Sợi dây chuyền kim cương

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

C'était une de ces jolies et charmantes filles, nées, comme par une erreur du destin, dans une famille d'employés. Elle n'avait pas de dot, pas d'espérances, aucun moyen d'être connue, comprise, aimée, épousée par un homme riche et distingué; et elle se laissa marier avec un petit commis du ministère de l'Instruction publique.

- Cô là một thiếu nữ xinh đẹp, dáng dấp đài các, cao sang, nhưng trớ trêu thay định mệnh lại chọn cho cô vào một gia đình công chức tầm thường. Không của hồi môn, thì làm sao có duyên cơ gặp gỡ đàn ông giàu có, danh giá, để được tìm hiểu, yêu đương rồi đi tới hôn nhân? Thế nên cô chấp nhận về làm vợ của một anh lục sự "thường thường bậc trung" tại bộ thông tin.

Elle fut simple, ne pouvant être parée, mais malheureuse comme une déclassée; car les femmes n'ont point de caste ni de race, leur beauté, leur grâce et leur charme leur servant de naissance et de famille. Leur finesse native, leur instinct d'élégance, leur souplesse d'esprit sont leur seule hiérarchie, et font des filles du peuple les égales des plus grandes dames.

- Tài chánh không cho phép cô ăn diện, và cô lấy làm phiền lòng vô cùng, như thể mình từ một địa vị cao rơi xuống. Dung nhan diễm lệ, dáng dấp kiêu sa, chẳng là những yếu tố khắc phục thứ bậc, tầng lớp mà số phận đã an bài? Tài năng thiên phú, bản năng nhận thức, một đầu óc thích nghi có phải là đẳng cấp duy nhất? Cũng đúng đấy thôi, nhiều người đàn bà dân giả được sánh ngang hàng với những mệnh phụ danh giá nhờ nhan sắc, trí thông minh và phương cách giao tiếp của họ.

Elle souffrait sans cesse, se sentant née pour toutes les délicatesses et tous les luxes. Elle souffrait de la pauvreté de son logement, de la misère des murs, de l'usure des sièges, de la laideur des étoffes. Toutes ces choses, dont une autre femme de sa caste ne se serait même pas aperçue, la torturaient et I'indignaient. La vue de la petite Bretonne qui faisait son humble ménage éveillait en elle des regrets désolés et des rêves éperdus. Elle songeait aux antichambres nettes, capitonnées avec des tentures orientales, éclairées par de hautes torchères de bronze, et aux deux grands valets en culotte courte qui dorment dans les larges fauteuils, assoupis par la chaleur lourde du calorifère. Elle songeait aux grands salons vêtus de soie ancienne, aux meubles fins portant des bibelots inestimables, et aux petits salons coquets parfumés, faits pour la causerie de cinq heures avec les amis les plus intimes, les hommes connus et recherchés dont toutes les femmes envient et désirent l'attention.

- Thế nên cô nàng Mathilde nhà ta luôn buồn đời. Đàn bà đẹp như cô sinh ra là để tận hưởng những cao sang, thanh lịch của cuộc đời. Cảnh nhà nghèo nàn làm cô tủi thân, tường trống không, bàn ghế xục xịch, màn cửa thô thiển. Những gì mà một người đàn bà cùng giai cấp như cô, chẳng mảy may bận lòng, là những mối ưu phiền cho cô . Hình ảnh người đàn bà nội trợ với công việc thường ngày làm cô chán nản, thất vọng, và Mathilde thay bằng những giấc mơ cao vời. Cô hình dung đến những căn phòng yên áng, tường phủ bằng thảm Ba Tư ấm cúng, cao sang, phản chiếu ánh sáng từ những cột trụ bằng đồng sáng loáng, lại có hai anh hầu quần ống chẽn ngủ gà ngủ gật trong ghế bành lớn vì hơi nóng của lò sưởi. Cô trông thấy những hành lang rộng thênh thang, trang hoàng bằng những giải lụa cổ, các kệ tủ xinh xắn tràn ngập vật dụng xinh đẹp, vô giá. Tiếp chuyện cùng các cô, các bà phải là những căn phòng khách thơm mùi nước hoa, và cũng là nơi mà những đàn ông danh giá, lịch thiệp lui tới, những đấng mày râu mà các cô, các bà nào cũng muốn gặp gỡ, và ao ước được họ lưu ý tới.

Quand elle s'asseyait, pour dîner, devant la table ronde couverte d'une nappe de trois jours, en face de son mari qui découvrait la soupière en déclarant d'un air enchanté: «Ah! le bon pot-au-feu! je ne sais rien de meilleur que cela, elle songeait aux dîners fins, aux argenteries reluisantes, aux tapisseries peuplant les murailles de personnages anciens et d'oiseaux étranges au milieu d'une forêt de féerie; elle songeait aux plats exquis servis en des vaisselles merveilleuses, aux galanteries chuchotées et écoutées avec un sourire de sphinx, tout en mangeant la chair rose d'une truite ou des ailes de gélinotte.

- Tối tối, ngồi đối diện chồng tại bàn ăn, trải cùng tấm khăn từ ba ngày qua, cô dửng dưng nhìn anh, tay mở liểng, miệng thốt lên sung sướng: "À, món hầm tối nay coi ngon quá, anh nghĩ chẳng có điều gì hấp dẫn hơn." Lúc ấy cô liên tưởng đến những bữa ăn thịnh soạn, với muỗng, nĩa bạc, tường phủ thảm thêu hình các nhân vật cổ xưa, hoặc những con chim kỳ thú trong ngôi rừng thần thoại, bàn ăn bày biện đủ các thức ngon vật lạ, dọn trên những bát dĩa tuyệt đẹp, thực khách chuyền tai nhau những lời hoa mỹ, và được đáp lại với nụ cười mỉm bí mật, tay gắp miếng cá tươi tắn, hồng hào, hay bỏ vào mồm cánh bồ câu dòn tan.

Elle n'avait pas de toilettes, pas de bijoux, rien. Et elle n'aimait que cela; elle se sentait faite pour cela. Elle eût tant désiré plaire, être enviée, être séduisante et recherchée.

- Áo dạ hội, nữ trang đắt tiền là những món mà cô yêu thích nhất, thế mà cô chẳng có lấy một thứ nào! Phụ nữ đẹp như mình sinh ra là để diện những thứ đó vào người cơ mà, cô nghĩ thế. Cô ước ao được người người chiều chuộng, ganh tị, được đàn ông tán tỉnh, khen thưởng.

Elle avait une amie riche, une camarade de couvent qu'elle ne voulait plus aller voir, tant elle souffrait en revenant. Et elle pleurait pendant des jours entiers, de chagrin, de regret, de désespoir et de détresse.

- Cô có một chị bạn gái giàu có, quen thời cùng học nội trú, mà giờ cô chẳng còn muốn gặp nữa, vì mỗi bận ra về cô lại cảm thấy buồn. Có bận cô đã khóc mấy ngày liền vì chán nản, thất vọng.

Or, un soir, son mari rentra, l'air glorieux et tenant à la main une large enveloppe.

- Bỗng một chiều nọ, anh chồng về nhà, mặt mày rạng rỡ, tay cầm một phong bì lớn.

- Tiens, dit-il, voici quelque chose pour toi.

- " Đây, em nè, anh có cái này cho em."

Elle déchira vivement le papier et en tira une carte qui portait ces mots:

Cô xé nhanh chiếc phong bì và rút ra một tấm thiệp mời với những dòng chữ:

"Le ministre de l'Instruction publique et Mme Georges Ramponneau prient M. et Mme Loisel de leur faire l'honneur de venir passer la soirée à l'hôtel du ministère, le lundi 18 janvier."

- "Bộ Trưởng bộ Thông Tin và bà Georges Ramponneau hân hạnh đón tiếp ông và bà Loisel tại dinh bộ trưởng tối thứ hai ngày 18 tháng Giêng."

Au lieu d'être ravie, comme l'espérait son mari, elle jeta avec dépit l'invitation sur la table, murmurant:

- Lẽ ra phải vui mừng, như chồng mong mỏi, cô lại vứt tấm thiếp lên bàn và bảo: 

- Que veux-tu que je fasse de cela?

- "Anh muốn tôi làm gì với tấm thiếp này chứ?"

- Mais, ma chérie, je pensais que tu serais contente. Tu ne sors jamais, et c'est une occasion, cela, une belle! J'ai eu une peine infinie à l'obtenir. Tout le monde en veut; c'est très recherché et on n'en donne pas beaucoup aux employés. Tu verras là tout le monde officiel.

- "Cưng, anh lại tưởng em sẽ vui chứ! Em chẳng bao giờ đi ra ngoài, và đây là một cơ hội em ạ. Anh phải mất nhiều công lao mới được thiệp mời. Ai cũng muốn đi dự buổi tiệc này; họ chọn lựa kỹ lắm, không phải ai cũng có được đâu. Tất cả những ông bà lớn đều có mặt hôm ấy."

Elle le regardait d'un oeil irrité, et elle déclara avec impatience:

- Cô nhìn anh với cái nhìn khó chịu, vội cướp lời:

- Que veux-tu que je me mette sur le dos pour aller là?

- Vậy thì anh tính em sẽ bận cái gì chứ?

Il n'y avait pas songé; il balbutia:

Anh không nghĩ đến điều này. Anh lắp bắp:

- Mais la robe avec laquelle tu vas au théâtre. Elle me semble très bien, à moi...

- Thì cái áo em hay bận đi coi kịch với anh đó. Áo ấy trông được lắm!

Il se tut, stupéfait, éperdu, en voyant que sa femme pleurait. Deux grosses larmes descendaient lentement des coins des yeux vers les coins de la bouche; il bégaya:

Anh ngưng ngang, chưng hửng, bối rối vì thấy cô vợ đang khóc. Hai giòng nước mắt lặng lẽ rơi từ khoé mắt xuống bờ môi xinh đẹp. Anh lúng túng:

- Qu'as-tu? qu'as-tu?

- Gì thế, em sao thế ?

Mais, par un effort violent, elle avait dompté sa peine et elle répondit d'une voix calme en essuyant ses joues humides:

Cố gắng dằn niềm đau khổ, cô trả lời bằng một giọng bình tĩnh sau khi đưa tay lau hai gò má ướt:

- Rien. Seulement je n'ai pas de toilette et par conséquent, je ne peux aller à cette fête. Donne ta carte à quelque collègue dont la femme sera mieux nippée que moi.

- Chẳng có gì cả. Em chẳng có áo đẹp, vì thế em không thể đi dự buổi dạ tiệc được. Anh hãy đưa tấm thiệp mời này cho bạn đồng nghiệp nào ở bộ, mà cô vợ có đủ quần áo hơn em.

Il était désolé. Il reprit:

Lúng túng, anh vớt vát:

- Voyons, Mathilde. Combien cela coûterait-il, une toilette convenable, qui pourrait te servir encore en d'autres occasions, quelque chose de très simple?

- Nào, nào, Mathilde. Xem nào, một cái áo đẹp, để đi dạ hội, mà em có thể xài vào những dịp khác, một cái áo thường thôi, tốn khoảng bao nhiêu tiền?

Elle réfléchit quelques secondes, établissant ses comptes et songeant aussi à la somme qu'elle pouvait demander sans s'attirer un refus immédiat et une exclamation effarée du commis économe.

Nghĩ ngợi một đôi giây, trong đầu làm vội những con tính, một con số khã dĩ không bị từ chối ngay hay gặp phải phản ứng thảng thốt từ anh chàng lục sự cần kiệm này. 

Enfin, elle répondit en hésitant:

Cuối cùng, cô trả lời, giọng ngập ngừng:

- Je ne sais pas au juste, mais il me semble qu'avec quatre cents francs je pourrais arriver.

- Em cũng không biết rõ, nhưng em nghĩ một cái áo đẹp chắc khoảng bốn trăm francs.

ll avait un peu pâli, car il réservait juste cette somme pour acheter un fusil et s'offrir des parties de chasse, l'été suivant, dans la plaine de Nanterre, avec quelques amis qui allaient tirer des alouettes, par là, le dimanche.

Mặt anh hơi tái đi, vì anh đã để dành đúng khoảng tiền như thế để mua một khẩu súng săn, dự định cùng đám bạn đi bắn chim chiền chiện tại đồng bằng Nanterre trong vụ hè tới.

Il dit cependant:

Thế nhưng anh nói:

- Soit. Je te donne quatre cents francs. Mais tâche d'avoir une belle robe.

- Cũng được. Anh sẽ cho em bốn trăm francs. Mà em ráng mua một cái áo đẹp nhen!

Le jour de la fête approchait, et Mme Loisel semblait triste, inquiète, anxieuse. Sa toilette était prête cependant. Son mari lui dit un soir:

Ngày dạ tiệc đến gần kề mà mặt bà Loisel trông vẫn có nét buồn, lo lắng. Áo nàng thì đã may xong. Nhận thấy điều này, một tối anh hỏi:

- Qu'as-tu? Voyons, tu es toute drôle depuis trois jours.

- Có điều gì không? Ba ngày nay sao anh thấy em có vẽ lạ, không được vui?

Et elle répondit:

Nàng trả lời chồng:

- Cela m'ennuie de n'avoir pas un bijou, pas une pierre, rien à mettre sur moi. J'aurai l'air misère comme tout. J'aimerais presque mieux ne pas aller à cette soirée.

- Phiền một nỗi là em chẳng có một bộ nữ trang nào cả, chẳng có lấy một viên đá để mang lên người. Coi nghèo nàn làm sao! Chẳng thà đừng đi cho rồi!

Il reprit:

Anh chồng đề nghị.

- Tu mettras des fleurs naturelles. C'est très chic en cette saison-ci. Pour dix francs tu auras deux ou trois roses magnifiques.

- Em có thể cài hoa lên tóc, vào mùa này mà cài hoa thì sang lắm em ạ. Thêm mười francs thôi em có thể mua hai, ba hoa hồng thật đẹp!

Elle n'était point convaincue.

Lời anh nói không thuyết phục được cô:

- Non... il n'y a rien de plus humiliant que d'avoir l'air pauvre au milieu de femmes riches.

- Không, không được. Chẳng có điều gì nhục nhã bằng mình trông nghèo nàn bên cạnh những người đàn bà giàu sang.

Mais son mari s'écria:

- Anh chồng bỗng kêu lên: 

- Que tu es bête! Va trouver ton amie Mme Forestier et demande-lui de te prêter des bijoux. Tu es bien assez liée avec elle pour faire cela.

- "Ồ, sao em dốt thế! Em có bà bạn giàu lắm mà, chị Forestier, sao em không mượn nữ trang của chị ấy. Hình như em thân với chị ấy lắm để có thể tới mượn nữ trang được!"

Elle poussa un cri de joie.

Cô reo lên, mừng rỡ:

- C'est vrai. Je n'y avais point pensé.

- Đúng thế, sao em lại chẳng nghĩ ra.

Le lendemain, elle se rendit chez son amie et lui conta sa détresse. Mme Forestier alla vers son armoire à glace, prit un large coffret, l'apporta, l'ouvrit, et dit à Mme Loisel:

Ngày hôm sau, cô tới gặp bạn, tâm sự với bạn vấn đề của mình. Bà Forestier tới tủ áo có kiếng, lấy ra một hộp nữ trang lớn, trao cho bà Loisel và nói:

- Choisis, ma chère.

- Chị cứ lựa bất cứ món gì chị thích.

Elle vit d'abord des bracelets, puis un collier de perles, puis une croix vénitienne, or et pierreries, d'un admirable travail. Elle essayait les parures devant la glace, hésitait, ne pouvait se décider à les quitter, à les rendre. Elle demandait toujours:

Thoạt tiên cô thấy mấy vòng đeo tay, rồi sợi dây chuyền ngọc trai, tiếp đến dây thánh giá lớn cổ xưa, chạm trổ rất khéo léo với những viên ngọc quý. Cô thử lên thử tới trước gương, ngập ngừng, không thể rời chúng ra, mà cũng chẳng quyết định chọn món nào, và cái nào thì đưa trả lại cho bạn. Cô hỏi:

- Tu n'as plus rien d'autre?

- Chị có món nào nữa không?

- Mais si. Cherche. Je ne sais pas ce qui peut te plaire.

- Có chứ. Chị cứ chọn tiếp đi. Mình chẳng biết chị thích cái nào.

Tout à coup elle découvrit, dans une boîte de satin noir, une superbe rivière de diamants; et son coeur se mit à battre d'un désir immodéré. Ses mains tremblaient en la prenant. Elle l'attacha autour de sa gorge, sur sa robe montante. et demeura en extase devant elle-même.

Bỗng cô nhìn thấy một hộp bọc xa-tanh đen, trông có một sợi dây chuyền nhận toàn kim cương tuyệt đẹp, tim cô thắt lại trong niềm ham muốn. Cô cầm sợi dây lên mà tay run run. Cô choàng nó vào cổ cao. Ngắm mình trong gương cô chìm trong nỗi sung sướng với hình ảnh tuyệt mỹ của chính mình.

Puis, elle demanda, hésitante, pleine d'angoisse:

Rồi cô hỏi, giọng hoài nghi:

- Peux-tu me prêter cela, rien que cela?

- Chị có thể cho em mượn chuỗi kim cương này được không?

- Mais oui, certainement.

- Được chứ, chị cầm lấy đi!

Elle sauta au cou de son amie, l'embrassa avee emportement, puis s'enfuit avec son trésor.

Cô ôm chầm lấy bạn, hôn lên má bạn như lời cảm ơn chân tình nhất, rồi vội vàng ra về với kho tàng nhỏ trong tay.

Le jour de la fête arriva. Mme Loisel eut un succès. Elle était plus jolie que toutes, élégante, gracieuse, souriante et folle de joie. Tous les hommes la regardaient, demandaient son nom, cherchaient à être présentés. Tous les attachés du cabinet voulaient valser avec elle. Le Ministre la remarqua.

Ngày dạ tiệc, bà Loisel thành công rực rỡ. Nàng đẹp hơn hết trong đám phụ nữ, nàng thật kiêu sa, vương giả, cười tươi tắn, dòn tan trong niềm sung sướng. Tất cả những người đàn ông có mặt chiêm ngưỡng nàng, hỏi tên nàng, tìm đến tự giới thiệu. Tất cả những nhân vật lớn trong bộ muốn cùng nàng khiêu vũ. Ngay cả ông bộ trưởng cũng chú ý đến nàng. 

Elle dansait avec ivresse, avec emportement, grisée par le plaisir, ne pensant plus à rien, dans le triomphe de sa beauté, dans la gloire de son succès, dans une sorte de nuage de bonheur fait de tous ces hommages, de toutes ces admirations, de tous ces désirs éveillés, de cette victoire si complète et si douce au coeur des femmes.

Nàng khiêu vũ trong mê cuồng, ngất ngây vì vui sướng, đắm chìm trong niềm hãnh diện bởi nhan sắc của mình, nàng như lên chín tầng mây với những lời ngưỡng mộ. Những khát khao từ bấy lâu nay đã được vuốt ve! Thật là một chiến thắng toàn hảo, tuyệt vời, thoả mãn trái tim người đàn bà.

Elle partit vers quatre heures du matin. Son mari, depuis minuit, dormait dans un petit salon désert avec trois autres messieurs dont les femmes s'amusaient beaucoup.

Cô ra về vào khoảng bốn giờ sáng. Chồng cô đã ngủ được một giấc vào lúc nửa đêm trong một căn phòng bỏ trống với ba người đàn ông khác mà các bà vợ cũng đang rất vui với buổi dạ tiệc. 

Il lui jeta sur les épaules les vêtements qu'il avait apportés pour la sortie, modestes vêtements de la vie ordinaire, dont la pauvreté jurait avec l'élégance de la toilette de bal. Elle le sentit et voulut s'enfuir, pour ne pas être remarquée par les autres femmes qui s'enveloppaient de riches fourrures.

Anh khoác lên vai nàng tấm khăn choàng ngoài, tấm khăn tầm thường của một đời sống bình dị, sự nghèo nàn của nó thật trái biệt với cái áo dạ hội sang trọng, đắt tiền. Cô cảm nhận điều đó và muốn thoát khỏi nó, tránh những cặp mắt so sánh của những người đàn bà khác đang được khoác trên vai những tấm khăn choàng bằng da thú sang trọng.

Loisel la retenait:

Anh chồng giữ cô lại, bảo:

- Attends donc. Tu vas attraper froid dehors. Je vais appeler un fiacre.

- Đợi tí đã nào. Coi chừng bị cảm vì ở ngoài lạnh lắm. Đợi anh gọi xe về.

Mais elle ne l'écoutait point et descendait rapidement l'escalier. Lorsqu'ils furent dans la rue, ils ne trouvèrent pas de voiture; et ils se mirent à chercher, criant après les cochers qu'ils voyaient passer de loin.

Nhưng cô không nghe anh, vội vàng bước xuống cầu thang. Khi họ xuống tới đường cái, thì không còn chiếc xe nào cả. Họ lục loại, tìm kiếm, la lớn vào những chiếc chạy từ tuốt xa trong đêm vắng. 

Ils descendaient vers la Seine, désespérés, grelottants. Enfin, ils trouvèrent sur le quai un de ces vieux coupés noctambules qu'on ne voit dans Paris que la nuit venue, comme s'ils eussent été honteux de leur misère pendant le jour.

Họ đi qua dòng sông Seine, người run lập cập vì lạnh. Cuối cùng trên bến họ tìm được một chiếc xe taxi cổ, cũ kỹ, chỉ thấy ở Paris lúc trời đã tối, như thể chúng cũng biết xấu hổ, không dám chạy vào ban ngày.

Il les ramena jusqu'à leur porte, rue des Martyrs, et ils remontèrent tristement chez eux. C'était fini, pour elle. Et il songeait, lui, qu'il lui faudrait être au Ministère à dix heures.

Chiếc xe chở họ tới tận cửa, đường Martyrs, và họ mệt nhọc leo vào nhà. Tàn một cuộc vui, cho nàng. Còn anh thì nghĩ, ngày mai lại phải vào bộ lúc Mười giờ.

Elle ôta les vêtenoents dont elle s'était enveloppé les épaules, devant la glace, afin de se voir encore une fois dans sa gloire. Mais soudain elle poussa un cri. Elle n'avait plus sa rivière autour du cou!

Nàng dở áo choàng ra, nhìn vào gương để ngắm mình lần nữa trong huy hoàng. Bỗng nhiên cô thảng thốt buông ra một tiếng kêu. Cô không có chuỗi kim cương trên cổ!

Son mari, à moitié dévêtu déjà, demanda:

Anh chồng, đã thay gần hết quần áo hỏi:

- Qu'est-ce que tu as?

- Gì thế ?

Elle se tourna vers lui, affolée:

Cô quay lại chồng, la thất thanh:

- J'ai... j'ai... je n'ai plus la rivière de Mme Forestier.

- Em ... em không có sợi dây chuyền của chị Forestier nữa!

Il se dressa, éperdu:

Anh đứng bật dậy, sửng sốt:

- Quoi!... comment!... Ce n'est pas possible!

- Làm thế nào, làm sao xảy ra được?

Et ils cherchèrent dans les plis de la robe, dans les plis du manteau, dans les poches, partout. Ils ne la trouvèrent point.

Cả hai lục loại trên các lớp áo của cô, áo khoác ngoài, áo dạ hội, các túi áo, họ tìm kiếm mọi nơi, nhưng vẫn không kiếm ra.

Il demandait:

Anh chồng hỏi.

- Tu es sûre que tu l'avais encore en quittant le bal?

- Em có chắc là em còn đeo nó khi rời khỏi tiệc không? 

- Oui, je l'ai touchée dans le vestibule du Ministère.

- Có, chắc mà, em có sờ vào nó lúc còn ở dinh ông bộ trưởng mà.

- Mais si tu l'avais perdue dans la rue, nous l'aurions entendue tomber. Elle doit être dans le fiacre. 

- Nếu em làm rơi nó trên đường, thì chúng mình đã nghe tiếng nó rơi trên hè rồi. Có lẽ nó rơi trong xe.

- Oui. C'est probable. As-tu pris le numéro?

- Có lẽ thế, anh có lấy số xe không?

- Non. Et toi, tu ne l'as pas regardé?

- Không, thế em có nhìn số xe không?

- Non.

- Không.

Ils se contemplaient atterrés. Enfin Loisel se rhabilla.

Hai người nhìn nhau, thảng thốt. Rồi cuối cùng Loisel bận quần áo vào và nói:

- Je vais, dit-il, refaire tout le trajet que nous avons fait à pied, pour voir si je ne la retrouverai pas.

- Thôi tôi phải đi lại khoảng đường mình đi bộ, xem có thể kiếm ra nó không.

Et il sortit. Elle demeura en toilette de soirée, sans force pour se coucher, abattue sur une chaise, sans feu, sans pensée.

Anh đi ra ngoài. Cô ngồi chờ trên ghế trong chiếc áo dạ hội, không còn sức mà leo lên giường, đầu óc chán nản, hết cả năng sức, không một ý nghĩ.

Son mari rentra vers sept heures. Il n'avait rien trouvé.

Anh chồng trở về lúc bảy giờ sáng, anh không kiếm được sợi dây chuyền.

Il se rendit à la Préfecture de police, aux journaux, pour faire promettre une récompense, aux compagnies de petites voitures, partout enfin où un soupçon d'espoir le poussait.

Anh tới sở cảnh sát, tới nhà báo đăng rao vặt, hứa một món tiền thưởng, anh đến công ty xe taxi, thật ra anh tới đó trong niềm hy vọng cuối cùng.

Elle attendit tout le jour, dans le même état d'effarement devant cet affreux désastre.

Cô chờ anh cả ngày, trong tình trạng lo lắng kinh hoàng, trước một thảm trạng khủng khiếp.

Loisel revint le soir, avec la figure creusée, pâlie; il n'avait rien découvert.

Trời tối mịt, Loisel mới về đến nhà mặt tái xanh, hốc hác. Anh chẳng kiếm ra gì cả.

- Il faut, dit-il, écrire à ton amie que tu as brisé la fermeture de sa rivière et que tu la fais réparer. Cela nous donnera le temps de nous retourner.

"Em phải viết cho bạn em", anh nói: "Bảo em làm sức cái móc của sợi dây, và đang đợi tiệm sửa, để chúng ta có thì giờ kiếm cách trả lại sợi dây."

Elle écrivit sous sa dictée.

Cô lấy giấy bút ra ghi lại những dòng anh đọc cho cô.

Au bout d'une semaine, ils avaient perdu toute espérance. Et Loisel, vieilli de cinq ans, déclara:

Cuối tuần thì họ hết hy vọng. Loisel, nay trông già thêm năm tuổi bảo:

- Il faut aviser à remplacer ce bijou.

-Giờ thì chúng ta phải tìm cách thay thế sợi dây khác rồi.

Ils prirent, le lendemain, la boîte qui l'avait renfermé, et se rendirent chez le joaillier, dont le nom se trouvait dedans. Il consulta ses livres:

Ngày hôm sau họ đem các hộp đựng sợi dây tới tiệm kim hoàng có tên khắc trên hộp. Ông chủ tiệm lục loại giấy tờ và nói:

- Ce n'est pas moi, madame, qui ai vendu cette rivière; j'ai dû seulement fournir l'écrin.

- Thưa bà, tôi không bán sợi dây, tôi chỉ bán cái hộp thôi.

Alors ils allèrent de bijoutier en bijoutier, cherchant une parure pareille à l'autre, consultant leurs souvenirs, malades tous deux de chagrin et d'angoisse.

Họ đi từ tiệm kim hoàng này sang tiệm khác để kiếm một sợi dây chuyền tương tợ, cố nhớ hình dáng nó, mà lòng cả hai kinh hoàng, thảm não.

Ils trouvèrent, dans une boutique du PalaisRoyal, un chapelet de diamants qui leur parut entièrement semblable à celui qu'ils cherchaient. Il valait quarante mille francs. On le leur laisserait à trente-six mille.

 Cuối cùng, trong tiệm kim hoàng khu Hoàng Cung, có một sợi dây, một chuỗi kim cương, trông giống in như sợi dây họ đã đánh mất. Sợi dây chuyền để giá là bốn mươi ngàn francs, và người ta bớt xuống với giá ba mươi sáu ngàn francs. 

Ils prièrent donc le joaillier de ne pas le vendre avant trois jours. Et ils firent condition qu'on le reprendrait pour trente-quatre mille francs, si le premier était retrouvé avant la fin de février.

Hai vợ chồng năn nỉ chủ tiệm xin đợi cho ba ngày, đừng bán cho bất cứ ai. Họ cũng giao điều kiện với chủ tiệm phải mua lại sợi dây với giá ba mươi bốn ngàn francs nếu trong trường hợp họ kiếm ra được sợi dây chuyền đánh mất trước thời định là cuối tháng hai.

Loisel possédait dix-huit mille francs que lui avait laissés son père. Il emprunterait le reste.

Loisel có mười tám ngàn francs, gia tài nhỏ ông bố để lại. Anh phải đi mượn số tiền còn lại. 

Il emprunta, demandant mille francs à I'un, cinq cents à l'autre, cinq louis par-ci, trois louis par-là. Il fit des billets, prit des engagements ruineux, eut affaire aux usuriers, à toutes les races de prêteurs. Il compromit toute la fin de son existence, risqua sa signature sans savoir même s'il pourrait y faire honneur, et, épouvanté par les angoisses de l'avenir, par la noire misère qui allait s'abattre sur lui, par la perspective de toutes les privations physiques et de toutes les tortures morales, il alla chercher la rivière nouvelle, en déposant sur le comptoir du marchand trente-six mille francs.

Anh mượn một ngàn đây, năm trăm đó, năm chục người nọ, ba francs người kia. Anh ký giấy nợ, sẵn sàng nhận làm những việc tầm thường nhất, mặc cả với các tay vay lãi, với tất cả mọi loại người trong giới cho vay chợ đen. Anh bằng lòng thoả hiệp suốt đời mình, ký giấy nợ mà chẳng biết mình có trả được không, trong nỗi lo lắng viễn tượng tương lai đen tối, khổ cực, những thiếu thốn về vật chất và những dày vò về tình thần mà anh sẽ phải chịu đựng. Trong trạng thái như thế anh đến tiệm kim hoàng, đặt trên quầy ba mươi sáu ngàn francs và lấy về sợi dây chuyền mới.

Quand Mme Loisel reporta la parure à Mme Forestier, celle-ci lui dit, d'un air froissé:

Ngày bà Loisel đem sợi dây chuyền trả cho bà Forestier, bị bạn ban cho một câu lạnh nhạt:

- Tu aurais dû me la rendre plus tôt, car je pouvais en avoir besoin.

- Đáng nhẽ chị phải trả tôi sớm hơn, tôi có thể cần nó để đi dạ hội đấy!

Elle n'ouvrit pas l'écrin, ce que redoutait son amie. Si elle s'était aperçue de la substitution, qu'auraitelle pensé? qu'aurait-elle dit? Ne l'aurait-elle pas prise pour une voleuse?

Bà bạn không mở hộp ra, như cô đã lo lắng mãi. Nếu chị ta nhận thấy đó là một sợi dây chuyền khác, thì chị ta nghĩ thế nào về mình đây, chị sẽ nói sao? Chị ấy có nghĩ mình là kẻ cắp không chứ.

Mme Loisel connut la vie horrible des nécessiteux. Elle prit son parti, d'ailleurs, tout d'un coup, héroïquement. Il fallait payer cette dette effroyable. Elle payerait. On renvoya la bonne; on changea de logement; on loua sous les toits une mansarde.

Từ đó bà Loisel biết thế nào cuộc đời của khổ cực, lao động. Không ngờ nàng đã can đảm gánh vác bổn phận của mình. Món nợ kinh khủng đó phải được trả và nàng phải dự phần trả món nợ đó. Họ cho con sen nghỉ làm. Họ đổi chỗ ở, đi thuê một nơi tồi tàn hơn trước.

Elle connut les gros travaux du ménage, les odieuses besognes de la cuisine. Elle lava la vaisselle, usant ses ongles roses sur les poteries grasses et le fond des casseroles. Elle savonna le linge sale, les chemises et les torchons, qu'elle faisait sécher sur une corde; elle descendit à la rue, chaque matin, les ordures, et monta l'eau, s'arrêtant à chaque étage pour souffler. Et, vêtue comme une femme du peuple, elle alla chez le fruitier, chez l'épicier, chez le boucher, le panier au bras, marchandant, injuriée, défendant sou à sou son misérable argent.

Giờ đây cô làm những công việc nội trợ nặng nhọc nhất, những việc khó khăn nhất của nhà bếp. Cô rửa chén, cào nhọ nồi, soong chảo mỡ mật bằng đôi bàn tay hồng hào của mình. Cô giặt quần áo, ra giường, khăn bàn bẩn, rồi đem phơi chúng trên giây. Trên con dốc sáng sáng, chiều chiều cô gánh nước lên, nếu cần dừng lại bậc tâng cấp thở. Cô ăn bận như dân lao động, tay cầm giỏ, tới từng quầy rau, hàng tạp hoá, hàng thịt, mặc cả từng xu một, bảo vệ đồng bạc khốn khổ của mình.

Il fallait chaque mois payer des billets, en renouveler d'autres, obtenir du temps.

Mỗi tháng món nợ này phải được trả, lại gia hạn món nợ khác, mua thêm thời gian.

Le mari travaillait, le soir, à mettre au net les comptes d'un commercant, et la nuit, souvent, il faisait de la copie à cinq sous la page.

 Anh chồng làm thêm ban đêm cho các hàng quán, vào tối khuya có khi anh còn chép các bản thảo, mỗi năm xu một bản.

Et cette vie dura dix ans.

Và cuộc sống như thế kéo dài mười năm.

Au bout de dix ans, ils avaient tout restitué, tout, avec le taux de l'usure, et l'accumulation des intérêts superposés.

Tới cuối năm thứ mười, họ đã trả hết, tất cả, với thuế cắt cổ của các tên chủ nợ, và những tiền lời chồng chất lên nhau.

Mme Loisel semblait vieille, maintenant. Elle était devenue la femme forte, et dure, et rude, des ménages pauvres. Mal peignée, avec les jupes de travers et les mains rouges, elle parlait haut, lavait à grande eau les planchers. Mais parfois, lorsque son mari était au bureau, elle s'asseyait auprès de la fenêtre, et elle songeait à cette soirée d'autrefois, à ce bal où elle avait été si belle et si fêtée.

Bà Loisel giờ đây trông già đi. Bà đã biến thành một người đàn bà mạnh mẽ, thô thiển và cứng rắn, một người đàn bà của giới lao động. Tóc rối, váy nhầu, tay đỏ, bà ăn nói ồn ào, thảy từng mảnh nước lớn, cong lưng chùi nhà. Thế nhưng, thỉnh thoảng khi ông chồng đang ở sở làm, bà ngồi tựa nơi cửa sổ và nghĩ đến buổi dạ tiệc huy hoàng đã lâu rồi, buổi khiêu vũ mà bà thật đẹp và được mọi người chiêm ngưỡng.

Que serait-il arrivé si elle n'avait point perdu cette parure? Qui sait? qui sait? Comme la vie est singulière, changeante! Comme il faut peu de chose pour vous perdre ou vous sauver!

Nếu đêm đó bà không đánh mất sợi dây chuyền, thì việc gì xảy ra? Nào ai biết được? Nào ai biết được? Đời thay đổi lạ lùng quá đổi. Không ngờ chỉ cần một việc nhỏ thôi đủ làm cho ta lạc lối hay có thể cứu ta.

Or, un dimanche, comme elle était allée faire un tour aux Champs-Elysées pour se délasser des besognes de la semaine, elle aperçut tout à coup une femme qui promenait un enfant. C'était Mme Forestier, toujours jeune, toujours belle, toujours séduisante.

Một ngày chủ nhật, bà đi dạo trong vườn Champs Élysée, cho bõ một tuần lao động khổ cực, bà bỗng nhận ra một người đàn bà tay dẫn một đứa bé. Chính là bà Forestier ngày nào, bây giờ vẫn đẹp, vẫn đài các. 

Mme Loisel se sentit émue. Allait-elle lui parler? Oui, certes. Et maintenant qu'elle avait payé, elle lui dirait tout. Pourquoi pas?

Bà Loisel cảm thấy xúc động. Mình có nên tới nói chuyện với chị ta không. Chắc hẳn rồi chứ . Giờ đây bà đã trả hết món nợ. Bà sẽ cho bạn biết. Tại sao không?

Elle s'approcha.

Bà đến gần bạn.

- Bonjour, Jeanne.

-Chào chị Jeanne .

L'autre ne la reconnaissait point, s'étonnant d'être appelée ainsi familièrement par cette bourgeoise.

Người bạn, chẳng nhận ra bà chút nào, ngạc nhiên thấy trước mình một người đàn bà xa lạ, gọi mình như quen thân lắm. 

Elle balbutia:

Bà lúng túng:

- Mais... madame!... Je ne sais... Vous devez vous tromper.

- Thưa bà, chắc bà lầm, tôi không quen bà.

- Non. Je suis Mathilde Loisel.

- Không, chị không lầm. Tôi là Mathilde Loisel đây.

Son amie poussa un cri.

Người bạn buông ra một tiếng kêu thảng thốt:

- Oh!... ma pauvre Mathilde, comme tu es changée!...

- Trời ... chị Mathilde, làm sao chị thay đổi dữ vây!

- Oui, j'ai eu des jours bien durs, depuis que je ne t'ai vue; et bien des misères... et cela à cause de toi!...

- Đúng vậy chị ạ, sau lần cuối em gặp chị, đời em thay đổi qua cảnh nghèo khó, mà chị biết không, cũng tại chị đó!

- De moi . . . Comment ça?

- Ủa, sao có mình trong đó?

- Tu te rappelles bien cette rivière de diamants que tu m'as prêtée pour aller à la fête du Ministère.

- Chị có nhớ sợi dây chuyền kim cường chị cho em mượn đi dự dạ hội ông bộ trưởng không?

- Oui. Eh bien?

- Có chứ!

- Eh bien, je l'ai perdue.

- Em đánh mất nó.

- Comment! puisque tu me l'as rapportée.

- Chị nói sao, chị có đem trả mình mà!

- Je t'en ai rapporté une autre toute pareille. Et voilà dix ans que nous la payons. Tu comprends que ça n'était pas aisé pour nous, qui n'avions rien... Enfin c'est fini, et je suis rudement contente.

- Em đem trả chị sợi dây chuyền giống in sợi chị cho mượn. Thế nên phải mất mười năm vợ chồng em mới trả hết các món nợ. Với chúng em điều này không phải dễ, vì thực sự gia tài chúng em chả có là bao. Nhưng cuối cùng thì chúng em cũng thanh toán được hết món nợ ... Em rất mừng đã hết nợ nần!

Mme Forestier s'était arrêtée.

Bà Forestier khựng lại:

- Tu dis que tu as acheté une rivière de diamants pour remplacer la mienne?

-Chị nói sao, chị đã mua một sợi dây chuyền kim cương để thế sợi dây của mình à?

- Oui. Tu ne t'en étais pas aperçue, hein! Elles étaient bien pareilles.

- Đúng thế, chị không hề nhận ra à, hai sợi dây giống nhau lắm.

Et elle souriait d'une joie orgueilleuse et naïve.

Bà mỉm miệng cười, một nụ cười hãnh diện mà ngây ngô.

Mme Forestier, fort émue, lui prit les deux mains.

Bà Forestier, xúc động khôn xiết, đưa tay cầm lấy tay bạn:

- Oh! ma pauvre Mathilde! Mais la mienne était fausse. Elle valait au plus cinq cents francs!...

- Tội cho bạn tôi quá, chị Mathilde ơi, sợi dây của mình là sợi giả mà, chỉ đáng giá khoảng năm trăm francs là cùng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro