Ho Chi Minh mot cuoc doi phan 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1

Lời tựa của tác giả................................................................................................................................3

Danh sách các tổ chức được nhắc đến trong cuốn sách này:...........................................................3

Mở đầu ..................................................................................................................................................6

Mất nước...............................................................................................................................................8

Con ngựa hoang.................................................................................................................................20

Nhà cách mạng tập sự........................................................................................................................34

Con Rồng Cháu Tiên...........................................................................................................................40

Thanh kiếm báu..................................................................................................................................51

Nghệ Tĩnh đỏ.......................................................................................................................................57

Mất hút.................................................................................................................................................64

Trong hang Pacbo ...............................................................................................................................73

Triều dâng ...........................................................................................................................................81

Những ngày tháng 8............................................................................................................................94

Tái thiết và kháng chiến ....................................................................................................................107

Hổ và Voi ...........................................................................................................................................126

Nơi đó, Điện biên phủ........................................................................................................................138

Giữa hai cuộc chiến..........................................................................................................................147

Tất cả cho tiền tuyến.........................................................................................................................164

From Man to Myth.............................................................................................................................179

www.langven.com

2

Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng

Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu nhi Việt nam

Từ bé, tôi đã được dạy bài hát này, vì thế bây giờ vẫn thuộc. Lên 8 tuổi, tôi vẫn nhớ như

in một buổi sáng, bà ngoại gọi tôi thảng thốt: “Nam ơi, Bác Hồ mất rồi”, chẳng biết gì

nhưng thấy cả nhà khóc tôi cũng òa lên khóc. Lớn dần lên, biết thêm rất nhiều bài hát

hay, thỉnh thoảng được khen là “cháu ngoan”,... thấy Bác vẫn là một cái gì đó thiêng

liêng, nhưng quả thật giống như một vị thánh chẳng có ích gì nhiều trong cuộc sống.

Học xong, về nước, những háo hức của công việc mới lôi đi. Cho đến năm 1999, khi FPT

quyết định xuất khẩu phần mềm. Bước ra nước ngoài, hầu như rất ít người biết đến Việt

nam là gì, ở đâu, ngoài việc Việt nam gắn liền với chiến tranh và Hồ Chí Minh. Hè năm

2002, Phan Phương Đạt mang về một cuốn sách. “Ho Chi Minh, a life”. Tôi liền mượn

đọc. Gấp cuốn sách lại, ký ức nguyên vẹn của buổi sáng năm 1969 lại ùa về. Nước mắt

cứ tự nhiên tràn ra. Bỗng nhiên hiểu ra sự cô đơn khôn cùng của Bác trước lúc ra đi, được

Trần Hoàn diễn tả lại xúc động trong bài hát của mình. Chợt thấy những tư tưởng của

Bác sao mà gần gũi, thật phù hợp cho hoàn cảnh của Fsoft lúc đó khi khách hàng thưa

thớt, anh em chán nản. Tôi đã đọc đi đọc lại mấy lần, và quyết tâm dịch quyển sách này

ra tiếng Việt. Tôi muốn chia sẻ với vợ tôi, với con gái tôi, với bạn bè tôi, với đồng nghiệp

của tôi về những điều tầm thường mà vĩ đại của con người HCM, về những bi kịch và oai

hùng của nước Việt nam thế kỷ 20, thế kỷ loạn lạc nhất trong lịch sử loài người.

Nhiều bạn bè tôi hay hỏi, liệu lịch sử Việt nam có thay đổi nếu như năm 1945, HCM

chấp nhận thỏa hiệp với Pháp để tránh cuộc chiến tranh? Tôi không biết. Nhưng nếu dựa

vào những gì Người kịp làm trong năm đầu tiên của nước cộng hòa non trẻ, cũng như

những ý nguyện được để lại trong bản di chúc, có thể nói rằng dân tộc ta đã không may,

khi không có được một quãng thời gian hòa bình đủ dài để HCM thể hiện tài năng chấn

hưng đất nước của mình.

Đọc cuốn sách này, có thể nói bất cứ một người dân Việt nào muốn, đều có thể tìm thấy

hinh ảnh mình trong cuộc đời của HCM. Có thể hiểu vì sao, con người Bác lại có sức

thuyết phục và lôi cuốn lạ kỳ. Từ ông Tây, ông Mỹ, đến trí thức, dân thường. Mới cách

đây mấy tháng khi ở Nhật bản, tôi được biết những người thuyền viên Việt nam sang

Nhật bỏ trốn, đã chọn HCM làm ông tổ nghề, vì theo họ, H cũng đã làm thuyền viên và

cũng đã bỏ trốn.

Xin cám ơn tác giả W. Duiker đã đem lại cho tôi một cái nhìn toàn diện về tổ quốc tôi

trong thế kỷ XX thông qua tiểu sử của người con ưu tú nhất mà đất nước đã sản sinh ra -

Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thành Nam

www.langven.com

3

Lời tựa của tác giả

Tôi (W. Duiker) đã bị hấp dẫn bởi HCM từ giữa những năm 1960, khi còn là một nhân viên đối ngoại trẻ tuổi làm việc tại toà đại sứ Mỹ. Tôi đã bị lúng túng khi phát hiện thấy những du kích Việt cộng trong rừng tỏ ra có kỷ luật và được động viên tốt hơn quân đội chính quy của chính quyền Sài gòn được chúng tôi ủng hộ. Tôi đã để tâm tìm hiểu và tìmra lời giải thích qua vai trò chiến lược và động lực thúc đẩy của nhà cách mạng Việt namlão thành HCM

Sau khi ra khỏi chính phủ để tiếp tục con đường nghiên cứu khoa học của mình, tôi đã nghĩ tới việc viết tiểu sử của con người kỳ lạ này, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng trong bối cảnh lịch sử thời đó, chưa thể có đầy đủ điều kiện để tiếp cận các nguồn thông tin. Bởi thế cho đến tận gần đây, khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới trở nên cởi mở hơn đã thúc đẩy tôi bắt đầu sự nghiệp khó khăn này.

Hôm nay, sau hơn 2 thập kỷ trăn trở, tôi muốn cám ơn các con gái tôi Laura và Claire đã không phàn nàn kêu ca, lắng nghe cha chúng thuyết giảng hàng giờ về Việt nam. Tôi vô cùng biết ơn vợ tôi Yvone, người đầu tiên đọc bản thảo, người đã kiên nhẫn chấp nhận HCM như một thành viên của gia đình chúng tôi.

Danh sách các tổ chức được nhắc đến trong cuốn sách này:

Đảng cộng sản Annam (ACP): đảng được thành lập tại Đông dương năm 1929 sau khi Hội thanh niên cách mạng bị giải thể. Sau đó được sát nhập vào Đảng cộng sản Việt nam tháng 2/1930

Đội tuyên truyền giải phóng quân (APB): tiền thân chính thống của quân đội Việt nam

Cứu quốc quân: các đơn vị vũ trang được tổ chức hoạt động chống Pháp và Nhật, sau đó được sát nhập vào APB thành quân giải phóng Việt nam (VLA)

Quân đội Việt nam cộng hòa: quân đội của chính quyền miền Nam từ 1956-1975 

Quốc gia Liên hiệp Việt nam (ASV): chính quyền của Bảo đại được hiệp định Elysee năm 1949 thừa nhận. ASV hợp tác với Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp – Việt minh.Sau hiệp định Geneva ASV bị chính quyền miền Nam độc lập thay thế

Tâm Tâm Xã (Association of like mind): tổ chức cách mạng cực đoan do một số phần tử di cư thành lập ở Nam trung quốc năm 1924. Sau này bị Q biến thành Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội

Hội nghiên cứu chủ nghĩa Max: Hội trên giấy do đảng cộng sản đông dương lập ra khi tự giải tán và rút vào bí mật tháng 11 năm 1945.

Cao đài: một tôn giáo hổ lốn phát sinh ở Nam bộ vào cuối thế chiến thứ nhất. Cao đài chống lại tất cả các chính quyền muốn kiểm soát nó. Hiện vẫn đang còn hoạt động

Đảng nhân dân cách mạng Campuchia (CPRP): một trong 3 đảng thừa kế đảng Cộng sản Đông dương bị giải tán năm 1951. Các lực lượng vũ trang của CPRP được gọi là 

Khơ me đỏ. Giữa những năm 60,Đảng cộng sản Khơ me thay thế CPRP. 

Trung ương cục miền Nam (COSVN): cơ quan đầu não của đảng cộng sản ở phía Nam trong hai cuộc chiến tranh. Thành lập năm 1951 và giải tán sau năm 1975 

Quốc tế cộng sản: tổ chức cách mạng được thành lập tại nước Nga Xô viết năm 1919, lãnh đạo hoạt động của các đảng thành viên. Giải tán năm 1943. Đảng CS Đông dương gia nhập năm 1935. 

Đông dương cộng sản Đảng (CPI): Tổ chức chết yểu, gồm những phần tử ly khai khỏi Thanh niên Hội năm 1929. Đầu năm 1930, lại hợp nhất với Tân Việt và Hội thành đảng Cộng sản Việt nam.

Đảng hiến pháp: đảng chính trị ôn hòa do một số phần tử cải lương thành lập ở Nam bộ đầu những năm 1920. Đảng này chủ trương dành quyền tự trị dưới sự bảo trợ của Pháp.Lãnh đạo là Bùi Quang Chiêu hay lên tiếng phê phán đảng Cộng sản và bị thủ tiêu trong thời gian cách mạng tháng 8. 

Đảng Đại Việt: thành lập trong thời kỳ thế chiến 2, theo Nhật chống Pháp. Đảng này tồn tại ở Nam Việt nam đến tận năm 1975. 

Việt nam dân chủ cộng hòa (DRV): chính phủ do HCM lập ra ngày 2/9/1945. Hiệp định Geneva năm 1954 thừa nhận chủ quyền của DRV ở miền Bắc VN. Năm 1976 đổi thành CH XHCN Việt nam

Đông kinh nghĩa thục (Hanoi Free School): trường học do một số nhà yêu nước lập ra ở Hà nội để thúc đẩy cải cách trong thập kỷ đầu của thế kỷ 20. Sau khi bị Pháp đóng cửa, những nhà sáng lập đã truyền đạt ý tưởng vào trường Dục Thanh ở Phan thiết, nơi Q đã từng dạy năm 1910. 

Việt nam cách mạng Đồng minh Hội (Đồng minh Hội): con đẻ của tướng Quốc dân đảng Trương Phát Khuê, liên kết một số đảng theo đường lối dân tộc chủ nghĩa, thành lập tháng 8/1942. Khuê định dùng liên minh này để chống Nhật ở Đông dương. Mặc dù Q đã tranh thủ lợi dụng cho mục đích của mình, sau thế chiến II, Hội này quay ra chống Đảng cộng sản đông dương kịch liệt. Khi cuộc chiến với Pháp nổ ra tháng 12/1946, Hội này coi như giải tán. 

Mặt trận Tổ quốc: thành lập năm 1955, thay thế cho mặt trận Liên Việt và trước đó là Việt minh

Hòa hảo: cũng là một tôn giáo hổ lốn do nhà sư Huỳnh Phú Sổ thành lập năm 1939. Cực 

kỳ chống Pháp, và chống cả Cộng. Hiện vẫn đang hoạt động

Thanh niên cao vọng: một tổ chức dân tộc do Nguyễn An Ninh lập ở Sài gòn giữa 

những năm 1920. Chết yểu.

Đảng cộng sản Đông dương (ICP): do HCM và các đồng chí thành lập tháng 10/1930. 

Trước đó là đảng cộng sản Việt nam. Tự giải tán năm 1945. Thành lập lại năm 1951 dưới 

tên Đảng lao động Việt nam. 

Liên bang Đông dương: kế hoạch của ICP để thống nhất Đông dương. Sau năm 1951, 

kế hoạch này được gọi là “mối quan hệ đặc biệt” giữa ba nước. 

Liên hiệp Đông dương: tổ chức hành chính do Pháp lập ra cuối thế kỷ 19 để bảo đảm 

luật lệ của Pháp ở khu vực.

Ủy ban kiểm tra quốc tế: giám sát thực thi hiệp định Geneva, gồm có Canada, ấn độ, Ba 

lan

Đảng nhân dân cách mạng Lào: đảng do ĐCS Việt nam bảo trợ, thành lập đầu năm 

1950, còn hay được gọi là Pathet Lào 

Mặt trận Liên Việt: do ICP thành lập năm 1946 để tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng 

với đảng, sát nhập với Việt minh năm 1951, đến năm 1955 bị Mặt trận Tổ quốc thay thể 

Quốc học: trường trung học uy tín ở Huế, thành lập năm 1896, đào tạo các quan lại thế 

hệ mới, dạy tiếng Pháp và các môn văn minh phương Tây. Q học trường này từ 1907- 

1908.

Vệ quốc quân: tên khác của Giải phóng quân (VLA) sau CMT8, được chọn để tránh rắc 

rối với lực lượng Tàu đang chiếm đóng.

Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (NLF): liên minh rộng rãi nhiều nhóm chống

đối tại miền Nam, thành lập năm 1960 dưới sự bảo trợ của DRV, giải tán năm 1976.

ủy ban giải phóng dân tộc: thành lập ở Tân trào để chuẩn bị cho CMT8. H làm chủ tịch

Tân Việt: đảng cách mạng chống Pháp, thành lập cuối những năm 1920, sau đó sát nhập

vào với ICP

Quân đội nhân dân Việt nam: thành lập ở DRV sau 1954, thừa kế Giải phóng quân

Việt nam hoạt động trong chiến tranh chống Pháp.

SEATO: liên minh do Mỹ thành lập để ngăn chặn sự bành trướng của CNCS ở Đông

Nam á.

Thanh niên tiền phong: do Phạm Ngọc Thạch thành lập trong thời gian thế chiến 2,

được Nhật ủng hộ. ICP đã dùng lực lượng này để hỗ trợ CMT8 tại Sài gòn.

Việt cộng: tên miệt thị để chỉ quân giái phóng miền Nam Việt nam, lực lượng vũ trang

của NLF

Việt minh: do ICP đứng ra thành lập tháng 5/1941. Lực lượng chính trị chủ yếu trong

chiến tranh với Pháp sau 1945

Đảng cộng sản Việt nam: do H thành lập tháng 2/1930. Sau đó đổi thành ICP. Đến

tháng 12/1976 mới lấy lại tên này.

Đảng dân chủ Việt nam: tập hợp những phần tử yêu nước không cộng sản trong thành

phần Việt minh. Tồn tại đến sau năm 1976

Quân đội quốc gia Việt nam: tên chính thức của các lực lượng vũ trang của Quốc gia

liên hiệp do Bảo đại cầm đầu. Năm 1956 được Quân đội Việt nam cộng hòa thay thế.

Việt nam quốc dân đảng: đảng dân tộc không cộng sản, thành lập ở Bắc kỳ năm 1927.

Trong nhiều thập kỷ là đối trọng chính trị chủ yếu của ICP. Nay đã bị giải tán.

Việt nam quang phục Hội: đảng chống thực dân do Phan Bội Châu thành lập năm 1912.

Mục tiêu thay thế chế độ quân chủ bằng nền cộng hòa. Sau mấy cuộc nổi dậy thất bại,

đảng bị mất uy tín và tan rã.

www.langven.com

6

Mở đầu

Sáng 30/4/1975, từng đoàn xe tăng Liên xô do các chiến binh Bắc Việt với mũ cối gắn

sao vàng vẫy cờ của PRG vượt qua những vùng ngoại ô Sài gòn tiến thẳng tới dinh Độc

lập. Đoàn xe từ từ vượt qua Toà Đại sứ Mỹ, nơi những chiếc trực thăng đang di tản

những người Mỹ cuối cùng. Chiếc tăng đầu tiên do dự đôi chút rồi húc đổ cánh cổng sắt

tiến thẳng vào sảnh. Viên chỉ huy lao ra, leo lên nóc toà nhà thay thế lá cờ ba que của

Việt nam cộng hoà bằng lá cờ xanh đỏ của PRG. Cuộc chiến dai dẳng nhất trong lịch sử

nước Mỹ đã đến hồi kết sau gần 1 thập kỷ ác liệt và đẫm máu, cướp đi hơn 58 ngàn sinh

mạng.

Chiến thắng của cộng sản tại Sài gòn là kết quả của sự quyết tâm và tài năng của VWP

dưới sự lãnh đạo của Lê Duẩn cộng với sự hy sinh của các chiến binh - bộ đội (tương tự

như người Mỹ gọi các người lính là GI) , những người đã chiến đấu và ngã xuống vì sự

nghiệp cách mạng trong các cánh rừng và đầm lầy Việt nam. Nhưng cao hơn tất cả, chiến

thắng đó được xác định bởi một tầm nhìn, ý chí và sự lãnh đạo của một con người: HCM.

Đặc vụ của QTCS tại Matxcơva, thành viên của phong trào cộng sản quốc tế, người kiến

tạo cho thắng lợi của Việt nam, không nghi ngờ gì nữa, HCM là một trong những nhà

chính trị có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20. Đồng thời, ông cũng là một trong những con

người bí hiểm nhất, một nhân vật mờ ảo mà lý lịch và động cơ của ông luôn gây nên

những cuộc tranh luận không ngừng.

Ông là một nhà dân tộc chủ nghĩa hay là một người cộng sản? Hình ảnh một con người

giản dị và quên mình là chân thật hay đơn giản chỉ là kết quả của các ngón kỹ xảo? Với

những người ủng hộ, Hồ là biểu tượng của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng, người cống

hiến cả cuộc đời mình cho hạnh phúc của đồng bào và các dân tộc bị áp bức. Với những

người đã được tiếp kiến ông, Việt nam hay nước ngoài, ông là một người hết sức nhã

nhặn, một nhà yêu nước quên mình, luôn đau nỗi đau chung của dân tộc. Những người

phê phán lại vạch ra những hành động cách mạng quá trớn được thực hiện dưới tên ông,

tố cáo ông là con thằn lằn hoa, là sói đội lốt cừu.

Câu hỏi về tính cách và động cơ của HCM là tâm điểm của các cuộc tranh luận tại Mỹ về

đạo lý của cuộc chiến ở Việt nam. Với những nhà phê phán chính sách của chính phủ

Mỹ, ông đơn giản là một nhà cách mạng đấu tranh vì độc lập của Việt nam, một đối thủ

mạnh mẽ của chủ nghĩa đế quốc trong Thế giới thứ ba. Những người ủng hộ cuộc chiến

thì lại nghi ngờ về động cơ yêu nước, cho rằng ông là đặc vụ của Stalin.

Đối với người Mỹ, cuộc luận chiến về sự đam mê của HCM dần dần đã thành quá khứ.

Nhưng đối với Việt nam, nó gợi lên những câu hỏi có tính chất nền móng, bởi vì nó định

nghĩa một trong những vấn đề căn bản của cách mạng Việt nam: mối quan hệ dựa sự tự

do của con người và bình đẳng kinh tế trong Việt nam sau chiến tranh. Từ sau cuộc chiến,

nhiều đồng chí hiện đang cầm quyền đã mượn uy ông để biện hộ cho mô hình cộng sản

phát triển đất nước. Họ nói rằng, mục tiêu cuối cùng của ông là kết liễu sự bóc lột toàn

cầu của chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội mới theo những viển vông của K.Marx.

Nhưng cũng có một vài giọng chống đối đã phản biện rằng, thông điệp lớn nhất của cuộc

đời ông là xoa dịu quy luật đấu tranh giai cấp của Marx bằng cách hoà trộn nó với đạo

đức Khổng tử và thuyết ba ngôi của cách mạng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Họ dẫn lời

của ông: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.

Sự phức tạp trong tính cách của ông thể hiện sự phức tạp của thế giới thế kỷ 20, thế kỷ

của chủ nghĩa dân tộc, cách mạng, chủ nghĩa bình đẳng và cuộc đấu tranh cho tự do. Dù

www.langven.com

7

tốt hay xấu, HCM là hiện thân của hai thế lực chủ yếu đang điều khiển xã hội hiện đại: sự

khát khao độc lập dân tộc và cuộc tìm kiếm công lý xã hội và bình đẳng kinh tế. Đã đến

lúc phải phơi bày nhân vật bao trùm thế kỷ 20 này cho sự phân tích lịch sử.

Tuy cái tên HCM được hàng triệu triệu người biết đến, nhưng không phải dễ dàng có thể

kiểm tra được các nguồn thông tin về ông. Như một nhà cách mạng chống Pháp ông luôn

luôn phải sống trong bí mật, sử dụng nhiều tên tuổi khác nhau. Thống kê cho thấy ông đã

sử dụng hơn 50 cái tên trong cuộc đời và các bài viết. Bản thân HCM cũng làm vấn đề

thêm phức tạp bằng cách tự sáng tạo ra những huyền thoại về cuộc đời mình. Vào cuối

những năm 1950, một số tiểu sử của HCM được công bố và chỉ đến gần đây các nhà

nghiên cứu mới xác nhận được những tác phẩm đó thực sự là của HCM.

Phong cách lãnh đạo của ông cũng làm các nhà nghiên cứu chú ý. Mặc dù là người sáng

lập ra Đảng cộng sản Đông dương (ICP), nhưng khác với Lênin, Stalin hayMao Trạch

Đông, HCM thường lãnh đạo bằng cách thuyết phục và đồng thuận thay cho việc áp đặt ý

chí của mình. Ông cũng rất kín đáo với những tư tưởng và động cơ bên trong của mình.

Trái với các nhà cách mạng nổi tiếng khác, ông không sa đà vào các cuộc tranh luận về

hệ triết học tư tưởng mà tập trung toàn bộ tâm trí của mình để giải quyết các vấn đề cụ

thể để giải phóng Việt nam và các dân tộc bị áp bức khỏi ách đô hộ của phương Tây.

Trong một cuộc phỏng vấn khi được hỏi sao ông không bao giờ viết các chuyên luận về

tư tưởng, HCM đã trả lời rằng ông muốn nhường việc đó lại cho Mao. Trong những năm

cuối của ông, các tác phẩm nghiêm túc về học thuyết đều do những học trò của ông như

Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh hay Lê Duẩn viết.

Bao giờ cũng có những yếu tố huyền thoại bao quanh những con người nổi tiếng. Không

phải ai cũng biết cách tạo và hưởng thụ những huyền thoại như HCM. Từ vị trí trong đền

thờ của những vị thánh cách mạng, HCM chắc sẽ rất vui lòng được biết rằng, hương khói

huyền thoại bao quanh ông vẫn còn nguyên trong cuốn tiểu sử này.

www.langven.com

8

Mất nước

Khi đội quân của ông đang rong ruổi ầm ĩ trên các đường phố tiếp nhận sự đầu hàng của

quân thù, ông lặng lẽ vào thành phố, trong một ngôi nhà 2 tầng nhỏ với chiếc máy chữ đã

theo sát mình từ Matxcova đến Trung hoa và Việt nam trong những tuần đầu 1941.

2h chièu ngày 2/9/1945 trên lễ đài dựng tạm tại một quảng trường mà sau này được gọi là

Ba Đình, trong bộ quần áo kaki bạc màu, với chất giọng còn đậm nguồn gốc xứ Nghệ,

ông đã đọc bản tuyên ngôn khai sinh cho một dân tộc độc lập. Những lời đầu tiên của bản

hiến pháp đã làm sửng sốt một số người Mỹ có mặt trong đám đông: "Tất cả mọi người

đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá đã cho họ những quyền tối thượng trong đó có quyền

sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Tại thời điểm đó, chỉ có ít người biết được HCM chính là đại diện của QTCS, người sáng

lập ra ICP năm 1930. Đối với đa số dân Việt nam, HCM chỉ đơn giản là một người yêu

nước, đã phục vụ lâu dài cho đất nước. Trong suốt 1/4 thế kỷ tiếp sau, nhân dân Việt nam

và cả thế giới mới có cơ hội đê chiêm nghiệm, đánh giá con người này.

Cuộc trường chinh của HCM đến quảng trường Ba đình ngày đó, được khởi đầu từ một

ngày hè năm 1858, khi hạm đội Pháp nổ súng tấn công thương cảng Đà nẵng. Mặc dù

cuộc tấn công không phải hoàn toàn là bất ngờ. Trước đó vài thập kỷ, các nhà truyền giáo

Pháp đã lang thang khắp nơi để cứu rỗi tâm hồn Việt, các nhà buôn thì bận rộn tìm kiếm

thị trường và tìm những con đường thâm nhập vào Trung quốc, các nhà chính trị Pháp thì

tin rằng, chỉ có thôn tính các thuộc địa tại châu Á mới giúp nước Pháp đứng vững ở vị trí

siêu cường. Cho đến giữa thế kỷ, người Pháp vẫn hy vọng bằng con đường ngoại giao

thuyết phục được triều đình Huế chịu ảnh hưởng của họ. Tuy nhiên khi các cuộc đàm

phán chắng đi đến đâu, chính quyền của Hoàng đế Luise quyết định dùng vũ lực.

Cuộc chiến với Pháp không phải là cuộc chiến đầu tiên của Việt nam. Có thể nói, hiếm có

dân tộc nào trên châu Á đã chiến đấu bền bỉ và lâu dài để bảo vệ nền độc lập của mình

hơn người Việt nam. Từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên, khi nước cộng hoà Roma còn

đang trong trứng nước, Trung hoa đã xâm chiếm Việt nam và thực hiện hàng loạt các

chương trình chính trị và văn hoá để đồng hoá dân tộc này. Mặc dù Việt nam đã giành

được độc lập vào thế kỷ thứ 10, phải đến hàng trăm năm sau, khi Việt nam chấp nhận

một hình thức triều cống, các hoàng đế Trung hoa mới chịu chấp nhận sự thật về một

nước Việt nam độc lập.

Hơn nghìn năm chung sống với Trung hoa đã để lại những hệ quả sâu sắc. Hệ thống

chính trị, văn học, nghệ thuật, tư tưởng, tôn giáo và cả ngôn ngữ Hoa đã bắt rễ sâu bền

trên mảnh đất Việt nam. Mặc dù những yếu tố dân tộc chưa bao giờ biến mất trong văn

hoá Việt nam, đối với người quan sát không được đào tạo bên ngoài, Việt nam chẳng

khác gì một con rồng thu nhỏ hình ảnh của người láng giềng khổng lồ ở phía Bắc.

Tuy có vẻ như người Việt sẵn sàng hấp thụ những ảnh hưởng văn hoá từ phương Bắc, họ

vô cùng cương quyết trong vấn đề độc lập dân tộc. Những vị anh hùng dân tộc, từ Hai Bà

Trưng đến Lê Lợi, Nguyễn Trãi đều xuất thân từ các cuộc kháng chiến. Lịch sử đã hình

thành một dân tộc có có đặc tính dân tộc và ý chí chống ngoại xâm mạnh mẽ.

Cuộc đấu tranh về sự tồn vong đã hun đúc truyền thống quân sự, sẵn sàng chấp nhận

dùng vũ lực để bảo vệ đất nước. Từ sau khi giành được độc lập, Việt nam (lúc đó gọi là

Đại Việt) đã có cuộc hành quân lâu dài về phương Nam chống lại Champa. Bắt đầu từ thế

kỷ 13, Đại Việt đã bắt đầu thắng thế và thôn tính hoàn toàn Champa vào thế kỷ 17. Đất

nước Việt nam trải dài đến tận mũi Cà mau trong vịnh Thái lan và Việt nam trở thành

www.langven.com

9

một cường quốc ở ĐNA. Tuy nhiên đất nước đã phải trả giá cho sự phát triển. Các mâu

thuẫn đã phát sinh ra cuộc nội chiến dai dẳng Đằng Trong - Đằng Ngoài. Gia Long tạm

thời thống nhất được đất nước từ đầu thế kỷ 19, tuy nhiên các mâu thuẫn quyết liệt giữa

các vùng về quyền lợi kinh tế chưa bao giờ được giải quyết trọn vẹn.

Cũng tại thời điểm đó, các hạm đội châu Âu, theo chân của Vasco da Gama bắt đầu lảng

vảng dọc bờ biển Nam Trung Hoa và vịnh Thái lan để tìm kiếm kim loại quý, đặc sản và

các linh hồn cần cứu rỗi. Không chịu ngồi nhìn kẻ kình địch Anh củng cố lực lượng tại

Ấn độ và Miến điện, người Pháp quyết định chọn Việt nam.

Vào năm 1853, Tự Đức lên ngôi. Thật không may, ông vua trẻ này phải gánh trên vai

trách nhiệm chống lại cuộc xâm lược đầu tiên sau nhiều thế kỷ. Tuy có thiện chí và

thông minh, ông vua này lại thiếu tính cương quyết và có một sức khoẻ ẻo lả. Khi quân

Pháp tấn công Đà nẵng, bản năng của Tự Đức đã mách bảo là phải chiến đấu. Hạm đội

của đô đốc Charlé Rigault de Genuoilly, đợi mãi không thấy sự nổi dậy của quần chúng

như các nhà truyền giáo thông báo, lại bị bệnh tả và lỵ hoành hành đã bỏ Đà nẵng và tấn

công vào Sài gòn, một thành phố đang trên đà phát triển. Sau 2 tuần, Sài gòn thất thủ.

Thất bại tại phía Nam đã làm nản lòng Tự Đức. Ông đồng ý đàm phán và cắt 3 tỉnh Nam

Bộ (sau đó là 3 tỉnh nữa) thành thuộc địa của Pháp với tên gọi Cochin China. Pháp đã

thắng hiệp đầu. Trong những năm tiếp sau, triều đình cố gắng giữ độc lập. Nhưng sau khi

Pháp tấn công Hà nội và chiếm một số thành phố tại châu thổ sông Hồng thì triều đình

hoàn toàn bị tê liệt. Ông vua ốm yếu Tự Đức vừa chết trước đó vài tháng đã để lại một

triều đình đầy mâu thuẫn. Sau vài tháng đấu đá, Tôn Thất Thuyết nắm được quyền bính

và đưa Hàm Nghi lên ngôi với hy vọng tiếp tục kháng chiến. Theo yêu cầu của Việt nam,

Nhà Thanh gửi quân sang giúp đỡ nhưng vô hiệu. Năm 1885,Trung hoa rút quân và ký

hiệp định với Pháp, bãi bỏ chế độ triều cống của Việt nam. Tại Huế, Hàm Nghi phải bỏ

chạy lên núi cùng với Tôn Thất Thuyết. Triều đình chấp nhận nhượng bộ và để cho Pháp

trên thực tế thôn tính nốt Tonkin (Bắc bộ) và Annam (Trung bộ), mặc dù triều đình bù

nhìn vẫn được duy trì ở Annam.

Quá trình Pháp thôn tính Việt nam là cuộc thị uy của các quốc gia tiên tiến phương Tây

đang bước vào thời đại công nghiệp hoá. Bị thúc ép bởi nhu cầu tìm kiếm nguyên liệu rẻ

và thị trường, phương Tây đã dùng vũ lực để áp đặt chế độ cai trị của mình. Vào cuối thế

kỷ 19, tất cả các quốc gia Nam và Đông Nam Á (trừ Thái lan - Xiêm) đã trở thành thuộc

địa.

Triều đình đầu hàng không đồng nghĩa với kết thúc mong muốn độc lập của Việt nam.

Rất nhiều các quan lại và tướng lĩnh không chấp nhận hạ vũ khí. Đáng kể nhất là phong

trào Cần Vương (Cứu Vua) của Phan Đình Phùng tại Hà tĩnh. Khi Hoàng Cao Khải, bạn

thơ ấu của Phan đến khuyên ông đầu hàng, ông đã khảng khái trả lời như một nhà nho

yêu nước:

"Nếu Trung Hoa, hàng ngàn lần mạnh hơn chúng ta, lại có biên giới chung với chúng ta, đã

không thể dùng sức mạnh để đè bẹp Việt nam, chỉ có thể nói sự tồn vong của dân tộc Việt nam

đã chính là nguyện vọng của Thượng đế"

Tuy nhiên sự tồn tại của hai nhà Vua: Đồng Khánh và Hàm Nghi đã tạo nên một sự chia

ré sâu sắc trong tầng lớp trí thức nho giáo theo tư tưởng Trung quân trong suốt gần nửa

thế kỷ sau.

Nghệ An, nơi có những bãi biển yên ả, những dãy núi tím đỏ, những cánh đồng lúa xanh,

là trung tâm của phong trào chống Pháp. Mảnh đất hẹp và cằn cỗi này luôn phải đối mặt

với mọi thử thách của thiên nhiên, đã làm cho những con người sống trên nó nổi tiếng là

www.langven.com

10

cứng đầu và bất trị. Trong 2 thập kỷ cuối của thế kỷ 19, nhiều người trong số những tầng

lới ưu tú nhất của Nghệ an đã chiến đấu và hy sinh dưới ngọn cờ Cần Vương.

Tại đây, làng Kim Liên - Huyện Nam Đàn, năm 1863, vợ hai của phú nông Nguyễn Sinh

Vương (hay còn gọi là Nguyễn Sinh Nhâm), bà Hà Thị Hy đã sinh con trai đặt tên là

Nguyễn Sinh Sắc. Vợ cả của Vương đã chết trước đó vài năm, để lại cho chồng một con

trai khác tên là Nguyễn Sinh Tro. Lên 4 tuổi, Sắc mồ côi cả cha lẫn mẹ và được anh Tro

nuôi nấng. Do thường xuyên bị hạn hán đe doạ, người dân phải làm đủ mọi việc để sống:

thợ mộc, thợ đấu, thợ rèn, thêu. Tuy vậy truyền thống học hành vẫn được đề cao. Nhiều

nhà nho đèn sách đi thi hoặc mở thêm lớp dạy học kiếm sống.

Mặc dù gia phả nhà Vương còn ghi lại nhiều đời đỗ đạt, Sắc không có nhiều cơ hội để trở

thành thư sinh. Những buổi đi chăn trâu cho anh, cậu thường ghé vào nghe ké lớp học

của Vương Thúc Mậu. Lớn lên, Sắc đã nổi tiếng khắp làng về tính ham học và được

Hoàng Dương (Hoàng Xuân Dương), bạn của Mậu, chú ý. Để ý thấy cậu bé thường

xuyên nằm trên lưng trâu đọc sách trong lúc chúng bạn chơi đùa, Dương nhận lời đỡ đầu

cậu. Năm 15 tuổi, Sắc theo Dương chuyển sang làng Hoàng Trù và bắt đầu học với cha

nuôi của mình. (theo truyền thống nho giáo, những học trò tài năng thường hay được họ

hàng hoặc người thân đỡ đầu. Khi đỗ đạt, cả cha mẹ và người đỡ đầu đều được hưởng

vinh quang)

Họ Hoàng bắt đầu từ Hưng Yên và có dòng dõi khoa bảng. Bố của ông Dương đã từng ba

lần đi thi và đậu tú tài. Trong lúc chồng dạy học, vợ ông là Nguyễn Thị Kép và hai con

gái là Hoàng Thị Loan và Hoàng Thị An suốt ngày bận rộn ngoài đồng để nuôi sống gia

đình. Truyền thống xã hội Việt nam trao nhiều quyền cho người phụ nữ, tuy nhiên với

ảnh hưởng ngày càng lan rộng của đạo Khổng đến thời điểm đó, vai trò của phụ nữ ngày

càng trở nên thứ yếu. Họ không có cơ hội được hưởng giáo dục. Trong bối cảnh đó, bà

Kép và con gái đã may mắn hơn vì có được chút ít kiến thức. Gia đình bà Kép cũng có

truyền thống khoa bảng và bố bà cũng đậu tú tài.

Cậu bé Sắc đã lớn lên trong một môi trường như vậy. Cũng không ngạc nhiên khi cậu

phải lòng cô bé Loan xinh đẹp. Mặc dù bà Kép hơi băn khoăn vì cậu mồ côi cha mẹ, đám

cưới vẫn được tiến hành vào năm 1883. Cặp vợ chồng trẻ được bố mẹ vợ cho một căn

nhà 3 gian ấm cúng ngay cạnh nhà. Ở giữa hai nhà là gian nhà nhỏ đặt bàn thờ tổ tiên.

Trong 7 năm sau đó, bà Loan sinh được 3 người con: con gái Nguyễn Thị Thanh, 1884;

con trai Nguyễn Sinh Khiêm năm 1888 và ngày 19 tháng 5 năm 1890, cậu bé Nguyễn

Sinh Cung mà sau này là HCM ra đờii.

Năm 1891, Sắc ra Vinh thí Tú Tài và bị trượt. Không nản chí ông vẫn tiếp tục đèn sách.

Năm 1893, bố vợ ông qua đời, ông phải đi dạy thêm để giúp đỡ gia đình. 5/1894 Sắc đi

thi lần thứ hai và đỗ cử nhân. Thông thường người có học vị cử nhân thường tim các vị

trí trong bộ máy chính quyền. Ông Sắc lại quyết định sống thanh bạch bằng nghề dạy học

tại quê nhà. Và bà Loan lại tiếp tục ra ruộng.

Tình hình kéo dài không lâu, mùa xuân năm 1895, Nguyễn Sinh Sắc ra Huế thi Hội. Ông

bị trượt nhưng quyết định xin ở lại vào trường Quốc tử giám để ôn thi cho kỳ sau. Quốc

tử giám có nguồn gốc từ những ngày đầu độc lập tại Hà nội và là nơi đào tạo cho bộ máy

cai trị của triều đình. Nhờ một số người bạn giúp đỡ, Sắc được nhận học bổng. Ông quay

về Nghệ an để đón vợ và con vào.

Không có tiền để đi tàu thuỷ, gia đình Sắc quyết định đi bộ. Vào thời đó, đường từ Vinh

đi Huế hết sức vất vả và nguy hiểm phải vượt qua những cánh rừng rậm đầy hổ báo cũng

như luôn phải đối phó với những băng cướp đường. Họ đi khoảng 30 km/ngày và mất

www.langven.com

11

tổng cộng khoảng 1 tháng. Khi mệt quá cậu bé Cung 5 tuổi được cha mẹ cõng và kể cho

những câu chuyện về những vị anh hùng cứu nước Việt nam.

Mặc dù đã trở thành trung tâm chính trị của cả nước (Gia Long quyết định chuyển kinh

đô vào miền Trung để thể hiện ý chí thống nhất đất nước của mình), Huế tại thời đó cũng

chỉ có không đến chục ngàn dân. Kiệt sức vì đi đường, Sắc may mắn được một người bạn

cho ở nhờ. Sau đó gia đình chuyển đến một căn nhà nhỏ trên phố Mai Thúc Loan, nằm

gần tường đông của Cấm thành trên bờ bắc sông Hương. Sắc ít khi đến trường, ông thích

tự học ở nhà và dạy con cũng như con cái của lớp quan lại láng giềng. Cậu bé Cung từ

nhỏ đã tỏ ra rất thích tìm hiểu thế giới xung quanh. Khi quan sát những nghi lễ cung đình,

cậu đã hỏi mẹ, liệu không biết vua có què không mà phải đi kiệu.

Năm 1898, Sắc thi trượt lần 2 và buộc phải chấp nhận công việc dạy học tại thôn Dương

Nỗ. Bà Loan thì kiếm thêm bằng công việc may vá và giặt thuê. Chủ trường Dương Nỗ,

một tay phú nông đã đồng ý cho 2 con trai của Sắc được tham dự trường. Có thể đây là

nền giáo dục Khổng tử chính thức đầu tiên mà cậu bé Cung được hưởng.

Tháng 8/1900 Sắc được bổ nhiệm làm giám khảo trường thi tại Thanh hóa. Ông mang

cậu bé Khiêm đi, còn Cung ở lại Huế với mẹ. Trên đường về, ông ghé qua Kim Liên để

xây lại mộ cho bố mẹ. Đây được coi là vinh hạnh vì thông thường cử nhân không được

làm giám khảo, tuy nhiên cái giá của chuyến đi là quá đắt. Tại Huế, bà Loan đã qua đời

ngày 10/2/1901 vì hậu sản sau khi sinh cậu bé thứ tư: Nguyễn Sinh Xin. Bà con hàng

xóm vẫn nhớ cảnh cậu bé Cung vừa đi vừa khóc qua các nhà để xin sữa nuôi em. Khuôn

mặt tươi vui của cậu trở nên buồn rười rượi.ii

Nghe tin vợ chết, ông Sắc lập tức trở về Huế và mang các con ra Hoàng Trù. Cậu bé

Cung khi đó đã là một học trò nhanh trí và nhớ được khá nhiều chứ Hán, tuy nhiên bố cậu

vẫn lo cậu ham chơi và gửi cậu học ở một người bà con xa bên vợ: ông Vương Thúc Đỗ.

Vương nổi tiếng thời bấy giờ vì không bao giờ đánh học trò và thường chiêu đãi các học

trò của mình bằng những câu chuyện những anh hùng chống ngoại xâm, trong đó có anh

cả của ông, người đã từng chiến đấu dưới ngọn cờ Cần Vương.

Sắc quay lại Huế sau vài tháng, nhưng các con ông vẫn ở Hoàng Trù với bà nội. Thanh

lúc này đã là một cô gái trưởng thành, giúp bà nội việc đồng áng. Ngoài việc nhà, cậu bé

Cung chạy chơi khắp xóm với chúng bạn, câu cá, thả diều. Trong các trò chơi, bao giờ

cậu cũng là người kiên trì nhất. Cậu thích nhất là leo lên núi Chung, thả tầm nhìn xuống

những cánh đồng lúa, rặng tre và dãy Trường sơn xanh mờ phía xa. Trên núi có đền thờ

Nguyễn Đức Du, một vị tướng chống quân Nguyên Mông. Cũng trên núi này, năm 1885,

ông Vương Thúc Mậu, người mà ông Sắc thường mon men học lỏm ngoài cửa, đã phất

cờ khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương. Chỉ có một nốt buồn trong giai đoạn này của

cuộc đời Cung: em Xìn cậu đã chết lúc mới 1 tuổi.

Quay về Huế, Sắc lại đi thi và lần này ông đỗ Tiến sĩ đệ nhị, hay Phó Bảng. Tin vui này

làm nức lòng cả hai làng Kim Liên và Hoàng Trù. Lần đầu tiên từ giữa thế kỷ 17, khu

vực này mới có người đỗ cao như vậy. Kim Liên từ nay đã có thể coi mình là "Đất văn

vật". Cũng như lần trước Sắc từ chối những nghi lễ long trọng, ông phân phát thức ăn cho

người nghèo. Tuy nhiên ông chấp nhận căn nhà 3 gian và 2 sào ruộng như là quà tặng của

làng Kim Liên. Gia đình ông chuyển về Kim Liên.

Phó bảng là một học vị danh giá và thường mang lại quyền lực cũng như tiền bạc. Tuy

nhiên Sắc không có mong muốn tham gia vào quan trường trong cảnh nước mất. Lấy cớ

là đang để tang vợ, ông quyết định ở lại Kim Liên dạy học. Ông cũng lấy tên mới là

Nguyễn Sinh Huy (sinh ra cho danh dự)

www.langven.com

12

Khi đó cậu bé Cung đã 11 tuổi, bắt đầu vào tuổi trưởng thành. Theo thông lệ, bố cậu đặt

tên cho cậu là Nguyễn Tất Thành (Người sẽ thành công). Cậu được bố gửi đến học lớp

của nhà nho Vương Thúc Quý, con của Vương Thúc Mậu, người đã nhảy xuống hồ tự tử

để khỏi rơi vào tay giặc Pháp. Cũng như Sắc, sau khi đỗ đạt, Quý từ chối quan trường, ở

làng dạy học, bí mật tìm cách lật đổ chế độ bù nhìn ở Huế. Khác với thông lệ, ông không

bắt học sinh học thuộc lòng mà tìm cách cho các em hiểu được bản chất nhân đạo của các

tác phẩm của Khổng Tử. Trước mỗi giờ học, ông lại thắp hương trước bàn thờ cha ngay

trên tường lớp học để khắc sâu tinh thần yêu nước, chiến đấu cho Việt nam độc lập vào

tâm trí các học trò của mình. Đáng tiếc là chẳng bao lâu sau lớp học bị đóng cửa vì Quý

bỏ làng theo quân khởi nghĩa. Thành theo học một thầy giáo khác, nhưng không chịu nổi

kiểu dạy nhồi sọ cổ lỗ, cậu quay về học với bố. Cũng như bạn mình, Sắc không bao giờ

khuyến khích học trò học chỉ để đỗ đạt làm quan, mà hãy tìm cách cứu giúp đồng loại.

Thành nhận được học vấn không chỉ ở trên lớp học. Bác thợ rèn hàng xóm tên là Diên

thường xuyên dạy cậu nghề và dẫn cậu đi săn chim. Những buổi tối, cậu thường cùng bạn

bè quây quần quanh bác để nghe kể chuyện. Diên thường kể về những anh hùng dân tộc

như Lê Lợi,Mai Thúc Loan. Ông cũng say sưa kể về cuộc chiến đấu dũng cảm của các

chiến sĩ trong phong trào Cần Vương, về cuộc tự sát của Vương Thúc Mậu, về sự hy sinh

của Phan Đình Phùng. Thành rất xúc động được biết rằng nhiều bà con của cha cậu cũng

đã chiến đấu và hy sinh vì chính nghĩa.

Tinh thần yêu nước bắt đầu thấm sâu vào cậu bé. Thành phát hiện ra rằng những quyển

sách cậu đọc chỉ nói về lịch sử Trung quốc. Cậu đi bộ ra Vinh để mua sách về lịch sử

Việt nam, không đủ tiền, cậu nán lại, học thuộc lòng để có thể về kể lại cho các bạn bè

của mình.

Cho đến giờ, Thành chưa có nhiều điều kiện để biết về người Pháp. Cậu chỉ nhìn thấy họ

khi còn nhỏ ở Huế, và vẫn thường ngạc nhiên tự hỏi không hiểu sao quan quân lại phải

cúi đầu trước người ngoại quốc. Anh em cậu cũng hay lân la chơi với các công nhân Pháp

đang xây dựng cầu Tràng Tiền. Thỉnh thoảng họ đùa với cậu và cho kẹo. Về nhà Thành

hỏi mẹ, tại sao những người Pháp cũng lại khác nhau? Tại quê nhà Nghệ An, công trình

làm đường sang Lào đã làm biết bao thanh niên trong làng phải trở thành thân tàn ma dại,

hoặc không bao giờ trở về. Con đường sang Lào, "con đường chết" đã làm cho sự thiếu

thiện cảm của Thành với người nước ngoài càng mạnh mẽ thêm.

Một trong những người bạn gần gũi với Nguyễn Sinh Sắc là nhà yêu nước nổi tiếng Phan

Bội Châu, quê cách Kim Liên chỉ vài cây số. Mặc dù bố đỗ tú tài và được học kinh điển

từ nhỏ, đối với Châu số phận của đất nước quan trọng hơn là quan trường. Khi còn trẻ

ông đã tụ tập những thanh niên cùng chí hướng, phất cờ khởi nghĩa tại quê nhà. Khi bị

giặc Pháp đàn áp, ông đã phải chạy vào rừng ẩn náu.

Năm 1900, Châu thi đỗ giải nguyên. Không hề có ý định quan trường, ông bắt đầu xây

dựng phong trào tại các tỉnh miền Trung. Trong khi đi vận động, Châu thường ghé qua

Kim Liên thăm các ông bạn là Nguyễn Sinh Sắc và Vương Thúc Quý. Họ thường trải

chiếu ngồi uống rượu, có cậu Thành phục vụ. Thành rất ấn tượng về phong cách lưu loát,

nhã nhặn của Châu. Nhờ đã được đọc trước một số tác phẩm của Châu, Thành rất kính

trọng lòng yêu nước và chia sẻ sự khinh bỉ của ông với triều đình thối nát ở Huếiii.

Châu nghiên cứu các tác phẩm của những nhà cải cách Trung Hoa như Khang Ưu Vị,

Lương Kỳ Siêu và tin tưởng rằng Việt nam phải từ bỏ xã hội truyền thống, tiếp thu công

nghệ và cách tổ chức xã hội của các nước phương Tây thì mới có thể tồn tại được. Nhưng

Châu lại tin rằng chỉ có lớp học giả mới có thể dẫn dắt đến những thay đổi đấy. Ông cũng

www.langven.com

13

muốn mượn một số di sản truyền thống để có thể có được sử ủng hộ của nhân dân. Vì

thế, khi thành lập Hội Duy Tân năm 1904, ông đã mời hoàng thân Cường Để, một thành

viên hoàng gia làm chủ tịch hội.

Cùng với các nhà cải cách Trung hoa, Phan Bội Châu rất ngưỡng mộ mô hình Nhật bản.

Hoàng đế Minh Trị đã tụ tập được các tầng lớp ưu tú trong xã hội, thay đổi một cách sâu

sắc xã hội Nhật bản. Chiến thắng của Nhật hoàng trước quân đội Nga năm 1905 được coi

như là biểu tượng của sức mạnh châu Á trước quân xâm lược châu Âu. Cuối năm 1904,

Phan Bội Châu đi Nhật và bắt tay xây dựng trường học tại Yokohama để đào tạo những

thanh niên Việt nam yêu nước. Đó là khởi đầu của phong trào Đông Du.

Khi quay về Việt nam, Châu đến Kim Liên và đề nghị anh em Tất Thành tham gia Đông

Du. Nhưng Thành đã từ chối. Theo một số người, cậu cho rằng dựa vào Nhật để đánh

Pháp chẳng khác gì "Đuổi hổ cửa trước, đưa sói vào cửa sau". Một số nhà nghiên cứu lại

cho rằng đó là quyết định của bố cậu. Trong bản tự truyện của mình, HCM đã giải thích

rằng, ông muốn sang Pháp để "nắm được bí quyết thành công của phương Tây ngay tại

quê hương của nó"iv. Sau đó ít lâu, Thành đề nghị bố cho mình đi học tiếng Pháp. Ông

Sắc hơi băn khoăn vì tại thời đó, chỉ có những người chịu làm tay sai cho Pháp mới học

tiếng Pháp. Nhưng cuối cùng ông cũng đồng ý, có thể do ảnh hưởng từ các tác phẩm của

những nhà cải cách Trung hoa đang thuyết phục nhà Thanh thay đổi. Mặc dù gắn chặt sự

nghiệp của mình với nền giáo dục truyền thống, Sắc hiểu rằng các con ông phải thích

nghi với những hiện thực mới. Ông cũng thường hay nhắc đến lời dạy của Nguyễn Trãi

về việc phải hiểu được kẻ địch mới có thể đánh bại chúng.

Hè năm 1905, Thành bắt đầu học tiếng Pháp với một người bạn của bố tại Kim Liên.

Tháng 9, ông Sắc đã xin cho cả hai con mình vào trường dự bị Pháp-Việt tại Vinh. Các

trường kiểu này tại các tỉnh miền Trung được thành lập theo quyết định của toàn quyền

Dume, nhằm lôi kéo các trí thức trẻ khỏi nền giáo dục Khổng tử, chuẩn bị nhân sự cho bộ

máy cai trị. Hai anh em Thành lần đầu tiên được học tiếng và văn hoá của Pháp. Các cậu

còn được học chữ quốc ngữ do các nhà truyền giáo sáng lập vào thế kỷ 17 và đang được

truyền bá trong giới trí thức tiến bộ.

Tháng 6, năm 1906, Sắc quyết định nhận chức phong của triều đình và đưa cả hai con trai

vào Huế. Vẫn như xưa, họ đi bộ nhưng cả hai cậu bé đã lớn nên cũng đỡ vất vả hơn. Các

cậu thường tra khảo nhau về các tên tuổi qua các triều đại phong kiến Việt nam. v

Thành phố đã có nhiều thay đổi. Tường thành của kinh đô cổ vẫn soi bóng xuống bờ bắc

sông Hương, những cô gái điếm tóc dài tha thướt vẫn khẩn khoản mời chào khách hàng.

Nhưng những cơn bão lớn trong hai năm vừa qua đã để lại nhiều ngôi nhà đổ nát rêu

phong hai bên sông. Những ngôi nhà trắng kiểu châu Âu của các cố vấn Pháp cũng đang

nhanh chóng thay thế những cửa hàng lụp xụp trong khu thương mại cũ.

Ban đầu mấy cha con sống nhờ một người bạn, nhưng rồi họ được phân một căn phòng

nhỏ trong trại lính cũ cạnh cửa Đông Ba bên bờ tường phía đông của cấm thành. Họ sống

đơn giản, thức ăc chủ yếu là cá muối, vừng, rau quả và gạo rê tiền. Nước uống được sử

dụng từ giếng chung hoặc từ con kênh chảy ngang cửa Đông Ba.

Được sự giúp đỡ của Cao Xuân Đức, một quan chức của Hàn Lâm Viện đã giúp ông từ

lần trước, Sắc được phân làm thanh tra Bộ Lễ, theo dõi các học sinh của Quốc học. Đây

là một chức quan nhỏ so với học vị phó bảng của ông. Các bạn ông đều đã làm đến tri

huyện hoặc cao hơn. Chắc chắn là triều đình đã nghi ngờ vào sự trung thành của Sắc khi

ông từ chối làm quan.

www.langven.com

14

Thực tế là Sắc không cảm thấy dễ chịu phục vụ trong bộ máy đang thối ruỗng. Ông

thường chia sẻ với bạn bè sự cấp thiết của việc cải cách. Không giải thích được quan

điểm "trung quân ái quốc" trong hoàn cảnh thực tế, ông khuyên học sinh từ bỏ con đường

quan trường. Theo ông, tầng lớp quan lại hiện tại chỉ biết hà hiếp nhân dân.

Dễ dàng lý giải được sự thất vọng của Sắc về hệ thống xã hội lúc đó. Mô hình chính

quyền nho giáo phụ thuộc rất nhiều vào sự trong sạch về đạo đức của tầng lớp quan lại

được tuyển chọn qua thi cử. Hệ thống chỉ có hiệu quả nếu các quan lại áp dụng các tiêu

chuẩn đạo đức như phục vụ xã hội, chính trực và nhân từ, được huấn luyện từ nhỏ, trong

việc thực thi quyền lực. Thế nhưng từ cuối thế kỷ 19, sự bạc nhược của triều đình đã dẫn

đến sự suy thoái của các thể chế xã hội. Uy tín của Hoàng đế giảm sút nghiêm trọng.

Tầng lớp quan lại lợi dụng chức quyền để làm giàu. Ruộng công bị chiếm hữu, nhà giàu

lại được miễn thuế.

Một tiếng nói phản kháng quan trọng nữa vào thời điểm đó là Phan Chu Trinh - người đỗ

phó bảng cùng năm với Sắc. Trinh sinh năm 1872 tại Quảng Nam, là con út trong một gia

đình 3 anh em. Bố ông là quan võ, cũng đã từng tham gia thi cử nhưng không thành, theo

Cần Vương và bị đồng đội xử tử vì bị nghi làm phản. Trinh làm việc Bộ Lễ từ năm 1903.

Ông đặc biệt quan ngại về nạn ăn hối lộ và bất tài của các viên chức tại nông thôn. Ông

đã từng công khai nêu vấn đề __________này cho các thí sinh tham gia kỳ thi năm 1904. Năm 1905,

Trinh từ chức, ông dự kiến tham khảo ý kiến với các nhà nho khác trên toàn quốc về

phương thức hành động trong tương lai.

Trinh gặp Châu tại Hồng Kông và theo Châu sang Nhật. Trinh tán thành những cố gắng

của Châu trong việc đào tạo cho thế hệ mới nhưng họ bất đồng trong việc sử dụng thành

viên của hoàng gia cho phong trào. Trinh cũng cho rằng, tốt hơn hết là thuyết phục Pháp

phải tiến hành những cải cách cần thiết cho xã hội Việt nam. Tháng 8 năm 1906, Trinh

công bố bức thư cho toàn quyền Paul Beau chỉ ra tình hình nguy kịch tại Việt nam.

Trong bức thư, Trinh đánh giá cao những thay đổi mà Pháp mang đến cho Việt nam trong

lĩnh vực giao thông và liên lạc. Nhưng ông phản đối việc duy trì một triều đình bù nhìn

thối nát, phản đối sự coi thường và khinh bỉ người Việt dẫn đến sự căm thù trong dân

chúng. Trinh kêu gọi toàn quyền Pháp tiến hành ngay những cải cách xã hội theo các

định chế dân chủ phương Tây. Nhân dân Việt nam sẽ đời đời biết ơn.vi

Bức thư của Trinh gây chấn động lớn trong tầng lớp trí thức Việt nam, đẩy cao sự mâu

thuẫn với chính quyền. Chế độ thực dân của Pháp, dưới chiêu bài "khai hoá văn minh",

bóc lột các tài nguyên thiên nhiên và áp đặt lối sống phương Tây, đã tạo nên sự căm thù

trong tất cả các tầng lớp xã hội Việt nam lúc đó. Trí thức căm hận trước các cuộc tấn

công vào các định chế và chuẩn mực nho giáo. Nông dân rên xiết dưới các loại thuế khoá

nặng nề, nhất là thuế rượu, cấm nông dân chưng ruợu gạo và phải mua các loại rượu vang

Pháp đắt tiền cho những ngày lễ tết. Công nhân các đồn điền cao su phải dãi nắng dầm

mưa và thường là bỏ xác nơi đất khách quê người. Công nhân nhà máy và thợ mỏ cũng

chẳng hơn gì, lương thấp, làm ngoài giờ và điều kiện sống thì dưới đáy xã hội.

Trinh không phải là người duy nhất tìm kiếm câu trả lời cho sự tồn vong của đất nước ở

phương Tây. Đầu năm 1907, một nhóm các trí trức yêu nước đã lập ra Trường Hà nội tự

do, hay còn gọi là Đông Kinh Nghĩa Thục, theo mô hình Học viện của nhà cải cách Nhật

bản Fukuzawa Yukichi. Mục tiêu của trường là tuyên truyền các tư tưởng tiến bộ của

Trung hoa và phương Tây vào tầng lớp thanh niên Việt nam. Đến giữa hè, trường đã mở

được 40 lớp với hơn 1000 sinh viên. Phan Bội Châu khi đó vẫn đang ở Nhật bản, tiếp tục

tuyển sinh cho chương trình đào tạo của mình và gửi các bài thơ đầy nhiệt huyết về nước.

www.langven.com

15

Một trong những bài thơ hay nhất là "Việt nam Vong quốc Sử", hay Lịch sử của một Việt

nam mất nước. Đáng buồn, bài thơ lại được viết bằng chứ Hán.

Được một thời gian, chính quyền Pháp nghi ngờ mục đích giáo dục của Đông Kinh Nghĩa

Thục và ra lệnh đóng cửa vào tháng 12. Nhưng người Pháp không thể ngăn được các

cuộc thảo luận về sự tồn vong của dân tộc trên khắp đất nước. Tại Quốc Tử Giám, Huế,

Nguyễn Sinh Sắc dạy các học sinh: làm quan của một xã hội nô lệ còn tệ hơn là nô lệ.

Nhưng ông không tìm được lời giải. Sau này, HCM nhớ lại cha ông thường ngửa mặt tự

hỏi: Đi về đâu, “Anh, Nhật hay Mỹ?”

Sau khi quay lại Huế, theo lời khuyên của Cao Xuân Đức, Sắc gửi hai con mình vào

trường Đông Ba nằm trong hệ thống giáo dục Việt Pháp mới. Trường nằm ngay trước

cổng Đông Ba của thành Nội, trên khuôn viên cũ của chợ Đông Ba sau khi chợ được

chuyển đi chỗ khác vào năm 1899, có 4 phòng học và văn phòng. Các năm đầu, học sinh

được dạy bằng 3 thứ tiếng: Pháp, Hán, Việt. Lên năm trên, tiếng Hán bị hạn chế. Không

phải ai cũng đồng tình, nhưng Thành tỏ ra hài lòng. Ngay từ khi ở Vinh, thầy giáo dạy

tiếng Pháp của cậu đã dạy: "muốn đánh Pháp phải hiểu Pháp, muốn hiểu Pháp phải biết

tiếng Pháp". Ban đầu, Thành hơi bị lập dị với đôi guốc mộc, tóc dài và bộ quần áo nâu

sồng, trong lúc các bạn cậu hoặc khăn đóng, áo dài hoặc đồng phục kiểu phương Tây.

Nhưng cậu hoà nhập nhanh. Cậu học cật lực và trong một năm đã hoàn thành chương

trình hai năm học.

Mùa thu năm 1907. hai anh em Thành thi đậu vào Quốc học Huế, trường cao nhất trong

hệ thống giáo dục Pháp Việt. Trường được thành lập vào năm 1896 theo chỉ dụ của vua

Thành Thái, nhưng đặt dưới sự điều khiển của Thống sứ Pháp. Trường có 7 bậc, 4 lớp

bậc tiểu học và 3 lớp bậc trung học, chương trình tập trung vào tiếng Pháp và văn hoá.

Triều đình muốn dần dần thay thế Quốc Tử Giám để đào tạo tầng lớp cai trị mới. Vì thế

dân địa phương thường gọi là: "Trường thiên đường".

Tuy nhiên điều kiện sống và học tập ở đó khó có thể gọi là "thiên đường". Nhà chính vốn

là một trại lính, mái lợp rạ, nay trở nên dột nát và xiêu vẹo. Xung quanh có một số túp lều

tre. Cổng trường được xây theo kiểu mái Trung hoa hai tầng hướng ra đại lộ Jules Ferry.

Thành phần học sinh khá đa dạng. Một số theo kiểu tự học, được học bổng như Thành.

Số khác con nhà giàu có xe đưa đón. Cũng như các trường khác, thầy giáo rất nghiêm

khắc, không chần chừ khi dùng roi vọt. Hiệu trưởng đầu tiên của trường là ông

Nordemann, lấy vợ Việt nam và nói được tiếng Việt. Hiệu trưởng tiếp theo là ông

Logiou, đã từng là lính lê dương.

Bạn bè nhớ lại Thành thường ngồi cuối lớp, ít khi để ý đến những gì xảy ra trong lớp.

Nhưng cậu nổi tiếng với nhiều câu hỏi đôi khi có tính khiêu khích, nhất là những câu hỏi

về ý nghĩa của những tác phẩm của các nhà triết học Ánh sáng Pháp. Cậu rất giỏi ngoại

ngữ và được các thầy cô quý. Một trong những thầy giáo có nhiều ảnh hưởng với Thành

là Lê Văn Miên, tốt nghiệp trường Mỹ thuật Paris. Tuy thường xuyên đả kích chế độ thực

dân, Miên có một kiến thức sâu rộng về văn hoá Pháp. Ông dạy các học sinh về những

người Pháp tốt hơn ở nước Pháp, thổi vào tâm hồn các em một thành phố Paris vĩ đại với

các bảo tàng và thư viện. Tuy học rất giỏi, nhưng giọng nói và điệu bộ nhà quê của

Thành thường bị các bạn trêu chọc. Một lần, không giữ được bình tình cậu đã thọi cho

một kẻ trêu chọc một quả. Thầy giáo đã khuyên cậu, tốt hết là hãy dồn sức vào việc tìm

hiểu những vấn đề thế giới. Quả vậy, Thành quan tâm nhiều đến chính trị. Sau giờ học,

cậu thường tụ tập ngoài bờ sông, chờ đợi những tin tức của Phan Bội Châu, cùng nhau

đọc thơ: "Á tế Á ca", bài thơ về một châu Á tự do khỏi ách nô lệ da trắng.

www.langven.com

16

Một động lực thúc đẩy lòng yêu nước của Thành ở trường là thầy Hoàng Thông. Thông

thường dạy học sinh: mất nước nghiêm trọng hơn mất nhà, mất nước là mất tất cả. Thành

thường đến nhà thầy đọc sách. Một số nhà nghiên cứu còn cho rằng Thông đã cho Thành

tiếp xúc với một số nhóm khởi nghĩa.

Cuối năm 1907, tình hình ngày càng trở nên căng thẳng. Vua Thành Thái lên ngôi từ năm

1889 đã buộc phải thoái vị vì bị nghi ngờ có liên quan đến quân nổi loạn chống Pháp.

Tuy nhiên vị vua kế vị 8-tuổi càng có tư tưởng chống Pháp hơn. Theo gương Hoàng đế

Minh trị Nhật bản, ông lấy hiệu là Duy Tân, nhằm mục đích mang lại cách tân cho đất

nước.

Tuy nhiên đại đa số các tầng lớp tiến bộ Việt nam cho rằng đã quá muộn để có thể hy

vọng gì đó ở triều đình phong kiến. Nguyễn Quyền ở trường Hà nội Tự do đã viết một bài

thơ kêu gọi đồng bào cắt bỏ mái tóc dài búi tó, như một cử chỉ đoạn tuyệt với quá khứ

phong kiến. Thành và các bạn thường đi cắt tóc rong, vừa đi vừa hát:

Tay lược, tay kéo, Cắt! Cắt! Cắt đi sự ngu dốt, cắt đi sự trì trệ, Cắt! Cắt!

Từ đầu năm 1908, sự bất bình bắt đầu lan rộng trong nông dân. Giữa tháng Ba, đám đông

nông dân tụ tập tại phủ tri huyện tại Quảng Nam và tiến về Hội An. Họ đòi miễn các loại

sưu cao thuế nặng, và được sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp trí thức. Phong trào bắt

đầu lan rộng ra các tỉnh duyên hải miền Trung và có dấu hiệu bạo lực. Triều đình đem

quân đàn áp bắt bớ, sau khi các nông dân biểu tình chiếm một số công sở, giam giữ một

số quan lại. Đôi khi đoàn biểu tình bắt và cắt trọc những người qua đường. Người Pháp

gọi đây là "Cuộc nổi dậy tóc ngắn"

Đến cuối mùa xuân, những làn sóng nổi dậy đã dội đến chân thành Huế. Trong tuần đầu

tháng Năm, dân làng Công Lương biểu tình chống thuế. Viên quan đến xử lý bị bắt trói

cho vào cũi, chở đến cổng Thống sứ Pháp. Ngày 9/5, khi đoàn biểu tình đi qua chỗ các

sinh viên, Thành đã bất ngờ kêu gọi hai người bạn của mình tham gia để làm phiên dịch

cho các nông dân. Cậu lật ngửa chiếc mũ nan, báo hiệu vứt bỏ "status quo" của mình.

Trước sức ép của đoàn biểu tình, Thống sứ Lavecque phải tiếp đoàn đại biểu nông dân có

cậu học sinh Nguyễn Tất Thành làm phiên dịch. Cuộc đàm phán thất bạ__________i, kể cả sau khi

vua Duy Tân đã can thiệp. Quân đội Pháp đã xả súng lên cầu Tràng Tiền làm hàng trăm

người chết và bị thương.

Đêm đó Thành phải đi trốn. Các bạn cậu chẳng ai có thể ngờ rằng, sáng hôm sau, khi

tiếng chuông báo hiệu giờ học vừa dứt, cậu lại xuất hiện, ngồi đúng vào vị trí của mình.

Nhưng cũng không được lâu. Đúng 9:00, một sĩ quan cảnh sát Pháp xuất hiện và sau khi

nhận ra Thành, đã yêu cầu ban giám hiệu đuổi ngay kẻ phản nghịch ra khỏi trường.

Trong những tuần tiếp theo, tình hình tiếp tục phức tạp. Cuối tháng sáu, những người

theo Phan Bội Châu tiến hành cuộc đầu độc các sĩ quan Pháp tại Hà nội sau đó khởi nghĩa

cướp chính quyền. Tuy nhiên do có kẻ phản bội, cuộc binh biến bất thành. Quân Pháp

đàn áp dã man, 13 người bị xử tử, nhiều người bị lưu đày. Hốt hoảng, triều đình hạ lệnh

bắt tất cả các trí thức yêu nước. Phan Chu Trinh cũng bị bắt và bị đưa về Huế xử. Nhờ có

Thống sứ Pháp can thiệp, Trinh thoát chết nhưng bị đày đi Côn Đảo. Từ năm 1911, Trinh

sống lưu vong tại Pháp.

Do hành động của hai cậu con trai, Sắc bị khiển trách và bị đưa về làm tri huyện Bình

Khê, Bình Định. Đây là một vùng không phải là quá heo hút, nhưng là nơi xuất phát của

khởi nghĩa Tây Sơn chống lại nhà Nguyễn. Bởi thế triều đình thường đưa những viên

quan lại không vừa ý về đó. Anh trai Thành là Khiêm cũng bị theo dõi, đến năm 1914 thì

www.langven.com

17

bị xử về tội mưu phản. Nhà chức trách còn tra hỏi cả chị gái Thành ở Kim Liên vì nghi

ngờ về tội chứa chấp 1 số phần tử mưu phản.

Sau khi bị đuổi khỏi trường, Thành mất tích mấy tháng. Có tin đồn là anh đi xin việc một

số nơi nhưng đều không được nhận. Nhưng chắc chắn là anh không quay lại quê vì đã bị

theo dõi. Sau đó, Thành quyết định đi bộ vào phía Nam để tránh sự theo dõi của triều

đình. Cũng có thể vào thời điểm đó anh đã quyết định xuất dương tìm đường cứu nước tại

phương Tây. Điạ điểm thuận tiện nhất vào thời điểm đó chỉ có thể là cảng Sài gòn. Tháng

7/1909 Thành dừng lại tại Bình Khê để gặp cha mình. Cuộc gặp gỡ không mấy vui vẻ với

anh vì ông Sắc đang trầm uất, suốt ngày uống rượu. Sắc đã mắng nhiếc và cho cậu con

trai mấy gậy.

Sau đó Thành đến Quy Nhơn ở nhờ nhà một người bạn của cha mình là Phạm Ngọc Thọ.

Theo lời khuyên của Thọ, Thành đâm đơn thi vào chân giáo viên của một trường học địa

phương dưới tên là Nguyễn Sinh Cung. Chủ tịch hội đồng thi vốn là giáo viên cũ của cậu

tại trường Đông Ba nên rất quý cậu. Tuy nhiên không hiểu sao chính quyển tỉnh biết

được thành tích bất hảo của Thành và tên anh bị đưa ra khỏi danh sách dự thi. vii

Không thất vọng, Thành đi tiếp đến Phan Rang gặp Trương Gia Mỗ, đồng nghiệp của cha

cậu ở Huế và cũng là bạn của Phan Chu Trinh. Chủ nhà đã thuyết phục Thành chậm lại

chuyến xuất ngoại của mình và xin cho anh một chân dạy học ở trường Dục Thanh (Phan

Thiết). Vì đã cạn tiền, Thành chấp nhận. Trước khi đến Phan Thiết, anh phải chứng kiến

một cảnh tượng đau lòng khi các sĩ quan Pháp cười ha hả bắt các công nhân cảng Việt

nam phải nhảy xuống nước trong giông tố. Nhiều người đã chết.

Trường Dục Thanh được các nhà yêu nước địa phương thành lập theo mô hình trường Tự

do Hà Nội. Ngôi nhà là sở hữu của một nhà thơ bản xứ, nằm ở bờ nam sông Phan Thiết.

Trường do hai người con của nhà thơ điều hành. Cổng trường kẻ rõ khẩu hiệu: "Đoạn

tuyệt với cổ hủ, đem tới văn minh". Ngôn ngữ chính thức là quốc ngữ, một số môn được

dạy bằng tiếng Pháp và tiếng Hán. Thành đến Phan Thiết ngay trước Tết nguyên đán

năm 1910, và nhận trách nhiệm dạy tiếng Hán và quốc ngữ. Anh còn kiêm luôn chân dạy

võ. Theo trí nhớ của các học viên, thầy giáo Thành rất được ngưỡng mộ. Mặc bộ bà ba

trắng, đi guốc mộc, Thành dạy theo phong cách của Socrat khuyến khích các học sinh

đưa ra những ý tưởng của riêng mình. Thành cùng các học sinh thăm quan các vùng phụ

cận, lên rừng, xuống biển. Khung cảnh khá điền viên ngoài việc một xưởng nước mắm ở

khá gần với những hương vị đặc biệt làm cho học sinh khó tập trung.

Chương trình giảng dạy tại Dục Thanh mang nội dung yêu nước khá rõ ràng. Thành

thường mở đầu bài giảng của mình bằng bài thơ từ trường Tự do Hà Nội

Ôi, thượng đế có thấu nồi khổ đau

Dân ta mang xiềng xích, héo mòn trong tai ương

Bởi thế chủ đề tranh cãi không bao giờ là mục tiêu giành độc lập mà là bằng cách nào.

Các thầy giáo trong trường chia làm 2 phe. Một bên ủng hộ Phan Chu Trinh với đường

lối cải cách, bên kia ủng hộ Phan Bội Châu với chủ trương dùng vũ lực và dựa vào Nhật

bản. Thành không chọn phe, cậu biết rằng cậu phải hiểu tận cùng tình thế trước khi quyết

định.

Đầu năm 1911, trước khi năm học kết thúc, Thành biến mất. Nguyên nhân chính xác về

sự ra đi của Thành không rõ ràng, nhưng có thể có liên quan đến tin cha cậu chuyển vào

Cochin China. Trước đó, đầu năm 1910, Sắc bị triệu hồi khỏi Bình Khê. Trong thời gian

làm tri huyện ở đó, ông nổi tiếng là ủng hộ người nghèo, tha cho các nông dân tham gia

biểu tình, khoan dung với những tội hình sự lặt vặt. Ông cho rằng lố bịch để mất thời gian

www.langven.com

18

vào những việc đó khi nước đã mất. Ngược lại ông rất cứng rắn với bọn nhà giàu và có

thế lực. Sau khi tẩn 100 roi vào mông một nhân vật thế lực trong vùng và sau đó tên này

lăn ra chết, Sắc bị gọi về Huế, hạ 4 bậc, phạt đánh roi và cách chức. Theo lời bạn bè, Sắc

cũng chẳng buồn. Ông nói: "nước đã mất, liệu có thể có nhà được không?" Đầu năm

1911, ông xin phép chính quyền Pháp được đến Cochin China nhưng bị từ chối. Hồ sơ

của cảnh sát Pháp viết:

"Nguyễn Sinh Sắc... bị nghi ngờ là đồng loã với Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Con

trai y, đang học ở Huế bỗng nhiên mất tích, nghi rằng đang ở Cochin China. Sắc chắc

muốn gặp con và hội kiến với Trinh."viii

Nhưng Sắc cũng chẳng đợi được cấp phép, ngày 26/2/1911, ông tới Tourane (Đà nẵng)

và lên tàu đi Sài gòn. Đến nơi, ông tìm được một chân dạy tiếng Hán và bán thuốc Nam

để kiếm sống.

Liệu Thành có biết được tất cả thông tin về cha cậu và rời Phan Thiết để đi tìm cha? Một

người bạn của Thành ở Dục Thanh cho biết là cậu đã chia sẻ với anh ta là sẽ cùng ăn tết

với cha. Hay cậu đã biết mình bị theo dõi và quyết định lẩn trốn? Ngay sau khi Thành đi,

một viên chức Pháp có đến trường tìm hiểu tung tích cậu. Thành đi chỉ để lại một mảnh

giấy nhỏ, nhờ các bạn trả lại sách cho thư viện. Chẳng bao lâu sau, trường Dục Thanh

cũng bị đóng cửa.

Sài gòn là miền đất hoàn toàn mới lạ với cậu thanh niên Nguyễn Tất Thành. Một thời chỉ

là thành phố nhỏ trên bờ sông Sài gòn, thành phố đã lớn rất nhanh và vượt cả cố đô Hà

Nội với dân số lên tới hàng trăm ngàn. Sự lớn mạnh của Sài gòn chủ yếu dựa trên lĩnh

vực kinh tế. Ở đây đã hình thành cả một lớp thương nhân người Âu, Việt và người Hoa

định cư trên khu vực này từ thế kỷ trước. Lĩnh vực làm ăn chủ yếu là khai thác các đồn

điền cao su dọc biên giới Campuchia (cây cao su được đưa vào Việt nam từ Brazil vào

cuối thế kỷ 19) và canh tác lúa trên những cánh đồng rộng lớn đồng bằng Nam Bộ. Trong

25 năm đầu của thế kỷ 20, Nam Bộ đã đứng thứ ba trên thế giới về xuất khẩu gạo.

Ban đầu Thành sống trong một vựa lúa cũ. Chủ vựa lúa là Lê Văn Đạtix còn có xưởng sản

xuất chiếu cói và có quan hệ với các thành viên của trường Dục Thanh. Thành tìm được

cha, lúc đó đang ở tạm trong một nhà kho cũ. Qua các mối quen biết của Dục Thanh,

Thành tìm được một ngôi nhà ở phố Châu Văn Liêm gần cảng Sài gòn. Được cha khuyến

khích, Thành bắt đầu chuẩn bị cho chuyến đi của mình. Vào tháng Ba, cậu đăng ký tham

gia một lớp thợ mộc và sắt, chắc là để kiếm tiền cho chuyến đi. Sau khi được biết phải

mất ba năm mới có thể thành nghề kiếm tiền, Thành bỏ học, đi bán báo cùng với một

người bạn từ Kim Liên, tên là Hoàng.

Chỗ ở của Thành ở gần bến Nhà Rồng nơi các con tàu xuyên đại dương thường xuyên lui

tới. Thành quyết định tìm việc làm trên một trong những con tàu đó để ra nước ngoài.

Thời đó chỉ có hai hãng tàu hoạt động tại cảng Sài gòn là Messageries Maritimes và

Chargeurs Reunis. Chỉ có hãng Reunis cần tuyển người địa phương cho một số vị trí phụ

bếp và bồi bàn. Thông qua một người bạn ở Hải phòng đang làm trong hãng, Thành đã có

được cuộc hẹn phỏng vấn với thuyền trưởng tàu Đô đốc Latouche Treville vừa đến từ

Tourane. Ngày 2/6, một anh thanh niên tên là Ba xuất hiện ở cầu tàu. Thuyền trưởng

Louis Eduard Maisen e ngại nhìn khuôn mặt thông minh nhưng thân hình khá mảnh

khảnh của anh. Ba quả quyết là việc gì anh cũng làm được và đã thuyết phục được

Maisen cho một chân phụ bếp. Ngày hôm sau, anh bắt tay ngay vào công việc rửa bát,

giặt quần áo, lau sàn, nhặt rau và đốt lò. Ngày 5/6, "Đô đốc LT" hú còi rời sông Sài gòn

ra biển Nam Trung Hoa, thẳng tiến tới Singapore lúc đó đang thuộc Anh.

www.langven.com

19

Tại sao Nguyễn Tất Thành lại quyết định rời đất nước? Trong bình luận gửi nhà báo

xôviết Ossip Mandelstam nhiều năm sau, HCM đã viết "Khi tôi 13 tuổi, lần đầu tiên tôi

nghe thấy những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Lúc đó tôi nghĩ mọi người da trắng đều là

người Pháp. Và vì người Pháp viết ra những từ đó, tôi muốn làm quen với nền văn minh

Pháp để có thể hiểu được ý nghĩa đằng sau những từ đó". Muộn hơn, HCM cũng đã trả

lời tương tự cho câu hỏi của phóng viên Mỹ Anna Luise Strong:

"Nhân dân Việt nam, bao gồm cả cha tôi, thường xuyên tự đặt câu hỏi, ai sẽ giúp chúng

ta cởi bỏ ách thống trị của Pháp. Nhiều người nói Nhật bản, có người nói Anh, lại có

người nói Mỹ. Tôi thấy tôi phải ra nước ngoài. Sau khi đã tìm hiểu họ sống như thế nào,

tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi"

Các nhà viết sử ở Hà nội cũng thường nhắc đến những hồi ức của HCM về việc rời đất

nước như một sứ mệnh cứu nước. Cũng nên nhớ rằng HCM hay có khuynh hướng kịch

hoá những sự kiện trong đời mình cho những mục đích khác. Tuy nhiên, không nghi ngờ

gì, khi rời Sài gòn tháng 6 năm 1911, cậu thanh niên Nguyễn Tất Thành đã hoàn toàn

nhận thức được những bất công mà đất nước mình đang phải gánh chịu và trong nước

không có lời giải. Biết đâu, anh có thể tìm kiếm được những lời giải ở nước ngoài.

www.langven.com

20

Con ngựa hoang

Mặc dù không có những ghi chép chính xác về các hoạt động của Thành sau khi rời Việt

nam, những bằng chứng thu thập được cho phép dự đoán rằng phần lớn thời gian của

Thành dành cho việc lang thang trên biển và đi qua khắp 5 châu. Vào thời đó, chế độ thực

dân châu Âu đã thuộc địa hóa hầu như cả thế giới. Trên các bến cảng Á, Phi, Mỹ la tinh,

những người dân bản xứ xun xoe thoả mãn nhu cầu của các ông chủ da trắng. Trong các

tác phẩm sau này, HCM đã miêu tả sự tàn bạo của các ông chủ và sự khốn cùng của dân

lao động một cách hết sức ấn tượng. Có thể phần lớn các quan điểm cách mạng của HCM

đã được hình thành trong giai đoạn này.

Tàu LT là một tàu nhỏ đối với các tàu vượt đại dương, dài khoảng 400 fut và có trọng tải

nhỏ hơn 6000 tấn. Vì thế cuộc sống của Thành trên tàu hết sức vất vả. Tuy nhiên anh vẫn

nhìn đời một cách hóm hỉnh: "nhân vật của chúng ta vừa huýt sáo vừa chùi toa lét và đổ

rác". Một trong những đối thủ chính trị của HCM sau này, ông Bùi Quang Chiêu đã tình

cờ gặp Thành trong chuyến đi. Ông lấy làm kinh ngạc sao một người thông minh như

Thành lại chấp nhận một thứ lao động khổ sai như vậy. Thành chỉ cười và nói, anh cần đi

đến Pháp để đòi sửa lại bản án cho cha.x

LT cập bến Marseilles ngày 6 tháng bảy năm 1911 sau khi đã qua Singapore, Colombo

và Port Said. Thành nhận được những đồng lương đầu tiên khoảng 10 frances. Chừng đó

chỉ đú cho vài ngày trên bờ, nhưng Thành đã có thể dừng bước uống cafe trên đường

Cannebiere, để được gọi bằng "Ngài". Thành ngạc nhiên kết luận: "Người Pháp ở Pháp

tốt hơn và lịch sự hơn người Pháp ở Đông dương". Sau khi tìm hiểu các hang cùng, ngõ

hẻm, gặp gỡ đủ các loại đĩ bợm ở đây, Thành tự hỏi, tại sao người Pháp lại không khai

hoá văn mình cho đồng bào chính quốc trước.

Thành quay lại tàu trước khi nó nhổ neo và đến Le Havre ngày 15 tháng 7. Sau đó LT

giong buồm đi Dunkirk, rồi quay về Marseilles và neo ở đó đến giữa tháng 9. Từ đó,

Thành đã viết một bức thư gửi thẳng cho tổng thống Pháp. Quả là một sự kiện gây tò mò,

và đáng để in toàn văn bức thư ở đây:

Marseilles

15 tháng 9 năm 1911

Thưa ngàI Tổng thống!

Tôi rất rất lấy làm vinh dự được nhờ ngài một việc nhỏ để có thể được vào học tại trường Thuộc

địa như một sinh viên thực tập.

Hiện tại, để kiếm sống, tôi đang phải làm việc tại hãng Chargeurs Réunis (tàu đô đốc

LT). Tôi đang bị bỏ rơi và rất muốn có được một nền giáo dục đầy đủ. Tôi muốn trở

thành có ích cho nước Pháp về vấn đề các đồng bào của tôi, và giúp họ có thể được

hưởng những thành quả của giáo dục.

Tôi sinh tại tỉnh Nghệan thuộc Annam

Vô cùng biết ơn Ngài Tổng thống đã ra tay cứu giúp

Nguyễn Tất Thành

Sinh năm 1892

Con ông Nguyễn Sinh Huy (Tiến sĩ)

Sinh viên Pháp ngữ và Hán ng

www.langven.com

21

Trường Thuộc địa được thành lập năm 1885 nhằm mục đích đào tạo nhân viên cho bộ

máy cai trị của Pháp tại thuộc địa, có khoảng 20 học bổng cho các sinh viên từ Đông

Dương. Một số nhà nghiên cứu tỏ ra ngạc nhiên về quyết định xin học của Thành, họ cho

rằng có thể lúc đó Thành đã từ bỏ giấc mộng ái quốc để đeo đuổi con đường công chức.

Tuy nhiên, thực ra quyết định này chẳng có gì khác với việc gia nhập Quốc học Huế. Rõ

ràng là Thành chưa quyết định được mình sẽ phải chọn con đường nào để cứu nước. Và

điều có ích nhất bây giờ là tiếp tục sự nghiệp học hành. Trong bức thư viết cho chị cậu

mùa hè năm 1911, Thành cũng đã nói với chị là sẽ đi học tại Pháp khoảng 5-6 năm. Cũng

có thể đây chỉ là một động tác “qua người” đẹp mắt, mà sau này HCM cũng đã nhiều lần

sử dụng, nguỵ trang cho ý đồ đích thực của mình nhằm đạt được mục đích cuối cùng.xi

Từ Marseilles, tàu LT về Việt nam và cập bến Sài gòn vào khoảng giữa tháng 10. Thành

rời tàu và tìm cách gặp cha. Từ khi mất việc, Sắc lang thang bán thuốc nam và dạy học

trong khắp Nam bộ. Thậm chí có lần còn bị bắt vì say rượu. Mặc dù rất có thể trong

khoảng thời gian đó, ông đang ở loang quanh Sài gòn, nhưng không có bằng chứng là hai

cha con đã gặp nhau. Ngày 31/10/1911, Thành viết một lá thư cho Toàn quyền Pháp tại

Annam, giải thích về việc cha con chia cách đã 2 năm và nhờ chuyển cho cha một khoản

tiền nhỏ nhưng không được trả lời.xii

Quay trở lại Marseilles, Thành nhận được tin là đơn xin học của mình đã bị từ chối. Nhà

trường chỉ nhận những học sinh được toàn quyền Đông Dương giới thiệu. Khi tàu được

đưa lên bờ sửa chữa tại Le Havre, Thành quyết định ở lại. Anh xin vào làm vườn cho một

chủ tàu ở Sainte-Addresse, một khu nghỉ mát đã nổi tiếng nhờ những bức tranh mà

Monet vẽ tại đây. Hàng ngày, lúc rảnh rỗi anh lang thang trong thư viện của ông chủ hoặc

luyện tiếng Pháp với con gái ông chủ. Có thể là Thành đã đi Paris gặp Phan Chu Trinh

trong thời gian này. (Theo một số nguồn tin, ông Sắc đã viết cho Thành một thư giới

thiệu cho Trinh khi cậu rời Việt nam). Nếu họ gặp nhau, chắc chắn chủ đề sôi nổi nhất là

cuộc cách mạng dân quyền của Trần Dân Tiên lật đổ triều đình nhà Thanh để thành lập

một nước cộng hoà kiểu phương Tây.

Thành có quan hệ rất tốt với chủ nhà, và chính ông này đã giới thiệu cậu cho một con tàu

đi châu Phi cũng của hãng Chargeurs Reunis. Mặc dù nhiều người ngăn cản, Thành vẫn

quyết chí ra đi. Anh đã đến một loạt các nước Á-Phi, bao gồm Algeria, Tunisia,Morroco,

India, Indochina, Saudi Arabia, Senegal, Sudan, Dahomey và Madagascar. Anh bị mê

hoặc bởi những điều nghe được, học được. Những cảnh tượng kinh hoàng của chế độ

thuộc địa cũng gây cho anh những xúc động sâu sắc. “Đối với bọn thực dân, tính mạng

những người dân thuộc địa không đáng 1 đồng xu.”

Trong những năm đó, Thành đã đến nhiều hải cảng trên Tây bán cầu. Sau này, HCM đã

kể lại cho những người bạn Cuba của mình rằng ông đã đến Rio và Buenos Aires. Con

tàu của anh cũng đã ghé qua bờ Đông nước Mỹ, và Thành đã chọn NewYork làm nơi

dừng chân của mình. Anh rời tàu và quyết định tìm việc để ở lại nước Mỹ.

Giai đoạn này là một trong những giai đoạn mù mờ nhất trong cuộc đời HCM. Theo lời

ông và một số người quen biết khác, anh đã làm đầy tớ cho một gia đình giàu có ở NY

với mức lương “trên trời” là $40/tháng. Ngoài giờ làm việc, Thành lang thang với bạn

trong khu China town, ngửa cổ ngắm những toà nhà chọc trời NewYork, tham dự các

cuộc họp của hội da đen Harlem, và ngạc nhiên khi thấy pháp luật công nhận sự bình

đẳng của những kẻ nhập cư châu Á. Sau này, một đoàn đại biểu các nhà hoạt động hoà

bình Mỹ đã hỏi HCM: tại sao ông lại đến nước Mỹ? HCM đã trả lời, ông nghĩ là nước

www.langven.com

22

Mỹ là biểu tượng chống chủ nghĩa thực dân châu Âu và sẽ giúp Việt nam giành độc lập.

Nhưng ông đã nhầm.

HCM còn nói là ông đã từng sống ở Boston và làm bánh ngọt cho khách sạn Parker

House. Ông cũng đã đi thăm một số bang miền Nam để chứng kiến cảnh bọn 3K hành

hình người da đen mà sau này ông đã miêu tả rất sống động trong một truyện ngắn viết

khi đang ở Nga những năm 1920. Rất tiếc là chỉ có ít bằng chứng rõ ràng về việc HCM

đã từng ở nước Mỹ. Một là bức thư ký tên là Paul Tất Thành gửi cho toàn quyền Pháp xin

phục hồi cho cha anh. Bức thư đóng dấu NY ngày 15/12/1912. Thứ hai là tấm bưu thiếp

gửi Phan Chu Trinh từ Boston, kể rằng anh đang phụ bếp tại khách sạn Parker Housexiii

HCM nói với một nhà báo Mỹ, bà Anna Louise Strong rằng quãng thời gian ở Mỹ ảnh

hưởng rất ít đến quan điểm chính trị của ông vì lúc đó ông còn quá trẻ. Nhiều khả năng là

HCM rời Mỹ vào năm 1913. Sau chặng dừng chân ở Le Harve, anh đến Anh để học tiếng

Anh. Trong một bức thư gửi Phan Chu Trinh, anh nói rằng đã ở London bốn tháng rưỡi

để học tiếng Anh và giao lưu với người nước ngoài. Bức thư chắc phải được viết trước

khi nổ ra đại chiến thế giới I, tháng 8 năm 1914, vì Thành còn hỏi PCT sẽ đi nghỉ hè ở

đâu. Bức thư thứ hai cho PCT, Thành đã bình luận về sự khởi đầu của chiến tranh. Anh

cho rằng những kẻ dây vào sẽ phải lãnh đủ, anh chờ đợi những sự thay đổi lớn ở châu Á

và hy vọng chiến tranh sẽ làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của Pháp.

Trong hồi ký của mình HCM đã thừa nhận những công việc rất cực nhọc của ông ở Anh

như quét tuyết và đốt lò. Một vài người quen khi gặp Thành ở Pháp đã nhận thấy bàn tay

của anh bị cái lạnh làm cho cong queo. Cũng may là sau đó anh tìm được một chân phụ

bếp trong khách sạn Drayton Court rồi chuyển đến Carton giúp việc cho đầu bếp nổi

tiếng Auguste Escoffier và ông đã từ chối cơ hội để trở thành đầu bếp.

Ngoài việc lang thang ở Hayden Park với cây bút chì và quyển sách để học tiếng Anh,

Thành còn tham gia vào các hoạt động chính trị của Hội công nhân hải ngoại, tham gia

vào các cuộc biểu tình đòi độc lập của người Ailen. Có thể là trong thời gian này Thành

đã lần đầu tiên làm quen với các tác phẩm của Karl Max. Anh vẫn không quên nỗi đau

mất nước. Trong một bức thư gửi PCT, Thành đã viết những câu thơ:

Đương đầu với trời đất

Thôi thúc bởi ý chí

Người anh hùng phải chiến đấu cho đồng bào

Có một điều Thành không biết là các bức thư của anh gửi cho PCT đều rơi vào tay mật

thám Pháp. Trong khi khám xét căn hộ của PCT, chúng đã phát hiện ra những bức thư ký

tên N. Tất Thành gửi từ số 8, Stephen Street, Tottenham Court Road, London. Trong một

bức thư, người thanh niên này còn thề thốt là sẽ tiếp tục sự nghiệp của PCT. Cảnh sát

Pháp đã nhờ các đồng nghiệp Anh tìm kiếm nhưng chẳng thấy ai ở địa chỉ đó. Cảnh sát

Anh lục khắp London được 2 sinh viên Việt nam tên là Thành, trong đó có một Nguyễn

Tất Thành, nhưng họ chẳng có dính líu gì đến chính trị.

Không có nhiều tài liệu minh chứng cho hoạt động của HCM ở Anh. Một số nhà sử học

thậm chí nghi ngờ ông đã ở Anh. Họ cho rằng ông đã bịa ra giai đoạn đó để có được tấm

áo xuất thân vô sản. Điều này hơi vô lý vì HCM chẳng bao giờ phủ nhận nguồn gốc nhà

nho của mình.xiv Tuy nhiên có nhiều chứng cớ khằng định được HCM đã ở London.xv

Thời điểm chính xác Thành quay về Pháp cũng gây nhiều tranh cãi. ít nhất là chính quyền

Pháp cũng không biết gì về chuyện này cho đến khi có một sự kiện làm cho Thành trở

thành người Việt nam yêu nước nổi tiếng nhất ở đất nước mình. HCM viết rằng, ông đã

quay về Pháp khi chiến tranh còn đang xảy ra. Một số người quen cũ của ông ở Pari cho

www.langven.com

23

rằng ông đến Pháp năm 1917 hoặc 1918. Viên mật vụ được phân công theo dõi ông vào

năm 1919 báo cáo rằng HCM đã “ở Pháp từ lâu”. Nhiều nguồn cho rằng đó là khoảng

tháng 12/1917.

Lý do Thành về Pháp có thể dễ hiểu. Sau chiến tranh, số người Việt nam tại Pháp đã tăng

lên gấp bội so với trước đó. Hàng ngàn người Việt nam làm việc tại các công xưởng,

tham gia quân đội so với không đến 100 người trước chiến tranh. Qua mối quan hệ đã sẵn

có với Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường, Thành có thể thâm nhập vào cộng đồng

chính trị Việt nam hải ngoại nhằm mưu đồ cứu nước. Trinh đang được coi là lãnh tụ của

phong trào, nhưng sau khi bị bắt vì nghi ngờ phản bội hồi đầu chiến tranh, Trinh trở nên

rất thận trọng.

Sau khi về Paris, Thành nhanh chóng tham gia vào các hoạt động kích động công nhân

Việt nam trong bối cảnh các cuộc chống đối ở Pháp ngày một nhiều do sự kéo dài khốc

liệt của chiến tranh. Cũng chưa rõ, làm thế nào Thành có thể tham gia vào các hoạt động

đó. Có thể với tư cách của Hội công nhân hải ngoại? Cũng có thể là quan hệ trực tiếp với

các nhà hoạt động cánh tả.

Một nhà hoạt động cách mạng, Boris Souvarine, sau này trở thành sử gia nhớ lại đã từng

gặp Thành ngay sau khi anh từ London trở về. Ông cho rằng đó là vào khoảng năm 1917.

Thành thuê 1 căn hộ dơ dáy tại Montmartre và tham gia sinh hoạt với chi bộ đảng Xã hội

Pháp tại đó. Souvarine đã giới thiệu Thành với Leo Poldes, người sáng lập câu lạc bộ

Faubourg. Các buổi nói chuyện diễn ra thường xuyên về tất cả các chủ đề từ chính trị tới

những điều huyền bí. Souvarine nhớ lại là Thành rất bẽn lẽn, thậm chí khúm núm, nhưng

hoà nhã và ham học. Mọi người còn gọi anh là “Người câm ở Montmartre”.xvi

Leo Poldes là người đã rèn luyện tính nhút nhát của Thành bằng cách bắt anh phát biểu

trước cử toạ. Trong bài phát biểu đầu tiên của mình miêu tả sự thống khổ của nhân dân

thuộc địa, Thành thậm chí còn nói lắp. Không mấy người trong cử toạ hiểu, nhưng họ

thông cảm với chủ đề và Thành được hoan hô nhiệt liệt. Sau đó Thành được mời phát

biểu thường xuyên

Trong cuộc trả lời phỏng vấn nhà văn Mỹ Stanley Karnow, Leo đã nhận xét về Thành

trong thời gian anh tham gia câu lạc bộ Faubourg: “có hơi hướng của Chapline, hài hước

nhưng buồn, vous savez”. xvii Leo đặc biệt có ấn tượng về đôi mắt sáng và lòng ham mê

học hỏi của Thành. Anh đã vượt qua được nỗi sợ hãi phải phát biểu trước công chúng và

tích cực tham gia vào các cuộc tranh luận. Qua đó Thành quen biết những nhân vật nổi

tiếng trong giới trí thức cách mạng Pháp: nhà văn xã hội Paul Louis, nhà quân sự Jacque

Doriot, tiểu thuyết gia Henri Barbeusse với những tác phẩm miêu tả sự cùng cực của binh

lính trên mặt trận.

Đã gần 30 tuổi, và hầu như kinh nghiệm nghề nghiệp chỉ loanh quanh mấy việc phụ bếp

hoặc dạy học, lại không có giấy phép làm việc Thành không thể xin được việc ổn định.

Anh phải làm đủ việc từ bán món ăn Việt nam, kẻ bảng hiệu, dạy chữ Hán, làm nến...

Cuối cùng anh kiếm được một chân tô màu ảnh đen trắng trong một hiệu ảnh của Phan

Chu Trinh. Vào những thời gian rỗi Thành hay ngồi lì trong thư viện và đọc các tác phẩm

của Secxpia, Tolxtoi, Lỗ Tấn, Hugo, Zola, Dickens. Gia tài của anh chỉ có cái va li và

thưỡng xuyên chuyển chỗ trong những nhà trọ chật hẹp của khu công nhân Parisxviii

Thủ đô của nước Pháp cuối chiến tranh vẫn tham vọng trở thành trung tâm chính trị và

văn hoá của thế giới phương Tây. Rất nhiều những nhà tư tưởng lỗi lạc của thế kỷ 19 đã

sống ở Paris. Không khí cách mạng càng sục sôi trong giai đoạn cuối chiến tranh, khi sự

tàn bạo của cuộc chiến đổ thêm dầu vào phong trào chống chủ nghĩa tư bản.

www.langven.com

24

Việt nam chiếm số lượng lớn nhất trong cộng đồng hải ngoại tại Paris thời điểm đó:

khoảng 50000 người, trong đó có hàng trăm con em trí thức. Trong bầu không khí bị

chính trị hoá cao độ, lớp sinh viên này đã hoàn toàn chín muồi cho những hoạt động

chính trị hướng tới độc lập dân tộc. Rất tiếc là chẳng có gì xảy ra cả. Trong giới có ảnh

hưởng, một số muốn mặc cả với Pháp cho thêm quyền tự chủ đổi lấy việc đã tham gia

bảo vệ mẫu quốc trong chiến tranh, một số thì lại bí mật đi đêm với Đức để hy vọng Pháp

thua trận. Theo cảnh sát Pháp, Phan Chu Trinh và bạn ông là Phan Văn Trường đã thử cả

hai phương án này. (Phan Văn Trường sinh năm 1878 tại Hà đông, học luật và trở thành

công dân Pháp năm 1910). Cả hai đã thành lập “Hội đồng thân ái” trước khi chiến tranh

xảy ra, nhưng chỉ thu thập được khoảng 20 chục thành viên. Trinh, được coi là nhà ý

tưởng, tỏ ra rất ít có khả năng tổ chức. Tuy nhiên, do có tin đồn về việc họ đang dự kiến

lật đổ chính quyền tại Đông dương, cả hai đã bị tạm giam ngay sau khi chiến tranh nổ ra.

Chính vì lý do đó mà những bức thư Thành gửi cho Trinh đều rơi vào tay cảnh sát Pháp.

Sau khi được tha, Trường và Trinh không dám nghĩ đến chuyện thách thức chế độ thực

dân nữa. Cộng đồng Việt nam hải ngoại thực sự đình trệ về mặt chính trị.

Thành muốn nhanh chóng thay đổi tình hình đó. Mặc dù, cho đến lúc đó thành tích chính

trị của anh mới chỉ là phiên dịch cho cuộc biểu tình tại Huế năm nào. Trông bề ngoài

hoàn toàn không bắt mắt, bạn bè đều phải thừa nhận anh có một đôi mắt sáng và cái nhìn

mãnh liệt như xuyên thấu suy nghĩ của người đối thoại.

Hè năm 1919, được sự bảo trợ của Trinh & Trường, Thành thành lập Hội ái quốc Annam.

Ngoài những thành viên trí thức, Thành còn lôi kéo thêm một số thành viên từ tầng lớp

lao động mà anh quen từ hồi còn làm thuỷ thủ tại Marseilles, Le Havre, Toulon. Bề

ngoài, hội không đặt ra những mục tiêu cực đoan để lôi kéo đông đảo sự tham gia của

cộng đồng người Việt. Việc dùng chữ Annam thay cho Việt nam muốn cho chính quyền

thấy Hội không phải là mối nguy hiểm cho chế độ thực dân. Thực chất, ngay từ đầu,

Thành muốn biến hội thành một lực lượng hiệu quả chống lại chế độ thực dân ở Đông

Dương. Anh đã liên lạc với những hội tương tự của người Triều tiên và Tuynizi.

Đây là một thời điểm hết sức thuận lợi cho những hoạt động tương tự. Sau chiến tranh,

Paris trở thành trung tâm kích động của các nhóm chống thực dân. Các cuộc thảo luận về

chủ đề này diễn ra thường xuyên ở quốc hội Pháp. Toàn quyền Albert Sarraut đã phát

biểu tại Hà nội hứa hẹn nhiều quyền hơn cho nhân dân Việt nam. Năm 1919, đại diện các

nước Đồng minh thắng trận họp tại Versailles để đàm phán điều kiện đầu hàng của khối

Trung tâm và tổ chức thế giới sau chiến tranh. Tổng thống MỹWilson đã mang lại niềm

hy vọng cho các dân tộc thuộc địa bằng luận cương 14 điểm, trong đó thừa nhận quyền tự

quyết của tất cả các dân tộc.

Ngày 18/6/1919, Hội ái quốc Annam do Nguyễn Ai Quốc ký tên đã công bố bản kiến

nghị 8 điểm có tên: “Yêu cầu của nhân dân Annam” gửi các quốc gia Đồng minh, đề nghị

áp dụng những tư tưởng củaWilson cho thuộc địa của Pháp tại Đông Nam Á. Ngôn ngữ

của bản kiến nghị rất ôn hoà, không đặt điều kiện độc lập dân tộc mà chỉ đòi hỏi quyền tự

quyết về chính trị, sự bình đẳng giữa người Pháp và người Việt, quyền tự do báo chí, hội

họp, bãi bỏ các loại thuế hà khắc.

Nhiều nhà sử học đã nghi ngờ rằng Thành là tác giả duy nhất của bản kiến nghị. Họ cho

đó là công sức tập thể. Nhiều người cho rằng đây là tác phẩm của Phan Văn Trường,

người được cho là trí thức nhất trong hội. Trong cuốn tự truyện của mình, HCM tự nhận

mình là tác giả và Phan Văn Trường đã chỉnh văn phạm tiếng Pháp cho ông. Tuy nhiên

việc Thành có là tác giả hay không không quan trọng bởi chính anh là người đã tổ chức

www.langven.com

25

công bố bản kiến nghị và sau đó tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Chính Thành đã đưa

tận tay bản kiến nghị cho các thành viên chủ yếu của nghị viện và tổng thống Pháp. Cũng

là anh dấn bước trên các hành lang của điện Verseille để trao bản kiến nghị cho các đoàn

đại biểu Đồng minh. Qua các mối quan hệ của mình Thành đã công bố bản kiến nghị trên

báo Nhân đạo và nhờ các chiến hữu từ thời còn thuỷ thủ phân phối hơn 6000 bản copy

trên các đường phố Paris.

Chẳng có hồi âm nào từ chính quyền Pháp mặc dù các cuộc thảo luận về vấn đề thuộc địa

vẫn đang diễn ra tại nghị viện. Hội nghị Versaille cũng làm thinh về chủ đề này. Tổng

thống Wilson, dưới sức ép của các đồng minh đã không bảo vệ tuyên bố 14 điểm của

mình. Cả thế giới thuộc địa bị thất vọng.

Tuy nhiên bản kiến nghị cũng đã làm kinh ngạc giới chức chính trị Pháp. Ngày 23/6, tổng

thống Pháp viết thư cho toàn quyền Albert Sarraut, đề nghị xem xét và xác định danh tính

tác giả. Tháng 8, tin từ Đông dương báo về: bản kiến nghị đang được phân phát trên các

đường phố Hà nội và đã gây nên cuộc thảo luận sôi nổi trong báo giới. Tháng 9, Thành

chính thức xác nhận mình là Nguyễn Ái Quốc trong một cuộc phỏng vấn cho một phóng

viên người Mỹ của một tờ báo Trung hoa tại Paris. Cũng vào quãng thời gian đó, thanh

tra mật thám Pháp Paul Arnoux, chuyên theo dõi cộng đồng Việt nam hải ngoại, tình cờ

gặp Thành đang đi phân phát truyền đơn. Sau mấy lần uống cafe, bị ảnh hưởng bởi nhiệt

huyết của chàng trai trẻ, Arnoux đã liên lạc với Bộ thuộc địa và thu xếp để Albert Sarraut

gặp Thành. Và cuộc gặp đã diễn ra ngày 6 tháng 9 tại toà nhà Bộ thuộc địa ở phố

Ordinot. Các mật thám Pháp đã tranh thủ thời cơ này để chụp ảnh hòng tìm ra tung tích

chính xác của Thành.

Có thể NAQ (như Thành đã tự gọi mình) đã nuôi một chút hy vọng bản kiến nghị của

mình có thể thấu tai chính quyền Pháp và mang lại những thay đổi ở Đông Dương. Bản

tính của anh là tin vào những điều tốt đẹp của con người, kể cả kẻ thù. Sau khi đi một

vòng Thuỵ sĩ, ý, Đức, Thành đã kể với bạn của mình: “nếu bạn là người tốt, ở đâu bạn

cũng gặp người tốt” . Cũng có thể là Thành đã tin vào những lời dụ dỗ của A. Sarraut.

Trong cuộc trả lời phỏng vấn cho tờ báo Trung hoa Thế giới, sau khi phàn nàn về tình

hình tồi tệ ở Đông Dương, Thành đã thừa nhận là trước tiên cần có quyền tự do ngôn luận

để nâng cao dân trí sau đó mới có thể tính đến quyền tự trị, tiến lên độc lập.

Nhưng những hy vọng của NAQ đã nhanh chóng bị tàn lụi. Ngay sau cuộc gặp gỡ, Thành

đã gửi đến A. Sarraut toàn văn bản kiến nghị cùng với bức thư đi kèm như sau:

Như đã trao đổi với Ngài hôm qua, tôi xin gửi kèm đây toàn văn Bán kiến nghị. Vì Ngài

đã thật là tốt bụng cho phép tôi nói chuyện thẳng thắn, tôi đã mạo muội hỏi Ngài rằng

liệu đã có hành động nào được tiến hành liên quan đến 8 điểm kiến nghị. Đáng tiếc là

câu trả lời không được thoả mãn.

Xin Ngài nhận cho lòng kính trọng của tôi.

Nguyễn Ái Quốc

Mấy ngày sau, mật thám Pháp đã xác định được NAQ tên thật là Nguyễn Tất Thành, con

ông Nguyễn Sinh Sắc và đã tham gia xúi giục nổi loạn ở Huế năm 1908.

Cho dù động cơ gửi Bản kiến nghị là gì đi nữa, không nghi ngờ là NAQ đã gây được

tiếng vang to lớn trong phong trào yêu nước Việt nam tại Pháp. Người già thì kinh ngạc

vì sự táo tợn của anh thợ tô màu. Thanh niên thì như được tiếp thêm nhiệt huyết. Một số

kẻ khôn ngoan thì coi anh như “Người man rợ”. Họ thì thầm: liệu có thể hy vọng được gì

ở một tay đầu gấu xứ Nghệ?

www.langven.com

26

Bán kiến nghị cũng đã mang lại cho NAQ sự kính trọng của các đồng chí trong Đảng Xã

hội Pháp (FSP). Mặc dù lúc đó đã quen với những tên tuổi lớn của FSP như Marcel

Cachin, Paul-Vaillant Couturier, Leon Blum, Edouard Herriot, Henri Barbusse và cháu

của Karl Max –Jean Longuet, theo lời của Zecchini, Thành chưa bao giờ được coi là

thành viên đầy đủ của FSP cho đến khi Bản kiến nghị được công bố.xix

HCM đã thừa nhận rằng ông tham gia FSP vì “họ thông cảm với tôi, với cuộc đấu tranh

của những dân tộc bị áp bức”. Thiên hướng về CNXH của HCM cũng như của nhiều nhà

dân tuý châu Á khác có thể giải thích như hậu quả tự nhiên của chế độ thuộc địa tàn bạo

của chủ nghĩa tư bản đế quốc. Nhưng giải thích như thế cũng chưa đầy đủ. Các nhà trí

thức châu Á, (đặc biệt là ở Trung quốc và Việt nam) cảm thấy đạo đức tập thể của chủ

nghĩa xã hội phương Tây xem ra gần gũi với đạo Khổng hơn thái độ vị kỷ và chạy đua lợi

nhuận của chủ nghĩa tư bản. Đối với họ sự hào nhoáng của các thành phố thương mại thật

đáng tởm, còn nền công nghiệp thì bị tha hoá bởi sự tham lam và bành trướng. Ngược lại

chủ nghĩa xã hội tán dương các cố gắng tập thể, kêu gọi lối sống giản dị, bình đẳng về

của cải và cơ hội có nhiều điểm tương đồng với nho giáo. Xem ra là từ Khổng tử tới Max

gần hơn tới Adam Smith và John Mill.xx

Từ năm 1920 trở đi Ngài (Monsieur) Nguyễn tham gia tích cực hơn các hoạt động chính

trị của FSP, Liên đoàn lao động và Liên minh quyền con người. Nhưng có vẻ như ông

cũng dần dần nhận ra rằng, các đồng chí của ông chẳng mấy quan tâm đến các vấn đề

thuộc địa.Max có khuynh hướng trọng Âu và hội của ông cũng vậy. Thuộc địa, nói cho

cùng, cung cấp của cải cho cách mạng và công việc cho các công nhân.

Cuộc cách mạng Bolsevich ở Nga đã làm sâu sắc thêm sự bất đồng trong hàng ngũ những

người xã hội, giữa một bên là phe ôn hoà của Jean Longuet, Leo Blum và phe cấp tiến

của Couturier và Cachin. Nên nhớ rằng lúc đó Quốc tế thứ nhất của Max đã bị thay bởi

Quốc tế II chủ trương ôn hoà và đấu tranh nghị viện. Vào cuối năm 1919, một uỷ ban ủng

hộ lời kêu gọi của Lênin thành lập Quốc tế thứ ba, đấu tranh vũ lực để giành chính quyền

cho giai cấp vô sản, đã được thành lập trong nội bộ FSP. NAQ cũng tích cực tham gia,

quyên góp tiền cho chế độ Xôviết. Tuy nhiên ông vẫn tỏ ra ngờ nghệch, mơ hồ về sự

khác nhau giữa Quốc tế II và Quốc tế III, đặc biệt mù mờ trong lĩnh vực lý thuyết. Có lần

Quốc còn đề nghị Longuet giải thích ý nghĩa của chủ nghĩa Max. Ông này ngượng nghịu

chỉ cho Quốc chỗ tìm đọc cuốn Tư bản luận. Đúng lúc đó “Luận cương về các vấn đề dân

tộc và thuộc địa” của Lê nin ra đời đã biến Quốc từ một người yêu nước thành nhà cách

mạng Marxist chân chính. Sau này, NAQ thừa nhận, ông chẳng hiểu gì các cuộc cãi vã

lúc đó và đơn giản chỉ ủng hộ phe nào đứng về phía nhân dân các thuộc địa. Lê nin đã chỉ

ra rằng, chế độ thuộc địa là dinh luỹ cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc, và các Đảng cộng

sản châu Âu cần liên minh với các phong trào giải phóng dân tộc Á-Phi chống lại kẻ thù

chung. Khác xa với các nhà xã hội Paris, Lê nin là con người của hành động và đã chinh

phục hoàn toàn NAQ.

NAQ bắt đầu viết cho các báo cánh tả từ hè 1919. Các bạn phóng viên của ông như Jean

Longuet, Gaston Monmosseau đã giúp hoàn thiện lối viết mộc mạc và nhiều khi quá

thẳng của Quốc. Bài báo đầu tiên: “Vấn đề người bản xứ” được đăng trên báo Nhân đạo

ngày 2/8/1919. NAQ cho rằng, người Pháp chẳng mang lại gì cho người bản xứ. Mang

tiếng là khai hoá văn minh, hệ thống giáo dục của họ chỉ nhồi sọ và phục vụ một số nhỏ

con cái các quan chức. Quốc dự đoán, người Việt nam hoàn toàn không được chuẩn bị

cho cuộc cạnh tranh với các nước láng giềng, sớm muộn sẽ bị Nhật bản đè bẹp về kinh tế.

Trong một bài khác “Đông dương và Triều tiên” đăng trên báo Nhân dân tháng 10/1919,

www.langven.com

27

và sau đó là “Thư gửi Ngài Outrey” Quốc đả kích Maurice Outrey, đại diện cho Nam bộ

tại Nghị viện Pháp vì tay này đả kích Hội an nam ái quốc và cho rằng chẳng có ai đàn áp

dân chúng cả.

Công việc thợ ảnh của Quốc rõ ràng là chẳng bận rộn lắm. Ngoài viết báo, anh còn bắt

tay vào viết một tác phẩm dài với tên gọi “Những người bị áp bức” với sự giúp đỡ của

một nhà văn chống chế độ thuộc địa Paul Vigne d’Octon. Anh cố tình sử dụng rất nhiều

trích dẫn mà không nói rõ nguồn, hy vọng khi các nhà xuất bản xúm vào đòi quyền tác

giả sẽ làm cho cuốn sách nổi tiếng hơn. Đáng tiếc là bản thảo cuốn sách này bị đánh cắp.

Nhiều người cho rằng mật thám Pháp đã “tháu”, tuy nhiên không thấy có bằng chứng lưu

lại trong hồ sơ. Mặc dù không có nhiều thông tin về nội dung cuốn sách, chúng ta có thể

dự đoán là rất nhiều dữ liệu đã được dùng lại trong cuốn sách viết được công bố năm

1925: “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Giọng điệu cuốn sách này đã gay gắt hơn rất

nhiều, thể hiện rõ quan điểmMarxism của Quốc.

Quãng tháng 7/1919, NAQ chuyển đến căn hộ của Phan Chu Trinh tại Villa des

Gobelins, (gần quảng trường Italia, khu trung lưu của Paris) cùng với 1 số đồng nghiệp

khác. So với những chỗ ở trước của Quốc thì đây quả là một sự cải thiện đáng kể. Tuy

nhiên cuộc sống chung cũng có nhiều vấn đề. Theo các báo cáo của cảnh sát Pháp theo

dõi Trinh, NAQ và PCT thường to tiếng với nhau về con đường của cách mạng Việt

nam. Quốc cho rằng các quan lại Việt nam như những con cừu non trong tay Pháp, sử

dụng để ngăn cản và bóc lột nhân dân. Trinh thì cho rằng Quốc quá nông nổi: “Anh bạn

Quốc, hãy để tôi nói rằng anh còn rất trẻ và có cái đầu nóng. Anh muốn 20 triệu đồng

bào ta đứng lên làm gì đó khi họ không có một tấc vũ khí trong tay. Tại sao lại phải tự

sát một cách vô mục đích như vậy?” Trinh muốn dựa vào Pháp để cải cách chế độ đã thối

nát trong tay các nhà nho. Quốc thì coi Pháp là kẻ thù số một: “Tại sao 20 triệu dân ta

không làm gì đó để buộc chính quyền phải coi chúng ta như những con người. Kẻ nào

không coi chúng ta là người, kẻ đó là kẻ thù. Chúng ta không thể chung sống với chúng.

Không thể chịu nhục!” Quốc nói, “Ông có kinh nghiệm hơn tôi, nhưng hãy nhìn xem. Cha

anh ta đã đòi cái mà ông đòi suốt hơn 60 năm nay. Hỏi họ nhận lại được cái gì?” Tuy

nhiên Quốc vẫn rất kính trọng Trinh và thường dẫn ông này đến các cuộc hội họp của các

nhà cách mạng cấp tiến, hy vọng rằng Trinh sẽ thay đổi quan điểm.

Trong lúc đó, chính quyền Pháp vẫn tiếp tục thẩm tra nhân thân của Quốc. Họ đã thẩm

vấn cha, anh và chị của Thành và hy vọng có thể kiểm tra vết sẹo trên tai từ thời nhỏ.

Năm 1920, khi vào viện vì bị apxe, Quốc đã bị cảnh sát chụp ảnh. Ngày 17/8/1920,

Albert Sarraut, khi đó đã là Bộ trưởng thuộc địa, ra lệnh phải truy xét bằng được nguồn

gốc của NAQ. Quốc bị chất vấn tại Bộ thuộc địa. Sau đó 3 ngày lại bị gọi lên đồn cảnh

sát. Tại đó Quốc khai mình sinh năm 1894, tại Vinh có 6 anh chị em và đều đã chết cả.

“Hắn ta là ai vậy? Hắn thường xuyên thay tên đổi họ và hiện đang dùng một cái tên mà

ngay cả người mù tịt về tiếng Việt cũng thừa hiểu nghĩa là gì. Hắn không có một tí giấy

tờ tuỳ thân nào từ Đông Dương, thế mà dám can thiệp vào công việc chính trị của chính

phủ, tham gia các đảng phái, phát biểu tại các cuộc hội họp. Và còn cười vào mũi chúng

ta bằng những thông tin giả mạo”. Đó là nội dung báo cáo của Pierre Guesde cho Bộ

thuộc địa. Cũng theo báo cáo đó, mật thám Pháp đã nhận dạng chính xác NAQ là Nguyễn

Tất Thành.

Trong một thời gian dài, các phong trào xã hội Pháp do nhiều phe phái hợp thành:

- những người theo Auguste Blanqui đòi lật đổ cái đã, xây dựng xã hội mới tính sau.

- những nhà cải cách ôn hoà, đệ tử của Eduard Bernstein và Quốc tế II

www.langven.com

28

- những lý thuyết gia cấp tiến có nguồn gốc từ cách mạng Pháp chứ không phải Marx

- những lãnh đạo công đoàn, đấu tranh đòi quyền lợi trước mắt và không quan tâm lắm

đến ý thức hệ

Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã giáng một đòn mạnh vào sự thống nhất mong manh

trong một FSP hỗn tạp. Và khi Lenin đứng lên kêu gọi cuộc thánh chiến chống chủ nghĩa

tư bản, các thành viên của FSP phải lựa chọn chỗ đứng của mình. Tại hội nghị Strasbourg

tháng 2/1920, mặc dù đa số đồng ý ly khai với Quốc tế II, cũng còn rất đông người phản

đối gia nhập Quốc tế III. Cuộc tranh luận ngày càng trở nên quyết liệt.Marcel Cachin và

Tổng bí thư Louise Frossard sau khi tham gia đại hội QTCS lần thứ hai ở Matxcơva, đã

tổ chức một cuộc biểu tình với khoảng 30 ngàn người tham gia tại ngoại ô phía Tây Paris

ngày 13/8. NAQ chen trong đoàn người lắng nghe Cachin nhân danh QTCS phát động

cuộc chiến đấu giải phóng các dân tộc bị nô lệ, đánh thẳng vào thành trì của chủ nghĩa đế

quốc. Trước thềm đại hội Tour vào cuối tháng 12, các cuộc họp cấp địa phương diễn ra

liên miên, với hai nhóm tả hữu và lớp lưng chừng dưới cờ của Jean Longuet. NAQ ít

tham gia tranh luận, khi phải phát biểu, ông kêu gọi sự đoàn kết và chú ý đến các vấn đề

thuộc địa: “Các đồng chí, chúng ta đều là những nhà xã hội. Dù là quốc tế Hai, Hai rưỡi,

hay Ba, chúng ta đều cùng muốn giải phóng giai cấp công nhân... Trong lúc các đồng chí

tranh cãi ở đây, đồng bào của tôi đang chết dần chết mòn”

NAQ được mời đi dự đại hội với tư cách đại diện cho nhóm các đảng viên từ Đông

Dương.

Đại hội khai mạc ngày 25/12/1920 trong một trường dạy đua ngựa cạnh nhà thờ St. Julian

trên bờ nam sông Loire. Gian đại hội được trang trí bằng các bức ảnh nhà xã hội Jean

Jaure và những khẩu hiệu kêu gọi giai cấp công nhân đoàn kết. Bục phát biểu được dựng

tạm bằng những tấm ván gỗ đặt lên trên các giá cưa. 285 đại biểu đại diện cho 178,000

đảng viên, ngồi sau các bàn gỗ theo khuynh hướng chính trị của mình. NAQ ngồi với

cánh tả do Marcel Cachin lãnh đạo. Chủ đề chính của đại hội là có tham dự QTCS hay

không?

Với bộ comple rộng thùng thình trên một cơ thể mảnh khảnh của đại biểu châu Á duy

nhất, NAQ nổi bật giữa một đám hàng trăm tay người Âu râu ria xồm xoàm. Vì thế ảnh

Quốc được báo Le Matin đăng ngay sáng hôm sau. Lần theo bức ảnh, cảnh sát mò đến

định tóm NAQ, nhưng các đại biểu đã xúm vào bảo vệ được Quốc.

NAQ đã lên diễn đàn ngay hôm đầu tiên của hội nghị. Ông nói một mạch, không cần giấy

tờ và đi thẳng vào vấn đề, đả kích sự tàn bạo của chế độ thực dân và kêu gọi các nhà xã

hội hành động ủng hộ các dân tộc bị áp bức. Bài diễn thuyết của ông bị Jean Longuet cắt

đứt với lý do rằng ông ta đã bàn đến chuyện đấy rồi. Quốc đã nhanh trí ví von ngay với

quan điểm của Max (ông của JL): “tôi đành phải áp dụng chuyên chính của sự im lặng”.

Theo Quốc, chỉ có gia nhập quốc tế III mới chứng tỏ rằng FSP đánh giá được tầm quan

trọng của vấn đề thuộc địa. “Nhân danh loài người, nhân danh tất cả các nhà xã hội cánh

hữu và cánh tả, chúng tôi khẩn thiết kêu gọi các đồng chí. Hãy cứu chúng tôi” đó là

những lời cuối cùng của bài phát biểu của NAQ.

Ngay sau đó Jean Longuet vội vã giải thích rằng ông ủng hộ nhân dân Việt nam và vấn

đề đang được thảo luận ở quốc hội. Nhưng Couturier đã bác bỏ luận điểm đó: nhân dân

thuộc địa đang cần những hành động chứ không phải các cuộc thảo luận.

Ngày 27, Cachin chính thức đề nghị FSP chấp nhận những điều kiện của Lênin và gia

nhập quốc tế III. Hơn 70% đại biểu ủng hộ. Những người đối lập đã rời khỏi hội trường

để phản đối. Các đại biểu còn lại đã biểu quyết tách ra khỏi FSP và thành lập Đảng cộng

www.langven.com

29

sản Pháp (FCP). Tuy nhiên chẳng có cuộc thảo luận tiếp theo nào về vấn đề thuộc địa và

chủ tịch đoàn đã từ chối đề nghị (chắc là của NAQ) ra một thông cáo ủng hộ các dân tộc

thuộc địa. xxi

Tại đại hội Tour, NAQ đã đưa ra chính kiến rõ ràng, ông không chỉ quan tâm đến sự

thành công của cách mạng quốc tế mà còn cả vận mệnh của dân tộc mình. Trong một

nhận xét gửi cho bạn mình Quốc viết: “Tôi không có may mắn được học hành trong

trường đại học. Nhưng tôi đã được học trong cuộc sống từ lịch sử, xã hội đến khoa học

quân sự. Người ta phải yêu quý điều gì? Khinh thường điều gì? Người Việt nam chúng

tôi yêu độc lập, lao động và tổ quốc”.

Nhưng NAQ cũng bắt đầu cảm thấy thất vọng về các đồng nghiệp của mình ở FCP.

Tháng 2/1921, NAQ bị ốm phải vào viện. Khi khỏi bệnh, Q viết bài “Đông Dương” cho

tạp chí Người Cộng sản. Bài báo đã thể hiện thái độ phê bình gay gắt đối với sự thiếu

quan tâm của FCP tới các vấn đề thuộc địa. Ngược lại với quan điểm thế giới vô sản đại

đồng, NAQ khẳng định: “các dân tộc Đông dương sẽ sống mãi”. Ông cũng từ bỏ hy vọng

giành được mục tiêu mà không phải dùng đến vũ lực. “Dưới bề ngoài dễ bảo là sự bất

bình đang sôi sục, chờ dịp bùng nổ”.

Trong bài báo thứ hai dưới cùng một tiêu đề viết trong tháng 5, NAQ đề cập đến khả

năng tiến hành cách mạng tại các nước thuộc địa. Nên nhớ rằng, tại thời điểm đó, các nhà

cách mạng cấp tiến châu Âu cho rằng phải còn lâu các dân tộc chậm tiến mới có thể tiến

hành cách mạng. Cũng trong tháng đó, Stalin đăng đàn trên báo Sự thật khẳng định “các

dân tộc tiên tiến sau khi tự giải phóng bản thân, sẽ có trách nhiệm giải phóng các dân tộc

chậm tiến”. Về phía mình, NAQ cho rằng các điều kiện cách mạng đã hình thành ở

Trung quốc và Nhật bản, rất có thể một ngày gần đây, Trung quốc sẽ là đồng minh với

Nga trong cách mạng toàn cầu. Quả là một sự tiên tri khi tình hình ở Trung quốc lúc đó

còn đang rối ren sau cái chết của Viên Thế Khải và Tôn Dật Tiên thì phải đi tị nạn.

NAQ đã dẫn ra những chứng cớ lịch sử cho rằng chủ nghĩa cộng sản có nhiều cơ hội để

phát triển ở châu Á hơn châu Âu. Người Trung hoa cổ đại đã áp dụng hệ thống “bình

điền”, chia ruộng đất thành những phần bằng nhau cho nông dân và dành một phần cho

ruộng công. Hơn 4000 năm trước, nhà Hạ đã áp dụng chế độ lao động bắt buộc. Và chính

Khổng Tử đã qua mặt Quốc tế cộng sản khi tuyên truyền học thuyết về bình đẳng tài sản

từ thế kỷ 6 trước công nguyên. Ông nói, sẽ không có hoà bình cho thế giới cho đến ngày

xây dựng được một nhà nước toàn cầu. Ông còn thuyết giảng: “người ta không sợ có ít,

chỉ sợ chia không bình đẳng”. Một trong những học trò của ông là Mạnh Tử còn đi xa

hơn trong việc xây dựng kế hoạch chi tiết cho sản xuất và tiêu thụ. Những truyền thống

như vậy vẫn còn ảnh hưởng to lớn trong những xã hội châu Á. Chẳng hạn, Việt nam đã

áp ụng những hạn chế trong việc mua bán đất đai, 1/4 đất ruộng được sử dụng như tài sản

công. Khi các dân tộc châu Á thức dậy, họ sẽ trở thành một thế lực to lớn của cách mạng,

lật đổ chủ nghĩa đế quốc toàn cầu.

NAQ còn dùng ngòi bút của mình để vạch trần những ảo tưởng của xã hội văn minh

Pháp. Trong bài báo với nhan đề: “nền văn minh thượng đẳng”, viết tháng 9 năm đó,

NAQ chế diễu nguyên tắc tam ngôi của cách mạng Pháp, sử dụng những ví dụ cụ thể

trong một cuốn hồi ký của 1 người lính Pháp. Trong tờ Le Libertaire, Quốc kể lại những

sự tàn bạo của các thầy giáo Pháp ở trường quốc học Huế, ngay dưới khẩu hiệu Aimez la

France, qui vous protege.

Chính quyền Pháp càng ngày càng theo dõi NAQ chặt chẽ hơn vì sự cấp tiến của ông.

Đầu năm 1921, Allbert Sarraut lại mời Quốc lên Bộ thuộc địa và tuyên bố “Nếu Pháp trả

www.langven.com

30

lại độc lập của Đông Dương cho ông, ông làm sao có thể điều hành được. Các ông làm gì

có đủ sức mạnh”. NAQ đã trả lời “Ngược lại, các ông sẽ thấy chúng tôi sẽ biết cách cai

trị như thế nào. Nhật bản và Xiêm cũng chẳng có bề dày lịch sử hơn chúng tôi, và họ là

những dân tộc tự do”. Đến đó, AS chủ động đổi chủ đề. xxii

Việc Quốc tham gia Đảng cộng sản Pháp đă làm t́nh h́nh tại Villa des Gobellin thêm

căng thẳng. Một người bạn thân của Quốc là Trần Tiến Nam đă tâm sự với 1 cô bạn gái

của ḿnh (trong thời gian Đại hội Tour) là ít người đồng t́nh với quan điểm của NAQ.

Cảnh sát theo dơi ngôi nhà cũng thông báo là thường xuyên có những cuộc căi lộn.Mâu

thuẫn lên đến đỉnh điểm vào tháng Bảy. Ngày 6/6, Quốc tham gia vào đoàn biểu t́nh

công nhân kỷ niệm những chiến sĩ ngă xuống trong Công xă Paris 1871, bị cảnh sát đánh

tơi bời may mắn thoát được về nhà. Bạn cùng pḥng được một phen khiếp vía. Trần Tiến

Nam vội vàng chuyển chỗ v́ sợ dính líu. Ngày 11/7, cảnh sát báo cáo đă xảy ra một cuộc

căi vă lớn từ 9h tối tới tận sáng hôm sau. Quốc thu xếp hành lư bỏ đến ở với ḿnh là Vơ

Văn Toàn ở 12 Rue Buot. Một tuần sau, Paul Couturier thu xếp được cho Quốc một căn

pḥng nhỏ tại số 9 ngơ cụt Compoint khu công nhân Batignolles - Tây bắc Paris.

Chỗ ở mới thật là thảm hại so với tiện nghi tại Villa des Gobellin. Căn pḥng chỉ vừa đủ

để kê một chiếc giường, một chiếc bàn nhỏ và tủ quần áo. Cửa sổ nḥm thẳng vào tường

nhà người khác. Không điện, nước, ḷ sưởi.

Công việc của NAQ cũng thay đổi thường xuyên, anh làm thợ tô màu cho PCT đến ngày

7/1920. Sau đó chuyển sang vẽ bích hoạ cho một nhà sản xuất đồ gỗ Tàu ở khu Latin. Lại

chuyển đến hiệu ảnh tại phố Froidevaux. Cuối cùng Q cũng t́m được một chỗ làm ở hiệu

ảnh gần nhà sau khi chuyển khỏi Villa des Gobellin. Nhưng đồng lương c̣m cơi khoảng

40 fr/tuần có vẻ chẳng ảnh hưởng ǵ đến lối sống của Q. Anh vẫn thường xuyên dự các

cuộc miting, thậm chí ở tỉnh xa, thăm triển lăm, đi thư viện, thù đăi bạn bè trong căn

pḥng nhỏ của ḿnh.Trong số những người quen mới có ca sĩ Maurice Chevalier và nhà

văn Collete. Chắc chắn là NAQ được FCP tài trợ thêm.xxiii

Cuộc chia tay tại Villa des Gobellin có lẽ đă được khơi mào bằng sự bất đồng xung

quanh việc thành lập Uỷ ban các vấn đề thuộc địa thuộc FSP. Khoảng giữa tháng sáu,

Quốc đă dẫn PCT đến dự một cuộc họp của Uỷ ban. Vài tuần sau, Quốc dự cuộc họp thứ

hai tại Fontaineblau. Sau khi trở về 2 ngày, đă xảy ra cuộc căi lộn cuối cùng (cảnh sát c̣n

thông báo là trước đó 1 ngày có 6 người đàn ông lạ mặt đến căn hộ). Một trong những

hoạt động đầu tiên của ủy ban là thành lập Hội Liên thuộc địa, nhằm tạo một tiếng nói

chung cho đại diện tất cả các thuộc địa hiện đang sinh sống ở Pháp. Lúc mới thành lập

hội có khoảng 200 thành viên, chủ yếu là Việt nam và Madagascar, thêm vài thành viên

Bắc Phi và Ấn độ. NAQ là động lực chủ yếu của tổ chức mới cùng với Nguyễn Thế

Truyền, Max Bloncourt, Hadj Ali người Alger. Chính tại đây anh hiểu ra những khó khăn

to lớn khi liên kết các lực lượng thuộc địa thành một tổ chức thống nhất. Người Việt th́

đ̣i một tổ chức thuần Việt, người Phi th́ cho rằng dân châu Á kiêu căng, hợm ḿnh. Một

số phần tử cấp tiến châu Âu muốn tham dự th́ lại bị cho ra ŕa... Các cuộc họp cứ vắng

dần, từ hơn 200 người xuống c̣n khoảng 50. Trong một phiên họp thậm chí chỉ có 27

mống, kể cả hai cô gái Pháp, bồ của các thành viên. Q cũng có một số bạn gái nhưng

chẳng dính dáng ǵ đến chính trị. Tuy nhiên Q cũng đă có một thành công nhỏ là thuyết

phục được Phan Văn Trường tham gia.

Hội họp chẳng phải là hoạt động duy nhất của Q trong thời gian này. Anh đă học được từ

những người bạn Pháp cách sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền

cách mạng. Được sự đồng t́nh của uỷ ban và Hội, Q thành lập báo Le Paria (Người cùng

www.langven.com

31

khổ) viết bằng tiếng Pháp, nhưng có thêm tiêu đề tiếng Hoa và Arab. Báo ra hàng tháng

và số đầu tiên ra ngày 1/4/1922. NAQ là tổng biên tập kiêm phóng viên chính, và thỉnh

thoảng kiêm luôn cả việc tŕnh bày và phát hành. Qua các trang NCK, Quốc tiếp tục rèn

luyện kỹ năng viết báo của ḿnh. Lối viết của anh đơn giản, không hoa mỹ, chịu ảnh

hưởng nhiều của Leo Tonstoi. Q chủ yếu dựa trên các sự kiện và con số để nêu quan

điểm của ḿnh. Độc giả có cảm tưởng như Q là một từ điển thống kê sống về cuộc sống

khổ cực tại các thuộc địa. Đôi khi, anh sử dụng giọng văn châm biếm thay cho các con

số. Lối châm biếm của anh cũng rất trực diện, đi thẳng vào vấn đề không mang tính triết

lư như Lỗ Tấn thời bấy giờ. Sau này, rất nhiều nhà nghiên cứu cũng không thể hiểu nổi,

tạo sao một con người có sự quyến rũ cá nhân sâu sắc và một tính cách huyền ảo lại có

thể áp dụng một cách hành văn có vẻ vụng về và đơn giản như vậy. Đây chính là ch́a

khoá của tính cách và sự hiệu quả trong hoạt động cách mạng của HCM. Không giống

như nhiều lănh tụ Marxist khác, HCM luôn coi độc giả của ḿnh là tầng lớp b́nh dân:

nông dân, thợ thuyền, viên chức, binh lính, chứ không phải các trí thức của xă hội. Ông

không có ư định gây ấn tượng bằng sự uyên bác, sắc sảo của ḿnh mà thuyết phục độc

giả bằng sự đơn giản và sống động, để chia sẻ các quan điểm về thế giới và con đường

tiến tới thay đổi. Độc giả sành điệu sẽ có khi cảm thấy chán ngấy, ngược lại, những bài

viết tố cáo, kêu gọi lại có sức mạnh phi thường. Phút chốc, NCK đă trở nên nổi tiếng là

tiếng nói đại diện cho các dân tộc bị áp bức. Bất cứ ai sẽ bị bắt ngay lập tức nếu bị bắt

gặp đang đọc báo. NAQ nhớ lại “Hầu như tất cả các số báo đều được Bộ thuộc địa mua

hết”. Tuy nhiên một số lượng nhỏ cũng được chuyển về các thuộc địa qua kênh các thuỷ

thủ. Đồng thời, NAQ vẫn tiếp tục viết cho các báo cánh tả khác tại Paris. Năm 1922,

Khải Định sang Pháp dự Triển lăm thuộc địa, được tiến hành từ tháng 4 đến tháng 8 tại

Marseille. Mặc dù đă được Sarraut đề nghị im lặng, NAQ và PCT vẫn tận dụng cơ hội

này. Trên tờ Dán báo, 9/8/1922, Q miêu tả Khải Định như một món đồ trang trí được bày

trong tủ kính của Triển lăm trong khi dân chúng th́ bị đày xuống bùn đen. NAQ con viết

vở kịch “Con rồng tre” được công diễn tại CLB Fabourg. Sự khinh quân này đă đẩy cha

con NAQ tới sự chia rẽ sâu sắc hơn. Khi nhận được tin con, Sắc đă tuyên bố, đứa con nào

không công nhận hoàng đế, đứa con đấy cũng không có cha.

Chuyến đi thăm của Khải Định là cơ hội cuối cùng cho Q và Trinh đứng trên một trận

tuyến. Trước đó, tháng 2/1922, Trinh đă gửi cho Quốc một lá thư. Mặc dù vẫn bảo vệ

quan điểm của ḿnh về việc nhấn mạnh giáo dục, Trinh tự nhận ḿnh là một “con ngựa

già”, con Q đang là một “chú ngựa hoang” đầy sức sống. Tuy nhiên Trinh khuyên Q

đừng mất thời giờ tại nước ngoài như Phan Bội Châu mà hăy về nước chiến đấu. Nếu

chẳng may thất bại, sẽ có người khác đứng lên tiếp tục. Q lại có những kế hoạch khác.

Bây giờ anh đă trở nên một nhân vật chủ chốt trong phong trào cấp tiến của Pháp. Được

sự trợ giúp của George Pioch, kỹ năng phát biểu của anh đă hoàn thiện và Q thường

xuyên tranh luận với các lănh đạo chủ chốt của FCP. Anh cũng bị mật thám Pháp quan

tâm kỹ lưỡng. Ngày 22/6/1922, Albert Sarraut lại mời Q lên Bộ thuộc địa. Sau khi đe doạ

sẽ trừng trị thẳng tay những hoạt động nhập khẩu cách mạng vào Đông Dương, AS định

mua chuộc Q: “Tôi rất kính trọng ý chí của anh. Hãy để quá khứ thành quá khứ. Chúng

ta đã là bạn. Khi nào anh cần gì cứ bảo tôi”. NAQ đứng dậy cám ơn và nói: “Điều tôi

cần nhất trong cuộc đời là độc lập cho đồng bào của tôi. Xin phép ngài cho tôi đi”.

Vài ngày sau, Quốc viết thư cho Bộ thuộc địa. (Bức thư này cũng được công bố trong báo

Nhân đạo và Người cùng khổ). Trong thưQ đă cám ơn chính phủ Pháp đă cung cấp một

www.langven.com

32

số “phụ tá” (tức các mật thám theo dơi) và rất lấy làm “xấu hổ” v́ đă tiêu tốn mồ hôi của

giai cấp vô sản. Q cũng cung cấp luôn lịch hoạt động hàng ngày của ḿnh

“Sáng: từ 8h-12h, tại cửa hàng

Chiều:tại toà báo

Tối: ở nhà hoặc đi học

Chủ nhật/ngày nghỉ: viện bảo tàng, thăm quan

Tôi mong rằng phương pháp này sẽ làm Ngài hài lòng, kính thư – Nguyễn ái Quốc”

Sarraut tất nhiên là chẳng có bụng dạ nào để ư đến sự châm biếm của Q. Ông này liên lạc

với Toàn quyền Đông dương Maurice Long, đề nghị bắt và đưa về VN. Long cho rằng cứ

nên giữ Q ở Pháp, dễ theo dơi hơn. Sarraut lại đề nghị đầy Quốc đến vùng Nam Trung

Quốc. Long cũng không đồng ư, sợ Q có thể lănh đạo cách mạng trong nước từ đó.

Tuy nhiên điều làm Q thất vọng hơn cả là thái độ của các đồng chí trong cánh tả Pháp về

vấn đề thuộc địa. Sau khi xuất hiện rùm beng, Hội Liên thuộc địa nhanh chóng bị lăng

quên. Theo Q ngay cả báo Nhân đạo cũng không quan tâm đến vấn đề đúng mức. Q cho

rằng các báo tư sản c̣n miêu tả thuộc địa kỹ hơn, thậm chí đă tạo cho mọi người h́nh

ảnh các nước thuộc địa hết sức mỹ măn: “cát, mặt trời, gió biển, những hàng dừa xanh và

các thổ dân loè loẹt”. Điều này làm cho giọng điệu của Q ngày càng trở nên chống Pháp.

Trong loạt bài báo miêu tả cảnh khổ cực của các công nhân cảngMarseilles cuối năm

1921, Q đă kư tên Nguyễn Ô Pháp (tức là ông Nguyễn ghét Pháp). Q c̣n tranh luận nảy

lửa với một lănh đạo của FCP về vấn đề thuộc địa. Đến nỗi, Jacques Doriot – một ngôi

sao mới nổi của FCP phải th́ thầm khuyên Q dịu giọng.

Tháng 3/1923, một mặt để tiết kiệm tiền, mặt khác tiện làm việc, Q chuyển từ ngơ

Compoint đến căn pḥng 100fr/tháng ở tâng trên của trụ sở báo NCK tại Rue du Marche

des Patriarches. Đây là chỗ ở cuối cùng củaQ ở Paris. Một nhân vật Việt nam quan

trọng đă giúp Q rất nhiều trong việc phát hành báo là Nguyễn Thế Truyền. Truyền sinh

năm 1898, đến Paris năm 1920 để nghiên cứu kỹ nghệ. Năm 1921 Truyền gia nhập FCP

và trở thành đồng minh thân cận nhất của Q trong cộng đồng Việt nam.

Trong một lần đại hội FCP vào tháng 10 năm trước, NAQ gặp Dmitri Manuilsky, đại

diện của QTCS tại Liên xô. Ông này rất đắc ư nghe Quốc đả phá kịch liệt sự thiếu quan

tâm đến các vấn đề thuộc địa của FCP. Nhiều tháng sau, khi Mauilsky được phân công

chuẩn bị bản báo cáo về các vấn đề dân tộc và thuộc địa cho Đại hội 5 QTCS mùa hè

năm 1924, ông lập tức nhớ đến chàng thanh niên Việt nam đầy nhiệt huyết. Q được mời

đến Moscow làm việc cho QTCS.

Đối với Q, lời mời đến Moscow là phần thưởng to lớn cho nhiệt huyết anh đă bỏ ra cho

Đảng. Đây cũng là cơ hội to lớn để Q quay về châu Á và Việt nam. Nhưng vốn tính cẩn

thận, Q thông báo cho bạn bè là chuẩn bị đi nghỉ 3 tuần ở miền Nam Pháp. Ngày

13/6/1923, sau khi không để lại một chút nghi ngờ nào cho 2 “trợ lư” của cảnh sát Pháp,

Q đi ra cửa sau của một rạp chiếu bóng, đến Gare du Nord và lên tàu đi Berlin trong vai

một nhà buôn châu Á giàu có. Đến Berlin,Q đi tiếp đến Hamburg, lên tàu Karl

Liebknecht đến nước Nga Xô viết. Ngày 30/6 Q cập bến Petrograd với hộ chiếu của một

nhà buôn Trung quốc Trần Vangxxiv

Chuyến đi của NAQ đă làm cho cả cảnh sát Pháp và những người bạn của Q nhức đầu.Q

đă chính thức nói không với con đường cải cách của PCT để đi theo Vladimir Lenin.

“Mặc dù Q còn trẻ và có thể có những hành động thiếu suy nghĩ. Nhưng điều quan trọng

là anh ta có một trái tim của con người yêu nước. Anh đã chọn con đường cô đơn và đầy

gian khó để giải phóng dân tộc mình. Và tất cả chúng ta phải kính trọng trái tim can đảm

www.langven.com

33

đó”. Đó là những lời tâm huyết của PCT dành cho người đồng chí trẻ tuổi của ḿnh trong

bức thư gửi cho bạn bè tháng 9/1923.

www.langven.com

34

Nhà cách mạng tập sự

Năm 1923, Nước Nga đang phục hồi từ 7 năm chiến tranh, cách mạng và nội chiến.

Ngoài Moscow, Petrograd và một số thành phố lớn thuộc phần lănh thổ châu Âu, cuộc

cách mạng tháng 10 vẫn chỉ là cuộc “Cách mạng trên điện báo” (theo lời của Leo

Trotsky). Trên những cánh đồng Nga mênh mông, gần 50 000 đảng viên Bolsheviks đang

t́m cách thuyết phục hàng chục triệu nông dân Nga, vốn chẳng biết ǵ về những ư tưởng

của Karl Max, lại càng không quan tâm đến số mệnh của cách mạng vô sản thế giới.

Để điều chỉnh lại chính sách cưỡng đoạt mà nhà nước Bolshevik đă sử dụng để thiết lập

quyền lực của ḿnh trong cuộc nội chiến, Lenin đă buộc phải thừa nhận rằng nước Nga

xô viết phải đi qua giai đoạn quá độ của chủ nghĩa tư bản. Năm 1921, Lenin tung ra chính

sách kinh tế mới NEP, công nhận quyền tư hữu ruộng đất, áp dụng chế độ thuế thay cho

trưng thu, nhà nước chỉ kiểm soát những ngành công nghiệp quan trọng.

Những cảm tưởng đầu tiên của NAQ tại thiên đường của CNXH, cái mà anh đă từng tô

màu rực rỡ trong những bài báo hồi c̣n ở Pháp, không được dễ chịu cho lắm. Q bị giữ lại

mấy tuần trong không khí căng thẳng, cho đến khi có một đại diện của FCP đến nhận

diện. Sau đó Q được phân làm việc tại văn pḥng Viễn đông của QTCS (gọi tắt là

Dalburo)

Dalburo được thành lập tháng 6/1920 theo sáng kiến của Maring (Người Hà lan tên thật

là Hendrik Sneevliet, sau này trở thành cố vấn thường trực cho Đảng CS Trung quốc), do

nhà Đông phương học người Nga, Safarov lănh đạo. Mục tiêu là tuyên truyền cho tư

tưởng cách mạng tại vùng Trung đông và Viễn đông.Maring c̣n đề nghị thành lập các

trường học để huấn luyện cho những hạt nhân cách mạng từ châu Á và châu Phi.

Vô cùng nhanh nhạy trong việc gây ấn tượng, mới chân ướt, chân ráo đến nơiQ đă viết

thư cho ban chấp hành trung ương FCP, đả kích cơ quan này đă không thực hiện đúng

nghị quyết của đại hội 4 QTCS về việc mở rộng các hoạt động liên quan đến các vấn đề

thuộc địa. Anh nhấn mạnh “nhân dân thuộc địa được hứa hẹn mà không thấy có hành

động, tự nhiên sẽ đặt câu hỏi, liệu các đồng chí cộng sản là nghiêm túc hay lừa bịp”. Cuối

thư Q nhắc lại, điều kiện tiên quyết để gia nhập QTCS là cam kết tiến hành một cách có

hệ thống các hoạt động tuyên truyền để hỗ trợ giải phóng các dân tộc thuộc địa. Q cũng

viết thư cho chủ tịch đoàn chủ tịch QTCS, tŕnh bày các ư tưởng của ḿnh để ủng hộ cuộc

đấu tranh ở Đông Dương. NAQ miêu tả Việt nam như một thuộc địa chỉ có 2% vô sản mà

lại vô tổ chức, tầng lớp trung lưu bé tí tập trung ở vài thành phố lớn, giai cấp tiểu tư sản

ủng hộ độc lập nhưng không có chủ kiến chính trị rơ ràng, nông dân th́ đông, bị áp bức

và nếu được tổ chức tốt sẽ có tiềm năng lớn. Q cũng nhấn mạnh, động lực cách mạng chủ

yếu bây giờ nằm trong tay các trí thức và nhà nho yêu nước. Bởi thế Q cho rằng mục tiêu

đầu tiên là phải có hành động chung giữa các lực lượng cách mạng dân tộc và Đảng cộng

sản.

Tư tưởng của NAQ chính là tư tưởng của Lenin trong “Luận cương các vấn đề dân tộc và

thuộc địa”. Mặc dù những tư tưởng đó không c̣n là rất mốt như thời sau đại hội 2 của

QTCS, nhưng các nhà lănh đạo xô viết buộc phải chú ư đến chàng thanh niên châu Á đầy

tham vọng này và tính đến anh trong các nước cờ lâu dài ở châu Á.

Năm 1923, quan điểm của Lenin về một nhà nước công nông trong các xă hội chưa qua

cuộc cách mạng công nghiệp lại được khuấy lên. Năm 1922, một số kẻ theo chủ nghĩa

dân túy đă lập nên “Quốc tế xanh” ở Prague, khuyến khích thành lập các đảng nông dân

với đường lối chính trị mới. Các phần tử cấp tiến Đông Âu, do Dombal (đảng viên cộng

www.langven.com

35

sản người Balan) khởi xướng, cũng muốn QTCS phải có một tổ chức tương tự để lôi kéo

sự ủng hộ của nông dân. Tuy không hào hứng lắm nhưng ban chấp hành QTCS cũng

quyết định lợi dụng Triển lăm nông nghiệp quốc tế tại Moscow để tổ chức hội nghị Nông

dân quốc tế vào ngày 10/10/1923. Những nhà tổ chức cũng gom được khoảng 150 đại

biểu từ các nước tham dự triển lăm. NAQ được bầu đại diện cho Đông dương. Trong bài

phát biểu của ḿnh vào ngày 13, NAQ, qua các ví dụ và sự kiện đơn giản, đă chỉ ra rằng

nông dân là nạn nhân bần cùng nhất của chủ nghĩa đế quốc. Bởi thế, Q kết luận QTCS chỉ

có thể là QTCS chân chính nếu có được sự tham gia tích cực của nông dân châu Á.

Hội nghị đă quyết định thành lập Quốc tế Nông dân do A. Smirnov làm tổng thư kư.

NAQ được bầu làm 1 trong 11 thành viên của chủ tịch đoàn của Hội đồng Nông dân quốc

tế.

Tháng 12/1923. NAQ nhập học tại Đại học Cộng sản cho những người bị áp bức phương

Đông. Trường này do Lênin lập ra từ năm 1921, nhưng lại đặt dưới quyền của Stalin nên

c̣n được gọi là trường Stalin, chuyên dạy cho các học viên từ các nước châu Á và các

học viên không phải dân tộc Nga từ miền đông Nga. Một trường khác, gọi là trường

Lênin, chuyên đào tạo cán bộ cho châu Âu.xxv

Trường có khoảng 1000 học viên từ 62 dân tộc khác nhau, trong đó 900 là đảng viên

cộng sản, 150 là phụ nữ, khoảng một nửa xuất thân từ nông dân, số c̣n lại là công nhân

và “trí thức vô sản”. Có vẻ NAQ là học viên đầu tiên từ Đông Dương.

Khoảng 150 giáo viên dạy đủ các môn từ Toán học cho tới Lịch sử phong trào cách mạng

và công nhân cũng như chủ nghĩa Max, trong ngôi nhà số 10 trên phố Tverskaya. Học

viên c̣n được học các hoạt động cách mạng như tổ chức biểu t́nh, rải truyền đơn. Học

viên đều dùng bí danh trong sinh hoạt. Các môn học được dạy bằng tiếng Pháp hoặc tiếng

mẹ đẻ. Tiếng Nga được khuyến khích sử dụng trong giao tiếp. Năm học kéo dài từ tháng

9 tới tháng 7 với 3 tuần nghỉ Noel, 1 tuần nghỉ Xuân và nghỉ Hè. Trường có hai trại hè ở

Crưm. Vào các kỳ nghỉ, học viên được huy động tham gia tăng gia sản xuất. Điều kiện

học tập ở đây khá lư tưởng, trường có 2 thư viện với gần 47000 đầu sách. Mỗi dân tộc lớn

đều có pḥng riêng với các sách báo bằng tiếng mẹ đẻ.

Ngay sau lễ kỷ niệm 3 năm ngày thành lập trường, Q đă viết thư cho Petrov, bí thư

Dalburo, phàn nàn là hầu như chẳng có người Việt nam nào học ở đây cả.Q đề xuất

trường Stalin đặc biệt quan tâm đến đào tạo đội ngũ cán bộ thế hệ mới cho châu Á tiến

tới thành lập Liên bang Cộng sản Phương Đông.

Trường Phương Đông có hai mức: căn bản 3 năm và tại chức 7 tháng. Nhiều khả năng là

Q học lớp 7 tháng v́ anh c̣n phải làm việc tại QTCS. Lănh đạo QTCS coi Q là một

thành phần quan trọng, thêm đại diện cho các nước châu Á và thuộc địa trong vô khối

những tổ chức quốc tế được thành lập thời bấy giờ. Anh được mời đến quảng trường Đỏ

dự miting và phát biểu trong ngày quốc tế lao động với tư cách là thành viên của Quốc tế

lao động Đỏ. Q c̣n dự đại hội của Quốc tế phụ nữ và nói chuyện với vợ goá của Lenin:

Krupskaya.

Bằng vô số cách khác nhau, Q dần dần trở thành một nhân vật nhẵn mặt trong giới lănh

đạo QTCS và quen thân với các cây đa cây đề như Bukharin, Dmitrov, Thalemann,

Kuusinen. Q c̣n chơi với một số bạn bè Trung quốc học cùng trường như Chu Ân Lai.Q

cũng gặp Tưởng Giới Thạch khi ông này thăm Nga 3 tháng cuối hè năm 1923. Có vẻ như

mọi người đều thích Q. Ruth Fischer, một nhà cộng sản cội người Đức nhận xét: “NAQ

không gây ấn tượng từ lần gặp đầu tiên, anh ta chinh phục bằng lòng hào hiệp và sự giản

dị”. Là một người thực tế, không tham gia các cuộc tranh luận vô bổ về học thuật,Q đă

www.langven.com

36

tránh được sự bất đồng đang h́nh thành lúc đó trong giới lănh đạo xô viết, dẫn đến sự

méo mó của Đảng Bolsevic và QTCS trong thập kỷ tiếp theo.

Nhà báo Ossip Mandelstamd, người đă phỏng vấn Q tháng 12 năm 1923 cho báo “Ngọn

lửa nhỏ” viết về Q:

Một người trẻ tuổi mảnh dẻ, thấm đẫm những triết lý của đạo Khổng, với cặp mắt to và xuyên

thấu. Khi anh ta nói về đất nước mình, cả người anh như co giật, mắt anh chói lên những tia hào

quang. Anh ta phát âm từ “văn minh” với một sự ghê tởm lộ rõ, và đặc biệt phẫn uất với việc nhà

thờ Thiên chúa chiếm mất 1/5 đất trồng trọt của đồng bào anh

Boris Souvarin, người sau này đă rời bỏ FCP, tuyên bố: “Q đã trở thành một người

Stalinist hoàn hảo

Chỉ có một người không mấy ấn tượng với Q. Đó là M. Roy, một đảng viên cộng sản Ấn.

Ông này cho rằng Q là một người yếu đuối cả về thể xác và tư tưởng. Trớ trêu thay, chính

Q là một trong số ít người ủng hộ luận điểm của Roy cho rằng các nước châu Á cũng có

thể làm cách mạng. Roy sau này trở thành đặc phái viên của QTCS tại Trung quốc và

theo nhiều nhà quan sát, chính sự yếu kém của ông này đă làm Đảng cộng sản Trung

quốc thất bại trong cuộc tranh giành quyền lực năm 1927.

Quốc c̣n dành nhiều thời giờ để viết cho các báo cánh tả ở Pháp cũng như Inprecor (cơ

quan ngôn luận của QTCS). Chủ đề của ông rất rộng: từ chủ nghĩa đế quốc ở Trung quốc,

3K ở Mỹ, thiên đường Liên xô đến sự cùng khổ của nhân dân Đông dương. Cùng với các

bạn Trung quốc tại trường Stalin, Q viết một cuốn sách nhỏ: “Trung quốc và thanh niên

Trung quốc” xuất bản bằng cả tiếng Nga, Trung và Anh. Tác phẩm nổi tiếng nhất củaQ

trong thời kỳ ở Nga, và có lẽ trong cả cuộc đời là cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp”,

được xuất bản ở Paris năm 1926 (NXB Lao động). Tác phẩm chủ yếu đả kích chế độ thực

dân Pháp tại Đông dương, tuy cũng có vài dẫn chứng khác tới các thuộc địa châu Phi.

Tuy nhiên cách hành văn dông dài cũng như tŕnh bày cẩu thả làm có nhà nghiên cứu cho

rằng, có lẽ ai đó đă mượn tên Q để xuất bản. Tuy nhiên nếu xét kỹ giọng điệu và văn

phong, có vẻ như vẫn là Q. Chắc chắn là cuốn sách đă được ra đời một cách vội vàng.xxvi

Một điều dễ nhận thấy trong các bài viết của Q là niềm tin “ngây thơ” với Liên xô và đặc

biệt là t́nh cảm với Lênin. Có lẽ thất vọng lớn nhất trong đời Q là không được gặp Lenin.

Năm 1923, khi được hỏi mục đích đến Liên xô,Q đă trả lời: để gặp Lenin. Rất tiếc tháng

Giêng năm 1924, Lenin qua đời. Giovani Germanetto, một người quen Italia của Q kể lại:

“Matxcova, tháng giêng 1924, lạnh buốt, nhiệt độ xuống dưới –40. Lenin mất mấy ngày

trước đó. Có tiếng gõ nhẹ vào cửa phòng chúng tôi ở khách sạn Lux. Một người thanh

niên châu Á mảnh dẻ bước vào tự giới thiệu là NAQ. Anh nói muốn đi tiễn đưa Lenin. Tôi

khuyên anh nên ở nhà đợi thêm một chút vì thấy anh ta ăn mặc rất mỏng manh. Chúng

tôi uống chè rồi Q về phòng mình.

Quãng 10h đêm lại thấy có tiếng gõ cửa. Vẫn đồng chí Q. Mặt, tay, mũi, tai tím ngắt vì

lạnh. Anh lập cập nói đã đến thăm Lenin. Anh không thể đợi được đến ngày mai để viếng

người bạn tốt nhất của các dân tộc bị áp bức trên thế giới.... Cuối cùng anh xin chúng tôi

một chén trà nóng”

Theo Yevgeny Kobelev, sau khi dự đám tang Lenin,Q đă giam ḿnh vào trong pḥng và

viết: “Người là cha, anh, thầy, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Người là ngôi sao dẫn

đường cho các dân tộc bị áp bức. Người sẽ sống mãi trong hành động của chúng ta”xxvii

Tuy nhiên nếu để ư đến những chi tiết nhỏ nhặt, dễ nhận thấy là không phải cái ǵ tại

nước Nga xôviết cũng làm Q dễ chịu. Tháng 12/2003, người ta phân cho Q vào 1 buồng

của khách sạn Lux với 4-5 anh bạn nữa. Và có vẻ mấy anh này không phải là những

www.langven.com

37

người đồng pḥng dễ chịu. Tháng 3, Q viết thư kêu cứu: “ban ngày tôi không ngủ được vì

ồn, ban đêm tôi không ngủ được vì rận/rệp” Cuối cùngQ được chuyển sang một pḥng

khác.

Về chiến lược đường lối cách mạng, cũng chẳng phải mọi thứ đều suôn sẻ. Từ khi đặt

chân đến Nga, Q liên tục thả bom xuống những người bạn có thế lực của ḿnh về các vấn

đề thuộc địa. Trong một bức thư viết tháng 2/1924 cho người bạn tại Trung ương QTCS

(chắc là Manuilsky), Q cảm ơn bạn đă nêu vấn đề thuộc địa tại hội nghị của FCP ở Lyon.

Cũng ngày đó, Q viết thư cho Tổng thư kư QTCS Grygori Zinoviev đ̣i được gặp mặt

thảo luận về vấn đề thuộc địa. Không được trả lời, Q viết lá thư thứ hai kêu ca là tại sao

không trả lời lá thư thứ nhất. Zinoviev quyết định lờ đi.

Chẳng biếtQ định thảo luận ǵ với Zinoviev, nhưng tháng Tư, Q công bố bài báo: “Đông

dương và Thái bình dương” trong tạp chí Inprecor. Ông tuyên bố giai cấp vô sản châu Âu

thực là ngây thơ khi cho rằng các vấn đề châu Á chẳng liên quan ǵ đến họ. Sự bóc lột

các thuộc địa không những đang làm giàu cho các nhà tư bản và các chính trị gia vô liêm

sỉ mà c̣n dẫn đến hiểm hoạ chiến tranh đế quốc. Khi đó th́ công nhân châu Á và Đông

dương chết, giai cấp vô sản châu Âu cũng bị hiểm hoạ. Tầm quan trọng của “vấn đề

phương Đông” đă được Roy nêu lên từ Đại hội 2 năm 1920 nhưng bị các đồng chí châu

Âu gạt đi. Họ cho rằng, trước hết các Đảng châu Âu phải dành được chính quyền trước.

Các đồng chí châu Á cứ đợi đă! Thoạt đầu quan điểm châu Á được sự ủng hộ từ các cấp

cao nhất: Lenin và cả Stalin. Tuy nhiên sau khi Lenin chết đi, Stalin chuyển trọng tâm

sang đấu đá để dành quyền lực tại Moscow. Zinoviev t́m cách lảng tránh.Maring bỏ

QTCS chạy lấy người, thậm chí Manuilsky, v́ thiếu các thông tin thực tế, đành tập trung

vào các điều kiện tại Balkans.

Vai tṛ của nông dân c̣n thấp kém nữa. Thậm chí Bukharin c̣n chế nhạo Thomas

Dombal là: “Một người nông dân hão huyền”. NAQ không chịu đầu hàng, phát biểu tại

hội nghị Quốc tế nông dân tháng 6/1924. Tuy nhiên ông cũng phải thừa nhận với một

người bạn đó chỉ là: “tiếng kêu cứu giữa hoang mạc”.

Đại hội lần thứ 5 của QTCS tại Matxcova vào ngày 17 tháng 6 năm 1924 là cơ hội tuyệt

vời để Q chiếm lĩnh diễn đàn về vấn đề thuộc địa. Đó cũng là mục tiêu của chuyến đi Nga

của ông theo lời mời của Manuilsky. V́ lúc đó chưa có đảng cộng sản tại Đông dương,Q

nằm trong thành phần của FCP. Hơn 500 đại biểu từ khoảng 50 nước tham dự.

Mặc dù chương tŕnh nghị sự có hẳn một phiên họp về vấn đề thuộc địa và các dân tộc

ngoài Nga, các thủ lĩnh của CPSU đang bù đầu với cuộc đấu đá giữa Stalin và Trotsky,

bởi thế các đồng chí châu Á cũng chẳng được quan tâm lắm.

Ngay tại phiên họp đầu tiên, Q đă làm cho mọi người chú ư. Khi đại biểu Koralov đang

đọc dự thảo nghị quyết để công bố,Q đă đứng lên hỏi: liệu văn kiện này có nhắm tới

nhân dân các nước thuộc địa không. Koralov bực tức trả lời, đă có phiên họp riêng về vấn

địa thuộc địa, cần ǵ phải bàn ở đây. Q không chịu và yêu cầu đại hội phải đề gửi nhân

dân các nước thuộc địa trong tất cả các văn kiện của ḿnh. Ngày 23/6, đến phiên Q phát

biểu. Người thanh niên Việt nam mảnh dẻ dơng dạc tuyên bố: Tôi ở đây

để nhắc nhở QTCS về sự tồn tại của các thuộc địa. Có vẻ như các đồng chí không chịu

hiểu rằng, số phận của giai cấp vô sản thế giới, đặc biệt giai cấp vô sản ở các nước thực

dân gắn chặt với số phận của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Thuộc địa chứa đựng

hiểm hoạ cũng như tương lai của cuộc cách mạng thế giới.

Tôi nghe bài phát biểu hùng hồn của nhiều đồng chí ở mẫu quốc, nhưng xin lỗi, các đồng

chí định giết con rắn bằng cách dẫm lên đuôi nó. Chúng ta đều biết là sức mạnh và nọc

www.langven.com

38

độc của con rắn đế quốc nằm nhiều ở thuộc địa hơn ở mẫu quốc. Thuộc địa cung cấp

nguyên liệu cho công nghiệp, binh lính cho chiến tranh. Trong tương lai thuộc địa sẽ là

thành trì của phản cách mạng. Nếu muốn phá vở một vật gì đó, các đồng chí đủ thông

minh để chọn công cụ thích hợp. Đập trứng thì cần thìa, đập đá cần rìu. Vậy sao các

đồng chí lại không muốn sức mạnh, sự tuyên truyền của cách mạng tương xứng với kẻ

thù. Trong khi các đồng chí lờ đi các thuộc địa, chủ nghĩa tư bản dùng thuộc địa để hỗ

trợ, bảo vệ và đánh lại các đồng chí.

Ngày 1/7, Q phát biểu lần nữa, tiếp sau sự chỉ trích của Manuilsky đối với một số đảng

cộng sản châu Âu về vấn đề thuộc địa. Q trực tiếp chỉ ra sự yếu kém của FCP và đảng

cộng sản Anh, Hà lan và đưa ra một loạt các biện pháp cải thiện t́nh h́nh. Mặc dù chưa

dám khẳng định nông dân sẽ đóng vai tṛ chủ đạo trong cuộc cách mạnh sắp tới, NAQ

cũng nhấn mạnh vai tṛ của họ:

Nạn đói đang hoành hành trên tất cả các thuộc địa Pháp. Nông dân căm thù và sẵn sàng

nổi dậy. Nhưng họ không có tổ chức và lãnh đạo. QTCS cần phải giúp họ đứng lên tự

giải phóng mình.

Với những bài phát biểu sắc bén của ḿnh, NAQ đă trở thành một nhân vật gây chú ư với

giới lănh đạo QTCS. Chân dung của Q do hoạ sĩ Nga Kropchenko N.I. vẽ xuất hiện trên

Báo Công nhân Nga số cuối tháng Bảy. Báo Pravda chạy một tiêu đề giật gân: “Từ lời nói

đến hành động – Diễn văn của đại biểu Đông dương NAQ”. Tuy nhiên, chẳng ai ngờ

được, chẳng bao lâu sau quan điểm coi trọng nông dân trong cách mạng châu á sẽ bị coi

la dị giáo và sẽ bị Matxcova trừng phạt.xxviii

Không hiểu có phải v́ những lời phê phán của Q mà lănh đạo QTCS đă chú ư đến việc

tuyển mộ nhiều nhà cách mạng trẻ từ châu Á đưa sang Nga để đào tạo. Trong những năm

sau đó, chỉ riêng từ Việt nam đă có hơn 100 học viên. Nhóm học viên Việt nam đầu tiên

đến qua đường Pháp vào khoảng giữa năm 1925. FCP cũng lẳng lặng sửa sai bằng cách

thành lập Uỷ ban thuộc địa do Jacques Doriot lănh đạo. FCP c̣n tổ chức một trường đào

tạo ở ngoại ô Paris dành cho các học viên từ các nước thuộc địa trước khi chuyển tiếp

sang trường Stalin ở Nga. Một trong 8 học viên đầu tiên của trường này là người Việt

nam.

Với sự xuất hiện tại Đại hội V của QTCS,Q đă chấm dứt giai đoạn “tập sự”, chính thức

trở thành nhà lănh đạo cách mạng châu Á, người phát ngôn cho các vấn đề phương Đông

và nông dân. Q cảm thấy đă hoàn tất công việc của ḿnh tại Moscow, sẵn sàng trở về

châu Á để bắt tay xây dựng phong trào. Đó cũng là mục đích chính của Q khi rời nước

Pháp. Trong lá thư của ḿnh gửi Uỷ ban TƯ của QTCS năm 1924, Q viết:

Khi tôi đến Matxcova tôi nghĩ sẽ chỉ ơ đây 3 tháng trước khi sang TQ để liên lạc với đất

nước tôi. Bây giờ đã là tháng thứ 9 và tôi vẫn chờ đợi trong vô vọng. Tôi không hề có ý

định đưa ra các luận điểm về sự tồn tại hay không tồn tại của các tổ chức công nhân, của

các phong trào dân tộc chủ nghĩa hay của những hội nhóm bí mật nào đó. Chúng ta cần

nghiên cứu tình hình một cách nghiêm túc và nếu ở đó chưa có gì thì phải THÀNH LẬP

MỘT CÁI GÌ ĐÓ.

Chuyến đi của tôi sẽ phải có các nhiệm vụ sau:

- Tạo mối liên lạc giữa Đông dương và QTCS

- Nghiên cứu tình hình kính tế chính trị xã hội tại thuộc địa

- Liên lạc với các tổ chức đã có sẵn

- Tạo cơ sở thông tin và tuyên truyền

www.langven.com

39

Làm thế nào để có thể hoàn thành những nhiệm vụ đó? Trước hết là phải đi Trung quốc.

Sau đó thì phải làm bất cứ việc gì mà tình hình yêu cầu. Cần bao nhiêu tiền? Tôi đã trao

đổi với các đồng chí Trung quốc, chắc là khoảng US100/tháng (chưa tính thuế), không kể

chi phí chuyến đi sang TQ. Tôi nghĩ là chúng ta đã có đủ thông tin căn bản để thảo luận.

Nỗi khát khao được trở về củaQ được sự ủng hộ của Dalin, đặc vụ của QTCS nằm trong

phái đoàn của Borodin trợ giúp Tôn Trung sơn tổ chức lại QDĐ theo đường lối Lenin.

Khi về Matxcova Dalin cũng ở khách sạn Lux và có nhiều dịp nói chuyện với Q.

Tháng Tư năm 1924, sau khi tháp tùng đoàn đại biểu TQ từ Yakutsk về Matxcova, Q

được mời lên pḥng làm việc của Manuilsky. “Thế nào, anh bạn trẻ? Anh có sẵn sàng

chiến đấu không?”

Manuilsky đồng ư cử Q về Quảng đông với điều kiện Q phải hỗ trợ các dân tộc khác

trong vùng. Chẳng bao lâu sau,Q được cử làm thành viên Ban bí thư Viễn đông

(Dalburo) của QTCS. Tuy nhiên bộ máy quan liêu đă làm cản trở chuyến đi của anh v́

không t́m được công việc thích hợp. Bực ḿnh Q đề nghị chỉ cần chi trả tiền vé, anh sẽ

tự lao động để kiếm sống. Cuối cùng, ngày 25/9, Dalburo quyết định: “Đồng chí NAQ sẽ

đi Quảng châu”

Q đă thuyết phục được QTCS cử về quê hương với cái giá khá đắt V́ không có vị trí

chính thức, anh phải sống một cách bất hợp pháp trong thành phố đầy rẫy những mật vụ

Anh, Pháp. Q c̣n phải tự kiếm sống trong một đất nước mà anh chưa bao giờ đến.

(Trước khi đi anh đă tranh thủ nhận nhiệm vụ với hăng tin ROSTA thỉnh thoảng gửi bài

từ TQ về kiếm thêm tí chút)xxix

Q rời Matxcova một ngày tháng 10 trên chuyến tàu xuyên Xiberi khởi hành từ ga

Yaroslavskii, sau khi đă nhờ Dombal thông báo với mọi người là bị ốm. Q c̣n viết một

lá thư gửi cho một người bạn Pháp thông báo anh không được phép đi Đông dương, bởi

thế sẽ quay về Pháp.

Q ở lại Vladivostock vài ngày rồi lên một con tàu Xoviet. Tàu cập bến Quảng châu ngày

11/11/1924xxx

www.langven.com

40

Con Rồng Cháu Tiên

Châu Á năm 1924 đă khác xa so với thời Q ra đi năm 1911. Mặc dù Thế chiến thứ Nhất

không phá vỡ hệ thống thuộc địa tại Nam và Đông Nam á, Trung quốc đă thay đổi sâu

sắc. Mùa thu năm 1911, một cuộc cách mạng đă phá vỡ triều đ́nh Bắc Kinh. Những

người nông dân của Tôn Dật Tiên đă nổi dậy lật đổ nhà Thanh nhưng đă không qua mặt

được Viên Thế Khải. Tháng 2/1912 TDT đă buộc phải nhường chức tổng thống của nước

cộng hoà mới thành lập cho VTK với trụ sở tại Bắc kinh.

Viên thực chất muốn trở thành hoàng đế. Tuy nhiên đảng viên của Tôn, chiếm gần nửa

trong nghị viện đă không cho Viên thực hiện điều này. Tháng Giêng năm 1914, Viên giải

tán quốc hội và điều hành bằng sắc lệnh. Đảng của Tôn bị đặt ra ngoài ṿng pháp luật.

Tôn phải chạy ra nước ngoài. Năm 1916, Viên đột ngột qua đời. Trung Hoa rơi vào ṿng

loạn đả của các thủ lĩnh địa phương. Mặc dù chính quyền vẫn c̣n tồn tại một cách mong

manh tại Bắc kinh, nhưng men xă hội đă tích luỹ khắp nơi. Tháng 1/1919, sinh viên nổi

dậy tại BK và các thành phố lớn. Cũng năm đó, Tôn đổi tên đáng thành Quốc dân Đảng,

hùng cứ tại Quảng Châu (dưới sự bảo trợ của một thủ lĩnh địa phương). Tháng 4/1921,

Tôn tuyên bố thành lập nước cộng hoà mới và tự phong làm tổng thống.

Tại Nga, sau khi tạm yên t́nh h́nh trong nước, năm 1920, đảng bộ Viễn đông được thành

lập tại Iakurst để lănh đạo phong trào cộng sản vùng Viễn đông-Thái B́nh dương.

Grigorin Voitinsky được cử sang TQ. Sau khi ở BK một thời gian ngắn, ông sang

Thượng hải và bắt đầu tụ tập các lực lượng cách mạng trong vùng.Mùa hè năm 1922,

Đảng cộng sản TQ được thành lập tại Thượng hải. Maring (đảng viên cộng sản người Hà

lan), người được cử thay Vointinsky phụ trách Quốc tế cộng sản tại TQ đă rất kiên quyết

yêu cầu ĐCS TQ kết hợp với QDĐ. Tháng giêng 1923, hai đảng kư thoả thuận Nội Liên

(bloc within) để thành lập mặt trận thống nhất TQ dưới sự hỗ trợ của Nga. Các đảng viên

CCP được mời tham dự QDĐ

Tại Đông Dương, t́nh h́nh cũng thay đổi nhanh chóng, mặc dù có thể không nhanh như

bên Trung Hoa. Dân số ở cả 3 miền tăng từ 7 triệu nă__________m 1880 đến 16 triệu năm 1926

(Tokin: 6, Annam: 5 và khoảng hơn 4 triệu tại Cochin China). Mặc dù vẫn là đất nước

nông nghiệp nặng nề, đến giữa những năm 20 đă có khoảng 1 triệu dân sống ở các đô thị,

chủ yếu là Hà nội và Sài g̣n.

Phong trào đấu tranh giành độc lập cho Việt nam đă hầu như suy sụp. Những nhà cải

lương phải im tiếng sau khi PCT bị bắt và đày sang Pháp. Phan Bội Châu khởi đầu khá ấn

tượng, lôi kéo được sự hỗ trợ của nhiều nhà yêu nước xuất chúng, cũng dần dần héo hắt

sau mấy cuộc khởi nghĩa vội vàng thất bại, đặc biệt sau khi Phan Bội Châu bị bắt ở Nam

Trung quốc.

Năm 1911, nghe tin cuộc cách mạng của Tôn Trung Sơn, PBC đă từ bỏ ư định phục hồi

chế độ quân chủ, lập ra đảng mới: Việt nam Quang phục Hội. Mục tiêu của Châu là xây

dựng mô h́nh nước cộng hoà kiểu Tôn. Năm 1912, Châu gặp Tôn và được hứa Việt nam

sẽ là nước đầu tiên được giúp đỡ một khi cách mạng thành công tại Trung hoa. Đáng tiếc

sau đó, Châu bị mấy thủ lĩnh địa phương tống giam v́ các hoạt động lật đổ. Năm 1917,

khi Châu ra tù, Quốc dân đảng đă bị mất quyền, Tôn th́ đă chạy sang Nhật bản. Một lần

nữa hy vọng vào sự trợ giúp của nước ngoài bị tan vỡ. Có vẻ như Châu đă hoàn toàn mất

hết kiên nhẫn, ông thậm chí c̣n đề nghị hợp tác với Pháp, hy vọng vào sự cải cách của

chế độ thực dân. Đầu những năm 20, bộ máy cách mạng của Châu tại Việt nam thực tế đă

www.langven.com

41

tan vỡ. Châu ra sống lưu vong tại Nam Trung hoa với một số những môn đệ gần gũi nhất.

Thời kỹ Phan Bội Châu rơ ràng đă đến hồi kết thúc.

Hai Phan thất bại đă cho thấy một sự thay đổi lớn lao trong xă hội Việt nam. Tầng lớp

quư tộc-học giả truyền thống, những người đă chi phối nền chính trị Việt nam hàng thế

kỷ qua, đă mất dần ảnh hưởng. Mặc dù nhiều học giả đă nhận thức được sự thay đổi của

thời cuộc và vai tṛ ngày càng tăng của quần chúng, như một giai cấp, họ không cảm thấy

tự tin. Phan Bội Châu nhắc nhiều đến h́nh ảnh: “hàng chục ngh́n anh hùng vô danh,

đánh đuổi thực dân Pháp”, nhưng đảng viên của ông chỉ gồm toàn những học giả với đời

sống khá giả. Mặc dù cương lĩnh của đảng là cổ vũ thương mại và công nghiệp, thành

phần lănh đạo đảng lại chủ yếu là các địa chủ. Những nhà quư tộc giàu có khăn áo thướt

tha mở cửa hàng để quyên vốn cho đảng, thực chất coi khách hàng bằng nửa con mắt.

Khoảng cuối chiến tranh thế giới thứ nhất, chế độ thi cử kiểu Khổng tử bị băi bỏ trên

khắp Việt nam. Chữ quốc ngữ được phổ biến ở khắp 3 miền. Mặc dù đa số thanh niên

vẫn phải học ở các thầy đồ làng truyền thống, con cháu của các quư tộc đă được gửi đi

học tại các trường kiểu Pháp như Quốc học. Họ được dạy bằng tiếng Pháp và được tiếp

tục đưa sang Pháp đào tạo. Cùng lúc đó, một tầng lớp trung lưu mới được h́nh thành. Họ

là những nhà buôn, chủ hăng hoặc công chức trong các công sở của người châu Âu. Họ

ngưỡng mộ ḷng yêu nước của Phan và các bạn, nhưng trong ḷng họ giễu cợt các quan

điểm bảo thủ. Họ mặc đồ Tây, uống vang Bordeaux và nói tiếng Pháp. Nhà văn Pháp

Paul Monet miêu tả họ như: “nguyên mẫu của nền văn minh Pháp, bị tách khỏi những tín

ngưỡng truyền thống, hoàn toàn coi thường Khổng tử vì họ không hiểu”. Các quan chức

thuộc địa Pháp vui mừng v́ có những thành quả đầu tiên của quá tŕnh văn minh hoá. Họ

không hề ngờ rằng, chính thế hệ này mới là những người thách thức sự thống trị của họ.

Những hành động bất nhất của nhà cai trị Pháp vô t́nh lại tăng thêm nỗi thất vọng của

dân Việt. Năm 1919, toàn quyền Albert Sarraut hứa hẹn: “sẽ coi những con dân của ḿnh

như người anh em và dần dần phục hồi toàn bộ nhân quyền”. Ngay cả NAQ khi đó đang

ở Paris, cũng không khỏi khấp khởi một chút hy vọng mong manh về đất nước đă sản

sinh ra khẩu hiệu: “Tự do, B́nh đẳng, Bác ái”. Tuy nhiên sau khi AS được thăng chức

đưa về cố quốc, chẳng ai hơi đâu nhớ đến những lời hứa đó nữa. Hệ thống trường học

thiếu tiền, cả nước chỉ có khoảng 5000 học sinh trung học. Nếu trước đây trong chế độ

phong kiến, có đến 25% dân số có khả năng giải mă được trên những kư tự ngoằn ngoèo

của chữ Hán, th́ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tỷ lệ biết chữ (kể cả quốc ngữ hay chữ

Hán) chỉ vào khoảng 5%. Những thống kê này đặt một dấu chấm hỏi to đùng lên “Sứ

mệnh mang lại nền văn minh” của thực dân Pháp. Mặc dù không ít người Việt nam đă

cống hiến cho mẫu quốc trong thế chiến thứ Nhất, họ vẫn không bộ máy thực dân công

nhận ngay tại nước ḿnh. 10000 viên chức Pháp được trả lương cao gấp nhiều lần đồng

nghiệp Việt nam. Đại đa số trong hơn 40000 người châu Âu, nhiều người đến Việt nam

“trên răng, dưới dép”, nay khá giả nh́n dân bản địa không khác ǵ một con chó. Chính

quyền độc quyền sản xuất muối, thuốc phiện và rượu bán cho dân với giá cắt cổ. Hơn 500

ngàn nông dân không ruộng đất, phải cày thuê cuốc mướn, nộp tô đôi khi tới 50% mùa

màng cho khoảng 5 vạn địa chủ. Georges Garros, trong cuốn sách xuất bản giữa thập kỷ

Forceries humaines lạnh lùng nhận xét: người Pháp mà rơi vào hoàn cảnh ấy, chắc chắn

sẽ làm cách mạng. Về phần ḿnh, trong cuộc trả lời phỏng vấn Ossip Mandelstam năm

1923 tại Moscow, NAQ miêu tả Việt nam như một dân tộc: “bị đẩy vào địa ngục”.

Một lớp các nhà hoạt động chính trị mới ra đời khoảng giữa những năm 20 là con đẻ của

tâm trạng vỡ mộng của xă hội. Họ được đào tạo theo hệ thống trường Tây, ngưỡng mộ

www.langven.com

42

văn hóa Tây, đọc sách báo Tây nhưng phẫn nộ v́ sự bất công mà nhà cầm quyền Pháp áp

đặt cho đồng bào của ḿnh. Họ đ̣i hỏi: “Tự do, B́nh đẳng, Bác ái” cho dân tộc ḿnh.

Những hạt giống phản kháng đầu tiên nảy mầm ở Sài g̣n nơi khoảng cách giàu nghèo,

bản xứ và ngoại quốc rơ rệt nhất. Sài g̣n cũng là nơi tập trung nhiều ngoại kiều và công

nhân nhất do sự phát triển kinh tế nhanh chóng. Người đầu tiên là nhà địa chủ Bùi Quang

Chiêu, người mà NAQ đă từng gặp trong chuyến xuất ngoại đầu tiên của ḿnh. Ông ra tờ

báo La Tribune Indigene và thành lập Đảng Hiến pháp, đảng chính trị đầu tiên ở Đông

dương. Mặc dù Chiêu và các đồng sự gây sức ép đ̣i Pháp cho người Việt nam nhiều

quyền hơn nữa trong đời sống chính trị, mục tiêu của các ông là giảm sự thống trị của

Hoa kiều trong lĩnh vực kinh tế.

Người mà người Pháp sợ hơn là Nguyễn An Ninh. Ông này là con của một nhà nho Nam

bộ, có liên quan đến Trường Tự do Hà nội, sau đó tham gia vào phong trào kháng chiến

của Phan Bội Châu. Ninh tốt nghiệp luật ở Paris, đă từng gặp NAQ và tỏ ra rất ham thích

chính trị. Về nước đầu những năm 20, Ninh ra báo: La Cloche Felee (Tiếng chuông rè)

để kêu gọi tinh thần yêu nước của dân chúng và đ̣i cải cách chính trị. Cũng như Phan

Chu Trinh, Ninh ngưỡng mộ văn hoá phương Tây và coi đó là sự bù đắp cho nền Nho

giáo ḱm hăm sự sáng tạo của con người. Theo ông đó là nguyên nhân mà ta mất nước.

Ông kêu gọi khởi xướng một nền văn hoá mới, không bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng

du nhập của Khổng tử và Lăo tử. Cũng như Mahamat Ghandi, Ninh cho rằng giải pháp

nằm trong vấn đề tinh thần và chỉ có thể t́m thấy trong nhân dân. Ảnh hưởng của Ninh

mạnh đến nỗi đại sứ Maurice Cognacq phải mời lên thẩm vấn. Ngài đại sứ thông báo là

các hoạt động của Ninh đă bị theo dơi chặt chẽ và Ninh phải thôi ngay, nếu không ngài sẽ

buộc phải có những hành động không hay. Ngài c̣n châm biếm, dân Việt c̣n ngu lắm,

làm sao hiểu được những điều ông phát biểu, tốt hết là ông hăy đến Moscow. Ninh bỏ

ngoài tai và vẫn tiếp tục hoạt độngxxxi

Khi NAQ đến Quảng đông tháng 11/1924, thành phố đang náo động v́ hàng ngàn người

đổ ra bờ sông để bày tỏ sự ủng hộ đối với chính quyền Tôn Trung Sơn và tiễn tổng thống

đi Bắc kinh. Từ tháng giêng năm 1923, theo sự thoả thuận với Maring mật vụ của QTCS,

Tôn thi hành chính sách: Nội liên, đưa một số Đảng viên CCP vào những vị trí quan

trọng của quốc dân đảng. Sau khi đại diện của QTCS – Mikhail Borodin đến Quảng

đông, Quốc dân đảng được tái cơ cấu theo đường lối của Lê nin. Học viện quân sự Hoàng

phố được mở ra để đào tạo các sĩ quan trẻ cho cách mạng. Tưởng Giới Thạch, cánh tay

phải của Tôn được bổ nhiệm làm Giám đốc, Chu Ân Lai làm chính uỷ học viện.

Quyết định của Tôn nghiêng về nước Nga xô viết và hợp tác với CCP làm cho giới ngoại

giao và thương mại phương tây ở Quảng đông sôi máu. Mùa hè năm 1924, chính quyền

Anh ra lệnh đàn áp các cuộc biểu t́nh của công nhân trên Đảo Sa điện. Đáp lại, công

nhân công bố tổng băi công. Chính phủ Tôn cử quân đội đến ủng hộ các công nhân băi

công. Hội Công thương Quảng đông (chủ yếu gồm các thương gia phương Tây) thành lập

các đội du kích vũ trang để bảo vệ cộng đồng phương tây. Đă xảy ra các cuộc đụng độ

giữa họ và quân đội chính phủ.

T́nh h́nh bắc Trung quốc cũng thay đổi nhanh chóng. “Tướng Thiên chúa” Phương Du

Tường lật đổ Vu Bắc Phú ở Bắc kinh. Phương có cái nh́n thiện cảm với chế độ của Tôn

và mời Tôn lên Bắc kinh đàm đạo. Tôn đồng ư.

Mặc dù không được giao nhiệm vụ rơ ràng, vừa đến Quảng châu, NAQ đă ngay lập tức

bắt liên lạc với Borodin và được ông này mời đến ở cùng với ḿnh tại Bao công Quán,

một biệt thự ngay cạnh cơ quan trung ương của QDĐ. Tầng 1 là văn pḥng của 20 nhân

www.langven.com

43

viên phái bộ QTCS. Tầng 2, Quốc và Borodin ở. Cả hai đă từng gặp nhau ở Moscow,

cùng nói được tiếng Anh (Borodin đă ở Chicago) và cùng chia sẻ mục tiêu thúc đẩy cách

mạng ở châu á. V́ thế nên họ nói chuyện rất tâm đầu ư hợp. Để che mắt mật thám Pháp,

NAQ lấy tên là Lư Thuỵ. Chỉ có Borodin và vợ biết được danh tính của NAQ. Quốc được

phân vào phân xă của cơ quan thông tấn Xô viết ROSTA. Trong các bài viết về Moscow,

Q thường kư tên Nilovskii. Thỉnh thoảng Q c̣n làm việc phiên dịch hoặc đại diện cho

Quốc tế nông dân. Tuy nhiên, mục đích chính của chuyến trở về của NAQ là xây dựng

hạt nhân cho một đảng mới theo kiểu Lenin, từ đó t́m cách đưa phong trào cách mạng

Việt nam vào tổ chức, theo ư chỉ của ḿnh.

Sự hiểu biết của các nhà cách mạng Việt nam lúc đó về chủ nghĩa Max và cuộc cách

mạng Nga lúc đó hết sức đơn giản. Một nhà dân tuư nói: “Chúng tôi không theo chủ

nghĩa cộng sản, chúng tôi theo những người cộng sản, bởi v́ họ hứa sẽ mang lại quyền tự

quyết cho các dân tộc. Chúng tôi chờ đợi họ như những vị cứu tinh.” Có người c̣n ngây

thơ: “Nếu phương Tây căm thù người Nga và những người cộng sản, họ phải là những

người tốt.”xxxii

NAQ không hề có một ảo tưởng nào. Từ năm 1922, trong một bài báo viết tại Paris, ông

nhận xét, đa số nhân dân tại thuộc địa hiểu Bolsevism là: “Đạp đổ tất cả hoặc tẩy chay

nước ngoài. Cả hai cách hiểu đều nguy hiểm”. Quần chúng “đă sẵn sàng nổi dậy, nhưng

họ không biết bắt đầu như thế nào”. Việc xây dựng một đảng đại diện cho các tư tưởng

Max và Lenin nhưng lại đáp ứng được khát vọng: độc lập dân tộc của đông đảo quần

chúng, là một việc cấp bách nhưng vô cùng khó khăn.

Người Việt nam nổi tiếng nhất ở TQ khi đó là Phan Bội Châu. Sau khi ra tù vào năm

1917, Châu đă có một thời ve văn ư tưởng dàn xếp với Pháp nhưng nhanh chóng vỡ

mộng. Ông xoay sang dưỡng lăo tại Hàng Châu ở nhà của đệ tử có tên là Hồ Học Lâm.

Tuy đă 55 tuổi, lại chẳng có cơ sở nào ở trong nước, nhưng h́nh ảnh một nhà cách mạng

lăo thành quắc thước với bộ râu quai nón và cặp kính trắng lạnh lùng vẫn có sức hấp dẫn

lớp trẻ. Khoảng đầu những năm 20, một nhóm các thanh niên trí thức Việt nam do Lê

Hồng Phong, Lê Văn Phan (sau này gọi là Lê Hồng Sơn), Lê Quang Đạt và Trương Văn

Lệnh dẫn đầu đă vượt biên sang nhận Châu làm sư phụ. Một điều thú vị là nhóm này hầu

như đều đến từ Nghệ an và sau đều trở thành ṇng cốt của tổ chức cách mạng do Quốc

thành lậpxxxiii.

Nhóm thanh niên kích động này nhanh chóng cảm thấy tù túng với tổ chức của Châu. 8

tháng trước khi Quốc tới Quảng châu, tháng 3/1924, họ tách ra thành lập tổ chức mới lấy

tên là Tâm Tâm Xă. Nóng nảy và dễ kích động, họ cho rằng mọi thứ lư thuyết đều vớ

vẩn, họ theo đuổi đường lối của Auguste Blanqui ở châu Âu thế kỷ 19, người đă kích

động khởi nghĩa tại Pháp, Italia và Tây ban nha. Mục tiêu của tổ chức là tuyên truyền và

khủng bố để châm ng̣i cho việc lật đổ chế độ cai trị của Pháp.

Người đỡ đầu cho tổ chức là Lâm Đức Thụ. Ông này tuy đă 36 tuổi và giàu có nhờ lấy

một bà vợ giàu, nhưng sinh ra trong một gia đ́nh chống Pháp, lại có tiền và quan hệ rộng

răi nên rất có uy tín. Trụ sở của TTX đóng ngay tại hiệu thuốc của vợ chồng Thụ tại Da

Trường, một phố nhỏ gần trụ sở QTCS. Một trong những phi vụ đầu tiên của nhóm là

đánh bom toàn quyền Đông dương Martial Merlin khi tay này đến thăm Quảng đông

tháng 6/1924. Đáng ra chàng thanh niên ngăm đen đẹp trai Lê Hồng Sơn sẽ xử lư vụ này,

tuy nhiên anh này với biệt danh “Hit man” quá quen mặt với cảnh sát. Phạm Hồng Thái,

một chàng trai mới ḷ ḍ từ Đông dương sang được giao nhiệm vụ thay thế. Anh này là

con một viên quan đă từng tham gia phong trào Cần vương ở Nghệ An, được tiêm nhiễm

www.langven.com

44

tư tưởng cách mạng trong thời gian học tại trường Pháp ở Hà nội. Sau một thời gian làm

thợ cơ khí ở ga ra, rồi thợ mỏ, Thái cùng các bạn là Lê Hồng Phong và Hồ Tùng Mậu

chuồn sang Trung quốc.

Tối 19/6, khách sạn Victoria trên đảo Sa điện ồn ào những lời chúc tụng nhân đại tiệc

chúc mừng toàn quyền Pháp. Đúng 8:30, khi món súp đang được dọn ra th́ một tiếng nổ

đinh tai nhức óc đă biến bàn tiệc thành một địa ngục. Năm thực khách chết ngay tại chỗ,

hàng chục người khác bị thương nằm la liệt. Trên đường trốn chạy, Thái nhảy xuống

sông và chết đuối trên sông Châu Giang. Thoát chết trong gang tấc, Merlin rời Quảng

châu ngay hôm sau trong khi đám tang người liệt sĩ trẻ được tổ chức trọng thể. Đây là vụ

ám sát một quan chức cao cấp châu Âu đầu tiên ở châu Á. Tiếng bom Sa điện đă gây một

cú sốc lớn trong cộng đồng người Pháp và tôn Phạm Hồng Thái lên vị trí “tử v́ đạo”.

Chính quyền Tôn Trung Sơn quyết định dựng bia tưởng niệm. Phan Bội Châu th́ tranh

thủ vụ việc để “đánh bóng” lại h́nh ảnh của ḿnh. Ông này viết một bài tiểu sử về Thái

như một cộng sự trong tổ chức của ôngxxxiv. Tháng 7/1924, trong chuyến đi dự lễ khai

trương bia tưởng niệm Thái, Châu đă trao đổi với một số đệ tử về việc thay Quang Phục

Hội bằng Việt nam Quốc dân đảng, theo mô h́nh đảng của Tôn. Châu trở về Hàng châu

tháng 9/1924.

Mặc dù Merlin thoát hiểm nhờ có một thực khách có h́nh dạng giống ngài toàn quyền

một cách kỳ lạ (vị này chết ngay tại chỗ), nhưng vẫn có những nghi ngờ về kẻ phản bội ở

trong hàng ngũ. Một thành viên của Tâm Tâm Xă, Lê Quang Đạt, đă công khai đặt vấn

đề về vai tṛ của Lâm Đức Thụ v́ những mối quan hệ của ông này với Pháp. Tuy nhiên

Lê Hồng Sơn đă gạt đi, và Thụ vẫn tiếp tục cộng tác với tổ chứcxxxv.

Năm tháng sau vụ đánh bom, NAQ đến Quảng châu. Nhưng chỉ ngày hôm sau, ông đă

tiếp cận các thành viên TTX trong vai một nhà báo Trung quốc họ Vương. Những hành

vi cấp tiến của họ làm Q rất khoái. Việc đầu óc họ c̣n trong trắng về lư thuyết càng

thuận tiện cho việc tuyên truyền những tư tưởng Max-Lenin. Q thích Lê Hồng Sơn, Hồ

Tùng Mậu nhưng đặc biệt ưu ái chàng trai chắc nịch Lê Hồng Phong, người được đích

thân Châu tuyển mộ.

Với bản lĩnh của ḿnh, có vẻ như Q chẳng gặp khó khăn ǵ khi dụ khị mấy chàng trai trẻ.

Tháng 12/1924, Q báo về Matxcova là đang bắt liên lạc và hợp tác với “một nhóm nhà

cách mạng Việt nam”. Tháng 2/1925, Q thành lập nhóm 9 người và đặt tên là Quốc dân

đảng Đông dương, 5 trong số đó được ông coi là ṇng cốt của Đảng cộng sản tương lai.

Q khuyến khích các thành viên về nước chiêu mộ thêm đệ tử, hoặc tham gia quân đội

QDĐ Trung hoa, hay gia nhập CCP. Q cần gấp sự hỗ trợ về tài chính và tài liệu tuyên

truyền từ Maxcova.xxxvi Mặc dù không nhất trí với các phương pháp đấu tranh của Châu,

Q vẫn sử dụng ông này vào việc xây dựng tổ chức của ḿnh. Thông qua các thành viên

TTX, Q lần ra mối quan hệ với Châu. Châu có vẻ cũng như đă nhận ra được danh tính

của Lư Thuỵ. Vào khoảng giữa tháng 2 và tháng 3, Châu viết cho Q một bức thư có nhắc

đến cuộc gặp đầu tiên của hai người ở Kim liên. Châu hoàn toàn ủng hộ đường lối củaQ

trong việc cải tổ lại đảng của ḿnh. Tuy nhiên Q nhanh chóng nhận thấy rằng Châu và

nhiều cộng sự lớn tuổi của ông không thể là hạt nhân cho một tổ chức mới mà Q đang

gây dựng. Q thành lập Cộng sản đoàn với 5 hạt nhân ưu tú, trong đó có Lê Hồng Phong,

Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu.

Sự xuất hiện của một nhân vật hoạt động tích cực như vậy ở trụ sở QTCS, tất nhiên là

gây chú ư cho các mật vụ Pháp. Một đặc vụ với bí danh “Noel” được cử sang từ Paris với

mục đích xác định được danh tính của Lư Thuỵ. Kẻ giúp đỡ đắc lực nhất cho Noel chính

www.langven.com

45

là Lâm Đức Thụ với bí danh là “Pinot”. Tay này làm điệp viên hai mang cho cả Pháp và

các lực lượng cách mạng. Tháng 3, Thụ chụp được 1 tấm ảnh Q cùng với các dồng chí

trước cửa trụ sở Quốc dân đảng. Pḥng Nh́ nhanh chóng xác nhận: Lư Thuỵ chính là

Nguyễn ái Quốc.

Sự h́nh thành của một đảng cách mạng mới đă chín muồi. Tháng 6, tại nhà Lâm Đức

Thụ, Q cùng với các ṇng cốt trong Cộng sản đoàn lập nên Hội thanh niên cách mạng

Việt nam. Cùng vói các hoạt động của Hội, tờ báo Thanh niên mà đa phần các bài là do

Quốc viết đă đặt dần dần nền móng của một tầm nh́n mới vượt qua cả chủ đề độc lập dân

tộc.

Nhờ mối liên hệ của chính quyền Tôn Trung Sơn với QTCS, Quảng châu lúc đó được coi

như là “Matxcơva của phương Đông” thu hút các nhà cách mạng từ Triều tiên, ấn độ,

Đông dương và Tây ấn thuộc Hà lan. Từ kinh nghiệm hoạt động ở Paris, Q cùng với đặc

vụ của QTCS người Ấn độ Roy và lănh tụ cực tả của QDĐ Lăo Trung Kha, thành lập

“Hội các dân tộc bị áp bức châu Á”. Phiên họp đầu tiên của Hội được tiến hành vào giữa

tháng Bảy.

Cương lĩnh hoạt động của Hội thanh niên cách mạng được xây dựng dựa trên hai trụ cột

chủ nghĩa dân tộc và cách mạng xă hội theo mô h́nh của Lenin được đại hội QTCS lần II

phê chuẩn năm 1920. Tuy nhiên nếu Lenin coi cách mạng dân tộc chỉ là một bước chiến

thuật nhằm lôi kéo sự ủng hộ của những người theo chủ nghĩa dân tộc, cương lĩnh của

Hội lại tỏ ra chú trọng đến độc lập dân tộc hơn nhiều là số phận của cách mạng thế giới.

Chính điều đó đă gây nhiều nghi ngờ cho nhiều nhà quan sát về sự trung thành của Q với

các tư tưởng Maxism và cuộc đấu tranh để xây dựng ảo tưởng cộng sản. Trên thực tế cuối

những năm 20, đă xuất hiện những bài viết chỉ trích Q ở Matxcơva và từ những người

cộng sự của Q.

Có nhiều lư do để khẳng định, Q trước tiên là một nhà yêu nước. Trong bài báo “Con

đường đưa tôi đến với Lenin” viết năm 1960, Q khẳng định, chính khao khát độc lập cho

Việt nam đă đưa ông đến với chủ nghĩa Max. Khác với Lenin, đối vớiQ độc lập dân tộc

gần như đă là mục tiêu cuối cùng. Q thường xuyên phát biểu: “cách mạng xã hội chủ

nghĩa ở Việt nam sẽ được tiến hành vào một thời điểm thích hợp”.

Tuy nhiên cũng khó có thể nói, Q chỉ coi chủ nghĩa Max chỉ là công cụ cho cuộc đấu

tranh giành độc lập của ḿnh. Những bài viét và phát biểu của cậu ở Paris và Matx về

một thế giới tương lai sôi sục nhiệt huyết. Trước khi chết, khi trả lời một phóng viên

Xoviet, Q đă ân hận măi về việc đă đả kích một nữ đồng chí của ḿnh ở Nga v́ đă mặc

lụa tơ tằm và đi giày cao gót. “Chẳng nhẽ những người trẻ tuổi ăn mặc đẹp lại là điều

xấu xa?”xxxvii Câu hỏi ngơ ngác của cô gái đă hằn sâu vào trí nhớ Q.

Nếu Q vừa là nhà dân tộc chủ nghĩa vừa là một người theo chủ nghĩa Max, câu hỏi làm

thế nào kết hợp giữa bản chất yêu nước của Q và đ̣i hỏi tinh thần quốc tế vô sản của chủ

nghĩa Max đă được Lenin phần nào đề cập đến trong “Luận cương về các vấn đề dân tộc

và thuộc địa”. Lenin đề xuất kháI niệm “Liên hiệp” các quốc gia độc lập như một h́nh

thái chuyển tiếp trước khi thành lập “Quốc gia vô sản toàn cầu”. Sự liên kết giữa nước

Nga cách mạng, Hungary và Phần lan cũng như giữa Armeni và Azerbaijan không thể

không ảnh hưởng đến Q. Trong một bức thư gửi QTCS, Q đă đề nghị tuyển mộ thêm

nhiều học viên vào trường Stalin cho “Liên hiệp cộng sản Đông phương”. Một tài liệu

mới được t́m thấy ở Nga viết năm 1924, kư tên là Nguyễn. Có đến 99% đó chính là Q.

Khi bàn về tương lai của Đảng cộng sản Việt nam, tài liệu khẳng định: “Cần phải tính

đến thực tế Việt nam và giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc dưới danh nghĩa của

www.langven.com

46

QTCS” . Cương lĩnh của Việt nam thanh niên cách mạng Hội cũng nhắc đến cách mạng

toàn cầu như “mục đích cuối cùng” của Hội.

Tại sao Q lại không chọn con đường phi bạo lực đ̣i lại độc lập dân tộc mà lại tin vào

cách mạng trên phạm vi toàn thế giới? Mùa xuân năm 1925, Nguyễn Thượng Huyền,

(cháu của Nguyễn Thượng Hiền, người đă có thời là hiệu trưởng Đông kinh nghĩa thục),

có viết một bài báo và nhờ Q nhận xét. Trong bài báo, Huyền cho rằng nguồn gốc cách

mạng là từ Kinh dịch và Khổng tử cho rằng thay đổi triều đại chính là cách mạng. Huyền

kết luận, thất bại của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp là tất yếu v́ sự hung bạo của chúng

và độc lập chỉ có thể đạt được bằng các cuộc chống đối phi bạo lực trong xă hội như

Mahatma Gandhi. Trong bức thư trả lời,Q đă tỏ ư nghi ngờ nguồn gốc cách mạng và cho

rằng nó xuất phát từ văn hoá Tây phương. Cách mạng thay đổi các thể chế điều hành đất

nước, c̣n cải cách chỉ cải tiến chúng. Thay đổi triều đại không phải là cách mạng. Về

thất bại của cách mạng ở Việt nam, Q viết:

Không lẽ ông chờ đợi người Pháp khoanh taynhìn ông đuổi họ ra? Tốt nhất là hãy tự nhìn lại

mình: tại sao người Pháp lại cai trị được dân ta? Sao ta lại ngu thế? Bây giờ ta phải làm gì? Ông

so sanh với người ấn độ, Ai cập. Họ có đảng phá chính trị, các hội nông dân, các tổ chức. Ta

không có đảng, không có tuyên truyền, không có tổ chức. Họ như chiếc ô-tô có cả tài xế, còn ta

mới chỉ có cái khung xe. Vậy mà ông muốn ta chạy như họ!

Để kết luận, Q dẫn câu chuyện của La Fontaine về các con chuột đùn đẩy nhau đeo

chuông lên cổ mèo. “Giờ đây, các con rồng cháu tiên Việt nam chẳng khác gì những con

chuột. Thật là nhục nhã

Tại Hàng châu, PBC rất quan tâm đến những ǵ đang diễn ra. Ông hứa sẽ đến Quảng

châu thăm Q mùa hè năm 1925. Trong bức thư viết cho Q trước đó, Châu hết lời khen

ngợi sự sáng suốt và kinh nghiệm của Q, Châu c̣n tỏ vẻ vui mừng v́ đă có người nối

nghiệp v́ ông đă quá “đát”. Tuy nhiên rơ ràng là Châu vẫn muốn đóng một vai tṛ trong

tổ chức. Trong một bức thư khác gửi cho Hồ Tùng Mậu, ông đă cạnh khoé phê b́nh Q và

các đồng sự quá nóng vội. Trước đó, Châu cũng đă từng than văn là Q bỏ rơi ông.

Khoảng giữa tháng 5, Châu rời Hàng châu đi Thượng hải. Tại đó, nhờ có mật báo, các

mật thám Pháp trong vai tài xế taxi đă đợi sẵn, tóm gọn và chở thẳng ông về Hà nội để

xét xử về tội phản quốc.

Vụ bắt giữ này đă gây ra một cuộc tranh căi lâu dài và lôi thôi nhất trong lịch sử rắm rối

của chủ nghĩa dân tộc Việt nam. Nhiều thành viên của Thanh niên hội cho rằng chính thư

kư của Châu, Nguyễn Thượng Huyền đă phản bội ông. Châu cũng nghĩ thế. Tuy nhiên

một số người theo chủ nghĩa dân tộc không cộng sản lại nghi ngờ Lâm Đức Thụ và thậm

chí NAQ đă dựng lên vụ này để kiếm tiền thưởng và dùng Châu như một anh hùng - “vật

tế thần” cho phong trào. Quan điểm này cũng được nhiều nhà nghiên cứu phương Tây

nhắc lại nhưng không có những chứng cớ cụ thể. Các tài liệu của pḥng nh́ Pháp không

rơ, nhưng xu hướng không cho rằng Q có dính líu. Họ cũng cho là Huyền có thông tin tốt

hơn về sự di chuyển của Châu. Lâm Đức Thụ về sau tự nhận trách nhiệm nhưng không

đáng tin cậy v́ ông này ưa khoác lác và thổi phồng.

Mặc dù không phủ nhận là Q có thể phản bội Châu nếu tin rằng điều đó phục vụ lợi ích

cách mạng, nhưng trong vụ này rơ ràng là Q không tin là có thể khai thác được ǵ cho

phong trào từ việc bắt Châu. Thanh niên Hội vẫn tập trung sử dụng h́nh ảnh Phạm Hồng

Thái để tuyên truyền và lôi kéo các thành viên của ḿnh. Vả lại một lănh tụ có tính chất

biểu tượng dễ điều khiển ngoài tự do rơ ràng có lợi hơn cho phong trào so với ngồi tù ở

www.langven.com

47

Việt nam. Cũng cần nhận thấy rằng đến cuối đời Châu vẫn dành sự kính trọng cao nhất

cho Q.

Toà đă xử Châu khổ sai chung thân ngày 23/11/1925 dẫn đến một phong trào phản kháng

mạnh mẽ trong khắp nước. Toàn quyền mới, đảng viên Xă hội Varrene chẳng muốn khởi

đầu sự nghiệp của ḿnh bằng sự thù hận, đă đề nghị Paris giảm xuống án quản thúc tại

gia ở Huế. Trước khi giảm án, Varrene đă đề nghị Châu hợp tác. Lúc đầu ông này từ chối

nhưng sau đă tỏ ra khôn ngoan hơn. Tuy vẫn giữ quan hệ với các thành viên chủ chốt của

phong trào dân tộc, thỉnh thoảng Châu lại đưa ra những phát ngôn có thể coi là có lợi cho

Pháp ví như khen ngợi hệ thống giáo dục của Pháp ở Đông dương. Theo mật thám Pháp,

một số phần tử quá khích thậm chí đă có kế hoạch ám sát Châu. Châu chết tại Huế năm

1940.

Trong thời gian vụ án Châu, một lănh tụ cải lương khác là Phan Chu Trinh đă trở về Việt

nam sau nhiều thập kỷ trong sự chào đón của dân chúng. Ông này chết năm 1926 vào

tuổi 53 và đám tang ông đă trở thành một sự kiện dân tộc. Q có vẻ như không hài ḷng

cho rằng Pháp đă cường điệu sự kiện này nhằm mang lại một bộ mặt nhân tính hơn cho

chính sách thực dân của ḿnh và đánh lạc hướng dân chúng.

Nhờ sự cố gắng không mệt mỏi của Q, những tư tưởng Marxism dần dần được phổ biến

trong các tầng lớp cách mạng ở Việt nam. Những nhà yêu nước trẻ được đưa từ trong

nước sang và được đào tạo tại một cơ sở có cái tên rất kêu: Trường chính trị đặc biệt cho

Cách mạng Việt nam. Trường này ban đầu được đặt tại phố Dân Sinh, sau đó chuyển

sang một toà nhà 3 tầng thuộc sở hữu của một người thân Cộng sản ở phố Văn Minh (đối

diện với Đại học Quảng đông, bây giờ là bảo tàng Lỗ Tấnxxxviii). Tầng 1 là cửa hàng, lớp

học và văn pḥng củaQ ở tầng 2 c̣n kư túc xá ở tầng 3. Đằng sau có cửa hậu để chạy

trốn khi cảnh sát vây bắt. Giáo viên chủ yếu là các thành viên Thanh niên Hội như Mậu,

Quốc, nhưng thỉnh thoảng cũng có thầy từ phái đoàn Xôviet như Vasily Blucher (Galen),

P.A. Pavlov,M.V. Kuibyshev, V.M. Primakov, hoặc từ CCP như Lư Đạo Cơ, Chu Ân

Lai, Lư Phu Quân và nhà tổ chức nông dân Bằng Bái. Một phần ba kinh phí của trường

do CCP đài thọ, phần c̣n lại là đóng góp từ các tổ chức khác nhau, trong đó có các học

viên Việt nam tại học viện Hoàng Phố.

Thầy Vương (bí danh của Q) là thầy giáo nổi tiếng nhất trường. Học viên đều yêu ông

thầy mảnh khảnh, mắt sáng, giọng ấm, hài hước, dễ gần và đặc biệt kiên nhẫn trong việc

giải thích các khái niệm khó. Thầy Vương trở thành cuốn bách khoa sống khi cần đến các

số liệu. Một học viên đến giờ c̣n nhớ: “Thầy kể vanh vách, thực dân Pháp đã trộm bao

nhiêu tấn thóc, Ngân hàng Đông dương kiếm được bao nhiêu lợi nhuận, ông Varrene đã

chở về nước bao nhiêu cổ vật của dân ta”.

Cũng như ở Paris, Q vừa là thầy giáo, vừa là cố vấn tinh thần, một người nghiêm khắc và

một người bày tṛ có hạng. Q dạy học viên cách ăn nói, phát biểu, cách thông cảm với

nhân dân. Q lo lắng nơi ăn, chốn ở và động viên các học viên bằng một sự lạc quan vô bờ

bến vào sự thắng lợi của cách mạng. Như một nghi lễ, khi kết thúc khoá học, Q dẫn các

học viên thăm mộ của 72 liệt sĩ Trung hoa trên đồi Hoàng Hoa và tuyên thệ trước lăng

Phạm Hồng Thái.

Một số học viên tài ba hơn (ví dụ như Lê Hồng Phong) được phái đi tu nghiệp tiếp ở

Moscow. Một số người sung quân đội hoặc tham gia học viện Hoàng Phố. Nguyễn

Lương Bằng, một con nhà lao động, được chỉ thị kiếm việc trên tàu viễn dương để móc

nối giữa Hải pḥng và Hongkong. Hơn 70 học viên đă tốt nghiệp cho đến hết năm 1927.

www.langven.com

48

Đa số học viên quay về Việt nam và tiếp tục t́m kiếm thêm lính mới. Lớp này đa số cũng

từ tầng lớp môn sinh. Cảnh sát Pháp xác nhận khoảng 90% thành viên Thanh niên hội là

tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Năm 1928, hội có khoảng 300 thành viên ở Đông dương,

trong đó khoảng 150 ở Cochin China (Sài g̣n, Cần thơ, Mỹ tho), 80 ở Annam và 70 ở

Tonkin. Một năm sau, con số đă lên đến hơn 1700.xxxix NAQ đă đi những bước quan

trọng đầu tiên, tuy rất nhỏ và thận trọng, để chuẩn bị cho cuộc cách mạng xă hội chủ

nghĩa ở Việtnam. Ông đă viết trước đó vài năm: “Thật là sai lầm khi cho rằng Đông

dương đă sẵn sàng cho cách mạng, nhưng càng sai lầm hơn khi nghĩ rằng họ cam chịu và

không muốn làm cách mạng”

NAQ quá kinh nghiệm để hiểu rằng, muốn duy tŕ được tổ chức hăy c̣n trong trứng nước

của ḿnh, tuyên truyền là quyết định. Tạp chí Thanh niên ra đời. Được in tại Quảng châu,

xuất bản hàng tuần và gửi sang Việt nam qua đường thuỷ. Từ 21/6/1925 đến 5/1930, tổng

cộng đă có 208 số được phát hành. Cũng như với tờ Người cùng khổ, NAQ sử dụng lối

hành văn đơn giản, với nhiều biếm họa đả kích chế độ thực dân Pháp cũng như bọn vua

chúa bù nh́n. Hầu hết các bài xă luận đều do ông viết nhưng không kư tên. Thanh niên

Hội c̣n phát hành tờ Lính Kách Mệnh 2 tuần 1 lần và tạp chí Việt nam Tiền phong hàng

tháng.

Đối với các hội viên nằm trong chương tŕnh đào tạo, Q viết hẳn một cuốn sách nhỏ lấy

tên là Đường Kách mệnh. Đây là cuốn sách đầu tiên bằng tiếng Việt giải thích những

luận điểm căn bản của chủ nghĩa Max-Lenin và khả năng áp dụng ở Việt nam. Tuy không

có mục đích trước nhưng chắc chắn 1 số bản của cuốn sách này được tuồn về Việt nam.

Cuốn sách được viết bằng một văn phong cực kỳ đơn giản. Q biết chắc rằng đa số độc giả

thậm chí c̣n chưa biết thế nào là Kách mệnh (thuật ngữ này mới được đưa vào tiếng Việt

đầu thế kỷ 20, tiếng Hán có nghĩa là Thay đổi số mệnh), bởi thế, ngay từ đầu ông đă định

nghĩa KM là “phá hủy cái cũ, xây dựng cái mới, phá hủy cái xấu, xây dựng cái tốt”. Tiếp

đó, Q tiến hành phân thành 3 loại KM:

1. Tư sản (như ở Pháp, Nhật, US)

2. Dân tộc (như ở Italy thế kỷ 19, cách mạng 1911 ở Trung quốc)

3. Giai cấp (như cách mạng tháng 10 Nga)

Q khẳng định tất cả các cuộc KM đều được tiến hành theo hai giai đoạn: giai đoạn dân

tộc và giai đoạn toàn cầu. Tất nhiên quan điểm này được mượn của Lenin, nhưng Q cũng

đă khéo léo lồng ư của ḿnh vào đó. Ông không khẳng định rơ bao giờ th́ giai đoạn 2

mới bắt đầu. Thậm chí ông cho rằng, KM Việt nam chỉ có thể chuyển sang giai đoạn 2

nếu hầu như tất cả các nước đă làm việc đó. Q nhấn mạnh vai tṛ lănh đạo của liên minh

công nông, đặc biệt là vai tṛ của nông thôn trong KM Việt nam với hơn 90% dân làm

nông nghiệp. Giống như giai cấp công nhân trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, người

nông dân trong Đường KM “không có ǵ để mất ngoài xiềng xích”. Cái mà họ cần, như

Q đă từng viết ở Pháp trước đó là Tổ chức và Sự lănh đạo. Cách mạnh Việt nam cần có

một Đảng vững mạnh với những tư tưởng dễ hiểu và theo đuổi.

Một vấn đề thú vị được đề cập đến trong cuốn sách là tính cách của “nhà cách mạng”. Có

thể so sánh với cuốn “Tự bạch về nhà cách mạng” nổi tiếng của Nechayev, một tay

khủng bố Nga thế kỷ 19. Ông này cho rằng, nhà cách mạng là công cụ mù quáng để thực

hiện những lư tưởng cách mạng. Họ phải tàn nhẫn, dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục

tiêu, phải tuân thủ kỷ luật đảng, sẵn sàng từ bỏ những quan hệ bè bạn, gia đ́nh, thậm chí

lừa dối v́ lợi ích của CM. Tuy quan điểm cực đoan của Nechayev bị phê phán nhiều,

www.langven.com

49

nhưng Lenin vẫn rất khoái và nhiều điểm trong cuốn “Tự bạch” trở thành tiêu chuẩn của

người Bolsheviks. Có nhiều điểm tương đồng trong định nghĩa của Q về nhà cách mạng,

như tuân thủ kỷ luật đảng, đặt quyền lợi cách mạng lên trên quyền lợi cá nhân. Nhưng

điểm khác biệt chủ chốt ở cái hồn tinh thần nằm đằng sau hai bản tiêu chuẩn này. Trong

khi Lenin cho rằng những quan điểm đạo đức không liên quan lắm đến tính cách của

người CM th́ Q hầu như áp dụng tất cả những chuẩn mực đạo đức của người quân tử

trong đạo Khổng: tiết kiệm, cởi mở nhưng công bằng, cương quyết sửa chữa lỗi lầm, thận

trọng, ham học và quan sát, không kiêu ngạo và khoan hồng.

Nếu tính đến tài năng xuất chúng của Q trong việc thay đổi h́nh thức tuyên truyền cho

những đối tượng khác nhau, có thể cho rằng Q cố t́nh giữ những “bình cũ” để đưa “rượu

mới” v́ biết rằng đa số hội viên của ông xuất phát từ những gia đ́nh nho học và chắc

chắn vẫn giữ những giá trị căn bản của đạo Khổng. Tuy nhiên, thực tế cuộc đời HCM đă

chứng tỏ rằng đạo đức cá nhân ông: h́nh ảnh một con người giản dị và hào hiệp với niềm

lạc quan vô bờ bến và tinh thần nghiêm túc và hiến dâng cho những lư tưởng cách mạng,

đă trở thành sự đảm bảo tiêu chuẩn của ảnh hưởng của ông trong đảng. Đối với rất nhiều

người khác, HCM trở thành biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản Việt nam.

Cuốn sách của Q c̣n thỏa măn những logic thầm kín của Việt nam. Trong khi bảo đảm

rằng cách mạng VN sẽ được giúp đỡ từ cách mạng thế giới, người đọc cũng sẽ lấy làm

sung sướng được biết rằng phương Tây cũng chưa ra ǵ và sẽ c̣n phải trải qua những

thời loạn lạc. Việc phân tích nguyên nhân thất bại của các nhóm dân tộc chủ nghĩa cũng

rất có ư nghĩa cho lớp trẻ.Q đă chỉ ra rằng các nhóm này thiếu hẳn một tư tưởng, một ư

niệm rơ ràng về tương lai của Việt nam độc lập. Phật giáo với triết lư chịu đựng không

thể là tác nhân thay đổi. Khổng giáo bị mất giá trị trầm trọng do sự đầu hàng của triều

đ́nh. Bởi thế các nhóm dân tộc chủ nghĩa chủ yếu được xác định bởi vùng, miền, chiến

thuật hay cá nhân thủ lĩnh. Những hành động của họ chỉ biểu hiện sự phẫn uất của một

nhóm người trước một kẻ thù muôn lần mạnh hơn.

Có thể coi Đường Kách mệnh là cuốn sách tư tưởng nhưng quá hoang sơ, thậm chí nhiều

chỗ gây bối rối cho người đọc về chủ nghĩa Max-Lenin. Tuy nhiên với quan điểm tuyên

truyền rất rơ ràng của Q: càng đơn giản càng tốt, cuốn sách đă trở thành công cụ giới

thiệu tư tưởng tốt cho những nhà cách mạng sơ khởi. Ngoài ra, Q đă tiến một bước dài

trong phong trào cách mạng Việt nam và thế giới bằng việc lần đầu tiên nhấn mạnh vai

tṛ của nông thôn ở Việt nam và tương lai cách mạng châu Á. Một số nhà quan sát c̣n

cho rằng ĐKM là tác phẩm đầu tiên của “chủ nghĩa cộng sản nông thôn”, một biến thể

của chủ nghĩa Max-Lenin, vốn thường được gắn cho Mao Trạch Đông.

Tính đến mùa xuân năm 1927, chỉ với 2 năm ở Quảng châu, Q đă trở thành một thành

viên được kính trọng và không thể thiếu của phong trào cách mạng ở đây. Q chơi thân

với Chu Ân Lai, nhà tổ chức thanh niên Trương Đại Lợi (cần xem lại Zhang Tailei), lănh

tụ cánh tả của Quốc dân Đảng Lăo Trung Khải (Liao Zhong Kai). Cuộc sống xem ra đă

có vẻ ổn định, Q dự kiến kiếm 1 cô vợ Tàu vừa để học tiếng và lo việc gia đ́nh và nhờ

“thổ công” Lâm Đức Thụ lo hộ vụ này. Q chỉ đặt một điều kiện: “không trả một xu” (trái

với tục lệ người Hoa)

Nhưng chẳng có vấn đề gì, Thụ tìm ngay được 1 cô tên là Tăng Tuyết Minh, con gái vợ ba của

một nhà buôn. Sau khi bố chết, cô này bị đuổi ra khỏi nhà, sống vạ vật cho đến khi làm quen

được với vợ của Thụ. Nhiều đồng chí của Q đã phản đối cuộc hôn nhân này vì cho rằng Minh

không được học hành đầy đủ, tuy nhiên Q vẫn quyết định cưới và hai vợ chồng cùng sống trong

căn phòng của Q tại biệt thự của Borodin. Tuyết Minh khá xinh (theo lời kể thì mặt tròn, môi nhỏ,

da mịn, tóc thề ngang vai), nhưng chẳng quan tâm gì đến các vấn đề dân tộc và cách mạng. Sau

www.langven.com

50

mấy lần thử tìm cách dụ dỗ thất bại, Q từ bỏ ý định thay đổi quan điểm chính trị của vợ. Có

nguồn tin cho rằng, vợ chồng Q có một đứa con gáixl

Tuy nhiên mây đen đang che phủ dần sự nghiệp của Q ở Quảng châu. Trong khi ông đang tìm

cách dẹp yên những đốm lửa bất hoà ở trong nước thì tình hình Trung quốc thay đổi nhanh

chóng. Cuộc hôn phối khó khăn Quốc – Cộng trong những năm qua được duy trì chủ yếu nhờ uy

tín cá nhân của Tôn cũng như quan hệ thân thiết giữa Tôn và Borodin. Tuy nhiên cái chết của

Tôn năm 1925 trong khi đang thương thảo với tướng Phương Yuxiang, đã thay đổi tất cả. Sau

một cuộc chiến quyền lực ngắn, Tưởng Giới Thạch lên nắm quyền. Tưởng tạm thời duy trì liên

minh mặc dù có sự phản đối quyết liệt của phái hữu trong QDĐ. Bản thân Tưởng cũng chẳng có

thiện cảm gì với cộng sản. Sau chuyến viếng thăm Matxcova năm 1923, Tưởng hiểu rằng mục

đích cuối cùng của Matxcova là loại bỏ đảng của ông ta. Ngày 12/4/1927, trong chiến dịch chung

tiễu trừ cát cứ tại phía Bắc và Trung nguyên, Tưởng đã ra tay, điều quân tàn sát hàng ngàn đảng

viên cộng sản và những người ủng hộ tại Thượng Hải.

Quảng châu phản ứng tức thì, quân đội của Lu Jishen bao vây hơn 2000 đảng viên cộng sản.

Hàng trăm học viên thân cộng tại Hoàng Phố (trong đó có một số Việt nam) bị bao vây và bắn

chết. Bạn Q, Trương Lợi cũng nằm trong số này. Khi quân của Lý tiến hành bao vây lãnh sự

quán Liên xô, Borodin và một số cộng sự phải trốn sang Vũ hán. Ban đầu, phòng nhì Pháp cũng

nghĩ là Q sẽ chạy theo Borodin. Thực tế thì Q đã ở lại vì tin tưởng vào những mối quan hệ của

mình với QDĐ. Tuy nhiên ông cũng ẩn vào một chỗ hẻo lánh hơn và đi bán báo để kiếm tiền sinh

sống. Chẳng được bao lâu, Trương Văn Lệnh, một tay chân trước đây của Tâm Tâm Xã, đang là

quan chức của chính quyền thành phố, đã mật báo là đã có lệnh bắt Q và ông phải trốn càng

nhanh càng tốt. Người đã chỉ điểm Q chính là Nguyễn Hải Thần. Thần vốn là bạn thân của Thụ

và đã từng ở nhà ông này. Q muốn hợp tác với Thần và những thành viên còn sót lại của Phan

Bội Châu VNQDĐ, nhưng Thần kịch liệt phê phán xu hướng thân cộng của Thanh niên hội. Năm

1926 Trương Bội Công mò đến từ Bắc kinh càng thôi thúc Thần phải thành lập đảng mới để

chống lại ảnh hưởng của hội.

Ngày 5/5/1927, Q lên tàu đi Hồng kông bỏ Tuyết Minh lại Quảng châu. Cùng ngày, nhà ông bị

khám xét. Một lần nữa Nguyễn Ái Quốc lại lên đường.

www.langven.com

51

Thanh kiếm báu

Q nghĩ ǵ khi nh́n qua cửa sổ ngắm những cánh đồng lúa xuân đang vào vụ gặt trên con

tàu đi vào vô định ngày ấy. Chắc chắn là ông hài ḷng v́ những ǵ đă làm ở Quảng châu.

Đích thân ông đă đào tạo hàng trăm chiến sĩ phân phối về cả 3 miền đất nước, thành lập

một tổ chức vững mạnh làm tiền thân cho đảng cộng sản Đông dương sau này. Cuộc đảo

chính của Tưởng đă làm đảo lộn tất cả. Thanh niên Hội không thể đặt trụ sở ở Quảng

châu được nữa. Liên lạc giữa Q với các đồng chí trong nước đă bị cắt đứt, có thể phải đến

hàng năm. Bản thân Q cũng chưa biết ḿnh sẽ đi về đâu!

Ban đầu, có thể Q (vẫn đang dùng tên là Lư Thuỵ) đă hy vọng là sẽ dùng HK làm nơi cư

trú và bàn đạp cho tổ chức của hội. Nhưng chính quyền sở tại nghĩ khác và ngay ngày

hôm sau Q phải lên đường đến Thượng Hải, thành phố vẫn đang c̣n bàng hoàng về vụ

“khủng bố trắng”. Để che mắt, Q phải đóng giả một nhà buôn và thuê pḥng khách sạn

sang trọng. Chẳng mấy chốc hết tiền, Q may mắn vớ được một chuyến tàu về

Vladivostok.

Vladivostock khi đó là cơ quan đầu năo của các hoạt động cách mạng tại Viễn đông. Tại

đây,Q đă gặp lại Jacques Doriot, một trong những ngôi sao đang lên của Đảng cộng sản

Pháp. Ông cũng gặp lại đại diện QTCS Grigori Vointinsky. Mỗi ông một ư, Doriot

khuyên Q dựa vào FCP để thâm nhập Đông dương từ Thái lan, Voitinsky th́ lại đề nghị

Q về Thượng hải và xây dựng phong trào trong đám lính Việt đang đóng ở đó. Q lịch sự

lắng nghe, nhưng trong thâm tâm, ông đă biết ḿnh phải làm ǵ.

Q về đến Matxcova tháng 6 năm đó và ngay lập tức viết đơn xin phép được cấp kinh phi

để có thể hoạt động ở Thái lan trong khoảng 2 năm. Trong khi chờ phê duyệt, Q viết một

loạt các bài báo cho Inprecor miêu tả t́nh h́nh tại Đông dương. Sau chuyến đi nghỉ chữa

bệnh ở nhà nghỉ Eppatoria Crum (chưa rơ bệnh ǵ), Q nhận được tin vui: Trường Stalin

đă quyết định thành lập phân ban Việt nam cho những sinh viên đă được Q gửi đi từ

Quảng châu. Trong số đó, Trần Phú là người gây được nhiều chú ư nhất. Con một viên

quan triều đ́nh ở Quảng ngăi, Phú đă tham gia một đảng dân tộc nhỏ, khi sang Quảng

châu để bàn việc hợp tác với Thanh niên hội, Phú đă bị Quốc thu phục và gửi sang

Matxcova đào tạoxli

Tháng 11/1927, thay v́ chi tiền cho Q đến Thái lan, QTCS điều ông sang Pháp để vạch

một chiến lược toàn diện hơn xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng. Không thấy đả động

ǵ đến chuyện kinh phí cả. Trên đường sang Paris, Q ghé qua Berlin, tại đây ông tham gia

xây dựng chi nhánh của Liên hiệp Phản đế (vỏ bọc của đại diện Liên xô ở nước ngoài).

Đến Pháp, mặc dù được báo cáo trực tiếp cho trung ương FCP, Q tỏ ra hết sức thất vọng

v́ vấn đề thuộc địa không được ai quan tâm. Cũng không ai đề nghị t́m việc làm hoặc

cấp kinh phí ǵ cho Q cả. Quăng cuối tháng 12, Q tham gia hội nghị Trung ương Liên

hiệp Phản đế tại Brussel. Tại đây ông đă làm quen với Sukarno, Nehru, gặp lại ông bạn

Nhật Katayama Sen và đặc biệt với vợ góa của Tôn Trung Sơn Tống Khánh Linh, người

sẽ giúp đỡ Q trong thời điểm quyết định sau này.

Sau hội nghị, Q chỉ trở về Paris một thời gian ngắn và sang Berlin. Ông viết thư cho

Dombai xin tiền của Quốc tế Nông dân để về Đông dương hoạt đông. Ông này khuyên Q

nên xây dựng phong trào nông dân ở các tỉnh biên giới với Trung quốc nhưng cũng

không thấy đả động ǵ đến chuyện tiền nong. Chẳng có việc ǵ làm, Q dự định hoàn thành

một cuốn sách khoảng 120 trang về những kinh nghiệm bản thân trong phong trào nông

www.langven.com

52

dân Trung quốc. Đến khoảng tháng 4 th́ Q cạn tiền, ông viết một bức thư thống thiết về

Dalburo miêu tả ḿnh như một người :

Không được làm việc ở Pháp, vô dụng ở Đức nhưng rất cần ở Đông dương. Tôi đã khẩn

thiết đề nghị tổ chức cung cấp tài chính để tôi có thể trở về Đông dương hoạt động. Tôi

đã nói với đồng chí Khi Doriot khi đi ngang qua đây là nếu không có tiền sống thì hãy

cho tôi tiền đi lại để tôi có thể lên đường chứ không phải lang thang ở châu Âu này nữa.

Rốt cuộc chẳng có hồi âm gì. Tình hình của tôi hiện tại như sau: 1/chờ đợi chỉ đạo trong

vô vọng 2/không có gì để sống...

Hai tuần sau Q nhận được giấy phép trở về Đông dương, FCP cấp tiền đi đường và 3

tháng ăn ở. Đầu tháng 6, Q rời Berlin, qua Thụy sĩ, sang Italia. Tại biên giới, theo lời kể

của Q, may mắn sao tên Q lại không có trong Từ điển chống QTCS của bọn cảnh sát phát

xít. Tuy nhiên Q vẫn bị bắt tại Rome và bị đánh đập tàn nhẫn. Cuối cùng ông cũng được

thả và lên một con tàu Nhật ở Naple để về Thái lan. Đó là cuối tháng 6/1928.

Q đến TL tháng 7/1928. Vương quốc Thái lan khi đó là quốc gia duy nhất ở ĐNA không

phải là thuộc địa. Bởi thế ngay cả nhà cách mạng nổi tiếng như Q cũng được đi lại thoải

mái, chẳng ai quan tâm. Trước đó, theo lệnh của Q, thanh niên Hội đă xây dựng mạng

lưới trong giới Việt kiều, vốn tập trung rất đông tại khu vực cao nguyên Khorat, Đông

bắc Thái lan. Từ vùng núi Trường sơn đến cao nguyên này khoảng 2 tuần đi bộ, chính

quyền Thái lan lại ưu ái các nhà yêu nước Việt nam, bởi thế khu vực này có thể được coi

là thánh địa chống thực dân. Nhiều người trong số 20.000 Việt kiều ở khu vực này là tín

đồ cũ của phong trào Cần Vương và Phan Bội Châu. Từ năm 1925, NAQ đă cử Hồ Tùng

Mậu sang lập 4 chi nhánh tại Phichit, Nakhon Panom, Udon Thani và Sakon Nakhon

dưới dạng các hợp tác xă sản xuất nông nghiệp.

Từ tháng 8 năm 1928, trong cộng đồng người Việt tại Bandong (một huyện của Phichit)

xuất hiện một người Việt nam lạ mặt tự xưng là Thầu Chin. Ông ở đây 2 tuần và tháng

9/1928 vượt 10 ngày đường rừng để đến Udon Thani. Có ngày ông đi được đến 70 km.

Cộng đồng người Việt ở đây vốn xuất phát là dân tiểu thương nên lười lao động và không

muốn hoà nhập với xă hội Thái. Thầu Chin đến thay đổi tất cả. Đích thân ông đứng ra xin

phép và khênh gạch để xây trường học cho bà con học tiếng Thái. Mỗi ngày ông đặt

quyết tâm học 10 từ Thái. Tối tối ông đến các gia đ́nh, kể cho họ nghe t́nh h́nh thế giới

và Đông dương, giải thích cho họ chính quyền và người dân Thái ủng hộ cuộc đấu tranh

của nhân dân Việt nam. Ông đổi tên tờ báo tiếng Việt Đồng Thanh thành Thân Ái (gắn

với một tổ chức do Thanh niên Hội lập ra), bằng cách hành văn dễ hiểu, qua các bài thơ

và vở kịch kích động tinh thần yêu nước. Đầu năm 1929, Thầu Chin đến Sakhon Nakhon.

Dân ta ở đây không được giác ngộ cho lắm, thờ chúa, phật và cả Trần Hưng Đạo đủ cả.

Mỗi khi mắc bệnh lại cúng vái tứ phương. Thầu Chin đích thân chẩn bệnh và mời bác sĩ

đến chữa bệnh cho nhân dân. Ông cũng không ngần ngại sử dụng đức Thánh Trần cho

việc tuyên truyền yêu nước

Trên Điện Diên Hồng, ngàn người như một

Kẻ nào muốn cướp Việt nam hãy bước qua xác chúng ta

Còn một người Việt còn sống là sông núi Việt nam vẫn là của ta

Mật thám Pháp đă mất khá nhiều công sức để t́m Q sau khi ông rời Quảng châu năm

1927. Pḥng nh́ Pháp đă ḍ được Quốc ở Paris nhưng lại mất vết khi Q bỏ Brussel. Năm

1928, 1929 chúng nghe nhiều tin đồn về một người Việt kỳ lạ lang thang trong các làng

Việt kiều ở Đông bắc Thái và t́m cách xác định danh tính người này. Tháng 10/1929, toà

án triều đ́nh tại Vinh đă xử tử Q vắng mặt về tội nổi loạn. Trong hồi kư của ḿnh, Q đă

nhắc đến việc có lần phải cắt tóc trốn vào chùa đi tu để tránh cảnh sát.

www.langven.com

53

Trong lúc Q lặn lội sang Xiêm th́ các đồng chí của ông t́m mọi cách để giữ vững hoạt

động của Thanh niên Hội. Sau khi hầu như những thành viên chủ chôt được thả, Hội

được đặt dưới sự lănh đạo của Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu với trụ sở tại căn phố hẹp

Dân Sinh gần Cửa Dong Da địa điểm cũ của Trường đào tạo. Tháng 12/1927 các đảng

viên CCP liều lĩnh mở cuộc khởi nghĩa và bị đàn áp dă man. Nhiều chiến sĩ của Hội cũng

tham gia và bị giết. Lê Hồng Sơn và một số người khác bị bắt và đưa ra toà, nhưng không

bị buộc tội mà bị trục xuất. Hồ Tùng Mậu chuyển trụ sở sang Hồng kông và mất liên lạc

với CCP và QTCS.

Dù những thất bại tạm thời Thanh niên Hội vẫn có vị trí vững chắc trong phong trào cách

mạng Việt nam. Hội tiếp tục mở rộng trong nước và đàm phán với các đảng phái chính trị

khác để thành lập mặt trận thống nhất chống Pháp. Có điều các cuộc đàm phán này

thường diễn ra trong không khí nghi kỵ v́ Hội kiên quyết giữ vai tṛ lănh đạo. Quăng

tháng 12/1927, một số nhà giáo và nhà báo ở Bắc bộ và Bắc Annam thành lập ra

VNQDĐ. Tuy cùng tên với đảng của Phan Bội Châu nhưng chẳng có liên quan ǵ. Đảng

này theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn và cũng có mong muốn hợp tác với Thanh niên

Hội. Hai bên đă từng hẹn đàm phán tại Xiêm nhưng thất bại v́ Hội không cử đại diện

đến. Vả lại QDĐ không chấp nhận sự lănh đạo của Hội ở trong nước, tất yếu dẫn đến sự

tranh giành ảnh hưởng quyết liệt giữa hai tổ chức.

Ngoài ra những mâu thuẫn trong Hội cũng bắt đầu xuất hiện. Thực ra mâu thuẫn này có

nguồn gốc từ chính sách hai mặt của Q: cam kết theo chủ nghĩa quốc tế Max-Lenin

nhưng vẫn lấy độc lập dân tộc làm cương lĩnh hoạt động chính. Sau khi Q rời Quảng châu

mùa xuân năm 1927, một số học tṛ của ông như Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu nhanh

chóng trở thành những người Marxist đầy khao khát, trong khi đó Lâm Đức Thụ và một

số cựu binh lại quan điểm khác. Mâu thuẫn trở nên trầm trọng khi mùa xuân năm 1928,

tại một cuộc họp ở nhà riêng của Thụ, ông này đă t́m cách thông qua đượ__________c bản cương

lĩnh mang tính dân tộc mà chẳng đả động ǵ đến cách mạng xă hội hay đấu tranh giai cấp

ǵ cả

xlii

.

Trong ba năm đầu tiên, cả hai phái trong Hội đều ḱm chế, tuy nhiên sau hội nghị HK,

mâu thuẫn bùng phát dẫn đến tan vỡ tổ chức. Mọi sự khởi đầu từ nhóm lănh đạo Bắc bộ

và bí thư thứ nhất Trần Văn Cung. Ông này người xứ Nghệ, đảng viên đảng Tân Việt,

tham gia khởi nghĩa Quảng Châu và đă từng ngồi tù Quốc dân đảng. Cung cũng tham dự

vào hội nghị HK và tỏ ra rất thất vọng về đường lối uỷ mị của ban lănh đạo mới. Cung

không tin là có thể thuyết phục nông dân và công nhân ủng hộ chỉ bằng diễn thuyết chung

chung về ḷng yêu nước và độc lập dân tộc. Cần phải mang lại cho họ những lợi ích kinh

tế cụ thể. Không được chào đón nồng nhiệt ở hội nghị, Cung quay ra thuyết phục các

đồng chí ḿnh ở Bắc bộ

xliii

.

Đầu tiên họ không hài ḷng về việc chẳng ai quan tâm chiêu mộ giai cấp vô sản vào Hội.

Ngoài Tôn Đức Thắng, thợ máy của Pháp về nước trở thành lănh tụ công đoàn tại nhà

máy đóng tàu Ba son và một vài “công hội đỏ” khác ở những thành phố lớn, không có

nhiều công nhân gia nhập Hội. Hoạt động của Hội chủ yếu dựa vào các sinh viên từ TQ

trở về. Số này phần lớn xuất thân từ thành phần học giả và chủ yếu mở rộng tổ chức trong

tầng lớp bạn bè của ḿnh. Cơ sở Hội ở nông thôn cũng rất yếu.

Thứ đến, họ không hài ḷng về thái độ của lănh đạo Hội đối với việc thành lập Đảng cộng

sản mà theo họ là tuyệt đối cần thiết. Tại hội nghị 5/28 ở HK, khi Cung nêu vấn đề, Thụ

đă gạt đi “để xem sau”. Sự bất măn càng lộ rơ trước thềm đại hội VI của QTCS được tổ

chức vào hè năm 1928. Thất vọng trước sự tan vỡ của liên minh Quốc – Cộng dẫn đến sự

www.langven.com

54

đàn áp đẫm máu những người cộng sản tại TQ, bị buộc phải tỏ ra cứng rắn trong cuộc

đấu tranh giành quyền lực với Troski, Stalin đă yêu cầu các đại biểu từ bỏ chính sách mặt

trận liên hiệp rộng răi được thông qua tại đại hội II 8 năm trước. Các đảng CS tại thuộc

địa được chỉ thị không liên minh với các đảng tư sản dân tộc. Nội bộ trong đảng cũng

phải thanh lọc các phần tử “tiểu tư sản”. Những đảng viên thành phần trung lưu phải

được đưa đi “vô sản hoá”.... Tất cả phải hành động để chuẩn bị cho làn sóng cách mạng

mới trong điều kiện nền kinh tế của các nước tư bản châu Âu đang có dấu hiệu đ́nh trệ,

hứa hẹn một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

V́ chưa có đảng CS, Việt nam không có đại diện chính thức tại đại hội VI. Tuy nhiên có

3 người Việt nam trong thành phần đảng CS Pháp. Một người tên là Nguyễn Văn Tạo,

quê gốc Nghệ an, đă từng bị đuổi khỏi trường tại Sài g̣n do các hoạt động chống đối.

Ông này đă phát biểu tại đại hội dưới tên An, kêu gọi cần nhanh chóng thành lập ĐCS ở

Việt nam để lănh đạo giai cấp vô sản nhỏ nhoi ở đó. Ông c̣n cho rằng những tổ chức dân

tộc cải lương như đảng Hiến pháp, đảng độc lập Việt nam (do Nguyễn Thế Truyền lập)

theo đường lối cải cách hoà b́nh là “cực nguy hiểm” v́ đánh lạc hướng dân chúng.

Những nghị quyết của đại hội VI QTCS càng làm căng thẳng thêm những bất đồng và đổ

thêm dầu vào yêu sách đ̣i cải tổ Hội thành đảng cộng sản có ư thức hệ tư tưởng rơ ràng.

Dẫn đầu phe chống đối vẫn là Trần Văn Cung. Sau một thời gian làm thợ, Cung tin tưởng

rằng chỉ bằng những khẩu hiệu yêu nước, khó có thể lấy được sự ủng hộ của công nhân.

Cần phải tăng tiền lương, giảm giờ làm! Và chỉ có đảng CS mới làm được việc đó!!!

Tháng 5/1929, Thanh niên Hội tiến hành đại hội đầu tiên. 17 đại biểu đại diện cho hơn

800 thành viên tại Bắc bộ, 200 từ Nam bộ và 200 từ Trung bộ tập trung tại HK. Ngay sau

khi đến nơi, Cung gặp Lê Hồng Sơn đề nghị giải tán Hội và thành lập ĐCS. Là thành

viên của nhóm cộng sản ṇng cốt do NAQ thành lập trong Hội, đương nhiên là Sơn ủng

hộ việc cải tổ. Tuy nhiên Sơn nghĩ chưa đến thời điểm v́ các thành viên c̣n chưa đủ giác

ngộ. Vả lại thành lập ĐCS ở HK dễ gây chú ư cho chính quyền QDĐ tại Quảng châu.

Tuy nhiên Cung không nghe và đưa ra đề nghị ngay tại ngày đại hội đầu tiên. Bị chủ tịch

Lâm Đức Thụ từ chối thẳng thừng, Cung cùng với các đồng chí liền bỏ hội nghị về Bắc

bộ lập ra Đông dương cộng sản Đảng (CPI), công khai chỉ trích Hội không tuân theo các

quyết định của QTCS. Sau khi Cung bỏ đi, hội nghị tiếp tục họp và thông qua nghị quyết

về sự cần thiết thành lập một ĐCS ở Việt nam, tuy nhiên thời điểm chưa chín muồi do

giai cấp công nhân c̣n quá yếu và thiếu một lư thuyết cách mạng. Hội nghị cũng chính

thức đề nghị QTCS công nhận Hội.

Các nhà lănh đạo Hội đă mắc sai lầm nghiêm trọng khi đánh giá thấp sự ủng hộ cho một

đảng cộng sản từ phong trào cách mạng trong nước. CPI ra sức lùa các thành viên của

Hội sang hàng ngũ của ḿnh. Tháng 8, Hồ Tùng Mậu và Lê Quang Đạt ra tù ở Quảng

châu và trở về HK. Được sự ủng hộ của Sơn, họ bí mật thành lập tổ chức cộng sản bên

trong Hội, gọi là An Nam cộng sản Đảng (ACP), cho Lâm Đức Thụ ra ŕa. Những chi bộ

đầu tiên của ACP được thành lập ở Nam bộ. Cùng tháng, Mậu gửi thư cho Cung đề nghị

sát nhập, nhưng Cung từ chối v́ “bận”. Bí quá, Mậu viện cả QTCS: “Nếu chúng ta có hai

Đảng, 1 ở phía Nam, một ở phía Bắc, thì không hiểu quốc tế thứ Ba sẽ nghĩ thế nào?”.

Suốt năm 1929, các phe phái tiếp tục đả kích nhau với chiếc mũ “mensevick”. Cuối tháng

10, CPI cử Đỗ Ngọc Du tới HK để hoà giải mà không cần sự giúp đỡ của người ngoài.

Tuy thế, do đă được dặn trước, Du cứ khăng khăng đ̣i ACP giải thể và các đảng viên sẽ

gia nhập CPI. Lẽ dĩ nhiên là ACP từ chối.

www.langven.com

55

Trong khi đó, các đảng viên của Tân Việt ở miền Trung cũng gia tăng hoạt động. Họ đổi

tên thành Đông dương cộng sản Liên đoàn, nhằm tránh sự đào tẩu của đảng viên sang hai

đảng kia. Thế là ở Việt nam có 3 đảng cộng sản một lúc c̣n Hội th́ chỉ c̣n cái vỏ. Cuối

tháng 8, được tin NAQ đang hoạt động ở Xiêm, Sơn cử Lê Duy Diễm liên lạc với Q, hy

vọng rằng Q, như người sáng lập Hội có thể sử dụng uy tín và khả năng thuyết phục của

ḿnh để hoà giải giữa các phe phái.

Matxcova cũng phê phán kịch liệt “sự chần chừ và thiếu kiên quyết” của Hội và ra mặt

ủng hộ CPI. QTCS nhấn mạnh sự cần thiết phải có ngay một đảng thống nhất để lănh đạo

phong trào tại Đông dương và hứa sẽ gửi đại diện đến làm trung gian. Giọng điệu của

Matxxcova càng hưng phấn khi nghe thị trường chứng khoán NewYork sập, tiếp theo

những vụ khủng hoảng ngân hàng tại Áo. Các nhà lănh đạo Xô viết như cảm thấy thời

khắc sụp đổ của chủ nghĩa tư bản toàn cầu đă điểm. Mùa thu 1928, Dalburo mở chi

nhánh ở Thượng hải, gọi là Cục Viễn đông (FEB) . FEB đề xuất thành lập một tổ chức

mới với trụ sở ở Sing để điều phối hoạt động các nhóm cộng sản ở ĐNA, với tên gọi:

“Liên hiệp các nhóm cộng sản”. ACP nắm được tin này qua các đồng chí TQ của ḿnh và

tỏ ra không hào hứng lắm. Đảng cộng sản Nam Dương, thành lập ở Sing giữa những năm

20, chủ yếu là dành cho người Hoa, v́ thế chịu ảnh hưởng sâu sắc của CPP. ACP sợ rằng,

CPP thực tế sẽ định hướng các hành động của họ. Họ cho rằng các đồng chí TQ thường

chỉ quan tâm các vấn đề của ḿnh và coi thường các dân tộc khác. Sơn gửi Lê Quang Đạt

đến Thượng Hải để thuyết phục FEB trực tiếp lănh đạo ACP. Ngày 16/12/1929 Hồ Tùng

Mậu gặp phái viên của QTCS tại HK. Phái viên này cho rằng cả 3 phe đều chưa xứng với

danh hiệu “cộng sản” và nếu chưa có đảng thống nhất, hăy cứ để cho CPP lănh đạo

xliv

Tại Xiêm,Q được các đại biểu đi dự hội nghị 5/29 thông báo về sự chia rẽ trong Hội.

Liền đó, tháng 9, Q viết một bức thư gửi cho CPI nói toẹt ra rằng, ông chỉ tin tưởng vào

những người cộng sản, và để chứng tỏ ḷng trung thành của ḿnh với QTCS, CPI cần cử

đại diện sang dự hội nghị dự kiến sẽ diễn ra ở Vladivostok vào đầu năm 1930. Lănh đạo

CPI chần chừ.Q đă hai lần định vượt biên giới về Việt nam nhưg phải hoăn v́ bị cảnh sát

theo dơi quá sát sao. Khi ông đang chuẩn bị lần thứ ba th́ phái viên từ Hôngkong đến (có

thể là Lê Duy Diễm) mang theo những tin tức khẩn cấp. Q liền đi Bangkok và từ đó đáp

tàu đi Quảng châu. Q đến Quảng châu 20/1/1930. V́ sợ cảnh sát Anh, Q viết thư mời các

đồng chí của ḿnh từ HK. Tuy nhiên họ lại cho rằng gặp nhau ở HK an toàn hơn v́ cảnh

sát Anh tỏ ra bao dung với các hoạt động của các ngoại kiều, miễn là đừng mất ổn định

của HK. Điều kiện sống ở HK xem ra cũng tốt hơn ở Quảng châu. Người Hoa ở đây hiền

hơn, thỉnh thoảng mới xảy ra băi công. Hồ Tùng Mậu cử một đệ tử của ḿnh hộ tốngQ

đến HK và ở một khách sạn tại Cửu long. Ngay lập tức,Q đến nhà Lê Hồng Sơn và gặp

các lănh đạo của Hội. Ông đả kích họ đă xa rời quần chúng, miêu tả việc tách đảng như

“tṛ trẻ con”. Q c̣n gặp với đại diện của CCP. Sau đó, ông gửi thư mời ba phái cạnh

tranh ở Đông Dương đến HK để chuẩn bị thành lập đảng mới.

Cuối tháng Giêng, các đoàn ACP, CPI từ Đông dương lục đục kéo đến HK. Đại biểu của

Liên đoàn bị bắt trên tàu thuỷ v́ bị nghi đánh bạc. Ngày 3/2, Đại hội hợp nhất được diễn

ra tại một căn nhà nhỏ ở khu phố nghèo của Cửu long, sau đó lại phải chuyển đến một

sân vận động. Đại biểu của ACP là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiều, đại biểu CPI là

Trịnh Đ́nh Cừ và Nguyễn Đức Cảnh. Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn đại diện cho Hội

cũ. Đại hội diễn ra một cách êm thấm đáng ngạc nhiên. Q nhẹ nhàng chỉ trích tất cả các

bên và nhấn mạnh sự cần thiết phải đoàn kết. Hoá ra các mâu thuẫn kịch liệt chỉ là biểu

hiện của tự ái cá nhân. Miền bắc th́ chê miền nam lười và dễ tính, miền nam lại chê miền

www.langven.com

56

bắc khắc khổ và ương ngạnh. Cả hai đều không bằng ḷng với việc các đồng chí Nghệ An

chiếm hết vị trí lănh đạo. Để tránh phiền phức, Q sử dụng uy tín QTCS của ḿnh đề xuất

giải tán tất cả các tổ chức hiện tại, lập ra đảng mới và được tán thành tức th́. Chỉ c̣n một

vấn đề là đảng mới sẽ lấy tên là ǵ. Nhưng điều này Q cũng đă lo trước, ông bỏ cả Đông

dương, An nam và sử dụng lại chữ Việt nam của triều Nguyễn, đảng mới sẽ có tên là

Đảng cộng sản Việt nam (VCP). Phần c̣n lại của Đại hội diễn ra trong không khí đoàn

kết và thân ái tiếp tục thông qua điều lệ và cương lĩnh của Đảng.

Cần phải nhắc lại rằngQ đă được báo cáo về Đại hội 6 của QTCS và những thay đổi về

đường lối của phong trào, tuy nhiên ông không nhận được bức thư phê phán của QTCS

trực tiếp gửi Hội năm 1929 thông qua FCP. Mặc dù thừa nhận rằng ở Việt nam chỉ có thể

diễn ra cách mạng dân chủ tư sản, QTCS vẫn nhấn mạnh giai cấp công nhân phải giữ vai

tṛ lănh đạo và đấu tranh với tất cả các biểu hiện của bọn “dân tộc xét lại”. Lư thuyết

cách mạng hai giai đoạn của Lê nin được Hội kế tục cũng bị đả kích là “ḱm hăm và làm

suy yếu quần chúng”. Cuối cùng bức thư kết luận: “không cần phải đợi đến khi ACP

được tái tổ chức mới có thể phát động quần chúng nổi dậy”.

Chịu ảnh hưởng của sự thay đổi đường lối của QTCS, Lời kêu gọi của đại hội thống nhất

tuy vẫn được gửi cho toàn thể nhân dân (công nhân, nông dân, binh lính, sinh viên học

sinh và tất cả anh chị em bị áp bức bóc lột) Việt nam, nhưng đă xoá đi quan điểm củaQ

về liên minh công-nông chiến lược. Lời kêu gọi công khai nhấn mạnh đây là “Đảng của

giai cấp vô sản”, có nhiệm vụ lật đổ “chế độ thực dân đế quốc, tàn dư phong kiến và các

lực lượng tư sản phản cách mạng”, lập nên nhà nước “công nông binh” dần dần chuyển

tiếp thành nhà nước XHCN. Dù thế, Q cũng không dễ dàng từ bỏ đường lối thành lập mặt

trận rộng răi của Lenin. Tài liệu chiến lược mới của đảng mới đ̣i hỏi phải lôi kéo sự ủng

hộ của trung nông, trí thức, tiểu tư sản và các nhóm dân tộc như đảng Hy vọng Thanh

niên của Nguyễn An Ninh. Chỉ có đảng Hiến pháp của Bùi Quang Chiêu là bị coi là rơ

ràng “phản động”. Chính sự trung thành với Lê nin này sẽ mang lại cho Q rất nhiều sự

rắc rối trong thời gian sắp tới.

Trong thư gửi Hilary Noulens, đại diện cho FEB (Far East Buro), Q miêu tả: “Từ quả

trứng Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, đă nở ra Đảng cộng sản Việt nam. Một tổ

chức tuy c̣n non trẻ nhưng đượ__________c tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất và sẽ tiến bộ nhanh

chóng”. Đảng có 204 đảng viên ở Bắc và Trung bộ, 51 tại Nam bộ, 15 ở Trung quốc và

40 ở Xiêm. Trong các tổ chức sinh viên, học sinh, nông dân, Đảng có khoảng 3500 môn

đồ.

Thanh kiếm thần mà Lê Lợi đă dùng để đánh tan quân xâm lược từ thế kỷ 15, giờ đây

đang nằm trong tầm tay của Q.

www.langven.com

57

Nghệ Tĩnh đỏ

Đảng cộng sản Việt nam ra đời, thỏa măn ước mơ của Q khi rời quê hương cách đây 21

năm, t́m một con đường để giải phóng đất nước. Cùng với cuộc đại khủng hoảng đang

diễn ra ở thế giới tư bản, phong trào cách mạng ở Đông dương có vẻ như minh chứng cho

dự báo của QTCS về ngày huy hoàng sắp đến của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, với Q,

có nhiều câu hỏi cần phải trả lời. Liệu đảng mới sẽ thuộc đảng bộ sắp được thành lập tại

Singapore hay sẽ báo cáo trực tiếp cho văn pḥng FEB tại Thượng Hải? Liệu Q sẽ tiếp

tục đóng vai tṛ đại diện của QTCS hay sẽ trực tiếp lănh đạo Đảng? Nếu lănh đạo th́ sẽ

đóng ở đâu v́ nếu Q về Đông dương, sẽ bị bắt và xử ngay. Ngày 13/2, bất chấp cái lạnh,

Q đi Thượng hải để liên lạc với Hilaire Noulens tại trụ sở của FEB trong một biệt thự

châu Âu trên phố Nam kinh náo nhiệt.

Gặp Noulens không phải là việc dễ. Ngày 18, Q viết thư cho Nou, giọng rất bức xúc:

Tôi phải gặp đồng chí ngay, bởi vì 1/ báo cáo này đã viết 2 ngày vẫn chưa đến được tay

đc; 2/ Mọi việc có thể giải quyết trong 1 giờ mà tôi đã ở đây 5 ngày rồi; 3/ tôi buộc phải

ngồi không trong khi công việc chỗ khác đang chờ.

Trong bức thư, Q cũng kiên quyết phản đối quan điểm của QTCS về việc thành lập các

đảng khu vực, bỏ qua yếu tố dân tộc. Q không đồng ư để VCP thuộc đảng bộ Đông Nam

A, cho rằng Việt nam cần phải có một đảng độc lập, báo cáo cho FEB qua văn pḥng

Hồng kông. Có vẻ như cuối cùng Q cũng gặp được Nou và thuyết phục Nou đồng ư với

quan điểm của ḿnh, v́ sau đó vài ngày Q báo cáo với Dalburo ở Moscow. Nhưng vẫn

c̣n một vài khúc mắc:

Tôi không rõ vai trò của mình. Tôi là thành viên Đảng CS Pháp hay Việt nam. Khi chưa

có lệnh mới, tôi sẽ tiếp tục làm việc với VCP. Nhưng dưới danh nghĩa nào? Tôi không thể

về Đông dương vì đã có bản án tử hình vắng mặt. Liệu vai trò của tôi với QTCS đã chấm

dứt? Nếu không, tôi có thể liên lạc với văn phòng địa phương được không? Rất mong

Ban chấp hành xem xét nhanh.

Trước khi rời Thượng hải, Q gặp Nguyễn Lương Bằng, một tay chân cũ từ thời ở Quảng

đông. Q dặn Bằng t́m cách tuyên truyền, thu phục gần 4000 lính Việt nam hiện đang

đóng trong khu nhượng địa Pháp. Q c̣n nhấn mạnh việc giữ vững quan hệ với Đảng CS

TQ. Sau đó Q về Hongkong thành lập văn pḥng phía Nam của FEB, đợi lệnh mới. Văn

pḥng này được đặt trong một ngôi nhà 2 tầng ở đảo HK, dưới danh nghĩa một hăng

buôn. Q thuê một căn hộ gần sân bay ở Cửu long, hoạt động với tên gọi nhà báo Vương.

Văn pḥng có trách nhiệm liên lạc với các đảng ở ĐNA: Thái, Sing và Việt nam

Cuối tháng 3,Q đi tour trong khu vực với nhiệm vụ khôi phục tổ chức ở Nam Dương. Tại

Thái lan,Q qua Udon Thani, thông báo về việc thành lập VCP. Theo lời của Hoàng Văn

Hoan, Q kêu gọi các thành viên của Hội tham gia tích cực vào các hoạt động của đảng CS

Thái sắp được thành lập. Để trấn an tâm lư bất ổn v́ không được tham gia trực tiếp vào

giải phóng VN, Q khuyên nên tổ chức Hội thành văn pḥng tỉnh của VCP. Cuối thàng 4,

Q quay trở về BK chủ tọa hội nghị thành lập đảng CS Thái, bầu ban chấp hành lâm thời

với 1 đại biểu Việt nam từ Udon Thani. Sau đó Q đi Malaya và Sing, dự hội nghị đảng

Nam Dương, cải tổ thành đảng CS Malayan. Cả hai đảng mới đều báo cáo cho FEB qua

văn pḥng HK. Q quay về HK giữa tháng 5

Trong khi Q bận rộn “đỡ đẻ” cho các đảng mới, t́nh h́nh Việt nam nhanh chóng trở nên

căng thẳng. Đầu tiên là cuộc khởi nghĩa của VNQDD vào đầu tháng 2. Bỏ qua những

nguyên tắc của Lenin về việc vận động quần chúng, xây dựng cơ sở, QDD dựa vào một

www.langven.com

58

lớp các nhà cách mạng tinh túy, dự kiến sử dụng khởi nghĩa vũ trang để lật đổ Pháp, với

sự hậu thuẫn của các binh sĩ phản chiến. Quân đội viễn chinh Pháp, do Toàn quyền Ly

Myre thành lập từ năm 1879, có khoảng 30,000 quân, với khoảng 2/3 là dân địa phương.

Độ__________i quân này được chia thành 31 tiểu đoàn do các sĩ quan Pháp chỉ huy. Ngoài ra c̣n

khoảng 15,000 dân quân do hạ sĩ quan Pháp chỉ huy. Đa phần lính Việt nam là do các

chức sắc trong làng bắt đi, chẳng có cảm t́nh ǵ với Pháp. Đến cuối những năm 20, tâm

lư ghét Pháp trong binh sĩ dâng cao, là mảnh đất màu mỡ để gieo tinh thần dân tộc chủ

nghĩa. Từ năm 1929, QDĐ đă bắt đầu tàng trữ vũ khí tại nhiều địa điểm trên cả nước.

Đáng tiếc là Pháp đă phát hiện và tiêu hủy phần lớn. Sau đó vấn đề thêm căng thẳng. Một

chủ đồn điền Pháp bị ám sát trên đường phố Hà nội khi vừa bước ra cửa nhà người t́nh.

Chính quyền nghi ngờ QDĐ đứng đằng sau, lập tức vây bắt hàng trăm lănh đạo đảng và

những người ủng hộ. Lo ngại trước nguy cơ bị tiêu diệt, QDĐ quyết định ra tay nhanh.

Lúc đó, họ đă có khoảng 1000 cơ sở trong các trại lính ở Bắc bộ. Đầu tháng 2, cuộc binh

biến nổ ra ở một số đồn ở trung du Bắc bộ, quan trọng nhất là ở Yên bái. Kế hoạch đầu

độc các sĩ quan Pháp bị một tên chỉ điểm tuồn cho Pháp. Viên chỉ huy trại lính đă đề

pḥng và khi cuộc bạo động nổ ra vào giữa đêm, quân Pháp đă được chuẩn bị. Đến đầu

giờ sáng th́ Pháp đă kiểm soát được t́nh h́nh. Cuộc nổi dậy ở một số địa điểm khác cũng

nhanh chóng bị dập tắt. Rất nhiều lănh đạo bị bắt. Ngày 17/6, 13 kẻ cầm đầu bị xử tử tại

Yên bái.

Cuộc khởi nghĩa đă thất bại ngay từ đầu về nguyên tắc, khi không có những biện pháp

kích động dân chúng tham gia, cũng không có phương án “tẩu vi” khi gặp sự cố. Liên lạc

cũng bị cắt đứt ở phút cuối, dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong hành động. Quan trọng hơn

nữa là cuộc khởi nghĩa không được sự ủng hộ của dân chúng trong toàn quốc. Các lănh

đạo thoát chết chạy trốn sang Trung quốc và bị phân ră thành 2 nhánh: một nhánh vẫn

trung thành với chủ trương khởi nghĩa vũ trang, nhánh kia th́ nghiêng về cải cách ḥa

hoăn.

Trên thực tế th́ t́nh h́nh Đông dương đang chứa đựng nhiều dấu hiệu bất ổn. Đầu tiên là

trong giới học tṛ. Mặc dù số lượng học sinh liên tục tăng (đầu năm 1930, cả nước có

7000 trường công với gần 340,000 học sinh), bất măn vẫn không ngừng gia tăng do thiếu

điều kiện học lên. Chỉ có khoảng 5000 học sinh ở cấp trung học và khoảng 500 được vào

học tại đại học duy nhất ở Hà nội. Việc làm sau khi học xong càng không có, lương th́

thấp hơn hẳn các đồng cấp châu Âu, làm tăng thêm tinh thần chống sự thống trị của ngoại

quốc. Khi phong trào học sinh tạm lắng xuống cuối những năm 20, đến lượt công nhân

nổi dậy. Công nghiệp phát triển mạnh kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhưng

chỉ có giới chủ được hưởng lợi. Cuối những năm 20, giai cấp công nhân Việt nam có

200,000 người, trong đó đă có 50,000 làm việc trong các khu mỏ ở miền Đông bắc. T́nh

cảnh của công nhân làm việc tại các đồn điền chè và cao su ở Tây nguyên và dọc biên

giới Campuchia, hết sức khốn khổ:

Tất cả đều phải dậy từ 4h sáng mà nhiều người vẫn chưa kịp ăn sáng. Kẻng tập trung lúc

5h và không ai được muộn. 20 phút tập trung là một cực hình vì bọn chủ tìm mọi cớ để

đánh đập, chửi bới.

Sau đó tất cả phải ra đồn điền, mỗi người phải cạo mủ từ khoảng 280 đến 350 gốc. Ai

không đủ tiêu chuẩn sẽ bị đánh, nếu không có tiền nộp chuộc. Chiều về, phải phục dịch

chủ, dọn dẹp nhà cửa. Cuộc sống đúng là: “con không biết mặt cha, chó không biết mặt

chủ”.

www.langven.com

59

Thực tế châu Âu cho thấy điều kiện trong xă hội tiền công nghiệp không bao giờ dễ chịu.

Việt nam cũng không phải là ngoại lệ. Công nhân các “nhà hàng mồ hôi” ở Nam định,

Hải pḥng, hầm mỏ Quảng ninh hay các đồn điền miền Nam đều cùng khổ như nhau.

Việc tuyển dụng cũng không hẳn là tự nguyện. Các băng nhóm tội phạm nhiều khi ŕnh

bắt người trên đường rồi tống thẳng đến các nhà máy. Một số nông dân không đủ tiền nộp

tô cho địa chủ trốn ra thành phố. Nhưng cũng chẳng hơn ǵ. Đồng lương th́ chết đói. Bạo

lực tràn lan. Charles Dickens mà c̣n sống hẳn sẽ rất hiểu cuộc sống này.

Rồi cuộc đại khủng hoảng xảy ra. Tư bản Pháp bỏ chạy. Hơn một nửa số nhân viên phải

ra đường. Có người chạy về quê cuống quít t́m đường sống. Nhiều người biểu t́nh phản

đối. Băi công nổ ra tràn lan. Có trường hợp là do Tân Việt hoặc Thanh niên Hội xúi giục,

nhưng đa số là tự phát. Tháng ba/1930, công nhân đồn điền Phú riềng nổi loạn. Vài tuần

sau đến lượt nhà máy dệt Nam định, rồi Diêm Bến thủy. Pháp thẳng tay dẹp loạn. Đă có

người chết, nhiều người bị thương. T́nh h́nh đặc biệt nghiêm trọng ở Vinh. Rất nhiều

công nhân có nguồn gốc từ những địa phương lân cận, dẫn đến sự bất măn cao độ ở nông

thôn. Hàng ngàn nông dân Thanh chương đă tràn vào đập phá đồn điền và treo cờ đỏ búa

liềm. Lính lê dương Pháp đàn áp giết hàng chục người.

Từ cuối năm 1929, CPI đă cử một đảng viên kỳ cựu của ḿnh là Nguyễn Phong Sắc về

nằm vùng ở nhà máy Diêm Bến thủy. Vài tuần ngay sau Hội nghị thành lập tháng 2/1930,

Tỉnh ủy Nghệ an rồi các chi bộ địa phương liên tiếp được thành lập và hầu như hoạt động

tự do v́ Pháp không để ư, c̣n quan lại địa phương th́ sợ. Các cán bộ địa phương tự chủ

hoạt động mà không cần bất cứ sự lănh đạo nào từ TƯ, tiếp tục thổi ngọn lửa cách mạng.

Đến đầu tháng 9, t́nh h́nh bắt đầu vượt khỏi tầm kiểm soát. Nông dân các huyện dọc

sông Cả nổi dậy cướp chính quyền, tổ chức theo kiểu Liên xô thành các Xô-viết, chủ yếu

là từ thành phần nông dân nghèo. Chính quyền mới lập tức xóa bỏ các loại sưu thuế, lấy

lại ruộng đất từ tay địa chủ để chia cho dân nghèo. Công nhân Bến thủy và học sinh Huế

đồng loạt biểu t́nh ủng hộ.

Lo sợ, Pháp lập tức tăng cường quân lê dương để hỗ trợ quân triều đ́nh. Ngày 12/9 khi

hàng ngàn người từ Yên xuyên đổ về Vinh để chiếm trụ sở ngân hàng Đông dương, máy

bay Pháp đă ném bom thẳng vào đoàn người. Con đường từ Yên xuyên về Vinh đẫm máu

và xác người.

Trong lúc Nghệ Tĩnh đang bạo loạn, Đảng bộ địa phương đang bối rối không biết phải

hành động thế nào, tại HK, những lănh đạo cao cấp ráo riết chuẩn bị cho Hội nghị toàn

thể trung ương lần thứ nhất. Cuối tháng 9, đoàn Nam bộ đến nơi nhưng chẳng thấy dấu

hiệu ǵ của đoàn Bắc và Trung bộ. Được sự đồng ư của Q, anh em định bỏ về, th́ thật

may mắn có mấy đại biểu của Bắc kỳ đến từ Hải pḥng ngay trước giờ lên đường. Tất cả

quyết định vẫn tiếp tục hội nghị. Q và Trần Phú đi Thượng hải để tư vấn với Noulens.

Đầu tháng 10, Phú quay về.Q ở lại thêm vài ngày rồi trở về HK trên một con tàu Mỹ.

Ngày 20/10, Hội nghị khai mạc tại một căn hộ nhỏ ở phố Khai Y, đảo HK. Nhờ trời, đến

lúc này, đại biểu 3 miền đều có mặt, trừ một đại biểu đă đến được HK nhưng lại bị lạc v́

không t́m được địa điểm. Q vừa là chủ tịch vừa là đại diện của QTCS. Trong số đại biểu,

có một thiếu nữ da nâu, hấp dẫn. Đó chính là Nguyễn Thị Minh Khai, được cử sang giúp

cho Q tại Văn pḥng miền Nam từ tháng 4/1930.

Chủ đề chủ yếu của Hội nghị là thảo luận cương lĩnh chính trị chính thức thay thế đề

cương tạm thời do Q soạn thảo tại Hội nghị thống nhất hồi tháng 2. Đề cương của Q thừa

hưởng từ cương lĩnh của Thanh niên Hội nên hiển nhiên là có một số điểm không trùng

với quan điểm chính thống của Matxcova tại thời điểm này, tỷ như vai tṛ chính thống

www.langven.com

60

của giai cấp công nhân hoặc kế hoạch cách mạng 2 giai đoạn của Lênin. Đa số các đại

biểu đă chấp nhận quan điểm của Matxcova, thay thế cho những “khiếm khuyết” của đề

cương tạm thời của Q. Ngày 9/12, Ban chấp hành TƯ mới ra thông tư (chắc là do Phú

thảo), đả kích quan điểm mặt trận thống nhất bao gồm cả những phần tử tư sản của hội

nghị tháng 2. Thông tư cũng phê phán chủ trương hợp nhất b́nh đẳng, cho rằng lẽ ra phải

chọn những thành phần ưu tú nhất của mỗi phái.

Cương lĩnh chính trị mới đề nghị thành lập mặt trận phản đế, do công nhân lănh đạo, kết

hợp với bần nông và trung nông. Mặt trận không cấm các phần tử tư sản, nhưng cương

lĩnh cảnh báo, phải hết sức cẩn thận với bọn này. Đảng có thể hợp tác với các đảng dân

tộc khác, nhưng phải chống lại quan điểm “dân tộc hẹp ḥi” của các đảng này, và tiêu

diệt ảnh hưởng của chúng đến quần chúng. Cương lĩnh cũng đề xuất khai trừ những phần

tử chủ trương khủng bố, ám sát, coi thường quần chúng. Chủ trương này chắc chắn được

sự ủng hộ của Q, v́ ông đă phát biểu tương tự khi nhận xét cuộc khởi nghĩa Yên bái. Một

kết quả nữa của hội nghị tháng 10 là việc đổi tên đảng từ đảng cộng sản Việt nam thành

đảng cộng sản Đông dương do sức ép của Liên xô. Rơ ràng là Matxcova cho rằng chữ

“Việt nam” quá “dân tộc chủ nghĩa” không phù hợp với “cách mạng thế giới”. QTCS

cũng đang kêu gọi những nước nhỏ thành lập những đảng khu vực.

T́nh h́nh bạo loạn ở miền Trung cũng đă gây chú ư. Đến lúc đó gần như mọi sự ngă ngũ,

cuộc nổi dậy chỉ diễn ra lẻ tẻ ở vài huyện. Nông dân, công nhân, tầng lớp thị dân, thậm

chí cả dân nghèo miền Bắc cũng tỏ thái độ thờ ơ, không nổi dậy hưởng ứng. Nghị quyết

hội nghị kêu gọi các lănh đạo địa phương t́m mọi cách để mở rộng phạm vi ảnh hưởng

trong cả nước, và chỉ thị không được manh động, sử dụng bạo lực mù quáng. Một thông

điệp gửi riêng cho đảng bộ Nghệ tĩnh nêu rơ:

Nếu quần chúng đứng lên tự phát, đảng đương nhiên phải lãnh đạo. Trường hợp này, có

bằng chứng cho thấy đảng bộ địa phương đã chủ động “giật dây”, và đấy là một sai lầm

chết người: 1/ Tình hình cách mạng và nhận thức quần chúng chưa chín muồi ở nhiều

địa phương. 2/ Tại một số xã, phong trào mạnh thì lại quá thiếu vũ khí.

Hội nghị đă bầuBan chấp hành TƯ và Ban thường vụ gồm Trần Phú, Nguyễn Trọng

Nghĩa và Nguyễn Phong Sắc (mặc dù ông này không dự). Trần Phú c̣n được bầu làm

Tổng bí thư. Q tiếp tục là đại diện cho QTCS. Ban đầu Ban thường vụ định đóng ỏ Hải

pḥng, nhưng sau chyển vào Sài g̣n do lư do an ninh.

Quốc không thể không biết rằng những quyết định của Hội nghị lần này đă mâu thuẫn rơ

ràng và thậm chí trắng trợn với những tư tưởng và phong cách lănh đạo của ḿnh. Nhiều

chỉ trích hoàn toàn không có cơ sở. Từ thời lănh đạo Thanh niên Hội, Q đă cố gắng nâng

cao tŕnh độ nhận thức tư tưởng của các thành viên. Bây giờ khi các thành viên trẻ hơn

cáo buộc về tội yếu kém về tư tưởng, chắc Q rất đau. Trên thực tế, quan điểm mới của

QTCS không những không phù hợp với Q mà c̣n là bước lùi so với những tư tưởng của

Lenin đầu những năm 20.Q đă chấp nhận tất cả với một thái độ nhă nhặn: “lắng nghe và

tôn trọng ý kiến người khác” và viết báo cáo gửi cho Noulens sau khi hội nghị kết thúc.

Vào cuối thu và mùa đông năm 1930-1931, Pháp tăng cường đàn áp. Biểu t́nh bị dập tắt

ngay lập tức, quân đội tràn vào chiếm đóng những làng xă ủng hộ biểu t́nh. Đảng bộ các

tỉnh miền Trung báo cáo tinh thần dân chúng xuống thấp. Những phần tử tích cực cuống

quưt quay sang các biện pháp như ám sát hoặc khủng bố để trấn áp dân chúng. Pháp càng

đàn áp dữ hơn. Ban thường vụ cũng lúng túng, chỉ thị: ”chúng ta không có máy bay,

không có quân đội để ứng cứu. Nhưng tuyệt đối không được hoảng loạn”. Tại HK, Q

cũng hết sức cố gắng để lôi kéo sự chú ư của thế giới. Trong báo cáo gửi cho Moscow,Q

www.langven.com

61

nói suốt ngày gơ cửa các đồng chí ở văn pḥng FEB tại Thượng hải, để kêu gọi các đảng

khác ủng hộ phong trào tại Việt nam. Trong một bài báo viết năm 1931, có tên “Nghệ

Tĩnh đỏ”, Q ca ngợi sự kết hợp của công nhân với nông dân và kết luận, cuộc nổi dậy

xứng đáng được tô màu “đỏ”.

Q cũng hết sức băn khoăn về khả năng của ḿnh có thể tham gia tích cực vào việc lănh

đạo phong trào.Mâu thuẫn với Trần Phú ngày càng căng thẳng. Phú thẳng cánh chỉ trích

quan điểm “dân tộc” của Q, phản bội lại những tư tưởng của QTCS. Phú cũng không dấu

diếm tham vọng kiểm soát đảng trong tương lai. Trong một lá thư gửi Q tháng Giêng năm

1931, Phú kêu ca về sự mất liên lạc với văn pḥng FEB tại Thượng hải và cho rằngQ

chính là thủ phạm. Phú viết, nếu Q không thể đảm bảo được liên lạc, th́ văn pḥng ở HK

có vai tṛ ǵ? Mặc dù rất khó chịu với giọng điệu “bề trên” của Phú, Q vẫn t́m cách bắt

liên lạc với Thượng hải và thúc giục Noulens nhanh chóng có những chỉ thị cho phong

trào ở Việt nam.

Đầu tháng 3, Joseph Ducroux, điệp vụ của QTCS dưới tên gọi Serge Lefranc đến HK để

gặp Q trong chuyến đi thị sát khu vực. Q và Lefranc quen nhau từ đầu những năm 1920

khi cùng tham gia Liên đoàn cộng sản trẻ tại Paris. Lefranc cho rằng sử dụng Q chỉ với

mục đích liên lạc và phiên dịch th́ quá phí và đề nghị chuyển Q về văn pḥng Thượng

hải, trực tiếp chỉ đạo Đông dương. Hai tuần sau, L đến Sài g̣n. Ngày 23, Ngô Đức Trí,

thành viên Ban thường vụ mới, từng gặp L khi học tại trường Stalin, gặp L tại khách sạn

Sài g̣n Palace. Ngày hôm sau, L gặp 2 thành viên c̣n lại tại nhà Phú, chuyển tiền và hứa

Noulens sẽ sớm gặp ban lănh đạo ICP. L cũng thông báo việc chuyển Q về Thượng hải.

Sau khi gửi bưu thiếp cho Q, L rời Sài g̣n ngày 27.

Cảnh sát Pháp bắt đầu thành công trong việc truy quét, bắt bớ những phần tử cộng sản

đầu sỏ, từ đó tra khảo ra những đầu mối khác. Nội bộ phong trào bắt đầu có hiện tượng

rối loạn, nghi kỵ lẫn nhau. Thậm chí khi Nguyễn Đức Cảnh bị bắt năm 1929, đảng bộ

miền Trung đă quyết định ám sát ông này trong nhà tù để khỏi khai lung tung. Cuối tháng

3/1931, Trần Phú triệu tập hội nghị trung ương lần thứ hai tại Sài g̣n. Không rơ là hội

nghị bàn về vấn đề ǵ nhưng thấy nghị quyết dũng cảm tuyên bố nhờ t́nh h́nh thế giới

thuận lợi và những cố gắng của đảng, phong trào vẫn phát triển mạnh mẽ. Hội nghị cũng

thừa nhận những vấn đề nghiêm trọng đang tồn tại. Vai tṛ lănh đạo của đảng tại Bắc kỳ

rất yếu, do tư tưởng “tiểu tư sản” bị thừa hưởng từ Thanh niên Hội, không thâm nhập

được vào giai cấp nông dân và công nhân. Vài ngày sau hội nghị, cảnh sát bất th́nh ĺnh

ập vào ngôi nhà Ban thường vụ đang họp kín với đại diện các địa phương ở Nam bộ. Tất

cả đều bị bắt, trừ Trần Phú đúng lúc đó đang ra vườn đi vệ sinh nên đă kịp thoát ra cổng

sau. Trong tù, Ngô Đức Trí không chịu được tra tấn đă khai ra tuốt tuột. Đến ngày 17/4,

trong ban lănh đạo đảng, chỉ c̣n Trần Phú tự do.

Cùng ngày, Phú viết thư cho văn pḥng FEB, buộc tội những đảng viên ṇng cốt Bắc kỳ

và Trung kỳ, vẫn bị ảnh hưởng của giới lănh đạo cũ, chống đối lại đường lối mới, dẫn

đến thảm họa hiện tại. Tuy nhiên Phú vẫn lạc quan thông báo, hiện tại đảng đă có tới

2400 đảng viên so với 1500 hồi tháng 10; hơn 63000 nông dân đă tham gia cách mạng,

so với chỉ có 2800 mùa thu năm trước. Đảng sẽ phát triển và cần tiền, Phú kết luận.

Trước đó vài ngày, Noulens đă viết thư phê phán Q ở HK không cung cấp đầy đủ các

thông tin về t́nh h́nh ở Đông dương, chẳng hạn tại sao lănh đạo bị bắt và trong hoàn

cảnh nào? Để FEB có thể rút ra những kinh nghiệm và bài học. Noulens cho rằng việc

chuyển Q về Thượng hải tại thời điểm này là không hiện thực và cần chuẩn bị kỹ lưỡng

hơn nữa. Ngày 20/4, Q viết cho Ban thường vụ ở Sài g̣n, chuyển tải những yêu cầu của

www.langven.com

62

Noulens. Ngày 24/4 Q viết cho Phú, kêu ca về vai tṛ của ḿnh chẳng khác ǵ “hộp thư”,

và sẵn sàng làm nhiệm vụ khác. Trong mọi trường hợp Q nhấn mạnh vai tṛ của việc bảo

đảm thông tin đầy đủ. Nhưng Phú không bao giờ nhận được những bức thư này. Ngày

18/4 Phú bị bắt. Mấy tháng sau, Phú chết trong tù. Có nguồn tin nói là do lao phổi, nguồn

khác lại cho rằng do tra tấn. Ngô Đức Trí và Nguyễn Trọng Nghĩa đang ngồi tù. Nguyễn

Phong Sắc bị hành h́nh trong tháng 4. Ban lănh đạo đảng trong Đông dương hoàn toàn bị

tan ră.

Theo báo cáo của Surête, cuối mùa xuân năm 1931, hơn 2000 người đă bị hành h́nh,

51000 thành viên của phong trào bị bắt. Thêm vào đó là hạn hán trong các tỉnh miền

Trung dẫn đến mất mùa. Hơn 90% dân Nam đàn, Nghệ an có nguy cơ chết đói. Ngay cả

những người ôn ḥa như Bùi Quang Chiêu cũng phải viết trên tờ La Tribune

Indochinoise: miền Trung đang yên tĩnh, nhưng đó là sự im lặng của chết chóc.

Ngày 12/5/1931, Noulens gửi cho Q bản đánh giá có tính phê phán t́nh h́nh Đông

dương. Noulens phê phán lănh đạo đảng đă không tuân thủ nghiêm ngặt những chỉ dẫn

của QTCS. Đặc biệt là chủ nghĩa “anh hùng quá khích”, nổi dậy vội vă, bắn cảnh sát hay

những hành động khủng bộ khác đă làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến phong trào. Họp

hành th́ dài ḍng và thoải mái, không có những biện pháp bảo mật. Thiếu những biện

pháp giáo dục và tổ chức quần chúng. Cuối cùng Noulens hứa sẽ báo cáo t́nh h́nh Đông

dương cho phong trào cách mạng thế giới và dặn “Tìm mọi cách viết cho chúng tôi về

hoạt động, thành tích và thất bại của các bạn”

Trong lúc chờ đợi phân công công tác mới, Q sống trong một căn hộ nhỏ ở bán đảo Cửu

long và sa vào quan hệ t́nh ái với Nguyễn Thị Minh Khai. Cũng như Q, Duy (tên hoạt

động của NTMK) là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Cô sinhnăm 1910 tại một gia đ́nh

danh giá ở Hà đông. Ông nội Duy là một quan chức triều đ́nh ở Bắc giang, đă đậu đến

Phó bảng. Bố Duy, ông Nguyễn Văn B́nh, sau khi thi trượt, chấp nhận làm một nhân

viên hỏa xa ở Vinh năm 1907. 14 tuổi, khi vào trường trung học, Duy được Trần Phú

truyền bá những tư tưởng cách mạng. Năng nổ và xinh xắn, cô lập tức được Q chú ư ngay

khi đến Hong kong.

Không có nhiều tài liệu viết về mối t́nh Q-K và cũng không rơ họ có cưới nhau chính

thức hay không? Cuộc hôn nhân của Q với Tăng Tuyết Minh coi như tan vỡ sau khi Q bỏ

trốn năm 1927, mặc dù có một số chứng cớ cho thấy Minh đă gặp Q tại HK đầu những

năm 1930. Lâm Đức Thụ đă khai với mật thám Pháp là Minh chê Q già, và đồng ư lấyQ

chỉ v́ tiền. Trong một bức thư nhờ Thụ chuyển cho Minh, Q viết: “Mặc dù chúng ta xa

nhau va không nói ra nhưng tình cảm vẫn nguyên vẹn. Cho anh gửi lời hỏi thăm tới mẹ

em”. Mùa xuân năm 1931, Q xin phép văn pḥng FEB được cưới NTMK. Noulens trả lời

phải báo trước cho ông ta hai tháng trước khi làm đám cưới. Không may, ngay sau đó

Khai bị cảnh sát HK bắt v́ nghi ngờ hoạt động chống phá. Nhờ tự khai là công dân TQ

dưới cái tên Trần Thái Lan, Khai bị di lư về Quảng đông, tống giam vài tháng rồi được

thả ra v́ thiếu chứng cớ. Khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5, Q viết thư cho Noulens thông

báo vắn tắt một đồng chí trong đội liên lạc bị bắt. Sau đó lại nhắc lại đề nghị được chuyển

công tác.

Cùng thời điểm, Lefranc vẫn tiếp tục chuyến đi của ḿnh đến Singapore để tiếp xúc và

thu nhập thông tin với các thành viên của đảng cộng sản Malayan -MCP. Cả Q lẫn

Noulens đều đang rất cần những thông tin này. Do được Q báo trước, một lănh đạo của

MCP là Phú Đại Thanh, chiến hữu của Q khi thành lập đảng ở Xiêm, đă hẹn gặp

Lefrance tại Collier’s Quay. Cảnh sát Anh đă theo dơi Lefranc từ lâu và mất dấu ông này

www.langven.com

63

ở Ấn và Xrilanca. Lần này th́ chúng gặp may. Phú đang bị cảnh sát bám sát v́ quan hệ

với một đảng viên người Indonexia Tan Malaka. Khi được biết là Phú sẽ gặp một điệp

viên từ châu Âu sang có tên là Lefranc, cảnh sát nghi ngờ ngay đó chính là Joseph

Ducroux, đă được London báo từ trước. Sau khi bắt giữ cả hai, cảnh sát đă lục soát pḥng

ngủ và thu tất cả các giấy tờ của Lefranc, trong đó có cả bưu thiếp của Q (dưới tên T.V.

Wong) và Noulens. Lefranc và đồng phạm bị xét xử và tống giam tại Sing, c̣n thông tin

về Q và Noulens ngay lập tức được báo về Thượng hải và Hong kong.

2:00 giờ sáng ngày 6/6, cảnh sát HK ập vào một căn hộ trên bán đảo Cửu long, bắt đi trên

tầng 2 một người đàn ông có tên là Tống và một phụ nữ trẻ tự xưng là cháu của ông ta và

có tên là Lư Sâm. Dựa trên những tài liệu, truyền đơn thu được, cảnh sát đă xâc định đó

chính là điệp vụ của QTCS Nguyễn Ái Quốc, c̣n người phụ nữ là Lư ưng Thuận, vợ của

Hồ Tùng Mậu.

Cuộc sống phút chốc bị đảo lộn. Mọi quan hệ với trong nước bị cắt đứt. Đe dọa nhăn tiền

là bị dẫn độ cho Pháp và triều đ́nh Annam. Tương lai vô cùng bất định!

www.langven.com

64

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro