"Những Mối Tình Trai"

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương này sẽ kể thêm về chuyện đồng tính - nói hẳn ra là "Những Mối Tình Trai" của... Nhà văn Xuân Diệu!! Ngôi kể sẽ là ngôi kể thứ 3 ("tôi") nhưng "tôi" ở đây không phải là tui mà là một cậu học trò nhỏ (một người trong hàng vạn người hâm mộ thơ Xuân Diệu)
_______________

Tôi chỉ là một học trò nhỏ, một trong hàng vạn người hâm mộ thơ Xuân Diệu. May mắn là trước khi ông qua đời, tôi đã có dịp tiếp xúc với ông một cách thân tình, thậm chí còn hân hạnh được ông làm giám khảo và trao giải A (giải cao nhất) Cuộc vận động sáng tác Văn – Thơ – Ca khúc cho Thanh niên, do TW Đoàn TNCS Hồ chí Minh và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức (1981 – 1983). Sau đó, tôi vinh dự được Xuân Diệu đề nghị gửi bản thảo cho ông góp ý, đến thăm nhà riêng ông vài lần. Đặc biệt, là được trực tiếp tham gia phục vụ tang lễ của Xuân Diệu năm 1985…

Vinh dự được Ban Tổ chức cuộc hội thảo nêu trên mời tham luận, tôi xin được góp vài chi tiết nhỏ, đời thường, riêng tư, nhưng rất đặc biệt về một nhà thơ lớn. Đó là chuyện... đồng tính nam của Nhà thơ Xuân Diệu. Đây là điều bao năm vẫn bị xem là tế nhị, là cấm kỵ; nhưng vừa được pháp luật Việt Nam công nhận là quan hệ hợp pháp. Hy vọng góp phần giúp cho người đọc hiểu thêm được sự vĩ đại của một trong những nhà thơ tình lớn nhất Việt Nam…

Chân dung Nhà thơ Xuân Diệu.

Năm 1982, khi còn là một anh lính trẻ đóng quân ở vùng biên giới Lạng Sơn, tôi có gửi một chùm thơ về Hà Nội để tham dự Cuộc vận động sáng tác văn - thơ và ca khúc cho thanh niên (1981 - 1983) do Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức, nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Đoàn. Một buổi chiều, tôi bất ngờ nhận được một một lá thư lạ, ngoài phong bì đề tên người viết là Xuân Diệu. Mở thư ra đọc, tôi sung sướng đến kinh ngạc khi biết đó là thư của một nhà thơ lớn gửi cho mình. Lá thư rất ngắn, chỉ có khoảng hai trăm chữ. Xuân Diệu viết rằng ông rất thích chùm thơ dự thi của tôi. Ông đã trao đổi với Nhà thơ Vũ Quần Phương và thống nhất cho điểm cao chùm thơ ấy. Cuối thư, Xuân Diệu yêu cầu tôi gửi cho ông một tập bản thảo mới, ông sẽ đọc kỹ và góp ý.

Năm 1983, khi đang “tạm trú” ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội dự một trại viết ngắn ngày, tôi nhận được giấy mời của Trung ương Đoàn đến nhận giải A dành cho thơ (thể loại văn xuôi và ca khúc chỉ có giải B) trong cuộc vận động nói trên. Lễ trao giải diễn ra thật long trọng. Vì tôi là “Thủ khoa” nên vinh dự được Nhà thơ Xuân Diệu vẫy đến ngồi cạnh ông. Suốt buổi lễ ấy, hầu như tôi chẳng để ý đến ai nói những gì, đọc cái gì, mà chỉ... ngồi ngắm Xuân Diệu. Tôi nhớ rất rõ Xuân Diệu đã ăn và uống nhiều lắm, ông ăn hết hai suất bánh ngọt, còn xơi một quả chuối và ba miếng đu đủ nữa.

Mấy ngày sau, theo lời hẹn của Xuân Diệu, tôi tìm đến số nhà 24 phố Cột Cờ thăm ông. Tôi mua một quả đu đủ chín khá to. Xuân Diệu ngạc nhiên hỏi: “Sao em biết tôi thích thứ này? Gọt vỏ đi, ta cùng ăn luôn!”.

Rồi ông đi tìm dao, nhưng không hiểu sao trong phòng chẳng có con dao nào cả. Bí quá, tôi bèn lôi trong túi cóc chiếc ba lô lộn ngược mà mình đem theo ra một chiếc dao tem (thứ dao dùng để cạo râu) rồi gọt và bổ đu đủ bằng chiếc dao ấy. Tôi chỉ ăn một miếng nhỏ lấy lệ, còn một mình Xuân Diệu xơi hết nửa quả. Trước khi ra về, ông đưa trả tôi tập bản thảo Thao thức với Kỳ Cùng và nói: “Em hãy đọc kỹ lại, chỗ nào tôi khuyên tròn (o) là câu hay, còn chỗ nào đánh dấu nhân (x) là thơ dở”.

Rồi Xuân Diệu động viên tôi: “Phải viết thêm nhiều nữa, gắng sửa chữa cho kỹ, rồi chọn lọc gửi tới nhà xuất bản họ in cho. Có sách rồi, tôi sẽ giới thiệu em với Hội Nhà văn...”

Dư âm của giải thưởng và lời căn dặn của nhà thơ Xuân Diệu đã khiến tôi khi trở về đơn vị ở Lạng Sơn sống những ngày lâng lâng như đang trên mây gió, tràn đầy niềm vui và hy vọng.

Nhưng hồi ấy những tác giả mới viết, in được tập thơ cực kỳ khó khăn! Tôi gửi bản thảo đến Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, biên tập viên Nguyễn Quang Tính đọc rồi yêu cầu sửa chữa, cứ tưởng sách được in đến nơi. Song họ cứ nâng lên rồi lại đặt xuống, không biết bao nhiêu lần... Tháng 12 năm 1985, Nhà thơ Xuân Diệu đột ngột qua đời.

Hồi ấy, chúng tôi đang có mặt tại Hà Nội để tham dự Hội nghị Những người người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ III. Sáng sớm ngày tổ chức tang lễ cho Xuân Diệu, tôi xung phong cùng mấy người bạn viết trẻ đến Bệnh viện Việt - Xô nhận thi hài của nhà thơ từ phòng lạnh vào áo quan, rồi khênh lên ôtô chuyển đến trụ sở 51 Trần Hưng Đạo...

Tôi nhớ rất rõ, cái áo quan của nhà thơ lớn không hiểu sao lại bị nứt nẻ, góc bên trái trên đầu để lộ ra một kẽ lớn, cho gần vừa một ngón tay. (Có lẽ nó được làm bằng thứ gỗ xoàng và giá mua cũng rẻ?). Chúng tôi đã phải “xử lý” bằng cách lót thêm mấy tờ giấy đỏ. Lúc sống, Xuân Diệu vốn không cầu kỳ, chết rồi, ông giản dị thế cũng là phải.

Bên linh cữu của Xuân Diệu, chúng tôi đều đã ứa nước mắt và khóc thật sự. Với tôi, Xuân Diệu như một vị thánh, đầy ngưỡng mộ và kính trọng.

Sau ngày đó, tôi đã âm thầm tìm đọc những tác phẩm của Xuân Diệu và tất cả những gì người ta viết về ông…

Nhưng hình như hầu hết mọi người đều né tránh đụng chạm đến cái đề tài tế nhị, thậm chí có thể gọi là “phạm húy”, mà trong bài này người viết tạm gọi nó là chuyện “Tình trai” (mượn nguyên tên một bài thơ khá nổi tiếng của Xuân Diệu công khai ca ngợi mối tình của Rimbaud với Verlaine - “Hai chàng thi sĩ choáng hơi men”). Bởi, nếu có ai đó dám khẳng định rằng nhà thơ tình tài ba, thần tượng của biết bao thế hệ người yêu thơ Việt Nam là... đồng tính nam(!), thì chắc chắn, các fan cuồng nhiệt của ông sẽ hét lên: Tầm bậy! Làm gì có chuyện đó!

Nhưng, cái “nghi án” về một “trò đùa của tạo hóa” kia thì vẫn cứ lơ lửng đâu đó, kể từ thời Xuân Diệu còn sống và nhất là sau khi ông đã qua đời... Theo tôi, đó là một trong những lý do cắt nghĩa tại sao ông được nhiều người coi là “Ông hoàng Thơ tình Việt Nam”. Phàm những cái gì người không thể có được theo tự nhiên, thì lại càng khao khát! Với Xuân Diệu, đó là Tình yêu! Và nó được ông viết thành Thơ!

Sau này, tôi có may mắn được nhà thơ Hoàng Cát - người vẫn được coi là “em kết nghĩa” của cố thi sĩ Xuân Diệu - tiết lộ một “bí mật” rất riêng tư của mình: Ông chính là hình mẫu, là nguồn cảm hứng cho Xuân Diệu sáng tác một số bài thơ tình nổi tiếng, trong đó có thi phẩm bất hủ: "Biển"...

Cuối năm 1992, khi đọc cuốn hồi ký "Cát bụi chân ai" của Tô Hoài, đoạn viết về Xuân Diệu đã khiến tôi bàng hoàng, không tin đó là sự thật: Hồi kháng chiến chống Pháp, nơi có cơ quan văn nghệ kháng chiến trú đóng, các chàng trai trẻ rất sợ ở tập thể cùng với Xuân Diệu. Ban ngày thì lặng lẽ bình thường, nhưng tối đến thì nháo nhác, bỏ đi ngủ nhờ nơi khác, trống cả cơ quan. Bởi cứ đêm đến Xuân Diệu hay “mò” sang giường họ, để làm... “trò vợ chồng”!

Nhà văn Tô Hoài từng bị Xuân Diệu “mò” sang ngủ cùng để làm “chuyện ấy” không chỉ một lần. Hãy nghe ông tả lại một cái đêm mưa gió "ghê gớm" ấy:

Bàn tay ở đâu rờ vào. Không phải. Tay người, bàn tay đầy đặn, ấm ấm. Hai bàn tay đầy đặn xoa lên mặt, lên cổ, rồi xuống dần xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ. Bóng tối bập bùng lên như ngọn lửa đen không có ánh, cái lạnh đêm mưa rừng ấm dần lên. Chẳng còn biết đương ở đâu, mình là ai, ta là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quýt, cánh tay, cặp đùi thừng chão trói lại, thít lại, dằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra dữ dội dằn ngửa cái xác thịt kia.

Rồi như chiêm bao, tôi ngã ra, thống khoái. Im lặng. Nghe mưa rơi xuống tàu lá chuối trong đêm và cái mệt dịu dàng trong mình. Giữa lúc ấy, hai bàn tay mền mại như lụa lại vuốt lên mặt. Làn môi và hơi thở nóng như than bò vào mắt, xuống vú, xuống rốn, xuống bẹn... Cơn sướng lại cồn lên cho đến lúc ngã cả ra, rúc vào nhau. Rồi bàn tay dịu dàng lại vuốt lên mặt. Lần này thì tôi lử lả, tôi nhuôi ra rên ư ử, như con điếm mê tơi không nhớ nổi người thứ mấy, thứ mấy nữa.

Trời rạng sáng. Xuân Diệu trở về màn mình lúc nào không biết. Tôi he hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch...

Cũng theo Tô Hoài, thì hồi ấy Xuân Diệu đã từng bị cơ quan kiểm điểm kéo liền hai tối, phải họp đến khuya. Họ kết tội Xuân Diệu là “tư tưởng tư sản, phải chừa đi”. Còn Xuân Diệu thì chỉ biết ngồi khóc nức nở: “Tình trai của tôi... tình trai...”. Sau đó, cũng vì chuyện này, Xuân Diệu đã bị Ban Chấp hành kỷ luật đưa ra khỏi thường vụ... “. Và Tô Hoài còn viết rằng: Ở đâu Xuân Diệu cũng "đào hoa những mối tình trai”.

Đọc những trang viết trên, đầu tiên tôi đã rất giận nhà văn Tô Hoài, vì cho rằng ông đã bêu xấu thần tượng của mình. Nhưng rồi nghĩ lại, Xuân Diệu là nhà thơ lớn, nhưng ông cũng là một con người. Mà đã là con người thì ai chẳng có khiếm khuyết. Chẳng nhẽ một người khả kính như Tô Hoài lại phịa chuyện và vu khống cho Xuân Diệu?

Một lần ngồi buồn, tôi đã làm cái việc lẩn thẩn là giở hai tập "Thơ thơ" và "Gửi hương cho gió" (được tuyển trong cuốn "Thơ Mới 1932-1945, tác gia và tác phẩm") ra đếm xem Xuân Diệu đã đề tặng thơ cho bao người?

Tôi ngạc nhiên khi phát hiện một điều: Trong 100 bài thơ, có cả thảy 21 bài được ông chua thêm lời tặng, nhưng tất cả đều dành cho... đàn ông. Tuyệt nhiên không thấy một cái tên phụ nữ nào trong đó(!?).

Về chuyện Xuân Diệu tặng thơ, có một bài thơ khá đặc biệt, chưa hề có trong bộ "Toàn tập Xuân Diệu" (6 tập, Nhà xuất bản Văn học, 2001) đó là bài "Em đi".

Xuân Diệu viết Em đi xong từ đêm ngày 11 tháng 7 năm 1965, lúc 23 giờ 30 phút. Bài thơ gồm 24 câu, được chia làm sáu khổ. Đọc những câu thơ sau đây, ai cũng tin rằng “em” trong bài thơ là một người phụ nữ xinh đẹp mà nhà thơ yêu tha thiết:

Em đi để tấm lòng son mãi

Như ánh đèn chong, như ngôi sao

Em đi, một tấm lòng lưu lại

Anh nhớ thương em, lệ muốn trào

Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga

Chưa chi ta đã phải chia xa

Nụ cười em nở, tay em vẫy,

Ôi mặt em thương như đóa hoa!

Em hỡi! Đường kia vướng những gì

Mà anh mang nặng bước em đi!

Em ơi, anh thấy như anh đứng

Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa

Nhưng bóng em đi đã khuất rồi.

Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!

Tình ta như mối dây muôn dặm

Buộc mãi đôi thân, dẫu cách vời

Em hẹn sau đây sẽ trở về

Sống cùng anh lại những say mê...

áo chăn em gửi cho anh giữ,

Xin gửi cùng em cả lời thề!

Một tấm lòng em sâu biết bao

Để anh thương mãi, biết làm sao!

Em đi xa cách, em ơi Cát

Em chớ buồn, nghe! Anh nhớ yêu...

Hoàng Cát và Xuân Diệu thời trẻ.

Nhưng “Cát” ở đây là Hoàng Cát. Ngắm những bức ảnh thời trai trẻ, trông anh thật đàn ông và đẹp trai đến... phát ghen!

Bài "Em đi" được Xuân Diệu viết tặng khi Hoàng Cát nhập ngũ, cùng một đơn vị bộ đội hành quân vào chiến trường miền Nam... Suốt 24 năm, nó nằm trong sổ tay của Hoàng Cát như một kỷ niệm riêng.

Cho tới trước Tết Kỷ Tỵ (1989) vợ Hoàng Cát ốm nặng, phải nằm bệnh viện, mà nhà anh nghèo quá, chẳng có tiền thuốc thang; một người bạn văn của Hoàng Cát ở báo Nhân dân đến thăm, thấy hoàn cảnh ái ngại mới gợi ý cho Hoàng Cát gửi một bài thơ mới, anh sẽ giúp đăng để có chút nhuận bút. Hoàng Cát nói đại ý: Lâu rồi mình chưa viết được bài nào tâm đắc, nhưng có một bài thơ của Xuân Diệu tặng riêng mình đã lâu, đọc cảm động lắm, có thể công bố được...

Hoàng Cát kể lại sau khi bài thơ được báo Nhân dân đăng trên số Tết, anh mừng lắm, vội đến lấy nhuận bút. Trong danh sách có ghi rõ số tiền của "Em đi" được trả là 8 đồng. (Khi tôi công bố bài viết này lên FB, bạn đọc Pham Minh Tri nói có thể Hoàng Cát nhớ sai, chắc chắn số tiền lớn hơn thể? - ĐVH). Nhưng... đã có người đến trước ký nhận số tiền ấy rồi. Hoàng Cát buồn lắm, anh tìm đến số nhà 24 Cột Cờ, than phiền với Hà Vũ (con trai của nhà thơ Huy Cận). Vũ bảo: “Thôi chú đừng buồn làm gì. Cháu xin bù lại và biếu chú thêm chút ít để chữa bệnh cho cô”. Và Vũ rút tiền ra, đưa cho Hoàng Cát tới 20 đồng!...

Nhưng khi tôi điện thoại cho Hà Vũ để hỏi lại những chi tiết nêu trên, thì anh ngớ ra, chẳng nhớ gì cả. Và Vũ cho biết: Hiện di cảo thơ của Xuân Diệu có trong tay anh còn khoảng 500 bài chưa được công bố.

Tôi hỏi nhà thơ Hoàng Cát:

- Ngoài "Em đi", còn có bài nào Xuân Diệu viết cho riêng anh nữa không?

- Có một bài thơ tình đã công bố lâu rồi, rất nổi tiếng. Đó là bài "Biển", sáng tác năm 1961. Nói ra có thể nhiều người không tin: Tôi chính là “đối tượng” và là “nguồn cảm hứng” cho Xuân Diệu viết bài thơ nổi tiếng ấy.

Để minh chứng cho điều mình nói, Hoàng Cát đã lục tìm trong tủ sách của mình và lôi ra một “vật báu”. Đó là một cuốn sổ tay đã ố vàng có những dòng bút tích “Tặng em Hoàng Cát của anh” và chữ ký của Xuân Diệu. Bài thơ "Biển" được chép kín hai trang...

Tôi không khỏi bàng hoàng, sửng sốt: Trời ơi! Chẳng lẽ là "Biển" - bài thơ tình hay vào loại bậc nhất của thi sĩ Xuân Diệu - mà cũng là... “tình trai” ư?

Và tôi chợt hiểu, khi Tô Hoài viết: Ai yêu thơ Xuân Diệu, hiểu được thơ tình não nùng của Xuân Diệu, tình trai và tình gái không không phân biệt trai gái, phải thấu nỗi niềm và duyên nợ của nhà thơ, suốt đời nhớ thương và chờ đợi. Không bao giờ sầu não thất vọng, không bao giờ già, mãi mãi ban đầu...

Thì ra, Nhà văn Tô Hoài cũng đã nói hết cả rồi!

Thời của Xuân Diệu, Luật pháp nước ta chưa thừa nhận quan hệ đồng tính như bây giờ! Và như thế, nếu quý vị và các bạn hiểu được nỗi đau, sự thiệt thòi của Xuân Diệu thì càng thấy đồng cảm với nhà thơ tình số một của Việt Nam và càng thấy ông vĩ đại như thế nào!

Hà Nội, 1985 – 2016

---------------

Đến năm 1993, khi nhà văn Tô Hoài công bố cuốn hồi ký "Cát bụi chân ai" (là bộ này nè >.< cái tui đang viết nè >_<!) thì bạn đọc mới tìm thấy câu hỏi về giới tính của nhà thơ Xuân Diệu. Dưới đây là một số trích đoạn trong cuốn hồi ký của nhà văn Tô Hoài viết về "tình trai", về nỗi khổ tâm, dằn vặt của Xuân Diệu:

"Tôi quen Xuân Diệu trước 1945. Tôi cũng là người Xuân Diệu rủ đi nghe và cổ vũ Xuân Diệu lần đầu tiên thuyết đề tài Thanh niên với quốc văn ở giảng đường trường đại học Hà Nội. Xuân Diệu nói “Hoài đi ủng hộ Diệu”. Anh Hiến sinh viên mặt tái xanh nhút nhát ra giới thiệu lúng túng. Không sao, Xuân Diệu áo tuýt so lụa mỡ gà, cà vạt lấm tấm vàng sẫm, làn tóc rậm đen loăn xoăn trên đài trán đã thu hút người nghe vào ngay câu chuyện. Đột nhiên Xuân Diệu nói nhịu chữ “tâm hồn”- như một bà già trong làng bán bánh đúc có tật nói nhịu nhảm. Nhưng Xuân Diệu vẫn tiếp tục sang sảng hùng biện, không ai kịp sửng sốt.

Xuân Diệu và Huy Cận lên Nghĩa Đô, ở chơi cả buổi và ăn cơm. Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối. Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết quá, hơi lạ với tôi, nhưng mà tôi cảm động. Tôi sướng mắt nhìn tập thơ, thơ khổ rộng nhà in Trung Bắc phố Hàng Buồm. Hai chữ Xuân Diệu nét chì sắc gợn, không phải chữ gỗ dẹp đét.

Thỉnh thoảng, Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn nắm tay cả buổi, nhìn tha thiết. Xuân Diệu yêu tôi. Nhớ những tình yêu con trai với nhau, ở trong làng và ở lớp, khi mới lớn. Học lớp nhất trường Yên Phụ, nói vỡ tiếng ồ ồ, mặt xùi trứng cá, chúng nó cứ bảo tôi là con gái. Nhiều thằng cặp đôi với tôi, đòi làm vợ chồng. Có hôm chúng nó tranh vợ đánh nhau lung tung. Có đứa xô vào ôm chặt, sờ soạng toạc cả đũng quần tôi. Nhiều hôm đi học không dám đến sân trường sớm. Phải lẩn vào trong ngõ Trúc Lạc, nghe trống mới chạy ù đến xếp hàng vào lớp.

..... Cả dạo mưa gió, Xuân Diệu ở lại u tỳ quốc không ra ngoài. Giọt gianh lách tách mái nứa gọi về những đêm ma quái, rùng rợn, say đắm. Bàn tay ma ở đâu sờ vào. Không phải. Tay người, bàn tay người đầy đặn, ấm ấm. Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ. Bóng tối bập bùng lên như ngọn lửa đen không có ánh, cái lạnh đêm mưa rừng ấm dần lên. Chẳng còn biết đường ở đâu, mình là ai, ta là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quýt, cánh tay, cặp đùi thừng chão trói lại, thít lại, dằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, dữ dội dằn ngửa cái xác thịt kia.

Rồi bàn tay dịu dàng lại vuốt lên mặt. Lần này thì tôi lử lả, tôi nhuôi ra rên ư ử, như con điếm mê tơi không nhớ nổi người thứ mấy, thứ mấy nữa. Trời rạng sáng. Xuân Diệu trở về màn mình lúc nào không biết. Tôi he hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa mưa. Nhưng đêm mai lại vào cuộc dữ dội. Trong đêm quái quỷ lại thấy hình như không phải mình mọi khi, cũng không biết rồi trời lại sáng. Cho đến khi thật thấy rạng sáng mới rờn rợn".

Khi bị phát hiện chuyện giới tính, bị kiểm điểm, Xuân Diệu chỉ biết khóc trong sự dằn vặt, đau đớn. Tô Hoài kể:

"Xuân Diệu chỉ ngồi khóc, chẳng biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trọng Hứa, Nguyễn Văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, thằng Đại và mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, nhưng cũng không ai nói ra. Tôi cũng câm như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyến rũ, mình cũng điên kia mà. Không nói cụ thể việc ấy, nhưng ai cũng to tiếng gay gắt “tư tưởng tư sản, phải chừa đi”. Xuân Diệu nức nở “tình trai của tôi…tình trai…” rồi nghẹn lời, nước mắt lại ứa ra.

Ít lâu sau, trong một cuộc họp ban chấp hành, Xuân Diệu bị đưa ra khỏi ban thường vụ. Và cũng thành một cái nếp kéo dài, từ đấy không ai nhắc nhở đến những việc chủ chốt trước kia Xuân Diệu đã phụ trách. Bỗng dưng, Xuân Diệu thành một người hiếm thì giờ chỉ chuyên đi viết. Mà Xuân Diệu cũng tự xa lánh mọi công tác."

Thời của Xuân Diệu, Luật pháp nước ta chưa thừa nhận quan hệ đồng tính như bây giờ. Chính vì thế, nỗi đau, sự thiệt thòi của Xuân Diệu càng nặng trĩu hơn. Nhà thơ Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916, ở làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Bên cạnh sáng tác thơ, Xuân Diệu còn viết cho các báo như Ngày Nay và Tiền Phong. Sau đấy ông tham gia sáng lập Đoàn báo chí Việt Nam, nay là Hội Nhà báo Việt Nam.

Trong đoạn hồi ký trên, Tô Hoài có nhắc đến chi tiết: Xuân Diệu nức nở nói về 'tình trai' của mình. Tình trai là tình giữa hai người con trai với nhau. Chữ 'tình trai' gợi cho chúng ta nhớ, trong tập Thơ thơ, tác phẩm đầu tay xuất bản năm 1938 của Xuân Diệu, có một bài thơ nhan đề là ‘Tình trai’ như sau:

Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine

Hai chàng thi sĩ choáng hơi men

Say thơ xa lạ, mê tình bạn

Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.

...

Kể chi chuyện trước với ngày sau

Quên ngó môi son với áo màu

Thây kệ thiên đường và địa ngục

Không hề mặc cả, họ yêu nhau.

Bài thơ viết về chuyện hai nhà thơ Rimbaud và Verlaine của Pháp nhưng qua đó ngụ ý của Xuân Diệu là nói đến chuyện của mình. Yêu bạn trai, ông quên cả chuyện “ngó môi son với áo màu”, tức là phụ nữ. Mối tình trai này tha thiết đến độ “Thây kệ thiên đường và địa ngục / Không hề mặc cả, họ yêu nhau.”

Cũng trước năm 45, Xuân Diệu có bài thơ nhan đề là ‘Tặng bạn bây giờ’:

Ta biết ngày mai em có vợ

Đi làm hai bữa, tối về thăm

Cơm xong, chén nước chờ bên cạnh;

Em bế thằng con được mấy năm.

Chỉ mấy năm thôi, đủ phận chồng

Chàng trai tơ mởn đã thành ông

Không còn mộng dễ ngày tươi trẻ

Mắt sáng phai rồi, má hóp không.

Em ngồi trông vợ thấy nàng tiên

Là một người thôi, mộng hão huyền

Ta bước bên đường kêu gọi mãi

Nhớ người bạn cũ thuở anh niên.

Em nghe tê tái dưới hàng mi

Tiếc thuở say nồng, nhớ bạn si

Khép mắt buồn xa, em sẽ bảo:

- Có chàng Xuân Diệu thuở xưa kia...

Từ trước đến nay, đọc bài thơ trên, ít ai chú ý đó là bài thơ tả mối tình của một người đồng tính luyến ái. Người được tác giả gọi bằng em một cách tha thiết lại là một người con trai. Nhà thơ yêu người con trai đó và ghen tức trước viễn tượng là một ngày kia người con trai sẽ lấy vợ “Ta biết ngày mai em có vợ.”

Sau này, có thời gian Xuân Diệu sống hẳn với một thanh niên tên là Hoàng Cát. Ông làm bài ‘Đời anh em đã đi qua’ tả lại quãng đời hạnh phúc này:

Đời anh em đã đi qua

Sáng thơm như một luồng hoa giữa đời

Hiểu làm sao hết, em ơi

Bốn năm kỳ diệu đất trời nhờ em

Ngôi nhà, cánh cổng, trái tim

Khóm cây, con mắt ngày đêm đón mừng.

Em đi, anh ngóng trông chừng

Anh về, miệng đã gọi lừng: em ơi !

Bữa ăn thành một hội vui

Có em gắp với, rau thôi cũng tình

Cảnh thường cũng hoá ra xinh

Có em, anh hết nghĩ mình bơ vơ ...

Khi Hoàng Cát đi bộ đội rồi phải rời Hà Nội vào chiến trường miền Nam, Xuân Diệu làm bài thơ đưa tiễn đầy nước mắt nhan đề là ‘Em đi’ với lời đề “Tặng Hoàng Cát” như sau:

Em đi, để tấm lòng son mãi

Như ánh đèn chong, như ngôi sao.

Em đi, một tấm lòng lưu lại

Anh nhớ thương em, lệ muốn trào.

Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga

Chưa chi ta đã phải chia xa !

Nụ cười em nở, tay em vẫy

Ôi mặt em thương như đoá hoa.

Em hỡi! Đường kia vướng những gì

Mà anh mang nặng bước em đi

Em ơi, anh thấy như anh đứng

Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa.

Nhưng bóng em đi khuất rồi,

Đứa lìa khúc ruột của anh thôi!

Tình ta như mối dây muôn dặm

Buộc mãi đôi chân, dẫu cách vời.

Em hẹn sau đây sẽ trở về

Sống cùng anh lại những say mê

Aùo chăn em gửi cho anh giữ

Xin gửi cùng em cả hẹn thề!

Một tấm lòng em sâu biết bao

Để anh thương mãi, biết làm sao!

Em đi xa cách, em ơi Cát

Em chớ buồn, nghe! Anh nhớ, yêu...

(Đêm 11/7/1965, 23 giờ 30)

Hoàng Cát đi rồi, Xuân Diệu buồn vô cùng. Trong bài ‘Đời anh em đã đi qua’, còn có một đoạn cuối nói đến nỗi buồn trống vắng người yêu của Xuân Diệu:

Từ đây anh lại trong đời

Bữa ăn ngồi với một đôi đũa cầm

Giường kia một bóng anh nằm

Phòng văn một sách đăm đăm sớm chiều.

Xin nhắc lại là Hoàng Cát, người được Xuân Diệu gọi là 'em', em Cát,người em có khuôn mặt như đoá hoa, là một người con trai. Và chúng ta thấy, dù người yêu là con trai thì tình cảm của Xuân Diệu vẫn dạt dào và nồng cháy. Nếu chúng ta đừng để ý đến chuyện đồng tính luyến ái của nhà thơ thì đây là một bài thơ tình rất mực đằm thắm. Nó góp một tiếng nói tương đối đẹp vào kho tàng thơ tình vô cùng giàu có của Xuân Diệu.

Một vấn đề khác cũng rất quan trọng là: ai cũng biết người bạn thân nhất của Xuân Diệu là Huy Cận. Chúng ta không thể không thắc mắc: nếu Xuân Diệu là người đồng tính luyến ái, vậy thì Huy Cận là người như thế nào?

Chúng ta nên biết là Huy Cận có hai đời vợ, mà người vợ trước không ai khác hơn là chính em gái ruột của Xuân Diệu. Tuy nhiên, cái chuyện Huy Cận có vợ, một hay hai đời vợ cũng vậy, không có ảnh hưởng gì đến cái kết luận có thể có: ông cũng là một người đồng tính luyến ái, hoặc ít nhất là lưỡng tính luyến ái (bisexual đấy và tui là một người thuộc giới tính này :(( nếu muốn biết thêm và sâu hơn về nó thì lên Google search đi ~_~).

Một điều nữa chúng ta cũng cần biết là suốt đời, lúc nào Xuân Diệu và Huy Cận cũng ở bên nhau, như hình với bóng. Từ giữa thập niên 30, họ đã chơi thân với nhau, khi cả hai còn là học sinh trung học. Lúc nào họ cũng cặp kè bên nhau. Trừ khoảng thời gian Xuân Diệu phải đi làm việc ở Mỹ Thọ, họ sống chung với nhau một nhà. Có thời gian, từ năm 1939 đến 1940, Xuân Diệu và Huy Cận sống tại số 40 phố Hàng Than, Hà Nội. Hai người sống trên gác, phía dưới là vợ chồng nhà thơ Lưu Trọng Lư. Rồi đến thời kháng chiến chống Pháp, họ cũng quanh quẩn với nhau ở chiến khu Việt Bắc. Sau năm 1954, họ sống với nhau trong căn nhà ở số 24 Cột Cờ, sau đó đổi thành đường Điện Biên Phủ ở Hà Nội. Huy Cận và vợ con ở trên gác, Xuân Diệu sống phía dưới. Trong một bài thơ, Huy Cận tả:

Đêm đêm trên gác chong đèn

Cận ngồi cặm cụi viết dòng thơ bay

Dưới nhà bút chẳng ngừng tay

Bên bàn Diệu cũng miệt mài trang thơ

Bạn từ lúc tuổi còn thơ

Hai ta hạt chín chung mùa nắng trong

Ánh đèn trên gác, dưới phòng

Cũng là đôi kén nằm trong kén trời

Sáng ra gõ cửa: “Diệu ơi,

Nghe dùm thơ viết đêm rồi xem sao”.

Diệu còn ngái ngủ: “Đọc mau!

Nghe rồi, xem lại từng câu mới tường”.

Dưới nhà trên gác thông thương

Dòng thơ không dứt giữa luồng tháng năm...

Trong bài thơ, Huy Cận dùng chữ ‘hai ta’, ‘Hai ta hạt chín chung mùa nắng trong’. Người Việt Nam không ai dùng chữ ‘hai ta’ hay ‘đôi ta’ để chỉ hai người bạn cùng phái. Cách xưng hô như vậy rất lạ. Trong bài ‘Nửa thế kỷ tình bạn’ in trong tập Xuân Diệu, con người và tác phẩmxuất bản tại Hà Nội năm 1987, Huy Cận kể tỉ mỉ hơn về mối quan hệ giữa ‘hai ta’ đó như sau:

Tựu trường năm 1936, chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên ở trường tú tài Khải Định, Huế. Anh Diệu học năm thứ ba, tôi vào học năm thứ nhất. Hai đứa đọc thơ cho nhau nghe, và ‘đồng thanh tương ứng’, kết bạn với nhau gần như tức khắc... Tựu trường 1937, anh Diệu ra Hà Nội học trường Luật và viết báo Ngày nay, tôi học năm thứ hai ban tú tài... Anh Diệu và tôi viết thư cho nhau hàng tuần... Năm 1938, tôi ra sống với Diệu ở chân đê Yên Phụ. Ở đó Diệu viết ‘Truyện cái giường’, một số bài thơ, còn tôi thì viết ‘Buồn đêm mưa’, ‘Trông lên’, ‘Đi giữa đường thơm’ và mấy bài khác... Tựu trường năm 1939,... hai chúng tôi cùng sống ở gác 40 phố Hàng Than, Hà Nội... Cuối năm 1940, Diệu đi làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho... Chúng tôi tạm sống xa nhau, buồn đứt ruột, hàng tuần viết thư cho nhau, có tuần hai, ba lá thư... Hè 1942, tôi đậu kỹ sư canh nông và cuối năm bắt đầu đi làm ở Sở nghiên cứu tầm tang. Diệu điện hỏi tôi: ‘Diệu từ chức được chưa?’, tôi điện trả lời: ‘Từ chức ngay! Về ngay Hà Nội!’. Chúng tôi sống trên gác Hàng Bông (số nhà 61), tiếp tục làm thơ.

Xuân Diệu và Huy Cận sống với nhau, gắn bó với nhau đến nỗi nhà xuất bản họ lập ra hồi đó cũng mang tên là Huy-Xuân, tức là ghép hai chữ đầu của tên hai người lại với nhau, như tên của một tình nhân hay một cặp vợ chồng trẻ. Rồi trong bài ‘Mai sau’, Huy Cận lại giới thiệu Xuân Diệu như người bạn thân thiết, hay đúng hơn, như một tình nhân thân thiết của mình:

Người ta bảo bà mẹ chàng hay khóc

Chia gia tài cho con quí: lệ đau

Chàng là con một bà mẹ hay sầu

Nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ

[...]

Chiều nay đây nửa thế kỷ hai mươi

Viết dăm câu tôi gửi lại vài người

Những thế hệ mai sau, làm bè bạn

Hỡi ai đó, có nhớ lòng Huy Cận

Gọi gió trăng mà thỏ thẻ lời trên

Rất thương yêu, xin nhớ gọi giùm tên

Rất an ủi của bạn chàng: Xuân Diệu.

Bài thơ trên đã công khai bày tỏ tình cảm của Huy Cận đối với Xuân Diệu. Ngoài ra, bài ‘Vạn lý tình’ rất nổi tiếng của Huy Cận cũng hé lộ một số chi tiết rất đáng chú ý:

Người ở bên này, ta ở đây

Chờ mong phương nọ, ngóng phương này

Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm

Vạn lý sầu lên núi tiếp mây

Nắng đã xế về bên xứ bạn

Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy

Trông vời bốn phía không nguôi nhớ

Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay

Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt

Xa nhau chỉ biết nhớ vơi ngày

Chiếu chăn không ấm người nằm một

Thương bạn chiều ôm, sầu gối tay.

Chi tiết đáng chú ý nhất chính là chữ ‘bạn’ được lặp lại hai lần trong bài thơ, trong câu ‘Nắng đã xế về bên xứ bạn’ và câu ‘Thương bạn chiều hôm, sầu gối tay’. ‘Bạn’ chứ không phải là người yêu. Chúng ta nhớ lại sự kiện khi Xuân Diệu phải đi làm việc ở Mỹ Tho, Huy Cận sống ở Hà Nội, và lời kể của Huy Cận: "Hai đứa phải sống xa nhau, buồn đứt ruột." Một chi tiết khác quan trọng không kém, đó là câu 'Chiếu chăn không ấm người nằm một'. Lúc này Huy Cận còn là học trò, chưa lập gia đình, chưa có vợ con. Người nằm chung chăn, chung chiếu với ông không phải là vợ ông, mà chính là người bạn trai của ông. Điều này sẽ rõ hơn, thuyết phục hơn, khi chúng ta đọc thêm bài ‘Ngủ chung’ cũng của Huy Cận, in trong tập Lửa Thiêng, xuất bản năm 1940:

Ôi rét đêm nay mấy học trò

Ngủ chung giường hẹp, trốn bơ vơ

Cô hồn vạn thuở buồn đơn chiếc

Có lẽ đêm nay cũng ngủ nhờ.

Lạnh lùng biết mấy tấm thân xương!

Ân ái xưa kia kiếp ngủ giường.

Đâu nữa tay choàng làm gối ấm,

Còn đâu đôi lứa chuyện canh sương

Trốn tránh bơ vơ, chạy ngủ lang,

Hồn ơi! có nhớ giấc trần gian

Nệm là hơi thở, da: chăn ấm,

Xương cọ vào xương bớt nỗi hàn?

Bài thơ tả cảnh ngủ chung của học trò cùng phái tính, giữa những người bạn trai với nhau. Ở Việt Nam, đó là chuyện bình thường. Nhưng chúng ta hãy để ý kỹ: cả ngôn ngữ lẫn cảm xúc trong bài thơ này lại thấp thoáng những dấu hiệu không bình thường, chẳng hạn như chuyện ‘ân ái’: 'Ân ái xưa kia kiếp ngủ giường'; rồi ‘đôi lứa’: 'Còn đâu đôi lứa chuyệän canh sương', Rồi chuyện ‘nệm là hơi thở’, ‘da là chăn ấm’, rồi chuyện ‘xương cọ vào xương’, v.v... Đọc kỹ bài thơ, chúng ta thấy ngay tính chất không bình thường của nó. Có lẽ, cùng với bài ‘Tình trai’ và bài ‘Em đi’ của Xuân Diệu, bài ‘Ngủ chung’ này của Huy Cận là những bài thơ tiêu biểu nhất cho chuyện đồng tính luyến ái trong thơ Việt Nam.
______________

Vậy là quá rõ rồi còn gì! Thắt mắc chi mô .-. ? Rõ ràng đọc đến đây cũng đủ biết :

– Xuân Diệu là đại sắc lang hoa tâm đa tình ôn nhu công :))

– XD × HC là thanh mai trúc mã :))

– XD × Cát : đại gia x tiểu bạch kiểm :))

– XD × TH : ôn nhu công x ngây thơ thụ :))

Thấy hay không hả? Quá hay ấy chứ ^^ Mọi người thích cặp nào : Huy Cận × Xuân Diệu     <--|
Tô Hoài × Xuân Diệu      <--|--> cặp nào?❤🙆
Hoàng Cát × Xuân Diệu <--|

Hãy comt ở phía dưới cho tui biết nha💋!! Chào tạm biệt *hôn gió* *cúi người 45°* *vẫy tay*

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro