hoc, dung tai lam gi :D

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trong truyền thống đạo đức của dân tộc ta ,cái thiện luôn được trân trọng,đề cao .Đó là "mặt trời chân lý" để mỗi hành động,việc làm của con người hướng tới.Ngược lại ,cái Ác luôn đươc lên án ,ghét bỏ kết tội.Trong cuộc chiến giữa cái Thiện và cái Ác,dân gian luôn để cái thiên chiến thắng vẻ vang.đó là ước mơ cũng là sự thật ở đời,Câu truyện cổ tích Tấm Cám sỡ dĩ được lưu truyền rộng rãi và có sức sống bền bỉ phần lớn vì đã phản ánh được sự chiến thắng của cái Thiện đối với caí Ác đúng như quan niệm của nhân dân:Một chiến thắng đi từ những phản ứng yếu ớt đến mạnh mẽ.từ bị động chịu áp lực đến chủ động phản kháng.

Như ta đã biết , truyện cổ tích ra đời và phát triển khi xã hội đã phân chia giai cấp .Truyện cổ tích phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp ấy.Yếu tố kì ảo được sử dụng để hỗ trợ cho cái Thiện , giúp cái Thiện chiến thắng.

Trong truyên cổ tích Tấm Cám ,hai tuyến nhân vật Thiện -Ác phân ra rất rõ rệt .Cái Ác tiêu biểu là dì ghẻ và Cám.đây là hai nhân vật luôn có những hành động áp bức,bóc lột đối với nhân vật khác đồng thời chúng có những âm mưu thâm độc ,những hành động độc ác mất hết tính người .Nhân vật Tấm lại đại diện cho cái Thiện ,cô đẹp người đẹp --- nhưng phải chịu số phận hẩm hiu bất hạnh :mẹ mất sớm ,bố nhu nhược ,bị dì ghẻ và cô em cùng cha khác mẹ hiếp đáp.

Khi xã hội đã phân giai cấp ,trong quan niệm của dân gian,cái Thiên đồng nghĩa với cái Đẹp ,chúng luôn bị chà đạp,ghen ghét .Hơn thế .Hơn thế cái Thiện ,cái Đẹp còn là những điều thuộc về nhân dân lao động -giai cấp bị áp bức trong xã hội .Ngược lại ,cái Ác cũng là cái Xấu ,ban đầu chúng rất mạnh ,có khả năng áp bức bóc lột cái Thiện ,cái Đẹp .Chúng thuộc về giai cấp trên,giai cấp bóc lột trong xã hội. Cái Thiện bị áp bức như thế nào?

Bao giờ bánh đúc có xương

Thì bà dì ghẻ mới thương kon chồng.

Nó thật đúng với trường hợp của mối quan hệ của bà dì ghẻ và Tấm.Phận con chồng ,Tấm phải quần quật làm việc nhà từ sớm đến tối ,không chút ngơi nghỉ,trong khi đó ,Cám con đẻ của dì ghẻ nhởn nhơ rong chơi ,biếng nhác.Tấm bị nhiếc móc chửi bới, Cám được cưng nhiều dung túng .Sự bất công ấy được cụ thể trong tình huống hai chị em Tấm Cám đi bắt tép.Cám ham chơi ,lười biếng nhưng nhờ xảo trá quỷ quyệt lại được phần thưởng.Chưa hết ,mẹ con Cám còn luôn âm mưu triệt mọi nguồn vui sống,mọi mối giao lưu của cám đối với cuộc đời, cho dù đó là con cá bống !Sau đó ,chúng ngăn cản Tấm đi dự dạ hội bằng mọi chở ngại cũng chỉ vì độc ác,ích kỉ.

Tấm, trước mọi hành hạ áp bức của mẹ con Cám .Cô chẳng biết làm gì ngoài việc ôm mặt khóc.Cô nhẫn nhúc nơi xó bếp chính nhà mình.Bị cướp mất cá .Khóc .Bị giết cá bống .Khóc.Không được đi dạ hội.Khóc .Kohng6 có quần áo đẹp .Khóc,....

Rõ ràng ,ban đầu cái Thiện luôn tỏ một vẻ nhẫn nhục đến nhu nhược .Tuy nhiên ,nhìn ở một góc độ nào đó,ta thấy được quan niệm "dĩ hòa vi quý"của dân gian.Không ai muốn ân oán chất chồng,chịu thiệ một phần để mong bình yên một thuở.Nhưng cậy muốn lặng mà gió chẳng dừng .vậy đến một ngưỡng nào đó,cái Thiện sẽ vùng lên chống trả.

Ấy chính là cái Ác tàn nhẫn muốn độc chiếm sự sống,âm mưu sát hại cái Thiện.Cái thiện muốn sinh tồn phải chống trả.Và rất phù hợp với bản chất hiền hòa của cái Thiện,sự phản kháng đi từ yếu đến mạnh,từ bị động đến chủ dộng để rồi giành chiến thắng vẻ vang.

Mụ dì ghẻ và đứa con đẻ ác ngiệt không chiếm được ngôi vị hoàng hậu thì âm mưu giết Tấm .Bốn lần chúng ra tay thì bốn lần đều thất bại:chặt cây cau, giết chim vành anh,chặt cây xoan đào,đốt khung cửi.Sau mỗi lần bị hại,Tấm không khóc nức nở nhịn nhục.Bị bức hại .nàng hòa ---- trở về. lần đầu nàng chỉ nhắc nhở:

Phơi áo chồng tao thì phơi bằng sào

Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao.

Đây chỉ là tiếng nói của một linh hồn còn vương vấn dân gian.Cụ thể là nhớ nghĩa cũ duyên xưa trở về thăm lại (chồng).Dù biết mình bị giết hại,Tấm không hề oán than,thù hận mẹ con Cám.

Đến làn bị giết hại thứ hai sự tình đã khác.Tấm không nhắc nhở Cám nữa mà lặng lẽ giành lại hạnh phúc của mình.nàng hóa thân thành cây xoan đào,ngày ngày che mát cho vua,ở bên chồng về tình nghĩa cũ Rõ ràng là ở đây có một sự thay đổi về thái độ .Tấm đã ý thức sâu sắc về sự mất mát của mình ,nàng chủ động tìm lại nó.

Tiến thêm một bước nữa ,cô còn chủ động tìm đến kẻ thù răn đe:

Kẽo cà kẽo kẹt

Lấy tranh chồng chị ,chị khoét mắt ra.

Tư thế của Tấm bây giờ đã khác trước.Lần trước nàng xác định quan hệ ngang bằng với Cám "tao -mày";giờ đây nàng coi mình là người trên xưng "chị ".Không chỉ hiểu về nỗi mất mát náng còn thấm thía căn nguyên của nỗi đau đời mình.Nàng biết mình bị "tranh chồng"và sự đe dọa của Tấm thật quyết liệt "khoét mắt ra".

Lần hóa thân cuối cùng của Tấm đã quyết tâm vùng dậy làm chủ cuộc đời.làm chủ hạnh phúc của mình .Quả thị thơm lừng như vẻ đẹp nơi cô Tấm nhát hương.nàng trở về ---- con người để chủ động tận hưởng hương thơm và mật ngọt cuộc sống -thứ mà nàng đáng được hưởng và thật sự đã và đang dược hưởng.Đây là một kết thúc có hậu,là khúc khải hoàn viên mãn của cái Thiện trong cuôc đời này.

Sự trờ về của cô tấm trong ngôi vị hoàng hậu,sự chiến thắng trọn vẹn của cái Thiện đã chứng minh cho quy luật"Ác giả ác báo","Ở hiền gặp lành .Song cái Thiên đã trãi qua bao áp bức,bất công ,muốn có kết quả tốt đẹp cuối cùng cái Thiện không thể mãi nhu nhược,nhún mình.Nó phải chủ động đứng dậy giành lại quyền sống quyền hạnh phúc.

Ra đời từ thuở xa xưa trong lịch sử dân tộc,cho đến ngày nay và sẽ mãi mãi mai sau,câu chuyện Tấm Cám được người Việt giữ gìn,truyền lại cho nhau như người xưa giữ lửa và truyền lửa qua mỗi nếp nhà .Ấy là ngọn lửa cho truyền thống dân tộc,truyền thống yêu cái thiện ghét cái Ác.Quan trọng hơn đó là truyền thống đấu tranh với cái Ác để chiến thắng vẻ vang.

Nhàn - Nguyễn Bĩnh Khiêm & triết lí nhân sinh

 by Khách vi on Mon Jun 29, 2009 10:31 pm

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân , vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.

Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.

Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị :

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dù ai vui thú nào

Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền. 

Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người kiếm chốn lao xao

Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai , những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa « Người đời tỉnh cả, một mình ta say » đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn - dại . Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản :

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư . Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm « độc thiện kỳ thân » của các nhà nho . đồng thời có nét gần gũi với triết lí « vô vi » của đạo Lão, « thoát tục » của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình . Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định :

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình :

Ở thế mới hay người bạc ác

Giàu thì tìm đến, khó thì lui

(Thói đời)

Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân. 

Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính./.

Phân tích bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bài làm

Nhà nho ngày xưa sống theo lẽ “xuất xử”: Gặp thời hưng thị thì ra cứu đời, giúp nước; khi thời thế loạn lạc gặp chúa tối vua mê thì rút lui về ở ẩn bên núi, bên sông.

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) đỗ Trạng nguyên; học vị cao nhất thời phong kiến, làm quan dưới triều nhà Mạc được 8 năm. Nhận thấy xã hội rối ren, nạn cát cứ và tranh chấp giữa các tập đoàn phong kiến Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn kéo dài, ông bèn cáo quan về ẩn cư trên 40 năm ở quê nhà, làm am Bạch Vân, sửa cầu Nghinh Phong, Trường Xuân, lập quán Trung Tân ở bến Tuyết Giang, dạy nhiều học trò, do đó được người đời gọi là Tuyết Giang phu tử. Tại đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết nhiều bài thơ Nôm nổi tiếng trong đó có bài “Nhàn”.

Trong hai câu đề, nhà thơ nêu lên cảnh lao động tự cung, tự cấp:

“Một mai, một cuốc, một cần câu,

  Thơ thẩn dù ai vui thú nào”.

Mai là công cụ để đào, cuốc để xới và cần câu để kiếm tôm cá. Nhịp thơ 2/2/3 gợi tả phong thái khoan thai của nhà Nho. Dù có lao động vất vả nhưng tác giả tỏ ra mãn nguyện với cuộc sống mà mình đã lựa chọn. “Thơ thẩn” là sống ung dung, không bận tâm đến sự đời đen bạc.

Hai câu tiếp theo so sánh hai cách sống:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,

  Người khôn người đến chốn lao xao”.

“Ta” đây là Nguyễn Bỉnh Khiêm và những người cùng chí hướng như ông. “Người” đây là đám vua chúa, quan lại đương thời. “Nơi vắng vẻ” là cuộc sống giữa thiên nhiên, xa cách xã hội ồn ào, lộn xộn, do đó không phải bon chen, cầu cạnh nên tâm hồn được thoải mái. “Chốn lao xao” là chốn triều đình, chốn cửa quyền có lâu đài, bổng lộc hậu hĩ nhưng phải cạnh tranh quyết liệt. Ngày xưa, Nguyễn Trãi đã nói về sự nguy hiểm của chốn này:

“Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn,

 Lòng người quanh nữa nước non quanh”.

Vậy là “khôn” mà thành “dại”; “dại” mà thành “khôn”. Thể bình đối tạo nên ấn tượng về sự tương phải sâu sắc giữa “ta”“người”. Đọc đến đây, ai cũng có cảm tưởng như cụ Trạng Trình đang mỉm một nụ cười châm biếm những người gọi là “khôn”. Nối tiếp Nguyễn Bỉnh Khiêm, về sau Lê Hữu Trác - tác giả Thượng Kinh ký sự - cũng không ra làm quan, sống ở quê nhà và tự gọi là Lãn Ông - tức ông già lười nhác, lười nhác về mặt công danh.

Hai câu luận nói về sinh hoạt của tác giả:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

 Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.

Như vậy là nhà thơ đã có một cuộc sống nền nếp, ổn định mùa nào thức ấy, mùa nào thú ấy. Măng trúc và giá xét cho cùng chỉ là những món ăn đạm bạc. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm lại tỏ ra mãn nguyện về cuộc sống như thế vì nó hợp với người quân tử: cầu đạo, bất cầu thực. Trong bài “Hàn Nho phong vị phú”, Nguyễn Công Trứ cũng nói:

“Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch,

 người quân tử ăn chẳng cầu no”.

Nhà Nho hướng về một cuộc sống tinh thần cao đẹp mà coi thường sự thiếu thốn về vật chất. Thanh đạm mà thanh cao.

Hai câu kết khái quát lên một tầm cao triết lí về cách sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống,

 Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

Nhà thơ lấy điển tích Thuần Vu Phần, một viên tướng đời Đường, vì chán công danh, xin từ chức, về nhà uống rượu làm khuây. Một lần say, ngủ bên gốc cây hòe, chiêm bao được làm phò mã, có cuộc đời rất phú quý. Tỉnh dậy thì ra đang nằm cạnh tổ kiến bên gốc cây hòe ! Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng giống như Thuần Vu Phần, coi phú quý chỉ là chuyện chiêm bao, chuyện hão huyền, vô nghĩa, không đeo đuổi nó và an tâm với cuộc sống bên bến Tuyết Giang.

Nhàn” là bài thơ có nghệ thuật điêu luyện. Từ ngữ giản dị, phần lớn là thuần Việt. Hình ảnh cô đọng, đối ngẫu chặt chẽ. Nó đánh dấu một bước tiến của thơ Nôm Đường luật ở nước ta trong thế kỉ XVI.

Bài thơ có nội dung sâu sắc. Xã hội phong kiến Việt Nam hồi thế kỷ XVI đang chìm trong khủng hoảng trầm trọng đã khiến nhà thơ chán ghét, tìm cách xa lánh nó, sống trong cảnh nhàn để giữ cho tâm hồn thanh cao. “Nhàn” mà trong sạch, cao quý, vì đó là một nét đẹp của tâm hồn kẻ sĩ thanh cao “Như nhật trung thiên” vằng vặc.

Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm: thiên về nhận xét, phân tích, khái quát - lối thơ của những nhà tư tưởng lớn.

ân tích truyện TẤM CÁM

Đã là người Việt Nam, trong thời thơ ấu của mình có mấy ai không từng được nghe kể chuyện Tấm Cám, và hình ảnh cô Tấm mồ côi ao ước chiếc yếm đào, ngồi khóc bên giếng vì mất bống, bị hắt hủi tội nghiệp đã làm lay động bao trái tim nhân hậu. Kiểu truyện Người mồ côi rất quen thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam và nước ngoài, trong đó Tấm Cám là kiểu truyện phổ biến. Ở Pháp có truyện Lọ Lem, Đức có Cô Tro Bếp, Trung Quốc có Nàng Diệp Hạn, Thái Lan có Con cá vàng, Mianma có Truyện con rùa, Cămpuchia có Nêang - Cantóc.... Nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có những truyện tương tự Tấm Cám: Tua Gia Tua Nhi (Tày), Ý Ưởi Ý Noọng (Thái), Gầu Nà - Gầu Rềnh (Mông), Đôi giày vàng (Chăm), Ú và Cao (Hơ rê), Gơ liu- Gơ lát (Xơ rê)... Khác với những truyện tương tự Tấm Cám ở phương Tây, thường kể về cô gái mồ côi bất hạnh, chăm chỉ hiền lành được vào hoàng cung, lấy chồng hoàng tử và kết thúc ở đó. Truyện Tấm Cám còn có phần thứ hai, phản ánh cuộc đấu tranh gian nan và quyết liệt để giành và giữ hạnh phúc của Tấm. Cả hai phần của truyện đều thể hiện mơ ước thiện thắng ác và mơ ước về hạnh phúc của nhân dân lao động Việt Nam xưa.

1. Thân phận và con đường đến với hạnh phúc của cô gái mồ côi

Truyện kể “mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới biết đi”, lời kể đã xác định thân phận mồ côi của Tấm. Trong bao nỗi đau buồn của một đứa trẻ, có lẽ đau khổ thiệt thòi nhất là thiếu mẹ. Tục ngữ có câu “Cha chết ăn cơm với cá, mẹ chết liếm lá đầu chợ” để khái quát nỗi đau khổ, thiệt thòi vô cùng của đứa con mồ côi mẹ. Mồ côi cha đã khổ, mồ côi mẹ còn thiệt thòi, đau khổ hơn nhiều. Mọi đau khổ của Tấm đều bắt nguồn từ quan hệ với mẹ con người dì ghẻ. Tấm cô đơn chỉ biết khóc mỗi khi bị hành hạ. Bị Cám lừa trút mất giỏ tép, mất hi vọng có cái yếm đào, Tấm khóc. Cái yếm đào chỉ là một món quà bé nhỏ, nhưng với cô Tấm nghèo khó, mồ côi, đang ở tuổi trăng tròn, lại chẳng bao giờ được nhận một món quà nào thì nó thật đáng quý. Vì vậy, dường như Tấm không chỉ khóc vì bị mất yếm đào mà còn vì chút hi vọng được nhận yêu thương cũng tan biến mất. Bị lừa đi chăn trâu đồng xa để ở nhà mẹ con Cám làm thịt chú bống bé nhỏ bầu bạn với Tấm, Tấm lại khóc. Chú bống nhỏ bé, được cô nhường nhịn, chăm chút yêu thương trong bát cơm hẩm san sẻ cho bống và câu gọi thiết tha “Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”. Với cô gái mồ côi không được nhận sự chăm sóc nào như Tấm thì chăm chút cho bống là một nhu cầu tình cảm, nhu cầu được chăm chút và sẻ chia. Vì vậy, việc giết bống đâu phải để thoả mãn sự tham ăn của mẹ con Cám mà là để hành hạ Tấm, phá đi chỗ dựa tình cảm của cô gái đơn côi. Cục máu bầm nổi trên mặt giếng như bằng chứng không lời về sự tàn bạo, độc ác của hành động giết bống. Lần thứ ba Tấm khóc là khi cô không được đi hội làng. Dì ghẻ trộn thóc với gạo bắt Tấm nhặt. Đến đây, sự hành hạ chẳng cần phải che đậy như những lần trước. Hội làng là ngày vui nhất trong năm. Mọi người từ già đến trẻ, từ giàu đến nghèo đều được đi hội và chia sẻ niềm vui chung, thế mà riêng Tấm bị bắt ở nhà, cô càng lẻ loi hơn. Tấm lại khóc và dường như tiếng khóc lại một lần nữa đẩy nỗi đau khổ của cô lên cao hơn.

Thân phận đầy đau khổ của cô Tấm trong truyện cổ là thân phận chung của những người nghèo, người mồ côi lương thiện trong xã hội xưa. Mâu thuẫn giữa Tấm với mẹ con dì ghẻ không chỉ là mâu thuẫn dì ghẻ – con chồng mà còn là biểu hiện cụ thể của xung đột thiện - ác trong cuộc đời. Tấm đại diện cho nhân vật thiện chăm chỉ, lương thiện, đôn hậu (bắt được đầy giỏ tép, đi chăn trâu đồng xa, nhịn cơm dành nuôi bống,...) Cái ác hiện hình trong mẹ con mụ dì ghẻ qua hành động: lừa gạt lấy mất giỏ tép để tước đoạt ước mơ bé nhỏ của Tấm là cái yếm đào; lén lút giết chết con bống là giết chết người bạn bé nhỏ của Tấm; trắng trợn trộn thóc với gạo nhằm dập tắt niềm vui được đi hội làng, được giao cảm với đời của cô,… Tiếng khóc tội nghiệp của Tấm mỗi lần bị chèn ép, áp bức có sức lay động mọi trái tim nhân hậu, gọi dậy niềm cảm thông, chia sẻ của mọi người.

Cái thiện càng bị o ép, áp bức, cái ác càng lộng hành, tác oai tác quái thì mâu thuẫn thiện - ác thể hiện càng sâu sắc, không thể dung hoà, tạo nên không khí căng thẳng buộc phải thay đổi.

Truyện cổ tích thần kì thường giải quyết mâu thuẫn ấy theo hướng: dù lâu hay mau, dù gian nan khó khăn đến thế nào, song thiện nhất định sẽ thắng ác và người lương thiện nhất định sẽ được nhận hạnh phúc. Con đường đến với hạnh phúc của nhân vật thiện chính là xu hướng giải quyết mâu thuẫn rất đặc trưng của cổ tích. Để giải quyết mâu thuẫn đó, truyện cổ tích thường sử dụng yếu tố kì ảo.

Truyện Tấm Cám, giải quyết mối xung đột thiện - ác cũng theo hướng thiện thắng ác và nhờ sự giúp sức của nhân vật Bụt. Bụt thường xuất hiện đúng lúc mỗi khi Tấm khóc, an ủi, nâng đỡ cô mỗi khi Tấm gặp khó khăn hay đau khổ. Tấm mất yếm đào - Bụt cho cá bống. Tấm mất bống - Bụt cho hi vọng đổi đời. Tấm không được đi hội - Bụt cho chim sẻ đến giúp Tấm, đưa Tấm đến hội, gặp nhà vua, được làm hoàng hậu và đạt đến đỉnh cao hạnh phúc. Bụt (tên gọi dân gian của Phật) vốn là nhân vật của Phật giáo, đã được dân gian hoá, trở thành ông lão hiền lành, tốt bụng, nhiều quyền năng, xuất hiện đúng lúc để nâng đỡ mơ ước, chữa lại số phận hẩm hiu cho người nghèo. Cùng với Bụt, con gà biết cảm thông với Tấm, chim sẻ biết giúp Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, cũng là yếu tố kì ảo, trợ giúp Tấm trên đường tới hạnh phúc. Hoàng hậu Tấm là hình ảnh cao nhất về hạnh phúc mà nhân dân có thể mơ ước cho cô gái mồ côi nghèo, cô đơn trong xã hội xưa.

Những đau khổ của người mồ côi là có thực và phổ biến, còn hạnh phúc mà họ được hưởng thường rất hiếm hoi, phần lớn chỉ là mơ ước. Để phản ánh mơ ước về hạnh phúc qua nhân vật mồ côi, truyện cổ tích đã “chữa lại” số phận không may mắn cho họ. Điều đó thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, hi vọng ở tương lai công bằng, dân chủ của nhân dân lao động.

Trong truyện Tấm Cám Việt Nam và những truyện tương tự của nước ngoài, các cô gái mồ côi đến với hạnh phúc nhờ đôi giày, vật báu trực tiếp đem lại may mắn. Nhờ chiếc giày cô gái đánh rơi mà nhà vua hay hoàng tử nhận ra người đẹp và kết hôn với cô. Hình ảnh đôi giày trong văn hoá một số nước có ý nghĩa giao duyên, là vật làm tin các chàng trai cô gái thường trao cho nhau trước hôn lễ. Các chú rể người Đức thường tặng cho vị hôn thê của mình một đôi giày trong lễ đính hôn. Khi cô gái ướm chân vào giày, chàng trai phải tự tay mình đóng nốt những chiếc đinh cuối cùng với hi vọng hôn nhân của họ sẽ bền chặt. Ở Trung Quốc, các cô gái dù chưa biết mặt người chồng tương lai của mình là ai vẫn cứ khâu một đôi giày vải hoặc tết một đôi giày rơm làm món quà tặng đầu tiên cho chồng. Ở Việt Nam, đôi giày không có ý nghĩa giao duyên, nhưng khi những người phụ nữ bình dân nghe tin loa truyền, ai đi vừa giày sẽ được làm hoàng hậu thì “đàn bà con gái trong đám hội chen nhau đến ướm chân vào giày”. Ướm chân hay chính là được một lần thử vận may của mình! Có ai không mơ ước hạnh phúc và có ai lại bỏ qua cơ hội kiếm tìm hạnh phúc cho mình. Ướm giày, họ hi vọng một may mắn tình cờ nào đó sẽ dẫn mình đến tương lai tốt đẹp. Nhưng truyện cổ tích không bao giờ có ngẫu nhiên cho những người bất kì. Chỉ có người đáng hưởng hạnh phúc nhất mới là người ướm chân vừa giày và nhận món quà may mắn của số phận. Ta hiểu rằng, đằng sau luỹ tre làng yên tĩnh luôn ấp ủ bao mơ ước lãng mạn và kì diệu của người nghèo, truyện cổ tích đã tạo hình cho những mơ ước đó và nuôi nó sống động trong những câu chuyện kể.

Tấm nhờ chăm chỉ, lương thiện mà được Bụt giúp đỡ, từ cô gái mồ côi nghèo trở thành hoàng hậu. Đó cũng là con đường đến với hạnh phúc của các nhân vật thiện như Tấm trong truyện cổ tích châu Âu và thế giới. Điều đó một mặt phản ánh ước mơ thiện thắng ác, mặt khác còn nêu triết lí “ở hiền gặp lành”, một triết lí phổ biến trong truyện cổ tích.

2. Cuộc đấu tranh giành và giữ hạnh phúc của cô gái mồ côi

Các truyện cổ tích châu Âu cùng kiểu với truyện Tấm Cám của Việt Nam thường kết thúc khi cô gái mồ côi kết hôn với hoàng tử và hưởng hạnh phúc. Truyện Tấm Cám không chỉ dừng ở kết thúc phổ biến đó mà còn tiếp thêm một chặng nữa của cuộc đời nhân vật. Tấm trở thành hoàng hậu nhưng vẫn bị cái ác tiêu diệt. Cô Tấm lương thiện, hiếu thảo trèo cau hái quả cúng cha đã bị mẹ con Cám chặt cây giết chết. Cô Tấm hiền lành, ngây thơ vừa ngã xuống, một cô gái mạnh mẽ và quyết liệt hơn sống dậy, hoá thân trở về với cuộc đời, công khai chống lại cái ác đòi hạnh phúc. Cuộc chiến đấu đó thật gian nan, quyết liệt nhưng cũng thật hấp dẫn đối với người nghe, người đọc truyện cổ tích. Bởi trong cuộc đời, những gì người mồ côi yếu thế, nhỏ nhoi không thể làm được thì cô Tấm đã thay họ thực hiện “ oán thì trả oán, ân thì trả ân” đến tận cùng.

Tấm thảo hiền bị dì ghẻ chặt cây sát hại mà không cam chịu chết. Cô hoá vàng anh, bay vào cung vua báo hiệu sự có mặt của mình trong lời nhắc nhở “Giặt áo chồng tao, thì giặt cho sạch, phơi áo chồng tao, thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”, vàng anh bị giết chết. Tấm hoá cây xoan đào (khung cửi), tuyên chiến với kẻ thù trực tiếp và dữ dội hơn “Lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”, khung cửi bị đốt cháy. Từ đống tro tàn chết chóc, Tấm hoá cây thị (quả thị) trở lại với đời. Trong sự hoá thân ấy có sự kiên nhẫn và lòng dũng cảm. Phải chăng trong nhân vật Tấm đã hội tụ sự dịu dàng và tính cách bất khuất của phụ nữ Việt Nam từ xa xưa.

Tấm đã hoá thân, cái thiện không chịu chết một cách oan ức trong im lặng đã vùng dậy, còn cái ác cũng tìm mọi cách tiêu diệt cái thiện. Những lần chết đi sống lại của Tấm phản ánh tính chất gay gắt, quyết liệt của cuộc chiến đấu giữa thiện với ác, đồng thời cũng thể hiện sức sống mãnh liệt, không thể bị tiêu diệt của cái thiện. Phải chăng cô Tấm có thể chết đi sống lại, có thể tự mình hoá thân để trở lại với đời? Chính những người dân nhân hậu và giàu tình thương đã không nỡ để một cô gái lương thiện như Tấm phải chết oan ức trong thầm lặng. Họ đã mượn yếu tố kì ảo, thổi sức sống mãnh liệt cho nhân vật, di dưỡng sức sống tiềm tàng trong đó, vực nhân vật dậy “đi trả thù và sống tự do”. Nhân dân đã gửi gắm vào nhân vật Tấm lòng nhân đạo, tình yêu thương con người sâu sắc của mình.

Chim vàng anh, cây xoan đào (khung cửi), cây thị (quả thị) là những nơi Tấm gửi gắm linh hồn, cũng là những vật bình dị thân thương trong cuộc sống dân dã. Đó cũng là những hình ảnh đẹp của làng quê, làm nên ấn tượng thẩm mĩ cho câu chuyện. Nếu như ở phần đầu truyện, mỗi lần Tấm khóc Bụt thường hiện lên ban tặng vật thần kì, thì ở phần sau, cuộc đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn nhưng Tấm không còn khóc, cũng không còn thấy sự xuất hiện của Bụt, chỉ thấy Tấm hành động liên tiếp để chống lại kẻ thù. Cũng chính nhân dân lao động, những người có thân phận như Tấm, những người thấu hiểu và cảm thương cô Tấm thiệt thòi, đã gửi vào nhân vật ấy ý thức mãnh liệt giành và giữ hạnh phúc của mình. Đằng sau câu chuyện đã gửi gắm một chân lí: Hạnh phúc chỉ bền chặt khi ta biết dũng cảm giành và giữ lấy. Vì vậy, nếu lúc đầu mỗi lần Tấm uất ức chỉ biết ngồi khóc, còn Bụt làm thay tất cả, thì đến đây chim vàng anh, khung cửi, quả thị (yếu tố kì ảo) không thay Tấm trong cuộc chiến đấu mà chỉ là nơi Tấm hoá thân, tạm ẩn mình để trở về đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn.

Sau bao lần hoá thân chống lại kẻ thù, Tấm trở về với cuộc đời, với làng quê bình dị, vẫn là cô gái đảm đang khéo léo trong miếng trầu têm cánh phượng. Nhờ miếng trầu mà nhà vua nhận ra người vợ đảm của mình và đưa Tấm về cung. Miếng trầu là hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống văn hoá Việt Nam, gắn với phong tục hôn nhân người Việt “Miếng trầu nên dâu nhà người”, “Miếng trầu ăn ngọt như đường, đã ăn lấy của phải thương lấy người”…Miếng trầu mang ý nghĩa giao duyên như vậy đã có mặt trong sự hội ngộ của nhà vua và Tấm.

Nhưng sau nhiều lần chết đi sống lại trong lốt chim, cây, quả... dường như Tấm hiểu rằng không thể có hạnh phúc trọn vẹn chừng nào cái ác còn tồn tại, chừng nào mẹ con Cám còn hiện diện. Cô lừa Cám để nó sai người đào hố, giội nước sôi, tự tìm đến cái chết. Kết thúc đó nêu triết lí dân gian “ác giả ác báo”, phù hợp với mong ước của nhân dân về sự trừng phạt tận gốc kẻ thù. Cuối cùng, hạnh phúc đã trở về với Tấm như món quà tặng quý giá cho lòng chung thuỷ và sự dũng cảm của cô.

Sự hoá thân nhiều lần rồi trở về với cuộc đời của Tấm là biểu hiện sinh động của quan niệm về công bằng xã hội và hạnh phúc. Người lương thiện phải được nhận hạnh phúc, còn kẻ ác nhất định bị trừng phạt, đó là quy luật của lòng nhân đạo, tình yêu thương con người. Người lao động không chờ đợi hạnh phúc đẹp và mơ hồ ở cõi nào khác, mà tìm và giữ hạnh phúc thực sự ngay trên mảnh đất mình từng gắn bó, ở nơi trần thế. Những lần hoá thân ấy của Tấm đã hàm chứa nhiều triết lí dân gian sâu sắc về hạnh phúc và đấu tranh, đúng như có nhà thơ đã viết:

Không rơi xuống bùn, ôi trái thị quê ta,

Để bùn lấm và thành bùn vạn kiếp

Rơi vào tay người đó là định luật,

Của đấu tranh và nhân nghĩa Việt Nam.

Khi bàn về sự hoá thân của Tấm, có người cho đó là ảnh hưởng từ thuyết luân hồi nhà Phật (luân: vòng tròn, bánh xe; hồi: quay trở lại. Luân hồi là sự xoay vần liên tục. Một sinh vật sau khi chết sẽ chuyển sang hình hài một sinh vật khác: người, vật, cây cỏ... để trả nợ cho những gì kiếp trước mình đã phạm). Nhưng nếu có mượn thuyết luân hồi thì truyện Tấm Cám chỉ mượn hình thức để thể hiện mơ ước, tinh thần lạc quan của người lao động mà thôi. Bởi luân hồi nhà Phật là để chịu đau khổ do tội lỗi từ kiếp trước của mình, rồi sau đó tìm hạnh phúc ở cõi Niết bàn cực lạc xa xôi. Còn cô Tấm chết đi sống lại nhiều lần không phải để chịu khổ đau, cũng không định tìm hạnh phúc đẹp nhưng mơ hồ ở cõi Niết bàn mà để quyết giành và giữ hạnh phúc có thực của mình ngay ở thế giới này. Đó là lòng lạc quan, yêu đời và tinh thần thực tế của người lao động khi sáng tạo truyện cổ tích.

Cuộc chiến đấu giữa Tấm với mẹ con dì ghẻ gian nan, quyết liệt nhưng cuối cùng Tấm đã chiến thắng. Đó là chiến thắng tất yếu của cái thiện, của lòng nhân đạo và lạc quan theo quan niệm của nhân dân. Kết thúc có hậu trong truyện cổ tích là biểu hiện tập trung những ước mơ của tác giả dân gian. Hầu hết truyện cổ tích đều kết thúc có hậu: người nghèo sẽ giàu có, người mất vợ sẽ tìm lại được và sống hạnh phúc, người xấu xí, dị dạng trở nên xinh đẹp, người bị áp bức nhiều nhất sẽ bước lên địa vị tối cao, được làm vua hay hoàng hậu... Kết thúc đó mang đến ánh sáng và vẻ đẹp lãng mạn cho truyện cổ tích, làm cho nó có sứêc hấp dẫn đặc biệt đối với mọi thế hệ, thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời và niềm khát khao vươn tới cái đẹp, cái thiện của nhân dân lao động Việt Nam xưa. Cô Tấm nghèo khổ, bị hành hạ, chết đi sống lại, cuối cùng đã tiêu diệt cái ác, gặp lại chồng, trở về làm hoàng hậu bên những người dân hiền lành tốt bụng. Kết thúc đó còn mang mơ ước đổi đời của những người lao động nghèo, là bức tranh về một xã hội lí tưởng có “vua hiền, tôi giỏi”. Trong xã hội mơ ước đó, người lao động hiền lành, lương thiện đã được hưởng hạnh phúc.

Cũng như nhiều truyện dân gian khác, truyện Tấm Cám có nhiều dị bản. Những bản kể ra đời ở thời trung đại đều kết thúc khi Tấm giết Cám, làm mắm gửi về cho dì ghẻ. Mụ ăn cứ tấm tắc khen ngon, đến khi ăn hết mới nhận ra đầu lâu con mình ở đáy hũ liền lăn đùng ra chết. Không ít người từng hài lòng trước sự trừng phạt ấy, bởi Tấm đã thay mặt cái thiện để tiêu diệt cái ác, thực hiện công lí mang tính nhân dân; thể hiện quan niệm và mơ ước về sự chiến thắng tuyệt đối, tự mình tiêu diệt tận gốc kẻ thù. Mẹ con Cám đã không từ thủ đoạn độc ác nào để hành hạ Tấm, từ lừa gạt đến trắng trợn bóc lột, từ lén lút giết Tấm đến công khai đốt cô thành tro bụi…Tội ác man rợ đó đáng bị trừng trị, hơn thế theo quan niệm “làm ác trả ác”, “hại nhân nhân hại” thì sự trừng phạt ấy là đích đáng. Nhưng hiện nay, tính chất thời đại đã thay đổi, hình thức trừng phạt ấy khiến cho nhiều người cảm thấy rùng rợn và ấn tượng đẹp về một cô Tấm thảo hiền, đôn hậu bị giảm đi. Vì vậy truyện cổ tích Tấm Cám lại tiếp tục số phận lịch sử của nó trên chặng đường truyền miệng, lời kể đã được thay đổi cho phù hợp với nhu cầu và quan niệm thẩm mĩ ở thời hiện đại mà nó đang lưu truyền.

Phân tích "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng".

Bài làm

Lý Bạch có khá nhiều bài thơ tuyệt tác viết về tình bạn. Trong số đó, bài thơ thất ngôn tứ tuyệt "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" là một bông hoa nghệ thuật tuyệt vời nói về tình lưu luyến và thương nhớ bạn.

 Cảnh tiễn đưa:

Nơi Lý Bạch đưa tiễn bạn lên đường đi xa về phía Tây là lầu Hoàng Hạc, một thắng cảnh thuộc Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc. Lầu Hoàng Hạc, gắn liền với huyền thoại Phí Văn Vi thành tiên, thường cưỡi hạc vàng bay về đây dạo chơi ! Bạn là Mạnh Hạo Nhiên (689 - 740) một nhà thơ nổi tiếng, bạn vong niên của Lý Bạch; một kẻ sĩ hào hiệp, hào hoa, phóng khoáng, ưa ngao du; rất tâm đầu ý hợp với Lý Bạch. Hai chữ “cố nhân” (bạn cũ, người xưa) trong câu đầu nói lên mối quan hệ sâu sắc, lâu bền về tình bạn đẹp đẽ giữa hai nhà thơ. Đó là bạn tao nhân mặc khách:

“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu”

(Bạn từ lầu Hạc lên đường)

Câu thơ dịch rất hay và thanh thoát, nhưng chữ “tây” chưa dịch được, để nói lên hướng đi của bạn. Chữ “bạn” chưa lột tả hết ý và cảm xúc của từ “cố nhân”. Trong thơ cổ, mỗi lần từ “cố nhân” xuất hiện, gợi tả bao tình nghĩa làm rung động hồn người:

- “Dạng chu tầm thủy tiện

     Nhân phỏng cố nhân cư”

(Mạnh Hạo Nhiên)

(Thuận dòng đủng đỉnh thuyền bơi,

Cố nhân gần đó, qua chơi thăm nhà)

- “Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân”

(Câu 2330 - Truyện Kiều)

Câu 2 phát triển và hoàn chỉnh câu thơ thứ nhất, nói rõ thời gian bạn lên đường và nơi bạn sẽ đến. Mạnh Hạo Nhiên lên đường vào một ngày tháng ba (tam nguyệt) mùa hoa khói (yên hoa), xuôi về nơi phồn hoa đô hội, đó là Dương Châu - một trong những đô thị đẹp nổi tiếng thời Đường:

“Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”

(Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng)

Chữ “há” có bản phiên âm là “hạ” được Ngô Tất Tố dịch thành “xuôi dòng”, thật là sáng tạo. “Yên hoa” là một thi liệu, một ẩn dụ giàu chất thơ mà ta gặp nhiều trong Đường thi. Câu thơ không chỉ xác định thời gian và không gian đi, đến mà còn diễn tả nỗi niềm của kẻ ở người đi. Lầu Hoàng Hạc và Dương Châu, cách xa hàng nghìn dặm như hiện lên qua vần thơ. Đằng sau 2 địa danh mà nhà thơ nói đến là một nỗi niềm, một không gian trống vắng vô bờ, một trời thương nhớ biệt ly của đôi bạn tri âm. Có một bản dịch khác đọc lên nghe rất thú vị:

“Bạn từ lầu Hạc ra đi

  Dương Châu hoa khói giữa kỳ tháng ba”

(Phan Ngọc)

Có thể nói trong hai câu thơ “khai”, “thừa” này, yếu tố tự sự chỉ là bề nổi của câu chữ; nỗi niềm của một tâm sự thầm kín mới là tầng sâu hàm ẩn. Nơi “thi hội tao nhân” cũng là nơi ly biệt, đó là Hoàng Hạc lâu. Lý Bạch đứng trên lầu cao hay trên một cao điểm nào đó trên bến sông, dõi theo chiếc thuyền đưa Mạnh Hạo Nhiên đến chân trời xa ? Cấu trúc không gian 2 điểm mút “cận - viễn” là một thủ pháp trong hội họa, ta thường bắt gặp trong Đường thi, trong các bức cổ hoạ Trung Hoa. Lý Bạch đã vận dụng thành công thủ pháp ấy tạo nên điểm nối giữa câu 1, 2 với câu 3, 4 thành một chỉnh thể nghệ thuật hoàn mĩ.

Tình lưu luyến, mến thương:

Hai câu cuối là linh hồn của bài thơ, giãi bầy những tình cảm sâu sắc, đẹp đẽ, cảm động của Lý Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên. ẩn hiện sau 3 hình ảnh được miêu tả trực tiếp: dòng sông, cánh buồm, bầu trời - là hình ảnh Lý Bạch đứng mãi nhìn hoài con thuyền đưa bạn đi xa...

Cánh buồm đơn côi, lẻ loi (cô phàm) xa dần (viễn ảnh) rồi mất hút vào trời xanh, vào cuối chân trời xa (bích không tận). Hay tấm lòng “Thi tiên” với bao ái ngại, lưu luyến, nhớ thương... như những con sóng nối đuôi nhau, đưa tiễn con thuyền của bạn mất hút dần, mờ dần trên dòng sông Trường Giang ?

“Con sông sẽ trở nên rộng bao la khi cái hữu hạn của nó đồng nhất với cái vô hạn của bầu trời. Chiếc thuyền buồm lẻ loi chở Mạnh Hạo Nhiên đã tan biến trong dòng sông bao la đó, mang theo tình bạn của Lý Bạch. Dòng sông càng rộng, chiếc thuyền buồm càng nhỏ, mất hút vào khoảng không gian vô tận. Rõ ràng sau khi tiễn bạn lên đường, Lý Bạch dừng lại khá lâu dõi mắt nhìn theo chiếc thuyền buồm lẻ loi đến tận chân trời xa tít. Lý Bạch mượn cái khung cảnh thiên nhiên sau buổi tiễn đưa để nói lên tình cảm nhớ bạn da diết.

Thi tiên tả về cái buồn của sự ly biệt nhưng vẫn giữ được phong cách phóng khoáng khi ông miêu tả cái hùng vĩ của thiên nhiên”

(Trần Xuân Đề).

 “Cô phàm viễn ảnh bích không tận,

  Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”

(Bóng buồm đã khuất bầu không,

Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời)

Cái tiêu điểm đầy ám ảnh của bài thơ là “cô phàm viễn ảnh”. Cái tâm cảnh của Lý Bạch được diễn tả bằng hai chữ “duy kiến” - chỉ nhìn thấy. Ta đã biết Lý Bạch sống trong thời Thịnh Đường. Lúc bấy giờ, kinh tế phát triển mạnh, thương nghiệp mở mang, nhiều đô thị sầm uất mọc lên: Tràng An, Dương Châu, Thành Đô, v.v... Trên con sông Trường Giang suốt đêm ngày thuyền bè ngược xuôi như mắc cửi. Thế mà trong muôn ngàn cánh buồm ở trên sông, Lý Bạch “duy kiến” chiếc “cô phàm” của bạn, nhìn mãi cho đến lúc nó mất hút trong “bầu trời xanh biếc”. Chỉ sống với một tình bạn tri âm, thắm thiết thì mới có cái nhìn “duy kiến” ấy.

Mặc dầu chưa dịch được hai chữ “cô” (cô phàm) “bích” (bích không tận) nhưng Ngô Tất Tố đã lột tả được “điệu Đường”, “hồn Đường” của nguyên tác, đọc lên mỗi chúng ta rất thấm thía về nỗi buồn thương, lưu luyến bạn của nhà thơ Lý Bạch.

Trong cuộc đời mỗi người, ai ko một lần phải đối diện với biệt li? Có cuộc chia li đem đến cho người ta sự thanh thản: “Chồng gì anh, vợ gì tôi/ Anh đi lấy vợ cho tôi lấy chồng”(ca dao)...Nhưng phần nhiều là những cuộc chia li đầy lưu luyến, bịn rịn của tình người gắn bó sâu nặng. Thi tiên Lí Bạch cũng đã phải trải qua bao cuộc chia li như thế. Chia li, tiễn biệt trở thành một đề tài quen thuộc trong thơ ông. Trong số đó, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng được người đời ngợi ca, xếp vào hàng tuyệt bút...

Hoạt động của gv và hs

Yêu cầu cần đạt

Hs đọc tiểu dẫn.

- Nêu những nét đáng chú ý về con người và sự nghiệp thơ ca của Lí Bạch?

- Bài thơ này được sáng tác trong hoàn cảnh nào?

- Mạnh Hạo Nhiên là người ntn?

Hs đọc bài thơ.

Gv nhận xét, hướng dẫn giọng đọc: chậm rãi, buồn, bâng khuâng.

- So sánh phần nguyên tác với dịch thơ qua các từ: cố nhân, yên hoa.

- Đọc hai câu đầu, em nhận thấy thời gian, nơi tiễn, nơi đến của Mạnh Hạo Nhiên ntn?

- Ở hai câu đầu, tác giả có đơn thuần chỉ tường thuật sự việc, miêu tả bối cảnh chia li ko? Vì sao?

- So sánh nguyên tác và dịch thơ ở câu 3? Trong phần nguyên tác, hình ảnh “cô phàm” và “bích ko tận” có quan hệ với nhau ntn? ý nghĩa của mối quan hệ đó?

- Sông Trường Giang là huyết mạch giao thông chính của miền Nam Trung Quốc, hẳn có nhiều thuyền bè xuôi ngược. Nhưng trong con mắt thi nhân, giữa ko gian bao la xanh thẳm ấy chỉ duy nhất hình ảnh “cô phàm” của “cố nhân” và sự dịch chuyển của nó là có ý nghĩa. Điều đó cho thấy tình cảm của tác giả với bạn ntn?

- Ko gian được gợi ra ở câu cuối ntn?

- Nó thường gợi cho chúng ta cảm giác gì?

- Nó cho thấy tâm trạng gì của tác giả?

- Nhận xét khái quát về nội dung và nghệ thuật của bài thơ?

I. Tìm hiểu chung:

1. Vài nét về tác giả Lí Bạch:

a. Con người:

- Lí Bạch (701- 762).

- Là con người thông minh, tài hoa, phóng túng, ko chịu gò mình theo khuôn phép.

- Bi kịch cuộc đời của tác giả: mong công thành thì thân thoái nhưng công chưa thành thì thân đã thoái.

- Được mệnh danh là “tiên thơ” do tính cách khoáng đạt, bay bổng, lãng mạn và hay viết về cõi tiên.

b. Sự nghiệp:

- Hiện còn trên 1000 bài thơ.

- Nội dung: phong phú, với các chủ đề chính:

+ Ước mơ vươn tới lí tưởng cao cả.

+ Khát vọng giải phóng cá nhân.

+ Bất bình trước hiện thực tầm thường.

+ Thể hiện tình cảm phong phú, mãnh liệt.

- Nghệ thuật: +Phong cách thơ phóng túng, bay bổng mà tự nhiên, tinh tế, giản dị +Kết hợp giữa cái cao cả và cái đẹp.

2. Bài thơ:

- Hoàn cảnh sáng tác: Khi Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi QL.

- Mạnh Hạo Nhiên (689-740):

+ Là người mưu cầu công danh ko được toại nguyện nên quay về vui thú ở chốn non nước.

+ Ông thuộc phái thơ điền viên sơn thuỷ, có phong cách thơ với nhiều điểm giống Lí Bạch.

+ Là bạn tri âm của Lí Bạch.

II. Đọc- hiểu văn bản:

1. Đọc.

2. Tìm hiểu văn bản:

a. Hai câu đầu:

- So sánh nguyên tác- dịch thơ:

+ Cố nhân: bạn tri âm, tri kỉ, người bạn đã gắn bó thân thiết; từ “bạn” chung chung, chưa dịch hết nghĩa.

+ Yên hoa: hoa khói; nơi phồn hoa đô hội.

 Bản dịch làm mất nghĩa thứ hai.

- Không gian đưa tiễn:

+ Nơi đi: phía tây lầu Hoàng Hạc.

  Phía tây:- Theo quan niệm của người phương Đông là nơi có cõi Phật, cõi tiên- nơi thoát tục.

             - Là nơi có vùng đất hoang sơ, bí hiểm, với nhiều núi cao, xưa chỉ dành riêng cho những ẩn sĩ tu hành- nơi ẩn chứa những tâm hồn thanh cao, trong sạch.

Lầu Hoàng Hạc: di chỉ thần tiên, thắng cảnh thuộc huyện Vũ Xương- Hồ Bắc (Trung Quốc), tương truyền là nơi Phí Văn Vi tu luyện thành tiên rồi cưỡi hạc vàng bay đi.

+ Nơi đến: Dương Châu- nơi phồn hoa đô hội " cuộc đời trần tục.

" Không gian chia li:

+ Rộng lớn (lầu Hoàng Hạc- sông Trường Giang- Dương Châu).

+ Là một khung cảnh đẹp, đầy lãng mạn: từ một di chỉ thần tiên, một chiếc cánh buồm rẽ sóng, lướt trên những làn hoa khói mùa xuân.

+ Gợi nhiều suy nghĩ sâu kín: tác giả tiễn bạn từ một di chỉ thần tiên, từ hướng tây phiêu diêu, thoát tục đến một nơi phồn hoa đô hội của cuộc đời trần tục ở hướng đông" Tâm sự ẩn kín thường trực của tác giả: khao khát được nhập thế, giúp đời nhưng ông vốn ưa sống tự do, phóng khoáng, ko chịu quỳ gối trước cường cường quyền nên thực tế đã phải nếm chịu ko ít chua cay.

- Thời gian đưa tiễn: tháng ba- mùa hoa khói  " cuối mùa xuân.    

] Hai câu đầu nêu lên:

+ Bối cảnh chia li.

+ Phần nào tình cảm quý mến bạn trong lòng người ở lại.

+ Gửi gắm tâm sự sâu kín của tác giả với cuộc đời và con đường công danh.

2. Hai câu sau:

* Câu 3:

- So sánh nguyên tác và dịch thơ:

+ Cô phàm (nguyên tác): cánh buồm lẻ loi, cô đơn.

+ Bóng buồm (dịch thơ)" làm mất sắc thái của cánh buồm.

+ Bích ko tận: màu xanh biếc bao la rợn ngợp.

" Bản dịch thơ làm mất sắc màu đó của ko gian chia li.

+ Câu thơ dịch nêu nên sự chuyển dịch đã hoàn tất: Bóng buồm đã khuất bầu ko.

+ Nguyên tác: Bóng cánh buồm lẻ loi xa dần, mất hút vào khoảng ko xanh biếc.

" Gợi được sự dịch chuyển chầm chậm, xa mờ dần, hút tầm mắt của cánh buồm.

- Hình ảnh đối lập:

  Cô phàm              îí     bích ko tận

nhỏ bé, cô đơn              mênh mông, rợn ngợp.

" Tô đậm sắc thái cô đơn, bé nhỏ của con thuyền.

" Bút pháp tả cảnh ngụ tình" sự cô đơn,nhỏ bé của con người trước thiên nhiên bao la.

- Sự dịch chuyển chầm chậm, xa dần, mờ dần rồi mất hút vào khoảng ko xanh biếc của cánh buồm

" cái nhìn dõi theo đau đáu" tình cảm chân thành, tha thiết của tác giả đối với bạn.

* Câu 4:

- Hình ảnh dòng Trường Giang chảy vào cõi trời:

" Là hình ảnh tưởng tượng phi phàm, bay bổng, lãng mạn.

" Gợi ko gian vũ trụ rộng lớn, kì vĩ " đem đến cảm giác choáng ngợp, con người càng thêm nhỏ bé, cô đơn.

  Trước mắt nhà thơ, dòng Trường Giang như cao dần lên, hòa nhập vào với trời xanh. Ánh mắt nhà thơ đành bất lực trước ko gian vô tận đã che khuất người bạn tri âm...

- Tâm trạng của tác giả: nỗi cô đơn càng thêm vời vợi, nỗi nhớ càng thêm thăm thẳm.

III. Tổng kết bài học:

1. Nội dung:

- Cảnh chia li- bức tranh thiên nhiên thấm đượm tâm trạng cô đơn, mong nhớ của con người.

- Tình bạn chân thành, sâu sắc của tác giả.

- Tâm sự sâu kín, khát khao, hoài vọng về cuộc đời mang tính bi kịch của tác giả.

2. Nghệ thuật:

- Tả cảnh ngụ tình.

- Ngôn ngữ hàm súc, “ý tại ngôn ngoại”.

- Hình ảnh thơ tinh tế gợi cảm, lớn lao kì vĩ, đậm màu sắc lãng mạn" Bài thơ là một tuyệt bút của Lí Bạch.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro