Ho Chi Minh mot cuoc doi phan 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

M

t hút

Năm 1931 là năm các chính quyền thuộc địa tại Đông Á ra tay ngăn chặn làn sóng cộng 

sản đang dấy lên. Tháng 6, cảnh sát Singapore bắt Serge Lefranc, đặc vụ của QTCS đang 

đi tour khu vực Đông Nam A theo chỉ thị của văn pḥng Thượng hải. Ngày 5/6, phái viên 

của ICP tại FEB Lê Quang Đạt bị bắt tại nhượng địa Pháp ở Thượng hải. Sáng hôm sau, 

NAQ và đồng chí của ḿnh là Lư Sâm bị bắt tại Hồng kông. Vài ngày sau đến lượt 

Hilaire Noulens và vợ. Ông này tự khai là công dân Bỉ nhưng đă bị nhanh chóng vạch 

trần khi lận theo người đến mấy quyển hộ chiếu khác nhau và lănh sự Bỉ từ chối xác 

nhận. Mặc dù chẳng có thể gán được cho Noulens tội ǵ rơ ràng, các quan chức thuộc địa 

tin chắc rằng ông này là cộng sản gộc và chuyển giao cho chính quyền Quốc dân đảng tại 

Giang tây. Tại đây Noulens bị kết án chung thân, sau Liên xô thông qua tổ chức Chữ thập 

đỏ quốc tế đă can thiệp để đưa về Matxcova.

NAQ (dưới bí danh là phóng viên Trung quốc Tống Măn Châu) bị bắt mà không có trát 

của toà do cảnh sát nghi ngờ là có những hoạt động liên quan đến QTCS. Mặc dù Q 

chẳng phạm tội ǵ của HK, chính sách của Anh lúc đó là không cho phép sử dụng lănh 

thổ ḿnh để tiến hành các hoạt động lật đổ. Chính quyền sở tại tin chắc ông là NAQ và 

hy vọng có thể t́m cách để trục xuất Q sang Đông dương. Tuy nhiên do lúc đó giữa Pháp 

và Anh chưa có thoả thuận về dẫn độ tội phạm chính trị, cách duy nhất mà chính quyền 

có thể làm là đề nghị toà ra lệnh trục xuất Q ra khỏi HK trên một con tàu và đến một địa 

điểm đă chỉ định sẵn.xlv

Do không có hộ chiếu và Q kiên quyết khẳng định ḿnh là người Hoa chứ không phải 

người Việt nam, toà phải mở phiên điều trần vào ngày 10/7/1931. Tại phiên điều trần 

này, Q chỉ dùng tiếng Anh, khai ḿnh sinh ở Đông hưng (thành phố thuộc Quảng đông 

gần biên giới với Đông dương). Ông thừa nhận ḿnh đă sang Pháp, nhưng chưa hề tới 

Nga và càng không liên quan ǵ đến QTCS. Ông cũng phủ nhận ḿnh có quen biết 

Lefranc mặc dù công nhận là ḿnh đă kư vào bưu thiếp t́m thấy trong túi của Lefranc.

Cuối cùngQ đề nghị được dẫn độ sang Anh chứ không phải trục xuất sang Đông dương. 

Gần cuối phiên điều trần, Q bất ngờ nhận được sự trợ giúp về pháp luật từ bên ngoài.

Cho đến nay vẫn chưa rơ là làm thế nào mà luật sư Frank Loseby lại trở thành một nhân 

vật quan trọng của vụ án này? Có nguồn tin cho rằng ông ta có một trợ lư người Việt, anh 

này đă kể lại với ông chủ về Q. HCM th́ nói rằng ḿnh và Loseby có chung một người 

bạn giấu tên ở HK. Theo thông tin chính thức của Hà nội, Loseby được Tổ chức cứu trợ 

Đỏ quốc tế và Mặt trận phản đế (một công cụ củaMoscow để cứu giúp các đồng chí của 

ḿnh bị sa cơ) thuê.xlvi Loseby lập tức phản đối việc trục xuất Q theo những thủ tục b́nh 

thường v́ điều đó sẽ gây nguy hiểm cho Q và Lư Sâm (cô gái cùng bị bắt với Q). Lư do 

đơn giản là chính quyền Pháp ở Đông dương đang theo dơi sát sao vụ này và đă đề nghị 

chinh quyền HK thông báo địa điểm và thời gian trục xuất. Loseby muốn các thân chủ 

của ḿnh phải được rời HK theo sự sắp xếp của chính họ. Thống đốc HK lưỡng lự nhưng 

cũng đồng ư. Ngày 24/7 ông này điện cho Bộ Thuộc địa ở London đề nghị thả tự do cho 

Q và buộc phải rời HK trong 7 ngày. Theo ông nếu trục xuất Q sang Đông dương th́ì 

chẳng khác ǵì dẫn độ và “mâu thuẫn với những nguyên tắc của nước Anh”.

Tuy nhiên, sự việc diễn ra không đơn giản. Jules Cambon, đại sứ Pháp tại London chính 

thức lên tiếng phản đối quyết định thả Q. Ông ta cho rằng Q là một sự nguy hiểm quốc tế 

và cần phải bị kiềm chế. Mặc dù Pháp không có đủ thẩm quyền pháp lư để đ̣i hỏi dẫn độ 

Q, chính phủ Pháp muốn chính phủ Anh hiểu rơ quan điểm của ḿnh. Ông này cũng nhắc 

lại đề nghị của tổng lănh sự Pháp tại HK đề nghị trục xuất Q sang Đông dương. Bộ Ngoại 

giao Anh, muốn lấy ḷng Pháp trong việc chung sức chống lại các hoạt động lật đổ đă 

đồng ư với quan điểm nàyxlvii

Yêu cầu của Bộ ngoại giao đă gây ra căi nhau to trong Bộ thuộc địa. Mặc dù có nhiều 

quan chức phản đối cho rằng làm thế khác ǵ dí cổ Q vào lưỡi dao của Pháp, cũng có 

những quan chức đồng t́nh với Bộ ngoại giao. Bài phát biểu sau có thể làm rơ quan điểm 

đó:

Cá nhân tôi nhát trí v

i quan

đ

i

m c

a B

ngo

i giao là tr

l

i tay này v

ề Đ

ông d

ươ

ng.

H

n là m

t tay kích

độ

ng x

u xa b

b

t cùng m

t r

v

i Le Franc

Th

ượ

ng h

i. Chúng

ta qu

là không may vì không tìm

đượ

c

đủ

ch

ng c

ớ để

t

ng c

h

n vào tù

HK. Có v

các v

c

m th

y là nhân

đạ

o khi cho h

n sang Nga thay vì

đẩ

y vào tay k

thù c

a h

n.

Nh

ư

ng hãy

để

ý r

ng, các ho

t

độ

ng cách m

ng

ở Đ

ông d

ươ

ng là b

n th

u, ph

n nhi

u

liên quan

đế

n gi

ế

t ng

ườ

i,

đố

t nhà ho

c tra t

n dã man. Tuy không tr

c ti

ế

p nhúng tay,

nh

ư

ng

đ

a ph

n các v

này

đề

u do Nguy

n ch

u trách nhi

m. N

ế

u h

n ta

đượ

c t

do, h

n

l

i ti

ế

p t

c nh

ng hành

độ

ng nh

ư

v

y. B

i th

ế

tôi

đồ

ng ý quan

đ

i

m c

a chính ph

Pháp

là các th

ế

l

c Thu

c

đị

a c

n

đ

oàn k

ế

t v

i nhau

để

d

p t

t nh

ng

d

ch cách m

ng lây

lan nhanh chóng này b

o v

l

i ích c

a v

ă

n minh

ph

ươ

ng

Đ

ông.

Trước sức ép của Bộ ngoại giao, cuối cùng thống đốc HK đă ra lệnh trục xuất Q sang

Đông dương. Đoán trước được ư định đó, Loseby đă sử dụng lên đ́nh quyền giam giữ

yêu cầu mở phiên toà công khai để xem xét tính pháp lư của vấn đề. Ngày 14/8, toà tối

cao HK đă mở phiên xét xử kéo dài trong mấy tuần. Tại phiên toà, Loseby đă chứng minh

là chính quyền đă vi phạm pháp luật khi đặt những câu hỏi có nội dung chính trị, không

liên quan ǵ đến vụ việc, trong lần thẩm vấn Q trước đó. Cảm thấy quan toà Ngài Joseph

Kemp có thể huỷ bỏ lệnh trục xuất hiện tại, các quan chức HK vội vàng thảo một lệnh

theo một chương khác của Pháp lệnh về trục xuất năm 1917. Toà đă chấp nhận lệnh mới,

nhấn mạnh rằng mặc dù việc trục xuất có thể dẫn đến những hậu quả tương đương như

dẫn độ, nhưng cũng chẳng có ǵ trái với luật pháp nước Anh cả. Lư Sâm được trả tự do,

c̣n Q lại đối mặt với nguy cơ bị đưa về Đông dương.xlviii

Ngay lập tức Loseby chống án lên Hội đồng cơ mật tại London, cho rằng chính quyền đă

lạm dụng quyền lực. Được Hội đồng chấp nhận đơn, Q có cơ hội thay đổi không khí v́ ít

nhất là cũng vài tháng sau vụ việc mới được xem xét. Ông được chuyển sang bệnh viện

Đường Bowen v́ lư do sức khỏe. Mặc dù không có biểu hiện bệnh tật rơ ràng, Q bị kiệt

sức và trông hốc hác. Trong hồi kư của ḿnh, Q miêu tả giai đoạn này khá tăm tối, bị

ngược đăi, ăn cơm hẩm, cá thiu và thú vui duy nhất là săn rận. Tuy nhiên một số nguồn

thông tin khác cho rằng, trong thời gian ở bệnh viện, Q sống khá thoải mái, thường xuyên

được vợ chồng một quan chức thuộc địa (bạn Loseby) và một số người châu Âu khác

viếng thăm. Loseby cũng bố trí cơm nước cho Q từ một nhà hàng cạnh bệnh viện. Q dành

thời gian rỗi để đọc và thậm chí đă hoàn thành một cuốn sách bằng tiếng Anh. Đáng tiếc

là Loseby đă đánh mất nó trong chiến tranh thế giới thứ hai.

Như thường lệ, Q cũng không bỏ lỡ cơ hội để tiến hành tuyên truyền cho những tư tưởng

cách mạng của ḿnh. Trong một câu chuyện của ḿnh, Q kể:

M

t hôm, có m

t cô h

lýTQ thì th

m h

i: “Bác

ơ

i, ch

ngh

ĩ

a c

ng s

n là gi

, bác có

ph

i là ng

ườ

i c

ng s

n không, bác

đ

ã làm gì mà b

b

t?” Cô

y bi

ế

t r

ng, nh

ng ng

ườ

i

c

ng s

n không ph

i là tr

m c

ướ

p, buôn l

u, gi

ế

t ng

ườ

i, cho nên không hi

u vì sao h

l

i

b

b

t. “Th

ế

này, cháu

, nói m

t cách

đơ

n gi

n, nh

ng ng

ườ

i c

ng s

n mu

n xây d

ng

m

t ch

ế độ

mà các h

lý Trung qu

c không ph

i ph

c tùng các quan l

n ng

ườ

i Anh n

a”

www.langven.com

66

Bức thư đầu tiên mà Q gửi từ trong tù là cho Lâm Đức Thụ, thông báo đă ở tù 3 tuần.Q

nói “rất xấu hổ và không có ai để chứng thực cho sự vô tội” của ḿnh.Q đề nghị Thụ làm

hết sức ḿnh để được tự do và hứa sẽ biết ơn đời đời. Tất nhiên là chẳng có ích ǵ. Mặc

dù biết rơ quan hệ tay đôi của người đồng chí cũ của ḿnh, Q vẫn giữ liên lạc và đề nghị

Thụ đừng đến thăm v́ sợ bị liên luỵ. Sau đó vài tháng Thụ đă báo cho chỉ huy người

Pháp của ḿnh là Q đă xin 1000 đô HK để được đưa sang châu Âu. Khi Thụ nói không

có tiền, Q đă đề nghị vợ Thụ bán đi một số đồ trang sức.xlix

Đây chắc cũng là một giai đoạn cô đơn của Q. Người t́nh mới Nguyễn Thị Minh Khai th́

ở trong tù, cha mới chết trước đó 2 năm tại Nam bộ, không một xu dính túi. Thỉnh thoảng

Q mới có liên lạc với các anh chị. Anh Khiêm, từng bị bắt v́ tạo phản năm 1914, được

tha năm 20, sống ở Huế, chủ yếu làm thuốc và xem địa lư để tiếp tục hoạt động nhưng

cũng rất túng thiếu. Năm 1926,Q đă nhờ Phan Bội Châu gửi cho anh ḿnh một ít tiền.

Chị Thanh cũng đầy tai tiếng với chính quyền, bị bắt năm 1918 v́ tội tàng trữ vũ khí,

được tha năm 22, cũng sống và làm thuốc ở Huế, sau khi cha chết năm 1929, chị có về

Kim liên để thắp hương cho bà con.l

Trong lúc đó, các cơ quan chức năng tiếp tục tranh căi. Bộ thuộc địa th́ đồng ư với chính

quyền HK về việc trục xuất và để cho Q tuỳ nghi di tản. Bộ ngoại giao th́ sợ Pháp phật ư,

lại muốn tham khảo chính quyền Pháp về các h́nh phạt có thể áp dụng với Q. Tuy nhiên

cả hai đều đồng ư chưa có hành động nào trứơc khi Hội đồng cơ mật ở London đưa ra

quyết định cuối cùng. Ngày 22/12, Đại sứ Pháp tại London, Jaques Truelle đă trả lời yêu

cầu của Anh về các tội Q đang bị xử ở Đông dương. Theo ông này,Q đích thị là đặc vụ

của QTCS tại Đông Nam Á trong đó có nhiệm vụ trợ giúp cả Đảng cộng sản Malay,

đang là thuộc địa của Anh. Truelle cũng xác nhận toà án Nam triều đă kết án Q tử h́nh về

tội mưu toan lật đổ. Tháng 10/1929, bản án này đă được xem xét lại và hạ xuống khổ sai

chung thân. Truelle thông báo là Q sẽ được xét xử lại, bản án sẽ được Toàn quyền Đông

dương phê duyệt, và mặc dù tội danh vẫn không thay đổi, Pháp bảo đảm sẽ không kết án

tử h́nh Q. Cuối năm 1931, đơn khiếu kiện củaQ được Hội đồng cơ mật đưa ra xem xét.

Quyền lợi củaQ được luật sư D.N Pritt (hăng Light và Futon) bảo vệ. Đảng viên Đảng

Lao động Stafford Cripps đại diện cho chính quyền HK. Ông này, một mặt sợ mất mặt

chính quyền HK, mặt khác được mấy người bạn ở Bộ thuộc địa có tư tưởng thân cách

mạng khuyên bảo, đă đề nghị thoả hiệp. Ngày 27/6/1932, chính phủ Anh đồng ư trả tiền

khiếu nại và hỗ trợ Q đi đến bất cứ nơi nào Q muốn. Cũng có tin đồn là Q được tha v́

đồng ư nhận làm điệp viên cho Anh.li Đầu tiên Q được thông báo là chính phủ Anh đồng

ư cho tị nạn chính trị, tuy nhiên chẳng có đường nào đến Anh mà lại tránh được cảnh sát

Pháp. Nếu qua kênh Suez, Q có thể bị bắt ở Port Said (Ai cập). Qua Nam Phi hoặc Úc th́

các chính phủ này lại không đồng ư. Buồn cười nhất là cuối cùng hoá ra chính phủ Anh

cũng không đồng ư nhận. Không hiểu sao chữ “không” trong từ “không đồng ư” trong

bức điện của London gửi HK lại bị ai đó xoá đi mất.

Chính quyền đă bắt đầu sốt ruột với vị khách rắc rối này. Ngày 28/12/1932,Q được thả ra

khỏi bệnh viện và phải rời HK trong ṿng 21 ngày. Trước đó, để đánh lừa Pháp, ông

Loseby đă tung tin Q bị chết v́ lao phổi. Tờ “Công nhân hàng ngày” của QTCS tại

London đă đưa tin về cái chết của ông trong số ngày 11/8/1932. Q phải đóng giả một ông

đồ nho, sống tại khách sạn YMCA tại Cửu long vài ngày rồi lên tàu đi Singapore. Rủi

thay, cơ quan nhập cảnh Sing lại tống cổ Q trở lại HK trên tàu Ho Sang. Đến HK, cảnh

sát lại bắt Q v́ tội thiếu giấy tờ. Tuy nhiên chính quyền HK đă can thiệp, trả tự do cho Q

ngày 22/1 và cho 3 ngày để t́m đường thoát khỏi thuộc địa. Nhờ sự giúp đỡ của Loseby,

www.langven.com

67

tối ngày 25, cảnh sát mặc thường phục đă dùng xuồng máy đưa Q ra ngoài khơi đến một

con tàu Trung quốc đang nhổ neo đi Hạ môn.lii

Q và người phiên dịch xuống Hạ môn vào sáng hôm sau (thành phố này lúc đó được

phương Tây gọi là Amoy) và nhận pḥng tại YMCA ở khu Trung quốc. Nhờ một người

Hoa địa phương giàu có, bạn của Loseby chu cấp, Q chơi bời nghỉ ngơi vài tuần qua Tết

ở Hạ môn trước khi lên tàu đi Thượng Hải trong vai một thương nhân người Hoa. Lúc

này cảnh sát Pháp đă đánh hơi được Q đang ở đâu đó Nam Trung quốc và tăng cường

truy nă. Các đảng viên CCP th́ đă phải rút hết vào bí mật từ sau vụ tàn sát 1927. May

mắn cho Q, đúng lúc đó có đoàn đại biểu chống chiến tranh của Quốc hội Pháp do bạn

ông từ thời FCP, Paul Couturier dẫn đầu đang ở thăm Thượng hải. Q quyết định dùng con

bài cuối cùng: vợ goá của Tôn Trung Sơn, bà Tống Khánh Linh. Anh thuê một xe taxi,

liều mạng phi đến biệt thự của bà này tại Rue Moliere nhượng địa Pháp để bỏ một bức

thư vào hộp thư. Trên đường về, nhờ chiếc xe trông quá xịn,Q đă thoát được một cuộc

vây bắt của cảnh sát Pháp. Madam Tống đă giúp Q gặp được Couturier, ông này liên lạc

với CCP và bố trí đưa Q lên một chiếc tàu Liên xô chuẩn bị đến Vladivostok.

Q đến Matxcova mùa xuân năm 1934. Nước Nga xô viết đang ở trong ánh hào quang của

giai đoạn công nghiệp hoá xă hội chủ nghĩa và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đối với các

khách du lịch ngắn ngày và không đi quá xa ra khỏi Mat, Len và các thành phố lớn, t́nh

h́nh quả là được cải thiện đáng kể so với thập kỷ trước. Nhà viết kịch Bernard Shaw đă

miêu tả những điều nh́n thấy như một “Cuộc thử nghiệm xă hội vĩ đại”. Tuy nhiên đối

với nhiều triệu người dân Xô viết t́nh h́nh lại không được khả quan như vậy. Giai cấp

trung nông, tiếng Nga gọi là Culac (có nghĩa là nắm đấm) bị tiêu diệt trong công cuộc tập

thể hoá nông nghiệp. Của cải của nông dân bị tước đoạt để trang hoàng cho các quầy tạp

hoá ở đô thị. Những kẻ chống đối hoặc bị giết hoặc bị đưa đi đày ở Siberia. Hàng ngàn

người bị bắt lao động khổ sai tại những công tŕnh thế kỷ như kênh đào Kareli nối vịnh

Phần lan với Bạch hải. Nạn đói đă nổ ra tại Ucrain năm 1932, trong 2 năm sau đó, ước

tính đă có từ 5-7 triệu người chết đói. Khoảng giữa những năm 30, phong trào chống đối

kế hoạch hoang tưởng của Stalin trong đảng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên Stalin đă ra

tay, Trosky bị đẩy đi lưu vong. Kamenev và Zinoviev bị cô lập. Ngôi sao đang lên Kirov

bị ám sát. Một cuộc thanh trừng tập thể được tiến hành nhằm vào tầng lớp Bolsevic cũ đă

từng cùng với Lenin tiến hành khởi nghĩa. Trong năm 1935, hơn 100,000 người đă bị bắt

với tội danh “kẻ thù của quốc gia” chỉ riêng ở Leningrat.

Trên danh nghĩa, những biến động đó chẳng ảnh hưởng đến cá nhân Q. Anh được tiếp

đón trọng vọng ở văn pḥng Dalburo (lúc đó đang do một người cộng sản Phần lan Otto

Kuusinen lănh đạo). Q lập tức được phân quản lư 144 sinh viên Việt nam đang học tại

học viện Stalin (lúc đó đă được đổi tên thành Học viện các vấn đề Dân tộc và Thuộc địa).

Cần phải nhắc lại rằng, các sinh viên VN ở đây đă từng tổ chức lễ truy điệu Q và Trần

Phú trước đó. Ông Nguyễn Khánh Toàn, một cựu sinh viên kể lại về giai đoạn này:

Bác

H

c

c k

g

n g

ũ

i v

i các sinh viên Vi

t nam. Thông th

ườ

ng Bác hay

đế

n bu

i t

i

để

chia

s

các kinh nghi

m ho

t

độ

ng c

a mình liên quan

đế

n

đạ

o

đứ

c c

a ng

ườ

i cách m

ng và

tình

đ

oàn k

ế

t. Có m

t s

h

c viên tr

kiêu ng

o ho

c t

ái hay cãi nhau nh

ng chuy

n l

t

v

t, Bác l

i là ng

ườ

i

đứ

ng ra phân x

. Bác nói: “N

ế

u chúng ta không gi

ữ đượ

c

đ

oàn k

ế

t

trong m

t nhóm nh

th

ế

này, làm sao có th

ngh

ĩ đế

n chuy

n th

ng nh

t qu

n chúng

để

l

t

đổ

ch

ế độ

thu

c

đị

a khi v

n

ướ

c”liii

Q cũng như các học viên học viện được sống khá dễ thở trong chế độ bao cấp: ăn, ở và

dịch vụ y tế miến phí. Hè được đi nghỉ ở Crum. Mỗi tháng lĩnh 140 rub tiêu vặt. Bởi thế

www.langven.com

68

cũng dễ hiểu là Q có thể chẳng biết ǵ về những bi kịch đang diễn ra trong xă hội xô-viết.

Sức khỏe Q không được tốt. Tháng 9/1934, Q đi dưỡng bệnh vài tuần ở Crưm, sau đó anh

nhập học một khoá 6 tháng ở Trường Đại học Lenin, chuyên việc đào tạo cán bộ cho các

Đảng cộng sản anh em. Không có nhiều thông tin lắm về những tháng đầu tiên Q tới Nga.

Chỉ biết rằng, Q rất tích cực tham gia các hoạt động xă hội, tranh căi bảo vệ quyền lợi

cho các đồng chí Việt nam và cách mạng Việt nam. Ở nhà, anh chịu khó tập thể dục để

phục hồi sức khoẻ. Quan điểm trước đây của các nhà sử học là Q may mắn đứng ngoài

ŕa những cuộc thanh trừng tập thể đang diễn ra lúc đó. Những thông tin mới được tiết lộ

gần đây nhất ở Moscow cho thấy thực tế không phải như vậy. Có vẻ như Q đă bị một toà

án gồm có ông bạn cũ Manuilsky, chiến binh đa mưu của CCP – Khang Sinh và bà

Valeria Vasilieva xét hỏi. Không rơ tội danh của Q là ǵ, tuy nhiên chỉ riêng việc ông có

những quan điểm trái ngược với đường lối của Đại hội QTCS lần 6 về cách mạng dân

tộc, thêm vào đó lại là bạn thân của Borodin đang bị xét xử cũng đă quá đủ để Stalin nghi

ngờ. Việc Anh thả Q tháng 12/1932 cũng làm dấy lên một số nghi vấn là ông đă nhận làm

gián điệp để đổi lấy tự do. Chắc là nhờ sự bảo trợ của Manuilsky và đặc biệt là Vasilieva,

Q đă thoát tội. Bà này đại diện cho bộ máy của QTCS trong việc tiếp xúc với các sinh

viên Việt nam và rất nhiệt t́nh bảo vệ Q cho rằng lỗi duy nhất của ông là thiếu kinh

nghiệm. Trong một bức thư gửi cho lănh đạo của ICP tại Nam Trung quốc, bà đă viết:

liên quan

đế

n NAQ, anh ta c

n ph

i h

c th

t t

t trong 2 n

ă

m t

i và không làm gì khác.

Sau khi anh ta h

c xong, chúng tôi s

có k

ế

ho

ch s

d

ng”

Trong khiQ đang ở Moscow, các chiến hữu ở trong nước đang ra sức khôi phục lại bộ

máy của Đảng sau khi các lănh đạo cao cấp bị bắt từ tháng 4/1931 tại Nam bộ. Để giúp

đỡ ICP, QTCS đă kêu gọi tất cả các đảng CS lên tiếng ủng hộ cuộc “khởi nghĩa” của

công nhân ở Đông dương. Hơn 30 học sinh VN tại Moscow được lệnh hồi hương để giúp

đỡ các đồng chí của ḿnh. Mặc dù đa số bị Pháp bắt hoặc đào ngũ (một nguồn tin nói 22

trong số 35 người đă bị vô hiệu hoá), một số __________cũng đến được đích. Trong đó có Lê Hồng

Phong, đệ tử cũ củaQ ở Tâm tâm xă. Phong học lái máy bay ở Leningrad, sau đó chuyển

đến trường Stalin năm 1929, rời Liên xô năm 1931. Tháng 4/1932, Phong về đến Long

châu, một thành phố nhỏ ở biên giới Quảng tây và VN. Sau đó cùng với 2 đồng môn

Phùng Chí Kiên và Hà Huy Tập, Phong chuyển đến Nam ninh và lập ra Ban chỉ huy hải

ngoại có nhiệm vụ làm cầu nối giữa QTCS và bộ máy đảng ở trong nước.

Đảng cũng chia ra theo các vùng để dễ bề khôi phục. Đến giữa những năm 30, dân số

Việt nam vào khoảng 18 triệu, trong đó 4 triệu ở Nam bộ, 5 triệu ở Trung bộ, c̣n lại ở

Bắc bộ. Một cựu học viên của trường Stalin, ông Trần Văn Giàu, chịu trách nhiệm khôi

phục lại bộ máy ở Nam bộ. ông này về Sài g̣n đầu năm 1933. Đường lối của Moscow

lúc đó là chỉ chiêu nạp đảng viên trong tầng lớp công nhân thành thị. Tuy nhiên mặc dù

thất nghiệp tràn lan do cuộc đại khủng hoảng, công nhân vẫn có vẻ thờ ơ với chính trị.

Đảng có ảnh hưởng sâu rộng hơn nhiều trong nông dân ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu

long vốn chẳng ưa ǵ tầng lớp địa chủ và quan lại tham nhũng. Lợi dụng chính sách có vẻ

“thoáng” hơn của chính quyền, một số thành viên theo trường phái Trosky đă xuất bản

tạp chí

La Lutte

. Thậm chí có cán bộ Đảng c̣n đăng kư chạy đua vào hội đồng thành

phố. Giữa năm 1933, xứ ủy Nam kỳ được thành lập với 2 tiểu ban phụ trách các tỉnh

miền đông và miền tây và một trường đào tạo cán bộ. Pḥng Nh́ Pháp bất lực v́ không

được lệnh ra tay. Trần Văn Giàu đă bị bắt nhưng lại được tha v́ không có chứng cớ. Chỉ

có tay ám sát chuyên nghiệp Lê Hồng Sơn, sau một hồi lẩn trốn, cuối cùng cũng bị bắt tại

nhượng địa Pháp ở Thượng hải. Sau đó Sơn bị dẫn độ về VN và bị triều đ́nh xử tử vào

www.langven.com

69

2/1933 tại Vinh. T́nh h́nh ở các vùng khác không được khả quan lắm. Tại Annam, một

số đảng viên từ Xiêm về t́m cách kết hợp với các đảng viên bị bắt trong đợt Xô viết

Nghệ tĩnh mới được tha để phục hồi lại cơ sở đảng. Tuy nhiên có sự nghi kỵ đối với các

đảng viên đă từng ở tù. Tỉnh uỷ Nghệ an c̣n ra tuyên bố: “

trong 100

đả

ng viên c

ng s

n

cú, ch

có m

t có kh

n

ă

ng trung thành v

i các h

c thuy

ế

t c

a

đả

ng”.

Dù sao, đến giữa

năm 1934, ba khu uỷ đă được thành lập, mỗi uỷ ban phụ trách từ 5-7 tỉnh. Tonkin là vùng

trắng cho đến năm 1934 khi một số đảng viên bắt đầu hoạt động lại ở Việt bắc. Sau đó

nhờ có sự móc nối của Lê Hồng Phong, xứ uỷ Bắc kỳ mới được thành lập lại. Cũng vào

khoảng thời gian đó, một số đảng viên do Q gây dựng từ những năm trước đă thành lập

ủy ban trung ương lâm thời tại cao nguyên Khorat để tuyển mộ và đào tạo thành viên cho

các hoạt động trong nước. Uỷ ban này sau đó đă tự xưng là văn pḥng liên lạc của xứ uỷ

Nam kỳ và Trung kỳ với thế giới bên ngoài. Các uỷ ban tương tự cũng được thành lập ở

Lào và Campuchia.

Vấn đề quan trọng của đảng là xem xét lại chiến lược của ḿnh sau những tổn thất lớn lao

trong XVNT. Khoảng giữa năm 1932, Lê Hồng Phong cùng với một số đồng chí nữa đă

dự thảo cương lĩnh mới. Cương lĩnh này hiển nhiên chịu ảnh hưởng của xu thế chính trị

lúc đó tại Matxcova nên mang nặng tính bè phái và thiên tả. Cương lĩnh nhấn mạnh tầm

quan trọng của cách mạng phản phong so với cuộc đấu tranh phản đế và hết sức nghi ngờ

các đảng phái có tính dân tộc. Tờ

Bolsevic

, cơ quan của uỷ ban hải ngoại cũng tập trung

vào những luận điểm tương tự. Các bài báo được cho là của Hà Huy Tập đă phê phán

những quan điểm “tiểu tư sản” như “

cách m

ng dân t

c ph

i x

y ra tr

ướ

c cách m

ng

XHCN

”. Tập cũng chỉ trích các cơ sở đảng trong nước quá chú trọng trong việc huy động

nông dân và yêu cầu họ tuyển mộ nhiều công nhân hơn nữa. Theo Tập, nông dân “tham

lam sở hữu, không chính kiến, không đoàn kết, chậm hiểu biết các tư tưởng mới và không

thể trở thành lực lượng cách mạng”. Tuy những lời phê phán không nhằm vào ai cụ thể,

rơ ràng mục tiêu của ban biên tập là những luận điểm và chính sách của NAQ. Một bài

báo, sau khi đề cập việc “

m

t s

ố đồ

ng chí trong n

ướ

c cho r

ng

đị

a ch

và t

ư

s

n dân t

c

c

ũ

ng có tinh th

n ch

ng

đế

qu

c và nh

ư

v

y có th

tr

thành m

t ph

n c

a cách m

ng

đă nói toẹt rằng đó chính là những quan điểm của NAQ tại đại hội thống nhất tháng

2/1930, nhưng sau đó đă bị các lănh đạo mới của đảng loại bỏ. Đảng là đội tiên phong

của giai cấp công nhân chứ không phải của tất cả quần chúng. Bài báo viết: “

Đả

ng c

ng

s

n lánh

đạ

o cu

c

đấ

u tranh giai c

p ch

không ph

i

đấ

u tranh dân t

c. B

i vì

đ

ây là

đả

ng c

a giai c

p công nhân, trên tinh th

n vô s

n qu

c t

ế

,

đả

ng ph

i kiên quy

ế

t ch

ng

l

i nh

ng t

ư

t

ưở

ng dân t

c và nh

ng tuyên truy

n sáo r

ng ki

u: khôi ph

c

đấ

t n

ướ

c c

a

nh

ng con r

ng, cháu tiên. Chúng ta ch

ng l

i th

c dân Pháp, nh

ư

ng không có ngh

ĩ

a là

chúng ta

ng h

các t

ư

t

ưở

ng dân t

c.”

Hà Huy Tập c̣n chỉ trích gay gắt hơn

Chúng ta ch

u

ơ

n NAQ, nh

ư

ng các

đồ

ng chí không

đượ

c quên b

n ch

t dân t

c c

a

NAQ và nh

ng ch

ỉ đạ

o sai l

m c

a ông v

các v

n

đề

cách m

ng t

ư

s

n dân t

c, c

ũ

ng

nh

ư

nh

ng lý thuy

ế

t có tính c

ơ

h

i mà ông

đ

ã gieo r

c trong các thành viên Thanh niên

H

i và Tân Vi

t...Ông không ch

u tuân theo nh

ng ch

th

c

a QTCS trong vi

c sát nh

p.

B

n c

ươ

ng l

ĩ

nh chính tr

tháng 2/30 c

ũ

ng nh

ư đả

ng th

ng nh

t m

i

đ

ã không tuân th

nh

ng nguyên t

c c

a QTCS. NAQ còn l

n ti

ế

ng

ng h

nh

ng chi

ế

n thu

t sai l

m và

tho

hi

p nh

ư

“trung l

p v

i giai c

p t

ư

s

n và

đị

a ch

, liên k

ế

t v

i các trung nông và

nông dân”. Do

đ

ó t

tháng 1

đế

n 10/30, ICP

đ

ã ti

ế

n hành m

t

đườ

ng l

i

đố

i l

p v

i

www.langven.com

70

QTCS. M

c dù

đả

ng

đ

ã h

ă

ng hái lãnh

đạ

o qu

n chúng vùng lên, các xô vi

ế

t trong XVNT

c

ũ

ng

đ

ã không làm theo các

đườ

ng l

i chính tr

ị đ

úng

đắ

n”liv

Tháng 6/1934 Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập đă triệu tập hội nghị tại Makao để bàn về

đường lối tương lai cũng như chuẩn bị cho Đại hội đảng lần thứ nhất. Nghị quyết của hội

nghị này đă phê phán các nhà cải lương dân tộc như Bùi Quang Chiêu, Huỳnh Thúc

Kháng, Nguyễn An Ninh. Nghị quyết cho rằng hội này rất nguy hiểm v́ “

gi

danh b

o v

các t

ng l

p lao

độ

ng, ch

ng l

i chính quy

n,

đ

òi h

i các c

i cách hi

ế

n pháp, th

ng nh

t

giai c

p ch

nh

m m

c

đ

ích

đư

a nhân dân kh

i con

đườ

ng cách m

ng”.

Bởi thế nhiệm vụ

quan trọng của đảng là chống lại sự ảnh hưởng của những nhóm tương tự, cũng như

những tư tưởng rơi rớt từ Thanh niên Hội và Tân Việt.lv

Hội nghị cũng quyết định triệu tập Đại hội lần thứ nhất tại Hồng kông vào tháng Giêng

1935. Tuy nhiên theo nguồn của mật thám Pháp, QTCS đă đề nghị chuyển sang tháng 3.

Địa điểm cũng được quyết định lại là Macao. Từ cuối mùa hè năm 34, các lănh đạo đảng

đă dự thảo những văn kiện sẽ thảo luận tại đại hội. Giấy mời cũng được gửi đi các nơi,

yêu cầu tập trung vào ngày 15/3. Ban lănh đạo rất hy vọng là Moscow sẽ cử đoàn đại

biểu chính thức tham dự. Khoảng đầu tháng 8, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai

(mới được thả ở Quảng châu, lấy tên là Vân) và Hoàng Văn Nón (đảng viên từ Cao bằng)

lên đường đi dự đại hội 7 QTCS dự kiến sẽ tổ chức ở Moscow hè năm sau.lvi Hà Huy Tập

đương nhiên nhận trách nhiệm chuẩn bị đại hội Đảng. Tập sinh ở Nghệ an, đầu tiên tham

gia Tân việt, sau đó trốn sang Thanh niên Hội. Khi học ở trường Stalin, Tập tỏ ra rất nhạy

bén về lư thuyết và lớn tiếng phê phán những thiếu sót về tư tưởng của Hội. Trong con

mắt của mật thám Pháp, Tập là người kiêu ngạo, gian giảo và đa nghi đến cực điểm. Tập

thường xuyên gây vấn đề với các đồng chí của ḿnh và được gọi là “Ông Lùn” v́ tầm

vóc thấp bé của ḿnh. Quan hệ căng thẳng nhất là với Trần Văn Giàu. Ông này đến

Macao từ Nam bộ vào tháng 9/1934, một mặt để báo cáo t́nh h́nh, mặt khác tham gia

vào quá tŕnh chuẩn bị đại hội. Giàu chắc chắn coi Tập là chíp hôi. C̣n Tập th́ nghi ngờ

v́ sự ngạo mạn và độc lập của Giàu. Thậm chí Tập c̣n nghi Giàu là mật thám Pháp và

viết thư mách về Moscow. Măi sau này, khi có tin về việc Pháp lục soát khám xét nhà

Giàu, Tập mới thừa nhận là ḿnh không có cơ sở.

Kẻ phá hoại hoá ra nằm ở chỗ khác. Ngay trước thềm đại hội, một đảng viên kiêm nấu

bếp tên là Nguyễn Văn Trâm đă cuỗm toàn bộ tiền quỹ của đảng và trốn sang HKlvii. V́

Trầm nằm trong thành phần đi chọn địa điểm đại hội, ban lănh đạo quyết định phải thay

đổi địa điểm. Tập c̣n nghi một thành viên nữa là Nguyễn Hữu Cần có thể đă báo tin cho

cảnh sát Pháp. Tập định lừa mật thám bằng cách ngầm cho Cần này biết là do khó khăn

nên đại hội đảng có thể không tổ chức được. Trần Văn Giàu được phái về Nam bộ để xây

dựng bộ máy. Cuối cùng th́ đại hội cũng được tổ chức vào 27/3. Có Tập, Hoàng Đ́nh

Gióng, Phùng Chí Kiên và độ mươi đại biểu khác. Không có đoàn nào từ QTCS và cũng

chẳng có đại diện của đảng cộng sản nào. Thời điểm đó, đảng có khoảng 800 đảng viên ở

Đông dương và Xiêm. Đa số là người Kinh và ở quăng tuổi 20-30. Sự có mặt của Minh

Khai, người t́nh một thời của NAQ trong bộ máy lănh đạo chứng tỏ không có sự phân

biệt nam nữ đáng kể. Mặc dù ở Moscow, gió đă có vẻ đổi chiều, đại hội vẫn thông qua

nghị quyết giữ nguyên đường lối cũ, xây dựng mặt trận thống nhất trong phạm vi hẹp,

thâm nhập các đảng dân tộc để lùa các thành viên sang bên ta. Uỷ ban trung ương gồm9

thành viên do Hà Huy Tập làm tổng bí thư sẽ đóng trụ sở tại Sài g̣n. Ban liên lạc hải

ngoại của Phong được chuyển sang Thượng hải. Trong báo cáo gửi QTCS ngày 31/3, Tập

c̣n tranh thủ đả NAQ mấy phát nữa. Tập viết:

toàn

đả

ng

đ

ang ti

ế

n hành cu

c chi

ế

n

www.langven.com

71

chóng l

i nh

ng t

ư

t

ưở

ng “cách m

ng dân t

c r

ơ

i r

t t

th

i Thanh niên H

i d

ướ

i s

lãnh

đạ

o c

a NAQ. Nh

ng t

ư

t

ưở

ng

đ

ó là tr

ng

i chính cho ch

ngh

ĩ

a c

ng s

n”.

Tập

c̣n đề xuất NAQ phải viết bản tự kiểm điểm. Vài tuần sau, Tập lại tấn công tiếp, dẫn lời

một số đại biểu đại hội đă quy một phần trách nhiệm cho Quốc trong việc hàng trăm đảng

viên ICP bị bắt. Tập buộc tội Quốc đă tiếp tục dùng Lâm Đức Thụ mặc dù biết rơ tay này

là mật thám Pháp, Q c̣n bắt các học viên trường thanh niên Quảng châu nộp ảnh và khai

tên tuổi họ hàng. Những thông tin này sau bị rơi vào tay Pháp. Cuối cùng Tập kết luận

NAQ không th

ch

i b

trách nhi

m trong nh

ng v

vi

c này”

Q chắc chắn là được đọc hết những bài viết này của Tập. Không rơ ông nghĩ ǵ về các

phê phán của Tập đối với ḿnh. Chỉ thấy Q phàn nàn trong thư gửi Dalburo thâng 1/1935

là tŕnh độ lư luận của một số sinh viên Việt nam trong trường Stalin quá thấp: nhiều

người không hiểu thế nào là cách mạng dân chủ tư sản, cũng chẳng hiểu cách mạng ruộng

đất có liên quan ǵ đến sự nghiệp chống đế quốc. Q cho rằng mặc dù các vấn đề này có từ

những năm 1930-31 nhưng gần đây đă trở nên đặc biệt nghiêm trọng do các đồng chí

lănh đạo c̣n quá trẻ. Không hiểu là ông định ám chỉ Tập hay kẻ đă chết là Trần Phú.

Đại hội lần thứ 7 của QTCS được khai mạc ngày 25/7/1935 tại Nhà Công đoàn đầy ngóc

ngách. Trong khi khẩu hiệu trên hội trường thông báo về chiến thắng đang đến gần của

giai cấp vô sản, bên ngoài đại hội là không khi rất căng thẳng của vụ xử tử hai lănh tụ cũ

là Kamenev và Zinoviev. Các đại biểu bị tập trung cả vào khách sạn Lux và bị cấm ra

vào điện Kremlin. Đoàn Việt nam có ba đại biểu: Lê Hồng Phong (c̣n có các tên khác là

Litvinov, Hải An, Chajan, Chayan); Nguyễn ThịMinh Khai (Vân hay Phan Lan) và

Hoàng Văn Nón. Hai đại biểu nữa cũng đă xuất phát từ Việt nam nhưng không bao giờ

đến nơi. Cả ba đều đă đăng đàn phát biểu.Minh Khai nói về sự bóc lột phụ nữ và tầm

quan trọng của phụ nữ trong cách mạng; Nón phát biểu về các phương pháp huy động

quần chúng. Bài phát biểu chính của Phong nói về những sai lầm đă qua và nhiệm vụ

hiện tại của Đảng. Các bài phát biểu đều đă không “găi” đúng vào mục đích của đại hội

7, nhằm xác định chiến lược mới cho các đảng cộng sản. Chiến lược này gần với các ư

tưởng của Q thời Thanh niên hội hơn là chiến lược cực tả của đại hội Sáu. Nguyên nhân

chính dẫn đến thay đổi là sự lớn mạnh nhanh chóng và nguy hiểm của Hitler và chủ nghĩa

phát xít. Stalin đă tin rằng sự lên ngôi của Hitler tại Đức năm 1933 đă phản ánh giai đoạn

sụp đổ của chủ nghĩa tư bản dẫn đến chính quyền của đảng CS. Tuy nhiên sau đó ông đă

thay đổi quan điểm và coi chủ nghĩa phát xít như hiểm hoạ trực tiếp và quan trọng nhất

của Liên xô. Thư kư mới của QTCS, ông Dimitrov, đă lờ đi nhiệm vụ cách mạng vô sản

và chính quyền xô viết do đại hội Sáu đề ra. Ông nhấn mạnh sự nguy hiểm của chủ nghĩa

phát xít và kêu gọi các đảng CS huy động hoặc tham gia vào các phong trào tiến bộ,

nhằm thành lập mặt trận rộng răi chống chủ nghĩa phát xít Đức và quân phiệt Nhật. Cuối

đại hội, ICP được kết nạp vào QTCS và Phong được bầu lên chủ tịch đoàn.

Q tham gia đại hội với tư cách quan sát viên từ Dalburo với mật danh là Linov. Mặc dù

không phát biểu chính thức nhưng chắc chắn là Q rất tích cực sau hậu trường, la cà tṛ

chuyện. Q cũng tham gia vào bữa tiệc chào mừng việc kết nạp ICP do Maurice Thorez,

một lănh đạo đảng CS Pháp tổ chức. Tuy chiến lược mới làm Q hài ḷng v́ nó phù hợp

với tư tưởng mặt trận rộng răi mà ông đă đặt ra cho Thanh niên Hội và vẫn giữ vai tṛ là

người phát ngôn chủ yếu cho Đông Nam á tại Ban chấp hành QTCS, chắc hẳn là Q không

dễ chịu khi phải ngồi ngoài lề đại hội và nh́n LHP xuất hiện trong hào quang như một

nhà lănh đạo của ICP mới. Tệ hơn nữa, mối t́nh với Minh Khai cũng đi đên hồi kết.

Chẳng mấy chốc sau khi đại hội kết thúc Minh Khai và Phong làm lễ kết hôn tại

www.langven.com

72

Matxcova. Trong khi đó, tất cả các tài liệu của lănh đạo ICP gửi đi từ Makao cho QTCS

trước đại hội đều nhấn mạnh là “vợ đ/c Quốc” (

Le femme de Quoc)

tức Minh Khai (MK)

sẽ có mặt trong thành phần đoàn. Chỉ có khả năng là Phong đă cưa đổ MK trên đường đi

dự đại hội. Sao lại đến nông nỗi vậy? Có nguồn cho rằng chẳng qua Q và MK đă bị xa

nhau quá lâu. Cũng có nguồn cho rằng QTCS đă cấp cho Q “một người vợ tạm thời”. Lại

có tin đồn là Q đă có con gái với một cô bạn người Nga.

Quan hệ giữa Q và MK là một trong những vấn đề gây bối rối nhất trong cuộc đời ông.

Mặc dù Q không bao giờ nhắc đến chuyện này, các nguồn tin chính thức của đảng đều

phủ nhận, tuy nhiên các bằng chứng cho thấy họ đă có quan hệ khá khăng khít. Ít nhất là

các đồng chí của họ đều coi họ là vợ chồng. Tuy nhiên nếu nói như một nhà sử học nào

đó là Q đă bị “thất bại kép”: mất cả vợ và chức lănh đạo đảng vào tay LHP th́ cũng chưa

thực sự ổn lắm. Thực tế cuộc đờiQ đă cho thấy ông ưa chuộng những mối quan hệ ngẫu

hứng để khỏi ảnh hưởng đến các mục đích chính trị của ḿnh. Có thể ngay từ đầu Q đă

coi mối quan hệ vớiMK là tạm thời.

Sau khi cưới xong, Phong ngay lập tức trở về TQ để báo cáo t́nh h́nh.Măi đến hè năm

1936, MK và Hoàng Văn Nón mới rời Matxcova đi Pháp trong vai một cặp vợ chồng nhà

buôn người Hoa giàu có đi nghỉ mát. Sau đó hai người qua Hồng kông, Thượng hải. Tại

đâyMK tái ngộ LHP và cùng trở về Sài g̣n. MK được bầu làm uỷ viên trung ương xứ uỷ

Nam kỳ. MK và Phong chắc không biết được rằng số mệnh đă giao cho họ trở thành cặp

liệt sĩ quan trọng nhất của cách mạng Việt namlviii. Trước khi rời Moscow,MK và Nón có

đến gặp Q. T́nh h́nh lúc đó đă có một số thay đổi theo đường lối mới của đại hội 7. Tại

Pháp, Mặt trận b́nh dân thắng cử và thành lập chính phủ mới được FCP ủng hộ. Chính

phủ kêu gọi chống phát xít, hỗ trợ Liên xô, cải cách tại các thuộc địa. Q viết cho các đồng

chí ḿnh:

Th

ng l

i c

a MTBD t

i Pháp là c

ơ

h

i hi

ế

m có mà chúng ta ph

i s

d

ng. V

n

đề

quan

tr

ng nh

t bây gi

là s

th

ng nh

t c

a

Đả

ng,

đặ

c bi

t gi

a các c

ơ

s

trong và ngoài

n

ướ

c. Khi v

ề đế

n Sài gòn, hãy nói v

i

đồ

ng chí LHP 3

đ

i

u:

1. U

ban h

i ngo

i ph

i ngay l

p t

c tr

v

Vi

t nam

để đả

m nh

n vai trò lãnh

đạ

o

phong trào, ch

ỉ để

l

i vài

đồ

ng chí gi

quan h

v

i th

ế

gi

i bên ngoài.

2.

Đả

ng ph

i kiên quy

ế

t tách xa kh

i b

n Troskist

đ

ang ph

n b

i l

i ích c

a cách

m

ng

3. T

p trung h

ế

t s

c l

c

để

xây d

ng m

t tr

n r

ng rãi ch

ng phát xít và chi

ế

n

tranh.

Đ

oàn k

ế

t các l

c l

ượ

ng yêu n

ướ

c c

u n

ướ

c nh

ư

ng kiên quy

ế

t duy trì s

lãnh

đạ

o c

a

đả

ng và giai c

p lao

độ

ng

Chiến lược xây dựng mặt trận rộng răi nhưng kiên quyết giữ vững sự lănh đạo đă từng

được Q áp dụng trong việc xây dựng Thanh niên Hội. Q chắc bị áp lực khi chỉ đạo bài

xích các phần tử Troskist. Lúc đó Stalin đang phải vất vả chiến đấu với các thế lực theo

Troski trong phong trào cách mạng thế giới. Mặc dù Q không đồng t́nh với lư thuyết phi

thực tế “

cách m

ng liên t

c và kh

p n

ơ

i”

của Troski, hẳn là ông thừa hiểu rằng những

người Troskist c̣n tốt hơn khối lần các kẻ thù thực sự của cách mạng. Nếu được tự do

lựa chọn, Q sẽ t́m cách thuyết phục họ chấp nhận sự lănh đạo của ICP.

Sau khi các đồng chí về hết, Q càng cảm thấy vô dụng. Từ năm 1935, Q đă nói với nhà

báo xô viết Ilia Erenburg rằng ước muốn duy nhất của ḿnh là được về nước hoạt động

càng sớm càng tốt. Sau khi đại hội 7 kết thúc,Q đă chính thức xin phép về nước nhưng bị

từ chối với lư do là t́nh h́nh Đông dương rất phức tạp.Mùa hè năm 1936, Q lại xin phép

hồi hương qua đường Berlin và Paris. Giấy tờ đang được chuẩn bị th́ chuyến đi bị huỷ do

www.langven.com

73

cuộc nội chiến Tây ban nha và sự khủng bố ở Pháp. Trong lúc chờ đợi,Q đăng kư vào

học tại Học viện các vấn đề dân tộc và thuộc địa (trường Stalin cũ) và chuyển đến một

căn hộ độc thân ở phố Bolsaia Bronaia. Trong lúc rảnh rỗi Q dịch các tác phẩm:

Tuyên

ngôn

đả

ng c

ng s

n

của Marx và

B

nh

u trí t

khuynh

của Lenin ra tiếng Việt. Ông c̣n

viết bản khoá luận về

“Cách m

ng ru

ng

đấ

t

ở Đ

ông Nam á”.

Đối với một nhà hoạt

động tích cực và ít quan tâm đến các lư thuyết giáo điều như Q, phải ngồi nhai giáo án

khô khốc, dịch tác phẩm lư luận của những danh nhân hẳn phải là một cực h́nh. Tháng

6/1938 Q viết một lá thư tuyệt vọng cho Trung ương QTCS: “

Làm gì v

i tôi thì làm, cho

tôi

ở đ

âu thì

, nh

ư

ng

đừ

ng b

t tôi b

t l

c và

ngoài

đả

ng”

. Với sự giúp đỡ của

Vassilieva, cuối cùngQ được cho phép về Trung quốc qua Trung Á. Ngày 29/9/1938, Q

ra khỏi trường. Hồ sơ của trường ngày 30/9 chính thức xác nhận sinh viên số 19 mang tên

Lin được giải phóng.

Nếu không có thêm hồ sơ mật giai đoạn những năm 30 được Matxcova cho phép sử

dụng, rất khó lư giải tại sao cuối cùng Matxcova lại giải phóng Q khỏi giai đoạn cải tạo

nhiều năm v́ bị nghi ngờ là đồng ư cung cấp thông tin cho Anh để đổi lấy tự do trong

phiên toà ở HK. Cũng có vẻ như không phải là Stalin không ưa chuộng những quan điểm

dị giáo của Q trước đây. Bởi nếu vậy, sau đại hội 7,Q đă bị phái đi ngay để thực thi

những chiến lược mới. T́nh h́nh TQ lúc đó đang thay đổi nhanh chóng: trước sức ép to

lớn của Tưởng, Mao phải từ bỏ căn cứ phía nam sông Dương tử tiến hành cuộc Trường

chinh đến Di An. Có thể dự đoán Matxcova cần người nắm vững thông tin về TQ. Đối

vớiQ đây là cơ hội để ông chung sức cùng các đồng chí của ḿnh bước vào giai đoạn

mới của cách mạng Việt nam.

Trong hang Pacbo

Năm 1938 Trung quốc đang trong t́nh trạng chiến tranh. Cuộc chiến khởi nguồn từ năm

1931 khi bọn quân phiệt Nhật bất ngờ chiếm Măn châu và thành lập chế độ bù nh́n Măn

châu quốc. Trong những năm sau đó, chúng tiến dần xuống phía nam, chiếm đóng các

tỉnh Đông bắc quanh kinh đô cũ là Bắc kinh. Ban đầu Tưởng Giới Thạch chẳng quan tâm

lắm đến điều đó. Bỏ qua sự quân sư của các đồng sự, Tưởng tiếp tục chiến dịch quét sạch

cộng sản ở bờ nam sông Dương tử làm Mao phải bỏ chạy lên Di an. Năm 1937, Tưởng bị

các đồng chí của ḿnh bắt cóc khi đang đi thăm Tây an và buộc phải thay đổi thái độ.

Lần thứ hai, liên minh Quốc-Cộng được thành lập nhằm chống lại sự xâm lược của Nhật.

Cuộc chiến bùng nổ sau đó vài tháng sau trận đánh trên cầu Marco Polo. Cuộc xâm lược

của Nhật mang đến sự thống khổ cùng cực cho nhân dân TQ nhưng lại mở ra một cơ hội

mới cho NAQ. Nhờ có liên minh Q-C mới, Q có thể di chuyển tự do để liên lạc với các

đồng chí của ḿnh. Cuộc chiến cũng đe doạ sẽ lan đến các vùng khác của châu á, có thể

kết liễu sự thống trị của Pháp tại Đông dương.

Q rời Matxcova đầu thu 1938, đi tàu hoả qua những thảo nguyên Trung á bát ngát. Sau

vài ngày nghỉ ngơi ở Alma-Ata, Q theo một đoàn xe qua Urumgi đến Lan châu, thành

phố phía đông của con đường tơ lụa nổi tiếng thời Trung cổ. Đại diện của CCP tại Lan

châu đă giúp Q đến Tây an. Tại đó tư lệnh quân giải phóng Trung quốc (PLA) Vũ Thiếu

Quân đă được lệnh của thượng cấp “phải tiếp đón một vị khách châu á quan trọng, chăm

sóc cẩn thận và hộ tống ông ta đến Di an”lix. Đường đến Di an phải qua vô số những trạm

kiểm soát của Quốc dân Đảng. Q phải đóng vai một anh đánh xe chở quần áo và thực

phẩm cho các bộ tộc trên núi và hầu như phải đi bộ suốt chặng đường 200 dặm này.

www.langven.com

74

Di an lúc đó tràn ngập quân phục màu xanh của 200,000 binh lính và sĩ quan PLA. Họ ở

trong những cái hang khoét vào vách núi để tránh cái nắng nóng mùa hè và hưởng chút

hơi ấm mùa đông. Q may mắn hơn, được xếp ở trong toà biệt thự Đào Viên, sau này trở

thành nhà ở của Mao. Có vẻ như Q không gặp Mao, lúc đó đang thu nhập ảnh hưởng to

lớn trong Đảng. Ở Di an hai tuần, Q cùng với tướng Ze Tianying nam tiến Quế lâm trên

một đoàn 5 chiếc xe hơi với cái tên mới: Hồ Quang.

Quế lâm là thành phố khá quê mùa ở Quảng tây, rất nổi tiếng với những cánh rừng đá đă

tạo cảm hứng cho biết bao hoạ sĩ thuỷ mặc Trung hoa. Tại đây, Q làm việc cho Văn

pḥng cứu quốc, một tổ chức quần chúng của liên minh Quốc-Cộng. Ông ở luôn tại bộ

chỉ huy của Bát lộ quân ở làng Lộ mă, ngay ngoại ô thành phố. Một người bạn TQ của Q

tại đây nhớ lại:

Tôi làm vi

c v

i HCM t

i b

ch

huy Bát l

quân

Qu

ế

lâm t

cu

i n

ă

m 1938

đế

n mùa

hè n

ă

m 1939. Chúng tôi s

ng v

i nhau trong m

t c

ă

n nhà r

ng phía tây làng L

mã.

HCM khi

đ

ó l

y tên là H

Quang và nghe gi

ng, tôi cho ông là ng

ườ

i Qu

ng

đ

ông. V

ă

n

phòng c

a chúng tôi ho

t

độ

ng nh

ư

m

t câu l

c b

kiêm thêm nhi

m v

giáo d

c và v

ă

n

hoá. Có nhi

u cán b

, ph

trách t

s

c kho

, tài chính

đế

n tuyên truy

n. HCM v

a là cán

b

v

sinh v

a là nhà báo. Ông có nh

ng tiêu chu

n v

sinh r

t cao và s

n sàng phê

phán không khoan nh

ượ

ng. Ông thi

ế

t k

ế

bìa,

đầ

u

đề

, vi

ế

t r

t nhi

u bài và th

ơ

cho Th

i

báo Sinh ho

t c

a chúng tôi lúc

đ

ó.

Ông t

o

n t

ượ

ng m

nh. Sáng d

y r

t s

m, t

p th

d

c và quét nhà b

i mù lên, che mi

ng

b

ng m

t mi

ế

ng v

i. Công vi

c vi

ế

t báo và thanh tra v

sinh chi

ế

m kho

ng 1/3->n

a th

i

gian, còn l

i ch

ng hi

u ông vi

ế

t cái gì

đ

ó r

t thành th

o trên chi

ế

c máy ch

ngo

i qu

c

c

a mình. Lúc

đ

ó tôi không bi

ế

t H

Quang là ai, nh

ư

ng bi

ế

t là ông có th

ế

l

c. M

t l

n tôi

có nh

c nh

ông ta chuy

n gì

đ

ó, c

ũ

ng bình th

ườ

ng thôi. Sáng hôm sau

đ

ã th

y cán b

Đả

ng g

i lên h

i: ai cho phép anh phê phán m

i ng

ườ

i m

t cách b

a bãi?

NAQ rất có ư thức xây dựng mối quan hệ hữu hảo với các đồng nghiệp. Một lần có anh

bạn hay đi Hồng kong và Hải pḥng mua hộ ông một chiếc máy chữ Pháp để thay thế cái

máy kiểu Anh ông đang dùng, Q đă dẫn anh này đi chiêu đăi, uống hết 2 chai rượu.

Một số bài viết củaQ được gửi về Hà nội và đăng trên tờ báo tiếng Pháp:

Notre Voix

với

bút danh là P.C. Lin. Các bài này chủ yếu nói về t́nh h́nh cuộc chiến chống Nhật của

nhân dân Trung quốc. Có bài châm biếm sứ mạng “khai hoá văn minh” cho Trung hoa

của phát xít Nhật trong khi giết hại dă man hàng vạn thường dân tại Nam kinh đầu năm

1938. Bài khác ca ngợi mặt trận liên minh Quốc-Cộng chống Nhật. Bài thứ ba th́ chỉ rơ

lợi thế công nghệ của Nhật trong cuộc chiến chỉ mang lại những thắng lợi tạm thời ban

đầu. Các xe cơ giới của Nhật sa lầy trên những đường ṃn Trung quốc. Chính phủ Nhật

đă hứa kết thúc chiến tranh trong 3 tháng rồi 6 tháng, mà vẫn chưa biết đến bao giờ mới

thực hiện được.

Notre Voix

một tờ báo công khai của ICP là kết quả của những thay đổi dễ thở hơn tại

thuộc địa do thắng lợi của Mặt trận B́nh dân tại Pháp năm 1936 mang lại. Cùng với

chính sách mới liên minh rộng răi chống phát xít được thông qua tại Đại hội QTCS lần

thứ 7, những đường lối thiên tả của ICP thông qua tại đại hội Macao tỏ ra lỗi thời. Tháng

7/1936, Lê Hồng Phong trở về từ Moscow triệu tập hội nghị Trung ương để phổ biến

chính sách mới: Mặt trận dân chủ Đông dương được thành lập; ICP gửi thư tới VNQDĐ

và các đảng phái chính trị khác đề nghị hợp tác đấu tranh dành độc lập dân tộc.lx UBTU

cũng quyết định sẽ chuyển trụ sở về Hóc môn. LHP với tư cách là đại diện của QTCS

cũng về theo. Hai năm tiếp theo chứng kiến sự bành trướng công khai của ICP. Số lượng

www.langven.com

75

đảng viên tăng lên vài lần. Các tổ chức “hội phản đế” mọc ra khắp nơi, trở thành những

trung tâm đào tạo và tuyển mộ. Một số gương mặt trẻ, ôn hoà xuất hiện như Vơ Nguyên

Giáp, Trường Chinh, Trần Huy Liệu. Chính sách mới cũng là một liều thuốc đắng cho

những người chủ trương cứng rắn và giáo điều như Hà Huy Tập. Tại hội nghị TW 1938,

HHT và LHP đă căi vă kịch liệt về Mặt trận B́nh dân và chính sách liên minh với các

đảng nhỏ khác. Cuối cùng, Nguyễn Văn Cừ, đảng viên từ Bắc bộ, theo chủ trương cân

bằng giữa công khai và bí mật đă được bầu làm Tổng bí thư thay Tập vốn chẳng được

mấy người ưa.lxi

Q quan sát những thay đổi trên từ căn cứ tạm thời của ḿnh ở phía nam Trung quốc. Ông

hy vọng các đồng chí của ḿnh sẽ nhận ra ḿnh qua phong cách và nội dung các bài báo

trong

Notre Voix

được viết dưới bút danh Lin (mà ông đă từng dùng ở Matxcova). Tháng

7/1939 Q đă liều hơn, gửi thẳng thư tay có địa chỉ của ḿnh qua người quen cho các uỷ

viên trung ương. Bức thư là bản tuyên ngôn ủng hộ chính sách mặt trận rộng răi đă được

đại hội 7 của QTCS thông qua.

1. Vào th

i

đ

i

m này

đả

ng c

n ph

i ki

m ch

ế

không

đ

òi h

i nh

ư độ

c l

p dân t

c, l

p ngh

vi

n...

Đ

i

u

đ

ó ch

có l

i cho b

n phát xít Nh

t. C

n t

p trung vào vi

c

đ

òi các quy

n dân

ch

nh

ư

t

do h

i h

p, t

do báo chí, t

do t

ch

c, t

do ngôn lu

n và

đư

a

đả

ng ra công

khai.

2.Mu

n

đạ

t

đượ

c

đ

i

u

đ

ó, ph

i thành l

p m

t tr

n liên minh r

ng rãi bao g

m c

nh

ng

ng

ườ

i Pháp ti

ế

n b

ộ ở Đ

ông d

ươ

ng và giai c

p t

ư

s

n dân t

c.

3.

Đả

ng ph

i b

ng m

i cách lôi kéo

đượ

c nh

ng t

ng l

p t

ư

s

n có th

lôi kéo

đượ

c,

trung l

p hóa nh

ng ph

n t

có th

trung l

p

đượ

c. Kiên quy

ế

t không

để

h

r

ơ

i vào tay

b

n ph

n

độ

ng k

thù c

a cách m

ng.

4. Không tho

hi

p v

i b

n Troskist

đ

ang tr

thành chó s

ă

n c

a ch

ngh

ĩ

a phát xít.

5, M

t tr

n dân t

c

Đ

ông d

ươ

ng c

n ph

i có quan h

ch

t ch

v

i M

t tr

n Bình dân c

a

Pháp

để đấ

u tranh cho t

do và dân ch

.

6.

Đả

ng không

đượ

c phép

đ

òi h

i quy

n lãnh

đạ

o m

t tr

n. Ng

ượ

c l

i ph

i th

hi

n

đả

ng

là l

c l

ượ

ng tích c

c nh

t, trung thành nh

t và hy sinh nhi

u nh

t. Ch

có qua cu

c chi

ế

n

đấ

u hàng ngày, nhân dân m

i có th

hi

u

đượ

c nh

ng chính sách

đ

úng

đắ

n c

a

đả

ng và

th

a nh

n vai trò lãnh

đạ

o c

a

đả

ng.

7.

Đả

ng ph

i kiên quy

ế

t

đấ

u tranh ch

ng ch

ngh

ĩ

a bè phái, không ng

ng nâng cao trình

độ

v

ă

n hoá và chính tr

c

a

đả

ng viên và giúp

đỡ

nh

ng ng

ườ

i ch

ư

a ph

i là

đả

ng viên

nâng cao trình

độ

.

Đả

ng c

ũ

ng ph

i duy trì nh

ng quan h

m

t thi

ế

t v

i

đả

ng c

ng s

n

Pháp

NAQ gửi kèm bức thư này trong báo cáo chính thức đầu tiên cho QTCS

.

Q giải thích về

sự chậm trễ này là do t́nh h́nh thực tế xấu đi. Q cũng xin lỗi và nhờ (có thể có chút châm

biếm ở đây) các đồng chí tại Matxcova xem hộ liệu có sai sót ǵ về tư tưởng trong bức

thư gửi ICP. Q nói đă mất hết tài liệu chính thức của đại hội 7 và chỉ dựa vào trí nhớ.Q

cũng thông bâo, mặc dù Mặt trận b́nh dân Pháp đă mang lại một số cải cách tại Đông

dương, chính sách thiên hữu của chính phủ Daladier từ năm 1938 đang có nguy cơ xoá

sách những cải cách đó. Một số cuộc đấu tranh của công nhân đă bùng phát trở lại và

được sự ủng hộ rộng răi của dân chúng.

Tháng hai năm 1939, Quốc – Cộng liên minh mở trường đào tạo quân sự tại Hằng dương,

200km về phía đông bắc Quế lâm. Khoá học đầu tiên bắt đầu từ 15/2 và kết thúc vào giữa

tháng 5. Tưởng chỉ thị tướng Gia Gian Anh t́m một vài cán bộ cộng sản để giúp đỡ.

NAQ lúc đó vẫn với tên là Hồ Quang những đă mang hàm thiếu tá, được phân về làm

www.langven.com

76

quản lư, kiêm luôn phụ trách liên lạc vô tuyến. Sau khi kết thúc nhiệm vụ vào tháng 9, Q

trở về Quế lâm, vài ngày sau lên đường đi Long châu để bắt liên lạc với hai đồng chí

được ICP cử sang. Đáng tiếc là khiQ đến nơi, hai đồng chí nọ đă tiêu hết tiền đành phải

quay về. Thất bại, Q lại trở về Quế lâm t́m cách khác. Ông quyết định đi Trùng Khánh,

thủ đô kháng chiến của Quốc dân đảng sau khi Nhật chiếm lưu vực sông Dương tử. Trên

đường đi, Q nghỉ lại tại tầng thượng của văn pḥng Bát lộ quân ở Quế dương, thủ phủ

Quế châu cho đến tháng 7/11. Tại Trùng Khánh, Quốc nối lại quan hệ với Chu Ân Lai lúc

đó đang phụ trách văn pḥng đại diện của Đảng cộng sản. Q đă quen Chu từ thời Paris,

sau đó là thời gian Chu làm chính uỷ của học viện Hoàng Phố. Sau này Chu kể lại, Q

sống rất đơn giản như một ông nông dân và lúc nào cũng cặp kè cái máy chữ bên ḿnh.

Rất ít người trong văn pḥng biết nhân thân của Q. Thật trớ trêu, Phùng Chí Kiên và

Đặng Văn Cáp, đại diện cho chi nhánh Côn minh của ICP (cùng với Hoàng Văn Hoan và

Vũ Anh) đă đến Quế dương để gặp Q vào ngày 11/11. BiếtQ đă đi Trùng Khánh Kiên

quay lại và để Cáp ở lại đợi. Ngày 18/11, Q trở về Quế dương, nhưng Cáp lại bị lạc trong

những ngơ hẻm gần văn pḥng và không gặp được Q. Dù sao, Q cũng đă biết được sự tồn

tại của ICP tại Côn minh. Tháng 2/1940, Q lên đường đi gặp Phùng Chí Kiên và các đồng

chí khác. Vũ Anh (lúc đó có bí danh là Trịnh Đông Hải) hồi tưởng lại:

M

t ng

ườ

i

đ

àn ông trung niên, c

c

n cà v

t ti

ế

n t

i h

i tôI :

ở đ

ây có ai tên là Tr

nh

Đồ

ng H

i. Khi

đượ

c bi

ế

t

đ

ó chính là tôI, ông ta x

ư

ng danh là Tr

n và h

gi

ng m

i tôI

ra qu

ng tr

ườ

ng thành ph

nói chuy

n. Trên

đườ

ng tôI

đặ

c bi

t

n t

ượ

ng v

tác phong

nhanh nh

n và

đ

ôI m

t sáng ng

i c

a ông. TôI l

m

ờ đ

oán ra

đ

ó chính là NAQ, ng

ườ

i

Đả

ng

đ

ã c

t công tìm ki

ế

m lâu nay.

Đ

i

u

đ

ó

đ

em l

i cho tôI s

t

tin.

Vũ Anh giới thiệu về mạng lưới ngầm của Đảng ở Côn minh dưới vỏ bọc của một hăng

buôn, sau đó dẫn Q đI gặp Phùng Chí Kiên. Họ cũng gặp Hoàng Văn Hoan, người đă

từng dự lớp huấn luyện cua Thanh niên Hội, sau đó đă công tác nhiều năm ở Xiêm, hiện

đang làm thợ may ở Côn minh.Q ở trong một hiệu sách và tham gia các hoạt động cách

mạng. Như thường lệ lúc nào ông cũng kè kè cáI máy chứ bên cạnh và viết rất nhiều bài

báo cho báo Đồng Thanh của đảng. Tháng 4/1940, Q & PCK đI thăm các cơ sơ dọc theo

tuyến đường sắt Côn minh – Hà nội mới được Pháp xây dựng. Cuối tháng 5, Q trở về

Côn minh.lxii

Điều kiện hoạt động của đảng tại Đông dương càng ngày càng trở nên khó khăn. Chính

phủ Dadalier đang đặt dấu chấm hết cho Mặt trận B́nh dân tại Pháp. Chính quyền tại

thuộc địa được thể đặt thêm nhièu ḱm cặp với hoạt động của đảng. Tháng 8 năm đó,

nước Đức phát xít kư hiệp ước không xâm lược với Liên xô. Một tuần sau quân Đức vượt

biên giới Balan. Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Diễn biến này ảnh hưởng nghiêm

trọng đến hoạt động của đảng. Toàn quyền Castraux ra lệnh triệt phá tất cả những hoạt

động chống đối của ICP và các đảng cánh tả khác. Lê Hồng Phong bị bắt lại vào tháng 9

tại Sài g̣n. Hà Huy Tập th́ đang ở tù sau những cuộc biểu t́nh tháng Năm từ năm ngoái.

Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ vội vă triệu tập hội nghị TW tại ngoại ô Sài g̣n để bàn biện

pháp đối phó. Dưới sự truy đuổi gắt gao, chỉ có 4 thành viên có mặt trong đó không có

đại diện Bắc bộ. Hội nghị nhận định, mặc dù sự đàn áp của Pháp bắt đảng phảI rút vào

hoạt động bí mật, thế chiến thứ hai bùng nổ sẽ là cơ hội tốt cho các mạng Việt nam giành

độc lập như Lê nin đă từng chỉ ra. Lần đầu tiên từ khi Thanh niên Hội tan ră, vấn đề độc

lập dân tộc được đặt lên hàng đầu. Hội nghị cũng quyết định chấm dứt chiến lược Mặt

trận b́nh dân, thảo ra những chính sách mới chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Hai tháng

www.langven.com

77

sau, Nguyễn Văn Cừ cùng một uỷ viên TWtrẻ mới là Lê Duẩn bị bắt và tống vào nhà lao

Sài g̣n.lxiii

Sau khi Q quay về Côn minh, BCH TƯ đă cử hai đồng chí trẻ để tham gia huấn luyện: đó

là Phạm Văn Đồng và Vơ Nguyên Giáp. Đồng sinh năm 1908 tại Quảng ngăI trong gia

đ́nh mà bố làm đến chức thượng thư dưới thời Duy Tân. Tốt nghiệp Quốc học Huế,

Đồng trốn sang Quảng châu và học tại trường quân sự Hoàng Phố. Năm 1929, Đồng đă

từng tham gia đại hội của Thanh niên Hội tại Hồng kông. G̣ má cao, mắt sâu, phong

cách nhẹ nhàng nhưng kiên quyết, Đồng được anh em tôn làm thủ lĩnh. Sau khi bị bắt

năm 1931 tại Sài g̣n, Đồng được nếm mùi “chuồng cọp” Côn đảo và chỉ được ân xá năm

1937 trong thời kỳ Mặt trận b́nh dân.

Giáp sinh năm 1910 tại Quảng b́nh cũng trong một gia đ́nh quan lại. Tuy nhiên cha Giáp

tham gia kháng chiến từ những năm 1880s. Năm 1924, Giáp vào học viện quốc gia tại

Huế. Tính dữ dội và mănh liệt, sau vụ đám tang Phan Chu Trinh, Giáp bị cuốn vào các

hoạt động cách mạnh và bị đuổi khỏi trường năm 1927. Giáp gia nhập Tân Việt nhưng

sau đó nhanh chóng chuyển sang ICP. Bị bắt tại Huế v́ tham gia các hoạt động ủng hộ

Xô viết nghệ tĩnh, năm 1933 Giáp được tha và tiếp tục đI học. Sau khi lấy bằng Luật tại

đại học Hà nội, Giáp dạy sử tại một trường tư. Tại đây, ông đă gặp Nguyễn Thị Minh

Thái, em gáI của Nguyễn Thị Minh Khai (được cho là vợ Q) và có một con gái. Giáp

thường viết bài cho báo đảng Notre Voix và hợp tác với Trường Chinh trong việc xuất

bản các cuốn sách mỏng về t́nh h́nh nông thôn. Lúc rảnh rỗi, Giáp thích được đọc về

lịch sử quân sự trong thư viện thành phố Hà nội. Người giới thiệu Giáp đi Côn minh là

Hoàng Văn Thụ, một người dân tộc Thổ, uỷ viên TƯ từ năm 1938 và là bí thư chi bộ Bắc

bộ. Thụ cũng hay nói chuyện với Giáp về các vấn đề quân sự. Một ngày đầu tháng Năm,

sau khi tan lớp, Giáp chia tay với người vợ trẻ và đứa con thơ tại Hồ Tây mà không biết

đó là cuộc gặp gỡ cuối cùng của họ. Giáp nhập nhóm với Đồng và theo tàu lên Lào cai

vượt biên giới đi Côn minh.

Tại Côn minh, Giáp và Đồng được Kiên & Vũ Anh dẫn đi gặp ông Vương (chính là

NAQ) tại một địa điểm thơ mộng là Hồ Xanh. Vương khuyên hai thanh niên đi Diên an

để theo học trường quân sự của CCP tại đó. Giáp& Đồng đến Quế dương để xin cấp các

giấy tờ đi Diên an. Tại đây họ được lệnh chưa đi vội mà đợi ô Vương đến cùng đi.

Q có lư do để thay đổi kế hoạch. Ngày 20/6 Đức buộc Pháp đầu hàng và dựng lên một

chính quyền bù nh́n. “Chắc chắn t́nh h́nh ở Đông dương sẽ thay đổi”. Mấy ngày sau,

Kiên và Anh cũng đến Quế dương, sau đó cả hội đi Quế lâm và Q tổ chức cuộc họp ban

biên tập tạp chí Đ.T. Quốc nhận định “Thất bại của Pháp là cơ hội to lớn của cách mạng

Việt nam, chúng ta phải ngay lập tức t́m đường về nước để lợi dụng cơ hội này”. Khi ai

đó hỏi “vũ khí ở đâu?”, Q trả lời:

Đ

ây là v

n

đề

quan tr

ng nh

t c

a cách m

ng. N

ế

u chúng ta có v

ũ

khí bây gi

, ai s

ng

ườ

i c

m v

ũ

khí. Vì v

y chúng ta ph

i v

n

ướ

c và d

ng viên qu

n chúng. Khi nhân dân

đứ

ng d

y, h

s

có v

ũ

khí

Q chỉ thị cho Kiên & Anh cùng với Đồng Giáp chuẩn bị chuyển trụ sở hải ngoại của đảng

về Đông dương. Một đ/c khác được phái đi liên lạc với Diên an, Q th́ đi Trùng Khánh tư

vấn với Chu Ân Lai và một số lănh đạo TQ khác. Cuối tháng 7, Q trở về Côn minh. Tại

đây ông nhận được một lá thư của Hồ Học Lâm, đảng viên QDĐ nhưng có cảm t́nh với

cách mạng VN từ những năm 20. Lám thông báo: tướng Trương Bội Công, gốc Việt,

khét tiếng chống cộng đă được lệnh chuyển về biên giới phía bắc Cao bằng để tập hợp

www.langven.com

78

lực lượng yêu nước từ Việt nam. Lâm khuyên Q nên cử các đồng chí của ḿnh về khu

vực này để bảo vệ quyền lợi của Đảng.

Sở dĩ TQ đột nhiên quan tâm đến Đông dương thuộc Pháp là v́ sự xuất hiện của quân đội

Nhật tại vùng này. Từ đầu năm 40, Nhật đă tiến dần xuống phía nam, chiếm đảo Hải nam

và quần đảo Paracel. Cuối mùa xuân, Tokyo gây sức ép đ̣i Castreaux phải đóng cửa biên

giới không cho các đoàn tàu ngược sông Hồng tiếp tế cho quân TQ. Không được sự hỗ

trợ của Paris, Mỹ th́ đang lo bảo vệ những quyền lợi của ḿnh, Castreaux phải nhượng

bộ và v́ thế bị mất chức. Toàn quyền mới Decoux lập tức phải đối diện với những đ̣i hỏi

ngang ngược hơn của Tokyo: được đóng quân và sử dụng các sân bay tại Bắc bộ. Chưa

biết tính sao, th́ ngày 22/9, quân Nhật tấn công khiêu khích dọc biên giới Lạng sơn.

Cùng chiến đấu với quân Nhật có các đồng minh Việt nam từ Quang phục Hội do Cường

Để lănh đạo.

ICP đă may mắn có được ảnh hưởng ở khu vực gồm toàn các dân tộc Tày, Nùng, Thổ

này từ đầu những năm 30. Năm 1935, một lănh tụ người Tày là Hoàng Đ́nh Gióng đă

được bầu vào ban chấp hành TƯ tại Makao. Vài năm sau lại đến lượt Hoàng Văn Thụ.

Các đảng viên đă thu phục đồng bào dân tộc bằng lời hứa quyền tự trị trong nước Việt

nam cách mạng tương lai. Chớp thời cơ các đồn binh Pháp đang hoang mang sau cuộc

tấn công của Nhật, ngày 27/9 cơ sơ đảng địa phương đă xúi giục các bộ tộc tấn công và

chiếm huyện lỵ Bắc sơn và một số xă, thu vũ khí. Tuy nhiên sau khi đạt được thoả thuận

với Nhật, quân Pháp đă quay lại đàn áp. Quân khởi nghĩa phải chia thành từng nhóm nhỏ

rút vào núi và vượt biên giới hy vọng t́m sự giúp đỡ của Trương Bội Công.

Trong khi đó, Q suy nghĩ kế hoạch thành lập một mặt trận đồng minh mới để lôi kéo các

thành phần yêu nước ngoài đảng và được sự công nhận của Quốc dân đảng ở phía nam

lúc đó do tướng Lí Jishen, khét tiếng về vụ tàn sát cộng sản ở Thượng hải năm 1927 lănh

đạo. Sau khi cân nhắc, Q đă quyết định lựa chọn cái tên là Việt nam Độc lập đồng minh

Hội, gọi tắt là Việt minh. Tên này đă được Hồ Học Lâm dùng để liên kết các đảng viên

cộng sản và quốc dân đảng Việt nam tại Nam ninh trước đó vài năm. Q cũng mời luôn

Lâm làm chủ tịch, c̣n Phạm Văn Đồng làm phó dưới cái tên Lâm Bá Kiệt. Dưới vỏ bọc

mới, đoàn đă tiếp cận tướng Lí nhờ giúp đỡ trong việc huy động nhân dân cho cuộc chiến

đấu tương lai ở Đông dương. Tuy c̣n nghi ngờ, Lí đă đồng ư công nhận Việt minh với

điều kiện không để cho Đảng cộng sản thống trị

Trong thời gian này, hoạt động của UBTƯ tại Sài g̣n bị rối loạn, trừ Phan Đăng Lưu tất

cả các thành viên đều vào tù. Trần Văn Giàu được tha tháng 5/1940 nhưng sau đó 5 ngày

lại bị bắt lại. Liên lạc với các xứ uỷ khác cũng như với uỷ ban Hải ngoại bị cắt đứt. Mặc

dù t́nh h́nh mùa màng tại Nam bộ có khá hơn các vùng khác của cả nước, thuế quá cao

làm nông dân không hài ḷng, ước tính có tới 30% nhân dân có cảm t́nh với đảng cộng

sản. Mùa xuân năm ấy, Pháp quyết định tuyển mộ quân tại địa phương để tham chiến ở

châu Âu và đặc biệt đưa đi Cambodia chuẩn bị cho cuộc đụng độ với Xiêm, đang nhân cơ

hội đ̣i lại phần đất bị Pháp chiếm năm 1907. Các đảng viên đă nhanh chóng lợi dùng

t́nh h́nh đưa ra khẩu hiệu “đừng chết cho bọn Colons (gọi người Pháp ở ĐD) tại

Cambodia” kích động sự chống đối của nông dân. Tháng 7, xứ uỷ Nam kỳ dưới sự lănh

đạo của Tạ Uyên quyết định tiến hành khởi nghĩa theo nghị quyết của hội nghị TƯ 6

11/1939. Phan Đăng Lưu được cử đi tư vấn với các đồng chí ở Bắc kỳ. Lưu chưa kịp trở

về th́ hàng ngàn binh sĩ nổi lên làm binh biến chống việc gửi sang biên giới Xiêm. Uyên

vội vàng ra lệnh khởi nghĩa vào cuối tháng 11/1940. Trên thực tế, Lưu đă họp với các

đồng chí của ḿnh tại ngoại ô Hà nội. Rút kinh nghiệm từ thất bại ở Bắc sơn, Trường

www.langven.com

79

Chinh, Hoàng Quốc Việt và Hoàng Văn Thụ đều phản đối kế hoạch vội vă của Uyên, cho

rằng phải chuẩn bị từ từ và đợi thời cơ chín muồi. Cuộc họp cũng cử HVT tổ chức lại các

lực lượng bị tan ră ở Bắc sơn để tiến hành chiến tranh du kích. Xét thấy BCHTƯ thực

chất đă bị bắt hết, xứ uỷ Bắc kỳ qưyết định chuyển ḿnh thành UBTƯ lâm thời và cử

Trường Chinh làm bí thư.lxiv

Hội nghị cử Lưu quay về ngay mang theo lệnh tạm hoạn cuộc khởi nghĩa. Lưu về đến Sài

g̣n ngày 23/11 và bị bắt ngay khi vừa xuống ga. Mọi sự đă quá muộn, cuộc khởi nghĩa

đă bùng phát ở nông thôn trước đó một ngày, một số huyện ở tây nam Sài g̣n đă bị quân

khởi nghĩa chiếm. Khởi nghĩa cũng nổ ra ở nội đô Sài g̣n nhưng do được báo trước nên

chính quyền đă đàn áp một cách dễ dàng. 4 ngày sau, quân Pháp phản công và d́m cuộc

khởi nghĩa vào biển máu. Hàng trăm người chết, hàng ngàn người bị bắt. Trong đó có vợ

cũ của Q: Nguyễn Thị Minh Khai. Tháng 3/1941, toà án binh Pháp xử tử h́nh Minh

Khai, Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Cừ. Tạ Uyên bị giết trong cuộc khởi nghĩa. Trước khi

chết Minh Khai được gặp lại chồng ḿnh đă bị giam từ 6/1939. Lê Hồng Phong sau đó

chết v́ bị tra tấn dă man vào tháng 9/1942 tại Côn đảo.

Tại Quế lâm, Q nghe tin Bội Công đang tích cực chiêu mộ quân ở Jingxi bèn gửi Giáp và

Vũ Anh đến xem xét t́nh h́nh. Tại đó 2 anh này đă thuyết phục được Công mời chủ tịch

Việt minh là Học Lâm đến để cùng hợp tác. Biết chuyện khởi nghĩa Nam kỳ thất bại,Q

căn dặn các đồng nghiệp “T́nh h́nh trong nước và quốc tế đang có lợi cho ta. Tuy vậy

giờ khởi nghĩa vẫn chưa điểm. Đă chót vùng lên rồi th́ bây giờ phải t́m đường lui càng

nhanh càng tốt để bảo toàn lực lượng”. Trên thực tế t́nh h́nh thế giới đang biến đổi rất

khó lường. Sau khi chiếm nước Pháp, Đức chuẩn bị làm cỏ nước Anh bằng không quân.

Mặc dù hiệp định Xô-Đức vẫn c̣n hiệu lực, việc Đức đưa quân vào Bankan rất gây căng

thẳng. Tại TQ, Nhật tiếp tục tiến sâu vào trung nguyên và đưa quân vào Đông dương.

Để tận dụng đội ngũ cách mạng sẵn có ở Jingxi, Q quyết định chuyển trụ sở hải ngoại về

đó. Đồng thời cử Vũ Anh vượt biên về nước thăm ḍ để t́m địa điểm cho hội nghị TƯ

sắp tới. Tại Jingxi, Q cùng với Kiên, Đồng, Giáp tổ chức các khoá học 2 tuần cho thanh

niên, dạy về t́nh h́nh thế giới, vận động quần chúng và các phương pháp tổ chức tuyên

truyền. Như thường lệ, Q chuẩn bị tài liệu dưới dạng tờ rơi gọi là “Con đường giải

phóng”. Q thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đối xử với dân địa phương,

yêu cầu các học viên học tiếng và ăn mặc như người địa phương. Tại lễ tốt nghiệp, các

học viên hôn biểu tượng của đất nước độc lập trong tương lai: lá cờ đỏ sao vàng trước khi

trở về nước. Để xây dựng quan hệ tốt với Công,Q đề xuất thành lập Việt nam Dân tộc

giải phóng Uỷ viên Hội gồm thành viên của cả QDĐ và ICP, đồng thời đứng luôn chân

chủ tịch thường vụ với bí danh Hoàng Quojun.

Tuy nhiên đa số thời gian Q dành cho việc chuẩn bị cho hội nghị TƯ sắp tới, sẽ được ghi

nhận trong lịch sử đảng như Hội nghị 8 nổi tiếng. Đầu tháng Giêng 1941, BCH lâm thời

gồm Chinh, Thụ, Việt cũng đă có mặt ở Jingxi. Vũ Anh cũng đă trở về báo cáo t́m được

địa điểm thích hợp ở hang Cốc bó (Nguồn) cạnh làng Pacbó. Ngày 28/1, sau khi ăn Tết

âm lịch, Q cùng với Vũ Anh, Kiên và Lê Quảng Ba và một số đồng chí khác lên đường

về nước. Chặng đường có chừng 40 dặm nhưng khá vất vả v́ luồn rừng lội suối. Đầu

tháng 2, họ đến biên giới và từ đó xuôi về Pacbó cách biên giới khoảng hơn nửa dặm. Sau

này, Q và các đồng chí của ḿnh luôn nhớ lại những ngày ở Pacbo là những kỷ niệm khó

quên nhất. Đốt lửa sưởi ấm, bắt cá, tắm suối, dịch sách, viết báo... Giáp kể lại: “

Hàng

đ

êm chúng tôi ngôi quây quanh b

ế

p l

a nghe Q k

chuy

n l

ch s

th

ế

gi

i và cách m

ng

www.langven.com

80

nh

ư

nh

ng

đứ

a tr

nghe chuy

n th

n tho

i

” Trong ṿng 3 tháng sau đó, Q xuất bản tờ

báo Việt nam độc lập (bán hẳn hoi để có giá) và thành lập Hội cứu quốc.

Hội nghị 8 được tiến hành ngày 10/5/1941 tại Pacbó. Q chủ tŕ hội nghị với tư cách đại

diện của QTCS. Đây là lần đầu tiên Q chủ tri một cuộc họp của đảng kể từ hội nghị thống

nhất tháng 2/1930. Tham dự có Vũ Anh, Chinh, Thụ, Việt, Kiên và một số đồng chí khác

từ các vùng của Đông dương. Hoan, Giáp, Đồng vẫn ở Jingxi để cùng với Công chuẩn bị

hoạt động cho Giải phóng Uỷ viên Hội. Mục tiêu chủ yếu của hội nghị là chính thức

tuyên bố thành lập Việt minh (Việt nam độc lập đồng minh Hội). Tên gọi của tổ chức

mới cho thấy trọng tâm chủ yếu của đảng là Độc lập và cho Việt nam, chính thức từ bỏ

quan điểm của hội nghị tháng 10/30 về việc thành lập liên bang Đông dương, tiến tới tiến

hành cách mạng thế giới. Nhiệm vụ của Việt minh là chuẩn bị để giành chính quyền vào

thời điểm thích hợp. Hai cương lĩnh chính của Việt minh là độc lập dân tộc và công bằng

xă hội. Bằng việc thành lập Việt minh,Q đă chơi một canh bài đánh cược vào việc Nhật

sẽ làm Pháp suy yếu và thắng lợi cuối cùng của đồng minh. Không thể áp dụng chính

sách khởi nghĩa thành thị của Nga, không có được nông thôn rộng lớn của Mao, Q cho

rằng vấn đề không phải là phương pháp mà thời cơ. Trong lúc thời cơ chưa đến, đảng

phải kiên tŕ chờ đợi, xây dựng cơ sở chính trị rộng răi, chuẩn bị lực lượng quân sự nhỏ

để có thể chớp lấy thời cơ tiến hành khởi nghĩa. Nhiệm vụ cuối cùng của hội nghị 8 là

bầu ban chấp hành mới. Do Q kiên quyết từ chối, chức Tổng bí thư được trao cho Chinh

người đang tạm thời giữ cương vị này từ mùa thu 1940. Chinh (tên thật là Đặng Xuân

Khu) sinh năm 1907 trong một gia đ́nh nhà giáo ở đồng bằng bắc bộ. Chinh đă tốt

nghiệp trường Albert Sarraut nổi tiếng ở Hà nội. Tham gia Thanh niên Hội vào cuối

những năm 20, bị bắt giam cho đến tận năm 1936, sau đó Chinh trở thành phóng viên

đồng thời cũng là thành viên quan trọng của xứ uỷ Bắc kỳ. Kiêu hănh trong thái độ, thận

trọng và chu đáo trong suy nghĩ, mô phạm trong quan hệ với đồng chí, Chinh không có

được sự hấp dẫn cá nhân như Q. Nhưng rơ ràng là trong giai đoạn mới này, đảng cần có

tiếng nói chín chắn của Chinh. Sau khi hội nghị kết thúc ngày 19/5, Chinh trở về Hà nội

để t́m trụ sở cho UBTƯ mới.

Q rất vui được trở lại quê hương sau 30 năm. Khi trốn lên tàu đi Hạ môn ở HK, vai tṛ

lănh đạo của Q rất mờ nhạt. Chiến lược được Q xác định từ thời Thanh niên Hội đang bị

Matxcova xem xét lại, các đồng nghiệp trẻ phần đông tốt nghiệp từ trường Stalin cũng

liên tục tấn công những quan điểm tư tưởng của ông. Vậy mà lần này quay lại, xem ra vai

tṛ lănh đạo củaQ được tất cả chấp nhận một cách không do dự. Một phần chắc chắn là

những thay đổi về trong chiến lược của đại hội QTCS lần thứ 7 trùng với những quan

điểm của Q cho rằng cách mạng châu á có những đặc thù riêng và không thể copy mù

quáng mô h́nh bolsevic. Q cũng phải cám ơn pḥng Nh́ Pháp đă hoạt động quá tốt và

loại bỏ tất cả những đối thủ chính trị của ông như Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng

Phong. Tại thời điểm này không ai có thể thách thức được vai tṛ lănh đạo của Q trong

đảng. Vậy th́ v́ cớ ǵ mà ông không chịu nhận chức vụ TBT? Phải chăng Q vẫn tự cho

ḿnh là chiến sĩ quốc tế một ngày nào đó sẽ lại lănh đạo cách mạng tiêu diệt chủ nghĩa đế

quốc khắp vùng ĐNA. Cũng có thể Q đă ngắm đến trong tương lai chức chủ tịch sẽ giúp

ông đứng trên đấu tranh giai cấp để đại diện cho tất cả nhân dân đấu tranh cho một Việt

nam độc lập và giàu mạnh.

www.langven.com

81

Tri

u dâng

Sau hội nghị trung ương 5/41, các thành viên tản ra khắp nơi. Chinh cùng với Việt, Thụ

trở về xây dựng trụ sở TƯ tại ngoại ô Hà nội. Một số khác chạy ra các tỉnh lân cận xây

dựng các đội du kích, mở rộng căn cứ tại Việt bắc. Một số vượt biên tiếp tục củng cố

quan hệ đồng minh lỏng lẻo với các phần tử dân tộc không cộng sản. Q vẫn ở lại Pacbo,

chuẩn bị cho công cuộc nam tiến. Cũng như ở thời gian ở Thái, không để phí thời gian Q

liền biến ḿnh thành người thầy và người cha cho đám quần chúng – con chiên. Q tổ

chức các khoá học ngắn ngày về chủ nghĩa Max-Lê và các kỹ năng quân sự biến các cán

bộ địa phương vừa là chiến binh vừa là tông đồ.Q đích thân giảng dạy các khoá này, giải

thích về t́nh h́nh và tương quan lực lượng trên thế giới. Giáo tŕnh về cách thức tổ chức

chiến tranh du kích cũng do Q chuẩn bị, chắc là nhờ những kinh nghiệm học được trong

thời gian ở trong bát lộ quân. Q cũng thường xuyên viết bài cho tờ Việt nam độc lập in

trên giấy được chế từ bột tre. Để cho dân chúng có thể đọc được báo, chương tŕnh xoá

mù chữ được tiến hành trong vùng. Các bài báo củaQ đề cập đến nhiều vấn đề khác

nhau, bao gồm cả lịch sử đảng và phong trào cách mạng thế giới nhưng tựu trung là đều

kêu gọi quần chúng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu không khoan nhượng với kẻ thù. Ví dụ

như bài “Phụ nữ” trong số 104:

(t́m nguyên tác) .....

Trong các bài viết của ḿnh, Q luôn nhắc đến việc dành độc lập cho đất nước như một

nghĩa vụ thiêng liêng. Trong bài thơ “Lịch sử nước ta”, ngay trang đầu Q đă viết: “

Dân ta

ph

i bi

ế

t s

ta, Cho t

ườ

ng g

c tích n

ướ

c nhà Vi

t nam”

và kết luận: ”

Dân ta xin nh

ch

đồ

ng,

Đồ

ng lòng,

đồ

ng s

c,

đồ

ng tình,

đồ

ng minh”

. Cuối bài này, Q đă liệt kê ra một loạt

những mốc thời gian quan trọng của Việt nam. Thời điểm cuối cùng là năm 1945, Việt

nam độc lập. Khi các đồng chí hỏi tại sao ông lại biết trước là năm 45 nước ta sẽ được

độc lập, Q chỉ trả lời:

để

r

i xem.

Trong lúc đó, PCKiên được chỉ thị đi t́m địa điểm cho căn cứ cách mạng đă quyết định

dừng chân tại một vùng núi giữa hai huyện Nguyên B́nh và Hoà An phía tây tỉnh lỵ Cao

bằng. Căn cứ này nằm trong thung lũng nhỏ bao quanh bằng những tảng đá đỏ nên được

Vơ Nguyên Giáp gọi là Lô cốt đỏ. Bản thân trụ sở th́ chỉ là một túp lều nhưng so với

hang Pacbo th́ quả là đă quá sang trọng. Tháng 1/42, trong bộ quần áo người Nùng mang

theo chiếc máy chữ và những dụng cụ luyện tập thể dục, Q cùng với một vài đồng chí

nữa rời Pác bó đi bộ đến căn cứ mới. Trên đường có lúc cả đoàn bị lạc nhưng Q chỉ cười

to “

Th

ế

này

đ

âm ra hay, bi

ế

t

đ

âu sau này l

i dùng

đượ

c

đườ

ng này

để

ch

y tr

n”

. Q đặt

tên cho căn cứ mới là Lam sơn và lại bắt tay vào công việc đào tạo và khích lệ một số

đồng chí sốt ruột v́ cuộc đấu tranh không có hồi kết. Q nhấn mạnh tầm quan trọng của

việc xây dựng đội ngũ ṇng cốt. Ông nói: “

cách m

ng nh

ư

n

ướ

c thu

tri

u, có lúc lên lúc

xu

ng. Cán b

nòng c

t chính là nh

ng c

t c

gi

ữ đấ

t khi n

ướ

c xu

ng”

. Tuy điều kiện ở

tốt hơn nhưng căn cứ mới dễ bị Pháp truy quét. Thỉnh thoảng cả bọn lại phải trốn vào

rừng rậm hoang sơ rất vất vả. Q luôn sẵn sàng chia sẻ những điều kiện khó khăn nhất với

các đồng chí của ḿnh. Khi tinh thần xuống, ông động viên:

ng

ườ

i cách m

ng c

n nh

t 3

tính cách: kiên trì, bình t

ĩ

nh và c

nh giác”

Từ những năm 30, Đảng đă chủ trương chọn Việt bắc để xây dựng căn cứ hỗ trợ cho

ḿnh. Đại hội I năm 1935 đă hứa sẽ dành cho tất cả các dân tộc sống ở trong khu vực này

quyền tự trị trong liên bang Đông dương độc lập trong tương lai. Được Q khuyến khích,

rất nhiều cán bộ đă học tiếng cũng như các phong tục địa phương, tham gia vào các hoạt

www.langven.com

82

động cộng đồng, một số lập gia đ́nh tại chỗ. Q luôn nhắc các đồng chí của ḿnh: Tuyên

truyền là công tác quan trọng nhất của cách mạng, và là bảo đảm cho thành công.

7/12/1941, Nhật bất ngờ tấn công Mỹ ở Trân Châu Cảng. Ngay lập tức trên báo Độc lập,

Q có bài phân tích t́nh h́nh, nhận định cuộc chiến trên Thái B́nh Dương đă trở thành

cuộc xung đột có tính toàn cầu, và cách mạng Việt nam cần có những điều chỉnh để có

thể tập hợp lực lượng sẵn sàng cho những thách thức mới. Q cho rằng từ Cao bằng phải

mở rộng liên kết với những đội du kích đang hoạt động ở Bắc sơn, Vơ nhai do Chu Văn

Tấn chỉ huy, tiến tới mở hành lang xuống đồng bằng Bắc bộ. Cũng trong thời gian này,

quân Pháp tăng cường càn quét, lùng sục. Phùng Chí Kiên bị giết trong một trận càn.

Tháng 6 năm 1942, Q quyết định rời Lam sơn về lại Pacbo trong vai một thầy cúng đi

chữa bệnh cho vợ.

Ngày 13/8/1942 Q cùng Lê Quảng Ba lên đường sang Tàu để t́m kiếm thêm sự hỗ trợ

quốc tế. Họ đi bộ, ngày nghỉ, đêm đi để tránh mật thám Pháp, đến được thị trấn biên giới

nhỏ Bamong ngày 25/8. Sau khi nghỉ 2 ngày tại nhà một nông dân có cảm t́nh với cách

mạng Việt nam Xu Weisan, cùng với một liên lạc viên trẻ TQ, Q lên đường tới kinh đô

cách mạng Trùng khánh, để LQ Ba lại ở Bamong. Chưa đi được bao xa th́ cả hai đă bị

cảnh sát TQ bắt tại làng Teyuan, gần thị trấn Debao, 20 dặm về phía Đông bắc của Giang

tây. Chính quyền địa phương nghi họ là gián điệp của Nhật v́ cả giấy chứng nhận của

Hội Chống xâm lăng, thẻ nhà báo mang tên Hồ Chí Minh của Tân xă quốc tế, lẫn chứng

minh thư của Quân đoàn 4 mà Q mang theo người đều đă hết hạn. Mục tiêu chuyến đi TQ

này của Q cũng là một câu hỏi được nhiều người quan tâm. Trong hồi kư của ḿnh, Q tự

nhận là nhằm t́m kiếm mối quan hệ với Tưởng và nhờ chính phủ Quốc dân đảng giúp đỡ

đuổi Nhật. Một số nhà sử học th́ cho rằng chẳng qua Q muốn bắt liên lạc với các đồng

chí của ḿnh ở CCP. Sự thật th́ chắc là cả hai. Hiển nhiên là Q muốn gặp lại Chu Ân Lai

và những người quen cũ mà ông đă không gặp từ năm 1938 tại ở Diên An, nhưng mục

đích chính của Q chắc là t́m sự ủng hộ của Tưởng. Q thừa biết sau chiến thắng Midway,

quân đồng minh đang chiếm ưu thế và chính phủ Tưởng được đồng minh ủng hộ, có

nhiều khả năng sống sót sau hậu chiến. Q cũng cần chính phủ Tưởng làm ngơ cho các

hoạt động của Việt minh ở phía Nam TQ. Người mà Q muốn liên lạc để __________giới thiệu nhiều

khả năng là Tống Khánh Linh, đang phụ trách chi nhánh TQ của Hội Chống xâm lăng.

Hoa mắt với đống giấy tờ giả, chính quyền địa phương cho rằng kẻ bị bắt chắc phải có

tầm quan trọng lớn. Họ đă liên lạc với toà án quân sự ở Quế lâm, thủ phủ Quảng tây. Toà

này yêu cầu dẫn giải Q đến để xét xử. Mặc dù XuWeisan có người quen trong chính

quyền nhưng vẫn không can thiệp được. Ngày 29/8, Q bị tống vào nhà giam Quốc dân

đảng ở Jingxi, để tiếp tục đợi lệnh trên. Chính trong điều kiện tù ngục khó khăn này, tập

thơ nổi tiếng của Q “Nhật kư trong tù” đă ra đời.lxv

Ngâm th

ơ

ta v

n không ham

Nh

ư

ng ng

i trong ng

c bi

ế

t làm chi

đ

ây

Ng

i bu

n ngâm v

nh cho khuây

V

a ngâm v

a

đợ

i

đế

n ngày t

do

Ngày 10/10, kỷ niệm 31 năm cách mạng tư sản TQ, Q bị chuyển sang Debao. Trong thời

gian này, được tin Wendell Willkie, đặc phái viên của Rusevelt cũng đến Trùng khánh và

được tiếp đón nồng nhiệt,Q đă cám cảnh làm bài thơ:

Tôi v

i ông.

....

Từ Debao, Q bị chuyển qua Tiandong và Lungan tới Nam ninh. T́nh h́nh có vẻ như

cũng được cải thiện. Ngày 9/12, Q được đưa lên tàu chuyển về Liễu Châu, trụ sở của

www.langven.com

83

quân khu 4. Tư lệnh vùng là tướng Trương Phát Khuê, cũng không chia sẻ quan điểm

chống cộng điên cuồng của Tưởng và ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân

Việt nam. Q hy vọng là vụ việc sẽ được báo cáo lên ông này. Tuy nhiên, chẳng có ǵ xảy

ra cả, ngày hôm sau Q bị đưa đi Quế lâm. Tại đây Q khai trước thẩm phán toà quân sự là

có quan hệ với phong trào cộng sản ở Đông dương nhưng không liên quan ǵ đến CCP

cả. Thẩm phán tuyên bố Q là tù chính trị và được trả lại Liễu châu cho Pḥng chính trị

quân khu xử. Q về lại đến Liễu châu đầu tháng 2 năm 1943.

Tin Q bị bắt về đến Pacbo vào cuối tháng 10. Các đồng chí của ông đă gửi thư phản đối

khắp nơi cho các hăng thông tấn như AP, Reuters, UPI, Tass. Trong điện gửi Tass, họ

khoe rằng Hội Chống xâm lăng Việt nam có đến 200,000 thành viên và Q là nhân vật chủ

chốt của Hội. Một cán bộ của Đảng là Hoàng Đ́nh Gióng đă được cử đi đưa một bức thư

đến tận tay Tôn Kế, con trai Tôn Trung Sơn, hiện là chủ tịch Nghị viện. Bức thư viết:

Kính th

ư

a Tôn Ch

t

ch

Đạ

i di

n c

a chúng tôi, ông H

Chí Minh

đ

ã b

b

t trên

đườ

ng

đế

n di

n ki

ế

n T

ưở

ng

Nguyên soái. Chúng tôi kh

n thi

ế

t yêu c

u ngài can thi

p

để

th

ông

y ra càng s

m

càng t

t

Mặc dù chẳng biết HCM là ai, Tôn chuyển vụ việc cho Vũ Thế Chương (Wu Tiecheng),

tổng thư kư của Ban thường vụ TƯ Quốc dân đảng. Ngày 9/11, ông này điện xuống Quế

lâm và Liễu châu đề nghị nghiên cứu vụ việc và nếu được th́ thả Q ra. Đáng tiếc là lúc đó

Q vẫn c̣n đang ở trên đường từ Debao đến Nam ninh.lxvi

Khoảng mùa đông năm 1942-1943, một cán bộ Đảng được cử đi t́m gặp Q mới trở về

thông báo là Q đă chết tại nhà tù ở Liễu châu. Các lănh đạo ở Việt bắc vội báo ngay tin

cho các đồng chí của ḿnh đang đóng gần Hà nội và cử Phạm Văn Đồng phụ trách việc

tang lễ. Vài tuần sau, khi sự việc c̣n đang tù mù, bỗng có tờ báo đến từ TQ, trên đó có

mấy ḍng viết tay nét chữ của Q: “

G

i các chíên h

u. Chúc kho

và d

ũ

ng c

m trong

công vi

c”

kèm theo là bài thơ:

Núi

p ôm mây, mây

p n

ũ

i

Lòng sông g

ươ

ng sáng b

i không m

Bòi h

i d

o b

ướ

c Tây phong l

ĩ

nh

Trông l

i tr

i Nam nh

b

n x

ư

a

Anh em mừng hú, mới gọi tay cán bộ kia ra tra hỏi. Tay này khẳng định là chính Tỉnh

trưởng thông báo tin này. Vặn vẹo kỹ mới vỡ lẽ là tay này kém tiếng Tàu, nghe nhầm chữ

Shi

tức là OK thành

Xi

tức chếtlxvii

Trong tập NKTT, Q ví ḿnh như quả bóng bị đá đi đá lại giữa các nhà tù. Trong 5 tháng

cuối, ông đă từng qua đến 18 nhà tù của 13 huyện nam Trung hoa. Cuộc sống đă dễ thở

hơn. Thức ăn đă tạm được, tối ngủ không bị xiềng, thỉnh thoảng ban ngày c̣n được đi

dạo, thậm chí c̣n được đọc sách báo. Q thường tận dụng cơ hội liên lạc với các đồng chí

của ḿnh bằng cách viết bằng nước cơm lên mép của các quyển tạp chí. Để giết thời gian,

Q đă dịch cuốn

Nguyên t

c Tam dân

của Tôn Trung Sơn sang tiếng Việt. Khoảng mùa

xuân năm 1943, Trương Phát Khuê cũng hiểu ra rằng tay tù chính trị của ḿnh là ai, hay

ít nhất cũng nắm được rằng tay này là cộng sản. Theo Hoàng Văn Hoan, chính một thành

viên quốc dân đảng Việt nam tên là Trần Bao đă khai ra Q chính là đặc vụ __________của QTCS.

Tuy nhiên trong hồi kư của ḿnh sau này, trưởng pḥng chính trị QK 4, tướng Lương

Hoa Sinh kể rằng khi thẩm vấn Q, ông đă hiểu ngay tay này là cộng sản và đề nghị thủ

tiêu. Không hiểu sao, Trùng khánh lại phản đối và yêu cầu Lương “cải tạo” tay tù này.

www.langven.com

84

Quan điểm của chính phủ TW có thể bị Chu Ân Lai, lúc đó là trưởng đại diện của CCP

tai Cq ảnh hưởng. Nghe tin Q bị bắt, Chu đă liên hệ với tướng Phương Yuxiang, một

trong những đối thủ của Tưởng những năm 20-30, giúp đỡ. Phương đă tư vấn với đại

điện Xô viết ở Cq, rồi cùng với Phó chủ tịch chính phủ là Lư Trung Nhân đến gặp Tưởng.

Phương nói với Tưởng, việc Q là cộng sản VN chẳng ảnh hưởng gi đến QD đảng, Trung

cộng rồi Xô cộng đều có đại diện tại Cq, đâu có ai bị bắt bớ ǵ? Chưa nói đến VN đang

đứng cùng bên với Tưởng trong cuộc chiến chống Nhật, xử Q như tội phạm sẽ làm mất

uy tín chính phủ, có thể ảnh hưởng đến sự ủng hộ của thế giới. Lư cũng hùa vào, đề nghị

giao cho vụ việc cho địa phương xử lư. Tưởng miễn cưỡng đồng ư, điện cho QK 4 thảQ

ra dưới sự giám sát và t́m cách lợi dụng Q cho các mục đích của QDĐ.

Không rơ bức điện này có tác dụng ǵ không! Trong một cuộc phỏng vấn sau này ở Mỹ,

Trương Phát khuê cho rằng ḿnh chưa bao giờ hành động theo lệnh trên trong vụ giam

giữ HCM. Khi biết được Q là đại diện của phong trào cộng sản VN, Trương đă giao cho

trưởng pḥng chính trị mới là tướng Hầu Chíminh nhiệm vụ dụ dỗ Q hợp tác để đổi lấy

tự do. Trương cho biết ông đă trực tiếp thẩm vấn và bị thuyết phục bởi năng lực tổ chức

và nhiệt huyết chống Pháp của Q. Q thông báo đảng CS VN đặt mục tiêu hàng đầu là độc

lập và tự do của dân tộc ḿnh. Q đề nghị giúp đỡ Trương trong việc tổ chức lại các lực

lượng VN yêu nước ở Nam Trung hoa và cam kết sẽ không xây dựng xă hội cộng sản tại

VN trong ít nhất là 50 năm.

Trương hiển nhiên là có những mưu đồ chính trị dài hạn riêng trong việc thả Q. Xuất thân

từ Quảng đông, đă từng tham gia cuộc hành quân Bắc phạt, Trương lại bị cho ra ŕa trong

các quan hệ chính trị Quốc – Cộng. Trương ghét cả Nhật và Pháp và không loại trừ có

cảm t́nh với tham vọng dành độc lập của nhân dân Việt nam. Là tư lệnh QK4, Trương

cần phải chuẩn bị lực lượng để có thể tấn công quân Nhật ở Đông dương khi cần thiết. Kế

hoạch tập hợp lực lượng Việt nam của Trương đang bị nhiều vấn đề nghiêm trọng. Cuối

năm 1941, Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt nam, liên minh giữa Quốc dân đảng và ICP

tan vỡ do các lănh tụ QDĐ phát hiện ra mưu đồ của Giáp và Đồng. Sau đó th́ chính

Tường Tam, Hải Thần và Nghiêm Kế Tộ hục hặc lẫn nhau, Nhà tài trợ chính Trương Bội

Công bị bắt v́ tội hối lộ. Mùa hè 1942, Trương quyết định tổ chức lại, thành lập Việt nam

cách mạng đồng minh Hội, do tướng Hau Chiminh làm cố vấn. Tuy nhiên Hội này cũng

chẳng hơn ǵ Uỷ ban trước do các lănh đạo suốt ngày đấu đá. Có lẽ Trương hy vọng là Q

sẽ mang lại được nguồn sinh khí mới cho đám tay chân VN của ḿnh. Ngày 10/9/1943,Q

được trả tự do. Một thành viên pḥng chính trị kể rằng, ông ta đang ăn th́ bỗng thấy tay

tù bước vào sà xuống tán phét với tướng Hầu Chiminh và các cộng sự khác.lxviii

Mùa thu 43, Trương tuyên bố sẽ quan tâm trực tiếp đến Đồng minh Hội và cử phó của

ḿnh là tướng Tiêu Văn làm cố vấn. Hồ Chí Minh được bổ nhiệm làm phó chủ tịch. Chủ

tịch hội lúc đó là Nguyễn Hải Thần chắc chắn là rất khó chịu nhưng không dám làm mất

ḷng người đỡ đầu của ḿnh. Trong một bữa chiêu đăi, Hải Thần đă đưa ra câu đối:

“H

Chí Minh, H

u Chí Minh, hai

đồ

ng chí cùng quy

ế

t chí minh”

. HCM đă trả lời:

“Anh cách

m

ng, tôi cách m

ng, chúng ta s

cùng nhau cách m

ng”

. Được sự ưu ái của Trương,Q

càng ngày càng hoạt động tích cực trong Đồng minh Hội. Ô chuyển đến sống ở trụ sở

Hội và thường xuyên tham gia giảng dạy về các vấn đề quốc tế và địa phương. Q thường

nói với các học viên là Trung hoa là động lực ḥa b́nh, Nhật sẽ thất bại trước Đồng minh

trong khoảng 1 năm nữa và TQ sẽ giúp VN trở thành một quốc gia thống nhất, ḥa b́nh,

độc lập và dân chủ ỏ Đông Nam á.

www.langven.com

85

Cảm thấy yên tâm, Trương đề nghị Q giúp đỡ để tổ __________chức đại hội lần 2 của ĐMH.Q đồng

ư và đề xuất hội nghị trù bị vào cuối tháng 2 năm 1944. Tại hội nghị này, Q kêu gọi

ĐMH mở rộng cửa cho Việt minh cũng như tất cả các tổ chức Việt nam yêu nước và

chống phát xít khác. Đề cập đến nỗi sợ cộng sản của các đại biểu, Q nhấn mạnh ICP hiện

là tổ chức có ảnh hưởng lớn nhất và

“nhân dân Vi

t nam không có gì ph

I s

ch

ngh

ĩ

a

c

ng s

n”.

Chủ nghĩa cộng sản sẽ lan tỏa tư tưởng b́nh đẳng kinh tế trên toàn thế giới,

như sự b́nh đẳng chính trị do Cách mạng Pháp khởi xướng năm 1789 được dân chủ gieo

rắc khắp châu Âu. Theo ông, các đảng phái chính trị phải đoàn kết v́ mục tiêu chung như

nước Trung hoa tam dân đă liên kết với đế quốc Anh, cộng sản Nga và tư bản Mỹ để

chống lại chủ nghĩa phát xít. Trương Phát Khuê nghe rất sướng tai, đề nghị Hồ tổ chức

đại hội vào cuối tháng 3.lxix Mặc dù một số phần tử không cộng sản chẳng thích thú ǵ với

ư tưởng mở rộng phong trào của Hồ ra sức chống đối, tuy nhiên do Trương “đại ca” đích

thân đứng ra đốc thúc và bảo kê, đại hội vẫn được tổ chức vào ngày 24/3/1944 với 15 đại

biểu từ ICP, VNQDD và Đại Việt. 2 đại diện của Việt minh là Phạm Văn Đồng và Lê

Tống Sơn. Đại hội đă bầu ra ban chấp hành 7 thành viên trong đó có H. Sau đại hội,

Trương hoàn toàn tin tưởng rằng là H mới là người có thể đứng ra lănh đạo được các họat

động của Đồng minh hội (ĐMH) và ủy quyền cho H toàn quyền hành động với lời hứa sẽ

gửi H trở lại Việt nam. Để chứng minh sự “trung thành” của ḿnh, H lập kế hoạch mở

rộng ĐMH (kêu gọi cả những đảng được coi là bù nh́n như đảng Hiến pháp), tuyên

truyền thiện chí của TQ với nền độc lập của VN, tăng cường các hoạt động vũ trang để

chuẩn bị cơ sở để đón quân đội TQ vào Việt nam đánh Nhật... và đề nghị Trương cung

cấp tài chính, vũ khí. Trương đă khôn khéo “né” và hứa chỉ cung cấp hộ chiếu, tiền bạc

cũng như các phương tiện đi lại cho H, c̣n giúp đỡ trực tiếp những hoạt động kháng

Nhật bên trong Đông dương th́ c̣n phải xem xét.

Trước khi rời Lưu châu, H tới thăm tướng Tiêu Văn, cố vấn của Trương cho ĐMH và là

người đă giúp H chuẩn bị cho chuyến trở lại VN. Trong lúc trà dư tửu hậu, H đă thề với

Tiêu:

“99% nh

ng

đ

i

u tôi nói v

cách m

ng VN là

đ

úng, ch

có 1% ch

ư

a nói v

i t

ướ

ng

quân thôi”

. Có lẽ H ám chỉ lời hứa với Trương về việc không xây dựng chủ nghĩa cộng

sản ở VN trong 50 năm. Cuối tháng 8, H cùng 18 học sinh VN từ trường đào tạo của

Trương, trong quân phục Tưởng, qua Long châu, Jingxi lên đường về Việt nam. Sau khi

nghỉ lại vài ngày ở thị trấn biên giới Pingmeng để dưỡng sức và đảm bảo an toàn, cả đoàn

về đến Pacbo vào ngày 20/9lxx

Trong thời gian Q vắng mặt, t́nh h́nh VN đă có nhiều biến đổi. Cuộc chiến Thái b́nh

dương bùng nổ đă mang lại cơ hội cũng như thách thức mới cho VN với sự có mặt của

Anh, Mỹ và Tàu Tưởng. Sau một số thắng lợi ban đầu của phong trào cách mạng, Pháp

đă xiết chặt kiểm soát và bố ráp trong năm 1943, Hoàng Văn Thụ bị bắt và tử h́nh.

Trường Chinh thoát chết v́ kịp thời cải trang thành nông dân. Tuy nhiên từ giữa 1944,

các nhóm cách mạng nhỏ bị Pháp truy quét lại có cơ hội tập hợp lực lượng lại, t́nh h́nh

kinh tế tiếp tục bi đát dẫn đến sự bất b́nh của dân chúng ở thành thị và nông thôn tạo

thành môi trường lư tưởng để nuôi dưỡng những hạt nhân cách mạng. Trong hội nghị

tháng 7/1944 có đại diện của ICP tại 3 tỉnh biên giới, các đại biểu đă căi nhau kịch liệt về

đề nghị của Giáp về việc phát động chiến tranh du kích để thành lập khu giải phóng và

xây dựng quân đội chính quy. Hội nghị tạm thời đồng ư với Giáp về chiến tranh du kích

nhưng chưa xác định được thời điểm khởi động. Hội nghị cũng không thống nhất được về

việc thành lập quân đội. Trong chuyến đi cùng Vũ Anh đón H về Pacbo, Giáp đă tŕnh

bày về kế hoạch của ḿnh cũng như những nghị quyết của hội nghị tháng 7.H đă không

www.langven.com

86

đồng ư với Giáp và chỉ rơ:

“quy

ế

t

đị

nh m

cu

c t

n công

Vi

tb

c là ch

d

a vào tình

hình

đị

a ph

ươ

ng và ch

ư

a

đ

ánh giá tình hình c

n

ướ

c. Do ch

ư

a có n

ơ

i nào có phong trào

m

nh, nên s

không th

cùng

đứ

ng lên

ng h

. Pháp s

d

dàng có

đ

i

u ki

n t

p trung

l

c l

ượ

ng và

đ

àn áp. Giai

đ

o

n cách m

ng hòa bình

đ

ã qua, nh

ư

ng th

i kh

c t

ng ti

ế

n

công v

n ch

ư

a t

i. Tr

ướ

c m

t các ho

t

độ

ng tuyên truy

n chính tr

v

n ph

i

đượ

c

ư

u

tiên”

. Để bù lại cho nỗi thất vọng của người đồng chí trẻ,H đề nghị Giáp bắt tay vào xây

dựng những đơn vị đầu tiên của quân đội và đặt tên là đội “

Vi

t nam tuyên truy

n gi

i

phóng quân

”. H c̣n căn dặn tiêu chí đầu tiên của đội là

“bí m

t, luôn luôn bí m

t.

Đị

ch

ngh

ĩ

ta

tây thì ta

đ

ang

ở đ

ông.

Đ

ánh b

t ng

, rút ngay khi

đị

ch ch

ư

a k

p tr

tay”

. Ngày

22/12, Giáp đă tập hợp 34 thành viên trong một khu rừng Việt bắc, khởi đầu cho một đội

quân huyền thoại. 2 ngày sau khi chào đời, đội quân mới thành lập đánh chiếm 2 đồn Na

ngần, Phai khắt. Ngoài vô khối vũ khí thu được, tin thắng trận lan như lửa cháy rừng

trong toàn Việt bắc.

Ngày 11/11/1944, máy bay trinh sát của trung úy Rudolph Shaw bị trục trặc động cơ và

Shaw phải nhảy dù xuống những cánh rừng Việt bắc. Việt minh là những người đầu tiên

t́m ra anh ta. Shaw kêu lên: “Viet minh, Viet minh”, những người c̣n lại hét “America,

Roosevelt!” và đó cũng là cuộc nói chuyện duy nhất của họ. Việt minh quyết định đưa

viên phi công đến chỗ HCM. Đêm đi, ngày nghỉ để tránh quân Nhật, trèo đèo, lội suối, họ

đă mất gần một tháng để vượt qua quăng đường có 40 dặm. H chào đón Shaw bằng thứ

tiếng Anh thông dụng: “how do u do, pilot!Where are u from?”. Viên phi công ứa nước

mắt ôm chầm lấy H và nói

“tôi nghe gi

ng ông mà nh

ư

nghe ti

ế

ng b

tôi

US”

.

H đă không chờ đợi cuộc gặp gỡ bất ngờ này với viên phi công Mỹ. Mặc dù khi Mỹ bắt

đầu tham chiến,H đă coi sự ủng hộ của Mỹ là quân chủ bài mà ḿnh phải có để đánh

Pháp, đuổi Nhật để dành độc lập. Trong thời gian ở Lưu châu, H đă dành rất nhiều thời

gian để nghiên cứu các tài liệu của thư viện Văn pḥng Thông tin chiến tranh Mỹ (OWI).

Hiển nhiên là H biết Roosevelt không có cảm t́nh với chủ nghĩa thực dân châu Âu và

ủng hộ việc trao trả lại độc lập cho các thuộc địa ở châu á sau chiến tranh. Về Đông

dương,R đă từng nói: “Pháp đă vắt kiệt mảnh đất này trong 100 năm, các dân tộc Đông

dương xứng đáng một số phận tốt hơn thế”. Mặc dù thừa biết chế độ Mỹ là một chế độ tư

bản, H khâm phục cam kết của nước Mỹ với những nguyên tắc dân chủ và tin tưởng R sẽ

dẫn dắt nước Mỹ tiến tới b́nh đẳng hơn về kinh tế và xă hội.

Các viên chức Mỹ ở Nam Trung hoa cũng đă biết đến H từ lâu trước khiH được phóng

thích. Từ mùa thu năm 1942, báo chí địa phương đă đưa tin về một tù nhân chính trị tên

là Ho Chih Chi v́ những quan hệ với một chính phủ Việt nam lâm thời thân Đồng minh.

Khi các nhân viên đại sứ quán Mỹ liên lạc với đại diện của phong trào Nước Pháp tự do,

tay này đă phủ nhận những tin này. Tuy nhiên, đại sứ Clarence Gauss cũng vẫn điện báo

cho bộ ngoại giao ngày 31/12/1942 tin về vụ bắt bớ, và ra lệnh cho các nhân viên của

ḿnh t́m hiểu thêm. V́ không có sự hợp tác từ phía chính phủ Trùng khánh, họ chẳng

t́m được ǵ và cho rằng cái phong trào nào đó ở Đông dương chẳng có tí ư nghĩa nào với

nước Mỹ. Nhưng có những người Mỹ khác không nghĩ như vậy. Mùa hè năm 1943, Chu

ân Lai tiếp cận các quan chức OSS để nhờ thảH đổi lấy sự ủng hộ quân đội Đồng minh

tại Đông dương. OSS đă trao đổi với một viên chức OWI mà H đă từng đến xin làm

phiên dịch và một nhân viên sứ quán để t́m cách can thiệp với chính phủ TQ thả H và

thảo luận sự cộng tác. Không rơ kế hoạch này có ảnh hưởng ǵ đến quyết định của

Trương Phát Khuê nhưng ít nhất là cũng không thấy H hợp tác ngay với quân Mỹ, ngoài

việc sứ quán Mỹ nhận được điện của Phân hội Việt nam của Hội quốc tế chống xâm lược

www.langven.com

87

nhờ xin thảH để tham gia vào các hoạt động chống Nhật tháng 11/1943lxxi. Một viên

chức sứ quán tên là Philip Sprouse nhận ra ngay tên của người tù từ năm ngoái. Tuy

nhiên đại diện của phong trào Nước Pháp Tự do đă thuyết phục Sprouse rằng chẳng qua

các Hội, đoàn này chỉ là tṛ chính trị vớ vẩn phục vụ mục đích của Trung quốc và không

nên bận tâm làm ǵ. Đại sứ Gauss đă gửi cả bức thư xin cũng như lời giải thích của ông

về việc “Không trả lời” cho bộ Ngoại giao và vụ việc “chim nghỉm” ở Washington.Mùa

xuân 1944, đại diện Vietminh tại Nam Trung hoa lại tiếp tục gửi thư đến văn pḥng OSS,

OWI và Sứ quán Mỹ đề nghị chiến đấu cùng Đồng minh chống Nhật tại Đông dương và

nhờ Mỹ giúp đỡ giành độc lập. Ngày 18/8, đại diện OSS đă chuyển thư đến tùy viên sứ

quán William Langdon kèm theo lời b́nh: “Đông dương hậu chiến sẽ đại loạn nếu chúng

ta không dựng lên một cơ chế tự trị trước đó”. Ngày 8/9 Langdon tiếp đoàn Việt minh,

hứa sẽ chuyển thư cho Đại sứ, nhắc lại sự ủng hộ độc lập cho các dân tộc phương đông,

trong đó có Việt nam. Ông này cũng khôn khéo lờ đi việc giúp đỡ trực tiếp :

”các b

n

đ

ang là công dân Pháp mà chúng tôi l

i

đ

ang sát cánh v

i Pháp

để đ

ánh l

i phe Tr

c.

Không có lý gì M

l

i cùng lúc v

a t

n x

ươ

ng máu, ti

n b

c

để

c

u n

ướ

c Pháp v

a giúp

đỡ

ng

ườ

i khác l

t

đổ đế

ch

ế

Pháp”

. Đại diện Việt minh là Phạm Việt Tú ra sức thuyết

phục là VMchỉ đánh Nhật chứ không đánh Pháp, và mong được sự độc lập. Langdon

không lay chuyển, viện cớ tướng Đờ Gôn đă tuyên bố ở Wasinhton là sẽ trao cho các

nước thuộc đế quốc Pháp những quyền tự trị, và nếu VM không hài ḷng, có thể nói

chuyện trực tiếp với người Pháp. Mặc dù OSS báo cáo tương đối lạc quan về cuộc gặp

gỡ, Langdon và OWI cho rằng các phần tử dân tộc chủ nghĩa VN tại Nam Trung hoa

chưa có đủ kinh nghiệm để điều hành đất nước và những hội, nhóm của họ không có ư

nghĩa nào cả trong Đông dương. Các nguồn Pháp c̣n tung tin Việt minh chỉ là bộ mặt

cho vài trí thức bất măn và không được dân chúng hưởng ứng.

HCM không liên quan trực tiếp đến vụ này, nhưng có vẻ như H đă có contact với Tú và

các đồng chí của anh ta để đề xuất cuộc gặp với các viên chức Mỹ tại Côn minh. Sau khi

ra tù tháng 9 năm 1943,H đă lân lan làm quen, tạo niềm tin và giữ quan hệ tốt với các

nhân viên OWI tại Lưu châu. Văn pḥng OWI tại đây chính là người đă t́m cách sắp xếp

để H đi San Francisco tháng 8/1944. Lănh sự quán tại Côn minh đă xin ư kiến chỉ đạo của

Bộ ngoại giao trước yêu cầu của OWI cấp visa cho một người có tên là Ho Tinh-ching

(được miêu tả là người Việt gốc Hoa) sang Mỹ để cung cấp một số tin tức về Việt nam.

Viên chức bộ ngoại giao xử lư yêu cầu này lại chính là Sprouse. Anh này nhận ra Mr. Ho

và viết thư giới thiệu, ghi nhận thành tích của H giúp quốc dân đảng tuyên truyền trong

Việt nam. Vụ Viễn đông đồng ư cấp visa nhưng Vụ châu Âu phản đối v́ sợ những rắc rối

với Pháp. Mặc dù OWI ra sức bảo vệ rằng những hoạt động của H trên đất Mỹ sẽ được

kiểm soát chặt chẽ, cuối cùng bộ ngoại giao đă từ chối cấp visa cho H. Tại sao H lại

muốn đi Mỹ vào lúc này? T́nh h́nh mặt trận Thái b́nh dương đang biến chuyển có lợi

cho Đồng minh và chiến thắng rất có thể đến vào năm sau. H thừa biết phải có mặt ở VN

vào thời điểm đó để lănh đạo cuộc đấu tranh. Có thể tại thời điểm tháng 8/44, Trương

Phát Khuê vẫn chưa đồng ư cho H quay về VN, và H định xin sang Mỹ để trực tiếp nhờ

các quan chức cao cấp Mỹ can thiệp cho ông được trở về VN.

Vụ trung uư Shaw tự nhiên dẫn xác đến trước cửa đă tạo cơ hội vàng để H có thể đề nghị

Mỹ giúp đỡ Việt minh. Ngay lập tức, lấy cớ phải đi công tác cùng,H đă cùng 2 chiến sĩ

trẻ nữa hộ tống Shaw sang Côn minh. Sang bên kia biên giới, Shaw bắt được liên lạc với

tổ chức cứu trợ phi công Mỹ (AGAS) và được đưa ngay về Côn minh (CM) bằng máy

bay. Không nản chí, H quyết định đi bộ đến CM, trong vai người tuần đường trên tuyến

www.langven.com

88

đường sắt HN-CMlxxii. Nếu gặp người có ḷng, họ nghỉ đêm nhờ, c̣n không th́ ngủ ngoài

trời. Lúc qua Y lương, một thành phố nhỏ trên đường, cả đoàn đă gặp Hoàng Quảng

B́nh, một người quen cũ cách đây 4 năm của H ở CM, hiện đang hành nghề cắt tóc. Theo

lời B́nh, trông Hồ rất ốm yếu và trầm uất, ăn ít, quần áo th́ rách rưới, giầy thủng lỗ chỗ,

lại đang sốt do lây của những người đi đường. Vậy mà khi B́nh nhắc đến chuyện từ chối

sự lôi kéo của Đồng Minh Hội, mắt H sáng lên. H khuyên B́nh phải gia nhập ngay Đồng

minh Hội rồi tuyên truyền kéo người từ đó sang với Đảng.lxxiii Sau khi ở lại Ylương vài

ngày cho khỏe, cả đoàn lại lên đường và đến Côn minh trong những tuần đầu tiên của

năm 1945. Đáng tiếc là khi đến nơi th́ Shaw đă bay về Mỹ. H ở cùng với Tống Minh

Phương, đại diện Việt minh tại địa phương, một sinh viên Hà nội sang đây từ năm 1943,

mở quán ngay cạnh trụ sở OSSlxxiv. H quyết định liên lạc với AGAS, hy vọng có thể nhờ

họ dàn xếp gặp mặt với tướng Chennault, tư lệnh Sư đoàn không quân số 14. Đồng thời

H cũng liên lạc với văn pḥng OSS, những người đă giúp Phương gửi lá thư cho đại sứ

Gauss.

H đă cực kỳ gặp may và đến CM đúng thời điểm. Cách đây vài tháng AGAS được chỉ thị

ngoài việc cứu phi công c̣n phải tăng cường thu nhập thông tin t́nh báo về quân Nhật

trong Đông dương. Nguồn chính của AGAS là nhóm được gọi là GBT (do tên đầu của 3

người: Canada LL Gordon, Mỹ: Harry Bernard và một người Mỹ gốc Tàu: Frank Tan).

Nhóm này làm việc trong một hăng dầu và sử dụng các nguồn địa phương để thu nhập tin

tức. Ngày 9/3/1945, Nhật chính thức truất quyền Pháp ở Đông dương, những người nước

ngoài bị thuyên chuyển, theo dơi, thậm chí bắt giữ. Nhóm GBT tháo chạy sang Nam

Trung hoa. AGAS mất một nguồn tin quan trọng. Các quan chức Mỹ ở Wasinhton tháo

dỡ lệnh cấm, cho phép liên lạc với các nhóm kháng chiến chống Pháp để thu nhập tin t́nh

báo (trước đây Mỹ từ chối liên lạc với các nhóm này v́ sợ mất ḷng Pháp). Khoảng giữa

tháng 3, người chịu trách nhiệm về GBT ở AGAS - trung úy thủy quân lục chiến Charles

Fen, được thông báo là có một cụ già đă từng cứu sống một phi công Mỹ, hiện đang ở

Côn minh và có thể có những quan hệ trong nước để thu thập tin t́nh báo. Trung úy Fen

vốn là một phóng viên sinh ra tại Ailen, được chuyển đến TQ v́ biết tiếng Hoa và am

hiểu châu á. Fen liền đề nghị sắp xếp cuộc gặp với H, lúc đó đang suốt ngày ngồi tại thư

viện OWI đọc từ tờ

Th

i báo

đến

T

ừ đ

i

ế

n bách khoa M

.

Cuộc gặp đă diễn ra ngày

17/3/1945 và được Fen ghi lại trong hồi kư của ḿnh như sau:

H

ồ đ

i cùng v

i m

t thanh niên tên la Fam. Không hoàn toàn nh

ư

tôi t

ưở

ng. Nh

t là H

không “già”, tuy b

râu b

c có d

u hi

u tu

i tác nh

ư

ng khuôn m

t

đầ

y s

c s

ng,

đ

ôi m

t

tinh t

ườ

ng và ánh lên nh

ng tia sáng. Chúng tôi nói b

ng ti

ế

ng Pháp. H

đ

ã g

p Hall,

Blass và Sibours (nh

ng s

ĩ

quan OSS khác) nh

ư

ng có v

nh

ư

ch

ng

đ

i

đế

n

đ

âu.. Tôi h

i

ông mu

n gì khi g

p b

n h

, H nói: ch

c

n s

công nh

n t

ch

c c

a ông ta (Vi

t minh).

Đ

ã t

ng nghe

đế

n t

ch

c này có xu h

ướ

ng c

ng s

n, tôi li

n h

i luôn H. Ông ta tr

l

i:

ng

ườ

i Pháp g

i t

t c

nh

ng ng

ườ

i mu

n

độ

c l

p là c

ng s

n. Tôi gi

i thích nh

ng yêu

c

u c

a AGAS và h

i không bi

ế

t ông có giúp

đượ

c không?H

đồ

ng ý ngay nh

ư

ng nói r

ng

ông ta không có

đ

i

n

đ

ài viên c

ũ

ng nh

ư

các ph

ươ

ng ti

n k

thu

t. Chúng tôi bàn v

i nhau

v

ề đ

i

n

đ

ài, máy phát và

đ

i

n

đ

ài viên.H

đề

ngh

dùng pin thay cho máy phát vì s

ợ ồ

n d

b

quân Nh

t phát hi

n. Tôi nói, pin không dùng

đượ

c vì không

đủ

công su

t. Khi

đượ

c

h

i mu

n

đượ

c chúng tôi giúp gì

để

trao

đổ

i, Ho nói ngay: thu

c men và v

ũ

khí. Tôi t

ch

i ngay v

ũ

khí vì r

t rách vi

c v

i Pháp. Chúng tôi l

i th

o lu

n v

Pháp. H kh

ng

đị

nh l

i Vi

t minh là m

t t

ch

c ch

ng Nh

t. Tôi r

t

n t

ượ

ng v

cách

ă

n nói gãy g

n

c

a H. N

ế

u không

để

ý

đế

n nh

ng ngón tay nh

ă

n nheo luôn

độ

ng

đậ

y, dáng ng

i c

a ông

www.langven.com

89

ta r

t gi

ng

Đứ

c Ph

t. Fam ghi l

i n

i dung cu

c g

p và chúng tôi th

ng nh

t s

g

p

nhau n

a. Khi ra v

c

hai

để

l

i tên c

a h

vi

ế

t b

ng ch

Hán, có th

ể đọ

c phiên âm là

Pham Phuc Pao và Ho Tchi Ming

Fenn trao đổi với các đồng nghiệp của ḿnh và quyết định chuẩn bị gửi Già Hồ (mặc dù

mật hiệu của H là Lucius, hội này vẫn thích gọi là Già Hồ) về Đông dương cùng với một

điện đài viên người TQ. Ba ngày sau họ gặp lại

Chúng tôi g

p nh

ng ng

ườ

i VN l

n th

hai t

i m

t quán cafe trên

đườ

ng Chin Pi. Có v

nh

ư

ch

quán là b

n h

. Chúng tôi ng

i trên t

ng 2, u

ng cafe fin, ki

u Pháp, r

t

đặ

c và

ngon. Xung quanh ch

ng có ai nh

ư

ng H b

o c

ph

i c

n th

n. Chúng tôi g

i ng

ườ

i TQ là

“b

n”, M

là “anh em”, Pháp là “trung l

p”, Nh

t là “chi

ế

m

đ

óng” còn ng

ườ

i Vi

t nam

là “b

n x

”. H nói r

ng mang c

hai

đ

i

n

đ

ài viên ng

ườ

i Hoa

đ

i r

t d

l

ộ đặ

c bi

t là anh

ng

ườ

i M

g

c Hoa. Nhóm c

a H thi l

i hay nghi ng

ng

ườ

i Hoa. T

t h

ế

t là

để

Frank Tan

l

i, sau

đ

ó g

i cho ông m

t s

ĩ

quan M

. H h

i tôi có

đ

i

đượ

c không và tôi s

r

t

đượ

c

hoan nghênh. Sau

đ

ó chúng tôi bàn v

nh

ng

đồ

ti

ế

p t

ế

khác. Fam nh

c

đế

n lo

i “thu

c

n

cao c

p” nào

đ

ó mà Hall

đ

ã h

a, làm tôi ph

i l

ngay

đ

i. Tuy nhiên chúng tôi th

ng

nh

t là có th

th

m

t s

v

ũ

khí nh

, thu

c men và m

t b

ộ đ

i

n

đ

ài n

a. Ng

ườ

i c

a tôi s

hu

n luy

n quân H s

d

ng

đ

i

n

đ

ài. H còn mu

n g

p Chennault. Tôi

đồ

ng ý thu x

ế

p

nh

ư

ng b

t H ph

i h

a không

đượ

c mè nheo Chennault giúp

đỡ

b

t c

th

gì. Già H

m

c

qu

n bông, áo kaki cài cúc c

màu cát, chòm râu b

c, th

ư

a.

Đ

ôi mày nâu chuy

n sang

xám

ở đ

uôi, tóc v

n

đ

en nh

ư

ng

đ

ã h

ơ

i r

ng. F

m còn tr

, m

c

đồ

âu, x

ươ

ng gò má cao,

c

m b

. C

hai nói chuy

n thì th

m nh

ư

ng th

nh tho

ng nh

ư

b

nén l

i. Tóm l

i là chúng

tôi

đ

ã có cu

c g

p g

thú v

.

Sau cuộc gặp, Fenn kiểm tra lại th́ biết rằng mặc dù Pháp dán cho Việt minh cái nhăn

cộng sản, Trung hoa quốc dân đảng chỉ coi đây là một tổ chức cơ hội. Khi Fenn hỏi về

chỉ huy sở ở Trùng khánh th́ được lệnh: “cứ cái ǵ có lợi th́ làm, có điều đừng can thiệp

vao chuyện chính trị giữa Pháp và dân bản xứ”. Mấy ngày sau, Fenn thu xếp H gặp tướng

Chennault tại chỉ huy sở của sư đoàn 14, sau khi đă nhắc lại H không được chính thức đề

nghị giúp đỡ ǵ.H đến cuộc gặp vẫn trong bộ kaki cũ, có điều một chiếc cúc cổ bị mất đă

được đơm lại. Chennault là người đặc biệt thích phô trương bề ngoài của ḿnh nên diện

bộ đại lễ phục nhà binh. Viên tướng này nổi tiếng ở Trung hoa nhờ chỉ huy phi đội “Phi

Hổ” giúp Hoa kháng Nhật trong những năm 30. Trong cuộc gặp, Ch cảm ơn H đă cứu phi

công Shaw và không đả động ǵ đến chính trị. H cũng làm đúng như lời hứa, không đ̣i

hỏi giúp đỡ ǵ, lại c̣n tỏ ra tâng bốc đội Phi Hổ. Đến cuối buổi gặp, bỗng nhiên H ngỏ ư

xin một tấm ảnh có chữ kư.

Chennault

đặ

c bi

t thích cho

nh. B

i v

y ông ta

n nút g

i ngay th

ư

ký riêng Doreen.

M

t cô gái mang vào m

t anbum dày 8x6. “L

y m

t cái

đ

i” Chennault nói. H ch

n m

t

t

m và nh

Ch ký t

ng. Doreen

đư

a ra chi

ế

c Parker 51 và Ch vi

ế

t vào t

m

nh “B

n

chân thành c

a anh, Clair L. Chennault”. Và chúng tôi chui ra kh

i c

ă

n phòng

để

hoà

v

i không khí r

n ràng c

a Côn minh.

Thế là HCM đă xây dựng được quan hệ với những quan chức Mỹ chủ chốt ở Côn minh.

Tuy nhiên, Việt minh vẫn không được Mỹ chính thức thừa nhận và H phải bằng ḷng với

những sự trợ giúp hết sức khiêm tốn. Trước khi lên đường,H được Fenn cấp cho 6 khẩu

Colt 45 mới cóng nguyên hộp. Cuối tháng 3.45, H và một điện đài viên nữa được máy

bay Mỹ chở đến thành phố Paise, 60 dặm phía bắc Jingxi. Sau chiến dịch “Số 1” ở nam

Trung hoa, tháng 11 năm ngoái, Nhật chiếm Lưu Châu, Trương Phát Khuê phải chuyển

chỉ huy sở của quân đoàn 4 đến thành phố Paise này. Mục đích đến Paise của H là bắt

www.langven.com

90

liên lạc với Đồng minh Hội để biến hội này thành phương tiện phục vụ các mục tiêu của

Việt minh. Hội này hầu như đă tan ră sau khi H rời Lưu châu tháng 8 năm ngoái, v́ Tàu

tưởng không quan tâm, một số thành viên không cộng sản chủ chốt th́ lại quyết định

quay về Vân nam. Thông qua đại diện của Việt minh là Lê Tống Sơn, H thành lập “Uỷ

ban hành động” gồm toàn tay chân của ḿnh. Để trấn an một số phần tử c̣n nghi hoặc,H

xem ảnh có chữ kư của Chennault và phát cho mỗi thành viên một khẩu Colt. Tuy nhiên,

vài ngày sau, Tiêu Văn, vốn rất nghi ngờ Việt minh, đă ra lệnh giải tán uỷ ban hành động

để thành lập một uỷ ban khác có đông đảo đại diện hơn, bao gồm cả H. Không c̣n ǵ để

làm, H lên đường về Pắc bó.lxxv

Tháng tư 1945, đại uư Archimes ‘Al’ Patti tới Côn minh với chức vụ trợ lư cho đại tá

Paul Helliwell phụ trách công tác của OSS tại Đông dương. Patti chiến đấu ở châu Âu

đến 1/1944 th́ được chuyển về pḥng Đông dương tại trụ sở OSS ở Washinhton. Patti rất

tôn trọng lịch sử và coi thường chế độ thực dân của Pháp. Trong thời gian lục lọi đống tài

liệu, Patti đă được biết về các hoạt động của Việt minh và vị lănh đạo huyền bí của họ

“Già Hồ”. Trong một cuộc họp ngay sau khi Patti nhậm chức, AGAS đă thông báo việc

H đồng ư hợp tác tổ chức mạng lưới t́nh báo ở Đông dương. Một sĩ quan khác cũng cho

biết H tham gia vào một chiến dịch tâm lư cùng với cơ quan tuyên truyền của Tưởng và

sự hỗ trợ của văn pḥng OWIlxxvi. Rơ ràng là tổ chức của H là công cụ hợp lư nhất để

Patti thực hiện các nhiệm vụ của ḿnh, mặc dù có thể có những trở ngại trong quan hệ

với Tưởng và phong trào nước Pháp Tự do. Có trong tay chỉ thị của Washington về việc

thu nhập thông tin t́nh báo bằng mọi giá, Patti yêu cầu được gặp Hồ lúc đó đă rời Côn

minh. Cũng may là ngay sau khi mới đến P có được tiếp Phương, đại diện Việt minh ở

CM. Anh này cho biết có thể gặp H lúc đó đang ở Jingxi. Xếp của Patti ở Trùng khánh là

Heppner hơi do dự v́ lúc đó đại sứ mới của Mỹ là Hurley rất thân Tưởng và không thích

những hoạt động của OSS nhằm xây dựng liên minh Quốc-Cộng. Hurley cảnh báo là

Tưởng và Pháp sẽ rất không hài ḷng nếu Mỹ liên lạc với Việt minh v́ pḥng nh́ Pháp đă

xác định chính xác H là Nguyễn ái Quốc. Tuy nhiên, ngày 26/4, Heppner nhận được công

điện của tướng Albert Wedemayer, tư lệnh quân đội Mỹ ở Trung hoa cho phép tiến hành

các hoạt động của OSS ở Đông dương. Heppner bật đèn xanh cho Patti, không quên dặn

ông này đừng làm mất ḷng Tưởng và Pháp. Ngày hôm sau Patti bay đến Jingxi và được

đại diện Việt minh dẫn đi gặp H tại một ngôi làng cách thành phố chừng 10km. Sau khi

thăm ḍ danh tính và quan điểm của đối tác, H nhanh chóng miêu tả t́nh h́nh Đông

dương, thông báo rằng VM có thể tiến hành rất nhiều hoạt động chiến tranh và t́nh báo

có hiệu quả nếu được cung cấp thuốc men, vũ khí và phương tiện liên lạc. Patti không

cam kết nhưng hứa sẽ xem xét. Theo như hồi kư, có vẻ P rất hài ḷng. Một tuần sau đó,H

trở về Pacbo với đoàn tháp tùng hơn 40 người, trong đó có điện đài viên Mỹ, anh Mac

Shin và Frank Tan, thành viên cũ của nhóm GBT. H bắt đầu cung cấp những thông tin bổ

ích, trong đó có cả thời tiết, cứu sống một số phi công Mỹ. OSS cũng thả dù thêm một bộ

điện đài, vũ khí và thuốc men. Việt Minh đă chính thức chiến đấu cùng với lực lượng

đồng minh.

T́nh h́nh tại chiến trường Thái b́nh dương càng ngày càng thuận lợi cho quân Đồng

minh. Các thành phố Nhật tan hoang do các phi đội B29. Nhà trắng xem xét phương án

tấn công Đông dương với sự hỗ trợ của quân Tưởng từ phía Nam trung hoa đánh xuống.

Trong khi đó, tại Đông dương, nạn đói đang hoành hành do hạn hán từ cuối năm 1944,

cộng với việc trưng thu thóc và bắt nhổ lúa trồng đay của quân Nhật. Chính quyền Nhật

từ chối mở cửa các kho thóc hay tăng cường việc vận chuyển gạo từ phía nam ra. Nông

www.langven.com

91

dân ăn hết khoai sắn, chuyển sang các loại rau, củ, cùng đường phải ăn vỏ cây, lá cây.

Nạn đói lan dần đến thành phố. Giá hàng tiêu dùng phi mă. Thị dân phải đem đổi các đồ

dùng trong nhà để mua gạo. Xác chết chất đống 2 bên đường, nông dân lang thang từng

đám kiếm ănlxxvii. Cho dù hậu quả của cơn đói có nặng nề thế nào đi nữa, nó đă cho Việt

minh một cơ hội vàng để thu phục ḷng dân. VM đă kích động nông dân phá kho thóc để

chia cho dân nghèo, khơi dậy ḷng căm thù cả Pháp và Nhật đă gây ra nạn đói. Sau chiến

thắng ban đầu tại Nà ngần, Phai khắt, đội quân của Giáp tiến lên phía bắc gần biên giới

Việt – Trung, giải phóng các làng dân tộc 2 bên đường. Khi quân Pháp phản kích ác liệt,

Giáp lui về khu rừng nằm giữa Cao bằng và Bắc cạn, gọi là chiến khu Hoàng Hoa Thám,

cùng với Vũ Anh và Phạm Văn Đồng bàn kế hoạch Nam tiến.

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, thành lập chính phủ bù nh́n do Bảo đại cầm đầu.

V́ thế toàn bộ vùng phía bắc châu thổ sông Hồng trở nên mảnh đất màu mỡ cho cách

mạng phát triển. Trước đó 1 ngày, thấy trước t́nh huống Trường Chinh đă triệu tập cuộc

họp trung ương tại làng Đ́nh bảng, khoảng 12 dặm phía bắc Hà nội. Phân tích các yếu tố

có lợi: khoảng trống quyền lực do cuộc đảo chính, nạn đói và khả năng Đồng minh tấn

công Đông dương, TƯ đă ra nghị quyết đặt ưu tiên cao nhất cho đấu tranh quân sự, phát

triển các căn cứ du kích, mở rộng cơ sở chính trị của Việt minh và tập hợp các đội quân

khác nhau dưới chung một ngọn cờ Giải phóng quân Việt nam. Tuy nhiên Trường Chinh

cũng cẩn thận nhắc các cơ sở Đảng không được manh động, chỉ hoạt động phía sau lưng

Nhật để đợi cho quân Đồng minh bắt đầu tiến công mới được ra tay. Trong trường hợ__________p

Nhật đầu hàng trước khi Đồng minh tấn công, cũng có thể lợi dụng cơ hội để tổng khởi

nghĩa. Trước khi rời Côn minh,H đă gửi văn bản kư tên Lực cho OSS để đưa ra nhận

định của ḿnh về sự kiện 9/3. Mục tiêu của văn bản này là thuyết phục Đồng minh tấn

công Đông dương. Như mọi khi, H dùng ngôn ngữ ví von: “

t

ừ đả

o Nh

t b

n

đế

n New

Guinea, quân Nh

t nh

ư

con r

n mà c

nó là

Đ

ông d

ươ

ng. N

ế

u

đậ

p g

y c

, con r

n s

h

ế

t

c

a qu

y”.

Lực nhận xét: “

Con sói th

c dân Pháp

đ

ã b

phát xít Nh

t h

t kh

i Vi

t nam

sau 87 n

ă

m.

Đố

i v

i th

ế

gi

i

đ

ang chi

ế

n tranh, s

ki

n

đ

ó ch

là tích t

c, nh

ư

ng ch

c

ch

n nó s

có h

u qu

sâu s

c

đố

i v

i

Đ

ông d

ươ

ng, Phát, Nh

t và Trung qu

c” lxxviii

Tại

Cao bằng các lănh đạo đảng cũng đưa ra nhận định của ḿnh phải tăng cường cuộc đấu

tranh vũ trang. Giáp đưa đội quân của ḿnh Nam tiến, giải phóng các làng trên đường và

liên tục tuyển mộ quân. Sau khi vượt qua Chợ Chu, cuối cùng Giáp đă hội quân với Cứu

quốc quân của Chu Văn Tấn ở một làng nhỏ có tên là Kim Lũng nằm sâu trong rừng giữa

Thái nguyên và Tuyên quang. Đầu tháng 4/1945, TƯ quyết định tổ chức hội nghị quân sự

tại Hiệp hoà. Hội nghị đă đưa ra nhận định, chỉ tổng tấn công khi quân Đồng minh đă

đánh nhau với quân Nhật bên trong Đông dương, hoặc khi Nhật đă đầu hàng Đồng minh

trước đó. Cũng trong hội nghị này, Giáp được tin vợ ḿnh (Nguyễn Thị Minh Thái) đă

chết trước đó 3 năm. Được tin H đă trở lại VN, về đến Cao bằng sau hội nghị, Giáp lập

tức lên đường đi đón.

Cuối tháng 4, H về đến Pacbo và gửi báo cáo t́nh báo đầu tiên cho Patti, kèm theo hai

bức thư: một cho các lănh đạo Đồng Minh và một cho tổ chức vừa mới thành lập là Liên

hợp quốc. Nội dung của cả hai bức thư là đề nghị công nhận Việt minh và Việt nam. Cả

hai tài liệu này đều được đứng tên là Đảng Dân tộc Đông dương, tổ chức tự xưng là đă

thành lập Đồng minh Hội, sau đó sát nhập với Việt minh. Patti đă chuyển các tài liệu này

cho chính quyền Mỹ ở Trùng khánh. Ngày 4/5, trong vai một ông già Nùng được các vệ

sĩ và nhóm AGAS tháp tùng, H lên đường đi Kim Lũng, nơi hội quân của các lực lượng

cách mạng. Tại Lam sơn họ gặp Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng và Vũ Anh. H gửi

www.langven.com

92

báo cáo cho Fenn cám ơn ông này đă gửi thiết bị liên lạc và huấn luyện cho quân. Ngày

9/5 cả đoàn đi Ngân sơn. Ngày 17, tại Nà kiên H gặp Giáp đang đi lên phía bắc. Hai

người chưa gặp nhau từ cuối năm ngoái khi thành lập Việt nam tuyên truyền giải phóng

quân. Giáp báo cáo với H về t́nh h́nh trong nước và kết quả của hội nghị Hiệp hoà. H

cũng thông tin về t́nh h́nh thế giới. Cả hai bàn bạc việc chọn địa điểm để xây dựng căn

cứ địa cách mạng và đă thống nhất chọn Kim Lũng. Cảm nhận được ngôi làng nhỏ bé này

sẽ trở thành địa danh lịch sử của cách mạng Việt nam, H đă quyết định đổi tên thành Tân

Trào (Thuỷ triều mới).

Cả đoàn tiếp tục nam tiến, ngày 21/5 họ vượt sông Đáy, đến Tân trào. Thoạt đầu H ở

trong một nhà dân, c̣n hai sĩ quan liên lạc Mỹ được cho ở ngoài rừng. Sau đó dân làng

đă dựng lên một ngôi nhà sàn để làm trụ sở. C̣n H đích thân chọn chỗ để dựng lán cho

ḿnh trong một khu rừng tre. Để chuẩn bị khởi nghĩa, H ra lệnh triệu tập Hội nghị cán sự

vào đầu tháng 6. Hội nghị đă thống nhất tất cả các lực lượng vũ trang tại 6 tỉnh Việt bắc

(Cao bằng, Bắc kạn, Lạng sơn, Hà giang, Tuyên quang, Thái nguyên) thành Quân giải

phóng Việt nam (VLA). Chính quyền dân sự do Uỷ ban lâm thời điều hành, tiến hành

tuyển cử bầu ra các cơ quan hành chính địa phương, cải cách ruộng đất và xoá mù chữ.

Giáp được chỉ định đứng ra để điều phối các công việc tương tự trong toàn quốc, dưới sự

cố vấn của H. Trong hai tháng tiếp theo, một nhiệm vụ quan trọng của H là giữ vững liên

lạc với các nhà bảo trợ Mỹ ở Nam Trung quốc. Trong một báo cáo, H đă đề nghị sử dụng

đội du kích hàng ngàn người ở Chợ Chu để tấn công quân Nhật. Mặc dù e ngại những rắc

rối chính trị khi có quan hệ chính thức với Việt minh, Patti vẫn được cấp trên là đại tá

Helliwell “bật đèn xanh”, sau khi thấy rơ sự bất lực của đội tàn quân Pháp chạy trốn do

tướng Gabriel Sabatier chỉ huy. Patti điện cho H chuẩn bị một sân bay nhỏ để tiếp đón vũ

khí và quân đội. Ngày 30/6 H đồng ư tiếp nhận với điều kiện không được có người Pháp

tham gia vào chiến dịch. Trung uư Dan Phelan được thả dù xuống Tân trào từ trước làm

đại diện cho OSS. Ngày 16/7, thiếu tá Allison Thomas cùng đội “Con nai” của OSS nhày

dù xuống Tân trào để nghiên cứu t́nh h́nh và giúp đỡ Việt minh chống Nhật trong sự

chào mừng của hàng trăm du kích. Thomas kể lại:

Tôi

đượ

c d

n

đế

n g

p Ông H

, m

t lãnh

đạ

o l

n c

a VML (Vi

t minh League). Ông ta

nói ti

ế

ng Anh thành th

o, nh

ư

ng trông r

t y

ế

u vì m

i

đ

i b

t

TQ v

. Ng

ườ

i ta

đ

ã d

ng

cho chúng tôi nh

ng cái lán tre có sàn cao và mái l

p lá c

. Ng

ườ

i ta còn gi

ế

t m

t con

để

chiêu

đ

ãi, và chúng tôi

đượ

c chén b

a t

i g

m bia, c

ơ

m, m

ă

ng r

ng và beefsteak.

Cũng có những người trong nhóm Con nai không được chào đón. Ví dụ như trung uư

Pháp Montfort. Sáng hôm sau, H nói với Thomas: “

Tôi không có v

n

đề

gì v

i ng

ườ

i

Pháp, nh

ư

ng n

ế

u quân tôi mà bi

ế

t tay này là ng

ườ

i Pháp, h

ọ đ

ã b

n ch

ế

t t

ươ

i r

i”

.

Montfort cùng hai sĩ quan Pháp nữa được lệnh biến khỏi làng càng sớm càng tốt và nhập

vào đoàn người di tản sang TQ. Sau đó H gọi một tay đầu bếp đến để dạy cách quay gà

theo kiểu Mỹ, và sai người đi kiếm vài chai Sâmpanh và Dubonnet để mở tiệc chào

mừng.

Ngay ngày hôm sau, H đă đề nghị qua Thomas báo cáo với chính quyền Mỹ là Việt minh

sẵn sàng đàm phán với đại diện cấp cao của Pháp. Patti đă chuyển thông điệp này cho

thiếu tá Jean Sainteny, đại diện của phái bộ quân sự Nước Pháp Tự do mới được cử đến

để tiếp nhận lại Đông dương sau chiến tranh. Vài ngày sau, H lại gửi lời kêu gọi sẵn sàng

tiếp xúc với Pháp ở trong Đông dương hoặc Trung quốc. Trong lời kêu gọi,H đề nghị tổ

chức nghị viện thông qua bầu cử phổ thông đầu phiếu, trả lại các nguồn tài nguyên cho

nhân dân Việt nam, cấm buôn bán thuốc phiện, và cam kết phục hồi độc lập cho Việt nam

www.langven.com

93

theo những quy định của Hiến chương LHQ trong ṿng từ 5-10 năm. Pháp vẫn lờ đi

những đề nghị của H.

Trong lúc đó các sĩ quan Mỹ vẫn tiếp tục huấn luyện hơn 100 quân du kích cách sử dụng

các loại vũ khí Mỹ (súng trường M1, carbin, bazooka) và các kỹ thuật chiến tranh du kích

tại một địa điểm cách Tân trào khoảng 2 dặm. Henri Prunier, một “thầy” Mỹ tỏ ra rất ấn

tượng về khả năng học hỏi nhanh của quân du kích. H cũng nhanh chóng đả thông về mặt

tư tưởng cho các sĩ quan Mỹ. Thomas đă viết trong một báo cáo gửi về Côn minh: “

Quên

ngay m

y cái nghi ng

v

v

n. VM không ph

i là c

ng s

n.

Đấ

u tranh cho t

do và c

i

cách nh

m thoát kh

i s

tàn b

o c

a Pháp”.

Phelan cũng đă từng ngần ngại tham gia

chiến dịch này v́ nghe đồn là H có tư tưởng cộng sản. Một lần H hỏi Phelan có nhớ

những câu mở đầu của tuyên ngôn Độc lập Mỹ để ông ta cho vào bản tuyên ngôn Độc lập

của đất nước ḿnh. “

Nh

ư

ng rõ ràng là ông ta bi

ế

t nhi

u h

ơ

n tôi”

Phelan nhớ lại và báo

cáo VM “...

là nh

ng ng

ườ

i yêu n

ướ

c

đ

áng

đượ

c s

tin c

y và giúp

đỡ

toàn di

n”.

Sau

này, Phelan cũng không bao giờ thay đổi lập trường của ḿnh. Nhiều năm sau, ông đă trả

lời phỏng vấn của nhà báo Mỹ Robert Shaplen, miêu tả H như ´

”M

t con ng

ườ

i c

c k

d

ch

u. N

ế

u tôi ph

i ch

n m

t tính cách c

a con ng

ườ

i nh

đ

ó, ng

i trên ng

n

đồ

i trong

nh

ng cánh r

ng già, thì

đ

ó chính là s

d

u dàng c

a ông ta”

. lxxix

Sức khôe của H vốn đă suy sụp sau khi mắc bệnh lao trong những tháng ngồi tù ở TQ, lại

bị đày đoạ bởi chuyến đi bộ sang Côn minh.H đă bị ốm nặng trên đường đến Jingxi

những vẫn tiếp tục hành tŕnh của ḿnh. Giờ đâyH đang rất yếu. Vơ Nguyên Giáp kể lại:

Bác

m. M

c dù m

t và s

t, Bác v

n ti

ế

p t

c làm vi

c. Ngày nào lên báo cáo tình hình tôi

c

ũ

ng c

m th

y lo l

ng. Nh

ư

ng Bác nói: “yên tâm, m

i s

s

qua thôi, báo cáo tình hình

cho Bác

đ

i”. Tuy nhiên tôi nh

n th

y B y

ế

u

đ

i và g

y

đ

i rõ ràng. Chúng tôi ch

ng có

thu

c thang gì ngoài m

y viên aspirin và ký ninh nh

ư

ng tình hình v

n x

u

đ

i. M

t hôm

tôi th

y B m

t l

ả đ

i, bình th

ườ

ng tr

nh

ng lúc ng

, B ch

c bao gi

ch

u n

m nh

ư

ng gi

đ

ây B n

m s

t li bì trong

r

ơ

m. Trong nh

ng

đồ

ng chí hay

bên B ch

còn tôi lúc

đ

ó

đ

ang

Tân trào. Tôi xin phép B

đượ

c

l

i cùng v

i ng

ườ

i m

t

đ

êm, ch

th

y B h

ơ

i m

m

t và kh

g

t

đầ

u

đồ

ng ý.

Đ

êm t

i m

t mùng và r

ng sâu bao quanh c

ă

n lán nh

. M

i

khi t

nh d

y, B l

i quay l

i tình hình hi

n t

i: “

đ

i

u ki

n

đ

ang r

t thu

n l

i cho cách

m

ng, dù có ph

i

đố

t cháy dãy Tr

ườ

ng s

ơ

n c

ũ

ng ph

i dành cho

đượ

c

độ

c l

p”, B nh

c

l

i nh

ng quan

đ

i

m v

n hay th

ườ

ng nói hàng ngày: “trong chi

ế

n tranh du kích, khi

phong trào lên, ph

i t

n d

ng th

i c

ơ để

m

r

ng c

ă

n c

, chu

n b

cho nh

ng th

i

đ

i

m

quy

ế

t

đị

nh”. Dù không mu

n tin, tôi v

n nh

n ra r

ng, có l

B

đ

ang c

g

ng truy

n l

i

nh

ng l

i di chúc cu

i cùng c

a mình. C

th

ế

su

t

đ

êm, mê man n

i ti

ế

p nh

ng phút t

nh

táo. Sáng hôm sau, tôi báo tin ngay l

p t

c cho Trung

ươ

ng,

đồ

ng th

i h

i bà con dân t

c

xem có ai có bài thu

c gì. Dân làng mách có m

t ông lang chuyên ch

a s

t. Tôi li

n c

ng

ườ

i

đ

i

đ

ón v

ngay. Sau khi b

t m

ch, ông lang s

c m

t niêu thu

c t

m

t th

r

cây

ông

đ

ào trong r

ng, hoà v

i m

t bát cháo và

đ

út cho B.

Đ

i

u k

di

u

đ

ã x

y ra. B t

nh

d

y. Ngày hôm sau, B u

ng thêm 2, 3 bát thu

c n

a. C

ơ

n s

t lui d

n, B

đ

ã

đứ

ng d

y

đượ

c và có th

ti

ế

p t

c công vi

c.lxxx

Về chuyện này, người Mỹ có một câu chuyện khác. Một nhân viên OSS là y tá. Anh này

đă khám bệnh cho H, chẩn đoán là sốt rét và ỉa chảy và đă tiêm mấy mũi kí ninh cùng với

sulfa. Không rơ điều này có tác dụng đến đâu, Thomas ghi lại sau này: “

M

c dù H b

nh

n

ng, nh

ư

ng tôi c

ũ

ng không ch

c ch

n là n

ế

u không có chúng tôi thì ông ta s

ch

ế

t”

.

Viên y tá đă khám cho H là Paul Hoagland th́ một mực cho rằng chính thuốc của ông ta

đă cứu sống H.

www.langven.com

94

Đầu tháng 8, sau khi nghe tin Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima, H đă chỉ thị cho

tổng bộ Việt minh từ khắp nước ngay lập tức cử đại biểu về Tân trào để tham dự Quốc

dân Đại hội. Ngày đại hội dự kiến là ngày 16/8. Hội nghị TƯ đảng lần thứ 9 được dự kiến

họp trước đó 3 ngày. Qua chiếc radio của Thomas, H cảm được cuộc chiến đă đến hồi

kết: thành lập Liên hiệp quốc, Mỹ thả quả bom nguyên tử thứ hai, Nga trực tiếp tham

chiến. Trước đó sau một hồi lưỡng lự,H đă đồng ư đi gặp phong trào Nước Pháp tự do tại

Côn minh. Có lần H đă ra đứng đợi ở đường băng nhưng v́ thời tiết xấu máy bay không

hạ cánh được. Sau sự kiện Hiroshima,H đă huỷ bỏ ư định này. Ngày 12/8, các lănh đạo

Đảng đă quyết định kêu gọi tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, và quyết định vẫn triệu tập

Hội nghị TW lần thứ 9 vào ngày hôm sau mặc dù một số đại biểu vẫn chưa đến được.

Hội nghị đă bầu ra Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc do Trường Chinh làm chủ tịch và ra lời

hiệu triệu khởi nghĩa. Ngày 16/8 Tổng bộ Việt minh tiến hành Đại hội Quốc dân tại Tân

trào. Có hơn 60 đại biểu từ khắp nước về dự. Có người đă phải đi hàng tuần. Nhiều người

mang theo quà là gạo và thịt. Một đại biểu dân tộc c̣n dắt theo cả một con trâu. Đại hội

được tiến hành trong một ngôi đ́nh 3 gian bên bờ suối. Gian trái treo ảnh Lenin, Mao và

tướng Clair Chennault, gian giữa bày các vũ khí chiếm được của Nhật c̣n gian phải là

thư viện kiêm luôn nhà ăn của các đại biểu. Sau khi Trường Chinh khai mạc, HCM lên

phát biểu. Do Ban tổ chức chỉ giới thiệu HCM như một nhà cách mạng lăo thành nên

nhiều đại biểu cũng không rơ nhân thân của H. Tuy nhiên sau đó đă có tiếng th́ thầm,

HCM chính là Nguyễn ái Quốc. Trong bài phát biểu của ḿnh, H nhắc lại việc phải

nhanh chóng chiếm chính quyền để có thể chào đón quân đồng minh trên thế mạnh.

Tránh đối đầu mà dùng biện pháp mềm dẻo để thu phục quân Nhật. H cũng cảnh báo

rằng Pháp có thể dựa vào Đồng minh để mở cuộc tiến công chiếm lại Đông dương và

chúng ta sẽ phải tiến hành cuộc đấu tranh kéo dài để có được nền độc lập hoàn toàn. Đại

hội đă phê duyệt “10 quốc sách” của Việt minh, quyết định quốc kỳ, quốc ca của nước

Việt nam Dân chủ Cộng hoà, một quốc gia dân chủ, theo đuổi sự công bằng kinh tế và xă

hội. Đại hội cũng bầu ra Uỷ ban giải phóng Dân tộc gồm 5 người do HCM làm Chủ tịch,

sẽ chỉ đạo khởi nghĩa và hoạt động như chính phủ lâm thời. Ngày hôm sau, H đă cùng

các đại biểu làm lễ tuyên thệ ngay trên bờ suối. Bản “Kêu gọi khởi nghĩa” được phát ra

Gi

quy

ế

t

đị

nh cho dân t

c

đ

ã

đ

i

m. Hãy

đứ

ng lên gi

i phóng b

n thân mình. Các dân

t

c b

áp b

c trên th

ế

gi

i

đề

u

đ

ang

đ

ua tranh giành l

i

độ

c l

p, chúng ta không th

l

c

h

u. Ti

ế

n lên, Ti

ế

n lên d

ướ

i ng

n c

Vi

t minh, D

ũ

ng c

m ti

ế

n lên.

Đây cũng là văn bản cuối cùng được kư tên NGUYỄN ÁI QUỐC

Nh

ng ngày tháng 8

Ngày 14/8, tiếng súng chiến tranh lặng im trên toàn châu Á. Nhật đă đầu hàng và tướng

Mc Carthur bay đến vịnh Tokyo để kư kết các điều kiện đầu hàng với Hoàng gia Nhật

bản trên chiến hạmMissouri. Từ các căn cứ địa của ḿnh trên vùng rừng núi Tân trào,

Việt minh bắt đầu hành động. Ngày 16, cùng ngày với Đại hội quốc dân, các đơn vị của

Giáp do nhóm Con nai hộ tống bắt đầu tiến về phía Nam. Lác đác tại một số vùng nông

thôn Bắc bộ, nơi nạn đói và lụt lội đă cướp đi sinh mạng của hơn 1 triệu người trong nửa

năm đầu, dưới sự chỉ đạo của các hội Việt minh địa phương, nông dân đă nổi dậy cướp

chính quyền, phá kho thóc và thành lập các Uỷ ban giải phóng nhân dân địa phương.

Ngày 19/8 tại Thái nguyên, khi quân của Giáp ăn mặc chỉnh tề tiến vào thành phố và

được nhân dân nhiệt liệt chào đón, lực lượng bảo an và các quan chức chính phủ lâm thời

của Trần Trọng Kim đă nhanh chóng đầu hàng. Tuy nhiên quân Nhật đồn trú đă kiên

www.langven.com

95

quyết kháng cự. Được tin, TƯ đă ra lệnh cho Giáp chỉ để lại một đơn vị nhỏ, c̣n lại tiến

thẳng về thủ đô. T́nh h́nh cũng xảy ra tương tự ở Tuyên quang.

Ơ Hà nội, tin Nhật sắp đầu hàng được rỉ tai nhau từ ngày 11/8. Cơ quan đảng dưới sự chỉ

đạo của Nguyễn Khang đă tích cực chuẩn bị cho khởi nghĩa cướp chính quyền từ tay

quân Nhật. Họ đợi ngày này đă lâu. Mặc dù chỉ có khoảng hơn 50 đảng viên ở trong

thành phố, đảng đă tổ chức được hàng ngàn người bất măn với chính quyền hiện tại vào

các Hội cứu quốc của Việt minh. Tại ngoại ô, nông dân được huy động để sẵn sàng tràn

vào thành phố hỗ trợ cuộc khởi nghĩa.lxxxi

T́nh h́nh kinh tế ở Hà nội cũng có lợi cho cách mạng. Đồng bạc đông dương bị mất giá

thảm hại, chỉ trong mấy tháng giảm từ 0.25 $ xuống c̣n 0.10. Chi phí sinh hoạt tăng 30

lần so với trước chiến tranh. Các tầng lớp trung lưu bắt đầu có cảm t́nh với Việt minh,

nhiều người bí mật mua trái phiếu Việt minh. Trong hai tuần đầu tháng 8, đảng t́m cách

cài người vào các đơn vị quân đội đóng trong thành phố và thiết lập quan hệ với đại diện

của triều đ́nh ở Bắc bộ Phan Kế Toại (ông này có con tham gia Việt minh). Ngày 13/8,

Toại gặp Nguyễn Khang và khuyên Việt minh tham gia thành lập chính quyền cùng Bảo

đại để đón tiếp quân đồng minh. Khang từ chối và đề nghị Bảo đại thoái vị nhường chính

quyền cho chính phủ cộng hoà. Toại hứa sẽ truyền đạt thông điệp đó cho triều đ́nh. Cùng

ngày, tại Huế Trần Trọng Kim xin từ chức v́ bất lực trước t́nh h́nh (ông này trước đây

là nhà sử học) và trao quyền lại cho một chính phủ lâm thời. Các phần tử không cộng sản

ở Hà nội đă thành lập ra Uỷ ban cứu quốc, tự xưng là đại diện cho chính phủ lâm thời

mới này. Ngày 15/8 sau khi Tokyo kư văn bản đầu hàng, quân Nhật tại Hà nội ngay lập

tức bàn giao quyền lực cho chính quyền lâm thời. Xứ uỷ Bắc kỳ họp khẩn cấp tại Hà

đông trước t́nh h́nh mới. Mặc dù chưa có chỉ thị ǵ từ Tân trào, cuộc họp vẫn quyết định

tổng khởi nghĩa tại các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ, tiến tới giải phóng thủ đô. Nguyễn

Khang được giao chỉ huy Uỷ ban khởi nghĩa vũ trang gồm 5 người. Tối ngày 16/8, người

Hà nội phấp phỏng chờ đón số phận của ḿnh. Ánh đèn rực rỡ từ những khung cửa sổ

khách sạn đối lập với màn đêm đen đặc và những ngọn đèn đường tù mù v́ sợ bị oanh

tạc. Tại một rạp chiếu bóng gần hồ Hoàn Kiếm bỗng vang lên những tiếng súng lục: Việt

minh chiếm sân khấu và kêu gọi khởi nghĩa. Một sí quan Nhật chạy ra ngoài lập tức bị

bắn chết, nằm trên đường mấy tiếng đồng hồ không ai thèm ngó tới. Ngày 17, Hội đồng

tư vấn Bắc bộ, một tổ chức bù nh́n do Pháp lập ra cách đây 2 thập kỷ, họp tại Toà Thống

sứ. Thành viên của Hội đồng này chủ yếu là thành viên của đảng Đại Việt và cũng chiếm

chân trong Uỷ ban cứu quốc vừa được thành lập 4 ngày hôm trước. Hội đồng quyết định

kêu gọi cuộc biểu t́nh của dân chúng để ủng hộ Bảo đại. Trưa ngày 17, trong lúc HĐ c̣n

đang họp, các đảng phái thân chính phủ lâm thời của Trần trọng Kim đă tổ chức một cuộc

miting lớn với gần 20000 người tham dự ngay trước cửa Nhà hát Lớn. Khi cuộc miting

c̣n đang diễn ra, các phần tử vơ trang Việt minh đă nhảy lên cướp khán đài, giật cờ triều

đ́nh, treo cờ đỏ sao vàng. Nguyễn Khang đă lên phát biểu kêu gọi quần chúng ủng hộ

Việt minh giành lại độc lập cho dân tộc. Cuộc miting đă kết thúc trong hỗn loạn, ḍng

người đội mưa tiến về Bắc bộ phủ, Toà Thống sứ và khu phố cổ.

Trong khi đó, dưới sự chỉ huy của Uỷ ban khởi nghĩa vũ trang, nông dân các làng ngoại ô

đă chiếm chính quyền và tổ chức thành các đơn vị dân quân với giáo mác và vài khẩu

súng kíp, sẵn sàng tràn vào nội thành vào sáng hôm sau. Đêm 17, là một đêm mùa hè

nóng nực. Các lănh đạo Đảng bí mật họp tại một địa điểm ngoại ô và quyết định khởi

nghĩa vào ngày 19/8. Họ ước tính có khoảng 100,000 người hay 1/2 dân số nội thành ùng

hộ Việt minh, thêm vào đó là các đơn vị dân quân ở ngoại ô sẵn sàng tiếp viện. Trong

www.langven.com

96

ngày 18, vũ khí sẽ được tuồn vào và các đội xung kích sẽ án ngữ các vị trí quan trọng.

Đêm ngày 18, các uỷ viên UBKNVT lặng lẽ đột nhập Hà nội.

Rạng sáng chủ nhật, ngày 19/8. Ḍng người từ các huyện Thanh tŕ, Thường tín, Phú

xuyên, cuồn cuộn đổ vào thành phố hoà cùng với công nhân, sinh viên, tiểu thương và

các công chức ṭ ṃ, bắt đầu tụ tập trước quảng trường Nhà hát Lớn. Đàn ông mặc áo

nâu, đi dép cao su, đàn bà áo nâu, chít khăn mỏ quạ, đi giày cỏ. Rợp trời cờ đỏ sao vàng.

Cuộc diễu hành bắt đầu bằng phút mặc niệm các chiến sĩ đă ngă xuống v́ độc lập dân tộc.

Dàn nhạc chơi giai điệu mới “Đoàn quân Việt nam đi”, các lănh đạo Việt minh tuyên bố

lệnh Tổng khởi nghĩa. Đoàn người chia làm nhiều ngả chiếm Bắc bộ phủ, Dinh Toàn

quyền, Trụ sở bảo an và các địa điểm quan trọng khác. Họ hầu như không gặp sự chống

đối nào, ngoại trừ một chút khó khăn ở Bắc bộ phủ. Sau khi đàm phán, quân Nhật tuyên

bố sẽ không can thiệp. Uỷ ban cứu quốc bù nh́n hoàn toàn bị tan ră. Đến cuối ngày, toàn

bộ thành phố đă nằm trong tay quân khởi nghĩa. Đoàn diễu hành đi khắp các phố hát vang

những bài ca cách mạng và hô khẩu hiệu đ̣i độc lập dân tộc. Chắc chắn là rất ít người

trong số họ hiểu Việt minh là ai và tại sao lại có thể đại diện cho dân tộc. Tuy nhiên, cuộc

chiến tranh Thái b́nh dương đă kết thúc và viễn cảnh được đá đít Pháp cũng đă đủ để ăn

mừng.

Ngay trong đêm 19, lănh đạo Xứ uỷ gửi chỉ thị đi khắp nơi: “Hành động như Hà nội, nếu

quân Nhật kháng cự, hăy tiêu diệt, dành chính quyền bằng mọi giá”. Làn sóng khởi nghĩa

mau chóng lan rộng và đến ngày 22/8, cờ đỏ sao vàng đă bay khắp các tỉnh Bắc bộ và

Bắc Trung bộ. Quân Nhật ở Thái nguyên cũng đồng ư hạ vũ khí vào sáng hôm sau. T́nh

h́nh miền Trung, đặc biệt ở Huế có vẻ phức tạp hơn. Do không có vùng giải phóng để

huy động lực lượng, thông tin từ Tân trào th́ phải hàng mấy ngày mới đến, dân nội thành

th́ toàn là công chức và quan lại, không có đông công nhân, tiểu thương, sinh viên, chi

bộ Đảng ở đây chủ yếu phải dựa vào những chỉ thị từ hội nghị tháng 3 để chuẩn bị lực

lượng trong các làng ngoại ô. Ngày 21/8, Hà nội gửi điện yêu cầu Bảo đại thoái vị. Nhà

cách mạng, nhà thơ trẻ Tố Hữu được phái vào kích động phong trào. Sáng 22/8, hơn

100,000 tụ tập trước cửa Ngọ môn để chứng kiến Uỷ ban khởi nghĩa chiếm chính quyền

mà không gặp phải sự kháng cự nào của quân Nhật.

Nam bộ tỏ ra khó nhằn đối với Việt minh. Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, tất

cả các lănh đạo Đảng hoặc chết hoặc đang ở trong trại giam. Các đảng phái dân tộc chủ

nghĩa mọc ra như nấm dưới sự cai trị của Nhật, hô hào khẩu hiệu nhái theo học thuyết

Monroi: “Châu á của người châu á”. Chính quyền Pháp th́ bám vào tầng lớp thị dân Sài

g̣n và một số thành phố thuộc đồng bằng sông Cửu long. Trong hoàn cảnh đó, cựu học

viên của trường Stalin, Trần Văn Giàu, sau khi trốn khỏi nhà tù, quyết định xây dựng lại

từ đầu. V́ mất liên lạc với TƯ, xứ uỷ Nam kỳ quyết định hành động theo chỉ thị của Hội

nghị 6 năm 1939, kêu gọi chuẩn bị lực lượng để tổng khởi nghĩa. Không có rừng núi như

Việt bắc làm chiến khu, Giàu tập trung nỗ lực vào khu đô thị Sài g̣n – Chợ lớn, cùng lúc

xây dựng phong trào tại các vùng nông thôn. Giàu thường lấy những ngươi thiểu số

Bônsevic, nhờ huấn luyện kỹ đă dành được chính quyền, để động viên tinh thần anh em.

Đầu năm 1945, Đảng đă điều khiển được hoạt động của hơn 70 tổ chức công đoàn gồm

gần 3000 công nhân. Sau cuộc đảo chính tháng 3, lợi dụng t́nh h́nh nhốn nháo, Đảng

thừa cơ nắm quyền lănh đạo tổ chức Thanh niên Tiền phong do Nhật dựng lên. Dưới sự

lănh đạo của Phạm Ngọc Thạch (con trai ông Phạm Ngọc Thọ, người đă từng gặp H ở

Quy nhơn khi H trốn vào nam năm 1908), tổ chức này đă phát triển nhanh chóng, và đến

tháng 8 năm 1945 đă có hơn 1 triệu thành viên ở tất cả các tỉnh của Nam bộ. Ngày 14/8,

www.langven.com

97

Nhật chuyển giao quyền lực. Thừa cơ, ngày 16, khi Sứ thần của Bảo đại là Nguyễn Văn

Sâm chưa đến nơi, các phần tử dân tộc không cộng sản lập ra Mặt trận Quốc gia Thống

nhất, chiếm lấy chính quyền. Cũng lúc đó, ngày 14 Giàu đă họp các đồng chí của ḿnh để

chuẩn bị khởi nghĩa. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm cay đắng năm 1940, nhiều người do dự

v́ Việt minh không có vũ khí để vũ trang cho dân quân và Thanh niên Tiền phong. Thêm

vào đó, họ cũng chẳng có thông tin ǵ về kế hoạch của các đồng chí phía Bắc. Cuối cùng

cuộc họp quyết định khởi nghĩa “thử” ở một số xă nông thôn, rồi sẽ xem tiếp. Cuộc thử

nghiệm đă diễn ra suôn sẻ ở Tân An, một thị trấn nhỏ phía Nam Sài g̣n. Ngày 20, sau

khi nghe tin Hà nội thành công, Giàu đă yêu cầu Mặt trận Quốc gia từ chức v́ quá dính

líu với Nhật, chắc chắn sẽ không được Đồng minh chấp nhận. Giàu thông báo chỉ có Việt

minh mới được sự hỗ trợ hoàn toàn của Đồng minh. Đang hoang mang, Mặt trận lại được

tin Bảo đại đă gửi điện đề nghị Hà nội lập chính phủ cộng hoà thay thế Trần Trọng Kim,

cả hội vội vàng giải tán. Ngay lập tức Giàu thành lập Uỷ ban Nam bộ do chính ông làm

chủ tịch, triệu tập cuộc họp Xứ uỷ, quyết định khởi nghĩa vào ngày 25. Sáng 25, các đội

xung phong chiếm các trụ sở và nhà máy. Nông dân rầm rập tiến vào từ ngoại ô, hô vang

khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc, đả đảo thực dân, Việt nam của người Việt nam, Tất cả chính

quyền cho Việt minh. Tuy Việt minh tránh đối đầu với quân Nhật, vẫn xảy ra những cuộc

đụng độ với người châu Âu. Đă xảy ra một số vụ thảm sát người châu Âu trên đường phố

Sài g̣n. Chiều ngày 25, Uỷ ban Nam bộ với 6 thành viên là Việt minh đă tuyên thệ nhậm

chức chính quyền tạm thời. Đài Việt minh thông báo: “Khởi nghĩa đă thắng lợi tại thành

phố Hồ Chí Minh”lxxxii

Ngày 22/8 HCM rời Tân trào, tối hôm đó H đến Thái nguyên, nghỉ đêm và tiếp tục theo

đường số 3 xuôi về Hà nội. Sáng 25, Giáp, Trần Đăng Ninh đón và báo cáo t́nh h́nh với

H tại làng ngoại ô Ga. Trưa hôm đó, Trường Chinh chở H qua cầu Long biên đến thẳng

tầng trên cùng của một ngôi nhà 3 tầng trên phố Hàng Ngang. Sau 55 năm, HCM đă có

mặt tại Hà nộilxxxiii. Ngày hôm sau, H chuyển xuống tầng 2 vốn là tầng để ăn, ở cùng với

Giáp, Ninh. H làm việc với một cái máy chữ cũ trên bàn ăn và ngủ trên giường xếp, Giáp

và Ninh th́ ngủ trên chơng và 2 chiếc ghế xếp lại. Đối với hàng xóm, họ chỉ là những họ

hàng từ quê ra.

Ngay buổi trưa đến HN, H đă triệu tập Uỷ ban thường vụ TƯ để bàn việc ra mắt chính

phủ lâm thời. H đề nghị mở rộng thành phần chính phủ được bầu ở Tân trào, nhấn mạnh

lễ ra mắt phải được tổ chức trước càng đông dân chúng càng tốt. Tất cả mọi việc đều phải

hoàn thành trước khi quân Đồng minh vào đến Hà nội. Theo quy định của Hội nghị

Postdam, quân Tưởng sẽ tiếp quản miền Bắc, c̣n quân Anh sẽ tiếp quản Nam bộ. Người

Pháp chỉ được tham gia các hoạt động nhân đạo. Trong lúc đại quân c̣n chưa kịp đến th́

những đơn vị OSS tiền tiêu do Archimedes Patti chỉ huy đă đến Hà nội để tiếp nhận tù

binh và đánh giá t́nh h́nh. Sainteny, đại diện của phong trào Nước Pháp Tự do đă xin đi

theo với lư do để bảo vệ những người Pháp bị kẹt lại. Cả hội ở khách sạn Metropole sang

trọng, ngay đối diện toà nhà Bắc bộ phủ. Trưa ngày 26, Patti bất ngờ được mời đến gặp H

tại số nhà 48 Hàng Ngang. Sau khi chén súp cá, gà và lợn luộc cả hai đă đàm đạo khá lâu

về t́nh h́nh hiện tại. H hết sức bất măn về sự có mặt của quân Pháp trong đoàn Patti.

Ông cho rằng mục tiêu của hội này chắc chắn không phải chỉ là lo lắng cho người Pháp ở

đây. Quân Anh th́ hiển nhiên là sẽ thông đồng với Pháp, c̣n Tưởng th́ chẳng có lư ǵ lại

không bán đứng Việt nam v́ lợi ích của ḿnh. H thăm ḍ thái độ của Mỹ, phủ định tin

đồn về nguồn gốc cộng sản của ḿnh, biện hộ rằng sở dĩ ḿnh phải đến Matxcova và chơi

với cộng sản Trung hoa là do hoàn cảnh đưa đẩy. Patti th́ chẳng hứa hẹn ǵ, nói rằng

www.langven.com

98

ḿnh không có thẩm quyền bàn về các vấn đề chính trị địa phương. 3h30, Patti xin phép

về nhà ḿnh tại Maison Gautier, một vila sang trọng cạnh hồ Hoàn kiếm. Lúc đó,H được

tin là Sứ thần Bảo đại ở Nam bộ là Nguyễn Văn Sâm đă xin triều đ́nh từ chức. Về đến

nhà, Patti đă thấy Sainteny gửi giấy hẹn sang nói chuyện. Thừa biết là Patti đă có quan hệ

với H, S đề nghị Patti môi giới cuộc gặp gỡ với Việt minh. Chiều hôm đó, Patti được

thông báo là Giáp sẽ đến gặp S và Patti vào sáng hôm sau. Rơ ràng là Giáp muốn có

những người bạn Mỹ bên cạnh trong lần tiếp xúc đầu tiên với đại diện của Pháp. Hôm

sau, Giáp đến trong bộ lễ phục trắng, và ngay lập tức được S huấn thị về việc Việt minh

đă lơ là trong việc bảo vệ luật pháp, trật tự và tính mạng của những người Pháp. Giáp đáp

lại, tôi đến đây không phải để giải thích các hành động của người Việt mà để tiếp xúc với

đại diện của một nước Pháp “mới”. S xuống giọng, hứa sẽ xem xét các yêu cầu của người

Annam, tuy nhiên cũng doạ thêm là nếu không dựa vào Pháp, Việt nam sẽ bị Tàu Tưởng

làm cỏ.

Trong khi H bắt đầu cuộc thương lượng đầy sóng gió với Pháp về số phận mới của Việt

nam, chính phủ Việt minh tiếp tục thương lượng với triều đ́nh Huế. Ngày 20, Bảo đại

đồng ư từ chức, kêu gọi Hà nội thành lập chính phủ mới. Việt minh quyết định đẩy nhanh

tiến độ bằng cách gửi đoàn đại biểu gồm Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng và Trần

Huy Liệu vào ngày 29 yêu cầu Bảo đại thoái vị. Ngày hôm sau, đoàn gặp Bảo đại. Nhà

vua tiến hành nghi lễ thoái vị, chiều hôm đó, lại lặp lại nghi lễ trước cổng Ngọ môn. Sau

khi nhận ấn kiếm, Liệu chuyển lời của HCM mời Bảo đại ra Hà nội tham gia vào chính

phủ với tư cách một công dân. Bảo đại đồng ư dù đây là lần đầu tiên nghe thấy cái tên

HCM mà ông ta có thể phần nào đoán ra đó chính là nhà cách mạng lăo thành Nguyễn ái

Quốc. Không khí buổi lễ thoái vị có vẻ hội hè chứ không có ư ǵ ép buộc. Tuy nhiên

không ít quan lại triều đ́nh cảm thấy ngậm ngùi khi phải chứng kiến cảnh vị vua cuối

cùng của Việt nam rời khỏi ngai vànglxxxiv. Một số các cận thần của Bảo đại không được

may mắn như nhà Vua. Phạm Quỳnh và Ngô Đ́nh Khôi bị bắt và bị đưa ra Hà nội sau đó

bị thủ tiêu. Ở Quảng ngăi, Tạ Thu Thâu, người theo chủ nghĩa Troskist và thường xuyên

công kích ICP cũng nhận được số phận tương tự.

Ngày 28, H triệu tập cuộc họp của Uỷ ban giải phóng dân tộc (sẽ nhanh chóng trở thành

chính phủ lâm thời) tại toà nhà Bắc bộ phủ để bàn về thành phần chính phủ và xem xét

nội dung của bản Tuyên ngôn Độc lập mà H đă chuẩn bị và đánh máy trong căn pḥng

tối tăm ở phố Hàng ngang. Sau này H kể lại “đó là thời điểm hạnh phúc nhất của đời tôi”.

Trên cuộc họp, H đă đề xuất mở rộng thành phần để có thể có đại diện rộng răi nhất của

dân chúng trong chính phủ và đă được nhiệt liệt hoan nghênh. Một số thành viên Việt

minh đă t́nh nguyện từ chức để nhường chỗ cho các đảng phái khác. Hai ngày sau,H

tuyên bố thành phần chính phủ mới: ngoài chức danh Chủ tịch, H c̣n kiêm bộ trưởng

ngoại giao, Giáp: bộ nội vụ, Đồng: bộ tài chính, Chu Văn Tấn: bộ quốc pḥng, Liệu: bộ

Tuyên truyền. Khoảng một nửa thành viên chính phủ là Việt minh, ngoài ra là từ đảng

Dân chủ (thành lập 1944), một số giáo chức thiên chúa và các thành viên phi đảng phái.

Mấy ngày sau đó, H làm việc ở văn pḥng nhỏ tại Bắc bộ phủ để trau chuốt lại bản Tuyên

ngôn, H cũng chuyển sang ở một vila tại Rue Bonchamps nhưng vẫn về ăn với các đồng

chí tại Hàng Ngang. TƯ đă quyết định lễ Độc lập sẽ được tổ chức tại quảng trường

Puginier, mang tên của một giáo sĩ Pháp mà sau này sẽ được đổi thành Ba đ́nh theo đề

nghị củaH để kỷ niệm ba làng ở Thanh hoá đă nổi lên chống Pháp ở cuối thế kỷ 19.

Từ sáng ngày 2/9, Hà nội đỏ rực cờ hoa và biểu ngữ. Cờ đỏ chảy từ mái nhá, bay trên các

ngọn cây, trôi trên mặt hồ. Khẩu hiệu: “Đả đảo thực dân Pháp”, “ủng hộ chính phủ lâm

www.langven.com

99

thời”, “ủng hộ chủ tịch Hồ ChíMinh” “Chào mừng Đồng minh” bằng đủ các thứ tiếng

Việt, Nga, Hoa, Pháp, Anh giăng khắp nơi. Xưởng máy, cửa hàng, chợ búa trống trơn, tất

cả xuống đường. Đoàn người đủ màu sắc đổ về Ba đ́nh. Chính giữa quảng trường, đội

cận vệ đứng nghiêm trong nắng hè chói chang, bảo vệ một khán đài bằng gỗ mới dựng

lên hôm trước, dự kiến sẽ là nơi Chủ tịch HCM giới thiệu chính phủ và đọc bản Tuyên

ngôn độc lập. Buổi lễ dự kiến bắt đầu lúc 2h nhưngH đến chậm mấy phút do đoàn xe Mỹ

chở phải khó khăn lắm mới vượt qua được biển người. Giáp là MC chương tŕnh, giới

thiệu HCM. Bài nói của H ngắn nhưng xúc động:

“T

t c

sinh ra

đề

u bình

đẳ

ng. T

o hoá

đ

ã cho h

nh

ng quy

n không th

tách r

i, trong

đ

ó có quy

n S

ng, T

do và M

ư

u c

u H

nh phúc”. Câu nói b

t h

ủ đ

ó trích trong Tuyên

ngôn

độ

c l

p c

a n

ướ

c M

n

ă

m 1776. Nói r

ng ra

đ

i

u

đ

ó có ngh

ĩ

a là t

t c

các dân t

c

trên trái

đấ

t bình

đẳ

ng t

lúc ra

đờ

i. T

t c

các dân t

c

đề

u có quy

n s

ng và

đượ

c

h

ưở

ng t

do và h

nh phúc. Tuyên ngôn Nhân quy

n c

a Cách m

ng Pháp 1789 c

ũ

ng

đ

ã

nh

n m

nh “M

i ng

ườ

i sinh ra

đề

u t

do và bình

đẳ

ng và mãi mãi s

t

do và bình

đẳ

ng”

Sau đó H miêu tả những đau khổ mà chế độ thực dân Pháp đă gây ra cho Việt nam, và

cuối cùng người Việt nam đă phải đứng lên đánh đuổi Pháp dành lại độc lập dân tộc. H

kết luận

“Vi

t nam có quy

n

đượ

c h

ưở

ng t

do,

độ

c l

p và th

c s

ự đ

ã tr

thành m

t n

ướ

c

t

do và

độ

c l

p. Toàn th

nhân dân Vi

t nam s

huy

độ

ng t

t c

s

c m

nh v

t ch

t và

tinh th

n, s

n sàng hy sinh tính m

ng và c

a c

i

để

b

o v

t

do và

độ

c l

p c

a mình”.

Giữa bài nói của ḿnh,H đă dừng lại hỏi “Tôi nói đồng bào có nghe rơ không?”. Hàng

triệu người đă reo lên “Có”, theo lời Giáp kể. Sau khi chính phủ tuyên thệ độc lập, đám

đông bắt đầu giải tán trong tiếng gầm rú của phi đội P-38 của Mỹ bay chào mừng. Cùng

ngày hôm đó, lễ độc lập được tổ chức tại tất cả các đền, chùa và nhà thờ thiên chúa giáo.

Tối đó, H tiếp đại diện của các tỉnhlxxxv . Khoảng 15000 dân Pháp sống ở Hà nội lúc đó

quan sát sự kiện này với sự lo lắng ra mặt. Họ lẳng lặng chuẩn bị vũ khí và thực phẩm

cho những ngày khó khăn sắp tới. 5000 quân Pháp bị giam ở Hoả ḷ cũng âm thầm chuẩn

bị nổi dậy khi quân đội của Nước Pháp Tự do theo Đồng minh tiến vào Đông dương.

Sáng 3/9, chính phủ họp phiên đầu tiên ở Bắc bộ phủ để thảo luận chiến lược hoạt động,

dựa trên “10 chính sách” mà Quốc dân Đại hội đă vạch ra ở Tân trào. Trong bài khai

mạc, H nhấn mạnh mục tiêu quan trọng nhất của chính phủ là đẩy lùi nạn đói. Mặc dù vụ

đông xuân có một số tiến bộ, nhưng nạn lụt vào tháng 8 đă đẩy các tỉnh Bắc bộ vào t́nh

cảnh hết sức khó khăn. Sản lượng lúa của 15 tỉnh Bắc bộ chỉ là 500,000 tấn so với

832,000 tấn của năm 1944. Sinh viên các trường đại học phải lập những đội t́nh nguyện

đi thu nhặt xác chết vào mỗi buổi sáng sớm. Một loạt các biện pháp được thông qua. Đầu

tiên là thực thi tiết kiệm. H tự nguyện 10 ngày nhịn ăn 1 ngày để giúp người nghèo. Đất

công, thường chiếm khoảng 20% đất canh tác ở làng, được trưng thu để chia đều cho dân

nghèo từ 18 tuổi trở lên. Cấm sản xuất bún và nấu rượu. Giảm và miễn thuế nông nghiệp.

Mở các trạm tín dụng nông nghiệp tại xă. Đẩy mạnh khai hoang. Theo đề nghị của H,

chính phủ c̣n quan tâm đến một số vấn đề quan trọng khác trong đó có việc xoá mù chữ.

Theo đánh giá, chính sách giáo dục thiển cận của Pháp đă đẩy một dân tộc thường xuyên

có tỉ lệ biết chữ cao ở châu á xuống mức 90% mù chữ vào năm 1945. Chính phủ ra sắc

lệnh yêu cầu tất cả người Việt nam phải học đọc và viết chữ quốc ngữ trong ṿng 1 năm.

Sắc lệnh mang hơi hướng của Nho giáo viết: “Ai chưa biết phải học. Vợ học chồng. Em

học anh. Già học trẻ. Bố mẹ học con. Tất cả đều phải học chăm chỉ hơn”. Các lớp xoá mù

được mở khắp nơi, đền chùa, chợ búa cũng biến thành trường. Đến mùa thu năm 1946,

www.langven.com

100

hơn 2 triệu người Việt nam đă được xoá mù chữ. Ngày 8/9, Chính phủ quyết định tổ

chức Tổng tuyển cử trong 2 tháng tới để bầu ra quốc hội lập pháp có khả năng thông qua

hiến pháp mới. Ngày 13/10 ban bố sắc lệnh về việc thành lập các hội đồng nhân dân tại

địa phương thông qua bầu cử. Các chính sách kinh tế của chính phủ chủ yếu là miễn giảm

thuế, nâng cao điều kiện lao động và cấp đất cho người nghèo. Không có quốc hữu hoá

hoặc cải cách ruộng đất. Chỉ có đất của người Pháp và những kẻ cộng tác mới bị tịch thu.

Chính sách này phù hơp với các tuyên bố của H trước đó về cách mạng 2 giai đoạn, khi

dành được chính quyền, ưu tiên đầu tiên của ông là thành lập chính phủ có khả năng đoàn

kết rộng răi các tầng lớp dân chúng, tập hợp được sức mạnh để đối phó với đe doạ ngoại

xâm. Tuy nhiên đây đó vẫn xảy ra những hiện tượng quá khích, các phần tử địa chủ, quan

lại bị thanh toán, đền chùa bị đập bỏ, nhân dân bị cấm không được tiến hành các nghi lễ

phong tục, tập quán.

Trong khiH đang trau chuốt những nét bút cuối cùng cho bản tuyên ngôn độc lập, những

đơn vị quân Tưởng đầu tiên đă bắt đầu tiến vào Việt nam. Vào phút cuối, Tưởng đă đổi ư,

không dùng Trương Phát Khuê mà sử dụng quân đoàn 1 của Lư Hán ở Vân Nam để tiến

vào Hà nội. Tiêu Văn, người đỡ đầu cũ của H trong Việt nam cách mạng đồng minh Hội

ở Lưu châu trước đây được cử làm chính uỷ. Các bọn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh cũng

được dịp bám theo. Đội quân 180,000 này rơ ràng không phải là lực lượng tốt nhất của

Quốc dân đảng. Dân Việt nam th́ chỉ thấy một đội quân bệ rạc, áo quần bẩn thỉu, chân th́

phù thũng, dắt díu theo cả họ hàng hang hốc. Patti miêu tả trong hồi kư của ḿnh:

Quân T

ưở

ng c

a L

ư

Hán ti

ế

n vào thành ph

lúc ban

đ

êm. Chúng tôi nghe rõ ti

ế

ng b

ướ

c

chân, ti

ế

ng

độ

ng c

ơ

r

i ti

ế

ng quát tháo. Sáng hôm sau,

đậ

p vào m

t chúng tôi là m

t

c

nh t

ượ

ng gây s

c. Các

đơ

n v

“tinh nhu

” hôm qua (các

đơ

n v

ti

n tiêu)

đ

ã bi

ế

n thành

độ

i quân “th

ph

”. Kh

p ph

là c

nh h

n lo

n, lính Tàu

đ

i l

i lang thang vô m

c

đ

ích.

Trên các hè ph

, l

ề đườ

ng, v

ườ

n hoa, ng

n ngang quân lính và ng

ườ

i thân, các d

ng c

gia

đ

ình l

n l

n v

i quân trang quân d

ng. M

t s

ố đ

ám

đ

un chè u

ng, x

ế

p

đồ đạ

c, th

m

chí gi

t gi

ũ

Đối với HCM, bề ngoài của đội quân này không quan trọng bằng mục đích của nó. Mặc

dù Tưởng đă hứa với Roosevelt tại Hội nghị Cairo 1943 là không hề có ư định ḍm ngó

Việt nam, hiển nhiên là TQ muốn duy tŕ một chế độ mà ḿnh có thể ảnh hưởng. Thái độ

của quân Tưởng đối với Pháp khi Pháp quay trở lại tiếp quản Đông dương cũng là điều H

bận tâm, Trương Phát Khuê kịch liệt chống Pháp nhưng cũng không loại trừ một số kẻ

thoả hiệp để bảo vệ quyền lợi của ḿnh. Trong hội nghị TƯ vào giữa tháng 8,H đă tập

trung phân tích những vấn đề liên quan phức tạp liên quan đến quân Đồng minh, khai

thác sự mâu thuẫn giữa chúng để bảo vệ độc lập. H cho rằng 2 đối tượng nguy hiểm nhất

là Pháp và Tưởng. Pháp chắc chắn muốn chiếm lại Việt nam. Tưởng cũng vậy, nếu không

được th́ cũng sẽ cố gắng dựng lên một chính phủ thân Tưởng ở Hà nội. H dự đoán, một

là Mỹ và Tưởng có thể ở một bên, c̣n Anh ủng hộ Pháp để chiếm lại VN, chính phủ mới

có thể lợi dụng sự mâu thuẫn này. Hai là, các nước đồng minh thống nhất chĩa mũi dùi

sang Liên xô, khi đó Mỹ, Anh sẽ đều quay sang ủng hộ Pháp vào VN. Trong mọi điều

kiện VN, phải cố gắng tránh đối đầu một ḿnh. Đối với Pháp, tránh đụng độ vũ trang,

nhưng kiên quyết huy động quần chúng chống lại Pháp khôi phục cai trị. Đối với Anh,

Tưởng, phát triển quan hệ hữu hảo, nếu bị can thiệp vào công việc, dùng quần chúng để

đ̣i độc lập. Dựa trên chính sách đó, chính phủ mới ở VN đă hết sức mềm dẻo với Tưởng.

Khi người bảo trợ cũ là Tiêu Văn đến HN, HCM đă đích thân hứa phát triển mối quan hệ

hữu hảo. Giáp đổi tên Giải phóng quân thành Vệ quốc quân, rút một số đơn vị ra ngoại ô,

www.langven.com

101

bố trí lại các đơn vị trong HN để tránh đụng độ. Ngày 14/9 Lư Hán đến Hà nội và chiếm

luôn Dinh Thống sứ, đuổi Sainteny xuống một biệt thự gần Ngân hàng Đông dương khi

đó vẫn do Nhật chiếm. Các phần tử dân tộc thân Tưởng cũng tranh thủ ùa vào. Chính phủ

phải thông báo cho các uỷ ban nhân dân từ biên giới hết sức b́nh tĩnh trước những hành

động khiêu khích của đám này trên đường từ Việt bắc về Hà nội. Tại Hà nội, Nguyễn Hải

Thần và tay chân tự động lập ra “Vùng tự trị” và bắt đầu gây rối.

H có lẽ cũng đă cảm thấy những cố gắng của ḿnh nhằm xây dựng quan hệ chiến lược

với Mỹ thông qua OSS không mang lại nhiều kết quả. Trong một bức thư gửi Charle

Fenn vào giữa tháng 8, H viết rất vui v́ chiến tranh đă kết thúc, nhưng cũng rất buồn v́

phải chia tay những người bạn Mỹ. H tiên đoán “Khi các ông đi, quan hệ giữa chúng ta

chắc chắn sẽ xấu đi”. Đối với H, Mỹ qua tổng thống Roosevelt là người lớn tiếng đ̣i

phục hồi độc lập cho các dân tộc bị áp bức ở châu á. Nhưng H cũng hiểu rằng, với t́nh

h́nh thế giới phân cực, kiểu ǵ Mỹ cũng sẽ trở thành thành tŕ của chủ nghĩa tư bản,

chống lại cách mạng thế giới. Tháng 4, Truman lên thay R chết v́ bệnh, đă lờ đi không

nhắc đến vấn đề độc lập ở Đông dương nữa. Tháng 5, tại hội nghị San Francisco, phái

đoàn Mỹ cho thấy rằng sẽ không phản đối nếu Pháp trở lại Đông dương. Sự thay đổi

chính sách này là kết quả cuộc tranh luận giữa Vụ châu á và Vụ châu Âu của Bộ Ngoại

giao Mỹ. Vụ châu Âu cho rằng trong t́nh h́nh sự đối đầu ngày càng căng thẳng giữa Mỹ

và Liên xô tại châu Âu, Mỹ phải ủng hộ Pháp. Tuy nhiên Mỹ cũng yêu cầu “bảo đảm

những điều kiện tự trị tiến bộ hoặc h́nh thức liên hiệp cho các dân tộc mong muốn độc

lập, tương ứng với các điều kiện bên ngoài cũng như khả năng thực tế của dân tộc đó”.

Tướng De Gaul cũng hứa Đông dương “sẽ nhận được những h́nh thức tự trị tương

xứng”. Vào cuối tháng 8, khi Việt minh đang bận củng cố quyền lực, Truman đă gặp De

Gaul ở Nhà Trắng. De Gaul đă từ chối yêu cầu của Nhà trắng hứa hẹn về tương lai của

Đông dương, cho rằng nói bây giờ chỉ là những lời “nói suông”. Mấy ngày sau, Mỹ tuyên

bố không phản đối việc Pháp trở lại Đông dương. Đáng tiếc là đến tận tháng 10 tin này

mới đến Trùng Khánh, bởi thế Patti và những quân nhân Mỹ đến Hà nội chẳng được chỉ

thị nào của Đại sứ quán cả. H vẫn tiếp tục liên lạc với Patti mà không biết rằng ông này

cũng chẳng biết ǵ hơn ḿnh về đường lối chính thức của Mỹ. Trong cuộc gặp gỡ trước

ngày 2/9, H kêu ca là Mỹ không hiểu ǵ về mục tiêu của Tưởng và Pháp. H cam kết rằng

Việt minh không phải là ICP, chấp nhận đàm phán với Pháp về một nền độc lập hạn chế

và hứa sẽ dành cho Mỹ những nhượng quyền kinh tế đặc biệt. Patti, cũng như tất cả

những người Mỹ đă từng tiếp xúc với H ở cuối cuộc chiến, có cảm t́nh với chính phủ của

H. Tuy nhiên cấp trên của ông này là Richard Hepnner đă ra lệnh không được dính líu gi

đến các vấn đề chính trị. Bị bỏ rơi, H t́m cách thoả hiệp với Tưởng. Khi Tiêu Văn nhắc

khéo về việc bổ sung thêm thành phần chính phủ,H đă thề thốt rằng mục tiêu của ông là

dân chủ hoá chính phủ và tổng tuyển cử sẽ được tiến hành cuối năm.

Trong lúc đó, chính quyền mong manh ở phía Nam phải đối mặt với nhiều đe doạ trực

tiếp. Sau những sự kiện lộn xộn ngày 25/8, Uỷ ban Nam bộ bắt đầu ổn định t́nh h́nh và

thâu tóm quyền lực để chuẩn bị đón quân đội chiếm đóng Anh. Vài ngày sau, Hoàng

Quốc Việt được TƯ phái vào. Việt đă khuyên Giàu tránh đối đầu với quân Anh. Tuy

nhiên vị thế của Giàu khá tế nhị. Ông này phải chấp nhận trong uỷ ban có nhiều thành

phần khác. Hội này không những luôn luôn nghi ngờ bản chất của Việt minh mà c̣n ŕnh

rập thế cơ để tố cáo Việt minh thoả hiệ__________p với quân thù. Trên thực tế, Xứ uỷ Nam bộ cũng

bị mất liên lạc với TƯ và đă quen tự quyết định t́nh h́nh. Thậm chí, khi Việt vào, Giàu

mới biết nhân vật kỳ bí HCM chính là Nguyễn ái Quốc. Bởi vệ các đồng chí phía Nam

www.langven.com

102

không nhiệt t́nh lắm với những đề nghị của Việt, chưa kể nhiều khi Việt như muốn ra

lệnh. Xuất thân từ công nhân, với tư tưởng cứng nhắc, Việt cũng chẳng thích thú ǵ với

hội của Giàu. Việt coi hội này như những kẻ phiêu lưu tiểu tư sản đă bị nhiễm lối sống

của tư bản Sài g̣n. Sự chia rẽ giữa Xứ uỷ hai miền từ cuối những năm 30, càng trở nên

căng thẳng cuộc khởi nghĩa tại hai nơi bị buộc phải đi theo những con đường khác nhau.

Ngày 2/9, đám đông tụ tập trước dinh Norodom để chào mừng độc lập và nghe truyền

thanh bản Tuyên ngôn độc lập của HCM. Trong lúc đó, căng thẳng với kiều dân Pháp vẫn

rất cao. Khi những người biểu t́nh đang rầm rộ tiến vào Rue Catinat th́ tiếng súng bỗng

đột nhiên vang lên tại quảng trường Nhà thờ. Đám đông trở nên bị kích động, thanh niên

ùa vào những ngôi nhà lân cận để t́m kẻ bắn lén. Lộn xộn xảy ra, cha cai quản Nhà thờ

Tricoire đang đứng trên thềm th́ bị trúng đạn chết ngay tại chỗ. Bạo lực lan nhanh, nhà

cửa bị đập phá, cửa hàng bị hôi của, đám đông đi t́m người châu Âu để đánh. Báo chí

Pháp gọi ngày này là Ngày Chủ nhật đen. Bốn người chết và hàng trăm người bị thương.

Vài ngày sau, Giàu ra lời kêu gọi các đồng chí của ḿnh duy tŕ kỷ luật, kiềm chế tránh bị

lôi kéo vào những hành động manh động. Các phe phái dân tộc chủ nghĩa và nhóm

Troskist được thể lấn át Việt minh. Hai giáo phái chính là Cao đài và Hoà hảo bắt nguồn

và sinh sôi nảy nở trên đồng bằng Mekong từ những năm đầu thế kỷ, với hàng trăm ngàn

giáo dân, cũng ra sức củng cố quyền lực trong khu vực hoạt động của ḿnh, chống lại sự

bành trướng của Việt minh.

Ngày 12/9 Sư đoàn Gurkha số 20 của tướng Douglas Gracey đến Tân sơn nhất cùng với

một số đơn vị quân Pháp. Sư đoàn này vừa trải qua những trận chiến với quân Nhật tại

Miến điện. Gracey, con của một quan chức thực dân ở ấn độ, tốt nghiệp Sandhurst, dáng

khắc khổ, với bộ ria mép đặc trưng cho các vị tướng Anh. Con đường binh nghiệp của

Gracey chủ yếu ở các nước thuộc địa châu Á. Ông được binh lính kính trọng v́ ḷng dũng

cảm và công bằng. Có vẻ như Gracey là sự bổ nhiệm hoàn hảo cho nhiệm vụ tiếp quản sự

đầu hàng của Nhật và duy tŕ luật pháp tại Đông dương. Tuy nhiên ngay từ những ngày

đầu tiên ông này đă gặp phải những vấn đề lớn. Đầu tiên là thiếu kinh nghiệm xử lư chính

trị, xuất phát từ nguồn gốc của ḿnh Gracey coi việc các dân tộc châu á phải bị cai trị là

đương nhiên. Tiếp đến là sự thiếu nhất quán trong lănh đạo đồng minh. Khi ở Rangoon,

Gracey được giao nhiệm vụ chỉ huy toàn bộ quân đội đồng minh ở Đông dương phía dưới

vĩ tuyến 16. Tuy nhiên, trên đường hành quân, tướng Slim chỉ huy quân Anh ở Đông

Nam á lại chỉ đạo Gracey chỉ tập trung kiểm soát một số vùng trọng yếu, c̣n lại để mặc

quân Pháp, trừ khi Pháp yêu cầu hoặc có lệnh của tướng Mountbatten, chỉ huy toàn bộ

quân đội Đồng minh tại ĐNA (trụ sở tại Ceylon). Thực tế là Slim đă trả lại nửa nam của

Đông dương cho Pháp.

Sài g̣n khi Gracey đến không yên b́nh. Quân Nhật đầu hàng làm thành phố hầu như

không có chủ. Cảnh sát Việt nam chẳng biết phải báo cáo cho ai. Ngày 8/9, Giàu kêu gọi

dân chúng b́nh tĩnh và hợp tác với Uỷ ban Nam bộ và ngay lập tức bị các thành viên phê

phán về thái độ hoà hoăn, thậm chí c̣n nghi ngờ Giàu là “tay sai” của Pháp. Hôm sau Uỷ

ban bị cơ cấu lại, Giàu phải từ chức, Việt minh chỉ c̣n 4 trong số 13 thành viên. Ngày

12/9, một số tù binh Pháp được quân Pháp đi theo Gracey giải cứu ùa ra đường, đập phá

và tấn công những người Việt nam cho bơ tức. Gracey ra lệnh cho quân Nhật tước vũ khí

của các đơn vị Việt nam, đuổi Uỷ ban Nam bộ ra khỏi toà nhà Thống sứ. Bộ chỉ huy Anh

tuyên bố sẽ trực tiếp cai trị cho đến khi chế độ thực dân Pháp được phục hồi.lxxxvi Trong

vài ngày sau, các đơn vị Anh đă tuần tiễu khắp đường phố và đuổi quân “phiến loạn” ra

khỏi những vị trí trọng yếu. Giàu nhận được lệnh từ Hà nội t́m mọi cách tránh đối đầu

www.langven.com

103

trực tiếp, âm thầm sơ tán các đơn vị Việt minh ra ngoại ô. Uỷ ban Nam bộ cũng bắt đầu

thương lượng với đại diện Pháp Jean Cedile, đă nhảy dù xuống Nam bộ từ 22/8. Tuy

nhiên như nhà ngoại giao Pháp Bernard de Folin ghi lại, đây là cuộc đối thoại của 2

người câm, mặc dù có sự trợ giúp đắc lực của Peter Dewey từ OSS. Pháp chỉ chấp nhận

nói chuyện về độc lập sau khi chế độ cai trị thực dân được khôi phục lại. Đến giữa tháng

9, Phạm Văn Bách lúc đó là chủ tịch UBNB hiểu rằng các cuộc đàm phán là vô nghĩa,

UB kêu gọi tổng băi công vào ngày 17. Ngay lập tức Gracey ban bố thiết quân luật, thả

tất cả quân Pháp (chủ yếu là lính lê dương), trang bị vũ khí và đề nghị Pháp lập lại trật tự.

Đụng độ đă xảy ra giữa quân Việt nam và Pháp. Đêm 22/9, Cedile ra lệnh cho quân Pháp

chiếm lại tất cả các vị trí trọng yếu và đuổi UB ra khỏi trụ sở mới là toà Thị chính Sài

g̣n. Sáng hôm sau, 22000 người Pháp hân hoan biết rằng Sà g̣n lại dưới quyền cai trị

của họ. Người Pháp tràn ra phố đánh đập bất cứ người Việt nam nào bất kể trẻ già, trai,

gái mà chúng gặp trên đường.

Chỉ huy của OSS lúc đó tại Sài g̣n là trung tá Dewey. Chàng thanh niên 28 tuổi này tốt

nghiệp đại học Yale, từng là phóng viên báo Tin tức Chicago, gia nhập OSS tại châu Âu,

vốn là con của đại sứ Mỹ tại Pháp. Anh nói tiếng Pháp thành thạo nhưng lại căm ghét chế

độ thực dân chẳng khác Patti. Dewey liền đến gặp Gracey để phàn nàn về sự lộng hành

của quân Pháp. Gracey chẳng những không tiếp mà c̣n yêu cầu Dewey rời khỏi Đông

dương càng sớm càng tốt, cho rằng các hoạt động của OSS không có ích ǵ mà c̣n gây

rối thêm. Tuy nhiên Gracey cũng xuống nước, đề nghị Pháp rút quân khỏi đường phố,

trao lại quyền ǵn giữ trật tự cho Nhật. Ngày 24/9, hàng trăm phần tử vũ trang, chủ yếu là

Cao đài và B́nh xuyên tràn vào khu phố người Pháp Herault hô ầm ĩ “Giết bọn Âu

trắng”. Hơn 150 người chết, 100 người bị bắt đi và mất tích luôn, trong đó có nhiều phụ

nữ và trẻ em. Nông dân ngoại ô cũng bạo loạn, đốt nhà, chiếm đất và đánh giết các địa

chủ. Bây giờ th́ Giàu không c̣n tin vào hoà hoăn nữa. Lo sợ các lực lượng dân tộc sẽ

chiếm mất quyền lực, Giàu ra lệnh tiếp tục băi công và phong toả thành phố. Những

chiến luỹ được dựng trên các ngả đường để ngăn người Pháp ra khỏi thành phố và không

cho người Việt nam từ ngoài vào. Dewey điện cho Patti

“Nam b

nh

ư

lò thu

c súng,

ng

ườ

i M

c

n hành

độ

ng”

. Trưa ngày hôm sau, trên đường ra sân bay Tân sơn nhất,

Dewey bị bắn chết trên một chiến luỹ và trở thành người Mỹ đầu tiên chết trong cách

mạng Việt nam. Trụ sở OSS cũng bị tấn công và được quân Anh giải cứu. Các sĩ quan

OSS điều tra cái chết của Dewey đều cho rằng Việt minh không có động cơ để giết

Dewey cũng như người Mỹ vốn ủng hộ nền độc lập của Việt nam. Một phần lỗi là do

Gracey đă từ chối cho Dewey được treo cờ Mỹ trên chiếc Jeep của ḿnh (theo Gracey là

chưa xứng đáng), và nhiều khả năng là Việt minh đă nhầm chiếc xe của Dewey là chở

quân Pháp. Biết chuyện qua Patti HCM đă bị sốc, sau đó gửi thư đến tổng thống Truman

bày tỏ sự đau buồn. Sự hỗn loạn ở Sài g̣n đă ảnh hưởng nặng đến h́nh ảnh ǵn giữ hoà

b́nh của quân Anh. Ngài Mountbatten đă triệu Gracey và Cedile đến Singapore để mắng

mỏ v́ kỳ thị chủng tộc và không chịu làm việc với người Việt nam. Nhưng mọi sự đă

muộn. Đầu tháng 10, quân Pháp do Leclerc chỉ huy đă tiến vào Nam bộ, vài ngày sau, tại

Cung Sportif, Grace đă kư hiệp định giao lại toàn quyền cai trị Việt nam từ vĩ tuyến 16

trở về trước cho Pháp. Ngày 10/10, Giàu tấn công quân Anh-Pháp tại Tân sơn nhất và các

cửa ô. Tuy nhiên chỉ vài tuần sau, các đơn vị Việt minh và các phần tử dân tộc thiếu kinh

nghiệm đă bị đẩy bật ra xa ngoại ô Sài g̣n và buộc phải lẩn trốn trong những cánh rừng

và đầm lầy. Trước t́nh h́nh đó, Việt minh ra sức t́m cách hàn gắn các phe phái, c̣n Lê

Duẩn th́ khẩn cấp triệu tập cuộc họp Việt minh ở đồng bằng sông Mekong để chuẩn bị

www.langven.com

104

cho chiến tranh. Tại Hà nội, HCM lên đài kêu gọi cả nước ủng hộ miền Nam, thề sẽ

thống nhất đất nước. Tại miền trung, nhiều nơi, cả làng đă hưởng ứng Nam tiến đánh

Pháp. Tuy nhiên trong chỗ thân tín, H khuyên các cộng sự phải kiên nhẫn, “từ kinh

nghiệm lịch sử, chỉ có cuộc chiến kéo dài mới dành được kết quả”.

Quả thật là chính quyền non trẻ chưa thể có đủ năng lực đến tiến hành chiến tranh. Tuy

quân Pháp chưa đến Bắc bộ, nhưng dưới sự bảo kê của quân Tưởng, các phần tử dân tộc

đang ngày càng lấn lướt. HCMphải hết sứ__________c khéo léo để lôi kéo đồng minh. Ông ra lệnh

cung cấp thuốc phiện cho Lư Hán, tư lệnh quân Tưởng ở Việt nam. Ông cho mời Bảo đại

từ Huế ra, tỏ vẻ lấy làm tiếc là đàn em đă dùng vũ lực để ép BĐ thoái vị. H nói “Tôi cho

rằng ngài phải lănh đạo đất nước, c̣n tôi sẽ lănh đạo chính phủ”. HCM đă đề nghị Bảo

đại làm cố vấn tối cao cho Chính phủ và ông này đă nhận lời.lxxxvii Mặc dù H đă làm hết

sức để giữ h́nh ảnh ôn hoà, ông không thuyết phục được các phần tử dân tộc trong Đồng

minh Hội, đă tố cáo Việt minh tráo trở trong khi chủ động đơn phương dành chính quyền.

Nguyễn Hải Thần và Đại Việt gọi chính phủ là “

H

và b

ă

ng

đả

ng kh

rách áo ôm”

đang

t́m cách thoả hiệp với Pháp. Vũ Hồng Khanh và báo chí VNQDD th́ rêu rao về nguy cơ

“Khủng bố đỏ”. Mặc dù như Patti nhận xét bọn này không có một chiến lược kinh tế xă

hội nào và “

m

t ph

ươ

ng h

ướ

ng chính tr

m

t cách vô v

ng”

, chúng có trong tay một con

bài quan trọng là sự ủng hộ của quân Tưởng. Tuy nhiên bọn này cũng chẳng có mục tiêu

thống nhất. Hội liên quan đến Đồng minh Hội do Tiêu Văn ủng hộ th́ mong quân Tưởng

và Nhật rút sớm để có thể thành lập chính phủ của ḿnh. Đại Việt và Việt nam QDD th́

theo đuôi Lư Hán và muốn quân chiếm đóng Tưởng ở lại lâu dài. Nhà báo Pháp Phelip

Deviller, lúc đó đang ở Hà nội cũng nhận thấy sự chia rẻ trong hàng ngũ Việt minh làm 3

nhóm: nhóm cộng sản cứng rắn như Hoàng Quốc Việt, Trần Huy Liệu, Hồ Tùng Mậu;

nhóm cộng sản thực dụng như Giáp, Hoàng Minh Giám và bố vợ Giáp là Đặng Thai Mai;

nhóm thứ 3 là nhóm không cộng sản, theo Việt minh v́ yêu nước. Deviller cho rằng

HCM đă rất khéo léo xoa dịu mâu thuẫn giữa các nhóm, đặc biệt là thuyết phục các đồng

chí cứng rắn không manh động. Trong một b́nh luận, H cho rằng các phần tử phản động

sẽ “bị quét sạch” nhưng từng bước cho đến khi chính phủ nắm được chính quyền một

cách vững chắc. Nhiều lúc t́nh h́nh quá căng thẳng, H phải thay đổi chỗ ở thường xuyên,

đề pḥng bị ám sát. Theo H, cách tốt nhất để trị hội Dân tộc chủ nghĩa là làm việc với

quân Tưởng. Tuy nhiên chưa rơ là Lư Hán sẽ ở lại đây bao lâu. Đầu tháng 10, Tưởng cử

tướng Hồ Yingqin sang thị sát t́nh h́nh, phê phán Lư Hán không có kế hoạch hành động

để ngăn cản cộng sản thâu tóm quyền lực. Khả năng quân Tưởng rút lại càng mù mờ hơn.

Trong khi đó Pháp vẫn là mối đe doạ lớn nhất, nếu các nước Đồng minh cùng xúm lại để

chống Nga, đương nhiên Pháp sẽ được rảnh tay để chiếm lại Đông dương mà chẳng ai

phản đối mặc dù có thể không thích. Hiểu được điều đó, từ giữa tháng 9,H đă bí mật đàm

phán với Marcel Alessandri bà Leo Pignon (Sainteny lúc này đă sang ấn độ). Trong các

cuộc phỏng vấn với các nhà báo phương Tây,H đă chào mừng người Pháp quay trở lại

Đông dương nếu họ đến như những người bạn chứ không phải những kẻ chinh phục.

Hy vọng cuối cùng của H là được Mỹ bảo trợ. Mặc dù liên tiếp bị cấp trên khiển trách,

đại diện cao cấp nhất của Mỹ ở Đông dương là thiếu tá Patti không giấu được thiện cảm

với chính phủ Việt nam. Ông này báo cáo là tuy chính phủ rơ ràng là thiên tả nhưng họ

đang nắm vững chính quyền và sẵn sàng tiến hành chiến tranh với Pháp. Vài tuần sau

Patti lại báo cáo: các nhà lănh đạo Việt nam rất muốn được Mỹ bảo trợ như Philippines,

tuy nhiên họ hiểu rằng điều đó là vô vọng nên đề nghị lộ tŕnh 10 năm để tiến tới độc lập

hoàn toàn, cho tới lúc đó Pháp có thể cử Thống sứ với tư cách là nguyên thủ quốc gia,

www.langven.com

105

dưới sự giám sát của Liên hiệp quốc. Quan điểm của chính phủ Mỹ không nhất quán, chủ

yếu là do mâu thuẫn giữa 2 Vụ châu Á và châu Âu. Ngày 28/9, vụ phó vụ Viễn đông

John Carter Vincent (sau này trở thành nạn nhân của phong trào chống Cộng do nghị sĩ

Mc Carthy khởi xướng) đă nêu vấn đề với thứ trưởng Dean Acheson. Theo Vincent,

chính sách “không can thiệp” của Mỹ sẽ dẫn đến cuộc khủng hoảng toàn diện ở Đông

dương v́ Pháp không chịu nhượng bộ. Vincent đề nghị Mỹ và Anh thành lập một uỷ ban

điều tra t́nh h́nh.Trên cơ sở báo cáo của UB này, một cuộc đàm phán quốc tế có thể có

đại diện thích hợp của Annam sẽ được tiến hành. Những biện pháp này sẽ tránh được một

cuộc bùng nổ chủ nghĩa dân tộc ở Đông dương. Vụ châu Âu có quan điểm khác, Vụ

trưởng Freeman Mathew cho rằng hăy để Anh Pháp tự giải quyết lấy. UB mà điều tra chỉ

có thể dẫn đến một kết quả duy nhất là Pháp phải trả lại Đông dương. Khi đó Nga sẽ nhảy

vào đ̣i chia phần, rất rắc rối :”

b

t l

i cho Pháp, cho ph

ươ

ng Tây và cho c

ng

ườ

i

Đ

ông

d

ươ

ng nói chung”

Vốn xuất thân từ dân Châu Âu, Acheson đồng ư với Mathew và Mỹ sẽ

chỉ can thiệp nếu t́nh h́nh xấu đi nhanh chóng. Ngày 20/10 Vincent ra thông báo, Mỹ

không phản đối Hà lan và Pháp tiếp quản các thuộc địa cũ tại Đông Nam á, nhưng Mỹ hy

vọng là nhân dân các nước này sẽ được chuẩn bị cho trách nhiệm tự trị. Trong lúc đó

Pháp cũng tỏ rơ thái độ. Cuối tháng 10, đại diện của SQ Pháp tạiWashington đă gặp một

quan chức vụ Viễn đông là Abbot Moffat để bày tỏ quan điểm về tin đồn là đại diện của

chính phủ HCM đang tới Mỹ, ông này tuyên bố “chính phủ Pháp coi hành động này của

Mỹ là không thân thiện”.

HCM có thể không biết về những thay đổi này trong thái độ của Mỹ, nhưng rơ ràng là

ông nhận thấy xu hướng xấu đi. Trong bữa tiệc chia tay với Patti ngày 30/9 tại Bắc bộ

phủ, H chia sẻ, ông không thể nào liên kết được những ǵ Mỹ đă tuyên bố tại Teheran,

Quebec và Postdam với thái độ dửng dưng cho phép Anh và Tưởng đưa Pháp trở lại Việt

nam. Tại sao Hiến chương Đại tây dương lại không áp dụng cho Việt nam? H đề xuất

một chương tŕnh cải cách kinh tế xă hội cho khối các nước thuộc địa châu á. Patti bày tỏ

thiện cảm với cuộc đấu tranh của nhân dân VN nhưng cũng nhắc lại quan điểm của Mỹ:

ủng hộ chủ quyền của Pháp nhưng không ủng hộ những tham vọng thực dân của Pháp.

Cuối buổi nói chuyện, H nhắc lại những thời điểm mấu chốt trong đời cách mạng của

ḿnh. Ô phủ nhận ḿnh là cộng sản, là “bù nh́n của Matxcova” theo cách hiểu của Mỹ.

H đă nợ Liên xô bài học tư tưởng và đă trả hết trong 15 năm hoạt động cho Đảng, bây giờ

ông là người tự do. Có phải là Mỹ đă giúp Việt nam trong những tháng gần đây để dành

độc lập? Thế th́ tại sao Việt nam lại mang nợ vớiMatxcova. Khi chia tay, H nhờ Patti

mang theo thông điệp Việt nam luôn biết ơn Mỹ đă giúp đỡ và măi măi coi Mỹ như

người bạn và đồng minh tin cậy, cuộc đấu tranh giành độc lập của Mỹ là tấm gương cho

nhân dân Việt nam noi theo. Vài ngày sau, H c̣n gửi một bức thư cho tổng thống

Truman. Nhưng tất cả đều vô vọng, những hoạt động của Patti, bức thư của người kế

nhiệm Patti về đề nghị của Hà nội để Mỹ trung gian hoà giải, và những bức thư củaH

cho Truman đều bị vứt vào sọt rác.

Đến mùa thu năm 1945, bức tranh về CMT8 trở nên rơ ràng hơn. Tuy lănh thổ vẫn do

quân Tưởng chiếm đóng, Việt minh kiểm soát phía Bắc chủ yếu nhờ sự hồ hởi v́ độc lập

của dân chúng và h́nh ảnh huyền thoại của chủ tịch HCM. Tại miền Nam, quân Pháp đă

khôi phục lại chế độ thuộc địa, Việt minh đang xây dựng những căn cứ địa tại nông thôn.

Đối với HCM, diễn biến trên chính trường quốc tế mới là điều quan trọng. H muốn nhờ

tay nước ngoài để ngăn chặn tham vọng thực dân của Pháp. Kinh nghiệm lâu năm cho H

biết Stalin chẳng quan tâm ǵ đến châu á và không thể ảo tưởng về sự giúp đỡ của LX.

www.langven.com

106

Tuy nhiên cũng khó có khả năng là LX sẽ ủng hộ Pháp. H biết rơ về những tư tưởng

chống thực dân ở Mỹ, tuy nhiên hy vọng Mỹ giúp đỡ thật là mong manh. Nếu liên minh

Xô - Mỹ chuyển thành thế đối đầu, Việt nam sẽ bị kẹt trong thế mâu thuẫn toàn cầu mới.

Tại hội nghị Tân trào,Q đă nhấn mạnh, rất có thể v́ sợ cách mạng thế giới, Mỹ sẽ quay

sang ủng hộ Pháp.

Mặc dù con đường phía trước c̣n đầy chông gai, thực tế là Việt minh đang nắm chính

quyền tại Hà nội. Sau này nhiều nhà sử học của Đảng đă tâng bốc vai tṛ lănh đạo tài t́nh

của Đảng, rằng CMT8 là điển h́nh kết hợp giữa nông thôn và thành thị, là h́nh mẫu cho

các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thứ Ba... Gần đây nhiều nhà nghiên

cứu lại cho rằng CMT8 là một cuộc nổi dậy có tính ngẫu hứng, rất ít có kế hoạch và chỉ

đạo. Một số c̣n gọi đó là cuộc đảo chính. Những nhận xét này cũng có phần đúng, Lenin

đă từng nói thực tế cách mạng phức tạp hơn nhiều so với lư thuyết với cách mạng và bất

cứ cuộc cách mạng nào cũng có yếu tố ngẫu nhiên. Mặc dù có thể Đảng đă dự trù nhiều

thứ ở Tân trào, khi Nhật đầu hàng, cuộc nổi dậy đ__________ă diễn ra có phần bột phát. Nhiều cơ sở

đảng chẳng có liên hệ ǵ với TƯ, cứ tuỳ cơ ứng biến mà làm. Nạn đói khủng khiếp hoành

hành trước đó vài tháng làm nhân dân nổi giận cũng giúp cho cuộc nổi dậy thành công

nhanh chóng. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận CMT8 là một thành công to lớn của Đảng.

Không thể có một cuộc cách mạng nếu không có những người cách mạng. Trong khi các

phần tử dân tộc chủ nghĩa co ro nằm chờ ở Nam Trung hoa th́ Việt minh đă dám chấp

nhận thử thách và đă chớp được cơ hội tại thời điểm cuối của cuộc chiến tranh Thái b́nh

dương, đặt thế giới vào một sự đă rồi “Fait accompli”. Bằng cách sử dụng Việt minh như

một mặt trận rộng răi với chương tŕnh thu hút tất cả các tầng lớp nhân dân, HCM đă mở

rộng đáng kể phạm vi ảnh hưởng của Đảng cộng sản. Không những thế, Việt minh c̣n

giúp H kêu gọi sự công nhận của các nước đồng minh thắng trận như đại diện hợp pháp

cho các quyền lợi dân tộc. H́nh ảnh ôn hoà đó chính là h́nh ảnh của HCM, một “người

đơn giản là yêu nước”, mặc áo kaki và đi dép cao su, đă chiếm trọn trái tim hàng triệu

người Việt nam và những người gần gũi với H như Charles Fenn, Archimedes Patti, Jean

Sainteny, Tướng Leclerc. Không phải tất cả các đồng đội củaH đều ủng hộ ông. Sau này

Trường Chinh đă nói, Đảng đă tắm máu không sạch và để lại quá nhiều kẻ thù tương lai

trong CMT8.

Chiến lược của H không phải là hoàn hảo. Chương tŕnh hành động của Việt minh chỉ là

điểm khởi đầu và sau này, rất có thể Đảng phải lộ bộ mặt thật sẽ dẫn đến sự thất vọng của

dân chúng. Nhưng HCM luôn luôn là một con người thực dụng. Trong cuộc phỏng vấn

với nhà báo Mỹ Harold Isaacs cuối năm 1945, H nói:

Độ

c l

p là m

t s

ki

n. Cái gì

ph

i

đế

n sau

đ

ó s

ẽ đế

n. Nh

ư

ng

độ

c l

p ph

i có tr

ướ

c, không ph

thu

c sau

đ

ó s

là cái

gì”

. Có giữ được độc lập hay không là một chuyện khác “

chúng tôi

đ

ang

đơ

n

độ

c, và

chúng tôi ph

i ph

thu

c vào chính mình”.

H nói với Isaacs, chấp nhận cuộc chơi đầy

khó khăn phía trước.lxxxviii

www.langven.com

107

Tái thi

ế

t và kháng chi

ế

n

T́nh h́nh Hà nội trở nên xấu đi và đặt những gánh nặng to lớn lên H như người lănh đạo

Đảng và chính phủ. Những cái đầu nóng ở ICP đ̣i phải dẹp các nhóm đối lập th́ H lại

kiên tŕ chính sách hoà giải và hoà hợp dân tộc, nhằm chia rẽ và cô lập những kẻ thù của

Đảng. Trong khi đa số người Việt nam quyết liệt phản đối Pháp quay trở lại, thi H lại

đánh tiếng sẽ đón tiếp Pháp như những người bạn.

Mặc dù t́m kiếm hoà b́nh, chính phủ mới cũng tích cực chuẩn bị cho chiến tranh. Lực

lượng dân quân tự vệ được H gọi là “bức tường thép của Tổ quốc” được tổ chức khắp các

làng xă, nhà máy, đường phố, do cơ sở đảng địa phương lănh đạo và tổ chức tập luyện.

Thức ăn và vũ khí th́ tự lo lấy. Tại Hà nội, hàng chục ngàn thanh niên gia nhập tự vệ.

Ngoài ra c̣n có bộ đội địa phương, được lựa chọn ṇng cốt từ hội thanh niên cứu quốc,

do Bộ quốc pḥng trang bị và huấn luyện tại Trường huấn luyện quốc pḥng Hồ Chí

Minh. Quân đội chính quy: Quân giải phóng Việt nam mới đổi tên thành Vệ quốc quân,

được tổ chức thành các tiểu đoàn, du nhập thêm số Dân vệ của chính phủ cũ bị giải ngũ.

Trường kháng Nhật Việt bắc chuyển về Hà nội được đổi thành Học viện chính trị quân

sự, dưới danh nghĩa huấn luyện để có thể hợp tác với quân Tưởng. Nếu kể cả số quân

phía Nam, quân đội lên tới 80,000 người. Tuy nhiên vũ khí th́ hết sức thiếu thốn. Nếu có

th́ cũng từ loại đồ cổ, nhiều khi từ thế kỷ trước ngoại trừ một ít ḿn chống tăng và tiểu

liên thu được của Nhật. C̣n lại đa số là giáo, mác hoặc súng kíp do mấy bác thợ rèn địa

phương tự chế. Để có tiền mua vũ khí từ lực lượng chiếm đóng, HCM miễn cưỡng đồng

ư tổ chức “Tuần lễ vàng” kêu gọi nhân dân đóng góp. Theo Patti, H không tin tưởng lắm

vào sự thành công của phi vụ này v́ sẽ chỉ có người nghèo là tích cực, c̣n hội nhà giàu

sẽ chẳng đóng được bao nhiêu. Thực tế đă diễn ra đúng như vậy, và H “cảm thấy như kẻ

phản bội” khi để “vụ việc” này diễn ra. Chính phủ t́m cách tăng thuế thực phẩm. Khi một

quan chức đề nghị đánh thuế thịt gà, vịt, ḅ, “Công dân” Vĩnh Thuỵ buột miệng “

sao

không thêm c

th

t chó?

”. H là người đầu tiên lăn ra cườilxxxix. Chính phủ c̣n phát động

phong trào thu gom đồng và các loại kim loại khác để đúc vũ khí khắp nơi.

Mặc dù vậy H tin tưởng rằng vũ khí quan trọng nhất sẽ là sự ủng hộ của quần chúng, đi

đâu ông cũng nhắc cán bộ hành xử cho đúng với dân: “

Tr

n m

t nhìn ngàn tráng s

ĩ

, cúi

đầ

u làm ng

a nhi

đồ

ng

”. Ông luôn luôn nhấn mạnh, cuộc đấu tranh sống c̣n của chính

phủ là trên mặt trận ngoại giao và chính trị. Nếu dụ dỗ nhượng bộ quân Tưởng, bọn dân

tộc chủ nghĩa sẽ bị cô lập. Và lúc đó H có thể xây dựng mặt trận thống nhất để chống sự

trở lại của Pháp ở phía Bắc. Sau khi đặc phái viên của Tưởng, tướng He Yingqin đến thị

sát Hà nội và ra lệnh: giảm ảnh hưởng của cộng sản, chính phủ đă tỏ thái độ mềm mỏng.

H ra lệnh thả Ngô Đ́nh Diệm, con của một quan chức triều đ́nh yêu nước, bộ trưởng nội

vụ trong chính phủ Bảo đại trước WWII, nhưng đă từ chức v́ cho rằng Pháp không cho

chính phủ thực quyền. Diệm theo Thiên chúa và chống cộng điên cuồng, đặc biệt là khi

một trong 5 anh em của Diệm là Ngô Đ́nh Khôi bị Việt minh thủ tiêu. Hành động này

củaH đă bị nhiều đồng chí chỉ trích, trong đó có chiến hữu từ thời Paris là Bùi Lâm. Để

lôi kéo cộng đồng thiên chúa, H c̣n dành cho họ một chân trong chính phủ và thỉnh

thoảng đi dự lễ nhà thờ. Ông cũng không ngần ngại đến thăm các đồng bào miền núi,

thắp hương cho Khổng tử ở Văn miếu. Dưới sức ép của tướng Tiêu Văn, từ cuối tháng

mười H bắt đầu đàm phán với Nguyễn Hải Thần, “lănh đạo tối cao” của Đại Việt cùng

các đảng khác như Việt Quốc và Đồng minh Hội. Nhưng các cuộc đàm phán chẳng đi

www.langven.com

108

đến đâu. ĐMH đ̣i giải tán chính phủ, đổi tên Việt minh, thay đổi quốc kỳ. Các đồng chí

của H rất bực tức, một người viết

Tôi là ng

ườ

i tán thành vi

c di

t s

ch b

n Vi

t qu

c tay sai c

a T

ưở

ng. Có hôm tôi b

o:

“Th

ư

a Bác, t

i sao ta l

i

để

cho b

n ám sát và ph

n b

i

đ

ó t

n t

i? Bác c

ra l

nh, b

o

đả

m cháu s

b

n nó tiêu trong m

t

đ

êm”. Bác c

ườ

i và ch

vào phòng, h

i l

i “N

ế

u có con

chu

t ch

y vào phòng này, chú s

dùng

đ

á ném hay

đặ

t b

y ho

c

đ

u

i nó ra?” “Th

ư

a

Bác, n

ế

u ném

đ

á s

v

m

t nh

ư

ng

đồ

quý trong phòng”.xc

Mặc dù không nhượng bộ những yêu cầu của phe đối lập, ngày 11/11, ICP đột ngột tuyên

bố tự giải tán, đổi thành Hội nghiên cứu chủ nghĩa Max ở Đông dương. Rơ ràng Đảng

muốn thể hiện yêu cầu của đất nước cao hơn cuộc đấu tranh giai cấp, và lợi ích của nhân

dân cao hơn lợi ích của Đảng. Dù thế, ngày hôm sau vẫn xảy ra vụ đụng độ lớn giữa Việt

minh và phe dân tộc gần Nhà hát Lớn làm hàng chục người chết. Rơ ràng là ngoài việc

nhằm thống nhất dân chúng, động thái này chủ yếu là hướng đến quân Tưởng và xoa dịu

phe đối lập. Trong Đảng cũng đă có những cuộc tranh luận gay gắt, các đảng cộng sản

khác cũng lúng túng không hiểu. Thực chất th́ đảng không giải tán mà chỉ rút vào hoạt

động bí mật để rồi mấy năm sau lại tái xuất hiện. Ngày 19/11, theo lệnh của Trương Phát

Khuê, Tiêu Văn triệu tập cuộc họp chính phủ và phe đối lập. Hai bên thống nhất thành

lập chính phủ liên hiệp, tập hợp tất cả các tổ chức vũ trang dưới sự lănh đạo của chính

phủ, tổ chức hội nghị quân sự để bàn cách giúp đồng báo phía Nam chống Pháp. Các phe

phái phải ngay lập tức ngừng các hoạt động chống đối nhau. Cuộc đàm phán kéo dài mấy

tuần. Đầu tiên, phe đối lập đ̣i chức Chủ tịch và 6 ghế bộ trưởng. H th́ đề nghị thành lập

Hội đồng Cố vấn chính trị do Thần làm chủ tịch và 3 ghế bộ trưởng. Căng thẳng leo

thang khi Giáp cho tay chân mặc thường phục đuổi các phần tử Việt quốc đang rải truyền

đơn chạy re kèn. Sau vụ này H liền lập tức bị triệu đến trụ sở quân Tưởng nghe chửi. Một

vấn đề nữa là ngày bầu cử. Phe đối lập cho là ngày 23/12 là quá gấp để họ chuẩn bị.

Trương Phát Khuê can thiệp, ngày 19/12 hai bên nhất trí dời ngày tổng tuyển cử 15 ngày.

Không phụ thuộc vào kết quả bầu cử, Việt quốc sẽ có 50 ghế và ĐMH có 20 ghế trong

quốc hội tương lai. HCM sẽ làm chủ tịch, Hải Thần phó chủ tịch, Việt minh, VQ, ĐMH

và Đảng Dân chủ mỗi đảng có 2 ghế bộ trưởng và hai ghế nữa sẽ dành cho các phần tử

không đảng phái. Quyết định này bị phản ứng quyết liệt trong đảng. Một đồng chí đă hỏi

“Hải Thần có phải là cục phân bẩn thỉu?”. H trả lời “

Nh

ư

ng n

ế

u dùng

để

bón lúa

đượ

c thì

t

i sao l

i không dùng?”

Khi một số cho rằng Việt minh và phe đối lập như lửa với nước,

cớ sao lại nhượng bộ 70 ghế, H châm biếm: “

N

ế

u l

y l

a

để đ

un sôi n

ướ

c, thì l

i có th

u

ng

đượ

c

đấ

y”.

Ngày 1/1/1946, chính phủ liên hiệp lâm thời ra mắt tại Nhà hát Lớn. HCM kêu gọi bầu cử

dân chủ và thống nhất các lực lượng vũ trang. Hải Thần cũng phát biểu, nhận một phần

trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc hoà hợp dân tộc và hứa sẽ hợp tác chống Pháp.xci

Ngày 6/1 cuộc tổng tuyển cử đầu tiên được tiến hành trên toàn quốc và các vùng do Việt

minh kiểm soát ở Nam bộ. Việt minh nhận được 97% phiếu và lẽ ra sẽ có 300 ghế quốc

hội, nhưng 70 ghế phải nhường cho phe đối lập. HCM cũng ra ứng cử tại Hà nội và được

98.4% phiếu bầu

Trong một cuộc hội nghị tháng 11, TƯ đă ra nghị quyết hy vọng là Pháp có thể dành độc

lập cho Đông dương để đổi lấy những lợi ích kinh tế. Paris th́ lại nghĩ khác và không

muốn đàm phán ǵ trước khi chủ quyền của Pháp được phục hồi. Cuối tháng 9, De Gaul

điện cho Leclerc “

Vi

c c

a ngài là khôi ph

c l

i s

cai tr

c

a Pháp và tôi r

t l

y làm

ti

ế

c là ngài v

n ch

ư

a làm

đ

i

u

đ

ó”

. Trong khi đó, Leo Pignon và Alessandri lại coi H là

www.langven.com

109

người có bản lĩnh, tin cậy và đáng đàm phán. Cedile cũng điện từ Sài g̣n cho rằng có

nhiều phần tử ôn hoà trong chính phủ và nên đàm phán. Ngày 10/10 Paris điện cho

Alessandri đề nghị thương lượng với Hà nội về các vấn đề trên toàn Đông dương. Hai

ngày trước đó, Jean Sainteny trở lại Việt nam với tư cách đại diện toàn quyền cho Pháp

tại Bắc bộ và Bắc Trung bộ, sau chuyến đi sang Ân độ thăm tướng D’Argenlieu để xin từ

chức v́ bất măn, bị từ chối. Sainteny ở trong toà nhà Ngân hàng Đông dương.

Sainteny gặp H lần đầu tiên vào giữa tháng 10 cùng với một quan chức thực dân cũ là

Pignon. H đi cùng với bộ trưởng văn hoá Hoàng Minh Giám. Mặc dù là người đàm phán

cứng rắn và yêu nước Pháp, Sainteny rất kính trọng H và tự đáy ḷng, ông này cảm thấy

H thân Pháp. Nhiệm vụ của Saiteny là thuyết phục để H đồng ư cho quân Pháp quay trở

lại Bắc bộ, đổi lấy việc Pháp sẽ thương lượng để đuổi Tưởng đi. Tại lúc đó, tướng

Leclerc đang có 8000 quân ở Nam bộ từ Sư đoàn số 2 đă nổi tiếng trong chiến dịch

Normandy. Pháp không dễ dàng tràn vào bằng vũ lực bởi ngoại trừ sự chống đối của Việt

minh, c̣n có hơn 30000 quân Tưởng đang thong thả “giải giáp” quân Nhật. S đă cảnh

báo chính phủ Pháp “tuyệt đối chưa dùng vũ lực, v́ sẽ vấp phải sự chống đối mạnh mẽ”.

Ngay từ đầu, H đă thành thật thú nhận là ông không yêu cầu độc lập ngay lập tức. Ông

đồng ư để Pháp quay lại với một chân trong liên hiệp Pháp nếu Pháp đồng ư độc lập trong

vài năm tới. Nhưng mọi việc không dễ dàng, rắc rối đầu tiên là câu chữ,H đề nghị phải

dùng chữ “Independence” trong văn bản cuối cùng, trong khi đó De Gaul không chịu

chấp nhận. Leclerc, sau khi đi thăm tướng Mountbatten về, định hoà giải bằng cách đề

nghị Paris có một thể chế phù hợp cho Đông dương sau chiến tranh ( ông này dùng chữ

“Autonomie”), liền bị De Gaul chửi mắng thậm tệ “

N

ế

u tôi mà nghe m

y th

nh

m nhí

này thì

đế

qu

c Pháp

đ

ã tiêu vong lâu r

i. Hãy

đọ

c th

t k

câu ch

trong tuyên b

tháng

3 c

a Pháp v

ề Đ

ông d

ươ

ng”.

Vấn đề gây tranh căi thứ hai là quy chế của Nam bộ, H

muốn gộp chung cả vào đàm phán nhưng Saiteny cho rằng dân chúng ở thuộc địa cũ của

Pháp này phải được tự do lựa chọn thể chế cho ḿnh. Cả hai tranh căi liên miên mấy tuần

liền trong căn pḥng mịt mù khói thuốc. Sainteny hút tẩu sang trọng, c̣n H hút đủ thứ

thuốc Tàu, Mỹ và Gaulois Pháp. Thỉnh thoảng H xin nghỉ để hội ư với chính phủ ḿnh,

hoặc xin ư kiến “Cố vấn” Vĩnh Thuỵ. Thái độ của H với Bảo đại làm S và nhiều người

khác ngạc nhiên. H bao giờ cũng tỏ ra rất lễ phép. H c̣n mắng cán bộ của ḿnh đă gọi là

“ông cố vấn” mà không phải là “thưa Ngài”. Có lần H c̣n đề nghị Bảo đại làm người

đứng đầu nhà nước trong tương lai. Như cố ván tối cao, BĐ dự tất cả các cuộc họp chính

phủ và cảm thấy như ở nhà, kể cả trong quan hệ với những kẻ cứng rắn như bộ trưởng

tuyên truyền Trần Huy Liệu, trước đây đa số thời gian là sống ở Nga hoặc trong tù. Thoạt

tiên BĐ có cảm t́nh với H so với mấy tay đối lập bám đít Tưởng. Ông chủ tịch yếu đuối

và mềm dẻo này , thích nói chuyện văn thơ hơn chính trị và có vẻ giống một nhà nho hay

thầy đồ hơn là điệp viên của QTCS hay chủ tịch nước. Dần dần BĐ cũng nhận ra bộ mặt

thật của H và chính phủ. Khi nghe tin Phạm Quỳnh và Ngô Đ́nh Khôi bị bắt, BĐ đă phản

đối và đề nghị thả. H ậm ừ nói rằng nhân dân sẽ không hiểu (hai ông này đều bị thủ tiêu).

Khi xung đột giữa các phe phái tăng cao, BĐ được cử đi Thanh hoá lánh nạn. Trở về, ông

được bầu vào đại biểu quốc hội và thỉnh thoảng theo H đi thăm thú để nhân dân thấy rằng

ông vẫn c̣n sống.

Trong những tuần đầu 1946, dưới vỏ bọc của chính phủ liên hiệp mới, H nối lại các cuộc

thương lượng với S. Cũng quăng thời gian đó, Kenneth Landon, chuyên gia về các vấn đề

châu á của vụ ĐNA Bộ ngoại giao Mỹ đến Hà nội để t́m hiểu t́nh h́nh. S hứa với

Landon rằng chính phủ Pháp sẽ t́m cách hoà giải với Việt nam. Nhưng H lại không lạc

www.langven.com

110

quan khi trao đổi riêng với Landon. H nghi ngờ sự thành thật của chính phủ Pháp và

khẳng định quyết tâm sắt đá của VN giành lại độc lập. H nhờ Landon chuyển bức thư cho

tổng thống Truman kêu gọi Mỹ ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt nam,

trong bối cảnh Mỹ đang chuẩn bị trao trả lại độc lập cho Philippinesxcii. Những nghi ngờ

củaH đối với Pháp xem ra là có cơ sở. Tại Paris, bộ ngoại giao Pháp thông báo cho đại

sứ Mỹ Jefferson Caffery rằng Pháp sẽ “thoáng” trong đàm phán, tuy nhiên vấn đề độc lập

hoàn toàn của Việt nam chưa được xét đến lúc này. Trong báo cáo sau đó cho

Washington, Caffery nhận xét: chính sách về Đông dương của chính phủ Pháp đang bị

một số viên tướng thủ cựu lũng đoạn.

Tuy nhiên t́nh h́nh biến chuyển theo chiều hướng có lợi cho đàm phán. Paris cần một số

tiến bộ tại Hà nội để hỗ trợ cho cuộc đàm phán với Tưởng ở Trùng khánh về việc quân

Pháp sẽ thay thế quân Tưởng ở Bắc bộ. Chính phủ xă hội mới của Felix Guin thay thế De

Gaul cũng tỏ ra mềm mỏng hơn. D’Arengenlieu quay về Pháp để xin ư kiến chính phủ

mới, không quên dặn Leclerc chưa vội nhượng bộ với chữ “Independence”. Ngày 14/2,

Leclerc điện về Paris “

đ

ang có c

ơ

h

i

để

chính ph

Pháp ra tuyên b

ố ủ

ng h

vi

c dùng

ch

ữ Độ

c l

p cho toàn

Đ

ông d

ươ

ng, nh

ư

ng có gi

i h

n, trong khuôn kh

kh

i Liên hi

p

Pháp”

. Đáng tiếc là D’Argenlieu, một người bảo thủ được mệnh danh là “bộ óc thông

minh nhất của thế kỷ 12” đă không chấp nhận ư tưởng này.xciii Trước khi từ chức, De

Gaul cũng cử bộ trưởng Max Andre sang thăm ḍ thái độ của H. Theo Pháp, H sẵn sàng

chấp nhận sự quay lại của Pháp với một số điều kiện.

Mặt khác, H phải đối diện với nhiều sức ép bên trong về việc không được nhượng bộ

Pháp. Báo chí đối lập ra sức đả kích vụ H đàm phán với Pháp, đ̣i giải tán chính phủ “của

bọn phản bội” đang bán đứng quyền lợi dân tộc cho Pháp. H càng khó thoả hiệp trong bối

cảnh Pháp càng ngày càng đẩy mạnh chiến tranh tại phía Nam. Tháng 11/1945, mặc dù bị

VM bao vây, Pháp vẫn chiếm thành phố nghỉ mát Nha trang. Vài tuần sau, quân của

tướng Alessandri vượt biên giới tại Lai châu, bắt đầu chiến dịch đóng cửa biên giới, cắt

đứt liên hệ của VM với Nam Trung hoa. Khoảng giữa tháng 2/46 Pháp cảnh báo VN phải

thoả hiệp nhanh v́ hiệp định Hoa-Pháp sắp được kư. 18/2, S điện về Paris thông báo H đă

nhượng bộ không dùng chữ “Independence” mà chỉ cần Pháp “công nhận những nguyên

tắc tự trị của Việt nam, trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp”. D’A đồng ư trên nguyên tắc.

Ngày 20/2, hăng Reuters công bố những điều khoản của hiệp định Trùng khánh sắp được

kư kết, cho phép quân Pháp vào thay thế quân Tưởng. Paris cũng lệnh cho Leclerc chuẩn

bị đổ bộ ra Hải pḥng. Hà nội rối loạn. Những phần tử đối lập, vốn đang tức việc H đàm

phán với Pháp, kêu gọi tổng băi công và đ̣i H từ chức, lập chính phủ mới do “Công dân”

Vĩnh thuỵ đứng đầu. Hai bên đă đụng độ ở khu vực quanh hồ Hoàn kiếm. Ngày 22/2,H

trả lời phỏng vấn, không b́nh luận về tin đồn về hiệp định Hoa-Việt. Trên thực tế, chính

phủ tích cực chuẩn bị chiến tranh, thành lập thêm các đơn vị dân quân tự vệ, bắt đầu sơ

tán trẻ em và người già khỏi thành phố. Sainteny, đă đồng ư với nguyên tắc tự trị của VN

(nhưng không nhắc đến từ độc lập), lại nêu yêu cầu mới, đ̣i hỏi chính phủ Việt nam phải

có sự tham gia rộng răi của các tầng lớp dân chúng mới có thể đứng ra kư hiệp định. H

cũng chỉ đạo đẩy nhanh kỳ hạn họp quốc hội lần thứ nhất mới được bầu tháng giêng, lập

ra chính phủ liên hiệp. Nhưng Việt quốc được Tưởng ủng hộ, kiên quyết đ̣i đa số trong

chính phủ. Có vẻ như có lúc H đă mất hy vọng. Theo Bảo đại, sáng 23/2, H bất th́nh ĺnh

đến thăm và đề nghị Bảo đại ra nắm quyền.

www.langven.com

111

Th

ư

a ngài, tôi không bi

ế

t làm gì h

ơ

n. Tình hình c

ă

ng th

ng. Tôi hi

u rõ ng

ườ

i Pháp

không mu

n nói chuy

n v

i tôi. Tôi không thuy

ế

t ph

c

đượ

c

đồ

ng minh

ng h

. C

th

ế

gi

i b

o tôi

đỏ

quá. Tôi

đề

ngh

ngài hy sinh m

t l

n n

a và ra n

m chính quy

n”.

BĐ từ chối, nhưng sau khi tham khảo ư kiến các cố vấn đă nhận lời. Nhưng H lại đổi ư.

Chiều đó, H gặp lại BĐ

Th

ư

a ngài, hãy quên nh

ng

đ

i

u tôi nói lúc sáng. Tôi không có quy

n t

b

nh

ng trách

nhi

m c

a mình lúc khó kh

ă

n. Tr

l

i quy

n l

c cho ngài là s

hèn nhát c

a tôi. Xin ngài

hãy tha l

i cho phút y

ế

u m

m và ý

đị

nh chuy

n gánh n

ng trách nhi

m cho ngài. Tôi có

k

ế

ho

ch t

ch

c ch

ng qua vì s

ch

ng

đố

i quy

ế

t li

t c

a phe

đố

i l

p v

i hi

p

đị

nh mà

tôi

đ

ang th

o lu

n v

i Pháp.”

Cái ǵ đă làm H thay đổi ư định? Chỉ biết là ngày hôm sau, thấy các bên thông báo là đă

thoả thuận được thành phần chính phủ liên hiệp. Hai bộ quan trọng nhất là Nội vụ và

Quốc pḥng được trao cho các phần tử trung lập. Việt minh và các đảng khác chia nhau 8

ghế c̣n lại. Theo Vơ Nguyên Giáp, H đă nhờ Tiêu Văn, vốn rất ghét Pháp, thuyết phục

phe đối lập thoả hiệp để có thể thành lập chính phủ chống Pháp.xciv

D’A quay lại Sài g̣n ngày 27/2. Cùng ngày, ông đồng ư bản hiệp định khung do S đề

nghị, công nhận Việt nam là “Nhà nước tự do, có quốc hội, quân đội và tài chính riêng”

nhưng không chấp nhận quyền tự trị của VN trong đối ngoại cũng như sự thống nhất về

chính trị và lănh thổ giữa 3 miền. Tuy nhiên vấn đề thống nhất có thể giải quyết thông

qua trưng cầu ư dân. Cùng ngày tại Trùng khánh, Pháp đồng ư bỏ yêu cầu về các lănh thổ

hải ngoại tại Quảng châu và Thượng hải và sẵn sàng kư hiệp định Hoa Việt. Tất cả đă sẵn

sàng để quân Pháp quay trở lại Bắc bộ. Paris tức tốc điện cho Leclerc: “Hăy giương

buồm lên”

Ngày 2/3, Quốc hội họp phiên đầu tiên tại Nhà hát lớn. Cả toà nhà tràn ngập cờ đỏ sao

vàng. Hơn 300 đại biểu, khách mời và phóng viên tham dự. Trong bộ quần áo kaki nổi

tiếng H bước lên diễn đàn đề nghị quốc hội chấp nhận 70 đại biểu của Việt quốc và ĐMH

đang phải đợi ở pḥng chờ. Sau khi được chấp nhận, H tuyên bố khai mạc quốc hội đại

diện cho toàn thể dân tộc Việt nam và đại diện cho chính phủ liên hiệp lâm thời xin từ

chức. Quốc hội đă nhất trí bầu H làm chủ tịch, Hải Thần làm phó chủ tịch mặc dù ông

này cáo ốm không đến dự. H tuyên bố thành lập Uỷ ban dân tộc kháng chiến đấu tranh

cho độc lập hoàn toàn của dân tộc và Hội đồng cố vấn quốc gia do Bảo đại làm chủ tịch.

Cùng ngày hạm đội Pháp chở đạo quân của tướng Leclerc rời Sài g̣n nhằm hướng Hải

pḥng thẳng tiến.

Ngày 5/3 H triệu tập lănh đạo đảng họp tại Hương canh ngoại ô Hà nội (sau khi TƯ đă

họp ngày 24/2) để đánh giá t́nh h́nh và đề ra chiến lược thích hợp. ư kiến rất khác nhau.

Một số đ̣i đánh ngay lập tức, số khác th́ đề nghị theo Tàu chống Pháp... Đánh giá là lực

lượng vũ trang Việt minh c̣n quá yếu, H khẳng định cần phải hoà hoăn bằng mọi giá. Có

lúc H phải hét lên: “

Các ng

ườ

i quên l

ch s

r

i sao? M

i khi b

n Tàu

đế

n, chúng

l

i

hàng ngàn n

ă

m. Tây thì b

t quá

vài n

ă

m r

i c

ũ

ng s

ph

i cu

n xéo

”. Sau này khi nói

chuyện với nhà sử học Pháp Paul Mus, H dùng từ c̣n kinh hơn: ”

Thà ng

i c. Tây m

t

lúc, còn h

ơ

n

ă

n c. Tàu c

ả đờ

i”xcv

. Cuối cùng quan điểm của H thắng thế. Nghi quyết cuộc

họp nêu rơ: “Vấn đề bây giờ không phải là đánh hay không. Mà là biết ta và biết người,

đánh giá đúng t́nh h́nh để có hành động thích hợp. T́nh h́nh hiện tại phức tạp hơn nhiều

so với lúc xảy ra CMT8. Khi đó, các lực lượng đối lập hoặc không muốn hoặc không thể

ngăn cản. Bây giờ, được Tưởng giúp sức, chúng sẵn sàng manh động chống chính phủ.

Lúc đó, đồng minh đang lộn xộn, chúng ta có thể khai thác những mâu thuẫn. Bây giờ

www.langven.com

112

mâu thuẫn đă tạm thời lắng xuống. Lực lượng tiến bộ do LX lănh đạo th́ ở xa, chẳng

cách nào giúp được cách mạng VN. Bởi vậy “chiến đấu đến cùng” chẳng khác ǵ tự làm

yếu và cô lập ḿnh”. Nghị quyết cũng nêu rơ, hoà hoăn với Pháp sẽ làm cho chính phủ bị

chửi là bán nước, giúp Pháp củng cố lực lượng tấn công miền bắc. Nhưng hoà hoăn với

Pháp sẽ làm Tưởng suy yếu, kéo theo bọn cơ hội dân tộc chủ nghĩa. Hoà hoăn cũng giúp

chính phủ có thời gian chuẩn bị đầy đủ các điều kiện lâu dài cho cuộc đấu tranh giành

độc lập hoàn toàn. Cuối cùng nghị quyết yêu cầu Pháp phải công nhận các quyền tự quyết

và toàn vẹn lănh thổ của nhân dân Việt nam.

Cùng ngày 5/3, hạm đội Pháp của Leclerc tiến vào vịnh Bắc bộ. Bất ngờ Saiteny nhận

được điện từ Sài g̣n thông báo, Tưởng từ chối cho Pháp đổ bộ nếu không có những

nhượng bộ nữa. Uỷ ban kháng chiến quốc gia cũng ra lời kêu gọi chuẩn bị đứng lên bảo

vệ đất nước. Quân Pháp lên bờ chắc chắn sẽ vấp phải sự kháng cự của cả Việt nam lẫn

Tưởng. Leclerc hoảng quá, yêu cầu S phải làm mọi cách để thoả thuận với các bên, kể cả

“hứa những điều mà sau này sẽ vứt đi”. Cuối ngày hôm đó, S gặp H. Cảm nhận được

cuộc đàm phán Hoa – Pháp đang gặp khó khăn, H thừa cơ đ̣i thêm chữ “independence”

và toàn vẹn lănh thổ. S hứa sẽ tổ chức trưng cầu ư dân 3 miền về việc thống nhất nhưng

kiên quyết từ chối dùng từ “Independence”. Cuộc đàm phán chẳng đi đến đâu.

Sáng hôm sau, hạm đội Pháp tiến vào vịnh Hải pḥng. 8h30, tàu đổ bộ Pháp được hạ

xuống cửa sông Cấm. Quân Tưởng trên bờ nổ súng. Sau chừng 15 phút suy nghĩ, quân

Pháp đă bắn trả. Đạn văi như mưa trên đường phố Hải pḥng đến tận 11h. Kết quả, một

số tàu Pháp bị hư hại, một kho đạn của Tưởng bốc cháy dữ dội. Tại Hà nội, t́nh h́nh lại

tiến triển thuận lợi. Sau khi tư vấn với các đồng chí, H quyết định nhượng bộ. Hoàng

Minh Giám được phái đến biệt thự của S thông báo VN đồng ư những điều kiện của

Pháp, thay chữ “indepedence” bằng chữ “Free state”. Khoảng 4h chiều, tại toà biệt thự

trên Lư Thái Tổ đối điện với Bắc bộ phủ, toàn văn bản hiệp định đă được công bố trước

các đại diện Việt nam, Pháp và một số nhà quan sát khác. Hiệp định thừa nhận Việt nam

dân chủ cộng hoà “là một quốc gia tự do, có chính phủ, quốc hội, quân đội và tài chính 

riêng, nằm trong khối Liên hiệp Pháp”. Pháp cũng đồng ư việc tiến hành trưng cầu ư dân 

ở cả ba miền để thống nhất đất nước. Đổi lại Việt nam đồng ư để 15000 quân Pháp vào 

Bắc bộ thay thế quân Tưởng. HCM kư trước rồi đưa cho thứ trưởng quốc pḥng Vũ Hồng 

Khanh (Việt quốc) kư tiếp theo. Sau lễ kư, đáp lại sự hài ḷng ra mặt của S, H phát biểu:

ông

đ

ã th

ng, ông bi

ế

t r

ng tôi mu

n nhi

u h

ơ

n th

ế

. Nh

ư

ng tôi hi

u r

ng không th

m

i th

ngay m

t lúc”

. Sau đó H b́nh thản lại ngay, quay sang nói với Pignon 

và S: “

Tôi

có m

t

đ

i

u an

i,

đ

ó là tình b

n gi

a chúng ta”

. Ban chấp hành TƯ họp sau lễ kư bàn

cách tuyên truyền về hiệp định. Hoàng Quốc Việt được cử đi Sài g̣n, Hoàng Minh Giám

đi Huế, Vơ Nguyên Giáp đi Hải pḥng để giải thích về nội dung bản hiệp định.

Tin về bản hiệp định được loan trên các báo ngay sáng hôm sau và được dân chúng đón

nhận với sự thờ ơ chen lẫn ngạc nhiên và giận dữ. T́nh h́nh ở thủ đô khá căng thẳng.

Các báo đối lập gọi H là Việt gian. Đảng quyết định tổ chức một cuộc mít tinh của quần

chúng trước cửa nhà hát lớn lúc 4h chiều để ủng hộ chính phủ. Phe đối lập đă cài người

vào để gây kích động, một kẻ giấu mặt thậm chí đă ném một quả lựu đạn, may mà quên

rút chốt. Giáp vừa mới quay về từ Hải pḥng, lên diễn đàn giải thích nội dung hiệp định

và kêu gọi mọi người b́nh tĩnh giữ vững trật tự. Giáp so hiệp định này với hiệp định

Brest Litovsk mà Lê nin đă kư với Đức năm 1918, tuy có nhượng bộ một phần lănh thổ

Nga nhưng cuối cùng dẫn đến độc lập hoàn toàn. Tiếp theo một số diễn giả, H xuất hiện

trên ban công:

www.langven.com

113

Đấ

t n

ướ

c chúng ta

đượ

c t

do t

tháng 8/1945. Nh

ư

ng

đế

n gi

, ch

ư

a có m

t c

ườ

ng qu

c

nào công nh

n

đ

i

u

đ

ó. B

n hi

p

đị

nh này m

ở đườ

ng cho vi

c công nh

n qu

c t

ế

và nâng

cao v

th

ế

c

a Vi

t nam trên th

ế

gi

i. Chúng ta

đ

ã tr

thành m

t dân t

c t

do. Quân

Pháp s

rút kh

i Vi

t nam.

Đồ

ng bào c

n ph

i bình t

ĩ

nh, gi

gìn k

lu

t, c

ng c

kh

i

đ

oàn k

ế

t dân t

c. Tôi, HCM,

đ

ã cùng v

i các

đồ

ng chí c

a mình chi

ế

n

đấ

u su

t

đờ

i vì

độ

c l

p c

a T

qu

c. Tôi thà ch

ế

t ch

không th

ph

n b

i

đấ

t n

ướ

c c

a mình.

Sự chân thành và xúc động trong phát biểu củaH đă gây ấn tượng. Buổi miting kết thúc

trong tiếng hô vang dậy “HCM muôn năm”. Nhưng các lănh đạo đảng th́ thực tế hơn.

Hai ngày sau, ủy ban thường vụ ra nghị quyết với tên gọi “Hoà để tiến”, nêu rơ “Tổ quốc

đang lâm nguy, thoả thuận với Pháp cho chúng ta thêm thời gian bảo toàn lực lượng,

củng cố vị trí để có thể nhanh chóng tiến tới độc lập hoàn toàn”. Giáp quay lại Hải pḥng

để đàm phán với L về các điều khoản quân sự quy định trong hiệp định tạm thời. Nguyễn

Lương Bằng được cử lên Thái nguyên để chuẩn bị căn cứ kháng chiến, Hoàng Văn Hoan

được cử đi Thanh hoá cũng với mục đích đó. H gửi thư cho đồng bào Nam bộ thông báo

về việc ngừng bắn, nhưng kêu gọi giữ vững kỷ luật và chuẩn bị. Tại Paris, bản hiệp định

được chào đón tích cực. Bộ trưởng thuộc địa Marius Moutet tŕnh lên chính phủ và được

phê duyệt về nguyên tắc. Thủ tướng Pháp Bidault c̣n gọi đây là mô h́nh để giải quyết

t́nh h́nh ở các nước thuộc địa khác. Trong nước, các phần tử đối lập vẫn đ̣i chính phủ

t́m kiếm sự ủng hộ của Tưởng hoặc Mỹ. Cố vấn Vĩnh Thuỵ xin và được phép đi Trùng

khánh để trực tiếp kêu gọi Tưởng Giới Thạch giúp đỡ.xcvi

Ngày 18/3, 1200 quân Pháp trên 200 xe quân sự, chủ yếu là của Mỹ, tiến qua cầu Paul

Doumer vào nội thành Hà nội trong sự hân hoan của kiều dân Pháp. Quân Tưởng đă rút

khỏi thành phố trước đó mấy ngày. Dân Việt nam nh́n thấy đội quân được trang bị tối tân

của Pháp đều choáng: “

Chúng ta thua m

t r

i, h

m

nh quá”

. Trong khi Leclerc thừa

biết rằng 1 sư đoàn khó có thể b́nh định được giải đất này. Chiều đó, Leclerc, Sainteny,

Pignon cùng một số sĩ quan khác đến Bắc bộ phủ để chào H và các thành viên chính phủ.

Mặc dù H và L nâng cốc chúc mừng t́nh hữu nghị Việt Pháp, không khí trong pḥng

họp cũng nặng chẳng kém ǵ ngoài phố. Tối đó, H mở tiệc chiêu đăi. Một trong những

khách mời danh dự là thiếu tá FrankWhite, đại diện mới của OSS. White được xếp ngồi

ngay cạnh H làm cho nhiều sĩ quan có cấp cao hơn cùng dự buổi tiệc đó cảm thấy khó

chịu. Bản thân White cũng lúng túng. Nhưng H nói: “nếu không nói chuyện với anh th́

tôi nói chuyện với ai”. Theo White, không khí rất khách sáo. Bên Pháp th́ chẳng có ǵ mà

nói, quân Tàu do Lư Hán đứng đầu th́ “say khướt”. Tuy nhiên H cũng bi quan về sự quan

tâm của Mỹ tới Đông dương. Sự thực là Truman cũng chẳng buồn động đến lá thư do H

gửi kêu gọi Mỹ ủng hộ Việt nam độc lập theo các điều khoản của hiến chương LHQ. Khi

nghe tin về hiệp định Việt Pháp, ngoại trưởng Mỹ James Byrnes nói “thế là Pháp đă hoàn

thành việc thâu tóm Đông dương”. Sau khi Churchil đọc bài diễn văn nổi tiếng về “bức

màn sắt” tại Fulton, Missouri, quan tâm hàng đầu của Mỹ là chủ nghĩa cộng sản thế giới,

chứ không phải việc công nhận Việt nam là “quốc gia tự do” trong khối liên hiệp Pháp.

Ngày 22/3, một cuộc diễu binh chung được tổ chức gần khu thành cổ Hà nội để hâm

nóng “t́nh hữu nghị Việt Pháp”. Xe của Pháp toàn do Mỹ sản xuất, máy bay Spitfire th́

của Anh. Đám đông th́ bên nào vỗ tay quân bên đấy. Ngày hôm sau Leclerc rời Hà nội,

bàn giao lại cho tướng Valluy. Tuy không có những giao tranh lớn, đă xảy ra đụng độ khi

quân Pháp chiếm một số công sở và chỉ chịu rút sau khi nhân dân tổng băi công.

Khi trao đổi với S, thống sứ Pháp là D’Argenlier ngỏ lời muốn gặp H trực tiếp. H nhận

lời ngay v́ thấy đây là cơ hội để có thể đàm phán chính thức tiến tới phê duyệt hiệp định

www.langven.com

114

sơ bộ càng nhanh càng tốt. Ngày 24/3,H đội một chiếc mũ rộng vành, cùng với Giám và

bộ trưởng ngoại giao mới Nguyễn Tường Tam, lên chiếc thuỷ phi cơ Catalina, bay đến

Hạ long gặp D’A trên chiến hạm Emile Bertin. Sau khi xem những chiến hạm của D’A

biểu dương lực lượng, hai bên trao đổi trong cabin của đô đốc. H muốn phê chuẩn hiệp

định ngay lập tức. D’A ngược lại, muốn các đại diện khác của Pháp làm quen với những

điều khoản căn bản của hiệp định trước. D’A đề nghị tổ chức một cuộc họp trù bị dự kiến

ở Đà lạt và sau đó sẽ đàm phán tiếp tục ở đó. H đồng ư họp trù bị, nhưng sợ D’A sẽ kiểm

soát t́nh h́nh ở Đà lạt, nên đề nghị chuyển địa điểm đàm phán sang Pháp, hy vọng có thể

dùng uy tín cũ ảnh hưởng đến ư kiến của công chúng Pháp vốn đang rất dao động từ sau

chiến tranh. S and Leclerc lại vào hùa với H, cho rằng như thế H sẽ đỡ bị sức ép của phe

đối lập và quân Tưởng. Cuối cùng D’A cũng đồng ư. Cuộc gặp gỡ này là một bài tập hữu

ích cho H. Nó giúp ông được đối diện với một tay thực dân lơi đời như D’A và đă đứng

vững trong cuộc nói chuyện. Trên đường về, H chia sẻ với đệ tử của D’A là tướng Salan:

“N

ế

u

đ

ô

đố

c ngh

ĩ

r

ng h

m

độ

i c

a ông ta làm tôi s

thì ông

y l

m to. Nh

ng chi

ế

n

h

m to

đ

ùng

đấ

y làm sao b

ơ

i ng

ượ

c vào các c

a sông c

a chúng tôi

đượ

c.”

Hội nghị trù bị được tổ chức tại Đà lạt vào giữa tháng 4/1946. Đoàn Việt nam gồm có

Giáp và Tam đă không thuyết phục được D’A thảo luận về t́nh h́nh Nam bộ lúc đó đang

có giao tranh dữ dội mặc dù đă có lệnh ngừng bắn. Mâu thuẫn cũng phát sinh khi bàn về

vị trí tương lai của VN trong khối LH Pháp. Đoàn VN cho rằng VN sẽ là một quốc gia có

chủ quyền trong Liên hiệp. Pháp th́ cho rằng LHP là một nhà nước liên bang, mỗi quốc

gia tự do cần phải nhượng bộ phần lớn chủ quyền cho cơ chế liên bang và thống sứ do

Paris bổ nhiệm. Giáp quay về Hà nội rất thất vọng. H an ủi, hai bên dù sao đă hiểu nhau

hơn, các vấn đề khác biệt không phải là quá đối kháng và có thể thoả hiệp trong cuộc

đàm phán sắp tới tại Pháp. Năm ngày sau, D’A bay ra Hà nội định thuyết phục H hoăn

chuyến đi với lư do cuộc vận động tranh cử ở Pháp đang đến hồi cao trào. D’A c̣n doạ

h́nh như sắp tới sẽ thành lập Nhà nước Nam bộ tự trị, hoàn toàn đi ngược lại với những

ǵ đă quy định trong hiệp định tạm thời giữa H và Sainteny. H quyết định không nhượng

bộ. Ngày 30/5/1946, hơn 50,000 dân đă đội mưa đến khuôn viên Đại học Đông dương để

tiễn phái đoàn chính phủ đi Pháp đàm phán hoà b́nh. Phái đoàn do Phạm Văn Đồng dẫn

đầu. H không có trong thành phần đàm phán chính thức mà tham gia với tư cách “Khách

mời danh dự” của chính phủ Pháp. Cùng đi có Salan. H thề trước đám đông sẽ phục vụ

quyền lợi Tổ quốc và nhân dân Việt nam, kêu gọi nhân dân tuân thủ các yêu cầu của

chính quyền khi H vắng mặt và tôn trọng người ngoại quốc. Sáng hôm sau, cả đoàn khởi

hành từ Bắc bộ phủ, sang sân bay Gia lâm và cất cánh trên 2 chiếc Dakota. Tất cả đều

mặc âu phục trừ H vẫn chiếc áo khoác kaki và đi giày đen.xcvii

Paris chỉ thị cho phi công bay ḷng ṿng, bảo đảm phái đoàn chỉ đến Pháp khi kết quả

bầu cử đă ngă ngũ. Chặng nghỉ đầu tiên là ở Calcuta (sau khi stop tại Miến điện). Ra đón

đoàn có Lănh sự Pháp và đại diện chính quyền Anh. Cả hội được bố trí ở khách sạn Great

Eastern hai ngày đi ngắm cảnh. Ngày thứ 4 đi Agra thăm Taj Mahal, sau đó đi Karachi,

Iraq, đến Cairo ngày thứ bảy và ở lại đó 3 ngày. Trước khi rời Ai cập, H nhận được tin

D’A đă lập nhà nước Nam bộ tự trị và được chính phủ Pháp công nhận. H yêu cầu Salan

hành động để đừng biến Nam bộ thành “Alsace-Lorraine mới” có thể dẫn đến cuộc chiến

tranh Trăm năm.xcviii Cuộc bầu cử ở Pháp ngày 2/6 đă đánh đổ chính phủ xă hội của thủ

tướng Guin. Trong khi chính phủ mới đang được thành lập, không rơ ai sẽ đứng ra tiếp

đón chính thức phái đoàn. Paris đành phải lái chuyến bay đến băi biển Biarritz trên vịnh

Biscay. Các quan chức địa phương đă ra đón và đưaH đến khách sạn Carlton ngay bờ

www.langven.com

115

biển, c̣n các thành viên khác được mời đến chỗ ít sang trọng hơn.xcix Sau đó các thành

viên khác được đưa đến Paris, c̣n thủ tướng bảo thủ mới bầu Georges Bidault phái

Sainteny đến hầu chuyện H mấy ngày ở Biarritz cho đến khí chính phủ mới được thành

lập xong. H rất lo lắng về diễn biến t́nh h́nh Paris và đặc biệt ở là Đông dương. Có vẻ

như D’A đang làm mọi cách để phá hoại hiệp định sơ bộ giữa H và Sainteny. S ra sức

trấn an H là quốc hội Pháp sẽ không công nhận Nam bộ nếu không có kết quả trưng cầu ư

dân. Saiteny cố gắng làm cho H khuây khoả. Thỉnh thoảng hai người đến thăm biệt thự

của em gái S tại Hendaye, ở đó H chơi đùa hàng giờ với cháu gái của S trên băi biển.H

c̣n đi xem đấu ḅ ở biên giới Tây ban nha, thăm tu viện Lourdes. Khi ăn trưa tại làng

đánh cá nhỏ Biristou,H đă để lại ḍng lưu niệm: “Đại dương và biển cả không thể chia

cắt những người anh em gắn bó với nhau”. Có hôm, họ dành cả ngày đi đánh cá trên biển

ở St-Jean de Luz. H có vẻ khoái, tự câu được mấy con cá ngừ và tán phét với thuyền

trưởng. Khi bàn đến phong trào ly khai xứ Basque ở trong vùng, H nhấn mạnh: “Riêng

khoản này tôi có kinh nghiệm hơn anh, tôi e rằng người anh em Basque nên nghĩ rất kỹ

trước khi hành động”. Vào những năm sau này, thỉnh thoảng H có nhắc lại đây là một

trong những ngày hạnh phúc nhất của đời ông.c H c̣n dành một số thời gian cho việc nhà

nước. Ông vào vai “Bác Hồ” tiếp các đại diện Việt kiều, công đoàn và phóng viên báo

Nhân đạo. H quan tâm đến mọi thứ, mọi người, cư xử hết sức giản dị và nhũn nhặn.

Nhưng cũng có lúc H tỏ ra cứng rắn. Khi được một đảng viên xă hội Pháp thông báo là

Việt minh đă ám sát phần tử Troskit Tạ Thu Thâu tại Sài g̣n, H đă khóc “người yêu

nước vĩ đại” nhưng sau đó nói thêm “Tất cả những người đi sai đường đều sẽ bị loại bỏ”.

Ngày 22/6 H và S bay đến Paris qua vùng đồng bằng sông Loa tuyệt đẹp. S kể lại, khi

máy bay chuẩn bị hạ cánh “H tái mặt, mắt chớp liên tục, thậm chí cổ họng nghẹn lại,

không nói được nên lời”. Khi máy bay chạy chậm trên đường băng, H cầm tay S: “Hăy ở

gần tôi. Đông người quá”

Sân bay Bourger quả thật hôm đó rất đông. Cờ Việt nam và cờ Pháp tung bay trong gió.

Đón H tận sân bay là Maurius Moutet, bộ trưởng hải ngoại, cũng là bạn cũ của H thời sau

Thế chiến I. Sau vài nghi lễ ngoại giao, H được bố trí đưa về căn pḥng suit, khách sạn

Royal Monceau phố Hoche. H́nh ảnh lănh tụ du kích loay hoay xoay xở với những đồ

vật sang trọng của căn pḥng khắc đậm trong trí nhớ của Saiteny. S c̣n nghi ngờ là thể

nào H cũng ngủ trên thảm sàn chứ không phải trên giường. Chính phủ Bidault đến tận

ngày 26 mới chính thức nhậm chức, bởi thế đàm phán chỉ có thể bắt đầu vào tháng 7.H

loanh quanh thăm thú những chỗ trước đây, ra rừng Boulogne rồi đến ngơ Compoint.H

c̣n đề nghị S đưa đến băi biển Normandy nơi đồng minh đổ bộ. H ngủ tại biệt thự của S

ở gần đó và dậy rất sớm để tán gẫu và hỏi kinh nghiệm chăn nuôi của các nông dân Pháp.

H c̣n phải tiếp đón vô số khách khứa, dưới sự chỉ đạo của vụ trưởng lễ tân Jacques

Dumaine. Nhưng nói chung là H làm đơn giản, mời tất cả những người muốn phỏng vấn

đến ăn sáng với ông từ 6h sáng và ăn mặc b́nh thường. Kể cả tại tiệc chiêu đăi tân thủ

tưởng Bidault tối 4/7, H cũng chỉ cài kín cổ chiếc áo kaki của ḿnh cho trang trọng, tuy

nhiên vẫn diện đôi dép cao su. Trong một bữa tiệc do S tổ chức tại nhà riêng, H đă gặp lại

Albert Sarraut. Ông này kêu lên: “Cuối cùng th́ tôi cũng tóm được ngài, tôi đă phải tốn

gần cả đời để theo đuổi ngài” rồi ôm chầm lấy rất thân thiết. Saraut chỉ quan tâm không

biết trường A. Saraut ở Hà nội có c̣n không? H cũng xin gặp De Gaule nhưng không

được v́ Charle “Lớn” không thích can thiệp vào công việc của chính phủ sau khi ra nghỉ

hưu ở Colombey. Lạ nhất là Leclerc lại t́m cách tránh H mặc dù cả hai có vẻ rất thân

nhau ở Đông dương. S cho rằng các hoạt động của L tại Đông dương bị các giới chức

www.langven.com

116

quân sự Pháp phê phán như điên nên ông này tránh đổ thêm dầu vào lửa. Cũng có thể là

L cho rằngH đă lừa ḿnh khi khăng khăng khẳng định là chính phủ VN không chuẩn bị

chiến tranh.

11h sáng 2/7, 14 ôtô cùng với Dumaine đón H đến khách sạn Matignon dự lễ tiếp đón

chính thức của Bidault. Trong bài phát biểu khai mạc, Bidault xin lỗi về sự chậm trễ tiến

hành đàm phán hoà b́nh và nhắc đến t́nh hữu nghị lâu đời giữa hai dân tộc. Ông này

miêu tả Khối Liên hiệp Pháp mới sẽ thấm đẫm tính nhân đạo và hy vọng hai bên sẽ đàm

phán chân thành và trên tinh thần hiểu biết lẫn nhau. Đáp lời, H nhắc lại Paris là cái nôi

của những lư tưởng cao cả của cách mạng Pháp năm 1789. H dự đoán đàm phán sẽ khó

khăn nhưng sẽ thành công nếu cả hai bên đều “không làm với người khác những điều mà

không muốn người khác làm với ḿnh”ci. Ngày hôm sau,H đi bộ trên đại lộ Champ-

Elysees, đặt hoa tại mộ chiến sĩ vô danh cạnh Khái hoàn môn, kéo theo một đám đông

người ṭ ṃ. H nói đùa “Họ muốn xem Charlie Chaplin của châu á như thế nào.” H cũng

đến điện Versailles nơi ông đă trao “Bản kiến nghị” cho lănh đạo các nước đồng minh

thắng trận sau Thế chiến I, thăm mộ Napoleon tại điện Les Invalides và thăm tượng đài

kỷ niệm các chiến sĩ du kích bị Đức hành h́nh trên núi Valerian ở Monmartre.

Cuộc đàm phán chính thức bắt đầu từ ngày 6/7 tại cung Fontainebleau cổ kính. Đoàn

Pháp do Max André (đă được De Gault cử sang Đông dương hồi tháng Giêng) lănh đạo.

D’A đă đề nghị bay về Paris làm trưởng đoàn nhưng Bidault từ chối v́ sợ phản ứng của

Việt nam và công chúng Pháp. Thành phần chính trị tương đối hỗn hợp gồm cả đảng viên

FCP, đảng Xă hội và đảng Nhân dân cộng hoà (MRP) của Bidault. T́nh h́nh Việt nam

trước đàm phán xấu đi nhanh chóng. Ngày 1/6, chính quyền Nam bộ do Nguyễn Văn

Thịnh lănh đạo đă nhậm chức ở Sài g̣n. Tại Hà nội, quân Pháp chiếm toà nhà Thống sứ,

biểu tượng quyền lực ở Đông dương. Chỉ sau khi bị phía Việt nam phản đối kịch liệt,

Valluy mới chịu rút ra và tổ chức canh gác chung cùng với quân đội Việt nam đợi kết quả

đàm phán ở Paris. Phạm Văn Đồng đă đả kích những hành động này của Pháp ngay trong

phiên khai mạc. Hai bên cũng thống nhất được nội dung gồm 3 phần: vị trí Việt nam

trong Liên hiệp Pháp, quan hệ với các nước thứ ba và thống nhất 3 miền. Tuy nhiên các

bên vẫn giữ nguyên ư kiến như tại Hội nghị tháng Tư ở Đà lạt. Người Pháp đặc biệt khó

chịu khi nói đến chuyện Nam bộ, đ̣i rút tất cả các quân của miền Bắc trước khi có ngừng

bắn, họ cũng đưa ra một định nghĩa rất hẹp cho khái niệm “quốc gia tự do”. Một số c̣n

tỏ thái độ coi thường bằng cách thường xuyên vắng mặt tại các cuộc họp. Đoàn VN hy

vọng sự ủng hộ từ FCP và may ra thi từ đảng Xă hội. Báo chí hai đảng này đều có thái độ

ủng hộ HCM rơ rệt. Trước đó đoàn đại biểu quốc hội cũng đă đến Pháp và nối lại quan hệ

với FCP. Tuy vậy, mặc dù nhiều đảng viên FCP có thiện chí với ước vọng của VN, lănh

đạo đảng tỏ ra nghi ngờ trước động thái giải tán ICP hồi tháng 11 năm ngoái. FCP cũng

đang bị cuốn vào làn sóng khôi phục tinh thần dân tộc chủ nghĩa sau chiến tranh tại Pháp.

S đă biết thái độ của FCP khi ông tŕnh bản hiệp định sơ bộ lên Maurice Thorez, một thợ

mỏ được đôn lên phó thủ tướng. Thorez duyệt bản hiệp định và nói thêm: “Nếu Việt nam

không tuân thủ những điều khoản này, hăy để ṇng súng nói chuyện hộ chúng ta”cii.H

không tham gia vào cuộc đàm phán chính thức mà lợi dụng tất cả các cơ hội bằng uy tín

và sự cuốn hút của ḿnh để t́m kiếm sự ủng hộ cho sự nghiệp của Việt nam. Có người

gọi những hoạt động này là “Chiến dịch làm duyên” của H. H gặp đại diện tất cả các

đảng phái chính trị, nói chuyện với tất cả các nhà báo và trí thức nổi tiếng. H c̣n đề nghị

ông bạn cũ là Thorez giúp ảnh hưởng đến chính phủ Pháp. Không rơ Thorez trả lời thế

nào.

www.langven.com

117

Do không có thông tin từ các cuộc hội đàm, xem ra công chúng th́ ủng hộ Việt nam c̣n

phe bảo thủ chống lại. Không khí khá nóng trong xă hội Pháp. Ngày 12/7 HCM tổ chức

cuộc họp báo để tŕnh bày quan điểm của chính phủ ḿnh. H nhấn mạnh, VN t́m kiếm

độc lập dân tộc và không tán thành phương án liên bang. Tuy nhiên VN sẵn sàng chấp

nhận độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp. H tuyên bố các tỉnh Nam bộ là một phần

không thể tách rời của Việt nam và không thể đàm phán riêng rẽ. H hứa sẽ bảo vệ tất cả

các tài sản và quyền lợi kinh tế của Pháp ở Đông dương, bảo đảm quyền ưu tiên cho Pháp

khi Việt nam cần sự trợ giúp của nước ngoài. Khi một phóng viên Mỹ hỏi, có phải H là

cộng sản? H thừa nhận là học tṛ của Marx, tuy nhiên cho rằng chủ nghĩa cộng sản đ̣i

hỏi một nền công nghiệp phát triển do đó không có điều kiện xây dựng ở VN. Ai mà biết

được bao giờ giấc mơ thế giới đại đồng của Marx được thực hiệ__________n. 2000 năm trước Jesus

cũng đă dạy ta phải yêu kẻ thù của ḿnh, bây giờ có thấy ở đâu đâu?ciii

Tại Sài g̣n, D’A bắt đầu các hành động nhằm gây ảnh hưởng đến cuộc đàm phán. Ngày

23/7, có tin đồn là D’A dự kiến sẽ tổ chức hội nghị tại Đà lạt ngày 1/8 để thành lập liên

bang Đông dương gồm Nam bộ, Nam Trung bộ, Tây nguyên, Lao, Cambodia. Phạm Văn

Đồng lập tức bỏ cuộc họp, phía Pháp phải hứa tŕnh chính phủ xem xét. Việt minh cũng

tiến hành một loạt các cuộc tấn công vào các quyền lợi của Pháp. Ngày 26/7, H đến

Fontenebleau và thuyết phục được 2 bên ngồi lại bàn đàm phán. Nhưng không được bao

lâu. Ngày 1/8, D’A vẫn tiến hành hội nghị Đà lạt, đoàn VN sau khi chính thức phản đối,

không được chính phủ Pháp trả lời, đă rời bàn họp. H lại phải nhờ đến ông bạn cũ Moutet

để t́m ra công thức nối lại đàm phán. Moutet cho rằng đàm phán với H vẫn là tốt hơn cả,

trên tinh thần hiệp định sơ bộ 6/3. Tuy nhiên hai bên phải giảm volume chửi bới, tuyên

truyền và khiêu khích. Moutet dự đoán là VM sẽ thắng trong bất cứ cuộc bầu cử tại Nam

bộ nếu pháp luật ở đó không được khôi phục. Cuối tháng 8, các cuộc đàm phán được nối

lại. Tuy nhiên phía Pháp kiên quyết không chịu chấp nhận độc lập của VN cũng như định

chính xác ngày trưng cầu ư dân tại Nam bộ, ngày 10/9 đoàn Việt nam bỏ bàn họp. Ba

ngày sau, họ lên tàu về nước để HCM ở lại một ḿnh.

Khi đàm phán rơi vào bế tắc, S đă đề nghị H về nước để dẹp những tư tưởng chống Pháp

ở trong nước, nhưng H không thể ra về “tay trắng” và quyết định ở lại. Chính phủ Pháp

gây sức ép bằng cách không trả tiền tại Roayl Monceau. H chuyển đến nhà người quen là

Raymond Aubrac tại Soysy-sous-Montmorency và tiếp tục tiếp khách, trả lời phỏng vấn.

H kêu gọi Moutet “đừng để tôi rời Pháp trong t́nh trạng này, hăy trang bị cho tôi chống

lại những kẻ muốn diệt tôi, ông sẽ không phải tiếc”. Ngày 11/9, H tổ chức họp báo nhấn

mạnh VN muốn t́m kiếm thoả thuận. H cho rằng những mâu thuẫn hiện tại cũng như

mâu thuẫn trong gia đ́nh, dự đoán có thể kư hiệp định trong 6 tháng và hứa sẽ ổn định

t́nh h́nh tại Đông dương. Cùng ngày H gặp đại sứ Mỹ Jefferson Caffery tại đại sứ quán.

Caffery trong báo cáo về Washington đă nhận định rằng H rất có tư cách và đúng mực

trong nói chuyện, dự định lôi kéo Mỹ vào đàm phán để gây sức ép với Pháp. Ngày hôm

sau, H gặp George Abott, bí thư thứ nhất sứ quán Mỹ sau này là tổng lănh sự Mỹ tại Sài

g̣n. H nhắc lại chuyện hợp tác với Mỹ trong chiến tranh, bày tỏ sự ngưỡng mộ với

Rousevelt, kêu gọi Mỹ giúp đỡ kinh tế cho Việt nam v́ Pháp quá nghèo không thể làm ǵ

được. Cuối buổi, H nhắc khéo về chuyện Mỹ có thể sử dụng Cam Ranh làm căn cứ hải

quân cho ḿnh.

Một số chuyên gia châu á của Bộ ngoại giao Mỹ cũng tỏ ra lo ngại. Abott Low Moffat

của vụ ĐNA trong một bức thư gửi thứ trưởng phụ trách các công việc Viễn đông John

Carter Vincent đă cảnh báo: “t́nh h́nh đă trở nên nghiêm trọng” ở Đông dương do Pháp

www.langven.com

118

vi phạm hiệp định 6/3. Người Việt rất phẫn nộ về các hành động của Pháp dẫn đến Pháp

sẽ sử dụng vũ lực để tái chiếm Đông dương.Moffat khuyến cáo bộ ngoại giao nên “bày

tỏ Mỹ hy vọng Pháp sẽ tuân thủ các điều khoản của hiệp định 6/3, ổn định trật tự và bảo

đảm quyền lợi của các dân tộc phụ thuộc”. Tất nhiên chính phủ Truman chẳng dại ǵ mà

dây với Pháp vào thời điểm chính trị nhạy cảm này của nước Pháp. Thêm nữa, có tin tin

báo chính phủ Hà nội chẳng qua là công cụ của Kremlin để mở rộng ảnh hưởng sang

châu á. Tháng 8, tổng lănh sự Charles Reed nhận được điện phải t́m hiểu tương quan

giữa cộng sản và không cộng sản trong chính phủ, cũng như đường lối của H và các đồng

chí. Reed đă thông báo cho Washington rằng người VN đều tin là Mỹ ủng hộ Pháp, bằng

chứng là lính Pháp cưỡi xe Jeep chạy trên đường, khí tài quân sự mà Pháp sử dụng được

lấy từ kho quân dụng của Mỹ ở Manila nên vẫn c̣n nguyên phù hiệu của quân đội Mỹ.

Bộ ngoại giao đă báo cho Nhà trắng về t́nh h́nh này, nhưng Truman quyết định không

can thiệp.

Quyết định của H ở lại Paris sau khi cả đoàn đàm phán đă về nước đă gây nên tranh luận

lớn. Một số nhà quan sát Pháp cho rằng H muốn ăn vạ chính phủ Pháp những điều mà H

không thoả thuận được trên bàn đàm phán. Một số cho rằng lời kêu gọi tới Moutet là

không chân thành v́ cuối cùngH đă ra lệnh cho chính phủ tiến hành chiến tranh chống

Pháp, mà nếu có chân thành th́ đă chắc ǵ H bảo được đám đàn em cũng như kiểm soát

được t́nh h́nh lộn xộn ở Đông dương. Đúng thế, ở Việt nam, và thậm chí ngay trong giới

Việt kiều ở Pháp, tinh thần chống Pháp đang lên cao và H chịu sức ép to lớn trước bất kỳ

thoả hiệp nào. Saiteny th́ tin rằng H chân thành, bằng chứng là H đă bỏ nhiều công sức

để xoa dịu ḷng căm thù Pháp trong dân chúng. Bidault th́ cho rằng H chỉ diễn “t́nh hữu

nghị” c̣n trên thực tế đă chỉ đạo Hà nội chuẩn bị chiến tranh.civ

Bidault không phải là không có lư, Trong một cuộc phỏng vấn H ngày 11/9, phóng viên

Newyork Times David Schoenbrun đă hỏi thẳng: “Liệu ông có nghĩ chiến tranh là không

thể tránh khỏi?”. H đă trả lời “Chắc chắn chúng tôi sẽ phải chiến đấu. Người Pháp kư

hiệp định và vẫy cờ chào đón tôi. Nhưng tất cả chỉ là để che mắt”. Khi David cho rằng

bắt đầu cuộc chiến tranh mà thiếu quân đội và vũ khí th́ thật là vô vọng,H đă phản đối:

Không, không vô v

ng.

Đ

ó s

là m

t cu

c chi

ế

n gay go và quy

ế

t li

t nh

ư

ng chúng tôi s

th

ng. Chúng tôi có m

t v

ũ

khí m

nh ch

ng kém nh

ng c

ỗ đạ

i bác:

đ

ó là tinh th

n dân

t

c!

Đừ

ng có

đ

ánh giá th

p

đ

i

u

đ

ó. Ng

ườ

i M

ch

c h

n ph

i nh

là m

t

đ

ám nông dân

chân

đấ

t M

ỹ đ

ã

đ

ánh th

ng quân

độ

i hoàng gia Anh nh

ư

th

ế

nào

David cho rằng đó là chuyện xưa rồi. C̣n bây giờ vũ khí đă phát triển đến mức quyết

định. H nhấn mạnh, vũ khí lúc nào có thể mua được, và tinh thần anh dũng của con người

mới là quyết định, như các du kích Nam tư đă đánh thắng phát xít Đức. “

Hàng tri

u cây

t

m vông s

m

c lên sau l

ư

ng quân thù”

và đây sẽ là cuộc chiến

Gi

a h

và voi. N

ế

u h

ổ đứ

ng yên, ch

c ch

n voi s

d

m b

p. Nh

ư

ng h

n

p trong r

ng

và s

xu

t hi

n ban

đ

êm, c

n m

t mi

ế

ng r

i l

i bi

ế

n m

t vào r

ng sâu. D

n d

n voi s

ch

y h

ế

t máu mà ch

ế

t.

Đ

ó s

là cu

c chi

ế

n tranh

Đ

ông d

ươ

ng

Do vẫn có hy vọng là FCP sẽ lên nắm quyền ở Pháp, Thorez đă thuyết phục H hoăn tiến

hành các hoạt động quân sự để t́m biện pháp ngoại giao. Ngày 14/9 ngay trước khi đi

gặp Moutet,H đă cảnh cáo Sainteny là nếu không đạt được thoả thuận, chắc chắn chiến

tranh sẽ xảy ra. “

M

i ng

ườ

i các ông b

gi

ế

t, các ông s

gi

ế

t 10 ng

ườ

i c

a chúng tôi.

Nh

ư

ng các ông m

i là ng

ườ

i h

ế

t h

ơ

i tr

ướ

c”

. Trong cuộc gặp H đă đề nghị hai bên cùng

chịu trách nhiệm về t́nh h́nh ở Nam bộ, nhưng Moutet từ chối, cho rằng Việt nam tham

gia vào uỷ ban theo dơi t́nh h́nh là vi phạm chủ quyền của Pháp. Moutet đề nghị kư bản

www.langven.com

119

Ghi nhớ (modus vivendi) để tránh cho đàm phán đổ vỡ hoàn toàn. Bản ghi nhớ kêu gọi

ngừng bắn tại Nam bộ từ ngày 30/10 và nối lại đàm phán vào tháng Giêng 1947. H không

đồng ư và rời bàn đàm phán lúc 11h đêm, tuyên bố sẽ trở về Đông dương vào thứ hai

16/9. Sau nửa đêm, H liên lạc lại với Moutet. Hai bên đồng ư về nguyên tắc là đại diện

VN được uỷ quyền hợp tác với D’A để tiến tới hoà b́nh tại Đông dương. H đă đồng ư kư

bản Ghi nhớ. Bản Ghi nhớ là tất cả những ǵ H có được sau 2 tháng đàm phán tại

Fontenableau. Saiteny nhớ lại mẩu giấy “nóng bỏng” đó đă được soạn thảo vội vă ngay

trong pḥng làm việc của ông và cho H “ít hơn nhiều cái mà ông ta hy vọng”. Tại Đông

dương, người Pháp thở phào, c̣n người Việt cảm thấy bị làm nhục. H đă nói với

Sainteny khi cuộc họp kết thúc lúc 3h sáng:

“Tôi

đ

ã ký vào b

n án t

hình c

a tôi”

Kỳ lạ là sau khi kư kết thoả thuận, H cũng có vẻ không vội vàng ǵ quay về Việt nam.H

từ chối chiếc máy bay do chính phủ Pháp bố trí, lấy cớ là sức khoẻ yếu và đề nghị được

đi tàu thuỷ. Trong khi S đang lưỡng lự, H liên lạc thẳng với bộ trưởng hàng hải và được

đồng ư lên tàu

Dumont D’Urville

khởi hành từ Toulon

.

Ngày 16, H và S lên tàu đi

Toulon. Tại Montelimar,H đă xuống tàu và gặp đoàn đại biểu sinh viên VN để giải thích

về Bản ghi nhớ và khuyên sinh viên cố gắng học tập. Tại Marseill H cũng làm tương tự,

mặc dù trong đám đông có nhiều tiếng kêu “Việt gian”. Ngày 18/9 H đến Toulon và lên

tàu. (Đoàn Việt nam cũng khởi hành từ đây 4 ngày trước đó trên tàu Pasteur). Cùng đi với

H là một số trợ lư và 4 sinh viên mới kết thúc năm học trở về Việt nam. Sáng ngày 19/9,

con tàu mang cờ đỏ sao vàng do thuyền trưởng Gerbaud chỉ huy nhổ neo nhằm hướng

Địa trung hải thẳng tiến. Ngay ngày đầu,H đă điện về HN để giải thích những điều khoản

của Bản ghi nhớ. H cũng gửi điện cảm ơn Moutet và hy vọng ông này sẽ giúp đỡ thực

hiện hiệp định. Vài ngày sau, H nhận được điện của Bidault và lập tức trả lời, cảm ơn về

ḷng hiếu khách, nhưng cũng nhận xét rằng nhân dân Việt nam không hài ḷng về Bản ghi

nhớ. Theo H, đó cũng là chuyện thường t́nh “

Tôi

đ

ã làm t

t c

và ch

c

đ

ã thành công,

n

ế

u nh

ng ng

ườ

i b

n Pháp áp d

ng nh

ng quy

n t

do dân ch

t

i Nam b

, ch

m d

t

nh

ng khiêu khích v

ũ

trang, tr

l

i t

do cho tù nhân và tránh dùng nh

ng t

ng

xúc

ph

m. Tôi hy v

ng vào s

h

tr

tích c

c c

a ông

để

ti

ế

n hành công vi

c vì l

i ích c

a

hai dân t

c”.

Ngày 22/9, tàu cập bến Port Said, cửa ngơ phía bắc của kênh Suez. H gửi thư trả lời một

phụ nữ Pháp kêu gọi ông đừng để xảy ra chiến tranh. H nói Việt nam cũng như Pháp rất

ghét đổ máu, nhưng cũng như dân Pháp, dân Việt mong muốn độc lập và thống nhất. Nếu

Pháp công nhận những ước vọng chính đáng đó, Pháp sẽ chiếm được trái tim của cả dân

tộc Việt nam. Điểm đến tiếp theo là cảng Djibuti thuộc Pháp,H đă xuống tàu đến thăm

Thống sứ. Sau đó tàu đến Ceylon, Colombo và H được các đồng chí của Gandhi và

Nehru chào đón. Tàu đi chậm v́ thỉnh thoảng phải dừng lại vài ngày để duy tu hoặc bắn

vài loạt đại bác để hoàn thành nhiệm vụ tuần tiễu. H sống đơn giản, chỉ có một bộ quần

áo để thay và tự giặt lấy. Lúc rỗi răi H tán phêt với các thuỷ thủ và sinh viên, dĩ nhiên là

không quên công tác tuyên truyền. Một sinh viên cùng đi nhớ lại,H đă nói: “

chúng ta

không có gì, không có máy móc, nguyên li

u và c

th

lành ngh

. Bù l

i chúng ta có sông

núi, bi

n kh

ơ

i và nh

ng con ng

ườ

i m

nh m

, d

ũ

ng c

m và sáng t

o”

. Có người hỏi H khi

thuyền trưởng cho tàu thử pháo: “

H

th

th

n kinh ông

đấ

y, ông có s

không?

” H đă

cười phá lên. Đối với thuyền trưởng Gerbaud th́ H là một người “

thông minh nh

ư

ng lý

t

ưở

ng hoá, hi

ế

n dâng

đờ

i mình cho s

nghi

p mà ông ta t

ưở

ng t

ượ

ng ra

Ngày 18/10, tàu đến vịnh Cam ranh. D’A và tướngMorliere (người thay thế Sainteny, đại

diện cho Pháp với chính phủ Hà nội) đón tiếp H trên chiến hạm

Suffren,

lần thứ hai trong

www.langven.com

120

ṿng 7 tháng,H được xem diễu binh của hải quân Pháp. H và D’A bàn về việc triển khai

Bản ghi nhớ. D’A nhất trí hợp tác với đại diện của Việt nam để ngưng bắn, H cũng bày tỏ

sự phản đối trước những hành động khủng bố diễn ra gần đây. Mặc dù 2 bên không thống

nhất được về việc rút quân miền bắc ra khỏi miền nam, cuộc gặp đă kết thúc vui vẻ. D’A

báo cáo về Paris, tất cả phụ thuộc hành động của chính phủ VN khi H về đến Hà nội. 2

ngày sau,

Dumont d’Urville

vào cửa Cấm trong sự chào đón của đám đông hát Tiến quân

ca và Marseillaise (theo đề nghị của H). Tối hôm đó, H chiêu đăi các đồng chí và báo cáo

sơ bộ t́nh h́nh đàm phán 4 tháng qua. Sáng hôm sau H lên tàu hoả về Hà nội và được

đưa về Bắc bộ phủ nơi đă có hơn 100,000 tụ tập chào mừng.

Cho đến giờ, các nhà sử học vẫn băn khoăn là tại sao H không trở về nước ngay. Lư do H

viện ra với chính phủ Pháp là sức khoẻ là không thể chấp nhận được v́ H chưa bao giờ để

sức khoẻ của ḿnh ảnh hưởng đến các mục đích chính trị. Một số người cho rằng, H dành

thời gian để Giáp tranh thủ diệt bớt bọn đối lập, tập trung quyền lực để chuẩn bị chiến

tranh. Số khác th́ nghĩ H muốn những phản ứng tức thời về Bản Ghi nhớ lắng xuống đă.

Sainteny th́ đoán là H sợ bị ám sát. Nhiều năm sau này, H thừa nhận với các đồng chí ở

Hà nội, đó là một trong những lo ngại lớn nhất của ông. Ông c̣n thêm vào “đi tàu thuỷ

để xem nhiều sự thay đổi cũng hay”

Không hề nghi ngờ ǵ là Giáp đă sử dụng thời gian H vắng mặt để tăng cường sự quản lư

của Đảng với chính phủ. Đầu hè, Pháp đề nghị được tổ chức diễu binh nhân ngày 14/7.

Theo tin t́nh báo, Giáp được biết là các phần tử đối lập sẽ tổ chức khiêu khích quân Pháp

để phá vỡ đàm phán. Giáp từ chối Pháp v́ lư do an ninh và ngày hôm sau tổ chức đột

nhập trụ sở Việt quốc, phát hiện ra pḥng tra tấn và một số tù nhân, cùng với kế hoạch

bắt cóc con tin Pháp. Cuộc tấn công này đă chặn đứng âm mưu chống chính phủ nhưng

đă làm sự căng thẳng giữ__________a hai bên lên cao dẫn đến Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh và

Nguyễn Tường Tam rút khỏi chính phủ. Quan hệ giữa chính phủ VN và Pháp cũng không

lấy ǵ làm tốt. Mặc dù Morliere là người khá ôn hoà, sau khi hội nghị Fontenebleau thất

bại, các cuộc đụng độ giữa người Pháp và người Việt xảy ra như cơm bữa. Mỗi lần lại

thấyM ra tối hậu thư để t́m thủ phạm nên nhân dân gọi ông này là “Tướng tối hậu thư”.

Cuộc chiến Nam bộ, đương nhiên là làm xấu thêm t́nh h́nh. Trần Văn Giàu bị phê phán

v́ những hành động tàn bạo được thay bằng Nguyễn B́nh. Ông này trông vơ biền, một

mắt chột sau cặp kính đen. Đặc biệt ghét Pháp. Đă tham gia Quốc dân đảng từ cuối

những năm 20, sau đó biến mất và đột ngột xuất hiện lại ở Việt bắc vào cuối thế chiến II

tham gia Việt minh. Có thiên tài quân sự và mặc dù không phải là đảng viên vẫn được

trao trách nhiệm tổng chỉ huy quân kháng chiến ở Nam bộ từ tháng 1/1946. B́nh đă tổ

chức những khu căn cứ du kích lớn ở phía bắc Sài g̣n (sau này được biết đến như là

chiến khu D), Đồng tháp mười và trong rừng U minh để từ đó quấy phá quân Pháp. Tuy

nhiên B́nh đă bỏ qua lời dặn của H phải tránh vũ lực và tập hợp được đông đảo dân

chúng. B́nh đă đưa những hành động khủng bố lên tầm cao mới, đăch biệt là vụ ám sát

Huỳnh Phú Sổ “mad bonze”, người sáng lập ra giáo phái Hoà Hảo.cv

Bốn tháng đi xa, chắc chắn làm H phải nh́n nhận t́nh h́nh với con mắt khác. Một mặt

các đồng chí đă giúp ông củng cố quyền lực dễ bề đưa ra các chính sách. Mặt khác những

hành động đấy sẽ thu hẹp sự ủng hộ của đông đảo nhân dân mà H đă dày công vun đắp

trong những ngày sau CMT8, sẽ đặt H vào thế khó để thống nhất dân tộc trong cuộc

chiến tranh dự kiến. Các đồng chí của H như Giáp, Đồng, Việt, Chinh cũng lợi dụng

khoảng thời gian này để thể hiện ḿnh nhiều hơn trong Đảng. Nhiều người không tin là

có thể hoà hoăn với Pháp mà phải nhanh chóng chuẩn bị chiến tranh. Trong bài diễn văn

www.langven.com

121

kỷ niệm 1 năm quốc khánh, Chinh đă áp đặt tầm nh́n của ḿnh cho cách mạng Việt nam,

phê phán xu hướng “thoả hiệp không nguyên tắc”, không tin tưởng vào quần chúng, nhấn

mạnh rằng chúng ta không sợ quân thù mà chỉ sợ “sai lầm của các đồng chí của chúng

ta”. Mặc dù không ai dám phê b́nh H công khai, rơ ràng là H sẽ phải mất công hơn nhiều

để thuyết phục các đồng chí của ḿnh. Đối với nhân dân, đặc biệt phía bắc, H vẫn được

coi là người mang những khát vọng của dân tộc. Ngày 23/10 H tuyên bố với dân chúng,

dù t́nh h́nh rất khó khăn nhưng nhất định Việt nam sẽ là một nước độc lập và thống

nhất. Do H thường từ chối nói về quá khứ mà chỉ nhận ḿnh là “người yêu nước già” nên

ít người biết được H chính là Nguyễn ái Quốc. Chị H là Nguyễn Thị Thanh t́nh cờ nhận

ra ảnh của em trên báo đă lần ra tận Hà nội thăm H tại Bắc bộ phủ. A Khiêm cũng lên

thăm và được tiếp đón tại một căn nhà ngoại ô. Cả Thanh và Khiêm đều sống ở Kim liên,

Khiêm chết năm 1950, Thanh chết 4 năm sau đó.cvi

Việc đầu tiên của H khi về đến VN làm họp ngay Ban thường vụ để phân tích t́nh h́nh

và định ra kế hoạch hành động. Hai vấn đề chủ chốt là có đồng ư ngày ngừng bắn 30/10

và đối phó với phe đối lập.H đề xuất triệu tập họp quốc hội để thông qua hiến pháp tiến

tới thành lập chính phủ mới thay thế cho chính phủ liên hiệp đă bị yếu đi rất nhiều sau khi

những người như Hải Thần từ chức.

Phiên họp quốc hội ngày 28/10 thật khác xa không khí thống nhất dân tộc của kỳ họp 7

tháng trước. Có tổng cộng 291 đại biểu trong số 444 đại biểu được bầu tham dự. Trong số

70 đại biểu chỉ định chỉ có 37 người đến. Khi một đại biểu đứng lên hỏi những người c̣n

lại đâu, ông này được trả lời là cả lũ đă bị bắt theo yêu cầu của uỷ ban thường vụ quốc

hội v́ những tội h́nh sự. Trước đó vài ngày, hàng trăm nhân vật đối lập đă bị bắt, đă xảy

ra xung đột vũ trang làm nhiều người chết trong đó có hai nhà báo. T́nh h́nh khá căng

thẳng. Các đại biểu ngồi thành 3 khối: bên trái là các đại biểu ICP, đảng xă hội và đảng

dân chủ đeo cà vạt đỏ. Trung tâm là các đại biểu Việt minh không cộng sản, bên phải là

các đại biểu Việt quốc và Đồng minh hội. Sang ngày thứ hai, chính phủ xin từ chức và ba

ngày sau quốc hội phê duyệt danh sách chính phủ mới do HCM đệ tŕnh. Danh sách chính

phủ mới chỉ c̣n 2 phần tử ngoài Việt minh, trái ngược lại những ǵ H hứa khi rời Paris là

sẽ mở rộng thành phần chính phủ. Giáp giữ chân bộ trưởng quốc pḥng, Đồng bộ trưởng

kinh tế. H là chủ tịch kiêm thủ tướng, kiêm bộ trưởng ngoại giao. Mặt trận liên hiệp với

các đảng dân tộc tan vỡ. Có thể do các đảng dân tộc công khai đối lập chính phủ buộc

ICP không thấy sự cần thiết phải thoả hiệp. Cũng có thể phe cứng rắn như Chinh, Việt,

Liệu đang thắng thế (bằng chứng là mấy tuần sau, Chinh công bố một bài báo phê phán

chủ trương cách mạng từng giai đoạn của H). Mấy ngày sau, quốc hội dự thảo Hiến pháp

mới, mặc dù bị Chinh phê phán, rơ ràng là nội dung bản Hiến pháp rất ôn hoà và đáp ứng

mong ước của đại đa số dân chúng. Chương về tổ chức chính trị nhấn mạnh bảo đảm các

quyền tự do dân chủ và nhu cầu liên kết rộng răi để chống lại việc khôi phục chế độ thực

dân Pháp. Chương kinh tế bảo đảm quyền tư hữu và không đả động ǵ đến việc thành lập

xă hội phi giai cấp. Người Pháp hẳn phải rất thất vọng khi bản Hiến pháp tuyên bố nền

độc lập hoàn toàn cho Việt nam mà chẳng thấy đả động ǵ đến liên bang Đông dương

hoặc khối Liên hiệp Pháp cả. Quốc hội đă phê duyệt Hiến pháp và uỷ quyền cho chính

phủ quyết định ngày đưa vào hiệu lực. Ngày 14/11 Quốc hội giải tán, chỉ c̣n 242 đại

biểu, trong đó chỉ có 2 thuộc phe đối lậpcvii.

Trong khi quốc hội họp, hai bên cũng đă thử cố gắng tuân thủ điều khoản ngừng bắn của

Bản ghi nhớ vào ngày 30/10, nhưng không ăn thua. D’A đề pḥng Việt minh bất ngờ tấn

công ḿnh ở miền Bắc và miền Trung, đă chuẩn bị kế hoạch thay thế H bằng một chính

www.langven.com

122

phủ ôn hoà hơn. Từ tháng 9, Pháp đă liên lạc với Bảo đại khi đó đang ở HK về khả năng

ông này trở lại chính trường. Vào giữa tháng 11 D’A cũng đă chỉ thị Valluy chuẩn bị

phương án tấn công nhanh cho trường hợp đàm phán đổ vỡ.

Với nguy cơ chiến tranh đă cận kề, Đảng cũng ra sức chuẩn bị nhập lậu vũ khí qua cảng

Hải pḥng để trang bị cho quân đội v́ trên thực tế biên giới đường bộ đă bị quân Pháp

phong toả. Hải pḥng trở thành điểm nóng trong đàm phán giữa hai bên, nhất là vấn đề

hải quan v́ thuế nhập khẩu vốn là nguồn thu nhập chính của chính phủ thuộc địa trước

đây. Được D’A bật đèn xanh, đầu tháng 11, quân Pháp chiếm trụ sở hải quan Hải pḥng

mặc cho phía Việt nam ra sức phản đối. Ngày 20/11, quân Pháp bắt một tàu Trung quốc

chở xăng lậu được nghi là cho mục đích quân sự và dong vào bờ. Các dân quân Việt nam

đă nổ súng và Pháp lập tức đáp trả. Cuộc bắn nhau lan nhanh khắp thành phố trước khi

được dập tắt bằng một lệnh ngừng bắn. Hai ngày sau, Valluy ra lệnh cho quân Pháp

chiếm thành phố. Ngày 23/11, Pháp nă pháo vào khu phố Tàu đ̣i Việt minh phải hạ vũ

khí. Hàng trăm thường dân chết, hàng ngàn người bị thương. Hơn 2000 quân Pháp tràn

vào khu vực và vấp phải sức kháng cự mănh liệt, trước khi Việt minh bỏ trận địa vào

ngày 28/11.

Sự cố Hải pḥng ngay lập tức được James O’Sullivan báo về Nhà trắng. Ông này nói mặc

dù Việt minh khai hoả trước nhưng thái độ của Pháp là không thể chấp nhận được. Đại sứ

Mỹ tại Pháp Caffery được lệnh bày tỏ sự không hài ḷng với chính phủ Pháp. Phía Pháp

trưng ra bằng chứng là chính phủ H nhận chỉ thị từ Moscow. Từ Sài g̣n, lănh sự Mỹ là

Charles Reed cũng cảnh báo là nếu Nam bộ rơi vào tay Việt minh, th́ Lào và Cambodia

sẽ nguy hiểm. Đây là một trong những phát biểu đầu tiên của một quan chức về cái sau

này được gọi là “học thuyết domino”cviii

Cuối tháng 11, bộ ngoại giao Mỹ cử Moffat vụ trưởng vụ Đông Nam á sang Đông dương

để đánh giá t́nh h́nh và t́m hiểu bản chất của chính phủ Hà nội.Moffat là người công

khai ủng hộ độc lập của Việt nam và được uỷ quyền thông báo với VN là Mỹ ủng hộ hiệp

định 6/3 và có thể bảo được chính phủ Pháp.M cũng dự kiến sẽ khuyên H không dùng vũ

lực và thoả hiệp trong vấn đề Nam bộ.M đến Sai gon ngày 3/12 và ra Hà nội ngày 7/12.

Sullivan cho rằngH đang “cực kỳ cô đơn” và thông tin công khai về chuyến viếng thăm

của M sẽ làm tăng uy tín của H. Mặc dù rất ốm do lao phổi trở lại, H vẫn mờiM đến Bắc

bộ phủ. H khẳng định ḿnh không phải là cộng sản mà chỉ đấu tranh v́ độc lập, kêu gọi

Mỹ ủng hộ và nhắc lại đề nghị cho Mỹ sử dụng Cam ranh. Do không chuẩn bị trước vấn

đề này, Moffat “không nói được câu nào” như về sau ông này điều trần trước Thượng

viện Mỹ.M khẳng định rằng Mỹ không thể có quan hệ ngoại giao chính thức với Việt

nam nếu Việt nam không thoả thuận được với Pháp về thể chế. Trong báo cáo sau khi rời

Đông dương, M nhận định chính phủ Hà nội đang nằm dưới sự kiểm soát của cộng sản và

có thể có quan hệ với Nga và Trung cộng. Tuy nhiên ông này cũng thấy sự khác biệt giữa

những phần tử ôn hoà xung quanh H và các phần tử cứng rắn như Giáp.M kết luận, hiện

tại cần có sự hiện diện của Pháp để không những chống ảnh hưởng của Nga mà đề pḥng

Tàu tấn công.M đề nghị Mỹ ủng hộ thoả thuận trước khi t́nh h́nh tiếp tục xấu đi cho

Pháp. Nhà sử học Pháp Philippe Devillers cũng nhận thấy sự chia rẽ trong lănh đạo Việt

minh giữa H và những phần tử hiếu chiến hơn như Giáp, Việt. Bản thân H cũng thường

xuyên kêu gọi Pháp và các nước phương Tây giúp ông củng cố quyền lực với đối thủ.

Nhưng cũng có người bi quan cho rằng đó là đ̣n của H sử dụng để gây sức ép với Pháp.

Nhận xét của M về quan hệ của Hà nội và Nga có vẻ không đúng, thực tế th́ H và đồng

chí chỉ có thể biết được t́nh h́nh Nga xô qua FCP.cix Báo cáo của Mcùng với cuộc nội

www.langven.com

123

chiến đang nóng lên ở Trung quốc đă dẫn Bộ ngoại giao Mỹ đi đến kết luận “Sự có mặt

của Pháp ở khu vực là quan trọng, không chỉ để ngăn ảnh hưởng của Nga mà c̣n bảo vệ

Việt nam và Đông nam á khỏi đế quốc Tàu”.

Ngày 13/11 D’A đi Pháp xin thêm quân để có thể tiến hành tiến công phủ đầu. Không

ngờ chính phủ Pháp vẫn đang hy vọng hoà hoăn. Bidault đang chuẩn bị chuyển giao

quyền lực cho đảng Xă hội mới thắng cử, hứa là sẽ có thêm quân nhưng cũng cảnh báo

rằng Đông dương không thể giữ được chỉ bằng quân sự. Trong khi đợi chính phủ mới

được thành lập, Sainteny được bổ nhiệm thay thế cho Morliere. Saiteny đến Sài g̣n ngày

23/11, chỉ vài giờ sau sự cố Hải pḥng. Đợi ở đó vài ngày cho t́nh h́nh lắng xuống, ngày

2 S ra Hà nội với chỉ thị của D’A trong túi: “

Danh d

quân s

ự đ

ã

đượ

c b

o v

, uy tín c

a

Pháp

đ

ang t

ă

ng, không nên làm tình hình c

ă

ng th

ng thêm d

n chính ph

c

a H vào

nh

ng hành

độ

ng cùng qu

n. Tôi cho r

ng ông không nên

trong dinh Th

ng s

, d

b

coi là hành

độ

ng khiêu khích và quay tr

l

i ph

ươ

ng pháp th

ng tr

c

ũ

. Valluy cũng

ủng hộ hoà hoăn, cho rằng “

có th

H không mu

n chi

ế

n tranh”

Do ốm, H không đón được S tại phi trường mà tiếp ông này vào ngày hôm sau, đúng

ngày Pháp đổ thêm quân vào cảng Đà nẵng. Tuy nhiênH đă được Giám quân sư về thái

độ hoà hoăn của Pháp. Hai bên không bàn chuyện ǵ nghiêm túc mà chỉ xoay quanh sức

khoẻ của H và chuyến đi từ Pháp về Việt nam. Mấy ngày sau, S mất luôn liên lạc vớiH

nên cứ bán tin bán nghi không biết H có c̣n kiểm soát được t́nh h́nh nữa không? Mặc

dù ghi nhận lo ngại của H về sự thay đổi bất chợt nhưng Sainteny đă yêu cầu H phải khai

trừ những phần tử cực đoan khỏi chính phủ, bằng không Pháp sẽ dùng các biện pháp

“cảnh sát”. S chia sẻ quan điểm của ḿnh với Sullivan nhưng ông này tỏ ra bi quan: “Nếu

ông muốn đuổi Việt minh đi th́ e rằng sẽ mất thời giờ hơn nhiều”

Quăng giữa tháng 12,H điện cho Blum nêu ra những giải pháp cụ thể để giải quyết căng

thẳng. Nhưng rơ ràng là H đă không hy vọng vào các giải pháp chính trị. Tháng 10, ICP

thiết lập Uỷ ban quân sự để có thể bảo đảm sự lănh đạo của Đảng trong quân đội, cử

chính uỷ cho từng đơn vị, lập cơ sở đảng tại tất cả các vùng quân sự. Văn Tiến Dũng,

người sau này sẽ là tổng tư lệnh cuộc tiến công vào Sài g̣n, chỉ đạo toàn bộ việc này.

Theo tin t́nh báo Pháp, quân Việt minh nay được đổi thành Quân đội Nhân dân Việt nam

có khoảng 60,000 quân ở phía Bắc được tổ chức thành 35 tiểu đoàn bộ binh và 3 tiểu

đoàn pháo binh, cộng với khoảng 12000 quân ở Nam bộ. Về vũ khí VPA có khoảng

35000 khẩu súng trường, 1000 tiểu liên và 55 pháo. Việt minh đang tích cực chuẩn bị căn

cứ, các quân xưởng ở Tân trào, Việt bắc và sơ tán các cơ quan chính phủ đến đó khi

chiến tranh xảy ra. Đa số quân VM được bố trí ở ngoại ô, trong thành phố chỉ có khoảng

10,000 dân quân và thanh niên xung phong. Quân Pháp có vài ngàn lính lê dương, đóng

chủ yếu trong thành và các điểm quan trọng như Dinh Thống sứ, nhà Ga, cầu Doumer và

sân bay Gia lâm. Giáp nhận định là có thể giữ Hà nội được trong ṿng 1 tháng để các cơ

quan có thời gian rút ra chiến khu. Ngày 6/12, H kêu gọi quân Pháp rút lui về các vị trí

trước ngày 20/11 nhưng không được đáp lại. Trả lời phỏng vấn báo Pháp vào ngày hôm

sau, H nói “

chúng tôi b

áp

đặ

t ch

p nh

n cu

c chi

ế

n này, chúng tôi thà

đấ

u tranh ch

không hy sinh s

t

do c

a mình”

Cũng lúc đó, tướng Valluy hiểu rằng H không hề có ư định loại các phần tử cực đoan ra

khỏi chính phủ. Valluy xin chỉ thị được hành động ngay sau khi quân tăng viện đến, nếu

để đến sang năm sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của Pháp. Nhưng thủ tướng

Blum có vẻ chưa muốn dùng đến quân sự. Ngày 12/12, Blum tuyên bố sẽ xem xét việc

công nhận độc lập của Việt nam. Ba ngày sau, H trao cho Sainteny bức thư gửi thủ tướng

www.langven.com

124

Pháp với những đề nghị cụ thể. S điện vào Sài g̣n nhờ chuyển sang Paris. Không rơ là

các nhà lănh đạo khác của Việt nam có thực sự hy vọng ǵ vào tuyên bố của Blum? C̣n

Giáp trong hồi kư của ḿnh cho rằng Blum chỉ là công cụ của tư bản Mỹ và Pháp. Rơ

ràng là Blum không lựa chọn một bộ trưởng cộng sản nào và tiếp tục bổ nhiệm D’A làm

Đại diện toàn quyền ở Đông dương. Tuy nhiên nội các mới của Blum đă không quyết

định được có tăng viện cho D’A hay không và có nên tiến hành những hành động quân sự

tức thời hay không. Valluy, cũng như D’A quyết tâm duy tŕ sự có mặt của Pháp ở Việt

nam đă quyết định cần phải khiêu khích để Việt nam khởi xướng những hoạt động thù

địch đặt Paris vào sự đă rồi. Valluy ra lệnh cho Morliere phá huỷ các chiến luỹ trên

đường phố. Khi nhận được điện của H do S chuyển vào, Valluy đă tự b́nh phẩm thêm

vào là phải tiến hành các hoạt động quân sự vào trước cuối năm. Bức điện chỉ được

chuyển đến Paris vào ngày 19, khi đă quá muộn.

Ngày 17, các chiến xa bắt đầu xô đổ các chiến luỹ, lính lê dương đứng đầy từ thành cổ ra

đầu cầu Doumet dọc đường đến sân bay. Ngày hôm sau, Pháp ra tối hậu thư cấm được

xây các công sự trên đường phố, ngay buổi trưa hôm đó, lại ra tiếp tối hậu thư từ ngày 20,

quân Pháp sẽ bảo đảm trật tự an ninh trên đường phố. Sáng ngày 19, Pháp yêu cầu Việt

nam ngưng tất cả các hoạt động chuẩn bị chiến tranh, giải tán các đơn vị dân quân và

chuyển giao toàn bộ việc bảo đảm an ninh cho Pháp. T́nh h́nh rất giống ở Hải pḥng,

khi trung tá Debes ra hết tối hậu thư này đến tối hậu thư khác trước khi ném bom Hải

pḥng. Ngày 18, H chỉ thị chuẩn bị tấn công các cơ sở của Pháp vào ngày 19. Cùng ngày,

sợ thư gửi qua S không tới được Paris,H đă điện thẳng cho Blum. Sáng 19, H viết một

bức thư cho S nhờ Giám chuyển hộ, nội dung viết: “

Tình hình

đ

ã tr

nên r

t nghiêm

tr

ng, trong lúc ch

ờ đợ

i quy

ế

t

đị

nh t

Paris, tôi hy v

ng là ông s

cùng v

i ông Giám tìm

đượ

c gi

i pháp

để

c

i ti

ế

n tình hình hi

n t

i”.

Theo giọng văn mà đoán th́ rơ ràngH

cũng chẳng đợi trả lời một cách nghiêm túc. Chưa kể sáng hôm đó, S đă gửi cho H một

bức thư dài tḥng phản đối Việt minh nổi loạn giết chết và làm bị thương mấy người

Pháp, đ̣i phải trừng trị ngay lập tức kẻ phạm tội. Do đă đồng thuận để Valluy khiêu

khích, S khất gặp Giám sang sáng hôm sau. Khi được Vũ Kỳ báo tin S từ chối gặp Giám,

ngay lập tức H triệu tập họp uỷ ban thường vụ gồm Giáp , Lê Đức Thọ và Chinh. Uỷ ban

đă nhận xét trong hoàn cảnh hiện tại, không thể tiếp tục nhượng bộ và quyết định toàn

dân kháng chiến. Uỷ ban cũng xem xét lời kêu gọi của H gửi toàn thể đồng bào mới được

H dự thảo lúc trưa. Giáp được giao chỉ huy các hoạt động quân sự. Thời điểm tiến công

được xác định là 8h tối. Sau đó Uỷ ban giải tán.

Buổi tối hôm đó 19/12. S đang chuẩn bị rời nhiệm sở về nhà riêng. Cũng như mọi người

S biết rằng cuộc chiến đă có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Khi đồng hồ tại bệnh viên Yersin

điểm 8h, S nói với đồng nghiệp “Thế là không phải hôm nay rồi, tôi đi về nhà đây”.

Đúng lúc S đang chuẩn bị bước vào xe, một tiếng nổ lớn phát ra. Điện tắt phụt, toàn

thành phố ch́m vào bóng tối. S chạy vội về nhà, lên chiếc xe bọc thép chạy thẳng vào

thành. Được một đoạn, chiếc xe trúng ḿn. S bị thương nặng nằm trong vũng máu trong

gần 2h giữa các đồng đội quằn quại hấp hối.cx

Theo đúng kế hoạch, Việt minh đă đặt ḿn nhà máy điện. Các đội dân quân tấn công các

cơ sở của Pháp, c̣n biệt động th́ thâm nhập vào tư dinh trong khu phố Tây. Giáp có 3 sư

đoàn bố trí ở ngoại ô phía tây nam và cạnh Hồ Tây, nhưng quyết định không sử dụng.

Quân Pháp bị bất ngờ lúc ban đầu nhưng nhanh chóng giành lại thế chủ động. Gần đến

nửa đêm Pháp đă kiểm soát hầu hết những điểm trọng yếu. Một cánh quân tấn công Bắc

bộ phủ suưt bắt được H. Cuộc chiến tranh Đông dương lần thứ nhất bắt đầu.

www.langven.com

125

Sự kiện 19/12 gây nên phản ứng ồ ạt tại Pháp. Đa số cho rằng Việt minh đă tấn công

khiêu khích các lợi ích và công dân Pháp. Nhưng nh́n kỹ có thể thấy vai tṛ của Pháp

cũn rất quan trọng. Mặc dù, chính phủ Paris c̣n đang lưỡng lự trong việc có tiến hành

chiến tranh không, th́ các tướng Pháp ở Đông dương đă tự cho ḿnh quyền hành động.

Valluy cho rằng H không thể hoặc không muốn kiểm soát các phần tử cực đoan trong

chính phủ, nên đă quyết định ra tay trước khi lực lượng Pháp tại khu vực yếu đi. Tối hậu

thư 17/12 đ̣i hỏi chuyển quyền kiểm soát an ninh trật tự ở thành phố cho Pháp rơ ràng là

đă được tính toán để khiêu khích Việt minh. Liệu H có thực sự muốn tránh chiến tranh

hay chỉ “động tác giả” để có thêm thời gian chuẩn bị chiến tranh? Thực ra cũng chẳng

cần trả lời. Là đệ tử của Tôn Tử, H tin rằng chiến thắng đẹp nhất là chiến thắng không

cần vũ lực. Để đạt được nó, ngoại giao và tuyên truyền là các vũ khí sắc bén làm chia rẽ

và giảm năng lực chiến đấu của đối thủ. Đến ngày 19/12, H và các đồng chí của ḿnh

hiểu rằng, không thể thoả hiệp được nữa. Vấn đề phải được quyết định trên chiến trường.

www.langven.com

126

H

và Voi

Ba ngày sau sự biến ở Hà nội, ngày 22/12, chính phủ Việt nam ra thông báo, cuộc chiến

sẽ được tiến hành qua 3 giai đoạn: pḥng ngự, cầm cự và tổng phản công và Pháp sẽ phải

chịu những hậu quả cay đắng. Các cơ sở của chính quyền được rút lên Việt bắc. Những

đơn vị chiến đấu vẫn tiếp tục bám trụ tại khu phố cổ và kháng cự quyết liệt. Valluy đă đề

xuất ném bom huỷ diệt nhưngMorlieres đă phản đối và vẫn quyết định dùng bộ binh.

Phải đến tận giữa tháng 1/1947, quân Pháp mới đến được chợ Đồng xuân. Các đơn vị

Việt minh rút lên phía bắc qua chân cầu Long biên, để lại những ḍng chữ viết bằng than

trên tường: “Chúng tôi sẽ quay lại”. Trong hồi kư của ḿnh, lănh sự Mỹ O’Sullivan đă

ghi nhận “Sự dũng cảm và ngoan cường chưa từng thấy của quân Việt nam”, chẳng khác

ǵ quân Nhật trong cuộc chiến Thái b́nh dương. Khoảng 100 lính Pháp và 40 thường dân

châu Âu chết, hai trăm người khác mất tích. Tại các khu vực khác, t́nh h́nh cũng tương

tự, Việt minh t́m cách ḱm chân quân Pháp trong thành phố để rút lực lượng về nông

thôn. Khi Pháp bắt đầu tiến ra ngoại ô sẽ gặp phải cảnh “vườn không, nhà trống”.

Tuy nhiên, có vẻ như H chưa muốn từ bỏ những nỗ lực t́m kiếm hoà b́nh. Ngay trong

ngày đánh nhau đầu tiên, Việt minh đă rải truyền đơn thông báo với “nhân dân Pháp” về

nguyện vọng của chính phủ được sống hoà b́nh trong khối liên hiệp Pháp. Cuộc chiến đă

xảy ra v́ “những tên thực dân phản động đă đánh mất danh dự nước Pháp, chia rẽ hai dân

tộc”. Chỉ cần Pháp công nhận Việt nam độc lập và thống nhất, sự hợp tác sẽ được khôi

phục ngay lập tức. Ngày hôm sau, đài Việt minh kêu gọi nối lại đàm phán. Ngày 23/12,H

viết thư cho Moutet và Leclerc đề nghị hai bên gặp nhau, khi hai vị này vừa lên đường

sang Đông dương để thị sát t́nh h́nh. Mấy ngày sau, H chính thức đề nghị ngừng bắn và

tổ chức hội nghị hoà b́nh mới tại Paris trên tinh thần hiệp định Ho-Sainteny tháng

3/1946. Pháp th́ chưa vội kết thúc đánh nhau. Ngày 23, thủ tướng Blum phát biểu trước

quốc hội:

“Chúng ta

đ

ang ph

i

đố

i m

t v

i vi

c d

p lo

n. Tôi tuyên b

, binh lính Pháp

đ

ang chi

ế

n

đấ

u, ki

u dân Pháp

đ

ang sinh s

ng và các b

n bè Pháp

ở Đ

ông d

ươ

ng có th

yên tâm vào s

kiên quy

ế

t c

a chính ph

. Kết luận, Blum để ngỏ khả năng đàm phán:

“chúng tôi s

khôi ph

c l

i cu

c

đ

àm phán b

phá v

ỡ để

đượ

c m

t n

ướ

c Vi

t nam t

do trong liên bang

Đ

ông d

ươ

ng t

do trong Liên hi

p Pháp. Nh

ư

ng

đầ

u tiên, tr

t t

ph

i

đượ

c khôi ph

c”.

Ngay cả một người được coi là “sứ giả hoà binh” như Moutet cũng

phát biểu với báo chí hôm Noel khi ông ta đến Sài g̣n:

“c

n ph

i có chi

ế

n th

ng quân s

tr

ướ

c khi có b

t c

cu

c

đ

àm phán nào. Tôi r

t ti

ế

c nh

ư

ng nh

ng gì mà Vi

t minh

đ

ã làm

ph

i b

tr

ng tr

. Moutet cũng không t́m cách liên lạc với người bạn cũ là H mà suốt

ngày chỉ tṛ chuyện với các quan chức Pháp ở Lào và Cambodia. Về phần ḿnh, ngày

3/1, H đă viết thư cho Moutet, nhưng bức thư đă không đến được nơi. Tướng Leclerc có

quan điểm mềm dẻo hơn. Một mặt ông cho rằng một đ̣n giáng trả đối với cuộc tấn công

của Việt minh là cần thiết, nhưng giải pháp cuối cùng phải là giải pháp chính trị. Pháp

không thể khuất phục dân tộc 24 triệu dân với tinh thần dân tộc ngất trời bằng vũ lực.

Leclerc lo ngại về việc Moutet không chịu gặp H. Trước khi rời VN ngày 9/1, L nhận xét:

“Có quá nhiều người tưởng là có thể xây chiếc cầu nối giữa Việt nam và Pháp bằng súng

đạn”. Tuy nhiên L cho rằng cần phải thay chủ nghĩa dân tộc quá khích của Việt minh

bằng một h́nh thức ôn hoà hơn. Muốn vậy, vị thế của quân Pháp trên chiến trường càng

mạnh càng tốt.

Quan điểm của L tương đối trùng với Blum. V́ thế khi trở lại Pháp, Blum đă đề nghị L

làm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông dương thay D’A quá cứng và bị cho là

www.langven.com

127

góp phần gây nên t́nh trạng hỗn loạn hiện nay. Trong lúc L c̣n đang suy nghĩ th́ Blum

bị Ramadier thay thế. Thủ tướng mới lên lưỡng lự chưa dám quyết việc tăng quân cho

Đông dương, lại thêm De Gaul rỉ tai, nên L đă quyết định từ chối. Ramadier bổ nhiệm

Emile Bollaert, được một nhà ngoại giao Mỹ miêu tả là “năng động và có năng lực nhưng

chưa được nhiều người biết đến”.

Bollaert đến Đông dương vào đầu tháng 3 và ngay lập tức rơi vào t́nh huống khó xử.

Được sự ủng hộ của D’A, các quan chức thực dân địa phương đáng ráo riết t́m cách qua

mặt Việt minh và thoả thuận với Bảo đại, lúc đó đang ở Hồng kong đánh bạc và chơi gái.

Mặc dù chưa có kết quả cụ thể nhưng phương án này cũng có một số người hâm mộ tại

cả Đông dương và Pháp. Trong khi đó Việt minh vẫn được sự ủng hộ của đông đảo dân

chúng, và H được thừa nhận như nhà lănh đạo của dân tộc. Trước khi rời Paris, Leclerc

cũng đă tư vấn B “đàm phán bằng mọi giá”. Đám tay chân của B gồm chánh văn pḥng

Pierre Messmer và cố vấn Paul Mus, cũng tán đồng việc đàm phán với Việt minh. Tuy

nhiên với hơn 1000 quân Pháp đă chết hoặc mất tích, tâm lư của dân Pháp Đông dương là

chống Việt minh. Bảo đại coi như là phương án khả dĩ nhất. Nhưng Bảo đại khó đối trọng

được với HCM trong ḷng dân. Mặc dù có một số quan chức cũ ủng hộ, đại đa số nhân

dân không ưa ǵ lối sống của ông Cựu hoàng này. Càng nghi ngờ về khả năng của ông có

thể thống nhất được những lực lượng đối lập manh mún.

HCM vẫn kiên tŕ duy tŕ quan hệ mong manh với Pháp. Ngày 23/4, bộ trưởng ngoại giao

Giám chuyển cho Bollaert thư củaH đề nghị ngừng bắn ngay lập tức và đàm phán để văn

hồi hoà b́nh. Đang nghi hoặc, lại được một số quân sư thông báo rằng quân Pháp đang

kiểm soát t́nh h́nh trên chiến trường, Bollaert đưa ra một loạt các điều kiện mà thực chất

là đ̣i Việt minh đầu hàng trước khi đàm phán. Paul Mus được giao nhiệm vụ này nhờ

mối quan hệ cũ với H. Ngày 12/5, Mus đă gặp Giám ở ngoại ô Hà nội sau đó là gặp H

gần Thái nguyên. H lắng nghe rất lịch sự rồi trả lời: “

Trong kh

i Liên hi

p Pháp, không

có ch

cho k

hèn nhát. N

ế

u tôi ch

p nh

n nh

ng

đ

i

u ki

n này, tôi s

là m

t ng

ườ

i nh

ư

v

y”

. H hiểu rằng Pháp không thể nuốt trôi việc phải từ bỏ các thuộc địa của ḿnh. Cuối

tháng, H ra lời kêu gọi kháng chiến mới, tuyên bố Pháp đưa ra những điều kiện không thể

chấp nhận được cho hoà b́nh.

Hy vọng đàm phán của H bây giờ chỉ có thể dựa vào sự can thiệp của Mỹ (mà H và các

đồng chí của ḿnh không hề có thông tin). Trên thực tế, ngay sau khi sự kiện Hà nội, thứ

trưởng Dean Archeson đă gọi đại sứ Pháp Henry Bonnet lên bày tỏ sự không hài ḷng và

đưa ra đề nghị Mỹ có thể trung gian hoà giải. Pháp thẳng thừng từ chối, nói dẹp loạn

xong mới có thể đàm phán. Vài tuần sau, George Marshall được điều từ Trung quốc về

thay James Byrnes ở chức ngoại trưởng.Marshall đă ra sức t́m cách hoà giải Quốc –

Cộng nhưng thất bại, cuối năm 1946, nội chiến vẫn đă nổ ra. Marshall đă gửi một bức

điện bày tỏ quan điểm chính thức đầu tiên của Washington cho đại sứ Caffery tại Paris.

Mỹ công nhận chủ quyền của Pháp ở Đông dương và không muốn can thiệp, nhưng

“chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ, các bằng chứng cho thấy Pháp (chủ yếu ở Sài

g̣n) ít hiểu biết về đối phương, vẫn c̣n cố bám lấy mô h́nh và cách suy nghĩ thực dân

lạc hậu”. Ngay sau đó, M lại cho thấy sự lưỡng lự: “Chúng ta không quên rằng H có

những mối quan hệ trực tiếp với cộng sản và không muốn mô h́nh thực dân lại được thay

thế bằng một tổ chức mới do Kremlin kiểm soát”. Cuối cùng M cũng chẳng đưa được ra

giải pháp nào, ngoài việc khuyên Pháp nên để ngỏ quan hệ và “hào phóng” hơn trong

việc t́m giải pháp. Đó cũng là thái độ điển h́nh của Mỹ cho đến khi Truman rời nhiệm

sở.

www.langven.com

128

Cuối tháng 2,Marshall chỉ thị cho Sullivan t́m gặp các lănh đạo Việt minh nếu có điều

kiện. Chẳng phải đợi lâu, tháng 4, lănh đạo Thanh niên tiền phong là Phạm Ngọc Thạch,

mới được thăng chức thứ trưởng ngoại giao, đă liên lạc với cộng đồng doanh nhân Mỹ tại

Thái. Thạch c̣n bí mật gặp gỡ đại tá William Law, tham tán quân sự tại đại sứ quán Mỹ.

Thạch cũng trả lời bằng văn bản một số câu hỏi của Law và đại sứ F. Stanton. Về mặt

chính trị, Thạch nói, mục đích của chính phủ là dân tộc chứ không phải cách mạng thế

giới. Về kinh tế, chính phủ sẽ “tôn trọng việc phát triển quyền tự trị của tư bản cũng như

kêu gọi đầu tư nước ngoài để tái thiết đất nước”. Thạch cũng dự đoán, nếu không thoả

thuận được VN sẽ sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh du kích có thể kéo dài đến 6 năm.

Cùng thời điểm, H trả lời phỏng vấn một nhà báo Mỹ phủ nhận chính phủ của ông ta theo

những nguyên lư của Marx. H c̣n hỏi, tại sao không thể áp dụng mô h́nh Philippin và ấn

độ cho Việt namcxi

Các động thái này của Việt nam, cùng với việc Giám được bổ nhiệm làm ngoại trưởng đă

làm các quan chức bộ ngoại giao Mỹ chú ư. Sullivan đề nghị được trực tiếp gặp Thạch ở

Băng kok v́ cho rằng H là người “rất giả dối”.Marshall đồng ư, giao luôn nhiệm vụ t́m

hiểu ảnh hưởng của Moscow đến Việt nam sâu đến mức nào. Nhưng cuộc gặp đă không

bao giờ diễn ra. Stanton thông báo Thạch bất ngờ rời BK, 2 ngày sau Marshall cũng đề

nghị huỷ v́ Thạch đă đi mất và sợ phản ứng của Pháp. Ngày 8/5, Giám chính thức kêu

gọi Mỹ công nhận chính phủ Việt nam để “nâng cao uy tín của ḿnh và ổn định t́nh h́nh

trong khu vực”. Thạch gửi một thông điệp nữa đề nghị giúp đỡ về chính trị, kinh tế, văn

hoá và trung gian hoà b́nh.Marshall đặt câu hỏi cho bộ máy ngoại giao của ḿnh ở Hà

nội, Sài g̣n và Paris: quan điểm thực sự của H là ǵ? Những nhân vật hiếu chiến đáng

ngờ như Chinh, Việt liệu sẽ có vai tṛ ǵ trong một chính thể Việt nam độc lập? Các phần

tử không cộng sản có biết về thiên hướng cộng sản của Việt minh không? Họ có làm việc

được cùng nhau không? Và cuối cùng là DRV liệu có chấp nhận “quyền tự do bày tỏ

chính kiến một cách hợp lư”? Sullivan đánh giá một cách thận trọng “tuy có ảnh hưởng

cộng sản nhưng khó đủ để lái Việt nam vào phía Liên xô, mặc dù hiển nhiên là có xu

hướng như vậy”. Sullivan nhấn mạnh việc H ngần ngừ không công nhận ḿnh là NAQ v́

H muốn thương thảo với phương Tây. Sullivan kết luận: H mong muốn nhận được hỗ trợ

và sẽ lái các chính sách của ḿnh theo nguồn hỗ trợ đó. Các nhận xét khác th́ bi quan

hơn. Charles Reed miêu tả H là một tay “cơ hội” và “sẵn sàng xây dựng một quốc gia

cộng sản, kể cả khi nhân dân không mấy người quan tâm đến cộng sản là ǵ”. Đại sứ Mỹ

tại Paris Caffery cũng cho rằng, tuy nhân dân Việt nam không ưa lắm chủ nghĩa cộng

sản, “ít nghi ngờ là H có những quan hệ mật thiết với cộng sản”.

Bollaert đă khá chân thành khi đề nghị các điều kiện hoà b́nh với Việt minh, bởi vậy khi

bị từ chối, ông này vẫn tiếp tục t́m kiếm các phương án khác. Lúc đó, bộ trưởng chiến

tranh Paul Coste-Floret vừa tuyên bố sau chuyến thị sát Đông dương: “vấn đề quân sự ở

VN đă chấm dứt, chúng ta đă kiểm soát hoàn toàn t́nh h́nh”. Được cổ vũ bởi t́nh h́nh

chiến trường, B bắt đầu xem Việt minh chỉ là một trong nhiều những nhóm Việt nam đ̣i

độc lập mà ông ta cần đàm phán. Nhận xét của Coste-Floret không phải không có lư. Việt

minh không giữ được lâu thế trận họ có hồi đầu chiến tranh do ham đánh chính quy dẫn

đến tổn thất lớn, thiếu vũ khí, thiếu phương pháp lănh đạo chiến tranh du kích, đánh giá

sai sự ủng hộ của nông dân. Các chính sách tàn bạo của Nguyễn B́nh ở Nam bộ đă đẩy

cả Cao đài và Hoà hảo sang phía Pháp.

Thừa thắng Valluy đề nghị tấn công vào sào huyệt của Việt minh, bắt sống HCM và chỉ

khi đó mới bắt đầu đàm phán. Valluy đề nghị tăng quân lên đến trên 100,000 quân. Tại

www.langven.com

129

Paris lúc đó cũng không có phong trào phản chiến nào đáng kể. Có điều mọi người đều

cho rằng cuộc chiến Đông dương chẳng qua cũng là cuộc căi vă vớ vẩn ở góc nào đó của

thế giới. Chính phủ Pháp đang nhức đầu với Madagascar và chỉ đồng ư tăng viện tí chút

cho Valluy. Ông này phải chấp nhận lập kế hoạch tấn công với ít quân hơn rất nhiều so

với yêu cầu.

Tháng 8, Việt minh gửi một thông điệp hoà b́nh rơ ràng bằng cách thay 2 vị trí bộ trưởng

quan trọng: nội vụ và quốc pḥng của Tôn Đức Thắng và Vơ Nguyên Giáp bằng những

phần tử ôn hoà hơn. Valluy và Bollaert được triệu về Paris để tư vấn. Tháng 9, Bollaert

đưa ra đề nghị Việt nam thống nhất trong khối Liên hiệp Pháp nhưng không nhắc ǵ đến

độc lập hoàn toàn. Ngày 15/9, Giám trả lời: không thể có tự do nếu không nền độc lập

hoàn toàn. Ba ngày sau, Bảo đại tuyên bố chấp nhận đàm phán với Pháp nhưng cũng đặt

điều kiện là phải có độc lập và thống nhất. Mặt trận dân tộc thống nhất mới được thành

lập ở HK, cũng vội vă tuyên bố không chấp nhận đề nghị của Bollaert. Dân Sài g̣n đồn

ầm lên là H đi đêm với Bảo đại.

7/10/1947, quân Pháp mở cuộc tấn công lên Việt bắc. Do thiếu quân nên thay v́ đánh cả

từ hai phía bắc và nam, Pháp sẽ tấn công vào trung tâm và giành quyền kiểm soát toàn bộ

thung lũng sông Hồng từ Hà nội đến Lao cai. Chiến dịch mang tên Léa do Salan chỉ huy,

dự kiến sẽ tiến hành trong 3 tuần. Đầu tiên quân Pháp nhảy dù xuống Bắc cạn chiếm chỉ

huy sở. Hai cánh quân một từ phía bắc, một sử dụng chiến xa từ phía tây Lạng sơn sẽ kẹp

Việt minh ở giữa và hội quân ở Bắc cạn. Quân Pháp tiến nhanh nhưng H và các đồng chí

đă kịp chạy vào rừng đến một căn cứ khác. Trên bàn làm việc của H c̣n điếu thuốc đang

cháy dở và một số văn bản tŕnh kư cho H. Quân Pháp tiếp tục càn quét khu vực nhưng

rất ít khi gặp Việt minh. Salan tuyên bố đă hoàn thành nhiệm vụ, làm chủ đường lên Cao

bằng, tuyến pḥng thủ cuối cùng của Việt minh đă bị phá huỷ. Việt minh bây giờ chỉ c̣n

là: “những nhóm thổ phỉ bị cô lập, chỉ có thể tiến hành những hoạt động khủng bố”.

Có lẽ đây là một trong những nhận định sai lầm nhất trong toàn bộ cuộc chiến. V́ thực ra

cuộc chiến mới chỉ bắt đầu. Không nghi ngờ ǵ là Việt minh đă phải rút lui nhưng các

lănh đạo Việt minh đă thay đổi chiến lược chiến tranh. Họ giải tán những đơn vị chính

quy của ḿnh thành những nhóm tuyên truyền vũ trang theo mô h́nh trước cách mạng

tháng 8, từ bỏ những trận đánh “thông thường” tập trung vào chiến tranh du kích, thành

lập những uỷ ban hành chính kháng chiến tại mỗi làng biến làng xă thành đơn vị pḥng

thủ và chỉ cung cấp quân cho trung ương khi cần thiết.

Từ khi quay lại Việt bắc tháng 12/46, H lại trở lại với nếp sống cũ tưởng đă kết thúc khi

lên làm chủ tịch tháng 9/45. H có 8 người giúp việc, bao gồm cả vệ sĩ, giao liên và cấp

dưỡng, ở trong một căn nhà sàn được chia làm 2. một bên là pḥng của H, bên kia vừa là

bàn họp, pḥng ăn và kư túc xá. Cả hội nuôi một con chó săn, nhưng sau đó bị hổ vồ

mất.H ăn uống đơn giản, cơm rau chấm nước mắm, thỉnh thoảng được bổ sung thêm thịt

băm xào với ớt, muối, sả, gọi đùa là “thịt Việt minh”. Nhiều khi thiếu lương thực, cả

nhóm phải tự đào khoai, trồng sắn, trồng rau trên triền núi. Giường ngủ của H chỉ là cái

màn và mấy bộ quần áo để sẵn. Khi có lệnh phải di chuyển, chỉ trong mấy phút là tất cả

đă sẵn sàng. H mang mấy quyển sách và tài liệu trong một cái cặp, một đệ tử được phân

chuyên trách chiếc máy chữ. H luôn dành thời gian để rèn luyện sức khoẻ, đặc biệt thích

chơi bóng chuyền. Khi đội bạn lợi dụng cứ nhằm chỗ H mà bỏ nhỏ th́ ông thường rất

khoái trá: “các chú đánh được bác rồi”. Khi vượt suối, luôn có người bên cạnh H. Tuy

nhiên, theo một kẻ đào ngũ kể lại th́ sức chịu đựng và dẻo dai của H hơn đa số các đồng

đội trẻ của ông. H thường đùa: “bác là máy bay bà già cổ lỗ, c̣n các chú là phản lực”.

www.langven.com

130

Cuộc sống dần dần ổn định hơn, quanh nhà có vườn hoa, vườn rau, sân bóng chuyền, xà

kép, xà đơn. H c̣n mua các dụng cụ âm nhạc của đồng bào điạ phương và thỉnh thoảng

tổ chức những đêm liên hoan văn nghệ cho dân địa phương, giảng giải cho họ về cuộc

sống dưới xuôi, phát thuốc chữa bệnh. Cuộc sống b́nh yên kết thúc mùa thu 1947, khi

chiến dịch Léa bắt H phải sơ tán.

Sau chiến dịch Léa, cuộc xung đột rơi vào giai đoạn mà một nhà b́nh luận quân sự Pháp

miêu tả là “sa lầy”. Do ít quân, Valluy đành tập trung ở khu vực châu thổ để Việt minh có

cơ hội lập khu giải phóng ở miền Trung kéo dài 200 dặm từ Faifo (Hội an) tới Mũi

Varella (Phan thiết???). Tại Nam bộ, quân của Nguyễn B́nh bị đẩy tít vào rừng sâu.

Quân Pháp tiếp tục hành quân b́nh định những khu vực mới chiếm đóng để cô lập đối

phương. Việt minh c̣n phải đương đầu ở phía Nam với một số nhóm du kích muốn trở

thành “lực lượng thứ ba” giữa Việt minh và Pháp.

Trong bối cảnh, chiến dịch Léa không “đánh giập đầu” được Việt minh, các phần tử dân

tộc quan tâm đến mặt trận chính trị và vai tṛ của Bảo đại. Tháng 12, Bảo đại gặp

Bollaert tại Hạ long, không được kết quả lắm v́ Bollaert không chịu làm rơ những quyền

ǵ sẽ được chuyển giao cho nước Việt nam tương lai. Bảo đại ngần ngừ đă định kư vào

tuyên bố chung, nhưng lại thôi v́ thấy Mặt trận dân tộc thống nhất phản đối mạnh quá.

Tháng 3/1948, Bảo gặp đại diện Mặt trận tại HK và đồng ư chỉ định Nguyễn Văn Xuân,

người Nam bộ, công dân Pháp làm thủ tướng cho chính phủ lưu vong để có thêm con bài

mặc cả với Pháp. Sau một hồi suy nghĩ, Bollaert đồng ư đàm phán với chính phủ tạm thời

này. Tháng 6, hai bên gặp lại tại Hạ long và thống nhất thành lập Quốc gia liên hiệp Việt

nam, trên nguyên tắc độc lập và thống nhất của Việt nam trong khối liên hiệp Pháp. Tuy

nhiên cũng chẳng có ǵ quy định rơ ràng ư nghĩa của chữ “độc lập” cũng như quyền hạn

của quốc gia này. Cũng không rơ việc thành lập Quốc gia này có thể ảnh hưởng ǵ đến

cuộc chiến Việt minh – Pháp hiện tại.

Đối với Pháp, thoả thuận này là cái cớ tốt để tiếp tục xin viện trợ Mỹ. Mặc dù không hài

ḷng với cách giải quyết mâu thuẫn của Pháp, Mỹ cũng không có nhiều lựa chọn trước sự

đe doạ bành trướng của cộng sản Trung quốc và quan hệ càng ngày càng xấu đi với

Matxcova.Marshall đă ra lệnh cho các viên chức Mỹ ở Đông dương làm tất cả những ǵ

có thể để thổi “các nhóm dân tộc chủ nghĩa” làm suy yếu Việt minh. Mặc dù không ưa ǵ

Bảo đại, Mỹ cũng coi thoả thuận này là một “bước tiến” và cảnh báo nếu Pháp “không

thực thi độc lập và thống nhất cho Việt nam th́ có thể mất cả Đông dương”, ngược lại

Mỹ sẽ xem xét lại chính sách để có thể viện trợ trực tiếp cho Pháp ở Đông dương. Tháng

1/1949, cuối cùng Pháp nhượng bộ để Bảo đại ghép Nam bộ và trong Quốc gia liên hiệp

và ngày 9/3 tại Paris hai bên đă kư hiệp định. Pháp công nhận Việt nam độc lập và thống

nhất trong khối Liên hiệp Pháp. Quốc gia mới sẽ có ngoại giao, tài chính và quân đội

riêng. Một số quy định hạn chế là hiệp định phải được quốc hội Pháp thông qua, các điều

kiện của thành viên Liên hiệp và t́nh h́nh chiến tranh ở Việt nam. Những trở ngại này

hoá ra là quá lớn.

Tháng 1/1948, Việt minh tuyên bố kết thúc giai đoạn “pḥng ngự” để chuyển sang “cầm

cự “. Lănh đạo Đảng cho rằng cần phải huy động nhân dân Lào, Cambodia vào cuộc

chiến để phân tán quân Pháp. Một tài liệu của Đảng đă viết: “Nếu người Anh coi sông

Ranh là tuyến pḥng ngự thứ nhất của họ trong thế chiến 2 th́ Việt nam cũng coi

Mekong ở vị trí tương tự”. Trường Chinh đă viết trong một bài báo năm 1947: “Nếu địch

đánh phía trên, ta sẽ đánh chúng từ phía dưới. Nếu chúng đánh ở miền Bắc, ta sẽ trả lời ở

miền Trung hoặc Lào, Cambodia. Nếu địch tḥ chân vào căn cứ , ta sẽ đánh vào thắt lưng

www.langven.com

131

và hậu phương chúng cắt đường tiếp viện”. Các cán bộ đảng ở địa phương được chỉ thị

liên lạc với Lao Issara và Khme Issarak và t́m cách lái các tổ chức này theo Việt nam.

Tuy nhiên, chỉ thị nói tiếp, cần phải rất cẩn thận, không để cho bạn bất măn v́ sự thống

trị của Việt nam.

Bóng mây đen duy nhất che phủ hy vọng của Việt minh là việc Mỹ sẽ nhảy vào cuộc

chiến thông qua viện trợ trực tiếp cho Pháp ở Đông dương nếu Hiệp định Elysee được

phê chuẩn. Vietminh cần phải có đồng minh mới có thể đứng vững được. Nga th́ ở xa và

có vẻ không quan tâm ǵ, có vẻ như Trung cộng là lựa chọn duy nhất. Quan hệ với CCP

mới được khởi động lại từ mùa xuân 1947. H và Chu An Lai có điện qua điện lại cho

nhau, trao đổi thông tin. Tại vùng biên giới, các đơn vị của hai bên cũng đă hợp tác với

nhau lập ra Trung đoàn độc lập, chủ yếu là người Tày, Nùng, đánh Pháp ở vùng biên

giới. Tại Trung quốc, Bát lộ quân đang thắng thế và tiến xuống phía Nam. Pháp lo lắng.

Salan (thay Valluy chỉ huy quân viễn chinh ở Đông dương FEF) đề nghị mở các cuộc tấn

công để củng cố biên giới trước khi cộng sản thắng thế ở Trung quốc.

Trong đề nghị xin quân để mở cuộc tiến công mới, Salan đă không tiếc lời chỉ trích chính

phủ thờ ơ. Ngay lập tức tháng 4 năm đó, lấy cớ Salan c̣n trẻ và thiếu kinh nghiệm Paris

đă cử tướng Blaizot sang thay. Leon Pignon cũng được cử sang thay Bollaert. Hai ông

này không thống nhất được với nhau về kế hoạch quân sự tấn công lên Việt bắc. Để hoà

giải, tháng 5/1949 Paris cử tướng Revers sang thị sát. Ông này có ư kiến khá bi quan về

cả 2 lĩnh vực quân sự lẫn chính trị, không tin tưởng ǵ chính phủ tham nhũng của Bảo

đại. Revers cũng đề nghị chức danh Cao uỷ Pháp phải quyết cả chính trị lẫn quân sự.

Nhưng ông cũng nghi ngờ về thắng lợi quân sự, theo ông khả thi nhất là cải thiện t́nh

h́nh để dễ đạt được thoả thuận. Revers gợi ư quân Pháp củng cố vùng Bắc bộ cho đến khi

Mỹ đưa quân tham chiến trực tiếp. Do không đủ quân rải khắp biên giới, Revers đề xuất

chỉ bảo vệ đoạn từ Lạng sơn đến Thất khê và rút quân khỏi các vùng biên giới khác.

Mùa xuân 1949, PLA vượt sông Dương tử, tiến về phía Nam. Cộng sản chuẩn bị lập

chính phủ ở Bắc kinh. Tưởng đang lập kế hoạch di tản sang đảo Đài loan. Các nguồn t́nh

báo bắt đầu thông báo về sự có mặt của PLA tại biên giới. Có tin cho rằng, PLA đă chiếm

Móng Cái vào cuối tháng 3, sau đó mới rút đi. Cũng có tin cho rằng Giáp đă kư thoả

thuận về hợp quân tại vùng biên giới vào tháng 4. Một nguồn tin Mỹ nói đài phát thanh

của Việt minh thông báo PLA đă đến biên giới và đang hỗ trợ “một cách quan trọng” cho

Việt minh. Tại một cuộc họp gần Vinh vào thời điểm này, H đă tuyên bố chuẩn bị để mở

cuộc tấn công trên biên giới thông đường với Trung quốc. Việc Trung cộng thắng thế

hiển nhiên là tin tức tốt lành cho Việt minh. Nhưng H cũng thừa hiểu rằng, bất kỳ một sự

“a dua” công khai nào với Trung quốc sẽ tạo cớ để Mỹ can thiệp trực tiếp vào Việt nam

và làm lợi cho những lực lượng đối lập thù địch. Tháng 3/1949, H phủ nhận là đă có một

thoả thuận với Trung quốc, nói rằng đó là “tin đồn của bọn thực dân”. Khi trả lời một

phóng viên Mỹ cũng trong tháng đó, H nói Việt nam sẽ tự giành được độc lập, c̣n luận

điệu cộng sản đảng “khống chế Việt minh” là “tṛ tuyên truyền của Pháp”. Tháng 8/1949,

H tuyên bố, mặc dù có nhiều điểm tương đồng nhưng dân chủ mới của TQ là TQ, dân

chủ mới ở VN sẽ là của VN. Việc Pháp công nhận Quốc gia Liên hiệp của Bảo đại cũng

là thách thức mới. Washington bây giờ không c̣n phải đoán ư Pháp nữa và sẽ có thể

quyết định dính líu trực tiếp tới chiến tranh Đông dương. Tháng 6/49, H thừa nhận với

một phóng viên Indonesia là Việt minh có thể vẫn muốn đàm phán với Pháp trên cơ sở

độc lập và thống nhất dân tộc. Tuy nhiên những thắng lợi cuối cùng của Bát lộ quân vào

mùa hè năm đó đă thuyết phục các lănh đạo Đảng là có thể thành công bằng con đường

www.langven.com

132

quân sự. Ngày 9/7, Phạm Ngọc Thạch tuyên bố Bảo đại là “bù nh́n của bọn xâm lược”.

T́nh báo Pháp thu nhặt được một số thông tin về việc Giáp ra lệnh cho quân sĩ chuẩn bị

chuyển sang Tổng phản công.

Giữa tháng 8, chính phủ Việt minh chính thức kêu gọi chính quyền mới ở TQ giúp đuổi

quân Pháp. H cử hai đại diện đi Bắc kinh để chào mừng Mao và nhấn mạnh tầm quan

trọng của chiến thắng này đối với nhân dân châu á. Sau đó ít lâu, H quyết định đích thân

sẽ đi Bắc kinh để thắt chặt mối quan hệ. Hai đại biểu Việt minh đến vào giữa tháng 10.

Chính phủ mới ra mắt vào ngày 1/10 tại quảng trường Thiên An Môn và đang suy nghĩ

về vai tṛ tương lai của ḿnh trên trường quốc tế. Mặc dù Mao tuyên bố “sẽ nghiêng” về

Liên xô nhưng Mỹ vẫn c̣n đại diện ngoại giao và vẫn hy vọng tránh được cuộc khủng

hoảng ngoại giao. Quan điểm chính thống của TQ được Lưu Thiếu Kỳ phát biểu tại đại

hội Công đoàn toàn quốc vào tháng 10. Lưu nói, TQ sẽ giúp đỡ phong trào giải phóng

dân tộc tại châu á, đặc biệt là Đông dương và Malaysia. Ngày 25/11, báo chí TQ đăng

“Việt nam và Trung quốc trên tuyến đầu chống chủ nghĩa đế quốc”. Đến lúc đó, tất cả các

nước cộng sản đều đă công nhận ngoại giao TQ. Tháng 12/1949, dưới ảnh Stalin,Mao,

và H, Trường Chinh đă đọc báo cáo tại hội nghị công đoàn, tuyên bố Việt nam đi theo

chế độ mới của TQ về chính trị và tư tưởng. H gửi thư đến hội nghị nhấn mạnh “công

nhân sẽ là giai cấp lănh đạo xă hội”

Giữa tháng 12, Mao lên đường đi Matxcova, mà chưa có kế hoạch ǵ cụ thể với đề nghị

của Việt minh ngoài việc Lưu đă nói chuyện để gửi Luo Quibo, một cán bộ bộ tổng tham

mưu sang VN 3 tháng để nắm t́nh h́nh. Ngày 24/12, khoảng 1 tuần sau khi Mao đi, Lưu

triệu tập bộ chính trị để bàn về t́nh h́nh Đông dương và đưa ra chiến lược. Ngày hôm

sau, Lưu điện cho lănh đạo Việt nam là sẽ gửi đoàn đại biểu sang đánh giá t́nh h́nh và

cũng mời chính thức phía Việt nam sang thăm Trung quốc. Trước khi Lưu nhận được

điện trả lời, đoàn VN đă lên đường đi bộ xuyên rừng. Mặc dù Bắc kinh được thông báo

trưởng đoàn là cục trưởng hậu cần Trần Đăng Ninh, thực chất H chính là người dẫn đầu

đoàn. H vẫn mặc bộ kaki thường ngày, sử dụng bí danh là Định. Đoàn rời Tuyên quang

ngày 30/12, đến Jingxi ngày 16/1/1950 và được PLA hộ tống đến Nam ninh. Tại đây,H

được tin Trung quốc đă công nhận ngoại giao Việt nam dân chủ cộng hoà, 4 ngày sau khi

DRV tuyên bố tại Băng kok là đại diện duy nhất của nhân dân Việt nam. Nghỉ ngơi một

chút, cả đoàn lên tàu đến cảng Vũ hán trên sông Dương tử. Vài ngày sau, đoàn đến Bắc

kinh và được xếp ở Trung Nam Hải, khu biệt thự ở phía tây cấm thành. H được gặp lại

bạn cũ là Hoàng Văn Hoan, từ châu Âu đến dự Đại hội công đoàn nhưng bị muộn.

Trưởng đoàn đón tiếp H là tướng Chu Đức, chiến hữu của Mao, để bàn về các nội dung

quân sự chắc chắn sẽ được đề cập đến.M cũng gửi điện về hỏi thăm và chúc mừng DRV

gia nhập hệ thống XHCN. Trong bữa tiệc chiêu đăi đoàn, Lưu đề nghị với đại sứ Nga

Roshin là H cần được gặp trực tiếp Stalin để báo cáo t́nh h́nh. Không ngờ S đồng ư.

Ngày 3/2, H cùng với Ninh và Chu Ân Lai lên tàu đi Matxcova. Hoan ở lại để chuẩn bị

mở đại sứ quán. cxii

Từ cuối thế chiến 2, Nga xô có vẻ như chẳng quan tâm ǵ lắm đến số phận của cách mạng

Việt nam. Trong một phát biểu nổi tiếng tháng 9/1947, một thân cận của Stalin là Andrey

Zhdanov đă tuyên bố ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống lại chủ

nghĩa đế quốc, ngụ ư là Nga ủng hộ tất cả các lực lượng dân tộc tư sản đấu tranh đ̣i độc

lập tại các thuộc địa. Nhưng sang đầu 1948, Nga lại thay đổi thái độ, tỏ ra cực đoan hơn.

Trong tuyên bố của ḿnh tại Hội nghị thanh niên Calcuta, Nga đă chỉ thị cho các đảng

cộng sản từ bỏ liên hiệp với các đảng dân tộc, để tự giành chính quyền. Chính sách thiển

www.langven.com

133

cận này đă trở thành thảm hoạ tại Đông ấn thuộc Hà lan khi cuộc khởi nghĩa của cộng sản

bị d́m trong máu. Các đảng dân tộc trong khu vực cũng thẳng tay loại cộng sản ra khỏi

các mặt trận liên hiệp. Chính sách thù địch đối với các lực lượng tư sản dân tộc này chính

là quan điểm của Stalin, qua những bài học rút ra từ cuộc hợp tác Quốc-Cộng tại Trung

quốc. Từ lâu Stalin cũng đă nghi ngờ sự trung thành của H, nhất là thái độ cầu thân củaH

với Mỹ trong những tháng sau cuộc chiến Thái b́nh dương. Stalin càng nghi ngờ hơn khi

ICP đùng đùng tuyên bố tự giải tán. Năm 1947, Nga công nhận ngoại giao Indonesia của

Sukarno nhưng lờ đi Việt nam v́ cho rằng VN khó có thể thắng được Pháp.

Trong những năm đầu của cuộc chiến, VM cũng chẳng có quan hệ trực tiếp ǵ với Nga.

Cho đến năm 1949, đoàn đại biểu cộng sản Pháp, được cho là do Nga chỉ đạo, đến thăm

Đông dương để đánh giá t́nh h́nh. Tháng 8 năm đó, H gửi thư trực tiếp cho Stalin, cám

ơn Nga đă giúp đỡ CCP và hỗ trợ cho Liên đoàn lao động quốc tếcxiii. Thái độ của Stalin

được thể hiện rơ trong chuyến thăm của H. Trong hồi kư của ḿnh, Nikita Khrushchev,

miêu tả thái độ của Stalin với H là “khiêu khích và xúc phạm”. Ngày 14/2, H tham dự lễ

kư hiệp ước hữu nghị Nga – Trung và đề nghị Stalin kư hiệp ước tương tự với Việt nam.

Stalin chối phắt, lấy cớ là chuyến đi của H là chuyến đi bí mật. KhiH đề nghị kiếm một

chiếc trực thăng lượn vài ṿng rồi hạ xuống đâu đó với nghi lễ đàng hoàng, Stalin đă trả

lời: “người phương đông các ông thật giàu trí tưởng tượng!”. HCM đă làm mọi cách để

lấy ḷng vị chủ nhà độc đoán. Tan một cuộc họp, H đă tiến tới xin chữ kư của Stalin trên

cuốn tạp chí “

Liên xô

đ

ang xây d

ng

”, Stalin đă kư, nhưng sau đó lại ra lệnh cho đệ tử

thu hồi lại v́ lỡ kư nhầm. Khi đă thu lại được cuốn tạp chí, Stalin đă đem ra đùa với các

đồng hữu: “H chắc vẫn đang đi t́m cuốn tạp chí, nhưng ông ta làm sao t́m được”.

Dù sao những cố gắng của H cũng có được kết quả, ngày 30/1/1950, Nga xô tuyên bố

công nhận ngoại giao với DRV. Tuy nhiên Stalin chưa bao giờ hết nghi ngờ về tư tưởng

chính thống của H. Nhiều nguồn tin Việt nam kể rằng trong một cuộc gặp gỡ giữa hai bên

năm 1952, Stalin đă đưa ra 2 chiếc ghế và nói: “đồng chí H, một chiếc là dành cho người

dân tộc chủ nghĩa, một cho người quốc tế chủ nghĩa, đồng chí sẽ ngồi ghế nào?”, H đă trả

lời: “Tôi muốn ngồi trên cả hai”cxiv

Tại sao Stalin lại quyết định công nhận DRV mặc dù vẫn c̣n nghi ngờ H? Theo các

nguồn Trung quốc, cuộc đàm phán với Mao là nguyên nhân chính. Sau hiệp định Yalta,

Nga chiếm một vùng lớn đất đai của TQ mà Mao rất muốn đ̣i lại. Stalin sợ rằng TQ có

thể v́ tức giận mà đi theo Mỹ nên t́m cách xúi giục TQ theo đường lối cực đoan gây gổ

với Mỹ, chặt đường quan hệ Trung Mỹ. Trong một cuộc gặp tay ba tại Matxcova, Stalin

đă khuyến khích Mao cầm đầu cách mạng tại châu á. Stalin hứa với H: “

s

quan tâm

đế

n

Vi

t nam nh

ư

TQ. Các

đồ

ng chí có th

tin vào chúng tôi,

đặ

c bi

t bây gi

, sau chi

ế

n

tranh, chúng tôi có vô kh

i nhu y

ế

u ph

m, ph

ươ

ng ti

n và s

chuy

n cho các

đồ

ng chí

qua

đườ

ng TQ. Tuy nhiên vì

đ

i

u ki

n

đị

a lý t

nhiên, TQ m

i là ng

ườ

i

đỡ đầ

u chính. TQ

thi

ế

u gì, chúng tôi s

cung c

p

”.Mao hùa theo: “

Cái gì TQ có mà VN c

n, chúng tôi s

cung c

p”.cxv

Ngày 17/2 H cùng với Chu và Mao lên tàu về Bắc kinh. Cả hai đều đă giành được một

phần lợi ích, nhưng không phải dễ dàng. Sau nàyMao kể lại: “

l

y

đượ

c cái gì

đ

ó t

Stalin

ch

ng khác gì gi

ng mi

ế

ng th

t ra kh

i mi

ng h

. Ngày 3/3 tàu về đến BK. Mao mở

tiệc chiêu đăi H tại Trung Nam Hải với tất cả các quan chức cao cấp của TQ tham dự.

Trong cuộc đàm phán chính thức sau đó, PRC đồng ư đảm nhận an ninh tại biên giới và

cho phép VN mở lănh sự tại Nam ninh và Côn minh. H chỉ định Hoàng Văn Hoan làm

www.langven.com

134

đại sứ đầu tiên tại TQ và quyết định chuyển trụ sở hải ngoại của Đảng đang ở Bangkok

về TQ. Ngày 11/3, H lên đường về nước.

H có thể hài ḷng về chuyến đi của ḿnh. Ông đă giành được sự công nhận ngoại giao của

hai cường quốc XHCN chính và lời hứa sẽ giúp đỡ về quân sự và kinh tế. Việt minh sẽ

không phải chiến đấu đơn độc. TQ cũng có lợi. Mao rất tin rằng chiến tranh với Mỹ là

không thể tránh khỏi và có thể xảy ra bất cứ lúc nào dọc biên giới TQ không chỉ ở Triều

tiên. Có được VN làm lá chắn phía nam là cực kỳ quan trọng.

H đă không nhầm khi lo rằng việc chơi thân với Nga và TQ sẽ làm cho Mỹ điên lên. Liên

tiếp hai sự kiện TQ và Nga công nhận ngoại giao DRV đă ảnh hưởng lớn đến chính sách

của Mỹ. Trước đó năm 1949, quyết định của Pháp lựa chọn Bảo đại để đối trọng với Việt

minh làm Mỹ không hài ḷng. Các quan chức Mỹ cho rằng vị cựu hoàng này không có cá

tính và không được nhân dân ủng hộ. Có tin đồn là Mỹ đă tiếp cận môi giới HCM liên

minh với Bảo đại, thậm chí là hai bên đă gặp nhau. H lập tức lợi dụng luôn, trả lời phỏng

vấn của phóng viên Mỹ Harold Isaacs: tôi đă bảo tôi không phải là cộng sản, DRV không

phải là vệ tinh của Nga xô mà là chính phủ đoàn kết dân tộc rộng răi. Chắc là những tin

đồn này có ít phần sự thật. Mặc dù Dean Archeson không ưa ǵ Bảo đại, nhưng ông này

c̣n nghi H hơn, nhất là thái độ “cộng sản dân tộc” kiểu Tito. Dean nói: “

c

ng s

n hay

dân t

c ch

ngh

ĩ

a ch

có ý ngh

ĩ

a hàn lâm. T

i các n

ướ

c thu

c

đị

a, t

t c

c

ng s

n

đề

u là

nh

ng ng

ườ

i dân t

c. Khi lên n

m chính quy

n, nh

ng quan

đ

i

m c

____________

c

đ

oan Stalin c

a h

m

i l

ra”

. Cuộc căi vă trong bộ ngoại giao Mỹ về việc có công nhận Bảo đại hay không

kéo dài cho đến cuối năm 1949. Dean Archison, vốn là một người châu Âu, không muốn

làm Pháp giận dữ. Raymond Fosdick, thành viên chủ chốt của nhóm cố vấn tổng thống về

chính sách châu á th́ cho rằng thí nghiệm Bảo đại không có nhiều cơ may thành công.

Tuy H cũng không phải là lựa chọn hấp dẫn, nhưng nếu nh́n vào quan hệ lịch sử phức

tạp giữa TQ và VN, có cơ may là Mỹ sẽ có lợi thế hơn bây giờ. Quan điểm của Fosdick

tất nhiên là ch́m ngỉm ở một thành phố mà chiến tranh lạnh đă gơ cửa. Sau khi PRC ra

đời, Truman bị đả kịch liệt v́ không làm ǵ để ngăn chặn làn sóng đỏ. Tháng cuối cùng

năm 1949, Mỹ vẫn chưa quyết hy vọng là Pháp sẽ trao nhiều quyền tự quyết hơn cho Việt

nam. Nhưng đầu năm 1950, t́nh h́nh biến chuyểni, TQ chính thức giúp đỡ Việt nam đă

làm thay đổi cán cân lực lượng. Đầu tháng 2, Mỹ công nhận chính phủ Bảo đại. Anh và

một số nước châu Âu theo đuôi ngay nhưng đa số các nước châu á lại đứng ngoài. Ngày

10/3 Truman quyết định viện trợ quân sự $15m cho Đông dương và $10m cho Thái lan.

Nhà trắng cũng bắt đầu lên kế hoạch cử đoàn cố vấn sang Đông dương để xác định làm

thế nào có thể quản lư chương tŕnh một cách hữu hiệu.

Đoàn đại biểu TQ do Luo Guibo đến biên giới Việt nam ngày 26/2/1950 và được Giáp

cùng với Hoàng Văn Thái nghênh đón và đưa về căn cứ địa Việt bắc. Trường Chinh, lănh

đạo đảng khiH đi vắng cũng đă tiếp đoàn.cxvi Ba tuần sau khi H lên đường, Chinh đă chủ

tŕ Hội nghị toàn quốc lần thứ 3 để bàn kế hoạch tổng phản công. Chinh phấn khích tuyên

bố, với sự thành lập của nước Trung hoa mới “

chúng ta

đ

ã không b

cô l

p,

đ

ã m

ở đượ

c

đư

òng ra th

ế

gi

i.

Đằ

ng sau chúng ta là m

t

đồ

ng minh hùng m

nh”

. Ngày 21/2, đảng

kêu gọi tổng động viên: tất cả ra tiền tuyến, tất cả cho chiến tranh nhân dân, tất cả cho

chiến thắng. Giáp cũng có bài phát biểu dài tại hội nghị. Giáp nhấn mạnh mặc dù t́nh

h́nh thế giới đang diễn biến có lợi cho ta và ta nhất định sẽ thắng, nhưng quân Pháp vẫn

chiếm ưu thế trên toàn cục. Cuộc tổng phản công sẽ không phải là một chiến dịch đơn lẻ

mà là một chuỗi các trận tấn công trên nhiều điểm khác nhau của Đông dương, đẩy cán

cân lực lượng dần dần nghiêng về Việt minh.

www.langven.com

135

TQ bắt đầu viện trợ thiết bị quân sự cho Việt nam vài tháng sau đó. Đoàn cố vấn Trung

quốc (CMAG) do tướng Vi Quốc Thanh chỉ huy cũng đă đến Việt bắc và bắt đầu huấn

luyện chiến lược, chiến thuật cho VLA. Trước khi đi, đoàn đă được Lưu Thiếu Kỳ dặn

ḍ: “nếu các đồng chí không giúp được đuổi kẻ thù ra khỏi Đông dương, th́ TQ cũng sẽ

gay go”. Những đơn vị chính quy đầu tiên của Việt nam cũng được gửi sang Vân nam

huấn luyện vào tháng 4/1950. Thiết bị quân sự, chủ yếu là chiến lợi phẩm của Nhật và

Mỹ được chở theo đường biển từ cảng Yulin, phía nam đảo Hải nam. Hai bên thoả thuận

là TQ sẽ không đưa quân tham chiến trực tiếp trừ khi Việt minh bị đe doạ tiêu diệt. Bắc

kinh cũng yêu cầu giữ kín để tránh làm xấu quan hệ với Pháp. Nhưng lo lắng này bằng

thừa v́ Pháp đă được thông tin đầy đủ về chuyến đi của H và những hậu quả của nó. Đến

tháng 9/1950 đă có khoảng 20,000 quân được huấn luyện và trang bị ở TQ. Đa số họ

được biên chế vào sư đoàn 308. Hai trường chính trị được mở tại Nam ninh và Kaiyuan ở

Vân nam, mỗi khoá 6 tháng. Luo và Vi thường xuyên gặp gỡ với lănh đạo Việt minh.

Việt minh cũng không che dấu tầm quan trọng của mối quan hệ với TQ. Tháng 8, khi trả

lời phỏng vấn nhà báo Mỹ Andrew Roth, H thừa nhận ảnh hưởng của TQ và phong trào

giải phóng Việt nam đang chuyển ḿnh theo mô h́nh của TQ. Phong trào học tập kinh

nghiệm kháng Nhật, chống Tưởng của PLA được phát động rộng khắp ở Việt bắc. Tài

liệu được dịch, in và phân phối cho tất cả sĩ quan, binh lính. Các lớp học được mở thường

xuyên để thảo luận làm cách nào áp dụng những kinh nghiệm đó vào điều kiện Việt nam.

Tất nhiên là Việt minh chỉ giả vờ là mới “bất ngờ” phát hiện ra sự hay ho của Trung

cộng. Ngay từ lời kêu gọi kháng chiến năm 1946,H đă xác nhận là Việt nam sẽ áp dụng

đường lối chiến tranh nhân dân của Mao. Đầu năm sau, Trường Chinh đă viết bài ngắn

Kháng chi

ế

n nh

t

đị

nh th

ng l

i

, trích dẫn rất nhiều từ những bài viết của Mao về chiến

tranh du kích. Bản thân bút danh của Chinh cũng thể hiện sự ngưỡng mộ cách mạng

Trung quốc (tên của một chiến dịch nổi tiếng của Bát lộ quân). Tuy nhiên Chinh cũng đă

chỉ ra một số điểm không thể áp dụng: Việt nam nhỏ hơn và không có khả năng xây dựng

vùng giải phóng rộng lớn ở phía bắc TQ trong cuộc chiến kháng Nhật. Việt nam cũng sẽ

phải đặc biệt chú trọng đến mặt trận ngoại giao mà các đồng chí TQ hoàn toàn không

quan tâm.

Nhưng ảnh hưởng TQ không dừng lại ở lĩnh vực quân sự mà lan sang các vấn đề đối nội

và tổ chức đảng. Từ hội nghị 8 tại Pacbo năm 1941, đảng chủ trương ưu tiên đấu tranh

chống đế quốc theo kế hoạch mà H đă du nhập từ những năm 1920. Giai đoạn đầu là giải

phóng dân tộc, đảng sẽ phải thu ḿnh để đoàn kết dân tộc và tránh sự can thiệp của các

thế lực chống cộng bên ngoài. Sau đó mới dần chuyển sang cách mạng XHCN. Bây giờ,

các đồng chí Trung quốc nghĩ khác và tư vấn tổ chức lại đảng theo mô h́nh TQ, khi mà

giai đoạn một sẽ chuyển ngay sang giai đoạn hai là cách mạng xă hội phản phong. Những

ảnh hưởng của quá tŕnh này thể hiện rơ nét trong Hội nghị toàn quốc lần thứ 3, khi đảng

quyết định sẽ nhấn mạnh hơn vấn đề giai cấp trong mặt trận thống nhất, cũng như đưa

đảng trở lại công khai. Hành động này sẽ gộp DRV vào cùng một phe với chính phủ mới

của TQ cũng như những “nền dân chủ nhân dân” ở Đông Âu, tuy nhiên chắc chắn sẽ làm

việc đạt được thoả thuận với Pháp trở nên phức tạp cũng như giúp Mỹ có cớ can thiệp

trực tiếp.

Vai tṛ của H trong việc chuẩn y thay đổi đường lối này đến đâu là một câu hỏi lớn? Đặc

biệt trong bối cảnh H vắng mặt tại Hội nghị 3. Từ những năm 20, quan điểm rơ ràng của

H là cách mạng hai giai đoạn. Trong giới cộng sản quốc tế và ngay cả giữa các đồng

nghiệp cũng luôn luôn có sự nghi ngờ về ḷng trung thành của H với những quan điểm

www.langven.com

136

giáo điều của Bắc kinh và Matxcova. Suốt mùa đông 1949-1950, nhiều bài báo dựa trên

thông tin của bọn đào ngũ đă đưa tin về việc Stalin ra lệnh thay thế H bằng Chinh v́H

không chịu tuân lệnh Matxcova. Cũng có tin đồn là đoàn đảng CS Pháp do Léo Figueres

đến Việt bắc tháng 3/1950 để khôi phục lại vai tṛ lănh đạo của đảng như đội tiên phong

của cách mạng Việt namcxvii. Có thể cho rằng H không hào hứng lắm trong việc chấp

nhận đường lối mới, nhưng H thừa hiểu rằng sự can thiệp của Mỹ là không thể tránh khỏi

và chỉ có dựa vào Nga xô và Trung cộng, Việt minh mới có thể chiến thắng. Như mọi

khi, H sẵn sàng điều chỉnh và biến hoàn cảnh mới thành có lợi cho ḿnh. Với nghệ thuật

“lay động” các ân nhân bằng cách như nuốt lấy từng lời khuyên cũng như kinh nghiệm

của họ,H đă gửi thư ca ngợi chính phủ mới ở TQ và thừa nhận là đảng và chính phủ

ḿnh chẳng có cách nào khác là học theo mô h́nh các đồng chí TQ. Không phải ngẫu

nhiên mà H bắt đầu thử nghiệm tập thể hoá nông nghiệp vào cuối năm 1950.

Từ mùa xuân năm 49, các nhà chiến lược của đảng đă chỉ ra rằng phải kiểm soát được

biên giới, mở đường tiếp tế từ TQ mới có thể nói đến chuyện tổng phản công. Về phần

ḿnh tướng Pháp là Blaizot quyết định bỏ phía bắc Lạng sơn và tập trung kiểm soát vùng

từ Lạng sơn đến vịnh Bắc bộ. Tuy nhiên cho đến hè năm 50, kế hoạch này cũng chưa

được triển khai đến nơi đến chốn. Kết quả là quân Pháp bị căng ra trên một tuyến những

đồn cô lập dọc đường 4 từ Móng cái đến Cao bằng.

Vào tháng 4/49 VM quyết định sẽ tấn công cánh tây trước, nhưng đến tháng 7/50, ban

thường vụ lại quyết định chuyển sang cánh phía đông, có đường thâm nhập đồng bằng

sông Hồng dễ dàng hơn. H phát biểu, chỗ này “

d

gi

khi rút, d

ễ đ

ánh khi t

n công

”.

Giáp được bổ nhiệm chỉ huy chiến dịch. TQ cử tướng Trần Canh, chuyên gia gỡ rối của

Bát lộ quân đến Việt bắc để giúp Việt minh lên kế hoạch. H dặn Giáp “

chi

ế

n d

ch này

c

c k

quan tr

ng. Chúng ta không

đượ

c thua!”

và hứa sẽ trực tiếp thị sát chiến trường

cùng với Trần Canh. Giữa tháng 9, hơn 8000 quân Việt minh tấn công Đông khê. T́nh

báo Pháp kinh ngạc thấy VM lần đầu tiên được tổ chức thành trung đoàn, có sử dụng

bazoka, súng phóng lựu và tiểu liên. Quân Pháp rối loạn và rút chạy để lại hàng trăm xác

chết và hàng chục ngàn tấn vũ khí. Quân ứng viện từ Cao bằng lên cũng chịu số phận

tương tự. Tướng Marcel Carpentier chỉ huy quân Pháp trên mặt trận đă ra lệnh rút khỏi

tất cả các đồn dọc tuyến biên giới, trừ Móng cái. Tại Hà nội, cao uỷ Léon Pinon rất phẫn

nộ và miêu tả Carpentier là “

b

ị độ

ng và ch

bi

ế

t phòng th

...rõ ràng là không có kh

n

ă

ng

lãnh

đạ

o t

i cao”

và thay thế ông này. Tuy nhiên mọi việc đă quá muộn. Đến cuối tháng

10, toàn bộ khu biên giới rộng lớn phía bắc châu thổ sông Hồng đă về tay Việt minh.

Người Pháp hoảng loạn, thông báo hơn nửa dân Hà nội theo Việt minh và chuẩn bị sơ tán

anh em bà con khỏi Hà nội. Các tướng Pháp không bao giờ có thể lừa dối ḿnh về chiến

thắng quân sự cuối cùng được nữa. Donal Heath, vừa mới đến Sài g̣n với tư cách đại

diện của Mỹ tại Quốc gia liên hiệp cũng cảnh báo rằng t́nh h́nh ở Bắc bộ là bi đát. Ông

này cho rằng, chính phủ liên hiệp th́ vừa lười biếng vừa không được dân ủng hộ, Bảo đại

th́ thiếu động cơ và cũng không có khả năng lănh đạo. Heath cũng dự báo là TQ sẽ

không can thiệp trực tiếp trừ khi Việt minh bị đe doạ tiêu diệt.

Vai tṛ của cố vấn TQ trong chiến dịch biên giới cũng gây tranh căi sau này. Hoàng Văn

Hoan cho rằng, chính Trần Canh đă tư vấn H đánh Đông khê và chỉ bao vây Cao bằng, cố

vấn TQ cũng được H bố trí vào tất cả các đơn vị từ cấp tiểu đoàn trở lên. Giáp th́ kiên

quyết rằng chính ông đă tự lực đi đến quyết định đánh Đông khê, và sau đó cả Trần Canh

lẫn H đều đă phê duyệt kế hoạch này. Dù sự thật thế nào đi nữa, sau chiến dịch, Trần

Canh được rút về và điều sang mặt trận Triều tiên. Trước khi về, Canh đă viết một báo

www.langven.com

137

cáo phê phán khá gay gắt khả năng chiến đấu của Việt minh. Theo Canh, lính VM th́

không có kỷ luật, không có kinh nghiệm chiến đấu và chưa sẵn sàng cho những trận đánh

lớn, chỉ huy VM th́ không nắm được khả năng của lính, hay giấu những tin tức xấu.

Các nhà chiến lược của VM th́ đang phấn khởi với kết quả tốt hơn mong đợi của chiến

dịch biên giới và bàn đến việc tổng phản công vào trung tâm của châu thổ sông Hồng.

Mặc dù H vẫn thận trọng phê phán mấy viên tướng nóng đầu là tổng phản công, cũng

như phụ nữ có mang, phải đủ ngày đủ tháng mới có thể tiến hành, không khí lạc quan bao

trùm. Giáp dự kiến trong năm sau sẽ tấn công tại 3 điểm đồng bằng: phía bắc tại Vĩnh

Yên, phía đông tại Mạo kê và phía nam dọc theo sông Đáy. Nếu thành công sẽ bắt đầu

giai đoạn 2 tấn công thẳng vào thủ đô. Đài phát thanh Việt minh dự báo năm sau H sẽ ăn

Tết tại Hà nội. TQ hứa sẽ cung cấp đầy đủ vũ khí và các phương tiện chiến tranh. Nếu

đảng không lạc quan tếu trong những dự báo của ḿnh, có vẻ như cuộc chiến đă đến hồi

kết.

www.langven.com

138

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro