm! Tại thương nhiều nên phải giận nhiều, tại khổ quá, nên oán phải lớn!

- Giận làm chi. Ai ở quấy thì để cho ông trời phạt họ, mình không nên oán hận.

- Không có ông trời; mà dầu có ông trời đi nữa, ổng ở trên cao quá, ổng có biết việc ở thế gian đâu.

- Em tin chắc có ông trời, mà ổng công bình lắm, hễ ai làm phải thì ổng thưởng, còn ai ở quấy thì ổng phạt. Thủng thẳng để rồi anh coi mà.

Mậu không cãi nữa, đi lại bộ ván mà nằm.

Trong mấy ngày sau, Mậu không đi đâu hết, mà cũng không muốn nói chuyện, ăn cơm rồi thì cứ nằm gác tay qua trán, mà cặp mắt coi đỏ au. Hai Tiền thấy Mậu không vui, nên không dám nhắc tới chuyện hôn nhân, tính đợi ít ngày cho Mậu khuây lảng rồi sẽ bàn lại.

Cách ba ngày sau, lúc gần sáng, Hiệp thức dậy không thấy cha nằm trong mùng như mấy bữa trước. Hiệp lấy làm lạ, lật đật đi xuống từng dưới mà kiếm cha, kiếm phía sau phía trước đều không có, mà lại thấy cửa tiệm có một cánh không gài chốt, chỉ khép sơ mà thôi. Hiệp biết cha thừa lúc trong nhà ngủ hết, lén mở cửa mà đi rồi, thì trong lòng lo sợ, nên lật-đật trở lên kêu Hai Tiền mà cho thím hay.

Hai Tiền nghe nói thì thất kinh, nên chắt lưỡi than rằng: "Cha chả! Thím sợ lắm cháu ơi! Bữa hổm ngồi nói chuyện, thím coi ý anh Ba oán hận tụi đó lắm. Thím sợ ảnh trốn mà đi đây, không phải đi chơi đâu. Cháu phải đi kiếm ảnh mới đặng".

Hiệp thay đồ mà đi liền, rồi cách một lát cô Lê cũng đi nữa.

Hiệp với Lê, mỗi người một ngã, đi trọn hai ngày, đi luôn tới ban đêm nữa, mà cũng không gặp Mậu ở đâu hết. Qua bữa thứ ba, Hiệp xuống tới Bến-Thành, gặp trẻ nhỏ bán nhựt-trình, mới mua một số. Vừa mở ra thì thấy trương đầu có bài như vầy:

Mẹ con bị giết tại Chợ-Quán

Hồi hôm nầy, tại Chợ-Quán, có xảy ra một vụ sát nhơn, hai mẹ con đều bị giết một cách rất ghê gớm,

Cô Ba Trâm ở một cái nhà nền đúc, theo đường Nhà thờ Chợ-Quán, với đứa con gái của cô tên là Hào, tuổi đương xuân xanh. Hai mẹ con ngủ nhà trên, còn bồi và sớp-phơ thì ngủ nhà bếp. Đêm hồi hôm, gian-nhân cạy cửa sổ, xeo song sắt, rồi chun vô nhà trên, đâm chém chết hai mẹ con, mà tôi tớ không ai hay hết. Đến sáng, người đầu bếp thấy mặt trời mọc đã cao rồi, mà cô Ba Trâm chưa thức dậy, nó bèn gõ cửa kêu đặng lấy tiền đi chợ. Kêu không được, nó đi vòng ra phía trước, thì thấy có một cánh cửa sổ mở hé. Nó bước lại kéo bét ra, thì thấy có dấu cạy, còn song sắt thì cong vòng, làm thành một lỗ lớn chun vô chun ra được. Nó kinh hãi mới tri hô lên và biểu người bồi đi báo Cò bót.

Ông Cò và lính lại tới, phá cửa vô nhà, thì thấy cô Hào nằm trên vũng máu trước cửa buồng của mẹ, còn trong buồng ấy, thì cô Ba Trâm cũng nằm trên vũng máu nữa, mẹ con bị đâm bị chém nhiều vết, nên chết đã lạnh ngắt.

Xét trong nhà thì đồ đạc còn y nguyên, không mất món nào, tủ không cạy, thậm chí đồ nữ-trang của hai mẹ con đeo, gian-nhân cũng không lấy. Do theo đó mà suy, thì ai cũng quả quyết hung thủ giết mẹ con cô Ba Trâm là vì oán thù, chớ không phải muốn lấy của.

Vụ nầy ông Cò đã báo tin cho quan Biện-lý hay rồi, và Tòa mới mở đường tra vấn. Để có nghe tin gì thêm, rồi số báo sau sẽ tường thuật.

Hiệp đọc hết bài nhựt-trình rồi thì mồ hôi nhỏ giọt, quầy quả trở về Đakao mà thông tin cho hai mẹ con Hai Tiền hay. Về tới tiệm, Hiệp đi thẳng lên lầu. Hai Tiền với cô Lê thấy mặt Hiệp khác sắc thì lo sợ, nên lật đật tuốt theo. Hiệp đọc nho nhỏ bài nhựt-trình lại cho mẹ con Hai Tiền nghe. Hai Tiền ứa nước mắt mà than rằng: "Sợ hết sức mà không khỏi! Cha chả! Không biết ảnh trốn khỏi hay không. Thôi, đừng có kiếm nữa mà lậu sự".

Hiệp nghe lời nên không dám đi kiếm nữa. Mà ở nhà thì không yên trong lòng, nên cứ đi ra đi vô, nhăn mặt châu mày hoài.

Sáng bữa sau, Hiệp mua một số nhựt-trình nữa, thì thấy có một bài như vầy:

Vụ sát-nhơn trong Chợ-Quán, mà bổn báo đã thông tin hôm qua, nghe rõ Tòa tra xét đã có mòi kết quả. Theo cuộc phỏng vấn của bổn báo, thì trước đêm cô Ba Trâm bị giết đó, hồi chiều có thầy C .... ở Sàigòn, là cựu tình-nhân của cô Hào, đến nhà cô Ba Trâm mà thăm. Thầy C ... trách cô Hào bạc tình, hai người rầy rà với nhau, rồi thầy C... có lời hăm cô Hào. Bởi cớ đó nên Tòa nghi, mới bắt thầy C.... Tuy thầy C... chối hoài, thầy khai trong đêm hai mẹ con cô Ba Trâm bị giết đó, thầy ở tại nhà hàng khiêu-vũ với nhiều anh em bạn, đến bốn giờ khuya thầy mới về. Tuy Tòa hỏi chứng, thì cũng quả như vậy, mà coi dấu lăn tay của thầy C... thì không giống với dấu tay mà Tòa chụp hình tại cửa sổ và trong nhà cô Ba Trâm, song Tòa cũng còn nghi, nên chưa thả thầy C...

Hiệp với hai mẹ con Hai Tiền đọc bài nầy thì bớt lo sợ một chút, song ba người cũng cứ bàn bàn luận luận ở trên lầu hoài, nằm ngồi không yên.

Đến trưa, một cô thợ may lên lầu nói với Hai Tiền rằng có một người đến thăm và xưng là Sáu Thêm. Hai Tiền biểu cho lên.

Sáu Thêm vừa thấy mặt Hai Tiền thì hỏi rằng: "Con của anh Ba Mậu còn ở đây hay không?"

Hai Tiền, cô Lê và Hiệp nghe hỏi đều rởn ốc cả mình.

Hai Tiền gượng mà hỏi rằng:

- Em hỏi chi vậy, em Sáu?

- Tôi kiếm đặng cho nó hay, anh Ba Mậu chết rồi.

- Trời đất ơi! Chết ở đâu? Chết hồi nào?

- Hồi khuya nầy ảnh nhào xuống sông bên Lăng-tô ảnh tự vận; mới vớt thây ảnh đặng hồi nãy đây. Cò bót đang sửa soạn chở ảnh qua nhà mổ, đặng cho quan thầy thuốc khán nghiệm, nên tôi lật đật qua cho chị hay.

Hiệp với cô Lê khóc rống lên nghe rất thảm thiết. Hai Tiền than rằng: "Chuyện gì mà phải tự vận cho thiệt mạng không biết! Đã đi lạc đường một lần rồi, tôi hết sức muốn kéo ảnh vô đường phải, mà ảnh còn đi lạc một lần nữa!"

Sáu Thêm bước lại đứng gần mà nói nhỏ rằng: "Ảnh sống làm sao cho đặng chị; sống rồi bị chết chém, hoặc bị đày chung thân cũng vậy. Thà là chết phức cho rồi".

Hai Tiền ngó Sáu Thêm mà hỏi rằng: "Té ra việc Chợ-Quán đó, ảnh hay sao?"

Sáu Thêm gật đầu, song ra dấu biểu đừng hỏi nữa.

Hai Tiền lắc đầu nói rằng: "Hèn chi bữa hổm ảnh nói: tại tình sâu nên oán phải nặng, ảnh phải chết với vợ con, ảnh nói như vậy thì tôi đã sanh nghi rồi. Thôi Hiệp, cháu phải tỉnh trí mà lo xin xác chôn cất anh Ba cho ấm cúng. Cháu đừng có buồn rầu làm chi. Tại cái mạng anh Ba phải như vậy nên hồi trước trời khiến ảnh đi lạc đường, rồi bây giờ ảnh mới tới chỗ đó. Mình khóc hoài, ảnh cũng không sống lại được, hay hơn là mình ngậm miệng để lo cho ảnh. Thằng Sáu, em nói họ đem xác ảnh vô nhà xác phải không?

Sáu Thêm đáp rằng: "Phải, hồi tôi đi đây thì họ sửa soạn chở xác ảnh, có lẽ bây giờ họ đã tới rồi. Nhà mổ ở gần đây, thôi mình sửa soạn mua hòm rương cho sẵn, đặng hễ mổ rồi thì mình xin phép tẩn liệm đem xác đi chôn".

Hai Tiền nhứt diện cậy Sáu Thêm đi với cô Lê đến nhà cho mướn đồ âm-công thương lượng mà mua hòm và mướn nhà vàng, còn nhứt diện đi với Hiệp lại nhà mổ mà chờ đặng xin lãnh xác.

Chôn cất Ba Mậu tốn hao bao nhiêu, Hai Tiền bao chịu hết. Đám táng xong rồi, tối lại Hiệp mới lạy mà tạ ơn Hai Tiền và tỏ ý muốn lên núi kiếm chỗ thanh tịnh ở mà tu, không chịu lẩn-quẩn ở trong vòng trần gian, là cái lò phiền não.

Cô Lê vừa nghe Hiệp nói muốn đi tu thì cô không e lệ chi hết, tuy có mẹ ngồi đó, song cô bước lại hỏi Hiệp rằng:

- Tại sao anh đòi đi tu?

- Đời gay go cay đắng như vầy, có vui sướng gì đâu mà không xa lánh cho rồi!

- Thế gian tự nhiên như vậy đó, có lạ gì. Mà sự cay đắng anh mới ngó thấy mà thôi, chớ anh chưa nếm, có chi đâu là điều chán ngán nên đi tu?

- Ngó thấy đủ ngán rồi, cần gì phải nếm. Mình thấy cái đường khổ, mình lo tránh trước, có lẽ hay hơn.

- Em sợ anh tính lầm. Thế gian là khổ hãi; loài người ở trong ấy tự nhiên chịu khổ, tránh đâu cho khỏi được. Anh thấy bác Ba đi lạc đường, anh muốn tránh đường đó mà bước qua đường khác. Anh nghĩ mà coi, đường nào cũng ở trong thế gian, có đường nào mà không khổ. Khổ hay là không khổ đều tại nơi tâm của mình mà thôi. Nếu mình cứ làm phải hoài, dầu mình phải chịu khổ đi nữa, trí mình cũng an, lòng mình cũng khỏe.

Hiệp ngồi suy nghĩ một hồi lâu rồi than rằng: "Cái đời của tôi từ nhỏ không có mẹ, rồi từ nay lại không có cha nữa. Còn ai thương tôi, còn ai cho tôi thương nữa mà tôi còn phải liều thân chịu khổ, đặng ở chốn thế gian nầy?"

Hai Tiền nói: "Còn qua đây; qua làm mẹ cháu, qua thương cháu cũng như mẹ cháu vậy".

Cô Lê cũng nói: "Lại còn em đây nữa; em cũng thương anh, mà em lại trọng anh, chớ không phải như con Hào vậy đâu".

Hiệp ngó Hai Tiền rồi ngó cô Lê, rưng rưng nước mắt mà đáp rằng: "Cám ơn"

- CHUNG -

Vĩnh-Hội, Septembre 1937

(nhà xuất bản Phương Nam, 1953)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#cong1