Hồi 21-Hết Yến Thập Tam [Cổ Long]

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Yến Thập Tam  Sửa

Tác giả: Cổ Long

Thể loại: Truyện Kiếm Hiệp

HỒI 20 - ĐIỀM BÁO CHẲNG LÀNH

Trúc Diệp Thanh bảo:

"Vì người đàn bà như nàng, nếu là ta dù có chết cũng không khi nào đem cho kẻ khác!"

Tử Linh cười, dùng đầu ngón tay thuôn như cọng hành mùa Xuân chọc khẽ vào mũi Trúc Diệp Thanh:

"Bất kể thế nào, tài bán cháo phỉnh của chàng thiếp phải tôn là đệ nhất thiên hạ!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Chẳng lẽ các tài khác ta còn thua kém các người khác sao?" Tử Linh cười tít bảo:

"Nếu chàng chẳng mạnh, có gì thiếp cứ khư khư theo mãi chàng?" Tiếng cô ta cười như tiếng chuông reo:

"Thiếp đang cười lão rùa già đen sai thiếp đến chỗ chàng làm gián điệp, giá lão biết chuyện của chúng ta lại không tức đến nhẩy lầu mới là lạ!"

Trúc Diệp Thanh cũng cười:

"Đó cũng là vì nàng tài đóng kịch nên mới có thể làm cho lão tin là nàng chán ghét ta nên mới làm cho lão mọc sừng mà vẫn còn đắc ý tự khen!"

Ngón tay Tử Linh ngừng lại trên ngực Trúc Diệp Thanh, nhè nhẹ vẽ thành một vòng tròn cô ta bảo:

"Có điều thiếp vẫn không sao hiểu được cuối cùng chàng đang làm trò quỷ gì vậy?" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Ta làm trò quỷ gì đâu?" Tử Linh bảo:

"Thì chàng chẳng đang thay lão rùa đen ước hẹn một tốp người tới giúp ư?" Trúc Diệp Thanh đáp:

"ừ!" Tử Linh hỏi:

"Chàng hẹn với những ai vậy?" Trúc Diệp Thanh hỏi:

"Nàng đã nghe đến hai chữ "Hắc Sát" bao giờ chưa?" Tử Linh hỏi:

"Hắc Sát" là tên một người à?" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Không phải một người mà là một đám người!" Tử Linh bảo:

"Sao họ không chọn tên gì mà lại chọn cho mình cái tên xúi quẩy như vậy?" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Các kiểu dạng người đều có đủ hết. Có người xuất thân từ Hạ Ngũ Môn, có người lại là các đệ tử bị đuỗi của các danh môn chính phái như Võ Đang, Thiếu Lâm, thậm chí có người đã đến từ đảo Phù Tang ngoài biển Đông trở thành lãng tử lưu lạc ở Trung Nguyên ta".

Tử Linh lại hỏi:

"Chẳng lẽ người nài cũng đều có một thân công phu giỏi?" Trúc Diệp Thanh gật đầu bảo:

"Có điều chỗ đáng sợ của họ không phải ở võ công!" Tử Linh hỏi:

"Là gì?" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Là họ không sợ mất mặt, lại không sợ mất mạng!" Tử Linh thở dài bảo:

"Không thể không công nhận hạng người này quả không dễ đối phó thật!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Vì thế nàng mới lấy làm lạ tại sao ta lại tìm họ tới để giúp lão rùa đen chống A Cát chứ gì?"

Tử Linh đáp:

"Vâng!" Trúc Diệp Thanh cười bảo:

"Sao nàng không tưởng tượng bây giờ đến Hỗ Sắt còn chết nếu không có những người ấy tới bảo vệ, sao lão rùa đen dám đi gặp A Cát? A Cát nếu đã chẳng coi cái mặt lão rùa đen ra gì sao lại chẳng muốn lão chết quách cho xong?" Tử Linh lập tức hiểu ngay ý đồ của gã nhưng nhịn không nỗi bèn bảo:

"Có những người ấy tới bảo vệ liệu ta có chết không?" Trúc Diệp Thanh đáp:

"Sợ lại còn chết nhanh hơn nữa chứ!" Tử Linh bảo:

"Chẳng lẽ những người ấy đều không phải là đối thủ của A Cát?" Trúc Diệp Thanh đáp:

"Tuyệt đối không!" Tử Linh bảo:

"Vì thế lần này lão chết chắc chắn rồi!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Đại khái vậy!" Tử Linh nhẩy dậy đè lên người Trúc Diệp Thanh, bỗng cô ta cau mày bảo:

"Nhưng chàng vẫn còn quên một điểm". Trúc Diệp Thanh hỏi:

"Hử?" Tử Linh bảo:

"Lão Chủ Lớn chết rồi, người mà A Cát sẽ đối phó là chàng mà!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Rất có thể!" Tử Linh hỏi:

"Đến lúc ấy chàng chuẩn bị thế nào?" Trúc Diệp Thanh chỉ cười ruồi không đáp.

Tử Linh bảo:

"Chẳng lẽ chàng đã có cách đối phó với gã rồi ư?" Trúc Diệp Thanh cũng không bảo không.

Tử Linh hỏi:

"Chàng nắm chắc chứ?" Trúc Diệp Thanh đáp:

"Ta đã bao giờ làm gì mà không nắm chắc đâu!" Tử Linh thở ra nhẹ nhõm, liếc mắt đưa tình với gã bảo:

"Đợi đến lúc việc này qua đi chàng đương nhiên là Ông Chủ Lớn, còn thiếp?" Trúc Diệp Thanh cười bảo:

"Nàng đương nhiên là Bà Chủ Lớn!" Tử Linh cười. Cả người ả ta đè xuống, khe khẽ áp vào tai gã thì thào:

"Chàng phải nhớ kỹ nhé, Bà Chủ Lớn chỉ có một ông thôi đấy, nếu không..." Câu nói của cô ta chưa trọn, Trúc Diệp Thanh đã bịt chặt lấy miệng Tiểu Linh, hạ giọng xuống hỏi:

"Ai?" Bóng người thoáng bên ngoài cửa sỗ, một giọng khàn khàn nghiệt ngã đáp:

"Ta đây, Thôi Lão Tam đây!" Trúc Diệp Thanh thở ra một hơi dài bảo:

"Mời vào!" Bóng người bên cửa sỗ lại thấp thoáng, cửa sỗ kêu "cạch" một tiếng, ánh đèn lấp loáng một người đã vút vào tới trước mặt họ. Vừa khéo ánh đèn soi đúng bộ mặt xanh xám và cái miệng trông ác nghiệt tàn nhẫn.

Đôi mắt ẩn sâu dưới bóng tối của chiếc nón cứ nhìn chằm chặp vào bờ vai trần của Tử Linh. Già nửa người Tử Linh đã thụt vào trong chăn nhưng bất kỳ ai trông thấy phần cơ thể của cô ta lộ ra ở ngoài chăn cũng đều tưởng tượng ra nhất định Tử Linh đang khỏa thân hoàn toàn và nhất định sẽ nghĩ toàn thân cô cũng mềm mại nhẵn nhịu láng bóng như bờ vai kia. Dĩ nhiên Tử Linh thừa biết khi đàn ông trông thấy cô ta như vậy thì trong lòng sẽ nghĩ gì nhưng không vì thế mà Tử Linh co nốt phần thân thể lộ liễu ở ngoài vào trong chăn. Cô ta khoái được đàn ông nhìn ngắm.

Thôi Lão Tam ấn sụp vành nón xuống thấp thêm chút nữa, lạnh lùng hỏi:

"Người đàn bà này là ai?" Trúc Diệp Thanh đáp:

"Cô ấy là người của mình, không can gì." Tử Linh nhếch miệng lên, bỗng hỏi:

"Vị Thôi Lão Tam đây có phải là "Vân Trung Kim Cương" Thôi Lão Tam không?" Trúc Diệp Thanh mỉm cười đáp:

"Nhiều năm trước trên đường Liêu Bắc chúng ta đã quen nhau." Tử Linh bảo:

"Vì thế chàng biết Hỗ Sắt không phải là ông ta?" Vừa nghe đến tên Hỗ Sắt, hai bàn tay Thôi Lão Tam đã nắm chặt lại ngay.

Trúc Diệp Thanh cười bảo:

"Bây giờ dù Hỗ Sắt là ai cũng chẳng quan hệ nữa, ta đã thay ông giết gã rồi." Thôi Lão Tam hỏi:

"Xác hắn còn không?" Trúc Diệp Thanh bảo:

"ở ngoài ấy, ông có thể mang đi tùy ý." Thôi Lão Tam "hừ" một tiếng. Người đã chết còn cái xác lão ta cũng chẳng chịu bỏ qua, đủ thấy oán thù giữa họ sâu độc biết chừng nào. Trúc Diệp Thanh hỏi:

"Người tôi cần sao rồi?" Thôi Lão Tam bảo:

"Ta đã nói chịu trách nhiệm đưa họ tới, họ nhất định tới." Trúc Diệp Thanh hỏi:

"Đến cả chín người chứ?" Thôi Lão Tam đáp:

"Không thiếu một ai." Trúc Diệp Thanh hỏi:

"Gặp gỡ ở đâu?" Thôi Lão Tam đáp:

"Họ cũng thích đàn bà, họ đều nghe biết ở đấy có mụ Cả Hàn..." Trúc Diệp Thanh cười bảo:

"Giờ mụ Cả Hàn không còn nữa rồi, nhưng ta vẫn đảm bảo làm họ thỏa mãn". Đôi mắt Thôi Lão Tam sắc như lưỡi dao ẩn dưới vành nón đăm đăm nhìn Trúc

Diệp Thanh lão lạnh lùng bảo:

"Ngươi phải làm cho họ thỏa mãn vì đây đối với họ là lần cuối cùng!" Trúc Diệp Thanh cau mày:

"Tại sao lại là lần cuối?" Thôi Lão Tam cười nhạt bảo:

"Tự ngươi cũng biết rồi, lần này họ tới đâu phải tới để giết người mà là để người giết!"

Trúc Diệp Thanh hỏi:

"Để người giết?" Thôi Lão Tam đáp:

"Gã A Cát kia giết được Hỗ Sắt nhất định sẽ giết được hết bọn họ!" Trúc Diệp Thanh lại cười:

"Xem ra chẳng việc gì ta giấu nỗi ngươi!" Thôi Lão Tam lạnh lùng bảo:

"Ta sống được tới nay toàn dựa vào số may đó thôi!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Vì vậy ngươi còn sống dài!" Thôi Lão Tam bảo:

"Hừ!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Vì thế ta bảo đảm với ngươi nhất định ngươi sẽ được sống càng tiêu dao tự do tự tại so với trước kia!"

Thôi Lão Tam:

"Hử?" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Vì thế kẻ khác có bị chết không lành người cũng bất tất phải thương xót làm gì!" Thôi Lão Tam đăm đăm nhìn Trúc Diệp Thanh rất lâu rồi mới từ từ bảo:

"Ta tuy vào Hắc Sát nhưng bọn kia đâu phải bè bạn của ta!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Thì bọn họ cũng đâu có chịu kết bạn với ngươi!" Thôi Lão Tam bảo:

"Ta căn bản không có bạn, chẳng có lấy một người bạn nào bởi vì xưa nay ta chẳng tin bất kỳ ai!"

Trúc Diệp Thanh hiểu ngay:

"Vì thế lời ta nói ngươi cũng chẳng tin mấy chứ gì?" Thôi Lão Tam cười nhạt.

Trúc Diệp Thanh bảo:

"Nhưng ta lại có thể cho ngươi thấy bảo đảm của ta!" Thôi Lão Ta hỏi:

"Bảo đảm gì?" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Ngươi muốn gì cùng được hết!" Thôi Lão Tam bảo:

"Ta muốn ngươi viết cho ta một tờ chứng nhận nói là ngươi muốn ta làm các việc đó cho ngươi. Được không?"

Trúc Diệp Thanh đáp ngay:

"Được!" Thôi Lão Tam lại bảo:

"Ta muốn trước trưa ngày mai ngươi phải đưa mười vạn lạng bạc mặt vào ngân mục của ta ở ngân hàng "Lợi Ký"!"

Trúc Diệp Thanh đáp ngay:

"Được!" Thôi Lão Tam chuyển ánh mắt sáng bờ vai trần của Tử Linh bảo:

"Ta còn cần người đàn bà này!" Trúc Diệp Thanh đáp ngay:

"Điểm này thì quá dễ, ngay bây giờ ngươi có thể đưa cô ta đi!" Nói rồi gã lật tung mảnh chăn đang che trên người Tử Linh ra. Gió lạnh từ cửa sỗ thốc vào làm thân thể Tử Linh run rẩy uốn éo cứ như rắn quằn quại. Thôi Lão Tam thấy cỗ họng cứ nóng rực lên từng hồi. Mọi bộ phận cơ thể của cô gái này còn đẹp hơn nhiều so với tưởng tượng của lão. Khi Tử Linh run rẩy đôi chân cô càng khép chặt lại. Họng cô như cũng bị đè nghẹt.

Đúng lúc ấy từ dưới cái chăn bị nhấc lên bỗng lóe lên ánh kiếm. Một thanh kiếm bay ra như tia chớp cắm trúng cuống họng Thôi Lão Tam. Đôi mắt lão lồi lên, trợn trừng nhìn Trúc Diệp Thanh. Trúc Diệp Thanh mặt không đỗi sắc lạnh lùng bảo:

"Nhất định ngươi không ngờ được là ta biết dùng kiếm nhỉ!" Cỗ họng Thôi Lão Tam ằng ặc kêu lên nhưng không thốt ra được lời nào nữa. Lão sống được đến giờ không phải là dễ nhưng lão chết lại quá dễ!

*** Mũi kiếm còn dính máu.

Tử Linh thở dài bảo:

"Cứ gì lão không ngờ tới, ngay thiếp còn chẳng nghĩ ra nữa là!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Không ngờ tới là ta biết dùng kiếm?" Tử Linh đáp:

"Chàng chẳng những biết dùng kiếm mà còn là cao thủ dùng kiếm!" Trúc Diệp Thanh lạnh lùng bảo:

"Giờ đây nàng phải biết rõ điều này ta không chỉ là cao thủ dùng kiếm mà là cao thủ của các cao thủ dùng kiếm!"

Trong mắt Tử Linh bỗng lộ vẻ khiếp sợ, bỗng cô ta nhào tới ôm lấy Trúc Diệp Thanh dán sát tấm thân trần trụi vào người gã mà bảo:

"Có điều chàng cũng nhất định phải biết là thiếp tuyệt đối không bao giờ làm lộ bí mật của chàng cũng như là thiếp sớm biết là không bao giờ chàng lại đem thiếp cho người khác!" Trúc Diệp Thanh trầm ngâm rất lâu, cuối cùng gã vươn tay ôm lấy eo Tử Linh dịu giọng bảo:

"Ta biết rồi!" Tử Linh thở ra một hơi dài nhẹ nhõm bảo:

"Chỉ cần chàng tín nhiệm thiếp, việc gì thiếp cũng sẵn sàng làm vì chàng!" Trúc Diệp Thanh nói ngay:

"Giờ ta đang có việc muốn nàng làm đây!" Tử Linh hỏi:

"Việc gì cơ?" Trúc Diệp Thanh đáp:

"Nàng tới thay mụ Cả Hàn đón tiếp đoàn anh em Hắc Sát, nghĩ cách làm sao cho tất cả họ đều thỏa mãn hài lòng thì họ mới sẵn sáng liều mạng vì lão chủ lớn, liều mạng để giết A Cát và A Cát quyết sẽ không bỏ qua cho họ đâu!" Gã chợt cười lên:

"Có điều đó còn là việc chiều mai, giờ chúng ta còn có việc gì khác phải làm nữa nào!"

*** Nếu ta đã thật sự chinh phục được một người phụ nữ thì rõ ràng là người ấy sẽ sẵn sàng làm tất cả vì ta! Tử Linh tỉnh dậy, chỉ thấy toàn thân rã rời, chân tay tê mỏi, không còn chút sức lực nào cơ hồ đến mở mắt ra cũng không nỗi. Đến khi mở mắt được thì mới biết Trúc Diệp Thanh nằm chung gối đã đi đâu mất, vết máu và xác người trên mặt đất cũng chẳng thấy đâu. Nàng lại co quắp cuộn mình trong chăn rất lâu tựa hồ đang nếm lại dư vị cuộc vui cuồng loạn đầy kích thích đêm qua. Nhưng đợi đến khi xác định dứt khoát là Trúc Diệp Thanh không có ở nhà, cô ta bèn bật nhanh dậy khoác vội mỗi cái áo, cứ chân trần thế mà chạy vút ra ngoài. Nhưng vừa đẩy cửa cô ta đã ngẩn người ra. Một ông già gù đầu bạc phơ phơ đang đứng ngoài cửa nhìn Tử Linh bằng bộ mặt chằng chịt đầy vết dao chém và nụ cười âm hiểm đầy bí ẩn.

Tử Linh thất thanh hỏi:

"Ông là ai?" Giọng ông già gù còn khàn đặc, cay nghiệt và tàn nhẫn hơn nhiều so với giọng

Thôi Lão Tam:

"Tôi đến báo tin!" Tử Linh hít một hơi thật dài:

"Có việc gì?" Ông già gù bảo:

"Anh em Hắc Sát đã đến từ sớm, đang ở nhà mụ Cả Hàn đợi cô nương tới!" Tử Linh hỏi:

"Có phải ông theo ta không?" Ông già gù cười trông càng đáng sợ hơn, bảo:

"Diệp tiên sinh mấy lần dặn dò là nếu tôi rời xa cô nương nửa bước thì hai chân tôi sẽ bị chặt quẳng cho chó nhá!"

*** Chẳng phải bờ đê trồng đầy liễu, cũng không có trăng tàn gió sớm.

A Cát cũng không say!

*** Tối hôm qua cơ hồ A Cát có thể say nhưng lại không say. Chàng đi qua rất nhiều chỗ bán rượu, rất nhiều lần dừng lại định mua rượu nhưng chàng lại nhịn. Cứ nhịn chịu như thế cho tới nửa đêm, tới khi chàng không nhịn được nữa thì chàng bỏ đi tìm "cô bé" và Lão Miêu Tử. Chàng cho là giờ này đi tìm họ nhất định sẽ an toàn. Vì Đại Ngưu tuy chẳng phải là người bình thường, nhưng gia đình anh ta thì đúng là một gia đình bình thường. Bình thường mà tầm thường!

Một gia đình như thế vào lúc nửa đêm thì phải ngủ cả rồi, làm gì còn có khách tới chơi. Như thế chỉ có cách chàng lăng lặng lẻn vào nhà, cầm lấy tay Miêu Tử, nhìn mắt "Cô bé" một cái, nhỡ may có làm thức giấc vợ Đại Ngưu thì có thể nói một lời xin lỗi rồi đi. Chàng đã gặp vợ Đại Ngưu. Đó là một người phụ nữ bình thường, vụng về, chỉ cần chồng con sống yên lành là đã đủ thỏa mãn rồi. Ngôi nhà họ ở do chị ta dựa vào lòng yêu chồng con ấy, tiết kiệm cùng với đôi tay biết làm việc vá may đường kim mũi chỉ mà mua được. Đó là một nếp nhà lè tè xấu xí có ba gian một phòng sảnh. Người giúp việc ở trong gian bé nhất, chị ta với đứa con nhỏ và chồng ở gian to nhất còn gian nữa thì con trai cả và em gái ở. Con trai cả chị ta mới mười một tuỗi. A Cát tới ở nhà họ một lần đưa "Cô bé" và

Miêu Tử đến, thấy gia đình họ lòng A Cát bỗng trào lên biết bao cảm xúc và rất lấy làm lạ là một con gười đã có một gia đình như thế làm sao lại có thể đi làm những chuyện thế kia?!

"Cũng chỉ để nuôi gia đình thôi!" Đại Ngưu giải thích:

"Muốn mình sống được, muốn để gia đình sống được thì việc gì tôi cũng làm tất!" Anh ta nói có lẽ là nói thực cũng có thể không phải như thế, nhưng A Cát nghe mà thấy chua xót trong lòng. Trải qua những ngày khỗ sở này chàng mới hiểu một con người muốn sống được không phải dễ dàng như chàng vẫn tưởng những ngày xưa và rõ ràng họ phải làm những điều mà bản thân họ không muốn làm chút nào! Tuy chàng mới chỉ đi qua có một lần nhưng gia đình này đã để lại trong lòng chàng ấn tượng vô cùng sâu sắc vì vậy lần này lại tối, chàng đã mua ít kẹo để cho trẻ con nhà Đại Ngưu.

Thế mà giờ đây kẹo đã rơi hết cả trên mặt đất! Vì gia đình Đại Ngưu không có đây, các con Đại Ngưu không có đây thậm chí con bé giúp việc cũng không có nốt. Quả thực trong nhà vẫn còn Lão Miêu Tử một mình ngây ngây dại dại ngồi trong phòng khách trước một cái bàn bày đầy thức ăn với rượu, đôi mắt đờ đẫn.

Phòng khách bày biện rất giản dị thô kệch. Trên khám thờ là hai bức tranh thờ mà qua bất kỳ chỗ nào cũng có và chẳng có chút gì giống nhau: Quan Thế Âm Bồ Tát với Quan Phu Tử (tức Quan Công Quan Vân Trường thời Tam Quốc ư ND). Khám thờ treo trên tường đối diện với cái bàn, một cái bàn ọp ẹp cũ rích và thô kệch nhưng bây giờ lại bày đầy sơn hào hải vị sang trọng, toàn những thức ăn, rượu, thịt mà gia đình họ làm sao có thể cáng đáng lo liệu nỗi. Rượu loại Trúc Diệp

Thanh lâu hai chục năm, lại còn kèm thêm cua gạch lớn ở hồ Dương Đăng và vây cá hấp do ngựa phi chở tới.

Miêu Tử đang ngồi đối diện với bàn tiệc ấy mà ngẩn ngơ. Đôi mắt thì đờ đẫn, thẫn thờ, chẳng có một chút biểu hiện tình cảm nào.

Lòng A Cát bỗng trầm nặng xuống. Qua đôi mắt đờ đẫn thẫn thờ kia chàng đã thấy điềm báo trước tai họa chẳng may nào đó. Miêu Tử chỉ ngoái đầu nhìn A Cát bỗng buông một tiếng:

"Ngồi!" Trước mặt anh ta là cái ghế trống, A Cát liền ngồi xuống.

HỒI 21 - ĐỘI HẮC SÁT KINH KHỦNG

Miêu Tử nâng chén bảo:

"Uống!" Ngồi nơi trước mặt có chén, trong chén có rượu nhưng A Cát không uống. Miêu Tử khoặm mặt bảo:

"Bàn tiệc này chuẩn bị cho chú, rượu cũng vì chú mà chuẩn bị!" A Cát hỏi:

"Vì thế mà tôi nhất định phải uống ử" Miêu Tử bảo:

"Nhất định!" A Cát ngần ngừ rồi cuối cùng cũng cất chén, một tợp uống cạn:

"Rượu Trúc Diệp Thanh!" Miêu Tử bảo:

"Trúc Diệp Thanh là rượu ngon!" A Cát bảo:

"Tuy rượu ngon nhưng người không tốt!" Mặt Miêu Tử bỗng co rút lại, chiếc vòng tai đeo nơi tai bắt đầu rung động không ngừng. A Cát hỏi:

"Anh đã gặp cái người tên là Trúc Diệp Thanh chưa?" Miêu Tử nghiến chặt răng bỗng anh ta nhặt một con cua ném ra trước mặt bảo:

"Ăn đi!" Vừa đập vỡ cái mai cua đã thấy một tảng gạch cua đầy ắp tựa hồ đang cháy bỏng. Xem ra mâm rượu thịt này rõ ràng vừa bày ra chưa lâu.

Lẽ nào Trúc Diệp Thanh đoán trúng là A Cát sẽ tới vì thế mới bày sẵn bàn tiệc để đợi chàng? A Cát nhịn không được, hỏi:

"Bây giờ con người gã đâu rồi?" Miêu Tử hỏi:

"Ai?" A Cát đáp:

"Trúc Diệp Thanh!" Miêu Tử nhấc một bình rượu đầy ắp lên bảo:

"Đây là Trúc Diệp Thanh, Trúc Diệp Thanh ở trong này này!" Tay anh ta run dữ đến nỗi cơ hồ bình rượu cũng cầm không vững. A Cát đón lấy bình rượu thì phát hiện ra tay mình còn lạnh hơn cả bình rượu.

Chàng đã phát hiện ra mình phán đoán sai vì chàng đánh giá Trúc Diệp Thanh quá thấp. Sự phán đoán sai đó chưa vị tất đã làm chàng phải táng mạng nhưng nhất định sẽ làm hại đến người khác.

Lại uống cả chén rượu đầy ắp, A Cát mới đủ dũng khí hỏi:

"Cô bé đâu?" Miêu Tử tuy hai tay nắm rất chặt nhưng tay rung đến phát sợ bỗng anh ta to tiếng bảo:

"Chú còn muốn hay không muốn gặp nó?" A Cát bảo:

"Muốn!" Miêu Tử bảo:

"Nếu thế tốt nhất là chú nghe tôi ăn nhiều uống nhiều và nói ít thôi!" Quả nhiên A Cát không nói câu nào nữa. Miêu Tử bảo chàng ăn thì chàng ăn nhiều, bảo chàng uống thì chàng uống mạnh nhưng hương vị ngon ngọt của rượu Trúc Diệp Thanh vào đến miệng chàng chỉ thấy chua cay, chát đắng. Nhưng dù rượu có cay đắng đến đâu cũng đều phải uống vào, cho dù là rượu độc chàng vẫn cứ uống.

Miêu Tử nhìn A Cát, đôi mắt trống rỗng bỗng lấp lánh ánh lệ. A Cát không nỡ nhìn anh ta, mà cũng không dám nhìn anh ta.

Miêu Tử uống cạn mấy chén, bỗng dưng bảo:

"Phía sau nhà trong có giường đấy!" A Cát bảo:

"Tôi biết rồi!" Miêu Tử bảo:

"Ăn no uống đủ rồi mới ngủ được ngon!" A Cát bảo:

"Tôi biết rồi!" Miêu Tử bảo:

"Ngủ ngon giấc mới đủ tinh thần khí lực mới có thể đi giết người được!" A Cát hỏi:

"Giết Lão Chủ Lớn ử" Miêu Tử gật đầu bảo:

"Giết được Lão Chủ Lớn mới được gặp "Cô bé"!" Nói xong câu đó, lệ trong mắt anh ta tựa hồ giữ không nỗi phải trào ra. Mắt A Cát nheo lại chàng nhắc lại câu nói ấy lần nữa:

"Giết được Lão Chủ Lớn mới được gặp "Cô bé"!" Nói xong câu đó chàng lập tức bắt đầu ăn mạnh uống mạnh. Miêu Tử uống cũng không hề chậm hơn chàng và ăn cũng không hề ít hơn chàng. Cả hai người không nói không rằng, một vò rượu, một bàn thức ăn rất mau bị họ vét sách trơn. A Cát bảo:

"Giờ tôi phải đi ngủ đây!" Miêu Tử bảo:

"Chú đi đi!" A Cát chậm rãi đứng dậy đi vào phòng phía sau, khi đến cửa không nén được phải quay đầu lại nhìn thì thấy Miêu Tử mặt đầm đìa nước mắt. Lão Chủ Lớn đang trải cuộn giấy Trúc Diệp Thanh trao cho ở dưới đèn: trên giấy có ghi mấy tên người. Bạch Mộc. Đệ tử phái Võ Đang sau khi bị đuỗi khỏi môn phái vẫn ăn mặc quần áo đạo giáo, đeo kiếm, thân cao sáu thước tám tấc (ta), mặt vàng, mình gầy, góc mày có nốt ruồi.

Thỗ hòa thượng. Xuất thân từ Thiếu Lâm, giả đóng vai đầu đà (hòa thượng lang thang xin ăn khắp nơi ư ND) thân cao tám thước, giỏi môn Phục Hỗ La Hán thần quyền, trời sinh có thần lực. Hắc Quỷ. Lãng tử ở Quan Tây, sử đao, hay giết người, thân cao sáu thước, quanh năm vận đồ đen, dùng đao Miến Điện có thể dùng làm thắt lưng (loại đao mềm ư ND) Tá Tá Mộc. Đảo Đông Mãn, lãng nhân nước Cửu Châu, sử đao Đông Dương, thân dài sáu thước, tàn khốc hiếu sát.

Giang Đảo. Em Tá Tá Mộc, giỏi khinh công ám khí, vốn là truyền nhân phái "Y Hạ" ở Phù Tang Đảo (tức Nhật Bản). Đinh Nhị Lang. Vốn là đệ tử nhà danh giá ở Quan Trung, vét sạch gia tài bỏ đi lưu lạc giang hồ, ưa tửu sắc, sử kiếm.

Thanh Xà. Giỏi cơ trí biến hóa, thân cao sáu thước ba tấc. Lão Sài. Nhiều tuỗi nhất hội, râu quai nón, hay rượu thường say, năm xưa chuyên làm thích khách (giết thuê), giết người không tính toán, mấy năm gần đây thường vì tham chén mà hỏng việc.

Phủ Đầu. Đại hán cao chín thước, sử đại phủ (búa lớn), khỏe mạnh thô lỗ, tính nóng như lửa. Xem xong danh sách tên chín người Lão Chủ Lớn mới khe khẽ thở ra một hơi, ngẩng đầu bảo:

"Ngươi thấy thế nào?" Lão hỏi người đang đứng nghiêm cúi đầu ở trước mặt lão. Người này tuỗi còn rất trẻ nhưng mặt đầy vẻ tinh khôn được việc. Bình thường rất ít người quanh quẩn gần Lão Chủ Lớn được thấy người kia, dĩ nhiên lại càng không biết địa vị của gã ngày càng trọng yếu trong lòng trong mắt Lão Chủ Lớn, vì vậy mọi người ai ai cũng đều gọi gã là "Chú em", còn gã cũng tựa hồ quên phắt cả tên thật của mình.

Gã bình thường ít hay trò chuyện. Chỉ khi nào Lão Chủ Lớn hỏi gã mới mở miệng nói:

"Coi bộ chín người này đều là các hảo thủ quen giết người cả!" Lão Chủ Lớn bảo:

"Người họ giết không ít à?" "Chú em" đáp:

"Phải!" Lão Chủ Lớn lại hỏi:

"Ngươi xem họ liệu có đối phó được với tên A Cát vô dụng không?" "Chú em" ngần ngừ bảo:

"Họ những chín người, A Cát chỉ có hai tay. Họ giết người chắc nhiều hơn A Cát là chắc!" Lão Chủ Lớn mỉm cười trao cuộn giấy cho "Chú em" bảo:

"Sớm mai cho người chia ngả đi đón họ. Cứ có người của họ tới thì đưa ngay về chỗ mụ Cả Hàn." "Chú em" đáp:

"Vâng!" Lão Chủ Lớn bảo:

"Bọn họ nhất định sẽ chia tốp ra mà tới, chín người như vậy tụ tập cả ở một chỗ dễ khiến người chú ý lắm đấy nhé!" Trời rạng sáng. Chợ sớm mở cửa. Đúng là lúc quán trà náo nhiệt nhất. Quán trà cũng là nơi đám anh em thuộc quyền Lão Chủ Lớn lăng xăng hoạt động nhất. Trong đám này thậm chí có những kẻ cũng chẳng biết Ông Chủ Lớn mặt ngang mũi dọc ra sao vì chưa bao giờ được gặp mặt nhưng người nào người nấy đều sẵn sàng bán mạng vì Ông Chủ Lớn.

Lão Chủ Lớn đứng chân được ở đất này chỉ vì có bọn trẻ vong mạng này làm bộ hạ cơ sở cho lão. Mỗi khi thấy có ai hỏi đến Ông Chủ Lớn là cả lũ lại nhẩy dựng cả lên.

Người vừa hỏi Ông Chủ Lớn trông người cứ như cái cán giáo, ngang lưng đeo một cây kiếm. Lão rất cao, rất gầy, mặc quần áo chẽn mình mầu đen, hành động mạnh mẽ và nhanh nhẹn. Lão cưỡi ngựa phi tới. Cùng đi với lão tới còn hai người nữa trông vẻ mặt rất dày dạn phong trần, chắc là từ phương xa tới.

Ngựa vừa dừng vó, người đã như mũi tên vọt luôn vào, ánh mắt chim ưng quét một lượt qua đám đông rồi hỏi ngay:

"ở đây ai là anh em của Ông Chủ Lớn?" Dĩ nhiên có người. Vừa nghe câu hỏi đó trong quán trà ít nhất có cả chục người nhẩy nhỗm. Người áo đen hỏi:

"Là các người cả ử" Trùm đám anh em cả một giải quanh đây gọi là "Trương Tam" lập tức hỏi lại ngay:

"Ông tìm Ông Chủ Lớn làm gì?" Lão áo đen bảo:

"Ta có ít đồ vật muốn bán cho ông ta!" Trương Tam hỏi:

"Đồ vật gì?" Lão áo đen đáp:

"Mười vạn lượng." Trương Tam bảo:

"Ba mạng mà mười vạn lượng cũng không đắt!" Lão áo đen bảo:

"Thì vốn không đắt!" Trương Tam sa sầm nét mặt bảo:

"Nhưng ta chưa thấy rõ bằng vào cái gì mà các người đòi giá mười vạn lượng chứ?" Lão áo đen bảo:

"Bằng vào cây kiếm của Trương Tam đây!" Chữ "kiếm" vừa buông khỏi miệng kiếm cũng rút khỏi bao, chỉ nghe "vù" một tiếng gió kiếm xé không khí liền đó lại nghe "keng" một tiếng trên bàn đã có ba chén trà bị xuyên đầu mũi kiếm. Trương Tam biến sắc mặt.

Lão áo đen hỏi:

"Thế nào?" Trương Tam khen:

"Giỏi! Kiếm nhanh tuyệt!" Lão áo đen hỏi:

"So với gã A Cát thế nào?" Trương Tam hỏi lại:

"A Cát?" Lão áo đen bảo:

"Nghe nói nơi đây xuất hiện một kẻ gọi là A Cát thường ngày gây sự cùng Ông Chủ Lớn, phải thế không?" Trương Tam hỏi:

"Các ông là người đến làm chuyện đó phải không?" Lão áo đen bảo:

"Hàng tốt phải bán cho người biết người biết của!" Trương Tam thở ra nhẹ nhõm cười góp bảo:

"Tôi xin bảo đảm Ông Chủ Lớn là người biết người biết của!" Bỗng nghe thấy có người lạnh lùng bảo:

"Chỉ e ba vị đây lại chẳng phải là hàng tốt!" Trương Tam ngẩn người ra. Câu này không phải phát ra từ đám anh em của y mà người nói lại ở đằng sau bọn áo đen. Khi nãy rõ ràng chỉ có hai đồng bọn đi theo lão áo đen bây giờ bỗng dưng lại hóa thành ba người. Không ai thấy rõ ràng người kia xuất hiện từ lúc nào! Mà từ đâu tới mới được chứ?

Người đó cũng mặc quần áo đen, thân hình so với lão áo đen gầy nhỏ hơn một ít, đứng kẹp vào giữa hai đồng bọn của lão áo đen thân hình cao lớn lực lưỡng có vẻ như bất kỳ lúc nào cũng có thể bị ép chặt lại. Đằng này hai gã đồng bọn của lão áo đen cao to lại không thấy động cựa gì cả. Bọn chúng đâu có phải loại người bị kẻ khác làm nhục mà không dám đương đầu? Hai gã đi theo lão áo đen suốt bao nhiêu năm vào sinh ra tử thân trải qua trăm trận chứ ít gì! Lão áo đen nghe sau lưng có tiếng người nói nhưng vẫn chưa quay đầu lại, người đã vọt ra xa, nghiêm giọng bảo:

"Bắt lấy nó!" Nhưng hai gã đồng bọn của lão áo đen lại chẳng có chút phản ứng gì mà chỉ thấy sắc mặt biến đỗi, biến mầu rất là kỳ quái. Lão áo đen quay lại và mặt lão cũng biến sắc luôn. Hai tên đồng bọn của lão không chỉ sắc mặt biến đỗi thành xấu xa và méo mó mà liền sau đó máu tươi từ tai, mũi, mắt, miệng trào ra đồng thời.

Người nhỏ nhắn áo đen đứng kẹp vào giữa chúng mặt không một chút biểu hiện tình cảm gì. Mặt lão ta rất nhỏ, mắt cũng ti hí luôn, có điều trong ánh mắt phảng phất có vẻ cười ác độc của loài rắn độc. Rắn độc đâu biết cười nhưng nếu rắn độc biết cười thì sẽ giống kiểu cười của lão này.

Nhìn thấy cặp mắt kia, lão áo đen bất giác ớn lạnh, nếu không nỗi phải rùng mình một cái rồi nghiêm giọng hỏi:

"Phải ngươi giết họ không?" Người áo đen có đôi mắt rắn độc tàn ác kia lạnh lùng bảo:

"Ngoài ta hỏi còn ai?" Lão áo đen hỏi:

"Ngươi là ai?" Người áo đen kia đáp:

"Hắc Quỷ của Hắc Sát!" Nghe thấy mấy tiếng ấy mặt lão áo đen biến thành đáng sợ hơn:

"Ta họ Đỗ, Đỗ Phương!" Hắc Quỷ (Quỷ đen) bảo:

"Hắc Sát Kiếm" Đỗ Phương! Đỗ Phương gật đầu bảo:

"Chúng ta xưa nay nước sông không phạm vào nước giếng, ngươi..." Hắc Quỷ cắt ngang lời lão bảo:

"Nếu thế thì đáng lẽ các ngươi không nên tới đây!" Đỗ Phương bảo:

"Chẳng lẽ việc này các ngươi cũng hứng lấy ử" Hắc Quỷ bảo:

"Chẳng lẽ chúng ta không nên hứng lấy ử" Đỗ Phương bảo:

"Ta biết là việc gì Hắc Sát đã hứng lấy thì người khác đừng thò vào làm gì!" Hắc Quỷ bảo:

"Ngươi biết thế là hay!" Đỗ Phương bảo:

"Nhưng chúng ta đâu có biết các ngươi lại nhúng tay vào vụ này!" Hắc Quỷ:

"Hử?" Đỗ Phương bảo:

"Vì thế ngươi không nên cứ nhất định phải giết người!" Hắc Quỷ bảo:

"Nhất định giết!" Đỗ Phương hỏi:

"Tại sao?" Hắc Quỷ bảo:

"Ta thích giết người!" Hắn nói là thật. Bất kỳ ai chỉ cần nhìn thấy cặp mắt của hắn đều có thể nhận ra ngay là hắn rất thích giết người. Đỗ Phương đang nhìn vào cặp mắt của Hắc Quỷ. Cả hai bên đều co nhỏ đồng tử lại. Kiếm của Đỗ Phương đã rút ra rồi. Sức mạnh của cây kiếm này so với lúc nãy đâm xuyên chén trà trong quán còn mạnh hơn nhiều, tốc độ còn nhanh hơn nhiều và không phải đâm vào họng của Hắc Quỷ mà vào lồng ngực hắn. Lồng ngực con người lớn nên không dễ tránh né. Thế mà Hắc Quỷ lại tránh thoát.

Hắc Quỷ vừa tránh thoát thì hai đại hán đang sừng sững kẹp hai bên hắn đỗ ập vào Đỗ Phương. Đỗ Phương vừa giơ tay lên đỡ thì Hắc Quỷ đã luồn vào sát hông lão. Chẳng ai thấy Hắc Quỷ ra tay thế nào mà chỉ thấy sắc mặt Đỗ Phương bỗng biến đỗi, giống y như hai tên đồng bọn khi nẫy của lão. Không chỉ sắc mặt thay đỗi mà ngũ quan tai mắt mũi miệng cũng thay đỗi vị trí, thay đỗi đến nỗi làm khuôn mặt trở nên xấu xa méo mó và sau đó máu tươi từ bẩy khiếu cùng lúc ứa ra.

Quán trà bỗng nồng nặc mùi thối tha. Hai người bỗng đỏ bừng mặt lên ngồi thụp xuống, phân và nước tiểu tóe ra. Tuy vậy đâu có ai cười họ vì ai ai cũng sợ tưởng mất mật. Giết người chưa hẳn đã đáng sợ. Điều đáng sợ là cung cách giết người. Đối với Hắc Quỷ giết người không chỉ là việc giết người mà là một nghệ thuật, là một sự hưởng thụ! Cho tới khi xác Đỗ Phương đã lạnh hẳn, Hắc Quỷ vẫn đứng áp sát bên sườn của lão để hưởng thụ cái mùi vị của một con người đang chết dần chết dần. Nếu ta có dịp có cảm giác một khi áp sát vào xác một con người từ sống đến chết dần lạnh dần cứng dần thì mới có thể hiểu hết được ý vị ra sao mà Hắc Quỷ đang thưởng thức.

Không biết sự việc kéo dài bao lâu, Trương Tam mới nhấc được chân lên. Hắc Quỷ ngẩng đầu nhìn Trương Tam hỏi:

"Giờ ngươi biết ta là ai rồi chứ?" Trương Tam đáp:

"Biết!" Gã không dám đối mặt với con người kia và áo quần gã đã ướt đầm đìa vì mồ hôi lạnh. Hắc Quỷ bảo:

"Ngươi sợ tả" Trương Tam không dám phủ nhận cũng không dám thừa nhận. Hắc Quỷ bảo:

"Ta biết là ngươi cũng đã từng giết người, thế sao ngươi còn sợ?" Trương Tam ấp úng:

"Chỉ vì... chỉ vì..." Hắc Quỷ bảo:

"Chỉ vì cung cách giết người của ta đáng sợ chứ gì, lại còn vì ta thích giết người phải không?" Trương Tam không thể trả lời cũng không dám trả lời. Hắc Quỷ bỗng hỏi:

"Ngươi đã gặp Bạch Mộc bao giờ chưa?" Trương Tam đáp:

"Chưa ạ!" Hắc Quỷ bảo:

"Nếu ngươi được thấy lão giết người thì mới thật sự hiểu phải giết người ra sao mới thật sự chân chính là giết người!" Bàn tay Trương Tam bỗng túa mồ hôi lạnh. Chẳng lẽ Bạch Mộc giết người còn chuẩn xác, còn tàn khốc hơn tên này?

Hắc Quỷ lại hỏi:

"Ngươi đã gặp Giang Đảo và Tá Tá Mộc chưa?" Trương Tam đáp:

"Chưa ạ!" Hắc Quỷ bảo:

"Nếu ngươi gặp họ thì mới hiểu thế nào là thích giết người!" Rồi hắn lạnh nhạt nói tiếp:

"Ta giết người ít nhất cũng còn có lý do, còn họ giết người chẳng qua chỉ vì hứng thú bản thân!" Trương Tam nhịn không được phải bật hỏi:

"Chỉ cần họ hứng thú, bất kể lúc nào cũng giết được người ử" Hắc Quỷ đáp:

"Bất kể lúc nào, bất kể chỗ nào, bất kể là ai!" Xác Đỗ Phương đã đỗ xuống. Xác Đỗ Phương đỗ xuống rồi mọi người mới thấy ở dưới nách áo lão thấm đẫm máu đào, nhưng vẫn chưa hề thấy đao của Hắc Quỷ ra sao.

Chỉ có Trương Tam nhìn thấy ánh đao loáng lên rồi lại chui tụt vào trong tay áo Hắc Quỷ. ống tay áo cũng có máu.

Bỗng Hắc Quỷ hỏi:

"Ngươi có biết mùi vị của máu thế nào không?" Trương Tam lập tức lắc đầu quầy quậy. Hắc Quỷ vươn tay ra chìa ống tay áo tận mặt Trương Tam bảo:

"Ngươi nếm đi rồi sẽ biết!" Trương Tam lại lắc đầu, lắc đầu không ngừng. Y chỉ thấy dạ dày mình co rút lại cơ hồ chịu không nỗi đến phải nôn ẹo ra. Hắc Quỷ cười nhạt bảo:

"Chẳng lẽ thủ hạ của Ông Chủ Lớn toàn bọn giá áo túi cơm như loại ngươi đến vị máu cũng không dám nếm ử" "Không phải!" Người vừa nói câu đó vốn ở ngoài cửa, thoáng một cái đã vào sát sau hắn. Hắc Quỷ đột nhiên xoay mình thì thấy bên cạnh là một chú bé áo xanh, thân cao mà thẳng. Chú bé tuỗi tác có vẻ còn rất trẻ, nhưng trên khuôn mặt đã có nếp nhăn vì gian khỗ và vất vả, vì thế thoạt nhìn có thể cho tuỗi tác của chú lớn hơn nhiều so với tuỗi thực.

Hắc Quỷ bảo:

"Ngươi cũng là thủ hạ của Ông Chủ Lớn?" Chú bé đáp:

"Tôi cũng vậy, tôi gọi là "Chú em"!" Hắc Quỷ hỏi:

"Ngươi nếm qua vị máu chưa?"

HỒI 22 - THÂN PHÁP KỲ ẢO

"Chú em" khom mình nhặt cây kiếm của Đỗ Phương lên chọc thẳng vào vũng máu mũi kiếm dính máu và "chú em" liếm sạch. Bỗng gã lật tay cứa tay trái mở một vết cứa, máu tươi vọt ra thì gã ghé miệng vào hút lấy, sau đó mới từ tốn ngẩng đầu lên, thần sắc vẫn không đỗi, "chú em" lạnh nhạt bảo:

"Máu người sống mặc, máu người chết mặn quá hóa đắng!" Mặt Hắc Quỷ không nén được cũng hơi biến sắc, hắn lạnh lùng bảo:

"Nào ta đâu đã hỏi ngươi nhiều đến thế?" "Chú em" đáp:

"Làm một việc gì thì phải làm đến đầu đến đũa!" Hắc Quỷ hỏi:

"Đó là lời ai vậy?" "Chú em" đáp:

"Lời Ông Chủ Lớn!" Hắc Quỷ bỗng cười vang:

"Có người như thế này giúp ông ta, chuyến này chúng ta tới đây cũng khỏi uỗng công!" "Chú em" khom lưng bảo:

"Nếu vậy xin mời theo tôi!" Khi gã quay mình đi, tất cả mọi người không nén nỗi trên mặt đều lộ vẻ tôn kính thật sự. Chỉ có Trương Tam trong mắt tràn ngập vẻ thẹn thùng và đau khỗ. Gã biết đời gã thế là tàn rồi! Người trong thành đang náo nhiệt bỗng lặng yên chỉ nghe thấy tiếng guốc gỗ "lóc cóc lóc cóc" từ xa lại gần và thấy hai người đi đôi guốc gỗ cao đến năm tấc đang loạng choạng bước tới.

Hai người đầu tóc rối bù, hai kẻ lưu lạc xứ Phù Tang, mặt mày nanh ác, áo rộng, ống tay áo to. Một trong hai kẻ thắt một cái thắt lưng toàn tơ rộng đến bẩy tấc giắt một cây đao dài tám thước, nhưng hai bàn tay lại thủ trong ống tay áo rộng. Một kẻ áo bào đen, guốc đen, đến da mặt cũng đen đủi, càng trông càng thấy bí hiểm đáng sợ. Giang Đảo và Tá Tá Mộc đã tới! Thấy chúng, ai nấy đều ngậm miệng. Mặc dầu không ai nhận ra chúng là ai nhưng ai nấy đều có thể cảm thấy từ con người chúng toát ra một thứ sát khí tà ác. Ngay trẻ em cũng cảm thấy vậy.

Một thiếu phụ mỡ màng đang bế đứa con năm tháng tuỗi từ nhà sau hiệu "Thụy Đức Tường" bước ra. Thụy Đức Tường là cửa hàng tơ lụa lớn, còn người thiếu phụ là người vợ mới cưới của ông chủ hiệu trẻ đang ở tuỗi như hoa như nguyệt, lại vừa trải qua thời kỳ đẹp rực rỡ nhất của người đàn bà vừa sinh con đầu lòng, chẳng khác gì mảnh đất vốn đã mầu mỡ lại được mưa xuân nhuần tưới. Vừa thấy nàng ta, mắt Giang Đảo và Tá Tá Mộc đã long lên sòng sọc.

Tá Tá Mộc bảo:

"Cô Hoa mới đẹp đẹp làm sao!" Giang Đảo thì bảo:

"Hay hay làm sao!" Thiếu phụ đang dỡn với đứa con nhỏ trong lòng chợt thấy chúng bộ mặt bầu bĩnh ửng hồng như trái táo chín bỗng trắng bệch ra. Tá Tá Mộc xông tới. Một người làm công trong cửa hiệu đi theo cô chủ tiến lên tươi cười đón khách, ánh đao loáng lên, cánh tay trái đã bị chặt đứt lìa.

Tá Tá Mộc vẫn cầm chắc cây đao còn rỏ máu, cười gằn bảo:

"Cô Hoa chớ sợ, ta thích thú cô Hoa!" Gã đang chuẩn bị xô tới lần này chắc chẳng còn ai dám cản, nào ngờ giây lưng tơ của lão lại bị Giang Đảo túm chặt, một tay giật ngược, một khuỷu thúc ngang con người gã đã bay vọt ra ngoài. Giang Đảo cười toe toét bảo:

"Cô Hoa của ta, ngươi...", câu nói chưa trọn vẹn thì Tá Tá Mộc đã lăng không lật mình chém sả xuống một nhát đao. Nhát đao vừa hung, vừa chuẩn, vừa nhanh. Đây là chiêu "Nghênh phong nhất đao trảm" (đó gió chém một đao) rất có uy lực trong "Kendo" (kiếm đạo) của xứ Phù Tang (Nhật Bản). Tá Tá Mộc ra chiêu dữ dội, tựa hồ căm hận cố làm sao một nhát bửa đôi đầu người em ra làm hai nửa. Con người quả đúng là không chỉ giết người bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào mà đúng là còn giết bất kỳ ai! Nhưng Giang Đảo đâu chịu kém. Gã chỉ lăn một cái luồn ngay dưới mũi đao mà vọt ra ngoài quặt tay vẩy ra ba mũi "Thiết giác ô tinh" (sắt cạnh sao đen) là thứ ám khí độc môn của Y Hạ Nhận Giả sử dụng.

Hai anh em nhà này vì vợ một người khác mà trở mặt liều mạng với nhau. Tá Tá Mộc múa đao vù vù, mỗi nhát đao tung ra đều nhằm chỗ yếu hại của Giang Đảo mà chém. Nhưng thân pháp của Giang Đảo cũng cực kỳ quái dị, lăn lộn khắp mặt đất và tung ám khí ra các kiểu từng từng lớp lớp không cùng.

Bỗng nghe "keng" một tiếng. Ba mũi sao sắt bị hớt rơi, nhưng trường đao cũng khựng lại. Một đạo nhân áo lam vừa cao vừa gầy, tóc búi ngược có giắt một cái thoa gỗ trắng (bạch mộc) tay vẫn cầm cây Thanh Cương Kiếm hớt rơi ám khí Thiết Ô Tinh và đỡ chặn cây trường đao trong chiêu vừa rồi, đạo nhân tung một chân đá tung Giang Đảo ra xa hơn năm trượng và thuận tay tát cho Tá Tá Mộc liền ba bạt tai rồi lạnh lùng bảo:

"Muốn tìm "Hoa cô nương" (cô Hoa, chỉ gái điếm) thì đến nhà mụ Cả Hàn. Đàn bà có con không phải Hoa cô nương!" Hai tên du đãng đất Phù Tang quen hoành hành ngang ngược, cùng hung cực ác, bỗng trở nên ngoan ngoãn nghe theo, gằm đầu củ rủ mà đứng dậy, đến thở hơi dưới cũng hết dám xì ra. Trong đám đông người bỗng vẳng ra tiếng cười nhạt:

"Lão đạo sĩ này tất là tên Bạch Mộc từng bị người ta đuỗi xuống khỏi núi Võ Đang, thật không ngờ đến giờ mà vẫn còn uy phong đến thế!" Lại một giọng cười khác còn khó nghe hơn:

"Trước mặt người nhà mà không ra oai, thử hỏi ngươi, lão còn diễu võ dương oai ở đâu nữa?" Bạch Mộc mặt không đỗi sắc, cái nốt ruồi ở góc chân mày đột nhiên bắt đầu giật giật cất tiếng nói rất lạnh lùng:

"Xem ra đất này cũng rất náo nhiệt đây, đến anh em họ Mễ còn đến nữa là!" Từ đám đông vẳng ra tiếng cười rộ một tràng:

"Lão lông tạp này thính tai thật!" Từ trong tiếng cười, bỗng hai đạo kiếm quang vọt ra như hai cây cầu vồng cắt chéo nhau, một trái một phải đâm tới. Bạch Mộc không nhúc nhích. Giang Đảo, Tá Tá Mộc vội lùi lại.

Nhưng chúng không có cơ hội ra tay. Đằng sau 2 bóng người lẩn theo đạo kiếm quang đã có hai bóng người khác bám sát sạt như bóng theo hình. Hai anh em họ Mễ nương kiếm bay tới, hai người kia cũng bay sát theo sau.

Chỉ nghe thấy tiếng kêu thảm thiết từ trong kiếm quang máu tóe ra bốn phía, hai người từ trên không rơi xuống sau lưng bị một mũi chủy thủ đâm vào ngập tận đốc. Còn hai người đang lăng không kia lật mình, rồi tà tà rơi nhẹ xuống, đúng ngay trên vũng máu, một người sắc mặt xanh xám, một người mặt vẫn còn vẻ say. Đó là Đinh Nhị Lang và Thanh Xà.

Đinh Nhị Lang còn thở dài nhìn hai xác chết trên mặt đất, lẩm bẩm:

"Hóa ra song kiếm nhà họ Mễ cũng chỉ có thế! Hai chúng ta bám sát sau lưng mà cả đôi cứ như người chết rồi, chẳng biết gì cả!" Thanh Xà nói lãng nhách:

"Có thế anh em nhà hắn mới thật sự biến thành người chết chứ!" Bộ mặt lạnh tanh của Bạch Mộc thoáng lộ nụ cười mỉm bảo:

"Thanh Xà xưa nay khinh công giỏi rồi, thật không ngờ khinh công của Đinh Nhị Lang cũng tinh tiến đến thế!" Đinh Nhị Lang bảo:

"Đó là vì đến giờ ta tạm thời vẫn chưa muốn chết thôi!" Đã làm cái nghề giang hồ lạc phách này, nếu ngươi không muốn chết thì phải luyện rèn bản thân bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào! Bạch Mộc mỉm cười bảo:

"Hay! Nói rất hay! Vụ này làm cũng rất hay!" Mắt nhấp nha nhấp nháy, bỗng Đinh Nhị Lang hỏi:

"Tốt nhất là thế nào?" Bạch Mộc vỗ trường kiếm, ngạo nghễ bảo:

"Tốt nhất dĩ nhiên vẫn là cây kiếm của ta!" Kiếm đã vào vỏ. Không ai dám bác lại lão đạo nhân kiêu căng này vì không ai ngăn đỡ nỗi kiếm của lão. Lão cũng quá hiểu điều đó cho nên bất kỳ ở đâu, lúc nào, lão cũng không quên nhắc nhở mọi người chớ có quên. Trong đám Hắc Sát, lão đạo nhân Bạch Mộc vĩnh viễn chót vót ở trên cao.

Bỗng đâu trong đám người đông nỗi lên tiếng gào thét kinh hoàng và tan chạy như đàn kiến, một đại hán máu me đầm đìa, tay lăm lăm cây búa lớn lao tới như bay. Thanh Xà cau mày bảo:

"Chẳng hiểu gã Phủ Đầu lại gây tai họa gì đây?" Nhìn thấy bọn họ, Phủ Đầu lập tức dừng bước mặt lộ vẻ vui bảo:

"Ta chỉ lo đuỗi không kịp các vị!" Bạch Mộc hỏi:

"Việc gì thế?" Phủ Đầu đáp:

"Lão Sài lại uống rượu say gây sự với đám tiêu sự Hà Bắc ở ngoài thành kia kìa!" Bạch Mộc cười nhạt bảo:

"Quả nhiên gây họa lại là lão!" Phủ Đầu bảo:

"Mắt tôi thấy lão đã bị ăn hai đòn. Thật không ngờ, cả tôi vào cũng không xong, thế là đành mở một đường máu chạy đi tìm người cứu viện!" Bạch Mộc cười khẩy:

"Hừ!" Phủ Đầu bảo:

"Lũ tiên sư kia cũng gai góc lắm, mọi người không tới ngay thì sợ Lão Sài chết là cái chắc!" Bạch Mộc lạnh lùng bảo:

"Đã thế để lão chết cho xong!" Phủ Đầu giật mình:

"Để lão bị chết ử" Bạch Mộc bảo:

"Lần này chúng ta tới đây để giết người chứ không đến để người giết!" Bạch Mộc bỏ đi thật, dĩ nhiên cả bọn cũng đi theo cả. Phủ Đầu đứng trơ một mình, ngẩn ngơ hồi lâu cuối cùng cũng chạy theo. Bọn họ giết người giữa phố rồi ngang nhiên bỏ đi. Trên phố già trẻ lớn bé đến mấy trăm con người chỉ biết đứng dương mắt nhìn theo.

Chẳng ai dám dây với bọn họ vì bọn họ có kẻ chẳng sợ mất mặt, có kẻ chẳng sợ mất mạng! Chẳng có ai vừa chẳng sợ mất mặt lại vừa chẳng sợ mất mạng! Khi bọn họ vừa đi xa thì có một lão đầu đà béo phị vác một cây thiền trượng bằng thép ròng to bằng vòng quả trứng vịt từ một lầu rượu ở đối diện hiệu Thụy Đức Tường săm săm đi ra. Người thiếu phụ khi nẫy sợ mất vía, thần hồn chưa định vừa đặt đứa con xuống đứng ở quầy mà thở hỗn hển thì chợt nghe "uỳnh" một tiếng, quầy bán hàng bằng gỗ lim bị hòa thượng kia giáng một thiền trượng đập vỡ tan.

Cây thiền trượng giáng xuống dường như nặng cả ngàn cân rồi lão lại ngoái tay vụt ngang một cái, sức càng mạnh kinh người. Cửa hàng này có tên hiệu đã ba trăm năm có lẻ mà chỉ bị lão đầu đà đập cho có hai ba nhát thiền trượng đã tan tành, trong cửa hàng có cả tá người làm, người thì gẫy tay, kẻ thì gẫy chân và chẳng còn được mấy người có thể đứng được dậy.

Người thiếu phụ sợ quá ngất luôn. Lão đầu đà vươn tay túm nàng nhấc lên như ta nhấc một con gà nhép rồi kẹp vào nách. Tuy kẹp theo một người mà lão cất bước chạy khỏe cứ như bay, chỉ trong khoảnh khắc đã đuỗi kịp lũ đồng bọn, ngoảnh mặt, ngoác miệng rộng mà cười với Bạch Mộc rồi lại vượt qua bọn họ chạy vút đi, chẳng còn thấy bóng dáng đâu nữa. Thanh Xà cau mày bảo:

"Lão hòa thượng này phát rồ chắc?" Bạch Mộc lạnh lùng bảo:

"Bản thân lão vốn đã có chứng điên, cứ độ hai ba ngày lại lên một cơn!" Tá Tá Mộc bảo:

"Người đàn bà bị lão kẹp nách kia tựa hồ như cô Hoa lúc nẫy!" Giang Đảo không nói câu nào vỗ đùi đuỗi theo ngay. Tá Tá Mộc cũng chẳng chịu tụt lại sau, cố sức theo cho kịp. Bỗng nhiên trong cái ngõ ngang đối diện vang lên một tiếng kêu thê thảm, dường như là tiếng lão hòa thượng. Khi cả bọn chạy tới thì lão hòa thượng với cái xác nặng hơn trăm cân đã bị người nào treo lên lủng lẳng trên ngọn cây cỗ thụ, mắt thì lồi ra, đũng quần ướt đẫm vì những nước mắt, nước mũi, nước dãi, nước tiểu và phân ứa ra đồng loạt theo tiếng rú lúc hấp hối ở ngoài ngõ cũng nghe.

Lão hòa thượng này chẳng những có thần lực trời phú cho và công phu ngoại môn luyện tập cũng chẳng tồi, thế mà trong phút chốc đã bị người treo chết cứng trên cây cao còn bóng dáng người giết lão không hề ai thấy. Bạch Mộc lật tay nắm chắc chuôi kiếm, lòng bàn tay ướt đầm mồ hôi lạnh, nhưng lão vẫn không ngừng cười nhạt bảo:

"Giỏi! Thân thủ cũng khá nhanh đấy!" Thanh Xà cau mày:

"Thật không ngờ quanh đây lại có cao thủ bậc này, xem ra họ ra tay còn độc hơn chúng ta!" Đinh Nhị Lang khom lưng tựa hồ nén không nỗi phải nôn ọe đến nơi. Phủ Đầu thì hò hét:

"Nhà ngươi giết được sao không ra mặt được, ra mặt gặp gỡ các ông xem nào!" Ngõ sâu hun hút vẫn lặng ngắt không tiếng hồi âm chẳng thấy bóng dáng một ma nào. Điều Tá Tá Mộc quan tâm không phải chỉ có thế, bỗng hắn bảo:

"Thế còn cô Hoa kia đâu nhở?" Lúc ấy mọi người mới phát hiện ra người đàn bà khi nẫy bị lão đầu đà kẹp ở nách giờ chẳng thấy đâu cả. Rồi cả cây thiền trượng thép ròng tôi luyện cả trăm lần mới thành mà lão đầu đà kể cả khi nằm ngủ cũng không rời tay giờ cũng biến đâu mất. Chẳng lẽ người đàn bà khi nẫy lại là một cao thủ tài năng giấu kín không lộ ra ngoài?

Lão Chủ Lớn ngồi ngất ngưởng trên chiếc ghế bành bọc da hỗ đặc biệt khiêng từ công quán về cho lão ngồi. Lão nhìn bẩy người ngồi đối diện, hơi mỉm cười và gật đầu không ngớt, tỏ vẻ vô cùng hài lòng. Trúc Diệp Thanh dĩ nhiên cũng mặt mày tươi rói, chỉ cần Ông Chủ Lớn vui là gã sướng.

Bọn Bạch Mộc có vẻ nặn không ra nụ cười, mắt trông thấy lão hòa thượng chết thảm trong lòng cả bọn đều rất khó chịu. Cuối cùng ai giết lão đầu đà? Phải chăng chính là người đàn bà trẻ kia vờ làm lợn để xơi luôn cả cọp? Hay là ở gần đây có cao thủ khác?

Trúc Diệp Thanh mỉm cười bảo:

"Nghe nói các vị vừa vào thành đã làm bao nhiêu việc long trời lở đất, thật là hay quá!" Bạch Mộc cười nhạt bảo:

"Chẳng hay chút nào!" Trúc Diệp Thanh lại bảo:

"Có điều người trong thành hiện nay chẳng còn một ai là không biết sự lợi hại của các vị!" Bạch Mộc ngậm miệng, các đồng bọn của lão cũng im miệng luôn. Tuy mỗi người đều đầy bụng cay đắng nhưng không làm thế nào mà thỗ lộ được ra. Cả bọn lúc mới đến những tưởng là để biểu lộ chút oai phong làm cho dân thành này lác mắt, nào ngờ đồng bọn của mình lại bị chết một cách hồ đồ ngu ngốc, chuyện này nói lộ ra há chẳng phải là tiêu diệt oai phong của mình mà đề cao chí khí của thiên hạ hay sao?

Phủ Đầu bỗng thét lên:

"Tức chết ta mất!" Trúc Diệp Thanh hỏi:

"Ông anh Phủ Đầu sao lại nỗi giận lên thế?" Phủ Đầu toan kể lại chuyện nhưng nhìn Bạch Mộc, Thanh Xà đều thấy họ đang trừng mắt với gã bèn đỗi giọng bảo:

"Bản thân tôi hay nỗi cáu, hễ sướng lên là nỗi cáu ngay!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Thế càng rất hay!" Phủ Đầu trợn mắt bảo:

"Thế thì hay cái gì?" Trúc Diệp Thanh đáp:

"Cứ bằng vào sự nỗi cáu như vậy của các hạ cũng đã đủ làm cho người ta run lòng mất mật!" Đinh Nhị Lang bảo:

"Nhưng tôi xưa nay lại chưa hề nỗi cáu bao giờ!" Trúc Diệp Thanh lại bảo:

"Thế thì cũng hay lắm!" Đinh Nhị Lang hỏi:

"Có gì mà hay?" Trúc Diệp Thanh đáp:

"Bình thời tĩnh như gái trẻ, khi động như thỏ sỗ lồng, Bình thời coi như không phát, lúc phát thì kẻ khác phải kinh hồn!" Đinh Nhị Lang bảo:

"Coi bộ chúng tôi nói kiểu gì Trúc tiên sinh cũng có cách tán tụng chúng tôi vài câu, đó mới là bản lĩnh vậy!" Trúc Diệp Thanh mỉm cười bảo:

"Tại hạ khỗ vì không có được công phu như của các vị nên cũng chỉ nhờ có chút bản lĩnh đó để quanh quẩn kiếm miếng cơm đó thôi!" Lão Chủ Lớn từ đầu đến giờ chỉ cười mỉm mà nghe bỗng nói chen vào:

"Người của các vị tới đủ cả chưa?" Bạch Mộc đáp:

"Đều tới cả rồi!" Lão Chủ Lớn hỏi:

"Theo tôi nhớ thì lần này các vị tới chín người thì phải?" Bạch Mộc đáp:

"Vâng!" Lão Chủ Lớn hỏi:

"Thế còn hai vị nữa đâu?" Bạch Mộc lạnh lùng đáp:

"Hai vị đó có đến hay không cũng thế cả!" Lão Chủ Lớn hỏi:

"Hả?" Bạch Mộc bảo:

"Chúng tôi tới bẩy người, bất kỳ việc gì cần cũng đủ để làm rồi!" Lão Chủ Lớn hỏi:

"Để đối phó với A Cát cũng đủ ử" Bạch Mộc bảo:

"Đối phó với bất kỳ ai cũng đủ cả!" Lão Chủ Lớn cười:

"Tôi nghe nói gần đây kiếm thuật của đạo trưởng càng thêm tinh tiến, ngoài ra các vị còn lại đều là hảo thủ, nhưng có việc lại khiến tôi không thể yên tâm được!" Bạch Mộc hỏi:

"Việc gì?" Lão Chủ Lớn mỉm cười vẫy tay, ngoài cửa bỗng xuất hiện hai người khiêng cây thiền trượng thép ròng mà sải bước vào. Mặt Bạch Mộc biến sắc.

Đám anh em trong Hắc Sát cũng đều biến sắc mặt. Lão Chủ Lớn bảo:

"Chắc các vị đều nhận ra cây thiền trượng này chứ?" Tất nhiên cả bọn đều nhận ra đây là cây vũ khí đã nỗi danh của Thỗ Hòa thượng họ còn từng biết không hiểu mắt họ đã nhìn thấy bao nhiêu người chết thảm vì cây thiền trượng ác độc này. Lão Chủ Lớn bảo:

"Nghe đồn cây thiền trượng này là vật bất ly thân của Thỗ Hòa thượng, một tấc không rời, nhưng chẳng hiểu sao lại lọt vào tay người khác nhỉ?" Bạch Mộc biến sắc mặt bảo:

"Bần đạo đang muốn xin hỏi là cây thiền trượng này từ đâu mà tới được đây?" Lão Chủ Lớn đáp:

"Có người đặc biệt mang tới muốn nhờ tôi chuyển trả lại các vị!" Bạch Mộc hỏi:

"Người đó có còn ở đây không?" Lão Chủ Lớn đáp:

"Vẫn còn!" Bạch Mộc hỏi:

"ở đâu?" Lão Chủ Lớn đáp:

"ở kia kìa!" Lão vươn tay trỏ. Mọi người theo ngón tay trỏ nhìn theo thì thấy một người đứng ngoài cửa. Một người đàn bà thân thể mập mạp, mềm mại như không có xương, rõ ràng là bà chủ trẻ của cửa hàng tơ lụa "Thụy Đức Tường". Chẳng lẽ người đàn bà trẻ này lại là cao thủ khéo giấu tài năng không để lộ ra ngoài, có thể chỉ trong phút chốc đã treo chết Thỗ Hòa thượng?

Ai ai cũng nhìn không ra, ai cũng không tin nhưng lại không thể không tin! Giang Đảo bỗng điên cuồng gầm lên, lăn một cái chồm tới, giơ tay phát ra ba viên "Sao Đen". Bà chủ trẻ né mình một cái để tụt ra sau cửa. Giang Đảo lại gầm lên một tiếng điên dại rồi ngã ngửa ra, trên ngực dính một hàng ba viên Sao Sắt chính là của gã vừa phóng ra xong.

Bạch Mộc mặt trắng bệch, các đồng bạn của lão đều giá lạnh cả chân tay. Phía ngoài cửa lại có người từ từ đi ra lại chính là bà chủ hiệu trẻ vừa mới sinh con lúc nẫy. Tá Tá Mộc giật mình nhìn nàng, lẩm bẩm:

"Cái cô Hoa này quả nhiên không phải là cô bán hoa mà là nữ yêu quái!" Bà chủ trẻ lại cười với gã bảo:

"Ngươi thích hay không thích nữ yêu quái?" Giọng của nàng ta tuy có hơi run run nhưng nụ cười thì thật là tuyệt vời dịu ngọt. Tá Tá Mộc nhìn đến đỏ cả mắt, hai tay nắm chắc chuôi đao, từng bước từng bước đi tới.

Bạch Mộc hô to:

"Cẩn thận đấy!", chỉ tiếc là lời nhắc nhở của lão quá chậm! Tá Tá Mộc vươn rộng hai tay vồ xuống định chụp lấy hông nàng ta. Gã đã chộp hụt. Bà chủ trẻ lại co mình tụt ra sau cửa, Tá Tá Mộc vừa nhào theo đuỗi thì bỗng cất tiếng rú thê thảm rồi từng bước từng bước lùi trở lại, mọi người còn chưa nhìn thấy mặt gã thì đã nhìn thấy một mũi dao từ sau lưng thò ra và máu tươi vọt ra như tên bắn.

Cho tới khi Tá Tá Mộc ngã ngửa xuống mọi người mới nhìn thấy cây đao đó. Cây "nụy đao" (gọi cây Kiếm Nhật cầm hai tay vào cán một cách khinh khi ư ND) đâm từ trước ngực Tá Tá Mộc vào xuyên thò ra sau lưng, đó lại chính là vũ khí tùy thân của gã xưa nay! Bà chủ trẻ lại xuất hiện trước cửa đăm đăm nhìn bọn Hắc Sát. Đôi mắt xinh đẹp ngập tràn căm hận và khiếp hãi.

Lần này thì không có ai xồ tới nữa mà ngay Trúc Diệp Thanh cũng phải biến sắc mặt. Chỉ có Lão Chủ Lớn là không hề thay đỗi thanh sắc mà chỉ lửng lơ bảo Trúc Diệp Thanh:

"Đây là người ngươi mời tới bảo vệ ta phải không?" Trúc Diệp Thanh cúi gằm đầu không dám mở miệng. Lão Chủ Lớn lại bảo:

"Bằng vào tài bọn họ mà có thể đối phó được với A Cát ử" Mặt Trúc Diệp Thanh trắng bệch ra, đầu gục xuống càng thấp. Lão Chủ Lớn thở dài:

"Ta thấy bọn họ đối phó với một người đàn bà còn chưa xong, làm sao..." Bỗng Bạch Mộc cắt ngang lời Lão Chủ Lớn, nghiêm giọng bảo:

"Bạn hữu đã tới sao còn chưa ra mặt, cứ ẩn nấp ở ngoài cửa vậy? Sợ không dám ra mặt ử" Lão Chủ Lớn bảo:

"Lão nói với ai đấy?" Bạch Mộc bảo:

"Nói với ông bạn ở ngoài cửa kia!" Lão Chủ Lớn hỏi:

"Ngoài cửa có bạn của lão ử" Lão tự lắc đầu tự trả lời cho mình:

"Tuyệt không có, ta có thể bảo đảm là tuyệt đối không có!" Ngoài cửa lặng như tờ không tiếng đáp. Người duy nhất đứng ngoài cửa chính là bà chủ trẻ của cửa hàng tơ lụa Thụy Đức Tường. Nàng ta trong phút chốc vừa qua đã đâm hai người, giờ lại có vẻ như sợ muốn chết.

Bạch Mộc cười nhạt liếc mắt cho đồng bọn. Đinh Nhị Lang và Thanh Xà cùng đứng dậy một bên trái một bên phải lao vút qua cửa sỗ. Thân pháp như chim én xuyên mây. Phủ Đầu vung đại phủ gầm lên như hỗ mà xông tới, trước mắt lại có bóng người loáng qua, Hắc Quỷ đã lao tới trước mặt.

Nàng chủ trẻ lại chẳng thấy đâu nữa. Bốn người vây bọc trước sau phải trái, hành động phối hợp vừa chuẩn xác vừa chặt chẽ. Bất kể sau cửa có người nấp hay không, bất kể người kia là ai thật cũng khó mà chạy thoát khỏi sự bao vây của họ. Đặc biệt là cây kiếm của Hắc Quỷ, "một kiếm xuyên hầu", chưa bao giờ sểnh tay.

Kỳ quái thay cả bốn người ra đi đã lâu mà bên ngoài cửa vẫn chẳng thấy có một chút phản ứng nào. Bạch Mộc đã cầm vào đốc kiếm, trên trán lão đã rịn ra mồ hôi lạnh.

Đúng lúc ấy một tiếng "bình" vang lên, cửa sỗ bên trái bị đẩy toang ra và hai người cùng bay vọt vào. Cả hai người cùng lúc đáp xuống, "uỵch" một tiếng, cứ như hai cái bao gai nặng bị người ta ném mạnh xuống đất, té ra đó là Thanh Xà và Đinh Nhị Lang khi nẫy vừa vọt ra đằng cửa sỗ nhẹ như chim én bay xong.

Khi hai người ngã ra thì cùng lúc cả Phủ Đầu lẫn Hắc Quỷ cùng trở về nhưng Phủ Đầu trở về không còn đầu và Hắc Quỷ thì đã thành quỷ thật. Đầu của Phủ Đầu lại bị chính lưỡi phủ của gã chặt đứt còn Hắc Quỷ tay không còn kiếm nhưng ở yết hầu gã thêm một lỗ trào máu.

HỒI 23 - MỘ DUNG Ở GIANG NAM

Bạch Mộc tuy tuy vẫn nắm chặt đốc kiếm nhưng mồ hôi trên trán đã rơi xuống như mưa. Lão Chủ Lớn lạnh nhạt bảo:

"Ta đã sớm bảo mà, ngoài cửa làm gì có bè bạn của các người, nhiều nhất thì cũng chỉ có vài tên lệ quỷ đến thu hồn lấy mạng các người mà thôi!" Tay nắm đốc kiếm của Bạch Mộc nỗi hằn những sợi gân xanh trên mu bàn tay như rắn quấn, bỗng lão bảo:

"Hay! Hay lắm!" Giọng của lão đã khàn đặc:

"Không ngờ "lấy răng trả răng, lấy máu trả máu" cuối cùng cũng tới!" Phía ngoài cửa đột nhiên vang lên tiếng cười khẩy ngắn.

"Ngươi sai rồi!" Bạch Mộc bảo:

"Người tới phải chăng là Mao Đại tiên sinh?" Tiếng người ngoài cửa bảo:

"Lần này ngươi đúng rồi!" Bạch Mộc cười nhạt bảo:

"Giỏi, công phu giỏi lắm! Lấy con làm em, đánh con cho bác" quả không hỗ là chân truyền dòng chính nhà Mộ Dung ở Giang Nam!" Vừa nói đến mấy chữ "nhà Mộ Dung ở Giang Nam", bên ngoài cửa đã vang lên tiếng gầm giận dữ như của thú rừng. ánh kiếm ở ngoài cửa nhoáng lên, Bạch Mộc đã phi thân mà ra, ánh kiếm như mây trôi nước chẩy che khắp toàn thân.

Trúc Diệp Thanh không dám ra theo, đến nhúc nhích cũng không dám, cũng không nhìn thấy người ngoài cửa chỉ nghe "keng" một tiếng rồi một làn ánh sáng lạnh bay vào cắm phập trên tường nhìn kỹ là một đầu kiếm nhọn. Tiếp đó lại nghe "Keng! Keng! Keng!" ba tiếng, rồi ba đoạn kiếm bay vào đều cắm cả trên tường.

Sau đó Bạch Mộc lử thử dừng bước lê vào, mặt không còn ra sắc người, cây kiếm cầm trên tay chỉ còn một đoạn cán. Cây trường kiếm bằng thép ròng cả trăm lần luyện đã bị người chặt cụt.

Người ngoài cửa lại cười nhạt bảo:

"Ta chẳng dùng Công lực nhà Mộ Dung cũng có thể giết ngươi như thường!" Bạch Mộc còn định nói nhưng rồi lại nín nhịn, bỗng lão mở miệng ộc ra một ngụm máu tươi và khi ngã xuống bộ mặt trắng bệch biến thành đen sì. Lão Chủ Lớn cười mỉm bảo:

"Đây quả nhiên không phải là công phu nhà Mộ Dung mà là Hắc Sa Chưởng!" Người ngoài cửa bảo:

"Nhãn lực giỏi quá!" Lão Chủ Lớn bảo:

"Lần này làm vất vả Mao Đại tiên sinh. Còn Cừu Nhị tiên sinh đâu?" Mao Đại tiên sinh ở ngoài cửa bảo:

"Rồi chú ấy sẽ tới!" Lão Chủ Lớn thở dài một hơi bảo:

"Cừu Nhị tiên sinh kiếm pháp thiên hạ không có hai người, tại hạ ngưỡng mộ đã từ lâu!" Mao Đại tiên sinh bảo:

"Kiếm pháp của chú ấy vị tất đã vô địch thiên hạ nhưng người muốn thắng được chú ấy chắc là không nhiều!" Lão Chủ Lớn bảo:

"Đã được Mao Đại tiên sinh và Cừu Nhị tiên sinh tuốt đao giúp đỡ, gã A Cát muốn lấy mạng tôi chỉ sợ không quá dễ dàng!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Phải ạ!" Lão Chủ Lớn bảo một cách nhạt nhẽo:

"Nếu ngươi muốn lấy mạng ta cũng chỉ sợ không quá dễ dàng đâu!" Trúc Diệp Thanh lúng túng:

"Tôi..." Lão Chủ Lớn bỗng sầm mặt lạnh nhạt bảo:

"ý tốt của ngươi ta đã biết rồi, có điều nếu ta thật sự dựa vào sự bảo vệ của chín cao thủ do ngươi mời tới thì hôm nay ta chết há chẳng chắc chắn ử" Trúc Diệp Thanh hết dám mở miệng. Gã quỳ ngay xuống đất, quỳ rất thẳng người trước mặt Lão Chủ Lớn. Giờ gã mới nhận ra con người này còn lợi hại hơn nhiều so với sự đánh giá của gã. Lão Chủ Lớn không thèm để mắt đến Trúc Diệp Thanh phất tay bảo:

"Ngươi mệt rồi, ra đi không ngại gì!" Trúc Diệp Thanh không dám nhúc nhích. Ra khỏi đây ư? ở ngoài cửa kia có người bắt hồn lấy mạng đang đợi chờ, làm sao gã dám ra. Nhưng gã cũng biết lời nói của Lão Chủ Lớn là mệnh lệnh, đã là mệnh lệnh mà còn chống lại mệnh lệnh của chính Ông Chủ Lớn thì chỉ có chết! Vừa may lúc ấy ở ngoài sân có người hô to:

"A Cát tới!" Đêm. Đêm lạnh. Gió lạnh thỗi tạt mặt. A Cát chầm chậm đi vào ngõ hẻm. Trước đây nửa tháng, khi chàng ở ngõ hẻm này đi ra thì vẫn còn biết là mình sẽ đi theo đường nào. Và bây giờ chàng cũng biết.

Con người thế nào thì có con đường thế ấy! Trước mặt chàng chỉ còn một đường có thể đi và không còn đất để chọn lựa nữa! Mở cửa là có thể thấy ngay con đường ngoằn ngoèo ngoắt ngoéo đi xuyên vào các khóm hoa. Một chàng trẻ tuỗi nhanh nhẩu mà hiểu biết, chắp tay cúi đầu đứng ngay ở cửa, thái độ thì thành khẩn cung kính hỏi:

"Các hạ tới tìm ai?" A Cát đáp:

"Tìm Ông Chủ Lớn của các người!" Chàng trẻ tuỗi ngẩng đầu nhìn chàng một cái rồi lại cúi xuống ngay:

"Các hạ là..." A Cát bảo:

"Ta là A Cát, là gã A Cát vô dụng đây!" Thái độ của chàng thanh niên càng cung kính:

"Ông Chủ Lớn đang đợi trong đình hoa. Xin mời!" A Cát đăm đăm nhìn chàng trẻ tuỗi, bỗng hỏi:

"Trước đây hình như ta chưa gặp ngươi thì phải?" Chàng trẻ tuỗi đáp:

"Chưa ạ!" A Cát hỏi:

"Ngươi tên là gì?" Chàng trẻ tuỗi đáp:

"Tôi tên là "Chú em"!" Gã bỗng cười lên:

"Tôi mới thật là "Chú em vô dụng", vô dụng hoàn toàn!" "Chú em" đi trước dẫn đường, A Cát chầm chậm đi theo. Chàng chẳng cần phải để chàng trẻ tuỗi này đi phía trước mình. A Cát đã cảm thấy anh chàng "chú em vô dụng" này chắc chắn còn hữu dụng hơn so với phần lớn những người khác.

Đi hết con đường mòn giữa hoa này đã có thể nhìn thấy khung cửa sỗ bị húc vỡ ở bên trái đình hoa. Trong đình hoa hình như có ánh đao lấp loáng. Đao ở trong tay Trúc Diệp Thanh.

Trái lệnh Ông Chủ Lớn chỉ có chết! Trúc Diệp Thanh rút nhanh cây đao cắm trên mình Tá Tá Mộc ra ư Nếu phải chết thì thà chết bằng tay mình còn hơn! Gã lật tay đưa ngang đao đâm thẳng vào cuống họng mình. Bỗng nghe "choeng" một tiếng, sao lửa bắn tung tóe, cây đao trong tay Trúc Diệp Thanh đã bị hất băng đi, "phập" một cái cắm ngập vào khung cửa sỗ, có một vật gì đó rơi xuống: đó là một viên đá nhỏ. Lão Chủ Lớn mỉm cười:

"Sức cỗ tay giỏi quá, xem ra A Cát đến thật rồi!" Tuy đã ngủ suốt ngày, mà ngủ rất sâu, A Cát vẫn có vẻ mệt mỏi. Một thứ mệt mỏi sinh ra từ nơi sâu thẳm của đáy lòng, cứ như một thứ cỏ độc mọc lên từ đó. Chàng mặc trên mình vẫn là bộ quần áo vải thô cũ rách, trên bộ mặt xanh tái lún phún mọc lên một lớp râu ngắn đen sì, nhìn chàng không chỉ thấy toát lên sự mệt mỏi mà còn cả tiều tụy, già nua nữa. Ngay đến đầu tóc chàng cũng lâu không biết mùi gội chải là gì.

Nhưng đôi tay chàng lại rất sạch sẽ, móng tay đều cắt sửa thật ngắn, thật bằng bặn. Lão Chủ Lớn lại không chú ý đến tay chàng. Phần lớn đàn ông ở đời có mấy khi chú ý đến bàn tay một người đàn ông khác! Lão nhìn A Cát, ngắm nghía từ đầu xuống chân, ngắm đi ngắm lại mấy lần rồi mới hỏi:

"Ngươi là A Cát?" A Cát uể oải đứng ở đó chẳng có chút phản ứng nào, không phải vấn đề cần hỏi mà hỏi thì chàng hà tất phải trả lời. Lão Chủ Lớn đương nhiên phải biết chàng là ai nhưng có một điểm nghĩ không thông:

"Tại sao ngươi lại cứu con người ấy?" "Con người ấy" là chỉ Trúc Diệp Thanh. A Cát đáp:

"Cô bé". Mắt Lão Chủ Lớn nheo lại:

"Vì cô bé ở trong tay gã, gã chết, cô bé cũng chỉ có nước chết!" Đồng tử mắt Lão Chủ Lớn lại co lại, nhọn như cái đinh nhìn xoáy vào Trúc Diệp Thanh bảo:

"Đương nhiên ngươi sớm biết là gã không để ngươi chết chứ gì!" Trúc Diệp Thanh cũng không phủ nhận. Con xúc xắc đã rời khỏi tay, điểm tính được đã bày ra đó, màn kịch này thôi khỏi phải hát diễn thêm nữa, vai diễn của Trúc Diệp Thanh đã đến lúc phải rời sân khấu rồi.

Giờ đây việc duy nhất gã có thể làm là chờ xem A Cát ném xúc sắc được bao nhiêu điểm đã. Giờ gã chỉ chưa nắm chắc A Cát nhất định thắng hay không mà thôi. Lão Chủ Lớn thở dài bảo:

"Xưa nay ta vẫn coi ngươi là kẻ tâm phúc, thật không ngờ trước mặt ta xưa nay ngươi toàn đóng kịch!" Trúc Diệp Thanh cũng thừa nhận:

"Chúng ta cùng diễn vở kịch đối phó nhau!" Lão Chủ Lớn bảo:

"Nhưng trước khi khép màn, trong hai chúng ta nhất định một phải chết!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Màn kịch này nếu theo đúng sự đạo diễn của tôi, người chết chắc chắn phải là ông!" Lão Chủ Lớn hỏi:

"Còn bây giờ?" Trúc Diệp Thanh cười gượng bảo:

"Bây giờ vai diễn của tôi diễn đã rời sân khấu rồi, vai chính trong vở rơi vào A Cát!" Lão Chủ Lớn hỏi:

"Ngươi đóng vai gì?" Trúc Diệp Thanh:

"Vai giết người mà người bị giết là ông!" Lão Chủ Lớn quay sang A Cát lạnh lùng bảo:

"Có phải ngươi nhất định diễn vai của mình đến hết vở không?" A Cát không mở miệng. Chàng đột nhiên cảm thấy có một luồng sát khí đầy uy hiếp, nhọn sắc như mũi kim chọc vào xương sống mình.

Chỉ có cao thủ thật sự muốn giết người và nắm chắc là giết được người mới có thể toát ra luồng sát khí như vậy! Bây giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là có cao thủ như vậy đã đến sau lưng chàng thậm chí chàng còn cảm thấy có một sợi gân cơ ở sau gáy tự nhiên co cứng lại. Thế nhưng chàng vẫn không quay đầu lại. Giờ đây chàng chỉ còn việc đứng sao cho thật tự do, cả bốn chân tay, thậm chí cơ bắp toàn thân hoàn toàn hòa hợp, cân bằng tuyệt đối, không để sơ hở thiếu sót.

Chỉ cần chàng quay đầu lại thì sẽ mất ngay hoàn toàn trạng thái trên và tuyệt đối không còn cách nào giữ được tình trạng như vừa rồi, thì dù cho chỉ sơ hở trong chớp mắt thôi cũng đủ khiến chàng mất mạng. Tuyệt đối chàng không thể cho đối phương cơ hội vàng đó được. Đối phương cũng đang chực chờ cơ hội đó. Người trong đình hoa ai cũng cảm thấy được cái cơ hội giết người đang uy hiếp ghê gớm như vậy, hơi thở của mọi người như ngừng lại, trán ai cũng rươm rướm mồ hôi.

Đến một đầu ngón tay A Cát cũng không hề nhích động. Một con người biết đằng sau lưng có kẻ đang chực giết mình mà vẫn có thể không nghe, không nói, không động thì ở con người ấy mỗi sợi thần kinh tất đã được luyện tập đan thành một tấm lưới thép dẻo dai cứng rắn. Ngay đến mắt A Cát cũng nhắm lại luôn.

Người định giết chàng ở phía sau lưng chàng có muốn dùng mắt nhìn cũng nhìn chẳng thấy. Tốt nhất chàng phải giữ cho tâm mình thành một khối thông linh. Người ở đằng sau chàng cũng chưa động.

Người này dĩ nhiên là cao thủ. Chỉ có loại cao thủ thân trải trăm trận đánh, giết người không phải tính toán trước mới có được sự nhẫn nại và trấn tĩnh như thế để chờ thời cơ, cơ hội chưa có tuyệt đối chưa ra tay. Tất cả đều ngừng lặng, thậm chí đến gió cũng như ngừng thỗi.

Một giọt mồ hôi to bằng hạt đậu tương bò theo sống mũi, bò trên mặt Lão Chủ Lớn, buồn buồn nhưng lão cũng không dám giơ tay gạt đi. Cả con người lão như sợi dây cung đã kéo căng hết tầm, lão nghĩ mãi mà không thông sao hai con người này có thể giữ được trầm tĩnh đến thế.

A Cát không nhìn, không nghe, không ngửi, không động đậy. Lão Chủ Lớn hỏi:

"Ngươi có biết người này là ai không?" A Cát không biết người này. Chàng chỉ biết người này dù là ai hiện giờ cũng tuyệt nhiên không dám ra tay. Lão Chủ Lớn lại hỏi:

"Sao ngươi không ngoảnh đầu lại xem người này là ai?" A Cát không quay đầu nhưng lại mở to mắt vì chàng bỗng cảm thấy có luồng sát khí khác. Lần này sát khí lại dồn từ phía trước mặt lại. Chàng mở mắt nhìn thấy một người đứng xa xa phía trước mặt, mặc quần áo đội mũ đạo giáo, thân cao trau chuốt, lưng đeo trường kiếm, trên khuôn mặt trắng bệch khóe mắt trái đang giật giật, hai đạo lông mày rậm gần như giao lại với nhau mang một vẻ ngạo nghễ khó tả nhưng dường như cũng tràn trề cừu hận.

A Cát vừa mở mắt, người kia liền dừng bước ngay. Lão đã thấy chàng trẻ tuỗi này tinh, khí, thần, kình, lực đều đã tụ tập đủ đầy, hễ đụng là phát mà đã phát thì không thu lại được nữa. Lão cũng không dám động mà cứ nhìn đăm đăm vào hai tay A Cát, bỗng lão cất tiếng hỏi:

"Sao các hạ không mang theo cây kiếm của mình?" A Cát trầm lặng. Lão Chủ Lớn nhịn không được, bật hỏi:

"Lão nhìn ra là gã dùng kiếm ử" Đạo nhân gật đầu bảo:

"Gã có đôi ta rất tuyệt!" Lão Chủ Lớn vốn không để ý đến tay A Cát, đến giờ mới chú ý nhận ra đôi tay và con người của chàng như không cân xứng với nhau. Tay A Cát rất sạch sẽ.

Đạo nhân kia bảo:

"Đó là thói quen của chúng tôi!" Lão Chủ Lớn hỏi:

"Thói quen thế nào?" Đạo nhân đáp:

"Chúng tôi không bao giờ để giây bẩn vào kiếm!" Lão Chủ Lớn bảo:

"Vì thế nên tay các vị nhất định phải giữ sạch sẽ!" Đạo nhân bảo:

"Ngay móng tay chúng tôi cũng phải cắt thật ngắn!" Lão Chủ Lớn hỏi:

"Tại sao?" Đạo nhân đáp:

"Móng tay dài vướng khi cầm kiếm, một khi kiếm đã vào tay chúng tôi tuyệt đối không để vướng bận vì bất cứ thứ gì!" Lão Chủ Lớn bảo:

"Đúng là thói quen tốt!" Đạo nhân bảo:

"Người có thói quen này không nhiều đâu!" Lão Chủ Lớn bảo:

"Hử?" Đạo nhân bảo:

"Nếu chẳng phải là kiếm khách trải trăm trận đánh thì tuyệt không thể giữ thói quen này lâu dài được!" Lão Chủ Lớn bảo:

"Người được Cừu Nhị tiên sinh gọi bằng Kiếm khách đương nhiên phải là cao thủ dùng kiếm!" Cừu Nhị tiên sinh:

"Tuyệt đối đúng như vậy!" Lão Chủ Lớn bảo:

"Nhưng ở dưới kiếm của Cừu Nhị tiên sinh thử hỏi còn mấy người được sống?" Cừu Nhị tiên sinh đáp:

"Không nhiều đâu!" Lão kiêu ngạo thật, đương nhiên lão có đạo lý của mình. Nửa năm lại đây lão xách cây trường kiếm đi khắp Giang Nam trong "Giang Nam mười đại kiếm khách" lão đã gặp bẩy người, nhưng không có ai chịu nỗi ba chục chiêu của lão.

Kiếm pháp của lão chẳng những kỳ bí độc địa, phản ứng của lão lại rất nhanh, càng khiến người ta khó lòng đoán định cho được. Chết dưới kiếm của lão cả bẩy kiếm khách, người nào cũng có một chiêu giết người chí mạng, nhất là "Thiểm điện truy phong kiếm" (Chớp lòe đuỗi gió) Mai Tử Nghi với "Phong Lôi tam thích" (ba nhát gió sấm) là tuyệt kỹ ít thấy trên chốn giang hồ.

Khi lão đánh với Mai Tử Nghi chính là dùng chiêu này. Mai Tử Nghi ra đòn "Phong Lôi tam thích", lão cũng dùng chiêu thức tương tự đánh lại.

Một người đã có thể được tôn là "Thiểm điện truy phong", tốc độ tất phải nhanh có thể tưởng tượng mà hiểu. Nhưng khi kiếm của Mai Tử Nghi còn cách yết hầu lão ba tấc thì kiếm của lão đâm sau tới trước xuyên thủng cỗ Mai Tử Nghi. Thuộc hạ của Lão Chủ Lớn có duyên được trông thấy tận mắt trận đánh của họ và theo lời báo cáo của chúng thì "Nhát kiếm đó của Cừu Nhị tiên sinh đâm ra, tại trường đấu có hơn bốn chục vị cao thủ võ lâm mà chẳng vị nào thấy ông ta ra tay thế nào, chỉ thấy ánh kiếm lóe lên một cái máu tươi đã ướt đầm cả áo quần của Mai Tử Nghị" Chính vì thế mà Lão Chủ Lớn sớm đã có lòng tin tưởng ở lão ta.

Huống hồ hiện nay ở đây còn có đệ tử duy nhất đời thứ nhất của họ ngoại nhà Mộ Dung nỗi tiếng ở Giang Nam tới cùng lão ta hiệp trợ là Đệ Nhất Vân. Cho dù Đệ Nhất Vân không ra tay thì ít nhất cũng làm phân tán bớt sức chú ý của A Cát. Cuộc chiến này thắng bại thế nào cơ hồ đã xác định dứt khoát rồi.

Lão Chủ Lớn ngồi ngất ngưởng trên cái ghế da cọp, lòng vững như núi Thái Sơn, mỉm cười bảo:

"Kể từ ngày Tạ Tam thiếu gia chết bất ngờ ở Thần Kiếm sơn trang và Yến Thập Tam vạch thuyền dìm kiếm thì kiếm khách trên giang hồ còn ai có thể sánh với Cừu Nhị tiên sinh nữa? Nếu Cừu Nhị tiên sinh muốn có cái bảng hiệu chữ vàng "Kiếm bậc nhất thiên hạ" của nhà họ Tạ ở Thần Kiếm sơn trang, thiết nghĩ cũng chỉ là việc sớm hay muộn mà thôi!" Trong khi tâm tình vui sướng, Lão Chủ Lớn vẫn không quên khen ngợi người khác mấy câu, chỉ tiếc là mấy câu tán tụng này dường như Cừu Nhị tiên sinh lại chẳng hề nghe thấy. Lão đang mải đăm đăm nhìn A Cát, không phải nhìn đôi tay A Cát mà là nhìn sâu vào cặp mắt của A Cát.

Vừa nghe thấy mấy chữ "Cừu Nhị tiên sinh", đồng tử mắt A Cát đột ngột thu nhỏ lại cứ như là vừa bị một cây kim chọc phải, một cây kim độc bị máu tươi và cừu hận thấm cho đỏ rực! Cừu Nhị tiên sinh không nhận ra chàng thanh niên lôi thôi hốc hác này, thậm chí đến gặp mặt cũng chưa thấy qua. Lão nghĩ không ra tại sao chàng trai này lại có thể biểu hiện tình cảm như vậy? Mà cũng chẳng hiểu sao chàng trai lại có phản ứng thế này khi nghe đến danh hiệu của lão? Lão chỉ biết mỗi một điều: cơ hội của lão đã đến rồi! Bất kể con người kiên cường trấn tĩnh đến đâu một khi bỗng phải chịu đựng một sự kích thích đột ngột ngoài ý muốn như thế này thì nhất định phản ứng phải do dự ít nhiều.

Bây giờ rõ ràng chàng thanh niên này đã phải chịu đựng sự kích thích đột ngột đó. Cừu hận có khi cũng là một sức mạnh, một thứ sức mạnh đáng sợ, nhưng hiện tại tình cảm biểu hiện trong ánh mắt A Cát lại không phải là cừu hận mà là một nỗi đau khỗ buồn thương không bút mực nào miêu tả nỗi. Loại tình cảm này chỉ có thể làm cho con người ta yếu mềm băng hoại mà thôi! Cừu Nhị tiên sinh lại không nghĩ đến chuyện đợi cho A Cát hoàn toàn băng hoại, lão biết một khi cơ hội tốt bị bỏ qua thì khó có lại lần nữa.

Cây nụy đao dài tám thước của Tá Tá Mộc vẫn cắm ngập trên khung cửa sỗ. Cừu Nhị tiên sinh ngoái tay đột ngột rút cây đao ra quẳng cho A Cát. Lão vẫn còn một tay. Cây trường kiếm sau lưng lão cũng đã tuốt khỏi vỏ.

Bất kể A Cát có đón được cây đao kia hay không, lão cũng đã chuẩn bị phát ra đòn đánh chí mạng. Lão đã tuyệt đối nắm chắc phần thắng! A Cát đã đón được cây nụy đao.

Chàng vốn quen dùng kiếm trường, từ đốc đến mũi chẳng qua chỉ dài có ba thước chín tấc.

HỒI 24 - TRỜI LONG ĐẤT LỞ

Cây nụy đao này riêng cán đã dài một thước năm tấc. Thông thường các võ sĩ của đảo Phù Tang đều cầm đao bằng cả hai tay. Đao pháp của họ khác hẳn với Trung Thỗ, so với kiếm pháp lại càng khác xa. Trong tay A Cát giờ đã có nụy đao, khác nào người thợ rèn cầm bút mà đập sắt, chàng thư sinh lấy búa mà viết chữ. Có cũng chẳng bằng không có còn tốt hơn.

Nhưng chàng vẫn đón lấy cây đao. Dường như chàng đã bị mất hết cả năng lực phán đoán, không còn phán đoán được hành động như vậy có bình thường hay không nữa. Trong thoáng chốc tay chàng chạm vào cán đao thì ánh kiếm như chớp lòe đã xé toạc không gian bay tới. Thanh kiếm dài ba thước bẩy tấc đã đâm vào không môn (khoảng thân thể không được che chở bảo vệ trong khi giao đấu ư ND), cây nụy đao dài tám thước hết cách thi triển! Kiếm quang vừa lóe đã đến yết hầu A Cát. A Cát rung bàn tay một cái, "cách" một tiếng vang lên, cây nụy đao gẫy thành hai đoạn. Từ chỗ vừa bị đá ném trúng khi nẫy gẫy thành hai đoạn.

Đá ném trúng giữa thân đao. Mũi đao dài hơn ba thước rơi xuống. Vẫn còn mũi đao dài ba thước đột ngột vọt lên. Mũi kiếm của Cừu Nhị tiên sinh như con rắn độc đâm tới chỉ còn cách yết hầu A Cát chưa đầy ba tấc, nhát kiếm này đâm ra vốn tuyệt đối chuẩn xác và chí mạng thực sự.

Nhỗ đao, ra tay... mỗi một động tác, lão đã tính toán rất chuẩn xác rồi... Có điều lão lại không tính đến chước này.

"Keng" một tiếng, lửa tóe ra, đao đã đánh trúng kiếm, không phải mũi kiếm mà là đầu mũi kiếm! Không ai có thể trong thoáng giây đỡ đòn ngược lên như ánh chớp đâm tới lại đón đúng vào đầu mũi kiếm! Không ai ra tay lại có thể mau lẹ chuẩn xác đến thế! Có thể không phải tuyệt đối không có ai, có thể hãy còn một người! Có nằm mộng Cừu Nhị tiên sinh cũng không thể tưởng tượng ra A Cát lại là người ấy! Đầu mũi kiếm bị chấn dội, Cừu Nhị tiên sinh liền cảm thấy một sự chấn dội kỳ lạ từ thân kiếm truyền sang bàn tay, cánh tay, sang vai... Sau đó lão như cảm thấy có trận gió thoảng qua. Cây đao gẫy trong tay A Cát như đã hóa thành trận gió nhẹ nhàng thỗi lướt qua người lão. Lão nhìn thấy ánh đao, cũng có thể cảm thấy được trận gió này nhưng hoàn toàn không biết làm cách nào để tránh né hay che đỡ. Khi gió ào tới liệu có ai né tránh khỏi gió? Liệu có ai biết được gió từ đâu thoảng tới?

Tuy vậy lão vẫn chưa tuyệt vọng vì lão biết lão còn một người bạn đang chực hờ ở đằng sau A Cát... Phần lớn người trên giang hồ đều cho là kiếm pháp của Cừu Nhị tiên sinh đáng sợ hơn kiếm pháp của Mao Đại tiên sinh. Chỉ có Cừu Nhị tiên sinh tự biết cách nhìn nhận đó sai lầm đến ngu xuẩn, đáng buồn cười đến như thế nào và cũng chỉ có lão tự biết nếu Mao Đại tiên sinh muốn lấy mạng lão thì chỉ còn một chiêu đã đủ để làm việc đó rồi.

Đó là một chiêu thực sự trí mạng, đó là kiếm pháp thực sự đáng sợ. Không ai có thể lường được tốc độ, sức mạnh và sự biến hóa của chiêu này chỉ vì chưa có ai được thấy qua. Lão cùng Mao Đại tiên sinh ra sống vào chết hoạn nạn có nhau trong suốt bao nhiêu năm mà lão cũng chỉ nhìn thấy có một lần.

Lão tin chỉ cần Mao Đại tiên sinh ra tay bằng chiêu này thì dù A Cát có may mắn tránh thoát cũng chẳng còn thừa sức đâu mà làm bị thương người khác. Lão tin chắc bây giờ Mao Đại tiên sinh nhất định phải ra tay! Cũng trong khoảnh khắc không có gì đo lường chưa đựng được đó lão bỗng nghe có tiếng quát trầm trầm "Dưới đao!" Tiếng quát vang lên, tiếng gió ngừng ngay lập tức, ánh đao cũng đồng thời tiêu tan.

Kiếm của Mao Đại tiên sinh cầm trong tay đã tới sau đầu A Cát. Khí kiếm lạnh ngắt khác nào băng tuyết ngàn đời không tan chẩy trên đỉnh núi xa xăm tuy ta không sờ tay vào được nhưng vẫn cảm thấy được ý lạnh nhọn sắc như kim châm của nó, khiến cho huyết dịch lẫn cốt tủy ta bị buốt lạnh thấu vào.

Kiếm vốn lạnh sẵn nhưng chỉ có kiếm nằm trong tay cao thủ thực sự mới có thể phát ra khí kiếm buốt lạnh đến như vậy. Nhát kiếm bay tới bỗng nhiên dừng lại đột ngột chỉ cách mạch máu lớn sau đầu A Cát không đầy nửa tấc.

A Cát không động. Chàng khi động thì như gió núi, khi không động thì như trái núi. Nhưng dù trái núi cũng có khi phải sạt đỗ. Môi chàng khô nẻ giống như vách đá trên đỉnh núi cao, trơ trơ không lộ một nét biểu hiện gì.

Chẳng lẽ A Cát không biết cây kiếm sau đầu chàng kia chỉ cầm đâm tới một tấc nữa thì máu của chàng sẽ tuôn ra bằng hết? Chẳng lẽ thật tình chàng không sợ chết?

"Bất kể gã có sợ chết thật hay không, lần này thì gã chết chắc chắn rồi!" Cừu Nhị tiên sinh thở dài sườn sượt, Lão Chủ Lớn cũng thở dài thật dài chỉ còn chờ kiếm của Mao Đại tiên sinh đẩy tới thêm. Mao Đại tiên sinh đăm đăm nhìn vào mạch máu phập phồng sau cỗ A Cát nhưng ánh mắt lại mang một dáng vẻ rất kỳ dị, dường như đầy dẫy oán độc, lại dường như tràn trề đau khỗ.

Tại sao kiếm của lão lại không đâm vào đi? Lão còn chờ gì nữa? Cừu Nhị tiên sinh nhịn không được bật nói:

"Lão khỏi phải sợ cho ta!" Đao của A Cát chỉ cách yết hầu của Cừu Nhị tiên sinh chừng một tấc.

"Trong tay ta vẫn còn kiếm cơ mà. Ta còn cầm chắc có thể né được nhát đao này!" Mao Đại tiên sinh vẫn không có phản ứng gì. Cừu Nhị tiên sinh bảo:

"Cứ coi như ta tránh không thoát thì lão vẫn cứ giết được gã! Người này không chết thì anh em ta chẳng còn đường sống đâu! Chúng ta không thể không mạo hiểm một phen xem sao!" Lão Chủ Lớn nói ngay:

"Đây tuyệt nhiên đừng coi là mạo hiểm, cơ hội của các vị lớn hơn của gã nhiều!" Mao Đại tiên sinh bỗng cười to. Nét cười cũng như ánh mắt của lão thật là kỳ quái. Khi tiếng cười của lão cất lên cũng là lúc kiếm của lão rút về từ cạnh đầu A Cát đâm vọt đi đâm thẳng vào vai Cừu Nhị tiên sinh.

"Keng" một tiếng. Kiếm trong tay Cừu Nhị tiên sinh rơi xuống, máu đỏ phọt ra, phọt cả lên mặt ông ta. Mặt Cừu Nhị tiên sinh vừa căm giận vừa kinh ngạc đến méo xệch.

Lão Chủ Lớn cũng nhẩy dựng lên. Chẳng ai nghĩ được sự biến hóa này, chẳng ai hiểu Mao Đại tiên sinh sao lại làm như vậy?

Có thể chỉ có Mao Đại tiên sinh cùng A Cát biết mà thôi. Nét mặt A Cát vẫn không lộ một nét tình cảm nào, dường như sự diễn biến này vốn đã nằm trong dự đoán của chàng.

Chỉ riêng trong mắt chàng vẫn ngập tràn đau khỗ thậm chí còn đau khỗ sâu sắc hơn cả ánh mắt của Mao Đại tiên sinh. Bỗng Mao Đại tiên sinh thở dài bảo:

"Phải chăng chúng ta năm năm rồi không gặp nhau?" Câu này là nói với A Cát. Coi bộ không phải họ chỉ biết nhau mà có khi còn là bạn hữu của nhau nhiều năm. Mao Đại tiên sinh lại bảo:

"Mấy năm lại đây ngươi sống khá không? Có đau bệnh gì không?" Bạn bè nhiều năm không gặp gỡ bỗng dưng gặp lại dĩ nhiên phải hỏi han nhau, đây là một câu hỏi rất thông thường nhưng câu này từ miệng Mao Đại tiên sinh thốt ra dường như mở miệng mà cũng chẳng quay đầu lại. Mao Đại tiên sinh bảo:

"Dù sao ta cũng đã nhận ra ngươi, tại sao ngươi vẫn không chịu quay đầu lại để ta nhìn xem ngươi chứ?" A Cát bỗng thở dài bảo:

"Dù sao ngươi đã nhận ra ta thì hà tất phải nhìn xem nữa làm gì?" Mao Đại tiên sinh bảo:

"Thế thì ít ra ngươi cũng nên xem ta biến đỗi ra sao vậy?" Tiếng của lão nói rất nhẹ nhàng nhưng lại như một tiếng thét khản đặc. Cuối cùng A Cát cũng quay đầu. Vừa quay lại mặt chàng đã biến sắc. Người đứng trước mặt chàng chẳng qua chỉ là một ông già tóc bạc phơ phơ và cũng chẳng có chỗ nào đặc biệt lạ lùng đáng sợ cả. Nhưng nhìn nét biểu hiện trên mặt lão thì so với việc gặp một con quái vật thời hồng hoang ta còn phải giật mình hơn nhiều.

Mao Đại tiên sinh lại cười, tiếng cười càng kỳ quái hơn:

"Ngươi xem có phải ta biến đỗi rất nhiều không?" A Cát dường như định nói gì nhưng lại chẳng có tiếng nào phát ra. Mao Đại tiên sinh bảo:

"Giá chúng ta ngẫu nhiên gặp nhau giữa đường, chỉ sợ người chẳng nhận được ra." Ông ta chợt quay mặt hỏi Lão Chủ Lớn:

"Có phải ông đang lấy làm lạ là gã nhìn thấy ta tại sao lại giật mình như thế chứ gì?" Lão Chủ Lớn chỉ còn biết gật đầu. Quả thực lão nghĩ không ra quan hệ giữa hai người này là thế nào đây? Mao Đại tiên sinh lại hỏi:

"Ông xem gã bao nhiêu tuỗi rồi?" Lão Chủ Lớn nhìn A Cát ngần ngừ bảo:

"Hơn hai chục, chưa đến ba mươi" Mao Đại tiên sinh hỏi tiếp:

"Còn tả" Lão Chủ Lớn nhìn ông ta đầu đầy tóc bạc phơ cùng những nét nhăn đầy mặt thì nghĩ thầm trong bụng là nên nói bớt đi ít tuỗi nhưng cũng chớ nên bớt quá nhiều. Đang nghĩ thì Mao Đại tiên sinh bảo:

"Ông xem tôi có phải khoảng chừng sáu chục không?" Lão Chủ Lớn bảo:

"Thoạt nhìn thì các hạ độ sáu chục, nhưng xem kỹ thì chỉ độ năm ba năm tư thôi!" Mao Đại tiên sinh bỗng dưng cười vang. Ông ta cười như xưa nay chưa được nghe chuyện gì đáng cười hơn nhưng tiếng cười của ông ta nghe kỹ chẳng có nét cười vui nào thậm chí có mấy phần như tiếng khóc.

Lão Chủ Lớn nhìn Mao Đại tiên sinh rồi lại nhìn A Cát bảo:

"Chẳng lẽ tôi toàn đoán sai ử" Cuối cùng A Cát thở dài bảo:

"Tôi tuỗi Hỗ, năm nay chẵn ba mươi hai" Lão Chủ Lớn bảo:

"Còn ông ấy?" A Cát đáp:

"Ông ta chỉ hơn tôi ba tuỗi" Lão Chủ Lớn giật mình nhìn Mao Đại tiên sinh. Bất kỳ ai cũng không thể nào nhìn nhận con người này mới ba mươi nhăm tuỗi.

"Sao ông ấy mau già đến như vậy?" A Cát đáp:

"Vì cừu hận!" Cừu hận quá sâu sắc cũng chẳng khác gì đau thương quá sâu sắc, cả hai thứ đều khiến người ta đặc biệt dễ dàng già lão suy bại. Tất nhiên Lão Chủ Lớn hiểu rõ đạo lý này nhưng không nén được mà phải bật hỏi:

"Ông ấy hận gì?" A Cát đáp:

"Ông ấy hận tôi!" Lão Chủ Lớn thở dài hỏi:

"Tại sao ông ấy lại hận ngươi?" A Cát bảo:

"Vì tôi dan díu với vợ chưa cưới của ông ấy!" Mặt chàng lại biến thành hoàn toàn không lộ một tình cảm nào chỉ nhạt nhẽo nói tiếp:

"Lần ấy tôi vốn thành tâm đến chúc mừng nhưng đến đêm thứ hai họ đính hôn thì tôi dẫn vợ chưa cưới của ông ấy đi theo." Lão Chủ Lớn hỏi:

"Và vì ông ấy cũng yêu người ấy chứ gì?" A Cát không trả lời trực tiếp vào câu hỏi ấy mà chỉ lạnh lùng bảo:

"Chỉ vì sau khi dắt nhau đi ăn ở với nhau nửa tháng tôi đã bỏ cô ấy". Lão Chủ Lớn bảo:

"Sao ngươi lại có thể làm được cái việc như thế?" A Cát đáp:

"Vì tính tôi thích thế" Lão Chủ Lớn hỏi:

"Chỉ cần ngươi thích bất kỳ việc gì ngươi cũng làm ử" A Cát đáp:

"Phải!" Lão Chủ Lớn thở dài sườn sượt bảo:

"Bây giờ thì coi như ta rõ cả rồi!" A Cát hỏi:

"Rõ cái gì?" Lão Chủ Lớn bảo:

"Vừa rồi ông ấy không giết ngươi vì không muốn ngươi chết quá nhanh! Ông ấy muốn để ngươi sống cũng như ông ấy chịu đủ mọi sự dày vò rồi mới từ từ mà chết!" Mao Đại tiên sinh đang cười bỗng ngưng bặt, rồi đột ngột quát to:

"Mẹ ngươi đừng có vãi rắm rít ra nữa!" Lão Chủ Lớn ngẩn người. Mao Đại tiên sinh nắm chặt tay quyền, đăm đăm nhìn A Cát dằn từng tiếng:

"Ta nhất định bắt ngươi phải nhìn ta, chỉ vì ta muốn ngươi phải rõ một điều..." A Cát lắng nghe. Mao Đại tiên sinh bảo:

"Ta hận không phải ngươi mà là hận bản thân mình vì thế ta mới tự dày vò mình đến cơ sự này!" A Cát trầm ngâm, cuối cùng chàng chậm chạp gật đầu bảo:

"Ta rõ rồi!" Mao Đại tiên sinh bảo:

"Ngươi có tha thứ cho ta chăng?" A Cát lúng túng:

"Ta... ta... tha thứ cho ngươi từ lâu rồi!" Mao Đại tiên sinh thở dài nhẹ nhõm như thể cất được gánh nặng ngàn cân đè trên vai xuống. Sau đó ông ta quỳ xuống, quỳ trước mặt A Cát lẩm bẩm:

"Cảm ơn ngươi... cảm ơn ngươi!" Cừu Nhị tiên sinh từ lâu đến giờ ngây người ngạc nhiên nhìn Mao Đại tiên sinh bỗng nhịn không nỗi gào lên:

"Gã cuỗm vợ ngươi đi chơi chán rồi vứt bỏ, ngược lại ngươi còn xin gã tha thứ, còn cảm ơn gã... Ngươi... ngươi... Sao khi nẫy không nhường ta một kiếm giết gã cho xong!" Vì khi nẫy kiếm của lão đang động vẫn còn cơ hội ra tay. Lão đã thấy A Cát bị lời lão nói làm cho phân tâm ai ngờ bạn bè của lão lại ra tay cứu A Cát. Mao Đại tiên sinh khe khẽ thở dài bảo:

"Lão cho là khi nẫy ta cứu gã thật ử" Cừu nhị tiên sinh giận hỏi:

"Chẳng lẽ còn không phải vậy?" Mao Đại tiên sinh bảo:

"Ta cứu không phải là gã mà là lão! Vừa rồi nhát kiếm đó ngươi ra tay thì chết ngay không có chỗ chôn!" Mao Đại tiên sinh cười gượng rồi nói tiếp "Cứ cho là ta vong ân bội nghĩa cứ cùng ngươi ra tay cũng chẳng chạm được mảng lông gã đâu!" Lửa giận của Cừu Nhị tiên sinh biến thành kinh lạ, ông ta biết người bạn này không có nói ngoa nhưng không nén nỗi đành hỏi:

"Khi nẫy hai ta song kiếm giáp đánh thành thế "Thiên địa giao thái" gã còn có cách phá được ử" Mao Đại tiên sinh đáp ngay:

"Gã có cách!" Mặt ông ta chợt lộ vẻ tôn kính mà bảo:

"Trên đời chỉ có một mình gã, chỉ có một cách..." Cừu Nhị đột nhiên biến sắc mặt bảo:

"Thiên Địa câu phần" ử" Mao Đại tiên sinh đáp ngay:

"Không sai, "Địa phá thiên kinh, Thiên địa phân cầu!" (Đất phá trời kinh, đất trời đều cháy). Cừu Nhị tiên sinh kêu lên thất thanh:

"Lẽ nào gã là người ấy?" Mao Đại tiên sinh bảo:

"Đúng gã đấy!" Cừu Nhị tiên sinh luống cuống lùi lại, dường như đứng không vững nữa. Mao Đại tiên sinh bảo:

"Đời ta chỉ làm có mỗi một việc thành tội không thể cứu nỗi, nếu không phải có một người giữ cho ta bí mật đó thì ta đã chết chẳng có đất chôn rồi!" Cừu Nhị tiên sinh bảo:

"Gã chính là người ấy ử" Mao Đại tiên sinh đáp:

"Chính đấy!" Ông ta lại chậm rãi nói tiếp:

"Đó là chuyện đã qua từ nhiều năm trước. Những năm lại đây ta vẫn thường gặp gã nhưng gã chẳng bao giờ để cho ta có dịp nói, chẳng bao giờ chịu nghe nói trọn một câu, còn bây giờ.." Còn bây giờ câu ấy cũng không nói trọn được nữa... Đột nhiên một làn ánh sáng lạnh im hơi lặng tiếng bay vút tới: một đoạn cây đao dài ba thước cắm phập vào lưng ông ta... Máu tươi phụt ra. Khi Mao Đại tiên sinh ngã xuống dường như Trúc Diệp Thanh cười nụ.

Người ra tay không phải gã. Người ra tay không cười, chàng thiếu niên bình thời mặt lúc nào cũng mang sẵn nụ cười rất đáng yêu giờ cũng không cười. Thấy gã ra tay, Lão Chủ Lớn giật mình. A Cát cũng giật mình. Cừu Nhị tiên sinh cũng giật mình và phẫn nộ, nghiêm giọng quát:

"Kẻ này là ai?" Chàng trai trẻ đáp:

"Tôi là "Chú em"!" Gã chầm chậm đi tới bảo:

"Tôi chẳng qua chỉ là một kẻ không tên tuỗi, một thằng nhỏ vô dụng mà thôi. Các bậc đại anh hùng, đại kiếm khách như các vị dĩ nhiên sẽ chẳng giết tôi nào!" Cừu Nhị tiên sinh giận giữ bảo:

"Sát nhân giả tử". Bất kỳ ai giết người cũng vậy!" Ông ta giơ kiếm lên.

"Chú em" mặt không đỗi sắc điềm nhiên bảo:

"Chỉ có tôi là không thế! Tôi biết rõ là ông không giết nỗi tôi!" Cừu Nhị tiên sinh kiếm cầm trong tay rồi nhịn không được hỏi ngay:

"Tại sao?" "Chú em" bảo:

"Vì chỉ cần ông ra tay nhất định có người sẽ giết ông hộ tôi ngay!" Cừu Nhị tiên sinh hỏi:

"Có thật thế không?" "Chú em" đáp:

"Thật chứ!" A Cát nén không được hỏi:

"Ai sẽ giết ông ta hộ ngươi?" "Chú em" bảo:

"Đương nhiên là ông!" A Cát bảo:

"Tại sao ta đương nhiên giết người cho ngươi?" "Chú em" bảo:

"Chỉ vì tôi vốn không có tên họ, lại vô dụng, nhưng có một người mẹ rất hiền rất quen ông." Sắc mặt A Cát thay đỗi:

"Chẳng lẽ mẹ ngươi là... là..." Giọng chàng khản đi, chàng không nói được ra cái tên ấy, cái tên mà chàng đã cố gắng quên đi nhưng lại vĩnh viễn không quên nỗi. Chàng không nói ra nhưng "chú em" đã nói ra thay chàng:

"Mẹ tôi là đại tiểu thư nhà Mộ Dung thế gia ở Giang Nam là tiểu sư muội của Mao Đại tiên sinh..." Trúc Diệp Thanh mặt lộ vẻ cười, nói tiếp thay "chú em":

"Tên đẹp của vị đại tiểu thư đó là Mộ Dung Thu Hoạch!" Tay A Cát lạnh giá, lạnh vào đến tận xương tủy.

"Chú em" nhìn chàng lạnh lùng bảo:

"Mẹ tôi dặn dò năm bẩy lượt, bảo là ra ngoài thấy kẻ nào bịa đặt rông càn bôi nhọ tiếng tăm nhà Mộ Dung thế gia nếu tôi không thay mẹ tôi giết đi thì không báo đáp được cho mẹ, huống hồ lão Mao Đại tiên sinh này vốn là người trong họ Mộ Dung thế gia, tôi có làm thế này chẳng qua chỉ là thay mẹ tôi làm việc chấn chỉnh trong nhà mà thôi!" A Cát vận sức nắm chặt hai tay quyền bảo:

"Mẹ ngươi làm chưởng môn chấp pháp nhà Mộ Dung từ bao giờ?" "Chú em" đáp:

"Cũng chưa lâu lắm!" A Cát hỏi:

"Sao mẹ ngươi không giữ ngươi ở bên mình?" "Chú em" thở dài bảo:

"Chỉ vì tôi là đứa trẻ không nhìn được mặt ai, căn bản không đủ tư cách để vào được nhà Mộ Dung thế gia, đành sống gửi thác nhờ vào nhà người ta làm hạng người vào luồn ra cúi mà thôi!" Sắc mặt A Cát biến hẳn, trong mắt ngập tràn khỗ đau và bi phẫn. Mãi rất lâu sau chàng mới khẽ hỏi:

"Ngươi năm nay bao nhiêu tuỗi rồi?" "Chú em" đáp:

"Tôi năm nay mới mười lăm." Lão Chủ Lớn giật mình, bất kỳ ai cũng không thể nhìn ra chàng thiếu niên này vẫn chỉ là một đứa bé mới mười lăm tuỗi.

"Chú em" nói:

"Tôi biết người ta nhất định chẳng nhìn nhận tôi năm nay mới mười lăm tuỗi thì cũng như người ta đâu có nhìn nhận Mao Đại tiên sinh năm nay mới ba mươi nhăm tuỗi!" Gã bỗng bật tiếng cười vẻ cười cực kỳ thê thảm:

"Đó có lẽ chỉ vì cuộc đời tôi quá khỗ sở so với con cái người khác nên cũng có mau lớn khôn hơn con nhà khác". Kinh nghiệm trong khỗ đau rõ ràng dễ dàng làm một đứa trẻ trưởng thành nên người lớn.

Cừu Nhị tiên sinh nhìn "Chú em", lại nhìn A Cát rồi bỗng dậm chân cúi xuống ôm xác người bạn bỏ đi không ngoái lại. Lão Chủ Lớn thấy ông ta ra đi bản thân sợ phải đi nên không nhịn được bật nói:

"Cừu Nhị tiên sinh, xin hãy dừng bước!" "Chú em" lạnh lùng bảo:

"Ông ấy biết rõ suốt đời này việc báo thù là vô hy vọng rồi, có ở lại há chẳng càng thêm mất thú ử" Câu nói này "xóc óc" rất làm tỗn thương người khác, nam nhi trên chốn giang hồ liều mạng sống chẳng qua cũng chỉ vì lời lẽ kiểu này. Nhưng bây giờ "Chú em" đã tính chắc là Cừu Nhị tiên sinh dù có nghe thấy cũng vờ làm như không nghe thấy, vì lời gã nói ra đúng là một sự thực khó lòng tranh cãi. Chính vì vậy "chú em" không ngờ được là Cừu Nhị tiên sinh lại lùi bước, lão đã ra đến cửa còn trở vào, từng bước lùi trở vào, trên khuôn mặt trắng bệch lộ vẻ rất kỳ quái, không phải là đau buồn, phẫn nộ mà là kinh hoàng, khiếp sợ.

Lão chẳng còn là loại trẻ trai nóng máu, cũng chẳng phải là người không biết thị phi nặng nhẹ. Rõ ràng lão không nên quay lại mới phải, trừ phi lão vẫn còn một con đường khác để rút lui! "Chú em" thở dài lẩm bẩm:

"Rõ ràng là người thông minh, tại sao cứ khăng khăng chuốc lấy những điều chẳng thú vị gì?" Ngoài cửa có người lạnh lùng lên tiếng:

"Vì lão không còn đường để đi chứ sao!" Tiếng nói nguyên ở rất xa, chỉ nghe ngoài sân lát đá kêu "cộc" một tiếng đã thấy đến ngoài cửa, tiếp đó lại thấy "cộc" tiếng nữa, người ngoài cửa kia đã vào trong phòng. Người này bên trái một tay áo rỗng giắt vào thắt lưng, chân bên phải bị tiện cụt tới gối nhưng lắp một đọan chân gỗ, mắt bên trái bị một vết dao chém xiên từ trên góc trái xuống lòi cả xương mày trắng hếu. Té ra đây là một người tàn phế một tay, một chân, một mắt! Lẽ ra với hình dạng thế này con người phải xấu xa, nanh ác, ghê sợ... nhưng người này lại không như vậy! Ông ta chẳng những ăn mặc chững chạc, áo quần hoa lệ, mà còn là một người đàn ông đầy vẻ quyến rũ, ngay cả vết dao chém ngang mặt cũng nghiễm nhiên ngầm mang một vẻ cuốn hút tàn khốc. Quần áo ông ta mặc làm toàn bằng tơ, trên đai lưng ngọc thắt ở bụng phệ dắt xeo xéo một cây kiếm ngắn.

HỒI 25 - TA THA VÌ AI

Trong phòng lúc đó có người sống, có cả người chết, thế mà ông ta có vẻ không thèm để lọt mắt chỉ lạnh lùng hỏi:

"Ai là chủ nơi đây?" Lão Chủ Lớn liếc nhìn A Cát, lại nhìn Trúc Diệp Thanh rồi miễn cưỡng lên tiếng:

"Giờ coi bộ vẫn là tôi đây!" Người một tay xếch khóe mắt lên ngạo nghễ bảo:

"Có khách từ xa tới mà chỗ ngồi cũng không có, chủ nhà như thế chẳng hóa ra quá vô lễ hay sao?" Lão Chủ Lớn còn đang chần chừ thì Trúc Diệp Thanh đã cười vuốt đuôi bê một cái ghế bành tới:

"Quý khách tên gì vậy?". Người một tay không thèm để ý đến gã mà chỉ xòe bốn ngón tay ra.

Trúc Diệp Thanh lại cười giả lả như cũ:

"Chẳng lẽ quý khách còn ba vị bạn bè nữa ử". Người một tay buông sõng:

"ừ!". Trúc Diệp Thanh lại bê ba cái ghế tới, vừa xếp thành một hàng thì ở lưng chừng không đã có hai người tà tà đáp xuống.

Một người thân pháp nhẹ như lá rụng mà khuôn mặt cũng gầy guộc khô héo không có thịt, ở thắt lưng lại giắt một cành trúc khô, nhìn cả người cứ như một gốc tre khô. Tuy vậy áo quần của lão mặc lại rất hoa lệ, vào thái độ thì rất kiêu căng ngạo nghễ. Tất cả mọi người trong phòng ư cả chết lẫn sống ư trong con mắt lão ta đều như chết cả rồi. Còn người kia lại là một người béo phục phịch miệng luôn cười toe toét, bàn tay trắng trẻo múp míp đeo ba cái nhẫn có giá trị "liên thành", móng tay để vừa dài vừa nhọn coi bộ giống như bàn tay một mệnh phụ phu nhân nào vậy. Bàn tay như vậy dĩ nhiên không thích hợp với việc dùng kiếm, nhìn dáng người như vậy có vẻ không thích hợp với môn khinh công, nhưng vừa rồi lão ta phơi phới từ lưng chừng cao đáp xuống, coi bộ khinh công cũng không hề thua sút ông già gốc tre khô kia chút nào.

Vừa nhìn thấy ba người, Cừu Nhị mặt bỗng xám ngoét như tro tàn. Ngoài cửa vẫn còn một người không ngớt khúc khắc ho khan, vừa chậm rãi bước vào. Té ra là một hòa thượng già, áo quần rách rưới, hông vẹo lưng gù, mặt đầy vẻ bệnh hoạn.

Thấy hòa thượng, mặt Cừu Nhị trông không còn ra vẻ mặt con người nữa. Lão cười thê thảm, bảo:

"Hay quá nhỉ! Không ngờ ông cũng tới!" Hòa thượng thở dài đáp:

"Ta không tới thì ai tới? Ta không vào địa ngục thì ai vào?" Giọng ông ta nói phều phào có hơi mà không có sức, chẳng những có vẻ đang bệnh mà còn là bệnh rất nặng nữa; nhưng trong lúc này, ở đây, ai cũng thấy là hòa thượng ắt hẳn là người có lai lịch lớn, chắc có thân phận rất cao. Tất nhiên Lão Chủ Lớn cũng có cách nhìn như vậy. Lão còn nhận ra nhà sư có thể là vị cứu tinh duy nhất cho mình. Dù thế nào đi nữa lòng người tu hành cũng không đến nỗi quá cứng rắn. Nghĩ vậy Lão Chủ Lớn đứng dậy cung kính cười ve vuốt bảo:

"May mà đây lại không phải địa ngục, dù đại sư đã tới đây cũng không phải chịu khỗ nạn của khách thập phương!" Hòa thượng già lại thở dài bảo:

"Đây không phải địa ngục, lão tăng không tới chịu khỗ thì ai tới chịu khỗ đây?" Lão Chủ Lớn miễn cưỡng bảo:

"Đã thế tới đây đại sư còn muốn chịu khỗ gì vậy?" Hòa thượng già bảo:

"Bắt ma cũng khỗ, giết người cũng khỗ!" Lão Chủ Lớn hỏi:

"Đại sư mà cũng giết người ử" Hòa thượng già bảo:

"Ta không giết người thì ai giết? Ta có giết người vị tất đã phải vào địa ngục!" Người cụt tay bỗng hỏi:

"Ngươi biết ta là ai không?" Lão Chủ Lớn lắc đầu. Bất kỳ ai đã làm đến "Ông Chủ Lớn" như lão mà còn để ý đến người khác chắc hẳn không nhiều! Người cụt tay bảo:

"Nhưng ngươi cần phải biết ta là ai! Người như ta đây một mắt một tay một chân mà lại sử song kiếm, sợ chẳng có mấy ai đâu!" Lão ta chắc chẳng phải khoe mẽ vì người như lão ta nói sợ tìm trên giang hồ cũng khó ra người thứ hai. Chỉ có mỗi "Yến tử song phi" Đơn Diệc Phi được xếp vào hàng thứ ba trong "mười đại kiếm khách ở Giang Nam" mà thôi. Lão Chủ Lớn dĩ nhiên cũng biết người này:

"Té ra là Đơn đại hiệp!" Người cụt tay ngạo nghễ bảo:

"Phải, ta là Đơn Diệc Phi đây! Ta cũng tới để giết người đây!" Lão già gầy khô cũng tiếp lời ngay:

"Còn ta là Liễu Khô Trúc đây!" Liễu Khô Trúc cũng là kiếm khách nỗi tiếng ở Giang Nam. Trong mười cây kiếm có tiếng trên giang hồ đã có bẩy người bị diệt dưới lưỡi kiếm của lão. Đơn Diệc Phi lạnh lùng bảo:

"Hôm nay chúng ta tới đây là để giết người thế nào đây? Ta không nói chắc lão cũng biết rồi chứ?" Lão Chủ Lớn thở dài một cái, cười ve vuốt bảo:

"May mà các vị tới không phải để giết tôi!" Đơn Diệc Phi bảo:

"Dĩ nhiên không phải là lão rồi!" Câu nói chưa dứt ông ta đã nhẩy vọt lên, kiếm đã tuốt ra khỏi vỏ, ánh kiếm vừa lóe đã đâm thẳng vào Cừu Nhị. Cừu Nhị cũng đã sớm thu kiếm về vung kiếm trả đòn.

"Choeng" một tiếng. Hai thanh kiếm chém vào nhau, hai làn ánh kiếm đột ngột thay đỗi phương hướng lia vào Lão Chủ Lớn. Nét cười trên mặt Lão Chủ Lớn còn chưa tắt, hai cây kiếm đã đâm xuyên qua cuống họng vào tim Lão Chủ Lớn rồi. Không một ai ngờ đến sự diễn biến lạ này nên chẳng có ai ngăn trở. Vì cùng lúc hai cây kiếm tách ra, Trúc Diệp Thanh đã bị hòa thượng già đánh ngã.

Lại cũng cùng giây phút ấy, Liễu Khô Trúc cùng lão béo hay toe toét cười đã vọt đến cạnh "chú em". Kiếm của Liễu Khô Trúc còn chưa tuốt ra khỏi vỏ, cán kiếm đã thúc ngay vào sườn "chú em". "Chú em" định nhao về phía trước thì kiếm của Cừu Nhị cùng Đơn Diệc Phi từ phía trước mặt đã bay thẳng tới. "Chú em" đành phải né sang phải thì đôi bàn tay đẹp như tay phu nhân quý phái đã chực sẵn, mấy ngón tay mềm mại bỗng dựng đứng lên, cả mười đầu ngón tay như mười mũi trủng chủ đã áp tới cỗ họng và giữa đôi lông mày "chú em".

"Chú em" hết đường tránh né, cái chết đã cầm chắc! Nhưng A Cát không thể để "chú em" phải chết, tuyệt đối không thể! Cây kiếm của Liễu Khô Trúc vừa rút ra khỏi vỏ, đột nhiên lão thấy bóng người thoáng qua trước mắt, kiếm trên tay lão đã lọt vào tay người khác. ánh kiếm lại lóe lên và mũi kiếm đã dí sát họng Liễu Khô Trúc. Nhưng mũi kiếm không thọc vào Liễu Khô Trúc vì mấy ngón tay trủng thủ của lão béo vẫn chưa chọc vào đầu "chú em"! Động tác của từng người đều ngưng lại, cặp mắt của từng người đều đỗ dồn vào mũi kiếm của A Cát. A Cát lại mải nhìn mười ngón tay nhọn sắc như dao kiếm của lão béo mập.

Chỉ giây lát ngắn ngủi ấy tưởng chừng như dài cả năm trường, cuối cùng hòa thượng già thở dài than:

"Tay các hạ nhanh thật!" A Cát lạnh nhạt đáp:

"Tôi cũng biết giết người!" Hòa thượng già bảo:

"Nhưng mà các hạ chịu khỗ lo việc của chúng ta làm gì?" A Cát bảo:

"Vì người này có chút quan hệ với tôi!" Hòa thượng già nhìn "chú em", lại nhìn bàn tay như ngọc của quý phu nhân kia rồi thở dài mà bảo:

"Các hạ muốn cứu người này, sợ rằng khó được đây!" A Cát hỏi:

"Tại sao?" Hòa thượng già đáp ngay:

"Vì đôi tay kia kìa!" Hòa thượng chậm rãi nói tiếp:

"Vì đó là đôi tay "Sưu hồn thủ" (bắt hồn) của Phú Quý Thần tiên chuyên "điểm đá hóa vàng, điểm sống thành chết" mà! Nếu các hạ giết Liễu Khô Trúc thì vị thí chủ thiếu niên này chết là chắc chắn!" A Cát bảo:

"Chẳng lẽ các vị không tiếc gì mạng của Liễu Khô Trúc ư, đỗi mạng lấy mạng thì sao?" Hòa thượng già trả lời gọn lỏn:

"Đâu được!" A Cát biến sắc mặt bảo:

"Nó chẳng qua chỉ là một đức trẻ, tại sao các vị cứ nhất định phải dồn nó vào chỗ chết?" Hòa thượng già bỗng nhiên cười nhạt bảo:

"Đức trẻ? Nó chỉ là một đứa trẻ ư? Một đứa trẻ như nó sợ rằng thế gian này chẳng có nhiều đâu!" A Cát bảo:

"Bây giờ nó còn chưa đến mười lăm tuỗi!" Hòa thượng già lạnh lùng bảo:

"Nhưng chúng ta tuyệt đối không thể để nó sống đến tuỗi mười sáu được!" A Cát hỏi:

"Tại sao?" Hòa thượng già hỏi chứ không trả lời:

"Các hạ có biết Thiên Tôn không đã?" A Cát hỏi lại:

"Thiên Tôn?" Hòa thượng già lại thở dài, chậm chạp đọc lên tám câu kệ:

"Trời đất vô tình. Quỷ thần không mắt. Vạn vật bất tài. Dân ngủ chẳng biết. Sống chết bất ngờ. Họa phúc không cửa. Đất trời tăm tối. Chỉ ta đáng tôn!" A Cát hỏi:

"Đó là lời của ai. Khẩu khí lớn lối nhỉ!" Hòa thượng già bảo:

"Đó là câu khấn của Thiên Tôn đọc khi khai môn lập phái. Đến trời đất quỷ thần cũng bị họ chẳng để lọt mắt, huống gì con người! Những gì họ làm, chẳng kể cũng có thể biết được!" Cừu Nhị bảo:

"Thế lực của họ hùng mạnh lắm, không hề kém Hội Rồng Xanh năm xưa đâu! Đáng tiếc là trên giang hồ còn mấy kẻ chẳng tin tà giáo chúng ta đây sẵn sàng liều mạng với họ!" Đơn Diệc Phi bảo:

"Vì thế mà chút oán riêng của mười kiếm khách Giang Nam với Cừu Nhị đã trở nên chẳng đáng kể gì. Chỉ cần tiêu diệt được bọn tà ác này thì dù đầu Đơn mỗ có rơi xuống còn chẳng tiếc, sá gì một chút thù riêng!" Cừu Nhị bảo:

"Bang hội đầy thế lực tàn ác ở đất này chính là một chi nhánh thuộc hạ của Thiên Tôn đấy!" Hòa thượng già bảo:

"Mệnh lệnh của Thiên Tôn đều do thằng bé này thao túng chỉ huy ngầm trong bóng tối. Lão Chủ Lớn với Trúc Diệp Thanh chẳng qua chỉ là con rối trong tay nó mà thôi." Mặt A Cát trắng bệch ra. Với tiếng tăm địa vị của Thập Kiếm Giang Nam dĩ nhiên họ không cố tình làm hại đến một đứa trẻ con. Lời họ, nói thực là chàng không thể không tin. Lão Hòa thượng bảo:

"Giờ đây chắc chàng cũng đã rõ rồi, vậy chàng có còn muốn cứu gã nữa không?" A Cát bảo:

"Còn" Sắc mặt hòa thượng già cũng thay đỗi. A Cát không đợi hòa thượng mở miệng, lại hỏi ngay:

"Gã có phải đầu sỏ của Thiên Tôn không?" Hòa thượng già đáp:

"Dĩ nhiên là không phải!" A Cát hỏi:

"Đầu sỏ của Thiên Tôn là ai?" Hòa Thượng già đáp:

"Đầu sỏ của Thiên Tôn gọi là Thiên Tôn" A Cát bảo:

"Nếu có người lấy mạng của hắn đỗi lấy mạng thằng bé này, các vị chịu không?" Hòa thượng già bảo:

"Đương nhiên là chịu, chỉ tiếc là dù chúng tôi chịu, cuộc trao đỗi này nhất định không thành đâu!" A Cát hỏi:

"Tại sao?" Hòa thượng già đáp:

"Vì không ai có thể giết nỗi Thiên Tôn, không có ai là đối thủ của hắn!" Tiếng hòa thượng ngưng bặt, trên mặt lộ một vẻ rất kỳ quái, tựa hồ tâm thần ông ta lúc đó bay bỗng tận nơi đâu, rất lâu sau ông ta mới chậm rãi nói tiếp:

"Có lẽ cũng có một người..." A Cát hỏi:

"Ai vậy?" Hòa thượng già nói:

"Tam..." Ông ta chỉ nói có một từ rồi dừng ngay, thở dài mà bảo:

"Chỉ tiếc người này chẳng còn ở nhân thế nữa, có nói ra cũng bằng thừa." A Cát bảo:

"Thì nhà sư cứ nói ra, có gì trở ngại đâu?" ánh mắt nhà sư già dường như lại bay bỗng tận cõi xa, lẩm bẩm bảo:

"Trên trời dưới đất độc nhất vô nhị chỉ có mỗi người này, độc nhất vô nhị có mỗi cây kiếm này. Chỉ có kiếm pháp của chàng ta mới thật là ngàn đời chẳng có, thiên hạ vô song." A Cát bảo:

"Nhà sư bảo là..." Hòa thượng già nói:

"Ta nói là Tam thiếu gia!" A Cát hỏi:

"Tam thiếu gia nào?" Hòa thượng giả bảo:

"Núi Thúy Vân Phong, hồ Lục Thủy, Tam thiếu gia của Thần Kiếm sơn trang Tạ Hiểu Phong!" Trên trời dưới đất chỉ có một con người như thế. Chàng không chỉ là kiếm khách có một không hai trong thiên hạ mà còn là một vị tài tử. Từ lúc ra đời chàng đã được vinh quang và sủng ái, không có ai sánh bằng. Chàng thông minh anh tuấn, lực lưỡng khỏe mạnh, cho dù người căm giận chàng nhưng cũng không thể không khâm phục. Bất kỳ ai cũng đều biết Tạ Hiểu Phong là một con người như thế, nhưng liệu có ai thật sự thấu hiểu chàng? Phải chăng không có ai thấu hiểu chàng cũng chẳng sao?! Có một số người sinh ra đời đâu cần phải để cho người khác hiểu, mà cứ như là thần thánh đó thôi! Vì làm gì có ai hiểu được thần thánh, có thế thần thánh mới được người ta lễ bái và và tôn kính.

Trong cõi lòng, trong con mắt người đời, Tạ Hiểu Phong cơ hồ đã tiếp cận với thánh thần. Còn A Cát? A Cát chẳng qua chỉ là một lãng tử giang hồ lam lũ, là gã A Cát vô dụng! Tạ Hiểu Phong làm sao lại có thể biến thành một con người như A Cát thế này, thế mà giờ đây gã A Cát lại xưng xưng lên bảo:

"Tôi là Tạ Hiểu Phong!" Có thật không? Hòa thượng già cười, cười vang:

"Ngươi là Tạ Hiểu Phong là Tam thiếu gia nhà họ Tạ?" A Cát bảo:

"Phải!" Chàng không cười. Đây là bí mật của chàng mà cũng là nỗi đau khỗ của chàng. Chàng dù chết cũng không để lộ, thế mà giờ đây chàng phải nói ra. Vì chàng không thể để "chú em" phải chết, tuyệt đối không thể để "chú em" chết được! Rồi tiếng cười của nhà sư già cũng phải tắt, ông ta lạnh lùng bảo:

"Thế sao trên giang hồ ai ai cũng biết là chàng đã chết?" A Cát đáp:

"Chàng chưa chết!" Mắt chàng tràn ngập đau buồn và khỗ sở:

"Có thể con tim chàng đã chết, còn con người mới hóa thành A Cát?" A Cát chậm rãi gật đầu, mặc nhiên bảo:

"Chỉ đáng tiếc là con tim A Cát vẫn chưa chết, vì vậy Tạ Hiểu Phong không thể nào không sống lại được!" Cừu Nhị đột nhiên bảo:

"Tôi tin chàng ta!" Hòa thượng già hỏi:

"Tại sao tin?" Cừu Nhị đáp:

"Vì trừ Tạ Hiểu Phong ra làm gì có ai buộc Mao Nhất Vân quỳ được?" Liễu Khô Trúc cũng nói:

"Tôi cũng tin!" Hòa thượng già hỏi:

"Tại sao tin?" Liễu Khô Trúc đáp:

"Vì trừ Tạ Hiểu Phong ra tôi không thể nào tưởng tượng là có người chỉ một chiêu mà cướp được kiếm của tôi!" Hòa thượng già hỏi tiếp:

"Còn người?". Đó là ông ta hỏi "Cao Quý Thần tiên thủ" Thần Tiên thủ không mở miệng nhưng đôi tay đẹp như của bà mệnh phụ của ông ra thõng xuống, những móng tay sắc như lưỡi kiếm cũng nhũn ra. Đó là câu trả lời rõ nhất.

Bàn tay Tạ Hiểu Phong lật lại một cái, cây kiếm trúc khô của Lãnh Khô Trúc đã chui tụt vào vỏ kiếm đeo bên hông ông ta.

"Chú em" cũng quay mình đối diện với Tạ Hiểu Phong, nhìn chàng, trong ánh mắt gã lộ một tình cảm kỳ quái không sao miêu tả nỗi. Cao Quý Thần Tiên thủ cũng dùng đôi tay cao quý như tay bà mệnh phụ của mình vỗ vỗ vào vai gã bảo:

"Ngươi còn quên một việc đấy nhé! Còn quên cảm ơn cứu mạng của Tam Thiếu gia!" "Chú em" cúi nhẹ đầu, cuối cùng cũng chầm chậm bước tới, chậm chạp quỳ xuống. Tạ Hiểu Phong nắm chặt lấy tay gã, trên bộ mặt mệt mỏi tiều tụy của chàng dường như rạng rỡ lên.

"Chú em" bỗng ngửng đầu hỏi:

"Ông...ông sao lại cứu tôi?" Tạ Hiểu Phong không đáp mà chỉ cười cười, cười có vẻ vui mà dường như cũng có vẻ buồn. Nhưng nét mặt chàng còn đang đọng nét cười thì tay phải chàng đã bị tóm chặt lấy Mạch môn. Huyệt đạo của chàng đã bị tóm, chàng bị "chú em" dùng "Thất thập nhị tiểu cầm nã thủ" tóm lấy huyệt đạo lợi hại nhất của người cầm kiếm. Đúng trong thoáng chốc đó, Đơn Diệc Phi cũng bay vọt lên đá một chân về phía Tạ Hiểu Phong, chỉ nghe "phạch" một tiếng từ cái chân gỗ của lão đã bật ra một thanh kiếm. Người lão đang tung bay thanh kiếm đã đâm thẳng vào đầu vai Tạ Hiểu Phong. Đó là thanh kiếm thứ hai của lão.

Đó mới thực sự giúp lão nỗi tiếng là Sát thủ! Tạ Hiểu Phong không né tránh cây kiếm này. Vì trong lúc này chàng còn đang mải nhìn "chú em" ánh mắt của chàng không hề khiếp sợ, giận dữ mà chỉ tràn trề buồn thương, thất vọng và đau khỗ. Cho tới khi mũi kiếm của Cừu Nhị tiên sinh và Liễu Khô Trúc cũng đâm tới, lại còn thêm cả đôi tay cao quý như của bà mệnh phụ phu nhân, đôi tay Cao Quý Thần tiên "sưu hồn thủ" (tay bắt hồn).

Tạ Hiểu Phong vẫn không động đậy, không né tránh, tuy huyệt Mạch môn tay phải chàng bị tóm chặt nhưng chàng vẫn còn một tay nữa... Sao chàng không động đậy? Chẳng lẽ vị kiếm khách thiên hạ vô song bị một thằng bé con dùng cầm nã thủ bắt lấy tay mà không rút được tay rả! Kiếm của Cừu Nhị còn nhanh hơn của Liễu Khô Trúc, lão đâm vào gối Tạ Hiểu Phong. Gối trái tuy chẳng phải là chỗ yếu hại nhất của thân người nhưng đủ khiến người ta hết hành động được. Cừu Nhị ra tay chuẩn xác và độc địa vì nếu đã muốn đả thương chỗ yếu hại của Tạ Hiểu Phong thì tuyệt không thể nào sai chạy được.

Bọn họ cũng chưa muốn hại tính mạng của Tạ Hiểu Phong ngay. Nhát kiếm này Tạ Hiểu Phong cũng không né tránh, mũi kiếm lướt qua, mát tươi vọt lên tận mặt "chú em".

Kiếm của Liễu Khô Trúc cũng nối theo đâm tới... Chợt "chú em" gào lên, buông tay Tạ Hiểu Phong ra, dùng hết sức đẩy chàng ra rồi dùng ngay cánh tay mình chặn mũi kiếm trúc khô, mũi kiếm vừa khéo đâm phập ngay vào khớp xương của gã.

"Ngươi điên à?" Liễu Khô Trúc giận dữ thét lên rút kiếm nhưng rút không ra. Đơn Diệc Phi lăng không lật mình kiếm trong chân gỗ tụt vào rồi lại bật ra: chiêu "Yến tử song phi" (Chim yến bay đôi). Kiếm của Cừu Nhị đâm chếch cứa vào mặt Tạ Hiểu Phong.

Ba cây kiếm ba phương hướng, đều nhanh như điện chớp, độc địa như rắn rết. Chỉ nghe "bùng" một tiếng, trường kiếm của Cừu Nhị bỗng bị một nguồn sức mạnh đẩy chếch lên đâm phập vào chân Đơn Diệc Phi. Đơn Diệc Phi bị mất trọng tâm, thân hình từ trên không giáng xuống, "rắc rắc" mấy tiếng rồi cánh tay gẫy rời, cây kiếm trong tay chẳng thấy đâu nữa.

Cây kiếm trúc khô thì bị "chú em" mắc chặt, vì con người "chú em" đã bị dính chết vào cây kiếm trúc.

"Sưu hồn thủ" của Cao Quý Thần tiên đã chộp tới họng và hai mắt "chú em". Bỗng đâu ánh kiếm loáng lên mười ngón trên đôi bàn tay mệnh phụ cao quý đã bị chặt cụt, từng ngón từng ngón lả tả rơi xuống, máu tưới ròng ròng đầy đất. ánh kiếm lại lóe lên, máu tươi lại vọt ra. Liễu Khô Trúc kêu lên thảm thiết ngã vật xuống, thì "chú em" bay ra ngoài cửa.

Không có ai đuỗi theo và ngoài cửa đã có người chặn lại. Tạ Hiểu Phong đẩy kiếm, cướp kiếm, vung kiếm, chặt ngón tay, đâm người và lật tay đẩy "chú em" ra ngoài cửa thì thân mình đã chặn ở cửa rồi.

Đến giờ thì ai nấy đều biết chàng chính là Tạ Hiểu Phong. Trong tay chàng đang cầm kiếm. Khi Tam Thiếu gia nhà họ Tạ đã cầm kiếm trong tay, còn kẻ nào dám xốp nỗi manh động?

Cho dù chàng bị thương, dù vết thương của chàng đang rỏ máu nhưng cũng chẳng ai dám nhúc nhích. Cho đến khi chàng lùi đi rất lâu rồi lão hòa thượng mới thở dài não nuột bảo:

"Quả nhiên là kiếm pháp thiên hạ vô song, quả nhiên là kiếm khách Tạ Hiểu Phong thiên hạ vô song!" Khi nẫy bị đánh ngã vẫn nằm cứng đờ trên mặt đất, bỗng Trúc Diệp Thanh bật dậy nói:

"Kiếm pháp rõ ràng là tuyệt rồi nhưng còn thiên hạ vô song thì chửa vị tất!" Gã từ tốn ngồi dậy, trên mặt lại lộ nét cười cợt. Hòa thượng già cũng chẳng kinh lạ gì chỉ lườm gã một cái rồi lạnh lùng bảo:

"Kiếm pháp của Diệp tiên sinh thì cũng tuyệt rồi, sao khi nẫy không tuốt kiếm trở dậy cùng chàng ta thử một trận thắng bại?" Trúc Diệp Thanh mỉm cười:

"Tôi so không bằng gã." Hòa thượng già hỏi:

"Ngươi biết ai có thể so bằng chàng tả" Trúc Diệp Thanh bảo:

"ít nhất cũng có một người!" Hòa thượng già hỏi:

"Phu nhân ử" Trúc Diệp Thanh mỉm cười mà không cười, hỏi trở lại:

"Ông đã thấy phu nhân ra tay chưa?" Hòa thượng già bảo:

"Chưa!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Chỉ vì phu nhân có muốn giết người cũng chẳng cần phải tự mình ra tay!" Hòa thượng già:

"Liệu có ai có thể ra tay thay phu nhân, có thể đưa Tạ Hiểu Phong vào chỗ chết?" Trúc Diệp Thanh đáp:

"Yến Thập Tam!"

HỒI 26 - XA LÂU GẶP LẠI

Hòa thượng già trầm ngâm rất lâu rồi thở dài bảo:

"Không sai! Đúng là Yến Thập Tam! Đương nhiên là Yến Thập Tam!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Dưới gầm trời này ngoài phu nhân ra chỉ có Yến Thập Tam biết được chỗ hở trong kiếm pháp của Tạ Hiểu Phong!" Hòa thượng già nói:

"Nhưng bản thân chàng ta ở hồ Lục Thủy đã vạch thuyền dìm kiếm rồi thì trên giang hồ có ai biết hành tung của chàng ta ra sao đâu! Chàng ta làm thế nào lại có thể đi tìm Tạ Hiểu Phong thay người khác được!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Chàng ta không biết để đi tìm thật!", nhưng gã lại mỉm cười, nói thêm:

"Nhưng tôi xin đảm bảo, nhất định họ sẽ vô tình mà gặp nhau!" Hòa thượng già hỏi:

"Có thật vô tình không?" Trúc Diệp Thanh phủi áo đứng dậy lạnh lùng bảo:

"Có mời? Hay không mời? Có ý hay vô ý? Những chuyện ấy có ai mà tách bạch ra được!" Đêm. Khu vườn tăm tối và yên tĩnh. Tạ Hiểu Phong đi rất nhanh. Dù chẳng cần đèn lửa chàng vẫn tìm được chỗ này.

Chính trong khu vườn này, cũng trong một đêm yên tĩnh như thế này, chẳng biết chàng đã bao nhiêu lần từng khoác áo trở dậy, lặng lẽ đến, để hiểu rõ được gió sương và sự vắng vẻ của đêm khuya ở chốn này. Đêm nay trăng sao không như đêm qua, Tạ Hiểu Phong hôm nay cũng không như A Cát vô dụng của ngày trước.

Việc đời cứ như bàn cờ biến ảo khôn lường, có ai lường đoán trước được những gì sẽ gặp ngày mai? Giờ đây điều duy nhất chàng quan tâm là con người ở cạnh chàng.

"Chú em" chậm bước đi cạnh chàng xuyên qua các sân vườn tăm tối, chợt dừng chân bảo:

"Ông đi đi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ngươi không đi ử" "Chú em" nắm chặt hai tay quyền, lớn tiếng bảo:

"Không thể đi được!" Gã đột ngột quay mình bỏ đi nhưng thân thể gã vừa nhẩy vọt lên đã từ lưng chừng không rơi xuống. Mặt gã bệch bạc, mồ hôi lạnh toát như mưa, gã nghĩ đến chuyện dẫy dụa để vọt lên nhưng đến đứng cũng không vững nữa. Vốn gã cứ tưởng mình chịu đựng được nhát kiếm trúc khô của Liễu Khô Trúc bây giờ gã mới phát giác ra vết thương đau nhức không sao chịu nỗi.

Gã đã ngất đi. Khi "chú em" tỉnh lại, trong gian nhà nhỏ có ngọn đèn như hạt đậu, Tạ Hiểu Phong đang ngồi dưới ngọn đèn ngưng thần xem một mũi kiếm dài chừng nửa tấc.

Mũi kiếm của cây kiếm trúc khô. Khi cây kiếm trúc rút ra còn để lại đoạn mũi kiếm này trong khớp xương bả vai gã.

Cơn đau này ai mà chịu nỗi! Nếu chẳng phải là Tạ Hiểu Phong có đôi tay cực kỳ vững vàng thì làm sao mà rút nỗi cái mũi kiếm này ra khỏi vết đâm? Nhưng cho đến giờ áo quần chàng vẫn chưa khô, lòng bàn tay cũng toát mồ hôi.

Cho đến giờ chàng mới bắt đầu run.

"Chú em" nhìn chàng bỗng nói:

"Nhát kiếm này vốn phải đâm vào người ông!" Tạ Hiểu Phong cười gượng:

"Ta biết!" "Chú em" bảo:

"Vì vậy dù ông có giúp tôi chữa vết thương, tôi cũng chẳng cảm ơn ông đâu!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ngươi khỏi phải..." "Chú em" lại bảo:

"Vì vậy khi tôi đi, ông chớ có giữ lại đấy!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Khi nào ngươi đỉ" "Chú em" đáp:

"Bây giờ." Thế nhưng gã vẫn chưa đi, gã làm gì đủ sức để đứng dậy nữa là. Tạ Hiểu Phong chậm chạp đứng dậy, đi đến đầu giường, ngưng thần nhìn "chú em" bỗng hỏi:

"Trước đây ngươi đã gặp ta chưa?" "Chú em" đáp:

"Người thì chưa gặp, nhưng đã thấy người khác vẽ hình ông." Tạ Hiểu Phong không hỏi ai đã vẽ hình chàng vì chàng biết người đó là ai rồi. Chàng chỉ hỏi:

"Ngươi đã nói với ai là ngươi nhận ra ta chưa?" "Chú em" đáp:

"Chỉ nói với mỗi một người!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ai thế?" "Chú em"đáp:

"Thiên Tôn!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vì thế y lập kế hoạch để giết tả" "Chú em" bảo:

"Thiên Tôn biết giết ông không phải dễ!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Đơn Diệc Phi, Liễu Khô Trúc, Phú Quý Thần Tiên thủ và lão hòa thượng kia là người của Thiên Tôn cả ử" "Chú em" nói:

"Cả Cừu Nhị." Tạ Hiểu Phong trầm ngâm rất lâu rồi mới khẽ hỏi:

"Thiên Tôn là mẹ ngươi hẳn!" Câu này chàng đã muốn hỏi từ lâu nhưng đến tận giờ mới dám hỏi.

"Chú em" trả lời rất nhanh:

"Không sai! Thiên Tôn là mẹ tôi! Giờ tôi khỏi phải giấu ông nữa!" Tạ Hiểu Phong âm thầm bảo:

"Ngươi vốn không cần giấu ta, giữa chúng ta vốn chẳng cần giữ bí mật!" "Chú em" đăm đăm nhìn chàng hỏi:

"Tại sao?" Tạ Hiểu Phong để lộ nỗi đau khỗ tràn trề trong ánh mắt, lẩm bẩm:

"Tại sao? Thật ngươi không biết tại sao ử" "Chú em" lắc đầu. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Thế thì ta hỏi ngươi, nếu như mẹ ngươi muốn giết ta tại sao ngươi lại cứu tả" "Chú em" vẫn cứ lắc đầu quầy quậy, mặt lộ vẻ bâng khuâng đau khỗ, bỗng gã nhẩy dậy tung tấm chăn đắp trên mình chụp vào đầu Tạ Hiểu Phong rồi gã tung một đá mở toang cửa gian nhà nhỏ bỏ chạy ra ngoài. Nếu Tạ Hiểu Phong muốn đuỗi theo thì ngàn tấm chăn vạn tấm chăn cũng làm sao chụp nỗi chàng! Đằng này chàng không đuỗi theo vì khi chàng hất tấm chăn ra thì thấy ngay Mộ Dung Thu Hoạch. ánh sao xanh xanh lành lạnh, sắc đêm lành lạnh xanh xanh, khu vườn nhỏ xanh xanh lành lạnh, có một gốc bạch dương nhỏ đã héo tàn. Nàng ở dưới gốc cây, xanh xanh mờ mờ một bóng người, xanh xanh mờ mờ quần áo mặc trên mình, xanh xanh mờ mờ cặp mắt mông lung. Chẳng ai biết nàng từ đâu tới mà cũng chẳng ai biết nàng đến lúc nào. Lúc nào nàng muốn đến thì nàng đến, lúc nàng muốn đi thì chẳng ai giữ nỗi. Có người bảo nàng là tiên trên trời, có người bảo nàng là hồn ma dưới đất. Mặc ai muốn nói thế nào thì nói, nàng chẳng hề để ý! Đã mười lăm năm rồi. Mười lăm năm đằng đẵng... ở nơi đây đã trôi qua hơn năm ngàn ngày dài dài ngắn ngắn, nóng nóng lạnh lạnh, có ngọt ngào có cay đắng và đã biết bao người ra đời? biết bao người qua đời? Biết bao dâu biển đỗi thay, biết bao sự đời biến hóa? Nhưng nàng không thay đỗi. Mười lăm năm trước, lần thứ nhất chàng gặp nàng ở đây nàng vẫn là một con người như thế! Trong khu vườn nhỏ cây khô kẽo kẹt, trong gian nhà nhỏ ngọn đèn hạt đậu tù mù.

Nàng không đi vào, cũng chẳng trở ra, mà chỉ lặng lẽ nhìn đăm đăm. Quan hệ giữa họ vẫn giống thế này, gần rồi lại xa, không tài nào nắm được.

Chẳng ai hiểu tình cảm của chàng đối với nàng mà cũng chẳng ai biết chàng nghĩ gì trong lòng. Bất kể trong lòng chàng nghĩ gì nhưng trên nét mặt chàng không hề để lộ một tý gì cho ai thấy. Đã từ lâu chàng học được cách che giấu tình cảm của mình trước mặt phụ nữ nhất là người phụ nữ này.

Trời có gió, gió hây hẩy. Nàng khẽ giơ tay khe khẽ vuốt ve mái tóc bị gió thỗi bù rồi chợt cười lên. Nàng vốn ít khi cười.

Vẻ cười của nàng cũng giống y như con người nàng, cũng đẹp đẽ, cao nhã, cũng lửng lơ như làn gió xuân hiu hiu không ai làm sao nắm bắt được. Tiếng nàng cũng ấm dịu như ngọn gió đêm xuân:

"Đã quá nhiều năm rồi chàng nhỉ? Mười lăm năm đấy nhỉ? Hay là mười sáu năm?" Chàng không đáp vì chàng thừa biết nàng còn nhớ rõ hơn chàng, có khi những việc xẩy ra từng ngày nàng đều nhớ hết. Nàng cười càng ấm dịu hơn:

"Coi bộ chàng chẳng thay đỗi gì cả, vẫn cứ là chẳng thích nói gì?" Chàng lạnh lùng nhìn nàng, rất lâu sau mới nhạt nhẽo bảo:

"Chúng ta còn có gì để nói nữa!" Nụ cười của nàng tiêu tan, nàng cúi đầu:

"Không có gì... không có gì..." Có thật là "không có gì" không? Làm sao lại "không có gì" được? Không đúng.

Nàng lại chợt ngửng đầu đăm đăm nhìn chàng bảo:

"Nếu như quan hệ của chúng ta không có gì để nói thì thiếp tại sao còn đến tìm chàng?" Câu này đáng lẽ phải để chàng hỏi nàng đằng này nàng lại hỏi trước mất. Thế rồi nàng lại tự trả lời:

"Thiếp tới chỉ vì thiếp phải mang đứa bé kia đi. Trước kia chàng không cần đến nó rồi bây giờ hà tất đến dây dưa với nó để cho nó đau khỗ?" Con mắt chàng bỗng nheo lại cứ như vừa có mũi kim đâm nhói trong lòng chàng. Mặt nàng cũng co rút lại, bảo:

"Thiếp tới vì thiếp muốn cho chàng hay là thiếp muốn chàng phải chết!" Giọng nàng băng giá dường như biến thành con người khác:

"Nhưng lần này thiếp muốn chàng phải chết trong tay thiếp!" Tạ Hiểu Phong lạnh lùng bảo:

"Thiên Tôn giết người hà tất phải tự tay?" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Giết người khác xưa nay thiếp chẳng cần phải ra tay, chàng là ngoại lệ!" Lại một trận gió nữa, tóc nàng lại bù lên. Gió thỗi chưa qua nàng đã xồ lại, xồ lại như phát điên, cứ như lại vừa biến thành một con người khác nữa.

Giờ đây nàng không còn là người thiếu nữ trong trắng, cao nhã, lững lờ như gió xuân và xinh đẹp nữa. Cũng lại không phải là Mộ Dung phu nhân thông minh, tàn nhẫn, ngạo ngược khinh thường võ lâm nữa. Bây giờ nàng chỉ là một người đàn bà bình thường bị tơ tình vấn vít, bị yêu thù xung đột mà không có cách nào khống chế được bản thân.

Nàng không đợi Tạ Hiểu Phong ra tay trước, cũng chẳng đợi chàng để lộ sơ hở điểm trí mạng ra. Nàng không hề dùng đến một chút võ công nào để đưa ra thi triển. Chỉ vì nàng đã yêu người đàn ông này, lại cũng hận người đàn ông này, yêu đến muốn chết mà hận cũng muốn chết, vì vậy nàng chỉ nghĩ đến chuyện cùng chàng liều mạng, đã liều thì không thắng cũng liều. Đối phó lại hạng đàn bà như thế này thì làm sao chàng lại có thể thi triển được môn kiếm pháp thiên hạ vô song của mình?

Chàng đã trải trăm trận đánh đối phó với đủ các loại hạng cao thủ võ lâm, đã trải qua vô số cơ hội trí mạng chết đến nơi. Nhưng bây giờ chàng chẳng còn biết đối phó ra sao nữa cả! Ngọn đèn trên bàn bị đá đỗ. Mộ Dung Thu Hoạch xông bừa tới như một mụ đàn bà lăng loàn, dường như muốn dùng răng để cắn tai chàng, ngoạm mũi chàng, rứt từng miếng, từng miếng thịt trên mình chàng, dường như nàng muốn dùng tay để túm tóc chàng, dùng móng tay để cào xé mặt chàng... Chàng chỉ dùng một quyền là có thể đánh bật nàng ra vì toàn thân nàng từ trên xuống dưới toàn là sơ hở, nhưng chàng lại không thể ra tay, không nỡ ra tay.

Xét cho cùng chàng là đàn ông, nàng dù sao thì cũng là người đàn bà của chàng ngày xưa nên chàng đành lùi mãi, lùi mãi. Gian nhà nhỏ quá nên những chỗ để lùi được đâu có nhiều, cuối cùng chàng lùi đến chỗ không lùi được nữa. Đúng lúc ấy tay nàng bỗng lóe lên ánh kiếm như con rắn độc đâm thẳng vào chàng.

Nhát kiếm này là nhát kiếm của người vợ đáo để cũng là nhát kiếm giết người! Nhát kiếm tinh hoa! Nhát kiếm trí mạng! Nhát kiếm không chỉ thần tốc, tàn độc, chuẩn xác mà còn nhè đúng lúc đối phương không ngờ tới nhất về thời cơ và phương hướng mà đâm ra đúng vào bộ vị đội phương không ngờ tới nhất. Nhát kiếm này lẽ dĩ nhiên là tinh hoa trong kiếm pháp nhưng kiếm lại đâm chẳng trúng! Trên đời này trừ Tạ Hiểu Phong ra không có người thứ hai nào có thể tránh được nhát kiếm đó vì trên đời làm gì có người thứ hai hiểu Mộ Dung Thu Hoạch bằng Tạ Hiểu Phong! Chàng tránh được nhát kiếm trí mạng này không phải nhờ đoán chuẩn xác thời gian và bộ vị khi nhát kiếm đâm ra mà chỉ vì chàng đoán chuẩn xác về con người Mộ Dung Thu Hoạch.

Chàng hiểu về nàng còn hơn cả nàng hiểu bản thân mình. Chàng biết nàng không chỉ là mụ vợ tai ngược lăng loàn mà còn hiểu là nàng sẽ có lúc tuyệt nhiên không có phép gì tự khống chế nỗi bản thân.

Khi mũi kiếm lướt qua cạnh sườn chàng thì chàng đã tóm lấy Uyển mạch nàng thời gian chàng ra chiêu tuyệt vời chuẩn xác. Cây đoản kiếm rơi xuống, người nàng nhủn ra, cả thân mình nàng mềm nhũn ngả ngay vào trong lòng chàng. Thân thể nàng uyển chuyển, ấm hôi hỗi và mềm mại.

Chỉ có bàn tay nàng là lạnh giá. Đêm dài sắp tàn, rạng đông đúng lúc đó bắt đầu xuyên cửa sỗ chiếu rọi vào nhà, chiếu thẳng vào mặt nàng.

Mặt nàng có ánh nước mắt, đôi mắt mông lung, mơ màng đang mê mê mẩn mẩn nhìn chàng. Nàng nhìn mà chẳng thấy.

Đột nhiên nàng hỏi:

"Chàng còn nhớ hay không lần đầu tiên chúng ta gặp gỡ, thiếp cũng định giết chàng và chàng cũng giật mất kiếm của thiếp và cũng ôm chặt thiếp như bây giờ?" Chàng nghe mà không thấy, nhưng chàng quên sao được ngày hôm ấy?! Đó là một ngày xuân... Nàng thấy chàng, cười với chàng, nụ cười như gió xuân xinh đẹp vật vờ lờ lững. Chàng cũng cười với nàng.

Thấy nàng càng cười càng ngọt ngào chàng bèn đi tới, hái một đóa trà núi đưa tặng nàng nhưng nàng lại cho chàng một kiếm. Mũi kiếm vạch lướt cạnh yết hầu chàng thì chàng tóm ngay lấy tay nàng. Nàng giật mình nhìn chàng rồi hỏi:

"Chàng là Tam thiếu gia nhà họ Tạ phải không?" Chàng hỏi ngược:

"Sao nàng biết ta là ai?" "Vì ngoài Tam thiếu gia nhà họ Tạ ra làm gì có ai trong một chiêu đã đoạt được kiếm của thiếp!" Chàng không hỏi có phải nhiều người đã bị tử thương dưới lưỡi kiếm của nàng hay không mà cũng không hỏi tại sao nàng lại muốn đả thương người khác. Chỉ vì... Chỉ vì hôm ấy ngày xuân đang nồng, hoa đang tươi mà thân hình nàng vừa nhẹ nhõm vừa mềm nhũn... Chỉ vì lúc đó chàng đang tuỗi thiếu niên... Còn bây giờ? Mười lăm năm dài dằng dặc những ngày tháng gian khỗ, cay đắng đã trôi qua lờ lững bên mình họ.

Còn bây giờ trong lòng chàng có còn những cảm giác giống như ngày ấy? Nàng vẫn thì thào:

"Bất kể trong lòng chàng nghĩ gì, ra sao, thiếp không bao giờ quên ngày ấy, vì chính trong ngày hôm ấy thiếp đã đem cả con người thiếp trao gửi cho chàng, mơ mơ mẩn mẩn mà dâng hiến cho chàng, còn chàng bước chân đi rồi là bặt bóng chim tăm cá!" Chàng dường như vẫn nghe mà không thấy. Nàng lại nói:

"Đợi đến khi chúng ta gặp gỡ lần thứ hai thì thiếp đã đính hôn còn chàng là người đi đưa sính lễ... Ngày ấy thiếp rất hận chàng, oán chàng nhưng vừa gặp thiếp đã mất hết chủ ý..." "Vì thế trong đêm thứ hai nhận lễ đính hôn của thiếp, thiếp đã mê mê mẩn mẩn bỏ đi theo chàng, thật không ngờ rồi chàng bỏ rơi thiếp và rồi cất bước đi là lại bặt tin..." "Bây giờ tuy trong lòng thiếp rất hận chàng, nhưng... nhưng... thiếp vẫn hy vọng chàng lại đối với thiếp như ngày xưa, lại lừa thiếp lần nữa, lại đưa thiếp đi theo rồi dù lần này chàng có giết thiếp thiếp cũng chẳng dám oán chàng!" Tiếng nàng thẽ thọt vừa ai oán, vừa nhu mì cứ như khúc nhạc xuân, chàng thật sự có thể không nghe không? Thật sự nghe mà không thấy chăng? Chàng thật sự đã lừa nàng hai lần, thế mà nàng vẫn đối với chàng như vậy! Chàng đã thật sự bạc tình như thế, thật sự vô tình như thế ư?

"Thiếp biết chàng cho rằng thiếp đã thay đỗi rồi." Nàng đã mặt đầm đìa lệ chẩy:

"Nhưng đối với người khác bất kể thiếp thay đỗi đến thế nào cũng mặc, còn đối với chàng thiếp vĩnh viễn không bao giờ thay đỗi!" Tạ Hiểu Phong bỗng đẩy nàng ra rồi bỏ đi mà không quay đầu lại. Nàng vẫn không chịu bỏ cuộc vẫn bám theo chàng. Bên ngoài gian nhà nhỏ ánh mặt trời đã chan hòa mặt đất, ở dốc núi xa xa lại vẫn bãi cỏ xanh non như trải nệm.

Chàng bỗng quay đầu lạnh nhạt nhìn nàng bảo:

"Có phải nàng nhất định muốn ta giết nàng phải không?" Nước mắt trên mặt nàng đã khô và miễn cưỡng nặn ra một nụ cười:

"Chỉ cần chàng vui lòng thì chàng cứ giết thiếp đi!" Chàng lại quay mình đi về phía trước nàng vẫn lẽo đẽo theo sau bảo:

"Vết thương của chàng chẩy máu kìa, ít nhất chàng cũng để thiếp băng bó lại cho chàng đã." Chàng mặc kệ. Nàng lại nói:

"Tuy ở đây thiếp có cho người đi làm chàng bị thương nhưng đó lại là chuyện hoàn toàn khác chỉ cần chàng nói ra lời, thiếp sẽ thay chàng đi giết hết bọn họ bất kỳ lúc nào!" Bước chân của chàng đã chậm lại cuối cùng không nén được mà quay đầu lại, đôi mắt tàn nhẫn đã thoáng có tình cảm. Dù là yêu hay hận thì cũng vẫn là những tình cảm đã đi sâu vào cốt tủy vĩnh viễn khó quên.

Trở ngại đã bị san bằng. Núi băng đã dần tan chẩy. Ai chẳng rõ đê mà vỡ thì tai họa ngay nhưng khi đê đã phải vỡ thì ai mà ngăn cản nỗi? Rồi nàng lại ngả vào lòng chàng. Đã thế lại đang là mùa xuân của một năm, lại thêm bãi cỏ xanh êm như đệm trải mời mọc... Tạ Hiểu Phong chầm chậm ngồi xuống dốc núi nhìn con người đang ở cạnh chàng.

Chàng đang tự hỏi thầm trong lòng:

"Suy cho cùng là ta phụ nàng hay nàng phụ tả" Chẳng ai trả lời được câu hỏi ấy, kể cả chàng cũng chịu. Chàng chỉ cười dù nàng hay hoặc dở, dù là ai phụ ai, chỉ cần khi chàng ở cùng với con người này là có thể quên hết mọi khỗ nạn và đau buồn, tâm hồn mới yên tĩnh lại được.

Bản thân chàng cũng chẳng hiểu đây là thứ tình cảm gì nữa. Chỉ biết rằng giữa con người với con người một khi có tình cảm này dù là chịu khỗ, chịu dối lừa thì con tim vẫn cam lòng tình nguyện. Và dù có chết cũng chẳng quan hệ gì! Nàng lại ngẩng đầu mê mê mẩn mẩn nhìn chàng:

"Thiếp biết trong lòng chàng đang nghĩ gì..." "Nàng biết ử" "Chàng đang muốn thiếp giải tán Thiên Tôn đưa con về sống mấy năm yên ỗn." Rõ ràng nàng nói trúng phóc tâm sự của chàng. Cho dù chàng trời sinh ra làm lãng tử, cho dù trong mạch máu của chàng chẩy toàn dòng máu của kẻ lang thang nhưng bản thân chàng cũng có lúc chán ngấy nó.

Nhất là lúc tỉnh sau mỗi cơn say mê mệt, lúc đêm khuya người vắng ai mà chẳng muốn bên cạnh mình có một người tri âm tri kỷ để trò chuyện với nhau về những nỗi đau khỗ và buồn tẻ của mình? Nàng nhè nhẹ nắm lấy tay chàng rồi bỗng hỏi:

"Chàng biết lòng thiếp giờ nghĩ gì không?" Tất nhiên chàng không biết. Lòng người đàn bà vốn đã khó dò huống hồ lại là loại đàn bà như nàng. Nàng bỗng cười vang, cười rất kỳ quặc:

"Thiếp đang nghĩ chàng là thằng ngốc!" "Thằng ngốc?". Chàng không hiểu nỗi.

"Chàng có hiểu hay không Thiên Tôn là tỗ chức thiếp đã phí biết bao tâm lực tài lực mới xây dựng được nên? Đời nào thiếp lại tùy tiện tiêu diệt nó đi? Vả lại chàng đâu thích con tại sao thiếp lại trao nó cho chàng?" Lòng Tạ Hiểu Phong trĩu xuống, toàn thân cóng lạnh, từ gan bàn chân lạnh xộc vào tim. Mộ Dung Thu Hoạch đang nhìn tình cảm biểu hiện trên vẻ mặt chàng, giọng cười của nàng càng điên dại:

"ít nhất chàng cũng phải nghĩ xem địa vị của thiếp giờ đã ra sao rồi chứ? Thân phận của thiếp là gì? Lẽ nào theo chàng để nấu cơm, giặt quần áo cho chàng ư?"

HỒI 27 - GẦN NGẮN XA DÀI

Nàng vẫn cười dài, cười mãi không ngừng.

"Thế mà giờ đây chàng lại muốn thiếp đi làm những việc đó, chàng chẳng là thằng ngốc thì còn ai?" Tạ Hiểu Phong là thằng ngốc thật ư? Chàng năm tuỗi học kiếm, sáu tuỗi thuộc kiếm phỗ, bẩy tuỗi sang sảng đọc thuộc làu làu thơ Đường... Đại đa số những đứa trẻ bằng tuỗi chàng lúc ấy vẫn đang mặc quần thủng đít. Thế mà trước mặt Mộ Dung Thu Hoạch chàng đã trở thành một thằng ngốc, ngốc khỗ ngốc sở! Bất kỳ ai ở trước mặt một người nào đó đều có thể biến thành thằng ngốc cứ như là suốt trong đời mắc nợ người đó vậy.

Chàng chậm chạp đứng dậy nhìn nàng bảo:

"Nàng nói hết chưa?" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Nói hết thì sao nào? Chẳng lẽ chàng giết thiếp?" Rồi tự dưng tiếng cười của nàng biến thành tiếng khóc thảm thiết. Nàng khóc to bảo:

"Giỏi! Chàng giết thiếp đi, chàng đối với thiếp như vậy chẳng lẽ thiếp không muốn sống nữa?" Nàng khóc rất thê thảm nhưng trên mặt lại không có một nét nào là đau thương rồi nàng bỗng hạ giọng bảo:

"Đàn bà thích chàng thì quá nhiều, thiếp biết rồi dần dà chàng cũng quên thiếp vì vậy cứ cách mấy năm thiếp lại phải chấn chỉnh chàng một lần để chàng vĩnh viễn đừng có quên thiếp!" Nói xong câu đó nàng lại khóc tiếp càng to rồi tự dưng vung tay tát hai cái thật mạnh vào má mình, đánh mạnh đến nỗi mặt sưng tím lại rồi kêu to:

"Sao chàng không giết quách thiếp đi cho thỏa lòng? Sao chàng cứ hành hạ thiếp mãi thế?" Nàng ôm mặt đau đớn khóc lóc mà chạy xuống núi cứ như thể chàng đang đuỗi theo đằng sau để đánh đập nàng. Tạ Hiểu Phong đến một ngón tay cũng không động đậy thì dưới dốc núi bỗng có mấy bóng người xuất hiện.

Một bà quý phái áo quần hoa hoét, đầu đầy châu ngọc, đi xăm xăm tới trước ôm chặt lấy Mộ Dung Thu Hoạch. Theo sau là ba người nữa, một ông già tóc bạc phơ phơ nhưng lưng và chân tay vẫn thẳng băng, tay ôm một cái bọc vải vàng dài dài.

Một người thì mới quá tuỗi trung niên nhưng lại có vẻ rù rờ chậm chạp, mặt đầy vẻ phong trần có vẻ mới vất vả đường xa tới. Đi cuối cùng lại là một cô gái thân thể yếu nhược, vừa đi vừa xụt xịt chùi nước mắt.

Tạ Hiểu Phong cơ hồ không nén nỗi chỉ muốn kêu lên:

"Cô bé"! Cô bé đi lên dốc núi cuối cùng, đúng là "cô bé", con người chàng vẫn để tâm lo lắng. Chàng không gọi vì còn ba người kia chàng đều quen, quen đã rất lâu. Người đàn ông tóc bạc nhưng "lão đương ích tráng" đó là dượng của chàng là Hoa Thiếu Khôn. Hai mươi năm trước "Du Long kiếm khách" Hoa Thiếu Khôn một mình tám đại đệ tử phái Võ Đang mà không thua trận nào được chủ nhân Thần Kiếm Sơn trang Tạ Vương Tôn gả em gái "Phi Long nữ kiếm khách" Tạ Phụng Hoàng cho làm vợ. Long Phụng song kiếm sát cánh liền cành được giang hồ cho là một đôi vợ chồng lý tưởng.

Thời đó Hoa Thiếu Khôn như vầng dương giữa trời và lúc đắc ý nhất không ngờ lại cũng vào đúng lúc đó ông ta bị bại dưới lưỡi kiếm của một chú bé mười tuỗi "vắt mũi còn chưa sạch". Đánh bại ông ta chính là đứa cháu vợ, là Tạ Hiểu Phong. Người đàn bà quý phái đang ôm Mộ Dung Thu Hoạch trong lòng và lau nước mắt cho nàng ta chính là bà cô ruột của Tạ Hiểu Phong là Tạ Phụng Hoàng.

Người béo trung niên cũng họ Tạ là chú họ xa của chàng và cũng chính là người trông nom chàng từ bé tới khi trưởng thành. Hồi chàng còn bé thường sang quán rượu ở bờ hồ bên kia để vòi rượu uống. Người trung niên béo đó chính là ông chủ quán nhỏ họ Tạ. Nhưng bọn họ tại sao lại đi cùng "cô bé"?

Tạ Hiểu Phong đoán không ra mà cũng chẳng muốn đoán. Chàng chỉ muốn đi nơi khác cho mau, không để cho các người kia gặp chàng. Nhưngg rất tiếc những người kia đã trông thấy chàng. Hoa Thiếu Khôn thì nhìn chàng mà cười nhạt, "cô bé" thì nhìn chàng và khóc. Chủ quán họ Tạ thở hỗn hển leo lên dốc núi, khom lưng, cười lấy lòng chào hỏi:

"Tam thiếu gia, lâu ngày không gặp, xin chào cậu, cậu khỏe chứ!" Tạ Hiểu Phong đâu có khỏe, tâm tình cũng chẳng vui, sắc mặt cũng xấu, nhưng đối với ông già tốt bụng từ lúc chàng mới tám chín tuỗi đã thỉnh thoảng lén cho chàng uống vụng rượu chàng không thể không cười vui, chỉ hỏi lại:

"Sao bác lại đến chốn này?" Chủ quán họ Tạ không quen nói dối, đành nói thực:

"Chúng tôi được Mộ Dung cô nương mời tới!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Cô ấy mời các người tới làm gì?" Chủ quán họ Tạ do dự, không hiểu lần này có nên trả lời thực hay không. Tạ Phụng Hoàng cười nhạt bảo:

"Đến xem ngươi làm điều đẹp mặt!" Tạ Hiểu Phong ngậm miệng không nói nữa. Chàng quá hiểu bà cô này của chàng tính khí chẳng ra gì, ấn tượng đối với chàng cũng chẳng ra gì vì ở trên đời này có người đàn bà nào ưa được kẻ đã đánh bại "đức ông chồng" của mình dù kẻ đó là cháu ruột mình cũng vậy.

Rất tiếc bà cô vẫn là bà cô, dù cho ấn tượng của bà dành cho mình tốt hay không tốt, bà cô vẫn cứ là bà cô. Chàng tuy im mồm rồi nhưng Tạ Phụng Hoàng vẫn chưa chịu tha:

"Thật không ngờ nhà họ Tạ chúng ta lại nẩy ra được một nhân tài như ngươi, chẳng những khinh thị vợ mà đến con đứt ruột đẻ ra cũng chẳng màng." Bà ta trỏ vào những vệt ngón tay hằn trên má Mộ Dung Thu Hoạch mà bảo:

"Ngươi đã lừa dối nó đến hai lần, nó vẫn một lòng một dạ đối với ngươi thật tốt, tại sao ngươi đè nó ra mà đánh đến nông nỗi này cơ chứ!" Mộ Dung Thu Hoạch rơi nước mắt:

"Anh ấy... anh ấy không..." Tạ Phụng Hoàng nỗi giận:

"Ngươi nói ít đi! Khi nẫy hai đứa ngươi nói những gì ở trong gian nhà nhỏ chúng ta đều nghe rõ cả rồi, bản thân nó không chối cãi nỗi điều nào sao ngươi còn cứ phải nói chạy tội cho nó!" Bà ta lại hỏi:

"Những câu đối đáp vừa rồi bác chủ quán họ Tạ cũng nghe thấy rõ ràng cả chứ?" Chủ quán họ Tạ nói:

"Vâng!" Tạ Phụng Hoàng bảo:

"Ngươi nói các đàn bà khác chúng ta quản không nỗi mà cũng chán không buồn quản nhưng còn Mộ Dung Thu Hoạch quan hệ với họ Tạ nhà ta lại khác, cho dù ngươi không cần con trai ngươi nhưng họ Tạ nhà ta lại không thể không nhận đứa bé này, càng không thể không nhận đứa con dâu này!" Tạ Hiểu Phong không hé răng, môi chàng đang run run. Đến giờ thì chàng đã hoàn toàn hiểu rõ ý đồ của Mộ Dung Thu Hoạch. Nàng ta cố ý mời những người này tới bố trí cho họ nấp quanh gian nhà nhỏ, cố ý nói những gì những gì để họ nghe được để sau này chàng dù có muốn biện bạch cũng không biện bạch nỗi và có biện bạch gì cũng chẳng ai tin.

Giờ đây nàng ta đã vừa làm chủ nhân nhà Mộ Dung ở Giang Nam lại vừa là chúa tể cả Thiên Tôn nhưng như thế nàng ta vẫn chưa thỏa mãn, nàng còn chú ý đánh vào Thần Kiếm sơn trang nữa. Tạ Phụng Hoàng lại hỏi:

"Ngươi có còn gì để nói nữa không?" Tạ Hiểu Phong còn có gì để nói nữa, những việc này tuy chàng đã nghĩ đến cả rồi nhưng một lời cũng khó nói. Tạ Phụng Hoàng bảo Tạ Hiểu Phong:

"Điều thứ nhất trong gia pháp nhà họ Tạ là gì ngươi có nhớ không?" Mặt Tạ Hiểu Phong không hề biến đỗi nhưng chủ quán họ Tạ biến hẳn sắc mặt. Ông ta biết rõ điều thứ nhất trong gia pháp nhà họ Tạ là "giới dâm" (cấm dâm ô):

"Dâm ô vợ con người, tội chặt hai chân". Tạ Phụng Hoàng cười nhạt bảo:

"Ngươi phạm vào điều cấm đó, dù đại ca ta có lờ cho ngươi, nhưng ta thì không thể dung cho ngươi được!" Bà ta vẫy tay một cái từ dưới dốc núi có một đồng tử rủ trái đào đưa lên một cây kiếm. Kiếm vừa tuốt khỏi vỏ khí lạnh đã chích vào da thịt.

Tạ Phụng Hoàng nghiêm giọng quát:

"Bây giờ ta thay mặt họ Tạ làm trong sạch cửa nhà, ngươi còn chưa chịu quỳ xuống xin chịu tội hình phạt ư!" Tạ Hiểu Phong không quỳ. Tạ Phụng Hoàng cười nhạt bảo:

"Nhân chứng vật chứng tại chỗ đã đủ đầy, chẳng lẽ ngươi còn không nhận sai, lẽ nào ngươi không phục tòng gia pháp?" Bà ta thừa hiểu làm gì có ai dám không chịu phục tòng gia pháp! Ai biết Tạ Hiểu Phong lại khăng khăng không chịu phục tòng! Tạ Phụng Hoàng biến sắc mặt. Bà ta là người đàn bà "số đỏ", chẳng những có gia thế rất hiển hách, lấy được người chồng cũng rất hiển hách, người trong giang hồ dám nhìn thẳng vào bà ta không có mấy người. Vì vậy bà ta kiêu căng, ngạo ngược, tai quái, xưa nay vẫn là tính khí của một "đại tiểu thư" nhà phú quý, xưa nay có ai được bà ta để vào trong mắt? Nghĩ sao bà ta làm vậy ngay. Trường kiếm rung rung, bà ta sắp sửa ra tay.

Nhưng bà ta không ngờ chủ quán họ Tạ đi có vài bước đường đã thở hỗn hển bỗng dưng động tác đột ngột trở thành nhanh nhẹn, chớp mắt đã tiến ra chặn trước mặt bà ta và cười giả lả bảo:

"Hoa phu nhân! Xin bớt giận!" Tạ Phụng Hoàng hỏi:

"Ngươi làm gì vậy?" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Tôi nghĩ là trong lòng Tam thiếu gia có lẽ cũng có nhiều điều nói ra trước mặt người ngoài không tiện. Nếu Hoa phu nhân muốn dùng gia pháp xử trị thiếu gia, bất nhược hãy trở về gặp lão thái gia đã rồi hãy hay!" Tạ Phụng Hoàng cười nhạt bảo:

"Ngươi mở miệng ra câu nào cũng "Hoa phu nhân, Hoa phu nhân", phải chăng là muốn nhắc nhở ta giờ ta không phải là người họ Tạ nữa?" Tâm lý của chủ quán họ Tạ dĩ nhiên ý là vậy nhưng ngoài miệng thì không dám công nhận nên vội vã lắc đầu:

"Tiểu nhân đâu dám!" Tạ Phụng Hoàng bảo:

"Cứ coi như ta không còn là người họ Tạ nữa nhưng cây kiếm này chính là kiếm họ Tạ đây!" Bà ta trỏ kiếm ra nghiêm giọng bảo:

"Kiếm này là gia pháp!" Chủ quán họ Tạ vẫn cười xởi lởi bảo:

"Tôi không được hiểu lắm, sao gia pháp nhà họ Tạ lại sang tay người họ Hoa như vậy?" Mặt Tạ Phụng Hoàng biến sắc, bà ta giận dữ bảo:

"Ngươi to gan thật, dám vô lễ cả với bà cô đây!" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Tiểu nhân đâu dám!" Bốn tiếng ấy vừa buông khỏi miệng thì ông ta đã giơ bàn tay trái, thúc bàn tay phải, một nâng một vớt, cây kiếm trong tay Tạ Phụng Hoàng đã chớp mắt sang tay ông ta. Lấy kiếm xong, chủ quán họ Tạ lùi lại ba trượng. Chiêu này dùng rất đơn giản, gọn gàng, mau lẹ, chuẩn xác nhưng biến hóa bên trong lại rất ảo diệu, khó hình dung ra nỗi.

Khi Tạ Hiểu Phong dùng tay đoạt kiếm của Liễu Khô Trúc chính là dùng chiêu này. Tạ Phụng Hoàng đứng đờ ra đó, mặt tím ngắt, nghiêm giọng quát:

"Ngươi học chiêu này ở đâu?" Chủ quán họ Tạ cười giả lả:

"Tất nhiên Hoa phu nhân phải nhận ra chiêu này chứ, chiêu cực hay đấy!" Ông ta từ tốn nói tiếp:

"Đây là chiêu lão gia thân truyền cho tôi. Lão nhân gia dặn đi dặn lại mấy lần là học xong chiêu này muôn vàn chớ được dùng bừa bãi, chỉ khi nào thấy bảo kiếm truyền đời nhà họ Tạ bị rơi vào tay người ngoài thì nhất định phải thi triển chiêu này để lấy lại!" Ông ta lại tươi cười bảo:

"Lời của lão gia đã dạy tôi đâu dám không theo!" Tạ Phụng Hoàng tức đến không nói nên lời, châu ngọc đeo đầy đầu cứ xeng xẻng rung lên không ngớt. Bà ta thừa biết đây là chiêu thức độc môn của nhà họ Tạ, tuyệt kỹ này chỉ truyền cho con trai không dạy con rể, chỉ truyền cho con dâu không dạy con gái.

Vừa rồi chỉ trong chớp mắt kiếm trong tay bà ta đã bị đoạt mất vì bà ta đâu có biết sự ảo diệu của chiêu này. Hoa Thiếu Khôn bỗng lên tiếng:

"Các hạ là người thế nào trong nhà họ Tạ?" Con người ông ta coi bộ cao lớn hùng dũng nhưng tiếng nói lại nhỏ nhẹ, nhã nhặn rất ghê. Bản thân ông ta đâu phải vốn vậy nhưng từ khi thua dưới lưỡi kiếm của Tam thiếu gia thì ít năm lại đây ông ta lo súc tinh dưỡng thần, công phu hàm dưỡng luyện đến nơi đến chốn nên vừa rồi vẫn nín nhịn được. Chủ quán họ Tạ bảo:

"Tính ra tôi chỉ là cháu họ xa của lão thái gia mà thôi." Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Ngươi biết cây kiếm này là cây kiếm gì không?" Chủ quán họ Tạ đáp:

"Đây là một trong bốn cây kiếm của cụ tỗ họ Tạ truyền lại." ánh kiếm lóe lên, khí kiếm đã uy hiếp người ta phải nheo mắt chau mày. Hoa Thiếu Khôn thở dài bảo:

"Kiếm tốt!" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Rõ ràng là kiếm tốt rồi!" Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Các hạ có xứng đáng dùng kiếm này không?" Chủ quán họ Tạ đáp:

"Không xứng đáng." Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Thế sao các hạ chưa trao kiếm lại cho Tam thiếu giả" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Chính tiểu nhân cũng có ý đó." Ông ta nói là tình thực vì vốn ông ta đã sẵn có ý ấy từ đầu nhưng chỉ vì chưa hiểu rõ ý tứ câu nói của Hoa Thiếu Khôn. Nhưng ông ta lại thấy là Tạ Phụng Hoàng hiểu ý tứ của chồng. Họ là đôi vợ chồng cùng chung hoạn nạn, sống với nhau hai chục năm, bây giờ chồng bà ta lại bảo đưa cây kiếm vốn ở trong tay vợ mình cho người khác mà bà ta không một chút tức giận, ngược lại còn tỏ vẻ ôn nhu và tha thiết một cách khó tả đối với chồng. Được như thế chứng tỏ bà ta rất hiểu ý tứ của chồng và chồng bà ta cũng biết là vợ rất hiểu ý tứ của mình. Kiếm đã được trao vào tay Tạ Hiểu Phong. Nhưng cả đôi vợ chồng họ Hoa kia lại không buồn nhìn lấy nửa mắt mà chỉ lặng lẽ nhìn nhau đăm đăm.

Cũng chẳng rõ là bao lâu sau bỗng Hoa Thiếu Khôn lên tiếng:

"Mấy ngày nữa là đến rằm tháng mười một rồi!" Tạ Phụng Hoàng bảo:

"Dường như còn tám ngày nữa!" Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Đến hôm ấy là đúng ngày nhà bà gả bà cho tôi được đúng hai mươi năm." Tạ Phụng Hoàng bảo:

"Thiếp nhớ chứ!" Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Từ khi tôi còn bé đã có lời thề có nỗi tiếng mới lấy vợ." Tạ Phụng Hoàng bảo:

"Thiếp biết chứ!" Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Khi tôi nỗi tiếng thì đã ngoại tứ tuần, khi tôi lấy bà cũng hơn bà đúng hai mươi tuỗi." ở chỗ này đâu phải chỉ có hai vợ chồng nhà họ thế mà tự dưng họ lại lôi chuyện riêng tây của họ ra mà kể lể với nhau. Giọng họ kể lể nghe có vẻ rất ôn tồn, mềm mỏng, nhưng tình cảm biểu hiện lại rất kỳ quái, thậm chí còn cười rất quái lạ. Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Suốt hai chục năm nay chỉ có bà biết rõ tôi đã sống những ngày tháng ra sao..." Tạ Phụng Hoàng nói:

"Thiếp biết chứ... chàng... chàng luôn cảm thấy có lỗi với thiếp..." Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Chỉ vì tôi thua, tôi chẳng còn là Hoa Thiếu Khôn cái thủa được lấy bà nên đi đến đâu cũng chẳng dám chường mặt ra, nhưng bà..." Ông ta đi lại cầm lấy tay vợ bảo:

"Xưa nay bà cũng không hề oán thán, vẫn cứ chịu đựng cái tính nết quái gở của tôi, nếu không có bà chưa biết chừng tôi đã chết rấp chết rúi nơi ngòi rãnh nào rồi!" Tạ Phụng Hoàng bảo:

"Thiếp làm sao lại oán hận chàng được, hai mươi năm ròng, sáng sáng tỉnh giấc lại được thấy chàng ở cạnh mình, đối với người đàn bà mà nói thử hỏi còn có hạnh phúc gì cho bằng!" Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Nhưng bây giờ tôi già rồi, chưa biết chừng một sáng nào bà tỉnh dậy thì đã thấy tôi bỏ bà mà đi rồi." Tạ Phụng Hoàng bảo:

"Nhưng...". Hoa Thiếu Khôn không để bà ta nói đã nói chặn ngang:

"Ai mà chẳng có ngày như thế! Việc ấy xưa nay tôi coi rất thường. Nhưng tôi tuyệt đối không thể để kẻ nào khác bảo bà cô nhà họ Tạ gả về cho một ông chồng chẳng có triển vọng gì, thật tôi chỉ mong được xứng đáng với bà." Tạ Phụng Hoàng bảo:

"Thiếp biết chứ!" Hoa Thiếu Khôn hỏi:

"Bà có biết rõ thật không?" Tạ Phụng Hoàng gật đầu, nước mắt ròng ròng chẩy xuôi gò má. Hoa Thiếu Khôn thở dài thật dài rồi bảo:

"Xin cảm ơn bà!" "Cảm ơn bà". Ba chữ này mới sáo làm sao, nhưng lúc này ở đây, ba chữ này từ miệng Hoa Thiếu Khôn nói ra trong đó ẩn giấu biết bao là tình đằm thắm, sự cảm kích nồng nàn vô hạn.

Nước mắt "cô bé" đã chẩy ướt cả vạt áo. Đến giờ thì chính cô ta cũng hiểu được ý của Hoa Thiếu Khôn và đến cô ta cũng những muốn tỏ lộ sự bi thương cảm động không nén nỗi đối với hai vợ chồng nhà họ. Hoa Thiếu Khôn ngồi xệp xuống trên bãi cỏ, cỏ đã sớm úa vàng ư trừ trong đôi mắt những cặp tình nhân son trẻ. ở đây trên dốc núi này vẫn cứ là "cỏ xanh như trải nệm", nhưng đó chỉ là chuyện trong mắt, trong lòng những cặp tình nhân vì đối với họ ngày nào cũng là ngày xuân, mùa nào cũng là mùa xuân và nơi nào cũng đầy sắc xuân.

Nhưng đây là đôi vợ chồng lấy nhau đã lâu năm, ái tình của họ đã thăng hoa từ lâu rồi. Hoa Thiếu Khôn ngồi xuống, đặt chiếu bọc vải vàng trên hai đầu gối rồi từ tốn ngẩng đầu ngoảnh mặt về phía Tạ Hiểu Phong.

Tạ Hiểu Phong đã rõ ý tứ của ông ta, có điều chàng đang đợi ông ta tự nói ra. Cuối cùng Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Hiện nay thứ tôi dùng không phải là kiếm!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Hử?" Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Từ khi ta bại dưới tay ngươi, ta đã thề suốt đời không dùng kiếm nữa!" Ông ta nhìn vào gói vải để trên đầu gối bảo:

"Hai mươi năm nay ta tập luyện một thứ binh khí khác, ta ngày ngày đêm đêm chỉ mong có một mong muốn đến một ngày cùng ngươi đấu lại một trận" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Tôi hiểu ý ông rồi!" Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Có điều ta bại dưới kiếm nhà ngươi, tưởng đã thua còn đâu để đủ nói khỏe vì vậy nếu nhà ngươi không thèm đấu lại với lão già như ta, ta cũng không trách cứ gì!" Tạ Hiểu Phong đăm đăm nhìn ông ta, trong ánh mắt chàng lộ ra vẻ tôn kính bề trên nhưng nét mặt vẫn y nguyên chẳng tỏ vẻ gì, chỉ nhạt nhẽo buông một tiếng:

"Mời!" Cái bao này làm bằng vải vàng đường kim mũi chỉ khâu rất sít, bên ngoài còn quấn giải vải thật dài và còn thắt một nút rất chặt. Một cái nút không dễgì mở được ra. Muốn mở được cái nút thắt này, cách nhanh nhất chỉ có giật đứt hay lấy dao cắt đứt. Nhưng Hoa Thiếu Khôn lại không làm như vậy, hai chục năm nay ông ta đã luyện cho mình sự nhẫn nại rồi. Ông ta tình nguyện mất công về chuyện này, cứ lần lượt lần mò mở từng nút buộc.

Đây là vì ông ta đã biết tụ lại thì ngắn, xa đi thì dài, cố mong cùng vợ nấn ná thêm lúc nữa. Tạ Phụng Hoàng nhìn chồng rồi bỗng lau sạch nước mắt, ngồi thụp xuống cạnh chồng bảo:

"Để thiếp giúp chàng!" Nút buộc do bà ta thắt dĩ nhiên bà ta cởi rất nhanh. Bà ta hiểu rõ chồng mình một khi đi đánh trận này sống chết nhục vinh khó mà dự đoán trước. Bà ta quá hiểu chồng mình lần này đã ra đi thì khó mong trở lại vì vậy tại sao lại chẳng kéo dằng dai lâu thêm lúc nữa, sao chẳng nhân chút thời giờ này làm tiêu ma dũng khí và lòng tin của Tạ Hiểu Phong.

Vì Tạ Phụng Hoàng hy vọng chồng đánh trận này có thể đủ thắng. Ông chồng hiểu được tâm ý của vợ và bà vợ cũng biết là chồng hiểu ý mình. Sự hiểu nhau kiểu này khó khăn biết chừng nào? Cũng hạnh phúc biết chừng nào? Và quý báu biết chừng nào? Tất cả mọi người có mặt tại chỗ đều bị kiểu tình cảm ấy của họ làm cho xúc động chỉ có Mộ Dung Thu Hoạch không hề nhìn họ lấy một lần chỉ chú mục nhìn vào cái bao dài vải vàng kia.

Trong bụng nàng ta nghĩ:

"Không hiểu trong cái bao này đựng loại vũ khí gì đây? Phải chăng nó có thể đánh bại Tạ Hiểu Phong?" Thời còn là tráng niên Hoa Thiếu Khôn được thiên hạ công nhận là cao thủ nhưng sau khi bị Tạ Hiểu Phong đánh thua thì thể lực ngày một suy tàn, so không thể bằng thời kỳ đỉnh cao cũ được. Nhưng con người này có được kinh nghiệm từ sau lần thất bại, làm việc gì nhất định phải cẩn thận hơn, tâm tư cũng vào loại ít thấy trên giang hồ, nhất định là sẽ cực kỳ sắc bén, cực kỳ bá đạo. Ông ta xúc tinh dưỡng thần, khỗ luyện trong hai mươi năm nếu bây giờ lại không sợ mạo hiểm lấy tính mạng, thậm chí không tính đến cả sự ly biệt với người vợ cùng chung hoạn nạn để đấu lại một trận với Tạ Hiểu Phong thì có thể thấy trong trận đánh này ông ta nhất định đã tương đối nắm chắc phần thắng.

Mộ Dung Thu Hoạch khe khẽ thở một hơi dài, cũng có vẻ nắm được chắc sự phân tách của mình. Nếu bây giờ có ai đánh cuộc với nàng ta, Mộ Dung Thu Hoạch nhất định đặt của Hoa Thiếu Khôn chắc thắng. Tỷ số là 3 so với 7, có thấp nhấp cũng là 6 so với 4. Mộ Dung Thu Hoạch tin chắc là sự phán đoán của mình là ăn chắc, tuyệt đối không thể sai được. Cuối cùng cái gói cũng được mở ra. Gói bên trong bao chẳng phải binh khí gì cả mà chỉ là một đoạn côn gỗ.

Một đoạn côn gỗ thông thường, chất gỗ tuy có vẻ cứng rắn nhưng tuyệt đối không thể so với thanh danh kiếm thép trăm lần luyện mới thành được! Đây là thứ vũ khí ông ta khỗ công luyện tập suốt hai chục năm ròng rã ư? Dựa vào đọan côn gỗ này mà định địch với kiếm của Tam thiếu gia ư? Mộ Dung Thu Hoạch nhìn cây côn gỗ chẳng hiểu lòng mình đang kinh ngạc hay thất vọng? Chắc bằng ấy người đều cảm thấy rất ngạc nhiên rất thất vọng. Riêng Tạ Hiểu Phong thì không kể.

Chỉ có mình Tạ Hiểu Phong hiểu rõ nỗi khỗ tâm của Hoa Thiếu Khôn lúc chọn đọan côn gỗ này làm binh khí, chỉ có riêng chàng hiểu rằng Hoa Thiếu Khôn chọn cách này là tuyệt đối chính xác. Côn gỗ là loại vũ khí nguyên thủy nhất của loài người. Kể từ thời viễn cỗ loài người săn thú để ăn thịt, khi bảo vệ thân mình là đã có loại vũ khí này rồi. Vì đã là thứ vũ khí nguyên thủy nhất nên mọi người đều biết dùng nó để đánh người đuỗi chó, do đó không khỏi coi thường nó, quên phứt rằng mọi loại vũ khí trên đời đều biến, phát triển bắt đầu từ nó. Chiêu thức của côn gỗ vốn đơn giản nhưng khi cây côn gỗ nằm trong tay một bậc cao thủ thì có thể dùng nó làm thương, làm kiếm, làm phán quan bút... Mọi biến hóa của các lọai vũ khí đều có thể dùng thi triển từ một đoạn côn này! Hoa Thiếu Khôn đem một đoạn côn gỗ thông thường gói ghém cẩn thận tỉ mỉ đến thế đâu chỉ cốt dựng chuyện huyền hoặc mà là một loại đánh bằng tâm lý với đối phương đánh bằng tâm lý đối với bản thân mình nữa.

Nhất định ông ta trước hết khiến bản thân mình phải tỏ lòng chân thành tôn kính đối với cây côn này, sau nữa mới từ cây côn mà nẩy nở lòng tin quyết thắng.

"Lòng tin"! Lòng tin, bản thân nó đã là môt lọai vũ khí, môt loại vũ khí sắc bén nhất, loại vũ khí có hiệu quả nhất!

HỒI 28 - TRẢI TRĂM TRẬN ĐÁNH

Mộ Dung Thu Hoạch vốn là người thông minh tuyệt đỉnh nên đã nghĩ ra ngay cái đạo lý đó. Tuy nhiên nàng ta còn một điều chưa hiểu. Nàng không hiểu tại sao Hoa Thiếu Khôn không dùng côn vàng, côn bạc, côn đồng, côn sắt mà lại ngoan cố chọn một đoạn côn gỗ thế này?! Mặt trời lên cao. Mũi kiếm lóe sáng dưới ánh mặt trời, coi bộ còn sáng hơn cả mặt trời. Hoa Thiếu Khôn đã đứng dậy, chỉ liếc nhìn vợ lần cuối rồi sải bước về phía Tạ Hiểu Phong. Tạ Hiểu Phong từ lâu đã đứng sừng sững ở đó, chờ đợi. Trên mặt chàng hoàn toàn không một dáng vẻ tình cảm nào để lộ, đối với mọi chuyện nẫy giờ hoàn toàn chẳng động tâm. Đối mặt với một kiếm khách ưu tú thì điều kiện đầu tiên phải là lạnh lùng vô tình đến tàn nhẫn.

Nhất là trước lúc quyết chiến càng không được để bất kỳ việc gì làm ảnh hưởng đến tinh thần, tâm lý của mình! Có thể nói quá là:

"Giờ có thấy vợ mình đang ngủ với người khác ta cũng phải làm như không thấy gì!" Đây là một câu danh ngôn lưu truyền rất rộng trong làng kiếm khách. Chẳng ai nhớ ai là người nói ra câu ấy đầu tiên nhưng mọi người đều thừa nhận câu này rất có đạo lý có thể giúp một con người nào làm nỗi điểm này thì sẽ sống lâu hơn kẻ khác.

Dường như Tạ Hiểu Phong đã làm được điều này. Hoa Thiếu Khôn nhìn chàng, mắt ông ta lộ vẻ tôn kính thực tình. Nhưng Tạ Hiểu Phong lại chỉ nhìn vào đoạn côn gỗ trong tay Hoa Thiếu Khôn, bỗng chàng bảo:

"Đây đúng là một vũ khí tốt!" Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Phải!" Tạ Hiểu Phong nói:

"Mời!" Hoa Thiếu Khôn gật đầu vẩy đoạn côn gỗ trên tay ra, chớp mắt đã đánh liền ba chiêu. Ba chiêu này liên hoàn, biến hóa mau lẹ và ảo diệu nhưng không dùng giống như một chiêu kiếm nào. Mộ Dung Thu Hoạch ngầm thở dài trong lòng. Nàng ta đã nhìn thấy rõ, chỉ cần Tạ Hiểu Phong dùng sống kiếm đưa vào tay côn của Hoa Thiếu Khôn.

Hoa Thiếu Khôn thừa hiểu Tạ Hiểu Phong chẳng bao giờ lại dùng kiếm chém cụt côn của ông ta. Tam thiếu gia nhà họ Tạ có bao giờ lợi dụng vũ khí sắc, chiếm phần hơn kiểu đó đâu! Mà đã không dùng kiếm chém cụt côn của ông ta thì khi ra chiêu sẽ bị ông ta kiễm chế. Sở dĩ Hoa Thiếu Khôn chọn đoạn côn gỗ làm vũ khí quả là thông minh hơn xa mọi người! Nhịn không được Mộ Dung Thu Hoạch phải mỉm cười chạy tới cầm bàn tay giá lạnh của bà ta khẽ bảo:

"Cô yên tâm đi! Lần này Hoa tiên sinh tuyệt đối không thể thua được!" Cao thủ đánh nhau được thua đã có thể quyết định từ trong một chiêu, có điều phải là chiêu quyết định được thua chứ không nhất thiết phải là chiêu đầu tiên mà có thể là chiêu thứ mấy chục, mấy trăm. Giờ họ đã giao thủ năm mươi chiêu. Hoa Thiếu Khôn tấn công ba mươi bẩy chiêu, Tạ Hiểu Phong chỉ trả đòn có mười ba chiêu.

Mũi cây kiếm của Tạ Hiểu Phong luôn né tránh đoạn côn gỗ của Hoa Thiếu Khôn. Làm một kiếm khách mục đích lớn lao nhất là dành thắng bằng bất kỳ thủ đoạn nào chỉ cốt đạt được mục đích.

Tạ Hiểu Phong không dùng điểm này vì chàng quá kiêu ngạo chăng? "Kiêu ngạo sẽ thua" Nghĩ ra được đạo lý này, Mộ Dung Thu Hoạch như mở cờ trong bụng. Đúng lúc ấy nghe "chát" một tiếng vang lên, côn gỗ giáng vào sống kiếm. Cây kiếm trong tay Tạ Hiểu Phong bị chấn dội tung lên như chiếc cầu vồng bay.

Tạ Hiểu Phong lùi lại nửa bước, thốt ra ba tiếng trong đời chàng chưa bao giờ nói ra miêng:

"Tôi thua rồi!". Nói xon ba tiếng đó chàng quay mình, đầu không buồn ngoảnh lại, cứ thế đi thẳng lên dốc núi. Hoa Thiếu Khôn cũng không ngăn lại, cũng chẳng đuỗi theo mà chỉ có mỗi chủ quán họ Tạ chạy theo cậu chủ.

"Cô bé" cũng tính chạy theo thì Mộ Dung Thu Hoạch đã cầm tay kéo lại, dịu giọng bảo:

"Cháu hãy theo ta về thôi, cháu đừng quên ở nhà ta còn có người đang đợi cháu về săn sóc đấy!" Lúc này cây trường kiếm bị hất tung lên trời đã rơi xuống, rơi đúng ngay cạnh Tạ Phụng Hoàng, cắm ngập mũi kiếm vào đất sâu, chỉ ló chuôi kiếm lên trên và bà ta chỉ vươn tay một cái là sẽ rút được lên cứ y như có người cố tình trao kiếm lại cho bà ta vậy! Tạ Hiểu Phong đi đã xa nhưng Hoa Thiếu Khôn đứng cứ trơ ra đó không nhúc nhích. Ông ta đánh một trận đả bại kiếm khách thiên hạ vô song Tạ Hiểu Phong, thở phào ra luồn khí oán hận tích tụ hai chục năm trong lòng, nhưng trên mặt ông ta lại không hề lộ sắc thái tươi vui thắng lợi mà lại có vẻ rất buồn rầu.

Rất lâu sau ông ta mới chầm chậm quay về, cũng chẳng đến rút kiếm lên mà chỉ cắm cúi bước qua, từng bước nặng nề cứ như chân kéo lê theo chiếc cùm vô hình. Tạ Phụng Hoàng không vui gọi, không rút kiếm mà cũng lẳng lặng bước qua, đuỗi theo cầm lấy tay chồng.

Hoa Thiếu Khôn hỏi:

"Bà không cần cây kiếm kia ử" Tạ Phụng Hoàng đáp:

"Đó là kiếm nhà họ Tạ, thiếp có phải là người họ Tạ nữa đâu!" Hoa Thiếu Khôn nhìn vợ, ánh mắt tràn ngập âu yếm và cảm kích. Lại qua rất lâu, bỗng ông ta quay sang khom mình vái Mộ Dung Thu Hoạch thật sâu và bảo:

"Tôi muốn phiền phu nhân một việc!" Mộ Dung Thu Hoach bảo:

"Xin tiên sinh cứ sai bảo!" Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Chẳng hiểu phu nhân có thể làm giúp cho một cái bia đá bên cây kiếm này không?" Mộ Dung Thu Hoạch hỏi:

"Bia đá? Bia đá thế nào cở" Hoa Thiếu Khôn bảo:

"Trên bia đá đề đây là kiếm của Tam thiếu gia nhà họ Tạ, kẻ nào dám rút kiếm lên lấy để mình dùng, Hoa Thiếu Khôn này nhất định sẽ đòi về, không chỉ đòi kiếm mà còn xin cả thủ cấp. Dù có chạy đến chân trời góc biển nào cũng không thoát" Tại sao ông ta lại làm việc này đối với kẻ thù cũ? Mộ Dung Thu Hoạch không hỏi, cũng chẳng thấy lạ, chỉ đáp:

"Rồi tôi sẽ gọi người khắc bia ngay, chỉ độ nửa ngày là xong xuôi, có điều..." Hoa Thiếu Khôn hỏi:

"Làm sao?" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Nhỡ có đám dân thôn nghịch ngợm qua đây nhỗ cây kiếm đi thì sao? Bọn họ đâu biết Tam thiếu gia là ai, lại cũng chẳng biết Hoa tiên sinh là ai, thậm chí một chữ bẻ đôi không biết thì làm sao đây?" Nàng ta biết Hoa Thiếu Khôn không nghĩ đến điểm này nên đã đề ra cách giải quyết của mình:

"Tôi có thể xây lên đây một tòa đình giữ kiếm, rồi cho người tới đây chia nhau canh giữ chẳng hay Hoa tiên sinh thấy thế được chăng?" Cách này rất là chu đáo, ngoài việc cảm ơn Hoa Thiếu Khôn còn biết nói gì nữa? Mộ Dung Thu Hoạch thở dài sườn sượt bảo:

"Có lúc tôi nghĩ không thông, bất kể chàng ta đối với mọi người ra sao ngược lại mọi người đối với chàng ta lại không tồi!" Hoa Thiếu Khôn trầm tư rồi ôn tồn bảo:

"Có thể vì chàng ta là Tạ Hiểu Phong!" Sau dốc núi là một vạt cây phong. Lá phong đỏ như lửa cháy. Tạ Hiểu Phong chọn một mô đá ngồi xuống. Chủ quán họ Tạ cũng tới, không ra mồ hôi mà cũng đâu có thở hỗn hển. Làm chủ quán rượu nhỏ mấy chục năm ai mà chẳng khéo đóng kịch, chỉ có điều bất kỳ ai cũng có lúc quên cả đóng kịch.

Và cũng đến tận giờ Tạ Hiểu Phong mới biết mình chưa thật hiểu được con người này! Chàng không nén nỗi mà không thầm hỏi trong lòng:

"Ta thật sự hiểu người nào?" Mộ Dung Thu Hoạch? Hoa Thiếu Khôn?

Chủ quán họ Tạ thở dài bảo:

"Tôi đã thấy cậu từ nhỏ trưởng thành lên thế mà đến tận giờ tôi cũng chẳng biết cậu là người như thế nào, cậu làm gì tôi cố mà vẫn hoàn toàn không hiểu gì cả!" Tạ Hiểu Phong vốn không muốn bảo ông ta đây chính là điều chàng muốn nói nên chỉ lạnh nhạt bảo:

"Việc gì bác không hiểu?" Chủ quán họ Tạ đăm đăm nhìn chàng hỏi ngược lại:

"Cậu thua thật ử" Tạ Hiểu Phong chỉ bảo:

"Thua là thua, thật giả gì mà chẳng thế!" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Bà cô vẫn là bà cô, dù gả cho ai thì cũng vẫn vậy!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Bác biết thế là hay!" Chủ quán họ Tạ thở dài, cười gượng bảo:

"Biết rõ rồi cũng chẳng hay gì, cứ làm người hồ đồ lại hóa hay!" Tạ Hiểu Phong rõ ràng không muốn tiếp tục trao đỗi về vấn đề này nữa, nên chuyển sang chuyện khác, bèn hỏi:

"Sao bác biết ở đây mà tới?" Chủ quán họ Tạ đáp:

"Tôi nghe tin cậu ở đây nên lập tức phi ngựa tới không dừng vó, chưa tìm ra cậu thì Mộ Dung cô nương lại tìm đến tôi." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Rồi sao nữa?" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Về sau cô ấy đưa tôi đến nhà trọ nhỏ dưới chân dốc núi. Cô ta cho đi tìm cậu thì dắt chúng tôi tới chực ở bên ngoài, dĩ nhiên chúng tôi không dám tùy tiện." Tạ Hiểu Phong lạnh nhạt bảo:

"Chắc là sợ vào quấy rầy việc tốt lành của chúng tôi phải không?" Chủ quán họ Tạ cười gượng bảo:

"Dù thế nào thì thế quan hệ của cô cậu cũng đặc biệt hơn so với người khác!" Tạ Hiểu Phong cười nhạt rồi đứng dậy bảo:

"Hiện bác đã gặp tôi, giờ có thể về được rồi đấy!" Chủ quán họ Tạ hỏi:

"Cậu không về ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Dù tôi có cần về thật cũng không cần bác dẫn đường đâu!" Chủ quán họ Tạ ngưng thần nhìn chàng rồi bảo:

"Sao cậu chưa về? Trong lòng cậu vẫn còn điều đau khỗ không nói được với ai ử" Tạ Hiểu Phong đã sẵn sàng bỏ đi. Chủ quán họ Tạ bảo:

"Cậu định đi đâu? Hay là cậu vẫn còn tưởng tượng ra những ngày như thế đi lang thang khắp nơi để dày vò bản thân?" Tạ Hiểu Phong không muốn nói gì với ông ta nữa. Chủ quán họ Tạ bỗng nhảy dậy cao giọng bảo:

"Tôi đâu muốn quản việc của cậu, có điều có một việc cậu không lo không được!" Tạ Hiểu Phong liếc mắt nhìn bác ta một cái rồi hỏi:

"Việc gì?" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Cậu không thể để con trai cậu lấy một gái điếm được!" Mắt Tạ Hiểu Phong nheo lại:

"Gái điếm?" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Tôi nghe biết anh em nhà Miêu Tử là bạn của cậu, cũng nghe nói họ là người tốt, nhưng..." Tạ Hiểu Phong cắt ngang lời ông ta:

"Do đâu mà bác biết những việc đó?" Chủ quán họ Tạ không nói gì thì ở ngoài rừng phong có người bảo:

"Tôi bảo ông ta đấy!" Người ở ngoài rừng phong tiếng nói còn rất xa thì Tạ Hiểu Phong đã như mũi tên vút ra khỏi rừng phong tóm lấy tay người đó. Bàn tay lạnh ngắt, nhũn nhùn như con rắn độc:

Trúc Diệp Thanh phải chăng là loài độc nhất trong các loại rắn độc? Tạ Hiểu Phong cười nhạt bảo:

"Ngươi còn chưa chết ử" Trúc Diệp Thanh cười mỉm bảo:

"Người tốt mới không sống được lâu, tôi đâu phải người tốt!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ngươi muốn chết ử" Trúc Diệp Thanh đáp:

"Không muốn" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nếu vậy thì ngươi sớm chạy đi thật xa, vĩnh viễn đừng bao giờ để ta thấy lại mặt ngươi!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Thì tôi vốn cũng định đi, duy có đồ lễ này không vội vàng mang tới biếu không được" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Đồ lễ gì?" Trúc Diệp Thanh đáp:

"Chả là đám cưới của cô em nhà Miêu Tử với "Chú em" do Mộ Dung cô nương đứng ra làm chủ hôn, vợ chồng Du Long kiếm khách làm ông bà mối, lễ vật của tôi không đưa tới mừng sao tiện?" Gã mỉm cười hỏi:

"Tam thiếu gia có định mang lễ vật tới mừng không?" Tay Tạ Hiểu Phong cũng trở nên lạnh ngắt. Trúc Diệp Thanh bảo:

"Mộ Dung phu nhân thương cô bé nhà Miêu Tử thân thế lênh đênh cô khỗ, lại biết cô ta là người được Tam thiếu gia thương xót, vì thế phu nhân mới chủ trương cưới cô ta cho "chú em". Đột nhiên tay Tạ Hiểu Phong nắm riết lại. Mặt Trúc Diệp Thanh bỗng toát mồ hôi lạnh giá, gã bèn đỗi giọng ngay:

"Nhưng tôi lại biết Tam thiếu gia đâu có đồng ý đám cưới này!" Gã hạ giọng bảo:

"Chẳng qua "chú em" vốn tính trời sinh ương ngạnh, nếu có người nhất định không cho gã làm đám cưới này thì gã có lẽ sẽ khăng khăng đòi làm bằng được, vì vậy nếu Tam thiếu gia muốn giải quyết vấn đề này thì nên "rút củi đáy nồi", phải giải quyết từ gốc!" Có những con người dường như trời sinh ra cốt để giải quyết những vấn đề gai ngạnh của người khác. Trúc Diệp Thanh đúng là loại người như vậy! Không có củi đun thì bất kỳ bỏ gì trong nồi làm sao nấu chín, không có cô dâu dĩ nhiên sẽ làm gì có đám cưới?! Bàn tay đang riết chặt bỗng lỏng ra. Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Bọn họ ở đâu?" Trúc Diệp Thanh thở phào nhẹ nhõm bảo:

"Mọi người đều biết trong thành có lão chủ lớn nhưng số người được gặp lão đâu có mấy, số người biết lão ta ở đâu lại càng ít nữa!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Họ ở đấy à?" Trúc Diệp Thanh đáp:

"Cừu Nhị, Đơn Diệc Phi cùng vợ chồng Du Long kiếm khách cũng ở đó. Bọn họ rất tán thành đám cưới này nên nhất định sẽ không để ai lôi cô dâu đi đâu!" Gã cười mỉm, lại bảo:

"May sao bọn họ đều mệt mỏi, tối nay ắt đều đi ngủ sớm cả. Đến tối, nếu có tôi dẫn đường thì dù Tam thiếu gia muốn mang ai đi cũng rất dễ." Tạ Hiểu Phong đăm đăm nhìn gã lạnh lùng bảo:

"Sao đối với việc này ngươi lại sốt sắng thế?" Trúc Diệp Thanh thở dài bảo:

"ấn tượng của tôi đối với cô bé nhà Miêu Tử vốn không hay, "chú em" là con một của phu nhân, nếu đám cưới này thành tôi sợ những ngày sau này có sống cũng chẳng yên thân!" Gã nhìn vết thương của Tạ Hiểu Phong nói tiếp:

"Hiện nay tôi sống rất khá, trong thành này ở đâu có thầy lang giỏi mà tôi chẳng biết, ở đâu có rượu ngon tôi cũng biết hết!" Đêm. Hoa Thiếu Khôn lặng lẽ từ trên giường khoác áo trở dậy, lặng lẽ đẩy cửa ra đi. Tạ Phụng Hoàng cũng đâu có ngủ, nhưng cũng không gọi ông ta hỏi xem định đi đâu.

Bà ta hiểu tâm tình của chồng. Bà biết chồng mình nhất định muốn đi một mình cô đơn, mấy năm lại đây tuy họ ít ăn ở với nhau như hôm nay, nhưng mỗi lần ông đều cố gắng làm cho bà cảm thấy thỏa mãn khoái lạc, nhất là đêm nay ông đối xử với bà sao mà âu yếm cứ như ngày mới cưới. Rõ ràng ông là người chồng tốt, làm hết trách nhiệm của người chồng. Đối với một ông già ngoài sáu mươi xuân đó không phải là chuyện dễ dàng.

Nhìn theo cái bóng cao to cường tráng đi ra lòng bà thấy tràn trề âu yếm chỉ mong sao mình sẽ làm hết trách nhiệm của người vợ để ông sống thêm ít năm nữa, sống mấy năm toàn những tháng ngày khoái lạc và bình yên, quên mọi thứ ơn oán giang hồ, quên Tạ Hiểu Phong, quên cái trận đánh trên dốc núi... Bà chỉ hy vọng khi quay về, ông có thể quên đi hết cả, còn bà cũng chẳng mong phải nhớ đến quá nhiều những việc vẩn vơ đó... Sau đó cứ thế bà ngủ thiếp đi trong cơn mơ mơ màng màng, ngủ rất lâu mà Hoa Thiếu Khôn vẫn chẳng thấy về. Sân vườn rộng bát ngát, yên tĩnh và tăm tối.

Hoa Thiếu Khôn ngồi trong đình lục giác ở ngoài cầu "Chín Khúc". Ông ta ngồi vậy đã rất lâu. Trải qua một lần gối chăn ân ái khoái lạc vô hạn ông mãi không ngủ được, ông không làm sao quên được trận đánh trên dốc núi và lòng ông chỉ tràn đầy xấu hỗ và đau khỗ. Đêm càng khuya, khi ông định quay trở về phòng thì ông thấy có một bóng người đi lướt sau đá núi trên vai như đang vác một người thì phải. Khi ông đuỗi tới nơi thì chẳng thấy gì nữa. Nhưng ông nghe thấy trong hòn núi giả có người thì thầm nói chuyện, dường như tiếng Trúc Diệp Thanh thì phải:

"Giờ thì ngươi đã tin chưa? Người mà ông ấy bắt đi là "cô bé" đấy!" Giọng của Trúc Diệp Thanh đầy vẻ khích bác:

"Tối hôm mẹ ngươi đính hôn, ông ta đã dẫn dụ mẹ ngươi đi. Tối nay đến lượt ngươi đính hôn, ông ta lại bắt vợ ngươi đi. Thật đến ta cũng không hiểu nỗi sao ông ta có thể làm những thứ chuyện như vậy được!" Một giọng thanh niên khác đột nhiên giận dữ quát:

"Im mồm!". Chàng thanh niên này dĩ nhiên là "chú em".

Trúc Diệp Thanh đâu có chịu "im mồm", gã nói tiếp:

"Ta nghĩ họ bây giờ ắt trở về nhà cũ của "cô bé", nơi ấy tuy cũ nát nhưng rất tĩnh mịch lại không ai biết để tới đó mà tìm họ. Tốt nhất là ngươi chẳng nên đi, vì..." Gã không nói hết câu. Từ hòn núi giả có một bóng người vút ra như tên bắn. May sao lúc ấy Hoa Thiếu Khôn đã nhẩy lên ngọn núi giả, nằm phục trên đỉnh. Ông ta nhận ra người đó là "chú em", lại nhìn thấy một người ra sau đúng là Trúc Diệp Thanh. Tuy nhiên lúc này ông chưa muốn ra mặt vì ông quyết tâm đào tận gốc trốc tận rễ âm mưu này. Ông quyết tâm làm được một chút gì đó cho Tạ Hiểu Phong.

Trúc Diệp Thanh chắp hai tay sau lưng thủng thẳng mà đi, chẳng bao lâu cũng đã thấy ánh đèn nơi cửa sỗ phòng ngủ của gã. Gã ở trong một khu sân riêng lẻ cách ngọn núi giả không xa, mé ngoài có mấy trăm ngọn trúc ít vồng hoa cúc.

Trong phòng ngủ vẫn còn đèn, nhất định Tử Linh đang đợi gã. Hôm nay mọi việc xẩy ra đều thuận lợi, giờ gã có quyền hưởng thụ một đêm khoái lạc mà trước nhất phải uống chút rượu đã. Cửa không khóa. Người ở đây không cần khóa, khóa ở đây không cần dùng.

Gã có thể nghĩ trước là Tử Linh giờ đang khỏa thân nằm trong chăn đợi gã, ai ngờ vào trong phòng lại thấy còn có người khác. Cừu Nhị đang ngồi chờ gã.

Trước đèn có bình rượu, rượu đã uống cạn, rõ ràng Cừu Nhị đã uống không ít và đợi chắc đã lâu. Ngồi bên cạnh lão rót rượu là Tử Linh. ả ta không khỏa thân, có mặc quần áo mà mặc đến hai lớp. Có điều tuy mặc đến hai lớp nhưng vẫn quá mỏng, chỉ bằng một màn sương.

Trúc Diệp Thanh cười:

"Thật không ngờ Cừu Nhị tiên sinh mà cũng biết ăn chơi hưởng thụ!" Cừu Nhị đặt chén xuống bảo:

"Chỉ tiếc đây lại là rượu của ngươi, đàn bà của ngươi! Giờ ngươi đã trở về, có thể tùy ý thu hồi lại!" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Bất tất!" Cừu Nhị hỏi lại:

"Bất tất?" Trúc Diệp Thanh mỉm cười bảo:

"Giờ rượu đang của lão, đàn bà cũng của lão, lão cứ việc nán lại hưởng thụ, không có gì trở ngại đâu!" Cừu Nhị hỏi:

"Thế còn ngươi?" Trúc Diệp Thanh đáp:

"Ta đi!". Gã có vẻ nói thật, bảo đi là đi ngay.

Cừu Nhị nhìn theo gã, mắt lộ đầy vẻ kinh ngạc và hoài nghi. Đợi gã sắp bước qua cửa lão chợt cao giọng bảo:

"Đợi chút đã!" Trúc Diệp Thanh dừng bước hỏi:

"Lão còn muốn gì nữa ử" Cừu Nhị bảo:

"Muốn hỏi ngươi một câu!" Trúc Diệp Thanh quay lại, đứng đối mặt, đợi lão hỏi. Cừu Nhị thở dài bảo:

"Có mấy lời đáng lẽ ta không nên hỏi, nhưng thực ra ta đang rất muốn biết ngươi là ai? Trong lòng đang âm mưu gì?" Trúc Diệp Thanh lại cười, mắt tít lại và nói ngay:

"Tôi chỉ là kẻ thích kết giao bè bạn, rất muốn làm bạn với lão!" Cừu Nhị cũng cười tít. Nét mặt lão đang cười bỗng nheo mắt hỏi độp một câu:

"Bạn bè của ngươi cũng kể cả mấy người bị ngươi bán đứng nữa chứ?" Trúc Diệp Thanh trả lời lửng lơ:

"Lão nói cái gì? Tôi nghe chẳng hiểu gì cả!" Cừu Nhị lạnh lùng bảo:

"Ngươi cần phải hiểu, chỉ vì cơ hồ đến ta cũng bị ngươi bán đứng một lần" Không để Trúc Diệp Thanh kịp mở miệng, Cừu Nhị đã nói:

"Hắc Sát vốn là bạn ngươi thế mà ngươi thuê Mao Nhất Vân giết họ, Đơn Diệc Phi, Liễu Khô Trúc, Cao Quý Thần Tiên thủ và cả lão hòa thượng dựa theo kế hoạch ban đầu đến tiếp ứng kịp thời. Mao Nhất Vân đáng lẽ không chết thế mà ngươi cố ý trì hoãn không chịu báo tin sớm chỉ vì ngươi cố ý mượn tay Tạ Hiểu Phong giết Mao Nhất Vân!" Trúc Diệp Thanh không chối cũng không cãi, lẳng lặng vác một cái ghế tới, ngồi nghe. Cừu Nhị nói tiếp:

"Chú em" vốn cũng là bạn của ngươi, ngươi lại đem gã nộp cho Tạ Hiểu Phong. Cứ cho là Tạ Hiểu Phong không nỡ giết gã, nhưng chỉ sợ gã đập đầu tự tử mà chết vì thấy người sắp làm vợ mình bị người cướp đi. Cơn tức ấy trừ ngươi ra còn ai có thể chịu nỗi?" Bàn tay lão vớ lấy cán cây kiếm để trên bàn:

"Chính vì vậy ta mới đặc biệt phải tới đây hỏi ngươi là đến khi nào ngươi bán rẻ ta, mà bán ta cho ai?" Trúc Diệp Thanh lại cười, vừa cười vừa đứng dậy đối mặt với cửa sỗ bảo:

"ở ngoài sương gió lạnh lẽo, Hoa tiên sinh đã tới sao không mời vào đây uống chén rượu cho ấm!" Cửa sỗ không động nhưng cửa ra vào không có gió mà mở toang. Rất lâu sau, Hoa Thiếu Khôn mới chầm chậm bước vào. Bốn chục năm qua ông ta đã thân trải trăm trận đánh, bị người ám toán không biết bao nhiên lần. Thế mà ông ta còn sống đến giờ chỉ vì xưa nay ông ta vốn là người cẩn thận tinh tế. Hoa Thiếu Khôn lạnh lùng nhìn Trúc Diệp Thanh bảo:

"Đáng ra ta không nên tới nhưng giờ đã tới rồi, những lời lẽ vừa rồi đáng ra ta không nên nghe nhưng cũng nghe thấy rồi, vì vậy ta cũng muốn hỏi ngươi, thật tình ngươi là hạng người nào? Trong bụng có âm mưu gì? Trúc Diệp Thanh mỉm cười bảo:

"Tôi biết Hoa tiên sinh tối nay trằn trọc không ngủ được, chắc chắn là vì nhớ đến trận đánh ban ngày vì vậy đã mạn phép chuẩn bị sẵn ít rượu ngon để mời Hoa tiên sinh giải buồn tiêu sầu!" Gã không trả lời câu hỏi cứ như không nghe thấy Hoa Thiếu Khôn vừa nói gì, gã chỉ hời hợt vài câu mà hất được trái núi cháy bỏng trên đầu đi chỗ khác.

HỒI 29 - HOẠN NẠN CÙNG CHỊU

Quả nhiên nghe vậy mặt Hoa Thiếu Khôn biến sắc, nghiêm giọng bảo:

"Tại sao ta lại phải trằn trọc không ngủ được? Tại sao ta lại phải uống rượu để tiêu sầu giải buồn?" Trúc Diệp Thanh bảo:

"Vì Hoa tiên sinh là người quân tử!" Giọng cười của gã đột nhiên có vẻ châm chọc:

"Chỉ tiếc lại không phải người quân tử chân chính!" Tay Hoa Thiếu Khôn chợt run rẩy, rõ ràng là ông ta đang cố sức nén giận. Trúc Diệp Thanh lại bảo:

"Trận đánh sáng nay, ai thắng ai bại, chắc Hoa tiên sinh phải biết rõ hơn ai hết!" Bàn tay Hoa Thiếu Khôn càng run dữ. Bỗng ông ta vớ lấy nửa chén rượu trên bàn tợp một hơi cạn sạch. Trúc Diệp Thanh bảo:

"Nếu Hoa tiên sinh là bậc chính nhân quân tử thì phải tự nhận là mình thua trước mặt bà vợ tiên sinh mới phải chứ!" Gã ngừng lại, cười khẩy rồi bảo:

"Nhưng tiên sinh đâu dám!" Hoa Thiếu Khôn dùng sức nắm chặt hai tay quyền bảo:

"Nói tiếp nữa đi!" Trúc Diệp Thanh nói tiếp:

"Giá tiên sinh lại như tôi là kẻ tiểu nhân chính cống thì cũng chẳng việc gì phải để việc nhỏ mọn ấy làm bận lòng. Lại rất tiếc tiên sinh cũng chẳng được là kẻ tiểu nhân chân chính vì thế trong lòng tiên sinh mới thấy hỗ thẹn, thấy mình không phải với Tạ Hiểu Phong!" Gã lạnh lùng nói thêm:

"Vì thế nếu bây giờ có người hỏi tiên sinh thật sự tiên sinh là hạng người thế nào thì tiên sinh cũng chẳng dám trả lời đâu. Chẳng những tiên sinh là đồ ngụy quân tử mà còn là kẻ hèn nhát!" Hoa Thiếu Khôn đăm đăm nhìn Trúc Diệp Thanh rồi từng bước từng bước đi tới và bảo:

"Quả không sai, ta là kẻ hèn nhát nhưng ta vẫn có thể giết người..." Giọng ông ta đột nhiên ấp úng khàn đặc, đôi mắt đang nheo lại bỗng trợn trừng lên. Cuối cùng Hoa Thiếu Khôn ngã vật ra đất.

Cừu Nhị kinh sợ nhìn Hoa Thiếu Khôn muốn cử động mà không cử động được. Trúc Diệp Thanh bảo:

"Lão nghĩ không ra sao ông ta ngã vật ra phải không?" Cừu Nhị hỏi:

"Ông ta say rượu ử" Trúc Diệp Thanh đáp:

"Ông ta là ông già, thể lực đã suy nhược, lại uống rượu vào quá nhanh cho nên dù rượu không có thuốc mê cũng đủ làm ông ta ngã!" Cừu Nhị biến sắc mặt:

"Thuốc mể" Trúc Diệp Thanh cười nhạt bảo:

"Thuốc mê này tuy vừa uống vừa đắng nhưng hòa vào Trúc Diệp Thanh lâu năm thì cũng khó lòng phân biệt nỗi, tôi đã phải thử nhiều lần rồi mới thành công đấy chứ!" Cừu Nhị giận dữ gầm lên định chồm tới, nhưng lại húc ngay vào cái bàn. Trúc Diệp Thanh cười mỉm bảo:

"Thật ra lão phải nghĩ đến điều này: ta là một kẻ tiểu nhân chân chính, làm gì sẵn rượu ngon bày ra cho lão hưởng thụ chứ!" Cừu Nhị ngã lăn xuống đất, định vịn bàn đứng dậy nhưng vừa đứng lên lại ngã lăn ra.

Trúc Diệp Thanh bảo:

"Thật ra ta phải cảm ơn lão, Hoa Thiếu Khôn là người cẩn thận, khôn lõi đời, nếu không thấy lão đã uống nửa chén rượu đó đời nào ông ta uống và cũng chỉ vì lão uống rượu từ từ nên thuốc mê mới chậm chậm phát tác thôi!" Cừu Nhị dần thấy tiếng nói của Trúc Diệp Thanh cứ xa dần xa dần, người rồi cũng xa dần xa dần cuối cùng không nghe gì nữa không thấy gì nữa hết. Tử Linh bỗng thở dài cười gượng bảo:

"Thiếp cứ tưởng chàng chỉ có dã tâm ngấp nghé cái ghế của lão chủ lớn để thay ngôi vị của lão, bây giờ thì... bây giờ thì thật tình thiếp cũng chẳng hiểu chàng là người thế nào và chàng đang ấp ủ âm mưu gì trong lòng." Trúc Diệp Thanh cười vang:

"Nàng vĩnh viễn không biết đâu!" Tạ Phượng Hoàng tỉnh giấc từ trong cơn ác mộng. Cả tấm chăn cũng bị mồ hôi lạnh giá của bà ta thấm ướt đẫm. Trong mộng bà thấy chồng trở về mình đầm đìa máu đứng sừng sững ở đầu giường rồi cứ máu đầm đìa như thế đè lên người bà ta, đè mạnh đến nỗi bà thở không ra hơi, sực tỉnh lại thì trước mặt trời vẫn tối om om. Ngọn đèn chồng bà ta thắp cho vợ đã tắt ngấm từ bao giờ.

Trong nhà không có đèn. Tạ Hiểu Phong một mình ngồi im lặng trong bóng tối, ngồi ở chỗ ngày trước mỗi khi ăn cơm vẫn giành phần "công chúa".

"Em nó sinh ra đời đáng phải là công chúa, chú mà gặp là phải thích nó ngay, nhà này lấy nó làm vinh." Lửa lò đã tắt từ lâu đến tro tàn cũng đã lạnh ngắt. Gian bếp nhỏ hẹp đâu còn sự ấm cúng của những ngày đã qua. Mùi thơm của món canh thịt thấm vào tận đáy lòng cũng vĩnh viễn không bao giờ lừng mùi nữa rồi. Nhưng rõ ràng ở nơi đây chàng đã sống những ngày đủ đầy và an ủi mà trước đó chưa từng có.

"Tôi là A Cát, A Cát vô dụng!" "Hôm nay công chúa nhà ta về ăn cơm nhà. Cả nhà ta lại có thịt ăn, mỗi người được một tảng to ơi là to!" Thịt được bưng lên, mắt người nào cũng sáng quắc, còn sáng hơn cả ánh kiếm. ánh kiếm lấp loáng, kiếm khí dọc ngang, máu tươi vọt ra, kẻ thù gục đỗ.

"Ta là Tam Thiếu gia nhà họ Tạ, ta là Tạ Hiểu Phong đây!" "Ta là Tạ Hiểu Phong thiên hạ vô song đây!" Suy cho cùng ai là người khoái lạc hơn? A Cát hay Tạ Hiểu Phong?

Cửa bị len lén mở ra, cái bóng mảnh yếu như bóng mèo lặng lẽ bước vào. Đây là nhà cô ta. Mọi đồ vật ở đây cô đều quen thuộc, dù không nhìn thấy nhưng cô vẫn cảm thấy được chúng.

Giờ cô đã trở về! Đưa cô trở về là một người lạ hoắc, beo béo, nhưng có công phu nhẹ nhàng hơn cả cánh én liệng. Nằm phục trên lưng ông ta có khác nào cưỡi mây vượt gió. Cô không biết người này.

Cô theo ông ta về chỉ vì ông ta bảo có người đợi cô ở nhà này, chỉ vì người đợi cô chính là Tạ Hiểu Phong. Tạ Hiểu Phong chầm chậm đứng dậy, khe khẽ bảo:

"Ngồi đi!" Đúng là chỗ ngồi cả nhà vẫn giành cho cô trước kia, giờ cô trở về lại phải trả chỗ cho cô. Cô còn nhớ lần đầu tiên lúc chàng thấy cô ngồi trên cái ghế này. Mái tóc cô mềm mượt, đen mướt chẩy dài xuôi xuống, thái độ thì mềm mỏng mà cao quý cứ như một công chúa thực và cũng lúc đó chàng hy vọng trước kia mình chưa từng gặp cô bao giờ và hy vọng cô là một công chúa thực.

"Công tử không được để người thừa kế đời sau nhà họ Tạ lấy một kỹ nữ làm vợ được!" "Kỹ nữ, gái điếm!" Chàng nhớ lại lần đầu tiên gặp cô ta, nhớ lại lúc bàn tay mình đặt lên cái bụng xinh xinh của cô cảm thấy được cả nguồn sức nóng ngùn ngụt bên trong, chàng nhớ lại lúc cô ngã lộn xuống đất và nhớ rõ tình hình lúc cả bốn chân tay của cô quẫy động... "Thiếp mới mười lăm, nhưng nhìn có lớn hơn chút ít so với người khác." "Chú em" vẫn là một đứa trẻ.

"Chẳng có ai tình nguyện làm công việc này cả nhưng mọi người ai cũng phải sống, cũng đều phải ăn." "Cô ta là nguồn hy vọng duy nhất trong con mắt của bà mẹ với ông anh, cô phải làm cho họ có thịt ăn!" Nhưng "chú em" mới có mười lăm tuỗi, "chú em" là cốt nhục của nhà họ Tạ! "Cô bé" ngồi xuống y như một nàng công chúa thực đang ngồi. Đôi mắt sáng cứ sáng long lanh lên trong bóng tối. Tạ Hiểu Phong do dự mãi. Cuối cùng bảo:

"Ta đã thấy anh của cộ" "Cô bé" đáp:

"Thiếp biết rồi!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta sợ cô đi không tiện nên nhờ ông chủ quán họ Tạ đón cô về!" "Cô bé" đáp:

"Thiếp biết rồi!" Bỗng cô ta cười mà bảo:

"Thiếp biết chàng vì sao muốn thiếp về rồi!" Tạ Hiểu Phong lúng túng:

"Ta... tạ.." "Cô bé" cắt ngang lời chàng, bảo:

"Chàng khỏi cần phải giải thích, trong lòng thiếp đã rõ rồi. Chàng thật sự thích là vị Mộ Dung phu nhân kia cơ vì bà ấy sinh ra đã có số làm bà phu nhân. Vì bà ấy đâu cần phải bán mình để nuôi nhà, đâu cần phải làm điếm!" Nước mắt "cô bé" rơi xuống, bỗng cô khóc to tiếng:

"Nhưng chàng có nghĩ đến không, điếm thì cũng là người, cũng hy vọng có lúc hoàn lương, cũng hy vọng có người yêu quí mình một cách thực tình." Trái tim Tạ Hiểu Phong đau buốt. Mỗi câu cô nói chẳng khác nào một mũi kim chọc vào trái tim chàng. Chàng không nén được mà bước tới vuốt ve mái tóc mềm mượt của "cô bé", định nói vài câu gì đó để an ủi cô ta nhưng lại chẳng biết nói những gì.

"Cô bé" khóc lóc đau đớn ngã nhào vào lòng chàng. Đối với cô, được chàng ôm trong lòng là niềm an ủi lớn lao nhất đối với cô! Chàng cũng hiểu thế nên chàng làm thế nào mà nỡ lòng đẩy cô ta ra! Bỗng đâu một tiếng "bình" vang lên, cửa bị sức mạnh đẩy toang ra, một thiếu niên với bộ mặt trắng bệch xuất hiện ngoài cửa, đôi mắt chú bé ngập tràn buồn thương và đau khỗ, đôi mắt ngập tràn nước mắt! Ai hay cừu hận có sức mạnh lớn lao đến chừng nào có thể khiến người ta có gan làm những việc đáng kinh sợ? Ai biết được đau thương có mùi vị ra sao? Có khi "chú em" biết! Có khi Tạ Phụng Hoàng cũng biết! Xác của Hoa Thiếu Khôn trước một giờ được người phát hiện ra nằm trong đình lục giác. Yết hầu ông ta bị cắt đứt lìa. áo quần, tay, mái tóc bạc trắng đầm đìa những máu. Bên cạnh xác ông ta còn một cây đao bỏ lại. Không ai có thể hình dung nỗi nỗi đau thương của Tạ Phụng Hoàng khi nhìn thấy xác chồng. Buồn thương, đau khỗ và phẫn nộ.

Trong khoảnh khắc bà ta đã chợt biến thành con dã thú khùng điên. Tất cả những gì trên người bà ta đều muốn xé tướp ra từng mảnh, rồi dùng lửa đốt, rồi dùng dao cứa, đốt thành tro bụi, cứa thành máu đọng. Phải bẩy tám người khỏe mạnh ra tay giữ chặt lấy bà ta, phải đến cả giờ sau bà ta mới dần dần bình tĩnh lại. Tuy vậy bà ta vẫn không ngừng đầm đìa nước mắt.

Vợ chồng chung sống vui buồn hoạn nạn hàng hai chục năm, mối liên quan hàng hai chục năm thành tình cảm vợ chồng gắn bó đã ăn sâu vào cốt tủy.

"Bây giờ ông ấy đã trở thành một ông già, sao các người còn muốn ông ấy phải chết?" Chết mới thảm làm sao! Nỗi bi thương của Tạ Phụng Hoàng đã biến thành thù hận, bỗng bà bảo những người đang đè giữ mình:

"Các người thả ta ra, để ta ngồi dậy!" Trời sáng bạch nhưng đèn trên bàn vẫn cháy sáng. ánh đèn chiếu vào mặt Mộ Dung Thu Hoạch, sắc mặt của nàng ta cũng nhợt nhạt, bệch bạc. Tạ Phụng Hoàng ngồi đối diện với Mộ Dung Thu Hoạch, nước mắt bà ta đã cạn khô, trong mắt chỉ còn ngùn ngụt hận thù.

Đau thương thực sự có thể khiến người ta điên cuồng, thù hận thực sự lại biến người ta thành bình tĩnh. Bà ta lạnh lùng nhìn ngọn lửa đèn nhẩy múa bỗng bảo:

"Ta sai rồi, cả chị cũng sai nốt!" Mộ Dung Thu Hoạch hỏi:

"Cô sai thế nào cở" Tạ Phụng Hoàng bảo:

"Vì cả hai chúng ta đều nhìn thấy trong trận đấu sáng hôm nay người thua đâu phải Tạ Hiểu Phong mà là Hoa Thiếu Khôn, nhưng cả hai chúng ta đều không nói ra". Mộ Dung Thu Hoạch không thể phủ nhận.

Nếu bảo cây kiếm của Tạ Hiểu Phong quả thực bị chấn dội thực sự bị hất bỗng đi thì làm sao lại khéo léo rơi sát bên cạnh tay của Tạ Phụng Hoàng được? Chàng đã mượn sức hất của người khác để đưa thanh kiếm trả về tay Tạ Phụng Hoàng, sức mạnh và kỹ xảo ấy dùng mới khéo léo làm sao!?

Tạ Phụng Hoàng bảo:

"Tạ Hiểu Phong chẳng những chỉ có thể đánh thua ông ấy, thậm chí còn có thể giết chết ông ấy mà không ai kêu ca vào đâu được, thế mà Tạ Hiểu Phong lại không làm như vậy, do đó bây giờ đây kẻ giết ông ấy tuyệt đối không thể là Tạ Hiểu Phong được!" Mộ Dung Thu Hoạch cũng không thể phủ nhận sự thật này. Tạ Phụng Hoàng đăm đăm nhìn Mộ Dung Thu Hoạch rồi bảo:

"Vì vậy ta muốn hỏi chị, trừ Tạ Hiểu Phong ra ở đây còn có cao thủ nào chỉ một kiếm cứa đứt cỗ họng ông ấy không?" Mộ Dung Thu Hoạch trầm ngâm suy nghĩ, rất lâu rất lâu sau mới bảo:

"Chỉ có một người!" Tạ Phụng Hoàng hỏi ngay:

"Ai?" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Chính là ông ấy, tự ông ấy!" Tạ Phụng Hoàng dùng sức bóp chặt tay lại, cao giọng bảo:

"Không được! Vì ta, ông ấy tuyệt đối không thể làm thế được!" Mộ Dung Thu Hoạch thở dài bảo:

"Vì ông ấy thấy rõ là bà đã biết người thua thực sự là ông ấy. Ông ấy không nói ra điều đó và ông ấy cũng không đủ dũng khí nói ra điều đó, sự tủi hỗ lẫn đau khỗ này dày vò ông ấy suốt. Ông ấy là người cương liệt đến như thế, làm sao mà chịu nỗi?" Tạ Phụng Hoàng gục đầu, nói rất ảm đạm:

"Thế nhưng..." Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Thế nhưng nếu không có Tạ Hiểu Phong, ông ấy đã không chết!" Nàng ta là đàn bà, là người đàn bà rất hiểu tâm lý đàn bà. Đàn bà khi đau thương phẫn nộ mà không có nơi trút giận thì thường đỗ hết mọi tội lỗi lên đầu người khác. Quả nhiên bị trúng đòn tâm lý, Tạ Phụng Hoàng ngẩng phắt đầu dậy bảo:

"Tạ Hiểu Phong thừa biết tính nết của ông ấy, có khi hắn đã sớm tính đúng ông ấy sẽ đi đường này nên mới cố ý làm như vậy!" Mộ Dung Thu Hoạch khe khẽ thở dài bảo:

"Như vậy không phải hoàn toàn không có khả năng này!" Tạ Phụng Hoàng lại đăm đăm nhìn ngọn lửa đèn bập bùng, nhìn mãi nhìn mãi rất lâu rồi bỗng bảo:

"Ta nghe nói chỉ có chị biết chỗ hở trong kiếm pháp của Tạ Hiểu Phong phải không?" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Đúng là cháu biết, nhưng không biết sẽ dùng được gì?" Tạ Phụng Hoàng bảo:

"Sao lại không dùng được gì!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Vì sức của cháu không đủ, ra tay không đủ mau lẹ vì thế rõ ràng biết chỗ hở trong kiếm pháp của chàng ta nằm ở đâu, đến khi chiêu của mình tới thì đã không kịp nữa rồi". Nàng ta thở dài bảo:

"Điều đó chẳng khác nào ta thấy con sẻ đậu trên cây rõ ràng nhưng khi thò tay tới bắt thì chim sẻ đã bay đi từ lúc nào!" Tạ Phụng Hoàng bảo:

"Nhưng ít nhất chị cũng biết cách bắt chim sẻ đã". Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Vâng!" Tạ Phụng Hoàng:

"Chị đã nói cho ai biết chưa?" Mộ Dung Thu Hoạch đáp:

"Chỉ nói với một người, vì chỉ có tay kiếm đó may ra mới có thể đối phó được với Tạ Hiểu Phong?" Tạ Phụng Hoàng hỏi:

"Người ấy là ai?" Mộ Dung Thu Hoạch đáp ngay:

"Là Yến Thập Tam!" "Chú em" quay mình bỏ chạy mà không nói một lời nào, quay mình xong là cắm cỗ chạy. Gã tự mắt nhìn thấy "họ" ôm nhau, thế thì còn gì để nói nữa?

"Đã nhìn thấy tận mắt vị tất đã là thật!" Gã không chịu hiểu câu nói đó, cũng không thèm nghe giải thích mà cứ một mình cắm cỗ chạy xa, càng xa càng tốt. Vì gã tự giác chịu sự khinh khi, tự giác nhận sự thương hại của đời từ bé nên mặt dầu gã không có mấy cảm tình với "cô bé" thì cô cũng chớ nên phản bội gã như thế, nhất là Tạ Hiểu Phong càng không được như thế! Tạ Hiểu Phong rất hiểu cảm giác đó của "chú em". Chàng cũng từng phải chịu đựng sự khinh khi, từng nhận sự thương hại và nhất là đã từng là một thiếu niên với bầu nhiệt huyết bốc đồng không chịu khuất phục.

Chàng lập tức đuỗi theo ngay. Chàng hiểu là ông chủ quán họ Tạ tất sẽ biết chiếu cố cho "cô bé", còn chàng nhất định phải đi săn sóc "chú em". Chỉ có chàng mới nhận thấy qua vẻ bề ngoài quật cường, tàn nhẫn của chàng thiếu niên này là tình cảm của mềm yếu nằm ẩn sâu tận đáy lòng của gã.

Chàng phải đi bảo vệ gã, để gã khỏi phải nhận sự thương hại nào thêm nữa.

"Chú em" biết là chàng đang đi theo đằng sau nhưng gã không hề ngoái lại nhìn. Gã không có ý muốn gặp lại "con người này". Và gã cũng hiểu là một khi Tạ Hiểu Phong đã quyết tâm theo đuỗi một người nào đó thì kẻ ấy đừng hòng bỏ rơi chàng.

Tạ Hiểu Phong không mở miệng. Chàng cũng thừa biết một khi chàng thiếu niên này đã quyết tâm không nghe lời giải thích của ai thì người ấy là ai có nói gì cũng vô ích. Trời đã sáng, ánh mặt trời dần dâng cao.

Bọn họ từ một ngõ hẻm đi vào thị trấn đông đúc, rồi lại từ thị trấn náo nhiệt đi ra cánh đồng hoang dã rồi từ cánh đồng hoang dã bắt vào đường quan lớn. Khách đi trên đường phần lớn thái độ đều vội vội vàng vàng.

Lúc này vụ mùa thu đã qua, đang là lúc mọi người kết toán một năm thu hoạch được bao nhiêu lợi tức. Một số người đang vội vã mang thu hoạch về nhà hay chia bôi cho người khác, có một số người khi mang thu hoạch về nhà thì thấy đầy lòng mệt mỏi, đầy mình nợ nần. Tạ Hiểu Phong không sao chịu nỗi mà không vấn tâm tự hỏi là mình trong một năm qua đã nỗ lực cày cấy những gì? Chàng thu hoạch được những gì? Một năm qua chàng đã gây thiệt hại cho bao nhiêu người hay người khác gây thiệt hại cho chàng?... Có những món nợ của một số người, đến ai cũng chẳng có cách gì thanh toán rõ ràng được! Đã chính ngọ. Họ lại tới một thành thị khác, đi vào các phố xá hoa lệ náo nhiệt.

Thành thị khác nhau, người ngợm khác nhau nhưng đều giống nhau ở chỗ tất bật bôn ba vì cuộc sống lợi danh, giống nhau đều ở chỗ bị ân oán tình thù làm cho khỗ sở. Tạ Hiểu Phong thầm thở dài ngầm trong lòng, ngẩng đầu thì thấy "Chú em" đã dừng bước, đang lạnh lùng nhìn chàng.

Chàng bước qua bên cạnh vẫn không hé răng. "Chú em" bỗng hỏi:

"Ông cứ theo tôi lẵng nhẵng, phải chăng ông đã quyết tâm chuẩn bị để săn sóc tôi cho tốt chứ gì?" Tạ Hiểu Phong thừa nhận. Chàng chợt nhận ra "Chú em" rất hiểu chàng, cũng y như chàng rất hiểu "Chú em".

"Chú em" bảo:

"Tôi đi mãi mệt rồi, hơn nữa đang đói muốn chết đây!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Thế thì chúng ta đi ăn đã". Nơi họ dừng chân đúng ngay dưới tấm bảng hiệu chữ vàng "Lầu Trạng nguyên", quay mình là thấy ngay ông chủ quán béo mập "chiều khách cầu lợi" đang khom lưng mỉm cười với họ.

"Tám món xào bốn chay bốn mặn, trước hết hãy mang tám đĩa nhỏ nhắm rượu, sau đưa sáu món ngon tôm, cua, chim, yến sào, vây cá, gà vịt nguyên con, đủ không được thiếu thứ nào!" Đó là "Chú em" gọi món ăn! Chủ quán béo mập khom lưng cười nụ:

"Không phải tiểu nhân khoe mẽ, vùng này trừ quán ăn của bản hiệu ra, nhà khác quả là không có tài gì cung biện đủ một bàn đồ ăn như vậy!" "Chú em" bảo:

"Cốt thức ăn cho ngon, đưa lên mau, tiền thưởng sẽ không ít đâu!" Chủ quán béo bảo:

"Có điều không biết có mấy vị khách ăn? Khi nào phải làm xong?" "Chú em" đáp:

"Chẳng có khách nào nữa!" Chủ quán béo bảo:

"Chỉ có hai vị làm sao dùng hết bằng ấy thức ăn?" "Chú em" bảo:

"Chỉ cốt ta hài lòng, ăn không hết thì đỗ xuống cống có quan hệ gì đến ông?"

HỒI 30 - KIẾM KHÁCH THIÊN HỒNG

Chủ quán béo đâu dám nói đi nói lại, khom lưng chào mà đi. ở bàn khác có người cười khẩy:

"Thằng ranh con này là nhà giầu mới phất hay là thằng điên chết đói đây?" "Chú em" làm bộ không nghe thấy chỉ lẩm bẩm:

"Các món ăn này toàn thứ tôi thích ăn, chỉ tiếc là lúc thường khó có dịp được ăn!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Chỉ cần ngươi vui vẻ ăn được bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu!" Ai mà ăn nỗi một bàn thức ăn như vậy. Mỗi món "Chú em" nếm một miếng xong thì quẳng đũa bảo:

"Tôi no rồi!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ngươi ăn đâu có nhiều!" "Chú em" bảo:

"Chỉ cần nếm một miếng đủ biết mùi vị, hà tất phải ăn cho lắm!" Gã thở dài, đập bàn bảo:

"Thanh toán đây!" Hạng khách như gã đâu có nhiều. Chủ quán béo đã đứng chực sẵn ở bên, cười giả lả bảo:

"Tám lạng bạc bàn thức ăn, thêm rượu, cộng mười lạng bốn đồng cân bạc!" "Chú em" bảo:

"Cũng không đắt!" Chủ quán béo bảo:

"Quán nhỏ chúng tôi buôn bán đã có quy củ, không tính lạm của khách, dù chỉ một phân bạc!" "Chú em" nhìn Tạ Hiểu Phong bảo:

"Thêm món tiền thưởng nho nhỏ, ta cho họ mười hai lạng được không?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Không nhiều." "Chú em" bảo:

"Ông săn sóc tôi, tôi ăn dĩ nhiên ông trả tiền!" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Quả không sai!" "Chú em" bảo:

"Thế sao ông còn chưa trả đỉ" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vì ta có lạng bạc nào đâu?" "Chú em" cười, cười ha hả rồi đứng dậy đi lại bàn người khách cười khẫy khi nẫy. Khách ăn bàn này có bốn người. Trừ một người rượu uống rất ít, nói cũng ít là một thiếu niên áo vải có ấn tượng như một người ngây ngốc còn ba người kia có khí vũ hiên ngang, tinh thần phấn chấn và đều là nam nhi anh tuấn, tuỗi tác chỉ khoảng đôi mươi.

Trên bàn có đặt ba thanh kiếm hình thức rất cỗ kính, thanh nhã, chưa tuốt khỏi vỏ nhưng cũng đủ thấy là loại kiếm sắc. Người cười khẩy khi nẫy ăn mặc hoa lệ, thần thái ngạo nghễ, thấy "Chú em" đi lại thì càng cười khẩy.

"Chú em" nhìn cây kiếm đặt bên tay gã thì thở dài khen:

"Kiếm tốt!" Gã kia cười nhạt bảo:

"Ngươi cũng hiểu kiếm cơ à?" "Chú em" bảo:

"Nghe nói năm xưa có vị Từ đại sư Từ Lỗ Tử giỏi thuật đúc kiếm thiên hạ vô song. Lại nghe nói ông biết ứng dụng thuật của chưởng môn đời thứ bẩy phái Võ Đang dùng nước ở Giải Kiếm Tri (ao cởi kiếm) luyện đúc ra được bẩy thanh kiếm sắc do chưởng môn chia cho bẩy đệ tử giỏi kiếm thuật nhất trong môn phái. Người còn kiếm còn người chết mới trao kiếm lại để chưởng môn thu giữ." Gã mỉm cười bảo:

"Không hiểu cây kiếm này có phải là một trong số kiếm ấy chăng?" Thiếu niên cười khẩy vẫn đang cười nhạt thì người áo tím ngồi cạnh bảo:

"Nhìn tinh lắm!" "Chú em" hỏi:

"Xin cho biết họ?" Người áo tím đáp:

"Ta họ Viên, vị này họ Tào." "Chú em" hỏi:

"Phải chăng đây là người anh tuấn trẻ nhất của bẩy đại đệ tử phái Võ Đang là Tào Hàn Ngọc?" Người áo tím lại bảo:

"Mắt tinh lắm!" "Chú em" bảo:

"Nếu vậy các hạ ắt là đại công tử của "Tử Y lão gia" (ông già áo tím) đất Kim Lăng?" Người áo tím bảo:

"Tôi là thứ hai, tên là Viên Thứ Vân, anh ấy là anh tôi tên là Viên Phi Vân." "Chú em" hỏi tiếp:

"Còn vị này?" Gã hướng vào chàng thiếu niên áo vải có vẻ thật thà nhất đám bảo:

"Phượng sặc sỡ không hòa bầy với quạ đen sì, vị này ắt hẳn là thiếu gia công tử nhà thế gia nỗi tiếng?" Chàng thiếu niên áo vải đáp gọn lỏn hai chữ:

"Không phải!" "Chú em" bảo:

"Rất hay!" Hai từ này rõ ràng là còn có phần sau. Chàng thiếu niên áo vải cứ chờ "Chú em" nói trọn câu. Người thật thà ít nói lắm mà cũng ít hỏi lắm. Quả nhiên "Chú em" nói tiếp thật:

"ở đây chưa chắc đã có người cùng ông ta không oán không thù!" Viên Thứ Vân hỏi:

"Người ấy là ai?" "Chú em" bảo:

"Là cái người đáng phải thanh toán tiền ăn nhưng trong lưng lại không có đến một lạng bạc kia kìa!" Viên Thứ Vân bảo:

"Chúng ta cùng có oán thù với hắn ử" "Chú em" đáp:

"Dường như có một chút." Viên Thứ Vân hỏi:

"Có thù gì? Có oán gì?" "Chú em" hỏi:

"Hai anh em các vị phải chăng có một ông chú mà người giang hồ vẫn gọi là Thiên Hồng kiếm khách?" Viên Thứ Vân đáp:

"Phải!" "Chú em" lại hỏi:

"Còn vị Tào công tử phải chăng có một ông anh tên đơn có mỗi một chữ "Thủy" không?" Viên Thứ Vân lại đáp:

"Phải!" "Chú em" lại hỏi:

"Phải chăng hai vị đó chết ở Thần Kiếm sơn trang?" Viên Thứ Vân biến hẳn sắc mặt bảo:

"Chẳng lẽ các hạ nói người kia là..." "Chú em" bảo:

"Ông ấy chính là Tam thiếu gia Tạ Hiểu Phong của Thần Kiếm sơn trang ở núi Thúy Vân Phong hồ Lục Thủy đấy!" "Xẻng" một tiếng. Kiếm của Tào Hàn Ngọc đã tuốt ra khỏi vỏ. Hai anh em họ Viên cũng vươn tay cầm chắc chuôi kiếm.

"Ông là Tạ Hiểu Phong?" "Phải! Ta đây!" ánh kiếm loáng lên, ba cây kiếm đã vây quanh Tạ Hiểu Phong. Tạ Hiểu Phong sắc mặt không đỗi, riêng mặt chủ quán béo thì sợ tái xanh tái tử cả mặt, còn "Chú em" thì đi tới cạnh ông chủ quán béo túm áo kéo ra bảo:

"Ông có biết muốn ăn khỏi phải trả tiền thì cách nào là hay nhất không?" Chủ quán béo lắc đầu.

"Chú em" bảo:

"Trước hết kiếm mấy người chọ họ đánh lộn, còn mình thì cứ thế chuồn đi!" Nói xong bỏ mặc ông chủ quán béo, bỏ mặc cảnh xô xát do mình châm ngòi, chú em quay mình. "Chú em" đã bỏ đi. Bảo chuồn là chuồn, chuồn thật lẹ. Đến khi ông chủ quán béo quay lại nhìn thì đã chẳng thấy bóng dáng đâu nữa. Chủ quán béo chỉ còn cách cười đau khỗ. Không phải là ông ta không biết cái cách này.

Trước kia cũng có người dùng cách này chạy làng, sau này rồi cũng sẽ còn người dùng cách này. Vì dùng cách này để ăn không phải trả tiền quả thực rất có hiệu quả. Chính ngọ. Phố dài.

"Chú em" nương theo bóng râm dưới mái hiên mà đi. Có thể bỏ rơi được sự giám sát của Tạ Hiểu Phong quả là điều đáng làm người ta đắc ý khoái trá, nhưng đằng này chú em lại không hề có một chút gì cảm giác ấy cả.

"Chú em" chỉ nghĩ đến chuyện đi ra ngoài cánh đồng hoang vắng để rồi tha hồ hò hét, hay đi thật xa tận ngọn núi cao kia, leo lên đỉnh mà khóc một trận đã đời. Có lẽ cũng chỉ mình gã tự biết tại sao mình lại nghĩ như vậy, mà có khi chính gã cũng không sao tự biết tại sao lại như thế.

"Liệu Tạ Hiểu Phong có thể đối phó nỗi ba tên lộn giống con mà mắt mọc ngược lên tận đỉnh đầu kia không?" "Mặc kệ họ ai thắng ai lại có quan hệ rắm chó gì với ta chứ!" "Giả thử chúng bị chết sạch chẳng hạn thì sẽ có bố mẹ chúng đến bên xác chúng mà thương khóc, còn ta có chết liệu ai sẽ vì ta mà nhỏ vài giọt nước mắt đây?" "Chú em" bỗng bật cười, cười vang. Người ngoài phố đều ngoái lại nhìn gã kinh lạ, coi gã như một thằng điên nhưng gã không thèm để ý. Dù người khác coi gã thế nào gã đều không quan tâm! Một cỗ xe lớn từ phía trước mặt từ góc phố quành tới. Chiếc xe lớn hai ngựa kéo, thùng xe mới sơn bóng lộn có khi còn sáng hơn gương, ở cửa sỗ xe treo chéo một ngọn cờ đỏ. Người dong xe lưng thắt một chiếc thắt lưng đỏ, tay rung roi dài, mở mày mở mặt, dương dương tự đắc.

"Chú em" bỗng dưng xông tới chặn trước đầu ngựa. Con ngựa khỏe hý lên sợ hãi, người đứng bật dậy. Gã dong xe lớn tiếng chửi mắng, roi trong tay quật từ trên xuống mà bảo:

"Mày muốn chết hả?" "Chú em" đâu muốn chết mà cũng không muốn nếm mùi roi, nên tay trái túm lấy đầu roi, tay phải kéo mạnh dây cương, gã dong xe liền ngã dộng đầu xuống đất, xe ngựa dừng cả lại. Trong cửa sỗ xe có người thò đầu ra, đầu nhẵn thín không một sợi tóc, bộ mặt ăn nhiều uống lắm phì nộn, phối hợp với cặp mắt ngang tàng hung ác.

"Chú em" đi tới, hít sâu một hơi thở dài và bảo:

"Đầu tóc đẹp quá! Mà thơm quá!" Người kia hùng hỗ lườm "Chú em" nghiêm giọng mắng:

"Mày muốn làm gì vậy?" "Chú em" bảo:

"Tôi muốn chết!" Người kia cười nhạt bảo:

"Thế thì quá dễ!" "Chú em" mỉm cười bảo:

"Thế là tôi tìm đúng chỗ rồi, cũng tìm đúng người rồi!" "Chú em" nhìn hai bàn tay người kia bám vào cửa sỗ xe, hai bàn tay ngón thô ngắn, trên mu bàn tay nỗi hằn lên những mạch máu xanh. Chỉ có những người phấn đấu rất trường kỳ gian khỗ và từng luyện qua công phu ngoại gia chưởng lực mới có đôi bàn tay như vậy. Tay ấy đi làm các việc khác có khi không thích hợp lắm, nhưng chỉ cốt dùng để bẻ gẫy cỗ một người thì rất dễ.

"Chú em" vươn dài cỗ ra, mở toang cửa xe mỉm cười bảo:

"Mời!" Người ấy bỗng trở nên do dự. Người vô duyên vô cớ tới đòi chết vốn ít có lắm! Trong hòm xe còn một người đàn bà cuộn tròn như con mèo, đang nheo đôi mắt như vầng trăng mới mọc lim dim ngắm nghía "Chú em". Bỗng ả ta cười lên khì khì mà bảo:

"Gã đã muốn chết như thế sao chàng không thành toàn quách cho gã? Hồ đại gia đến người cũng không dám giết từ bao giờ vậy?" Giọng nói của ả cũng tương tự như con người của ả vừa yếu ớt vừa nhu mì, tuy nhiên trong lời nói lại đầy những vuốt sắc của loài mèo. Mắt Hồ đại gia chợt long lên ánh hung tợn, lạnh lùng bảo:

"Mày đã khi nào thấy Hồ đại gia ta giết những loại vô danh tiểu tốt như thế này chưa?" Người đàn bà như con mèo kia lại cười khì khì mà bảo:

"Sao chàng biết hắn là loại vô danh tiểu tốt nào? Tuỗi hắn tuy ít nhưng những loại ít tuỗi mà danh tiếng lớn hơn chàng cũng không ít đâu! Chưa biết chừng hắn là Tào Hàn Ngọc của phái Võ Đang mà cũng chưa biết chừng hắn là đại thiếu gia nhà họ Viên áo tím ở Giang Nam cũng nên! Chắc trong lòng chàng còn đang e ngại nhà họ nên không dám ra tay chứ gì!" Bộ mặt phì nộn của Hồ Phi lập tức ửng mầu máu. Lời của cô gái kia tuy ôn tồn mềm mỏng nhưng toàn nói trúng phóc tâm trạng của y. Y biết tin Tào Hàn Ngọc và anh em nhà họ Viên áo tím đều đã tới đây, gã thiếu niên này nếu không có chút lai lịch sao dám vô lễ trước mặt y?

"Chú em" bỗng bảo:

"Vì Hồ đại gia này phải chăng là Thiết Chưởng Hồ Phi của tiêu cục Hồng Kỳ?" Hồ Phi lập tức ưỡn ngực ra quát to:

"Thật không ngờ ngươi cũng có được chút hiểu biết đó!" Hào kiệt trên giang hồ thấy người khác biết đến danh hiệu của mình thì trong lòng không khỏi có chút đắc ý, nếu danh hiệu của mình làm cho đối phương sợ mà bỏ đi dĩ nhiên là càng tốt, khỏi phải bàn! Đằng này "Chú em" lại thở dài bảo:

"Ta thật nghĩ không ra." Hồ Phi hỏi:

"Nghĩ không ra cái gì?" "Chú em" bảo:

"Nghĩ không ra là tiêu cục Hồng Kỳ có uy thế lớn đến như thế, oai phong đến như thế, nên đến một tiêu sư quèn cũng dám bày vẽ phô trương đến nước này!" Xe mới ngựa hăng, xe thơm gái đẹp, vốn chẳng phải là thứ một tiêu sư bình thường có thể chu cấp đủ được! Danh tiếng của tiêu cục Hồng Kỳ rất nỗi, tỗng tiêu đầu "Phi kỵ khoái kiếm" là Tiền Trung Kỳ có tuyệt kỹ "Bẩy mươi hai thức Truy Phong kiếm" và hai mươi tám ngọn "Xuyên Vân tiễn" lừng tiếng giang hồ. Tuy vậy lương bỗng một tiêu đầu trong tiêu cục hàng tháng nhiều nhất không quá mấy chục lạng bạc. Mặt Hồ Phi căng lên càng ửng đỏ, giận dữ bảo:

"Ta bày biện lớn nhỏ có quan hệ gì đến nhà ngươi?" "Chú em" bảo:

"Chẳng có chút quan hệ nào cả!" Hồ Phi bảo:

"Ngươi họ gì? Tên là gì? Lai lịch ra sao?" "Chú em" đáp:

"Ta không có họ tên, không có lai lịch gì cả! Ta... tạ.." Chuyện này là nỗi đau ẩn giấu trong lòng "Chú em". Lời gã nói ra chẳng làm đau lòng ai mà chỉ tự làm đau lòng mình. Xem con cháu nhà danh môn chính phái như Tào Hàn Ngọc khi nhắc đến thân thế của mình đâu có tình cảm biểu hiện như "Chú em" bây giờ! Hồ Phi lập tức thở ra một hơi dài nhẹ nhõm, nghiêm giọng bảo:

"Ta vốn không muốn giết hạng tiểu bối vô danh nhưng hôm nay đến phải phá lệ một lần thôi!" Thân người y như mũi tên từ thùng xe xuyên ra ngoài cửa xe, đôi bàn tay sắt xòe ra đã chẹt mạnh lấy yết hầu "Chú em".

"Chú em" bảo:

"Ngươi tuy phá lệ nhưng ta lại thay đỗi ý kiến, giờ không muốn chết nữa!" Nói xong câu này "Chú em" đã tránh thoát hai mươi chiêu đòn của Hồ Phi rồi đỗ xiên xiên người, "phụp" một tiếng ngón tay giữa "Chú em" bật ra, đầu ngón tay điểm trúng vào hông Hồ Phi. Hồ Phi thấy nửa mình tê dại phần dưới hông vừa mỏi vừa nhủn ra, một chân bất giác quỵ ngay xuống đất. Người đàn bà con mèo kia bảo:

"Sao Hồ đại tiên đầu bỗng trở nên đa lễ như thế?" Hồ Phi nghiến chặt răng, hầm hầm bảo:

"Ngươi... ngươi... con tiện nhân ăn cây này rào cây nọ kiạ.." Người đàn bà như loài mèo kia bảo:

"Thế nào là ta ăn cây này rào cây nọ? Ta ăn gì của ngươi? Một tên tiêu sư quèn như ngươi mà nuôi nỗi ta ử" ả ta nhìn "Chú em" rồi lại bảo:

"Chú em này, vừa nãy chú em chỉ có một chỗ nhìn sai thôi." "Chú em":

"Hử?" Người đàn bà loài mèo kia bảo:

"Xưa nay chỉ toàn ta nuôi y, đâu có chuyện y nuôi ta!" Hồ Phi giận dữ gầm lên rồi đỗ chỗng kềnh. Người đàn bà như loài mèo lại bảo:

"Gần đây y ăn quá nhiều, cũng nên ít ngồi xe và tăng cuốc bộ lên!" ả ta liếc cặp mắt trăng mới mọc lên nhìn "Chú em" rồi bảo:

"Nhưng nếu chỉ một mình chị ngồi trên xe thì cũng hãi hãi là, chú em bảo nên làm gì bây giờ?" "Chú em" hỏi:

"Chị muốn tìm một người bồi tiếp chứ gì?" Người đàn bà như mèo kia bèn bảo ngay:

"Dĩ nhiên chị tính thế, mong muốn chết nhưng ở đây đất vắng người thưa, biết tìm ai bây giờ?" "Chú em" đáp ngay:

"Tôi đây!" Hồ Phi vẫn một chân quỵ xuống đất, nhìn "Chú em" leo lên xe, nhìn cỗ xe ngựa cuốn bụi mù lên mà chạy, nhưng không nhìn thấy phía sau mình có người lẳng lặng đi tới cạnh y... Trong thùng xe ngào ngạt những mùi vị làm cho người ta say sưa. "Chú em" tót cả hai chân léo ngồi trên đệm ghế êm, chăm chắm nhìn người đàn bà như con mèo đang nằm cuộn tròn trong góc thùng xe. ả đàn bà này vứt bỏ một người đàn ông xem ra còn dễ dàng hơn ả hỉ mũi một cái. ả ta cũng nhìn "Chú em" đăm đăm, bỗng ả bảo:

"Phía sau chắc chắn có ai đuỗi theo chú em nên mới làm chú em sợ ghê sợ gớm đến thế phải không?" "Chú em" cố ý làm như không hiểu ý:

"Ai bảo đằng sau kia có người đuỗi theo tôi?" ả đàn bà như con mèo kia cười bảo:

"Chú em tuy chẳng phải người tốt lành gì nhưng cũng không thể vô duyên vô cớ chặn xe ngựa của người ta lại. Chú em cố ý tìm gặp Hồ Phi gây rắc rối vì chú em thấy cờ đỏ treo trên xe. Trốn trong xe của tiêu cục Hồng Kỳ còn tốt gấp mấy là trốn ở chỗ khác!" Đôi mắt ả ta cũng sắc như mắt loài mèo, chỉ liếc một cái đã biết ngay người khác đang nghĩ gì.

"Chú em" cười:

"Sao chị biết tôi nhằm trúng cây cờ đỏ trên xe mà lạg uất hận, và nh᥹ cả cõi đời này chẳng có một ai tử tế với gã nên hà tất gã phải tử tế với ai? ả mèo nhìn vẻ mặt gã như vậy thì đက¡y mắt, sóng mắt long lanh như dòng nước mùa xuân:

"Nếu quả thật chú em nhằm vào chị sao còn chưa tới ôm ấp chị đi!" "Chú em" đáp:

"Tôi sợ!" Người đàn bà như loài mèo kia hỏi:

"Chú em sợ gì?" "Chú em" cười bảo:

"Sợ chị sau này lại vứt bỏ tôi như hỉ mũi thôi!" ả mèo kia bảo:

"Chị vốn chỉ vứt bỏ những loại đàn ông như nước mũi thôi, chú em liệu có giống nước mũi không nhỉ?" "Chú em" đáp:

"Không giống đâu!" Chỉ thấy nhoáng một cái, "Chú em" đã ngồi sát sạt bên cạnh ả mèo, rồi đã thấy "Chú em" ôm lấy ả mà ôm rất chặt. Gã vốn thân thế cô đơn khốn khỗ, lưu lạc giang hồ nên trong lòng lúc nào cũng đầy buồn thương, uất hận, bất bình nên động làm gì thì khó có thể lấy đạo lý bình thường ra mà đánh giá.

Bàn tay của "Chú em" cũng rất lão luyện. ả đàn bà mèo bỗng sa sầm mặt xuống, lạnh nhạt bảo:

"Ngươi to gan thực!" "Chú em" đáp ngay:

"Xưa nay gan ta đâu có nhỏ!" ả mèo lại bảo:

"Ngươi biết ta là ai không đã?" "Chú em" đáp ngay:

"Là đàn bà, là đàn bà rất đẹp!" ả mèo cái lại bảo:

"Đàn bà đẹp là phải có đàn ông, ngươi có biết ta là đàn bà của ai không đã?" "Chú em" đáp:

"Bất kể chị là của ai, giờ là của ta đã!" ả mèo cái bảo:

"Nhưng ngay đến tên ngươi ta còn chưa biết nữa là!" "Chú em" bảo:

"Ta không có tên... ta là đồ lộn giống không cha không mẹ!" Nhắc đến chuyện này thì lòng gã lại thấy dâng ngược lên một nỗi buồn thương uất hận, và thấy cả cõi đời này chẳng có một ai tử tế với gã nên hà tất gã phải tử tế với ai? ả mèo nhìn vẻ mặt gã như vậy thì đỏ bừng mặt lên dường như xấu hỗ lại như sợ hãi, run giọng bảo:

"Ngươi đang nghĩ gì trong bụng vậy? Định cưỡng gian ta phải không?" "Chú em" bảo:

"ừ!" Cỗ gã vươn dài ra cố tìm miệng ả mèo. Đột nhiên cửa số xe kêu "cách" một tiếng rồi dường như có gió thỗi vào, khi gã ngẩng được đầu lên thì ở ghế ngồi trước mặt đã có một người ngồi lù lù ở đó, mặt tái nhợt, đầy vẻ bi thương không thể diễn tả được thành lời.

"Chú em" thở dài sườn sượt bảo:

"Ông đến rồi đấy à?" Thùng xe rất rộng, có thể ngồi được ít nhất là sáu người, giờ chỉ có ba người ngồi mà lại có cảm tưởng rất chật chội.

"Chú em" bảo:

"Tôi biết ông từ nhỏ đã là bậc công tử phong lưu, đàn bà của ông nhiều đến đếm không xuể." Tạ Hiểu Phong cũng không bảo không. Bỗng "Chú em" nhẩy dựng lên, to tiếng bảo:

"Đã thế tại sao ông không để cho tôi cũng có đàn bà, chẳng lẽ ông bắt tôi suốt đời làm sư à?" Nét mặt Tạ Hiểu Phong có vẻ rất kỳ quái, rất lâu sau mới cố nặn ra nụ cười mà bảo:

"Ngươi hà tất phải làm sư, có điều người đàn bà này thì không được!" "Chú em" hỏi:

"Tại sao?" Người đàn bà như con mèo kia đã thở dài bảo:

"Vì ta là của ông ấy!" Mặt "Chú em" bỗng trắng bệch ra. Người đàn bà mèo đã ngồi dậy dịu dàng vuốt ve mặt Tạ Hiểu Phong, giọng mềm ra bảo:

"Mấy năm không gặp, chàng gầy đi đấy. Phải chăng là vì quá nhiều đàn bà? Hay là vì chàng nhớ thiếp quá mà gầy đi vậy?" Tạ Hiểu Phong không động cũng không nói gì.

"Chú em" nắm chặt hai tay quyền nhìn họ, gã không động đậy, cũng không nói gì. ả đàn bà mèo bảo:

"Sao chàng không cho thiếp biết chú em này là ai, có quan hệ gì với chàng?" "Chú em" bỗng cười, cười vang. Người đàn bà dáng mèo hỏi:

"Ngươi cười cái gì?" "Chú em" bảo:

"Ta cười chị, ta đã biết chị là ai từ lâu rồi hà tất phải cần người khác nói gì với ta!" ả đàn bà mèo bảo:

"Thật ngươi biết ta là ai ử" "Chú em" đáp ngay:

"Là con điếm!" Gã cười điên dại, đồng thời tung cửa xe nhẩy ra ngoài. Gã cười như điên, bỏ chạy như điên! Liệu rồi Tạ Hiểu Phong có theo "Chú em" nữa không? Liệu rồi người ở dọc đường sẽ có ngăn chặn gã như chặn một thằng điên không?

Gã cóc cần!

HỒI 31 - MANG LÒNG TÌM CHẾT

Gã chạy trở lại thành thị lúc nẫy. Ba chữ thiếp vàng "Lầu Trọng Nguyên" trên bảng hiệu vẫn lấp lánh sáng. Gã xộc vào cửa hàng, xông lên lầu.

Trên lầu không dấu máu, cũng chẳng có người chết, cũng chẳng có dấu tích gì là có đánh nhau, chỉ có ông chủ quán béo đứng ngẩn ra ở đầu lầu kinh lạ nhìn gã. Tào Hàn Ngọc và anh em họ Viên khi nẫy chưa ra tay hay đã bị đánh bỏ chạy rồi?

"Chú em" không hỏi chỉ nhệch mồm cười với ông chủ quán béo phị, bảo:

"Kẻ ăn quỵt đã trở lại đây. Ông chiếu đúng các món như khi nẫy dọn cho ta một bàn ăn, thiếu một món ta sẽ cào cái lầu Trạng Nguyên này đó!" Bàn tiệc lại được dọn lên. Tám món sào bốn chay bốn mặn, trước tiên tám đĩa nhắm nhỏ để chuốc rượu, sau đó sáu món ăn "nặng" cá, tôm, chim, yến sào, vây cá, gà vịt nguyên con, không thiếu món nào.

Nhưng lần này "Chú em" không ăn miếng nào. Gã chỉ uống rượu. Một vò Trúc Diệp Thanh hai mươi cân, gã tu một hơi cơ hồ uống cạn nửa vò, cơ hồ gã đã chếch choáng say.

Còn Tạ Hiểu Phong? Sao Tạ Hiểu Phong còn chưa tới? Hay ông ta còn bận bầu bạn với "con điếm" kia? Mà có người đàn bà như vậy vui vầy, tại sao ông ta còn tìm đến làm gì? "Chú em" cười, cười vang dội. Bên ngoài lầu bỗng có tiếng xe chạy lộc cộc: một hàng xe tiêu đang đi dưới phố. Có xe tiêu là có cờ của tiêu cục.

Cờ tiêu cục là lá bùa để giữ tiêu hàng, cũng là danh dự của tiêu cục. Trên hàng xe tiêu cục treo cờ đỏ. Cờ đỏ này đỏ tươi hơn máu! Trên chiếc xe tiêu đi đầu cắm ngọn cờ đỏ đang đón gió tung bay phấp phới, chính giữa lá cờ thêu một chữ "Thiết" to tướng ở mặt trước. Mặt bên kia thêu chỉ bạc lấp lánh hình cây kiếm sắc và hai mươi tá ngọn Xuyên Vân tiễn.

Đây là lá cờ lệnh của tỗng tiêu đầu của tiêu cục. Có lá cờ này chứng tỏ chuyến tiêu hàng này do tỗng tiêu đầu "Thiết kỵ khoái kiếm" oai chấn giang hồ thân hành đi theo xe tiêu để áp tải hàng. Có lá cờ này anh hùng hào kiệt lục lâm Nam, Bắc Đại Giang (tức là sông Trường Giang, Dương Tử Giang ư ND) nghe hơi gió mà lảng cho xa, chẳng ai dám thò tay đụng vào chuyến tiêu hàng này. Có lá cờ tiêu này là có phối hợp mười tám phân cục Hồng Kỳ tiêu cục ở các nơi hai bên bờ Nam, Bắc Đại Giang. Vì vậy đây không chỉ là danh dự cá nhân mà còn quan hệ đến tính mạng cửa nhà của hơn hai ngàn con người ở mười tám tiêu cục Hồng Kỳ kia. Bất kể ai làm nhục đến lá cờ tiêu này, hai ngàn con người dưới trên của tiêu cục Hồng Kỳ không tiếc gì mà không liều mình với kẻ đó! "Chú em" cười, cười vang, dường như gã vừa nghĩ ra được một trò vô cùng thú vị.

Trong tiếng cười vang gã nhẩy từ trên lầu cao xuống đất, xông vào giữa hàng xe tiêu tung một quyền đánh ngã viên tiêu sư giữ cờ ngã lộn xuống ngựa, rồi gã lăng không lộn mình một vòng, giật lấy lá cờ tiêu cắm trên xe, hai tay xé toạc lá cờ đỏ "Thiết Kiếm" xưa nay oai chấn Nam Bắc Đại Giang thành hai mảnh. Trong tiếng bánh xe lăn, tiếng vó ngựa gõ, tiếng người hô lệnh oang oang... tất cả bỗng ngừng, chết lặng.

Đám mây đen che khuất mặt trời, từ đám mây đen tia chớp lóe lên rồi một tiếng sét từ lưng chừng trời giáng xuống vang động đến nỗi tai mọi người ong lên kêu o o mãi. Nhưng mọi người dường như không nghe thấy tiếng sét đinh tai nhức óc ấy, người nào người nấy mắt dại đờ trố ra nhìn chàng trai trẻ trên nóc xe hai tay vẫn còn cầm hai nửa lá cờ tiêu.

Không một ai có thể tưởng tượng là có thể xẩy ra thật sự một việc như thế, không ai có thể tưởng tượng được là ở trên đời lại có kẻ điên cuồng không sợ chết đến như thế, dám làm những chuyện tày trời đến như thế! Viên phiêu sư bị một quyền đấm ngã lăn xuống ngựa dẫy dụa từ đất nhỏm dậy. Người này họ Trương tên Thực, đi tiêu hàng đã hai chục năm, xưa nay làm việc thận trọng vững vàng. Hai mươi năm lại đây lưỡi đao đã từng liếm máu, vào sinh ra tử trải qua sóng to gió lớn chẳng biết bao lần, các bạn cùng đi đặt biệt hiệu cho là "Thực tâm mộc đầu nhân" (Người gỗ lòng thực). Tên này đặt ra không phải có ý bảo ông ta hồ đồ ngu ngốc như người gỗ mà ý muốn bảo bất kỳ gặp chuyện gì ông ta đều có thể giữ được trấn tĩnh, trầm tĩnh mà đối phó. Nhưng trước sự việc này "người gỗ lòng thực" cũng mặt như tro tàn, toàn thân cứ run lên cầm cập không sao ngừng được.

Sự việc này thật là xẩy ra ngoài ý muốn, quá kinh hồn, khi xẩy ra mọi người đều bó tay không kịp đối phó, khi việc xẩy ra mọi người như lạc phương hướng, nếu không thì dù "Chú em" có tài bằng trời cũng chưa chắc vừa ra tay đã được việc, có thể nói là mắc may mà được việc chứ không thì đã bị loạn đao chặt thây biến mình thành đống thịt băm rồi. Nhìn vẻ mặt của những người kia "Chú em" không cười được nữa chỉ thấy từng đợt lạnh giá từ gót chân chạy ngược trở lên, toàn thân bỗng dưng giá lạnh và đờ cứng.

Lại một tiếng sét nữa từ trên trời giáng xuống. Trong tiếng sét chói tai dường như nghe có ai đó nhắc một tiếng "giết", tiếp đó là một tiếng "soạt", mấy chục cay đao kiếm nhất tề tuốt ra khỏi vỏ và tiếng động này nghe còn rùng rợn hơn cả tiếng sét vừa rồi. ánh đao loáng lên tứ phía, trước sau trái phải bốn phương tám hướng đều có người nhẩy bay tới, tiếng chân rậm rịch nhưng thứ tự, không loạn xạ chút nào, chớp mắt đã vây kín chiếc xe tiêu kia lại.

Cứ xem cách bố trí khi gặp nguy thế này có thể thấy danh tiếng của tiêu cục Hồng Kỳ có được trên giang hồ không phải là cầu may mà được. Trương Thực cũng dần dần khôi phục lại sự trấn tĩnh. Bốn mươi ba quân bảo vệ cờ tiêu cũng đang đợi ông ta ra lệnh một tiếng là loạn đao áp sát máu sẽ vọt ra đầy đất.

"Chú em" lại cười. Gã đâu có sợ chết! Thì gã đang đi tìm cái chết mà lại! Vừa rồi gã có lúc thấy lo lắng khiếp sợ một chút, còn bây giờ gã lại thấy lòng nhẹ nhõm, giải thoát rất khó tả. Mọi thứ vinh nhục, buồn phiền, ân oán tình thù ở đời giờ đã sắp thành quá khứ rồi! Ta là thằng điên cũng được, là đứa lộn giống con không cha cũng được, giờ cũng sắp chẳng còn quan hệ gì nữa rồi! Gã ngồi phịch xuống nóc thùng xe, cười vang bảo:

"Đao các người đã tuốt ra khỏi vỏ rồi, sao không tới giết ta đỉ" Đó cũng là điều mọi người muốn hỏi Trương Thực. ở trong tiêu cục, ông ta có tư cách "lão làng" nhất, kinh nghiệm phong phú nhất. Khi tỗng tiêu đầu không có mặt, các tiêu sư khác đều nhìn theo đầu ngựa của ông ta mà làm. Trương Thực vẫn đang do dự, chậm rãi bảo:

"Giết người đâu có khó, chúng ta chỉ cần cất tay một cái thì thương thay ngươi sẽ thành đống thịt băm, có điều..." Bên cạnh ông có một gã cầm táng môn kiếm hỏi chen ngang:

"Có điều làm sao?" Trương Thực trầm ngâm bảo:

"Ta coi bộ người này mang tâm trạng muốn chết!" Gã tang môn kiếm hỏi:

"Thế thì sao?" Trương Thực bảo:

"Người mang lòng cố chết là phải có ẩn tình nên không thể không hỏi cho rõ ràng đã, huống hồ biết đâu sau lưng gã còn có người sai khiến thì sao?" Gã tang môn kiếm cười bảo:

"Thế thì trước tiên ta hãy phế hai chân hai tay gã đi đã rồi nói chuyện sau!" Cây trường kiếm của gã vung lên và gã là người xông tới trước tiên. ánh kiếm loang loáng chọc thẳng vào huyệt Hoàn Khiên của chú em.

"Chú em" đâu có sợ chết nhưng trước khi chết không thể để kẻ khác làm nhục được, thế là gã tung chân đá bay cây tang môn kiếm của gã kia. Ngọn cước này tung ra đột ngột không hình không bóng đó là đòn "Phi thích lưu tinh cước" (đá bay như sao băng) là một trong bẩy môn tuyệt kỹ của nhà Mộ Dung ở Giang Nam. Đến sao đỗi ngôi còn đá bay được, đòn ra nhanh thế nào cũng đủ hiểu! Nhưng lần này trừ cây tang môn kiếm ra còn hai mươi bẩy ngọn khoái đao, mười lăm món binh khí nhọn sắc nữa đang chờ chực gã. Khi cây tang môn kiếm bị hất tung, đã có ba đao hai kiếm khác đâm tới mà toàn đâm vào các khớp trọng yếu trên người gã.

Bóng đao ánh kiếm tung bay như luyện múa, bỗng nghe "keng" một tiếng, cả ba cây đao hai cây kiếm đều gẫy thành hai khúc. Đầu đao mũi kiếm rơi xuống lả tả, có hai vật gì tròn tròn bật từ nóc xe lên rồi lăn lông lốc trên mặt đất hóa ra là hai hạt trân châu. Trên nóc xe lại thấy thêm một người nữa sắc mặt xanh tái trên tay vẫn còn cầm một giây hạt châu đàn bà vẫn giắt trên mái tóc, người tinh mắt sẽ thấy giây hạt châu thiếu mất năm viên.

Năm cây mã đao bị đánh gẫy mà chỉ nghe có một tiếng động, thì ra người này chỉ dùng có năm hạt châu bé con con trong chớp mắt đồng thời đánh gẫy cả năm thanh đao lớn bằng thép ròng. Lăn lộn kiếm cơm trong tiêu cục, toàn người giang hồ lão luyện giầu kiến thức, nhưng công phu như thế này mọi người chưa từng nghe, thậm chí đến tưởng tượng ra cũng chưa. Lại một tiếng sét ghê gớm, mưa lớn ào ạt như cầm chĩnh mà đỗ nước.

Người đó vẫn đứng ở đấy không nhúc nhích, dường như trên mặt không chút biểu hiện gì.

"Chú em" lạnh lùng nhìn rồi bảo:

"Ông lại đến đấy à?" Người đó đáp:

"Phải, ta lại đến đây!" Mưa to ào ạt. Những hạt mưa dày đặc đỗ trên đầu họ, dàn dụa chẩy trên mặt xuống. Nét mặt của họ buồn hay vui? Là giận hay hận? Không ai có thể nhìn ra được. Mọi người chỉ thấy người mới đến nhất định phải là bậc cao thủ tuyệt đỉnh có võ công cao siêu không lường nỗi, chắc chắn có quan hệ mật thiết với gã thiếu niên xé lá cờ của tiêu cục.

Trương Thực trước hết chặn đứng đồng đội lại đã, ngay cả gã tang môn kiếm cũng không dám làm ẩu chỉ hỏi:

"Bằng hữu, quý họ là gì?" "Ta họ Tạ!" Trương Thực biến sắc mặt. Họ Tạ mà cao thủ chỉ có một nhà:

"Phải chăng các hạ từ Thần Kiếm Sơn trang hồ Lục Thủy núi Thúy Vân Phong tới?" Người kia đáp:

"Phải!" Giọng Trương Thực run lên:

"Phải chăng các hạ là Tam thiếu gia nhà họ Tạ?" Người kia đáp:

"Ta là Tạ Hiểu Phong!" Tạ Hiểu Phong! Ba tiếng này như một lời phù chú thần kỳ, nghe đến ba tiếng này còn ai dám động nữa? Bỗng nhiên từ trong gió mưa một người phi tới như bay miệng hô to:

"Tỗng tiêu đầu tới! Tỗng tiêu đầu tới!" Hai mươi năm trước đám giặc nỗi lên ở mười tám trại núi Liên Sơn lúc khí thế đang thịnh nhất thì có một người bỗng xuất hiện. Một người một ngựa xông thẳng lên núi cùng một cây kiếm thép và hai mươi tám mũi tên "Xuyên Vân tiễn" quét bằng mười tám trại giặc, thương tích lớn nhỏ nặng nhẹ ông ta mang trên mình hơn mười chín vết. Tuy vậy ông ta không chết. Nghe nói bị thương như vậy nhưng ông ta vẫn còn dư sức đuỗi theo truy bắt tên đầu sỏ hung ác nhất Ba Thiên Báo, một ngày một đêm ngựa không dừng vó người không nghỉ ngơi, đến ngoài tám trăm dặm mới chém được đầu Ba Thiên Báo. Người đó là Tỗng tiêu đầu ở Tỗng tiêu cục của cục Hồng Kỳ "Thiết kỵ Khoái kiếm" Thiết Trung Kỳ. Nghe tin tỗng tiêu đầu tới, bốn mươi mấy tiêu sư với tiêu binh đồng thời thở ra nhẹ nhõm. Tất cả đều tin tưởng tỗng tiêu đầu của họ nhất định sẽ giải quyết ỗn thỏa vụ này. Tạ Hiểu Phong thì than thầm trong lòng. Chàng biết vụ này "chú em" làm bậy, có điều chàng không thể nói, chàng không muốn quản vụ việc này, nhưng không thể không quản được. Chàng tuyệt nhiên không muốn đứa con này chết trong tay kẻ khác vì ở trên đời này chỉ có một người để chàng mắc lỗi, đó chính là đứa trẻ này! Mưa rơi như thác đỗ.

Bốn người cầm dù vải dầu che mưa thủng thỉnh đi trong mưa mà tới. Đi đầu là một người mặc áo vải trắng, giày vải đen, khuôn mặt vuông vắn ngay ngắn, chính là người trẻ tuỗi vẻ thật thà ngồi cùng bọn Tào Hàn Ngọc trên lầu Trạng Nguyên. Sao Thiết Trung Kỳ không tới? Sao chàng này lại tới?

Thấy chàng trẻ tuỗi này, tất cả các tiêu sư và tiêu quân trong tiêu cục Hồng Kỳ đều khom mình làm lễ chào, dáng điệu người nào cũng rất cung kính chứng tỏ tất cả đều rất kính trọng chàng thiếu niên này. Tất cả đều cung kính chào:

"Xin chào Tỗng tiêu đầu!" Lẽ nào trong tiêu cục Hồng Kỳ thay tỗng tiêu đầu bằng chàng trẻ tuỗi thật thà có chút ngô ngố này! Trong Hồng Kỳ tiêu cục trên dưới có hơn hai ngàn người, phần lớn ngày trước đều đã tung hoành trên chốn giang hồ và là cao thủ có tên tuỗi đường hoàng, thế thì bằng vào cái gì mà chàng trẻ tuỗi thật thà này lại có thể khuất phục được đám hảo hán hung hãn trên chốn giang hồ kia? Tất nhiên phải có đạo lý chứ! Cờ tiêu bị xé, tiêu sư bị nhục, đến kẻ đã lão luyện giang hồ như Trương Thực gặp phải vụ này cũng phải kinh hoàng mất sắc.

Thế mà chàng trẻ tuỗi này vẫn ung dung đi bộ mà tới. Khuôn mặt vuông vắn ngay thẳng không hề để lộ một chút vẻ gì là phẫn nộ hay sợ hãi, công phu tu dưỡng và trấn tĩnh không để lộ mừng giận thành hình thành sắc trên mặt, vốn không phải ở một chàng thanh niên trạc trên dưới hai mươi tuỗi có thể có được! Mưa to như trút, bùn nước ngập ngụa phố phường. Chàng thiếu niên chầm chậm đi tới, đôi giày vải đen đế trắng chỉ vương chút bùn nước bẩn ở mũi giày nếu chẳng phải là người có khinh công thượng thặng công phu cao sâu khó lường thì sao được như vậy! Lòng Tạ Hiểu Phong trầm nặng xuống. Chàng đã thấy đối phó với chàng thiếu niên này còn khó hơn đối phó với Thiết Trung Kỳ. Muốn giải quyết ỗn thỏa vụ này không phải dễ! Thế mà chàng thiếu niên này không thèm liếc nhìn Tạ Hiểu Phong lấy một lần.

Chàng ta thừa biết cờ tiêu bị xé, biết rõ người xé cờ đang đứng trước mặt nhưng vẫn làm như không biết, làm như không thấy vẫn cứ xòe dù che mưa thủng thẳng đi tới, hững hờ hỏi:

"Hôm nay giữ cờ là vị tiêu sư nào?" Trương Thực vượt đám đông mà ra, khom lưng bảo:

"Là tôi!" Chàng thiếu niên hỏi:

"Ông năm nay bao nhiêu tuỗi rồi?" Trương Thực đáp:

"Tôi tuỗi Sửu, năm nay vừa chẵn năm mươi." Chàng thiếu niên hỏi:

"Ông làm việc ở tiêu cục được bao nhiêu năm rồi?" Trương Thực đáp:

"Từ khi lão tỗng tiêu đầu sáng lập ra tiêu cục tôi đã có mặt." Chàng thiếu niên bảo:

"Thế là hai mươi sáu năm!" Trương Thực đáp:

"Vâng, đúng hai mươi sáu năm!" Chàng thiếu niên than dài bảo:

"Mồ ma cha ta tính tình cương liệt, ông đi theo người được bằng ấy năm thật không phải dễ!" Trương Thực cúi đầu, mặt lộ đầy vẻ buồn thương, mãi mà không nói nên lời. Nghe đến đó "chú em" cũng nghe ra là họ đang nói đến vị lão tiêu sư, đó là người sáng lập ra tiêu cục Hồng Kỳ là "Thiết Kỵ Khoái Kiếm" Thiết Trung Kỳ, còn chàng thiếu niên kia bảo "mồ ma cha ta" thì dĩ nhiên phải là con của ông ta, và vị tiêu sư già kia không còn nữa.

"Cha chết con nối" chính vì thế mà chàng trẻ tuỗi kia dù tuỗi còn trẻ vẫn tiếp nhận đứng đầu tiêu cục Hồng Kỳ. Tiêu cục trưởng là ông già Thiết vẫn còn oai thừa để lại nên mọi người không thể nào không phục chàng trai này được. Điều kỳ lạ là lúc này ở đây họ lại nói với nhau về chuyện nhà cửa làm ăn còn việc cờ tiêu cục bị xé, tiêu sư bị nhục họ lại không nhắc đến một lời nào. Riêng Tạ Hiểu Phong đã nghe hiểu chàng trai trẻ kia hỏi han mấy chuyện cửa nhà là riêng có thâm ý. Sự đau thương của Trương Thực xem ra không phải vì nhớ thương ơn đức của Thiết lão tiêu đầu mà là đau buồn vì sự thẹn thùng hối hận vì mất chức.

Chàng thiếu niên kia thở dài lại hỏi tiếp:

"Có phải năm ba mươi chín tuỗi ông mới lấy vợ không?" Trương Thực đáp:

"Phải!" Chàng thiếu niên lại hỏi:

"Nghe nói bà ấy ở nhà là người dịu dàng hiền tuệ lại biết nấu nướng giỏi phải không?" Trương Thực đáp:

"Mấy món ăn thường ngày trong nhà kể ra bà nhà tôi nấu nướng cũng ăn được!" Chàng thiếu niên lại hỏi tiếp:

"Bà ấy sinh cho ông được mấy cháu?" Trương Thực đáp:

"Ba cháu, hai trai một gái." Chàng thiếu niên bảo:

"Có được người vợ thảo mẹ hiền như vậy trông nom dậy dỗ, các cháu nhà ông ngày sau nghĩ chắc cũng giữ được yên ỗn nếp nhà!" Trương Thực đáp:

"Cũng chỉ mong được vậy!" Chàng thiếu niên bảo:

"Khi gia phụ qua đời, mẹ tôi luôn cảm thấy thiếu một người đắc lực để bầu bạn bên mình, nếu ông không phản đối thì để bà ấy vào ở trong nhà tôi làm bạn với mẹ tôi thì rất tốt." Trương Thực bỗng quỳ thụp xuống dập đầu "bình, bình, bình" vang lên ba lượt cảm tạ sự sắp xếp của chàng thiếu niên dường như ông ta cảm kích cực độ vậy. Chàng thiếu niên kia không ngăn cản cứ để kệ ông ta dập đầu lễ xong mới hỏi:

"Ông có còn tâm sự gì nữa không?" Trương Thực bảo:

"Không." Chàng thiếu niên kia nhìn ông ta, thở dài một cái rồi bảo:

"Thôi ông đi đi!" Trương Thực bảo:

"Vâng" Lời nói vừa buông xong, bỗng thấy một vầng máu đỏ phun tóe ra. Trương Thực ngã lăn ra đất, cây kiếm trong tay ông ta đã tự cứa đứt cuống họng mình. Chân tay "chú em" bỗng lạnh giá đi. Đến giờ gã mới hiểu sao chàng thiếu niên kia lại hỏi Trương Thực về chuyện gia đình nhà cửa.

Kỷ luật trong tiêu cục Hồng Kỳ rất nghiêm, thiên hạ đều biết. Trương Thực giữ cờ để mất phải chịu hình phạt nặng. Chàng thiếu niên kia chỉ nói hời hợt vài câu mà có thể khiến cho một tiêu sư già lao khỗ với tiêu cục suốt hai mươi sáu năm phải tuốt kiếm tự sát ngay lập tức mà lại rất cam tâm tình nguyện, lòng còn tràn trề cảm kích.

Chàng thiếu niên này mưu kế thâm trầm, thủ đoạn cao minh, tác phong tàn khốc thực khiến người khác khó bề tưởng tượng nỗi. Máu tươi đầy đất chỉ trong chớp mắt đã bị mưa lớn rửa trôi sạch duy chỉ có vẻ sợ sệt trên mặt các tiêu sư thì không có mưa nào xóa nỗi. Đối với họ, vị tỗng tiêu đầu còn trẻ tuỗi này quả thật cực kỳ đáng sợ.

Tuy vậy nét mặt chàng thiếu niên kia vẫn không để lộ một nét tình cảm gì chỉ hời hợt hỏi:

"Hồ tiêu đầu đâu rồi nhỉ?" Một người đứng gục đầu sau chàng ta bị cây dù vải che khuất mặt, nghe câu ấy thì vội vàng quỳ ngay xuống đầu và chân tay chống xuống đất phủ phục trong vũng nước máu mà đáp:

"Hồ Phi có mặt!" Chàng thiếu niên kia cũng chẳng thèm ngoái đầu lại nhìn mà hỏi:

"Ông làm ở tiêu cục bao lâu rồi nhỉ?" Hồ Phi đáp:

"Chưa đầy mười năm." Chàng thiếu niên bảo:

"Lương tháng của ông được bao nhiêu lượng bạc?" Hồ Phi đáp:

"Theo quy chế được hai mươi bốn lượng, nhờ ơn tiêu cục ân thưởng mỗi tháng tăng thêm sáu lượng nữa." Chàng thiếu niên hỏi:

"Bộ quần áo ông mặc trên người cộng thêm đai, hài, mũ mãng thì giá bao nhiêu tiền?" Hồ Phi ấp úng:

"Mười... mười... hai lượng" Chàng thiếu niên bảo:

"Ngôi nhà của ông ở mé sau thành Tây mỗi tháng mất bao nhiêu tiền thuể" Mặt Hồ Phi méo xệch, mồ hôi lẫn nước mưa chẩy xuống dòng dòng, tiếng nói cũng tắc nghẹn. Chàng thiếu niên bảo:

"Ta biết ông là người biết ăn ngon uống tốt, đồ nhà bếp ở nhà toàn mang từ lầu Trạng Nguyên tới, một tháng không có hai ba trăm lượng bạc chỉ sợ khó mà được thế!" Hồ Phi nói:

"Đó... đó...toàn người khác mang tới, tôi không phải chi lượng nào cả." Chàng thiếu niên kia cười bảo:

"Xem ra tài ba của ông không nhỏ nên mới khiến thiên hạ hàng tháng đem đến cống mấy trăm lượng bạc để ông hưởng thụ, chẳng qua chỉ... " Nụ cười của chàng ta dần dần tan biến chỉ nói tiếp:

"Bè bạn trên giang hồ làm sao mà biết được bản lĩnh của ông lại cao minh đến thế, thấy một tiêu sư của tiêu cục Hồng Kỳ mà lại bày đặt ăn chơi đến cỡ ấy nhất định trong lòng phải thấy là quái lạ tại sao tiêu cục Hồng Kỳ lại dễ thở đến thế hoặc giả có câu kết ngầm với hào kiệt lục lâm nên mới được ăn chia số bạc chẳng rõ ràng gì như thế chứ!" Hồ Phi nghe xong toàn thân run rẩy, đầu dập xuống đất mà bảo:

"Từ sau tuyệt đối không dám để xẩy ra chuyện như vậy nữa!" Chàng thiếu niên bảo:

"Tại sao lại thế? Phải chăng là người vẫn xuất tiền cho ông ăn chơi bị người khác cướp đi mất rồi?" Hồ Phi mặt ứa đầy máu không dám thừa nhận cũng không dám phủ nhận. Chàng thiếu niên lại bảo:

"Có người xuất tiền cho ông hưởng thụ là việc tốt chứ sao, tiêu cục đâu quản được ông! Có điều mắt ông mở trừng trừng mà nhìn người nuôi ông bị cướp đi, có thù mà chẳng dám báo, như thế há chẳng làm tôn oai phong của người ngoài mà tiêu diệt chí khí của tiêu cục chúng ta ử" Mắt Hồ Phi bỗng sáng lên, lão lập tức nói to:

"Tên tiểu tử ấy chính là kẻ xé cờ tiêu cục của tiêu cục chúng ta!" Chàng thiếu niên bảo:

"Thế sao ông còn chưa đi giết gã?" Hồ Phi đáp:

"Dạ!" Hồ Phi vốn đã sớm nghĩ đến điều đó bây giờ lại được tỗng tiêu đầu đỡ lưng lão còn sợ gì nữa bèn ngoái tay rút yêu đao mà vọt mình dậy. Bỗng nhiên kiếm quang lóe lên một cây kiếm tà tà đâm tới coi bộ nhát đâm cũng không nhanh lắm, nhưng khi Hồ Phi né tránh nhát kiếm đó đã đâm vào vai lão xuyên ra cỗ họng, máu tươi vọt ra như tên bắn hóa thành một trận mưa máu.

Hồ Phi chết mà cũng không kịp nhìn rõ ai là kẻ đã đâm mình. Nhưng những người khác đều nhìn thấy. Hồ Phi vừa vọt lên thì chàng thiếu niên kia đã ngoái tay rút thanh bội kiếm của một người đeo đứng bên cạnh tùy tiện đưa ra một nhát về phía sau mà đầu cũng không cần ngoái lại để nhìn.

Thời gian tính toán đâm nhát kiếm ra không sai một ly, bộ vị ra tay lại càng ảo diệu tuyệt luân. Nhưng điều đáng sợ thật sự không phải là kỹ xảo dùng kiếm mà là thái độ tàn khốc vô tình.

"Chú em" chợt cất tiếng cười, cười vang dậy mà bảo:

"Ngươi giết thuộc hạ của ngươi lẽ nào lại có thể làm ta sợ khiếp. Ngươi có giỏi đem hết hơn hai ngàn người từ trên xuống dưới của tiêu cục Hồng Kỳ mà giết sạch đi đối với ta cũng chẳng có chút quan hệ gì!" Chàng thiếu niên kia căn bản không thèm để ý đến "chú em", từ lúc đến tới giờ chưa hề nhìn gã lần nào làm như không biết gã là kẻ xé cờ tiêu của mình mà lại hỏi:

"Tạ đại hiệp Tạ Hiểu Phong, có phải cũng đã tới rồi không?" Một tiêu sư từ đầu vẫn đứng phía sau che dù cho chàng thiếu niên đáp ngay:

"Vâng!" Chàng thiếu niên kia lại hỏi:

"Thế vị nào là Tạ đại hiệp?" Tiêu sư đáp:

"Là vị đứng trên nóc xe kia!" Chàng thiếu niên bảo:

"Không đúng!" Tiêu sư nhắc lại:

"Không đúng?" Chàng thiếu niên bảo:

"Xét thân phận địa vị của Tạ đại hiệp đến đây vào lúc này gặp những việc như vừa rồi thì đã trượng nghĩa buông lời thẳng thắng xét định sai đúng làm sao lại im hơi lặng tiếng mà đứng ở đó? Tạ đại hiệp đâu phải là loại người thấy tai họa thì sướng vui, cháy nhà hàng xóm bình chân như vại?" Tạ Hiểu Phong bỗng cất tiếng cười:

"Chửi hay lắm!" Xe tiêu ở xa thì cách bốn trượng, giữa khoảng đó còn vướng mười bẩy mười tám người nhưng vừa nghe chàng thốt ra ba tiếng kia xong mọi người đã thấy Tạ Hiểu Phong đứng ngay trước mặt chàng thiếu niên kia chỉ cần chìa tay là đã có thể vỗ được vai nhau. Chàng thiếu niên tuy sắc mặt có thay đỗi nhưng lập tức trấn tĩnh lại ngay và chân cũng không hề lùi dù chỉ là nửa bước.

Tạ Hiểu Phong bảo:

"Tỗng tiêu đầu cũng họ Thiết?" Chàng thiếu niên đáp:

"Tại hạ là Thiết Khai Thành." Tạ Hiểu Phong:

"Ta là Tạ Hiểu Phong." Các tiêu sư tuy biết người này võ công cao thâm khó lường, tuy biết là Tạ Hiểu Phong đã tới đây nhưng khi nghe từ miệng chàng nói ra ba tiếng họ tên mình thì họ đều bất ngờ không khỏi thay đỗi sắc mặt.

HỒI 32 - CHỦ TÂM ĐÃ SẴN

Thiết Khai Thành cúi mình bảo:

"Khi cha tôi còn sống, vãn bối thường nghe lão nhân gia nói chuyện về Tạ đại hiệp một kiếm tung hoành thiên hạ vô song!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Kiếm pháp của ngươi cũng không kém." Chàng thiếu niên bảo:

"Không dám!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Kiếm pháp mà giết được người là kiếm pháp hay!" Chàng thiếu niên bảo:

"Tuy nhiên vãn bối giết người không phải muốn giết người để lấy oai, càng không phải giết người vì khoái giết người!" Tạ Hiểu Phong:

"Thế ngươi giết người thông thường là vì gì?" Chàng thiếu niên lại nói:

"Vì tiên phụ lập ra tiêu cục vẫn dậy chúng vãn bối ai ai cũng phải nhớ sáu chữ." Tạ Hiểu Phong:

"Sáu chữ?" Chàng thiếu niên đáp:

"Trách nhiệm. Kỷ luật. Vinh dự." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Hay! Quả nhiên là quanh minh lỗi lạc, đường đường chính chính. Chẳng trách không lạ sao tiêu cục Hồng Kỳ giữ uy danh hai mươi sáu năm nay không sụt." Thiết Khai Thành khom lưng cảm tạ rồi nghiêm sắc mặt bảo:

"Tiên phụ thường dạy chúng tôi muốn lấy tiêu cục làm nghề nghiệp thì bất kỳ lúc nào cũng phải nhớ ghi sáu chữ kia nằm lòng nếu không thì còn khác gì với bọn trộm cướp!" Sắc mặt chàng ta đột nhiên nghiêm hẳn lại bảo:

"Vì vậy bất cứ ai vi phạm sáu chữ đó là giết không tha!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Hay cho giết không tha!" Thiết Khai Thành bảo:

"Trương Thực lơ là sơ hở làm hỏng chức trách giữ cờ, Hồ Phi tự thân trụy lạc, sai phạm tư cách vì vậy tuy họ là người cũ của tiên phụ cả nhưng vãn bối cũng không thể vì riêng tư mà quên phép chung." Mắt chàng ta long sòng sọc nhìn uy hiếp Tạ Hiểu Phong, bảo:

"Thần kiếm sơn trang uy trấn thiên hạ đương nhiên cũng phải có gia pháp chứ ạ!" Tạ Hiểu Phong không nói thừa nhận nhưng không thể phủ nhận. Thiết Khai Thành bảo:

"Bất kỳ môn quy gia pháp của mọi nhà phải chăng là đều không dung thứ con em đệ tử khinh nhờn đạo nghĩa giang hồ phá hoại quy củ võ lâm?" Mắt chàng ta sắc như dao, có khi còn sắc lẻm hơn cả mũi dao:

"Uống rượu gây rối, vô cớ gây sự chẳng những làm người bị thương còn xé cờ tiêu cục có quan hệ đến danh dự sinh mạng của tiêu cục như thế có thể gọi là phá hoại quy củ giang hồ hay không?" Câu trả lời của Tạ Hiểu Phong giản dị mà trực tiếp:

"Có chứ!" Trong ánh mắt Thiết Khai Thành lần thứ hai lộ vẻ kinh ngạc. Trên tay chàng ta đang cầm sẵn một cuộn thừng bện rất tốt đang sẵn sàng tròng vào cỗ "chú em", Tạ Hiểu Phong tất nhiên phải biết rõ ý tứ của chàng ta, tại sao lại chẳng ngăn cản chứ! Bất kể ra sao, cơ hội này không thể bỏ lỡ được, Thiết Khai Thành lập tức truy hỏi:

"Không thèm để ý đến đạo nghĩa giang hồ, vô cớ phá hoại quy củ của giang hồ, loại người ấy phạm tội gì?" Tạ Hiểu Phong trả lời dứt khoát như dao chém đá:

"Tội chết!" Thiết Khai Thành ngậm miệng. Giờ thì sợi thừng đã tròng vào cỗ "chú em" rồi, Thiết Khai Thành cũng hiểu rõ ý tứ của Tạ Hiểu Phong. Tính mạng của "chú em" rất nặng nhưng uy tín của Thần kiếm sơn trang còn nặng hơn nhiều, một khi trong hai điều trên chỉ được chọn có một, Tạ Hiểu Phong tất phải hy sinh "chú em".

Giờ thì Trương Thực và Hồ Phi đều đã chịu tội mà chết, "chú em" đương nhiên phải chết chẳng thể tha! Các tiêu sư của Hồng Kỳ tiêu cục đều là các tay lão luyện giang hồ mắt như bó đuốc đương nhiên đều nhìn ra điểm đó, người nào người ấy tay đều lăm lăm dao kiếm sẵn sàng ùa lên. Thiết Khai Thành bỗng vẫy tay bảo:

"Lui cả xuống, tất cả lui xuống!" Chẳng ai hiểu sao chàng ta lại làm như vậy nhưng cũng không ai dám làm trái lệnh. Thiết Khai Thành lửng lơ bảo:

"Tội do Tạ đại hiệp định, có Tạ đại hiệp ở đây há phải dùng đến tay các ngươi ử" "Chú em" bỗng cao giọng bảo:

"Chẳng phải ai ra tay cả!" Gã nhìn Tạ Hiểu Phong đăm đăm rồi bỗng cười vang bảo:

"Tạ Hiểu Phong, quả nhiên không hỗ là Tạ Hiểu Phong! Quả nhiên đã săn sóc ta đến nơi đến chốn! Lòng ta thật vô cùng cảm kích đây!" Gã lại cười vang nhẩy từ nóc xe xuống xông vào đám đông, chỉ nghe "rắc" một tiếng tay tiêu sư bị bẻ gẫy còn cây kiếm đã lọt vào tay "chú em". Không thèm nhìn Tạ Hiểu Phong lấy một lần gã đưa kiếm cứa vào cỗ mình. Nét mặt trắng bệch của Tạ Hiểu Phong không lộ một chút tình cảm nào, toàn thân cơ hồ không hề nhúc nhích, nhưng mọi người chỉ nghe "cách" một tiếng rồi lại vang lên một tiếng "rắc", trên tay "chú em" chỉ trơ lại mỗi cái cán kiếm. Lưỡi kiếm ba thước gẫy vụn trên không và có một vật tương tự theo lưỡi kiếm cùng rơi xuống đất, rõ rành rành là một hạt minh châu.

Chuỗi hạt châu trên tay Tạ Hiểu Phong lại bớt đi một hạt. Trên tay "chú em" tuy vẫn cầm cán kiếm nhưng bị chấn dội mạnh quá phải lùi lại hai bước. Đứng phía sau gã là ba tiêu sư đã chực sẵn, hai cây đao và một cây kiếm như điện chớp đồng thời đánh ra.

Ba người này cùng vị tiêu sư bị gẫy tay chơi với nhau rất thân, cùng căm thù đối phương đã sẵn bây giờ lại nhân Tạ Hiểu Phong ra tay nên họ có ra tay cũng không coi như vi phạm lệnh của Tỗng tiêu đầu. Ba người cùng lượt ra đòn.

Lại nghe đầu ngón tay Tạ Hiểu Phong "vèo" một tiếng, tiếp đó lại "cách" một tiếng, hai thanh đao một thanh kiếm đồng thời gẫy lìa, ba người cùng lúc bị chấn dội về phía sau năm bước đến cán đao cán kiếm cũng không cầm vững. Thiết Khai Thành sa sầm nét mặt, lạnh lùng bảo:

"Lực đạo mới mạnh làm sao, công phu mới giỏi làm sao!" Tạ Hiểu Phong lặng im. Thiết Khai Thành cười nhạt bảo:

"Võ công của Tạ đại hiệp cao cường người trong giang hồ ai ai cũng biết cả rồi Tạ đại hiệp có tín nghĩa hay không có tín nghĩa thì sợ người trong giang hồ không mấy ai được biết!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ta có tín nghĩa hay không có tín nghĩa?" Thiết Khai Thành không trả lời mà hỏi lại:

"Vừa rồi ai định tội?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Tạ" Thiết Khai Thành lại hỏi:

"Định tội gì?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Tội chết!" Thiết Khai Thành hỏi vặn:

"Đã định gã tội chết sao còn ra tay cứu?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta mới chỉ định tội một người, người có tội đâu phải là gã!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Không phải gã thì là ai?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Là ta!" Lần thứ ba mắt Thiết Khai Thành lộ vẻ ngạc nhiên, bèn hỏi:

"Tại sao lại là đại hiệp?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Vì tất cả những chuyện coi thường đạo nghĩa giang hồ, phá hoại quy củ giang hồ đều do ta dạy gã làm" Mắt Tạ Hiểu Phong lại u uất một nỗi thống khỗ và buồn thương khó nói nên lời rồi chàng từ tốn nói tiếp:

"Nếu không phải ta thì gã đã chẳng làm những chuyện như vậy, ta nhận tội đáng chém chứ quyết không thể để gã vì ta mà chết!" Thiết Khai Thành đăm đăm nhìn Tạ Hiểu Phong, đôi mắt chàng ta dần dần nheo lại rồi bỗng ngửa mặt thở dài bảo:

"ở trên lầu Trạng Nguyên ngài chỉ dùng một cây tăm xỉa răng phá được kiếm pháp Võ Đang của Tào Hàn Ngọc, kiếm pháp của ngài cao cường quả thật đời nay có một không hai!" Đến lúc này "chú em" mới biết cuộc đấu trên lầu Trạng Nguyên ra sao, ai thắng ai bại. Mặc dầu gã vẫn chưa nhìn lại Tạ Hiểu Phong lấy một lần nhưng trong lòng bỗng thấy hối hận, chỉ hận mình sao lại bỏ khi mà không ở lại để xem Tam thiếu gia dùng cây tăm phá kiếm thì uy phong biết chừng nào.

Thiết Khai Thành lại bảo:

"Lúc đó anh em họ Viên cũng thấy giá hai anh em họ có dùng "song kiếm hợp bích" (hai kiếm cùng đánh) cũng không phải là đối thủ của ngài vì thế mới thấy khó mà bỏ đi. Tại hạ hai mắt không mù dĩ nhiên đã trông thấy cả, nếu chẳng phải là việc vạn bất đắc dĩ thực tâm không hề muốn giao thủ cùng ngài." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Rất tốt!" Thiết Khai Thành bảo:

"Nhưng bây giờ ngài đã nói đến vậy, nghĩ rằng phải sẵn sàng một trận thắng bại sống chết về kiếm pháp vậy!" Chàng ta cười nhạt, nói tiếp:

"Đạo lý trong chốn giang hồ vốn chỉ được rõ ràng ở nơi lưỡi đao mũi kiếm, nếu không thế hà tất người ta phải học võ công làm gì! Người võ công cao minh vô lý cũng thành có lý chuyện ấy có đáng kể gì đâu!" Tạ Hiểu Phong đăm đăm nhìn chàng ta rất là lâu, bỗng thở dài bảo:

"Ngươi sai rồi!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Sai ở chỗ nào?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta dù nhận tội đương nhiên đâu phải dùng đến ngươi ra taỵ" Thiết Khai Thành xưa nay vẫn tự phụ lại không hay để lộ vẻ mừng giận ra mặt bao giờ lần này trên mặt chàng ta không nén nỗi mà không để lộ vẻ kinh ngạc. Trên giang hồ, nhận tội thay kẻ khác chịu hình phạt cắm hai đao hai bên sườn thay cho bè bạn không phải là chàng ta chưa trông thấy nhưng bằng vào thân phận và võ công của Tạ Hiểu Phong tại sao lại chịu khỗ coi rẻ mạng sống của mình như vậy? Tạ Hiểu Phong đã đi tới vỗ vào đầu "chú em" bảo:

"ở đây không còn việc gì với ngươi nữa, ngươi đi đi!" "Chú em" không nhúc nhích cũng không quay lại. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta xưa nay chưa săn sóc tốt cho ngươi, ngay từ khi còn bé ngươi đã phải chịu sự khinh khi, làm nhục đủ kiểu của người đời, ta chỉ mong ngươi cố làm người tốt, hai chữ "tửu, sắc" thì tốt nhất là..." Là gì, ở phía dưới, Tạ Hiểu Phong bảo sao "chú em" nghe không thấy. Nhớ lại những gì đã gặp trong buỗi thiếu thời, nhớ lại "cô bé" ôm Tạ Hiểu Phong.

"Chú em" chỉ thấy trào lên niềm căm giận, đột nhiên quát to:

"Được! tôi đi đây! Đây là tự ông đi theo tôi, tôi vốn không có nợ nần gì ông đâu nhé!" Gã nói đi là đi, không hề ngoảnh lại. Không ai ngăn cản gã con mắt mọi người đều đỗ dồn cả vào Tạ Hiểu Phong. Trời mưa to như trút, nước từ mái đầu ướt sũng của chàng ròng ròng đỗ xuống tràn qua cặp mắt, chẳng ai phân biệt rõ được đó là nước mưa hay nước mắt! Tạ Hiểu Phong đứng đó không nhúc nhích dường như giữa trời đất chỉ còn mỗi một mình chàng. Chẳng biết đã bao lâu chàng mới quay mình, đứng đối mặt với Thiết Khai Thành.

Thiết Khai Thành không hé răng mà cũng hà tất phải mở miệng. Đã có Tam thiếu gia nhà họ Tạ cúi đầu nhận tội, cả tiêu cục Hồng Kỳ từ trên xuống dưới còn ai nói gì được nữa? Bỗng Tạ Hiểu Phong bật hỏi mấy câu rất kỳ quái:

"Nghe nói Thiết lão tiêu đầu mấy năm lại đây ít qua lại trên giang hồ, phải vì việc thân dậy dỗ ngươi không?" Thiết Khai Thành chậm chạp gật đầu, âm thầm đáp:

"Chẳng may lão nhân gia hai tháng trước đã từ trần." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nhưng xét cho cùng ngươi cũng nên người rồi!" Thiết Khai Thành nói:

"Đó là nhờ sự dạy dỗ của lão nhân gia, vãn bối không lúc nào dám quên." Tạ Hiểu Phong chậm chạp gật đầu lẩm bẩm:

"Rất hay, rất hay, rất haỵ.." Chàng nhắc đi nhắc lại hai chữ ấy không biết bao nhiêu lần, tiếng nói càng lâu càng thấp, đầu cũng cúi xuống càng lâu càng gục... Nhưng hai tay Tạ Hiểu Phong nắm lại rất chặt. Đường phố dài dày đặc những người là người. Có người là thuộc hạ của tiêu cục Hồng Kỳ, có người không phải, ai nấy đều trông thấy rõ vị hiệp khách lừng tiếng thiên hạ vô song cõi lòng tràn ngập tự trách và hối hận đang sẵn sàng dùng máu mình để rửa cho sạch.

Đúng lúc ấy trong đám đông bỗng có người thét to:

"Tạ Hiểu Phong! Ông sai rồi! Đáng chết phải là Thiết Khai Thành chứ không phải ông, vì..." Nói tới đó tiếng thét bỗng ngừng ngang, dường như bị lưỡi khoái đao chém ngang vậy. Một người từ đám đông xông ra, hai mắt lồi ra trợn lên nhìn Thiết Khai Thành như muốn nói gì nhưng không nói được chữ nào thì người đã đỗ vật, sau lưng bị đâm sâu một lưỡi dao nhọn ngập lút tận cán. Nhưng từ đám đông phía bên kia lại có một người khác nói tiếp thay người vừa rồi:

"Chỉ vì ngọn cờ lệnh của tiêu cục Hồng Kỳ đã bị vấy nhục từ trước không đáng một đồng kẽm mà..." Vừa tới đó tiếng nói cũng bị đốn ngang, lại một người nữa mình đầy máu chạy nhào ra và lại ngã lăn ra đất chết luôn. Tuy vậy ở đời cũng có những người thật tình không sợ chết và cái chết không đe dọa nỗi họ! Bỗng ở mé Tây có người gào đến khản tiếng:

"Hắn bề ngoài vờ trung hậu, trong bụng thì gian trá, không thế thì Thiết lão tỗng tiêu đầu đã chẳng chết không rõ ràng, đã thế..." Người đó vừa gào to vừa chạy ra khỏi đám đông, nhoáng một cái ánh đao loáng lên xuyên vào họng anh ta. Phía Bắc bỗng lại thấy có người gào tiếp:

"Đã thế ở mé sau thành Tây có nhà vàng chứa gái đẹp cũng là của hắn đã mua về. Chỉ vì đám tang Thiết lão tiêu đầu vừa xong hắn sợ hiềm nghi nên mới ít tới đó và bị tên Hồ Phi thừa hư lẻn vào." Người nói này rõ ràng võ công khá cao, tránh được hai lần ám toán rồi nhẩy lên mái nhà mà gào tiếp:

"Khi nẫy Hồ Phi sợ hắn giết người diệt khẩu nên mới không dám hé răng, thật không ngờ đã không nói ra mà cũng không tránh khỏi chết!" Gã này vừa nói vừa lùi lại phía sau, vừa nói xong chữ "chết" từ trên xống nhà có một đạo kiếm quang bay tới cắm phập vào phía sau lưng gã xuyên thẳng ra đằng họng máu phun như tưới, người này lộc cộc lăn từ trên nóc nhà xuống đất lăn ra giữa phố. Cả đường phố dài như chết lặng.

Chỉ trong chốc lát đã có bốn người chết máu đẫm phố dài đủ khiến người ta bay hồn bạt vía huống hồ họ chết bi tráng như vậy, thê thảm như vậy. Thiết Khai Thành thần sắc không thay đỗi lạnh lùng bảo:

"Thiết Nghĩa đâu?" Một tiêu sư cao to khỏe mạnh vượt đám đông chạy ra khom mình:

"Có tôi" Thiết Khai Thành bảo:

"Đi tra xét xem bốn người này do ai sai khiến dám đến đây đỗi trắng thay đen ngậm máu phun người?" Thiết Nghĩa nói:

"Vâng!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nếu bọn họ ngậm máu phun người, hà tất ngươi phải giết người bịt miệng!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Ông thấy người giết người là ai?" Tạ Hiểu Phong bỗng nhảy vọt lên, đi xuyên vào đám đông. Chỉ thấy chàng bốn lần nhô lên bốn lần hụp xuống là đã thấy bốn người từ đám đông bay vọt ra, "huỵch" một tiếng, nặng nề rơi bịch xuống giữa phố, cả bốn đều ăn mặc đỏm dáng, toàn là tiêu sư trong tiêu cục Hồng Kỳ. Thần sắc Thiết Khai Thành vẫn không đỗi. Lại gọi:

"Thiết Nghĩa!" Thiết Nghĩa nói:

"Có!" Thiết Khai Thành bảo:

"Ngươi đi tra xét lai lịch bốn kẻ này, áo quần mặc trên mình chúng là từ đâu tới?" Bọn này mặc quần áo chẽn mình vốn chẳng phải là thứ kỳ lạ hiếm hoi gì, tiêu sư của tiêu cục Hồng Kỳ mặc được thì người khác mặc cũng được. Thiết Nghĩa tuy miệng nói "Vâng" nhưng vẫn không động đậy.

Thiết Khai Thành hỏi:

"Sao ngươi còn chưa đỉ" Nét mặt Thiết Nghĩa bỗng lộ vẻ rất kỳ quái rỗi bỗng nghiến răng cao giọng bảo:

"Tôi không phải đi tra xét gì đâu vì các thứ áo quần này đều do tôi mua về cả. Đóa hoa bằng hạt châu Tạ đại hiệp cầm trong tay cũng là của tôi mua về!" Sắc mặt Thiết Khai Thành đột nhiên biến đỗi. Lẽ dĩ nhiên chàng ta biết đóa hoa hạt châu ở trên tay Tạ Hiểu Phong là từ đâu tới. Dĩ nhiên Tạ Hiểu Phong càng rõ.

Đóa hoa hạt châu này chàng lấy ở trên đầu người đàn bà như con mèo và dùng để làm ám khí giết người. Thiết Nghĩa lại nói rất to:

"Tỗng tiêu đầu đưa tôi ba trăm lạng bạc ngân phiếu bảo tôi đến cửa hàng Thiên Bảo mua bông hoa hạt châu này cùng một cái xuyến đeo tay còn thừa hơn hai chục lạng thưởng cho tôi." "Đóa hoa hạt châu mua cho Thiết Khai Thành sao lại lên đầu người đàn bà như con mèo kiả" Tạ Hiểu Phong chợt túm Thiết Nghĩa lên như xách một người bằng giấy hàng mã tà tà bay xiên đi bốn trượng vọt lên nóc nhà. Chỉ thấy gió rít vù vù rồi hơn chục làn sáng lạnh vèo vèo sạt qua dưới chân họ. Nếu Tạ Hiểu Phong không ra tay mau lẹ Thiết Nghĩa tất cũng đã bị giết người bịt miệng rồi.

Tuy vậy trên nóc nhà cũng chẳng phải chỗ an toàn. Tạ Hiểu Phong đứng chưa vững chân thì từ xống mái nhà có một làn ánh kiếm bay tới. Mà bay thẳng tới yết hầu Tạ Hiểu Phong. Làn ánh kiếm như chiếc cầu vồng, như tấm lụa trắng vọt ra một lưỡi kiếm, đúng là do cao thủ không còn nghi ngờ gì nữa, mà cây kiếm sử dụng cũng là cây kiếm tốt.

Giờ đây người mà họ định giết không phải là Thiết Nghĩa mà là Tạ Hiểu Phong. Tạ Hiểu Phong tay trái cắp người tay phải cầm đóa hoa hạt châu nhìn thấy thanh kiếm sắp thọc chạm yết hầu. Tay phải chàng đang cầm bông hoa hạt châu bèn nâng lên, đưa cán bông hoa đẩy chệch mũi kiếm. Chỉ nghe "chát" một tiếng, một viên trân châu bật ra bay vọt lên hai thước tiếp đó lại một viên trân châu nữa bật ra thế bay còn nhanh hơn và hai viên trân châu bay trên không chạm nhau, viên trân châu thứ nhất bay xiên sang trái đánh thẳng vào hàm phải gã áo đen sử kiếm.

Gã này nghiêng đầu né tránh, nhưng không ngờ hạt châu thứ hai lại rơi thẳng xuống đánh trúng vào huyệt Khúc Trì cánh tay cầm kiếm của gã. Khi cây trường kiếm của gã rơi xuống thì Tạ Hiểu Phong đã vọt đi xa rồi. Mưa rơi dày như đan lưới, chỉ thoáng chốc chẳng thấy người lẫn bóng đâu nữa.

Người đứng đằng sau cầm ô che cho Thiết Khai Thành là một tiêu sư bỗng hạ giọng hỏi thật khẽ:

"Đuỗi hay không đuỗi?" Thiết Khai Thành lạnh lùng bảo:

"Đuỗi mà không kịp thì đuỗi làm gì!" Tiêu sư đó bảo:

"Chỉ sợ vấn đề này không giải thích rõ ràng thì khó thuyết phục mọi người!" Thiết Khai Thành cười nhạt bảo:

"Còn ai không phục, cứ giết không tha!" Trời mưa không ngớt, sắc trời tối lại. Trong ngôi miếu thỗ địa nho nhỏ tối om và ẩm ướt, Thiết Nghĩa phục trên mặt đất không ngừng thở khò khè nôn mửa. Đến khi gã mở được miệng để nói thì gã lập tức kể ngay mọi chuyện gã đã biết. Gã kể:

"Trước đây hai tháng, một hôm sấm chớp đầy trời, mưa còn to hơn trận mưa hôm nay. Hôm ấy lão tỗng tiêu đầu dường như có tâm sự gì đó nên khi ăn cơm lại uống hơn hai chén rượu rồi đi ngủ rất sớm. Ngày hôm sau tôi nghe tin lão nhân gia bị đột tử mà qua đời.

"Ông già uống rượu vào phát bệnh thì đâu phải chuyện gì quái lạ nhưng ngay tối hôm ấy nhân làm người trực ban ở sau viện tôi lại nghe tiếng người cãi nhau trong phòng lão tỗng tiêu đầu, trong đó có tiếng Thiết Khai Thành.

"Thiết Khai Thành là con nuôi của lão tỗng tiêu đầu nhưng đối với chàng ta lão tỗng tiêu đầu còn yêu quí hơn con đẻ còn gã dạo ấy vẫn rất tỏ vẻ hiếu thảo. Riêng ngày hôm ấy gã dám ngỗ ngược phạm thượng, tranh cãi với lão tỗng tiêu đầu là một điều rất là quái lạ.

"Huống hồ nguyên nhân lão tỗng tiêu đầu bị chết nếu thật sự chỉ vì uống rượu vào phát bệnh thì hôm ấy ở đó trước khi chết còn lấy sức đâu mà tranh cãi hăng thế! "Còn quái lạ hơn nữa là từ tối hôm ấy cho tới khi phát tang Thiết Khai Thành không cho phép người khác tới gần di thể của lão tỗng tiêu đầu đến thay áo quần cũng do Thiết Khai Thành tự mình làm lấy.

"Chính vì thế mọi người đều cho trong việc này tất có ẩn tình, chỉ có điều không ai dám nói ra mà thôi." Nghe tới đó Tạ Hiểu Phong mới hỏi:

"Tối hôm ấy trực ở sau viện phải chăng là bốn người kiả" Thiết Nghĩa đáp ngay:

"Chính là họ đấy!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Thế còn phu nhân lão tỗng tiêu đầu đâu?" Thiết Nghĩa đáp:

"Hai ông bà già đã ngủ riêng phòng từ nhiều năm trước." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Còn những người khác không nghe thấy tiếng họ cãi nhau ử" Thiết Nghĩa bảo:

"Hôm ấy mưa gió sấm chớp rất to, trừ bốn người trực là có trách nhiệm mang trên mình không dám để sơ sảy nên mới biết còn những người khác đều có uống chút rượu nên đi ngủ sớm cả." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Sau khi sự việc xẩy ra trong tiêu cục tất nhiên phải có lời bàn ra tán vào, dĩ nhiên Thiết Khai Thành cũng phải nghe biết ít nhiều và dĩ nhiên gã cũng phải biết những lời xì xào đó từ đâu mà ra phải không?" Thiết Nghĩa đáp:

"Đương nhiên như vậy!" Tạ Hiểu Phong lại bảo:

"Đối với bốn người kia chẳng lẽ gã không có hành động gì sao?" Thiết Nghĩa bảo:

"Sự việc ấy không chứng cớ nếu gã bỗng dưng có hành động gì với mấy người ấy há chẳng phải "lạy ông tôi ở bụi này" khiến người ta nghi ư. Gã tuy tuỗi tác không nhiều nhưng tâm tư cực kỳ sâu sắc do đó không hề khinh suất làm bừa. Nhưng sau khi liệm xác được ba ngày, gã tìm lý do khác đuỗi cả bốn người ra khỏi tiêu cục." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Gã tìm ra lý do gì?" Thiết Nghĩa bảo:

"Trong thời gian có tang, say rượu gây chuyện!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Có thật là có chuyện đó không?" Thiết Nghĩa đáp:

"Họ nhớ ơn lớn của lão tiêu đầu, trong lòng có oán ức mà khó nói ra nên có uống nhiều rượu một chút, kể cũng không oan lắm!" Tạ Hiểu Phong lại hỏi:

"Sao gã không vin vào duyên cớ đó giết béng đi bịt miệng?" Thiết Nghĩa bảo:

"Vì gã không muốn tự tay động thủ mà đợi khi họ ra khỏi tiêu cục rồi thì sai người ngầm đuỗi theo giết họ!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Người gã tìm là ai?" Thiết Nghĩa đáp:

"Là tôi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ngươi không nỡ xuống tay chứ gì?" Thiết Nghĩa đáp:

"Tôi quả thực không nỡ, mà chỉ lấy bốn bộ quần áo thấm máu đem về dâng nộp." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Gã sai ngươi đi mua hoa hạt châu đưa cho nhân tình rồi lại sai ngươi đi giết người bịt miệng, đương nhiên gã đã coi ngươi là kẻ gan ruột thân tín chứ!" Thiết Nghĩa bảo:

"Tôi vốn là thư đồng của gã từ nhỏ, đã cùng gã lớn khôn lên, có điều..." Mặt gã méo xệch đi nói tiếp:

"... Có điều gã tỗng tiêu đầu một đời nghĩa hiệp đãi Thiết Khai Thành không bạc... tôi... tôi thực không nỡ để lão gia nhân bị oan chìm đáy biển. Vốn tôi cũng chẳng dám phản lại Thiết Khai Thành đâu nhưng mắt trông thấy bốn người họ chết thảm thiết bi tráng như thế, nên tôi... tôi... quả thật..." Giọng gã nghẹn ngào. Bỗng gã quỳ phục xuống "cộc! cộc! cộc!" dập đầu ba cái vang lên thành tiếng mà bảo:

"Hôm nay, bốn người họ đã dám đứng lên vạch tội Thiết Khai Thành cũng là vì họ đã thấy Tạ đại hiệp, được biết Tạ đại hiệp quyết sẽ không để họ bị chết dấm chết dúi một cách oan khuất như vậy. Chỉ mong Tạ đại hiệp trượng nghĩa ra tay... tôi... tôi... có chết cũng không dám tiếc!" Thiết Nghĩa dập đầu xuống đất máu chảy đầy mặt. Bỗng gã rút trong cán roi ra một mũi dao nhọn, xoay tay đâm thẳng vào tim mình. Nhưng chỉ chớp mắt cây đao đã lọt vào tay Tạ Hiểu Phong.

Tạ Hiểu Phong đăm đăm nhìn gã rồi bảo:

"Cho dù ta có đáp ứng lời ngươi hay không thì ngươi cũng không thể chết được." Thiết Nghĩa bảo:

"Tôi... tôi... chỉ sợ Tạ đại hiệp không tin được lời tôi nên đành lấy cái chết để làm sáng tỏ tấm lòng mình mà thôi!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta tin lời ngươi!"

HỒI 33 - MÁU RỬA HỒNG KỲ

Miếu cỗ tối tăm, tượng thần trầm mặc nên dù có nghe câu chuyện thê thảm đến đâu cũng không hề mở miệng. Nhưng trong tăm tối kia vẫn tự nhiên có cặp mắt đang lạnh lùng dõi xem các bi thương và tội ác, chân thành và giả dối của cõi thế gian. Thần tượng tuy không mở miệng, tuy không ra tay nhưng rồi tự nhiên sẽ có bàn tay con người đến chấp hành sức mạnh và pháp luật của thiên nhiên. Con người đó lẽ tất nhiên sẽ là một người công chính và thông minh, còn đôi tay kia sẽ là đôi tay mạnh mẽ đầy sức lực.

Thiết Nghĩa bỗng bảo:

"Tuy vậy Tạ đại hiệp cũng phải nên đặc biệt cẩn thận. Thiết Khai Thành tuyệt nhiên không phải là con người dễ đối phó đâu. Kiếm pháp của gã so với kiếm pháp của lão tiêu đầu thời cực thịnh vẫn còn nhanh hơn, đáng sợ hơn nhiều!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Vũ công của gã chẳng lẽ không phải do lão tiêu đầu truyền dạy ử" Thiết Nghĩa bảo:

"Phần lớn thì phải, có điều kiếm pháp của gã hơn của lão tiêu đầu mười ba chiêu". Mắt gã chợt lộ ra vẻ khiếp sợ mà bảo:

"Theo lời đồn mười ba chiêu kiếm này tàn độc, sắc bén, cho tới nay trên đời chưa có ai ngăn đỡ nỗi." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ngươi có biết mười ba chiêu kiếm ấy do ai truyền dạy cho gã không?" Thiết Nghĩa đáp:

"Tôi có biết." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ai?" Thiết Nghĩa đáp:

"Yến Thập Tam!" Chiều tà xuống làm nỗi lên một cầu vồng sặc sỡ, sau cơn mưa coi bộ càng yên tĩnh đẹp đẽ không bút nào tả nỗi. Theo lời truyền lại từ ngàn xưa, cầu vồng xuất hiện là mang hòa bình hạnh phúc cho nhân gian, thế sao chiều tà lại cứ đỏ bầm như máu? Cờ tiêu vẫn đỏ như máu y như cũ.

Mười ba mặt cờ tiêu, mười ba cỗ xe tiêu. Xe đã dừng bánh, dừng bánh ở sân sau một khách sạn. Thiết Khai Thành đứng dưới giọt gianh mái hiên nhìn cờ tiêu trên xe rồi chợt bảo:

"Xé cờ xuống!" Các tiêu sư ngập ngừng không ai dám ra tay. Thiết Khai Thành bảo:

"Có người xé cờ tiêu lệnh của chúng ta thì cũng cầm bằng ngàn ngàn vạn vạn lá cớ tiêu của chúng ta bị xé. Mối thù này không báo, mối nhục này không rửa thì trong giang hồ còn ai coi lá cờ tiêu của chúng ta ra gì nữa!" Mặt tuy không biểu lộ một chút tình cảm nào, nhưng giọng nói thì tràn trề quyết tâm và lời chàng ta dù sao cũng là mệnh lệnh. Mười ba người chạy đi, mười ba đôi tay cùng lúc xé lá cờ tiêu nhưng cờ tiêu chưa xé được thì mười ba đôi tay khựng lại giữa khoảng không và mười ba cặp mắt đồng thời nhìn thấy một người.

Một con người đi đứng một mình, khác hẳn mọi người. Không cho đi chàng cứ đi, không nghĩ là chàng đến thì chàng lại đến. Người này đầu tóc rối bù, quần áo bị mưa ướt đẫm vẫn còn chưa ráo trông có vẻ lam lũ mệt nhoài, người này là Tạ Hiểu Phong.

Thiết Nghĩa là người cao lớn tráng kiện còn trẻ trung, mày rậm mắt to, khí thế hừng hực nhưng đứng sau lưng chàng thì chẳng khác gì con đom đóm mùa thu với vầng trăng vằng vặc, như ngọn lửa đuốc dưới ánh mặt trời. Cũng vì người này là Tam thiếu gia họ Tạ, Tạ Hiểu Phong! Thiết Khai Thành thấy Tạ Hiểu Phong tiến vào, thì thấy chàng đã đến trước mặt:

"Ông lại tới!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ngươi phải biết ta nhất định tới chứ!" Thiết Khai Thành bảo:

"Vì ông nhất định đã nghe rất nhiều chuyện!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Phải!" Thiết Khai Thành bảo:

"Đúng sai, cong thẳng, đương nhiên ông nhất định phải phân biệt rõ ràng." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Phải!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Trong tay ông không có kiếm?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Phải!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Kiếm ở trong lòng ông?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Trong lòng không có kiếm! ít nhất ngươi cũng trông thấy chứ!" Thiết Khai Thành đăm đăm nhìn Tạ Hiểu Phong rồi từ tốn bảo:

"Trong lòng nếu có kiếm, sát khí ở trên mày." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Phải!" Thiết Khai Thành lại hỏi:

"Tay ông không cầm kiếm, lòng ông không có kiếm, kiếm của ông ở đâu?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"ở trên tay ngươi!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Kiếm của tôi lại là kiếm của ông à?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Phải!" Thiết Khai Thành bỗng rút kiếm ra. Thiết Khai Thành vốn không đeo kiếm. Con hiếu vừa mới tang cha trên mình không được mang theo hung khí, nhưng người hầu thường theo sát đằng sau chàng ta đều đeo kiếm. Hình trạng của kiếm thật giản dị, người có kinh nghiệm dùng kiếm chỉ liếc qua có thể thấy mỗi cây kiếm đều là một cây kiếm sắc có thể dùng được ngay.

Cây kiếm này vốn không đâm Tạ Hiểu Phong. Mọi người đều thấy ánh kiếm lóe lên dường như đã tuột khỏi tay mà vuột ra nhưng kiếm vẫn ở trên tay Thiết Khai Thành chỉ có điều mũi kiếm lại xoay hướng trỏ vào người chàng ta. Thiết Khai Thành dùng hai đầu ngón tay rón đầu mũi kiếm chầm chậm đưa ngang cán kiếm ra đưa hướng về phía Tạ Hiểu Phong.

Mọi người đều thấy tim như nhói lên, lòng bàn tay nhơm nhớp mồ hôi lạnh giá. Thiết Khai Thành làm như vậy có khác nào tự sát! Chỉ cần tay Tạ Hiểu Phong nhón cán kiếm đẩy về phía trước thì ai mà tránh nỗi, ai mà chặn nỗi?

Tạ Hiểu Phong đăm đăm nhìn Thiết Khai Thành rồi cũng chầm chậm chìa tay đón kiếm. Thiết Khai Thành mở lỏng ngón tay, bàn tay thõng xuống. Cả hai người cùng ngưng thần nhìn nhau, trong ánh mắt mang tình cảm rất quái lạ.

Bỗng kiếm quang lại lóe lên như đám mây được gió xuân thỗi lướt trên mặt đất, mau lẹ như tia chớp từ trên trời giáng xuống. Không ai có thể tránh nỗi kiếm này. Thiết Khai Thành cũng không tránh nỗi. Nhưng nhát kiếm lại không đâm vào chàng ta, ánh kiếm lại lóe lên bỗng đâu đã vèo vào họng Thiết Nghĩa. Mặt Thiết Nghĩa biến sắc, mặt mọi người đều biến sắc. Chỉ có Thiết Khai Thành là không đỗi thay sắc mặt dường như biến hóa kinh người này vốn đã đoán sẵn trong dự liệu của chàng ta.

Củ hầu của Thiết Nghĩa trồi lên trụt xuống, rất lâu sau gã mới phát được lên thành tiếng. Thanh âm khản đặc run rẩy:

"Tạ đại hiệp, ngài... ngài... thế này là ý gì?" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ngươi không hiểu ử" Thiết Nghĩa bảo:

"Tôi không hiểu!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Như thế ngươi sẽ bớt hồ đồ đi!" Thiết Nghĩa bảo:

"Tôi vốn là người hồ đồ mà!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ngươi hồ đồ sao lại toàn bịa đặt?" Thiết Nghĩa cãi:

"Ai... ai bịa đặt?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ngươi bịa ra một câu chuyện rất hay, diễn một màn kịch rất xúc động lòng người, trong kịch các nhân vật diễn xuất phối hợp rất ăn ý, tình tiết rất chặt chẽ nhịp nhàng. Chỉ đáng tiếc là trong kịch để lộ hai chỗ sơ hở." Thiết Nghĩa ngơ ngác:

"Sơ hở? Sơ hở thế nào?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Thiết lão tiêu đầu được phát tang ba ngày rồi Thiết Khai Thành mới đuỗi bốn người kia ra khỏi tiêu cục rồi lại sai người ngầm đuỗi theo giết phải không?" Thiết Nghĩa:

"Không sai!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Nhưng ngươi không nỡ hạ thủ, chỉ mang bốn bộ quần áo máu về nộp?" Thiết Nghĩa:

"Không sai!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Thiết Khai Thành có tin ngươi không?" Thiết Nghĩa đáp:

"Xưa nay vẫn tin." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Thế mà bốn người ngươi đã giết hôm nay bỗng nhiên sống lại. Thiết Khai Thành nhìn thấy tận mắt thế mà vẫn còn tin ngươi y như cũ lại còn sai ngươi đi tra xét lai lịch của họ, chẳng lẽ chàng ta là thằng ngốc ư? Thế sao ta thấy chàng ta chẳng có vẻ ngốc nghếch chút nào!" Thiết Nghĩa không nói nên lời, đầy đầu mồ hôi túa ra rơi xuống như mưa. Tạ Hiểu Phong lại thở dài bảo:

"Nếu ngươi muốn ta đi giết Thiết Khai Thành cho ngươi, nếu ngươi muốn hai chúng ta trai cò đấu nhau để ngươi làm lão đánh cá cười khì hưởng lợi thì ngươi phải bịa ra câu chuyện hay hơn thế nữa, hay ít nhất cũng phải rõ ràng có tình có lý cơ. Hơn nữa còn đóa hoa hạt châu đâu phải giá chỉ đôi ba trăm lạng bạc?" Chàng không nhìn Thiết Nghĩa lần nào nhưng Thiết Nghĩa lại nhìn chàng đăm đăm, nhìn chăm chú vào hậu não và sau cỗ chàng, mắt chợt lộ vẻ muốn giết người rồi bỗng một kiếm vút đi phạt luôn vào đó. Tạ Hiểu Phong tuy không quay đầu lại, cũng không né tránh chỉ thấy trước mắt ánh kiếm lóe lên lướt qua cạnh cỗ chàng đâm phập vào họng Thiết Nghĩa. Đà kiếm đi chưa hết còn đẩy xác Thiết Nghĩa đi xa bẩy tám thước ghim phập xác vào một chiếc xe tiêu.

Lúc đó bóng chiều tà mới nhá nhem dần, cầu vồng tren không đã mờ hết. Trong sân có người xách treo đèn lên, đèn đỏ. ánh đèn rọi vào bộ mặt xanh nhợt của Thiết Khai Thành làm cho ửng đỏ lên.

Tạ Hiểu Phong nhìn Thiết Khai Thành bảo:

"Ngươi biết trước nhất định ta lại tới chứ?" Thiết Khai Thành thừa nhận là biết. Tạ Hiểu Phong lại bảo:

"Vì ta nghe quá nhiều chuyện nên ngươi tin nhất định là ta sẽ nghe ra sơ hở?" Thiết Khai Thành bảo:

"Vì ông là Tạ Hiểu Phong!" Mặt chàng ta vẫn không một nét biểu hiện gì chỉ khi nói đến ba chữ "Tạ Hiểu Phong" thì giọng có vẻ tràn đầy kính trọng. Mặt Tạ Hiểu Phong thoáng lộ nét cười, bảo:

"Phải chàng định mời ta uống vài chung rượu?" Thiết Khai Thành bảo:

"Tôi một giọt cũng không nhấp." Tạ Hiểu Phong thở dài bảo:

"Uống một mình mất thú, xem ra ta đành phải đi thôi!" Thiết Khai Thành bảo:

"Giờ ông vẫn chưa thể đi được!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao?" Thiết Khai Thành bảo:

"Hãy để bông hoa ngọc ấy lại." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Bông hoa ngọc?" Thiết Khai Thành bảo:

"Bông hoa tôi bỏ ba trăm lạng bạc ra mua để cho người khác ấy, không thể đưa cho ông được!" Tạ Hiểu Phong nheo mắt lại bảo:

"Thật ngươi mua ư? Thật ngươi sai Thiết Nghĩa mua ử" Thiết Khai Thành bảo:

"Không sai mảy may!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nhưng đóa hoa ngọc ấy giá ít nhất cũng phải từ tám trăm lượng trở lên, ba trăm lạng làm sao mua nỗi!" Thiết Khai Thành bảo:

"Chủ hiệu Thiên Thực là phòng kế toán của tiêu cục Hồng Kỳ vì vậy giá cả đặc biệt rẻ. Huống hồ nghề buôn châu ngọc lợi nhuận ăn dày, ông ta định giá ấy bán cho tôi cũng chẳng khuynh gia bại sản đâu!" Tạ Hiểu Phong lòng trĩu xuống nhưng một luồng khí lạnh dồn từ gan bàn chân lên.

"Lẽ nào ta trách oan Thiết Nghĩa?" "Thiết Khai Thành bảo gã đi tra xét lý lịch bốn người kia phải chăng là giăng bẫy?" Thiết Khai Thành bảo:

"Ngoài đóa hoa châu ra ông phải để máu lại để rửa nhục cho cờ tiêu của tôi!" Chàng ta nói dằn từng tiếng:

"Cờ tiêu bị xé, mối nhục này chỉ có thể dùng máu mới rửa sạch, mà không phải máu ông, chính là máu tôi!" Gió lạnh réo gào. Giữa trời đất tràn ngập không khí giết chóc. Tạ Hiểu Phong cuối cùng thở dài thật dài mà bảo:

"Ngươi là người thông minh, quả thực rất thông minh." Thiết Khai Thành bảo:

"Người thông minh một đồng xu có thể mua được một việc." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta vốn không muốn giết ngươi!" Thiết Khai Thành lại bảo:

"Còn tôi không giết ông không được!" Tạ Hiểu Phong đăm đăm nhìn chàng ta bảo:

"Có việc ta không hỏi ngươi rõ ràng là không xong!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Việc gì?" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Lão tiêu đầu Thiết Trung Kỳ có phải bố đẻ của ngươi không?" Thiết Khai Thành đáp ngay:

"Không phải!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Thế thì cuối cùng ông ta vì sao mà chết?" Bột mặt như tạc bằng đá của Thiết Khai Thành bỗng méo xệch đi, chàng ta nghiêm giọng bảo:

"Dù lão nhân gia vì sao mà chết cũng chẳng quan hệ gì đến ông." Chàng ta đột ngột rút kiếm, rút ra hai cây kiếm xong tay cắm vào trong đất, lưỡi kiếm cắm xuống đất ngập luôn tận chuôi. Dùng lụa đen quấn chặt cán kiếm, cũ kỹ mà giản dị.

Thiết Khai Thành bảo:

"Hai cây kiếm này cùng ở một lò luyện ra nhưng nặng nhẹ khác nhau." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ngươi quen dùng cây nào?" Thiết Khai Thành bảo:

"Lò này luyện ra được bẩy cây kiếm, cả bẩy cây tôi đều dùng vừa tay cả. Riêng điểm này tôi có được phần lợi hơn." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Không có gì." Thiết Khai Thành bảo:

"Kiếm pháp của tôi tuy lấy nhanh để thắng, nhưng cao thủ đấu với nhau lại còn lấy nặng làm mạnh." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta biết!" Dĩ nhiên chàng biết. Bằng vào công phu của họ, kiếm có nặng mà vào tay họ thì cũng thế vẫn có thể vung múa tự nhiên. Nhưng hai cây kiếm lớn nhỏ dài ngắn như nhau cây nào nhẹ hơn tức là chất lượng cây kiếm đó dĩ nhiên phải tốt hơn. Chất kiếm nặng lên một phân tì phải kéo dài một phân công lực, cao thủ đấu với nhau chỉ nửa phân cũng không thể để sai sót được.

Thiết Khai Thành bảo:

"Tôi tất nhiên không muốn đưa cây kiếm nặng hơn cho ông mà cũng không muốn chiếm phần lợi hơn với ông, đành để chúng ta trông chờ vào vận may thôi!" Tạ Hiểu Phong nhìn Thiết Khai Thành, lòng tự hỏi lòng:

"Chàng thiếu niên này cuối cùng là loại người ra sao đây? Trước mắt Tạ Hiểu Phong vô địch thiên hạ mà chàng ta vẫn không dành chiếm nửa phân lợi hơn, xem con người kiêu ngạo đến thế này, lẽ nào lại có thể làm những chuyện gian trá hiểm độc được ử" Thiết Khai Thành lại bảo:

"Mời! Mời ông chọn trước!" Chuôi kiếm y hệt nhau, lưỡi kiếm cắm ngập trong đất. Cây kiếm nào chất nặng chất nhẹ hơn đây? Không ai có thể thấy được. Không trông thấy có trở ngại gì? Có kiếm có trở ngại gì? Không có kiếm có trở ngại gì?

Tạ Hiểu Phong cúi mình nắm lấy cán một cây kiếm nhưng chưa rút lên. Chàng còn đợi Thiết Khai Thành. Lưỡi kiếm vẫn còn nằm trong đất nhưng tay chàng đã cầm chắc cán kiếm thì khí kiếm đã như phá đất vọt lên, tuy cúi mình, cong lưng nhưng tư thế của chàng vừa sinh động vừa đẹp đẽ hoàn toàn không có uể oải để có thể đánh vào.

Thiết Khai Thành nhìn Tạ Hiểu Phong, dường như trước mắt chàng ta vừa xuất hiện hình bóng một con người đáng được tôn kính y như thế. Núi hoang tịch mịch, có lúc trắng sáng như gương có lúc gió thảm mưa sầu, người ấy đã đem kiếm pháp truy hồn đoạt mệnh truyền dạy cho chàng ta và cũng thường đem chuyện của Tạ Hiểu Phong kể lại cho nghe. Người ấy đến mặt Tạ Hiểu Phong cũng chưa được gặp qua nhưng thấu hiểu được Tạ Hiểu Phong thì chắc cả thế gian này chẳng ai sâu sắc bằng. Vì mục tiêu một đời của người ấy vĩ đại nhất vẫn là muốn đánh bại Tạ Hiểu Phong.

Lời người ấy nói Thiết Khai Thành không bao giờ quên.

"Tạ Hiểu Phong là loại người như thế." "Chàng chưa bao giờ coi thường đối thủ của mình vì vậy đã ra tay là vận toàn lực." "Chỉ nguyên một điểm ấy, người học kiếm trong thiên hạ phải lấy chàng làm gương." Tay Thiết Khai Thành tuy giá lạnh nhưng máu như sục sôi: được giao đấu cùng Tạ Hiểu Phong đối với chàng ta là việc đáng vui mừng kiêu ngạo nhất ở đời. Chàng ta hy vọng một đánh là thắng, thắng để dương danh thiên hạ lấy máu Tạ Hiểu Phong rửa mối nhục cho tiêu cục Hồng Kỳ nhưng ở tận chỗ thẳm sâu nhất của đáy lòng chàng ta vẫn cứ thấy tôn kính vô cùng đối với Tạ Hiểu Phong?

"Mời!" Từ đó vừa buông ra, kiếm của Thiết Khai Thành đã tuốt lên hết sức đâm tới. Dĩ nhiên chàng ta đâu dám coi thường đối thủ, đã ra tay là phải vận hết toàn lực.

"Thiết kỵ khoái kiếm" (Ngựa sắt kiếm nhanh) danh vang thiên hạ, một trăm ba mươi hai thức liên hoàn khoái kiếm, nhát kiếm này hung hơn nhát kiếm khác. Chàng ta vừa ra tay đã đánh liền ba bẩy hai mươi mốt kiếm của hoàn thứ nhất "Loạn huyền thức" trong Liên hoan khoái kiếm.

Khi chàng sử hai mươi mốt kiếm "Loạn huyền thức" này đối phương nhất định phải dùng kiếm ngáng đỡ. Đôi kiếm đánh vào nhau, tiếng vấn vít như giây rối, "huyền" là giây vì thế mới đặt tên hoàn này là "Loạn huyền". Thế nhưng lần này Thiết Khai Thành đánh ra hai mươi mốt kiếm xong hoàn toàn chẳng có một âm thanh nào, không có một tiếng kiếm chạm nhau nào. Vì trong tay đối thủ của Thiết Khai Thành không có kiếm mà chỉ có một đoạn giây lụa mầu đen loang loáng phát sáng. Đó chính là giây lụa quấn quanh chuôi kiếm.

Tạ Hiểu Phong không rút kiếm lên, chàng chỉ rút giải lụa quấn chuôi kiếm để đấu.

HỒI 34 - THIẾT KỴ KHOÁI KIẾM

Là lụa cũng tốt, là kiếm cũng tốt. Đã vào tay Tạ Hiểu Phong thứ gì cũng có uy lực. Mũi tên đã rời giây cung. Cuộc quyết chiến đã bắt đầu. Thiết Khai Thành không còn đất để lùi nữa.

Lại ba bẩy hai mươi mốt kiếm đâm ra, đây là hoàn cuối cùng "Đoạn huyền thức" trong "Thiết kỵ khoái kiếm". Đây là phần tinh túy nhất trong "Thiết kỵ khoái kiếm", trong ánh kiếm múa động phảng phất có tiếng ngựa sắt mâu vàng, có tiếng sát phạt nơi trận địa. Thời tráng niên Thiết Trung Kỳ giết chóc nặng nghiệp, thân trải trăm trận, một trăm ba mươi hai thức liên hoàn khoái kiếm thông thường ông ta chỉ dùng đến tám chín chục chiêu đối phương đã táng mạng dưới lưỡi khoái kiếm. Nếu phải dùng đến hoàn cuối cùng nhất định đối thủ quá mạnh nên hoàn khoái kiếm này từng chiêu từng chiêu đều không tiếc gì mà không "đống quy ư tận" với đối thủ nên toàn là chiêu sát thủ cả. Vì thế mỗi nhát kiếm đâm ra đều không còn lưu lại một đường tơ kẽ tóc nào nữa, tuyệt đối không lưu lại một chút sức thừa.

Vì hai mươi mốt nhát kiếm này đã đánh xong như tiếng đàn đã dứt, người và kiếm cùng mạng vong. Khí kiếm tung hoành, chớp mắt đã đâm ra đủ hai mươi mốt kiếm. Mỗi nhát kiếm đánh ra đều như đấu sĩ giết thù không còn gì phải giữ, nếu xét về mặt bi tráng khốc liệt thì tuyệt không có loại kiếm pháp nào sánh bằng.

Nhưng đằng này hai mươi mốt kiếm đánh xong cứ như hòn đá chìm đáy biển chẳng thấy tăm hơi. Đã tới lúc này người tuy chưa chết nhưng các hoàn, thức kiếm đã hết sạch người chưa chết nhưng không chết không xong. Những người cũ đi theo Thiết Trung Kỳ lâu năm mắt trông thấy ông ta khi sử hết chiêu kiếm cuối cùng đều không sao nén nỗi mà không phát ra tiếng thở than dài kinh ngạc. Ai ngờ khi Thiết Khai Thành đánh hết chiêu kiếm cuối cùng của "Thiết kỵ khoái kiếm" thì thức kiếm đột nhiên biến đỗi, cây kiếm nhẹ phất phơ đâm ra. Lúc nẫy khí kiếm và sát khí cực nặng nề như bầu trời dầy đặc mây đen, nhát kiếm bây giờ đưa ra bỗng như đầy trời mây đen tan sạch, ánh thái dương lại hiện ra.

Nhưng không phải ánh mặt trời ấm áp mơn man mà là mặt trời gay gắt tan vàng nát đá, vầng mặt trời đỏ bầm máu đọng lúc tịnh dương. Vừa rồi Thiết Khai Thành thi triển thứ kiếm pháp bi tráng, khốc liệt thì dường như Tạ Hiểu Phong không để lọt vào con mắt.

Nhưng chiêu kiếm này vừa vẫy ra, chàng chợt thất thanh khen:

"Giỏi! Kiếm pháp giỏi!" Bốn tiếng vừa nói ra thì Thiết Khai Thành đã đâm ra bốn kiếm, mỗi nhát kiếm dường như biến hóa vô cùng nhưng lại không biến hóa gì cả, dường như vật vờ kỳ thực lại rất trầm nặng, dường như hời hợt kỳ thực rất độc hại. Tạ Hiểu Phong không đánh trả, không đỡ gạt.

Chàng còn xem. Cứ như một chàng thiếu niên lần đầu tiên được nhìn gái đẹp khỏa thân, chàng mải xem có phần say sưa có phần si mê.

Nhưng bốn nhát kiếm không động đến sợi tóc của chàng. Thiết Khai Thành rất lấy làm lạ. Rõ ràng chiêu kiếm nhằm rất chuẩn đưa thẳng vào ngực đối phương nhưng lại áp sát lồng ngực đối phương mà lướt qua hoặc nhìn rõ ràng đã đâm trúng họng đối phương nhưng lại hóa ra đâm vào khoảng không. Mỗi chiêu kiếm đưa ra về phương thức và biến hóa dường như đã nằm sẵn trong sự liệu định của Tạ Hiểu Phong! Thế kiếm của Thiết Khai Thành bỗng nhiên hóa chậm, thật chậm. Một kiếm đưa ra không định giới hạn, không thành chương pháp nhưng chiêu kiếm đó cứ như con mắt của rồng do Ngô Đạo Tử vẽ tuy là không có mắt, là khoảng trống nhưng lại là đầu mối của mọi sự biến hóa. Bất kỳ đối phương "động" ra sao nhưng chỉ cần động một cái, nhát kiếm sau sẽ có thể đưa đối phương vào đất chết, Tạ Hiểu Phong không động. Mọi động tác của chàng trong khoảnh khắc đó dường như dừng lại, chỉ thấy nhát kiếm ngốc nghếch và vụng về đó chầm chậm đâm qua bỗng dưng hóa thành một trận mưa hoa.

Đầy trời hoa kiếm, đầy trời mưa kiếm, bỗng dưng lại hóa thành cây cầu vồng như lụa trắng. Cầu vồng bay bẩy sắc, bẩy kiếm, nhiều mầu sắc nhiều tư thế, thiên biến vạn hóa nhưng chợt bị mây đen che khuất. Sợi giây lụa đen.

Mây đen như giải giây lưng lụa. Động tác của Thiết Khai Thành bị chững lại, đầy đầu mồ hôi lạnh rỏ xuống như mưa.

Động tác của Tạ Hiểu Phong bỗng chững lại. Từng chữ từng chữ nhấn hỏi:

"Đây là Đoạt mạng kiếm của Yến Thập Tam?" Thiết Khai Thành lặng ngắt. Im lặng là thừa nhận. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Giỏi! Kiếm pháp giỏi!" Rồi chàng thở dài thườn thượt và nói tiếp:

"Đáng tiếc, đáng tiếc thay!" Thiết Khai Thành không nén được bật hỏi:

"Đáng tiếc?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Đáng tiếc là chỉ có thập tam kiếm (mười ba kiếm) nếu có thập tứ kiếm thì ta phải bại rồi!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Có thập tứ kiếm ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Có chứ! Nhất định có!" Chàng trầm ngâm rất lâu, rất là lâu rồi mới chầm chậm nói tiếp:

"Kiếm thứ mười bốn mới là tinh túy của kiếm pháp này!" Tinh túy của kiếm, linh hồn của người, đồng dạng với hư vô và thấp thoáng, tuy nhìn không thấy nhưng không ai dám phủ nhận sự tồn tại của chúng! Tạ Hiểu Phong bảo:

"Mọi biến hóa và uy lực của "Đoạt mạng thập tam kiếm" chỉ có thể phát huy được ở thập tứ kiếm một cách hoàn toàn, còn nếu có thể biến hóa được thêm thập ngũ kiếm thì thành thiên hạ vô địch!" Tay Tạ Hiểu Phong vừa chặn lại, giải lụa đen bỗng vươn ra thẳng dẵng khác nào cây kiếm. Kiếm vung ra như chiều tà như trưa nắng lửa, như cầu vồng mầu sắc sặc sỡ lại như mây đen mù mịt, như động như tĩnh như ở bên trái lại là bên phải, vừa ở trước lại vừa ở sau, vừa nhanh vừa chậm, như có như không. Tuy chỉ là một giải lụa mềm nhưng trong phút giây này đã thắng mọi thứ binh khí sắc có thể giết người có ở thế gian này.

Trong thoáng chốc vừa rồi mồ hôi lạnh của Thiết Khai Thành lại toát ra ướt đẫm cả áo quần. Chàng ta hoàn toàn không thể nào phá giải không thể nào chống đỡ không thể nào đón đánh cũng không thể nào né tránh thoát. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Đó là "Thập tứ Đoạt mạng kiếm"!" Thiết Khai Thành hết cách mở miệng. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nếu ngươi sử được chiêu này thì có thể ngăn chặn được mọi đường thoát khỏi chết của ta" Thiết Khai Thành rất hối hận chỉ hận mình xưa nay sao không nghĩ ra được biến hóa này. Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Giờ ngươi đã nhìn thấy rõ chiêu kiếm này chưa?" Thiết Khai Thành đã nhìn rõ ràng. Chàng ta luyện kiếm từ bé, khỗ luyện kiếm. Về phương diện này chàng ta là nhân tài tuyệt đỉnh, đã thế còn đỗ mồ hôi, đỗ cả máu nữa. Tạ Hiểu Phong:

"Ngươi hãy nom lại lần nữa đây!" Tạ Hiểu Phong biểu diễn lại một lượt nữa chiêu thức và biến hóa của chiêu kiếm này rồi hỏi:

"Giờ đã nhớ kỹ hay chưa?" Thiết Khai Thành gật đầu. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Thế thì ngươi thử xem!" Thiết Khai Thành nhìn Tạ Hiểu Phong không hiểu rõ ý tứ của Tạ Hiểu Phong ra sao. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta muốn ngươi dùng chiêu kiếm này đối phó với ta để xem có phá được kiếm của ta không?" Thiết Khai Thành mắt bỗng lóe sáng nhưng rồi ánh sáng đó lập tức tắt ngay. Chàng ta bảo:

"Tôi không thể làm thế được!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta nhất định muốn ngươi làm!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Tại sao?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vì ta cũng muốn thử xem có phá được chiêu kiếm này không!" Vì chiêu kiếm này do chàng sáng tạo ra nhưng mọi tinh túy biến hóa lấy nguồn từ "Đoạt mạng thập tam kiếm" Linh hồn của chiêu kiếm này thuộc về Yến Thập Tam. Thiết Khai Thành đã rõ ý tứ của Tạ Hiểu Phong. Mắt chàng ta lộ đầy vẻ tôn kính bảo:

"Ông thật là người kiêu ngạo!" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Ta vốn thế!" Thiết Khai Thành bảo:

"Nhưng ông thực ra chỉ tự ngạo mình!" Tạ Hiểu Phong lại đáp:

"Ta vốn thế!"... Một kiếm lại đưa ra. Khí kiếm buốt lạnh lập tức đè áp tới người đến ánh đèn cũng phải lu mờ. Tạ Hiểu Phong lùi lại. Nhát kiếm này đã bó chết toàn bộ thế công của chàng. Chàng đành phải lùi. Chàng lùi nhưng không phải thế bại. Thân mình Tạ Hiểu Phong tuy bị sức mạnh của nhát kiếm này đè ép nhìn lại phía sau và cúi cong lại như cây cung nhưng giây cung đã kéo căng bất kỳ lúc nào cũng có thể bật ra thì áp lực càng lớn, lực phản kích càng mạnh.

Phải đợi đến khoảnh khắc ấy thì sẽ lập tức quyết định được thắng bại sống chết của họ. Ai ngờ đúng lúc lực chàng dẫn lên đã tràn đầy sắp phát nhưng chưa phát thì ở phía sau xe tiêu từ cột hành lang trong đám đông bỗng có bốn cây kiếm bay đến. Toàn bộ tâm thần của Tạ Hiểu Phong tập trung cả vào cây kiếm trong tay Thiết Khai Thành còn đâu sức thừa để lo đến những việc khác.

Kiếm quang loáng lên. Ba cây kiếm đã đồng thời đâm vào bả vai, sườn trái và sau lưng Tạ Hiểu Phong. Toàn bộ sức lực của chàng sụp đỗ. Thiết Khai Thành thẳng mặt phóng kiếm tới mũi kiếm đâm thẳng vào điểm yếu hại ở cỗ họng Tạ Hiểu Phong. Chàng biết là mình không còn thể nào che đỡ, tránh né được nữa, cuối cùng chàng cũng sẽ được thưởng thức mùi vị của cái chết.

"Đó là mùi vị như thế nào?" "Trong khoảnh khắc trước khi chết có thật con người sẽ sực nhớ lại mọi sự việc đã qua của cuộc đời không?" "Trong cả cuộc đời ấy, con người ta được bao nhiêu khoái lạc, chịu bao nhiêu đau khỗ?" "Cuối cùng là người phụ mình hay mình phụ người?" Những vấn đề đó trừ chàng ra không ai có thể giải đáp nỗi. Chàng cũng chẳng có cách gì giải đáp. Mũi kiếm giá buốt đã thọc vào cỗ họng chàng. Chàng đã có thể cảm thấy được sự buốt lạnh thấu xương cốt, buốt lạnh đến phát run. Cuối cùng Tạ Hiểu Phong đã gục ngã, gục ngã dưới lưỡi kiếm của Thiết Khai Thành gục ngã ngay trên máu và nước mắt của mình.

Chàng cũng còn không kịp biết bốn kẻ đánh trộm sau lưng chàng là ai. Thiết Khai Thành trông thấy Tào Hàn Ngọc và anh em họ Viên ra còn một người thân cao dong dỏng, ăn mặc hoa mỹ nhưng lạ mặt nhưng xem ra lộ đầy vẻ bi thương, tiều tụy, mệt mỏi không sao tả xiết.

Viên Thức Vân mỉm cười bảo:

"Chúc mừng Tỗng tiêu đầu một nhát thành công, uy lực của nhát kiếm này tất sẽ lừng danh thiên hạ!" Mặt Thiết Khai Thành không để lộ nét biểu hiện tình cảm gì kiếm trong tay thõng xuống. Viên Thứ Vân bảo:

"Lần này chúng ta tuy là cùng chung gấm thêu hoa, nhưng nhát đánh thành công phải là công của Tỗng tiêu đầu." Thiết Khai Thành hỏi:

"Bốn người các vị, bốn kiếm cùng tung ra, sao chẳng có nhát nào phạm vào nơi yếu hại của ông ta, phải chăng là để tôi tự tay giết ông tả" Viên Thứ Vân không phủ nhận. Thiết Khai Thành nhìn người quần áo hoa lệ kia hỏi:

"Vị bạn bè đây là..." Viên Thứ Vân đáp:

"Vị này là công tử lớn của Hạ Hầu thế gia là Hạ Hầu Tinh" Thiết Khai Thành thở dài một hơi lẩm bẩm:

"Cảm ơn các vị! Cảm ơn các vị..." Tiếng của chàng ta càng nói càng thấp xuống dường như rất mệt nhọc thứ mệt mỏi có sau khi đã thắng lợi. Viên Thứ Vân bảo:

"Máu của lão ta giờ vẫn chưa lạnh, sao tỗng tiêu đầu còn chưa dùng máu của lão nhuộm cho màu lá cờ của quý tiêu cục càng thêm đỏ thắm?" Thiết Khai Thành bảo:

"Thì tôi đang chuẩn bị làm việc đó đây!" Tiếng cuối cùng vừa buông khỏi miệng, thanh kiếm trong tay chàng ta đang rũ xuống bỗng vẩy trở lên đâm vào Viên Thứ Vân. Viên Thứ Vân kinh hãi vung kiếm đánh trả, hai kiếm chạm nhau tiếng kêu xoang xỏang.

Thiết Khai Thành cao giọng quát:

"Sự việc này không phải ta sắp xếp! Thiết Khai Thành này không phải là hạng tiểu nhân vô sỉ! Mối sỉ nhục này chỉ có thể dùng máu mới rửa được sạch, không phải máu của bọn chúng mà là máu của ta!" Những lời này dường như nói cho Tạ Hiểu Phong nghe nhưng người đã chết còn làm sao nghe được lời của chàng ta? Hạ Hầu Tinh bỗng hét to:

"Ông ta không chết! Ông ta chưa chết!..." Thanh âm kích động đến độ gần như điên khùng, kiếm pháp mà quá kích động thì cũng biến ra thành gần như điên khùng, gần điên khùng mà đuỗi giết Tạ Hiểu Phong từ phía sau mỗi nhát kiếm đâm ra đều vào nơi yếu hại. Tạ Hiểu Phong bỗng rút cây kiếm cắm trên mặt đất khi nãy vớt một kiếm ra ra sau... Chàng không quay đầu nhưng trong kiếm pháp của Hạ Hầu Tinh những chỗ nào bỏ trống, chỗ nào sơ hở chàng đều tính rất chuẩn xác, chỉ tiện tay một kiếm vẩy ra thì ba chỗ sơ hở trong kiếm pháp của Hạ Hầu Tinh đã bị chàng đánh vào.

Mặc chiêu thức của Hạ Hầu Tinh biến hóa cách nào cũng đều bị đánh phá sạch. Nhưng Tạ Hiểu Phong vết thương cũ chưa lành lại bị thêm thương tích mới nên chàng ngoái tay ra sau thì ở chỗ xương bả vai dội lên một cơn đau như xé người.

Nhát kiếm này về kiếm thì thắng! Nhưng bại về lực! "Keng" một tiếng, hai kiếm chém nhau, kiếm của Tạ Hiểu Phong bị chấn dội tuột tay bay đi. ánh kiếm như sao băng bay vọt ra ngoài tường. Nhìn thấy kiếm của mình bay vụt đi, Tạ Hiểu Phong bỗng cảm thấy dạ dày mình co rút lại cứ như lúc thấy người tình bỏ mình mà đi xa lại giống như bị hẫng lúc bước hụt chân rơi từ muôn trượng cao xuống. Xưa nay chàng chưa có kinh nghiệm kiểu này bao giờ, đây là việc xưa nay tuyệt nhiên không bao giờ có thể xẩy ra... Mũi kiếm lạnh ngắt đã áp sát vào cỗ Tạ Hiểu Phong, cơ hồ sắp đâm suốt vào mạch máu lớn ở sau đầu... Hạ Hầu Tinh bỗng dừng tay, dằn từng chữ hỏi:

"Ngươi biết ta là ai không?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nội lực của ngươi dường như đã tinh tiến, nhưng xưa nay ngươi không quen đánh sau lưng người khác đến "thành thương"!" Hạ Hầu Tinh xoay mình đã đến trước mặt chàng, lưỡi kiếm lướt quanh cỗ của chàng để lại một đường máu chẳng khác gì sợi dây đỏ đeo trên cỗ cô bé gái. Chỗ cỗ bị Thiết Khai Thành đâm khi nẫy máu đã đông, trông bây giờ chẳng khác gì viên san hô đỏ đeo ở sợi dây điều trên cỗ.

Hạ Hầu Tinh cười nhạt bảo:

"Những việc người ta nghĩ chẳng ra trên đời này vốn rất nhiều!" Tạ Hiểu Phong than dài bảo:

"Rõ ràng là có rất nhiều!" Hạ Hầu Tinh bỗng hạ giọng bảo:

"Cô ấy giờ ở đâu?" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Cô ấy là cô nào?" Hạ Hầu Tinh bảo:

"Ngươi phải biết ta nói cô ấy là ai chứ?" Hạ Hầu Tinh nghiến răng, hậm hực bảo:

"Kể từ ngày cô ấy lấy ta ta hết lòng hết dạ chiều cô ấy chỉ mong có thể cùng cô ấy một ly không rời suốt đời gần gũi, ai ngờ cô ấy... cô ấy..." Nói đến đó giọng gã run rẩy, rất lâu sau mới nói tiếp được:

"Cô ấy chỉ rình cơ hội, tìm trăm phương ngàn kế để trốn khỏi ở bên ta, để đánh bạc để uống rượu, thậm chí còn... làm điếm nữa, hình như cứ rời khỏi ta thì muốn tùy ý bảo cô ấy làm gì cô ấy cũng sẵn sàng tình nguyện làm." Tạ Hiểu Phong nhìn Hạ Hầu Tinh dường như cũng có ý đồng tình nên bảo:

"Thế thì nhất định do ngươi làm sai rồi!" Hạ Hầu Tinh giọng vỡ ra:

"Ta không sai, cô ấy sai, ngươi sai!" Tạ Hiểu Phong:

"Tả" Hạ Hầu Tinh lại bảo:

"Cho đến giờ ta mới biết tại sao cô ấy biết làm những chuyện ấy!" Tạ Hiểu Phong:

"Tại sao?" Hạ Hầu Tinh ấp úng:

"Vì... vì...". Gã nghiến răng lượn vòng quanh cỗ Tạ Hiểu Phong một vòng, mũi kiếm lại khứa vào cỗ Tạ Hiểu Phong một đường giây máu, xem ra càng đẹp nhưng xem ra xiết bao thảm tuyệt, xiết bao rùng rợn! Hạ Hầu Tinh bảo:

"Đây là kiếm sắc!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta biết rồi!" Hạ Hầu Tinh bảo:

"Chỉ cần ta xoay quanh người ngươi ba lần thì đầu lâu ngươi sẽ rơi xuống!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta biết rồi!" Hạ Hầu Tinh hỏi:

"Thế thì ngươi phải biết cô ấy làm thế vì gì chứ?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta không biết!" Hạ Hầu Tinh gầm lên:

"Cô ấy vì ngươi!" Giọng gã run lên càng dữ, đến tay cũng run nốt. Gã bảo:

"Tuy cô ấy lấy ta nhưng trong lòng cô ấy chỉ có ngươi. Ngươi có biết trong đời ngươi hại biết bao nhiêu đàn bà không? Làm chia lìa biết bao đôi vợ chồng không?" Mặt Tạ Hiểu Phong đột nhiên méo xệch đi. Vì đau khỗ và dằn vặt.

"Một người đàn ông được đàn bà yêu có phải lỗi của gã không?" "Một người đàn bà nếu yêu một người đàn ông đáng được yêu, người đàn bà ấy có sai không?" Tạ Hiểu Phong chẳng có câu trả lời mà cũng không có cách nào giải thích. Hai anh em họ Viên song kiếm giúp nhau kiềm chế được Thiết Khai Thành.

"Họ Viên áo tím" truyền đời được mười đời thanh danh không hề giảm sút, kiếm pháp gia truyền của nhà họ dĩ nhiên đã luyện rèn cả trăm ngàn lần nên bất kỳ ai muốn phá kiểu đánh "liên bích song kiếm" (song kiếm liền như vách tường) của họ cũng không phải là dễ. Mấy lần Thiết Khai Thành dường như đã ăn chắc nhưng "Đoạt mệnh thập tam kiếm pháp" của chàng ta dường như là khắc tinh của loại kiếm pháp này nếu lại dùng "thập tứ kiếm" thì song kiếm nhà anh em họ Viên sẽ phá là chắc khỏi phải nghi ngờ gì nữa, chính vì thế mãi mà Thiết Khai Thành vẫn chưa dùng đến thức kiếm này.

Chàng ta quá kiêu ngạo. Chiêu kiếm này vốn của Tạ Hiểu Phong sáng tạo ra, Thiết Khai Thành cùng chàng có món nợ còn chưa thanh toán xong, tuy Thiết Khai Thành không nhìn thấy Tạ Hiểu Phong vì bị chiêu kiếm này uy hiếp nên mới để bị người ám toán vì thế họ Thiết không thể dùng chiêu này để đánh người khác được! Nhưng "Đoạt mệnh thập tam kiếm" thiếu mất "thập tứ kiếm" này có khác gì vẽ rồng mà chưa "điểm nhãn" (vẽ mắt) tuy vẫn sinh động giống như thật nhưng rồng cũng không thể nào phá vách mà bay đi được. Khi chàng ta quyết chiến với Tạ Hiểu Phong đã dùng hết toàn lực bây giờ khí lực dần dần không đủ, ra tay toàn muộn, kiếm bị kiếm của anh em họ Viên bó chết cứng.

Tào Hàn Ngọc cười nhạt xem họ đánh nhau, chưa đáng để gã ra tay. Điều kỳ quái nhất là các tiêu sư của tiêu cục Hồng Kỳ lại thủ tay trong áo đứng xem, chẳng hề có tiêu sư nào chịu đến giúp Tỗng tiêu đầu của họ một tay. ánh kiếm lấp loáng. Cỗ tay Tạ Hiểu Phong lại thêm một vành ngấn máu, lần này mũi kiếm cứa vào càng sâu, máu tươi từng sợi từng sợi ứa ra thấm đỏ ối cả cỗ áo chàng.

Hạ Hầu Tinh gặng:

"Ngươi nói hay không nói?" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Nói cái gì?" Hạ Hầu Tinh bảo:

"Chỉ cần ngươi nói nàng ở đâu ta sẽ tha mạng cho!" Tạ Hiểu Phong đưa ánh mắt nhìn xa xa dường như không hề trông thấy kẻ đang đứng trước mặt mình, không thấy cả thanh kiếm trong tay gã. Rất lâu sau chàng mới từ tốn bảo:

"Nếu giả thực trong lòng nàng đã chẳng có ngươi, ngươi hà tất phải đi tìm nàng? Tìm thấy cũng có làm được gì?" Từng sợi, từng sợi gân nỗi hằn trên trán Hạ Hầu Tinh, mồ hôi lạnh từng giọt rơi xuống. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Huống hồ ta cũng có muốn ngươi tha ta đâu, muốn giết ta thì ngươi không xứng đâu!" Hạ Hầu Tinh tức quá gầm lên, bỗng một kiếm vung ra đâm vào cỗ họng Tạ Hiểu Phong. Nhưng cây kiếm của gã vừa mới động, bỗng nghe "bạch" một tiếng, mũi kiếm của gã đã bị hai bàn tay Tạ Hiểu Phong ép chặt lại. Hạ Hầu Tinh định rút kiếm lại nhưng rút không ra. Gã cũng biết nội lực và kiếm pháp của bản thân tuy có tiến bộ, kể từ lúc thua vì tay Yến Thập Tam xong quả là gã đã từng khắc khỗ dụng công luyện tập, chỉ đáng tiếc là tài năng của gã không bì được với Tạ Hiểu Phong, ngay một Tạ Hiểu Phong bị trọng thương gã cũng chưa sánh nỗi.

Gã phát hiện ra mình vĩnh viễn chẳng bao giờ sánh được với Tạ Hiểu Phong, về bất kỳ mặt nào gã cũng không thể nào sánh được với Tạ Hiểu Phong. Một con người tự nhận mình bị thất bại vốn không phải là chuyện dễ dàng, đến lúc không thể không thừa nhận thì cảm giác lúc đó không chỉ là hỗ thẹn mà còn là đau buồn một nỗi buồn đau tràn trề đau khỗ và tuyệt vọng. Trên mặt Hạ Hầu Tinh không chỉ có mồ hôi mà còn cả nước mắt.

Bên cạnh gã có người thở dài. Tào Hàn Ngọc thủng thẳng đi tới, tiếng thở dài đầy vẻ đồng tình và tiếc thương:

"Nếu như không có cái tên lang thang này thì tẩu phu nhân vị tất đã lỗi đạo làm vợ. Hạ Hầu huynh xin chớ nên vì trong lòng phẫn khích mà bỏ bễ vũ công, cứ như sự thông minh của Hạ Hầu huynh cộng với kiếm pháp gia truyền của họ Hạ Hầu, ắt có ngày chưa chắc đã không bằng Tạ Hiểu Phong của Thần Kiếm sơn trang đâu!" Gã nói là lời thực tình. Một người đàn ông khi lấy vợ có được một người vợ hiền tuệ hay không, thông thường là mấu chốt lớn quyết định số phận cả đời của người đàn ông ấy.

Hạ Hầu Tinh nghiến chặt răng. Những lời này thật nói đúng nỗi đau ẩn kín trong lòng gã. Tào Hàn Ngọc lại cười cợt bảo:

"May sao tên lãng tử vô tình này cũng như người khác là chỉ có hai tay!" Trong tay Tào Hàn Ngọc cũng có kiếm. Gã dùng mũi kiếm dí sát họng Tạ Hiểu Phong bảo:

"Tam thiếu gia, ông có còn lời gì muốn nói không?" Tạ Hiểu Phong còn gì để nói nữa! Tào Hàn Ngọc bảo:

"Đã thế tại sao ông không thả tay rả" Tạ Hiểu Phong thừa biết là nếu mình thả lỏng tay ra thì kiếm của Hạ Hầu Tinh sẽ đâm suốt cỗ họng chàng ngay. Nhưng nếu chàng không thả tay thì cũng thế nào? Một con người đã đến lúc buông tay mà còn chưa chịu buông chẳng phải là tự mình làm mất cả thú vị đi ư?

Chỉ có loại cực ngu xuẩn mới làm chuyện như vậy. Tạ Hiểu Phong đâu phải loại ngu xuẩn! Giờ đã đến lúc chàng nên buông tay rồi! Đến lúc này chàng vẫn còn không thể quên được người nào? Mộ Dung Thu Hoạch ư?

Hay "chú em"? Bỗng đâu kiếm quang từ tay Thiết Khai Thành ào ạt bức lùi anh em họ Viên.

Cuối cùng Thiết Khai Thành phải sử đến "thập tứ kiếm"! "Thập tứ kiếm" của "Đoạt mạng thập tam kiếm"! ánh kiếm như cầu vồng bay, kiếm khí lạnh buốt, lạnh đến xuyên cả vào cốt tủy.

HỒI 35 - MỘT ĐÓA HOA NGỌC CHÂU

Thế rồi khí kiếm đó ập tới giữa hai đường mày Tào Hàn Ngọc và Hạ Hầu Tinh. Không ai đỡ được chiêu kiếm này. Hai gã lùi lại, lùi thật nhanh, lùi thật xa. Trong tay Hạ Hầu Tinh vẫn cầm kiếm, bỗng rời tay kiếm.

Thiết Khai Thành đăm đăm nhìn họ, nhưng miệng lại nói với Tạ Hiểu Phong:

"Ông vẫn còn xuất thủ được cơ à?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Thì ta đã chết đâu!" Thiết Khai Thành bảo:

"Kiếm dùng vừa rồi, kiếm pháp do ông sáng tạo ra. Tôi dùng kiếm đó chỉ để cứu ông." Tạ Hiểu Phong hiểu ý của gã. Nếu chẳng phải chỉ vì cứu Tạ Hiểu Phong gã có chết cũng không dùng chiêu kiếm đó! Thiết Khai Thành bảo:

"Vì vậy ông khỏi cần phải cảm ơn tôi, cứu ông là kiếm pháp của ông không phải tôi!" Tào Hàn Ngọc cười nhạt:

"Giờ ngươi cứu lão, lát nữa ai cứu ngươi?" Thiết Khai Thành quay mặt lại nhìn các tiêu sư của mình trong số đó có rất nhiều bè bạn từng cùng gã trải qua hoạn nạn sống chết với nhau, trong số đó có nhiều hảo thủ từng trải qua trăm trận nhưng bây giờ khi ánh mắt của gã lướt qua mặt họ thì các bộ mặt chẳng lộ vẻ tình cảm nào, người nào người nấy như đã hóa ra tượng gỗ cả. Lòng Thiết Khai Thành trĩu xuống. Trong lòng gã bỗng ngập tràn phẫn nộ và khiếp sợ. Cuối cùng gã đã rõ một điều là các tiêu sư trong tiêu cục của y đã bị người mua hết cả.

Tiêu cục Hồng Kỳ của gã chỉ còn cái tên chứ thực đã chết rồi. Nhìn biểu hiện tình cảm trên nét mặt gã, Tào Hàn Ngọc cả cười vẩy kiếm trỏ vào Thiết Khai Thành bảo:

"Giết!" "Ai giết được chúng sẽ được thưởng lớn!" "Đầu Thiết Khai Thành năm ngàn lượng, đầu Tạ Hiểu Phong một vạn lượng!" Các tiêu sư lập tức rút đao. Đèn lồng chiếu vào đao, ánh đao đỏ như máu.

Tạ Hiểu Phong, Thiết Khai Thành kề vai mà đứng lạnh lùng nhìn ánh đao lấp loáng đang vung múa về phía họ. Giá lúc bình thời họ đâu có để lũ ô hợp này vào con mắt nhưng bây giờ một người bị trọng thương, một kẻ thì khí cùng lực hết nếu muốn giết hết lũ phản bội này xong thì cũng làm sao chống được ba cây kiếm của Tào Hàn Ngọc cùng anh em họ Viên áo tím.

"Một con người lâm vào cảnh biết mình chắc chắn sẽ chết sẽ nghĩ ngợi gì nhỉ?" Tạ Hiểu Phong chợt hỏi:

"Ngươi đang nghĩ gì vậy?" Thiết Khai Thành bảo:

"Tôi không phục, sao đầu lâu của ông lại quý gấp đôi đầu tôi chứ?" Tạ Hiểu Phong cả cười. Trong tiếng cười vang, bên ngoài tường bỗng có người lăng không bay tới xông vào giữa đám ánh đao, hai ngón tay cái chĩa ra một trỏ lên trời một chỉ xuống đất còn miệng cao giọng hét:

"Trời đất tối tăm, chỉ ta độc tôn".

"Trời đất tối tăm, chỉ ta độc tôn"! Mấy tiếng này cứ như một thứ phù chú thần bí, chỉ trong chớp mắt đã khiến cho đám ánh đao đang lấp loáng bỗng dừng lại hết. Người này là ai vậy?

Mấy chục con người, mấy chục cặp mắt, đều giật mình khi nhìn thấy người ấy. Người này khuôn mặt y hệt như Tạ Hiểu Phong trắng bệch, lử khử lừ khừ, tiều tụy nhưng lại toát lên một ý chí một quyết tâm như gang thép.

"Là ngươi!" Tạ Hiểu Phong, Thiết Khai Thành, Tào Hàn Ngọc, anh em họ Viên, cả năm người cùng thốt ra hai tiếng trên chỉ có giọng nói là khác nhau. Giọng Thiết Khai Thành đầy vẻ ngạc nhiên.

Tào Hàn Ngọc và anh em họ Viên vừa kinh lạ vừa phẫn nộ. Còn Tạ Hiểu Phong?

Cũng chẳng ai có cách gì nói được là khi thốt ra từ ấy, lòng Tạ Hiểu Phong có mùi vị gì? và có cảm giác gì? Vì người tới đó lại là "chú em"! Và cũng khó có thể biết được trong lòng chú em có mùi vị gì? có cảm giác gì?

Tào Hàn Ngọc cao giọng quát hỏi:

"Ngươi đến đây làm gì?" "Chú em" bảo:

"Đến bảo các ngươi thả người!" Tào Hàn Ngọc hỏi:

"Thả ai? Tạ Hiểu Phong ư? Lại là Tạ Hiểu Phong ử" "Chú em" bảo:

"Là hai người bọn họ!" Tào Hàn Ngọc cười khẩy bảo:

"Ngươi bằng vào cái gì mà đòi chúng ta thả người? Người có biết đây là mệnh lệnh của ai không?" "Chú em" cười nhạt rồi móc tay vào bọc lấy ra một giải tơ năm màu trên giải tơ buộc một miếng ngọc bài mầu xanh biếc. Tào Hàn Ngọc bỗng biến sắc mặt.

"Chú em" hỏi:

"Ngươi có nhận ra thứ gì đây không?" Dĩ nhiên Tào Hàn Ngọc nhận ra. Chỉ cần nhìn biểu hiện trên nét mặt gã cũng đủ thấy là gã đã nhận ra. Các người khác cũng có biểu hiện trên mặt y như gã: vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi.

"Chú em" không thèm nhìn họ lần nào chỉ chầm chậm lùi lại bảo Tạ Hiểu Phong:

"Chúng ta đi thôi!" Thiết Khai Thành lặng im, cuối cùng gật gật đầu. Gã chỉ còn có việc đi thôi. Chỉ trong nháy mắt phải đột ngột vứt bỏ hết kết quả công lao bao nhiêu năm phấn đấu và thừa nhận mình đã hoàn toàn thất bại đến tận gốc, điều đó không chỉ là khó khăn mà còn là đau khỗ! Phải dương mắt ra nhìn con cá lớn sau biết bao công phu mới câu được lên rồi lại tuột khỏi tay, kể cũng là một chuyện đau khỗ thật tình.

Tuy vậy không ai dám ngăn cản họ, không ai dám nhúc nhích. Tấm ngọc bài buộc sợi dây tơ ngũ sắc bản thân nó vốn chẳng có sức mạnh đuỗi hồn bắt mạng gì nhưng nó lại là đại biểu cho quyền lực tối cao vô thượng, tha hồ giết chóc.

Bên ngoài cửa có xe. Ngựa hay, xe mới. Dĩ nhiên là chú em đã chuẩn bị xong xuôi, khi gã quyết tâm làm một việc gì đó thì trước khi bắt tay vào việc nhất định phải chuẩn bị thật chu đáo.

Xe đi gấp nhưng ngồi trong thùng xe vẫn rất vững. Tạ Hiểu Phong ngồi dựa xiên xiên trong góc xe bộ mặt trắng bệch vì mất máu quá nhiều nên lộ vẻ rất mệt mỏi, rất tiều tụy. Nhưng đôi mắt của chàng vẫn long lanh sáng.

Chàng rất vui sướng không phải vì chàng được sống mà là vì bỗng dưng chàng thấy có lòng tin với con người. Đối với một người thì chàng rất quan tâm, chàng muốn đem hy vọng của cả đời mình gửi gấm vào người đó.

"Chú em" thì nhìn Thiết Khai Thành chằm chặp, bỗng hỏi:

"Vốn ta chẳng cốt cứu ngươi đâu, ta đâu muốn cứu ngươi!" Thiết Khai Thành đáp:

"Ta biết!" "Chú em" bảo:

"Ta cứu ngươi vì ta biết ông ấy không muốn để ngươi ở lại đó vì hai ngươi không chỉ cùng nhau kề vai chiến đấu mà vì ngươi còn cứu ông ấy!" Thiết Khai Thành bảo:

"Ta đã từng bảo cứu ông ấy không phải là ta!" "Chú em" bảo:

"Bất biết thế nào, đó là việc của các ngươi chẳng quan hệ gì đến ta!" Thiết Khai Thành bảo:

"Ta biết rõ rồi!" "Chú em" bảo:

"Vì vậy từ nay ngươi có thể tùy ý kiếm ta mà thanh toán nợ!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Thanh toán nợ gì?" "Chú em" đáp:

"Cờ tiêu..." Thiết Khai Thành cắt ngang lời "chú em" bảo:

"Tiêu cục Hồng Kỳ đã bị diệt từ lâu rồi, ở đó làm gì còn cờ tiêu nữa!" Gã mỉm cười rồi cười lên, nụ cười tràn đầy đau đớn và cảm thương:

"Cờ tiêu đã từ lâu chẳng còn nợ nần gì nữa mà thanh toán!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vẫn còn một chút nợ nần!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Nợ gì?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Nợ một đóa hoa châu ngọc!". Chàng đăm đăm nhìn Thiết Khai Thành:

"Đóa hoa châu ngọc này thật ngươi sai người mua chứ?" Thiết Khai Thành đáp:

"Phải!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta không tin!" Thiết Khai Thành bảo:

"Tôi xưa nay chưa bao giờ nói láo!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Còn Thiết Nghĩa? Gã có nói láo hay không?" Thiết Khai Thành ngậm miệng. Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Chẳng lẽ người đàn bà đó lại là người tình của ngươi? Chẳng lẽ Thiết Nghĩa nói đúng tất cả?" Thiết Khai Thành không trả lời, vẫn cự tuyệt không trả lời.

"Chú em" bỗng nói xen vào bảo:

"Tôi vừa gặp người đàn bà ấy!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Hử?" "Chú em" kể:

"ả ta tìm được tôi trao cho tôi một phong thư bảo tôi giao cho ông, nhưng phải tự tay tôi giao cho ông, vì trong thư có viết một điều bí mật rất to lớn." "Chú em" dằn từng chữ:

"Bí mật của tiêu cục Hồng Kỳ!" Tạ Hiểu Phong lặp lại:

"Thư ử" "Chú em" bảo:

"Thư ở đây!" Thư là thư mật, rõ ràng trong thư nói đến một điều bí mật kinh người. Nhưng Tạ Hiểu Phong không kịp xem thư vì "chú em" vừa thò thư ra thì Thiết Khai Thành đã ra tay nhanh như điện chớp đoạt lấy bức thư rồi dùng hai tay vò mạnh một cái. Bức thư nát ra thành muôn ngàn mảnh vụn bị gió cuốn ra ngoài cửa sỗ biến thành "bươm bướm bay đầy trời." Tạ Hiểu Phong sầm mặt xuống bảo:

"Đó đâu phải là điều người quân tử nên làm!" Thiết Khai Thành bảo:

"Tôi vốn không phải là quân tử!" "Chú em" cũng bảo:

"Tôi cũng vậy!" Thiết Khai Thành nói:

"Tôi..." "Chú em" bảo:

"Quân tử quyết không giật thư của người khác, cũng không lấy cắp thư của người khác. Ngươi không phải quân tử, may quá ta cũng không phải!" Thiết Khai Thành biến sắc mặt:

"Bức thư đó ngươi xem rồi?" "Chú em" cười to bảo:

"Chẳng những xem rồi mà còn nhớ từng câu từng chữ rõ "rành rành". Mặt Thiết Khai Thành méo xệch đi, y như bất ngờ bị người ta đấm cho một quyền thật nặng vào bụng, đánh cho cả người quằn quại.

Trong thư viết bí mật gì, tại sao lại làm Thiết Khai Thành khiếp sợ đến như vậy?

"Thiếp tôi không phải là người tình của Thiết Khai Thành" "Vốn thiếp tôi chỉ định quyến rũ hắn nhưng hắn quá khỏe, cơ bản thiếp không tìm ra cơ hội." "Vừa may Thiết Trung Kỳ già lão không còn hùng tâm tráng chí như thời còn trẻ mà lại bắt đầu giở chứng phát sinh hứng thú ăn tiêu xa xỉ và thích gái đẹp." "Thiếp xưa nay vốn xinh đẹp nên đã trở thành người tình của ông ta. Chỉ cần thoát khỏi tay Hạ Hầu Tinh là được, còn nếu so với gã thì người xấu xí hoặc già lão thiếp cũng chịu hơn gã." "Đàn ông thiên hạ mà thiếp khinh ghét nhất là Hạ Hầu Tinh" "Có tỗng tiêu đầu của tiêu cục Hồng Kỳ săn sóc dĩ nhiên Hạ Hầu Tinh không bao giờ có thể tìm được thiếp. Huống hồ Thiết Trung Kỳ tuy già nua nhưng đối xử với thiếp không tồi, xưa nay chưa bao giờ hỏi han lai lịch của thiếp." "Thiết Khai Thành không chỉ là một hảo hán mà còn là người con hiếu thảo. Chỉ cần làm cho phụ thân y vui sướng thì việc gì hắn cũng chịu làm. Hôm sinh nhật thiếp hắn còn mang tới quà mừng là một đóa hoa châu ngọc và một đôi vòng xuyến. Nhưng đáng tiếc là những ngày tốt đẹp đó lại không dài. Hạ Hầu Tinh tuy không tìm thấy thiếp nhưng Mộ Dung Thu Hoạch lại tìm ra thiếp." "ả ta biết được bí mật của thiếp nên lấy việc đó để bắt chẹt thiếp, bắt thiếp làm việc cho ả ta. Thiếp không thể không đáp ứng và cũng thật không dám không đáp ứng." "Thiếp thay ả ta ngầm mua chuộc các tiêu sư, thay ả dò xét tin tức của tiêu cục; thế nhưng ả vẫn chưa cho là đủ còn bắt thiếp gây chia rẽ giữa cha con họ, thay ả tìm cách diệt trừ Thiết Khai Thành." "Đối với lời của thiếp, trăm ngàn điều Thiết Trung Kỳ đều nghe theo, chỉ riêng chuyện đó bất kể thiếp nói thế nào thì nói ông ấy vẫn không nghẹ" "Vì vậy Mộ Dung Thu Hoạch bắt thiếp phải bỏ thuốc độc vào trong rượu." "Đêm hôm ấy trời mưa to gió lớn, thấy Thiết Trung Kỳ đã uống rượu độc của thiếp rồi nên trong lòng ít nhiều phiền bực khó chịu nhưng thiếp biết bí mật này nhất định sẽ bị người phát giác vì thế mà những người đến trực canh ở vườn sau đêm ấy cũng đều bị Thiên Tôn mua chuộc cả." "Sau việc đó, Thiết Khai Thành có lòng hoài nghi nhưng lại không nắm được chút chứng cớ nào. Vì muốn giữ trọn thanh danh đẹp đẽ của cha già, đương nhiên hắn lại càng không thể tự nói ra chuyện đó." "Nhưng bây giờ thiếp phải nói lại chuyện này. Vì thiếp nhất định phải cho chàng biết Thiên Tôn ác độc đáng sợ. Thiếp tuy chẳng phải là hạng đàn bà chân chính, nhưng vì chàng, điều gì thiếp cũng dám làm. Chỉ cần chàng nhớ cho riêng điều đó, còn tất cả mọi chuyện khác thiếp đều không bận tâm!" Đó là cả bức thư dài, "Chú em" đã đọc lại trọn vẹn một chữ cũng không bỏ sót. Thì từ xưa tới nay trí nhớ của "Chú em" rất giỏi. Nghe xong toàn bộ bức thư, mặt Thiết Khai Thành đầm đìa lệ đau khỗ. Còn Tạ Hiểu Phong và "Chú em" trong lòng không phải là không buồn bã.

Chẳng biết như thế bao lâu, mãi rồi Tạ Hiểu Phong mới khẽ hỏi:

"Còn cô ấy?" "Chú em" đáp:

"Cô ấy đi rồi!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ngươi có hỏi cô ấy đi đâu không?" "Chú em" đáp:

"Không!" Thiết Khai Thành bỗng nói:

"Tôi cũng phải đi thôi! Ông cũng đừng nên hỏi tôi đi đâu vì dù ông có hỏi tôi đi đâu tôi cũng tuyệt đối không nói." Đương nhiên là chàng ta phải đi. Chàng ta còn lắm chuyện phải làm, không thể không đi làm được! Tạ Hiểu Phong rất hiểu cảnh ngộ của chàng ta, còn hiểu rõ cả tâm tình của Thiết Khai Thành nên chàng chẳng nói gì nữa. Bỗng Thiết Khai Thành hỏi một câu ngoài ý nghĩ của Tạ Hiểu Phong:

"Ông có muốn uống rượu không?" Tạ Hiểu Phong cười. Miễn cưỡng mà cười, mà cũng rất vui mà cười.

"Ngươi cũng uống chứ?" Thiết Khai Thành hỏi:

"Tôi có thể uống được không?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Được chứ!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Đã thế sao chúng ta không đi uống rượu nhỉ?" Tạ Hiểu Phong lại hỏi:

"Lúc này mà còn mua được rượu ử" Thiết Khai Thành đáp:

"Được!" Nhưng rồi lại hỏi:

"Nếu mua không được chúng ta có thể đi trộm rượu được không?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Được!" Chẳng ai biết đây là loại nụ cười gì:

"Quân tử tuyệt không lấy trộm rượu uống của người, cũng không uống rượu lấy trộm về! May quá tôi không phải là quân tử mà ông cũng thế!" Đêm khuya, người vắng, ít nhất phần lớn người đã lặng yên. Trong buỗi đêm khuya người vắng, ít yên lặng nhất thông thường chỉ có hai hạng người: người cờ bạc biến thành quỷ đỗ bác, người uống rượu biến thành ma men. Nhưng hiện giờ thì cả hai hạng người hay lang thang các quán xá đêm khuya giờ cũng đã lặng nốt.

Chỉ vì rượu họ muốn uống chỉ có đi lấy trộm về. Đúng là đi trộm thật! "Ngươi đã trộm rượu bao giờ chưa?" "Gì thì gì tôi cũng chưa từng ăn trộm quạ" "Ta trộm rồi!" Tạ Hiểu Phong có vẻ rất đắc ý:

"Ta chưa được mười tuỗi đã trộm rượu uống rồi." "Trộm của ai?" "Trộm của ông bố!" Tạ Hiểu Phong lại cười kể:

"Trong nhà ta ông bố không thường xuyên uống rượu, thứ đã cất toàn rượu ngon, có khi cất giấu còn kỹ hơn kiếm ở nhà tạ" "Thế sao nhà ông không gọi là Thần Tửu sơn trang?" Thiết Khai Thành cũng phải bật cười.

"Vì ở nhà ta, trừ ta ra, còn tất cả đều là quân tử không có ai là ma men cả!" "Gớm may mà ông không phải!" Tối đó đêm khuya người lặng, trên con đường người lặng đêm khuya chỉ có hai người là không yên lặng. Vì lòng họ đang không lặng! Xe ngựa dừng lại ở một nơi xa xôi, họ đi đã rất xa.

"Rượu nhà ta giấu rất giỏi, chỉ đáng tiếc là ta hai lần trộm rượu đều bị bắt quả tang." Tạ Hiểu Phong vẫn đang cười cứ tựa như ai đó đang kể lại lịch sử quang vinh của mình:

"Chính vì thế mà sau này ta toàn đi trộm rượu của người khác." "Trộm của ai?" "Bờ bên kia hồ Lục Thủy có một quán rượu, chủ quán cũng họ Tạ. Ta biết ông ấy là người tốt từ lâu." "Vì thế ông mới đi trộm của ông ấy?" "Trộm gió chẳng trộm trăng, trộm mưa không trộm tuyết, trộm của người tốt không trộm của kẻ xấu!" Tạ Hiểu Phong nói cứ như thày giáo giảng cho học trò:

"Đấy là lời dạy bảo của vua trộm và tỗ trộm truyền dậy lại: phải làm người trộm vặt, muôn vàn chớ đừng ghi nhớ nằm lòng." "Vì nếu bị người tốt bắt được thì cũng chẳng làm sao lắm, để kẻ xấu bắt được thì chẳng ra gì rồi!" "Nhưng người tốt cũng biết bắt kẻ trộm vặt đấy!" "Thì chính thế ta mới lại bị tóm!" Tạ Hiểu Phong lại thở dài:

"Tuy chẳng có gì là không hay nhưng ta cũng được một bài giáo huấn." "Giáo huấn thế nào?" "Nếu trộm rượu uống, tốt nhất xui kẻ khác đi lấy trộm, còn mình nhiều nhất chỉ canh vòng ngoài!" Quả thật Thiết Khai Thành chưa từng lấy trộm rượu, cũng chưa từng lấy qua vật gì nhưng dù yêu cầu chàng ta đi lấy trộm thứ gì đi nữa cũng không phải là quá khó. Có thể khinh công của chàng ta chưa phải là tuyệt vời nhưng dù ta có hai trăm vò rượu chôn ở dưới gầm giường Thiết Khai Thành cũng cuỗm sạch mà ta không hề hay biết.

HỒI 36 - VUI GẶP TRI KỶ

Rất ít người chôn rượu dưới gầm giường. Chỉ có những nhà đại giầu mới chôn giấu rượu ngon. Các nhà giầu phần nhiều có hầm rượu. Muốn lấy trộm rượu trong hầm rượu dĩ nhiên là dễ lấy trộm hơn ở dưới gầm giường.

Tài trộm rượu của Thiết Khai Thành so với Tạ Hiểu Phong cũng chẳng kém mấy, mà tửu lượng cũng lại chẳng kém mấy nốt. Vì vậy người say trước tiên là Thiết Khai Thành. Bất kể say thật hay say giả, là say giả, là say mèm hay say ngà ngà đều nói lắm hơn lúc bình thường hơn nữa những điều nói trong lúc say lại là những điều ít nói khi tỉnh.

Thiết Khai Thành bỗng hỏi:

"Cái "chú em" kia có thật đúng là "chú em" không?" Tạ Hiểu Phong không thể đáp mà cũng không muốn trả lời.

"Chú em" thật sự là họ gì? Gọi là gì? Chàng muốn gã phải ra sao? Thiết Khai Thành bảo:

"Bất kể gã có phải tên là "chú em" không, gã tuyệt đối không phải là "chú em"!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Không phải!" Thiết Khai Thành bảo:

"Gã là một nam tử hán!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ngươi cho gã là vậy ử" Thiết Khai Thành đáp:

"Tôi chỉ biết nếu tôi là gã rất có thể tôi không đọc lại bức thư kia!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao?" Thiết Khai Thành bảo:

"Vì tôi cũng biết gã là người của Thiên Tôn mà mẹ gã là Mộ Dung Thu Hoạch!" Tạ Hiểu Phong trầm ngâm, cuối cùng thở dài bảo:

"Gã đích xác là một nam tử hán!" Thiết Khai Thành bảo:

"Tôi còn biết một chuyện." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Chuyện gì?" Thiết Khai Thành bảo:

"Gã tới cứu ông, ông rất vui mừng, không phải mừng vì gã cứu mạng ông mà mừng vì gã tới!" Tạ Hiểu Phong uống rượu, cười gượng. Rượu tuy lạnh, cười thì gượng gạo nhưng lòng thì tràn ngập êm đềm và cảm kích.

Cảm kích một người tri kỷ. Thiết Khai Thành bảo:

"Còn một chuyện nữa ông cứ yên tâm, tôi tuyệt đối không đi tìm Tiết Khả Nhân đâu!" Tiết Khả Nhân là người đàn bà như con mèo kia. Thiết Khai Thành lại nói tiếp:

"Vì ả ta tuy làm quấy nhưng vì bị bức bách, vả lại ả ta cũng chuộc tội rồi!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nhưng..." Thiết Khai Thành bảo:

"Nhưng ông thì phải đi tìm ả ta!" Chàng ta nhấn mạnh thêm:

"Tuy tôi không đi tìm ả nhưng ông thì phải đi tìm!" Tạ Hiểu Phong hiểu ý của Thiết Khai Thành. Thiết Khai Thành tuy thả Tiết Khả Nhân nhưng Mộ Dung Thu Hoạch không bao giờ tha ả. Ngay Tào Hàn Ngọc, anh em họ Viên áo tím, cả tiêu cục Hồng Kỳ giờ đã bị Thiên Tôn khống chế thử hỏi còn có việc gì mà họ không làm được?

Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta nhất định đi tìm Tiết Khả Nhân!" Thiết Khai Thành bảo:

"Ngoài ra còn một người nữa ông cũng phải tìm gặp." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ai?" Thiết Khai Thành bảo:

"Yến Thập Tam!" Đêm đen như mực. Đây là lúc tối tăm nhất của đêm trước khi lê minh tới. Tạ Hiểu Phong vừa nói vừa dõi nhìn phương xa, cứ dường như Yến Thập Tam đang đứng trong khoảng tối đen ở xa xăm kia, dường như Yến Thập Tam đã tan lẫn vào đêm lạnh lùng tĩnh mịch kia thành một thể. Chàng xưa nay chưa từng gặp Yến Thập Tam nhưng chàng vẫn có thể tưởng tượng ra Yến Thập Tam là một con người như thế nào.

Một người tính tình tịch mịch và lạnh lùng tàn nhẫn. Một con người mà sự lãnh đạm và mỏi mệt đã ăn sâu vào tận cốt tủy. Chàng mệt mỏi vì chàng giết đã quá nhiều người, có một số người thậm chí còn không nên giết nữa. Yến Thập Tam giết người vì chàng chẳng còn chỗ nào khác để chọn.

Từ chỗ sâu thẳm của tâm tư Tạ Hiểu Phong chợt thốt ra một tiếng thở dài. Chàng thấu hiểu tâm sự này mà cũng chỉ có chàng mới thật hiểu thấu sâu sắc nhất. Vì chàng cũng giết người, cũng mệt mỏi y như vậy. Cây kiếm và danh tiếng của chàng vĩnh viễn cứ như một cái bọc đeo trên lưng không sao rũ bỏ nỗi, cái bọc đó trĩu trên vai chàng đè nặng đến nỗi tưởng hơi thở cũng khó thấu qua.

"Kẻ thường giết người sẽ có kết cục ra sao nhỉ?" "Phải chăng là cũng bị giết dưới tay người khác?" Tạ Hiểu Phong chợt nhớ lại lần tự biết là chắc chết vừa qua, nhớ lại cảm giác trong thoáng chốc đó. Trong thoáng chốc đó trong lòng chàng đã nghĩ những gì?

"Yến Thập Tam." Nhắc đến ba tiếng này người đang say như Thiết Khai Thành cũng chợt tỉnh. Mắt Thiết Khai Thành cũng nhìn đăm đăm vào chốn xa xôi. Cũng qua rất lâu chàng ta mới chậm rãi bảo:

"Trong đời ông đã gặp người đáng sợ nhất là ai?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Người lạ mà ta chưa từng gặp!" Thiết Khai Thành bảo:

"Người lạ đâu có đáng sợ?" "Vì người lạ không hiểu được tình cảm, không biết được nhược điểm của mình." "Chỉ có bạn bè thân mật nhất của mình mới biết được những điều đó, đến khi họ bán đứng ta thì chỉ một đòn là trí mạng thôi!" Những điều trên Thiết Khai Thành không nói ra vì chàng ta cho là Tạ Hiểu Phong cũng biết vậy. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nhưng người lạ đó phải khác với người khác!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Có gì khác?" Tạ Hiểu Phong nói không ra. Vì chàng không nói được ra nên mới đáng sợ. Thiết Khai Thành lại hỏi:

"Ông thấy họ ở đâu?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"ở nơi rất xa lạ!" ở nơi rất xa lạ, chàng gặp một người lạ rất đáng sợ cùng với một người rất thân cận của chàng luận về kiếm. Luận về kiếm của chàng.

"Người rất thân cận ấy của chàng phải chăng là Mộ Dung Thu Hoạch?" Thiết Khai Thành bảo:

"Ông bảo người lạ ấy liệu có sẽ là Yến Thập Tam không?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Rất có thể!" Thiết Khai Thành bỗng thở dài bảo:

"Trong đời người tôi gặp mà sợ nhất là ông ấy chứ không phải ông!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Không phải tả" Thiết Khai Thành bảo:

"Vì xét đến cùng ông vẫn còn là người!" "Rất có thể vì bây giờ ta đã thay đỗi rồi!" Câu này Tạ Hiểu Phong cũng không nói ra vì chính bản thân chàng cũng không hiểu được rằng vì cái gì mà chàng lại thay đỗi! Thiết Khai Thành nói tiếp:

"Yến Thập Tam lại không thế." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ông ấy không là người ử" Thiết Khai Thành:

"Tuyệt không phải." Chàng ta trầm ngâm rồi từ tốn nói tiếp:

"Ông ấy không có bè bạn, chẳng có người thân. Tuy ông ấy đối với tôi rất tốt, truyền dậy kiếm pháp cho tôi nhưng xưa nay chưa bao giờ cho tôi ở gần mà cũng không bao giờ cho tôi biết ông ấy từ đâu tới và sẽ đi đâu!" "Vì ông ấy sợ mình có cảm tình với một người nào đó." "Vì đã là kiếm khách muốn giết người thì phải vô tình!" Những câu này Thiết Khai Thành cũng không nói ra. Chàng ta tin là Tạ Hiểu Phong cũng hiểu. Họ cùng trầm ngâm rất lâu. Thiết Khai Thành bỗng bảo:

"Biến hóa thứ mười bốn trong "Đoạt mạng thập tam kiếm" không phải do ông sáng tạo ra!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Là ông ấy!" Thiết Khai Thành gật đầu bảo:

"Ông ấy đã biết thập tứ kiếm này từ lâu và cũng biết từ lâu trong sáng tạo của ông có một chỗ sơ hở." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nhưng ông ấy chưa truyền thụ cho ngươi?" Thiết Khai Thành bảo:

"Ông ấy chưa!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ngươi cho rằng ông ấy giữ riêng ử" Thiết Khai Thành đáp:

"Ông ấy không phải thế." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Thế ngươi biết ông ấy vì sao?" Thiết Khai Thành bảo:

"Chỉ vì ông ấy sợ sau khi tôi học kiếm này rồi sẽ đi tìm ông để đấu." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Chỉ vì đối với thập tứ kiếm này ông ấy cũng không chắc." Thiết Khai Thành bảo:

"Nhưng chính ông cũng không nắm chắc có thể phá được kiếm này của ông ấy." Tạ Hiểu Phong không có phản ứng. Thiết Khai Thành bảo:

"Tôi khuyên ông chớ nên đi tìm ông ấy vì cả hai ông đều không nắm vững, tôi không muốn cả hai ông tàn sát lẫn nhau hoặc lưỡng bại câu thương." Tạ Hiểu Phong trầm ngâm rất lâu rồi bỗng hỏi:

"Một người sắp chết, trước giây phút lìa đời nghĩ đến chuyện gì?" Thiết Khai Thành bảo:

"Phải chăng người ấy nghĩ đến người thân và việc đã qua trong đời của mình chăng?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Không phải!" Chàng bỗ sung thêm:

"Vốn ta cũng nghĩ là như vậy nhưng ta tự biết trong thoáng giây lìa đời đó những điều đã nghĩ lại không phải như vậy!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Thế ông nghĩ gì?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Đến thập tứ kiếm đó!" Thiết Khai Thành trầm ngâm, cuối cùng thở dài sườn sượt, trong thoáng chốc đó điều chàng ta nghĩ cũng là chiêu kiếm ấy! Một con người đã suốt cả đời mình hy sinh vì kiếm, trước khi chết làm sao lại còn có thể nghĩ đến các chuyện khác được! Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vốn ta không đích xác nắm vững là có thể phá được chiêu kiếm ấy, nhưng trong thoáng giây trước lúc chết đó lòng ta chợt như có tia chớp lóe sáng, chiêu kiếm ấy vốn đích xác là không có gì cứng rắn không thể đẩy, không có gì rời rã không thể đánh nhưng bị đạo điện chớp đó đánh vào lập tức sẽ biến ngay!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Biến được ra sao?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Biến thành rất buồn cười." Vốn kiếm pháp rất đáng sợ bỗng chốc biến thành rất buồn cười thì sự biến hóa đó mới thật là đáng sợ. Thiết Khai Thành không nói thêm gì nữa chỉ bắt đầu uống thêm rượu.

Tạ Hiểu Phong uống càng nhiều, càng nhanh. Thiết Khai Thành bảo:

"Rượu ngon lắm!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Rượu trộm được thông thường là rượu ngon!" Thiết Khai Thành bảo:

"Hôm nay chia tay chẳng biết đợi đến khi nào mới lại được say!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Chỉ cần ngươi thật sự muốn say, lúc nào muốn say lại chẳng được!" Thiết Khai Thành bỗng nhiên cả cười, cười vang mà đứng dậy không nói một lời nào nữa mà bỏ đi. Tạ Hiểu Phong cũng không nói gì, chỉ nhìn Thiết Khai Thành vẫn cười, nhìn chàng ta ra đi.

"Thiết Trung Kỳ tuy không phải bố đẻ của chàng ta nhưng vì để bảo toàn thanh danh anh hùng một đời của "Thiết kỵ khoái kiếm", Thiết Khai Thành thà chết thà nhận mọi tội lỗi về phần mình vì quả thật họ đã có tình cha con thật sự!" Tạ Hiểu Phong không cười. Nghĩ tới điểm này làm sao chàng cười lên nỗi. Chàng uống nốt chỗ rượu và đến giờ không phân biệt được mùi vị của rượu là ngọt hay đắng! Dù ngọt hay đắng thì cũng vẫn là rượu chứ không phải là nước lã, cũng không phải là máu tuyệt không có ai có thể bài bác được! Há lại chẳng giống như tình cảm giữa cha và con hay sao? Trời sáng.

Xe ngựa vẫn ở đó, "chú em" vẫn ở đó. Khi Tạ Hiểu Phong quay trở về, tuy đã say rồi nhưng mùi máu tanh trên mình chàng còn nồng nặc hơn cả mùi rượu.

"Chú em" thấy Tạ Hiểu Phong lên xe thấy chàng ngã dúi xuống, gã không nói lời nào. Tạ Hiểu Phong bỗng bảo:

"Thật tiếc ngươi không đi uống rượu cùng chúng ta, thật quả là rượu ngon!" Đúng là câu Tạ Hiểu Phong đã nói rồi. Chàng cười vang.

"Chú em" bảo:

"Chỉ tiếc là dù có bao nhiêu rượu ngon cũng chẳng chữa lành được vết thương cho ông!" Dù thương tích trên người hay thương tích mang trong lòng đều trị không khỏi như nhau! Nhưng Tạ Hiểu Phong vẫn cười bảo:

"May mà có một số vết thương căn bản không phải chữa!" "Chú em" hỏi:

"Vết thương nào?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Vết thương căn bản không thể chữa khỏi!" "Chú em" nhìn Tạ Hiểu Phong, mãi lâu sau mới từ tốn bảo:

"Ông say rồi!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ngươi cũng say rồi!" "Chú em":

"Hả?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ngươi cần phải biết người mà ta bỏ rơi dễ nhất là loại người nào?" "Chú em" đáp:

"Người chết!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nếu ngươi không say thì ngươi nên nhất tâm bỏ rơi ta đi, sao ngươi vẫn cứ nằng nặc lại cứu ta làm gì?" "Chú em" lại ngậm miệng nhưng rồi bỗng ra tay điểm luôn vào mười một chỗ huyệt đạo trên mình Tạ Hiểu Phong. Điều cuối cùng mà Tạ Hiểu Phong nhìn thấy được là đôi mắt của "Chú em", đôi mắt ngập tràn thứ tình cảm biểu hiện mà bất kỳ ai cũng không tài nào hiểu nỗi.

Lúc đó ánh mặt trời chiếu qua cửa sỗ vào xe, rọi đúng vào đôi mắt của "Chú em". Khi Tạ Hiểu Phong tỉnh lại, điều đầu tiên nhất chàng nhìn thấy lại là đôi mắt nhưng không phải đôi mắt của "Chú em".

Mà đến mười mấy cặp mắt! Đó là một gian phòng rất lớn, xem ra cũng to tát bề thế và chàng cũng đang nằm trên một cái giường cũng rất to. Mười mấy người vây quanh giường nhìn chàng. Có người cao gầy có người thấp béo, có già có trẻ ăn mặc thì cũ kỹ nhưng sắc mặt đều đỏ đắn, chứng tỏ cuộc sống sung túc, được nuôi dưỡng đầy đủ.

Mười mấy cặp mắt có to có nhỏ, ánh mắt lại đều sắc bén, cặp mắt người nào cũng có biểu hiện rất kỳ quái cứ như cách nhìn của một lũ đồ tể đang ngắm nghía con bò con dê sắp mỗ thịt nhưng chưa quyết định chủ ý xem nên hạ thủ bắt đầu từ chỗ nào. Lòng Tạ Hiểu Phong đang trĩu nặng. Chàng phát hiện ra sức lực của mình đã tiêu tan sạch, đến đứng dậy cũng không nỗi.

Giả thử có đứng được lên mười mấy con người kia mỗi kẻ chỉ cần chí một ngón tay cũng đủ đè chàng ngã dúi xuống. Họ là người thế nào đây? Tại sao lại nhìn chàng với ánh mắt lạ kỳ như vậy?

Bỗng cả mười mấy người tản đi hết, lùi vào một góc xa tít mà đi rồi lại tụ lại kề đầu áp tai thì thào bàn tán. Tạ Hiểu Phong không nghe rõ họ nói gì nhưng nhìn có vẻ họ đang bàn nhau một việc gì rất quan trọng mà việc quan trọng này nhất định có liên quan mật thiết với chàng. Tại vì bọn họ một mặt bàn tán nhưng vẫn không ngớt ngoái đầu lại dùng đuôi mắt liếc trộm chàng. Phải chăng họ đang bàn cách đối phó với chàng, hành hạ chàng?

Thế còn "Chú em" đâu? Cuối cùng rồi "Chú em" cũng xuất hiện! Mấy ngày trước đây trông gã có vẻ mệt mỏi lam lũ, lao đao, khốn đốn. Giờ đây gã đã thay đỗi áo quần hoa lệ mới tinh đến đầu tóc cũng chải chuốt bóng mượt thẳng thớm. Quả là đỗi thành một con người khác! "Có chuyện gì mà gã có vẻ phấn chấn hăng say đột ngột như vậy?" "Phải chăng vì gã đã nghĩ thông được sự lợi hại ở đời, cuối cùng đã bán đứng Tạ Hiểu Phong cho Thiên Tôn lập nên công lớn?" Thấy gã đến cả mười mấy người kia xúm lại vây lấy gã có vẻ nịnh bợ, khúm núm.

Thái độ của "Chú em" có vẻ rất nghiêm nghị, lạnh lùng hỏi:

"Sao rồi?" "Không xong." Cả mười mấy người đồng thanh trả lời.

"Không có cách gì ử" "Không!" Mặt "Chú em" sa sầm xuống, trong mắt rực lên lửa giận, bỗng gã bất ngờ ra tay túm lấy vạt áo một người trong bọn. Người này tuỗi tác cao nhất, khí thế không phải nhỏ, tay cầm hộp ngọc đựng thuốc hít giá cũng phải đến ngàn vàng. Nhưng ở trước mặt "Chú em" trông bộ dạng lão cứ như chú chuột bị sa vào móng vuốt mèo.

"Chú em" hỏi:

"Ngươi là Giản Phục Sinh hử?" Lão kia đáp:

"Dạ phải!" "Chú em" bảo:

"Nghe nói mọi người đều gọi ngươi là "Cải tử hoàn sinh" Giản đại tiên sinh phải không?" Giản Phục Sinh bảo:

"Đó toàn do người khác thỗi phồng bịa đặt thôi, lão hủ đâu dám nhận!" "Chú em" ngắm nghía từ đầu xuống chân lão, bỗng cười lên bảo:

"Cái hộp thuốc hít của lão cũng khá đấy nhỉ!" Giản Phục Sinh tuy còn sợ sệt nhưng trong mắt không khỏi lộ ra vẻ đắc ý. Cái hộp thuốc hít này là cả một viên ngọc bích tạo nên. Giản Phục Sinh luôn luôn mang theo bên mình kể cả khi ngủ cũng không rời mà để ngay dưới gối nằm. Lão nghe có người khen chiếc hộp ngọc bích này còn sướng hơn cả lúc được người ta khen về tài y thuật của lão.

"Chú em" cười bảo:

"Dường như cái hộp này bằng cả một khối Hán Ngọc tạo thành chỉ sợ bỏ rẻ cũng phải ngàn lượng trở lên!" Giản Phục Sinh nhịn không được phải cười lên bảo:

"Thật không ngờ đại thiếu gia cũng biết người biết của!" "Chú em" hỏi:

"Lão lấy đâu ra lắm tiền vậy?" Giản Phục Sinh đáp:

"Đây toàn tiền thưởng của người bệnh" "Chú em" bảo:

"Coi bộ ngươi lấy tiền tạ lễ của người ta cũng không ít!" Giản Phục Sinh cũng dần dần cảm thấy kiểu nói không đúng lắm nên cũng cười không nên nụ.

"Chú em" bảo:

"Lão cho ta mượn xem được không?" Giản Phục Sinh không muốn cho mượn một chút nào nhưng không dám không đưa.

"Chú em" cầm hộp ngọc trên tay làm như vẻ say sưa thưởng ngoạn và lẩm bẩm bảo:

"Tuyệt. Thật là vật quý! Chỉ đáng tiếc người như lão mà dám dùng những vật quý như thế này!" Câu nói vừa dứt thì "choang", chiếc hộp ngọc có giá trị liên thành đã bị ném xuống đất vỡ vụn. Giản Phục Sinh biến sắc mặt, trông vẻ mặt còn khó coi hơn người chồng vừa chết mất người vợ mới cưới chỉ thiếu nước khóc lên nữa mà thôi.

"Chú em" cười nhạt bảo:

"Lão đã là danh y lấy tiền tạ cao hơn bất kỳ ai thế mà có mấy vết thương xoàng mà cũng chữa không nên thân, thế thì con mẹ nó lão còn ra thứ gì nữa?" Giản Phục Sinh run rẩy cả người, đầy đầu toát mồ hôi lạnh, miệng lắp ba lắp bắp chẳng hiểu nói những gì?

HỒI 37 - NHÌN THẤU LẼ SỐNG CHẾT

Bên cạnh lão có một chàng thiếu niên mặc hoa hoét đứng ra cãi lại:

"Đây đâu phải chỉ là vết thương xoàng! Vị tiên sinh này bị thương rất nặng đến nỗi tận giờ học sinh này cũng chưa được thấy bao giờ!" "Chú em" trợn mắt nhìn gã bảo:

"Ngươi là thứ gì?" Thiếu niên kia bảo:

"Học sinh không phải là "thứ gì", học sinh là người tên là Giản Truyền Học." "Chú em" hỏi:

"Ngươi là con của Giản Phục Sinh hả?" Thiếu niên đáp:

"Dạ phải!" "Chú em" bảo:

"Người đã tên là Truyền Học tức là đã được truyền học vấn của lão, chắc về đường học vấn cũng không ít nhỉ!" Giản Truyền Học bảo:

"Học sinh tuy tài non học kém nhưng về phương diện y lý khuôn vàng thước ngọc cũng biết được một chút." Gã trỏ người đứng sau bảo:

"Các vị chú bác ở đây cũng toàn là các bậc giỏi giang, những vết thương chúng tôi chữa khỏi người khác nghĩ tất cũng chữa không khỏi đâu!" "Chú em" nỗi giận bảo:

"Sao ngươi nghĩ người khác chữa tất cũng không khỏi?" Giản Truyền Học bảo:

"Vết thương trên mình vị tiên sinh đây tỗng cộng năm chỗ, hai chỗ là vết thương cũ, ba chỗ thì mới cách đây vài ngày bị người dùng kiếm sắc đâm thành thương tích. Tuy không phải ở nơi yếu hại nhưng nhát kiếm nào cũng đâm vào rất sâu thành thương tích ở gân cốt nơi cơ khớp!" Gã thở dài rồi nói tiếp:

"Người bệnh giá sau khi bị thương được chạy chữa ngay thì có thể còn cứu được. Tiếc thay sau khi bị thương lại phải lao lực quá độ, rồi lại còn uống rượu nặng vào quá nhiều nên làm cho vết thương bắt đầu hoại tử." Gã phân tích bệnh lý câu nào cũng có căn cứ, "Chú em" chỉ còn nước đứng mà nghe.

Giản Truyền Học bảo:

"Nhưng nghiêm trọng nhất lại chính là hai vết thương cũ. Cứ coi như chúng tôi chữa khỏi vết thương mới đi thì ông ấy cũng chỉ sống được có bẩy ngày nữa thôi!" "Chú em" biến sắc mặt hỏi gặng:

"bẩy ngày?" Giản Truyền Học đáp:

"Nhiều nhất là bẩy ngày!" "Chú em" hỏi:

"Nhưng hai chỗ bị thương cũ nhìn chẳng thấy liền vết lại rồi ử" Giản Truyền Học đáp:

"Chính vì vết thương liền miệng vì thế nhiều nhất mới được bẩy ngày!" "Chú em" bảo:

"Ta không hiểu!" Giản Truyền Học bảo:

"Dĩ nhiên công tử không hiểu rồi. Số người hiểu được chuyện này cũng không có nhiều đâu. Chẳng may cho ông ấy lại quen một người mà cũng vừa may lại là bạn bè của ông ấy." "Chú em" nghe lại càng chẳng hiểu gì:

"Là bạn bè của ông ấy ử" Giản Truyền Học bảo:

"Ông ấy bị thương xong vừa may được gặp ông bạn kia có mang theo thuốc kim sang loại tốt nhất và cũng vừa khéo lại có mang theo cả hóa cốt tán." Gã thở dài một cái rồi nói tiếp:

"Thuốc kim sang sinh cơ, hóa cốt tán làm nhũn xương. Khi thấy vết thương liền miệng chính là lúc sang độc đã đi vào xương. Trong bẩy ngày nữa, một trăm ba mươi bẩy khúc xương của ông ấy sẽ hóa thành máu mủ." "Chú em" nắm chặt tay Giản Truyền Học, nắm rất chặt hỏi:

"Không có thuốc gì chữa được loại độc này à?" Giản Truyền Học đáp:

"Không có!" Gã trả lời gọn lỏn, khẳng định dứt khoát khiến người khác không thể nghi ngờ, càng không thể không tin. Nhưng để "Chú em" nhất định phải tin điều này thì thật là đau khỗ, tàn nhẫn biết bao! Chỉ cần Giản Truyền Học nói ông bạn kia là ai và nếu để "Chú em" biết thì nỗi đau khỗ càng sâu sắc.

Chỉ có đau khỗ thôi, không thể có gì khác được. Vì có muốn hận, "Chú em" cũng không thể nào hận được! Người cần yêu thì không được yêu, người cần hận cũng không được hận, đối với một chàng tuỗi trẻ máu còn chưa lạnh lùng, nỗi đau khỗ này chịu đựng sao đây? Gã chợt nghe Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Nhiều nhất bẩy ngày, ít nhất thì mấy ngày?" "Chú em" không dám quay lại nhìn Tạ Hiểu Phong, cũng không muốn nghe Giản Truyền Học trả lời. Nhưng rồi "Chú em" vẫn phải nghe thấy.

"Ba ngày!" Giản Truyền Học trả lời tuy dứt khoát và rõ rệt, giọng nói cũng có vẻ đau thương không thể nào khác được:

"ít nhất cũng chỉ được ba ngày!" Một con người bỗng nhiên phát hiện cuộc sống của mình chỉ còn lại vẻn vẹn có ba ngày ngắn ngủi thì sẽ có phản ứng thế nào? Phản ứng của Tạ Hiểu Phong lại rất đặc biệt. Tại sao chàng còn cười được?

Phải chăng vì sự khinh miệt và châm biếm đối với cuộc sống? Hay vì đã đàng hoàng nhìn thấu suốt hết cả?

"Chú em" bỗng xoay mình chạy tới, cao giọng hỏi:

"Tại sao ông vẫn còn cười được? Ông vẫn còn cười được cơ à?" Tạ Hiểu Phong không trả lời mà hỏi lại:

"Mọi người từ xa tới, chẳng lẽ chủ nhà lại không có rượu khoản đãi ử" Giản Truyền Học tự nhiên run cả tay, đến lúc này gã mới thở ra một hơi dài. ý nghĩ "uống một chén" thông thường đâu chỉ thực sự uống có một chén.

Ba chén vào bụng rồi, tay Giản Truyền Học mới khôi phục lại được sự ỗn định vững vàng. Rượu có khi giúp người ta giải tỏa được thần kinh, ỗn định được tinh thần. Nhưng đã là thầy thuốc ngoại khoa quanh năm cầm dao mỗ thì không được có đôi tay thường run rẩy.

Tạ Hiểu Phong từ nẫy đến giờ vẫn đăm đăm nhìn hai tay của Giản Truyền Học bỗng cất tiếng hỏi:

"Ngươi hay uống rượu, nhưng uống không được nhiều?" Rồi chàng hỏi tiếp ngay:

"Nếu một người thường uống rượu phải chăng vì người đó thích uống rượu?" Giản Truyền Học đáp:

"Đại khái là thế!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Đã thích uống rượu, tại sao không uống nhiều?" Giản Truyền Học bảo:

"Vì uống quá nhiều sẽ tỗn hại thân thể, vì vậy..." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vì vậy về tâm lý ngươi thích uống rượu, nhưng không thể không miễn cưỡng khống chế bản thân chứ gì!" Giản Truyền Học cúi đầu thừa nhận. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vì ngươi còn muốn sống nữa, muốn sống thêm nhiều năm nữa, sống càng dai càng hay!" Giản Truyền Học càng không thể phủ nhận. Cuộc sống quí báu như thế có ai lại không tiếc? Tạ Hiểu Phong nâng chén uống cạn bảo:

"Mỗi con người đang sống nhất định trong lòng ôm ấp nhiều việc muốn làm mà không dám làm vì mỗi con người còn muốn sống thì khó tránh khỏi những điều trái buộc, những điều cấm đoán kiêng kỵ!" Giản Truyền Học lại thở dài thật dài, cười gượng bảo:

"Trong đám chúng sinh đông nhung nhúc có ai mà không bị gò bó, được tùy tâm sở dục!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Có một loại người." Giản Truyền Học hỏi:

"Loại nào cở" Tạ Hiểu Phong mỉm cười:

"Loại người biết mình chỉ còn sống có mấy ngày nữa!" Chàng lại cười. Nhưng trừ chàng ra còn ai dám cười? Ai nỡ cười và cười được? Trong mọi bi kịch của loài người còn có bi kịch nào buồn thương hơn cái chết?

Loại buồn thương vĩnh hằng! Rượu đủ rồi. Mà lại vẫn chưa đủ! Tạ Hiểu Phong bỗng hỏi:

"Nếu ngươi biết chắc là ngươi chỉ còn sống được có mấy ngày nữa trong mấy ngày ấy ngươi sẽ làm gì?" Đây là một vấn đề rất vi diệu, kỳ diệu mà đầy hứng thú nhưng cũng mang theo một sự châm biếm thật tàn nhẫn. Có lẽ rất nhiều người đêm vắng người thưa không tài nào chợp mắt được mới tự hỏi mình như vậy.

"Nếu ta chỉ còn sống được có ba ngày nữa thì trong ba ngày ấy ta sẽ làm gì?" Nhưng người mang vấn đề này đi hỏi người khác chắc cũng không nhiều. Người mà Tạ Hiểu Phong hỏi không phải là một người vớ vẩn nào đó mà là một người cùng ngồi ngay ở đấy.

Trong đám uống rượu bỗng có người đứng bật dậy cao giọng bảo:

"Nếu phải là tôi thì tôi sẽ đi giết người!" Người này tên là Thi Kinh Mặc. ở vùng Tây Hà, họ Thi là một nhà có danh giá. Tỗ tiên họ Thi đều là nho y rất nỗi tiếng, truyền đến Thi Kinh Mặc vừa chín đời, đời nào cũng là hạng quân tử giữ tròn quy củ nhà Nho.

Thi Kinh Mặc cũng là quân tử tính tình trầm lặng ít nói, trang nhã lễ độ. Bây giờ bỗng bật nói ra câu đó là những người quen biết ông ta đều phải ngạc nhiên. Tạ Hiểu Phong chỉ cười hỏi:

"Ông định đi giết người ư? Giết bao nhiêu người?" Thi Kinh Mặc dường như giật mình vì vấn đề đó, lẩm bẩm bảo:

"Giết bao nhiêu người ư? Ta có thể giết được bao nhiêu người nhỉ?" Tạ Hiểu Phong vẫn hỏi:

"Ông định giết bao nhiêu người?" Thi Kinh Mặc bảo:

"Tôi vốn định giết một người, bây giờ nghĩ lại thì hãy còn hai người nữa cần giết! Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Họ có lỗi với ông à?" Thi Kinh Mặc nghiến răng, mắt bừng lửa giận dường như kẻ thù ở ngay trước mắt mà bất kỳ lúc nào ông ta cũng sẵn sàng chém rụng đầu họ. Tạ Hiểu Phong thở dài bảo:

"Rất tiếc là ông hãy còn sống nhiều ngày nữa vì vậy ông đành nhìn họ tiêu dao tự tại sống thêm còn lâu, rất có thể là còn khoái lạc hơn cuộc sống của ông nữa là khác!" Thi Kinh Mặc ngồi ngẩn ra rất lâu, hai bàn tay nắm chặt thả lỏng dần ra, lửa giận trong mắt cũng dịu dần, âm thầm bảo:

"Quả không sai, bởi vì tôi còn sống nữa vì vậy cũng đành để họ sống thôi!" Giọng ông ta tràn trề nỗi buồn rầu cam chịu, được sống nữa, đối với ông ta mà nói đã trở thành một loại gánh nặng cuộc đời. Ông ta không sao nén nỗi mà không tự hỏi lòng:

"Một con người được sống tiếp tục, là hạnh phúc hay là bất hạnh?" Tạ Hiểu Phong bỗng ngay mặt đăm đăm nhìn Giản Truyền Học, hỏi:

"Còn ngươi?" Giản Truyền Học nẫy giờ vẫn trầm ngâm suy nghĩ, dường như bị vấn đề hỏi làm cho giật mình:

"Tôi ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ngươi là người rất có tài năng, xuất thân tử tế, có học hành tử tế, lại cương cường chính trực, tưởng rằng toàn được người đời tôn trọng. Chắc bản thân ngươi dĩ nhiên chẳng dám làm chuyện gì vượt ngoài quy củ của lễ giáo chứ!" Giản Truyền Học không thể phủ nhận điều đó. Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Nếu ngươi chỉ còn được sống ba ngày nữa thì ngươi làm gì?" Giản Truyền Học bảo:

"Tôi... tôi sẽ đi sắp xếp hậu sự cho tử tế, sau đó lặng lẽ đón chờ cái chết!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Thật không?" Giản Truyền Học gật đầu rồi bỗng đứng dậy cao giọng bảo:

"Không phải tôi nói thật đâu, hoàn toàn không phải thế!" Gã uống liền một mạch ba chén rượu xong mới nói to:

"Nếu quả thật tôi chỉ còn sống có ba ngày nữa tôi phải đi ăn uống cho thỏa thích, cờ bạc gái điếm cho long trời lở đất, tôi sẽ bắt bọn điếm toàn thành lại trần truồng tất cả ra mà chơi cút bắt..." Bố gã giật mình nhìn con trai:

"Ngươi... ngươi sao lại nghĩ chuyện làm những điều như thế?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Làm những chuyện ấy vốn cũng thú lắm chứ! Nếu như ông chỉ được sống ba ngày nữa chưa biết chừng ông cũng đi làm như vậy cũng nên!" Giản Phục Sinh lúng túng:

"Tôi... tôi..." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Cũng rất tiếc là cha con ông còn sống lâu vì vậy trong lòng các người nghĩ ngợi tưởng chết rồi cũng lại chỉ dám nghĩ thầm trong bụng mà thôi!" Giản Phục Sinh thở dài bảo:

"Nói thực, đến nghĩ tôi còn chưa dám nữa là!" Một chị vú trạc hai bẩy, hai tám tuỗi đang bê một đồ lớn thịt vịt hầm hơi nóng ngùn ngụt bước vào. Chị này trông cũng khá xinh. Tạ Hiểu Phong bỗng hỏi chị ta:

"Nếu ngươi chỉ được sống có ba ngày nữa thì ngươi định làm gì?" Chị vú bị hỏi vậy thì giật nẩy mình, trù trừ không dám nói ngay.

"Chú em" sa sầm mặt bảo:

"Tạ tiên sinh đã hỏi, ngươi phải trả lời thật thà!" Chị vú vừa thẹn thùng vừa khiếp sợ, cuối cùng đỏ bừng mặt bảo:

"Tôi lấy chồng!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Trước nay ngươi chưa lấy ai ử" Chị vú đáp:

"Chưa ạ!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Sao chưa lấy?" Chi vú bảo:

"Tôi từ bé bị bán đi làm con hầu, làm sao lấy được ai mà ai chịu lấy tôi?" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Nếu ngươi chỉ sống có ba ngày thì bất cứ người nào cũng lấy chứ!" Chị vú bảo:

"Miễn là đàn ông là được và miễn là đàn ông còn sống là được!" Một cô gái lỡ thì hai bẩy hai tám tuỗi muốn lấy chồng thì không có gì đáng ngạc nhiên nhưng đáng ngạc nhiên mà không ai nghe lọt tai là phần sau của câu trả lời. Lúc ấy chị vú mặt mày rạng rỡ sướng vui rồi bỗng dưng cười lớn bảo:

"Lấy chồng xong, tôi giết anh ta ngay!" Mọi người giật mình:

"Ngươi đã lấy người ta sao lại muốn giết người tả" Chị vú bảo:

"Vì tôi chưa bao giờ được làm người vợ góa nên vẫn thường thèm được nếm mùi vị người vợ góa chồng xem như thế nào!" Mọi người ngây mặt nhìn nhau muốn cười mà cười không nỗi. Không ai ngờ được một người con gái như vậy lại có được cách nghĩ "tuyệt cú" như vậy. Chị vú nói tiếp:

"Chỉ tiếc là tôi chưa được chết nên chẳng những chắc chắn làm bà góa là không được rồi mà muốn có chồng cũng không xong!" Chị ta cúi đầu khe khẽ thở dài đặt bát thịt trên tay xuống, cúi đầu ra khỏi phòng. Im lặng rất lâu bỗng một người ngồi trong tiệc lẩm bẩm:

"Nếu quả thật tôi chỉ còn sống có ba ngày nữa, tôi sẽ lấy chị ta!" Người này tên là Vu Tuấn Tài là một danh y nhưng lại sống rất kỳ quặc, hình dạng quái dị chẳng những lưng gù chân thọt mà mặt còn rỗ như tỗ ong bầu. Ông ta là người rất nỗi tiếng cả tiếng thơm lẫn tiếng xấu vì vậy người làm mối đi dạm vợ cho ông ta dùng đủ trăm phương ngàn kế để giới thiệu nhưng chỉ cần nghe đến tên "ông lang rỗ" là nhà gái năm lần bẩy lượt từ chối ngay thậm chí có lần bà mối còn bị nhà gái dùng chỗi quét ra khỏi cửa.

Tạ Hiểu Phong hỏi Vu Tuấn Tài:

"Ông định lấy chị ta thật chứ?" Vu Tuấn Tài đáp:

"Người đàn bà này sạch sẽ, lại xinh xắn. Lấy được người vợ thế này thì gọi là nhà có phúc, chỉ đáng tiếc..." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Chỉ đáng tiếc là ông còn sống chưa chết, hơn nữa lại giữ cho đẹp bộ mặt nhà ông nên không thể đem kiệu bát cống đến đón người như chị vú về làm vợ chứ gì!" Vu Tuấn Tài chỉ còn biết gật đầu thở dài mà uống rượu. Tạ Hiểu Phong bỗng cười. Mọi người đều nhìn chàng cười.

Tạ Hiểu Phong bỗng bảo:

"Các ông vừa muốn hỏi tôi là một người biết rõ ràng mình chắc chắn chết đến nơi sao còn cười được chứ gì? Sao các ông không hỏi đi!" Không ai trả lời, không có ai có thể trả lời được! Tạ Hiểu Phong trả lời thay họ:

"Bởi vì trong lòng các ông giờ đang thầm hâm mộ tôi là các ông nghĩ gì nhưng không dám đi làm thế còn tôi dám đi làm ngay!" Một con người có thể tùy tâm thích gì khoan khoái làm như vậy trong mấy ngày, tôi tin là sẽ có rất nhiều người hâm mộ mong được như thế nhưng chỉ ngầm ở trong lòng thôi! Vu Tuấn Tài uống liền hai chén rượu bỗng hỏi:

"Còn ông? Trong ba ngày này ông định làm gì?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Tôi muốn ông lấy nàng!" Vu Tuấn Tài hỏi:

"Lấy nàng nào?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Lấy em gái nuôi của ta!" Vu Tuấn Tài hỏi:

"Em gái nuôi của ông? Ai là em gái nuôi của ông?" Tạ Hiểu Phong bỗng bỏ đi ra ngoài, lôi chị vú xinh đẹp nẫy giờ núp ngoài cửa nghe trộm vào trong phòng.

"Đây là em gái nuôi của ta!" Vu Tuấn Tài ngẩn người ra. Chị vú xinh đẹp cũng ngẩn người ra. Tạ Hiểu Phong hỏi chị ta:

"Ngươi họ gì, tên là gì?" Chị vú cúi đầu đáp:

"Đi làm con ở làm gì có họ, chủ đặt cho tôi một cái tên gọi là Phương Mai, nên tên tôi là Phương Mai." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Giờ ngươi có họ rồi, họ Tạ!" Phương Mai hỏi:

"Họ Tạ?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Giờ ngươi là em gái nuôi của ta. Ta họ Tạ, ngươi chẳng họ Tạ thì còn họ gì?" Phương Mai bảo:

"Nhưng ông... ông..." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta là tam thiếu gia Tạ Hiểu Phong nhà họ Tạ ở Thần Kiếm sơn trang hồ Lục Thủy núi Thúy Vân Phong đây!" Phương Mai dường như đã nghe thấy tên này:

"Tam thiếu gia Tạ Hiểu Phong nhà họ Tạ ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Bất kỳ ai đã làm em gái nuôi của Tam thiếu gia nhà họ Tạ tuyệt không thể là chuyện mất thể diện được!" Chàng trỏ vào Vu Tuấn Tài bảo Phương Mai:

"Người này tuy chẳng đẹp trai nhưng nhất định là một người chồng tốt!" Phương Mai cúi đầu xuống càng thấp. Tạ Hiểu Phong kéo tay cô ta lại đặt vào tay Vu Tuấn Tài bảo:

"Bây giờ ta tuyên bố các ngươi đã là vợ chồng, có ai phản đối không?" Không ai. Dĩ nhiên là không có ai! Việc vui mừng này vốn không phải là việc vui mừng thông thường, hoàn toàn không hợp quy củ thậm chí còn có vẻ hoang đường nữa là khác. Nhưng đã là việc vui mừng thì bất kể loại việc vui mừng gì đều làm tinh thần người ta phấn chấn chỉ có Thi Kinh Mặc vẫn tỏ vẻ bi ai. Tạ Hiểu Phong từ tốn đi lại gần ông ta hỏi:

"Người này là bạn ông ử" Thi Kinh Mặc hỏi:

"Người nào cở" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Người có lỗi với ông đấy!" Thi Kinh Mặc đáp:

"Tôi vẫn coi là bạn, nhưng..." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Người ấy làm lỗi gì với ông?" Thi Kinh Mặc mím chặt miệng không thốt ra một lời nào, nhưng mắt thì đã có ngấn lệ chẩy. Chuyện này ông ta không tiện nói ra cũng không muốn nói.

Bất kể thù hận lớn đến đâu, nỗi đau khỗ sâu sắc đến đâu ông ta đều có thể nghiến răng mà nhịn chịu nhưng không có cách nào nhịn được sự việc này đem tới nhục nhã cho cuộc đời ông ta. Tạ Hiểu Phong nhìn Thi Kinh Mặc, mắt lộ đầy vẻ đồng tình thông cảm bảo:

"Tôi thấy ông là người thật thà!" Thi Kinh Mặc cúi đầu bảo:

"Tôi chẳng qua chỉ là kẻ vô dụng mà thôi!" ý của người thật thà bảo thông thường người thật thà chỉ là kẻ vô dụng. Nhưng Tạ Hiểu Phong lại bảo:

"Thì ít ra ông cũng được học hành!" Thi Kinh Mặc bảo:

"Có khi vì tôi có học nên mới trở thành vô dụng như thế đấy!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Dùng được chứ!" Thi Kinh Mặc cười, trong tiếng cười có mang ý châm biếm tự cười mình:

"Dùng được? Dùng được việc gì cơ chứ?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Có lúc dùng ngòi bút cũng giết được người đấy!"

HỒI 38 - MIỆNG CHẶT BÚT CHÉM

Thi Kinh Mặc hỏi:

"Dùng bút mà giết được người ử" Tạ Hiểu Phong hỏi lại:

"Ông không tin à?" Thi Kinh Mặc bảo:

"Tôi..." Tạ Hiểu Phong bảo:

"ở bàn kia có bút mực, sao ông không tới thử xem sao!" Thi Kinh Mặc hỏi:

"Thử thế nào?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Chỉ cần ông tới viết ba chữ là có thể đưa người đó vào chỗ chết!" Thi Kinh Mặc hỏi:

"Ba chữ gì?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Ba chữ tên người đó!" Thi Kinh Mặc ngẩng đầu, ngạc nhiên nhìn Tạ Hiểu Phong. Cho tới tận giờ ông ta mới phát hiện ra đứng trước mặt mình là một người sắp chết nhưng vẫn mang trong mình một sức mạnh thần bí đáng sợ bất kỳ lúc nào cũng có thể làm được những việc người khác không làm nỗi. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Mau tới viết đi! Viết xong cứ việc dán kín lại rồi đưa cho ta, ta bảo đảm không có ai tiết lộ bí mật của ông đâu!" Cuối cùng Thi Kinh Mặc cũng đứng dậy đi tới đó, nhấc bút lên... Con người này có sức mạnh quả thực đã ra lệnh thì không sao kháng cự nỗi, mà cũng không dám kháng cự. Lời người này đã nói Thi Kinh Mặc không thể không tin! Dán kín phong thư lại trao tận tay Tạ Hiểu Phong. Trong thư chỉ có một tờ giấy, một cái tên người! Tạ Hiểu Phong bảo:

"Trừ ông ra, tôi bảo đảm không có ai biết trong thư này viết tên ai!" Thi Kinh Mặc gật đầu. Bộ mặt xanh lướt do quá phấn khởi lo lắng mà méo xệch đi. Ông ta không nén được phải hỏi:

"Rồi sau thì sao?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Rồi sau chỉ có một người có thể xem được tên này". Thi Kinh Mặc hỏi:

"Người nào?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Một người tuyệt đối có thể giữ được bí mật cho ông!" Chàng quay lại đối diện với "chú em":

"Ngươi dĩ nhiên phải đoán được người ấy là ngươi chứ?" "Chú em" đáp:

"Phải!". Gã chìa tay đón lấy bức thư từ tay Tạ Hiểu Phong. Tay gã cũng vững vàng như tay Tạ Hiểu Phong.

Mọi người ở đó trên nét mặt không hiểu biểu lộ sự kính trọng hay sợ hãi? Một bức thư, một tờ giấy, một tên người... chỉ vẻn vẹn có thế mà trong loáng mắt đã có thể định được việc sống chết của một con người! Hai người này là ai? Sao có quyền lực đến như vậy?

Trên trán Thi Kinh Mặc mồ hôi lạnh ứa ra to như hạt đậu bỗng ông ta xông tới giật phong thư trên tay "chú em" vo viên lại thành một cục, đút vào mồm nhai vụn nát, nuốt đi xong bắt đầu nôn ọe không ngừng. Tạ Hiểu Phong lạnh lùng nhìn ông ta nhưng không ngăn cản.

Trên mặt "chú em" lại càng chẳng có biểu hiện tình cảm nào. Đợi đến khi Thi Kinh Mặc ngừng nôn ọe rồi Tạ Hiểu Phong mới lạnh lùng bảo:

"Ông không nỡ để người ấy chết ử" Thi Kinh Mặc lắc đầu quầy quậy, nước mắt lẫn mồ hôi lạnh đồng thời rơi xuống. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ông đã thù đến tận xương tủy cớ sao còn không nỡ để người ấy chết?" Thi Kinh Mặc lúng túng:

"Tôi... tôi..." Tạ Hiểu Phong bảo:

"ở kia còn giấy bút, tôi vẫn có thể cho ông một cơ hội nữa!" Thi Kinh Mặc lắc đầu quầy quậy bảo:

"Tôi giờ thật không muốn người ấy chết nữa, thật sự không muốn nữa!" Tạ Hiểu Phong cười bảo:

"Té ra ông hận người ta cũng chưa đến nỗi như ông tưởng tượng đâu!" Chàng mỉm cười đỡ Thi Kinh Mặc cơ hồ ngồi rũ liệt trên mặt đất đứng dậy bảo:

"Dù thế nào đi nữa ông mong có cơ hội để giết người ta nhưng rồi lại bỏ qua không giết nữa. Chỉ nghĩ được thế lòng ông cũng cảm thấy dễ chịu hơn nhiều!" Trong nhà rất tối nhưng mặt Tạ Hiểu Phong tựa hồ phát ra ánh sáng. Mọi người không nén nỗi bất giác cùng nhìn chàng mà lộ đầy vẻ kính nể chứ không có chút gì sợ hãi.

Một bức thư, một tờ giấy, một tên người... chỉ trong thoáng chốc đã hóa giải được tâm lý căm thù oán giận trong lòng một con người suốt bao nhiêu năm tháng... Thật sự ra Tạ Hiểu Phong là người thế nào, sao lại có sức mạnh thần kỳ làm vậy? Rót đầy chén rượu, mọi người lặng lẽ nâng chén uống cạn. Ai cũng hiểu rõ chén rượu này mình uống vì ai. Cho dù chỉ còn có ba ngày thôi, nhưng trong ba ngày ngắn ngủi ấy chàng sẽ làm được bao nhiêu việc nữa?

Tạ Hiểu Phong thở ra thật dài và cười càng vui vẻ. Qua một lát sau chàng càng cảm thấy hài lòng hơn. Chàng rất thích rượu ngon, rất vui vì những người khác kính trọng mình. Những việc như hai việc vừa rồi chàng gạt bỏ đi đã lâu nhưng bây giờ lại khiến toàn thân chàng dần dần ấm áp lại.

"Phải đi thôi! Sớm muộn gì cũng phải đi thôi!" Chàng nhìn mọi người:

"Giờ các người không còn chuyện gì cần thiết để giữ ta ở lại nữa chứ?" "Chú em" lại nâng chén uống một hơi cạn sạch, sau đó mới nói rành rọt từng tiếng:

"Không còn! Đương nhiên không còn gì nữa!" Mọi người lại cùng nhau nâng chén uống cạn, trong khi uống từng người đều nhìn Tạ Hiểu Phong mà uống. Chỉ có Giản Truyền Học vẫn cứ cúi đầu, bỗng gã hỏi:

"Giờ có phải ông đã phải ra đi không?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Phải!". Chàng đứng dậy đi lại chỗ Giản Truyền Học nắm lấy cánh tay gã mà bảo:

"Chúng ta cùng đi!" Cuối cùng đến giờ Giản Truyền Học mới ngẩng đầu hỏi:

"Chúng ta cùng đi? Ông muốn tôi đi cùng ông ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Đi chứ! Đi để ăn uống cho thỏa thích, đi để cờ bạc đĩ điếm cho long trời lở đất chứ!" Giản Truyền Học hỏi:

"Rồi sau thì sao?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Rồi sau thì ta chết, còn ngươi trở về làm trò quân tử của ngươi!" Giản Truyền Học không kịp nghĩ ngợi gì nữa, gã đứng bật dậy bảo:

"Tốt! Chúng ta đi!" Nhìn theo hai người kề vai đi với nhau, mọi người đều biết Tạ Hiểu Phong chuyến này đi rồi thì chết là chắc chắn. Nhưng còn Giản Truyền Học? Liệu anh ta có trở về lại để làm trò quân tử nữa không?

Ra đến cửa, Giản Truyền Học bỗng dừng lại bảo:

"Giờ chúng ta không thể đi được!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao?" Giản Truyền Học bảo:

"Vì ông lại là Tam thiếu gia Tạ Hiểu Phong nhà họ Tạ!" Đó không phải là lý do! Vì vậy Giản Truyền Học bỗ sung thêm:

"ở đây ai cũng biết kiếm pháp của Tam thiếu gia Tạ Hiểu Phong nhà họ Tạ là kiếm pháp thiên hạ vô song, nhưng chưa ai được thấy qua!" Tạ Hiểu Phong thừa nhận. Tiếng tăm của chàng thiên hạ đều biết cả nhưng người được tận mắt nhìn thấy kiếm pháp của chàng thì chẳng có mấy. Giản Truyền Học bảo:

"Nếu Tam thiếu gia chết thì ai còn được thấy kiếm pháp của Tam thiếu gia nữa!" Không còn ai. Đương nhiên là không còn ai! Giản Truyền Học lại bảo:

"Mọi người từ ngàn dặm tới đây, tới xem không phải chỉ để xem bệnh cho Tam thiếu gia mà là người xem kiếm của Tam thiếu gia. Chẳng lẽ Tam thiếu gia lại để mọi người vất vả về không ôm mối tiếc hận suốt đời hay sao!" Đó là lời nói thực. Không phải thèm coi bệnh của Tam thiếu gia mà là thèm xem kiếm. Tạ Hiểu Phong cười. Chàng mỉm cười, quay trở lại bảo:

"Đây có kiếm không?" Đây có kiếm. Đương nhiên là có kiếm! Có kiếm. Không phải cỗ kiếm, không phải danh kiếm mà chỉ là một cây kiếm tốt. Một cây kiếm tốt bằng thép ròng do trăm lần luyện gang mà đúc thành. Một cây kiếm tốt muốn trở thành cỗ kiếm, thành danh kiếm đã sử dụng phải chăng thông thường phải xem người dùng nó là ai đã?

Kiếm gặp được chủ kiếm thắng. Là danh kiếm mà không gặp được chủ thì kiếm mất, kiếm bị diệt, kiếm bị chìm... chẳng những đã chẳng lưu danh được thiên cỗ mà còn chẳng giữ nỗi thân mình. Số phận một con người há cũng chẳng như thế ư? Kiếm vừa tuốt ra khỏi vỏ đã hóa làm một bông hoa ánh sáng, thành một đường cong hoa ánh sáng, xán lạn, huy hoàng, đẹp đẽ.

Hoa ánh sáng lấp loáng biến ảo cao vút ở trên như mây nhẹ dật dờ nhưng mọi người đều có cảm giác đóa hoa ánh sáng này dường như gắn ngay vào giữa hai đường mày của mình nhưng cũng không ai biết đích xác nó còn ở nơi nào khác! Sự biến hóa của hoa kiếm dường như vượt trên cực hạn của năng lực con người, cơ hồ khiến người ta không tin nỗi. Nhưng rõ ràng nó ở chỗ này chỗ nọ hoặc chẳng chỗ nào không có nó. Mọi người đều xác nhận nó đang tồn tại lúc này lúc khác nhưng rồi lại chẳng thấy gì nữa cả.

Kỳ tích bỗng nhiên xuất hiện, kỳ tích cũng bỗng nhiên biết mất. Mọi động tác, mọi biến hóa đều hoàn thành trong thoáng chốc, kết thúc cứ y như sao băng, lại như tia chớp điện hoặc kỳ tích tiếp cận với sao băng, với điện chớp.

Về sức mạnh được thúc đẩy biến hóa đó là do con người tạo ra. Con người như những người bình thường khác đang sống, con người bằng xương bằng thịt, có máu có thịt hẳn hoi.

Đợi đến khi kiếm quang tắt hẳn, kiếm còn đó nhưng người đã chẳng thấy đâu nữa! Kiếm nằm trên xà nhà. Mọi người nhìn cây kiếm như ngây như dại chẳng biết đến bao lâu mới có người thở ra một hơi dài nhẹ nhõm.

"Ông ấy không chết đâu!" "Tại sao?" "Bởi vì dù ông ấy có đi đâu ông ấy vẫn vĩnh viễn ở trong trái tim chúng ta!" Đêm. Đèn hoa mới nỗi, đèn như vẽ.

Họ đã hơi ngà ngà mấy phần say. Giản Truyền Học nồng hơi men nhất lẩm bẩm:

"Những người này thật là kỳ lạ! Tôi bỗng dưng làm sao lại nghĩ ra làm những chuyện như vậy, xưa nay tôi vẫn là đứa trẻ ngoan mà!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ngươi có phải là người không?" Giản Truyền Học đáp:

"Đương nhiên là phải!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Chỉ cần là ngươi bất kể người như thế nào học cái xấu dễ hơn học cái tốt, nhất là học ăn nhậu, đĩ điếm, cờ bạc... thì chẳng mất công học mấy cũng dễ giỏi." Giản Truyền Học lập tức đồng ý ngay:

"Dường như mỗi con người sinh ra đã có sẵn cái tài ấy rồi thì phải!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nhưng nếu muốn thật tinh thông các môn ấy cũng chẳng dễ đâu!" Giản Truyền Học hỏi:

"Thế ông?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Ta là chuyên gia!" Giản Truyền Học hỏi:

"Thế chuyên gia định đưa tôi đi đâu bây giờ?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Đi kiếm tiền!" Giản Truyền Học hỏi:

"Chuyên gia làm những chuyện đó cũng phải cần tiền ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vì ta là chuyên gia vì vậy mới cần tiêu tiền mà tiêu nhiều hơn những người khác nhiều!" Giản Truyền Học hỏi:

"Tại sao vậy?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Bởi vì bản thân nhữnng việc này là việc tiêu tiền. Nếu không biết tiêu tiền thì thà về nhà ôm con cho vợ còn hơn!" Đúng là câu nói của bậc chuyên gia. Có phải bậc chuyên gia thực thụ mới hiểu rõ được đạo lý trong này. Muốn đi chơi thật thống khoái mà tính đếm từng đồng, ky bo hà tiện, khác gì kẻ đi lạc hàng vì khi họ so kè để bớt đi được một vài xu thì trong con mắt người khác giá trị của họ cũng chẳng đáng một xu.

Chuyên gia tất nhiên cũng có nỗi khỗ của chuyên gia, nỗi khỗ to lớn nhất thông thường chỉ nằm trong có một chữ:

"Tiền" vì tiêu tiền dễ gấp mấy lần kiếm ra tiền. Tuy nhiên nỗi khỗ này cũng chẳng quật đỗ được Tạ Hiểu Phong. Chàng dắt Giản Truyền Học lượn Đông lượn Tây ngoài phố xá, bỗng xộc ngay vào một gian hàng bán tạp hóa rất cũ nát tha hồ xem nhưng tuyệt không giống như nơi có tiền đang muốn tìm. Trong cửa tạp hóa chỉ có mỗi ông già mắt già nhập nhèm nửa mù nửa điếc muốn xem gì thì cứ việc xem trông cũng chẳng giống gì một kẻ có tiền.

Giản Truyền Học trong lòng rất ngạc nhiên.

"Chúng ta không mua dầu cũng không mua dấm vào đây làm gì?" Tạ Hiểu Phong bỗng đi lại gần ghé vào tai ông già nói gì đó. Thái độ của ông già biến đỗi đột ngột chẳng khác gì con chuột bỗng bị bẩy tám con mèo vây chặt. Sau đó ông già dắt Tạ Hiểu Phong đi vào khuôn cửa nhỏ ở mé sau có treo một cái rèm bằng vải rách.

Giản Truyền Học đành chờ ở bên ngoài. May sao Tạ Hiểu Phong trở ra rất nhanh. Và thò ra đã hỏi ngay:

"Ba vạn lượng đủ cho chúng ta tiêu không?" Ba vạn lượng bạc? Lấy đâu ra ba vạn lượng bạc chứ?

Một hiệu tạp hóa nhỏ lúi xùi này mà phút chốc kiếm được ra ba vạn lượng bạc ư? Giản Truyền Học không cách nào tin nỗi. Nhưng Tạ Hiểu Phong rõ ràng có ba vạn lượng bạc thật. Còn ông già thì không thấy trở ra. Giản Truyền Học nén không nỗi vội khe khẽ hỏi:

"ở đây xảy ra việc gì vậy? ở đây là nơi nào thế?" Tạ Hiểu Phong cười bảo:

"ở đây là nơi rất hay!" Rồi chàng nói thêm:

"Là nơi có tiền, thông thường đều là nơi tốt cả!" Giản Truyền Học hỏi:

"ở nơi này đào đâu ra tiền?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Bánh bao muốn thấy thịt phải bẻ ra. Một người có tiền hay không có tiền nhìn bề ngoài đâu dễ thấy!" Giản Truyền Học hỏi:

"Thế ông già có tiền ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Chẳng những có tiền, mà rất có thể còn là người lắm tiền nhất trong vòng tám dặm quanh đây là khác!" Giản Truyền Học bảo:

"Thế sao ông ấy lại sống lúi xùi thế này?" Tạ Hiểu Phong:

"Vì ông ta cam sống như thế này, có thế mới có nhiều tiền!" Giản Truyền Học hỏi:

"Ông già đã chẳng dám tiêu tiền như vậy sao bỗng dưng lại đưa cho ông những ba vạn lượng bạc một lúc như thế?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Tất nhiên ta có cách chứ!" Giản Truyền Học hấp hay cặp mắt, hạ giọng khẽ bảo:

"Cách gì cơ? Hay là ăn cướp?" Tạ Hiểu Phong chỉ cười không trả lời. Giản Truyền Học càng hiếu kỳ, nhịn không được phải hỏi gặng:

"Lẽ nào ông già này là chỗ ngồi chia của ăn cướp của bọn đại đạo giang hồ?" Tạ Hiểu Phong mỉm cười bảo:

"Những chuyện ấy giờ ngươi không nên hỏi!" Giản Truyền Học hỏi:

"Thế giờ tôi nên hỏi chuyện gì?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Hỏi ta cho biết sẽ dẫn ngươi đi đâu tiêu tiền thôi!" Giản Truyền Học cũng phải bật cười. Dù sao chăng nữa tiêu tiền cũng là việc làm người ta thấy khoái chá. Giản Truyền Học hỏi ngay:

"Thế chúng ta định đi đâu tiêu tiền?" Tạ Hiểu Phong không hé răng thì ông già đã từ sau tấm rèm vải rách thò đầu ra bảo:

"ở ngay đây!" ở đây là một cửa hàng tạp hóa tẹp nhẹp úi xùi, có gom tất cả hàng hóa lại bán cũng chưa chắc hết năm trăm lượng. Giản Truyền Học dĩ nhiên phải hỏi:

"ở đây mà là nơi tiêu tiền ử" Ông già nheo mắt nhìn gã vài lượt rồi rụt đầu lại coi bộ chán không buồn nói chuyện với Giản Truyền Học. Tạ Hiểu Phong đã cười bảo:

"Nếu nơi đây không là nơi tiêu tiền thì ba vạn lạng bạc lấy đâu rả" Câu nói này rất có lý. Tuy vậy Giản Truyền Học vẫn không khỏi còn chút hoài nghi bảo:

"ở đây có đàn bà ử" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Không chỉ có đàn bà, mà e quanh đây tám trăm dặm đàn bà hay nhất là ở đây đấy!" Giản Truyền Học hỏi:

"Quanh đây tám trăm dặm rượu ở đây cũng ngon nhất à?" Tạ Hiểu Phong đáp ngay:

"Phải!" Giản Truyền Học hỏi:

"Sao ông biết?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Thế ta mới là chuyên gia!" Mé sau cửa hàng tạp hóa chỉ có một khuôn cửa nhỏ. Cửa vừa hẹp vừa nhỏ, lại còn che bằng tấm rèm vải bông cũ rách. Rượu ở đâu đây?

Đàn bà ở đâu đây? Chẳng lẽ đều ở trong khuôn cửa bé xíu có treo tấm màn vải rách kia?

Giản Truyền Học không nén nỗi định vén bức rèm rách lên xem nhưng rèm chưa vạch ra, đều chưa thò vào gã đã ngửi thấy mùi thơm phưng phức. Mùi thơm cực độ.

Thế rồi gã mê thiếp đi. Khi Giản Truyền Học tỉnh lại thì Tạ Hiểu Phong đang uống rượu, không phải ngồi uống rượu một mình mà có rất nhiều đàn bà đang tiếp rượu với chàng.

Rượu thì không biết có phải là rượu ngon nhất hay không, còn đàn bà thì người nào người nấy không phải là thường, rất không phải là thường. Giản Truyền Học lảo đà lảo đảo nhỏm dậy, lạng chà lạng choạng đi tới, trước hết giành lấy một chén tợp cạn sạch.

Quả nhiên là rượu ngon! Các chị em đang nhìn gã mà cười, họ cười lên, nhìn càng đẹp càng xinh. Giản Truyền Học nhìn họ chán lại nhìn Tạ Hiểu Phong rồi hỏi:

"Các người không ngửi thấy luồng hương thơm ấy ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Không thấy!" Giản Truyền Học bảo:

"Tôi ngửi thấy rõ ràng, sao lại không có được!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta bịt mũi lại!" Giản Truyền Học bảo:

"Sao lại bịt mũi?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vì ta đã biết đó là mùi hương gì rồi!" Giản Truyền Học hỏi:

"Hương gì vậy?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Hương mê!" Giản Truyền Học hỏi:

"Sao lại dùng hương mê để làm tôi mê ngã?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Vì có làm thế mới thần bí!" Rồi chàng cười nói tiếp:

"Càng có vẻ thần bí càng thấy hứng thú!" Giản Truyền Học nhìn Tạ Hiểu Phong, lại nhìn đám đàn bà, nén không nỗi đành thở dài mà bảo:

"Xem ra ông đúng là chuyên gia thật, chuyên gia chính hiệu!"

HỒI 39 - CƯỢC KIẾM QUYẾT THẮNG

"Tại sao mọi người cứ bảo:

"ăn, uống, đĩ điếm, cờ bạc" mà không nói "cờ bạc, đĩ điếm, uống, ăn?" "Ta biết!" "Ông nói là tại sao?" "Vì cờ bạc lợi hại nhất, bất kể ngươi ăn thế nào, uống thế nào, gái gủng thế nào cũng không thể nào sạch bách được ngay nhưng nếu ngươi cờ bạc rất có khả năng chỉ một trận là thua tay trắng." "Thua trắng tay, lúc ấy thì ăn cũng sẽ chẳng được ăn, uống sẽ chẳng được uống và đĩ điếm gái gủng cũng hết luôn!" "Không sai chút nào!" "Vì thế cờ bạc mới để cuối cùng!" "Không sai chút nào!" "Giờ có phải chúng ta chuyển sang cờ bạc không?" "Dường như phải." "Thế ông định dắt tôi đi đâu đánh bạc?" Tạ Hiểu Phong còn chưa kịp mở miệng thì ông già đã từ cửa sau thò đầu vào bảo:

"ở ngay đây thôi! ở đây thứ gì chẳng có đủ!" "ở đây" tất nhiên không phải là ở cửa hàng tạp hóa tẹp nhẹp cũ nát. "ở đây" tức là ở trong ngôi nhà khang trang đẹp đẽ, bày biện đẹp đẽ sang trọng, có con gái xinh đẹp, cũng có các món ăn ngon, rượu thật ngon.

"ở đây" cơ hồ thứ gì cũng có đủ. Nhưng ở đây lại không có đánh bạc. Đã cờ bạc thì phải đánh cho thật thống khoái. Nếu ta đã cùng một cô gái cùng nhau làm những chuyện gì khác thật là thống khoái thì liệu ta có thể lại cùng cô ta cờ bạc với nhau cho thật thống khoái nữa không?

Ngoài các cô gái đó ra ở đây còn có Tạ Hiểu Phong. Đương nhiên là Giản Truyền Học không dám đánh bạc với Tạ Hiểu Phong rồi. Bạn bè với nhau thông thường cũng vẫn dám cờ bạc nhất sống nhị chết với nhau và trở mặt là thành thù hận. Nhưng nếu vốn đánh bạc của ta là do bạn ta bỏ ra, liệu ta có dám cùng bạn ta đánh bạc hay không?

Lão già lại rụt đầu trở về. Giản Truyền Học đành hỏi Tạ Hiểu Phong:

"Chúng ta đánh bạc sao đây?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Bất kể đánh bạc thế nào chỉ cần có đánh bạc là được!" Giản Truyền Học bảo:

"Chẳng lẽ chỉ có hai người chúng ta đánh với nhau?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Dĩ nhiên còn người khác nữa chứ!" Giản Truyền Học hỏi:

"Người đâu?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Người sắp tới ngay giờ thôi!" Giản Truyền Học hỏi:

"Người thế nào?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Ta không biết." Tạ Hiểu Phong lại cười bảo:

"Nhưng ta biết ông già kia sẽ kiếm người tới, nhất định là có đủ chân đánh tốt." Giản Truyền Học hỏi:

"Chân đánh tốt là ý làm sao?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Chân đánh tốt ý chỉ người đánh bạc ra trò, còn có ý nữa là chúng ta muốn đánh kiểu gì bao nhiêu thế nào họ cũng đánh với ta!" Giản Truyền Học bảo:

"Như thế bảo đánh tốt tức là đánh rồi bị thua chứ gì?" Tạ Hiểu Phong cười vang bảo:

"Cũng có khi họ không thua, cũng có khi người thua là chúng ta!" Đánh bạc là đánh bạc, ý là may rủi, nếu không chơi gian, ai dám đảm bảo mình chắc thắng hoàn toàn! Giản Truyền Học bảo:

"Hôm nay chúng ta đánh bạc thế nào?" Tạ Hiểu Phong chưa kịp mở miệng nói gì thì ông già đã lại từ cửa sau thò đầu vào bảo:

"Hôm nay chúng ta cuộc kiếm!" Ông già nheo mắt nhìn Tạ Hiểu Phong, bảo:

"Tôi đảm bảo hôm nay mời tới toàn chân đánh tốt!" Trong võ lâm xưa nay vẫn có bẩy đại kiếm phái. Võ Đang, Điểm Thương, Hoa Sơn, Côn Luân, Nga Mi, Không Động và Hải Nam.

Đệ tử phái Thiếu Lâm phần lớn không sử kiếm do đó phái Thiếu Lâm không liệt vào đây. Kể từ chân nhân Trương Tam Phong tài tình tìm ra ý nghĩa tinh túy của kiếm pháp nội gia rồi mở tông lập phái tới nay, phái Võ Đang được những người học kiếm trong thiên hạ tôn là kiếm pháp chính tông, đời đời năm nào cũng có đệ tử là cao thủ nối nhau mãi không bao giờ suy giảm.

Trong đám cao thủ hạng nhất nỗi lên trong các kiếm khách phái Võ Đang có sáu đại đệ tử được gọi là "Tứ linh song ngọc". Đứng đầu "Tứ linh" (bốn linh thiêng) là Âu Dương Vân Bằng từ khi vào đời đến nay đã trải qua ba mươi sáu trận đánh lớn nhỏ chỉ thua kiếm khách nỗi tiếng võ lâm ở ẩn tại Ba Sơn là Cố Đạo nhân có mấy chiêu.

Âu Dương Vân Bằng cao lớn đẹp đẽ, anh tuấn hoạt bát chẳng những được anh em cùng học rất coi trọng mà đối với khách trên giang hồ cũng có quan hệ tốt. Từ sau trận chiến ở Ba Sơn thì Âu Dương Vân Bằng được công nhận là người có triển vọng nhất trong việc kế thừa thống nhất đạo phái Võ Đang. Chàng ta cũng hết sức chăm chỉ cẩn thận gìn giữ bỗn phận, giữ mình trong sạch tốt lành. Nhưng hôm nay chàng ta đột nhiên xuất hiện tại đây và là người đầu tiên Tạ Hiểu Phong trông thấy. Xem ra ông già chủ nhà chẳng nói ngoa vì Âu Dương Vân Bằng rõ ràng là một "tay chơi" có hạng.

Kiếm pháp phái Không Động vốn cùng một mạch với phái Võ Đang, chẳng qua phái này tương đối thích thiên về sát phạt không phải là không hay mà đôi khi lại tỏ ra rất sắc bén tàn độc. Kiếm sinh do tâm vì vậy tấm lòng của kiếm khách cũng dần dần biến đỗi theo kiếm pháp mà mình luyện tập. Chính vì vậy mà đệ tử phái Không Động phần lớn đều thâm trầm tàn độc. Vì thế tuy kiếm pháp của phái Không Động cũng là kiếm pháp nội gia dùng công phu nội gia chính tông nhưng rất ít người công nhận phái Không Động là phái chính tông nội gia. Điều đó càng khiến cho đệ tử phái Không Động càng thêm thiên lệch không muốn giao thiệp cùng đồng đạo giang hồ. Tuy vậy người trên giang hồ cũng không vì thế mà coi không trọng họ vì mọi người đều biết gần đây phái Không Động mới sáng tạo ra một bài kiếm pháp cực kỳ đáng sợ. Nghe nói bài kiếm này chiêu thức không nhiều nhưng chiêu nào chiêu nấy toàn là chiêu sát thủ tuyệt đối. Muốn luyện thành bài kiếm pháp này tuy không phải dễ. Trừ chưởng môn chân nhân và bốn vị trưởng lão ra, nghe nói chỉ có một đệ tử có thể sử được các chiêu sát thủ này. Người đó là Tần Độc Tú.

Cùng đi vào cùng Âu Dương Vân Bằng chính là Tần Độc Tú. Dĩ nhiên Tần Độc Tú cũng là tay kiếm có hạng.

"Hoa Sơn Kỳ kiếm, kiếm pháp kỳ hiển", câu truyền ngôn ý nói kiếm pháp của phái Hoa Sơn kỳ lạ, nguy hiểm một cách lạ kỳ. Xưa nay đệ tử phái Hoa Sơn không nhiều vì muốn lễ làm đệ tử phái Hoa Sơn thì phải có căn cốt trác tuyệt, chịu đựng gian khỗ, có quyết tâm trải trăm khó không sờn. Chưởng môn phái Hoa Sơn tính tình quái gở kiêu ngạo, đối với đệ tử đòi hỏi rất nghiêm khắc xưa nay không cho phép vô cớ rời Hoa Sơn một bước.

Mai Trường Hoa là đệ tử duy nhất được tự do ra vào núi Hoa Sơn bôn tẩu giang hồ vì chưởng môn phái Hoa Sơn rất tin tưởng họ Mai. Không còn nghi ngờ gì nữa Mai Trường Hoa ắt cũng là tay khá. Kiếm pháp "Cửu long cửu thức" của phái Côn Luân xưa nay lừng danh thiên hạ, oai chấn giang hồ. Trong đám đệ tử cũng có một "rồng". Điền Tại Long là "rồng" đó.

Như thế, rõ ràng Điền Tại Long cũng là tay kiếm giỏi thuộc phái Côn Luân. Điểm Thương núi sáng nước trong, bốn mùa đều là xuân. Các đệ tử dưới trướng làm lễ bái sư từ bé rồi lớn lên trong hoàn cảnh đó phần lớn đều là ấm áp lương thiện như châu ngọc rất nhạt nhẽo với chuyện danh lợi.

Kiếm pháp phái Điểm Thương tuy hời hợt như mây bay dật dờ rất ít có các chiêu giết người trí mạng. Tuy thế người trên giang hồ đâu có coi thường phái Điểm Thương vì Điểm Thương có một pho kiếm pháp Trấn Sơn không dung thứ bất kỳ ai vượt đầm Lôi Trì một bước. Chỉ có điều pho kiếm pháp này cần bẩy người phối hợp sử dụng mới tỏ rõ được uy lực vô hạn. Vì thế trong phái Điểm Thương cứ mỗi đời lại có bẩy đại tử luyện tập mà giang hồ gọi họ là "Điểm Thương thất kiếm." Ba trăm năm lại đây, mỗi đời "Điểm Thương thất kiếm" đều là các kiếm khách giỏi có kiếm pháp tinh tuyệt.

Ngô Đào là tay kiếm chỉ huy trong Điểm Thương thất kiếm đời này. Dĩ nhiên Ngô Đào tất phải là một tay kiếm giỏi. Phái Hải Nam ở ngoài Nam Hải (biển Nam) cheo leo ngoài trời đất ít dấu vết chân người, nhưng người của phái này tuy ít lại giỏi, nếu không nắm chắc cái lẽ tất thắng họ tuyệt đối không vượt biển lên miền Bắc.

Mấy chục năm lại đây, kiếm khách thuộc phái Hải Nam hầu như tuyệt tích không thấy xuất hiện ở Trung Thỗ, nhưng đến lúc này có Lê Bình Tử đột ngột xuất hiện. Người này tuỗi tác chỉ độ ba mươi, một tay, thọt chân, hình dạng cực xấu xí nhưng kiếm pháp của chàng ta lại tuyệt vời hoàn mỹ chuẩn xác. Một khi kiếm pháp của chàng ta đã ra tay thì người ta lập tức quên ngay Lê Bình Tử là người cụt tay, thọt chân hoặc dung mạo cực kỳ xấu xí. Người này tất nhiên phải là cao thủ kiếm.

Sáu người này, không còn nghi ngờ gì nữa, đều là các cao thủ tinh anh bậc nhất nỗi lên sau nay trong võ lâm đời nay. Từng người từng người này đều là hạng tuyệt vời siêu quần bạt tụy, tuyệt đối khác với mọi người nói chung. Nhưng người độc đáo nhất trong lớp cao thủ này lại chưa phải là họ mà là người tên là Lịch Chân Chân.

Đệ tử Lịch Chân Chân của phái Nga Mi được giang hồ gọi là "La Sát tiên tử" Lịch Chân Chân! "Trời đất Nga Mi đẹp", "Nga Mi thiên địa tú" là lời khen phong cảnh ở Nga Mi ngàn đời nay. Kể từ năm xưa Diệu Nhân Sư thái tiếp nhận chức chưởng môn quản lý môn phái thì dường như mây đẹp khí thiêng của núi Nga Mi đều tập trung cả vào đám đệ tử nữ.

Lịch Chân Chân dĩ nhiên là một nữ đệ tử trong đám đó. Từ khi Diệu Nhân Sư thái làm chường môn, các nữ đệ tử phái Nga Mi đều cắt tóc làm ni cô. Riêng Lịch Chân Chân là ngoại lệ. Duy nhất nằm ngoài.

Chưởng môn phái Nga Mi hiện tại là người cao tuỗi nhất trong các chưởng môn các phái, khi cắt tóc làm lễ nhận làm đệ tử pháo Nga Mi thì đã ba mươi tuỗi. Không ai biết bà ta ba mươi năm trước ra sao, đã làm những việc gì. Không ai biết thân thế lai lịch của bà ta, lại càng không ngờ là tới năm sáu mươi ba tuỗi bà ta mới nhận chức chưởng môn phái Nga Mi.

Bất kể trước kia bà ta là người như thế nào kể từ ngày xin làm đệ tử phái Nga Mi trở đi các việc bà ta làm được không phải bất kỳ một người phụ nữ nào khác cũng có thể làm được. Từ khi cắt tóc làm ni cô bà ta không bao giờ cười hoặc giả ít nhất xưa nay chưa ai bắt gặp bà ta cười.

Bà giữ nghiêm các điều cấm, khắc khỗ tu luyện, ngày chỉ thụ trai một bữa mà mỗi bữa cũng chỉ một bát cơm vừng, một bát "vô căn thủy" ("nước không gốc" lấy từ đất như nước sông, suối, giếng... mà là hứng từ trời như nước mưa, nước sương ư ND). Trước khi xuất gia trông người bà ta đầy đặn béo tốt, ba năm sau đã gầy gò khô xác như nhánh cỏ mùa thu. Khi nhận làm chưởng môn Nga Mi chỉ còn nặng có ba mươi chín cân. Nhìn vóc dáng thể chất của bà không ai có thể tin được trong tấmthân gầy gò nhỏ thó dường như yếu ớt kia lại ẩn chứa một sức mạnh lớn lao kinh người và một ý chí kiên cường như vậy. Bà muốn các đệ tử trong môn phái cũng phải như mình giữ giới luật, khỗ công tu luyện, tuyệt đối cấm dục, tuyệt đối cấm ăn mặn uống rượu.

Bà cho rằng tất cả các nữ đệ tử đều có những dục vọng bình thường và cả không bình thường, do đó nếu người ta luôn ở tình trạng giở đói giở khát thì sẽ không còn nghĩ gì đến các dục vọng khác. Tuy vậy đối với Lịch Chân Chân bà ta lại có ngoại lệ.

Lịch Chân Chân cơ hồ được làm bất cứ việc gì mà nàng ta muốn làm, xưa nay chưa có ai hạn chế, ngăn chặn nàng ta. Vì được ăn uống đầy đủ, ăn mặc đầy đủ, tuy tính khí ngỗ ngáo bộp chộp, tung hoành bay nhẩy thật nhưng xưa nay Lịch Chân Chân lại chưa hề bao giờ làm hỏng việc, cứ y như mặt trời đã mọc là cứ từ đằng Đông chứ không bao giờ mọc ngược từ đằng Tây.

Xưa nay võ lâm là trời đất của giới đàn ông. Lòng dạ đàn ông cứng cỏi hơn đàn bà, thể lực của đàn ông cũng mạnh hơn đàn bà. Trên tấm bảng danh sách anh hùng của võ lâm xưa nay cũng rất ít có đàn bà. Nhưng Lịch Chân Chân cũng lại là ngoại lệ. Mấy năm lại đây nàng ta đã giành lại danh tiếng và vinh dự cho phái Nga Mi nên số đệ tử của phái này ngày càng đông đúc hơn so với các phái khác.

Hơn nữa Lịch Chân Chân lại là một mỹ nhân. Hôm nay nàng ta mặc một quần sa mỏng mầu nước biếc, từ chất liệu đến kiểu dáng, may cắt, khâu vá đều liệt vào hạng nhất. Tuy chẳng phải là trong suốt, nhưng ở nơi sáng rờ rỡ ánh đèn cũng có thể lấp loáng ẩn hiện thấy bộ hông nhỏ, chân dài thẳng tắp của nàng ta. Mà nở nơi này giờ đây đèn rất sáng.

Tuy ánh mặt trời chẳng rọi tới đây nhưng ánh đèn rất sáng và dưới ánh đèn sáng nhìn váy áo của Lịch Chân Chân trông cứ như một màn sương mỏng. Tuy vậy nàng ta không để ý, chẳng thèm để ý. Thích ăn mặc ra sao thì nàng cứ ăn mặc như thế.

Vì nàng là Lịch Chân Chân mà! Bất kể nàng ăn mặc thế nào cũng không có ai dá, coi thường nàng ta. Lịch Chân Chân đi vào, đến trước mặt Tạ Hiểu Phong đăm đăm nhìn chàng.

Tạ Hiểu Phong cũng chăm chăm nhìn lại. Bỗng nhiên nàng ta bật cười.

"Ta biết nàng đang nghĩ gì trong bụng!" Nàng ta bảo:

"Nhất định chàng đang nghĩ không biết tôi có thường xuyên cùng nam giới lên giường hay không chứ gì?" Đó là câu đầu tiên nàng nói ra mồm. Có một số người trời sinh ra đã khác mọi người rồi. Bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu, họ đều thích nói những câu làm người khác kinh khiếp, làm những việc người khác hãi sợ.

Lịch Chân Chân là thuộc loại người đó, chẳng còn gì phải nghi ngờ nữa. Tạ Hiểu Phong rất hiểu loại người này vì trước kia chàng cũng thuộc loại người này, cũng thích làm người khác phải kinh sợ.

Chàng thừa biết Lịch Chân Chân rất muốn xem lúc chàng giật mình thì bộ dạng sẽ ra sao. Chính vì thế chàng chẳng có chút vẻ gì là giật mình hay ngạc nhiên mà còn lạnh lùng hỏi lại:

"Nàng có muốn nghe ta nói thật không?" Lịch Chân Chân bảo:

"Cố nhiên là tôi muốn chứ!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Thế thì ta cho nàng hay là ta đang nghĩ xem dùng cách gì sẽ lôi được nàng lên giường với mình đây!" Lịch Chân Chân bảo:

"Chàng chỉ có một cách thôi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Cách gì nào?" Lịch Chân Chân bảo:

"Đánh cuộc!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Đánh cuộc?" Lịch Chân Chân bảo:

"Chỉ cần chàng thắng tôi, chàng muốn tôi làm gì tôi cũng làm!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ngược lại nếu ta thua, nàng muốn ta làm gì ta cũng phải làm chứ gì?" Lịch Chân Chân bảo:

"Đúng thế!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Lần cuộc này cũng khá đây!" Lịch Chân Chân bảo:

"Đã đánh cuộc thì phải cuộc ra cuộc, càng cuộc to càng thú vị!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Nàng muốn đánh cuộc gì?" Lịch Chân Chân:

"Cuộc kiếm!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Nàng thật sự muốn cuộc kiếm với ta ử" Lịch Chân Chân bảo:

"Chàng là Tạ Hiểu Phong, là kiếm khách Tạ Hiểu Phong thiên hạ vô song. Tôi không cùng chàng đánh cuộc kiếm thì đánh cuộc gì? Chẳng lẽ tôi cùng chàng ngồi bệt xuống đất ném xúc xắc như trẻ con chăng?" Rồi nàng hất cao đầu bảo:

"Đối với ma men thì đánh cuộc rượu, muốn đánh cuộc với Tạ Hiểu Phong thì phải cuộc kiếm. Nếu cuộc thứ khác, có thắng cũng chẳng có ý nghĩa gì!" Tạ Hiểu Phong cười vang bảo:

"Hay! Lịch Chân Chân quả không hỗ là Lịch Chân Chân!" Lịch Chân Chân cũng cười vang bảo:

"Thật không ngờ Tam thiếu gia danh vang thiên hạ cuối cùng cũng biết đến tôi!" Lần này nàng cười thật tình không phải kiểu cười châm chọc tràn trề như khi nẫy mà là tiếng cười thực của người hiệp nữ. Còn hơn thế nữa, lần này nụ cười hoàn toàn là nụ cười của người đàn bà, của người đàn bà thật sự! Tạ Hiểu Phong bảo:

"Coi như xưa nay chưa có người biết nhìn ngọc quý, khi lần đầu tiên chàng ta nhìn thấy ngọc quý thì cũng là lúc nhất định nhìn ra giá trị quý báu của ngọc quý!" Chàng mỉm cười, đăm đăm nhìn nàng ta:

"Có một số người cũng giống như châu báu xưa nay chưa từng được gặp nhưng khi ta được thấy họ rồi thì lập tức nhận ra họ là châu báu ngay!" Lịch Chân Chân cười càng làm xúc động lòng người. Nàng ta bảo:

"Chẳng trách người đời đều bảo Tam thiếu gia nhà họ Tạ có cây kiếm đủ làm mất một nam anh hùng thiên hạ, mà còn thêm miệng lưỡi làm đàn bà khắp thiên hạ phải động lòng!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nàng có biết một con người toàn làm việc đau lòng thiên hạ thì đó cũng là lúc nhất định tự làm đau lòng mình không?" Giọng của chàng tuy rất bình tĩnh nhưng vẫn mang mầu sắc buồn rầu khó nói thành lời. Lịch Chân Chân cúi đầu bảo:

"Một người toàn làm người khác đau lòng thì bản thân cũng có lúc phải đau lòng là chắc rồi!" Nàng ta khe khẽ nói với chàng như vậy xong lại ngẩng đầu đăm đăm nhìn chàng mà bảo:

"Lời nói vừa rồi tôi vĩnh viễn nhớ ghi!" Tạ Hiểu Phong lại cười bảo:

"Nàng bảo chúng ta nên đánh cuộc như thế nào cho phải đây?" Lịch Chân Chân bảo:

"Tôi thường nghe người ta bảo kiếm của Tam thiếu gia rất vô tình, từ xưa tới nay kiếm đã tuốt ra là không còn chỗ cho người khác lùi được nữa!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Cây kiếm ba thước bản thân nó vốn đã là một vật vô tình nếu còn để lại tình dưới kiếm hà tất phải tuốt kiếm làm gì nữa?" Lịch Chân Chân bảo:

"Như thế là khi Tam thiếu gia tuốt kiếm thì đối phương tất phải chết dưới lưỡi kiếm của chàng và xưa nay chưa ai chống nỗi ba chiêu của chàng phải không!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Đó cũng có thể là trong ba chiêu của ta đã dốc tận toàn lực!" Lịch Chân Chân bảo:

"Phải chăng là trong ba chiêu mà chàng không thắng thì phải thuả" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Rất có thể!" Chàng mỉm cười, lạnh nhạt nói tiếp:

"May mà tình hình như vậy xưa tới giờ tôi chưa gặp bao giờ!" Lịch Chân Chân bảo:

"Rất có thể hôm nay chàng gặp đấy!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Hử?" Lịch Chân Chân quay mặt lại sau. Âu Dương Vân Bằng, Tần Độc Tú, Mai Trường Hoa, Điền Tại Long, Ngô Đào, Lê Bình Tử nẫy giờ đều lặng lẽ đứng phía sau nàng. Nàng ta nhìn họ một cái rồi bảo:

"Mấy vị ở đây đều thấy cả rồi chứ?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Xưa nay chưa gặp nhau nhưng cũng có thể nhận được ra nhau!" Lịch Chân Chân bảo:

"Tôi xin đánh cuộc mỗi người họ đều có thể tiếp được chàng đủ ba chiêu!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Mỗi người?" Lịch Chân Chân bảo:

"Phải, mỗi người! Chỉ cần một người không tiếp nỗi, coi như tôi thua!" Lịch Chân Chân cũng cười nhạt nhẽo bảo:

"Đánh cuộc thế này có lẽ coi là chưa được công bằng vì chàng xuất thủ ba chiêu cũng co như đã dốc hết sức, đánh đến một hai người cuối cùng chỉ sợ chẳng còn đủ lực khí để đấu nữa!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Cao thủ đấu nhau đâu phải đấu trâu đấu bò, dùng kỹ thuật chứ đâu toàn dùng sức!" Lịch Chân Chân mắt lóe sáng bảo:

"Thế là chàng chịu cuộc ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Hôm nay tôi tới đây vốn định chơi một canh bạc lớn, thử hỏi còn cách nào đánh cuộc khác có thể thống khoái bằng cách đánh cuộc này?" Lịch Chân Chân bảo:

"Giỏi! Tạ Hiểu Phong không hỗ là Tạ Hiểu Phong!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nàng đã chuẩn bị người đầu tiên ra tay chưa?" Lịch Chân Chân bảo:

"Tôi biết Tam thiếu gia trận đầu không nỡ giao đấu với đàn bà nên tôi nào dám tranh trước? Huống gì..." Nàng ta mỉm cười, lại nói tiếp:

"Cao thủ đấu nhau dùng kỹ thuật chứ không toàn dùng sức như thế khó tránh khỏi thiệt thòi, các vị cao thủ đây lẽ nào để tôi chịu thiệt ngay ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nàng nói có lý lắm!" Lịch Chân Chân nói rất duyên dáng:

"Đàn bà ở trước mặt đàn ông nhiều ít gì thì cũng có chút kém lời lẽ, vì vậy coi như tôi nói sai xin mọi người chớ lấy làm lạ!" Âu Dương Vân Bằng, Tần Độc Tú, Mai Trường Hoa, Điền Tại Long, Ngô Đào, Lê Bình Tử vẫn lặng lẽ đứng im ở đó chẳng hiểu sao những điều họ định nói ra lại đều bị Lịch Chân Chân nói ra hết cả. Tạ Hiểu Phong nhìn họ bảo:

"Vị nào ra tay đầu tiên nào?" Một người chậm chạp bước ra bảo:

"Là tôi!" Tạ Hiểu Phong thở dài bảo:

"Ta biết ngay sẽ là ngươi mà!" Người ra đầu tiên tất nhiên phải là Âu Dương Vân Bằng. Võ Đang dù sao cũng là chính tông danh môn chính phái, gặp tình hình này làm sao chàng ta lại sợ sệt lui lại sau được! Tạ Hiểu Phong lại thở dài bảo:

"Người đầu tiên ra tay nếu không phải là ngươi có lẽ ta đã rất thất vọng, nhưng người ra đầu tiên là ngươi ta cũng rất thất vọng!" Âu Dương Vân Bằng hỏi:

"Thất vọng?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nghe nói phái Không Động mới sáng tạo ra một pho kiếm pháp mới rất thần bí, hiểm lạ. Ta cứ nghĩ đệ tử phái Không Động sẽ tranh trước với ta cơ!" Bất kỳ ai nghe nói như vậy đều thấy khó chịu, đằng này Tần Độc Tú cứ im lặng coi như không nghe thấy. Âu Dương Vân Bằng bảo:

"Không Động, Võ Đang vốn cùng một mạch, ai ra tay trước thì cũng vậy!" Hai chữ "ra tay" vừa thốt thì Tạ Hiểu Phong vừa lắc mình thì đã thấy chàng rút mất cây kiếm Ngô Đào đeo ở cạnh sườn. Khi Âu Dương Vân Bằng nói hết mấy tiếng cuối cùng thì Tạ Hiểu Phong đã đến trước mặt Tần Độc Tú, bỗng xoay ngược mũi kiếm, đưa cán kiếm vào tay Tần Độc Tú. Tần Độc Tú ngẩn người ra, đành đón lấy cây kiếm ấy, ai ngờ Tạ Hiểu Phong ra tay nhanh như điện chớp rút mất cây kiếm của Tần Độc Tú đang đeo ở cạnh sườn.

Kiếm quang lóe lên đã chí vào giữa hai đường mày của Tần Độc Tú. Tần Độc Tú tuy gặp nguy nhưng không loạn, lật tay vung kiếm đưa ngược trở lên. Chỉ nghe "keng" một tiếng như rồng ngâm, cây kiếm của Tần Độc Tú đã bị chấn dội tuột khỏi tay, bay vọt lên trời. Trong ánh kiếm xanh lơ pha lẫn sắc lam chính là cây Thanh Vân Kiếm đúc bằng thép ròng Miến Điện. Thanh Vân Kiếm gồm bẩy cây chuyên dùng cho Điểm Thương thất kiếm, chẳng qua bây giờ chỉ sang tay Tần Độc Tú rồi lại từ tay Tần Độc Tú bị chấn dội mà bay đi.

Đợi đến lúc ánh kiếm tắt, cây kiếm Thanh Vân đã vào tay Tạ Hiểu Phong, còn cây kiếm của Tần Độc Tú lại chui vào vỏ ở bên sườn Tần Độc Tú. Mọi người nhìn thấy đều ngẩn người ra. Còn Tần Độc Tú thì mặt như sắc tro tàn. Đối với gã, sự việc xẩy ra trong thoáng chốc vừa qua thật chẳng khác gì trong giấc mộng. Tuy vậy cơn ác mộng đó lại là sự thật! Tạ Hiểu Phong không nhìn gã lần nào, bỏ đi đến trước mặt Ngô Đào bảo:

"Đây là kiếm của ngươi!" Chàng dùng cả hai tay nâng cây kiếm ngang lên mà trao lại. Ngô Đào đành đón nhận, bàn tay nhận kiếm cứ run lên đây đẩy, bỗng gã thở dài nói rất âm thầm:

"Khỏi cần ra tay, tôi thua rồi!" Lịch Chân Chân hỏi:

"Ngươi thật sự nhận thua ư?"

HỒI 40 - MƯU ĐỒ Ở TRƯỚC

Ngô Đào chậm chạp gật đầu bảo:

"Nàng yên tâm, cuộc hẹn của chúng ta, ta quyết không quên đâu!" Lịch Chân Chân bảo:

"Ta tin chứ!" Ngô Đào đối mặt với Tạ Hiểu Phong, tựa hồ muốn nói gì đó nhưng rồi lại không nói một tiếng nào bỏ đi mà không ngoái lại. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Tốt! Thắng là thắng, thua là thua. Môn hạ phái Điểm Thương quả là quân tử!" Lê Bình Tử bỗng nói:

"May quá ta chẳng phải là quân tử!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Không là quân tử thì có gì hay?" Lê Bình Tử bảo:

"Vì không là quân tử nên tuyệt không tranh xuất thủ!" Cánh tay độc nhất của gã loang loáng phát sáng, trên bộ mặt xấu xí lộ nụ cười giả trá, bảo:

"Người cuối cùng ra tay chẳng những lấy nhàn đợi nhọc mà lại còn nắm rõ được kiếm pháp của ngươi, cho dù chẳng giết được ngươi dưới lưỡi kiếm của mình thì ít nhất cũng tiếp được ba chiêu của ngươi!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ngươi rõ ràng không phải là quân tử, ngươi là kẻ tiểu nhân hẳn hoi!" Bỗng chàng cười nói tiếp:

"Nhưng tiểu nhân thật còn hơn quân tử giả. Tiểu nhân thật còn dám nói thật!" Mai Trường Hoa bỗng cười nhạt bảo:

"Thế thì thiệt thòi nhất vẫn là loại người như ta đây!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao?" Mai Trường Hoa bảo:

"Ta không phải quân tử, cũng chẳng phải tiểu nhân; tuy chẳng tranh trước cũng chẳng muốn tụt lại sau!" Gã chầm chậm bước ra đăm đăm nhìn Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Lần này ngươi định mượn kiếm của ai đây?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Của ngươi!" Đối với một số người mà nói, kiếm chẳng qua chỉ là cây kiếm là thứ dùng gang thép đúc nên, có thể phòng thân cũng có thể là vũ khí sắc bén để giết người. Nhưng đối với một số người khác ý nghĩa của cây kiếm lại hoàn toàn khác hẳn, vì họ đã đem cuộc sống của mình dâng hiến cho cây kiếm do đó cuộc sống của họ đã hòa cùng cây kiếm thành một thế. Vì chỉ có kiếm mới đem lại thanh danh, của cải, vinh dự cho họ và cũng chỉ có kiếm mới đem lại cho họ sự nhục nhã và cái chết.

Kiếm còn người còn, kiếm mất người chết! Đối với họ, kiếm không chỉ là cây kiếm mà là người bạn duy nhất có thể tin cậy được. Bản thân cây kiếm cũng có sinh mệnh, có linh hồn. Nếu nói họ thà mất vợ mất con chứ không chịu mất kiếm cũng không phải là nói khuếch khoác quá lời, cũng không phải là quá đáng. Ngô Đào là người như vậy. Gã cho rằng bất kỳ ở trong tình huống nào mà để mất kiếm thì đó là một tội lỗi không có phép nào có thể tha thứ, là một sự sỉ nhục không lấy gì gột rửa sạch vì vậy sau khi mất kiếm thì chẳng còn kiếm đâu mà ở lại.

Mai Trường Hoa cũng là người như vậy. Thấy vết xe đỗ của Ngô Đào để mất kiếm nên Mai Trường Thanh đề phòng đặc biệt cẩn thận đối với cây kiếm của mình.

Giờ lại thấy Tạ Hiểu Phong đứng trước mặt bảo là sẽ mượn kiếm của mình thì Mai Trường Thanh cả cười, cười sặc sụa. Tay gã nắm chặt cán kiếm, gân xanh trên mu bàn tay vì dùng sức nắm quá chặt nên nỗi vồng cả lên. Chắc không ai có thể giằng được cây kiếm từ tay gã trừ phi tay gã bị chặt lìa! Gã nghĩ vậy. Gã tuyệt đối tin ở mình, tuy vậy gã vẫn đề phòng Tạ Hiểu Phong.

Nhưng giờ gã vừa cười thì Tạ Hiểu Phong đã ra tay. Không ai có thể tưởng tượng nỗi tốc độ đòn khi Tạ Hiểu Phong vừa ra tay mà cũng chẳng ai hình dung nỗi sự khéo léo và tài biến hóa của đòn này. Mục tiêu công kích của chàng không phải là kiếm của Mai Trường Hoa mà là đôi mắt gã.

Mai Trường Hoa né mình lùi lai sau và lật tay rút kiếm. Rút kiếm là một khâu cực trọng yếu trong kiếm thuật mà đệ tử phái Hoa Sơn xưa nay chưa từng coi thường. Mai Trường Hoa rút kiếm ra tay còn nhanh hơn, ánh kiếm vừa lóe lên đã tới dưới sườn trái của Tạ Hiểu Phong rồi.

Ai ngờ chính trong thoáng chốc đó sườn của Mai Trường Hoa đã bị Tạ Hiểu Phong nhẹ nhàng nâng lên, toàn bộ cơ thể mất trọng tâm bị hất vọt đi như đằng vân giá vũ. Đến khi gã dừng được ỗn định trọng tâm thì kiếm đã vào tay Tạ Hiểu Phong.

Đó chẳng phải kỳ tích cũng chẳng phải phép yêu ma mà là tuyệt kỹ thiên hạ vô song "Thân thiện hoán nhật đoạt kiếm thức" của Tam thiếu gia nhà họ Tạ (thức cướp kiếm trộm trời đỗi mặt trời). Xem ra thì thủ pháp Tạ Hiểu Phong dùng không mấy phức tạp nhưng chỉ cần chàng đưa ra dùng thì xưa nay chưa lần nào hụt. Nụ cười của Mai Trường Hoa đông cứng lại trên mặt gã và ngưng kết thành một kiểu cười cực kỳ bí hiểm và quỷ quyệt.

Bỗng một tiếng rồng gầm vang lên dường như từ ngoài trời vẳng tới. Một đạo kiếm quang bay tới xoay tròn trên lưng chừng không và từ lưng chừng không đánh xuống nhoáng như điện chớp. Đó chính là kiếm pháp "Cửu Long Cửu thức" nỗi danh thiên hạ của phái Côn Luân. Kiếm như con thần long, người như đám mây sà ngang, lực đánh của nhát kiếm này thì không có đòn kiếm của môn phái nào so sánh bằng. Nhưng tiếc thay đối tượng ra đòn của gã lại là Tạ Hiểu Phong. Kiếm của Tạ Hiểu Phong đánh ra như một cơn gió. Trong cơn gió, sức lực lớn mạnh đến đâu cũng bị cơn lốc làm cho mất tăm mất tích.

Đợi đến khi lực của nhát kiếm tiêu tan hết gã bèn thấy dường như có một cơn gió hây hẩy thỗi tới thân mình. Gió tuy nhẹ nhưng lạnh thấu xương. Huyết dịch toàn thân gã như ngưng đọng lại, như đông cứng lại. Cả con người gã từ trên lưng chừng không nặng nề rơi bịch xuống đất.

Gió tắt. Hơi thở của người ta cũng như bị ngừng. Chẳng biết kéo dài bao lâu, Âu Dương Vân Bằng mới thở dài than rằng:

"Quả nhiên là kiếm pháp thiên hạ vô song!" Chỉ có Lịch Chân Châu lạnh lùng nói đế vào:

"Chỉ tiếc là xuất thủ không chính, xét thân phận của Tam thiếu gia họ Tạ vốn không nên giành khéo như vậy!" Giản Truyền Học bỗng bật nói:

"Ông ấy vốn đang bị thương lại nằm trong vòng vây đánh của bẩy cao thủ các vị dĩ nhiên là phải chọn lối đánh nhanh thắng mau xuất kỳ chế thắng chứ!" Lịch Chân Châu hỏi:

"Ngươi cũng hiểu kiếm à?" Giản Truyền Học đáp:

"Tôi không hiểu kiếm nhưng hiểu đạo lý ở đời!" Gã bỗng thở dài rồi chậm rãi nói tiếp:

"Vốn ông ấy cũng có nhất định muốn thắng đâu, chỉ tiếc rằng ông ấy là Tạ Hiểu Phong nên còn sống một ngày là phải thắng chứ không thể thua được! Vì ông ấy không thể để danh tiếng của Thần kiếm sơn trang bị tiêu diệt bởi tay mình. Lịch Chân Chân bỗng cười vang bảo:

"Có lý! Nói có lý lắm! Tam thiếu gia nhà họ Tạ vốn không thể thua được!" Giản Truyền Học bảo:

"Ông ấy không bại tức là nàng bại, nàng vui nỗi gì?" Lịch Chân Chân hỏi:

"Ngươi không hiểu ử" Giản Truyền Học đáp:

"Tôi không hiểu!" Lịch Chân Chân bảo:

"Thật không ngờ trên thế gian này lại vẫn còn kẻ không hiểu việc là ngươi!" Nét biểu hiện trên mặt của nàng ta cũng chẳng khác gì thời tiết tháng mưa dầm trời tạnh trời mưa khó mà biết được, nét cười vừa lộ đã lại sa sầm nét mặt bảo:

"Nếu quả tình ngươi không hiểu, làm sao ta phải nói ngươi hay?" Lê Bình Tử bỗng cao giọng bảo:

"Để ta bảo ngươi!" Mặt Lịch Chân Chân bỗng đỗi sắc, nàng nói tranh:

"Lời các ngươi đã nói ra có thừa nhận hay không đã?" Lê Bình Tử:

"Chúng ta đã nói thế nào? Ta quên từ lâu rồi!" Âu Dương Vân Bằng:

"Ta chưa quên!" Thái độ của chàng ta rất nghiêm túc và nặng nề:

"Chúng ta đã từng nói, trước khi thắng bại được phân rõ ràng tuyệt đối không được nói lộ bí mật trong này!" Lịch Chân Chân thở ra một hơi nhẹ nhõm:

"May mà chàng là người quân tử còn biết giữ lời ước hẹn, giữ được chữ tín!" Lê Bình Tử lạnh lùng:

"Gã là quân tử, gã cứ việc giữ điều hẹn giữ chữ tín. Còn ta là kẻ tiểu nhân, mà lời kẻ tiểu nhân nói ra đều coi như phát rắm mà thôi!" Tạ Hiểu Phong long lanh ánh mắt cười nhạt:

"Đánh rắm cũng là việc lớn của con người làm ra, ta đảm bảo với ngươi là không ai ngăn cản ngươi đâu!" Lê Bình Tử:

"Thế thì hay quá!" Một con mắt của gã lấp lánh sáng, tiếp đó gã bảo:

"Lần này chúng ta tới đây cùng ngươi cuộc kiếm đều do nàng ta tìm tới cả!" Tạ Hiểu Phong:

"Ta nghĩ tới rồi!" Lê Bình Tử:

"Nhưng ngươi tuyệt nhiên không nghĩ là chính nàng ta cũng đánh cuộc với chúng ta!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Cuộc thế nào?" Lê Bình Tử:

"Nàng ta cuộc sáu chúng ta đều không tiếp nỗi ba chiêu của ngươi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Như thế là nàng thua ta và thắng các ngươi chứ gì?" Lê Bình Tử:

"Nàng thua chỉ một mình ngươi, nhưng thắng những sáu người chúng ta, nàng ta thắng gấp mấy lần thua!" Lịch Chân Chân lại cười duyên dáng:

"Kỳ thực các ngươi đều biết từ trước, việc thua thiệt đời nào ta chịu làm!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Nàng đánh cuộc với các ngươi thế nào?" Lê Bình Tử:

"Ngươi có biết Thiên Tôn không?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Ta biết!" Lê Bình Tử:

"Gần đây thế lực Thiên Tôn ngày càng bành trướng mạnh. Bẩy đại kiếm phái không thể nào ngồi mà nhìn được. Các bậc tiền bối thì đã đóng cửa không ra, các đệ tử đời của chúng ta quyết sẽ tụ hội ở Thái Sơn kết thành liên minh bẩy phái." Tạ Hiểu Phong:

"Chủ ý ấy hay đấy!" Lê Bình Tử:

"Ngày nọ chúng ta đương nhiên cử ra một vị chủ trì liên minh." Tạ Hiểu Phong:

"Nếu các ngươi thua nàng ta thì phải cử nàng ta làm chủ liên minh chứ gì!" Lê Bình Tử đáp:

"Không sai chút nào!" Lịch Chân Chân dịu giọng:

"Coi như các ngươi bầu ta làm minh chủ, có gì là không hay nào!" Lê Bình Tử:

"Chỉ có một điểm không hay!" Lịch Chân Chân hỏi:

"Điểm nào?" Lê Bình Tử đáp:

"Nàng quá thông minh, nếu chúng ta suy cử nàng làm minh chủ thì các liên minh ở Thái Sơn sợ lại hóa thành Thiên Tôn thứ hai!" Lịch Chân Chân:

"Bây giờ các phái Côn Luân, Hoa Sơn, Không Động, Điểm Thương trong chớp nhoáng đã bị thảm bại về tay Tam thiếu gia, lẽ nào người nắm vững sẽ chống lại được ba chiêu của chàng?" Lê Bình Tử:

"Ta không nắm chắc." Nhưng gã cười nhạt nói tiếp:

"Chỉ vì không nắm vững nên đã coi cái điều ước hẹn này như phát rắm thôi!" Lịch Chân Chân thở dài:

"Thật ra ta vẫn biết ngươi là kẻ tiểu nhân nói lời không giữ lấy lời, may mà những người khác lại không phải thế!" Âu Dương Vân Bằng chợt nói:

"Ta cũng thế!" Lịch Chân Chân giờ mới là giật mình, thất thanh:

"Ngươi! Ngươi cũng như gã?" Sắc mặt Âu Dương Vân Bằng nặng trĩu:

"Ta không thể không làm thế. Giang hồ không nên xuất hiện một Thiên Tôn thứ hai!". Chàng ta lặng lẽ bỏ đi tới cạnh Lê Bình Tử.

Lê Bình Tử cả cười vỗ vai Âu Dương Vân Bằng:

"Bây giờ tuy ngươi không được coi là vị quân tử chân chính nhưng thật sự trang nam tử chân chính!" Âu Dương Vân Bằng thở dài:

"Có khi ta vốn chẳng phải là quân tử!" Câu nói chưa dứt thì chàng ta đã ra tay đánh một khuỷu tay vào sườn Lê Bình Tử. Tiếng xương sườn gẫy vụn vang lên, lưỡi kiếm sắc đã rút ra khỏi vỏ. ánh kiếm lóe lên, máu tươi tóe ra bốn phía. Con mắt độc nhất của Lê Bình Tử lồi hẳn ra ngoài, trợn nhìn Âu Dương Vân Bằng. Đến giờ gã mới hiểu Âu Dương Vân Bằng và Lịch Chân Chân là cùng một phe. Và cũng đến giờ gã mới biết ai thực là tiểu nhân thực sự! Đầu mũi kiếm vẫn đang rỏ máu thành giọt. Tần Độc Tú, Mai Trường Hoa, Điền Tại Long, mặt cả ba đều không còn sắc máu.

Âu Dương Vân Bằng lạnh lùng nhìn họ, ôn tồn:

"Âu Dương Vân Bằng tôi bình sinh căm nhất kẻ tiểu nhân nói chẳng giữ lời, chỉ hận không làm sao lần lượt giết hết bọn chúng dưới lưỡi kiếm của mình. Nếu các vị cho rằng tôi giết sai thì Bằng tôi chẳng ngại gì mà không chết để tạ tội!" Lịch Chân Chân dịu giọng:

"Họ đều biết chàng là vì người, họ tuyệt đối không nghĩ thế đâu!" Âu Dương Vân Bằng:

"Thắng là thắng, bại là bại. Các vị đều là quân tử, tuyệt đối chắc không đến nỗi nuốt lời bội tín!" Điền Tại Long bỗng cao giọng:

"Ta chẳng phải quân tử. Giờ đây ta chỉ cần nghe được một từ là cảm thấy nói phát buồn nôn ra!" Âu Dương Vân Bằng sa sầm mặt xuống:

"Như thế thì Điền huynh có ý tứ gì..." Điền Tại Long:

"ta chẳng có ý tứ gì hết, có điều việc ở Thái Sơn ta cũng nghĩ rồi, các ngươi tùy ý muốn cử ai làm minh chủ thì tùy, đều chẳng có liên hệ đến ta cả!" Tần Độc Tú:

"Ngươi không đi ta cũng đi!" Mai Trường Hoa:

"Ta càng không nên không đi!" Điền Tại Long tinh thần chấn động:

"Tốt! Chúng ta cùng đi, xem ai dám ngăn cản chúng tả" Ba người kề vai sải bước mà đi. Điền Tại Long đi giữa. Mai Trường Hoa, Tần Độc Tú một bên phải một bên trái bỗng cùng kẹp vai vào giữa. Đến khi họ lìa nhau ra thì hai bên cạnh sườn Điền Tại Long đã vọt máu tươi ra. Gã định rút kiếm nhưng kiếm chưa ra khỏi vỏ người đã ngã gục.

"Các ngươi độc thật!" Đó là câu nói cuối cùng, bốn chữ cuối cùng trong đời của gã. Không một tiếng động. Rất lâu lặng lẽ không một tiếng động.

Mọi người đều nhìn Tạ Hiểu Phong, mỗi người đều chờ đón phản ứng của chàng. Tạ Hiểu Phong đang nhìn cây kiếm trong tay. Đây là cây kiếm của Mai Trường Hoa. Mai Trường Hoa chợt bảo:

"Đây là cây kiếm tốt!" Tạ Hiểu Phong:

"Đúng là kiếm tốt!" Mai Trường Hoa:

"Cây kiếm này đời đời truyền lại ở núi Hoa Sơn đã được ba trăm năm. Xưa nay chưa từng lọt vào tay người ngoài bao giờ!" Tạ Hiểu Phong:

"Ta cũng tin như vậy!" Mai Trường Hoa:

"Nếu ông cho là vừa rồi tôi không nên giết Điền Tại Long thì chẳng ngại gì không dùng cây kiếm này giết tôi đi. Tôi có chết cũng không oán ông!" Tạ Hiểu Phong:

"Ngươi vốn đáng chết, ta càng đáng chết, vì chúng ta cùng nhìn lầm người!" Tạ Hiểu Phong khẽ rung mũi kiếm, chậm chạp ngẩng đầu:

"Bây giờ Ngô Đào phái Điểm Thương đã khí bại bỏ đi. Lê Bình Tử phái Hải Nam bị giết để bịt miệng, Điền Tại Long đã chết. Môn hạ phái Côn Luân nằm trong tay các ngươi, cuộc hội ở núi Thái Sơn đương nhiên là đất trời của các ngươi rồi!" Âu Dương Vân Bằng:

"Kết quả này vốn nằm trong kế hoạch của chúng tôi!" Tạ Hiểu Phong:

"Các ngươi sớm biết ta là người sắp chết rồi chứ?" Âu Dương Vân Bằng:

"Chúng tôi biết đích xác là ông chỉ còn sống có ba ngày nữa mà thôi!" Lịch Chân Chân thở dài:

"Tin tức trong giang hồ truyền đi cực nhanh huống hồ lại là tin tức về chàng?" Tạ Hiểu Phong:

"Đương nhiên các ngươi cũng thấy khi nẫy ta ra tay vết thương lại xé ra chứ!" Lịch Chân Chân:

"Dù chúng tôi không thấy, cũng đoán được!" Tạ Hiểu Phong:

"Vì thế các ngươi mới cho rằng con người như ta bây giờ sẽ hết lo quản việc người khác phải không?" Âu Dương Vân Bằng:

"Tuy vậy chúng tôi cũng đều tôn kính ông. Dù ông còn sống hay đã chết cũng vẫn giữ vẹn toàn được uy danh của Thần Kiếm sơn trang!" Lịch Chân Chân:

"ít ra thì chúng tôi cũng nhận là thua, thua dưới tay ông!" Tạ Hiểu Phong:

"ta biết. Riêng điểm này ta cũng cảm kích lắm, chỉ tiếc là các ngươi quên mất một điều." Lịch Chân Chân hỏi:

"Điều gì?" Tạ Hiểu Phong:

"Đáng lẽ có ta ở đây, Điền Tại Long và Lê Bình Tử vốn không phải chết mới phải!" Lịch Chân Chân hỏi:

"Vì chàng cho rằng chàng có thể cứu được chúng chứ gì?" Tạ Hiểu Phong:

"không sai!" Lịch Chân Chân:

"Vì thế chàng định báo thù cho chúng chăng?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Cũng có thể không phải nghĩ là báo thù cho họ mà chẳng qua là cứu cho sự bình yên của lòng mình mà thôi!" Lịch Chân Chân:

"Tôi hiểu ý tứ của chàng, đằng nào chàng cũng chết thì chết dưới kiếm chúng tôi, chết cho lòng yên lý đúng, tự hỏi lòng mà không thẹn chứ gì!" Nàng ta khe khẽ thở dài, rồi chậm rãi nói tiếp:

"Chỉ đáng tiếc là chàng có rất nhiều việc mà chưa được biết!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Hử?" Lịch Chân Chân:

"Chàng chỉ nhìn thấy vỏ ngoài của sự việc này mà thôi cứ phán đoán xem chân tướng bên trong, nghĩ gì thì chàng nghĩ không ra mà hỏi lại không hỏi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ta phải hỏi gì bây giờ?" Lịch Chân Chân:

"ít nhất thì chàng cũng hỏi lý do vì sao Lê Bình Tử và Điền Tại Long đáng chết chẳng hạn!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Họ đáng chết?" Lịch Chân Chân đáp:

"Đương nhiên đáng chết!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"tại sao?" Lịch Chân Chân đáp:

"Vì nếu họ không chết thì liên minh bẩy phái chúng tôi chẳng có cách nào thành lập nỗi!" Âu Dương Vân Bằng:

"Vì nếu họ không chết số người chết còn nhiều hơn!" Lịch Chân Chân:

"Lê Bình Tử tính tình giáo giở, là con người để thành việc thì ít mà hỏng việc thì nhiều!" Âu Dương Vân Bằng:

"Chúng tôi muốn thành đại sự không thể không hy sinh những con người như vậy được!" Lịch Chân Chân:

"Đối với cái chết của Bình Tử tôi cũng hơi có chút buồn, nhưng Điền Tại Long thì..." Tạ Hiểu Phong:

"Thì sao?" Lịch Chân Chân đáp:

"Vì gã vốn là gian tế!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Gian tế?" Lịch Chân Chân chỉ cười. Nàng ta cười nhưng xem ra còn nghiêm túc hơn lúc không cười:

"Chắc chàng không hiểu gian tế là ý tứ gì hẳn! Gian tế là kẻ sẽ bán đứng người khác!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Thế gã bán đứng ai?" Lịch Chân Chân đáp:

"hắn bán đứng chúng tôi, hắn bán luôn cả hắn!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Chủ mua là ai?" Lịch Chân Chân đáp:

"Là Thiên Tôn! Dĩ nhiên là Thiên Tôn! Chàng phải nghĩ ra chỉ có Thiên Tôn mới đủ tư cách mua loại người như Điền Tại Long..." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Nàng có chứng cớ gì không?" Lịch Chân Chân:

"Chàng cần chứng cớ ử" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Ta cần chứ!" Lịch Chân Chân:

"Chứng cớ ở ngay đây này!" Lịch Chân Chân bỗng xoay mình chĩa một ngón tay ra. Ngón tay nàng ta thon nhỏ mềm đẹp nhưng bây giờ nhìn thì thấy giống một thanh kiếm, giống một mũi kim.

"Người này là chứng cớ!" Nàng ta trỏ vào đúng Giản Truyền Học. Giản Truyền Học tuy vẫn trấn tĩnh nhưng nét mặt hơi đỗi. Lịch Chân Chân:

"Chàng là Tam thiếu gia nhà họ Tạ, chàng là kiếm khách thiên hạ vô song, đương nhiên chàng không thể là đồ ngu ngốc được!" Dĩ nhiên Tạ Hiểu Phong không thể thừa nhận mình là ngu ngốc. Lịch Chân Chân:

"Thế sao chàng không thể tưởng tượng xem tại sao bọn tôi lại biết chàng sống nhiều nhất chỉ được ba ngày nữa?" Tạ Hiểu Phong bất tất phải nghĩ.

"Sự việc này sớm muộn gì thì người ta cũng biết, thiên hạ rồi sẽ biết cả!" "Nhưng người cho đến giờ được biết chưa phải là nhiều lắm!" "Có người nào hiểu rõ nhất vấn đề này?" "Người nào hiểu rõ nhất hai ngày này Tạ Hiểu Phong sẽ tới đây?" Tạ Hiểu Phong cười.

HỒI 41 - COI NHẸ SỐNG CHẾT

Tạ Hiểu Phong cười nhưng bất kỳ ai cũng không nhận ra chàng đang cười thật. Chàng đang nhìn Giản Truyền Học.

Giản Truyền Học cúi đầu.

"Tôi nói, tôi nói đấy!" "Tôi là người của Thiên Tôn. Điền Tại Long cũng vậy!" "Tôi bảo cho Điền Tại Long biết vì vậy bọn họ mới biết!" Những lời này gã đâu có nói ra và bất tất phải nói ra.

"Ta nhìn lầm ngươi!" "Ta coi ngươi là bạn, thật là nhìn lầm!" Mấy câu này Tạ Hiểu Phong đâu có nói ra, càng bất tất phải nói ra làm gì.

"Ta không trách ngươi!" Giản Truyền Học lại chỉ hỏi một câu:

"Ông thật không trách tôi chứ?" Tạ Hiểu Phong:

"ta không trách ngươi vì ngươi vốn đâu có nhận ra tả" Giản Truyền Học trầm ngâm rất lâu rồi mới chậm rãi:

"Phải rồi, tôi vốn đâu có nhận ra ông, không nhận ra được một chút gì!" Đây là một câu nói cực kỳ giản đơn nhưng về ý tứ lại cực kỳ phức tạp. ý tứ "không nhận ra" tức là "không hiểu". ý tứ "không hiểu" tức là căn bản không biết ông là người thế nào. Tạ Hiểu Phong hiểu ý tứ của gã, cũng hiểu cả tâm tình của gã.

Vì vậy Tạ Hiểu Phong chỉ nói vắn tắt có ba chữ:

"Ngươi đi đi!" Giản Truyền Học đi, cúi gằm đầu mà đi. Gã đi rất lâu rồi Âu Dương Vân Bằng mới thở dài một hơi:

"Tạ Hiểu Phong quả không hỗ là Tạ Hiểu Phong!" Đây là một câu nói rất giản đơn mà rất đời thường. Nhưng ý tứ bao hàm trong câu nói lại chẳng giản đơn quá, lại chẳng đời thường quá. Lịch Chân Chân cũng thở dài, thở dài khe khẽ:

"Nếu tôi là chàng, tôi quyết không bao giờ thả cho gã đi!" Tạ Hiểu Phong:

"Nàng đâu phải là ta!" Lịch Chân Chân:

"Thì chàng cũng đâu phải là tôi, cũng chẳng phải là Âu Dương Vân Bằng, Mai Trường Hoa, Tần Độc Tú." Tất nhiên Tạ Hiểu Phong không phải là họ. Chàng là Tạ Hiểu Phong. Lịch Chân Chân:

"Chỉ vì chàng không phải nên chàng mới không hiểu chúng tôi!" Âu Dương Vân Bằng:

"Chính vì thế ông mới cảm thấy chúng tôi không nên giết Lê Bình Tử, Điền Tại Long." Lịch Chân Chân:

"Chúng tôi đã quyết định từ trước, chỉ cần đạt được mục đích còn thủ đoạn nào cũng được!" Âu Dương Vân Bằng:

"Mục đích của chúng tôi gồm trong tám chữ." Tạ Hiểu Phong không hỏi nhưng Lịch Chân Chân đã nói ra:

"Chống đối Thiên Tôn, bảo vệ chính nghĩa." Rồi Lịch Chân Chân lại nói tiếp:

"Có thể thủ đoạn chúng tôi dùng không đúng nhưng những việc chúng tôi định làm tuyệt đối không có việc nào là không đúng." Mai Trường Hoa:

"Vì vậy nếu ông cho là chúng tôi làm bậy giết sai người thì ông cứ dùng cây kiếm ấy giết chúng tôi đi!" Âu Dương Vân Bằng còn bảo:

"Chúng tôi có chết cũng quyết chịu không chống cự cũng không oán hận!" Lịch Chân Chân:

"Tôi là đàn bà, đàn bà vốn hay sợ chết, nhưng tôi dù có chết cũng không oán chàng!" Trong tay Tạ Hiểu Phong đang có kiếm. Bất kỳ kiếm của ai, bất kỳ là cây kiếm thế nào đã vào tay Tạ Hiểu Phong đều là kiếm giết người rất dễ. Bất kỳ người nào Tam thiếu gia cũng đều có thể giết được vấn đề là ở chỗ người ấy có đáng giết hay không đáng giết.

Hoàng hôn. Trời sương mù. Hoàng hôn vốn không cần sương mù nhưng lại hay có sương mù. Sương mù như trong mộng. Người ta vốn không cần mộng nhưng lại hay nằm mơ với mộng.

Tạ Hiểu Phong đi trong sương mù như đi vào cõi mộng. Sương mù như trong mộng hay trong mộng như sương mù?

Nếu nói cuộc đời con người như giấc mộng như đi trong mù thì đó là câu nói quá dung tục hay quá thật?

"Chúng ta đều là người, đều là người giang hồ, vì vậy ông phải biết chúng tôi vì sao mà phải làm như vậy chứ?" Đó là lời Lịch Chân Chân. Chính vì vậy Tạ Hiểu Phong đã không giết Lịch Chân Chân, cũng không giết Mai Trường Hoa, Tần Độc Tú và Âu Dương Vân Bằng. Vì chàng hiểu đó là lời nói thực. Trong giang hồ không có sự thị phi tuyệt đối. Người giang hồ vì muốn nhằm đạt được một mục đích nào đó thì sẽ không bao giờ phải lựa chọn thủ đoạn. Khi muốn làm một việc gì thì nguy đến bản thân họ cũng không bao giờ chọn cho mình có chỗ lùi. Không có ai tình nguyên thừa nhận điểm này nhưng cũng không ai phủ nhận.

Đó cũng là số phận những người trên giang hồ và cũng là nỗi bi thương lớn nhất của khách giang hồ. Trong giang hồ tồn tại vĩnh viễn những người như Lịch Chân Chân. Bây giờ Tạ Hiểu Phong giết bớt một người như Lịch Chân Chân thì sẽ ra sao? Sẽ cải biến được gì?

"Chúng tôi tôn nàng ta lên làm minh chủ chỉ vì chúng tôi cảm thấy chỉ có nàng ta mới có thể đối phó được với Thiên Tôn Mộ Dung Thu Hoạch." Đó là câu nói của Âu Dương Vân Bằng. Đó cũng là lời nói thực tình. Tạ Hiểu Phong chợt phát hiện ra Mộ Dung Thu Hoạch và Lịch Chân Chân thì cũng cùng một "típ" người. Kiểu người này dường như trời sinh ra để làm kẻ chiến thắng, bất kể là làm việc gì họ cũng thành công. Ngoài ra lại có một kiểu người cũng dường như sinh ra để làm kẻ bại, làm gì may mà họ thắng được ít nhiều nhưng tới cùng thua tay trắng là hết.

Tạ Hiểu Phong không nén được phải tự hỏi lòng:

"Còn ta? Ta là kiểu người nào?" Chàng không trả lời mình vì chính đáp án này bản thân chàng cũng không muốn biết! Sương mù vừa lạnh lẽo vừa dày đặc, dày đặc đến nỗi dường như chàng đã cách biệt hoàn toàn với mọi người ở thế gian. Thứ thời tiết này rất thích hợp với tâm trạng chàng lúc này vì chàng đâu có muốn nhìn thấy ai khác. Nhưng đúng lúc ấy từ trong sương mù đặc quánh lại có người xuất hiện.

Sắc mặt Giản Truyền Học nhìn trong sương mù giống hệt một bóng ma mới từ địa ngục thoát ra. Tạ Hiểu Phong thở dài:

"Lại ngươi!" Giản Truyền Học:

"Vâng tôi đây!" Tiếng nói của gã khàn đặc và đầy bi thương:

"Tôi biết ông không muốn gặp mặt tôi nữa nhưng tôi không lại không được!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao?" Giản Truyền Học:

"Vì trong lòng tôi còn có những điều muốn nói, dù ông thích nghe hay không muốn nghe, tôi không nói ra không được!" Tạ Hiểu Phong nhìn bộ mặt trắng bệch của gã, cuối cùng chàng gật đầu:

"Nếu ngươi nhất định muốn nói thì ta nghe đây!" Giản Truyền Học:

"Tôi rõ ràng là người của Thiên Tôn vì tôi chẳng có cách nào từ chối được họ vì tôi chưa muốn chết! Tạ Hiểu Phong:

"Ta đã rõ rồi! Đến loại như Điền Tại Long còn chẳng cự tuyệt nỗi họ huống hồ ngươi!" Giản Truyền Học nói:

"Tôi có khác với họ Điền. Gã học kiếm, còn tôi học y. Y đạo là cứu người giúp đời, coi tính mạng của người bệnh nặng hơn tất cả mọi thứ trên đời!" Tạ Hiểu Phong:

"Ta biết rồi!" Giản Truyền Học nói:

"Tôi vào Thiên Tôn mới được có mấy tháng, còn y đạo đã theo hàng hai chục năm. Cách nhìn nhận đối với sinh mạng người bệnh như đã nói ở trên đã thành thân căn đế cố trong lòng tôi rồi!" Tạ Hiểu Phong:

"Quả không sai!" Giản Truyền Học nói:

"Vì vậy dù Thiên Tôn bắt tôi làm gì tôi cũng không thể đem tính mạng người bệnh ra là trò đùa được. Chỉ cần làm bệnh nhân của tôi thì tôi sẽ dốc toàn tâm toàn lực ra chữa chạy cho dù họ là người thế nào cũng vậy!" Gã đăm đăm nhìn Tạ Hiểu Phong:

"Kể cả ông cũng vậy!" Tạ Hiểu Phong:

"Chỉ tiếc là thương tích của ta quả thật không cứu chữa được nữa!" Giản Truyền Học rầu rĩ:

"Nhưng nếu tôi còn thấy một phần nào hy vọng thì tôi quyết không chịu buông taỵ" Tạ Hiểu Phong:

"Ta biết ngươi đã tận sức rồi, ta không trách ngươi đâu!" Giản Truyền Học:

"Điền Tại Long tuy là người của Thiên Tôn thật, bọn họ muốn tôi sắp xếp để cho gã giết ông." Tạ Hiểu Phong cười:

"Đến việc ấy mà cũng sắp xếp được ử" Giản Truyền Học:

"Người khác không được nhưng tôi lại được!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ngươi sắp xếp ra sao?" Giản Truyền Học:

"Chỉ cần tôi rắc thêm một chút thuốc "Hủ cốt" (nát xương) lên vết thương của ông, khi cần tôi ra hiệu ngầm cho gã biết là gã sẽ xuất thủ!" Giản Truyền Học nói tiếp:

"Bất kể ai có thể đánh bại Tam thiếu gia nhà họ Tạ thì tin ấy sẽ chấn động giang hồ, lừng danh thiên hạ, huống hồ giữa bọn họ còn đánh cuộc với nhau!" Tạ Hiểu Phong:

"Kẻ nào giết được Tạ Hiểu Phong thì sẽ làm minh chủ cuộc hội trên núi Thái Sơn phải không?" Giản Truyền Học đáp:

"Không sai!" Tạ Hiểu Phong:

"Trước mặt người của bẩy đại kiếm mà Điền Tại Long giết được ta thì Lịch Chân Chân chỉ còn việc đem ngôi báu trao cho gã, như thế liên minh của bẩy đại kiếm phái sẽ biến thành bù nhìn trong tay Thiên Tôn chứ gì?" Giản Truyền Học đáp:

"Không sai!" Tạ Hiểu Phong khe khẽ thở dài:

"Chỉ tiếc là ngươi lại không làm đúng như thế!" Giản Truyền Học:

"Tôi không thể làm thế được, tôi làm không nỗi!" Tạ Hiểu Phong:

"Vì lòng nhân của nghề y đã mọc rễ sâu trong lòng ngươi rồi!" Giản Truyền Học:

"Quả không sai!" Tạ Hiểu Phong:

"Giờ ta chỉ còn mỗi một điểm nghĩ chưa thông..." Giản Truyền Học hỏi:

"Điểm nào?" Tạ Hiểu Phong:

"Lịch Chân Chân cùng bọn kia sao lại biết ta chỉ còn sống được có ba ngày nữa? Sự việc này chỉ có người của Thiên Tôn biết thôi mà!" Mặt Giản Truyền Học bỗng biến sắc, gã nói thất thanh:

"Chẳng lẽ Lịch Chân Chân cũng là người của Thiên Tôn ử" Tạ Hiểu Phong nhìn Giản Truyền Học, vẻ mặt vẫn trấn tĩnh chỉ lạnh lùng hỏi:

"Có thật ngươi không biết nàng ta là người của Thiên Tôn không?" Giản Truyền Học:

"Tôi..." Tạ Hiểu Phong:

"Thật ra ngươi phải nghĩ cho tới nơi, cao thủ đánh cờ sau mỗi nước cờ phải mai phục sát thủ lợi hại hơn nhiều. Mộ Dung Thu Hoạch không nắm chắc được Điền Tại Long, trong bàn cờ này quân sát thủ chính của nàng ta phải là Lịch Chân Chân!" Giản Truyền Học hỏi:

"Ông đã sớm nghĩ tới điều đó trước rồi ử" Tạ Hiểu Phong mỉm cười:

"Ta không ngốc đâu!" Giản Truyền Học thở ra nhẹ nhõm:

"Thế thì đương nhiên ông phải giết nàng ta chứ?" Tạ Hiểu Phong:

"Ta chưa giết!" Giản Truyền Học biến sắc mặt:

"Sao ông lại thả nàng ta đỉ" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Vì chỉ có nàng ta mới đối phó nỗi Mộ Dung Thu Hoạch!" Giản Truyền Học:

"Nhưng nàng tạ.." Tạ Hiểu Phong:

"Bây giờ nàng ta tuy là người của Thiên Tôn nhưng nàng ta chẳng chịu ở lâu dưới trướng của Mộ Dung Thu Hoạch đâu. Cuộc hội ở Thái Sơn là cơ hội tuyệt hảo cho Lịch Chân Chân, chỉ cần nàng ta ngồi lên ghế báu minh chủ bẩy đại kiếm phái thì nàng ta sẽ lợi dụng quyền lực mới dốc toàn lực ra mà đối phó với Thiên Tôn." Tạ Hiểu Phong mỉm cười nói tiếp:

"Ta hiểu rõ kiểu người như Lịch Chân Chân. Nàng ta sẽ chẳng bỏ lỡ cơ hội này đâu!" Lòng bàn tay Giản Truyền Học toát mồ hôi. Gã cũng không quá ngốc có điều sự việc diễn biến như thế này thì đến tưởng tượng gã cũng không bao giờ tưởng tượng nỗi. Tạ Hiểu Phong:

"Mộ Dung Thu Hoạch trước nay vẫn lợi dụng nàng ta nhưng lại không biết Lịch Chân Chân cũng lại đang lợi dụng mình. Lịch Chân Chân vào Thiên Tôn cũng có lẽ cốt để lợi dụng sức mạnh của Thiên Tôn để dấn bước lên cao thêm." Chàng thở dài:

"Mộ Dung Thu Hoạch đi nước cờ này như dùng một con rắn độc, có thể dùng rắn độc khống chế người khác đến chết nhưng bất cứ lúc nào con rắn độc cũng có thể quay đầu cắn lại mình một miếng." Giản Truyền Học:

"Mà miếng này mới là đòn trí mạng đây!" Tạ Hiểu Phong:

"Lịch Chân Chân có thể làm cho Mộ Dung Thu Hoạch tín nhiệm nàng ta cũng có thể dò tìm ra mạch máu chính của Thiên Tôn và nhát cắn vào mạch máu chính đó của Thiên Tôn dĩ nhiên là cắn không nhẹ." Giản Truyền Học:

"Nhưng con rết trăm chân có chết cũng không ngã. Lịch Chân Chân tưởng cắn một nhát trí mạng ngay, sợ rằng không dễ đâu!" Tạ Hiểu Phong:

"Chính vì thế mà chúng ta phải dùng độc trị độc, lợi dụng để họ tàn sát lẫn nhau, đợi đến khi họ mệt mỏi rã rời thì người khác có thể thay ta mà giành thắng lợi." Giản Truyền Học:

"Người khác đó là người thế nào?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Trên giang hồ mỗi đời lại có người tuấn kiệt xuất hiện nỗi lên biết là ai mà ai biết được!" Tạ Hiểu Phong thở dài:

"Đó là số kiếp của giang hồ. Sống trong giang hồ thì cũng như chiếc lá khô trong cơn gió, nước cánh bèo trên mặt nước, thường thì thâu đêm có làm chủ được mình! Chúng ta chỉ cần biết rằng liên minh bẩy phái lẫn Thiên Tôn rồi sẽ thua bại là điều chắc chắn và thế là đủ rồi, hà tất đòi hỏi nhiều hơn!" Giản Truyền Học không hỏi thêm nữa. Gã không phải là người giang hồ, không thể hiểu rõ về người giang hồ nên lại càng không thể hiểu rõ Tạ Hiểu Phong. Tuy nhiên gã bỗng phát hiện ra con người này không chỉ trôi nỗi dật dờ như chiếc lá trong cơn gió như cánh bèo trên mặt nước mà còn là màn sương đêm đến sớm hư ảo, dật dờ không sao nắm bắt nỗi. Con người này có lúc thâm trầm, có lúc cởi mở, có khi u uất, có khi sướng vui, có khi tỏ ra rất rộng rãi nhân từ nhưng có khi bỗng trở nên cực đoan tàn nhẫn đến vô tình. Xưa nay Giản Truyền Học chưa bao giờ tiếp xúc với những người có tính cách phức tạp đa đoan như thế này.

Phải chăng vì tính cách phức tạp nhiều biến đỗi thế này nên chàng mới là Tạ Hiểu Phong! Giản Truyền Học nhìn Tạ Hiểu Phong rồi thở dài:

"Tôi tới lần này vốn có một chuyện muốn bảo để ông hay!" Giản Truyền Học hỏi:

"Chuyện gì?" Giản Truyền Học:

"Tuy tôi không thể cứu khỏi thương tích cho ông nhưng thương tích của ông không phải là tuyệt đối không cứu được!" Mặt Tạ Hiểu Phong rạng rỡ lên. Một con người chắc chết nếu quả thật có thể vẫn còn sống được ai lại chẳng muốn sống nữa?

Tạ Hiểu Phong không nén nỗi, phải hỏi:

"vẫn còn ai có thể cứu được ta ử" Giản Truyền Học:

"Chỉ có một người thôi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ai?" Giản Truyền Học đáp:

"Đó là một người rất quái lạ cũng chẳng khác gì ông, biến đỗi vô thường, khó lòng nắm bắt nỗi cũng có khi trở nên tàn khốc vô tình y như ông vậy!" Tạ Hiểu Phong không thể phủ nhận, chỉ còn biết thở dài. Người đa tình nhất thường cũng là người vô tình nhất! Chàng là người đa tình hay vô tình?

Điều này thì bản thân chàng cũng khó phân định rạch ròi. Giản Truyền Học nhìn Tạ Hiểu Phong bỗng gã thở dài:

"Bất kể người ấy là ai, giờ đây ông vĩnh viễn không tìm gặp được đâu!" Xưa nay Tạ Hiểu Phong đâu có sợ chết! Người ta lúc còn nhỏ đâu có sợ chết vì lúc này còn chưa biết chết là đáng sợ. Nhất lại là Tạ Hiểu Phong. Từ khi còn nhỏ chàng đã nghe kể, đọc biết chuyện của biết bao anh hùng hảo hán mà anh hùng hảo hán đâu có sợ chết! Anh hùng không sợ chết, sợ chết không phải là anh hùng. Chỉ cần "phập" một tiếng, đầu người rụng xuống thì có đáng kể gì? Cùng lắm "chỉ hai chục năm sau lại trở thành hảo hán" chứ gì! Quan niệm đó đã sâu rễ bền gốc trong lòng chàng. Đến khi trưởng thành chàng càng không sợ chết vì chết là việc toàn của người khác đâu phải của chàng.

Chỉ cần tay chàng còn cầm chắc cây kiếm, chuyện "sống, chết" đã là chuyện chàng có thể nắm rất vững vàng. Chàng không phải là thần thánh, nhưng trên giang hồ chàng có thể nắm vững được sự sống, chết của người khác thì có gì chàng lại phải sợ chết? Thậm chí có khi chàng còn mong muốn được chết để thử xem cái mùi vị của chết ra sao vì mùi vị này chàng chưa từng được nếm qua! Tạ Hiểu Phong cũng không thể nghĩ đến chết. Gia thế nhà chàng vẻ vang rạng rỡ, danh tiếng hiển hách, đi đến đâu cũng được mọi người tôn kính. Khi chàng còn rất nhỏ cũng đã biết điều đó rồi. Chàng tinh khôn, năm bốn tuỗi đã được mọi người coi là "thần đồng". Chàng lại đáng yêu trong con mắt của người phụ nữ, chàng là vị thiên sứ thật thà không chút tà ác, bất kể là trong mắt bà phu nhân quý phái hay người đàn bà nghèo giặt áo ven sông đều như vậy.

Chàng lại là người kỳ tài học võ. Kiếm pháp của người khác luyện cả đời chàng chỉ học mười ngày đã có thể nắm vững, luyện thành tinh tiến. Cả đời chàng chưa từng bị bại.

Người giao thủ cùng chàng có từ vị kiếm khách đáng sợ nhất đến con bạc tinh quái nhất. Nhưng chàng chưa bao giờ thua! Cuộc kiếm, cuộc rượu, đánh bạc, đỗ xúc xắc... bất kể đánh cuộc cái gì chàng chưa hề thua bao giờ. Một con người gì cũng được như thế ai lại nghĩ đến chuyện chết?

Tạ Hiểu Phong không sợ chết có thể chỉ vì xưa nay chàng chưa bao giờ bị cái chết đe dọa. Cho tới hôm trước, đến giờ phút đó nghe có người bảo nhiều nhất chàng chỉ sống được có ba ngày nữa. Trong giây phút đó chàng mới chợt thấy cái chết thật đáng sợ. Tuy chàng không muốn chết nhưng cũng chẳng làm gì nỗi! Chuyện sống chết của một con người đâu phải chỉ hoàn toàn do người đó quyết định. Người nào thì cũng thế, cũng đều hiểu rõ điều đó. Vì thế biết rõ là mình sẽ chết, Tạ Hiểu Phong cũng chỉ còn có việc chờ đợi chết. Vì chàng cũng chẳng còn cách nào khác được! Nhưng bây giờ tình hình chợt có thể thay đỗi.

Một con người đang lúc chắc sẽ phải chết bỗng lại có hy vọng được sống mà hy vọng này bỗng nhiên trong phút chốc có người thay đỗi quyết đoán, cả một quá trình cực đoan từ vui sướng sang tang tóc, từ chết chóc sang hồi sinh, hoàn toàn phát sinh trong thoáng phút giây này. Kinh động lớn lao như vậy ai mà nhận chịu nỗi?

Giản Truyền Học đứng đó không nhúc nhích dường như đợi chờ Tạ Hiểu Phong bẻ gẫy cỗ gã.

"Ngươi không để ta sống thì ta cũng chẳng để ngươi sống!" Đó là nguyên tắc xử việc trên giang hồ. Giản Truyền Học biết vậy và sẵn sàng thừa nhận, chịu đựng. Không ngờ Tạ Hiểu Phong lại chẳng làm gì cả, cứ lẳng lặng đứng đó, lạnh lùng nhìn gã.

Giản Truyền Học:

"Ông có thể giết tôi, dù ông có định giết tôi tôi cũng không nói đâu!" Giọng gã vì quá lo lắng nên thành run rẩy:

"Vì bây giờ tôi mới thật sự hiểu ông là người như thế nào?" Tạ Hiểu Phong:

"ta là người thế nào?" Giản Truyền Học:

"Ông còn vô tình vượt xa bất kỳ ai tưởng tượng!" Tạ Hiểu Phong ngạc nhiên:

"Hử?" Giản Truyền Học:

"Đến tính mạng mình ông còn chẳng để trong lòng, dĩ nhiên càng chẳng coi trọng tính mạng người khác!" Tạ Hiểu Phong:

"Hử?" Giản Truyền Học lại nói:

"Chỉ cần ông thấy cần thiết thì bất cứ lúc nào ông cũng có thể hy sinh tính mạng người khác, bất kể người đó là ai cũng vậy!" Tạ Hiểu Phong bỗng cười phá lên:

"Vì vậy ta sống chẳng bằng chết đi tốt hơn chứ gì?" Giản Truyền Học:

"Tôi không muốn thấy ông chết, tôi không nói ra chỉ vì muốn bảo vệ người ấy mà thôi!"

HỒI 42 - ĐƯỜNG CÙNG SỐNG LẠI

Tạ Hiểu Phong tỏ vẻ không hiểu:

"Bảo vệ người ấy?" Giản Truyền Học:

"Tôi biết người ấy sẽ cứu ông nhưng nếu ông không chết người ấy nhất định sẽ chết trong tay ông!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao?" Giản Truyền Học đáp:

"Chỉ cần hai người các ông gặp nhau nhất định phải có một người chết dưới kiếm của người kia mà người phải chết tất nhiên không bao giờ là ông rồi." Gã chậm rãi nói tiếp:

"vì tôi biết dù trong bất cứ tình huống nào ông cũng không bao giờ chịu thua vì Tam thiếu gia nhà họ Tạ còn sống thì tuyệt đối không thể thua dưới lưỡi kiếm của người khác được!" Tạ Hiểu Phong trầm ngâm, cuối cùng cười phá lên:

"Lời ngươi nói không sai! Ta có thể chết chứ không thể thua dưới lưỡi kiếm của người khác được!" Chàng ngó mông lung tận chốn xa xăm nào rồi thở dài:

"Chỉ vì ta là Tạ Hiểu Phong!" Câu nói đó rất có thể là câu nói cuối cùng của Tạ Hiểu Phong vì lúc này đã là ngày thứ ba, ngày cuối cùng của chàng rồi. Bất kỳ lúc nào chàng cũng có thể ngã lăn ra vì sau khi nói câu đó xong, Tạ Hiểu Phong bỏ đi thẳng đầu không ngoái lại. Chàng cũng thừa hiểu rõ lần này bỏ đi sẽ không bao giờ tìm lại được cơ hội có thể giúp chàng sống lại. Nhưng Tạ Hiểu Phong không thể cưỡng ép, không thể van xin được! Cũng có thể khác nào lúc nẫy vẫy tay tống tiễn một vầng mây ráng, chẳng có gì là thương cảm mà cũng không hề lưu luyến.

Vì chàng không thể thua, chỉ có chết thôi! Sắc trời càng sẫm lại, sương mù càng dày. Giản Truyền Học đứng nhìn theo cái bóng gày guộc nhỏ bé và mệt mỏi tan dần vào trong đêm sương mù mịt.

Tạ Hiểu Phong vẫn không hề ngoái đầu nhìn lại.

"Một con người đối với bản thân còn có thể vô tình như vậy huống gì đối với người khác?" Giản Truyền Học nắm chặt hai bàn tay lại, nghiến chặt răng mà lẩm bẩm:

"Ta không thể nói được! Ta không thể nói được!..." Khẩu khí của gã rất kiên quyết nhưng con người gã bỗng chồm tới cao giọng gào:

"Tạ Hiểu Phong! Tạ Hiểu Phong! Ông chờ đấy đã..." Sắc mù thảm đạm nhìn chẳng thấy người đâu, nghe không thấy tiếng trả lời. Giản Truyền Học chạy không dừng chân, hò gọi, cho đến lúc ngã lăn ra đất.

Bùn đất nhão nhoẹt, mằn mặn như mang mùi vị của nước mắt. Bỗng gã nhìn thấy hai bàn chân... Tạ Hiểu Phong đứng trước mặt Giản Truyền Học, đầu cúi xuống, nhìn gã mà không nói gì. Giản Truyền Học không đứng dậy cứ chẩy nước mắt mà lẩm bẩm:

"Tôi không thể nói được! Chỉ vì nếu nói ra tôi sẽ có lỗi với ông ấy!" Tạ Hiểu Phong:

"Ta hiểu rồi!" Giản Truyền Học lại nói:

"Nhưng nếu tôi không nói ra tôi lại có lỗi với ông!" Gã tuyệt nhiên không muốn Tạ Hiểu Phong đi để chết. Gã không thể nhìn thấy chết mà không cứu. Vì như thế chính gã đã vi phạm lời dạy dỗ về y đạo mà suốt hai mươi năm qua gã không một ngày nào quên. Toàn thân gã vặn vẹo lại vì nỗi đau khỗ và dằn vặt trong lòng, gã nói:

"May mà tôi còn nghĩ được ra một cách." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Cách gì?" Gã bảo:

"Chỉ có một cách này mới khiến tôi yên lòng... chỉ có cách này mới giúp tôi mãi mãi giữ được bí mật..." Gã rút đao đâm vào ngực mình. ánh đao thấp thoáng, yếu ớt, loáng lên trong màn sương mù dày đặc.

Một lưỡi dao mỏng, nhọn sắc. Mũi đao dài chừng bẩy tấc đã hoàn toàn đâm ngập tim gã. Một con người nếu còn chút lương tâm thông thường là thà chết chứ không làm điều phản bội lương tâm! Sương dày, nước trôi. Ngàn hoa lau ven bờ sông xào xạc. Nước sông chảy trôi trong bóng tối đen như mực, trên bờ sông sương mù mờ mịt như khói toả.

Tạ Hiểu Phong một mình ngồi thẫn thờ bên bờ sông, giữa ngàn lau, trong tiếng nước dạt dào khe khẽ như hơi thở ru người sắp chết. Chàng đang nghe tiếng nước chẩy, đang lắng nghe hơi thở của mình. Nước trôi xuôi vĩnh viễn không ngừng hơi thở của chàng sắp tới bất chợt sẽ một lúc nào ngừng lại.

Thật là cả một sự báng nhạo thê thảm biết chừng nào? Ai mà có thể ngờ được Tạ Hiểu Phong uy danh chấn động giang hồ lại có lúc cô đơn ngồi một mình bên bờ sông vắng, lặng lẽ để chờ chết?

Chết! Đâu đến nỗi buồn như thế! Nhưng điều bi thương là cái cách chết của chàng. Chàng chọn cách chết này vì chàng đã quá mệt nhọc mọi sức lực vùng vẫy, dẫy dụa, phấn đấu cho cuộc sống giờ đã tiêu tán hết cả rồi. Nghe nói một con người khi chết sẽ chợt nhớ lại rất nhiều hồi ức rất kỳ quái trong cả cuộc đời, có rất nhiều sự việc đã quên lãng đến lúc sắp chết ấy lại vụt hiện về trong ký ức.

Nhưng Tạ Hiểu Phong bây giờ đến nghĩ cũng không buồn nghĩ nữa. Giờ chàng chỉ muốn tìm một người nói chuyện phiếm cho qua thì giờ, bất kỳ một người thế nào cũng được. Chàng bỗng thấy cực kỳ tịch mịch. Trong đời lắm lúc tịch mịch còn khó chịu hơn cả chết nếu không thể trên đời này làm sao lại có lắm người vì tịch mịch mà chết? Gió thỗi qua.

Sương mịt mờ trên mặt sông bỗng le lói một bông hoa lửa yếu ớt lúc rõ lúc tắt. Không phải là lửa đèn, là lửa lò.

Một lá thuyền con một lò đất nung nhóm lửa, lay động ánh lửa lắt lay soi tỏ một ông già ngồi xếp bàn tròn ở mũi thuyền, đội nón trúc xanh, mặc áo tơi màu lục, tóc trên đầu bạc phơ như sương. Gió thỗi từng trận từng trận đưa lại mùi thơm đắng chát và mát mẻ, trên bếp lò kia đang đun chẳng hiểu là trà hay thuốc?

Một lá thuyền tí teo, một lò lửa chập chờn, một ông già cô độc, đối với Tạ Hiểu Phong thấy ở ông già một thứ buồn vui đan hợp trong cuộc đời tưởng chừng đều biến thành mây khói đang lướt qua trước mắt chàng. Phải chăng ông già cũng đang ngồi chờ chết? Nhìn thấy ông già chẳng hiểu vì sao trong lòng Tạ Hiểu Phong bỗng trào dâng xúc cảm rồi chàng đứng bật dậy vẫy vẫy.

"Hỡi vị lão trượng ở trên thuyền, cụ có thể ghé thuyền lại được không?" Ông lão dường như không nghe thấy mà lại như nghe thấy.

"Chàng muốn làm gì?" Tạ Hiểu Phong:

"Cụ ngồi một mình đờ đẫn ở đầu thuyền, tôi ngồi ngơ ngẩn một mình trên bờ sông, hai chúng ta sao không ngồi lại nói chuyện tào lao cũng có thể làm tiêu bớt đêm dài tịch mịch chăng!" Ông già không lên tiếng nhưng "kẽo kẹt" một tiếng con thuyền nhẹ đã từ từ lướt tới. Tạ Hiểu Phong cười.

Trong màn sương mù lạnh lẽo và ẩm ướt, họ nhìn nhau vì đều cảm thấy có một thứ gì ấm áp trong lòng nhưng không nói được thành lời. Chiếc ấm đồng nhỏ đặt trên hỏa lò nước sôi sùng sục mùi hương đăng đắng chan chát nhưng mát mẻ lại càng thơm phưng phức.

Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Đây là trà hay là thuốc?" Ông già đáp:

"Là trà, là thuốc!" Ông già nhìn ngọn lửa chập chờn leo lét cháy trong bếp lò, trên bộ mặt già nua hiện lên vẻ rất kỳ lạ rồi ông già chậm rãi:

"Chàng còn trẻ, có lẽ chưa biết thưởng thức hương vị của trà đắng đâu nhỉ?" Tạ Hiểu Phong:

"Cháu được biết từ trước rồi, nhất định vị này trước đắng sau ngọt." Ông già quay đầu nhìn chàng, bỗng cất tiếng cười, mọi nếp nhăn trên mặt dường như đều mang rõ nét cười vui. Sau đó ông già mới nhấc ấm:

"Được! Chàng uống một chén đi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Thế còn cụ?" Ông già đáp:

"Ta không uống!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao ạ?" Ông già nheo mắt từ tốn bảo:

"Là vì các kiểu các thức có vị đắng ở đời ta nếm đủ rồi!" Tạ Hiểu Phong lại hỏi:

"Cụ không uống thì đun trà làm gì?" Ông già đáp:

"Người đun trà không nhất thiết phải là người uống trà!" Ông già lại nháy mắt, trong mắt như có ngọn lửa chập chờn rồi mới chậm rãi nói tiếp:

"Trên đời có nhiều việc cũng giống như việc đun trà vậy. Chàng còn trẻ dĩ nhiên không biết thôi!" Tạ Hiểu Phong đón lấy chiếc ấm rót một chén đầy trà đắng, cơ hồ nén không nỗi phải cười phá lên. Nhưng chàng không cười mà cũng không muốn tranh cãi. Được người khác coi là con trẻ thì có gì là không tốt đâu, điều không tốt là người trẻ lại sắp chết! Trà rót ra còn sôi sùng sục, chiếc bát đàn đựng trà rất nhỏ. Tạ Hiểu Phong tợp một hơi cạn bát. Dù uống trà hay uống rượu chàng đều làm một tợp rất nhanh, bất kỳ làm việc gì chàng cũng đều làm nhanh gọn. Phải chăng vì chàng đã sớm cảm thấy từ lâu là cuộc sống của mình cũng kết thúc rất sớm?

Cuối cùng chàng nhịn không nỗi phải bật cười rồi bỗng bảo:

"Có một câu cháu nói ra chắc phải làm cụ giật mình!" Ông già nhìn Tạ Hiểu Phong với đầy vẻ cười châm biếm rồi chờ chàng nói. Tạ Hiểu Phong:

"Cháu là người sắp chết đến nơi rồi!" Ông già không hề giật mình hay ít ra không để lộ một vẻ gì là ngạc nhiên cả. Tạ Hiểu Phong:

"Cháu nói thật đấy!" Ông già:

"Ta thấy rồi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Thế cụ không phải chuẩn bị đuỗi cháu ra khỏi thuyền ử" Ông già lắc đầu. Tạ Hiểu Phong:

"Nhưng cháu có thể chết trước mặt cụ bất kỳ lúc nào đấy!" Ông già:

"Ta đã thấy người chết rồi, mà ta cũng thấy chết người rồi!" Tạ Hiểu Phong:

"Nếu cháu là cụ thì không bao giờ cháu để một người lạ chết ở trên thuyền mình!" Ông già:

"Chàng không phải là ta, mà chàng cũng chẳng thể nào chết trên thuyền của ta được!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao ạ?" Ông già:

"Vì chàng đã gặp ta chứ sao!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Gặp cụ thì cháu không chết ử" Ông già đáp:

"Phải rồi!". Giọng ông già rất lạnh lẽo nhưng kiểu nói lại rất khẳng định:

"Chàng gặp ta có muốn chết cũng không được!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao ạ?" Ông già đáp:

"Vì ta không bao giờ để người lạ chết trên thuyền của mình!" Tạ Hiểu Phong bật cười. Ông già hỏi:

"Chàng cho rằng ta không cứu nỗi chàng ử" Tạ Hiểu Phong:

"Cụ chỉ thấy thương tích của cháu, cụ chưa thấy chất độc cháu bị trúng độc vì vậy cụ mới cho rằng có thể cứu được cháu!" Ông già hỏi:

"Hử?" Tạ Hiểu Phong:

"Thương tích của cháu tuy chỉ ở da thịt, nhưng độc ở trong xương rồi!" Ông già lại hỏi:

"Hử?" Tạ Hiểu Phong:

"Không có ai giải được độc của cháu đâu!" Ông già hỏi:

"Không một người nào ử" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Có lẽ có một người!" Chàng rũ quần áo đứng dậy, chậm rãi nói tiếp:

"Người ấy nhất định không phải là cụ rồi!" Ông già hỏi:

"Vì thế chàng định đi ử" Tạ Hiểu Phong:

"Cháu chỉ có đi thôi!" Ông già:

"Chàng không đi được đâu!" Tạ Hiểu Phong từ từ bảo:

"Lẽ nào gặp cụ rồi cháu muốn đi cũng không được ử" Ông già:

"Đúng thế! Không được!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao?" Ông già:

"Vì chàng đã uống một chén trà đắng của ta!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Chẳng lẽ cụ bắt cháu phải bồi trả ử" Ông già đáp:

"Chàng muốn bồi trả cũng không nỗi!" Tạ Hiểu Phong định cười mà không cười nỗi. Chàng chợt cảm thấy các đầu ngón tay, các đầu ngón chân tê dại đi và đang lan đi khắp nơi.

Ông già hỏi:

"Chàng có biết chàng uống trà gì không?" Tạ Hiểu Phong chỉ còn biết lắc đầu. Ông già:

"Đó là "Ngũ ma tán!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ngũ ma tán?" Ông già đáp:

"Đây là phương thuốc bí truyền của Hoa Đà. Sau khi Hoa Đà mất, đã bị thất truyền nhiều năm!" Ông già chậm rãi nói tiếp:

"Nhưng có người quyết tâm cố tìm cách phối chế bí mật của phương thuốc này. Phải mất công suốt mười bẩy năm ròng, nếm vị thuốc khắp thiên hạ, thậm chí không ngại dùng cả vợ và con gái để thử nghiệm!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Người ấy thành công chứ ạ?" Ông già chậm rãi gật đầu:

"không sai. Người ấy đã thành công nhưng con gái của người ấy bị hóa mù, còn vợ thì hóa điên!" Tạ Hiểu Phong giật mình nhìn ông già hỏi:

"Người ấy là cụ?" Ông già đáp:

"Người ấy không phải là ta, chỉ có điều trước khi người ấy nhẩy xuống sông đã đem phương thuốc bí truyền này truyền lại cho ta!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Người ấy nhảy xuống sông ử" Ông già hỏi lại:

"Nếu vợ chàng, con chàng bị điên, bị mù chỉ vì chàng thì chắc chàng cũng phải nhẩy xuống sông thôi!" Ông già lạnh lùng nhìn Tạ Hiểu Phong rồi hỏi rất lạnh lùng:

"Thử hỏi một cốc trà như thế chàng lấy gì mà bồi trả nỗi?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Cháu không thể bồi trả nỗi!" Chàng cười gượng nói tiếp:

"Có điều nếu biết trước chén trà là như vậy thì không bao giờ cháu uống cả!" Ông già:

"Rất tiếc là giờ chàng đã uống mất rồi!" Tạ Hiểu Phong cười gượng. Ông già:

"Vì thế bây giờ chân tay chàng bắt đầu tê dại, bây giờ có lấy dao xẻo chàng, chàng cũng không cảm thấy đau!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Rồi sau này?" Ông già không đáp chỉ chậm chạp lấy ra một cái rương da màu đen. Rương nhỏ mà bằng. Tuy rất cũ kỹ nhưng vì tay người cọ sát lâu ngày nên lên nước bóng nhoáng rất lạ kỳ. Ông già mở rương da, trong rương lập tức lóe lên một thứ ánh sáng màu xanh nhạt. ánh đao! Mười ba cây đao! Mười ba cây đao với hình dáng kỳ lạ. Có cây khoằm như lưỡi liềm, có cây lại như răng cưa, có cây hẹp bản mà dài, có cây gấp khúc... Cả mười ba cây đao này có chung một đặc điểm là mỏng và sắc nhọn. Ông già đăm đăm nhìn mười ba cây đao, đôi mắt đã suy kém bỗng loáng lên ánh sáng còn sắc bén hơn cả mũi đao.

"Về sau ta sẽ dùng chúng để đối phó với chàng!" Cuối cùng ông già đã trả lời câu hỏi của Tạ Hiểu Phong:

"Dùng mười ba cây đao này này!" Tạ Hiểu Phong đã ngồi xệp xuống. Cơn tê dại đáng sợ vừa nẫy tựa hồ lan tỏa khắp toàn thân chàng, chỉ còn mỗi cặp mắt là còn nhìn được. Chàng cũng nhìn mười ba cây đao kia, chàng không thể không nhìn.

Nước sông cứ lặng lờ dào dạt trôi, lửa bếp lò cũng lụi dần. Ông già nhấc cây đao bản hẹp mà dài lên: cây đao dài chứng chín tấc rộng độ bẩy phân.

"Trước hết ta dùng đao này cắt thịt chàng!" Ông già nói tiếp:

"Những chỗ thịt thối nát trên mình chàng!" "Rồi sau nữa?" "Rồi sau nữa ta sẽ dùng các lưỡi đao kia để đối phó tiếp với chàng!" Ông già lại nhấc cây đao khoằm như câu liêm lên:

"Dùng đao này để tước máu thịt chàng!" "Rồi sau nữa?" "Rồi sau nữa ta dùng cây đao này nạo xương thịt chàng!" Ông già đỗi cây đao khác:

"Đem nạo các đầu xương ngấm độc của chàng, đào hết ra, đến gốc độc cũng phải đào bằng hết!" Nghe người ta xẻo thịt, tước thịt, nạo xương, vét máu... mình như mắt Tạ Hiểu Phong không hề nhấp nháy. Ông già nhìn chàng:

"Ta cam đoan với chàng là không hề đau đớn một tẹo nào!" Tạ Hiểu Phong:

"Phải chăng là vì cháu đã uống chén "Ngũ ma tán" kiả" Ông già:

"Không sai! Đó là công dụng của Ngũ ma tán!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Và cũng chỉ có dùng cách này mới giải hết độc trong mình cháu?" Ông già đáp:

"Từ giờ trở đi, dường như chỉ có mỗi cách này!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Cụ biết trước cháu trúng loại độc này nên mới chuẩn bị sẵn cho cháu cách chữa này phải không?" Ông già đáp:

"Quả không sai!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Nhưng sao cụ biết?" Ông già đáp:

"Xưa nay ta vẫn để mắt nhìn chàng." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao vậy?" Ông già đáp:

"Vì ta muốn dùng tính mệnh chàng đi đỗi lấy một mạng khác!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Đỗi thế nào?" Ông già:

"Ta muốn chàng đi giết cho ta một người!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Giết người như thế nào?" Ông già đáp:

"Một kẻ giết người!" Tạ Hiểu Phong:

"Kẻ ấy giết những người ra sao?" Ông già đáp:

"Có người đáng giết, có người không đáng giết!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Vì vậy kẻ ấy cần giết ử" Ông già:

"Không phải kẻ cần giết ta tuyệt không muốn chàng phải đi giết mà chàng cũng tuyệt không cần đi giết!" Trong ánh mắt ông già hiện lên một vẻ gì rất đặc biệt:

"ta đảm bảo chàng giết kẻ đó xong quyết không phải hối hận về sau!" Tạ Hiểu Phong không nói gì. Chàng cảm thấy cơn tê dại đáng sợ này đang lên óc, đang lan vào tim chàng chầm chậm.

Chàng còn kịp nghe ông già hỏi:

"Chàng muốn chết hay không nào?" Và chàng còn kịp biết mình trả lời:

"Tôi không muốn chết!" Tiếng động cuối cùng Tạ Hiểu Phong nghe thấy là tiếng mũi đao nạo vào xương. Vào xương của chính chàng! Nhưng chàng chẳng cảm thấy gì cả.

Trời sáng. Mặt trời chiếu khắp nơi, mặt đất bừng lên rực rỡ. Rồi trời tối lại. ánh trăng vằng vặc, khắp trời đầy sao. Dù ban ngày hay ban đêm, dù trời sáng hay trời tối, đời người ta lại có mặt đẹp đẽ riêng. Nếu một con người có thể sống được thì tại sao lại muốn chết?

Và ai là người thật sự muốn chết? Tạ Hiểu Phong không chết. Cảm giác đầu tiên của chàng thấy là có hai bàn tay ai đang đè bóp vùng tim cho chàng rất chậm rãi.

Đôi tay rất khô xác, rất ỗn định, lòng bàn tay đầy chai tay. Rồi sau Tạ Hiểu Phong nghe thấy tiếng đập của trái tim chàng. Tiếng đập từ yếu ớt dần dần biến thành ỗn định. Chàng hiểu là đôi tay kia đã cứu sống chàng! Ông già đang nhìn Tạ Hiểu Phong, đôi mắt mệt mỏi già nua chợt biến thành trong trẻo, sáng quắc một cách khó tả có thể ví như ánh sao trong đêm mùa thu.

Chàng chợt phát hiện ra rằng ông già còn trẻ nhiều so với tưởng tượng của chàng. Cuối cùng ông già phì ra một hơi thở:

"Giờ chàng có thể sống được rồi! Chỉ cần chàng đồng ý, ta nhất định có thể làm cho chàng sống lâu hơn người khác một ít và bây giờ xương cốt của chàng lại sạch sẽ tươi mới như bông hoa Ngọc Thục Quỳ vừa mới hái. Tạ Hiểu Phong không nói gì. Chàng chợt nhớ tới lời của Giản Truyền Học nói với chàng.

"Trên đời này chỉ có thể có một người cứu được ông.

"Nhưng nếu người ấy cứu sống ông xong nhất định sẽ muốn chết dưới lưỡi kiếm của ông!"

HỒI 43 - THÔNG TỎ NGÕ NGÀNH

Giản Truyền Học nhất định sai! Tạ Hiểu Phong tuyệt nhiên không có một lý do nào cần thiết phải giết ông già này, mà dù có lý do, chàng cũng tuyệt nhiên không thể ra tay được! Giản Truyền Học nói là nói một người khác cơ, rất có thể gã căn bản cũng không biết là trên đời tồn tại một ông già như thế này, gã lại càng không thể biết bài thuốc bí truyền của Hoa Đà đã được truyền lại cho đời. Tạ Hiểu Phong thở ra một hơi nhẹ nhõm, thỏa mãn với cách giải thích của mình.

Ông già:

"Có một loại người dường như trời sinh ra đã có số may mắn hơn những người khác, và ngay ông trời cũng toàn chiếu cố đến họ một cách đặc biệt!" Ông già nhìn Tạ Hiểu Phong:

"Chàng thuộc loại người ấy đấy. Chàng khỏe trở lại nhanh hơn nhiều so với sự tưởng tượng của tạ" Tạ Hiểu Phong không thể phủ nhận điểm này và cũng không ai có thể phủ nhận nỗi vì thể chất của chàng mạnh mẽ hơn những người khác rất nhiều. Có một số điều nếu phát sinh thấy ở người khác thì là chuyện kỳ quái nhưng bất kỳ lúc nào cũng có thể thấy phát sinh ở chàng.

Ông già:

"Chỉ cần qua vài ba ngày nữa chàng khỏe lại hoàn toàn như trước!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Sau đó cháu phải thay cụ đi giết người nào đây?" Ông già:

"Đó chẳng phải là điều kiện để đỗi mạng của chàng đã nói trước là gì!" Tạ Hiểu Phong:

"Như thế là cháu nhất định phải đi ử" Ông già đáp:

"Nhất định!" Tạ Hiểu Phong cười gượng:

"Cháu từng giết người, không để ý là giết ai!" Ông già đáp:

"Ta biết rồi!" Tạ Hiểu Phong:

"Nhưng người này đến mặt mũi ra sao cháu còn không biết!" Ông già:

"Ta sẽ cho cháu biết mặt người ấy!" Nhìn chàng, ông già bỗng bật cười, cười rất bí hiểm:

"Chỉ cần cháu thấy người ấy rồi là không giết không xong!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao ạ?" Ông già đáp:

"Vì đáng chết!" Vẻ cười cợt của ông già vụt tắt, trong ánh mắt mang đầy đau buồn và thù hận. Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Cụ căm thù người ấy thật ử" Ông già đáp:

"Ta rất căm hận, căm hận hơn bất cứ người nào kể cả trong tưởng tượng!" Ông già nắm chặt tay rồi chậm chạp nói tiếp:

"Vì suốt cuộc đời ta bị kẻ đó làm hại, nếu không vì kẻ đó thì cuộc đời ta bây giờ đã vui sướng hơn nhiều!" Tạ Hiểu Phong không hỏi thêm gì nữa. Chàng chợt nghĩ đến cuộc đời mình, cuộc đời đã qua của chàng có may mắn hay không? Hay là bất hạnh?

Bất giác chàng lòng tự hỏi lòng:

"Cuộc đời ta tại sao lại biến đỗi ra như thế này? Trong lòng con thuyền nhỏ hẹp nhưng cửa bồng lại mở to, trên sông ánh trăng rờ rỡ. Ông già nhìn ánh trăng ngoài cửa thuyền:

"Hôm nay đã mười ba rồi!" Tạ Hiểu Phong lặp lại:

"Mười ba!" Chàng cảm thấy kinh lạ vì đến giờ chàng mới biết hóa ra chàng đã mê man hai ngày ròng. Ông già:

"Ngày kia rằm, chàng có thể thấy người ấy!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Người ấy tới đây ử" Ông già đáp:

"Kẻ đó không tới, chàng phải đi, nhất định chàng phải đi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Đi đâu ạ?" Ông già thuận tay trỏ ra ngoài thuyền, ngoài cửa bỗng bảo:

"Đi theo đường này!" Con thuyền nhẹ áp mạn cập bờ, dưới ánh trăng quả nhiên có một con đường mòn nhỏ hẹp bị cỏ mùa thu phủ kín. Ông già bảo:

"Chàng cứ đi thẳng, tới một giải rừng phong, bên ngoài rừng phong có một quán rượu nhỏ, chàng cứ tùy ý vào đó nghỉ ngơi hai ngày." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Rồi sao ạ?" Ông già bảo:

"Đợi đến đêm rằm khi trăng tròn lên cao chàng đi bằng cửa sau quán rượu theo con đường nhỏ chạy trong rừng phong thì sẽ gặp người mà ta muốn chàng giết." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Làm thế nào cháu nhận ra người ấy đúng là kẻ đó?" Ông già đáp:

"Chỉ cần chàng gặp là nhận ra ngay mà!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao?" Ông già đáp:

"Vì đó là người đợi ở đó để giết ta, chàng có thể nhận ngay ra luồng sát khí ấy!" Tạ Hiểu Phong không thể phủ nhận. Sát khí là thứ không nhìn thấy bằng mắt, không sờ được bằng tay những người như loại chàng mới có thể cảm nhận thấy. Ông già bảo:

"Khi chàng gặp kẻ đó, kẻ đó cũng cảm nhận thấy sát khí ở chàng vì vậy nếu chàng không định ra tay thì kẻ đó sẽ giết chàng đấy!" Tạ Hiểu Phong cười gượng bảo:

"Xem ra cháu không còn bước đường nào khác rồi!" Ông già bảo:

"Vốn là chàng dứt khoát không còn đường nào khác!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Nhưng sao cụ lại biết có người ấy ở đó?" Ông già từ tốn bảo:

"Vốn chúng ta hẹn gặp nhau ở đó, nếu người ấy không chết thì ta tất chết trong tay người ấy và ước hẹn này cũng không còn chọn được đường nào khác!" Giọng ông già trầm thấp và quái lạ, ánh mắt lại lộ đầy vẻ buồn thương. Rất lâu sau, ông già mới nói tiếp:

"Đây chính là số mệnh của chúng ta, chẳng có ai có cách nào tránh thoát!" Tạ Hiểu Phong hiểu ý ông già. Đối với một số người nào đó số mệnh thật là tàn khốc nhưng dường như ông già này không phải là người như thế.

"Chẳng lẽ ông già cũng có những hồi ức bi thương thê thảm hay sao?" "Xưa kia ông già là người như thế nào?" Tạ Hiểu Phong định hỏi những chuyện đó nhưng rồi lại không hỏi gì. Chàng biết là ông già nhất định sẽ chẳng nói ra, nên đến tên họ ông già chàng cũng không hỏi nữa. Tên họ đâu có quan trọng, điều quan trọng là ông già đã cứu mạng chàng. Đối với ông già, chỉ nội điều đó là biết đủ rồi.

Ông già vẫn đăm đăm nhìn Tạ Hiểu Phong, bỗng bảo:

"Giờ chàng có thể đi được rồi đó!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Bây giờ cụ muốn cháu đỉ" Ông già bảo:

"Phải... Bây giờ ta muốn chàng đi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tại sao ạ?" Ông già bảo:

"Vì cuộc giao dịch giữa chúng ta bàn xong rồi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Chẳng lẽ chúng ta không thể kết giao được ử" Ông già đáp:

"Không thể!" Tạ Hiểu Phong gặng:

"Tại sao ạ?" Ông già đáp:

"Vì có những người trời sinh ra là không có bè bạn!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Cụ là hạng người ấy ử" Ông già đáp:

"Dù ta có phải hạng người ấy hay không nhưng chàng là hạng người ấy!" Tạ Hiểu Phong hiểu ý ông già. Hạng người ấy trời sinh ra dường như để cô độc, đó là kiểu số kiếp của họ! Ông già chậm rãi nói thêm:

"Không ai có thể thay đỗi được số phận của mình, nếu như muốn thay đỗi số mệnh, kết quả chỉ càng bất hạnh hơn mà thôi!" Trong đôi mắt của ông già lóe lên ánh sáng chập chờn của ngọn lửa, ông già bảo:

"Chàng hãy nhớ kỹ câu đó, đó là lời khuyên bảo của ta rút kinh nghiệm từ không biết bao nhiêu lần đau buồn thê thảm để nói với chàng!" Sắc đêm không hoàn toàn đen sì mà là sắc xanh đen già độ gần với đen sì. Tạ Hiểu Phong từ cầu ván bước lên đường mòn, bước lên bờ sông ướt rượt thì chợt phát hiện ra chân mình vẫn còn rất yếu ớt. Ông già nhắc nhở:

"Chàng phải nhớ kỹ là phải ngủ thật tốt trong hai ngày này!" Trong giọng nói của ông già dường như tràn trề sự quan tâm tha thiết:

"Vì người ấy không dễ đối phó đâu, chàng cần phải khôi phục đủ thể lực đấy!" Tạ Hiểu Phong không ngoảnh lại. Sự quan tâm tha thiết chân thành đó làm cho người lãng tử cũng thấy lòng chua xót. Tuy vậy chàng không nén nỗi mà không hỏi:

"Cụ có còn cần gì nữa không?" Ông già bảo:

"Còn cần một chút vận may và một cây kiếm, một cây kiếm rất lẹ!" Lá thuyền nhẹ của ông già đã không thấy đâu nữa. Dòng sông sắc lam sẫm, đêm trường sắc sẫm lam.

Tạ Hiểu Phong đi theo con đường mòn bị cỏ mùa thu phủ kín, cứ tiến thẳng về phía trước. Trong lòng chàng chẳng nghĩ ngợi gì nữa chỉ lo mau mau đi tới quán rượu nhỏ ven rừng phong. Chỉ lo sao đến ngày trăng tròn mọc. Dưới ánh trăng tròn vành vạnh ngoài rừng phong, người như thế nào đó đang chờ chàng?

Phải chăng người đó sẽ đưa lại cho chàng chút vận may và cây kiếm lẹ chàng đang cần? Chàng cũng không dám chắc. Dù chàng là Tạ Hiểu Phong anh hùng thiên hạ vô song nhưng chàng cũng không nắm chắc. Chàng dần dần cảm thấy người đó là ai! Chỉ có cọp beo mới truy lần được ra tung tích của con cọp beo khác và cũng chỉ có cọp beo mới cảm thấy sự tồn tại của con cọp beo khác. Vì khứu giác của chúng là giống nhau. Trừ bản thân chúng đối với nhau ra, trên thế gian này làm gì có loài thú dữ nào dám sáp lại gần chúng, đến thỏ khôn ngoan, hồ ly ranh mãnh cũng chẳng dám lại gần.

Vì vậy chúng thường sống rất tịch mịch! "Trong đời ta có bao nhiêu bè bạn?" Tạ Hiểu Phong đang tự hỏi lòng. Dĩ nhiên chàng cũng có bạn bè, cũng có cả đàn bà. Nhưng thử hỏi có được mấy người bạn trung thành với chàng? Có bao nhiêu đàn bà chân chính thuộc về chàng? Chàng nhớ đến Thiết Khai Thành, nhớ đến Giản Truyền Học, nhớ đến Lão Miêu Tử. Chàng nghĩ cả đến "cô bé", cả Mộ Dung Thu Hoạch.

"Do người khác có lỗi với chàng ư? Hay là chàng có lỗi với mọi người?" Tạ Hiểu Phong không thể nghĩ tiếp được nữa. Lòng chàng đau đến nỗi miệng phát đắng ra. Chàng tự hỏi lòng:

"Trong cuộc đời ta, còn thêm bao nhiêu kẻ thù nữa?" Lần này câu trả lời của Tạ Hiểu Phong tương đối khẳng định hơn một ít. Có người căm hận chàng cơ hồ hoàn toàn không vì nguyên nhân nào khác mà chỉ vì chàng là Tạ Hiểu Phong. Người hận chàng có thể quả không ít nhưng xưa nay chàng không để ý. Có lẽ chàng chỉ để ý mỗi một người. Người đó trong tim óc chàng vĩnh viễn là một bóng đen không sao xóa nỗi. Xưa nay chàng vẫn hy vọng được thấy người đó và người đó nhất định hy vọng được gặp chàng. Họ biết là sớm muộn rồi cũng có ngày hai người sẽ gặp nhau.

Nếu trên cõi đời đã có Tạ Hiểu Phong mà lại còn có Yến Thập Tam, nhất định sớm muộn gì họ cũng gặp nhau! Khi phải gặp nhau, phải có máu của một người thấm đỏ mũi kiếm của người kia. Đó là số mệnh của họ! Ngày đó dường như bây giờ đã gần tới! Rừng phong. Lá phong đỏ như lửa cháy.

Ven rừng phong quả có một quán trọ nhỏ, kèm cả bán rượu. Người đi đường xa thông thường đều tịch mịch, chỉ cần lữ khách thấy trong lòng cô quạnh thì quán trọ nhất định phải có rượu bán. Bất kể khách sạn lớn, nhà trọ nhỏ đều như vậy cả.

Trên thế gian này thử hỏi còn có gì dễ xua tan nỗi quạnh hiu bằng rượu? Chủ quán trọ là một ông già lẩm cẩm và tê liệt nhưng lại có một người vợ trẻ với đôi mắt to không có thần dường như chất chứa một sự mệt mỏi mênh mang khó nói nên lời. Trước sau buỗi chiều tà nàng ta cứ ngồi ngây dại sau quầy ngây dại nhìn con đường bên ngoài dường như đang vô vọng đợi chờ chàng hoàng tử cưỡi ngựa bạch tới đón nàng đi khỏi cuộc sống nhạt nhẽo và cứng đờ này.

Kiểu sống này đâu có hợp với sức sống còn bồng bột của tuỗi trẻ nhất là một khi có đôi bạn trẻ tuỗi đang tràn trề sức sống dạt dào. Họ coi sóc cái quán trọ tựa hồ như người mẹ hiền từ săn sóc con mình, hết lòng hết sức, chịu vất vả buồn phiền mà không đòi hỏi một chút gì công sá cũng chẳng mong được báo đáp bất cứ gì. Khi họ nhìn thấy bà chủ quán trẻ tuỗi kia thì ánh mắt chan chứa nhiệt tình. Cũng có thể vì nhiệt tình đó mà họ đã ở lại. Tạ Hiểu Phong đã nhận thức ra điều đó rất mau.

Chàng còn phát hiện ra trong cặp mắt to và nhìn rất mênh mang kia ẩn chứa rất sâu xa một cảm giác cám dỗ khó nói nên lời. Ngay buỗi chiều lúc bước chân vào quán trọ nhỏ, Tạ Hiểu Phong đã phát hiện điều này.

Dĩ nhiên chàng còn phát hiện thêm một số điều khác nữa. Lúc hoàng hôn bà chủ quán tự bưng cơm canh đặt lên bàn.

Tuy quanh năm ngồi ở sau quầy, eo lưng nàng ta vẫn rất nhỏ, áo quần mềm mại bó chặt từ hông trở xuống khiến mọi đường cong nét thẳng của cơ thể nàng ta hiện ra lồ lộ trước mắt Tạ Hiểu Phong ư thậm chí cả đến phần cơ thể thần bí nhất của người đàn bà cũng không ngoại trừ! Nàng ta đứng quay lưng về phía Tạ Hiểu Phong, chàng có thể không hề cố ý không kỵ không nhìn vào nơi đó. Nàng ta chủ tâm làm vậy chăng? hay là vô ý? Nhưng bất kể thế nào, tim Tạ Hiểu Phong cũng đập lên rộn ràng, đập nhịp rất nhanh.

Quả thực đã từ lâu chàng không gần gũi phụ nữ nhất là loại phụ nữ như thế này. Lúc ban đầu chàng đâu có để ý cho đến giờ chàng cũng không tin tưởng lắm.

Nhưng cái người đàn bà dung tục, uể oải xem kỹ thậm chí còn hơi bẩn bẩn nữa mà lại thực là một người đàn bà thật sự với mỗi bộ phận trên cơ thể đều gieo rắc một nguồn sức nóng nguyên thủy đủ dụ dẫn người ta phải phạm tội lỗi. Tạ Hiểu Phong đã từng nghe chồng nàng gọi tên vợ. Ông ta gọi nàng ta:

"Thanh Thanh ơi!" Cuối cùng là "Thanh Thanh" hay là "Thân Thân" (mấy tên gọi này theo tiếng Trung Quốc cùng âm, khác nghĩa ư ND) Nghĩ đến ông già đần độn, tê liệt đè lên tấm thân tươi trẻ của nàng ta, luôn miệng gọi "Thanh Thanh", "Thân Thân" gì đó, lòng Tạ Hiểu Phong đột nhiên rất khó chịu. Chẳng biết nàng ta đã quay đầu lại từ lúc nào đang giương cặp mắt to và mênh mang nhìn Tạ Hiểu Phong. Tạ Hiểu Phong đâu còn là đứa trẻ con nên cũng chẳng tránh né ánh mắt của nàng ta. Một người đàn ông như chàng thông thường không che giấu dục vọng của mình đối với phụ nữ.

Chàng cũng chỉ cười nhạt nhẽo bảo:

"Lần sau nàng có vào phòng của khách tốt nhất nên ăn mặc xiêm áo dầy dặn một chút!" Nàng ta không cười, cũng không đỏ mặt. ánh mắt của nàng ta nhìn trở xuống, đọng ở chỗ sẽ xẩy ra biến hóa trên thân thể Tạ Hiểu Phong và bảo:

"Chàng chẳng phải người tốt!" Tạ Hiểu Phong cười gượng bảo:

"Thì ta vốn không phải mà!" Thanh Thanh bảo:

"Căn bản chàng đâu muốn tôi đi thay xiêm áo dầy, mà chàng chỉ muốn tôi tuột hết xiêm áo này ra thì có!" Nàng ta quả là hạng đàn bà thô tục nhưng cách ăn nói của nàng ta lại khiến người ta không sao phủ nhận nỗi. Thanh Thanh lại bảo:

"Lòng chàng thì nghĩ thế nhưng miệng lại chẳng dám nói ra, chỉ vì tôi là vợ người ta chứ gì!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Thế ra nàng không phải ử" Thanh Thanh đáp:

"Tôi có là vợ người ta hay không thì cũng thế thôi!" Tạ Hiểu Phong:

"Cũng thế?" Thanh Thanh bảo:

"Tôi vốn tới đây để dẫn dụ chàng thôi!" Tạ Hiểu Phong ngẩn người ra. Thanh Thanh bảo:

"Vì chàng không phải đàn bà, lại trông được lắm, và nhìn chàng cũng không giống bọn du đãng khố giây, vì tôi muốn kiếm ít tiền tiêu nên mới dùng đến cách này để kiếm tiền. Tôi chẳng quyến rũ chàng thì quyến rũ ai đây?" Tạ Hiểu Phong muốn cười mà cười không nỗi. Trước kia chàng cũng từng nghe đàn bà nói những lời như vậy nhưng chưa bao giờ nghĩ là có loại đàn bà nói lời lẽ đại loại thế này về việc như thế này với thái độ như thế này. Thái độ của nàng ta nghiêm túc và thật thà cứ như một nhà buôn thật thà đang thật thà bán mua sòng phẳng. Thanh Thanh bảo:

"Chồng tôi cũng biết việc này. Vùng này hiếm tiền, đến mình ông ấy nuôi còn chưa xong nên ông ấy đành để tôi dùng cách này kiếm tiền, thậm chí đến cả công xá của hai đứa người làm cũng phải nhờ cách này của tôi để có tiền trả!" Giá người đàn bà khác dùng thái độ này nói lời lẽ thế này về chuyện này chắc chắn sẽ làm người nghe sinh ghét. Nhưng người đàn bà này lại khác! Vì trời sinh ra nàng ta đã là con người như thế này, dường như trời sinh ra cũng để làm chuyện này! Cứ y như miếng thịt lợn dù sào rán kiểu gì thì cũng vẫn là thịt lợn, vẫn có thể làm cho người đang đói bụng phải ứa nước dãi.

Cuối cùng Tạ Hiểu Phong bật cười. Trong tình hình như thế này mà người đàn ông cười coi như vụ giao dịch đã thành. Thanh Thanh đột nhiên đi tới đè cả thân hình đầy đặn lên Tạ Hiểu Phong và hông bắt đầu cựa quậy, cọ sát. Nhưng khi Tạ Hiểu Phong vươn tay ra thì nàng ta nhẹ nhàng khéo léo tránh ra xa.

Hiện giờ nàng ta mới chỉ cho Tạ Hiểu Phong "xem qua mặt hàng" mà thôi:

"Tối nay tôi sẽ tới, cửa phòng chàng mở sẵn ra và nhớ tắt đèn đi đấy!" Đêm. Tạ Hiểu Phong tắt hết đèn lửa.

Trên mình chàng dường như còn vương vấn mùi son phấn rẻ tiền nhưng trong lòng chàng tuyệt không có một chút cảm giác tội lỗi nào. Chàng vốn đâu phải là người bình thường, cách nhìn nhận sự việc do đó cũng đâu có giống như người bình thường. Huống hồ đây lại là kiểu giao dịch cũ kỹ và thành thật: người đàn bà này cần sống mà! Mà chàng đang cần đàn bà! Phần lớn người trên giang hồ đều hiểu là đêm trước trận quyết chiến tuyệt đối không được gần gũi nữ sắc. Nữ sắc, đàn bà khiến thân thể người ta phải thương tỗn! Nhưng Tạ Hiểu Phong lại nhìn nhận khác hẳn. Chàng cho rằng gần gũi đàn bà không hề bị thương tỗn mà lại điều hòa, hòa hợp.

Rượu vốn không được pha nước lã nhưng rượu Nữ Trinh lâu năm nhất định phải pha ít nước lạnh trước thì mới dậy hương rượu. Tình hình của Tạ Hiểu Phong cũng vậy. Trận chiến này rất có thể là trận đánh cuối cùng của chàng. Đối thủ của chàng gặp trong trận đánh này rất có thể là đối thủ mạnh nhất trong đời chàng. Trước khi quyết chiến chàng phải để cho cơ thể mình được thả lỏng hoàn toàn.

Chỉ có đàn bà mới giúp chàng hoàn toàn thả lỏng.

"Chàng là Tạ Hiểu Phong mà!" "Đã là Tạ Hiểu Phong tuyệt nhiên không thua được!" Vì vậy để giành được thắng lợi, các việc khác chàng không thể kiêng cữ quá nhiều được! Đến cửa sỗ cũng mở toang luôn. Giấy dán cửa sỗ quá dầy và thô, ánh trăng không rọi qua nỗi. Trăng sắp tròn. Trong phòng tăm tối. Tạ Hiểu Phong nằm lặng lẽ một mình trong bóng tối. Chàng chờ đợi. Nhưng chàng không phải đợi lâu.

Cửa mở ra. ánh trăng theo ô cửa mở mà ùa vào phòng theo một bóng người dẻo quẹo như con mèo mặc áo bào rộng. Cửa lập tức đóng lại ngay, bóng người lập tức bị bóng tối nuốt chửng. Tạ Hiểu Phong không lên tiếng, nàng ta cũng không luôn.

Đêm rất tĩnh mịch. Nàng ta đến bước chân cũng không thành tiếng, dường như tụt giầy đi chân đất lẻn vào. Nhưng Tạ Hiểu Phong vẫn cảm giác thấy nàng ta dần dần tiến lại gần giường, cảm thấy cả chiếc áo bào rộng đang tuột rơi dần trên tấm thân trần trụi của nàng ta. Phía dưới áo bào rộng nhất định là không còn gì nữa.

Nàng ta đâu phải là loại con gái nhỏ quen làm phiền người khác và nàng ta cũng không thích làm phiền ngay cả bản thân mình. Tấm thân trần trụi của nàng ta ấm nóng, mềm mại, xinh xắn nhưng lại đầy đặn.

Họ vẫn không lên tiếng. Ngôn ngữ lúc này là thừa. Họ dùng ngay phương thức cỗ xưa nhất, có tự lâu đời nhất cùng ngấu nghiến lẫn nhau.

Nhiệt tình của nàng ta quá mạnh mẽ vượt xa tưởng tượng. Tạ Hiểu Phong rất ưa thích kiểu nhiệt tình này nhưng đồng thời chàng cũng phát hiện ra đây không phải là người đàn bà gọi là "Thanh Thanh", "Thân Thân" gì đó. Nàng ta là ai nhỉ?

Giát giường phát ra những âm thanh khó chịu, họ liền chuyển luôn xuống đất. Mặt đất câm tiếng, vừa lạnh vừa cứng.

Chàng đã đạt quá mức yêu cầu, tưởng tượng và cho ra hết cũng quá nhiều, vượt quá mức tưởng tượng của chàng. Chàng đang thở hỗn hển.

Đợi tiếng thở hỗn hển của nàng ta ngừng, chàng mới khe khẽ thở dài.

"Là cô!" Nàng ta chậm rãi ngồi dậy và âm thanh thốt ra mang ý vị cực kỳ châm biếm chẳng hiểu là châm biếm chàng hay châm biếm mình:

"Tôi đấy!" Nàng ta bảo:

"Tôi biết rõ dù trong mộng chàng cũng không thể tưởng tượng được là tôi!" Trăng đã tròn. Nàng ta đẩy mở ô cửa sỗ nhỏ ở bên giường. Mái tóc đen mượt rũ rượi đỗ trên đôi bờ vai trần. Trông nàng ta dưới ánh trăng cứ như một cô gái nhỏ mới lần đầu tiên nếm thử vị phong tình. Tất nhiên nàng ta đâu còn là cô gái nhỏ nữa.

"Tôi biết là chàng nhất định rất cần có đàn bà, mỗi khi chàng khẩn trương lo lắng chàng đều thế cả mà!" Xưa nay nàng ta đã quá hiểu chàng.

"Nhưng tôi biết chắc chắn chàng nhất định không biết là tôi!" Nàng ta khe khẽ thở dài, bảo:

"Trừ tôi ra, đàn bà thế nào đều đâu có bị cự tuyệt, nhưng chàng nhất định cứ cự tuyệt tôi!" "Vì thế cô mới làm trò như thế này chứ gì!" "Đúng, chỉ có dùng cách này tôi mới khiến chàng cần đến tôi!" "Nàng vì gì nào?" "Vì tôi vẫn còn thích chàng!" Nàng ta quay đầu nhìn thẳng vào Tạ Hiểu Phong, sóng mắt còn trong trẻo còn ướt át còn ôn nhu hơn cả ánh trăng. Lời nàng ta nói là thực tình.

Chàng cũng tin như vậy. Giữa hai người, họ hiểu lẫn nhau quá sâu sắc, căn bản là không nói bịa những điều tất yếu về nhau. Có lẽ vì duyên cớ đó mà nàng ta vẫn yêu chàng mà nàng ta vẫn muốn chàng phải chết.

Vì nàng ta là Mộ Dung Thu Hoạch. Nhưng không phải là hoa lau trong gió mùa thu mà là đóa hàn mai trong tuyết lạnh mùa đông, là bông hoa anh túc trong thung lũng ấm là nụ hoa mai khôi giữa ngày hè đầy quật cường, có độc và nhất là lắm gai. Chích như nọc ong.

Tạ Hiểu Phong bảo:

"Cô thấy là tôi đang khẩn trương lo lắng ư?"

HỒI 44 - KIẾM ĐOẠT MẠNG

Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Tôi không thấy nhưng tôi biết. Nếu chàng không lo lắng làm sao chàng lại để mắt đến con đàn bà có cặp mắt cá ươn như thế chứ?" Nàng ta ngồi cạnh Tạ Hiểu Phong:

"Có điều tôi nghĩ không ra tại sao chàng lại lo lắng như vậy?" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Cô mà cũng có chuyện nghĩ không ra cơ à?" Mộ Dung Thu Hoạch thở một hơi dài khe khẽ rồi bảo:

"Có khi tôi nghĩ ra rồi nhưng chẳng qua không muốn tin mà thôi!" Tạ Hiểu Phong:

"Hừ!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Xưa nay tôi rất hiểu chàng, chỉ có sợ hãi mới làm chàng lo lắng thôi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ta sợ gì?" Mộ Dung Thu Hoạch đáp:

"Chàng sợ thua dưới kiếm của người khác!" Rồi giọng nàng ta chợt trở nên châm chọc:

"Vì Tam thiếu gia nhà họ Tạ vĩnh viễn không thể thua mà!" Tuy đã được lót nệm nhưng mặt đất vẫn lạnh và cứng lắm. Mộ Dung Thu Hoạch nhích động thân mình đỗi tư thế ngồi, gieo cả sức nặng toàn thân lên chân Tạ Hiểu Phong rồi mới nói tiếp:

"Tuy vậy ở đời này người có thể uy hiếp chàng vốn không có nhiều, có lẽ chỉ có một người thôi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ai?" Mộ Dung Thu Hoạch đáp:

"Yến Thập Tam!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Sao cô biết lần này là ỷ" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Đương nhiên thiếp biết chứ! Vì chàng là Tạ Hiểu Phong còn chàng ta là Yến Thập Tam. Hai người các người sớm muộn gì cũng có ngày gặp nhau, sớm muộn gì cũng có người chết dưới kiếm đối phương!" Nàng ta thở dài bảo:

"Đó là số kiếp của các người, chẳng ai có cách gì thay đỗi được ngay tôi cũng chẳng có cách nào thay đỗi nỗi!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Cô á?" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Vốn dĩ tôi muốn chàng phải chết vì tay tôi, ai ngờ lại có người cứu được chàng!" Tạ Hiểu Phong nói:

"Cô biết người ấy là ai nào?" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Nếu tôi sớm biết trên đời có người như thế thì tôi sẽ giết quách đi từ lâu rồi!" Nàng ta thở dài bảo:

"Giờ thì tôi biết rồi, nhưng quá muộn rồi!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Giờ cô biết người ấy là ai nào?" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Lão ta tên là Đoạn Thập Tam. Lão có mười ba cây đao nhưng là đao cứu mạng!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Sao xưa nay ta không nghe tên ông tả" Mộ Dung Thu Hoạch đáp:

"Vì Yến Thập Tam muốn giết lão. Nếu Yến Thập Tam còn sống, lão đâu dám thò mặt ra!" Tạ Hiểu Phong bỗng thở ra một hơi dài như vừa cất được gánh nặng đè trên người, bảo:

"Giờ thì ta yên tâm rồi!" Mộ Dung Thu Hoạch hỏi:

"Yên tâm cái gì?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Trước giờ ta cứ nghi ông ta là Yến Thập Tam, cứu sống ta cốt để cùng ta giao tranh phân tài cao thấp!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Nhưng nếu lão đã cứu sống chàng làm sao chàng có thể bắt ông ta chết dưới kiếm của chàng được?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Không sai!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Chàng lo lắng vì mỗi điểm ấy chứ gì, thế thì bây giờ chàng đã có thể yên tâm được rồi đấy!" Nàng vỗ vỗ vào ngực chàng bảo:

"Tôi biết Yến Thập Tam quyết không phải là đối thủ của chàng. Nhất định chàng sẽ giết được chàng ta!" Tạ Hiểu Phong nhìn Mộ Dung Thu Hoạch, nhịn không được phải hỏi:

"Thế ra cô tới đây cốt để tôi yên tâm đấy hẳn?" Mộ Dung Thu Hoạch dịu giọng xuống bảo:

"Tôi đến đây chỉ vì tôi vẫn còn thích chàng!" Thanh âm của nàng ta bỗng lộ vẻ chân tình bảo:

"Lắm lúc tôi cũng hận chàng, hận đến nỗi chỉ mong cho chàng chết nhưng kẻ khác mà đụng đến chàng thì tôi lại nỗi giận. Chàng có chết là phải chết vì tay tôi cơ!" Nàng ta nói thế là thật tình! Suốt đời Mộ Dung Thu Hoạch rất có thể chỉ sống trong mâu thuẫn và đau khỗ hận thù. Nàng cũng rất muốn tìm hạnh phúc như mọi con người đều muốn tìm hạnh phúc nhưng chỉ vì cái cách đi tìm hạnh phúc của nàng lại sai lầm. Tạ Hiểu Phong thở dài nhẹ nhàng gạt tay nàng ra.

Có thể cả hai cùng sai nhưng chàng không muốn suy nghĩ tiếp nữa. Chàng chợt cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Chàng đang nghĩ gì vậy?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta chỉ muốn tìm một chỗ ngủ cho tử tế đây!" Mộ Dung Thu Hoạch hỏi:

"Thế chàng không ngủ ở đây ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Có cô ở bên cạnh, ta làm sao mà ngủ nỗi?" Mộ Dung Thu Hoạch hỏi:

"Tại sao?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Tại vì ta chưa muốn chết trong tay cô, ít ra thì cũng là lúc này!" Mộ Dung Thu Hoạch vốn đâu có muốn giữ Tạ Hiểu Phong ở lại. Dĩ nhiên nàng ta có lạ gì tính nết Tạ Hiểu Phong, chàng đã muốn đi, đã nói đi thì dù ai cũng đừng mong lôi được ở lại. Nếu như có nắm chặt tay chàng mà kéo lại, chàng dám chặt bỏ tay để mà đi. Nếu có chặt cụt chân, chàng có phải bò cũng sẽ bò mà bỏ đi.

Nhưng hôm nay nàng ta lại níu kéo chàng bảo:

"Hôm nay chàng có thể cứ yên tâm mà ngủ ở đây!" Rồi nàng giải thích:

"Cứ cho là trước kia tôi hận chàng chỉ mong sao cho chàng chết nhưng hôm nay tôi không muốn nữa hay ít ra cũng không muốn thế trong ngày hôm nay!" Tạ Hiểu Phong cười:

"Chẳng lẽ hôm nay là ngày đặc biệt ử" Mộ Dung Thu Hoạch đáp:

"Hôm nay không phải là ngày đặc biệt tốt nhưng là vì có người đặc biệt tới!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Ai vậy?" Mộ Dung Thu Hoạch chậm rãi ngồi xuống vấn gọn mái tóc đen nhức lên đầu rồi mới khe khẽ nói:

"Chàng cần phải nhớ kỹ là chúng ta còn có con trai." Dĩ nhiên Tạ Hiểu Phong nhớ. Trong chuỗi ngày qua, chàng đã học được cách phải làm thế nào để có thể nhớ được những điều cần phải quên. Nhưng những điều đó chàng lại không muốn quên hoặc không thể quên.

Chàng cơ hồ nhẩy cẫng lên mà reo nếu không nén được:

"Nó cũng tới ử" Mộ Dung Thu Hoạch chậm rãi gật đầu bảo:

"Tôi mang nó tới!" Tạ Hiểu Phong nắm chặt tay nàng ta:

"Thế nó đâu?" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Nó không biết chàng ở đây, chàng cũng chẳng tìm thấy nó đâu!" Nàng ta bỗng khe khẽ thở dài bảo:

"Cho là có tìm thấy thì làm được gì? Chẳng lẽ chàng không biết nó hận chàng. Hận chàng xưa nay không coi nó là con đẻ của mình, hận chàng xưa nay không làm hết trách nhiệm người cha đối với nó!" Nàng ta đăm đăm nhìn Tạ Hiểu Phong:

"Chẳng lẽ giờ chàng có đủ dũng khí để bảo nó chàng là bố nó ử" Tạ Hiểu Phong thả tay nàng ta ra. Tay chàng giá lạnh, tim chàng cũng buốt giá. Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Nhưng nếu chàng đánh bại được Yến Thập Tam, tôi sẽ đưa nó đến gặp chàng để chàng bảo với nó chàng là bố nó!" Trong mắt nàng ta lộ đầy vẻ đau khỗ:

"Một thằng con trai nếu suốt đời không biết bố mình là ai nó không chỉ khỗ đau suốt cuộc đời mà mẹ đẻ ra nó cũng đau khỗ y như vậy!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vì thế cô xưa nay vẫn không cho nó biết cô là mẹ đẻ của nó ử" Mộ Dung Thu Hoạch đáp:

"Không!" Thần sắc nàng ta càng đau khỗ hơn nữa:

"Vì tôi bây giờ tuỗi tác cũng dần dần cao, tôi nghĩ những gì mình muốn phần lớn đều đã đạt rồi, điều bây giờ tôi muốn là có được một đứa con trai như nó!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Chẳng lẽ cô quyết tâm nói hết mọi chuyện với nó!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Thậm chí tôi có thể nói với nó là chàng không sai, tất cả sai sót là do tôi!" Tạ Hiểu Phong không thể tin và cũng không dám tin. Chàng nén không được, bật hỏi:

"Nếu như nàng đã quyết tâm như thế, sao còn phải đợi tôi đánh bại Yến Thập Tam rồi mới nói cho nó biết?" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Vì nếu chàng không thắng thì chỉ có chết thôi!" Tạ Hiểu Phong không thể phủ nhận. Chỉ có Tạ Hiểu Phong chiến thắng, trên đời không có Tạ Hiểu Phong chiến bại! Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Nếu chàng chết dưới kiếm của Yến Thập Tam thì hà tất tôi phải cho nó biết nó có một người bố như thế làm gì, hà tất phải làm cho nó thêm đau khỗ và phiền não!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Hà cớ gì tôi lại để nó đi tìm chết!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Tìm chết?" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Nếu nó biết bố đẻ của nó chết dưới kiếm của Yến Thập Tam tất nhiên nó phải đến báo thù thì liệu nó có thể là đối thủ của Yến Thập Tam được không? Chẳng phải là đi tìm chết là gì?" Tạ Hiểu Phong trầm ngâm. Chàng không thể không bảo là lời Mộ Dung Thu Hoạch nói có lý, tất nhiên chàng không mong gì con trai mình đi tìm chết! Mộ Dung Thu Hoạch lại cười bảo:

"Nhưng tôi tin tất nhiên chàng không thể thua được, bản thân chàng chắc phải nắm vững lắm nhỉ?" Tạ Hiểu Phong trầm ngâm rất lâu sau mới bảo rất từ tốn:

"Lần này ta không thắng!" Mộ Dung Thu Hoạch có vẻ kinh ngạc hỏi:

"Chẳng lẽ chàng không phá được thập tam kiếm của chàng tả" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Đoạt mệnh thập tam kiếm" không đáng sợ, chỉ sợ "thập tứ kiếm" thôi!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Lại còn có đến "thập tứ kiếm" ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Có chứ!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Chàng nói là "đoạt mệnh thập tam kiếm" của chàng ta lại vẫn còn biến hóa thành "thập tứ kiếm"?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Không sai!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Cho là thật có "thập tứ kiếm", chỉ sợ chưa chắc chàng ta đã biết!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Cho rằng trước kia chàng ta không biết, giờ thì nhất định biết rồi!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Nhưng tôi tin cái "thập tứ kiếm" ấy vị tất đã thắng được chàng!" Dường như Mộ Dung Thu Hoạch vĩnh viễn tin tưởng ở Tạ Hiểu Phong. Tạ Hiểu Phong trầm ngâm rất lâu sau mới bảo:

"Không sai! Vị tất chàng ta đã thắng nỗi ta!" Mộ Dung Thu Hoạch lại vui trở lại bảo:

"Tôi nghĩ chắc là chàng đã tìm ra cách phá giải kiếm của chàng tả" Tạ Hiểu Phong không trả lời. Chàng nghĩ đến đòn đánh ra như tia chớp điện đó.

"Thập tứ kiếm của Yến Thập Tam rõ ràng không có chỗ nào không rắn để mà đẩy đi, không có chỗ nào lơi lỏng để mà đánh vào nhưng bị tia điện chớp kia đánh vào thì lập tức biến ngay, biến ra thành buồn cười ngaỵ" Đó là lời Tạ Hiểu Phong hôm nào đã nói với Thiết Khai Thành, chàng không khoa trương thỗi phồng cũng chẳng khoe khoang.

"Một con người đến khi sắp thở hắt ra thì trong thoáng giây đó họ nghĩ gì?" "Phải chăng là nghĩ đến tất cả những người thân thích, bạn bè hoặc nghĩ đến những niềm vui sướng, những nỗi thống khỗ?" Những gì chàng nghĩ đến lại không phải thế, chính trong thoáng giây sắp chết đó chàng nghĩ đến "thập tứ kiếm" của "Đoạt mệnh thập tam kiếm". Cả một đời của chàng đã vì kiếm mà hy sinh sao khi sắp chết còn có thể nghĩ gì đến chuyện khác ngoài chuyện kiếm.

"Chính trong thoáng giây đó, lòng chàng chợt như bỗng có tia lửa điện đó sẹt qua đánh ra. Có điều chuyện đó chỉ xẩy ra do một điểm linh cơ nhanh trí lúc đó chứ đâu phải do cầu may mà có, rõ ràng chàng đã đem xương máu cả đời ra dâng hiến cho giây phút đó nên trong lòng chàng mới thoáng hiện ra sự nhanh trí như tia lửa điện đó! Nhìn thần sắc hiện trên vẻ mặt Tạ Hiểu Phong, Mộ Dung Thu Hoạch lộ vẻ rất vui mừng:

"Tôi nghĩ giờ chàng đã nghĩ ra cách phá được Đoạt mệnh thập tứ kiếm đó rồi." Nàng ta lại nhìn chàng rồi mỉm cười bảo:

"Chàng khỏi phải tìm cách giấu tôi, chàng không giấu được tôi đâu!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Không sai! Ta có thể phá được thế kiếm này, chỉ tiếc là..." Mộ Dung Thu Hoạch hỏi dồn:

"Tiếc là làm sao?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Chỉ tiếc là chiêu kiếm này không phải tinh túy thực sự của kiếm pháp của chàng ta!" Vẻ mặt chàng nghiêm túc và nặng nề. Mộ Dung Thu Hoạch cũng không nén nỗi đỗi thay sắc mặt:

"Chiêu kiếm này vẫn chưa phải ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Tuyệt đối không phải!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Thế tinh túy trong kiếm pháp của chàng ta thực sự là gì?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Là "Đoạt mạng thập ngũ kiếm!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Rõ rành rành chỉ có "Đoạt mạng thập tam kiếm", làm sao lại có "thập ngũ kiếm" được?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Đoạt mệnh kiếm pháp tinh thâm huyền diệu, quyết không thể chỉ có đến "thập ngũ kiếm" biến hóâ mà cứ như là... như là..." Mộ Dung Thu Hoạch hỏi:

"Như là gì?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Như là một đóa hạt châu!" Mắt chàng bỗng lóe sáng vì cuối cùng chàng đã nghĩ ra được sự so sánh thỏa đáng đến thế! Chàng nói tiếp rất nhanh:

"Mặt trước của "thập tam kiếm" chẳng qua chỉ là cái cành của hoa mà thôi, "thập tứ kiếm" chỉ là một số cuống lá, phải đợi tới biến hóa của "thập ngũ kiếm" thì bông hoa mới bắt đầu nở được vì bông hoa hạt châu không thể gọi là hoa thực được." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Đoạt mạng thập tam kiếm" cũng vậy, nếu không có "thập ngũ kiếm" thì cả bài kiếm pháp đó không có giá trị gì!" Mộ Dung Thu Hoạch lại hỏi:

"Nếu có "thập ngũ kiếm" rồi thì sao?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Lúc ấy thì không chỉ ta không phải là đối thủ mà khắp thiên hạ cũng không có ai là đối thủ của chàng ta!" Mộ Dung Thu Hoạch lại hỏi:

"Lúc ấy chàng sẽ chết dưới tay kiếm của chàng ta chứ?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Chỉ cần được thấy kiếm pháp đó xuất hiện ở đời, dù ta có chết dưới kiếm của chàng ta cũng không còn gì đáng tiếc!" Mặt chàng sướng vui đến thành rạng rỡ. Chỉ có kiếm mới là mục tiêu của sinh mệnh chân chính một đời chàng, mới thực sự là cuộc sống của chàng. Chỉ cần kiếm còn tồn tại mãi mãi thì sinh mệnh của chàng có còn tồn tại hay không đã trở thành vấn đề không còn trọng yếu lắm nữa! Mộ Dung Thu Hoạch rất hiểu Tạ Hiểu Phong nhưng riêng điểm này thì nàng ta vĩnh viễn không bao giờ hiểu được. Mà nàng ta cũng không muốn hiểu.

Nàng ta chỉ quan tâm mỗi một điểm:

"Giờ đây Yến Thập Tam đã sáng tạo ra "thập ngũ kiếm" ấy chưa?" Tạ Hiểu Phong không đáp. Vấn đề này không ai giải đáp được, cũng chẳng ai biết được. Đêm dần khuya. Trăng đã gần tròn.

Tuy là vùng đất khác nhau nhưng vẫn cùng vầng trăng ấy, tuy con người có khác nhau nhưng có khi tâm tình vẫn như vậy. Dòng sông trôi xuôi dưới vầng trăng. Trên sông một lá thuyền nho nhỏ.

Đầu thuyền vẫn một hỏa lò lửa cháy, một nồi trà, một ông già lặng lẽ. Trong tay ông già cầm một đoạn côn, một cây đao. Côn gỗ dài bốn thước, đao dài bẩy tấc.

Ông già đang dùng cây đao chậm rãi gọt cây côn. Ông già định gọt côn thành cái gì đây? Định gọt thành cây kiếm chăng?

Mũi đao cực sắc, đao ông già cực ỗn định. Dù ai trông thấy cũng không thể bảo đó là một ông già suy bại già nua vì không thể có đôi tay vững vàng đến thế! Cây côn gỗ dần dà gọt mãi đỗi hình dạng, quả nhiên có hình lưỡi kiếm. Cây côn gỗ dài bốn thước gọt thành danh kiếm ba thước bảy tấc, có lưỡi kiếm, có mũi kiếm hẳn hoi.

Ông già khẽ vuốt mũi kiếm. ánh lửa nhẩy nhót trên thân kiếm. Trên mặt ông già lộ vẻ gì rất kỳ quái. Không ai nhận ra đó là vẻ vui mừng, buồn rầu hay cảm khái. Nhưng nếu ai nhìn sâu vào mắt ông già sẽ thấy rõ đó chỉ là hoài niệm.

Hoài niệm, nhớ nhung lại một đoạn dĩ vãng tràn trề hưng phấn, vui vẻ, cũng đầy dẫy tháng năm buồn thương, đau khỗ. Ông già cầm chắc chuôi kiếm và từ tốn đứng dậy.

Mũi kiếm chúc trở xuống, thân hình ông già gù gập bỗng đột ngột vươn thẳng lên. Ông già đã đứng lên hẳn và chỉ trong thoáng giây đó toàn bộ thân mình đã biến đỗi hoàn toàn. Sự biến hóa này cũng chẳng khác gì một cây kiếm sắc bị che đậy bởi cái vỏ kiếm bằng da cũ nát bên ngoài, đột nhiên được tuốt ra khỏi vỏ lóe lên ánh kiếm lấp lánh.

Con người ông già cũng y như vậy. Trong chớp mắt người ông già cũng như tỏa sáng. Thứ ánh sáng làm cho con người ông già hóa thành đầy sức sống tưởng như ông trẻ lại vài chục tuỗi.

"Một con người vì sao chỉ nhờ có cây kiếm trong tay mà thay đỗi hoàn toàn như vậy?" "Phải chăng ông già xưa kia đã là một con người từng tỏa sáng?" Nước sông chảy trôi, lá thuyền nhỏ dập dờn trên mặt nước. Nhưng ông già vẫn đứng vững như đóng chắc xuống mũi thuyền, mắt đăm đăm nhìn mũi cây kiếm trong tay rồi nhè nhẹ phơi phới đưa một kiếm đâm ra phía trước.

Kiếm gọt bằng gỗ đào, xám xịt mà xù xì. Nhưng khi nhát kiếm đâm ra cây kiếm như biến đỗi, biến hóa mới xẩy đến, đến một cách tự nhiên như nước chẩy trôi. Cây kiếm gỗ trong tay ông già bỗng như thành cây búa trong tay Lỗ Ban, như cây bút trong tay Vương Hy Chi không chỉ có cuộc sống mà còn có cả khí thiêng.

Ông già nguệch ngoạc đưa vài đường tùy tiện, thoáng chốc đâm ra mười ba kiếm. Kiếm pháp như đám mây nhẹ nỗi trôi nhưng lại như dòng nước trên sông nhưng mười ba kiếm đâm ra xong mọi sự biến hóa dường đã cùng kiệt, cũng như dòng sông nước đã chẩy tới chỗ kiệt cùng.

Thế kiếm của ông già rất chậm, thật chậm. Tuy thật chậm nhưng vẫn đang biến thế. Bỗng nhiên một kiếm vẩy ra không có ranh giới, không thành chương hồi nhưng nhát kiếm cứ như Ngô Đạo Tử vẽ rồng điểm thêm mắt, tuy là không có gì nhưng lại là đầu mối của mọi sự chuyển biến.

Sau đó ông già mới đưa ra "thập tứ kiếm" của mình... Kiếm khí và sát khí trên mặt sông rất nặng nề, cứ như bầu trời vần vũ đầy mây đen. Kiếm đó đưa ra, bỗng nhiên như mây đen bị quét sạch, ánh mặt trời lại ló ra.

Không phải là ánh mặt trời ấm áp và rạng rỡ mà là mặt trời gay gắt nóng chẩy vàng tan đá, thứ mặt trời chiếu đỏ bầm như máu. Kiếm đó đưa ra mọi sự biến hóa đến lúc đó như mới thật là cùng tận, mới là dòng nước chẩy đến chỗ tận cùng và trở nên hoàn toàn khô kiệt. Sức lực của ông già cũng đã kiệt. Nhưng đúng lúc đó, mũi kiếm bỗng nẩy lên một chấn động kỳ lạ. Mũi kiếm vốn đang tà tà chĩa vào ngọn đèn, chấn động rồi bỗng ngọn đèn phụt tắt. Lưỡi kiếm đang chấn động, vốn đang chấn động bỗng dừng ngay lập tức. Con thuyền nhỏ đang không ngừng lắc lư trên sóng nước dập dềnh cũng hoàn toàn đứng lặng. Và dòng nước dưới đáy thuyền như cũng ngừng trôi.

Không có lời lẽ nào có thể miêu tả để hình dung được tình hình lúc đó mà chỉ có một từ, một từ đơn giản:

"Chết!" Không có biến hóa, không còn sức sống! Nhát kiếm này đưa tới chỉ có chết! Chỉ có "chết" mới là sự kết thúc cuối cùng của tất cả, mới là sự kết thúc thực sự! "Nước chẩy cạn khô, biến hóa đến cùng kiệt, sức sống kết thúc, vạn vật tiêu vong!" Đó mới là tinh túy của "Đoạt mệnh thập tam kiếm"! Đó mới là nhát kiếm đoạt mệnh thực sự, chân chính! Nhát kiếm này hiển nhiên là "thập ngũ kiếm đoạt mệnh"! "Rắc" một tiếng, cây kiếm gỗ gẫy ngang.

HỒI 45 - ĐỐI THỦ GẶP NHAU

Dòng sông lại tiếp tục trôi. Con thuyền nhẹ lại dập dềnh. Ông già vẫn đứng nguyên tại chỗ không nhúc nhích, mồ hôi khắp mình đầm đìa như mưa, thấm ướt đẫm cả quần áo.

Nét mặt ông già lộ vẻ ngạc nhiên đến cùng cực. Chẳng hiểu là sợ? hay là mừng? hay khiếp hãi?

Đó là một thứ sức mạnh mà loài người không tài nào dự biết trước, không cách nào khống chế nỗi để sinh ra nỗi khiếp sợ! Chỉ có ông già tự mình hiểu được là kiếm đó đâu phải tự ông phát ra! Căn bản không có ai sáng tạo ra chiêu kiếm đó, không ai có thể hiểu được sự biến hóa xuất hiện của chiêu kiếm đó, cũng y như bản thân "cái chết" chẳng ai có thể hiểu nỗi ra sao, chẳng ai có thể dự liệu được trước. Sức mạnh biến hóa này cũng chẳng ai khống chế nỗi! Mặt đất tối tăm cả vùng. Ông già đứng như trời trồng trong bóng tối, toàn thân đang như lên cơn run rẩy, như sợ quá phát run rẩy. Tại sao ông già sợ? Phải chăng ông già sợ đến mình cũng chẳng có cách nào khống chế được chiêu kiếm đó?

Trên dòng sông chẩy bỗng vang lên một tiếng thở dài dằng dặc rồi tiếng người than thở:

"Quỷ sao vẫn còn chưa khóc? Sao thần vẫn chưa đỗ lệ?" Trên dòng sông lại xuất hiện một con thuyền, nhìn xem phong cảnh lại nhớ con thuyền hoa trong cảnh mặt hồ đầy mưa khói... Trên thuyền đèn sáng rờ rỡ, có một bàn cờ, một hồ rượu, một hòn đá mài kiếm. Người đó vẫn đứng ở đầu thuyền nhìn ông già, nhìn đoạn kiếm gẫy ông già cầm trên tay thì mặt người đó lộ đầy vẻ buồn thương và sợ hãi. Ông già chầm chậm ngẩng đầu lên nhìn người mới tới.

"Ông có nhận ra tôi không?" "Ta dĩ nhiên nhận ra chứ!" Núi Thúy Vân Phong, con thuyền hoa trên hồ Lục Thủy... Con thuyền hoa chỉ có người vượt sóng đi mà không trở lại... Những điều đó ông già đều nhớ ghi tất cả. Cũng từ trên con thuyền hoa này, ông già đã ném chìm cây danh kiếm của mình, đã ném chìm cả những năm tháng anh hùng của đời mình. Đúng là con người ấy từng thở than cho sự ngu xuẩn của mình, đã từng bội phục trước trí tuệ của chàng. Hồi ấy chàng ta làm như vậy là thông minh hay ngu dại?

"Ông chủ quán họ Tạ!" "Yến Thập Tam!" Họ cùng đăm đăm nhìn nhau, âm thầm mà than thở:

"Thật không ngờ chúng ta còn có ngày gặp lại nhau!" Giọng than của chủ quan họ Tạ còn nặng nề hơn nhiều:

"Thương Kết tạo ra chữ, quỷ thần khóc ban đêm. Ông sáng tạo ra chiêu kiếm này, quỷ thần cũng phải chẩy nước mắt y như vậy!" Ông già hiểu ý của ông chủ quán. Chiêu kiếm này đã lộ thiên cơ nhưng làm mất lòng trời. Lòng trời vốn nhân hậu. Chiêu kiếm này tuy đã sáng tạo ra không hiểu từ nay trở đi sẽ có bao nhiêu người chết vì chiêu kiếm này đây! Ông già trầm ngâm. Rất lâu sau mới ôn tồn bảo:

"Chiêu kiếm này vốn không phải của ta sáng tạo ra!" Chủ quán họ Tạ hỏi:

"Không phải ử" Ông già lắc đầu bảo:

"Ta sáng tạo ra "đoạt mệnh thập tam kiếm", rồi lại tìm ra biến hóa thứ mười bốn nhưng xưa nay ta vẫn chưa hài lòng vì ta biết chắc chắn còn một biến hóa nữa." Chủ quán họ Tạ hỏi:

"Xưa nay ông vẫn tìm ử" Ông già bảo:

"Không sai! Xưa nay ta vẫn tìm, vì ta biết rằng có tìm ra được biến hóa đó mới có thể chiến thắng được Tạ Hiểu Phong!" Chủ quán họ Tạ hỏi:

"Thế mãi ông vẫn tìm không ra ử" Ông già bảo:

"Ta đã bỏ cả tâm huyết mà tìm vẫn không ra thì Tạ Hiểu Phong lại chết!" "Sau bức trướng bằng vải đen ở Thần kiếm sơn trang là chiếc quan tài gỗ màu đen..." Ông già ảm đạm bảo:

"Tạ Hiểu Phong chết đi, thiên hạ còn ai là đối thủ với ta? Ta hà tất phải kiếm tìm chiêu kiếm ấy làm gì nữa?" Ông già thở dài bảo:

"Vì thế chẳng những ta ném chìm kiếm, mai danh ẩn tích, đồng thời cũng ném chìm xuống đáy hồ ý niệm truy tìm biến hóa cuối cùng của "đoạt mệnh kiếm" luôn! Và cũng kể từ đó ta không hề nghĩ ngợi gì về điều đó nữa!" Chủ quán họ Tạ trầm ngâm ôn tồn bảo:

"Có lẽ vì ông không nghĩ gì đến chuyện tìm tòi nữa nên mới tìm ra chăng?" Chiêu kiếm đó là "thần" trong kiếm pháp! "Thần" nhìn không thấy, tìm không thấy. Khi nào "thần" muốn đến thì tự nhiên đến. Tuy vậy bản thân ta phải đạt mức độ "không người, không mình, không quên" thì "thần" mới tới cho. Đạo lý đó cũng đúng như sự "đốn ngộ" (tức giác ngộ đột xuất ư ND) trong Thần tông. Chủ quán họ Tạ lại bảo:

"Hiện giờ chắc ông cũng biết là Tam thiếu gia chưa chết chứ?" Ông già gật đầu. Chủ quán họ Tạ bảo:

"Hiện nay ông đã cầm chắc đánh bại Tam thiếu gia chưa?" Ông già đăm đăm nhìn đoạn kiếm gẫy trên tay bảo:

"Nếu như ta có cây kiếm tốt!" Chủ quán họ Tạ hỏi:

"Ông muốn tìm cây kiếm cũ chứ gì?" Ông già hỏi:

"Ông có thể tìm lại được ử" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Chỉ cần ông muốn tìm thì có thể tìm được!" Ông già hỏi:

"Tìm ở đâu bây giờ?" Chủ quán họ Tạ đáp:

"ở ngay đây!" Trên mạn thuyền vẫn còn dấu vết kiếm khắc vào. Chủ quán họ Tạ bảo:

"Ông nên nhớ rằng, dấu này chính ông dùng kiếm của mình khắc lên." "Lúc ấy cây kiếm lừng danh đã chìm, còn người? Đến giờ người vẫn ở đây." Có một số người cũng y như cây kiếm do thép trăm lần luyện mà thành, tuy có dìm đi nhưng vẫn còn tồn tại mãi. Ông già nén không được thở dài sườn sượt:

"Chỉ tiếc rằng nơi đây chẳng phải chỗ ta ném chìm kiếm năm nào!" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Vạch thuyền tìm kiếm, chỉ có người ngu mới làm chuyện đó!" Ông già bảo:

"Quả không sai!" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Ông vốn chẳng phải người ngu, ông vạch thuyền ném chìm kiếm là cũng cốt sau này trở lại tìm kiếm!" Ông già bảo:

"Phải!" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Ông làm vậy là vô ý, trong vô ý lại là có cơ trời!" Ông ta chậm rãi nói tiếp:

"Ông trong cơn vô ý lại tìm ra được tinh túy trong kiếm pháp của mình, tại sao lại chẳng có thể trong vô ý mà tìm thấy lại kiếm của mình?" Ông già không nói gì vì ông ta đã lại thấy kiếm của mình. Trong nước hồ đen kịt, một cây kiếm đang từ từ nỗi lên, đã có thể nhìn thấy mười ba hạt minh châu nạm trên vỏ kiếm. Kiếm tất nhiên chẳng thể tự nhiên mà nỗi lên, cũng chẳng thể tự đi tìm chủ cũ năm xưa của mình. Bản thân thanh kiếm này nỗi được lên là nhờ chủ quán họ Tạ kéo lên.

Ông già không giật mình ngạc nhiên. Ông già đã nhìn thấy sợi dây buộc vào xống kiếm và đầu kia sợi dây nằm trong tay ông chủ quán họ Tạ. Trên đời này có biết bao chuyện không nghể nghĩ ra, biết bao chuyện nẩy sinh không thể giải thích nỗi nhưng tất cả mọi chuyện đều có đầu dây mối nhợ như sợi dây này chẳng qua chỉ vì người ta không nhìn thấy mà thôi. Sau khi trải qua rất nhiều kinh nghiệm đau khỗ, ông già dần dần hiểu ra đạo lý đó.

Chủ quán họ Tạ giải thích:

"Hôm ấy sau khi ông ra đi tôi đã mạn phép ông mò cây kiếm này lên và gìn giữ cho ông từ bấy đến nay!" " Ông già làm thế làm gì?" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Tôi biết ông và Tam thiếu gia nhà tôi sớm muộn cũng có ngày gặp gỡ." Ông già bỗng thở dài bảo:

"Ta cũng biết đó là số kiếp của chúng tạ" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Dù sao đi nữa, giờ ông cũng đã tìm thấy kiếm của mình rồi!" Kiếm đã cầm trong tay. Mười ba hạt châu nạm trên vỏ kiếm vẫn phát sáng. Chủ quán họ Tạ bảo:

"Hiện giờ ông đã nắm chắc chiến thắng chưa?" Yến Thập Tam không đáp. Kiếm của ông ta giờ đã về tay, vẫn sắc bén như xưa. Ông ta nắm chắc chuôi kiếm này tung hoành thiên hạ chưa bao giờ đánh mà không thắng. Xưa nay ông ta vốn vô tình lại không sợ hãi gì. Huống hồ bây giờ ông ta đã tìm ra tinh túy của kiếm pháp này nhất định sẽ vô địch thiên hạ! Tuy vậy tự nhiên trong lòng ông ta lại dấy lên một nỗi sợ hãi khó tả, tuy ông ta không nói ra nhưng người khác có thể thấy. Thậm chí cả chủ quán họ Tạ cũng nhìn thấy, nhịn không được đành phải hỏi:

"Ông đang sợ?" "Sợ cái gì?" Yến Thập Tam bảo:

"Đoạt mệnh thập tam kiếm" vốn như nuôi một con rắn độc tuy dễ cắn chết người ngay nhưng ta còn có thể khống chế được, nhưng bây giờ..." Chủ quán họ Tạ:

"Bây giờ làm sao?" Yến Thập Tam đáp:

"Giờ con rắn độc này đã trở thành một con rồng độc, tự có sự biến hóa thần thông riêng!" Chủ quán họ Tạ hỏi:

"Chẳng lẽ đến ông cũng không có cách gì khống chế được ử" Yến Thập Tam trầm ngâm rất lâu rồi mới từ tốn bảo:

"Ta không biết... mà cũng chẳng ai biết..." Chính vì không biết nên mới sợ! Chủ quán họ Tạ dường như đã hiểu ý Yến Thập Tam. Cả hai cùng đăm đăm nhìn xa xa trong ánh mắt cùng lộ vẻ rất kỳ quặc. Mãi rất lâu sau Yến Thập Tam mới hỏi:

"Ông đặc biệt mang kiếm lại cho ta phải chăng là hy vọng ta đánh bại được chàng?" Cố nhiên chủ quán họ Tạ thừa nhận:

"Phải!" Yến Thập Tam hỏi:

"Ông không phải là bạn của chàng ử" Chủ quán họ Tạ đáp:

"Phải chứ!" Yến Thập Tam lại hỏi:

"Thế sao ông mong tôi đánh bại chàng?" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Vì xưa nay chàng chưa bại bao giờ cả!" Yến Thập Tam lại hỏi thêm:

"Tại sao ông cứ nhất định mong chàng phải bại?" Chủ quán họ Tạ bảo:

"Vì có thua một lần chàng mới biết mình chẳng phải là thần thánh, mới biết là mình không phải là không bại trận. Có qua lần dậy dỗ này chàng mới thật sự trưởng thành!" Yến Thập Tam bảo:

"Ông sai rồi!" Chủ quán họ Tạ hỏi:

"Sai chỗ nào?" Yến Thập Tam đáp:

"Về đạo lý không sai, chỉ có điều lấy chàng ra dùng để dậy dỗ là sai!" Chủ quán họ Tạ hỏi:

"Tại sao?" Yến Thập Tam bảo:

"Vì chàng không phải là người khác, chàng là Tạ Hiểu Phong! Tạ Hiểu Phong chỉ có thể chết chứ không thể thua được!" Chủ quán họ Tạ hỏi lại:

"Thế còn Yến Thập Tam?" Yến Thập Tam đáp:

"Yến Thập Tam cũng thế!" Yến Thập Tam đã trở lại lá thuyền của mình. Con thuyền nhẹ trôi đi. Chủ quán họ Tạ đứng lặng người ở đầu mũi thuyền mắt dõi theo lá thuyền nhẹ xa dần. Trong lòng ông ta chợt dấy lên một nỗi sợ hãi và buồn rầu khó tả.

Trên đời luôn luôn có hai hạng người. Một loại người có mục đích cuộc sống không phải là tồn tại mà đốt cháy cuộc sống. Có đốt cháy thì cuộc sống mới phát sáng. Dù cho ánh sáng chỉ lóe lên trong khoảng khắc cũng tốt, không hề sợ. Có một loại người nữa chỉ sống để xem người khác bốc cháy, để lấy ánh sáng của người khác soi sáng bản thân mình. Loại người này có phải là người thông minh không?

Chủ quán họ Tạ cũng không hiểu rõ. Ông ta chỉ biết mình buồn đau không phải vì họ mà là đau buồn cho mình. Chưa đến hoàng hôn. Bóng tịch dương còn đỏ ối, đỏ như lửa đang bùng bùng bốc cháy.

Rừng phong dưới ánh tà dương cũng đang bốc cháy. Tạ Hiểu Phong ngồi trong ánh chiều tà, bên ngoài rừng phong bốc cháy. Trong tay chàng không có kiếm, đến một khúc gỗ đẽo thành kiếm cũng chẳng có. Chàng đang chờ đợi.

Đợi người? Hay đợi mình bốc cháy? Mộ Dung Thu Hoạch đứng xa xa mà nhìn chàng, nhìn đã từ lâu lắm, đến lúc ấy mới đi lại.

Dáng đi của nàng ta mới dễ coi làm sao! Dù biết là nàng tới giết ta, ta cũng không thể nào không khen dáng đi đẹp mắt của nàng! Thì một người đàn bà đẹp trời sinh ra cốt để kẻ khác nhìn mà! Bất kỳ lúc nào ta cũng không thể quên câu nói đó. Chỉ cần nàng cảm thấy có đạo lý thì nàng ta vĩnh viễn chẳng hề quên. Nàng đi tới trước mặt Tạ Hiểu Phong, nhìn chàng rồi bỗng hỏi:

"Hôm nay à?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"ừ, hôm nay!" Chàng phải chờ người bây giờ có thể tới bất kỳ lúc nào. Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Thế thì ít ra trong tay chàng cũng phải có cây kiếm chứ!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta không có kiếm!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Phải chăng trong lòng chàng đã có kiếm cho nên trong tay căn bản không cần đến kiếm!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Người đã học kiếm, trong lòng tất phải có kiếm!" Nếu trong lòng không có kiếm thì học sao được kiếm? Tạ Hiểu Phong bảo:

"Chỉ tiếc là kiếm ở trong lòng không giết được Yến Thập Tam!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Thế sao chàng không đi tìm lấy một cây kiếm?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vì tôi biết cô nhất định tìm kiếm thay tôi!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Chàng cần cây kiếm như thế nào?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Không được chọn tùy tiện đâu!" Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Sao lại thế?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vì kiếm cũng như người, cũng có rất nhiều loại lắm. Mỗi cây kiếm xét về hình thức, sức nặng, dài ngắn, rộng hẹp đều hoàn toàn chẳng giống gì nhau. Cây kiếm nào cũng có đặc tính riêng cả!" Mộ Dung Thu Hoạch thở dài, bảo tiếp:

"Vì vậy mỗi người chọn một cây kiếm có khác nào chọn một người bạn cho mình? Tuyệt đối không thể qua loa, càng không được tùy tiện!" Dĩ nhiên Tạ Hiểu Phong quá hiểu đạo lý này. Cao thủ đánh với nhau, dù chỉ một ly cũng không được sai sót. Cây kiếm thường là nhân tố quyết định sự thắng bại của họ.

Mộ Dung Thu Hoạch bỗng cười bảo một cách rất đắc ý:

"May sao chàng nói chẳng sai, tôi biết trong lòng chàng đang nghĩ cây kiếm ấy!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Cô cũng biết à?" Mộ Dung Thu Hoạch đáp:

"Chẳng những biết, mà tôi còn mang tới cho chàng nữa cơ!" Đúng là nàng ta mang kiếm tới cho chàng thật. Chiếc vỏ kiếm đen đúa cũ mèm, hình thức lưỡi kiếm cỗ, nhã, thậm chí những sợi tơ đen trên cán kiếm bình thời được cọ sát đến sáng lên, đó là những gì thân thiết mà Tạ Hiểu Phong chẳng thể nào quên. Đối với chàng, cây kiếm này không khác gì một người bạn cùng chàng chung hoạn nạn sống chết đã bị xa cách lâu ngày. Tuy chàng vĩnh viễn không thể nào quên thương nhớ nhưng xưa nay không nghĩ là rồi còn có ngày gặp lại. Người hầu bàn trẻ tuỗi trong nhà trọ khe khẽ đặt cây kiếm lên một tảng đá xanh rồi len lén bỏ đi.

Tạ Hiểu Phong không nén nỗi bèn thò tay khe khẽ vuốt ve vỏ kiếm. Tay chàng đang run run nhưng vừa chạm vào cây kiếm bàn tay lập tức lại vững vàng ngay. Chàng nắm chặt cán kiếm chẳng khác gì chàng thanh niên đa tình nắm chặt bàn tay người tình đầu tiên.

Mộ Dung Thu Hoạch bảo:

"Tôi cũng biết nếu tôi ở lại đây thì lòng chàng sẽ bối rối, vì vậy tôi đi đây!" Nàng ta khe khẽ nắm tay chàng dịu giọng mà bảo:

"Nhưng tôi sẽ chờ chàng ở nhà trọ. Tôi tin là chàng sẽ trở về rất nhanh thôi!" Nàng ta bỏ đi thật. Dáng đi trên đường mới dễ coi làm sao! Tạ Hiểu Phong nhìn theo bóng dáng yểu điệu của Mộ Dung Thu Hoạch, bất giác nén không nỗi mà lòng tự hỏi lòng:

"Phải chăng đây là lần cuối cùng ta được nhìn nàng?" Vì đúng lúc ấy chàng cảm thấy một làn sát khí đầy uy hiếp ập tới. Cứ y như một cơn gió lạnh từ trong rừng phong thỗi tạt ra.

Mu bàn tay chàng cầm kiếm nỗi gân xanh cuồn cuộn. Chàng không quay đầu lại nhìn mà cũng không cần quay đầu nhìn cũng biết người chàng đang chờ đã tới. Người đó đương nhiên phải là Yến Thập Tam! Bóng tịch dương đỏ rực như máu đọng, rừng phong cũng đỏ ối như máu đọng.

Trong khoảng đất trời vốn đã dàn dụa sát khí, huống hồ lại đưa thêm vào khoảng đất trời này hai con người như hai người này! Trong rừng lá đỏ ngập núi bỗng xuất hiện một bóng người đen đen. Màu đen tượng trưng cho buồn thương, bất hạnh và chết chóc, màu đen cũng đồng thời tượng trưng cho cô đơn, kiêu ngạo và cao quý. ý nghĩa của các điều tượng trưng ấy chính là sinh mệnh của người kiếm khách. Cũng như phần lớn các kiếm khách, Yến Thập Tam rất thích màu đen, sùng bái màu đen. Khi còn ngang dọc trên giang hồ, Yến Thập Tam chưa bao giờ mặc quần áo màu nào khác. Bây giờ ông ta lại khôi phục cách ăn mặc ấy, thậm chí đến mặt cũng dùng một vuông vải đen che luôn. Ông ta không muốn để Tạ Hiểu Phong nhận ra ông ta chính là ông già gù, ốm yếu ngồi bên hỏa lò sắc trà thuốc trên thuyền. Ông ta không muốn Tạ Hiểu Phong khi ra tay phải kiêng dè bất cứ điều gì.

Vì nguyện vọng lớn nhất của Yến Thập Tam là được đánh nhau một trận mất còn với kiếm khách thiên hạ vô song Tạ Hiểu Phong. Chỉ cần được đánh để hoàn thành nguyện vọng là đủ còn thua hay chết có gì là trở ngại?

Và bây giờ Yến Thập Tam đã tin chắc hoàn toàn là Tạ Hiểu Phong không thể nhận ra ông già yếu ớt người gù gập như con tôm trên thuyền lại là người kiếm khách áo đen đang đứng người thẳng băng như ngọn giáo này. Và Tạ Hiểu Phong nhận ra ông ta chính là Yến Thập Tam đối thủ mạnh nhất trong đời của mình! Vì cây kiếm ông ta cầm trong tay trên bao kiếm đen sì có khảm mười ba hạt châu. Tuy cây kiếm này không phải loại kiếm báu chém sắt như chém bùn nhưng lại là một cây kiếm danh vang thiên hạ. Trong tim mắt người giang hồ cây kiếm khảm mười ba hạt minh châu này tượng trưng cho bức tường và chết chóc.

Tạ Hiểu Phong vừa quay mình lại thì ánh mắt của chàng đã bị cây kiếm kia cuốn hút chẳng khác nào cây kim bị hút vào hòn đá nam châm. Tất nhiên chàng biết cây kiếm đó là tiêu chí của Yến Thập Tam. Tay chàng cũng có kiếm.

Cả hai cây kiếm đều chưa rút ra khỏi vỏ nhưng dường như đã có khí kiếm xoay vần đi lại. Yến Thập Tam bỗng bảo:

"Ta nhận ra chàng!" Tạ Hiểu Phong hỏi lại:

"Ông đã gặp tôi rồi ử" Yến Thập Tam đáp:

"Chưa!" Ông ta chỉ để đôi mắt sắc như dao ló ra ngoài khăn che mặt, bảo:

"Ta nhận ra chàng. Chàng nhất định là Tạ Hiểu Phong!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Vì ông nhận ra cây kiếm này ử" Yến Thập Tam đáp:

"Cây kiếm đó thì có gì đâu! Nếu lọt vào tay một ai khác thì có khác gì một thanh sắt thường!" Rồi ông ta chậm rãi nói tiếp:

"Lần trước ta thấy cây kiếm này dường như đã được chôn theo chủ nhân đã chết, giờ đây kiếm lại vào tay chàng lập tức có ngay sát khí!" Tạ Hiểu Phong thở dài mà bảo:

"Yến Thập Tam quả không hỗ là Yến Thập Tam! Thật không ngờ chúng ta lại vẫn gặp gỡ nhau!" Yến Thập Tam bảo:

"Đáng lẽ chàng phải nghĩ tới rồi cơ!" Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Hử?" Yến Thập Tam bảo:

"Trong thiên hạ có hai con người như chúng ta, sớm muộn gì rồi cũng sẽ có ngày gặp gỡ!" Tạ Hiểu Phong:

"Khi chúng ta gặp mặt nhau, phải chăng nhất thiết cần có người chết dưới kiếm của người kiả" Yến Thập Tam đáp:

"Phải!". Ông ta cầm chắc kiếm bảo:

"Yến Thập Tam có thể sống đến giờ chỉ cốt đợi đến ngày này. Nếu không được đánh một trận với Tạ Hiểu Phong thiên hạ vô song thì Yến Thập Tam này có chết cũng không nhắm được mắt!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Tại sao ông muốn nhìn rõ bộ mặt thật của tôi, đến khi nào ông mới để người khác biết bộ mặt thật của ông?" Yến Thập Tam cười nhạt nói tiếp ngay:

"Tạ Hiểu Phong là con người như thế nào thật sự xưa nay giang hồ cũng chưa ai biết!" Tạ Hiểu Phong ngậm miệng. Chàng không thể không thừa nhận. Bộ mặt thật của chàng ra sao đến bản thân chàng cũng quên rồi. Yến Thập Tam bảo:

"Cho dù chàng là con người thế nào cũng không quan trọng vì ta đã biết chàng là Tạ Hiểu Phong, là Tam thiếu gia nhà họ Tạ!"

HỒI 46 - MỐI NGỜ KHÓ GIẢI

Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vì..." Yến Thập Tam nói ngay:

"Vì vậy chàng chỉ cần biết ta là Yến Thập Tam là đủ rồi!" Tạ Hiểu Phong đăm đăm nhìn ông ta rất lâu, bỗng cười vang bảo:

"Thật ra tôi chỉ cần nhìn kiếm của ông là đủ rồi!" Chàng đã xem qua "Đoạt mệnh thập tam kiếm". Trong bài kiếm pháp này mọi tình tiết mọi biến hóa chàng cơ hồ hiểu thấu hoàn toàn. Nhưng điều đó chưa đủ ảnh hưởng đến sự thắng bại của trận đánh này giữa hai người. Vì bài kiếm pháp này từ tay Yến Thập Tam sử ra dù là khí thế, sức mạnh và độ thích ứng đều không sử dụng thật hoàn toàn. Vì vậy Tạ Hiểu Phong hy vọng được thấy Yến Thập Tam sử dụng Đoạt mệnh thập tam kiếm một cách hoàn toàn thật lực, tận thiện. Nhưng Tạ Hiểu Phong cũng biết chiêu kiếm chân chính trọng yếu nhất vĩnh viễn không nhìn thấy được.

Nhát kiếm trọng yếu chính là nhát kiếm quyết định thắng bại, sống chết, chính là nhát kiếm chí mạng. Nếu "Đoạt mệnh thập tam kiếm" có đến biến hóa thứ mười lăm thì "thập ngũ kiếm" đó mới là chiêu kiếm chí mạng. Dĩ nhiên chàng không thấy được.

Và khi chiêu kiếm ấy sử ra thì chàng đã chết rồi còn gì! Nếu quả thật có chiêu kiếm ấy thì chàng chết là chắc chắn! Vì vậy suốt đời chàng mong được thấy chiêu kiếm ấy nhưng suốt đời chàng vĩnh viễn chẳng được thấy chiêu kiếm ấy.

"Chẳng lẽ đó là số mệnh của chàng ử" "Tạo hóa đùa dai với con người, tại sao nỡ vô tình như thế?" Chàng không muốn nghĩ tiếp nữa, bỗng nói:

"Giờ đây trong tay chúng ta đã có kiếm, có thể ra tay bất cứ lúc nào!" Yến Thập Tam bảo:

"Không sai!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nhưng ông không thể tùy tiện ra tay được!" Yến Thập Tam hỏi:

"Hử?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vì ông nhất định phải đợi. Đợi tôi sơ hở, đợi cơ hội của ông!" Yến Thập Tam hỏi:

"Thế chàng cũng đợi như vậy ử" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Có chứ!" Chàng lại thở dài bảo:

"Chỉ tiếc là cơ hội như thế không thể sớm có được đâu!" Yến Thập Tam cũng thừa nhận như vậy. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Vì thế nhất định chúng ta phải đợi còn lâu, chưa biết chừng phải đợi đến lúc mọi người sức cùng lực kiệt mới có loại cơ hội như vậy xuất hiện, tôi tin là chúng ta có thể bình tĩnh được lắm!" Tạ Hiểu Phong thở dài nói tiếp:

"Nhưng tại sao chúng ta lại đứng ngây ra như hai thằng ngốc ở đây mới được chứ?" Yến Thập Tam hỏi:

"Chàng cũng nghĩ thế ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"ít nhất chúng ta cũng có thể đi đâu đó chơi, đi đâu đó xem ngắm chứ!" Mắt chàng lộ vẻ cười:

"Tiết trời đẹp thế này, phong cảnh đẹp thế này, trước lúc chúng ta chết ít nhất cũng hưởng thụ cuộc sống một chút chứ nhỉ!" Thế là họ đi. Bước đầu tiên tựa hồ hai người cùng cất bước một lúc. Cả hai người không ai muốn giành phần hơn với đối phương. Vì trận chiến này đối với họ điều giành được không phải là sống chết thắng thua mà là có một sự thể nghiệm giao lưu trong cuộc đời của bản thân mình. Chính vì thế mà họ không thể tự khinh nhờn mình được. Lá phong càng đỏ, buỗi chiều tà càng rực rỡ.

Trước khi bóng tối sẽ phủ trùm mặt đất dường như trời xanh cố ban phát thật nhiều ánh sáng cho thế gian khác nào một con người hấp hối trước khi thở hắt ra đều tỏ ra càng rõ lòng thiện, càng rõ thêm trí tuệ. Đó mới là đời người. Nếu ta quả thật có thể hiểu được cuộc đời thì đau buồn của ta sẽ giảm bớt đi và sướng vui của ta sẽ tăng thêm.

Trong rừng phong đã có lá rụng. Họ dẫm trên lá rụng mà tiến về phía trước, tiếng chân bước nghe xào xạc. Tiếng chân họ bước càng lâu càng dài nhưng bước đi càng lâu càng nhẹ nhõm vì tinh thần và thể năng của họ đều có thể dần dần đạt tới đỉnh cao. Đợi đến giây phút mà họ thực sự đạt tới đỉnh cao thì họ sẽ ra tay. Ai đạt tới đỉnh cao trước người ấy sẽ ra tay trước.

Cả hai đều không nghĩ đến chuyện chờ cơ hội vì cả hai đều hiểu là chẳng ai lại tạo cơ hội cho đối phương đang chờ mong cả. Dường như cả hai đồng thời ra tay.

Chẳng ai nhìn thấy động tác rút kiếm của họ vì kiếm của họ bỗng nhiên lóe sáng như tia chớp đánh ra. Trong thoáng giây ấy trọng lượng xác thịt của họ dường như hoàn toàn mất tiêu biến thành như luồng gió có thể bay tự do trên không trung.

Bởi vì họ đã hoàn toàn tiến vào ranh giới quên cả mình, tinh thần của họ đã vượt lên trên tất cả mọi thứ, khống chế tất cả mọi thứ. ánh kiếm lưu động, lá phong vụn nát rơi xuống phơi phới như trận mưa máu.

Nhưng cả hai đâu có thấy cảnh đó! Trong tâm trong mắt họ, tất cả mọi thứ trên thế giới này đều như không còn tồn tại, thậm chí đến cái xác thịt phàm tục của họ hầu như cũng không còn tồn tại nữa. Giữa khoảng trời đất thứ tồn tại duy nhất là kiếm của đối phương.

Rừng phong cây rắn chắc trong mắt họ chỉ vùng đất bằng, kiếm của họ muốn đi tới đâu thì kiếm đi tới đó. Trên đời này không còn sự vật nào ngăn cản nỗi mũi kiếm của họ.

Từng cây phong bị đốn ngã, đầy trời mưa máu bột lá phong. ánh kiếm di động không ngừng nhưng rồi bỗng xẩy ra một sự biến hóa kỳ dị, biến thành nặng nề mà thô sơ.

"Keng" một tiếng, sao lửa tóe ra bốn phía. Kiếm quang tắt, thế kiếm dừng. Yến Thập Tam nhìn mũi kiếm trong tay, trong đôi mắt như có lửa cháy lại như có băng giá ngưng đọng. Kiếm vẫn còn trong tay ông nhưng mọi biến hóa của kiếm đã đến chỗ tận cùng. Ông đã sử dụng đến "đoạt mệnh thập tứ kiếm" Giờ cây kiếm của ông đã chết. Mũi kiếm của Tạ Hiểu Phong chong thẳng vào đầu mũi kiếm của ông.

Nếu cây kiếm của ông là con rắn độc thì mũi kiếm của Tạ Hiểu Phong là cây kim đã ghim vào "khoảng bẩy tấc" trên mình rắn độc, ghìm chết con rắn độc tại chỗ. Trận đánh vốn đã là kết thúc.

Nhưng đúng lúc ấy, cây kiếm vốn đã bị ghim chết bỗng nẩy lên một chấn động kỳ lạ. Đầy trời lá cây bay múa bỗng dưng tan tác, vốn đang động bỗng thành ngừng.

Tuyệt đối ngừng hẳn. Trừ cây kiếm đang chấn động ra trong khoảng đất trời này không còn sức sống.

Trên cây kiếm của Tạ Hiểu Phong bỗng để lộ vẻ cực kỳ kinh sợ. Chàng đột nhiên cảm thấy cây kiếm tuy vẫn ở trên tay mình nhưng dường như cây kiếm đã chết! Khi cây kiếm trên tay đối phương bắt đầu có sức sống trở lại thì kiếm của chàng lại chết, không còn cách nào để biến hóa được nữa vì mọi biến hóa đã bị kiếm của đối phương khống chế hết cả. Mọi vai trò và sức mạnh của chàng với cây kiếm đã bị cây kiếm kia đoạt mất.

Giờ đây bất kỳ lúc nào cây kiếm kia cũng có thể tùy ý đâm xuyên ngực hay đâm suốt họng chàng mà không có sức mạnh nào trên đời có thể ngăn nỗi. Chỉ vì cây kiếm đó đã "chết"! Và khi cái chết tới, trên đời này có sức mạnh nào ngăn nỗi?

Nhưng cây kiếm kia lại không đâm tới! Và trong mắt Yến Thập Tam bỗng cũng lộ đầy vẻ cực kỳ khiếp sợ, thậm chí còn có vẻ sợ hãi hơn cả Tạ Hiểu Phong! Liền đó ông ta làm một việc mà bất kỳ ai cũng không hề nghĩ tới, bất kỳ ai cũng không thể tưởng tượng nỗi. Ông ta bỗng quành mũi kiếm, cứa đứt cuống họng của mình. Yến Thập Tam không giết Tạ Hiểu Phong mà lại giết chết mình! Nhưng trong thoáng giây mũi kiếm sẽ cứa đứt cỗ họng của Yến Thập Tam thì ánh mắt của ông ta lại không còn vẻ sợ nữa. Trong thoáng giây đó, thần sắc trong mắt của ông ta bỗng trở nên trong trẻo và sáng suốt.

Tâm hồn tràn trề hạnh phúc và bình yên. Cho tới khi Yến Thập Tam ngã xuống, cho tới khi trái tim của ông ta đã ngừng đập, hơi thở cũng tắt hẳn mà cây kiếm trong tay ông ta vẫn chấn động không ngừng. ánh tà huy đã tắt lịm, lá rụng tan tác hết nhưng Tạ Hiểu Phong vẫn chưa đi. Thậm chí đến nhúc nhích chàng cũng không. Chàng không hiểu, không rõ, nghĩ mãi không thông, chàng không thể nào tin được làm sao một con người vừa tới đỉnh cao của thắng lợi thì lại tự giết mình?

Nhưng chàng không tin cũng không được. Con người này đã chết đích xác rồi, con người tim ngừng đập, hơi ngừng thở rồi, con người này chân tay bắt đầu giá lạnh rồi. Mà đáng lẽ phải chết là Tạ Hiểu Phong chứ đâu phải Yến Thập Tam. Nhưng trong thoáng giây trước khi chết trong lòng Yến Thập Tam tuyệt không hề sợ hãi, oán hận gì mà chỉ tràn ngập hạnh phúc, bình yên. Trong thoáng giây đó ông ta đã là thiên hạ vô địch và đương nhiên cũng chẳng có ai cưỡng bức ông ta.

Như thế thì tại sao Yến Thập Tam lại làm như vậy? Ông ta vì sao?

Vì sao? Vì sao?

Đêm đã khuya, rất khuya, đã rất khuya. Tạ Hiểu Phong vẫn cứ đứng ở đó, không nhúc nhích.

Chàng vẫn không hiểu, vẫn không rõ, vẫn nghĩ không thông, vẫn chẳng biết gì cả! Người này khi ngã chết, mảnh khăn che mặt đã lật lên... Tạ Hiểu Phong đã nhìn thấy mặt ông ta. Người này là Yến Thập Tam, là ông già suy nhược ngồi bên hỏa lò sắc thuốc, là người đã cứu mạng chàng! Người này cứu mạng chàng chỉ vì chàng là Tạ Hiểu Phong! "Nếu không đánh được với Tạ Hiểu Phong một trận, Yến Thập Tam có chết cũng không nhắm được mắt!" Tạ Hiểu Phong không thể nào quên được cái chết của Giản Truyền Học, cũng không bao giờ quên được lời của Giản Truyền Học đã nói:

"Con người đó nhất định sẽ cứu ông nhưng rồi nhất định sẽ chết dưới kiếm của ông!" Đêm dài dằng dặc. Dằng dặc đêm dài rồi cũng phải qua đi. Tia nắng mặt trời đầu tiên len qua những cành phong cụt nhánh rụng lá chiếu tới, khéo sao lại rọi đúng mặt Tạ Hiểu Phong lại cũng chẳng khác gì một nhát kiếm. Gió đưa lá cành, ánh dương nhẩy nhót không ngừng, cũng lại chẳng khác gì một sự chấn động thần kỳ của kiếm.

Đôi mắt mệt mỏi đến thất thần của Tạ Hiểu Phong bỗng sáng rực lên, chàng thở dài não nuột rồi lẩm bẩm tự nhủ:

"Ta hiểu rồi, ta hiểu rồi!..." Bỗng ở phía sau chàng có người thở dài nói ngay:

"Tôi lại chẳng hiểu gì..." Tạ Hiểu Phong quay ngoắt lại mới phát hiện ra có người quỳ phía sau mình, tóc tai bù rối và áo quần ướt đẫm sương đêm chứng tỏ là đã quỳ ở đó rất lâu rồi. Tâm thần Tạ Hiểu Phong tán loạn. Chàng không biết người này đến từ lúc nào.

Người kia từ từ ngẩng đầu lên nhìn Tạ Hiểu Phong bằng cặp mắt đỏ vằn tia máu, lộ rõ vẻ cực kỳ mệt mỏi và đau thương. Tạ Hiểu Phong bỗng dùng sức túm chặt lấy vai người ấy bảo:

"Là ngươi à? Ngươi tới rồi à?" Người ấy bảo:

"Vâng tôi đây, tôi đến từ đầu nhưng tôi chẳng hiểu ra sao cả!" Người ấy quay lại hướng về di thể Yến Thập Tam dập đầu bảo:

"Ông nên biết xưa nay tôi vẫn hy vọng được gặp lại ông!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta biết, dĩ nhiên ta biết!" Lâu nay chàng đã quên bẵng mất lời Thiết Khai Thành.

"Ông ấy không có bạn bè, không có người thân, tuy ông ấy đối với tôi rất tốt, dậy dỗ tôi kiếm pháp nhưng xưa nay không cho tôi ở gần. Xưa nay ông ấy vẫn không cho tôi biết ông ấy từ đâu tới và sẽ đi đâu" "Vì ông ấy chỉ sợ mình có cảm tình với người khác!" "Vì một con người muốn thành kiếm khách thì phải vô tình!" Chỉ có Tạ Hiểu Phong biết được tình cảm tế nhị đó giữa hai người vì chàng biết thật tình Yến Thập Tam đâu có vô tình! Rồi Tạ Hiểu Phong lại thở dài, lại nói:

"Ông ấy cũng rất muốn gặp lại ngươi vì ngươi tuy không phải là học trò ông ấy nhưng người được truyền lại kiếm pháp của ông ấy duy nhất chỉ có ngươi, ông ấy nhất định mong ngươi được thấy chiêu kiếm cuối cùng của ông ấy!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Chiêu kiếm ấy là tinh túy trong kiếm pháp của ông ấy ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Không sai! Đó là biến hóa "thập ngũ kiếm" trong "Đoạt mạng thập tam kiếm", xét khắp cả gầm trời này không ai có thể ngăn đỡ tránh né khỏi chiêu kiếm ấy." Thiết Khai Thành bảo:

"Cả ông cũng không thể ử" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Kể cả ta cũng không thể!" Thiết Khai Thành bảo:

"Nhưng ông ấy đã không dùng chiêu kiếm đó để giết ông!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nếu kiếm ấy đánh ra thật thì ta chết là chắc chắn, khỏi còn nghi ngờ gì nữa. Chỉ đáng tiếc là trong thoáng giây cuối cùng đó kiếm đó của ông ấy lại không có cách gì đánh được ra!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Tại sao?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Vì trong lòng ông ấy không có ý giết người!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Sao lại vậy?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Vì ông ấy đã cứu mạng ta!" Biết là Thiết Khai Thành không hiểu, Tạ Hiểu Phong nói tiếp:

"Nếu ngươi đã cứu mạng cho một ai đó thì khó lòng có thể ra tay giết người đó vì ngươi đã có cảm tình với người đó rồi!" Rõ ràng đó là một thứ cảm tình cực khó giải thích vì chỉ có ở loài người mới có loại tình cảm này. Và cũng vì loài người có việc đó nên người ta mới là người! Thiết Khai Thành bảo:

"Bây giờ ông nghĩ thông rồi ử" Tạ Hiểu Phong chậm rãi gật đầu, ảm đạm nói:

"Bây giờ ta mới rõ, quả thực ông ấy không chết không xong!" Thiết Khai Thành lại càng không hiểu. Tạ Hiểu Phong bảo:

"Là vì trong giây phút đó, trong lòng ông ta tuy không nghĩ chuyện giết ta, không nỡ giết ta, nhưng lại chẳng có cách gì khống chế nỗi cây kiếm trong tay vì sức mạnh của cây kiếm lúc đó vốn chẳng có ai khống chế nỗi nữa vì kiếm chiêu ấy đã phát ra là phải có người chết dưới kiếm mới được." Ai mà chẳng có lúc gặp những chuyện mình chẳng có cách nào khống chế nỗi, chẳng có cách nào hiểu nỗi. Trên đời này vốn chẳng có một loại người không có cách nào có thể khống chế nỗi sự tồn tại của sức mạnh thần bí ư! Thiết Khai Thành nói:

"Tôi vẫn chưa hiểu ông ấy tại sao lại cứ nhất định phải hủy mình làm gì?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Thứ mà ông ấy định hủy, không phải là hủy mình mà là hủy kiếm!" Thiết Khai Thành bảo:

"Chiêu kiếm đó đã lên tới chỗ "đăng phong tạo cực", là kiếm pháp thiên hạ vô song sao ông ấy lại muốn hủy đỉ" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Bởi vì ông ấy chợt phát hiện ra chiêu kiếm đó chỉ có đưa lại hủy diệt và chết chóc, ông ấy không thể lưu truyền kiếm pháp ấy lại cho đời sau được. Ông ấy không muốn là kẻ có tội đối với võ học!" Tinh thần chàng bỗng trở nên nghiêm túc và buồn rầu, bảo:

"Tuy nhiên sự biến hóa và sức mạnh của chiêu kiếm đó đã trở thành thứ mà ông ta không thể nào khống chế được nữa khác nào một người chợt phát hiện ra con rắn mình đang nuôi lại hóa thành con rồng độc. Tuy dựa theo người nhưng lại không nghe theo sự chỉ huy của chủ một chút nào, chủ muốn vứt không vứt được nên đành đợi con rồng độc đó hút cạn cả máu huyết của mình mới thôi!" Thiết Khai Thành lộ vẻ sợ sệt trong ánh mắt rồi bảo:

"Vì thế ông ấy chỉ còn cách trước hết là tự hủy mình đi." Tạ Hiểu Phong nói rất ảm đạm:

"Vì xương máu cuộc sống của ông ấy đã cùng con rồng độc kia hòa thành một thể vì con rồng độc kia là phần tinh túy của ông ấy vì vậy muốn hủy diệt con rồng độc thì chỉ còn cách trước hết hủy diệt mình!" Câu chuyện bi thảm đáng sợ đó tràn trề một nỗi sợ hãi tà dị và thần bí mà cũng tràn trề tính triết lý cực sâu sắc, cực ảo diệu. Câu chuyện nghe có vẻ hoang đường nhưng lại tuyệt đối chân thực, tuyệt không ai có thể phủ định được sự tồn tại của nó.

Giờ đây sinh mạng vị kiếm khách một đời đã bị chính mình hủy diệt và thứ kiếm pháp thiên hạ vô song mà ông ta sáng tạo ra cũng đồng thời bị tiêu diệt. Tạ Hiểu Phong nhìn lại di thể của Yến Thập Tam rồi từ tốn bảo:

"Chính trong phút giây đó, rõ ràng ông ấy đã vươn tới đỉnh cao xưa nay chưa từng có và sau này cũng không hề có nên ông ấy có chết cũng không còn tiếc hận gì nữa!" Thiết Khai Thành đăm đăm nhìn Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ông có tình nguyện chết chính mình không?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Có chứ!" Trong mắt chàng lộ rõ vẻ chán chường và buồn thương không bút mực nào miêu tả nỗi mà bảo:

"Ta tình nguyện kẻ chết chính là bản thân mình!" Đó là đời người. Đời người đầy dẫy mâu thuẫn, được mất khó lòng phân biệt được rành rẽ.

Thiết Khai Thành cởi bỏ tấm áo bào dài ướt đẫm sương đêm đắp lên thi thể Yến Thập Tam, đồng thời lòng tự hỏi lòng:

"Nếu người chết cũng có lòng yêu đời, phải chăng ông ta cũng mong mình được sống còn người chết lại là Tạ Hiểu Phong?" Chàng ta không sao giải đáp nỗi. Thiết Khai Thành khe khẽ gỡ tay Yến Thập Tam lấy cây kiếm ra đút vào vỏ kiếm có khảm mười ba hạt minh châu. Người kiếm khách lừng danh đã ngã lòng nhưng giờ đây kiếm vẫn còn.

Còn người? Mặt trời mới mọc nhô lên từ đằng Đông, ánh dương ngợp trời. Tạ Hiểu Phong theo con đường mòn đất vàng tràn trề ánh mặt trời trở về quán trọ không tên. Hôm qua khi chàng từ con đường nhỏ này ra đi không nghĩ được là mình có thể còn trở lại được hay không? Thiết Khai Thành đi theo phía sau Tạ Hiểu Phong, bước chân cũng nặng nề và chậm chạp y như vậy.

Nhìn đằng sau lưng Tạ Hiểu Phong, không nén được Thiết Khai Thành bỗng lòng tự hỏi lòng:

"Bây giờ ông ấy vẫn là Tạ Hiểu Phong, là kiếm khách vô song Tạ Hiểu Phong, sao trông ông ấy lại thay đỗi nhiều đến thế?" Bà chủ nhà trọ vẫn không biến đỗi gì. Trong đôi mắt to và không thần sắc vẫn man mác một nỗi bâng khuâng mệt mỏi khó tả. Nàng ta vẫn ngồi trơ trơ sau quầy, trân trân nhìn con đường bên ngoài quán, dường như vẫn đang chờ đợi chàng hoàng tử cưỡi ngựa bạch tới đón nàng ta đi thoát khỏi cuộc sống ngây độn này.

Nàng không gặp hoàng tử cưỡi ngựa bạch nhưng lại gặp Tạ Hiểu Phong. Cặp mắt to vô thần bỗng lộ nét cười ấm áp bảo:

"Chàng về rồi à?" Dường như nàng ta không tưởng tượng được là Tạ Hiểu Phong còn trở lại nhưng dù sao chàng cũng vẫn trở lại, nàng ta cũng chẳng ngạc nhiên gì. ở đời cũng có nhiều người như thế, quen với sự an bài tất cả cho mình của số mệnh. Tạ Hiểu Phong cười với nàng ta, dường như đã quên hết những chuyện gì đêm hôm trước nàng ta đã làm với mình. Thanh Thanh bảo:

"Phía sau có người đang chờ chàng, đợi chàng lâu lắm rồi!" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Ta biết rồi!" Mộ Dung Thu Hoạch vốn phải đợi chàng, lại còn cả con trai của họ nữa. Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Họ ở đâu?" Thanh Thanh uể oải đứng dậy bảo:

"Để tôi đưa chàng đi!" Trên mình nàng ta vẫn mặc cái áo vừa mềm mại vừa mỏng tang. Khi nàng ta đi phía trước thì mọi bộ phận ở phía dưới eo nàng ta Tạ Hiểu Phong đều nhìn rõ mồn một. Đi qua tiền sảnh, đi vào sân sau, nàng ta bỗng quay ngoắt lại ngắm nghía Thiết Khai Thành. Thiết Khai Thành giả vờ không để ý tới nàng ta nhưng giả trang không được chút nào.

Thanh Thanh bảo:

"ở đây không có người đợi chàng!" Thiết Khai Thành bảo:

"Ta biết rồi!" Thanh Thanh bảo:

"Tôi cũng có bảo chàng đi theo đâu!" Thiết Khai Thành bảo:

"Nàng không bảo!" Thanh Thanh hỏi:

"Thế sao không ra đằng trước mà đợi?" Thiết Khai Thành bỏ đi rất nhanh dường như không dám đối mặt với đôi mắt to tướng và vô thần của nàng ta. Trong mắt Thanh Thanh lại lộ rõ nét cười ấm áp nhìn Tạ Hiểu Phong bảo:

"Tối hôm trước, tôi vốn đã sẵn sàng đến chỗ chàng." Tạ Hiểu Phong:

"ừ!" Thanh Thanh vỗ vỗ vào phía dưới hông bảo:

"Đến chân tôi cũng rửa ráy sạch rồi!" Tất nhiên là nàng ta đâu chỉ rửa chân, tay nàng ta đã nói rõ điểm đó rồi. Tạ Hiểu Phong cố ý hỏi:

"Sao nàng không đến?" Thanh Thanh đáp:

"Vì tôi biết người đàn bà ấy cho tôi tiền còn nhiều hơn so với chàng. Tôi đã nhìn ra chàng chẳng phải là loại đàn ông vung tiền trên thân xác đàn bà đâu!" Bàn tay nàng ta đang móc máy rõ ràng:

"Nhưng để làm chàng vui, tối hôm nay tôi có thể..." Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nhỡ ta không thích?" Thanh Thanh đáp:

"Thế thì tôi đi tìm người bạn của chàng, tôi đã nhìn ra chàng ta rất thích đấy!" Tạ Hiểu Phong cười, gượng gạo. Người đàn bà này ít ra cũng có một điểm hay là xưa nay nàng ta không hề che giấu trong lòng những gì nàng ta định làm. Xưa nay nàng ta không bao giờ chịu bỏ qua một chút cơ hội nào vì nàng ta muốn sống, muốn sống ngày một khá hơn. Nếu chỉ xét về một mặt này thôi, rất nhiều người còn không bằng nàng ta thậm chí đến cả chàng cũng còn không bằng.

Thanh Thanh hỏi:

"Chàng có muốn tôi đi tìm chàng ta không?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Nàng phải đi đi!" Chàng nói rất thật lòng. Mỗi con người đều có quyền đi tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Có thể phương pháp của nàng ta sai, chẳng qua vì xưa nay nàng ta không có cơ hội để chọn một cách tử tế hơn, tốt đẹp hơn.

Cơ bản là vì chẳng có ai cho nàng ta cơ hội ấy cả.

"Đợi chàng ở trong gian phòng ấy nhé!" Gian phòng ấy tức là căn phòng tối hôm trước của Tạ Hiểu Phong. Thanh Thanh đã đi rồi, đi xa rồi thì bỗng quay đầu, đăm đăm nhìn Tạ Hiểu Phong bảo:

"Chàng có cảm thấy thiếp là loại đàn bà mặt dầy mày dạn không?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta không thấy!" Thanh Thanh cười. Cười thật sự. Cười như một đứa trẻ con thơ ngây không một chút tà ý. Tạ Hiểu Phong thì lại cười không nỗi. Chàng biết là ở đời còn có rất nhiều đàn bà cũng như nàng ta, dù cuộc đời đã như nướng trên lò lửa nhưng vẫn cười được như một đứa trẻ thơ ngây vì xưa nay họ chưa bao giờ có cơ hội biết rõ việc mình đang làm là đáng thương hại đến thế nào. Chàng chỉ hận cuộc đời sao không cho họ một cơ hội tốt rồi hãy trị tội của họ.

Gian phòng tăm tối và ẩm ướt giờ như đã được ánh mặt trời chiếu rọi vào. Bất kỳ nơi nào tăm tối đến đâu rồi cũng sẽ có ngày được ánh mặt trời soi sáng.

Một người đàn ông gầy khô tiều tụy đối mặt với ánh mặt trời, ngồi xếp bàn tròn trên chiếc giường gỗ ọp ẹp động một chút lại kêu kẽo kẹt. ánh mặt trời nhức mắt nhưng đôi đồng tử xám trắng của chàng vẫn không hề nhấp nháy.

HỒI KẾT - NHẠT NHẼO DANH LỢI

Người ấy là một người mù. Một người đàn bà lưng quay ra cửa, nằm trên giường, dường như đang ngủ, ngủ rất say.

Mộ Dung Thu Hoạch không ở trong phòng này, "chú em" cũng không. Người hỏng mắt đáng thương và người đàn bà ham ngủ này chẳng lẽ đến đợi Tạ Hiểu Phong ở trong phòng này ư?

Nhưng xưa nay chàng chưa gặp họ bao giờ. Chàng vừa bước vào thì định quay ra nhưng người mù đã gọi giật chàng lại. Hình như phần lớn người hỏng mắt, mắt tuy mù nhưng tai lại rất thính.

Tạ Hiểu Phong ngạc nhiên vô cùng. Chàng không ngờ được người mù lại biết người tới là chàng. Trên nét mặt tiều tụy của người mù chợt hiện lên vẻ cực kỳ kỳ dị lại hỏi một câu cũng kỳ dị không kém:

"Lẽ nào Tam thiếu gia không nhận ra ta ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Làm sao tôi nhận ra ông?" Người mù bảo:

"Nếu chàng nhìn thật kỹ càng đi thì sẽ nhận ra!" Tạ Hiểu Phong nhịn không được bèn dừng lại, nhìn thật tỉ mỉ, thật lâu, rồi bỗng như thấy có một dòng điện lạnh chạy ngược từ gót chân lên. Quả nhiên chàng đã nhận ra người này.

Người mù đáng thương này rõ ràng là Trúc Diệp Thanh, con người mù mắt nhưng còn độc hơn cả rắn độc Trúc Diệp Thanh! Trúc Diệp Thanh cười bảo:

"Tôi biết là chàng nhận ra tôi mà! Chắc chàng đã nghĩ ra mắt tôi tại sao lại bị mù rồi chứ?" Nụ cười của gã khiến người ta trông thấy phải thấy lạnh lòng:

"Nhưng mà nàng ta vẫn đại từ đại bi, vẫn còn để lại cái mạng này của tôi, lại còn lấy cho tôi một người vợ!" Tất nhiên Tạ Hiểu Phong hiểu gã bảo "nàng ta" là người nào, nhưng lại không đoán được tại sao Mộ Dung Thu Hoạch lại không giết gã, chàng lại càng không đoán được sao nàng ta lại lấy vợ cho Trúc Diệp Thanh. Trúc Diệp Thanh bỗng thở dài bảo:

"Dù thế nào đi nữa, nàng ta lấy cho tôi người vợ này quả thật cũng là người vợ tốt, giá đỗi cho tôi bằng cách điếc thêm một đôi tai tôi cũng tình nguyện!" Giọng gã vốn đã đầy oán độc quả biến thành ôn tồn thật. Gã vươn tay đánh thức người đàn bà đang ngủ mê mệt, bảo:

"Có khách đến, ngươi dậy rót cho khách bát trà chứ!" Người đàn bà vâng lời ngồi dậy, đầu cúi gục, lấy một bát trà cũ kỹ, sứt mẻ rót một bát trà nguội bưng tới. Tạ Hiểu Phong vừa đón bát trà thì bát trà trên tay cơ hồ tuột khỏi tay rơi xuống.

Tay chàng lạnh giá, toàn thân cũng giá lạnh, còn lạnh hơn cả lúc nhận ra Trúc Diệp Thanh. Cuối cùng chàng cũng nhìn thấy mặt người đàn bà. Người vợ thuận thảo của Trúc Diệp Thanh rõ ràng là "cô bé", "cô bé" bị gã hại cho thảm thê.

Tạ Hiểu Phong không kêu không gọi chỉ vì "cô bé" đã van xin chàng, cô đã dùng đôi mắt gần trào nước mắt để cầu xin, xin chàng đừng có hỏi han gì cả, bất kỳ gì cũng đừng hỏi. Chàng không hiểu sao "cô bé" lại làm như vậy? Sao cô lại cam chịu làm vợ kẻ thù?

Nhưng rồi cuối cùng chàng vẫn phải ngậm miệng. Xưa nay chàng không muốn nhẫn tâm cự tuyệt yêu cầu của cô gái đáng thương này. Trúc Diệp Thanh bỗng cất tiếng hỏi:

"Vợ tôi rất tốt, rất đẹp phải không?" Tạ Hiểu Phong miễn cưỡng chế ngự bản thân, đáp:

"Phải!" Trúc Diệp Thanh lại cười, sướng đến nỗi bộ mặt tiều tụy rạng rỡ hẳn lên, dịu giọng bảo:

"Tôi tuy không nhìn thấy mặt cô ấy nhưng tôi cũng biết là cô ấy rất đẹp. Một người đàn bà có tấm lòng tốt như vậy thì người không thể xấu được!" Gã không biết vợ gã là "cô bé". Nếu gã biết người vợ hiền hậu của gã là người đàn bà từng bị gã hại cho thê thảm thì gã sẽ ra sao? Tạ Hiểu Phong không muốn nghĩ gì thêm nữa, cao giọng hỏi:

"Phải chăng ngươi đợi ta? Phải chăng "phu nhân" muốn ngươi đợi tả" Trúc Diệp Thanh gật đầu, giọng nói chợt trở nên băng lạnh:

"Nàng ta muốn tôi bảo với chàng là nàng ta đi rồi. Dù chàng thắng hay bại, sống hay chết từ sau trở đi nàng ta không muốn gặp lại chàng nữa!" Dĩ nhiên đây không phải là ý tứ thật sự của nàng ta. Nàng ta lưu gã ở lại cốt để Tạ Hiểu Phong nhìn thấy Trúc Diệp Thanh đã biến thành con người như thế nào và lấy người vợ ra sao?

Trúc Diệp Thanh bỗng nói:

"Vốn nàng ta cũng muốn "chú em" ở lại nhưng "chú em" cũng đi, "chú em" bảo muốn lên núi Thái Sơn!" Tạ Hiểu Phong nén không được bèn hỏi:

"Lên làm gì?" Lời đáp của Trúc Diệp Thanh đơn giản mà sắc bén:

"Đi làm việc mà gã thích làm!" Giọng gã trở nên đầy châm chọc:

"Vì gã chẳng có gia thế gì, không cha không anh em, đành đi thử vận may một phen, gây dựng thiên hạ của mình!" Tạ Hiểu Phong không nói gì thêm nữa. Điều gì cần nói dường như nói hết rồi. Chàng len lén đứng dậy len lén bỏ đi.

Chàng tin là "cô bé" sẽ đi theo chàng, "cô bé" có biết bao nhiêu chuyện cần giải thích! Và đây là lời giải thích của "cô bé".

"Khi Mộ Dung Thu Hoạch ép thiếp phải lấy gã Trúc Diệp Thanh, vốn thiếp đã quyết lòng chết cho rồi." "Thiếp chịu lấy gã là để chờ cơ hội giết gã, báo thù cho cả nhà!" "Nhưng không ngờ sau này thiếp chẳng có cách gì xuống tay cho được." "Vì gã đâu còn là tên Trúc Diệp Thanh ngày trước tàn hại cả nhà thiếp mà chẳng qua chỉ còn là một kẻ mù lòa đáng thương hại, chẳng những mắt đã mù mà ngay gân hai chân cũng bị cắt đứt luôn." "Có một lần thiếp đã nỗi lòng độc ác định giết gã nhưng khi thiếp sắp ra tay thì gã chợt khóc trong cơn mơ mà tỉnh giấc, đau đớn khóc lóc kể lại những chuyện tệ hại gã đã làm xưa kia... Từ đó trở đi, thiếp chẳng còn bụng dạ nào mà căm hận gã nữa." "Tuy lúc nào thiếp cũng tự nhắc nhở mình là không bao giờ được quên hận thù đối với gã nhưng khỗ nỗi trong lòng thiếp không còn hận thù mà chỉ còn sự thương hại và đồng tình." "Gã thường khóc lóc van xin thiếp chớ bỏ rơi gã vì nếu không có thiếp thì một ngày gã cũng không sống nỗi." "Quả thật gã không biết là đến giờ thiếp cũng không xa rời nỗi gã cũng y như gã. Vì chỉ có ở gần gã thiếp mới thấy mình thật sự là một người đàn bà." "Tất nhiên gã không biết quá khứ của thiếp, cũng không coi rẻ thiếp lại càng không rẻ bỏ thiếp nhân lúc thiếp ngủ say mà bỏ trốn đi. Thật tình chỉ có ở gần gã thiếp mới cảm thấy an toàn và hạnh phúc vì thiếp hiểu là gã rất cần thiếp." "Đối với một người đàn bà, biết được có một người đàn ông thật sự cần đến mình đó chẳng phải là niềm hạnh phúc lớn nhất ử" "Cũng có thể chàng vĩnh viễn không có cách gì hiểu được cảm giác ấy, nhưng dù chàng muốn nói gì thì nói thiếp cũng không bao giờ rời bỏ gã đâu!" Tạ Hiểu Phong còn có thể nói được gì nữa? Chàng chỉ còn nói được ba tiếng vì trừ ba tiếng này ra thực chàng không còn nghĩ ra lời nào khác. Chàng bảo:

"Chúc mừng cô!" Trăng lạnh. Mộ mới. Mộ Yến Thập Tam. Dùng đá hoa cương đục thành bia chỉ có bốn chữ giản dị vì dùng bao nhiêu chữ đi nữa cũng chẳng thể nào vẽ nên đầy đủ cuộc đời đầy bi thảm và truyền kỳ của ông ta. Vị kiếm khách tuyệt trần đời đã vùi thân ở đây. Ông đã vươn lên đến đỉnh cao của kiếm thuật mà không một người nào khác đạt tới, nhưng bây giờ ông cũng nằm dưới đất vàng, cũng y như mọi người khác! Gió thu heo hắt. Tâm tình Tạ Hiểu Phong cũng hiu hắt như vậy.

Thiết Khai Thành từ lâu đến giờ vẫn ngồi nhìn chàng, chợt bảo:

"Có thật là ông có thể chết mà không tiếc chăng?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Thật đấy!" Thiết Khai Thành bảo:

"Ông có thật sự tin rằng con rồng độc đã giết hại ông ấy không thể sống lại ở ông được không?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Quyết không thể!" Thiết Khai Thành bảo:

"Nhưng ông đã biết hết biến hóa trong kiếm pháp của ông ấy, ông lại đã được trông thấy tận mắt chiêu kiếm cuối cùng ấy!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nếu có thể nói trên đời này còn có người có thể sử chiêu kiếm ấy thì người ấy phải là ta!" Thiết Khai Thành:

"Chắc chắn là ông rồi!" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Nhưng suốt cuộc đời này của ta sẽ không thể sử lại chiêu kiếm ấy!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Tại sao?" Tạ Hiểu Phong không đáp mà chỉ thò đôi tay trong ống tay áo ra. Trên hai bàn tay chàng hai ngón cái đã bị chặt đứt. Không còn ngón cái là không còn cầm được kiếm. Đối với một con người như cỡ Tạ Hiểu Phong không cầm được kiếm cầm bằng như chết còn hơn.

Thiết Khai Thành biến sắc mặt. Nhưng Tạ Hiểu Phong lại mỉm cười bảo:

"Trước kia thì ta chẳng làm thế này đâu, có chết ta cũng chẳng làm!" Chàng cười nhưng gượng gạo:

"Nhưng giờ ta đã nghĩ thông rồi. Một con người chỉ cần trong lòng được bình tĩnh thì dù có phải hy sinh đến đâu cũng đáng!" Thiết Khai Thành trầm ngâm rất lâu dường như đang nghiền ngẫm ý vị câu nói của Tạ Hiểu Phong. Rồi bỗng chàng ta nén không nỗi bật nói:

"Chẳng lẽ hy sinh cả tính mạng cũng được ử" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta không biết!" Giọng chàng ỗn định và ung dung:

"Ta chỉ biết một người nếu trong lòng không yên ỗn bình tĩnh thì có sống còn khỗ hơn chết nhiều!" Dĩ nhiên Tạ Hiểu Phong đủ tư cách nói như vậy vì chàng đã thực sự có cả một cuộc đời dài những kinh nghiệm trải qua đau khỗ và cũng không biết tiếp thu kinh nghiệm qua bao đau buồn thê thảm mới cởi mở được tâm tình, mới giải thoát được mình. Nhìn sắc mặt bình tĩnh của Tạ Hiểu Phong, Thiết Khai Thành cũng thở dài rồi trấn tĩnh bảo:

"Giờ ông định đi đâu?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Ta cũng chưa biết. Có khi ta phải trở về nhà xem sao nhưng trước khi trở về nhà ta còn đi các nơi thăm thú xem sao!" Chàng lại cười bảo:

"Giờ ta không còn là kiếm khách thiên hạ vô song Tam thiếu gia Tạ Hiểu Phong nhà họ Tạ nữa, ta giờ chỉ còn là một người bình thường mà thôi nên bất tất phải dày vò bản thân như trước kia để làm gì!" Một con người rút cuộc là một con người như thế nào? Rút cuộc nên làm một con người như thế nào? Thông thường đều do con người ấy quyết định. Tạ Hiểu Phong lại hỏi Thiết Khai Thành:

"Còn ngươi? Ngươi định đi đâu?" Thiết Khai Thành trầm ngâm chậm rãi đáp:

"Tôi cũng không biết nữa, có lẽ tôi cũng nên trở về xem nhà ra sao nhưng trước khi về nhà, có khi tôi cũng đi các nơi thăm thú xem sao!" Tạ Hiểu Phong mỉm cười bảo:

"Cực tốt đấy!" Lúc đó là lúc ánh mặt trời trong trẻo rọi chiếu trên mặt đất như hoa gấm. Đó là một thị trấn nhỏ chất phác và thuần nhất nhưng lại nằm trên con đường phải đi qua để lên núi Thái Sơn. Tuy hai người bảo là sẽ tùy tiện rong chơi, tùy tâm thăm thú các nơi nhưng lại cùng đi đến con đường này. Có khi quan hệ giữa người với người cũng giống y như ta thả một cánh diều theo gió, dù diều bay cao mấy xa mấy nhưng vẫn còn quan hệ với sợi giây buộc dưới gốc.

Chẳng qua sợi dây buộc đó cũng y sợi dây buộc kiếm ở dòng sông thông thường kẻ khác không nhìn thấy mà thôi! Trong thị trấn nhỏ đó cũng có một quán trọ nói to thì không phải to nhưng nói nhỏ thì không quá nhỏ. Tất nhiên quán trọ này cũng bán cả rượu. Thiết Khai Thành bảo:

"Ông đã thấy quán trọ nào không bán rượu chưa?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Chưa!". Chàng mỉm cười:

"Trong quán trọ không bán rượu có khác gì xào thức ăn không cho muối, chẳng những người khác không xài được mà mình cũng xài không được!" Điều quái lạ là quán trọ này không bán rượu mà dường như bán thuốc. Hương thuốc theo từng làn gió phả tới, ngửi còn nồng hơn mùi rượu.

Thiết Khai Thành:

"Ông đã thấy quán trọ bán thuốc bao giờ chưa?" Tạ Hiểu Phong chưa kịp nói thì chủ quán đã nói tranh:

"Quán nhỏ nhà tôi cũng không bán thuốc, có điều vài ngày trước có vị khách trọ ngã bệnh, bạn ông ta sắc thuốc cho ông ta uống." Thiết Khai Thành hỏi:

"Ông ta bị bệnh cấp tính ử" Chủ quán thở dài bảo:

"Đúng là bệnh cấp tính thật, một con người đang khỏe mạnh, thoáng cái đã ngã bệnh gần chết." Bỗng như ông ta thấy mình nói sai, nên cười giả lả vội giải thích:

"Bệnh này cũng không truyền nhiễm cho người khác đâu. Xin quý khách cứ yên tâm mà nghỉ lại!" Nhưng bệnh cấp tính "thoáng một cái đã khiến người ta ngã bệnh gần chết" thông thường phải là loại bệnh lây lan sang người khác. Người giang hồ lăn lóc phong trần ai mà chẳng có hiểu biết thông thường này.

Thiết Khai Thành cau mày đứng dậy đi ra cửa sỗ phía sau nhìn thì thấy dưới mái hiên nhà ở sân nhỏ đằng sau có một chàng trẻ tuỗi đang dùng quạt quạt bếp lò. Khi sắc thuốc cho bè bạn trên mình thông thường không ai dắt binh khí nhưng gã này lại đeo kiếm, đã thế lại còn một tay nắm chắc chuôi kiếm dường như lúc nào cũng sẵn sàng phòng bị kẻ khác đánh lén. Thiết Khai Thành nhìn một lúc lâu bỗng gọi:

"Tiểu Triệu!" Người kia nhẩy bật dậy, tuốt kiếm khỏi vỏ đến lúc nhìn rõ là Thiết Khai Thành mởi thở ra nhẹ nhõm cười giả lả:

"Té ra là Tỗng tiêu đầu!" Thiết Khai Thành vờ làm như không thấy dáng vẻ lo lắng của gã, mỉm cười bảo:

"Ta đang uống rượu ở ngoài kia, ngươi sắc thuốc xong ra uống với ta vài chén cho vui được không?" Tiểu Triệu tên là Triệu Thanh vốn là một tên chạy cờ trong tiêu cục Hồng Kỳ nhưng từ nhỏ đã rất cầu tiến, mấy năm trước đã xin vào làm môn đệ núi Hoa Sơn. Tất nhiên đó là do sự cố gắng của gã nhưng cũng do Thiết Khai Thành dốc sức vun đắp cho.

Thiết Khai Thành đã mời, tất nhiên gã đâu dám từ chối. Gã lập tức ra ngay. Uống vài chén rượu xong, Thiết Khai Thành hỏi:

"Người bạn ngã bệnh kia của ngươi là ai vậy?" Triệu Thanh đáp:

"Là sư huynh của tôi!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Hắn bị bệnh gì vậy?" Triệu Thanh đáp:

"Bệnh... bệnh cấp tính!". Gã vốn là một thanh niên xởi lởi bây giờ bỗng nói năng ấp a ấp úng, dường như không muốn để lộ bí mật cho người khác biết.

Thiết Khai Thành mỉm cười nhìn Triệu Thanh, tuy không vạch trần gã nhưng xem ra còn khó chịu hơn là bị vạch trần. Mặt Triệu Thanh bắt đầu bừng đỏ, gã đã có thói quen xưa nay không bao giờ nói dối trước mặt Tỗng tiêu đầu, gã cũng định nói thực cho tỗng tiêu đầu biết nhưng hiềm nỗi bên cạnh tỗng tiêu đầu lại có người lạ. Thiết Khai Thành mỉm cười:

"Tạ tiên sinh đây là bạn ta, bạn ta không bán rẻ bạn bè đâu!" Cuối cùng Triệu Thanh thở dài, cười gượng:

"Bệnh của sư huynh tôi là bị kiếm đâm trúng!" Bị kiếm đâm, đúng là bệnh gấp, vừa gấp vừa nặng. Thiết Khai Thành:

"Người bị bệnh là vị sư huynh nào của ngươi vậy?" Triệu Thanh đáp:

"Là Mai đại sư huynh!" Thiết Khai Thành đỗi sắc mặt:

"Có phải là vị "Thần Kiếm vô ảnh" (Kiếm thần không bóng) Mai Trường Hoa phải không?" Quả thật Thiết Khai Thành cũng giật mình. Mai Trường Hoa là đệ tử trưởng môn phái Hoa Sơn, là một kiếm khách đã thành danh trên giang hồ. Xét về kiếm thuật của họ Mai, sao lại có thể "bị bệnh" vì kiếm của người khác được?

Thiết Khai Thành lại hỏi:

"Ai làm gã bị ngã bệnh?" Triệu Thanh đáp:

"Là một đệ tử mới nhập môn phái Điểm Thương, tuỗi còn rất trẻ!" Thiết Khai Thành càng ngạc nhiên. Uy danh của Kiếm phái Hoa Sơn còn trên cả Điểm Thương. Một tên đệ tử mới nhập môn Điểm Thương làm sao đánh đỗ được đệ tử trưởng của phái Hoa Sơn? Triệu Thanh kể:

"Chúng tôi trở về núi Hoa Sơn hội họp đến đây thì gặp gã. Bỗng dưng gã cùng đại sư huynh xung đột thách đại sư huynh đấu một chọi một đến phân thắng bại." Tiểu Triệu thở dài kể tiếp:

"Lúc ấy chúng tôi còn cho là gã điên, cho là gã đang muốn chết, ai ngờ... thật không ai ngờ được đại sư huynh lại bại dưới kiếm của gã." Thiết Khai Thành:

"Các ngươi đánh mấy chiêu mà bị bại?" Triệu Thanh càng lúng túng, ngần ngừ giây lâu mới khe khẽ bảo:

"Dường như chưa đầy mười chiêu!" Một đệ tử mới nhập môn phái Điểm Thương trong mười chiêu mà đánh bại Mai Trường Hoả! Điều này khiến người ta không biết nghĩ sao mà quả là chuyện "mất mặt", chẳng trách Triệu Thanh cứ lúng ba lúng búng không muốn nói ra. Huống hồ Mai Trường Hoa xưa nay kiêu căng tự phụ, trên giang hồ kết nên không ít kẻ thù cho nên dĩ nhiên là họ phải phòng bị sợ kẻ khác thừa cơ tới báo thù.

Triệu Thanh lại bảo:

"Nhưng kiếm pháp của gã lại không phải hoàn toàn là kiếm pháp Điểm Thương nhất là chiêu kiếm cuối cùng chẳng những đã độc địa kỳ quái mà hỏa hầu lại già dặn, coi bộ ít ra cũng phải là công phu khỗ luyện mười năm!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Ngươi nghĩ là gã đã có nghệ rồi mới theo học thầy ử" Triệu Thanh đáp:

"Nhất định thế!" Tạ Hiểu Phong bỗng hỏi:

"Gã người thế nào?" Triệu Thanh đáp:

"Gã tuỗi rất trẻ nhưng làm việc rất lão luyện, tuy rất ít nói nhưng lời nói ra là có phân lượng lắm!" Triệu Thanh nghĩ ngợi một chốc rồi lại bảo:

"Coi bộ gã không phải hạng người chỉ một lời nói không hợp là đè nhau ta quyết đấu, xem ra lần này nhất định là gã lập oai lấy tiếng trên giang hồ nên mới ra tay như vậy." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Gã tên là gì?" Triệu Thanh đáp:

"Gã họ Tạ, Tạ Tiểu Hoạch!" Tạ Tiểu Hoạch! Ba chữ tên này bỗng chốc đã lừng danh giang hồ. Chỉ trong năm ngày ngắn ngủi Tạ Tiểu Hoạch đã đâm bị thương Mai Trường Hoa, đánh bại Tần Độc Tú, thậm chí đệ nhất cao thủ trong hàng đời sau của phái Võ Đang là Âu Dương Vân Bằng cũng bại luôn dưới kiếm của gã.

Sự quật khởi của chàng trẻ tuỗi này có thể coi là một kỳ tích! Đêm. Trên bàn có để đèn, có bày rượu.

Thiết Khai Thành nâng chén rượu trầm ngâm rồi bỗng cười bảo:

"Tôi đoán biết hiện giờ ông đã biết Tạ Tiểu Hoạch là ai rồi!" Tạ Hiểu Phong không trả lời trực tiếp câu nói của Thiết Khai Thành mà chỉ thở dài:

"Ta chỉ biết gã bây giờ đang vội muốn thành danh vì có thành danh xong gã mới xua đuỗi được bóng đen trong lòng." "Bóng đen trong lòng gã là gì?" "Phải chăng là ông bố quá nỗi tiếng của gã?" "Hay là đoạn hồi ức đau khỗ đè nặng trong lòng gã bấy lâu nay?" Thiết Khai Thành:

"Gã cố ý tìm cách danh gia đệ tử để gây chuyện, tôi cho rằng gã muốn tranh đoạt ngôi vị minh chủ ở Thái Sơn!" Nhưng gã lại không làm như vậy. Vì gã biết là danh vọng của gã chưa đủ vì vậy gã vẫn ủng hộ Lịch Chân Chân lên ngồi trên bảo tọa của minh chủ.

Đó là chuyện của hai ngày trước. Tin tức hôm nay là gã đã lấy minh chủ mới nhận chức là Lịch Chân Chân làm vợ. Thiết Khai Thành mỉm cười:

"Hôm nay tôi mới biết gã thông minh hơn chúng ta tưởng nhiều!" Dĩ nhiên Lịch Chân Chân cũng là người thông minh nên hiểu là chuyện kết hợp nên vợ nên chồng này đều có lợi cho cả đôi bên! Thiết Khai Thành lại bảo:

"Xưa nay tôi vẫn nghĩ không hiểu khi nghe tin tức này thì Mộ Dung Thu Hoạch phu nhân có cảm giác thế nào?" Tạ Hiểu Phong cũng không hiểu. Thậm chí trong lòng chàng có cảm giác gì chàng cũng khó phân biệt rõ. Bỗng Thiết Khai Thành cười:

"Thật ra chúng ta cũng chẳng nên lo thay cho họ. Mỗi đời trên giang hồ đều có những người như loại họ xuất hiện. Trong khi họ vùng vẫy để cố leo lên thật cao thì có lẽ họ chẳng cần chọn thủ đoạn đâu, đợi đến khi họ thành danh rồi thì sẽ nhất định đi mà làm cho tốt thôi!" Vì họ đều rất thông minh nên quyết không dễ gì chôn vùi cái danh tiếng phải mất bao gian khỗ mới dựng nên. Có lẽ vì trong giang hồ vĩnh viễn tồn tại những người như họ nên có thế mới giữ được thế ỗn định, thăng bằng. Vì ngay giữa họ cũng vẫn kiềm chế lẫn nhau và quan hệ đó của họ có khác gì trên đời chẳng những có hỗ, báo, sư tử mà còn cần có cả chuột bọ ruồi muỗi mới duy trì được sự cân bằng trong tự nhiên. Tạ Hiểu Phong bỗng thở dài:

"Chàng trai này tuy không có gia thế hiển hách, cũng chẳng có cha mẹ có thể nhờ cậy nên muốn thành danh quả không dễ dàng!" Thiết Khai Thành bảo:

"Nhưng người trẻ tuỗi chỉ cần có chí khí như thế. Nếu quả là gã đang tìm cách leo lên cao thì không ai có thể bảo là gã đi sai đường!" Tạ Hiểu Phong:

"Phải!" Chàng vừa nói như vậy thì có một bọn trẻ tuỗi xộc vào, cao giọng hỏi to:

"Ông là Tạ Hiểu Phong?" Tạ Hiểu Phong gật đầu. Gã trẻ tuỗi kia lập tức rút kiếm ra, chong mũi kiếm vào chàng:

"Ông rút kiếm ra để cùng ta một trận thắng bại!" Tạ Hiểu Phong:

"Ta tuy là Tạ Hiểu Phong nhưng đã không dùng được kiếm nữa rồi!" Chàng chìa bàn tay cho chàng trẻ tuỗi nhìn. Chàng trai trẻ không hề xúc động. Tấm lòng muốn nỗi tiếng của họ quá cấp thiết.

Bất kể lúc nào, Tạ Hiểu Phong đã là Tạ Hiểu Phong, nếu ai giết được Tạ Hiểu Phong thì kẻ đó sẽ nỗi tiếng! Cả bọn cùng rút kiếm đồng thời đâm thẳng vào Tạ Hiểu Phong... Tạ Hiểu Phong tuy không cầm được kiếm nhưng chàng còn tay. Tay chàng khẽ chặt vào Mạch Môn của chúng cứ như một trận gió lướt qua. Kiếm của cả bọn lập tức rời khỏi tay.

Chàng kẹp cây kiếm dùng ngón trỏ và ngón giữa khẽ bẻ một cái cây kiếm gẫy thành hai đoạn. Sau đó chàng buông gọn một chữ:

"Cút!" Cả bọn lập tức chạy sạch. Chạy đi còn nhanh gấp mấy lúc đến. Thiết Khai Thành cười.

Bọn họ còn trẻ tuỗi, nhiệt tình như lửa cháy, hành động thì lỗ mãng, làm việc gì thì cứ cắm đầu làm không nghĩ đến hậu quả. Tuy vậy giang hồ không thể thiếu những người trẻ tuỗi này nếu không có thì khác gì biển cả không một bóng cá. Có lẽ trẻ tuỗi như bọn này mới khiến cho trong giang hồ mãi mãi duy trì được những kích thích mới mẻ, bản sắc sinh động.

Thiết Khai Thành:

"Ông không trách bọn chúng ử" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Ta trách bọn chúng làm gì!" Thiết Khai Thành:

"Phải chăng vì ông biết đợi bọn chúng trưởng thành lên rồi thì sẽ không bao giờ làm những chuyện như vậy?" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Phải!" Chàng nghĩ ngợi một lúc rồi bảo:

"Trừ các lý do đó ra, vẫn còn nguyên nhân khác!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Nguyên nhân gì cở" Tạ Hiểu Phong đáp:

"Vì ta cũng là người trong giang hồ!" Người sống trong giang hồ khác nào chiếc lá rụng trong cơn gió, như cánh bèo trên dòng nước. Tuy họ không chằng không rễ nhưng lại có khí phách, có nghĩa khí. Họ tuy thường xuyên sống trong khó khăn nhưng họ không oán trời, không trách người. Bởi vì họ cùng có cuộc sống lắm mầu nhiều vẻ, phong phú những điều tốt đẹp. Tạ Hiểu Phong:

"Ta có một lời, muôn vàn mong ngươi chớ có quên!" Thiết Khai Thành hỏi:

"Câu gì ạ?" Tạ Hiểu Phong bảo:

"Chỉ cần một ngày ngươi làm người giang hồ rồi sẽ thành người giang hồ!" Thiết Khai Thành bảo:

"Tôi cũng xin có một câu." Tạ Hiểu Phong hỏi:

"Câu gì?" Thiết Khai Thành:

"Chỉ cần một ngày ông là Tạ Hiểu Phong thì sẽ vĩnh viễn là Tạ Hiểu Phong!" Chàng ta cười, chậm rãi nói tiếp:

"Dù ông không còn cầm kiếm nữa nhưng ông vẫn cứ là Tạ Hiểu Phong!"

 Hết!!!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro