hoa hoc

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thực nghiệm hóa học

Đoá hoa báo mưa, nắng

    Làm một "đóa hoa báo mưa, nắng" như hướng dẫn dưới đây, bạn có thể dùng để trắc nghiệm sự thay đổi của thời tiết.

    Dùng loại giấy nhún màu đỏ để làm một đoá hoa hồng, rồi phết nước muối đặc lên những cánh hoa (hoà muối ăn với nước, khuấy đều, cho thêm muối ăn cho tới khi muối ăn không tan được nữa là được nước muối đặc, dung dịch muối bão hoà), rồi cắm đoá hoa đó vào chậu hoa.

    Nếu sắc màu của hoa bị nhạt đi thì thời tiết nhất định sẽ nắng, còn màu sắc hao trở nên thẫm hơn thì thời tiết sẽ râm hoặc mưa.

    Đó là vì đoá hoa giấy thấm nước muối đặc thì dễ dàng hấp thu nước. Ngày râm khí áp thấp, độ ẩm không khí lớn, hoa giấy tiếp xúc với không khí có độ ẩm lớn thì có thể hấp thu nước trong không khí, nên hao giấy trở nên thẫm màu hơn lên một chút. Ngược lại, vào ngày nắng khí áp cao, độ ẩm không khí nhỏ, hoa giấy chẳng hấp thu được nước nên đương nhiên vẫn giữ màu vốn có, hoặc thấy nhạt đi một chút.

Đốt cháy đường

 Đường ăn có thể đốt cháy được không? Chúng ta hãy cùng nhau làm một thí nghiệm để thử xem sao!

    Trên một nắp hộp bằng thiếc rải ở chính giữa một ít hạt đường (đường kính, đường cát, ...). Bạn đưa que diêm đang cháy vào đốt cháy những hạt đường đó thì dù bạn có xoay xở đốt bao nhiêu lần cũng chẳng đốt cháy được nó. Phải chăng là đường không thể cháy?

    Bây giờ bạn hãy rắc một số tàn thuốc lá lên những hạt đường đó rồi thử đốt lại xem sao. Lúc này thì đường sẽ cháy, phát ra ngọn lửa màu xanh lam cho tời khi cháy hết.

    Sau khi cháy xong, tàn thuốc lá đã rắc vào đường vẫn là tàn thuốc lá và không tăng, không giảm về số lượng, nhưng nó lại thúc đẩy cho đường cháy. Người ta gọi nó là chất xúc tác.

Thử độ tươi (mới) của bột mì

    Bột mì để lâu, do tác dụng của oxy, nước, vi sinh vật trong không khí, có thể sinh ra hiện tượng bị chua, hư hỏng. Muốn biết bột mì có còn tươi mới hay không, có thể dùng chất thử hoá học để kiển định đơn giản, như sau:

    1. Lấy một bình thuỷ tinh hình nón, dung tích 150ml. Cho vào bình 40ml nước cất, rồi cho 5 gam bột mì biết chắc là tươi, mới vào bình, khuấy trộn đều, cho tới khi không còn cục bột nào ở trong nước. Tiếp đó nhỏ vào 5 giọt dung dịch chất thử phenolphatalêin, lắc đều. Lúc này dung dịch trong bình thủy tinh hình nón là không màu.

    Pha loãng dung dịch natri hydroxyt (NaOH) 0,02%. dùng ống nhỏ giọt pipet (có khắc vạch trên ống) để hút dung dịch natri hydroxyt 0,02%, nhỏ giọt vào bình hình nón.http://top9xy.wap.sh. Vừa nhỏ, vừa lắc đều bình hình nón cho tới khi dung dịch trong bình chuyển sang màu đỏ nhạt, trong 1 - 2 phút cũng không bị mất màu đó thì dừng lại, ghi số lượng dung dịch natri hydroxyt đã dùng chuẩn độ.

    2. Sau đó lấy 5g bột mì cần thử độ tươi, mới. Cho bột đó vào bình hình nón cùng với 40ml nước cất, 5 giọt phenolphtalêin, khuấy đều, và cũng dùng dung dịch natri hydroxyt 0,02% để chuẩn độ như với bột mì tươi, mới. Ghi lại số lượng dung dịch natrihydroxyt khi dung dịch bột trở nên có màu đỏ nhạt, không mất màu trong vòng 1 - 2 phút.

    Nếu lượng dùng dung dịch natri hydroxyt khi chuẩn độ bột mì cần thử mà tương tự như lần chuẩn độ bột mì tươi, mới (lần chuẩn độ trên) thì tin chắc bột mì cần thử là tươi, mới; còn nếu dung dịch NaOH nhiều hơn 2,5 lần so với lần chuẩn độ bột mì tươi, mới thì bột mì đã tồn trữ quá lâu, không thể dùng ăn được nữa.

    Thành phần chủ yếu của bột mì là tinh bột (C6H10O5)n. Tinh bột giữ lâu thì dần dần phân giải thành glucose; glucose trong điều kiện thích hợp, lại phân giải thành các loại axit hữu cơ. Phenolphtalêin không có màu trong dung dịch axit có màu đỏ trong dung dịch kiềm. Do hàm lượng axit hữu cơ cao trong bột mì biến chất nên không thể dùng nó để ăn.

Cách phân biệt nhanh gạo nếp và gạo lốc

    Lấy mấy hạt gạo nếp và gạo lốc đã nấu chín, lần lượt đặt lên hai tấm thủy tinh khác nhau. Nhìn hình chắc bên ngoài thì chúng rất khó phân biệt được đâu là hạt gạp nếp và đâu là hạt gạo lốc. Có cách gì để phân biệt nhanh hai loại hạt đó không? Có. Và xin giới thiệu một cách hay, mời bạn thử xem.

    Tìm một lọ cồn Iốt vẫn thường dùng để sát trùng, tiêu độc trong ngành y. Lần lượt nhỏ 1 giọt cồn Iốt lên hạt gạo lốc và hạt gạo nếp ở trên hai tấm thủy tinh. Sẽ thấy hạt gạo lốc khi tiếp xúc với Iốt thì hiện ra màu xanh lam, và hạt gạo nếp khi tiếp xúc với Iốt thì hiện ra màu đỏ nâu.

    Như vậy, thật đơn giản mà thật nhanh phân biệt hạt gạo nếp và hạt gạo lốc.

    Hàm lượng tinh bột của gạo lốc, gạo nếp đều phong phú. Thế thì vì sao khi chúng gặp iốt lại đổi màu khác nhau?

    Giải thích.Những hạt tinh bột trong gạo lốc có mạch phân tử thẳng (khối lượng phân tử khoảng 200.000 đơn vị cacbon), tựa như những que gỗ được xếp thành đống rất thứ tự, liên tiếp nhau; còn tinh bột trong gạo nếp là tinh bột có mạch phân tử phân nhánh (khối lượng phân tử khoảng 1.000.000 đơn vị cacbon), giống như những khúc gỗ được chặt xong xếp đồng ngẫu nhiên với nhau.

    Ăn thực phẩm làm bằng gạo nếp thì no lâu hơn do tinh bột của gạo nếp có mạch phân tử phân nhánh, không dễ được cơ thể tiêu hóa. Cho nên không nên ăn quá nhiều thực phẩm bằng gạo nếp một lúc.

Cách tìm Vitamin C

    Muốn biết trong rau nào có vitamin C hay không có thể kiểm tra nhanh bằng cách sau đây:

C    ho vào bình thuỷ tinh một ít tinh bột, rồi một ít nước, khuấy trộn bằnh que nhỏ đều tinh bột và nước, nhỏ 2 - 3 giọt rượu lốt vào hỗn hợp nước - tinh bột màu trắng sữa thì hỗn hợp đó đổi thành màu tím xanh.

    Lấy 2 - 3 tàu rau xanh, tước lá rau chỉ để lại cuống lá, rồi đem ép lấy dịch từ cuống lá, sau đó từ từ nhỏ vào hỗn hợp tinh bột - iốt màu tím xanh, vừa nhỏ vào, vừa lắc. Khi đó, bạn sẽ phát hiện: Dung dịch màu xanh tím lại biến màu, trở thành màu trắng sữa.

    Do tinh bột gặp Iốt thì biến thành màu tím xanh - đó là đặc tính của tinh bột. Nhưng, vitamin C làm cho iốt bột biến thành dung dịch không màu.

    Khi nhỏ dịch rau vào hỗn hợp tinh bột có chứa Iốt thì do có tác dụng của vitamin C trong dịch rau mà Iốt biến thành chất lỏng không màu. Cho nên hỗn hợp vốn có màu xanh biến thành hỗn hợp tinh bột màu trắng sữa.

Thổi khí làm đổi màu

    Lấy một ít vôi cho vào trong cốc thuỷ tinh, thêm nước lạnh, khuấy trộn, để lắng rồi gạn lấy phần dung dịch trong, không màu vào một chiếc cốc. Bạn cắm một đầu ống hút vào cốc, một đầu ống hút thì ngậm trong miệng mà thổi hơi vào cốc đựng nước vôi. Chỉ một lát, bạn sẽ thấy nước vôi đang trong, không màu trở nên đục, vẩn.

    Nhưng tiếp tục thổi, bạn sẽ thấy dung dịch trong cốc biến trở lại thành trong suốt.

    Nước vôi chứa trong cốc khi gặp phải khí cacbonic có trong hơi bạn thở ra sẽ phản ứng tạo ra canxi cacbonat. Canxi cacbonat là những hạt rất nhỏ, không dễ lắng, kết tủa nên lơ lửng trong nước, cho nên bạn thấy nước trở nên vẩn đục màu trắng sữa. Khi tiếp tục thổi khí cacbonic vào trong cốc thì do canxi cacbonic phản ứng với nó tạo ra canxihydro cacbonat là chất tan trong nước nên chất lỏng trong cốc lại biến thành trong suốt.

Nước trong biến thành nước đục

    Chọn 2 chiếc cốc thuỷ tinh, một chiếc đựng nước (nước máy, hoặc nước sông), một chiếc đựng nước đun sôi để nguội. Sau đó cho thêm vào mỗi cốc 5 giọt nước xà phòng đã lọc qua bông y tế khuấy trộn đều. Một lát sau bạn sẽ thấy nước trong cốc đựng nước lạnh rất đục, có nhiều kết tủa trắng, còn ở cốc đựng nước đun sôi để nguội thì rất ít kết tủa, nước cùng không đục nhiều.

    Nước lạnh có chứa nhiều chất khoáng và các tạp chất khác, như canxi, magiê... Chúng cũng như muối ăn (NaCl) hoà tan trong nước vậy. Sau khi cho xà phòng vào trong nước thì số những chất muối khoáng đó sẽ "vướng víu" lại cùng với nhau, biến thành kết tủa trắng, không tan trong nước. Những chất khoáng và tạp chất càng nhiều, kết tủa càng nhiều.

    Nếu đem đun sôi nước, trong quá trình đun sôi, một bộ phận chất khoáng và tạp chất đã "chạy" ra khỏi nước, biến thành cặn nước bám vào thành bình nấu nước. Do thế, tạp chất trong nước đun sôi để nguội ít hơn so với nước chưa đun sôi, và sau khi cho thêm vào xà phòng, chất kết tủa cũng sẽ ít hơn.

Chất khí trong nước uống có gaz

    Những ngày nóng nực, mọi người thích uống nước uống có gaz. Bạn có thấy trong nước uống có gaz có nhiều bọt không? Đó là khí gì vậy? Nó có ích gì với chúng ta? Hãy làm thí nghiệm sau để tìm các câu giải đáp.

    Tìm một miếng bọt xốp gọt thành một chiếc nút chai, đục một lỗ ở góc nút để lồng khít vào một ống cao su.

    Ở trong một lọ rộng miệng, đặt vào một cây nến đang cháy.

    Mở nắp chai nước uống có gaz, dùng chiếc nút chai đã chuẩn bị để nút miệng chai nước uống có gaz, để một đầu ống cao su thò vào trong lọ rộng miệng, rồi nhè nhẹ xóc chai nước uống có gaz thì chất khí bốc lên trong chai nước uống có gaz sẽ theo ống cao su sang lọ rộng miệng, chỉ lát sau đã làm tắt ngọn nến đang cháy.

    Nếu thử chuyển đầu ống cao su cắm vào trong nước vôi, nước vôi trong sẽ trở nên đục ngầu.

    Chúng ta có thể phán đoán chất khí trong nước uống có gaz chính là khí cacboníc. Khi uống nước có gaz thì sẽ không ngừng ợ ra thứ khí đó, từ đó mà thải ra theo một phần nhiệt lượng trong cơ thể làm cho người có cảm giác mát mẻ, dễ chịu.

Nổi, chìm những viên long não

    Trong một cốc đựng giấm thả vào mấy viên long não thì thấy các viên long não đều chìm xuống đáy cốc. Khi đó, thêm vào cốc một lượng nhỏ sôđa (Na2CO3) sẽ thấy các viên long não nổi dần lên, nhưng sau khi nổi lên tới mặt nước trong cốc nó lại chìm xuống đáy cốc, cứ như vậy lặp đi lặp lại, trông rất thú vị.

    Vì sao viên long não lại nổi lên, chìm xuống trong cốc nước như vậy.

    Giải thích: Sôđa gặp giấm thì pháp sinh phản ứng hoá học tạo ra bọt khí cacboníc (CO2). Bọt khí cacbonic bám vào bề mặt viên long não, tựa như những "cái phao" buộc vào viên long não, làm cho viên long não được nâng lên. Khi chất khí trong bọt khí khuếch tán vào không khí thì viên long não mất "phao" đỡ nên lại chìm xuống. Quá trình cứ lặp lại như vậy

Nhũ tương: dầu và nước

    Cho nước sạch vào tới nửa bình của một bình thuỷ tinh trong suốt, thêm vào một ít dầu ăn. Khi đó dầu nổi trên mặt nước, mặt phân cách giữa dầu và nước rất rõ ràng. Dùng tay lắc bình thuỷ tinh, để cưỡng bức dầu và nước tạo thành một pha; khi để yên một lúc thì dầu và nước lại phân thành hai lớp trên dưới rõ ràng.

    Khi đó lại cho thêm vào trong bình một ít chất tẩy rửa (hoặc bột giặt quần áo), sau đó lắc bình thật kỹ rồi quan sát sẽ thấy dầu và nước không còn phân tầng thành hai lớp nữa mà hoà làm một với nhau.

    Giải thích:Bởi chất tẩy rửa có một thuộc tính đặc biệt là có thể bao vây từng giọt dầu, đem phân tán đều trong nước; tác dụng như thế được gọi là "tác dụng nhũ hoá". Hỗn hợp nước và dầu được hình thành nhờ tác dụng nhũ hoá được gọi là "nhũ tương". Sữa, dầu gan cá thu màu trắng sữa mà mọi người vẫn uống đều ở dạng nhũ tương.

    Bột giặt có thể khử đi vết dầu trên quần áo chất tẩy rửa có thể tẩy sạch ố dầu là do chúng có thể tách phân tử dầu trên quần áo để đưa vào trong nước.

Vì sao không thể dùng nước nóng để tẩy, giặt vết máu?

    Vết máu dính trên quần áo cần phải lập tức giặt sạch, nếu không thì một thời gian sau, vết máu sẽ rất khó khử đi hết. Không được dùng nước nóng để giặt tẩy vết máu mà chỉ có thể dùng nước lạnh. Về điều này có thể dùng thực nghiệm để giải thích.

    Lấy hai miếng vải trắng, lần lượt nhỏ lên từng tấm vài giọt máu gà vừa cắt tiết. Đem một miếng vải ngâm trong nước nóng, và đêm miếng vải kia ngâm vào nước lạnh. Sau khoảng 15 phút, vớt hai miếng vải đó ra, sẽ thấy vết máu trên miếng vải ngâm trong nước nóng có màu đỏ đen, còn trên miếng vải ngâm trong nước lạnh thì vết máu vẫn đỏ tười và nhạt đi.

    Lấy xà phòng xát và giặt hai miếng vải thì thấy: Vết máu trên miếng vải đã từng ngâm trong nước lạnh thì giặt sạch hết, còn ở miếng vải đã từng ngâm trong nước nóng thì không còn cách nào giặt sạch được!

    Protein trong dịch máu khi gặp nhiệt độ cao thì phát sinh chuyển biến hoá học. Vết máu khi chưa phát sinh những biến đổi hoá học thì có thể tan trong nước, còn sau khi đã có những biến đổi do tác dụng của nhiệt thì trở nên không tan trong nước. Có thể quan sát thực tế điều trên ở máu gà: Sau khi đun nóng thì máu gà trở thành "miếng tiết" không thể tan được nữa, và do vậy vết máu không đễ giặt tẩy sạch.

    Cũng với lý do trên, vết máu khi để ra ngoài không khí một thời gian dài thì cũng phát sinh những biến đổi hoá học. Đó là nguyên nhân dẫn đến việc không dễ giặt tẩy vết máu đã cũ.

Dung dịch hành viết... thư mật

    Lấy hai nhánh hành, cắt bỏ lá chỉ giữ lại nõn hành, dùng tay bóp cho chảy ra dịch của hành sau đó dùng bút lông chấm vào dịch của hành để viết lên một trang giấy trắng. Để vài phút cho dịch hành khô, và khi đó không còn thấy nét chữ trên tờ giấy trắng nữa. Nhưng khi đem hơ tờ giấy trắng đó trên ngọn lửa của cây nến thì những nét chữ màu nâu sẽ lập tức hiện ra.

    Dịch của hành có thể làm cho giấy phát sinh biến đổi hoá học, hình thành một chất tương tự như màng trong suốt vậy. Điểm cháy của chất đó thấp hơn sơ với điểm cháy của giấy, nên khi hơ trên lửa, nó sẽ bị cháy, dẫn tới hiện ta nét chữ màu nâu.

    Giấm trắng, nước chanh (nước vắt từ múi quả chanh...) đều có đặc tính này, nghĩa là cũng có thể dùng để viết... "thư mật"!

Môn Hoá tương đối quan trọng đối với các bạn thi khối A và khối B. Để "ăn điểm" ở môn học này, bạn phải nắm được phần kiến thức cơ bản sau:

1. Củng cố và bổ sung các nội dung trọng tâm của chương trình lớp 10 gồm các vấn đề sau:

a) Các vấn đề liên quan đến phản ứng oxy hóa khử:

- Quy tắc tính số oxy hóa.

- Các mức oxy hóa thường gặp và quy luật biến đổi chúng trên phản ứng của các nguyên tố quan trọng: Cl, Br, I, S, N, Fe, Mn.

- Phải biết cân bằng tất cả các phản ứng khi gặp (đặc biệt bằng phương pháp cân bằng điện tử; chú ý các phản ứng của sắt, ôxít sắt, muối sắt).

- Phải nắm thật chắc các công thức viết phản ứng gồm: ôxít; kim loại; muối phản ứng với axit; muối phản ứng với muối; kim loại phản ứng với muối; phản ứng nhiệt luyện.

b) Các phản ứng của nhóm nguyên tố halogen (Cl, Br, I); S

Chỉ cần đọc để viết được các phản ứng coi như là đủ.

c) Cấu tạo nguyên tử - Bảng hệ thống tuần hoàn:

- Yêu cầu phải nắm chắc đặc điểm cấu tạo; khái niệm về hạt; mối liên hệ giữa các loại hạt.

- Đặc điểm, nguyên tắc xếp nguyên tố; quy luật biến thiên tuần hoàn.

- Viết được cấu hình electron; xác định vị trí nguyên tố trên bảng hệ thống tuần hoàn.

- Sự tạo thành ion.

2. Các vấn đề ở chương trình lớp 11, ở phần này cần xem lại các vấn đề sau:

a) Các bài toán về nồng độ dung dịch, độ pH, độ điện ly, hằng số điện ly.

b) Nắm chắc bảng tính tan, để xây dựng các phản ứng xảy ra trong dung dịch theo cơ chế trao đổi ion (ví dụ phải nhớ trong dung dịch phản ứng giữa các ion với nhau phải thỏa điều kiện là sinh ra chất kết tủa hay chất bay hơi hoặc chất điện ly yếu).

c) Xem lại các quy luật giải toán bằng phương pháp ion: cách viết phương trình phản ứng dạng ion; biết dựa trên phương trình ion giải thích các thí nghiệm mà trên phân tử không giải thích được (ví dụ khi cho Cu vào dung dịch hỗn hợp gồm Cu (NO3)2, HCl thấy có khí NO bay ra hay cho Al vào dung dịch hỗn hợp gồm NaOH, NaNO3, NaNO2, thấy sinh ra hỗn hợp 2 khí có mùi khai;...)

http://top9xy.wap.sh/kham-pha-mo-rong/hoc-tap/hoa-hoc/cach-hoc-tot-mon-hoa-hoc-pho-thong

d) Các khái niệm axit, bazơ, lưỡng tính, trung tính theo Bronsted:

Vì phần này các em thiếu dấu hiệu nhận biết chúng, nên khi gặp các em lúng túng và thường kết luận theo cảm tính, do đó chúng tôi gợi ý nhanh các dấu hiệu nhận biết axit, bazơ, lưỡng tính, trung tính:

* Các gốc axit của axit mạnh (Cl-, NO-3, SO2-4 ,...) và các gốc bazơ của bazơ mạnh (Na+, Ka+, Ba2+, Ca2+) được xem là trung tính.

* Các gốc axit của axit yếu (ClO-, NO-2, SO2-3 ,...) được xem là bazơ.

* Các gốc bazơ của bazơ yếu (NH+4 , Al (H2O)3+) và các gốc axit (có H phân ly thành H+) của axit mạnh được xem là axit.

* Các gốc axit (có H phân ly thành H+) của axit yếu: lưỡng tính.

e) Cách áp dụng các định luật bảo toàn điện tích, định luật bảo toàn khối lượng trong các bài toán dung dịch.

f) Xem kỹ các phản ứng của nitơ và hợp chất nitơ; phốt pho (xem sách giáo khoa lớp 11 và các bài tập chương này ở quyển bài tập hóa học lớp 11).

g) Các phản ứng của hydrocacbon:

- Phản ứng cracking. - Phản ứng đề hydro hóa - Phản ứng hydro hóa.- Phản ứng cộng Br2.- Phản ứng cộng nước của anken, ankin.- Phản ứng của ankin -1 với Ag2O/NH3. - Phản ứng tạo P.E; P.V.C; T.N.T; cao su Buna; cao su.

Bu na-S.- Phản ứng của benzen; toluen; styren.

3. Các nội dung của chương trình 12:

a) Với các hợp chất chứa hữu cơ chứa C,H,O: Chủ yếu xem các phản ứng của rượu; andehyt; axit; este; phenol; gluxit.

b) Nhóm nguyên tố C, H, N: Các phản ứng của amin với axit, đặc biệt xem kỹ anilin, chú ý phenylamoniclorua.

c) Cuối cùng xem nhóm nguyên tố C, H, O, N gồm các hợp chất quan trọng sau đây:

- Axit amin: chủ yếu có phản ứng trung hòa, phản ứng tạo nhóm peptit; phản ứng thủy phân nhóm peptit.

- Este của axit amin: có 2 phản ứng chính.

- Muối amoni đơn giản (R-COO-NH4) cũng viết 2 phản ứng chính.

- Muối của amin đơn giản R-COO-NH3-R’.

- Hợp chất Nitro R-(NO2)n: Xem phản ứng điều chế và chỉ có phản ứng tạo amin (phản ứng với [H}).

- Các hợp chất đặc biệt: Urê, Caprolactam; tơ nilon - 6,6; tơ caprôn.

d) Phần vô cơ: Xem các phản ứng của Al; Fe; Na, K; Mg, Ca.

e) Đặc biệt cần để ý thêm phần ăn mòn kim loại; nước cứng; điều chế kim loại; các bài toán áp dụng phản ứng nhiệt luyện, các bài toán kim loại phản ứng với axit; phản ứng với muối.

Mẹo làm hóa

CHIẾN THUẬT CHỌN NGẪU NHIÊN

TRONG BÀI THI TRẮC NGHIỆM HÓA HỌC

Các bạn thân mến, từ trước tới nay, phương án chọn ngẫu nhiên

thường được xem là giải pháp cuối cùng trong bài thi trắc nghiệm trước những câu hỏi hóc búa,

những bài toán khó giải quyết, …. Việc giảng dạy cho các bạn về các chiến lược và chiến thuật

chọn ngẫu nhiên cũng bị xem là một phương pháp tiêu cực, “phản sư phạm”. Tuy nhiên, nếu

như đứng trên quan điểm cũng như mục tiêu của kỳ thi ĐH là tuyển chọn, phân loại được những

học sinh có kiến thức và tư duy tốt, thì rõ ràng một học sinh có được một chiến thuật lựa chọn

ngẫu nhiên hợp lý và có hiệu quả không chỉ phản ánh được sự may mắn mà còn thể hiện sự

sáng tạo, trí thông minh, khả năng ứng biến và tư duy tốt của học sinh đó. Bài viết này của tôi

xin được khái quát một số kinh nghiệm trong việc đề ra một chiến lược chọn ngẫu nhiên hợp lý

và hiệu quả. Hy vọng bài viết sẽ nhận được nhiều phản hồi tích cực và giúp ích được nhiều cho

các bạn học sinh trong kỳ thi sắp tới, đồng thời cũng cung cấp những gợi ý nho nhỏ cho các bạn

giáo viên để công tác ra đề thi trắc nghiệm trong thời gian tới có nhiều cải thiện tích cực hơn.

I. Lý do để chọn ngẫu nhiên

1, Thứ nhất là về mặt thời gian.

Thời gian làm bài luôn là một câu hỏi khiến các bạn học sinh phải trăn trở khi đối mặt với

bài thi trắc nghiệm. Thực tế là khi biên soạn đề thi, chắc chắn hội đồng ra đề thi đã cân nhắc đến

vấn đề thời gian, 90’ cho 50 câu hỏi không phải là quá eo hẹp và nếu như thực sự có kiến thức,

phương pháp và bản lĩnh tư duy tốt, các em có thể hoàn thành bài thi trong vòng 20-30’.top9xy.wap.sh. Tuy

nhiên, cũng còn một thực tế là phong cách dạy và học ở trường phổ thông hiện nay vẫn chưa

hoàn toàn theo hướng phục vụ kỳ thi trắc nghiệm, kỹ năng làm bài của các em vẫn còn chậm và

nặng về hình thức, các bài kiểm tra trên lớp đa phần vẫn là tự luận khiến cho thời gian giải một

bài toán ngắn gọn cũng có thể mất đến 5 – 10’. Do đó, có rất nhiều bạn không thể hoàn thành

hết bài thi trong khoảng thời gian cho phép. Trong những hoàn cảnh đó, chọn ngẫu nhiên là giải

pháp tối ưu.

2, Thứ hai là do sự phân bố kiến thức của học sinh

Thực tế quá trình ôn thi ĐH của các em cho thấy, để có thể ôn tập và nắm chắc được tất cả

các nội dung kiến thức ở cả 3 môn thi là điều không hề dễ dàng. Việc lựa chọn sẽ học phần nào,

môn nào và bỏ phần nào, môn nào cũng là một phần trong chiến thuật ôn thi mà mỗi học sinh

cần cân nhắc cho phù hợp với năng lực của mình.

Lấy một ví dụ đơn giản: Cũng với mục tiêu là tổng điểm 3 môn là 24, nhưng một học sinh

có thể đặt mục tiêu là 8-8-8, học sinh khác là 8-10-6, ….. nhưng mục tiêu khó thực hiện nhất

bao giờ cũng là 10-10-4, để đạt được điểm 8 cho mỗi môn thi là điều dễ thực hiện, nhưng được

điểm 10, thì môn học nào cũng khó. Đặc biệt là với các thí sinh có thi môn Toán, việc đạt được

điểm 10 trong câu hỏi cuối cùng bao giờ cũng là điều không dễ thực hiện.

Do đó, thay vì dành 2 - 3 tháng cuối để “trâu bò” với bất đẳng thức (mà chưa chắc đã đủ

để có điểm 10), ta có thể chấp nhận điểm 8, điểm 9 trong môn Toán để dành thời gian cho 2

môn còn lại.

Chiến thuật phân bổ kiến thức vì vậy có thể tạo ra các “lỗ hổng” kiến thức cho học sinh:

có bạn chỉ kịp học và nắm chắc hóa hữu cơ, có bạn chỉ nắm vững hóa vô cơ, bạn khác chỉ tập

trung học lớp 11, 12 mà bỏ qua kiến thức của lớp 10, …. Đối với các học sinh này, chọn ngẫu

nhiên cho các phần kiến thức đã bỏ qua là giải pháp duy nhất.

3. Thứ ba, chọn sai do ngẫu nhiên vẫn chưa bị trừ điểm

Mấy ngày gần đây, có một số thông tin trên các báo về việc có trừ điểm hay không đối với

các câu trả lời sai, tuy nhiên, cho đến giờ vẫn chưa có một sự thay đổi chính thức nào từ phía

Bộ GD – ĐT, thêm nữa, với mặt bằng trình độ học sinh và áp lực từ phía xã hội (có điểm âm

???) sẽ làm cho quyết định này khó đi vào thực tế.

4. Thứ tư, chọn ngẫu nhiên không có nghĩa xác suất đúng là 25%

Nhiều người cho rằng, chọn ngẫu nhiên chẳng qua là chọn bừa và xác suất đúng của biện

pháp này chỉ là 25%, tuy nhiên, thực tế làm bài cho thấy, hầu như không có học sinh nào là

hoàn toàn không có chút kiến thức nào đối với môn thi, khối thi mình đã chọn. Mặc dù kiến

thức ấy có thể là chưa đủ để em giải quyết vấn đề nhưng vẫn có thể giới hạn được đáp án đúng

của vấn đề, xác suất chọn ngẫu nhiên thông thường đối với các đề thi trắc nghiệm của Việt Nam

hiện nay thường lớn hơn 30%.

II. Chiến thuật chọn ngẫu nhiên

1, Đề ra chiến thuật phân bổ kiến thức ngay từ giai đoạn ôn thi

Ngay từ trong giai đoạn ôn thi, mỗi học sinh cần phải xác định rõ ràng những điểm mạnh,

điểm yếu của mình để có kế hoạch ôn tập, bồi dưỡng lại kiến thức. Đôi khi, với quỹ thời gian eo

hẹp, việc bổ sung đầy đủ, hoàn thiện tất cả các kiến thức cho cả 3 môn thi là điều không thể

thực hiện được. Khi đó, các em cần cân nhắc lựa chọn cho mình những nội dung kiến thức quan

trọng nhất, dễ tiếp thu nhất và có khả năng nắm vững được nhất, hay rơi vào đề thi nhất để ôn

tập.

Những nội dung còn bỏ sót cũng cần được đọc lướt qua để có một chút ý niệm trong nhận

thức, phục vụ cho việc chọn ngẫu nhiên sau này.

2, Đọc kỹ đề thi và gạch chân những chi tiết, những số liệu quan trọng

Một sai lầm chết người mà thí sinh mắc phải trong quá trình làm bài thi là: Nên bắt đầu

làm bài từ câu số 1, lần lượt lướt nhanh, quyết định làm những câu cảm thấy dễ và chắc chắn,

đồng thời đánh dấu trong đề thi những câu chưa làm được. Lần lượt thực hiện đến câu trắc

nghiệm cuối cùng trong đề. Sau đó, quay trở lại "giải quyết" những câu đã tạm thời bỏ qua.

Lưu ý, khi thực hiện vòng hai cũng cần khẩn trương. Nên làm những câu tương đối dễ hơn, bỏ

lại những câu quá khó để giải quyết trong lượt thứ ba, nếu còn thời gian.top9xy.wap.sh

Đây vốn là một lời khuyên mà các thầy cô giáo cũng như các phương tiện truyền thông

vẫn thường dùng để rao giảng cho các em khi làm bài, nhưng nó chỉ phù hợp với đề thi tự luận,

còn trong trắc nghiệm, nó là một sai lầm chết người.

Nếu bạn bấm đồng hồ rồi thử đọc thật to và nhanh đề bài và các đáp án của 1 câu hỏi

trắc nghiệm, bạn sẽ thấy, thời gian để ta kịp đọc xong đề và ghi nhận được những thông tin cần

thiết cho 1 câu hỏi trung bình là 15 - 20s/câu. Điều đó có nghĩa là để đọc trọn vẹn 50 câu trong

1 đề thi trắc nghiệm, sẽ phải mất chừng 12 - 15 phút và chưa cần phải suy nghĩ hay làm gì, chỉ

6 – 8 lần đọc đi đọc lại là hết giờ.

Thực tế là trong quá trình làm bài, sự tập trung cao độ của thí sinh sẽ khiến cho các em

nhanh chóng quên đi câu hỏi mà mình đã đọc trước đó, do đó, mỗi lần bỏ qua là một lần quên,

mỗi lần đọc lại là lại thấy câu hỏi đó mới và việc đọc đi đọc lại như thế sẽ nhanh chóng đốt cháy

hết thời gian làm bài của các em.

Để khắc phục điều đó, việc các em cần thực hiện ngay là phải đọc thật kỹ và dứt khoát đề

thi, nhanh chóng ghi nhận và gạch chân lại những thông tin quan trọng để nhập tâm và ghi nhớ

ngay vào trong đầu, vừa tránh được sai sót trong quá trình giải (bỏ sót dữ kiện), vừa giúp các

em nhanh chóng nhớ lại bài toán khi đọc lại lần sau.

Đồng thời, ngay sau khi đọc đề, các em cũng nên ghi lại những phân tích, nhận định của

mình ngay bên cạnh câu hỏi, để tiện xem lại những lần sau (nếu như chưa giải được ngay lúc

đó). Tốt nhất là giới hạn ngay các đáp án có khả năng đúng nếu có thể.

3, Phân tích 4 đáp án để giới hạn câu trả lời đúng

Một trong những nguyên tắc khi ra đề thi trắc nghiệm là phải có được các đáp án “gây

nhiễu” nhưng đáp án đưa ra có “gây nhiễu” được không và “gây nhiễu” đến đâu, “gây nhiễu”

như thế nào là câu hỏi không dễ trả lời cho người ra đề và hiện nay có không nhiều các đề thi

đáp ứng được yêu cầu đó.

Ở các nước tiên tiến, việc xã hội hóa giáo dục ở mức cao đến nỗi các kỳ thi chuẩn quốc

gia và quốc tế không phải do các cơ quan giáo dục nhà nước ra đề, mà do các công ty hoạt động

giáo dục tổ chức mà kết quả của nó được cả xã hội thừa nhận và sử dụng để đánh giá chất lượng

học sinh (SAT, TOEFL, ….). Thực tế là để ra được một đề thi trắc nghiệm hay, với nhiều

phương án gây nhiễu tốt, có thể sử dụng để đánh giá chính xác trình độ của học sinh đòi hỏi sự

đầu tư tìm hiểu về nhiều mặt: tâm sinh lý, quán tính tư duy, thói quen suy nghĩ, những lỗi sai

thường gặp … của học sinh. Trong khi đó, ở Việt Nam, phần lớn đề thi Đại học lại do các nhà

nghiên cứu có học hàm, học vị cao ra đề chứ không phải là những thầy cô giáo trực tiếp đứng

lớp – những người thường xuyên tiếp xúc và hiểu rõ thói quen suy nghĩ của học sinh. Các đề thi

kiểm tra trên lớp của các thầy cô giáo thì nhiều khi lại không đảm bảo về mặt kiến thức.

Thế nên mới có chuyện học sinh lớp 10 học Văn vẫn còn “được” hỏi những câu như: Cô

Tấm từ quả gì chui ra?

A. Quả na B. Quả cam C. Quả thị D. Quả bưởi

Có thể nói là đáp án gây nhiễu của ta hiện nay chưa thực sự tốt, nhiều tác giả ra đề thi còn

khá tùy tiện trong việc đưa đáp án nhiễu, hoặc là đáp án nhiễu không lừa nổi học sinh, không

đánh trúng vào lỗi sai của học sinh, thậm chí một số đề thi còn thể hiện sự thiếu trách nhiệm của

người ra đề.

Một học sinh kiến thức Hóa học không thật tốt nhưng tư duy logic tốt vẫn hoàn toàn có

thể giới hạn đáp án để nâng cao xác suất chọn ngẫu nhiên được đáp án đúng.

Việc phân tích đáp án là cực kỳ quan trọng, vì có một số bài toán không thể giải được đến

cùng mà chỉ có thể chọn được đáp án đúng nhất, hoặc có những bài toán mà học sinh chỉ nhìn ra

được phương pháp giải sau khi đọc đáp án.

4, Lựa chọn phương pháp và giải quyết vấn đề

Sau khi đã đọc kỹ đề, ghi nhận các thông tin quan trọng và giới hạn đáp án thì việc tiếp

theo là giải quyết bài toán. Thực tế là một bài toán có thể có nhiều phương pháp giải khác nhau,

việc làm sao chọn được cách giải nhanh, gọn và tiết kiệm thời gian nhất đòi hỏi nhiều yếu tố và

cần cả một quá trình rèn luyện tích cực thì mới có thể đạt được. Trong thi trắc nghiệm, một

phương pháp giải hay chưa chắc đã được ghi nhận, do đó, “cách của mình là cách làm nhanh

nhất”, tốt nhất là các em hãy lựa chọn cho mình cách làm mà các em nắm chắc nhất, hiểu rõ

nhất và nghĩ ra nhanh nhất vào thời điểm đó.

5, Soát lại đề thi, làm lại những câu hỏi chưa hoàn thành

Nếu thời gian làm bài đã gần hết hoặc giải nhiều lần không ra thì cần bình tĩnh xem xét

các đáp án, chú ý các thông tin, các phân tích từ những lần trước, giới hạn lại các đáp án “khả

nghi” rồi nhanh chóng chọn ngẫu nhiên.

Tuyệt đối không bỏ qua bất kỳ câu hỏi nào trong đề thi!

III. Một ví dụ minh họa

1. Đưa một hỗn hợp khí N2 và H2 có tỷ lệ 1:3 vào tháp tổng hợp, sau phản ứng thấy thể

tích khí đi ra giảm 1/10 so với ban đầu. Tính thành phần phần trăm về thể tích của hỗn hợp khí

sau phản ứng.

A. 20%, 60%, 20%

B. 22,22%, 66,67%, 11,11%

C. 30%, 60%, 10%

D. 33,33%, 50%, 16,67%

Để giải nhanh bài toán này, ta có thể dựa vào 2 kết quả quan trọng:

- Trong phản ứng có hiệu suất nhỏ hơn 100%, nếu tỷ lệ các chất tham gia

phản ứng bằng đúng hệ số cân bằng trong phương trình phản ứng, thì sau phản ứng

phần chất dư cũng có tỷ lệ đúng với hệ số cân bằng trong phản ứng. Cụ thể trường

hợp này là 1:3. Do đó A và B có khả năng là đáp án đúng.

- Trong phản ứng tổng hợp amoniac, thể tích khí giảm sau phản ứng đúng

bằng thể tích khí NH3 sinh ra, do đó, trong trường hợp này, %NH3 = 10% hỗn hợp đầu

hay là 1/9 =11,11% hỗn hợp sau. Do đó B là đáp án đúng

1. Hợp chất nào sau đây có tính axit mạnh nhất?

A. CCl3-COOH

B.CH3COOH

C. CBr3COOH

D. CF3COOH

Nhận xét: Cho dù không có khái niệm gì về độ mạnh yếu của acid ở đây, nhưng căn cứ

vào biến thiên tính chất trong dãy Halogen, có thể dự đoán đáp án đúng là B hoặc D

2. Hỗn hợp X gồm 2 axit no: A1 và A2. Đốt cháy hoàn toàn 0,3mol X thu

được 11,2 lít khí CO2 (đktc). Để trung hòa 0,3 mol X cần 500ml dung dịch NaOH 1M.

Công thức cấu tạo của 2 axit là:

A. CH3COOH và C2H5COOH

B. HCOOH và C2H5COOH

C. HCOOH và HOOC-COOH

D. CH3COOH và HOOC-CH2-COOH

Nhận xét: số nguyên tử C trung bình = nCO2/n(acid) = 5/3 một trong 2 acid phải là

HCOOH đáp án có thể là B hoặc C.

3. Đốt cháy một axit no đa chức Y ta thu được 0,6 mol CO2 và 0,5 mol nước.

Biết mạch cacbon là mạch thẳng. Cho biết công thức cấu tạo của Y

A. HOOC-COOH

B. HOOC-CH2-COOH

C. HOOC-C(CH2)2-COOH

D. HOOC-(CH2)4-COOH

Nhận xét: căn cứ vào các đáp án có thể thấy acid đã cho là acid 2 chức, no, do đó CTPT

là CnH2n-2O4 n → acid = nCO2 – nH2O = 0,1 mol; số nguyên tử C = nCO2/nacid

→ D đúng

4. Có 2 chất hữu cơ X và Y đều chứa các nguyên tố C, H, O. 2,25 gam chất

X tác dụng vừa đủ với 50 ml dung dịch KOH 1M. Đốt cháy hoàn toàn 3 gam chất Y

được 4,4 gam CO2 và 1,8 gam H2O.

Biết chất X tác dụng với Na2CO3 giải phóng CO2. Công thức phân tử của chất X

là:

A. CH3COOH

B. HOOC-CH2-COOH

C. (COOH)2

D. Kết quả khác

Nhận xét: nH2O = nCO2 acid/ester no, đơn chức A hoặc D đúng

→ →

5. Công thức đơn giản nhất của một axit hữu cơ X là (CHO)n. Khi đốt cháy 1

mol X ta thu được dưới 6 mol CO2 công thức cấu tạo của X là:

A. HOOC-CH=CH-COOH

B. CH2=CH-COOH

C. CH3COOH

D. Kết quả khác

Nhận xét: X phải có 6 C nên đáp án là D

3. Hòa tan hoàn toàn 9,6 gam kim loại R trong H2SO4 đặc đun nóng nhẹ thu

được dung dịch X và 3,36 lít khí SO2 (ở đktc). Xác định kim loại R.

A. Fe

B. Ca

C. Cu

D. Na

Nhận xét: B và D là 2 kim loại tác dụng được với H2O ít có khả năng đúng đáp án

là A hoặc C dùng 9,6 chia ra số chẵn C đúng

→ →

→ →

4. Một hỗn hợp X gồm 2 kim loại A, B có tỉ lệ khối lượng là 1:1 . Trong 44,8

gam hỗn hợp X, hiệu số về số mol của A và B là 0,05 mol. Mặt khác khối lượng nguyên

tử của A lớn hơn B là 8 gam. Kim loại A và B có thể là:

A. Na và K

B. Mg và Ca

C. Fe và Cu

D. Kết quả khác

Nhận xét: không giải bài toán cũng thấy Fe và Cu có KLNT hơn kém nhau 8 đơn vị C

hoặc D đúng, vì A > B D đúng

http://my.opera.com/saobanglanhgia

Sao băng lạnh giá – Vũ Khắc Ngọc 0985052510

[email protected]

5. Hòa tan 7,2 gam một hỗn hợp gồm 2 muối sunfat của 2 kim loại hóa trị

(II) và (III) vào nước được dung dịch X (Giả thiết không có phản ứng phụ khác). Thêm

vào dung dịch X một lượng BaCl2 vừa đủ để kết tủa ion SO4

2-

thì thu được kết tủa BaSO4

và dung dịch Y. Khi điện phân hoàn toàn dung dịch Y cho 2,4 gam kim loại. Biết số mol

của muối kim loại hóa trị (II) gấp đôi số mol của muối kim loại hóa trị (III), biết tỉ lệ số

khối lượng nguyên tử của kim loại hóa trị (III) và (II) là 7/8. Xác định tên hai loại:

A. Ba và Fe

B. Ca và Fe

C. Fe và Al

D. Cu và Fe

Nhận xét: không giải bài toán cũng thấy Fe và Cu có tỷ lệ khối lượng 7/8 D đúng →

6. Khi cho 17,4 gam hợp kim Y gồm sắt, đồng, nhôm phản ứng hết với

H2SO4 loãng dư ta được dung dịch A; 6,4 gam chất rắn; 9,856 lít khí B ở 27,30

C và 1

atm. Phần trăm khối lượng mỗi kim loại trong hợp kim Y là:

A. Al: 30%; Fe: 50% và Cu: 20%

B. Al: 30%; Fe: 32% và Cu: 38%

C. Al: 31,03%; Fe: 32,18% và Cu: 36,79%

D. Al: 25%; Fe: 50% và Cu: 25%

Nhận xét: phần trăm khối lượng của kim loại trong hỗn hợp thường lẻ nên chọn đáp án C.

(hoặc B)

7. Hòa tan hoàn toàn một ít oxit FexOy bằng dung dịch H2SO4 đặc nóng ta

thu được 2,24 lít SO2 (đo ở đktc), phần dung dịch đem cô cạn thì thu được 120 gam

muối khan. Công thức FexOy là:

A. FeO

B. Fe2O3

C. Fe3O4

D. B hoặc C đúng

Nhận xét: có SO2 sinh ra oxit sắt đã cho phải có tính khử A hoặc C

6. Một học sinh phát biểu: “Tất cả các hợp chất Hiđrocacbon no (là các

Hiđrocacbon mà phân tử của nó không có chứa liên kết đôi C=C, liên kết ba C≡C hay

vòng thơm) thì không thể cho được phản ứng cộng”. Phát biểu này:

a) Không đúng hẳn b) Đúng hoàn toàn

c) Đương nhiên, vì hợp chất no thì không thể cho được phản ứng cộng

d) (b) và (c)

Nhận xét: Một mệnh đề có tính khẳng định tuyệt đối thì thường không đúng đáp án

đúng là a.

…………….. (còn nữa, nhìu lém)

IV. Một số tổng kết kinh nghiệm

1, Thành phần phần trăm về khối lượng trong hỗn hợp thường là số lẻ

2, Thành phần phần trăm về thể tích hoặc số mol trong hỗn hợp khí thường là số chẵn

3, Nếu có 2 đáp án đối nghĩa với nhau thì một trong 2 đáp án sẽ có nhiều khả năng là

đáp án đúng

4, Nếu có 2 hoặc 3 đáp án tương đối giống nhau về mặt hóa học thì thường là các đáp

án đó đều sai, đáp án có khả năng đúng cao sẽ là các đáp án còn lại

………….. (còn nữa)

V. Đôi lời nhắn nhủ

Qua đây, ta cũng có thể thấy được vai trò cực kỳ quan trọng của chiến thuật chọn ngẫu

nhiên, khi đi thi trắc nghiệm, tốt nhất là ưu tiên thực hiện sàng lọc đáp án để chọn ngẫu nhiên

trước, sau đó mới dùng kiến thức, phương pháp bài bản để giải quyết vấn đề. Có rất nhiều bài

toán mà nếu không sử dụng đáp án cho phía dưới thì không thể giải được, hoặc có nhiều khi

phải đọc đáp án ở dưới ta mới tìm được đúng phương pháp. Ngoài ra, thực hiện sàng lọc đáp án

cũng là cách rất tốt để ta kiểm tra lại kết quả giải bằng các phương pháp bài bản khác.

Hy vọng bài viết trên là thực sự hữu ích đối với các em.

Chúc các bạn học tốt và vượt qua các kỳ thi sắp tới với kết quả tốt nhất!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro