P2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 40

Cuộc hôn nhân chính trị

"Bậc thánh hiền mắc sai lầm nhỏ bé cũng ra sức sửa đổi,

Kẻ tiểu nhân dù tội nghiệt tày trời vẫn thờ ơ, bất cần;

Bánh sữa vương chút bụi bẩn cũng phải đổ bỏ,

Rượu ủ buộc phải rắc thêm bột men."

(Cách ngôn Sakya)

Dòng sông Xiabuqu uốn lượn quanh cung đưòng gập ghềnh, khúc khuỷu. Đoàn người ngựa rầm rập diễu qua. Hơn mười cỗ xe ngựa chất ngất hòm xiểng, núi của hồi môn ấy của nhà gái khiến thiên hạ phải đỏ mắt. Kháp Na cưỡi ngựa trắng phủ lụa đỏ, đi giữa cả rừng người, phía sau là xe hoa lộng lẫy, nổi bật. Tháng Mười một, mùa đông đã về trên đất Tạng. Kháp Na khoác áo choàng da báo, lối phục trang trang trọng càng làm nổi bật thân hình mảnh khảnh, nho nhã của cậu. Mái tóc dài được bện xen kẽ với chuỗi hạt san hô và hổ phách, thành những lọn nhỏ thả lơ lửng trước ngực, vẻ điển trai hiếm có của chàng trai đất Tạng một lần nữa thu hút mọi ánh mắt và là đối tượng tung hô, ái mộ của đám đông các thiếu nữ xung quanh.

Nhưng lạ lùng thay, gương mặt của chàng trai đang cưỡi trên con tuấn mã là tâm điểm của sự chú ý ấy lại trắng bệch, nhợt nhạt đến dị thường. So với lần gặp cuối cùng cách đó một tháng, tôi thấy cậu ấy hốc hác đi rất nhiều. Vẻ mặt căng thẳng, đôi mắt thẫn thờ, vô hồn, chốc chốc cậu ấy lại nghiêng đầu ho khan dữ dội, gương mặt đỏ tía tái sau mỗi cơn ho, mỗi khi gió lạnh ào tới, sắc đỏ lịm dần, gương mặt trở nên trắng bệch, cậu ấy phải rút khăn thấm mồ hôi liên tục.

Khoảnh khắc gặp lại cậu ấy, trái tim tôi quặn thắt như bị một bàn tay vô hình vò xé. Mới một tháng không gặp, sao cậu ấy tiều tụy nhường vậy? Sao cậu ấy vẫn chưa khỏi bệnh?

Kunga Zangpo thúc ngựa tiến lên, bẩm báo:

- Cậu chủ, trời đã tối, phía trước có một thôn nhỏ gọi là Sedui, chúng ta hãy dừng chân nghỉ lại một đêm, ngày mai lên đường về Sakya.

Kháp Na gật đầu khó nhọc.

Kunga Zangpo nhận ra vẻ mệt mỏi của cậu chủ, bèn khuyên:

- Cậu cưỡi ngựa đường xa như vậy nên sẽ rất mất sức, chi bằng hãy vào trong xe ngựa nghỉ ngơi.

Kháp Na xua tay:

- Không sao, ta không mệt.

Kunga Zangpo còn muốn nài nỉ thêm đôi câu nhưng gương mặt xinh đẹp lấp ló ngoài cửa xe và tiếng cười hồn nhiên của Kangtsoban đã chặn đứng ý định của Kunga Zangpo:

- Chàng ơi, lại đây với em!

Kháp Na khách sáo đáp lại:

- Tiểu thư à, chúng ta vẫn chưa thành thân, không nên ngồi chung xe ngựa.

Gương mặt tươi cười, hoan hỉ của Kangtsoban lập tức biến thành vẻ ấm ức, giận dỗi, hai tay đập điên cuồng vào khung cửa, giậm chân bình bịch khiến cả cỗ xe ngựa rung lên:

- Không chịu đâu! Cha bảo chàng là chồng ta, chàng phải nghe lời ta!

Anh trai cô dâu vội vã chạy lại khuyên nhủ em gái nhưng Kangtsoban một mực không chịu, gào khóc dữ hơn. Đám đông hiếu kỳ chỉ trỏ, bàn tán xôn xao hai bên đường. Selangqe đành muối mặt cầu xin Kháp Na:

- Em gái tôi tính tình ương bướng, xưa nay muốn thứ gì là phải đòi cho bằng được, bằng không sẽ gào khóc, la hét không dứt. Thường ngày, cha tôi và tôi đều phải chiều theo ý nó.

Kháp Na ho vài tiếng rồi khẽ cau mày, nhưng cậu ấy vẫn xuống ngựa, bước về phía Kangtsoban:

- Huynh đừng lo, ta sẽ chiều theo cô ấy!

Kháp Na vén rèm cửa, ngồi vào xe ngựa của Kangtsoban. Cô nàng vội vàng nắm chặt cánh tay cậu ấy, ngả người vào lòng cậu ấy, mặt tươi như hoa. Tôi lặng lẽ bám theo đoàn rước dâu, lòng thắt lại khi chứng kiến cảnh tượng đó.

Hôm ấy, tôi không tìm được dịp nào để gặp riêng Kháp Na vì Kangtsoban cứ bám riết lấy cậu ấy, hễ Kháp Na rời khỏi tầm mắt là cô nàng lại gào khóc ầm ĩ. Ngay cả lúc đi ngủ, Kháp Na cũng phải túc trực bên Kangtsoban. Selangqe dường như phát sốt vì cô em gái khó bảo, còn Kháp Na vẫn nhẫn nại, hòa nhã, mặc dù những cơn ho dữ dội vẫn đeo bám cậu. Jichoi chứng kiến tất cả, chốc chốc lại đưa tay áo lên chấm nước mắt, hết lời ca ngợi Kháp Na, tán tụng cậu ấy với tất cả những người trong đoàn đưa dâu rằng, Phật Tổ đã ban cho ông ta một chàng rể tuyệt vời, hiếm có.

Dù đã gần kiệt sức, Kháp Na vẫn chiều ý Kangtsoban ngồi bên giường dỗ dành cô nàng ngủ, hệt như dỗ dành một đứa trẻ. Cậu để mặc Kangtsoban nắm chặt bàn tay mình, khe khẽ hát ru:

- "Ầu ơ, ầu ơ, nhịp võng ru

Ngủ ngoan con yêu, tay mẹ đưa

Mai sau khôn lớn con hãy nhớ

Tình mẹ ngày đêm vẫn đợi chờ."

Giọng hát trầm buồn, nghẹn ngào như khóc than quyến luyến, da diết. Ánh mắt mơ màng hướng lên khoảng không mông lung, cậu ấy hát đi hát lại khúc ru êm ả, khóe môi chợt hé một nét cười nhạt nhòa. Kangtsoban khẽ xoay người, thiếp đi. Gương mặt Kangtsoban lúc ngủ trông rất dễ thương, đó là gương mặt thiếu nữ hồn nhiên, ngây thơ, vô tư lự. Những đường cong quyến rũ trên cơ thể cô gái lấp ló dưới tấm chăn mỏng. Tôi cứ dán mắt vào thân hình tuyệt mỹ đó mà cổ họng nghẹn đắng.

Kháp Na không rút cánh tay ra khỏi bàn tay nắm chặt của Kangtsoban, trái lại, cậu ấy ngồi yên bên giường rất lâu, ngắm nghía người vợ thứ ba của mình. Cậu ấy bàng hoàng, sợ hãi trong hôn lễ đầu tiên, ấm ức, khó chịu trong hôn lễ thứ hai, và trong cuộc hôn nhân lần thứ ba này, cậu ấy trở nên thờ ơ, lãnh đạm. Chao đèn đung đưa, dưới ánh nến nhập nhòa, gương mặt Kháp Na biểu lộ vẻ thương hại, cậu ấy nhè nhẹ vuốt gọn những lọn tóc rối của Kangtsoban.

Tôi nép mình trong góc khuất, cõi lòng tan nát khi chứng kiến những cử chỉ rất đỗi dịu dàng của cậu ấy dành cho Kangtsoban, toàn thân rã rời vì mỏi mệt và đau khổ. Cậu ấy chưa từng thân mật với hai người vợ trước đó như thế. Tôi cứ hồn nhiên cho rằng, trên cõi đời này, chỉ có tôi được thấy cậu ấy ân cần, dịu dàng, chỉ có tôi được nắm tay cậu ấy như thế, chỉ có tôi mới khiến cậu ấy mỉm cười. Thì ra, không phải vậy. Tôi thẫn thờ bước ra khỏi góc tối, muốn đến trước mặt và nói với cậu ấy rằng: "Kháp Na ơi! Đừng mỉm cười với những người phụ nữ khác, vì tôi sẽ đau lòng lắm."

Bỗng "cộc" một cái, đầu tôi va vào vách ngăn của chiếc tủ gỗ gắn trên tường đau điếng, mắt hoa lên, tôi chợt nhận ra thực tế trước mắt. Tôi chìa cánh tay ra, không, không phải cánh tay mà là chân trước đầy lông lá. Nước mắt rưng rưng, đúng rồi, tôi chỉ là một tiểu hồ ly, là thú cưng của anh em họ, tôi lấy tư cách gì mà buộc cậu ấy không được yêu chiều người vợ mà cậu ấy đã cưới hỏi đàng hoàng? Hà cớ gì mà tôi buộc cậu ấy chỉ được phép cười với một con hồ ly?

Nghe thấy tiếng động, Kháp Na thoát khỏi bàn tay Kangtsoban, bước lại chiếc tủ tường để xem xét. Tôi vội vã ẩn mình, cắn chặt môi, nín thở, gắng sức không phát ra tiếng động. Tôi không muốn cậu ấy thấy tình cảnh bi đát của tôi lúc này, không muốn cậu ấy biết rằng tôi đang ghen đến cuồng điên. Không phát hiện ra điều gì khác lạ, cậu ấy bèn lại gần cửa sổ, ngước nhìn vầng trăng tròn vành vạnh, chênh chếch trên những tán cây cao. Trăng sáng lung linh, diễm lệ. Ánh trăng tỏa mát dáng hình cao gầy, gương mặt dịu dàng của cậu ấy. Tôi mê mải ngắm nhìn bóng dáng cô đơn, tịch liêu ấy, tâm hồn ngây ngất.

Ngôi đền Sakya được sơn quét, trang hoàng với ba gam màu đỏ, trắng và xanh lam rực rỡ, vốn là màu sắc đặc trưng của giáo phái này. Người ta chăng kết những dòng cờ phướn ngũ sắc khắp nơi bên trong và ngoài ngôi đền. Sư tăng tấp nập lau dọn, bày biện, trang trí, những dải lụa đỏ được treo trên khắp các điện thờ. Không khí đầu đông dường như bớt u tịch hơn nhờ những sắc màu rực rỡ, sống động này. Nhà cửa sáng sủa, trang hoàng lộng lẫy, bắt mắt, bầu không khí vui tươi lan tỏa đến từng người. Những ngày qua, khách khứa tấp nập kéo về Sakya tham dự đám cưới. Họ là cao tăng của các ngôi đền, quan chức địa phương và vạn hộ hầu khắp đất Tạng. Bản khâm Shakya Zangpo mệt bở hơi tai vì phải tiếp đón quan khách và sắp đặt mọi việc.

Viện cớ bệnh tình chưa thuyên giảm, cần tĩnh dưỡng, Kháp Na thờ ơ với mọi thứ. Cậu ấy căn dặn người nhà rằng, ngoài Bát Tư Ba và Kunga Zangpo, không ai được phép bước vào Lang Như Thư Lầu, không ai được phép gây ồn ào, huyên náo quanh nơi ở của cậu ấy. Đó là vùng trời riêng, cách biệt với thế giới mà cậu quyết tâm gây dựng. Ở nơi đây, cậu ấy có thể trút bỏ mọi sự đời phiền não. Một chén trà, một cuốn sách, bình yên thưởng thức, thư thái chiêm nghiệm, ngày tháng êm đềm trôi qua kẽ tay.

Phòng tân hôn của cậu và Kangtsoban được bố trí ở đầu bên kia của ngôi đền, đó là một ngôi lầu cao gồm ba tầng, trang nghiêm, đồ sộ, mái nhà dát vàng lấp lánh dưới ánh mặt trời, có thể thấy rõ từ rất xa. Nhưng kể từ ngày về đến Sakya, Kháp Na rất ít ra khỏi Lang Như Thư Lầu, cũng rất ít khi chịu gặp cha và anh vợ. Chỉ khi nào Kangtsoban làm mình làm mẩy đòi gặp cậu ấy bằng được, cậu ấy mới chịu rời Lang Như Thư Lầu để đến an ủi cô nàng.

Đêm trước ngày cử hành hôn lễ, ánh trăng lạnh giá phủ lên khắp ngôi đền một sắc trắng tê tái. Sự yên tĩnh của Lang Như Thư Lầu bị phá vỡ bởi tiếng gõ cửa thúc bách, dồn dập của Bát Tư Ba, chàng vừa cấp tốc trở về từ Chumig.

- Đại ca? Sao huynh về sớm vậy? Đệ tưởng huynh không kịp về dự hôn lễ của đệ.

Kháp Na còn thức. Cậu ra mở cửa và đón anh trai vào phòng khách, rót cho anh trai một chén trà bơ nóng hổi. Vẻ mặt Bát Tư Ba hết sức căng thẳng, nghiêm nghị.

- Hãy cho ta biết, đệ đang làm gì vậy?

Bát Tư Ba không đón lấy chén trà, trong mắt vằn vện những tia máu đỏ, nhìn xoáy vào Kháp Na, giọng nói nghiêm khắc đến đáng sợ.

Kháp Na đặt chén trà xuống bàn, cười trừ:

- Đệ cưới vợ mà! Đàn ông độc thân cưới vợ thì có gì lạ đâu. Đại ca cũng trông ngóng đệ cưới vợ kia mà!

Bát Tư Ba không kiềm chế nổi, gắt lên:

- Ta mong đệ cưới vợ, nhưng không phải cưới một người vợ ngớ ngẩn mà là người đệ yêu thương kìa...

Kháp Na ngắt lời anh trai, giọng bình thản:

- Chắc huynh cũng biết rằng, cuộc hôn nhân này mang lại rất nhiều lợi ích cho giáo phái. Có thể huynh chẳng màng đến núi của hồi môn mà Vạn hộ hầu Shalu tặng cho con gái nhưng huynh không thể không quan tâm đến việc ông ta dẫn theo bốn vạn hộ hầu khác đến quy phục Sakya! Điều này giúp ích rất lớn cho kế hoạch phân chia cư dân Mid của huynh. Vùng Hậu Tạng ổn định thì huynh mới có thể dốc toàn tâm đối phó với thế lực của phái Phaktru và phái Drikung ở Tiền Tạng được chứ!

Bát Tư Ba mỏi mệt xua tay:

- Những việc chính sự đau đầu này, ta tự biết cách giải quyết, huống hồ, cục diện hiện nay cũng không xấu như đệ nghĩ. Ta đã thuyết phục được Vạn hộ hầu Chumig...

-Đại ca, đệ đã lấy được thứ mà huynh muốn có nhất.

Kháp Na thản nhiên ngắt lời anh trai, ánh mắt bình thản, phẳng lặng hệt một thầy tu đã trải qua nhiều năm thiền định.

- Bố vợ của đệ đã hứa sẽ cắt vùng Samdruptse, cách Shalu bốn mươi dặm, tặng cho phái Sakya để chúng ta xây dựng thành trì.

- Kháp Na! - Bát Tư Ba thốt lên kinh ngạc, giọng nói run run. - Ta không muốn đệ hy sinh hạnh phúc của mình để đổi lấy những thứ này!

- Đại ca, đệ vốn chẳng ham hố, cũng chẳng đủ năng lực để xử lý các công việc chính sự, nhưng đệ không thể chống mắt nhìn huynh gồng mình gánh vác trọng trách, chẳng màng đến bản thân như thế.

Ánh mắt vốn tĩnh lặng của Kháp Na chợt dâng lên những làn sóng ấm áp. Cậu ấy bước lại gần, nắm chặt bàn tay Bát Tư Ba, khóe môi nở nụ cười thê lương:

- Nếu có thể giúp được huynh, giúp được giáo phái thì đệ cưới ai cũng được, cưới bao nhiêu người cũng không vấn đề gì.

- Còn tình cảm của đệ dành cho Lam Kha thì sao? - Bát Tư Ba nghẹn ngào, ánh mắt long lanh. - Đệ yêu cô ấy nhiều như vậy...

Lần đầu tiên sau bao ngày buồn nản, náu mình ủ rũ trên xà ngang của căn phòng, tôi giật mình ngẩng đầu khi nghe thấy những lời của Bát Tư Ba.

Kháp Na chừng như bối rối vội vã lấp liếm:

- Đại ca, đệ đã nói rất nhiều lần rồi, không phải vậy!

- Đừng trốn tránh nữa! - Bát Tư Ba truy đuổi ánh mắt đang chạy trốn cùa Kháp Na. - Đêm đó, đệ đã bất chấp nỗi mỏi mệt sau chặng đường dài, không từ nan giúp cô ấy hóa giải hậu quả của linh khí phản ngược...

Như có tiếng sét nổ vang trong đầu tôi, tim tôi loạn nhịp, như sắp nghẹt thở.

Dường như không còn lối thoát, Kháp Na đành phải đối diện. Gương mặt cậu ấy bộc lộ vẻ phong lưu, phóng đãng tôi chưa từng thấy bao giờ, cậu ấy bật cười khúc khích:

- Kìa đại ca, đệ là đàn ông kia mà, gã đàn ông nào mà không ham muốn nữ sắc. Ai có thể cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt sắc của Tiểu Lam chứ! Thực ra, đệ muốn ra tay từ lâu rồi, nhưng đệ còn e ngại vì cô ấy có linh khí. Lần đó đúng là dịp may trời cho, mỡ đến miệng mèo như thế, sao đệ có thể từ chối?

- Thật ư? Bạch Lan Vương là ai nào? Với thân phận của đệ, muốn có phụ nữ dễ như trở bàn tay. Một vương gia phóng túng sẵn sàng đánh đổi mười năm dương thọ lấy một đêm phong lưu ư? Nếu không yêu sâu đậm, trên đời này, có người đàn ông nào bằng lòng đánh đổi như thế?

Tôi nhìn Kháp Na mà chết lặng, đầu óc quay cuồng, nhói buốt như bị châm kim.

Kháp Na chực biện bạch thì một cơn ho dữ dội ập đến. Bát Tư Ba vội vã lại gần, vỗ nhẹ vào lưng em trai, nhấc chén trà bơ đưa cho cậu ấy. Kháp Na ho khan một tràng dài rồi mới nguôi bớt, đón lấy chén trà, chầm chậm nhấp một ngụm đặng hồi sức, tiếp tục diễn vẻ mặt của kẻ ngang tàng, thở dài thườn thượt:

- Đại ca à, đêm đó đệ thực sự bị ham muốn nhục thể làm cho lóa mắt, mất hết cả tỉnh táo nên mới bất chấp hậu quả như thế. Huynh biết không, ngay sau đó đệ đã hối hận, vì sau khi về đất Tạng, đệ đau ốm liên miên, đó là tội nợ của cái đêm phong lưu ấy. Rõ ràng là không nên đụng đến loài hồ ly thiêng, đệ đang bị trời trừng phạt đây! Sau này, đệ quyết không đụng vào cô ấy nữa, một lần trong đời là quá đủ, đệ không muốn tiếp tục đau ốm nữa!

Bát Tư Ba chẳng hề động lòng, ánh mắt trĩu buồn:

- Nếu đệ không muốn tiếp tục đau ốm thì vì sao đêm trước khi ta lên đường đi Chumig, đệ lại cố tình để mình bị cảm lạnh?

Kháp Na sững sờ, chén trà rơi xuống đất, vỡ choang.

- Huynh... sao huynh biết...

Cậu ấy ngừng lại, cúi đầu, làu bàu:

- Đám người hầu lại mách lẻo đây mà!

Bát Tư Ba thăm dò Kháp Na:

- Đệ cố tình giả ốm để đẩy ta và Lam Kha đi xa, như vậy đệ sẽ có thời gian để đến Shalu hỏi cưới. Nhưng điều khiến ta băn khoăn là đệ chỉ bị cảm nhẹ, vậy mà vì sao đã hơn một tháng, bệnh tình chẳng những không thuyên giảm mà càng nghiêm trọng?

Kháp Na khẽ rùng mình, vội ngồi sụp xuống, vờ gom nhặt những mảnh vỡ của chén trà. Trong lúc cuống quýt, cậu ấy đã để một mảnh sành cứa vào tay, khẽ kêu lên. Bát Tư Ba ngồi xuống cạnh em trai, nhấc bàn tay bị thương của Kháp Na lên kiểm tra. Kháp Na đút ngón tay vào trong miệng, nói chữa:

- Đệ không sao.

Như sực nghĩ ra điều gì, Bát Tư Ba túm lấy cổ áo Kháp Na, căn vặn:

-Đệ cố ý để bệnh tình kéo dài đúng không? Có phải đệ lén đổ thuốc đi? Hay đệ cố tình tắm nước lạnh để tiếp tục bị cảm?

Kháp Na không trả lời, quay đi, che miệng ho một chặp. Bát Tư Ba gào lên thảm thiết:

- Kháp Na, đệ đang làm gì thế này? Đệ không muốn sống nữa sao?

Kháp Na ngẩng lên, vẻ phóng túng, lẳng lơ tan biến, ánh mắt nhuốm bi ai, nụ cười tê tái:

- Đệ phải lấy cớ đau ốm để không phải đụng vào cô dâu, để không bị huynh và bố vợ ép sinh con.

Bát Tư Ba đang định mở lời thì Kháp Na đã vội ngăn lại, nụ cười vẫn hiển hiện trên gương mặt cậu ấy, nhưng chẳng có lấy, dù chỉ một chút hơi ấm.

- Đại ca, xin đừng cố chấp nữa! Đệ bằng lòng cưới bất cứ ai, đần độn, ngốc dại, ngớ ngẩn, xấu đẹp, già trẻ gì cũng được. Đệ cưới mấy chục, mấy trăm người vợ cũng không sao. Nhưng đệ tuyệt đối không sinh con để nối dõi tông đường theo ý nguyện của huynh đâu!

Bát Tư Ba bàng hoàng ngồi phịch xuống đất, kinh ngạc nhìn Kháp Na, lắc đầu đau khổ:

- Kháp Na, đệ...

- Nếu huynh đã biết thì đệ cũng không giấu nữa. Phải, đệ yêu Tiểu Lam, đệ yêu cô ấy ngay từ khoảnh khắc đầu tiên khi cô ấy biến thành người. Thậm chí, có thể là từ trước đó rất lâu. Khi đệ biết cô ấy có thể tu luyện thành người, đệ đã thầm cầu mong, thầm trông đợi một ngày kia. Lúc đó, đệ đã nghĩ rằng, dù cô ấy hóa thành người nào đi nữa, đệ cũng sẽ yêu cô ấy, bởi vì cô ấy là nguồn ấm duy nhất trong suốt quãng đời cô đơn, buồn tủi dằng dặc của đệ. Lúc nhìn thấy cô ấy hóa thành thiếu nữ, con tim đệ như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Đệ không tưởng tượng nổi cô ấy lại xinh đẹp và đáng yêu nhường vậy. Cô ấy là khát vọng thầm kín tuyệt đẹp trong lòng đệ. Làm sao đệ còn có thể trao gửi trái tim mình cho người con gái khác được? Mỗi lúc được ngắm nhìn nụ cười trong trẻo, rạng rỡ, tươi tắn của cô ấy, mọi khổ sở, phiền não trong lòng đệ lại tan theo mây khói. Đệ nâng niu, trân trọng từng khoảnh khắc cô ấy biến thành người và ở bên cạnh đệ, từng cử chỉ, hành động, từng ánh mắt, nụ cười của cô ấy, tất cả đều khắc sâu trong tim đệ. Mỗi lúc hồi tưởng lại những thời khắc tuyệt vời ấy, đệ lại quên hết mọi u sầu, trong lòng chỉ còn ngập tràn niềm hạnh phúc.

Tôi run lên bần bật, nước mắt lã chã rơi. Tôi đâu ngờ cậu ấy lại nặng tình với mình đến thế!

Cậu ấy chầm chậm đứng lên, lại gần khung cửa sổ, vầng trăng tròn vành vạnh, cô liêu giữa trời đêm, khóe môi uốn cong thành một nụ cười dịu dàng, tuyệt mỹ. Nụ cười ấy ngọt ngào, ngập tràn yêu thương ấy, chỉ thuộc về tôi. Nụ cười chất chứa mọi nỗi thương yêu, bao dung, che chở ấy chỉ dành cho tôi. Vậy mà tôi, tôi đã quen với việc hưởng thụ quá dễ dãi nụ cười ấy, đã thờ ơ, chẳng thèm bận tâm truy xét những ẩn ý thâm sâu trong đó. Giờ đây, khi nỗi niềm đã được bày tỏ, tôi chẳng thể trốn tránh được nữa, nụ cười ấy bỗng nhiên đè nặng trong lòng tôi, nó mang sức nặng của cả một trái núi.

Cậu ấy cứ cười mãi như thế, tâm tư chìm vào hồi ức, ánh mắt mềm mại như lụa, ngọt ngào, ấm áp. Bát Tư Ba đứng lên, lại gần em trai, khẽ gọi:

- Kháp Na, đệ yêu cô ấy nhiều như vậy, đệ nên...

- Nhưng trong lòng cô ấy chỉ có huynh thôi. Ước nguyện lớn nhất của cô ấy là được ở bên huynh.

Cậu ấy quay người lại, ánh mắt ảm đạm, gượng cười xót xa:

- Vì yêu cô ấy nên đệ muốn giúp cô ấy.

- Nhưng đêm đó, người ở bên cạnh cô ấy là đệ kia mà!

- Đệ đang muốn nói với huynh chuyện đó đây. Kể từ cái đêm đó cho đến nay, chúng ta đều cố tình né tránh chủ đề này. Nhưng đệ hiểu rằng, đệ phải giải thích rõ ràng, để xóa tan mọi vướng bận trong lòng huynh. - Cậu ấy nhìn thẳng vào Bát Tư Ba, cất giọng khẩn thiết - Đêm đó đệ buộc phải đi. Huynh là rường cột của phái Sakya, tính mệnh của huynh quý giá hơn bất cứ ai, vì vậy, huynh không thể mất đi mười năm dương thọ. Còn đệ, đệ vốn yếu ớt, cứ đau ốm triền miên thế này, cũng không biết còn sống được bao lâu nữa...

Bát Tư Ba sợ hãi ngắt lời em trai:

- Ta không cho phép đệ nói những lời này!

- Đại ca, đệ bằng lòng đánh đổi mười năm để lấy một đêm ngắn ngủi ấy. Cuộc đời vô nghĩa của đệ chỉ cần có được một đêm tuyệt vời ấy, cũng đủ rồi.

Cậu ấy cười vang, nụ cười rạng rỡ, mê hồn:

- Đêm đó chẳng qua là bất đắc dĩ, cũng may Tiểu Lam không hay biết, đệ sẽ giấu kín bí mật đó suốt đời. Người Tạng chúng ta bản tính phóng khoáng, không nặng nề chuyện đó. Đệ mong huynh có thể quên đi, để đến với Tiểu Lam. Ước nguyện lớn nhất của đệ bây giờ là Tiểu Lam sẽ sinh con cho huynh và nó sẽ là người thừa kế của giáo phái Sakya.

Hai hàng nước mắt chảy dài trên gương mặt Bát Tư Ba:

- Cô ấy là người đệ yêu thương nhất đời, sao ta có thể...

- Cả huynh và cô ấy đều là người đệ yêu thương nhất trên đời.

Kháp Na sửa lại câu nói của anh trai, nắm chặt tay Bát Tư Ba, nước mắt tuôn rơi, nhưng vẫn gắng gượng cười thật tươi:

- Chỉ cần hai người hạnh phúc, đệ cũng sẽ hạnh phúc.

Bát Tư Ba ôm chầm lấy em trai. Hai anh em họ siết chặt vòng tay, nước mắt của người này thấm ướt vai áo người kia. Ở trên cao, tôi cũng đang thổn thức, tim gan như bị vò xé.

Đêm đó, hai anh em họ không ngủ, họ ngồi sát bên nhau, tựa lưng vào tường trong căn phòng xếp đầy những kỷ vật thời thơ bé. Bàn tay họ lật mở từng thứ đồ chơi trẻ con cũ kĩ. Kháp Na không còn nhớ nên Bát Tư Ba phải kể chi tiết từng thứ một, chốc chốc, những tràng cười sảng khoái lại rộn lên. Họ gác sang bên những chủ đề đau lòng, chỉ nhắc lại cho nhau nghe những kỷ niệm ấu thơ đẹp đẽ, mãi đến khi mặt trời ló rạng, những tia nắng ban mai đầu tiên chiếu qua khung cửa sổ.

Bát Tư Ba nhấc bộ lễ phục của chú rể đặt trên giường Kháp Na, cất giọng u buồn:

- Kháp Na, đến giờ rồi!

Kháp Na lẳng lặng khoác lễ phục lên người với sự giúp đỡ của anh trai. Bát Tư Ba chải tóc cho Kháp Na, tỉ mỉ chăm chút những lọn tóc của em trai. Kháp Na vừa cúi đầu vừa nói:

- Đại ca à, đệ còn một tâm nguyện nữa. Đệ muốn Tiểu Lam ở bên đệ khi cử hành hôn lễ, liệu huynh có thể giúp đệ nói với cô ấy không?

Bàn tay Bát Tư Ba đột nhiên dừng lại, ánh mắt đầy băn khoăn. Kháp Na vội vàng giải thích:

- Đệ không muốn giấu huynh, nhưng đệ nói ra, huynh chớ để bụng. Đệ muốn Tiểu Lam cùng đệ cử hành hôn lễ. Được vậy, đệ sẽ thỏa nguyện với ý nghĩ rằng, đệ được thành thân với cô ấy.

Bát Tư Ba lắc đầu:

- Kháp Na, đệ sai rồi, ta không để bụng chuyện đó. Tám ngày trước, Lam Kha đã lên đường trở về Sakya, cô ấy bảo muốn gặp đệ. Không lẽ những ngày qua hai người không ở cạnh nhau?

- Đệ không thấy cô ấy. - Kháp Na hoang mang, lo lắng, vội túm chặt cánh tay Bát Tư Ba. - Không ở chỗ đệ, vậy thì cô ấy đã đi đâu? Hay đã xảy ra chuyện gì với cô ấy?

- Đệ đừng sốt ruột, cô ấy có phép thuật, người thường chẳng làm gì được cô ấy.

Bát Tư Ba nghĩ ngợi một lát rồi căn dặn em trai:

- Đệ cứ lo chuẩn bị những việc cần làm. Ta hứa sẽ đưa cô ấy đến chỗ đệ trước giờ cử hành hôn lễ.

Có tiếng gõ cửa, giọng nói cung kính của Kunga Zangpo vẳng tới:

- Thưa cậu chủ, lát nữa cậu sẽ cùng cô dâu đến lễ Phật ở các điện thờ lớn.

Kháp Na hờ hững đáp lời rồi quay sang cầu cứu Bát Tư Ba:

- Đại ca, huynh nhất định phải tìm được Tiểu Lam đó!

Bát Tư Ba chỉnh lại thắt lưng cho em trai, gật đầu cả quyết.

***

Chàng trai trẻ khẽ vươn vai rồi bàn tay đặt vào eo lưng, vừa xoa bóp vừa hỏi:

- Tôi từng đến ngôi đền Shalu ở Shigatse, thứ quý giá nhất ở đó là những bức bích họa được truyền lại từ triều Nguyên. Đó có phải là nơi cư trú của Vạn hộ hầu Shalu ngày ấy không?

Tôi gật đầu:

- Đúng vậy. Đền Shalu cách Shigatse hơn hai mươi kilômét, khi ấy nó có tên gọi là Chundui, trong tiếng Tạng có nghĩa là "cái chợ", có thể thấy nơi đây chính là trung tâm trao đổi, mua bán của vùng Hậu Tạng. Chỉ có điều, ngôi đền Shalu lừng danh mà ngày nay các cậu biết đến mới chỉ là một ngôi đền nhỏ bé thuộc phạm vi cai quản của một gia tộc vào thời điểm đó. Vạn hộ hầu cư trú trong trang viên Shalu, sau hơn bảy trăm năm bãi bể nương dâu, ngôi đền Shalu được bảo tồn khá nguyên vẹn, còn trang viên Shalu thì đã tan vào cát bụi.

Chàng trai trẻ nhớ lại:

- Tôi nhớ rằng, ngôi đền Shalu đã từng rất nổi tiếng nhờ vẻ nguy nga, bề thế, nó dung hòa những nét đặc sắc trong kiến trúc của người Mông Cổ và người Hán, được xem là ngôi đền đặc biệt thuộc khu vực đền chùa của người Tạng thời kỳ đầu.

- Đền Shalu vốn chỉ là một ngôi đền nhỏ, không tiếng tăm và có rất ít sư tăng. Quá trình phát triển, hưng thịnh và suy yếu của nó liên quan mật thiết đến giáo phái Sakya.

Tôi không khỏi xót xa khi nhớ lại rằng, ngôi đền ấy đã được xây dựng hao tiền tốn của ra sao. Tôi hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh, kể tiếp:

- Vạn hộ hầu Shalu đã đặt cược cho phái Sakya và ông ta đã đúng. Mãi cho đến cuối triều Nguyên, Shalu vẫn luôn là một trong những vạn hộ hầu lớn mạnh, giàu có, sở hữu nhiều ruộng đất và cư dân nhất đất Tạng. Những của cải, tài sản này đều do cuộc hôn nhân chính trị kia mang lại.

Chương 41

Hôn lễ thứ ba


“Người hiền dù ở phương xa,

Vẫn chăm lo cho người thân, bè bạn;

Mây mưa dẫu trôi mãi trên từng cao,

Vẫn giúp mùa màng bội thu.”

(Cách ngôn Sakya)

Hoàng hôn nhuộm đỏ cả không gian, ráng chiều len lỏi qua các ô cửa sổ cao vời vợi, đổ nắng vào căn phòng trống trải. Tôi mặc bộ y phục màu xanh nước biển, viền thêu hoa mai trắng, thắt lưng màu trắng đính kim tuyến thêu lấp lánh, dây tóc màu lam, đứng trong phòng ngủ của Kháp Na, mân mê từng vật dụng thân thuộc của cậu ấy, lưu luyến mãi chẳng rời.

Bỗng có tiếng chân rộn rã ngoài hành lang, đoán định chỉ có một mình Bát Tư Ba nên tôi không làm phép ẩn mình. Cánh cửa bật mở, chàng ngó đầu vào bên trong tìm kiếm. Trông thấy tôi, chàng không khỏi kinh ngạc, vội lao đến:

- Kìa Lam Kha, sao em lại một mình trốn ở đây thế? Làm ta phải chạy khắp nơi tìm kiếm.

Tôi chậm rãi đặt gọn y phục của Kháp Na lên giường, vuốt cho phẳng các nếp gấp rồi mới từ tốn ngẩng đầu nhìn chàng, cất giọng bình thản:

- Vì sao đêm đó không phải là chàng?

Chàng đang thở hổn hển, bỗng ngây ra như phỗng sau khi nghe câu hỏi của tôi. Tôi lại gần, đuổi theo ánh mắt của chàng, tiếp tục truy hỏi:

- Đêm đó, Khabi chỉ đưa một mình chàng đến căn nhà ấy, vậy thì vì sao sau đó lại đổi thành Kháp Na?

Thấy tôi sáp lại gần, chàng đột nhiên thức tỉnh, ánh mắt thoáng bối rối:

- Em… em… đã nghe chúng ta trò chuyện sao?

Tôi cười buồn, gật đầu:

- Tám ngày trước, sau khi từ biệt chàng, em đã tìm thấy Kháp Na trong đoàn đưa dâu, kể từ lúc ấy, em vẫn luôn ở bên cạnh Kháp Na nhưng không xuất đầu lộ diện.

Chàng cúi đầu, nói khẽ:

- Tối hôm ta và đệ ấy trò chuyện, em cũng có mặt ư?

- Em trốn trên xà ngang nên nghe được toàn bộ cuộc chuyện trò của hai người.

Tôi tập trung toàn bộ nhãn lực vào chàng để không cho phép mình bỏ sót bất cứ biểu cảm nào, dù là nhỏ nhất trên gương mặt chàng.

- Đêm hôm đó, rõ ràng là chàng đã đến, nhưng vì sao lại đổi thành Kháp Na?

Chàng ngẩng đầu, lùi lại phía sau, giữ khoảng cách với tôi, lấy lại vẻ thản nhiên thường thấy, lạnh lùng đáp:

- Ba đời giáo chủ phái Sakya đều chưa từng thọ giới, chỉ có bác ta và ta là những người đầu tiên thọ giới Tỷ khâu. Em có biết, thọ giới Tỷ khâu có ý nghĩa thế nào đối với một nhà sư không? Nó có nghĩa là, người đó không còn là một thường dân coi việc tu tập Phật pháp là nhiệm vụ nữa mà phải thề nguyện tuân thủ hơn hai trăm giới luật của người tu hành. Sự trói buộc này thể hiện quyết tâm lớn lao của người theo đuổi con đường Phật đạo.

Tôi không ngăn nổi nỗi nghẹn ngào dâng trào:

- Khi phải lựa chọn giữ Phật Tổ và em, chàng đã chọn Phật Tổ.

Chàng hít một hơi thật sâu, khẽ quay mặt đi:

- Vì ta đã thề nguyện trước Phật Tổ nên ta phải giữ trọn lời thề.

Nước mắt cứ thế tuôn rơi, tôi cố nén chặt nỗi run rẩy dâng lên trong từng câu nói:

- Vậy thì vì sao, trước đó chàng lại cho em hy vọng? Chàng khiến em nghĩ rằng… nghĩ rằng…

Tôi không sao nói tiếp được nữa, đành quay mặt đi, không để chàng nhìn thấy nước mắt như mưa xối trên gương mặt mình.

Rốt cuộc chàng cũng chịu nhìn thẳng vào mắt tôi, ánh mắt ẩn giấu nỗi niềm lưu luyến, cảm thương nhưng giọng nói kiên định, sỏi đá:

- Lam Kha, em rất đẹp, lại hiền thục, khiến cho bất cứ người đàn ông nào cũng phải rung động. Tuy ta tu tập đã lâu nhưng lòng trần còn nặng, khi phải đối diện với một thiếu nữ hoàn hảo như em, quả thật, đã có lúc ta không sao cưỡng lại nổi, trở nên u mê, thiếu sáng suốt.

Tôi khẽ rùng mình, bật cười chua chát:

- Chỉ là sự mê muội trong chốc lát thôi sao?

Trái tim tôi lạnh dần. Ánh mắt ấm áp, dịu dàng, lời nói ngọt ngào, mềm mại, những cử chỉ ân cần khiến tim tôi loạn nhịp ngày nào, thì ra chỉ là thoáng chốc u mê.

Chàng khép hờ đôi mắt, hàng mi dài khẽ rung động:

- Sắc giới vốn là thử thách lớn nhất nơi cửa Phật, ta cũng bị động lòng bởi những thuyết phục khéo léo của Kháp Na, thiếu chút nữa đã hủy hoại quyết tâm tu hành. Đêm đó, ta đã dằn vặt rất lâu nhưng xét đi xét lại, ta thấy mình không thể phá giới, càng không thể đánh đổi mười năm tuổi thọ!

Chàng càng nói càng xúc động, vội vã ngừng lại, hít thở nhiều lần để lấy lại bình tĩnh.

- Kháp Na nói rất đúng, ta phải giữ mạng sống của mình để làm nhiều việc khác. Ta phải gây dựng và phát triển Sakya trở thành giáo phái hùng mạnh nhất đất Tạng. Ta phải thực hiện di nguyện thống nhất đất Tạng của người bác. Trọng trách nặng nề trên vai buộc ta có lỗi với em.

Nỗi buồn ào ạt xô tới, tôi chết lặng trước bóng chiếc áo thầy tu màu đỏ sẫm trong ráng chiều nhạt nhòa ấy. Vẫn còn nguyên vẻ tuấn tú, hút hồn, phong tư tót vời ấy nhưng sao lại xa lạ đến thế? Tình cảm mà tôi đã khổ công vun đắp bao năm chỉ trong chốc lát đã đổ vỡ hoàn toàn trước Phật Tổ. Tôi chưa bao giờ thắng trong cuộc chiến tranh giành Bát Tư Ba với Người. Trong khoảnh khắc ấy, tôi bỗng thấy lòng nguội lạnh. Thì ra, hết yêu một người cũng chẳng mấy khó khăn, nhưng không hiểu sao, trước kia tôi cứ cố chấp làm vậy?

Tôi ngửa đầu cười vang, mặc cho nước mắt trào qua hốc mắt, tuôn rơi.

- Thế nên chàng đã để Kháp Na thay chàng làm chuyện đó? Nhưng lẽ nào Kháp Na hy sinh mười năm dương thọ thì không sao ư?

- Ta không có ý đó, chỉ tại đệ ấy nhất quyết muốn cứu em, không ai có thể ngăn cản.

Chàng buông một tiếng thở dài, nỗi xót xa dâng ngập trong mắt.

- Ta đã bỏ đi, phó mặc sự sống của em cho số phận. Lúc về phủ Quốc sư, ta bỗng thấy cỗ xe ngựa của Kháp Na. Đệ ấy vừa tới nơi. Nhận ra vẻ mặt khác lạ của ta, đệ ấy một mực truy hỏi. Ta không thể giấu diếm. Sau khi biết chuyện, đệ ấy đã bất chấp tất cả để chạy đến cứu em. Đệ ấy hỏi địa chỉ rồi cứ thế phi đi như bay, sáng hôm sau mới trở về.

Tôi nắm chặt bàn tay, móng tay cắm sâu vào lòng tay nhưng tôi chẳng hề thấy đau đớn. Trước mắt tôi là hình ảnh gương mặt tiều tụy vì lo âu của Kháp Na. Tôi có thể tưởng tượng được, khi đó cậu ấy đã hoang mang, lo lắng nhường nào. Đây đâu phải lần đầu cậu ấy vì tôi như vậy!

Bát Tư Ba lại gần khung cửa sổ, ngước nhìn những quầng mây rực rỡ trên nền trời rộng, thở than:

- Trông thấy bộ dạng thất thểu, vô hồn của đệ ấy, ta mới hiểu, thì ra trong lòng đệ ấy vẫn luôn có hình bóng em, nhưng đệ ấy không chịu cho ta biết, thậm chí muốn nhường em cho ta. Đệ ấy muốn giúp em biến giấc mộng xa vời thành hiện thực.

Tôi như kẻ mất hồn, đầu óc choáng váng, phải bám chặt vào ghế, mấp máy trong vô thức:

- Giấc mộng ư? Giấc mộng… xa vời ư?

Chàng quay lại nhìn tôi, ánh mắt buốt sắc cắm sâu, bới tung những phần sâu thẳm nhất trong tâm hồn tôi:

- Không phải sao? Lam Kha ơi, bao năm qua em thờ ơ với tình yêu nồng nàn của Kháp Na, chẳng phải vì theo đuổi giấc mộng xa xôi đó sao? Lẽ nào em cho rằng ta tốt đẹp hơn Kháp Na? Hay là vì không thể có được nên càng muốn theo đuổi, để rồi em quay lưng hững hờ với người yêu em thật lòng ngay bên cạnh?

Mặt đẫm lệ, tôi khóc không thành tiếng, co gập người lại vì cơn đau lan khắp cơ thể. Tôi phải tựa cả người vào ghế để giữ cho mình khỏi ngã. Gương mặt Bát Tư Ba thoáng hiện nét thương xót, chàng định lại gần, ôm lấy bờ vai tôi, nhưng khi sắp chạm vào tôi, chàng bỗng rụt tay về, giọng nói càng chua chát:

- Ta chưa từng làm được gì cho em, nhưng Kháp Na thì sao? Đệ ấy đã vì em nhiều như thế nào! Đệ ấy sẵn sàng tuyệt tự tuyệt tôn để vun đắp cho em, sẵn sàng trả giá mười năm dương thọ để cứu em. Không lẽ, những việc làm ấy chẳng thể khiến trái tim em rung động ư?

Tôi ôm đầu, gào lên thảm thiết:

- Xin đừng nói nữa!

Chàng đã dồn tôi đến bờ vực, tôi chẳng thể thờ ơ trước sự thật rành rành, cũng không thể tiếp tục mê man trong cơn mộng mị nhiều năm nữa. Những mảnh ký ức gắn liền với hình ảnh của Kháp Na lần lượt hiện lên, cuồn cuộn trong đầu tôi. Hình ảnh cậu ấy há hốc miệng kinh ngạc khi thấy tôi hóa phép thành người, ánh mắt nhìn tôi đắm đuối trong đêm hội Nguyên tiêu, bờ môi ngọt ngào, ấm nồng của cậu ấy lúc hôn tôi và còn rất nhiều, rất nhiều hình ảnh nữa. Ngập tràn trong tâm trí tôi lúc này là nụ cười rạng rỡ, là ánh mắt chứa chan, là nỗi phiền muộn sầu bi, là niềm vui hân hoan của cậu ấy…

- Lam Kha ơi, có câu: kẻ trong cuộc thường thiếu tỉnh táo, không hiểu tình cảm thực sự của mình.

Chàng nở nụ cười cay đắng, nhìn thẳng vào mắt tôi:

- Người mà em thật lòng yêu là đệ ấy, không phải ta!

Tôi bàng hoàng ngước lên:

- Chàng… chàng nói sao?

- Vậy ta hỏi em, vì sao khi nghe tin Kháp Na tái hôn, em lại buồn đến vậy? Vì sao em vội vã từ biệt ta để đi tìm đệ ấy?

Tôi run bắn:

- Em…

Không để tôi nói thêm, chàng tiếp tục truy hỏi:

- Những ngày qua, vì sao em không chịu xuất hiện trước mặt đệ ấy mà chỉ lặng lẽ đi theo?

Tôi như người lạc vào mê cung, hồn phách tứ tán:

- Em… em cũng không biết nữa…

Những ngày qua, tôi cứ lặng lẽ đi theo Kháp Na, chỉ khi cậu ấy ngủ say mới chịu hóa thành người, ngồi bên giường, mê mẩn ngắm nhìn gương mặt cậu ấy, cho đến khi trời sáng. Con tim tôi như thể bị giày vò bởi hàng trăm vuốt sắc nhưng tôi không sao lý giải nổi những nỗi lo lắng, chán chường, bồn chồn, phiền muộn ấy vì đâu mà có.

Bát Tư Ba tiếp tục o bế tôi:

- Em vẫn chưa chịu thừa nhận sao? Em không thấy Kháp Na đang từng ngày giày vò bản thân, bất chấp tính mạng hay sao? Lam Kha, đến bao giờ em mới chịu thức tỉnh? Lẽ nào chờ đến khi đệ ấy cận kề cái chết em mới ân hận, tiếc nuối, dằn vặt sao?

Lòng dạ tan nát, tôi lùi lại, cho đến khi lưng chạm phải bờ tường lạnh ngắt, Như thể vừa được giác ngộ! Như thể vừa bị giáng một đòn chí mạng! Tôi đã hoàn toàn thức tỉnh! Gió thổi mây tan, ánh nắng chan hòa, mọi thứ trước mắt tôi trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Lưng vươn thẳng, tôi nắm chặt trong tay sợi dây buộc tóc màu lam, cảm nhận được hơi ấm vô bờ từ đó. Đây mới là thứ tôi thực sự cần: sự ấm áp chân thực tuyệt đối!

Tôi cười với Bát Tư Ba, lúc đầu chỉ mỉm cười, sau đó tiếng cười ngày một lớn, ngày một vang, tôi cười ha hả, bất chấp tất cả. Nút thắt bao năm đã được cởi bỏ, lòng tôi nhẹ nhõm như vừa thoát khỏi gánh nặng ngàn cân. Cấm kỵ gì chứ, giới luật gì chứ, buồn lo sợ hãi, canh cánh trong lòng gì chứ, đau khổ dằn vặt, chờ đợi mòn mỏi gì chứ? Hơi mười năm qua, tất cả chỉ là ngộ nhận, chỉ là tự mình làm khổ mình, chỉ là tự giày vò, trói buộc bản thân mình mà thôi!

Chàng không khỏi ngac nhiên khi thấy tôi cười, chừng như có chút ân hận vì đã quá nặng lời. Nhưng tôi mặc kệ, tôi cười cho thật đã rồi mới nghiêm túc nói:

- Chàng nói đúng, em cứ mải mê tìm kiếm những điều xa xôi mà quên đi tình cảm thực sự của mình.

Tôi nhả từng chữ rõ ràng, mạch lạc:

- Khabi đã nói dối, đêm đó em không hề bị linh khí phản ngược, chỉ vì mệt mỏi quá nên mới thiếp đi. Cô ấy làm vậy để thử thách lòng dạ đàn ông mà thôi.

Đôi đồng tử của chàng dần thu nhỏ lại, ánh mắt lấp lánh, bàn tay nắm chặt ghế, những đường gân nổi lên vằn vện. Nhưng chỉ trong chốc lát, biểu hiện bất thường ấy lập tức tan biến, chàng trở lại là một quốc sư cao quý, tôn nghiêm trong mắt hàng vạn người. Sau khi đã lấy lại sự bình tĩnh, chàng lạnh lùng nói:

- Vậy thì hẳn em đã nhận ra, ai mới là người thật lòng với em.

Tôi mỉm cười:

- Đúng vậy, em đã biết. Cám ơn chàng đã giúp em thức tỉnh, cho em biết nỗi lòng thực sự của mình.

Loài người vốn đoản thọ, tôi không thể chần chừ, do dự, thời gian đâu có chờ đợi tôi. Kháp Na đã hai mươi bảy tuổi, những người đàn ông khác vào tuổi này đã con cái đầy nhà. Còn cậu ấy, kể từ năm hai mươi tuổi, khi lần đầu tiên thấy tôi hóa thành người, đã một lòng chờ đợi tôi cho đến tận bây giờ. Tôi không thể để cậu ấy tiếp tục hành hạ bản thân như thế, không thể để cậu ấy tiếp tục rước về nhà những người vợ hữu danh vô thực nữa.

Tôi nhấc cao vạt váy, đoan trang cúi người trước Bát Tư Ba:

- Xin hãy đưa em đến nơi cử hành hôn lễ, em muốn cùng cậu ấy nên duyên vợ chồng. Đêm nay, em mới là cô dâu đích thực của Kháp Na!

Toàn thân Bát Tư Ba bỗng run lên bần bật, gương mặt tối sầm, đau khổ hướng về tôi, ánh mắt buồn vô hạn. Tôi giật mình, vội bước đến, định đỡ lấy chàng:

- Chàng sao vậy?

Nhưng chàng vội tránh tôi như tránh tà. Chàng đặt tay lên ngực, lưng còng xuống, khẽ nhíu mày, mồ hôi túa ra trên trán:

- Ta không sao, chỉ tại mải đi tìm em nên bỏ cả bữa cơm trưa.

Tôi lo lắng:

- Vậy để em mang đồ ăn đến cho chàng…

Sắc mặt chàng trắng bệch, nhưng chàng xua tay, mệt mỏi nói:

- Không cần đâu, lát nữa ta sẽ tự mình lo liệu. Sắp đến giờ cử hành hôn lễ, em mau biến hình đi, rồi ta sẽ đưa em đến chỗ Kháp Na.

Tôi trở lại nguyên hình, nhảy vào lòng Bát Tư Ba. Chàng đưa tôi rời khỏi Lang Như Thư Lầu, rảo bước về phía phòng tân hôn của Kháp Na - Labrang Qulo. Tôi cảm nhận được trái tim chàng đang đập mãnh liệt, toàn thân khẽ run lên, làn da nóng hổi, mãi đến khi tới Labrang Qulo, những biểu hiện khác thường ấy mới vơi bớt đôi chút.

Labrang Qulo đèn hoa rực rỡ, cờ bay rợp trời, dưới đất là những mô gạo ngũ sắc được sắp xếp theo hình đàn tế lễ. Kháp Na đứng chờ ngoài cửa, lòng như lửa đốt. Cậu ấy vội đưa mắt dò hỏi khi thấy Bát Tư Ba bước vào, Bát Tư Ba khẽ gật đầu, tiến lại gần em trai, trịnh trọng trao tôi cho Kháp Na.

Kháp Na tươi cười rạng rỡ đón lấy tôi, giấu vào trong lớp áo lễ phục rộng thùng thình. Cậu ấy khẽ đặt miếng ngọc thiêng liêng lên chiếc đầu nhỏ xíu của tôi. Tôi sững sờ! Đó là nghi thức không thể thiếu trong đám cưới của người Tạng. Miếng ngọc này được gọi là ngọc Linh hồn. Chú rể đặt miếng ngọc lên đỉnh đầu cô dâu, với ý nghĩa rằng từ nay, linh hồn của người con trai sẽ được trao cho người con gái. Miếng ngọc rung rinh trên đỉnh đầu tôi. Tôi hiểu Kháp Na muốn nói với tôi rằng, cậu ấy trao gửi linh hồn của mình cho tôi.

Đúng lúc đó, bên ngoài bỗng rền vang từng hồi khèn, hồi trống. Bát Tư Ba hắng giọng ra hiệu, Kháp Na dùng dằng mãi mới chịu nhấc miếng ngọc Linh hồn ra khỏi đầu tôi. Lúc này, cô dâu Kangtsoban trong bộ lễ phục diêm dúa, sặc sỡ được đưa vào đại điện. Hàng trăm tu sĩ của phái Sakya chắp tay tụng niệm chúc phúc. m thanh tụng niệm trầm bổng vấn vít như tiếng gió reo trên hàng thông. Bàn khâm của giáo phái, đại sư Shakya Zangpo đứng ngoài cửa, cầm một nhành hoàng bá đã thấm nước, khẽ vẩy lên đầu cô dâu. Cô dâu giẫm lên những hạt thanh khoa và lá trà được rải đều trên nền đất dưới sự hướng dẫn của bà mối. Nghi lễ chỉ mang tính tượng trưng nhưng Kangtsoban vốn bản tính trẻ con, tinh nghịch đã biến nó thành trò chơi lý thú. Cô nàng nhảy cẫng lên sung sướng, ra sức giẫm khiến lúa mì thanh khoa và lá trà bắn tung tóe. Bà mối buộc phải mạnh tay, kéo cô nàng đến trước mặt Kháp Na.

So với hai người vợ trước, phục sức của cô dâu Kangtsoban hôm nay càng thể hiện rõ mức độ giàu có, xa hoa của nhà gái. Ngọc ngà, châu báu trĩu nặng khiến Kangtsoban khó chịu không yên, cô nàng cứ muốn bứt ra khỏi đầu mình chạc ba châu, biểu tượng của người phụ nữ quyền quý người Tạng. Bà mối phải canh chừng mọi lúc mới giữ được thứ trang sức nặng nề trên tóc Kangtsoban.

Sau khi lắng nghe lời chúc phúc từ người làm chứng, Kháp Na hờ hững cài mũi tên bằng vải, nhiều màu sắc vào lưng áo Kangtsoban, tượng trưng rằng, từ nay cô nàng sẽ trở thành người nhà chồng. Đến nghi thức đặt ngọc Linh hồn lên đầu cô dâu thì chuyện nực cười xảy ra. Kangtsoban vì mỏi cổ, kiên quyết không cho Kháp Na đặt ngọc Linh hồn lên đầu mình, Jichoi và Selangqe khuyên nhủ thế nào, cô ngốc cũng không chịu nghe, Kháp Na thừa dịp, bỏ qua nghi lễ này. Cậu ấy đặt viên ngọc vào lòng mình, ra hiệu cho người làm lễ tiếp tục các nghi thức khác.

Kháp Na và Kangtsoban ngồi khoanh tròn trên một đài cao đặt giữ chính điện, Vạn hộ hầu Ladudo được mời làm chứng nhân, tuyên đọc hôn ước. Nội dung quan trọng nhất của bản hôn ước này chính là những trao đổi lợi ích giữa phái Sakya và Vạn hộ hầu Shalu sau hôn lễ, hai gia tộc sẽ cùng chung hoạn nạn, cùng hưởng vinh hoa, phú quý.

Những người có mặt tại đó đều hồi hộp nín thở, lắng nghe từng điều khoản về quyền lợi và lợi ích phân chia tài sản, chỉ có Kangtsoban là tỏ ra khó chịu, bức bối. Nhân lúc bà mối sơ ý, cô nàng liền nhảy xuống, chạy về phía Kháp Na, kéo tay cậu ấy, kêu gào:

- Kháp Na, chàng ơi, chúng ta sinh em bé thôi!

Đám đông sững sờ, Vạn hộ hầu Ladudo ngừng đọc hôn ước. Kháp Na đỏ bừng mặt, vội vã kéo tay Kangtsoban. Nhưng cô ngốc chẳng chịu yên, tiếp tục vỗ vào bụng dưới của mình, cất giọng ngây ngô:

- Cha và anh trai nói rằng, chàng sẽ đặt em bé vào bụng ta, sau đó ra sẽ sinh em bé. Kháp Na, chàng ơi, chàng giấu em bé ở đâu thế? Vì sao phải chờ đến tối mới đặt em bé vào bụng ta? Chúng ta làm ngay bây giờ được không?

Kháp Na chỉ muốn tìm một khe hở để chui xuống, quay mặt đi, vờ như không nghe thấy. Jichoi và Selangqe muối mặt bước đến kéo Kangtsoban. Nhưng cô ngốc vẫn oang oang khiến rất nhiều người không nhịn nổi, phì cười. Dì năm ghé tai chị cả Zhuoma của Kháp Na, thì thầm:

- Úi giời, Vương phi sốt ruột cũng phải, chú rể đẹp trai thế kia mà! Nhưng không biết cô ta có sinh ra những đứa bé giống mình không? Người thừa kế của giáo phái Sakya đấy!

Zhuoma vội đưa tay ra hiệu bảo dì năm dừng lại:

- Dì năm!

Những lời “thầm thì” của dì năm đã lọt vào tai của Bát Tư Ba. Chàng đưa mắt về phía bà ta, ánh nhìn lạnh lùng, nghiêm nghị. Dì năm sợ hãi cúi đầu, không dám nói năng xằng bậy nữa.

Buổi lễ kết thúc chóng vánh vì những trò phá bĩnh của Kangtsoban, ngay sau đó là tiệc tùng náo nhiệt. Rất nhiều người muốn đến chúc tụng Kháp Na. Cậu ấy không từ chối bất cứ ai, chén rượu mừng nào cũng uống cạn. Nhưng Bát Tư Ba không để tình trạng đó kéo dài thêm, chàng ra mặt ngăn cản:

- Bạch Lan Vương chưa khỏi hẳn, không thể uống rượu.

Ngay cả người anh vợ đến chúc rượu, Bát Tư Ba cũng không hề khách khí. Nhưng Selangqe không lấy thế làm phật ý, cậu ta cười sảng khoái:

- Vậy thì em rể mau vào động phòng đi, đừng để cô út nhà ta chờ lâu.

Kháp Na chưa kịp mở lời ứng phó đối thì Bát Tư Ba đã khéo léo từ chối thay em trai:

- Xin các vị thông gia chớ sốt ruột. Thầy thuốc căn dặn rằng, Bạch Lan Vương cần tĩnh dưỡng thêm. Lúc này đang là mùa đông băng giá, rất khó lành bệnh, xin hãy cho em tôi thêm thời gian, chờ khi xuân sang, ấy là lúc chú rể hoàn toàn bình phục, đệ ấy tự khắc sẽ tìm đến em dâu.

Lão cáo già Jichoi nghe thấy những lời này thì sa sầm mặt mày:

- Mong rằng Quốc sư không chấp những câu nói thơ dại của con gái ta khi nãy. Tuy nó hơi ngờ nghệch nhưng vẫn đủ sức khỏe để hoàn thành trách nhiệm sinh con nối dõi cho Bạch Lan Vương.

Bát Tư Ba hiểu ý Jichoi, bèn trịnh trọng đáp rằng:

- Người thừa kế của phái Sakya nhất định phải do Vương phi của Bạch Lan Vương sinh hạ.

Lúc này Jichoi mới gật đầu yên lòng. Tuy không phản đối Kháp Na cưới thêm vợ nhưng thực ra ông ta rất lo lắng về điều này. Nếu người thừa kế của phái Sakya không phải huyết mạch dòng họ Shalu, ngày sau, khi đã trở nên hùng mạnh, rất có thể phái Sakya sẽ chẳng thèm bận tâm đến gia tộc Shalu nữa. Nhưng Quốc sư Bát Tư Ba đã trịnh trọng hứa hẹn như vậy, Jichoi hoàn toàn có thể vững tâm gắn chặt sự hưng vong của gia tộc Shalu với giáo phái Sakya.

Yến tiệc vẫn tiếp tục diễn trong không khí ồn ào, náo nhiệt không dứt. Bát Tư Ba đề nghị Kháp Na trao tôi cho chàng, căn dặn Kunga Zangpo trông chừng Kháp Na rồi đưa tôi rời khỏi đại điện. Mọi việc diễn ra trong lễ thành hôn của Kháp Na dường như đều nằm trong sự kiểm soát tài tình của Bát Tư Ba. Nhưng, cho đến khi chàng đưa tôi trở lại Lang Như Thư Lầu, tôi vẫn không sao đoán ra chàng định làm gì.

***

Chàng trai trẻ hỏi tôi:

- Bản khâm của Sakya chính là đại sư trụ trì đền Sakya phải không? Bản khâm Shakya Zangpo có quan hệ huyết thống với gia tộc Khon của Bát Tư Ba không?

- Ăn chút điểm tâm lót dạ nào!

Tôi đẩy về phía chàng trai bát bánh nướng nóng hổi, đáp:

- Khi chưa là một giáo phái lớn mạnh, phái Sakya không có chức bản khâm này. Shakya Zangpo chỉ là trụ trì của ngôi đền Sakya mà thôi. Nhưng khi ngài Ban Trí Đạt rời khỏi quê hương đến Trung Nguyên, pháp vương không có mặt tại ngôi đền thiêng của giáo phái suốt hai mươi năm nên buộc họ phải tìm kiếm một người đức cao vọng trọng để cai quản công việc thường ngày của giáo phái. Tuy không có quan hệ huyết thống với dòng họ Khon như Shakya Zangpo lại là đệ tử ngài Ban Trí Đạt tín nhiệm nhất. Đại sư đã cống hiến hết mình vì giáo phái.

Chàng trai trẻ vừa nhấm nháp bánh nướng vừa hỏi:

- Tức là chức vị này xuất hiện khi phái Sakya đã trở nên lớn mạnh và do chính Bát Tư Ba sắc phong?

- Đúng vậy. Từ bản khâm có nghĩa là “viên quan lớn”, đó là chức quan có thể thay mặt đế sư cai quản toàn bộ công việc ở Tây Tạng, do chính Bát Tư Ba đặt ra. Shakya Zangpo vốn là trụ trì đền Sakya nên ông ấy trở thành bản khâm của giáo phái này cũng là điều dễ hiểu.

- Vậy bản khâm có buộc phải xuất gia không?

- Không cần. Tuy ngài Shakya Zangpo đã chịu lễ thọ giới Tỷ khâu nơi đại sư Ban Trí Đạt, nhưng nhiều vị bản khâm đời sau này đều do những thường dân xuất thân từ danh gia vọng tộc đảm nhiệm. Sakya vốn là giáo phái cho phép nhà sư thành thân nên cũng không đặt ra quy định nghiêm khắc trong vấn đề này. Nếu các đệ tử quyết tâm xuất gia, một lòng hướng Phật thì họ có thể thọ giới trở thành tu sĩ chân chính. Nếu họ muốn kết hôn thì cũng có thể miễn thọ giới.

- Điều này khác hoàn toàn so với quan niệm của chúng ta về Phật môn.

Chàng trai trẻ đặt bát bánh nướng xuống, ngẩng đầu nhìn tôi.

- Khi pháp vương vắng mặt thì bản khâm là người thay quyền pháp vương cai quản mọi việc của giáo phái. Như vậy thì người này chỉ ở dưới một người mà ở trên muôn người.

Tôi gật đầu:

- Không sai. Trong một nhiệm kỳ, bản khâm chỉ do một người đảm nhiệm, địa vị của người này còn cao hơn cả các vạn hộ hầu. Bát Tư Ba từng ban cho Shakya Zangpo ấn pha lê tam lộ Quân - dân - vạn hộ[1]. Bất kể là việc lớn bé gì, bản khâm đều có quyền quyết định. Chức vị cao, quyền lực lớn, ngoài đế sư, không ai sánh bằng.

1. Tam lộ Quân - dân - vạn hộ: một chức quan xuất hiện vào thời nhà Nguyên, chỉ người cai quản quân đội, cư dân và các vạn hộ hầu thuộc vùng Wusi (tức Tây Tạng ngày nay). (DG)

Ánh mắt chàng trai thoáng chút lo âu:

- Vậy nếu trao chức vị này vào tay kẻ xấu, hẳn là sẽ gây ra đại họa?

Chương 42

Nẻo về của trái tim


“Sống trên đời hãy lưu lại tiếng thơm,

Khi ra đi phải giữ trọn vẹn phúc đức;

Thiếu cả hai, chỉ sung túc tiền tài,

Không giúp cho bậc hiền nhân vui vẻ.”

(Cách ngôn Sakya)

Tôi kinh ngạc khi về đến căn phòng của Kháp Na. Mới rời khỏi đó có vài canh giờ mà mọi thứ đã hoàn toàn đổi khác, cách bài trí giống hệt phòng tân hôn. Nến hồng rực rỡ, hồng loan điệp trướng, cả căn phòng rực sáng lung linh, hơi ấm lan tỏa mơn man. Bếp than không khói khiến cả căn phòng trở nên ấm cúng lạ thường.

Không để tôi chờ đợi, giọng nói trầm ấm của Bát Tư Ba đã cất lên:

- Lam Kha, đêm nay là đêm tân hôn của em và Kháp Na. Ta đã cho người gấp rút chuẩn bị, mong là em hài lòng.

Tôi ngẩn ngơ, quay lại nhìn chàng. Dưới ánh nến, gương mặt Bát Tư Ba trở nên hồng hào, ấm áp hơn. Chàng ôm trong tay chiếc áo choàng cô dâu mới tinh, dệt bằng lụa đỏ rực rỡ, nụ cười hồn hậu nở trên môi:

- Đây là lễ phục cô dâu của em. Vì thời gian không còn nhiều nên chưa kịp đính thêm trang sức, nhưng ta tin, em sẽ vẫn là cô dâu xinh đẹp nhất trong mắt Kháp Na.

Tôi như bị thôi miên bởi bộ áo váy cô dâu trên tay Bát Tư Ba. Những đường nét tinh tế, rực rỡ của bức tranh “bát bảo cát tường” lấp lánh trong ánh nến. Tôi thấy lòng mình rung động sâu sắc. Chỉ trong một thời gian ngắn, Bát Tư Ba đã chuẩn bị rất chu đáo, vì chàng muốn tôi cảm nhận được niềm hạnh phúc trọn vẹn trong ngày thành hôn với Kháp Na.

- Lát nữa ta sẽ đưa Kháp Na về đây. Đệ ấy vẫn chưa biết chuyện, vì ta muốn tặng đệ ấy niềm vui bất ngờ mà bao năm đệ ấy hằng khao khát.

Chàng khẽ dừng lại, nhìn tôi nghiêm nghị, ánh mắt kiên định, chậm rãi nhả từng tiếng:

- Lam Kha, kể từ hôm nay, em sẽ là vợ của Kháp Na. Người ngoài có thể không biết, nhưng với ta, em là vương phi duy nhất của Bạch Lan Vương.

Tôi chợt nhớ đến câu nói của Bát Tư Ba với Jichoi trong bữa tiệc:

- Người thừa kế của phái Sakya nhất định phải do Vương phi của Bạch Lan Vương sinh hạ.

Thì ra câu nói ấy chứa đựng ẩn ý khác. Tôi đỏ mặt thẹn thùng.

Chàng ngắm tôi thêm một lát, ánh mắt ẩn chứa nỗi buồn vương khó đoán. Rồi chàng thở dài, chầm chậm quay đầu, rời khỏi căn phòng, lúc đến bậc cửa, chàng bỗng ngừng lại, quay đầu, khẽ gọi:

- Lam Kha…

Giọng tôi bồng bềnh như từ cõi xa xăm vọng về:

- Em đây.

Chàng khép mắt, cặp mắt trong veo lúc chàng quay lại nhìn tôi:

- Ta nợ Kháp Na nhiều lắm, ta nhờ em đó!

Bát Tư Ba cúi gập người, trịnh trọng vái tôi một vái, giọng nói thâm trầm, khẩn thiết:

- Xin em, hãy mang lại hạnh phúc cho đệ ấy!

Tôi cũng đáp lễ, cúi gập người trước Bát Tư Ba, để nhận lời với chàng, để tạ từ và để kết thúc giấc mộng đeo đẳng hơn mười năm qua. Mãi đến khi cánh cửa phòng khẽ khép lại, tôi vẫn cúi gập người như thế, hai mắt chiếu thẳng xuống đất, nước mắt lã chã như chuỗi ngọc đứt dây, từng giọt, từng giọt thấm vào nền gạch. Rồi tôi chầm chậm đứng lên, vươn thẳng lưng. Kể từ bây giờ, tôi sẽ chỉ khóc vì một người. Không, không phải, không được khóc nữa! Tôi sẽ khiến cậu ấy vui cười, mãn nguyện, khiến cậu ấy thoát khỏi mọi sầu lo, phiền muộn trong cuộc đời này.

Khoác lên mình bộ lễ phục lộng lẫy, nhẹ nhàng buộc gọn mái tóc màu lam bồng bềnh, óng ả, tôi đứng trước gương soi. Cô gái yêu kiều, đằm thắm, đôi má hồng hồng, làn da trắng nõn nà, đôi môi mọng đỏ, đôi mắt lúng liếng trong gương kia là tôi ư? Tôi mỉm cười với người trong gương, lúm đồng tiền dễ thương liền xuất hiện, khóe môi, uốn thành vành cong kiều diễm. Tuy chưa bao giờ coi trọng quá mức chuyện ngoại hình nhưng lúc này, tôi đã bị hấp dẫn bởi dung nhan của chính mình. Trong lòng dâng lên niềm vui khôn tả, người ta thường bảo “xinh như hoa, như gấm” có lẽ cũng chỉ đến thế này thôi chăng? Kháp Na, em mong cô dâu kiều diễm này sẽ khiến chàng nhớ thương suốt đời.

Thính giác nhạy bén giúp tôi nhận ra tiếng bước chân của hai người trên tuyết, đang hướng về căn phòng. Những tiếng bước chân quá đỗi thân thuộc, của Bát Tư Ba và Kháp Na. Tim tôi bỗng rộn ràng, tôi cuống quýt hít thở thật sâu để lấy lại bình tĩnh.

Ngoài cửa có tiếng trò chuyện của hai anh em họ, giọng nói trầm ấm của Bát Tư Ba cất lên:

- Kháp Na à, mùa đông năm nay đệ muốn ở lại Lang Như Thư Lầu bao lâu cũng được. Ta đã dặn dò mọi người không được phép đến đây làm phiền đệ, kể cả Kangtsoban. Đệ cần gì sẽ có người mang đến tận nơi, cứ giao việc cho Kunga Zangpo là được.

Kháp Na chừng như khó hiểu:

- Huynh muốn đệ ở lỳ trong phòng suốt mùa đông ư? Làm thế khác nào giam lỏng đệ!

Bát Tư Ba chẳng buồn giải thích thêm:

- Đệ cứ lo tịnh dưỡng cho khỏe, đừng bận tâm những việc đau đầu khác.

Kháp Na gạn hỏi:

- Đại ca đưa Tiểu Lam đi đâu rồi?

Bát Tư Ba trả lời qua quýt:

- Không đưa đi đâu cả. Muộn rồi, đệ vào trong đi!

Có tiếng đẩy cửa, giọng nói tha thiết của Bát Tư Ba lại vang lên:

- Kháp Na! Đệ nhất định phải hạnh phúc!

- Đại ca, từ lúc cử hành hôn lễ đến giờ, đệ thấy huynh rất lạ.

Tuy không hiểu ý của anh trai nhưng Kháp Na vẫn mỉm cười đáp lời:

- Đại ca yên tâm, đệ nhất định sẽ hạnh phúc!

Cánh cổng khu nhà khép lại, tiếng bước chân Kháp Na mỗi lúc một gần. Tôi bỗng bối rối, cuống cuồng ngước nhìn qua ô cửa sổ, dõi theo bóng dáng cao gầy, cô độc của người đó dưới gốc cây thông. Tán cây che khuất vầng trăng, gió thổi cánh lá rì rào, bóng dáng ấy mơ hồ lẫn khuất dưới trăng đêm bàng bạc, chập chờn giữa cây lá. Một đêm thật yên tĩnh, tôi thậm chí có thể nghe thấy cả tiếng thở dài khe khẽ. Bóng dáng ấy chầm chậm rời khỏi tán cây, rồi chầm chậm đi xa mãi. Dưới ánh trăng, bờ vai hơi còng xuống càng khiến bóng dáng ấy trở nên muôn phần cô độc.

Người dần khuất xa, chỉ lưu lại dấu chân trên tuyết lạnh, nước mắt tôi nhạt nhòa, tôi thầm gọi:

- Lâu Cát, cảm ơn chàng!

Cửa phòng bật mở, tôi chầm chậm quay người lại, mỉm cười gật đầu với chú rể. Chàng đứng yên bất động, dường như quên sạch mọi thứ chung quanh, chỉ biết gắn chặt đôi đồng tử trong veo lên người tôi. Bao điều muốn nói đều dồn cả vào đôi mắt thần kỳ ấy, đôi mắt biết bày tỏ mọi nỗi niềm yêu thương thiết tha, nồng nàn.

Tôi thấy lòng mình ấm áp lạ thường, khẽ gọi:

- Vào phòng đi chứ!

Chàng như vừa bừng tỉnh sau cơn mộng mị, nhưng ánh mắt vẫn chưa hết mơ hồ. Lúc bước qua bậc cửa, chàng đã không để tâm, suýt thì ngã nhào. Tôi vội bước lại đỡ chàng, dìu chàng vào phòng và đóng cửa lại.

Chàng nhìn tôi đắm đuối rồi bối rối thốt lên:

- Tiểu Lam, sao em… sao em lại ăn mặc như vậy?

Tôi mỉm cười, giọng vương chút trách móc:

- Hôm nay là ngày chúng ta thành hôn kia mà! Chàng bảo rằng, hôn lễ hôm nay là dành cho chàng và em kia mà!

Chàng chộp lấy cánh tay tôi, gương mặt ửng đỏ, ấp a ấp úng:

- Em… Đại ca đã nói với em ư?

Chàng nhìn quanh căn phòng, kinh ngạc vì sự thay đổi.

- Đại ca đã sắp xếp tất cả? Huynh ấy buộc em mặc bộ y phục này và chờ ta ở đây?

- Kìa Kháp Na! - Tôi nắm chặt bàn tay giá lạnh của chàng, dịu dàng nói. - Đúng là Lâu Cát đã sắp xếp tất cả nhưng em cũng muốn vậy mà!

Chàng vẫn chưa hết kinh ngạc, ánh mắt ngập nỗi băn khoăn:

- Em… em hiểu lòng ta nên mới nhận lời cùng huynh ấy để diễn vở kịch này, khiến ta vui lòng phải không?

Tôi nín cười, phụng phịu:

- Trên đời này, làm gì có cô gái nào chịu biến đêm tân hôn của mình thành một vở kịch? Đêm nay, em sẽ là cô dâu của chàng, nhưng nếu chàng không thích thì thôi.

Chàng sững sờ giây lát rồi đột nhiên gỡ tay tôi ra, lùi thật xa, giữ khoảng cách với tôi, khuôn ngực phập phồng dữ dội:

- Tiểu Lam, ta không cần em thương hại!

- Không phải, không phải vậy! - Tôi sáp lại, cuống quýt giải thích. - Tại em ngu ngốc, đến bây giờ mới nhận ra điều mình thật sự mong muốn là gì.

Chàng thở hổn hển, gắng sức dịch chuyển ánh mắt mê đắm rời khỏi tôi, gắng sức nén dòng cảm xúc cuộn dâng, gạn hỏi:

- Em mong muốn điều gì? Em từng nói với ta rất nhiều lần rằng, đại ca là ước nguyện lớn nhất của đời em kia mà! Ước nguyện ấy sẽ nhanh chóng trở thành hiện thực, vì sao đêm nay em lại xuất hiện ở đây?

Tôi nhào đến, nắm chặt tay chàng:

- Bởi vì Lâu Cát đã giúp em hiểu ra rằng, người em thực sự yêu là chàng, vậy mà lâu nay em không hề hay biết.

Chàng vẫn kiên quyết kháng cự, gỡ tay tôi ra khỏi tay áo chàng, vừa thở hổn hển vừa bật cười:

- Em cũng biết anh trai ta rất giỏi hùng biện. Vì muốn tác hợp cho hai ta, chắc chắn huynh ấy đã nói rất nhiều điều tốt đẹp về ta, để em cảm thấy ta là người hợp với em nhất. Nhưng em phải giữ chính kiến của mình chứ! Lẽ nào huynh ấy nói gì, em cũng tin sao?

Rốt cuộc tôi đã hiểu, nếu tôi không trải lòng mình, chàng sẽ không tin. Tôi thở dài, buông áo chàng ra:

- Chàng không tin lời em, đúng không? Chàng cho rằng em thương hại chàng và nghe lời đề nghị của Bát Tư Ba nên mới đến đây, đúng không?

Chàng khép hờ đôi mắt, cắn chặt môi, quay mặt đi hướng khác:

- Đúng, Lâu Cát từng là giấc mơ của em, giấc mơ tuyệt đẹp do chính em dệt nên. - Tôi cười buồn, mơ màng nhớ lại. - Mục đích ban đầu của việc đi theo hai người là để lén học đạo. Lúc hai người còn nhỏ, em đã tìm mọi cách để có thể bám theo anh trai chàng, bởi vì em có thể học được từ Lâu Cát rất nhiều phép tu có lợi ích cho việc tu luyện của em. Anh trai chàng thông tuệ, uyên bác, và điều đáng quý nhất là Lâu Cát không hề có định kiến với em, thậm chí còn cho phép em học lén. Vì thế, kể từ ngày đầu tiên đi theo Lâu Cát, em đã sùng bái, ngưỡng mộ chàng ấy. Em đã chứng kiến chàng ấy từng ngày trưởng thành, từ thuở niên thiếu dại khờ đến tuổi thanh xuân chững chạc, vững vàng. Lâu Cát ngày càng có tư chất và cốt cách của một bậc danh sư. Phong thái tự nhiên, tự tại, vẻ cao quý cuốn hút và vầng hào quang thánh khiết tỏa ra từ chàng ấy có sức cuốn hút vô cùng mãnh liệt đối với loài yêu như em.

Chàng hít một hơi thật sâu, mệt mỏi ngả lưng vào tường.

Tôi nhìn chàng mà lòng ngập nỗi dây dứt, tôi nứt nở:

- Lúc đó, chàng mới chỉ là một chú bé vô tư lự, vậy mà đã phải gò mình vào một cuộc hôn nhân ép uổng, sống cuộc đời nhàm chán, vô vị, vì thế em thương chàng, xót chàng, mới ra sức bảo vệ chàng. Chàng trưởng thành và ngày càng khôi ngô, tuấn tú, nhưng ánh mắt của em khi nhìn chàng vẫn chỉ dừng lại là ánh mắt yêu thương dành cho một chú bé, như khi chàng còn nhỏ. Em chưa từng ở bên chàng bằng cảm xúc của một thiếu nữ ở bên chàng trai mà mình ái mộ, chưa từng nhìn chàng thật lâu bằng ánh mắt luyến lưu, tha thiết. Bởi vì khi ấy, hình bóng của Lâu Cát đã lấp đầy tâm trí em. Em khao khát có được hình hài của con người và nỗ lực từng bước lại gần chàng ấy. Em coi chàng là người bạn tâm giao, để thổ lộ mọi buồn vui, tâm sự mà không hề nhận ra rằng càng ở bên chàng, em càng thấy lòng mình phơi phới, thư thái, nhẹ nhõm biết bao!

Chàng ngẩng lên nhìn tôi, nước mắt lưng tròng.

- Em không biết mình đã yêu chàng tự khi nào. Bây giờ nghĩ lại, tình cảm của em dành cho chàng càng sâu đậm qua năm tháng. Ngày hội Nguyên tiêu ở Yên Kinh, trái tim em đã thổn thức vì chàng. Sinh nhật chàng, nụ hôn của chàng khiến tim em loạn nhịp, chưa khi nào em có cảm giác lâng lâng mãnh liệt đến thế. Lúc truyền linh khí cho chàng, em đã hôn chàng, chàng biết không, em đã thầm khao khát và muốn khoảnh khắc ấy kéo dài mãi mãi.

Hai má tôi bỗng nóng ran khi phải thốt lên những lời từ sâu thẳm trái tim mình, ngón tay vô thức chạm vào sợi dây buộc tóc màu lam.

- Em… em... Sau đó, em đã nhiều lần muốn hôn trộm chàng. Thậm chí, lúc chàng ngủ say, em hóa thành người ngồi bên chàng, em rất muốn hôn chàng nhưng lại không dám.

Chàng khẽ rùng mình, chầm chậm bước về phía tôi, niềm vui dè dặt trong đáy mắt:

- Em... Vì sao em không nói cho ta biết?

- Là vì giấc mộng xa vời đó! Bao năm qua em vẫn luôn cho rằng em yêu Lâu Cát và chỉ thương chàng, cảm thông với chàng mà thôi. Mãi đến hôm nay em mới biết, mình đã nhầm lẫn giữa lòng sùng bái và tình yêu. Em đã tự huyễn hoặc bản thân, đã chờ đợi mỏi mòn, đã tự mình dệt mộng nên ngoài hình ảnh của Lâu Cát, em không thấy bất cứ ai khác, cũng không cho phép mình suy xét.

Tôi cười buồn, lắc đầu.

- Mãi đến khi nghe tin chàng tái hôn, em thấy mình không còn là mình nữa, trái tim em quặn đau, cơn đau dữ dội ấy khiến em mất đi mọi cảm giác, trong đầu chỉ còn lại một ý niệm duy nhất: em muốn gặp chàng! Thế là em vội từ biệt Lâu Cát, lén bám theo đoàn rước dâu. Em đã chứng kiến chàng hát ru Kangtsoban, mỉm cười với cô ấy. Và lần đầu tiên trong đời, em biết thế nào là ghen tuông. Em thậm chí đã ghen đến điên dại với một cô ngốc!

Chàng bật cười:

- Không có chuyện đó đâu, chẳng qua là…

Tôi lấy tay che miệng chàng, mê mẩn ngắm nhìn gương mặt như tạc tượng của chàng.

- Em biết chứ. Những lời chàng nói với Lâu Cát tối qua, em đã nghe thấy cả.

- Vậy… vậy em…

Chàng hết sức ngạc nhiên, sau đó mặt đỏ rần, ánh mắt đầy lo lắng:

- Em đã biết chuyện đêm đó, ta…

- Buổi tối bên hồ Yamdrok-tso, chàng nói rằng chàng có lỗi với em, chính là chuyện này phải không?

Mặt đỏ như gấc chín, chàng gật đầu trong nỗi day dứt:

- Nếu không vì lo lắng cho tính mạng của em, ta đâu dám làm chuyện đó. Kể từ hôm ấy, ta không nguôi dằn vặt, ta sợ rằng, nếu biết chuyện, em sẽ rời bỏ ta.

- Chàng sẵn sàng đánh đổi mười năm tuổi thọ của mình vì em, sao em có thể trách chàng được?

Tôi ngả đầu vào lòng chàng, áp tai lên ngực chàng, lắng nghe trái tim chàng đang thổn thức. Chàng sững sờ, hai tay bối rối không biết nên đặt vào đâu.

- Em xin lỗi, vì đã để lỡ quá nhiều thời gian. Lẽ ra em phải mang lại hạnh phúc cho chàng từ lâu rồi mới phải.

Tôi ngước lên, đắm mình trong đôi mắt tựa như hai vực nước sâu hun hút của chàng, âu yếm vuốt ve gương mặt gầy guộc của chàng.

- Kháp Na, anh trai chàng có Phật Tổ, có giáo phái và cả hoài bão thống nhất đất Tạng làm điểm tựa cho thế giới tinh thần, còn chàng thì sao? Những cuộc hôn nhân ép uổng, trách nhiệm đối với gia tộc, niềm vui, nỗi buồn, nguyện ước của chàng, có ai chịu thấu hiểu?

Chàng khẽ run lên, bóp chặt bàn tay tôi, lòng bàn tay chàng ẩm ướt. Ánh mắt trong veo như dòng suối che giấu nỗi u sầu tích tụ, gương mặt điển trai thoáng nét nghi hoặc:

- Tiểu Lam, em biết rằng ta không thể cự tuyệt em, đúng không? Nhưng em đã suy nghĩ thấu đáo chưa vậy? Nếu hôm nay em trở thành vợ ta thì ta sẽ không bao giờ để em xa rời khỏi vòng tay ta. Chỉ cần ta còn sống thì dù ngày sau em có hối hận đi nữa, ta cũng không thể nhường em cho bất cứ người đàn ông nào khác, kể cả người đó là người anh mà ta rất mực yêu kính.

Vầng trăng vằng vặc chiếu sáng trên cao, ánh trăng rọi qua ô cửa sổ, dát bạc khắp căn phòng, thứ ánh sáng bàng bạc ấy bao phủ, tắm gội lên tất thảy, làn da của Kháp Na trở nên bóng mịn, khỏe khoắn dưới lớp ánh sáng ấy. Hàng mi dài của chàng khẽ rung động, đôi đồng tử to rộng gắn chặt vào hai mắt tôi, hẳn là vì không muốn để sót bất cứ biểu cảm nào trên gương mặt tôi. Tôi kiễng chân, vòng tay qua chiếc cổ thuôn dài, tuyệt đẹp của chàng, khẽ hôn lên bờ môi giá lạnh của chàng.

Chàng ngỡ ngàng, không dám cử động, cơ thể khẽ run lên, mắt mở to hết cỡ vì kinh ngạc. Hàng mi dài rung động, gương mặt chàng đẹp như tạc, bờ môi chàng rất mềm, khi chạm đến, tôi cảm giác như có một dòng điện lan khắp cơ thể. Chỉ trong khoảnh khắc, chàng thôi ngỡ ngàng, niềm vui dâng tràn nơi đáy mắt, bàn tay chàng siết chặt eo lưng tôi, kéo tôi sát lại. Hơi thở nồng nàn quen thuộc ào tới gấp gáp, chàng cuốn lấy tôi, cùng tôi trao và nhận, cùng tôi hòa quyện, cùng tôi quyến luyến. Trống ngực đập thình thịch, hơi thở hổn hển của chàng phả lên hai má tôi, cảm giác gai gai, chộn rộn.

Không biết nụ hôn ấy đã kéo dài bao lâu, chàng khẽ rời khỏi bờ môi tôi, ghì trán chàng vào trán tôi, hân hoan thủ thỉ:

- Ta không cần trở thành vĩ nhân lừng danh thiên cổ như đại ca, cũng không cần quyền lực và danh vọng, ta chỉ cần một người vợ mà ta yêu thương. Mùa đông, ta muốn cùng cô ấy cưỡi ngựa trên tuyết trắng, tìm kiếm hoa mai. Mùa xuân, ta muốn đưa cô ấy đến những vạt đồi bát ngát, hái những bông hoa dại, kết thành vòng hoa xinh xắn. Mùa hạ và mùa thu, cô ấy thích làm gì ta cũng chiều ý. Mỗi mùa xuân - hạ - thu - đông, ta đều muốn cô ấy trở thành người con gái hạnh phúc nhất thế gian.

Chàng nghiêng đầu sang bên, phải ngừng lại thật là lâu mới có đủ can đảm, tiếp tục thổ lộ lòng mình trong nỗi xúc động dâng trào:

- Ta chỉ cầu mong có thế.

Tôi nức nở, thổn thức. Mong ước của chàng mới giản dị làm sao! Không giống người anh ôm hoài bão lớn lao, chàng chỉ mong cầu niềm hạnh phúc mà bất cứ ai cũng có thể có được. Hạnh phúc bình dị ấy, với chàng, lại vô cùng quý giá. Tôi âu yếm vuốt ve hàng mi dài, sống mũi cao và bờ môi mềm mại của chàng. Tôi yêu những xúc cảm dấy lên từ những va chạm khẽ khàng ấy. Tôi thủ thỉ:

- Kháp Na, vậy thì chúng ta đừng lãng phí thời gian đoán định tâm tư, tình cảm của nhau nữa, đừng lạnh lùng, thờ ơ nữa! Đời người có được bao năm, kể từ bây giờ, chúng ta hãy sống và tận hưởng năm tháng thuộc về chúng ta.

Chàng chớp mắt, đôi đồng tử long lanh gắn chặt vào tôi, niềm hân hoan rạng ngời trên gương mặt và dâng đầy trong mắt. Khi tôi vừa dứt lời, chàng lập tức sáp lại gần, hôn tôi mê mải. Nụ hôn mê say, nồng nàn, dịu dàng mà cuồng nhiệt. Trống ngực đập rộn ràng, hơi thở nồng đượm, hai má nóng ran. Những âu yếm, đan quyện ngày một mạnh mẽ, mãnh liệt hơn, chàng nồng nhiệt tận hưởng, thả sức thưởng thức. Tôi dịu dàng đáp lại, chiều ý chàng, quấn quýt bên chàng.

Tôi cảm nhận được khao khát ngày một mãnh liệt của chàng qua bàn tay siết chặt vòng eo tôi, qua bờ môi như có lửa đốt, qua làn da căng tràn xúc cảm và ánh mắt hừng hực dục vọng, giọng chàng thì thầm, khơi gợi:

- Tiểu Lam, em cho phép ta chứ?

Sức nóng từ bàn tay chàng lan tỏa, đốt cháy da thịt tôi, tôi như vừa trúng bùa mê, ngả vào lòng chàng mềm nhũn:

- Chàng là phu quân của em, chàng muốn sao cũng được.

Tôi nhìn thấy đôi mắt mê dại của mình in trong vòm mắt huyền hoặc của chàng, tiêu cự biến mất, ranh giới không còn, khoảng cách cũng biến mất, làm môi đỏ thắm khẽ mở, làn môi thanh xuân, quyến rũ khó cưỡng. Tôi chưa bao giờ thấy hình ảnh đó của bản thân, không dám nhìn thêm nữa, tôi vùi đầu vào lòng chàng, đỏ mặt, ấp úng:

- Huống hồ, chàng đã từng…

Dường như lấy lại được chút tỉnh táo, chàng khẽ rời khỏi tôi, gắng gượng quay đầu qua hướng khác:

- Tiểu Lam, tuy em là tâm nguyện lớn nhất đời ta, nhưng ta… ta không muốn giấu em bất cứ điều gì. Ta muốn em chọn ta không chút do dự.

Tôi ngạc nhiên:

- Chàng còn điều gì chưa nói với em ư?

Chàng thở dài, khẽ buông tôi ra:

- Tối hôm đó, khi vừa đến phủ Quốc sư, Drakpa Odzer nói với ta rằng, trong cung cho người đến mời đại ca, huynh ấy đã đi rất lâu rồi. Khi ta chuẩn bị bước vào nhà thì huynh ấy đột nhiên trở về, thần sắc hoang mang, lo sợ, và điều khiến ta ngạc nhiên hơn cả là, bên cạnh huynh ấy không có bất cứ người hầu nào. Y phục của huynh ấy không chỉnh tề mà xô lệch, nhàu nhĩ. Huynh ấy không buồn chào ta lấy một tiếng mà vội vã rảo bước vào thư phòng. Ta không biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng đó là lần đầu tiên ta thấy bộ dạng của anh trai mình thảm hại như vậy.

Tôi sững sờ, vì tôi cũng không ngờ Bát Tư Ba lại có lúc hoang mang, sợ hãi đến thế.

Kháp Na chìm trong hồi ức, ngọn nến bập bùng chiếu tỏa gương mặt như tạc khắc và ánh mắt xót xa, thương cảm của chàng:

- Đại cao sục sạo bới tìm trên giá sách của mình như một người điên. Huynh ấy vứt sách ngổn ngang dưới đất. Ta hốt hoảng, chạy đến giữ tay huynh ấy lại, huynh ấy bỗng gào lên đau đớn. Chiếc áo tăng ni bị ta kéo rách một miếng, để lộ những khớp tay của huynh ấy. Ta nhìn thấy một vết thương lớn, nhưng huynh ấy vội vàng che đi. Lúc đó, huynh ấy mới nhận ra sự có mặt của ta, và như gặp được vị cứu tinh, cứ ráo riết dồn hỏi rằng, nếu biết em gặp nguy hiểm, liệu ta có bằng lòng đánh đổi mười năm dương thọ để cứu em không. Ta khẳng khái đáp rằng, ta sẵn lòng, nhưng huynh ấy vẫn chưa chịu tin, nằng nặc buộc ta phải xác định chắc chắn… Dáng vẻ của huynh ấy lúc đó rất kỳ quặc. Lúc đầu là kinh ngạc, sau đó thì mỗi lời nói ra đều đượm vị xót xa, chua chát. Huynh ấy lúc bình tĩnh, khi điên lọan, hoàn toàn không phải là người anh trai mà ta biết trước đó. Sau cùng, như kẻ chấp nhận số phận, huynh ấy cho ta biết tình hình của em và chỗ ngôi nhà, thúc giục ta lên đường. Ta cuống cuồng trèo lên lưng ngựa, trước lúc phi đi, ta bỗng nghe thấy tiếng đồ đạc vỡ choang vẳng ra từ phòng huynh ấy. Nhưng vì vội đến cứu em, ta chẳng để tâm chuyện đó. Tinh mơ hôm sau, khi ta trở về phủ Quốc sư, Drakpa Odzer nói nhỏ với ta rằng, đại ca đã thức trắng đêm, đập vỡ tất thảy đồ đạc trong phòng. Hôm đó, huynh ấy tiều tụy, võ vàng đi trông thấy, ánh mắt lạnh như băng, Huynh ấy không hỏi và ta cũng không nói bất cứ lời nào. Nhưng ta biết, bắt đầu từ đây, giữa huynh đệ ta đã tồn tại một hố sâu ngăn cách, chẳng thể lấp đầy.

Chàng quay đầu nhìn về phía tôi, ánh mắt ngập nỗi day dứt:

- Tiểu Lam, sau chuyện đó, chúng ta biết rằng, cả hai đều đã yêu em.

Tôi thật sự bất ngờ. Bát Tư Ba chỉ kể lại rất qua loa chuyện đêm đó cho tôi nghe. Giờ đây, Kháp Na đã tặng cho tôi một phiên bản khác. Tôi cười buồn, chuyện đó chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Dù cho đêm đó, chàng đã dằn vặt, đau khổ ra sao thì sự thực vẫn là sự thực chàng đã chọn Phật Tổ chứ không phải tôi.

Tôi nắm lấy bàn tay Kháp Na, đạt lên ngực mình:

- Kháp Na, dù khi ấy đã xảy ra chuyện gì thì người đến với em đêm đó vẫn là chàng. Thực ra, không có chuyện hao tổn mười năm dương thọ gì cả, đó chỉ là những lời nói dối mà Khabi cố tình dựng lên để thử thách lòng dạ đàn ông mà thôi. Chàng đã vượt qua cuộc khảo nghiệm đó nên chàng sẽ là người mà cả đời này Lam Kha Mai Đóa yêu thương. Chàng biết không, loài hồ ly kết đôi rất ổn định, nói theo ngôn ngữ của loài người thì chính là: trọn đời trọn kiếp có nhau. Chàng và em đã thuộc về nhau, từ nay em xin trao thân gửi phận cho chàng.

Những dằn vặt, trăn trở rốt cuộc cũng tan biến trong mắt chàng, niềm vui rạng ngời như nắng xuân. Chàng kéo tôi vào lòng, siết chặt như thể sợ rằng chỉ cần khẽ buông lơi, tôi sẽ lập tức biến mất. Chàng nhấc bổng tôi lên, tiến về chiếc gường rộng. Sợi dây buộc tóc đã tuột tự lúc nào, mái tóc màu lam bồng bềnh xõa dài trên gối. Chàng thở gấp, lòng bàn tay nóng rãy, ánh mắt vằn vện những tia dục vọng, Nhưng chàng vẫn đủ kiên nhẫn để cởi bỏ từng lớp xiêm y của tôi. Chàng nâng niu cơ thể tôi như nâng niu báu vật quý giá nhất trên đời.

Đêm đó, bầu trời đêm ngàn sao lung linh, ánh trăng chiếu rọi khiến gương mặt chàng trở nên quyến rũ hơn bao giờ hết. Tôi nhớ mãi vầng trăng tròn vành vạnh đêm ấy. Đó là đêm trăng đẹp nhất mà tôi từng thấy.

- Tiểu Lam ơi… Tiểm Lam…

Hơi thở hổn hển, niềm hân hoan khoái lạc chẳng thể che đậy, chàng đan những ngón tay mình vào tay tôi, thầm thì gọi tên tôi, giọng nói dịu ngọt của chàng bao phủ lấy tôi. Suốt những tháng năm dằng dặc sau này, tôi vẫn không nguôi tưởng nhớ lại đêm tân hôn ngọt ngào, thiêng liêng ấy, bên tai tôi vẫn luôn văng vẳng tiếng gọi da diết của chàng: Tiểu Lam ơi… Tiểu Lam…

Chương 43

Kunga Zangpo và Zhuoma


“Tài sản chiếm được bằng thủ đoạn xấu xa,

Chẳng ai buồn công nhận;

Loài chó mèo ăn no rửng mỡ,

Vẫn vụng trộm như thường”

(Cách ngôn Sakya)

- Kháp Na, nghỉ một lát đã. - Tôi thủ thỉ âu yếm, hai tay chắn trước gương mặt nóng bỏng của chàng, ngăn cản bờ môi cuồng nhiệt của chàng. - Chàng chưa khỏi bệnh, cần giữ gìn sức khỏe.

- Em có thấy ta là kẻ tham lam, bao nhiêu cũng không đủ không?

Chàng không gạt tay tôi sang bên mà đặt một nụ hôn vào lòng bàn tay tôi, giọng nói nồng nàn:

- Tiểu Lam à, ta đã yêu em bao năm, nhưng chỉ dám âm thầm có em trong mơ, ta không tin nổi giờ đây lại được ôm em trong vòng tay thế này. Em biết không, ta chẳng kiềm chế được bản thân khi ở gần em. Mọi thứ nơi em đều khiến ta say mê, chẳng thể cưỡng nổi.

Tôi xoay người, kéo chăn quấn quanh mình, buột miệng:

- Những cũng đâu cần vội, chúng ta còn nhiều thời gian mà!

Chàng phì cười, sáp lại, kéo chăn ra, nâng niu gương mặt tôi trong lòng bàn tay, ánh mắt lưu luyến, hơi thở ấm nóng phả vào má khiến tôi chộn rộn. Giọng chàng mê ly như nước cam tuyền, bồng bềnh trôi bên vành tai tôi:

- Ta đồng ý, những hãy để ta yêu em thêm lần nữa, ta hứa đêm nay sẽ không chạm vào em nữa.

Và rồi tôi nhận ra, một người đứng đắn như Kháp Na cũng có lúc thất hứa. Kết quả của việc chàng hôn tôi lần nữa là: chàng kiềm chế không nổi. Những tiếp xúc đê mê của da thịt, hương thơm và hơi ấm của cơ thể, những lời đường mật quyến rũ thoang thoảng bên tai như thôi thúc, như gọi mời, nài nỉ, như mê hoặc, để sau đó tôi lại chiều ý chàng. Tôi thật là, chẳng bao giờ biết từ chối chàng. Nhưng tôi đã lén truyền linh khí cho chàng qua mỗi nụ hôn, để chàng không bị mất sức.

Tiếng gõ cửa nhè nhẹ đánh thức tôi từ cơn mộng mị miên man, mặt trời đã lên cao bằng cây sào, ánh nắng trải khắp căn phòng. Ngoài cửa, giọng nói cung kính của Kunga Zangpo vang lên:

- Thưa cậu chủ, tôi mang đồ ăn đến cho cậu.

Nói rồi, cậu ta đặt đồ ăn ngoài cửa, lẳng lặng rời đi.

Tôi cốc nhẹ vào đầu, vẫn còn cảm giác mê mệt. Trời ạ, tôi đã ngủ say đến vậy ư, thậm chí không nghe thấy tiếng bước chân ngoài cửa ư? Muốn ra khỏi giường, nhưng vừa nhổm dậy đã đổ “phịch” xuống, eo lưng mỏi rã rời. Kháp Na cũng tỉnh giấc, chàng chống tay nhổm dậy, cười nghiêng ngả, ánh mắt dịu dàng, đắm đuối như hồ nước mùa xuân. Chàng đặt tôi nằm lên gối, nhặt lấy chiếc áo ngủ màu bạc khoác lên người. Trông chàng có vẻ rất sảng khoái, dễ chịu, không còn dấu hiệu đau ốm của mấy ngày trước nữa.

Chàng bưng khay đồ ăn đến bên giường, chỉ cho tôi từng món:

- Em thấy không? Chúng ta có rất nhiều thức ăn.

Tôi chau mày, ngồi dậy:

- Vì sao mình mẩy em lại đau ê ẩm thế này? Lần trước em không hề có cảm giác gì cả.

Chiếc bát chững lại trong tay, chàng xấu hổ giải thích:

- Em biết không, ta đã mừng thầm vì em không có bất cứ ý niệm nào về chuyện đêm đó.

- Vậy chàng kể em nghe đi.

Tôi bỗng thấy tò mò, nũng nịu đòi chàng kể lại.

Nhưng chàng đỏ mặt và kiên quyết không chịu nói.

- Chuyện đó rất khó nói.

Tôi dẩu môi, vờ giận dỗi:

- Chàng bảo rằng sẽ không giấu em bất cứ chuyện gì kia mà!

Cuối cùng thì chàng đành chịu thua, ấp úng kể lại:

- Đó… đó là lần đầu tiên. Thực ra ta chỉ mới đọc trong sách vở và nghe các anh em, bạn bè khác kể lại. Trước đó, ta cũng từng có những giấc mơ xuân tình vụng trộm, những khao khát cháy bỏng, nhưng khi phải đối diện với em, đầu óc ta bỗng nhiên trống rỗng. Lúc ấy, ta vô vùng bối rối, lòng như lửa đốt, đầu óc căng như dây đàn, những tà niệm, những ý nghĩ xấu xa dồn đẩy bức bối, nhưng ta lại không biết phải làm sao để mọi việc được suôn sẻ. Và ta lại rất sợ em đột nhiên tỉnh lại, bắt gặp ta làm chuyện đáng xấu hổ đó. Thế nên, ta… ta…

Chàng không biết phải nói sao nữa, gương mặt chín đỏ, chỉ buông hờ hai tiếng:

- Rất nhanh…

Lúc đầu tôi còn chưa hiểu, phải mất một lúc lâu tôi mới bật cười ngặt nghẽo, thì ra, đàn ông cũng rất xem trọng chuyện đó. Thấy tôi cười, chàng càng bối rối, liền ghé sát vào tai tôi, gằn giọng:

- Em có muốn thử một lần nữa không?

Thấy chàng chuẩn bị chồm đến, tôi giật mình, vội giơ tay xin hàng:

- Em đói.

Chỉ có cách đó mới khiến chàng chịu tha cho tôi.

Sau khi rửa mặt, súc miệng xong xuôi, chúng tôi cùng nhau ăn sáng. Món canh hầm thịt cầu kỳ vừa thơm vừa ngậy, rất vừa miệng. Tôi vừa thưởng thức đồ ăn vừa thưởng thức chàng, bật cười khoan khoái. Ánh mắt chàng sao mà dịu dàng, nụ cười của chàng sao mà ngọt lịm, gương mặt chàng rạng rỡ, hoan hỉ. Căn bệnh như đã tiêu tan, chàng lấy lại phong độ phơi phới, vẻ khôi ngô, tuấn tú của chàng lúc nào cũng khiến tôi khao khát.

Rồi như chợt nhớ ra điều gì đó, chàng chạy lại đầu giường, lật đi lật lại bộ lễ phục chú rể, tìm ra miếng ngọc Linh hồn. Miếng ngọc lấp lánh màu mật rất đẹp, hai cạnh có lỗ nhỏ, để xỏ dây qua. Chàng bước đến trước mặt tôi, buộc miếng ngọc lên đỉnh đầu tôi, trịnh trọng tuyên thệ:

- Vợ của ta, xin em hãy gìn giữ linh hồn ta. Nếu một mai ta chết đi, ta sẽ xin Phật Tổ cho ta gửi gắm linh hồn vào miếng ngọc này, để ta được ở bên em mãi mãi.

Tôi vội lấy tay che miệng, trừng mắt nhìn chàng giận dỗi:

- Không được nói gở! Em không để chàng đoản thọ như vậy đâu.

Chàng mỉm cười, niềm hạnh phúc ngập tràn trong đáy mắt. Chúng tôi ngắm nhìn nhau, đan tay vào nhau, ánh mặt trời rực rỡ xuyên qua ô cửa, tràn vào phòng, chiếu lên không gian những đường nét lung linh, diệu ảo.

Chúng tôi đã ở lại rất lâu trong Lang Như Thư Lầu, chẳng buồn bước chân ra khỏi cửa. Ngày và đêm đã không còn ý nghĩa nữa, chỉ có người bên cạnh là sự tồn tại chân thực duy nhất. Chúng tôi gắn chặt lấy nhau giữa ngày đông giá lạnh để bù đắp những khoảng thời gian hoang phí trước đó. Khi trao trọn trái tim mình cho chàng, tôi mới biết rằng, hóa ra, tôi yêu chàng nhiều đến thế, yêu đến mức không muốn rời mắt khỏi chàng, dù chỉ trong khoảnh khắc, yêu đến mức sẵn sàng chịu đựng mấy trăm năm cô độc trong tương lai để đổi lấy niềm hạnh phúc vô tận ở hiện tại.

Cuộc sống bình lặng của chúng tôi đã đôi lần bị Kangtsoban làm cho xáo trộn. Nhưng mỗi lần cô nàng gào khóc đòi gặp Kháp Na, tôi lại biến phép khiến cô ngốc quên đi mục đích của chuyến viếng thăm mà ngoan ngoãn quay trở về. Lang Như Thư Lầu xinh đẹp là thế giới yêu đương của riêng chúng tôi, chỉ thuộc về chúng tôi mà thôi. Ban ngày, lúc Kháp Na đọc sách, tôi sẽ lặng lẽ ngồi bên chàng. Chốc chốc, chàng lại ngẩng lên nhìn tôi, và thường thì chàng sẽ buông sách xuống, bước đến hôn tôi, vui đùa cùng tôi. Buổi tối luôn là những đêm hoan lạc miên man, chàng chỉ chịu ngừng lại khi kiệt sức.

Những ngày môi ấp má kề, yêu đương quấn quýt kéo dài hơn một tháng. Suốt thời gian đó, Kháp Na luôn trong trạng thái tinh thần khoan khoái, dễ chịu, gương mặt rạng ngời hạnh phúc. Chàng khỏe lại rất nhanh.

Đúng lúc chúng tôi chừng như đã quên hết thảy mọi sự đời, trong mắt người này chỉ tồn tại duy nhất hình bóng ngọt ngào của người kia thì năm mới 1266 theo lịch Tạng đến gần. Mấy ngày trước thềm năm mới, dù không muốn chút nào, nhưng vì là nhân vật quan trọng thứ hai ở Sakya, chàng buộc phải chủ trì một số nghi lễ chúc Tết. Chàng tấm tức rời gót khỏi Lang Như Thư Lầu, nhưng việc làm đầu tiên là đưa tôi (trong hình hài hồ ly) đi cùng. Hai chúng tôi cùng bước vào phòng Bát Tư Ba.

- Đại ca, huynh sao vậy?

Mới hơn một tháng không gặp, cơn cớ gì Bát Tư Ba lại tiều tụy nhường này? Có lẽ đã ba, bốn ngày chàng không buồn cạo râu, mắt thâm quầng như mắt gấu trúc, nếp nhăn trên trán càng thêm sâu, gương mặt hốc hác đến dễ sợ. Con người trước mắt tôi đây hoàn toàn không phải vị pháp sư đạo mạo, trác tuyệt thường ngày.

Kháp Na ra hiệu cho Dampa ra ngoài, trong phòng chỉ còn lại ba chúng tôi, lúc đó, chàng mới lo lắng hỏi han:

- Đại ca, huynh đã thức trắng nhiều đêm và không ăn không uống nhiều ngày phải không?

Bát Tư Ba mệt mỏi đáp:

- Không sao, chẳng chết ngay được đâu!

Cả tôi và Kháp Na cùng sững sờ, Bát Tư Ba ứng xử nhã nhặn, đúng mực, chưa bao giờ buông lời tùy tiện, vì sao hôm nay lại như vậy? Kháp Na lặng lẽ quan sát anh trai hồi lâu, buồn bã cúi đầu:

- Đại ca, huynh có biết, trên đời này, người đau lòng nhất khi phải nghe những lời đó là đệ không?

Chừng như biết mình lỡ lời, Bát Tư Ba vội nói:

- Ta xin lỗi đã khiến đệ lo lắng. Đúng là đã nhiều đêm ta không sao yên giấc, đều là vì cái này đây.

Chàng khoát tay ra hiệu cho Kháp Na lại gần. Kháp Na đến bên thư án, Bát Tư Ba trải rộng lên mặt bàn một tấm bản đồ, trên đó kẻ vẽ, đánh dấu rất chi tiết vị trí của các công trình kiên cố, đồ sộ trong phạm vi một thành trì. Kháp Na kinh ngạc thốt lên:

- Đây là…

Bát Tư Ba gật đầu chắc nịch:

- Đây chính là thành trì của phái Sakya trong tương lai. Sau khi thiết kế ổn thỏa, ta sẽ cử người đi Thiên Trúc và Nepol[1] mời về đây những người thợ tài giỏi nhất, giúp chúng ta kiến tạo thành trì này.

1. Nepol: tức Nepal ngày nay.

Kháp Na ghé mắt thật sát để xem xét tấm bản đồ và ngay lập tức, chàng đã nhận ra điểm khác lạ:

- Công trình này sẽ không giống ngôi đền Sakya xây dựng trên lưng chừng núi. Với quy mô và bố cục lớn thế này, chúng ta nhất định phải xây dựng tên mặt đất bằng phẳng.

Khóe môi Bát Tư Ba lấp ló nét cười, ánh mắt lộ vẻ vui sướng:

- Thành trì tương lai của giáo phái sẽ được xây dựng ở Samdruptse. Nơi đó là lũng sông, địa thế bằng phẳng nên ta phải thiết kế như vậy.

- Một tòa thành hùng vĩ!

Kháp Na không kìm nổi sự phấn khích:

- Đại ca, đệ có thể giúp gì cho huynh?

- Đệ không cần phải bận tâm về việc này. Chờ khi thợ thuyền tập trung đầy đủ, vật liệu chuẩn bị tươm tất, nhanh nhất cũng phải sang năm mới có thể động thổ. Việc cần kíp trước mắt đối với đệ là…

Chàng đưa mắt về phía tôi, hít một hơi thật sâu, ánh mắt chứa đựng nhiều ý tứ:

- Người thừa kế của giáo phái phải mau chóng ra đời.

Cả tôi và Kháp Na đều đỏ mặt. Chàng ấp úng:

- Kìa đại ca, mới hơn một tháng, huynh sốt ruột gì chứ!

Bên ngoài có tiếng bước chân gấp gáp, tiếng Dampa vang lên:

- Thưa đại tiểu thư, pháp vương và Bạch Lan Vương đang bàn việc, không gặp bất cứ ai.

- Tránh ra, ta có việc vô cùng cấp thiết cần gặp đại ca!

Tôi không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra giọng nói đầy hoang mang, lo lắng của trưởng nữ nhà họ Khon - Zhouma. Sau khi trở về Sakya, anh em Bát Tư Ba chỉ giữ mối quan hệ xã giao, không quá thân thiết với các anh chị em cùng cha khác mẹ. Zhouma là quả phụ nên sống trong đền Sakya cùng dì ba, vì vậy thường ngày cô ấy gặp gỡ anh em Bát Tư Ba nhiều hơn các anh chị em khác. Zhouma là người phụ nữ hiểu biết, lễ độ, nếu không có việc gì nghiêm trọng, chắc chắn cô ấy không kiên quyết đòi gặp Bát Tư Ba như vậy.

Nghe thấy tiếng ồn bên ngoài, Bát Tư Ba ngẩng lên nhìn Kháp Na rồi đích thân ra mở cửa. Tôi lập tức trở lại nguyên hình. Zhouma đang khổ sở van nài, đầu bù tóc rối, bộ dạng rất đáng thương. Vừa trông thấy Bát Tư Ba, cô liền lao đến, nắm chặt tay áo anh trai:

- Đại ca, cầu xin huynh mau đi cứu Kunga Zangpo!

Kháp Na thất kinh:

- Kunga Zangpo làm sao?

Zhouma lo lắng, bật khóc:

- Huynh ấy bị dì năm ra lệnh treo lên cột nhà để tra tấn. Hai người mau đi cứu huynh ấy. Bằng không, với tính khí của dì năm, rất có thể huynh ấy sẽ bị đánh cho đến chết!

Hai huynh đệ mặt mày biến sắc, vội rảo bước theo Zhouma. Bát Tư Ba vừa đi vừa hỏi:

- Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?

Kháp Na bừng bừng nộ khí:

- Kunga Zangpo là người hầu của đệ, dì năm có tư cách gì mà đánh cậu ta? Dù cậu ta có phạm phải tội lỗi tày trời đi nữa, cũng phải thông báo với đệ một tiếng chứ?

Zhouma đỏ mặt, e thẹn cúi đầu:

- Tất cả tại muội. Muội và huynh ấy… Dì năm đã bắt gặp…

Bát Tư Ba băn khoăn:

- Muội và cậu ta?

Nhìn điệu bộ ấp úng, thẹn thùng của Zhouma, Kháp Na chừng như đã đoán ra:

- Lẽ nào chị và cậu ta có tình cảm với nhau?

Tuy vẫn đỏ mặt ngượng ngùng nhưng Zhouma gật đầu thừa nhận không chút sợ hãi. Thấy Bát Tư Ba cau mày, cô ấy vội vàng giải thích:

- Chúng tôi không yêu đương lén lút, vụng trộm. Chúng tôi thật lòng đến với nhau!

Chúng tôi vừa nói vừa bước đến cửa phòng chứa củi, tiếng roi vọt và tiếng kêu gào vọng ra. Kháp Na nhanh tay đẩy cửa, quát lớn:

- Dừng tay!

Hai thanh niên lực lưỡng đang ra sức quất roi. Kunga Zangpo bị trói vào cột nhà, máu me loang lổ khắp người! Kháp Na xông vào, trừng mắt nhìn dì năm đang đứng bên cạnh:

- Chuyện gì thế này?

Dì năm không ngờ anh em Bát Tư Ba lại đến nhanh như vậy, sợ hãi lùi về phía sau nhưng vẫn hung hăng chỉ vào Kunga Zangpo, mạt sát:

- Tên nô bộc đê tiện này giám giở trò với đại tiểu thư của giáo phái, bị ta bắt quả tang.

Kunga Zangpo lắc đầu yếu ớt, hướng cặp mắt cầu cứu về phía Kháp Na:

- Thưa cậu chủ, không phải vậy!

Dì năm lớn tiếng xỉa xói:

- Ngươi còn dám chối à? Ngươi ôm ấp Zhouma, định giở trò đồi bại, bị ta bắt gặp mà vẫn còn chối à?

Trông thấy thảm cảnh của Kunga Zangpo, Zhouma òa khóc nức nở, giọng nói của cô ấy như xé ruột xé gan:

- Tôi đã nói với dì bao nhiêu lần rồi, tôi tự nguyện kia mà!

Kháp Na bước đến, cởi trói cho Kunga Zangpo, tức giận nói:

- Dù cậu ta có làm điều sai trái, dì chỉ cần báo với tôi một tiếng là được. Ai cho phép dì thay tôi dạy dỗ người hầu của tôi?

Dì năm chống tay vào hông, vênh váo:

- Hơn hai mươi năm các cậu không ở Sakya, ta chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ Dugong [2] của giáo phái. Dù nó có là người hầu thiết thân của Bạch Lan Vương đi nữa thì nó vẫn là nô lệ của phái Sakya, lẽ nào ta không có quyền quản lý? Ta phải dằn mặt nó, để nó chớ tưởng rằng, là người hầu tâm đắc của cậu thì có thể tùy tiện đụng đến tiểu thư nhà chủ. Ta không cho phép bất cứ sự ngỗ ngược, vô lễ nào diễn ra ở phái Sakya này. Hôm nay, ta nhất định phải đánh gãy chân nó, vứt lên núi cho chó sói gặm!

2. Dugong (đôi cùng): chỉ các hộ dân nhỏ, sau khi mất hết tài sản, phải bán thân cho địa chủ, địa vị xã hội vô cùng thấp kém.

Bát Tư Ba cau mày, nhìn mụ ta bằng ánh mắt ghê sợ:

- Dì năm, ta mới là chủ nhân của giáo phái, chuyện này dì không định đoạt được.

Lúc này, dì ba cùng mấy cô hầu gái cũng vừa tới nơi. Dì ba tuổi tác đã cao, vì chạy vội nên thở hồng hộc. Bị Bát Tư Ba cho ăn quả đắng, dì năm quay ra hằn hộc với dì ba:

- Chị ba, tôi đã căn dặn chị phải trông nom Zhouma cẩn thận kia mà. Chị làm gì mà để con gái tự tung tự tác, gây tiếng xấu cho cả họ thế?

Dì ba vừa thở hổn hển vừa ấp úng:

- Nó đã trốn đi nhân lúc tôi sơ ý, không để mắt đến. Em năm cũng biết tính tình ương bướng, ngang ngạnh của nó rồi đấy.

Zhouma lao đến chắn trước mặt Kunga Zangpo, dang rộng hai tay bảo vệ cậu ta:

- Chính tôi đã mồi chài anh ấy, vì tôi yêu anh ấy và muốn lấy anh ấy !

Dì năm được thể châm chọc dì ba:

- Chị xem cô con gái cưng của chị kìa! Đường đường là một tiểu thư giáo phái Sakya lại đi thích một tên Dugong hèn hạ. Giấy bán thân của nó vẫn nằm trong tay giáo phái chúng ta đó!

Dì ba không biết phải nói sao, chỉ cúi đầu xấu hổ. Người Tạng tuy rất phóng khoáng trong chuyện nam nữ nhưng tầng lớp quý tộc lại hết sức coi trọng chuyện môn đăng hộ đối. Thường dân người Tạng chỉ có tên mà không có họ, chỉ có giai cấp quý tộc mới được mang họ. Ví như dòng họ cai quản phái Sakya là họ Khon. Họ đặt trước tên chính là tiêu chí để nhận biết tầng lớp quý tộc ở đất Tạng. Gia đình vương giả nào không có con trai, có thể tìm người ở rể, người đó sẽ mang họ nhà vợ, một bước lên mây, từ đây thoát khỏi tầng lớp thấp hèn. Nhưng cũng chính vì vậy, các gia đình quý tộc tuyệt đối không muốn gả con gái mình cho những người tầng lớp thấp hơn, chưa nói đó lại còn là một Dugong phải bán thân bởi đó sẽ là sự sỉ nhục vô cùng lớn.

Kunga Zangpo muốn đẩy Zhouma ra, cúi đầu khóc than:

- Không phải lỗi của tiểu thư Zhouma đâu, tất cả là tại tôi, tôi xin nhận mọi hình phạt.

- Đừng nói nữa! - Kháp Na nghiêm nét mặt, quay lại hỏi Zhouma. - Chị Zhouma, tôi hỏi chị, chị có thật lòng với cậu ấy không? Chị có sẵn sàng từ bỏ địa vị đại tiểu thư phái Sakya để đi theo cậu ấy, suốt đời chịu khổ không?

Zhouma nhác thấy một con dao bổ củi dựng ở góc tường, liền lao đến, cầm con dao lên, chặt đứt ngón tay mình không hề do dự. Sự việc diễn ra quá nhanh khiến tất cả chúng tôi trở tay không kịp. Một nửa ngón tay út của cô ấy rơi xuống đất, nhưng cô ấy bất chấp máu tươi phun trào, vẫn ngẩng cao đầu, khóe môi nở một nụ cười thê lương:

- Tôi sẵn sàng! Tôi yêu con người của anh ấy, không màng đến thân phận, địa vị của anh ấy. Dù giáo phái có từ chối, xua đuổi, dồn tôi đến cùng cực, chỉ cần được bên cạnh anh ấy, có chết tôi cũng cam lòng!

Hành động của Zhouma khiến ai nấy đều bất ngờ và hoảng sợ. Kunga Zangpo khóc nấc lên:

- Zhouma, đừng làm vậy…

Bát Tư Ba vội lệnh cho người hầu đi mời thầy thuốc. Dì ba đau xót lắc đầu:

- Hắn có gì tốt đẹp mà khiến con mê muội như vậy?

Zhouma gạt tất cả các hầu gái muốn lại gần chăm sóc vết thương cho cô sang một bên, đặt con dao bổ củi lên cổ, gào lên thảm thiết:

- Mẹ ơi, con đã mang trong mình dòng máu của anh ấy. Nếu mẹ không chịu tác thành cho chúng con, con sẽ chết cùng đứa con này. Con nói là sẽ làm!

Dì ba sợ tái mặt, vội xua tay, gật đầu:

- Mẹ đồng ý. Nhưng con phải suy nghĩ cho kĩ, nếu con không còn là đại tiểu thư phái Sakya nữa thì con cái của con cũng sẽ là Dugong, chúng sẽ phải làm thân trâu ngựa suốt đời ở giáo phái này!

Kháp Na quay sang dì ba, cất giọng điềm tĩnh:

- Dì ba, nếu Kunga Zangpo không còn là Dugong nữa, liệu dì có chấp nhận cậu ta là con rể của dì không?

Tất cả chúng tôi đều ngỡ ngàng. Kháp Na nhanh chóng rời khỏi phòng chứa củi, trước khi đi chỉ để lại một câu:

- Mọi người chờ tôi ở đây!

Chàng quay lại sau khoảng một tuần hương. Chàng mang theo giấy bán thân của Kunga Zangpo, đốt bỏ trước mặt mọi người rồi vỗ vai Kunga Zangpo:

- Kunga Zangpo, từ nay cậu là người tự do. Chỉ cần cậu đối xử tốt với chị gái của ta, ta đảm bảo, không ai ở Sakya dám coi thường hai người.

Kunga Zangpo, mắt đỏ hoe, xúc động:

- Cậu chủ…

Kháp Na mỉm cười:

- Kìa anh rể, đừng gọi ta là cậu chủ nữa!

Kunga Zangpo lập tức quỳ xuống, dập đầu trước Kháp Na:

- Cậu mãi mãi là cậu chủ của tôi, cho dù giấy bán thân đã được đốt bỏ nhưng Kunga Zangpo này xin thề với Phật Tổ, tính mạng của tôi mãi mãi thuộc về cậu!

Bát Tư Ba nghiêm giọng:

- Được rồi, chuyện này kết thúc ở đây. Trước Tết chúng ta sẽ tổ chức hôn lễ cho Kunga Zangpo và Zhouma. Kể từ bây giờ, Kunga Zangpo không còn là Dugong nữa mà đã trở thành thành viên của dòng họ Khon.

Kunga Zangpo và Zhouma vui mừng khôn xiết, Kháp Na cũng mừng thay cho họ. Cậu ta không còn mang thân phận nô lệ nữa, dì ba đành miễn cưỡng chấp nhận. Chỉ có dì năm không nguôi tức tối, cay cú. Bà ta vốn định mượn cớ này dằn mặt Kháp Na, nào ngờ sự thể lại thay đổi chóng mặt không theo ý bà ta. Kunga Zangpo nhờ thế mà một bước lên mây.

Kunga Zangpo hơn Bát Tư Ba hai tuổi, cha mẹ mất sớm, năm lên mười bị người cậu bán cho phái Sakya. Ngài Ban Trí Đạt nhận thấy cậu bé nhỏ tuổi mà chín chắn, chững chạc, bèn sắp xếp để Kunga Zangpo theo hầu Kháp Na. Lúc đến Lương Châu, cậu ta mời mười hai tuổi nhưng đã chăm sóc Kháp Na rất mực chu đáo. Kunga Zangpo rất thông minh, trong những năm tháng đi theo Kháp Na, cậu ta đã tự mày mò học chữ, đọc sách. Cậu ta cũng rất tháo vát, năng nổ, phàm việc gì không cần chỉ dẫn tận tình vẫn có thể hoàn thành đâu ra đấy. Hơn hai mươi năm qua, dù đi đến đâu, Kháp Na cũng đưa cậu ta đi cùng. Đối với chàng, cậu ta là người đáng tin cậy nhất, chỉ sau Bát Tư Ba.

Hồi còn ở Lương Châu, Kháp Na đã không ít lần mai mối cho Kunga Zangpo. Tuy là Dugong, nhưng với thân phận người hầu con rể Khoát Đan, Kunga Zangpo hoàn toàn có thể tìm cho mình một thiếu nữ con nhà tử tế làm vợ. Ban đầu, Kháp Na định mai mối cho cậu ấy con gái của một hộ nông dân trong nội thành Lương Châu, nhưng đúng lúc ấy, Kháp Na lại phải về Yên Kinh, vì không muốn lỡ dở chuyện trăm năm của cô gái, Kunga Zangpo đã khéo léo khước từ. Sau khi về Yên Kinh, Kháp Na được phong làm Bạch Lan Vương, ngày càng nhiều người muốn nhận Kunga Zangpo làm con rể. Thời gian ấy, Kunga Zangpo cũng từng có tình cảm với con gái một ông chủ tiệm gạo, nhưng đúng lúc hai bên đang bàn chuyện cưới hỏi thì Mukaton qua đời. Kunga Zangpo từ biệt cô gái và lên đường theo Kháp Na trở về Lương Châu.

Kunga Zangpo tuổi tác đã lớn, vậy mà chuyện hôn nhân năm lần bảy lượt đều không thành, điều này khiến Kháp Na không khỏi áy náy. Nhưng Kunga Zangpo chưa bao giờ than phiền, cậu ta biết sớm muộn Kháp Na cũng quay về Sakya nên quyết tâm không thành thân nữa. Năm nay câu ta đã ba mươi tư tuổi, bằng tuổi Zhouma. Thấy hai người yêu thương nhau sâu sắc như vậy, Kháp Na lấy làm mừng và quyết tâm tác thành cho họ, đồng thời cũng nhân cơ hội này, giúp Kunga Zangpo thoát khỏi thân phận nô lệ.

Không có Kháp Na, sẽ không có vị bản khâm đời thứ hai của giáo phái Sakya - Kunga Zangpo.

***

Tôi để chén trà giữa lòng tay để lấy hơi ấm, thư thả nói:

- Hơn hai trăm năm qua, đền Sakya luôn là một công trình kiến trúc được xây dựng trên lưng chừng núi, đó cũng là phong cách xây dựng đền đài của hầu hết các giáo phái ở Tây Tạng. Nhưng trung tâm hành chính tương lai của đất Tạng mà Bát Tư Ba muốn xây dựng không thể phỏng theo kiến trúc ấy.

Chàng trai trẻ ngẫm ngợi:

- Ngài ấy muốn xây dựng cả một thành trì giống như vương triều Tufan xây dựng thành trì ở La-ta, chứ không phải chỉ là một ngôi đền, đúng không?

- Chính xác!

Tôi gật đầu, nhấp một ngụm trà, nói tiếp:

- Sau khi vương triều Tufan sụp đổ, các giáo phái đua nhau mọc lên như nấm, thời đó xuất hiện một quan niệm phổ biến rằng, cần thiết phải xây dựng đền đài để thu hút và hiệu triệu tín đồ, dân chúng. Nhưng sau nhiều năm sinh sống trên đất Hán, Bát Tư Ba nhận thấy phương cách xây dựng thành trì, tập trung dân cư và thiết lập hệ thống quan lại là phương thức cai trị rất hiệu quả. Bởi vậy, chàng đã quyết định sẽ kiến tạo thành trì tương lai của phái Sakya theo mô hình kiến trúc thành phố.

Chàng trai trẻ nhìn tôi băn khoăn:

- Nhưng theo tôi được biết, về sau Bát Tư Ba đã không xây dựng thành trì ở Shigatse, có chuyện gì xảy ra vậy?

Câu hỏi ấy tựa muôn nghìn cây kim nhọn cắm sâu vào lục phủ ngũ tạng của tôi, bất giác tôi phải cúi gập người để chống chọi với cơn đau dồn dập ấy. Lúc lâu sau tôi mới đáp lời:

- Bởi vì sau đó đã xảy ra rất nhiều chuyện.

Chương 44

Tình yêu bên hồ Yamdrok-tso

“Phải biết nhìn xa trông rộng về tương lai,

Phải biết nhẫn nại, kiên trì trước trở ngại;

Cứ miệt mài nỗ lực không ngừng nghỉ,

Người nô lệ cũng có ngày làm quan lớn.”

(Cách ngôn Sakya)

Năm 1266, tức năm Bính Dần, m Hỏa theo lịch Tạng, tức niên hiệu Hàm Thuần thứ hai, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ ba, Mông Cổ.

Bát Tư Ba ba mươi hai tuổi, Kháp Na hai mươi tám tuổi.

Đám cưới của Kunga Zangpo và Zhuoma được tổ chức nhanh gọn trước Tết. Kunga Zangpo vốn là trẻ mồ côi, trước đây lại từng là Dugong. Zhuoma cũng đã có một đời chồng và đây là lần tái hôn, cô ấy lại đang mang bầu nên cả hai đều muốn tổ chức đơn giản, không phô trương. Họ chỉ mời bà con, bạn bè thân thiết ăn một bữa cơm thân mật. Hôn lễ diễn ra rất đạm bạc, giản dị. Từ đây, Kunga Zangpo trở thành em rể của pháp vương phái Sakya, anh rể của Bạch Lan Vương, thân phận và địa vị khác trước một trời một vực. Bát Tư Ba cho phép vợ chồng họ tiếp tục trú ngụ trong đền Sakya, ban cho họ một căn nhà rộng rãi, còn tặng cho họ vùng Khanochang giáp Gyantse. Vùng đất này là một khu đất ruộng màu mỡ với mấy trăm hộ dân. Để đáp lại ân tình sâu nặng của Kháp Na, Kunga Zangpo vẫn tiếp tục duy trì quan hệ cậu chủ - đầy tớ với Kháp Na và tận tâm hầu hạ chàng.

Năm mới 1266 theo lịch Tạng là cái Tết đầu tiên của pháp vương Bát Tư Ba ở Sakya sau hai mươi mốt năm. Vì thế, toàn thể thành viên của giáo phái nhận được lệnh tổng động viên, chung sức chung tay dọn dẹp, trang hoàng tươm tất. Họ tất bật thay rèm cửa, dùng bột màu trắng trang trí những hình vẽ biểu tượng cho sự tốt lành, may mắn trước cửa nhà, trên xà nhà và trên nền đất nhà bếp. Không khí tưng bừng, náo nức khắp nơi. Các cô gái cùng nhau chế biến Kasai[1] với đủ mọi hình thù khác nhau rồi nhuộm màu, bọc đường cát và đặt lên các bàn thờ. Hương thơm lan tỏa bốn phía khiến ai nấy đều nuốt bọt ừng ực.

1. Một loại bánh ngọt làm từ dầu bơ.

Đêm Giao thừa, Bát Tư Ba, Kháp Na và nàng dâu mới Kangtsoban trong trang phục lộng lẫy cùng đến các đại điện làm lễ dâng dầu bơ và nước thánh. Nghi lễ trang nghiêm này thiếu chút nữa đã bị nàng ngốc Kangtsoban phá hỏng. Cô nàng chỉ ngoan ngoãn được một lúc, bởi vì các thao tác của nghi lễ lặp đi lặp lại nhiều lần khiến Kangtsoban cảm thấy khó chịu, ngay cả Kháp Na cũng chẳng dỗ dành nổi. Sau cùng, Kháp Na đành sai cô hầu gái đưa Kangtsoban ra ngoài chơi ú tim, để được yên ổn cùng Bát tư Ba và tôi hoàn thành những nghi lễ còn lại.

Mồng Hai Tết, bà con họ hàng đến nhà nhau chúc mừng năm mới. Đền Sakya mời các nghệ sĩ người Tạng đến biểu diễn vở Đức vua Gelsall trên một khoảng sân rộng phía trước điện chính Kunga Nyingpo, người dân ở những vùng lân cận nô nức kéo đến xem. Bầu không khí náo nhiệt ấy khiến Kangtsoban rất thích thú, Kháp Na phải ra sức kéo cô nàng đi mới xong. Bởi vì theo tục lệ của người Tạng, năm đầu tiên sau khi kết hôn, nàng dâu phải về nhà mẹ đẻ cùng chồng. Dù không muốn, Kháp Na vẫn phải giữ gìn quan hệ với Shalu, không thể thất lễ.

Bát Tư Ba không yên lòng nên đã cùng Kháp Na đến trang viên Shalu. Gặp mặt đầu xuân vốn là lễ tiết không thể thiếu, có điều, Kháp Na vô cùng khó chịu khi Jichoi tìm đủ mọi cách chen vào cuộc chuyện trò với chủ đề mà chàng không muốn nghe đến nhất.

- Ta thấy con hồng hào, tráng kiện, hẳn là đã hết bệnh. Theo ta, không cần chờ qua Tết, hãy chọn ngày lành tháng tốt làm lễ động phòng sớm đi.

Lúc nói ra những lời này, đôi mắt ti hí lọc lõi của Jichoi đảo khắp lượt.

Kháp Na cúi đầu ho vài tiếng:

- Thầy thuốc bảo bệnh của con vẫn chưa khỏi hẳn, cần tĩnh dưỡng thêm ít bữa nữa.

Jichoi nở nụ cười đầy hàm ý, đưa mắt quan sát thật kĩ gương mặt của Kháp Na.

- Vậy sao? Hai người vợ của con đã qua đời nhiều năm, con còn chưa đầy ba mươi tuổi, đang ở vào thời kỳ thanh xuân, hừng hực nhựa sống. Vậy mà con cứ muốn giam mình trong phòng, làm bạn với chăn đơn gối chiếc sao? Điều này thật khiến người ta khó hiểu.

Kháp Na sa sầm nét mặt, định lên tiếng thì Bát Tư Ba đã ngăn lại. Bát Tư Ba khách sáo đáp lễ Jichoi:

- Xin ông thông gia đừng sốt ruột. Rồi đây, chúng tôi sẽ cho vời danh y đến xem bệnh, nếu danh y kết luận Bạch Lan Vương đã hoàn toàn bình phục, chúng tôi sẽ tổ chức lễ động phòng cho vợ chồng đệ ấy. Ngài nên biết rằng, phái Sakya mong chờ ngày ra đời của người thừa kế hơn bất cứ ai.

Jichoi bật cười sảng khoái:

- Nhưng cũng đừng để chúng tôi chờ lâu quá. Qua Tết, ta sẽ cùng danh y vùng Tiền Tạng – Gasangzhabu – đi Sakya một chuyến. Nghe nói, ông ta khám cho đôi vợ chồng nào là y rằng sẽ sinh được con trai.

Kháp Na lặng yên không nói, chốc chốc lại nghiêng đầu sang bên ho khan một hồi. Những ngày sau đó, Kháp Na tỏ ra mệt mỏi, chán chường, không muốn ở lại Shalu thêm nữa. Bát Tư Ba bèn kiếm cớ, cáo từ Jichoi, trở về Sakya trước hạn định. Vừa về đến nơi, Bát Tư Ba nhận được tin vui bất ngờ: Senge đã trở về!

Tết năm ngoái, khi còn ở La-ta, Segen chủ động đề nghị Bát Tư Ba để cậu ta đích thân đưa thư cho Hốt Tất Liệt. Mới đó mà đã một năm và hôm nay Senge đã trở về, mang theo ý chỉ của Hốt Tất Liệt. Theo hành trình thông thường, đường đi một chiều từ Đại Đô đến Sakya phải mất đứt một năm, vậy mà Segen đã dùng khoảng thời gian đó để hoàn tất cả hai chặng đi và về. Điều này chứng tỏ quyết tâm rất lớn của Segen.

Trời đang mưa tầm tã, hơi lạnh căm căm. Bát Tư Ba đang nghiên cứu tỉ mỉ thánh chỉ của Hốt Tất Liệt trong phòng riêng, vẻ mặt chàng rất mực căng thẳng. Kháp Na vừa hồi hộp vừa lo lắng:

- Đại hãn viết gì vậy?

Bát Tư Ba đặt thánh chỉ của Hốt Tất Liệt xuống, chậm rãi nói:

- Phái Drikung muốn ta cắt ba nghìn hộ ở La-ta, chuyển thành cư dân Lad cho họ, nhưng Đại hãn không đồng ý mà lệnh cho ta chuyển số hộ dân đó thành cư dân Mid phải đóng thuế cho nhà nước. Không chỉ có vậy, Đại hãn cho rằng thế lực phái Drikung quá lớn mạnh, lệnh cho ta phải cắt các hộ dân của phái này và phái Phaktru chuyển thành cư dân Mid nhiều hơn nữa. Các vạn hộ hầu khác thì chia cư dân Mid và cư dân Lad theo tỷ lệ 4:6, riêng đối với hai phái Drikung và Phaktru, phải đổi ngược lại thành 6:4.

Kháp Na thở dài:

- Phái Drikung và Sakya vốn hiềm khích từ lâu, phái Phaktru cũng chỉ bằng mặt mà không bằng lòng với chúng ta. Chiếu thư này sẽ càng khiến bọn họ căm hận chúng ta hơn.

Tôi băn khoăn:

- Nhưng chiếu thư là Đại hãn ban kia mà.

Kháp Na lắc đầu:

- Hai giáo phái ấy sao dám oán thán Đại hãn? Chắc chắn họ sẽ cho rằng tất cả là do đại ca sắp bày.

Bát Tư Ba chắp tay sau lưng, vẻ mặt tư lự:

- Đệ không cần phải lo chuyện đó, tập trung mà đối phó với Jichoi đi! Bố vợ của đệ gửi thư báo rằng đã mời được danh y Gasangzhabu, chỉ vài hôm nữa họ sẽ đến Sakya.

Kháp Na tối sầm mặt mũi, quay đầu qua hướng khác. Bát Tư Ba thở dài:

- Kháp Na, cứ kéo dài mãi thế này cũng không phải cách hay. Jichoi chắc chắn sẽ không để yên, ông ta sẽ huy động mọi lực lượng, tìm đủ mọi cách để ép đệ và Kangtsoban sinh con.

Kháp Na bật dậy, lao ra khỏi phòng anh trai. Cả Bát Tư Ba và tôi đều ngỡ ngàng, vội đuổi theo chàng, Bát Tư Ba không quên cầm theo chiếc ô đi mưa dựng ở góc tường.

Kháp Na chạy đến khu vườn bên ngoài phòng ngủ, dang rộng hai tay đón những giọt nước mưa và cái rét cắt da cắt thịt. Bát Tư Ba mở ô, chạy lại, tôi vội vã hóa phép làm một chiếc lán che mưa trên đầu chàng rồi lao đến bên chàng:

- Kháp Na, chàng không thiết sống nữa sao?

Kháp Na nằng nặc đòi thoát khỏi lán che mưa đó, gạt tôi sang bên:

- Tiểu Lam, cứ mặc ta. Ta phải làm vậy để dễ bề đối phó với Jichoi.

Bát Tư Ba nổi giận:

- Kháp Na, đừng lấy sức khỏe của bản thân ra làm trò đùa! Dù không muốn vì ta, vì giáo phái thì cũng đừng khiến cho Lam Kha phải lo lắng chứ!

Lời này của Bát Tư Ba quả nhiên có tác dụng. Kháp Na sững sờ, hốt hoảng kéo tôi vào lòng, siết chặt:

- Tiểu Lam ơi, cả đời này ta chỉ yêu mình em!

Bát Tư Ba ngoảnh mặt đi. Kháp Na vẫn ôm tôi thật chặt, gào lên:

- Đại ca, huynh biết rõ đệ không thể thân mật với cô ấy kia mà! Cho dù cô ấy là cô gái hoàn toàn khỏe mạnh đi nữa, đệ cũng không thể!

- Kháp Na, ta hiểu chứ, ta sẽ không ép đệ phải chung sống với người con gái mà đệ không yêu.

Bát Tư Ba nhìn thẳng vào em trai, bình tĩnh nói:

- Kháp Na, hãy đưa Lam Kha đi khỏi Sakya một thời gian!

Kháp Na kinh ngạc, buông tôi ra:

- Đi đâu?

- Đến bất cứ nơi đâu hai người muốn.

Bát Tư Ba thở dài ảo não.

- Kháp Na, vào trong phòng rồi bàn tiếp. Đứng mãi trong mưa thế này, đệ sẽ ốm đó.

Chúng tôi vào phòng. Tôi vội vã hong khô bộ y phục đã ướt nhẹp của Kháp Na, đỡ chàng ngồi xuống bên lò sưởi, rót trà bơ nóng hổi cho chàng. Bát Tư Ba nhìn tôi bận rộn, cuống quýt, ánh mắt đượm buồn.

- Ở lại Sakya, hai người chỉ có thể giam mình trong Lang Như Thư Lầu, vì ra khỏi đó Lam Kha sẽ phải biến hình. Cuộc sống ở nơi này quá nhiều áp lực với hai người. Chi bằng hãy đến một nơi xa xôi, để hai người có thể bình yên bên nhau, tận hưởng những tháng ngày hạnh phúc lứa đôi.

Kháp Na chìa tay ra sưởi ấm, vui mừng ngẩng lên:

- Đại ca nói rất trúng ý đệ. Từ lâu đệ đã muốn đưa Tiểu Lam đến hồ Yamdrok-tso, cô ấy rất thích nơi đó.

Chàng hơi ngừng lại, nhìn về phía gương mặt tiều tụy của Bát Tư Ba, lo lắng:

- Nhưng huynh chưa hoàn tất kế hoạch phân chia cư dân Mid và Lad, lại phải lo đối phó với thế lực thù địch lớn mạnh từ phái Drikung. Đệ không yên lòng khi một mình huynh phải đối phó với các giáo phái và đám vạn hộ hầu tham lam, nham hiểm đó.

- Mười ba vạn hộ hầu của đất Tạng đã phân định xong, các vạn hộ hầu đều căn cứ vào mức độ lớn nhỏ mà cắt từ hơn một nghìn đến ba nghìn hộ dân và chuyển thành cư dân Mid. Lúc này, tất cả các vạn hộ hầu đã nhận được mệnh lệnh, qua Tết sẽ bắt đầu tiến hành việc đăng ký hộ tịch, điều tra nhân khẩu. – Chàng ngừng lại một lát, tựa lưng vào đệm, nhắm mắt lấy sức. – Đệ có ở lại cũng không giúp được ta, vậy nên, hãy đưa Lam Kha đi đi.

Tâm trạng của Kháp Na đã khá hơn rất nhiều, nhưng chàng vẫn không nguôi lo lắng:

- Chắc chắn sẽ có rất nhiều kẻ bực tức.

Bát Tư Ba mệt mỏi xua tay:

- Tuy không hài lòng nhưng nếu biết Sakya và Shalu đã liên minh với nhau, các vạn hộ hầu lớn ở vùng Hậu Tạng cũng đã thuận theo chúng ta, bọn họ cũng không dám chống đối kịch liệt đâu.

Kháp Na cười buồn:

- Nhưng bọn họ đâu phải đã thật lòng thuận theo chúng ta. Chỉ e họ đang âm thầm vạch ra âm mưu quỷ kế gì đó.

Bát Tư Ba khoan khoái mở mắt, bình tĩnh đáp lời:

- Mặc họ chửi bới, xúc xiểm, mặc họ phản đối, kháng nghị, miễn không gây ra đại loạn là được. Ta sẽ tuyên bố với bàn dân thiên hạ rằng cử đệ đến vùng Tiền Tạng lo việc chính sự. Nếu bố vợ của đệ có hỏi, ta sẽ trả lời rằng, bây giờ là thời điểm then chốt của kế hoạch thống nhất đất Tạng, và đệ là người thân tín nhất của ta, lại là một vương gia, đệ buộc phải giúp ta thực hiện chuyến công cán bí mật này. Nói vậy, hẳn là ông ta sẽ không dám căn vặn gì thêm.

Kháp Na bước lại, nắm chặt nàm tay Bát Tư Ba:

- Đại ca, vậy huynh đã sắp đặt chu toàn mọi việc cho đệ. Cảm ơn huynh!

Bát Tư Ba quan sát em trai thật kĩ:

- Kháp Na, đệ có biết sắc mặt của đệ giờ đây hồng hào, rạng rỡ trở lại, ánh mắt ngập tràn hạnh phúc không? Bao năm qua, đây là lần đầu tiên ta thấy đệ thanh thản, thư thái như vậy. Đó là niềm an ủi lớn nhất đối với ta.

Chàng đặt tay mình lên tay em trai, nắm chặt, nhìn em trai đầy yêu thương:

- Đệ muốn nghỉ ngơi bao lâu cũng được, muốn bao giờ trở về cũng được. Hãy tận hưởng hạnh phúc lẽ ra đã là của đệ từ lâu rồi mới phải. Đừng bận tâm chuyện ở đây, cũng đừng bận tâm chuyện nhà vợ. Ta sẽ lo liệu tất cả.

Sống mũi tôi cay sè vì xúc động. Bát Tư Ba suy xét thấu đáo mọi sự, chỉ vì muốn dành cho chúng tôi một khoảng trời yên bình.

- Lam Kha, ta biết nói điều này là thừa… - Chàng quay sang tôi, ánh mắt lúc đầu khá phức tạp nhưng ngay lập tức đã chuyển thành vẻ điềm nhiên thường thấy. – Hãy chăm sóc Kháp Na!

Tôi gật đầu chắc nịch.

Mùa xuân năm 1266, khi trời còn tờ mờ, Kháp Na đã cởi bỏ y phục sang trọng, khoác lên người chiếc áo choàng bằng len pulu[2] màu lam dệt từ lông cừu mà các thường dân người Tạng hay mặc, rồi tự mình đánh xe ngựa, lặng lẽ đưa tôi rời khỏi Sakya. Trước lúc lên đường, Kháp Na chỉ âm thầm nói với Kunga Zangpo rằng, chàng phải đi xa một thời gian. Kunga Zangpo muốn theo hầu hạ nhưng lẽ dĩ nhiên Kháp Na kiên quyết từ chối.

2. Loại đồ bằng len được sản xuất ở Tây Tạng.

Sau khi ra khỏi trận địa hạt Sakya, tôi làm phép giấu đi mái tóc màu lam để cùng chàng đánh xe ngựa. Trong mắt người đi đường, chúng tôi chẳng khác nào một cặp vợ chồng son rỗi. Chúng tôi rong ruổi khắp nơi, không vội vã, đến những nơi có phong cảnh tuyệt sắc sẽ cắm trại ở lại vài ngày. Kháp Na từ nhỏ đã quen với cuộc sống no đủ, chăn ấm, đệm êm, người hầu kẻ hạ nên kiến thức về cuộc sống thường nhật rất hạn chế. Chàng không biết dựng trại, không biết nấu cơm, không biết trải đệm, cũng không biết đốt lửa, nhưng chàng vẫn kiên nhẫn, cần mẫn học làm những công việc bình dị ấy, nỗ lực hết mình để tìm cách sinh tồn.

Cũng may là tôi biết phép thuật nên thường lén hỗ trợ chàng, giúp cho nhu cầu ăn ở, đi lại của chúng tôi trên đường xa không đến nỗi quá bi đát.

Một buổi chiều muộn của hơn một tháng sau đó, chúng tôi đã đến được hồ Yamdrok-tso. Mặt hồ lấp lánh ánh bạc dưới bóng tịch dương, trong làn gió nhẹ, màu nước chia tách thành nhiều tầng bậc rõ rệt. Ven bờ là màu lam nhạt, tiếp đến là màu xanh lam, ra xa thêm chút nữa là màu lam trầm và đến giữa hồ thì chuyển thành màu ngọc bích thăm thẳm. Hồ nước này quả nhiên là hồ thiêng trên tiên giới lạc xuống nhân gian! Mặt hồ đẹp và dài cho cảm giác mênh mông, bất tận, giống như một dòng sông rộng rãi hơn là một hồ nước. Những dải núi đồi trùng điệp ven hồ tựa những đường nét mềm mại, uốn lượn, tô điểm cho hồ thiêng. Trời vừa vào hạ, cỏ cây tươi tốt, xanh non mơn mởn, hoa cánh bướm đua nhau khoe sắc, những sắc màu rực rỡ, tươi đẹp khiến du khách chẳng thể khép mắt.

- Thích không?

Chàng ôm lấy vai tôi, dịu dàng hỏi. Tôi gật đầu lia lịa. Bàn tay chàng cuồng nhiệt kéo tôi vào lòng, để tôi tựa lưng vào vòm ngực của chàng, cùng chàng thưởng thức khung cảnh hồ thiêng buổi hoàng hôn, đẹp đến mê hồn. Chốc chốc, vài tiếng chim lảnh lót lại cất lên trên cao, xa xa là đàn bò, dê đang thủng thỉnh gặm cỏ. Cảnh đẹp ngập trong mắt tôi, còn tôi ngập trong mắt chàng.

Buổi tối, chàng một mình dựng trại, thổi cơm, không cho tôi làm cùng. Lúc nhóm củi, gương mặt chàng đỏ gay đỏ gắt vì khói bụi, tôi vội vàng biến phép, đốt lên một ngọn lửa, thế là chàng giận dỗi. Chúng tôi ngồi bên đống lửa, uống canh thịt hầm và nhệu nhạo nhai nuốt những miếng thịt bò Yak còn chưa nhừ. Tôi thở dài:

- Kháp Na, vì sao không để em giúp chàng?

Chàng chau mày, nhè ra miếng thịt bò khô đét vì không nhai nổi:

- Tiểu Lam à, ta biết mình vụng về, lóng ngóng, những công việc đơn giản như vậy cũng không biết làm. Nhưng ta rất muốn rèn luyện, ta muốn học hỏi để làm được những việc mà hầu hết đàn ông trên thế gian này đều biết làm. Nếu để em giúp thì ta sẽ mãi mãi chỉ là một cậu ấm, ngay cả việc dựng trại cũng không biết.

Tôi lè lưỡi:

- Nhưng chàng có rất nhiều kẻ hầu người hạ kia mà, chàng đâu cần tự mình làm những việc này.

- Ta cố gắng học cho bằng được là vì sau này ta không muốn có bất cứ người hầu kẻ hạ nào ở bên mình nữa.

Chàng đan tay mình vào tay tôi, lửa trại bập bùng, soi rọi gương mặt tuấn tú của chàng, khóe môi chàng nở một nụ cười tuyệt mỹ:

- Tiểu Lam, em đã từng nghĩ về cuộc sống tương lai của chúng ta chưa?

Tim tôi bỗng nhiên đập rộn:

- Còn chàng thì sao?

- Tiểu Lam, em là vợ ta, ta sẽ không để em cứ mãi phải ẩn mình như hiện nay. Chờ khi ta giúp đại ca hoàn thành ước nguyện thống nhất đất Tạng, ta sẽ đưa em đi thật xa. Chúng ta sẽ mai danh ẩn tích ở một thôn làng hẻo lánh nào đó, sống cuộc sống giản dị của hai ta, em có muốn vậy không?

Sống mũi cay sè, tôi nhẹ nhàng tựa vào bờ vai chàng:

- Em muốn chứ. Nhưng liệu chàng có sẵn sàng từ bỏ đời sống vinh hoa, phú quý ấy không?

- Zhuoma không nề hà từ bỏ địa vị cao sang để được ở bên Kanga Zangpo. Ta vô cùng khâm phục lòng dũng cảm của chị ấy khi chị ấy chặt đứt ngón tay mình. Lẽ nào ta không làm được như chị ấy ư?

Chàng trỏ tay vào vết sẹo hình hoa sen trên trán tôi, trách yêu:

- Ta chăm chỉ rèn luyện như thế, lẽ nào em không nhận ra quyết tâm của ta ư? Ta muốn sau này sẽ trở thành trụ cột trong gia đình của chúng ta. Ta muốn chiều chuộng em tới mức em không muốn xa ta dù chỉ một ngày. Những năm tháng còn lại của cuộc đời mình, ta muốn ở bên em mọi khoảnh khắc.

Ánh mắt chàng tràn đầy niềm tin vào tương lai tươi sáng, giọng chàng ấm nồng, mê đắm. Niềm hy vọng mãnh liệt nơi chàng đã truyền sang tôi khiến tôi bất giác mơ về cuộc sống điền viên bình dị: chồng cày cuốc, vợ dệt vải.

- Nếu không vì đại ca thì từ lâu ta đã muốn giũ bỏ cuộc sống trói buộc trong chiếc lồng sơn son thiếp bạc ấy rồi. – Chàng chăm chú ngắm nhìn ngọn lửa bập bùng, vẻ mặt tư lự. – Ta vẫn còn một nghĩa vụ nữa phải hoàn thành: chúng ta phải để hai con trai ở lại giáo phái. Làm trọn trách nhiệm này, ta mới có thể yên lòng rời khỏi Sakya, để cùng em chung hưởng đời sống tự do tự tại của chúng ta.

Tôi đỏ mặt, đập nhẹ vào người chàng:

- Hai con trai ư? Một đứa còn chưa thấy bóng dáng đâu, chàng nghĩ gì mà xa xôi thế!

Chàng chớp mắt, trêu chọc tôi:

- Thế nên ta mới phải cố gắng!

Chàng luồn tay qua đầu gối tôi rồi bế bổng tôi lên. Tôi chưa kịp kêu lên thì môi chàng đã áp xuống môi tôi. Nụ hôn cứ thế mạnh bạo dần, ồn ào, nóng bỏng. Nụ hôn của chàng khiến tôi đê mê, ngây dại, không biết trời đất gì nữa. Chàng đã đặt tôi lên chiếc chiếu mềm trải trong lán tự lúc nào. Cơ thể chàng phủ lên người tôi, hai tay chống cao, chàng chăm chú nhìn vào mắt tôi, nụ cười rạng rỡ. Chàng khẽ thì thào bên tai tôi:

- Tiểu Lam, sinh cho ta một chú nhóc nhé!

Hai má tôi nóng ran, cánh mũi lấm tấm mồ hôi, tôi gõ nhẹ vào ngực chàng:

- Con gái thì không được à?

Chàng cười khúc khích, tim đập rộn, hơi thở gấp, những nụ hôn nóng bỏng ào ạt sa xuống như thể muốn cảm nhận cho bằng hết mỗi tấc gang da thịt của tôi.

- Được chứ! Những đứa bé do em sinh hạ, dù là trai hay gái ta đều yêu thương.

Không muốn nói thêm nữa, vì đôi đồng tử sáng trong của chàng đã trở thành quả cầu lửa, chàng hối hả muốn đưa tôi đến thiên đường. Trong cơn rên rỉ của khoái cảm chẳng thể kìm nén, từng đợt sóng bồng bềnh nối nhau trào dâng, cuồn cuộn hết lớp này đến lớp khác, cứ thế đẩy tôi lên đỉnh cao. Tôi chưa từng nghĩ rằng chuyện này lại kỳ diệu đến vậy. Nước mắt tôi trào ra khi hồn phách đi hoang. Tôi thật sự lưu luyến cảm giác về sự đụng chạm của da thịt chàng.

Chúng tôi bị đánh thức bởi tiếng lục huyền cầm [3] và giọng cao vút đặc trưng của người Tạng từ xa vọng lại. Kể từ khi chung sống với chàng, độ mẫn cảm của tôi đã giảm đi rõ rệt và tôi thường thức dậy muộn. Tôi vươn vai, xoay người, ngắm nhìn đôi mắt trong veo của chàng. Chàng thơm vào đầu mũi tôi:

- Phu nhân ơi, dậy thôi nào!

3. Lục huyền cầm: một loại đàn guitar gồm sáu dây của người Tạng. (DG)

Gió mát nắng ấm, nước chảy êm đềm, mặt hồ xanh trong tưởng như có thể nhìn thấy cả đáy. Nơi đây chính là vùng đất Sambala [4] huyền bí, cách biệt với thế giới con người. Tôi đứng bên hồ, khoan khoái hít một hơi thật sâu, đón nhận bầu không khí trong lành, tinh khiết, ngập hương hoa. Bỗng có tiếng ngựa hí vang rền, một đôi nam nữ phi ngựa như bay trên bãi cỏ trước mặt, chàng trai cười vang, cưỡi ngựa đuổi theo cô gái.

4. Sambala còn gọi là Shambala, hay Shamballa, trong Phật giáo Tây Tạng, đây là một vương quốc huyền bí ở một nơi nào đó ở Trung Á. Độc giả có thể tìm đọc cuốn sách Trong vòng tay Sambala của tác giả Ernst Muldashev để hiểu thêm về địa danh này. (DG)

Kháp Na giật mình, vội kéo tôi nấp vào một gốc cây đại thụ. Hai chúng tôi lén thò đầu quan sát. Đôi trai gái vẫn tiếp tục cười đùa, họ xuống ngựa, người con trai ôm lấy con gái, rồi cả hai cùng lộn vòng trên thảm cỏ, giữa những khóm hoa cánh bướm ngát hương, rực rỡ sắc màu. Sau đó, họ hôn nhau mải miết. Đôi nam nữ ấy ăn vận rất giản dị nhưng niềm hạnh phúc ngập tràn trên gương mặt họ khiến chúng tôi chạnh lòng.

Cảnh tượng hoang dại khiến người ta sục sôi. Tôi gắn chặt mắt vào cặp đôi trẻ tuổi đang hôn nhau đắm đuối trước mắt, cảm nhận được hơi thở khó khăn của Kháp Na ngay sau lưng mình. Tôi quay đầu lại, thấy mặt chàng đỏ như gấc chín, mím chặt môi trong vô thức. Lúc chạm phải ánh mắt tôi, đôi đồng tử của chàng lấp lánh lạ thường.

Kháp Na dắt ngựa, rón rén kéo tôi rời khỏi nơi đó, tìm đến chỗ không người. Đến đây, chàng mới than thở:

- Họ thật đáng ngưỡng mộ, muốn yêu là yêu, thích làm gì là làm cái đó. Không biết đến khi nào chúng ta mới được sống cuộc đời vô ưu như họ?

Tôi nắm tay chàng, khẽ bảo:

- Kháp Na, chúng ta đã rời khỏi Sakya, vì vậy đừng trói buộc mình vào những suy nghĩ chán nản ấy nữa. Ở đây, chàng có thể làm tất cả những gì chàng muốn kia mà!

- Tất cả ư? – Chàng nháy mắt tinh nghịch, liếm môi, chuẩn bị nhào đến. – Ta muốn hôn em!

Tôi vội vàng né tránh, cười ranh mãnh, vừa đáp lại vừa chạy đi thật xa:

- Chim nhỏ vỗ cánh, chuẩn bị bay lên trời cao, nếu chàng là đại bàng, hãy đuổi theo để bắt được em trước lúc mặt trời khuất dạng nơi đỉnh núi phía đông kia.

- Em nói đấy nhé!

Chàng nhảy phốc lên lưng ngựa, thúc ngựa đuổi theo tôi. Đuổi đến nơi, chàng cúi người xuống, vòng tay qua eo, xốc tôi lên. Trong lúc tôi còn chưa hết ngỡ ngàng, chàng đã nhanh chóng đặt tôi lên yên ngựa, vòng tay ôm gọn tôi, thúc ngựa phi như bay. Chàng xưa nay vốn nho nhã, đềm đạm nên đây là lần đầu tiên tôi được thấy mặt “hoang dã” của chàng. Cởi bỏ hết những lễ tiết phức tạp của giới quý tộc, chỉ còn lại bản chất chân chất rất thật của mình. Loài thú chúng tôi cũng tìm bạn đời theo cách hết sức tự nhiên ấy. Không còn thân phận, địa vị, không còn được mất, sang giàu, con đực cứ tự nhiên thể hiện quyến rũ trước mặt con cái.

Nhiều năm sau, tôi vẫn thường hồi tưởng lại buổi chiều mùa hạ đó, Kháp Na cùng tôi trên lưng ngựa, phi như bay trên thảo nguyên. Vó ngựa khua vang, gió mát ào ạt, hương hoa ngào ngạt hòa quyện với hương đất nồng nồng. Gió cuộn làn tóc xõa, tà áo bay phần phật, xa xa là những rặng núi xanh thẫm, là nước hồ lăn tăn, lấp lánh, cảnh đẹp như trong mộng!

Đó là bức tranh tuyệt diệu nhất, là bảo bối được tôi cất giữ trong tim, mãi mãi.

***

Chàng trai trẻ ra khỏi giường, đi lại, vận động xương cốt. Cậu ta vừa làm vài động tác thể dục vừa đặt câu hỏi:

- Tôi khá tò mò về điều này. Với vị thế là giáo phái lớn nhất ở Tây Tạng, Sakya được quyền sở hữu bao nhiêu đất đai và dân cư?

Tôi mỉm cười:

- Bát Tư Ba rất giàu có. Vì chàng là pháp vương của Sakya nên tất cả cư dân Lad của Sakya đều thuộc về chàng. Ngoài ra, chàng còn sở hữu rất nhiều thái ấp, vốn là lễ phẩm do Hốt Tất Liệt ban tặng trong nhiều năm, phần lớn những thái ấp này đều không ở đất Tạng, mà nằm rải rác ở các vùng Thanh Hải, Cam Túc.

Tôi xòe tay ra nhẩm tính:

- Lấy ví dụ nhé, chàng có một trang viên ở Reburka, thuộc Hà Châu, một trang viên ở Thành Tường Căn gần Trung Đô và một trang viên khác tên gọi Điển Khang, cách chỗ này không xa. Những trang viên này đều là đất phong do Hốt Tất Liệt ban tặng thượng sư của mình, không phải chịu bất cứ khoản sưu thuế nào, các hộ dân sinh sống trên mảnh đất này cũng không cần liệt kê vào hộ tịch. Tất cả đều là tài sản cá nhân của Bát Tư Ba.

Chàng trai trẻ tròn mắt sửng sốt:

- Trời! Nói theo ngôn ngữ bây giờ thì ngài đúng là đại gia đẹp trai, giàu có điển hình.

Tôi gật đầu:

- Nói vậy cũng đúng. Nhưng chàng rất tiết kiệm, ngoài những khoản chi tiêu nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu cho bản thân và cho những người hầu cận thì phần lớn tài sản có được chàng đều đem về Sakya. Nhờ vậy mà người đời sau mới có được ngôi đền Sakya nguy nga, lộng lẫy đó chứ!

Chương 45

Đóng giả

“Sống nhân ái, thiện lương, lạc quan,

Tiếng thơm sẽ truyền khắp bốn phương.

Giống như người nghèo đi hành khất,

Nhận được tấm lòng thơm thảo từ mọi người”

(Cách ngôn Sakya)

Trong suốt thời gian ẩn cư ở hồ Yamdrok-tso, cứ cách nửa tháng tôi lại hóa phép thành người đưa tin cho hai anh em họ. Sau khi ý chỉ về việc phân chia mười ba vạn hộ hầu và các cư dân Mid, cư dân Lad được ban bố toàn đất Tạng, tuy bề ngoài không vấp phải bất cứ sự phản đối nào nhưng thực tế thì phái Drikung và Phaktru ở Tiền Tạng đã liên tục kích động, chống đối, tình hình không hề lạc quan chút nào.

Pháp chỉ của quốc sư quy định: Cư dân Mid phải nộp thuế cho viên quan Daluhuachi[1] do người Mông Cổ cử đến và không phải nộp thuế cho tu viện mà họ lệ thuộc trước đó nữa. Nhưng phái Drikung và phái Phaktru vẫn tiếp tục thu thuế của các cư dân Mid này, thậm chí bọn họ còn huy động lực lượng vô tăng đi càn quét, cưỡng ép người dân đóng thuế, nộp sưu, sau đó, đổ mọi tội lỗi lên đầu phái Sakya, rêu rao rằng, phái Sakya buộc họ phải làm vậy.

1. Trong tiếng Tạng có nghĩa là “quan lớn”, là viên quan do người Mông Cổ cử đến các vùng thuộc địa để quản lý các công việc hành chính.

Kháp Na nổi trận lôi đình:

- Thật quá quắt!

Tôi vỗ nhẹ vào vai chàng, kìm chế cơn tức giận của chàng:

- Còn nữa, gần đây hai giáo phái này đi khắp nơi bắt bớ dân đen, nói rằng, phái Sakya yêu cầu họ bắt toàn bộ trai tráng từ mười lăm tuổi trở lên, sinh sống trong phạm vi đất đai thuộc quyền cai quản của giáo phái, để đưa đi xây dựng thành trì mới của phái Sakya. Hành động đó khiến dân chúng vô cùng phẫn nộ, người người nhà nhà lên tiếng chỉ trích phái Sakya.

Kháp Na nghiến răng giận dữ:

- Đại ca tập trung thợ xây dựng từ nhiều nơi và trả tiền công cho họ đầy đủ, không hề có yêu cầu gì khác. Hai giáo phái này thật đáng ghét, tìm mọi cách đổ tiếng xấu cho Sakya, bọn họ làm vậy nhằm kích động toàn dân đất Tạng chống lại chúng ta đó mà!

Chàng đứng phắt dậy, ôm chặt lấy vai tôi:

- Tiểu Lam, chúng ta về Sakya nào, ta phải giúp đại ca.

- Lâu Cát biết chàng sẽ phản ứng như vậy.

Tôi ấn chàng ngồi xuống tấm đệm, vòng tay qua vai chàng, dịu dàng nói:

- Lâu Cát bảo em nói với chàng rằng, huynh ấy đã xử lý ổn thỏa mọi việc. Huynh ấy đã cử xứ giả đến Tiền Tạng làm rõ mọi chuyện, xóa tan tin đồn. Chàng đừng quá lo lắng, chàng về đó cũng không giúp được gì cho huynh ấy đâu.

Kháp Na vùi mặt vào bàn tay tôi, giọng trầm buồn:

- Đại ca một mình gánh vác tất cả, che chắn mọi phong ba bão táp, để ta có thể cùng em tận hưởng hạnh phúc riêng tư trong thái bình, an lạc. Ta nợ huynh ấy quá nhiều!

Tôi vuốt ve mái tóc đen mềm mại của chàng, đưa mắt nhìn cảnh núi non trùng điệp và hồ nước trong veo, phẳng lặng. Dù không hề muốn rời khỏi chốn thiên đường này nhưng tôi biết, Kháp Na chắc chắn sẽ không thờ ơ trước những gì đang diễn ra. Người ta nói: niềm vui thường chóng qua, hạnh phúc thì ngắn ngủi, quả không sai. Cuộc sống điền viên vô lo vô nghĩ bên hồ thiêng Yamdrok-tso của tôi và Kháp Na rồi cũng tới ngày kết thúc.

Nhưng tôi đâu ngờ, cái ngày đó lại đến nhanh, đến bất ngờ như vậy. Một ngày cuối tháng Tám, khi mùa hạ trên thảo nguyên sắp hết, tôi mang tới cho Kháp Na hai tin tức: Zhuoma đã sinh hạ một cô con gái, đặt tên là Jumodaban. Tin thứ hai rất xấu: Kangtsoban trượt chân ngã xuống chân núi, bị vỡ đầu, đến nay vẫn chưa tỉnh lại.

Tôi nhìn vẻ mặt thất kinh của Kháp Na, thở dài:

- Lâu Cát bảo rằng chàng phải về Sakya ngay.

Chúng tôi lập tức lên đường trở về Sakya, xe ngựa chạy ngày đêm không nghỉ ngơi nên chỉ nửa tháng sau đã đến nơi. Quần thể kiến trúc đền đài với ba màu đỏ, xanh, trắng đặc trưng nổi bật giữa lưng chừng núi Bendo. Ngôi đền này có quá nhiều bậc thang. Kháp Na thở hổn hển vì phải chạy gấp ở độ cao chừng bốn nghìn ba trăm mét so với mực nước biển, sắc mặt chàng trắng bệch. Nhưng dù là vậy, chàng cũng không thể ngăn nổi cái chết đang cận kề. Kangtsoban nằm bất động trên giường bệnh, hơi thở yếu ớt, gương mặt xám xịt, trương lên rất đáng sợ, có lẽ đã đến lúc hấp hối.

Cô hầu gái thân thiết của Kangtsoban kêu khóc nức nở. Bát Tư Ba và hai danh y đứng một bên, sắc mặt u ám. Nhác thấy Kháp Na, chàng ra lệnh cho những người khác ra ngoài.

Kháp Na đến trước mặt Kangtsoban, đặt ngón tay dưới mũi cô xem xét, sau đó thì giật mình:

- Sao lại như vậy? Đã xảy ra chuyện gì?

Bát Tư Ba thở dài:

- Hôm đó cô ấy trốn ra ngoài chơi, không ai hay biết. Chập tối, tìm khắp mà không thấy chủ nhân đâu, người hầu mới sợ hãi đến bẩm báo với ta. Ta đã huy động mọi người tìm kiếm nhưng mãi đến tờ mờ sáng hôm sau mới thấy cô ấy dưới chân ngọn đồi thấp sau nhà. Lúc đó, cô ấy đã hôn mê bất tỉnh, đỉnh đầu vỡ toác, vệt máu đông cứng. Kể từ lúc đó đến bây giờ vẫn chưa tỉnh lại.

Kháp Na chừng như không tin nổi vào mắt mình:

- Không ai đi theo cô ấy ư? Hay là có kẻ muốn hãm hại cô ấy?

- Lúc đầu ta cũng có suy nghĩ giống như đệ nên đã tra khảo tất cả đám người hầu. Nhưng không ai trong số họ khai ra bất cứ điều gì đáng nghi ngờ. Cửa sổ phòng cô ấy mở toang, trên bậu cửa có vết chân của cô ấy. Có lẽ sáng sớm tinh mơ cô ấy đã lén trèo ra ngoài. Khả năng cao nhất là cô ấy trốn lên núi chơi, không may trượt chân ngã.

Bát Tư Ba mệt mỏi nhìn Kháp Na:

- Đệ cũng biết đó, thực ra cô ấy chẳng khác nào một đứa trẻ mười tuổi ham chơi, không biết trời cao đất dày là gì, cũng không sợ nguy hiểm nên chúng ta không thể phán đoán hành vi của cô ấy theo cách thông thường được.

Kháp Na trầm ngâm trước cơ thể bất động của Kangtsoban, một lúc lâu sau mới lên tiếng:

- Jichoi biết chuyện chưa?

- Từ lúc tìm cô ấy, ta đã ra lệnh bưng bít tin tức. Nhưng càng ngày tình trạng của cô ấy càng xấu đi. Thầy thuốc nói rằng, cô ấy có thể ra đi bất cứ lúc nào. Nếu cô ấy chết, sẽ không thể giấu diếm được tin này nữa.

Kháp Na giật mình ngẩng lên, ánh mắt ngập nỗi lo sợ:

- Đại ca, nếu cô ấy qua đời, quan hệ giữa Sakya và Shalu sẽ chấm dứt, thậm chí Jichoi sẽ nghi ngờ chúng ta đã hãm hại cô ấy.

Bát Tư Ba cười chua chát:

- Đệ nói đúng. Mối quan hệ mà chúng ta mất bao công sức để gây dựng với các vạn hộ hầu ở Hậu Tạng có lẽ cũng…

- Và còn cả kế hoạch xây dựng thành trì mới cho giáo phái mà đại ca đã trù bị từ rất lâu rồi nữa…

Kháp Na ngừng bặt, không sao thốt nên lời. Bát Tư Ba khép hờ đôi mắt, gật đầu bất lực.

Tôi hóa thành người, nhẹ nhàng đến bên anh em họ:

- Để tôi thử xem sao.

Bát Tư Ba mở mắt, Kháp Na hớn hở nắm chặt tay tôi:

- Tiểu Lam, em có cách ư?

- Em có thể truyền linh khí cho cô ấy.

Kháp Na sững sờ, nhìn xoáy vào tôi:

- Tiểu Lam, hãy nói thật cho ta biết, nếu truyền linh khí cho cô ấy, em sẽ ra sao?

Tôi cười buồn:

- Thực ra, không ai có thể cứu được người sắp chết. Số phận đã định, không ai cưỡng lại được. Dù em sẵn lòng hao tổn nguyên khí của mình, thậm chí chấp nhận rủi ro có thể bị đẩy trở lại nguyên hình, truyền linh khí đều đặn cho cô ấy hằng ngày thì nhiều nhất cũng chỉ có thể kéo dài sự sống của cô ấy thêm hai, ba năm.

- Không được!

Cả hai đồng thanh phản đối. Họ nhìn nhau rồi nhanh chóng nhìn đi chỗ khác.

Tôi thấy khó xử:

- Nhưng không thể để cô ấy chết!

- Em càng không thể!

Kháp Na sợ hãi ôm chặt lấy tôi, như thể chỉ cần khẽ buông tay tôi sẽ biến mất.

- Tiểu Lam, nếu em chết, ta nhất định sẽ chết theo em. Từ đây, mọi sự hưng – vong, được – mất của phái Sakya sẽ không liên can đến ta nữa!

Bát Tư Ba ngoảnh mặt đi, trầm ngâm hắng giọng, nói:

- Lam Kha, em có thể làm phép giấu đi mái tóc màu lam và biến thành con trai, vậy em có thể biến thành Kangtsoban được không?

Tôi kinh ngạc, thoát khỏi vòng tay Kháp Na:

- Chàng muốn em đóng giả làm Kangtsoban?

Bát Tư Ba gật đầu:

- Như thế, chúng ta có thể duy trì mối quan hệ với Shalu và em có thể danh chính ngôn thuận làm vợ Kháp Na. Nhưng trước mặt mọi người, em phải chịu khó diễn vai cô ngốc.

Kháp Na vẫn chưa hết xúc động, nhưng tôi đã gật đầu đồng ý với Bát Tư Ba. Mùa thu năm Kháp Na hai mươi tám tuổi, tôi hóa thân thành người con gái khác, ban ngày đóng giả làm cô ngốc, diễn trò ngây dại, chỉ khi màn đêm buông xuống, tôi mới được trở lại mình.

Về sau, trên khắp dải đất Sakya, người ta đã truyền tai nhau một câu chuyện vô cùng cảm động: Vì gia tộc, Bạch Lan Vương đã chấp nhận cưới một cô ngốc về làm vợ, nhưng trong lòng không khỏi bất mãn. Ngài sẵn sàng nhận nhiệm vụ công cán xa nhà, để tránh gặp mặt người vợ. Khi vợ ngài bị trượt chân, rơi xuống chân núi, hôn mê bất tỉnh, ngài đã lập tức trở về Sakya, lòng đầy ân hận, day dứt. Ngài đã quỳ trước giường bệnh của người vợ, cầu nguyện trắng đêm. Lòng thành của ngài khiến Bồ Tát Văn Thù cảm động và Bồ Tát đã ban phước cho giáo phái Sakya. Sáng sớm hôm sau, Vương phi tỉnh lại như một kỳ tích, không những sức khỏe bình phục mà bệnh ngớ ngẩn dường như cũng được cải thiện rất nhiều, không còn những hành động ngây ngô như trước nữa. Trải qua kiếp nạn này, Bạch Lan Vương không còn lạnh lùng, xa lánh vợ như xưa, vợ chồng ngày càng thuận hòa, ân ái. Phái Sakya ai nấy vui mừng khôn tả, họ truyền tai nhau tin vui, rằng người thừa kế giáo phái sẽ ra đời trong nay mai.

Nghe tin con gái gặp nạn, Jichoi tất tả đưa thầy thuốc đến Sakya. Đầu tôi quấn băng trắng rất dày, sợ bị thầy thuốc phát hiện ra, tôi bèn bắt chước thói ngang ngược của Kangtsoban, kiên quyết không cho ông ta lại gần. Tôi sà vào lòng Kháp Na, kêu khóc inh ỏi. Kháp Na dịu dàng vỗ về tôi rồi khổ sở nói với bố vợ:

- Cô ấy rất sợ thầy thuốc, xin cha đừng ép cô ấy. Cha cứ yên tâm, phái Sakya không thiếu thầy thuốc giỏi. Ngày nào cô ấy cũng ngoan ngoãn uống thuốc đều đặn. Con hứa sẽ chăm sóc chu đáo để cô ấy sớm bình phục.

Jichoi chưa từng thấy Kháp Na thương yêu, hết lòng vì Kangtsoban như thế bao giờ nên rất bất ngờ:

- Nghe nói hai vợ chồng con không còn sống riêng như trước nữa?

Tôi biết Jichoi đã lén tra hỏi cô hầu gái Yamkhin của Kangtsoban và cô ta thưa rằng, từ khi Vương phi tỉnh lại đến nay, đêm nào Bạch Lan Vương cũng qua đêm trong phòng Vương phi. Nhưng vì xấu hổ, Vương phi không cho phép bất cứ người hầu nào lại gần phòng ngủ của mình. Thực ra, điều Yamkhin muốn nói là: xung quanh Kangtsoban đột nhiên xuất hiện rất nhiều tai mắt, kẻ nào có ý định tiếp cận buồng ngủ của cô ấy đều bị phát hiện và trừng phạt nghiêm khắc. Lâu dần thành thông lệ, hễ Bạch Lan Vương xuất hiện là các đầy tớ sẽ lập tức tránh đi nơi khác, không làm phiền đến cuộc sống ân ái của đôi vợ chồng son.

Kháp Na đỏ mặt, nhưng lời nói nặng tình nặng nghĩa:

- Lúc Vương phi hôn mê, con đã ước thề trước tượng Bồ Tát Văn Thù rằng chỉ cần cô ấy tỉnh lại, con sẽ ở bên cô ấy suốt đời và chỉ yêu thương một mình cô ấy.

Jichoi xúc động, rút khăn chấm nước mắt:

- Tốt rồi! Tốt qua rồi! Kangtsoban gặp được một người chồng nặng tình nặng nghĩa như con là phúc đức ba đời của nó.

Vì sợ lộ chuyện, tôi không dám đến gần Jichoi, đành giả bộ nũng nịu, bám riết lấy Kháp Na. Gặp phải những người mà tôi không quen biết, hoặc việc gì lạ lẫm, tôi cứ lờ đi. Cũng may, Kangtsoban vốn là cô gái ngớ ngẩn nên mọi hành động bất thường của cô ấy đều được xem là bình thường trong mắt người khác. Thế nên tôi đã che mắt được tất cả, kể cả Jichoi và cô hầu gái thân cận của Kangtsoban.

Sau khi Jichoi rời khỏi Sakya trong niềm vui ngập tràn, đám người hầu vẫn thực hiện đúng quy tắc: tránh xa mỗi khi tôi và Kháp Na ở bên nhau. Tôi thở phào nhẹ nhõm, quay lại nhìn Kháp Na:

- Chàng thấy em đóng kịch tài không?

Kháp Na chau mày:

- Tiểu Lam, trở về với hình hài của em đi. Em biết không, ta rất sợ khi phải thấy gương mặt của Kangtsoban. Nó khiến ta không thể không nghĩ đến cô ấy, nghĩ về tình cảnh hiện tại của cô ấy: bị đóng băng và giấu xác trong hang núi.

Đêm đó, sau khi Kangtsoban trút hơi thở cuối cùng, hai anh em họ bàn bạc rất lâu. Kháp Na cho rằng nên âm thầm chôn cất cô ấy nhưng Bát Tư Ba không đồng ý. Chàng đã đề xuất một giải pháp khiến chúng tôi sợ hãi đến mức dựng tóc gáy: ướp xác Kangtsoban và giấu trong núi.

- Lẽ nào đệ muốn Lam Kha đóng giả Kangtsoban cả đời sao? Nếu ngày nào đó chúng ta buộc phải công bố với thiên hạ rằng Kangtsoban đã qua đời, Jichoi chắc chắn sẽ yêu cầu kiểm tra thi thể rồi mới cho nhập liệm. Đến lúc đó, chúng ta tìm đâu ra thi thể giống hệt Kangtsoban?

Kháp Na ngỡ ngàng, Bát Tư Ba quả nhiên là người suy nghĩ thấu đáo. Thế là vào một đêm nọ, trời tối đen như mực, với sự giúp đỡ của tôi, hai anh em họ đã đưa Kangtsoban lên đỉnh núi Benho tuyết phủ quanh năm, tìm kiếm một hang núi vắng vẻ, đặt thi thể Kangtsoban vào đó. Giữa băng giá, cô ấy giống như một thiếu nữ đang say giấc nồng, gương mặt vẫn sống động như khi còn sống. Nhưng chính hình ảnh này đã trở thành nỗi ám ảnh khó phai trong lòng Kháp Na. Khi không có người ngoài, chàng sẽ đề nghị tôi biến phép trở lại nguyên hình. Bởi vì chỉ khi nhìn thấy gương mặt thật sự của tôi, chàng mới có thể ngon giấc.

- Tiểu Lam, tội cho em quá!

Cánh tay chàng làm thành chiếc gối êm ái cho tôi, bàn tay vuốt ve từng đường nét trên gương mặt tôi rồi thở dài:

- Em là vợ ta nhưng lại phải đóng giả thành người khác. Không biết còn phải tiếp tục đóng giả bao lâu nữa.

Tôi đặt ngón tay mình lên bờ môi mềm mượt của chàng:

- Chàng đừng lo. Đóng giả Kangtsoban không khó, hơn nữa, phép thuật của em càng ngày càng tiến bộ, dù phải giả dạng cô ấy cả ngày, em cũng không mất nhiều linh khí.

Chàng nắm chặt bàn tay tôi:

- Nhưng ta thật lòng không muốn em phải giả danh người khác thì mới có thể chung sống cùng ta. Khi nào phái Sakya không cần đến sự giúp đỡ của các thế lực khác nữa và ta hoàn thành nghĩa vụ của mình, ta sẽ đưa em đi. Chúng ta sẽ quay lại hồ Yamdrok-tso, sống đời sống mà ta hằng mơ ước.

Tôi ngắm nhìn đôi mắt sáng long lanh, tràn đầy niềm hy vọng của chàng, mỉm cười ngoắc ngón út của mình vào ngón út của chàng:

- Vậy thì nào, “ngoắc tay giao hẹn, trăm năm khó vẹn”.

Chàng lật người, trùm lên tôi, đôi mắt tôi bị bao phủ bởi sự va chạm dịu ngọt, rồi sự va chạm chầm chậm dịch chuyển xuống phía dưới. Hơi thở ngày một gấp gáp, bờ môi nóng hổi của chàng nhẹ nhàng vân du trên má tôi, chạm nhẹ vào làn môi tôi rồi bỗng nhiên cắn nhẹ một cái:

- Không được, phải là “ngoắc tay giao hẹn, trăm năm trọn vẹn”

Chưa kịp kêu đau, đôi môi chàng đã áp lên miệng tôi, chúng tôi đưa nhau vào cuộc ân ái nồng nàn, quên hết cả đất trời, vạn vật. Tôi có cảm giác mình đang lơ lửng trên chín tầng không, được bao phủ, ôm ấp bởi những đám mây trắng bồng bềnh, êm ái như nhung lụa, tôi như lạc vào cơn mơ. Tất cả đều đẹp đến mức dường như không có thật!

Mùa đông năm 1266, tuyết lớn ào ào trút xuống, Sakya như biến thành một viên ngọc lưu ly. Trong căn phòng ấm áp, Bát Tư Ba đang say sưa chấp bút, viết xong lá thư, chàng giao cho Dampa, gửi tới phái Drikung và phái Phaktru. Khi bóng dáng cung kính của Dampa khuất sau cánh cửa, Kháp Na vừa hơ tay sửa ấm vừa hỏi:

- Đại ca gửi pháp chỉ gì cho hai phái Drikung và Phaktru vậy?

Bát Tư Ba mỉm cười:

- Lúc trước, hai giáo phái đó không ngừng bày tỏ ti tiện, giờ sẽ đến lượt phái Sakya chủ động xuất chiêu, ta phải khiến bọn họ trở tay không kịp.

Kháp Na kinh ngạc:

- Đại ca định làm gì?

Bát Tư Ba lại gần Kháp Na, hơ tay bên lò sưởi.

- Ngày còn ở đất Hán, ta từng đọc nhiều sách sử của người Hán. Vào thời Xuân Thu – Chiến Quốc, khi muốn khống chế một nước nhỏ, các nước lớn thường yêu cầu nước nhỏ đưa hoàng tử của nước mình đến nước lớn làm con tin. Người thừa kế tương lai của mình nằm trong tay kẻ khác, các nước nhỏ sẽ không dám manh động, làm bừa.

Kháp Na lập tức hiểu ra vấn đề:

- Huynh sẽ buộc phái Drikung và Phaktru đưa pháp vương tương lai của giáo phái mình đến Sakya, để có thể kiểm soát họ?

- Đúng vậy. – Bát Tư Ba nắm chặt tay lại, khóe môi mím lại vẻ quyết đoán. – Mâu thuẫn giữa chúng ta và họ đã đến mức không thể dàn hòa nên ta không muốn dễ dãi với bọn họ thêm nữa. Bức thư này được viết dưới danh nghĩa là pháp chỉ của quốc sư nhà Nguyên, không phải dưới danh nghĩa giáo phái Sakya, thế nên dù muốn hay không, bọn họ cũng phải tuân theo. Bằng không, sẽ là kháng chỉ!

Bản pháp chỉ này được gửi đến phái Drikung và Phatru vào tháng cuối cùng của năm 1266. Nghe nói, hai giáo phái này đã chửi rủa, nhục mạ Bát Tư Ba với những lời lẽ độc địa nhất trong một thời gian dài, nhưng sau cùng vẫn phải trả lời thư rằng, qua Tết sẽ đưa người tới. Động thái này của Bát Tư Ba đã giúp hạn chế rất nhiều âm mưu chống đối, phản kháng của hai phái Drikung và Phaktru. Trước thềm năm mới theo lịch Tạng, Sakya được sống trong bầu không khí thanh bình hiếm hoi, nhà nhà người người hân hoan chuẩn bị đón Tết.

Ngày Ba mươi Tết, Kháp Na đã đến chỗ Bát Tư Ba, giúp chàng chuẩn bị việc tế lễ mừng năm mới từ sáng sớm. Tôi ngồi một mình trong phòng, cải trang thành Kangtsoban, vừa định bước ra ngoài thì chợt nghe có tiếng “cạch” ngoài cửa sổ phòng ngủ. Tôi lập tức nhận ra đó là tiếng một viên đá nhỏ chạm vào cánh cửa. Mở cửa sổ, tôi thấy một con quay – thứ đồ chơi con trẻ được làm rất tinh xảo, màu sắc bắt mắt nằm trên bậu cửa. Tôi tò mò cầm lên rồi ngó nghiêng xung quanh, không thấy ai cả. Không lẽ đứa bé nào mải chơi để quên ở đây?

Đang định đóng cửa lại thì tôi chợt trông thấy trên bậc đá của con đường dẫn lên ngọn núi phía trước có một con quay to hơn được cắm trong tuyết. Màu sắc sặc sỡ của con quay ấy nổi bật trên nền tuyết trắng xóa. Vài dấu chân còn lưu lại trên tuyết, dấu chân làm thành một vệt dài, dẫn đến lưng chừng núi.

Tôi cầm lấy con quay, trèo qua cửa sổ, men theo con đường núi. Khi đã nhặt được con quay cắm trong tuyết kia, tôi lại nhìn thấy phía trước có con quay khác. Tôi hiểu rồi, những con quay được dùng để dẫn đường. Tôi chầm chậm men theo dấu chân hương lên núi, những con quay dẫn tôi đến tận mặt sau của ngọn núi, đi qua một triền núi khuất nắng, ngoảnh lại thì đã không còn thấy công trình kiến trúc nguy nga, rực rỡ với ba màu đỏ, xanh, trắng đâu cả. Các con quay kết thúc nhiệm vụ đưa đường trên một ngọn đồi bằng phẳng. Nơi đây có lẽ là điểm hẹn của “người bí mật”.

Có tiếng bước chân lạo xạo trên tuyết ngay sau lưng tôi, tôi lắng tai nghe, cảm thấy rất quen. Tôi kìm chế bản thân để không quay đầu lại vì tò mò. Tôi đang đóng vai Kangtsoban, mà cô ngốc thì không thể quá nhạy bén trong hành động được. Tiếng cười khẽ vang lên:

- Kangtsoban ơi, em thông minh lắm, ta mới hướng dẫn có vài lần mà em đã thông thạo rồi.

Tôi run bắn, phải hít thở sâu mới bình tĩnh lại được. Tôi cố gắng diễn vẻ ngờ nghệch, quay đầu lại, hớn hở:

- Chàng đấy à?

Người đàn ông cao to, mặc áo khoác lông cừu rất bình thường, làn da đen đúa, thô ráp, hai vệt sạm nắng nổi bật trên đôi lưỡng quyền cao dị thường, lông mày rậm, khi cười, nếp nhăn vằn vện ở đuôi mắt. Làm sao tôi có thể quên được bộ dạng thâm trầm, nham hiểm đó kia chứ! Hắn ta chính là một trong bốn anh em trai của Kháp Na - Yeshe Bernas!

- Lần trước em bị trượt chân rơi xuống chân núi, ta vô cùng lo lắng. Ta sợ Kangtsoban đáng yêu của ta gặp nguy hiểm.

Hắn bước đến, ôm lấy hai vai tôi, nhìn tôi âu yếm:

- Tạ ơn trời Phật, em không những không hề hấn gì mà còn xinh đẹp hơn trước, đáng yêu hơn trước rất nhiều.

Cơn buồn nôn ập đến, tôi ra sức kiềm chế để không đẩy hắn ra xa. Hắn và Kangtsoban đã thân mật đến mức có thể ôm ấp nhau thế này ư? Tôi vờ nũng nịu:

- Chàng ơi, lần này chàng mang cho em đồ chơi gì vậy?

Hắn bật cười ha hả, càng thân mật hơn:

- Ta yêu Kangtsoban nhất trên đời, làm gì có chuyện không mang đồ chơi và đồ ăn cho em.

Hắn lấy ra từ trong chiếc túi mỏng khoác sau lưng một con búp bê bằng vải rất xinh đẹp, đưa cho tôi. Tôi giả bộ vô cùng vui sướng và thích thú, ôm chặt con búp bê vào lòng, đùa nghịch.

Hắn nhìn tôi chơi đùa với búp bê, gương mặt lộ vẻ nham hiểm. Hắn sáp lại gần tôi, thì thào;

- Con búp bê này xinh không?

Tôi gắng gượng không nghiêng đầu sang bên né tránh, cười ngây ngô:

- Đẹp lắm, đẹp hơn búp bê lúc trước của em.

Hắn cười khe khẽ, ánh mắt lộ vẻ dâm đãng:

- Thế em có muốn sinh ra một búp bê xinh xắn như vậy không?

Tôi sững sờ, bàn tay khẽ run lên, vội giả bộ vuốt ve con búp bê bằng vải. Tôi lờ mờ đoán ra ý đồ của hắn nhưng vẫn cất giọng tỉnh bơ:

- Muốn chứ!

Hắn tiến lại gần hơn, tôi cảm thấy lợm giọng, buồn nôn.

- Lần trước ta đã dạy em, rằng ta sẽ đặt em bé vào bụng em, sau đó em sẽ tự mình sinh ra em bé đáng yêu đó.

Tim đập thình thịch nhưng tôi vẫn vờ như không hiểu.

- Chàng… Em… em quên mất rồi. Lần trước chàng đã dạy em những gì? Chàng dạy lại một lần nữa được không?

Hắn vuốt ve tóc tôi, tiếp tục dỗ dành:

- Ta đã nói với em rằng, phụ nữ sẽ bị đau khi sinh em bé nhưng chỉ đau một lần thôi. Chỉ cần em ngoan ngoãn nghe lời ta, chịu đau một chút, không được ngọ ngậy thì sẽ sinh ra em bé.

Tôi thừa dịp, gạn hỏi:

- Có phải lần trước em đã ngọ ngậy không?

Hắn nhếch mép cười:

- Đúng vậy, lần trước em không ngoan.

Tôi lấn lướt:

- Nếu lần này em ngoan hơn, chàng sẽ không đẩy em xuống chân núi, phải không?

Hắn thoáng ngỡ ngàng nhưng nhìn điệu bộ ngây dại, chẳng có chút đề phòng nào của tôi thì bật cười, thừa nhận:

- Nếu em ngoan ngoãn, ta sẽ không đẩy em xuống chân núi nữa.

Tim tôi đập thình thịch. Rốt cuộc tôi đã biết nguyên nhân cái chết của Kangtsoban!

***

Chàng trai trẻ đặt câu hỏi:

- Sau đó, phái Drikung và Phaktru có đưa pháp vương tương lai của họ đến Sakya không?

- Có chứ. Ở đất Tạng, pháp chỉ của quốc sư chẳng khác nào thánh chỉ, kẻ nào dám chống lại kia chứ?

Tôi thở dài, giải thích nguyên do:

- Bát Tư Ba xưa nay vốn khiêm nhường, điềm đạm, sau khi trở về đất Tạng, chàng chỉ xưng mình là Bát Tư Ba của phái Sakya và rất hiếm khi ban bố pháp chỉ với danh nghĩa quốc sư. Nhưng vì thế lực của Drikung và Phaktru quá lớn mạnh, bọn họ không coi Bát Tư Ba ra gì, đã có nhiều hành vi chống đối, ngăn trở, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kế hoạch thiết lập hệ thống quản lý hành chính của Bát Tư Ba ở đất Tạng. Mệnh lệnh này của Bát Tư Ba được thực thi cho đến tận cuối triều Nguyên.

Tôi tiếp than vào lò, vừa cời than hồng vừa nói:

- Phái Phaktru và Drikung buộc phải đưa người thừa kế tương lai đến Sakya làm “Chungker”, có nghĩa là người hầu của trụ trì đền Sakya. Những người này, sau khi trở về để kế ngôi pháp vương, sẽ phải đích thân đến Sakya, dâng lên các tăng nhân Sakya lễ vật, gọi là lễ vật tạ ơn. Người sau này gây dựng nên chính quyền của phái Phaktru, thay thế phái Sakya đã suy yếu vào thời nhà Minh – đại sư Changchub Gyaltsen – hồi nhỏ đã từng là một “Chungker” lớn lên ở Sakya.

- Chỉ e phái Drikung và Phaktru sẽ coi việc này là một sự sỉ nhục.

Tôi bần thần, cười chua chát:

- Bởi vậy sau này phái Sakya và bọn họ đã xảy ra xung đột vũ trang.

Chương 46

Mang thai

“Nhà vua chỉ uy phong ở nước mình,

Bậc hiền nhân được tôn kính ở khắp chốn;

Hoa tươi là vật trang trí trong ngày,

Châu báu là trang sức mãi mãi.”

(Cách ngôn Sakya)

Năm 1267, tức năm Đinh Mão, m Hỏa, hay năm Rabyong [1] thứ năm theo lịch Tạng, tức niên hiệu Hàm Thuần thứ ba, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ tư, Mông Cổ.

1. “Rabyong” hay “năm Rabyong” có thể hiểu là năm Giáp Tý theo lịch Tạng . Tên gọi này còn được dịch thành: Thắng Sinh, Thắng Sinh Chu, Giai Đoan, Lương Duyên, gắn liền với sswj kiện: năm 1027, các sư tăng Ấn Độ bắt đầu dịch Thời luận kinh sang tiếng Tạng. Rabyong là một chu kỳ gồm 60 năm. Rabyong thứ nhất bắt đầu vào năm 1027. Cách tính năm Rabyong của người Tạng cũng tương tụ hệ đếm Can – Chi của người Hán. Ví dụ: Tương ứng với Thiên Can theo lịch của người Hán gồm:Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Thân, Nhâm, Quý, thì lịch của người Tạng sẽ là: Dương Mộc, m Mộc, Dương Hỏa, m Hỏa, Dương Thổ, m Thổ, Dương Kim, m Kim, Dương Thủy, m Thủy (âm dương ngũ hành luân phiên kết hợp). Địa Chi của người Hán: Tý, Sửu, Dần, Mão , Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi; của người Tạng: Thử (chuột), Ngưu (trâu), Hồ (hổ), Thố (thỏ), Long (rồng), Xà (rắn), Mã (ngựa), Dương (dê), Hầu (khỉ), Kê (gà), Cẩu (chó), Trư (lợn). (DG)

Bát Tư Ba ba mươi ba tuổi, Kháp Na hai mươi chín tuổi.

Bát Tư Ba kinh ngạc thốt lên:

- Yeshe lén quay về Sakya ư?

Tôi kể lại với hai anh em họ thông tin vừa thu lượm được:

- Đúng vậy, hắn âm mưu dụ dỗ Kangtsoban nhưng cô ấy không chịu nên đã đẩy cô ấy xuống núi hòng giết người diệt khẩu.

Bát Tư Ba cau mày:

- Dụ dỗ Kangtsoban? Lẽ nào hắn…

- Hắn dùng lại kế cũ, muốn Kangtsoban sinh con cho hắn để kế thừa phái Sakya. – Kháp Na đấm xuống bàn khiến chiếc bút lông bật lên cao rồi rơi xuống đất. – Hành vi của hắn chẳng khác nào loài cầm thú!

Tôi vội vàng nói với hai anh em:

- Hiện hắn vẫn còn ở đó vì em đã hóa phép làm hắn bất tỉnh.

Bát Tư Ba lập tức bật dậy:

- Đi nào, chúng ta phải bắt bằng được hắn.

Nhưng khi chúng tôi vừa tới nơi thì Yeshe đã biến đâu mất. Những dấu chân ngổn ngang, tàn tích của cuộc đào tẩu cuống quýt, dẫn đến mặt kia của ngọn núi rồi mất hút. Tôi băn khoăn đi lại kiểm tra:

- Lạ thật, rõ ràng em đã làm phép kia mà, sao lại không thấy hắn đâu cả? Lẽ nào hắn tỉnh lại và bỏ trốn trước khi chúng ta đến?

Bát Tư Ba động viên:

- Có thể vì em đã quá vội nên sơ suất hoặc hắn còn có đồng bọn.

Kháp Na đùng đùng nổi giận, định xuống núi:

- Chắc chắn hắn đang trốn trong nhà dì năm, chúng ta phải lục soát mới được!

Bát Tư Ba giữ tay Kháp Na lại:

- Không cần đâu!

Kháp Na ngạc nhiên:

- Vì sao?

- Ta hỏi đệ, nếu tìm được hắn, đệ sẽ làm gì? – Bát Tư Ba nhìn em trai, vẻ mặt điềm tĩnh. – Hắn là cậu ba nhà họ Khon phái Sakya, người ngoài không ai hay biết mối thù hằn giữa chúng ta và hắn. Nếu hắn bảo hắn muốn về thăm mẹ thì chúng ta làm gì được hắn?

Kháp Na giận đỏ mắt:

- Nhưng hắn đã giết Kangtsoban!

Bát Tư Ba lắc đầu:

- Cái chết của cô ấy chỉ có ba chúng ta biết. Lam Kha hiện vẫn đang đóng giả Kangtsoban, chúng ta buộc tội hắn thế nào được.

Kháp Na không thể chấp nhận được chuyện này, chàng thở gấp vì tức giận:

- Nhưng lẽ nào cứ để hắn ung dung, tự tại như vậy? Trước đây, hắn đã làm bao chuyện xấu xa, chính hắn đã gián tiếp hãm hại Mukaton.

Bát Tư Ba kéo Kháp Na lại, bình tĩnh phân tích:

- Ta biết chứ. Ta vốn nghĩ rằng, hắn âm thầm lẻn về Sakya, nếu vậy ta sẽ âm thầm cho người bắt trói hắn. Nhưng bây giờ hắn đã trốn thoát, chắc chắn sẽ cảnh giác và có phòng bị. Ta tin rằng hắn sẽ diễn vở kịch “vinh quy bái tổ” đình đám. Hắn còn ở lại Sakya ngày nào, chúng ta sẽ phải kiềm chế ngày ấy, không nên để người ngoài nhận ra mâu thuẫn nội bộ giữa anh em chúng ta, vì như vậy sẽ có kẻ thừa dịp gây bất lợi cho chúng ta.

Kháp Na bực bội đá mạnh vào gốc cây thông bên cạnh, tuyết lạnh trên các tán lá ào ào trút xuống, phủ trắng vai chàng.

- Con người này vô cùng nham hiểm, hắn còn ở Sakya ngày nào, chúng ta sẽ khó lòng được yên ổn ngày đó.

Bát Tư Ba ngước nhìn bầu trời ảm đạm, những bông tuyết vẫn không ngừng trút xuống, đậu lên bờ vai cô độc của chàng. Ánh mắt chàng lộ vẻ lo lắng:

- Kháp Na, mâu thuẫn nội bộ khó đối phó hơn sự thù địch của hai phái Drikung và Phaktru. Dù thế nào, hắn và chúng ta vẫn là anh em cùng cha khác mẹ, có cùng huyết thống, cùng dòng họ. Dù hắn gây nhiều tội ác đến đâu, ta cũng không thể giết hắn.

Quả đúng như Bát Tư Ba dự đoán, không lâu sau khi chúng tôi xuống núi, tin tức đã lan đi khắp vùng: Cậu ba Yeshe của giáo phái Sakya từ Vân Nam trở về. Cậu ba đã vượt qua chặng đường vất vả, gian nan trong thời gian nhanh nhất để đoàn tụ với gia đình đúng dịp đón năm mới. Bản khâm Sakya Zangpo cùng nhiều người khác đã xuống tận chân núi đón Yeshe. Không giống anh em Bát Tư Ba, Yeshe sinh ra và lớn lên ở Sakya nên tất cả những người trong giáo phái đều rất thân thiết với hắn. Hắn giao tiếp tốt, giỏi ăn nói, lại có khiếu hài hước nên đi đến đâu là tiếng cười rộn lên đến đấy. Già trẻ, gái trai, ai nấy đều yêu mến hắn. Sự trở về của Yeshe khiến cho bầu không khí đón Tết năm 1267 của phái Sakya náo nhiệt khác thường.

Trước mặt mọi người, hắn tỏ ra rất mực kính trọng Bát Tư Ba, nói năng chừng mực, ứng xử nhã nhặn, thái độ khiêm nhường, ai nấy đều hết lời khen ngợi. Bát Tư Ba nói đúng, lòng dạ của người này thâm hiểm, khó đoán khiến người ta không khỏi kiêng dè.

Đêm Ba mươi, toàn thể gia đình tập trung đón Giao thừa. Zhuoma và Kunga Zangpo cũng đưa con gái Jumodaban mới được ba tháng tuổi đến dự tiệc. Nhận lấy ánh mắt khinh bỉ của hầu hết mọi người dành cho Kunga Zangpo, Kháp Na chủ động sắp xếp để cậu ta ngồi cạnh chàng và cố ý tỏ ra thân mật, một câu anh rể, hai câu anh rể khi gọi Kunga Zangpo. Vì Kunga Zangpo được hai anh em Bát Tư Ba rất mực xem trọng nên các anh chị em khác không thể không tiếp chuyện cậu ta. Tôi thì vô cùng thích thú được chơi đùa với bé Jumodaban. Bé được quấn bọc gọn gàng trong khăn tã, hai má mũm mĩm, xinh xắn. Thấy tôi yêu em bé như vậy, Zhuoma liền trao Jumodaban cho tôi ẵm.

Em bé nằm trong lòng tôi thơm mùi sữa, đưa ngón tay cái lên miệng đùa nghịch, đôi mắt đen láy nhìn tôi chăm chú, trong lòng tôi bỗng dâng trào tình yêu thương. Thấy tôi cưng nựng em bé như vậy, Zhuoma trêu:

- Em thích trẻ con như vậy, chi bằng hai người hãy cố gắng sinh hạ một thằng cu, ta sẽ gả Jumodaban cho con trai em, được không?

Tôi cười hồn nhiên, gật đầu không chút ngại ngùng:

- Vâng!

Không ngờ câu chuyện phiếm của tôi và Zhuoma lại thu hút sự chú ý của các chị em khác. Tôi lập tức cảm nhận được rất rõ ràng những ánh mắt tức giận, đố kỵ đang dồn về phía Zhuoma. Kháp Na bóp nhẹ tay tôi, tôi lập tức im bặt. Có lẽ các cô chị, cô em khác cũng đang nuôi hy vọng một ngày kia, con trai Kháp Na sẽ trở thành rể hiền nhà mình.

Lúc này, Yeshe mới đưa dì năm đến dự tiệc, hắn mau mắn hỏi han người này đến người kia. Tôi giả bộ ngây ngô, vẫy tay gọi Yeshe:

- Chàng ơi, sao lại là chàng? Chàng cũng đến đây ăn Tết à?

Vừa quay đầu nhìn thấy tôi, hắn lập tức diễn vẻ vui mừng khôn xiết, vội vàng chạy lại, ân cần, thân mật:

- Ơ kìa Kangtsoban, đã bao năm trôi qua mà em vẫn còn nhớ ta sao? Lúc nhỏ ta thường tặng cho em đồ chơi và các món ăn mà em thích. Em còn giữ những con búp bê bằng vải và con quay đó không?

Tôi giật mình, thì ra họ quen nhau từ nhỏ. Sakya cách Shalu không xa, hai người đó làm bạn từ nhỏ cũng không có gì là lạ. Yeshe quay sang Kháp Na, vồn vã giải thích;

- Ta và em dâu quen nhau từ nhỏ, hồi đó muội ấy rất thích chơi trò sinh em bé nên thường cùng các anh lớn diễn kịch vợ chồng. Có lần vì quá ham chơi, muội ấy đã sảy chân, ngã xuống chân núi, làm bọn ta sợ hết hồn. May mà Vạn hộ hầu Shalu không trách phạt bọn ta.

Hắn vờ thân mật vỗ vai Kháp Na, cười ha hả:

- Đó là chuyện con nít xửa xưa, đệ đừng để bụng nhé!

Tôi hiểu rồi, hắn đã chuẩn bị kĩ càng để đối phó với tôi. Lời hắn sẽ vô hiệu hóa tất cả những lời buộc tội của tôi. Kangtsoban là cô ngốc nên không thể kể lại tường tận mọi chuyện. Dù tôi có nói gì, cũng không ai tin. Bát Tư Ba lắc đầu ra hiệu cho tôi. Tôi hiểu chàng không muốn vạch tội hắn nữa. Nếu xét về thủ đoạn, tôi hoàn toàn không phải là đối thủ của Yeshe.

Dì năm cố ý lớn giọng hỏi để mọi người cùng nghe thấy:

- Con ơi, cháu trai Dani yêu quý của ta thế nào rồi?

Yeshe cung kính đáp:

- Thưa mẹ, sang năm cháu tròn năm tuổi. Cháu rất tinh nghịch, lanh lợi, thông minh, giờ cháu đã có thể học thuộc làu cuốn Cách ngôn Sakya của bác Ban Trí Đạt.

Dì năm thốt lên kinh ngạc:

- Giỏi vậy ư? Cháu trai ta sau này nhất định sẽ trở thành một nhân vật cự phách. Chỉ tiếc là đến nay nó vẫn chưa về Sakya, nơi đây mới là gia đình, là cội nguồn của nó.

Yeshe tươi cười ý nhị:

- Cháu còn nhỏ, lúc này mà về Sakya, chỉ e sức khỏe không đủ. Đợi cháu lớn hơn, con sẽ đưa cháu về quê hương nhận tổ nhận tông.

Hai người bọn họ, kẻ tung người hứng, tất cả những người có mặt ở đó đều có thể nhận ra giọng điệu đắc ý trong lời nói của họ. Kháp Na tức tối, Bát Tư Ba điềm tĩnh, trong tiếng pháo rộn ràng, ba anh em họ, mỗi người một tâm trạng, đón nhận những lời chúc mừng năm mới!

Ra Tết, cả hai phái Drikung và Phaktru đều tìm cách trì hoãn việc đưa người thừa kế của giáo phái mình đến Sakya. Bát Tư Ba tiếp tục gửi pháp chỉ thúc giục, cuối cùng thì bọn họ cũng đành cắn răng mà giao “con tin”. Mùa xuân năm đó, Sakya đón tiếp hai đoàn người. Một đoàn đưa rước người thừa kế của hai giáo phái Drikung và Phaktru, một đoàn thợ thủ công đến từ Nepol theo lời mời của Bát Tư Ba để kiến tạo thành trì mới của phái Sakya.

Đoàn thợ người ngoại quốc xa xôi gồm tám mươi người, trong đó người nhỏ tuổi nhất là Anigo mới mười bảy tuổi. Tuy còn trẻ nhưng Anigo là người có tài kẻ vẽ điêu luyện nhất trong đoàn thợ thủ công. Ngắm nhìn những bức bích họa của Anigo, Bát Tư Ba đã hết lời khen ngợi. Hỏi chuyện về kỹ thuật xây dựng, thấy cậu ấy trả lời vanh vách, Bát Tư Ba lại càng kinh ngạc. Thành trì mới còn chưa khởi công, Bát Tư Ba đã giao cho Anigo nhiệm vụ giám sát công trình tháp hoàng kim[2] . Tòa tháp này được xây dựng ven sông Trum-chu, dưới chân đền Sakya. Những người hành hương về Sakya lễ Phật có thể nhìn thấy tòa tháp này từ rất xa.

2. Tên gọi “tháp hoàng kim” xuất hiện từ đầu thời Bắc Tống, vốn là công trình kiến trúc Phật giáo đồ sộ trong chùa Nam Thải thuộc huyện Vô vi (nay là Tây Hà). Về sau, “tháp hoàng kim” được dùng để chỉ kiến trúc tháp cổ Phật giáo kiểu thành trì mang phong cách Ả Rập với bốn mặt tháp được quét một lớp bột vàng lấp lánh. (DG)

- Em đến đó mà xem, mọi người đều đang tập trung dưới chân núi để chiêm ngưỡng tháp hoàng kim đó. Tuy vẫn chưa hoàn thiện nhưng đó là tòa tháp đẹp nhất ở Sakya. Anigo thật tài giỏi, đại ca rất hài lòng về cậu ta.

Kháp Na vừa lay gọi vừa ngồi xuống mép giường, xoay gương mặt tôi về phía chàng. Trong khi đó tôi vẫn rất buồn ngủ.

Tôi uể oải gạt tay chàng sang bên, không sao nhấc mí mắt lên được, lẩm bẩm như người mơ ngủ:

- Em buồn ngủ lắm, chàng đi một mình đi, cho em ngủ thêm một lát.

Kháp Na đặt tay lên trán tôi, băn khoăn:

- Không sốt. Thế thì rốt cuộc là làm sao? Thời gian gần đây em thường hay buồn ngủ, ngày nào cũng dậy rất muộn.

Tôi ngáp ngắn ngáp dài:

- Em cũng không biết nữa, chỉ biết là rất thèm ngủ.

- Em có đói không? Có muốn ăn chút gì không?

Chàng rót cho tôi một bát sữa bò, kéo tôi dựa vào vai chàng, dỗ dành tôi uống sữa.

Vừa nhấp một ngụm, bụng dạ tôi bỗng cồn cào, khó chịu, tôi không sao kìm nổi, nôn ra khổ sở. Sữa bò bắn vào áo Kháp Na, tôi vội vàng xin lỗi:

- Em không cố ý đâu. Không hiểu sao, uống sữa bò mà em cũng cảm thấy buồn nôn.

Chàng chẳng buồn để ý đến chiếc áo vấy bẩn, chăm chăm nhìn tôi như thể bị điểm huyệt vậy. Tôi ngạc nhiên kéo vạt áo chàng:

- Chàng sao vậy?

- Buồn nôn, thèm ngủ… - Chàng đột nhiên ôm chặt hai vai tôi, giọng chàng run lên. – Tiểu Lam, có phải em có mang rồi không?

Tôi sững sờ, khẽ chạm tay vào bụng:

- Em… em không biết.

Tôi không có bất cứ kinh nghiệm nào về chuyện này, người duy nhất tôi có thể hỏi lại đang ở Trung Đô.

Kháp Na lập tức bật dậy, lao ra ngoài:

- Ta sẽ đi mời thầy thuốc đến khám cho em.

- Không được, Kháp Na! – Tôi vội vã ngăn chàng lại. – Cơ thể của em khác với loài người, em sợ thầy thuốc sẽ phát hiện ra.

Kháp Na sững lại, gãi đầu quay về bên tôi, chau mày nói:

- Vậy phải làm sao?

Tôi trầm ngâm:

- Hay để em về Trung Đô hỏi Khabi.

Tôi muốn ra khỏi giường nhưng đầu nặng trịch. Tôi định niệm thần chú nhưng chợt nhận thấy năng lượng không đủ để có thể về Trung Đô. Tôi sợ hãi kêu lên:

- Kháp Na, vì sao… vì sao linh khí của em lại đột nhiên giảm sút thế này?

Vừa dứt lời, tôi bỗng sững sờ, ngẩng đầu nhìn Kháp Na đầy lo lắng:

- Em biết rồi!

Năm đầu tiên khi tôi vừa hóa thành người, tôi đã vui mừng khôn xiết, vì từ giờ tôi sẽ có thể gần Bát Tư Ba. Thế nhưng Khabi đã lập tức dội cho tôi một gáo nước lạnh. Cô ấy nghiêm nghị nói:

- Cô hãy suy nghĩ cho thật kỹ. Yêu loài người tức là sẽ phải chịu đựng mối nghi hoặc canh cánh trong lòng, vì cô không dám chắc chắn anh ta có chung tình với mình hay không; sẽ phải chịu đựng những năm tháng cô đơn dằng dặc sau khi anh ta qua đời; và còn phải vượt qua một cửa ải quan trọng khác: sinh nở.

Tôi sợ hãi gạn hỏi:

- Chúng ta sẽ mang thai chín tháng mười ngày giống con người và cũng chịu nỗi khổ sở trong suốt thai kỳ, đúng không?

- Đúng vậy, thậm chí chúng ta còn vất vả, khổ sở và nguy hiểm hơn rất nhiều.

Cô ấy nhếch môi cười, gương mặt kiều diễm bỗng lộ vẻ sợ hãi.

- Kể từ lúc có mang, linh khí trong cơ thể chúng ta sẽ giảm sút rất nhanh, mọi phản ứng của cơ thể đều trở nên chậm chạp. Tuần tuổi của thai nhi càng tăng, linh khí mất đi càng nhiều. Và thời khắc vượt cạn sẽ là lúc nguy hiểm nhất.

Vẻ mặt của cô ấy khiến tôi hoảng sợ, vội vã hỏi:

- Nguy hiểm thế nào?

- Vì thai nhi của loài người lớn hơn cơ thể của loài hồ ly chúng ta rất nhiều nên khi thai nhi được chừng bảy, tám tháng, chúng ta không thể trở lại nguyên hình, phải sinh đẻ trong hình hài của con người. Lúc vượt cạn, linh khí của chúng ta không còn nữa, cơ thể chúng ta sẽ yếu hơn rất nhiều so với những phụ nữ khác. Chỉ sau khi cai sữa, chúng ta mới có thể trở lại nguyên hình để khôi phục sức khỏe. Vì vậy, trong giai đoạn này, cô phải hết sức thận trọng bởi đây sẽ là thời cơ tốt nhất để kẻ thù tấn công, hãm hại cô.

Những lời nói của Khabi cứ vang vang trong đầu tôi, tôi đột ngột nhớ lại sự việc hôm đó, tôi làm phép khiến Yeshe bị hôn mê nhưng hắn đã nhanh chóng tỉnh lại và chạy thoát. Thì ra, không phải do tôi kém cỏi mà vì tôi đã mang bầu. Những ngày vừa qua, ngoài việc đóng giả Kangtsoban, tôi không hề sử dụng linh khí để làm những việc khác nên tôi không phát hiện ra. Tôi cúi xuống nhìn phần bụng vẫn phẳng lì của mình, trộm nghĩ, bây giờ là giữa tháng Hai, vậy hẳn là tôi cũng mới có thai.

Tôi gọi khẽ:

- Kháp Na, chàng lại đây.

Kháp Na đến bên, đỡ lấy tôi, lòng dạ như lửa đốt. Tôi đặt tay chàng lên bụng mình, nở nụ cười thật tươi, nhìn vào đôi mắt long lanh của chàng:

- Có lẽ mới được gần ba tháng thôi. Nếu vậy thì, khoảng cuối tháng Chín năm nay chàng sẽ được làm cha.

Chàng run rẩy, giật mình ngẩng lên nhìn tôi, khóe môi mấp máy nhưng cứ ấp úng, mãi chẳng thành câu:

- Thật… thật vậy không? Em không đùa chứ?

Tôi gật đầu khẳng định, hít một hơi thật sâu, giọng nói run rẩy:

- Là thật đó…

Gương mặt chàng bừng sáng lạ thường, nụ cười mỗi lúc rạng rỡ, ánh mắt long lanh, chan chứa hạnh phúc. Chàng ngẩng lên, nhìn sâu vào mắt tôi, nụ cười tươi tắn khiến gương mặt chàng càng trở nên tuấn tú. Rồi đột nhiên, chàng bế bổng tôi lên, xoay một vòng, niềm vui vô bờ rộn rã bên tai tôi:

- Tuyệt quá! Cuối cùng cũng đợi được rồi!

Rồi chàng đột ngột dừng lại, đặt tôi lên giường, quấn chặt chăn đệm lên người tôi, lảm nhảm không ngơi nghỉ:

- Ta thật đáng trách, chẳng may làm em va đập vào đâu thì sao? Em nhớ phải giữ ấm, không được làm việc gì quá sức, muốn ăn gì, dùng gì, cứ nói với ta là được.

Tôi kìm lại điệu bộ rối rít của chàng, nói khẽ:

- Kháp Na, em không muốn ở lại trong căn phòng của Kangtsoban nữa, chúng ta dọn về Lang Như Thư Lầu đi.

Thực ra vì tôi lo lắng, thai nhi càng được nhiều tháng, linh khí của tôi sẽ càng sụt giảm, nếu không thể tiếp tục đóng giả làm Kangtsoban nữa, bị người hầu của cô ấy phát hiện thì phải làm sao?

Kháp Na gật đầu hoan hỉ:

- Được chứ! Ta cũng không thích chỗ này, hôm nay chúng ta sẽ dọn về đó.

Sau khi chúng tôi về Lang Như Thư Lầu, Kháp Na đã mời Bát Tư Ba đến và thông báo với chàng tin này. Biểu cảm trên gương mặt Bát Tư Ba lúc đầu rất khó hiểu, nhưng ngay sau đó, chàng tỏ ra vui mừng khôn tả:

- Tốt quá rồi! Mong rằng sẽ là con trai, phái Sakya có hy vọng rồi.

Kháp Na nắm chặt tay tôi, tươi cười nói với anh trai:

- Huynh đừng gây áp lực cho Tiểu Lam, con trai hay con gái đều được. Đệ còn trẻ, sau này đệ sẽ sinh cả đàn con.

- Có chuyện này em không thể không nói với hai người. – Tôi suy đi tính lại và quyết định phải cho họ biết. – Trong thời gian mang thai, linh khí của em sẽ suy giảm dần, đến thời điểm vượt cạn thì em sẽ mất hết linh khí và không khác một sản phụ bình thường. Chỉ sau khi cai sữa, em mới có thể khôi phục linh khí đã mất.

Bát Tư Ba kinh ngạc, hàng lông mày xô lại:

- Tức là em sẽ không thể tiếp tục đóng giả Kangtsoban nữa và thính giác, khứu giác, thị giác của em sẽ giống hệt người thường?

Lòng tôi thắt lại, nhưng tôi cố gắng an ủi họ:

- Hai người đừng lo, linh khí sẽ biến mất dần theo thai kỳ chứ không biến mất ngay lập tức.

Nói vậy nhưng tôi cảm thấy vô cùng bất an. Tôi đi theo anh em họ ngần ấy năm mà không ai hay biết tôi có thể nói chuyện và hóa phép thành người, tất cả đều là nhờ vào thính giác, thị giác và khứu giác nhạy bén, ngay cả lúc ngủ cũng không ai đến gần tôi được. Nhưng mang thai là cửa ải gian nan, nguy hiểm mà tôi chưa từng trải qua. Tôi không thể tưởng tượng nổi, nếu trong thời gian này có ai đó phát hiện ra sự tồn tại của tôi thì anh em họ sẽ gặp phải phiền phức lớn thế nào.

- Tuyệt đối không được sơ suất. – Vẻ mặt của Bát Tư Ba nghiêm trọng như sắp phải đối đầu với kẻ địch lớn mạnh. – Yeshe vẫn đang ở Sakya. Ta đã cho người canh chừng hắn để kiểm soát mọi việc làm, hành vi của hắn. Chúng ta phải giữ kín tin Lam Kha mang thai càng lâu càng tốt, mong là có thể giữ cho đến khi đứa trẻ chào đời.

Lòng bàn tay Kháp Na đẫm mồ hôi.

- Đệ sẽ không cho bất cứ ai đến gần. Đệ sẽ tự mình chăm sóc, chuẩn bị mọi thứ cho cô ấy.

Bát Tư Ba gật đầu:

- Ta sẽ cử người bảo vệ nghiêm ngặt Lang Thư Như Lầu và không cho phép ai vào đây, ngoại trừ ta và đệ. Đồ ăn thức uống của Lam Kha đều phải có người thử trước.

Chàng nhìn hai chúng tôi, giọng nói chất chứa lo toan:

- Chúng ta phải làm tất cả để bảo vệ đứa bé này.

Tôi và Kháp Na nắm tay nhau thật chặt, gật đầu quyết tâm.

***

Tôi tấm tắc khen:

- Mùa xuân năm đó, Anigo đã trổ hết tài nghệ, kiến tạo nên tòa tháp hoàng kim đẹp nguy nga, lộng lẫy, có thể coi đó là một tuyệt phẩm của xứ Sakya.

Chàng trai trẻ trầm ngâm suy nghĩ:

- Sao tôi thấy cái tên Anigo này rất quen, chắc chắn đã nghe ở đâu rồi.

- Anigo là kiến trúc sư người nước ngoài duy nhất được sử sách Trung Quốc vinh danh. Sau này, cậu ta đã được Bát Tư Ba tiến cử cho triều đình nhà Nguyên, được Hốt Tất Liệt trọng dụng, phong chức Quang Lộc đại phu, đại tư đồ, ban thưởng vô số của cải. Sau khi qua đời, Anigo còn được phong tước hiệu thái sư, lương quốc công.

Tôi lật mở cuốn sách giới thiệu về các danh lam thắng cảnh của Bắc Kinh, chỉ cho chàng trai trẻ xem các bức ảnh.

- Dù có thể không biết tên tuổi của người này nhưng chắc chắn cậu không thể không biết công trình kiến trúc nổi tiếng nhất do cậu ấy xây dựng: Tháp Trắng ở Bắc Kinh, đó là tòa tháp Phật duy nhất ở thành phố Bắc Kinh.

Vừa nhìn thấy bức hình, chàng trai lập tức nhớ ra:

- Tháp Trắng ở Bắc Hải phải không? Tôi từng tới đó tham quan.

Tôi cười:

- Không phải Tháp Trắng ở công viên Bắc Hải, tòa tháp đó được xây dựng vào thời nhà Thanh, phỏng theo phong cách kiến trúc của tòa Tháp Trắng mà Anigo xây dựng trước đó. Tòa Tháp Trắng do chính Anigo xây dựng nằm ở cổng Phụ Thành, khu phía tây của thành phố Bắc Kinh. Sau khi công trình này hoàn tất, Hốt Tất Liệt đã hết lời khen ngợi, lập tức hạ lệnh xây dựng chùa “Đại Thánh Thọ Vạn An” lấy tòa tháp làm trung tâm. Ngôi chùa này về sau đã trở thành chùa hoàng gia của triều đình nhà Nguyên. Tiếc thay, nó đã bị phá hủy sau một trận hỏa hoạn xảy ra vào cuối triều Nguyên, chỉ còn tòa Tháp Trắng vẫn được bảo tồn cho đến tận ngày nay. Tòa tháp này là một trong số ít các di tích lịch sử từ thời Nguyên còn sót lại.

Tôi lật tiếp vài trang nữa và tìm thấy bức hình chụp tượng điêu khắc Anigo.

- Cậu nhìn này, đây chính là tượng đồng Anigo do người đời sau điêu khắc, nó được đặt ngay bên cạnh Tháp Trắng.

Chàng trai trẻ tấm tắc:

- Tôi nhận thấy,rất nhiều danh nhân triều Nguyên có liên quan đến Bát Tư Ba: Senge, Dampa và cả Anigo nữa, đều được Hốt Tất Liệt trọng dụng.

- Chàng quý trọng người tài, lại giỏi nhìn người, đi đến bất cứ đâu, chàng cũng mong muốn chiêu nạp hiền tài. Gặp được người có tài năng đặc biệt, chàng liền ra sức tiến cử với Hốt Tất Liệt. Đây cũng chính là lý do vì sao Hốt Tất Liệt lại tín dụng và xem trọng chàng đến thế. – Tôi cười buồn. – Nhưng không phải lúc nào chàng cũng đánh giá đúng về người khác. Chàng cũng từng nhìn nhận sai lầm một người, vì thế đã trả giá rất đắt.

Chương 47

Sinh ly tử biệt

“Cây thấp lè tè mà quả sai trĩu trịt,

Chim công hiền lành mà xòe đuôi rực rỡ;

Chỉ có bậc hiền nhân mới tài đức vẹn toàn,

Chỉ có loài tuấn mã mới phi nhanh như bay.”

(Cách ngôn Sakya)

Những ngày sau đó, tôi chỉ cho phép Yamkhin mỗi ngày được đến thăm tôi một lát, tất cả những cô hầu mà Kangtsoban đưa đến từ Shalu tôi đều không gặp. Tôi biết Yamkhin là tai mắt của Jichoi ở Sakya nên tôi buộc phải để cô ta thấy tôi an toàn, khỏe mạnh, nếu không Jichoi sẽ sinh nghi. Mỗi lúc Yamkhin đến thăm, tôi đều hết sức thận trọng, không để cô ta phát hiện ra tôi đã mang thai, tránh việc Jichoi biết được, sẽ cử thầy thuốc đến khám xét.

Chúng tôi đã hết sức thận trọng để bảo vệ sinh mệnh yếu ớt trong bụng tôi. Kháp Na lo lắng đến mất ăn mất ngủ. Và tôi đã bình an vượt qua ba tháng đầu của thai kỳ với sự chăm sóc chu đáo và nghiêm ngặt. Ngoài cảm giác buồn nôn và chán ăn, tôi không có biểu hiện gì đáng lo. Tuy không thể mời thầy thuốc đến khám thai nhưng tôi có thể cảm nhận được tình trạng của thai nhi nhờ bản năng mẫn cảm của người mẹ. Tôi nói với Kháp Na rằng, đứa bé rất ổn, không có gì phải lo cả.

Cuộc sống của Kháp Na lúc này chỉ xoay quanh tôi, cả ngày túc trực bên tôi. Chàng dành phần lớn thời gian trong ngày để ngắm nghía bụng bầu của tôi, nghiêng sang phải, ngó sang trái và hoan hỉ nói:

- To hơn một chút rồi!

Nhưng tôi lại chẳng nhận ra sự thay đổi nào cả. Tôi kết luận, người đàn ông này mong mỏi được lên chức cha quá đấy mà!

Cuối tháng Tư năm đó, bụng bầu của tôi bắt đầu lộ rõ. Kháp Na thông báo với tôi rằng, Yeshe đã rời Sakya về Vân Nam. Kể từ đêm Giao thừa, khi tôi cố ý vạch trần âm mưu của hắn và bị hắn phủi sạch trơn, hắn không dám tìm gặp riêng tôi nữa. Dù thỉnh thoảng có chạm mặt, cũng chỉ hỏi han vài câu khách sáo, chuyện lúc trước xem như chưa hề xảy ra. Sau khi chúng tôi dọn vào ở trong Lang Như Thư Lầu, hắn chưa từng đến gặp tôi.

Tôi không rõ hắn định làm gì tiếp theo nhưng lúc này, tôi muốn dành trọn tâm trí cho đứa bé trong bụng, chẳng còn thời gian xét đoán tâm tư của hắn. Nghe tin hắn đã ra đi, tôi thở phào nhẹ nhõm. Suốt bốn tháng ở Sakya, hắn bị Bát Tư Ba cho người giám sát kĩ lưỡng cả ngày lẫn đêm. Có lẽ hắn cũng hiểu rằng, hắn không thể giở trò gì ở Sakya được nữa nên cách tốt nhất là quay về Vân Nam.

Lúc hắn lên đường, rất đông bà con họ hàng đã đến tiễn hắn, dì năm khóc sưng cả mắt, ngất lên ngất xuống. Bát Tư Ba vốn tín cẩn trọng, đã cho người bám theo hắn mãi đến tận biên giới Tiền Tạng và Hậu Tạng và nhận thấy hắn không có hành động gì khả nghi. Một tháng sau khi Yeshe rời khỏi Sakya, nỗi nơm nớp lo sợ trong lòng chúng tôi mới được cởi bỏ.

Bước sang tháng thứ năm, nhu cầu ăn uống của tôi tăng lên nhanh chóng, bụng tôi phình ra như người ta thổi bóng bay, không lâu sau đã đến giai đoạn đi lại nặng nề. Lúc này, tuy không còn cảm giác nghén nữa nhưng linh khí trong cơ thể đã suy giảm rất nhiều. Những lúc phải đóng giả Kangtsoban để gặp Yamkhin, tôi rất lo sợ. Tuy gương mặt có thể biến đổi nhưng bụng bầu thì chẳng thể che giấu. Thế là, sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, Bát Tư Ba và Kháp Na cho rằng thời kỳ nguy hiểm của thai nhi đã qua, Yeshe cũng đã rời khỏi Sakya, chi bằng công bố thông tin Kangtsoban mang thai. Bát Tư Ba nói với thầy thuốc rằng, đứa trẻ đã được bốn tháng, nhưng vì Kangtsoban không hiểu biết như những phụ nữ bình thường khác nên mãi đến khi lộ bụng bầu, Kháp Na mới phát hiện ra.

Người trên kẻ dưới trong giáo phái ai nấy đều tưng bừng hớn hở, trừ dì năm. Bản khâm Shakya Zangpo đã tổ chức rất nhiều buổi lễ cầu an. Tôi viện cớ mang bầu, tính tình cáu bẳn, ngoài Kháp Na ra, không chịu gặp bất cứ ai, kể cả Yamkhin. Hay tin, Jichoi lập tức chạy đến Sakya, nhưng tôi đóng kịch nổi đóa, nhất định không chịu cho thầy thuốc khám thai và hất đổ mọi loại thuốc bổ. Phụ nữ mang thai tính khí thay đổi, Kangstoban lại không bình thường nên Jichoi cũng đành chịu thua. Nhưng bù lại, bụng bầu của Kangtsoban đã lộ rõ, Kháp Na lại hết mực yêu chiều vợ nên Jichoi cũng vui vẻ trở về Shalu, chờ ngày được bồng cháu ngoại. Vậy là tôi đã vượt được cửa ải này.

- Thấy gì không?

Kháp Na áp tai vào bụng bầu tròn trịa của tôi, nín thở lắng nghe. Nhưng nghe mãi chẳng thấy động tĩnh gì.

- Yên ắng lắm, không có động tĩnh gì hết.

Chàng sốt ruột vỗ nhẹ vào bụng tôi:

- Con ngoan, đạp đi nào, để cha biết con vẫn bình an trong bụng mẹ.

Tôi phì cười:

- Chắc em bé ngủ rồi, ngày mai lại nghe ngóng tiếp.

Kháp Na thở dài thất vọng, vòng tay qua bụng tôi, không muốn rời xa:

- Còn sớm mà, đã đến giờ đi ngủ đâu. Sáu tháng là em bé có thể đạp được rồi kia mà.

Lúc Kháp Na nói câu này, đột nhiên tôi cảm nhận rất rõ ràng bụng mình bị hích một cái, Kháp Na cũng nhận thấy. Chúng tôi nhìn nhau kinh ngạc, tôi lập tức nắm lấy tay Kháp Na, xúc động:

- Kháp Na, con đạp rồi đó, con đạp em này!

Kháp Na sung sướng nhìn tôi, niềm vui ngập tràn trong ánh mắt:

- Đúng vậy, đúng là con đang cử động.

Chàng hớn hở áp tai vào bụng tôi:

- Con yêu, đạp một cái nữa đi, rồi cha sẽ hát cho con nghe.

Tôi phì cười:

- Làm sao mà bé hiểu được lời chàng.

Kháp Na tươi cười rạng rỡ như địa chủ được mùa:

- Bé là con của chúng ta, là đứa bé kỳ diệu nhất trên đời này, sao lại không hiểu?

Và như để ứng nghiệm lời nói của Kháp Na, em bé đạp tôi một cái mạnh hơn lúc trước, cú đạp bất ngờ đó khiến tôi kêu lên vì đau. Kháp Na khoái chí, vuốt ve bụng bầu của tôi, cất tiếng khe khẽ:

-“Ầu ơ, ầu ơ, nhịp võng ru

Ngủ ngoan con yêu, tay mẹ đưa

Mai sau khôn lớn con hãy nhớ

Tình mẹ ngày đêm vẫn đợi chờ.”

Kháp Na âu yếm nhìn bụng bầu của tôi, vẻ mặt rạng ngời hạnh phúc, ánh mắt ấm áp, dịu dàng. Tôi cảm động đến muốn khóc. Đứa bé này thật may mắn vì có được người cha yêu nó nhường ấy. Tôi ngắm nhìn chàng, tưởng tượng:

- Nếu là bé trai, chắc chắn sẽ khôi ngôi, tuấn tú như chàng vậy. Không biết ngày sau sẽ khiến bao nhiêu cô gái điên đảo.

Kháp Na kéo tôi dựa vào vai chàng, vòng tay qua eo tôi, ánh mắt lấp lánh:

- Đại ca hy vọng nó là con trai, nhưng kể cả là con gái ta vẫn yêu thương nó hết lòng. Nó sẽ giống em, xinh đẹp, dịu dàng, hiền lành, đáng yêu.

Trong lúc vợ chồng tôi vẫn đang mê mải với viễn cảnh tương lai tươi đẹp thì Bát Tư Ba hốt hoảng lao vào Lang Như Thư Lầu. Kháp Na giật mình đứng lên. Không chờ Kháp Na lên tiếng, Bát Tư Ba lập tức thông báo:

- Ta phải về Trung Đô ngay.

Kháp Na tái mặt, hỏi:

- Đã xảy ra chuyện gì vậy?

Bát Tư Ba ngồi xuống, nhấp một ngụm trà lấy giọng:

- Ta nhận được hai bức thư gửi đến từ Trung Đô. Một bức do Đại hãn viết, nói rằng đã mấy năm không gặp ta, lòng ngài không nguôi tưởng nhớ. Ngài dự định trùng tu lại tòa tháp Phật ở phía tây kinh thành bị hủy hoại vào thời nhà Liêu, theo phong cách của người Tạng nên hỏi ta có tìm được thợ giỏi chuyên xây tháp Lạt Ma nào không.

Kháp Na ngồi xuống cạnh anh trai, rót thêm trà cho chàng.

- Chàng trai trẻ Anigo, người Nepol ấy chính là ứng cử viên xuất sắc. Cậu ấy có thể xây tòa tháp Phật nguy nga như vậy, chắc chắn cũng sẽ khiến Đại hãn hài lòng.

Bát Tư Ba gật đầu:

- Đúng thế. Ta định giữ cậu ta lại để lo việc xây dựng thành trì tương lai của phái Sakya nhưng nếu Đại hãn cần người như vậy, về Trung Đô lần này, ta sẽ đưa cậu ấy đi theo.

Kháp Na nhìn anh trai, băn khoăn:

- Đại ca, Đại hãn nhớ huynh đúng là chuyện rất quan trọng, nhưng đâu nhất thiết phải lập tức lên đường. Huynh gấp gáp như vậy, phải chăng còn vì việc gì khác?

Vẻ mặt Bát Tư Ba bỗng trở nên trầm lặng:

- Drakpa Odzer cho người gửi thư mật về báo với ta rằng, pháp vương Chongni của phái Phaktu Kagyu đã đến Trung Đô, hiện đang trú ngụ trong cung điện của Đại hãn. Ông ta giỏi ăn nói, nhiều phép thuật nên rất được lòng Đại hãn.

Kháp Na kinh ngạc:

- Ông ta đến đó khi nào? Vì sao phái Sakya không hề hay biết chuyện này?

- Ông ta âm thầm đến đó, mục đích rất rõ ràng: muốn thừa dịp ta không có mặt ở Trung Đô, giành lấy sự tín nhiệm của Đại hãn, hòng thay thế địa vị của phái Sakya!

Bát Tư Ba vô cùng lo lắng:

- Ta bảo Rinchen ở lại Trung Đô là để giữ gìn và duy trì sự ủng hộ của Đại Hãn đối với giáo phái chúng ta. Có điều, Rinchen tuy uyên thâm Phật pháp nhưng lại không giỏi ứng biến, khó mà đối phó được với Chongni. Drakpa Odzer rất lo lắng nên mới viết thư mời ta về Trung Đô gấp, lại đúng lúc Đại hãn muốn triệu ta về, ta cũng đã hoàn thành xong hệ thống chữ viết Mông Cổ. Chuyến đi lần này là hoàn toàn hợp tình hợp lý.

Kháp Na vẫn đầy trăn trở:

- Nhưng ở đây còn biết bao việc chưa xong. Thành trì của giáo phái còn chưa khai thông, hai phái Drikung và Phaktru tuy bề ngoài chịu khuất phục nhưng vẫn ngầm giở trò phá hoại, chống đối. Việc thống nhất đất Tạng vẫn bộn bề, dang dở!

- Thế nên ta muốn đệ ở lại. Lúc ta vắng mặt thì đệ sẽ là trụ cột của giáo phái, mọi việc lớn bé sẽ do đệ quyết định. - Bát Tư Ba nắm chặt tay em trai, xúc động. Ta biết đệ không muốn nhưng buộc phải thay ta hoàn thành những phần việc còn dang dở này. Kháp Na, hãy hứa với ta, giúp ta gánh vác trọng trách này!

Kháp Na vẫn rất bối rối:

- Đại ca…

- Ta hứa với đệ, sau khi đến Trung Đô và hoàn tất mọi việc, ta sẽ lập tức quay về Sakya, giải thoát đệ khỏi trách nhiệm nặng nề này.

Rồi chàng quay sang ngắm nghía bụng bầu của tôi, mắt tràn đầy hy vọng:

- Đến lúc đó, có lẽ cháu trai của ta đã biết gọi "bác ơi" rồi!

Kháp Na khảng khái đáp:

- Huynh cứ yên tâm về Trung Đô, đệ nhất định sẽ làm tròn trách nhiệm.

Bát Tư Ba quyết định ngày 25 tháng 6 sẽ khởi hành về Trung Đô. Trước ngày lên đường, Kháp Na bận rộn không ngơi chân ngơi tay, vì phải chuẩn bị hành trang cho anh trai và tiếp quản mọi công việc của Lâu Cát nên thời gian chàng dành cho tôi rất ít. Tôi không thể ra khỏi Lang Như Thư Lầu nên đành đi dạo một mình trong sân vườn, vừa đi vừa trò chuyện với em bé trong bụng để giết thời gian.

Một ngày trước khi Bát Tư Ba lên đường, lòng tôi phấp phỏng lo âu. Tôi rất muốn đến để chào tạm biệt chàng. Từ Sakya đến Trung Đô, cả đi và về cũng phải mất hai năm, Bát Tư Ba còn phải ở lại đó một thời gian nữa, điều đó có nghĩa, phải chừng ba năm sau, tôi mới gặp lại chàng. Ba năm tới đây, vì phải nuôi con nhỏ, tôi sẽ không thể làm người đưa tin cho hai anh em họ như trước kia được nữa. Cứ nghĩ đến đây, lòng tôi thắt lại, trái tim hoang mang, trống trải. Ở bên anh em họ hơn hai mươi năm, chưa bao giờ tôi nghĩ rằng sẽ có lúc mình phải xa Bát Tư Ba lâu đến vậy.

Kháp Na không có nhà, mình tôi thơ thẩn ngoài vườn. Vì muốn tâm trạng của tôi được thoải mái, Kháp Na đã nhờ Kunga Zamgpo tìm kiếm loài hoa đẹp nhất ở mãi vùng Tiền Tạng, đem về trồng trong vườn. Lúc này đang là mùa hạ, mùa dễ chịu nhất ở Sakya, hoa nở khắp vườn, cây xanh lá biếc, hương thơm ngào ngạt nhưng vẫn không sao khiến tâm trí tôi thư thái được. Tôi nhớ Bát Tư Ba, tôi muốn gặp chàng! Nỗi niềm thầm lặng mà da diết ấy cứ cuồn cuộn trào dâng trong tôi, không sao nguôi ngoai.

Đang định niệm chú hóa thành Kangtsoban để đi gặp Lâu Cát, vừa quay đầu lại, tôi đã bắt gặp bóng chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm ngoài cổng, vẫn là bóng dáng cao gầy, cô độc ấy, vẫn đôi mắt trong suốt, long lanh ấy đang nhìn tôi chăm chú, đôi đồng tử u buồn như sương mai trên dãy núi phía xa. Tôi mãi mãi không bao giờ hiểu hết những điều thầm kín ẩn chứa trong đôi mắt ấy, nhưng lúc nào đôi mắt ấy cũng khiến tôi nhớ nhung da diết.

- Lâu Cát…

Nước mắt trào ra, tôi vội vàng quay đi, lau nước mắt rồi ôm bụng ra đón chàng.

- Sao chàng lại đến đây? Kháp Na đâu rồi?

- Kháp Na đang bàn giao chìa khóa nhà kho cho bản khâm nên chỉ có mình ta đến.

Chàng tựa người vào cánh cổng, bối rối cúi nhìn ngón chân mình, khẽ nói:

- Ta… ta muốn gặp riêng em để chào từ biệt.

Tim tôi đập mạnh, sống mũi cay cay. Kể từ ngày làm vợ Kháp Na, tôi dành trọn tâm tư cho chàng, chưa khi nào gặp riêng Lâu Cát thế này. Tuy trái tim vẫn đập rộn ràng mỗi lúc nhìn thấy bóng chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm ấy như một thói quen khó bỏ nhưng tôi biết, chúng tôi đã không còn duyên nợ gì nữa, chỉ có thể thương nhau, nhớ nhau như những người bạn, người thân mà thôi.

Tôi sụt sịt, xúc động:

- Trên đường đi chàng phải giữ gìn sức khỏe, chịu khó ăn uống, ngủ nghỉ thật đầy đủ. Đừng lo lắng chuyện ở nhà, Kháp Na sẽ xử lý tốt mọi việc.

Chàng vẫn cúi đầu như thế, chỉ ậm ừ đáp lại mỗi lời dặn dò của tôi. Thực ra, tôi biết chàng sẽ không nghe tôi đâu. Tôi ngước lên nhìn gương mặt gầy guộc, tiều tụy của chàng, không nén nổi tiếng thở dài:

- Lâu Cát, chỉ cần hứa với em một điều thôi: đừng để gầy thêm nữa.

Cuối cùng thì chàng cũng chịu ngẩng lên, ánh mắt lấp lánh như muốn chiếu rọi đến tận cùng u tối. Rất lâu sau, chàng mới quay đi, cất giọng thì thào:

- Được, ta hứa với em!

Kể từ lúc đó, hai chúng tôi hầu như không nói với nhau câu gì, nhưng cả hai đều không muốn thốt lên lời giã biệt, cứ lặng lẽ như thế. Mặt trời ngả về tây, cái nóng oi bức của mùa hạ được gió chiều làm cho dịu lại. Vạt áo tăng ni của chàng bay bay trong gió, dưới ánh hoàng hôn ngày muộn, bóng dáng ấy như còng xuống rất nhiều bởi trên vai chất đầy trọng trách. Gương mặt cương nghị, thâm trầm thoáng nét hiền hòa và nụ cười hồn hậu. Chàng khẽ bảo:

- Lam Kha, ta đi đây!

Tôi nắm chặt bàn tay, móng tay cắm vào da thịt, truyền đến cảm giác nhói đau. Chàng lùi lại, đặt tay lên thành cửa, ánh mắt không rời khỏi tôi, bàn chân dùng dằng không dứt:

- Chia tay lần này, không biết khi nào mới có thể gặp lại. Điều khiến ta nuối tiếc nhất là không được tận mắt chứng kiến ngày đứa bé chào đời.

Tôi cuống quýt dõi theo bàn chân chuẩn bị bước qua bậc cửa của chàng, vội vã gọi:

- Trước lúc ra đi, chàng có muốn chào em bé không?

Đôi mắt chàng mở to kinh ngạc, nụ cười rạng rỡ trên môi, niềm hân hoan chẳng thể che giấu. Chàng rảo bước lại gần tôi, ánh mắt đổ dồn vào cái bụng bầu của tôi, cánh tay chầm chậm chìa ra, xúc động, run rẩy. Nhưng ngay khi sắp chạm tới, ánh mắt chàng đột nhiên thoáng vẻ kinh hãi, hoảng sợ, rồi chàng lập tức rụt tay về, hơi thở hổn hển. Chàng lùi lại, lấy lại vẻ mặt điềm tĩnh như thường lệ:

- Ta là tăng nhân đã thọ giới Cụ túc, không thể có cử chỉ khiếm nhã đó được.

Tôi ngỡ ngàng, lắc đầu cười buồn:

- Em không có ý gì cả. Em chỉ nghĩ chàng và Kháp Na đều rất mực yêu thương đứa bé này nên hẳn rất muốn biết liệu nó có được an toàn, khỏe mạnh hay không thôi.

Ánh hoàng hôn trải một đường viền vàng son trên lớp lớp tầng mây xa tít tắp, ánh sáng nơi đường chân trời dần tắt lịm. Đôi mắt chàng rực sáng nhức nhối. Chàng chầm chậm cúi gập người trước tôi:

- Lam Kha, hãy vì Kháp Na, vì Sakya và... vì ta mà sinh hạ đứa trẻ này thật khỏe mạnh, an toàn nhé!

Nước mắt tôi trào ra, đây là lần thứ hai chàng trịnh trọng cúi người trước tôi thế này. Lần đầu vì Kháp Na, lần thứ hai là vì đứa trẻ.

Rồi chàng hít một hơi thật sâu, thốt lên hai tiếng sau cùng:

- Bảo trọng!

Nói rồi, chàng quay đầu, rảo bước. Bóng dáng ấy đột ngột khuất sau cánh cổng, chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm nhuộm trong nắng vàng, nửa vai bên này hiển hiện rõ nước da bánh mật khỏe khoắn. Tôi thì thầm:

- Lâu Cát, hãy bảo trọng! Tôi thẫn thờ ngước nhìn lên, nền trời đã ngả từ màu xanh lam sang gam màu tối sẫm. Gió nhẹ dìu dặt thổi tới, mang theo hương hoa nồng nàn, đủ khiến người ta nghiêng ngả. Tôi giật thót mình khi nhận ra có ai đó xuất hiện, lập tức quay đầu lại. Kháp Na đang đứng ngoài cổng, chăm chú nhìn tôi. Tôi thở phào:

- Kháp Na, chàng về từ khi nào vậy?

Thính giác của tôi đã mất đi sự nhạy bén nên ngay tiếng bước chân của chàng cũng không nhận ra.

Chàng trầm ngâm một lúc mới trả lời:

- Ta vừa về tới.

Chàng chậm rãi bước lại gần tôi, nhìn thấy đám hoa vàng đang nở rộ nơi góc tường, chàng liền đưa tay ngắt một bông, cài lên tóc tôi:

- Loài hoa này tuy không đẹp nhưng mùi hương của nó rất nồng nàn. Kunga Zangpo bảo rằng, hoa này gọi Tuyết Sơn Nhất Chí Khao[1] chỉ mọc ở vùng Nyingchi thuộc đất Tạng. Để đưa giống hoa này về trồng ở Sakya, Kunga Zangpo đã bỏ ra rất nhiều công sức.

1. Một loại hoa có màu vàng, thuộc họ cúc. (DG)

Tôi ngắm nhìn những bông hoa màu vàng tươi, rung rinh trong gió, khẽ lắc đầu:

- Em cảm thấy hương hoa này quá nồng, ảnh hưởng rất nhiều đến khứu giác của em. Tuy chàng vì em mới tốn công tốn sức như vậy nhưng em thấy lo, nhỡ xảy ra chuyện gì, mùi hương của loài hoa này sẽ trở thành chướng ngại vật.

- Khứu giác của em mất đi sự nhạy bén vì mang bầu, đừng đổ lỗi cho hoa chứ! Ta thấy đất đai ở Sakya quá ư khô cằn, được ngày ngày ngắm nhìn hoa cỏ rực rỡ thế này thật là sảng khoái.

Chàng tươi cười ôm vai tôi, dắt tôi vào phòng.

- Đừng nghĩ ngợi nhiều, sau khi sinh con, khứu giác và thính giác của em tự khắc sẽ khôi phục như xưa.

Tuy nói vậy nhưng không hiểu sao mí mắt tôi cứ giật liên tục. Có điều gì đó khiến tôi bồn chồn không yên. Và nỗi âu lo đeo đẳng ấy chỉ năm ngày sau đã ứng nghiệm, như sét đánh, gây nên nỗi đau đớn không bao giờ nguôi ngoai trong cuộc đời tôi.

Ngày Bát Tư Ba lên đường, tôi không ra khỏi Lang Như Thư Lầu, chỉ có Kháp Na đi tiễn. Kháp Na cưỡi ngựa theo đoàn người rất lâu, mãi đến đoạn núi non điệp trùng, núi tuyết đan cài thảo nguyên mênh mông, hai anh em họ mới bịn rịn từ biệt. Bát Tư Ba căn dặn chu đáo, Kháp Na rơi nước mất hết lần này đến lần khác. Không giống những lần chia ly trước đây, vì lần này trên vai mỗi người đều mang những trọng trách lớn lao, mà họ lại khó lòng trao đổi tin tức với nhau giữa nghìn trùng xa cách.

Bát Tư Ba phải thúc giục mãi, Kháp Na mới chịu thúc ngựa quay về Sakya. Bát Tư Ba đứng trên đồi cao, dõi theo bóng em trai cứ xa dần, xa dần rồi khuất hẳn. Còn tôi, một mình ngồi trong Lang Như Thư Lầu, mí mắt cứ giật liên tục, lòng bồn chồn, lo lắng. Hương hoa ngào ngạt ào đến, tôi ngước nhìn những tầng mây xám ùn ùn kéo tới, che vầng thái dương, kéo theo đó là tiếng sấm sét rền vang đất trời. Bầu không khi trở nên ngột ngạt vô cùng, mây đen bao khủ khắp vùng Sakya.

Hai anh em họ không hề biết rằng, cuộc ‘’sinh ly” này đã trở thành “tử biệt”.

***

Tôi có một thắc mắc. Với sự nâng đỡ, ủng hộ của triều đình nhà Nguyên, phái Sakya đã xây dựng chính quyền của giáo phái mình trên đất Tạng, nhưng dường như quyền hành của họ hết sức hạn chế. Này nhé, phải Drikung và Phaktru có thể ngang nhiên chống đối Sakya, các giáo phái và vạn hộ hầu khác đều là những thể lực rất mạnh trong khu vực họ cai quản, thế nên đôi lúc Bát Tư Ba không thể không xuống nước với họ. Vậy thì, phải chăng chính quyền Sakya chỉ có quyền lực trên danh nghĩa?

- Những điều cậu vừa nói không phải không có lý nhưng không thể căn cứ vào đó để kết luận chính quyền Sakya chỉ là một chính quyền trên danh nghĩa.

Tôi ngẫm ngợi một lát, nói tiếp:

- Đúng là những giáo phái và vạn hộ hầu này có quyền tự quyết độc lập trong phạm vi cai quản của mình, thậm chí một số giáo phải còn cử người trực tiếp đến chính quyền trung ương để bái kiến Nhà vua, nâng cao thanh thế của giáo phái mình. Đó là vì Tây Tạng đã bị chia năm xẻ bảy suốt thời gian dài nên Bát Tư Ba không thể lập tức tước bỏ quyền lợi của họ. Chàng mới chỉ tước đi một phần nhỏ quyền lợi của họ mà đã gây nên cuộc phân tranh kéo dài mấy chục năm đấy thôi.

- Cũng phải, có kẻ nào bằng lòng san xẻ miếng ngon của mình đâu chứ!

- Bởi vậy, chính quyền Sakya mà Bát Tư Ba xây dựng nên là hoàn toàn phù hợp với bối cảnh lịch sử thực tế của Tây Tạng khi đó. Về sau, phái Phaktru thời nhà Minh, phái Gelug thời nhà Thanh đã tiếp tục duy trì mô hình cai trị này của chính quyền Sakya, tức là vẫn duy trì một phần quyền tự quyết và đất đai sở thuộc của các giáo phái khác.

Tôi chuyển đề tài, đưa ánh mắt sắc lẻm về phía chàng trai trẻ:

- Không nên thấy các giáo phái khác vẫn có được đất đai tự quản mà đánh giá rằng chính quyền Sakya chỉ là chính quyền trên danh nghĩa. Điều quan trọng nhất là, triều đình nhà Nguyên đã trao quyền quản lý các giáo phái và mười ba vạn hộ hầu vào tay phái Sakya, chứ không phải bất cứ giáo phái nào khác. Tuy một số giáo phái đã được sắc phong nhưng những tước vị đó chẳng thể so sánh với quyền lực của phái Sakya cả về phạm vi và mức độ. Những giáo phái này buộc lòng phải tuân thủ mệnh lệnh của cả triều Nguyên và chính quyền Sakya. Tuy không hài lòng, nhưng họ cũng chỉ có thể âm thầm phản đối, không kẻ nào dám công khai chống đối. Bởi vì, hành động đó sẽ bị coi là chống lại người Mông Cổ, có thể sẽ phải chuốc sự trừng phạt thảm khốc.

Chương 48

Sự biến ở Sakya

“Bậc hiền nhân và người thường tuy hành động giống nhau,

Nhưng kết quả đạt được hoàn toàn khác nhau;

Hạt gieo dưới đất tuy giống nhau,

Nhưng cho kết quả thu hoạch khác nhau.”

(Cách ngôn Sakya)

Tôi không bao giờ quên được ngày mồng 2 tháng 7 năm 1267 ấy bởi đó là nỗi ám ảnh đeo đẳng suốt cuộc đời tôi. Mỗi năm, vào ngày này, thế giới trong mắt tôi chỉ là một màu u ám, ảm đạm. Bảy trăm năm sau hồi tưởng lại, tim tôi vẫn quặn đau từng cơn.

Đó là một chiều mùa hạ bình dị của ngày thứ năm sau khi Bát Tư Ba lên đường. Sáng sớm, Kháp Na đã có mặt ở phòng làm việc của Bát Tư Ba để xử lý việc chính sự. Buổi trưa, như thường lệ, chàng quay về Lang Như Thư Lầu dùng bữa với tôi.

Ăn trưa xong, Kháp Na định trở lại làm việc nhưng thấy chàng có vẻ mệt mỏi, tôi khuyên chàng ngủ một lát rồi hãy đi. Không ngờ Kháp Na thiếp đi rất lâu, sắc mặt càng lúc càng nhợt nhạt, trán vã mồ hôi. Chàng ôm bụng, kêu đau. Tôi hốt hoảng, vội ghé sát người chàng hít ngửi. Độ nhạy cảm của khứu giác suy giảm, thêm vào đó mùi hương hoa ngào ngạt từ ngoài vườn đưa vào khiến tôi không sao phát hiện ra điều khả nghi nên đoán rằng chàng bị đau bụng đi ngoài.

Tôi định ra ngoài tìm người giúp đỡ nhưng Kháp Na đã giữ tay tôi lại, gương mặt tái dại, gắng gượng nở nụ cười:

- Đừng làm vậy, ta không sao. Uống chén trà, nghỉ ngơi một lát là khỏi thôi.

Tôi vội vàng đi rót trà cho chàng, lúc quay lại bên giường thì thấy chàng ôm bụng, mặt mày nhăn nhó, khổ sở. Chàng gắng gượng nhấp một ngụm trà nhưng chưa kịp nuốt trôi đã nôn thốc nôn tháo ra giường. Trời ơi, toàn là máu! Tôi ghé sát mũi ngửi thử rồi sợ hãi, hồn bay phách lạc:

- Có độc!

Tôi cuống cuồng hóa phép thành Kangtsoban, lao ra ngoài kêu gào:

- Người đâu, mau đến đây!

Vì Kháp Na hạ lệnh nghiêm cấm người hầu đến gần Lang Như Thư Lầu nên phải mất một lúc bọn họ mới ào đến. Tôi lập tức ra lệnh:

- Mau lên, mau mới thầy thuốc đến đây! Vương gia bị trúng độc rồi!

Đám đầy tớ tròn mắt kinh ngạc, vội vã chạy đi. Tôi giữ tay một người lại, hỏi:

- Kunga Zangpo đâu?

Người đó đáp:

- Khi nãy ông ấy nói là hơi mệt nên đã về phòng nghỉ ngơi.

Tôi sững sờ. Kunga Zangpo xưa nay luôn đảm nhiệm việc thử đồ ăn của Kháp Na. Loại độc này không phát tác ngay tức khắc nên có lẽ Kunga Zangpo chưa phát hiện ra. Chắc là cậu ta cũng đã trúng độc. Tôi nghiêm giọng dặn dò:

- Lập tức khiêng Kunga Zangpo đến phòng Vương gia để cùng cứu chữa, sau đó đi mời bản khâm đến đây!

Người hầu nhìn tôi bằng ánh mắt lạ lùng. Tôi lập tức hiểu ra, hẳn cậu ta đang vô cùng băn khoăn vì sao Kangtsoban lại tỉnh táo, linh hoạt như vậy. Nhưng giữa lúc nước sôi lửa bỏng thế này, tôi không còn thời gian để bận tâm đến những chuyện đó nữa. Tôi gắt lên:

- Mau đi đi chứ!

Lúc này cậu ta mới tỉnh ra, vội vã chạy đi. Lúc tôi quay vào phòng, dưới chân giường, những vệt máu đen đã loang rộng. Kháp Na gục xuống mép giường, mái tóc xõa xuống nền đất. Tôi thất kinh, gọi tên chàng, chạy đến bên chàng, đỡ chàng nằm xuống. Gương mặt chàng tái xám, đôi môi trắng bệch, hai mắt nhắm chặt, chàng đang ra sức chống chịu với cơn đau. Tôi vội vàng cúi xuống, áp môi lên bờ môi lạnh như băng của chàng, truyền linh khí cho chàng.

Nhưng vừa lấy lại được chút sức lực, chàng đã đẩy tôi ra xa bằng cả hai tay, vừa thở dốc vừa lắc đầu:

- Tiểu Lam, ta không sao, đừng lãng phí linh khí.

Tôi biết chàng không muốn tôi mất sức trong thời gian mang thai nên chỉ biết gào khóc:

- Kháp Na, thầy thuốc sắp đến rồi, chàng hãy cố gắng chịu đựng!

Một lúc sau, bản khâm Shakya Zangpo cùng cả đoàn người lao vào phòng. Thấy thuốc lập tức chạy đến, quỳ xuống bên giường, rút kim bạc trong hộp đồ nghề, kiểm tra đám máu trên nền đất. Cây kim lập tức chuyển sang màu đen, thầy thuốc mặt mày biến sắc:

- Có độc!

Ông ta quay lại hỏi:

- Hôm nay Vương gia đã ăn những gì? Phải tìm cho bằng được đồ ăn của Vương gia để kiểm tra xem đó là loại độc gì, như thế mới có thể bốc thuốc được.

Shakya Zangpo ra lệnh:

- Lập tức đem đồ ăn thừa lúc trưa của Vương gia đến đây. Nếu đã đổ vào thùng chứa thì bê cả thùng đến đây!

Người hầu vâng lệnh, lui ra. Lúc này, Kunga Zangpo mới được khiêng tới. Sắc mặt cậu ta rất tệ, cậu ta một tay ôm bụng, tay kia vịn vào thành ghế, lê xuống, quỳ trước mặt Kháp Na, kêu khóc:

- Đồ ăn của cậu chủ đều do tôi dùng kim bạc thử trước, nếu không có vấn đề mới dâng lên cậu chủ. Bao năm qua tôi chưa bao giờ để xảy ra sai sót, vì sao hôm nay...

Shakya Zangpo bình tĩnh nói:

- Cậu đừng tự trách mình, hãy cho chúng tôi biết trưa nay, cậu chủ đã ăn những gì?

Kunga Zangpo vội vàng thưa:

- Bữa trưa hôm nay có món thịt dê hầm kĩ với trứng gà và sữa bò. Cậu chủ sống ở Trung Nguyên nhiều năm, thích ăn rau nên tôi đã dặn nhà bếp làm thêm một đĩa đỗ xào. Lúc cắm kim bạc kiểm tra, không thấy những đồ ăn này có gì bất thường, tôi nếm thử cũng không sao cả. Sau đó, tôi đứng ngoài cửa, chờ lệnh cậu chủ, nửa tiếng sau bắt đầu thấy bụng mình cồn cào. Tôi cứ nghĩ mình buồn đi ngoài nên gọi người khác thay mình đứng hầu bên ngoài rồi về phòng. Không ngờ, càng lúc tôi càng đau dữ dội, tôi đang định đi mời thầy thuốc thì cậu chủ xảy ra chuyện.

Kunga Zangpo vừa kể vừa khóc, ân hận đập thùm thụp vào ngực mình. Đám người hầu từ nhà bếp quay lại, hai đầu bếp cao to lực lưỡng khiêng cả thùng nước gạo vào phòng, mùi chua bốc lên nồng nặc. Thầy thuốc bất chấp thứ mùi khó ngửi đang xộc lên mũi, đút một chiếc vỉa vào thùng, vớt váng đồ ăn, hễ thấy miếng thịt nào là cắm kìm bạc kiểm tra, nhưng đều không có gì khả nghi.

Kunga Zangpo ôm bụng, trán lấm tấm mồ hội nhưng cậu ta vẫn kiên trì đứng lên quan sát, rồi đột nhiên cậu ta chỉ tay vào miếng rau xanh bám trên chiếc vỉa, hét to:

- Đây chính là loại đỗ được cắt nhỏ mà trưa nay Vương gia đã ăn.

Thầy thuốc cắm kim bạc vào miếng đỗ, một lúc sau rút ra, cũng thấy không có gì khác thường. Mọi người đều ngơ ngác, đã thử hết mọi đồ ăn mà không phát hiện ra có độc. Thầy thuốc cau mày:

- Lẽ nào Vương gia trúng độc không phải do đồ ăn? Sáng nay, Vương gia có ăn thứ gì khác không?

Kunga Zangpo nhớ lại:

- Buổi sáng, cậu chủ bận rộn với công việc chính sự, chỉ uống vài ngụm trà...

Tôi ngắt lời Kunga Zangpo:

- Làm phiền thầy thuốc kiểm tra lại món đỗ xào này. Trưa nay, lúc ăn cơm, ta đã động đũa đến tất cả các món, trừ món đỗ xào. Đến bây giờ ta vẫn không hề hấn gì, chắc hẳn món đỗ xào này có vấn đề.

Tất cả đều hướng ánh nhìn về phía tôi, nhưng tôi mặc kệ, lúc này tôi chỉ lo cho sự an nguy của Kháp Na. Thầy thuốc cầm miếng đỗ xào lên quan sát tỉ mỉ, rồi tiếp tục đút cái vỉa vào thùng vớt thêm vài miếng khác, đặt xuống đất ghép thành hình nửa quả đỗ.

Rồi sắc mặt ông ta đột nhiên tái xám, giọng nói run run:

- Nếu tôi đoán không sai thì loại đỗ này được trồng ở vùng Nyingchi.

Đầu bếp gật đầu xác nhận:

- Đúng là loại đỗ Nyingchi. Sakya trồng được rất ít loại rau xanh nhưng Vương gia lại rất thích ăn rau nên chúng tôi phải mua từ Nyingchi, La-ta về đây với giá rất đắt.

Shakya Zangpo thắc mắc:

- Ta nghe nói, loại đỗ này nếu ăn sống thì có độc, nhưng đã nấu chín thì không sao. Các đầu bếp không thể không biết kiến thức cơ bản này nên món đỗ đã được xào rất kĩ, không lẽ vẫn còn độc?

Thầy thuốc cúi đầu thưa:

- Bản khâm nói không sai. Nhưng tôi còn nhớ đỗ Nyingchi không giống các loại đỗ khác. Ở Nyingchi có một loại hoa, mùi hương rất nồng, bình thường thì hương hoa này không hề có độc. Nhưng nếu trồng hoa và đỗ ở cùng chỗ, khi mùa hạ đến, loài ong mật đưa phấn của loài hoa kia đến đài hoa của cây đỗ thì quả đỗ mọc ra từ sự kết hợp đó sẽ rất độc.

Shakya Zangpo sa sầm mặt mày:

- Không lẽ đỗ Nyingchi nấu chín vẫn còn độc? Nhưng sao dùng kim bạc không phát hiện ra?

Thấy thuốc giải thích:

- Đỗ Nyingchi nấu nhừ đúng là sẽ hết độc, nhưng nếu mùi hương của loài hoa kỳ dị kia lẫn vào, nó sẽ kích thích độc tố trong đỗ Nyingchi. Nếu ăn quá nhiều, sẽ không thể giải độc.

Tôi tái người, lảo đảo, suýt ngã. Cô hầu gái đỡ lấy tôi, tôi gạt tay cô ta ra, lao ra ngoài sân, ngắt một bông hoa vàng, mang vào phòng.

Tôi chìa bông hoa ra cho thầy thuốc xem, toàn thân run lên bần bật:

- Có phải là loại hoa này?

Thầy thuốc nhặt lấy bông hoa, ngắm kỹ, đưa lên mũi kiểm tra, sắc mặt tái đi:

- Đúng là nó! Hoa này gọi là Tuyết Sơn Nhất Chi Khao. Tuy không bắt mắt nhưng hương thơm nồng đượm, chỉ có thể sinh trưởng trong điều kiện độ ẩm cao như Nyingchi. Hoa này không thể trồng ở vùng khô hạn như Sakya. Sao nó lại xuất hiện ở đây?

Kunga Zangpo chết điếng, miệng lắp ba lắp bắp:

- Thời gian trước, cậu chủ nói rằng muốn trồng hoa ở Lang Như Thư Lầu để Vương phi vui lòng. Trên đường đi tìm, tôi gặp một người bán hoa trên một góc phố ở La-ta. Hắn nói loài hoa này rất thơm, các cô gái đều yêu thích hoa này nên tôi đã mua về…

Mọi thứ tối sầm trước mắt tôi, toàn thân tôi mềm nhũn như không còn chút sức lực. Cô hầu gái vội đỡ lấy tôi. Đầu óc tôi quay cuồng, tôi gào lên thảm thiết:

- m mưu, chắc chắn là một âm mưu?

Ở đất Tạng, vùng Nyingchi nằm ở vĩ độ thấp, độ cao so với mực nước biển cũng tương đối thấp nên thời tiết rất nóng bức, oi nồng. Khi ấy, cả đỗ Nyingchi và Tuyết Sơn Nhất Chi Khao đều đã ra hoa. Sau hơn nửa tháng, đỗ Nyingchi chứa phấn hoa Tuyết Sơn Nhất Chi Khao được đưa tới Sakya. Sakya là vùng cao hơn Nyingchi nên đến lúc này, Tuyết Sơn Nhất Chi Khao được đưa về trồng ở Sakya mới bắt đầu vào mùa ra hoa, hương thơm ngào ngạt. Tuy đỗ Nyingchi đã nấu nhừ nhưng khi đưa tới Lang Như Thư Lầu, phải đi ngang qua vườn hoa, gió sẽ thổi phấn hoa lẫn vào đồ ăn. Vì lượng phấn hoa này rất ít, Kunga Zangpo chỉ ăn một miếng nhỏ nên không nghiêm trọng. Nhưng Kháp Na đã ăn gần hết đĩa đỗ xào! Còn tôi, tôi quen ăn thịt, nhưng bữa trưa nay không có thịt nên tôi chỉ gặm chút bánh nướng, không hề động đến món đỗ xào đó.

Xác suất một phần vạn thế này, không thể nào là sự trùng hợp ngẫu nhiên! Tôi túm lấy áo Shakya Zangpo, nghiến răng:

- Dì năm, trói dì năm lại, giải đến đây!

Shakya Zangpo rất bất ngờ trước thái độ lạ thường của Kangtsoban, lúc sau mới gật đầu:

- Vâng, tôi sẽ đích thân đi bắt bà ta!

Shakya Zangpo dẫn theo đám người hầu đi khỏi, tôi quay lại hỏi thầy thuốc.

- Xin ông hãy nghĩ kĩ xem, có cách nào giải độc được không? Bất luận đó là loại thuốc hiếm có, quý giá nhường nào, bất luận nó có ở đất Tạng hay không, chỉ cần ông biết, hãy nói với ta, ta sẽ tìm cho bằng được!

Thầy thuốc lắc đầu, vẻ khó xử:

- Dạ thưa... loại độc này rất hiếm gặp, sách y học chưa từng ghi chép về cách giải loại độc này.

Tôi ra lệnh:

- Mau tìm đi! Nếu ông không biết thì đi hỏi những người khác, phải tìm cho bằng được trong thời gian nhanh nhất. Dù không tìm được phương pháp giải độc triệt để, cũng phải tìm cho ra cách thức kiềm chế sự phát tác của độc tố, bằng mọi giá phải giữ lấy tính mạng của Vương gia!

Thầy thuốc vâng vâng dạ dạ rồi rời đi. Tôi đến bên giường, nắm chặt tay Kháp Na:

- Kháp Na, gắng lên! Có em ở đây, em nhất định sẽ cứu chàng!

Kháp Na gắng gượng mở mắt, mệt nhọc gật đầu với tôi.

Shakya Zangpo giải dì năm vào phòng. Mọi người đều ngạc nhiên trước thái độ điềm nhiên của bà ta. Không cần bắt trói, bà ta đủng đỉnh bước vào. Nhìn thấy Kháp Na nằm trên giường bệnh, bà ta cười vang:

- Thọ gớm nhỉ? Hơn hai mươi năm trước bị ta đẩy xuống cầu thang, mẹ ngươi đã che chắn cho ngươi. Lần này, ăn phải loại kịch độc ấy mà vẫn chưa chết cơ đấy!

Tôi lao đến, giáng cho mụ ta một cái tát thật lực.

- Quả nhiên là do mụ! Kẻ đứng sau chỉ đạo là Yeshe phải không? Hắn đâu rồi?

Môi tứa máu nhưng mụ vẫn nhìn tôi trừng trừng:

- Ngươi hết ngớ ngẩn rồi à? Chính ta đã hạ độc, không liên quan đến con trai ta. Kháp Na chết đi, con trai ta là con út, sẽ có quyền thừa kế gia nghiệp, ha ha!

- Bà cho rằng Kháp Na chết đi thì Yeshe có thể thừa kế gia nghiệp sao? - Tôi nhổ vào mặt mụ ta. - Bà đừng nằm mơ! Bát Tư Ba chắc chắn sẽ trả thù cho Kháp Na. Mẹ con bà không thoát khỏi sự trừng phạt đâu!

- Bát Tư Ba ư? - Mụ ta cười như điên như dại, răng môi nhuốm máu tươi, gương mặt như ác quỷ. - Để xem hắn có sống sót qua hôm nay không đã!

- Đại ca... đại ca làm sao?

Kháp Na gượng dậy, giọng chàng run lên. Tôi vội chạy đến đỡ chàng, để chàng tựa vào vai mình.

Bà ta trợn mắt nhìn Kháp Na, vẻ mặt nham hiểm, quỷ quyệt:

- Ta đã mất công ra tay, đâu thể chỉ lấy mạng của mình ngươi. Bát Tư Ba mới là mối họa lớn nhất trong lòng ta. Hắn không chết thì dù ngươi có mất mạng, con trai ta cũng không thể lấy lại mọi thứ ở Sakya này!

Shakya Zangpo xông đến, tra hỏi mụ ta:

- Đoàn tùy tùng của pháp vương có đến hơn ba trăm người, họ đều là những chiến binh trung thành nhất, không bao giờ phản bội pháp vương. Đàn bà như mụ sao có thể hãm hại được ngài?

- Ta không làm gì được hắn nhưng trên đời này, ngoài ta ra, còn rất nhiều người khác căm hận hắn! - Ánh mắt mụ ta chất chứa nỗi căm tức, mụ nghiến răng kèn kẹt. - Thôi được, để ta cho ngươi được chết một cách tỏ tường! Năm trăm võ tăng của phái Drikung đã mai phục trên núi Kiewu, muốn đến La-ta buộc phải đi qua đường đó. Ba trăm tùy tùng của Bát Tư Ba khi đi ngang qua khe núi hẹp, làm sao có thể chống cự nổi năm trăm võ tăng của Drikung? Chắc chắn hắn sẽ bỏ mạng nơi vách núi. Ha ha!

Shakya Zangpo sợ hãi:

- Núi Kiewu ư? Pháp vương đã đi được năm ngày, tính thời gian thì hôm nay chính là ngày vượt qua ngọn núi ấy.

Rồi ông ấy lập tức ra lệnh:

- Lập tức cưỡi con ngựa phi nhanh nhất, đi báo với pháp vương.

Mụ đàn bà tàn ác cười hả hê:

- Dù có là xích thố cũng không thể đến đó trong vòng nửa ngày. Các ngươi chờ nhặt xác của Bát Tư Ba đi!

- Mụ đàn bà độc ác, ta sẽ giết ngươi!

Kunga Zangpo chẳng màng bản thân đang bị trúng độc, lao đến, túm lấy mụ ta, đập cho tơi tả.

Shakya Zangpo vội chạy đến kéo Kunga Zangpo ra, tiếp tục tra hỏi:

- Phái Drikung đã hối lộ thứ gì cho mụ mà mụ cam lòng câu kết với người ngoài, hãm hại phải Sakya?

Mụ ta ngẩng lên, gương mặt nhoe nhoét máu, nhưng vẫn bật cười ha hả:

- Nếu con trai ta trở thành pháp vương Sakya, được kế thừa toàn bộ cơ nghiệp nhà họ Khon thì ta sẽ thả tự do cho người thừa kế của Drikung. Đó chính là điều kiện ta đặt ra cho phái Drikung.

Shakya Zangpo lập tức ban lệnh:

- Hãy canh chừng mụ ta cho cẩn thận, ngày sau sẽ định tội. Mụ ta phải chịu hình phạt phanh thây!

Nhanh như chớp, mụ ta móc ra từ trong túi áo một hạt gì đó, bỏ vào miệng rồi gào lên:

- Khi quyết định làm chuyện này, ta đã xác định sẽ mất mạng. Khỏi cần các ngươi nhọc công, ta tự biết cách chết!

Shakya Zangpo vội lao đến bóp miệng mụ, nhưng không kịp nữa, máu đen đã trào ra mép, mụ hướng mặt lên trời, hét lên:

- Con ơi, mẹ không được chứng kiến ngày con lên ngôi pháp vương được rồi!...

Vừa dứt lời, mụ liền lăn đùng ra đất. Máu đen lênh láng khắp vùng mặt của mụ. Shakya Zangpo đành sai người khiêng xác mụ đi. Chúng tôi đang bối rối không biết phải làm sao thì thầy thuốc cấp tập chạy vào:

- Tìm ra cách rồi!

Cả tôi và Shakya Zangpo đồng thanh kêu lên:

- Nói mau!

Thầy thuốc vừa thở hổn hển vừa trình bày:

- Trung Nguyên có một loại dược liệu gọi là Thủ ô, đặc biệt là loại Thủ ô trồng trên núi Tung Sơn, cực kỳ công hiệu, nhưng phải là Thủ ô tươi mới có tác dụng giảm đau, tiêu độc. Tuy loại Thủ ô này không thể giải độc ngay tức khắc nhưng có thể giúp bệnh tình thuyên giảm. Được vậy, chúng ta sẽ có thêm thời gian tìm kiếm danh y chữa trị cho Vương gia.

Shakya Zangpo hỏi:

- Đất Tạng có loại thuốc này không? Nếu cho người lập tức đi tìm, liệu có tìm được không?

Thầy thuốc lắc đầu:

- Đất Tạng chưa bao giờ dùng đến vị thuốc này, chỉ e không tìm được.

Tôi túm lấy cổ áo viên thầy thuốc, gạn hỏi:

- Tính mạng của Vương gia còn kéo dài được bao lâu nữa?

Ông ta ấp úng đáp:

- Dạ thưa...

Tôi quát:

- Nói mau!

- Nếu không kịp thời cứu chữa, e là không qua nổi đêm nay.

Tôi chết điếng, lùi lại một bước, cố đứng vững. Shakya Zangpo lo sợ đến mức nước mắt đầm đìa:

- Nhưng Trung Nguyên xa xôi ngàn dặm, làm sao kịp đến đó tìm thuốc kia chứ?

Tôi như người sắp chết đuối, cố bám víu vào tất cả những gì nổi trên mặt nước:

- Còn cách nào khác không?

Thầy thuốc đầm đìa mồ hôi vì căng thẳng:

- Quả thực là không còn cách nào khác. Đây là biện pháp giúp kéo dài thời gian duy nhất mà tôi có thể tìm được.

Kháp Na đột nhiên lên tiếng, giọng chàng yếu ớt, lời nói đứt quãng:

- Các người... lui cả ra... Ta có chuyện muốn nói với Vương phi.

Không ai dám trái lời Kháp Na, Shakya Zangpo lệnh cho người hầu lập tức đi tìm Thủ ô, sau đó cùng Kunga Zangpo lặng lẽ rời khỏi căn phòng. Tôi hóa phép trở lại là Lam Kha, lao đến bên Kháp Na.

Chàng gắng sức ngẩng lên, đôi mắt sưng húp hé mở, chầm chậm chìa tay về phía tôi. Tôi vội nắm chặt tay chàng. Chàng vừa thở hổn hển vừa nói:

- Tiểu Lam... chỉ có em mới… cứu được đại ca. Hãy… mau đến đó… ngăn đại ca lại.

Tôi lắc đầu quầy quậy, nước mắt lã chã:

- Không, Kháp Na, em sẽ đến Trung Nguyên tìm Thủ ô!

- Tiểu Lam, em chỉ có thể cứu một người! - Chàng thở gấp, lông mày xô lại, nén cơn đau vật vã, nói tiếp. - Núi Kiewu cách Sakya chỉ năm ngày đường, sẽ không tốn nhiều linh khí của em. Nếu em lên đường ngay bây giờ thì có thể cứu được đại ca. Nhưng nếu đi Trung Nguyên, chưa chắc tìm được Thủ ô.

Tim tôi tan nát, nước mắt tuôn trào như thác lũ:

- Kháp Na, em không thể để chàng chết! Chúng ta phải tỉnh táo để đánh giá tình hình và lựa chọn.

Nước mắt lưng tròng, ánh mắt vô hồn của chàng lúc trước bỗng sáng long lanh. Chàng nắm chặt tay tôi, đột nhiên lớn tiếng:

- Tính mạng của đại ca quan trọng hơn ta!

Tôi nghẹn ngào:

- Nhưng chàng là chồng em, hãy nghĩ đến con chúng ta! Lẽ nào chàng muốn con chúng ta chưa ra đời đã không còn cha ư?

- Ta không hề muốn chết nhưng ta buộc phải lựa chọn!

Mặt chàng đột nhiên đỏ kỳ dị, chàng buông tay tôi ra, nghiêng đầu ho dữ dội. Tôi vội vã kề khăn tay bên miệng chàng. Lát sau, chàng dồn hết sức lực, gọi tôi:

- Tiểu Lam, nếu em không chịu đi cứu đại ca, ta sẽ cắn lưỡi tự vẫn trước mặt em ngay bây giờ!

Tôi chết lặng khi nhìn đám máu đen quánh lại trên chiếc khăn tay.

- Kháp Na...

Chàng bật dậy, chỉ tay về phía cửa, ánh mắt sắc buốt:

- Đi đi, đi ngay đi! Không còn thời gian nữa!

- Kháp Na… - Tôi vừa khóc vừa áp môi lên miệng chàng. - Vâng, em sẽ đi, em truyền chút linh khí cho chàng rồi sẽ đi!

Nhưng chàng vội quay mặt đi, môi tôi chạm vào gò má chàng.

- Tiểu Lam, đừng lãng phí linh khí vì ta nữa. Em phải giữ sức còn đi cứu đại ca.

Tôi nắm chặt tay chàng, muốn nói gì đó nhưng cơn đau tê tái khiến tôi không sao thốt nên lời. Nước mắt đầm đìa trên gương mặt chàng, chàng đẩy tay tôi:

- Đi đi!

Tôi đã khóc hết nước mắt, mỗi câu, mỗi tiếng của chàng đều khiến trái tim tôi đau thắt đến không thở nổi. Tôi biết mình không thể chần chừ thêm nữa, đành hít một hơi thật sâu, lấy hết sức bình sinh kiềm chế cơn run rẩy, nhìn chàng:

- Kháp Na, hãy hứa với em, nhất định phải gắng gượng đến khi em quay lại!

Cơn đau rần rật hiện trên chiếc cổ dài của chàng, mạch máu xanh lét phập phồng dưới làn da tái xám, hai hàng nước mắt đổ dài, nhưng chàng vẫn gượng cười thật tươi, run rẩy chìa ngón tay út ra:

- Được, ngoắc tay giao hẹn, trăm năm khó vẹn!

Tôi cũng chìa ngón út, ngoắc vào ngón tay chàng, khóe môi rung động:

- Ai bảo? Nhất định trăm năm sẽ trọn vẹn!

***

- Trời ơi, Kháp Na... Kháp Na...

Chàng trai trẻ không biết phải nói sao khi thấy tôi khóc nấc lên. Cậu ta rút khăn giấy trong túi áo, thở dài đưa cho tôi, giọng nghẹn ngào:

- Vì sao lại bắt cô phải lựa chọn như vậy?

Tôi biết lựa chọn của Kháp Na là đúng. Trong tình hình ấy, tôi chỉ có thể cứu được một người.

- Tôi vùi đầu vào đầu gối, nức nở một hồi mới có thể tiếp tục câu chuyện.

- Nhưng sự lựa chọn của chàng khiến tôi và Bát Tư Ba không bao giờ có thể tha thứ cho bản thân.

Chàng trai trẻ trầm ngâm rất lâu, khẽ chau mày:

- Sự việc này, bề ngoài thì có vẻ như mọi thứ đều do dì năm sắp đặt, nhưng lẽ nào tất cả chuyện này không hề liên quan đến Yeshe?

- Khi đó, cả tôi và Bát Tư Ba đều nghi ngờ hắn có nhúng tay vào chuyện này, nhưng cái chết của dì năm khiến chúng tôi không tìm ra chứng cứ.

Chàng trai trẻ lắc đầu:

- Một kế hoạch vô cùng chi tiết như thế, tôi không tin một kẻ một chữ bẻ đôi không biết như dì năm có thể vạch ra. Rất có thể bà ta đã cố ý gánh tội thay cho hắn. Bà ta tự sát trước mặt mọi người chính là vì không muốn mọi người tìm ra bằng chứng buộc tội con trai bà ta.

Tôi lau nước mắt, cố kìm nén nỗi đau vò xé tim gan, giọng nói khản đặc:

- Chúng tôi cũng nghi ngờ như vậy, chỉ có điều không tìm được chứng cứ.

Chương 49

Bạch Lan Vương qua đời

“Làm việc giúp bậc hiền nhân,

Dù là việc nhỏ, vẫn được hậu đáp;

Tặng một quả táo gai,

Cũng được ban thưởng như thái tử.”

(Cách ngôn Sakya)

Dòng sông Xiabuqu gầm gào chảy xiết, thác nước xối xả chia cắt những hẻm núi sâu thành tầng tầng lớp lớp những khối ngọc bích. Núi non trùng điệp ở hai bên bờ sông ẩn mình giữa màn mưa dày đặc. Trận mưa như trút nước, đổ rào rào lên con đường núi quanh co, khúc khuỷu. Đoàn người ngựa lầm lũi đi trong mưa, cờ quạt mang biểu tượng của phái Sakya tung bay phần phật, cuộn xoắn vào thân cột.

Thấy rõ đoàn tùy tùng của Bát Tư Ba ở ngay trước mặt nhưng tôi không sao tăng tốc được vì cơn đau quằn quại, vò xé gan ruột. Mưa lớn xua đi cái oi nồng ngày hạ, những hạt mưa to bằng hạt đậu trút xuống bộ lông của tôi, thấm vào da thịt tôi, buốt đến tận xương tủy. Bình thường tôi chỉ cần niệm chú là có thể tránh mưa dễ dàng nhưng hôm nay, tôi không còn đủ sức để làm việc đó nữa.

Tôi mệt nhọc đổ người vào một thân cây, thở dốc, nước mưa trút xuống cành lá, rơi rào rào lên người tôi. Tôi cúi nhìn bụng bầu to tướng so với thân hình hồ ly nhỏ bé của mình, lòng buồn vô hạn. Cơn đau dữ dội ập đến, thiếu chút nữa tôi đã không thể kiểm soát nổi bản thân để lộn một vòng như thói quen của hồ ly. Tôi cắn răng chịu đau, bật khóc, vỗ về đứa bé:

- Con ơi, mẹ xin lỗi đã để con phải chịu khổ sở như vậy. Mẹ cầu xin con, đừng quậy nữa. Con là đứa trẻ kiên cường, hãy giúp mẹ cứu bác trai!

Thở dốc một hồi, nhác thấy đoàn người phía trước sắp xa khỏi tầm mắt, tôi vội vã gạn hết linh khí, lao đi như bay. Nơi đây cách núi Kiewu chừng vài dặm, còn chưa đầy nửa canh giờ nữa, đoàn người sẽ rẽ vào khúc cua của hẻm núi hẹp và sâu nhất. Tôi bỏ Kháp Na lại, bất chấp tính mạng của đứa bé trong bụng, hóa phép thành hồ ly. Tôi không thể công cốc, không thể để Kháp Na chết không nhắm mắt!

Cứ nghĩ đến Kháp Na đang hấp hối là trái tim tôi lại quặn thắt như thể có ai đó muốn nghiền nát nó bằng vuốt sắc vậy. Tôi bắt đầu thấy hoa mắt, chóng mặt nhưng tôi tự nhủ mình không được ngã gục. Tôi lao đi giữa màn mưa mù mịt, gào lên những tiếng kêu xé họng, lấy hết sức bình sinh cắn vào chân trước của mình. Máu tươi đổ ra, lẫn với nước mưa, xối xuống đất, đầu óc tôi trở nên tỉnh táo hơn. Cơn đau thể xác tạm thời lấn át nỗi đau tinh thần, tôi lao đi như kẻ mất trí, mặc cho mưa xối sạch nước mắt và máu trên cơ thể mình.

Tôi đã theo kịp xe ngựa của Bát Tư Ba nhưng không đủ sức chui vào xe của chàng. Tôi đành cắn răng lao lên phía trước. Cỗ xe kịp dừng lại và tôi không bị nghiền nát. Có người xuống xe, nhấc tôi lên, quan sát:

- Trời, một con hồ ly màu lam! Sao nó lại nặng thế này? Sao bụng nó lại to thế này? Hình như nó sắp sinh.

Trong lúc mê muội, tôi nghe ra giọng nói của Dampa.

Sau đó là giọng của Senge:

- Trông nó rất giống con hồ ly của pháp vương. Mau đưa nó cho pháp vương xem.

- Chuyện gì vậy?

Bát Tư Ba vén rèm cửa, vừa thấy tôi nằm trên tay Senge, mặt chàng biến sắc:

- Mau, mau đưa cho ta!

Senge chuyển tôi cho Bát Tư Ba, chàng thận trọng đỡ lấy tôi, quấn bọc tôi vào lớp áo tăng ni, đặt tôi áp vào thân thể ấm áp của chàng. Tôi cuộn tròn trong lòng Bát Tư Ba như một trái bóng, dần ấm lại nhờ sự chăm sóc ân cần của chàng.

- Lam Kha, sao em lại đến đây, ở Sakya đã xảy ra chuyện gì?

Tôi thều thào:

- Dừng lại, lập tức quay đầu, quay lại Sakya ngay!

Chàng kinh ngạc, không kịp hỏi nguyên nhân, thò đầu ra ngoài, gào lớn:

- Quay về Sakya ngay lập tức!

Đoàn người ngựa trở nên hỗn loạn, những tiếng xì xầm bàn tán rộ lên khắp nơi nhưng không ai dám hỏi nguyên nhân, lập tức quay đầu, tăng tốc. Bên trong cỗ xe ngựa tròng tránh, Bát Tư Ba khẽ hỏi tôi:

- Em đã mang bầu đến tháng thứ bảy, lúc này mà hóa phép trở lại nguyên hình rất nguy hiểm. Nếu không phải chuyện gì vô cùng nghiêm trọng, chắc chắn Kháp Na sẽ không để em mạo hiểm như vậy. Lam Kha, nói ta nghe, rất cuộc là chuyện gì?

Tôi vừa thở hổn hển vừa nói:

- Phái Drikung muốn giết chàng, bọn họ đã cho năm trăm võ tăng mai phục trên núi Kiewu, chờ đoàn tùy tùng tới nơi sẽ đột kích.

Sắc mặt Bát Tư Ba như đóng băng, chàng đấm vào thành xe:

- Bọn chúng dám mưu sát quốc sư ư? Kẻ nào mà to gan vậy? Chúng không sợ sẽ bị giết cả họ ư?

Tôi cười chua chát:

- Bọn chúng ra tay đồng thời, cho rằng sẽ nắm chắc phần thắng trong tay. Nếu hai người cùng chết, sẽ không ai biết được hành vi tàn độc của bọn chúng, sẽ không ai truy xét tội lỗi của bọn chúng.

- Ra tay đồng thời?

Bất Tư Ba đột nhiên im bặt, nhìn tôi trân trân rồi cất giọng run rẩy:

- Xảy ra chuyện gì với Kháp Na rồi?

Cơn đau vò xé tâm can tôi như thể có ai đó dùng búa tạ nện vào các khớp xương của tôi vậy. Tôi vùng vẫy để thoát khỏi vòng tay chàng:

- Việc đưa tin cho chàng đã xong, em phải về đây.

- Lam Kha, em điên rồi sao?

Chàng vòng tay ôm tôi lại, siết chặt, không cho tôi giãy giụa.

- Em mạo hiểm tính mạng đến báo tin cho ta, bây giờ lại lê bụng bầu kềnh càng quay về, em không thiết sống nữa sao? Đứa bé này quan trọng hơn tất thảy, không thể liều lĩnh như vậy!

- Em biết, nhưng dù phải mất nó, em cũng phải quay về.

Nước mắt lăn dài trên má tôi. Tôi hích đấu mũi vào bàn tay chàng:

- Chàng cũng vậy, phải về Sakya ngay!

Chàng run lên:

- Kháp Na! Kháp Na sao rồi?

- Chàng… đã trúng độc, không có cách nào cứu chữa...

Trong mắt tôi, trong cổ họng tôi như có ngọn lửa đang thiêu đốt. Tôi gạn hết sức tàn, thốt lên:

- Em muốn về gặp chàng lần cuối. Chàng vẫn đang chờ em.

- Kháp Na, em… em… Ý em là Kháp Na…

Nghe như sét đánh ngang tai, toàn thân chàng run lên bần bật, nước mắt trào ra như nước vỡ bờ.

- Không đâu, không đâu! Kháp Na còn chưa tròn ba mươi tuổi. Nó sắp được làm cha rồi, không thể nào… không thể nào.. .

Tôi đau đớn đến không thở nổi, giọng khản đăc:

- Trong thời gian ngắn như vậy, em chỉ có thể cứu một người. Và Kháp Na, chàng ấy đã nhường cơ hội sống cho chàng và chọn cho mình cái chết...

Nỗi đau đớn cùng cực bóp méo gương mặt vốn bình thản, điềm tĩnh của chàng. Dường như không chịu đựng nổi, chàng ngã nhào về phía sau, rơi phịch xuống sàn xe ngựa. Khóe môi chàng không ngừng mấp máy, nhưng chẳng thể bật ra thành tiếng rõ ràng, và cứ thế, chàng đấm thùm thụp vào thành xe ngựa, như điên như dại, khiến cả bàn tay nhuốm máu. Rồi chàng ôm đầu, nỗi tuyệt vọng ngập trong mắt, chàng hét lên như xé ruột xé gan:

- Aaaaaaaa!

Tiếng kêu thảm thiết ấy bị mưa bão ngắt rời thành từng đoạn nối tiếp nhau, vang vọng giữa sơn cốc. Gió gào lên nức nở, thông rên rỉ khóc than, trời và đất tối tăm mù mịt. Không muốn phải chứng kiến nỗi đau đớn thương tâm của Lâu Cát, tôi khóc nấc lên:

- Em phải về trước. Nếu chàng không về kịp, em sẽ nhắn lại với chàng những lời sau cùng của Kháp Na...

Dứt lời, tôi nhảy ra khỏi xe ngựa, cắm đầu chạy trong mưa bão.

Dampa và Senge túc trực bên ngoài, lo lắng hỏi vọng vào:

- Thầy ơi, có chuyện vậy?

Bát Tư Ba lúc này như hóa điên, gào lên

- Không được dừng lại, không được nghỉ ngơi, cũng không cần dừng xe ăn uống! Ngựa mệt thì thay ngựa, nếu các ngươi chịu không nổi thì một mình ta sẽ về trước.

Chàng vẫn quỳ trên sàn xe ngựa, hai tay ôm vai, co người lại, toàn thân run rẩy dữ dội.

- Ta phải về Sakya, ta muốn gặp đệ ấy…

Nửa đêm, tôi về đến Sakya, sức cùng lực kiệt. Tuy mưa đã ngớt nhưng nhiệt độ xuống thấp nhanh chóng, tôi run lẩy bẩy. Tôi thấy chóng mặt, bụng dạ trống không, vậy mà cơn buồn nôn vẫn tiếp tục hành hạ. Tôi sử dụng chút linh khí cuối cùng để hóa phép thành Kangtsoban, muốn lập tức chạy về Lang Như Thư Lầu nhưng lực bất tòng tâm. Hai tay ôm bụng, tôi tựa lưng vào bức tường bao bên ngoài cổng Thư Lầu, thở dốc. Đứa bé đạp liên hồi, những cơn đau quằn quại dội đến. Tôi cắn răng, lê lết từng bước chân, những bước sau cùng tôi đã đi trong tư thế còng lưng lại. Cuối cùng, khi nước mưa đã khiến toàn thân tôi ướt sũng, tôi đập cửa cổng.

Người mở cổng là Kunga Zangpo, cậu ta trông thật tiều tụy.

- Vương phi đã đi đâu vậy? Chúng tôi tìm kiếm khắp nơi mà không thấy.

Tôi đã gần như kiệt sức, chống tay vào cánh tay cậu ta, yêu cầu:

- Đưa ta đi gặp Vương gia.

Kunga Zangpo nhìn tôi kinh ngạc:

- Sao tóc của Vương phi lại biến thành màu lam thế kia?

Tôi hốt hoảng, những lọn tóc lòa xòa trước ngực quả đúng là có màu lam. Linh khí của tôi không đủ để duy trì màu tóc nữa ư? Tôi không đáp, Kunga Zangpo cũng không dám hỏi thêm, vội đưa tôi vào buồng ngủ. Trong phòng còn có Shakya Zangpo và vài người hầu cận, bọn họ đang kêu khóc quanh giường Kháp Na, thầy thuốc đang miệt mài thay hết mảnh khăn này đến mảnh khăn khác trên trán chàng. Tim tôi thắt lại, tôi đưa mắt nhìn Kunga Zangpo. Hiểu ý tôi, cậu ta vừa khóc vừa đáp:

- Vương gia muốn chờ Vương phi về nên ngài đã gắng gượng nhưng…

Cậu ta không sao nói tiếp được nữa, quay mặt đi, khóc nấc lên. Tôi chầm chậm đến bên giường, ngồi xuống, nhấc bàn tay đã lạnh như băng của chàng lên, áp vào má, ghé sát vào tai chàng, thì thào:

- Kháp Na ơi, em về rồi!

Đôi mắt quyến rũ ngày nào giờ đây đang khép chặt, tử khí che phủ gương mặt chàng, thân hình gầy guộc của chàng dường như đã mất hết sinh khí, hơi thở mỏng manh, yếu ớt. Nghe thấy tiếng tôi gọi, chàng đột nhiên mở mắt, mỉm cười, giọng nhẹ như gió thoảng:

- Ra ngoài cả đi... để mình Vương phi ở lại.

Tôi không sao gắng gượng được nữa, bèn trở lại dung mạo của chính mình, cũng may lúc ấy, bọn họ đều vừa khóc lóc vừa ra khỏi phòng nên không ai nhìn thấy gương mặt thật của tôi. Cánh cửa khẽ khép lại, căn phòng yên tĩnh đến mức tưởng như có thể nghe được tiếng lá rơi. Dưới ánh nến lập lòe thê lương, chàng nhìn tôi:

- Tiểu Lam... ta cứ ngỡ… không gắng gượng nổi để chờ em về…

Tôi đặt tay lên môi chàng:

- Đừng nói vậy, Shakya Zangpo đã sai người đi khắp nơi tìm kiếm Thủ ô. Chàng sẽ không sao cả, Phật Tổ nhất định sẽ phù hộ cho chàng.

Chàng sốt ruột hỏi tôi:

- Đại ca... đại ca...

Tôi ép mình nở một nụ cười:

- Chàng đừng lo, Lâu Cát không sao cả, em đã đến kịp và ngăn huynh ấy. Hiện huynh ấy đang trên đường quay về Sakya, huynh ấy muốn gặp chàng.

Kháp Na thở phào rồi khẽ lắc đầu, tử khí vây khốn trên gương mặt mệt mỏi cực độ của chàng:

- Chỉ e... không kịp nữa...

Tôi kêu lên thất thanh:

- Không đâu, chàng hãy cố đợi, huynh ấy sẽ về ngay thôi, huynh ấy có chuyện muốn nói với chàng...

- Hãy nói với đại ca rằng ta không thể giúp huynh ấy được nữa. Ta thật lòng muốn chia sẻ gánh nặng với huynh ấy, nhưng ta không còn thời gian. - Chàng thở gấp. - Hãy nói với huynh ấy, đừng vì giáo phái, đừng vì sứ mạng thống nhất đất Tạng mà làm việc quá sức, phải biết nghĩ cho bản thân mình, phải sống cho bản thân mình.

Những lời này đã tiêu tốn quá nhiều sức lực của chàng, mồ hôi vã ra, đầm đìa trên trán chàng. Tôi lấy khăn lau mồ hôi cho chàng, khóc lóc, nài nỉ:

- Khắp Na, nghỉ ngơi đi, đừng nói nữa!

- Không nói, chỉ e sẽ không còn cơ hội nữa. Tiểu Lam ơi, ta rất hối hận...

Hai hàng lệ lặng lẽ tuôn rơi từ đôi mắt chàng, bàn tay run rẩy vuốt ve gương mặt tôi. Tôi vội vã cúi xuống, đặt tay chàng lên má mình. Bàn tay chàng vân du đến từng đường nét trên gương mặt tôi.

- Em làm vợ ta chưa được bao lâu, trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, ban ngày, em lại phải đóng giả làm người khác. Con của chúng ta vừa chào đời đã mất cha. Nếu sớm biết ta sẽ mang lại cho em số phận nghiệt ngã thế này, ta quyết không cưới em.

Tôi khóc không thành tiếng, cổ họng đau rát.

- Kháp Na, chàng đừng nói vậy! Sống bên chàng, em thấy mình vô cùng hạnh phúc. Đó là quãng thời gian đẹp đẽ nhất của cuộc đời em. Em rất mãn nguyện.

Chàng nhìn tôi đắm đuối, ánh mắt xót thương, lưu luyến:

- Tiểu Lam, hãy hứa với ta một chuyện, được không?

Tôi gật đầu ngay tức khắc:

- Chàng nói đi!

Giọng chàng buồn bã:

- Đại ca rất yêu em, huynh ấy bỏ rơi em vì muốn tác hợp cho chúng ta. Chỉ tại ta quá ích kỷ, quá tham lam, chỉ muốn giữ em cho riêng mình. Sau khi ta chết, em hãy cùng huynh ấy nối lại duyên xưa…

- Không! – Tôi ngắt lời chàng, nắm chặt bàn tay chàng, đặt lên ngực. - Chànglà chồng em, mãi mãi như vậy!

Hơi thở của chàng mỗi lúc một khó khăn:

- Tiểu Lam, em muốn ta chết mà không nhắm được mắt ư? Nếu biết em không hạnh phúc thì dẫu ở âm tào địa phủ, ta cũng không thể yên lòng. Hãy hứa với ta, để ta được ra đi thanh thản!

Tôi lắc đầu, hoang mang đau đớn:

- Kháp Na, xin chàng, đừng ép em!

Cuối cùng, chàng cũng chịu nhượng bộ nhưng vẫn kiên trì:

- Thôi được, nhưng đây là di nguyện của ta, em không được giấu đại ca, phải truyền đạt lại với huynh từng câu, từng chữ.

Tôi đành phải gật đầu.

Ánh mắt chàng dừng lại nơi miếng ngọc Linh hồn, lễ vật chàng đã trao cho tôi vào ngày cưới. Miếng ngọc lồng vào sợi dây buộc tóc màu lam, không lúc nào rời mái tóc tôi. Tôi cởi dây, tháo miếng ngọc, đặt vào tay chàng. Chàng nhìn miếng ngọc, khẽ thở dài:

- Tiểu Lam, tuổi thọ của em cao hơn loài người rất nhiều, em sẽ sống ra sao trong những năm tháng cô đơn đằng đẵng về sau? Sau khi qua đời, ta sẽ cầu xin Phật Tổ, cho ta gửi gắm một nửa linh hồn mình vào miếng ngọc này. Như thế, ta có thể tìm thấy em trong mỗi kiếp lai sinh.

Giọng chàng yếu dần, ánh mắt trở nên mơ hồ, tử khí bao phủ gương mặt chỉ còn sót chút sinh khí cuối cùng của chàng. Chàng đang hấp hối. Tôi khiếp sợ, vừa lắc mạnh cơ thể chàng vừa gào lên:

- Kháp Na, chàng tỉnh lại, tỉnh lại đi! Chàng còn chưa đặt tên cho con kia mà!

Đôi mắt chàng từ từ khép lại, đầu chầm chậm đổ về sau. Tôi cuống cuồng áp môi mình lên miệng chàng truyền cho chàng lính khí. Nhưng khi vừa lấy lại được chút tỉnh táo, chàng lập tức nghiêng đầu né tránh:

- Đứng lãng phí lính khí nữa... Hôm nay em đã sức cùng lực kiệt... vì phải đi cứu đại ca. Em phải... giữ sức… cho con chúng ta...

Chàng nhìn tôi chăm chú, ánh mắt dịu dàng, khóe môi chợt nở một nụ cười tuyệt mỹ.

- Tiểu Lam... Hãy hứa với ta... ta đi rồi... đừng quá đau lòng... Hãy sống thật khỏe mạnh để sinh con... vì ta… vì Sakya... và vì... đại ca. - Chàng chầm chậm khép mắt lại, giọng chàng càng lúc càng yếu ớt. - Hãy đặt tên con Dharmapala.

Bỗng ngoài trời nổi cơn dông, gió mạnh ào vào, thổi tung trướng rủ màn che. Ngọn nến vụt tắt, căn phòng chìm trong bóng đêm bất tận. Ngoài kia, tiếng gió rít, tiếng mưa dông gào thét, vần vũ. Trong phòng, lại là sự yên ắng, tịch lặng đến lạnh người. Tôi nằm xuống cạnh Kháp Na, gối đầu lên vai chàng, hệt như hằng đêm chúng tôi vẫn thiếp đi trong vòng tay nhau như vậy.

Thời gian ngưng đọng, trái tim tôi cũng như ngủ quên, mọi thứ xung quanh không còn ý nghĩa với tôi nữa. Đêm tàn sẽ sang ngày, ngày hết sẽ là đêm, ánh sáng trong căn phòng luân chuyển từ tối sang sáng, rồi lại từ sáng sang tối. Tôi cuộn mình bên cạnh Kháp Na, thiếp đi mê mệt, nhưng vẫn thoáng nghe thấy những tiếng ồn ào ngoài kia. Tôi đã chốt chặt cả cửa sổ, vậy mà vẫn có người cố tìm cách xông vào. Có phải vì biết ta không còn linh khí nữa nên đám người nhỏ bé, yếu đuối các ngươi dám bắt nạt ta phải không? Mặc đi, ta không hơi sức đâu mà lo chuyện của các người, ta mệt lắm, mệt vô cùng! Tôi tựa vào bờ vai của Kháp Na, muốn tiếp tục dỗ giấc nhưng cơ thể chàng đã lạnh như băng khiến tôi chốc chốc lại giật mình tỉnh giấc vì cảm giác buốt giá.

Kháp Na như đang ngủ say vậy, hai mắt khép chặt, khóe môi vẫn vương mãi nụ cười dịu dàng. Chàng vẫn ngọt ngào, ấm áp như xưa. Chỉ có điều, cánh tay chàng đã không còn là chiếc gối êm của tôi nữa, hơi thở nồng ấm của chàng không còn đều đều vang bên tai tôi nữa, những lời yêu thương tha thiết đã trở thành ký ức. Giờ đây chỉ còn là bờ ngực đã thôi phập phồng, là thân thể không còn hơi ấm. Tôi buộc lòng phải đối diện với thực tế nghiệt ngã: Kháp Na đã rời xa tôi mãi mãi!

Ngoài kia vang lên tiếng bước chân vội vã, Shakya Zangpo mừng rỡ, reo lên:

- Pháp vương, pháp vương đã về!

Giọng nói chất chứa âu lo của Bát Tư Ba vọng lại:

- Bạch Lan Vương đâu?

Shakya Zangpo nghẹn ngào:

- Ngài đã viên tịch...

Tôi nghe rõ tiếng bàn ghế xô lệch, Bát Tư Ba trầm ngâm một lúc mới run rẩy thốt lên từng tiếng:

- Đệ ấy đang ở đâu?

- Vương phi giam mình trong phòng cùng Vương gia, không cho phép ai vào. Chúng tôi đã gõ cửa nhiều lần mà không được.

Đó là giọng Kunga Zangpo.

- Bao lâu rồi?

Kunga Zangpo đáp:

- Từ nửa đêm hôm kia đến giờ.

Tôi giật mình. Tôi đã thiếp đi lâu như vậy ư? Tôi quay lại nhìn Kháp Na, trái tim vô cảm của tôi dần hồi lại. Kháp Na, chàng đã rời xa em lâu như vậy rồi ư?

Giọng nói trầm buồn của Bát Tư Ba vang lên:

- Các ngươi lui cả ra, ta sẽ đi khuyên Vương phi.

Tiếng những bước chân xa dần rồi mất hút, sau đó là tiếng gõ cửa nhè nhẹ:

- Lam Kha, là ta đây, hãy mở cửa ra!

Tôi ngồi đó bất động.

Chàng tiếp tục gõ cửa:

- Ta xin em, cho ta gặp Kháp Na!

Những lời của chàng khiến tôi động lòng. Tôi rời khỏi giường, cất bước mà như đang lê đi trên những đám mây, tôi phải bám chặt lấy cánh tủ mới đứng vững. Tôi khổ sở nhích từng bước một, tê dại. Bát Tư Ba xuất hiện ngoài cửa, tóc tai rối bời, đôi mắt vằn vện những tia máu đỏ. Tôi vừa hé cửa, chàng lập tức rảo bước vào trong, chạy đến bên Kháp Na, gào khóc thảm thiết:

- Kháp Na ơi, đại ca về rồi đây!

Chàng đổ người lên thi thể của Kháp Na, gào khóc thê thiết, gọi mãi tên em trai. m thanh đau đớn, tuyệt vọng ấy vang động khắp Lang Như Thư Lầu. Sự ra đi của Kháp Na khiến Lâu Cát như chết nửa con người, kể từ đây, sinh mệnh của chàng chỉ còn một nửa.

Tội ôm bụng khó nhọc lại gần chàng. Chàng ngẩng lên nhìn tôi, nước mắt đầm đìa.

- Đệ ấy… có gì muốn nói với ta không?

Tôi nức nở:

- Kháp Na nhớ em nói lại với chàng, rằng chàng ấy thật lòng muốn san sẻ gánh nặng cùng chàng, nhưng chàng ấy đã không thể nữa rồi. Kháp Na khuyên chàng không nên quá lao tâm khổ tứ vì giáo phái và vì sứ mệnh thống nhất đất Tạng, hãy nghĩ cho bản thân, hãy sống cho chính mình.

Chàng như lịm đi vì đau khổ, chống tay xuống nền nhà, gượng đứng lên:

- Còn gì nữa không?

Lời nói của Kháp Na văng vẳng bên tai tôi:

- Đại ca rất yêu em, huynh ấy bỏ rơi em vì muốn tác hợp cho chúng ta. Chỉ tại ta quá ích kỷ, quá tham lam, chỉ muốn giữ em cho riêng mình. Sau khi ta chết, em hãy cùng huynh ấy nối lại duyên xưa...

Nhưng tôi đã lắc đầu:

- Không còn nữa.

Chàng quỳ trước mặt Kháp Na, nghiến răng căm tức, những tia máu vằn vện trong mắt:

- Kháp Na, đệ chết quá oan uổng! Đại ca xin thề trước mặt đệ, ta sẽ tìm cho bằng hết những kẻ âm mưu hãm hại đệ và trừng trị đích đáng từng kẻ một!

Ngày mồng 2 tháng 7 năm 1267, Bạch Lan Vương Kháp Na Đa Cát qua đời ở Lang Như Thư Lầu, vùng Sakya, hưởng thọ hai mươi chín tuổi.

***

Gió tuyết ngoài kia tạm ngừng, không khí yên ắng trong căn phòng kéo dài rất lâu, chỉ có âm thanh lép bép của củi lửa vang vọng. Chàng trai trẻ ngồi xuống cạnh tôi, chăm chú ngắm nhìn đôi mắt đỏ hoe của tôi, cất giọng buồn bã:

- Xin lỗi, lúc trước tôi đã nghe câu chuyện của cô bằng thái độ tò mò, hiếu kỳ. Tôi không biết rằng, câu chuyện lại bi thảm như vậy. Nó thương tâm đến mức khiến người ta không dám nghe tiếp.

Tôi muốn cất lời nhưng cổ họng nghẹn đắng. Cậu ta thở dài, muốn vỗ về, an ủi tôi nhưng cảm thấy làm vậy thật khiếm nhã, liền rút tay về.

- Sắp mười hai giờ rồi, nếu cô mệt thì nghỉ ngơi một lát đi, ngày mai hãy kể tiếp.

- Sáng sớm mai cậu phải lên đường rồi, làm gì còn thời gian nghe chuyện của tôi nữa. - Tôi nhìn cậu ta thăm dò. – Nếu cậu không buồn ngủ, tôi muốn kể hết câu chuyện trong đêm nay, vì ngày mai cậu sẽ không tìm được tôi đâu.

Chàng trai trẻ gật đầu:

- Thôi được, nhưng cô phải hứa là không được gắng gượng quá sức.

Tôi thấy cảm động trước sự quan tâm của cậu ta, tiếp tục câu chuyện:

- Tuy âm mưu hãm hại Bát Tư Ba của phái Drikung không thành nhưng chí ít bọn họ đã loại trừ được Kháp Na, cũng có nghĩa đã giáng cho Bát Tư Ba một đòn chí mạng. Chàng trở nên kiệt quệ vì mất mát quá lớn này, suốt một thời gian dài như chìm trong địa ngục.

Nhớ lại khoảng thời gian tăm tối ấy, BátTư Ba trở nên tiều tụy, võ vàng, lòng tôi quặn đau:

- Cái chết của Kháp Na không những đã kéo dài thời gian quay về Trung Đô mà còn làm thay đổi rất nhiều kế hoạch của Bát Tư Ba. Những thay đổi này có ảnh hưởng quan trọng đối với tương lai của phái Sakya.

Chương 50

Đứa trẻ mồ côi

“Người tài đức gặp lúc khó khăn,

Mọi người không cân nhắc lòng lo lắng;

Trăng kia dẫu bị thiên cẩu cắn mất,

Sẽ được giải thoát nhanh chóng.”

(Cách ngôn Sakya)

Người ta dựng một giàn gỗ rất cao ven sông Trum-chu, dưới chân núi Benbo và phủ cỏ khô xung quanh. Kháp Na nằm đó như đang say giấc trong lớp áo trắng tinh khiết. Dung mạo thanh tân của chàng mãi mãi dừng lại ở tuổi hai mươi chín, không bao giờ già đi.

Shakya Zangpo cùng tất cả sư tăng của Sakya xếp thành mấy chục hàng dài, ngồi thiền trên những phiến đá nhỏ ven sông, tụng kinh siêu độ. Bên kia là gia tộc họ Khon, gồm các anh chị em và cháu của Kháp Na. Người có gương mặt thảm hại nhất là Kunga Zangpo, cậu ta bị trúng độc nhưng vẫn gắng gượng tiễn đưa Kháp Na.

Thiên táng là tập tục phổ biến, đã hình thành từ bao đời ở đất Tạng. Chỉ bậc cao tăng của các giáo phái, sau khi viên tịch, mới được hỏa táng. Tuy không phải là pháp vương nhưng địa vị của Kháp Na ở Sakya không thua kém địa vị của pháp vương nên chàng được hỏa táng long trọng và Bát Tư Ba đích thân chủ trì lễ tang.

Tôi ngồi trong kiệu, không cầm nổi những dòng nước mắt tuôn rơi xuống bụng bầu. Tôi không còn đủ linh khí để biến hóa thành người khác nên Bát Tư Ba không muốn tôi tham dự lễ tang, nhưng tôi yêu cầu được đến. Bát Tư Ba đành sắp xếp để tôi ngồi trong kiệu, dặn dò tôi không được ra ngoài. Chàng nói với mọi người rằng thai nhi không được khỏe, Vương phi phải kiêng gió, tránh gặp người lạ.

Mọi người lần lượt bước lên phía trước, tay cầm khăn lụa Ha đa, cúi đầu trước Kháp Na rồi dâng khăn lên giàn gỗ. Sau đó, Dampa trao cho Bát Tư Ba một ngọn đuốc. Râu ria lởm chởm dưới cằm, hai mắt sưng đỏ, vẻ mặt tiều tụy, võ vàng, bàn tay chàng run bần bật khi đón lấy ngọn đuốc rồi chàng bật khóc. Một tay Bát Tư Ba cầm ngọn đuốc, một tay ôm ngực, lưng còng xuống, lảo đảo bước lên phía trước, hít thở rất nhiều lần mới châm được ngọn lửa vào đám cỏ khô.

Cỏ khô bén lửa rất nhanh, gương mặt Kháp Na trở nên hồng hào, tràn đầy sinh khí dưới ánh lửa bập bùng. Tôi đã khóc hết nước mắt, một tay túm chặt rèm kiệu, một tay áp chặt sợi dây buộc tóc màu lam lên ngực, cố kiềm chế khao khát muốn lao đến bên chàng. Đêm qua, Bát Tư Ba đã cho phép tôi vào gặp Kháp Na lần cuối. Tôi đã cắt sợi dây buộc tóc màu lam làm hai, buộc một nửa vào mái tóc mềm như lụa của chàng. Tôi hôn lên bờ môi giá băng của chàng lần cuối. Tình yêu của chàng, hạnh phúc của chàng, mọi thứ đẹp đẽ về chàng đã kết thúc chóng vánh ở tuổi hai mươi chín.

Mọi người đều quỳ xuống, tiếng khóc ai oán vang vọng khắp hai bên bờ sông. Bát Tư Ba chống hai tay xuống đất, đầu cúi thấp, bờ vai rung động. Ba nghìn tăng nhân của phái Sakya ngồi xếp bằng tụng kinh siêu độ, tiếng tụng niệm xen lẫn tiếng khóc than nức nở khiến cho bầu không khí vừa trang nghiêm vừa tang thương. Ngọn lửa lớn dần, chỉ trong chốc lát đã nuốt chửng thi thể của Kháp Na. Trái tim tôi như bị cắt thành từng mảnh khi nghĩ về những ngày tháng sau này tôi sẽ không còn được nhìn thấy chàng cười, nghe chàng nói lời yêu thương nữa.

Rặng thông ù ù thổi, như khóc như than. Tang lễ kéo dài hơn một canh giờ. Vậy là, Kháp Na đã trở về với cát bụi…

Bát Tư Ba chầm chậm gom nhặt tro cốt của em trai vào chiếc bình vàng. Chàng mân mê chiếc bình rồi đau đớn bật khóc, tưởng như không thể tiếp tục thu lượm được nữa. Có người đứng bên muốn lại gần giúp nhưng chàng kiên quyết không chịu, kiên trì tự tay gom nhặt bằng hết, bỏ vào bình. Mặt trời ngả về tây, ráng chiều nhuộm nền trời đỏ rực. Những chùm nắng đổ dài trên núi Benbo, đan cài giữa màu tuyết trắng bàng bạc. Bát Tư Ba run rẩy đặt bình tro cốt vào tháp hoàng kim nguy nga trước cổng ngôi đền Sakya. Khi những người thợ từ từ đóng nắp tòa tháp lại, Bát Tư Ba đau đớn tột độ, ngất đi. Khi ra lệnh cho Anigo xây dựng tòa tháp này, chàng đâu ngờ rằng, nó lại trở thành mộ chí của Kháp Na.

Sau những tiếng gọi hoảng hốt của Shakya Zangpo, Bát Tư Ba dần tỉnh lại, chàng gượng đứng lên, tuyên bố với tất cả con dân của giáo phái Sakya:

- Thành trì của giáo phái không cần dời đến Samdruptse nữa.

Lời tuyên bố vừa dứt, đám đông lập tức xôn xao. Vì ngày trước, chính Bát Tư Ba là người bất chấp ý kiến phản đối về việc di dời thành trì đến nơi khác. Vậy nên bản khâm Shakya Zangpo tỏ ra vô cùng băn khoăn:

- Pháp vương, vậy thành trì sẽ…

- Sẽ ở đây, thành trì sẽ được xây dựng trên lũng sông Trum-chu này.

Bát Tư Ba chỉ tay xuống mảnh đất dưới chân, mắt dõi nhìn công trình kiến trúc đồ sộ trên lưng chừng núi, dưới ánh chiều tà, sắc đỏ, trắng, xanh biến đổi kỳ ảo.

- Ngôi đền trên lưng chừng núi sẽ được gọi là đền Bắc Sakya, còn thành trì mới xây dựng sẽ được gọi là đền Nam Sakya, công trình mới sẽ được khởi công ngay tức khắc.

Những lời này khiến tôi sững sờ, nước mắt tuôn rơi. Kế hoạch mà chàng khổ công trù bị bao tháng ngày đã thay đổi một sớm một chiều vì sự ra đi đột ngột của Kháp Na. Tôi hiểu rằng, chàng không muốn rời xa em trai mình, chàng muốn bao bọc, che chở cho Kháp Na.

Ánh chiều đã xuống đến tòa tháp hoàng kim, nơi lưu giữ tro cốt của Kháp Na. Giọng Bát Tư Ba run rẩy cất lên:

- Ta sẽ cho xây dựng một Phật điện bên cạnh lăng mộ của Bạch Lan Vương để ngày ngày hương khói. Sau này, lăng mộ của các đời pháp vương phái Sakya đều sẽ được xây dựng ở đây, kể cả ta.

Mặt trời khuất sau rặng núi Benbo, màn đêm trùm khắp mặt đất, gió đêm ào tới, thổi bay vạt áo tăng ni của chàng. Bát Tư Ba và tòa tháp chất chứa đau thương ấy như quyện hòa vào nhau, chìm trong bóng tối thê lương.

- Lam Kha, chịu khó ăn một chút đi, đây là món thịt gà và sữa bò mà em thích nhất. - Bát Tư Ba bưng khay đồ ăn đến bên giường, động viên tôi. - Em bỏ bữa đã rất lâu rồi. Cho dù còn linh khí đi nữa, em cũng không nên đày ải bản thân mình như vậy.

Nói vậy nhưng chàng có hơn tôi là bao, cũng mất ngủ, cũng bỏ bữa liên tục nhiều ngày. Tôi ngó khay đồ ăn thơm phức mà chẳng có cảm giác đói bụng, tủi thân, lắc đầu.

Bát Tư Ba ngồi xuống trước mặt tôi, nhìn tôi đầy lo lắng:

- Ta xin em, hãy nghĩ đến đứa bé!

Tôi ôm bụng, cơn đau khiến mồ hôi trên trán tôi túa ra đầm đìa:

- Không phải em không chịu ăn mà là bụng em đau dữ dội, đau đến mức em không muốn ăn bất cứ thứ gì.

Tôi thở hổn hển, ngả lưng xuống gối:

- Em e mình sẽ sinh non mất.

Bát Tư Ba bàng hoàng khi thấy thân dưới của tôi ra máu.

- Ta sẽ lập tức cho gọi bà đỡ đến và lệnh cho tất cả các thầy thuốc của giáo phái đứng đợi lệnh ở bên ngoài.

Tôi vội nắm chặt tay áo rộng của chàng, ngăn lại:

- Em muốn tự mình sinh con vì em không thể biến thành Kangtsoban được nữa, không thể để người khác nhìn thấy gương mặt thật của em.

Chàng sốt ruột:

- Đến nước này rồi, em còn lo chuyện đó làm gì! Em sinh non khi mới mang thai bảy tháng, cả hai mẹ con đều rất nguy hiểm.

Tôi khổ sở lắc đầu:

- Em đã diễn vở kịch này ngần ấy thời gian, nếu bây giờ bị lộ, công lao của em và Kháp Na sẽ đổ xuống sông, xuống biển.

Chàng hơi do dự. Thấy tôi đau đớn, quằn quại, chàng liền bật dậy, nhặt tấm chăn thừa, trèo lên giường, buộc hai đầu góc chăn lên cột giường, để tấm chăn rủ xuống đúng phần ngực của tôi, sau đó buông màn che kín xung quanh. Chàng nhìn tôi, gật đầu:

- Làm thế này, bà đỡ sẽ không nhìn thấy dung mạo của em.

Tôi không đủ sức để đáp lời, đành cắn chặt răng, gật đầu.

Bà đỡ đến rất nhanh, theo sau là Zhuoma. Vừa vào phòng, các bà đỡ ráo riết chuẩn bị vải sạch, dây buộc, kéo và dao nhỏ đã được đun trong nước sôi, nước sôi và rượu gạo nồng độ cao. Bát Tư Ba giữ tay Zhuoma lại khi cô ấy định vén màn. Tôi nghe thấy Zhuoma nói với Bát Tư Ba:

- Đại ca, hãy để muội chăm sóc em dâu, huynh cứ ra ngoài đi.

Bát Tư Ba nghiêm giọng đáp:

- Không cần đâu, không ai được phép vào bên trong, ta sẽ chăm sóc cô ấy.

Các bà đỡ đều ngỡ ngàng, một người rụt rè lên tiếng:

- Thưa pháp vương, xin mời ngài ra ngoài chờ. Đàn ông không được phép vào phòng đẻ.

Chàng trầm ngâm một lát rồi cất giọng chắc nịch:

- Ta không đi đâu cả. Ta sẽ ở đây, bên cạnh cô ấy. Các người cứ làm tốt phận sự của mình, nhất định phải giúp mẹ con cô ấy được bình an.

Zhuoma thất kinh:

- Đại ca, làm vậy không hợp với lễ nghi. Huynh là…

Bát Tư Ba ngắt lời Zhuoma:

- Ta là bác ruột của đứa bé, bác cũng như cha vậy. Ta chỉ cần biết có thế, trước mặt đứa bé này, thân phận gì cũng vô nghĩa.

Zhuoma vẫn kiên trì thuyết phục:

- Huynh không sợ người đời chê trách sao?

Ta đâu cần bận tâm người khác sẽ nói gì.

Chàng ngừng lại, giọng nghẹn ngào:

- Ta đã mất Kháp Na, ta không thể mất thêm mẹ con cô ấy.

Zhuoma và các bà đỡ không biết phải nói sao. Bát Tư Ba vén màn, bước vào, ngồi xuống bên cạnh tôi, đôi mắt hun hút buồn:

- Ta sẽ ở bên, cùng em vượt qua cửa ải này!

Cơn đau dồn đến, ào ạt như bão tố. Tôi đau đớn rã rời, càng thấm thía lời nói năm xưa của Khabi. Yêu loài người, sẽ phải chịu đựng nỗi khốn khổ khi sinh nở nhiều hơn gấp trăm ngàn lần so với đồng loại, huống hồ tôi lại đẻ non thế này. Theo chỉ dẫn của Zhuoma, Bát Tư Ba kê mấy lần gối dưới lưng tôi. Tôi há miệng thực hiện động tác hít thở, không được thở quá mạnh, càng không được nín thở.

Bát Tư Ba lau mồ hôi trên trán tôi, không ngơi tay. Tôi đau đớn đến không còn giữ nổi sự tỉnh táo, cứ túm chặt lấy cánh tay chàng. Chàng khẽ rùng mình, hàng lông mày xô lại như thể đang chịu đựng điều gì. Tôi mặc kệ, tiếng Zhuoma vọng vào:

- Em dâu à, phải hết sức bình tĩnh. Nào, hãy đếm theo ta: một, hai, ba,…

Chàng nắm chặt tay tôi. Tôi gượng mở cặp mắt đã mệt lừ, quay sang nhìn chàng. Toàn thân chàng run lên bần bật, hàng lông mày nhíu lại, rúm ró, khổ sở nhưng bàn tay vẫn siết chặt tay tôi, truyền cho tôi hơi ấm và sức mạnh. Chàng nhìn tôi trân trân, gương mặt nhễ nhại mồ hôi của tôi in trong đôi đồng tử màu đen huyền hoặc ấy.

- Ta sẽ đếm cùng em, một, hai, ba,…

Tôi không cầm được nước mắt. Trên vầng trán cao rộng của chàng xuất hiện vài nếp nhăn, gương mặt gầy guộc mà kiên định, vững chắc, giọng nói trầm vang, ấm áp. Tôi thấy mình được an ủi rất nhiều, mạnh mẽ lên rất nhiều nên cũng gắng gượng, lẩm nhẩm theo:

- Bốn, năm, sáu,…

Không biết chúng tôi đã đếm đến bao nhiêu, giọng nói của chàng vẫn vang vang bên tai tôi. Tôi đếm theo chàng để quên đi cơn đau như thể có hàng trăm cỗ xe đang giày xéo phần thân dưới.

Trong cơn mê man, tôi nhận ra mình được nhấc lên, tựa vào một bờ vai gầy guộc. Giọng nói của ai đó run lên bần bật, cơ thể như bị co rút vì đau đớn:

- Đây là canh nhân sâm nghìn năm, em hãy chịu khó uống để lấy sức.

Chàng bón cho tôi từng thìa một, tôi cố nuốt vài ngụm. Bên ngoài vọng vào giọng nói đầy lo lắng của bà đỡ:

- Thưa Vương phi, đứa bé bị kẹt bên trong. Xin hãy rặn thật mạnh!

Tôi muốn làm theo nhưng cơ thể tôi mềm nhũn, chẳng còn chút sức lực. Bà đỡ hô lớn:

- Vương phi đã đau quá lâu, e là đã kiệt sức rồi. Lúc này, quan trọng nhất là giúp Vương phi có thêm sức lực.

Chàng rối trí, bèn nhấp một ngụm canh sâm, giữ chặt cằm tôi, cúi xuống, kề sát miệng tôi. Chàng khẽ rên lên khi chạm phải môi tôi, toàn thân run bần bật. Sau một hồi hổn hển, chàng tiếp tục kiên trì mớm canh sâm cho tôi. Không dịu dàng, không kinh nghiệm, chàng cứ thế ép tôi nuốt. Trong lúc nước sôi lửa bỏng ấy, không ai không còn tâm trí để nghĩ ra cách gì hợp lý, nhẹ nhàng hơn. Tôi đã uống hết bát canh sâm theo cách như vậy, và tôi đã lấy lại sức lực để tiếp tục cơn rặn theo chỉ dẫn của bà đỡ.

Thời gian tiếp tục trôi, tôi không còn nhớ nổi lúc này là lúc nào nữa, chỉ biết rằng, trong phòng đèn nến đã sáng trưng. Phía sau tấm màn, bóng người chập chờn, lay động. Thần trí tôi cứ bay bổng, lơ lửng, chợt tôi nghe thấy tiếng hát như vọng lại từ cơn mơ nào. Giọng nam trầm ấm, dặt dìu, tha thiết:

- “Ầu ơ, ầu ơ, nhịp võng ru

Ngủ ngoan con yêu, tay mẹ đưa

Mai sau khôn lớn con hãy nhớ

Tình mẹ ngày đêm vẫn đợi chờ.”

Giữa không gian bồng bềnh, mơ mộng ấy, người đàn ông cao gầy đang mỉm cười với tôi. Tôi đưa tay về phía trước, lồng vào ngón tay chàng, mãn nguyện gọi tên chàng :

- Kháp Na…

Giọng nói trầm ấm vẳng bên tai tôi :

- Ta ở đây, luôn ở đây bên em.

Bên ngoài, tiếng bà đỡ reo lên :

- Thấy đầu đứa bé rồi! Xin Vương phi hãy ráng nữa lên!

- Con của chúng ta…

Nhìn thấy nụ cười rạng rỡ và gương mặt tuấn tú của Kháp Na nên tôi dồn hết sức bình sinh, ngẩng đầu, đẩy người lên, hét to một tiếng. Thân thể tôi như từ không trung rơi xuống vực sâu. Tôi ra khỏi cơn mộng mị, trở lại với hiện thực. Gắng gượng mở mắt, gương mặt thân thương ấy ngày một hiện ra rõ nét. Thì ra, người hát cho tôi nghe, lồng tay vào tay tôi, không phải Kháp Na, mà là Bát Tư Ba. Nhưng khi ấy, cơn đau tột cùng khiến tôi không còn đủ sức để suy nghĩ về điều này, vì sao gương mặt chàng lại như đang phải chịu đựng khổ đau vậy? Lẽ nào chỉ là ảo giác?

Bỗng ngoài kia vang lên tiếng hò reo của Zhuoma:

- Ra rồi, ra rồi, một cậu con trai!

Bát Tư Ba giật mình, bật dậy, cuống quýt vén màn, đi ra. Tiếp đó là giọng nói mừng rỡ điên cuồng của chàng:

- Là con trai! Là con trai! Sakya có hy vọng rồi! Kháp Na ơi, Sakya có người nối dõi rồi!

- Thưa pháp vương, hình như đứa bé không được khỏe. - Giọng của bà đỡ có vẻ lo lắng. - Vì quá đau lòng nên Vương phi đã đẻ non. Trong thời gian rặn đẻ lại mất nhiều sức lực nên đứa bé bị thiếu cân nghiêm trọng, hơi thở yếu ớt, vỗ thế nào cũng không khóc, chỉ e…

Bát Tư Ba lo lắng gào lên:

- Mau mời thầy thuốc, phải cứu bằng được đứa bé!

Tiếng những bước chân dồn dập rời khỏi căn phòng, tiếng thầy thuốc vang lên ngoài kia:

- Đứa bé kẹt trong bụng mẹ quá lâu, chỉ e đã bị ngạt thở.

- Có thể cứu được không?

- Đứa bé này quá yếu, tôi sẽ cố thử!

Đầu óc tôi quay cuồng nhưng tôi vẫn cố giữ cho mình được tỉnh táo, cất giọng khó khăn:

- Đưa cho tôi!

Bát Tư Ba thận trọng bế đứa bé vào, đặt trước mặt tôi. Nó nhỏ bé, tội nghiệp quá, hệt như chú chuột con đỏ hỏn vậy. Tôi giượng dậy, áp môi lên cái miệng xinh xinh của nó. Bát Tư Ba hốt hoảng:

- Em không muốn sống nữa sao?

Tôi mệt mỏi xua tay. Giờ đây, chỉ có tôi mới cứu được nó. Tôi hút hết dịch ối trong miệng đứa bé và truyền cho nó chút linh khí cuối cùng trong cơ thể. Cuối cùng, đứa bé cũng chịu cất tiếng khóc, dù chỉ là tiếng thút thít như tiếng mèo kêu nhưng đối với tôi, đó là âm thanh tuyệt vời nhất trên đời.

- Dharmapala, tên của nó là Dharmapala…

Tôi không đủ sức để mở mắt ra nữa, đổ người xuống gối, hơi thở khó khăn, gắng gượng thốt lên những lời cuối cùng trước lúc ngất đi:

- Lâu Cát… Nếu em chết… xin chàng… hãy chôn em cùng với Kháp Na…

- Em nói gì vậy? Em không thể chết! - Chàng lay gọi tôi, thổn thức bên tai tôi. - Đừng đi, cầu xin em, đừng bỏ ta lại một mình!

Đầu óc tôi mất dần sự tỉnh táo, hai mắt khép lại, dường như chàng vẫn không ngừng gào gọi, nhưng tôi chẳng thể nghe thấy nữa, tôi đang chìm vào cõi u tối vô biên.

Tôi cứ ngỡ, sự sống của tôi từ đây sẽ ra đi theo Kháp Na. Nếu là vậy thì ngoài việc không thể nuôi con trai khôn lớn, tôi không còn gì để nuối tiếc hoặc ân hận. Nhưng tôi không phải con người, sự sống mãnh liệt của loài hồ ly thiêng buộc tôi phải chấp nhận số phận: là nhân chứng của bảy trăm năm bãi bể nương dâu, vật đổi sao dời tiếp theo. Thế nên, khi tỉnh lại và trông thấy gương mặt tiều tụy của Bát Tư Ba sáng lên vì phấn khích, tôi đã không hề vui mừng khi biết mình vẫn còn sống như chàng.

- Lam Kha, cuối cùng em cũng chịu tỉnh lại! Em đã hôn mê hơn một tháng rồi đó!

Chàng ôm tôi lên, ghì chặt vào lòng, khóc nấc lên vì vui sướng. Khoan đã, vì sao cánh tay của chàng lại phải băng bó thế kia? Và vì sao chàng lại ôm tôi lên được? Tôi cúi xuống và bắt gặp những móng vuốt quen thuộc, bộ lông màu lam ảm đạm. Tôi sững người. Khabi từng nói, trong thời gian cho con bú, chúng tôi phải duy trì hình hài con người, phải chờ giai đoạn này kết thúc mới có thể trở lại nguyên hình kia mà?

Tôi muốn nói chuyện với chàng nhưng chỉ có thể thốt lên những tiếng kêu lí nhí. Tôi thảng thốt, thử giọng thêm lần nữa, vẫn chỉ là tiếng kêu của loài hồ ly.

Chàng nhìn tôi vẻ băn khoăn:

- Lam Kha, em muốn nói gì với ta?

Tôi muốn nói: "Vì sao em không nói được?" Tôi bứt mấy sợi lông ở đùi để cơn đau kích thích thanh âm, nhưng khi mở miệng cất tiếng, vẫn không thể thốt ra lời.

Chàng vội vã ngăn tôi tiếp tục cắn xé bản thân:

- Lam Kha, đừng hành hạ bản thân như vậy!

Tôi ngẩng lên nhìn chàng, miệng dính đầy lông, nước mắt giàn giụa. Tôi đã bị đẩy trở lại nguyên hình hoàn toàn, không thể hóa phép, không thể trò chuyện, chỉ khẽ cử động cũng mệt mỏi rã rời, tôi đã không còn, dù chỉ một chút linh khí. Ngoài việc vẫn nghe hiểu được tiếng người, tôi chẳng làm được gì khác. Tôi không còn đủ năng lực để tiếp tục sống sót nữa!

Chàng nhìn tôi thăm dò:

- Em không thể trò chuyện được nữa?

Tôi gật đầu, giọt nước mắt buồn tủi rớt xuống ngực chàng.

Chàng lại thận trọng hỏi tiếp:

- Cũng không thể hóa phép thành người được nữa?

Tôi ngoảnh mặt đi, nước mắt như mưa. Tôi đã tu luyện khổ cực biết bao nhiêu để có được hình hài con người mà Kháp Na yêu thích. Giờ đây, tất cả đã trở thành bóng trăng dưới mặt nước, chẳng thể tìm lại được nữa.

Chàng ôm tôi vào lòng, dịu dàng an ủi:

- Đừng sợ, ta sẽ đưa em về Trung Nguyên. Chúng ta đến tìm Hoàng hậu Khabi, chắc chắn cô ấy sẽ có cách.

Tôi giật mình ngẩng đầu lên, lắc đầu quầy quậy. Chàng chừng như đoán ra suy nghĩ của tôi:

- Em không muốn xa Dharma, phải không? Vì em lo lắng cho sự an nguy của thằng bé?

Tôi gật đầu xác nhận. Chàng thở dài khe khẽ:

- Nhưng em thế này, dù có ở lại cũng chẳng thể bảo vệ được nó.

Tôi choáng váng. Tôi bây giờ chỉ là một hồ ly nhỏ bé, mất hết linh khí, một con chó giữ nhà cũng có thể là đối thủ đáng gờm của tôi, tôi lấy gì để bảo vệ con trai mình? Cảm giác ấy vừa cay đắng vừa tủi phận, tôi lo lắng đập đầu liên hồi vào bàn tay chàng.

Chàng đứng lên, ôm tôi theo.

- Ta biết rồi, em muốn gặp Dharma phải không? Ta sẽ đưa em đi gặp con.

Trước khi Kháp Na qua đời, hai chúng tôi đã lên kế hoạch chu tất cho căn phòng của em bé. Căn phòng được bố trí nằm đối diện với buồng ngủ của chúng tôi. Trong phòng sẽ xếp nôi, ngựa gỗ và rất nhiều đồ chơi con trẻ mà Kháp Na đã chuẩn bị cho bé từ rất sớm. Thế nhưng, Bát Tư Ba lại đưa tôi đến một khu nhà mới xây, nằm kế Lang Như Thư Lầu. Tôi không khỏi ngạc nhiên, khu nhà này mọc ra từ khi nào vậy?

Căn phòng ngăn cách với thế giới bên ngoài bởi ba bức tường, bên ngoài mỗi bức tường đều có mấy lực sĩ canh gác rất mực nghiêm cẩn. Phải vào sâu bên trong mới thấy một căn nhà nho nhỏ, ngoài vườn là những hàng thông, bách thường gặp ở Sakya. Căn nhà không lớn, nhưng tôi đã sững sờ khi thấy nó. Người Sakya thường xây nhà bằng đá, vậy mà căn nhà này lại được dựng hoàn toàn bằng gỗ. Sakya nằm trên vùng núi cao, gỗ được xem là vật liệu quý hiếm ở đây. Căn nhà gỗ này khiến người ta không khỏi xuýt xoa về mức độ xa hoa của nó.

Chàng dừng lại, ngước nhìn căn nhà gỗ rực rỡ dưới ánh mặt trời.

- Đây là phòng của Dharma. Thằng bé sẽ được nuôi dưỡng trong căn nhà này.

- Thảo nào trong trí nhớ của tôi, không hề có dữ kiện nào về việc phái Sakya di dời thành trì đến nơi khác, thì ra bên trong lại chứa nhiều uẩn khúc như vậy.

Chàng trai trẻ như chợt bừng tỉnh rồi thở dài ảo não:

- Tình cảm sâu đậm của hai anh em họ thật khiến người ta cảm động.

- Vì là thành trì của chính quyền Sakya nên ngôi đền Nam Sakya hoàn toàn khác với các ngôi đền Phật giáo ở đất Tạng trước đó.

Tôi lật mở cuốn sách ảnh, chỉ cho cậu ta xem:

- Ngôi đền mà chúng ta thấy ở Sakya ngày nay chính là đền Nam Sakya.

Cậu ta gật đầu xác nhận:

- Đúng là nó. Tôi nhớ rằng bức tường bao quanh ngôi đền rất cao và vô cùng kiên cố. Nó không giống một ngôi đền mà giống một thành lũy hơn.

- Nó đã được thiết kế theo bố cục của thành lũy. Bên ngoài là tường thành, ở giữa là Phật điện, thành phố và đền đài đan xen kết hợp.

Tôi ngẩn ngơ ngắm nhìn ngôi đền Sakya trong bức tranh, một lát sau mới sực tỉnh.

- Bát Tư Ba đã dốc toàn bộ của cải vào việc xây dựng đền Nam Sakya. Công trình này kéo dài suốt hơn hai mươi năm mới hoàn tất, bắt đầu từ nhiệm kỳ bản khâm thứ nhất do đại sư Shakya Zangpo đảm nhiệm cho đến đời nhiệm kỳ bản khâm thứ ba. Tức là, cho đến khi Bát Tư Ba qua đời, ngôi đền vẫn chưa được xây cất xong.

- Tôi cũng lưu giữ những bức ảnh về ngôi đền này, để tôi cho cô xem.

Chàng trai rút ra chiếc Iphone, chỉ cho tôi thấy từng tấm hình.

- Lúc đến Sakya, tôi đã phải thốt lên, vì sao một nơi nghèo nàn thế này lại có thể xây dựng một ngôi đền nguy nga, lộng lẫy như thế? Thật không thể tin nổi!

Tôi chỉ vào bức ảnh và nói:

- Ngôi đền mà cậu đến tham quan là ngôi đền mới xây dựng, còn đền Bắc Sakya nằm trên lưng chừng núi Benbo đã bị phá hủy vào thời Cách mạng Văn hóa, đến nay chỉ còn lại tàn tích mà thôi.

Chương 51

Thế tử duy nhất

"Lòng nhân từ của bậc hiền nhân,

Có thể khuất phục kẻ địch,

Ai ban ân đức cho muôn dân,

Người đó sẽ được tôn làm vua"

(Cách ngôn Sakya)

- Thế tử hôm nay thế nào?

Bát Tư Ba giấu tôi trong áo, quay sang hỏi một vú em có gương mặt đôn hậu, chất phác. Người đó cung kính thưa:

- Bẩm, Thế tử rất yếu, đêm nào cũng khóc hoài không dứt, cứ bón thuốc là lại nhè ra, nhưng thuốc đắng dã tật, không thể không uống. Mấy ngày qua, chúng tôi thay phiên nhau túc trực bên Thế tử nên Thế tử cũng đã khá hơn.

Lòng tôi thắt lại, tôi sốt ruột thò đầu ra khỏi ngực áo Bát Tư Ba. Tội nghiệp thằng bé, còn đỏ hỏn mà đã phải thuốc thang, đắng ngắt như vậy làm sao bé chịu nổi? Chàng khẽ ấn vào người tôi, ra hiệu cho tôi không được nóng nảy, sau đó quay sang nói với tất cả các vú em và thị nữ:

- Các cô đã vất vả chăm sóc Thế tử, ngày sau Thế tử lớn lên mạnh khỏe, phái Sakya sẽ không để các cô thiệt đâu. Nhưng ta cũng nhắc để các cô nhớ, nếu kẻ nào lười biếng, dối trá hoặc vì tham lam đồ đút lót của kẻ xấu, đang tâm hãm hại Thế tử, ta quyết không tha!

Bọn họ nhất loạt quỳ xuống, dập đầu, không dám ho he. Bát Tư Ba lệnh cho họ lui ra ngoài rồi đưa tôi lại gần chiếc nôi. Đôi mắt tôi như bị thôi miên.

Đứa bé non nớt, đỏ hỏn trong nôi kia là Dharmapala của tôi sao? Trong óc tôi chỉ lưu lại ấn tượng rất mơ hồ lúc bé vừa chào đời. Còn lúc này, gương mặt của bé đã dài hơn, cái mũi bé xíu, đôi má xinh xắn, có thể thấy rõ từng đường nét của Kháp Na, rất đẹp! Chỉ có điều, cơ thể của bé không mập mạp bằng những đứa trẻ cùng tháng khác. Những âm thanh phát ra từ cái miệng nhỏ xinh của bé yếu ớt như tiếng mèo con. Sống mũi cay xè, tôi trào nước mắt. Dharma, mẹ xin lỗi vì đã không chăm con thật tốt lúc mang thai.

Chàng cúi xuống sát vành nôi, thò ngón tay vào, khẽ đùa với chiếc cằm đáng yêu của Dharma, giọng nói êm ái, ánh mắt dịu hiền:

- Nó rất giống Kháp Na, đúng không?

Tôi gật đầu đồng tình rồi nhẹ nhàng đặt móng vuốt lên đôi má măng sữa của bé. Dharma chợt mở mắt, đôi đồng tử đen láy đảo qua đảo lại, bàn tay nhỏ xíu của bé túm chặt lấy móng vuốt của tôi, cái miệng phát ra những tiếng "a... a..." rất dễ thương. Đột nhiên, tôi bật khóc.

- Lam Kha, ta phải nói cho em biết về nguồn gốc của căn nhà gỗ này.

Chàng đặt tôi cạnh Dharma rồi ngồi xuống bên nôi.

- Trong một tháng em hôn mê bất tỉnh, đã xảy ra một chuyện.

Thì ra hôm đó, sau khi truyền linh khí cho Dharma, tôi đã ngất đi và trở lại nguyên hình, Bát Tư Ba lập tức ra lệnh cho mọi người rời khỏi căn phòng. Bé Dharma đã chào đời, tin tức Kangtsoban đẻ non sớm muộn cũng truyền đến tai Jichoi ở Shalu. Vì là ông ngoại nên chắc chắn Jichoi sẽ đôn đáo chạy đến thăm con gái và cháu ngoại. Đến lúc ấy, phải ăn nói làm sao với Jichoi về Kangtsoban?

Bát Tư Ba đã suy nghĩ rất nhiều, đột nhiên nhớ ra thi thể đã đóng băng của Kangtsoban trong sơn động trên núi Benbo. Tối hôm đó, cậu dẫn theo Senge và Dampa lên núi đưa Kangtsoban xuống, ngay hôm sau đã tuyên bố Vương phi của Bạch Lan Vương qua đời vì đẻ khó. Thế nên đội ngũ báo tin vui vừa đến Shalu thì đoàn người báo tin dữ cũng tới. Jichoi khóc sưng mắt trên đường đến Sakya.

Jichoi đề nghị chôn cất Kangtsoban cùng với Kháp Na nhưng Bát Tư Ba không đồng ý. Kháp Na được hỏa táng vì chàng là bậc cao tăng đại đức của nhà Phật. Trong khi đó, theo tập tục của đất Tạng, phụ nữ không được hưởng nghi lễ hỏa táng trang trọng kia. Thế nên, Bát Tư Ba đã tổ chức tang lễ trọng thể cho Kangtsoban theo nghi thức thiên táng, gửi gắm linh hồn Kangtsoban cho thần Chim ưng.

Giờ đây, sợi dây kết nối duy nhất giữa Shalu và Sakya là nhóc Dharmapala đang nằm trong nôi. Jichoi rất mực cưng nựng cháu ngoại, ông ta đề nghị đưa Dharma về Shalu nuôi dưỡng để tránh bầu không khí chết chóc nặng nề ở Sakya, nhưng Bát Tư Ba kiên quyết phản đối. Và để Jichoi được yên lòng, chàng đã đề nghị hai bên cùng hợp sức, trong vòng một tháng, xây dựng xong căn nhà bằng gỗ kiên cố để bảo vệ an toàn của Dharma. Nếu Jichoi không tin tưởng đội thị vệ của Sakya, ông ta hoàn toàn có thể cử vệ sĩ trung thành nhất của Shalu đến canh gác ngày đêm tại nơi ở của Dharma.

Lính canh ngoài kia đều là hộ vệ mà Jichoi cử đến.

Chàng thở dài, nhìn quanh một lượt.

- Tất cả đồ đạc và đồ chơi mà Kháp Na và em chuẩn bị cho bé, ta đều cho chuyển hết tới đây.

Tôi đưa mắt nhìn theo cánh tay chàng, hầu hết những đồ đạc trong phòng như: thùng tròn tập đứng, ngựa gỗ,... đều là đồ chơi của Bát Tư Ba và Kháp Na lúc còn nhỏ, Kháp Na đã sai người đóng lại cho chắc chắn và sơn màu bắt mắt. Những món đồ thấm đượm tình phụ tử ấy khiến tôi nhớ đến gương mặt tràn đầy niềm hy vọng và ngóng đợi ngày con chào đời của Kháp Na, lòng tôi chùng xuống.

Bát Tư Ba tiếp tục câu chuyện:

- Vú em nuôi dưỡng Dharma đều được tuyển chọn kĩ càng từ những gia đình tử tế. Người nào được mời làm vú nuôi của Dharma thì cả gia đình sẽ dọn đến sinh sống ở Sakya. Như thế, một là để vú nuôi yên tâm phục vụ Thế tử, hai là để đề phòng nguy cơ có kẻ bắt bớ, khống chế người thân của vú nuôi và ép cô ta hãm hại Dharma.

Chàng chậm rãi cất bước, nền nhà vang lên những tiếng cọt kẹt.

- Nền nhà được xây cao thế này để kẻ xấu đột nhập thì dù hắn đi lại nhẹ nhàng cỡ nào, cũng sẽ phát ra tiếng kêu. Nếu hắn có ý định lợi dụng đêm tối bắt cóc thằng bé, cũng khó mà đạt được mục đích.

Tôi băn khoăn nhìn chàng. Vật liệu gỗ kỵ nhất là lửa, nếu là kẻ thù, chắc chắn tôi sẽ phóng hỏa. Như đọc được suy nghĩ của tôi, chàng mỉm cười đầy tự tin.

- Em đừng xem thường độ chịu lửa của căn nhà gỗ này, nó còn tốt hơn những căn nhà thông thường khác rất nhiều bởi nó được dựng lên bằng gỗ thông, bốn mặt trát than chì. Gỗ thông gặp nóng thì nở ra, có thể ngăn chặn kẻ xấu đút lửa vào khe hở. Còn than chì có tác dụng chịu lửa rất tốt, cho dù ngoài kia có xảy ra hỏa hoạn, lửa cháy ngùn ngụt thì căn phòng này vẫn có thể chống đỡ trong một khoảng thời gian rất dài.

Tôi phở phào nhẹ nhõm, mê mải ngắm nghía đứa bé xinh xắn trong nôi. Bé đang ngủ rất say, đôi mắt khép lại, toàn thân căng tràn mùi sữa non, chốc chốc cái miệng xinh xinh lại tóp tép. Tôi sững sờ, lúc mơ ngủ Kháp Na cũng có thói quen đó. Hai cha con giống nhau quá!

Chàng nhấc tôi ra khỏi chiếc nôi, thở than:

- Ta biết em rất khổ tâm vì mặc dù là mẹ đẻ của Dharma nhưng em không thể nhận con.

Lòng tôi chợt ảm đạm.. Với bộ dạng thế này, tôi nhận con làm sao được? Vả lại, Dharma cũng không thể chấp nhận điều này! Tôi không có ý định nói cho nó biết. Nó phải sống với thân phận là cháu ngoại của Vạn hộ hầu Shalu suốt đời.

Giỗ bốn mươi chín ngày của Kháp Na, Bát Tư Ba tổ chức một pháp hội cầu siêu long trọng tại đền Qiong Ke ở Qumi. Chàng và các nhà sư làm lễ dâng hương, chắp tay quỳ lạy ba lần, vẻ mặt đau buồn, u uất. Người ta thắp lửa sáng cả ngôi đền, trên tay mỗi nhà sư là một ngọn đèn dầu, cả đại điện trở nên lung linh bởi những đốm lửa bập bùng cháy sáng. Bát Tư Ba, mắt nhòe lệ, nhấc tấm thẻ gỗ ghi tên Kháp Na trên bàn thờ xuống, bỏ vào đống lửa. m thanh tụng niệm lầm rầm vang lên, vọng khắp ngôi đền. Nước mắt đầm đìa ngực áo Bát Tư Ba, tôi không rõ đó là nước mắt của chàng hay của chính mình nữa.

Sau buổi pháp hội, Bát Tư Ba tháo băng quấn vết thương trên tay chàng. Từng lớp vải rơi xuống, bàn tay chàng lộ ra. Tuy vết thương đã lành nhưng lòng bàn tay có một vết sẹo kỳ lạ, như thể bị bỏng vậy. Vết sẹo nổi lên nhức nhối, khiến cho bàn tay với những ngón thuôn dài, đẹp đẽ của chàng trở nên thô ráp, xấu xí.

Tôi trân trân nhìn vào vết sẹo trong lòng bàn tay Bát Tư Ba rồi ngẩng lên, dùng ánh mắt dò hỏi. Chàng chỉ giải thích qua loa: Đêm túc trực linh cữu của Kháp Na, cây nến đổ vào lòng bàn tay từ lúc nào mà chàng không hay biết nên mới bị bỏng vậy.

Thấy tôi đau lòng, cứ liếm mãi lòng bàn tay chàng, Bát Tư Ba vội rụt tay lại, giấu sau lưng.

- Không sao đâu, ta khỏi rồi.

Chàng dõi nhìn khoảng không xa tít tắp, ánh mắt u buồn:

- Nay mọi việc đã tạm ổn, chúng ta phải trở về Trung Nguyên thôi.

Đầu tháng Chín năm đó, khi ngựa xe đã sẵn sàng lên đường, chàng cho gọi những nhân vật chủ chốt của giáo phái vào phòng riêng để căn dặn từng việc.

Chàng nói với Zhuoma và Kunga Zangpo:

- Ta giao Dharma cho hai người. Hãy tận tâm chăm sóc để thằng bé được lớn lên khỏe mạnh. Ngày sau, ta hứa sẽ tổ chức hôn lễ cho Dharma và con gái Jumodaban của hai người.

Vợ chồng Zhuoma bất ngờ, không tin vào tai mình. Kunga Zangpo lập tức quỳ xuống, lắp ba lắp bắp:

- Dạ bẩm... tôi xuất thân hèn mọn, đâu dám nhận vinh hạnh này... Làm vậy thật thiệt thòi cho Thế tử!

Bát Tư Ba gật đầu hài lòng:

- Jumodaban chỉ hơn Dharma một tuổi, dung mạo xinh xắn, dễ thương, ta thấy chúng rất xứng đôi.

Ngập ngừng một lát, giọng nói của chàng trở nên bi thương lạ thường:

- Vả lại, khi còn sống, Kháp Na đã rất tin tưởng cậu. Ta hy vọng hai người sẽ bảo vệ giọt máu duy nhất của đệ ấy bằng mọi giá, kể cả phải hy sinh tính mạng.

Kunga Zangpo dập đầu quả quyết, giọng nói nghẹn ngào:

- Xin pháp vương yên tâm, mạng sống của Kunga Zangpo trước kia thuộc về cậu chủ Kháp Na, bây giờ sẽ thuộc về Thế tử!

Bát Tư Ba đỡ Kunga Zangpo đứng dậy, quay sang phía bản khâm Shakya Zangpo, nắm chặt bàn tay đồi mồi của đại sư, xúc động nói:

- Bản khâm, công việc xây dựng đền Nam Sakya phải trông cậy vào thầy rồi!

Shakya Zangpo xúc động hứa rằng:

- Thưa pháp vương, tuy đã có tuổi nhưng tôi nhất định sẽ dành trọn thời gian còn lại của mình cho công trình này, nhất định sẽ xây dựng thành trì khang trang, đẹp đẽ nhất cho phái Sakya.

Bát Tư Ba gật đầu mãn nguyện:

- Sau khi trở về từ Trung Đô và xử lý xong xuôi mọi việc, ta sẽ lập tức quay lại Sakya.

Shakya Zangpo do dự một lát, thưa rằng:

- Thưa pháp vương, hiện thế hệ sau của phái Sakya có hai người con trai. Cậu chủ Dani, con trai ngài Yeshe, lớn hơn Thế tử Dharma sáu tuổi. Đã đến lúc phải đón cậu ấy về đây để học tập các pháp môn của giáo phái, theo ngài...

Sắc mặt Bát Tư Ba bỗng thay đổi:

- Không cần đi đón. Pháp thống và gia tộc sẽ do một mình Dharma kế thừa.

Tất cả những người có mặt lúc đó đều bàng hoàng, sửng sốt, ngay cả tôi đang trong tâm trạng buồn bã, ủ rũ cũng giật mình ngẩng lên. Shakya Zangpo lên tiếng:

- Nhưng theo truyền thống của giáo phái, con trai lớn kế thừa pháp thống, con út kế thừa huyết thống. Nếu Bạch Lan Vương còn con trai khác nữa thì không có gì phải lo lắng, nhưng...

Nhận thấy sắc mặt của Bát Tư Ba càng lúc càng tối sầm, ông ấy bèn lùi lại phía sau, giọng nói lí nhí khi cố gắng trình bày nốt:

- Dani là anh, kế thừa pháp thống, Dharma là em, kế thừa huyết thống, như vậy là hợp lý.

Bát Tư Ba nghiêm mặt nói:

- Không cần bàn luận thêm nữa. Đối với ta, Dharma là đứa cháu trai duy nhất. Để nó kế thừa pháp thống và huyết thống của giáo phái cũng không có gì bất ổn. Ngày sau, nó sinh được hai con trai, sẽ lại phân chia quyền thừa kế theo truyền thống của giáo phái.

Shakya Zangpo không dám nhiều lời, đành gật đầu vâng dạ. Vợ chồng Zhuoma tất nhiên hoàn toàn ủng hộ quyết định của Bát Tư Ba. Senge và Dampa chỉ là đệ tử, không dám can thiệp vào chuyện nhà của phái Sakya. Mọi người đều cung kính rời khỏi phòng của Bát Tư Ba.

- Em trách ta vì quyết định chuyện hôn nhân của Dharma quá sớm phải không?

Thấy tôi mặt ủ mày chau, đi đi lại lại trên đệm trải, chàng ôm tôi lên, ghì chặt vào lòng.

- Chuyến đi này, nhanh cũng phải mất ba năm. Ta phải bảo đảm rằng, lúc ta không có mặt ở đây, Dharma vẫn được an toàn. Ta không còn cách nào khác ngoài việc nhờ cậy những người ta có thể tin tưởng tuyệt đối. Cũng mừng là hai đứa trẻ sẽ được sống với nhau từ nhỏ, lớn lên chúng sẽ là thanh mai trúc mã, như vậy sẽ tốt hơn việc phải kết hôn với những người hoàn toàn không quen biết, đúng không?

Tôi lắc đầu. Đó không phải là điều khiến tôi lo lắng, bởi vì thực lòng, tôi rất yêu mến Jumodaban. Tôi chỉ sợ rằng, khi tin tức này lan truyền tới Vân Nam, Yeshe chắc chắn không chịu để yên. Dù Bát Tư Ba đã bố trí canh gác cẩn mật nhưng tôi vẫn bồn chồn, lo lắng. Thằng bé còn non nớt như vậy mà đã phải đối mặt với dông bão, với hằn thù và giết chóc. Tôi không muốn xa Dharma, cho dù tôi chỉ là một hồ ly tinh nhỏ bé, đã mất hết linh khí, tôi cũng muốn ở bên, bảo vệ con trai tôi.

Nên khi Bát Tư Ba đưa tôi đến gặp Dharma lần cuối trước lúc lên đường, tôi đã thừa dịp chàng không để ý, lẻn trốn đi. Bát Tư Ba huy động rất nhiều người hầu đi tìm tôi khắp nơi. Tôi vốn thông thạo địa hình, địa thế ở Sakya, ban ngày tôi trốn trên cây để không ai có thể tìm thấy. Tôi định sẽ đến thăm con trai sau khi Bát Tư Ba rời khỏi Sakya. Nhưng trời vừa sẩm tối, lòng tôi lại cồn cào không yên. Tôi đành mạo hiểm lẻn vào phòng Dharma. Cơ thể nhỏ bé của tôi không gây ra tiếng động lớn khi bước đi trên sàn gỗ nên tôi vô cùng mừng rỡ trèo vào trong nôi, ngắm nghía gương mặt đáng yêu của Dharma khi con đang say ngủ, cái miệng chốc chốc lại tóp ta tóp tép. Thằng bé đáng yêu đến nỗi khiến trái tim tôi tan chảy. Tôi nhìn bé không chán, nhưng không hiểu sao thị lực của tôi ngày càng kém đi. Chợt sàn gỗ vang lên âm thanh cọt kẹt, tôi chưa kịp quay đầu lại đã bị Bát Tư Ba bế xốc lên, giọng chàng nhè nhẹ vang bên tai tôi:

- Ta đoán không sai, chỉ cần chờ ở đây là sẽ tìm được em.

Tôi bực tức đá vào người chàng, giãy giụa vùng thoát. Giờ đây, khi không còn linh khí, cả khứu giác, thính giác nhạy bén của tôi cũng mất hết, bằng không, chàng đừng hòng tóm được tôi dễ dàng như vậy. Thì ra chàng đã chờ sẵn ở đây, chẳng trách, không có vú em nào ở bên cạnh Dharma. Tôi buồn bực vì đã "trúng kế" của Bát Tư Ba, cắn vào tay chàng. Chàng khẽ kêu lên nhưng kiên quyết không chịu thả tay ra.

- Lam Kha, đừng trốn nữa! Đưa em rời xa Dharma, ta biết em sẽ giận ta, nhưng ta buộc lòng phải làm vậy. Ta phải đưa em đi tìm Hoàng hậu Khabi, cô ấy là người duy nhất có thể cứu em.

Chàng gắng chịu đau, ánh mắt lấp lánh dưới ánh trăng vằng vặc.

- Có thể em không bận tâm đến việc có khôi phục được linh khí hay không, không bận tâm đến việc bản thân đã trở nên nhỏ bé, yếu ớt, nhưng nếu không mang hình hài con người, làm sao em nhận con trai được? Lẽ nào em muốn suốt đời phải trốn trong góc khuất, lén lút nhìn ngắm nó? Em không muốn được ôm nó vào lòng sao?

Tôi nhìn chú bé con trong nôi, nước mắt đầm đìa. Từ khi bé ra đời đến nay, tôi chưa lần nào được ôm nó vào lòng. Tôi đã thèm muốn điều đó biết bao! Lòng xót xa vô hạn, tôi há miệng, bàn tay chàng vẫn còn nguyên vết răng của tôi. Tôi ân hận liếm láp vết thương ấy, không biết nước bọt của tôi có còn phát huy tác dụng chữa bệnh như trước không.

Chàng thở dài, vuốt ve tôi, chẳng hề bận tâm đến vết thương kia.

- Lam Kha, đừng cố chấp nữa. Ta hứa, sau khi em lấy lại được hình hài con người, ta sẽ lập tức đưa em về Sakya.

Ngước nhìn gương mặt đôn hậu, hiền từ, tràn ngập tình yêu thương của Bát Tư Ba dưới ánh trăng, nước mắt tôi lã chã rơi, tôi đã gật đầu. Tôi ngoảnh lại nhìn con thêm một lát, thầm an ủi: "Dharma, nhất định con sẽ bình an, nhất định con sẽ trưởng thành khỏe mạnh. Hãy chờ ngày mẹ con ta đoàn tụ!"

Tháng 9 năm 1267, sau khi lo liệu chu tất hậu sự của em trai Kháp Na Đa Cát, Bát Tư Ba lên đường trở lại Trung Đô. Trước ngày khởi hành, Bát Tư Ba phát thông báo mời các cao tăng đại đức của tất cả các giáo phái lớn tập trung tại Damxung, phía Bắc đất Tạng, để tiễn chàng lên đường.

- Em biết vì sao ta làm vậy không? – Khi chúng tôi yên vị trên xe ngựa, chàng hỏi tôi. – Chắc em biết, ta vốn không thích phô trương thanh thế.

Càng ngày Bát Tư Ba càng thích trò chuyện với tôi, chàng kể cho tôi nghe mọi chuyện, từ những việc vụn vặt thường ngày đến những việc chính sự khiến chàng bận lòng, dù chàng biết rằng tôi không thể trả lời. Người ngoài nhìn vào, sẽ thấy hành động của chàng thật kỳ quặc, vì chàng quá mức cưng nựng, yêu chiều một tiểu hồ ly lông lá xơ xác, đi đến đâu cũng ôm nó trên tay, ngay cả lúc ngủ, cũng không rời, còn thường lẩm nhẩm trò chuyện với tiểu hồ ly nữa. Điệu bộ ấy khiến người ta cảm thấy lạ lùng và nực cười. Nhưng Bát Tư Ba hoàn toàn không để tâm đến ánh mắt của người đời.

- Ta làm vậy là vì Dharma. – Chàng cúi xuống, dịu dàng vuốt ve sống lưng tôi. - Lần này về Trung Nguyên, không rõ khi nào mới có thể trở lại Sakya. Ta buộc phải cảnh cáo tất cả các giáo phái, để họ biết rằng ta và phái Sakya là thủ lĩnh của đất Tạng. Thanh thế của phái Sakya càng lớn, Dharma càng được an toàn, yên ổn.

Tôi nằm yên lặng trên đùi chàng. Dharma thật may mắn, vừa chào đời đã được cha chú mở sẵn một khoảng trời rộng mở, hoạch định sẵn một tương lai tươi sáng. Nhưng nếu được chọn lựa, tôi tin rằng, Kháp Na sẽ mong con trai mình được sống bình yên, vui vẻ, hơn là cuộc sống giàu sang, quyền quý mà bao người mơ ước này.

Giữa tháng Mười một năm đó, dẫy núi tuyết trùng điệp, sừng sững xuất hiện trước mắt chúng tôi. Tám tòa tháp (bát tháp) của miền Bắc nổi bật trên hồ nước xanh như ngọc khiến lòng người chợt dấy lên cảm xúc kính ngưỡng vô hạn. Tám tòa tháp này được xây dựng để tưởng niệm viên đại tướng Shagkha, bề tôi trung thành của Đức vua Gelsall vĩ đại. Nơi đây chính là cửa ngõ đầu tiên của đất Tạng – Damxung.

Damxung nằm dưới chân ngọn núi chính thuộc dãy Nyainqentanglha, độ cao tương đương vùng Sakya. Theo kế hoạch trước đó, Bát Tư Ba đã cho lập một trạm nghỉ tại đây. Hồ nước thiêng lớn nhất Tây Tạng – Namtso – nằm dưới chân ngọn núi tuyết vĩnh cửu Nyainqentanglha này. Đang là tháng mùa đông rét đậm, tuyết lớn ào ạt trút xuống, băng tuyết phủ trắng phân nửa diện tích hồ thiêng Namtso. Tất cả các pháp vương (kể cả pháp vương Chung Dorje của phái Drikung) và cao tăng đại đức của các giáo phái đều đã có mặt tại Damxung từ rất sớm, trừ pháp vương Chongni của phái Phaktru, hiện đang ở Trung Đô.

Bát Tư Ba dừng chân tại trạm nghỉ Damxung hơn mười ngày. Trong suốt thời gian này, chàng đã tận dụng cơ hội để giao lưu, đàm đạo với các giáo phái. Hơn hai năm sau khi trở về đất Tạng, sau bao vất vả, cực nhọc, thành tựu mà Bát Tư Ba gặt hái được là phần lớn các giáo phái và quan lại địa phương đã chịu thần phục phái Sakya, tôn Bát Tư Ba làm thủ lĩnh đất Tạng. Ngay cả pháp vương Chung Dorje của phái Drikung cũng phải tỏ ra rất mực cung kính, ứng xử nhã nhặn với Bát Tư Ba. Đáp lại, Bát Tư Ba cũng rất mực ôn tồn, lịch duyệt, người khác chẳng thể nhận ra, giữa Drikung và Sakya từ lâu đã tồn tại một mối hận thù sâu sắc, không thể hóa giải.

Nhưng tôi không thể kìm lòng, chỉ muốn xé xác tên Chung Dorje đó ra thành trăm nghìn mảnh. Một ngày nọ, trong buổi gặp mặt riêng giữa Bát Tư Ba và Chung Dorje, tôi đã xông ra, ngoạm vào đùi hắn.

Chung Dorje kêu lên đau điếng, cúi xuống, túm lấy đuôi tôi, giật mạnh ra khỏi người hắn. Tôi đau đớn kêu gào nhưng kiên quyết không chịu nhả hắn ra. Hắn tức tối kẹp chặt cổ tôi. Bát Tư Ba vội vàng lao đến, vừa ra sức đẩy tay hắn vừa nạt nộ tôi:

- Lam Kha, buông ra!

Tôi đã ngoạm được một miếng thịt trên đùi hắn! Tôi quắc mắt nhìn, nhai rau ráu miếng thịt đẫm máu, nuốt ừng ực. Chung Dorje ôm vết thương nhầy nhụa máu, rên la thảm thiết:

- Đồ súc sinh đáng chết! Để rồi xem, tao sẽ phanh thây mày!

Bát Tư Ba ôm tôi vào lòng, ném ánh mắt hình mũi tên về phía hắn:

- Pháp vương Chung Dorje, đây là hồ ly của ta. Ta không cho phép bất cứ kẻ nào đụng vào nó!

Người hầu của Chung Dorje vội vàng kéo đến, bọn chúng tròn xoe mắt và hoảng hốt khi thấy hắn quỳ dưới nền tuyết, máu tươi trào ra, ướt đẫm một bên đùi. Bát Tư Ba cúi xuống ngó Chung Dorje, khóe môi treo một nụ cười lạnh lùng, giọng nói như băng giá:

- Đây mới chỉ là sự cảnh cáo. Rồi sẽ có một ngày, cái ác phải đền tội!

Dứt lời, Bát Tư Ba phất tay áo, ôm tôi bỏ đi. Tôi ngoảnh lại nhìn, thấy hắn ngồi phịch trên đất, vẻ mặt bàng hoàng, khiếp sợ.

Khi chúng tôi về phòng, Bát Tư Ba đặt tôi lên giường, nhìn tôi nghiêm nghị:

- Lam Kha, bây giờ em đã không còn linh khí, ta không cho phép em mạo hiểm như vậy nữa đâu!

Tôi xấu hổ quay mặt đi, nhưng chàng kiên quyết xoay tôi lại, đối diện với chàng, tôi đọc thấy trong giọng nói của chàng vẻ bực bội:

- Em cho rằng ta không muốn trả thù cho Kháp Na ư? Ta muốn lắm chứ, nhưng bây giờ chưa phải lúc. Hôm đó, ta không tận mắt chứng kiến bọn chúng phục kích ta trên núi Kiewu, tất cả dấu vết đều đã được xóa sạch, chỉ có duy nhất một người làm chứng là dì năm, nhưng bà ta đã chết. Tuy ta đã ra sức kìm hãm nhưng phái Drikung vẫn rất mạnh. Ta không thể nôn nóng, cần phải kiên nhẫn thu thập mọi bằng chứng.

Tôi lặng lẽ cúi đầu. Chàng thở dài, ôm tôi vào lòng, dùng khăn tay lau vết máu vương bên mép tôi, dịu dàng nói:

- Trước kia em đã bảo vệ ta và Kháp Na, bây giờ, hãy để ta bảo vệ em.

Cuối tháng Mười một, sau hơn mười ngày dừng chân tại Damxung, Bát Tư Ba tiếp tục lên đường. Hôm đó, tất cả pháp vương và cao tăng đại đức của các giáo phái đều tập trung hai bên đường để đưa tiễn Bát Tư Ba. Màu áo tăng ni đỏ sẫm của hàng vạn nhà sư nổi bật trên nền núi tuyết trắng xóa và hồ thiêng xanh như ngọc. Đó là cảnh tượng trang nghiêm, long trọng chưa từng có.

Xe ngựa lộc cộc lăn bánh, Bát Tư Ba vén rèm cửa, ngoảnh lại nhìn. Ngọn núi cao nhất trên dãy Nyainqentanglha khuất dần, đất Tạng ngày một cách xa chúng tôi. Trên bàn tay đang bóp chặt thành cửa xe của chàng nổi lên những đường gân xanh.

- Lam Kha, nhất định sẽ có ngày ta trả thù cho Kháp Na. Ta sẽ tìm ra từng kẻ một và bắt chúng phải đền tội.

Chàng trai trẻ đổi tư thế, chọn cho mình kiểu ngồi dễ chịu nhất trên thảm trải.

- Chừng ấy giáo phái đến đưa tiễn Bát Tư Ba, nhưng có lẽ là không phải ai trong số họ cũng có thiện chí, đúng không? Nhất là phái Phaktru và phái Drikung.

- Điều đó cũng dễ hiểu thôi. Nhưng ngoài mặt thì họ vẫn phải tỏ ra tuân lệnh pháp vương.

Tôi cời than hồng để ngọn lửa bập bùng cháy sáng.

- Lãnh tụ tôn giáo lên đường đến triều đình nhà Nguyên ở Trung Nguyên, các giáo phái khác tập trung tại một nơi để đưa tiễn lãnh tụ của mình. Có thể nói, đây là lần đầu tiên trong chuỗi lịch sử cát cứ, phân lập của Tây Tạng diễn ra một sự kiện trọng đại như vậy.

Chàng trai trẻ mỉm cười:

- Chắc chắn đó là ngày lễ vô cùng long trọng.

- Đúng vậy. Thủ lĩnh của tất cả các giáo phái đều phải cúi đầu trước Bát Tư Ba. Cậu biết không, các giáo phái Phật giáo Tây Tạng rất coi trọng vai vế, thân phận nên nghi thức chào hỏi của họ cũng đặc biệt phức tạp và nghiêm khắc, thậm chí, ngay cả việc ngồi khoanh tròn trên đệm trải cũng phải phân biệt lớn bé, cao thấp rõ ràng, nếu không sẽ xảy ra tranh cãi kịch liệt.

- Vậy mà thủ lĩnh của các giáo phái đều phải răm rắp nghe theo hiệu lệnh của Bát Tư Ba, lập tức đến Damxung tập trung. – Chàng trai trẻ tỏ ra rất mực già dặn khi kết luận. – Điều này đủ để minh chứng cho vị thế và uy thế vô cùng to lớn và quan trọng của Bát Tư Ba ở Tây Tạng khi đó.

Tôi cười:

- Vào đời nhà Thanh, phái Gelug nắm quyền cai trị Tây Tạng, cũng đã học theo Bát Tư Ba. Vị Đạt La Lạt Ma đời thứ năm của giáo phái này, trước khi lên đường đến Bắc Kinh yết kiến Thuận Trị, cũng lệnh cho thủ lĩnh của tất cả các giáo phái tập trung ở Damxung để đưa tiễn. Hơn một trăm năm sau, Ban Thiền đời thứ sáu đi Bắc Kinh yến kiến Càn Long, cũng yêu cầu các thủ lĩnh tập trung ở Damxung.

Chàng trai trẻ bật cười:

- Tức là nghi thức này đã trở thành thông lệ!

Phần 4

TRỞ LẠI TRUNG NGUYÊN

Chương 52

Trở lại Trung Đô


" Dù khó khăn nhường nào,

Người cao thượng cũng không chấp nhận của cải phi nghĩa;

Dù đói khát đến đâu,

Vua sư tử cũng không thèm ăn miếng mồi ôi thiu."

(Cách ngôn Sakya)

Năm 1269, tức năm Kỷ Tỵ m Thổ theo lịch Tạng, tức niên hiệu Hàm Thuần thứ năm, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ sáu, Mông Cổ.

Bát Tư Ba ba mươi lăm tuổi, Chân Kim hai mươi sáu tuổi.

Xuân qua thu tới, thời gian chảy trôi như dòng nước. Từ Sakya đến Đại Đô, chúng tôi đã đi suốt một năm, bốn tháng, đủ thấy mức độ gian khổ của hành trình này. Tháng 1 năm 1269, Bát Tư Ba trở lại Trung Đô. Có điều, lần này, bên cạnh chàng không còn bóng dáng cao gầy thân thuộc với nụ cười tươi tắn, rạng rỡ luôn thường trực trên môi ấy nữa. Khi ra đi, Bát Tư Ba vừa tròn ba mươi tuổi, ấp ủ biết bao hoài bão. Ngày trở lại, chàng đã ba mươi lăm tuổi, nếm trải cay đắng, khổ nạn của cuộc đời.

Buỗi lễ nghênh đón Bát Tư Ba được tổ chức trọng thể đến mức ai nấy đều trầm trồ, xuýt xoa. Hốt Tất Liệt cho lập một đàn hương rất lớn ở nơi cách kinh thành một dặm để đón Bát Tư Ba. Trên đàn hương bày một bàn thờ rất rộng, hàng trăm vương công quý tộc và quan lại triều đình xếp thành hai hàng ở hai bên, đội nghi thức trang nghiêm, tề chỉnh, kéo dài từ hương đàn đến tận cửa hoàng cung. Vì là Đại hãn nên Hốt Tất Liệt không đích thân ra đón, nhưng ngài đã cử Hoàng tử Chân Kim cùng Hoàng hậu, phi tần và các đại thần trong triều đi nghênh đón quốc sư. Vinh dự lớn lao này, Hốt Tất Liệt chỉ dành cho Bát Tư Ba.

Khi đoàn chúng tôi vừa đến đàn hương, Chân Kim đã đích thân tới trước xe ngựa của Bát Tư Ba, đỡ quốc sư xuống xe. Nhiều năm không gặp, Chân Kim đã trưởng thành lên rất nhiều, cậu ta để râu, thân hình cao lớn, vạm vỡ, phong thái đường hoàng, bệ vệ. Cậu ấy ứng xử nho nhã, lịch duyệt, chứ không giống đám quý tộc Mông Cổ cục mịch, thô lỗ, chỉ biết bắn cung, cưỡi ngựa kia. Tôi thầm khen, quả là một đấng anh tài, hào kiệt, chả trách Khabi lại tự hào về cậu ta đến vậy.

Thị vệ dắt đến một con voi Thiên Trúc khổng lồ, trên lưng buộc một bảo tọa[1] được trang trí bằng các hàng châu ngọc đan chéo nhau. Sau khi Bát Tư Ba ngự trên bảo tọa, tiếng trống, tiếng nhạc rầm rộ vang lên. Đội nghi thức với cột khắc kinh văn, cờ hoa, ô lọng rợp trời, những dòng cờ phướn tung bay dưới bầu trời xanh. Trên tất cả các con phố, người ta cắm cờ ngũ sắc rực rỡ, dân chúng đứng chen chân hai bên đường, xúc động chiêm bái. Cảnh tượng trang nghiêm, long trọng như thể ngày Phật Đản.

Lúc này Hốt Tất Liệt đang ngóng chờ trên đại điện. Vừa thấy Bát Tư Ba xuất hiện, ngài đã vội vã bước tới nghênh đón.

- Cuối cùng cũng về tới nơi! Năm năm trời, trẫm ngày đêm thương nhớ quốc sư!

Năm đó, Hốt Tất Liệt đã năm mươi tư tuổi nhưng vẫn tráng kiện như ngày nào, gương mặt hồng hào, rạng rỡ. Trong khi, Bát Tư Ba tiều tụy, ốm yếu hơn trước. Bát Tư Ba quỳ xuống vái lạy, nghẹn ngào:

- Đại hãn...

Hốt Tất Liệt vội đỡ Bát Tư Ba đứng lên, khẽ vỗ vào vai chàng, động viên:

- Tay Chongni của phái Phaktru ấy chỉ giỏi mồm mép, trẫm đã đuổi hắn về rồi. Trẫm vẫn tu tập theo pháp môn của phái Sakya. Quốc sư hãy nghỉ ngơi một thời gian, sau đó mời pháp sư làm lễ quán đỉnh cho trẫm.

- Thưa Đại hãn, bần tăng trở về Trung Đô lần này không phải để tranh giành sự sủng ái của Đại hãn, mà có việc đáng vui mừng muốn bẩm báo với người.

Bát Tư Ba rút trong tay áo ra một bản tấu chương, trịnh trọng dâng lên:

- Thưa Đại hãn, sau tám năm nghiên cứu, Bát Tư Ba đã hoàn tất trọng trách sáng tạo ra loại chữ Mông Cổ mới, xin dâng lên Đại hãn. Đây là bản "Ưu lễ tăng nhân chiếu thư"[2] do Đại hãn soạn thảo, đã được chép lại bằng loại chữ Mông Cổ mới.

Hốt Tất Liệt mừng vui khôn xiết, đón lấy bản tấu chương, càng đọc càng hài lòng, phấn khởi:

- Tốt lắm, hay lắm! Loại chữ viết mới này sẽ bù đắp thiếu sót của triều đại chúng ta, giúp chấn hưng nước nhà! Trẫm sẽ lập tức ban chiếu thư, ra lệnh phổ biến loại chữ này trên toàn quốc!

Tháng Hai năm đó, Hốt Tất Liệt ban lệnh phổ cập chữ viết mới. Kể từ ngày chiếu thư được ban bố, toàn bộ công văn, giấy tờ trao đổi qua lại đều phải được viết bằng loại chữ mới. Sở dĩ "mới" là để phân biệt với chữ Mông Cổ kiểu Uyghur trước đây. Không lâu sau, loại chữ này được đổi tên thành "chữ Mông Cổ" hoặc "quốc thư Mông Cổ". Khi loại văn tự này suy vong, người đời sau gọi nó là chữ Bát Tư Ba để kỷ niệm người đã sáng tạo ra nó.

Cậu hai Rinchen và đại đệ tử Drakpa Odzer đã dọn dẹp, bài trí xong xuôi phủ Quốc sư để nghênh đón Bát Tư Ba. Tối hôm đó, Bát Tư Ba thay bộ áo cà sa mới, nói với tôi:

- Lam Kha, tối nay Đại hãn thiết tiệc tẩy trần cho ta, em cứ ở lại phủ Quốc sư nghỉ ngơi, chờ ta về.

Rồi chàng ngừng lại một lát, ánh mắt thoáng chút do dự:

- Tối nay Hoàng hậu cũng đến dự tiệc, không có thời gian để gặp em đâu. Ngày mai ta sẽ đưa em đến tìm cô ấy.

Tôi cuộn tròn trên giường, gật đầu.

Sáng sớm hôm sau, Bát Tư Ba giữ đúng lời hẹn, đưa tôi vào cung gặp Khabi. Hậu cung của Hốt Tất Liệt vẫn giữ nếp sống của người Mông Cổ, không thiết lập chế độ ra vào cung quá nghiêm khắc như sau này. Vả lại, Bát Tư Ba là thượng sư của rất nhiều hậu phi, hoàng tử, công chúa triều Nguyên nên chàng được tự do ra vào hoàng cung.

Mái tóc Khabi đã điểm nhiều sợi bạc nhưng gương mặt vẫn ngời ngời vẻ trang trọng, đài các, mọi cử chỉ, hành động đều toát lên phong thái của bậc mẫu nghi thiên hạ. Cô ấy lệnh cho đám người hầu lui ra ngoài rồi cúi xuống nhìn tôi, lắc đầu, thở dài:

- Trời đất ơi, sao lại ra nông nỗi này? Ba trăm năm tu luyện đã thành công cốc! Trong tộc hồ ly màu lam chúng ta, làm gì có ai bi đát như cô chứ!

Tôi ngoảnh mặt đi, không thèm để ý đến cô ấy. Tôi đã tàn tạ, thê thảm thế này rồi mà cô ấy vẫn không quên chọc tức tôi.

- Thưa Hoàng hậu, Lam Kha đã trải qua rất nhiều cay đắng, đã nếm đủ những đau đớn, khổ sở mà người thường khó lòng chịu đựng nổi. Cô ấy rơi vào tình cảnh thảm thương thế này, tất cả đều vì bần tăng.

Bát Tư Ba nhẹ nhàng vuốt ve tôi rồi chắp tay, trịnh trọng vái Khabi một vái:

- Bần tăng đưa cô ấy đến gặp người là muốn hỏi, liệu cô ấy có thể khôi phục được linh khí không?

Khabi túm cổ tôi, nhấc lên. Tôi giẫy đạp, vùng vẫy nhưng không ăn thua. Cô ấy quan sát tôi thật kĩ rồi hỡ hững đáp:

- Nói là khó thì cũng chẳng khó, chỉ cần chăm chỉ tu luyện, từ từ sẽ khôi phục được thôi.

Tôi quên là cổ mình đang bị thít chặt đến nghẹt thở, tròn xoe mắt nhìn cô ấy. Bát Tư Ba lo lắng hỏi:

- Phải mất bao lâu?

Cô ấy phì cười, đặt tôi vào lòng Bát Tư Ba, liếc xéo tôi một cái:

- Thành quả tu luyện suốt ba trăm năm, làm gì có chuyện muốn khôi phục là khôi phục ngay được! Còn phải xem vận số của từng người ra sao. Người thông minh, tài trí thì chỉ cần ba, bốn năm là đủ, kẻ đần độn, ngu si, có thể phải tu lại ba trăm năm cũng nên.

Tôi trừng mắt lườm cô ấy, nói thế chẳng bằng không nói.

Cô ấy ngẫm ngợi một lát rồi gật đầu với tôi:

- Thế này đi, nể tình chúng ta là đồng loại, từ lâu lại có quan hệ thân thiết, ta sẽ truyền linh khí cho cô. Tuy không thể giúp cô lập tức phục hồi nhưng chí ít cô có thể trò chuyện như xưa.

Tôi giật mình ngẩng lên, không tin nổi vào tai mình. Cô ấy trở nên tốt bụng từ khi nào vậy? Truyền linh khí cho người khác sẽ hao tổn rất nhiều năng lượng của bản thân, nếu không phải là người thân thiết nhất của mình, trên đời này, làm gì có kẻ nào bằng lòng làm việc đó?

Cô ấy chẳng buồn đếm xỉa đến ánh mắt băn khoăn của tôi, đặt ngón tay lên vết sẹo hình hoa sen trên trán tôi và niệm chú. Một luồng khí nóng truyền từ ngón tay cô ấy vào ấn đường của tôi, chỉ trong chốc lát đã lan khắp cơ thể, cho tôi cảm giác vô cùng thư thái, dễ chịu. Một lát sau, cô ấy ngừng lại, lấy hơi, nhìn tôi. Tôi thử cất tiếng gọi:

- Lâu Cát...

Tuy giọng nói vẫn còn khàn đặc nhưng rõ ràng tôi đã có thể trò chuyện. Bát Tư Ba vui mừng khôn xiết:

- Lam Kha, hay quá! Em lại có thể trò chuyện được rồi!

Tôi sung sướng, vùi đầu vào lòng chàng, gọi đi gọi lại tên chàng. Khabi tủm tỉm:

- Thôi thôi, đừng tình tứ trước mặt ta nữa. Tìm nơi vắng vẻ mà tâm tình, thủ thỉ.

Gương mặt Bát Tư Ba đỏ như gấc chín, tôi xấu hổ quay mặt đi. Khabi lấy lại dáng vẻ đoan trang, thục hiền của một hoàng hậu, dặn dò tôi:

- Cô vẫn còn nhớ các pháp môn đó chứ? Hãy chăm chỉ tu tập và đừng quên điều này, càng tu luyện hiệu quả cô càng có cảm giác buồn ngủ. Điều này hết sức bình thường, không nên lo lắng.

Tôi và Bát Tư Ba đưa mắt nhìn nhau, ánh mắt chàng ngập tràn niềm vui. Kể từ khi Kháp Na qua đời, tôi chưa bao giờ thấy chàng cười. Nhưng hôm nay đã khác, nụ cười rạng rỡ, mãn nguyện của chàng khiến tim tôi loạn nhịp. Tôi vội vã quay mặt đi để che giấu cảm xúc đó.

Suốt khoảng thời gian sống trong phủ Quốc sư, Bát Tư Ba không lúc nào nguôi ngoai mỗi khi nhìn sang phủ Bạch Lan Vương phía đối diện. Vì thế, Hốt Tất Liệt đã đề nghị chàng dọn vào ở trong ngôi chùa Đại Hộ Quốc Nhân Vương vừa khánh thành, nằm bên sông Cao Lương. Ngôi chùa này do Hoàng hậu Khabi công đức tiền của để xây dựng, người ta trồng hàng nghìn cây mẫu đơn trong chùa. Hoa mẫu đơn, tiếng Tạng là "mai đóa nhiệt oa", nghĩa là: vườn hoa. Mùa xuân về, hoa mẫu đơn đua nhau rở rộ, rực rỡ chẳng khác nào vườn Thượng Uyển trên Thiên cung.

Từ ngày trở về Trung Đô, Bát Tư Ba lại đầu tắt mặt tối. Bát Tư Ba là người đứng đầu Tổng chế viện mà Hốt Tất Liệt lập ra để cai quản nền Phật giáo của đất nước và các công việc chính sự liên quan đến vùng Tufan. Thêm vào đó, chữ Mông Cổ vừa được phổ cập, Bát Tư Ba phải đích thân truyền dạy mọi người cách sử dụng vì chàng là người sáng tạo ra hệ thống chữ viết mới mẻ này. Vì thế, ngày nào chàng cũng đi sớm về muộn, bận bịu thâu đêm suốt sáng, tôi chỉ được gặp chàng chốc lát vào buổi tối.

Còn tôi, tôi có việc quan trọng phải làm. Hằng ngày, ngoài lúc ăn uống và ngủ nghỉ, tôi dành trọn thời gian và tâm sức cho việc tu luyện. Giờ đây, tôi đã thoát khỏi nỗi tuyệt vọng và đang nỗ lực không ngừng nghỉ vì mục tiêu: lấy lại hình hài con người! Lần đầu tiên trong đời, khát khao cháy bỏng ấy đến với tôi khi trái tim tôi rung động trước vị quốc sư tuổi trẻ tài cao, được mọi người sùng bái ấy. Còn bây giờ, khi đã nếm trải đủ những cay đắng, khốn cùng của cuộc đời, đã biết thế nào là tình yêu đích thực, trái tim tôi chẳng thể rung động được nữa. Trong lòng tôi lúc này, Dharma xếp vị trí số một. Tôi muốn có được hình hài con người để được ôm con trai tôi vào lòng.,

Đúng như Khabi dự đoán, sau mỗi ngày khổ luyện, tôi lập tức chìm vào giấc ngủ say. Thường thì, khi Bát Tư Ba về phòng, đã thấy tôi thiếp đi mê mệt. Hôm sau, khi tôi thức giấc thì chàng đã rời khỏi phòng ngủ từ lâu, chỉ còn chút hơi ấm vương lại trên gối và cốc sữa bò bốc hơi nơi đầu giường nhắc nhở tôi rằng, hôm nay, chàng lại tiếp tục vòng quay của chuỗi ngày đi sớm về muộn.

Nhưng trong những lần gặp hiếm hoi, tôi hết sức thảng thốt vì hình như Bát Tư Ba đã già đi vài phần so với lần gặp trước. Năm nay chàng mới ba mươi lăm tuổi, vậy mà những nếp nhăn nơi đuôi mắt và trên trán cứ ngày một đậm hơn, sâu hơn. Tuy những nếp nhăn khiến chàng trở nên từng trải hơn, vững chãi, trang nghiêm hơn, nhưng thực sự nó không hợp với tuổi tác của chàng. Tôi biết những năm qua chàng đã quá lao tâm khổ tứ vì việc chung, lại phải chứng kiến người thân của mình qua đời, nhưng dù vậy, khoảng thời gian ở Sakya, chàng không già nua nhanh chóng như trong vòng một năm trở lại đây.

Tôi đã khuyên can và nài nỉ chàng đừng quá lao lực nhưng chàng chỉ mỉm cười đáp lại, tiếp tục thức khuya dậy sớm, tiếp tục già nua đi như thế.

Ngày tháng đưa thoi, chớp mắt đã hết một năm. Năm 1270, thể theo nguyện vọng của Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba tổ chức lễ truyền pháp quán đỉnh Mật Tông[3] cho Nhà vua. Hốt Tất Liệt ban tặng cho Bát Tư Ba ngọc ấn của vua Tây Hạ mà năm xưa Thành Cát Tư Hãn đã đoạt được khi công phá Tây Hạ. Ngọc ấn này đã được gia công thành ngọc ấn lục giác khi ban tặng cho Bát Tư Ba. Đồng thời, Hốt Tất Liệt sắc phong Bát Tư Ba làm đế sư với lời ca ngợi: "Ngài là bậc trên thông thiên văn dưới tường địa lý, đệ tử của đấng Phạm Thiên, hóa thân của Phật Đà, người đã sáng tạo ra chữ viết mới, gánh vác việc triều chính." Bên cạnh việc ban ngọc ấn và sắc phong làm đế sư, Hốt Tất Liệt còn ban thưởng cho Bát Tư Ba rất nhiều vàng bạc, châu báu, lụa là, gấm vóc. Tất nhiên, toàn bộ số của cải này đã được Bát Tư Ba chuyển về Sakya làm kinh phí xây dựng đền Nam Sakya.

Mùa hè năm đó, Sakya báo tin: bản khâm Shakya Zangpo viên tịch!

Đại sư Shakya Zangpo đã ngoài sáu mươi, khi chúng tôi rời Sakya, sức khỏe của đại sư đã yếu đi rất nhiều. Mất mát này khiến Bát Tư Ba đau buồn một thời gian dài. Sau khi xét suy mọi bề, Bát Tư Ba gửi thư về Sakya, lệnh cho Kunga Zangpo kế nhiệm chức vị bản khâm đời thứ hai.

Tôi vô cùng kinh ngạc:

- Chàng giao cho một người thân phận thấp kém như Kunga Zangpo chức vị lớn lao ấy, chàng không sợ mọi người sẽ phản đối sao?

- Kunga Zangpo đi theo ta và Kháp Na từ nhỏ, năng lực của cậu ta, ai nấy đều thấy rõ. Cậu ta là người già dặn, chín chắn, suy nghĩ thấu đáo, thận trọng. Công trình đền Nam Sakya là một công trình vĩ đại, xét thấy cả phái Sakya chỉ có mình Kunga Zangpo có thể đảm nhiệm được trọng trách này.

Chàng đặt bút xuống, thổi cho khô các nét mực rồi quay sang nói với tôi:

- Còn về chuyện xuất thân, hiện cậu ấy đã là con rể của phái Sakya, thế là đủ.

- Người xưa nói không sai: "Yêu ai yêu cả đường đi." – Tôi thở dài, trong lòng cứ phấp phỏng lo âu. – Bởi vì cậu ta là người mà Kháp Na tin tưởng nhất nên chàng cũng tin tưởng cậu ta tuyệt đối.

Chàng trầm ngâm không nói, ngước nhìn màn đêm buông xuống ngoài cửa sổ. Gió đêm mang theo hơi nóng của ngày đầu hạ ùa vào phòng, thổi bay cánh màn. Chàng đột nhiên thẫn thờ, buột miệng:

- Sắp ba năm rồi!

Tôi ngỡ ngàng, lập tức hiểu ra điều chàng muốn nói. Tôi cúi đầu, nước mắt lã chã, lòng quặn đau. Kháp Na đã rời xa chúng tôi gần ba năm rồi...

Ngày đêm với tôi không còn ý nghĩa nữa, ngoài những lúc miệt mài khổ luyện, tôi dành trọn thời gian để nghĩ về con trai. Không biết thằng bé đã lớn thêm được chút nào chưa? Không biết đã bi bô tập nói chưa? Chắc là con tinh nghịch, đáng yêu lắm. Chắc là con càng ngày càng giống cha. Mong là lúc mẹ lấy lại được hình hài con người, mẹ vẫn có thể ôm con trong tay.

Bát Tư Ba ngày một già nua. Cứ cách một thời gian ngắm nhìn chàng, tôi lại thấy chàng già đi rất nhanh. Chàng mới ba mươi sáu tuổi nhưng hai năm trở lại đây, chàng dường như đã già đi hơn mười tuổi. Những đường nét thanh tân trên gương mặt chàng đã hoàn toàn biến mất. Vóc dáng gầy gò càng thêm tiều tụy, lưng chàng còng xuống, chiều cao giảm hẳn, nếp nhăn trên trán ngày càng vằn vện, quá nửa chân tóc là màu trắng. Chàng rất chăm chỉ cạo đầu, hễ thấy chân tóc trắng là lập tức cạo sạch. Trước đây, mỗi lần chàng ra ngoài là đám đông các thiếu nữ lập tức xúm lại, chiêm ngưỡng, trầm trồ, nhưng giờ đây, cảnh tượng đẹp đẽ đó không còn tái diễn nữa.

Một ngày nọ, tôi gắng gượng chống lại cơn buồn ngủ để chờ chàng về. Tôi đã cấu vào chân mình để giữ cho đôi mắt không khép lại. Sau giờ Hợi, khi bàn chân tôi đã sưng đỏ, tôi mới thấy chàng bước vào phòng. Tôi nhảy lên lòng chàng khiến chàng giật mình:

- Lam Kha, sao giờ này còn chưa đi ngủ? Em phải chịu khó ngủ thật nhiều mới nhanh phục hồi linh khí được chứ!

Tôi trách móc:

- Ngày nào chàng cũng chỉ ngủ có ba canh giờ, sau đó rời khỏi phòng, giải quyết cả núi việc. Nếu em không nhẫn nại chờ đợi, chắc chẳng khi nào gặp được chàng.

Chàng vuốt ve cái đầu nhỏ của tôi, vẻ mặt chẳng có gì là hối lỗi:

- Chữ Mông Cổ vừa được ban hành, ta phải hướng dẫn quan lại trong triều cách dùng, còn phải soạn bài giảng nữa. Ta cũng muốn đưa em đi cùng, nhưng chắc chắn những công việc này sẽ khiến em cảm thấy buồn chán, nên em hãy chăm chỉ ở lại đây tu luyện thì hơn.

- Em chờ chàng về không phải vì em cảm thấy buồn chán! – Tôi hơi bực, thúc cái mũi nhọn vào cánh tay chàng. – Chàng còn nhớ những lời dặn dò của Kháp Na không? Kháp Na không muốn chàng quá lao lực vì giáo phái hay vì trọng trách thống nhất đất Tạng, Kháp Na muốn chàng sống cho bản thân mình.

Nghe nhắc đến Kháp Na, chàng chỉ biết im lặng. Tôi thở dài:

- Lâu Cát, cho dù chàng không bận tâm đến sức khỏe của bản thân, không màng đến việc dung mạo của mình ngày một già nua thì chàng cũng phải nghĩ đến Dharma chứ? Nếu chàng qua đời, Dharma sẽ ra sao? Một đứa trẻ như nó làm sao gánh vác nổi trọng trách của giáo phái?

Chàng khép hờ đôi mắt, hàng mi rung động, nụ cười gượng gạo:

- Đừng lo, Đại hãn ban cho ta rất nhiều loại thuốc bổ quý hiếm. Ngày nào Dampa cũng sắc cho ta uống. Ta hứa với em, sau khi kết thúc chuỗi ngày bận rộn này, ta nhất định sẽ nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng một thời gian và dành nhiều thời gian cho em hơn.

Tôi muốn nói thêm nhưng không biết phải nói sao. Chàng lúc nào cũng vậy, chẳng bao giờ để ý đến sức khỏe của mình. Suốt cuộc đời, chàng chưa bao giờ sống cho riêng mình.

Chàng vỗ nhẹ vào lưng tôi, dỗ dành:

- Em mau ngủ đi, ta xem qua một lượt các công văn của Tổng chế viện gửi đến rồi sẽ đi nghỉ ngay.

Cơn buồn ngủ lập tức ập đến, trước lúc thiếp đi, hình như tôi có cảm giác bị nhấc bổng lên và đưa đi đâu đó, có tiếng bước chân quen thuộc. Sau đó, tôi không còn biết trời đất gì nữa.

Tết năm 1271, Hốt Tất Liệt dẫn theo Khabi và Chân Kim đến chùa Đại Hộ Quốc Nhân Vương lễ Phật, cầu phúc. Chân Kim đã lén đến gặp tôi. Cậu ta mang tôi món gà rán của quán Đức Thắng mà tôi thích nhất. Tôi thốt lên kinh ngạc rồi nhào đến ngấu nghiến, cắn xé món thịt thơm ngậy. Bạn bè chơi với nhau từ bé có khác, hiểu rõ tôi thích gì nhất. Lần nào đến chùa, Chân Kim cũng là người giúp tôi cải thiện bữa ăn.

- Tiểu Lam, lẽ ra em phải là một hồ ly già cả rồi mới phải chứ! Vì sao ta không thấy em già đi chút nào? Bộ lông của em vẫn bóng mượt như thế, đôi mắt vẫn xanh lam, đáng yêu như thế.

Chân Kim vừa nhìn tôi thả sức thưởng thức món ngon vừa bật cười khúc khích, thò tay đùa giỡn với chiếc cằm của tôi.

Tôi khinh khỉnh nhìn cậu ta. Nếu thấy tôi lúc vừa trở về Trung Đô, chắc chắn cậu ta sẽ không nhận xét như vậy. Lúc ấy, đôi mắt của tôi tái dại, lông lá xác xơ, tơi tả. Mất hai năm trời khổ luyện, tôi mới lấy lại được dáng vẻ như bây giờ. Những ngày qua, tôi đã cảm nhận một cách rõ rệt, linh khí trong cơ thể đang ngày càng nhiều lên. Khứu giác, vị giác, thính giác và thị giác của tôi đều đã phục hồi. Tôi thử biến phép thì phần lớn đều thành công. Có lẽ chẳng bao lâu nữa tôi sẽ lấy lại được hình dáng con người!

Chân Kim đột nhiên buông một câu hỏi lạnh lùng:

- Không biết ở trên trời cô ấy có được bình an không?

Cậu ta cúi đầu, thở dài, hàng lông mày dày, rậm xô lại, chừng như đang có rất nhiều tâm sự.

- Năm năm qua ta chưa lần nào gặp lại cô ấy.

Tôi sững sờ, cậu ta đang nói về tôi sao? Chuyện đã xảy ra lâu lắm rồi, Khoát Khoát Chân đã sinh cho cậu ta đứa con trai thứ ba – Thiết Mộc Nhĩ, vậy mà cậu ta vẫn tưởng nhớ cuộc gặp gỡ tình cờ vào ngày lễ Sitatapatra đó ư? Tôi khẽ lắc đầu. Đối với cậu ta, cô gái tóc xanh, mắt xanh ấy chẳng qua chỉ là một ảo ảnh mà thôi.

Vì buổi chiều tham ăn, chén cả con gà rán mà Chân Kim mang cho nên tôi hầu như không đụng đến đĩa thức ăn buổi tối. Ăn uống xong xuôi, tôi cuộn tròn trên giường, lăn qua lăn lại một hồi vẫn không thấy buồn ngủ. Lạ quá, hai năm qua, tối nào cơm nước xong một lúc là tôi buồn ngủ rũ mắt kia mà, vì sao hôm nay không hề có cảm giác muốn ngủ?

Tiếng bước chân quen thuộc của Bát Tư Ba vang lên ngoài cửa. Tôi tủm tỉm cười, nằm im trên giường vờ ngủ say. Cánh cửa kẹt mở, chàng bước về phía tôi, ôm tôi lên. Tôi định mở miệng dọa chàng nhưng lại thấy chàng cất bước rời khỏi căn phòng.

Vòng vèo hồi lâu, tôi càng lúc càng nghi hoặc, chàng định đưa tôi đi đâu? Đến trước cửa một căn phòng lạ lẫm, chàng đẩy cửa bước vào như thể rất thông thuộc. Căn phòng được bài trí đơn sơ, một người con gái yêu kiều đang ngồi xoay mặt về phía cửa sổ. Nghe tiếng động, người con gái lập tức quay đầu lại, mỉm cười:

- Thầy đến đấy à?

Tôi toát mồ hôi khi nhận ra người đó là Khabi!

- Đến tận bây giờ tôi vẫn có thể đọc thuộc bản chiếu thư ban hành chữ Bát Tư Ba của Hốt Tất Liệt.

Tôi đứng lên, chầm chậm cất bước trong căn phòng, khe khẽ đọc:

- Trẫm dùng chữ viết ghi lại lời nói, ghi lại những sự kiện để người đời nay biết những việc của người đời trước. Quốc gia của trẫm bắt nguồn từ phương Bắc, phong tục cổ hủ, chưa có chữ viết của riêng mình, văn tự mà người Mông Cổ sử dụng là mượn từ chữ Hán và chữ Uyghur. Xét thấy các nước lân bang đều có chữ viết riêng, gặt hái được những thành tựu văn hóa rực rỡ. Những điều mà người đời tôn trọng là những điều ghi trong các cuốn sách... Do đó, trẫm đã hạ lệnh cho ngài Bát Tư Ba sáng tác ra chữ mới của Mông Cổ, dịch tất cả các chữ để mọi người đọc được mà hiểu biết mọi chuyện.

Chàng trai trẻ tỏ ra băn khoăn:

- Hốt Tất Liệt ra sức phổ cập chữ Bát Tư Ba là thế, vậy thì vì sao về sau, loại chữ này không được tiếp tục lưu truyền?

- Bởi vì hình dạng của kiểu chữ này rất khó nhận biết. Thêm vào đó, một số địa phương vẫn phỏng theo kiểu chữ Triệu của người Hán nên lại càng khó nhận biết hơn. – Tôi lật mở những bức hình trong sách và chỉ cho chàng trai trẻ từng chữ một. – Bởi vậy, mặc dù triều Nguyên đã nhiều lần hạ lệnh yêu cầu quan lại và dân chúng sử dụng chữ Bát Tư Ba khi ghi chép, viết lách, và thực chất là cũng có một số thư tịch được viết bằng chữ Bát Tư Ba, nhưng phần đông dân chúng vẫn tiếp tục dùng chữ Hán. Thế nên, chữ Bát Tư Ba chủ yếu chỉ được sử dụng trong các văn kiện của quan lại.

Cậu ta quan sát và thử mô phỏng một chữ Bát Tư Ba, rồi gật gù, nói:

- Quả thật rất khó phân biệt.

- Sau khi triều Nguyên suy vong, chữ Bát Tư Ba dần dần bị đào thải, cuối cùng trở thành văn tự chết.

Chàng trai ngẩng lên hỏi:

- Vậy vì sao ngay cả ở Mông Cổ cũng không còn lưu truyền loại chữ này?

Tôi cười:

- Bởi vì nhà Nguyên chỉ là một trong bốn nước lớn của đế quốc Mông Cổ, chữ Bát Tư Ba chỉ được sử dụng ở triều Nguyên, các nước Mông Cổ khác không sử dụng loại văn tự này. Triều Nguyên sụp đổ, người Mông Cổ bị người Hán đuổi khỏi Trung Nguyên, chữ Bát Tư Ba từng được sử dụng rộng rãi ở Bắc Nguyên một thời gian. Sau đó, cùng với việc những người sử dụng loại chữ viết này bị các bộ lạc Mông Cổ khác đồng hóa, chữ Bát Tư Ba từ đó bị diệt vong.

Chàng trai trẻ thở than:

- Vậy nên ngày nay, chúng ta chỉ có thể đọc được chữ Bát Tư Ba trên các di vật văn hóa.

1.Có nghĩa là ghế báu. (DG)

2.Ưu lễ tăng nhân chiếu thư (Chiếu thư về việc kính lễ các nhà sư) là bản chiếu thư Hốt Tất Liệt ban cho riêng Bát Tư Ba. Trong chiếu thư này, Nhà vua hết lời ca ngợi Bát Tư Ba cùng với tôn giáo mà ngài đang tu tập. Đồng thời yêu cầu mọi người trong thiên hạ phải kính lễ các nhà sư, tăng sĩ, không ai được phép tỏ ra khinh thường họ. (DG)

3.Quán đỉnh Mật Tông là nghi lễ trong Phật giáo Kim Cương Thừa mà theo đó, các pháp được truyền theo hình thức tantra thông qua công đức vô lượng và năng lực của đại sư truyền pháp. (DG)

Chương 53

Trở lại làm người


“Kẻ tiểu nhân nạt nộ bậc hiền nhân,

Bậc hiền nhân không buồn so đo;

Loài sói tru lên những tiếng ngạo mạn,

Sư tử cười nhạo đám vô tri.”

(Cách ngôn Sakya)

Năm 1271, tức năm Tân Mùi, m Thiết theo lịch Tang, tức niên hiệu Hàm Thuần thứ bảy, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Chi Nguyên thứ tám, Mông Cổ.

Bát Tư Ba ba mươi bảy tuổi, Chân Kim hai mươi tám tuổi.

Khabi đặt ngón tay lên vết sẹo hình hoa sen trên trán tôi, nhận xét:

- Hai năm trôi qua, linh khí trong cơ thể cô ấy đã ngày một nhiều lên. Có lẽ chỉ vài bữa nữa là cô ấy có thể hóa thành người.

Giọng nói khàn đặc của Bát Tư Ba vang lên hoan hỉ:

- Tốt quá! Cuối cùng cô ấy cũng được như ý!

Khabi đặt tôi lên giường rồi ngồi xếp bằng đối điện với tôi:

- Từ nay thầy phải bỏ vào đồ ăn của cô ấy lượng thuốc mê mà ta đã làm phép nhiều hơn trước. Bởi vì linh khí càng mạnh, thính giác, khứu giác, vị giác của cô ấy càng được khôi phục nhanh chóng. Nếu ta không làm phép và nếu cô ấy không ăn quen các món đó thì cô ấy đã phát hiện ra từ lâu. Nếu không giữ yên linh khí của cô ấy, để cô ấy tỉnh lại giữa chừng thì công lao che giấu suốt hai năm qua của thầy sẽ đổ xuống sông xuống biển.

- Tạ ơn Hoàng hậu nhắc nhở.

Có tiếng y phục sột soạt rồi chàng cũng lên giường, ngồi xếp bằng bên cạnh tôi.

- Xin mời Hoàng hậu bắt đầu cho!

- Thầy không sao chứ? - Khabi do dự một lát, giọng nói khẽ khàng. – Thầy ngày một già nua, yếu ớt.

Giọng chàng điềm tĩnh:

- Bần tăng không sao.

- Nêu thầy không muốn tiếp tục thì có thể ngừng lại bất cứ lúc nào. - Khabi bật cười xót xa. - Nhưng ta biết, thầy sẽ không chịu dừng lại, nếu không, thầy đã chẳng kiên trì suốt hai năm qua.

Giọng chàng vang lên, tĩnh tại như mặt nước nơi đáy giếng.

- Chờ khi cô ấy khôi phục được hình hài con người hãy hay.

Khabi không nói thêm gì nữa, ngón tay đặt trên trán tôi bỗng truyền đến một dòng nhiệt nóng ran như muốn thiêu đốt vết sẹo hình hoa sen. Vì không muốn để họ biết tôi hoàn toàn tỉnh táo, tôi đành gắng gượng chịu đựng sức nóng dị thường của dòng nhiệt ấy. Một lát sau, dòng nhiệt dần tan đi, thay vào đó, hơi ấm lan tỏa khắp cơ thể, khiến tôi cảm thấy vô cùng sảng khoái, dễ chịu, như thể đang lơ lửng trên chín tầng mây, gối đầu lên mây ấm bồng bềnh, ngắm nhìn mặt trời lặn rồi mọc.

Nửa canh giờ sau, ngón tay của Khabi rời khỏi vùng trán tôi. Cô ấy thu lại phép thuật, ngồi thở dốc rồi nhìn tôi, thở dài:

- Có lúc tôi thấy cô ấy thật đáng thương. Đồng loại của cô ấy, sau khi tu luyện thành người, đều được tận hưởng đời sống vinh hoa phú quý, giàu sang, sung sướng. Còn cô ấy, chỉ được ở bên người mình yêu vẻn vẹn hai năm, sau đó âm dương cách biệt. Và điều đau khổ nhất là, cô ấy không thể nhận con.

Bát Tư Ba trầm ngâm không nói, chỉ ngồi một bên khe khẽ thở. Khabi rời khỏi chiếc giường, nhấc tôi lên:

- Nhưng tôi cũng cảm thấy cô ấy thật hạnh phúc, bởi vì tình yêu mà cô ấy có được nhiều hơn chúng tôi gấp vạn lần. Trên đời này, mười gã đàn ông thì có đến tám, chín kẻ lòng dạ bạc bẽo. Nhưng may mắn thay, cô ấy đã gặp được hai người. Cả Kháp Na và thầy đều sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình vì cô ấy. Có được hai người yêu mình sâu sắc đến thế, cuộc đời của cô ấy quả không uổng phí.

Cuối cùng, chàng cũng lên tiếng, giọng nói ngắt quãng, dường như vô cùng mệt mỏi, hơi thở yếu ớt, không đều:

- Cảm phiền Hoàng hậu giữ kín bí mật này giùm bần tăng, vì bần tăng không muốn cô ấy cảm thấy mình mắc nợ.

- Ta biết, thầy về nghỉ ngơi sớm đi.

Bát Tư Ba rời khỏi chiếc giường, đón lấy tôi từ tay Khabi, loạng choạng bước đi. Khabi đắn đo một lát, gọi với theo:

- Ta biết thầy sẽ không nghe ta đâu nhưng ta không thể không nói. Thầy đừng lao lực với công việc chính sự nữa. Thầy đã truyền giảng cách sử dụng chữ mới cho các thầy giáo ở Quốc tử giám[1] , họ sẽ tự biết phải soạn bài giảng ra sao, thầy không cần đích thân làm việc đó. Ta sẽ lựa lời để Đại hãn giảm bớt công việc cho thầy. Thầy cần nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, thuốc thang đều đặn, chớ thức khuya đèn sách. Hãy làm những việc thầy muốn mà chưa có thời gian để thực hiện bởi vì thời gian của thầy...

Cô ấy đột nhiên ngừng lại, giọng nói trầm buồn:

- ... không còn nhiều nữa..

Tôi giật mình thảng thốt, nhưng có lẽ vì quá mệt mỏi, chàng không phát hiện ra. Chàng bước chậm lại, vịn tay vào cánh cửa, thở gấp một hồi rồi mới lên tiếng:

- Chờ khi cô ấy lấy lại hình hài con người, bần tăng sẽ lập tức đưa cô ấy về Sakya thăm con trai. Đến lúc đó, có lẽ phái tấu trình lên Đại hãn xin phép được từ chức. Bần tăng muốn tìm cho mình một nơi thật yên bình, thanh tịnh, chứ không muốn chờ chết ở Trung Đô.

Trên đường về, chàng lết từng bước rất chậm, được vài bước lại thở hổn hển, mãi mới về đến phòng. Hơi thở của chàng rất khó khăn, nhịp tim rất chậm, chỉ có người cao tuổi mới thở như vậy. Về đến phòng, chàng đặt người xuống rồi thiếp đi rất nhanh. Nến đã cháy hết, ngọn lửa bùng lên rồi tắt lịm. Căn phòng ngập ánh trăng, tôi ngồi lặng lẽ ngắm nhìn Bát Tư Ba đang say ngủ. Đuôi mắt, vầng trán, khóe môi và trên cổ chàng vằn vện những nếp nhăn của tuổi tác. Vẻ già nua hiển hiện trên gương mặt thông tuệ, hiền từ. Gương mặt gầy guộc ấy giống hệt một ông lão đã trải qua cả chặng đường đời đầy sương gió. Nhìn vào gương mặt chàng, không ai có thể tin rằng chàng chỉ mới bước vào tuổi trung niên.

Tôi ngồi xuống, mê mải ngắm nhìn gương mặt già nua của chàng, nước mắt lã chã. Đúng lúc này tôi nhận ra sự biến đổi quen thuộc của cơ thể mình. Tôi cúi xuống, bắt gặp mái tóc màu lam bóng mượt rủ trước ngực, làn da nõn nà, thanh tân. Tôi chìa tay ra, ngắm nghía hồi lâu đôi tay nuột nà dưới ánh trăng. Không nén nổi nỗi xúc động, tôi òa khóc thống thiết.

Đêm tịch mịch, gió mát lạnh, trăng sáng, sao thưa, không gian vắng lặng. Khabi nằm nghiêng người, thân hình quyến rũ giữa êm đềm trướng rủ màn che. Rồi cô ấy đột nhiên bật dậy, thốt lên kinh ngạc:

- Tiểu Lam?

Tôi bước đến trước mặt cô ấy, lặng lẽ gật đầu.

- Mới đó đã biến được thành người rồi, tuyệt thật!

Cô ấy ngồi dậy, với chiếc áo ngủ màu ngọc bích, khoác lên người rồi lại gần, nắm tay tôi, quan sát tỉ mỉ.

- Vẫn xinh đẹp như xưa. Quả nhiên là loài hồ ly thuần chủng, thời gian phục hồi linh khí cũng ít hơn hồ ly tạp chủng rất nhiều.

- Có thật là chỉ dựa vào năng lực của bản thân tôi không? - Tôi gạt tay cô ấy, lạnh lùng nói. - Hay nhờ cô đã sử dụng phương pháp gì khác?

Cô ấy hơi sững sờ rồi bật cười:

- Cô cứ đùa! Làm gì có cách nào khác. Trừ khi ai đó có nguồn linh khí dồi dào, sẵn sàng truyền cho cô. Nhưng cô thừa biết, việc đó chẳng khác nào hy sinh tính mạng của mình. Trên đời này làm gì có người nào dại dột như thế!

- Tối qua, tôi đã không ăn đồ ăn chàng chuẩn bị cho tôi.

Tôi nhìn xoáy vào mắt cô ấy, thốt lên từng tiếng rành mạch.

Cô ấy trở nên bối rối. Tôi bước đến, giữ chặt vai cô ấy:

- Hãy cho tôi biết sự thật!

- Nếu cô đã nghe được tất thảy thì chắc cô cũng biết sự thật là gì rồi. - Cô ấy bật cười xót xa. - Đúng thế, cô có thể phục hồi nhanh chóng như vậy, không phải do bản năng trời phú, cũng không phải ông trời thương xót mà nhờ Bát Tư Ba đã dùng mạng sống của mình để đổi lấy.

Tôi lảo đảo, ngã phịch xuống chiếc giường lộng lẫy của cô ấy. Tuy đã có linh cảm về chuyện này nhưng tôi vẫn cầu mong đó không phải sự thật. Cô ấy thở dài, ngồi xuống cạnh tôi:

- Hai năm trước, sau bữa tiệc tẩy trần mừng cậu ấy trở về cậu ấy đã đến tìm tôi, kể cho tôi nghe mọi chuyện xảy ra ở Sakya, về việc cô phải lựa chọn cứu sống một người, về việc cô đã sinh non, mất hết linh khí và bị đẩy trở lại nguyên hình, về việc con trai ở trước mặt mà cô không thể nhận, càng không thể ôm con vào lòng. Những điều này đã giày vò tâm can cậu ấy bao nhiêu năm qua. Cậu ấy cầu xin tôi cứu cô bằng bất cứ giá nào.

Trong đêm xuân se lạnh ấy, Khabi đã kể lại cho tôi nghe tường tận mọi việc. Tôi khóc hết nước mắt, lệ rơi ướt đẫm khăn áo.

Khi ấy, Khabi đã đáp lời Bát Tư Ba như sau:

- Cô ấy đã mất hết linh khí, muốn khôi phục, chỉ còn cách chăm chỉ tu luyện thêm ba trăm năm nữa.

Chàng run lên bần bật lắc đầu khổ sở:

- Ba trăm năm ư? Nếu biết phải chờ thêm ba trăm năm, chắc chắn cô ấy sẽ không thiết sống nữa. Thưa Hoàng hậu, người cũng làm mẹ, người thử nghĩ xem, liệu người có thể chịu đựng chuyện con trai mình lớn lên, già đi rồi qua đời mà không hề biết mẹ ruột mình là ai không?

Chàng đã khiến Khabi động lòng, cô ấy trầm ngâm hồi lâu mới lên tiếng:

- Vậy thì đành phải sử dụng cách thức nhẫn tâm này thôi.

Cặp mắt Bát Tư Ba vụt sáng.

- Là cách gì? Chỉ cần bần tăng đủ sức, bần tăng nhất định sẽ giúp cô ấy.

- Nếu là những người đàn ông bình thường khác thì có muốn cũng không thể làm theo cách này. Trên đời này, chỉ mình thầy làm nổi.

Khabi nhìn vòng sáng bảy màu thấp thoáng xung quanh Bát Tư Ba, ngưỡng mộ thốt lên:

- Thầy tu pháp đã nhiều năm, linh khí tích lũy dồi dào. Nếu loài yêu hút được thứ linh khí thuần khiết trên thân thể thầy thì sẽ khỏi cần nhọc công tu luyện.

Bát Tư Ba khảng khái hỏi:

- Bần tăng phải truyền linh khí cho cô ấy như thế nào?

- Thầy hãy suy nghĩ cho kĩ.

Khabi ngừng lại một lát rồi đẩy ánh mắt sắc lạnh về phía chàng:

- Thầy bằng lòng trao cho cô ấy tính mạng của mình chứ?

Bát Tư Ba thoáng sững sờ:

- Bằng cách nào?

Gương mặt như hoa như ngọc của Khabi chợt toát lên thần sắc đáng sợ:

- Tinh nguyên vốn là nguồn sống của con người, trong cơ thể thầy, nó tồn tại song song với linh khí. Ta có thể làm phép hút thứ tinh nguyên mang theo linh khí của thầy rồi truyền sang cơ thể cô ấy. Nhưng nếu muốn cô ấy lấy lại được hình dáng con người thì thầy phải chịu hao tổn quá nửa tinh nguyên trong cơ thể mình. Việc đó tuy không lấy mạng thầy ngay tức khắc nhưng thầy cũng chẳng còn sống được bao lâu.

Bát Tư Ba trầm mặc hồi lâu, nghẹn ngào hỏi:

- Bần tăng còn được bao nhiêu thời gian nữa?

Khabi ngập ngừng nhưng vẫn quyết định nói ra sự thật:

- Có lẽ nhiều nhất là bảy, tám năm.

Bát Tư Ba cười tươi mãn nguyện:

- Tốt quá! Những bảy, tám năm, khoảng thời gian đó đủ để bần tăng hoàn tất rất nhiều việc. Điều nuối tiếc lớn nhất của bần tăng là không thể chứng kiến Dharma trưởng thành. Nhưng không sao, sau khi có được linh khí, Lam Kha sẽ bảo vệ Dhanna. Bần tăng sẽ trao lại quyền cai quản Sakya cho Dharma và có thể yên tâm ra đi.

Khabi thốt lên kinh ngạc:

- Thầy... thầy bằng lòng thật ư? Thầy là người thông minh trác tuyệt, thông tuệ phật pháp, khó ai bì kịp. Pháp môn Đạo quả pháp bí ẩn của phái Sakya, chí ít cũng có thể giúp thầy sống thọ đến hơn tám mươi tuổi. Thầy sẵn sàng vì cô ấy mà hy sinh mạng sống của mình ư?

- Một mình đơn độc sống đến tám mươi tuổi còn có ý nghĩa gì? Tính mạng của bần tăng vốn do cô ấy cứu, bần tăng chỉ trả lại cho cô ấy mà thôi.

Chàng ngước đôi mắt u buồn, chăm chú ngắm nhìn ngọn nến tàn canh.

- Cô ấy đã mất đi Kháp Na, không thể lại mất đi niềm hy vọng được bồng con trai nữa.

Lắng nghe Khabi thuật lại tỉ mỉ câu chuyện, tôi giữ chặt ngực mình, đau đớn đến đứt từng khúc ruột. Bây giờ tôi đã hiểu vì sao hai năm qua chàng già yếu đi nhanh đến vậy, Khabi vẫn tiếp tục kể:

- Ta đã làm phép và đưa cho Bát Tư Ba một ít thuốc mê để cậu ấy trộn vào đồ ăn của cô. Chờ khi cô ngủ say, mới đưa cô đến căn phòng đó. Mỗi ngày ta đều làm phép, di chuyển từng chút một tinh nguyên và linh khí từ cơ thể cậu ấy sang cơ thể cô. Vì trước đó cô đã bị thương tổn nặng nề nên phải mất hai năm trời mới giúp cô khôi phục lại thể trạng và linh khí.

Tôi túm chặt cánh tay Khabi, lắc đầu, gào khóc:

- Khabi, tôi không muốn chàng hy sinh bản thân vì tôi. Cô hãy hút linh khí trong cơ thể tôi trả lại cho chàng! Tôi chấp nhận bị đẩy trở lại nguyên hình, chấp nhận suốt đời không nhận mặt con!

Khabi bật cười chua chát:

- Tiểu Lam, cô nói đùa gì vậy? Linh khí của loài người khi bị loài yêu chúng ta hút mất, đâu dễ dàng trả lại được. Huống hồ, cô cũng biết rõ rằng, cậu ấy đã chống lại mệnh số để cứu cô thì phải chấp nhận vận số của mình. Dù cô có nỗ lực ngày ngày truyền lại linh khí cho cậu ấy đi nữa, cũng chỉ kéo dài tuổi thọ của cậu ấy thêm vài năm mà thôi.

- Vậy tôi sẽ cho chàng nội đan của mình. - Tôi ngừng lại, cổ họng đau rát. - Nợ tình, tôi sẽ trả bằng mạng!

Khabi lắc đầu, thở dài:

- Cậu ấy quả rất hiểu những suy nghĩ của cô. Cậu ấy biết cô sẽ phản ứng như vậy. Thế nên cậu ấy đã đề nghị tôi, và tôi đã sử dụng loại thần chú không thể đảo ngược khi làm phép. Dù cô có trao nội đan cho cậu ấy, cậu ấy cũng không thể tiếp nhận.

Tôi chết lặng. Vì sao chàng lại làm vậy? Vì sao chàng nghiệt ngã với bản thân mình như vậy? Tôi phải làm sao đây? Chàng muốn tôi phải chịu đựng mấy trăm năm cô độc và day dứt hay sao?

Khabi kéo tôi sát lại, để tôi tựa vào vai cô ấy mà khóc, giọng cô ấy nghẹn ngào, xúc động:

- Ta đã sống cả nghìn năm, chứng kiến bao kẻ phụ tình, từ lâu đã không còn tin vào cái gọi là “tình yêu chân thành” nữa. Ta cứ ngỡ, trái tim ta đã hóa đá, vậy mà giờ đây nó không nguôi thổn thức trước mối tình đằm thắm của ba người.

Tôi khóc nấc lên. Từ lúc rời khỏi Sakya, trái tim tôi như đóng băng, như khô héo, như mặt giếng sâu phẳng lặng. Tôi cứ ngỡ, trên đời này, ngoài con trai, sẽ không còn gì khiến trái tim tôi rung động được nữa. Vậy mà hành động bất chấp tính mạng của chàng đã khiến tôi đau đớn không thiết sống nữa.

Khabi ôm hai má tôi, nhẹ nhàng lau nước mắt cho tôi nhưng cô ấy cũng không cầm nổi nước mắt:

- Tiểu Lam à, tình yêu cậu ấy dành cho cô không hề thua kém Kháp Na. Chỉ có điều, số mệnh của cậu ấy quá ư bi thảm. Dù sao trước khi qua đời, Kháp Na đã có với cô những tháng ngày hạnh phúc, tuyệt đẹp. Còn cậu ấy, cậu ấy chẳng có gì cả. Cuộc đời cậu ấy quá khốn khổ, cậu ấy phải gánh trên vai niềm hy vọng của thế hệ trước và trọng trách của gia tộc. Cậu ấy chưa từng, dù chỉ một ngày, sống vì mình... Sau hai năm trời truyền linh khí cho cô, đến nay, sinh mệnh của cậu ấy chỉ còn lại nhiều nhất là năm năm. Thế mà cậu ấy vẫn hăng say cống hiến, thức khuya dậy sớm như thế thì e rằng, ngay cả năm năm ngắn ngủi cũng chẳng còn. Rồi đây, sức khỏe của cậu ấy sẽ ngày một yếu dần, các loại bệnh tật sẽ thừa dịp xâm nhập vào cơ thể. Tuy rằng còn cả năm năm nhưng bất cứ lúc nào cậu ấy cũng có thể ngừng hơi thở.

Khabi gượng cười nhìn tôi:

- Cô hãy ở bên và giúp cậu ấy làm những việc mà cậu ấy yêu thích đi.

Trái tim tôi như bị một bàn tay vô hình vò xé, mỗi câu nói của Khabi đều khiến tim tôi quặn thắt, tan nát. Tôi đưa tay áo lên, quệt nước mắt trong nỗi bấn loạn khốn cùng rồi bật dậy, lao đi. Tôi không còn thời gian nữa, tôi phải ở bên chàng và khiến chàng thật vui vẻ, hạnh phúc trong chuỗi ngày ngắn ngủi còn lại của cuộc đời.

- Tiểu Lam!

Khabi gọi với theo, tôi quay đầu lại, bắt gặp cặp mắt ngấn nước và nụ cười chúc phúc nở trên khóe môi cô ấy.

- Đừng lãng phí thời gian!

Tôi gật đầu chắc nịch.

Trời sáng dần, ánh ban mai tràn vào phòng, soi rọi gương mặt hiền từ, đôn hậu của chàng. Trong màn sương mỏng mờ ảo của buổi sớm mai ấy, không gian như ngập tràn nỗi niềm thương nhớ của tôi dành cho chàng. Thầm yêu chàng bao năm, tôi đã nỗ lực hết mình để có được dung mạo của con người. Chàng là tình yêu đầu, là những xúc cảm lãng mạn nhất, tuyệt vời nhất của tuổi thanh xuân tôi. Tuy sau đó, tôi đã yêu Kháp Na nhưng trong tim tôi, hình bóng chàng chưa bao giờ phai nhạt. Chàng đã trở thành phần không thể tách rời của sự sống tôi, đã là một phần máu xương, một phần tâm hồn tôi.

Chàng hé mắt, chừng như vẫn còn ngái ngủ. Nhận ra nắng rực rỡ ngoài cửa sổ, chàng vội vàng ngồi dậy, gương mặt thoáng vẻ buồn bã. Chàng chưa khi nào thức dậy muộn như vậy. Vừa định ra khỏi giường, chàng chợt thấy tôi đứng đó. Gương mặt già nua bỗng trở nên rạng rỡ bởi nụ cười hoan hỉ vui sướng. Chàng lập tức đưa tay ra, chực ôm tôi vào lòng:

- Lam Kha, thần kỳ quá, em đã lấy lại hình dáng con người!

Nhưng chàng lập tức rụt tay lại, kiềm chế cảm xúc, khẽ

hắng giọng, điềm tĩnh nói:

- Giờ em đã trở lại với hình dáng con người, vậy hãy mau trở về Sakya. Dharma mới có bốn tuổi, em vẫn có thể bế được nó, chứ để thêm vài năm nữa, chắc em bồng con không nổi đâu.

Tôi lắc đầu, ngồi xuống bên cạnh, nhìn chàng đăm đăm:

- Việc quan trọng nhất bây giờ không phải chuyện đó, sau này em sẽ về thăm con.

- Sau này? - Chàng thảng thốt - Em muốn chờ bao lâu nữa?

Tôi gật đầu, khẽ thốt lên:

- Năm năm.

Chàng biến sắc mặt:

- Em... em đã đến chỗ Hoàng hậu?

- Trước khi qua đời, Kháp Na còn vài lời căn dặn khác nữa mà em chưa nói với chàng.

Tôi không trả lời câu hỏi của chàng mà nói cho chàng nghe những lời tôi đã giấu tận đáy lòng suốt mấy năm qua.

- Chàng nói rằng: “Đại ca rất yêu em, huynh ấy bỏ rơi em vì muốn tác hợp cho hai chúng ta. Chỉ tại ta quá ích kỷ, quá tham lam, muốn giữ em cho riêng mình. Sau khi ta chết, em hãy cùng huynh ấy nối lại duyên xưa…”

Chàng run lên bần bật, ánh mắt trốn tránh:

- Lam Kha, đừng nói nữa! Những lời của Kháp Na không phải sự thật đâu...

- Vậy thì vì sao chàng dùng cả mạng sống của mình để cứu em?

Chàng trở nên bối rối, lắp bắp nói:

- Em... Hoàng hậu đã nói cho em biết tất cả ư?

- Nếu không, chàng định sẽ giấu em đến bao giờ? Chàng vẫn chưa chịu thừa nhận tình cảm của chàng dành cho em sao?

Chàng bật dậy, ra khỏi giường, vừa lao đi vừa nói nhanh như gió:

- Em đừng quá ngộ nhận, ta chỉ thương hại em mà thôi. Ta phải đi lo công việc đây. Không hiểu sao hôm nay lại ngủ nướng đến tận bây giờ.

Tôi chắn trước mặt chàng, dang rộng hai tay:

- Chàng đừng dối lòng nữa! Ngay cả Khabi cũng nhận ra tình cảm chàng dành cho em, em đâu phải kẻ vô tâm…

Chàng gắt lên nạt nộ tôi, sáp lại gần, chỉ cho tôi thấy gương mặt già nua của mình:

- Lam Kha, em nhìn cho kĩ, hãy nhìn cho thật kĩ! Ta đã là một ông già, không còn khôi ngô, tuân tú như ngày nào nữa. Còn em, em vẫn xinh đẹp, yêu kiều như xưa. Ta không xứng với em, em muốn bị thiên hạ cười chê sao?

Tôi muốn nắm tay chàng nhưng chàng đã lùi về phía sau, không cho tôi chạm vào chàng. Tôi vừa khóc vừa lắc đầu:

- Em không bận tâm! Dù chàng xấu hay đẹp, trẻ trung hay già nua, em cũng không bận tâm. Em chỉ muốn được ở bên chàng, chúng ta không còn nhiều thời gian nữa. Năm năm, chúng ta chỉ còn năm năm thôi!

Chàng ngửa mặt lên, hít một hơi thật sâu, chiếc cổ thuôn dài rần rật vì xúc động, nghẹn ngào:

- Chính vì chỉ còn năm năm nên ta càng không thể ở bên em! Kháp Na chung sống với em chưa đầy hai năm đã qua đời. Đệ ấy đã mang lại cho em biết bao đau khổ. Ta không muốn, năm năm sau, em lại phải chịu đựng nỗi khổ đau giày vò này nữa. Ta thà sống cô độc một mình đến hết đời!

Tôi thấy mình không thở nổi.

- Chàng có thể sống trọn vẹn năm năm nữa ư?

Toàn thân chàng run lên, ánh mắt hoảng hốt, chàng vội quay mặt đi. Tôi muốn ôm chàng nhưng chàng đã tránh né, kiên quyết giữ khoảng cách với tôi.

- Chàng lao vào công việc không tiếc sức mình, ngày nào cũng thức khuya dậy sớm, không chịu gặp em. Thứ nhất là vì chàng không muốn em nghi ngờ dung mạo ngày càng già nua của chàng. Hai là...

Tôi ngừng lại, cơn đau cuồn cuộn trào dâng, tôi nhìn xoáy vào đôi mắt đang cố gắng trốn tránh của chàng, nhả từng tiếng một:

- Vì chàng không thiết sống nữa! Chàng bất chấp tính mạng của mình, chàng đang tự sát...

Chàng run rẩy ngắt lời tôi:

- Đừng nói bậy! Em cũng biết là ta không còn nhiều thời gian, trong khi ta có rất nhiều việc phải làm. Sao ta có thể vô duyên vô cớ rút ngắn tuổi thọ của mình được chứ?

- Thế nên em cần chàng nói cho em biết, vì sao chàng làm vậy?

Tôi tiến một bước, chàng lùi một bước, cho đến khi lưng chàng chạm tường, không thể trốn chạy được nữa.

- Em đã nói là em không bận tâm về dung mạo của chàng, không bận tâm chàng còn bao nhiêu thời gian. Dù chàng có cự tuyệt em thế nào, em cũng quyết ở bên chàng.

Tôi lao đến, ôm chầm lấy chàng, muốn hôn lên môi chàng nhưng chàng đã lập tức nghiêng đầu né tránh, nước mắt lăn dài trên má.

- Bởi vì ta không thể chạm vào em!

Khoảnh khắc ấy, tôi như bị đóng đinh, mãi chẳng thể hồi tỉnh. Khuôn ngực chàng phập phồng dữ dội, những giọt nước mắt trong như pha lê rớt xuống, thấm trên làn áo tăng sĩ màu đỏ của chàng, loang ra thành những bông hoa nho nhỏ màu tối. Tôi sững sờ nhìn vào mắt chàng, chàng đáp lại tôi bằng ánh mắt bi thương, giọng nói cất lên chất chứa nỗi tuyệt vọng tột cùng:

- Ta không thể chạm vào em khi em hóa thành người!

Tôi nghẹn ngào không thể kể tiếp, nước mắt lã chã tuôn rơi. Chàng trai trẻ lại gần, muốn vòng tay qua kéo tôi tựa vào bờ vai mình nhưng lại ngập ngừng, do dự. Suy nghĩ một lát, cậu ta rút khăn giấy, đưa cho tôi. Tôi đang thấm nước mắt thì cậu ta thốt lên vẻ kinh ngạc:

- Vì sao mái tóc màu xanh của cô chỉ qua một đêm đã điểm nhiều sợi bạc thế này?

Tôi sững sờ, kéo một lọn tóc ra phía trước, nhận ra rằng, quả nhiên đã có thêm nhiều sợi bạc giữa màu xanh bóng mượt, lạ quá! Tôi cười buồn:

- Không sao, có lẽ vì lúc kể chuyện tôi đã nghĩ đến những ký ức đau buồn.

Chàng trai nhìn tôi, thương xót:

- Cô có muốn nghỉ một lát không?

Tôi lắc đầu cả quyết:

- Tôi muốn kể tiếp. Nếu đêm nay tôi không kể hết câu chuyện, cậu sẽ...

Tôi giật mình, im bặt, mân mê chiếc vòng tay hình hoa sen, gượng cười:

- Cậu không còn gặp lại tôi nữa và sẽ không thể nghe hết câu chuyện của tôi.

Cậu ấy ngồi xếp bằng bên tôi, ánh mắt nghiêm nghị:

- Nhưng cô phải hứa không được quá đau buồn thì tôi mới chịu nghe cô kể tiếp.

Tôi gật đầu, kìm nén cảm xúc, tiếp tục câu chuyện.

1.Cơ quan quản lý giáo dục cao nhất thời phong kiến, cũng là trường học bậc cao nhất vào một số triều đại ở Trung Quốc. (DG)

Chương 54

Bí mật chôn giấu


“Người tài giỏi thường bị xét nét,

Kẻ hèn kém không ai buồn để ý:

Ngọc mã não được người ta nâng niu,

Que cời lửa nào ai thèm nhòm ngó.”

(Cách ngôn Sakya)

Không biết chúng tôi đã nhìn nhau bao lâu, mãi sau tôi mới run rẩy hỏi:

- Vì sao?

Bát Tư Ba nhìn tôi trân trối, ánh mắt ngập tràn khổ đau, cởi bỏ áo cà sa. Tôi thốt lên kinh hãi. Trên mình chàng, trên cánh tay chàng chi chít các vết sẹo, dù không còn tấy đỏ nhưng hằn rõ hình những bông hoa sen rỉ máu. Tôi giật mình ngẩng lên nhìn chàng. Chàng cúi đầu, rơi lệ:

- Khi em hóa thành người, chỉ cần ta chạm vào em là thịt da sẽ bị thiêu đốt, đau đớn tột độ.

Tôi chết lặng, kinh hoàng, một lúc lâu sau mới run run cất giọng hỏi:

- Vì sao lại như vậy?

Chàng cười thê lương.

- Có ai không nhận ra tình cảm ta dành cho em kia chứ! Ta giả bộ lạnh lùng, lãnh đạm chỉ để che giấu tình cảm dạt dào, mãnh liệt đang trỗi dậy trong lòng mình mà thôi. - Chàng hít một hơi thật sâu, ngẩng lên nhìn tôi đắm đuối ánh mắt dịu dàng, dìu dặt. Đúng vậy, ta yêu em. Kể từ lúc Kháp Na đưa em tới trước mặt ta, ta đã yêu em bằng cả trái tim mình. Bởi vì, đúng như Kháp Na từng nói, em xinh đẹp, hiền hậu là thế, làm sao ta có thể chống lại sức hấp dẫn chết người ấy được? Thậm chí, trong ta đã nảy sinh những ham muốn đáng xấu hổ, ta khao khát có được em!

Nước mắt tôi lã chã:

- Từ lúc nào chàng biết mình không thể chạm vào em?

- Đó là buổi tối ngày diễn ra lễ hội Sitatapatra, cách đây bảy năm. Hoàng hậu Khabi đến tìm ta, nói rằng ta phải đánh đổi mười năm dương thọ của mình để cứu em. Em biết không, lúc đó ta đã vô cùng vui sướng. Ta chỉ cần có một lý do để được ở bên em, mười năm dương thọ có là gì. Nhưng ta... ta...

- Chàng đột ngột ngưng bặt, chìa bàn tay ra trước mặt, xoay qua xoay lại, khóe môi run run. Khi ta vuốt ve gương mặt em, bàn tay như bị đốt cháy, bỏng rát đến tận xương tủy. Ta không tin nên đã ôm em vào lòng. Nhưng bất cứ vùng da thịt nào trên cơ thể ta chạm vào em đều đau đớn tột cùng. Đến lúc ấy ta mới nhận ra, ta không thể chạm vào em. Cả đời này ta chỉ có thể ngắm nhìn em mà không thể chạm vào em!... Ta vội vàng đánh xe về phủ Quốc sư và nhận thấy Kháp Na vừa tới. Để cứu em ta buộc phải nói với Kháp Na. Ta đâu ngờ, đệ ấy bất chấp tất cả, lao đi cứu em. và ta hiểu ra rằng, đệ ấy cũng rất yêu em. Lần đầu tiên trong đời mình, ta biết thế nào là ghen tuông, căm hận. Ta đã ghen với cả đứa em trai ta yêu thương nhất!

Chàng đau khổ ôm đầu, toàn thân đổ vào bức tường phía sau rơi từ từ trượt xuống đất, mỏi mệt rã rời. Chàng gào lên quằn quại:

- Đêm đó, lòng ghen tuông và nỗi căm hận như loài rắn độc gặm nhấm tâm can ta. Cứ hình dung ra cảnh em và Kháp Na ở bên nhau là toàn thân ta như bị vùi trong lò lửa. Cả đêm đó, ta đã giày vò, đày đọa bản thân mình đến hóa điên vì ta muốn tìm ra nguyên nhân, vì sao ta không thể chạm vào em.

Tôi muốn chìa tay ra nắm lấy tay chàng, nhưng đành cắn răng nín lại:

- Vậy chàng đã tìm ra nguyên nhân đó chưa?

Chàng lắc đầu tuyệt vọng;

- Bảy năm qua ta vẫn không ngừng tìm hiểu nhưng không có kết quả. Đó là bí mật lớn nhất của đời ta, ta không thể hỏi ai, cũng không thể nói với ai, kể cả Kháp Na. Sau đó, ta nhận thấy tình cảm của em và Kháp Na ngày càng sâu đậm nên ta muốn vun vén cho hai người, ta không thể không nhường em cho Kháp Na. Nhưng để có thể đưa ra quyết định ấy, ta đã phải trải qua những tranh đấu, giằng co quyết liệt. Vì quá đau khổ, ta đành vùi đầu vào công việc để quên đi. Chỉ cần không còn thời gian rảnh rỗi, ta sẽ không phải suy nghĩ, không phải đau khổ nữa.

Nước mắt đầm đìa trên mặt, tôi ngồi xuống bên chàng, muốn ôm chàng vào lòng nhưng lại không thể. Bây giờ tôi đã hiểu được nỗi đau khổ, bất lực tuyệt vọng của chàng, đã hiểu vì sao chàng lại vô cớ lạnh nhạt, cay nghiệt với tôi như vậy. Muốn được ôm người mình yêu vào lòng mà không thể, cảm giác ấy xót xa, cay đắng vô cùng. Vậy mà chàng đã một mình chịu đựng suốt bảy năm trời.

Chàng ngồi xuống nền đất, tựa lưng vào tường, ánh mắt nhìn tôi trống trải:

- Kháp Na vì giáo phái đã ép mình chấp nhận cuộc hôn nhân lần thứ ba, điều này khiến ta vô cùng xót xa. Trên đường từ Chumig trở về Sakya, ta đã nhận ra em có tình cảm với đệ ấy. Kháp Na hy sinh bản thân hết lần này đến lần khác vì giáo phái thì vì sao ta không thể giúp đệ ấy giành lấy hạnh phúc vốn dĩ phải thuộc về đệ ấy? Dù ta có miệt mài tìm hiểu nguyên nhân cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa, đó là sự trừng phạt của Bồ Tát Văn Thù đối với tội lỗi phá giới của ta. Em không bao giờ thuộc về ta, chỉ tại ta quá tham lam, ích kỷ. Vì thế ta đã quyết định...

Chàng ngừng lại, ánh mắt chàng vân du trên gương mặt tôi rất lâu, giọng nói khản đặc vì xúc động:

- Vĩnh viễn từ bỏ em.

Vậy là tôi đã hiểu, khi chàng khuyên tôi đến với Kháp Na, chàng nói rằng chàng không chịu đánh đổi mười năm dương thọ vì chàng còn nhiều việc phải làm, chàng còn bảo chàng đã bỏ tôi lại căn phòng đó, phó mặc tôi cho số mệnh định đoạt, tất cả những lời cay nghiệt vô tình ấy thì ra chỉ là để tôi cảm ghét chàng!

Tôi như đứt từng khúc ruột, lắc đầu phủ nhận:

- Không đúng, chàng từng chạm vào em. Khi em sinh Dharma, chàng đã luôn ở bên em, nắm chặt tay em, kéo em tựa vào lòng chàng, an ủi, động viên, cổ vũ em. Khi em không còn đủ sức để uống canh sâm, chàng đã mớm cho em từng miếng một. Nếu không có chàng, chắc chắn em không thể vượt qua cửa ải sinh tử ấy. Nhưng lẽ nào... lúc đó chàng…

Tôi không thể nói tiếp được nữa. Nhớ lại khi ấy, gương mặt chàng tái dại, méo mó như thể đang phải chống chịu với cơn đau tột độ. Về sau, tôi thấy tay chàng băng bó nhưng chàng lại bảo đó là do vô tình làm nến đổ vào. Tôi đâu biết chàng đã bất chấp nỗi đau đớn, khổ sở nhường vậy để không rời xa tôi dù chỉ một bước.

- Đau lắm, quả thực rất đau. Lúc hôn em, ta không hề có cảm giác gì khác ngoài sự tê dại, đau buốt.

Chàng chạm tay vào vết sẹo trên cơ thể mình, những sẹo hình hoa sen.

- Dù vậy, vết thương trên da thịt làm sao nhức nhối bằng vết thương trong tim! Em đã phải chịu đựng nỗi đau khổ gấp hàng trăm, hàng nghìn lần. Em đã mất Kháp Na. Nếu ta cũng bỏ em đi thì em sẽ ra sao?

Tôi quỳ gối, nhích từng chút một về phía chàng.

- Nếu chàng đã biết, chàng là điểm tựa của cuộc đời em vậy thì xin chàng đừng từ chối em. Hãy để em ở bên chàng, cùng chàng đi trọn chặng đường cuối của cuộc đời. Đó không chỉ là tâm nguyện của em, còn là của Kháp Na nữa!

Chàng cười tuyệt vọng, lắc đầu mệt mỏi:

- Dù em không chê ta già cả, không bận tâm ta chẳng còn sống được bao lâu nhưng ta vẫn không thể chạm vào em. Lam Kha, em nói xem, ngoài việc từ chối em, ta còn làm gì được nữa? Em nói đúng, ta không màng đến sự sống chết nữa. Ta mệt lắm, rất mệt, ta muốn sớm được giải thoát...

- Không được, em không cho phép chàng buông xuôi như vậy!

Tôi trừng mắt nạt nộ chàng, lau nước mắt rồi bật dậy:

- Chúng ta hãy đi hỏi Khabi, chắc chắn cô ấy sẽ có cách.

Tôi mới chỉ ba trăm tuổi, so với các đồng loại khác thì tôi còn rất trẻ. Nhưng Khabi đã một nghìn tuổi, cô ấy từng trải hơn, hiểu biết hơn, phép thuật cũng cao thâm hơn tôi. Có thể cô ấy biết nguyên nhân và tìm ra cách hóa giải.

Chàng sững sờ, ánh mắt thoáng tia hy vọng. Được tôi cổ vũ, chàng nhúc nhích cơ thể, gượng đứng lên. Tôi muốn lại gần dìu chàng nhưng sợ chàng đau, đành rụt tay về. Tôi nắm chặt tay lại, gật đầu quả quyết:

- Em sẽ ở bên chàng, chúng ta nhất định sẽ có cách! Mí mắt chàng khẽ rung động, chàng hít thở sâu vài lần rồi mới chịu gật đầu với tôi.

Tối hôm đó, Bát Tư Ba đưa tôi đến cung điện của Khabi. Khi đám người hầu ra ngoài hết, tôi hóa phép thành người, kể lại toàn bộ sự tình cho cô ấy nghe. Cô ấy kinh ngạc, chăm chú quan sát Bát Tư Ba:

- Chả trách khi ta làm phép truyền linh khí từ cơ thể thầy sang cho Tiểu Lam, ta cảm thấy trong cơ thể thầy có một khối năng lượng rất kỳ lạ. Khối năng lượng này không gây hại cho thầy nhưng ta không biết lai lịch của nó.

Cô ấy đề nghị Bát Tư Ba ngồi xếp bằng trước mặt, đặt ngón tay lên trán chàng, chậm rãi niệm chú. Tôi đứng bên, lo lắng dõi theo. Đầu ngón tay Khabi dần xuất hiện vệt sáng màu đỏ. Bát Tư Ba chừng như rất đau, gương mặt chàng càng lúc càng tái nhợt nhưng chàng vẫn kiên trì chịu đựng. Khabi đăm chiêu suy nghĩ, miệng lẩm nhẩm liên hồi:

- Kỳ lạ, rất kỳ lạ!

Tôi sốt ruột hỏi:

- Kỳ lạ thế nào?

Cô ấy ngừng làm phép, thở hổn hển, hỏi một câu rất lạ lùng:

- Tiểu Lam, cô còn nhớ trước lúc qua đời, đại sư Ban Trí Đạt từng truyền dạy cho cô một đoạn chú để không chế linh hồn và thể xác của cô, khiến cô không thể hóa phép thành người không?

Tôi ngạc nhiên, đáp:

- Có chuyện đó. Nhưng tôi đã nghe lời cô, không tu luyện theo pháp môn ấy nữa. Và tôi lại có thể hóa phép thành người đó thôi.

Khabi rời khỏi chiếc giường, nhấc chén trà, nhấp vài ngụm, nhíu mày suy tư.

- Tuy cô không tiếp tục tu luyện theo đoạn chú đó nữa và có thể hóa phép thành người nhưng đại sư Ban Trí Đạt là người tính toán rất thấu đáo. Ông ấy đã sử dụng cách thức nghiêm khắc hơn.

- Là bác ấy ư?

Toàn thân Bát Tư Ba run lên bần bật, cánh tay chống xuống giường mỏi mệt.

- Trước lúc lâm chung, bác bảo ta quỳ xuống, đặt tay lên đỉnh đầu ta và niệm một đoạn chú. Ta cứ ngỡ bác ấy đang cầu phúc cho ta, nào ngờ...

- Đúng, đó là một loại bùa chú! Bùa chú này tương khắc với bùa chú mà ông ấy yểm trên người Tiểu Lam, nó không hề gây hại cho sức khỏe của thầy nhưng thầy không thể chạm vào bất cứ loài yêu nào từng tu tập đoạn chú của đại sư Ban Trí Đạt, bởi vì bùa chú yểm trên người thầy sẽ sát thương thầy.

Khabi thở dài nhìn tôi, khẽ chau mày:

- Trên đời này, có mấy yêu quái được đại sư Ban Trí Đạt truyền dạy pháp môn đâu! Rõ ràng ông ấy muốn khống chế cô. Ông ấy cần linh khí và lòng trung thành của cô để bảo vệ hai anh em họ. Nhưng ông ấy không muốn cô và Bát Tư Ba nảy sinh tình cảm, hủy hoại cuộc đời tu hành của quốc sư nên mới nghĩ ra kế sách vẹn toàn này: Dụ cô tu tập theo pháp môn của ngài để trói buộc linh hồn và thể xác của cô. Nếu một ngày nào đó cô phát hiện ra và dừng lại thì ngài đã có cách khác để đảm bảo rằng người thừa kế của ngài không bị cô quyến rũ. Cách đó là: yểm một bùa chú tương khắc lên thân thể Bát Tư Ba để quốc sư suốt đời không thể gần cô!

Tôi như bị đóng băng.

- Nhưng tôi đã ngừng tu tập theo thuật pháp của đại sư từ lâu rồi kia mà!

Khabi lắc đầu:

- Ngừng tu tập cũng vô ích, bởi vì khi cô phát hiện ra thì bùa chú ấy đã ăn sâu vào huyết mạch của cô rồi. Bùa chú này không phải loại bùa chú tà ác, không trái với đạo trời, không ngược với luân thường đạo lý nên khi nó đã được yểm thì không thể hóa giải.

- Không có cách nào hóa giải ư?

Cô ấy lắc đầu xác nhận, nhìn hai chúng tôi, nói:

- Bát Tư Ba, bây giờ thầy thử chạm vào ngườiTiểu Lam đi.

Bát Tư Ba rất đỗi băn khoăn:

- Lẽ nào bần tăng có thể chạm vào cô ấy rồi ư?

Khabi ngập ngừng:

- Ta cũng không biết, có lẽ là được. Trong đầu ta vừa lóe lên một suy nghĩ, ta muốn kiểm chứng.

Tôi ngồi xuống cạnh chàng, Bát Tư Ba thận trọng đưa tay lên má tôi, tôi ngừng thở, dõi theo bàn tay chàng, cho đến khoảnh khắc chàng chạm vào làn da tôi. Chàng khẽ nhíu mày, bàn tay chầm chậm di chuyển trên gương mặt tôi, lạ thay, không có vết thương nơi lòng bàn tay. Chàng mừng rỡ ngẩng nhìn Khabi:

- Tuy vẫn hơi đau nhưng không đến mức không chịu đựng nổi. So với cảm giác thiêu đốt lúc trước, cơn đau đã giảm nhẹ rất nhiều, không xuất hiện vết thương nữa.

Tôi vui mừng quá đỗi, nắm chặt bàn tay chàng:

- Thật ư? Như thế này có khiến chàng đau không? Chàng khẽ chau mày, mỉm cười nhìn tôi:

- Không sao, ta có thể chịu được.

Nhưng Khabi không hề tỏ ra lạc quan, ngược lại, cô ấy càng lo lắng:

- Xem ra, ta đã đoán đúng

Tôi và Bát Tư Ba đều nhận ra biểu cảm khác lạ của Khabi. Chúng tôi siết chặt tay nhau, cùng cầu xin cô ấy:

- Xin hãy cho chúng tôi biết sự thật. Ánh mắt Khabi dừng lại trên đôi tay siết chặt của chúng tôi rất lâu.

- Loại bùa chú này sẽ tự động mất hiệu lực khi linh khí của quốc sư ngày một cạn kiệt và cơ thể thầy ngày càng yếu đi.

Tôi thảng thốt bật dậy, lòng như lửa đốt

-Cô... ý cô là...

- Bần tăng hiểu rồi - Bát Tư Ba điềm tĩnh nhìn Khabi, vẻ mặt an nhiên. - Sở dĩ bần tăng không còn cảm giác đau đớn dữ dội như trước là vì linh khí của bần tăng đã gần cạn kiệt, sự sống không còn được bao lâu, phải vậy không?

Khabi nhìn chúng tôi bằng ánh mắt u buồn, nước mắt trào ra trên gương mặt yêu kiều của cô ấy.

- Cho đến lúc... sự sống kết thúc, thầy sẽ không còn thấy đau khi chạm vào cô ấy nữa.

Trái tim tôi như vỡ tan thành trăm nghìn mảnh. Kể từ lúc rời xa con trai, tôi chưa bao giờ thấy đau khổ như thế này. Tôi không thể chấp nhận sự thật trước mắt. Tôi quỳ xuống, ngửa mặt lên trời, gào thét điên dại:

- Tuy là yêu quái nhưng tôi chưa từng hãm hại ai. Tôi chỉ muốn được cùng người tôi yêu sống cuộc đời bình dị mà sao khó khăn đến vậy? Vì sao ông trời lại đối xử với tôi như vậy? Vì sao người tôi yêu đều phải chịu đựng số mệnh tàn khốc?

Khabi cúi xuống đỡ tôi đứng dậy nhưng tôi gạt tay cô ấy ra, người đổ rạp, kêu khóc thảm thiết. Khabi cũng không cầm được nước mắt

Bát Tư Ba nhẹ nhàng ngồi xuống bên tôi, giọng chàng khe khẽ cất lên:

- Lam Kha, đừng buồn, em nói muốn cùng ta đi trọn chặng cuối của hành trình kia mà.

Tôi ngẩng lên, bắt gặp nụ cười hồn hậu của chàng sau làn nước mắt. Đôi mắt không còn tinh anh như thủa thiếu thời nhưng thông tuệ, bác ái và ngập nỗi bể dâu, đôi mắt thấu suốt tâm hồn tôi. Chàng vỗ về tôi kéo tôi vào lòng. Cơn đau kéo đến khiến chàng phải hít thở sâu để chịu đựng nhưng vòng tay chàng vẫn siết chặt lấy tôi:

- Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa, đừng lãng phí cho nước mắt và khóc than.

Tôi thẫn thờ ngắm nhìn gương mặt gầy guộc, vằn vện nếp nhăn của chàng.

- Chàng bằng lòng từ bỏ triều đình, giáo phái và bộn bề công việc chính sự để ra đi cùng em ư?

- Em còn nhớ di chúc của Kháp Na không? Đệ ấy không muốn ta lao tâm khổ tứ vì giáo phái và hoài bão thống nhất đất Tạng mà muốn ta nghĩ cho bản thân mình, sống cho bản thân mình.

Vầng trán chàng vằn vện những nếp nhăn của tuổi tác đuôi mắt chàng cũng vậy, chỉ cần khẽ chớp mắt, những vết chân chim lại hằn rõ. Chàng lấy ra trong ngực áo viên ngọc linh hồn mà Kháp Na trao cho tôi trong đêm tân hôn, tôi đã buộc nửa sợi dây màu lam vào đó. Sau khi bị đẩy trở lại nguyên hình, tôi không còn linh khí để có thể hóa phép cất giấu viên ngọc nên chàng đã giữ giúp tôi.

Chàng đặt viên ngọc lên đỉnh đầu tôi, vuốt vẽ mái tóc màu lam của tôi, vẻ mặt ngập tràn hạnh phúc:

- Giờ đây ta đã có thể ôm em vào lòng, tuy còn hơi đau nhưng niềm vui này đã vượt tầm kỳ vọng của ta. Ta chỉ cầu mong có thế. Giống như Kháp Na vậy, được cùng người mình yêu rong chơi, ca hát trên đồng cỏ giữa mùa xuân, chèo thuyền trên sông khi hạ về, thưởng thức trái chín khi thu sang và dạo chơi trên tuyết trắng, ngắm hoa mai nở khi đông tới. Ước mơ ấy ta chưa bao giờ dám thổ lộ. Nhưng hôm nay, ta muốn được sống cho bản thân mình. Ta muốn được là mình. Em bằng lòng ở bên ta chứ?

Tôi gật đầu rối rít, vít chặt tà áo tăng ni của chàng, vùi đầu vào lòng chàng, bật khóc nức nở. Chúng tôi quen nhau đã hai mươi lăm năm, gần nửa đời người đã trôi qua, nhưng chưa bao giờ chàng thổ lộ tình cảm như vậy. Nước mắt tôi ướt đầm ngực áo chàng, chiếc áo tăng ni của chàng nhàu nhĩ, hình ảnh trác tuyệt, khôi ngô của một bậc cao tăng đã bị tôi hủy hoại. Vậy mà chàng vẫn cười thật tươi, thật hạnh phúc. Trong mắt tôi, chàng vẫn điển trai, phong thái vẫn bất phàm như ngày nào, chàng vẫn là chú bé mười ba tuổi với ánh hào quang rạng rỡ trong lần gặp gỡ đầu tiên ấy.

Tháng Ba năm đó, Bát Tư Ba trình tấu chương lên Hốt Tất Liệt xin nghỉ ốm. Trung Đô là vùng ẩm thấp, không tốt cho bệnh hô hấp của chàng, chúng tôi muốn dọn đến một nơi khô ráo hơn để chàng tĩnh dưỡng. Hốt Tất Liệt đã ra lệnh cho tất cả các danh y trong kinh thành đến khám bệnh cho Bát Tư Ba. Nhưng sau khi bắt mạch cho quốc sư, tất cả các thầy thuốc đều tấu trình lên Nhà vua tin dữ: Vì quá lao tâm lao lực, căn bệnh kinh niên của quốc sư được dịp phát tác, giờ đã vô phương cứu chữa. Quốc sư không còn sống bao lâu nữa...

Hốt Tất Liệt không thể tin nổi một người trẻ hơn ngài những mười chín tuổi mà sức khỏe lại suy sụp nghiêm trọng nhường vậy! Nghe theo lời khuyên giải của Khabi, ngài đã phê chuẩn cho phép Bát Tư Ba lui về nghỉ dưỡng.

Bát Tư Ba muốn đến vùng Lâm Thao ở Lương châu vì chàng có một trang viên do Hốt Tất liệt ban tặng ở đó. Khí hậu nơi đó khô ráo hơn Trung Đô, sẽ tốt hơn cho người bị bệnh hô hấp kinh niên như chàng.

Tháng 3 năm 1271, hoa đào nở rộ trong chùa Đại Hộ Quốc Nhân Vương, sắc đỏ rợp trời, rực rỡ. Gió mát thổi qua cành lá, cuốn theo những cánh hoa phớt hồng bay lượn trên không trung rồi đổ xuống bờ vai Bát Tư Ba. Chàng đứng đó, giữa lớp lớp hoa bay, lặng nhìn một lần sau cuối người em trai thứ hai và các đệ tử, vẫy tay từ biệt họ rồi ôm tôi vào lòng, bước lên xe ngựa.

- Chàng chỉ đưa một vài đệ tử thân cận đi theo, trong đó có đại đệ tử Drakpa Odzet, người đã theo chàng hai mươi năm qua. Trước lúc ra đi, chàng đã sắp xếp để Rinchen thay chàng gánh vác trọng trách của một quốc sư trong triều đình của Hốt Tất Liệt

- Hốt Tất Liệt tổ chức buổi đưa tiễn Bát Tư Ba vô cùng long trọng ở cổng Sùng Thiên. Nhà vua dặn dò chàng rất nhiều, hết đoạn đường này lại đến đoạn đường khác không muốn rời xa. Thực ra, trong lòng cả hai người đều có chung dự cảm rằng đây có thể là lần từ biệt cuối cùng,

- Ngày xuân nắng ấm, cỗ xe lộc cộc lăn bánh, cành liễu đung đưa trong gió mát ở hai bên đường, Trung Đô khuất xa dần. Ba mươi bảy tuổi, Bát Tư Ba mang theo cơ thể ốm yếu, bệnh tật rời khỏi Trung Đô, kể từ đó cho đến lúc cuối đời, chàng không trở lại kinh thành nức tiếng trong lịch sử Trung Quốc này lần nào nữa.

- Trong khoảng thời gian một năm sau đó, đế quốc của Hốt Tất Liệt có những biến động to lớn. Tháng Mười một năm đó, chúng tôi nhận được tin từ Trung Đô: Viên đại thần người Hán Lưu Bỉnh Trung dâng tấu chương, đề nghị đổi quốc hiệu thành Đại Nguyên.

- Hốt Tất Liệt đã phê chuẩn và lệnh cho Lưu Bỉnh Trung lập ra bức chiếu thư có tên gọi “Kiên quốc hiệu chiếu”[1]

Nước Mông Cổ sẽ đổi tên thành “Đại Nguyên”, Đại hãn Mông Cổ thành Hoàng đế Trung Nguyên. Mọi người phải thay đổi cách xưng hô từ “Đại hãn” thành “Bệ hạ”.

Sự thay đổi này có ý nghĩ vô cùng to lớn với cả một người đau ốm đang sinh sống ở tận vùng Lâm Thao xa xôi. Tước hiệu quốc sư của Bát Tư Ba đã được Hốt Tất Liệt tôn lên một bậc, thành đế sư, có nghĩa là thầy giáo về tôn giáo của người đứng đầu thiên hạ.

Kể từ khi Bát Tư Ba nhận phong tước vị đế sư, trong triều đình nhà Nguyên mới bắt đầu xuất hiện chức vị này. Nếu đế sư viên tịch thì phải lập người kế nhiệm. Nếu đế sư đau ốm, phải rời xa triều chính một thời gian dài thì sẽ ủy thác cho người thay thế. Dù lúc này Bát Tư Ba không còn ở Đại Đô nhưng lòng tín nhiệm và tôn sùng của Hốt Tất Liệt đối với chàng không hề suy giảm. Nhà vua ban bố một đạo chỉ, khẳng định rằng, chức vị đế sư sẽ do người nhà họ Khon đảm nhiệm. Điều đó có nghĩa là, đế sư đời tiếp theo chắc chắn sẽ do Dharma đảm nhiệm.

Về sau, Hốt Tất Liệt đã giữ đúng lời hứa, mười bốn đời đế sư trong suốt chiều dài lịch sử của nhà Nguyên đều do người của phái Sakya đảm nhiệm.

Kể từ khi Thành Cát Tư Hãn lập nước đến giai đoạn này, người Mông Cổ đều tự xưng mình là nước Đại Mông Cổ. Khi Hốt Tất Liệt lên ngôi Đại hãn, nước Đại Mông Cổ đã phân tách thành một số hãn quốc lớn trải dài khắp châu u và châu Á, các hãn quốc này không có bất cứ mối quan hệ phụ thuộc nào. Trung tâm thống trị của Hốt Tất Liệt di dời về đất Hán, xây dựng triều đình, tiếp nối truyền thống của các vương triều Trung Nguyên, bởi vậy cần có quốc hiệu để công bố với dân chúng rằng, triều Nguyên là triều đại mới, kế tiếp của các triều đại phong kiến Trung Nguyên. Cũng tức là tuyên bố với thần dân Trung Nguyên: Nhà nước mà Hốt Tất Liệt cai trị không chỉ là một hãn quốc của người Mông Cổ mà là sự kế tục của các triều đại phong kiến Trung Quốc.

Chàng trai trẻ gật đầu:

- Đúng vậy. Cũng giống như nhà Thanh sau này, khi dân tộc Mãn Châu hòa nhập với dân tộc Trung Hoa, nhà Thanh đã trở thành một trong những vương triều của Trung Nguyên.

Tôi giải thích kĩ hơn về ý nghĩa của chữ “Nguyên”:

- Lưu Bỉnh Trung là một trong những đại thần người Hán nổi tiếng nhất đầu thời Nguyên vì ông ấy đã lập ra quốc hiệu cho quốc gia với cương vực rộng lớn chưa từng có này. Tấu chương của ông viết rằng: Các vương triều trước đây như nhà Tần, nhà Hán đều đặt tên nước bằng tên vùng đất nơi vương triều được lập nên. Nha Tùy, nhà Đường thì đặt tên nước bằng tên vùng đất được ban phong. Tất cả những tên gọi đó đều không làm toát nên sự vĩ đại vương triều mình. Trong Kinh dịch có câu: “To lớn thay! Nguyên khí của đất trời.” Chúng ta hãy mượn y này để đặt quốc hiệu là “Đại Nguyên”.

Chàng trai trẻ thốt lên kinh ngạc

- Hóa ra nguồn gốc tên gọi của triều Nguyên xuất phát từ ý nghĩa đó. Tôi còn nhớ, thủ đô của triều Nguyên là Đại Đô nhưng lúc trước cô thường gọi là Yên Kinh, sau đó lại gọi là Trung Đô. Vậy đến thời điểm nào mới bắt đầu gọi là Đại Đô?

Lúc này đã là nửa đêm, thời tiết giá buốt. Tôi lấy thêm cho cậu ta một tấm thảm rồi đáp:

- Đến năm thứ hai, tức năm Chí Nguyên thứ chín, tức tháng 2 năm 1272, Hốt Tất liệt đã chấp nhận lời đề nghị của Lưu Bỉnh Trung, đổi tên Trung Đô thành Đại Đô. Từ đây, Đại Đô chính thức trở thành thủ đô của triều Nguyên.

1.Chiếu thư về việc đổi quốc hiệu. (DG)

Chương 55

Cuộc sống ẩn dật


“Người chính trực dù vấp phải nguy nan cũng không đổi bản sắc,

Vàng ròng bị nung chảy cũng không biến thành màu khác.”

(Sách ngôn Sakya)

Năm thứ 1273, tức năm Quý Dậu, m Thủy theo lịch Tạng, tức niên hiệu Hàm Thuần thứ chín, nhà Nam Tống, tức hiệu Chí Nguyên thứ mười, nhà Nguyên.

Bát Tư Ba ba mươi chín tuổi, Chân Kim ba mươi tuổi.

- Thưa cô, tiệm trang sức của chúng tôi nổi tiếng nhất nhì đất Lâm Thao này đó. - Ông chủ tiệm đôn đả mời chào, câu kéo. - Thiếu nữ có nhan sắc khuynh nước khuynh thành như cô nương nên chọn cho mình món trang sức thượng hạng mới xứng, mới tôn thêm vẻ đẹp như hoa như nguyệt của cô.

Tôi dìu Bát Tư Ba đi lại ngắm nghía cửa tiệm trang sức này.

- Này chủ quán, chúng tôi chỉ muốn mua một số phụ kiện chất lượng tốt để về tự kết hợp.

- Hàng rời, chất lượng tốt ư? - Ông chủ tiệm quả là người có đầu óc kinh doanh nhạy bén, đối đáp lượm liền. - Có chứ, có chứ. Các vị cứ khảo sát cả thành phố Lâm Thao này sẽ thấy, tiệm chúng tôi đây là tiệm trang sức có nhiều kiểu dáng mới nhất, đẹp nhất. Không biết ông lão định làm thành thứ đồ trang sức gì? Cây thoa Kim Phượng, vòng tay bằng ngọc hay là vòng cổ?

Tôi khẽ cau mày khi nghe ông ta gọi như vậy. Bát Tư Ba chẳng bận tâm, chàng đáp:

- Một chuỗi hạt đeo tay. Tôi sẽ tự nghĩ ra kiểu dáng và tự xâu kết.

- Một chuỗi? Chỉ là vòng tay thôi ư? - Ông chủ tiệm tiếp tục buôn bán nước bọt câu kéo khách hàng - Con gái cụ xinh như mộng thế này, phải cho cô ấy đeo vàng bạc, châu báu mới xứng với cô ấy, chỉ một chuỗi hạt thì ăn thua gì!

- Một chuỗi là đủ. Chúng tôi chỉ muốn mua một ít đá khổng tước[1], đá thanh kim[2] và hạt xà cừ[3]. Nếu ông không có, chúng tôi sẽ đi tiệm khác.

Tôi làm mặt lạnh, trách móc:

- Và này ông chủ tiệm, đây là chồng tôi.

Ông chủ tiệm không khỏi sững sờ, đưa mắt quan sát kĩ lưỡng hai vị khách ăn vận hết sức giản dị trước mặt. Có lẽ vì nhận thấy phong thái khác người của chúng tôi, ông ta mới đích thân ra tiếp đón thế này. Nhưng ông chủ tiệm cũng là người rất mau mắn, nhanh trí.

- Cô nương quả là người có con mắt tinh tường. Tướng công của cô diện mạo phi phàm, phong thái đĩnh đạc rất đáng ngưỡng mộ!

Tôi phì cười, đúng là mồm mép tép nhảy, đưa người ta một bước lên mây xanh. Bát Tư Ba lúc này nhìn như người đã ngoài năm mươi tuổi, da mặt nhăn nheo, vóc dáng cao gầy, lom khom. Tuy gương mặt chàng vẫn toát lên sự thông tuệ, trác tuyệt nhưng chẳng thể dùng những cụm từ như “diện mạo phi phàm” để mô tả chàng đuợc nữa. Tôi nhìn trộm Bát Tư Ba, thấy chàng không hề phật ý, cũng không để tâm những lời ông chủ tiệm vừa nói.

Tôi trừng mắt lườm ông ta một cái:

- Ông mau lấy đồ ra đi, không là chúng tôi đi luôn đây.

- Ấy chớ, đá khổng tước, đá thanh kim và hạt xà cừ thượng hạng, tiệm chúng tôi đều có cả và đều được nhập về từ Thiên Trúc, Kabul(*) xa xôi ngàn dặm, hàng thật, giá cả phải chăng. Thử hỏi cả thành Lâm Thao này làm gì có tiệm vàng nào có được hàng thượng hạng như ở tiệm chúng tôi chứ?

(*) Ngày nay là Pakistan, Aighamstan, nơi chuyên sản xuất đá thanh kim.

Ông ta vừa quảng cáo vừa ôm một cái hộp kiểu dáng rất bắt mắt ra. Quả nhiên không ngoa, đều là trang sức thượng hạng, Bát Tư Ba từng chiêm ngưỡng và sở hữu nhiều vàng bạc, châu báu nên chàng rất rành, tự mình lựa những hạt đẹp nhất, tốt nhất.

Lúc rời khỏi tiệm trang sức, mặt trời đã ngả về tây, ánh hoàng hôn vàng ruộm đổ lên vai chúng tôi, hơi ấm mùa xuân thấm vào tận buồng tim lá phổi, chúng tôi cùng hít hà cho căng tràn lồng ngực hương hoa đào ngan ngát trong không gian rồi nhìn nhau mỉm cười quay về trang viên. Hai năm qua, chúng tôi sống ẩn dật ở Lâm Thao, không ai hay biết chủ nhân của trang viên rộng lớn này, ông lão cao gầy ấy chính là vị đế sư chưa đầy bốn mươi tuổi. Ngày thường, chúng tôi rất ít khi ra ngoài, nhưng cứ xuất hiện là có người chỉ trỏ, bàn tán. Chắc chắn là những lời đàm tiếu chẳng mấy hay ho về cặp đôi chồng già - vợ trẻ này.

Hôm nay, Bát Tư Ba đột nhiên cao hứng muốn làm vòng tay cho tôi. Chàng muốn tự mình đi chọn đồ, thế là chúng tôi cùng nhau ra phố. Quả không ngoài dự đoán, người ta xúm đông xúm đỏ, chỉ trỏ, bàn tán sau lưng chúng tôi, thậm chí không ít những chú chàng trẻ trai còn đánh bạo, ra rả châm chọc.

- Ôi! Bông hoa nhài cắm bãi phân trâu!

Nhưng chúng tôi chẳng để tâm đến họ, tôi cũng chẳng buồn biến phép dạy cho họ một bài học. Chúng tôi vẫn tay trong tay, thủng thẳng cất bước. Giờ đây, khi cảm giác đau đớn ngày càng giảm đi, chàng rất thích được nắm tay tôi. Một buổi chiều mùa xuân êm đềm như thế, tôi và người tôi yêu cùng nhau tận hưởng thế giới của riêng hai người. Bình yên, đầm ấm, với chúng tôi thế là đủ.

Kể từ khi dọn đến Lâm Thao, Bát Tư Ba để tôi được đường đường chính chính xuất hiện trước mặt mọi người, không cần phải giả làm người hầu như trước nữa, chỉ đề nghị tôi giấu màu tóc và màu mắt xanh đi. Và tôi đã ở bên chàng với danh phận là Lam phu nhân. Tuy không công bố chính thức nhưng mọi người đều ngầm thừa nhận mối quan hệ giữa hai chúng tôi. Sakya vốn là giáo phái phật giáo cho phép tăng sĩ kết hôn nên không ai thắc mắc hay nghi hoặc gì. Khi tin tức được truyền đến Trung Đô, Hốt Tất Liệt đã rất vui mừng và quyết định ban phong tước vị. Nhưng Bát Tư Ba kiên quyết từ chối, và vì thế tôi đã không phải đội lên đầu thứ trang sức nặng trình trịch mà tước vị Cáo mệnh phu phân mang lại.

Khi chúng tôi vừa về đến trang viên, Drakpa Odzer lập tức bẩm báo:

- Vương gia Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi dẫn theo con gái Bối Đan đến thăm pháp vương, ngài đã chờ khá lâu rồi.

Chúng tôi cùng vào phòng khách, Khởi Tất vội vã kéo cô con gái chừng mười tuổi đứng lên, vái chào chúng tôi.

Bát Tư Ba bước lại, đỡ họ dậy.

- Người anh em đừng khách sáo. Huynh vượt đường sá xa xôi đến đây thăm ta, ta vui lắm!

Khởi Tất năm nay năm mươi tuổi, hơn Bát Tư Ba mười một tuổi. Những năm qua, cậu ta đã già đi rất nhanh, bệnh tật vây khốn, cơ thể tráng kiện, vạm vỡ năm nào giờ chỉ còn da bọc xương. Khởi Tất nhìn Bát Tư Ba, lắc đầu:

- Người anh em, chỉ e đây là lần cuối cùng ta gặp được đệ. Thầy thuốc nói rằng, bệnh huyết hư của ta vô phương cứu chữa, chỉ còn chờ chết mà thôi.

Bát Tư Ba sững sờ, nỗi âu lo hiển hiện trên nét mặt:

- Sao lại như vậy? Ta sẽ lập tức xin với Bệ hạ, để ngài cử danh y tốt nhất đến thăm bệnh cho huynh. Huynh cần dùng bất cứ loại thuốc quý hiếm nào, cũng xin nói cho ta biết.

Khởi Tất nghiêng đầu ho một chặp.

- Vô ích thôi. Bao năm qua đã chữa đủ mọi cách mà vẫn không khỏi, ta hết hy vọng rồi. Ta chỉ lo cho đứa con gái bé bỏng này.

Bát Tư Ba buồn bã ngước nhìn gương mặt tiều tụy của Khởi Tất:

- Người anh em ốm đau như vậy mà vẫn cất công đến đây, chắc hẳn không phải chỉ để hàn huyên chuyện cũ. Huynh cần ta giúp điều gì, xin cứ nói, ta nhất định sẽ tận lực!

Khởi Tất đưa mắt nhìn cô con gái Bối Đan. Bát Tư Ba hiểu ý, bảo tôi đưa Bối Đan ra ngoài hóng gió. Tôi bèn dắt cô bé ra vườn chơi đùa, trò chuyện. Lúc đầu còn lạ lẫm, cô bé có vẻ khép nép, nhưng sau quen dần thì tỏ ra rất mực thân thiết. Tôi vừa chơi đùa với cô bé vừa dỏng tai nghe ngóng câu chuyện trong phòng khách.

- Quả là ta có việc muốn thỉnh cầu đế sư, mong ngài nể tình ông lão già cả này mà nhận lời cho.

Giọng nói của Khởi Tất chất chứa nỗi nghẹn ngào, xúc động.

- Xin người anh em hãy đứng lên. Huynh đang đau ốm, đừng quỳ trên nền đá lạnh như thế.

Tôi có thể đoán ra, Khởi Tất đã quỳ dưới chân Bát Tư Ba.

- Đệ bây giờ đã là bậc đế sư, hoàng tử, công chúa trong cung gặp đệ cũng phải cung kính vái chào. Vậy mà đệ vẫn nhớ đến người anh em từ hơn hai mươi năm trước này. Đệ quả là người nặng tình nặng nghĩa!

Khởi Tất khóc lóc một hồi. Bát Tư Ba phải ra sức an ủi động viên, Khởi Tất mới kiềm chế nỗi xúc động, nói tiếp:

- Nếu phải ra đi, ta không còn gì nuối tiếc, ta chỉ lo cho đứa con gái bé bỏng, tội nghiệp này. Nếu ta chết, mấy thằng anh trai lòng dạ độc ác của nó chắc chắn sẽ không tìm cho nó một người chồng tử tế đâu.

Nghe lời tâm sự của Khởi Tất, tôi mới chợt nhớ ra, trước đây từng nghe được một vài tin đồn. Hồi trẻ, Khởi Tất vì quá phong lưu, phóng đãng nên đã sinh ra cả một bầy con trai. Mười cậu ấm suốt ngày tranh giành, đấu đá, chỉ mải mê ăn chơi, rượu chè cờ bạc. Nhưng đất phong của Khởi Tất đã bị Hốt Tất Liệt tước gần hết, lấy đâu ra của cải cung phụng cho đám đổ đốn vô đối ấy. Nghe nói, mấy năm gần đây, cuộc sống của Khởi Tất rất ư khốn khó, cả Vương phủ đông đúc phải sống dựa vào việc cầm cố hết tài sản này đến của cải khác. Đám con trai bất hiếu kia chỉ mong sao cha mình chết sớm để còn chia tài sản.

Bát Tư Ba an ủi Khởi Tất:

- Xin người anh em đừng quá lo lắng. Ta nhất định sẽ tìm cho công chúa Bối Đan một gia đình tử tế làm quan trong triều.

Nhưng Khởi Tất lại nói rằng:

- Người anh em, chi bằng hai gia đình chúng ta hãy kết làm thông gia. Hãy cho con gái ta làm cháu dâu đệ, được không? Bối Đan trở thành con dâu của phái Sakya thì nó mới có thể tránh khỏi cảnh bị nhà chồng khinh rẻ vì số của hồi môn bọt bèo.

Tôi điếng người, đến nỗi Bối Đan gọi mấy tiếng “dì Lam” mà tôi cũng không nghe thấy. Thì ra, Khởi Tất lê tấm thân bệnh tật đến tận Lâm Thao là vì mục đích này. Nhưng trước đó, Bát Tư Ba đã nhận lời với Zhuoma và Kunga Zangpo rồi kia mà!

- Chuyện này... - Bát Tư Ba do dự. - Mấy năm trước, ta đã chỉ định hôn sự cho Dharma, cô dâu là con gái của người em gái lớn của ta...

Khởi Tất ra sức thuyết phục:

- Không sao cả, chỉ cần con gái ta không bị thiệt thòi với phận làm thiếp là được.

Tuy Khởi Tất đã sa sút nhưng dù sao con gái cậu ta cũng là công chúa Mông Cổ nên nếu đặt địa vị của Bối Đan ngang bằng với Jumodaban, vợ chồng Kunga Zangpo cũng không thể phản đối. Căn phòng yên ắng đến lạnh người. Tôi lắng nghe hồi lâu mới thấy tiếng Bát Tư Ba trịnh trọng đáp:

- Được, người anh em, ta nhận lời với huynh. Sau khi huynh ra đi, ta sẽ thay huynh chăm sóc Công chúa Bối Đan. Ta cũng hứa sẽ không để cô bé phải chịu thiệt thòi khi về làm dâu phái Sakya.

Tôi sững sờ, ngay sau đó cảm giác buồn tủi dâng lên ngập lòng. Tôi quay sang ngắm nhìn đứa bé hồn nhiên kia, cô bé hơn Dharma bốn tuổi. Không hiểu vì sao, cô bé làm tôi nhớ đến Kháp Na và Mukaton.

Buổi tối. Bát Tư Ba cần mẫn tết chuỗi vòng đeo tay dưới ánh đèn dầu. Tôi đặt bát canh yến trước mặt chàng:

- Vì sao chàng nhận lời với Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi?

Chàng đặt chuỗi hạt xuống, chầm chậm uống bát canh yến.

- Vương gia Khoát Đoan, cha của huynh ấy có ơn với giáo phái Sakya. Ta và huynh ấy lại là anh em kết nghĩa đã hơn hai mươi năm, huynh ấy quỳ xuống cầu xin ta như vậy, làm sao ta từ chối cho được. Hơn nữa, Mukaton vì Kháp Na mà chết, trong lòng ta rất áy náy. Ta chấp nhận cuộc hôn nhân này cũng là để bù đắp cho Khởi Tất

- Chàng không thấy Dharma và Bối Đan rất giống Kháp Na và Mukaton sao?

Con trai của Kháp Na lấy cháu gái của Mukaton, số phận thật lạ kỳ, nhưng không biết đây sẽ là mối lương duyên hay là nghiệt duyên nữa.

Chàng vuốt ve mái tóc màu lam của tôi, mỉm cười bảo:

- Ta biết em đang lo lắng chuyện gì. Ta tin rằng chúng sẽ không bất hạnh như Kháp Na và Mukaton. Chờ khi Dharma trưởng thành, tới Trung Đô, ta sẽ cho hai đứa trẻ làm quen với nhau, sau đó mới cho chúng kết hôn.

Tôi lắc đầu buồn bã. Tuy là mẹ nhưng tôi chẳng có quyền quyết định chuyện hôn sự của con trai, tất cả đều phải nghe theo Bát Tư Ba. Tôi không thấy thoải mái chút nào. Tôi luôn cổ súy cho hôn nhân một vợ một chồng, đầu bạc răng long, chứ không phải những cuộc hôn nhân chính trị, ép những đứa trẻ chẳng hề quen biết nhau phải chung sống với nhau. Nhưng tôi cũng hiểu rằng đó là tục lệ phổ biến của xã hội này. Cô dâu thường chỉ biết mặt chú rể sau khi khăn che mặt được vén lên. Nếu người con trai có địa vị, quyền thế thì có thể cưới cả đám vợ cũng không sao, Kháp Na cũng từng cưới ba người vợ đó thôi. Tôi sống với loài người chừng ấy năm, lẽ ra phải quen những phong tục, tập quán này mới đúng chứ! Dharma là người thừa kế duy nhất của phái Sakya, nó sẽ giúp Sakya phát triển lớn mạnh, sẽ sinh cho nhà họ Khon thật nhiều con cháu. Phái Sakya chắc chắn sẽ không đồng ý nếu nó chỉ lấy một người vợ duy nhất.

Không biết vì sao, trong lòng tôi cứ thấp thỏm lo âu. Tôi đưa mắt nhìn Bát Tư Ba. Chàng đang tập trung tinh thần, miệt mài tết dây xâu chuỗi hạt dưới ánh nến. Chốc chốc chàng lại nhắm mắt nghỉ ngơi một lát rồi mới tiếp tục công việc. Thực ra, Bát Tư Ba không phải một con người hoàn hảo. Chàng đã hình thành cho mình một thói quen, làm việc gì cũng phải xét đến lợi ích của giáo phái trước nhất. Đó là kiểu giáo dục đã ăn sâu vào tiềm thức của chàng từ nhỏ, nhất là sau khi được chọn làm người kế thừa của giáo phái. Nhưng nếu chàng có thể trở thành một người như đại sư Ban Trí Đạt kỳ vọng, luôn đặt lợi ích của giáo phái lên trên tất thảy, gạt bỏ mọi tình cảm cá nhân thì có lẽ chàng đã không phải đau khổ như vậy. Tôi thầm nguyện cầu, ngày sau, Dharma của tôi sẽ không giống chàng.

Chiếc vòng được hoàn tất sau ba ngày vất vả. Hôm ấy, Bát Tư Ba trao cho tôi một chiếc túi gấm rất đẹp.

- Đẹp quá!

Tôi mở túi, lấy chiếc vòng ra, thốt lên kinh ngạc. Những viên đá khổng tước và đá thanh kim lóng lánh huyễn hoặc. Những miếng xà cừ được gọt tỉa thành hình hoa sen và lá sen vô cùng sống động, tài tình. Tôi háo hức xỏ luôn vào tay.

- Đi theo chàng hơn hai mươi năm mà em không biết chàng lại khéo tay như vậy.

Chàng đỏ mặt ngại ngùng:

- Mẹ ta đã hướng dẫn ta cách làm đó. Lúc nhỏ, ta thường ngồi trong lòng mẹ, xem bà bện dây xâu những chuỗi tràng hạt. Mẹ đã xâu rất nhiều chuỗi hạt với hình dáng, kiểu cách khác nhau, rất sinh động. Tiếc là nhiều năm qua ta không làm việc này nên đã quên hết các kiểu dáng độc đáo, chỉ làm được chiếc vòng tay đơn giản thế này thôi.

Tôi xoay đi xoay lại, ngắm mãi không chán.

- Em thích lắm, rất thích, rất đẹp. Em sẽ đeo chiếc vòng này suốt đời!

Bàn tay chàng dịu dàng vuốt ve mái tóc tôi, ngừng lại nơi viên ngọc Linh hồn lấp lánh ánh sáng.

- Ngày nào em cũng mang theo bên mình ngọc Linh hồn và sợi dây của Kháp Na. Ta cũng muốn tự tay làm một món quà gì đó tặng em, nghĩ mãi mới ra thứ này.

Chàng nắm tay tôi, ngắm nghía chuỗi vòng trên cổ tay tôi, giọng chàng chợt buồn:

- Em thích nó thì hãy đeo nó mỗi ngày, thấy nó cũng như thấy ta vậy.

Tôi nhận ra trong câu nói của chàng dư vị chua xót của lời giã biệt, lòng không khỏi băn khoăn:

- Chàng định đuổi em đi ư?

- Lam Kha, em đã ở bên ta hai năm. Hai năm không phải bận lòng với việc chính sự và những việc mệt mỏi khác, chỉ có em cận kề bên ta, ta vui lắm. Đây là quãng thời gian hạnh phúc nhất đời ta.

Chàng thả tay tôi xuống, chầm chậm cất bước đến bên cửa sổ, lặng nhìn cây bạch dương vừa mọc thêm những chồi non mơn mởn ngoài kia, khẽ thở dài:

- Hai năm là đủ rồi.

Tôi bước lại gần chàng, ngước nhìn bóng dáng gầy guộc của chàng mà lòng se sắt:

- Em sẽ không đi đâu cả.. .

Chàng đột ngột quay lại:

- Đừng lãng phí thời gian cho một kẻ sắp chết như ta! Em đã trọn tình vẹn nghĩa với ta, em nên quay về Sakya thăm Dharma, nó sáu tuổi rồi đó. Mấy hôm trước ta nhận được thư của Kunga Zangpo, viết rằng Dharma rất tinh nghịch, đáng yêu và vô cùng thông minh, càng ngày càng giống Kháp Na. Em không muốn về thăm con sao?

- Em muốn. - Tôi bình thản nhìn vào mắt chàng. - Nhưng đối với em, người quan trọng hơn cả lúc này là chàng. Dharma còn cả chặng đường dài phía trước, nhưng chàng...

Tôi chưa nói hết câu, chàng đã sụp xuống khiến tôi hoảng hốt, vội chạy lại đỡ lấy chàng. Tôi lay gọi chàng nhưng chàng không đáp lại. Tôi dìu chàng đến bên giường, đỡ chàng nằm xuống, vuốt ve vầng trán chàng, gương mặt chàng vàng vọt, hơi thở yếu ớt, sự sống đang chầm chậm bỏ chàng mà đi.

Có lẽ vì vậy mà chàng muốn tôi ra đi, có lẽ vì vậy mà chàng gấp rút sắp xếp chuyện hôn sự của Dharma. Chàng đã dự cảm được tình trạng sức khỏe của mình nên muốn sắp xếp ổn thỏa mọi thứ?

Tôi lập tức cúi xuống, đặt môi lên miệng chàng, truyền linh khí cho chàng, sở dĩ tôi phải nén chặt nỗi nhớ con trong lòng và không chịu rời xa chàng một bước là vì tôi biết rằng chàng có thể gục xuống bất cứ lúc nào. Tôi chầm chậm truyền linh khí cho chàng, đôi mắt chàng vẫn khép chặt, bờ môi khô lạnh, làn da tái xám. Tuy đã lấy lại hình hài con người nhưng tôi vẫn ngày đêm khổ công tu luyện, không dám trễ nải. Bởi vì tôi biết mình phải chuẩn bị một lượng linh khí thật dồi dào phòng khi cần kíp. Và vì tôi là người duy nhất có thể kéo dài sự sống cho chàng.

Tôi không dám truyền linh khí quá lâu, sợ khi chàng tỉnh lại, sự tiếp xúc da thịt giữa chúng tôi sẽ khiến chàng đau đớn. Tôi ngồi bên giường, ngắm nhìn gương mặt đang say ngủ của chàng, tử khí vây quanh chàng đã tan biến. Gương mặt chàng an nhiên, tĩnh tại. Tôi nhẹ nhàng chạm vào bờ môi, vầng trán và chiếc cổ nhăn nheo của chàng. Tình yêu thuở thiếu thời của tôi dành cho chàng đã lên một nấc mới. Không chỉ là yêu, mà với tôi, chàng là người thân yêu nhất, đáng tin cậy nhất, là người tôi thường nhớ nhất, không muốn rời xa nhất. Ánh mặt trời tràn vào căn phòng, chiếu sáng chuỗi hạt trên cổ tay tôi. Những viên đá khổng tước, đá thanh kim lấp lánh, rực rỡ, lung linh, huyền ảo.

Chàng tỉnh lại. Tôi rót nước cho chàng, cầm lá thư trên bàn, hỏi:

- Drakpa Odzer vừa đến, báo rằng có mật thư gửi từ Sakya. Chàng muốn đọc ngay không?

Chàng gật đầu, đón lấy bức thư, mở ra đọc. Tôi thấy sắc mặt chàng càng lúc càng xấu đi, vội lao đến, hỏi:

- Thư viết gì vậy?

Chừng như rất tức giận, bàn tay cầm lá thư của chàng run lên:

- Kunga Zangpo càng ngày càng tồi tệ, thủ đoạn độc ác, chỉ vì tranh chấp lãnh thổ, dám gây ra đổ máu!

Sự việc là thế này: Vùng Ali do quý tộc Nangsababoxi cai quản, cũng là một trong mười ba vạn hộ hầu do Bát Tư Ba sắc phong. Nangsababoxi có quan hệ mật thiết với phái Phaktru nên Ali lâu nay vẫn được xem là thuộc phạm vi thế lực của phái Phaktm. Kunga Zangpo ra lệnh trao đổi các cư dân Mid ở vùng Ali của Nangsababoxi với các hộ dân thuộc vùng Nagarze bên hồ thiêng Yamdrok-tso. Nagarze vốn thuộc phạm vi thế lực của phái Drikung nên động thái này của Kunga Zangpo rõ ràng là muốn tạo ra mâu thuẫn giữa hai phái Drikimg và Phaktru. Tất nhiên là Nangsababoxi không đồng ý, đã ra sức chống đối. Kunga Zangpo mua chuộc người hầu cận của Nangsababoxi, một nhà sư mười tám tuổi, tên gọi Damparinqu. Tên hầu cận này đã hạ độc giết chết Nangsababoxi. Kunga Zangpoban thưởng cho Damparinqu bằng cách cắt vùng Maizho Pakza tặng cho hắn. Nangsababoxi không có người thừa kế nên nhân lúc phái Phaktru chưa kịp can thiệp vào việc này, Kunga Zangpo đã nhanh tay chiếm đoạt toàn bộ đất đai của Nangsababoxi.

Tuy việc làm của Kunga Zangpo đã giúp phái Sakya giành được một địa bàn hết sức rộng lớn nhưng đó là đất đai có được nhờ sử dụng thủ đoạn bỉ ổi, gây tai tiếng xấu và kích động sự phẫn nộ của quần chúng. Tôi không muốn Bát Tư Ba vì tức giận mà ảnh hưởng đến sức khỏe nên đã nói đỡ cho Kunga Zangpo:

- Tuy làm vậy thật tàn bạo nhưng cũng có thể hiểu được. Cậu ấy muốn trả thù hai phái Phaktru và Drikung.

Bát Tư Ba tức giận:

- Ta cũng muốn trả thù nhưng phải hành động thật quang minh chính đại, tuyệt đối không thể dùng thủ đoạn tàn độc, đê tiện như vậy được!

Tôi thở dài:

- Kunga Zangpo giờ đã là bản khâm của giáo phái, chàng không có nhà, Dharma lại còn nhỏ nên bản khâm sẽ là người nắm trong tay quyền lực lớn nhất đất Tạng. Quyền lực trong tay, lâu dần người ta sẽ thay đổi cách nghĩ.

Kunga Zangpo là một người cơ trí, mẫn cán. Phán xét một cách công bằng thì trong vòng mấy năm kể từ khi nhậm chức bản khâm, Kunga Zangpo đã có những cống hiến to lớn cho phái Sakya, phần lãnh thổ thuộc quyền sở hữu của phái Sakya nhờ cậu ta mà nhiều lên gấp đôi. Và tất cả đất đai này đều thuộc về Sakya, Kunga Zangpo không hề có ý đồ tư lợi. Cậu ta đã giám sát xây dựng hoàn thiện gian chính điện quan trọng nhất của đền Nam Sakya, đúc thành công bức tượng Quan m Bồ Tát mạ vàng để tưởng niệm đại sư Ban Trí Đạt và lệnh cho thợ thủ công hoàn thành toàn bộ số bích họa dọc hành lang bên ngoài đại điện. Dưới bàn tay điều hành của Kunga Zangpo, quy mô ngôi đền Nam Sakya đã bước đầu thành hình. Tầm ảnh hưởng của cậu ta ở Sakya càng ngày càng lớn. Rất nhiều người trong giáo phái tỏ ra khâm phục và dần dà ủng hộ cậu ta hết lòng:

- Cậu ta có công với giáo phái nhưng công lao đó không thể bù đắp những tội ác mà cậu ta gây ra.

Bát Tư Ba gắng gượng ngồi dậy, bảo tôi:

- Giúp ta một tay, đỡ ta ngồi dậy. Ta phải viết thư đe nẹt, giáo huấn cậu ta mới được.

Dù rất lo lắng cho sức khỏe của chàng nhưng tôi cũng đành kéo chiếc bàn làm việc nhỏ của chàng tới sát mép giường và giúp chàng mài mực. Mấy ngày sau, bức thư khiển trách Kunga Zangpo được gửi đi từ Lâm Thao. Khi ấy, chúng tôi không hề biết rằng, mâu thuẫn giữa Kunga Zangpo và Bát Tư Ba đã bắt đầu nảy sinh và nó sẽ lớn dần, trở thành cơn cuồng phong nhuốm máu về sau.

Mùa hè năm đó, chúng tôi nhận được tin tức từ Đại Đô: Chân Kim đã được lập làm thái tử!

Các đại thần người Hán nhiều lần trình tấu chương, đưa ra ý kiến, các vương triều ở Trung Nguyên xưa nay đều có thông lệ, hoàng đế lập thái tử kế ngôi ngay trong thời gian tại vị. Nhập gia thì phải tùy tục, vậy nên Hốt Tất Liệt đã hạ chỉ lập Chân Kim làm thái tử. Chân Kim trở thành thái tử danh chính ngôn thuận đầu tiên trong lịch sử Mông Cổ.

Tôi khẽ thở dài:

- Chân Kim trở thành vị thái tử đầu tiên trong lịch sử Mông Cổ. Tin tức này làm dấy lên hai luồng ý kiến trái chiều trong triều đình nhà Nguyên. Người Hán thì ủng hộ còn người Mông Cổ thì bất mãn.

Chàng trai trẻ ngạc nhiên hỏi:

- Vì sao? Lẽ nào Chân Kim không được lòng người Mông Cổ?

- Các quý tộc Mông Cổ đã tranh cãi rất nhiều về Chân Kim. - Nhớ đến vị thái tử mà số phận rất mực lận đận, bi đát này, lòng tôi chợt buồn ảo não. - Chân Kim từ nhỏ đã được nuôi dưỡng trong môi trường Nho học của người Hán. Bên cạnh cậu ấy lúc nào cũng có hàng tá các nhà Nho tài ba vây quanh, họ đều là những nhân vật chủ chốt, đại diện cho chủ trương trị quốc bằng Nho giáo trong triều đình Hốt Tất Liệt. Đối với người Hán, việc lập Chân Kim làm thái tử là phù hợp với truyền thống của các vương triều Trung Nguyên, bởi vậy, họ đặt rất nhiều kỳ vọng ở cậu ta. Họ cho rằng, Chân Kim là người kế vị tương lai, cậu ta sẽ bắt đầu một thời đại mới của nền Nho trị, vị thế của người Hán trong triều đình nhà Nguyên chắc chắn sẽ được nâng cao.

Chàng trai trẻ lắc đầu:

- Điều này chắc chắn động chạm đến quyền lợi của người Mông Cổ.

Tôi gật đầu:

- Đúng vậy. Người Mông Cổ cho rằng Chân Kim đã bị Hán hóa, nếu cậu ta kế vị thì triền đình này sẽ trở thành thiên hạ của người Hán. Hơn nữa, người Mông Cổ không có thông lệ lập người kế vị khi Đại hãn vẫn còn sống. Mấy trăm năm qua, thông lệ của người Mông Cổ vẫn là: sau khi Đại hãn qua đời, các vương gia sẽ tổ chức hội nghị Kurultai để bầu chọn người kế nhiệm ngôi vị Hãn vương tiếp theo. Đại hội này không thông qua thì không ai có thể trở thành Đại hãn hợp pháp. Nếu đại hội không thể lập tức chọn ra Hãn vương phù hợp thì chính quyền sẽ do hoàng hậu tạm thời cai quản, cho đến khi đại hội chọn ra Hãn vương kế nhiệm.

Bởi vậy, chức vị thái tử của Chân Kim đã gây nhiều tranh cãi trong nội bộ các quý tộc Mông Cổ.

1. Là loại đá quý màu lục, dễ biến sắc tùy theo góc phản chiếu và khúc xạ ánh sáng, dùng làm đồ trang sức, mỹ nghệ. (DG)

2. Loại đá có màu xanh biếc, còn gọi là đá Lapis lazuli. (DG)

3. Xà cừ: Tên một loại vỏ sò rất lớn, phân bố chủ yếu ở n Độ Dương và Tây Thái Bình Dương.

Chương 56

Chân Kim đến thăm

“Nếu nhà vua không lo cho dân, cho nước,

Thì đó là dấu hiệu của thế nước suy vong;

Nếu mặt trời không xua tan bóng đêm,

Thì đó là dấu hiệu của hiện tượng nhật thực.”

(Cách ngôn Sakya)

Năm 1274, tức năm Giáp Tuất, dương Mộc theo lịch Tạng, tức niên hiệu Hàm Thuần thứ mười, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ mười, nhà Nguyên.

Bát Tư Ba bốn mươi tuổi, Chân Kim ba mươi mốt tuổi. Chúng tôi sống ẩn dật ở Lâm Thao và không muốn bị làm phiền. Bát Tư Ba trút bỏ mọi công việc chính sự ở Đại Đô và giao cho em trai thứ hai thay mình gánh vác trọng trách, nhưng chàng không thể không bận tâm việc của giáo phái. Ông trời đã sắp bày để năm 1274 là một năm nhiều sóng gió

Vừa ăn Tết xong, chúng tôi lại nhận được mật thư gửi từ Sakya- Bát Tư Ba không thể tin nổi, bức thư khiển trách Kunga Zangpo vẫn đang trên đường tới Sakya thì chàng đã nhận được tin mật báo tiếp theo về những việc làm của vị bản khâm đời thứ hai: Kunga Zangpo đích thân thống lĩnh đội quân võ tăng gồm hàng nghìn người tấn công đền Drikung và tiêu diệt toàn bộ tăng sĩ trong ngôi đền của một trong những giáo phái lớn nhất đất Tạng này!

Hai tay Bát Tư Ba run lên bần bật, chàng đấm mạnh xuống bàn:

- Hắn thật to gan, ai cho hắn mặc ý làm bừa như vậy!

Tôi lo lắng cho sức khỏe của chàng nên vội vã giữ chặt cánh tay chàng, nghẹn ngào:

- Cậu ta muốn trả thù cho Kháp Na.

Bát Tư Ba nổi giận đùng đùng:

- Trả thù thì sao không nhắm vào Chung Dorje? Hắn giết cả hàng nghìn người rồi phóng hỏa đốt đền, như vậy không gọi là trả thù mà là giết người, cướp của! Rồi đây, người ta sẽ nghĩ sao về phái Sakya? Dân chúng sẽ cho rằng phái Sakya ỷ thế làm bừa, thấy kẻ nào chướng tai gai mắt là dùng vũ lực tiêu diệt kẻ đó không thương tiếc. Ngày sau, phái Sakya sẽ bị cô lập ở đất Tạng, mối liên kết mà ta mất bao công sức gây dựng với các giáo phái khác sẽ bị hủy hoại hoàn toàn!

Tôi vội vã đỡ chàng ngồi xuống, nhẹ nhàng động viên:

- Chàng đừng nóng giận, sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Giờ sự việc đã xảy ra, chúng ta chỉ có thể nghĩ cách chữa cháy thôi!

- Ta sẽ lập tức gửi thư về Sakya, tước bỏ chức vị bản khâm của hắn, chức vị này sẽ do đệ tử của ta kế nhiệm. Nể tình Zhuoma, ta không giết hắn nhưng sẽ đuổi hắn khỏi Sakya và chỉ cho phép hắn mang theo đồ dùng cá nhân và vợ con!

Chàng ngừng lại, ánh mắt băng giá:

- Còn nữa, hủy bỏ hôn ước giữa Dharma và Jumodaban. Một kẻ độc ác, tàn bạo như hắn không xứng trở thành cha vợ của Dharma!

Lá thư phế bỏ chức vị của Kunga Zangpo được chuyển đi không lâu, chúng tôi lại nhận được một tin tức kinh thiên động địa khác: Vân Nam Vương Hốt Ca Xích bị thuộc hạ giết chết tại Côn Minh!

Thì ra người con cả này của Hốt Tất Liệt từ lâu vẫn nuôi lòng ghen ghét, đố kỵ với Chân Kim. Cậu ta vốn định chờ sau khi Hốt Tất Liệt qua đời sẽ tổ chức đại hội Kurultai, tranh giành vương vị với Chân Kim. Nhưng tin tức Hốt Tất Liệt lập Chân Kim làm thái tử đã đập tan hy vọng của cậu ta. Hốt Ca Xích vì chán nản, ngày ngày rượu chè say khướt trong Vương phủ ở Vân Nam, hễ nổi giận là lôi tướng sĩ ra trói lại, đánh đập. Cậu ta vốn dĩ là một kẻ vũ phu, bạo ngược, bạc đãi thuộc hạ. Có câu: con giun xéo lắm cũng quằn, đám lính dưới trướng cậu ta không nhẫn nhịn nổi nữa, đã nhân lúc Hốt Ca Xích ngủ say, dùng dây thừng siết cổ Vân Nam Vương, sau đó phóng hỏa thiêu rụi Vương phủ.

Hốt Ca Xích và Bát Tư Ba không có mối quan hệ thân thiết, cậu ta chết cũng là do quả báo. Nhưng cái chết của cậu ta lại mang đến một tin tức khác: Yeshe là thượng sư thân cận của Hốt Ca Xích, trong đêm xảy ra cuộc biến động ấy, hắn đã bị thuộc hạ của Hốt Ca Xích trói chặt và nhốt trong phòng nên đã bị thiêu cháy. Còn vợ và con trai hắn thì đến nay vẫn chưa rõ tung tích.

Khi thông tin được truyền đến Lâm Thao, cả tôi và Bát Tư Ba cùng thở dài. Yeshe gây ra bao tội ác nên bị trời đày, phải chết thảm khốc như vậy.

Đầu tháng Ba năm đó, Lâm Thao vẫn chìm trong tiết xuân se lạnh, bỗng một nhân vật đặc biệt bất ngờ ghé thăm trang viên của chúng tôi.

Nhiệm vụ đầu tiên mà Hốt Tất Liệt giao cho Chân Kim sau khi được lập làm thái tử là đến Lấm Thao chúc thọ tuổi bốn mươi của đế sư Bát Tư Ba. Sinh nhật chàng vào ngày 6 tháng 3 theo lịch Tạng. Chân Kim từng theo Bát Tư Ba học Phật pháp từ nhỏ nên hai người có quan hệ thầy trò. Chân Kim lúc nào cũng tỏ ra kính trọng, tôn sùng Bát Tư Ba. Dù đã là thái tử đương triều, cậu ta vẫn một mực cung kính, lễ phép với chàng.

Bát Tư Ba hết sức vui mừng vì sự xuất hiện của Chân Kim, nhưng tôi lại thấy khó xử. Ở trang viên này, tôi xuất hiện với thân phận là bà chủ, chỉ cần giấu đi mái tóc và đôi mắt màu lam, gương mặt vẫn giữ nguyên. Nhưng sau khi Chân Kim đến đây, tôi chẳng dám đi gặp cậu ta vì sợ bị phát hiện. Điều đáng ngại hơn nữa là, cậu ta cứ một mực đòi bái kiến Lam phu nhân. Tôi cảm thấy vô cùng ngượng ngùng, có lẽ tin đồn về một cô gái xinh đẹp luôn ở bên chăm sóc đế sư đã lan truyền khắp cung đình của Hốt Tất Liệt.

Vậy mà Bát Tư Ba vẫn đường hoàng gọi tôi ra gặp. Tôi ngập ngừng, do dự hồi lâu, nếu lúc này thay đổi dung mạo sẽ khiến những người trong trang viên kinh hãi. Tôi đành lấy một mảnh khăn trùm kín mặt, vận bộ trang phục giản dị nhất, đội mũ rồi mới rụt rè bước ra phòng khách.

Thấy tôi kín mít trong lớp y phục dày cộm, ở trong phòng mà vẫn đội mũ chắn gió, Bát Tư Ba ngạc nhiên;

- Sao hôm nay lại...

Tôi vội ngắt lời chàng:

- Em bị cảm phong hàn mấy hôm nay, không tiện đón khách, nhưng vì có khách quý đến chơi nên không thể thất lễ

Tôi quay sang cúi lạy Chân Kim, cố nén cho giọng khác đi, lí nhí chào:

- Thần thiếp kính chào Thái tử điện hạ!

Tôi chịu rét tốt hơn người thường, mùa đông cũng không mặc quá nhiều quần áo, nhưng hôm nay tôi đã khoác lên người toàn bộ số áo rét tôi có khiến Bát Tư Ba không khỏi kinh ngạc. Chân Kim mời tôi đứng dậy, cười bảo:

- Lam phu nhân phải không? Lúc ở Đại Đô, Chân Kim đã nghe Phụ hoàng nhắc đến, cảm thấy rất tò mò nên muốn nhân dịp này diện kiến phu nhân, xin phu nhân lượng thứ cho sự đường đột này.

Tôi cứ đinh ninh rằng mình có thể học theo Khabi, ứng đối lịch duyệt, dáng vẻ yêu kiều, nhưng vì khoác lên người quá nhiều y phục nên khi cúi thấp xuống thì cơ thể giống như loài gấu trúc béo mập, nặng nhọc, không sao đứng lên nổi. Đang lúc bối rối không biết phải xử trí ra sao thì chân tôi giẫm vào vạt váy, lộn nhào một vòng rồi mới lồm cồm dậy, xấu hổ không biết giấu mặt vào đâu.

Chân Kim sững sờ, ngạc nhiên, sau đó thì ôm bụng cười ngất:

- Không ngờ Lam phu nhân lại là người hài hước, chất phác như vậy!

Tất cả là tại ngươi! Tôi bằng mặt nhưng không hề bằng lòng.

- Tiểu nữ sinh ra ở nơi thôn dã, ứng xử quê mùa, cục mịch, xin Thái tử đừng cười chê!

Bát Tư Ba hắng giọng:

- Lam Kha, Thái tử sẽ ở lại trong trang viên của chúng ta một vài ngày, hãy sắp xếp cho ổn thỏa.

- Xin thầy chớ khách khí, câu nệ. Xin cho ta sinh hoạt, ăn ở giống như thầy vậy!

Cậu ta đảo mắt một vòng quanh phòng tìm kiếm:

- Thưa thầy, Tiểu Lam đâu rồi? Ta mang cho nó mấy con gà rán Đức Thắng mà nó thích ăn nhất. Cũng may gặp lúc trời lạnh, ta lại sai người bỏ vào thùng đá nên đi đường xa mà không bị hỏng.

Tôi thật sự cảm động. Hai tháng trời ròng rã từ Đại Đô đến Lâm Thao, vậy mà cậu ta vẫn nghĩ cách bảo quản món gà rán tôi yêu thích. Bát Tư Ba đưa mắt liếc tôi một cái, mỉm cười, nói:

- Thái tử cứ giao cho ta, ta sẽ cho nó ăn.

Người khổ sở nhất khi Chân Kim ở lại trong trang viện chính là tôi. Đi đến đâu tôi cũng phải trùm kín mặt. Buổi tối, Chân Kim cho người đến mời tôi dự tiệc nhưng tôi viện cớ chưa hết cảm nên từ chối tham gia. Tôi ngồi một mình trong phòng, nhai cơm, ngắm trăng và nghĩ cách đối phó với cậu ta những ngày tiếp theo. Nghĩ mãi không ra cách, đau đầu chán nản, tôi nuốt cơm chẳng đặng. Đêm đến bụng tôi réo gào ầm ĩ, đúng lúc tôi không chịu nổi nửa thì mùi thơm thoang thoảng lan trong không gian. Trời ơi, đó là mùi gà rán!

Tôi lần theo mùi thơm đến tận nhà bếp, bên trong vẫn sáng đèn, củi lửa lép bép cháy, sao giờ này vẫn chưa tắt bếp nhỉ? Tôi xoa chân xoa tay, sung sướng hít hà, khoái trá bước vào, hớn hở nói với người đầu bếp đang cắm cúi nhóm lửa:

- Cậu đang chuẩn bị món gà rán cho ngày mai đúng không? Không cần để đến mai đâu, Lam phu nhân sẽ xơi món gà rán béo ngậy, thơm phức ngay bây giờ!

Tôi lại gần bếp lò, mở vung. Món gà rán bọc lá sen đang lăn lộn trong chảo dầu sôi lục bục. Tôi hít cho căng lồng ngực mùi thơm ngây ngất ấy, nuốt nước bọt ừng ực

- Thơm quá, đã ba năm nay ta không được thưởng thức món gà của quán Đức Thắng, thèm chết đi được!

Tâm trí tôi đang dồn cả vào món gà rán nên không hề biết rằng người đầu bếp đã ngẩng lên và đang nhìn tôi chằm chằm. Tôi không cưỡng nổi cơn khát thèm, liều lĩnh dùng tay vớt gói lá sen nhưng đã phải trả giá vì bị bỏng, tôi vội vã đưa tay tới miệng thổi phù phù:

- Nóng quá, nóng quá!

Cành củi trên tay người đẩu bếp rơi xuống đất, tôi ngạc nhiên quay sang, sau đó thì một loạt những tiếng coong coong vang lên, chiếc vung nồi trong tay tôi tiếp đất. Người đầu bếp đứng phắt dậy, thân hình cao lớn, vạm vỡ, trang phục sang trọng, lộng lẫy. Người đó là Chân Kim!

Cậu ta nhìn tôi trân trân, khóe môi run run, miệng lắp bắp:

- Cô... cô nương... sao lại ở đây?

Tôi sững sờ, sau đó thì ba chân bốn cẳng bỏ chạy. Chân Kim đuổi theo:

- Cô nương chờ đã, ta đã đi tìm cô bao năm qua.

Chạy được vài bước tôi mới nhận ra, gót sen thiếu nữ của tôi không thể nào địch nổi đôi chân dài của cậu ta. Tôi liền hóa phép, trở lại nguyên hình, leo lên cây, trước khi cậu ta kịp nhận ra sự biến mất của tôi. Tôi ngồi thở dốc trên chạc cây, bắt đầu trách cứ bản thân. Đúng là đầu óc bã đậu! Khi nãy tôi xuất hiện với đôi mắt và mái tóc màu đen kia mà, dù cậu ta có nhận ra gương mặt quen thuộc của tôi thì tôi vẫn có thể chối bay chối biến, kiên quyết khẳng định rằng tôi không phải cô gái đó! Cậu ta có thể làm gì tôi được chứ? Nhưng tôi lại bỏ trốn thế này, chẳng khác nào có tật giật mình, không khảo mà xưng.

Tôi thấy cậu ta như hóa điên, sục sạo tìm kiếm khắp nơi, hành động lạ lùng của cậu ta ngày càng thu hút sự tò mò của đám người hầu. Cậu ta tóm lấy một tên đầy tớ và hỏi về dáng dấp, dung mạo của tôi, người đầy tớ gật đầu đáp:

- Đó là Lam phu nhân.

Cậu ta ngỡ ngàng, sau đó lại hỏi thêm một người nữa và nhận được đáp án tương tự. Tôi đập đầu liên tục vào cành cây tự trừng phạt, lòng bồn chồn không yên. Tiêu rồi, cậu ta biết được thân phận của tôi rồi!

Tôi thở phào khi thấy cậu ta thất thiểu về phòng như kẻ mất hồn. Thật may cậu ta không lỗ mãng, lao vào phòng Bát Tư Ba, đòi gặp tôi ngay lập tức. Nhưng ngày mai thì sao? Có chắc ngày mai cậu ta sẽ không nhắc chuyện này với Bát Tư Ba?

Đêm đó, sau khi suy trước tính sau, tôi quyết định kể lại mọi chuyện cho Bát Tư Ba. Từ chuyện chúng tôi gặp nhau tình cờ trong đêm rằm tháng Giêng, chuyện tôi bị ngất đi trong ngày hội Sitatapatra rồi bị cậu ta đưa đi. Kể xong, tôi ấp úng đề nghị Bát Tư Ba.

- Nếu ngày mai cậu ta hỏi chàng, chàng hãy bảo rằng em không phải cô gái tóc xanh, mắt xanh ấy. Nếu cậu ta đến hỏi em, em cũng sẽ nói như vậy. Em sẽ không thừa nhận, để xem cậu ta làm gì được nào!

Bát Tư Ba trầm ngâm hồi lâu, biểu cảm trên gương mặt chàng rất phức tạp. Nghe xong câu chuyện, chàng dịu dàng vuốt ve mái tóc tôi:

- Khuya rồi, ngủ thôi. Ngày mai ta sẽ biết phải nói sao cho thỏa đáng.

Tôi thở phào, nằm xuống cạnh chàng. Trong đêm, lắng nghe hơi thở nhè nhẹ của chàng, tôi bình tâm trở lại. Đêm nào tôi cũng dỗ giấc bằng việc đếm hơi thở của chàng. Tôi nghiêng người ngắm nhìn chàng. Dáng ngủ của chàng vẫn như xưa, gương mặt an nhiên, bình thản, hai tay đặt ngay ngắn hai bên đùi. Tôi muốn gối đầu lên vai chàng nhưng buộc lòng phải kiềm chế, vì tôi sợ sự va chạm ấy sẽ khiến chàng thấy đau mà thức giấc. Nhưng tôi lại càng sợ hơn nếu sự va chạm ấy không mang lại cho chàng bất cứ cảm giác đau đớn nào nữa.

Ngày hôm sau, tôi sống trong nỗi thấp thỏm, lo âu. Bát Tư Ba kêu tôi đi chợ mua ít đồ ăn ngon cùng người đầu bếp. Lúc về tới trang viên, Drakpa Odzer báo rằng, Bát Tư Ba đang chờ tôi trong thư phòng. Tôi lao tới thư phòng, đẩy cửa bước vào:

- Tình hình thế nào? Cậu ta sẽ thôi đeo bám chứ?

Mùi hương trầm xứ Tạng dìu dịu tỏa bay trong căn phòng, một người dáng cao lớn đang chăm chú ngắm nhìn những bức thư họa trên tường. Nghe tiếng tôi, người đó quay lại, thoáng chút bối rối nhưng đôi mắt ngời sáng gắn chặt vào tôi:

- Tiểu Lam, là ta.

Người ấy ăn vận sang trọng, vóc dáng cao lớn, tráng kiện, râu hùm, hàm én, mày ngài cương nghị, đôi mắt to, lông mày rậm, toát lên khí chất anh hùng hào kiệt. Tôi tròn xoe mắt

- Chân Kim, sao lại là cậu? Bát Tư Ba đâu?

Chừng như mất bình tĩnh, cậu ta vặn vẹo bàn tay, ngập ngừng nói:

- Chính thầy bảo ta chờ em ở đây.

Tôi như sắp nghẹt thở, vội hỏi:

- Chàng đã nói gì với cậu?

- Thầy đã kể cho ta nghe mọi chuyện về em.

Ánh mắt cậu ta không chịu rời gương mặt tôi, niềm vui đan xen nỗi nghẹn ngào, chua xót:

- Thì ra em chính là Tiểu Lam. Chúng ta làm bạn từ nhỏ mà ta không hề hay biết. Thì ra người khiến trái tim ta điêu đứng chính là em! Thế mà ta vẫn thường tâm sự với em những nỗi niềm thương nhớ của ta. Em thật ác, giấu ta lâu đến vậy!

Tôi lạnh lùng quay mặt đi:

- Nếu vậy, chắc cậu cũng biết tôi là yêu quái mà loài người vốn rất sợ hãi.

- Ta không sợ! - Cậu ta rảo bước về phía tôi, nhìn tôi đăm đắm, cất giọng nhỏ nhẹ. - Trong lòng ta, em mãi là tiên nữ, là cô gái xinh đẹp nhất thế gian!

Cậu ta xúc động nắm lấy tay tôi. Tôi vội lùi lại, né tránh rồi trỏ vào gương mặt mình, cười mỉa:

- Chân Kim, cậu nói đi, rốt cuộc cậu thích gì ở tôi? Cậu gặp tôi được mấy lần? Cậu chỉ yêu thích gương mặt tôi mà thôi. Nếu không có dung nhan này, chắc chắn cậu sẽ không si tình như vậy!

- Em nói đúng, ta mới gặp em ba lần, đây là lần thứ tư. Và đúng là ta đã bị lôi cuốn bởi dung nhan tuyệt sắc của em.

Cậu ta lại gần tôi hơn nữa, nhưng khi chạm phải ánh mắt "đề phòng" của tôi, cậu ta không dám tiến tới chạm vào người tôi nữa, chỉ thở dài:

- Thượng sư đã kể cho ta nghe câu chuyện của ba người. Nếu lúc trước ta yêu em vì nhan sắc mỹ miều của em thì bây giờ ta yêu tấm lòng trung trinh, lương thiện của em hơn.

Tôi cắn chặt môi, nhìn xoáy vào đôi mắt si mê của cậu ta:

- Cậu đã nghe về chuyện của tôi, vậy chắc cậu cũng hiểu rằng, tình cảm giữa tôi với Kháp Na và Bát Tư Ba là tình cảm thiêng liêng, không bao giờ phai nhòa. Không người đàn ông nào trên đời có thể thay thế họ. Còn tôi và cậu, chúng ta có gì với nhau đâu.

Hàng mày dài xô lại, cậu ta đau khổ cúi đầu:

- Ta biết, ta đến với em khi đã muộn màng. Nhưng nếu số phận không trớ trêu, khiến chúng ta lạc mất nhau, ta sẽ không để em phải chịu đựng những đớn đau tột cùng như thế.

Cậu ta ngẩng lên, siết chặt bàn tay tôi, ánh mắt rực lửa:

- Ta hứa sẽ không ghen tỵ với họ, tình yêu vĩ đại của họ khiến ta cảm phục. Ta chỉ mong em cho ta một cơ hội để ta được yêu em!

- Bát Tư Ba đã đề nghị cậu phải không? - Tôi rút tay mình ra khỏi bàn tay cậu ta, bình tình hỏi. - Chàng đã nói với cậu rằng chàng không sống được bao lâu nữa nên nhờ cậu chăm sóc tôi, đúng không?

Cậu ta thoáng do dự, ánh mắt xót xa:

- Thầy nói rằng, nếu phải ra đi, thầy không có gì nuối tiếc, thầy chỉ lo cho em thôi. Thầy không muốn em phải cô đơn, đau khổ...

Tôi ngắt lời cậu ta bằng tràng cười giòn giã, nước mắt trào ra:

- Nên chàng đã giao tôi cho người đàn ông khác, lại là người đàn ông quyền lực nhất thế gian! Tôi nên cảm ơn chàng ư? Vì sao chàng không hỏi xem tôi có bằng lòng hay không?

Thấy tôi khóc, cậu ta cuống quýt không biết phải làm sao, đành rút từ trong túi áo ra mảnh khăn lụa, rụt rè đưa cho tôi:

- Em đừng trách thầy. Thầy đã yêu cầu ta khẳng định chắc chắn tình cảm dành cho em. Thầy nói rằng, không thể để em chịu đựng thêm bất cứ sự đổ vỡ tình cảm nào nữa. Nếu ta chỉ đam mê nhan sắc yêu kiều của em thì thầy quyết không nhờ cậy ta chăm sóc em. Ta đã thề với thầy rằng, ta thật lòng yêu em...

- Thật lòng? - Tôi đẩy cậu ta ra, gạt nước mắt, lạnh lùng bật cười mỉa mai. - Cậu muốn giam tôi vào chốn lầu son gác tía giống như các phi tần khác, để ngày ngày mòn mỏi ngóng chờ cậu đến ban ơn mưa móc hay sao?

Chân Kim chừng như rất buồn, rầu rầu biện bạch:

- Nếu ta là kẻ háo sắc thì chỉ cần nháy mắt một cái, Vương phủ của ta sẽ chất đầy mỹ nữ. Nhưng bao năm qua, ngoài Khoát Khoát Chân, ta chỉ có thêm hai phi tần, họ đều là những người chăm sóc ta từ bé. Sau khi làm mẹ, họ trở nên già nua. Ta không có tình cảm yêu đương với họ mà chỉ còn tình nghĩa vợ chồng.

Công bằng mà nói, Chân Kim là người ít thê thiếp nhất trong số mười một hoàng tử của Hốt Tất Liệt. Trước khi được sắc phong làm thái tử, cậu ta là hoàng tử được sủng ái nhất, nhưng hơn mười năm qua, Chân Kim mới chỉ có một người vợ cả là Vương phi Khoát Khoát Chân và hai người thiếp vốn là những người theo hầu cậu ta từ nhỏ. Khoát Khoát Chân sinh cho cậu ta ba người con trai, hai người thiếp cũng lần lượt sinh hạ hai cô con gái và được phong làm thứ phi. Nhiều năm qua, biết bao vương công quý tộc muốn kết thân với Chân Kim, tìm mọi cách đưa cành vàng lá ngọc cùa mình vào phủ Yên Vương nhưng đều bị cậu ta từ chối. Trong số các hoàng tử, cậu ta là người liêm chính, ngay thẳng, đứng đắn nhất.

Cậu ta tiến thêm một bước, nhìn tôi đắm đuối:

- Tiểu Lam, trước ngày thành hôn với Khoát Khoát Chân, ta đã gặp em và trúng phải tiếng sét ái tình. Em là cô gái khiến ta lần đầu tiên trong đời biết thế nào là rung động. Cảm giác xốn xang, thổn thức, quyên luyến khó tả ấy, mãi đến bây giờ, sau mười ba năm, ta vẫn nhớ như in. Nếu ngày đó em không biến mất, biết đâu chúng ta sẽ hạnh phúc bên nhau!

Những lời tình tứ ngọt ngào, nồng nhiệt được thốt lên từ miệng một người đàn ông có thân phận tôn quý nhường ấy, quả thực rất có sức hấp dẫn, mê hoặc. Chỉ tiếc rằng, tôi đã không còn là cô gái thanh tân, cửa lòng để ngỏ năm xưa nữa. Thế nên, tôi vẫn bình thản nhìn thẳng vào cậu ta:

- Cậu là hoàng đế tương lai, dù thế nào cũng không thể trọn đời trọn kiếp với một mình tôi. Huống hồ, cậu đã có người vợ kết tóc se tơ, chung sống với cậu mười ba năm và sinh cho cậu ba người con trai.

- Khoát Khoát Chân là vương phi của ta, bao năm qua cô ấy đã cai quản phủ Yên Vưong đâu ra đây, chưa khi nào làm điều gì sai trái nên ta không thể bỏ cô ấy. Ngày sau,nếu ta được kế thừa vương vị, ngôi hoàng hậu chắc chắn thuộc về cô ấy.

Cậu ta thốt ra những lời này bằng nỗ lực phi thường nhưng không hề do dự. Điều này chứng tỏ vị trí vô cùng quan trọng của Khoát Khoát Chân trong trái tim cậu ta. Chân Kim đưa mắt về phía tôi:

- Nhưng ta xin thề, nếu em bằng lòng lấy ta, ta sẽ không nạp thêm bất cứ thê thiếp nào nữa. Ta chỉ cần em thôi!

Khabi từng nói, tuyệt đối không được tin những lời thề nguyền của đàn ông. Tôi lắc đầu:

- Người ta càng quyền cao chức trọng càng bạc tình bạc nghĩa, tôi không tin đâu.

Cậu ta bối rối, mắt đỏ hoe, bước tới, nắm chặt hai vai tôi:

- Ta sẽ trở thành người đàn ông quyền lực nhất thế gian này, ta đủ sức để bảo vệ em!

Tôi gạt tay cậu ta ra, lắc đầu:

- Tôi là yêu tinh, tôi có thể tự bảo vệ mình, không cần dựa vào cậu. Chân Kim, Bát Tư Ba luôn như vậy, lúc nào cũng chỉ biết lo lắng cho người khác. Thực tình, tôi đã suy nghĩ rất kĩ, sau khi chàng viên tịch, tôi sẽ về sống bên cạnh con trai tôi, không đến với bất cứ người đàn ông nào nữa, kể cả cậu.

Câu nói của tôi như giáng cho Chân Kim một đòn chí mạng, cậu ta cắn môi đau đớn:

- Em cự tuyệt ta, ta chỉ biết cầu xin mà chẳng thể làm gì khác. Tiểu Lam, em thật nhẫn tâm!

Chân Kim nhìn tôi ai oán, ánh mắt ngập nỗi thất vọng. Tôi thở dài, nắm lấy bàn tay cậu ta:

- Không phải tôi nhẫn tâm đâu. Chân Kim, tôi chỉ xem cậu như một người bạn thuở ấu thơ. Ngay từ đầu tôi đã biết cậu không phải người tôi có thể yêu nên tôi không dành cho cậu bất cứ tình cảm đặc biệt nào. Tôi cũng không thể chia sẻ chồng mình với những phụ nữ khác. Tôi có Kháp Na, có Bát Tư Ba một lòng yêu tôi, vậy là đủ rồi!

- Thực ra, trong ba năm sống ẩn dật ở Lâm Thao, Bát Tư Ba không hoàn toàn xa lánh thế sự. Lâm Thao khi ấy là khu vực quần cư của nhiều dân tộc. Người Mông Cổ đã lập nha Tuyên úy Duo Sima ở đây. Vì Bát Tư Ba là nhà lãnh đạo cao nhất của Tổng chế viện nên người của nha Tuyên úy thường xuyên gửi công văn đến trang viên xin ý kiến Bát Tư Ba. Bát Tư Ba đã có không ít cống hiến trong khoảng thời gian này, ví như: phân chia đất đai thuộc quyền cai quản của nha Tuyên úy Duo Sima, bổ nhiệm các chức quan của nha Tuyên úy, phong quan cho thủ lĩnh các bộ lạc người Tạng sinh sống trên vùng Cam Túc, Thanh Hải.

Chàng trai trẻ mỉm cười:

- Ngài ấy quả là người không chịu sống đời nhàn hạ.

Tôi gật đầu:

- Tôi không cho chàng làm những việc quá sức, còn thì mặc chàng cống hiến, bởi vì cuộc sống điền viên thôn dã thảnh thơi, nhàn hạ không hợp với tính cách của chàng. Vả lại, chàng còn là một đại sư, một nhà truyền giáo nhiệt thành, tâm huyết.

- Có phải nhờ thế mà sức ảnh hưởng của giáo phái Sakya ở Cam Túc, Lâm Thao mạnh mẽ, sâu rộng hơn các khu vực khác trên dải đất Trung Nguyên?

- Đúng vậy. - Tôi gật đầu tán đồng, lấy một ví dụ phân tích cho cậu ta thấy. - Trong thời gian ở Lâm Thao, chàng đã cử các đệ tử đến truyền giáo ở vùng phía Nam Duo Sima, thay đổi tín ngưỡng đạo Bon của khu vực này thành đạo Phật theo trường phái Sakya và xây dựng đền chùa của phái Sakya tại đây. Trong nội thành Lâm Thao cũng có một ngôi đền tên gọi Shangungta, vào thời kỳ hưng thịnh nhất, hàng nghìn tăng nhân đã đến tu tập trong ngôi đền này. Trong đền có tượng thờ Bát Tư Ba. Đó là ngôi đền mà các đệ tử của Bát Tư Ba xây dựng để tưởng nhớ chàng, sau khi chàng rời khỏi Lâm Thao. Ngoài ra, còn một ngôi đền thiền định khác, được gìn giữ đến tận ngày nay, tên là Zhuoni, cũng do đệ tử của Bát Tư Ba xây dựng. Ngôi đền này rất nổi tiếng ở vùng Cam Nam, Trung Quốc ngày nay.

Chương 57

Trở lại Sakya

“Nhà vua nhân từ, bác ái

Sẽ được dân yêu, dân theo;

Hoa sen nở giữa đầm lầy,

Chim thiên nga rủ về tụ hội.”

(Cách ngôn Sakya)

Chân Kim giam mình trong phòng suốt mấy ngày liền sau khi bị tôi cự tuyệt. Tôi cũng đã bày tỏ quan điểm của mình với Bát Tư Ba: ép dầu ép mỡ, chẳng ai nỡ ép duyên, tôi không yêu Chân Kim, mong chàng từ nay đừng ghép đôi giúp tôi nữa. Bát Tư Ba cũng đành thuận theo ý tôi.

Chân Kim ủ dột khi tham dự buổi lễ thượng thọ Bát Tư Ba tròn bốn mươi tuổi. Bát Tư Ba không thích ăn đồ tanh, nhiều dầu mỡ, cũng không muốn bày vẽ om sòm nên bữa tiệc gia đình được tổ chức rất đơn giản. Một mâm cỗ nhỏ, mọi người quây quần bên nhau, chúc thọ Bát Tư Ba. Bát Tư Ba rất yếu, chàng không thể ngồi lâu, nhưng khi tôi chuẩn bị dìu chàng về phòng thì đệ tử của chàng hối hả chạy vào bẩm báo:

- Thưa pháp vương, ngoài kia có người xin gặp thầy, ông ta là pháp vương Chung Dorje cùa phái Drikung!

Bát Tư Ba và tôi đưa mắt nhìn nhau rồi cả hai cùng tái mét. Kunga Zangpo tàn sát toàn bộ phái Drikung kia mà, lẽ nào Chung Dorje đã trốn thoát? Bát Tư Ba ra lệnh:

- Mau đưa ông ta vào đây.

Chung Dorje bước thấp bước cao, tập tễnh lết vào phòng với sự trợ giúp của các đệ tử. Hắn gặp đại nạn, lại nhiều ngày phiêu bạt trên đưòng trốn chạy nên gương mặt tiều tụy, hốc hác, tinh thần hoảng loạn, hắn không còn là pháp vương Drikung ngạo mạn, dương dương tự đắc như trước nữa. Bát Tư Ba chẳng buồn chào hỏi, chỉ nhìn hắn bằng ánh mắt lạnh lùng.

Chung Dorje cũng không nhiều lời, hắn vào thẳng đề:

- Đế sư, ta tới đây vì một mục đích duy nhất, muốn nói với ngài sự thật mà ngài cần biết.

Bát Tư Ba khẽ nhướn mày:

- Sự thật gì?

Chung Dorje cười lạnh lùng:

- Sự thật về cái chết của Bạch Lan Vương.

Tôi giật mình ngẩng lên, gằn giọng:

- Không phải do chính ngươi gây ra sao?

- Ta là kẻ chủ mưu nhưng các người thử nghĩ xem, làm thế nào mà ta có thể nắm bắt thời cơ và hành động chính xác tuyệt đối như thế?

Hắn ngửa cổ lên trời, cười như điên dại, những vết thương dọc ngang trên trán khiến cho điệu cười của hắn trở nên man rợ, đáng sợ hơn:

- Bạch Lan Vương không hề biết rằng, suốt bao năm qua cậu ta đã nuôi bên mình một con bò cạp, không những vậy, cậu ta còn hết lòng hết dạ với con bò cạp ấy. Nếu ở trên trời biết được sự thật này, chắc chắn linh hồn cậu ta cũng chẳng thể yên ổn.

Bát Tư Ba xông đến, túm lấy cổ áo Chung Dorje:

- Ý ngươi là Kunga Zangpo?

Ánh mắt Chung Dorje rực lửa căm hờn, hắn nhổ nước bọt, nghiến răng nghiến lợi chửi rủa:

- Chính hắn! Chính con bò cạp ấy đã hạ độc Bạch Lan Vương, chính hắn chủ mưu tàn sát phái Drikung. Hắn là loài súc vật độc ác!

- Ngươi nói láo! Kunga Zangpo chẳng có lý do gì để giết hại Kháp Na. Mười hai tuổi cậu ta đã theo hầu Kháp Na, chính tay Kháp Na đốt bỏ giấy bán thân của cậu ta, còn giúp cậu ta cưới được đại tiểu thư phái Sakya, từ đó thoát khỏi kiếp đời nô lệ.

Rồi Bát Tư Ba đột ngột ngừng lại, nhìn xoáy vào Chung Dorje:

- Ta hiểu rồi, ngươi căm hận cậu ta vì đã tàn sát phái Drikung nên muốn mượn tay ta trả thù Kunga Zangpo chứ gì?

-Ta biết đế sư sẽ không tin ta nên đã mang theo thứ này.

Chung Dorje cởi áo tăng ni, hắn giắt một chiếc ruột tượng nơi eo lưng. Hắn lôi ra một cái túi giấy dầu, lật mở từng lớp từng lớp một, mãi sau một tờ giấy màu vàng đã rách mép mới xuất hiện.

- Đây chính là chứng cứ của việc tên bò cạp tàn độc, vong ân phụ nghĩa ấy phản bội, giết hại chủ nhân. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến hắn tàn sát giáo phái Drikung!

Bát Tư Ba đón lấy tờ giấy hoen ố, nhàu nát ấy, đó là mẫu giấy bán thân thường gặp ở đất Tạng, trên đó có dấu vân tay đen đúa, họ tên, dấu xác nhận của một số người làm chứng. Bát Tư Ba tỏ ra nghi hoặc:

- Đây là...?

- Zhaxirinbo là cái tên trên giấy bán thân nhưng trên đời này chỉ mình ta biết, bây giờ hắn tên là gì. - Chung Dorje cười méo mó. - Tờ giấy bán thân mà Bạch Lan Vương đốt bỏ là giả, cho đến bây giờ, Zhaxirinbo vẫn là Dugong của phái Drikung chúng ta!

Bát Tư Ba run lên vì giận:

- Zhaxirinbo chính là Kunga Zangpo?

Chung Dorje uất hận kể lại toàn bộ sự việc. Thì ra, ngay từ thời đại của ngài Ban Trí Đạt, phái Drikung và phái Sakya đã kết mối hận thù. Khi đó, pháp vương mới nhậm chức của phái Drikung là Chung Dorje đã sai đệ tử đi khắp nơi tìm về một đứa trẻ không cha không mẹ để đưa đến Sakya. Kẻ này tự nhận là cậu của đứa trẻ, nói dối rằng, gia đình nợ nần chồng chất không đủ sức trả nợ, phải đem bán đứa bé đến Sakya. Mục đích của Chung Dorje là muốn cài cắm tai mắt của mình ở Sakya. Hắn đâu ngờ rằng, hơn hai mươi năm sau, quân tốt vô thưởng vô phạt ấy lại trở thành quân cờ quyết định sự thắng thua của cả cuộc cờ.

Kể từ lúc đổi tên thành Kunga Zangpo, hơn mười năm qua Zhaxirinbo đã theo Kháp Na đi khắp vùng Trung Nguyên, mối liên hệ với phái Drikung mờ nhạt dần. Trên đường về Sakya, lúc ngang qua Maizho Kunggar, hai anh em Bát Tư Ba nhận lời mời của Chung Dorje, ở lại Drikung một vài ngày. Ông cậu hờ, vốn là đệ tử của phái Drikung, đã nhận ra Kunga Zangpo chính là đứa bé năm xưa, thông qua vết bớt trên cổ cậu ta.

Và thế là phái Drikung nối lại sợi dây liên hệ với Kunga Zangpo, cho cậu ta xem giấy bán thân và buộc cậu ta phải làm việc cho Drikung. Ban đầu chỉ là những tin tức mật liên quan đến phái Sakya, nhưng sau đó, mâu thuẫn giữa hai giáo phái ngày càng sâu sắc, gay gắt và cuối cùng không thể hòa giải. Đúng lúc này, Yeshe lẳng lặng mò về từ Vân Nam, tìm đến Drikung, gặp Chung Dorje. Chung Dorje muốn lấy mạng Bát Tư Ba, còn Yeshe lại đòi giết Kháp Na. Hắn nói, tình thân giữa Bát Tư Ba và Kháp Na không giống quan hệ của những anh em ruột thịt khác, chỉ cần một trong hai người chết đi, người còn lại sẽ sống mà như đã chết và như thế cũng đủ để hủy hoại phái Sakya.

Sau nhiều ngày ủ mưu tính kế, bọn chúng đã lập ra một kế hoạch hoàn hảo. Nhưng kế hoạch này phải do một người thân cận với Bạch Lan Vương thực hiện.

Khi ấy, Kunga Zangpo đã là chàng rể của giáo phái Sakya, sống đời vương giả, mỹ mãn, cậu ta kiên quyết từ chối. Chung Dorje đã đe dọa sẽ phơi bày sự thật về thân phận Dugong của Kunga Zangpo, và chiếu theo luật Tạng, cậu ta buộc phải trở về Drikung tiếp tục cuộc đời làm nô lệ cho giáo phái này. Kunga Zangpo kiên quyết phủ nhận mình là Zhaxirinbo, nhưng trên giấy bán thân còn nguyên dấu vân tay của người thân của Zhaxirinbo và những người làm chứng khác, họ đều còn sống, chỉ cần bọn họ khẳng định người có vết bớt hình cánh bướm trên cổ chính là Zhaxirinbo thì cậu ta sẽ hết đường chối cãi.

Bị ép đến đường cùng, Kunga Zangpo buộc phải nhận lời. Hắn đem Tuyết Sơn Nhất Chi Khao về trồng trong Lang Như Thư Lâu rồi cố ý nói với đầu bếp rằng Kháp Na rất thích ăn quả đỗ. Hắn đã tuân theo chỉ thị của Chung Dorje và Yeshe, từng bước đưa Kháp Na đến chỗ chết. Lẽ ra, với thân phận của hắn lúc ấy, hắn không cần phải thử đồ ăn cho Kháp Na nhưng hắn vẫn kiên trì đảm nhiệm công việc đó với danh nghĩa "đền đáp công ơn" của Kháp Na. Hôm ấy, hắn đã cố ý ăn một lượng nhỏ đỗ xào để mình cũng bị trúng độc, tránh được sự nghi ngờ của mọi người.

- Bây giờ ngài đã hiểu vì sao hắn phải tàn sát phái Drikung rồi chứ? - Chung Doije đấm thùm thụp vào ngực mình, ánh mắt vằn tia đỏ. - Ngài đưa hắn lên ngôi cao, cho hắn làm bản khâm của phái Sakya, còn nhận lời để con gái hắn trở thành vợ của pháp vương tương lai. Lợi ích chất cao như núi trước mắt hắn, ở đất Tạng, quyền lực của hắn chỉ ở dưới một người mà trên muôn vạn người thì sao hắn chịu để phái Drikung nắm được điểm yếu của mình chứ? Tàn sát phái Drikung nghĩa là giết sạch những người nắm giữ bí mật của hắn. Đối với bên ngoài, hắn sẽ viện cớ làm vậy để trả thù cho Bạch Lan Vương. Hắn thật là nham hiểm, thủ đoạn!

Bát Tư Ba đứng không nổi. Chàng lảo đảo, chực đổ người về phía sau. Tôi hốt hoảng chạy lại đỡ chàng. Chung Dorje ngồi thụp xuống gào khóc, nện từng nắm đấm dữ dằn xuống mặt bàn:

- Ta hối hận muôn phần! Nếu lúc xưa phái Drikung chịu phục tùng Sakya thì cùng lắm cũng chỉ bị mất một số đất đai và cư dân, chứ không phải chịu đại nạn thế này! Trong số hơn một nghìn mạng người của phái Drikung, kẻ thì bị giết chết, người thì bị thiêu cháy, các đệ tử đã phải liều mạng giúp ta trốn thoát, để đến đây gặp ngài.

Rồi hắn đột ngột rút ra một con dao găm từ trong tay áo. Tôi hoảng hốt, vội vàng dang tay chắn trước Bát Tư Ba. Chẳng ngờ, Chung Dorje lại kề con dao ấy vào cổ mình, nước mắt xối xả cùng máu:

- Phái Drikung gặp phải quả báo này đều do ta đã tạo nên nghiệp chướng. Ta có tội với tổ tông của giáo phái. Ta chết là đáng lắm, nhưng những tín đồ khác của giáo phái Drikung đều là những người vô tội! Ta đến gặp ngài là để đền mạng cho Bạch Lan Vương. Giờ đây, khối u nhức nhối nhất của phái Sakya chính là Kunga Zangpo, chỉ có ngài mới tiêu diệt được con bò cạp này và trả thù cho những oan hồn của phái Drikung chúng ta!

Chung Dorje đẩy con dao găm về phía trước, ngửa cổ, nhắm mắt lại, sẵn sàng chịu chết. Khoảnh khắc ấy, tôi đã muốn chạy đến, giằng lấy con dao găm biết bao. Tôi đã từng trằn trọc bao đêm trắng, từng khao khát được tự tay xẻ thịt, phanh thây hắn thành hàng trăm nghìn mảnh, nhưng giờ đây, khi con dao găm đang ở ngay trước mặt, tôi lại không đủ gan góc để tiến lên và cầm lấy nó. Bát Tư Ba run lên bần bật, gương mặt tái xám, chàng trầm ngâm hồi lâu rồi thở dài mỏi mệt.

- Ngươi giết hại em trai ta, gây bao tội ác. Bao năm qua ta gắng sức chống đỡ với bệnh tật, chỉ mong chờ đến ngày báo thù. Nhưng nay, ngươi đã bị trời trừng phạt, gặp quả báo! - Chàng hít một hơi thật sâu, quay lưng lại với Chung Dorje, giọng chàng như từ cõi xa xăm vọng lại. - Chung Dorje, ta sẽ không giết ngươi, ngươi chết đi sẽ được giải thoát khỏi mọi chuyện, ngươi phải tiếp tục sống để chịu sự trừng phạt. Những ngày tháng tiếp theo, ngươi sẽ không được yên ổn, mỗi oan hồn của phái Drikung sẽ trở thành cơn ác mộng hằng đêm của ngươi!

Chung Dorje run như cầy sấy, ánh mắt lộ vẻ khiếp hãi. Nỗi sợ hãi của hắn càng tăng thêm sau mỗi câu nói của Bát Tư Ba, sau cùng, hắn vò đầu, thét lên thảm khốc. Các đệ tử của hắn vội chạy đến giữ hắn lại, nhưng hắn ra sức giãy giụa, vùng thoát như thể vừa gặp ma vậy. Rồi hắn lao ra khỏi phòng, vừa chạy vừa gào lên:

- Xin đừng bắt ta đền mạng, ta không cố ý!

Tiếng kêu gào điên dại xa dần rồi tắt hẳn, pháp vương Chung Dorje của phái Drikung đã trở nên quẫn trí vì nỗi sợ hãi kinh hoàng và lương tâm cắn rứt. Các đệ tử đã đưa hắn trở lại đất Tạng, nhưng một thời gian ngắn sau, vào một đêm mùa đông băng giá, hắn chỉ khoác trên người một manh áo mỏng, bỏ đi lang thang rồi chết cóng dưới một gốc cây. Tuy bị tổn thất nặng nề nhưng phái Drikung không vì thế mà diệt vong. Các đệ tử của Chung Dorje đã tập hợp nhau lại, cùng tái thiết đền Drikung. Tuy sau này, phái Drikung cũng có những giai đoạn phát triển nhưng không giữ được địa vị nhất nhì ở đất Tạng như trước kia nữa.

Khi bóng dáng điên dại của Chung Dorje đã khuất xa, Bát Tư Ba chống tay lên bàn, gắng đứng vững, nhìn tôi lo lắng:

- Lam Kha, sáng sớm mai chúng ta sẽ lập tức trở về Sakya!

Tôi sững sờ:

- Chàng yếu như vậy, chịu sao nổi chặng đường gian nan ấy?

Chàng lắc đầu, ánh mắt ngập tràn nỗi đau khổ và âu lo:

- Ta nhất định phải quay về! Chung Doije nói đúng, chính ta đã đặt Kunga Zangpo vào vị trí ấy và cũng chỉ ta mới có thể loại trừ được hắn, để ngăn mầm họa cho Dharma về sau!

Tôi lo lắng đến phát khóc:

- Thế lực của hắn ở Sakya rất mạnh, hắn lại được đông đảo tín đồ của giáo phái ủng hộ. Chàng trở về lúc này, chưa hẳn đã địch nổi hắn, huống hồ sức khỏe của chàng lại không cho phép!

Tôi đọc thấy trong mắt Bát Tư Ba nỗi bi ai vò xé, chàng nhìn tôi đăm đắm:

- Lam Kha, ta muốn được chết ở Sakya, nơi đó có Kháp Na!

Nỗi đau dâng ngập lòng, sống mũi cay sè, tôi thẫn thờ nhìn Bát Tư Ba. Cánh cửa phòng đột nhiên bật mở, ai đó xông vào, bóng dáng cao lớn:

- Thưa thầy, xin cho ta được hộ tống thầy trở về Sakya!

Cả tôi và Bát Tư Ba đều sững sờ vì ngạc nhiên. Những lời của Chung Dorje khiến tôi chấn động, không còn tâm trí để quan sát những gì diễn ra bên ngoài. Có lẽ Chân Kim đã nghe thấy tất cả.

Tôi dìu Bát Tư Ba ngồi xuống ghế, chàng thở dốc một hồi, lắc đầu nói với Chân Kim:

- Không được! Bệ hạ đang tiến đánh nước Tống ở phía nam, ngài còn dự định sẽ đưa quân viễn chinh đi tấn công nước Oa[1] . Hiện em trai thứ ba của Thái tử là An Tây Vương Mang Ca Lạt đang phụ trách quân vụ vùng Tứ Xuyên. Em trai thứ tư của Thái tử là Bắc Bình Vương đang trấn thủ ở phương Bắc. Đường về Sakya xa xôi ngàn dặm, Thái tử vừa được sắc phong, phải chung vai gánh vác trọng trách quân sự, không nên lãng phí cả năm trời hộ tống ta về Sakya. Làm vậy sẽ gây bất lợi cho danh tiếng của Thái tử trong triều đình!

Chân Kim đưa mắt về phía tôi, khẽ gật đầu, gương mặt thoáng nét ửng đỏ rất đáng ngờ.

- Thưa thầy, xin thầy hiểu cho lòng ta!

Tôi chợt hiểu ra, bỗng thấy bối rối, sao cậu ta vẫn chưa chịu rút lui? Bát Tư Ba liếc tôi một cái, rồi nghiêng đầu ho liền một chặp.

Chân Kim ngập ngừng rồi cắn môi, ngẩng lên nhìn Bát Tư Ba:

- Dù ta có trở thành người đứng đầu thiên hạ, dù ta có thể mang lại cho cô ấy quyền lực và danh vị cao nhất mà một người phụ nữ có thể có được nhưng Tiểu Lam vẫn không hề động lòng. Cô ấ không xem trọng những thứ đó. Ta đã hứa sẽ không nạp thêm bất cứ thê thiếp nào nữa, cô ấy cũng không tin. Bởi vậy, ta chỉ còn cách chứng minh tấm lòng chân thành của ta, may ra cô ấy mới chịu đón nhận ta. Hộ tống thầy trở về Sakya, hoàn thành tâm nguyện cuối cùng của thầy, đó là cách để ta chứng minh tình cảm của ta dành cho cô ấy.

Tôi bực bội, gắt lên:

- Chân Kim, cậu đừng...

Cậu ta lập tức ngắt lời tôi bằng ánh mắt rực lửa và giọng nói quyết đoán:

- Tiểu Lam, ta đã quyết rồi. Thượng sư là người ta vô cùng kính trọng nên trước khi thầy viên tịch, ta thề sẽ không hành động thất lễ. Nay thượng sư phải trở về Sakya xử lý việc nhà trong tình trạng bệnh tình trầm trọng, thấy cần ta trợ giúp trừ bỏ hậu họa. Ngoài ra, với thân phận thái tử, ta đến Sakya sẽ giúp củng cố vững chắc hơn địa vị của Thế tử Dharma. Ta tin rằng, từ đây không kẻ nào ở đất Tạng dám sinh lòng bội phản. Điều này có lợi cho tương lai của Dharma, không phải vậy sao?

Câu nói cuối cùng là nói với tôi, ánh mắt cậu ta rực sáng lấp lánh, ánh sáng của sự nhiệt thành, chân tình ấy khiến tôi không sao tìm nổi lý do để khước từ. Tôi giậm chân, tức tối:

- Cậu... cậu thật là...

Bát Tư Ba đột ngột lên tiếng, giọng chàng phẳng lặng:

- Nếu Bệ hạ không phản đối, chúng ta...

Chân Kim mừng rỡ, gương mặt tươi hồng, gật đầu rối rít:

- Xin thầy yên tâm, Phụ hoàng rất mực tôn sùng thầy, chắc chắn ta sẽ thuyết phục được Người

Chân Kim nói không sai, lần này về Sakya, chúng tôi rất khó đối phó với một kẻ đã gây dựng được vây cánh lớn mạnh như Kunga Zangpo. Chúng tôi phải dựa vào thế lực của Chân Kim mới mong giải quyết được triệt để mọi việc. Tôi thầm thở dài, tuy trước mặt Chân Kim, tôi cứ một mực nói rằng có thể tự lo cho bản thân, nhưng khi lâm vào tình cảnh khó khăn này, tôi vẫn phải cậy nhờ vào cậu ta để bảo vệ Bát Tư Ba và con trai.

Tháng 3 năm 1274, bất chấp sức khỏe lúc này đã như ngọn đèn trước gió, Bát Tư Ba vẫn quyết định lên đường trở về Sakya với sự tháp tùng của Chân Kim. Chân Kim đã cử sứ giả cấp tốc về Đại Đô trình tấu lên Hốt Tất Liệt, nhưng vì Bát Tư Ba nóng ruột không yên nên Chân Kim quyết định hộ tống Bát Tư Ba lên đường trước và lệnh cho sứ giả mang ý chỉ của Hốt Tất Liệt đuổi theo sau.

Tôi ngồi trong xe ngựa, ngoái nhìn thành phố Lâm Thao cứ xa dần, khuất dần khỏi tầm mắt, không khỏi lưu luyến, bịn rịn. Tuy chỉ lưu lại đây ba năm, nhưng đó là ba năm tôi được ở bên chàng, sống những ngày đầm ấm, thanh bình. Sẽ khó có thành phố nào mang lại cho tôi cảm giác sớm tối bên nhau, thương yêu quấn quýt, keo sơn bền chặt ấy nữa. Khi rời xa nơi này, Bát Tư Ba biết rằng, chàng sẽ chẳng còn cơ hội quay lại nên đã ban tặng toàn bộ tài sản của chàng ở Lâm Thao cho các đệ tử và những người hầu cận đã tận tình chăm sóc chàng suốt ba năm qua.

Một cánh tay ôm nhẹ bờ vai tôi, tôi quay lại, thấy chàng cũng đang hướng mắt ra bên ngoài cửa xe, vẻ mặt tư lự, dường như đang ngẫm ngợi điều gì. Tôi khẽ hỏi:

- Có đau không?

Chàng thoáng ngạc nhiên, sau đó khẽ lắc đầu, bàn tay ghì chặt bờ vai tôi thêm nữa:

- Không thấy đau nữa.

Tôi ngả vào lòng chàng, do dự một lát, rồi thận trọng luồn tay qua vòng eo gầy guộc của chàng, vùi đầu vào bờ vai chàng, giấu đi gương mặt đẫm lệ. Chàng nhẹ nhàng ôm tôi, như thể tôi là người giấy, chỉ cần siết mạnh sẽ nhàu nát. Chúng tôi đã ôm nhau trong nỗi niềm canh cánh, khắc khoải như thế, nước mắt lã chã rơi, thấm vào lần áo sẫm đỏ của chàng, loang ra thành những nụ hoa nho nhỏ, xinh xinh.

Chúng tôi đã đi rất chậm vì Bát Tư Ba không thể chịu nổi hơn bốn canh giờ mỗi ngày trên cung dường gập ghềnh, khúc khuỷu, thế nên tốc độ cùa đoàn chúng tôi chỉ bằng một phần ba khi xưa. Bát Tư Ba lo lắng không yên, nhiều lần yêu cầu phải tăng tốc nhưng tôi kiên quyết phản đối.

Vì dù đã đi rất chậm nhưng chàng vẫn nhiều lần ngất đi, tôi phải lén truyền linh khí mới có thể giúp chàng chống đỡ với đường xa dặm thẳng.

Một đêm nọ, sau hơn bốn tháng đi đường gian khổ, khi đoàn người đã chìm sâu vào giấc ngủ, tôi chợt ngửi thấy mùi hương quen thuộc, vốn là dấu hiệu nhận biết cùa loài hồ ly. Tôi lồm cồm bò dậy, nhẹ nhàng lách qua người Bát Tư Ba, xuống giường, mặc áo khoác và ra ngoài.

Dưới bóng trăng dát bạc, thiếu nữ yêu kiều tha thướt đang thả hồn bên hồ nước. Tôi hớn hở reo lên:

- Khabi? Sao cô lại tới đây?

Cô ấy yểu điệu xoay người lại, thấy tôi, rầu rầu đáp:

- Ta muốn tìm hiểu xem, cơn cớ gì mà Chân Kim sẵn sàng từ bỏ đời sống dư dả ở Đại Đô để vượt đường xa dặm thẳng, muôn phần gian nan, cực khổ để đến vùng đất quanh năm tuyết phủ xa tít mù ấy.

Tôi đỏ mặt, ấp úng:

- Cô... cô biết cả rồi?

- Chân Kim phái người về Đại Đô cầu xin Bệ hạ cho phép nó hộ tống Bát Tư Ba về Sakya. Bệ hạ đã đồng ý, có lẽ chỉ nay mai sứ giả sẽ đuổi kịp các vị. Nhưng ta cảm thấy quyết định này của Chân Kim rất lạ lùng. Dù sao thì nó cũng không nên rời khỏi Đại Đô trong thời gian dài như vậy, khi vừa mới được sắc phong làm thái tử. Nếu không vì điều gì đó khiến nó nặng lòng, chắc chắn nó sẽ không đưa ra một quyết định kém thông minh như vậy.

Cô ấy khẽ chau hàng mày dài tuyệt đẹp, liếc xéo tôi đầy ẩn ý.

- Ta đoán định rằng, nó đã gặp cô nên hồn phách mới điên đảo mà bỏ bê mọi thứ để đi theo cô như thế, đúng không?

Tôi thở dài, kể lại đầu đuôi câu chuyện. Cô ấy vừa nghe vừa lắc đầu, lúc thì đập tay, lúc thì giậm chân:

- Thì ra là vậy, thì ra là vậy! Không ngờ nó nặng lòng với cô đến thế. Mười ba năm qua vẫn không nguôi thương nhớ cô. Ta nên vui mừng vì sinh được một đứa con si tình như vậy, hay nên phiền lòng vì sự cố chấp của nó?

Tôi ngập ngừng một lát, nhưng rồi vẫn quyết định bày tỏ lòng mình:

- Khabi, tôi rất cảm động vì những việc làm cao thượng của Chân Kim. Tôi cũng biết cậu ta vẫn đang chờ đợi nhưng tôi sẽ không yêu cậu ta. Trái tim tôi rất nhỏ bé, chỉ đủ chỗ cho Kháp Na và Bát Tư Ba thôi.

- Ta biết chứ. Người con gái nào trải qua những hạnh ngộ thăng trầm của cuộc đời như cô, có được hai người đàn ông sẵn sàng hy sinh tính mạng vì mình như thế, cũng sẽ không thể đón nhận bất cứ người đàn ông nào khác. Nhưng con trai ta đã trưởng thành, ta có khuyên can cũng chẳng ích gì. Chân Kim đã ba mươi tuổi, là cha của năm đứa trẻ, hãy để nó tự quyết định.

Cô ấy chợt ngừng lời, nhìn tôi nghiêm nghị.

- Có điều, Tiểu Lam à, nếu cô không có tình cảm với nó thì đừng tạo cho nó bất cứ ảo tưởng nào vì hy vọng càng nhiều, thất vọng sẽ càng sâu.

Tôi gật đầu nhận lời.

Mấy ngày sau, chúng tôi nhận được ý chỉ của Hốt Tất Liệt, cho phép Thái tử Chân Kim hộ tống đế sư Bát Tư Ba trở về Sakya.

- Sự kiện Chân Kim hộ tống Bát Tư Ba về Sakya chỉ được ghi chép trong các tư liệu lịch sử bằng tiếng Mông Cổ và tiếng Tạng, không có trong bất cứ tài liệu tiếng Hán nào nên đã có nhiều nghi vấn được đặt ra. Nhưng người ta không tìm thấy bất cứ tài liệu lịch sử triều Nguyên ghi chép bằng tiếng Hán nào về hoạt động của Chân Kim trong suốt năm năm kể từ năm 1274 đến năm 1279.

Chàng trai trẻ tươi cười:

- Nếu là tôi, tôi cũng sẽ nghi ngờ. Vì Chân Kim vừa được sắc phong làm thái tử, dù vua cha có yêu thương, tín nhiệm đến đâu, cậu ta cũng nên lo lắng về việc những người anh em khác đang nhòm ngó vị trí của mình. Hành trình hộ tống Bát Tư Ba trở về Sakya xa xôi vạn dặm kéo dài suốt mấy năm trời, nếu trong thời gian đó, Hốt Tất Liệt đột ngột qua đời thì làm sao cậu ta kịp quay về Đại Đô để kế vị?

Tôi gật đầu:

- Cậu nói đúng lắm, hộ tống Bát Tư Ba về Sakya là quyết định chứa đựng rất nhiều rủi ro của Chân Kim. Thế nên, sau khi đối chiếu thời gian trong các tài liệu được ghi chép bằng tiếng Mông Cổ, tiếng Tạng và tiếng Hán, không thể không thừa nhận rằng Chân Kim thực sự đã đến Sakya thì các nhà sử học vốn giữ thái độ hoài nghi đã đặt ra một câu hỏi khác: Chân Kim đến đó làm gì?

Chàng trai trẻ nhìn tôi, mỉm cười đầy ẩn ý.

Tôi phân tích tiếp:

- Giới sử học có nhiều phán đoán khác nhau. Có người cho rằng, Chân Kim muốn thiết lập nha Tuyên úy Wusi cho riêng khu vực Tây Tạng nên mới đến đây. Có người lại bảo, vì Hốt Tất Liệt muốn dọn đường qua Tây Tạng để tấn công sang Ấn Độ, hoàn thành giấc mộng thâu tóm toàn bộ đại lục u - Á của mình.

Cậu ta phì cười:

- Sức tưởng tượng của các vị thật phong phú. Những lập luận kiểu này hoàn toàn không có căn cứ.

Lòng tôi chợt thắt lại khi nhớ đến số mệnh bi đát của Chân Kim. Tôi buồn bã nói:

- Dù thế nào, sự thực là Chân Kim đã đến Sakya. Nếu số phận không nghiệt ngã, buộc cậu ta phải ra đi trước Hốt Tất Liệt thì cậu ta đã là vị hoàng đế ở Trung Nguyên duy nhất trong lịch sử Trung Quốc từng đặt chân đến Tây Tạng.

1.Tên gọi nước Nhật Bản của người Trung Quốc thời xưa. (DG)

PH̀N 4

KẾT CỤC CUỐI CÙNG

Chương 58

Trở lại quê hương

"Người hiền lành cũng sẽ phản kháng nếu bị ức hiếp;

Gỗ đàn hương cũng sẽ bùng cháy nếu bị cọ xát."

(Cách ngôn Sakya)

Năm 1277, tức năm Đinh Sửu, m Hỏa theo lịch Tạng, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ mười bốn, nhà Nguyên.

Trên đường đi, Chân Kim tỏ ra rất mực kính trọng, hết lòng săn sóc Bát Tư Ba. Còn đối với tôi, cậu ta giữ đúng lời hứa, lịch sự, phải phép, không khi nào thất lễ. Sinh ra và lớn lên trong nhung lụa, đời sống sung túc, đủ đầy, có người hầu kẻ hạ và chưa bao giờ phải vất vả trên chặng đường gian lao, điệp trùng thế này nhưng cậu ta không hề than vãn. Dù địa hình núi cao đã khiến cậu ta bị đau đầu, chóng mặt nhưng cậu ta vẫn cắn răng chịu đựng. Lòng quyết tâm và sự bền bỉ của Chân Kim khiến tôi thực sự khâm phục. Từ Lâm Thao về Sakya, chúng tôi đã di chuyển rất chậm vì sức khỏe của Bát Tư Ba không cho phép đi nhanh. Bởi vậy, đến tháng 6 năm 1275, chúng tôi mới đi được nửa chặng đường. Đúng lúc này, chúng tôi nhận được thư của bản khâm Sangtrum mới kế nhiệm. Bát Tư Ba đã nổi trận lôi đình sau khi đọc thư.

Trong suốt bảy, tám năm giữ chức bản khâm Sakya, Kunga Zangpo đã rất biết cách mua chuộc lòng người. Hắn hào phóng chia đất đai đoạt được từ các giáo phái khác cho những người lập công. Người ta dần quên đi xuất thân của Kunga Zangpo và ngày càng ủng hộ, tôn sùng hắn, nhất là thế hệ thanh niên của phái Sakya và đội quân võ tăng do đích thân Kunga Zangpo thành lập. Khi lá thư phế bỏ chức vụ bản khâm của Kunga Zangpo về đến Sakya, hắn đã cúi đầu, trao đại ấn bản khâm cho Sangtrum rồi trở về vùng đất phong Khanochang của mình.

Nhưng hắn không hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh của Bát Tư Ba vì hắn không chỉ mang theo vợ con. Hơn ba, bốn nghìn người rời bỏ Sakya, đi theo Kunga Zangpo. Quá nửa số đó là các võ tăng đã tham gia vào vụ thảm sát phái Drikung và đây cũng là những thanh niên trai tráng thuộc thế hệ mới của Sakya. Những người này đã được hưởng nhiều lợi lộc sau khi cướp phá Drikung, bọn họ sợ bị Bát Tư Ba trách tội nên đã ra đi cùng Kunga Zangpo. Nhưng điều khiến Bát Tư Ba và tôi kinh hoàng hơn cả là: hắn đã đưa Dharma đi cùng vì thằng bé gào khóc thảm thiết, nằng nặc đòi đi theo gia đình hắn!

Vợ chồng Zhuoma đã nuôi dạy Dharma từ nhỏ nên từ lâu, thằng bé đã xem họ như cha mẹ ruột của mình. Dharma và cô chị họ Jumodaban rất thân nhau nên chắc chắn không muốn xa nhau. Thêm nữa, cả hai vị Lạt Ma Gungman và Kungtse, cháu trai của đại sư Ngũ Do Ba đã quá cố, vốn là thầy dạy Phật pháp của Dharma, đều đã theo Kunga Zangpo đi Khanochang. Vậy là bạn bè, thầy giáo, người thân của Dharma đều đi Khanochang cả, một đứa trẻ chưa đầy mười tuổi như thằng bé, đâu còn muốn ở lại Sakya nữa. Tuy Bát Tư Ba đã phế bỏ chức vị bản khâm của Kunga Zangpo nhưng hắn vẫn là con rể nhà họ Khon, Sangtrum không thể ngăn cản hắn đưa Dharma đi cùng.

- Chắc chắn Kunga Zangpo đã phát hiện ra điều gì. Rất có thể sau khi thiêu cháy cả đền Drikung mà vẫn không thấy xác của Chung Dorje và tờ giấy bán thân đâu, hắn đã sinh nghi. Nhân lúc chúng ta chưa về kịp, hắn đã đưa Dharma đi cùng, hòng uy hiếp chúng ta.

Lòng như lửa đốt, tôi đứng lên, đi đi lại lại trong căn phòng ở trạm nghỉ Chindu.

Bát Tư Ba vô cùng ân hận, cơn ho khan ập đến, chàng vừa đưa tay lên ôm ngực vừa than trách:

- Tất cả là lỗi của ta! Chính ta đã đưa hắn lên vị trí bản khâm, cho hắn cơ hội để mua chuộc lòng người, tập hợp phe phái. Lúc phế bỏ chức vị của hắn, ta lại mềm lòng nương tay, vì xem nhẹ sức ảnh hưởng của hắn ở Sakya. Ta đã nhân nhượng, dung túng cho hắn, dẫn đến kết cục rối ren như bây giờ!

Sắc mặt chàng mỗi lúc một trắng bệch, tái xám, mồ hôi đầm đìa trên trán, những cơn ho dữ dội ào ạt kéo đến chàng nôn ra máu rồi ngất đi. Tôi vừa đau lòng vừa sợ hãi, vội vã áp môi mình lên môi chàng, truyền linh khí cho chàng. Lúc lâu sau, sắc mặt của chàng mới dần hồi phục.

Trước lúc chàng tỉnh lại, tôi đã gắng gượng lê lết tấm thân mỏi mệt vì mất sức và linh khí đi mời Chân Kim đến và kể lại cho cậu ta nghe. Chân Kim lo lắng nhìn người thầy đang hôn mê bất tỉnh trên giường, an ủi tôi:

- Tiểu Lam, em đừng quá lo lắng về sự an nguy của Dharma. Kunga Zangpo nhất định sẽ bảo vệ nó. Hắn thừa hiểu rằng, nếu Dharma có bất cứ sơ sảy nào, tính mạng của hắn cũng sẽ bị đe dọa. Nếu Dharma có chuyện gì, Phụ hoàng và ta sẽ bắt cả nhà hắn đền mạng.

Tôi ngồi xuống cạnh Bát Tư Ba, thấm mồ hôi cho chàng:

- Nhưng không lẽ cứ để mặc Dharma ở trong tay hắn ư? Bát Tư Ba dần tỉnh lại, ánh mắt đờ đẫn nhìn Chân Kim, giọng chàng yếu ớt như gió thoảng:

- Phần đông võ tăng của Sakya đã theo hắn, thực lực của Sakya giảm sút nghiêm trọng. Nếu không dựa vào viện trợ từ bên ngoài, chúng ta không thể đối phó với hắn!

Chân Kim bước lên một bước, đề nghị:

- Thưa thầy, chi bằng để ta gửi thư về báo tin phái Sakya xảy ra nội loạn với Phụ hoàng, xin Phụ hoàng phái quân đội đến. Nếu Kunga Zangpo ngoan ngoãn giao nộp Dharma, chúng ta sẽ không phát động chiến tranh. Nhưng nếu hắn ngoan cố phản kháng đến cùng, đại quân Mông Cổ sẽ phanh thây hắn ra trăm nghìn mảnh!

Bát Tư Ba thở gấp một hồi rồi mới ngẩng lên nhìn Chân Kim, giọng vô cùng yếu ớt:

- Hiện đang là lúc Bệ hạ cần tập trung sức mạnh quân sự, Thái tử điều động đại quân Mông Cổ đến Sakya giúp ta giải quyết việc nhà thế này, ta đâu dám nhận!

Chân Kim liếc nhìn tôi rồi tiêp tục thuyết phục Bát Tư Ba:

- Việc nhà của thượng sư cũng là việc quốc gia đại sự. Điều động đại quân tới đây không chỉ để tiêu diệt bè lũ Kunga Zangpo mà còn đảm bảo để Dharma được thuận lợi kế thừa pháp thống của giáo phái Sakya.

Bát Tư Ba trầm ngâm một lát, nghiêng đầu thở dốc, vẻ mặt âu lo:

- Nhưng đại quân phải mất ít nhất hai năm mới đến được Sakya, không biết ta có thể gắng gượng đến lúc đó không.

Tim tôi thắt lại, tôi vội nắm chặt tay chàng:

- Chàng đừng lo, chắc chắn sẽ đợi được!

Chân Kim nhìn tôi lo lắng, nhưng tôi đã gật đầu quyết liệt để cậu ta yên tâm.

- Thưa thầy, ta sẽ lệnh cho đại quân tăng tốc để có thế đến được Sakya sau một năm rưỡi. Trong thời gian chờ đợi, xin thầy hãy giảm tốc độ, đi thật chậm và phao tin rằng sức khỏe của thượng sư đang rất nguy kịch, e là không về kịp Sakya. Kunga Zangpo đang nắm giữ Dharma trong tay, chắc chắn hắn sẽ hy vọng thượng sư sớm viên tịch để có thế lung lạc, không chế Dharma được dễ dàng!

Tôi ngước nhìn người đàn ông chững chạc, chín chắn khí độ phi phàm ấy, lòng không khỏi cảm phục. Cậu ta quả là người kế nghiệp xứng đáng mà Hốt Tất Liệt đã dốc lòng bồi dưỡng. Chỉ trong thời gian ngắn, cậu ta đã vạch ra một kế hoạch chu toàn và đó là kế sách hữu hiệu nhất lúc này.

Chúng tôi đã kết thúc hành trình trong vòng một năm rưỡi còn lại. Không cần phải phao tin đồn, vì tình trạng sức khỏe thực tế của Bát Tư Ba đã leo lét như ngọn đèn trước gió, chàng phải dựa vào linh khí của tôi để vượt qua cửa tử. Ngày 25 tháng 12 năm 1276, sau hai năm tám tháng lặn lội trên cung đường gian nan, hiểm trở, Bát Tư Ba trở lại quê hương Sakya trên miền núi tuyết quanh năm băng giá.

Ngôi đền Nam Sakya nguy nga, lộng lẫy, tọa lạc bên bờ Nam của dòng Trum-chu, nhìn sang phía bên kia của ngọn núi Benbo là đền Bắc Sakya.

Công trình kiến trúc đồ sộ kiểu thành trì này chiếm toàn bộ dải sông Trum-chu bằng phẳng. Bốn phía là những bức tường thành được xây đắp bằng bùn đất, quét vôi màu đỏ, xanh, trắng, vốn là những màu sắc đặc trưng của phái Sakya. Bên ngoài tường thành còn có cả một công sự hình vuông bao xung quanh. Công sự này là bờ tường cao, dày, bốn phía đều có chòi canh và bia bắn tên để đề phòng quân địch tấn công, ở chính giữa xây thêm một chòi gác kiên cố. Công sự này giống hệt kiểu thành lũy của người Hán, bên ngoài còn đào hào sâu, cống nước ngầm, giống hệt những con sông bảo vệ thành phố ở đất Hán.

Toàn bộ công trình kiến trúc này chỉ có duy nhất một cổng chính ở phía đông, phía trên cổng là đài quan sát cổng thành xây dựng kiểu cổng vòm, cuốn tò vò, rất sâu, hình chữ "T", bên trong có cửa tò vò. Phía trên vòm cống khoan các lô nhỏ để nếu quân địch tấn công vào thành thì có thể ném đá hoặc những thứ khác qua lỗ này. Tuy nói đến Ham Sakya là một ngôi đền nhưng kiến trúc của nó chẳng khác nào một thành trì được canh giữ cẩn mật. Thành trì này vẫn đang trong giai đoạn thi công nhưng bố cục cơ bản đã thành hình, nơi ở của pháp vương, điện Lakhang đã được hoàn tất, vô cùng nguy nga, tráng lệ. Phân nửa công trình đang phải tạm dừng, lý do là phần lớn nhân công đã bỏ đến Khanochang nên không thể thi công đồng loạt.

Ngắm nhìn Phật điện nguy nga, tráng lệ trước mắt, Chân Kim nhận xét:

- Đền Nam Sakya được xây dựng vô cùng kiên cố, vũng chắc. Ta vừa quan sát và nhận thấy, ngay cả những chi tiết nhỏ cũng đã được suy tính rất kĩ lưỡng, chu toàn. Kunga Zangpo quả là một nhân tài!

Bản khâm Sangtrum tiếp tục bẩm báo, trong vòng nửa năm sau khi về Khanochang, Kunga Zangpo đã dốc toàn bộ số của cải mang theo để xây dựng trang viên Khanochang, tường bao của khu trang viên này được xây dựng vô cùng kiên cố, ngoài ra, hắn còn chiêu binh mãi mã khắp nơi. Theo ước tính của Sangtrum, nếu cộng cả số võ tăng đã bỏ Sakya đi theo Kunga Zangpo thì hiện hắn đã có khoảng gần một vạn binh lính.

Quá lo lắng cho sự an nguy của Dharma nên tôi không kìm nổi lòng, vội nắm chặt tay áo Bát Tư Ba:

- Chúng ta hãy nghĩ cách đón Dharma về đây, được không? Chàng là bác ruột của nó, bác ruột về Sakya, Kunga Zangpo phải đưa nó về thăm chàng chứ!

Sangtrum đáp:

- Hắn đã cử người đến đưa tin rằng, tuy pháp vương đã về Sakya nhưng năm mới sắp đến nên sẽ để Thế tử ăn Tết xong mới đưa về thăm hỏi pháp vương.

Lòng tôi như lửa đốt. Hắn muốn bắt Dharma làm con tin, ngấm ngầm cảnh cáo Bát Tư Ba không được manh động. Bát Tư Ba bóp chặt tay tôi, chàng muốn tôi hết sức kiềm chế và bình tĩnh, quay sang nói với Sangtrum:

- Ta biết rồi, bản khâm cứ lui ra đi!

Sangtrum cung kính vái lạy Bát Tư Ba:

- Vẫn còn một việc nữa xin bẩm báo với pháp vương. Con trai của ngài Yeshe, cậu Dani, hiện đang ở Sakya.

Thông tin này khiến chúng tôi không khỏi ngạc nhiên, Bát Tư Ba hỏi:

- Dani đã về đây bằng cách nào? Yeshe đã chết trong vụ phản loạn ở Vương phủ Vân Nam kia mà!

- Phu nhân của ngài Yeshe đã đưa con trai về Sakya hồi đầu năm nay.

Sangtrum liếc trộm Bát Tư Ba rồi rụt rè thưa:

- Phu nhân bảo rằng, dù sao cậu Dani cũng là con cháu nhà họ Khon, đưa cậu ấy về đây là để hoàn thành di nguyện của ngài Yeshe trước khi qua đời. Cậu Dani đã về đến giáo phái, bà ấy không còn quan hệ gì với Sakya, nói xong, bà ấy liền bỏ đi.

Bát Tư Ba trầm ngâm một lát, hỏi:

- Dani mười sáu tuổi rồi phải không?

Sangtrum đáp:

- Vâng. Dáng người cao lớn, rất giống ngài Yeshe. Cậu ấy rất thông minh, lanh lợi, chỉ có điều tính khí hơi cục cằn, thô lỗ.

Bát Tư Ba mỏi mệt xua tay:

- Ta biết rồi, cứ để nó ở lại. Các ngươi lui ra đi!

Trong phòng chỉ còn lại tôi và Chân Kim. Bát Tư Ba chìa tay về phía tôi, giọng nói run rẩy:

- Lam Kha, chúng ta đi thăm Kháp Na nào!

Tôi sững sờ, miệng đắng chát, khẽ gật đầu.

Điện thờ nguy nga, tráng lệ là thế vậy mà bên trong lại tối tăm, ảm đạm, chỉ có vài ô cửa sổ trên cao rớt xuống vài sợi nắng mong manh. Một tòa tháp hoàng kim cô đơn giữa gian thờ chính, ánh đèn dầu lập lòe chiếu sáng quanh tháp, soi tỏa sắc vàng lạnh lẽo. Kể từ lúc bước vào điện thờ, ánh mắt tôi đã gắn chặt vào tòa tháp nguy nga ấy, trái tim quặn đau từng hồi.

- Kháp Na, em về thăm chàng đây.

Tôi đặt đóa tuyết liên hái trên đỉnh núi Benbo vào chiếc bát pha lê, đóa tuyết liên dập dờn trên mặt nước, đẹp thánh khiết. Tôi đỡ lấy thân hình đang run rẩy vì xúc động của Bát Tư Ba, lồng tay vào bàn tay chàng, thủ thỉ:

- Kháp Na, chàng thấy không? Em và Lâu Cát đang ở bên nhau, em rất hạnh phúc. Em đã giữ lời hứa với chàng.

Chàng quay mặt đi, bờ vai rung động, hơi thở khó khăn, chàng đang gắng sức kìm nén những tiếng khóc. Nước mắt lưng tròng, tôi sụt sịt:

- Con trai chúng ta đã mười tuổi rồi, em vẫn chưa được gặp con. Nghe nói con giống chàng như đúc, chắc chắn là rất đẹp.

Tôi vuốt ve tòa tháp lạnh, áp má vào đó để cảm nhận cái giá buốt thấu tim gan, khẽ thì thào:

- Xin lỗi chàng vì em đã không ở bên con để được thấy con lớn khôn. Những năm tháng sau này, em nhất định sẽ luôn ở bên chăm sóc, bảo vệ con trai và cháu chắt của chúng ta, đời đời kiếp kiếp, cho đến khi em trút hơi thở cuối cùng.

Bát Tư Ba cũng nước mắt vòng quanh, chàng lặng ngắm tòa tháp rồi chậm rãi nói:

- Lam Kha, có chuyện này ta vẫn giấu em. Hôm đó, sau khi hỏa táng Kháp Na, ta lượm được một hạt Xá Lợi lấp lánh tựa ngọc lưu ly bảy màu, đó là viên ngọc kết tụ thể xác và linh hồn của Kháp Na. Ta đã đặt viên ngọc Xá Lợi đó lên đỉnh tòa tháp.

Chàng quay lại nhìn tôi, gương mặt an nhiên, khóe môi nở nụ cười hồn hậu, ấm áp:

- Sau khi tiêu diệt xong đám bội phản, ta có thể yên tâm ra đi được rồi.

Tôi đặt tay lên miệng chàng, nước mắt giàn giụa, lắc đầu phản đối. Chàng gỡ tay tôi xuống, nhìn tôi âu yếm:

- Lam Kha à, đừng tránh né thêm nữa, ta đã có sự chuẩn bị nên không hề sợ hãi. Hãy nghe ta nói, khi ta vẫn còn đủ tỉnh táo để trò chuyện.

Chàng chỉ tay vào mảnh đất trống bên cạnh, vạch một vòng tròn.

- Em hãy xây một tòa tháp như thế này ngay bên cạnh tháp hoàng kim của Kháp Na. Nếu sau khi hỏa táng, linh hồn và thể xác ta cũng biến thành ngọc Xá Lợi, em hãy đặt Xá Lợi của ta và Kháp Na ở cạnh nhau. Phần tro cốt còn lại hãy đặt vào trong tháp. Hai anh em ta ở bên nhau, sẽ không còn cô đơn nữa...

Tôi khóc hết nước mắt, đứt từng khúc ruột khi thấy chàng bình tĩnh sắp xếp chuyện hậu sự của mình. Chàng thở dài, bước lại, kéo tôi vào lòng, để tôi tựa vào bờ vai gầy guộc của chàng, khóc cho thỏa.

Ra khỏi linh tháp của Kháp Na, tôi đề nghị được đi thăm ngôi nhà gỗ của Dharma. Vì sự an toàn cua Dharma, Bát Tư Ba không cho phép đưa thằng bé ra khỏi căn nhà này. Những đồ chơi con trẻ mà năm xưa tôi và Kháp Na chuẩn bị cho con trai, nay đã được xếp gọn, thay vào đó là hàng chồng những kinh văn được viết bằng thứ mực nấu chảy từ vàng[1] và lá bối diệp[2], xếp kín các bức tường. Xem ra thằng bé này rất ham đọc sách. Tôi mân mê từng đồ dùng của con, như thể làm vậy là có thể chạm vào thân hình bé nhỏ cùa con vậy. Bát Tư Ba trầm ngâm nhìn ngắm tôi, ánh mắt sầu muộn.

Đêm Giao thừa, cả gia đình quây quần bên nhau cùng ăn bữa cơm đoàn viên. Kể từ khi Bạch Lan Vương qua đời đã rất lâu rồi phái Sakya không được đón một ngày náo nhiệt như thế. Các em gái, em rể, cháu trai, cháu gái của Bát Tư Ba đều tới thăm hỏi, chúc Tết pháp vương, chỉ trừ gia đình Zhuoma. Trong bữa tiệc, Bát Tư Ba hồ hởi giới thiệu tôi với mọi người và yêu cầu họ gọi tôi là Lam phu nhân. Ngay lập tức, họ xem tôi như là một nhân vật quan trọng cần thiết phải kết thân.

Hôm đó, tôi đã gặp Dani. Đúng như Sangtrum miêu tả thằng bé giống hệt Yeshe. Mười sáu tuổi mà cao lớn, vạm vỡ, chân tay chắc nịch, nhanh nhẹn. Tuy dung mạo bình thường nhưng cơ thể săn chắc, cường tráng, sắc mặt hồng hào, khỏe khoắn, tràn đầy sức sống. Dani rất mực cung kính, lễ phép với Bát Tư Ba, gọi chàng rất thân mật: "bác cả". Nhưng Bát Tư Ba chỉ lạnh lùng đáp lại:

- Hãy gọi ta là pháp vương.

Mọi người đều tỏ ra kinh ngạc, Dani lúc thì đỏ mặt, lúc thì tái mặt, khuôn ngực phập phồng dữ dội. Trước mặt nhiều người như vậy mà Bát Tư Ba chẳng chịu giữ thể diện cho Dani, không cho thằng bé gọi mình là bác. Làm vậy, khác nào tuyên bố vói mọi người trong giáo phái rằng, Dani không phải là cậu chủ của phái Sakya.

Không ai biết đã xảy ra chuyện gì nhưng người hầu của Dani lập tức dọn bát đũa của thằng bé đến một nơi cách xa trung tâm đại điện. Dani bàng hoàng trước vẻ mặt hiếu kỳ của mọi người và tức tối nhìn Bát Tư Ba. Bát Tư Ba yên lặng không nói, chiếu ánh mắt sắc lạnh về phía Dani. Cậu bé lập tức cúi đầu, sợ hãi, ngồi vào một mâm cỗ ở góc xa. Trong bữa tiệc cuối năm ấy, không ai mời rượu Dani.

Buổi tối, khi chỉ có tôi và Bát Tư Ba trong phòng, tôi giúp chàng cởi áo khoác, lựa lời nói:

- Dani còn nhỏ, tội lỗi của Yeshe không liên can đến thằng bé. Chàng làm vậy có hơi quá không?

Bát Tư Ba nhắm mắt, mệt mỏi ngả lưng xuống đệm:

- Lam Kha, ta sẽ không trút tội lỗi của Yeshe lên đầu Dani, đó không phải hành vi tư thù cá nhân. Sở dĩ ta phải làm vậy vì muốn tất cả những người ở Sakya này biết rằng, Dani chắc chắn không phải, tuyệt đối không phải là người kế thừa tương lai của giáo phái. Những kẻ bợ đỡ nó sẽ không được bất cứ lợi lộc gì cả. Nếu không làm thế, lỡ một ngày nào đó, có kẻ nuôi mưu đồ đưa Dani lên ngôi vị pháp vương, khi ấy Dani cơ trí, khôn ngoan, già dặn sẽ trở thành mối uy hiếp rất lớn đối với Dharma.

Tôi lặng yên không nói. Trong lòng chàng lúc này, Dharma là tất cả. Chàng muốn gạt phăng mọi trở ngại, dọn đường cho Dharma tiến bước, thậm chí chàng không màng phải mang tiếng ác. Mong là ngày sau, cuộc đời của Dharma sẽ được bình yên, tiền đồ tươi sáng như chàng kỳ vọng.

Ăn Tết xong, sứ giả mà Bát Tư Ba cử đến Khanochang đón Dharma trở về, mang theo tin tức: Thế tử chỉ muốn ở lại Khanochang với gia đình nhà vợ, không muốn về Sakya. Tôi đã hỏi đi hỏi lại, những lời này có phải do chính Thế tử nói ra hay không, sứ giả đã khẳng định chắc chắn.

Nhưng chúng tôi đều biết rằng có kẻ đã mớm lời. Xem ra lời hứa đưa Dharma về Sakya thăm bác sau Tết của Kunga Zangpo chỉ là kiếm cớ kéo dài thời gian mà thôi.

Sứ giả còn mang theo một bức thư Kunga Zangpo gửi cho Bát Tư Ba. Lời lẽ trong thư rất mực kính cẩn, khách sáo. Hắn nói, Thế tử được vợ chồng hắn nuôi nấng từ nhỏ, từ lâu đã xem như con đẻ, không nỡ rời xa. Nghe nói sức khỏe của pháp vưong không được tốt, sau khi về Sakya lại có muôn việc phải lo toan nên e là khó có thể chăm sóc cho Dharma được chu đáo. Hắn xin Bát Tư Ba hãy yên lòng, để Thế tử sống với vợ chồng hắn. Hắn hứa sẽ hết lòng chăm lo cho Thế tử.

- Em sẽ đi đón con em về.

Tôi bật dậy, lao ra ngoài. Tôi không thể để con trai mình trở thành con tin trong tay hắn.

Chân Kim vội đuổi theo, chắn trước mặt tôi:

- Tiểu Lam, đừng hành động lỗ mãng! Senge cùng bảy mươi ngàn binh mã sắp đến Sakya, lúc này, em không nên bứt dây động rừng.

Tôi tránh né cậu ta, tiếp tục bước đi:

- Tôi phải cứu con trai ra khỏi đó, trước khi đại quân tấn công Khanochang. Tôi có phép thuật, tôi có thể ra vào trang viên đó dễ dàng.

Chân Kim giữ chặt cánh tay tôi lại, nhìn tôi bằng ánh mắt sắc sảo:

- Em có phép thuật nhưng Dharma thì không. Em làm thế nào để đưa cậu bé thoát khỏi trang viên được canh giữ vô cùng cẩn mật ấy? Hơn nữa, cậu bé chưa gặp em bao giờ, sẽ không tin tưởng và ngoan ngoãn đi theo em đâu.

Bước chân tôi chậm lại, tôi khổ sở quay về. Chân Kim nói đúng, tuy tôi có thể hóa phép lẻn vào Khanochang nhưng linh khí của tôi đã bị hao tổn quá nửa để duy trì sự sống cho Bát Tư Ba nên tôi không còn đủ sức để có thể hóa phép tàng hình thằng bé và đưa nó đi cùng, huống hồ nó sẽ chẳng bằng lòng đi theo tôi.

Chân Kim ra sức động viên:

- Ta biết em lo lắng cho sự an toàn của con trai. Nhưng em phải kiên nhẫn. Ta hứa sẽ đưa Dharma bình yên trở về.

Nước mắt tôi tuôn rơi, lòng dạ rối bời:

- Nhưng Dharma là quân cờ quan trọng nhất trong tay hắn, chắc chắn hắn sẽ chống cự đến cùng để giữ cho bằng được, huống hồ gươm đao vốn không có mắt, tôi làm sao mà yên lòng được khi Dharma mới chỉ là một đứa trẻ mười tuổi.

Bát Tư Ba lo lắng, chìa tay về phía tôi, gọi tôi lại:

- Lam Kha, ta có cách bắt Kunga Zangpo ngoan ngoãn đưa Dharma về đây.

Cả tôi và Chân Kim đều sững sờ. Tôi chạy đến bên chàng:

- Chàng có cách gì?

Bát Tư Ba hổn hển một hồi rồi đáp:

- Ta đã suy tính kĩ càng và quyết định thông báo cho tất cả các giáo phái trên toàn đất Tạng, rằng phái Sakya sẽ tổ chức một pháp hội lớn nhất từ trước tới nay ở Chuirug, tuyên bố quyền thừa kế pháp thống của Dharma.

Chân Kim hào hứng vỗ tay:

- Ý kiến của thầy rất sáng suốt! Một sự kiện quan trọng như thế, Kunga Zangpo không thể không đưa Dharma đến dự. Chỉ cần Dharma không có mặt ở Khanochang, ta sẽ lệnh cho Senge lập tức tấn công trang viên của Kunga Zangpo.

- Tháng 1 năm 1276, quân Nguyên tấn công Lâm An, Thái hậu và Đức vua Nam Tống đã dâng biếu xin hàng.

Chàng trai trẻ ngáp ngắn ngáp dài, xoa hai má để giữ cho mình được tỉnh táo, đồng thời xin lỗi:

- Xin lỗi, tôi hơi buồn ngủ.

Rồi cậu ta đột nhiên “a” lên một tiếng.

-Tóc cô...

Tôi đón lấy một lọn tóc, thấy quá nửa số sợi tóc đã biến thành màu trắng. Tôi nhún vai, ơ hờ:

- Tôi nhiều tuổi rồi, có gì lạ đâu.

Rồi tôi ngó đồng hổ, đã ba rưỡi sáng. Tôi nhìn chàng trai trẻ, động viên:

- Câu chuyện sắp kết thúc rồi, cậu có thể cố gắng thêm chút nữa không?

Thấy cậu ta gật đầu, tôi mới tiếp tục câu chuyện.

1. Những bộ kinh Phật thường được chép lại theo phương pháp này vào thời nhà Nguyên. (DG)

2.Bối diệp (lá bối), còn gọi là Bối Đa La diệp. Tiếng Phạn gọi là Pattra, dịch là "Diệp", là một loại cây cọ - thực vật miền nhiệt đới, mọc nhiều tại các khu vực hướng Tây Nam Ấn Độ, Mianma và Nam Trung Quốc, lá dài mà dày, có thể dùng để ghi chép kinh văn. Trong Chu Ái Liên Trúc Ký Du thứ mười bốn, quyển 2 có viết: "Bối diệp là một loại lá cây lớn tại Tây Thiên, sáng bóng và sạch sẽ, có thể dùng để viết kinh sách. " Truớc khi phát minh ra giấy, Ấn Độ thời cổ đã dùng lá Bối Đa La đế ghi chép kinh điển Phật giáo và tư liệu văn hiến của cung đình. Hiện nay, tại khu vực Nam Ấn Độ và Phật giáo Nam truyền, người ta vẫn tiếp tục sử dụng loại lá này. (DG)

Chương 59

Cái ác đền tội


"Người hiền làm quan,

Muôn người bình an;

Tri thức mở mang,

Nơi nơi giàu sang.”

(Cách ngôn Sakya)

Tháng Giêng năm đó, Bát Tư Ba tổ chức một pháp hội lớn ở Rinmo, Chumig, với sự tham gia của đông đảo tăng nhân khắp đất Tạng. Đây là pháp hội cuối cùng của Bát Tư Ba. Chàng viết thư yêu cầu Kunga Zangpo đưa Dharma tới tham dự và thông báo luôn rằng, chàng sẽ tuyên bố với mọi người ở Wusi về quyền thừa kế của Dharma.

Đó là một sự kiện vô cùng trọng đại nên sau khi cân nhắc kĩ lưỡng, Kunga Zangpo quyết định đồng ý. Hắn không đưa Dharma về Sakya mà một ngày trước khi diễn ra pháp hội, hắn đưa thằng bé đến thẳng Chumig. Con cáo già Kunga Zangpo không tới tham dự mà cử ba ngàn võ tăng hộ tống vợ, con gái và Dharma đến Rinmo. Đội hộ vệ hùng hậu ấy khiến các giáo phái khác đều cho rằng Bát Tư Ba đang muốn "giễu võ giương oai", phô trương thanh thế.

Mãi đến buổi tối trước ngày khai mạc pháp hội, tức đêm tháng Giêng năm 1277, tôi mới được gặp cậu con trai mà tôi ngày đêm thương nhớ.

Zhuoma dắt theo chú nhóc đến phòng nghỉ của Bát Tư Ba, để hai bác cháu nhận nhau. Chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm rộng rãi ôm lấy thân hình bé nhỏ, gầy gò của thằng bé. Nó đã mười tuổi rồi nhưng trông thấp bé như trẻ mới lên bảy, lên tám. Gương mặt tuy còn non nớt nhưng các đường nét đều giống hệt Kháp Na, đôi mắt long lanh như sóng nước, lấp lánh như sao mai, hai vết sạm đỏ nổi bật trên đôi gò má. Nếu thằng nhóc không cạo trọc đầu và vận y phục của người tu hành thì trông bé chẳng khác nào một bé gái xinh xắn.

Bát Tư Ba bảo Zhuoma lánh mặt rồi đưa mắt ra hiệu cho tôi. Tôi lảo đảo lại gần con trai. Thằng nhóc mỉm cười với tôi, đôi má lúm đồng tiền lấp ló bên khóe môi chúm chím, giống Kháp Na hồi nhỏ như hai giọt nước vậy. Thằng nhóc cúi đầu chào tôi, rất mực lễ phép, chỉn chu:

- Chào cô, cháu tên Dharmapala, cô cứ gọi cháu là Dharma cũng được. Cô là ai?

Nước mắt tràn mi, đầu óc tôi quay cuồng, sao mà giống đến vậy. Hồi tám tuổi, khi lần đầu gặp tôi, Kháp Na cũng nói y như vậy:

- Chào em, tên ta là Kháp Na Đa Cát, em có thể gọi ta là Kháp Na, như anh trai ta vậy.

Tôi run rẩy ngồi xuống trước mặt thằng bé, nghẹn ngào không thốt lên lời, ôm con trai vào lòng. Nó mới nhỏ bé, gầy guộc làm sao? Làn da sạm đen, sắc mặt yếu ớt, tình trạng sức khỏe của thằng bé khiến lòng tôi đau như cắt. Giọng nói trong veo như nước suối vang lên bên tai tôi:

- Cô ơi, cô làm sao thế?

Tôi thổn thức:

- Ta... ta là...

Tôi ngắm nhìn thằng bé, muốn nói mà không sao thốt ra lời, đành cúi đầu, nuốt lệ, nói:

- Con hãy gọi ta là dì Lam.

Ánh mắt buồn thương u uẩn của Bát Tư Ba dõi theo chúng tôi từ nãy đến giờ, sau khi nghe những lời này của tôi, chàng thở dài ảo não.

Trong ngày pháp hội ở Chumig, thằng bé khoác áo cà sa màu đỏ sẫm, ngồi khoanh chân trên tòa thuyết pháp rộng lớn. Vẻ mặt điềm tĩnh, pháp tướng trang nghiêm, cất giọng rành rọt, thuyết giảng kinh Hỷ Kim Cang tục đệ nhị phẩm. Nước mắt tôi cứ thế trào ra, năm xưa, khi ngài Ban Trí Đạt tổ chức pháp hội, Bát Tư Ba mới lên chín, cũng thuyết giảng cuốn kinh này.

Giọng nói trong trẻo, thanh thoát của thằng bé lanh lảnh cất lên, thu hút sự chú ý của đông đảo người nghe. Những người trước đó tỏ ra xem thường, khinh bỉ giờ thì càng lúc càng gật đầu tấm tắc. Cảnh tượng này giống hệt ba mươi năm về trước. Cũng là đứa trẻ còn non nớt ấy cũng là trí tuệ vượt trội ấy, trong thoáng chốc, hình ảnh của Bát Tư Ba và Dharma hòa quyện vào nhau, khiến tôi như đắm chìm trong ảo giác mơ hồ. Thì ra, người nay đã khác xưa, đang từng ngày già cỗi, thời gian như bóng câu qua thềm, tháng năm như giấc mộng thoáng qua.

Pháp hội lần này diễn ra trong vòng mười bốn ngày, phân nửa số tăng nhân đất Tạng đã đến tham dự. Chỉ riêng các nhà sư đã hơn bảy mươi nghìn người, nếu tính cả đám đông quần chúng, có lẽ phải tới hơn một trăm nghìn người. Ở một nơi mà dân số toàn vùng chỉ chừng sáu trăm nghìn người như đất Tạng thì buổi pháp hội lần này có thể nói là đông đảo chưa từng có. Bát Tư Ba thết đãi hơn vạn nhà sư một bữa cơm thịnh soạn, tặng cho mỗi vị một đồng tiền vàng và một bộ tam y[1], dù rất yếu, chàng vẫn đăng đàn thuyết pháp. Bát Tư Ba đã hiến tặng cho lần pháp hội này hàng nghìn lạng vàng, bạc nén và vô số lụa là, gấm vóc, lúa mì, dầu bơ,...

Thái tử Chân Kim được xem là vị khách tôn quý nhất của pháp hội, đại diện cho Hốt Tất Liệt, ban tặng cho mỗi vị tăng nhân ba đồng tiền vàng. Kể từ khi Mông Cổ cai trị đất Tạng đến nay, chưa từng có một vương gia Mông Cổ nào đến vùng đất xa xôi này. Bởi vậy, sự có mặt của Chân Kim, với tư cách là nhà thống trị tương lai của đế quốc Mông Cổ, mang lại niềm vinh dự khôn tả cho các tăng sĩ đất Tạng. Mọi người đều hết lời ca tụng công đức của Chân Kim.

Vào ngày cuối cùng diễn ra pháp hội, Bát Tư Ba đã tuyên bố trước đông đảo quần chúng vùng Wusi rằng, cháu trai của chàng, Dharma sẽ là người kế thừa pháp thống của giáo phái và gia tộc họ Khon. Chú bé loắt choắt khoác lên mình chiếc áo cà sa thêu kim tuyến lấp lánh, lộng lẫy, đội mũ ngũ sắc rộng thênh thang, ngồi xếp bằng trên đài sen, thần thái trang nghiêm, đĩnh đạc khi tiếp nhận nghi lễ vái lạy tôn vinh của tín đồ và quần chúng.

Tôi nhìn thấy rất rõ ràng, ánh mắt hình mũi tên chĩa thẳng vào Dharma từ một góc khuất trong Phật điện. Đó là ánh mắt của Dani.

Cũng trong ngày hôm đó, khi mà Kunga Zangpo đang hả hê vì tin rằng mọi thứ vẫn nằm trong vòng kiểm soát của hắn, rằng một người đau yếu, bệnh tình nguy kịch như Bát Tư Ba chẳng thể làm gì được hắn thì Senge đã dẫn theo bảy mươi nghìn quân Mông Cổ, đột ngột ập vào Khanochang. Sau khi theo Bát Tư Ba vào cung bái kiến Hốt Tất Liệt, tài năng, trí tuệ của Senge lập tức thuyết phục được Nhà vua và lúc này Senge đang giữ cương vị là sứ giả của Tổng chế viện. Hốt Tất Liệt lệnh cho cậu ta dẫn theo bảy mươi nghìn quân Mông Cổ tiến vào đất Tạng, trợ giúp Bát Tư Ba tiêu diệt tên gian tặc Kunga Zangpo.

Dù tường bao của trang viên Khanochang có kiên cố cỡ nào, cũng không thể chống lại sức công phá mãnh liệt của hỏa pháo Mông Cổ. Võ tăng của Khanochang có đông đảo chừng nào, cũng không thể địch nổi sức mạnh vô địch của kỵ binh Mông Cổ. Do vậy, chưa đầy một ngày, cuộc chiến đã kết thúc. Binh lính của Senge tóm được Kunga Zangpo ở cửa phía đông khu trang viên Khanochang khi hắn vờ cải trang thành Dugong để bỏ trốn. Quân lính đã bắt trói hắn và đám người ủng hộ hắn, giải tất cả về Sakya.

- Kunga Zangpo, ngươi nói đi, ta và Kháp Na đối đãi với ngươi thế nào?

Bát Tư Ba gượng ngồi dậy, gương mặt chàng tái xám vì ốm yếu, bệnh tật nhưng vẫn trừng trừng nhìn Kunga Zangpo đang quỳ mọp dưới đất.

Đám áo quần trên người Kunga Zangpo xô lệch, nhàu nhĩ, trên gương mặt hắn xuất hiện nhiều vết thương, một bên má sưng húp. Hắn không dám nhìn thẳng vào Bát Tư Ba mà cúi sát đầu xuống đất, lí nhí đáp:

- Công ơn của pháp vương và cậu chủ Kháp Na đối với tôi vô cùng to lớn. Dù tôi có phải chết ngàn vạn lần cũng không báo đáp được ơn nghĩa của hai vị!

Đôi mắt Bát Tư Ba vằn vện những tia đỏ, chàng run lên vì giận dữ, trỏ thẳng vào mặt Kunga Zangpo:

- Vậy thì vì sao người giết hại Kháp Na?

Kunga Zangpo vừa gào khóc thảm thiết vừa ra sức đập đầu xuống đất, máu tươi túa ra trên trán hắn:

- Tôi đâu có muốn! Sao tôi có thể đang tâm hãm hại cậu chủ? Cậu ấy là người tốt với tôi nhất trên đời này! Tôi thật sự không muốn làm việc đó! Tôi có một người vợ hiền, một đứa con ngoan, tôi muốn được sống yên ổn lắm chứ! Nhưng Chung Dorje và Yeshe đã ép buộc tôi. Nếu tôi không nhận lời, bọn chúng sẽ phơi bày thân phận thật sự của tôi, tôi sẽ mất tất cả, con gái tôi từ thân phận cô chủ sẽ trở thành nô lệ. Tôi không thể không vì mẹ con họ.

Tôi ngồi yên bên Bát Tư Ba từ nãy giờ, không nhẫn nhịn nổi, lên tiếng:

- Nên ngươi đã vong ân bội nghĩa, gây ra việc tàn ác trời không dung đất không tha ấy!

Hắn nhìn tôi, hoang mang lo sợ, không dám cự lại, chỉ cúi đầu giảo biện:

- Kể từ ngày cậu chủ ra đi, không đêm nào tôi được yên giấc, những cơn ác mộng hành hạ, giày vò tôi hằng đêm. Tôi sống đến bây giờ cũng chỉ để chuộc tội mà thôi. Mấy năm qua, trên cương vị bản khâm, tôi đã lao động, cống hiến rất cần mẫn, chăm chỉ, hết mình vì giáo phái. Trong suốt thời gian xây dựng công trình đền Nam Sakya, tôi đã giám sát đêm ngày để không xảy ra bất cứ sai sót nào. Nhờ vậy mà chỉ trong vòng sáu năm, tôi đã hoàn thành công trình Phật điện đồ sộ, nguy nga như hiện nay. Tôi còn giúp giáo phái chiếm cả vùng Ali rộng lớn, nâng phạm vi cai quản của Sakya lên gấp đôi so với trước đó. Toàn bộ số đất đai này đều thuộc quyền sở hữu của phái Sakya, tôi không hề tư lợi.

Hắn rất khéo ăn khéo nói, khéo thuyết phục, hai mắt đỏ hoe, dập đầu thành khẩn.

- Tôi có tội với cậu chủ, tôi biết rằng dù tôi có làm gì cũng không thể chuộc được tội lỗi của mình nên mấy năm qua, tôi đã chăm chút cho Thế tử từng li từng tí, yêu thương hơn cả con ruột của mình, không để cậu bé phải chịu bất cứ thiệt thòi nào. Từ lúc ra đời, Thế tử đã rất yếu, lại thường xuyên đau ốm. Mỗi lần Thế tử ngã bệnh, tôi đều thức trắng đêm, tận tâm chăm lo, săn sóc. Thực lòng mà nói, nếu tôi và Zhuoma không hết lòng chăm sóc, phục dịch thì với sức khỏe yếu ớt của Thế tử, e là khó chống chọi được với số mệnh.

Những gì hắn nói đều là sự thực, nhưng dù vậy cũng không thể chuộc được tội lỗi của hắn. Gương mặt trắng bệch của Bát Tư Ba phủ một màn sương ảm đạm:

- Nhưng ngươi đã giết người diệt khẩu, tàn sát toàn bộ phái Drikung.

Kunga Zangpo ngẩng lên, ánh mắt phẫn uất nghiến răng nghiến lợi rủa xả:

- Tôi căm thù Chung Dorje. Chính hắn đã hủy hoại cuộc đời tôi! Tờ giấy bán thân còn nằm trong tay hắn thì tôi sẽ bị hắn điều khiển cả đời. Tôi dẫn theo võ tăng Sakya tấn công Drikung, mục đích là để ép hắn giao nộp tờ giấy đó, cũng là để trả thù cho cậu chủ Kháp Na. Tôi không định giết hại nhiều người, nhưng lão tặc Chong Dorje vô cùng gian ngoan, xảo quyệt, hắn muốn chống cự đến cùng. Cuộc chiến nào cũng gây thương tổn, đã làm thì phải làm triệt để, tôi mới quyết định thiêu cháy đền Drikung, thiêu luôn tờ giấy bán thân đó. Nhưng tôi không tìm thấy tờ giấy đâu, thi thể của Chung Dorje cũng biến mất. về sau, nhận được thư của pháp vương bãi bỏ chức vị bản khâm của tôi, tôi mới biết sự việc đã bị bại lộ.

Hắn khóc lóc thảm thiết, ngữ điệu thương tâm:

- Tôi đã sắp đặt mọi thứ: lôi kéo người của phái Sakya đi theo mình, mang theo của cải và cả Thế tử. Nhưng tôi làm vậy cũng chỉ để tự vệ, tôi chưa bao giờ muốn đối đầu với Sakya. Khi pháp vương trở về, với số lượng binh sĩ trong tay, tôi hoàn toàn đủ sức để bao vây tấn công Sakya, nhưng tôi chưa bao giờ có ý định làm vậy. Những gì tôi nợ Sakya, tôi đều đã nghĩ đủ mọi cách để hoàn trả.

Chân Kim bực tức lên tiếng:

- Miệng lưỡi lanh lợi, nhanh nhảu lắm thay! Nghe như thể tất cả chúng ta đều phải biết ơn ngươi vậy! Khi chúng ta vừa tới Sakya, đúng là ngươi đủ sức vây khốn chúng ta. Nhưng ngươi có dám làm vậy không? Pháp vương Sakya là đế sư đương triều, còn ta đường đường là thái tử nhà Nguyên, ngươi đủ sức đối địch với cả triều đình Đại Nguyên hay sao? Theo ta, ý đồ sâu xa của ngươi là chờ khi pháp vương viên tịch, sẽ lung lạc Dharma, biến Thế tử thành bù nhìn trong tay ngươi thì đúng hơn.

Kunga Zangpo co rúm người lại, rồi như sực nhớ ra điều gì, tiếp tục biện hộ:

- Nhưng tôi còn giúp cậu chủ trừ bỏ tên Yeshe thâm độc!

Cả tôi và Bát Tư Ba đều sững sờ, tôi liền tra hỏi:

- Ngươi đã giết Yeshe? Hắn chết trong vụ phản loạn ở phủ Vân Nam Vương kia mà?

Kunga Zangpo đắc ý cười khẩy:

- Từ lâu tôi đã cử người đi Vân Nam, tìm cơ hội ám sát Yeshe, nhưng hắn rất giảo quyệt, hạn chế xuất đầu lộ diện nên người của tôi không ra tay được. Chẳng ngờ ông trời đã giúp tôi, Vương phủ Vân Nam đột nhiên xảy ra phản loạn, người của tôi đã thừa dịp trà trộn vào bên trong và giết chết Yeshe. Người ngoài không biết cứ tưởng hắn bị thiêu cháy.

Nhưng tôi chẳng mảy may xúc động trước việc làm của hắn:

- Yeshe cũng biết được thân phận thực sự của ngươi, ngươi giết hắn là để bịt miệng hắn.

Bát Tư Ba không đủ sức tiếp tục cuộc tra vấn nữa, chàng ngả người lên đệm nghỉ ngơi một lát rồi nói:

- Ngươi vì lợi ích cá nhân mà gây nên bao nghiệp chướng. Sau khi chết đi, ngươi sẽ bị đày xuống tầng địa ngục thứ mười tám, linh hồn ngươi vĩnh viễn không được siêu thoát!

Kunga Zangpo run rẩy sợ hãi, cúi đầu khẩn cầu:

- Tôi phải đền mạng cho cậu chủ, chết đi bị đày xuống địa ngục cũng là đáng tội, nhưng xin đừng trừng phạt vợ và con gái tôi. Zhuoma là một phụ nữ tốt bụng, cô ấy không hề hay biết những chuyện này. Tôi có lỗi với cô ấy...

Bát Tư Ba gật đầu:

- Ngươi đừng lo, Zhuoma là em gái ta, phái Sakya sẽ chăm lo cho mẹ con muội ấy.

Senge lôi Kunga Zangpo ra ngoài. Đêm đó, hắn đã thắt cổ tự vẫn bằng một vuông lụa trắng.

- Cảm ơn Lam phu nhân đã đến thăm người đàn bà tội lỗi nàỵ.

Hai mắt Zhuoma sưng húp, đờ đẫn nhìn tôi. Khay đồ án trước mặt cô ấy vẫn còn nguyên.

Tôi lấy làm thương hại, bèn an ủi:

- Zhuoma, tội lỗi cùa Kunga Zangpo không liên quan đến cô. Dù thế nào, cô vẫn là đại tiểu thư của phái Sakya. Hai mẹ con cô cứ yên tâm ở lại đây.

Cô ấy ngồi bệt trên nền đất, tựa tấm thân mòn mỏi vào tường, khóc nấc lên:

- Huynh ấy là người chồng mà tôi rất đỗi hãnh diện, tự hào. Tuy xuất thân thấp kém nhưng huynh ấy rất thông minh, chăm chỉ. Dù huynh ấy có gây ra lỗi lầm gì, đối với tôi và con gái, huynh ấy vẫn luôn là một người chồng tuyệt vời, một người cha mẫu mực.

Tôi không biết phải nói sao, đành tìm cách đổi đề tài:

- Cô cho người hầu đến tìm ta, hẳn là có chuyện muốn nói.

Zhuoma bất ngờ quỳ sụp xuống trước mặt tôi, gào khóc thảm thiết:

- Lam phu nhân, cầu xin cô hãy chăm sóc con gái tôi, sai lầm của cha mẹ không nên trút lên đầu con trẻ.

Tôi vội vàng bước lại, kéo cô ấy lên:

- Cô có quyền chăm sóc cho con gái mình kia mà, Lâu Cát không hề hạn chế tự do của mẹ con cô.

- Tuy nó và Dharma rất thân nhau, Dharma thường bảo rằng sau này lớn lên sẽ cưới nó làm vợ nhưng tôi biết, Dharma không thể kết hôn với nó được nữa.

Cô ấy không chịu đứng lên, cứ nắm chặt gấu váy tôi, cầu xin khẩn thiết:

- Ngày sau, khi nó trưởng thành, cúi mong Lam phu nhân chọn cho nó một gia đình trung lưu tốt bụng, không nuôi dã tâm, không quá mẫn cán. Tôi chỉ có mình nó, xin phu nhân giúp cho!

Tôi bỗng thấy chột dạ, cô ấy hình như đang nói lời trăng trối. Tôi gật đầu ngay tức khắc:

- Cô đừng lo, tôi hứa với cô. Mau đứng lên đi, nền nhà lạnh lắm!

Lúc này cô ấy mới bình tâm lại và chịu đứng lên. Tôi động viên cô ấy ăn uống nhưng cô ấy chỉ gật đầu lấy lệ. Rồi nhân lúc tôi không để ý, cô ấy xoay người nhanh như cắt ra sức đập đầu vào bức tường bên cạnh. Khi tôi kịp nhận ra thì thân thể cô ấy đã đổ xuống đất, một vệt máu dài còn nguyên trên bức tường màu trắng.

Tôi ôm cô ấy vào lòng, gào thét, hô hoán nhưng cô ấy đã tắt thở. Tôi đau xót, lau vết máu trên trán cô ấy, khẽ thì thào, nức nở:

- Cô hãy yên lòng, tôi sẽ chăm lo cho Jumodaban. Ngày sau, nếu Dharma thích nó, tôi sẽ sắp xếp để hai đứa ở bên nhau.

Thi thể của Kunga Zangpo và Zhuoma được quấn bọc vải trắng, thả trôi theo dòng nước xiết trên dòng sông Trum-chu, chớp mắt, đã không còn dấu vết. Bát Tư Ba rất yếu, Dharma còn quá nhỏ, tôi không muốn họ phải chứng kiến cảnh tượng đau lòng này. Vài người đến đưa tiễn, họ nhanh chóng tản mác mỗi người một hướng. Bên bờ sông ngập đá sỏi chỉ còn lại tôi và Chân Kim. Lúc này đã là đầu mùa xuân, băng tuyết đang tan dần. Bầu trời xanh thăm thẳm, chim ưng sải cánh bay lượn, tôi hít vào lồng ngực luồng khí lạnh tê tái, ngẩng đầu ngắm nhìn bánh xe pháp luân đồ sộ trên đỉnh điện thờ Lakhang. Đó là nơi ở của Bát Tư Ba.

- Ta lệnh cho Senge chỉ huy quân đội Mông Cổ xây dựng một gian điện của đền Nam Sakya, chẳng ngờ bọn họ lại kiến thiết theo phong cách của người Hán.

Giọng nói trầm ấm của Chân Kim vang lên sau lưng tôi. Tôi quay đầu lại, đã thấy cậu ta đang đứng bên cạnh, nhìn tôi đăm đắm.

Tôi né tránh ánh mắt rạo rực của cậu ta, rảo bước về phía điện thờ Lakhang.

- Họ không thông hiểu về phong cách kiến trúc của người Tạng, xây dựng theo kiểu kiến trúc của người Hán cũng hay mà.

- Tiểu Lam... - Cậu ta gọi tôi lại, rồi khẽ thở dài. - Ta phải về Đại Đô.

Tim tôi đập rộn, tôi thẫn thờ nhìn cậu ta.

- Ta sẽ để lại một cánh quân làm nhiệm vụ bảo vệ Dharma, không kẻ nào được phép xâm phạm đến Thế tử. Những kẻ đứng về phía Kunga Zangpo trong cuộc chiến vừa rồi, ta sẽ lưu đày tất đến Giang Nam xa xôi, suốt đời không được phép quay lại đất Tạng.

Tôi cúi đầu, hích mũi chân vào mây viên đá nhỏ, khe khẽ đáp lại:

- Cảm ơn cậu, Chân Kim.

Cậu ta lại gần bên tôi, đôi mắt buồn ảo não:

- Hai năm tám tháng gian nan trên đường từ Lâm Thao đến Sakya, cộng thêm bốn tháng ở lại Sakya, tổng cộng, ta đã ở bên em ba năm. Tình cảm ta dành cho em thế nào, ta tin là em hiểu.

Tôi quay mặt đi, hướng mắt về phía dòng nước chảy xiết:

- Chân Kim, tôi hiểu nhưng tôi còn con trai...

Cậu ta cúi đầu, buồn bực giẫm mạnh lên lớp tuyết trắng muốt:

- Tiểu Lam à, ta rất muốn ở lại với em vì ta tin rằng, sau khi đế sư qua đời, chắc chắn một ngày nào đó em sẽ chấp nhận tình cảm của ta. Nhưng ta là thái tử một nước, gánh vác trên vai trọng trách nặng nề, ta không thể bỏ mặc tất cả.

Rồi cậu ta ngẩng lên, nhìn tôi tha thiết, ánh mắt như mặt trời giữa trưa:

- Trở về Đại Đô không có nghĩa ta từ bỏ em. Chờ khi Dharma kế vị đế sư, Phụ hoàng chắc chắn sẽ cho vời cậu ấy đến Đại Đô, ta sẽ chờ em ở đó.

Tôi kinh ngạc:

- Nếu vậy sẽ phải chờ rất nhiều năm nữa...

Cậu ta ngắt lời tôi, giọng nói quyết liệt:

- Ta sẽ giữ lời hứa với em, sau khi về Đại Đô, sẽ không nạp thêm bất cứ thê thiếp nào nữa.

Tôi vừa bực mình vừa buồn cười:

- Dù cậu có làm vậy đi nữa, tôi cũng không yêu cậu.

- Yêu hay không là lựa chọn của em. - Cậu ta khẽ thở dài, nhưng giọng nói thì chắc nịch. - Ta cũng có quyền giữ lời hứa của mình.

Tôi chỉ im lặng. Ánh hoàng hôn đổ dài trên dáng hình cao lớn, vạm vỡ của cậu ta. Cậu ta quay mặt vào vùng tối nên tôi không thấy rõ gương mặt, nhưng giọng nói trầm ấm quyết liệt của Chân Kim nhiều năm sau vẫn còn văng vẳng bên tai tôi.

Tháng 4 năm 1277, Chân Kim và Senge dẫn theo đại quân Mông Cổ rời Sakya, trở về Trung Nguyên. Nội loạn đã được dẹp bỏ, đất Tạng khôi phục lại trật tự cũ. Địa vị thống lĩnh đất Tạng của Bát Tư Ba được củng cố vững chắc chưa từng có. Nhưng đây cũng là lúc, sinh mệnh của chàng chỉ còn đếm được từng ngày.

***

- Bắt đầu từ thời điểm này, trong vòng ba năm, Bát Tư Ba tập trung toàn bộ sức lực còn lại của chàng vào việc sưu tầm, chỉnh lý sách cổ và kinh văn Phật giáo bằng tiếng Tạng. Sưu tầm được cuốn sách nào, chàng lập tức sai người chép lại. Những năm qua, mỗi dịp đi lại giữa Trung Nguyên và đất Tạng, đến bất cứ đâu chàng cũng ra sức sưu tầm sách cổ của địa phương rồi sai người chép lại lưu giữ trong kho sách ở Sakya. Riêng với những kinh văn quan trọng, chàng sẵn sàng bỏ ra rất nhiều vàng khối, sai người nghiền nhỏ thành bột, trộn với mực để viết, làm vậy để lưu giữ kinh văn được lâu bền. Có lần chàng đã bỏ ra hơn bốn nghìn lạng vàng để chép lại cuốn kinh Cam Châu Nhĩ (Ganggyur) thuộc bộ kinh Đại Tạng. Niềm đam mê của Bát Tư Ba đã lan sang cả Chân Kim, nên ngay khi đặt chân đến Sakya, cậu ta lập tức đổ công sức và kinh phí vào việc chép lại kinh văn bằng bột vàng, sau đó đề nghị Bát Tư Ba ghi lời đề tặng.

Chàng trai trẻ tâm tắc ca ngợi:

- Bát Tư Ba muốn tận dụng chuỗi thời gian còn lại để gìn giữ những di sản văn hóa phong phú cho thế giới này.

Tôi gật đẩu:

- Bát Tư Ba đánh giá rất cao việc chép lại các thư tịch và kinh văn cổ xưa, chàng có được sự hỗ trợ to lớn về mặt kinh phí từ triều đình nhà Nguyên, bởi vậy, đền Sakya đã trở thành một thư viện sách Tạng đồ sộ. Nhiều Phật điện của ngôi đền này đều có những bức tường sách. Những giá sách ngồn ngộn kinh văn xếp cao chất ngất, che kín những mảng tường cao vút trong điện thờ.

Chàng trai trẻ tò mò:

- Bây giờ còn đọc được những kinh văn quý giá đó nữa không?

Tôi lắc đầu rồi lại gật đầu:

- Đáng tiếc là đền Bắc Sakya đã bị hủy hoại toàn toàn trong cuộc Cách mạng Văn hóa, những kinh văn trong ngôi đền này cũng theo đó mà tiêu tan. Hiện chỉ còn đền Nam Sakya là lưu giữ được khoảng hơn hai mươi nghìn cuốn kinh tiếng Tạng. Nhiều học giả cho rằng những pho sách tiếng Tạng trong đền Sakya có thể sánh ngang với kinh văn ở Đôn Hoàng. Sakya được xem là Đôn Hoàng thứ hai. Những tài sản quý giá này đều nhờ vào công đức của Bát Tư Ba.

1. Tam y là áo cà sa các nhà sư mặc khi tham dự pháp hội.

Chương 60

Bát Tư Ba qua đời


"Kẻ ít học thường kiêu căng, ngạo mạn,

Người hiểu biết luôn khiêm nhường, điềm đạm;

Suối nhỏ cứ róc rách đêm ngày,

Biển lớn vẫn hiền hòa muôn thuở.”

(Cách ngôn Sakya)

Năm 1280, tức năm Canh Thìn, Dương Thiết theo lịch Tạng, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ mười bảy, nhà Nguyên.

Bát Tư Ba bốn mươi sáu tuổi, Dharmapala mười ba tuổi, Chân Kim ba mươi bảy tuổi.

- Drakpa Odzer vừa nói với em rằng, hôm nay Dharma học Đạo quả pháp rất nhanh.

Tôi gượng dậy kéo rèm cửa, mình mẩy nhức mỏi rã rời, căn phòng ấm cúng hơn nhờ nén nhang đất Tạng. Ánh nắng mùa đông lọt vào qua ô cửa sổ, mang theo chút hơi ấm của sự sống, chiếu rọi thân hình héo hắt, gầy mòn của chàng. Tôi ngồi dậy, thở dốc một hồi, bắt đầu bóp chân bóp tay cho chàng. Mấy năm qua, chàng gầy rộc đi trông thấy, mỗi lần xoa bóp cho chàng, tôi đều cảm nhận rõ ràng làn da ngày một nhăn nheo và xương cốt ngày càng rệu rã của chàng. Mỗi lúc như vậy, tôi lại không cầm được nước mắt.

Thực ra, Drakpa Odzer còn thông báo một tin tức quan trọng khác nữa, em trai thứ hai của Bát Tư Ba, người đã được chàng sắp xếp ở lại Đại Đô kế nhiệm chức vị đế sư, đã qua đời năm ngoái. Tin tức đến bây giờ mới truyền tới Sakya nhưng tôi không dám nói với Bát Tư Ba. Chàng không thể chịu đựng nổi một chấn động tinh thần nào nữa.

Tôi khẽ sụt sịt, gắng gượng nở một nụ cười thật tươi vừa xoa bóp cho chàng vừa nói:

- Còn chuyện này nữa, Dharma và Jumodaban rất quấn nhau, nay Dharma đã mười ba tuổi, em thấy thằng bé không chỉ coi Jumodaban là chị gái đâu. Tuy chàng đã hủy bỏ hôn ước của chúng nhưng nếu Dharma thật lòng thương Jumodaban, chi bằng hãy tác thành cho hai đứa.

Tôi khẽ ngừng lại để cơn đau nơi lồng ngực tạm lắng dịu rồi mới nghẹn ngào nói tiếp:

- Em không muốn bi kịch của Kháp Na tái diễn với con trai mình.

Hơi thở của chàng rất mong manh, một lúc lâu sau chàng mới cất giọng yếu ớt:

- Em là mẹ thằng bé, em hãy sắp xếp mọi chuyện cho Dhama.

Chàng ngừng lại nghỉ ngơi một lát, gắng gượng nói tiếp:

- Em bảo Drakpa Odzer đưa Dani đến đây, ta cần gặp nó. Gọi cả Sangtrum tới nữa.

Tôi ngạc nhiên, vì sao chàng muốn gặp Dani? Ba năm qua, chàng không hề hỏi han đến thằng bé kia mà. Tôi trùm khăn che kín đầu, giấu đi mái tóc và đôi mắt màu lam, đi tìm Drakpa Odzer và Sangtrum. Chỉ đi lại như vậy thôi cũng khiến tôi mệt bở hơi tai, chân tay bủn rủn, mắt hoa đầu váng. Tôi phải ngồi sụp xuống trước cửa phòng để nghỉ ngơi một lúc rồi mới đứng lên, bước vào khi Dani vừa tới.

Dani đã mười chín tuổi, cao lớn, lực lưỡng, tai to mặt lớn, giống hệt cha. Thằng bé đến bên giường, khẽ gọi hai tiếng "bác cả". Bát Tư Ba đưa mắt ra hiệu cho tôi, tôi vội đỡ chàng ngồi dậy, giữ chàng tựa vào vai mình. Bát Tư Ba nhấc cánh tay gầy guộc lên, run rẩy chỉ thẳng vào Dani, giọng chàng khản đặc nhưng quyết liệt:

- Quỳ xuống!

Dani giật mình, nó vừa gọi bác cả, ánh mắt sắc lạnh của Bát Tư Ba đã lập tức ném về phía nó khiến nó run bắn, quỳ mọp dưới đất. Bát Tư Ba nghiêm khắc tra hỏi:

- Hôm qua ngươi đã làm gì, có biết tội không?

- Cháu có làm gì đâu.

Dani ngơ ngác, toàn thân run lên bần bật, một lúc sau mới sực nhớ ra:

- Ý bác là, hôm qua lúc chơi trò bịt mắt bắt dê, Dharma không cẩn thận đã bị va đầu vào tường phải không ạ?

Chuyện đó đám người hầu đã thông báo với chúng tôi. Vì mải chơi, Dharma không cẩn thận mới đụng vào cột nhà, trán sưng lên. Tuy thằng bé có khóc lóc nhưng vết thương không nghiêm trọng.

Bát Tư Ba gật đầu:

- Dani, ngươi biết tội rồi chứ?

Dani vội vàng lạy lục:

- Thưa bác, cháu sai rồi, cháu hứa sẽ cẩn thận hơn. Hôm qua thầy giáo cũng đã trách mắng cháu, phạt cháu quỳ đọc kinh văn suốt hai canh giờ.

Bát Tư Ba bỏ ngoài tai những lời hối lỗi thành khẩn của Dani, quay sang nói với Sangtrum:

- Dharma là người kế thừa của phái Sakya, không được phép có bất cứ sơ sảy hay tốn thương nào. Sangtrum hãy ghi lại khẩu dụ của pháp vương Sakya.

Sangtrum ngồi trước bàn viết, trải rộng quyển giấy, cầm bút, kính cẩn lắng nghe. Bát Tư Ba chậm rãi đọc từng chữ:

- Dani có hành vi phạm thượng, bắt đầu từ hôm nay sẽ bị đuổi khỏi Sakya, lưu đày đến Giang Nam.

Tất cả những người có mặt trong phòng khi đó đều kinh ngạc, Dani nắm chặt nắm đấm, nện thùm thụp xuống nền đất, máu loang lổ. Nó gào lên phản đối:

- Thưa bác, cháu không phục! Cháu và Dharma đều là cháu trai của bác, đều mồ côi cha mẹ, vì sao bị đối xử một trời một vực? Kể từ khi về Sakya, cháu đã thận trọng trong mọi ứng xử, không gây ra bất cứ lỗi lầm nào. Nhưng dù cháu có cố gắng bao nhiêu đi nữa, vẫn không được bác công nhận. Cháu đã làm sai điều gì nào? Vì sao bác lại căm ghét cháu như vậy?

Drakpa Odzer rụt rè can ngăn:

- Thưa thầy, Dani tuy mắc lỗi nhưng không đến mức phải chịu phạt như vậy. Thầy đày cậu ấy đến vùng Giang Nam xa xôi, làm sao trở về quê hương được nữa?

Sangtrum cũng buông bút, quỳ xuống:

- Thưa thầy, xin thầy nghĩ lại.

Tôi quay sang nhìn chàng, khẽ gọi:

- Lâu Cát...

Chàng ngắt lời tôi cương quyết:

- Ý ta đã quyết không cần nhiều lời!

Bát Tư Ba nhắm mắt lại, giọng nói bình thản:

- Sangtrum, hãy chọn lấy một vài đệ tử, giải Dani đi Giang Nam ngay hôm nay.

Biết không thể xoay chuyển quyết định của Bát Tư Ba, Sangtrum đành cúi đầu nhận lệnh. Drakpa Odzer muốn tiếp tục can ngăn nhưng tôi vội vàng đưa mắt ra hiệu, vì lúc này Bát Tư Ba đã từ từ đổ xuống giường. Drakpa Odzer đắn đo hồi lâu, vẫn quyết định lên tiếng:

- Nếu ý thầy đã quyết, vậy xin cho phép đệ tử được đích thân áp giải cậu Dani đi Giang Nam. Cậu ấy vẫn còn trẻ, lại chưa từng đến đất Hán, có đệ tử đi cùng, mọi thứ sẽ được thuận lợi, suôn sẻ.

Bát Tư Ba khép chặt hai mắt, mệt mỏi gật đầu. Drakpa Odzer kéo Dani đứng dậy, Dani uất hận vùng vẫy, Sangtrum và Drakpa Odzer phải hợp sức lại mới khống chế được Dani và lôi ra ngoài. Bàn tay Dani rướm máu, ánh mắt ngập tràn hận thù, vừa vùng vẫy vừa gào thét:

- Tôi sẽ quay lại, sẽ có ngày tôi đòi lại mọi thứ thuộc về tôi!

Tôi rùng mình kinh hãi, như thể vừa mới trông thấy Yeshe vậy. Hắn cũng từng nói những lời đó với hai anh em Bát Tư Ba. Chẳng ngờ hơn mười năm sau, những lời nói đe dọa này lại được tuôn ra từ miệng con trai hắn, nó giống như một thứ lời nguyền nanh ác vang vọng khắp điện thờ. Tôi nghẹn ngào, lắc đầu chua xót:

- Vì sao chàng phải nhẫn tâm với Dani như vậy? Mấy năm qua nó chưa từng mắc lỗi lầm gì, tội lỗi của cha nó không nên bắt nó gánh chịu mới phải.

- Với thân phận của mình, Dani hoàn toàn có quyền thừa kế Sakya, điều đó đồng nghĩa với việc, nó là một hiểm họa. Trước khi rời xa cõi đời này, ta buộc lòng phải đuổi Dani, ta phải dọn đường cho tương lai của Dharma.

Chàng nghiêng đầu ho khan dữ dội, rồi thở dốc một hồi mới đủ sức nói tiếp.

- Ta phải đích thân làm việc này, nếu không, tiếng xấu từ bia miệng thế gian sẽ đổ lên đầu Dharma.

- Vì Dharma, chàng bằng lòng hứng chịu mọi lời chỉ trích của người đời.

Tôi khóc nấc lên, vuốt ve gương mặt gầy guộc, hốc hác của chàng:

- Lâu Cát, vì sao chàng nhất định phải chất mọi gánh nặng lên vai mình? Vì sao chàng phải sống khổ sở như vậy?

Hai mắt chàng khép chặt, dường như chàng không hề nghe thấy tiếng tôi nói. Gò má xương xương, hai mắt trũng sâu, hơi thở mong manh đến nỗi chỉ cần bên ngoài vang lên tiếng động bất kỳ thì tôi sẽ không thể nghe được hơi thở của chàng. Nước mắt tôi tuôn rơi, nhỏ xuống vùng ngực yếu ớt của chàng. Tôi hiểu rằng chàng đã ở vào khoảnh khắc cuối cùng của chặng đường sinh mệnh, dầu cạn bấc tàn, ánh đèn leo lét. Nhưng tôi không đành lòng chống mắt nhìn người tôi yêu rời xa tôi mãi mãi.

Tôi run rẩy áp sát vào bờ môi tái xám của chàng, dồn cho bằng hết chút linh khí cuối cùng trong cơ thể. Nhưng tôi chưa kịp chạm vào môi chàng thì chàng đột nhiên mở mắt, nhìn tôi, ánh mắt sáng rực như thể thấu suốt tâm can tôi, đôi mắt ấy là nơi duy nhất còn dấu hiệu sự sống trên cơ thể chàng. Chàng ra sức lắc đầu, lấy tay che mặt, ngăn cản bờ môi tôi:

- Lam Kha, đừng phí sức vì ta nữa.

Tôi lắc đầu phủ nhận:

- Em không...

- Đừng giấu nữa, mỗi lúc ta hôn mê em đều lén truyền linh khí cho ta. Để đến bây giờ, em không còn đủ linh khí giấu đi mái tóc và đôi mắt màu lam của mình, em đi đâu, gặp ai đều phải trùm kín đầu.

Chàng thở dài buồn bã, nhìn tôi xót xa, khóe môi nở nụ cười ấm áp:

- Nhìn em kìa, mái tóc xơ xác, gương mặt tiều tụy, sức khỏe giảm sút. Nếu tiếp tục như vậy, em sẽ bị đẩy trở lại nguyên hình đó.

Tôi lắc đầu, hít một hơi thật sâu, tiếp tục ghé vào môi chàng:

- Chỉ cần giữ được chàng, em sẽ làm tất cả.

Chàng vẫn kiên trì lấy tay che mặt, tôi sốt ruột kéo tay chàng ra, chàng không đủ sức giằng co với tôi nhưng kiên quyết quay mặt đi.

- Lam Kha, nếu không nhờ vào linh khí của em, ta làm sao sống nổi đến bây giờ? Nhưng ta đã hoàn tất mọi việc và giờ có thể thanh thản ra đi được rồi.

Tôi bật khóc thảm thiết:

- Đừng mà, chàng mới bốn mươi sáu tuổi, em không thể để chàng ra đi lúc này. Em không muốn một mình cô đơn đối diện với những đêm dài bất tận...

- Em bất chấp tất cả để giữ ta lại, ta cũng chỉ có thể nằm liệt trên giường như một người đã chết. Ta không muốn như vậy.

Bàn tay chàng run rẩy vuốt ve gương mặt tôi, nụ cười héo hắt trên môi.

- Em chẳng còn bao nhiêu linh khí để giữ ta ở lại nữa. Hãy để ta ra đi. Ta muốn được ra đi, vì ta mệt rồi...

Tôi tan nát cả cõi lòng, ngả vào ngực chàng, khóc cho nghiêng ngả đất trời. Tôi không muốn từ bỏ nhưng tôi thực sự đã cạn linh khí. Ba năm qua, tôi đã tiêu hao quá nhiều, đã đến cực hạn và bất cứ lúc nào cũng có thể bị đẩy trở lại nguyên hình. Tôi cắn răng, nín khóc, lồng tay mình vào tay chàng, gắng gượng nở nụ cười rạng rỡ nhất.

- Vâng, em hứa sẽ để chàng ra đi.

Tôi không muốn bị đẩy trở lại nguyên hình trước lúc chàng rời xa thế gian này. Vì chàng thích ngắm nhìn dung nhan của tôi. Tôi muốn chàng được yên lòng khi ra đi. Tôi cuống cuồng lau nước mắt nhưng nước mắt như sóng vỗ bờ, cứ ào ạt tuôn chảy, không sao ngăn nổi. Chàng run rẩy vuốt ve hai má tôi, giọng thoảng như gió nhẹ:

- Lam Kha, trước lúc ra đi, ta muốn được hôn em.

Tôi gật đầu tắp lự, nhưng mới ghé sát lại chàng đã nghiêm mặt "cảnh cáo":

- Ta chỉ muốn hôn em thôi, hãy nhớ, không được truyền linh khí cho ta.

Tôi vừa khóc vừa gật đầu, rồi sực nhớ ra, rút vội khăn tay, chỉnh trang lại dung nhan, lau khô nước mắt, vuốt cho mượt mái tóc xác xơ chỉnh cho cân viên ngọc Linh hồn cài trên đỉnh đầu, vuốt cho phẳng phiu các nếp váy và nở nụ cười thật tươi:

- Trông em thế nào, đẹp không?

Chàng nhìn tôi đắm đuối rồi gật đầu, ánh mắt như trôi về chốn xa xưa, bồi hồi nhớ lại:

- Đẹp lắm, lúc nào em cũng xinh đẹp như vậy. Hôm đó, khi Kháp Na đưa em đến trước mặt ta, em như đóa phù dung vừa hé nở, ánh mắt trong suốt như ngọc minh châu, thánh thiện không vương chút bụi trần. Ta thầm nhủ, sao trên đời lại có thiếu nữ thuần khiết, xinh đẹp nhường vậy?

Tôi cúi xuống, khẽ hôn lên bờ môi tím tái của chàng, không mang theo nỗi bồn chồn muốn giữ chàng ở lại, không thừa dịp hôn chàng lén lút khi chàng đã ngủ say như lúc trước. Nụ hôn dài miên man, mê đắm, dạt dào, tôi muốn lưu lại những khoảnh khắc tuyệt vời nhất của đời mình. Không biết đã hôn chàng bao lâu, môi chàng dần ấm lại, chàng rên rỉ khe khẽ, ánh mắt mê ly, gương mặt thêm phần rạng rỡ:

- Lam Kha, ta không còn cảm giác đau đớn gì nữa, đến giờ ta mới biết nụ hôn ngọt ngào, tuyệt diệu nhường nào.

Nỗi buồn dâng ngập lòng, nước mắt chực trào ra. Yêu tôi chừng ấy năm tháng, vậy mà chàng chỉ được hôn người yêu trước lúc ra đi. Tình yêu ấy, với cả tôi và chàng, nghiệt ngã biết chừng nào!

Chàng mân mê chiếc vòng hình hoa sen trên cổ tay tôi, ánh mắt dừng lại nơi miếng ngọc Linh hồn trên đỉnh đầu tôi rồi từ từ khép mắt lại:

- Lam Kha, em còn rất nhiều năm tháng đợi chờ phía trước, cả ta và Kháp Na đều không yên lòng để em một mình đối diện với nỗi cô đơn dằng dặc ấy. Bởi vậy, sau khi chết, ta không mong thành Phật, ta nguyện tiếp tục dấn thân nơi lục đạo luân hồi để mỗi kiếp lai sinh đều có thể cùng Kháp Na đi tìm em, ở bên em.

Giọng chàng nhỏ dần, nhỏ dần rồi tắt lịm, bàn tay thôi vuốt ve cổ tay tôi, từ từ đổ xuống, buông thõng bên mép giường. Tôi ghì sát tai vào khuôn ngực chàng, không còn nghe thấy nhịp tim thân thuộc nữa. Chàng đã kết thúc hành trình mỏi mệt của đời mình. Ngày 22 tháng 11 năm 1280, Bát Tư Ba viên tịch tại điện thờ Lakhang trong đền Nam Sakya, hưởng thọ bốn mươi sáu tuổi. Dharma kế thừa ngôi vị giáo chủ phái Sakya và đế sư của triều đình Đại Nguyên, đồng thời gánh vác trọng trách nối dõi tông đường dòng họ Khon.

Một giàn gỗ cao được dựng bên bờ sông Trum-chu, dưới chân núi Benbo. Bát Tư Ba nằm đó, khép mắt an nhiên trên chiếc giường gỗ, trong bộ pháp y trang trọng nhất. Áo cà sa lộng lẫy, rộng thênh thang ôm lấy thân hình héo hon của chàng.

Tất cả các tăng nhân đều đội mũ ngũ sắc sặc sỡ, xếp thành hàng chỉnh tề trên bờ sông lổn nhổn đá sỏi, lầm rầm tụng kinh siêu độ. Tuyết trắng ràn rạt bay, thoáng chốc đã trút lên vai người một vạt trắng tinh khôi, sắc đỏ sẫm của áo tăng ni và sắc trắng tinh khiết của tuyết lạnh tạo nên sự tương phản nhức nhối. Ai nấy đều đau buồn, thổn thức bước lên, dâng khăn lụa Ha đa và cúi đầu vái lạy Bát Tư Ba. Sangtrum chuyển ngọn đuốc cho Dharma. Dharma châm lửa vào đám cỏ khô xếp quanh chiếc giường gỗ. Ngọn lửa bốc cao ngùn ngụt, tiếng củi cháy lép bép, hệt như một khúc tráng ca bi thảm dội lên trời cao.

Lửa bập bùng soi sáng cả một trời tuyết đổ, gương mặt hiền từ của Bát Tư Ba chìm khuất trong sắc hồng rực rỡ. Tôi giấu mình trong kiệu, tay nắm chặt rèm cửa sổ, âm thầm nức nở, siết chặt chiếc vòng trên cổ tay. Tôi không còn đủ sức để ẩn đi mái tóc và đôi mắt màu lam của mình nữa. Bất cứ lúc nào tôi cũng có thể bị đẩy trở lại nguyên hình, bi kịch khi Kháp Na qua đời đã tái hiện.

Khi củi tàn lửa tắt, Dharma ngồi xuống, góp nhặt tro cốt của người đã khuất, Sangtrum đứng bên, che ô cho thằng bé. Dharma đột nhiên thốt lên:

- Hạt Xá Lợi đẹp quá!

Giữa màn tuyết dày đặc, tôi nhìn thấy viên ngọc Xá Lợi lóng lánh, rực rỡ trên tay Dharma, viên ngọc chứa đựng sinh mạng của Bát Tư Ba. Tất cả những người trong giáo phái Sakya nhất loạt quỳ xuống trước ngọc Xá Lợi, kêu khóc thương tâm, họ gào gọi pháp danh của pháp vương. Viên ngọc Xá Lợi lấp lánh chiếu sáng bảy màu, lung linh huyền ảo, bao bọc lấy Dharma.

Theo di nguyện của Bát Tư Ba, tháp Xá Lợi của chàng được xây cất ngay bên cạnh Kháp Na. Tháp Xá Lợi này được hoàn thành từ ba năm trước, kiến trúc giống hệt tháp hoàng kim của Kháp Na. Dharma đặt tro cốt của Bát Tư Ba vào thân tháp, ngọc Xá Lợi đặt lên đỉnh tháp. Giáo phái còn tổ chức một pháp hội truy điệu Bát Tư Ba kéo dài suốt bốn mươi chín ngày. Mới mười ba tuổi nhưng Dharma đã sắp đặt và xử lý đâu ra đấy mọi việc. Trải qua mất mát này, thằng bé trưởng thành lên rất nhiều.

Đêm tịch mịch, tôi lẳng lặng tìm đến điện thờ, vắt kiệt chút linh khí cuối cùng, trèo lên linh tháp của Bát Tư Ba. Tôi mở nắp đỉnh tòa tháp, lấy ra viên ngọc Xá Lợi, đặt vào lòng tay. Ngọc Xá Lợi đột nhiên chiếu sáng rực rỡ, kỳ ảo. Tôi mang theo ngọc Xá Lợi của Bát Tư Ba, trèo lên linh tháp của Kháp Na, làm theo di nguyện của chàng. Tôi mở nắp đỉnh tòa tháp của Kháp Na, bên trong là một viên ngọc Xá Lợi nhỏ hơn. Tôi lấy viên ngọc ra khỏi đỉnh tháp, ánh sáng màu trắng dịu dàng của ngọc Xá Lợi bao bọc lấy tôi.

Khi hai viên ngọc đặt cạnh nhau, ánh sáng lập tức hòa quyện, nhập lại thành một dải sáng rực rỡ màu sắc, chiếu thẳng lên viên ngọc Linh hồn trên đỉnh đầu tôi. Ánh sáng tắt dần, ngọc Xá Lợi tan biến, tôi gỡ ngọc Linh hồn xuống và sững sờ trước vẻ đẹp kỳ ảo, sống động của nó. Sự sống như đang chảy trôi trong viên ngọc ấy, trong chuỗi ánh sáng lung linh, huyền ảo, tôi như thấy được nụ cười rạng ngời của hai anh em họ.

Tôi áp viên ngọc vào ngực mình, nước mắt tuôn trào. Ánh sáng dịu dàng tỏa ra từ viên ngọc quấn quýt lấy tôi, như đang khe khẽ an ủi. Tôi đặt một nụ hôn nhẹ nhàng lên viên ngọc:

- Lâu Cát, Kháp Na, em sẽ chờ hai người, đời đời kiếp kiếp.

Giờ đây, khi mọi việc đã hoàn tất, ngoài con trai, tôi chẳng còn gì vướng bận. Nhưng bi kịch thay, tôi không thể tiếp tục duy trì hình hài con người để ở bên che chở cho thằng bé. Sau khi suy xét kĩ càng, tôi quyết định giấu Dharma. Ngay từ lúc chào đời, mọi người đều nói với thằng bé rằng, thân phận của nó rất mực cao quý, cha nó là Bạch Lan Vương, mẹ là con gái của Vạn hộ hầu Shalu, tiền đồ của nó vô cùng rộng mở, sáng láng. Làm sao nó có thể chấp nhận một người mẹ là yêu tinh như tôi? Thôi thì, hãy để quá khứ tan theo Bát Tư Ba.

Nghĩ vậy nên khi không gắng gượng thêm được nữa, tôi đã đội khăn trùm kín đầu, gọi Dharma lại, nén lòng nói vói con:

- Dharma, dì Lam phải rời khỏi Sakya.

Dharma sửng sốt, nắm chặt lấy tay tôi, giọng nói khàn khàn của lứa tuổi dậy thì vang lên:

- Dì Lam, dì định đi đâu?

Thằng bé giống Kháp Na như đúc, lòng tôi nghẹn đắng, bàn tay run run vuốt ve mái tóc dài, đen bóng của nó.

- Dì có việc phải đi, không thể ở lại chăm sóc con được nữa. Con hãy giữ gìn sức khỏe, sống thật vui vẻ và thực hiện di nguyện của bác cả con, phát triển giáo phái Sakya thật lớn mạnh, duy trì sự ổn định và thống nhất của đất Tạng.

- Dì đừng rời xa con. - Thằng bé sà vào lòng tôi, vòng tay qua eo tôi, siết chặt, giọng nói nghẹn ngào, nức nở. - Con vừa chào đời đã mồ côi cha mẹ, cô chú nuôi nấng con từ nhỏ cũng đã qua đời, người bác đôn hậu lúc nào cũng chăm lo, dạy dỗ con cũng đã viên tịch. Nếu bây giờ dì cũng bỏ con mà ra đi, con sẽ chẳng còn người thân nào cả!

Tôi ôm riết thân hình gầy gò của thằng bé, nước mắt tuôn rơi nhưng vẫn gượng cười:

- Ai bảo vậy, con vẫn còn người chị họ thân thiết kia mà. Dharma, bác cả con đã nhận lời kết làm thông gia với Vương gia Mông Cổ Khởi Tất Thiếp Mộc Nhĩ ở Lương Châu, con gái ngài ấy tên là Bối Đan. Trước khi qua đời Vương gia Khởi Tất đã đưa Bối Đan đến Đại Đô, chờ ngày con đến đó, làm lễ thành thân với cô ấy.

Dharma tỏ ra bối rối, thằng bé rời tôi ra, cúi đầu lí nhí:

- Dì ơi, con nhất định phải cưới cô ấy ư? Con chưa gặp cô ấy bao giờ, cô ấy là người Mông Cổ, còn con là người Tạng, làm sao chung sống với nhau được?

Tôi thở dài:

- Ta biết chứ, nhưng đó là quyết định của bác cả con, kết hôn với công chúa Mông Cổ sẽ có lợi cho giáo phái Sakya, con không thể từ chối.

Thấy thằng bé phụng phịu, giận dỗi, tôi dịu dàng an ủi:

- Dì biết con mong muốn điều gì. Sau này khôn lớn, dì cho phép con cưới Jumodaban làm vợ.

Thằng bé phấn khích ngẩng đầu lên:

- Dì ơi, thật chứ ạ? Con có thế lấy chị họ ư?

Thấy con sung sướng như vậy, tôi cũng vui lây. Dù nó không thể chốỉ bỏ cuộc hôn nhân chính trị đó, nhưng chí ít, nó cũng được lấy người nó yêu thương, không bi kịch như Kháp Na trước kia. Chỉ hiềm nỗi, hai người vợ với thân phận khác nhau, một người là công chúa Mông Cổ, một người là con gái của kẻ phạm tội, ngày sau ắt sẽ có sóng gió. Nhưng những chuyện sau này, tôi chẳng thể giúp thằng bé.

Sức khỏe của tôi đang yếu dần, tôi hiểu rằng, đã đến lúc phải ra đi nên vội vã căn dặn:

- Còn một chuyện nữa con phải ghi nhớ. Bác cả của con nuôi dưỡng một tiểu hồ ly màu lam rất xinh đẹp và thông minh. Mấy năm trước tiểu hồ ly này đột nhiên biến mất. Bác cả con rất cưng tiểu hồ ly này nhưng đến nay vẫn không tìm thấy nó. Nếu con tìm được, hãy giữ nó ở bên mình, đưa nó đến Trung Nguyên cùng con.

Tôi ngừng lại một lát, để cơn đau trong lổng ngực nguôi bớt, mới tiếp tục:

- Tên của tiểu hồ ly đó là Lam Kha Mai Đóa, con cứ gọi nó là Tiểu Lam cũng được.

Thằng bé trịnh trọng gật đầu. Tôi kéo con vào lòng, hôn lên đỉnh đầu nó.

- Dì sẽ rất nhớ con, khi nào xong việc, dì sẽ đến tìm con.

Chiều hôm đó, tôi đội ô rời khỏi Sakya. Buổi tối, Dharma thấy tiểu hồ ly màu lam trước cửa nơi ở của Bát Tư Ba. bé ôm tiểu hồ ly lên, reo hò hoan hỉ:

- Ngươi là Tiểu Lam phải không? Sau này hãy ở bên ta nhé!

Tiểu hồ ly gật đầu, dụi đầu vào ngực thằng bé. Hồ ly không dám cất tiếng vì không muốn thằng bé nhận ra giọng nói của mình.

Ngày Bát Tư Ba viên tịch, Sangtrum đã tìm cách nhanh nhất để truyền tin đến Đại Đô. Tháng 11 năm 1281, một năm sau khi Bát Tư Ba qua đời, ý chỉ của Hốt Tất Liệt mới đến được Sakya. Hay tin quốc sư qua đời khi tuổi mới ngoại tứ tuần, Hốt Tất Liệt vô cùng sửng sốt và đau buồn. Nhà vua lệnh cho Dharma đưa tro cốt của Bát Tư Ba về Đại Đô an táng, đồng thời kế nhiệm chức vị đế sư triều Nguyên.

Trong thánh chỉ ban xuống, Hốt Tất Liệt đã phong tặng danh hiệu cho Bát Tư Ba là: "Hoàng thiên chi hạ, nhất nhân chi thượng, khai giáo tuyên văn phụ trị, đại thánh trí đức phổ giác chân trí, hộ quốc như ý, đại bảo pháp vương, Tây Thiên Phật tử, Đại Nguyên đế sư Pandita."[1]

1. Ý nghĩa của danh hiệu này đại thể như sau: Hốt Tất Liệt ca ngợi công đức to lớn của Bát Tư Ba trong việc hoằng dương Phật giáo, phát triển văn hóa, trợ giúp nhà vua trị quốc, ngài là bậc trí giả thông tuệ, một Phật tử thành tín, một pháp vương lỗi lạc, một bậc đế sư đại đức của triều đình nhà Nguyên. (DG)

Mười bốn tuổi, với tư cách pháp vương mới nhậm chức của phái Sakya, Dharma lên đường đến vùng đất Trung Nguyên xa xôi, cùng với người chị họ và tiểu hồ ly. Sau một năm trời gian khổ, ngày 25 tháng 12 năm 1282, tức năm Chí Nguyên thứ mười chín, Dharma đặt chân đến đất Đại Đô phồn hoa đô hội, khi ấy thằng bé mới mười lăm tuổi. Hốt Tất Liệt tổ chức nghi lễ nghênh đón tro cốt của Bát Tư Ba rất mực long trọng, sau đó trao ngọc ấn và quyền thống lĩnh tôn giáo cả nước cho đế sư Dharmapala mới kế nhiệm.

***

Tôi áp chặt viên ngọc Linh hồn vào ngực mình, hít thở sâu nhiều lần để lấy lại bình tĩnh, tiếp tục câu chuyện:

- Khi tro cốt của Bát Tư Ba được đưa đến Đại Đô, Hốt Tất Liệt đã lệnh cho Anigo xây một tháp Xá Lợi đẹp không gì sánh bằng cho đế sư của mình trong chùa Đại Hộ Quốc Nhân Vương. Các đời đế sư sau đó đều ra sức cải tạo tu sửa mái vàng của tòa linh tháp ấy. Nguyên Nhân Tông ban chiếu chỉ, lệnh cho các địa phương trong cả nước đúc tượng thờ Bát Tư Ba, giống hệt tượng thờ Khổng Tử trong truyền thống của người Hán.

- Nếu không ra đi quá sớm, Bát Tư Ba chắc chắn sẽ được nhiều người biết đến hơn nữa.

Chàng trai trẻ suy nghĩ mông lung rồi thở dài, lắc đầu:

- Giá như có thể bảo tồn tòa tháp Xá Lợi của Bát Tư Ba đến bây giờ thì tốt biết bao. Tiếc thay, trong lịch sử Trung Quốc, mỗi lần thay vua đổi chúa, di tích lịch sử của đời vua trước đều không được lưu giữ trọn vẹn. Ngôi chùa hoàng gia bề thế ấy cũng không thoát khỏi số phận hẩm hiu khi cuộc chiến tranh giữa nhà Minh và triều Nguyên diễn ra.

Tôi nghiêng đầu ho khan vài tiếng, lấy hơi, tiếp tục kể:

- Cuối đời nhà Nguyên, chùa Đại Hộ Quốc Nhân Vương, tháp Xá Lợi Bát Tư Ba và cả tháp Xá Lợi của Dampa đều bị hủy hoại. Đến nay, chỉ còn lại bảo tọa kim cang của tòa tháp Xá Lợi của Bát Tư Ba. Trên thân tháp vẫn còn nguyên toàn văn bức thư chúc Tết tựa đề "Lời chúc cát tường" mà Bát Tư Ba gửi cho Hốt Tất Liệt nhân dịp năm mới 1262. Bức thư này đã được khắc nối trên thân bảo tọa kim cang. Về sau vào thời Vua Thành Hóa, nhà Minh, người ta đã xây dựng một ngôi chùa có tên chùa Ngũ Tháp trên di chỉ ngôi chùa Đại Hộ Quốc Nhân Vương năm xưa. Đó chính là ngôi chùa Ngũ Tháp bên bờ sông Cao Lương, ngoài cổng Tây Trực, thành phố Bắc Kinh ngày nay.

Chương 61

Tuyệt tự


"Đường học thuật lắm gian nan,

Trau dồi khổ luyện mới tường cổ kim;

Ham mê cuộc sống êm đềm,

Hân hoan cũng chỉ một niềm nhỏ nhoi."

(Cách ngôn Sakya)

Năm 1283, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ hai mươi, nhà Nguyên.

Chân Kim bốn mươi tuổi, Dharmapala mười sáu tuổi.

- Chân Kim!

Người đàn ông cao lớn, lực lưỡng lập tức quay người lại, niềm hân hoan vụt tắt khi không thấy bóng người. Cậu ta tiếp tục tìm kiếm, chỉ thấy một tiểu hồ ly đang ngồi thu chân dưới đất. Chân Kim nhấc bổng tôi lên, ghì chặt vào lòng:

- Tiểu Lam, là em ư? Em đến Đại Đô cùng với Dharma, sao cậu ta lại bảo rằng em đã trở về quê cũ?

Trong buổi lễ tiếp đón Dharma, Chân Kim không ngừng tìm kiếm. Cậu ta đã gạn hỏi từng người một trong đoàn tùy tùng của Dharma. Ở bữa tiệc tối, cậu ta không cầm lòng nổi, đã tìm gặp Dharma, hỏi han nhiều lần. Được đáp rằng tôi không đến Đại Đô, vẻ thất vọng hiển hiện trên gương mặt cậu ta, rõ ràng đến mức thu hút cả sự chú ý của Hốt Tất Liệt. Tôi lẳng lặng đi theo Chân Kim, mãi khi không có ai khác mới dám cất tiếng gọi.

Tôi thở dài ảo não:

- Tôi đã nói dối Dharma. Tôi muốn đi theo con trai nhưng lại không thể nói với nó rằng tiểu hồ ly chính là dì Lam của nó.

- Vì sao phải làm vậy? - Cậu ta nhấc tôi lên, ngó sang phải, sang trái rồi như chợt nghĩ ra điều gì, nhíu mày hỏi. - Không lẽ, em không thế hóa thành người được nữa?

Tôi cười chua chát:

- Tôi phải trả giá vì đã kiên trì kéo dài sự sống của Bát Tư Ba.

Cậu ta sửng sốt:

- Em sẵn lòng làm vậy vì thầy ư? Ta không biết nên ghen tỵ hay ngưỡng mộ nữa.

- Tôi tình nguyện mà - Tôi lắc đầu buồn bã. - Nhưng dù đã dốc cạn linh khí, tôi cũng chỉ có thể giữ chàng thêm ba năm.

- Tiểu Lam, sao em khờ quá vậy? - Đôi mắt cậu ta đỏ hoe, bàn tay dịu dàng vuốt ve bộ lông của tôi. - Vậy phải mất bao lâu nữa em mới khôi phục được hình hài con người?

- Tôi không biết.

Tôi lắc đầu tuyệt vọng. Lần trước, Bát Tư Ba phải giảm tuổi thọ để giúp tôi khôi phục được hình hài con người. Lần này thì hết cách rồi. Tôi mỉm cười tê tái, nhìn cậu ta:

- Có lẽ phải mất ba trăm năm tu luyện nữa.

Cậu ta hốt hoảng, lấy tay bịt miệng, ngăn không cho tôi nói tiếp:

- Tiểu Lam, em... em đừng nói dại!

Tôi điềm tĩnh đáp:

- Tôi không nói dại đâu. Chân Kim, đây là sự thật. E rằng, từ giờ đến cuối đời, cậu không còn được thấy tôi trong hình dáng con người nữa.

Chân Kim vẫn giữ lời hứa, ở Đại Đô chờ đợi tôi, nhưng tôi chỉ biết thở dài:

- Đừng chờ tôi nữa. Kiếp này, tôi khó lòng báo đáp tình cảm của cậu.

Cậu ta lắc đầu đau khổ, ôm tôi trên tay, đi đi lại lại trong phòng, tâm trạng rối bời:

- Tiểu Lam, đừng cự tuyệt ta sớm như vậy. Ta sẽ nghĩ cách, ta sẽ có cách...

Tôi cười buồn:

- Cậu có thể làm gì được? Dù là bậc đế vương tương lai đi nữa, có những việc cậu cũng đành lực bất tòng tâm.

Tôi không buồn phiền gì đâu, bao năm qua, tôi đã quen với hình hài hồ ly, chẳng có gì bất tiện cả.

Lần này khá hơn lần trước rất nhiều, vì chí ít tôi vẫn có thể trò chuyện, giữ được thính giác, khứu giác và vị giác nhạy bén của loài hồ ly. Chỉ mệt nỗi, ngày nào tôi cũng phải khổ công tu luyện, từng chút, từng chút bù đắp lại linh khí đã mất. Lòng thầm thở than, quá trình tu tập mới mòn mỏi, dằng dặc làm sao! Chờ khi tôi lấy lại được hình dáng con người, có lẽ không chỉ Chân Kim mà ngay cả Dharma cũng đã rời xa thế giới này từ lâu.

Cậu ta tức tối nện nắm đấm vào tường:

- Ta là thái tử một nước mà không thể giúp gì cho người mình yêu.

Tôi không muốn tiếp tục chủ đề nặng nề này, liền nghiêm nghị nói vói cậu ta:

- Chân Kim, tôi tìm cậu vì có việc muốn nhờ cậu.

Cậu ta vội hỏi:

- Em nói đi, bất luận là việc gì, ta cũng sẽ giúp em.

- Trong buổi chầu hôm nay, Phụ hoàng của cậu đã định ngày thành hôn cho Dharma và Bối Đan, con gái của Khởi Tất Thiếp Mộc Nhĩ theo di nguyện của Bát Tư Ba. Nhưng người mà Dharma yêu là Jumodaban, con gái của Kunga Zangpo. Dharma đã đề đạt nguyện vọng với cha cậu nhưng Bệ hạ không chấp thuận vì cho rằng thân phận của Jumodaban thấp kém, cha nó lại từng phạm trọng tội nên nó không xứng đáng làm thê thiếp của Dharma.

Tôi không yên lòng khi thấy Dharma buồn bã, thất vọng nên mới cầu xin Chân Kim giúp đỡ.

- Tính cách của Dharma rất giống cha nó, đã yêu ai là một lòng một dạ với người đó. Tôi không muốn nó phải chịu đựng bi kịch giống như Kháp Na, cưới những người vợ mà nó không yêu. Mong cậu giúp tôi lựa lời thuyết phục Bệ hạ, hãy nói rằng, hôn sự này đã được Bát Tư Ba chấp thuận khi còn ở Sakya, xin Bệ hạ tác thành cho đôi trẻ.

- Em đừng lo, chút chuyện nhỏ nhặt này, ta nhất định sẽ giúp em. Ta sẽ thay thượng sư chăm lo cho Dharma.

Cậu ta ngừng lại một lát, nhìn tôi dò hỏi:

- Dharma không biết về thân thế của mình nên cậu ấy đã thỉnh cầu với Phụ hoàng hỗ trợ kinh phí để Vạn hộ hầu Shalu xây đền Shalu, em đừng buồn nhé!

Tôi thoáng sững sờ. Hôm nay, khi Hốt Tất Liệt hỏi Dharma có nguyện vọng hay yêu cầu gì không, Dharma đã cầu xin Hốt Tất Liệt ban thưởng cho người bác Selangqe - Vạn hộ hầu Shalu. Dharma nói rằng, gia đình người bác luôn hết lòng quan tâm, săn sóc nó, Selangqe dự định xây dựng đền Shalu, mong nhận được sự hỗ trợ của Hốt Tất Liệt. Hốt Tất Liệt hào phóng ban cho Selangqe một khoản kinh phí rất lớn để xây dựng đền Shalu.

Tôi mỉm cười:

- Tôi không để bụng chuyện đó đâu. Dharma cần đến sự ủng hộ của Shalu.

Tôi chuyển đề tài, lo lắng hỏi:

- Chân Kim, vừa đến Đại Đô tôi đã nghe phong thanh những chuyện xảy ra với cậu trong triều đình.

Mấy năm qua, phủ Thái tử của Chân Kim luôn là nơi tề tựu đông đảo các nho sĩ người Hán học cao hiểu rộng. Đối với họ, Chân Kim là niềm hy vọng của tương lai. Thế nhưng, dù đã bốn mươi tuổi, Chân Kim vẫn chỉ là thái tử, Hốt Tất Liệt càng nhiều tuổi càng chuyên quyền, nhất quyết không chịu để Chân Kim nắm thực quyền điều hành đất nước. Các nho sĩ dâng tấu đề nghị Hốt Tất Liệt cho Thái tử tham gia chính sự, Hốt Tất Liệt mới miễn cưỡng đồng ý. Nhưng thực chất, Hốt Tất Liệt đang nghi kỵ, ngờ vực người con trai mà ông ta yêu mến nhất. Biết được những chuyện này, tôi thấy lo lắng thay cho Chân Kim.

Chân Kim tỏ ra rất mực kiên định, chẳng hề lo sợ:

- Em muốn nhắc đến chuyện ta ra lệnh giết chết Ahama? Tên gian thần ấy đã hãm hại biết bao trung thần. Các đại thần người Hán mượn danh nghĩa của ta để tiêu diệt hắn, họ làm vậy cũng là hợp với lòng dân, tội hắn đáng chết!

Từ lâu Chân Kim đã không ưa gì tên quan Ahama, người được Hốt Tất Liệt rất mực tin dùng. Ahama vì muốn thu gom tài sản cho Nhà vua mà đã hãm hại nhiều đại thần người Hán. Thế là nhân dịp Chân Kim và Hốt Tất Liệt lên Thượng Đô tránh nóng, có người đã mạo danh Thái tử giả truyền mệnh lệnh, cho gọi Ahama đến và giăng bẫy, giết chết hắn. Hốt Tất Liệt muốn trả thù cho Ahama nhưng các đại thần trong triều đồng loạt dâng sớ vạch tội Ahama. Sau khi điều tra và phát hiện ra, số tài sản mà Ahama vơ vét được còn nhiều hơn cả quốc khố, Hốt Tất Liệt mới nổi trận lôi đình, không những tịch thu tài sản của Ahama, tiêu diệt bè đảng của hắn, mà còn ra lệnh bật nắp quan tài của Ahama, cho xe ngựa vằm nát thi thể hắn.

Sự kiện đó xảy ra ngay trong năm đầu tiên Dharma đặt chân đến Đại Đô, vì việc này mà kinh thành của Hốt Tất Liệt chấn động, dân chúng xôn xao.

Chân Kim tỏ ra vô cùng hoan hỉ, cười vang hào sảng, vẻ mặt rạng rỡ, bộ râu quai nón rung rung theo tiếng cười:

- Tiểu Lam ơi, có phải em đang lo lắng cho ta không? Đây là lần đầu tiên em quan tâm đến ta như vậy.

Cậu ta tung tôi lên không trung khiến tôi thót tim, còn cậu ta thì bật cười giòn giã, vỗ binh binh vào vòm ngực rắn chắc:

- Em đừng lo, ta đã bốn mươi tuổi, mấy tên gian thần tặc tử ấy chẳng thể gây khó dễ cho ta.

Nhưng lòng tôi vẫn canh cánh không yên. Chân Kim dường như đã quá lạc quan, có thể cậu ta không sợ mấy tên gian thần kia nhưng trở ngại lớn nhất của cậu ta lại là người đứng đằng sau chỉ huy, nâng đỡ cho bọn chúng lộng hành – Hốt Tất Liệt. Nhưng đó là chuyện riêng của hai cha con họ, tôi không tiện can thiệp, chỉ căn dặn:

- Tóm lại, phàm việc gì cũng nên thận trọng.

Ngay tối hôm đó, Chân Kim đã đến gặp và thuyết phục được cha mình. Hốt Tất Liệt hạ chỉ ban hôn ước cho Dharma, cho phép Dharma cưới hai người vợ, Công chúa Mông Cổ Bối Đan và cô gái người Tạng - Jumodaban. Mùa xuân năm Dharma mười sáu tuổi, đèn hoa chăng kết rực rỡ khắp phủ Đế sư, khách khứa tấp nập, tiệc tùng náo nhiệt. Tất cả các vương gia, quý tộc của Đại Đô đều đến chúc mừng, phủ Đế sư nô nức đón khách.

Hôm đó, trung tâm thu hút sự chú ý là chú rể Dharma trong bộ lễ phục trang trọng. Tôi ẩn mình trên xà ngang, ngắm nhìn con trai không chán mắt. Thằng bé khôi ngô, tuấn tú, gương mặt xinh đẹp như con gái, có điều nó gầy guộc và thấp bé hơn Kháp Na. Bối Đan vận lễ phục cô dâu kiểu truyền thống Mông Cổ, đứng bên Dharma, trông cao hơn cả chú rể. Bối Đan năm nay hai mươi tuổi, thân hình chắc nịch, mặt tròn, mắt nhỏ, giống hệt Mukaton thời trẻ.

Ngày thành hôn là lần đầu tiên Dharma và Bối Đan gặp nhau, cả hai nhìn nhau chớp nhoáng rồi lập tức quay mặt đi. Bối Đan dành nhiều thiện cảm cho Dharma hơn là tình cảm thằng bé dành cho vị hôn thê của mình, vì chốc chốc cô bé lại liếc nhìn trộm Dharma. Dharma cử hành hôn lễ với Bối Đan theo nghi thức Mông Cổ rồi cử hành hôn lễ với Jumodaban theo nghi thức của người Tạng. Tuy hai người vợ có thân phận, địa vị khác nhau, Bối Đan là vợ cả, Jumodaban là vợ lẽ nhưng Dharma nghiêng nhiều về phía Jumodaban hơn. Đêm tân hôn, Dharma ở lại với Jumodaban, để Bối Đan một mình cô lẻ.

Mấy tháng sau đám cưới, Dharma không hề bước chân vào phòng Bối Đan dù chỉ một lần, điều đó khiến Bối Đan bực tức. Bối Đan nhiều lần cho người đến mời, nhưng đều bị Jumodaban ngăn cản. Cuộc tranh chấp giữa hai người vợ của Dharma là không tránh khỏi. Nhưng đúng lúc nó trở thành nỗi phiền muộn trong lòng Dharma thì tin vui đột ngột được truyền đi: Jumodaban đã mang thai!

Tôi náu mình trên chạc cây, niệm chú cho chiếc túi thần kỳ cất giấu hai báu vật của đời tôi là ngọc Linh hồn và vòng tay hình hoa sen hiện ra. Tôi lấy ra viên ngọc Linh hồn, vuốt ve âu yếm, hướng mắt về phía tây nam, nở nụ cười hạnh phúc:

- Lâu Cát, Kháp Na, Sakya có người nối dõi rồi!

Kháp Na sắp lên chức ông nội! Tôi hôn lên viên ngọc:

- Dharma còn rất trẻ, ngày sau nhất định sẽ sinh thêm nhiều con cháu nữa cho phái Sakya, hai người hãy yên lòng, em sẽ chăm sóc cho thằng bé.

Tuy tôi rất đỗi phấn chấn vì phái Sakya sắp có người nối dõi nhưng chuyện nhà của Dharma cũng khiến tôi đau đầu nhức óc. Bối Đan yêu cầu Dharma không được gần gũi vói Jumodaban vì lý do Jumodaban vừa mang thai. Tục lệ của các gia đình quyền quý là như vậy, khi người vợ mang thai thì người chồng không được gần gũi vợ cho đến sau khi cô ấy sinh nở. Người vợ, vì thế phải chủ động kén chọn vợ lẽ cho chồng. Bởi vậy, yêu cầu của Bối Đan là chính đáng. Nhưng mỗi lần Dharma đến phòng của Bối Đan thì Jumodaban lại lên cơn đau bụng một cách rất trùng hợp, nào là viện cớ thấy trong người khó chịu, nào là đứa bé trong bụng nhớ cha,... chỉ cho Dharma ở lại trong phòng của Bối Đan một lúc là phải lập tức rời khỏi đó, để rồi cả đêm không trở lại nữa.

Bối Đan tức giận, lên tiếng thóa mạ, chửi đổng, Jumodaban ngày càng gầy yếu, thường xuyên phải mời thầy thuốc bắt mạch, kê đơn nên Dharma càng ngày càng xa lánh Bối Đan.

Tôi muốn lựa lời khuyên can nhưng không biết khuyên ai, không biết phải khuyên thế nào. Tôi hiểu Jumodaban, từ nhỏ con bé và Dharma đã gắn bó khăng khít, cùng nhau khôn lớn, cùng trải qua sóng gió, hoạn nạn. Tình cảm sắt son, thanh mai trúc mã ấy, làm sao một cô công chúa ngoại tộc có thể xen vào được? Nếu tôi là con bé, tôi cũng không thể chấp nhận chồng mình đến phòng của người phụ nữ khác. Sự hẹp hòi, ích kỷ đàn bà ấy đều xuất phát từ chỗ con bé yêu thương Dharma sâu đậm. Còn Bối Đan, con bé hơn Dharma bốn tuổi, cũng rất nóng lòng muốn sinh con. Dharma lại dịu dàng, nho nhã, điển trai như vậy, Bối Đan sao có thể không yêu cho được? Khúc mắc giữa ba người cứ rối như canh hẹ, chẳng thể tháo gỡ.

Mùa xuân năm thứ hai, Jumodaban sinh hạ một cậu con trai. Đế sư trẻ tuổi Dharma vui mừng khôn xiết, đặt tên thằng bé là Devapala.

Mấy năm sau đó, Dharma bận rộn với trọng trách của một đế sư trong triều đình Hốt Tất Liệt, tổ chức các buổi lễ quán đỉnh cầu phúc cho hoàng thất nhà Nguyên và các ngày hội Phật giáo khác. Bên cạnh đó, hằng ngày, Dharma vẫn đều đặn theo học Phật pháp nơi đại sư Dampa trong chùa Đại Hộ Quốc Nhân Vương.

Drakpa Odzer từ Giang Nam trở về, bẩm báo rằng, Dani đã thọ giới tại một ngôi đền Lạt Ma ở Hàng Châu, cậu ta được một số đệ tử Sakya chăm sóc. Dani sống khép mình không ai biết về thân thế thực sự của cậu ta.

Còn trong triều đình Hốt Tất Liệt, kể từ khi Nhà vua cho phép Chân Kim nắm quyền, sức ảnh hưởng của Thái tử ngày càng tăng cao. Sau cái chết của Ahama, khát vọng chấp chính của Chân Kim ngày càng mãnh liệt. Cậu ta đề xướng trị quốc theo đường lối của Nho giáo, đưa các cận thần người Hán của mình vào Trung thư tỉnh, phát triển Quốc tử giám, thuyết phục các quý tộc Mông Cổ học tập văn hóa của người Hán. Với nỗ lực không mệt mỏi của Chân Kim, vương triều của Hốt Tất Liệt, trong một phạm vi nhỏ, đã xuất hiện mô hình trị quốc theo đường lối của Nho giáo đúng như sự trông đợi của người Hán.

Nhưng thực hiện đường lối cai trị theo Nho giáo đồng nghĩa với việc phải giảm sưu thuế, giảm quân dịch. Mà điều này thì hoàn toàn đi ngược với tham vọng vơ vét của cải của Hốt Tất Liệt. Vì vậy, càng ngày Hốt Tất Liệt càng xét nét những việc làm của Chân Kim. Sự bất đồng chính kiến về đường lối chính trị khiến cho tình cha con vốn rất khăng khít giữa họ ngày một rạn nứt. Năm Dharma mười tám tuổi, Hốt Tất Liệt tiến hành cải tổ Trung thư tỉnh, điều động toàn bộ cận thần của Chân Kim đi nơi khác, kể từ đây, mâu thuẫn giữa hai cha con họ càng trở nên sâu sắc. Đối với một người không hề nắm trong tay thực quyền như Chân Kim, hoàn cảnh của cậu ta mỗi lúc một nguy hiểm.

Chuyện nhà của Dharma cũng không mấy yên ổn. Bối Đan và Jumodaban càng lúc càng ghét nhau ra mặt. Bối Đan cậy mình thân phận cao quý hơn Jumodaban, Jumodaban ỷ mình sinh được con trai, được chồng yêu chiều nên cách phục trang, hành xử ngày càng lấn lướt quyền hành của người vợ cả. Vậy là xảy ra tranh cãi liên miên khiến Dharma mệt mỏi không yên.

Tôi cũng muốn khuyên can nhưng có câu "việc quan dễ lo, việc nhà khó vẹn", huống hồ tôi đã mất gần hết linh khí, lại không thể mở lời trò chuyện, đành nhắm mắt làm ngơ trước cảnh nhà um xùm, ầm ĩ của Dharma. Tôi vốn cho rằng, phụ nữ ghen tuông một chút cũng không sao. Vả lại, bọn chúng còn trẻ, qua vài năm nữa, khi chúng đã trưởng thành và chín chắn hơn, những cuộc cãi vã như thế sẽ tự khắc mất đi. Nhưng tôi đâu ngờ rằng, chính những tỵ hiềm nhỏ nhoi ấy đã nuôi lớn mầm họa sau này, khiến tôi, suốt mấy trăm năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện cũ, vẫn khôn nguôi day dứt, ân hận.

Đầu thu năm 1285, Hốt Tất Liệt lệnh cho Dharma, khi ấy đã mười tám tuổi, trở về Sakya, tiếp tục củng cố chính quyền, thống nhất đất Tạng và chuẩn bị cho kế hoạch thiết lập nhà Tuyên úy Wusi. Jumodaban đòi đi cùng Dharma, Bối Đan cũng viện cớ muốn về thăm quê chồng. Vì không muốn hai người vợ xảy ra tranh cãi, hơn nữa Deva còn nhỏ, Dharma quyết định không đưa ai đi cùng.

Trước lúc lên đường, tôi đến từ biệt Chân Kim. Tôi vô cùng sửng sốt khi bắt gặp gương mặt tiều tụy và hoảng sợ của Chân Kim. Cậu ta gầy rộc đi, không còn nét hào hoa, đường bệ khi xưa nữa. Tôi hốt hoảng:

- Chân Kim, đã xảy ra chuyện gì?

Cậu ta đưa mắt dò xét xung quanh như thể sắp có quân địch ập tới. Sau khi xác định chắc chắn không có kẻ nào nghe lén, cậu ta mới thì thào với tôi trong nỗi lo sợ nơm nớp:

- Nghe nói, mấy hôm trước có đại thần người Hán nào đó đã dâng mật tấu, viết rằng, Bệ hạ tuổi đã cao nên nhường ngôi cho Hoàng thái tử.

- Sao kia? - Tôi thất kinh, lập tức nhận ra mức độ nghiêm trọng của sự việc. - Kẻ nào to gan dám dâng tấu chương hỗn xược như vậy? Hắn muốn hãm hại cậu ư?

- Không hẳn là cố tình hãm hại ta, vì triều đình Trung Nguyên vốn có truyền thống nhường lại ngôi báu.

Chân Kim vẫn còn rất tỉnh táo vì cậu ta không lớn tiếng thóa mạ kẻ dâng tấu chương đó, chỉ lắc đầu, ủ dột:

- Nhưng việc này không hợp với tục lệ của người Mông Cổ, người kế nhiệm ngôi vị Đại hãn phải được đại hội Kurultai bầu chọn sau khi Đại hãn tiền nhiệm qua đời. Trước khi ngôi vị Đại hãn mới có chủ thì thái hậu có quyền nhiếp chính.

Thấy cậu ta phiền muộn, âu sầu, tôi gạn hỏi:

- Phụ hoàng của cậu phản ứng ta sao?

Chuyện này là nghiêm trọng hay nhẹ tựa lông hồng, tất cả đều do thái độ của Hốt Tất Liệt quyết định.

Tôi không ngờ, câu hỏi của tôi đã khiến Chân Kim sợ tới mức mồ hôi vã ra đầm đìa, giọng nói run rẩy:

- Phụ hoàng vô cùng phẫn nộ. Gay go nhất là bè đảng của Ahama đã biết được chuyện này. Bọn chúng dâng tấu yêu cầu làm sáng tỏ.

- Trời đất ơi, bọn chúng muốn thừa dịp hãm hại cậu đây mà!

Hố sâu ngăn cách giữa hai cha con Hốt Tất Liệt và Chân Kim càng khó lấp đầy sau những điều tiếng thế này. Trong lịch sử, không hề hiếm chuyện cha con tàn sát lẫn nhau vì tranh giành ngôi vị!

- Phụ hoàng đã phê chuẩn bản tấu đó và lệnh cho Ngự sử đài phối hợp điều tra.

Toàn thân cậu ta run rẩy, vóc dáng cao lớn, lực lưỡng ngày nào giờ bỗng trở nên hốc hác, héo mòn vì lo nghĩ.

- May mà đô sự Ngự sử đài là ngài Thượng Văn biết rõ việc này vô cùng nghiêm trọng, đã ra sức che đậy, để ngăn chặn những lời gièm pha không hay. Nhưng nếu bè đảng của Ahama kiên quyết đòi điều tra đến cùng, e rằng tính mạng của cả nhà ta sẽ nguy mất!

Tôi không thể tin nổi, một người lạc quan, tự tin như Chân Kim lại trở nên yếu đuối như chim sợ cành cong, hồn bay phách lạc chỉ vì một bản tấu chương bí mật. Tôi không biết phải an ủi cậu ta thế nào, đành an ủi bằng cách liếm láp gương mặt tiều tụy, râu ria lởm chởm của cậu ta.

- Chân Kim, đừng lo lắng, Mẫu hậu của cậu nhất định sẽ bảo vệ cậu.

Chân Kim thở dài:

- Mẫu hậu ngã bệnh rồi. Ta không muốn người phải vì ta mà ưu phiền thêm nữa.

Tôi không khỏi ngạc nhiên. Khabi ốm ư? Nếu cô ấy thật sự có bệnh, chắc hẳn muốn viện cớ đau ốm để làm việc gì đó. Triều đình đang trong cơn sóng gió là thế, cô ấy là hoàng hậu, không thể không biết chuyện. Vì sao đúng lúc nguy cấp này, cô ấy lại ngã bệnh?

Tôi không kịp đến gặp Khabi vì phải theo Dharma lên đường về Sakya. Tôi định lần tới về Đại Đô sẽ tìm cô ấy. Lúc ra đi, gió bấc nổi lên, nền trời xám xịt, lòng người nhức nhối. Tôi đâu ngờ rằng, chỉ mấy tháng ngắn ngủi sau đó, tôi đã mất đi tất cả người thân và bạn bè.

Mùa đông năm 1285, thời tiết vô cùng khắc nghiệt. Đoàn người hộ tống Dharma về Sakya phải trải qua cuộc hành trình muôn vàn gian nan, giá rét cắt da cắt thịt. Dharma vốn gầy yếu, chẳng thể kham nổi nỗi khó nhọc ấy. Thằng bé sốt cao liên miên, bệnh tình ngày một nghiêm trọng. Nhưng vì không muốn trì hoãn nhiệm vụ Hốt Tất Liệt giao phó, thằng bé đã cắn răng, tiếp tục lên đường.

Đoàn chúng tôi vừa đến Dogans thì đột nhiên nhận được tin cấp báo từ Đại Đô. Dharma đọc xong lá thư thì gào lên thảm thiết, hai mắt trợn ngược, ngã vật xuống. Tôi lao đến lá thư, huyết quản như đông lại khi đọc hết dòng tin, đất trời như nghiêng ngả. Điều tôi lo lắng nhất mà không có cách gì phòng bị đã xảy ra!

Sau khi Dharma rời khỏi Đại Đô, cuộc chiến không khoan nhượng tiếp tục diễn ra giữa Bối Đan và Jumodaban. Bối Đan tìm được một "danh y", kê cho cô một đơn thuốc và bảo rằng có khả năng chữa bệnh vô sinh rất tốt. Sau một thời gian dùng thuốc, Bối Đan truyền ngự y trong cung đến khám, và phát hiện ra mình đã hoàn toàn mất khả năng sinh nở. Trong cơn phẫn uất, Bối Đan đã tóm được kẻ mệnh danh là thần y ấy và âm mưu của Jumodaban bị vỡ lở. Để trả thù, Bối Đan đã không từ thủ đoạn, tẩm thuốc độc vào đồ ăn của Jumodaban, giết hại cả hai mẹ con Deva.

Lúc này, Bối Đan đã bị nhốt lại, chờ đế sư quay về xử trí. Khi Dharma nhận được tin này thì hai mẹ con Jumodaban đã mất được hơn ba tháng, các đệ tử phái Sakya đã làm lễ hỏa táng cho cả hai. Còn việc chôn cất họ ở đâu, phải xin chỉ thị của Dharma.

Hay tin, Drakpa Odzer và Dampa vội vã chạy đến đỡ Dharma lên. Dampa ấn vào huyệt nhân trung của Dharma nhiều lần, thằng bé mới hồi tỉnh. Dharma đờ đẫn một lúc lâu mới nhớ ra mọi việc, nước mắt như mưa, nó hét lên quằn quại:

- Về Đại Đô, về ngay lập tức!

***

Chàng trai trẻ nhìn đồng hồ:

- Đã bốn giờ sáng.

Cậu ta lại gần cửa sổ, xoa hai má, giữ cho mình được tỉnh táo rồi dõi mắt về phía những đỉnh núi sừng sững nơi đường chân trời xa tít.

- Sắp sáng rồi!

Tôi đăm đắm ngó theo bóng dáng cậu ta, cố kiềm chế nỗi xúc động, điềm tĩnh hỏi:

- Sắp kết thúc rồi, cậu muốn nghe tiếp chứ?

Cậu ta quay lại, quay ngược chiếc ghế tựa, ngồi xuống, mỉm cười:

- Phải nghe hết chứ, tôi hết buồn ngủ từ lâu rồi.

- Trước đây, các nhà sử học thường phê phán Ahama rất nghiêm khắc, thậm chí cuốn Lịch sử triều Nguyên đã liệt Ahama vào "Truyện về các gian thần". Nhưng người đời sau không còn khắt khe như vậy nữa. Tuy ông ta đã làm nhiều việc xấu nhưng sau khi chết, thi thể đã bị bằm nát, gia tộc bị liên lụy, trong khi nguyên nhân chính không phải do những việc ông ta đã làm. Bởi vì những người kế nhiệm vị trí của ông ta sau này như Lô Thế Vinh người Hán, Senge người Tạng đều chịu chung kết cục bi thảm như Ahama: cả nhà bị chém đầu, chín họ phải chịu tội. Trong khi đó, những việc xấu của Lô Thế Vinh và Senge chỉ bằng một phần rất nhỏ so với Ahama.

Chàng trai trẻ trầm tư suy ngẫm:

- Nếu chỉ mình Ahama phải chịu kết cục như vậy, người ta có thể đổ lỗi cho nhân cách của ông ta. Nhưng tất cả những người từng giữ chức tể tướng đều có kết cục bi thảm như vậy, có lẽ nguyên nhân chính nằm ở Hốt Tất Liệt.

Tôi gật đầu tán đồng:

- Cậu nói đúng lắm. Nguyên nhân thực sự là người Mông Cổ có thói quen ban thưởng hậu hĩnh cho các tướng lĩnh của mình sau mỗi trận đánh. Đây chính là lý do vì sao quân đội Mông Cổ tuy ít người nhưng ai nấy đều chiến đấu bất chấp tính mạng. Hốt Tất Liệt vừa lập nước, bao nhiêu công thần đang chờ để được ban thưởng, ông ta kiếm đâu ra chừng ấy ngân lượng bây giờ? Thế là, kẻ nào giúp ông ta vơ vét được nhiều của cải, ông ta sẽ trọng dụng kẻ đó, bất kể hắn thuộc tộc người nào. Nhưng cách thức vơ vét của cải ấy chắc chắn sẽ vấp phải sự phản đối của nhân dân và các nho sĩ người Hán. Khi nỗi oán hận của người dân mỗi lúc một dâng cao, Hốt Tất Liệt bèn tìm cách giết đi một quân tốt thí mạng để xoa dịu lòng dân, sau đó lại tìm một kẻ khác giúp ông ta tiếp tục vơ vét của cải.

Chàng trai trẻ đưa ra nhận xét sắc sảo:

- Bởi vậy Hốt Tất Liệt mới là kẻ chủ mưu gây ra tội ác.

Tôi đau xót, thở dài:

- Chân Kim và Hốt Tất Liệt luôn bất đồng quan điểm về vấn đề này. Mâu thuẫn giữa hai cha con họ càng lúc càng không thể cứu vãn, cuối cùng dẫn đến thảm kịch của Chân Kim.

Chương 62

Kết cục của từng người

“Kẻ yếu nếu dựa vào vĩ nhân,

Vẫn có thể thành công;

Hạt nước nếu hòa vào biển lớn,

Sẽ không bị cạn khô.”

(Cách ngôn Sakya)

Năm 1286, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ hai mươi ba, nhà Nguyên.

Chân Kim bốn mươi ba tuổi, Dharmapala mười chín tuổi.

Không thể đợi Dharma cùng về Đại Đô, vì quá nóng ruột, tôi đã lên đường đi trước. Ngày 30 tháng 12 năm đó, tôi đã chạy hết tốc lực về Đại Đô bằng toàn bộ số linh khí ít ỏi vừa tích lũy được.

Khi tôi về đến nơi, Bối Đan đã bị nhốt trong phòng riêng của mình ở phủ Đế sư. Nhờ thân phận cao quý, nó chỉ bị giam trong phòng, không được phép ra ngoài, còn sinh hoạt hằng ngày vẫn giữ nếp cũ, không có gì thay đổi. Nó ngồi dưới nền đất lạnh, tựa lưng vào tường nhà, tóc tai rũ rượi, ánh mắt vô hồn, mùi hôi thối bốc lên từ đám áo quần lâu ngày không thay giặt.

Tôi gằng giọng, căm phẫn:

- Vì sao đứa bé mới ba tuổi mà ngươi cũng không chịu buông tha?

Nó mở mắt, đảo mấy vòng con ngươi mới nhận ra sự có mặt của tôi, gương mặt đờ đẫn không chút biểu cảm, khẽ nhún vai, ơ hờ:

- Ta gặp ảo giác chăng? Hồ ly mà biết nói chuyện ư?

Tôi nhe nanh, dọa nạt:

- Ngươi chỉ cần trả lời ta, ngươi có yêu Dharma không? Ngươi giết con trai nó, nó sẽ căm hận ngươi đến chết!

- Ta đâu có muốn giết Deva, ta chỉ hận mụ đàn bà người Tạng đó. Ta đâu ngờ cô ta lại bón cho thằng bé ăn món bánh sữa ấy. – Gương mặt vô cảm của nó bất chợt suy sụp, nó ôm mặt khóc rưng rức. – Ta chưa từng có ý định độc chiếm Dharma. Ta chỉ cần chàng thi thoảng đến với ta là ta mãn nguyện lắm rồi. Nhưng cô ta lại chỉ muốn giữ Dharma cho riêng mình, không cho chàng động vào người ta. Cô ta ỷ mình là thanh mai trúc mã của chàng nên không coi ta ra gì, điều đó ta có thể nhẫn nhịn. Nhưng vì sao cô ta lại cướp đi niềm hy vọng duy nhất của ta, khiến ta không thể sinh con?

Tôi muốn nguyền rủa, chửi bới nhưng không sao thốt nên lời khi nhìn thấy vẻ mặt tuyệt vọng của Bối Đan. Tôi lắc đầu, gào khóc:

- Oan nghiệt, đúng là oan nghiệt!

Mukaton vì Kháp Na mà chết, giờ đây, cháu gái của cô ấy lại giết hại cháu trai của Kháp Na. Phải chăng là báo ứng? Ông trời bắt chúng tôi phải trả nợ cô ấy đúng không? Trong cơn đau đớn rụng rời, tôi chợt nghe thấy tiếng rên rỉ thống thiết của Bối Đan. Quay lại nhìn, đã thấy máu đen ộc ra từ miệng của nó. Nó ôm bụng, nằm vật ra đất. Tôi lập tức nhận ra mùi vị của cỏ đoạn trường. Nó đã tự vẫn!

Bối Đan gắng gượng hé mắt, đăm đắm dõi theo một điểm bất định trong không trung, gương mặt thanh thản như vừa được giải thoát, trăng trối lời cuối cùng:

- Ta đã giết con trai của Dharma, ta có lỗi với chàng, ta sẽ đền tội bằng mạng sống của mình.

Gió bấc thét gào, ào ạt ùa vào căn phòng qua ô cửa sổ, thổi tung những cánh màn. Bối Đan nằm rũ trên đất, hai mắt vẫn mở to nhưng hơi thở đã tắt lịm. Tôi đứng đó, chứng kiến tất cả, toàn thân như đóng băng, không biết phải oán ai, hận ai, không biết còn kẻ nào vẫn sống để cho tôi oán hận nữa không. Rất lâu sau, tôi mới bước lại, dùng chân trước vuốt mắt cho Bối Đan. Món nợ của Kháp Na với Mukaton, món nợ của Bối Đan với Dharma đã trả hết. Mọi hận thù sẽ theo gió trôi xa.

Sau khi Bối Đan ra đi, lẽ ra tôi phải lập tức trở về bên cạnh Dharma, nó gầy yếu là thế, lại bị cảm phong hàn, cộng với cơn chấn động thương tâm này, làm sao nó chịu nổi nhưng đúng lúc tôi chuẩn bị lên đường thì tin đồn Hoàng hậu lâm bệnh nặng lan truyền khắp kinh thành. Tôi không tin đó là sự thật, đã chạy đến Cung điện của Khabi. Tôi đinh ninh rằng cô ấy đang đóng giả, nhưng khi nhìn thấy mái tóc Khabi bạc trắng, thân hình cô ấy còm cõi, gầy mòn, tôi không khỏi sửng sốt.

Chân Kim vẫn luôn túc trực bên mẹ, cần mẫn lau mồ hôi trên trán cho cô ấy. Nhưng tình hình sức khỏe của Chân Kim cũng không khá hơn. Mới hơn ba tháng không gặp, cậu ta chỉ còn da bọc xương, mới bốn mươi ba tuổi mà trông như người đã ngoài sáu mươi, nếp nhăn chồng chất, sức khỏe suy kiệt trầm trọng. Trống ngực tôi đập thình thịch khi nhận thấy cái chết đang bao bọc lấy cậu ta, sống mũi cay sè vì xót xa. Sự kiện “nhường ngôi” đã khiến Chân Kim sợ hãi rụng rời, e rằng cậu ta không còn sống được bao lâu nữa.

Nhận ra mùi hương của tôi, Khabi đột nhiên mở mắt, thấy tôi náu mình phía sau tấm màn, cô ấy khẽ gật đầu với tôi, sau đó lệnh cho tất cả ra ngoài. Chân Kim không chịu rời khỏi đó, Khabi đã phải dùng đến mệnh lệnh, buộc người hầu của phủ Thái tử đưa Chân Kim về nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Khi chỉ còn lại hai chúng tôi, tôi đến bên cô ấy, cất giọng run run:

- Khabi, cô làm sao vậy?

Gương mặt già nua, nhăn nheo của cô ấy khiến người ta không khỏi xót xa cho một tuyệt sắc giai nhân ngày nào. Cô ấy cất giọng khổ sở:

- Ta không còn sống được bao lâu nữa.

Tôi không tin nổi.

- Sao lại như vậy? Cô là hồ ly thiêng, tuổi thọ của cô không thể ngắn ngủi như vậy.

Cô ấy cười chua chát:

- Ta sẽ sống rất thọ nếu ta không chống lại ý trời, ra sức thay đổi vận mệnh của Chân Kim.

Tôi thót tim:

- Thay đổi vận số của một người là làm trái ý trời. Sao cô lại hồ đồ như vậy? Công sức tu luyện bao năm của cô sẽ đổ xuống sông xuống biển, cả hồn phách của cô cũng tan thành mây khói.

- Ta biết rõ hậu quả, nhưng cô cũng làm mẹ, cô hiểu vì sao ta phải làm vậy, đúng không?

Cô ấy nghẹn ngào, ôm mặt khóc nức nở:

- Chân Kim cũng không sống được bao lâu nữa.

Lòng tôi thắt lại, tôi bật khóc:

- Cô có thể truyền linh khí để duy trì sự sống cho cậu ấy…

Cô ấy ngắt lời tôi, ánh mắt rực sáng long lanh trong khoảnh khắc hấp hối sau cùng:

- Cô chấp nhận tiêu hao quá nửa linh khí, thậm chí bị đẩy trở lại nguyên hình cũng chỉ có thể duy trì sự sống của Bát Tư Ba ba năm. Ta không khờ như cô đâu, ta muốn được thấy Chân Kim lên ngôi, thực hiện hoài bão trị quốc bấy lâu của nó!

Tôi thấu hiểu nỗi lòng của cô ấy. Suốt ba năm đánh vật với số phận để duy trì sự sống cho Bát Tư Ba, với ý nghĩ chàng có thể rời xa tôi bất cứ lúc nào, trái tim tôi như tan nát, rã rời. Cảm giác tuyệt vọng, đau đớn ấy, tôi không biết phải chia sẻ cùng ai. Tôi cũng không biết mình đã vượt qua bằng cách nào.

Khabi đột nhiên ủ rũ, sắc mặt thẫn thờ, lắc đầu cay đắng:

- Ta những tưởng có thể liều mạng giúp nó nhưng kết cục, không những không thay đổi được số mạng của nó, mà ngay cả bản thân cũng bị trời trừng phạt.

Trái mệnh trời thì không thể sống sót. Tôi khóc ròng, hỏi cô ấy:

- Hãy nói với tôi, cô còn tâm nguyện gì chưa hoàn thành, tôi sẽ giúp cô.

- Tâm nguyện của ta… - Cô ấy thều thào, nhìn tôi không chớp mắt, rồi gật đầu chắc nịch: - Đúng rồi, cô có thể giúp ta.

Vừa dứt lời, cô ấy lập tức xoay người lại, hóa phép trở lại nguyên hình, thành một hồ ly màu lam tạp chủng rất đẹp, cơ thể lớn gấp đôi tôi. Cô ấy nhả ra một viên ngọc bảy màu lung linh, rực rỡ. Viên ngọc trôi lơ lửng trước mắt cô ấy, linh khí dần tụ lại, đó là viên nội đan, kết tinh ngàn năm tu luyện của cô ấy. Khabi khoát tay, viên ngọc bay vút lên đầu tôi, thâm nhập vào bên trong qua vết sẹo hình hoa sen trên trán.

Tôi kinh ngạc, vội đưa tay lên chạm vào vết sẹo nhưng chẳng thể lôi viên ngọc ra được nữa. Tôi lo lắng, nạt nộ:

- Khabi, sao cô làm vậy?

Khabi đổ người xuống giường, bộ lông màu lam lập tức chuyển thành màu trắng, gương mặt cô ấy vằn vện những nếp nhăn. Cô ấy khép mắt lại, giọng nói yếu ớt, già nua:

- Tiểu Lam à, hấp thụ nội đan của ta, cô có thể khôi phục hình dáng con người. Ta xin cô, hãy đi gặp Chân Kim. Nó sẽ rất vui mừng nếu được thấy cô.

Tôi vừa khóc vừa gật đầu:

- Được, tôi sẽ truyền linh khí của cô cho Chân Kim…

- Không cần đâu. Không thực hiện được hoài bão trị quốc, nó quyết không chấp nhận cuộc sống sống mà như chết đó đâu. – Khabi thốt ra từng tiếng rất đỗi khó khăn. – Chỉ cần cô chịu ở bên nó trong những ngày cuối cùng của cuộc đời nó, để nó ra đi thanh thản, không còn gì nuối tiếc là ta mãn nguyện lắm rồi.

Nguồn linh khí dồi dào lan tỏa trong cơ thể tôi, cảm giác quen thuộc ùa tới, tôi cúi đầu và nhận ra làn da trắng nõn, mái tóc màu lam óng ánh lúc xưa, tôi đã lấy lại hình hài con người. Tôi ôm Khabi, nức nở:

- Khabi, cô bảo tôi tiếp tục sống chỉ để ở bên Chân Kim mấy ngày cuối đời thôi ư? Họ ra đi cả rồi, cô cũng bỏ tôi mà đi, chỉ còn lại một mình trên cõi đời vô nghĩa này, tôi sống làm gì nữa!

- Tiểu Lam, đừng tuyệt vọng, hãy sống tiếp bằng nội đan của ta và chờ họ chuyển thế đầu thai. Nếu trong lòng họ luôn nhớ đến cô, họ nhất định sẽ tới tìm cô.

Gương mặt hiền từ của cô ấy hướng về phía tôi, khóe môi nở nụ cười đôn hậu:

- Đừng buồn cho ta. Nhờ thân phận của Khabi, ta đã được tận hưởng mọi vinh hoa, phú quý, buồn vui, yêu ghét của cuộc đời này. Nay ta chỉ còn một việc sau cuối muốn cậy nhờ cô: Hãy hóa phép tạo ra thi thể của ta. Hôm nay, Hoàng hậu Khabi sẽ tạ thế…

Giọng nói của cô ấy yếu dần rồi tắt lịm, cơ thể cô ấy lạnh ngắt trong vòng tay tôi. Tôi ngửa đầu lên trời, nước mắt giàn giụa, tôi đã mất đi người bạn tốt nhất trên đời[1].

Cái chết của Khabi khiến Hốt Tất Liệt vô cùng đau buồn. Khabi đã gắn bó với ngài hơn bốn mươi năm, luôn là hậu phương vững chắc của ngài. Hốt Tất Liệt truy tôn Khabi là Hoàng hậu Chiêu Duệ Thuận Thánh, hạ lệnh ngày sau sẽ chôn cất cùng Nhà vua. Chân Kim yêu mẹ sâu sắc, nên tin buồn này khiến cậu ta suy sụp. Bởi vậy, tháng 1 năm 1286, Chân Kim đã qua đời ở Đại Đô, không kịp dự tang lễ của mẹ mình.

Nhận lời ủy thác của Khabi, tôi đã ở bên Chân Kim trong ba ngày cuối cùng của cuộc đời cậu ấy. Chân Kim ra lệnh cho vợ con và toàn bộ người hầu rời khỏi phủ Thái tử, cả phủ đệ rộng lớn chỉ còn lại hai người. Chúng tôi nắm tay nhau, nhìn nhau qua làn nước mắt, trong căn phòng ấm cúng.

- Mai nở đẹp quá, cậu có thấy thế không?

Tôi đẩy xe lăn gỗ, đưa Chân Kim ra vườn ngắm hoa mai nở rộ. Chúng tôi dừng lại dưới một gốc mai đỏ thắm. Tôi khoác áo choàng nhung, lại gần một khóm mai, ngắt một bông, đưa cho Chân Kim:

- Đẹp không?

Chân Kim ngồi trên xe lăn, sắc mặt võ vàng, tiều tụy, khoác trên người nhiều lớp áo dày cộm, ánh mắt di chuyển chậm rãi từ khóm mai sang gương mặt tôi, rồi ngừng lại rất lâu:

- Tiểu Lam, em còn đẹp hơn cả hoa mai. Ta thật hạnh phúc vì trước khi ra đi lại được thấy em trong hình dáng con người.

Tôi buồn bã cúi đầu, đặt hai tay lên bàn tay giá lạnh của cậu ấy:

- Đừng khờ như vậy, cậu còn rất nhiều tâm nguyện chưa hoàn thành, cậu nhất định sẽ vượt qua khó khăn này.

Cậu ấy đặt tay mình lên bàn tay tôi, nước mắt long lanh:

- Đừng giấu ta nữa. Ta biết mình chỉ còn sống được một vài ngày nữa thôi. Ta những muốn thay thượng sư chăm sóc em nhưng tiếc thay, khi em khôi phục được hình dáng con người, ta lại không còn bao nhiêu thời gian nữa.

Tôi ngồi xuống trước mặt cậu ấy, gác đầu lên cánh tay cậu ấy:

- Chân Kim, xin lỗi vì tôi đã không đền đáp được ân tình mà cậu dành cho tôi.

Bàn tay cậu ấy run run vuốt ve gương mặt tôi, nụ cười dịu dàng nở trên khóe môi:

- Ta không mong đợi em sẽ yêu ta. Trước lúc ra đi, có em ở bên ta thế này, ta mãn nguyện lắm rồi.

Cậu ấy ngước nhìn bầu trời xanh bao la, đôi mắt mỏi mệt chất chứa niềm nuối tiếc:

- Điều khiến ta day dứt duy nhất là ta đã không thể thực hiện đường lối cai trị theo Nho giáo. Người Mông Cổ chỉ có thể quản lý tốt quốc gia rộng lớn này bằng Nho giáo và phải hòa nhập với người Hán. Nếu không, thế nước chẳng thể bền lâu.

Đáng tiếc thay, các hoàng đế triều Nguyên sau này tuy đều là cháu con của Chân Kim, nhưng không ai có được tầm nhìn xa và tài thao lược như cậu ấy, nên chưa đầy một trăm năm sau, người Mông Cổ đã bị đánh bật trở lại vùng sa mạc phía bắc, kết thúc sự thống trị của triều đình nhà Nguyên ở Trung Nguyên.

Tôi ngập ngừng một lát rồi quyết định bày tỏ lòng mình:

- Chân Kim, thời gian ít ỏi còn lại, cậu nên dành cho vợ và các con mình. Họ rất quan tâm, lo lắng cho cậu, nhất là Khoát Khoát Chân. Chắc chắn cô ấy cũng muốn được ở bên cậu trong khoảnh khắc thiêng liêng cuối cùng.

Chân Kim nghiêng đầu ho khan, ho cả ra máu. Dù mệt mỏi tột độ, cậu ấy vẫn gắng gượng mỉm cười, gật đầu với tôi, bàn tay nắm chặt tay tôi buông lơi.

Tháng 1 năm 1286, Chân Kim qua đời. Trong nỗi day dứt, ân hận tột cùng, Hốt Tất Liệt đã thẳng tay trừng trị bè lũ Ahama, những kẻ rắp tâm đòi điều tra vụ án “nhường ngôi”. Hốt Tất Liệt còn lập con trai út của Chân Kim là Thiết Mộc Nhĩ làm Hoàng thái tôn. Sau khi Hốt Tất Liệt qua đời, Thiết Mộc Nhĩ lên ngôi hoàng đế, hiệu là Nguyên Thành Tông. Từ đó về sau, bất luận việc kế ngôi của triều Nguyên rối ren chừng nào, ngôi vị hoàng đế vẫn chỉ do cháu con của ba người con trai của Chân Kim luân phiên kế vị. Triều Nguyên có tổng cộng mười vị hoàng đế đều là huyết mạch của Chân Kim.

Trong lịch sử Trung Quốc, Chân Kim là hoàng thái tử đặc biệt. Cậu ấy thông minh, hiểu biết, nuôi hoài bão trị quốc lớn lao, từng là niềm hy vọng của các đại thần người Hán. Tiếc thay, Chân Kim mất khi tuổi đời còn quá trẻ, khiến người đời sau không khỏi thương tiếc, xót xa. Sau khi Chân Kim qua đời, triều Nguyên bắt đầu suy yếu.

Tôi hóa phép giấu đi mái tóc và đôi mắt màu lam, bước vào trạm nghỉ Qemin ở Dogans với tâm trạng vừa lo lắng vừa hồi hộp. Vậy là tôi đã lấy lại được hình dáng con người, vậy là tôi có thể đường hoàng ở bên Dharma với thân phận của Lam phu nhân. Và biết đâu, tôi sẽ có dịp nói cho thằng bé biết, tôi mới là mẹ ruột của nó.

Nhưng tôi đã rất đỗi sững sờ khi vừa bước vào cửa chính của trạm nghỉ. Lá cờ tang màu đen bay trên cao, dựa vào độ cao và độ lớn của lá cờ, tôi biết đây chắc chắn là tang lễ của một nhân vật quan trọng. Một dự cảm không lành dâng trong lòng tôi.

Những vuông lụa trắng treo khắp nơi trong trạm nghỉ, tất cả đều mặc tang phục. Tôi hốt hoảng túm tay người đi bên cạnh:

- Cho ta biết, ai qua đời?

Người đó quay lại, râu ria lởm chởm, hai mắt sưng đỏ, thì ra là Drakpa Odzer. Cậu ta kinh ngạc khi nhận ra tôi:

- Lam phu nhân về khi nào vậy? Vì sao đã mấy năm mà dung mạo của phu nhân vẫn không hề thay đổi?

Tôi không buồn trả lời cậu ta, đặt tay lên ngực, hỏi dồn:

- Là ai?

Cậu ta nghẹn ngào hồi lâu mới bật khóc thảm thiết:

- Là…là pháp vương…

Tôi như bị hàng vạn mũi tên đâm xuyên qua tim, máu huyết dâng lên cổ họng, phun trào ra miệng, thấm đẫm ngực áo. Tôi bóp chặt cánh tay Drakpa Odzer, giọng nói lạc đi:

- Xảy ra khi nào?

Pháp vương viên tịch lúc nửa đêm hôm qua.

Drakpa Odzer quỳ sụp xuống, dập đầu tới tấp, máu túa ra đầy trán, vừa gào khóc vừa bẩm báo:

- Bị cảm phong hàn nhưng pháp vương vẫn buộc chúng tôi tăng tốc trở về Đại Đô, ai khuyên can thế nào ngài cũng không nghe. Giữa chốn thâm sơn cùng cốc, chẳng thể tìm được lương y. Lúc đến trạm nghỉ, bệnh tình của pháp vương đã vô cùng nguy kịch, đến nửa đêm thì…

Tôi lảo đảo, bước chân như trên mây, mọi thứ xung quanh trở nên mờ nhạt, tôi lẩm bẩm trong vô thức:

- Pháp vương đang ở đâu? Mau đưa ta đi gặp!

Drakpa Odzer dìu tôi vào phòng Dharma. Dampa đang quỳ trước giường, cất giọng thê thiết:

- Đã thay xong y phục cho pháp vương.

Tôi lảo đảo lại gần, lúc nhìn thấy gương mặt trắng bệch của thằng bé, giống gương mặt của Kháp Na như hai giọt nước, tôi như muốn ngất đi. Tôi đưa tay run rẩy vuốt ve gương mặt con trai, da thằng bé lạnh thấu xương, tôi bật lên tiếng kêu thương xé ruột:

- Con trai của ta, con trai của ta, nó mới mười chín tuổi, còn chưa hoàn thành tâm nguyện của cha và bác nó, nó còn rất nhiều việc phải làm, cơn cớ gì ông trời lại bắt nó ra đi sớm vậy!

Số phận thật trớ trêu! Nếu tôi không ở lại Đại Đô, tiễn đưa Chân Kim đi hết chặng cuối cùng của cuộc đời cậu ấy, mà sớm trở về với con trai tôi thì tôi đã có thể cứu được nó. Nhưng giờ đây, khi hồn phách nó đã tan, tôi chẳng làm gì được nữa! Đây là ý trời ư? Ông trời muốn dòng dõi của Bát Tư Ba phải tuyệt tự tuyệt tôn sao?

Tôi muốn khóc cho nghiêng ngả trời đất, khóc mãi cho tới khi đêm xuống, khi giọng đã khản đặc, mới quay ra hỏi:

- Pháp vương có trăng trối điều gì không?

Dampa lau nước mắt, đáp:

- Pháp vương để lại di chúc rằng: hỏa táng ngài, rồi đem tro cốt về Sakya, chôn cất cùng với vợ và con trai ngài.

Cổ họng đau rát, tôi gật đầu mỏi mệt:

- Ta sẽ đưa pháp vương về lại nơi chôn rau cắt rốn của ngài!

Rồi tôi tỉ mỉ vuốt lại cho phẳng phiu từng nếp áo cà sa trên người con trai, ghé sát tai nó thì thào:

- Dharma, mẹ về với con đây, mẹ sẽ luôn ở bên con…

Nhưng nó không còn nghe thấy lời tôi nữa. Vì sao tôi không nói cho nó biết từ sớm? Vì sao tôi lại đắn đo nhiều như vậy? Nếu tôi biết duyên phận mẹ con tôi ngắn ngủi thế này thì mười chín năm qua, tôi đã không lãng phí quá nửa thời gian mẹ con được bên nhau.

Trên giàn gỗ, hình ảnh Bát Tư Ba trong bộ y phục tăng nhân màu sẫm đỏ năm nào chuyển thành hình ảnh Dharma. Tôi châm ngọn đuốc vào đám cỏ và nhìn ngọn lửa cướp đi niềm hy vọng lớn nhất của ba chúng tôi. Rồi tôi quỳ xuống ngửa mặt lên trời, nước mắt lã chã, thấm ướt khăn áo.

Mùa thu năm 1286, tôi đưa tro cốt Dharma trở lại Sakya. Nửa năm sau, tro cốt của Jumodaban và Deva cũng về tới. Trong gian điện xây cất linh tháp, đã có thêm một tòa tháp hoàng kim khác. Điện thờ trống trải, hoang vắng năm xưa, nay đã có tới ba tòa tháp, không gian bớt cô quạnh hơn. Một tay nắm chặt viên ngọc Linh hồn, một tay siết chặt chiếc vòng tay hình hoa sen, tôi đứng giữa gian điện rộng lớn, chầm chậm cất bước. Từ Kháp Na đến Bát Tư Ba rồi đến gia đình Dharma, từng người từng người một, hết vòng này đến vòng khác. Nơi đây có tất cả người thân của tôi.

Kể từ ngày có được hình hài con người, tôi đã trải qua bao lần sinh ly tử biệt. Giờ đây, khi người thân đều đã qua đời, bạn bè đều khuất bóng, tôi không còn gì để lưu luyến với nhân gian này.

Có tiếng bước chân vang lên trong gian điện, tôi nhận ra đó là Drakpa Odzer và Dampa. Hai người bước vào, vái lạy tôi. Drakpa Odzer đau buồn cất tiếng:

- Thưa phu nhân, vị trí đế sư hiện đang khuyết, Dharma lại không có con trai nối dõi, Bệ hạ lệnh cho tôi kế nhiệm chức vị này, vài hôm nữa tôi phải lên đường đến Đại Đô nhậm chức.

Tôi gật đầu trong vô thức.

Drakpa Odzer do dự hồi lâu mới lấy hết can đảm góp ý:

- Thưa phu nhân, mất đi người thừa kế, địa vị của phái Sakya trong triều đình nhà Nguyên tất sẽ lung lay. Chúng ta buộc lòng phải suy xét cho đại cục. Tuy chuyện này rất khó nói nhưng vì tương lai của giáo phái, Drakpa Odzer buộc lòng phải lên tiếng:

Cậu ta ngừng lại một lát để chọn cách diễn đạt sao cho ổn thỏa:

- Giờ đây, phái Sakya chỉ còn lại một người thừa kế duy nhất.

Tôi ngẩng đầu:

- Dani ư?

Dampa bước lên một bước, quỳ xuống:

- Dani là người thừa kế duy nhất của phái Sakya. Dù cậu ta và cha mình có gây ra bao tội lỗi thì đó đều là chuyện nội bộ của giáo phái, đối với người ngoài, cậu ta vẫn là hậu duệ, là huyết mạch của giáo phái chúng ta.

Tôi bật cười mỉa mai:

- Cậu muốn Dani trở về kế thừa ngôi vị pháp vương đúng không?

Drakpa Odzer cũng bước tới và quỳ xuống, cầu xin:

- Xin phu nhân hãy vì tương lai của giáo phái mà gạt bỏ mọi ân oán trước kia.

Tôi đưa mắt về phía tòa linh tháp cao nhất, đồ sộ nhất, cất giọng lạnh lùng:

- Bát Tư Ba đã ra lệnh đuổi Dani, vì thế cậu ta không thể kế thừa ngôi vị pháp vương. Chúng ta không thể làm trái di mệnh của Bát Tư Ba.

Cả hai người đều sững sờ, vẻ mặt thất vọng, Dampa định mở lời nhưng tôi đã ngăn cậu ta lại:

- Nhưng cậu nói phải, phái Sakya chỉ còn Dani là người kế thừa duy nhất…

Tôi hít thở sâu vài lần, đưa mắt về phái tòa linh tháp sau cùng:

- Hãy đón nó về Sakya, chọn cho nó vài thê thiếp, để nó sinh con trai kế nghiệp phái Sakya.

Hai người nhìn nhau, vui mừng, xúc động, cúi đầu thưa:

- Tạ ơn Lam phu nhân! Phu nhân quả là người rộng lượng, sáng suốt!

Drakpa Odzer đề nghị:

- Tôi biết Dani ở đâu, tôi sẽ lập tức phái người đi đón cậu ấy.

Dampa gật đầu, hướng mắt về phía tôi, đề nghị:

- Trước khi pháp vương mới chào đời và đủ trưởng thành để gánh vác trọng trách, xin Lam phu nhân hãy đứng ra lo liệu công việc của giáo phái!

Tôi lắc đầu, cất giọng u buồn:

- Ngày mai ta sẽ rời khỏi đây.

Cả hai người cùng thốt lên kinh ngạc:

- Lam phu nhân…

Ta ngắt lời họ, bước ra khỏi điện thờ, không quay đầu lại, chỉ lưu lại câu nói sau cùng này:

- Phái Sakya và ta đã không còn quan hệ gì nữa!

Về sau, Drakpa Odzer tới Đại Đô nhậm chức đế sư. Cậu ta là người can đảm, trung thành nên rất được Hốt Tất Liệt tin dùng. Drakpa Odzer có công lao rất lớn trong việc duy trì chức vị đế sư của dòng họ Khon trong suốt các đời vua nhà Nguyên.

Sau khi trở lại Sakya, Dani đã cưới bảy người vợ, sinh được mười hai người con trai. Hai mươi tám năm sau khi Dani qua đời, con trai của Dani là Lotro Gyaltsen đã kế nhiệm vị trí đế sư. Đây là hậu duệ dòng họ Khon đầu tiên kế nhiệm chức vị đế sư kể từ khi Dharmapala viên tịch. Từ đó cho đến khi nhà Nguyên sụp đổ, tất cả các đời đế sư đều do con cháu nhà họ Khon đảm nhiệm.

Dampa trở thành nhân vật nổi tiếng dưới thời Hoàng đế Hốt Tất Liệt và Nguyên Thành Tông Thiết Mộc Nhĩ. Sau khi viên tịch đã được truy phong làm quốc sư.

Mấy mươi năm sau đó, thực lực của phái Sakya càng ngày càng suy yếu. Đám con cháu đông đúc của Dani chỉ lo tranh giành quyền lực. Đế sư mới kế nhiệm Lotro Gyaltsen quyết định chia các anh chị em cùng cha khác mẹ của mình thành bốn Labrang: Khitu, Lakhang, Rinqinka và Duqu. Sau đó, chia đều quyền lực và tước vị cho các con trai của bốn người vợ của mình. Labrang Khitu thừa hưởng pháp tọa của đền Sakya, Labrang Lakhang thừa hưởng chức vị đế sư, Labrang Rinqinka và Labrang Khitu chia nhau quyền thừa kế pháp tọa của phái Sakya, Labrang Duqu thừa hưởng tước vị Bạch Lan Vương.

Dưới tòa pháp tọa tổng bộ của đền Sakya là các Labrang nhỏ, có chủ nhân của riêng mình, cứ thế cha truyền con nối. Các Labrang có quyền cai quản thuộc dân, trang viên và thành lũy của riêng mình. Những người này có cùng nguồn cội, tiên tổ nhưng trải nhiều đời, từ anh em ruột đến anh em họ, rồi anh em họ xa, cách nhau hàng mấy đời, sức gắn kết nội bộ cứ lỏng dần.

Tuy phái Sakya vẫn nhận được sự ủng hộ tuyệt đối của triều Nguyên, các Labrang đều giữ những chức vị cao, vượt xa vị trí của mười ba vạn hộ hầu đất Wusi nhưng cách phân chia này đã làm suy yếu thực lực của giáo phái.

Đúng lúc đó, chỗ dựa vững chãi nhất của phái Sakya là triều đình nhà Nguyên bắt đầu suy yếu, không thể tiếp tục hỗ trợ và nâng đỡ cho phái Sakya cả về kinh tế và quân sự như trước nữa. Cuối thời nhà Nguyên, Vạn hộ hầu Phaktru vùng lên mạnh mẽ. Đứng trước kẻ địch hung hãn, lớn mạnh, điểm yếu và sự chia rẽ trong nội bộ phái Sakya đã bộc lộ rõ nét. Phái Sakya tan rã nhanh chóng.

Tôi quay về quê hương, vùng núi Côn Luân, dựng một căn nhà cỏ, sống đời ẩn dật. Ba mươi lăm sau, vào một đêm gió tuyết thét gào, tôi cứu được một chàng trai trẻ trên đường đi. Buổi tối hôm đó, tôi kể cho chàng trai nghe toàn bộ câu chuyện cuộc đời mình. Câu chuyện kết thúc trước lúc gà gáy và tôi tháo viên ngọc Linh hồn đeo trên cổ, đưa cho chàng trai xem. Người đó rơm rớm nước mắt khi ngắm nhìn viên ngọc rồi run rẩy đứng lên, kéo tôi vào lòng, siết chặt:

- Cuối cùng ta đã tìm được em…

Tôi áp tai mình vào bờ ngực chàng, lắng nghe tiếng trái tim chàng đập rộn ràng, nước mắt tuôn rơi, nụ cười nở trên môi:

- Cuối cùng em đã chờ được chàng…

1. Hoàng hậu Khabi qua đời năm 1281, để đảm bảo tính logic của cốt truyện, tác giả đã đẩy lùi thời gian này thành năm năm sau.

Phần Kết: Không phụ Như Lai, không phụ nàng

Mùa đông năm 2020, tại một hẻm núi sâu, vắng người qua lại, trên dãy Côn Luân.

Tôi ngẩng lên nhìn qua khung cửa sổ, một dải màu đỏ rực đang hiện dần trên dãy núi phía xa, mây đen nhuốm sắc vàng tươi làm nền cho màu xanh sẫm nơi đường chân trời. Tôi đứng lên, chầm chậm cất bước về phía cửa sổ, tủm tỉm cười:

- Trời sáng rồi!

Quay đầu lại thấy chàng trai trẻ đang run rẩy, nhìn mình đăm đắm, đôi mắt ngấn nước, rưng rưng rồi tuôn trào, vỡ òa. Tôi mỉm cười, ngóng đợi:

- Chàng nhớ ra rồi, phải không?

Người đó đứng lên, chao đảo, ấp úng:

- Ta… ta là… ta là…

Tôi tháo viên ngọc Linh hồn đeo trước ngực, ánh sáng bảy màu lấp lánh tỏa rạng, quầng sáng xoay nhiều vòng quanh chàng trai rồi đột ngột thâm nhập vào vùng ngực chàng, viên ngọc Linh hồn trên tay tôi lập tức biến mất. Chàng trai đặt tay lên ngực, thở gấp, giọng chàng nức nở:

- Ta nhớ ra rồi, nhớ ra tất cả rồi. Đây là kiếp luân hồi thứ bao nhiêu?

- Thứ mười lăm đó chàng.

Chàng run rẩy vuốt ve gương mặt tôi:

- Em vẫn chờ ở đây như mọi khi ư?

- Vâng. Em không đi đâu hết, em chỉ ở đây chờ chàng, chờ được ở bên chàng. Ngắn thì hai mươi năm, dài thì trăm năm. Có lần nửa đêm chàng đã thiếp đi, lúc tỉnh lại, chẳng còn nhớ gì cả, rồi chàng từ biệt em và ra đi mãi mãi. Từ đó em mới biết rằng, mỗi lần chàng đến tìm em, em phải kể hết toàn bộ câu chuyện trước khi trời sáng. Nếu không, chàng sẽ không thể nhớ ra và em sẽ phải chờ kiếp sau nữa. – Tôi mỉm cười mãn nguyện. – Nhưng tuổi thọ của em rất dài, em không ngại chờ đợi. Lúc chàng không đến, em dành thời gian suy nghĩ xem nên kể câu chuyện theo cách nào thì hấp dẫn nhất để chàng không thấy tẻ nhạt mà thiếp đi giữa chừng…

Chàng siết chặt tôi thêm nữa, như thể chỉ cần khẽ buông lơi là tôi sẽ biến mất khỏi cuộc đời nay. Giọng chàng nghẹn ngào:

- Sau khi ta chết, em lại tiếp tục chờ đợi như vậy sao?

- Chàng nghĩ em sẽ trường sinh bất tử chắc? – Tôi phì cười, đập khẽ vào ngực chàng. – Không đâu! Đây là lần cuối cùng. Em chỉ sống được mấy chục năm nữa thôi, chàng xem, tóc em đã bạc trắng cả rồi này. Vả lại, ngọc Linh hồn sắp cạn linh khí, chàng cũng không thể đầu thai chuyển thế được nữa.

Chàng đẩy tôi ra xa một đoạn, đón lấy ngọn tóc của tôi, mái tóc màu lam mềm mượt như rong biển nay đã biến thành màu trắng toát. Tôi bật cười khi nhìn vẻ mặt kinh ngạc lẫn xót xa của chàng:

- Chàng sao vậy? Có phải chàng chê em già nua không? Hay chàng đang nuối tiếc vì không thể đầu thai chuyển thế được nữa?

Chàng vội vã thanh minh:

- Làm gì có chuyện đó! Dù dung mạo em có thay đổi thế nào đi nữa, em vẫn mãi là bông hoa đẹp nhất trong lòng ta.

- Chàng nói đấy nhé! – Tôi nắm chặt tay chàng trong niềm hạnh phúc vô bờ. – Đời người ngắn ngủi xiết bao, chúng ta hãy trân trọng từng khoảnh khắc bên nhau, để không phải tiếc nuối, cũng không mong cầu được chờ nhau hết kiếp này đến kiếp khác.

Chàng gật đầu cả quyết, lồng tay chàng vào tay tôi.

- Em nói đúng, chúng ta hãy sống thật vui vẻ, không chờ đợi kiếp sau, không nuối tiếc.

Ánh ban mai tràn vào căn phòng nhỏ, nắng vàng rực rỡ bao phủ lấy hai chúng tôi. Chàng giơ cao đôi bàn tay siết chặt của chúng tôi, chiếc vòng tay hình hoa sen lấp lánh muôn sắc dưới ánh mặt trời. Chúng tôi nhìn nhau và cười, bóng đôi lứa in trên tấm rèm lụa cửa sổ.

HẾT

Lời bạt

Đôi lời tâm sự của tác giả về

ĐỨC PḤT VÀ NÀNG HOA SEN XANH

Tôi đã nghiền ngẫm cốt truyện về Đức Phật và nàng: Hoa sen xanh suốt bốn năm. Đây là câu chuyện mà tôi rất thích. Để viết nên cuốn tiểu thuyết này, tôi đã đọc, tìm hiểu và nghiên cứu rất nhiều tài liệu về Tây Tạng, về dân tộc Tạng và về triều Nguyên – Trung Quốc. Sau khi cuốn sách ra đời, tôi nhận được không ít thư của bạn đọc bày tỏ những thắc mắc về cuốn truyện. Vậy nhân đây, tôi xin được viết đôi dòng chia sẻ cùng các bạn:

1. Vì sao Đức Phật và nàng: Hoa sen xanh lại có đến hai nhân vật nam chính?

Sự thực là tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều này. Các tiểu thuyết “ngôn tình” được xem là “chính tông” thường chỉ có một nhân vật nam chính, vì các nhân vật nữ chính của chúng ta đều ước mong: “Suốt đời suốt kiếp chỉ hai ta”. Bản thân tôi cũng vậy.

Bởi vậy, lúc đầu tôi dự định để Kháp Na xuất hiện trong tiểu thuyết đúng như sự thực lịch sử: kết hôn với Kangtsoban và qua đời khi chưa thấy mặt con. Nhưng nếu làm vậy thì thật tàn nhẫn với Kháp Na. Khi tìm hiểu về cuộc đời Bát Tư Ba, tôi cứ hoài trăn trở: vấn đề nối dõi tông đường vô cùng quan trọng đối với phái Sakya, vậy thì vì sao mãi đến năm hai mươi chín tuổi, Kháp Na mới sinh hạ người con đầu? Cách lý giải duy nhất là: cậu ấy không hạnh phúc, vì đó là cuộc hôn nhân chính trị thuần tùy. Và còn điều này nữa, rốt cuộc Kháp Na đã chết như thế nào? Sử sách ghi chép rất mơ hồ. Kháp Na qua đời khi mới hai mươi chín tuổi, lại chết một cách không rõ ràng, điều này cho thấy Tây Tạng vào thời kỳ đó phức tạp và hỗn loạn vô cùng. Vì thế, tôi rất đỗi cảm thương cho Kháp Na. Tôi càng viết càng thấy thích nhân vật này. Nếu tôi nhất định phải tôn trọng sự thật lịch sử, vậy thì tôi chỉ có thể mang lại cho cậu ấy chút hạnh phúc nhỏ nhoi hư cấu trong tiểu thuyết mà thôi.

2. Vì sao trong truyện có rất ít tình tiết “yêu đương” của Bát Tư Ba?

Bát Tư Ba là nhân vật nam chính của Đức Phật và nàng: Hoa sen xanh nhưng sử sách không ghi chép bất cứ chi tiết nào về sự tồn tại của “bóng hồng” trong cuộc đời ngài. Vậy nên, kể chuyện tình yêu về ngài khó hơn Rajiva rất nhiều. Nhưng nếu tôi chỉ viết về công đức và thành tựu chính trị của ngài, chắc chắn không ai buồn ngó tới cuốn tiểu thuyết này và tôi sẽ không thể đạt được mục đích: muốn ngày càng có nhiều người biết đến ngài. Tôi vô cùng sùng bái ngài và vai trò lịch sử của ngài. Tôi lại là người tôn trọng sự thật lịch sử nên không thể tùy tiện hư cấu chuyện ngài phá giới rồi kết hôn. Chi tiết nụ hôn duy nhất vào thời khắc cuối cùng của cuộc đời Bát Tư Ba đã là giới hạn tối đa mà tôi cho phép mình được viết về chuyện tình ái của ngài.

Tôi cũng luôn dặn lòng rằng, tôi là “mẹ ruột”, tôi yêu tất cả các nhân vật của mình nên dù tôi nhất định phải tôn trọng lịch sử khi viết về Kháp Na và Bát Tư Ba, một người qua đời năm hai mươi chín tuổi, một người lìa thế năm bốn mươi sáu tuổi nhưng tôi cũng muốn họ được toại nguyện trước lúc ra đi.

3. Vì sao nhân vật nữ chính lại là hồ ly?

Bạn đọc có thể không thích nhân vật nữ chính là một hồ ly, nhưng tôi xây dựng nhân vật này là có dụng ý riêng. Bạn biết không, cả Tiểu Lam và Ngải Tình đều là những nhân vật hư cấu, họ giúp tôi kể chuyện về Bát Tư Ba và Kumarajiva. Lần này, tôi không viết truyện vượt thời gian nữa mà sáng tạo ra nhân vật hồ ly có phép thuật. Bởi vì tôi nghĩ rằng, không người phụ nữ nào trong số chúng ta có thể chịu đựng số phận nghiệt ngã như Tiểu Lam: người yêu qua đời, con trai và cháu trai mất sớm, tất cả người thân đều trở thành vật hy sinh của ván bài chính trị. Số phận ấy quá ư bi thảm, nó khiến người ta tuyệt vọng. Tôi muốn được sống dưới ánh dương rạng rỡ, cho dù số phận có trớ trêu nhường nào đi nữa, tôi vẫn tin rằng, còn hy vọng là còn tương lai. Thế nên, Đức phật và nàng: Hoa sen xanh mới có kết thúc như vậy, thế nên nhân vật nữ chính mới chờ đợi hết kiếp này đến kiếp khác, chờ cho đến khi niềm hy vọng của cô ấy trở thành hiện thực.

4. Vì sao ở cuối mỗi chương truyện đều ngồn ngộn những kiến thức lịch sử?

Bát Tư Ba sống vào đầu thời nhà Nguyên, đây vốn là giai đoạn lịch sử được xem là “lạ lẫm” với phần đông người Trung Quốc nói riêng, bạn đọc khắp nơi nói chung Bát Tư Ba lại là một nhân vật chính trị, một người Tạng. Tôi tin rằng, không nhiều người trong số chúng ta có thể phân biệt một cách rành rẽ các giáo lý và giáo phái của Phật giáo Tây Tạng, tôn giáo vốn hết sức phức tạp. Bởi vậy, nhiệm vụ tất yếu của Đức phật và nàng: Hoa sen xanh là phải tập trung viết về lịch sử triều Nguyên và văn hóa đất Tạng. Tôi hiểu rằng, đa phần bạn đọc ngày nay không mấy hứng thú với những tri thức lịch sử khô khan, cứng nhắc nên sau khi cân nhắc kĩ càng, tôi đã quyết định tách riêng một một phần dữ kiện lịch sử, đặt vào cuối mỗi chương truyện, truyền tải đến bạn đọc thông qua cuộc đối thoại giữa Tiểu Lam và chàng trai trẻ. Nếu bạn không thích đọc về lịch sử, bạn hoàn toàn có thể lướt qua phân đoạn này mà không hề ảnh hưởng đến phần nội dung chính của truyện. Khi nào bạn đã thật sự yêu thích Đức phật và nàng: Hoa sen xanh, chắc chắn bạn sẽ đọc lại và nghiền ngẫm phần lịch sử đó. Cũng giống như nhiều bạn say mê Đức phật và nàng đã miệt mài tìm đọc kinh Phật và các sách lịch sử liên quan đến câu chuyện. Và thế là, những điều tôi tâm huyết, những điều tôi muốn các bạn hiểu, sẽ như “mưa dầm thấm lâu”, dần lắng lại trong tim các bạn, có phải vậy không các bạn của tôi?

Cả Đức phật và nàng và Đức phật và nàng: Hoa sen xanh đều là những cuốn sách lịch sử khoác trên mình chiếc áo “ngôn tình”. Tất nhiên, tôi biết rằng, phần lớn bạn đọc yêu mến hai cuốn tiểu thuyết này không phải vì những trí thức lịch sử và Phật pháp hàm chứa trong đó mà là những câu chuyện tình yêu đẹp đẽ mà tôi sáng tác nên. Nhưng nếu tôi chỉ viết truyện ký thông thường về Kumarajiva hay Bát Tư Ba, hẳn rằng sẽ không ai buồn đọc.

Vậy tôi phải làm sao để truyền tải thông điệp của mình, phải làm sao để ngày càng nhiều bạn đọc biết đến những nhân vật vĩ đại với những cống hiến to lớn trong lịch sử nhưng lại được rất ít người biết đến? Tôi quyết định chọn cách thức thông dụng nhất: tiểu thuyết ngôn tình để thu hút bạn đọc. Chỉ khi lôi cuốn được bạn đọc vào câu chuyện, tôi mới có thể truyền tải những thông điệp mà tôi muốn truyền tải. Bằng không, mọi nỗ lực của tôi sẽ chỉ là vô ích.

Và tôi tin rằng, dù bạn chỉ yêu thích phần “ngôn tình” của truyện, nhưng theo một cách rất tự nhiên, bằng một lẽ rất tự nhiên, bạn sẽ nhận được nhiều hơn thế từ cuốn sách của tôi. Vậy là tôi đã thành công rồi, phải không các bạn?

Chương Xuân Di

Phụ lục: TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Truyện kể về đế sư Bát Tư Ba, Trần Khánh ANh, Nhà xuất bản Tạng học Trung Quốc.

2. Bàn về triều Nguyên, Lê Đông Phương, Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải

3. The Empire of the Steppes (Đế quốc trên thảo nguyên), René Grousset

4. 15 vị hoàng đế triều Nguyên, Chu Diệu Đình, Nhà in Trung Hoa

5. Lịch sử các thế hệ Sakya, Awanggonggasuonan, Nhà xuất bản Nhân dân Tây Tạng

6. Tư liệu lịch sử về xa hội Tây Tạng – Trung Quốc, Nhà xuất bản Truyền thông Ngũ Châu

7. Lịch sử Tây Tạng trong tranh Thangka, Qiongna Nuobuwangdian, Nhà xuất bản Đại học sư phạm

8. Hình thái xã hội nông nô phong kiến Tây Tạng, Duojiecaidan (chủ biên), Nhà xuất bản Tạng học Trung Quốc.

9. The handbook of Tibetan Buddhisht symbols (Sổ tay giải mã các biểu tượng của Phật giáo Tạng truyền), Robert Beer

10. Lược sử về dân tộc Tạng, Nhà xuất bản Nhân dân Tây Tạng

11. Mật Tông – văn hóa thần bí của Phật giáo Tạng truyền, Gazangjia, Nhà xuất bản Tạng học Trung Quốc

12. Dân tộc Tây Tạng, Lý Đào, Giang Hồng Anh, Nhà xuất bản Truyền thông Ngũ Châu.

13. Gia tộc quyền quý ở Tây Tạng, Cirenyagzong, Nhà xuất bản Tạng học Trung Quốc

14. Phật sống chuyển thế trong Phật giáo Tạng truyền, Sái Chí Thuần, Hoàng Hạo

15. Potalaka: Cung Bố Đạt La, Lý Xuân Sinh (chủ biên), Nhà xuất bản Trùng Khánh.

* * *

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro