hoa hoc thuc pham1
CHƯƠNG I PROTEIN
I. VAI TRÒ VÀ GIÁ TRỊ CỦA PROTEIN TRONG DINH DƯỠNG VÀ TRONG
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
1. Vai trò sinh học của protein
Protein là thành phần không thể thiếu được của tất cả các cơ thể sống. Protein là nền
tảng về cấu trúc và chức năng của cơ thể sinh vật. Dưới đây là một số chức năng quan
trọng của protein.
1.1 Xúc tác
Các protein có chức năng xúc tác các phản ứng gọi là enzyme. Hầu hết các phản ứng
của cơ thể sống từ những phản ứng đơn giản như phản ứng hydrat hóa, phản ứng khử
nhóm carboxyl đến những phản ứng phức tạp như sao chép mã di truyền đều do
enzyme xúc tác.
1.2 Vận tải
Một số protein có vai trò như những xe tải vận chuyển các chất trong cơ thể.
Ví dụ: hemoglobin, myoglobin (ở động vật có xương sống), hemoxiamin (ở động vật
không xương sống) kết hợp với oxy rồi tải oxy đến khắp mô và cơ quan trong cơ thể.
Nhờ các chất tải này, mặc dù oxy có độ hòa tan trong nước thấp vẫn đảm bảo thỏa
mãn được nhu cầu oxy của cơ thể.
1.3 Chuyển động
Nhiều protein trực tiếp tham gia vào quas trình chuyển động như: co cơ, chuyển vị trí
của nhiễm sắc thể trong quá trình phân bào.
Ở động vật có xương sống có sự co cơ vẫn được thực hiện nhờ chuyển động trượt lên
nhau của hai loại sợi protein: sợi to chứa protein myosin và sợi mảnh chứa các protein
actin, troponiosin và troponin.
1.4 Bảo vệ
Các kháng thể trong động vật có xương sống là những protein đặc biệt có khả năng
nhận biết và “bắt” những chất lạ xâm nhập vào cơ thể như protein lạ, virus, vi khuẩn
hoặc tế bào lạ. Như vậy ở đây ta thấy protein như những “lính gác” nhận biết được
những vật lạ để loại trừ chúng ra khỏi cơ thể.
Các interferon là những protein do tế bào động vật có xương sống tổng hợp và tiết ra
để chống lại sự nhiễm virus, Tác dụng của các interferon rất mạnh chỉ cần ở nồng độ 10-11M đã có hiệu quả kháng virus rõ rệt. Interferon kết hợp vào màng nguyên sinh chất của các tế bào khác trong cơ thể và cảm ứng trạng thái kháng virus của chúng.
Các protein tham gia trong quá trình đông máu có vai trò bảo vệ cho cơ thể sống khỏi bị mất máu.
Ở một số thực vật có chứa các protein có tác dụng độc đối với động vật, ngay cả liều lượng rất thấp chúng cũng có tác dụng bảo vệ thực vật khỏi sự phá hại của động vật.
1.5 Truyền xung thần kinh
Một số protein có vai trò trung gian cho phản ứng trả lời của tế bào thần kinh đối với
các kích thích đặc biệt. Ví dụ: vai trò của chất màu thị giác rodopsin ở màng lưới mắt.
1.6 Điều hòa
Một số protein có chức năng điều hòa quá trình truyền thông tin di truyền, điều hòa
quá trình trao đổi chất.
2. Giá trị dinh dưỡng của protein
- Protein là hợp phần chủ yếu, quyết định toàn bộ các đặc trưng của khẩu phần thức
ăn. Chỉ trên nền tảng protein cao thì tính chất sinh học của các cấu tử khác mới thể
hiện đầy đủ.
- Khi thiếu protein trong chế độ ăn hàng ngày sẽ dẫn đến nhiều biểu hiện xấu cho sức
khỏe như suy dinh dưỡng, sút cân mau, chậm lớn (đối với trẻ em), giảm khả năng
miễn dịch, khả năng chống đỡ của cơ thể đối với một số bệnh.
- Thiếu protein sẽ gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động bình thường của nhiều cơ quan
chức năng như gan, tuyến nội tiết và hệ thần kinh.
- Thiếu protein cũng sẽ làm thay đổi thành phần hóa học và cấu trúc hình thái của
xương (lượng canxi giảm, lượng magie tăng cao). Do vậy mức protein cao chất lượng
tốt (protein chứa đầy đủ các acid amin không thay thế) là cần thiết trong thức ăn cho
mọi lứa tuổi.
3. Vai trò của protein trong công nghệ thực phẩm
Ngoài giá trị sinh học và dinh dưỡng trong công nghệ sản xuất thực phẩm, protein
cũng có vai trò rất quan trọng:
- Protein là chất có khả năng tạo cấu trúc, tạo hình khối, tạo trạng thái cho các sản
phẩm thực phẩm. Nhờ khả năng này mới có quy trình công nghệ sản xuất ra các sản
phẩm tương ứng từ các nguyên liệu giàu protein.
Ví dụ: nhờ có protein của tơ cơ ở thịt, cá mới tạo ra được cấu trúc gel cho các sản
phẩm như chả giò,…. Công nghệ sản xuất bánh mì là dựa trên cơ sở tính chất tạo hình,
tính chất cố kết và tính chất giữ khí của hai protein đặc hữu trong bột mì là gliadin và
glutenin.
Nhờ có các protein hòa tan của malt mà bọt CO2 (một thành tố quan trọng của chất
lượng bia) trong bia mới giữ được bền. Nhờ tính chất đặc thù casein trong sữa mới chế
tạo ra được 2000 loại phomat hiện nay trên thế giới.
Gelatin của da có khả năng tạo ra gel và giữ gel bền bằng liên kết hydro nên mới có
công nghệ tạo ra màng để bọc kẹo và bao các viên thuốc (mà khi cho vào miệng thì
với nhiệt độ cơ thể đủ để phá vỡ liên kết hydro và gel tan chảy.
- Protein còn gián tiếp tạo ra chất lượng cho các thực phẩm
Các acid amin (từ protein phân giải) có khả năng tương tác với đường khi gia nhiệt để
tạo ra được màu vàng nâu cũng như hương thơm đặc trưng của bánh mì gồm 70 cấu tử
thơm.
Các protein còn có khả năng cố đinh mùi tức là khả năng giữ hương được lâu bền cho
các thực phẩm.
II. ACID AMIN
1. Công thức chung
Định nghĩa: Acid amin là những hợp chất hữu cơ mạch thẳng hoặc mạch vòng mà
trong phân tử có chứa ít nhất một nhóm amin (-NH2) và một nhóm carboxyl (-
COOH).
2. Phân loại acid amin
Có nhiều cách phân loại các acid amin. Tuy nhiên do mạch R là yếu tố quyết định các
tương tác nội phân tử và tương tác giữa các phân tử nên người ta thường dựa vào tính
chất của gốc R để phân loại các acid amin thành:
- Những acid amin có gốc R không phân cực và không tích điện: isoleucine, leucine,
methionine, phenyl-alanine, proline, valine, tryptophan, glycine, alanine trong đó ba
acid amin cuối mang tính trung gian giữa không phân cực và phân cực trung tính, có
đọ hoà tan kém hơn các acid amin phân cực. Hoạt tính kỵ nước tăng khi chiều dàu của
gốc R tăng.
- Các acid amin có gốc R phân cực nhưng không tích điện, có các nhóm chức trung tính
và phân cực, có khả năng tạo các lien kết hydro với một số phân tử như nước. Sự phân
cực của serine, threonine, tyrosine là do nhóm –OH, của asparagines, glutamine là do
nhóm amide (CO-NH2), của cystein là do nhóm –SH.
Các acid amin có gốc R tích điện dương ở pH ≈ 7 như histidine, lysine (do nhóm ε-
NH2) và arginine (do nhóm guanidin).
Các acid amin có gốc R tích điện âm ở pH ≈ 7 do các nhóm carboxyl –COOH như
acid aspartic và acid glutamic.
Dựa trên giá trị dinh dưỡng và vai trò sinh lý, người ta chia các acid amin thành nhóm
không thay thế: valine, leucine, isoleucine, phenyl-alanine, tryptophan, methionine,
threonine, histidine; bán thay thế: lysine, arginine và acid amin thay thế: glycine,
alanine, proline, serine, cystein. Tyrosine, asparagines, glutamine, acid aspartic và
acid glutamic.
3. Tính chất của acid amin
3.1 Tính chất vật lý
- Sự phân ly của acid amin
Acid amin có nhóm carboxyl (-COOH) thể hiện tính acid (cho proton), đồng thời có
nhóm amin (-NH2) thể hiện tính bazơ (nhận proton)
Mọi acid amin trong dung dịch nước, pH trung tính sẽ tồn tại ở dạng:
Ctct
Tuỳ thuộc vào điều kiện pH, trong dung dịch nước acid amin có thể ở dạng cation,
anion hoặc trung tính. Quá trình này đặc trưng bởi hằng số phân ly pK, điểm đẳng
điện pI. Như vậy, acid amin là các phân tử mang tính lưỡng tính. Ở điểm đẳng điện pI,
tổng điện tích của các acid amin trong dung dịch bằng 0.
- Cấu trúc và hoạt tính quang học
Tất cả các acid amin trong protein đều các cấu hình không gian dạng L. Acid amin
dạng D ít phổ biến tuy cũng xuất hiện trong tự nhiên ở một số peptide của vi sinh vật.
Acid amin dạng D không được tiêu hoá trong cơ thể người. Hiện tượng quay quang
học và góc quay của acid amin trong dung dịch phụ thuộc vào pH và nhiệt độ. Acid
amin dạng D có thể được tạo ra trong quá trình tổng hợp hoá học hoặc trong các quá
trình chế biến thực phẩm. Để loại acid amin dạng D, người ta thường kết tinh chọn lọc
các L acid amin bằng phương pháp enzyme hoặc phương pháp sắc ký.
- Độ hoà tan
Độ hoà tan trong nước của các acid amin rất khác nhau. Proline, hydroxyl-proline,
glycine, alanine tan tốt trong dung dich, cystein và tyrosine hầu như không tan còn các
acid amin khác có độ hoà tan thấp. Thêm acid hoặc bazơ có thể làm tăng độ hoà tan
của acid amin, acid amin trong hợp phần với các acid amin khác tan tốt hơn khi chỉ có
riêng một mình. Độ hoà tan của acid amin trong dung môi hữu cơ thấp do chúng có
tính phân cực. Tất cả các acid amin đều không tan trong eter, một số ít tan trong
ethanol.
3.2 Tính chất hoá học
Phản ứng của nhóm carboxyl α-COOH
Phản ứng ester hoá
Đây là phản ứng được sử dụng để bảo vệ các nhóm –COOH trong quá trình tổng hợp
peptide. Các ester tự do của acid amin có xu hướng tạo vòng di-peptide hoặc
polypeptide mạch hở.
R-COOH + R’-OH
Phản ứng khử
Được sử dụng để nhận dạng acid amin ở đầu mạch protein.
Pt
Phản ứng khử carboxyl (phản ứng decarboxyl hoá)
Phản ứng này có thể xảy ra dưới tác dụng của enzyme, nhiệt, acid hoặc kiềm
Pt
Phản ứng tạo amide
Acid amin phản ứng với NH3 để tạo thành các amide. Asparagine và glutamine là
những amide của acid aspartic và glutamic có mặt trong thành phần của protein.
Pt
Phản ứng tạo peptide
Pt
Phản ứng của nhóm amine α-NH2
Một trong những phản ứng đặc trưng nhất của nhóm amin là sự tác dụng tương hỗ với
ninhydrin. Đây là phản ứng có thể sử dụng để định lượng acid amin có trong dung
dịch ở nồng độ không lớn lắm. Khi pH của phản ứng cao hơn 5 thì quá trình xảy ra hai
giai đoạn:
Giai đoạn một: ninhydrin khử được tạo thành do sự desamin hóa oxy hóa acid amin,
đồng thời xảy ra sự khử CO2 của nó:
Ptpu
Giai đoạn hai: NH3 được tạo thành ở giai đoạn trên phản ứng với lượng tương đương
mol của ninhydrin oxy hóa và ninhydrin khử, tạo nên sản phẩm màu tím xanh, có
bước sóng hấp thu cực đại là 580nm. Cường độ màu tỷ lệ thuận với lượng acid amin
có trong dung dịch.
Proline và oxyproline có các nhóm α-amin thay thế, chúng tạo với ninhydrin những
dẫn xuất nhuộm màu vàng (bước sóng hấp thu cực đại ở 440nm) và không tạo NH3.
Người ta ứng dụng phản ứng với ninhydrin trong sắc ký để phát hiện các acid amin,
để định lượng acid amin bằng cách đo độ màu của nó qua máy phân tích tự động.
Phản ứng với fomaldehyde
Khi thêm một lượng dư formaldehyde trung tính vào dung dịch acid amin thì
formaldehyde sẽ tác dụng với nhóm –NH2 của acid amin. Nhờ phản ứng này, nhóm α-
NH2 bị kìm hãm do đó mà ta có thể định lượng acid amin bằng chuẩn độ nhóm –
COOH bằng NaOH chuẩn.
ptpu
III. PEPTIDE
Peptide là những protein gồm từ hai đến vài chục acid amin nối với nhau bằng liên kết
petide và có trọng lượng phân tử nhỏ hơn 6000 D.
Trong tự nhiên dưới dạng tự do với hoạt tính sinh học nhất định hoặc chúng là sản
phẩm thủy phân dở dang của protein.
Peptide đơn giản thường có 2,3,4 gốc acid amin (số acid amin nhỏ hơn 10).
Theo quy ước một mạch peptide có hai đầu tận cùng: Đầu N tận cùng bên trái và đầu
C tận cùng bên phải.
Peptide được tạo thành từ các acid amin qua liên kết –NH-CO- (liên kết peptide). Khi
thủy phân peptide thu được các acid amin.
CTCT
Liên kết peptide được tạo nên từ nhóm –COOH của acid amin đầu kết hợp với nhóm –
NH2 của acid amin sau và tách ra một phân tử nước.
Đặc điểm cấu tạo của liên kết peptide:
Các nguyên tử tham gia cấu tạo liên kết peptide không phân bố theo đường thẳng mà
tạo góc.
Tất cả 4 nguyên tử của liên kết peptide (C, H, O, N) và 2 nguyên tử carbon α nằm trên
một mặt phẳng.
Oxy của nhóm carboxyl và hydro của NH2 của liên kết peptide thường xuyên ở dạng
trans và dạng trans bền hơn dạng cis 2 Kcal/mol.
Cấu tạo
Các acid amin trong phân tử peptide nối với nhau bằng liên kết peptide. Đây là liên
kết cơ bản nhất trong phân tử peptide và protein.
Bản chất của nó là liên kết amid (liên kết đồng hóa trị) tức là liên kết được tạo do sự
kết hợp giữa nhóm α – COOH của acid amin này với nhóm α – NH2 của acid amin kia
loại đi một phân tử nước.
Cách gọi tên
Gọi tên theo acid amin
- Dipeptide (2 acid amin)
- Tripeptide (3 acid amin)
- Polypeptide chỉ các peptide có 10 acid amin trở lên nhưng cách gọi tên peptide theo
các gốc acid amin.
Bắt đầu từ acid amin N tận, lần lượt tới acid amin C tận. Theo nguyên tắc giữ nguyên
C tận, thay đuôi tận các acid amin khác bằng đuôi –yl.
Ví dụ:
Chuỗi peptide gồm các acid amin sau:
Alanine – Serine – Methionine – Valine – Glycine
Để biểu thị thành phần và thứ tự các acid amin trong phân tử peptide: Trước hết dùng
ký hiệu 3 chữ (hoặc 1 chữ nếu chuỗi polypeptide dài) của acid amin viết liền nhau
theo thứ tự đã được xác định từ acid amin N tận đến acid amin C tận.
Ví dụ: Seryl – Glycyl – Tyrosyl – Alanine
Ser – Gly – Tyr – Ala
Tính chất của peptide
Tính chất vật lý
Trong dung dịch nước, tùy thuộc vào pH, các peptide có thể phân ly ở dạng cation,
anion hoặc trung tính với hằng số phân ly đặc trưng pK và điểm đẳng điện pI.
Có thể dùng phương pháp điện di để xác định thành phần các acid amin trong chuỗi
peptide.
Tính chất cảm quan
Ngoại trừ dipeptide của acid amin aspartic có vị ngọt, các peptide còn lại có vị đắng
hoặc không vị. Vị của peptide không phụ thuộc vào cấu hình D hoặc L.
Cường độ vị cũng phụ thuộc vào tính kỵ của các đoạn mạch R và không phụ thuộc
vào trình tự của acid amin.
Vị đắng của peptide có thể xuất hiện khi thủy phân một phần protein (phomat khi chín
chưa hoàn hảo có thể bị đắng). Cần chú ý khi sử dụng protein trong biến tính protein.
Hóa tính
Peptide cho phản ứng màu Biure, có thể định lượng phức màu Biure bằng quang phổ
kế. Các nhóm α – NH2, α – COOH của peptide có tính chất giống như acid amin tự do
trong mạch R, tính chất acid, bazơ của peptide thấp hơn so với acid amin tự do.
VI. PROTEIN
Định nghĩa
Protein được tạo thành từ hàng trăm đến hàng ngàn các acid amin nối với nhau bằng
liên kết peptide, có trọng lượng phân tử lớn hơn 6000. Liên kết peptide là liên kết chủ
yếu của protein, ngoài ra trong phân tử protein còn có các liên kết khác như liên kết
cầu disulfite S-S, liên kết hydro…
Hình dạng
Có 2 loại: protein hình sợi và protein hình cầu
Protein hình sợi: thường gặp ở keratin của bông, fibroin của tơ, myosin của cơ. Những
protein hình sợi chúng có chiều dài gấp hàng trăm hàng ngàn chiều rộng. Đa số các
protein này không tan trong nước và dung dịch muối loãng. Các chuỗi polypeptide của
protein hình sợi nằm dọc theo một trục thành những sợi dài.
Protein hình cầu có tỷ lệ trục lớn trên trục nhỏ b/a khoảng 4.3 đến 20.1. Protein hình
cầu thường gặp trong albumin của trứng, globin của sữa, hemoglobin của huyết thanh.
Các protein này thường tan trong nước hoặc dung dịch muối loãng.
Trong một điều kiện nhất định protein hình cầu chuyển thành protein hình sợi và
ngược lại.
Cấu trúc phân tử protein
Cấu trúc của protein được xác định dựa trên hai đặc tính chủ yếu: bản chất, vị trí của
các acid amin trong mạch polypeptide (gốc R của acid amin); các tính chất hóa học và
hình học của liên kết peptide.
Sáu nguyên tử gồm hai Cα gần nhau, nhóm C=O và –NH liên kết với nhau và cùng
nằm trong một mặt phẳng với cấu hình kiểu trans. Sự chuyển vận liên hợp điện tử đưa
đến sự phân cực điện và xuất hiện điện tích (+) ở H (nhóm NH) và điện tích (-) ở O
(nhóm C=O). Các nguyên tử này có xu hướng tạo nên liên kết hydro (hydrogen bond)
với các phân tử của các liên kết khác.
Các liên kết hydro đóng vai trò quan trọng đối với cấu trúc bậc 2 của protein như xoắn
kép α, tấm xếp gấp β và cả đối với cấu trúc bậc 3. Trong dung dịch nước, các liên kết
hydro có thể tạo thành giữa phân tử protein với các phân tử nước và đóng vai trò nhất
định đối với tính hòa tan của một số protein.
Cấu trúc bậc 1
Cấu trúc bậc 1 được hiểu là số lượng và trình tự các acid amin trong mạch polypeptide
và vị trí của các liên kết disulfide. Liên kết cơ bản của cấu trúc bậc một trong protein
là liên kết peptide. Liên kết này khá nghiêm ngặt nên tính linh động cấu hình bị hạn
chế. Liên kết peptide là liên kết bền vững nên khó bị bẻ gãy và phá vỡ so với các liên
kết khác trong chuỗi protein. Mạch peptide có nhóm amin tự do trên một đầu (đầu N)
còn đầu kia là nhóm carboxyl (đầu C).
Cấu trúc bậc 1 là cấu trúc thẳng là cấu trúc cơ sở của protein.
Tính chất đặc trưng của từng loại protein phụ thuộc vào cấu trúc bậc 1. Quan trọng là
trình tự sắp xếp giữa các acid amin. Trình tự này do AND quyết định. Nếu thay đổi
trình tự sắp xếp sẽ dẫn đến những rối loạn về sinh lý.
Giáo trình sinh hóa – Phạm Thu Cúc
Cấu trúc bậc 1 được hiểu là số lượng và trình tự các acid amin trong mạch
polypeptide. Một số protein đã biết rất ngắn (như glucagon, secretin) chỉ chứa 20 –
100 acid amin; đa phần các protein chứa từ 100 – 500 acid amin; chỉ có rất ít acid
amin chứa vài ngàn gốc acid amin.
Liên kết peptide rất bền (400J/mol), do đó để phân cắt liên kết này bằng thủy phân cần
nhiều năng lượng và xúc tác hoặc thời gian dài.
Xác định trình tự acid amin của protein
Trình tự acid amin được phân tích sau khi thủy phân bằng acid hoặc sau khi chuyển
thành các dạng dẫn xuất của acid amin và xác định các dẫn xuất đó.
Trọng lượng phân tử (MW) của protein có thể được xác định bằng phương pháp sắc
ký, siêu lọc, hoặc SDS-Page (Sodium Dodecyl Sulphate Polyacryamide).
Protein có thể chứa một chuỗi polypeptide hoặc nhiều chuỗi liên kết với nhau qua các
cầu disulfide hoặc các liên kết không đồng hóa trị. Thông thường, chúng sẽ gây biến
tính bằng cách thay đổi pH, nhiệt độ, gây biến tính bằng các tác nhân hóa học như
SDS, guanidine hydrochloride.
Hóa học thực phẩm – Hoàng Kim Anh
Cấu trúc bậc 2
Cấu trúc bậc 2 là sự tương tác không gian giữa các acid amin gần nhau trên cùng một
mạch polypeptide hoặc trên hai chuỗi polypeptide khác ở kề nhau.
Do các nguyên tử carbon α có thể quay tự do xung quanh trục tạo thành bởi các liên
kết đồng hóa trị đơn làm cho chuỗi polypeptide có rất nhiều hình thể. Tuy nhiên trong
những điều kiện bình thường, đặc biệt là pH và nhiệt độ thì một chuỗi protein có một
hình thể đặc trưng gọi là hình thể tự nhiên. Về phương diện nhiệt động học, hình thể
tương ứng với một hệ thống bền, có tổ chức và có năng lượng tự do là cực tiểu.
Đương nhiên, để có được một hình thế như thế là tùy thuộc vào độ có cực, độ kỵ nước
và độ cồng kềnh không gian của các mạch bên R.
Trong các protein, người ta đã phát hiện thấy các cấu trúc bậc 2 chủ yếu sau:
- Cấu trúc xoắn ốc: xoắn α, xoắn γ
- Cấu trúc gấp nếp β: cấu trúc tờ giấy xếp, cấu trúc mặt cong β.
Cấu trúc xoắn α
Cấu trúc xoắn α là cấu trúc có trật tự, rất bền vững, tương tự như lò xo. Mỗi vòng
xoắn ốc có 3,6 gốc acid amin (18 gốc thì tạo được 5 vòng). Các nguyên tử carbon α
nằm trên đường sinh của hình trụ. Các mạch bên R hướng ra phía ngoài.
Xoắn ốc α được giữ chặt bởi một số liên kết hydro tối đa. Các liên kết hydro gần như
song song với trục của xoắn ốc và nối nhóm –NH- của liên kết peptide này với nhóm
–CO- của liên kết peptide thứ ba kề đó. Cứ mỗi nhóm –CONH- tạo được 2 liên kết
hydro với hai nhóm –CONH- khác.
Xoắn α rất phổ biến trong mọi protein. Có protein có tỷ lệ xoắn lên đến 75% như
trong hemoglobin và myoglobin nhưng cũng có protein có tỷ lệ xoắn rất thấp.
Cấu trúc gấp nếp β
Cấu trúc gấp nếp β là một cấu trúc hình chữ chi. Xoắn α có thể chuyển thành cấu trúc
gấp nếp β khi không còn các liên kết hydro.
Các mạch duỗi ra sẽ liên kết với nhau bằng liên kết giữa các phân tử để tạo ra cấu trúc
tờ giấy gấp xếp. Các mạch polypeptide có thể song song hoặc đối song song . Các gốc
bên R có thể ở trên hoặc ở dưới mặt phẳng của tờ giấy do đó độ tích điện hoặc độ
cồng kềnh không gian của chúng ít có ảnh hưởng đến sự tồn tại của cấu trúc này.
Cấu trúc bậc 3
Cấu trúc bậc 3 tương ứng với sự sắp xếp không gian 3 chiều của mạch polypeptide có
cấu trúc bậc 2 ở các đoạn khác nhau.
Có 2 dạng cấu trúc bậc 3 chính: cấu trúc dạng sợi và cấu trúc hình cầu. keratin của len,
fibrion sợi… là những ví dụ điển hình của protein dạng sợi. Để tạo thành protein hình
cầu, mạch polypeptide sẽ cuộn lại ngẫu nhiên trong một cấu trúc hình cầu. Tỷ lệ cấu
trúc này trong casein là 20-30%, trong lysozyme là 45% và trong myoglobin là 75%.
Các liên kết trong cấu trúc bậc 3 của protein gồm cả liên kết tĩnh điện và disulfide,
nhưng chủ yếu là liên kết hydro và liên kết kỵ nước.
Cấu trúc bậc 4
Một phân tử protein có thể có một hoặc nhiều tiểu đơn vị và chúng có thể liên kết với
nhau tạo thành một khối nhờ các liên kết không đồng hóa trị.
Các tiểu đơn vị có thể cùng loại hoặc khác loại và liên kết với nhau không bắt buộc
phải cân đối hình học. Các liên kết tạo thành cấu trúc bậc 4 cũng chính là các liên kết
đã tạo thành cấu trúc bậc 3 (ngoại trừ các cầu đồng hóa trị disulfide).
Cấu trúc bậc 4 sẽ thể hiện hoạt tính sinh học của các protein chức năng.
Tính chất của protein
Tính chất vật lý
Phân tử lượng: protein có trọng lượng phân tử lớn hơn 6000. Kích thước lớn hơn
0.001µm, khuếch tán rất chậm trong dung dịch và không qua được màng thẩm tích.
Trạng thái keo: khi hòa tan protein tạo thành dung dịch keo ưa nước và nó có đầy đủ
tính chất của một hợp chất keo. Trạng thái keo của protein bền vững là nhờ vào các
yếu tố như: lớp vỏ thủy hóa, sự tích điện của phân tử protein và nhiệt độ.
Sự khuếch tán: protein khuếch tán chậm trong dung dịch và do kích thước lớn nên
không đi qua được màng bán thấm như cellophan, màng tế bào…
Nếu cho dung dịch protein vào một túi làm bằng màng bán thấm rồi nhúng vào một
cốc nước thì các phân tử nhỏ như NaCl có thể qua màng bán thấm ra ngoài nước, còn
phân tử protein không qua được.
Đó là sự thẩm tích, màng bán thấm khi đó được gọi là màng thẩm tích. Người ta dùng
phương pháp thẩm tích để loại muối ra khỏi dung dịch protein.
Lớp vỏ thủy hóa: các phân tử nước bám vào các nhóm ưa nước: -NH2, -COOH, …
Sức căng tĩnh điện: do sự tích điện của protein, mỗi phân tử protein mang điện tích
tương ứng, nên trong dung dịch chúng sẽ đẩy nhau theo quy tắc cùng dấu trong lực
tĩnh điện.
Tính lưỡng tính và điểm đẳng điện của protein
Giống như các acid amin, peptide, protein cũng là chất điện ly lưỡng tính. Tính chất
điện ly lưỡng tính của protein là do nhóm amin, carboxyl tự do thuộc mạch bên R của
mạch polypeptide quyết định, các protein chứa nhiều histidin arginine lysine thường
có tính kiềm còn các protein trong phân tử chứa nhiều acid aspactic glutamic thường
có tính acid.
Trong môi trường acid, đối với điểm đẳng điện, sự phân ly của các nhóm acid tự do bị
kiềm hãm, protein tác dụng như một bazơ, chúng tích điện dương trong điện trường
chúng chuyển về cực âm. Trong môi trường kiềm so với điểm đẳng điện sự phân ly
của các nhóm bazơ bị kiềm hãm, protein tác dụng như một acid, chúng tích điện âm
và chuyển dịch về cực dương trong điện trường. Ở một trị số pH nào đó mà điện tích
âm và điện tích dương của phân tử protein bằng không (trung hòa điện), protein không
di chuyển trong điện trường thì gọi là điểm đẳng điện của protein. Và kí hiệu là pI.
Điểm đẳng điện của protein thường ở ngoài điểm trung hòa điện vì:
+ Khả năng phân ly của các nhóm acid và bazơ không bằng nhau, nhóm carboxyl có
khả năng phân ly mạnh hơn nhóm amin.
+ Số lượng nhóm amin và nhóm carboxyl trong phân tử protein không như nhau. Ở
điểm đẳng điện, tổng điện tích âm và dương của phân tử protein bằng không, khi đó
dung dịch kém bền vững và protein kết tủa nhất.
Nếu dung dịch protein có pH = pI mà được acid hóa mạnh (HCl) thì sự phân ly của
nhóm carboxyl sẽ bị kiềm hãm và khả năng tích điện âm của phân tử protein bị giảm
và acid (HCl) tác dụng với nhóm –NH2 tạo thành muối clorua protein. Muối clorua
protein là muối của acid mạnh và bazơ yếu nên nó phân ly đến cùng . Vì vậy trong
môi trường acid đối với điểm đẳng điện muối của protein tích điện dương (+).
Nếu kiềm hóa dung dịch protein bằng một bazơ mạnh NaOH, NaOH sẽ kìm hãm sự
phân ly của nhóm –NH2, protein bị giảm khả năng tích điện dương mặt khác NaOH
tác dụng với nhóm –COOH tạo thành muối natri.
Muối natri protein là muối của bazơ mạnh với acid yếu, nên phân ly đến cùng. Vì vậy
trong môi trường kiềm đối với điểm đẳng điện muối của protein tích điện âm.
Sự có mặt của điện tích cùng dấu là yếu tố làm cho dung dịch protein bền vững, hạn
chế sự va chạm và kết tụ của các phân tử protein. Vì vậy dung dịch protein đã được
acid hóa hay kiềm hóa sẽ không bị kết tủa khi đun nóng. Để kết tủa protein cần phá vỡ
hai yếu tố làm dung dịch bền vững là lớp vỏ áo nước hydrat hóa và vỏ điện tích. Để
đạt được mục đích đó có thể đun nóng dung dịch protein ở điểm đẳng điện.
Tính chất quang học của protein
Bước sóng từ 180-220nm
Là vùng hấp thụ của liên kết peptide trong phân tử protein và hấp thụ cực đại ở bước
sóng 190nm. Do liên kết peptide có nhiều trong phân tử protein nên độ hấp thụ khá
cao, cho phép định lượng tất cả các loại protein với nồng độ thấp. Tuy nhiên vùng hấp
thụ của các liên kết peptide trong protein có thể dịch chuyển về phía có bước sóng dài
hơn khi có một số tạp chất khác lẫn trong dung dịch protein. Mặt khác chính các tạp
chất này cũng hấp thụ ánh sáng tử ngoại ở cùng bước sóng.
Bước sóng từ 250-300nm
Là vùng hấp thụ của các acid amin thơm như phenyl, tyrosine, tryptophan… có trong
phân tử protein, cực đại hấp thụ ở bước sóng 280nm. Có thể sử dụng phương pháp đo
độ hấp thụ của protein ở bước sóng 280nm để định tính và định lượng protein có chứa
acid amin vòng thơm.
Tóm lại các phương pháp đo độ hấp thụ ở vùng tử ngoại thường được dùng để định
lượng protein đã tinh sạch hoặc để xác định protein trong các phân đoạn nhận được
khi sắc ký tách các protein qua cột.
Sự hòa tan và kết tủa (Tính tan của protein)
Đa số protein có bản chất ưa nước, chúng tan tốt trong dung dịch nước. Tính tan của
chúng, như những chất cao phân tử khác, tính tan của nó được xác định bằng bản chất
của các nhóm, mà các nhóm này có sẵn trên bề mặt của phân tử, có sẵn trong sự sắp
xếp không gian của nó, trong cấu hình nguyên thể. Phần lớn bề mặt của phân tử
protein tạo nên các nhóm có khả năng hydrat hóa.
Tính tan của protein phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau:
Phụ thuộc vào thành phần và trật tự phân bố của các acid amin trong phân tử protein.
Trong phân tử protein đồng thời có nhóm kỵ nước (gốc alkyl ……………….) làm cho
phân tử protein không tan, và các nhóm ưa nước (………….) làm cho phân tử protein
có khả năng tan trong nước.
Khả năng kết hợp nước không đồng nhất như nhóm –OH kết hợp được 3 phân tử nước
còn –COOH kết hợp được 4 phân tử nước.
Tính tan của protein còn phụ thuộc vào bản chất của dung môi: khi thêm những chất
làm tăng hằng số điện môi của nước như glycin dẫn đến làm tăng khả năng ion hóa
protein. Nếu thêm những chất làm giảm hằng số điện môi của nước như alcol, aceton
thì làm giảm khả năng tan của protein trong nước.
Tính tan của protein còn phụ thuộc vào nồng độ muối trung tính, pH, nhiệt độ của
dung dịch. Muối trung tính có ảnh hưởng hai mặt lên tính tan của protein, khi thêm
một lượng nhỏ muối, có tác dụng làm tan đáng kể protein, kể cả những protein khó tan
hoặc hoàn toàn không tan trong nước nguyên chất. Khi nồng độ muối thấp các ion
muối kết hợp với các nhóm ion của protein, có tác dụng làm tăng tính có cực do đó
tăng tính tan của protein. Khi nồng độ muối cao đa số protein kết tủa. Khi nồng độ
muối cao, xảy ra sự cạnh tranh dung môi giữa phân tử protein và các phân tử muối,
kết quả protein bị mất lớp vỏ áo nước và kết dính lại với nhau và tủa xuống.
Tính tan của protein phụ thuộc vào khả năng tích điện của các nhóm do đó khi thay
đổi pH của môi trường thì khả năng hòa tan của protein cũng thay đổi. Ở điểm đẳng
điện thì khả năng hòa tan của protein kém nhất. Đối với nhiệt độ, trong giới hạn chưa
gây biến tính protein thì khả năng hòa tan của đa số protein tăng khi nhiệt độ tăng, khi
protein bị biến tính do nhiệt độ gây ra thì protein không tan trong nước.
Sự biến tính của protein
Sự biến tính của protein người ta hiểu rằng đây là sự phân hủy cấu trúc không gian
nguyên thể của phân tử protein, dẫn đến sự giảm một phần hay mất toàn bộ tính tan
của protein, nó dẫn đến sự thay đổi tính chất lý học và hóa học của protein, làm mất
hoạt tính sinh học đặc hiệu của protein (như enzyme mất hoạt tính xúc tác, hormon
mất khả năng điều chỉnh, hemoglobin mất khả năng liên kết với oxy. Sự biến tính kèm
theo sự đứt liên kết cộng hóa trị trong bộ sườn mạch polypeptide (liên kết peptide).
Xảy ra sự phân hủy cầu disulfit, liên kết kỵ nước, liên kết ion, liên kết hydro. Kết quả
là cấu trúc bậc ba nguyên thủy và phần lớn cấu trúc bậc hai bị phá hủy.
Protein bị biến tính kèm theo các hiện tượng sau:
Biến đổi hoạt tính quang học và hình dạng kích thước của phân tử protein (hình cầu
sang hình sợi)
Những protein bị biến tính thì mất khả năng hòa tan trong nước và nó mất khả năng
kết tinh cũng như mất một số tính chất lý học hóa học khác: làm tăng các nhóm chức
hóa học mà khi chưa bị biến tính không có hoặc làm tăng them các nhóm chức tiol,
amin, carboxyl…. Độ nhớt và sức căng bể mặt cũng tăng. Hay xuất hiện các yếu tố
kháng nguyên mới và trở nên dễ bị phân giải hơn bởi các enzyme tiêu hóa.
Các tác nhân lý học (tia tử ngoại, sóng siêu âm, tác nhân cơ học…) và các tác nhân
hóa học (acid, bazơ mạnh, muối kim loại mạnh, tanin…) chúng kích thích sự biến tính
phân tử protein. Cơ chế sự tác dụng biến tính của các tác nhân hóa học được xác định
bằng cấu tạo của chúng . Ví dụ: ure, guanidinclorit, formamid nhờ sự hiện diện của
nhóm amid chúng cạnh tranh với nhóm peptide của protein vì các liên kết hydro,
chuyển chúng sang cho bản thân. Những tác nhân này chúng phân hủy những tương
tác kỵ nước. Sự ảnh hưởng biến tính tối đa của ure và nhiều amid khác biểu hiện trong
nồng đôn lớn (6-10µ).
Sự đun nóng là những yếu tố vật lý tác dụng biến tính chung nhất. Sự tăng chuyển
động nhiệt của mạch polypeptide dẫn đến sự làm đứt các liên kết hydro và phá hủy
các tương tác kỵ nước. Tốc độ biến tính bởi nhiệt chủ yếu phụ thuộc vào phản ứng
hoạt hóa của môi trường, sự có mặt của muối và nồng độ của chúng. Sự biến tính bởi
nhiệt kèm theo sự sa xuống của chúng trong dạng cặn (tủa)
Sự biến tính có thể là một quá trình thuận nghịch. Để protein bị biến tính ở điều kiện
tự nhiên tương ứng thì cấu trúc tự nhiên của nó có thể khôi phục trở lại như ban đầu
gọi là biến tính thuận nghịch (sự phục hồi). Sự biến tính càng nhẹ bao nhiêu nghĩa là
sự bẽ gãy các liên kết thứ cấp quy định cấu trúc bậc 2, bậc 3 và bậc 4 càng ít bao
nhiêu thì sự phục hồi càng dễ dàng bấy nhiêu.
Trong quá trình tách và làm sạch protein, để tránh hiện tượng biến tính cần tiến hành ở
điều kiện nhiệt độ thấp, chiết bằng dung dịch đệm có nồng độ và pH thích hợp có thể
thêm đường đơn giản, rượu đa chức. Sản phẩm thu được thường đem sấy thăng hoa,
cất giữ ở trạng thái khô ở nhiệt độ thấp.
Tính chất chức năng của protein
Protein có thể có mặt trong thực phẩm ở trạng thái rắn hoặc lỏng, dạng thuần nhất
hoặc hỗn hợp. Nó là hợp phần có sẵn hoặc đưa vào để tạo giá trị dinh dưỡng, tạo hình
và tạo kết cấu đặc trưng cho thực phẩm. Trong các điều kiện công nghệ nhất định,
protein có thể tương tác với nhau, với nước, glucid, lipid để tạo ra độ dẻo, độ trong,
tạo bọt, tạo độ xốp cho sản phẩm.
Các tính chất chức năng – áp dụng cho một thành phần thực phẩm – là các tính chất
không phải dinh dưỡng, ảnh hưởng đến tính khả dụng của thành phần đó trong một
thực phẩm: tạo tính cảm quan (trước hết là cấu trúc), trạng thái vật lý của thực phẩm
trong chuyển hóa, chế biến, bảo quản. Các tính chất chức năng của protein chính là
các tính chất hóa lý tạo nên các đặc tính mong muốn của thực phẩm chứa protein.
Các tính chất chức năng của protein được chia thành 3 nhóm:
- Hydrat hóa (phụ thuộc vào liên kết protein – nước) như khả năng hút ẩm, giữ nước,
trương nở, dẻo dính, phân tán, hòa tan và tạo độ nhớt…
- Các tính chất do liên kết giữa protein – protein như khả năng đông tụ, kết tủa, tạo gel
và tạo các cấu trúc khác (như tạo sợi, tạo màng, tạo bột nhão…)
- Các tính chất bề mặt liên quan đến sức căng bề mặt như khả năng tạo nhũ tương, tạo
bọt…
Tuy nhiên các nhóm tính chất này cũng không có ranh giới phân chia rõ ràng, như khả
năng tạo gel liên quan đến phản ứng protein – protein và cả protein – nước.
Bảng: Những tính chất chức năng của protein và ứng dụng của chúng trong thực phẩm
Tính chất Ứng dụng
Hòa tan Đồ uống, canh súp
Hydrat hóa Bột nhào (bánh), thịt bằm
Độ nhớt Các dạng đồ uống, bột nhào
Tạo gel Giò chả, đậu hũ, bột nhào, phomai, đồ ăn nhẹ dạng gel
Nhũ hóa Sữa đồng hóa, bơ, kem, mayonaise, cà phê sữa, trộn salad,
xúc xích..
Tạo bọt Bọt bia, bánh xốp…
Tạo kết cấu Các sản phẩm thịt giả từ protein thực vật
Một số tính chất chức năng thông dụng của protein
Khả năng tạo gel
Khi các phân tử protein bị biến tính tập hợp lại để tạo thành một mạng lưới không
gian có trật tự được gọi là sự tạo gel. Các protein là những dung dịch keo ưa nước,
trong phân tử của chúng ngoài các lieenkeets CO-NH, còn chứa các nhóm bên khác
nhau (các gốc carbuahydro, các vòng benzen, imidazol….)
Khả năng tạo gel là một tính chất chức năng quan trọng của nhiều protein. Nó đóng
vai trò chủ yếu trong chế biến nhiều loại thực phẩm. Một số sản phẩm sữa như
phomai, gel lòng trắng trứng, sản phẩm thịt cá dạng nghiền (giò, chả), gel keratin, gel
protein đậu nành, bột nhào làm bánh mì, protein thực vật được tạo cấu trúc bằng đùn
nhiệt dẻo hay kéo sợi (các thịt giả) là những sản phẩm có cấu trúc gel. Tạo gel protein
được sử dụng không chỉ để tạo thành các gel cứng, dẻo nhớt mà còn đồng thời cải
thiện được tính chất hấp thụ nước, tính chất đặc chắc (tạo độ dày), cải thiện lực liên
kết của các tiểu phần (tính bám dính) và để làm bền các hệ nhũ tương, hệ bọt thực
phẩm. Gel protein điển hình làm miếng đậu hũ được sản xuất từ protein đậu nành.
Điều kiện tạo gel
Trong phần lớn các trường hợp gia công nhiệt là cần thiết cho việc tạo gel. Làm lạnh
bên trong có thể cần thiết và acid hóa nhẹ đôi khi có lợi. Đôi khi cho thêm muối đặc
biệt là ion Ca2+ có thể cần thiết để làm tăng tốc độ tạo gel, hoặc tăng độ cứng của gel
(đối với trường hợp của protein đậu nành, lactoserum, serum albumin).
Tuy nhiên, nhiều protein có thể tạo gel mà không cần đun nóng, chỉ nhờ thủy phân
nhẹ bằng enzyme (mixen casein, lòng trắng trứng, fibrin); đơn giản cho thêm Ca2+
(mixen casein) hay từ môi trường kiềm đưa về pH trung tính hoặc pI đẳng điện (như
sản xuất đậu phụ).
Trong khi nhiều gel được hình thành từ protein trong dung dịch như lòng trắng trứng,
sữa đậu nành, một số hệ phân tán trong nước hoặc trong dung dịch muối ăn của
protein ít tan hoặc không tan trong nước cũng có thể tạo thành gel như collagen,
actomyosin). Vì vậy tính tan của protein không phải luôn cần thiết cho sự tạo gel.
Cơ chế tạo gel
Quá trình tạo gel được thực hiện qua 2 giai đoạn: Giai đoạn biến tính và giãn mạch;
giai đoạn tương tác có trật tự giữa các phân tử protein và tập hợp protein.
Khi protein bị biến tính, các cấu trúc bậc 2, bậc 3 bị phá vỡ, các mạch protein bị duỗi
hoàn toàn, tiếp xúc và liên kết với nhau qua các nhóm chức , mỗi vị trí tiếp xúc của
mạch là một nút, phần còn lại tạo thành mạng lưới không gian vô định hình, rắn trong
đó chứa đầy pha phân tán là nước.
Các liên kết tham gia cấu trúc tạo gel
+ Liên kết kỵ nước: tương tác này được tăng cường khi nhiệt độ tăng, nước bị đẩy ra.
Các mạch có xu hướng liên kết với nhau hơn làm khối gel cứng hơn.
+ Liên kết hydro
+ Liên kết tĩnh điện
Khả năng tạo bọt của protein
Định nghĩa: Bọt thực phẩm
Các hệ bọt thực phẩm gồm các bọt khí phân tán trong pha liên tục là lỏng hoặc bán rắn
có chất hoạt động bề mặt hòa tan.
Có rất nhiều loại thực phẩm có dạng bọt như bánh xốp, kem, bọt của bia… Trong
nhiều trường hợp, khí tạo bọt là không khí, một số khác là CO2 còn pha liên tục là một
dung dịch hoặc huyền phù nước có chứa protein. Một số hệ bọt thực phẩm là hệ keo
phức tạp.
Ví dụ: Kem là một hệ nhũ tương (hoặc huyền phù) của các giọt chất béo (dạng rắn và
tập hợp thành các nhóm nhỏ), một huyền phù của các tinh thể đá phân tán, một gel
polysaccharide, một dung dịch đường nồng độ cao, dung dịch protein và các bọt khí.
Các bọt khí thường chứa khí có áp suất lớn hơn áp suất ngoài, ép vào nhau nên bóng
khí có hình đa diện. Trong các hệ bọt, pha liên tục gồm các lớp mỏng chất lỏng hay
các màng mỏng ngăn cách các bọt khí. Bề mặt phân chia khí/lỏng có thể đạt đến 1m2/ml chất lỏng. Tương tự như trường hợp tạo nhũ tương, cần cung cấp năng lượng
cơ học như khuấy, thổi khí…để tạo bề mặt phân chia này. Để duy trì bề mặt phân chia
chống hiện tượng hợp nhất các bọt khí, cần sử dụng các chất hoạt động bề mặt để làm
giảm sức căng bề mặt và tạo thành mạng lưới bảo vệ đàn hồi. Một số protein có khả
năng tạo thành màng bảo vệ bị hấp phụ ở bề mặt phân chia khí/ lỏng. Trong trường
hợp đó, một tấm mỏng ngăn cách hai bọt khí kề nhau sẽ gồm hai lớp màng protein
ngăn cách nhau bởi một màng mỏng chất lỏng.
Kích thước các bọt khí có thể biến thiên trong một khoảng rộng từ 1µm đến vài cm
tùy thuộc vào sức căng bề mặt, độ nhớt của chất lỏng, năng lượng cơ học cung cấp…
Các phương pháp tạo hệ bọt
- Cho khí đi qua một vật cản xốp (như thủy tinh xốp) vào dung dịch protein trong
nước với nồng độ thấp (0,01 - 2%).
- Khuấy mạnh dung dịch protein trong nước khi có mặt một khối lượng lớn khí.
Phương pháp này được áp dụng nhiều trong sản xuất thực phẩm. So với phương pháp
sục khí thì phương pháp này đòi hỏi lực cơ học cao hơn (lực khuấy cắt) và tạo được hệ
phân tán khí đồng nhất hơn. Nhu cầu protein cũng cao hơn (1 – 40%) do lực cơ học
cũng tăng sự hợp giọt và ngăn cản protein hấp phụ lên bề mặt liên pha. Trong quá
trình khuấy, dung tích khí phối trộn dần đạt đến giá trị cực đại (cân bằng động học) và
dung tích của hệ có thể tăng lên từ 300 – 2000%.
- Giảm đột ngột áp suất của một dung dịch đã được nén sơ bộ.
Sự khác biệt giữa hệ nhũ tương và hệ bọt thực phẩm là trong hệ bọt dung tích riêng
phần của pha phân tán (pha khí) thay đổi trong một khoảng rộng hơn rất nhiều so với
hệ nhũ tương. Các hệ bọt thường ít bền bởi vì chúng có tổng diện tích bề mặt phân
chia rất lớn.
Ba nhân tố quan trọng nhất có tác dụng làm tăng độ bền của hệ bọt bao gồm sức căng
bề mặt phân chia bé, pha lỏng có độ nhớt cao và các màng mỏng protein bị hấp phụ
bền, đàn hồi và không thấm khí.
Những yếu tố ảnh hưởng đến sự tạo bọt
Người ta thấy những protein có độ hòa tan mạnh đồng thời cũng có hoạt tính tạo bọt
và độ bền của bọt tốt. Tuy nhiên một số protein ở dạng các tiểu phần không tan cũng
đóng vai trò thuận lợi cho việc làm bền bọt, có thể do làm tăng độ nhớt bề mặt. Nồng
độ protein ở mức độ nhất định (tăng tới 10%) sẽ tạo một độ nhớt và độ dày thích hợp
cho màng ở bề mặt phân chia.
Mặc dù khả năng tạo bọt tương ứng với sự tăng thể tích nói chung không thể cao hơn
ở điểm đẳng điện của protein nhưng tại pI, độ bền của hệ bọt lại thường khá tốt. Điều
này là do các lực hút tính điện giữa các phân tử protein lớn tại pI sẽ làm tăng chiều
dày và độ bền của lớp màng protein được hấp phụ ở các bề mặt phân chia khí/lỏng,
giúp bọt tạo ra có độ bền chắc. Tuy nhiên phần lớn các hệ bọt thực phẩm được tạo ra ở
pH khác pI của các thành phần protein có trong chúng.
Các muối có thể gây ảnh hưởng đến độ hòa tan, độ nhớt, sự duỗi ra và tập hợp protein
và từ đó làm xấu hoạt tính tạo bọt.
NaCl thường làm tăng thể tích bọt và làm giảm độ bền của hệ bọt còn ion Ca2+ có thể
cải thiện độ bền của hệ bọt chủ yếu do tạo thành các cầu giữa các nhóm carboxyl của
phân tử protein. Saccharose và các loại đường thường làm giảm khả năng tạo “dậy”
của hệ bọt, nhưng cải thiện độ bền do chúng làm tăng độ nhớt của hệ. Do tính chất này
nên đối với một số hệ bọt thực phẩm (sản phẩm ngọt), người ta thường cho đường vào
cuối quá trình chế biến. Các glycoprotein của lòng trắng trứng (ovomucoid,
ovalbumin) góp phần làm tăng độ bền của các hệ bọt do chúng hấp phụ và giữ nước ở
các màng chất lỏng ngăn cách các bọt khí. Trong hệ, khi có lẫn lipid dù với lượng rất
bé (0,1%) cũng sẽ gây hỏng hoạt tính tạo bọt của protein. Nguyên nhân do lipid và các
dung môi hữu cơ như rượu bậc cao có tính kỵ nước, vì thế chúng sẽ liên kết với
protein và loại bỏ protein khỏi lớp màng của bề mặt phân chia. Khi nồng độ protein
trong giới hạn rộng (đến 10%), độ bền của hệ bọt tăng nhiều hơn so với độ tăng thể
tích. Tăng nồng độ protein sẽ làm tăng các bọt khí có kích thước nhỏ và các hệ bọt sẽ
có độ bền lớn hơn.
Để tạo thành một hệ bọt tốt, cần đủ thời gian và cường độ khuấy cho phép làm duỗi và
hấp phụ đầy đủ protein. Tuy nhiên nếu cường độ đánh khuấy quá mạnh, có thể giảm
sự “dậy” và độ bền bọt.
Khả năng tạo bọt có thể được cải thiện nhờ vào một số biến tính hóa học và vật lý .
Thủy phân protein thành những phân đoạn nhỏ, linh động hơn, tan tốt hơn và phơi bày
nhiều hơn các gốc kỵ nước giúp tăng khả năng tạo bọt của protein. Gia công nhiệt
nhẹ, gắn thêm các gốc trung tính, hoặc sử dụng các protein có tính kiềm mạnh có thể
tăng khả năng kết hợp của protein tại bề mặt phân chia, tăng độ bền của màng protein
dẫn đến tăng độ bền của bọt.
Phân loại protein
Để phân loại protein, người ta dựa vào thành phần hóa học trong cấu tạo phân tử của
chúng. Hiện nay protein được chia làm 2 nhóm lớn là protein đơn giản và protein phức tạp
Protein thuần hay protein đơn giản
Protein đơn giản là những protein trong thành phần cấu tạo của nó chỉ có các acid
amin. Protein đơn giản khác nhau thường khác nhau theo tính tan của chúng trong các
dung môi.
- Albumin: Đây là những protein đơn giản tan trong nước, chúng bị kết tủa ở nồng độ
muối trung tính bão hòa như (NH4)2SO4. Albumin có nhiều trong thiên nhiên như:
protein huyết thanh máu người, protein lòng trắng trứng, lúa mì, đậu hà lan…Trọng
lượng phân tử của các protein thuộc nhóm này khá khác nhau dao động từ 12000 –
170000 dalton.
- Globulin: Không tan hoặc tan rất ít trong nước, tan tốt trong dung dịch muối trung
tính loãng như NaCl, KCl, Na2SO4, K2SO4. Nó bị tủa bởi (NH4)2SO4 ở nồng độ 50%
bão hòa. Trong nước globulin không tan vì chúng sẽ tủa xuống khi tách bằng cách
thẩm tách. Globulin có trong huyết thanh máu, lòng đỏ trứng, nó có nhiều trong hạt
đậu và hạt oliu.
- Prolamin: Tan tốt trong ethanol 60-80%. Trong thành phần của nó chứa nhiều acid
amin prolin cũng như acid glutamic. Prolamin hầu như chỉ có trong phần nội nhũ chứa
tinh bột của hạt hòa thảo…
- Glutelin: tan tốt trong dung dịch kiềm (0,2-2% NaOH). Đây là protein của thực vật,
nó chứa trong tất cả các hạt hòa thảo và những cây trồng khác, cũng như trong các
phần xanh của cây. Toàn bộ protein tan trong kiềm của hạt lúa mì được gọi là glutelin,
còn của gạo gọi là orizenin
- Histon: Đây là protein có tính kiềm , tan trong acid loãng (HCl 0,2N) và bị tủa bởi
amoniac, alcol.
Protein phức tạp hay protein liên hợp
- Lipoprotein
- Phosphoprotein
- Hemoglobin
- Glucoprotein
- Lipoprotein
- Nucleoprotein
- Metalprotein
Giá trị protein của các thực phẩm
Giá trị protein của một thực phẩm được đánh giá trên khả năng thỏa mãn người tiêu
dùng về nhu cầu nitơ và các acid amin, đảm bảo duy trì và phát triển cơ thể thích hợp.
Khả năng phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Hàm lượng protein
Một số thức ăn chứa ít hơn 35 protein như khoai mì, khoai lang, khoai tây không đáp
ứng nhu cầu protein cho người, ngay cả khi lượng thức ăn đưa vào vượt qua nhu cầu
nhiệt lượng. Chế độ ăn bao gồm lúa gạo, bột mì (8-10% protein) có thể đảm bảo được
nhu cầu tối thiểu protein cho người lớn (về số lượng) và cả về nhiệt lượng.
Chất lượng protein
Chất lượng, giá trị hoặc cân bằng của một protein thực phẩm phụ thuộc vào bản chất
và số lượng các acid amin có trong protein và hệ số sử dụng protein của cơ thể.
Protein cân bằng hoặc chất lượng cap chứa các acid amin không thay thế theo một tỷ
lệ thích hợp đối với nhu cầu của cơ thể. Trên ý nghĩa đó, nói chung protein động vật
có chất lượng cao hơn protein thực vật.
Protein hạt ngũ cốc thường nghèo lysine, trong một số trường hợp còn thiếu cả
tryptophan và threonine. Các hạt dầu thiếu methionine và lysine còn các hạt đậu
thường nghèo methionine. Khi thành phần các acid amin không thay thế sai khác nhau
nhiều so với chuẩn lý tưởng, protein sẽ không cân bừng về acid amin. Nếu không có
sự phối hợp , điều chỉnh, sử dụng chỉ riêng loại protein này sẽ có hệ số sử dụng các
acid amin thấp, trẻ em chậm lớn, dễ mẫn cảm với bệnh tật.
Chất lượng protein được đánh giá trên một số chỉ tiêu sau:
PER (protein efficiency ratio) được tính bằng tỷ lệ tăng trọng nhận được (g) thử trên
chuột trên lượng (g) protein sử dụng.
PER = tăng trọng nhận được (g)/ khối lượng protein sử dụng (g)
BV (biological valence): % nitơ được hấp thụ và cố định trong cơ thể - phản ánh cân
bằng acid amin không thay thế qua sự tiêu hóa được hấp thụ
Công thức trang 76 hóa học thực phẩm
NPU (net protein utilisation): % protein (hoặc nitơ) đưa vào được cố định trong cơ thể
Công thức trang 76 hóa học thực phẩm
Bảng giá trị sinh học của một số protein thực phẩm
Nguồn Giá trị sinh học Thiếu
protein BV NPU PER acid amin
Trứng gà 94 93 3,9
Sữa bò 84 81 3,1 Met
Cá 76 80 3,5 Thr
Thịt bò 74 67 2,3 Met
Khoai tây 73 60 2,6 Met
Đậu nanh 73 61 2,3 Met
Gạo 64 57 2,2 Lys, Tyr
Đậu 58 38 1,5 Met
Bột mì 52 57 0,6 Lys, Thr
Các phương pháp làm tăng chỉ số PER
- Chế biến làm tinh sạch protein
Ví dụ: PER của đậu nành
Đậu nành sống: 1,1
Tách vỏ, hấp chín: 2
- Phối hợp các nguồn protein khác nhau
- Bổ sung acid amin không thay thế
Tính khả dụng của acid amin
Vai trò sinh học của acid amin trong protein phát huy đầy đủ hoặc không phụ thuộc
vào độ tiêu hóa của protein. Độ tiêu hóa của protein phụ thuộc vào các yếu tố:
+ Nguồn gốc: Các protein có nguồn gốc động vật (90%) tiêu hóa tốt hơn protein thực
vật (60-70%).
+ Cấu hình của protein:
Dạng sợi tiêu hóa chậm hơn dạng hình cầu
Qua biến tính nhiệt tiêu hóa tốt hơn chưa biến tính.
Các phức protein với kim loại, nucleic, polysaccharide, cellulose,làm giảm độ tiêu hóa
của protein.
Sự có mặt các chất kháng dưỡng làm giảm khả năng tiêu hóa của protein (protein đậu
nành có antitrypsine)
Các protein tạo ra khi chế biến ở nhiệt độ cao, pH kiềm, có mặt đường khử làm giảm
khả năng hấp thu protein.
CHƯƠNG II LIPID
I. ĐẶC TÍNH CHUNG VÀ PHÂN LOẠI
Lipid là chất hữu cơ không tan trong nước và dung môi hữu cơ phân cực, tan tốt trong
dung môi hữu cơ không phân cực như eter, aceton, cloroform, benzen… Không tan
trong nước là một đặc điểm được sử dụng để tách pha giữa lipid, protein và
carbohydrate.
Lipid là thành phần cấu tạo cơ bản của màng tế bào, là nguồn nguyên liệu dự trữ quan
trọng cần thiết cho cơ thể sống, vỏ che chở bề mặt của nhiều cơ quan.
Lipid có trong tế bào của động vật, thực vật và vi sinh vật, có thể ở dạng chất béo dự
trữ như ở trong hạt, quả (thực vật); trong lớp mỡ dưới da hoặc lớp mỡ bao quanh, có
nội bào quan (động vật).
Lipid là vật dự trữ năng lượng đối với cơ thể, khi oxy hóa 1g chất béo giải phóng ra
9,1 Kcal (39KJ) năng lượng, có nghĩa là gấp đôi khi phân giải 1g glucid. Đồng thời
lipid cũng là chất dự trữ năng lượng cho quá trình trao đổi chất.
Do thể hiện tính cách nhiệt tốt, lipid giữ nhiệt cho cơ thể, đặc biệt ở động vật biển và
động vật ở cực, sử dụng đặc điểm này như một chức năng bảo vệ. Ở dạng mỡ đệm
(mỡ dự trữ) chúng bảo vệ cơ thể và các cơ quan động vật khỏi sự gây thương tích do
tác động cơ học. Lipid có thể được phân loại như sau:
Lipid trung tính và các acid béo tự do
Phospholipid
Glucolipid
Steroid
Sáp
Terpen
Phân loại
Phân loại dựa vào phản ứng xà phòng hóa
Lipid xà phòng hóa được: là những lipid mà trong phân tử có chứa ester của acid béo
cao phân tử. Nhóm này bao gồm các glyceride, glycerophospholipid, sáp.
Lipid không xà phòng hóa được: tức là những lipid trong phân tử không có chứa chức
ester. Nhóm này bao gồm các hydrocarbon, các chất màu và các sterol (acid béo tự do,
steroid, carotenoid, monoterpene, tocopherol).
Phân loại dựa vào thành phần cấu tạo
Lipid đơn giản: là ester của rượu và acid béo. Nhóm này bao gồm: triacylglycerin,
sáp, steride.
Lipid phức tạp: trong phân tử của chúng ngoài acid béo, rượu còn có các thành phần
khác như acid phosphoric, bazow nitow. Nhóm này bao gồm các nhóm nhỏ sau:
+ Glycerophospholipid: trong phân tử có glycerin, acid béo, acid phosphoric. Gốc acid
phosphoric có thể được ester hóa với một amin acol như colin hoặc colamin.
+ Glyceroglucolipid: trong phân tử ngoài glycerin, acid béo còn có mono hoặc
oligosaccharide kết hợp với glycerin qua liên kết glucoside.
+ Sphingophospholipid
Phân loại theo tính phân cực
Lipid trung tính
- Acid béo (> 12C)
- Mono-, di-, triacylglycerol
- Sterol và sterol ester
- Carotenoid, tocopherol
- Sáp
Lipid phân cực
- Glycerophospholipid
- Glyceroglucolipid
- Sphingophospholipid
- Sphingoglucolipid
II. ACID BÉO
Các acyl lipid(chất béo) bị thủy phân sẽ tạo thành glycerol và các acid carboxylic
mạch thẳng (hay các acid béo). Acid béo được phân loại dựa trên chiều dài mạch, số
lượng, vị trí và cấu hình các nối đôi cũng như sự xuất hiện của các nhóm chức dọc
theo chiều dài mạch.
Acid béo được chia làm hai loại: acid béo no (acid béo bão hòa) và acid béo không no
(acid béo chưa bão hòa), trong đó tỷ lệ acid béo không no có tỷ lệ cao hơn so với acid
no. Acid palmitic, oleic và linoleic là ba acid béo chiếm tỷ cao nhất trong tự nhiên.
Tên acid béo Số carbon trong phân tử % trong tự nhiên
Acid myristic 14C 2
Acid palmitic 16C 11
Acid stearic 18C 4
Acid oleic 18C, 1 nối đôi 34
Acid linoleic 18C, 2 nối đôi 34
Acid linolenic 18C, 3 nối đôi 5
2.1 Acid béo bão hòa (acid béo no)
Công thức phân tử: CnH2nO2
- Acid béo mạch thẳng và có số carbon chẵn chiếm tỷ lệ chính trong số các acid béo
no.
- Tham gia vào thành phần chất béo thường có chiều dài mạch carbon liên quan đến
nhiệt độ nóng chảy và nhiệt độ đông đặc của chất béo.
- Acid béo no mạch ngắn, MW thấp (<14:0) là thành phần triglyceride trong các chất
béo của sữa, đậu phộng và hạt cọ, là chất lỏng linh động có mùi đặc trưng.
- Acid có mạch carbon dài, phân tử lượng lớn thường ở trạng thái rắn và không mùi.
- Độ tan của acid béo trong nước giảm dần theo chiều dài mạch carbon.
Acid béo Nhiệt độ sôi
Acid lauric CH3(CH2)10COOH 43.50C
Acid myristic CH3(CH2)12COOH 54.40C
Acid palmitic CH3(CH2)14COOH 62.90C
Acid stearic CH3(CH2)16COOH 69.60C
Acid arachidic CH3(CH2)18COOH 75.40C
2.2 Acid béo chưa bão hòa (acid béo không no)
Công thức phân tử: CnH2n-xO2 với x là số nối đôi trong acid béo
- Acid palmitoleic: có đồng phân cis ở vị trí liên kết thứ 9
CH3-(CH2)5-CH=CH-(CH2)7-COOH
- Acid oleic: có đồng phân cis ở vị trí liên kết thứ 9
CH3-(CH2)5-CH=CH-(CH2)7-COOH
- Acid linoleic: có đồng phân cis ở vị trí liên kết thứ 9, 12
CH3-(CH2)4-CH=CH-CH2-CH=CH-(CH2)7-COOH
- Acid linolenic: có đồng phân cis ở vị trí liên kết thứ 9, 12,15
CH3-CH2-CH=CH-CH2-CH=CH-CH2-CH=CH-(CH2)7-COOH
- Acid arachidonic
Các acid béo không no chiếm tỷ lệ chính trong thành phần dầu mỡ, thường chứa một,
hai hoặc ba nối đôi trong mạch acyl của chúng.
Trong cơ thể người và động vật, các acid béo không no linoleic và linolenic không thể
tổng hợp được mà phải đưa vào bằng con đường thức ăn.
Acid arachidonic có dầu cá (chiếm gần 20% trong cá ngừ), trong phospholipid của tủy
xương, trong não.
2.3 Tính chất của acid béo
Tham gia vào thành phần của chất béo thực vật và động vật chứa số carbon chẵn và
thường xuyên gặp nhất có 16-18C. Những acid này có thể là acid béo bão hòa và chưa
bão hòa.
Mạch carbon của acid béo no thường gấp khúc chữ chi kéo thành mạch dài. Acid béo
không no thường có mạch carbon dạng đồng phân cis và trans. Trong tự nhiên acid
béo dạng cis phổ biến hơn dạng trans nhưng dạng trans bền hơn dạng cis. Đồng phân
dạng cis có thể chuyển thành trans trong sự đun nóng.
Tính chất hóa học
Phản ứng cộng với halogen I2, Br2
Acid béo không no cho phản ứng cộng tại những nối đôi với I2, Br2. Phản ứng này
giúp định lượng số nối đôi của acid béo hay lipid.
-CH=CH- + Br2
Phản ứng cộng với hydro: xảy ra với các acid béo không no với sự xúc tác của Ni,
phản ứng xảy ra trong điều kiện nhiệt độ và áp suất cao.
III. ACYGLYCEROL (ACYLGLYCERIDE) CHẤT BÉO TRUNG TÍNH
Cấu tạo
Tính chất của triacylglycerol
Tính chất vật lý
- Như các chất dự trữ, triacylglycerol có lợi thế đặc biệt so với các hợp chất như
glucid, protein. Nó không tan trong nước và dịch gian bào, chúng không bị xáo trộn
cùng với nước, cho nên nó không làm thay đổi tính chất lý hóa học cơ bản của tế bào
chất. Không có khuynh hướng tạo micel (vì không có đầu phân cực). Nhưng di- và
monoacylglycerol có tính phân cực đáng kể nhờ có các –OH tự do của chúng, do đó
tạo được micel.
- Chất béo có tỷ trọng nhỏ hơn nước, khoảng 0.866-0.973 (ở 150C). Chất béo không
tan trong nước, nhưng ở điều kiện nhất định dưới tác dụng của một số chất nó có thể
tạo nhũ tương bền (nhũ tương là hệ phân tán của 2 chất lỏng không trộn lẫn vào nhau
được, trong đó có một chất dưới dạng những giọt nhỏ của pha bị phân tán, còn chất
kia dưới dạng pha phân tán liên tục. Phần lớn các nhũ tương thực phẩm là kiểu nhũ
tương nước trong dầu hoặc dầu trong nước.
Nói chung tính chất của một chất béo là do tính chất của acid béo tham gia, tỷ lệ giữa
chúng cũng như tỷ lệ giữa các triacylglycerol khác nhau trong thành phần chất béo
quyết định. Điều này thấy rõ khi xét đến nhiệt độ nóng chảy của triacylglycerol. Nếu
trong thành phần của chúng các acid béo no chiếm ưu thế thì chất béo đó ở dạng rắn,
còn nếu acid béo chưa no chiếm ưu thế thì trong điều kiện thường nó ở dạng lỏng và
nhiệt độ nóng chảy của nó thấp.
Triacylglycerol đều tạo thành những đồng phân quang học và đồng phân hình học vì
chúng có nguyên tử carbon hoạt quang trong phân tử glycerin và nó còn có một hoặc
một số liên kết đôi trong các gốc acid béo.
Có thể chuyển chất béo lỏng thành dạng rắn trong quá trình bảo quản hay thuận tiện
cho sự vận chuyển bằng cách làm bão hòa nối đôi của acid béo không no nhờ quá
trình hydrogen hóa.
Tính chất hóa học của triacylglycerol
Phản ứng thủy phân
Dưới tác dụng của acid hoặc kiềm, triacylglycerol sẽ phân giải liên kết ester và tạo
thành glycerin và các acid béo (khi thủy phân bằng acid) hoặc muối của các acid béo
khi thủy phân bằng kiềm gọi là xà phòng. Phản ứng thủy phân bằng kiềm gọi là phản
ứng xà phòng hóa.
- Trong môi trường acid có nhiệt độ cao, triacylglycerol bị thủy phân tạo thành
glycerin và các acid béo.
Phương trình phản ứng
Sự thủy phân chất béo có thể tiến hành khi đun nóng trong nước đến 1000C nhưng quá
trình này xảy ra rất chậm. Nó sẽ tăng rất nhanh khi có mặt của kiềm hoặc acid.
- Trong môi trường kiềm NaOH, KOH: acylglycerol bị xà phòng hóa tạo thành
glycerin và muối. Muối này gọi là xà phòng.
Phương trình phản ứng
Trong cơ thể sống phản ứng thủy phân xảy ra được nhờ sự xúc tác của enzyme lipase.
Phản ứng hydro hóa: là phản ứng gắn H2 vào nối đôi của của acid béo không no trong
acylglycerol.
- Hydro hóa chọn lọc: áp dụng đối với một số dầu thực vật để làm giảm hàm lượng
acid béo linolenic và do đó làm tăng độ bền của dầu.
- Hydro hóa từng phần hay toàn bộ: nhằm mục đích tạo ra các chất béo rắn làm nền để
sản xuất margarin hay sản xuất mỡ nhũ hóa.
Phản ứng hydro hóa có ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng vì nó làm giảm hàm lượng
các acid béo cần thiết, hàm lượng vitamin và màu sắc của các chất màu carotenoid
thường có mặt trong dầu.
Các chỉ số đặc trưng của chất béo
Tính chất của chất béo được xác định bằng thành phần chất lượng của acid béo, sự
tương quan số lượng của nó, hàm lượng phần trăm của các acid béo tự do. Để nêu rõ
đặc tính tính chất của chất béo thì có hằng số hay các chỉ số như: chỉ số acid, chỉ số
iot, chỉ số xà phòng hóa, chỉ số ester…
Chỉ số acid: là số miligam KOH cần thiết để trung hòa các acid béo tự do có trong 1
gam chất béo.
Chỉ số acid là chỉ tiêu quan trọng về tính chất và trạng thái của chất béo vì nó có thể
dễ dàng tăng lên khi bảo quản chất béo hoặc sản phẩm giàu chất béo. Chỉ số acid béo
càng cao chứng tỏ chất béo không tươi, đã bị thủy phân một phần.
Chỉ số iot: là số gam iot kết hợp với 100g chất béo. Sự kết hợp iot xảy ra theo vị trí
liên kết đôi của các acid béo không no.
Chỉ số iod giúp ta xác định được hàm lượng của acid béo không no có trong một chất
béo nào đó. Chỉ số iod càng lớn thì độ lỏng của chất béo càng cao và nó càng tốt cho
việc điều chế sơn và vecni…
Chỉ số xà phòng là số mg KOH dùng để trung hòa các acid béo tự do cũng như các
acid béo kết hợp khi xà phòng hóa 1g chất béo.
Sự thủy phân chất béo trung tính bằng kiềm được gọi là sự xà phòng hóa. Trong kết
quả của phản ứng này thì tạo thành glycein và muối acid béo gọi là xà phòng. Khi sử
dụng KOH thì xà phòng dạng lỏng được tạo thành còn khi xà phòng hóa bằng NaOH
thì cho xà phòng dạng cứng.
Chỉ số ester là số miligam KOH cần dùng để trung hòa acid béo liên kết với glycerin,
được giải phóng khi xà phòng hóa 1g chất béo. Do đó chỉ số ester bằng hiệu số giữa
chỉ số xà phòng và chỉ số acid.
Sự oxy hóa chất béo
Khi bảo quản chất béo bị tác động của ánh sáng, oxy không khí, ẩm người ta nhận
thấy mùi và vị khó chịu. Quá trình này bao gồm sự oxy hóa và thủy phân chất béo gọi
là sự ôi hóa. Hiện tượng này có thể do nhiều nguyên nhân tuy nhiên dạng phổ biến
nhất là do oxy không khí kết hợp với nối đôi có trong phân tử acid béo không no tạo
thành peroxide.
Ptpu
Tiếp tục xảy ra sự đứt mạch carbon theo vị trí liên kết đôi cũ và tạo nên aldehyde và
acid với mạch ngắn dạng acid butiric với mùi và vị khó chịu.
Khi cho KI tác dụng với chất béo bị ôi, nó sẽ phản ứng với peroxide giải phóng iod
theo phản ứng:
Người ta thường dùng tiosulphat để chuẩn độ lượng iod được giải phóng ra.
ptpu
IV. SÁP
4.1 Thành phần của sáp, công thức cấu tạo và các loại sáp
Sáp là những ester phức tạp của các acid béo bậc cao và rượu đơn chức mạch thẳng có
phân tử lớn (có khi alcol vòng).
Sáp thiên nhiên, ngoài những ester trên còn có một số lượng nhỏ rượu cao phân tử tự
do và acid bậc cao tự do cũng như một ít carbua hydro luôn luôn có số nguyên tử
carbon lẻ (từ 27-33), các chất màu và các chất thơm. Hàm lượng các chất này có thể
chiếm khoảng 50%.
Trong sáp thiên nhiên, người ta thường gặp các loại rượu có phân tử lớn và acid béo
bậc cao sau:
Các acid béo:
- Acid palmitic: có trong sáp ong, spermacety
- Acid cardubic: CH3-(CH2)22-COOH
- Acid cerotic: CH3-(CH2)24-COOH sáp ong
- Acid melissic: CH3-(CH2)28-COOH sáp của lá
- Acid montanic: CH3-(CH2)26-COOH và quả
Các alcol:
- Alcol cetilic: CH3-(CH2)14-CH2OH - spermacety
- Alcol cerilic (hexancozanol): CH3-(CH2)24-CH2OH – sáp ong
- Alcol montanilic (octacozanol): CH3-(CH2)26-CH2OH – sáp ong và sáp của lá và của quả.
- Alcol miricilic (tricontanol): CH3-(CH2)28-CH2OH – sáp ong và sáp của lá và của quả.
Công thức cấu tạo chung của sáp:
R1-O-CO-R2
R1: gốc alcol
R2: gốc acid béo
Ví dụ: sáp ong thành phần chủ yếu của nó là ester của alcol miricilic và acid béo
palmitic, có công thức cấu tạo:
CH3-(CH2)28-CH2O-CO-(CH2)14-CH3
Dựa vào nguồn gốc người ta chia sáp ra làm 3 loại: sáp thực vật, sáp động vật và sáp
khoáng.
Sáp thực vật: thường có một lượng không lớn trong thực vật trên bề mặt của quả, lá,
thân, cành… Lớp sáp này nhằm bảo vệ cho chúng khỏi bị khô và không cho vi sinh
vật tấn công vào.
Phần lớn của lớp sáp này là carbua hydro. Ví dụ, lớp sáp trên lá bắp cải chủ yếu được
tạo nên từ carbuahydro dãy parafin nonacozan C29H60 và dẫn xuất của nó có nhóm
carbonyl tức là nonacozanon.
Trong thuốc lá đã tìm thấy carbuahydro heptocozan C27H56 và untriacontan C31H64.
Trong thành phần của lớp sáp ở quả nho có acid palmitic tự do có ester của nó với
rượu, có các rượu cericilic, miricilic và acid cerotic.
Sáp động vật: sáp động vật thường được gọi là sáp ong, sáp lông cừu lanolin
spermacety. Người ta còn tìm thấy sáp ong có những ester phức tạp, cũng như các
acid béo tự do, có số nguyên tử carbon từ 32-34; các rượu bậc cao tự do (alcol
cerilic…) và carbua hydro. Trong thành phần của sáp ong còn tìm thấy những chất
gây nên mùi và hương thơm cũng như những hợp chất khoáng.
Sáp ong được sử dụng trong nhiều lãnh vực, công nghiệp nhờ kết hợp tính dẻo với
tính bền vững với acid, những tính chất cách điện và nước: công nghiệp đúc, công
nghiệp thuộc da, công nghiệp ô tô, máy bay, dệt, trong công nghiệp thực phẩm, hương
liệu, trong dược học và kỹ thuật mạ…
Trước đây người ta sử dụng sáp ong trong ngành y tế để chuẩn bị thuốc dán, thuốc
mỡ, sản xuất các loại kem dưỡng, kem dính, kem tẩy, kem làm trắng và kem mặt nạ
đối với mặt, khác với chất béo trung tính, sáp ong nói riêng và sáp nói chung, chúng
rất bền với sự tác dụng của ánh sáng, chất oxy hóa, nhiệt độ và không bị thủy phân.
+ Sáp lông cừu – lanolin: Lanolin là chất bôi trơn bao phủ lông cừu. Theo cấu tạo thì
lanolin là sterid. Nó cấu tạo từ hỗn hợp ester của hai sterin – lanosterin và agnosterin
với các acid béo bậc cao phân nhánh đặc hiệu – acid lanopalmitic, acid lanostearic…
+ Spermacety: đây là sáp có nguồn gốc động vật, nó có lượng lớn trong thành phần
của chất béo não cá. Spermacety được tạo nên từ ester của alcol cetilic và acid
palmitic:
CH3-(CH2)14-CO-O-CH2-(CH2)14-CH3
Spermacety là chất rắn có nhiệt độ nóng chảy: 41-490C.
Sáp khoáng
Sáp này vốn được chiết xuất từ than đá li-nhit hoặc than bùn nhờ các dung môi hữu
cơ. Trong thành phần của lớp sáp có acid montanilic và các ester của nó. Tỷ trong của
sáp khoáng = 1, nhiệt độ nóng chảy của nó là 72-770C.
Những chức năng và đặc tính của sáp
Sáp thuộc nhóm lipid đơn giản, ở trạng thái rắn trong điều kiện nhiệt độ bình thường.
Sáp tạo một lớp mỏng bao phủ trên bề mặt của lá quả của nhiều cây. Sáp được tạo nên
trong tế bào biểu bì, sau đó được đưa qua các ống dẫn nhỏ ra khỏi tế bào ở lại trên bề
mặt nó.
Sáp có tác dụng bảo vệ giữ cho lá (lông cừu) khỏi bị thấm nước không bị khô và ngăn
ngừa vi sinh vật xâm nhập vào. Khi lớp sáp trên bề mặt của quả bị hư, quả dễ bị hư
thối, thời gian bảo quản của quả phụ thuộc vào chất lượng của lớp sáp.
Sáp ong bảo vệ cho ấu trùng phát triển bình thường, bảo vệ mật ong khỏi bị hư.
Lanolin của lông cừu giữ cho lông và da không bị tác dụng của nước, không bị thấm
nước.
Spermacet và lanolin đều được sử dụng trong kỹ nghệ nước hoa và trong y học.
Sáp kém bị thủy phân và bền với sự tác dụng của ánh sáng, các chất oxy hóa, nhiệt
độ…Vì vậy sáp hoàn thành chức năng bảo vệ trong cơ thể và có thể bảo quản sáp
hàng nghìn năm và cũng chính vì vậy mà sáp không có giá trị dinh dưỡng cơ thể
không hấp thụ được sáp.
V. PHOSPHOLIPID
Lipid phức tạp nói chung và phospholipid nói riêng có trong nhiều tổ chức động vật
như não, gan, thận, tim, máu, sữa. Trong thực vật thường gặp ở hạt, đặc biệt có nhiều
trong cây họ đậu và cây có dầu.
Lipid phức tạp thường kết hợp với protein dưới dạng phức hợp đặc biệt tan được trong
nước, do đó mà chúng có thể dễ dàng lưu thông trong cơ thể.
Về thành phần cấu tạo, trong phân tử lipid phức tạp ngoài acid béo, alcol, còn có
những hợp phần khác như phospho, nitơ, lưu huỳnh, glucid…
Theo tên gọi trước đây thì phospholipid được gọi là phosphatide. Nay theo danh pháp
quốc tế thì không giới thiệu sử dụng theo nguyên tắc cũ nữa.
Phân tử phospholipid là những ester của alcol đa chức với các acid béo cao phân tử,
có gốc acid phosphoric và bazơ nitơ phân cực đóng vai trò là các nhóm bổ sung.
Trong thành phần của các phospholipid khác nhau, người ta tìm thấy được các alcol
đa nguyên tử khác nhau. Người ta đã tìm được ba trong số alcol đa nguyên tử đó là:
glycerin, inozil, sphingozin.
Do vậy mà các phospholipid được chia ra thành các nhóm:
Glycerophospholipid
Inozitphospholipid
Sphingophospholipid
Phospholipid phổ biến rộng rãi trong mô thực vật và động vật, trong vi khuẩn chúng là
lipid chiếm ưu thế. Khác với lipid trung tính, phospholipid chỉ chứa trong các màng tế
bào và rất hiếm tìm thấy một lượng nhỏ trong thành phần của chất lắng đọng dự trữ.
Lượng lớn phospholipid chứa trong tim, thận của động vật và trong hạt của thực vật,
trong trứng chim. Đặc biệt có một lượng lớn trong mô thần kinh của người và động
vật có xương sống.
Phospholipid tan trong các dung môi hữu cơ, nhưng có chọn loc: có loại tan trong
ethanol, loại khác tan trong eter và có loại tan trong benzen. Phần lớn chúng không tan
trong aceton, người ta sử dụng đặc tính này để tách phospholipid ra khỏi các lipid
khác. Phospholipid không tan trong nước (nó trương lên).
Nó bị oxy hóa nhanh trong không khí như trong phân tử có acid béo không no, trong
trường hợp này nó bị thay đổi màu vàng sáng sang màu nâu.
Phospholipid dễ dàng tạo phức hợp với protein, chính vì vậy nó tham gia chính vào
cấu hình của vỏ tế bào và màng trong tế bào (chiếm đến 50% tổng số lipid của các
màng sinh học).
Nhờ có cấu trúc hóa học đặc biệt (phân tử phân cực), phospholipid bảo đảm tính thấm
một chiều của các màng.
5.1 Glycerophospholipid
Công thức cấu tạo chung
Phần lớn glycerolphospholipid tự nhiên, hai nhóm alcol của glycerin được ester hóa
bởi các acid béo, còn vị trí thứ ba là acid phosphoric. Các acid béo no (từ 16-18
nguyên tử carbon) ở vị trí C-1, còn các acid béo không no (từ 16-20 nguyên tử carbon
từ một đến 4 nối đôi) ở vị trí C-2 như là quy tắc.
Trong tế bào acid phosphoric có một lượng rất nhỏ ở dạng tự do và chủ yếu trong mô
thực vật. Đồng thời acid phosphoric là hợp chất trung gian quan trọng trong sinh tổng
hợp phospholipid.
Có trong thành phần của phospholipid gốc acid phosphoric, có thể tạo nên liên kết
ester phức tạp với các nhóm phân cực, các glycerophospholipid khác nhau, chúng
khác nhau bởi bản chất của các nhóm này.
Sự tồn tại trong phân tử glycerophospholipid các gốc acid béo (“đuôi” không phân
cực) và đầu ion hóa phân cực làm cho chúng có tính lưỡng cực. Điều này đã giải thích
được những lý hóa đặc biệt của glycerophospholipid và sự tham gia của nó trong cấu
trúc của màng tế bào.
Cũng như lipid trung tính, glycerophospholipid tan tốt trong các dung môi không phân
cực và tác dụng với nước tạo nên dạng nhũ tương bền, hay có khi tạo nên dung dịch
keo. Do nguyên nhân này mà glycerophospholipid có tính chất tẩy rửa.
Khi thủy phân bằng kiềm nhẹ, chỉ liên kết giữa acid béo và glycerin bị thủy phân. Khi
sử dụng kiềm mạnh thì cả liên kết với acid phosphoric cũng bị thủy phân.
Vì có cấu tạo bất đối xứng nên phospholipid có tính hoạt quang và tạo thành các đồng
phân lập thể tương ứng.
Phụ thuộc vào cấu tạo của nhóm phân cực, glycerophospholipid chia ra như sau:
+ Phosphatidilcholin - lecithin
+ Phosphatidiletanolamin - xephalin
+ Phosphatidilserin
+ Phosphatilinozid
+ Phosphatidilsacara
+ Phosphatidilglycerin
+ Phosphatidal hay plasmalogen
Các dẫn xuất của glycerophospholipid
Phosphatidilcholin – lecithin:
Trong thành phần của phosphatidilcholin, phân cực là gốc alcolamincholin. Cholin là
một bazơ mạnh như KOH, nó phân ly hoàn toàn trong nước, với acid mạnh tạo nên
muối trung tính.
Phosphatidilcholin – lecithin có một lượng lớn trong lòng đỏ trứng. Nó cũng có nhiều
trong mô não của người và động vật, còn trong thực vật có trong hạt đậu nành, hạt
hướng dương, mầm lúa mì.
Phosphatidilcholin – lecithin tan tốt trong alcol, ester nhưng không tan trong aceton.
Cholin có thể có mặt trong các mô và ở trong dạng tự do. Nó có hoạt tính sinh học
cao:
+ là chất cho nhóm metyl trong các tổng hợp khác nhau (methionin)
+ kích thích sự nhu động của ruột
+ khi không đủ cholin thì sự phân hủy quá trình trao đổi chất được phát hiện, cụ thể là
sự thoái hóa chất béo của gan.
Phosphatidilcholin – lecithin sử dụng rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm, trong sản
xuất socola, maragin với tư cách là chất chống oxy hóa, trong công nghệ mỹ phẩm và
dệt, trong y học dùng để chữa bệnh thần kinh, suy nhược và thiếu máu.
Trong cơ thể lecithin giúp điều hòa lượng cholesterol trong máu, ngăn ngừa tích lũy
cholesterol trong máu, thúc đẩy bày xuất chúng ra khỏi cơ thể.
Phosphatidiletanolamin
Ở vị trí của cholin được thay bằng alcol ethanolamin, cùng với phosphatidilcholin
tham gia vào thành phần của các màng.
HO-CH2-CH2-NH3+
Phosphatidilserin
Nhóm phân cực trong nó là serin
CTCT
Inozitphospholipid
Acol vòng 6 cạnh inozit là nhóm phân cực của inozitphospholipid này.
Đặc biệt dẫn xuất phosphoryl hóa của phosphotidylinositol là phosphatidyl – inozit – 4 – phosphate và 3, 4 – phosphate có mặt trong mô não và chúng chiếm hơn nữa tổng số phosphotidylinositol.
Ở động vật có nhiều trong tim, gan, phổi nhưng đặc biệt có nhiều trong tủy não.
Sphingophospholipid
Khác với phospholipid, gốc acid béo trong phân tử sphingolipid được kết hợp với
amin-rượu bằng liên kết peptide (nghĩa là acid béo không phải kết hợp với nhóm
hydroxyl của rượu mà kết hợp với nhóm amin).
Thành phần cấu tạo cũng gồm các hợp phần giống như glycerophospholipid (acid béo
cao phân tử, phosphat và nhóm –X), nhưng alcol glycerin được thay bằng aminoalcol
không bão hòa sphingozin hay dihydrosphingozin. Liên kết đôi trong phân tử
sphingozin ở vị trí trans, còn sự phân bố nhóm thế ở nguyên tử carbon hoạt quang
tương ứng với cấu hình D.
Sphingomiolin là sphingophospholipid phổ biến hơn cả. Người ta có thể xem nó như
là dẫn xuất phosphocholin của seramid. Theo cấu hình thì nó rất giống như
phosphatidilcholin, có nghĩa là nó có đầu phân cực và hai đuôi không phân cực, một
mạch thẳng, sphingozin còn đuôi kia được ester hóa bởi các acid béo.
Sphingophospholipid không hòa tan trong rượu etylic. Tính chất này được dùng để
chiết xuất chúng khỏi các phospholipid khác.
Sphingophospholipid tìm thấy trong các màng tế bào thực vật và động vật. Đặc biệt nó
có nhiều trong mô thần kinh, dặc biệt là não, tìm được trong thành phần của lipid máu.
VI. STEROID
Steroid là dẫn xuất của perhydro cyclopentanfenantren, mà nó cấu tạo như sau:
Hình
Tính chất đặc trưng của các dẫn xuất steroid
- Sự có mặt của chất thế chứa oxy ở C-3
- Sự tồn tại các nhóm methyl liên kết với C-10 và C-13.
- Không có các liên kết đôi trong vòng
Liên quan đến steroid có sterol, sterid, acid mật, hormon sinh dục nam, nữ, hormon
thượng thận, những vitamin nhóm D…
Sterol
Sterol là steroid có từ 8 đến 10 nguyên tử carbon trong mạch bên ở C-17 và nhóm
hydroxyl ở vị trí C-3. Những sterol tìm thấy trong các tế bào động vật gọi là zoosterol,
trong thực vật gọi là phytosterol và trong nấm micosterol. Trong vi sinh vật sterol chỉ
được gặp ở một vài dạng.
Cholesterol là một trong những đại diện quan trọng của zoosterol. Đây là sterol chủ
yếu của người và động vật. Cholesterol có một lượng lớn trong lipid của mô thần kinh,
ở đây nó liên kết với hợp phần cấu trúc vỏ mielin, nó có trong lipid trứng, tế bào tinh
dịch, trong gan, trong thượng thận và trong thành phần hồng cầu, sterol bền với các
yếu tố thủy phân.
Trong mô động vật cholesterol có ở dạng tự do cũng như ở dạng ester phức tạp với
acid béo, đó là cholesteride.
Trong thành phần của cholesteride người ta tìm thấy acid béo không no (oleic), ngoài
ra còn tìm thấy các acid no như palmitic, stearic.
Trong huyết tương chỉ có 1/3 cholesterol tồn tại ở dạng alcol tự do, còn 2/3 được ester
hóa bởi acid béo, vật mang. Sự tạo nên ester xảy ra trong thành ruột.
Cholesterol là chất cần thiết cho cơ thể, là tiền thân của hormon tuyến thượng thận,
sinh dục, tiền thân của vitamin D, tham gia cấu tạo màng tế bào, điều khiển tính thấm.
Khi cholesterol được ester hóa với acid béo no gây hiện tượng đóng cặn trên thành
động mạch, dần dần thành động mạch hẹp lại, nhồi máu cơ tim (tim hoạt động mạnh),
kết hợp với acid béo chưa no tạo nên ester cơ động, không bền vững dễ bài xuất ra
khỏi cơ thể.
Cholesterol chủ yếu có trong các mô động vật, một vài loài tảo và có một lượng rất
nhỏ trong phấn hoa và trong dầu của các hạt.
Phytosterol
Từ sản phẩm thực vật người ta tách ra hàng loạt phytosterol.
Sitosterol và stigmasterol là nhóm sterol rất phổ biến trong thực vật. Stigmasterol có
trong dầu của phôi hạt lúa mì. Đặc biệt trong nấm và nấm mốc chứa một lượng lớn
sterol (micosterol). Ergosterol là sterol chủ yếu trong nó.
Sterid
Sterid là ester của sterol và các acid béo bậc cao. Những acid béo tìm thấy trong thành
phần của sterid là acid palmitic, acid stearic, acid oleic.
Sterid cũng như sterol là những chất cứng, không màu. Trong thiên nhiên, đặc biệt ở
động vật, chúng thường được gặp ở dạng phức hợp với protein. Sterid không tan trong
nước, tan trong các dung môi hữu cơ: eter, clorform. Sterid có thể bị thủy phân dưới
tác dụng của kiềm hoặc enzyme tương ứng.
VII. TINH DẦU VÀ NHỰA THƠM
Giới thiệu
Tinh dầu là một nhóm lớn tạo nên hương thơm tự nhiên có nhiều trong hoa, quả, lá,
thân…
Tinh dầu và nhựa thơm thuộc nhóm isoprenoid là những dẫn xuất là những dẫn xuất
của isopren.
CTCT
Những hợp chất isoprenoid bao gồm nhiều chất như tinh dầu, nhựa, cao su, steroid…
Có tính chất chung là không tan trong nước, tan trong dung môi hữu cơ.
Tinh dầu thường là hỗn hợp có chứa nhiều chất khác nhau như carbuahydro, rươu,
phenol, ester, alcol.. nhưng quan trọng hơn cả là terpen.
Terpen và carbuahydro có mạch thẳng hoặc mạch vòng có công thức phân tử
(C10H16)n.
n= 1: C10H16 monoterpen
n=1.5: C15H24 sesquiterpen
n=2: C20H32 diterpen
n=3: C30H48 triterpen
n=4: C40H64 tetraterpen
Monoterpen
Monoterpen thẳng tiêu biểu là mircen và oxymen và các dẫn xuất chứa oxy của chúng.
Mircen có trong tinh dầu nguyệt quế, hoa houblon.
Monoterpen vòng phổ biến và quan trọng là limonen và mentol.
+ Limonen có ttrong tinh dầu cam, chanh, thì là, nhựa thông.
+ Trong thành phần của mentol dầu bạc hà chiếm 70%. Metol được sử dụng rộng rãi
trong ngành y vì:
Nó có tính chất kích thích đầu dây thần kinh.
Ảnh hưởng gây tê cục bộ dễ dàng và tác dụng sát trùng nhẹ.
Trong thành phần thuốc trợ tim, thuốc nhức đầu, thuốc nghẹt mũi….
CHƯƠNG III GLUCID
CẤU TẠO PHÂN LOẠI VÀ CHỨC NĂNG CỦA GLUCID TRONG THỰC PHẨM
Glucid là một nhóm hợp chất hữu cơ phổ biến rộng rãi trong thiên nhiên. Trong thiên
nhiên, glucid chiếm một lượng nhiều hơn cả so với những hợp chất hữu cơ khác,
nhiều nhất trong thực vật, chúng chiếm khoảng 80 -90% so với trọng lượng chất khô.
Trong khi đó ở động vật không vượt quá 2%.
Glucid là sản phẩm chính được tạo nên trong quá trình quang hợp ở thực vật xanh từ
CO2 và H2O nhờ năng lượng của ánh sáng mặt trời, ngoài ra nó còn tổng hợp nhiều
chất hữu cơ khác cho cơ thể sống.
Glucid đảm nhiệm nhiều vai trò quan trọng ở cơ thể sinh vật
Glucid là chất cung cấp năng lượng chủ yếu của cơ thể. Riêng glucid cung cấp tới
60% năng lượng cho các quá trình sống. Tuy độ sinh nhiệt kém xa lipid (chỉ bằng một
nửa) song glucid lại có ưu thế nổi bật là hòa tan tốt trong nước, môi trường cho các
phản ứng xảy ra trong cơ thể.
Glucid có vai trò tạo cấu trúc, tạo hình (cellulose)
Glucid có vai trò bảo vệ
Glucid cùng góp phần tạo cho tế bào có được các tương tác đặc biệt (polysaccharide
trên màng tế bào hồng cầu hay trên thành tế bào một số vi sinh vật)
Vai trò của glucid trong công nghệ sản xuất thực phẩm cũng rất đa dạng và vô cùng
quan trọng:
Glucid là chất liệu cơ bản, cần thiết và không thể thiếu được của ngành sản xuất lên
men. Các sản phẩm như rượu bia, nước giải khát, mì chính. Acid amin, vitamin… đều
được tạo ra từ nguồn glucid
Glucid tạo ra được cấu trúc, hình thù, trạng thái cũng như chất lượng cho các sản
phẩm thực phẩm:
Tạo kết cấu
Tạo sợi, tạo màng, tạo gel, tạo độ đặc, độ cứng, độ đàn hồi cho thực phẩm như tinh
bột, thạch, pectin…
Tạo ra được kết cấu đặc thù cho một số sản phẩm thực phẩm như: độ phồng nở của
bánh phồng tôm, tạo bọt cho bia, độ xốp cho bánh mì và vị chua cho sữa chua…
Tạo ra được những “bao vi thể” để cố định enzyme và cố định tế bào.
Tạo chất lượng
Chất tạo ngọt cho thực phẩm
Tham gia tạo màu sắc và hương thơm cho sản phẩm
Tạo ra các tính chất lưu biến cho các sản phẩm thực phẩm: độ trong, độ giòn, độ
deo…
Có khả năng giữ được các chất thơm trong các sản phẩm thực phẩm
Tạo ẩm cũng như làm giảm hoạt độ nước thuận lợi cho quá trình gia công cũng như
bảo quản
Tùy thuộc vào thành phần, tính chất và cấu tạo, có thể chia glucid thành 3 loại:
Monosaccharide là những đường đơn không có khả năng phân giải, không mất tính
chất cơ bản của glucid. Monosaccharide được tạo ra trong tế bào thực vật nhờ phản
ứng quang hợp. Các đường đơn phổ biến như: glucose, frutose, galactose…
Oligosaccharide: có từ 2-10 monosaccharide. Khi thủy phân oligosaccharide thì tạo ra
một lượng không lớn monosaccharide. Các oligosaccharide phổ biến như:
disaccharide (sucrose), maltose, lactose; một số trisaccharide như raffinose, các malto-
triose, các tetrasaccharide như starchyose, malto-tetraose…
Polysaccharide là những polymer cao phân tử của các monosaccharide và những dẫn
xuất của nó với những thành phần khác nhau. Lượng gốc monosaccharide trong nó từ
10 đến vài chục nghìn đơn vị. Các polysaccharide thông dụng có tinh bột, cellulose,
petin…
Hàm lượng, thành phần và trạng thái của glucid trong các loại thực phẩm khác nhau
thì khác nhau. Nó tạo ra các tính chất chức năng, quyết định giá trị dinh dưỡng cũng
như giá trị cảm quan cho thực phẩm.
MONOSACCHARIDE (ĐƯỜNG ĐƠN)
Monosaccharide là những đường đơn nghĩa là nó không bị thủy phân và nó là dẫn
xuất aldehyde hoặc cetone của các polyol (vì khi oxy hóa bằng cách loại đi 2 nguyên
tử hydro thì ta sẽ được monosaccharide).
Ví dụ: khi oxy hóa glycerin (polyol) thì sẽ được glyceraldehyde (monosaccharide có
nhóm aldehyde) hoặc dihydroxyacetone (có nhóm cetone).
Pt
Công thức tổng quát của monosaccharide
Phân loại
Monosaccharide chia ra dạng aldose và cetose phụ thuộc vào sự bắt đầu của nhóm
aldehyde hay cetose trong phân tử của nó.
Có thể chia theo số nguyên tử carbon có trong thành phần phân tử của nó (triose,
tetrose, pentose, hexose…)
Cách gọi tên
Việc gọi tên monosaccharide tùy thuộc cả vào sự có mặt của nhóm aldehyde hoặc
cetone. Tùy thuộc vào số phân tử carbon: các aldose được gọi tên là triose, tetrose,
pentose, hexose; còn các cetose được gọi tên là dihydroxy acetone (triulose), tetrulose,
pentulose, hexulose…
Trong phân tử monosaccharide, ngoài các nhóm hydroxy và carbonyl ra còn có thể có
nhóm amin, nhóm carboxyl…Để nhận biết vị trí của các nhóm này, trong phân tử
monosaccharide có thể đánh số lần lượt các nguyên tử carbon. Cách đánh số dựa trên
nguyên tắc sau: bắt đầu từ nhóm aldehyde hay từ đầu cuối mà ở đó gần nhóm cetone
nhất để cho nguyên tử carbon có nhóm carbonyl có chỉ số nhỏ nhất.
Cấu tạo
Trong phân tử monosaccharide có chứa một số nguyên tử carbon bất đối xứng, mỗi
monosaccharide có thể tồn tại dưới dạng các đồng phân lập thể khác nhau. Số đồng
phân lập thể được tính theo 2n
với n là số nguyên tử carbon bất đối xứng. Tất cả các
monosaccharide (trừ dioxyacetone) đều có đồng phân lập thể. Đây chính là tính chất
quan trọng của các monosaccharide. Đồng phân lập thể của monosaccharide tồn tại
trong hai dạng đồng phân đối quang: D và L. Cấu hình D và L là xác định sự phân bố
của nhóm –OH ở gần nguyên tử carbon hoạt quang áp chót. Nếu –OH nằm bên phải
mạch carbon thì phân tử monosaccharide có cấu hình D. Nếu –OH nằm bên trái thì có
cấu hình L. Cấu hình D và L không chỉ dẫn cho ta hướng quay của mặt phẳng phân
cực. Có những monosaccharide có cấu hình D nhưng lại quay sang trái (-), cũng có
những monosaccharide có cấu hình L lại có hướng quay sang phải (+). Để ký hiệu các
monosaccharide có hướng phân cực ánh sáng quay phải hay trái thì sau ký hiệu D hay
L còn có dấu (+) hay (-).
Trong cơ thể sống các monosaccharide thường tồn tại ở cấu hình D, ngoại trừ L-
arabinose, đôi khi gặp L-ramnose.
Ngoài cấu tạo mạch thẳng, các monosaccharide còn có cấu tạo vòng, vì trong thực tế
một aldehyde có thể tác dụng với một alcol để tạo thành bán acetal. Ngày nay ta có thể
khẳng định trong thiên nhiên chỉ một phần nhỏ phân tử pentose và hexose có dạng hở,
còn phần lớn phân tử là ở dạng cấu trúc vòng. Phản ứng tạo nên bán acetal có thể xảy
ra trong nội bộ phân tử của một monosaccharide: nhóm carbonyl tác dụng tương hỗ
với nhóm hydroxyl và tạo nên bán acetal vòng.
Ở đây sự tạo thành bán acetal vòng của glucose là do sự kết hợp của chức aldehyde và
chức alcol của cùng một phân tử monosaccharide nên gọi là bán acetal nội. Trong
công thức vòng ở carbon mang chức khử aldehyde lại hình thành một nhóm hydroxyl,
nhóm này gọi là hydroxyl bán acetal, hay nhóm hydro glycoside. Phụ thuộc vào nhóm
hydroxyl của nguyên tử carbon nào tiếp nhận sự tạo nên bán acetal hay bán ketal, mà
có thể nhận được vòng năm cạnh (nguyên tử C4 với nguyên tử oxy ở C1) hay vòng 6
cạnh (nguyên tử C5 với nguyên tử oxy ở C1). Cấu tạo vòng của monosaccharide có
thể ở dạng 6 cạnh hay dạng 5 cạnh. Dạng 6 cạnh có cấu tạo tương tự nhân pyran nên
gọi các monosaccharide có cấu tạo vòng 6 cạnh là pyranose.
Hinh
Dạng 5 cạnh có cấu tạo tương tự nhân furan nên gọi các monosaccharide có cấu tạo 5
cạnh là furanose
Hinh
Trong công thức vòng, dạng α tương ứng với vị trí của nhóm –OH glycoside sắp xếp
bên dưới vòng, còn dạng β – nhóm OH glycoside ở bên trên vòng.
Qua những điều đã trình bày ở trên có thể thấy được rằng trong dung dịch
monosaccharide tồn tại ở nhiều dạng cấu tạo khác nhau và luôn luôn có một cân bằng
giữa các dạng đó. Dạng hở của monosaccharide thường thì chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ.
Sự chuyển hóa giữa các dạng hở và dạng vòng pyranose hoặc furanose của
monosaccharide phụ thuộc vào điều kiện môi trường, điều kiện phản ứng và tác nhân
phản ứng. Cần chú ý monosaccharide tồn tại phần lớn dưới dạng vòng 6 cạnh kiểu
pyranose. Ở dạng này nó lại có thể có cấu hình dạng ghế hoặc dạng thuyền trong đó
dạng ghế bền hơn dạng thuyền.
Tính chất vật lý
Tính hút ẩm và hòa tan
Khả năng hút ẩm của các đường đơn rất khác nhau, phụ thuộc vào loại đường (cấu
trúc đồng phân) cũng như độ tinh sạch của đường. Độ hòa tan của đường giảm khi
chúng bị vón lại, hiện tượng này thường rất hay xảy ra với đường ở dạng bột hay hạt.
Tuy nhiên khả năng giữ ẩm của dung dịch đường đậm đặc lại được ứng dụng trong
sản xuất bánh mì.
Do sự có mặt của nhiều nhóm hydroxyl trong phân tử nên monosaccharide là những
chất dễ hòa tan trong nước, tan một phần trong ethanol và không tan trong các dung
môi hữu cơ như ether, benzen, chloroform…
Tính chất cảm quan
Các đường đơn, đường oligo và các rượu tương ứng của chúng thường có vị ngọt. Đây
là tính chất cảm quan quan trọng nhất. Các loại đường khác nhau về chất lượng của vị
ngọt và cường độ của vị.
Các đường quan trọng gồm saccharose (sucrose), các loại siro từ tinh bột (là hỗn hợp
gồm glucose, maltose và malt-oligosaccharide) và glucose. Đường đảo, siro glucose-
frutose, đường frutose, lactose, các sugar alcohol như sorbitol, mannitol, xylitol cũng
là những loại đường ngọt quan trọng.
Nếu độ ngọt của saccharose là 100%, độ ngọt của frutose là 173%, glucose 74%,
xylose 40%, lactose 16%. Riêng mannose có vị đắng.
Cường độ vị ngọt của các đường oligo tăng khi chiều dài mạch giảm. Cường độ vị
ngọt được đánh giá bằng ngưỡng nồng độ cảm nhận của đường (nồng độ đường thấp
nhất cho phép cảm nhận được vị ngọt) hoặc bằng cách so sánh với một loại đường
chuẩn khác (thường là saccharose). So sánh với một đường chuẩn khác là phương
pháp quan trọng thường được sử dụng, cường độ vị phụ thuộc vào nồng độ đường sử
dụng và khác nhau rất nhiều giữa các hợp chất đường ngọt.
Chất lượng và cường độ vị ngọt của đường phụ thuộc vào công thức hóa học, cấu trúc
của đường và các thông số cảm nhận vị khác như nhiệt độ, pH, sự có mặt của các
đường ngọt hoặc các chất không phải đường. Nói chung, trong quá trình chế biến thực
phẩm, thành phần và nồng độ của các chất tạo ngọt cần được điều chỉnh để đạt được
cảm nhận cảm quan tốt nhất.
Tính chất hóa học
Phản ứng khử thành dẫn xuất của rượu
Các đường đơn có thể bị khử thành rượu tương ứng dưới tác dụng của NaBH4. Một
aldose bị khử thành một rượu tương ứng, còn ketose bị khử thành 2 rượu do tạo nên
một tâm bất đối xứng mới.
Tên của rượu được lấy từ tên đường, thay thế đuôi “ose” hoặc “ulose” bằng đuôi
“itol”.
VD: glucose glucitol (sorbitol)
Mannose mannitol
Fructose mannitol và sorbitol
Các dẫn xuất này được sử dụng thay thế đường trong thực phẩm để giảm hoạt độ của
nước, chống hiện tượng kết tinh, tăng cường sự tái hấp thụ nước của một số sản phẩm
bị mất nước. Sorbitol có nhiều trong một số loại quả như lê, táo, mận. Maltitol (sản
phẩm khử của maltose) là một loại đường được sử dụng rộng rãi trong công nghệ thực
phẩm.
Ptpu
Phản ứng oxy hóa
Tùy thuộc vào điều kiện oxy hóa monosaccharide sẽ thu được các sản phẩm khác
nhau. Trong điều kiện oxy hóa nhẹ như có mặt nước brom (clo hoặc iot) trong môi
trường trung tính hoặc kiềm, các aldose bị oxy hóa thành aldonic acid. Quá trình oxy
hóa chỉ liên quan đến gốc aldehyde. Vì vậy nhóm đường ketose không có phản ứng
này.
Phản ứng glucose bị oxy hóa thành gluconic acid.
Ptpu
Khi oxy hóa bằng chất oxy hóa mạnh hơn như HNO3 thì cả nhóm aldehyde ở gốc C1
và gốc CH2OH ở C6 trong phân tử đều chuyển thành chức acid và sẽ thu được
dicarboxylic acid (aldose thành aldaric acid).
Ptpu
Khi oxy hóa các aldose bằng dung dịch nước brom, nếu đã bảo vệ chức aldehyde bằng
cách metyl hóa hoặc acetyl hóa chức đó thì quá trình oxy hóa chỉ xảy ra ở nhóm rượu
bậc 1 và sản phẩm thu được sẽ chứa một nhóm acid. Sản phẩm này được gọi là uronic
acid. Các hợp chất uronic là thành phần của nhiều polysaccharide quan trọng của cơ
thể thực vật cũng như một số sinh vật (petin là polymer của acid D galaturonic là chất
tạo độ dày, tạo gel trong quá trình chế biến thực phẩm) hay acid alginic thu được từ
rong biển (acid D mannuronic và L guluronic).
Cũng có thể thu nhận được acid uronic bằng cách khử monolactone của một aldaric
tương ứng.
Ptpu
Tác dụng của acid lên monosaccharide
Khi đun nóng monosaccharide trong môi trường acid, đầu tiên các phản ứng enol hóa
xảy ra, sau đó là phản ứng tách nước và tiếp tục qua nhiều bước trung gian để cuối
cùng tạo ra các hợp chất furan. Các pentose trong môi trường acid có thể bị phân hủy
thành furfufal, hexose bị phân hủy thành 5 hydroxylmethyl furfural sau khi loại bỏ 3
phân tử nước. Các ketose bị phân hủy nhanh hơn aldose, frutose cũng tạo ra nhiều sản
phẩm phân hủy hơn so với glucose.
Ptpu
Phản ứng caramen hóa
Các chất có màu nâu với mùi caramel đặc trưng sẽ được tạo ra khi đun nóng chảy
đường hoặc khi đun nóng dung dịch đường trong môi trường acid hoặc kiềm. Phản
ứng có thể xảy ra theo hai hướng tạo mùi hoặc tạo màu nhiều hơn.
Đun nóng đường saccharose trong dung dịch đệm thích hợp sẽ tăng cường khả năng
tạo ra các chất mùi, chủ yếu là các dihydrofuranose, cyclopentenolone,
cyclohexenolone và pyrone. Ngoài ra đun nóng xiro glucose với acid sulphuric và có
mặt ammonia sẽ tăng cường khả năng tạo ra các hợp chất polymer có màu nâu. Độ
bền và khả năng hòa tan của các hợp chất polyner này sẽ được tăng cường khi thêm
các anion bisulphite.
Phản ứng với các hợp chất chứa gốc amine (acid amin) phản ứng này còn gọi là phản
ứng Maillard
Phản ứng Maillard còn được gọi là phản hóa nâu phi enzyme là phản ứng xảy ra giữa
đường khử (chủ yếu là glucose, frutose, maltose, lactose) và protein (thường là các
gốc ε-amine của lysine), peptide, acid amin hoặc các amine, thông qua phản ứng tạo
N-glycoside và một chuỗi các phản ứng kế tiếp khác. Phản ứng này sẽ xảy ra nhanh
hơn khi nhiệt độ tăng, hoạt tính của nước thấp và khi bảo quản thực phẩm trong thời
gian dài.
Phản ứng Maillard về cơ bản cũng xảy ra tương tự như phản ứng của đường trong môi
trường acid hoặc kiềm, tuy nhiên sự xúc tác của các hợp chất nitrogen đóng vai trò
xúc tác thúc đẩy phản ứng xảy ra với tốc độ nhanh hơn trong những điều kiện môi
trường đơn giản hơn rất nhiều. Đây là phản ứng rất thường gặp trong thực phẩm.
Các kết quả gây ra bởi phản ứng Maillard
Tạo ra các chất có màu nâu (thường được gọi là các melanoidin) chứa nitơ, có khối
lượng phân tử và độ hòa tan trong nước khác nhau. Hiện tượng tạo màu rất cần thiết
cho các sản phẩm chiên, nướng nhưng lại có hại cho các loại thực phẩm như sữa đặc,
rau củ sấy, nước sốt cà chua…
Tạo ra nhiều hợp chất bay hơi có mùi. Phản ứng này rất cần thiết trong các quá trình
chiên, nướng, quay nhưng nó cũng liên quan đến việc tạo ra các mùi không mong
muốn trong các quá trình bảo quản và chế biến nhiệt như thanh trùng, tiệt trùng…
Tạo các chất có vị đắng, cần thiết trong chế biến cà phê nhưng lại tạo ra vị lạ khi quay
thịt hoặc cá.
Tạo ra các hợp chất có tính khử mạnh, có thể tham gia bảo vệ thực phẩm khỏi các
phản ứng oxy hóa.
Làm mất nhiều acid amin thiết yếu như lysine, cystine, methionine
Tạo ra một số hợp chất có khả năng gây ung thư
Tạo ra các hợp chất có thể liên kết chéo với protein
Các monosaccharide quan trọng và tính chất
Pentose
Pentose là monosaccharide chứa 5C, gặp trong thành phần của nhiều tổ chức động vật
và thực vật. Chúng tồn tại một phần ở trạng thái tự do. Các pentose quan trọng thường
gặp là L-arabinose, D-xylose, D-ribose.
L-arabinose
L-arabinose có trong thành phần của các polysaccharide như hemicellulose, các chất
nhầy, gum và pectin. Nó không bị lên men bởi nấm men; thường gặp trong thực vật ở
dạng L.
CTCT
D-xylose
Tồn tại một phần ở trạng thái tự do, nhưng chủ yếu dưới dạng polysaccharide gọi là
xylan và pentozan có trong gỗ, rơm rạ. Có thể dùng acid thủy phân các nguyên liệu
trên để thu được D-xylose trong công nghiệp. D-xylose cũng không bị lên men bởi
nấm men và không bị đồng hóa bởi người và động vật.
CTCT
D-ribose
Là monosaccharide gặp trong thành phần của nhiều hợp chất như acid ribonucleic,
một số vitamin và coenzyme. Ít tồn tại ở dạng tự do, trong thực vật D-ribose tồn tại ở
dạng furanose.
Một dẫn xuất quan trọng của ribose là chất D-deoxyribose. Trong chất này không có
nguyên tử oxy ở vị trí C2. Nó là một thành phần quan trọng của acid
deoxyribonucleic.
Tính chất của đường 5C
Khi đun nóng các pentose nói trên với acid, chúng sẽ bị loại nước và chuyển thành
dẫn xuất aldehyde gọi là fufurol.
Ptpu
Fufurol khi tác dụng với anilin và acid HCl sẽ cho hợp chất có màu đỏ. Phản ứng này
là cơ sở để định lượng đường pentose. Fufurol cũng được tạo thành khi nướng bánh
do các đường pentose của bột bị loại nước, ở nhiệt độ cao fufurol bay hơi và cho mùi
thơm như mùi táo, vì vậy nó cũng tham gia tạo mùi thơm đặc trưng của bánh nướng.
Hexose
Hexose là nhóm monosaccharide phổ biến hơn cả trong thiên nhiên. Thông thường
hexose tồn tại ở vòng pyranose, dạng furanose ít gặp hơn, trừ đối với frutose.
D-glucose (đường nho)
CTCT
D-glucose là monosaccharide phổ biến ở thực vật cũng như ở động vật, có nhiều trong
nho chín nên còn gọi là đường nho. Dung dịch glucose làm quay mặt phẳng ánh sáng
phân cực sang phải nên cũng có tên là dextrose.
Trong dung dịch, D-glucose tồn tại chủ yếu ở dạng pyranose. D-glucose là thành phần
cấu tạo của nhiều loại polysaccharide như tinh bột, glycogen, cellulose…Ở cơ thể
người và động vật, glucose là thành phần cố định trong máu. Đưa glucose vào máu
người bệnh, sẽ làm hồi phục sức khỏe nhanh chóng vì glucose là monosaccharide dễ
dàng hấp thụ. Glucose là loại đường đồng hóa nhanh và sử dụng nhanh nhất trong cơ
thể để tạo glycogen cần thiết cho cơ thể đang hoạt động kể cả cơ tim để duy trì mức
đường huyết.
Glucose là loại đường có tính khử, dễ dàng lên men tạo rượu ethanol, có thể định tính
glucose bằng dung dịch Fehling.
Trong công nghệ thực phẩm, glucose sử dụng làm kẹo chewing gum, jam và các thực
phẩm khác.
Glucose dùng trong công nghiệp bánh kẹo với mục đích tạo sự mềm dẻo, ngăn chặn
hiện tượng lại đường (hình thành tinh thể).
D-frutose (đường trái cây)
CTCT
D-frutose có nhiều trong quả, mật hoa. Nó làm quay mặt phẳng của ánh sáng phân cực
sang trái nên còn có tên levulose. D-frutose là thành phần của disaccharide
saccharose. Frutose thường tồn tại dưới dạng furanose. Nó dễ dàng bị lên men bởi
nấm men. Frutose là loại đường ngọt nhất và dạng β ngọt gấp 3 lần dạng α, có tính
khử vì có nhóm –OH bán acetal. Frutose có nhiều trong mật ong chiếm khoảng 31%,
do độ ngọt rất cao nên mật ong có vị ngọt mạnh. Khi kết tinh trong dung dịch nước
frutose có hình kim, tinh thể của nó ngậm một phân tử nước : 2C6H12O6.H2O
D-galactose
CTCT
Là monosaccharide có trong thành phần của disaccharide lactose. Nó cũng có trong
thành phần của các polysaccharide galactan của thực vật. D-galactose còn là đơn vị
cấu tạo của melibiose và agar-agar (thạch). Dẫn xuất acid galacturonic là thành phần
của polysaccharide pectin. Galactose chỉ bị lên men bởi nấm men riêng biệt. Từ các
quả của dây leo có thể tách được galactose ở dạng tinh thể.
D-manose
CTCT
Là loại hexose có trong thành phần của nhiều loại polysaccharide như hemicellulose,
các chất nhầy. Manose dễ dàng bị lên men bởi nấm men. Trong cơ thể người và động
vật, manose tồn tại ở dạng glucose.
OLIGOSACCHARIDE
Định nghĩa và phân loại
Oligosaccharide là nhóm glucid được cấu tạo bởi sự liên kết của một số
monosaccharide. Vì vậy khối lượng phân tử của chúng không lớn lắm và chúng còn
giữ được một số tính chất như đường đơn giản. Chúng dễ tan trong nước và dễ kết
tinh. Khi thủy phân bằng acid hoặc enzyme tương ứng sẽ làm đứt các liên kết
glycoside giữa các monosaccharide thành phần của oligosaccharide và giải phóng các
monosaccharide.
Oligosaccharide có từ 2 đến 10 gốc monosaccharide, chúng liên kết với nhau bởi các
liên kết glycoside. Phụ thuộc vào số phân tử monosaccharide trong phân tử của
oligosaccharide mà người ta chia ra: disaccharide, trisaccharide, tetrasaccharide…
Phân loại
Theo thành phần của các gốc monosaccharide:
Homooligosaccharide: chứa các monomer cùng loại
Heteroligosaccharide: chứa những monomer khác loại
Theo cấu tạo của phân tử oligosaccharide có thể chia ra oligosaccharide mạch thẳng
và phân nhánh.
Theo nguyên tắc cấu tạo của oligosaccharide:
Oligosaccharide khử: khi gốc monosaccharide sau cùng còn nhóm hydroxyl glycoside
tự do
Oligosaccharide không khử: khi nhóm hydroxyl glycoside của monosaccharide sau
cùng liên kết với monosaccharide trước (không còn –OH glycoside tự do).
Một số oligosaccharide tiêu biểu
Disaccharide
Disaccharide là oligosaccharide có hai gốc monosaccharide kết hợp với nhau. Khi kết
hợp như vậy sẽ loại ra một phân tử nước. Sự kết hợp có thể xảy ra đối với hai
monosaccharide giống nhau hoặc khác nhau. Kiểu liên kết giữa hai monosaccharide là
liên kết glycoside. Sự kết hợp giữa hai monosaccharide có thể xảy ra theo hai kiểu
khác nhau và phụ thuộc vào kiểu kết hợp đó mà có các disaccharide có tính chất khác
nhau. Trong kiểu liên kết thứ nhất, một monosaccharide này liên kết với một
monosaccharide khác nhờ nhóm –OH glycoside của nó với một nhóm –OH của chất
thứ hai. Như vậy disaccharide tạo thành vẫn còn một nhóm –OH glycoside ở dạng tự
do, kết quả nó vẫn duy trì được tính chất khử. Ví dụ: đường maltose hoặc lactose có
cấu tạo theo kiểu liên kết thứ nhất. Trong kiểu liên kết thứ hai, hai monosaccharide kết
hợp với nhau nhờ hai nhóm OH glycoside của chúng, kết quả hình thành nên
disaccharide không còn chứa OH glycoside tự do. Các disaccharide không còn tính
khử. Ví dụ như đường saccharose là disaccharide thuộc kiểu liên kết thứ hai.
Một số disaccharide quan trọng
Saccharose (sucrose)
Saccharose thuộc loại đường rất phổ biến trong thiên nhiên. Nó có nhiều trong củ cải
đường, mía và ở lá, thân, rễ và quả của nhiều loại thực vật. Saccharose là loại đường
rất dễ hòa tan, có ý nghĩa quan trọng đối với sự dinh dưỡng của người.
Saccharose là disaccharide được cấu tạo từ glucose và fructose. Hai monosaccharide
này liên kết với nhau nhờ liên kết hai nhóm OH glycoside của chúng nên saccharose
không có tính khử.
CTCT
Saccharose tan tốt trong nước, kết tinh ở dạng tinh thể.
Saccharose có đặc tính dễ bị thủy phân thành glucose và frutose. Quá trình này có thể
được thực hiện nhờ enzyme invertase hoặc nhờ acid (acid HCl ở nhiệt độ cao). Ở thực
phẩm có pH acid cũng thuận lợi cho sự nghịch đảo, ở dịch quả khi bảo quản tạm quá
trình này xảy ra tự động. Sản phẩm hình thành khi thủy phân saccharose được gọi là
đường nghịch đảo. Nó có trong mật ong ở dạng tự nhiên. Sở dĩ nó mang tên này vì
dung dịch saccharose ban đầu có [α]D bằng +66.50
nhưng sau khi thủy phân độ quay
cực lại bằng -200
nghĩa là có sự thay đổi góc quay cực từ phải sang trái. Trong hỗn
hợp glucose và frutose được hình thành [α]D của glucose là +52.50
còn [α]D của
frutose là -92.40
và do đó dung dịch đường nghịch đảo có [α]D bằng -200
. Sự nghịch đảo cũng làm tăng chất khô lên 5,26%, đồng thời tăng nhẹ vị ngọt và nhất là tăng độ hòa tan của đường trong dung dịch. Dung dịch đường nghịch đảo thường ít nhớt hơn so với dung dịch saccharose khi dùng một trọng lượng khô ngang nhau. Sự tăng tính
hòa tan gây ra nhờ quá trình nghịch đảo là do tính hòa tan cao của đường frutose cũng
như tính khó kết tính của đường glucose so với đường saccharose.
Tính hòa tan của đường chung không những có thể được tăng lên nhờ thêm đường
nghịch đảo mà cả khi thêm glucose hay siro glucose. Điều đó còn cho phép điều chỉnh
độ nhớt của dung dịch đường. Khi làm lạnh các dung dịch bão hòa đường saccharose
(thu được ở nhiệt độ cao) sẽ có thể tạo nên các dung dịch quá bão hòa của saccharose.
Vận tốc kết tinh saccharose từ các dung dịch này cũng như kích thước của các tinh thể
tạo thành có thể giảm đáng kể nhờ thêm vào dung dịch glucose, đường nghịch đảo,
siro glucose. Tính chất này được sử dụng trong kỹ nghệ mức kẹo để tạo nên các sản
phẩm trong đó saccharose dù ở nồng độ rất cao nhưng vẫn không kết tinh.
Maltose
Maltose là disaccharide chứa 2 gốc α glucopyranose, 2 gốc này liên kết với nhau nhờ -
OH ở vị trí C1 và C4. Do đó maltose còn giữ được một nhóm –OH glycoside và duy
trì được tính khử (bằng phân nửa tính khử của phân tử glucose).
Maltose có nhiều trong lúa nảy mầm, mầm mạch. Khi thủy phân tinh bột bằng enzyme
amylase thu được maltose. Đây là cơ sở sản xuất mạch nha từ nguyên liệu tinh bột.
Maltose còn được gọi là mạch nha. Còn khi thủy phân bằng acid hoặc enzyme
maltase, đường maltose sẽ bị phân ly và giải phóng ra 2 phân tử α-D-glucose.
Lactose
Lactose còn được gọi là đường sữa vì nó có nhiều trong sữa người, động vật (5-8%).
Lactose cấu tạo từ một phân tử β-D-galactose và một phân tử α-D-glucose. Trong
phân tử lactose còn lại một nhóm hydroxyl glycoside nên nó vẫn còn có tính chất khử.
Lactose còn được gọi là β-D-galactopyranozit (1 4) D-glucopyranose. Ở
nhiệt độ thường lactose hòa tan trong nước ít hơn saccharose 10 lần nhưng ở 1000C thì
độ hòa tan của nó xấp xỉ saccharose. Lactose kết tinh chậm, tinh thể cứng và có nhiều
dạng tinh thể. Vitamin B2 có thể ức chế sự kết tinh của lactose. Độ ngọt của lactose
chỉ bằng 1/6 saccharose.
Lactose khó bị thủy phân bởi acid hơn saccharose. Để thủy phân phải đun sôi với acid
và không xảy ra sự nghịch đảo.
Trisaccharide
Trisaccharide là nhóm oligosaccharide chứa 3 gốc monosaccharide. Loại trisaccharide
phổ biến hơn cả trong thiên nhiên là chất rafinose. Nó có nhiều trong hạt bông và
trong củ cải đường. Rafinose chứa một gốc galactose, một gốc glucose và một gốc
frutose. Các monosaccharide này gắn với nhau nhờ các nhóm hydroxyl glycoside của
chúng. Vì vậy trong phân tử rafinose không còn chứa nhóm hydroxyl tự do, nó không
có tính khử.
Rafinose có nhiều ở gỉ đường thu được khi sản xuất đường từ củ cải đường. Rafinose
tinh thể không có vị ngọt, hòa tan trong nước, khi thủy phân bằng acid trong thời gian
ngắn và ở nhiệt độ không cao sẽ xảy ra sự giải phóng frutofuranose. Tác dụng của
enzyme invertase cũng cho kết quả tương tự. Phân tử disaccharide hình thành nếu tiếp
tục bị thủy phân thì sẽ phân giải hoàn toàn thành D-galactose và D-glucose. Rafinose
kém bền đối với nhiệt hơn saccharose. Sự phân giải rafinose nhờ enzyme ở các vị trí
khác nhau được trình bày như sau:
Hình
Tetrasaccharide
Hinh CTCT
Tetrasaccharide phổ biến trong cây họ đậu và một số hạt khác khi hạt chín. Nhưng khi
hạt nảy mầm đường nhanh chóng mất đi. Tetrasaccharide được cấu tạo từ 2 phân tử α-
galactose, 1 phân tử α-glucose và 1 phân tử β-frutose.
Tetrasaccharide không còn tính khử.
POLYSACCHARIDE
Polysaccharide là hợp chất hữu cơ cao phân tử thường gặp trong thiên nhiên. Khi thủy
phân polysaccharide tạo nên một lượng lớn các gốc monosaccharide (đến vài chục
ngàn gốc)
Polysaccharide có nhiều trong các sản phẩm thực phẩm. Trong tự nhiên, có vai trò
như là chất tạo hình (rau, quả), chất dinh dưỡng như ngũ cốc, khoai tây, cây họ đậu.
Polysaccharide còn là tác nhân tạo gel, tạo độ dày như tinh bột, pectin, agar, alginate,
guaran gum; tác nhân ổn định cho hệ thống nhũ tương, tạo màng hoặc mạ một lớp để
bảo vệ thực phẩm chống lại các phản ứng không mong muốn.
Phân loại – danh pháp
Hệ thống danh pháp của polysaccharide không có. Nhưng thường người ta sử dụng
theo nguyên tắc hợp lý: lấy sự gọi tên của monosaccharide cơ bản làm gốc và kết thúc
bằng đuôi “-ose” thay bằng đuôi “-an”.
Ví dụ:
Polysaccharide đồng thể: D-glucan được cấu tạo từ các gốc glucose.
Polysaccharide dị thể: L-arabino-D-galactan được cấu tạo từ các gốc L-arabinose và
D-galactose.
Bên cạnh các gọi tên này, người ta còn gọi theo cách khác như polymer của các acid
uronic người ta gọi là polysaccharide. Cho đến bây giờ, đối với nhiều đại diện của
polysaccharide người ta vẫn sử dụng cách gọi tên từ lâu đời như: tinh bột, glycogen,
pectin, cellulose…
Sự phân loại polysaccharide thường dựa trên các cơ sở sau:
Dựa vào thành phần của monosaccharide:
Homopolysaccharide: cấu tạo từ một loại monosaccharide
Heteropolysaccharide: cấu tạo từ nhiều loại monosaccharide (dưới 5-6 loại)
Dựa theo đặc tính của mạch polysaccharide: polysaccharide mạch thẳng và mạch nhánh.
Dựa theo nguồn gốc polysaccharide: polysaccharide có nguồn gốc thực vật, động vật và vi sinh vật
Dựa theo chức năng của polysaccharide
Polysaccharide có chức năng tạo hình, tạo khung như cellulose, hemicellulose và pectin ở thực vật; chitin và muco ở động vật.
Polysaccharide có chức năng dự trữ: tinh bột dextrin, inulin ở thực vật; glycogen ở động vật
Polysaccharide có chức năng giữ nước: agar, pectin, alginate ở thực vật; mucopolysaccharide ở động vật
Tính chất của polysaccharide
Polysaccharide do nhiều gốc monosaccharide kết hợp lại với nhau có khối lượng phân
tử lớn nên nó không còn tính khử.
Polysaccharide mạch thẳng (cellulose, amylose) thường không tan trong nước, có thể
hòa tan dưới tác động mạnh như nhiệt độ cao, kiềm mạnh hoặc tác nhân thích hợp
khác, chúng dễ kết tủa trong dung dịch (như tinh bột bị thoái hóa)
Polysaccharide mạch nhánh (amylosepectin, glycogen) tan tốt trong nước tốt hơn
polysaccharide mạch thẳng. Dung dịch polysaccharide mạch thẳng có cùng khối lượng
phân tử và cùng nồng độ người ta thấy polysaccharide mạch nhánh có độ nhớt thấp
hơn và kết tủa chậm trong nước hơn.
Polysaccharide với nhóm carboxyl (pectin, alginate) hòa tan trong muối kim loại kiềm
hay pH kiềm. Độ nhớt của dung dịch phụ thuộc pH.
Polysaccharide với acid mạnh (H2SO4, H3PO4) tinh bột biến hình hòa tan trong nước,
có độ nhớt cao.
Tinh bột
Polysaccharide đồng thể (homopolysaccharide) là do cùng một monosaccharide tạo nên.
Tinh bột là nguồn glucid dự trữ chủ yếu của thực vật, nó là nguồn thức ăn, nguồn cung
cấp năng lượng chính cho người và động vật. Tinh bột chủ yếu có trong các hạt ngũ
cốc, trong củ, thân lá và thân cây. Tinh bột có trong hạt bắp, lúa và lúa mì khoảng 60-
75%, kích thước hạt tinh bột khoảng 2-15micromet.
Tinh bột không phải là một chất hóa học riêng biệt mà trong nó có 96,1-97,6% là
polysaccharide (amylose và amylopectin); 0,2-0,7% khoáng chất chủ yếu là
phosphate. Trong tinh bột còn tìm được các acid béo như acid palmitic, stearic và
nhiều acid khác, hàm lượng đạt tới 0,6%. Các chất đó hấp thụ trong phần chiết
polysaccharide tinh bột và có thể loại bỏ bằng cách tách chúng bằng dung môi hữu cơ
trung tính (metanol).
Trong thực vật, tinh bột là chất dinh dưỡng dự trữ và chúng ở trong dạng hạt tinh bột,
những hạt tinh bột này chúng khác nhau theo hình dạng kích thước, thành phần hóa
học và tính chất, không chỉ ở những loại cây khác nhau mà ngay cả ở những cơ quan
khác nhau của cùng một loại cây.
Tinh bột được tạo ra từ 2 polysaccharide khác nhau: amylose và amylopectin, chúng
khác nhau về lý tính và hóa tính.
Amylose
Amylose là polysaccharide có cấu tạo mạch thẳng, không phân nhánh trong đó gồm
các D-glucose, kết hợp với nhau bằng liên kết α-(1-4) glycoside, có độ dài gần 300-
1000 gốc glucose, dạng xoắn ốc, theo kiểu lò xo, mỗi vòng xoắn gồm có 6 gốc
glucose. Cấu trúc xoắn được giữ vững nhờ liên kết hydro được tạo thành từ giữa các
nhóm OH tự do.
Amylose dễ dàng tan trong nước nóng và cho dung dịch với độ nhớt không cao, dung
dịch amylose không bền vững, khi đứng yên chúng có thể tạo thành tủa (cặn).
Đối với butanol và pentanol thì amylose bị kết tủa hoàn toàn và amylose bị hấp thụ
trên bông. Với dung dịch iot, amylose cho màu xanh đặc trưng do sự hấp thụ iot vào
bên trong vòng xoắn ốc của amylose, mỗi vòng xoắn hấp thụ một phân tử iot, các
nhóm –OH nằm bên ngoài vòng xoắn, các nhóm hydrocarbua thì nằm bên trong vòng
xoắn bao quanh phân tử iot. Nếu đun nóng, liên kết hydro bị cắt đứt, mạch amylose
duỗi thẳng ra do đó iot bị tách ra khỏi amylose đưa đến dung dịch mất màu xanh.
Phân tử lượng của amylose khoai tây gần 400.000, của hạt bắp và lúa khoảng
100.000-200.000.
Amylose thường được phân bố ở phần bên trong của hạt tinh bột. Dung dịch amylose
có độ nhớt thấp hơn dung dịch amylopectin. Trong tinh bột lượng amylose tỷ lệ
amylopectin khoảng ¼. Trong một số trường hợp tỷ lệ này có thể thay đổi ít nhiều.
Trong gạo nếp chứa ít amylose, khi đó ở một số hạt đậu thì lượng amylose chiếm
75%, ở lúa mì thì amylose không có, còn amylopectin chiếm 100%. Ở hạt táo amylose
chiếm 100% còn amylopectin là không.
Amylopectin
Amylopectin cũng được cấu tạo từ α-D-glucopyranose nhưng có sự phân nhánh mạch
ở điểm liên kết 1-6 có nghĩa là cấu tạo phân tử của nó ngoài liên kết 1-4 còn liên kết
1-6, cứ khoảng 20 gốc monosaccharide có một điểm phân nhánh.
Amylopectin chỉ tan trong nước nóng có áp suất và cho dung dịch có độ nhớt cao, khi
tác dụng với butanol và pentanol không bị kết tủa, không bị hấp thụ trên bông. Dung
dịch bền, không bị lắng cặn khi để yên. Trọng lượng phân tử amylopectin 50.000-1.000.000.
Amylopectin được phân bố bên ngoài ở mặt ngoài hạt tinh bột. Khi đun nóng trong
nước tới 60-70% tinh bột bị trương nở mạnh, có độ dính cao, hiện tượng này gọi là sự
hồ hóa. Dưới tác dụng của enzyme amylase hoặc đun nóng với acid, tinh bột bị thủy
phân cho ra các sản phẩm trung gian có phân tử lượng khác nhau như dextrin.
Amylodextrin tác dụng với iot cho màu tím xanh, nó là bột trắng tan trong etanol
25%, nhưng tủa ở etanol 40%.
Erytrodextrin : tạo màu đỏ nâu với iot, hòa tan trong etanol 55% và bị tủa ở 65%.
Achrodextrin với iot không cho màu và tan được ở nồng độ etanol 70%.
Maltodextrin không cho màu với iot và không bị tủa bằng etanol.
Các dextrin này có thể bị thủy phân hoàn toàn tạo thành các gốc glucose. Như vậy, sản
phẩm thủy phân hoàn toàn của tinh bột là glucose. Tuy nhiên ở những điều kiện nhất
định, dưới tác dụng của enzyme, disaccharide là thành phần chủ yếu trong sản phẩm
thủy phân tinh bột.
Tinh bột được sử dụng rộng rãi trong thực tế, trong y học, trong nhiều lãnh vực công
nghiệp: công nghiệp thực phẩm, công nghiệp dệt, làm giấy, công nghệ thuộc da,…
Trong củ khoai tây trung bình chứa 15-25% tinh bột ở trọng lượng khô, hạt của những
cây trồng khác là từ 40-60%.
Cellulose
Cellulose là thành phần chính của thành tế bào thực vật cùng với hemicellulose,
pectin và ligin. Do hệ enzyme phân huỷ cellulose không có mặt trong hệ tiêu hoá của
người, nên cellulose chỉ đóng vai trò duy trì nhu động mạch ruột của hệ tiêu hoá.
Thiếu cellulose trong khẩu phần ăn dễ gây táo bón, ung thư trực tràng, còn quá nhiều
cellulose trong khẩu phần ăn gây nên giảm sự hấp thu chất dinh dưỡng trong đường ruột.
Do không được tiêu hoá nên cellulose được sử dụng như các chất xơ thực phẩm.
Ngoài ra, enzyme phân huỷ cellulose cũng không có mặt trong hệ tiêu hoá của động
vật. Tuy nhiên động vật nhai lại có khả năng tiêu hoá cellulose do hệ vi sinh vật trong
dạ cỏ có khả năng sinh tổng hợp cellulase.
Cấu trúc : Cellulose được cấu tạo từ đường D-glucose nhờ liên kết β-1,4 glycoside.
Ứng dụng : Cellulose vi tinh thể được sử dụng trong các loại thực phẩm calori
thấp, trong salad, các món ăn tráng miệng và kem. Khả năng hydrat hoá và phân tán
của được cải thiệnn rõ rêt khi sử dụng chung với một lượng nhỏ carboxymethyl
cellulose.
Các dẫn xuất của cellulose
Alkyl cellulose
Được tạo thành do phản ứng giữa cellulose và methylchloride hay propylene
oxide trong môi trường kiềm mạnh sẽ gắn thêm các gốc methyl hay hydroxypropyl
vào cellulose. Mức độ thay thế này phụ thuộc vào các điều kiện phản ứng. Phụ thuộc
vào bản chất của gốc thay thế ( methyl, ethyl, hydroxymethyl, hydroxyethyl,
hydroxypropyl) và mức độ thay thế mà các dẫn xuất cellulose nhận được có khả năng
trương nở và hoà tan trong nước khác nhau. Tính chất đặc trưng của methyl cellulose
và methyl-hydroxypropyl cellulose là khả năng giảm độ nhớt khi tăng nhiệt độ và khả
năng tạo gel thuận nghịch ở nhiệt độ nhất định. Khả năng tạo gel cũng phụ thuộc vào
dạng dẫn xuất, mức độ thay thế, nồng độ của dẫn xuất cellulose trong dung dịch nước.
Ứng dụng
Trong các sản phẩm nướng làm từ bột ít hay không có gluten (như bột gạo, bột
bắp), sử dụng methyl cellulose và methyl-hydroxypropyl cellulose sẽ làm giảm hiện
tượng bở hay vỡ vụn của bánh, tăng lượng nước sử dụng trong bột nhào và nhờ vậy
tăng khả năng phồng nở của tinh bột trong quá trình nướng bánh.
Khi thêm vào bột chiên thịt hay tôm sẽ giúp tăng lượng mỡ có thể hấp thụ khi chiên.
Khi thêm vào các loại rau củ, trái cây sấy khô giúp cải thiện tính chất và cấu trúc của
sản phẩm khi tái hydrat hoá.
Carboxymethyl cellulose CMC
CMC là dẫn xuất của cellulose với chloroacetic acid. Tính chất của CMC phụ
thuộcvào mức độ thay thế và mức độ polymer hoá. CMC có mức độ thay thế thấp (DS
< 0.3) không tan trong nước nhưng tan trong kiềm. Khi CMC có mức độ thay thế cao
(DS > 0.4) tan được trong nước. Độ hoà tan và độ nhớt của CMC phụ thuộc vào pH.
Ứng dụng
CMC là một chất kết dính trơ và là chất làm đầy được sử dụng để điều chỉnh và
cải thiện cấu trúc của nhiều loại thực phẩm như mứt trái cây dạng thạch, nhân bánh
dạng paste, phomai, salad...
Giúp giảm hiện tượng tạo tinh thể đá trong bánh kem, giúp giữ cấu trúc mềm
và trơn mịn.
Ngăn cản hiện tượng kết tinh đường trong sản xuất kẹo, ngăn ngừa hiện tượng
thoái hoá tinh bột và vỡ trong các loại bánh nướng.
Cải thiện tính chất tái hydrat hoá trong các sản phẩm sấy.
Hemicellulose
Là thành phần nằm trong khoảng trống giữa các sợi cellulose trong thành tế bào
thực vật.
Agar
Cấu trúc và tính chất
Agar là một polysaccharide được tách ra từ rong biển (thuộc nhóm tảo đỏ
Rhodophyceae). Đây là một phức hợp polysaccharide mà thành phần chính là agarose
và agaropectin.
Thành phần chính của mạch polysaccharide là β-D-galactopyranose và 3,6-
anhydro-α-L-galactopyranose liên kết với nhau bởi liên kết β-1,4 và α-1,3.
Agar không tan trong nước lạnh, tan nhẹ trong ethanolamin và tan tốt trong
formamide.
Agar nhận được nhờ kết tủa bằng cồn.
Ở trạng thái ẩm agar có thể tan trong nước ở nhiệt độ 250C, nhưng ở trạng thái
sấy khô chỉ tan trong nước nóng. Khi để nguội, dung dịch agar sẽ tạo thành gel. Đây là
chất tạo gel tốt nhất, nó có thể hấp thụ rất nhiều nước và tạo gel nhờ các liên kết hydro
ở nồng độ rất thấp (khoảng 0.04%)
Khả năng tạo gel và độ bền gel phụ thuộc
Nồng độ agar
Phân tử lượng trung bình
Ứng dụng
Những ứng dụng của agar dựa trên các tính chất :
Là một glucid không tiêu hoá được
Có khả năng tạo gel bền nhiệt
Có khả năng nhũ hoá và làm bền
Có khả năng tạo màng có độ bền cơ học cao và trong suốt
Ứng dụng
Dùng làm thạch
Dùng làm muôi trường nuôi cấy vi sinh vật
Làm chậm quá trình hư hỏng ở bánh mì
Cung cấp cấu trúc gel cần thiết trong các đồ hộp thịt
Sử dụng rộng rãi trong các thực phẩm ăn kiêng, đồ tráng miệng và các sản phẩm ngũ cốc.
Pectin
Pectin là hợp chất cao phân tử polygalacturonic có đơn phân tử là galacturonic
trong đó các nhóm acid của acid galactose bị ester hoá một phần bằng rượu metylic.
Pectin là polysaccharide có nhiều ở quả, củ hoặc thân cây. Trong thực vật pectin
tồn tại dưới 2 dạng: dạng protopectin không tan, tồn tại chủ yếu ở thành tế bào dưới
dạng kết hợp với polysaccharide araban và dạng hoà tan của pectin tồn tại chủ yếu ở
dịch tế bào.
Pectin có trọng lượng phân tử lớn, sự có mặt của pectin làm tăng độ nhớt của
dịch quả, trong công nghệ chế biến nước trái cây, người ta thường dùng enzyme để
thủy phân pectin, làm giảm độ nhớt của dịch quả.
Pectin là chất vô định hình, không tan trong phần lớn các dung môi hữu cơ như
acetone, rượu.
Dưới tác dụng của acid, của enzyme protopectinase hoặc khi đun sôi, protopectin
chuyển sang dạng pectin hoà tan. Đặc tính quan trọng của pectin là khi có mặt acid và
đường, nó có khả năng tạo thành gel. Vì vậy nó được ứng dụng rộng rãi trong công
nghiệp sản xuất mứt kẹo.
Điều kiện tạo thành chất gel:
Pectin < 1 %.
Đường saccharose với tỷ lệ 65-70%
pH môi trường khoảng 3.1-3.5 (thường sử dụng acid hữu cơ như acid citric).
Pectin lấy từ các nguồn khác nhau sẽ khác nhau về khả năng tạo gel và khác nhau về
số các nhóm thế metoxyl trong phân tử. Pectin hòa tan là polysaccharide cấu tạo bởi
các gốc acid galaturonic trong đó một số gốc acid có chứa nhóm thế metoxyl.
Phân tử lượng của các loại pectin tách từ các nguồn quả khác nhau thay đổi trong
giới hạn rộng.
Tên gọi pectin dùng để chỉ các chuỗi polygalacturonic metyl hóa 100%. Tên gọi
acid pectinic để chỉ chất được metyl hóa thấp hơn 100%. Còn tên gọi acid pectic để
chỉ acid polygalacturonic hoàn toàn không chứa nhóm metoxyl.
Pectin hòa tan khi bị tác dụng của chất kiềm loãng hoặc enzyme pectase sẽ giải
phóng nhóm metoxyl dưới dạng rượu metylic và polysaccharide còn lại khi đó gọi là
acid pectic tự do, nghĩa là acid polygalacturonic. Acid pectic có thể tạo nên dạng muối
canxi pectat, chất này chuyển này dạng kết tủa dễ dàng, do đó được dùng làm để định
lượng các chất pectin. Dưới dạng acid pectic tự do, nó mất khả năng tạo gel khi có
đường như trong trường hợp của pectin hòa tan ban đầu. Vì vậy, để duy trì khả năng
tạo gel của pectin hòa tan cần chú ý tránh môi trường kiềm hoặc tác dụng thủy phân
của enzyme pectase. Các chất pectin giữ vai trò quan trọng trong quá trình chín của
quả. Khi quả đang phát triển, protopectin phân tán ở thành tế bào và chiếm tỷ lệ khá
cao, tới lúc quả chin, protopectin biến sang dạng pectin hòa tan dưới tác dụng của các
acid hữu cơ và enzyme protopectinase trong quả. Trong khi bảo quản quả cũng nhận
thấy sự giảm dần lượng protopectin và tăng dần pectin hòa tan.
Khái niệm độ metoxyl hoá (DM)
DM = (Σ nhóm acid bị ester hoá / (Σ nhóm acid)x100%
Độ metoxyl có ảnh hưởng đến khả năng và những điều kiện tạo đông của pectin. Do
đó người ta phân loại pectin dựa vào độ metoxyl.
Pectin metoxyl cao: DM > 75%
Pectin metoxyl thấp: DM < 50%
Pectin thường hiện diện trong rau quả ở dạng liên kết với cellulose của tế bào thực vật
gọi là protopectin làm cho quả có tính cứng chắc. Trong quá trình chín của quả,
protopectin bị thuỷ phân bằng các enzyme tự nhiên tạo thành pectin do đó tính cứng
chắc của mộ quả bị mất.
Tính chất tạo gel và ý nghĩa đối với kỹ thuật thực phẩm
Khả năng tạo gel của pectin phụ thuộc chủ yếu vào 2 yếu tố: chiều dài của chuỗi
pectin và mức độ metyl hoá. Chiều dài của phân tử quyết định độ cứng của gel. Nếu
phân tử pectin có chiều dài quá thấp thì sẽ không tạo được gel mặc dù sử dụng với liều lượng cao.
Pectin được phân bố rộng rãi trong nhiều loại thực vật.
Nó được sản xuất công nghiệp từ vỏ các loại thuộc họ cam quýt và từ bả táo.
Pectin chiếm tỷ lệ 20-40% chất khô trong vỏ cam, quýt và 10-20% trong táo. Quá
trình tách chiết pectin được thực hiện ở pH 1,5-3 và nhiệt độ 60-1000
C. Glycogen
Glycogen là những polimer phân nhánh được tạo nên từ những gốc D-glucopyranose
chúng liên kết với nhau bởi liên kết α-1,4 và α-1,6 glycoside phân nhánh. Phân tử
glycogen có cấu tạo phân nhánh tương tự như amylopectin nhưng mức độ phân nhánh
nhiều hơn khoảng 8-12 gốc α-D-glucopyranose có một điểm phân nhánh.
Glycogen là polysaccharide dự trữ trong cơ thể người và động vật. Vì vậy người
ta coi nó là polysaccharide đặc trưng của động vật hay tinh bột động vật. Tuy nhiên,
người ta còn phát hiện glycogen ở các nguồn khác như nấm mốc, nấm men và ở một
vài loại hạt ngô.
Hàm lượng glycogen trong gan đạt tới 10%, trong cơ 2%. Hàm lượng glycogen
này phụ thuộc vào mức độ dinh dưỡng của động vật, khi cơ thể ở trạng thái đói hoặc
mệt mỏi, lượng glycogen giảm đi rất mạnh
Glycogen có vai trò quan trọng trong chuyển hoá glucid ở cơ thể động vật và
nấm men trong khi lên men rượu.
Khi tác dụng với iốt, glycogen cho màu đỏ tím hoặc đỏ nâu giống với màu của
amylopectin phản ứng với iốt. Khi thuỷ phân bằng acid hoặc bằng enzyme, glycogen
chuyển thành α - D – glucose.
Glycogen là nguồn năng lượng và glucid dự trữ của người và động vật
CHƯƠNG IV: VITAMIN
Từ lâu chúng ta biết rằng trong thức ăn bao gồm các chất dinh dưỡng: protein, glucid,
lipip và một số khoáng chất. Sau đó, người ta thấy một số bệnh gây ra do thiếu một số
chất nào đó trong thức ăn.
+ 1880, nhà bác học người Nga Nicolai-ivanoich-Lunin đã thông báo một công trình
nghiên cứu vầ lĩnh vực này……..(GT sinh hóa dhct)
+ 1897, một thầy thuốc người Hà Lan Eman làm việc tại các nhà tù ở đảo Gia va đã
thấy rằng bệnh beri-beri bệnh sần sùi da là một bệnh không truyền nhiễm mà do ăn
gạo xát kỹ. Ông đã thành công gây ra bệnh beri-beri nhân tạo và điều trị được bệnh
này.
+ 1917 Funko nhà hóa sinh học người Ba Lan đã chú ý nghiên cứu chất này. Ông đã
thành công trong việc tách từ cám một hợp chất có chứa nhóm amin và ông đặt tên
cho nó là vitamin (tiếng La tinh nghĩa là sự sống, chất amin của sự sống).
Vitamin là hợp chất hữu cơ, có bản chất hóa học khác nhau, chỉ cần một lượng rất nhỏ
cũng có tác dụng đảm bảo cho sự sinh trưởng phát triển bình thường.
Vitamin có 2 nhiệm vụ chủ yếu:
+ Tham gia vào thành phần của enzyme – Vitamin có tác động như một coenzyme,
đây là nơi thực hiện trực tiếp các phản ứng sinh học như chuyển vận hydro, chuyển
vận nhóm aldehyde…
+ Vitamin cung cấp năng lượng – 1 mol vitamin C khi oxy hóa sẽ cung cấp được
khoảng 7.6Kcal.
Phân loại: dựa vào tính tan
+ Vitamin tan trong nước
+ Vitamin tan trong chất béo
Vitamin là thành phần không nhiều nhưng lại hết sức quan trọng trong thực phẩm. Nó
cần thiết cho sự phát triển, duy trì và thực hiện các hoạt động chức năng của cơ thể
con người. Vì thế việc bảo vệ các vitamin trong quá trình chế biến và bảo quản thực
phẩm là rất cần thiết. Hiện tượng mất vitamin có thể xuất hiện do các phản ứng hóa
học gây mất hoạt tính vitamin, do bị tách ra hay bị rò rỉ khỏi thực phẩm như các
vitamin tan trong nước bị mất trong quá trình nấu, chần thực phẩm.
Bảng 5.1
Nói chung, nhu cầu vitamin của cơ thể thường được bảo đảm nhờ chế độ ăn uống cân
bằng. Thiếu vitamin gây nên bệnh hypovitaminosis, thừa vitamin gây bệnh
avitaminosis. Cả hai trường hợp bệnh đều do các nguyên nhân ăn uống không phù
hợp, do các rối loạn hấp thu, do căng thẳng hoặc bệnh tật. Để kiểm tra mức độ cung
cấp vitamin cho cơ thể, có thể xác định hàm lượng vitamin trong máu, hay đoc ác giá
trị hoạt tính sinh học phụ thuộc vào vitamin (như hoạt tính của một số enzyme).
Người ta thường chia vitamin làm hai nhóm: vitamin tan trong dầu: A, D, E, K và
vitamin tan trong nước: vitamin nhóm B, nicotiamide, acid pantothenic, acid folic,
biotin, vitamin C.
I. KHÁI NIỆM CHUNG
II. VITAMIN TAN TRONG DẦU
2.1 Vitamin A (retinol) vitamin A1, A2 và β-carotene (tiền thân vitamin A), tất cả liên
kết ở dạng trans.
Cấu tạo
Vitamin A1 là acol bậc nhất mà trong phân tử của nó gồm có một nhân ionon, nối với
2 gốc isoprene và một nhóm acol bậc nhất.
Vitamin A2 khác A1 là trong phân tử của A2 có thêm một nối đôi.
Tính chất
Vitamin A là chất lỏng nhờn không tan trong nước, nó dễ bị oxy hóa khi có mặt oxy,
tác nhân oxy hóa nhất là dưới ảnh hưởng của tia tử ngoại. Trong điều kiện yếm khí,
vitamin A khá bền với acid, kiềm và chịu được nhiệt độ cao. Vitamin A khi oxy hóa
chuyển thành retinal (dạng aldehyde).
Vai trò
Vitamin A1 có nhiều trong dầu cá nước mặn, A2 có nhiều trong dầu cá nước ngọt.
Vitamin A có tác dụng duy trì trạng thái bình thường của biểu mô. Khi thiếu vitamin
A, biểu bì sẽ sừng hóa, ở cơ thể trẻ xương chậm phát triển. Động vật non chậm lớn,
sụt cân, niêm mạc sẽ bị thoái hóa, dễ nhiễm trùng, màng nhầy mắt bị khô, tuyến nước
mắt không tiết gây nên bệnh quáng gà.
Chức năng quan trọng của vitamin là tham gia vào việc duy trì tính nhạy cảm của mắt
đối với việc thu nhận ánh sang, tham gia vào thành phần cấu tạo của sắc tố thu nhận
ánh sang là Rodopsin.
Vai trò sinh học
Retinol có vai trò quan trọng trong đồng hóa các hợp chất protein của các tế bào ngoại
bì như da hay lớp màng nhầy bảo vệ của hệ hô hấp và tiêu hóa. Thiếu retinol gây ảnh
hưởng đến các tế bào biểu mô, gây bệnh dày da, chai da và gây mù mắt.
Dẫn xuất 11-cis retinal là thành phần chromophore (thể màu) và …….
Nhu cầu và nguồn vitamin A
Nhu cầu vitamin hằng ngày ở người trưởng thành là 1.5-1.8mg. 75% lượng vitamin
được đảm bảo từ nguồn thực phẩm (chủ yếu ở dạng ester của acid béo, chủ yếu là
retinyl palmitate), 25% còn lại được chuyển hóa từ các β-carotene và các pro-vitamin
A khác, 6g β-carotene chuyển hóa được 1 g vitamin A.(1 phân tử β-carotene sẽ cho ra
2 phân tử vitamin A)
Sự hấp thu và dự trữ vitamin A ở gan thường xuất hiện ở dạng ester của acid béo.
Vitamin A được gan cung cấp vào máu dưới dạng retinol, tại đây chúng liên kết với
protein.
Vitamin A chỉ có trong các tế bào động vật như trong dầu gan cá, gan động vật, chất
béo của sữa, lòng đỏ trứng. Thực vật không chứa vitamin A nhưng chứa các
carotenoid có thể chuyển thành vitamin A nhờ phân cắt một nối đôi ở trung tâm.
Carotenoid có nhiều trong các loại rau củ có màu xanh đậm và màu vàng như carot,
cải bó xôi, ớt, cà chua và đặc biệt có nhiều trong bí ngô, mơ, cam, dầu cọ… Các loại
carotenoid trong động vật đều có nguồn gốc từ thực vật do động vật nhận được từ
nguồn thực phẩm hằng ngày.
Bảng 5.4 page 341
2.2 Vitamin D (calciferol)
- Theo nghiên cứu, có 6 loại vitamin D: D2, D3, D4, D5, D6 và D7.
- Tuy nhiên, có 2 dạng phổ biến nhất và có ý nghĩa hơn cả là D2 và D3 .
Cấu tạo
Vitamin D là dẫn xuất của sterol. Một số sterol được gọi tiền vitamin D vì khi các
sterol được chiếu bằng tia tử ngoại (các tia có bước sóng từ 280-310µm) thì chúng
chuyển thành vitamin D.
Khi chiếu tử ngoại lên ergosterol (có trong nấm men) và 7-dehydro-cholesterol (có ở
dưới da người) thì thu được vitamin D.
Vai trò sinh học
Vitamin D3 (cholecalferol) được tạo thành ở da từ 7-dehydro-cholesterol (provitamin
D3) nhờ phản ứng quang phân (khi có mặt tia UV). Vì thế vitamin này còn gọi là
sunshine vitamin. Vitamin D2 ergocalciferol được tạo thành từ ergosterol.
Hợp chất chuyển hóa từ vitamin D (25-hydroxycholecalciferol và 1α-25di
hydroxycholecalciferol) có vai trò trong việc hấp thu calcium ở ruột và đưa muối Ca
tới các bộ phận của xương nhờ kích hoạt phản ứng sinh tổng hợp các protein liên kết
với Ca.
Thiếu vitamin D gây tăng bài tiết calcium và phosphate, làm hỏng quá trình hình
thành xương và sụn (đặc biệt ở trẻ em). Thiếu vitamin D ở người lớn gây bệnh loãng
xương ( xương mềm và yếu). Tăng Ca huyết do thừa vitamin D gây rối loạn hấp thu
các muối calcium carbonate và calcium phosphate.
Nhu cầu và nguồn vitamin D
Nhu cầu vitamin hằng ngày 10µg. Phần lớn các nguồn thực phẩm trong tự nhiên chứa
ít vitamin D3. Dầu gan cá là nguồn thực phẩm duy nhất chứa nhiều vitamin D2.
Provitamin D (ergosterol và 7-dehydrocholesterol) có nhiều trong động vật và thực
vật. Trong nấm men, nấm ăn, cải bắp, cải bó xôi, mầm hạt lúa mì rất giàu provitamin
D2. Vitamin D3 và provitamin D3 có nhiều trong lòng đỏ trứng, bơ, sữa bò, thịt bò,
gan heo, động vật thân mềm, mỡ động vật, da heo. Tuy nhiên, có thể nói nguồn
vitamin D quan trọng nhất là mỡ cá, đặc biệt trong dầu gan cá.
Vitamin dễ bị hư hỏng bởi oxy và ánh sáng. Trong quá trình chế biến và bảo quản
thực phẩm, các provitamin ít bị hư hỏng.
2.3 Vitamin E (α-tocopherol)
Vai trò sinh học
Các loại tocopherol khác nhau có số lượng và vị trí các gốc metyl khác nhau trên vòng
thơm.
α-tocopherol có hoạt tính vitamin E cao nhất, nó ngăn ngừa và làm giảm tốc độ của
các quá trình oxy hóa chất béo, giúp bền cấu trúc của màng tế bào và nhiều chất có
hoạt tính sinh học khác như enzyme, hormone, vitamin A…
Vitamin E cũng liên quan đến việc chuyển hóa acid arachidonic thành prostaglandin
và làm chậm sự đông tụ các tiểu cầu trong máu.
Thiếu vitamin E dẫn đến các rối loạn mãn tính như bệnh vô sinh ở một số động vật
nuôi ở trong nhà, bệnh thiếu máu mãn tính ở khỉ, bệnh teo cơ ở gà…
Nhu cầu và nguồn vitamin E
Nhu cầu vitamin E hàng ngày là 15 mg α-tocopherol, khi chế độ ăn chứa nhiều acid
béo không no thì nhu cầu này tăng lên. Với mức cung cấp bình thường, nồng độ
vitamin E trong máu khoảng 0.7-1.6mg/100ml huyết tương, nồng độ thấp hơn
0.4mg/100ml huyết tương là biểu hiện thiếu hụt vitamin này.
Vitamin E có mặt chủ yếu trong dầu thực vật, đặc biệt trong dầu tách từ mầm các hạt
ngũ cốc.
Vitamin E bị mất đi trong quá trình chế biến dầu thực vật thành các sản phẩm như
marganine, shortening. Các quá trình tự oxy hóa chất béo xảy ra ở thực phẩm sấy hay
thực phẩm được chiên rán trong dầu mỡ có nhiệt độ cao cũng làm mất vitamin E.
2.4 Vitamin K
Vitamin K là dẫn xuất của naphtoquinone với các đoạn mạch khác nhau. Trong
vitamin K tự nhiên, gốc R tại các vị trí số 7’ và 11’ là gốc rượu phytol.
Vitamin K liên quan đến quá trình sinh tổng hợp một số yếu tố đông máu như
prothrombin, proconvertin… Thiếu vitamin K dẫn đến giảm hoạt tính của
prothrombin và gây bệnh chảy máu, máu không đông…
Nhu cầu vitamin K1 hàng ngày ở người lớn là 1-4mg, được cung cấp nhờ chế độ ăn và
được tổng hợp bởi hệ vi sinh vật đường ruột ở người. Hiệu suất sinh tổng hợp vitamin
K ở đường ruột khoảng 1-1.5mg/ngày, đủ cho nhu cầu cơ thể.
Vitamin K1 có nhiều trong các loại rau lá xanh như bắp cải, cải bó xôi, súp lơ và trong
gan heo, cừu.
Vitamin K dễ bị phân hủy bởi kiềm và ánh sang, rất bền với nhiệt và oxy.
2.5 Vitamin Q
III. VITAMIN TAN TRONG NƯỚC
3.1 Vitamin B1(thiamine)
Thiamine trong liên kết với pyrophosphate là coenzyme của nhiều enzyme quan trọng
như pyruvate dehydrogenase, phosphoketolase, transketolase và α-ketoglutarate
dehydrogenase tham gia vào phản ứng chuyển các gốc aldehyde.
Thiếu vitamin B1 dẫn đến giảm hoạt tính của các enzyme. Khẩu phần ăn thiếu vitamin
B1 kéo dài dẫn đến bệnh tê phù (beerri-bêri) với các biểu hiện của bệnh tim và thần
kinh.
Nhu cầu vitamin B1 hằng ngày ở người lớn là 1-2mg. Do vitamin B1 đóng vai trò
quan trọng trong chuyển hóa carbohydrate nên khi khẩu phần ăn chứa nhiều glucid,
nhu cầu thiamine tăng. Phân tích hoạt tính của enzyme transketolase ở tế bào hồng cầu
có thể biết tình trạng thiếu vitamin B1 trong cơ thể/
Vitamin B1 có nhiều trong vỏ và mầm hạt ngũ cốc, trong nấm men, rau củ (khoai tây),
trong thịt heo, bò, trứng gà, cá, trong gan, thận, óc, tim…động vật. Sữa mẹ và sữa bò
cũng chứa nhiều vitamin B1. Do vitamin B1 có nhiều ở lớp vỏ ngũ cốc nên các loai
bột và gạo đã chà sạch gần như không còn chứa đáng kể hàm lượng vitamin này.
Độ bền của vitamin B1 trong nước không cao, nó phụ thuộc vào pH, nhiệt độ, lực ion
và sự có mặt của các ion kim loại.
3.2 Vitamin B2 (riboflavin)
Riboflavin là thành phần của flavin-enzyme, nó đóng vai trò quan trọng trong quá
trình trao đổi chất nói chung và đồng hóa protein nói riêng.
Thiếu vitamin B2 dẫn đến dư thừa acid amin và thiếu protein trong cơ thể.
Nhu cầu vitamin B2 ở người trưởng thành là 1.6-2.6mg/ngày. Những biểu hiện thiếu
vitamin này thường ít khi xuất hiện với chế độ ăn uống bình thường do dự trữ
riboflavin trong cơ thể khá ổn định, kể cả khi chế độ ăn thiếu hụt cũng không làm
giảm lượng dự trữ này quá 30-50%.
Vitamin B2 có nhiều trong sữa và các sản phẩm sữa, trứng, thịt, nhiều loại rau đặc biệt
trong gan, tim, thận heo, trong gan và trứng cá.
Vitamin B2 nói chung là bền và thường chỉ bị mất 10-15% trong quá trình bảo quản
và chế biến thực phẩm.
3.3 Vitamin B6 (pyridoxine, pyridoxal)
Pyridoxine, pyridoxal và pyridoxamine là những hợp chất có hoạt tính vitamin B6.
Thiếu hụt vitamin B6 dẫn đến rối loạn chuyển hóa protein, như tổng hợp hemoglobin
trong máu.
Vitamin B6 thường được đưa vào cơ thể dưới dạng pyridoxal hoặc pyridoxamine.
Nhu cầu vitamin B6 hằng ngày khoảng 2mg, vitamin B6 có nhiều trong thực phẩm từ
động vật và thực phẩm như thịt, cá, trứng, sữa, trong rau quả và các hạt lương thực.
3.4 Vitamin B5 niacin nicotinamide
Thiếu vitamin này dẫn đến các bệnh về da, bệnh thần kinh và tiêu hóa (tâm thần phân
liệt, tiêu chảy, viêm da, nứt da…). Tuy nhiên, những biểu hiện ban đầu của bệnh do
thiếu vitamin thường không đặc trưng.
Nhu cầu vitamin b5 hàng ngày ở người lớn khoảng 12-20mg, trong đó 60-70% được
chuyển hóa từ tryptophan. Vì vậy sử dụng trứng sữa chứa ít niacin nhưng có nhiều
tryptophan rất tốt cho việc ngăn ngừa bệnh nứt da pellagra. 60mg L-tryptophan = 1mg
niacin.
Vitamin này xuất hiện trong thực phẩm dưới dạng acid nicotinic, amide hoặc
coenzyme. Gan, thịt nạc, hạt ngũ cốc, nấm men, nấm ăn là những thực phẩm rất giàuniacin.
3.5 Vitamin Be
Dẫn xuất tetrahydrofonate của acid folic là co-factor của enzyme tham gia vào phản
ứng chuyển gốc carbon thành các dạng oxy hóa khác nhau. Thiếu acid folic biểu hiện
bằng việc giảm nồng độ của vitamin này trong tế bào hồng cầu và trong huyết tương.
Sự thiếu hụt này có thể xuất hiện ở những người có chế độ ăn uống không cân bằng,
suy dinh dưỡng, kém hấp thu hay những người sau mổ…
Nhu cầu và nguồn cung cấp, biến đổi của acid folic
Nhu cầu acid folic hằng ngày ở người lớn khoảng 0.4-0.8mg. Nồng độ acid folic bình
thường trong huyết tương khoảng 5-20ng/ml, thấp hơn 5ng/ml là thiếu acid folic.
Trong thực phẩm, acid folic thường liên kết với oligo-γ-L-glutamate. Hoạt tính của
acid folic ở dạng này thường bị hạn chế do gốc acid glutamic cần được giải phóng
dưới tác dụng của enzyme folic acid conjugase có trong màng nhầy ruột.
Hàm lượng acid folic trong thực phẩm rất khác nhau. Acid folic có nhiều trong rau củ
ở dạng phức và trong gan ở dạng tự do. Đây cũng là vitamin bền, không bị biến đổi
trong quá trình chế biến rau củ và cũng chỉ bị thất thoát rất ít khi chế biến thịt. Những
hao hụt của acid folic trong sữa chủ yếu do hiện tượng oxy hóa. Thêm vitamin C dưới
dạng ascorbate có thể bảo quản acid folic tốt.
Thêm
Nguồn acid folic là rau xanh, gan, thận và nấm men. Trong các sản phẩm đậu, thịt và
sữa hàm lượng acid folic thấp hơn, còn trong quả chứa rất ít.
3.5 Cyanocobalamin Vitamin B12
Cyanocobalamin được tách ra từ Lactobacillus lactics. Do có độ bền cao và sẵn có
nên đây là dạng vitamin thường được sử dụng nhất. Cobalamin còn xuất hiện trong tự
nhiên dưới dạng adenosylcobalamin và methylcobalamin (gốc 5’-deoxyadenosyl và
gốc methyl thay thế cho gốc cyano).
Adenosylcobalamin (coenzyme B12) tham gia vào phản ứng sắp xếp lại nguyên tử
hydro H, gốc ankyl và gốc acyl hai nguyên tử hydro kề nhau. Phản ứng này đóng vai
trò quan trọng trong trao đổi chất nhiều loại vi khuẩn. Ở động vật, vitamin B12 tham
gia vào phản ứng chuyển methylmalonyl-CoA thành sucinyl-CoA. Thiếu vitamin B12
dẫn đến việc thải acid methylmalonic ra nước tiểu. Vitamin này còn tham gia vào việc
tạo các acid deoxyribonucleic.
Methylcobalamin được tạo thành trong quá trình methyl hóa homocystein thành
methionine. Enzyme liên quan đến phản ứng này là methyl transferase phụ thuộc cobalamin.
Sự hấp thu cyanocobalamin được thực hiện nhờ một yếu tố nội tại glycoprotein do
màng nhầy ở thành ruột tiết ra. Sự thiếu hụt vitamin B12 trong cơ thể chủ yếu do
nguyên nhân rối loạn hấp thu (do tạo thành yếu tố nội tại không phù hợp) hay do bệnh
thiếu máu.
Nhu cầu vitamin B12 hằng ngày ở người lớn khoảng 3-4µm. Nồng độ bình thường
trong huyết tương khoảng 450pg/ml.
Vitamin B12 (sử dụng độc lập hay kết hợp cùng kháng sinh) có khả năng thúc đẩy tăng
trưởng ở gà con, heo sữa, lợn thiến do nó ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa vitamin
và protein. Vì thế vitamin B12 được sử dụng rộng rãi trong chăn nuôi. Hiệu quả sử
dụng đặc biệt cao đối với động vật còn non. Vitamin B12 cũng được dùng để tăng sản
lượng trứng gà đẻ.
Gan, thận, lách, tuyến ức và các mô cơ là những cơ quan chứa nhiều vitamin B12. Ăn
nhiều nội tạng động vật là phương pháp tốt nhất để giảm nhẹ các biểu hiện thiếu
vitamin B12 ở người. Độ bền vitamin B12 phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Vitamin B12
tương đối bền với pH = 4-6 thậm chí ở nhiệt độ cao. Trong môi trường kiềm hay khi
có mặt các chất khử như acid ascorbic hay SO2, vitamin B12 bị phân hủy nhanh.
3.6 Vitamin C
Vitamin C tham gia vào các phản ứng hydroxyl hóa như sinh tổng hợp catechoamine,
hydroxyl proline, corticosteroid…
Vitamin C được hấp thụ và phân bố khắp cơ thể, nồng độ vitamin C cao nhất ở tuyến
yên và tuyến thượng thận. Khoảng 3% lượng vitamin C trong cơ thể (20-50mg/kg thể
trọng) được thải ra ngoài qua đường nước tiểu dưới dạng acid ascorbic, acid
dehydroascorbic (25%), các sản phẩm chuyển hóa (metabolite) như acid 2,3diketo-L-
gulonic (20%) và acid oxalic 55%. Lượng acid oxalic tăng khi lượng acid ascorbic
trong khẩu phần ăn tăng cao. Ăn thiếu vitamin C dễ bị mắc bệnh scorbut.
Nhu cầu vitamin C hằng ngày ở người lớn từ 45-80mg. Nồng độ vitamin C trong máu
ở mức thấp 0.4mg/100ml thể hiện sự thiếu hụt vitamin này trong chế độ ăn.
Vitamin C xuất hiện trong tất cả các tế bào động vật, thực vật, ở dạng tự do hay phức
với protein. Vitamin C đặc biệt có nhiều trong quả tầm xuân, nho, dâu, cam, chanh (có
nhiều trong vỏ hơn trong ruột), cần tây, nhiều loại cải bắp, khoai tây.
Vitamin C có thể bị oxy hóa thành acid dehydroascorbic và các sản phẩm khác tiếp
sau đó. Trong dung dịch nước, acid dehydroascorbic tồn tại dưới dạng hemiketal.
Hoạt tính vitamin bị mất đi khi vòng lactone bị mở ra và acid ascorbic chuyển thành
acid 2,3-diketo-gulonic.
Quá trình oxy hóa bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như áp suất oxy riêng phần, pH,
nhiệt độ. Đặc biệt khi có mặt xúc tác là các ion kim loại nặng như Cu2+, Fe3+, tốc độ
của phản ứng oxy hóa tăng lên nhiều lần so với quá trình tự oxy hóa ngẫu nhiên không
có xúc tác.
Vitamin C cũng bị phân hủy trong điều kiện không có oxy để tạo thành hợp chất acid
diketo-gulonic.
3.7 Vitamin H
Biotin là thành phần quan trọng của các enzyme carboxylase như acetyl-CoA-
carboxylase, pyruvate carboxylase, propionyl-CoA- carboxylase (nhóm carboxyl của
biotin sẽ tạo liên kết amide với ε-NH2 của gốc lysine trong phân tử protein enzyme).
Vì thế nó đóng vai trò quan trọng trong sinh tổng hợp lipid và quá trình tân tạo đường
cơ thể.
Chỉ có hợp chất D-biotin mới có hoạt tính sinh học. Hiện tượng thiếu hụt biotin
thường ít xảy ra. Ăn quá nhiều lòng trắng trứng có thể gây mất hoạt tính sinh học của
biotin do vitamin này có khả năng kết hợp đặc hiệu với avidin trong lòng trắng trứng.
Nhu cầu biotin hằng ngày ở người lớn là 150-300µg. Kiểm tra lượng biotin trong
nước tiểu có thể kiểm soát lượng vitamin này trong cơ thể. Mức biotin bình thường
trong nước tiểu là 30-50µg/ngày, khi chỉ số này giảm xuống còn 5 µg/ngày, cơ thể bị
thiếu biotin. Biotin có trong nhiều loại thực phẩm khác nhau đặc biệt là trong gan heo
bò và mầm lúa mì. Vitamin này khá bền, nó có thể bị hao hụt 10-15% trong quá trình
bảo quản và chế biến.
IV. NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY BIẾN ĐỔI HOẶC PHÂN HỦY VITAMIN
CHƯƠNG V: KHOÁNG CHẤT
I. VAI TRÒ CỦA KHOÁNG CHẤT TRONG CƠ THỂ
Chất khoáng là những nguyên tố hóa học cần thiết cho sự tồn tại và phát triển bình
thường của cơ thể.
Chất khoáng mineral là những thành phần còn lại dưới dạng tro sau khi đốt các mô
thực vật và động vật. Chất khoáng được chia thành hai loại: các nguyên tố đa lượng
(Ca, p, k, Cl, Na, Mg) và vi lượng (Fe, Zn, Cu, I, Mo). Ngoài ra, chất khoáng cũng có
thể được chia thành ba nhóm tùy thuộc vào vai trò sinh học của chúng: các nguyên tố
khoáng thiết yếu (vai trò được biết rõ), các nguyên tố khoáng không thiết yếu (vai trò
chưa được biết rõ) và các nguyên tố khoáng gây độc (có thể bị nhiễm vào cơ thể qua
thực phẩm, không khí, nước).
Các nguyên tố đa lượng và vi lượng có nhiều vai trò trong cơ thể: là các chất điện ly,
thành phần của enzyme, vật liệu xây dựng trong cấu trúc như răng và xương…
Trong cùng một loại thực phẩm, thành phần của các nguyên tố khoáng có thể thay đổi
tùy thuộc vào yếu tố di truyền cũng như môi trường, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng,
điều kiện nuôi trồng, thu hoạch… Những thay đổi về thành phần khoáng cũng liên
quan đến các điều kiện chế biến nguyên liệu thô như các quá trình nhiệt, phân tách
nguyên liệu…
Lượng khoáng cung cấp cho cơ thể không chỉ phụ thuộc vào lượng thực phẩm cung
cấp mà còn phụ thuộc vào giá trị sinh học hay thành phần của thực phẩm. Ngoài ra, nó
còn bị ảnh hưởng bởi thế oxy hóa, trạng thái hóa trị, độ hòa tan, pH và khả năng hấp
thu. Nhiều thành phần như protein, peptide, acid amin, polysaccharide, đường, lignin,
acid hữu cơ… đều liên kết với các nguyên tố khoáng, có thể tăng cường cũng như
làm giảm sự hấp thu khoáng trong cơ thể.
Tầm quan trọng của chất khoáng không chỉ ở giá trị dinh dưỡng và sinh lý, nó còn ảnh
hưởng tới cấu trúc và hương vị của thực phẩm, nó có thể hoạt hóa hay vô hoạt các
enzyme cũng như tham gia vào nhiều phản ứng khác trong cơ thể.
Các ion kim loại có sẵn trong thực phẩm hay xuất hiện trong quá trình chế biến đều có
ảnh hưởng đến chất lượng và vẻ bề ngoài của thực phẩm. Một số ion kim loại có thể
làm mất màu các sản phẩm trái cây, rau củ và gây giảm giá trị dinh dưỡng của thực
phẩm do làm mất vitamin C. Ion kim loại cũng gây mất mùi, vị, hoặc tạo các mùi
không mong muốn do các phản ứng oxy hóa như oxy hóa chất béo. Vì thế, việc loại
bỏ những ion kim loại gây ảnh hưởng không tốt đến quá trình chế biến và bảo quản
thực phẩm bằng các chất cô lập hay bằng các phương pháp khác là hết sức quan trọng.
II. CÁC YẾU TỐ ĐA LƯỢNG
2.1 Na (Sodium)
Lượng Na trong cơ thể người ở mức 1,4 g/kg thể trọng. Nó là thành phần bên ngoài tế
bào và có vai trò duy trì áp suất thẩm thấu cho dịch ngoài tế bào. Nó có vai trò trong
hoạt hóa một số enzyme như enzyme amylase. Tốc độ hấp thu Na rất nhanh, thường
bắt đầu khoảng 3-6 phút sau khi ăn và kết thúc trong vòng 3 giờ. Nhu cầu Na tối thiểu
ở người trưởng thành là 460 mg/ngày. Khẩu phần quá nhiều hay quá ít Na đều dẫn đến
những rối loạn nghiêm trọng. Lượng Na quá cao có thể dẫn đến hiện tượng cao huyết
áp bất thường. Để giảm lượng Na ta có thể sử dụng khẩu phần không có Na hay sử
dụng muối thay thế. KCl
2.2 K (potassium)
Nồng độ K trong cơ thể người khoảng 2 g/kg thể trọng. K có mặt phần lớn ở giữa các
tế bào, nó giúp điều chỉnh áp suất thẩm thấu giữa các tế bào, tham gia vào quá trình
vận chuyển các chất qua màng tế bào, hoạt hóa nhiều enzyme trong quá trình hô hấp
và đồng hóa glucid.
Nhu cầu K tối thiểu là 782 mg/ngày. Thiếu K do ăn uống thiếu chất dẫn đến nhiều
chứng bệnh khác nhau. Bánh mì trắng và các loại dầu mỡ không chứa K; ngược lại
khoai tây và rỉ đường lại rất giàu K.
2.3 Mg (Magnesium)
Nồng độ Mg trong cơ thể người khoảng 250 mg/kg thể trọng. Nhu cầu Mg hằng ngày
là 300-350mg. Với chế độ ăn bình thường hàm lượng Mg cung cấp cho cơ thể vào
khoảng 300-500mg.
Mg là chất hoạt hóa của nhiều enzyme, đặc biệt là các enzyme chuyển hóa các hợp
chất chứa phosphate, làm bền màng tế bào, màng gian bào và acid nucleic. Do đây là
một nguyên tố không thể thiếu được trong quá trình trao đổi chất nên thiếu hụt Mg
trong khẩu phần ăn gây ra những rối loạn trầm trọng trong cơ thể.
2.4 Ca (Calcium)
Tổng lượng Ca trong cơ thể người khoảng 1500g. Đây là một trong những nguyên tố
đa lượng quan trọng nhất. Nó có mặt trong xương và một số mô khác trong cơ thể. Ca
có vai trò quan trọng trong việc xây dựng cấu trúc xương, trong hiện tượng đông máu
và co cơ, vì thế thiếu Ca sẽ gây ra những rối loạn nghiêm trọng.
Nhu cầu Ca hàng ngày 0,8-1g trong khi lượng Ca cung cấp cho cơ thể từ chế độ ăn
thường khoảng 0,8-0,9g. Nguồn Ca chính cho dinh dưỡng của con người là sữa và các
sản phẩm từ sữa. Trái cây rau củ quả ngũ cốc thịt cá trứng cũng chứa Ca nhưng với
hàm lượng thấp hơn nhiều so với sữa.
Cl (chloride)
Hàm lượng Cl trong cơ thể ở mức 1,1g/kg thể trọng. Lượng ăn vào hằng ngày (chủ
yếu dưới dạng muối ăn NaCl) là 3-12g/ngày. Cl tham gia liên kết với Na trong dịch
ngoài tế bào và tạo liên kết với hydro trong dịch vị dạ dày. Nó được hấp thu rất nhanh
và thải ra nước tiểu cũng rất nhanh.
P phosphorus
Tổng lượng P trong cơ thể khoảng 700- 900g. Nhu cầu P hàng ngày từ 0,8-1,2 g. Tỷ lệ
Ca/P trong thực phẩm phải xấp xỉ bằng 1. P ở dạng phosphate, tự do hay dạng liên kết
ester đều đóng vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi chất và vì thế là một chất
dinh dưỡng thiết yếu.
P có mặt trong nhiều loại thực phẩm khác nhau. Các dạng P hữu cơ trong thực phẩm
được phân hủy bởi enzyme phosphatase trong ruột và P được hấp thu ở dạng
phosphate vô cơ. Polyphosphate (được đưa vào thực phẩm dưới dạng phụ gia) chỉ
được hấp thu sau khi thủy phân thành orthophosphate. Mức độ thủy phân phụ thuộc
vào mức độ trùng hợp của polyphosphate.
Các nguyên tố vi lượng
Khoảng 15 nguyên tố vi lượng thiết yếu hiện diện trong các hormone, vitamin,
enzyme và các protein có hoạt tính sinh học khác nhau. Tuy nhiên vai trò sinh học của
một số khác như Li, Rb vẫn chưa được biết rõ.
Một số nguyên tố độc tính Sb, Cd, Hg, Tl, Pb xuất hiện trong cơ thể bằng nhiều con
đường và có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe con người.
Tuy nhiên, thiếu hụt các nguyên tố vi lượng thiết yếu cũng gây ra những rối loạn
chuyển hóa nghiêm trọng, chủ yếu liên quan đến làm mất hay làm giảm hoạt tính của
một số enzyme liên quan đến quá trình trao đổi chất.
Một số nguyên tố vi lượng thiết yếu Fe
Hàm lượng Fe trong cơ thể khoảng 4-5g có mặt chủ yếu trong hemoglobin (máu), sắc
tố myoglobin trong mô cơ và một số enzyme (peroxidase, catalase, hydroxylase và các
flavine enzyme). Nhu cầu Fe phụ thuộc vào tuổi tác, giới tính và nằm trong giới hạn
từ 1-2,8mg/ngày. Tuy nhiên, do khả năng hấp thụ sắt thấp nên chế độ ăn phải đảm bảo
đáp ứng nhu cầu của con người. Khả năng hấp thụ sắt phụ thuộc vào dạng tồn tại của
chúng trong thực phẩm (dưới dạng hợp chất hữu cơ hay muối vô cơ). Sắt trong thịt
được hấp thu dễ nhất (20-30%), sắt trong gan (6,5%) và cá (5,9%). Fe trong rau củ và
sữa chỉ được hấp thụ khoảng (1-1,5%). FeSO4 là dạng dễ hấp thu nhất. Trứng làm
giảm khả năng hấp thu sắt và acid ascorbic thì làm gia tăng khả năng hấp thu sắt.
Đối với cơ thể khỏe mạnh, nhu cầu sắt phụ thuộc vào nhu cầu cơ thể. Ở trẻ em, phụ nữ
có thai hay đang cho con bú, phụ nữ trước tuổi mãn kinh…nhu cầu Fe cao hơn bình
thường. Để đáp ứng nhu cầu sắt cho các đối tượng này, ngũ cốc như bánh mì, bột mì,
gạo, mì…có thể được bổ sung sắt với liều lượng 55-130mg/kg. Tuy nhiên có 2 vấn đề
nảy sinh đối với thực phẩm được bổ sung Fe: tăng khả năng oxy hóa lipid và làm giảm
chất lượng nướng trong trường hợp bổ sung vào bột mì.
Trong công nghệ chế biến thực phẩm, Fe là nguyên tố vi lượng không mong muốn do
chúng xúc tác cho các phản ứng oxy hóa chất béo, làm đục nước quả và rượu vang,
làm tăng sự phát triển của vi khuẩn trong nước uống tinh khiết.
Cu
Hàm lượng Cu trong cơ thể người khoảng 100-150mg. Cu là thành phần của nhiều
enzyme oxy hóa như cytochrome oxidase,…
Cu cũng là nguyên tố không có lợi trong quá trình chế biến và bảo quản thực phẩm do
nó xúc tác phản ứng oxy hóa nhiều hợp chất quan trọng như acid ascorbic, lipid…
Zn
ê Zn cũng là thành phần của nhiều enzyme như alcohol dehydrogenase,…
Thiếu hụt Zn ở động vật gây những rối loạn nghiêm trọng nhưng thừa Zn ở người lại
gây ra hiện tượng ngộ độc. Một số trường hợp ngộ độc kẽm được ghi nhận khi sử
dụng các loại thực phẩm có độ acid cao được đóng gói trong bao bì kim loại phủ Zn.
Mn
Cơ thể người chứa tổng cộng 10-40mg Mn. Nhu cầu Mn hàng ngày từ 2-48mg và
được đáp ứng bởi chế độ ăn thông thường. Mn là chất hoạt hóa nhiều enzyme như
pyruvate decarboxylase.
Khác với Zn, Mn mặc dù ở nồng độ cao cũng ít gây hiện tượng ngộ độc đối với cơ thể
người và động vật.
Co
Tổng lượng Co trong cơ thể người rất ít, chỉ khoảng 1-2mg. Co là nguyên tố trung tâm
của phân tử vitamin B12, vì thế nó được coi là nguyên tố vi lượng thiết yếu và cần
được cung cấp đầy đủ bằng khẩu phần ăn hằng ngày.
F
Cơ thể người chứa 2,6 g fluorine. Nó vai trò quan trọng trong quá trình phát triển và
sinh sản của tế bào. Nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ men răng,
giảm hoạt động của các enzyme gây bệnh vôi răng. Người ta thường thêm vào nước
uống một lượng 0,5-1,5ppm F ở dạng NaF hay (NH4)2SiF6. Nồng độ 2ppm F có thể
gây ngộ độc. Vì thế lợi ích của F trong nước vẫn còn tranh cãi.
I
Hàm lượng I trong cơ thể người khoảng 10mg, trong đó 70-80% ở dạng liên kết hóa
trị với tuyến giáp. I chỉ được hấp thu từ thực phẩm dưới dạng I và được sử dụng trong
tuyến giáp để tổng hợp hormone tuyến giáp. Nhu cầu I ở người khoảng 100-
200µg/ngày. Thiếu hụt I gây bệnh bướu cổ, phình tuyến giáp. Lượng I trong phần lớn
thực phẩm rất ít. Các nguồn thực phẩm giàu I gồm trứng, sữa và các loại hải sản.
Nước uống cung cấp một lượng nhu cầu I của cơ thể.
Quá dư I cũng gây những rối loạn về khả năng sinh sản và tiết sữa trong các thí
nghiệm trên chuột và động vật, còn ở người gây ra các bệnh về tuyến giáp.
Một số nguyên tố khoáng không cần thiết
Sn
Thiếc xuất hiện ở tất cả các cơ quan trong cơ thể người. Hiện nay, vai trò kích thích
tăng trưởng của thiếc vẫn còn đang được nghiên cứu.
Hàm lượng thiếc trong tự nhiên trong thực phẩm rất thấp, trừ khi thực phẩm được
đóng hộp trong có bao bì có phủ thiếc. Thực phẩm có độ acid cao có thể hòa tan một
lượng lớn thiếc. Nồng độ thiếc trong đồ hộp táo và nho chứa trong các hộp phủ thiếc
kém chất lượng có thể lên đến 2g/l (trong khi hàm lượng thiếc trung bình của thực
phẩm chứa trong các hộp chỉ ở mức 50mg/kg). Hàm lượng thiếc cho phép trong thực
phẩm không vượt quá 250mg/kg.
Thiếc ở dạng vô cơ ít độc hơn do khả năng thu kém, ngược lại thiếc ở dạng hữu cơ là
hợp chất rất độc.
Al
Cơ thể người chứa từ 50-150mg nhôm. Nồng độ cao hơn được tìm thấy ở các cơ quan
già nua. Lượng Al ăn vào hàng ngày từ 2-10mg.
Nhôm được hấp thu trong dạ dày và ruột rất thấp, phần lớn chúng được thải qua phân.
Nhôm không được tiết ra trong sữa.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro