HỞ VAN HAI LÁ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

HỞ VAN HAI LÁ

Hở  van  hai  lá  (HoHL)  là  bệnh  khá  thường  gặp.  HoHL

thường  chia  thành  hai  loại:  HoHL  thực  tổn  (do  thấp tim, viêm

nội tâm mạc, biến chứng của NMCT...) hoặc HoHL cơ năng…

I.   Triệu chứng lâm sàng

A.  Triệu chứng cơ năng

1.   Phù phổi (khó thở khi nghỉ, khi nằm) hoặc sốc tim

(do giảm thể tích tống máu) là triệu chứng chính của

hở van hai lá (HoHL) nặng, cấp, mới xuất hiện.

2.   HoHL mạn tính thường không biểu hiện triệu chứng

cơ  năng  gì  trong  nhiều  năm  ngoài  một  tiếng  thổi  ở

tim.  Đợt  tiến  triển  của  HoHL  thường  xuất  hiện  khó

thở  khi  gắng  sức  hay  giảm  dung  nạp  khi  gắng  sức,

nặng  hơn  sẽ  xuất  hiện  khó  thở  khi  nằm  và cơn khó

thở  kịch  phát  về  đêm.  Lâu  ngày  sẽ  xuất  hiện  triệu

chứng suy tim trái, cũng như các triệu chứng suy tim

phải do tăng áp động mạch phổi.

3.   Loạn nhịp hoàn toàn (rung nhĩ) thường gặp do hậu

quả  của  giãn  nhĩ  trái.  Triệu  chứng  hay  gặp  khác  là

mệt (do giảm thể tích tống máu và cung lượng tim).

B.  Triệu chứng thực thể

1.   Sờ: Mỏm tim đập mạnh và ngắn nếu chức năng thất

trái còn tốt. Mỏm tim đập lệch trái khi thất trái giãn.

Có  thể  cảm  thấy  hiện  tượng  đổ  đầy  thất  nhanh  và

giãn nhanh nhĩ trái. 

2.   Nghe tim:

a.   Tiếng tim: 

•    Âm sắc T1 thường giảm (HoHL mạn) nhưng

cũng có thể bình thường nếu do sa van hai lá

hoặc rối loạn hoạt động dây chằng.  

     254

•    T2  thường tách đôi rộng (do phần chủ của T2

đến  sớm),  âm  sắc  sẽ  mạnh  khi  có  tăng  áp

động mạch phổi.

•    Xuất  hiện  tiếng  T3  khi  tăng  dòng  chảy  tâm

trương  cho  dù  đó  không  phải  luôn  luôn  là

biểu hiện rối loạn chức năng thất trái. Đôi khi

có  thể  nghe  thấy  tiếng  T4  nhất  là  trong  đợt

HoHL cấp.

b.   Tiếng  thổi  tâm  thu:  toàn  thì  tâm  thu,  âm  sắc

cao, kiểu tống máu, nghe rõ nhất ở mỏm, lan ra

nách (xuất hiện giữa thì tâm thu nếu do sa va hai

lá  hoặc  rối  loạn  chức  năng  cơ  nhú).  Tiếng  thổi

tâm thu này có thể ngắn, đến sớm khi HoHL cấp/

nặng phản ánh tình trạng tăng áp lực nhĩ trái. Tuy

vậy nếu áp lực nhĩ trái tăng quá nhiều sẽ không

còn  nghe  rõ  thổi  tâm  thu  nữa.  Cần  chẩn  đoán

phân biệt tiếng thổi toàn tâm thu của HoHL với

hở ba lá (HoBL) và thông liên thất (TLT): tất cả

đều  có  âm  sắc  cao,  nhưng  tiếng  thổi  của  TLT

thường thô ráp hơn, nghe rõ ở bờ trái xương ức

và  lan  ra  vùng  trước  tim;  tiếng  thổi  của  HoBL

nghe rõ nhất ở bờ dưới trái xương ức, lan về bờ

phải  xương  ức  và  đường  giữa  đòn  trái,  tăng  lên

khi hít sâu trong khi thổi tâm thu HoHL nghe rõ

nhất  ở  mỏm  và  lan  ra  nách  (cũng  có  thể  lan  ra

đáy tim do dòng chảy hướng ra trước). 

c.   Các triệu chứng thực thể của suy tim trái và suy

tim  phải  (tĩnh  mạch  cổ  nổi,  gan  to,  cổ  chướng,

phù chi dưới) xuất hiện khi bệnh tiến triển nặng.

II.  Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh 

A.  Nguyên nhân gây ra HoHL

1.   Bệnh lý lá van:

a.   Di chứng thấp tim: xơ hoá, dầy, vôi, co rút lá van.

b.   Thoái hoá nhầy: làm di động quá mức lá van.

c.   Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (VNTMNK) gây

thủng lá van, co rút lá van khi lành bệnh. 

d.   Phình   lá   van   do   dòng   hở   van   ĐMC   (do

VNTMNK) tác động lên van hai lá.

e.   Bẩm sinh: 

•    Xẻ (nứt) van hai lá: đơn thuần hoặc phối hợp

(thông sàn nhĩ thất). 

•    Van hai lá có hai lỗ van.

f.   Bệnh cơ tim phì đại: van hai lá di động ra trước

trong kỳ tâm thu.

2.   Bệnh lý vòng van hai lá:

a.   Giãn vòng van: 

•    Giãn thất trái do bệnh cơ tim giãn, bệnh tim

thiếu máu cục bộ, tăng huyết áp.

b.   Vôi hoá vòng van:

•    Thoái hoá ở người già, thúc đẩy do tăng huyết

áp, đái đường, suy thận.

•    Do bệnh tim do thấp, hội chứng Marfan, hội

chứng Hurler.

3.   Bệnh lý dây chằng:

a.   Thoái hoá nhầy gây đứt dây chằng. 

b.   Di chứng thấp tim: dày, dính, vôi hoá dây chằng.

4.   Bệnh lý cột cơ:

a.   Nhồi máu cơ tim gây đứt cột cơ nhú.

b.   Rối loạn hoạt động cơ nhú:

•    Thiếu  máu  cơ  tim:  cụm  cơ  nhú  trước  được

cấp  máu  từ  nhánh  mũ  và  nhánh  liên  thất

trước,  cụm  cơ  nhú  sau  từ  nhánh  xuống  sau

(PDA). 

•    Bệnh lý thâm nhiễm cơ tim: amyloid, sarcoid.

c.   Bẩm sinh: dị dạng, van hình dù...

B.  Cơ chế bệnh sinh

1.   HoHL  cấp  tính:  gây  tăng  thể  tích  cuối  tâm  trương

thất trái (vì thêm một lượng máu do HoHL từ nhĩ trái

đổ về), tăng độ dài sợi cơ (tiền gánh) và tăng co bóp

cơ  tim  theo  định  luật  Frank-Starling  dù  hậu  quả  là

tăng  áp  lực  đổ  đầy  thất  trái  và  gây  ứ  huyết  ở  phổi.

Hậu gánh giảm do máu thoát về nhĩ trái vì thế càng

làm  thất  trái  bóp  khỏe,  tăng  động  tuy  thể  tích  tống

máu  vẫn  giảm.  Nếu  dung  nạp  được,  bệnh  nhân  sẽ

tiến triển thành HoHL mạn tính.

2.   Trong trường hợp HoHL mạn tính, thất trái giãn và

phì  đại  lệch  tâm.  Sức ép lên thành cơ tim sẽ trở lại

bình  thường  do  phì  đại  cơ  tim,  đồng  thời  mức  độ

giảm  hậu  gánh  do  thoát  máu  về  nhĩ  trái  không  còn

nhiều  như  trong  pha  cấp.  Tiền gánh vẫn ở mức cao

làm nhĩ trái giãn. Thất trái không co bóp tăng động

như  trong  pha  cấp  song  vẫn  ở  ngưỡng  bình  thường

cao.  Rối  loạn  chức  năng  thất  trái  sẽ  tiến  triển  âm

thầm  trong  nhiều  năm  dù  không  có  hoặc  có  rất  ít

triệu  chứng.  Những  thông  số  truyền  thống  đánh  giá

co  bóp  cơ  tim  (như  phân  số  tống  máu)  sẽ  vẫn  ở

ngưỡng bình thường trong thời gian dài do tăng tiền

gánh và giảm/bình thường hoá hậu gánh. Lâu dần rối

loạn  chức  năng  kèm  với  giãn  tiến  triển  buồng  thất

trái  và  tăng  sức  ép  lên  thành  tim  càng  làm  HoHL

tăng  lên,  thành  một  vòng  xoắn  tiếp  tục  gây  giảm

chức năng thất trái, gây mất bù. Khi các triệu chứng

cơ năng đã rõ thì có khi rối loạn chức năng thất trái

đã không hồi phục, làm tăng nguy cơ suy tim, tăng tỷ

lệ biến chứng và tử vong dù đã phẫu thuật giải quyết

bệnh van hai lá.

III. Các xét nghiệm chẩn đoán

A.  Điện tim: các biểu hiện không đặc hiệu như dày nhĩ trái,

dày thất trái, rung nhĩ đều có thể gặp ở bất kỳ giai đoạn

nào của HoHL.           

B.  Xquang  ngực:  thường  có  giãn  thất  trái  và  nhĩ  trái  nếu

HoHL  mạn  tính.  Hình  ảnh  phù  khoảng  kẽ  và  phù  phế

nang gặp khi HoHL cấp hoặc khi đã suy thất trái nặng.

C.  Siêu  âm  Doppler  tim:  (qua  thành  ngực  và  qua  thực

quản) đóng vai trò rất quan trọng, được sử dụng rộng rãi

để chẩn đoán xác định và đánh giá mức độ hở van hai lá.

Mức độ hở hai lá trên siêu âm Doppler tim thường chia

làm 4 độ (từ 1/4 đến 4/4) hoặc các mức độ: nhẹ (1+), vừa

(2+), nhiều (3+) và rất nhiều (4+).

1.   Siêu âm Doppler mầu: chẩn đoán HoHL bằng hình

ảnh dòng màu phụt ngược về nhĩ trái. Độ HoHL có

thể  ước  tính  dựa  vào  sự  lan  của  dòng  màu  phụt

ngược  trong  nhĩ  trái. 

a.   Độ  dài  tối  đa  của  dòng  màu  (hở)  phụt  ngược

trong nhĩ trái hoặc % diện tích dòng hở so với

diện  tích  nhĩ  trái.  Rất  đáng  tin  cậy  nếu  HoHL

kiểu  trung  tâm,  song  thường  đánh  giá  thấp  mức

độ hở van nếu dòng hở lệch tâm. Với những dòng

hở lệch tâm lớn, HoHL được ước tính tăng thêm

1  độ.  Hướng  của  dòng  hở  cho  phép  đánh  giá

nguyên nhân gây HoHL. 

Cần chú ý: với phương pháp này, khi dùng

siêu  âm  qua  thực  quản  để  đánh  giá  HoHL,  nếu

dùng an thần (giảm hậu gánh) sẽ làm giảm mức

HoHL  so  với  bình  thường.  Tương  tự,  nếu  đánh

giá  HoHL  ngay  trong  mổ,  độ  hở  thay  đổi  nhiều

phụ thuộc vào tiền gánh và hậu gánh cơ tim. Do

vậy,   người   ta   thường   phối   hợp   thêm   nhiều

phương pháp khác để đánh giá mức độ HoHL.  

b.   Độ rộng dòng hở (chỗ hẹp nhất) khi qua lỗ hở

(vena contracta): là một chỉ số đáng tin cậy. Nếu

rộng  >  0,5  cm  là  bằng  chứng  của  HoHL  nặng.

Tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi máy siêu âm

phải có độ phân giải cao và phải phóng hình to,

nên dễ có xu hướng đánh giá quá mức độ hở.

c.   Diện  tích  lỗ  hở  hiệu  dụng  (ERO)  tính  theo

phương pháp PISA (Proximal Isovelocity Surface

Area): dựa trên hiện tượng dòng chảy qua lỗ hẹp

hình phễu: khi tới gần lỗ hở, vận tốc của dòng hở

gia tăng hội tụ có dạng bán cầu, tại phần rìa vùng

hội  tụ  vận  tốc  dòng  chảy  chậm,  dạng  cầu  lớn

trong  khi  tại  vùng  sát  lỗ  hở  vận  tốc  dòng  chảy

nhanh, dạng cầu nhỏ. Có thể đo chính xác vận tốc

dòng chảy và đường kính vùng cầu tại điểm đầu

tiên có hiện tượng aliasing của phổ Doppler (tần

số  giới  hạn  Nyquist),  từ  đó  tính  diện  tích  lỗ  hở

hiệu dụng (ERO = 2πr2V/Vmr) và thể tích dòng

hở (RV = ERO × VTImr) trong đó r là chiều dài

từ  bờ  ngoài  vùng  cầu  hội  tụ  đến mặt phẳng van

hai lá, V là vận tốc tại vùng aliasing, Vmr là vận

tốc  tối  đa  dòng  hở  xác  định  bằng  Doppler  liên

tục,  VTImr  là  tích  phân  vận  tốc  thời  gian  của

dòng  hở.  Diện  tích  lỗ  hở  hiệu  dụng  (ERO)  là

thông số đánh giá chính xác độ hở: nhẹ (ERO: 0-

10  mm2),  vừa  (10-25  mm2),  nặng  (25-50  mm2),

rất nặng (> 50 mm2). Tuy nhiên thực tế lại có một

vài sai số khi chọn vùng hội tụ dạng cầu dẹt, xác

định  mặt  phẳng  lỗ  hở,  khi  dòng  hở  lại  không

đồng nhất, lệch tâm... và làm tăng giả tạo độ hở.

Dù vậy hiện tượng PISA thường báo hiệu mức độ

hở hai lá vừa nhất là khi sử dụng Doppler xung

(PRF).

2.   Siêu âm Doppler xung: có thể giúp đánh giá mức độ

hở van hai lá, nhất là trong những trường hợp HoHL

nặng, có thể dựa vào dòng chảy tĩnh mạch phổi. Hiện

tượng  giảm  phổ  tâm  thu  của  dòng  chảy  tĩnh  mạch

phổi  khi  chức  năng  thất  trái  bình  thường  báo  hiệu

HoHL nặng, tuy nhiên không chính xác nếu rung nhĩ

hoặc đã rối loạn chức năng thất trái nặng. Hiện tượng

đảo  ngược  phổ  tâm  thu  dòng  chảy  tĩnh  mạch  phổi

báo hiệu HoHL rất nặng.

D.  Thông tim

1.   Sóng v trên đường cong áp lực nhĩ trái (tương ứng

giai đoạn đổ đầy nhĩ trái từ các tĩnh mạch phổi trong

thời kỳ tâm thu) cho phép ước lượng mức độ HoHL,

đặc  biệt  là  HoHL  cấp  tính.  Biên  độ  sóng  v  gấp  2-3

lần áp lực trung bình nhĩ trái gợi ý HoHL nặng. Tuy

nhiên nếu HoHL mạn tính hoặc khi giảm hậu gánh,

có thể không thấy bất thường sóng v. Không có sóng

v cũng không thể loại trừ HoHL nặng. Mặt khác sóng

v  cao  cũng  có  thể  gặp  trong  những  trường  hợp  như

rối  loạn  chức  năng  thất  trái  mà  nhĩ  trái  kém  giãn,

thông liên thất sau nhồi máu cơ tim hoặc những tình

trạng tăng lưu lượng phổi.   

2.   Chụp buồng thất trái: cho phép ước lượng mức độ

HoHL theo phân độ của Seller: 

•    1/4:  Chỉ  có  vệt  cản  quang  mờ  vào  nhĩ  trái,

không đủ viền rõ hình nhĩ trái.

•    2/4: Cản quang tràn khắp nhĩ trái nhưng đậm

độ không bằng thất trái, mất đi nhanh chóng

sau 2-3 nhát bóp.

•    3/4: Đậm độ cản quang ở nhĩ trái và thất trái

bằng nhau.

•    4/4: Cản quang ở nhĩ trái đậm hơn ở thất trái,

xuất hiện cả cản quang ở tĩnh mạch phổi.

3.   Thông  tim  cũng  dùng  để  khảo  sát  đồng  thời  bệnh

động  mạch  vành  khi  HoHL:  bệnh  nhân  nam  tuổi  ≥

40, nữ tuổi ≥ 50 dù không có triệu chứng hoặc yếu tố

nguy  cơ  của  bệnh  mạch  vành  cũng  nên  chụp  động

mạch vành trước mổ. Chỉ định thông tim gồm: 

a.   Khi không tương xứng giữa triệu chứng lâm sàng

và kết quả thăm dò không chảy máu, 

b.   Khi  dự  định  phẫu  thuật  ở  những  bệnh  nhân  còn

nghi ngờ về mức độ nặng của hở  van hai lá hoặc

bệnh mạch vành,  

c.   Bệnh  nhân  hở  van  hai  lá  có  nguy  cơ  mắc  bệnh

mạch vành hoặc nghi ngờ bệnh mạch vành là căn

nguyên gây hở van hai lá.

IV. Điều trị

Nắm bắt cơ chế sinh bệnh là việc rất cần thiết để lựa chọn

biện pháp điều trị phù hợp.

A.  Hở van hai lá cấp tính

1.   Điều  trị  nội  khoa:  nếu  huyết  áp  trung  bình  động

mạch  vẫn  trong  giới  hạn  bình  thường,  sử  dụng  các

thuốc  hạ  hậu  gánh  có  thể  làm  ổn  định  tình  trạng

HoHL   cấp.   Truyền   tĩnh   mạch   Nitroprusside   và

Nitroglycerin  làm  giảm  áp  lực  mạch  phổi  và  tăng

cường  thể  tích  tống  máu.  Nếu  chưa  cần  phẫu  thuật

ngay, có thể chuyển sang  dạng thuốc uống, phối hợp

thuốc  ức  chế  men  chuyển  và  Hydralazin.  Trong

những trường hợp HoHL nặng, cấp (mà thất trái chưa

kịp  giãn,  phì  đại  như  HoHL  do  đứt  cột  cơ  nhú  sau

nhồi máu cơ tim) nếu xuất hiện triệu chứng phù phổi,

sốc tim thì nên đặt bóng trong động mạch chủ để ổn

định tình trạng huyết động trước khi gửi đi mổ.  

2.   Điều trị ngoại khoa: đa số bệnh nhân HoHL nặng,

cấp tính đều phải mổ cấp cứu. 

B.  Hở van hai lá mạn tính

1.   Chọn phương pháp và thời điểm điều trị phù hợp:

a.   Bệnh  nhân  HoHL  từ  vừa  đến  nặng  nếu  có  triệu

chứng thì có chỉ định mổ.

b.   Bệnh  nhân  HoHL  nặng  không  có  hoặc  có  rất  ít

triệu  chứng  thì  chỉ  định  phức  tạp  hơn.  Vấn  đề

mấu  chốt  là  xác  định  được  thời  điểm  can  thiệp

trước  khi  chức  năng  thất  trái  giảm  đến  mức

không hồi phục. Nếu chỉ theo dõi sát tới khi xuất

hiện  triệu  chứng  thì  vẫn  có  nguy  cơ  bỏ  qua  rối

loạn  nặng  chức  năng  thất  trái  và  tiên  lượng  sẽ

kém đi hẳn. Ưu thế của sửa van đối với tình trạng

suy tim và tỷ lệ tử vong sau mổ khiến cho ngày

càng có khuynh hướng chỉ định mổ sửa van hai lá

sớm hơn nếu thương tổn giải phẫu cho phép.

c.   Rất nhiều phương tiện và thông số được đề xuất

để  dự báo tiến triển của rối loạn chức năng thất

trái,  suy  tim  và  tử  vong  sau  mổ  ở  bệnh  nhân

HoHL  nặng.  Song  lựa  chọn  thời  điểm  và  biện

pháp điều trị cần phối hợp tuỳ từng cá nhân:

•    Triệu  chứng  lâm  sàng:  bệnh  nhân  tuổi  trên

75, có kèm bệnh lý mạch vành hoặc rối loạn

chức năng thận có tiên lượng kém hẳn sau mổ

vì  thế  nên  gửi  đi  mổ  trước  khi  biểu  hiện  rõ

triệu  chứng  các  bệnh  kèm  theo.  Rung  nhĩ

cũng  là  một  lý  do  để  cân  nhắc  chỉ  định  mổ

sớm. 

•    Thông số đo bằng siêu âm tim: rất có ích để

đánh giá xem bệnh nhân đã cần gửi đi mổ hay

chưa. Thông thường phân số tống máu (EF) ở

trên  ngưỡng  bình  thường.  Vì  thế  EF  <  50%

cho  thấy  tình  trạng  rối  loạn  chức  năng  thất

trái nặng nên gửi đi mổ sớm cho dù chưa có

triệu chứng. Ngay cả khi EF từ 50-60% cũng

đã làm tăng nguy cơ suy tim và tỷ lệ tử vong

sau  mổ.  Các  thông  số  dự  báo  nguy  cơ  khác

bao  gồm:  đường  kính  cuối  tâm  thu  thất  trái

(LVESD,  Ds)  ≥  45  mm,  phân  suất  co  ngắn

sợi cơ thất trái FS ≤ 31%, thay đổi áp lực thất

trái theo thời gian dp/dt < 1343.

(a)  Khi lâm sàng và siêu âm tim không lộ rõ,

nên làm siêu âm tim gắng sức: giảm đáp

ứng với gắng sức, EF thất trái không tăng

khi gắng sức, chỉ số thể tích cuối tâm thu

thất trái (LVESVI) ≥ 25 cm3/m2 là những

chỉ số gợi ý cần chỉ định mổ sớm.

(b) Bệnh nhân có sa lá van hai lá gây HoHL

nặng  nên  chỉ  định  mổ  sớm  dù  không  có

hoặc có rất ít triệu chứng.  

•    Thông số đo bằng thông tim: 

(a)  Áp  lực  trung  bình  động  mạch  phổi  ≥  20

mmHg, chỉ số tim (CI) < 2 l/phút, áp lực

cuối  tâm  trương  thất  trái  ≥  12  mmHg  là

các  dấu  hiệu  dự  báo  tiên  lượng  tồi  sau

mổ.

(b) Cung  lượng  tim  không  tăng  hoặc  áp  lực

mao  mạch  phổi  bít  tăng  khi  gắng  sức  là

dấu hiệu cho biết đã có rối loạn chức năng

thất trái ẩn.

(c)  Độ giãn (elastance) thất trái (đường cong

tương  quan  giữa  thể  tích  và  áp  lực)  là

thông số đánh giá chức năng co bóp thất

trái  tốt  nhất  song  ít  được  ứng  dụng  rộng

rãi vì phải dùng các thiết bị đặc biệt.  

2.   Điều trị nội khoa:

a.   HoHL  do  rối  loạn  chức  năng  thất  trái  (có  giãn

vòng van) được điều trị bằng các thuốc chữa suy

tim như :

•    Các thuốc giảm hậu gánh, đặc biệt là ức chế

men  chuyển,  làm  giảm  thể  tích  dòng  hở  và

tăng thể tích tống máu. Nhóm này cũng có tác

dụng  với  bệnh  nhân  HoHL  do  bệnh  lý  van

tim có triệu chứng đang chờ mổ.

•    Thuốc  lợi  tiểu  và  nhóm  Nitrate  có  tác  dụng

tốt trong điều trị ứ huyết phổi.

•    Rung nhĩ phải được điều trị kiểm soát tần số

thất bằng các thuốc chống loạn nhịp, nhất là

Digitalis và thuốc chẹn β giao cảm.

b.   Vai trò của thuốc với bệnh nhân HoHL mạn tính

do bệnh van tim, chưa có triệu chứng, nói chung

còn cần nhiều thử nghiệm chứng minh nhất là về

khả  năng  làm  chậm  tiến  triển  của  HoHL  hoặc

phòng  rối  loạn  chức  năng  thất  trái.  Điều  trị  các

thuốc giảm hậu gánh quá tích cực có thể che bớt

các triệu chứng, từ đó đưa ra các quyết định sai

lầm về thời điểm và biện pháp can thiệp.

c.   Phải  dự  phòng  viêm  nội  tâm  mạc  nhiễm  khuẩn

cho  tất  cả  trường  hợp  HoHL  do  bệnh  van  tim

ngoại trừ hở do giãn thất trái mà các van tim bình

thường.

3.   Điều trị phẫu thuật:

a.   Kinh  điển  là  cắt  bỏ  bộ  máy  van  hai  lá  rồi  thay

bằng  van  hai  lá  nhân  tạo.  Tuy  nhiên,  sau  mổ

thường có giảm chức năng thất trái và suy tim ứ

huyết. Các kỹ thuật mới có xu hướng bảo tồn tổ

chức dưới van nhằm giảm thể tích thất trái và sức

ép trên cơ tim sau mổ (thất trái càng có dạng elíp

thì càng cải thiện EF sau mổ).

b.   Kỹ thuật sửa van làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong

và biến chứng: tỷ lệ sống còn sau 5 năm > 85%

và  chỉ  có  10%  bệnh  nhân  phải  mổ  lại  trong  5

năm. Các kỹ thuật bộc lộ tối thiểu càng làm giảm

hơn nữa tỷ lệ biến chứng và tử vong. Tuy chưa có

thử nghiệm nào so sánh mổ sửa và thay van song

các nghiên cứu đều cho thấy ưu thế của mổ sửa

van (phần nào do sự lựa chọn bệnh nhân): 

•    Tử vong của mổ sửa van là 2% so với 5-8%

của thay van.

•    Phân số tống máu sau mổ thường cao hơn ở

nhóm bệnh nhân sửa được van. 

•    Nguy cơ tắc mạch ở bệnh nhân sửa van thấp

hơn (5% trong 5-10 năm so với 10-35% nếu

thay  van).  Nguy  cơ  viêm  nội  tâm  mạc  cũng

giảm  hẳn  (0,4%  so  với  2,2%).  Sau  mổ  sửa

van  không  cần  dùng  thuốc  chống  đông  kéo

dài  (chỉ  3  tháng)  nên  đã  giảm  nguy  cơ  khi

dùng thuốc chống đông. 

•    Tỷ  lệ  phải  mổ  lại  tương  tự  giữa  hai  nhóm

bệnh nhân mổ sửa và thay van.

•    Một số bệnh nhân rối loạn chức năng thất trái

nặng  hoặc  hở  van  hai  lá  thứ  phát  có  thể  áp

dụng  thủ  thuật  Batista  (tái  cấu  trúc  thất  trái

kết hợp với mổ sửa van) cho kết quả sớm rất

tốt trong khi không thể mổ thay van.

Tuy  nhiên  chỉ  định  mổ  sớm  (nhất  là  sửa  van)  ở

những  bệnh  nhân  HoHL  nặng  mà  chưa  có  triệu

chứng còn gây nhiều tranh cãi.

c.   Khả năng sửa van thường phụ thuộc vào nguyên

nhân gây HoHL, dễ đánh giá trước mổ bằng siêu

âm  tim  qua  thành  ngực  hoặc  qua  thực  quản.

Thành  công  và  các  biến  chứng  của  mổ  sửa

van/thay  van  có  thể  đánh  giá  bằng  siêu  âm  tim

ngay trong mổ. HoHL tồn dư là biến chứng hay

gặp  nhất  sau  khi  ngừng  máy  tim  phổi  nhân  tạo.

Nếu HoHL còn ≥ 2/4 nên chạy lại tim phổi nhân

tạo  để  sửa  tiếp  hoặc  thay  van  hai  lá.  Chạy  máy

tim phổi nhân tạo lần thứ hai không tăng thêm tỷ

lệ tử vong tại viện. 

d.   Cần loại trừ một biến chứng sau mổ là hẹp đường

ra thất trái do thừa mô lá van sau (> 1,5 cm) đẩy

vùng  đóng  hai  lá  van  ra  trước  di  chuyển  vào

đường  ra  thất  trái  trong  thời  kỳ  tâm  thu.  Biến

chứng  này  rất  hay  gặp  ở  những  bệnh  nhân  có

thừa mô lá van và thất trái nhỏ và tăng động. Kỹ

thuật sẻ bớt mô lá van sau được áp dụng để hạn

chế  biến  chứng  này,  tuy  nhiên  nếu  có  cản  trở

đường ra thất trái quá nhiều thì nên mổ thay van

hai lá.

4.   Theo dõi sau mổ: 

Siêu  âm  tim  sau  mổ  4-6  tuần  được  dùng  làm  mốc

theo  dõi.  HoHL  tái  phát  do  sửa  không  tốt  hoặc  do

nguyên nhân gây bệnh tiếp tục tiến triển. Bệnh nhân

nên được theo dõi lâm sàng và siêu âm tim (đánh giá

kết quả mổ sửa van, cơ chế và mức độ hở van, chức

năng  thất  trái,  huyết  khối  hay  viêm  nội  tâm  mạc)  ít

nhất 1 năm/1 lần. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro