Hồi 31-Hết Vân hải ngọc cung duyên [Lương Vũ Sinh]

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi Thứ Ba Mươi Mốt

    Phùng Lâm thắng được trận này, quần hùng đều cả mừng, Tào Cẩm Nhi càng biết ơn bà ta hơn, Phùng Lâm lui trở về, Tào Cẩm Nhi liền bước tới nghênh đón, tông sư các phái cũng không biết có nội tình nên cũng ngợi khen bà ta. Ngay lúc này, Phùng Lâm chợt nghe có tiếng bật cười, tựa như có người kề miệng bên tai bà ta mà cười, Phùng Lâm cả kinh nhưng chỉ thấy tông sư các phái đều ngồi nghiêm nghị, thần sắc vẫn như thường, hình như ngoại trừ Phùng Lâm chẳng ai nghe được tiếng cười này. Phùng Lâm biết khi Mạnh Thần Thông hí lộng Thống Thiền thượng nhân cũng đã dùng công phu Thiên độn truyền âm, bà ta chột dạ nhủ thầm: “Chả lẽ Mạnh Thần Thông cười lạnh với mình?” nhưng lập tức nghĩ lại: “Nếu có người ngầm giúp mình, người đó tuyệt không phải là Mạnh Thần Thông; nếu Mạnh Thần Thông biết thì sẽ không thể nào để yên, làm sao chỉ cười lạnh với mình?” Và lại tiếng cười ấy hình như không có ý xấu, không giống như cười lạnh, trong lòng bà ta chợt nảy ra ba câu hỏi, thứ nhất phải chăng vừa rồi có người giúp mình? Thứ hai, ngoại trừ Mạnh Thần Thông còn có ai biết Thiên độn truyền âm? Thứ ba nếu quả thực có người ngầm giúp mình, tiếng cười ấy đương nhiên là của y, tại sao y lại tỏ vẻ bí hiểm như thế?”. 

Khi Phùng Lâm đang trầm tư thì phía Mạnh Thần Thông lại có một người bước ra khiêu chiến với phái Võ Đang, người đó chính là Li Khảm kiếm Đồ Chiêu Minh ở đảo Trường Minh miền Đông Hải. 

Chỉ nghe y lớn giọng nói: “Từ lâu đã nghe nói bảy mươi hai đường Đoạt mệnh kiếm của phái Võ Đang uy lực vô cùng, tại hạ không biết tự lượng sức mình, muốn mời bậc cao minh trong phái Võ Đang ra thỉnh giáo.” Trong chưởng môn các phái, Lôi Chấn Tử là người trẻ tuổi nhất, hiểu biết còn nông cạn, không biết lai lịch của người này, nghĩ bụng mình là chưởng môn đương nhiên không tiện ra đấu, đang định chọn một sư đệ công lực cao nhất ra ứng phó, chỉ nghe Đồ Chiêu Minh cười ha hả rồi nói tiếp: “Mấy trận trước đều là đơn đả độc đấu, nếu có tiếp tục như thế thì e rằng sẽ rất tẻ nhạt, nghe nói Cửu cung bát quái kiếm trận của phái Võ Đang uy lực vô song, xin mời Lôi chưởng môn xuất lãnh bậc cao minh của quý phái bày trận này để tại hạ mở rộng tầm mắt!” Cửu cung bát quái kiếm trận của phái Võ Đang là dùng chín người tinh thông Liên hoàn đoạt mệnh kiếm bày theo phương vị cửu cung bát quái. Từ cuối thời Minh, sau khi Hoàng Diệp đạo nhân của phái Võ Đang sáng tạo ra bộ kiếm trận này, hơn một trăm năm qua chỉ dùng ba lần, một lần là đối phó với nữ kiếm khách Ngọc La Sát, một lần là đối phó với vợ chồng đại ma đầu Hàn Chung Sơn, Điệp Hoành Ba. Lần cuối cùng là cách đây hơn mười năm, khi Mạo Xuyên Sinh khai đàn kết duyên ở núi Nga Mi, đã bày trận này để đối phó với chín tên đệ tử của phái Linh Sơn. Sở trường của Liên hoàn đoạt mệnh kiếm là nhanh nhạy kín kẽ, nếu chín người tinh thông Liên hoàn đoạt mệnh kiếm cùng đánh ra thì hầu như không hề có sơ hở, cả ruồi cũng bay qua không lọt, chưởng môn của các phái ở đây cũng chưa chắc dám một mình một ngựa xông vào trận này, thế mà nay Đồ Chiêu Minh lại đòi Lôi Chấn Tử đích thân ra giữ trận! 

Đồ Chiêu Minh vừa nói ra câu ấy thì Nhàn Vân đạo nhân, một trong ba trưởng lão của phái Võ Đang và Kim Quang đại sư của phái Nga Mi đều không khỏi lạnh mình.  

Té ra Đồ Chiêu Minh là đệ tử của chưởng môn phái Linh Sơn Hàn Chung Sơn, mười năm trước khi trưởng lão phái Võ Đang Mạo Xuyên Sinh khai đàn kết duyên lần cuối cùng, một sư đệ của y tên là Diệp Đại Nhậm dắt đồng môn phá Võ Đang kiếm trận, lần đó Đồ Chiêu Minh không xuất hiện, sau khi phái Linh Sơn đại bại, Đồ Chiêu Minh mất dạng trên giang hồ, sau đó rất lâu có người đồn rằng y bái một kiếm khách ẩn cư ở miền Đông Hải làm thầy. Kim Quang đại sư tuổi đã bát tuần, cùng một thời với Hàn Chung Sơn, biết Đồ Chiêu Minh là người giỏi nhất trong số các đệ tử của Hàn Chung Sơn, cả chưởng môn sư huynh của y mà cũng không bằng, nay y mai danh ẩn tích hơn mười năm, đã dám xuất hiện ở Trung Nguyên thì chắc là cũng đã luyện được một môn tuyệt kỹ võ công! Nhàn Vân đạo nhân là sư thúc của Lôi Chấn Tử năm xưa đã từng chứng kiến vợ chồng Hàn Chung Sơn và đê tử phái Linh Sơn đại bại. Bởi vậy sau khi nhận ra Đồ Chiêu Mình thì lập tức hiểu ra y đến là để báo thù cho sư phụ và sư huynh. Nhưng nghĩ bụng dù y giỏi đến mức nào cũng chẳng hơn được sư phụ của mình, bởi vậy vẫn còn vững dạ. 

Lôi Chấn Tử nghe Đồ Chiêu Minh yêu cầu mình chủ trì kiếm trận thì không nén được lửa giận, nếu không vì thân phận chưởng môn thì dã phát tác, thế rồi y hừ một tiếng lạnh lùng nói: “Kiếm trận của tệ phái chỉ tiếp đãi cao nhân đương thế, các hạ huênh hoang như thế chắc là có bản lĩnh kinh thế hãi tục, có lẽ cũng đủ gọi là cao nhân, nhưng đây là lần đầu tiên ta nghe tên của các hạ, dầu thế nào đi nữa cũng coi như mới gặp mặt một lần, ta không thể phá lệ, các hạ cứ tỉ thí trước với môn hạ của bổn môn một trận!” Lôi Chấn Tử nói xong thì Đồ Chiêu Minh cũng hừ một tiếng, nói đầy vẻ kiêu ngạo: “Ta đương nhiên không phải là cao nhân đương thế, nhưng cũng chưa chắc cần cao nhân mới có thể phá nổi kiếm trận của quý phái, rốt cuộc lợi hại như thế nào cũng phải gặp rồi mới biết, ta chưa bao giờ rút lại lời đã nói!” Hai người đều giận dữ, Nhàn Vân đạo nhân khuyên rằng: “Lôi chưởng môn, Đô huynh là đệ tử của chưởng môn phái Linh Sơn Hàn Chung Sơn năm xưa, sư phụ, sư huynh của y đều từng ấn chứng võ công trong kiếm trận của bổn phái, bởi vậy chưởng môn nên phá lệ lần này.” Đồ Chiêu Minh ngẩng đầu lên trời cười nhạt, ý như muốn nói: “Nay các ngươi mới biết lai lịch của ta ư?” Lôi Chấn Tử cố nén lửa giận, nói: “Nếu sư thúc đãnói thế thì cũng được.” Rồi gọi ra chín đệ tử, ba người là sư đệ của mình, ba người là sư diệt của mình, ba người là đệ tử của mình, y bảo chín người ấy lập thành kiếm trận rồi cười lạnh: “Nếu tôn giá đã bảo như thế thì xin mời thử xem, Tùng Thạch sư đệ, các người phải cẩn thận tiếp đãi cao nhân!” trong khoảnh khắc kiếm trận đã bày xong, Tùng Thạch đạo nhân là nhân vật võ công cao cường trong đời thứ hai của phái Võ Đang, tiếng tăm chỉ kém chưởng môn sư huynh, Lôi Chấn Tử bảo y thay mình chủ trì kiếm trận coi như đã coi trọng Đồ Chiêu Minh, Đồ Chiêu Minh hừ một tiếng, lạnh lùng bảo: “Lôi chưởng môn không chịu vào trận, chắc là vẫn cho rằng Đồ mỗ vẫn chưa có tư cách thỉnh giáo, nếu Đồ mỗ may mắn xông ra khỏi kiếm trận của quý phái...” Lôi Chấn Tử không để y nói xong thì đã cắt lời: “Có tới đâu thì hay tới đó, bây giờ Đồ tiên sinh vẫn chưa bước vào kiếm trận, hình như nói những lời đó còn quá sớm!” Lời lẽ của hai người lạnh lùng đến cực điểm, Đồ Chiêu Minh tựa như không thèm để ý đến Tùng Thạch đạo nhân, chưa vào trận thì đã nói đến chuyện sau khi phá xong trận, còn Lôi Chấn Tử thì ý muốn nói y chưa chắc có bản lĩnh phá trận. 

Đồ Chiêu Minh biến sắc, hừ một tiếng rồi lại cười ha hả: “Ông nói cũng phải lắm, có tới đâu thì hay tới đó, lát nữa sẽ tính!” Tiếng cười của y đầy tự phụ. Thế rồi Đồ Chiêu Minh tuốt kiếm ra khỏi võ lập tức xông vào trận! Thanh kiếm này của Đồ Chiêu Minh rất đặc biệt, thông thường đoản kiếm dài hai thước tám mươi phân, trường kiếm dài ba thước sáu phân, thanh kiếm của y thì dài đến hơn bốn thước, nhưng độ rộng chỉ có bằng ba ngón tay, thanh kiếm ánh lên sắc màu đỏ. Nhàn Vân đạo nhân nghiên cứu rất kỹ về các món binh khí, thấy thế thì không khỏi sững người, thầm nhủ: “Thanh kiếm của y trông kỳ quặc đến thế, chỉ e thực sự đã luyện được công phu tà dị nào đó.” Đồ Chiêu Minh lia thanh trường kiếm bước vào từ cửa Tốn,người giữ cửa tốn là một sư đệ của Lôi Chấn Tử tên là Lăng Nhất Tiêu. Lăng Nhất Tiêu giơ ngang trường kiếm trước ngực, lùi ra sau một bước để cho y vào trận, chỉ nghe vù một tiếng, Đồ Chiêu Minh đâm kiếm tới tựa như có một luồng gió nóng lướt tới, Lăng Nhất Tiêu thất kinh lập tức phát động trận thế, người giữ hai cửa Càn và Chấn lao tới, hai kiếm đâm ra đè kiếm chiêu của Đồ Chiêu Minh, buộc y tiến vào ở giữa, lập tức kiếm quang tung bay vây lấy y trong trận! Nội công của chín người này đều đã có hỏa hầu, tuy quái kiếm của Đồ Chiêu Minh có thể đánh ra gió nóng nhưng cũng không thể đả thương được họ, ai nấy đều giữ kiếm trận chặn kẻ địch, Đồ Chiêu Minh dù xông tới hướng nào cũng như đụng phải một rừng kiếm, dù y tả xung hữu đột cũng không thể nào xông ra, chín thanh kiếm của đệ tử phái Võ Đang như kết thành một màn kiếm dày đặc! Lôi Chấn Tử thấy bên mình chiếm được thượng phong thì cười lạnh: “Gã này cứ khoác lác, tôi tưởng y có bản lĩnh gì, té ra cũng chỉ là thế!” 

Nhàn Vân đạo nhân đứng bên cạnh nói: “Đừng khinh địch, bộ pháp của y cũng bước theo phương vị Cửu cung bát quái chẳng hề rối loạn, chỉ e y đang dụ địch!” Lôi Chấn Tử nói: “Kiếm trận của chúng ta kín kẽ như áo trời, nếu y dụ địch thì kiếm trận càng chặt, lúc đó chính là tự chuốc lấy thất bại” Nhàn Vân đạo nhân trầm ngâm không nói, chỉ cảm thấy Lôi Chấn Tử quá khinh địch, nhưng trận thế này đúng là kín kẽ không có sơ hở cho nên cũng yê n tâm. 

Một lúc sau chỉ thấy Tùng Thạch đạo nhân lia cây trường kiếm phát ra tín hiệu nghịch chuyển kiếm trận, chín thanh kiếm vùng vẫy như bầy rồng dồn Đồ Chiêu Minh tiến gần vào vị trí cửa Tử, chỉ cần bị buộc vào cửa Tử thì dù có tài cao bằng trời cũng khó phá. Lôi Chấn Tử nói: “Sư thúc, thế nào?” Nhàn Vân đạo nhân hơi gật đầu, nói: “Trận này có lẽ cũng không đến nỗi thua.” Lúc này Nhàn Vân đạo nhân cũng tường rằng chắc chắn đã thắng, song ông ta hơi ngạc nhiên, từ sau khi Đồ Chiêu Minh xông vào kiếm trận toàn là thấy đệ tử bổn phái chiếm thượng phong tựa như chẳng phải là một cuộc ác chiến, nghĩ chưa dứt thì chợt nghe Đồ Chiêu Minh hú dài một tiếng, trường kiếm chỉ tới, ở mũi kiếm đột nhiên bắn ra tia lửa, Lăng Nhất Tiêu đang xông tới thì bị lửa táp cháy nửa mặt, Đồ Chiêu Minh phá được một người thì câytrường kiếm chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc kiếm trận Cửu cung bát quái lập tức đại loạn! Lúc này mọi người mới nhận ra kiếm pháp của y thực sự rất cao minh, vừa rồi chẳng qua y chỉ dốc ra ba phần bản lĩnh. 

Nhưng điều lợi hại nhất vẫn là thanh quái kiếm, hễ thanh kiếm chỉ ra thì có tia lửa bắn theo, đây là lúc trận thế thắt chặt, chín đệ tử phái Võ Đang dồn vào nhau, chẳng có chỗ né tránh, hễ y vừa chỉ một kiếm thì ít nhất có một đệ tử bị thương. 

Tùng Thạch đạo nhân phóng vọt người lên, ba người khác cũng phóng tới từ những phương vị khác nhau, họ đang ở trên không trung nhưng vẫn giữ phương vị bốn cửa Càn, Khôn, Chấn, Đoài, Đồ Chiêu Minh quát lớn một tiếng, thanh kiếm múa tròn trên đầu, bắn ra một màn lửa đến cả trượng vuông, lúc khói tan lửa ngừng thì chín đệ tử phái Võ Đang đã bị thương ngã xuống đất, Tùng Thạch đạo nhân và Lăng Nhất Tiêu bị thương nặng nhất, mặt đều bị cháy xém, vả lại còn bị mất đi một cánh tay! 

Hai vai của Đồ Chiêu Minh cũng nhuốm đầy máu, đó là y đã bị Tùng Thạch và Lăng Nhất Tiêu đâm một kiếm, song chỉ là vết thương ngoài da, so với thương thế của đệ tử phái Võ Đang thì chẳng hề chi. 

Số là mười năm nay Đồ Chiêu Minh nuôi chí báo thù, đã theo Khảm ly đảo chủ ở miền Đông Hải luyện Khảm ly kiếm pháp, ông ta cũng truyền Khảm ly kiếm cho y, trong kiếm có chứa hỏa dược, hễ đè vào chuôi kiếm thì độc hỏa bắn ra, Khảm ly đảo chủ cũng truyền kỳ môn trận pháp cho y. Cho nên Đồ Chiêu Minh mới dám tự phụ khiêu chiến với kiếm trận phái Võ Đang. Trong khoảng sát na kiếm trận khép chặt, y đột nhiên phát huy uy lực của Khảm ly kiếm, khiến đệ tử Võ Đang đều bị thương! Đồ Chiêu Minh tuy toàn thắng nhưng y cũng không ngờ kiếm trận của phái Võ Đang lại kỳ diệu hơn y tưởng tượng. Bởi vậy trong khoảng sát na cuối cùng, y mới bị thương. 

Phái Võ Đang thua liếng xiểng, Lôi Chấn Tứ vừa kinh vừa giận, chỉ thấy Đồ Chiêu Minh chậm rãi bước tới, cười với y rằng: “Đồ mỗ may mắn xông ra kiếm trận của quý phái, Lôi chưởng môn có gì dạy bảo, Đồ mỗ rửa tai lắng nghe!” Y nói thế rõ ràng là buộc Lôi Chấn Tử động thủ với mình. 

Lôi Chấn Tử tái xanh mặt, hối hận rằng mình đã không đích thân chủ trì kiếm trận, lúc này tuy lửa giận ngất trời nhưng Thiếu Lâm và Võ Đang là hai môn phái lớn nhất trong võ lâm, y lại là chưởng môn phái Võ Đang, động thủ với một người đã bị thương dù có toàn thắng cũng mất sĩ diện, huống chi y chưa chắc thắng nổi Đồ Chiêu Minh! Nhưng nếu không đích thân ứng chiến thì cũng không thể chọn được ai ra nữa, nếu cứ để mặc cho kẻ địch dương oai diệu võ thì càng mất sĩ diện hơn. Lôi Chấn Tử đè vào chuôi kiếm, định bước ra chợt thấy có một thiếu niên mảnh khảnh cười hì hì chạy ra lớn giọng nói: “Chưởng môn phái Võ Đang là thân phận gì,ngươi đã bị thương mà còn dám khiêu chiến? Hừ, cả ta cũng không muốn chiếm tiện nghi ấy!” Chàng ta chính là Giang Nam. 

Đồ Chiêu Minh nào để ý đến Giang Nam, y trợn mắt lạnh lùng mắng: “Ngươi là cái thứ gì mà nói càn như thế, cút đi cho mau, nếu không ta lấy mạng ngươi!” Giang Nam cười lớn nói: “Hay lắm, ta đang định nói với ngươi câu đó, ta đang chờ ngươi đâm tới, đâm nào, đâm nào! Nói mà không làm là con rùa rụt đầu!” Đồ Chiêu Minh cả giận, y làm sao giao chiến với một kẻ vô danh tiểu tốt, nhưng đã nói thế nên bị Giang nam chặn họng, không thể nào cãi lại được bởi vậy cả giận định dùng tay không bắt Giang Nam. 

Y chưa kịp ra tay thì Giang Nam đã điểm mũi chân lao vút về phía y, cười hì hì nói: “Lão già khốn kiếp đã bị thương kia, Giang Nam này vốn không muốn chiếm tiện nghi của ngươi, nhưng ngươi huênh hoang tự đại, nhục mạ ta, ta biết có thắng cũng chả nó vinh quang gì nên cũng đành để cho thiên hạ anh hùng chê cười, ta phải dạy cho ngươi một bài học mới được!” Chàng ta tỏ ra như không thèm động thủ với Đồ Chiêu Minh. Nói thì chậm, sự việc lúc đó diễn ra rất nhanh, người đến tiếng đến, Giang Nam đánh ra một chiêu Tinh hà đảo quyện, kiếm quang từ dưới luồn lên, đâm vào yết hầu của Đồ Chiêu Minh. 

Chiêu này của Giang Nam là chiều số tinh diệu trong Băng xuyên kiếm pháp, công lực của chàng tuy không cao nhưng đây là một chiêu bí ảo vô cùng, Đồ Chiêu Minh không kịp phòng bị nên thất kinh, vội vàng lướt người ra phía sau, Giang Nam cười ha hả, Đồ Chiêu Minh vừa lách người ra thì Giang Nam đã nhảy bổ tới, lúc này Đồ Chiêu Minh đã phòng bị, trở tay đánh lại một kiếm, quát: “Ngươi cười nữa đi!” chỉ nghe keng một tiếng, cây kiếm của Giang Nam bị đánh bật ra, chàng thối lùi ra sau mấy bước. Giang Nam kìm người lại rồi cười hì hì: “Lão già khốn kiếp, Giang Nam này vẫn cười đấy thôi! Ngươi làm gì được ta?” nhát kiếm vừa rồi của Đồ Chiêu Minh rất mạnh mẽ, y tường rằng Giang Nam không bị thương thì ít nhất cũng bị rơi kiếm, nào ngờ Giang Nam chỉ thối lui ba bước mà vẫn cười hì hì. Đồ Chiêu Minh giật mình: 

“Tiểu tử này quả nhiên có mấy phần bản sự, mình không thể khinh thường!” Vốn là công lực của Giang Nam kém xa Đồ Chiêu Minh, nhiều nhất cũng chỉ được năm phần của y, nhưng Đồ Chiêu Minh trải qua một trận ác chiến, hai tay đều đã bị thương, công lực đương nhiên giảm xuống hai phần, lại thêm Giang Nam được Kim Thế Di truyền cho yếu quyết võ học thượng thừa, cho nên khi đỡ chiêu này chàng đã dùng tự quyết chữ “ngự” tránh thực lấy hư, lại ngự lực đạo của đối phương được hai phần, vì thế công lực của Giang Nam tuy không bằng đối phương cũng chỉ thối lui ba bước thì đã kìm được người.  

Đồ Chiêu Minh hơi kinh hãi, bọn Trần Thiên Vũ càng thất kinh, họ nằm mơ cũng không ngờ rằng Giang Nam lại nhảy ra khiêu chiến với kẻ cường địch, lúc này thấy Giang Nam tiếp một chiêu chỉ thối lui ba bước, tuy họ bất ngờ nhưng rốt cuộc vẫn thấy chàng không bằng người ta, Trần Thiên Vũ lo lắng trong bụng, bàn với Đường Kinh Thiên: “Tên tiểu tử này thật không biết trời cao đất dày, cứ lấy tính mạng ra đùa giỡn, làm thế nào đây? Chi bằng bảo y nhận thua rồi chúng ta sẽ ra thay cho y vào.” 

Ý của Trần Thiên Vũ là muốn Đường Kinh Thiên ra tay cho Giang Nam, Đường Kinh Thiên có Du long kiếm và Thiên Sơn thần mãng binh khí và ám khí đều không thua đối phương, dẫu không thắng được thì ít nhất cũng không bại. 

Đường Kinh Thiên nhìn vào trong trận rồi mỉm cười: “Trần huynh đừng lo, Giang Nam là người may mắn, chắc chắn sẽ không thua. Y đối phó kẻ cường địch tà phái như thế này chỉ e còn hiệu quả hơn cả chúng ta!” Trần Thiên Vũ nửa tin nửa ngờ, nhưng Đường Kinh Thiên đã nói như thế thì dù có ép cũng chẳng được bởi vậy chỉ đành xem tiếp. 

Đồ Chiêu Minh tiến tới từng bước, nhưng Giang Nam rất lanh lẹ, sau bài học lúc nãy chàng không tiếp chính chiêu của y nữa, chỉ thấy chàng huơ chân mua tay, lúc thì lộn người tới đâm một kiếm, lúc thì nhảy vọt lên phun một bãi đờm vào mặt kẻ địch. 

Chàng đã dùng thân pháp độc môn của Kim Thế Di, thân pháp này quái dị vô cùng, tuy đờm không thể đả thương người, nhưng nếu Đồ Chiêu Minh bị chàng phun trúng thì còn đâu mặt mũi? 

Đồ Chiêu Minh tức giận vô cùng, đột nhiên kiếm pháp thay đổi, chỉ thấy bốn phương tám hướng đều là bóng dáng của y, trong chốc lát đã vây Giang Nam vào bên trong, Lôi Chấn Tử thấy thế thì kinh hãi, té ra Đồ Chiêu Minh cũng đi theo phương vị của Cửu cung bát quái để đánh ra bộ kiếm pháp này, mà Võ Đang kiếm trận cũng theo nguyên lý Cửu cung bát quái, trong Võ Đang kiếm trận thì mỗi người chiếm một phương vị, nhưng Đồ Chiêu Minh thì dùng thân pháp cực kỳ thần tốc di hình hoán vị,che kín phương vị lại tựa như chỉ có một người mà bày thành một kiếm trận. Tuy uy lực không bằng Võ Đang kiếm trận nhưng cũng đã là một môn công phu hiếm thấy, Lôi Chấn Tử tự thấy không bằng, lòng thầm nhủ: “Có lẽ mình ứng phó được với bộ kiếm pháp của y, nhưng muốn thắng thì khó khăn vô cùng!” Giang Nam không hiểu thuật kỳ môn bát quái, Đồ Chiêu Minh thi triển bộ kiếm pháp này thì chàng nhất thời bị vây vào bên trong, vòng vây càng lúc càng thắt chặt, điều kỳ lạ là chàng không thể thi triển được thân pháp, trong lúc nguy ngập, chàng không dám bỡn cợt kẻ địch nữa, chỉ ngưng thần đối địch chẳng cười đùa, đương nhiên cũng chẳng phun nước bọt nữa. 

Trần Thiên Vũ toát mồ hôi lạnh, Đường Kinh Thiên thầm kinh, nhủ rằng: “Hỏng bét, hỏng bét, đến lúc này mà vẫn chẳng thấy có cao nhân nào ngầm trợ giúp cho y, mình đã đoán nhầm, lẽ nào Giang Nam uổng mạng!” Đến lượt Đồ Chiêu Minh cười ha hả, chỉ thấy y đánh gấp từng kiếm tới, lớn giọng nói: “Tiểu tặc, có biết lợi hại chưa?” đột nhiên y lách người di chuyển từ vị Càn sang vị Tốn, hất cây trường kiếm của Giang Nam ra, tay trái xỉa nhanh như điện chớp xuống bên sườn của Giang Nam! Vốn là Đồ Chiêu Minh chỉ cần đáng thêm một chiêu nữa có thể đâm thủng người Giang Nam, nhưng y căm ghét chàng đã bỡn cợt mình cho nên toan bắt sống chàng làm nhục một phen để trả thù, nào ngờ Giang Nam đã học được bản lĩnh Điên đảo huyệt đạo, Đồ Chiêu Minh đâm xuống bên sườn, Giang Nam cười ha hả: “Ngứa chết ta mất!” Rồi trở tay phất lại, năm ngón tay mở ra, chàng đã dùng công phu điểm huyệt độc môn của Kim Thế Di, Đồ Chiêu Minh tuy không hiểu sự ảo điệu trong đó nhưng vừa thấy đã biết là công phu điểm huyệt thượng thừa, Giang Nam đột nhiên bật cười khiến y đã thất kinh, thế rồi thấy Giang Nam dùng công phu điểm huyệt thượng thừa phản công, đương nhiên kinh hãi đến cực điểm, vội vàng lách ra vị Chấn. Độ y lách có nhanh nhưng cũng bị ngón tay của Giang Nam chạm vào, lập tức toàn thân tê rần, y vội vàng vận ba lần chân khí, khí huyết mới lưu thông. Đó là bởi vì công lực của Giang Nam chưa đủ, chứ nếu không cú điểm ấy có thể phá khí công bế huyệt của y! Giang Nam thở phì một hơi, lia cây trường kiếm ra, lại cười hì hì: “Lão khốn kiếp, ngươi có biết lợi hại chưa?” Đồ Chiêu Minh tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, hối hận rằng lúc nãy mình không nắm cơ hội giết phăng Giang Nam cho xong, nay tay chân vẫn còn tê rần, nay muốn thi triển Cửu cung bát quái kiếm pháp thì lực bất tòng tâm, đồng thời y cũng khiếp sợ công phu điểm huyệt của Giang Nam cho nên không dám tiến tới gần nữa. 

Chỉ thấy Giang Nam cười ha hả rồi lao tới đâm kiếm vào y, Đồ Chiêu Minh nghiến răng, lớn giọng quát: “Là ngươi tự tìm cái chết, đừng trách kiếm ta vô tình!” 

Thế là cây trường kiếm chĩa tới, một luồng độc hỏa từ trong mũi kiếm bắn ra. 

Đến lúc này Đồ Chiêu Minh mới thi triển uy lực của Li khảm kiếm không phải là vì y nương tay mà chỉ muốn giữ thể diện cho mình. Lúc nãy y đã đại phá được Võ Đang kiếm trận, nay lại giao thủ với một tiểu tử vô danh tiểu tốt mà bị buộc phải dùng kiếm đã là mất thể diện, nếu dùng độc hỏa trong kiếm mà thắng chỉ e bị người ta chê cười. 

Giờ đây y đành phải thi triển đòn sát thủ cuối cùng, tưởng rằng độc hỏa phun ra thì Giang Nam không chết cũng bị thương, nào ngờ Giang Nam cũng đã liệu đến y sẽ dùng chiêu này, y vừa chỉ cây trường kiếm thì Giang Nam lộn người ra ngoài, gào lên: 

“Lão khốn kiếp phóng hỏa đốt người, ôi chao, không xong, may mà ta cũng có báu vật!” Giang Nam lộn người đã nhanh, Đồ Chiêu Minh càng nhanh hơn, khi cây trường kiếm chưa tới, lửa táp vào lưng chàng, Giang Nam đột nhiên đỡ tay lại, chỉ thấy một mảng hàn quang bao trùm ngọn lửa, khí lạnh mờ mịt, chỉ trong chớp mắt khói tan lửa tắt. 

Té ra báu vật của Giang Nam chính là băng phách thần đạn, trước đây công lực của chàng chưa đủ U Bình không đám cho chàng sử dụng băng đạn, cho tới khi chàng đánh lui Kim Nhật, U Bình mới biết công lực của Giang Nam đã cao hơn mình một bậc, bởi vậy đã cho chàng năm viên băng phách thần đạn để hộ thân. 

Băng phách thần đạn là loại hàn băng vạn năm, khí lạnh của thần đạn chính là khắc tinh của các loại ám khí hỏa dược, Giang Nam vừa phóng ra ba viên băng phách thần đạn, hàn quang khí lạnh ngưng thành màn sương buông xuống. Dù độc hỏa của Đồ Chiêu Minh có mạnh hơn cũng bị dập tắt. 

Đồ Chiêu Minh thất kinh, Giang Nam kêu lên: “Có đi mà không có lại là không phải lễ, lão khốn kiếp, ngươi cũng nên tiếp ám khí của ta!” Rồi chàng vung tay phát ra hai viên băng đạn còn lại, Đồ Chiêu Ninh búng viên đạn thứ nhất vỡ ra, khí lạnh dồn tới bất đồ y rùng mình một cái, lúc đó viên băng đạn thứ hai đã bay vào mồm y. 

Thế là Đồ Chiêu Minh đứng cứng đờ như một pho tượng! Đồ Chiê u Minh có mấy mươi năm công lực, tuy nội công chưa luyện đến cảnh giới thượng thừa nhất, vẫn còn kém những cao nhân như Kim Quang đại sư, Thống Thiền thượng nhân nhưng ít nhất cũng bằng vợ chồng Đường Kinh Thiên, theo lẽ y có thể chịu nổi một hai viên băng đạn, dầu cho Giang Nam chỉ muốn làm hao phí chân khí của y, không ngờ y quét một viên băng đạn thì đứng cứng đờ ra! Giang Nam đột nhiên thấy bộ dạng của y trông rất quái dị cũng không khỏi chưng hửng, ngay lúc này bên tai chợt nghe một giọng nói rất quen thuộc, tuy nhỏ nhưng rất rõ ràng: “Tên tiểu tử ngốc, còn chưa hạ y!” Giang Nam được người ấy nhắc thì lập tức chạy tới tát Đồ Chiêu Minh mấy bạt tai rồi giật lấy thanh Li khảm kiếm của y ném xuống đầm sâu ở dưới cốc gần đấy! Giang Nam đánh Đồ Chiêu Minh một trận thì cười rằng: “Lão khốn kiếp già mà chưa chịu chết, ta vốn định đâm người một kiếm, nhưng trông bộ dạng ngươi đáng thương như thế, ta lại chưa bao giờ giết người, thôi được coi như may mắn, ta mềm lòng tha cho ngươi!” rồi nhắm vào mông Đồ Chiêu Minh tung một cú đá, Đồ Chiêu Minh chợt bừng tỉnh thét lớn lên rồi lăn ra cách đó ba bốn trượng! Dương Xích Phù đỡ y dậy, chỉ thấy tay chân của y co rút lại, bước đi cứ tập tễnh, các bậc cao nhân đều biết khớp tay chân của Đồ Chiêu Minh đã cứng lại, tuy võ công vẫn còn những từ rày về sau không thể nào động thủ đối chiêu với người ta nữa. 

Người ở phe Giang Nam đều cả mừng, thấy bộ dạng thảm thương của Đồ Chiêu Minh thì đều cười ẩm lên, đồng thời hoan hô Giang Nam, Trâu Giáng Hà vui sướng đến nỗi cười toe toét, kéo Giang Nam hỏi này hỏi nọ rồi lại cười rằng: “Huynh quả nhiên không gạt muội, đúng là đã luyện thành võ công trác tuyệt, đánh rất hay! Lúc nãy muội còn lo cho huynh, khi huynh bị y dùng bộ kiếm pháp cổ quái bao vây, nếu y không điểm huyệt đạo của huynh mà đâm một kiếm thì không đến nỗi thảm bại như thế!” Giang Nam cười nói: “Huynh đã biết trước y sẽ điểm huyệt đạo! Thực ra, muội không cần lo, dù cho y đâm tới huynh cũng có thể ửng phó nổi.” Đương nhiên là Giang Nam khoác lác, nhưng quả thực là tự tin không bị thương nên mới dám khiêu chiến với Đồ Chiêu Minh, bởi vì chàng đã biết có Kim Thế Di ngầm giúp mình, song Kim Thế Di không cho Giang Nam nói ra tên của mình, mà Giang Nam cũng thích khoác lác! Vợ chồng Trần Thiên Vũ thì thắc mắc mãi, họ biết rõ công lực của Giang Nam vẫn chưa bằng đối phương, dù có băng phách thần đạn cũng không thể dễ dàng thắng như thế, nhưng sự thực là Giang Nam đã thắng. 

Trong trường còn có một người nghi hoặc, đó chính là Mạnh Thần Thông. Cao nhân của các phái cũng để ý Mạnh Thần Thông đang đảo mắt nhìn xung quanh tựa như đang tìm ai đó, mặt lộ vẻ bàng hoàng. Ba năm trước Mạnh Thần Thông đã từng đánh bại vợ chồng Trần Thiên Vũ, lúc đó võ công của y không bằng như bây giờ, băng phách thần đạn của U Bình cũng chẳng làm gì được y, y nghĩ bụng công lực của Đồ Chiêu Minh dù không bằng y ba năm trước nhưng cũng không thể cách nhau quá xa, theo lẽ mà nói thì hai viên băng đạn không thể làm cho y cứng đờ ra. 

Nhưng vì đầu tiên lửa bắn ra từ mũi kiếm của Đồ Chiêu Minh, tiếp đó là khí lạnh của băng phách thần đạn bao trùm, trong khoảnh khắc này Mạnh Thần Thông cũng không nhìn thấy rõ cho nên lòng tuy nghi ngờ nhưng lại không dám đoán đối phương có người ngầm giúp đỡ. 

Người của phe Mạnh Thần Thông cũng không phục, bàn tán xôn xao. Mạnh Thần Thông nói: “Thắng bại là chuyện thường tình của binh gia, cần gì phải để trong lòng? Huống chi tính ra chúng ta vẫn chưa thua.” Lăng Tiêu Tử vua râu cười: “Mạnh tiên sinh nói đúng, Đồ hiền đệ đại phá kiếm trận của phái Võ Đang, chưởng môn phái Võ Đang không dám ứng chiến coi như cũng là một công lớn!” Lăng Tiêu Tử có xích mích với phái Võ Đang, y cố ý nói lớn để Lôi Chấn Tử nghe thấy.  

Lôi Chấn Tử xưa nay tự phụ, nay phái Võ Đang đại bại, y cũng chẳng còn mặt mũi gì nữa, tuy Giang Nam đã giúp y đánh một trận nhưng trong bụng cũng khó chịu nghe thế thì quả nhiên không nén được, lập tức nhảy ra lớn giọng nói: “Tỉ thí đã bao nhiêu trận, thời gian cũng không còn sớm nữa, chi bằng những nhân vật thủ lãnh như chúng ta cũng tỉ thí một trận. Mạnh Thần Thông, nghe nói ngươi đã luyện được Tu la âm sát công, Lôi Chấn Tử này không biết lượng sức nên muốn thỉnh giáo!” Lúc đầu y muốn khiêu chiến Lăng Tiêu Tử, nhưng nghĩ lại: “Muốn bắn người trước hết phải bắn ngựa, muốn bắt giặc trước hết phải bắt vua.” Tuy Lăng Tiêu Tử đã là nhân vật thành danh từ lâu nhưng rốt cuộc vẫn chẳng bằng Mạnh Thần Thông, theo y nghệ Võ Đang là môn phái lớn nhất trong võ lâm, giao thủ với Mạnh Thần Thông thì không đến nỗi mất thể diện. 

Mạnh Thần Thông điềm nhiên nói: “Lôi chưởng môn thật mau quên, ông có còn nhớ lúc nãy tôi nói những gì không? Dương sư đệ, đệ hãy nhắc lại cho ông ta biết!” 

Dương Xích Phù bước ra, ôm quyền cười nói: “Có phải Lôi chưởng môn muốn khảo nghiệm Tu la âm sát công của bổn môn không? Điều đó rất dễ, Dương mỗ cũng luyện vài năm, nay cũng muốn bày ra cái dở, nhân cơ hội này lãnh giáo kiếm pháp Liên hoàn đoạt mạng của Lôi chưởng môn, không biết Lôi chưởng môn có thể đoạt mạng của Dương mỗ được hay không, lúc đó xin mời khiêu chiến với sư huynh của tôi cũng không muộn.” Trước lúc tỉ võ, Mạnh Thần Thông đã bảo với Thống Thiền thượng nhân, sau khi thủ hạ của y thua thì mới đến lượt y tiếp chiến chưởng môn các phái, Dương Xích Phù chẳng qua chỉ lặp lại ý này mà thôi. Trong lời nói của y có mềm lẫn cứng, rõ ràng là coi thường Lôi Chấn Tử, Lôi Chấn Tử cả giận, toan phát tác thì Dương Xích Phù đã ôm quyền vái dài theo quy củ võ lâm rồi nói một chữ “mời”, đột nhiên khí lạnh dồn tới, Lôi Chấn Tử rùng mình suýt nữa ngộp thở, y thất kinh vội vàng dằn lửa giận, trấn tĩnh tâm trạng vận khí một vòng mới không cảm thấy lạnh nữa. 

Trong khoảnh khắc này, Dương Xích Phù lắc người lướt tới trước mặt Lôi Chấn Từ, cười nói: “Lôi chưởng môn vẫn chưa rút kiếm, lẽ nào cho rằng Dương mỗ không đáng được ban chiêu?” Ngay lúc này, Lôi Chấn Tử cũng không thể nào tránh được nữa, khi hai cao thủ tỉ thí với nhau, đôi bên phải cố gắng tranh tiên, Lôi Chấn Tử vội vàng xoay người lập tức rút kiếm ra khỏi vỏ, trở tay đâm một kiếm vào huyệt toàn cơtrước ngực Dương Xích Phù, y không thèm xoay người mà phía sau tựa như có mắt, cú đâm ấy rất chuẩn xác, vả lại kình phong còn kêu lên vù vù, rõ ràng võ công đã đến cảnh giới đệ nhất lưu, Dương Xích Phù không dám khinh địch, thế là hai chưởng múa tròn dẫn qua một bên, Dương Xích Phù đột nhiên cảm thấy một luồng tiềm lực vô hình kéo mình qua một bên, mũi kiếm trượt sang mấy tấc. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Dương Xích Phù đã đẩy hai chưởng ra. 

Ba năm nay Dương Xích Phù đã được Mạnh Thần Thông truyền thụ cho nên công lực tăng tiến rất nhanh, đã luyện được đến tầng thử bảy của Tu la âm sát công, hai chưởng vừa đẩy ra thì hơi lạnh bốc lên, tựa như thời tiết thay đổi từ mùa xuân ấm áp sang mùa đông giá buốt, Lôi Chấn Tử từng nghe Phùng Lâm nói thì biết không nên chạm chưởng với y cho nên phóng với người lên đánh ra một chiêu Tùy kích trường không, cây trường kiếm múa ra một đóa kiếm hoa từ trên không đâm xuống. 

Lôi Chấn Tử đã vận chín phần công lực trong kiếm này, Dương Xích Phù chưa luyện Kim cương bất hoại cho nên không dám tiếp kiếm ấy, y buộc phải dùng khinh công thượng thừa tránh sang một bên, Lôi Chấn Tử hạ xuống chưa vững thì đã liên tục lia kiếm chém tới, Liên hoàn đoạt mệnh kiếm cứ đánh liên tục không ngớt như sông dài biển rộng, trong vòng ba trượng đều là kiếm quang của y, dù Dương Xích Phù luyện đến tầng thứ bảy của Tu la âm sát công nhưng trong nhất thời cũng không thể nào tiến sát tới được. 

Dương Xích Phù đứng cách đó ba trượng phát chưởng, tuy chưởng lực có thể làm nát bia vỡ đá, gió lạnh thấu xương, nhưng Lôi Chấn Tử vẫn có thể cầm cự được, đôi bên càng đấu càng hăng, trong chốc lát hai người đã tuôn mồ hôi như tắm. 

Trận đấu này kịch liệt hơn mấy trận đấu trước, khi đến chỗ căng thẳng thì người ở hai phe đều toát mồ hôi lạnh, Lôi Chấn Tử là chưởng môn một phái, nếu thua thì đệ tử phái Võ Đang chẳng còn mặt mũi nào; còn Dương Xích Phù là sư đệ của Mạnh Thần Thông, nếu thua thì những kẻ đi theo Mạnh Thần Thông sẽ không còn tin tưởng y. 

Mạnh Thần Thông hơi nhíu mày, Kim Quang đại sư thầm để ý thì chỉ thấy môi y mấp máy, té ra Mạnh Thần Thông đã sử dụng Thiên độn truyền âm chỉ điểm cho sư đệ, Kim Quang đại sư thầm kêu: “Không xong!” Nhưng Mạnh Thần Thông chẳng hề ra tay tương trợ, ngoại trừ Dương Xích Phù, những người khác chẳng nghe được y nói gì, tuy Kim Quang đại sư đã thấy y giở trò nhưng cũng không thể can thiệp. 

Trong khi đó chỉ thấy Dương Xích Phù lắc người đuổi tới, vung tay trái đánh ra một chiêu Du long thám trảo móc vào cổ tay của Lôi Chấn Tử, toan đoạt kiếm của y, Lôi Chấn Tử thấy y lao tới thì mừng lắm, lập tức đánh ra một chiêu Hoành vân đoạn phong, kiếm quang mở rộng như điện chớp lửa xẹt, chém vao cánh tay trái của Dương Xích Phù. 

Kiếm ấy vừa chém ra thì chỉ nghe soạt một tiếng, ống tay áo của Dương Xích Phù đã bị chém một mảnh, thế nhưng cũng trong khoảnh khắc này, coong một tiếng, Dương Xích Phù đã búng ngón tay vào sống kiếm của Lôi Chấn Tử. Hai bên lại tách ra, trở về cự li ban đầu. 

 Người ngoài nhìn vào thì thấy Lôi Chấn Tử tuy bị đối phương búng vào kiếm nhưng y cũng chém đứt tay áo của đối phương, hình như hơi chiếm được một chút thượng phong, đệ tử Võ Đang thấy chưởng môn thắng được một chiêu thì reo ầm lên. 

Nào ngờ Lôi Chấn Tử thầm kêu khổ, té ra Dương Xích Phù được Mạnh Thần Thông chỉ điểm, đã nghĩ ra cách khắc địch chế thắng, y lướt xéo tới người kẻ địch tung đòn cầm nã, đến khi Lôi Chấn Tử chém kiếm tới thì cánh tay của y rút vào trong ống tay áo thi triển công phu Lưu vân phi tụ cuốn ống tay áo của y vào trong đương nhiên với công phu của Lôi Chấn Tử, y không thể nào để cho kiếm của mình bị ống tay áo của đối phương cuốn lại nhưng Dương Xích Phù đã lấy ống tay áo thay cánh tay để cho đối phương chém tới, rồi búng vào kiếm của Lôi Chấn Tử. 

Dương Xích Phù đã luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ bảy, đã có bản lĩnh Cách vật truyền công, với cú búng ấy Dương Xích Phù đã đưa khí âm hàn từ kiếm của Lôi Chấn Tử vào lòng bàn tay của y, kế đó là vào trong người, chỉ trong chốc lát Lôi Chấn Tử thấy lạnh đến thấu tim! Lúc nãy Lôi Chấn Tử vừa mới vận chân khí chống lại đòn Tu la âm sát công của đối phương, cũng dã hao phí không ít nguyên khí, nay lại bị đối phương dùng “Cách vật truyền công” đưa khí âm hàn đánh thẳng vào người, y một mặt ngầm vận huyền công bảo vệ cho tâm tạng, mặt khác phải chống lại đòn tấn công của kẻ địch cho nên uy lực của Liên hoàn đoạt mệnh kiếm dã giảm đi rất nhiều.  

Kiếm chiêu của Lôi Chấn Tử dần dần chậm lại, đệ tử phái Võ Đang cũng thấy không ổn, chợt nghe tiếng coong công vang lên như mưa, lần này Dương Xích Phù chém càng nhanh hơn, y ra tay như điện, liên tiếp búng vào lưng kiếm của Lôi Chấn Tử hai cái rồi ung dung thoái lui, Liên hoàn đoạt mệnh kiếm pháp của Lôi Chấn Tử vốn liên miên không ngớt, một khi lực bất tòng tâm thì lộ sơ hở, đã chậm hơn ba phần, lần này thì cũng chẳng chạm được vạt áo của đối phương. Dương Xích Phù cười ha hả: “Lôi chưởng môn, có cần tỉ thí nữa không?” Lôi Chấn Tử sắc mặt tái xanh, chẳng nói một lời rồi đột nhiên ném kiếm lui xuống. 

Té ra lúc này máu trong người y đã bắt đầu đông lại, thanh kiếm còn lạnh hơn băng tuyết gấp mười lần, làm sao có thể cầm trong tay được? Y đã không thể dùng kiếm thì làm sao đấu tiếp? 

 Dương Xích Phù thắng một trận nhưng vẫn không lui, y đứng giữa sân lớn giọng nói: “Phái Võ Đang đã đại bại, còn chưởng môn nào muốn tỉ thí với Tu la âm sát công nữa không?” Lôi Chấn Tử vừa lui vào bên trong, chẳng nói một lời, sắc mặt vốn đã trắng bệch nay trở nên xám như xác chết, miệng chợt phun một ngụm máu tươi, người lảo đảo như muốn đổ sầm xuống! Thống Thiền thượng nhân và Kim Quang đại sư vội vàng đứng dậy mỗi người dìu một cánh tay, Lôi Chấn Tử đang lạnh đến nỗi run cầm cập, chợt thấy trong người tựa như có hai luồng khí ấm áp chuyển động, cơn đau chợt giảm té ra hai bậc tôn sư võ học đã dùng chân lực của bản thân giúp y đẩy khí âm hàn tà độc, nếu hai người này bị Mạnh Thần Thông dùng Tu la âm sát công tầng thứ chín đánh trúng, họ cũng có thể tiếp được hai chưởng, huống chi Dương Xích Phù chỉ có công lực đến tầng thứ bảy, vả lại còn là Cách vật truyền công, hai người hợp lực thì chỉ trong khoảnh khắc, trên đỉnh đầu Lôi Chấn Tử bốc khí trắng ngùn ngụt, sắc mặt dần dần hồng nhuận trở lại. Nhưng nỗi đau trong lòng Lôi Chấn Tử thì không thề nào giảm được, chỉ nghe y thở dài: “Hôm nay phái Võ Đang chẳng còn mặt mũi nào tham gia thịnh hội nữa?” Thống Thiền thượng nhân vội nói: “Cần gì phải để ý đến sự được mất ngẫu nhiên? Lôi huynh, yên tâm tịnh dưỡng.” Ngay lúc này chỉ nghe một giọng nói trong trẻo cất lên: “Ai dám coi thường phái Võ Đang ta? Phái Võ Đang còn có người ở đây, ai dám nói đã đại bại? Hôm nay ta phải xem thử Tu la âm sát công của ngươi như thế nào!” chỉ thấy một thiếu phụ áo trắng đẹp tựa như hoa, tà áo phất phới nhẹ nhàng bước ra, đó chính là Băng Xuyên thiên nữ! 

Hồi Thứ Ba Mươi Hai

Băng Xuyên thiên nữ có ba thân phận, là công chúa của Nê Bách Nhĩ, trưởng lão của phái Võ Đang, con dâu của thiên hạ đệ nhất kiếm khách Đường Hiểu Lan, thân phận nào cũng cao vời, huống chi nàng đẹp như thiên tiên, tay cầm băng kiếm bước ra khiến tất cả mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía nàng. Đệ tử phái Võ Đang càng lo hơn, tuy Dương Xích Phù được Mạnh Thần Thông chỉ điểm mới có thể trong vòng ba mươi chiêu mà đánh bại Lôi Chấn Tử nhưng thật sự y cũng có khả năng đánh bại Lôi Chấn Tử, dù Băng Xuyên thiên nữ cao hơn Lôi Chấn Tử một bậc nhưng không ai dám chắc rằng nàng có thể thắng nổi Dương Xích Phù. Nếu Băng Xuyên thiên nữ mà bại nữa thì đúng là phái Võ Đang chẳng còn ai. Dương Xích Phù chợt run sợ trước khí độ của nàng, y không dám cuồng ngạo nữa mà thi lễ nói: “Nữ chủ nhân của Băng cung dời giá đến đây khiến cho đại hội càng thêm nhiều màu sắc! Từ lâu đã nghe nói băng đạn và ngọc kiếm của cô nương là dị bảo trong chốn võ lâm, hôm nay có cơ duyên được gặp, chắc là có thể được mở rộng tầm mắt.” 

Băng Xuyên thiên nữ điềm nhiên nói: “Ngươi muốn thấy kiếm này thì chẳng phải chuyện khó, cần gì phải lao tâm khổ tứ sai người đến Băng cung đánh cắp!” Khi đang nói thì nàng đã rút Băng phách hàn quang kiếm ra, thanh kiếm này là loại hàn ngọc trong hố băng, thân kiếm trong suốt, khí lạnh tỏa ra khiến cho những người đứng gần đều run cầm cập, tuy vậy họ đều vui mừng vô cùng, ai cũng nghĩ: “Băng Xuyên thiên nữ không sợ Tu la âm sát công, kiếm thuật, khinh công của nàng đều cao minh hơn kẻ địch, trận này chắc sẽ thắng.” Thậm chí có người còn nghĩ, sư đệ của Mạnh Thần Thông chẳng qua chỉ có thế, có lẽ Mạnh Thần Thông cũng không giỏi hơn bao nhiêu. Họ nào biết rằng, ngoài Tu la âm sát công, Mạnh Thần Thông còn luyện không ít các công phu thất truyền, y đã hoàn toàn hiểu toàn bộ nửa cuốn bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, y chỉ cần giở ra một ngón nào trong nửa cuốn bí kíp này cũng đủ chống lại bậc võ học tôn sư nhất lưu hiện nay. Tuy Dương Xích Phù không bằng y nhưng cũng được y truyền cho một phần, lúc này Dương Xích Phù thấy Tu la âm sát công và Phách không chưởng không thể ứng phó nổi Băng Xuyên thiên nữ, chưa nghĩ ra cách nào chế địch thì nghe sư huynh dùng Thiên độn truyền âm nói bên tai: “Thiên la bộ, Âm dương trảo, Phách không chưởng”. Dương Xích Phù vốn đã nghĩ tới dùngThiên la bộ và Âm dương trảo, chỉ vì y chưa thuần thục hai môn công phu này, lại không biết công lực của Băng Xuyên thiên nữ đến mức nào, cho nên vẫn còn đắn đo, nay nghe sư huynh nói như thế thì thầm nhủ: “Sư huynh đã nhận ra đường lối võ công của đối phương, bảo mình dùng hai loại công phu này, cộng với Phách không chưởng chắc chắn là không sai”. Ngay khi y đang suy nghĩ thì Băng Xuyên thiên nữ lại đâm ra thêm hai kiếm, thế là y không chần chừ nữa, trước tiên thi triển Thiên la bộ, Băng Xuyên thiên nữ đang đâm tới thì thấy kẻ địch biến mất, chợt gió nhẹ nổi lên phía sau, Băng Xuyên thiên nữ lập tức trở tay đâm lại một kiếm, lần này thì thấy Dương Xích Phù đã lướt qua bên cạnh mình. Băng Xuyên thiên nữ lại đâm hụt. Số là Thiên la bộ được cải biến từ thuật kỳ môn bát quái, nhìn thì rất đơn giản nhưng sự biến hóa của phương vị cực kỳ phức tạp, ảo diệu hơn thân pháp Xuyên hoa như thụ rất nhiều, khi luyện đến cảnh giới cao nhất thì dẫu cho gặp cao thủ mạnh hơn mình gấp mười lần cũng có thể né tránh được. 

Băng Xuyên thiên nữ đâm liền một lúc mấy kiếm mà kiếm nào cũng bị hụt thì sát cơ nổi lên, nàng chợt bốc người lên cao, đánh ra một chiêu Phi bộc lưu tuyền, cây Băng phách hàn quang kiếm vạch trong không trung, lập tức tựa như có hàng ngàn ngôi sao sa xuống. Khinh công của Băng Xuyên thiên nữ vốn hơn đối phương, lần này từ trên không trung đánh xuống, kẻ địch không thể nào tránh được, nàng tưởng rằng có thể ra một đòn thì trúng ngay. Nàng nghĩ không sai, nào ngờ khi băng kiếm sắp đâm vào thì Dương Xích Phù đã sử dụng loại công phu thứ hai. Chỉ thấy y vung hai chưởng lên, chụp trong không trung, cú chụp hiểm hóc vô cùng, hoàn toàn là một thủ pháp cầm nã xáp lá cà, nhưng bá đạo hơn bất cứ loại thủ pháp cầm nã nào trong võ lâm, điều kỳ lạ nhất là đôi chưởng của y lại sinh ra hai lực hút ngược hướng nhau, khiến cho người ta như rơi vào trong vòng xoáy, Băng Xuyên thiên nữ kinh hãi, nàng có thân phận là một công chúa làm sao có thể để cho đối phương chụp vào người? 

Nếu đâm kiếm xuống thì đã có thể đâm trúng đối phương nhưng nàng cũng khó thoát khỏi tay đối phương. Huống chi Dương Xích Phù dù có trúng băng kiếm thì chẳng qua chỉ bị hao tổn chân khí, nếu Băng Xuyên thiên nữ bị y chụp, nói không chừng tứ chi sẽ tàn phế, nàng làm sao có thể dám tiếp tục ra đòn? 

Băng Xuyên thiên nữ lạnh mình, nhân lúc chưa bị lực hút của đối phương kéo xuống thì nàng thu người lại, chân trái đạp lên mặt chân phải xoay ngược người trở lại, chỉ nghe soạt một tiếng, dù nàng thối lui nhanh như điện chớp sao xẹt, nhưng tà áo cũng bị rách mất một mảng! Xem ra kiếm pháp tinh diệu của Băng Xuyên thiên nữ không thể nào thi triển được, bởi vì dưới mặt đất nàng không thể đâm đối phương, nếu dùng khinh công áp sát tới, đối phương lại sẽ dùng công phu Âm dương trảo. 

Băng Xuyên thiên nữ chỉ đành đổi công làm thủ dùng kiếm pháp tinh diệu hộ thân, Băng phách hàn quang kiếm hóa thành một bức hàn quang kín đến nỗi gió mưa không lọt, thầm nhủ: “Ngươi chỉ dùng đôi tay không làm sao có thể đánh vào?” Nào ngờ Dương Xích Phù không vội đánh vào vòng kiếm quang của nàng, Thiên la bộ và Âm dương trảo không làm gì được Băng Xuyên thiên nữ nữa cho nên y ngầm vận huyền công chạy vòng quanh Băng Xuyên thiên nữ liên tục phát ra những đòn Phách không chưởng. 

Công lực của Dương Xích Phù vốn hơn Băng Xuyên thiên nữ, kiếm pháp của Băng Xuyên thiên nữ chỉ có thể phòng thân chứ không thể chống được Phách không chưởng lực của y, Dương Xích Phù cứ vỗ hết chưởng này đến chưởng khác, chưởng lực từ bốn phương tám hướng đánh tới, Băng Xuyên thiên nữ như một con thuyền nhỏ chòng chành giữa biển khơi? Nàng thầm kêu: “Không xong!”, rồi nghĩ: “Nếu cứ mãi như thế này, mình mãi sẽ chẳng đâm trúng được đối phương, nhưng nội lực lại cạn kiệt trước đối phương.” Trong tình hình này, đã không thể nào thủ thắng thì đương nhiên dấy lên ý nghĩ rút lui. 

Băng Xuyên thiên nữ thấy khinh công của mình hơn đối phương, mà đối phương cũng không sợ kiếm pháp của mình, nếu nàng muốn rút lui thì quá lắm cũng bị xử thua, Dương Xích Phù cũng không chặn nàng được. 

Nào ngờ Thiên la bộ của Dương Xích Phù không những có thể dùng để phòng thủ mà còn có thể chặn kẻ địch, Băng Xuyên thiên nữ vừa lắc người y đã lập tức hiểu ý nàng, quát lên: “Muốn chạy cũng không khó, hãy để kiếm lại!” Người đến thì kiếm đến, y đã phóng tới chặn đường Băng Xuyên thiên nữ, Băng Xuyên thiên nữ không chống nổi Âm dương trảo của y, không dám tiếp xúc với y chỉ đành chạy theo hướng khác, Dương Xích Phù lách người theo phương vị kỳ môn bát quái, bước vòng mấy bước, Băng Xuyên thiên nữ vừa xoay người thì thấy Dương Xích Phù ở trước mặt. 

Đúng là tiến thoái lưỡng nan, vô kế khả thủ. Té ra loại bộ pháp này sở dĩ gọi là Thiên la bộ bởi vì hễ triển khai thì có thể bao vây kẻ địch như thiên la địa võng. 

Lúc này mọi người đã thấy Băng Xuyên thiên nữ đã nao núng, đệ tử phái Võ Đang càng rầu hơn, chỉ chờ Băng Xuyên thiên nữ thất bại thì y sẽ dắt đệ tử xuống núi. 

Dương Xích Phù càng đánh càng gấp, Băng Xuyên thiên nữ thầm nhủ: “Hỏng bét, quá lắm là mình chỉ có thể chống đỡ được nửa canh giờ.” Ngay lúc này chợt nghe bên tai có giọng nói quen thuộc: “Đi vào vị Càn, vòng đến vị Tốn, dùng băng đạn bắn vào lỗ tai của y!” Băng Xuyên thiên nữ ngạc nhiên, lúc này Dương Xích Phù đang phát chưởng ở vị Khôn phía sau lưng nàng, Băng Xuyên thiên nữ vốn không nhìn thấy Dương Xích Phù, giọng nói ấy bảo nàng đi vào vị Càn vòng đến vị Tốn bắn ra băng đạn, há chẳng phải sẽ bắn hụt hay sao nhưng giọng nói ấy quen thuộc vô cùng mà lại nói theo kiểu ra lệnh. Băng Xuyên thiên nữ không kịp suy nghĩ nàng cũng không suy nghĩ được, trong khoảng sát na ấy nàng cứ như bị thôi miên, nàng thi triển khinh công tuyệt đỉnh từ vị Càn vòng qua vị Tốn rồi bắn ra ba viên băng đạn kêu lên tanh tách, khi nàng bắn ra băng đạn, Dương Xích Phù vừa ra khỏi vị Chấn ở trước mặt nàng, viên băng đạn thứ nhất lọt vào lỗ tai của y, viên thứ hai và thứ ba trúng vào huyệt hôn huyền dưới hai tai của y, chỉ nghe Dương Xích Phù hự một tiếng, đột nhiên lại đứng yên như một pho tượng đá, tay thì đang giơ lên tựa như phát Phách không chưởng, hai mắt thì trợn tròn trông vừa buồn cười vừa kì quặc. 

Băng Xuyên thiên nữ cười nói: “Hay lắm, ngươi còn muốn lấy bảo kiếm của ta nữa không?”, rồi nàng lia cây băng kiếm trước mặt Dương Xích Phù, Dương Xích Phù chẳng thể chớp mắt được, rõ ràng băng đạn đã phát huy tác dụng. Số là Dương Xích Phù luyện một loại công phu bế huyệt thần kỳ nhất trong tà phái, bất cứ thủ pháp điểm huyệt cao minh nào cũng không làm gì được y, chỉ có dùng ám khí bắn vào tai của y mới có thể phá khí công bế huyệt, đồng thời khiến cho y đứng yên chẳng thể nhúc nhích nổi. Bởi vậy thực ra chỉ cần một viên băng đạn cũng đủ, hai viên băng đạn còn lại trúng vào huyệt hôn huyền của y là dư. Biến hóa bất ngờ ấy khiến cho toàn trường đều kinh ngạc, nhưng trước mắt mọi người hiểu rõ rằng Dương Xích Phù bị Băng Xuyên thiên nữ bắn trúng huyệt đạo, người phe Mạnh Thần Thông tuy cảm thấy có điều gì khác lạ nhưng cũng không thể lên tiếng được. 

Băng Xuyên thiên nữ nói: “Được, ngươi không lấy kiếm của ta thì ta quay về đây!”, nàng vừa mới đi được hai bước thì Mạnh Thần Thông chợt quát: “Đứng lại!” 

Tiếng quát ấy tựa như sấm nổ giữa trời xanh, Băng Xuyên thiên nữ ngẩn người ra, nói: “Kinh Thiên, huynh ra thay muội trận này.” Nàng tưởng rằng Mạnh Thần Thông muốn trả thù cho sư đệ của mình, theo quy tắc của cuộc tỉ thí, nàng không muốn tiếp tục thì chẳng ai ép được nàng. 

Mạnh Thần Thông đảo mắt, nạp khí vào đan điền, chậm rãi nói từng chữ: “Là cao nhân nào đến đây, xin thứ lỗi thất kính của Mạnh mỗ!” Giọng nói của y vang vọng kéo dài, trong bốn năm dặm đều có thể nghe thấy. Y vừa nói ra câu ấy khiến toàn trường đều chất động. Ai nấy đều mở to mắt xem thử có cao nhân này xuất hiên. 

Một hồi sau vẫn chẳng có phản ứng gì, mọi người đều xì xầm bàn tán. Mạnh Thần Thông biến sắc, lại quát lớn một lần nữa: “Lúc nãy các hạ vừa mới ra tay đủ thấy cao minh, nếu đã có tài nghệ sao lại lén lút nấp trong bóng tối không dám lộ mặt?” Mấy câu ấy của Mạnh Thần Thông khiến cho ai nấy trong phái Võ Đang đều biến sắc, Lôi Chấn Tử mắng rằng: “Hừ, thật vô sỉ!” Ngoại trừ Băng Xuyên thiên nữ, tất cả những người có mặt đều thấy ngạc nhiên. 

Mạnh Thần Thông không thèm để ý đến tiếng chửi của Lôi Chấn Tử, y bước tới hỏi Băng Xuyên thiên nữ: “Chúng ta coi như đều là những người có chút tên tuổi trong võ lâm, vậy không nên nói dối, lúc nãy có phải có người ngầm truyền âm cho cô hay không?” Băng Xuyên thiên nữ đang ngạc nhiên bởi giọng nói quen thuộc này, vả lại nàng chưa bao giờ nói dối một câu, nghe Mạnh Thần Thông hỏi như thế thì buột miệng đáp: “Đúng thế, nhưng tôi không biết y là ai.” Vì rằng mẹ con Phùng Lâm đã chứng thực cái chết của Kim Thế Di, Băng Xuyên thiên nữ đã tin chắc điều đó, cho nên nàng tuy cảm thấy đây là giọng nói của Kim Thế Di nhưng trước khi gặp mặt nàng không dám khẳng định. 

Băng Xuyên thiên nữ đã thừa nhận, mọi người đều bất ngờ, toàn trường đều lắng đọng nhưng cao nhân thần bí ấy vẫn chưa xuất hiện. Mạnh Thần Thông cười lạnh một hồi rồi nói: “Tào Cẩm Nhi, ngươi nói thế nào đây?” Tào Cẩm Nhi ngạc nhiên, tâm trí rối bời, chưa kịp lên tiếng thì Đường Kinh Thiên đã đứng dậy: “Mạnh Thần Thông, lúc nãy sư đệ của ngươi liên tiếp đấu hai trận, chẳng phải ngươi đã dùng Thiên độn truyền âm chỉ điểm cho y sao?” Lôi chưởng môn của phái Võ Đang còn chưa tính sổ với ngươi. Nếu ngươi cho rằng sư đệ của người không đáng thua, vậy Lôi chưởng môn cũng không đáng thua! Tính ra đôi bên coi như đều có người chỉ điểm, ngươi còn nợ lại bọn ta một trận!” Lôi Chấn Tử phấn chấn tinh thần, ngoác mồm kêu lên: “Ồ, té ra là tên lão tặc nhà ngươi giở trò, chả trách nào ta thua hồ đồ đến thế!” Thực ra võ công của Dương Xích Phù hơn y rất nhiều, nếu không có Mạnh Thần Thông chỉ điểm thì cũng thắng được y, có điều hơi chậm. Lôi Chấn Tử nói thế là để lấy lại sĩ diện. 

Mạnh Thần Thông hừ một tiếng, chẳng thèm đấu khẩu với Lôi Chấn Tử nhưng chột dạ trước lời nói của Đường Kinh Thiên: “Ồ, làm sao y biết Thiên độn truyền âm?” Y đảo mắt lạnh lùng hỏi: “Thiên độn truyền âm là cái gì, ngươi đã nghe ta nói những gì?” Sở dĩ Đường Kinh Thiên biết môn công phu Thiên độn truyền âm là bởi Thống Thiền thượng nhân nói, nhưng ông ta cũng chỉ biết có thế mà thôi chứ không hiểu, cho nên không những là Đường Kinh Thiên, dù những bậc cao nhân như Thống Thiền thượng nhân và Kim Quang đại sư cũng chẳng thể nào nghe Mạnh Thần Thông vừa mới nói gì cho sư đệ, nhưng họ đã ngầm để ý thấy Mạnh Thần Thông đã mấp máy môi, đoán rằng y ngầm dùng Thiên độn truyền âm chỉ điểm cho sư đệ. 

Đường Kinh Thiên không đáp được, nhưng chàng rất thông minh nên lập tức cười lạnh: “Lúc nãy ngươi nói đúng lắm, chúng ta đều chẳng phải là hạng vô danh trong võ lâm, ngươi tự cho mình là tông sư một phái, chả lẽ còn nói dối hay sao? Ngươi đã nói lời gì, ngươi biết, ta biết, sư đệ ngươi biết, có lẽ còn có người khác biết nữa, ngươi tự hỏi ngươi có từng dùng Thiên độn truyền âm hay không? Chả lẽ còn làm phiền ta nói lại cho ngươi nghe?” Đó chính là lấy gậy ông đập lưng ông, Mạnh Thần Thông có tật giật mình, nào dám truy cứu tiếp, chỉ thấy y vung tay giải huyệt đạo cho Dương Xích Phù, hai mắt trợn tròn, nói: “Ngươi tưởng ta hẹp hòi không chịu nhận thua trận này? 

Tuy vợ ngươi nói trận này là do người khác chỉ điểm nhưng suy cho cùng cũng nhờ vào công phu chân thực, khinh công, kiếm pháp, ám khí đều có hỏa hầu tương đối, nếu không, dù được chỉ điểm cũng chẳng thể nào thắng nổi, tuy ả đánh trúng huyệt đạo của sư đệ ta, trận này coi như ả thắng.” Những câu nói này rất công bằng hợp lý quả thật rất giống với một bậc tôn sư nhưng thực ra là nói với Lôi Chấn Tử, Lôi Chấn Tử đương nhiên đã hiểu nhưng không lên tiếng. 

Mọi người tường rằng đã sóng yên gió lặng, nào ngờ Mạnh Thần Thông ngừng một lát rồi nói tiếp: “Tuy vậy bọn ngươi có người mai phục ở bên ngoài, quả thực không hợp với quy tắc, cho nên phải lập tức gọi y ra đâyl Ta có thể đích thân ra tỉ thí với y!” Đó lại là một câu hỏi khó, nếu cao nhân thần bí ấy không chịu ra, Tào Cẩm Nhi biết tìm ở đâu? Giang Nam thầm ngạc nhiên, nhủ rằng: “Tại sao Kim đại hiệp lại có thể nín nhịn đến thế, rõ ràng Mạnh lão tặc đã ba lần bốn lượt khiêu chiến, song chẳng qua chỉ không nhắc đến tên y mà thôi.” Giang Nam nào biết Kim Thế Di sở dĩ không chịu ra là vì có lý do khác. 

Vả lại trải qua ba năm ở đảo hoang, lại luyện bí kíp chí cao vô thượng của tà phái cho nên khí chất của Kim Thế Di ít nhiều đã khác trước, làm sao Giang Nam có thể hiểu được? 

Mạnh Thần Thông kêu ba lần mà chẳng thấy có phản ứng thì cả giận quát: “Tào Cẩm Nhi, đây là chỗ của ngươi, ngươi âm thầm đặt mai phục, ta phải đòi người!” Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Mạnh Thần Thông phóng vọt người lên lao về phía Tào Cẩm Nhi như mũi tên, Băng Xuyên thiên nữ đang đứng trong sân, vẫn chưa kịp rút lui, Mạnh Thần Thông lướt qua người nàng, chợt nói: “Được, Tào Cẩm Nhi không chịu nói, ta bắt ngươi trước rồi mới hỏi! Hừ, ngươi ngoan ngoãn buông kiếm xuống, còn muốn động thủ với ta?” Tại sao Mạnh Thần Thông lại nôn nóng tìm ra caonhân bí hiểm ấy? Bởi vì giờ đây nỗi nghi ngờ trong y lại tăng thêm vài phần, lúc đầu y tuy nghĩ đến Kim Thế Di, nhưng ngay sau đó lại phủ định, cho rằng đây là chuyện không thể. Đến khi y giải huyệt đạo cho Dương Xích Phù thì phát hiện kẻ địch đã phá giải công phu bế huyệt độc môn của y, thầm nhủ: “Có lẽ còn có người biết Thiên độn truyền âm, còn phương pháp vận chân khí Hỗn nguyên bế huyệt là mình đã học từ bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, sư đệ tuy chưa hiểu hết nhưng không cao thủ nào ở đây có thể phá nổi, ngoại trừ y cũng học võ công trong bí kíp này. Người đó chẳng phải Kim Thế Di thì là ai?” Ngày đó trên hoang đảo khi y và Kim Thế Di giật quyển bí kíp võ công, mỗi người xé được một nửa, Kim Thế Di được nửa đầu, nghiêng về tâm pháp thượng thừa của võ học, trong đó là lời giải đáp cho tất cả những vấn đề khó khăn trong võ học hàng ngàn năm nay, chẳng hạn như cách tránh khỏi hiện tượng tẩu hỏa nhập ma cũng là một trong số ấy; nửa sau nghiêng về nghiên cứu các loại võ công, ví dụ làm thế nào luyện được Tu la âm sát công đến cảnh giới tầng thứ chín là một trong số ấy. Cho nên có thể Kim Thế Di không biết cách luyện Tu la âm sát công nhưng chàng thông hiểu tâm pháp võ học của Kiều Bắc Minh, lại có thể thấy được sự ảo diệu trong đó. Song Tu la âm sát công chỉ có thể phòng ngự chứ không thể nào phá nổi, bởi vậy Mạnh Thần Thông chẳng hề e dè, trong bí kíp võ công còn có vài môn công phu hiểm độc, bởi vì trước khi chết mấy năm Kiều Bắc Minh mới nghiên cứu được, đương nhiên chưa thập toàn thập mĩ, do vậy Kiều Bắc Minh viết ra là để cho hậu nhân bổ cứu. Ví dụ như vận chân khí Hỗn nguyên bế huyệt, dùng ám khí bắn vào lỗ tai, phá vỡ ẩn huyệt trong tai thì có thể phá giải. Kim Thế Di biết được tâm pháp của họ, dù không biết vận dụng nhưng lại biết sơ hở nằm ở đâu. Cho nên nửa quyển trước và nửa quyển sau vừa phụ thuộc lẫn nhau vừa tương sinh tương khắc. Điều Mạnh Thần Thông lo sợ nhất là Kim Thế Di không chết mà trở về trung thổ tranh bá với y! Nay phát hiện có người có thể phá được công phu bế huyệt của mình thì làm sao không kinh hãi. Mạnh Thần Thông là kẻ đối đầu với Kim Thế Di, đương nhiên hiểu được chuyện của chàng, y biết chàng rất thân thiết với vợ chồng Đường Kinh Thiên, bởi vậy toan khống chế Băng Xuyên thiên nữ để buộc Kim Thế Di lộ mặt. 

Đường Kinh Thiên thấy Mạnh Thần Thông chặn đường Băng Xuyên thiên nữ thì vừa kinh vừa giận, quát: “Thật quá đáng!” Chàng quát chưa dứt thì thấy Mạnh Thần Thông đã tóm lấy Băng Xuyên thiên nữ, Băng Xuyên thiên nữ phóng ra bảy viên băng phách thần đạn, Mạnh Thần Thông há mồm, bảy viên băng đạn lọt vào trong mồm y bị y nuốt chửng, rồi cười ha hả: “Hay lắm, hay lắm, còn hơn cả linh đơn thập toàn đại bổ!” Chẳng phải Mạnh Thần Thông đã khoác lác, y đã luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ chín, nuốt băng phách thần đạn vào có thể làm cho uy lực của môn công phu này tăng lên. 

Băng Xuyên thiên nữ lướt người thối lui, Mạnh Thần Thông nuốt bảy viên băng đạn thì hơi lắc người, chẳng biết y đã làm cách nào mà đã đuổi kịp theo nàng chỉ trong chớp mắt. Mạnh Thần Thông vung tay chụp tới, chợt nghe có tiếng hú dài, một luồng kim quang bắn hẳn vào miệng y. 

Đó chính là Thiên Sơn thần mãng của Đường Kinh Thiên, năm xưa tổ sư đời thứ hai của phái Thiên Sơn là Lăng Mạt Phong đại hiệp đã nhờ vào Du long bảo kiếm và Thiên Sơn thần mãng xưng hùng thiên hạ, tiêu diệt tà ma khắp nơi, Thiên Sơn thần mãng cứng rắn vô cùng, chạm vào thứ gì thì thứ ấy sẽ vỡ. Mạnh Thần Thông thấy thế thì cũng thầm lo, nghĩ bụng: “Nếu Đường Hiểu Lan đến đây thì đúng là một kẻ kình địch!” Thế là rút tay về, co ngón giữa lại búng một cái, cây Thiên Sơn thần măng bị y búng bay vút lên trời cao còn nhanh hơn cả Đường Kinh Thiên, đó không phải là công phu ném ám khí của Đường Kinh Thiên không giỏi mà bởi công lực của chàng kém Mạnh Thần Thông quá xa, cho nên tuy có ám khí lợi hại nhất thiên hạ cũng chẳng làm gì được y! Song Mạnh Thần Thông cũng thấy hổ khẩu hơi tê . 

Thống Thiền thượng nhân chậm rãi đứng dậy trầm giọng nói: “Có lời gì hãy chậm rãi nói, cần gì làm khó bọn tiểu bối!” Mạnh Thần Thông đỏ mặt, Thống Thiền thượng nhân nói chuyện với y bằng tư cách của bậc Thái sơn Bắc đẩu trong võ lâm, y đương nhiên phải ngừng lại, Băng Xuyên thiên nữ đã chạy về trong trận. 

Mạnh Thần Thông nói: “Được, nếu thượng nhân đã lên tiếng, tôi tạm thời tha cho ả. Tôi chỉ đòi Tào Cẩm Nhi đưa người ra.” Thống Thiền thượng nhân nói: “Mạnh tiên sinh nói sai rồi, theo lão nạp biết, dù có cao nhân ở đây, người ấy cũng chẳng phải do Tào chưởng môn hẹn tới, Mạnh tiên sinh tìm không thấy thì làm sao có thể đổ thừa cho người ta?” Kim Quang đại sư tiếp lời: “Huống chi cao nhân dị sĩ thích rong chơi giữa cõi người, có lẽ ông ta thấy Mạnh tiên sinh chỉ điểm cho quý sư đệ, ông ta cũng nhất thời ngứa nghề, bắt chước theo Mạnh tiên sinh hiển lộ thần thông? Ông ta đã có bản lĩnh như thế thì làm sao e ngại cho được, vậy Mạnh tiên sinh hãy đợi xong chuyện này thì tìm ông ta tỉ thí. Trên đời này chẳng có mấy cao nhân, Mạnh tiên sinh quen biết rộng rãi, lo gì mà không tìm ra? Hình như không cần chuyện bé xé ra to như thế!” Kim Quang đại sư vừa ngừng lại, tựa như vẫn chưa nói hết ý thì Giang Nam cười hì hì bước ra nói: “Hình như còn phải thêm một câu: gây sự vô lý!” Thống Thiền thượng nhân và Kim Quang đại sư nói rất hợp tình hợp lý, nhưng họ không biết nội tình cứ tưởng rằng đó là chuyện bé xé ra to, còn đối với Mạnh Thần Thông đó là mối đại họa, y hận không tìm ra người này càng nhanh càng tốt, bởi vậy y phải tìm rõ nguồn cơn bằng mọi cách, dù Thống Thiền thượng nhân và Kim Quan thượng nhân liên tiếp lên tiếng, y cũng không chịu ngừng lại. Giang Nam vừa cười xong thì y lập tức nắm lấy câu nói ấy, làm ra vẻ thẹn quá hóa giận, gầm lớn: “Các người bảo ta chuyện bé xé ra to, gây sự vô lý? Được, ta phải hỏi cho rõ ràng, trước tiên bắt Tào Cẩm Nhi đánh hai trăm gậy, hỏi tội phạm quy tắc của mụ, ai bảo mụ để cho người khác vào đây ngầm đối chọi với ta? Dù mụ không hẹn người đó đến nhưng cũng phạm tội thất trách!” Kim Quang đại sư vừa nói: “Mạnh tiên sinh, sao ông có thể ngang ngược đến thế...” Mạnh Thần Thông quát: “Ai không phục thì cứ ra đây, dù sao ta cũng đã bảo sẽ lần lượt phân cao thấp với chưởng môn các phái!” Tào Cẩm Nhi tức đến nỗi toàn thân run bần bật, tức giận mắng: “Đồ rắm thối, ngươi coi Tào Cẩm Nhi này là người thế nào mà dám nói lời nhơ bẩn!” Mạnh Thần Thông nói: “Ngươi tưởng ngươi là chưởng môn phái Mang Sơn? Trong mắt ta, ngươi chẳng đáng một đồng xu, Xích Phù, Hiểu Phong, nào giúp ta bắt người!” Thế rồi y vung tay lập tức đánh ngã mấy người. Kim Quang đại sư nói: “Mạnh tiên sinh, lão nạp tỉ thí với ông một trận?” 

Ông ta ngồi ở ghế chủ trì, khoảng cách tương đối xa cho nên khi xông ra thì Mạnh Thần Thông đã đánh ngã thêm mấy người, chợt nghe có giọng nói già nua vang lên: 

“Tiểu Mạnh, lão phu ở đây, ngươi không được ngang tàng!” Mạnh Thần Thông chợt thấy có người đánh tới từ mặt bên, đám đông đang dồn lên mà y thì đang nổi giận chưa kịp quan sát thì đã mắng: “Ngươi là cái thứ gì mà dám giả làm trưởng bối của ta?”, rồi phất ống tay áo thi triển công phu thượng thừa Triêm y thập bát điệt, y chợt cảm thấy nội công của người ấy mạnh mẽ vô cùng, chỉ nghe soạt một tiếng, ống tay áo của y đã bị người ấy xé rách một mảng, Mạnh Thần Thông lật cổ tay lại, cũng không tóm được người ấy, cho nên lập tức đẩy ra chưởng lực Tu la âm sát công đến tầng thứ chín. 

Người ấy chính là trưởng lão của phái Không Động Ô Thiên Lang, ông ta tuổi đã qua bát tuần, đã luyện một loại công phu ranh giới giữa chính và tà rất thích lên mặt với người khác, lần này ông ta không được chọn ra chủ trì toàn cuộc, trong lòng hơi bất mãn, bởi vậy Kim Quang đại sư chưa xông ra tới thì ông ta đã muốn chặn Mạnh Thần Thông để trổ tài. Với tuổi tác của mình, ông ta gọi Mạnh Thần Thông là tiểu Mạnh cũng chẳng có gì quá đáng, nào ngờ Mạnh Thần Thông chưa nhìn thấy thì đã ngoác miệng mắng, khiến ông ta tức đến nỗi thất khiếu bốc khói. Ông ta có công lực trên bảy mươi năm, vả lại cũng luyện được mấy môn tuyệt học độc môn, đương nhiên chẳng phải tầm thường, cho nên Mạnh Thần Thông thuận tay phất ống tay áo, trái lại bị ông ta xé mất một mảng, nhưng đến khi Mạnh Thần Thông dốc hết toàn lực thi triển Tu la âm sát công đến tầng thứ chín thì ông ta cũng chịu không nổi, may mà ông ta cũng có một loại thân pháp tên gọi Quy tàng báo ẩn giống với Thiên la bộ pháp, bởi vậy không bị đánh trúng, nhưng luồng chưởng lực như dời núi lấp biển có khí âm hàn ấy cũng khiến ông ta loạng choạng thối lui ra sau! Dương Xích Phù theo sau Mạnh Thần Thông, va phải ông ta, Ô Thiên Lang trút hết cơn giận của mình về phía Dương Xích Phù, quát: “Tránh ra!” Dương Xích Phù chưa kịp thi triển Âm dương trảo, đã bị ông ta húc phải, Ô Thiên Lang thua Mạnh Thần Thông nhưng đối phó với Dương Xích Phù thì còn dư, Dương Xích Phù bị ông ta húc phải thì té lăn cù. Mạnh Thần Thông vừa thi triển Tu la âm sát công đến tầng thứ chín thì tất cả những người cách y ba trượng đều thấy lạnh thấu xương, ngực thì thấy ngộp thở, những người có võ công hơi kém cũng đã ngã xuống đất, được đồng môn sư huynh đệ vội vàng kéo ra nơi khác, những người chưa bị thương thì tháo chạy cho nên lộ ra một khoảng đất rộng. 

Mạnh Thần Thông nghe tiếng gào của sư đệ, quay đầu lại nhìn thì thấy Ô Thiên Lang, trong lòng cũng lo sợ mấy phần, nhưng mắng thì cũng đã mắng, đánh thì cũng đã đánh, y phóng lao thì đành phải theo lao, lạnh lùng nói: “Té ra là lão già sống dai, tiếp một chưởng nữa!” Người đến thì tiếng đến, y lại phát ra tiếp một đòn Tu la âm sát công tầng thứ chín, ngay lúc này chợt thấy có một bóng vàng chen vào giữa hai người họ, té ra Kim Quang đại sư đã lướt tới, trên người ông ta đang khoác bộ cà sa màu vàng. 

Kim Quang đại sư vung chưởng tiếp chưởng của Mạnh Thần Thông, lạnh lùng nói: “Mạnh tiên sinh cần gì phải nổi giận như thế, nếu muốn tìm người thử chưởng, lão nạp sẽ tỉ thí với ông một trận.” Mạnh Thần Thông thất kinh, thầm nhủ: “Chả trách nào lão và Thống Thiền thượng nhân là lãnh tụ võ lâm Trung Nguyên, quả nhiên là có thần công tuyệt thế.” Kim Quang đại sư vận Thái thanh khí công chính tông huyền môn đã tu luyện mấy mươi năm, nội lực ào ào dồn ra tiếp chưởng của Mạnh Thần Thông, trong lúc gay cấn Mạnh Thần Thông không thể nào rút ra được, thầm nhủ: 

“Nếu muốn phân thắng bại với lão hòa thượng này, ít nhất cũng phải mất đến nửa canh giờ.” Y đang nôn bắt Tào Cẩm Nhi để buộc Kim Thế Di ra mặt, bởi vậy không muốn giằng co với Kim Quang đại sư, cho nên đột nhiên thi triển Kim cương bát nhã thần công, dốc hết nội lực của toàn thân dồn ra bàn tay, lập tức đẩy Kim Quang đại sư, cười rằng: “Đa tạ đại sư đã coi trọng, nhưng giờ đây Mạnh mỗ đang có việc không thể nào lãnh giáo được!” Dù Kim Quang đại sư đã luyện nội công huyền môn đến mức chí cao vô thượng, bị Mạnh Thần Thông đẩy một cái cũng cảm thấy khí huyết nhộn nhạo. Mạnh Thần Thông thoát được Kim Quang đại sư thì trong chớp mắt đã xông tới trước mộ Độc tý thần ni. 

Tào Cẩm Nhi và đệ tử phái Mang Sơn đều ngồi trên bãi đất trống trước mộ, thấy Mạnh Thần Thông lao tới thánh địa của họ thì ai nấy đều đứng bật dậy toan liều mạng với Mạnh Thần Thông, Mạnh Thần Thông cười ha hả, chỉ thi triển công phu Triêm y thập bát điệt, đệ tử phái Mang Sơn tiến tới gần y, chưa chạm vào áo của y thì đã văng ra xa. 

Mạnh Thần Thông quát: “Tào Cẩm Nhi, ngươi chạy đi đâu? Hiểu Phong đến bắt người cho ta?” Dực Trọng Mâu, Tào Cẩm Nhi, Lư Đạo Lân, Lăng Vọng là những người có võ công cao nhất định đến nghênh chiến thì chợt nghe Mạnh Thần Thông quát: “Ồ, té ra là ngươi nấp ở đây, còn chưa bước ra cho ta?”, rồi y phóng lướt người qua đầu bốn người này, nhảy bổ tới bức tượng đứng bên phải mộ của Độc tý thần ni, y quát lớn một tiếng vung ngang chưởng bổ xuống đầu bức tượng. 

Té ra khi y sắp thi triển độc thủ đối với bọn Tào Cẩm Nhi thì chợt thấy pho tượng hơi lắc lư, y đoán ngay rằng pho tượng rỗng ruột, bên trong chắc có người. Quả nhiên y vừa chém chưởng tới thì bức tượng đổ xuống, có một người nhảy ra, người đó khiến cho Mạnh Thần Thông bất ngờ, chỉ thấy y đứng sững sờ, chẳng thể nào chém được chưởng thứ hai. 

Hồi Thứ Ba Mươi Ba

Trong khoảng sát na, đệ tử phái Mang Sơn đều lạnh người, Tào Cẩm Nhi trố mắt, thần sắc rất khó coi, tựa như vừa mừng lại như có mấy phần e ngại, rõ ràng sự xuất hiện của người ấy khiến bà ta bất ngờ! Lý Tâm Mai lạc giọng kêu lên: 

“Cốc tỷ tỷ!” Té ra người nấp trong pho tượng chính là Cốc Chi Hoa. Cốc Chi Hoa ngẩng đầu lên, lặng lẽ nhìn Lý Tâm Mai, rồi sau đó nàng lại đưa mắt nhìn lên người Mạnh Thần Thông. 

Mạnh Thần Thông sửng sốt rồi vội vàng nói: “Chi Hoa, con... con đến đây làm gì...?” Cốc Chi Hoa đứng trước mộ Độc tý thần ni, chậm rãi nói: “Hôm nay là ngày giỗ của sư tổ tôi, tôi đến đây tảo mộ cho sư tổ, sư phụ, đồng thời mong các người dừng cuộc can qua.” Mạnh Thần Thông nói: “Hừ, con muốn ta dừng tay?” Tào Cẩm Nhi nện cây gậy đầu rồng, cũng trách rằng: “Cốc Chi Hoa, không ngờ ngươi còn mặt mũi đến đây, lại còn dám đứng trước mộ sư tổ nói những lời như thế! Muốn ngừng can qua đâu có dễ dàng như thế? Ngươi có biết tứ đại trưởng lão của Cái Bang bị ai hại không? Ngươi có biết người cha chẳng chuyện ác gì không làm của ngươi vừa mới bức hiếp ai không?” Dực Trọng Mâu nói: “Sư tỷ đừng giận.” Rồi quay sang Mạnh Thần Thông nói: “Ngươi nói đúng, chuyện hôm nay đương nhiên không thể ngừng lại. Vậy cao nhân ngươi muốn tìm đang ở trước mặt ngươi, nàng vốn là đệ tử phái Mang Sơn, vào ngày này năm ngoái, cũng ở nơi này đã bị chưởng môn bổn phái đuổi ra khỏi sư môn, giờ các ngươi đã tin người này không phải là do bọn ta mời đến ám toán ngươi chứ? Vậy ngươi hãy rời khỏi nơi này, muốn tiếp tục tái chiến thì hãy ra chỗ đất bằng!” Nơi có mộ Độc tý thần ni là thánh địa của phái Mang Sơn, nếu bị Mạnh Thần Thông quấy rối thì dù kết quả cuối cùng như thế nào, dù có giết được Mạnh Thần Thông cũng là mối nhục lớn nhất phái Mang Sơn! Cốc Chỉ Hoa rưng rưng nước mắt, nàng đã đoán được Tào Cẩm Nhi sẽ trách mắng như thế, xưa nay Dực Trọng Mâu luôn bảo vệ cho nàng, giờ đây cũng không thể hiểu cho nàng, điều đó khiến nàng cảm thấy ấm ức, nhưng điều khiến nàng đau lòng nhất là thái độ của hai bên cũng cứng rắn như nhau, xem ra võ lâm khó tránh trận hào kiếp! Cốc Chi Hoa cố cắn chặt môi, kìm nước mắt, nghe Dực Trọng Mâu nói cho xong. 

Mạnh Thần Thông ngửa mặt cười ha hả, nói: “Chi Hoa, con có nghe hay không? 

Tào Cẩm Nhi đâu có nhận con là sư muội, con còn muốn giúp họ làm gì? Hừ, dù cho Tào Cẩm Nhi có dập đầu trước mặt ta hai trăm cái ta cũng không chịu ngừng tay!” 

Mạnh Thần Thông hiểu, kẻ bí hiểm quyết không phải là con gái của y, cho nên y vẫn tiếp tục làm theo kế hoạch cũ, trước tiên bắt Tào Cẩm Nhi để buộc người ấy xuất hiện. Mạnh Thần Thông nói xong mấy câu ấy thì không thèm để ý đến con gái nữa mà quay phắt người lại, trong mắt lộ đầy sát cơ, nhìn Tào Cẩm Nhi quát: “Sao còn chưa mau nhận tội, chả lẽ muốn ta đích thân ra tay? Ta đã bảo trước, ra tay sẽ không lưu tình, nếu chỉ muộn trong chốc lát thì tất cả các ngươi đều không chạy thoát!”, rồi y giơ hai chưởng lên, chưởng lực chưa kịp phát ra thì khí lạnh đã cuộn tới, dù Tào Cẩm Nhi, Dực Trọng Mâu đã luyện Thiếu dương thần công được một năm nhưng cũng cảm thấy khí lạnh thấu xương, răng đánh bò cạp. 

Ngay trong khoảnh khắc này, chợt Cốc Chi Hoa lắc người, chặn ở giữa Tào Cẩm Nhi và Mạnh Thần Thông, cao giọng nói: “Xin các người hãy nghe tôi nói vài câu!” 

Mạnh Thần Thông vội vàng rút chưởng lại. Cốc Chi Hoa nói: “Tôi đã nghĩ mấy cách điều đình, không biết có thực hiện được hay không, mong hai bên châm chước.” Mạnh Thần Thông nói: “Con nói nghe thử!” Cốc Chi Hoa chỉ vào y nói: “Ông đã hại tứ đại trưởng lão của Cái Bang, lại còn bức hiếp tôn sư các phái. Chuyện này vốn là ông không đúng!” Mạnh Thần Thông vừa nghe nàng mở miệng thì đã bảo mình không đúng, hừ một tiếng, nếu không phải nàng là con của y, chỉ e chưa nói hết câu thì đã bị đánh chết. 

Cốc Chi Hoa quay sang Tào Cẩm Nhi nói: “Võ lâm có câu, giết người chẳng qua đầu rơi đất, nếu ông ta chịu hối lỗi, tôi cũng mong bà tha thứ cho ông ta, đương nhiên hai chữ hối lỗi không thể nói suông, tôi sẽ bảo ông ta làm ba chuyện.” Mạnh Thần Thông tái xanh mặt, lạnh lùng nói: “Muốn ta hối lỗi? Muốn ta cầu xin mụ? Hừ, con đang nói với ai thế? Ta sống đến ngần tuổi này chưa bao giờ cúi đầu trước ai!”, rồi chậm rãi giơ chưởng lên, nhưng thấy con gái mình mắt rươm rướm lệ, mặt lộ vẻ đau khổ, Mạnh Thần Thông dừng chưởng lại trên không trung rồi nói: “Được, ba chuyện gì, con nói cho cha nghe.” Cốc Chi Hoa nói: “Chuyện thứ nhất là ông phải xin lỗi Dực bang chủ của Cái Bang, Tào chưởng môn của phái Mang Sơn, Hàn chưởng môn củaphái Thanh Thành; việc thứ hai là từ nay ông phải rút lui ra khỏi võ lâm; việc thứ ba là tôi biết ông đã lấy được bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, quyển bí kíp này nằm trong tay ông các phái không yên tâm, chỉ sợ ông lại truyền cho kẻ xấu, sau này sẽ gây ra đại họa cho nên chuyện thứ ba chính là xin ông hãy đưa bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh cho Thống Thiền thượng nhân! Chính là ba chuyện này. Tào sư tỷ, nếu ông ta thực hiện được ba lời hứa này, tôi cũng mong bà ngừng tay kịp thời, có thể tha được thì cứ tha!” Chưởng môn của các phái đều biết chuyện Kiều Bắc Minh, nghe Mạnh Thần Thông đã lấy được bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh thì đều cả kinh. 

Lúc này Tào Cẩm Nhi cũng thực sự sợ trong bụng, bà ta biết rằng tất cả những người ở đây đều không cự nổi với Mạnh Thần Thông. 

Tào Cẩm Nhi thầm nhủ: “Cốc Chi Hoa giảng hòa như thế cũng coi như không phản bội sư môn. Nếu Mạnh Thần Thông chịu theo ba điều kiện này thì mình có thể xét lại.” Thật ra bà ta chỉ cần lấy lại sĩ diện chứ trong lòng thì đã chấp nhận hàng vạn lần, bà ta sở dĩ trầm ngâm không nói, không chịu thể hiện thái độ cũng chỉ là vì sĩ diện mà thôi. 

Thống Thiền thượng nhân cao giọng niệm Phật hiệu, chắp tay nói: “Những lời vừa rồi của Cốc cô nương rất hợp tình hợp lý, Mạnh thí chủ, là phước hay họa đều tùy ở nơi ông.” Mạnh Thần Thông tuy là đại ma đầu, nhưng nếu y chịu đưa ra bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh thì đã là một công lớn, đương nhiên có thể chuộc lại những tội ác của mình. Nếu đôi bên đều không chịu lui bước mà cứ tiếp tục tỉ thí với nhau thì dù ai thắng ai bại cũng là một trận hào kiếp. 

Lúc này hàng ngàn cặp mắt đều nhìn về phía Mạnh Thần Thông. Mạnh Thần Thông đứng thộn mặt ra, xem ra hình như y không nổi giận như lúc nãy. Bọn Thống Thiền thượng nhân và Tào Cẩm Nhi cũng hy vọng y nghĩ đến tình cốt nhục cho nên đang đợi y lên tiếng. 

Nào ngờ Mạnh Thần Thông đang đau lòng đến cực điểm, bề ngoài có vẻ như đang rất trầm tĩnh, chẳng hề giận dữ tí nào. Nhưng y lầm lì một lúc thì đột nhiên cười rộ lên, tiếng cười rung chuyển trời đất, chấn động lỗ tai mọi người, những kẻ có công lực hơi kém thì bất tỉnh ngã xuống đất. Sau khi cười xong thì Mạnh Thần Thông quát lên: “Hay lắm, uổng cho ngươi là con gái ruột của ta, ta chỉ có một mình ngươi là cốt nhục, ngươi... ngươi lại buộc cha của mình phải khuất phục trước kẻ địch, Mạnh mỗ này dù có gây ra tội nghiệt to bằng trời cũng không đến nỗi bị báo ứng như thế!” Cốc Chi Hoa bình tĩnh nói: “Nếu cha chấp nhận ba điều kiện, con cũng hứa với cha một điều kiện, dù trước kia cha có tội ác gì, con cũng đi theo cha, sau khi cha rút lui ra khỏi võ lâm, cha con chúng ta chọn một nơi non xanh nước biếc ẩn cư, cha có chấp nhận không?” Lúc nãy Mạnh Thần Thông như một con thú hoang nổi điên, nhưng những câu nói vừa rồi của Cốc Chi Hoa như cây roi trong tay người dạy thú, lập tức khiến cho Mạnh Thần Thông bừng tỉnh trở lại, cũng giống như con gái, mắt y đẫm lệ! 

Đứng trước mặt y là người thân duy nhất, y nhớ đến người vợ đã mất, nhớ đến đã bao nhiêu năm qua y sống trong nỗi cô quạnh mà chẳng ai biết. Cốc Chi Hoa chấp nhận phụng dưỡng y suốt đời, cùng y tiêu diêu thế ngoại, đó chẳng phải là nguyện vọng của y hay sao? Chả lẽ không thể đánh đổi cho nghiệp bá, lúc này y đứng thẫn thờ, tâm trạng rối bời, hầu như sắp buột miệng nói: “Được, con gái, cha nghe theo con, đây là lần đầu tiên cha nghe theo người khác!” Nhưng y lại không đủ dũng cảm nói ra điều đó. Chỉ thấy ánh mắt y bất định, hỡi ơi, ai mà biết y đang nghĩ gì! Cốc Chi Hoa nhìn Mạnh Thần Thông đăm đăm, nàng hy vọng Mạnh Thần Thông sẽ cảm động trước tình cảm cha con. Thấy sắc mặt của Mạnh Thần Thông càng lúc càng giãn ra, Cốc Chi Hoa hầu như có thể nghe được nhịp tim của mình, nàng vừa vui mừng vừa đau lòng, thầm nhủ: “Nếu ông ta chịu nghe theo mình, võ lâm có thể tránh được trận hào kiếp này. Mình cũng sẽ đi theo ông ta suốt đời. Nhưng người khác sẽ nghĩ như thế nào?” Nàng biết bổn phái có thù sâu như biển với Mạnh Thần Thông, dù nàng đã giảng hòa nhưng mối thù ấy vẫn không thể nào tan biến, nàng nhận kẻ thù của bổn phái là cha coi như đã đoạn tuyệt với họ, đương nhiên trong lòng khổ sở, chỉ sợ Tào Cẩm Nhi không tha thứ cho nàng. Cũng có nghĩa là tâm nguyện quay lại sư môn sẽ mãi mãi không thể thực hiện được. 

Lúc này trong lòng nàng chợt hiện ra hình bóng Kim Thế Di. Ngày này năm xưa nàng đã bị Tào Cẩm Nhi đuổi ra khỏi sư môn, nàng vẫn còn nhớ Kim Thế Di đã an ủi mình rằng: “Ai trong sạch người đó tự biết trong sạch, ai nhơ bẩn người đó tự biết nhơ bẩn, sen sống trong bùn mà có hôi tanh mùi bùn đâu? Y là y, cô nương là cô nương, đâu có liên quan gì với nhau, cần chi phải phiền não!” Nàng nghĩ nếu không có hôm nay thì mình đâu cần phải theo ông ta, “nếu Kim Thế Di biết, chàng sẽ đối xử với mình như thế nào?” Nàng cũng được biết Kim Thế Di đã chết, nhưng nàng là người duy nhất không tin điều này. 

Những nỗi lo lắng ấy cũng giống như đám mây nhạt trên mặt trời rực rỡ, nàng có một trái tim bỏng cháy, cam chịu thiệt thòi, một lòng cứu người, một mặt là muốn kéo cha của mình từ trong hố lầy, một mặt là muốn kẻo chưởng môn sư tỷ ra khỏi quỷ môn quan. Nếu người khác hiểu lầm mình, thậm chí Kim Thế Di hiểu lầm cũng chẳng đáng là gì, nàng thầm nhủ: “Chỉ mong lòng được yên ổn, nghĩ thế nào là do chàng!” 

Đáng tiếc mặc dù Cốc Chi Hoa đã cam chịu thiệt thòi, bỏ mình cứu người nhưng mục đích của nàng vẫn không thể đạt được. Khi nàng tưởng rằng sẽ thành công, Mạnh Thần Thông đột nhiên biến sắc, điềm nhiên nói: “Ba điều kiện con vừa mới nói, ta không thể nào làm được!” Tình cha con rốt cuộc không thể nào thắng nổi dã tâm xưng bá võ lâm, nói một cách chính xác hơn, sự kiêu ngạo cực độ khiến cho y hạ quyết tâm sau khi đắn đo. Trong lúc sắp giành được thắng lợi y không thể quay ngược lại cầu xin kẻ địch mình vốn coi thường, “huống chi mình đã liều mạng trải qua bao nhiêu gian khổ, tìm được bộ bí kíp võ công này là vì cái gì?” Nghĩ đến đó thì ý đã quyết! Trong khoảng sát na này, Cốc Chi Hoa đã tuyệt vọng, Mạnh Thần Thông tuy nói rất điềm đạm, thậm chí có mấy phần từ hòa nhưng đối với nàng thì tựa như sấm nổ bên tai, nàng chợt cảm thấy trời xoay đất chuyển. 

Mạnh Thần Thông cười rằng: “Con khờ ơi, con có một người cha thiên hạ vô địch chẳng tốt hơn hay sao?” rồi y nhẹ nhàng đẩy nàng ra, bước về phía Tào Cẩm Nhi, cứ mỗi bước đi thì sát khí tăng lên một bậc, y vừa mới bước đi thì Cốc Chi Hoa đã đuổi theo. 

Mạnh Thần Thông nhíu mày, chưa kịp lên tiếng thì chỉ nghe soạt một tiếng, Cốc Chi Hoa đã rút cây Sương hoa kiếm ra, Mạnh Thần Thông lạnh lùng nói: “Con muốn đối chọi với ta?” nói chưa dứt lời thì chợt thấy Cốc Chi Hoa xoay mũi kiếm đâm vào ngực mình. 

Tào Cẩm Nhi kêu ối chao một tiếng, hầu như trong cùng một lúc này chỉ nghe keng một tiếng, một luồng thanh quang bay lướt lên không trung, cây kiếm của Cốc Chi Hoa rơi xuống đất, Mạnh Thần Thông bước dấn tới hai tay vung ra chụp lấy nàng! 

Thế nhưng cũng trong lúc này, Mạnh Thần Thông chợt cảm thấy hai luồng đại lực đánh tới, té ra đó là Thống Thiền thượng nhân và Kim Quang đại sư, khi Mạnh Thần Thông đang nói chuyện với Cốc Chi Hoa, họ đã đến bảo vệ cho Tào Cẩm Nhi, lúc này thấy Cốc Chi Hoa đột nhiên ngã xuống thì cả hai không hẹn mà đều ra tay. 

Mạnh Thần Thông chưởng trái tiếp Thống Thiền thượng nhân, chưởng phải chặn Kim Quang đại sư, chợt nghe hai tiếng bốp bốp vang lên, Mạnh Thần Thông thối lui ba bước, Thống Thiền thượng nhân và Kim Quang đại sư cũng lắc lư người, lúc này Tào Cẩm Nhi đã bế Cốc Chi Hoa về. 

Mạnh Thần Thông giận dữ nói: “Nó là con gái của ta, ta muốn bắt nó trở về, là sống hay chết các người chẳng thể xen vào!” Thống Thiền thượng nhân nói: “Lành thay! lành thay! Lão nạp không thể xen vào, nhưng ở đây lại có người xen vào được!”, rồi ông ta quay đầu lại hỏi: “Lão nạp nói có đúng không? Tào chưởng môn, chuyện này do bà quyết định!” Tào Cẩm Nhi đưa Cốc Chi Hoa cho một nữ đệ tử, nghiêm mặt nói: “Hôm nay ta lấy thân phận của chưởng môn phái Mang Sơn, tuyên bố trước mặt mọi người, ta cho phép Cốc Chi Hoa từ hôm nay trở về môn hộ!” Cốc Chi Hoa liều mạng bảo vệ bà ta, cuối cùng đã lay động được bà ta, đáng tiếc nàng không nghe cũng không thấy. 

Trong võ lâm cha và thầy đều quan trọng như nhau, nếu khi cha đối địch với thầy, quy củ là theo thầy chứ không theo cha, trừ phi nàng chấp nhận thoát li bổn phái thì sẽ tính khác. Tất cả những người ở đây đều nghe Cốc Chi Hoa đã nói. Nếu Mạnh Thần Thông không chịu chấp nhận ba điều kiện cũng có nghĩa là không chịu hòa giải với Tào Cẩm Nhi, nàng sẽ không nhận y làm cha. Vả lại ai cũng nghe rằng Cốc Chi Hoa gọi Tào Cẩm Nhi là “chưởng môn sư tỷ”, đó cũng có nghĩa là nàng không chịu thoát li khỏi bổn phái, giờ đây Tào Cẩm Nhi đã chính thức tuyên bố cho phép nàng trở lại sư môn, Mạnh Thần Thông không thể nào can thiệp. Thống Thiền thượng nhân nói mấy câu rồi không thèm để ý đến Mạnh Thần Thông nữa mà bước về phía Cốc Chi Hoa, chỉ thấy Cốc Chi Hoa hai mắt khép chặt, sắc mặt tái nhợt. Tào Cẩm Nhi rưng rưng nước mắt: “Hình như hơi thở không còn nữa!” Thống Thiền thượng nhân bắt mạch cho nàng rồi nói: “Không, không sao cả.” Lúc nãy Tào Cẩm Nhi bế Cốc Chi Hoa đã cảm thấy toàn thân nàng lạnh ngắt mà giờ đây Thống Thiền thượng nhân lại bảo không có chuyện gì. Nếu chẳng phải Thống Thiền thượng nhân là bậc đức cao vọng trọng, bà ta cũng không thể tin được. 

Thống Thiền thượng nhân nói: “Tuy là không sao nhưng tôi cũng không thể đánh thức được cô ta.” Tào Cẩm Nhi nói: “Có phải trúng mê dược không?” Thống Thiền thượng nhân lắc đầu: “Không, nếu trúng mê dược thì rất dễ. Cô ta đã trúng một loại thủ pháp điểm huyệt kỳ môn chưa bao giờ thấy trong kinh điển võ học, lão nạp chỉ biết có thế mà thôi.” Té ra khi Cốc Chi hoa rút kiếm tự sát, Mạnh Thần Thông đã lập tức dùng công phu Tiêu giao chỉ trong bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh điểm nàng ngã xuống. Cách điểm huyệt này chẳng hề làm tổn thương đến cơ thể nhưng nếu không được người biết cách điểm huyệt này giải cứu thì mãi mãi sẽ hôn mê. 

Mạnh Thần Thông thi triển công phu này một là ngăn không cho con gái tự sát, hai là không muốn Cốc Chi Hoa lại lằng nhằng với mình nữa, ba là chẳng may nàng bị đối phương bắt thì không ai có thể giải huyệt được cho nàng. 

Tào Cẩm Nhi bớt lo hơn, hỏi: “Vậy phải làm thế nào?” Thống Thiền thượng nhân nghĩ ngợi rồi nói: “Nếu xong chuyện, lão nạp may mắn chẳng hề gì thì có thể dùng Nhất chỉ thiền công đánh thông kỳ kinh bát mạch cho cô ta, lúc đó cô ta sẽ tự tỉnh dậy.” Nhất chỉ thiền công là một trong bảy mươi hai tuyệt học của Thiếu Lâm, khi dùng rất phí công lực, vả lại ít nhất phải mất hai canh giờ mới có thể đả thông kỳ kinh bát mạch cho người khác, cho nên Thống Thiền thượng nhân không thể cứu nàng ngay bây giờ được. Tào Cẩm Nhi thấy Cốc Chi Hoa không hề gì, mà Thống Thiền thượng nhân lại hứa sẽ cứu nàng thì mới yên lòng. Tào Cẩm Nhi nhớ lại trước kia mình đã đối xử với Cốc Chi Hoa quá khắt khe, bất đồ trong lòng vừa cảm kích vừa hổ thẹn. 

Dực Trọng Mâu nói: “Trước tiên đưa Cốc sư muội vào bên trong để khỏi bị Mạnh Thần Thông cướp mất.” Tào Cẩm Nhi nói: “Đệ nói rất phải, nhưng phải nhờ hai người võ công cao cường bảo vệ.” Lúc nãy Đồ Chiêu Minh đại phá Võ Đang chiến trận, phái Võ Đang có vài người bị thương, lúc này cũng đang tìm người hộ tống trở về. Lý Tâm Mai kéo tay mẹ, Phùng Lâm cười nói: “Mẹ biết con muốn bầu bạn với Cốc cô nương, thôi được, mẹ con chúng ta sẽ hộ tống những người bị thương.” Võ công của Phùng Lâm chỉ kém Thống Thiền thượng nhân và Kim Quang đại sư đương nhiên là người thích hợp nhất. Phùng Lâm nghĩ ngợi rồi lại nói: “Chung Triển, con cũng theo ta, đệ tử phái Võ Đang bị thương toàn là đàn ông, con chăm sóc sẽ tiện hơn chúng ta.” Thực ra xưa nay Phùng Lâm chẳng câu nệ chuyện nam nữ, huống chi đệ tử phái Võ Đang lại là hậu bối của bà ta. Bà ta muốn Chung Triển đi cùng là bởi từ lâu đã coi y là con rể, sợ một lát nữa sẽ xảy ra hỗn chiến rồi bị thương. Chung Triển tuy muốn ở lại nhưng y càng muốn đi theo Lý Tâm Mai hơn. Phùng Lâm gọi y, y cũng vội chạy theo. Thống Thiền thượng nhân quay đầu lại nói: “Mạnh thí chủ, ông đã tìm ra người muốn tìm, chuyện ông muốn lo cũng có người khác lo thay cho ông, phải chăng chúng ta lại tiếp tục tỉ thí?” Mạnh Thần Thông nghĩ bụng, nếu cứ tiếp tục làm to chuyện chắc chắn sẽ bắt được Tào Cẩm Nhi, thế nhưng lúc đó Kim Quang đại sư và Thống Thiền thượng nhân đều ra tay thì mình không nắm chắc phần thắng, nếu tiếp tục tỉ thí theo quy củ, mình cũng có thể đánh bại mấy mươi cao thủ, huống chi con gái mình bảo vệ cho chưởng môn sư tỷ của nó như thế, mình không nể mặt Thống Thiền thượng nhân thì cũng phải nghĩ đến con gái, vì thế thản nhiên gật đầu. 

Cuộc hỗn loạn chấm dứt, mọi người quay trở lại bãi đất bằng, lại khôi phục tình thế lúc nãy. Mạnh Thần Thông lạnh lùng như băng tuyết khiến người ta không lạnh mà run. Dương Xích Phù và Cơ Hiểu Phong chia nhau đứng hai bên. Lúc nãy Dương Xích Phù bị Ô Thiên Lang đánh ngã, gân chân bị thương, khi đi cứ tập tà tập tễnh. 

Còn Cơ Hiểu Phong thì lại thần thái bay bổng. Té ra lúc nãy y luồn qua lách lại trong đám người, đã thi triển bản lĩnh Diệu thủ không không, đánh cắp được nhiều đồ vật linh tinh, chẳng hạn như Phật châu của Thống Thiền thượng nhân, châu hoa trên giày của Tào Cẩm Nhi, ám khí hồ điệp tiêu độc môn của Lộ Anh Hào, cây ngọc tiêu của Lâm Sinh... Y là thiên hạ đệ nhất thần thâu, thấy vật hiếm có thì không khỏi ngứa tay. 

Y đánh cắp không cần để ý đến giá trị của đồ vật, cũng giống như người ngày nay thích sưu tầm đồ kỷ niệm, đồ của những người càng nổi tiếng thì càng quý giá. Hôm nay Cơ Hiểu Phong đánh cắp được nhiều đồ vật của võ lâm cao thủ, đủ cho y huênh hoang khoác lác suốt đời. Mạnh Thần Thông liếc nhìn Cơ Hiểu Phong rồi điềm nhiên nói: “Đưa bổ thiên cao đây!” Cơ Hiểu Phong chưng hửng, thầm nhủ: “Mình làm gì có bổ thiên cao? À, đúng rồi, chắc sư phụ nói đến một loại linh dược mình vừa mới đánh cắp.” Y vừa mới đánh cắp cả thảy mười mấy loại dược cao, nhưng rốt cuộc cái nào là bổ thiên cao cả bản thân y cũng không biết. 

Mạnh Thần Thông không đủ kiên nhẫn nói nhiều với y, chỉ nhẹ nhàng vỗ vào vai y, bao nhiêu “vật kỷ niệm” kỳ quái hiếm có đều rơi xuống đất. Mạnh Thần Thông chỉ một cái bình ngọc cổ dài nói: “Lấy dược cao ra, đưa cho sư thúc nấu chảy bôi vào!” Y hơi ngừng, rồi lại nói: “Những thứ này lấy cũng chẳng làm gì, đúng là kiến thức nông cạn. Lại còn xưng Thần thâu. Từ rày về sau phải học hỏi nhiều ở sư thúc của ngươi.” 

Cơ Hiểu Phong vâng một tiếng rồi khom người nhặt cái bình ngọc lên, khi y thẳng người dậy thì người khác chỉ thấy trên tay y có một cái bình ngọc cổ dài, nhưng những món còn lại ở dưới đất đều biến mất. Té ra khi y cúi người xuống nhặt bình ngọc thì đã giấu hết những thứ khác, thủ pháp nhanh lẹ đến khó tưởng tượng! 

Những kẻ bị mất cắp đều trợn mắt há mồm, Ô Thiên Lang thì thẹn đến đỏ ửng mặt, té ra bổ thiên cao là của y. Bổ thiên cao có thể nối gân tiếp cốt, vả lại công hiệu phát huy rất nhanh, nếu gân cốt vừa bị gãy hay đứt, không đầy nửa canh giờ thì có thể khôi phục lại như thường. Người chế tạo ra loại dược cao này là chưởng môn đời trước của phái Không Động, Liêu Tam Nương. Vì bà ta là nữ tử, loại thuốc này được đặt tên bổ thiên cao, lấy theo ý Nữ Oa khiêng đá vá trời. Tông sư các phái đương nhiên biết bổ thiên cao là báu vật của Không Động, cho nên Mạnh Thần Thông vừa nói ra ba chữ bổ thiên cao thì đã biết Ô Thiên Lang là nạn nhân của Cơ Hiểu Phong. Lúc nãy khi Mạnh Thần Thông đại náo, Ô Thiên Lang tiếp một chưởng của y, tuy bị y đánh lui nhưng cũng xé một ống tay áo của y, lại còn đả thương Dương Xích Phù, tính ra cũng còn có phần hơn, cho nên vẫn đắc ý dương dương, nào ngờ diệu dược của bổn môn thì bị đệ tử của Mạnh Thần Thông lấy mà không biết, bởi vậy càng ngượng ngùng hơn, bất đồ đỏ ửng cả mặt. Thực ra Mạnh Thần Thông cũng không có ý làm thế, chỉ vì Mạnh Thần Thông biết bổ thiên cao là loại thuốc tốt cho nên mới bảo Cơ Hiểu Phong lấy ra đưa cho Dương Xích Phù. 

Cơ Hiểu Phong và Dương Xích Phù đang lui xuống, Mạnh Thần Thông chợt hỏi: “Đánh mấy trận rồi?” Cơ Hiểu Phong nói: “Tổng cộng bảy trận, mỗi bên thắng ba trận hòa một trận.” Mạnh Thần Thông phất tay, khi hai người Cơ, Dương lui xuống thì y khệnh khạng bước ra giữa sân, cao giọng nói: “Tỉ thí đã lâu như thế, trời cũng không còn sớm nữa, chi bằng cứ để Mạnh mỗ ra trận này lãnh giáo với các bậc cao minh, nếu có ai thắng được Mạnh mỗ thì Mạnh mỗ sẽ lập tức tự sát, nếu Mạnh mỗ may mắn đắc thắng thì mong các vị làm theo lời hứa. Các vị cùng lên một lượt hay lần lượt ban dạy cho Mạnh mỗ?” Số là Mạnh Thần Thông và Thống Thiền thượng nhân đã thỏa thuận với nhau, cho cao thủ hai bên tỉ thí trước, nếu phía Thống Thiền thượng nhân thắng thì cuối cùng mới đến lượt Mạnh Thần Thông, nếu làm theo cách này thì ít nhất cũng phải mất đến vài ba ngày. Giờ đây Mạnh Thần Thông rõ ràng không đợi được nữa cho nên tự động bước ra, định dùng võ công tuyệt thế của mình để đè bẹp chưởng môn các phái. 

Thống Thiền thượng nhân vốn có thể đề nghị y giữ lại cách cũ, tiếp tục lần lượt tỉ thí, nhưng ông ta không thể từ chối lời khiêu chiến của Mạnh Thần Thông. 

Có điều ai ra trước để đối phó Mạnh Thần Thông? Tuy Mạnh Thần Thông bảo chưởng môn các phái có thể cùng xông lên, nhưng thử hỏi với những người như Thống Thiền thượng nhân, Kim Quang đại sư thì làm sao có thể cùng các chưởng môn khác vây đánh Mạnh Thần Thông. Dù là xa luân chiến cũng đã mất sĩ diện. Chợt nghe có một giọng nói già nua cất lên: “Mạnh lão đệ, lão hũ không biết lượng sức, lúc nãy chỉ chạm một chưởng với ngươi, giờ đây vẫn chưa hết hứng, lão hũ muốn xả mạng chiều theo ngươi một trận” Ông già ấy chính là Ô Thiên Lang, y xưa nay cao ngạo, lúc nãy bị chặn lại, nghĩ bụng vẫn còn có cách chế ngự chưởng lực của Mạnh Thần Thông cho nên đòi bước ra trận. 

Mạnh Thần Thông điềm nhiên nói: “Thôi được, Ô trưởng lão đã muốn chỉ giáo thì xin mời!” Ô Thiên Lang cười nói: “Đừng nôn nóng.” Rồi một lúc sau lấy ra một cái ống đồng tròn đen bóng, ngón tay cái ấn xuống phía dưới thì lửa phun ra, y chưa bước tới trước mặt Mạnh Thần Thông, ngọn lửa ấy cũng chẳng phun về phía Mạnh Thần Thông, mà chỉ tay trái cầm ống phun lửa đốt tay phải của mình. Khi y mới lấy ra ống phun lửa, mọi người đều rất ngạc nhiên, thầm nhủ: “Ông già này sao làm gì thế?” 

Nếu luyện võ công đến mức lư hỏa thuần thanh, khí thần hợp nhất, mỗi cử động đều có uy lực vô cùng, không cần phải có thứ gì trợ giúp. Cho nên phàm những người dựa vào ám khí để nổi tiếng thì ám khí dù độc địa đến đâu cũng không phải là cao thủ thuộc hàng nhất lưu. Bởi vậy mọi người thấy Ô Thiên Lang lấy ra ống phun lửa thì đều ngạc nhiên, nhủ rằng: “Ông già này xưa nay cao ngạo, sao lại lấy ống phun lửa? 

Với một người có bản lĩnh như Mạnh Thần Thông, làm sao có thể đốt y được?” Nào ngờ Ô Thiên Lang không phải lấy ống phun lửa ra để đốt Mạnh Thần Thông mà là đốt tay của mình! Lúc này mọi người còn ngạc nhiên hơn lúc nãy, bởi vì bất luận võ công cao cường đến mức nào, con người vẫn là thân xác thịt, nay Ô Thiên Lang lại lấy lửa đốt mình thì thật không thể tưởng tượng nổi! Ô Thiên Lang thấy mọi người kinh hãi thì rất đắc ý, cười ha hả rằng: “Lão hũ sợ lạnh cho nên trước khi ra trận đã hơ tay mình, các vị không cần phải kinh hãi đến thế!” Trên bãi đất bằng, khí lạnh của băng phách thần đạn vẫn chưa hoàn toàn tan biến, quả thật là lạnh hơn nơi khác nhiều, nhưng ai cũng biết làm sao Ô Thiên Lang lại sợ lạnh, đó chẳng qua là “lời nói đùa”. 

Cơ Hiểu Phong thầm nhủ: “Mình đã thấy thuật sĩ giang hồ nuốt đao phun lửa, chả lẽ lão già này làm trò ảo thuật để dọa người khác?” Y đang ngồi đun thuốc để bôi cho Dương Xích Phù, lửa trong lò đang cháy phừng phừng, y chợt nảy ra một ý cười nói với Ô Thiên Lang: “Lão già sợ lạnh thì cứ đến đây hơ lửa của tôi!” Ô Thiên Lang nói: “Vậy thì càng tốt.” Rồi ném ống phun lửa qua một bên, ống phun lửa đốt cháy một đoạn cây. Cơ Hiểu Phong thất kinh, thầm nhủ: “Lẽ nào lửa trong ống đồng còn lợi hại hơn lửa ở trong lò?” Băng Xuyên thiên nữ vội vàng phóng ra một viên băng phách thần đạn dập lửa. Ô Thiên Lang ngồi xếp bằng bên cạnh lò lửa, hai tay cho vào lò, không ngừng nói: “Dễ chịu quá, dễ chịu quá!” Cơ Hiểu Phong vò đầu bứt tai, càng lúc càng bước sát tới gần y, chợt nghe Ô Thiên Lang hừ một tiếng rồi nói: “Tiểu tặc, ngươi còn dám đánh cắp đồ của ta!” Cơ Hiểu Phong vội vàng lộn người ra cách đó ba trượng. 

Lần này quả thật oan uổng cho y, y vốn muốn đến xem thử Ô Thiên Lang đang làm trò gì, Ô Thiên Lang đang muốn báo thù lúc nãy, vừa phát giác y đứng sau lưng mình thì ngả lưng ra phía sau, Cơ Hiểu Phong vừa chạm phải y thì bị Thần công hộ thể của y đánh bật ra mấy trượng. Thực ra với bản lĩnh của Ô Thiên Lang, Cơ Hiểu Phong chẳng thể nào đánh cắp được đồ của y nữa, chỉ vì lúc nãy Ô Thiên Lang đang dốc hết sức đối phó với Mạnh Thần Thông cho nên y mới đắc thủ được. Nay Ô Thiên Lang có ý muốn trừng phạt y, Cơ Hiểu Phong lại quá tin tưởng thân pháp nhanh lẹ của mình, không biết lợi hại cho nên đến sát sau lưng y nên phải nếm đòn. May mà Cơ Hiểu Phong thấy không ổn thì lập tức né qua cho nên chỉ bị ngã chứ chẳng hề bị thương. 

Ô Thiên Lang rút tay ra, chậm rãi đứng dậy nói: “Mạnh lão đệ, lúc nãy chúng ta vừa đối một chưởng vẫn còn chưa hết hứng, chúng ta lại tiếp tục đối chưởng, thế nào?” Rồi hai tay vỗ vào nhau kêu lên leng keng như tiếng kim khí, tia lửa bắn ra tung tóe! Mọi người nhìn thì thấy hai tay y đỏ ửng tựa như miếng sắt mới rút ra khỏi lò, ai nấy đều kinh hãi thầm nhủ: “Chả lẽ y đã luyện được Kim cương bất hoâi là Ô Thiên Lang chẳng phải luyện được Kim cương bất hoại, trong động Ô Phong có một loại tơ thiên tằm, có thể chống lửa tốt hơn cả thạch miên, nhưng sản lượng cực kỳ ít. Y đã bỏ mất ba mươi ba năm để kiếm tơ thiên tằm làm một đôi bao tay, bên ngoàilại mang thêm một đôi bao tay bằng hợp kim rất mỏng, mỏng đến nỗi không nhìn thấy được, màu sắc của đôi găng tay này cũng giống như màu da thịt, người ngoài nhìn tưởng rằng hai tay của y có thể chịu đựng được lửa đốt. Mạnh Thần Thông khôngbiết sự ảo diệu này, thấy đôi chưởng của y đỏ rực như lửa, hơi nóng tỏa ra thì không khỏi kinh hãi, thầm nhủ: “Chả trách nào mà người ta bảo lão già này võ công cực kỳ quỷ dị, quả nhiên danh đồn không ngoa.” Nhưng y cũng không hề sợ hãi, điềm nhiên nói: “Mạnh mỗ sẽ chiều theo, mời phát chiêu!” Ô Thiên Lang đánh ra một chiêu Thiên mã đằng không, hai chưởng đẩy ra, một chưởng đánh về phía ngực của Mạnh Thần Thông, một chưởng vỗ vào mặt Mạnh Thần Thông. Chưởng pháp rất hiểm hóc bá đạo, nếu bị y đánh trúng thì chẳng khác nào bị hai miếng sắt nung đỏ in vào người! Mạnh Thần Thông tuy là thần thông quảng đại nhưng cũng không thể không e ngại, thế rồi y vỗ hờ một chưởng chứ không dám tiếp, nhưng y đã dốc ra chưởng lực Tu la âm sát công đến tầng thứ chín. Ô Thiên Lang đốt đôi tay của mình là muốn Mạnh Thần Thông không dám tiếp y, chưởng của Mạnh Thần Thông không tiếp vào người y đương nhiên uy lực của Tu la âm sát công không thể phát huy được hết, như thế coi như Ô Thiên Lang chỉ tiếp Phách không chưởng của y, tuy vẫn cảm thấy áp lực kinh người, hơi thở nặng nề nhưng chẳng hề chi. Trái lại Mạnh Thần Thông e dè nên bị Ô Thiên Lang đuổi sát theo, phải tránh đông né tây, rõ ràng đã lọt xuống thế hạ phong. 

Một hồi sau Mạnh Thần Thông thấy nhiệt lực trong chưởng của đối phương không phải là khí chân dương nội gia, cũng đoán rằng đôi bàn tay của y hình như được bọc bởi kim loại rất mỏng. Song y không biết bí mật của bao tay thiên tằm, đồng thời cũng chẳng nghĩ được cách nào đối phó với đôi bàn tay nóng bỏng kia, cho nên vẫn chỉ thủ chứ không công. 

Còn có một điều kỳ lạ nữa, dù nếu là sắt nung đỏ, một thời gian sau sẽ nguội đi nhưng y đã đánh hơn ba mươi chiêu với Mạnh Thần Thông mà đôi quái chưởng vẫn không giảm độ nóng! Mạnh Thần Thông không hiểu sở trường các phái chính tà, thầm nhủ: “Tuy lão già này không thể vận dụng khí thuần cương nhưng công lực cũng không kém, chỉ cần mình dùng Tu la âm sát công đối phó với y, không chạm vào y ít nhất phải một canh giờ nữa thì đôi chưởng của y mới nguội.” Số là Ô Thiên Lang ngưng tụ khí thuần dương vào lòng bàn tay để kéo dài nhiệt lực, Mạnh Thần Thông dùng Phách không chưởng đối phó, tuy hơi chiếm phần hơn nhưng trong khoảnh khắc cũng không thể nào làm đôi chưởng của Ô Thiên Lang nguội lại. 

Mạnh Thần Thông muốn dùng võ công tuyệt thế đè bẹp tông sư của các phái, nghĩ bụng nếu giằng co với Ô Thiên Lang cả một canh giờ thì thắng cũng chẳng vinh quang gì, y nhíu mày nảy ra một kế, giả vờ sợ đôi chưởng của Ô Thiên Lang thối lùi ra phía sau từng bước. 

Ô Thiên Lang vận chưởng như đao, liên tục đánh tới, Mạnh Thần Thông loạng choạng thối lui, đột nhiên y tựa như vấp té, Ô Thiên Lang cả mừng đánh ra một chiêu Hoành phong đoạn vân, chưởng trái chém xuống thì chợt thấy sau ót có gió, té ra Mạnh Thần Thông đã dùng Thiên la bộ pháp đi vòng ra sau lưng y thổi vào lỗ tai y. 

Mạnh Thần Thông nhanh như điện, Ô Thiên Lang cũng không kém, cảm thấy không ổn thì lập tức trở tay đánh lại một chưởng nhưng vẫn còn chậm, chỉ nghe soạt một tiếng, tà áo đã bị Mạnh Thần Thông xé rách một mảng! Tai thì bị khí lạnh thổi vào lập tức thấy tai ù mắt mờ. 

Mạnh Thần Thông đánh ra chiêu này cũng tương tự như lúc nãy Kim Thế Di chỉ cho Băng Xuyên thiên nữ dùng băng đạn bắn vào tai Dương Xích Phù, nội lực của Ô Thiên Lang cao hơn Dương Xích Phù nhiều, tuy vẫn cố gắng gượng nhưng đã chậm hơn trước. 

Số là lúc này Mạnh Thần Thông có thể dùng Thiên la bộ và Âm dương trảo sẽ thắng được y, nhưng Mạnh Thần Thông cố ý phô bày võ công, xé tà áo của y bọc vào tay mình rồi cười rằng: “Đối chưởng thôi!”, rồi bước lên phía trước, bốp một tiếng, hai chưởng giao nhau, lớp vải bọc trên tay Mạnh Thần Thông bị bốc cháy, Mạnh Thần Thông vội vàng rút chưởng lui người, thổi bay lớp tro tàn trên tay của mình, bởi vì hai chưởng giao nhau nhanh như điện chớp, tuy lớp vải bọc tay Mạnh Thần Thông bị đốt cháy nhưng y không hề bị tổn thương da thịt. Mạnh Thần Thông cười ha hả : “Một chưởng vẫn chưa đủ hứng, tiếp nào, tiếp nào!”, rồi vận chưởng như gió, liên tục đánh ra ba chưởng, sau khi Ô Thiên Lang đối một chưởng với y, khí âm hàn đã truyền vào lòng bàn tay, đi theo thủ thiếu dương kinh đánh vào trong người, độ nóng trên tay cũng giảm xuống nhiều. Mạnh Thần Thông không cần dùng vải bọc nữa cũng có thể trực tiếp đối chưởng với y. Sau bốn chưởng, sắc mặt Ô Thiên Lang xám ngoét, Mạnh Thần Thông cười lạnh nói: “Còn hứng không?”, rồi bốp một tiếng, lại thêm một chưởng nữa. Ô Thiên Lang làm sao chịu nổi chưởng này, thế là máu tươi phun ra té sầm xuống đất! Mạnh Thần Thông lấy ra một viên thuốc, Ô Thiên Lang đang phun máu, miệng chưa kịp khép lại thì đã bị y bắn viên thuốc vào, Mạnh Thần Thông cười: “Đồ đệ của ta lấy bổ thiên cao của ông, tôi tặng ông một viên lục dương nguyệt, giữ mạng già của ông, một vật đổi một vật coi như đã công bằng!” Lục dương nguyệt là do Mạnh Thần Thông hái sáu loại thuốc độc có tính nóng nhất chế thành, người bình thường chỉ cần uống một viên thì lập tức thất khiếu chảy máu mà chết, nhưng nếu sau khi bị thương bởi Tu la âm sát công thì có thể lấy độc công độc giữ được mạng. Ô Thiên Lang buộc phải nuốt viên thuốc, chỉ cảm thấy một luồng khí nồng đi theo kinh mạch thiếu dương lan tỏa toàn thân, biết Mạnh Thần Thông không gạt mình. 

Ngay lúc này có một người phóng vọt ra giữa sân. Người đó chính là Tân Ẩn Nông, sư đệ của chưởng môn phái Thanh Thành Hàn Ẩn Tiều. Y chẳng nói chẳng rằng rút phắt thanh kiếm lập tức đâm về phía Mạnh Thần Thông. 

Chưởng môn của phái Tì Liên Tề Thiên Lạc là bằng hữu của Ô Thiên Lang, y vốn là người đứng giữa chính và tà, vốn chẳng coi trọng quy củ, huống chi y cũng không nắm chắc một mình có thể đối phó nổi với Mạnh Thần Thông cho nên thấy Tân Ẩn Nông rút kiếm phóng ra thì y cũng phóng ra vỗ chưởng theo.

Mạnh Thần Thông lách người vòng qua bên cạnh Tân Ẩn Nông, chưa đứng vững thì đã nghe tiếng xé gió, chiêu thứ hai của Tân Ẩn Nông đã đánh ra, kiếm quang lấp lánh bất định, cả Mạnh Thần Thông cũng giật mình. 

Mạnh Thần Thông cười nói: “Kiếm pháp của ngươi cao hơn Hàn Ẩn Tiều, trong phái Thanh Thành coi như ngươi là người giỏi nhất. Hãy dùng tiếp Thiên chỉ chưởng đi thôi!” Số là trong phái Thanh Thành nổi tiếng võ lâm nhờ ba môn tuyệt học, đó là Thiên la bộ, Thiên độn kiếm và Thiên chỉ chưởng. Cuối thời Nam Tống, phái Thanh Thành tách ra từ phái Nga Mi, đến giữa thời Minh thì phái Thanh Thành đã hoàn thiện ba môn võ học của mình. Thiên la bộ trong bí kíp của Mạnh Thần Thông được biến hóa từ Thiên la bộ của phái Thanh Thành, nhưng thâm sâu ảo diệu hơn Thiên la bộ của phái Thanh Thành cho nên Mạnh Thần Thông không dám dùng đối với Tân Ẩn Nông, chỉ bảo y dùng Thiên chỉ chưởng. 

Thiên chỉ chưởng và Thiên độn kiếm là hai môn tuyệt học, năm xưa Kiều Bắc Minh cũng nghiên cứu, song cách phá giải thì nằm ở nửa đầu của bộ bí kíp, bởi vậy Mạnh Thần Thông không học được. Lần trước y đả thương sư huynh của Tân Ẩn Nông là Hàn Ẩn Tiều chỉ nhờ vào uy lực của Tu la âm sát công. Số là lúc này y có thể dùng Tu la âm sát công đánh bại Tân Ẩn Nông, nhưng y muốn biết sự ảo diệu của Thiên độn kiếm và Thiên chỉ chưởng, vả lại cũng vì kiếm pháp của Tân Ẩn Nông quá tinh diệu, dùng Tu la âm sát công đối phó với một cao thủ như Tân Ẩn Nông thì nhất định phải chạm vào người y mới phát huy được uy lực, nhưng Mạnh Thần Thông cũng e dè kiếm pháp của y, dù đánh chết Tân Ẩn Nông thì cũng bị thương chút ít, như vậy thì rất mất mặt. Mạnh Thần Thông biết nhiều loại võ công thượng thừa cho nên mới thi triển tùy theo từng người. 

Khi Mạnh Thần Thông đang nói thì Tân Ẩn Nông đã đánh ra một loạt những chiêu kiếm vừa ảo diệu vừa hiểm hóc, chỉ thấy kiếm quang loang loáng, lúc ở phía trước lúc ở phía sau. Bộ kiếm pháp này của y lấy bốn chữ giữ, chuẩn, nhanh, biến làm đầu, lai vô ảnh khứ vô hình, cho nên mới gọi là Thiên độn kiếm pháp. Nhưng dù y vận kiếm như gió, mỗi kiếm tựa như đều có thể đâm Mạnh Thần Thông nhưng chỉ còn thiếu nửa tấc mới đâm được, mỗi khi mũi kiếm của y chạm vào người Mạnh Thần Thông thì Mạnh Thần Thông đều vận nội công thượng thừa hóa giải kình lực của y, khiến mũi kiếm trượt sang một bên, loại công phu này đại đồng mà tiểu dị với Triêm y thập bát điệt, nhưng lợi hại hơn nhiều. 

Đánh đến chiêu thứ tám cũng là lúc Mạnh Thần Thông bảo y dùng Thiên chỉ chưởng, Tân Ẩn Nông quát lớn một tiếng, quả nhiên dùng cả kiếm lẫn chưởng, chưởng đánh ra như sấm, kiếm đánh ra như điện, chưởng trái của y vừa đẩy ra đã thu lại, sản sinh một luồng hấp lực mạnh mẽ. Thân người của Mạnh Thần Thông cũng không khỏi rùng mình, hơi chồm về phía trước. Chỉ nghe soạt một tiếng, lưỡi kiếm lướt qua vai Mạnh Thần Thông. Tề Thiên Lạc thấy có cơ hội thì lập tức bước vòng ra sau lưng Mạnh Thần Thông đánh một đòn Khai bi thủ vào lưng của y. 

Mạnh Thần Thông khen rằng: “Thiên chỉ chưởng quả nhiên danh bất hư truyền!”, rồi đột nhiên phóng vọt người lên lướt qua đỉnh đầu Tề Thiên Lạc. Tề Thiên Lạc vội vàng xoay người phát chưởng, chỉ nghe Mạnh Thần Thông quát lớn một tiếng: “Hay lắm, ta muốn xem Hỗn nguyên khí công của ngươi!”, rồi vỗ xuống một chưởng. Chỉ nghe bình một tiếng, rồi lại soạt một tiếng, mọi người chưa nhìn rõ ràng thì chỉ thấy hai người đã tách ra, lớp áo ở sau lưng Tề Thiên Lạc bị mất một mảng, áo của Mạnh Thần Thông cũng bị xé mất một mảng, Mạnh Thần Thông thần sắc vẫn như thường, còn Tề Thiên Lạc thì sắc mặt đỏ ửng. 

Số là Hỗn nguyên khí công của Tề Thiên Lạc là loại công phu thượng thừa nhất. 

Mạnh Thần Thông đánh ra một đòn Tu la âm sát công đến tầng thứ chín, chẳng qua cũng chỉ làm cho nội tạng của y hơi nhộn nhạo, nhưng cũng chẳng hề chi. Ngoài môn Hỗn nguyên khí công, công phu Phân cân thác cốt thủ của Tề Thiên Lạc cũng thuộc hàng đệ nhất võ lâm. Kẻ địch tiến tới gần y thì lập tức bị y vặn tay bẻ chân, Mạnh Thần Thông nhờ vào bộ pháp Thiên la bộ né tránh lanh lẹ, nhưng dù lanh lẹ cũng bị y xé một ống tay áo. 

Mạnh Thần Thông ứng phó với hai người, quả thực cũng e ngại vài phần, đang lúc gấp gáp thì không dám tiến tới gần, y tách hai chưởng ra sử dụng Kim cương chưởng lực cương mãnh nhất. Chưởng trái thì đánh Tề Thiên Lạc, chưởng phải thì đánh Tân Ẩn Nông, lực đạo tựa như dời núi lấp biển. Lúc nãy Tề Thiên Lạc vừa nếm một chưởng của y, lục phủ ngũ tạng đã bị chấn động, tuy chưa bị thương nhưng đã run sợ. Thiên chỉ chưởng của Tân Ẩn Nông có thể gắng gượng chống cự lại được, nhưng kiếm chiêu của y thì bị chưởng lực của Mạnh Thần Thông đánh bật ra. 

Chỉ hơn hai mươi chiêu trôi qua, Mạnh Thần Thông đã lãnh hội được tinh hoa của Thiên độn kiếm và Thiên chỉ chưởng. Y đột nhiên thu hồi Kim cương chưởng lực dùng Bát quái chưởng du đấu với họ. Tân Ẩn Nông thấy chưởng lực của y giảm xuống thì mở rộng trường kiếm tiến tới. 

Mạnh Thần Thông điềm nhiên cười: “Hai người các ngươi có thể chống lại mấy mươi chiêu thật không dễ tí nào, cũng nên nghỉ ngơi một lát.” Rồi ngón tay búng một cái, một luồng hàn phong bắn vào mắt Tân Ẩn Nông. Tân Ẩn Nông thấy hai mắt cay xé, nước mắt túa ra. Y lờ mờ thấy bóng Mạnh Thần Thông đã lướt tới trước mặt mình, thế là vội vàng đánh ra một chiêu Bạch hồng quán nhật. Đó là một chiêu sát thủ trong Thiên độn kiếm pháp. Tân Ẩn Nông đã quyết lưỡng bại câu thương với cường địch. 

Chỉ nghe một tiếng kêu thảm vang lên, người phía trước y ngã xuống như một khúc cây. Lúc này y mới nhìn rõ, té ra đó là Tề Thiên Lạc chứ chẳng phải Mạnh ThầnThông! Thì ra trong chớp mắt, Mạnh Thần Thông dùng công phu mượn lực xoay chuyển càn khôn, hai ngón tay kẹp sống kiếm dẫn nhẹ qua một bên đâm vào Tề Thiên Lạc. Tân Ẩn Nông đã dồn mười thành chân lực vào nhát kiếm này, cộng thêm với kình lực của Mạnh Thần Thông, dù Tề Thiên Lạc có Hỗn nguyên khí công thượng thừa cũng chịu không nổi. Mũi kiếm của Tân Ẩn Nông đâm vào bụng y, vạch một đường dài đến năm sáu tấc. 

Mạnh Thần Thông vỗ tay, nhảy lui qua một bên, cười nói: “Đó là các ngươi tự giết hại lẫn nhau, không thể trách được ta. May mà thuốc kim san của phái Thanh Thành có thể tự chữa được, không cần ta tặng thuốc.” 

Hồi Thứ Ba Mươi Tư

Tân Ẩn Nông vừa thẹn vừa giận, nhưng lúc này y không thể tái chiến nữa, chỉ đành lầm lì đỡ Tề Thiên Lạc trở về. 

Lúc này trời đã về chiều, bóng chiều đỏ như máu, phía Tào Cẩm Nhi đã liên tục bại mấy trận, ai nấy đều rầu rĩ. Giang Nam đứng bên cạnh Đường Kinh Thiên, thì thầm nói: “Nếu Kim đại hiệp không xuất hiện thì lần này thật là hỏng bét?” Đường Kinh Thiên cũng thầm ngạc nhiên, nhủ rằng: “Nếu người lúc nãy âm thầm chỉ điểm cho Băng Nga là Kim Thế Di, lẽ ra y đã sớm hiện thân, chả lẽ y đã chết thật?” Kim Quang đại sư đứng dậy, chậm rãi nói: “Mạnh thí chủ, lúc nãy lão nạp vừa được thí chủ ban cho một chưởng, nay còn muốn đến lãnh giáo thần công tuyệt thế của ông!” Cũng không biết ông ta di chuyển thế nào mà khi nói xong mấy câu này thì đã ra tới giữa sân. 

 Kim Quang đại sư và Thống Thiền thượng nhân là hai bậc Thái sơn bắc đẩu của võ lâm, mấy mươi năm qua chưa từng giao thủ với ai. Vừa ra sân thì ánh mắt toàn trường đều tập trung về phía ông ta tâm trạng căng như dây cung. Lúc đầu khi mới tỉ võ, Thống Thiền thượng nhân vỗ chưởng lập lời thề với Mạnh Thần Thông cũng không khỏi hơi thất thế. Nếu Kim Quang đại sư lại thua Mạnh Thần Thông dù cho Thống Thiền thượng nhân có ra trận cuối cùng, quá nửa cũng không chống đỡ nổi. 

Cho nên trận này không những liên quan đến sĩ diện của võ lâm Trung Nguyên mà còn là một trận sinh tử tồn vong! Mạnh Thần Thông nói: “Đại sư là bậc cao tăng, Mạnh mỗ được ban dạy thật là vinh hạnh. Nếu công phu còn kém xin được chỉ điểm.” 

 Y đang nói thì chưởng phải vạch nửa hình vòng cung chậm rãi đẩy ra, khi chữ ‘chỉ điểm’ vừa mới nói ra thì đột nhiên chưởng thế gia tăng nhanh như sấm sét. Lời lẽ của y cực kỳ khách sáo, nhưng chưởng này không hề lưu tình. Y có ý thử công lực của Kim Quang đại sư, cho nên dùng Bát nhã thần công cương nhu đều có, loại thần công này còn lợi hại hơn cả Kim cương chưởng thuần dương. 

 Kim Quang đại sư đứng vững như núi, đến khi chưởng của y đánh tới thì chưởng trái cũng vẽ nửa vòng tròn, xem ra chỉ nhẹ nhàng hời hợt nhưng Mạnh Thần Thông lắc lư vài cái như cành cây trong gió, thế rồi thối lùi ba bước. Đệ tử phái Nga Mi đều hoan hô như sấm dậy. 

 Kim Quang đại sư nay đã ngoài bảy mươi tuổi, ông ta đã xuất gia từ nhỏ, chăm chỉ học tâm pháp nội gia chính tông của phái Nga Mi, công lực đã tích tụ đến hơn sáu mươi năm. Tuy Mạnh Thần Thông đã học được nửa bộ bí kíp của Kiều Bắc Minh nhưng chẳng qua chỉ mới ba năm, luận về sự thâm hậu chính thuần của nội công thì Kim Quang đại sư nhỉnh hơn một bậc. 

Tiếng reo hò vẫn không ngớt, Mạnh Thần Thông đã đánh tới chưởng thứ hai. Kim Quang đại sư thấy chưởng của y có kình phong, chỉ tưởng rằng đó là Kim cương chưởng lực cương mãnh nhất, vẫn dùng Phất vân thủ đối phó, nội lực tăng hơn chưởng trước. Hai chưởng vừa tiếp nhau thì luồng lực đạo cương mãnh của Mạnh Thần Thông đột nhiên biến mất tăm hơi, trong khoảnh khắc điện chớp, đã chuyển hóa thành chưởng lực Tu la âm sát công tầng thứ chín, từ thuần dương chuyển sang thuần âm. 

Lòng bàn tay lạnh lẽo đến khó hình dung, luồng khí âm hàn cũng đánh vào người Kim Quang đại sư trong chớp mắt. 

Trong võ lâm không ai có thể luyện được Kim ương bát nhã chưởng lực và Tu la âm sát công đến ảnh giới như Mạnh Thần Thông. Điều lợi hại hơn là y có thể chuyểnhóa hai loại võ công có tính chất hoàn toàn khác nhau trong chớp mắt, cho nên dù Kim quang đại sư có công lực thâm hậu cũng không khỏi rùng mình. Tuy ông ta lập tức vận hộ thể thần công đẩy hàn độc trong người ra nhưng nguyên khí cũng bị tổn thương. 

Kim Quang đại sư thối lùi ba bước, bước chân chưa vững thì Mạnh Thần Thông đã đánh tiếp chưởng thứ hai. Kim Quang đại sư dựng ngược chân mày, trợn mắt nói: 

“Mạnh thí chủ đã ép người như thế, bộ xương già này cũng đành liều với ngươi”, thế rồi hai chưởng giao nhau như sấm dậy. Đột nhiên chỉ thấy hai người đứng cứng đờ ra giữa sân như hai pho tượng! Té ra lúc này Kim Quang đại sư đã có ý muốn hy sinh. 

Sau khi ông ta tiếp một chưởng của Mạnh Thần Thông, biết rằng công lực của mình chỉ đối phó nhiều nhất là được hai chưởng Tu la âm sát công, đến chưởng thứ tư thì không nắm chắc sẽ phòng ngự được, đến chưởng thứ năm chắc chắn sẽ bị thương. Với thân phận như ông ta, chỉ có thể liều chết chứ không thể cúi đầu nhận thua trước Mạnh Thần Thông. Bởi vậy khi ông ta tiếp chưởng Mạnh Thần Thông thì dồn hết công lực cả đời vào chưởng. Ông ta đã luyện hơn sáu mươi năm Thái thanh khí công, Mạnh Thần Thông chỉ cảm thấy lòng bàn tay của đối phương sinh ra một lực hút rất mạnh, thế là trong khoảnh khắc không thể nào rút ra được! Mạnh Thần Thông lạnh mình nhưng vẫn thản nhiên nói: “Đại sư đã quá lời, chính đại sư đã buộc Mạnh mỗ phải mời ông thành toàn!” Trong võ lâm hễ nói đến mời đối phương “thành toàn” tức là đem tính mạng giao cho đối phương nhưng hai câu này của Mạnh Thần Thông là ngược lại, y muốn bảo Kim Quang đại sư buộc y phải liều mạng. Vậy thì kết cuộc chỉ có mạnh còn yếu mất, nếu y thua thì chết cũng không oán, nếu y thắng thì sẽ chẳng tha cho Kim Quang đại sư. 

Các bậc tôn sư nghe thế thì đều chấn động. Chỉ thấy Kim Quang đại sư bốc khói trắng nghi ngút trên đầu, còn sắc mặt của Mạnh Thần Thông dần đần từ xanh chuyển sang tím, từ tím chuyển sang đen. Đó là hiện tượng y đã phát huy Tu la âm sát công đến mức cao nhất! Bọn Thống Thiền thượng nhân, Tân Ẩn Nông đều biết rằng khói trắng trên đầu Kim Quang đại sư càng lúc càng dày, có nghĩa là khí thuần dương trong người ông ta càng lúc càng mất dần, xem ra Kim Quang đại sư sắp bại đến nơi. 

Số là Kim Quang đại sư đã luyện Thái thanh khí công đến mức trên đời không ai bì kịp. Nếu chỉ tỉ thí nội lực, Mạnh Thần Thông không phải là đối thủ của ông ta. 

Nhưng Tu la âm sát công là loại công phu độc địa nhất trong tà phái, từ xưa đến nay, ngoại trừ Kiều Bắc Minh, không ai có thể luyện đến tầng thứ chín. Khí âm hàn chạy cuồn cuộn vào người Kim Quang đại sư. Ba mươi sáu đại huyệt của Kim Quang đại sư đều bị luồng khí ấy đánh vào cho nên Kim Quang đại sư vừa phải vận công chống cự lại khí âm hàn, lại phải chống trả luồng chưởng lực như dời núi lấp biển của Mạnh Thần Thông bởi vì lúc này đã lâm vào nguy hiểm! Mạnh Thần Thông tuy chiếm được thượng phong nhưng trong lòng thầm kêu khổ. Công lực của Kim Quang đại sư thâm hậu đến mức vượt khỏi sự tưởng tượng của y. Y dốc ra Tu la âm sát công đến tầng thứ chín, sau một tuần trà thì y thấy nội lực của Kim Quang đại sư tuy dần dần giảm xuống nhưng chưa đến mức khô kiệt. Lòng bàn tay vẫn ấm áp như thường. Điều Mạnh Thần Thông lo sợ không phải là không thể đánh bại Kim Quang đại sư mà là sau khi đánh chết ông ta, nếu lại cùng Thống Thiền thượng nhân giao thủ thì y hoàn toàn không thể nắm chắc được phần thắng. Kim Quang đại sư vận dụng Thái thanh khí công liều với Mạnh Thần Thông là muốn hy sinh bản thân mình, làm tiêu hao uy lực Tu la âm sát công của Mạnh Thần Thông để nhường cho Thống Thiền thượng nhân đối phó với y. 

Một hồi sau, khí trắng trên đầu Kim Quang đại sư càng lúc càng dày, xung quanh hai người tựa như bị bao bọc bởi một màn sương. Mặt trời đã hạ xuống núi, màn đêmbuông xuống. Những người mắt kém đã không nhìn thấy rõ, nhưng tất cả mọi người càng lúc càng căng thẳng, tựa như nghe được cả tiếng chim rơi. 

Trong lúc tĩnh lặng đến cực độ, Giang Nam chợt kêu ồ một tiếng. Đường Kinh Thiên nhìn theo ánh mắt của chàng. Chỉ thấy trong bụi cỏ dại bên cạnh họ có mấy đóa hoa dại đang từ từ nở ra. Cánh hoa xen lẫn hai màu đỏ và trắng, trông đẹp đẽ vô cùng, một làn gió thổi tới mang theo một mùi thơm kỳ lạ nhưng lại thoang thoảng mùi máu tanh, khiến cho người ta cảm thấy thư thái. 

Giang Nam kêu lên, tất cả những người khác cũng chú ý đến. Chỉ thấy dưới gốc cây, trong bụi cỏ dại xung quanh đều có vô số những đóa hoa kỳ lạ vừa nhìn tựa như thấy như có một áng mây đỏ sà xuống đất, trông rất đẹp mắt. Thông thường hoa phải nở vào ban ngày, nhưng hoa nở rộ sau buổi hoàng hôn là chuyện hiếm có, huống chi những đóa hoa lạ này lại đang nở rộ thắp nơi! Hàng trăm cao thủ ở đây đều trợn mắt há mồm, bắt đầu không để ý đến cuộc quyết đấu giữa Mạnh Thần Thông với Kim Quang đại sư. Trần Thiên Vũ chợt la lên: “Không xong, đây là hoa Ma quỷ!” Đường Kinh Thiên nói: “Đúng thế, đây là hoa A tu la, các vị hãy mau chóng nín thở, bế huyệt đạo!” Tuy họ đã biết rằng đây là hoa Ma quỷ, hoa này chỉ mọc trên đỉnh núi Hy Mã Lạp Nhã, đó là nơi cực kỳ lạnh lẽo. Nhưng đây là lúc tháng ba mùa xuân, tuyết trên Mang Sơn đã tan, thế mà hoa Ma quỷ lại nở rộ khắp nơi thì đúng là chuyện lạ! Hai người Đường, Trần không có thời gian suy nghĩ, loại hoa này vừa nở là lúc hương thơm của nó nồng nhất, cả Đường Kinh Thiên hít vào một hơi cũng cảm thấy lâng lâng, những người khác thì càng ngây ngất. 

Đường Kinh Thiên nghĩ: “Đây chắc chắn là Mạnh Thần Thông giở trò!”, nhưng nhìn sang thì thấy đồng đảng của y cũng nghiêng ngả tựa như uống rượu. Kim Nhật quát: “Tào Cẩm Nhi, ngươi đã giở trò quỷ quái gì?”, rồi vung cây gậy lao ra. Đường Kinh Thiên rất kinh ngạc, bởi vì người của phía Mạnh Thần Thông cũng hít phải loại hương này, chả lẽ còn có người thứ ba? Người này có thể khiến cho hoa Ma quỷ nở rộ ở Mang Sơn, lẽ nào còn thần thông quảng đại hơn cả Mạnh Thần Thông? 

Chàng vừa mới nghĩ đến thế thì chợt nghe Lăng Tiêu Tử kêu lên: “Kim lão đệ, đề phòng ám toán!” Ngay trong khoảnh khắc này, một bóng trắng lướt qua đầu Kim Nhật. Kim Nhật vung cây gậy, chưa thấy rõ là vật gì thì hổ khẩu đã bị thiết đinh đâm vào, đau đến nỗi kêu rống lên, cây gậy cũng vuột khỏi tay! Té ra người bay lướt qua đầu y mang đinh hài, y chưa kịp ra đòn thì đã bị người đó đá trúng! Đường Kinh Thiên thất kinh, thầm nhủ: “Ở đâu ra một thiếu nữ như thế này, khinh công của nàng chẳng kém gì của mình!” Cơ Hiểu Phong phóng vọt người lên, vung ra ba mảnh táng môn đinh tẩm độc. Thân pháp của thiếu nữ này nhanh đến khó hình dung, cả người có khinh công tuyệt thế như Cơ Hiểu Phong mà còn đuổi theo nàng không kịp. Ba mũi táng môn đinh cắm vào lưng nàng, nhưng cũng không biết nàng dùng công phu tà môn gì mà chỉ nghe phập phập phập, ba mũi táng môn đinh đã bay ngược trở lại vào một cây tùng khô. Ngoại trừ những bậc cao thủ, tất cả những người khác chỉ thấy hai bóng trắng đuổi nhau trên không trung, trong chớp mắt đã tới giữa sân. Lúc này Kim Quang đại sư và Mạnh Thần Thông vẫn đứng như hai pho tượng, hình như họ không nghe, cũng chẳng thấy chuyện đang xảy ra bên ngoài. 

Cơ Hiểu Phong kêu lên: “Sư phụ, để ý!” nói chưa dứt thì chỉ nghe bùng một tiếng, một trái khói nổ bung ra ở giữa Mạnh Thần Thông và Kim Quang đại sư, trong khói có vô số ánh vàng lấp lánh! Giang Nam kêu lên: “Lệ cô nương, là cô đấy ư, Kim đại hiệp đâu?” Thiếu nữ này chính là Lệ Thắng Nam. Nàng thừa lúc Mạnh Thần Thông và Kim Quang đại sư liều mạng với nhau, đột nhiên phun ra loại ám khí độc địa nhất của nhà họ Lệ, đó chính là độc vụ kim châm liệt diệm đạn. Nàng ở hoang đảo ba năm, cùng Kim Thế Di luyện nửa bộ bí kíp của Kiều Bắc Minh, đương nhiên võ công cao hơn ngày trước, nắm mai hoa châm bay vun vút trong làn khói là do nàng vận chân lực nội gia phát ra. 

Đang lúc khói bay mù mịt chỉ nghe Mạnh Thần Thông gầm lớn một tiếng, trong nhất thời lửa tắt khói tan, nhưng áo cà sa của Kim Quang đại sư cũng rách vài chỗ, trên người cũng cắm đầy mai hoa châm. Mạnh Thần Thông thì chẳng hề bị thương, hai người đều lui ra phía sau cách nhau đến sáu bảy trượng. 

Giang Nam kêu lên: “Hỏng bét, hỏng bét! Nàng không phải giúp chúng ta, nàng...”. Những động tác ấy đều nhanh như điện chớp lửa xẹt. Giang Nam chưa nói xong thì Cơ Hiểu Phong đã phóng tới sau lưng Lệ Thắng Nam đâm tới một kiếm. Lệ Thắng Nam không thèm quay đầu lại, chỉ nghe một tiếng “lên”, mũi kiếm của Cơ Hiểu Phong đã trúng vào lưng nàng thế nhưng bật ngược ra trở lại, thân kiếm thì cong vòng. Cơ Hiểu Phong kinh hoảng. Lúc này võ công của y cũng có thể thuộc hàng cao thủ nhất lưu, nhát kiếm vừa rồi đã đâm vào huyệt bối tâm của Lệ Thắng Nam, nhưng nàng chẳng hề hấn gì cho nên lòng thầm nhủ: “Nàng đã luyện đao thương bất nhập, chả lẽ còn lợi hại hơn cả sư phụ của mình?” Y nào biết, Lệ Thắng Nam đã dùng cái ngọc tráp giấu sách của Kiều Bắc Minh chế thành hai miếng kiếng hộ tâm, một miếng mang ở phía trước, một miếng mang ở phía sau, đao thương tầm thưởng chẳng thể nào làm gì được nàng. 

Lệ Thắng Nam phất ống tay áo, Cơ Hiểu Phong lộn một vòng ra ba trượng. Nàng cũng chẳng thèm màng đến y mà lao bổ về phía Mạnh Thần Thông. Lúc này Giang Nam đã nói xong câu nói của mình. Đường Kinh Thiên nghe nói nàng đã từng gạt Lý Tâm Mai, nay lại thấy nàng đả thương Kim Quang đại sư, lại biết nàng có thù với Mạnh Thần Thông, vì báo thù mà nàng bất chấp thủ đoạn làm hại đến người khác. 

Trong lúc địch bạn khó phân, sợ nàng ra tay đả thương Kim Quang đại sư, thế là chàng không kịp suy nghĩ phóng vọt người ra sân. Vài cao thủ phía Mạnh Thần Thông cũng liên tục nhảy ra. 

Manh Thần Thông quát: “Hay lắm, té ra là ngươi!” y chỉ nghĩ người lúc nãy nấp trong chỗ tối là Lệ Thắng Nam, thấy nàng có được bản lĩnh như thế, thì biết nàng đã luyện qua nửa bộ bí kíp võ công nhưng y cũng biết căn cơ võ công của Lệ Thắng Nam rất kém, mà y thì chỉ e ngại Kim Thế Di. Thấy nàng phóng tới thì lập tức dùng Thiên la bộ pháp lách người, tiến tới bên cạnh nàng. Nói thì chậm, sự việc lúc đó diễn ra rất nhanh, đột nhiên chỉ thấy ánh hàn quang chói lòa, Lệ Thắng Nam lách người, tuốt kiếm, xuất chiêu liền một mạch, nhanh đến khó hình dung! Thanh kiếm này của Lệ Thắng Nam là một trong ba báu vật của Kiều Bắc Mình để lại. Vốn là Kim Thế Di sử dụng, nay vì chàng muốn để cho Lệ Thắng Nam tự trả thù cho nên đã đưa cho nàng. 

Thanh kiếm này được chế tạo bởi kim loại dưới đáy biển, thân kiếm mỏng như giấy, sắc bén lạ thường. Mạnh Thần Thông chợt thấy ánh sáng chói lòa thì bất giác lạnh mình, chỉ nghe tưng một tiếng, Mạnh Thần Thông sử dụng Bát nhã thần công, búng vào thân kiếm. Lệ Thắng Nam tuy đã luyện nửa bộ bí kíp võ công, nhưng công lực vẫn còn kém Mạnh Thần Thông rất xa. Thế là trong lòng chấn động, ngực như bị một vật nặng đến ngàn cân đè vào, khó thở vô cùng. May mà Mạnh Thần Thông và Kim Quang đại sư đã đấu trước một trận, công lực giảm mất hai phần chứ nếu không cú búng ấy đã đủ khiến cho Lệ Thắng Nam chấn động nội tạng! Động tác của đôi bên đều nhanh như điện chớp lửa xẹt, Lệ Thắng Nam mượn lực bật phóng vọt người lên cao, ánh hàn quang màu xanh lóe lên như điện chớp, Mạnh Thần Thông tuy không bị thương nhưng hai chòm râu dài cũng bị bảo kiếm chém đứt mất một nửa. Đồng thời khi y dùng Bát nhã thần công thì mùi thơm của hoa Ma quỷ đã xộc vào mũi, Mạnh Thần Thông không khỏi cảm thấy đầu óc trĩu nặng, y vội vàng phun độc khí trong ngực ra. Cũng trong khoảng sát na này, Lệ Thắng Nam hạ xuống cách đó mấy trượng, chỉ còn cách Kim Quang đại sư khoảng một thước. 

Đường Kinh Thiên thấy nàng đến gần Kim Quang đại sư thì phóng một mũi Thiên Sơn thần mãng về phía nàng. Lệ Thắng Nam cười lạnh, lia thanh bảo kiếm chém đứt Thiên Sơn thần mãng làm hai đoạn. Thiên Sơn thần mãng vốn được làm bằng đồng tinh luyện. Đường Kinh Thiên cả kinh. Nói thì chậm, sự việc lúc đó diễn ra rất nhanh, chỉ thấy thanh quang lóe lên, Lệ Thắng Nam đã lướt tới trước mặt chàng, cười lạnh một tiếng nói: “Ta muốn thử Thiên Sơn kiếm pháp của ngươi!” Đường Kinh Thiên đánh ra một chiêu Huyền điểu hoạch sa, cây Du long kiếm đánh một vòng tròn ra bên ngoài, hai kiếm giao nhau, chỉ nghe keng một tiếng, lửa bắn tung tóe, ánh hàn quang trên cây kiếm của Lệ Thắng Nam chói lòa, còn cây Du long kiếm của Đường Kinh Thiên thì bị mẻ mất một miếng. Đường Kinh Thiên ngẩn người ra, chiêu thứ hai chưa kịp đánh ra thì chợt cảm thấy có gió lạnh phả vào mặt, khí lạnh thấu xương, hai mắt cay xè. Cây Du long kiếm đã bị Lệ Thắng Nam cướp mất. Té ra nàng đã sử dụng Huyền âm chỉ tương đương với tầng thứ năm của Tu la âm sát công, bắn ra một nguồn gió lạnh. Đường Kinh Thiên tuy có thể chịu nổi nhưng vì khoảng cách quá gần nên bị gió lạnh quét vào mặt, không thể nào mở mắt được, cho nên tuy công lực của chàng không kém Lệ Thắng Nam, nhưng chỉ trong vòng hai chiêu đã bị nàng đoạt mất thanh bảo kiếm. Lệ Thắng Nam rê bước lướt qua người Đường Kinh Thiên, thuận tay giật luôn cả bao kiếm của chàng. Kim Quang đại sư mở mắt, hỏi: “Cô nương có phải là hậu nhân của Lệ gia không?” rồi vung áo cà sa, mai hoa châm cắm trên áo cà sa rơi xuống như mưa. Thái thanh khí công của ông ta là thiên hạ đệ nhất, tuy mai hoa châm cắm vào áo cà sa của ông ta nhưng chẳng hề đâm vào da thịt. Lệ Thắng Nam nói: 

“Đại sư đã biết lai lịch của tôi, chắc là có thể thứ lỗi tôi mạo phạm. Viên thuốc này có thể hóa giải độc của hoa Ma quỷ. Tiểu nữ tử ngộ phạm đại sư, nay xin tặng thuốc chuộc tội.” Thế là bắn viên thuốc ra. Kim Quang đại sư nói: “Được, tôi tin cô nương!”, rồi nhận lấy viên thuốc cho vào miệng. Số là một người có công lực như Kim Quang đại sư dù bách độc bất xâm, không cần phải có thuốc giải, nhưng vì ông ta đang đấu chưởng với Mạnh Thần Thông, nguyên khí đã tổn thương. Mùi thơm hoa Ma quỷ tuy chẳng hại được ông nhưng ông lại phải phân thân chống cự. Nếu người khác có võ công và thân phận như ông thì có lẽ sẽ nghĩ rằng nhận thuốc của kẻ vãn bối là mất sĩ diện, nhưng ông lại là một cao tăng đắc đạo, chẳng màng đến danh tiếng, vì ứng phó với tình hình nguy cấp, bởi vậy mới nhận món ân tình của Lệ Thắng Nam. 

Tất cả những chuyện lạ xảy ra trước mắt ông đều cho ông một cảm giác như mưa to gió lớn sắp kéo đến! Lúc này, cao thủ phía Mạnh Thần Thông đã đuổi theo Lệ Thắng Nam. Vợ chồng Trần Thiên Vũ thấy nàng đoạt thanh bảo kiếm của Đường Kinh Thiên thì cũng vội vàng nhảy ra tiếp ứng. Trong cơn hỗn loạn, người của hai bên đều coi Lệ Thắng Nam là kẻ địch. Lăng Tiêu Tử đuổi theo tới trước tiên, cây phất trần quét ra một chiêu Vạn tiết giai tâm, đánh vào huyệt bối tâm của Lệ Thắng Nam. 

Lăng Tiêu Tử là người của phái Toàn Chân, võ công cao cường nhất trong những người đi theo Mạnh Thần Thông. Cây tơ phất trần căng ra như cây ngân châm. Lệ Thắng Nam trở tay đánh lại một kiếm, ánh hàn quang lóe lên, chặt đứt một nhúm phất trần của y. Nàng đột nhiên thấy bảo kiếm trầm xuống, té ra chuôi kiếm đã bị tơ phất trần của y quấn vào. Tơ của cây phất trần này chính là ô kim huyền tơ. Chỉ trong khoảnh khắc những sợi tơ căng ra như dây đàn lại trở nên mềm mại. Nếu chẳng có nội lực tinh thuần thì chẳng thể nào làm được. Lệ Thắng Nam hơi khinh địch suýt nữa đã thua to. May mà nội công của nàng đã đạt đến cảnh giới thu phát tùy tâm, vừa cảm thấy không ổn thì đã ngưng tụ chân lực nội gia vào mũi kiếm. Cây bảo kiếm mỏng như tờ giấy chợt trở nên nặng nề lạ thường. Lăng Tiêu Tử vận công đoạt bảo kiếm của nàng mà chẳng hề nhúc nhích. 

Lệ Thắng Nam lách người, đang định dùng Huyền âm chỉ, bọn Dương Xích Phù, Kim Nhật đã liên tiếp đuổi tới. Kim Quang đại sư nhướng mày, điềm nhiên nói: 

“Lăng tiêu đạo huynh, công phu thật hay! Lão nạp cũng tiếp một chiêu của ông để Lệ cô nương và Dương thí chủ ấn chứng võ công.” Rồi thổi ra một luồng hơi, tơ phất trần cuộn vào chuôi kiếm của Lệ Thắng Nam bung ra, Lăng Tiêu Tử thấy Kim Quang đại sư sau khi bị thương mà vẫn có được công lực như thế thì cả kinh, vội vàng nói: “Không dám!”, rồi thu phất trần lui ra. 

Lệ Thắng Nam cười lạnh: “May cho tên đạo sĩ thúi lỗ mũi trâu nhà ngươi!”, rồi nàng lia thanh bảo kiếm. Lập tức nghe tiếng binh khí gãy. Cây trường kiếm của Dương Xích Phù bị gãy thành hai đoạn, cây gậy lôi điện của Kim Nhật bị mẻ một miếng. Kim Nhật thấy thế thì lập tức lui ra. Dương Xích Phù vừa dùng bổ thiên cao nối gân, di chuyển không linh hoạt bị Lệ Thắng Nam tung một cước lộn nhào. 

Lệ Thắng Nam vượt ra khỏi vòng vây thì gặp vợ chồng Trần Thiên Vũ. Lệ Thắng Nam trợn tròn hai mắt, chợt cười rằng: “Các người cũng đến đấy ư?”, rồi thu thanh bảo kiếm nhảy vọt về phía trước, hai tay vung ra nắm mạch môn của vợ chồng Trần Thiên Vũ. Hai vợ chồng nhà này võ công cũng chẳng phải kém cỏi, nhưng thủ pháp và thân pháp của Lệ Thắng Nam thực sự nhanh đến khó hình dung, lại thêm quỷ dị vô cùng. Vợ chồng Trần Thiên Vũ chưa kịp đâm kiếm ra thì đã bị nàng giữ chặt. Giang Nam kêu lên: “Hỏng bét, hỏng bét! Lẽ nào cô nương cũng đánh cả hảo bằng hữu của Kim đại hiệp?” Giang Nam nói chưa dứt thì Lệ Thắng Nam đã buông tay ra, cười nói: “Nể mặt Thế Di, ta cũng tặng hai người hai viên thuốc.” Rồi tay trái bóp miệng Trần Thiên Vũ, tay phải cũng bóp miệng U Bình, miệng hai người há to, Lệ Thắng Nam nhét vào miệng mỗi người hai viên thuốc rồi đẩy nhẹ, nói một tiếng “Đi thôi”, đồng thời cũng giải huyệt đạo của họ. Khi họ đứng vững thì Lệ Thắng Nam đã nhảy ra một bên bãi cỏ. Vợ chồng Trần Thiên Vũ công lực hơi yếu, hít phải mùi hoa Ma quỷ tuy không bị say nhưng cũng cảm thấy bải hoải trong người. Họ sở dĩ vừa mới ra tay thì bị Lệ Thắng Nam khống chế, một nửa nguyên nhân chính là điều này. Nay sau khi bị Lệ Thắng Nam ép uống thuốc thì tựa như đã uống canh giải rượu, cảm giác lâng lâng không còn nữa, tinh thần sảng khoái. Hai người này vừa hổ thẹn vừa ngạc nhiên, lòng đều nghĩ: “Nghe nàng ta bảo ‘nể mặt của Thế Di’, chả lẽ Kim Thế Di vẫn còn sống?” Từ sau khi hoa Ma quỷ nở rộ, Lệ Thắng Nam đột nhiên xuất hiện cho đến lúc này, nàng đã thua Mạnh Thần Thông nhưng thắng nhiều cao thủ như Lăng Tiêu Tử, Kim Nhật, lại tặng thuốc cho Kim Quang đại sư và vợ chồng Trần Thiên Vũ. Tất cả những chuyện đó đều xảy ra trong khoảng thời gian không quá một tuần trà. 

Lệ Thắng Nam chọn thời cơ tấn công có lợi nhất, không ngờ sau khi ác đấu mà công lực của Mạnh Thần Thông còn mạnh đến thế. Khói độc và kim châm của nàng chẳng làm gì được y, có thanh bảo kiếm mà chỉ cắt được hai chòm râu của y. Lệ Thắng Nam chỉ còn cách xông ra ngoài bàn bạc sau với Kim Thế Di.

Điều kỳ lạ là trong khoảng thời gian này, Mạnh Thần Thông vẫn đứng sừng sững như pho tượng đá ở giữa sân, chẳng hề đuổi theo Lệ Thắng Nam. Thống Thiền thượng nhân thì thầm để ý, chỉ thấy mắt y nhìn quanh quất, tựa như đang tìm gì đó, thần sắc trông rất kỳ quặc. Thống Thiền thượng nhân giật mình, chợt nghe tiếng bước chân rất gấp. Thống Thiền thượng nhân cả kinh, thầm nhủ: “Ở đâu mà ra nhiều cao thủ thế này?” Ông ta đếm kỹ lại thì thấy từ xa tựa như có mười hai, mười ba người! Cũng trong lúc này, chợt nghe Mạnh Thần Thông quát lớn: “Hay lắm, ngươi cũng đến.” Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh. Chỉ thấy trong đám người có một người mặc áo vàng đột nhiên xuất hiện nơi bãi cỏ, tiếp theo là tiếng kêu thảm. Đám người ấy chẳng phân biệt trắng đen, xông vào giữa sân gặp người là giết, kẻ đi đầu là một ông giàmặt đỏ thân hình cao lớn. Y chỉ dùng đôi tay không, nhưng ra tay lại hiểm độc nhất. 

Hễ gặp người chặn đường thì vung chưởng đánh vỡ thiên linh cái của đối phương. Chỉ trong chớp mắt có ba đệ tử Mang Sơn, hai đệ tử Nga Mi và hai đệ tử của Mạnh Thần Thông mất mạng dưới tay y! Chưởng môn thay thế của phái Thanh Thành Tân Ẩn Nông sử dụng Thiên la bộ pháp chặn đường của y, đâm ra một kiếm. Nhiếp vân kiếm pháp của Tân Ẩn Nông phiêu hốt bất định, chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc, hai nhát kiếm chỉ chém lướt qua mang tai của ông già mặt đỏ. 

Hai nhát kiếm vừa rồi của Tân Ẩn Nông hiểm hóc lạ thường, nhưng lão già mặt đỏ cũng tránh rất nhanh, tưởng rằng nhát kiếm thứ ba có thể lấy được mạng y, nào ngờ khi mũi kiếm còn cách cổ họng y ba tấc thì cánh tay của Tân Ẩn Nông đột nhiên sụt xuống, tựa như bị thôi miên. Kiếm chiêu phát ra chẳng hề có kình lực, lão già mặt đỏ vỗ ra một chưởng, miệng quát “Lên!”, chỉ thấy Tân Ẩn Nông bay bổng người ra cách đó ba trượng. May mà trong khoảnh khắc nguy cấp, y dùng Thiên la bộ pháp Di hình hoán vị chứ nếu không đã bị vỡ thiên linh cái. 

A La tôn giả gầm lớn một tiếng, lao tới chặn đường ông già mặt đỏ, đánh phủ đầu một chưởng. Y muốn dùng cách gậy ông đập lưng ông, đánh vỡ thiên linh cái của ông già mặt đỏ. Hai chưởng giao nhau, chỉ nghe bình bình hai tiếng vang lên, ông già mặt đỏ thối lui ba bước, A La tôn giả thì hự một tiếng, hai tay vung lên, phóng tới bên cạnh người mặc áo vàng rồi chạy xuống núi. Chưởng lực của A La tôn giả có thể đánh vỡ bia nát đá, khí công Du già cũng đạt đến cảnh giới thượng thừa. Trong cuộc tỉ thí lúc nãy, cả Đại Bi thiền sư của phái Thiếu Lâm cũng chẳng địch lại y. Nay y chỉ chạm một chưởng với ông già mặt đỏ thì đã vội vàng tháo chạy, cao thủ các phái đều kinh hãi. Đường Kinh Thiên đứng tương đối gần, có thể nhìn thấy rõ ràng, thấy y tiếp một chưởng của ông già mặt đỏ thì lập tức mặt xám ngoét, thầm nhủ: “Té ra y đã trúng độc, không ngờ trên thế gian này có loại độc có thể khiến cho y bị trọng thương trong chớp mắt” Đường Kinh Thiên lấy ra hai viên bích linh đơn đưa cho Băng Xuyên thiên nữ: “Hãy mau uống bích lính đơn, chúng ta song kiếm hợp bích chặn y lại!” Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh. Lệ Thắng Nam lướt người tới, chặn đường ông già mặt đỏ, chỉ nghe nàng quát lên: “Hay lắm, đồng đảng của Mạnh lão quái, ngươi đã cướp Bách độc chân kinh của nhà ta, lại còn dám đến đây quấy rối!”, thế rồi nàng lia thanh bảo kiếm. Ông già mặt đỏ vung ống tay ra, trong ống tay áo bay ra một cuộn khói năm màu. Đây là ngũ độc tán được bào chế bởi năm loại độc vật hiếm có nhất. 

Lệ Thắng Nam biết lợi hại, nàng vung ra một kiếm thì lập tức lướt người tránh ra. Chỉ nghe soạt một tiếng, ống tay áo của ông già mặt đỏ đã bị nàng chém đứt. Ông già mặt đỏ sợ thanh bảo kiếm của nàng cho nên cũng không dám đuổi theo. 

Khi nhà họ Lệ gặp họa, Lệ Thắng Nam vẫn còn trong bụng mẹ, tất cả mọi việc xảy ra lúc đó đều do mẹ nàng kể lại. Nhưng bà ta cũng chỉ biết kẻ chủ mưu là Mạnh Thần Thông, còn tên của kẻ đồng mưu thì bà vẫn chưa tìm ra. Đồng thời vì kẻ ra tay giết chết cả nhà họ Lệ là Mạnh Thần Thông còn kẻ đồng mưu thì đi tìm bí kíp, cho nên mẹ của Lệ Thắng Nam không muốn tốn công tìm tung tích của y, sợ rằng sẽ kinh động đến Mạnh Thần Thông. Không ngờ kẻ đồng mưu xuất hiện ngay trong lúc này, vả lại còn lợi hại hơn cả Mạnh Thần Thông. Xem ra y muốn bắt sạch người của cả hai bên. Trong khi Lệ Thắng Nam lách người tránh ra thì chợt nghe Mạnh Thần Thông cười gằn phóng vọt người lên lướt qua đầu mọi người, lao về phía lão già mặt đỏ. 

Lão già mặt đỏ kêu lên: “Hợp tác lần nữa, thế nào? Người thì giao cho ngươi, kiếm thì đưa cho ta!” Khi y đang nói thì Thống Thiền thượng nhân đã vung ra một xâu niệm châu, một trăm lẻ tám viên niệm châu tung ra bốn phương tám hướng, tựa như trên không trung có một tấm lưới bằng niệm châu, bọc lấy người của Mạnh Thần Thông. Mạnh Thần Thông cười ha hả: “Món tài sản cuối cùng của lão hòa thượng cũng phải ném ra!”, rồi y lộn người trên không trung, hai ống tay áo phất thành một vòng tròn, cuốn đi phần lớn niệm châu, nhưng huyệt thông tuyền ở gót chân, huyệt thần đình ở sau ót, huyệt khí du ở dưới be sườn đã bị niệm châu đánh trúng. Tuy chẳng hề hấn gì nhưng khi hạ xuống cũng chẳng thể cười nổi. Khinh công của Lệ Thắng Nam không hề kém hơn Mạnh Thần Thông. Chỉ trong chốc lát nàng đã chạy ra khỏi bãi cỏ, phóng xuống sườn núi. Chỉ nghe nàng lớn giọng kêu lên: “Đa tạ thượng nhân đã giúp đỡ, có qua thì phải có lại, tôi cũng mở cho các người một con đường!”, rồi phát ra hai trái độc hỏa đạn, lửa bốc cháy trong bãi cỏ. Hoa A tu la trên đường cũng bị đốt sạch. Độc hỏa đạn tuy không thể xua tan mùi hương của hoa A tu la, nhưng có thể lấy độc chế độc cho nên tạo ra tác dụng trung hòa khiến độc tính của A tu la giảm xuống. 

Trong chớp mắt Mạnh Thần Thông đã lướt tới trước mặt lão già mặt đỏ, cười gằn một tiếng rồi lạnh lùng nói: “Hay lắm, Tây Môn Mục Dã, té ra người chưa chết, lại muốn tóm gọn các nhân vật võ lâm trong đó có ta? Hừ, ngươi tưởng có thể dùng hoa yêu cỏ độc mà ngang ngược vô lối, như thế đã quá coi thường ta!” Lão già mặt đỏ cũng cười lạnh: “Ngươi không ngờ ta đến tính lại món nợ cũ hai mươi ba năm trước giữa ta và ngươi? Hừ, ngươi tưởng rằng luyện xong Tu la âm sát công thì có thể độc bá thiên hạ, hình như ngươi đã quá cuồng vọng!” Số là hai mươi ba năm trước, Tây Môn Mục Dã tìm được nơi ẩn cư của nhà họ Lệ, lúc đó y và Mạnh Thần Thông được gọi là võ lâm nhị ác. Y giỏi dùng độc, võ công thì không bằng Mạnh Thần Thông. Y biết nhà họ Lệ võ công cao cường, dù có độc dược hay mê hương cũng chẳng làm gì được họ. Bởi vậy chỉ đành mời Mạnh Thần Thông cùng hợp tác, đoạt bí bíp võ học nhà họ Lệ. 

Bọn chúng chọn một đêm tối trời đột nhập vào nhà họ Lệ. Tây Môn Mục Dã đốt mê hương được chế từ hoa A tu la. Nhà họ Lệ tuy có Bách độc chân kinh, trong Bách độc chân kinh cũng có ghi độc tính và cách giải hoa A tu la, nhưng nhà họ Lệ sợ kẻ thù, cho nên đời đời đều ẩn cư ở trong u cốc, không dám lộ mặt, đương nhiên càng không thể đi các nơi hái thuốc. Trải qua hơn hai trăm năm, thuốc độc Lệ Kháng Thiên để lại ngoại trừ vài loại có hạn, tất cả những thứ khác đều mất tác dụng qua thời gian. 

Hoa A tu la là vật cực kỳ hiếm có, người nhà họ Lệ làm sao có thể nghĩ có người lợi dụng loại hoa độc này đến ám toán họ, đương nhiên cũng không bào chế thuốc giải. 

Thế là hơn ba mươi người già trẻ lớn bé nhà họ Lệ đều bải hoải chân tay, võ công hầu như không còn, bị Mạnh Thần Thông giết sạch sẽ. Chỉ có một người đàn bà có mang bỏ chạy được, người đó chính là mẹ của Lệ Thắng Nam, còn Tây Môn Mục Dã nhân lúc y giết người thì đã cướp bí kíp võ công của nhà họ Lệ. 

Sau khi xong xuôi, cả hai “hảo bằng hữu” đều có lòng riêng. Tây Môn Mục Dã đột nhiên dùng đao tẩm độc chém Mạnh Thần Thông. Y tưởng rằng Mạnh Thần Thông đã đến lúc sức cùng lực kiệt, một nhát đao ấy có thể giết chết được y. Nào ngờ võ công của Mạnh Thần Thông cao hơn y tưởng tượng, trước khi phát độc đã đánh y trọng thương, cướp đi bí kíp võ công của nhà họ Lệ. 

Lúc đó Mạnh Thần Thông đã luyện được Kim cương chưởng lực, y đã đánh chấn thương kinh mạch tam tiêu của Tây Môn Mục Dã. Tưởng rằng Tây Môn Mục Dã quá lắm cũng chỉ sống được ba ngày, còn bản thân cũng sắp phát độc cho nên không đuổi theo y. Không ngờ Tây Môn Mục Dã không chết mà còn tìm được Bách độc chân kinh, sau hai mươi ba năm lại xuất hiện. 

Trong hai mươi ba năm này Tây Môn Mục Dã đã nghiên cứu Bách độc chân kinh, tìm ra cách trồng hoa Ma quỷ ở nơi ôn đới, tính toán đúng thời gian khiến cho hàng trăm cây hoa Ma quỷ cùng nở một lúc. Ở Mang Sơn, mỗi cây hoa đều nở ra mười đóa, mùi hương lạ của hàng ngàn đóa hoa Ma quỷ tạo thành một màn lưới độc vô hình ở Mang Sơn. Y tưởng rằng tất cả những người ở đây dù võ công luyện được đến mức lư hỏa thuần thanh, hít phải hương hoa Ma quỷ sẽ rã rời xương cốt, mất khả năng chống cự. 

Y không ngờ Mạnh Thần Thông cũng lấy được bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh. Thấy Mạnh Thần Thông sau khi ác đấu, lại hít phải hương hoa Ma quỷ mà chẳng hề gì, bởi vậy Tây Môn Mục Dã tuy nói cứng nhưng bụng thì cũng lo. 

Nói thì chậm, sự việc lúc đó diễn ra rất nhanh, chỉ nghe Mạnh Thần Thông quát lớn một tiếng, vỗ xuống một đòn Tu la âm sát công, cũng trong lúc này một cuộn khói màu bắn ra khỏi ống tay áo của Tây Môn Mục Dã, đó chính là ngũ độc tán, khói độc lan tràn, bao bọc lấy Mạnh Thần Thông. 

Trong màn khói độc, chỉ nghe phù một tiếng, Mạnh Thần Thông đã vận thần công tuyệt đỉnh thổi một hơi khiến khói độc bay hết, lại đấu một chưởng với Tây Môn Mục Dã. Tây Môn Mục Dã hừ một tiếng, người cứ run rẩy không ngừng. May mà Mạnh Thần Thông đã ác đấu với Kim Quang đại sư một trận, công lực đã giảm mất hai phần, đồng thời cũng vì vận khí thổi bay khói độc, công lực lại giảm thêm hai phần, nếu không Tây Môn Mục Dã đã mất mạng. 

Mạnh Thần Thông cũng cảm thấy rất khó chịu. Lòng bàn tay của Tây Môn Mục Dã có kỳ độc, Mạnh Thần Thông tiếp một chưởng thì thấy từ lòng bàn tay đến hổ khẩu lập tức nổi lên nhiều đốm đỏ, cánh tay ngứa ngáy đến nỗi không thể gồng lên được. 

Mạnh Thần Thông vội vàng vận huyền công, chưởng trái liên tục vỗ ra. Hai người áo vàng bên cạnh Tây Môn Mục Dã đồng thời nhảy lên, một người tiếp một chưởng ấy của Mạnh Thần Thông, người kia thì dùng La Hán thần quyền của phái Thiếu Lâm đấm vào ngực Mạnh Thần Thông. 

Mạnh Thần Thông đã luyện hộ thể thần công đến mức cao nhất, có thể sinh ra theo ý niệm. Người áo vàng đấm một quyền vào ngực y thì tựa như trúng vào một bức tường sắt chứ không phải là cơ thể của một con người. Y cả kinh chưa kịp rút quyền lại thì đã bị chấn động bật ra ba trượng. Người tiếp chưởng của Mạnh Thần Thông càng nặng hơn, cánh tay phải bị trật khớp, té nhào xuống đất, miệng phun một ngụm máu tươi. 

Mạnh Thần Thông liên tục đắc thắng, nhưng trong bụng lại thất kinh. Thử nghĩ công lực của y đến mức nào, tuy đã giảm một nửa nhưng vẫn đủ chống cự bất cứ cao thủ nào trên đời, nhưng người áo vàng lúc nãy chỉ bị thương chứ không mất mạng, còn người đấm ra một quyền tuy bật ra cách đó ba trượng nhưng không hề bị trọng thương, còn Mạnh Thần Thông thì thấy nhói đau nơi ngực. 

Mạnh Thần Thông đã biết đám người áo vàng đi theo Tây Môn Mục Dã chẳng phải tầm thường, nay đã thử hai người thì càng chứng thực suy đoán của y. Y bất đồ cả kinh, thầm nhủ: “Bất cứ ai trong số mười hai người áo vàng này đều có tư cách là tông sư của một phái, tại sao mình lại không biết chúng? Tây Môn Mục Dã tìm đâu ra bọn này? Tại sao bọn chúng lại chấp nhận cúi đầu nghe theo Tây Môn Mục Dã?” 

Mạnh Thần Thông nghĩ bụng, dù cho nguyên khí của mình chưa bị tổn thương cũng không thể giết sạch mười hai người này. 

Huống chi Tây Môn Mục Dã đã trở thành Tây Môn Mục Dã cao thủ dùng độc đệ nhất thiên hạ, chưa kể phía chính phái có Thống Thiền thượng nhân thần công trác tuyệt. Y đang nghĩ như thế, nào dám ham đánh, thế là lập tức kéo bè đảng bỏ chạy. 

Mười hai người áo vàng tản ra bốn hướng đuổi theo. Không những Mạnh Thần Thông không biết lai lịch của mười hai người áo vàng mà cao thủ các phái đều không biết bất cứ người nào trong số đó, ai nấy đều kinh ngạc! Mạnh Thần Thông vừa bỏ đi, Tây Môn Mục Dã cùng mười hai người áo vàng chẳng hề lo sợ, cứ xông vào những chỗ đông người mà chém giết, mười hai người này đều có công phu kỳ độc, hoặc dùng chưởng chém chỉ đâm, hoặc dùng đao bổ kiếm chém, hoặc dùng độc dược ám khí. 

Tuy ở đây có mấy trăm cao thủ, ngoại trừ những người công lực siêu phàm, bách độc bất xâm, những người khác vì đã hít phải hương hoa Ma quỷ, ai nấy đều lâng lâng như say rượu, đầu vàng mắt hoa, không thể nào xuất ra kình lực. Chỉ trong khoảnh khắc thây chết đầy đất, máu chảy đầy nội! Thống Thiền thượng nhân vội vàng hạ lệnh rút lui. Tây Môn Mục Dã nuốt hai viên thuốc, tạm thời khống chế được Tu la âm sát công, cùng ba người áo vàng đuổi theo. Thống Thiền thượng nhân cởi áo cà sa cuộn tới, lập tức dưới đất bằng như nổi lên một đám mây đỏ chặn bọn chúng. Chỉ nghe tiếng gió kêu lên vù vù, Tây Môn Mục Dã té lăn một vòng, Kim Quang đại sư dốc thần lực cũng đả thương được một người áo vàng, hai người áo vàng còn lại không đánh mà tự lui. Kim Quang đại sư, Thống Thiền thượng nhân, vợ chồng Đường Kinh Thiên, Dực Trọng Mâu, Tào Cẩm Nhi, Tân Ẩn Nông, Đại Bi thiền sư, tám người chia thành bốn đường, yểm hộ cho đệ tử các phái chạy xuống theo con đường của Lệ Thắng Nam đã mở, thoát khỏi Mang Sơn. 

Hồi Thứ Ba Mươi Lăm

Lần này đệ tử các phái tụ hội ở Mang Sơn đều là những người nổi bật trong bổn phái. Ngoại trừ mấy mươi người bị trọng thương, những người còn lại tuy hít phải mùi hoa Ma quỷ, không thể vận dụng chân lực nội gia, nhưng vẫn còn chạy được. Những người bị thương nhẹ thì đỡ người bị thương nặng, người chưa bị thương thì theo tám đại cao thủ đoạn hậu, tuy bại nhưng trận thế chẳng hề rối loạn. 

Tây Môn Mục Dã hét lên: “Giết càng nhiều càng tốt, kẻ đã chạy thoát không cần đuổi theo!” Bọn người áo vàng hú lên tựa như bầy mãnh thú nổi điên, hễ gặp người là giết, bất luận chính tà! Đệ tử chính phái vì có người suất lãnh, thương vong không nặng nề lắm, còn phía Mạnh Thần Thông thì người có võ công cao nhất đã bỏ chạy, những kẻ còn lại phải tự lo, chỉ trong khoảnh khắc hầu như đã bị bọn người áo vàng giết chết hết! Tán Mật pháp sư cả giận, chặn hai người áo vàng gầm lớn một tiếng. Tiếng gầm ấy là công phu Sư tử hống của Phật môn. Hai người áo vàng bị tiếng gầm như sấm dậy chấn động, lập tức tai và mũi đều chảy máu, toàn thân mềm nhũn, vội vàng lui ra sau. Mười đệ tử của Tán Mật pháp sư vội vàng theo y phá vòng vây. 

Tây Môn Mục Dã cho hai người áo vàng uống một viên kinh thần tán, rồi quay đầu lại chặn hai người của Tán Mật pháp sư. Thực ra Tán Mật pháp sư gầm lớn một tiếng rất tổn hao nguyên khí, nếu Tây Môn Mục Dã liều với y thì Tán Mật pháp sư cũng khó thoát. Phía Mạnh Thần Thông may mà có Tán Mật pháp sư không chịu bỏ chạy cho nên đã cứu được hơn mười người. 

Trong số những người bị Mạnh Thần Thông gạt làm đồ đệ có hai thiếu niên ngốc nghếch, đó là cháu của Tào Cẩm Nhi tên gọi Triệu Anh Hoa và Triệu Anh Dân. Cả hai chưa bao giờ chứng kiến cảnh này, thấy sư phụ đã chạy mất dạng thì bọn chúng đã hoảng sợ đến hồn bay phách tán. Đang luống cuống thì chợt thấy Cơ Hiểu Phong lướt qua người chúng, phía sau có hai người áo vàng đang hò hét đuổi theo. Triệu Anh Hoa và Triệu Anh Dân kêu lên: “Cơ sư huynh cứu đệ!”, la chưa dứt thì Cơ Hiểu Phong đã biến mất dạng. 

Xem ra hai thiếu niên ngốc nghếch sắp chết bởi chưởng của hai người áo vàng, chợt nghe một tiếng quát: “Bọn chuột nhắt dám lớn gan!”, Đột nhiên một luồng khí lạnh cuộn tới, té ra đó là vợ chồng Đường Kinh Thiên. Băng Xuyên thiên nữ phát ra băng phách thần đạn, chặn được hai người áo vàng, sau đó cả hai vợ chồng vung kiếm chặn hai người áo vàng. Đường Kinh Thiên tuy bị Lệ Thắng Nam giật lấy thanh Du long kiếm nhưng với võ công của chàng thì dùng một thanh kiếm bình thường cũng có uy lực không thể chống lại, huống chi lại còn có cây Băng phách hàn quang kiếm có một không hai trên đời của Băng Xuyên thiên nữ. Hai vợ chồng họ đã uống bích linh đơn, không sợ mùi thơm hoa Ma quỷ. Hai kiếm cùng đánh ra tựa như nhị long tranh châu, hai tiếng soạt soạt vang lên, hai cánh tay phải của hai người áo vàng đều bị chặt rơi xuống. Đường Kinh Thiên đút kiếm vào bao, tay trái ôm Triệu Anh Hoa, tay phải ôm Triệu Anh Dân chạy ngược về phía sau. Băng Xuyên thiên nữ đoạn hậu cho chàng, dùng bảo kiếm và băng đạn chặn kẻ địch lại. Bọn người áo vàng không biết vợ chồng Đường Kinh Thiên là ai, chỉ thấy đôi nam nữ này chẳng hề sợ hoa Ma quỷ, vừa ra tay đã đả thương hai đồng bọn thì không khỏi cả kinh. Thực ra nếu lấy một địch một thì bọn chúng chẳng hề thua vợ chồng Đường Kinh Thiên. Vợ chồng Đường Kinh Thiên sở dĩ dễ dàng cứu người ra khỏi miệng hùm là vì ra đòn bất ngờ, đồng thời kiếm pháp của hai vợ chồng phối hợp rất kín kẽ. Vả lại bọn chúng chưa hề thấy ngọc kiếm và băng đạn của Băng Xuyên thiên nữ. Khi hai người áo vàng quá khinh địch, đột nhiên trúng băng phách thần đạn cho nên cả kinh, không kịp chống đỡ thì đã bị chặt tay. Thế là bọn người áo vàng bị chặn lại không dám đuổi theo. Vợ chồng Đường Kinh Thiên quay trở lại cứu người, rồi lại thoát ra khỏi vòng vây của kẻ địch, đến và đi đều như gió, chỉ trong chớp mắt đã đuổi theo phía chính phái, trao anh em họ Triệu cho Tào Cẩm Nhi. Tào Cẩm Nhi mắng: “Hai tên súc sinh các ngươi còn có mặt mũi gặp lại ta? Tại sao không theo sư phụ của các ngươi?”, rồi bà ta giơ cây gậy đầu rồng định đánh xuống. Dực Trọng Mâu cản lại, khuyên rằng: “Mong chưởng môn sư tỷ niệm tình chúng trẻ tuổi vô tri, tha cho chúng lần này!” Hai anh em cũng quỳ xuống khóc rống lên xin bà nội tha cho. Tào Cẩm Nhi rất nuông chiều hai đứa cháu này, chỉ vì trước mặt tôn sư các phái cho nên đành phải giả vờ, nghe Dực Trọng Mâu nói thế thì mừng rỡ ngừng lại. 

Chưởng môn các phái điểm lại nhân số thương vong của bổn môn, số người tử thương và mất tích đến tám mươi bảy người, bị thương nặng có đến bảy mươi sáu người, bị thương nhẹ thì không kể siết. Kim Quang đại sư than rằng: “Không ngờ đại hội Mang Sơn lại có kết cuộc như thế này, hai bên chính tà đều thảm bại!” Dực Trọng Mâu nói: “Ba mươi năm trước tôi đã từng nghe nói đến Tây Môn Mục Dã, nhưng tôi lại không biết bọn người áo vàng kia. Chúng ta không phải bại trong tay Mạnh Thần Thông mà lại bại bởi bọn người áo vàng lai lịch bất minh, quả thực là điều không ngờ!” Trong chưởng môn các phái, Dực Trọng Mâu là người hiểu biết rộng rãi nhất, cả y mà cũng không biết lai lịch của bọn người áo vàng thì không cần phải nói đến những người khác. Thống Thiền thượng nhân trầm ngâm rồi nói: “Bản lĩnh của Mạnh Thần Thông rất cao cường, ngoại trừ Đường đại hiệp của phái Thiên Sơn, e rằng không ai có thể địch nổi y. Nay lại có thêm Tây Môn Mục Dã và bọn người áo vàng, sau này võ lâm không biết sẽ gặp tai họa gì! Nay chỉ có cách mời các vị tạm thời đến tệ tự dưỡng thương, một mặt tìm hiểu lai lịch của bọn người áo vàng, một mặt sai người mời vợ chồng Đường đại hiệp cùng bàn mưu tính kế.” Chùa Thiếu Lâm cách Mang Sơn không xa, trong chùa lại có hàng trăm cao tăng võ nghệ cao cường, đương nhiên là nơi tốt nhất để tránh nạn trị thương, chưởng môn các phái nghe Thống Thiền thượng nhân nói như thế thì đồng ý. Chỉ có Tào Cẩm Nhi là tựa như muốn nói điều gì đó. Thống Thiền thượng nhân liếc nhìn bà ta rồi hỏi: “Tào chưởng môn, có phải bà nhớ đến tiểu sư muội của bổn môn không?” Tào Cẩm Nhi đỏ mặt, nói: “Đúng thế, chỉ e bọn người áo vàng lại sẽ gây náo loạn, Chi Hoa đang hôn mê, chẳng may lọt vào tay bọn chúng thì tôi... tôi làm sao ăn nói với Lữ cô cô” Thống Thiền thượng nhân nói: 

“Chuyện này quả thực đáng lo, may mà có mẹ con Phùng Lâm bảo vệ cho nàng, dù kẻ địch đông đúc, nhưng vẫn có thể cứu được nàng. Song bên trong còn vài đệ tử pháiVõ Đang, chỉ e Phùng Lâm khó bảo vệ được hết.” Vợ chồng Đường Kinh Thiên và Lôi Chấn Tử đồng thanh nói: “Xin để chúng tôi đi một chuyến.” Thống Thiền thượng nhân nói: “Nếu ba vị đi tiếp ứng thì tốt còn gì bằng?” Bọn Đường Kinh Thiên định quay trở lại thì Thống Thiền thượng nhân chợt nói: “Khoan đã, hãy xem ai đến kia?” ngay lúc này, chỉ nghe từ xa có một tiếng hú dài, Đường Kinh Thiên nghe đó là tiếng của Phùng Lâm, cả mừng: “Họ đã thoát hiểm.” Cũng trong khoảnh khắc này, chợt thấy bóng người thấp thoáng xuất hiện ở trên sườn núi. Lúc này tuy đã nửa đêm nhưng ánh trăng vẫn còn trong ngần, xem rất rõ ràng, người đi đầu là Phùng Lâm. Lôi Chấn Tử và Đường Kinh Thiên đều đồng thời kêu lên, song một người mừng, một người lại lo. Té ra chín đệ tử bị thương của phái Võ Đang đều theo Phùng Lâm trở về, trái lại chẳng thấy Lý Tâm Mai, Chung Triển và Cốc Chi Hoa đâu. 

Lại nói Phùng Lâm đưa Cốc Chi Hoa vào bên trong, thử dùng công phu giải huyệt đại tạng của Hồng giáo giải huyệt cho nàng, công phu giải huyệt đại tạng có thể phá bất cứ thuật điểm huyệt kỳ môn nào, nhưng lúc này thì chẳng thấy có hiệu quả. Phùng Lâm thầm thất kinh, nhủ rằng: “Quả đúng là ngoài trời có trời, ngoài người có người. Cả thần công giải huyệt đại tạng của mình cũng chẳng phá nổi thuật điểm huyệt của Mạnh Thần Thông. Mình tuy chưa tỉ thí với y nhưng nếu tính ra thì mình đã thua y. Chỉ mong Thống Thiền thượng nhân đắc thắng quay lại cứu nàng.” 

Rồi bà ta đặt Cốc Chi Hoa trong tịnh thất, sai Lý Tâm Mai và Chung Triển canh gác, rồi trị thương cho các đệ tử phái Võ Đang. 

Lý Tâm Mai gọi Cốc Chi Hoa, Cốc Chi Hoa nào trả lời được nàng, Lý Tâm Mai nước mắt lưng tròng, khẽ nói: “Cốc tỷ tỷ thật đáng thương!” Chung Triển nói: “Thống Thiền thượng nhân bảo nàng không bị thương, chỉ là nhất thời hôn mê chưa tỉnh, khi người trở về sẽ cứu nàng, sư muội đừng lo.” Lý Tâm Mai nói: “Huynh làm sao biết tâm sự của muội? Muội mong được nói chuyện với tỷ ấy, muội có rất nhiều chuyện muốn hỏi tỷ ấy. Mấy năm qua muội buồn chết đi được, tìm chẳng ra người có thể giải bày tâm sự.” Chung Triển chợt buồn, cười gượng: “Vậy huynh quả thật ngưỡng mộ Cốc tỷ tỷ của muội, nàng và muội quen nhau không lâu, thế mà muội đã coi nàng là tri kỷ. Hỡi ơi, đúng là mỗi người có duyên phận của mình, chẳng thể nào gượng ép được.” Lý Tâm Mai ngẩn người ra, nói: “Sư huynh, huynh... huynh nói gì thế...” 

Chung Triển nói: “Huynh bảo mỗi người có duyên phận của mình, chẳng thể nào gượng ép được. Chẳng hạn như chúng ta bên nhau từ nhỏ, nhưng trong mắt của muội, huynh chẳng bằng... chẳng bằng người” Xưa nay Chung Triển không giỏi ăn nói, nhưng những câu nói này xuất phát từ tình cảm của y cho nên nghe rất chân thành, lại pha lẫn mấy phần xúc động, mấy phần chua chát. 

Lý Tâm Mai hồn nhiên vô tư, trước kia vì Kim Thế Di chiếm lấy tâm hồn nàng cho nên chẳng hề biết tấm lòng của Chung Triển đối với mình. Lúc này nghe những lời chua chát ấy của Chung Triển, mới biết sư huynh si tình mình. Chung Triển bảo ngưỡng mộ Cốc Chi Hoa nhưng lại thầm chỉ Kim Thế Di. Tình cảm sống chết của Lý Tâm Mai đối với Kim Thế Di khiến cho y vừa ngưỡng mộ vừa ghen tị. 

Gió đêm mang theo luồng hương hoa, ánh trăng len qua kẻ lá ngoài cửa sổ nhìn lén họ. Dưới ánh trăng trắng ngà chỉ thấy Lý Tâm Mai đỏ ửng mặt, Chung Triển thì cúi đầu không nhìn nàng. 

Lý Tâm Mai im lặng không nói, nàng tựa cửa sổ đứng ngẩn ra một hồi thì chợt nói: “Sư huynh, muội biết tấm lòng của huynh đối với muội. Muội rất cảm kích huynh. Nhưng vì chúng ta chơi đùa với nhau từ nhỏ, muội đã sớm coi huynh là người nhà. Chẳng ai có thể thay thế được huynh, muội chưa bao giờ so sánh huynh với ai cả. 

Nhưng muội có tình cảm khác với Cốc Chi Hoa, muội thích tỷ ấy, muội kính phục tỷ ấy, muội thương xót cho tỷ ấy, huynh... huynh có hiểu không?” Chung Triển buồn bã nói: “Huynh hiểu chứ. Nhưng... nhưng...” Lý Tâm Mai nói: “Nhưng cái gì?” Chung Triển thở dài: “Nhưng không nói thì tốt hơn. Muội đã hiểu tấm lòng của huynh, vậy là được.” Lý Tâm Mai đang nói về Cốc Chi Hoa, nhưng thực sự là bày tỏ tình cảm của mình đối với Kim Thế Di, Chung Triển đương nhiên cũng hiểu điều đó. Tuy y vốn muốn bảo “người chết không thể sống lại” nhưng Lý Tâm Mai chưa nói ra tên của Kim Thế Di, y cũng không tiện nói như thế. Lý Tâm Mai rối bời cõi lòng, ngay lúc này cái tên người mà họ không dám nói đột nhiên phát ra từ miệng Cốc Chi Hoa. Cốc Chi Hoa như nói mê, nàng gọi khẽ hai tiếng: “Thế Di, Thế Di!” Lý Tâm Mai khựng người, rồi nàng vội vàng bước đến giường, lay Cốc Chi Hoa rồi kêu lên: “Tỷ tỷ, tỉnh dậy, tỉnh dậy!” Cốc Chi Hoa không tỉnh mà xoay người, vẫn gọi như đang nằm chiêm bao: “Thế Di, đừng rời muội..., ai trong thì người ấy trong, ai đục thì người ấy đục, huynh... huynh nói rất đúng, huynh đừng đi!” Lý Tâm Mai giật mình, điểm vào huyệt linh phủ của nàng, nói: “Cốc tỷ tỷ, tỷ bảo gì thế? Là muội đây, tỷ tưởng là ai?” Cốc Chi Hoa rùng mình một cái rồi hai mắt khép chặt, không còn nói mơ nữa. Lý Tâm Mai vốn muốn giải huyệt cho nàng, không ngờ lại làm nàng hôn mê lần nữa. 

Số là lúc nãy Phùng Lâm đã dùng Đại tạng giải huyệt thần công giải huyệt cho Cốc Chi Hoa, tuy không hiệu quả nhưng đã kích thích thần kinh của nàng, khiến cho nàng có một chút tri giác, rơi vào trong trạng thái mơ màng. Lúc đó nàng cảm thấy có người đứng bên cạnh mình, vì thế mới gọi cái tên mà nàng hay nghĩ đến nhất. Chỉ vì cách điểm huyệt của Mạnh Thần Thông ngược hẳn với võ học chính tông cho nên Lý Tâm Mai giải huyệt cho nàng thì trái lại đã làm nàng mất tri giác. Lý Tâm Mai đứngthộn mặt ra, chợt nghe Chung Triển nói: “Huynh cứ tưởng Giang Nam lắm lời nói vớ vẫn, té ra... điều này là thật.” Lý Tâm Mai nói: “Sư huynh, huynh... huynh nói gì? Giang Nam... Giang Nam bảo gì?” Chung Triển nói: “Giang Nam bảo khi còn sống Kim Thế Di có tấm thâm tình đối với nàng, trong đại hội Mang Sơn lần trước đã cố gắng bảo vệ cho nàng, nay có thể thấy Cốc Chi Hoa cũng không thể quên được y, ôi chỉ là đáng tiếc, đáng tiếc người chết không thể sống lại!” Lý Tâm Mai kêu lên: “Đừng nói nữa, đừng nói nữa!” Một lúc sau nàng không nén được, lại hỏi: “Đại hội Mang Sơn lần trước đã xảy ra chuyện gì?” Chung Triển nói: “Nay một người đã chết, có nhắc lại chuyện này cũng chẳng ích gì! Đừng nói thì hơn!” Lý Tâm Mai kêu lên: 

“Không, không! Họ đều là bằng hữu tốt nhất của muội, tất cả những chuyện liên quan đến họ muội đều muốn biết, huynh... huynh hãy nói đi!” Trong đại hội Mang Sơn lần trước, chuyện Kim Thế Di bảo vệ cho Cốc Chi Hoa đã truyền khắp võ lâm, có điều vì mọi người sợ làm Lý Tâm Mai buồn lòng cho nên giấu nàng. Nay Lý Tâm Mai cũng đoán được ẩn tình giữa Cốc Chi Hoa với Kim Thế Di, vả lại cố hỏi dấn tới, Chung Triển đánh liều nghĩ bụng “Cứ kể cho nàng nghe cả, có lẽ sẽ cắt đứt tình cảm của nàng đối với Kim Thế Di, trái lại sẽ tốt hơn cho nàng”. Vì thế đều nói ra tất cả những điều mình biết, lại nói: “Bốn năm trước, muội chẳng phải từng nghe lời Giang Nam đến Lao Sơn tìm tung tích của Kim Thế Di sao? Nghe nói lần đó y vốn định cùng Cốc Chi Hoa ra biển, sau đó không biết thế nào mà lại đi cùng Lệ cô nương.” Lý Tâm Mai nói: “Huynh đã nghe ai nói?” “Mẹ của muội chưa nói cho muội biết sao?” Chung Triển biết Phùng Lâm giấu con gái của mình, nhưng việc đã đến nước này, vì muốn cắt đứt tình cảm của nàng đối với Kim Thế Di, cho nên đành để nàng khóc một trận, vì thế đã kể ra những lời của Phùng Lâm. Điều lạ là Lý Tâm Mai không hề đau buồn như y dự liệu, chỉ thấy nàng ngẩn ra một hồi rồi cười thê lương, lẩm bẩm: “Cốc tỷ tỷ, muội tưởng muội đáng thương, ai ngờ tỷ còn đáng thương hơn muội! Muội còn có mẹ, còn có sư huynh, tỷ mất chàng thì chẳng còn ai! Tại sao con người chết đi không thể sống lại? Nếu chàng có thể sống lại, muội nhất định sẽ cho chàng biết tấm lòng của tỷ, chàng... chàng sẽ nghe lời muội, muội sẽ bảo chàng mãi không cách xa tỷ!” Lý Tâm Mai vẫn còn là một thiếu nữ vô tư, tuy tình đầu không dễ nguôi, nhưng khi nàng thấy Cốc Chi Hoa cũng yêu thương Kim Thế Di như mình thì nàng không hề ghen tuông mà chỉ cảm thấy Cốc Chi Hoa đáng thương. Trăng đêm mười lăm vừa lớn vừa tròn, ánh sáng len qua kẽ lá xuyên vào khung cửa sổ, Lý Tâm Mai lẩm bẩm một hồi thì im lặng, dưới ánh trăng trông nàng như một pho tượng nữ thần. Chung Triển đứng ngẩn người ra ngắm, y chợt cảm thấy ở nàng tựa như tỏa ra một thứ ánh sáng trong trẻo hơn cả ánh trăng. Chung Triển dần dần bình tĩnh trở lại, thế nhưng cũng trong lúc này, y chợt thấy trên má nàng có đôi giọt nước mắt long lanh, nàng đã nghĩ gì? Có phải đau lòng vì Kim Thế Di không thể sống lại hay tiếc thương cho số phận của Cốc Chi Hoa? Nàng khóc cho người hay khóc cho mình? 

Lý Tâm Mai đang nghĩ gì? Nàng đang nhớ đến một câu chuyện vào bốn năm trước. Nàng bị Mạnh Thần Thông nhốt trong căn thạch thất, chính nhờ thế nàng đã gặp Cốc Chi Hoa. Nàng và Cốc Chi Hoa mới gặp nhau đã thân thiết, nàng không hề che dấu tình cảm của mình đối với Kim Thế Di. Cốc Chi Hoa chỉ cho nàng đến Lao Sơn tìm chàng, sau đó lại tìm mọi cách cùng bọn Trần Thiên Vũ cứu nàng ra. Nàng nhớ khi nói về Kim Thế Di với Cốc Chi Hoa, Cốc Chi Hoa rưng rưng nước mắt, lúc đó nàng còn tưởng rằng Cốc Chi Hoa thương xót cho thân phận của mình, giờ đây nàng hoàn toàn hiểu. Té ra tình cảm của Cốc Chi Hoa lúc đó cũng giống như mình lúc này. 

Nhưng lúc đó Kim Thế Di vẫn còn sống, còn Cốc Chi Hoa thì cố nén nỗi đau trong lòng mình, cho nàng biết hành tung của Kim Thế Di. Giờ đây nàng đã hoàn toàn hiểu. Cốc Chi Hoa vì muốn giúp nàng mà hy sinh tình cảm giữa mình với Kim Thế Di. 

Cốc Chi Hoa nằm lặng lẽ dưới ánh trăng, còn trong mắt Lý Tâm Mai, Cốc Chi Hoa còn trong sáng hơn cả ánh trăng kia. Lý Tâm Mai lòng đau như cắt, khẽ gọi: 

“Hảo tỷ tỷ!” nàng thầm nhủ: “Thật đáng tiếc, đáng tiếc chàng đã chết...” Chung Triển kêu lên: “Sư muội, muội muội...” Lý Tâm Mai nói: “Muội... muội đâu có khóc!” rồi nàng bước ra trước cửa sổ, đẩy hai cánh cửa ra hít sâu một hơi, lặng lẽ lau nước mắt. Trong khoảng sát na này, chỉ thấy cành cây lay động, tựa như có một bóng người nhưng đột nhiên bóng người ấy biến mất. 

Lý Tâm Mai giật mình, kêu lớn: “Thế Di!” nhưng chỉ thấy vầng trăng sáng trtrời, gió ngừng cây lặng, từ xa nhìn chỉ thấy mấy tảng đá trông giống như hình người chứ nào có thấy ai đâu? Chung Triển kêu lên: “Sư muội... muội thấy ai thế?” rồi y mở cửa chạy ra ngoài, cũng chẳng nhìn thấy ai. 

Lý Tâm Mai run run nói: “Chắc là muội hoa mắt, y... y làm sao có thể sống dậy?” Chung Triển cố gượng cười: “Muội và y là hảo bằng hữu, huynh lại nhắc đến chả trách nào muội nghĩ đến y nên sinh ra ảo giác!” Lý Tâm Mai nói: “Muội phải tìm mẹ đây, muội hơi sợ! Lúc nãy Cốc tỷ tỷ mới nói mơ, chắc là cũng có tri giác. Muội gọi mẹ giải huyệt cho tỷ tỷ” Chung Triển nói: “Vậy muội hãy ở bên cạnh nàng, huynh đi đây.” Nói chưa dứt thì chợt thấy như có người nhẹ thở dài bên tai. 

Chung Triển cả kinh, ngay lúc này chỉ thấy Lý Tâm Mai kêu thét lên, tiếng kêu đầy kinh dị và khủng khiếp. Chung Triển quay đầu lại, y vốn đang bước qua cửa, lúc này quay đầu thì hồn bay phách tán. Trong phòng trống hoác chẳng còn ai, cả Cốc Chi Hoa cũng biến mất. Lý Tâm Mai ngẩn người ra, khi vào trở lại trong phòng thì thấy Cốc Chi Hoa đã đột nhiên biến mất như một giấc mơ. Chung Triển kêu lên: 

“Muội xem, cánh cửa này...” Bên cạnh giường bệnh có một cánh cửa thông ra hậu viên, vốn là đã đóng chặt. Chung Triển vừa đẩy ra thì phát hiện có người đã rút then cửa! Không hỏi cũng biết chắc chắn người đó đã lén chui vào từ cánh cửa này cướp Cốc Chi Hoa đi. Đây là chuyện không thể tưởng tượng nổi, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà người đó có thể bắt Cốc Chi Hoa đi, không đủ thời gian cho hai người Lý, Chung đuổi theo. Nhưng trăng vẫn sáng, sao trời vẫn lấp lánh, trong sân lặng lẽ đến ghê người, còn Cốc Chi Hoa đâu? 

Thực ra họ đều hiểu rằng, người đó đã có thể cướp người ngay trước mắt họ, bản lĩnh cao hơn họ gấp mười lần họ làm sao có thể đuổi theo? Dù có đuổi kịp thì cũng không phải là đối thủ của người ta! Gió đêm mang đến làn hương, tựa như hương hoa mà chẳng phải hương hoa, mùi hương ấy khiến cho người ta lâng lâng! Lý Tâm Mai đưa mắt nhìn ra, chỉ thấy cách đó không xa có mấy bụi hoa, thân cây không cao nhưng hoa lại nở to như cái bát, hai màu đỏ trắng chen lẫn nhau trông rất đẹp mắt, trong vườn vốn không trồng loại hoa này, đúng là chuyện lạ. Chung Triển kêu lên: 

“Chuyện gì thế này? Ôi chao, huynh như bị uống rượu say, gân cốt rã rời.” Lý Tâm Mai chợt rút kiếm ra, cao giọng nói: “Là ai?” bất giác chỉ thấy gió lướt lên, có hai bóng người từ hòn giả sơn đột nhiên vụt nhảy ra. Một người ăn mặc theo kiểu võ quan, một người mặc áo vàng, tên võ quan ấy cười ha hả: “Hai tên nhãi nhép đừng hòng chạy. Bọn chúng rất có ích cho chúng ta, lão Tề, đừng lấy mạng chúng.” Nửa câu sau là nói với đồng bọn của y, rõ ràng y cho rằng hai người Chung, Lý là vật trong túi cho nên nhất định có thể bắt được. 

Lý Tâm Mai cả giận đâm tới một kiếm, tên võ quan ấy rút ra một cây roi da đánh soạt một tiếng, cuốn lấy cây kiếm của Lý Tâm Mai. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Chung Triển cũng đâm ra một kiếm, công lực của y hơi cao, kiếm này đâm ra có cả tiếng gió. Lý Tâm Mai thuận thế dẫn ngọn roi đi, tên võ quan ấy không ngờ nàng hít phải mùi hoa Ma quỷ mà vẫn có công lực như thế, cho nên tuy quấn được cây kiếm của Lý Tâm Mai nhưng không giật được, bị Chung Triển đâm vào tà áo, chỉ thiếu có nửa tấc thì đã trúng vào huyệt đạo của y. Tên áo vàng khen rằng: 

“Thiên Sơn kiếm pháp quả nhiên bất phàm!”, rồi đánh vù ra một chưởng. Chưởng phong lại đẩy tới một luồng hương thơm nồng! Chung Triển loạng xoạng, suýt nữa đã đứng không vững, mùi hương lạ không những khiến cho người ta rã rời gân cốt mà chưởng lực của y cũng rất hùng hậu. Chung Triển vội vàng thi triển Đại tu di kiếm thức, kiếm quang vạch thành tường vòng tròn. Đại tu di kiếm thức là loại công phu hộ thân, kiếm thức triển khai tạo thành một bức màn ánh sáng bao bọc thân người, dù người áo vàng bản lĩnh cao cường, nhưng trong tay chẳng có binh khí cho nên trong chốc lát cũng không thể phá được bộ kiếm pháp phòng thân của y. 

Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, tên võ quan đã rút cây roi dài ra, người áo vàng thì lách người phân chưởng, chưởng trái đánh Chung Triển lùi hai bước, chưởng phải đánh bật cây kiếm của Lý Tâm Mai. Tên võ quan chỉ chờ có thế, y lướt người tiến lên đánh soạt ra một roi, quét trúng vào bối tâm của Chung Triển, một mảng áo theo cây roi bay ra. Trên lưng Chung Triển hằn lên một vết thương dài! Lý Tâm Mai kinh hoảng kêu thét lên, vận kiếm như gió, suýt nữa đã lao cả người lên. 

Cũng trong lúc này, tên võ quan gầm lớn một tiếng, lướt người ra, té ra y cũng bị cây kiếm của Chung Triển đâm một nhát lên vai! Lý Tâm Mai đâm hụt một kiếm, mất trọng tâm, kẻ áo vàng chụp tới, chưởng phong như gió, suýt nữa đã chụp cổ tay của nàng. Lý Tâm Mai chợt cảm thấy một luồng lực đạo mềm mại dẫn mình qua một bên, trọng tâm chợt vững chắc. Đột nhiên nghe Chung Triển nói: “Đừng lo, muội cứ dựa vào huynh!” Chung Triển đã muốn tử chiến, một tay kéo sư muội, kiếm thức chuyển thủ thành công, từ Đại tu di kiếm thức chuyển thành Truy phong kiếm thức, đánh ra một loạt những kiếm chiêu lợi hại, đó hoàn toàn là lối đánh liều mạng. Người áo vàng cười lạnh: “Xem thử hai tên nhãi nhép các ngươi có thể chống chọi được bao lâu, Bạch lão đệ, ngươi không cần vội thu thập bọn chúng!” Hai sư huynh muội đâu lưng vào nhau, liên kiếm cự địch, đôi bên đều cảm thấy ấm áp. Trong khoảnh khắc sinh tử tồn vong, cùng chịu hoạn nạn, họ đều cam lòng liều mạng vì đối phương, đồng thời cũng cảm thấy tấm chân tình của đối phương, dù đó không phải là tình yêu nhưng cũng hơn tình huynh muội. Lý Tâm Mai cảm thấy tên võ quan này hình như rất quen, lúc này người áo vàng kêu lên, nàng chợt nhớ y chính là phó thống lĩnh ngự lâm quân Bạch Lương Ký đã từng xuất hiện ở Lao Sơn. Lần này y cả gan dám xông vào Mang Sơn khiến Lý Tâm Mai cũng bất ngờ. Nhưng điều kỳ lạ là, bọn họ đã đánh nhau cả tuần trà mà mẹ nàng vẫn không hề phát giác để ra cứu họ! Bản lĩnh của Bạch Lương Ký chẳng kém Lý Tâm Mai, còn bản lĩnh của người áo vàng thì hơn họ. Huống chi họ đã hít vào rất nhiều hương hoa Ma quỷ, dù có liều mạng chống cự cũng chẳng thể nào chịu nổi. Trong lúc kịch chiến chỉ nghe tiếng soàn soạt vang lên, Chung Triển lại trúng hai roi, Lý Tâm Mai kêu lớn: “Mẹ, mẹ!” chẳng ai trả lời nàng. 

Lý Tâm Mai kêu liền mấy tiếng mà chẳng thấy mẹ trả lời, bất đồ lòng lo sợ. 

Nàng vốn đã chẳng thể nào chống cự được nổi nữa, vừa rồi hạ miệng kêu to nên hít rất nhiều mê hương. Bất giác đầu váng mắt hoa, toàn thân mềm nhũn, người uể oải chẳng thể nào xuất kình được. Đang lúc mơ hồ thì nghe người áo vàng cười đắc ý: 

“Ngã này!” Lý Tâm Mai như bị thôi miên, lập tức mất cả tri giác, quả nhiên ngã xuống. 

Chung Triển đột nhiên mất chỗ dựa thì cả kinh, quay đầu lại kêu: “Sư muội, muội...” vừa nói xong chữ “muội” thì đã bị điểm huyệt đạo. Ngay lúc này ở phía trước mới vọng lại tiếng kêu của Phùng Lâm, nhưng đáng tiếc họ đã không nghe nữa. Tại sao Phùng Lâm lại chậm đến thế? Té ra bà ta cũng gặp cường địch. 

Đó là cường địch lợi hại hơn Bạch Lương Ký và tên áo vàng nhiều! Bạch Lương Ký lẻn vào bên trong, bà ta đã biết. Lúc đó bà ta đang ngồi đả tọa trong tịnh thất, nghe trên mái nhà có tiếng loạt soạt thì biết có người tới. Bà ta cũng lẳng lặng phóng lên mái nhà, chỉ thấy mấy bóng người lướt ra khỏi tàng kinh các ở phía tây, phóng lên một cây đại thụ ở hậu viên. Dưới ánh trăng trong vắt, thân pháp của người ấy tuy nhanh nhưng bà ta vừa nhìn thì đã nhận ra đó chính là Bạch Lương Ký, lòng thầm cười: “Té ra là tên tiểu tử này, không ngờ y lớn gan dám đến đây!” Với bản lĩnh của Phùng Lâm, vừa vươn tay là có thể tóm được y, bà ta hái mấy chiếc lá, đang định thitriển công phu Trích diệp phi hoa thì chợt nảy ra một ý, thầm nhủ: “Tên tiểu tử này là phó thống lĩnh ngự lâm quân, đến đây làm gì? Chi bằng mình cứ len lén đi sau lưng y, xem thử y có bè đảng nào, thừa cơ hí lộng y một phen.” Bà ta vừa mới nghe như thếthì thấy ở góc đình phía đông bắc có một bóng người chui tọt ra, đó là một người áovàng thân hình cao lớn, Phùng Lâm thầm nhủ: “Tên này có bản lĩnh cao hơn BạchLương Ký một bậc, nhưng Mai nhi và Chung Triển có thể đối phó được với chúng, mình không cần lo. Xem thử còn có cao thủ nào phía sau?” Chợt một mùi hương thơm thổi tới, Phùng Lâm giật mình, nhìn lại thì thấy thấp thoáng trong bụi cỏ có những đóa hoa đỏ trắng chen lẫn. Phùng Lâm thầm kêu: “Không xong!” Bà ta đã từng sống ở Tây Tạng mấy năm, đã biết đây chính là hoa Ma quỷ. Với công lực của bà ta, tuy không sợ trúng độc nhưng nếu hít nhiều hương hoa thì cũng không tốt, thế rồi ngầm vận huyền công đóng tất cả huyệt đạo toàn thân rồi thi triển công phu Bát bộ cản thiền đuổi theo tới phía trước. Ngay lúc này chợt nghe ở phía đông nam có tiếng hò hét, đó chính là hướng của khu mộ Độc tý thần ni, cũng là nơi đệ tử các phái và bọn Mạnh Thần Thông tỉ thí! Phùng Lâm vừa nghe tiếng la hét thì đã biết bọn này chẳng phải tầm thường, bà ta càng kinh hãi hơn lúc nãy, thầm nhủ: “Nếu chẳng phải phía Mạnh Thần Thông đột nhiên có thêm nhiều cao thủ thì các bậc tôn sư các phái đã cùng nhau ra tay!” Dù thế nào đi nữa thì tình thế cũng đang nguy cấp, Phùng Lâm không ngờ rằng bọn người ấy chẳng phải là phe của Mạnh Thần Thông, cũng chẳng phải là phe chính phái mà là đám người áo vàng của Tây Môn Mục Dã. Đám người này chia thành hai tốp, một tốp phá hoại đại hội tỉ võ Mang Sơn, còn một tốp ít hơn thì lẻn vào bên trong quấy rối. Tốp này có bốn người, Bạch Lương Ký và người áo vàng đã tiến vào hậu viên, hai người áo vàng thì theo dõi Phùng Lâm. 

Phùng Lâm vừa phát giác có điều không ổn thì hơi ngưng thần đã nghe được hơi thở của hai người áo vàng, thế là bà ta lập tức vung tay. 

Trong khoảng sát na này, chỉ nghe tiếng cười lạnh vang lên, có tiếng gió lướt tới, một bóng người đã phóng tới nhanh như điện chớp. Đó là một người áo vàng thân hình to lớn, cao hơn người bình thường ít nhất một cái đầu. Y vung bàn tay to bè chụp về phía Phùng Lâm, ngón tay hầu như đã chạm vào đầu bà ta, một luồng khí tanh nồng như máu xộc vào mũi Phùng Lâm. Dù nội công của bà ta đã đạt đến mức lư hỏa thuần thanh nhưng cũng cảm thấy muốn nôn mửa. Phùng Lâm làm sao có thể để cho y chụp trúng. Cũng trong khoảng sát na này, bà ta nhẹ nhàng lướt ra, thuận tay bẻ một cành cây dài khoảng ba thước, quét ngang trên không trung, thi triển một chiêu Huyền điểu hoạch sa trong kiếm pháp của Bạch Phát ma nữ, đâm vào ngực của người áo vàng. 

Nội công của Phùng Lâm đã đến mức phóng hoa ném lá có thể đả thương người, một cành cây trong tay bà ta cũng lợi hại hơn thanh kiếm bình thường gấp mười lần. Cây “kiếm” ấy đâm tới, tựa như đao kiếm chém gió, thủ pháp rất quỷ dị, chỉ nghe soạt một tiếng, chiếc mũ của người áo vàng bị cành cây hất lên, lộ ra một cái đầu trọc, té ra đó là một nhà sư. 

Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, lại có một bóng người nhảy bổ tới, người này thì thân hình ngũ đoản, thấp hơn người bình thường cả một cái đầu, trong tay cầmmột cây phất trần, y cuộn cây phất trần lên quét vào eo Phùng Lâm. Phùng Lâm di hình hoán vị, tay trái rút ra một sợi dây đai. Dây đai và phất trần cuộn vào nhau, hai bên đều dùng lực kéo mà đối phương chẳng hề nhúc nhích. Phùng Lâm đâm nhành cây ra, người áo vàng vội vàng rút cây phất trần lộn ngược ra phía sau. Chỉ nghe keng một tiếng, chiếc kim quấn trên đầu y bị cành cây hất ra, lộ ra một búi tóc, té ra đó là một đạo sĩ. 

Hai người áo vàng này đều rất lanh lẹ, đến và đi đều như gió, trong võ lâm đúng là những nhân vật hiếm có. Không ngờ Phùng Lâm ra tay còn nhanh hơn cả bọn chúng gấp ba lần, bà ta bẻ cây, tháo dây đai, né tránh, phản đòn, cúi cùng hất mũ của bọn chúng đều liền một mạch, tựa như chỉ trong nháy mắt, quả thực nhanh như điện chớp. Hai người này tung đòn không trúng thì lập tức tránh ra, bày thành thế ỷ giác, lòng thầm thất kinh. 

Phùng Lâm rút nhành cây về nhìn, nhành cây cũng bị chặt một nửa, trong vết chặt tựa như dao kiếm, cũng thầm lạnh mình. Dưới ánh trăng nhìn rất rõ ràng, chỉ thấy một tăng một đạo trên mặt đều dính mấy phiến lá. Hòa thượng nở nụ cười quỷ dị, đạo sĩ lộ vẻ khổ sở nhưng chẳng hề có vết máu. Vả lại vẻ mặt chúng chẳng hề thay đổi, dưới ánh trăng trông rất kinh khủng, tựa như hai hồn ma. 

Công phu Trích diệp phi hoa của Phùng Lâm đã đạt đến mức giết người trong chớp mắt nhưng trên mặt của cả hai người áo vàng này đều dính mấy phiến lá của bà ta mà chẳng hề có vết máu, bọn chúng cũng chẳng hề kêu lên. Phùng Lâm không khỏi kinh hãi hơn, thầm nhủ: “Sao da mặt của chúng dày đến thế, chả lẽ chúng không phải là thân máu thịt?” Nhà sư cao lớn cười hềnh hệch rồi vung bàn tay chụp về phía Phùng Lâm, chưởng phong có mùi máu tanh, mùi máu này còn nồng hơn lúc nãy. 

Phùng Lâm đâm ra một kiếm, nhà sư đã có phòng bị, Phùng Lâm đâm một kiếm không trúng thì lập tức thi triển tuyệt kỹ Miêu ưng phốc kích phóng vọt lên. Đạo sĩ lùn hình như đã đoán bà ta sẽ dùng chiêu này cho nên cũng phóng vọt lên, cao hơn cả Phùng Lâm, cây phất trần đánh xuống, hàng ngàn sợi tơ tỏa ra như một tấm lưới trên không trung, nhốt Phùng Lâm vào ở giữa. Lúc còn bé Phùng Lâm ở đảo Miêu ưng, đã dựa theo tư thế bổ nhào của một loài quái điểu có bộ mặt giống như mèo để sáng tạo ra bộ khinh công này, cho nên có thể xoay chuyển phương hướng trên không trung. 

Vốn là đạo sĩ lùn đã nắm được tiên cơ, nếu là người khác chắc chắn sẽ không thoát nổi đòn đánh của y, nhưng Phùng Lâm lại ứng phó nhẹ nhàng. Chỉ thấy cây phất trần trầm xuống, bà ta lập tức vặn hông xoay người, đồng thời thổi ra một hơi chân khí, cây phất trần lập tức bị thổi bạt ra, nhưng chỉ nghe soạt một tiếng, vai của đạo sĩ lùn đã bị nhành cây của bà ta đâm trúng, áo rách mất một mảng, máu tươi đổ xuống. Nhà sư cao lớn thấy đồng bọn gặp nguy hiểm thì lập tức phát ra hai đòn Phách không chưởng. Phùng Lâm đang lơ lửng trên không, khó kéo dài được thời gian, chưa kịp phát ra kiếm thứ hai thì cũng rơi xuống theo đạo sĩ. 

Điều kỳ lạ là vai của đạo sĩ trúng kiếm thì máu tuôn ra, nhưng Phùng Lâm thổi lá vào mặt của y thì trên mặt chỉ bị hõm xuống, chẳng hề có vết máu. Phùng Lâm giật mình, cười lạnh nói: “Té ra là hai lão quái vật sống dai các ngươi. Các ngươi dám giả thần giả quỷ dọa người ở đây? Đường đại hiệp có thể nương tay nhưng ta thì không tha cho các ngươi.” Té ra đạo sĩ có đạo hiệu là Qui Tàng Tử, nhà sư thân hình cao lớn là một người Hồ, đến Trung Hoa thì lấy tên người Hán, pháp hiệu là Thích Đạo An. 

Qui Tàng Tử xuất thân từ phái Bão Phác trong đạo giáo, phái này tôn đạo sĩ luyện đơn thời Tấn là Cát Hồng làm tổ sư, chủ yếu coi trọng những thứ bàng môn tả đạo như luyện đơn, thái nạp, phương thuật, bùa chú, địa vị rất thấp trong đạo giáo. Qui Tàng Tử ở Trung Nguyên chẳng gặp thời, cho nên đến miền tái ngoại khai tông lập giáo ở biên giới Mông Tạng, nhưng vùng này là phạm vi thế lực của Lạt ma giáo, y đứng chân không được. Gặp lúc Thích Đạo An từ Hoa Thích Tử đến Mông Cổ, cũng muốn dựng chùa thu nhận học trò ở Mông Cổ. Hai người này dần dần cấu kết với nhau đả thương bát đại cao thủ của Lạt ma Hồng giáo. Pháp vương Hồng giáo sai đại đệ tử đến Thiên Sơn nhờ Đường Hiểu Lan giúp đỡ. Đường Hiểu Lan chẳng qua vì nể mặt pháp vương, vả lại ông cũng biết hai kẻ này đã làm không ít chuyện xấu ở miền Mông Tạng cho nên xuống núi ác đấu với hai ma đầu cả ngày trời. Cuối cùng dùng Du long kiếm chặt đốt ngón vô danh trên tay trái của Qui Tàng Tử, dùng Thiên Sơnthần mãng bắn bị thương Thích Đạo An. Từ đó về sau, hai kẻ này mai danh ẩn tích. Tính ra cũng gần ba mươi năm. Phùng Lâm đã từng nghe Đường Hiểu Lan kể chuyện này, nhưng vì đã qua nhiều năm, trong nhất thời không nhớ ra. Hai người này một cao một thấp, bộ dạng trông rất kỳ quặc, sau khi giao thủ, Phùng Lâm lại phát hiện đường lối võ công của chúng khác hẳn với các phái ở Trung Nguyên, lại thấy tay trái của đạo sĩ chỉ có bốn ngón, cuối cùng đã đoán được lai lịch của chúng. 

Hai người áo vàng bị Phùng Lâm nói ra lai lịch, gợi lại mối hận cũ thì đùng đùng cả giận. Thích Đạo An cười lạnh nói: “Ta đang muốn tìm đến phái Thiên Sơn, nay ngươi đã tự dẫn xác đến đây, vừa đúng lúc ta đang muốn thử Phật cương chưởng lực!” Qui Tàng Tử cũng cười lạnh: “Phải xem ai tha cho ai? Đạo huynh, tôi nhận ra mụ yêu tinh này là tiểu di của Đường Hiểu Lan, trước tiên chúng ta bắt mụ, không lo Đường Hiểu Lan không tìm đến, chúng ta đỡ phải đi đến Thiên Sơn.” Phùng Lâm ghét nhất là người khác nói mình như thế, thế là lửa giận bốc cao, lập tức sử dụng những chiêu sát thủ trong Thiên Sơn kiếm pháp. Một kiếm đâm tới có cả hư lẫn thực, biến ảo khó lường. Chỉ một cành cây nhưng tựa như hóa thành hơn mười thanh mộc kiếm. Qui Tàng Tử và Thích Đạo An đều cảm thấy bốn phương tám hướng có hình bóng của Phùng Lâm. 

Qui Tàng Tử kêu lên: “Không xong!” Chỉ nghe soạt một tiếng, nhành cây đã vạch một đường trên mặt của y. Cũng trong lúc này, Phùng Lâm cũng chợt ngửi thấy mùi máu tanh xộc vào mũi, dù bà ta né tránh nhanh lẹ nhưng cũng bị ngón tay của Thích Đạo An quét trúng vai. Trên áo còn để lại hai dấu ngón tay đỏ ửng! Chỉ thấy da mặt của Qui Tàng Tử toác ra, một đôi mắt âm dương càng lộ ra hơn. Té ra hai người này đều dùng mặt nạ bằng da. Qui Tàng Tử cố ý để cho bà ta quét trúng vào mặt nạ, Thích Đạo An nhân lúc bà ta chưa kịp rút kiếm về thì thừa cơ ra tay. Nếu trong tay của Phùng Lâm là một cây kiếm thanh cương thì y không dám mạo hiểm như thế. 

Phùng Lâm chỉ một lúc khinh địch mà suýt nữa đã thua to, đến khi bà ta đứng vững lại thì đã bị hai kẻ này chiếm mất vị trí có lợi? 

Hai lão già áo vàng năm xưa liên thủ đối địch, có thể ác chiến với Đường Hiểu Lan cả ngày, đủ thấy công lực thâm hậu đến mức nào. Phùng Lâm tuy có nhiều chiêu số phức tạp, nhưng rốt cuộc vẫn kém hơn Đường Hiểu Lan một bậc. Nếu trong tình huống bình thường, bà ta lấy một địch hai thì có thể đánh ngang sức với bọn chúng, nay đã hít phải mùi hương hoa Ma quỷ, lại bị Thích Đạo An dùng Độc huyết chưởng đánh trúng vai, thế là kéo dài được một lúc nữa thì không khỏi lọt xuống thế hạ phong. 

Độc huyết chưởng của Thích Đạo An là một môn công phu tà phái cực kỳ lợi hại, tuy không có uy lực như Tu la âm sát công, nhưng mỗi khi phát chưởng thì mùi máu tanh cũng đủ khiến cho người ta trúng độc. Phùng Lâm ngầm vận huyền công, cứ cách một thời gian thì đổi khí một lần, tuy không đến nỗi trúng độc nhưng hít phải mùi khí tanh ấy cũng cảm thấy nôn mửa. 

Cũng trong lúc này, bà ta nghe Lý Tâm Mai và Chung Triển đang đánh nhau ở hậu viên, bà cũng không dám gọi con gái, vẫn cứ nghĩ rằng Bạch Lương Ký và người áo vàng kia bất quá cũng chỉ đánh ngang sức với hai người họ. Bà ta định đánh bại hai tên ma đầu này rồi sẽ đến thu thập bọn chúng. 

Nào ngờ hai tên ma đầu này càng đánh càng dữ, bà ta không những không thể chiến thắng mà trái lại còn lọt xuống thế hạ phong. Mà công lực của Chung Triển và Lý Tâm Mai yếu hơn, chịu không nổi mùi hương hoa Ma quỷ, cuối cùng bị kẻ địch bắt sống. Khi Phùng Lâm nghe tiếng kêu cứu của con gái, bất đồ trong dạ rối bời. Bà ta mới vừa trả lời lại một tiếng thì lập tức thấy lục phủ ngũ tạng như đảo lộn. Té ra bà rối loạn tinh thần, chân khí tản mát. Đang lúc nguy cấp nhất, bà ta mở miệng thì hương hoa Ma quỷ và khí độc từ bàn tay của Thích Đạo An xông vào miệng! Phùng Lâm thấy mắt tối sầm, thầm kêu không xong. Ngay trong khoảnh khắc này, cây phất trần của Qui Tàng Tử mở rộng, cuộn lấy thanh kiếm của bà ta, hai ngón tay của Thích Đạo An cũng đã đâm vào hông bà ta kêu vù một tiếng. Phùng Lâm kinh hoảng, tưởng rằng đã sắp bị độc chưởng của kẻ địch đánh tới. Chuyện không ngờ đã xảy ra, chỉ nghe Thích Đạo An kêu rú lên, tiếp theo là tiếng gào của Qui Tàng Tử. Cả hai người này gào rú như hai con dã thú bị thương. Phùng Lâm chưa kịp biết xảy ra chuyện gì thì cả hai đã bỏ Phùng Lâm phóng vọt qua bức tường chạy mất! Phùng Lâm định thần lại, thở phào ra một hơi, chỉ thấy sao trời lấp lánh, vầng trăng đang ở trên cao, từng đóa hoa lay nhẹ trong gió, đến khi nhìn lại thì chẳng thấy ai nữa. 

Phùng Lâm ngạc nhiên bởi vì theo tình hình ấy, chắc chắn là có cao nhân ngầm giải cứu, nhưng tại sao người đó lại không xuất hiện. Vả lại người đó vừa ra tay thì có thể khiến cho hai ma đầu tháo chạy, đủ thấy bản lĩnh cao hơn Thống Thiền thượng nhân và Kim Quang đại sư. Trên đời này chỉ có Mạnh Thần Thông có thể làm được điều đó, nhưng Mạnh Thần Thông chắc chắn không cứu bà ta, vậy thì người đó là ai? 

Phùng Lâm ngẩn người ra, nghĩ bụng: “Dù y là ai, tóm lại cũng là người phe chúng ta, y có thể ngầm giúp mình, đương nhiên cũng có thể giúp Mai nhi. Với hạng có võ công như Thích Đạo An và Qui Tàng Tử mà chẳng đỡ nổi một đòn của y, đám người Bạch Lương Ký thì không cần phải nói nữa. Mình đâu cần phải lo cho Mai nhi?” Phùng Lâm suy luận vốn rất có lý, nào ngờ đến phía sau tìm xung quanh mà chẳng thấy bóng dáng của con gái và Chung Triển đâu. Đến khi vào tịnh thất thì cả Cốc Chi Hoa cũng biến mất! Ở góc phía tây bắc trong vườn có tiếng kêu soạt soạt. 

Phùng Lâm chợt bừng tỉnh, ở trong điện Huyền Nữ phía tây bắc có mười hai người đang trị thương, trong đó chín người là đệ tử của phái Võ Đang. Họ đều bị độc hỏa của Đồ Chiêu Minh đốt cháy, bị thương rất nặng. Tuy đã bôi thuốc kim sang, tính mạng không còn nguy hiểm nhưng trong khoảng thời gian ngắn không thể nào khôi phục công lực, chẳng may kẻ địch tìm tới họ thì hậu quả thật khó tưởng tượng. 

Nghe tiếng loạt soạt tựa như họ đang bò dậy, Phùng Lâm lạnh mình, tại sao họ phải bò dậy? Có thể đoán rằng, dẫu không phải kẻ địch xông vào, chắc chắn họ cũng đã phát hiện ra tông tích của kẻ địch. Phùng Lâm vội vàng quay lại điện Huyền Nữ. 

Nhưng không ngờ có một chuyện càng kỳ lạ hơn. Vì bà ta quá gấp, không màng đến thân phận của mình cho nên đẩy cửa xông vào. Vừa bước vào cửa thì thấy hai thanh trường kiếm chĩa trước ngực mình, đó là Tùng Thạch đạo nhân và Quách Gia Mạc. 

Bản lĩnh của Phùng Lâm hơn hẳn họ, đương nhiên không đến nỗi bị thương, nhưng vì bất ngờ cho nên suýt chút nữa bị mũi kiếm của họ đâm trúng. Khi mũi kiếm còn cách người ba thước bà ta mới phất tay áo quét mũi kiếm của họ sang một bên. Họ phát hiện ra Phùng Lâm thì lập tức dừng tay. Phùng Lâm vừa nhìn thì thấy chín đệ tử của phái Võ Đang đều đứng ở trong điện. Ai nấy đều cầm kiếm bày thành kiếm trận cửu cung, ngoài ra ba người bị thương hình như cũng đã khỏi, tay cầm binh khí đứng ở giữa tiếp ứng. Phùng Lâm lại còn thử được công lực của Tùng Thạch đạo nhân và Quách Gia Mạc, ít nhất họ cũng đã khôi phục được năm thành công lực. 

Đó vẫn chưa tính là kỳ lạ, điều kỳ lạ là không khí trong phòng có mùi thơm thoang thoảng, đó là mùi thơm của Thiên Sơn liên. Phùng Lâm ngạc nhiên, vội vàng hỏi: “Chuyện gì thế?” 

Hồi Thứ Ba Mươi Sáu

Tùng Thạch đạo nhân cũng ngạc nhiên, hỏi: “Phùng tiền bối, lúc nãy khi chúng tôi hôn mê, bà có đến đây không?” Phùng Lâm nói: “Không có! Này, chúng ta khác môn phái, dù ta lớn hơn các ngươi vài năm, ngươi cũng không nên câu nệ, đừng gọi ta là tiền bối!” Tuy Phùng Lâm đã gần lục tuần, nhưng dung mạo cũng chỉ như người bốn mươi, vả lại vẫn còn ngang ngạnh như thời trẻ, ghét nhất là bị người ta bảo mình già. 

Tùng Thạch đạo nhân thộn mặt ra, ấp úng: “Vậy người cứu chúng tôi tỉnh chắc là người khác?” Phùng Lâm nói: “Đương nhiên là người khác, nói mau, nói mau, chuyện gì xảy ra?” Tùng Thạch đạo nhân nói: “Trời tối không được bao lâu, chúng tôi nghe bên ngoài tựa như có tiếng đánh nhau, tôi cố gắng ngồi dậy, chợt cảm thấy có một mùi hương kỳ lạ khiến tôi rã rời gân cốt, rất khác với mùi hương đang còn trong phòng.” Phùng Lâm nói: “Ta biết, mùi hương lúc đầu các ngươi ngửi phải là hương hoa Ma quỷ.”, thầm nhủ: “Trong phái Võ Đang, võ công của Tùng Thạch đạo nhân chỉ kém Lôi Chấn Tử, chả trách nào y đã ngửi phải mùi hoa Ma quỷ mà vẫn có thể gắng gượng ngồi dậy được.” Tùng Thạch đạo nhân nói: “Tôi cố gắng dùng lực nhưng người cứ rã rời, trong đại điện chẳng hề có âm thanh gì, tôi nhìn xung quanh thì các sư đệ đều nhắm mắt tựa như đã hôn mê. Tôi lo lắm, lại hít hai hơi nữa, lập tức cảm thấy đầu váng mắt hoa, không lâu sau thì cũng bất tỉnh nhân sự.” Phùng Lâm thầm nhủ: 

“Nếu lúc đó có kẻ địch xông vào trong điện thì hậu quả khó tưởng tượng. Mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đến gặp Lôi Chấn Tử và Thống Thiền thượng nhân.” Tùng Thạch đạo nhân tiếp tục nói: “Cũng không biết trải qua bao lâu, tôi lại cảm thấy có một luồng hương thơm len lỏi vào tâm phế, vả lại trong người hình như có một luồng hơi ấm chạy qua, rất dễ chịu. Trong cơn mơ màng tôi tựa như thấy có người ngồi bên cạnh, nhưng khi mở mắt ra thì chẳng thấy ai cả. Không bao lâu thì các sư đệ cũng lần lượt tỉnh dậy, kể rằng mọi người đều có cảm giác như nhau, những nơi bị thương đều không cảm thấy đau nữa, thử lại thì công lực của mọi người đã hồi phục được bốn năm phần. Lúc này chúng tôi đã nghe rõ bên ngoài có tiếng gào thét, biết rằng kẻ địch đã tiến vào trong, bởi vậy chúng tôi bày kiếm trận cửu cung, định rằng kẻ địch xông vào thì cũng có thể chặn lại một hồi. Không ngờ là tiền bối... là Phùng nữ hiệp vào, đã mạo phạm bà. Chắc là Phùng nữ hiệp đã đuổi kẻ địch.” Phùng Lâm đỏ mặt, thầm kêu: “Hổ thẹn!”, nói: “Đây là mùi thơm Thiên Sơn liên, chắc là khi các người hôn mê, đã có người nhét bích linh đơn vào miệng. Người đó là ai trước mắt ta vẫn chưa đoán được. May mà các ngươi đều có thể đi lại được, chúng ta cứ đi tìm Thống Thiền thượng nhân và Kim Quang đại sư, gặp họ có thể biết được một chút manh mối.” Thế là Phùng Lâm dắt họ trở ra, vừa đi vừa suy nghĩ, chỉ có phái Thiên Sơn mới có bích linh đơn, bà ta cũng đem theo ba viên, nhưng ở đây có đến mười hai người bị thương thì làm sao chia, cho nên không lấy ra. Lòng thầm nhủ: “Chả lẽ Hiểu Lan và tỷ tỷ của mình đến? Nếu không phải họ thì ai có nhiều bích linh đơn đến thế? Nhưng nếu là họ thì làm sao không chịu gặp mặt mình? Họ xưa nay không thích trêu đùa người khác, càng không thể đùa với mình.” Phùng Lâm dù thông minh, chỉ vì bà ta cho rằng Kim Thế Di đã chết, trong nhất thời không nghĩ rằng đó là chàng. Số là Kim Thế Di sau khi trở về đã từng đến Thiên Sơn, âm thầm đến thăm Lý Tâm Mai, chàng đã ở lại Thiên Sơn ba ngày mà chẳng ai phát hiện. 

Trong ba ngày này, chàng đã đến thăm Lý Tâm Mai mấy lần, mỗi lần đều gặp Chung Triển bên cạnh Lý Tâm Mai. Chàng nhận ra tình cảm của Chung Triển dành cho Lý Tâm Mai, cũng nhận ra Lý Tâm Mai tuy vẫn yêu thương mình, nhưng đối với Chung Triển thì cũng thân như huynh muội. Từ tình cảm của hai người họ, có thể đoán rằng chỉ cần mình không lộ mặt, Lý Tâm Mai không biết mình vẫn còn sống, ngày tháng kéo dài thì cả hai người họ sẽ đến với nhau. Chính vì Kim Thế Di nghĩ như thế cho nên chàng đã ngầm giúp Giang Nam, Phùng Lâm, Băng Xuyên thiên nữ nhưng từ đầu đến cuối vẫn không xuất hiện. 

Chàng ở Thiên Sơn ba ngày, tiện tay hái mười mấy đóa Thiên Sơn liên, chế thành ba mươi viên bích linh đơn, không ngờ nay lại dùng đến, cứu được đệ tử phái Võ Đang. 

Sau khi Phùng Lâm đuổi theo mọi người, gặp mặt Thống Thiền thượng nhân thì mới biết không phải họ cứu con gái mình. Đường Hiểu Lan cũng không đến, mọi người đều không đoán được ai đã giúp mình. Giờ đây mối lo lớn nhất của mọi người là tung tích của Cốc Chi Hoa, Lý Tâm Mai và Chung Triển, nhưng đại địch ở phía trước, họ không thể nào đi tìm được, Phùng Lâm đành phải đến Tung Sơn trước. Cốc Chi Hoa được Phùng Lâm dùng Đại tạng giải huyệt thần công giải huyệt cho nàng, tuy chưa lập tức thấy có hiệu quả, nhưng cũng đã kích thích được thần kinh của nàng khiến cho nàng có được một chút tri giác, rơi vào trong trạng thái mơ màng. Trong mơ, nàng thấy như mọc một đôi cánh, bay trong mây gió, trong mông lung nàng cảm thấy Kim Thế Di bước đến bên cạnh mình, lại còn nhẹ nhàng vỗ về mình. 

Nàng lập tức thấy khí huyết lưu thông, tứ chi thoải mái, Cốc Chi Hoa ngày đêm luôn nhớ đến Kìm Thế Di, lúc này nàng có tri giác, mắt chưa mở nhưng miệng thì kêu khẽ : “Thế Di! Thế Di!” Chợt nghe một giọng nói quen thuộc gọi bên tai: “Chi Hoa, đúng thế, là huynh!” Cốc Chi Hoa giật mình, mở mắt ra, trước mắt nàng quả nhiên là Kim Thế Di. Trong khoảng sát na này, nàng không biết là thật hay là mơ, chỉ cảm thấy Kim Thế Di nắm chặt tay mình, dịu dàng nói: “Muội đừng sợ, là huynh, huynh chưa chết!” Cốc Chi Hoa bất giác nắm chặt tay chàng. Đúng thế, nàng quả thật sợ hãi, nhưng không phải sợ Kim Thế Di là ma, mà sợ chuyện đang xảy ra trước mắt là ảo ảnh, nàng vẫn còn nghĩ mình đang nằm ác mộng! Dần dần nàng cảm nhận được hơi ấm trong lòng bàn tay của Kim Thế Di, nghe tiếng tim chàng đập, nàng cảm thấy mình đang nắm tay một người có máu có thịt, đây không phải là trong mơ, cũng không phải là ảo ảnh! Cốc Chi Hoa hoang mang, khẽ hỏi: “Đây là đâu? Sao huynh lại ở bên cạnh muội? Họ đâu? Họ ở đâu? Sao chỉ có hai người chúng ta?” Kim Thế Di nói: “Đây là một sơn động, muội bị Mạnh Thần Thông điểm huyệt đạo, họ đưa muội vào Huyền Nữ quán trị thương, huynh len lén đưa muội ra đây, họ không biết.” Cốc Chi Hoa định thần, thần trí dần dần tỉnh táo trở lại, chuyện lúc nãy lướt qua trong đầu nàng! Trước mắt nàng hiện ra cảnh tượng ác đấu lúc nãy, người cha hung thần ác sát của nàng toan giết hại chưởng môn sư tỷ, trong lúc gay cấn nhất, nàng đã nhảy ra chặn cha lại, nàng nhớ những câu nói giữa mình với cha, cha nàng từ chối điều đình, ánh mắt từ hòa lúc nãy lại đầy sát khí... Nàng nhớ rằng mình rút kiếm tự sát, cảnh tượng cuối cùng là Lý Tâm Mai kêu thét lên, chạy về phía nàng. 

Cốc Chi Hoa thầm nhủ : “Ồ! Té ra muội vẫn chưa chết, muội bị ông ta... bị ông ta điểm huyệt đạo. Ôi, trời ơi, tại sao huynh không để cho muội chết đi?” Trongkhoảnh khắc này nàng thấy lòng rối như tơ vò, ruột đứt từng khúc! Kim Thế Di chợt thấy lòng bàn tay nàng lạnh lẽo, vội vàng an ủi: “Chi Hoa, tất cả đã qua rồi, hãy coi đó là một cơn ác mộng. Ông trời thương xót nên cho chúng ta gặp lại nhau, từ rày về sau chúng ta mãi mãi không xa rời nhau, đừng để ý đến những người không liên quan nữa.” Ngay lúc này, từ xa vọng lại một tiếng hú, Cốc Chi Hoa không khỏi giật mình, đó là tiếng hú của cha nàng. Té ra ngay lúc này, Mạnh Thần Thông đã vượt vòng vây, chạy xuống Mang Sơn. Y hú lên là để liên lạc với đồ đệ của mình. 

Kim Thế Di nghe được tiếng hú của Mạnh Thần Thông cũng giật mình, từ tiếng hú ấy chàng có thể nghe được Mạnh Thần Thông đã tổn hao nguyên khí, nhưng không phải bị trọng thương. Trong khoảnh khắc này, hình bóng của Lệ Thắng Nam lại hiện lên trong lòng chàng, Mạnh Thần Thông bị thương không nặng, vậy Lệ Thắng Nam như thế nào? Có phải lưỡng bại câu thương? Nhưng ngay lúc này Kim Thế Di không thể phân tâm nghĩ đến Lệ Thắng Nam. Chàng nắm tay Cốc Chi Hoa, chợt thấy bàn tay run rẩy thì giật mình. Cốc Chi Hoa đã rút tay ra khỏi tay chàng. Kim Thế Di ngạc nhiên nhìn nàng, sắc mặt của nàng lúc này trắng bệt! Lần này Cốc Chi Hoa lên núi vốn là có hy vọng dùng tình cha con để lay động Mạnh Thần Thông, không ngờ lại có kết quả như thế này! Nàng đã nghe thấy tiếng hú của Mạnh Thần Thông, nhưng tiếng hú ấy khiến cho sóng lòng nàng dâng trào dữ dội. 

Kim Thế Di khuyên nàng cứ coi quá khứ là một cơn ác mộng, nhưng giờ đây ác mộng vẫn chưa qua đi, trong sơn động tuy yên tĩnh nhưng có thể tưởng tượng trên Mang Sơn vẫn đầy gió tanh mưa máu. Điều khó chịu nhất là, giờ đây nàng không thể nào dự liệu được cơn ác mộng ấy có kết quả như thế nào, chưởng môn sư tỷ sống chết ra sao? Tôn sư các phái bị hành hạ như thế nào? Cha nàng sẽ có kết cuộc như thế nào? Nàng không thể khuyên nhủ được cha mình, võ lâm không thể tránh khỏi đại nạn, hậu quả sẽ như thế nào? Nàng không thể nào tưởng tượng nổi, nàng chỉ dự cảm được một điều, trong tình huống này dù có kết cuộc như thế nào thì cũng khiến nàng ôm hận suốt đời! Cốc Chi Hoa tỉnh dậy, nhưng giờ đây nàng rơi vào cơn hỗn loạn. Số là nàng cứng rắn hơn nữ nhi bình thường, nhưng dù nàng cứng rắn thế nào đi nữa cũng không thể nào chịu đựng nổi sự tổn thương nặng nề như thế này! Niềm hân hoan khi gặp lại Kim Thế Di lúc đầu không thể nào át nỗi cơn đau trong lòng nàng, ngọn lửa tình yêu đã nguội lạnh, càng lúc càng lạnh, lạnh đến nỗi nàng hầu như mất cảm giác đối với tình yêu! Trong tâm trạng như thế, Cốc Chi Hoa làm sao có thể tỏ bày tâm sự với Kim Thế Di, đón nhận sự yêu thương ngọt ngào của chàng? 

Hai người lặng lẽ chẳng nói, từ ánh mắt của Cốc Chi Hoa, chàng có thể nhìn ra nỗi khổ trong lòng nàng, nhưng biết nói gì để an ủi nàng đây? 

Ánh trăng rọi vào sơn động, đêm đã khuya, trời càng lạnh hơn, lòng người cũng lạnh. Cốc Chi Hoa cắn răng, thầm nhủ: “Hôm nay mình may mắn chưa chết, mình phải chọn một nơi không có người để sống nốt quãng đời còn lại.” Kim Thế Di lại nắm lấy bàn tay của nàng, trầm giọng nói: “Chi Hoa, huynh đã thấy tất cả những gì muội làm, muội đã dốc hết sức mình, võ lâm không thể nào thoát khỏi được kiếp nạn cũng chẳng phải là lỗi của muội.” Chàng vốn nói: “Điều muội không làm được huynh sẽ làm hộ muội.” Nhưng chàng nghĩ lại mình có thể làm được gì? Quá lắm chỉ là giúp Lệ Thắng Nam giết chết Mạnh Thần Thông, chuyện này chàng có thể làm lén lút nhưng làm sao nói trước mặt Cốc Chi Hoa khiến cho nàng càng thêm đau lòng? 

Nhưng như thế thì những lời an ủi của chàng giành cho Cốc Chi Hoa chẳng phải cũng là lời nói suông hay sao? Cốc Chi Hoa ngẩng đầu lên, nói: “Thế Di, đa tạ huynh đãcứu muội, huynh có con đường của huynh, muội có con đường của muội, hôm nay gặp lại huynh, muội cũng đã mãn nguyện, không dám đòi hỏi gì thêm. Huynh đi đi!” Kim Thế Di đứng trước cửa động, run giọng nói: “Chi Hoa, muội... muội đi đâu? Muội có nhớ trước khi qua đời, sư phụ của muội đã trao Huyền nữ kiếm phổ cho muội, bảo muội phải kế thừa y bát của người? Muội đã từng kể với huynh như thế. Muội cũng từng bảo, dù có chịu thiệt thòi đến mức nào cũng không thể phụ công lao vun bồi của sư phụ đối với muội!” Cốc Chi Hoa giật mình, nàng đương nhiên nhớ, nàng đã nói như thế với Kim Thế Di sau khi bị Tào Cẩm Nhi đuổi ra khỏi sư môn. Nỗi oan khuất lúc đó chẳng là gì so với cảnh ngộ hôm nay. Nàng không biết cục diện bên ngoài đã như thế nào, cũng không biết khi mình hôn mê thì Tào Cẩm Nhi đã tuyên bố cho phép nàng trở lại sư môn, lòng chỉ thầm nhủ: “Không biết có bao nhiêu người tử thương dưới tay cha mình, phái Mang Sơn có thù sâu nhất với ông ta, chắc là số người tử thương đông nhất, dù mình may mắn không chết nhưng còn mặt mũi nào gặp lại đồng môn?” Song những câu lúc nãy cũng làm cho nàng phải suy nghĩ, chỉ một lúc sau thây nàng khẽ nói rằng: “Thế Di, đa tạ huynh đã nhắc nhở muội, huynh hãy yên tâm, vì sư phụ, muội sẽ sống. Thôi được, huynh đừng đi, muội sẽ đi!” Kim Thế Di rất cảm động, nói lớn: “Vậy tại sao chúng ta không đi cùng nhau? Nếu muội không muốn rơi vào vòng xoáy lần nữa, chúng ta hãy cùng đến một hoang đảo, ở đó chúng ta chẳng gặp ai, chẳng cần để ý đến chuyện gì. Chúng ta chỉnh lý phát dương võ học của sư môn, đến cuối đời thì chọn đệ tử có duyên, chẳng phải tốt hay sao?” Kim Thế Di đang nói đến những điều nàng nghĩ, nàng giật mình, bất giác dừng bước. Trong chớp mắt, một ý nghĩ khác lại dâng lên trong đầu, nàng nhớ đến Lý Tâm Mai: “Nay mình đã chán nản mọi thứ, chỉ sống vì sư phụ, cần gì mình phải gây trở ngại cho họ?” nàng mím môi, vẻ mặt lạnh lùng vô cùng, đẩy nhẹ Kim Thế Di rồi bước ra khỏi động. 

Nàng chẳng hề nói nửa câu, Kim Thế Di biết nàng đã quyết ý, không thể nào cứu vãn được. Chàng bất đồ nhích ra để Cốc Chi Hoa bước qua. Chàng không thểthuyết phục được nàng, dù cho có giữ nàng lại thì có ích gì? 

Cốc Chi Hoa thẩn thờ bước ra khỏi động, không ngừng tự hỏi mình: “Mình nên đi về đâu?” chợt những giọt nước mắt đã kìm nén từ lâu nay tuôn lả chả. Kim Thế Di nghe tiếng khóc thút thít, đuổi theo hỏi: “Chi Hoa, khoan đã, không được! Chả lẽ chúng ta mãi mãi chia tay nhau? Muội đợi huynh, huynh còn có lời muốn nói với muội!” Suýt tý nữa chàng đã đuổi theo kịp Cốc Chi Hoa, chợt một tiếng thét thê thảm vang lên, tựa như có người đang gọi tên chàng. Chàng ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy ởdưới một cây đại thụ có một thiếu nữ mặc áo đen xõa tóc, trợn mắt nhìn thẳng vào chàng tựa như một bóng ma! Kim Thế Di cả kinh, chỉ còn một bước nữa thôi thì chàng đã đuổi theo kịp Cốc Chi Hoa, nhưng chàng không thể cất bước được nữa, tựa như bị một sức mạnh vô hình giữ lại! Thiếu nữ mặc áo đen ấy chẳng phải ai khác mà chính là Lệ Thắng Nam! Chỉ thấy nàng trợn mắt nhìn xuống, máu từ khóe miệng trào ra, mặt nhăn nhó, tựa như đã bị thương nặng, đang phải cố kìm cơn đau. Đó đúng là chuyện không ngờ tới, Lệ Thắng Nam đột nhiên xuất hiện ở lúc gây cấn như một bóng ma. Kim Thế Di vốn là cùng Lệ Thắng Nam nấp trên đỉnh Mang Sơn thừa cơ trả thù. Chàng sở dĩ yên tâm rời khỏi Lệ Thắng Nam, để một mình nàng tính sổ với Mạnh Thần Thông là vì lúc đó Mạnh Thần Thông đang tỉ thí nội lực với Kim Quang đại sư. 

Vả lại Lệ Thắng Nam cũng đã có được hai món vật báu trong số ba vật báu của Kiều Bắc Minh để lại. Nàng mặc trên người san hô ngọc giáp, trong tay cầm cây bảo kiếm có thể chặt đá chém vàng, vì vậy mà Kim Thế Di có thể đoán rằng, dù nàng đánh lén không thành công nhưng cũng không đến nơi gặp nguy hiểm. Huống chi trong trường còn có những bậc cao nhân như Thống Thiền thượng nhân, Kim Quang đại sư, mà chàng lại đang nôn đi cứu Cốc Chi Hoa, nên sau khi trao bảo kiếm cho Lệ Thắng Nam thì đã yên tâm rời nàng. Không ngờ lúc này nàng đã xuất hiện trước mắt chàng mà đang bị trọng thương! Trong khoảnh khắc này, Kim Thế Di đột nhiên có một cảm giác cắn rứt, hối hận vì mình đã rời nàng, để cho nàng đơn đả độc đấu với đại ma đầu võ công tuyệt thế! Phía trước là Cốc Chi Hoa, phía sau là Lệ Thắng Nam, lúc này Kim Thế Di rối bới trong lòng, không biết làm thế nào? Khi chàng còn đang phân vân thì Cốc Chi Hoa đã đi vòng qua con đường núi, lẩn vào trong rừng, cả bóng dáng cũng chẳng còn. Kim Thế Di thở dài, chàng biết lần này chàng chẳng còn cơ hội gặp lại Cốc Chi Hoa! Chàng quay đầu lại bước tới trước mặt Lệ Thắng Nam, chỉ nghe Lệ Thắng Nam gằn giọng nói: “Tôi tưởng huynh có người khác nên chẳng thèm để ý đến tôi nữa?” nói chưa xong thì phun ra một ngụm máu tươi. 

Kim Thế Di nói: “Muội đừng giận, đợi khỏe rồi nói tiếp.” Chàng bắt mạch tay nàng, trước tiên thất kinh nhưng sau đó lại giận dữ nói: “Muội... muội dùng thủ đoạn gì để gạt ta?” Lệ Thắng Nam cười lạnh, đẩy tay Kim Thế Di ra, điềm nhiên nói: 

“Đúng, là tôi gạt huynh, huynh không cần màng đến tôi nữa, huynh cứ đuổi theo Cốc Chi Hoa, đi đi, đi đi!” Số là Lệ Thắng Nam chỉ bị thương giả, chẳng qua không phải là Mạnh Thần Thông đả thương nàng mà chính nàng đã tự làm cho mình bị thương. 

Vốn là nàng vì muốn ngăn không cho Kim Thế Di đuổi theo Cốc Chi Hoa cho nên đã dùng một loại huyền công tà phái trong bí kíp của Kiều Bắc Minh làm chấn thương kinh mạch tam tiêu của mình! Kinh mạch tam tiêu bắt nguồn từ đầu ngón tay áp út, đi lên giữa hai ngón, men theo mu bàn tay đến vùng cổ tay, ra tới ở giữa hai xương mặt ngoài cẳng tay, xuyên đến khuỷu tay, đi lên đầu mút mặt ngoài cánh tay, sau khi giao nhau với túc thiếu dương kinh, xuống huyệt khuyết bồn, phân bố ở vùng đản trung giữa ngực, liên tiếp với tâm tạng. Nếu bị tổn thương, nặng thì lập tức tâm tạng vỡ nát mà chết, nhẹ thì xuất huyết, từ đó tinh thần tê liệt, trở thành phế nhân. 

Nếu bị kẻ địch đánh chấn thương kinh mạch tam tiêu, Lệ Thắng Nam làm sao có thể còn đi được bảy tám dặm từ sân tỉ võ đến đây? Lại thêm hiện tượng tự gây tổn thương cho kinh mạch khác hẳn với bị ngoại lực tác động vào cho nên Kim Thế Di vừa bắt mạch thì lập tức phát hiện ra Lệ Thắng Nam tự hại mình! Kim Thế Di vừa kinh hãi vừa tức giận, dù chàng ở bên cạnh Lệ Thắng Nam ba năm, hiểu tính cách của nàng, nhưng vẫn không khỏi bất ngờ trước điều nàng đã làm. Dù Lệ Thắng Nam tự chấn động kinh mạch của mình nhưng nàng đã thật sự bị thương, nếu Kim Thế Di không kịp thời cứu chữa thì Lệ Thắng Nam sẽ chết, hoặc sẽ trở thành phế nhân. Trong tình huống như thế, Kim Thế Di làm sao có thể dám trách cứ nàng nữa? 

May mà nàng bị thương không nặng lắm, Kim Thế Di thi triển huyền công, một mặt giúp nàng cầm máu, cho nàng uống ba viên bích linh đơn, một mặt dùng chân lực của bản thân giúp nàng hồi phục công lực, thế là một canh giờ trôi qua, sắc mặt Lệ Thắng Nam dần dần có sắc máu, tinh thần cũng đỡ hơn. 

Kim Thế Di lắc đầu, nói: “Thắng Nam, coi như huynh sợ muội, sao muội lại có thể ngang ngạnh làm càn đến thế?” Lệ Thắng Nam cười lạnh: “Tôi còn chưa trách huynh bội tín bội nghĩa, huynh lại bảo tôi ngang ngạnh làm càn! Huynh đã có Cốc cô nương, Lý muội muội, làm sao còn nghe được lời tôi nói? Chỉ e khi tôi muốn nói với huynh thì huynh đã bỏ đi biền biệt cùng Cốc cô nương!” Kim Thế Di đỏ mặt, thầmnhủ: “Nếu không phải thấy Lệ Thắng Nam bị thương, mình quả thật đã đi cùng Cốc Chi Hoa.” Lệ Thắng Nam lại cười lạnh: “Thế nào? Có phải tôi đã nói đúng tim đen của huynh không? Giờ thì huynh có thể đuổi theo Cốc cô nương! Đi đi! Sao lại không đi?” Kim Thế Di ngẩng đầu, nhìn Lệ Thắng Nam rồi nói: “Giờ đây muội nói gì huynh cũng không muốn cãi. Chỉ muốn hỏi muội, huynh bội tín bội nghĩa chỗ nào?” lòng thầm nhủ: “Tuy ở hoang đảo mình làm vợ chồng giả với nàng, vì thúc tổ của nàng ép. Mình lại chẳng hề hứa với nàng chuyện gì, ba năm gần gũi cũng lấy lễ đối nhau, sao có thể nói là bội tín bội nghĩa?” chàng nghĩ chưa dứt thì Lệ Thắng Nam đã cười lạnh: 

“Ba năm trước trên đỉnh Kim Kê, huynh đã từng hứa với tôi những gì?” Kim Thế Di nói: “Huynh hứa cùng muội ra biển tìm bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, chẳng phải đã làm được rồi sao?” Lệ Thắng Nam nói: “Đúng thế, chuyện này đã làm được. 

Nhưng chuyện còn lại?” Kim Thế Di giật mình, ấp úng: “Chuyện còn lại là giúp muội báo thù, điều này...” Lệ Thắng Nam cười lạnh: “May mà huynh còn nhớ. Chuyện này huynh có làm được chưa?” Kim Thế Di đành phải nói: “Huynh tưởng hôm nay muội có thể làm được, ai ngờ... vẫn để đại ma đầu ấy chạy thoát!” Lệ Thắng Nam nói: “Té ra huynh cũng biết Mạnh Thần Thông đã chạy? Chuyện giúp tôi báo thù, huynh đã không làm được thì muốn bỏ mặc tôi? Đó chẳng phải là bội tín bội nghĩa sao? Huynh có giữ lời hay không?” Kim Thế Di bị nàng trách đến nỗi cứng họng. Chàng quả thật đã hứa với Lệ Thắng Nam, trước khi chưa giúp nàng trả thù thì không được rời nàng. 

Kim Thế Di thở dài, thầm nhủ: “Té ra nàng lấy điều kiện ấy để trói buộc mình, hôm nay vốn là thời cơ tốt nhất để giúp nàng trả thù, thời cơ mà qua đi thì không biết lúc nào mới có thể làm được. Ôi, nàng đúng là khắc tinh của mình!” Kim Thế Di hứa giúp Lệ Thắng Nam trả thù, đã bảo phải để chính tay nàng giết chết kẻ thù chứ không phải làm mọi chuyện cho nàng. 

Muốn đạt được mục đích này chỉ có hai cách, một là giúp nàng luyện thành võ công tuyệt đỉnh trong bí kíp của Kiều Bắc Minh. Lúc đó nàng có bản lĩnh thắng được Mạnh Thần Thông. Hai là tìm cách làm hao phí công lực của Mạnh Thần Thông, sau đó Lệ Thắng Nam đánh đòn cuối cùng. Hôm nay chàng chọn chính là cách thứ hai, nhưng vì có Cốc Chi Hoa và Lý Tâm Mai, chàng không muốn ra mặt, cho nên mới mượn tay Kim Quang đại sư, Thống Thiền thượng nhân làm hao phí công lực của Mạnh Thần Thông, nào ngờ Lệ Thắng Nam vẫn không trả được thù. 

Thời cơ vừa qua đi, Mạnh Thần Thông đã bặt tăm, vả lại dù có tìm được y, trả thù cũng không dễ. Hôm nay Kim Thế Di đã thấy bản lĩnh của Mạnh Thần Thông, biết rằng một mình Lệ Thắng Nam dù có luyện thành võ công tuyệt thế cũng chẳng đấu lại y. Vả lại không những vậy, Kim Thế Di tự thấy cũng không có cách gì thắng nổi, bởi vì mỗi người đều lấy được nửa bộ bí kíp, luyện đến cảnh giới cao nhất cũng chỉ kẻ tám lạng người nửa cân. Huống chi nửa phần nằm trong tay của Mạnh Thần Thông nghiêng về các loại võ công, nói ra thì Mạnh Thần Thông vẫn chiếm thượng phong. Tóm lại. nếu cứ làm theo lời hứa, đợi Lệ Thắng Nam trả thù xong thì mình mới được tự do, thật không biết ngày nào mình mới rời được nàng? Kim Thế Di thấy lòng rối như tơ vò, chàng liếc mắt thì thấy Lệ Thắng Nam đang rơi nước mắt, thút thí nói: “Thế Di, mấy năm qua muội đã liên lụy đến huynh, giờ đây muội còn trói buộc huynh, chắc là huynh đang oán hận muội, thôi đi, nếu huynh đã không chịu thì chúng ta cứ chia tay ở đây, từ rày về sau muội chết hay sống thì không cần huynh lo nữa. Thế Di, muội hứa với huynh, huynh không cần phải giữ lời hứa, muội cũng không bảo huynh bội tín bội nghĩa nữa.” Nàng thổn thức nói ra những lời này càng tỏ ra khổ sở đáng thương, hoàn toàn khác hẳn lúc nãy! Nói ra cũng lạ, chỉ cách đó một khoảng thời gian ngắn, Kim Thế Di buồn bực vì không thể nào thoát được nàng, nay nghe Lệ Thắng Nam oán trách như thế thì chợt cảm thấy hối hận, lòng thầm nhủ: “Nàng tựđánh đứt kinh mạch chẳng phải là mình ư! Nàng đã lấy lánh mạng ra giữ mình, mình lại cứ muốn thoát khỏi nàng, chả trách nào nàng mắng mình là kẻ bạc tình vô nghĩa!” 

Bởi vậy dù trong tim chàng đã có Cốc Chi Hoa nhưng cũng phải cảm động trước tấm thâm tình của Lệ Thắng Nam! Huống chi dẫu sao họ cũng đã sống với nhau ba năm trên đảo, sớm tối gặp nhau có lẽ chẳng có điều gì xảy ra, nay nếu đột nhiên chia tay thì Kim Thế Di cũng cảm thấy bất nhẫn. 

Nước mắt của Lệ Thắng Nam đã làm Kim Thế Di mềm lòng, chàng bất giác nhẹ nhàng nắm tay nàng, lau nước mắt cho nàng rồi nói: “Đại trượng phu đã nói ra một lời quyết không hối hận! Muội yên tâm, dù thế nào huynh cũng giúp muội trả mối huyết hải thâm thù!” Lệ Thắng Nam nín khóc, nhoẻn miệng cười, ngửa mặt hỏi: “Nếu mười năm mà muội vẫn chưa báo được thù?” Kim Thế Di nói : “Huynh sẽ mười năm không rời muội.” Lệ Thắng Nam nói: “Nếu suốt đời không báo được thù?” Kim Thế Di nói: “Huynh suốt đời không rời muội!” Lệ Thắng Nam nói: “Ồ, vậy chẳng phải đã liên lụy đến huynh sao? Thế Di, huynh đối với muội tốt như thế, muội thật không biết cảm kích huynh như thế nào!” nàng nói đến đây thì nước mắt lại rơi. Những câu ấy dịu dàng vô hạn, Kim Thế Di bất giác xao xuyến cõi lòng, chợt hình bóng của Cốc Chi Hoa tựa như hiện lên trước mặt mình, Kim Thế Di đỏ mặt, thẩn thờ buông tay Lệ Thắng Nam. 

Lệ Thắng Nam nói: “Huynh không chỉ có một kẻ thù, còn một người nữa có lẽ khó đối phó hơn Mạnh Thần Thông.” Kim Thế Di nói: “Sao huynh không nghe muội nói?” Lệ Thắng Nam nói: “Đến hôm nay muội mới phát hiện.” Thế là nàng kể lại việc bọn Tây Môn Mục Dã cùng đám người áo vàng đến quấy rối đại hội Mang Sơn, đương nhiên cũng nói ra lai lịch của Tây Môn Mục Dã và mối thù giữa y với nhà họLệ. 

Kim Thế Di nói: “Chả trách nào Mạnh Thần Thông bỏ chạy, té ra không phải bại trong tay Kim Quang đại sư.” Rồi thầm nhủ: “Tây Môn Mục Dã là người giỏi dùng độc nhất trong thiên hạ, mười hai kẻ áo vàng đi theo y bản lĩnh phi phàm, quả đúng là khó đối phó hơn Mạnh Thần Thông.” Nhưng vẫn nói: “Dù muội có bao nhiêu kẻ thù, dù khó khăn đến mức nào thì huynh cũng phải giúp muội.” Lệ Thắng Nam vái dài một cái rồi nói: “Suốt đời muội xem ra không thể nào trả ơn này, dù muội biến thành trâu thành ngựa cũng phải báo đại ơn đại đức của huynh!” Nàng nói một lời mà có hai ý, nàng vừa muốn bảo sẽ lấy thân đáp đền, nhưng Kim Thế Di lại chung tình với người khác, ơn đức này đã không thể báo được. Kim Thế Di vội vàng đỡ nàng dậy, giả vờ không biết điều nàng muốn nói, chỉ khẽ bảo: “Muội nói như thế, trước kia huynh bị thương bởi Mạnh Thần Thông chẳng phải muội đã trị cho huynh hay sao? Thôi được, giờ đây muội vừa mới bị trọng thương, không nên nghĩ càn nữa, cứ ở trong động này nghỉ ngơi một đêm cho khỏe. Sao muội lại có thêm một thanh bảo kiếm?” Lúc nãy Lệ Thắng Nam vái dài chàng thì thanh kiếm chạm xuống đất kêu lên keng một tiếng, Kim Thế Di mới để ý đó không phải là thanh kiếm của Kiều Bắc Minh để lại, nhưng vừa nhìn bao kiếm thì biết đó không phải vật thường, tựa như chàng đã nhìn thấy ở đâu đó. Kim Thế Di rất ngạc nhiên, bởi vậy đỡ nàng lên mới hỏi nàng. 

Lệ Thắng Nam cười: “Đó là báu vật gia truyền của một người bằng hữu của huynh, huynh có nhận ra không?” Kim Thế Di nhìn kỹ thì cười: “Té ra là Du long kiếm của Đường Kinh Thiên, chả trách nào lại quen đến thế. Muội đã đùa hơi quá trớn.” Đường Kinh Thiên xuất thân từ danh môn chính phái, tính cách vừa phiêu giật vừa nghiêm nghị, khác hẳn với tính cách cuồng phóng của Kim Thế Di, lại thêm vì có Băng Xuyên thiên nữ cho nên Kim Thế Di không thích chàng, thầm nhủ: “Cứ để cho tên tiểu tử thối Đường Kinh Thiên chịu mất mặt một chút cũng không sao. Nhưng sau này khó tránh thêm nhiều phiền phức!” Du long kiếm là báu vật trấn sơn của phái Thiên Sơn, Đường Hiểu Lan lại được công nhận là nhân vật đệ nhất võ lâm, mất cây kiếm này đối với phái Thiên Sơn là một mối nhục lớn, dù Đường Hiểu Lan rộng lượng nhưng nếu biết chuyện này chắc chắn cũng phải truy cứu. 

Lệ Thắng Nam thì lại điềm nhiên nói: “Muội chẳng phải đùa! Huynh đã quên tổ tiên của muội là đệ tử của Kiều tổ sư, mà muội lại từng dập đầu trước di thể của Kiều tổ sư, làm theo di huấn của người, như thế đã trở thành đệ tử cách thế của người! 

Trong di huấn của tổ sư có dặn, người lấy được bí kíp võ công của ông ta phải chuộc lại cái nhục năm xưa bị thất bại dưới kiếm của Trương Đan Phong, nay Trương Đan Phong đã chết.” Kim Thế Di cười: “Khi Kiều Bắc Minh viết di huấn ấy ít nhất cũng cách nay gần hai trăm năm. Ông ta không ngờ rằng chúng ta chính là truyền nhân của ông ta, phải đánh bại họ mới không phụ lòng Kiều Bắc Minh. Nay không những mộ phần của Trương Đan Phong chẳng còn mà chúng ta cũng chẳng biết hậu nhân của Trương Đan Phong là ai?” Lệ Thắng Nam nói: “Không phải thế, tuy không biết hậu nhân của Trương Đan Phong, nhưng theo muội biết, tổ sư khai sáng phái Thiên Sơn Hoắc Thiên Đô đã được Trương Đan Phong chỉ điểm, coi như cũng là một nửa truyền nhân của Trương Đan Phong. Nay muội lấy kiếm của Đường Kinh Thiên vẫn chưa đủ. 

Song trước khi muội báo được thù lớn, không rảnh gây sự với phái Thiên Sơn.” Kim Thế Di thất kinh, không ngờ Lệ Thắng Nam đã coi di huấn của Kiều Bắc Minh là thật, chỉ nghe nàng lại dịu dàng nói tiếp: “Thế Di, huynh cũng là người nhận ân huệ của Kiều tổ sư, nếu huynh giúp muội báo thù, lấy lại nửa cuốn bí kíp võ công, chúng ta có thể luyện đến mức thiên hạ vô địch, lúc đó không những phái Thiên Sơn phải cúi đầu mà các môn phái trong thiên hạ đều phải công nhận võ công của Kiều tổ sư là chí cao vô thượng, lúc đó mới không phụ lòng của Kiều tổ sư.” Kim Thế Di cười khổ nói: “Theo lời muội, chả lẽ chúng ta giết xong một Mạnh Thần Thông thì lại có thêm hai Mạnh Thần Thông?” Lệ Thắng Nam nói: “Mạnh Thần Thông tàn sát kẻ vô tội, điều đó mới làm cho võ lâm căm phẫn, sau khi chúng ta luyện bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh lại có thể không giết một người mà khiến các nhà các phái tâm phục khẩu phục! Không giấu gì huynh, ở đảo Hỏa sơn vài năm, muội ngày đêm đều suy nghĩ chính là làm thế nào để trả thù, làm thế nào để lập lại môn hộ nhà họ Lệ. Như thế mới có thể khiến cho võ lâm thần phục. Muội đã sớm có kế hoạch chu toàn.” Kim Thế Di nằm mơ cũng không ngờ Lệ Thắng Nam lại có dã tâm như thế, chàng ngẩn người, chậm rãi nói: “Kế hoạch gì, huynh cũng muốn nghe thử.” Lệ Thắng Nam hớn hở nói: “Giả sử như chúng ta có thể đánh bại Đường Hiểu Lan bằng kiếm pháp, chiến thắng Thống Thiền thượng nhân và Kim Quang đại sư bằng nội công, như thế trong thiên hạ có ai dám đến tranh hùng với chúng ta?” Kim Thế Di cười nói: “Muội đã quá coi thương võ lâm nhân sĩ!” Lệ Thắng Nam nói: “Lúc nãy muội chỉ nói một phần kế hoạch, trong nhất thời cũng không thể nói được nhiều, tóm lại chỉ cần huynh nghe lời muội, muội tự có thủ đoạn có thể không giết một người mà khiến cả thiên hạ phải cam tâm nghe theo!” Kim Thế Di thầm nhủ: “Dù dùng thủ đoạn như thế nào cũng chỉ giống với Mạnh Thần Thông. Nếu nàng có dã tâm như thế thì sau này võ lâm sẽ không yên ổn.” Chỉ nghe Lệ Thắng Nam tiếp tục nói: “Từ sau khi Kiều tổ sư ra biển, hai trăm năm nay Lệ gia của muội mai danh ẩn tích, không dám lộ mặt trên giang hồ. 

Cho nên các đời nhà muội đều phải tìm bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh. Nay nhà họ Lệ chỉ còn một mình muội, muội làm sao phụ lòng mong mỏi của các đời tổ tiên!” 

Kim Thế Di chưa bao giờ sợ thứ gì, nhưng nghe nàng nói như thế thì bất giác không lạnh mà run, thầm nhủ: “Từ nhỏ nàng đã được dạy dỗ như thế, chả trách nào lại có ý nghĩ này?” Chàng biết tính cách của Lệ Thắng Nam, nàng đã nghĩ gì thì quyết phải làm cho bằng được, trong nhất thời cũng khó làm cho nàng bỏ đi ý nghĩ này, chỉ đành nói: “Đây là việc lớn, sau này chúng ta sẽ từ từ thương lượng, muội vừa mới khỏe, không nên hưng phấn quá độ, chi bằng cứ nghỉ ngơi sớm thì tốt hơn.” Lệ Thắng Nam tìm mọi cách giữ Kim Thế Di được thì lòng đầy tự tin, tưởng rằng từ rày về sau chàng sẽ nghe lời mình, lúc này nghe chàng bảo như thế tuy không hài lòng lắm nhưng Kim Thế Di cũng không phản bác mình, nàng nghĩ bụng chỉ cần giữ Kim Thế Di lại, sau này sẽ có cách khiến cho chàng phải cúi đầu nghe theo, vả lại nàng cũng thực sự đã mệt mỏi, cần phải nghỉ ngơi, cho nên từ từ chìm vào giấc ngủ. 

Kim Thế Di canh một bên nàng, ý nghĩ dâng trào, không biết thế nào mà chàng cảm thấy lạnh đến thấu tim! Ánh trăng len qua kẽ động chiếu xuống, Lệ Thắng Nam đang ngủ rất say, đôi môi đang mỉm cười, chắc là nàng đang thấy một giấc chiêm bao đẹp, dưới ánh trăng Lệ Thắng Nam xinh đẹp như hoa. Ba năm qua chàng không biết đã thấy Lệ Thắng Nam ngủ bao nhiêu lần, nhưng không có một lần nào đáng yêu như lúc này, có điều trong lòng chàng đang dâng lên một nỗi lo sợ. Không phải đêm nay mới có nỗi lo sợ ấy, ba năm qua mỗi khi ngồi một mình bên cạnh Lệ Thắng Nam, chàng đều cảm thấy một nỗi lo sợ vô danh. Nhưng đêm nay nỗi lo sợ ấy rõ ràng hơn hết khiến chàng hầu như không dám nhìn vào nụ cười của Lệ Thắng Nam! “Từ ngày quen biết đến nay, nàng vẫn cứ đeo bám mình, tựa như cái bóng của mình, khiến mình không thể nào thoát ra được. Nàng thực lòng yêu thương mình hay có dụng tâm nào khác? Mình đã giúp nàng lấy được bí kíp của Kiều Bắc Minh, giúp nàng luyện võ công thượng thừa trong bí kíp, nay lại giúp nàng trùng chấn gia thanh, xưng hùng thiên hạ!” Ý nghĩ dâng trào, Kim Thế Di không dám nhìn nàng, trên người nàng vẫn còn vết máu, Kim Thế Di không khỏi lại rùng mình, lúc này trong nỗi lo sợ có vài phần cảm động, đúng thế dù nàng có dụng tâm khác nhưng cũng không thể phủ nhận rằng nàng có chân tình đối với mình. 

Vầng trăng bên ngoài bị mây đen che khuất, trong động tối om, Kim Thế Di chợt có một cảm giác kỳ quặc, chàng cảm thấy mình bị Lệ Thắng Nam lôi xuống một cái hố sâu đen tối không đáy! Trong khoảng sát na này, chàng không khỏi nhớ đến Cốc Chi Hoa, cả hai nàng thiếu nữ đều xinh đẹp như hoa nhưng lại có tính cách khác nha.! 

Cốc Chi Hoa như buổi sáng trong lành, dù trong lúc nàng đau thương thất ý nhất, người ta cũng cảm nhận được một tia hy vọng hướng thượng từ nàng! Cảm thấy được sự thiện lương, chính nghĩa, khoan hòa! Còn ở Lệ Thắng Nam, chàng chỉ cảm thấy giả dối, tà ác và dã tâm! “Không biết giờ đây Cốc Chi Hoa đang ở đâu? Chả lẽ suốt đời này mình phải theo Lệ Thắng Nam, cùng nàng rơi xuống vực thẳm đen tối?” Kim Thế Di nghĩ đến đây thì đột nhiên đánh liều bước qua khỏi người Lệ Thắng Nam, len lén bước ra. 

Chợt cũng trong khoảnh khắc này, ánh trăng lại chiếu vào, Lệ Thắng Nam đột nhiên trở mình, nụ cười đã tắt, chả lẽ nàng đã gặp chuyện gì không như ý trong mơ? Đôi môi khép chặt tựa như có mấy phần u oán, mấy phần sầu khổ. 

Kim Thế Di dừng bước, lòng thầm trách mình: “Mình đã nói mà sao không giữ lời? Nàng dang ôm mối huyết hải thâm thù, hiu quạnh trơ trọi mà mình lại nhẫn tâm để một mình nàng đối phó với Mạnh Thần Thông? Ôi, hình như mình đã nghĩ ngợiquá nhiều. Dù nàng có mấy phần tà khí nhưng cũng vì từ nhỏ đã được dạy dỗ như thế, rồi sẽ có một ngày nàng có thể thay đổi. Mình bỏ mặc nàng, chả phải nàng sẽ càng dấn thân vào con đường tà ác hay sao?” thế là Kim Thế Di ngừng lại, ngồi xuống bên cạnh Lệ Thắng Nam cho đến trời sáng! 

Hồi Thứ Ba Mươi Bảy

Lệ Thắng Nam trải qua một đêm ngon giấc, sáng sớm hôm sau tỉnh đậy thì mặt hồng hào trở lại, tinh thần đầy đủ, công lực cũng khôi phục được bảy tám phần. Sau khi nàng tỉnh dậy thấy Kim Thế Di nằm ngủ thiếp bên người thì cười khanh khách, gọi chàng dậy, nàng cười Kim Thế Di tham ngủ, nàng hình như không biết suốt đêm qua chàng chẳng hề chợp mắt, lại còn định rời bỏ nàng. 

Hai người quay lại bãi chiến trường hôm qua, chỉ thấy thây chết đầy nội thảm khốc vô cùng, Lệ Thắng Nam nói: “Cơ hội này đã qua, chỉ đành tìm một cơ hội khác. Huynh nói thử xem, chúng ta nên tìm Mạnh Thần Thông hay Tây Môn Mục Dã trước?” Kim Thế Di nói: “Trong khoảng thời gian ngắn không thể tìm ra hai người bọn chúng. Muội cũng không thể nôn nóng được. Huynh có một việc phải làm gấp.” 

Lệ Thắng Nam cười nói: “Muội biết, huynh muốn đi cứu Lý Tâm Mai của huynh, muội không hiểu tại sao huynh đã vào đến Huyền Nữ quán mà còn để cho nàng bị kẻ địch bắt?” Kim Thế Di nói: “Ô, sao muội biết?” Lệ Thắng Nam nói: 

“Muội thấy Bạch Lương Ký dùng chiến bào bọc lấy một người, lúc đầu muội chẳng biết là ai, nhưng sau đó tóc nàng xổ ra cho nên muội mới biết là Lý Tâm Mai.” Kim Thế Di nói: “Muội làm sao biết đúng là nàng ta?” Lệ Thắng Nam nói: “Đâu có gì khó đoán! Trong Huyền Nữ quán có ba nữ nhi, Phùng Lâm thì không thể bị y bắt được, nếu không phải Cốc Chi Hoa thì Lý Tâm Mai.” Kim Thế Di đoán thời gian, chả lẽ đêm qua khi chàng bế Cốc Chi Hoa ra tới sơn động thì Lệ Thắng Nam đã trở lại Huyền Nữ quán, chắc nàng đã nghe tất cả những lời hai người nói. Như thế nhất cử nhất động của mình đều nằm trong dự liệu của nàng. 

Lệ Thắng Nam hỏi: “Được, đến lượt huynh trả lời muội, tại sao lúc đó lại cố ý để cho nàng bị kẻ địch bắt, giờ mới đi cứu nàng?” Kim Thế Di nói: “Đêm qua ngoại trừ thấy Bạch Lương Ký, muội còn gặp ai?” Lệ Thắng Nam nói: “Còn gặp một người áo vàng, cũng giống như Bạch Lương Ký, dùng chiến bào bắt một tù binh, muội thấy người ấy là đàn ông nhưng không biết là ai.” Kim Thế Di nói: “Là Chung Triển, đệ tử của Đường Hiểu Lan.” Lệ Thắng Nam chưng hửng, rồi bật cười: “Được, huynh không cần nói nữa, muội cũng biết dụng ý của huynh.” Té ra Kim Thế Di đã nghe lén cuộc nói chuyện của Lý Tâm Mai và Chung.Triển, đã biết Lý Tâm Mai có tình cảm rất tốt với Chung Triển, chỉ vì chưa có cơ hội bộc lộ mà thôi. Chàng lại biết Bạch Lương Ký bắt Chung Triển và Lý Tâm Mai làm con tin, định sau này sẽ đến uy hiếp Đường Hiểu Lan, vì thế mới để mặc cho Bạch Lương Ký và người áo vàng bắt sống họ, sau đó ngầm sắp xếp diệu kế để giúp họ. 

Kế hoạch của Kim Thế Di là để Chung Triển và Lý Tâm Mai bị bắt sống, mình sẽ đi giải cứu. Đầu tiên thì giúp Chung Triển tỉnh dậy, khôi phục võ công, ngầm giúp y đánh bại kẻ địch, với bản lĩnh của chàng thì muốn thắng bọn chúng chẳng phải chuyện khó, vả lại không cần lộ mặt cũng có thể làm được. Như thế bề ngoài có nghĩa là Chung Triển đã cứu Lý Tâm Mai, cả hai người họ trải qua hoạn nạn thì đương nhiên tình cảm sẽ tăng thêm một bậc. 

Lệ Thắng Nam đã đoán được dụng ý của Kim Thế Di, nàng chỉ nghĩ Kim Thế Di sắp xếp như thế là vì mình, thầm mừng, nhủ rằng: “Cứ để Lý Tâm Mai có nơi có chỗ trước, mình cũng bớt đi một tình địch, chỉ còn lại một Cốc Chi Hoa, lúc đó thì càng dễ ứng phó hơn.” Bạch Lương Ký là phó thống lĩnh ngự lâm quân. Kim Thế Di đoán rằng y bắt Lý Tâm Mai thì nhất định sẽ giải về kinh sư, bởi vậy sau khi xuống Mang Sơn, chàng và Lệ Thắng Nam lên đường đến Bắc Kinh. 

Hai người đi đường nhanh hơn người thường, mỗi ngày chỉ nghỉ vài canh giờ, ba ngày sau mới đến một trấn nhỏ tên gọi Long Nghiệp mới phát hiện tung tích Bạch Lương Ký. Bạch Lương Ký và người áo vàng cùng ngồi một chiếc xe ngựa. Ngoài ra còn có một tên đánh xe. Kim Thế Di âm thầm bám theo, thấy bọn chúng đến một căn khách sạn thì cả hai người họ mới tìm nơi khác ở. 

Sau canh ba, Kim Thế Di và Lệ Thắng Nam thay đồ dạ hành đến khách sạn cứu người. Họ tìm đến căn phòng của Bạch Lương Ký, chỉ nghe y đang nói chuyện với người áo vàng. 

Lệ Thắng Nam ghé mắt nhìn vào bên trong. Chàng chỉ thấy Bạch Lương Ký và người áo vàng chứ chẳng thấy Lý Tâm Mai và Chung Triển đâu. 

Kim Thế Di ngẩn người, nhưng chàng lập tức đoán ra rằng Bạch Lương Ký sợ bị người ta phát hiện, không dám đưa Chung Triển và Lý Tâm Mai vào trong mà giấu họ trong xe ngựa để cho tên lái xe canh giữ. 

Tên lái xe ấy đương nhiên cũng là ngự lâm quân cải trang, dẫu sao hai người Chung, Lý cũng đều bị điểm huyệt đạo, không sợ họ chạy thoát. 

Kim Thế Di thầm nhủ: “Hãy nghe bọn chúng nói gì đã?” Chỉ nghe Bạch Lương Ký nói: “Hàn đại ca, việc này thật lạ, hôm nay đã là ngày thứ tư mà chẳng thấy bóng dáng bọn họ, có phải đã xảy ra chuyện gì không?” Người kia trầm ngâm rồi nói: 

“Theo lẽ Thích Đạo An và Qui Tàng Tử có thể đối phó với Phùng Lâm, dù bọn họ gặp chuyện gì bất ngờ. Nhưng phía Tây Môn Mục Dã có đến mười ba người, ai nấy võ công cao cường, chả lẽ họ gặp phải bất trắc? Họ cũng đã nói rõ rằng sau khi chúng ta động thủ thì lập tức rút đi, trên đường đương nhiên sẽ gặp họ. Nhưng đến giờ này vẫn chưa thấy, việc này thật trái lẽ thường, tiểu đệ nghĩ mãi cũng không ra. May mà còn chỉ vài ba ngày nữa đến kinh sư, lúc đó chúng ta lại sẽ có cách khác.” Bạch Lương Ký nói: “Tôi hơi lo...” Người kia nói: “Lo bọn họ bị Mạnh Thần Thông giết chết!” Bạch Lương Ký cười: “Mạnh Thần Thông thần thông quảng đại cũng không thể giết hết bọn họ, huống chi lão già Tây Môn đã trồng sẵn hoa A tu la ở xung quanh, tôi thấy lần này Mạnh Thần Thông thoát chết cũng là may mắn lắm.” Người kia hỏi: “Vậy huynh lo gì?” Bạch Lương Ký nói: “Tôi lo bọn họ cố ý bỏ rơi chúng ta, có lẽ Tây Môn Mục Dã cũng đang nghĩ chúng ta gặp chuyện không may. Ít nhất tôi cũng lo bọn chúng sẽ phủi sạch công lao của chúng ta. Huynh nghĩ thử xem, hạng người như Tây Môn Mục Dã làm sao có lòng tốt? Y dã tâm bừng bừng, muốn giết hết nhân vật võ lâm trong thiên hạ để được hoàng thượng phong thưởng, sau này y không những là võ lâm chí tôn ngự phong, đại nội thị vệ và thống lĩnh ngự lâm quân cũng thuộc về y, lẽ nào y không cài người của mình vào? Hai người chúng ta chẳng thân thiết gì với y, chỉ e sau này khó tránh bị y chèn ép.” Người kia nói: “Huynh lo lắng cũng có lý lắm. Chả trách nào y không màng đến bọn Tần Đại và Cẩn Thuần, cả Mạnh Thần Thông mà y cũng giết, tôi thấy đó không những là lấy công báo tư mà quan trọng hơn là y đố kị bản lĩnh của Mạnh Thần Thông, sợ sau khi hợp tác với Mạnh Thần Thông thì Mạnh Thần Thông sẽ được trọng dụng hơn.” Bạch Lương Ký nói: “Tây Môn Mục Dã đương nhiên có ý đó, song hai người Cẩn Thuần và Tần Đại muốn lôi kéo Mạnh Thần Thông cho hoàng thượng, làm thế cũng chỉ phí công phí sức, Mạnh Thần Thông đúng là kẻ kiêu ngạo đệ nhất thiên hạ, y tuy một lòng muốn xưng bá võ lâm nhưng không thèm nhờ sức của triều đình. Có lẽ y cũng chẳng thèm nghĩ đến chuyện được hoàng thượng phong thưởng. Nếu y dễ đàng vào chum, tôi đã dùng lễ mời y cho hoàng thượng.” Người kia đáp: “Dù thế nào đi nữa, chúng ta coi như đã gặp thuận lợi, Tây Môn Mục Dã còn có thể nói được gì, muốn phủi sạch công lao của chúng ta đâu có dễ, trừ phi y ám sát chúng ta.” Bạch Lương Ký nói: “Chắc y không lớn gan như thế. Nhưng còn bốn ngày nữa mới đến kinh sư. Phái Thiên Sơn giao thiệp rộng rãi, chúng ta cẩn thận vẫn hơn.” Kẻ kia cười rằng: “Đệ hãy yên tâm, xe ngựa dừng ở sân bên ngoài, tôi đã sớm sắp xếp, dù có ngọn gió thổi qua cũng không thể nào giấu được tai mắt chúng ta.” Kim Thế Di nghe lén bọn chúng nói thì đã hiểu rõ mọi chuyện, thầm thất kinh nhủ rằng: “Té ra sau lưng Tây Môn Mục Dã còn có người ngoài, người đó chính là đương kim hoàn thượng. Té ra tên tiểu tử Càn Long còn lợi hại hơn cả người cha Ung Chính của hắn? Ung Chính chỉ thiêu cháy chùa Thiếu Lâm, nhưng còn Càn Long thì muốn bắt hết tất cả nhân vật võ lâm trong thiên hạ?” Kim Thế Di không hề sợ oai quyền của hoàng đế, nhưng chàng lại không thể không lo cho các nhân vật võ lâm chính phái, Cốc Chi Hoa là đệ tử của Lữ Tứ Nương, mà Lữ Tứ Nương là kẻ thù lớn nhất của hoàng gia, chỉ e bọn người Tây Môn Mục Dã không để cho nàng ẩn cư. 

Lệ Thắng Nam cào tay chàng, khẽ nói: “Tuy tôi đem lại cho huynh phiền phức, nhưng huynh báo thù cho tôi cũng như là giúp Cốc Chi Hoa của huynh, chắc là huynh không trách tôi nữa chứ!” Nàng dùng Thiên độn truyền âm, công lực tuy không bằng Mạnh Thần Thông, Kim Thế Di nhưng trong vòng năm ba trượng thì dù cho bậc đại sư võ học nổi tiếng nhất cũng không thể nào biết được nàng đang nói gì. 

Tiếng nói chuyện trong phòng càng lúc càng nhỏ, hai người này khi nói đến dã tâm của Tây Môn Mục Dã thì đều lo sợ, tựa như kề tai nhau mà nói. Kim Thế Di xua đuổi tạp niệm, ngưng thần lắng nghe, chỉ nghe được có tiếng động rất nhỏ bên ngoài. 

Kim Thế Di chột dạ, chàng đã nghe có hai nhân vật võ công cực kỳ cao cường vào khách sạn, thầm nhủ: “Chả lẽ Phùng Lâm tới?” rồi tiếp theo lại nghe tiếng bước chân nặng nề, Kim Thế Di thầm kêu không ổn! Chàng đã biết hai người đó ôm một vật nặng nhảy qua tường, chàng lập tức nghĩ đến Chung Triển và Lý Tâm Mai ở trong xe ngựa, thầm nhủ: “Nếu Phùng Lâm thì không sao, là người khác thì hỏng bét?” thế rồi mới dùng Thiên độn truyền âm nói với Lệ Thắng Nam: “Muội đứng đây nghe tiếp, huynh đi ra xem thử.” Lệ Thắng Nam nói: “Được, huynh cứ ra ngoài cứu người.” 

Tiếng bước chân của hai người kia tuy nặng nề, nhưng còn nhẹ hơn nhiều so với người dạ hành, chỉ có Kim Thế Di mới có thể phân biệt được. Bạch Lương Ký và người áo vàng trong phòng hình như vẫn chưa phát giác. 

Kim Thế Di bước ra sân, trong sân có mấy cỗ xe ngựa, nhưng chàng đã để ý chiếc xe của Bạch Lương Ký nên dễ dàng tìm ra. Không ngờ chàng giở rèm xe lên thì thất kinh, chỉ thấy tên đánh xe nằm trong xe, sắc mặt tím xanh, miệng há ra tựa như bị tấn công bất ngờ, chưa kịp kêu lên thành tiếng. Kim Thế Di kéo y ra, chỉ cảm thấy toàn thân y cứng đờ, mà thân người thì chẳng hề bị thương, còn mạch thì đập nhanh hơn người bình thường. Dù Kim Thế Di hiểu biết rộng rãi nhưng cũng không biết là y đã bị thương như thế nào, Kim Thế Di không khỏi giật mình, thầm nhủ: “Thân thể kẻ này bị cứng đờ, mà mạch lại nhanh rõ ràng là nội công tương đối thâm hậu, chẳng kém gì Bạch Lương Ký, tình trạng này lại không giống bị người ta điểm huyệt đạo. Cao thủ nào mà trong chớp mắt có thể chế phục được y?” nếu bình thường thì Kim Thế Di chắc chắn phải tìm cho ra lẽ, nhưng lúc này chàng nào còn lòng dạ ấy, thế rồi nhảy xuống xe, chỉ thấy có một cái rương sắt cao năm thước, bốn bên nắp rương có rất nhiều lỗ nhỏ như tổ ong, Kim Thế Di mở cái nắp ra thì chẳng thấy gì cả, chỉ nghe có mùi hương hoa Ma quỷ xông ra. 

Kim Thế Di thấy thế thì thầm nhủ: “Chắc chắn Bạch Lương Ký đã nhốt họ trong rương, hai người này không thể nào mở rương được. Nhìn những cái lỗ này hình như là có người dùng công phu Kim cương chường đâm thủng, nhưng trong thiên hạ ai là người có công lực thâm hậu đủ đâm xuyên qua sắt thép?” Kim Thế Di đang thắc mắc, chàng phục xuống đất lắng nghe thì bước chân của hai người kia đã đi xa được khoảng một dặm. Kim Thế Di thầm nhủ: “Dù họ là ai, mình phải đuổi theo rồi tính tiếp.” Thế rồi thi triển khinh công tuyệt đỉnh, chỉ trong một tuần trà thì đã đuổi theo hai người ấy ở một đồi trọc, vừa nhìn thấy hai người ấy Kim Thế Di không khỏi chưng hửng. Lúc đầu chàng không biết là cao thủ phương nào, té ra đó là bằng hữu của mình, Băng Xuyên thiên nữ và Đường Kinh Thiên. Chàng cũng đã tìm ra được câu trả lời cho việc lúc nãy. Chắc chắn khi tên đánh xe ấy phát hiện có người đến thì há mồm định kêu to, bị Băng Xuyên thiên nữ bắn băng phách thần đạn vào miệng khiến toàn thân cứng đờ, còn những lỗ nhỏ trên cái rương sắt là do Đường Kinh Thiên dùng Thiên Sơn thần mãng đục xuyên qua. Chỉ thấy Đường Kinh Thiên đang cõng Chung Triển, còn Băng Xuyên thiên nữ đang cõng Lý Tâm Mai, cả hai đang chạy gấp về phía trước, Kim Thế Di thầm nhủ: họ tuy không có thần công tuyệt đỉnh như mình tưởng tượng, nhưng quả thực đã tiến bộ hơn ba năm trước nhiều?” Thế rồi Kim Thế Di phát hiện ra họ nên ngừng tay, nhưng chàng đang một lòng muốn tác thành cho Chung Triển và Lý Tâm Mai, nếu dừng tay thì lại không phù hợp với kế hoạch của chàng. Chàng ngập ngừng trong chốc lát rồi quyết định trêu hai vợ chồng Đường Kinh Thiên. Chàng bốc một nắm bùn, bóp nát thành bột rồi vận khí thổi tới, bùn bay lên đầu vợ chồng Đường Kinh Thiên như mưa? Đường Kinh Thiên vốn đoán rằng kẻ địch sẽ đuổi tới, khi Kim Thế Di thổi nắm bùn ra thì Đường Kinh Thiên đã phát giác nên lập tức đánh ra một đòn Phách không chưởng, nhưng đã có một viên sỏi nhỏ như hạt đậu bay lướt qua mu bàn tay Đường Kinh Thiên, tuy không chảy máu nhưng cũng khiến chàng đau nhói. Đường Kinh Thiên cả kinh, đặt Chung Triển xuống đưa mắt nhìn xung quanh. 

Khinh công của Kim Thế Di cao hơn họ rất nhiều, lúc này chàng đã lại nấp trong rừng. Đường Kinh Thiên thấy không có kẻ địch thì càng thất kinh, thầm nhủ: “Chả lẽ Mạnh Thần Thông đuổi tới?” Lúc này Băng Xuyên thiên nữ cũng đặt Lý Tâm Mai xuống. Cả hai vợ chồng cầm kiếm chuẩn bị ứng phó kẻ địch, nếu Kim Thế Di muốn đoạt hai người Chung, Lý thì dễ như trở bàn tay, ngặt nỗi chàng lại không muốn để cho họ phát hiện ra mình. 

Đường Kinh Thiên cười lớn: “Hai người này là sư đệ và biểu muội của tôi, các hạ bắt họ đi, tôi không thể ngồi yên mà nhìn, chắc các hạ chẳng phải là hạng bắt gà trộm chó, nếu có xích mích với phái Thiên Sơn của tôi, vậy vợ chồng Đường mỗ xin được nghênh đón! Các hạ cớ gì phải gây khó cho bọn tiểu bối, càng không nên giở trò lén lút như thế?” Đường Kinh Thiên tưởng rằng kẻ hí lộng mình chắc chắn là người đã bắt cóc sư đệ và biểu muội của mình bởi vậy mới nói như thế. 

Đường Kinh Thiên nói rất nghiêm túc Kim Thế Di nghe thì hầu như không nén được tiếng cười. Nhưng lại chợt nghe có người cười lên trước. 

Chỉ thấy có một bóng người hiện lên ở bìa rừng, Lệ Thắng Nam đã xuất hiện. Trong tay nàng cầm một cây bảo kiếm, dưới ánh trăng mờ ảo ánh hàn quang tỏa ra lấp lánh, đó chính là cây Du long kiếm của Đường Kinh Thiên. 

Lệ Thắng Nam cười hì hì: “Không dám, Đường thiếu chường môn sao lại tự xưng là tiểu bối thế?” Đường Kinh Thiên rất tức giận, phóng vút một cây Thiên Sơn thần mãng tới, Lệ Thắng Nam gạt ngang qua, chặt cây Thiên Sơn thần mãng thành hai đoạn, lại cười hì hì: “Quả nhiên là bảo kiếm? Từ lâu đã nghe Thiên Sơn có tam bảo, Thiên Sơn thần mãng đâm thủng sắt vàng, bảo kiếm chém sắt như bùn, nay quả nhiên bảo kiếm hơn một bậc?” khi nàng nói thì Băng Xuyên thiên nữ đã phóng tiếp ra baviên băng phách thần đạn, Lệ Thắng Nam lướt người, lúc đông lúc tây, ba viên băng phách thần đạn bay lướt qua người nàng, trong chớp mắt nàng đã nhảy bổ đến trước mặt Đường Kinh Thiên chỉ còn cách một trường. 

Băng Xuyên thiên nữ sợ chồng thua thiệt, bèn rút phắt cây Băng phách hàn quang kiếm lập tức đánh ra một chiêu Băng hà dải đông, mũi kiếm vung lên từng điểm hàn quang! Đường Kinh Thiên chỉ dùng một cây kiếm bình thường nhưng chàng phát ra Truy phong kiếm thức, từng thức cứ dồn ra như sông dài biển rộng, uy lực cũng rất kinh người. Lệ Thắng Nam cũng không dám tiếp chiêu, chỉ nhờ thân pháp linh hoạt mà luồn qua lách lại trong màn kiếm! Đường Kinh Thiên sợ Lệ Thắng Nam cướp hai người Chung, Lý cho nên thi triển Truy phong kiếm thức chặn nàng lại, không để cho nàng đến gần họ. Kim Thế Di lập tức nắm cơ hội thi triển khinh công tuyệt đỉnh từ trong rừng nhảy vọt ra, tay trái nắm Lý Tâm Mai, tay phải nắm Chung Triển, trong chớp mắt đã lui vào rừng, đồng thời dùng công phu Thiên độn truyền âm nói với Lệ Thắng Nam: “Muội đừng nên làm càn, chỉ cần dụ họ đi là được. Chúng ta đợi nhau ở ngọn núi cách đây mười dặm.” Lệ Thắng Nam nói: “Huynh cứ yên tâm!” 

Kim Thế Di nói chỉ có mình Lệ Thắng Nam nghe, nhưng Lệ Thắng Nam lại mấp máy môi, Đường Kinh Thiên đứng đối diện nên đã nhận ra. Chàng quay lại thì chẳng thấy hai người Chung, Lý đâu cả. Đường Kinh Thiên kinh hãi, kêu lên lạc giọng: “Ôi chao,lại trúng kế điệu hổ li sơn nữa. Ả yêu nữ này có đồng đảng!” Lệ Thắng Nam cười khanh khách: “Đường thiếu chưởng môn, hôm nay coi như ngài đã không may mắn!” 

Cây Du long kiếm đánh ra một chiêu Ngọc nữ xuyên châm, chiêu kiếm này nhanh như điện chớp. Đường Kinh Thiên hơi phân thần thì chỉ nghe soạt một tiếng, tà áo đã bị nàng đâm xuyên qua! Đường Kinh Thiên cả giận, đánh ra Truy phong kiếm thức nhanh như gió, cây Băng phách hàn quang kiếm của Băng Xuyên thiên nữ càng lợi hại hơn. Cây kiếm đánh một vòng tròn hóa thành một vòng hàn quang chụp xuống LệThắng Nam. 

Lệ Thắng Nam cười nói: “Các người muốn đánh nhưng ta không thể chiều!” 

Nàng cười chưa dứt thì đã lộn người ra cách đó ba trượng. Dù nàng khinh công trác tuyệt nhưng Đường Kinh Thiên vung kiếm nhanh như điện, soạt một tiếng đã rạch đứt đệm vai của nàng, may mà nàng có mang ngọc giáp bên trong chứ nếu không đã bị trọng thương. 

Một mình Lệ Thắng Nam đấu với hai vợ chồng Đường Kinh Thiên thì không phải là đối thủ của họ nhưng khinh công của nàng nhỉnh hơn họ một bậc, nàng vừa thoát ra khỏi màn kiếm quang của họ thì trong chớp mắt đã vượt qua một ngọn đồi. Đường Kinh Thiên muốn cứu người, đoạt lại thanh bảo kiếm, đương nhiên vẫn bám theo, chỉ trong chốc lát mà người đã chạy rất xa. Kim Thế Di tìm một nơi rộng rãi đặt hai người Chung, Lý xuống bãi cỏ, chỉ thấy hai người tựa như đang ngủ say, hơi thở đều đặn, thoang thoảng mùi hoa tuyết liên. Kim Thế Di biết Đường Kinh Thiên đã nhét bích linh đơn vào miệng họ, hương hoa Ma quỷ đã được giải, nhưng họ vẫn hôn mê chưa tỉnh, rõ ràng đã bị điểm huyệt đạo. Kim Thế Di thầm nhủ: “Là thuật điểm huyệt của ai mà Đường Kinh Thiên không thể giải được?” Kim Thế Di nhìn kỹ, chợt chàng chột dạ, vội vàng xé mảnh áo phía sau lưng họ thì chỉ thấy ở dưới huyệt đại chủy của mỗi người đều có một dấu đỏ có kích cỡ như đồng tiền. Kim Thế Di giật mình, nhủ rằng: “Té ra kẻ được gọi là Hàn đại ca lúc nãy là người họ Hàn ở Trịnh Đô. 

Thủ pháp điểm huyệt của nhà họ Hàn rất khác người, được gọi là “án huyệt”, là dùng công phu Hồng sa thủ đè vào yếu huyệt của kẻ địch, chỉ có người họ Hàn mới có thể giải nổi. 

Vả lại người dùng chưởng lực Hồng sa thủ để “án huyệt” cho nên hễ thời gian kéo dài thì dù cho huyệt đạo có được giải, nội lực cũng không thể khôi phục. 

Kim Thế Di thầm nhủ: “Thủ đoạn này cũng thật độc ác, may mà gặp phải mình.” 

Té ra quyển bí kíp của Kiều Bắc Minh dung hợp sở trường của các phái chính tà, nửa bộ mà Kim Thế Di giật được chính là chuyên nghiên cứu phá giải các thủ pháp điểm huyệt âm độc. Nếu không gặp Kim Thế Di, Đường Kinh Thiên cũng đành bó tay. Chỉ có cách đưa họ về chùa Thiếu Lâm nhờ Thống Thiền thượng nhân dùng thần công tuyệt đỉnh đả thông kinh mạch cho họ, như thế chắc chắn sẽ trễ đến mấy ngày. Thống Thiền thượng nhân tuy có thể cứu giải nhưng chỉ e rằng ít nhất phải mất đến ba năm công lực. Kim Thế Di xem kỹ mạch tượng của Lý Tâm Mai, biết nàng không bị thương gì khác, thế rồi yên tâm. Lúc này chàng chợt có mấy phần thương cảm, nhớ lại những khi còn bên cạnh nàng, nhớ lại tấm chân tình của nàng đối với mình, tuy bản thân chàng không coi đó là tình yêu trai gái, nhưng tấm lòng của một nàng thiếu nữ vô tư hồn nhiên đủ khiến cho chàng suốt đời không quên. 

Kim Thế Di cúi xuống, chỉ thấy Lý Tâm Mai tựa như đang ngủ say, Kim Thế Di thầm nhủ: “Nàng có nằm mơ cũng không ngờ lúc này mình đang ở bên cạnh nàng!”, rồi chàng nhớ lại mình đã lừa nàng, không cho nàng biết mình còn sống, đột nhiên cảm thấy áy náy, bất giác thầm thở dài. 

Kim Thế Di chợt nghe tiếng bước chân ở phía xa, chàng thất kinh, thầm nhủ: 

“Mình phải cứu tỉnh họ, nếu không hai gã kia đuổi theo, mình phải đối phó với họ thì còn có ý nghĩa gì!” Kim Thế Di theo kế hoạch cũ, trước tiên giải huyệt cho Chung Triển, thấy khuôn mặt vô tư như một đứa trẻ của y thì Kim Thế Di thở dài, thầm nhủ: 

“Hai người này mới đúng là một đôi giai ngẫu trời sinh, mình là nguyệt lão thì có gì đáng tiếc? Cuộc đời của Tâm Mai tốt đẹp hơn mình nhiều, chỉ cần nàng vui thì mình có gì phải đau lòng?” Thế rồi Kim Thế Di thi triển huyền công giải huyệt đạo cho Chung Triển, chàng cố ý ít dùng nửa phần nội lực, làm cho y tỉnh dậy chậm nửa khắc, nhưng sau khi tỉnh thì công lực lập tức hồi phục. 

Tiếp theo chàng lại giải huyệt cho Lý Tâm Mai nhưng lại bớt đi một phần nội lực để cho Lý Tâm Mai tỉnh dậy trễ hơn Chung Triển. Giải huyệt xong xuôi, chàng thấy tóc Lý Tâm Mai rối bời thì nhẹ vuốt lại cho nàng. Kim Thế Di thầm nói với chính mình: “Đừng đau lòng, đừng đau lòng!” nhưng không biết thế nào mà đột nhiên hai giọt nước mắt rơi trên mặt Lý Tâm Mai. 

Kim Thế Di nấp trong một cây đại thụ cành lá xum xuê, chỉ nghe bước chân càng lúc càng gần, quả nhiên đó là Bạch Lương Ký và người họ Hàn. Lúc này Chung Triển vừa tỉnh dậy, y đưa mắt nhìn xung quanh thì thấy ngạc nhiên, kêu lên thất thanh: “Sư muội, muội hãy ngồi dậy xem, chúng ta đang ở đâu đây?” Y kêu lênnhưng Lý Tâm Mai chẳng hề quay lại, còn Bạch Lương Ký thì kêu lớn: “Ồ, té ra tên tiểu tử nhà ngươi ở đây!” Chung Triển bật dậy rút kiếm đâm tới. Lúc này y đã phát hiện Lý Tâm Mai nằm bên cạnh vẫn chưa tỉnh. Chung Triển vừa kinh vừa giận thầm nhủ: “Dù có liều mạng cũng không để cho chúng làm hại Tâm Mai!” thế rồi lia cây trường kiếm tới. 

Kim Thế Di thầm khen rằng: “Tên tiểu tử này không tệ, chẳng uổng mình trao Tâm Mai cho y!” Chung Triển tuy được chân truyền Thiên Sơn kiếm pháp nhưng công lực còn kém, lấy một địch một thì còn đủ sức, lấy một địch hai thì chẳng phải là đối thủ của Bạch Lương Ký và người họ Hàn. Kim Thế Di biết điều này, bản thân Chung Triển cũng biết, Kim Thế Di nấp trên cây đại thụ, nếu Chung Triển khiếp sợ bỏ chạy, chàng sẽ cứu Lý Tâm Mai, còn Chung Triển có rơi vào tay kẻ địch hay không thì chàng mặc kệ. Bạch Lương Ký còn cách Chung Triển mười trượng thì chợt nôn thốc nôn tháo ra, người họ Hàn cũng cả kinh, vội vàng hỏi: “Huynh... huynh làm sao thế...” nói chưa dứt lời thì thấy trong bụng đau nhói, sôi lên ùng ục rồi cũng nôn ra như Bạch Lương Ký. 

Kim Thế Di kẹp hai cây độc long châm trong tay, chỉ đợi Chung Triển gặp nguy hiểm thì lập tức phát châm đả thương kẻ địch. Nay thấy bọn chúng chưa giao thủ mà đã như thế, chàng chưng hửng rồi lập tức hiểu ra, cười thầm rằng: “Lệ Thắng Nam thật nghịch ngợm, không biết nàng đã giở trò gì? Nhưng làm thế thì càng có ít sơ hở hơn.” Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Chung Triển đã đâm kiếm tới. Bạch Lương Ký vội vàng xoay người né tránh, y dùng một cây roi tra long, cây roi này dài hơn một trượng, cây roi cũng xoay một vòng theo y, chiêu này là cầu thắng trong bại, quả thực cũng có chân tài thực học. 

Nhưng nhát roi này của y thì lực bất tòng tâm, chỉ nghe soạt một tiếng, đầu roi đã bị chém đứt mất ba tấc. Kẻ họ Hàn thì càng thảm hơn, y thi triển công phu Hồng sa thủ, vỗ tới một chưởng. Với công lực của y, chưởng này ít nhất cũng có thể gạt mũi kiếm của Chung Triển lệch sang một bên. Nếu kiếm của Chung Triển bị roi Bạch Lương Ký quấn lại thì một chưởng này đủ khiến cho Chung Triển ngã gục! Nhưng y không ngờ rằng cây roi của Bạch Lương Ký cũng bị Chung Triển chém đứt, càng không ngờ rằng y phát ra một chưởng thì chẳng hề có kình. Chỉ thấy kiếm quang lóe lên, hai ngón tay rụng xuống. Đó là nhờ y rút tay nhanh, chớ nếu không cả bàn tay cũng bị chặt đứt. 

Số là Lệ Thắng Nam đã ngầm hạ độc, bỏ loại thuốc không mùi không màu vào trong bình trà của chúng, khi chúng đang nói chuyện thì bình trà đặt sát cửa. Lệ Thắng Nam đút một ống thổi nhỏ bằng cây ngân châm vào trong cửa sổ rồi thổi bột vào trong vòi bình trà, bọn chúng chẳng hề phát giác. Nói chuyện cả một lúc lâu, bọn chúng đương nhiên hơi khát nước cho nên mỗi người đều uống một ly đầy. 

Hai người Hàn, Bạch sau khi uống trà không lâu thì nghe bên ngoài có âm thanh lạ, bọn chúng bước ra thì phát giác đồng bọn đã chết cứng. Thực ra kẻ ấy không hề chết, chỉ vì lúc đó không thể xem mạch tượng, còn tù binh thì mất tích, thế là cả hai vội vàng đuổi theo. Thế nhưng phát hiện chỉ có một mình Chung Triển nghênh địch, không có cao thủ nào bên cạnh thì mới yên tâm. Bọn chúng tuy không biết Chung Triển đã giải huyệt đạo như thế nào nhưng nghĩ bụng dù y có giải huyệt đạo thì công lực cũng không thể hồi phục. Nào ngờ lúc đó chất độc phát tác, chỉ thấy lục phủ ngũ tạng nhộn nhạo rất khó chịu, làm sao có thể xuất ra kình lực nội gia, thế là công lực của cả hai còn kém hơn cả Chung Triển. 

May mà nội công của hai người Hàn, Bạch cũng có hỏa hầu tương đối, cả hai vận khí cố kìm không lên nữa, nhưng Chung Triển đã quyết liều mạng, vừa xông lên đã thi triển Truy phong kiếm thức, chiêu nào cũng toàn là những chiêu số liều mạng, chỉ trong vòng mấy chiêu thì hai người Hàn, Bạch đã gặp nguy. 

Bạch Lương Ký kêu lên: “Không xong, lẽ nào chúng ta đều trúng độc?” Nói chưa dứt thì chợt thấy Lý Tâm Mai chạy tới, kêu lên: “Triển ca, chuyện gì thế? Té ra huynh đang đánh nhau với hai tên ác tặc, đừng lo, muội sẽ giúp huynh.” Thật ra Chung Triển đang đấu rất hăng, chẳng hề lo gì cả! Kẻ đang lo là Bạch Lương Ký và người họ Hàn kia. Lý Tâm Mai chưa kịp nhảy vào vòng chiến thì đã nghe hai tiếng soạt soạt, cây roi của Bạch Lương Ký lại bị chém đứt nửa đoạn, vai cũng bị đâm một lỗ xuyên qua! Bạch Lương Ký không kìm được nữa, lại há mồm nôn ra, chỉ thấy khạc toàn máu tươi. Bạch Lương Ký quay đầu toan bỏ chạy, người họ Hàn cũng chẳng kém, lộn người rồi tự lăn xuống sườn đồi, còn nhanh hơn cả Bạch Lương Ký! Lý Tâm Mai sợ trúng phải đồ dơ nên nhảy bật ra. Chung Triển chạy tới, cười nói: “Muội đã tỉnh rồi sao? Có thấy gì không? Hai tên ác tặc đều bị thương, dù sao cũng đã trút giận, không cần đuổi theo!” Lý Tâm Mai mở to đôi mắt nhìn xung quanh, lộ vẻ hoang mang, nói: “Tựa như đang nằm chiêm bao, sao chúng ta lại ở đây? Chúng ta thoát ra bằng cách nào? Muội không sao cả, còn huynh?” Chung Triển nói: “Huynh cũng chẳng biết có chuyện gì xảy ra, huynh vừa tỉnh dậy thì thấy ở đây Nhưng huynh cảm thấy trong miệng có mùi bích linh đơn, lẽ nào Đường sư huynh đến?” Lý Tâm Mai nói: “Muội cũng nghĩ như thế, nhưng nếu là Đường sư huynh, tại sao không gặp y?” 

Kim Thế Di thầm cười, nghĩ bụng: “Coi như cũng đoán được đúng một nửa. Lát nữa các người gặp Đường Kinh Thiên thì sẽ không ngờ rằng là ta.” Chung Triển nói: “Khi huynh mới tỉnh dậy, hình như nghe ở hướng tây nam có ám khí xé gió bay tới rất mạnh, có thể là Đường sư huynh đã bắn Thiên Sơn thần mãng. Lát nữa chúng ta xem thử.” Ngập ngừng rồi lại nói tiếp: “Khi huynh tỉnh dậy thì thấy chúng ta đang ở trên đồi, ngoại trừ muội chẳng còn ai cả. Không lâu sau thì hai gã này kéo tới, xem ra Đường sư huynh đã giải huyệt đạo cho chúng ta, gặp phải cường địch khác, giờ đây đang đuổi theo. Còn hai tên này thì đi theo sau, bởi vì cước trình của chúng không bằng Đường sư huynh.” Lối giải thích ấy rất hợp tình hợp lý, Kim Thế Di thầm gật đầu, nhủ rằng: “Tên tiểu tử này tuy chỉ mới xuất đạo nhưng cũng có mấy phần dược lực, đoán việc cứ như trước mắt. Chỉ là y không biết mình ngầm ra tay, nếu không đã đoán đúng cả.” Lý Tâm Mai cười nói: “Tại sao huynh không gọi muội dậy, lại dám một mình ác đấu với hai tên ác tặc, xem kìa, huynh đã mệt!” nàng tưởng rằng đã bừng tỉnh vì tiếng đánh nhau, không hề biết Chung Triển chẳng hề gọi nàng. 

Mấy câu nói ấy bên ngoài tựa như trách cứ nhưng thực sự là quan tâm. Chung Triển thấy lòng lâng lâng, nói: “Huynh không mệt, không mệt tí nào! Sư muội, huynh lo cho muội, đầu tóc muội đã rối bời, để huynh sửa cho muội!” Chung Triển bạo dạn bước đến gần sư muội, Lý Tâm Mai đỏ mặt cúi đầu, cứ để mặc cho Chung Triển sửa tóc lại cho mình. 

Kim Thế Di thầm vui cho họ nhưng không biết thế nào trong niềm vui ấy có một chút ghen tị, lòng thầm nhủ: “Chuyện mình nên làm cũng đã làm, mình còn ở đây nhìn lén làm gì?” Kim Thế Di lập tức thi triển khinh công tuyệt đỉnh Đạp tuyết vô ngấn chuyền từ cành này sang cành khác, chỉ trong chốc lát thì đã ra khỏi khu rừng. 

Lý Tâm Mai và Chung Triển đang ngây ngất trong tình yêu thì làm sao có thể phát hiện ra! Kim Thế Di chạy một mạch đến chỗ hẹn với Lệ Thắng Nam. Chàng ngẩng đầu nhìn lên thì chẳng thấy bóng dáng nàng đâu. Kim Thế Di thất kinh vội vàng dùng công phu Phục địa thính thanh, ngưng thần lắng nghe. Trong chốc lát thì đã nghe văng vẳng tiếng chém giết nhau ở góc tây nam, cách đó khoảng sáu bảy dặm. Kim Thế Di thắc mắc nhủ rằng: “Khinh công của Lệ Thắng Nam hơn vợ chồng Đường Kinh Thiên một bậc, có lẽ nào đến giờ vẫn chưa thoát khỏi họ?” Té ra sau khi Lệ Thắng Nam dụ vợ chồng Đường Kinh Thiên đi, Băng Xuyên thiên nữ không ngừng phóng băng đạn tấn công nàng. Lệ Thắng Nam tuy không sợ nhưng cước trình cũng không khỏi chậm lại. Vốn là nàng có thể dùng đạn khói để che mắt Băng Xuyên thiên nữ rồi thoát đi bằng khinh công tuyệt đỉnh, nhưng nàng liên tục bị Băng Xuyên thiên nữ phát băng đạn, lạnh đến nỗi nổi da gà, nhất thời bực mình nên toan cướp Băng phách hàn quang kiếm của Băng Xuyên thiên nữ! 

Hồi Thứ Ba Mươi Tám

Trong lúc gay cấn, Lệ Thắng Nam đột nhiên ngừng bước, trở tay đánh ra một chiêu, thi triển công phu Phất vân thủ đoạt kiếm của Băng Xuyên thiên nữ. 

Cả ba người đều có khinh công cao cường, hễ cất bước thì như tên bay khỏi cung, muốn chạy ngang như nàng không khó, nhưng khó hơn là thu phát tùy tâm, trong khoảng sát na mà có thể kìm lại, hai vợ chồng Đường Kinh Thiên vẫn chưa đạt đến cảnh giới ấy. 

Băng Xuyên thiên nữ không ngờ Lệ Thắng Nam đang chạy thì đột nhiên ngừng lại, nàng đang phóng về phía trước thì Lệ Thắng Nam đã nắm trúng chiêu kiếm của nàng, Băng Xuyên thiên nữ chỉ thấy một niêm lực mạnh mẽ, lại thêm nàng đang xông về phía trước, thế là mất đà chồm người về phía trước, suýt nữa đã ngã xuống? Chiêu thế Phất vân thủ của Lệ Thắng Nam trong nhu có cương, đó là công phu tay không đoạt binh khí lợi hại nhất, dù cho là người có võ công cao cường, bị ngón tay của nàng chạm phải thì binh khí cũng sẽ rơi ra khỏi tay! Nhưng cây bảo kiếm của Băng Xuyên thiên nữ thì khác với bất cứ loại binh khí nào bởi vì nó được chế từ loại hàn ngọc vạn năm trong hố băng, thân kiếm và chuôi kiếm hợp thành một thể, Lệ Thắng Nam đã luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ tám, nhưng nàng vẫn không chịu nổi luồng khí âm hàn từ thanh kiếm phát ra, có điều giờ đây nàng sử dụng Phất vân thủ chứ không phải Tu la âm sát công, nàng đột nhiên chạm phải hàn ngọc vạn năm, tuy có thể chịu đựng nổi nhưng máu chảy chậm lại, vì thế công lực không khỏi giảm ba phần. 

Vả lại loại hàn ngọc vạn năm rất trơn, hầu như là vật hữu hình mà vô chất, Băng Xuyên thiên nữ đã dùng quen nên đương nhiên phát huy tự nhiên, Lệ Thắng Nam thì không thể. Võ công của Băng Xuyên thiên nữ chỉ hơi kém nàng, Băng Xuyên thiên nữ vừa mất đà thì dùng trọng thân pháp ổn định thân hình, rồi nàng trở chuôi kiếm, chém ngược trở lại! Lệ Thắng Nam bất ngờ thi triển công phu Phất vân thủ, vừa đánh ra một đòn đã thành công nhưng vẫn chưa thể đoạt kiếm của Băng Xuyên thiên nữ thì bất đồ cả kinh, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, cây thanh cương kiếm của Đường Kinh Thiên đã chém tới một chiêu Loạn bì phong, một thanh kiếm mà tự nhiên hóa thành mấy mươi thanh kiếm, đâm tới nàng từ bốn phương tám hướng! May mà Lệ Thắng Nam biết nhiều loại võ công, có thể tùy cơ ứng biến, trong lúc tính mạng nguy ngập thì thi triển Thiên la bộ pháp chui ra khỏi màn kiếm quang. 

Nhưng như thế thì nàng đã khéo quá hóa vụng, đường rút lui đã bị Đường Kinh Thiên chặn lại, Băng Xuyên thiên nữ cũng mau chóng triển khai Băng xuyên kiếm pháp, bên trái đánh một chiêu Vạn lý phi sương, bên phải đánh một chiêu Thiên Sơn lạc diệp. Kiếm khí trùng trùng quét tới, bao vây Lệ Thắng Nam đến nỗi gió mưa không lọt! Lệ Thắng Nam cả giận, thầm nhủ: “Hay thật, ta nể mặt Thế Di ca, chẳng qua chỉ trêu các ngươi một phen mà các ngươi lại muốn liều mạng với ta!”. Đang lúc kịch chiến chợt nghe tưng một tiếng, Lệ Thắng Nam đã rút cây bảo kiếm của mình ra, thanh kiếm này mỏng như cánh ve, tên gọi Tài vân, sắc bén hơn Du long kiếm rất nhiều! Tài vân kiếm và Băng phách hàn quang kiếm chạm nhau, cả hai thanh kiếm là vật hiếm có, một tiếng tưng vang lên, cây Băng phách hàn quang kiếm tỏa ra một vòng ánh sáng màu xanh, Lệ Thắng Nam chỉ cảm thấy một luồng hơi lạnh từ kiếm truyền vào, đâm thẳng vào lòng bàn tay, cả hai người đều giật mình, may mà hai thanh bảo kiếm chẳng hề tổn thương. 

Lệ Thắng Nam thi triển cả hai thanh bảo kiếm, tay trái thì cầm Du long kiếm, tay phải thì cầm Tài vân kiếm, uy lực không gì bì được, Băng Xuyên thiên nữ có bảo kiếm nên có thể chống đỡ được, còn Đường Kinh Thiên thì bất đồ thối lui từng bước. 

Lệ Thắng Nam cả mừng đang định vọt ra khỏi vòng vây, Đường Kinh Thiên đột nhiên chỉ cây trường kiếm vạch một vòng tròn, cây bảo kiếm của Lệ Thắng Nam rõ ràng có thể chặt gãy cây thanh cương kiếm, nhưng không biết thế nào mà khi chạm nhau, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, bảo kiếm của Băng Xuyên thiên nữ cũng quét tới, chiêu số của nàng thì cũng giống như chồng, chẳng qua một chính một phản, cả hai luồng kiếm quang hợp vào nhau, nhốt Lệ Thắng Nam ở giữa. 

Té ra Đường Kinh Thiên đã sử dụng Đại tu di kiếm thức, bộ kiếm thức này công thủ đều có, nếu dùng phòng thân thì càng kín kẽ hơn, dù gặp phải người có võ công cao hơn mình một bậc cũng không đến nỗi bại. Võ công của Lệ Thắng Nam hơi nhỉnh hơn Đường Kinh Thiên, lại nhờ có hai thanh bảo kiếm, nếu đơn đả độc đấu thì trong vòng mười chiêu đã có thể thoát hiểm, trong vòng ba mươi chiêu có thể phá được Đại tu di kiếm thức, trong vòng năm mươi chiêu có thể đả thương Đường Kinh Thiên. 

Nhưng giờ đây lại có thêm Băng Xuyên thiên nữ, cả hai vợ chồng cùng sử dụng Đại tu di kiếm thức, phối hợp đến mức kín kẽ, thế là Lệ Thắng Nam tuy có hai thanh bảo kiếm nhưng chẳng thể nào thoát được. 

Vợ chồng Đường Kinh Thiên song kiếm hợp bích càng đánh càng gấp, Lệ Thắng Nam thầm kêu khổ, nhủ rằng: “Chắc là Thế Di đang chờ mình. Đương nhiên chàng có thể đến đây, nhưng mình đã không nghe lời chàng, lại phải nhờ chàng giải vây thì mình còn mặt mũi gì nữa?” Đang lúc nguy cấp thì nàng nảy ra diệu kế, trong lúc kịch chiến Lệ Thắng Nam đột nhiên để lộ sơ hở, Đường Kinh Thiên thầm cười: “Kế dụ địch của ngươi làm sao có thể giấu nổi ta?” thế là tương kế tựu kế, cây thanh cương kiếm vẽ ra một đóa kiếm hoa, tựa trái nhưng lại đánh phải, soạt một tiếng, đã đâm vào huyệt ngọc hoành dưới be sườn của Lệ Thắng Nam, cũng trong lúc này, cây bảo kiếm của Băng Xuyên thiên nữ cũng đã chém ngang tới, cả hai vợ chồng đều nhủ thầm: “Dù ả yêu nữ nhà ngươi võ công cao gấp mười lần nhưng cũng khó tránh khỏi chiêu này!” Nào ngờ Lệ Thắng Nam có mặc ngọc giáp trên người, chỉ nghe soạt một tiếng, cây kiếm của Đường Kinh Thiên đâm trúng nàng, nhưng chợt thấy tay nhẹ hẫng, té ra nhân lúc chàng không kịp thi kiếm biến chiêu, Lệ Thắng Nam đã dùng cây Du long kiếm bên tay trái gạt bảo kiếm của Băng Xuyên thiên nữ ra, tay phải dùng Tài vân kiếm chém gãy cây thanh cương kiếm của Đường Kinh Thiên. 

Lệ Thắng Nam thoát khỏi vòng vây, cười rằng: “Đường thiếu chưởng môn, xin thứ, tôi không thể chiều theo?” Nào ngờ cười chưa dứt thì nghe một tiếng quát lạnh lẽo vang lên: “Đứng lại cho ta” tiếp theo là Đường Kinh Thiên kêu lớn: “Cha!” Lệ Thắng Nam cả kinh, khi ngẩng đầu nhìn lên thì thấy dưới trăng có hai người, người đàn bà tựa như Phùng Lâm, người đàn ông râu dài ba chòm, tướng mạo uy nghiêm trông khoảng năm sáu mươi tuổi, cả hai bên đang cách nhau khoảng nửa dặm, nhưng tiếng quát của ông ta thì to tựa chuông đồng, chấn động cả lỗ tai của Lệ Thắng Nam. 

Đường Kinh Thiên kêu ông ta là cha, người đàn ông đương nhiên là chưởng môn của phái Thiên Sơn Đường Hiểu Lan. Số là lần này Đường Hiểu Lan không tham gia đại hội Mang Sơn, nhưng ông ta lại rất lo, bởi vậy không đợi Thống Thiền thượng nhân cho người đến mời thì đã cùng vợ xuống núi quay trở lại Trung Nguyên, nghĩ rằng chẳng may phía chính phái thất bại thì ông ta sẽ hẹn quyết chiến đơn đả độc đấu với Mạnh Thần Thông. 

Vừa khéo đêm nay vợ chồng Đường Hiểu Lan tá túc ở một ngôi chùa trên núi, nửa đêm thanh vắng ông ta nghe tiếng Thiên Sơn thần mãng xé gió thì vội vàng chạy ra xem thì thấy Đường Kinh Thiên bại trận lại thấy có cây Du long kiếm trong tay Lệ Thắng Nam, dù Đường Hiểu Lan giỏi kìm nén đến mức nào cũng không khỏi đùng đùng cả giận. Lệ Thắng Nam chỉ mới luyện được nửa bộ bí kíp võ công, vả lại vẫn còn chưa đại thành, biết rằng đó là Đường Hiểu Lan thì làm sao dám chống cự! Nàng cậy mình khinh công cao siêu, Đường Hiểu Lan quát nàng đứng lại thì nàng chạy càng nhanh hơn. Ông ta nhíu mày nói: “Anh muội, muội hãy bắt ả yêu nữ lại, hỏi tại sao đoạt bảo kiếm trấn sơn của chúng ta, có mối thù thâm thù đại hận gì với phái Thiên Sơn?” Đường Hiểu Lan tuy cả giận nhưng ông ta là một chưởng môn, và lại là một người đàn ông thì làm sao có thế đích thân bắt một thiếu nữ cho nên chỉ đành bảo vợ mình ra tay. 

Phùng Anh mỉm cười nói: “Đại ca đừng nổi giận, ả này có thể đoạt bảo kiếmtrong tay Kinh Thiên, võ công cũng đã hiếm có, muội bắt ả lại thì huynh cứ hỏi nhưng đừng làm khó ả”. Lệ Thắng Nam đang chạy nhanh như gió thì chợt nghe có tiếng gió lướt lên, đột nhiên có một bóng trắng lướt qua người mình, khi nhìn kỹ lại thì Phùng Anh đã chặn đầu nàng. Lệ Thắng Nam không lạnh mà run, thầm nhủ: “Nếu bà ta bất ngờ đâm một kiếm ở sau lưng, mình đâu còn mạng?” nhưng nàng đã tưởng Phùng Anh là Phùng Lâm, lại nghĩ rằng: “Khinh công của Phùng Lâm tuy hơn mình, nhưng bản lĩnh chân thực chưa chắc hơn mình được bao nhiêu, mình có hai thanh bảo kiếm trong tay, tốt xấu gì cũng phải thử một phen còn hơn là để họ bắt!” Phùng Anh cười: 

“Tiểu cô nương, đừng chạy nữa, trả Du long kiếm lại cho ta, hãy quay lại trò chuyện với bọn ta một lúc, chỉ cần ngươi nói rõ thì bọn ta sẽ không làm khó ngươi”. Lệ Thắng Nam nói: “Được, trả bảo kiếm lại cho bà!” đột nhiên đánh ra một chiêu Bạch hồng quán nhật, cây Du long kiếm đâm thẳng vào ngực Phùng Anh, nàng còn sợ khinh công của đối phương quá giỏi, một kiếm đâm không trúng, cây Tài vân kiếm ở tay bên phải cũng đánh ra một chiêu Phong quyện lạc hoa, chém vào hai chân của Phùng Anh, nếu Phùng Anh thi triển Công phu tay không đoạt binh khí thì chắc chắn phải chồm người về phía trước, ngực sẽ bị cây Du long kiếm đâm qua; nếu bà thi triển khinh công thì phải vọt người lên, lúc đó hai chân cũng bị chém đứt. Lệ Thắng Nam xuất kiếm như điện, tưởng rằng Phùng Anh khó thoát chết, ít nhất cũng phải bị thương, nào ngờ nàng nghĩ chưa dứt thì trước mắt chợt có một bóng trắng, không biết hai thanh kiếm đã bị thử gì giữ chặt, một luồng lực đạo trong nhu có cương tựa như đang kéo cổ tay nàng, khiến cho hổ khẩu của nàng đau nhói. Lệ Thắng Nam kinh hoảng, vội vàng lia hai thanh kiếm, thi triển thân pháp Kê tử phiên thân, lộn ngược ra sau ba trượng, chỉ nghe hai tiếng soạt soạt vang lên, hai mảnh vải trắng trên không trung bay xuống, lúc đó Lệ Thắng Nam mới biết Phùng Anh vừa mới phất ống tay áo giữ chặt bảo kiếm của nàng. 

Phùng Anh nhíu mày nói: “Tuổi còn nhỏ mà lại hiểm trá như thế, nếu không phải là ta, chỉ e đã bị ngươi đâm thủng hai lỗ trên người”. Đường Kinh Thiên kêu lên: 

“Mẹ, ả yêu nữ này ác độc vô cùng, mẹ đừng khách sáo với ả!” Phùng Anh tuy không bị thương nhưng với nội công mấy mươi năm của bà ta, thi triển công phu tuyệt đỉnh Lưu vân phi tụ mà chẳng thể đoạt được bảo kiếm của Lệ Thắng Nam thì không khỏi bất ngờ. Lòng thầm nhủ: “Mình chưa xuống núi không đầy mười năm mà trên giang hồ lại có nhiều nhân vật lợi hại như thế, đúng là hậu sinh khả úy.” Rồi bà ta không dám khinh địch, tiện tay bẻ một cây liễu, đánh soạt một tiếng vào cổ tay của Lệ Thắng Nam! Lúc này Lệ Thắng Nam mới biết bà ta là Phùng Anh, trong lòng tuy sợ nhưng vẫn cậy mình có hai thanh bảo kiếm, thầm nhủ: “Hai vợ chồng họ cùng nổi danh như nhau. Đường Hiểu Lan ngại thân phận nên chắc không liên thủ với vợ tấn công mình, mình có hai cây bảo kiếm trong tay, không tin chẳng địch nổi cành liễu của bà ta.” Nào ngờ từ nhỏ Phùng Anh đã được chân truyền của Thiên Sơn nữ hiệp, nay đã gần sáu mươi tuổi, công lực đã đến mức lư hỏa thuần thanh, tuy chỉ cầm một cành liễu nhưng đã hơn bất cứ loại binh khí nào. 

Lệ Thắng Nam tay trái giơ ngang kiếm hộ thân, tay phải lia cây Tài vân kiếm trong không trung, chém vào cành liễu, chỉ nghe soạt một tiếng, mu bàn tay của Lệ Thắng Nam đã trúng một roi, nhưng nàng chỉ chém rụng được hai chiếc lá trên cành cây liễu. Phùng Anh cũng giật mình, chiêu này của bà ta vốn là đánh vào hổ khẩu của Lệ Thắng Nam buộc nàng phải buông kiếm, nhưng lại đánh trúng vào mu bàn tay, vả lại đã đánh liền ba chiêu mà Lệ Thắng Nam đều tránh được. Số là Lệ Thắng Nam vừa cảm thấy không ổn thì lập tức sử dụng Thiên la bộ pháp, cho nên Phùng Anh cũng chẳng làm gì được nàng. 

Phùng Anh thầm nhủ: “Chả trách nào mà ả này đoạt được bảo kiếm của Kinh Thiên, võ công quả nhiên hơi quái dị, cả mình cũng không nhận ra lộ số của ả. Xem ra phải đánh trên mười chiêu mới được.” Lệ Thắng Nam vừa đánh thanh kiếm ra chợt cảm thấy ở đầu kiếm tựa như có một luồng lực đạo ngược lại dẫn ra ngoài, cây Du long kiếm suýt nữa rơi khỏi tay, Lệ Thắng Nam cả kinh vội vàng lia cây Tài vân kiếm chém vào cành liễu, hóa giải tình thế nguy hiểm cho Du long kiếm. 

Chỉ thấy Phùng Anh múa cành liễu như con linh xà chỉ đông quét tây, phiêu hốt bất định, khiến Lệ Thắng Nam phải luống cuống không biết bà ta sẽ đánh từ hướng nào, cây bảo kiếm vừa bị cành liễu giáng vào thì Lệ Thắng Nam bất đồ lạnh mình! 

Té ra Phùng Anh đang thi triển tâm pháp nội công ảo diệu nhất, bà ta dùng tự quyết chữ niêm (dán) để đoạt bảo kiếm của Lệ Thắng Nam, nhành liễu cứ đảo theo mũi kiếm của Lệ Thắng Nam, vừa có cơ hội thì lại phất lên lưng kiếm, may mà Lệ Thắng Nam có hai thanh bảo kiếm, cây kiếm bên trái gặp nguy thì cây kiếm bên phải đến cứu, cây kiếm bên phải gặp nguy thì cây kiếm bên trái đến cứu, nếu chỉ có một thanh kiếm thì đã sớm bị bà ta đoạt, đánh được mấy mươi chiêu thì Lệ Thắng Nam đổ mồ hôi ròng ròng, chỉ còn có thể chống đỡ chứ chẳng phản đòn được. Nhành liễu của Phùng Anh không ngừng đánh vòng tròn, vòng tròn càng lúc càng thu nhỏ, chỉ trong chốc lát Lệ Thắng Nam cảm thấy không thể thi triển được hai cây kiếm nữa, toàn thân bị cành liễu bao vây. 

Lại nói khi Kim Thế Di đến nơi thì thấy Lệ Thắng Nam đang khổ đấu với Phùng Anh, còn Đường Hiểu Lan thì đứng trên sườn đồi, chàng thất kinh. May mà khinh công của chàng cực kỳ cao cường, tương đương với vợ chồng Đường Hiểu Lan, chàng vừa thấy hai người thì lập tức nấp vào chỗ khuất; còn Đường Hiểu Lan thì cũng đang chú ý đến cuộc đấu, cho nên vẫn không phát giác ra Kim Thế Di. 

Kim Thế Di thầm kêu khổ, nhủ rằng: “Nếu mình muốn cứu nàng thoát hiểm. cố gắng vẫn có thể làm được, nhưng như thế thì khó thoát khỏi tai mắt của bọn họ. Nếu muốn ngầm giúp đỡ thì không thể được, làm thế nào đây?” chàng vừa nghĩ thì chợt nghe cách đó mấy trượng tựa như có tiếng loạt soạt, Kim Thế Di nhìn kỹ thì thấy có hai người đang ẩn thân trong bụi cỏ, chỉ lộ ra một nửa bên mông, Kim Thế Di nhìn kỹ, vì hai người này có thân hình đặc biệt, cuối cùng chàng đã nhận ra đó là Qui Tàng Tử và Thích Đạo An. 

Hai người này trị thưu ở một sơn động gần đấy, lúc này thương thế đã giảm quá nửa, bọn chúng cũng nghe thấy tiếng chém giết nên ra đến đây, tưởng rằng hai người Chung, Lý bị bao vây, không ngờ lại phát hiện vợ chồng Đường Hiểu Lan. Hai người này trước đây đã suýt mất mạng trong tay Đường Hiểu Lan, vừa thấy vợ chồng họ thì hoảng hồn nên nấp vào bãi cỏ, không dám thở mạnh? Kim Thế Di đang nghĩ cách cứu Lệ Thắng Nam thì chợt nghe Đường Hiểu Lan quát: “Là ai lén lút nấp ở đó?” KimThế Di cả kinh, chỉ thấy vợ chồng Đường Kinh Thiên đã phóng tôi chỗ Qui Tàng Tử và Thích Đạo An, té ra hai người này tuy nín thở nhưng khi nghĩ đến trận chiến năm xưa với Đường Hiểu Lan thì không khỏi run cầm cập, cũng ngay lúc này Phùng Anh cũng quát: “Sao còn chưa buông kiếm?” rồi cành liễu đánh một vòng, quấn lấy chuôi kiếm Du long. Lệ Thắng Nam làm sao chịu nổi, chợt cảm thấy đau nhói tim, hổ khẩu rách toạc, cây Du long kiếm trên tay trái đã bị Phùng Anh giật mất. 

Khi Đường Kinh Thiên sắp tới nơi, Kim Thế Di chợt nảy ra một ý, chàng phóng vọt người lên, khoảng cách giữa chàng với hai người kia chỉ có mấy bước, chàng vừa vọt thì đã tới, nhanh như điện chớp giở Thích Đạo An dậy, tay trái nắm xương tỳ bà của y, tay phải lột mặt nạ của y mau chóng đeo lên mặt, rồi tiện tay chụp lấy Qui Tàng Tử, hai ngón tay cái chia nhau ấn vào huyệt đại chuy trên cổ của hai người. 

Kim Thế Di thực hiện động tác liền một mạch, Đường Kinh Thiên chợt thấy có một bóng đen nhảy tọt ra thì thất kinh, chỉ nghe vù một tiếng, Kim Thế Di đã giở Thích Đạo An và Qui Tàng Tử phong vút qua đầu chàng. 

Lúc này đã nửa đêm, tuy có trăng nhưng rốt cuộc cũng không sáng bằng ban ngày, Kim Thế Di lại mang mặt nạ, Đường Kinh Thiên chỉ thấy một bóng đen, chàng ta nằm mơ cũng không ngờ đó là Kim Thế Di. 

Phùng Anh đánh một chiêu đắc thủ, bà ta hạ cành liễu, ném cây Du long kiếm ra cách đó hơn mười trượng, rồi lại giật luôn bao kiếm, Lệ Thắng Nam hoảng hồn phóng vọt người lên, Phùng Anh lại vung cành liễu soạt một tiếng, đã đánh trúng vào huyệt chí đường ở bối tâm của nàng. 

Lệ Thắng Nam có mặc ngọc giáp hộ thân, vừa nghe tiếng gió lướt ở sau lưng thì lập tức thi triển công phu Điên đảo huyệt đạo, dù như thế nhưng Phùng Anh đã dồn nội gia chân lực vào cành liễu, tuy là một cành liễu mềm mại nhưng trở nên cứng rắn hơn cả phán quan bút, Lệ Thắng Nam bị bà ta điểm trúng thì đau đến nỗi hai mắt tối sầm, loạng choạng chạy được thêm mấy bước nữa. 

Phùng Anh quát: “Ngươi chạy cũng không thoát được đâu, hãy mau theo ta.” Bà ta đã nhắm thẳng vào huyệt chiêu hồn ở sau mang tai của Lệ Thắng Nam, chỉ cần điểm nhẹ thì Lệ Thắng Nam sẽ lập tức hôn mê, nhưng chỉ vì một chút từ bi, tiếc cho võ công của Lệ Thắng Nam cho nên cành liễu đã chỉ vào huyệt đạo mà vẫn chưa điểm xuống. 

Trong khoảnh khắc ấy, chỉ nghe mấy tiếng vù vù vang lên, té ra Kim Thế Di đã dùng hai tên tù binh làm vũ khí ném về phía Phùng Anh. Phùng Anh đã biết Kim Thế Di nhảy ra khỏi bụi cỏ, nhưng bà không ngờ rằng chàng đến nhanh như thế, không khỏi giật mình thầm nhủ: “Chả lẽ là Mạnh Thần Thông?” khi Kim Thế Di ném Thích Đạo An và Qui Tàng Tử tới thì cũng đã giải huyệt đạo cho bọn chúng, cả hai người này đang lúc nguy cấp mà thấy tay chân linh hoạt, không hẹn mà đều thi triển tuyệt kỹ bình sinh, Thích Đạo An đang lơ lửng trên không, vỗ xuống một chưởng, cành liễucủa Phùng Anh đã chĩa thẳng vào huyệt hôn huyền ở phía mang tai của Lệ Thắng Nam, bị chưởng phong của y quét qua một bên, võ công của Phùng Anh đã đạt đến mức lư hỏa thuần thanh, bà ta chỉ lia nhành liễu thì đã điểm vào mạch môn của Thích Đạo An, soạt một tiếng, cành liễu của Phùng Anh đã bị gãy thành hai đoạn, còn Thích Đạo An thì tựa như con diều đứt dây bổ nhào xuống đất. Té ra tuy y đã bị điểm trúng huyệt đạo nhưng cũng đã chụp trúng cành liễu, trước khi nội lực tan biến đã bẻ gãy cành liễu của Phùng Anh. 

Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Qui Tàng Tử vung cây phất trần, quấn lấy nửa cành liễu của Phùng Anh. Phùng Anh dùng lực kéo ra ngoài, cành liễu cong như cây cung rồi bật ngược trở ra, Qui Tàng Tử làm sao có thể chịu nổi, hổ khẩu tê rần, cây phất trần rơi xuống đất, vai đã bị cành liễu đâm một lỗ, Qui Tàng Tử cũng ngã xuống, chẳng hề nhúc nhích nổi. Những chiêu ấy tuy diễn ra nhanh như chớp nhưng chỉ trong chớp mắt thì Kim Thế Di đã cứu được Lệ Thắng Nam ra khỏi nguy hiểm. Đường Hiểu Lan đứng nhìn mà thất kinh, lúc đầu ông ta còn nghi ngờ đó là Mạnh Thần Thông, nhưng nhìn kỹ lại thì chẳng giống một ông già ngoài sáu mươi tuổi, thầm nhủ: “Ở đâu ra một kẻ có võ công cao cường thế này, không ngờ ngoài Mạnh Thần Thông lại xuất hiện một nhân vật lợi hại đến thế!” thế rồi lớn giọng kêu: 

“Đường Hiểu Lan ở Thiên Sơn mong lấy võ kết bạn, nếu các hạ đã đến đây, sao không dừng lại để đôi bên cùng trau dồi võ học?” Kim Thế Di nào dám đáp, kéo Lệ Thắng Nam chạy nhanh hơn. Đường Hiểu Lan nhíu mày, quát: “Nếu các hạ không ngừng bước, xin thứ Đường mỗ vô lễ !” rồi vung tay ra, ba cây Thiên Sơn thần mãng xé gió bay tới? Đường Hiểu Lan là Thái sơn bắc đẩu của võ lâm, ông ta đến đâu cũng được người ta tôn trọng, thế nhưng Kim Thế Di lại không thèm trả lời, ông ta đâu biết rằng chàng không dám đáp, chỉ tưởng Kim Thế Di coi thường nên mới bắn ra ba cây Thiên Sơn thần mãng? Thiên Sơn thần mãng là loại ám khí lợi hại nhất trong thiên hạ, lại thêm do đệ nhất cao thủ phóng ra, Kim Thế Di nghe kình xé gió thì không khỏi lo lắng, thế rồi thi triển công phu Đàn chỉ thần công đã học được trong bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, bắn hai cây thần mãng bật ra. Nhưng cũng chỉ bắn được hai cây, cây thứ ba đã bắn vào bối tâm của Lệ Thắng Nam, chỉ nghe bốp một tiếng, Lệ Thắng Nam bật lên tựa như trái bóng da rồi rơi xuống cách đó năm sáu trượng. Chỗ nàng vừa mới chạy qua có hai vật phát sáng, trông giống như mũi tên. Kim Thế Di thở phào, vội vàng thi triển khinh công tuyệt đỉnh Yến tử tam sao thủy, kéo Lệ Thắng Nam đứng dậy, sau ba lần trồi hụp thì đã vọt ra đến nửa dặm. Té ra với công lực của Lệ Thắng Nam thì không thể nào chống đỡ nổi Thiên Sơn thần mãng của Đường Hiểu Lan, may mà nàng có cầm cây Tài vân kiếm, Đường Hiểu Lan đứng cách nàng rất xa, khi Thiên Sơn thần mãng bắn tới thì đã hết đà, trong khoảnh khắc nguy ngập, nàng lia thanh kiếm chặt gãy cây Thiên Sơn thần mãng ấy. Nhưng dù như thế nàng vẫn bị một nguồn lực đạo cương mãnh đánh bật bay lên, rồi nàng lại lộn hai vòng trên không trung mới có thể hóa giải được lực tác động vào người. 

Lệ Thắng Nam hoảng sợ đến nỗi hồn bay phách tán, Đường Hiểu Lan cũng thầm thất kinh, Lệ Thắng Nam chỉ nhờ cây kiếm mà chặt gãy Thiên Sơn thần mãng của ông ta, còn Kim Thế Di thì dùng Đàn chỉ thần công búng hai cây thần mãng! Kim Thế Di vì né tránh Đường Hiểu Lan cho nên sau khi xuất hiện thì chỉ dùng những võ công học được trong bí kíp của Kiều Bắc Minh, chàng chẳng hề lộ một chút công phu của bổn môn, dù Đường Hiểu Lan kiến thức sâu rộng nhưng lúc này cũng chẳng biết chàng là ai. 

 Phùng Anh đã bắt được Thích Đạo An và Qui Tàng Tử, bà ta toan đuổi theo nhưng Đường Hiểu Lan đã ngăn lại, nói: “Té ra là hai gã này. Chúng ta cứ hỏi bọn chúng. Võ công của tên lúc nãy chẳng kém gì chúng ta, lúc này đuổi theo chỉ e chẳng kịp nữa.” Đường Hiểu Lan cứ tưởng rằng Thích Đạo An, Qui Tàng Tử cùng một phe với Kim Thế Di, nào ngờ hoàn toàn đã sai. Ngay lúc này, chợt nghe tiếng bước chân từ xa vọng tới, Đường Kinh Thiên cầm cây Du long kiếm định bước ra chặn kẻ địch, Đường Hiểu Lan đã ngăn: “Khoan đã, hình như là người bổn phái!” thế rồi dùng công phu Truyền âm nhập mật của bổn môn hú dài một tiếng, chỉ trong khoảnh khắc quả nhiên đã nghe Lý Tâm Mai và Chung Triển kêu: “Sư phụ!” “Dượng”, té ra hai người này đã nghe tiếng xé gió của Thiên Sơn thần mãng nên chạy tới. 

Lại nói Kim Thế Di kéo Lệ Thắng Nam chạy được mấy dặm, nghe ở phía sau không có người đuổi theo thì Lệ Thắng Nam mới yên dạ chậm bước. Ngay lúc này, chợt nghe Kim Thế Di bật cười, Lệ Thắng Nam trách: “Muội vừa gặp nguy, Du long kiếm đã bị người ta lấy lại, còn huynh thì cười!” Kim Thế Di nói: “Muội hãy nhìn lại mình.” Lúc này trời còn sớm, bên đường có dòng suối nhỏ, Lệ Thắng Nam soi mình xuống dòng suối, nàng kêu ối chao một tiếng rồi lấy tay vuốt tóc mình lại, nghiến răng nói: “Hay lắm, rồi sẽ có một ngày ta sẽ cắt đầu Đường Hiểu Lan nhà ngươi ?” số là khi Lệ Thắng Nam dùng Tài vân kiếm chống đỡ Thiên Sơn thần mãng, vì dùng lực quá mạnh, tuy Thiên Sơn thần mãng đã bị chặt gãy, nhưng khi rút kiếm về thì nàng đã bị cắt quá nửa tóc trên đầu, trở nên nam chẳng giống như nam, nữ chẳng giống nữ. Lúc nãy vì đang chạy gấp nên nàng và Kim Thế Di không nhận ra. 

Kim Thế Di nói: “Là bảo kiếm của muội đã tự cắt, sao muội lại trách Đường Hiểu Lan? Theo huynh thấy, Đường Kinh Thiên lấy lại Du long kiếm cũng là chuyện tốt, nếu cha mẹ của y ra mặt, muội chạy làm sao thoát?” Lệ Thắng Nam nói: “Chả lẽ muội sợ vợ chồng Đường Hiểu Lan? Hừ, muội thấy huynh chỉ vì Lý Tâm Mai, dù Đường Hiểu Lan có muốn giết muội, huynh cũng không chịu ra mặt!” Kim Thế Di mỉm cười: “Muội nghĩ huynh như thế sao?” Lệ Thắng Nam chỉ vì giận nên mới nói thế, nhưng lúc này thì hối hận. Lúc nãy nàng vừa mới bị Phùng Anh chế phục, nếu Kim Thế Di không ra tay thì nàng làm sao thoát khỏi bà ta. 

Kim Thế Di nghiêm mặt nói: “Nếu muội cứ làm càn nữa, huynh sẽ mặc kệ. Huynh không muốn muội đối đầu với phái Thiên Sơn, vả lại huynh cũng không phải là đối thủ của Đường Hiểu Lan.” Rồi chàng đưa hai ngón tay ra cho nàng xem, hai đầu ngón tay đã bầm đen, đó là lúc nãy chàng dùng công phu Đàn chỉ thần công búng vào hai cây Thiên Sơn thần mãng cho nên mới bị thương. Lệ Thắng Nam nói: “Được, chúng ta gác chuyện phái Thiên Sơn sang một bên, giết Mạnh Thần Thông xong sẽ tính tiếp, lúc đó dù muội có đối đầu với Đường Hiểu Lan cũng không cần huynh giúp, huynh có yên tâm chưa? Huynh có đau không?” nàng vừa nói vừa bôi thuốc cho Kim Thế Di, rồi lại thổi nhẹ lên ngón tay của chàng, bộ dạng nàng rất dịu dàng khiến Kim Thế Di dù muốn trách cũng không mở miệng được. Lệ Thắng Nam lấy cái khăn bằng tơ, buộc tóc lại. 

Hai người tiếp tục lên đường, đến tối thì đến một ngôi thành lớn, Lệ Thắng Nam nói: “Đây là đâu?” Kim Thế Di nói: “Đây là huyện thành Định Hưng, cách Bắc Kinh còn ba bốn ngày đường.” Đang nói thì chợt nghe tiếng ngựa lộc cộc vang lên, có hai thớt ngựa ở phía sau phóng tới. 

Trên lưng ngựa là một ông già, thuật cỡi ngựa của ông già này rất giỏi, chỉ nghe tiếng roi ngựa vang lên, hai thớt ngựa đã lướt qua bên mình Kim Thế Di! Kim Thế Di chợt khựng lại, Lệ Thắng Nam nói: “Thế Di, huynh có nhận ra hai người này không?” 

Kim Thế Di nói: “Đừng lên tiếng, hãy nghe họ nói chuyện!” hai thớt ngựa đã phóng ra đến mười mấy trượng, nhưng hai người Kim, Lệ rất thính tai, nghe câu được câu mất, một người nói: “Đêm nay chúng ta sẽ ở lại Định Hưng.” Một người nói: “Còn Vân đại ca ở trong thành nữa! Đêm nay chúng ta đi thêm một đoạn để đến thăm y.” 

Người kia cười ha hả: “Đúng thế, Vân nhị ca cũng giống như chúng ta, cũng đã nhận được...” nhưng lúc này thì không nghe được họ nói gì nữa. Lệ Thắng Nam nói: 

“Những lời này có nghĩa gì? Chắc là hai lão già nghèo tiếc tiền không muốn ở khách sạn, nhớ đến một người bằng hữu ở đây cho nên đến nhà y tá túc.” Kim Thế Di nói:“Muội đã quá coi thường người ta, muội có biết hai ông già này là ai không?” Lệ Thắng Nam nói: “Muội biết thì đâu cần hỏi huynh?” nàng vốn có ý nói đùa, dụ cho Kim Thế Di nói ra. Quả nhiên Kim Thế Di cười rằng: “Hai ông già ấy trông nhà quê nhưng rộng rãi hơn muội nhiều. Một người là Liễu trang chủ của Tam Liễu trang ở Sơn Đông, gia tài lên đến bách vạn, nhưng rất ít người biết ông ta là một cao thủ võ lâm.” Lệ Thắng Nam nói: “Ồ, có phải huynh muốn nói đến Liễu Tam Xuân không?” 

Kim Thế Di nói: “Ba năm trước, có lẽ muội vẫn không phải là đối thủ của ông ta.” Lệ Thắng Nam nói: “Làm sao huynh biết?” Kim Thế Di nói: “Khi mới ở Xà đảo đến Trung Nguyên, huynh rất thích tìm những người có tiếng tăm trong võ lâm trêu chọc họ cho nên biết rất nhiều.” Lệ Thắng Nam cười nói: “Lúc đó người trong thiên hạ gọi huynh là Độc thủ phong cái, có đúng không?” Kim Thế Di nói: “Huynh cũng đã tìm đến Liễu Tam Xuân, ông ta không dám tỉ thí, đến tối thì huynh đánh cắp bạc của ông ta, ông ta là kẻ ham tài như mạng, buộc động thủ với huynh, đến chiêu thử bảy thì tát ông ta một bạt tai, phun một bãi nước bọt. Huynh thấy ông ta có thể chống đỡ được bảy chiêu, vốn là đánh cắp châu báu trị giá đến mười vạn nhưng kết quả chỉ lấy vài nén vàng mà thôi.” Lệ Thắng Nam cười nói: “Nếu thế, ông ta chịu một cái tát và một bãi nước bọt của huynh cũng đáng. Còn ông già kia là nhân vật nào?” Kim Thế Di nói: “ông già kia gọi Vạn Ứng Đang, vì ông ta có bộ mặt ngựa nắng quái dị, cho nên người ta gọi ông ta là Vạn Vô Thường. Ông ta là chưởng môn nhân của Hắc hổ quyền, ngày nọ huynh đến nơi khiêu chiến, võ công của người này giỏi hơn Liễu Tam Xuân, huynh phải đánh đến chiêu thứ hai mươi ba mới thắng được ông ta một chưởng.” Lệ Thắng Nam nói: “Hai người này coi như cũng là cao thủ trên giang hồ, vậy họ đến đây cũng đâu có chuyện gì đặc biệt?” Kim Thế Di nghênh mặt nói: “Hai người này chưa bao giờ lộ mặt trên giang hồ, nhất là Liễu Tam Xuân.” Lệ Thắng Nam nói: “Đã thế thì càng không có gì đặc biệt!” Kim Thế Di nói: “Chính là như thế mới đáng chú ý. Họ đang vội vàng lên đường, mà con đường này lại dẫn đến kinh thành, chắc chắn họ đang đến Bắc Kinh. Tây Môn Mục Dã đang muốn lôi kéo những người đứng ngoài chính phái, nói không chừng họ có liên quan đến Tây Môn Mục Dã. Có lẽ chúng ta sẽ biết được tin tức từ họ.” Lệ Thắng Nam nói: “Huynh nói cũng có lý, nhưng theo muội thấy, bọn người áo vàng đi theo Tây Môn Mục Dã võ công cao cường, còn những người này thì vẫn chưa đủ tư cách đi theo Tây Môn Mục Dã.” Kim Thế Di nói: “Lúc nãy họ nói đến ‘Vân nhị ca’, đó chắc là Vân Trung Hiện, kẻ đang sống tại cửa đông Gia Hưng, người này là chưởng môn của Du Long đao, đây cũng là kẻ giàu có, nhưng lại có tiếng trọng nghĩa khinh tài.” Lệ Thắng Nam nói: “Vậy đêm nay chúng ta phải đến nhà họ Vân thăm dò.” Hai người Kim, Lệ tìm một căn khách sạn, ăn cơm tối xong cả hai ngồi xếp bằng tịnh tọa, đến canh hai thì Lệ Thắng Nam mặt tươi cười nói: 

“Tâm pháp nội công chính tông của phái Thiên Sơn quả nhiên kỳ diệu, so với những thứ trong bí kíp võ công của Kiều tổ sư là một chính một phản, đêm qua muội không ngủ, giờ đây chỉ ngồi xếp bằng đả tọa một lúc thì tinh thần đã khỏe lại.” Kim Thế Di nói: “Đã đến lúc chúng ta lên đường.” Lệ Thắng Nam mở cửa sổ, hai người chui ra, Kim Thế Di chợt nói: “Ôi chao, suýt nữa huynh quên trả tiền phòng.” Rồi lấy ra một nén bạc ném vào bên trong, rồi mới cùng Lệ Thắng Nam phóng lên mái nhà. 

Nhà họ Vân nằm ở phía đông thành, cách nội thành không quá mấy dặm, chỉ trong chốc lát hai người đã tới nơi. Nhưng bên trong phòng ốc rất nhiều, trong lúc gấp gáp họ không biết Vân Trung Hiện đang ở đâu. Kim Thế Di đang định tìm nơi có ánh đèn xem thử, chợt nghe có tiếng khóc và tiếng roi đánh, chàng thầm nhủ: “Vân Trung Hiện nổi danh tốt bụng, lẽ nào cũng đánh đập kẻ ăn người ở như bọn tài chủ khác?” hai người phóng tới một căn phòng nhỏ, chỉ thấy có một người đàn bà to béo đang cầm roi da đánh vun vút, mắng một nàng thiếu nữ: “Lão gia thương xót mẹ ngươi chết không có quan tài cho nên mới bỏ mười lạng bạc cho cha ngươi, nếu chẳng phải lão gia vì hành thiện thì đã chẳng cần ngươi. Đêm nay lão gia chỉ muốn ngươi hầu hạ mà ngươi lại khóc kể om sòm.” Thiếu nữ ấy quỳ xuống nói: “Lão ma ma, cầu xin người hãy nói một tiếng cho tôi, từ nhỏ tôi đã được hứa gả cho người khác.” Người đàn bà lại đánh xuống một roi, mắng: “Ngươi quả thật không biết trời cao đất dày, lão gia đã mua ngươi, ngươi đã là người của lão gia, mặc ngươi có hứa gả cho ai hay chưa !” 

Kim Thế Di nổi giận, thầm nhủ: “Té ra Vân Trung Hiện bỏ ra mười lạng bạc để mua khuê nữ hoàng hoa về hầu hạ cho mình.” Chợt nghe ối chao một tiếng, đầu lưỡi của mụ ác phụ thè ra rồi đổ sầm xuống, té ra Lệ Thắng Nam đã vung một cây thấu cốt đinh vào cổ họng của mụ ta. 

Hai người Kim, Lệ đẩy cửa bước vào, nàng thiếu nữ hoảng sợ run rẩy, nói chẳng ra lời, Lệ Thắng Nam nói: “Đừng sợ, cô nương đang sống ở đâu, lát nữa tôi sẽ đưa cô nương về.” Thiếu nữ ấy đập đầu mấy cái rồi mới nói ra nơi mình ở. 

Lệ Thắng Nam quay đầu lại cười: “Coi như đêm nay muội đã làm chuyện hiệp nghĩa.” Kim Thế Di nói: “Có người đến.” Bên ngoài có người kêu: “Ngụy ma ma, Ngụy ma ma!” Lệ Thắng Nam bóp mũi, giả giọng của mụ ác phụ lúc nãy: “Chuyện gì thế?” người kia nói: “Đêm nay lão gia có khách, không cần Hỷ Liên hầu hạ. Bà đừng đánh ả nữa.” Lệ Thắng Nam đợi y bước vào cửa thì tóm lấy y, cười nói: “Bụng dạ của ngươi cũng không xấu lắm.” Người ấy bị nàng tóm lấy đau đến tận xương tủy, vội vàng kêu: “Nữ đại vương tha mạng.” Lệ Thắng Nam cười rằng: “Tha cũng được, chủ nhân của người đang ở đâu?” tên gia đinh run bần bật nói: “Ở Trầm Hương các.” Lệ Thắng Nam quát: “Hồ đồ, ai mà biết Trầm Hương các ở đâu?” tên gia đinh nói: “Ở... ở hướng tây, có một cái hồ, bên cạnh hồ có một căn gác, căn gác đó là...” nói chưa dứt thì đã đổ sầm xuống đất, té ra Lệ Thắng Nam vừa nghe nói đến đây thì đã điểm huyệt đạo của y. Lệ Thắng Nam nói: “Cô nương cứ ngồi im ở đây, đợi tôi thu thập xong Vân lão tặc thì sẽ đưa cô nương trở về.” An ủi xong nàng thiếu nữ thì cùng Kim Thế Di đến Trầm Hương các. 

Kim Thế Di cười nói: “Huynh vốn chỉ muốn đến thăm dò, giờ đây cùng muội làm hiệp khách. Thắng Nam, muội có mang theo kê minh ngũ cổ phản hồn hương không?” Lệ Thắng Nam cười nói: “Đúng, nhà họ Vân đông người, chúng ta tuy không sợ nhưng hễ động thủ thì bọn người này sẽ quấy nhiễu, muội sẽ đi đánh thuốc mê người nhà của y, còn huynh thì bắt ba lão già này.” Hai người chia nhau hành sự, chỉ trong chốc lát Kim Thế Di đã đến Trầm Hương các, chàng phóng vọt lên mái nhà nhìn xuống bên dưới. 

Ba người này tuy là võ lâm cao thủ nhưng khinh công của Kim Thế Di trác tuyệt, bọn họ chẳng thể phát hiện được gì. 

Chỉ thấy trong gác có bốn người, ba lão già ngồi ở chiếc bàn bên cạnh cửa sổ, phía trước là một bình trà thơm, ánh trăng rọi xuống hồ sen, sen trắng đưa hương, cảnh vật rất thanh nhã. Kim Thế Di thầm cười: “Vân lão tặc thật biết hưởng thụ.” Có một hán tử đứng bên cạnh Vân Trung Hiện, trông bộ dạng y có lẽ là quản gia, vừa bước vào không lâu, bẩm rằng: “Lần này được huyện thái gia sai nha dịch giúp đỡ, đã thu được nợ, Đồng Thiện Đường trong huyện mời sư phụ quyên một chút tiền.” Quản gia này cũng là đồ đệ của y, sau khi y đếm tiền xong thì đến báo cáo. Vân Trung Hiện nhấp một ngụm trà, cười nói: “Chuyện này phải nên làm, chỉ quyên năm trăm lượng mà thôi. Ngày mai ngươi cứ đem đi, bảo bọn chúng lấy danh nghĩa của ta phát cho người nghèo, ngươi phải kiểm soát cho ta đừng để bọn chúng táy máy.” Liễu Tam Xuân cười ha hả: “Vân nhị ca đúng là người nhân hậu.” Vạn Ửng Đang nói: “Vân nhị ca nhờ huyện thái gia thúc nợ, con nợ không thể oán trách ông ta. Ông ta chỉ bỏ ra một số tiền nhỏ thì đã có nhiều người cảm kích. Liễu đại ca, tôi thấy huynh phải học hỏi theo.” Vân Trung Hiện cười ha hả: “Hai người nói như thế ta cứ tưởng là đã dùng tiền mua danh dự, giả mạo làm thiện.” Vạn Ứng Đang vội vàng nói: “Vân huynh đừng đa tâm, tôi đang bội phục Vân huynh, nghe nói những kẻ tự xưng hiệp nghĩa cũng coi Vân huynh là đồng đạo, hà hà.” Vân Trung Hiện vuốt râu cười: “Đôi bên đều biết nhau, có gì đáng cười? Nói thực, nếu chẳng phải ta qua lại với đám người ấy, có lẽ Tư Không đại nhân cũng không mời ta.” Liễu Tam Xuân nói: “Té ra Vạn huynh cũng nhận được thiệp mời, chừng nào thì lên đường?” Vân Trung Hiện tiếp lời: “Ta đang muốn hỏi hai vị, hai vị thấy có nên đi hay không?” Liễu Tam Xuân nói: “Sao lại không đi?” Vân Trung Hiện nói: “Chúng ta đều là những người có gia sản, nếu đi tới đắc tội anh hùng hào kiệt trên giang hồ, nhưng nếu không đi thì có lỗi với Tư Không đại nhân, e rằng sẽ rước họa. Tiến thoái lưỡng nan, biết làm thế nào đây?” Vạn Ứng Đang cười ha hả: “E rằng lần này Vân huynh đã quá cẩn thận, sau này coi chừng hối hận không kịp!” Vân Trung Hiện nói: “Vậy mong Vạn huynh chỉ giáo!” Vạn ứng Đang nói: “Lần này hoàng thượng hạ quyết tâm bắt tất cả những anh hùng hào kiệt dám chống lại triều đình, Tư Không đại nhân mời chúng ta vào kinh chính là muốn chúng ta giúp sức...” Vân Trung Hiện không để y nói xong thì đã cướp lời: “Không giấu gì hai lão ca, tôi đã bỏ tập võ nhiều năm nay?” Vạn ứng Đang nói: “Vân nhị ca cần gì phải khiêm tốn, ai cũng biết Du long đao của đại ca là nhất tuyệt trong võ lâm. 

Hơn nữa, đại nội cao thủ nhiều như mây, cũng chưa chắc cần mấy lão già chúng ta liều mạng. Có lẽ cũng như huynh nói, vì chúng ta ít nhiều cũng biết những nhân vật tự xưng chính phái cho nên Tư Không đại nhân mới mời chúng ta để khỏi có người lôi kéo. Nếu chúng ta không đi thì Tư Không đại nhân sẽ nghi ngờ.” Vân Trung Hiện nói: “Tin tức của hai vị mau mắn thật, lần này huynh thấy Tây Môn Mục Dã có thể quét sạch được các môn phái hay không?” Vạn ứng Đang nói: “Tây Môn Mục Dã xuống núi rất bí mật, Vân huynh đã biết có thể nói tin tức cũng rất mau lẹ. Nhưng có một việc Vân huynh còn chưa biết, nửa tháng trước Tây Môn Mục Dã nhân lúc các phái tụ tập ở Mang Sơn đã tấn công các danh môn chính phái, số bị tử thương và bắt sống không thể tính xuể, chính vì tôi và Liễu đại ca biết tin này cho nên mới vội vàng lên kinh.” Liễu Tam Xuân nói: “Chắc là Tư Không đại nhân mời chúng ta vì sợ một mình Tây Môn Mục Dã chiếm hết công lao. Tây Môn Mục Dã rất ác độc, chúng ta dựa vào Tư Không đại nhân sẽ tốt hơn nhiều.” Vạn Ứng Đang nói: “Cho nên nếu Vân nhị ca cứ an thân thủ phận thì chỉ e chưa bị người chính phái trả thù thì đã rơi vào tay Tây Môn Mục Dã !” Kim Thế Di nghe đến đây thì đã hiểu được bảy tám phần, ngay lúc này chợt nghe Vân Trung Hiện kêu ồ một tiếng, đứng đậy. 

Hồi Thứ Ba Mươi Chín

     Tên đệ tử quản gia vội vàng hỏi: “Sư phụ, chuyện gì thế?” Vân Trung Hiện nói: “Lẽ ra lúc này bọn chúng đã đem tổ yến chưng đường phèn đến sao lại chẳng có ai cả? Ta phải ra xem thử.” Tên đệ tử quản gia lấy làm lạ, nói: “Người cần gì phải đích thân đi xem, để đệ tử kêu bọn chúng bưng đến là được ?” Vân Trung Hiện nói: “Bọn này chỉ toàn tham ăn làm biếng, lần này ta sẽ đích thân dạy dỗ bọn chúng!” Tên đệ tử ấy càng nghi hoặc, sư phụ không tiếp khách mà đi dậy dỗ bọn nha đầu, chẳng phải trái với lẽ thường sao? Y nghĩ chưa dứt thì chợt nghe một giọng nói trong trẻo vang lên: “Tổ yến đến đây!” cũng trong lúc này, hai tiếng vút vút vang lên, hai cây thấu cốt đinh của Vân Trung Hiện cũng phóng ra. Nha hoàn này chính là Lệ Thắng Nam, hai cây thấu cốt đinh bay ra thì lập tức nghe ối chao một tiếng, một người ngã xuống đất đó chính là Liễu Tam Xuân. 

Lần này Kim Thế Di đã chơi xỏ bọn chúng, chàng dùng công phu mượn lực Bốn lạng đẩy ngàn cân, y phóng ra hai cây mai hoa châm thì đã đẩy thấu cốt đinh của Vân Trung Hiện lệch hướng, chia nhau bay về phía Liễu Tam Xuân và Vạn Ứng Đang. Vạn Ứng Đang võ công cao hơn nên chỉ bị thấu cốt đinh bay sợt da, còn Liễu Tam Xuân thì bị bắn trúng vào huyệt hoàn khiêu ở khớp gối. Lệ Thắng Nam cười nói: “Tổ yến này không ngon tí nào!” rồi nàng trở tay lại, tát bốp vào mặt Vân Trung Hiện. 

Tiếp theo là nàng tung thủ pháp tiểu cầm nả thủ, chụp lấy xương tỳ bà của y. Không ngờ cú chụp này đã hụt, té ra bản lĩnh của Vân Trung Hiện tuy không bằng Lệ Thắng Nam nhưng cũng chẳng phải tay vừa, y bị Lệ Thắng Nam bất ngờ đánh cho một tát, trong lòng cả giận, nhân lúc Lệ Thắng Nam thay đổi thủ pháp thì đã rút đao liều mạng chém tới. 

Kim Thế Di cười rằng: “Bằng hữu, có nhận ra ta không?” Vạn Ứng Đang nghe thế thì run lẩy bẩy, kêu: “Ngươi... ngươi... ối chao Độc thủ phong cái!” Kim Thế Di nói: “Đúng thế, ta chính là Độc thủ phong cái Kim Thế Di năm xưa. Nếu không muốn mất mạng thì hãy đứng yên cho ta!” Vạn Ứng Đang tựa như nghe thánh chỉ, cứ đứng yên chẳng hề nhúc nhích. Tên quản gia chẳng biết lợi hại toan xông ra cửa chạy trốn, vừa mới giở chân thì đã bị Kim Thế Di tóm lại. 

Kim Thế Di khệnh khạng ngồi xuống, cười nói: “Để ta xem thử Du long đao pháp của Vân trang chủ thế nào. Một, hai, ba, bốn...” đã đến chiêu thứ mười bảy thì chỉ nghe keng một tiếng, cây đơn đao của Vân Trung Hiện rơi xuống đất, Lệ Thắng Nam tiện tay điểm ma huyệt của y. Vân Trung Hiện vốn có thể ứng phó trên hai mươi chiêu, chỉ vì nghe tên của Kim Thế Di cho nên tay chân bủn rủn. Lệ Thắng Nam cười nói: “Nếu chiếu theo quy củ của huynh, y có thể chống được mười bảy chiêu, muội cũng nên tha cho y. Nhưng bình sinh muội ghét nhất là giả dạng thiện lương, muội không thể tha được!” Liễu Tam Xuân bò dậy, van vỉ Kim Thế Di: “Kim... Kim đại hiệp, ngài... trước kia đã từng hứa không... không giết tôi.” Kim Thế Di gật đầu nói: “Đúng thế, năm xưa ta vốn chỉ có ý thử công phu của ngươi. Chẳng phải muốn lấy mạng ngươi.” Vạn Ứng Đang cũng vội vàng nói: “Kim đại hiệp, ngài cũng đã hứa với tôi như thế.” Kim Thế Di cười ha hả : “Còn may các người vẫn nhớ lời ta nói trước kia, nhưng có một điểm các người đã quên, lúc đó các người vẫn chưa làm chuyện gì ác, ta chỉ coi các người là võ lâm đồng đạo, chỉ trau dồi võ công với các người chứ không giết các người. Có đúng như vậy không?” Vạn Ứng Đang vội vàng nói: “Đúng thế, lúc đó ngài đã nói như vậy, nếu không tôi cũng chẳng dám đọ chiêu với ngài!” 

Kim Thế Di ngừng cười, lạnh lùng nói: “Nhưng nay các ngươi nối giáo cho giặc, hãm hại võ lâm đồng đạo, lẽ trời khó dung, Kim mổ này phải thay trời hành đạo!” Vân Trung Hiện vội vàng la lên: “Tôi vốn không muốn đi, đó là bọn chúng dụ dỗ tôi, lúc nãy chắc ngài cũng đã nghe... ngài tha mạng cho tôi, tôi nguyện dâng hết gia tài!” Có lẽ vì Lệ Thắng Nam mắng y là giả dạng thiện lương cho nên y mới nói ra câu cuối cùng. 

Hai người Liễu, Vạn mới lập tức kêu lên, một mặt đổ thừa cho nhau, một mặt thề thốt sẽ sửa đổi, chỉ mong Kim Thế Di tha mạng, từ rày chúng sẽ rút ra khỏi võ lâm. 

Kim Thế Di cười nói: “Đừng cãi nhau nữa, các người muốn ta tha mạng thì phải làm cho ta một chuyện.” Ba người lập tức đồng thanh nói: “Được, được!” Kim Thế Di nói: “Tư Không đại nhân mà các người nói là ai?” Vân Trung Hiện nói: “Đó là thống lĩnh ngự lâm quân Tư Không Hóa.” Kim Thế Di nói: “Tốt, ở đây có bút mực, mỗi người các ngươi đều viết cho ta...” Lệ Thắng Nam chợt cướp lời chàng: “Viết cho ta một bài thơ Đường!” Kim Thế Di chưng hửng, Lệ Thắng Nam nhướng mày nói : “Huynh cứ giao cho muội, đảm bảo huynh không sai.” Chàng biết nàng đã hiểu ý mình, nhưng chàng không biết vì sao nàng lại bảo ba người này viết một bài thơ Đường. 

Vân Trung Hiện nói: “Viết bài nào?” Lệ Thắng Nam làm ra vẻ nghĩ ngợi rồi nói: “Viết một bài không quá ngắn cũng không quá dài. Thôi được, hãy viết bài ‘Xem đệ tử của Công Tôn đại nương múa kiếm’ của Đỗ Phủ.” Liễu Tam Xuân và Vạn Ứng Đang tỏ vẻ ngượng ngùng, lắp bắp nói: “Tôi... tôi chưa đọc qua bài này” Vân Trung Hiện thì đắc ý bảo: “Được, tôi lập tức viết, thư pháp không đẹp, mong cô nương thông cảm.” Té ra hai người Liễu, Vạn là hạng dốt nát, Vân Trung Hiện là kẻ học đòi phong nhã, đọc thuộc thơ Đường, hai năm trước y đã viết bài thơ này tặng cho một đệ tử đắc ý. 

Lệ Thắng Nam nói: “Được, các ngươi chưa đọc qua bài này, vậy hãy bắt chước viết theo y, ta mặc kệ chữ các ngươi có đẹp hay không, chỉ cần các ngươi chú ý viết cho ta.” Vân Trung Hiện trải giấy, nâng bút viết: “Tích hữu giai nhân Công Tôn thị, nhất vũ kiếm khí động tứ phương. Quan giả như sơn sắc từ tang, thiên di vi chi đê ngang. Diệu như thúy xạ cửu nhật lạc, kiểu như quần đế vấn long tường. Lai như lôi đình thâu chấn nộ. Bãi như giang hải ngang thanh quan...” Kim Thế Di lớn giọng ngâm theo rồi khen rằng: “Thơ hay, thơ hay! Lai như lôi đình thâu chấn nộ. Bãi như giang hải ngang thanh quan. Kiếm thuật như thế quả thực ngàn năm sau cũng chẳng ai bằng! Thắng Nam, muội chọn bài thơ này thật có ý nghĩa, muội tập xong kiếm pháp cũng có thể được như đệ tử của Công Tôn đại nương!” Liễu Tam Xuân và Vạn Ứng Đang toát mồ hôi, viết theo Vân Trung Hiện từng chữ, chẳng dám chậm trễ. Vân Trung Hiện thấy chữ của bọn họ nghiêng nghiêng ngả ngả, tựa như trẻ con tập viết thì đắc ý lắm, đưa của mình cho Lệ Thắng Nam rồi cung kính nói: “Cô nương, mời cô nương đọc qua.” Lệ Thắng Nam cười nói: tốt, viết rất đẹp” nói xong chữ đẹp thì Lệ Thắng Nam xỉa chỉ vào cổ họng của y, Vân Trung Hiện nằm mơ cũng không ngờ Lệ Thắng Nam lại đột nhiên ra đòn sát thủ, y chỉ hự lên một tiếng thì cổ họng đã bị đâm xuyên qua, máu chảy ra như suối, lập tức mất mạng. 

Hai người Vạn, Liễu hoảng hồn đến nỗi đứng sững ra, chưa kịp nói hai chữ “tha mạng” thì Lệ Thắng Nam đã điểm vào tử huyệt của bọn họ. 

Lệ Thắng Nam ra tay như điện chớp, cả Kim Thế Di cũng không ngờ nàng giết người, đang định ngăn cản thì đã không kịp nữa. Kim Thế Di tức giận nói: “Thắng Nam, sao muội lại ác độc đến thế, ta đã hứa không lấy mạng họ!” Lệ Thắng Nam cười rằng: “Đó là huynh hứa chứ muội không hứa! Đệ tử của Vân Trung Hiện toan bỏ chạy, nhưng hai chân lại không nghe lời.” Lệ Thắng Nam lại vung một cây phi chùy, lấy mạng tên đệ tử ấy! Kim Thế Di chụp tay Lệ Thắng Nam, quát: “Muội giết người bừa bãi nữa, huynh sẽ phế võ công muội!” Lệ Thắng Nam cười nói” “Đại anh hùng, đại hiệp khách ơi, ngài nắm tay tôi đau lắm, ngài có buông tôi ra hay không? Nếu không buông từ rày về sau tôi sẽ mặc ngài! Tôi giết bốn người này là vì bất đắc dĩ!” 

Kim Thế Di bất đồ buông lỏng ngón tay mình, nói: “Bốn người này tuy bỉ ổi nhưng rốt cuộc tội vẫn chưa đáng chết, tại sao muội lại giết họ?” Lệ Thắng Nam nói: “Uổng cho huynh đi lại trên giang hồ bao nhiều năm, bọn người này còn coi huynh là đại ma đầu. Hừ, cả một tí lý lẽ mà cũng chẳng hiểu. Huynh cứ ngồi xuống rồi muội sẽ nói cho huynh nghe.” Kim Thế Di nghe nàng nói thế thì lửa giận cũng không bộc phát được, chỉ đành ngồi xuống nghe nàng nói. 

Lệ Thắng Nam nhoẻn miệng cười: “Đáng tiếc ở đây không có gương để huynh xem bộ mặt hung dữ của huynh, cứ tựa như ăn thịt người ta.” Kim Thế Di nói: “Muội mau nói, nếu có lý thì huynh sẽ không trách muội.” Lệ Thắng Nam nói: “Huynh vốn muốn bảo ba gã này viết thư cho Tư Không Hóa, có đúng không?” Kim Thế Di nói: 

“Đúng thế, huynh muốn bọn chúng viết một bức thư tiến cử, chúng ta cứ giả làm đệ tử của chúng, đem thư tiến cử đến gặp Tư Không Hóa.” Lệ Thắng Nam cười nói:“Huynh nghĩ ra được diệu kế như thế, nhưng huynh có đảm bảo bọn chúng sẽ kín nhưbưng không?” Kim Thế Di nói: “Huynh có thể điểm á huyệt để bảy ngày sau chúng mới có thể nói chuyện trở lại.” Lệ Thắng Nam nói: “Chúng có thể viết thư cho huynh, chả lẽ không thể viết lên giấy bí mật này hay sao?” Kim Thế Di nói: “Huynh sẽ dọa cho bọn chúng sợ mất mật, chắc là không dám làm thế.” Lệ Thắng Nam nói: “Ba tên này là kẻ giảo hoạt, lời xưa nói rất hay, lượng nhỏ chẳng phải quân tử, vô độc bất trượng phu. Chi bằng cứ giết bọn chúng thì an toàn nhất.” Những điều Lệ Thắng Nam lo, Kim Thế Di không nghĩ tới, nếu là mấy năm trước chàng cũng đã giết chúng. 

Nhưng từ khi chàng quen biết Băng Xuyên thiên nữ, Lý Tâm Mai, Cốc Chi Hoa, tính tình dần dần thay đổi cho nên lúc nãy mới mạo hiểm tha cho ba người họ. 

Nhưng giờ Lệ Thắng Nam nói thế thì chàng chẳng thể phản bác được, Lệ Thắng Nam lại cười: “Ai cũng cho rằng huynh là đại hành gia trên giang hồ, nhưng theo muội thấy vẫn thiếu già dặn. Huynh muốn bảo bọn chúng viết thư tiến cử thì chẳng ổn tí nào, may mà muội kịp thay đổi, bảo bọn chúng viết một bài thơ Đường.” Kim Thế Di chợt vở lẽ ra, nói: “Chả lẽ muội sợ bọn chúng giở trò?” Lệ Thắng Nam nói: “Đúng thế, huynh coi như cũng thông minh lắm, đã hiểu ngay dụng ý của muội. Giờ đây muội có thể chiếu theo bút tích của chúng, thích viết gì thì cứ viết. Vân Trung Hiện võ công tuy giỏi nhất, nhưng sống gần kinh thành nhất, chỉ e trong kinh thành có không ít người quen. Chi bằng chúng ta giả mạo đệ tử của hai người Vạn, Liễu.” Rồi nàng nâng bút, bắt chước theo nét chữ của hai người này viết hai bức thư. Kim Thế Di nhìn thì vừa thích vừa sợ. Lòng thầm nhủ: “Thông minh như nàng mà đi vào con đường tà, chỉ e còn lợi hại hơn cả Mạnh Thần Thông!” Lệ Thắng Nam gấp hai bức thư này, đưa một bức cho Kim Thế Di rồi nói: “Muội ghét nhất là Liễu Tam Xuân, huynh hãy giả mạo đệ tử của y.” Kim Thế Di cười nói: “Tên Vô Thường mặt ngựa này chưa bao giờ thu nhận nữ đệ tử, muội giả mạo đệ tử của y chắc chắn sẽ lộ tẩy.” 

Lệ Thắng Nam nói: “Muội đã suy nghĩ kỹ, đầu tóc của muội đang cần phải cải trang.” 

Người nhà họ Vân đều đang nửa mê nửa tỉnh, Lệ Thắng Nam vào phòng lục soát, tìm được một bộ quần áo đàn ông vừa vặn, tóc của nàng đã bị Phùng Anh chém đứt một nửa, thế là nàng tìm một cây kéo soi kiếng cắt cho ngắn lại, rồi đội mũ lên. 

Kim Thế Di nói: “Nhưng mã diện Vô Thường không có đệ tử tuấn tú như thế này. Để huynh cải trang cho muội.” Kim Thế Di có tài cải trang, dị dung đơn mà chàng bào chế cũng tương tự như của Cam Phụng Kỳ, thế rồi chàng cải trang cho Lệ Thắng Nam, thêm hai nốt ruồi lớn trên mặt nàng, xem ra đã có vài phần giống nhân vật thô hào trên giang hồ. Lệ Thắng Nam nhìn vào kiếng cười: “Hay lắm, tuy hơi xấu, nhưng dù đứng trước mặt Tây Môn Mục Dã, y cũng chẳng nhận ra muội.” Kim Thế Di cũng cải trang cho mình, Lệ Thắng Nam cười nói: “Không ngờ chúng ta làm đệ tử cho hai tên này, muội lấy mạng bọn chúng tính ra cũng đã coi trọng bọn chúng?” Lệ Thắng Nam lại cho nàng thiếu nữ bị Vân Trung Hiện mua về mười lượng bạc, bảo nàng cùng cha trốn đến nơi khác mưu sinh, xong xuôi thì trời vừa sáng. Hai người lập tức lên đường đến kinh đô. 

Ba ngày sau họ đến Bắc Kinh, Tư Không Hóa là thống lĩnh ngự lâm quân, đương nhiên rất dễ tìm ra nơi ở của y, hai người cầm hai bức thư tiến cử, giả mạo là đệ tử của Liễu Tam Xuân và Vạn Ứng Đang đến cầu kiến. 

Tư Không Hóa đang trong sân luyện võ, thấy đệ tử của hai người Liễu, Vạn đến thì lòng không vui, xem thư rồi lạnh nhạt nói: “Sư phụ các ngươi muốn ở nhà hưởng phước, chả trách nào ta không mời được họ. Họ hưởng phước còn các ngươi thì cực khổ. Hãy nghỉ ngơi trước, nếu các ngươi muốn làm việc ở đây, ngày mai các ngươicứ đi gặp Vương phó tướng, xem có chỗ nào trống thì thay vào.” Rồi bảo tên quản gia:“Ngươi hãy tiếp đãi chúng, ngày mai dẫn chúng đến gặp Vương phó tướng.” Nghe lời lẽ ấy, hình như Tư Không Hóa chẳng hề coi trọng họ, Kim Thế Di và Lệ Thắng Nam đều không xoay người, Lệ Thắng Nam cười nói: “Chúng tôi không phải đến đây để kiếm việc.” Tư Không Hóa càng không vui, lạnh lùng nói: “Đúng thế, sư phụ các người là nhà giàu có, chắc các ngươi cũng là con em nhà phú hào, đương nhiên chẳng màng đến công việc ở đây. Được các người không muốn làm việc ở đây thì cứ trở về.” 

Lệ Thắng Nam nói: “Không phải thế, đại nhân đã trách nhầm sư phụ chúng tôi.” Tư Không Hóa nói: “Thế nào? Chả lẽ y không chịu đến là có nguyên nhân gì khác?” Lệ Thắng Nam nói: “Sư phụ tôi bảo Tư Không đại nhân coi trọng người, người vốn phải đích thân lên kinh. Nhưng giờ đây người đã có tuổi, bởi vậy chúng tôi mới đi thay người.” Tư Không Hóa nói: “Ô, té ra là thế. Vậy sư phụ của ngươi nói gì?” Câu này là y hỏi Kim Thế Di. Kim Thế Di đáp: “Sư phụ dặn tôi phải ráng giúp sức cho Tư Không đại nhân dù việc khó khăn đến mức nào cũng không được tránh né.” Lệ Thắng Nam nói: “Lời đã bẩm xong, chúng tôi xin cáo lui.” Tư Không Hóa nói: “Khoan đã, thất kính, thất kính. Té ra hai vị là anh hùng xuất thiếu niên! Lúc nãy có gì sơ suất, mong hai vị đừng trách.” Rồi y đưa tay ra nắm lấy tay Kim Thế Di tỏ vẻ thân mật. 

Kim Thế Di không biết lai lịch của Tư Không Hóa, lòng thầm nhủ: “Năm xưa mình đánh khắp đại giang nam bắc, chưa từng nghe ai nói đến cái tên Tư Không Hóa, không biết y dựa vào cái gì mà trở thành thống lĩnh ngự lâm quân?” hai người đều có ý thử công lực của đối phương, Tư Không Hóa ngầm vận Tiên thiên thái ất thần công, một luồng nội kình trong nhu có cương từ lòng bàn tay dồn ra, Kim Thế Di thầm nhủ: 

“Té ra là nội công chính tông của phái Toàn Chân. Thật lạ, đệ tử tục gia phái Toàn Chân chưa bao giờ được chân truyền, chả lẽ y vốn là đạo sĩ sau đó hoàn tục? Theo công lực của y mà luận, tuy chưa bằng các bậc tôn sư đường thế, nhưng cũng chẳng kém gì đệ nhất cao thủ phái Toàn Chân là Lăng Tiêu Tử.” Tư Không Hóa dần dần tăng Tiên thiên thái ất thần công từ ba phần lên chín phần, thật kỳ lạ, khi dùng ba phần thì đối phương chẳng hề có phản ứng, nay dùng đến chín phần mà cũng chẳng có phản ứng, thần công phát ra tự như ném một vật nặng vào biển khơi, vật ấy chợt biến mất tăm. Tư Không Hóa thắc mắc, không dám dùng hết mười phần, vội vàng buông tay. Thật ra Kim Thế Di vẫn không dám trổ tài, cố ý đi theo công lực của đối phương, địch mạnh thì mạnh, địch yếu thì yếu, nếu không Tư Không Hóa sẽ chịu khổ. 

Tiếp theo Tư Không Hóa lại bắt tay Lệ Thắng Nam, lần này Tư Không Hóa đã cảnh giác, vừa chạm vào tay nàng thì đã dùng đến tám chín thành công lực. Lệ Thắng Nam vẫn chưa luyện đến nội công thượng thừa như Kim Thế Di, chỉ đành liều với y, công lực của hai người tương đương nhau, Lệ Thắng Nam hơi nhíu mày, ngầm vận Tu la âm sát công dồn công lực ra đầu ngón tay, Tư Không Hóa chợt cảm thấy hổ khẩu như bị kim đâm vào nhưng cảm nhận được một luồng khí âm hàn, kình lực lập tức tản mát, y vội vàng rút tay, khen rằng: “Công phu của huynh đệ này rất giỏi!” Tư Không Hóa thầm nghi ngờ, nhủ rằng: “Vạn Ứng Đang là chưởng môn nhân của Hắc hổ quyền, y luyện công phu ngoại gia, nội lực của người này sao lại thâm trầm đến thế,có thể phá giải được thủ pháp Thái ất thần công của mình, rõ ràng là loại nội công âm nhu tà môn, chả lẽ Vạn Ứng Đang giấu tuyệt chiêu này không truyền ra bên ngoài? Hoặc kẻ này giả mạo đệ tử của y?” Tư Không Hóa tuy hiểu biết rộng rãi, cũng biết Mạnh Thần Thông có Tu la âm sát công, nhưng y chưa từng gặp Mạnh Thần Thông, cũng không biết Tu la âm sát công như thế nào, mà Lệ Thắng Nam lại rất thông minh, nàng đẩy Tu la âm sát công từ đầu ngón tay ra, biến thành một loại công phu điểm huyệt âm độc chứ không dùng bàn tay để phát chưởng, uy lực cũng không kinh người cho nên Tư Không Hóa chẳng thể nào đoán được. Còn nội công thượng thừa mà Kim Thế Di sử dụng thì y càng không hiểu. Y chỉ cảm thấy hai người này hơi kỳ lạ. 

Tư Không Hóa nghi ngờ, vội vàng giữ hai người Kim, Lệ lại, nhưng lại hỏi một võ sư bên cạnh: “Nam Cung lão sư, trước đây ông có trau dồi võ công với Vạn Ứng Đang không?” Võ sư ấy tên gọi Nam Cung Ất, cùng vai vế với sư phụ của Tư Không Hóa, võ công cực cao, Tư Không Hóa mời lão đến đây làm giáo đầu cho ngự lâm quân, thế rồi mới đáp: “Đúng thế, đó là chuyện hai mươi năm trước, Vạn lão đại dã biểu diễn Hắc hổ quyền cho tôi xem, tôi bảo bộ Hắc hổ quyền tuy cương kình phi phàm nhưng bên trong lại có sơ hở, y không tin, cho nên tiếp chiêu với tôi, tiếp được ba mươi ba chiêu thì ông ta đánh ra một chiêu cương mãnh nhất là Hắc hổ thâu tâm, bị tôi dùng Âm thủ dương chưởng đè chặt vào tay cho nên ông ta mới phục. Trải qua hai mươi năm, không biết ông ta đã sửa chữa chỗ sơ hở ấy hay chưa?” Lệ Thắng Nam nói: “Gia sư cũng từng nhắc chuyện này, người bảo đó không phải là quyền pháp của bổn môn có sơ hở mà là lúc đó kinh nghiệm của người vẫn còn chưa đủ, khi Nam Cung lão sư dùng âm thủ dương chưởng giữ chặt tay của người, nếu người dùng một chiêu khác thì người thua thiệt chính là Nam Cung lão sư.” Nam Cung Ất biến sắc, nói: “Tôn sư nói như thế ư? Vậy thì ta phải thỉnh giáo mới được? Lý huynh đã học được chân truyền của lệnh sư không biết có thể tỉ thí thử hay không?” Lệ Thắng Nam và Kim Thế Di đều bịa một cái tên giả, nàng lấy tên là Lý Thắng còn Kim Thế Di là Cam Huệ, bởi vậy Nam Cung Ất mới gọi nàng là Lý huynh. 

Lệ Thắng Nam cố ý nói: “Nam Cung lão sư là bậc trưởng bối, tôi làm sao dám mạo phạm?” câu ấy bề ngoài là khiêm nhường nhưng thực sự là khinh miệt. Nam Cung Ất sầm mặt, lạnh lùng nói: “Sự học không có trước sau, ai giỏi là thầy, Lý huynh đã học được chân truyền, cần gì phải khách sáo như thế? Trau dồi võ công dù có ngộ thương tôi cũng không trách Lý huynh, Lý huynh đừng lo ngại, cứ thi triển tuyệt chiêu!” Bọn võ quan trong sân luyện võ vội vàng nhường chỗ để hai người tỉ thí. 

Lệ Thắng Nam nói: “Tôi học nghề chưa tinh, nếu có chỗ không đúng, mong Nam Cung tiền bối cùng các vị chỉ giáo cho.” Nam Cung Ất hừ một tiếng rồi nói: “Năm xưa sư phụ của huynh đệ dùng chiêu đầu tiên là Thỉnh thủ thức trong Hắc hổ quyền, Lý huynh không ra chiêu trước, chả lẽ là lão già này?” Lệ Thắng Nam cười rằng: 

“Chiêu đầu tiên chỉ là Thỉnh thủ thức bình thường, tôi không cần thay đổi.” Thế rồi chưởng trái phụ lên quyền phải, tựa như vái mà không phải vái. 

Mấy câu ấy của nàng cho thấy nàng không chịu lấy lễ vãn bối ra mắt, ý nàng muốn nói, ngươi buộc ta xuất chiêu, dù sao chiêu thứ nhất cũng là một chiêu thế bình thường, không cần chiếm tiện nghi của ngươi, vậy ta chỉ nể mặt ngươi một tí. Nhưng nàng tùy tiện xuất quyền, động tác và thái độ đều lộ vẻ bất kính, thậm chí chẳng hề có chút lễ phép nào. Nam Cung Ất cả giận, nói: “Ngươi bảo chiêu thứ nhất là Khởi thủ thức bình thường, ta sẽ dùng chiêu thứ nhất đánh ngã ngươi.” Thế rồi lập tức vung chưởng nhảy bổ tới, dùng một chiêu lợi hại nhất trong ba mươi sáu chiêu cầm nả thủ là Kính đức đoạt tiên. Lệ Thắng Nam đang vươn người, hai tay lại giở lên phía trên, xem ra nếu bị y chụp trúng, hai cánh tay không bị gãy thì cũng bị giật ngược ra phía sau. 

Nam Cung Ất công lực phi phàm, đòn đánh này lại già dặn, hiểm hóc, đòn ra có cả kình phong, Lệ Thắng Nam giật mình, thầm nhủ: “Quả nhiên cũng có vài phần bản lĩnh, xem ra không thể khinh địch được.” Khi ngón tay của Nam Cung Ất sắp chạm vào cổ tay mình, Lệ Thắng Nam đột nhiên thi triển Thiên la bộ pháp nhẹ nhàng lướt qua, cánh tay thừa thế tạt lại, đấm quyền xuống cánh tay của Nam Cung Ất, Nam Cung Ất cả kinh, rút tay lại chỉ nghe một tiếng “lên”, chướng và quyền giao nhau, hai bên đều thối lui ba bước, nếu Nam Cung Ất rút tay chẳng nhanh, cánh tay của y đã bị Lệ Thắng Nam đấm gãy trước. Nam Cung Ất hừ một tiếng rồi nói: “Ngươi dùng quyền gì thế?” Lệ Thắng Nam lắc người đánh liên tiếp ba quyền, miệng đọc: “Hắc hổ khiêu giảng, Hắc hổ đăng sơn, Hắc hổ đoạt thực.” Đến khi Nam Cung Ất tiếp được ba chiêu này của nàng, nàng hơi ngừng lại rồi tiếp tục nói: “Ba chiêu lúc nãy diễn hóa từ Hắc hổ xuất động, không biết có đúng hay không?” Ba chiêu này đều là những chiêu thức bình thường trong Hắc hổ quyền, Nam Cung Ất đương nhiên biết nhưng y không nhận ra chiêu Lệ Thắng Nam vừa mới đánh, thầm nhủ: “Có lẽ đây là tuyệt chiêu trong Hắc hổ quyền, năm xưa Vạn Ứng Đang chưa từng sử đụng với mình. Theo những danh xưng mà tên tiểu tử này vừa mới đọc, sau Hắc hổ xuất động thì đến khiêu giảng, đăng sơn và đoạt thực, cũng rất hợp lý.” Trong chớp mắt hai người đã chiết hơn hai mươi chiêu, Nam Cung Ất thầm lạ, nhủ rằng: “Quyền pháp của tên tiểu tử này không thành thục lắm, nhưng công lực hình như hơn cả sư phụ của y năm xưa, tại sao thế?” té ra Lệ Thắng Nam đã học Hắc hổ quyền từ Kim Thế Di, trước kia Kim Thế Dicũng đấu với Vạn Ứng Đang một trận, đến chiêu thứ hai mươi ba thì thắng được y, cho nên Kim Thế Di chỉ biết được hai mươi ba chiêu, Lệ Thắng Nam tuy rất thông minh nhưng chỉ trong vòng mấy ngày vẫn chưa thể thuần thục. Mà chiêu đầu tiên vốn chẳng phải là Hắc hổ quyền. 

Đại cầm nả thủ của Nam Cung Ất rất lợi hại, Lệ Thắng Nam đánh đến chiêu thứ hai mươi hai, vẫn chưa thể thắng được, trong lòng nôn nóng, chợt kêu: “Để ý, Hắc hổ thâu tâm đây!” rồi đấm ra một quyền, Nam Cung Ất đánh ra một chiêu Phất vũ phiên vân, vẫn dùng thủ pháp năm xưa mà y đã từng đối phó với Vạn Ứng Đang, tức là Âm thủ dương chưởng kìm tay Lệ Thắng Nam, Lệ Thắng Nam không đợi hai chưởng của y chém xuống, lập tức lật chưởng chụp quyền, lướt người lên đấm ra một quyền vào ngực Nam Cung Ất, Nam Cung Ất loạng choạng thối lui mấy bước, xoay cả mấy vòng mới đứng vững lại được. Lệ Thắng Nam cười nói: “Sư phụ tôi bảo muốn phá Âm thủ dương chưởng của ông, dùng chiêu đầu tiên Thỉnh thủ thức là đủ, quả nhiên không sai. Nam Cung lão sư, ông có bị thương không?” Bọn võ quan thấy Nam Cung Ất đã bị nàng đánh bại thì đều kinh hãi. Số là Lệ Thắng Nam bề ngoài đùng Thỉnh thủ thức của Hắc hổ quyền, nhưng thực tế là công phu trong bí kíp của Kiều Bắc Minh, đầu tiên nàng dùng Thiên la bộ pháp né tránh, trong Hắc hổ quyền hàm chứa thiên tinh chưởng lực, hóa giải nội kình của Nam Cung Ất vì thế mới đánh bại y được. Nam Cung Ất tuy hoài nghi, nhưng đối phương quả thật đã dùng Hắc hổ quyền đánh bại mình, y vừa thẹn vừa giận, lớn giọng nói: “Được, quả nhiên là danh sư xuất cao đồ, Tư Không đại nhân, ông đã có thiếu niên anh hùng này, không cần dùng đến lão già vô dụng này nữa?” rồi lập tức bước ra khỏi cửa, Tư Không Hóa muốn giữ lại cũng không kịp. 

Tư Không Hóa vẫn chưa thử công lực của Vạn Ứng Đang, lòng thầm nhủ: “Thiếu niên này đã biết sử dụng Hắc hổ quyền, chắc là không phải giả, võ công một nửa là do chăm chỉ, một nửa là do thiên phú, trò hơn thầy là chuyện bình thường. Hơn nữa Vạn Ứng Đang cũng chẳng phải nổi danh gì, nếu thiếu niên này muốn mạo nhận là học trò của người khác thì cũng không chọn Vạn Ứng Đang.” Lúc này Tư Không Hóa cũng còn hơi nghi Kim Thế Di, lúc nãy y đã dùng chín thành công lực mà vẫn chưa biết đối phương nông sâu thế nào, y nghĩ ngợi một lát thì kêu một tên ngự lâm quân đến. 

Ngự lâm quân này có họ là Hô Diên, tên chỉ là một chữ là Húc, là cao thủ trong ngự lâm quân, công phu ngoại gia đến mức đăng phong tạo cực, Kim cương chường lực của y đã có thể đánh nát bia vỡ đá, Tư Không Hóa gọi y tới, hỏi: “Nghe nói ngươi dã từng đến Liễu gia trang thăm Liễu trang chủ, hai người có quen nhau không?” Hô Diên Húc nhìn Kim Thế Di, Kim Thế Di nói: “Hô Diên tướng quân cùng lệnh sư là Ký Bắc Nhân Ma Đồ Cương tiền bối đến tệ can, lúc đó tôi nhập môn chưa được bao lâu, chưa đủ tư cách tiếp khách, chỉ xứng nghe hầu trước thềm, nhưng tôi nhận ra Hô Diên tướng quân không nhận ra tôi?” Năm xưa Kim Thế Di đi khắp nơi trong thiên hạ, quen biết rất nhiều người, hiểu rõ các môn phái trong võ lâm, cho nên vừa nghe tên của Hô Diên Húc thì đã biết lai lịch của y, Đồ Cương và Liễu Tam Xuân tuổi tác tương đương nhau, rất thân thiết nhau, Kim Thế Di nghe Tư Không Hóa dùng hai chữ “bái kiến”, thì đoán rằng Hô Diên Húc nhất định là đi cùng thầy tới.” 

Quả nhiên chàng đã đoán đúng. Hô Diên Húc thích nhất là được nịnh bợ, nói: “Đúng thế, ta nhớ, lúc đó có một đệ tử trẻ tuổi rót trà, có phải là ngươi không? Ồ, mười năm không gặp mà ngươi đã cao lớn thế này.” Kim Thế Di thầm cười, nói: “Ngài nhớ thật dai. Sau khi ngài ra đi, sư phụ tôi có khen công phu của ngài.” Hô Diên Húc nói: “Thật vậy ư? Ta cũng từng trình diện công phu Thiết chưởng trước mặt ông ta, đáng tiếc lộ số của hai nhà không giống nhau cho nên không được ông ta chỉ điểm.” Kim Thế Di nói: “Sư phụ bảo Kim cương chưởng của Đồ gia là loại chưởng lực cương mãnh nhất trong thiên hạ, nếu nói đến công phu ngoại gia thì hiện nay chỉ có công phu của họ Đồ là giỏi nhất...” Hô Diên Húc cười tít mắt, chen vào: "Quákhen, quá khen!” nào ngờ Kim Thế Di lại nói tiếp: “Sư phụ của tôi lại bảo, có lẽ chỉ có Miên chưởng của chúng tôi mới có thể khắc chế Kim cương chưởng lực.” Hô Diên Húc biến sắc, nói: “Công lực Miên chường của lệnh sư chắc là đều đã truyền cho các hạ.” Kim Thế Di nói: “Đáng tiếc gia số đôi bên không giống nhau, nếu không đã nhờ Hô Điên tướng quân chỉ giáo. Gia sư thường nói, nhu có thể khắc cương, khi chúng ta đều luyện đến mức đăng phong tạo cực, công phu ngoại gia thường kém hơn một bậc, cho đến hôm nay tiểu đệ vẫn chưa gặp đệ nhất cao thủ của ngoại gia, không biết có thực hay không?” Số là trong võ lâm có quy củ, hễ trau dồi võ công có thiện ý thì chỉ lấy nội gia đấu với nội gia, ngoại gia đấu với ngoại gia, như thế mới có thể cắt ngắn bổ dài, đôi bên đều có ích lợi, nếu gia số khác nhau thì gọi là tỉ võ chứ chẳng phải trau dồi. Năm xưa Hô Diên Húc chỉ biểu diễn trước mặt Liễu Tam Xuân cũng chính là vì nguyên nhân đó. 

Hô Điên Húc tức tối nói: “Cam huynh đến thật đúng lúc, chúng ta là đồng liêu, giữa đồng liêu thì không nên câu nệ quy củ võ lâm, chúng ta tỉ thí xem thử!” Tư Không Hóa đang muốn họ tỉ thí với nhau để mình đứng một bên xem công lực Kim Thế Di thế nào, Kim Thế Di còn cố ý từ chối thì Tư Không Hóa đã bảo: “Hô Diên tướng quân nói phải, sau này các người đều ra ngoài đối phó với kẻ địch, người cùng phe phải rèn luyện trước với nhau để có kinh nghiệm đối phó với kẻ địch.” Tư Không Hóa lại nói: “Việc tỉ võ giữa đồng liêu khác hẳn với cách tỉ võ trên giang hồ, ai thắng ai bại đều không cần thiết.” Lúc nãy y thấy Nam Cung Ất tức giận bỏ đi, tuy biết Hô Diên Húc tính tình hào sảng, lại là cấp dưới của mình, nếu có bại cũng không như Nam Cung Ất, nhưng y vẫn phải nói trước. Kim Thế Di nói: “Đúng thế, gia số của chúng ta không giống nhau, vốn là không nên tỉ thí với nhau về chiêu thức.” Hô Diên Húc nói: “Vậy phải tỉ thí bằng cách nào?” Kim Thế Di nói: “Ngài hiểu biết rộng rãi hơn tôi, vả lại tiểu.đệ cũng vừa mới tới đây, chi bằng ngài cứ nói ra, tiểu đệ sẽ nghe theo.” Hô Diên Húc được chàng nâng lên thì đã bớt giận, bèn nói: “Nào dám, chúng ta cứ chơi trò mượn ba trả năm, thế nào? Tôi nhường huynh đánh trước ba quyền, sau đó huynh phải để tôi đánh năm quyền.” Y cậy công phu ngoại gia của mình đã đến mức đăng phong tạo cực, Kim Thế Di chẳng thể nào đả thương được y. Cho nên y bề ngoài là có vẻ nhường người ta nhưng thực sự là muốn chiếm tiện nghi. 

Kim Thế Di cười nói: “Cách này rất hay, nhưng tôi muốn đảo lại, có nghĩa là mượn năm trả ba, huynh đánh tôi trước năm quyền, sau đó tôi lấy lại ba quyền. Tôi chấp nhận làm ăn lỗ vốn.” Hô Diên Húc thầm nhủ: “Hừ, nhà ngươi dám coi thường Kim cương chưởng lực của ta, lần này là ngươi tự chuốc lấy khổ, đừng trách ta.” Rồi bèn nói: “Cam huynh tài cao lượng lớn, cho nên đã chấp nhận làm ăn lỗ vốn, nếu tiểu đệ từ chối thì trái lại đã coi thường cam huynh.” Kim Thế Di nói: “Chẳng sai tí nào, tôi cũng muốn nói những lời này.” Chàng vừa nói vừa lấy chân trái làm trụ, chân phải vạch một vòng tròn, đứng ở giữa nói: “Xin mời phát chiêu!” Hô Diên Húc nói: “Có nghĩa là sao?” Kim Thế Di nói: “Kim cương chưởng lực của huynh nổi tiếng cương mãnh, chỉ cần đẩy tôi ra khỏi vòng này thì coi như huynh đã thắng!” cái vòng chỉ lớn hơn miệng bát một chút, chỉ đủ một người đứng bên trong. 

Hô Diên Húc nổi giận, nói: “Được, khang chiêu! Huynh cứ việc dùng Miên chưởng mà hóa giải!” lối đánh mượn ba trả năm trên thực tế là số lần tấn công và trả đòn, dùng quyền hay chưởng đều được cả, giờ đây Hô Diên Húc cho chàng dùng Miên chưởng để hóa giải, coi như cũng có chút lương tâm. 

Hô Diên Húc đẩy ra hai chưởng, chưởng lực đánh tới như dời núi lấp biển, chỉ nghe soạt một tiếng, tựa như có người bị chém ngang eo, mọi người thất kinh, khi nhìn kỹ lại thì chẳng phải là người mà là một khúc cây, số là Kim Thế Di dùng ống tay áo dẫn nhẹ qua, Hô Diên Húc thu thế không kịp, hai chưởng đã đâm vào một cây mộc trang trong sân luyện võ, cây mộc trang bị chặt thành hai đoạn. 

Hô Diên Húc cả giận, lập tức xoay người đẩy chưởng vào bối tâm của Kim Thế Di, Kim Thế Di hơi khom người, Hô Diên Húc bị chàng dùng công phu mượn lực đánh lực ném ra, lần này hai chưởng lại đánh trúng một cái trống đá, cái trống bị vỡ làm tư! Tư Không Hóa lắc đầu, định kêu Hô Diên Húc ngừng tay. Hô Diên Húc đánh vào cái trống đá, cổ tay cũng đau nhói, y vừa kinh vừa giận gầm lớn một tiếng, lao bổ tới Kim Thế Di như con bò mộng, hai chưởng đẩy ngang về phía trước. 

Chỉ nghe bốp một tiếng, hai chưởng của Hô Diên Húc đã đánh trúng vào bối tâm của Kim Thế Di, lớp áo ngoài của chàng rơi lả tả, người chỉ hơi lắc lư nhưng hai chân vẫn còn đang trong vòng. 

Chỉ thấy Hô Diên Húc đứng sụi lơ, té ra y đã bị Kim Thế Di dùng nội công thượng thừa húc chưởng lực của y, giờ đây đã không thể cử động được nữa. 

Kim Thế Di nói: “Huynh vẫn còn hai quyền nữa, có muốn đánh nữa không?” Hô Diên Húc nói: “Ta nhận thua, ngươi đánh chết ta đi? Dù sao ta cũng chẳng muốn sống nữa.” Y biết võ công đã bị phế, y cũng là một người cứng cỏi, võ công đã bị phế cho nên thà chịu chết chứ chẳng cầu xin. 

Kim Thế Di mỉm cười, kéo tay chàng nói: “Hô Diên tướng quân quá khiêm nhường, chúng ta chỉ ngang tài ngang sức nhau, sao có thể nói là huynh đã thua?” Hô Diên Húc chỉ cảm thấy một luồng nhiệt lực từ lòng bàn tay Kim Thế Di truyền qua, khí lực lập tức hồi phục, lúc này y mới biết võ công vẫn còn. 

Hô Diên Húc nói: “Theo lời hẹn của huynh, mượn năm trả ba, tôi cũng nên chịu ba quyền của huynh, đại trượng phu nói ra một lời thì không bao giờ hối hận, chết bởi tay huynh tôi cũng không oán.” Kim Thế Di thầm nhủ : “Có thể kết bằng hữu với người này.” Bèn cười rằng: “Đúng thế, theo lời hẹn là mượn năm trả ba, huynh chỉ đánh ba quyền, còn hai quyền nữa mà huynh không chịu đánh, tôi còn đánh làm gì? Nói thực, Kim cương chưởng lực của huynh đã hiếm thấy trong võ lâm, nếu đánh thêm hai quyền nữa không biết tôi có chịu được nổi hay không? Chúng ta đã là đồng liêu, cũng không nên tính toán ai thua ai thắng.” Trận này không những khiến cho Hô Diên Húc tâm phục khẩu phục mà cả bọn ngự lâm quân đứng ở đấy đều kinh hãi. Tư Không Hóa thầm nhủ: “Mình vốn tưởng Liễu Tam Xuân và Vạn Ứng Đang coi thường mình, nhưng hai tên đệ tử của bọn họ đều là người tài giỏi, mình không ngờ đến chuyện này, bởi vậy cũng không cần quá câu nệ.” Sau hai cuộc tỉ thí, bọn võ quan đều nhìn hai người Kim, Lệ bằng con mắt khác, Tư Không Hóa càng coi trọng họ hơn, chỉ một chốc đã phong cho hai người làm giáo đầu ngự lâm quân. 

Trong chớp mắt bảy ngày trôi qua, đến lúc hoàng hôn thì hai người Kim, Lệ được Tư Không Hóa mời cùng dự tiệc. 

Ngoài Kim Thế Di và Lệ Thắng Nam, Tư Không Hóa còn gọi theo mười tám võ quan, Hô Diên Húc, Bạch Lương Ký và người họ Hàn cũng có mặt trong số đó. Hai người Bạch, Hàn sắc mặt vàng ẹt, tinh thần ủ rũ. Sau khi Kim Thế Di vào kinh, đây là lần đầu tiên mới gặp bọn chúng, biết bọn chúng trở về được ba ngày, chắc là đêm ấy uống phải chén trà độc của Lệ Thắng Nam nên nguyên khí tổn thương cho đến nay mới dần dần hồi phục. Bon chúng tuy đã nhiều lần bị Kim Thế Di bỡn cợt, những từ đầu đến cuối không hề thấy mặt thật của chàng cho nên không nhận ra chàng. 

Hai người Hàn, Bạch sau thất bại lần trước thì vừa hổ thẹn vừa tức giận, đi trên đường cứ nghiến răng nói: “Chúng tôi vốn đã bắt được hai tên đệ tử của phái Thiên Sơn, đáng tiếc Tây Môn Mục Dã không đến tiếp ứng, chỉ còn hai ngày là về đến kinh, không ngờ bị Đường Hiểu Lan đích thân giải cứu.” Tư Không Hóa an ủi: “Đường Hiểu Lan đã tới, dù là ta cũng chỉ mở mắt nhìn y cướp người. Các người có thể chạy thoát khỏi dưới kiếm của y, coi như đã rất hiếm có. Lần này các ngươi đã cố gắng, không thể lấy thành bại luận anh hùng, ta vẫn ghi công lao của các ngươi.” Kim Thế Di thầm cười, nghĩ rằng: “Bạch Lương Ký đổ tội của mình cho Đường Hiểu Lan, thế mà cũng có người tin.” Thực ra, Tư Không Hóa làm sao có thể tin được, chỉ vì y muốn lôi kéo thuộc hạ cho nên không nói ra mà thôi. 

Người họ Hàn nói: “Chúng tôi thiệt thòi một chút cũng chẳng có là gì, đáng tiếc công lao đều bị bọn Tây Môn Mục Dã chiếm hết. Trái lại chúng ta còn phải đi mừng công cho y. Há chẳng phải sẽ mất mặt lắm hay sao?” Tư Không Hóa nói: “Chính vì hoàng thượng sai Khấu tổng quản bày tiệc mừng công cho họ, hai người phải đi mới được, có hai người thì y không thể thổi phồng công lao của mình được.” Nhờ vậy Kim Thế Di mới biết đêm nay đại nội tổng quản Khấu Phương Cao mở tiệc mừng công cho Tây Môn Mục Dã. Xưa nạy võ sĩ trong triều đình chia thành hai phe, một phe là các thị vệ trong cung do đại nội tổng quản Khấu Phương Cao cầm đầu, một phe là võ quan ngự lâm quân của Tư Không Hóa, nay lại có thêm bọn người Tây Môn Mục Dã, cả hai phe này đều tranh công của nhau. Thực ra Khấu Phương Cao mở tiệc mừng công cho Tây Môn Mục Dã chẳng phải ý mình mà bởi do lệnh của nhà vua. 

Kim Thế Di lại biết mãi cho đến hôm qua bọn Tây Môn Mục Dã mới về đến kinh thành, chàng nghi ngờ trong lòng, thầm nhủ: “Nếu bọn chúng quay trở về sau đại hội Mang Sơn, lẽ ra phải sớm hơn mình mới phải. Vậy trong thời gian đó bọn chúng đã đi đâu?” Bữa tiệc được bày trong Đại hoành sảnh ở Đoàn thành. Đoàn thành nối liền với hoàng cung, là thành ngoài của tử cấm thành, vào thời nhà Kim khi xây Bắc Hải ngự uyển, người ta đã móc đất ở dưới Bắc Hải đắp thành một hòn núi nhỏ gọi Đoàn thành, đến nhà Thanh thì xây thành một tòa Li cung. Vì địa thế tương đối cao, có thể bảo vệ cho cung đình cho nên vua Càn Long đã ban nơi này cho đại nội thị vệ làm nơi ở, tách hẳn với nội đình, mà lại ra vào cũng tiện lợi. Phủ đệ của Khấu Phương Cao nằm trong Đoàn thành. 

Hai người Kim, Lệ theo Tư Không Hóa vào đại sảnh, chỉ thấy lúc này võ sĩ đông đúc, trông rất náo nhiệt, hàng trăm ngọn đèn treo cao, chiếu sáng như ban ngày. 

Tây Môn Mục Dã và Khấu Phương Cao bước tới nghênh tiếp, thấy Lệ Thắng Nam thì Tây Môn Mục Dã không khỏi ngạc nhiên, thầm nhủ: “Kẻ này thật quen mặt!” nhưng Lệ Thắng Nam đã thay đổi quần áo, lại cải trang mặt mũi, Tây Môn Mục Dã không thể biết nàng là con gái của kẻ thù. 

Chào hỏi xong xuôi ai nấy đều ngồi vào chỗ, Tư Không Hóa đương nhiên ngồi ở bàn đầu cùng bọn Tây Môn Mục Dã, Khấu Phương Cao, hai người Kim, Lệ ngồi ở bàn bên cạnh, đó là do Tư Không Hóa coi trọng họ cho nên mới bảo Khấu Phương Cao sắp xếp như thế. Ngồi vào chỗ xong xuôi, Tư Không Hóa giở chén rượu, chúc mừng Tây Môn Mục Dã: “Công lao lần này của Tây Môn tiên sinh quả đúng là kinh thiên động địa, chắc là chưởng môn của các đại môn phái đều đã bị ngài bắt?” Tư Không Hóa đã nghe Bạch Lương Ký kể lại chuyện ở Mang Sơn, đừng nói là chưởng môn nhân, dù có trọng lượng trong võ lâm cũng chẳng ai bị bắt, vì Tây Môn Mục Dã đã từng huênh hoang trước mặt hoàng đế, bảo rằng sẽ bắt gọn các nhân vật võ lâm cho nên y mới cố ý hỏi như thế. Tây Môn Mục Dã đỏ mặt, nói: “Lần này tôi dắt theo ít người cho nên đã có vài tên bỏ chạy mất. Song cũng bắt được mấy mươi người, ngoài ra cũng bắt được hơn mười tên quan trọng.” Khấu Phương Cao cười nói: “Lần này tuy không thành công mỹ mãn nhưng coi như cũng khiến những kẻ tự xưng anh hùng võ lâm, giang hồ hào kiệt đều phải lạnh mình. Hoàng thượng căn dặn, lần này tôi thay hoàng thượng ủy lạo, chờ khi nào Tây Môn tiên sinh thật sự bắt sạch các nhân vật võ lâm, hoàng thượng sẽ đích thân mở cuộc mừng công lớn hơn cho Tây Môn tiên sinh, phong cho Tây Môn tiên sinh làm quốc sư.” Khấu Phương Cao khen mà như mỉa mai, Tây Môn Mục Dã thầm nhủ: “Đợi ta đại công cáo thành thì chức đại nội tổng quản và thống lĩnh ngự lâm quân sẽ đổi chỗ, hừ, lúc đó chỉ e các ngươi không có tư cách ngồi trong tiệc mừng công.” Tư Không Hóa nói: “Tây Môn tiên sinh đã bắt được nhân vật nào có thể nói ra nghe thử?” Tây Môn Mục Dã nói: “Tôi đang định giao bọn chúng cho Khấu tổng quản canh giữ, để ông ta tấu rõ với hoàng thượng xem xử lý thế nào. Người đâu, đưa tù binh?” đưa tù binh vốn là sau khi một bậc đại tướng chiến chinh trở về, giao những từ binh đầu não làm quà cho hoàng đế, mà lúc này chẳng qua Tây Môn Mục Dã chỉ bắt được hơn mười nhân vật võ lâm, hoàng đế lại không có mặt, vốn không nên nói thế, nhung y vì muốn ra oai trước mặt Khấu Phương Cao và Tư Không Hóa cho nên cứ làm như đại tướng thắng trận trở về triều. 

Hồi Thứ Bốn Mươi

Khấu Phương Cao cười nói: “Tôi tuy thay hoàng thượng ủy lạo, ngài dâng tù binh cho tôi, tôi không dám nhận. Nhưng tôi cũng.muốn xem đó là nhân vật nào, cứ để tôi nhận lấy là được, không cần phải cử hành nghi thức dâng tù binh.” 

Kim Thế Di cũng muốn biết đó là nhân vật nào, khi nhìn kỹ lại thì thấy bốn người áo vàng áp giải một đám tù phạm đi qua hành lang, Khấu Phương Cao bảo bọn vệ sĩ ghi lại danh sách đám tù phạm sau đó đem nhốt vào trong lao. Đối diện với cửa hành lang có bày một chiếc bàn, Khấu Phương Cao ngồi ở giữa, Tây Môn Mục Dã và Tư Không Hóa ngồi hai bên. 

Mấy trăm võ sĩ trong đại sảnh đều đứng dậy, chăm chú nhìn đám tù binh, Kim Thế Di thở phào, thầm nhủ: “May mà đều là những nhân vật chẳng có tên tuổi.” 

Nhưng trong đó cũng có vài người quan trọng như đệ tử phái Hoa Sơn Đỗ Tử Tường, Phương Đồng của phái Không Động và nhà sư Hoài Chân của phái Thiếu Lâm. 

Khấu Phương Cao cười ha hả nói: “Tây Môn tiên sinh đã lâu không đi lại trên giang hồ, chắc là không nhận ra nhân vật chủ chốt của các phái? Những người này chẳng qua chỉ là đại đệ tử đời thứ hai của các phái mà thôi.” Tư Không Hóa cười nói: “Không phải Tây Môn tiên sinh không nhận ra nhưng chưởng môn của các đại môn phái đâu dễ dàng bị bắt? Nhưng có thể bắt được đệ tử của họ cũng đã là quý. Nào! Nào việc dâng tù binh đã xong, chúng ta hãy quay về bàn, ăn mừng cho Tây Môn tiên sinh!” Tây Môn Mục Dã mặt tái xanh, lạnh lùng nói: “Còn có một người, chắc là Tư Không đại nhân sẽ nhận ra!” chỉ thấy hai người áo vàng bắt một tù binh tới, nhưng đó là một bà đã có tuổi, Kim Thế Di thất kinh, chỉ nghe Tư Không Hóa lạc giọng kêu lên: “Chưởng môn phái Mang Sơn Tào Cẩm Nhi?” Tây Môn Mục Dã điềm nhiên nói: “Quả nhiên Tư Không đại nhân đã nhận ra, bản lĩnh của tôi tuy kém xa đại nhân nhưng muốn bắt chưởng môn nhân thì đâu có khó như đại nhân nói!” Té ra Tây Môn Mục Dã về trễ là vì bắt Tào Cẩm Nhi. Y biết quê nhà của Tàu Cẩm Nhi ở Hà Bắc, Tào Cẩm Nhi đến Mang Sơn cho nên chỉ có con trai và con dâu ở nhà. 

Sau khi các môn phái bại trận, mọi người tập trung ở chùa Thiếu Lâm bàn bạc đối sách, vài ngày sau thì chẳng thấy động tĩnh gì, có người đoán bọn Tây Môn Mục Dã về kinh báo công. Tào Cẩm Nhi lo cho người nhà, sợ họ bị hại cho nên cùng vài sư đệ quay về, Thống Thiền thượng nhân khuyên không được chỉ đành sai bốn đệ tử có võ công cao cường nhất là Đại Trí, Đại Bi, Hoài Nhân, Hoài Chân đi về cùng bà ta, không ngờ con trai và con dâu bà ta đã nghe phong thanh nên bỏ chạy trước, trái lại bọn Tây Môn Mục Dã nấp ở trong nhà, Tào Cẩm Nhi trở về có nghĩa là tự chui đầu vào lưới, thế rồi một trận ác chiến xảy ra, Tào Cẩm Nhi và Hoài Chân bị bắt, Tây Môn Mục Dã sợ bà ta có hậu viện cho nên vội vàng trở về kinh ngay trong đêm. 

Người áo vàng ấy lớn giọng báo: “Chưởng môn phái Mang Sơn Tào Cẩm Nhi!” Bọn người trong đại sảnh kêu ồ lên, ai nấy đều chen đến xem. 

Chỉ thấy Tào Cẩm Nhi tóc bạc da mồi, bộ dạng gầy nhom, bà ta vốn rất chú ý đến sức khỏe của mình, tuy tuổi đã qua ngũ tuần mà vẫn chưa thấy già. Nhưng giờ đây chỉ cách một tháng mà tựa như đã già thêm mười năm, cả Kim Thế Di cũng suýt nữa không nhận ra. Bà ta tuy tiều tụy nhưng mặt vẫn tỏ vẻ quật cường. 

Kim Thế Di thầm nhủ: “Bà già này tuy đáng ghét, nhưng rốt cuộc cũng là chưởng môn sư tỷ của Chi Hoa!” Chàng nghĩ chưa dứt thì chợt nghe Tào Cẩm Nhi phun phì một tiếng rồi nói: “Loài chuột nhắt dám làm nhục ta!” rồi đột nhiên vung ra lao đầu vào cây cột. 

Kim Thế Di kinh hoảng, định ra tay cản lại thì Lệ Thắng Nam đã cười: “Bà già ấy chết không được đâu huynh lo gì?” hai người áo vàng cười ha hả: “Ngươi muốn chết, đâu có dễ như thế?” Té ra sau khi Tây Môn Mục Dã bắt bà ta, đã dùng hoa A tu la tán thành bột rồi lấy kim châm đâm vào da bà ta để thuốc thấm vào đường máu. 

Hoa A tu la có thể khiến cho gân cất rã rời, bởi vậy lúc này Tào Cẩm Nhi chẳng bằng một người bình thường, không thể nào dồn nội lực ra cho nên khi táng vào gốc cột thì trán sưng một cục, đau đớn vô cùng. Hai kẻ áo vàng biết bà ta muốn tự sát, có ý chơi khăm bởi vậy mới để bà ta thoát ra. 

Bọn vệ sĩ đỡ Tào Cẩm Nhi lên tống giam vào ngục. Khấu Phương Cao lại cùng mọi người ngồi trở lại bàn tiệc. Tư Không Hóa nói: “Tuy Tào Cẩm Nhi là chưởng môn phái Mang Sơn nhưng cũng không phải kẻ đầu đảng.” Tây Môn Mục Dã nói: 

“Sao, phái Mang Sơn không phải là kẻ tử địch của triều đình? Hoàng thượng đã đích thân nói với tôi rằng, các môn phái khác thoát cũng được, nhưng không được tha cho bất cứ người nào của phái Mang Sơn.” Khấu Phương Cao nói: “Tây Môn huynh có điều không biết, Tào Cẩm Nhi tuy là chưởng môn nhưng địa vị trong phái Mang Sơn chẳng bằng Dực Trọng Mâu.” Tây Môn Mục Dã nói: “Vì sao?” Khấu Phương Cao nói: “Nhà của Tào Cẩm Nhi ở Hà Bắc giàu có, mụ ta tuy không dựa vào triều đình nhưng cũng chẳng đối đầu với triều đình, còn Dực Trọng Mâu là bang chủ của Cái Bang, đã nhiều lần chống đối triều đình. Cho nên ông bắt Tào Cẩm Nhi đương nhiên cũng có công nhưng không lớn bằng bắt Dực Trọng Mâu.” Tư Không Hóa lại nói: “Còn vợ chồng Đường Hiểu Lan của phái Thiên Sơn càng là người hoàng thượng muốn bắt. Hoàng thượng chẳng nói với ông sao?” Cả hai người này cố ý hạ thấp công lao của Tây Môn Mục Dã, Tây Môn Mục Dã đang đắc ý, bị bọn họ dội cho một chậu nước lạnh thì bực bội nói: “Nói thì dễ, đáng tiếc nếu thực sự động thủ thì lại thiếu người.” Ý nghĩa của câu nói này rất rõ ràng, ý muốn bảo lần này Tư Không Hóa đã xuôi tay đứng nhìn, còn bọn võ quan ngự lâm quân đi theo thì vô dụng. Bạch Lương Ký mặt tái xanh, Tư Không Hóa đương nhiên cũng biến sắc. Khấu Phương Cao vội vàng giảng hòa: “Giờ đây đại công chưa cáo thành, chúng ta phải đồng tâm hiệp lực không nên tranh cãi. Vì lần này chúng tôi nghe Tây Môn tiên sinh nói đảm bảo sẽ bắt được bọn chúng cho nên phái ít người, có lẽ là Tư Không đại nhân không muốn tranh công với Tây Môn tiên sinh, Tây Môn tiên sinh đừng trách.” Y bảo là điều đình, nhưng thực ra vẫn có ý bênh vực cho Tư Không Hóa. Tây Môn Mục Dã ngại thân phận của y, vả lại đã từng huênh hoang trước mặt hoàng đế cho nên không dám lên tiếng nữa. 

Khấu Phương Cao lại rót đầy rượu cho hai người, cười rằng: “Chúng ta cạn xong li này rồi bàn cách phá địch.” Uống xong chén rượu, Khấu Phương Cao nói: “Nghe nói đệ tử các môn phái lớn hiện nay đều tập trung ở chùa Thiếu Lâm. Nếu chúng ta có đủ người thì sẽ bắt trọn bọn chúng. Triều đình không muốn có lời đàm tiếu cho nên không thể điều động đại đội quân mã, chỉ âm thầm thực hiện. Vẫn mời Tây Môn tiên sinh chủ trì, rồi chọn thêm nhiều hảo thủ. Thủ hạ của Tư Không huynh và vệ sĩ của tôi đều do Tây Môn tiên sinh sai khiến.” Tây Môn Mục Dã lạnh lùng nói: “Phía địch cao thủ nhiều như mây, chẳng thể xem thường.” Y nói câu ấy là có ý coi thường thủ hạ của hai người này. Khấu Phương Cao cố nén cơn giận, cười gượng nói: “Theo như Tây Môn tiên sinh nói, có lẽ ông vẫn chưa yên tâm về những người mà tôi đã chọn, vậy xin mời Tây Môn tiên sinh cứ tự chọn lấy!” Tây Môn Mục Dã nói: “Lẽ ra tôi không nên vượt cấp, nhưng hoàng thượng đã giao trách nhiệm, cũng chỉ đành cẩn thận hành sự, bởi vậy phải chọn lựa nghiêm khắc. Thế này nhé, mời Tư Không đại nhân chọn ra một tốp hảo thủ ngự lâm quân để huynh đệ của tôi tỉ thí với họ, nếu ai không bại trong vòng mười ba chiêu thì người đó có tư cách đến Thiếu Lâm tự. Trước tiên chọn trong ngự lâm quân, sau đó mới chọn thị vệ trong cung.” Tây Môn Mục Dã quả thật ngông cuồng, Tư Không Hóa không nhịn được nữa, lạnh lùng bảo: “Tôi không lượng sức mình, cũng muốn được lãnh giáo Tây Môn tiên sinh xem có thể đến Thiếu Lâm tự hay không?” Tây Môn Mục Dã chưng hửng, vội vàng nói: “Tư Không đại nhân đã nói đùa, đại nhân võ công cao cường, huynh đệ xưa nay rất bội phục, đâu cần phải thử nữa! Chả lẽ đại nhân muốn tôi bày trò, khảo nghiệm công phu của tôi?” lúc này Tây Môn Mục Dã mới biết mình đã lỡ lời, định nói vài lời xoa dịu Tư Không Hóa, nào ngờ Tư Không Hóa đanh mặt, chẳng nói lời nào. Tây Môn Mục Dã không thể xuống thang được, Khấu Phương Cao đang định giảng hòa thì chợt một võ quan bước ra, thi lễ với Tư Không Hóa nói: “Thống lĩnh đại nhân, ngài cần gì phải đích thân ra trận để mất thân phận? Bỉ chức bất tài nhưng cũng mong được khảo nghiệm để người ta khỏi cười rằng ngự lâm quân chúng ta ngoài thống lĩnh thì chẳng còn ai.” Y vừa nói xong thì bước ra phía trước, đưa mắt nhìn Tây Môn Mục Dã. 

Tư Không Hóa nghe y nói thế thì thầm nhủ: “Nghe nói Tây Môn Mục Dã võ công quỷ dị, mình cũng chưa chắc thắng được y, chi bằng cứ để người này thử xem sao.” Thế rồi liền cười rằng: “Cam huynh là giáo đầu mới đến, là đệ tử đắc ý của Liễu Tam Xuân, cũng đã có mấy thành hỏa hầu công phu nội ngoại, Tây Môn tiên sinh có muốn ban cho y vài chiêu không?” Võ quan ấy chẳng phải ai khác mà chính là Kim Thế Di. 

Tây Môn Mục Dã hừ một tiếng, thầm nhủ : “Liễu Tam Xuân là cái thá gì? Đệ tử của y làm sao xứng tỉ thí với mình!” nhưng Tư Không Hóa đã tiến dẫn, ít nhiều y cũng phải nể mặt, chỉ hừ một tiếng, cao giọng nói: “Vô Phi đại sư, mời giúp tôi chọn nhân tài đến Thiếu Lâm tự.” Một nhà sư mặc cà sa màu vàng bước ra, người này là cao thủ của Hồng giáo Tây Tạng, Tây Môn Mục Dã bảo y thử chiêu với Kim Thế Di cũng cảm thấy thiệt thòi cho y. Nhưng mặt khác y cũng có ý khoe khoang thực lực phía mình cho nên mới gọi Vô Phi đại sư, lòng thầm nhủ: “Tư Không Hóa nhà ngươi đã tiến cử người này, ta phải làm ngươi mất mặt mới được.” Y tính rằng Vô Phi đại sư không quá mười chiêu thì có thể đánh bại viên võ quan trẻ tuổi chẳng biết trời cao đất dày kia. Kim Thế Di nói: “Được, tôi sẽ lãnh giáo võ công của vị đại sư này trước, lát nữa sẽ mời Tây Môn tiên sinh chỉ điểm.” Chàng nói thế rõ ràng là coi thường Vô Phi đại sư. Tây Môn Mục Dã cười lạnh nói: “Ngươicứ tỉ thí xong rồi tính tiếp!” Vô Phi đại sư to lớn dềnh dàng, to hơn Kim Thế Di cả một cái đầu, vừa bước ra đã bảo với Kim Thế Di: “Ngươi dùng binh khí gì cứ việc lấy ra!” Kim Thế Di cười nói: “Tôi không câu nệ, đại sư dùng binh khí gì thì tôi sẽ dùng binh khí ấy” Vô Phi đại sư thầm nhủ: 

“Hay cho tên tiểu tử cuồng vọng, vậy thì lần này người đã chuốc khổ!” thế rồi liếc nhìn Kim Thế Di, khẽ nói: “Bần tăng xưa nay không dùng vũ khí, chỉ dùng đôi chưởng này mà thôi!” Kim Thế Di nói: “Tốt lắm, tôi chỉ sử dụng một chưởng.” Vô Phi đại sư luyện loại công phu bí truyền của Hồng giáo là Đại tạng chưởng huyết thủ ấn, lợi hại hơn các loại võ công cùng loại ở Trung Nguyên như Thiết sa chưởng hoặc Kim cương thủ, y giở chưởng lên thì lập tức có mùi máu tanh tỏa ra. Kim Thế Di chẳng hề nhúc nhích, nhìn bàn tay đỏ ửng như máu của Vô Phi đại sư mà cười rằng: “Công phu Đại tạng chưởng của đại sư coi như cũng không tệ. Đáng tiếc còn thiếu một chút hỏa hầu!” Vô Phi đại sư chưng hửng, thầm nhủ: “Sao tên tiểu tử này biết công phu của mình?” Đại tạng chưởng huyết thủ ấn là tuyệt học bí truyền của Hồng giáo, đừng nói là người ngoài, dù cho Đạt ma cao cấp trong Hồng giáo cũng chẳng có mấy người biết, nhưng Kim Thế Di lại bảo y còn thiếu hỏa hầu, vì thế Vô Phi đại sư mới cả kinh. 

Kim Thế Di tiếp tục nói: “Đại tạng chưởng nếu luyện đến cảnh giới cao nhất, bên ngoài chẳng khác người thường, nay bàn tay của đại sư đỏ như máu, giơ chưởng lên thì có mùi tanh, nhiều nhất cũng chỉ có bảy thành hỏa hầu.” Vô Phi đại sư kinh ngạc bất định, nói: “Đúng thế, ta chỉ có bảy thành hỏa hầu, nhưng ngươi có dám tiếp một chưởng của ta không?” Kim Thế Di cười nói : “Dù đại sư có luyện đến mức lư hỏa thuần thanh tôi cũng không sợ, huống chi là bảy thành?” Vô Phi đại sư vạch chưởng thành một đường vòng cung, quát rằng: “Tiếp chưởng!” rồi vỗ xuống đỉnh đầu Kim Thế Di, nếu bị trúng chưởng này, nạn nhân sẽ lập tức rã rời xương cốt, trong máu trúng độc. Không quá ba ngày chắc chắn sẽ tử vong. 

Kim Thế Di cố ý trổ tài, không vung chưởng chống lại, chỉ nghe bốp một tiếng, Vô Phi đại sư vỗ chưởng xuống, Kim Thế Di khom người, chưởng ấy trúng vào bối tâm của chàng, trên lưng xuất hiện một dấu tay màu đỏ. 

Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di xoay người lại, quát: “Ngươi cũng tiếp một chưởng của ta!” đối phương tiếp một chưởng của mình, Vô Phi đại sư đã sớm kinh hoảng. Kim Thế Di quát: “Mau mau xuất chưởng, bản lĩnh của ngươi chẳng thể nào tiếp nổi Đại tạng chưởng của ta!” lúc này Vô Phi đại sư mới phát giác lòng bàn tay của Kim Thế Di đã đẩy đến trước ngực, y thất kinh vội vàng xuất chưởng chống lại, chỉ nghe bốp một tiếng, hai chưởng giao nhau, bàn tay của Vô Phi đại sư nát bét, máu đen kịt chảy ra ròng ròng, công phu Huyết thủ ấn đã bị Kim Thế Di phế bỏ, nếu muốn luyện trở lại cảnh giới này ít nhất cũng phải mười năm. 

Vô phi đại sư mặt xám ngoét, rên rỉ: “Ngươi... sao ngươi cũng sử dụng Đại tạng chưởng?” Kim Thế Di cười nói: “Ta chẳng phải nói, ngươi dùng binh khí gì thì ta sẽ dùng binh khí ấy, ngươi dùng công phu gì, ta cũng dùng công phu ấy hay sao? Nhưng ngươi đừng lo, ta tuy dùng công phu Đại tạng chưởng nhưng lại là thuần chính hòa bình, không làm ngươi trúng độc, ngươi cứ nghỉ ngơi cho khỏe, đừng lo mất mạng.”

Té ra Kim Thế Di đã dung hợp võ công của các phái chính tà, lại luyện nửa bộ bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, nửa bộ này là tinh nghĩa của võ học. Kim Thế Di thông được một lý thì trăm lý cũng thông, ngoại trừ vài loại thần công thượng thừa nhất, đối với các loại công phu khác chỉ cần nhìn là sẽ hiểu ngay. Song chàng cũng chỉ có thể phát ra chưởng lực của Đại tạng chưởng chứ không làm cho nạn nhân trúng độc, nhưng Vô Phi đại sư cũng không biết luyện đến mức lư hỏa thuần thanh thì như thế nào, vẫn tưởng rằng Kim Thế Di nương tay, chỉ dùng chưởng lực phế bỏ công phu mà giữ lại tính mạng của y. Vô Phi chẳng dám nói nhiều, vội vàng lui xuống. 

Vô Phi đại sư chỉ đấu một chưởng với Kim Thế Di mà đã trọng thương, mấy trăm võ sĩ đứng nhìn đều hoảng hồn đến nỗi trợn mắt há nườm, Tư Không Hóa thì nghi ngờ lắm, y nghe nói Liễu Tam Xuân chỉ giỏi môn Miên chưởng, mà Miên chưởng lại chẳng hề có chỗ giống nhau với Đại tạng chưởng, nhưng Kim Thế Di lại có thể sử dụng Đại tạng chưởng đánh bại Vô Phi đại sư quả thực rất khó hiểu. Tư Không Hóa lúc này không khỏi nghi ngờ lai lịch của Kim Thế Di, nhưng vì y muốn Kim Thế Dilấy sĩ diện cho ngự lâm quân cho nên cũng không hỏi ngay. 

Tây Môn Mục Dã hừ một tiếng rồi nói: “Tên họ Cam này hơi quái dị! Liên Gia huynh đệ, hai ngươi ra thử!” bên cạnh có hai hán tử trông chẳng khác gì nhau, vừa nhìn thì biết đó là đôi anh em sinh đôi. 

Các võ quan ngự lâm quân đều coi Kim Thế Di là người cùng phe, đang mừng rỡ vì chiến thắng của chàng, lúc này thấy anh em họ Liên bước ra thì có người không khỏi lo lắng. Vốn là hai người này tên gọi Liên Thành Bảo và Liên Thành Ngọc, xưa nay luôn đi đôi với nhau, công phu điểm huyệt của họ rất cao cường, cả hai anh em dùng bốn cây phán quan bút chuyên điểm vào kỳ kinh bát mạch, phối hợp rất kín kẽ, ít có cao thủ nào thoát khỏi tay họ. Cho nên bốn cây bút liên thủ với nhau cũng giống như song kiếm hợp bích của người khác, gặp một đối thủ cũng dùng bốn cây bút, mà gặp một trăm đối thủ cũng dùng bốn cây bút. Kim Thế Di nói: “Công phu Tứ bút điểm bát mạch của các ngươi cũng khiến họ Cam ta hơi khó khăn, để ta nghĩ thử nên làm sao đây?” Liên Thành Bảo nhất thời không hiểu, lạnh lùng nói: “Có gì mà khó, ngươi không đối phó nữa thì cứ nhận thua.” Kim Thế Di cười ha hả: “Ai nói ta nhận thua, ta đang nghĩ, một mình ta chỉ có hai cánh tay, làm sao có thể sử dụng bốn cây phán quan bút!” anh em họ Liên chưng hửng, chỉ nghe Kim Thế Di lẩm bẩm: “Có rồi, có rồi, điều đó cũng không làm khó được ta, một mình ta sẽ diễn tuồng hai người cho các ngươi xem!” Liên Thành Ngọc trừng mắt hỏi: “Cái gì? Ngươi cũng có công phu Tứ bút điểm bát mạch?” Kim Thế Di nói: “Đúng thế, lúc nãy ta chẳng phải nói các ngươi dùng binh khí gì ta sẽ dùng binh khí ấy, các ngươi dùng công phu gì ta cũng dùng công phu ấy hay sao?” Kim Thế Di vừa nói thì hàng trăm võ sĩ đều sững người ra, bởi vì lúc này chàng chẳng có thứ gì trong tay, dù cho chàng có lấy được phán quan bút thì làm sao có thể sử dụng được cả bốn cây, điều quan trọng hơn là thủ pháp điểm huyệt của nhà họ Liên truyền nam không truyền nữ, nhất là công phu Tứ bút điểm bát mạch, vì hai người này là anh em sinh đôi, tâm ý tương thông nên mới có thể phối hợp kín kẽ, mà loại công phu này cũng do hai anh em họ nghĩ ra, cũng có nghĩa là, thiên hạ tuy lớn nhưng chỉ có hai anh em nhà họ Liên mới biết bộ công phu điểm huyệt này, dù võ công của Kim Thế Di tinh thâm đến mức nào cũng chẳng thể nào hiểu nổi! Chàng nói như thế chẳng phải đã hoang đường, khiến người ta khó tin hay sao? 

Hai anh em họ Liên đưa mắt nhìn nhau, lòng đều nghĩ: “Chả lẽ kẻ này là kẻ điên?” Tư Không Hóa cũng chẳng hiểu ất giáp gì, chỉ đành bảo tên võ sĩ đứng bên cạnh: “Ngươi lấy bốn cây phán quan bút đưa cho Cam giáo đầu.” Nào ngờ Kim Thế Di lại xua tay, nói: “Tôi đã nói họ dùng binh khí gì thì tôi sẽ dùng binh khí ấy, những cây phán quan bút này không hợp tí nào!” té ra đôi phán quan bút của anh em nhà họ Liên rất đặc biệt, phán quan bút thông thường chỉ có hai thước tám tấc, một đầu nhọn, nhưng phán quan bút của hai anh em họ thì dài đến ba thước sáu tấc, đầu bút lại tẻ ra, có nghĩ là một cây bút mà có đến hai đầu, bốn cây bút công lại là tám đầu cho nên cơ thể trong vòng một chiêu điểm được kỳ kinh bát mạch của người ta. Trong võ lâm c óbốn câu nói đánh giá phán quan bút: “Một tấc ngắn, một tấc hiểm, một tấc dài, một tấc mạnh!” Có nghĩa là phán quan bút càng ngắn thì chiêu số càng hung hiểm, phán quan bút càng dài thì uy lực càng lớn, lộ số khác nhau, ưu kém cũng khác nhau. 

Nhưng cũng yêu cầu người sử dụng bút phải có một công lực nhất định. Bút dài khó sử dụng hơn bút ngắn. Danh gia điểm huyệt trong võ lâm là Công Tôn Địch sử dụng một cây phán quan bút dài một thước tám tấc, đó là loại bút ngắn nhất, còn bút của anh em nhà họ Liên dài đến ba thước sáu tấc, đó là loại bút dài nhất. Huống chi đây là loại bút tách đầu đặc biệt, bởi vậy ở đây không có loại binh khí này. 

Liên Thành Bảo lạnh lùng nói: “Cam giáo đầu, bọn ta không chuẩn bị sẵn, không thể cho ngươi mượn được.” Kim Thế Di nói : “Đừng lo, ta nói là sẽ làm được. Sao ngươi biết ta không có phán quan bút như ngươi?” Liên Thành Ngọc nổi cáu, nói: “Được, đừng nhiều lời nữa, ngươi cứ rút phán quan bút của ngươi ra! Nếu ngươi có thể lập tức lấy ra bốn cây phán quan bút như thế này, hai anh em ta lập tức nhận thua.” 

Kim Thế Di cười nói: “Chưa giao thủ mà các người nhận thua ta cũng không chịu. Được, ngươi đã nói thế thì trái lại ta không muốn lập tức rút phán quan bút ra, ta sẽ nhường anh em nhà ngươi mười chiêu, khi ta ra tay thì sẽ dùng công phu Tứ bút điểm bát mạch, nếu dùng công phu khác coi như ta thua!” sau lần bị Kim Thế Di đánh bại, Hô Diên Húc rất khâm phục chàng, cả hai người đã trở thành bạn bè. Y là người nghĩ sao nói vậy, nghe Kim Thế Di bảo thế thì lo lắm, vội vàng kêu lên: “Cam huynh, chả lẽ huynh biến ra bốn cây phán quan bút sao?” Kim Thế Di nói: “Hô Diên huynh đệ, huynh đã nói đúng, lát nữa huynh sẽ được xem tuồng hay! Này, anh em nhà ngươi sao chưa xuất chiêu, còn đợi khi nào nữa?” Anh em nhà họ Liên nổi giận bừng bừng, cả hai người đều nghĩ: “Xem thử ngươi chống đỡ thế nào?” bốn cây phán quan bút cùng đánh ra, thiết bút quét gió kêu lên vù vù tựa như bốn con độc xà, điểm vào kỳ kinh bát mạch, ba mươi sáu đại huyệt trên mình Kim Thế Di, toàn thân chàng đều bị đầu bút của chúng bao trùm! Bút ảnh ngang dọc hoa cả mắt, mấy trăm võ sĩ đứng xung quanh chẳng ai nhìn thấy rõ, chợt nghe Kim Thế Di kêu lớn: “Quả nhiên bất phàm!” vừa dứt thì chàng đã lướt ra ba trượng, lúc này mọi người mới thấy rõ, chỉ thấy áo trên lưng chàng đã bị rách nhiều chỗ! Anh em nhà họ Liên đều kinh hãi, Kim Thế Di là người đầu tiên có thể đánh được bốn cây phán quan bút của chúng. Cả hai anh em nhìn nhau, lập tức thi triển tuyệt chiêu thứ hai trong Tứ bút điểm bát mạch, Liên Thành Bảo phóng vọt người lên, từ trên không điểm xuống nhanh như chớp vào các mạch nhâm, đốc, xung, đới của Kim Thế Di, còn Liên Thành Ngọc thì lăn người xuống đất, hai bút đánh tròn vẽ thành hai vòng tròn, tấn công vào bốn mạch âm duy, dương duy, âm kiêu, dương kiêu. Kim Thế Di kêu lớn: “Không xong rồi!” trong khoảnh khắc ấy, chàng phóng lướt người ra tựa như một mũi tên bật khỏi cây cung! 

Chỉ nghe bốn tiếng tưng vang lên, hai cây bút của Liên Thành Bảo từ trên đánh xuống chạm phải hai cây bút của Liên Thành Ngọc từ dưới đánh lên, Hô Diên Húc thở phào, bất đồ kêu lên: “Hay lắm! Hay lắm!” nào ngờ Kim Thế Di né tránh đã hay,thủ pháp điểm huyệt của hai.anh em nhà này càng hay hơn, bốn cây bút chạm nhauthì lập tức bay ra, Kim Thế Di chưa đứng vững chân thì bốn cây phán quan bút đã đuổi theo, tựa như có người sai khiến, bốn cây bút đâm xuyên vào nhau, vẫn là công phu Tứ bút điểm bát mạch, Kim Thế Di kêu lên: “Lợi hại thật!” chỉ nghe tiếng loạt soạt kêu lên, Lệ Thắng Nam đã thấy trên lưng Kim Thế Di hiện ra hai lằn máu, nàng vốn chẳng hề lo, ngay lúc này không khỏi cả kinh, thầm nhủ: “Nếu chàng mang ngọcgiáp của mình thì tốt biết bao!” Kim Thế Di xoay người, ngón trỏ búng một cái, hai cây phán quan bút ở phía sau bật ra, kêu lên: “Hãy lấy lại binh khí, vẫn còn bảy chiêu nữa?” Chiêu lúc nãy của hai anh em họ Liên tên gọi Phi quản kinh thần, hễ bút phóng ra thì người trúng sẽ chết ngay, nào ngờ Kim Thế Di chỉ bị thương nhẹ, lại còn búng hai cây bút của Liên Thành Ngọc quay trở lại, do vậy cả hai càng kinh hãi. Liên Thành Bảo phóng vọt người lên, chụp lấy hai cây bút, Liên Thành Ngọc dậm chân, trầm eo tọa mã chụp lấy hai cây bút, may mà y dùng công phu Thiên cân trụy, khi y tiếp được cây bút vẫn không khỏi chấn động, hổ khẩu tựa như muốn rách toác. Những chiêu này nhanh như điện chớp lửa xẹt, kinh hiểm tuyệt luân, cả Tư Không Hóa, Tây Môn Mục Dã, Khấu Phương Cao cũng đều kinh tâm động phách, căng thẳng đến nỗi ngộp thở. 

Để đối phó với ba chiêu điểm huyệt của hai anh em nhà này Kim Thế Di đã dùng bốn loại võ công thượng thừa nhất, hai chiêu đầu tiên chàng cố ý thử tài đối phương, bởi vậy dùng Thiên la bộ pháp né tránh, dùng công phu Kim trung tráo hộ thân, không ngờ đến chiêu thứ ba thì anh em nhà này sử dụng tuyệt kỹ điểm huyệt Phi quản kinh thần, cả Thiên la bộ cũng chẳng né được, Kim trung tráo cũng bị phá, khiến Kim Thế Di phải dùng công phu bế huyệt của Độc Long tôn giả, bởi vận mạch đốc mới không bị thương, cuối cùng chàng buộc thi triển công phu Đàn chỉ thần công búng hai cây bút Liên Thành Ngọc bay ngược trở lại. Nếu tám mạch đều bị điểm cùng lúc, Kim trung tráo với Bế huyệt pháp cũng chẳng thể nào ứng phó nổi! Trong bốn loại công phu này, Kháu Phương Cao đã nhận ra ba loại, Tư Không Hóa và Tây Môn Mục Dã chỉ nhận ra hai loại, chỉ có một người nhận ra chàng đã sử dụng đến bốn loại công phu, đó là Lệ Thắng Nam. Nàng thầm nhủ: “Công phu Tứ bút điểm bát mạch đúng là thủ pháp điểm huyệt kỳ diệu nhất trong thiên hạ, Kim Thế Di chỉ dùng tay không mà nhường chúng mười chiêu, e rằng đã quá khinh địch.” Cả người hiểu rõ bản lĩnh của Kim Thế Di như Lệ Thắng Nam mà nhìn xong ba chiêu cũng lo cho chàng, đương nhiên không cần phải nói đến những người khác. Hô Điên Húc thì kêu lên: “Cam huynh, chiếu theo quy củ võ lâm, dù trưởng bối và vãn bối đọ chiêu, nhiều nhất cũng chỉ nhường ba chiêu, huynh đã nhường xong ba chiêu, cần gì phải nhường cho đủ mười chiêu?” Kim Thế Di cười nói: “Huynh không biết, hai ngày nay tôi không tắm rửa, trên người ngứa ngáy, phải nhờ họ dùng bút gãi ngứa cho tôi, thật là thoải mái! 

Nào, nào, còn bảy chiêu nữa mau ra tay! Ta không đợi được nữa!” anh em họ Liên sắc mặt tái xanh, tuy chúng đã vạch trúng người Kim Thế Di nhưng cây bút của Liên Thành Bảo bị bật ra, nếu chiếu theo quy củ tỉ thí, bọn chúng đã sớm dập đầu xin thua. 

Hai anh em họ Liên vốn cũng muốn nhận thua, nhưng nếu làm thế thì uy danh điểm huyệt thiên hạ đệ nhất của nhà họ Liên cũng sẽ không còn, vả lại Kim Thế Di và Hô Diên Húc một xướng một hòa, lời lẽ khắc bạc vô cùng, tựa như chẳng hề coi chúng vào đâu, cả hai anh em xưa nay kiêu ngạo, làm sao có thể nuốt được cục giận này? 

Bọn chúng cũng thực sự muốn biết Kim Thế Di có biết công phu Tứ bút điểm bát mạch hay không, xem thử chàng lấy đâu ra bốn cây bút, ý nghĩ tò mò ấy hơn hẳn lòng sĩ diện. 

Hai anh em tâm ý tương thông, lúc này mỗi người đứng một bên Kim Thế Di, đột nhiên cùng quát: “Tên họ Cam kia, ngươi coi thường bốn cây bút này bọn ta sẽ gãi ngứa cho ngươi lần nữa!” Bốn cây bút đồng thời ra tay, lập tức vẽ ra một màn bút ảnh muôn trùng, trong chớp mắt chỉ trong vòng một chiêu đã tấn công vào kỳ kinh bát mạch của Kim Thế Di! Kim Thế Di tuy miệng thì nói lời khinh bạc, cố ý khiến cho anh em họ Liên khó chịu, nhưng thực ra cũng chẳng dám khinh địch, may mà sau ba chiêu, thủ pháp Tứ bút điểm bát mạch hơi rời rạc, chỉ thấy trong màn bút ảnh chàng hú lên một tiếng, dùng Thiên la bộ pháp lách người đi tới vị Li, chạy qua vị Khảm, luồn qua lách lại trong bốn cây bút, ngoại trừ vài người như Lệ Thắng Nam, Khấu Phương Cao, Tư Không Hóa, những người còn lại đều chẳng nhìn thấy chiêu số của chàng, hầu như chẳng thấy được bóng người. 

Hai anh em họ Liên đánh hụt, lại tung ra chiêu thứ năm đuổi theo, chiêu này tên là Thiên la địa võng, hai anh em bước vào vị trí Cửu cung bát quyền, một trước một sau chạy theo Kim Thế Di, bốn cây phán quan bút hợp thành một vòng tròn, chặn đường lui của Kim Thế Di, lần này Kim Thế Di không thể dùng Thiên la bộ pháp né tránh, chỉ nghe soạt soạt hai tiếng, bốn cây bút đã điểm lên người Kim Thế Di. 

Bọn ngự lâm quân đều thót tim, nào ngờ anh em họ Liên càng thất kinh hơn bọn chúng, đầu bút đã chạm vào người Kim Thế Di nhưng lại trượt sang một bên, cả hai mất trọng tâm, suýt ngã xuống, Kiến Thế Di cười ha hả, rồi sau đó lướt qua người Liên Thành Bảo, tránh luôn chiêu thứ sáu của bọn chúng. Té ra Kim Thế Di đối phó với chiêu thứ năm bằng công phu Triêm y thập bát diệt, đây là loại nội công thượng thừa, công lực càng sâu thì càng tuyệt diệu, với công lực hiện nay của Kim Thế Di, chàng đã hơn hẳn Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Kỳ, người năm xưa rất giỏi môn công phu này. Nhưng anh em họ Liên cũng không ngã xuống, đủ thấy bọn chúng không những tinh thông thủ pháp điểm huyệt mà công lực bản thân đã đến mức thuộc hàng nhất lưu. 

Kim Thế Di dùng công phu Lưu vân phi tụ phất hai cây bút của Liên Thành Ngọc ra, phá chiêu thứ bảy của chúng; tiếp theo chàng lại dùng công phu Đàn chỉ thần công ứng phó với chiêu thứ tám. Anh em họ Liên chợt thay đổi phương vị, Liên Thành Bảo chỉ đông điểm tây, Liên Thành Ngọc chỉ nam điểm bắc, hai cây bút điểm được nửa đường thì đột nhiên rẽ ngoặt, đổi hướng xử ra chiêu có uy lực lớn nhất là Khấp quỷ kinh thần, khi cây bút của Liên Thành Bảo điểm tới, từng tia máu bắn ra theo đầu bút của y, số là Liên Thành Ngọc dồn hết công lực vào đầu bút, công phu Triêm y thập bát diệt và Kim trung tráo của Kim Thế Di không chịu nổi, đã bị y đâm trúng huyệt trung lăng trong mạch dương duy. Công lực của Liên Thành Ngọc hơi kém hơn, hai bút lại đâm trượt ra, chỉ vạch rách được một mảnh áo của Kim Thế Di. 

Kim Thế Di hừ một tiếng rồi nói: “Còn một chiêu nữa, các người sẽ thấy ta ra tay!” anh em họ Liên đã thi triển chiêu có uy lực mạnh nhất, vả lại đã điểm trúng huyệt trung lăng của chàng, nhưng vẫn chẳng hề khiến chàng ngã xuống thì bất đồ lòng run sợ, cả hai anh em không hẹn mà đều xử ra chiêu cuối cùng là Bút trận tung hoành, đây là chiêu số trong thủ có công, vòng bút thu nhỏ, trước tiên phòng ngự bản thân đến gió mưa không lọt, chỉ cần kẻ địch lướt người tiến tới thì hai anh em sẽ chuẩn bị lưỡng bại câu thương! Lúc này hàng trăm võ sĩ như muốn vươn dài cổ ra thêm, mắt như mở to thêm để xem Kim Thế Di tìm đâu ra bốn cây bút. Kim Thế Di chợt quát: “Cho các ngươi mở rộng tầm mắt!” chàng vận dụng công phu Sư tử hống của Phật môn, màng nhĩ hai anh em họ Liên đều chấn động đến nỗi hồn bay phách tán, lúc này một luồng hàn phong lạnh lẽo quét tới mặt bọn chúng, mắt như bị người ta dùng kim đâm vào, bất đồ phải nhắm mắt, bút trận của bọn chúng lập tức tán loạn, trong khoảnh khắc này, Kim Thế Di vung tay đoạt lấy bốn cây bút rồi quát: “Mở mắt ra nhìn đây!” chỉ thấy trên tay chàng cầm hai cây bút, hai cánh tay co lại kẹp hai cây bút còn lại, bởi vì cây phán quan bút này dài đến ba thước sáu tấc, cho nên khi kẹp trong tay vẫn đài hơn bút bình thường, đủ để sử dụng thủ pháp điểm huyệt, Kim Thế Di lộn người, bốn cây bút lia tới, xử ra chiêu có uy lực nhất là Khấp quỷ kinh thần, chỉ nghe hai anh em đều kêu thảm, kỳ kinh bát mạch của cả hai người đều bị Kim Thế Di điểm trúng! Té ra sở dĩ Kim Thế Di nhường bọn chúng mười chiêu là muốn học lén thủ pháp điểm huyệt, chàng căm ghét hai tên này ác độc, vả lại chúng là thủ hạ đắc lực của Tây Môn Mục Dã, ngoại trừ vài chưởng môn của các môn phái lớn, chẳng ai địch nổi hai tên này, muốn trừ Tây Môn Mục Dã trước tiên phải khử bọn này, bởi vậy Kim Thế Di chẳng hề nương tay, trước tiên dùng công phu Sư tử hống làm cho chân khí nội gia hộ thân của chúng tán loạn, phá bút trận của chúng, tiếp theo là lấy gậy ông đập lưng ông, dùng công phu Tứ bút điểm bát mạch điểm vào kỳ kinh bát mạch của bọn chúng, phế võ công của bọn chúng! Anh em họ Liên rên rỉ: “Tên họ Cam kia, ngươi giỏi lắm!” rồi cả hai lảo đảo đi vào trong. 

Kim Thế Di cười ha hả, ném bốn cây bút rồi trở lại bàn tiệc, bẩm báo với Tư Không Hóa: “Hai anh em bọn họ là khảo quan, tôi là khảo sinh không dám chẳng tận lực, vả lại tôi cũng dùng công phu của nhà họ Liên, không ngờ họ không chống đỡ nổi chiêu số quen thuộc nhất, vì thế tôi đã đả thương họ, mong thứ tội.” Tư Không Hóa nhìn Tây Môn Mục Dã, vì lúc nãy y bảo muốn khảo nghiệm võ công của ngự lâm quân, giờ đây bị Kim Thế Di nắm lấy điểm ấy, tuy tức giận đến cực. điểm nhưng cũng không dám lên tiếng. Tư Không Hóa mới nói: “Khi tỉ thí ngẫu nhiên thất thủ cũng là do số trời, chẳng trách được ngươi.” Thế rồi cởi chiếc cẩm bào cho chàng che chỗ rách. 

Khấu Phương Cao thấy Kim Thế Di vận dụng bảy tám loại võ công khác nhau, hồ nghi vô cùng, không khỏi hỏi: “Sư phụ của Cam huynh có đúng là Liễu Tam Xuân trang chủ không? Lúc nãy tôi nghe không rõ.”. 

Hồi Thứ Bốn Mươi Mốt

     Tư Không Hóa nói: “Đúng thế, Cam huynh chính là cao đồ đắc ý nhất của Liễu tiền bối, Liễu tiền bối có viết thư trịnh trọng tiến cử, hôm nay được thấy thân thủ quả nhiên là danh sư xuất cao đồ.” Khi nói thì ngầm nháy mắt với Khấu Phương Cao. Khấu Phương Cao quen biết Tư Không Hóa nhiều năm, đương nhiên hiểu ý, y biết Tư Không Hóa cũng đã hoài nghi lai lịch của Kim Thế Di, nhưng vì muốn mượn Kim Thế Di để kìm chế Tây Môn Mục Dã cho nên không muốn truy cứu lúc này. Khấu Phương Cao thầm nhủ: “Tây Môn Mục Dã tuy đáng ghét, nhưng mìnhgiờ là đại nội tổng quản, nếu để một người có lai lịch bất minh, mưu đồ bất chính lẻn vào trong cung thì mình chẳng thể nào gánh nổi tội này!” Y chần chừ một hồi thì cuối cùng hỏi Kim Thế Di: “Nghe nói tuyệt kỹ của tôn sư là Miên chưởng, nhưng các hạ lại biết nhiều loại võ công như thế, chả lẽ ngoài Liễu tiền bối, còn theo ai học nghệ?” Kim Thế Di cười nói: “Đạo võ học là một lý thông thì thông trăm lý, bên ngoài người ta chỉ biết gia sư giỏi Miên chưởng, nhưng thực ra người cũng nghiên cứu đến các loại võ học thượng thừa khác.” Chàng ngập ngừng rồi lại quay sang Tây Môn Mục Dã cười: “Tây Môn tiên sinh có muốn thử nữa không?” Tây Môn Mục Dã căm hận Kim Thế Di đến cực điểm, công phu dụng độc của y tuy thiên hạ vô song, nhưng tự thấy võ công chẳng bằng Kim Thế Di, vả lại nếu dùng độc ở đây thì ngự lâm quân sẽ không phục, bởi vậy chỉ đành dằn cơn tức, cười gượng rằng: “Cam giáo đầu đã thắng liền hai trận, đã có thể đến Thiếu Lâm tự. Chi bằng cứ tiếp tục chọn người khác.” Khấu Phương Cao càng nghi ngờ, nhủ rằng: “Mình tuy chưa gặp mặt Liễu Tam Xuân, nhưng võ công của y đến mức nào thì chẳng giấu nỗi những người quen thuộc y. Nếu thật như tên họ Cam này nói thì Liễu Tam Xuân há chẳng phải là người võ công cao nhất hiện nay sao? Tại sao mười năm trước cả Nam Cung Ất cũng từng thắng y? Mà công phu của Nam Cung Ất thì mình cũng đã từng thử, không những chẳng bằng mình mà cả Tư Không Hóa cũng cao hơn một chút, sao đồ đệ của y lại ghê gớm đến thế? 

Xem ra tên họ Cam này chỉ toàn nói dối!” Tư Không Hóa đang suy nghĩ phải gọi ai, Khấu Phương Cao chợt hỏi: “Trong ngự lâm quân chẳng phải có một lão giáo đầu tên gọi Nam Cung Ất ư? Hôm nay sao không thấy đến?” Tư Không Hóa nói: “Ông ta đã cáo lão về quê.” Khấu Phương Cao ngạc nhiên nói: “Sao lại cáo lão? Tôi nhớ trước đây không lâu đã gặp ông ta.” Tư Không Hóa nói: “Đúng thế, ông ta vừa rời khỏi ngự lâm quân chưa đầy mười ngày.” Khấu Phương Cao càng lúc càng ngạc nhiên, biết việc Nam Cung Ất cáo lão là có nội tình, ngay lúc này chợt nghe một giọng nói già nua cất lên: “Tiền ngự lâm quân giáo đầu Nam Cung Ất cầu kiến Tư Không đại nhân!” Tư Không Hóa chưng hửng, nói: “Sao, ông ta quay trở về?” Khấu Phương Cao cười nói: “Vừa nói Tào Tháo, Tào Tháo đã tới. Mời, mời! Mau mời Nam Cung giáo đầu đến!” chỉ trong khoảnh khắc, Nam Cung Ất tức tối bước vào. 

Tư Không Hóa đứng lên, ngạc nhiên hỏi “Nam Cung lão sư, có chuyện gì?” Nam Cung Ất quét mắt nhìn Kim Thế Di, rồi lại chỉ Lệ Thắng Nam: “Đại nhân, đại nhân có biết lai lịch của hai tên này không?” Tư Không Hóa nhất thời không biết đáp thế nào, Khấu Phương Cao vội nói: “Đang muốn thỉnh giáo. Nam Cung lão sư nói thế, chắc là ông đã biết.” Nam Cung Ất lạnh lùng nói: “Bọn chúng là ai thì phải hỏi bọn chúng. Tôi chỉ biết rằng chúng không phải là đệ tử của Liễu Tam Xuân và Vạn Ứng Đang, chúng mạo danh đến đây!” Y vừa nói ra câu ấy khiến toàn trường chấn động, Lệ Thắng Nam biến sắc, tay sờ chuôi kiếm, Kim Thế Di thì vẫn thản nhiên, mỉm cười: “Vì truy cứu lai lịch của tôi, Nam Cung tiên sinh đã cực khổ!” Chàng ngầm muốn bảo Lệ Thắng Nam không nên ra tay. 

Đến lúc này, Tư không Hóa cũng đành hỏi: “Làm sao ông biết?” Nam Cung Ất nói: “Tôi đã đến Liễu gia trang, hỏi ra rằng Liễu Tam Xuân không có học trò họ Cam. Sau đó lại biết ở Vân gia trang xảy ra một kỳ án kinh động võ lâm.” Tư Không Hóa nói: “Ô, kỳ án gì?” Nam Cung Ất nói: “Mười ngày trước Liễu Tam Xuân và Vạn Ứng Đang đến Vân gia trang, ngay trong đêm ấy, Vân Trung Hiện và hai người Liễu, Vạn đều bị ám sát, cả quản gia nhà họ Vân, đại đệ tử của Vân Trung Hiện cũng mất mạng!” Nói đến đây thì ai nấy đều xôn xao. Tư Không Hóa kêu lên: “Có chuyện như thế ư? Chả trách nào ta đã gởi thiệp mời họ đến đây cũng chẳng thấy Vân Trung Hiện.” Khấu Phương Cao nghe Nam Cung Ất nói thế thì mặt lạnh như tiền, quát: “Có phải hai ngươi đã gây vụ án này không? Hai ngươi rốt cuộc là ai? Tại sao mạo danh đến đây?” Kim Thế Di vẫn thản nhiên đáp: “Đúng thế, ba người ấy đều do tôi giết!” 

Tây Môn Mục Dã quát lớn: “Té ra ngươi là gian tế!” Rồi chụp xuống, Khấu Phương Cao vội ngăn lại: “Bọn chúng mọc cánh cũng khó thoát, khoan hãy động thủ, tôi phải hỏi cung bọn chúng. Nói, tại sao ngươi đã hại chết ba người họ?” Kim Thế Di nói: 

“Lúc nãy chẳng phải đại nhân hỏi tôi mạo danh đến đây là làm chuyện gì sao? Chỉ vì tôi muốn giúp sức cho đại nhân, bởi vậy mới giết chết ba người ấy!” Khấu Phương Cao nói: “Tại sao như thế?” Kim Thế Di nói: “Tôi đã nói rất rõ ràng, đại nhân chưa hiểu sao? Nếu không mạo nhận đệ tử của Liễu Tam Xuân, Tư Không thống lĩnh làm sao thu nhận tôi? Hai người chúng tôi tự thấy có bản lĩnh, muốn ra sức cho hoàng thượng, lập công danh, nhưng ngặt nỗi chẳng biết đi vào đường nào, cho nên buộc phải dùng kế hạ sách để mong có cơ hội tiến thân!” Tư Không Hóa nói: “Té ra là thế, có điều hai vị dùng thủ đoạn như thế quá tàn độc!” Thầm nhủ: “Nếu bọn chúng thật sự giả mạo để tiến thân, sợ lộ chuyện cho nên giết người diệt khẩu thì còn có thể tha thứ. Hai người này còn hơn cả ba lão già kia.” Chính Tư Không Hóa đã đề bạt hai người Kim, Lệ, đêm nay lại dẫn họ vào cung dự yến, nếu hai người này là gian tế có mưu đồ bất chính, Tư Không Hóa cũng chẳng thoát tội, cho nên y cố nghĩ về mặt tốt. 

Giết người diệt khẩu, mạo danh tuy là hành vi tà ác nhưng đối với bọn người này cũng chẳng phải là chuyện gì lớn. 

Khấu Phương Cao nghe Kim Thế Di nói thế thì nửa tin nửa ngờ, nhưng y vẫn chưa nắm được bằng chứng cụ thể, vả lại cũng mấy phần e dè vì võ công của Kim Thế Di đã xuất thần nhập hóa, bởi vậy vẫn còn đắn đo không biết có nên lập tức bắt người hay không. 

Tây Môn Mục Dã đột nhiên châm hai chén rượu, cười ha hả: “Lượng nhỏ chẳng phải quân tử, vô độc bất trượng phu. Nào, tôi kính ông một ly, chúng ta đồng tâm hợp lực, nhất định có thể giết sạch nhân vật võ lâm thiên hạ!” Kim Thế Di nhận chén rượu, chàng lướt mắt nhìn thì thấy Lệ Thắng Nam nháy mắt với mình, Kim Thế Di cười nói: “Tửu lượng của tôi không giỏi, ly rượu của tiên sinh nhỏ hơn, chúng ta đổi nhau!” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chàng đột nhiên giật chén rượu của Tây Môn Mục Dã, Lệ Thắng Nam cũng bước tới thộp cổ y, Tây Môn Mục Dã bất đồ kêu ối chao, một tay thì đưa chén rượu của mình về phía trước, y cả giận nói: 

“Ngươi... ngươi thật vô lễ! Ôi chao...” nói chưa dứt lời thì mồm đã há ra, rượu trong chén của Kim Thế Di đổ tọt vào! Tây Môn Mục Dã cũng rất ghê gớm, trong khoảnh khắc điện chớp lửa xẹt, y thúc ngang cùi chỏ, Lệ Thắng Nam vội vàng buông tay, dùng Thiên la bộ pháp né tránh, Tây Môn Mục Dã vỗ tay trái keng một tiếng, chén rượu rơi xuống đất, lửa lập tức bốc cháy, nhưng trong mồm y vẫn còn rượu, Tây Môn Mục Dã há mồm phun ra, một luồng rượu bắn vào mặt Kim Thế Di, cũng trong lúc này ống tay áo của y bắn ra một luồng khói màu. Nhưng Kim Thế Di còn ra tay nhanh hơn y, chàng cười ha hả rồi chụp lấy hai tên đồng bọn của Tây Môn Mục Dã che lại phía trước của mình. Hai người này thì bị khói độc táp mù mắt, người kia thì bị rượu độc phun đầy mặt, lập tức mặt nóng như lửa đốt, da mặt cháy sạm! Kim Thế Di quát: “Lúc nãy ngươi còn bảo đồng tâm hiệp lực với ta, sao lại âm thầm hạ độc?” biến cố bất ngờ ấy khiến cho toàn trường chấn động, Tư Không Hóa cũng ngẩn người ra. 

Khấu Phương Cao vội vàng bước đến can hai người: “Có gì hãy từ từ nói!” Tây Môn Mục Dã gào lên: “Tên tiểu tử này rõ ràng là gian tế, Tư Không đại nhân, ông có còn biện hộ cho chúng không?” Tây Môn Mục Dã có cả thảy mười lăm tên đồng bọn, ngoại trừ Vô Phi đại sư và anh em họ Liên đã bị phế võ công, mươi hai người áo vàng còn lại đều xông lên, bao vây hai người Kim, Lệ, xem ra một trận ác chiến sắp nổ ra. 

Trong khoảnh khắc kiếm rút cung căng, tình thế cực kỳ gây cấn, chợt nghe có người cười lớn: “Tây Môn Mục Dã, ta cũng mừng công cho ngươi!” tiếng cười nghecứ leng keng như kim khí gõ vào nhau chấn động lỗ tai người xung quanh. 

Chỉ thấy một đám người từ bên ngoài chạy vào, kẻ đi đầu là một ông già cao lớn, mặt đỏ ửng, y vừa bước vào thì đã nhấc bổng hai tên ngự lâm quân cản đường ném tới, một cái bàn tiệc đổ sầm xuống. Hai tên ngự lâm quân chẳng phải tay vừa nhưng vừa chạm mặt đã bị y tóm lấy, chẳng hề chống cự nổi, cứ bị y nhấc bổng lên như haicon gà con. Bọn võ sĩ xung quanh chưa từng thấy như thế cho nên đều hoảng hồn! Tư Không Hóa, Khấu Phương Cao đều cả kinh, vội vàng chạy tới, sau lưng ông già đột nhiên xuất hiện một đạo sĩ, đạo sĩ lớn giọng nói: “Đừng động thủ, đây chính là Mạnh Thần Thông Mạnh lão tiên sinh!” tiếp theo có người cùng kêu lên: “Đây chẳng phải là hai vị thống chế Cẩn, Tần sao?” Tư Không Hóa chưng hửng, kinh hoàng bất định, lúc này y mới kêu lên: “Lăng Tiêu đạo huynh, là ông đấy ư? Xin hỏi Mạnh tiên sinh đến đây làm gì?” đám người đi cùng Mạnh Thần Thông lục tục bước vào, đứng sau lưng của y, mấy người ấy chính là Dương Xích Phù, Cơ Hiểu Phong, Lăng Tiêu Tử, Tần Đại và Cẩn Thuần. Lăng Tiêu Tử và Tư Không Hóa đều thuộc phái Toàn Chân, sau khi phái Toàn Chân suy yếu, Lăng Tiêu Tử vào Đại Tuyết Sơn ẩn cư, Tư Không Hóa thì hoàn tục làm quan, con đường của hai người khác nhau, nhưng cả hai cùng có chí nguyện như nhau, đó là muốn dựng lại phái Toàn Chân. 

Mạnh Thần Thông xuất hiện ở đây, bảo là dự tiệc mừng công là điều không ai nghĩ tới, mấy trăm võ sĩ đều lo lắng, Khấu Phương Cao hoảng sợ đến nỗi mặt tái xanh, tất cả mọi người đều nhìn về phía Mạnh Thần Thông. 

Lăng Tiêu Tử nói: “Ở đây không có chuyện liên quan đến các người, chỉ có Mạnh tiên sinh muốn tính sổ với Tây Môn Mục Dã, các người yên tâm!” Mạnh Thần Thông lớn giọng cười: “Tây Môn Mục Dã, chẳng phải ngươi muốn bắt hết tất cả nhân vật võ lâm hay sao? Nay Mạnh mỗ đã đến tận nơi, sao ngươi chưa ra tay?” Tư Không Hóa nghe Mạnh Thần Thông nói như thế thì yên lòng tránh qua một bên để chờ xem hai hổ đấu nhau. 

Khấu Phương Cao bạo dạn đứng cản trước mặt Tây Môn Mục Dã, nói: “Mạnh tiên sinh, mong ông tạm bớt cơn giận, nghe tôi nói một lời!” Mạnh Thần Thông trợn mắt hừ một tiếng nói: “Thế nào?” Khấu Phương Cao nói: “Tây Môn tiên sinh đắc tội với ông, ông tìm ông ta tính sổ là chuyện đương nhiên. Nhưng hôm nay hoàng thượng mở tiệc mừng công cho ông ta, mong ông nể mặt hoàng thượng. Tây Môn tiên sinh, mời ông rót một chén rượu xin lỗi Mạnh tiên sinh!” Mạnh Thần Thông cười lạnh nói: “Y đang muốn dùng độc hại ta, đâu có lẽ nào xin lỗi ta?” Tuy Tư Không Hóa chẳng ưa gì Tây Môn Mục Dã nhưng cũng cảm thấy sự việc đã nghiêm trọng, cho nên kéo tay Lăng Tiêu Tử nói: “Sư huynh, mong ông khuyên Mạnh tiên sinh, ông ta muốn báo thù cũng không sao, nhưng nếu... nếu...” Mạnh Thần Thông cười ha hả nói: “Nếu giết Tây Môn Mục Dã thì các ngươi chẳng thể nào ăn nói trước mặt hoàng đế phải không?” Khấu Phương Cao và Tư Không Hóa vội vàng vái dài nói: “Chính là ý này, Mạnh tiên sinh, ông là người thông tình đạt lý, mong ông uống một chén rượu xin lỗi!” Mạnh Thần Thông cả cười: “Tiệc mừng công biến thành rượu xin lỗi, thật là thú vị, đáng tiếc họ Mạnh không muốn uống rượu của y!” Y ngập ngừng rồi đột nhiên đổi giọng nói: “Họ Mạnh này biết tâm ý hoàng đế của các người. Chẳng qua ông ta muốn dẹp tan những đại môn phái không quy thuận triều đình, chuyện này Tây Môn Mục Dã chưa chắc làm được, nhưng họ Mạnh này lại có thể gánh vác. Vả lại không cần các ngươi giúp đỡ, sau khi thành công ta cũng không cần đến gặp hoàng thượng của các người lãnh thưởng, tranh công với các người. Được, ta đã nói đến đây, nếu cácngươi muốn ngăn cản nữa thì đừng trách ta không khách sáo!” Khấu Phương Cao và Tư Không Hóa đều chẳng ưa gì Tây Môn Mục Dã, nghe Mạnh Thần Thông nói thế thìthầm nhủ: “Trừ đi một Tây Môn Mục Dã, thay bằng một Mạnh Thần Thông, y lại không tranh công với chúng ta, cuộc giao dịch này tính ra chúng ta chẳng hề tổn thất.” Cả hai người đều im lặng không nói, lẳng lặng tránh qua một bên. 

Mạnh Thần Thông quát: “Tây Môn Mục Dã, uy phong của ngươi ở đâu rồi? Có giỏi thì hãy bước ra quyết một trận thư hùng với ta!” Mạnh Thần Thông có ý làm Tây Môn Mục Dã bẽ mặt trước nhiều người, định rằng sẽ vờn y như mèo vờn chuột rồi sau đó mới nuốt chửng.  

Chợt nghe bốp một tiếng, một cuộn khói bốc lên lan tràn xung quanh, trong đại sảnh tuy có hàng trăm chiếc đèn lồng, nhưng khi khói bốc lên thì chẳng nhìn thấy rõ ai. Té ra Tây Môn Mục Dã thấy điều đình thất bại, Khấu Phương Cao và Tư Không Hóa đều có ý hy sinh mình, y nào dám liều với Mạnh Thần Thông, bởi vậy lập tức phóng khói toan trốn chạy. Khói dày đặc có mùi nhức cả mũi, ai nấy đều sợ khói độc cho nên nháo nhào chạy ra. 

Mạnh Thần Thông quát: “Chạy đi đâu?” vù một tiếng, cánh tay y đột nhiên vươn dài chụp xuống, Tây Môn Mục Dã sớm đã có ý “ba mươi sáu kế, chạy là thượng sách”, y vừa phóng khói ra thì lập tức co giò bỏ chạy, cú chụp của Mạnh Thần Thông tuy nhanh như điện chớp nhưng cũng còn chậm nửa bước, chẳng trúng Tây Môn Mục Dã mà chỉ trúng vào một người áo vàng bên cạnh của y. Người này tên gọi Tiêu Kham, là một trong Dự Bách tam ma, công lực rất thâm hậu chẳng kém gì Tây Môn Mục Dã, bị Mạnh Thần Thông nắm vào xương tỳ bà thì đau buốt, vội vàng nhắm mắt lao tới, trong lúc nguy cấp lực phản công tăng lên bất ngờ, cú lao này trúng vào ngực Mạnh Thần Thông, Mạnh Thần Thông không khỏi chấn động, hai mắt tối sầm. Y cả giận siết chặt ngón tay, chỉ nghe rắc một tiếng, xương tỳ bà của Tiêu Kham đã bị y bóp nát, nằm ngay đơ dưới đất. 

Khi võ công luyện đến cảnh giới đệ nhất lưu thì mắt tinh tai thính hơn người thường, Tây Môn Mục Dã phóng khói mù là để trốn chạy trong lúc nguy cấp, tuy có độc nhưng độc tính không mạnh, Lệ Thắng Nam và Kim Thế Di đã nuốt sẵn bích linh đơn cho nên chẳng hề lo gì. Tây Môn Mục Dã tung mình vọt ra cửa, toan chui vào bí đạo, thì Kim Thế Di đã đuổi theo sau. 

Khấu Phương Cao biết Mạnh Thần Thông tuy là một đại ma đầu nhưng tuyệt không hành thích hoàng đế cho nên y chỉ lo Kim Thế Di, Kim Thế Di lai lịch bất minh, nếu để chàng xông vào trong nội cung, kinh động đến hoàng đế thì hiệu quả không thể tưởng tượng nổi, bởi vậy y vẫn luôn để ý đến Kim Thế Di. 

Kim Thế Di sắp bắt được Tây Môn Mục Dã thì chợt nghe kình phong lướt tới, chàng lắc người mà chẳng thoát. Khấu Phương Cao đã chụp được cánh tay chàng, bóp chặt vào huyệt khúc trì, trầm giọng quát: “Cam giáo đầu, ngươi xông vào bên trong làm gì?” Kim Thế Di thầm nhủ: “Khấu Phương Cao tuy là đại nội tổng quản mà công lực quả nhiên bất phàm!” Khấu Phương Cao chạm vào người chàng, hộ thể thần công lập tức có phản công, Khấu Phương Cao chỉ cảm thấy một nguồn nội lực dồn ra, còn chỗ mình bóp trúng mềm mại tựa như chẳng có xương. Huyệt khúc trì là một trong chín ma huyệt của con người nếu bị điểm trúng thì toàn thân sẽ mềm nhũn, Khấu Phương Cao đã dùng Kim cương chưởng lực chụp vào huyệt khúc trì của Kim Thế Di, tưởng rằng chẳng thể nào sơ xẩy, nào ngờ y vừa chạm vào thì cảm thấy cánh tay của chàng như bôi mỡ, bàn tay của y trượt sang một bên, lại còn bị hộ thể thần công của chàng chấn động lui đến hai bước, không khỏi cả kinh. 

Kim Thế Di đuổi được Khấu Phương Cao, chàng lập tức trở tay chụp lại, chỉ nghe ối chao một tiếng, một bóng người đột nhiên phóng vọt lên, công phu của người đó rất ghê gớm, một tay chụp vào xà ngang, đu đưa qua lại trên không trung, người đó chính là đệ tử của Mạnh Thần Thông, Thần Thâu Cơ Hiểu Phong, trong lúc hỗn loạn thói xấu của y trỗi dậy, thừa cơ khua nước bắt cá, định trộm một ít đồ làm kỷ niệm, y vừa ra tay thì đã lấy được hai tấm văn thư còn trống của ngự lâm quân trên người Tư Không Hóa, hai tấm văn thư này có dấu của thống lĩnh, có thể tùy ý điền một cái tên nào đó cũng được. Rồi y lại nhân lúc Khấu Phương Cao và Kim Thế Di giằng co, đánh cắp cái tẩu thuốc bằng ngọc của Khấu Phương Cao, đang định sờ vào túi của Kim Thế Di thì bị Kim Thế Di dùng một đòn Phất vân thủ chém ra. Đòn Phất vân thủ này có lực đạo nặng đến bảy tám trăm cân, nếu bị té xuống đất thì sẽ vỡ sọ, may mà Cơ Hiểu Phong khinh công cao cường, có thể xoay người đá chân trên không trung, lại phóng vọt lên mấy thước nữa, vươn tay chụp cái xà ngang, y phải đánh đu qua lại mới hóa giải luồng mãnh lực của Kim Thế Di. 

Lúc này Mạnh Thần Thông vừa mới đánh chết Tiêu Kham, thấy thế thì cả kinh, thủ pháp mà Kim Thế Di dùng để đánh lui Khấu Phương Cao và ném Cơ Hiểu Phong đều là tuyệt học bí truyền trong bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh! Nói thì chậm, sự việc lúc đó diễn ra rất nhanh, Mạnh Thần Thông gầm lớn, phóng vọt qua đám người,quát: “Ngươi là ai?” rồi đánh ra một luồng chưởng lực Tu la âm sát công đến tầng thứ chín, từ trên bổ xuống thiên linh cái của Kim Thế Di! Kim Thế Di sử dụng công phu Đàn chỉ thần công búng bốp một tiếng, trúng vào hổ khẩu của Mạnh Thần Thông, lập tức chặn được vài phần chưởng lực của y, nhưng chàng lấy chỉ chống chưởng thì vẫn thua thiệt, không khỏi thối lui mấy bước, vả lại còn rùng mình hai ba cái. 

Mạnh Thần Thông thấy mình dùng Tu la âm sát công đến tầng thứ chín mà chẳng làm cho đối phương bị thương, y càng kinh hãi hơn, đồng thời đã đoán được người đó chắc chắn là Kim Thế Di nhưng nhìn lại thì dung mạo không giống, đang định tiến tới nhìn cho rõ thì Kim Thế Di đột nhiên xoay người phun phẹt một bãi nước bọt về phía y, độc long châm bắn ra theo nước bọt kêu lên vun vút, Mạnh Thần Thông vội vàng phất ống tay áo, độc long châm chạm vào tay áo của y bị hộ thể thần công của y chấn động đều nát thành bột, chỉ có bãi nước bọt nhầy nhụa là dính vào ống tay áo của y. Kim Thế Di cười nói: “Mặc kệ ta là ai, ngươi làm càn ở đây, ta thấy trái tai gai mắt lắm!” Mạnh Thần Thông cả giận, đánh tiếp ra chiêu thứ hai, chiêu này là một đòn trong Kim cương chưởng, ở võ lâm Trung Nguyên cũng có vài cao thủ ngoại gia biết sử dụng Kim cương chưởng, tính ra cũng chẳng có gì lạ, nhưng Mạnh Thần Thông có thể vận dụng nội công thâm hậu của mình vào Kim cương chưởng, trở thành một loại chưởng lực nội công ngoại hợp quả đúng là trên đời chẳng có ai sánh kịp! Chợt thấy có hai bóng đen phóng vọt ra, một người dùng giáng ma bổng, một người dùng thiết luân bạt, đó đều là binh khí nặng nề, hai người cùng quát lên: “Trả mạng tam đệ của ta đây!” hai món binh khí nặng nề đồng thời bổ xuống đầu Mạnh Thần Thông! 

Hai người ấy chính là huynh đệ kết nghĩa của Tiêu Kham, người sử dụng giáng ma bổng tên gọi Bào Đảm, người sử dụng thiết luân bạt tên gọi Vương Hân, hai người này cùng với Tiêu Kham được gọi là Dự Bắc tam ma, tình thân như ruột thịt, Mạnh Thần Thông đánh chết Tiêu Kham, bọn chúng cũng báo thù cho nghĩa đệ. 

Mạnh Thần Thông gầm lớn một tiếng, hai chưởng đẩy ra, chưởng trái đánh vào cây giáng ma bổng, chưởng phải đánh vào cái thiết luân bạt, Kim cương chưởng lực dồn ra như sóng bể, chỉ một đôi chưởng thịt mà có thể thắng hai loại binh khí nặng nề, cây giáng ma bổng của Bào Đảm bay ngược ra, đánh vỡ đầu một người áo vàng, trong Dư Bắc tam ma thì Vương Hân có công lực cao nhất, nhưng cái thiết luân bạt của y vừa bị Mạnh Thần Thông đánh trúng một đòn thì y chấn động đến nỗi hổ khẩu chảy máu, hầu như không thể cầm được. 

Hai bên thiết luân bạt có răng cưa hình bánh xe, Vương Hân nhân thế lùi ra sau, thuận tay kéo một cái, tà áo của Mạnh Thần Thông cũng bị y kéo rách mấy mảng, Mạnh Thần Thông cả giận lại vỗ xuống một chưởng, Kim Thế Di quát lớn: “Sánh vai xông lên!” rồi tiếp một chưởng của Mạnh Thần Thông, lập tức thi triển Thiên la bộ pháp né ra, bè đảng của Tây Môn Mục Dã chỉ tưởng chàng là đồng bọn, bọn chúng thấy Mạnh Thần Thông hung hăng như thế, ai nấy đều không lạnh mà run, nghĩ bụng Mạnh Thần Thông chắc chắn sẽ chẳng tha cho mình bởi vậy mới liều mạng cùng xông lên! Lập tức những người không bị thương và chín người áo vàng đi cùng Tây Môn Mục Dã lao tới, vây Mạnh Thần Thông vào ở giữa. Kim Thế Di nhân lúc này đã lướt ra nhanh như làn khói. Bởi vì Lệ Thắng Nam đã dùng Thiên độn truyền âm gọi chàng. 

Tây Môn Mục Dã chạy ra cửa ngang, tiến vào hậu đường, y biết tòa Li cung này có một đường hầm bí mật, lúc nãy y bị Kim Thế Di đổ ly rượu độc vào mồm, tuy lập tức phun ra nhưng cũng có vài giọt thấm vào cổ họng, thuốc độc trong rượu là khổng tước đảm, vốn muốn hại Kim Thế Di nhưng không ngờ lại hại mình. Khổng tước đảm độc địa vô cùng, may mà công lực của y thâm hậu, lại đã uống thuốc giải cho nên mới không lập tức mất mạng, nhưng lúc này độc tính đã phát tác. Bởi vậy y đang nôn tìm một nơi yên tĩnh để vận công trị thương. Mạnh Thần Thông đại náo ở bên ngoài, sớm đã kinh động cả tòa Li cung, tất cả thị vệ trong cung đều biết Mạnh Thần Thông là đại ma đầu giết người không chớp mắt, bọn chúng lại không biết Mạnh Thần Thông đến là đối phó với Tây Môn Mục Dã, bởi vậy hết thảy đều kinh hoàng khiếp đảm, tìm nơi ẩn nấp. 

Tây Môn Mục Dã đầu váng mắt hoa, trong nhất thời chẳng tìm được lối vào đường hầm bí mật, đang lo thì có người quát: “Ngươi còn muốn chạy?” Tây Môn Mục Dã vung hai cây độc long chùy, nhưng chất độc đã bắt đầu phát tác, bởi vậy công lực của y giảm xuống rất nhiều, hai cây độc long chùy chỉ bay ra không quá một trượng thì rơi xuống, chẳng hề trúng kẻ địch. 

Tây Môn Mục Dã nhìn lại thì chỉ thấy người ấy mặc đồ ngự lâm quân, y vội vàng kêu lên: “Ta chẳng phải là kẻ địch, ngươi có nhận ra ta không?” võ quan ấy lạnh lùng nói: “Ta nhận ra ngươi chính là Tây Môn Mục Dã, hoàng thượng ban thưởng trọng hậu, bảo ngươi phải giết hết các nhân vật võ lâm.” Tây Môn Mục Dã nói: “Đúng thế, ngươi đã nhận ra ta thì chúng ta đều là người làm việc cho hoàng thượng. Trước kia không có oan, gần đây cũng chẳng có thù, tại sao ngươi làm khó ta?” Võ quan ấy nói: “Hạ một người nhất định phải có oan thù sao? Ta hỏi ngươi, ngươi có oán thù gì với nhà họ Lệ? Tại sao ngươi giúp ma đầu họ Mạnh hại mạng của cả nhà họ?” Tây Môn Mục Dã cả kinh, run rẩy nói: “Ngươi... ngươi là ai?” Võ quan ấy chính là Lệ Thắng Nam, nàng đột nhiên rút kiếm ra, gằng giọng nói: “Ngươi mặc kệ ta là ai, mau đem Bách độc chân kinh ra đây!” rồi nàng lia thanh kiếm, cây Tài vân kiếm chém keng một tiếng, cây trụ đá bên cạnh mẻ một miếng lớn. 

Tây Môn Mục Dã biến sắc, thối lui mấy bước rồi nói: “Bách độc chân kinh không có trên mình ta, ngươi để ta ra trước, ta hứa sẽ đưa cho ngươi.” Chính vì Lệ Thắng Nam không biết y có đem theo Bách độc chân kinh hay không cho nên mới không lập tức ra tay, nhưng nay nghe y nói như thế thì mặt biến sắc, lập tức biết ngay Bách độc chân kinh ở trên mình y, thế rồi cười lạnh, nói: “Có thực không? Để ta lục soát thử xem!” người đến thì kiếm đến, soạt một tiếng, nàng vạch rách áo của Tây Môn Mục Dã, trong khoảng sát na ấy, Tây Môn Mục Dã cũng đã ra tay, ống tay áo của y phóng ra một mảng khói độc, trong khói độc lại có mai hoa châm tẩm độc. Lệ Thắng Nam chém xong một kiếm thì lập tức xoay người, mai hoa châm đều bắn vào lưng, nàng có mặc ngọc giáp bởi vậy mai hoa châm rơi xuống như mưa. 

Lệ Thắng Nam phóng vào làn khói mù, nàng đã ngậm bích linh đơn trong miệng cho nên chẳng hề sợ bị tổn thương, chỉ thấy Tây Môn Mục Dã dựa lưng vào cây cột, thở phì phò, áo phía trước ngực rách toan, chỗ bị kiếm chém vào hiện lên hai vệt máu, Lệ Thắng Nam định lấy mạng y thì chợt thấy y lấy Bách độc chân kinh ra, kêu lớn: 

“Ngươi tiến lại một bước nữa thì ta lập tức hủy quyển sách này, ta có chết cũng không giao cho ngươi?” Lệ Thắng Nam cười lạnh nói: “Ngươi thật không sợ chết?” Tây Môn Mục Dã nói: “Ngươi lui mười bước, ta sẽ ném cho ngươi. Nếu ngươi cậy mạnh giành giật, Tây Môn Mục Dã này thà chết chứ không chịu nhục?” Lệ Thắng Nam thầm nhủ: “Lão này chết đã đến nơi mà còn trọng sĩ diện. Được, để mình lừa lão một phen.” 

Thế rồi nàng vừa lui ra phía sau vừa nói: “Ngươi ném quyển sách xuống đất, ta tha cho ngươi.” Ngay lúc này chợt thấy cây cột gỗ rung rinh, Lệ Thắng Nam kêu lên: 

“Ngươi giở trò gì thế?” rồi nàng lướt tới trước, Tây Môn Mục Dã đang định xé quyển sách thì hổ khẩu chợt tê rần, té ra Lệ Thắng Nam đã phóng độc châm vào cổ tay của y, bởi vậy quyển Bách độc chân kinh rơi xuống đất. 

Tây Môn Mục Dã thều thào: “Ta nhận ra ngươi, ngươi là con gái nhà họ Lệ, báo ứng, báo ứng? Ta trả Bách độc chân kinh lại cho ngươi đây!” Lúc này y đã ngã xuống đất, giọng nói càng lúc càng yếu ớt, Lệ Thắng Nam không yên lòng, bước lên bồi thêm một nhát kiếm, lúc này mới biết y đã chết. Lệ Thắng Nam giết xong Tây Môn Mục Dã thì mừng rỡ bèn đến nhặt Bách độc chân kinh, nào ngờ vừa chạm tay vào thì bàn tay tựa như bị lửa đốt, Lệ Thắng Nam cả kinh vội vàng buông ra, lòng bàn tay đã nổi bong bóng nước, cảm giác ngứa ngáy khó chịu từ ngón giữa dâng lên, lập tức cảm thấy đầu óc choáng váng, toàn thân rã rời, nàng vội vàng dùng Thiên độn truyền âm gọi Kim Thế Di. 

Kim Thế Di đến kịp thời, chỉ thấy dưới cây cột có hai người, máu tươi tràn ra đất, một người là Tây Môn Mục Dã, một người là Lệ Thắng Nam, còn cây cột thì xoaymòng mòng. Kim Thế Di chỉ nghĩ hai bên đánh nhau đến lưỡng bại câu thương, Lệ Thắng Nam nói: “Muội trúng độc, huynh mau mở hai huyệt đạo ủy trung và kiên tĩnh trên tay phải của muội.” Kim Thế Di nghe Lệ Thắng Nam nói thì hơi yên lòng, mở huyệt đạo cho nàng. Lệ Thắng Nam tiếp tục nói: “Huynh dùng vải bọc tay, nhặt quyển sách lên cho muội.” Kim Thế Di nghe nàng nói như thế thì biết quyển sách có độc, chàng có ý xem thử công lực của mình cho nên chạm nhẹ vào quyển sách, chỉ cảm thấy đầu ngón tay hơi bỏng rát, chàng đã luyện nội công chính tà hợp nhất, đã sắp đến cảnh giới chống được trăm loại độc, lúc này tuy chưa trúng độc cũng cảm thấy khó chịu, thầm nhủ: “Chất độc bôi trên quyển sách quả nhiên lợi hại, chỉ e chẳng kém gì khổng tước đảm và hạt đỉnh hồng.” Thế rồi chàng không dám thử nữa mà xé mảnh vải áo bọc quyển sách lại. 

Lệ Thắng Nam nói: “Giờ đây muội đã lấy được Bách độc chân kinh, chỉ còn thiếu nửa quyển bí kíp của Mạnh Thần Thông.” Kim Thế Di liếc mắt nhìn, chỉ thấy Tây Môn Mục Dã mặt tím đen, thất khiếu chảy máu, trông rất thê thảm, chàng nghĩ lại y cũng là cao thủ võ lâm, thở dài nói: “Kẻ dùng độc chết bởi độc, quyển sách này muội nên bỏ đi thì hơn.” Lệ Thắng Nam nói: “Bí kíp gia truyền làm sao có thể bỏ? Muội đã biết y dùng loại độc nào bôi trên quyển sách, sau này muội sẽ tự giải độc. Ha ha, đã có Bách độc chân kinh, nếu có thêm nửa quyển bí kíp, chúng ta liên thủ với nhau thì thiên hạ có ai địch nổi?” Trong khoảng sát na này, Kim Thế Di chợt dâng lên một ý nghĩ, chàng hầu như muốn xé nát quyển sách này, nhưng thấy Lệ Thắng Nam cao hứng như thế thì không nỡ làm cho nàng đau lòng, chỉ đành đưa quyển sách cho nàng rồi thở dài: “Đó là vật của nhà muội thì muội cứ giữ lấy.” Lệ Thắng Nam nói: 

“Huynh hãy lục soát tất cả thuốc độc trên người Tây Môn Mục Dã.” Kim Thế Di mò một hồi thì lấy được mười mấy viên thuốc, cũng không biết đâu là thuốc độc, đâu là thuốc giải. Lệ Thắng Nam vừa nhìn thì cười nói: “Lão này cũng thật tàn độc, sắp chết mà cũng hại người. Trên người y chẳng có loại thuốc giải đó, may mà muội đã ngậm bích linh đơn, nếu không đã cùng y đi gặp Diêm Vương. Thế Di, huynh hãy dùng ngân châm đâm vào các huyệt thiên khu, địa khuyết, thân phủ, quy tàng, dương bạch, huyền cơ, đâm xong có thể cầm cự được bảy ngày độc tính không phát tác.” Kim Thế Di đã học được thuật châm cứu từ nàng, thế rồi bắt đầu ra tay, lại dùng chân lực của bản thân giúp nàng thôi cung quá huyệt. Sắc mặt Lệ Thắng Nam dần dần hồng hào, Kim Thế Di hỏi “Trong mười mấy viên thuốc này, loại nào có thể giải độc của hoa Ma quỷ?” Lệ Thắng Nam nhặt một cái bình bạc nhỏ, trong có mấy mươi viên thuốc màu lục nhỏ như hạt đậu xanh, nàng mở nắp bình, ngửi rồi nói: “Không thể sai được, đây chính là thuốc giải độc tính của hoa Ma quỷ.” Lúc này bên ngoài vẫn còn tiếng la hét, hình như Mạnh Thần Thông chiếm được thượng phong, tiếp theo là tiếng bước chân chạy tới. 

Kim Thế Di lấy cái bình thuốc ấy rồi giữ chặt cây cột mà Tây Môn Mục Dã lúc nãy vừa mới dựa vào, cây cột dừng lại không xoay nữa. Lệ Thắng Nam nói: “Cây cột này có gì kỳ lạ, nhưng chúng ta đừng để ý nữa, hãy mau đi thôi.” Nàng đã trúng độc, tuy có thể giữ được mạng nhưng công lực đã giảm xuống nhiều, thấy chẳng địch lại bọn người Mạnh Thần Thông, nghĩ bụng mình đã giết xong Tây Môn Mục Dã, lấy được Bách độc chân kinh, đợi sau khi hồi phục công lực thì sẽ cùng Kim Thế Di liên thủ, lúc đó sẽ trả thù Mạnh Thần Thông dễ hơn nhiều, bởi vậy mới thúc Kim Thế Di chạy cho nhanh. Kim Thế Di cười nói: “Chúng ta không chỉ lo cho mình, huynh muốn cứu vài người.” Thế rồi dùng lực đẩy cây cột, cây cột xoay mấy vòng rồi đột nhiên nghe tiếng kêu kèn kẹt, một cánh cửa mở ra đủ cho một người chui vào. Cây cột này to đến hai người ôm, bên trong trống rỗng, đó chính là cửa ngầm vào đường hầm bí mật. 

Té ra lúc nãy Tây Môn Mục Dã muốn Lệ Thắng Nam lui mười bước mới chịu đưa Bách độc chân kinh là vì y đã tìm ra cánh cửa ngầm này, bởi vậy mới tìm cách dùng kế hoãn binh, nhưng sau khi trúng châm thì khí lực không đủ, chỉ có thể đẩy cây cột xoay vòng, lực đạo chưa tới bởi vậy chưa thể mở được cánh cửa ngầm. 

Ngay lúc này đã có bốn năm tên thị vệ từ bên ngoài chạy vào. Kim Thế Di phóng ra một nắm độc long châm, đâm trúng vào huyệt đạo của bọn chúng, đám thị vệ đều ngã lăn xuống đất. Kim Thế Di kéo Lệ Thắng Nam nhảy tọt xuống cánh cửa ngầm, hai tên vệ sĩ canh bên trong thấy họ mặc đồ ngự lâm quân thì vội vàng hỏi: 

“Bên ngoài thế nào rồi?” Kim Thế Di nói: “Không xong rồi, không xong rồi! Mạnh lão quái đã xông đến đây!” Bọn lính canh hoảng hồn tái xanh mặt, có một tên tương đối bình tĩnh, nói: “Các người chui vào đây từ cánh cửa ngầm, chắc chắn y đã thấy. 

Chúng ta hãy mau đóng đường hầm này lại!” Đường hầm chỉ có một cánh cửa đá, y đóng cánh cửa đá lại mà còn sợ chưa chắc, lại hô Kim Thế Di lăn hai cái đống đá đến chặn lại. 

Kim Thế Di hỏi: “Địa đạo dẫn đến nơi nào?” Tên vệ sĩ ấy đáp: “Thông tới dòng Ngự Hà ở bên ngoài Li cung. Ôi chao, ta cũng phải đóng lối vào ở phía ấy.” Bọn vệ sĩ đang kinh hoàng khiếp đảm, trong nhất thời cũng không hỏi Kim Thế Di tại sao biết đường hầm bí mật này. 

Kim Thế Di kéo y lại, cười nói: “Bây giờ không cần phải căng thẳng như thế, Mạnh lão quái đang đánh nhau rất hăng ở bên trên, y đâu có thời gian tìm lối vào đây, trong cung có mấy trăm võ sĩ, y chẳng thể nào giết hết được. Giờ đây các người hãy làm giúp ta một chuyện trước đã.” Tên vệ sĩ ấy hỏi: “Chuyện gì?” Kim Thế Di nói: “Vì đề phòng bất ngờ, Khấu tổng quản bảo ta thông báo cho các người chuyển đám tù binh đến nơi khác.” Tên vệ sĩ ngạc nhiên nói: “Còn có chỗ nào an toàn hơn ở đây?” 

Kim Thế Di nói: “Khấu tổng quản căn dặn như thế, ta chỉ làm theo lệnh.” Bọn vệ sĩ đều kinh hoảng, trong đó có một tên già dặn là nghi ngờ, hỏi rằng: “Rốt cuộc là chuyển đến nơi nào?” Kim Thế Di nói: “Ra khỏi Li cung này, tự nhiên có người tiếp ứng.” Tên vệ sĩ hỏi: “Này, chẳng phải lúc nãy ngươi còn tán thành đóng đường hầm này lại hay sao?” Kim Thế Di nói: “Đó là tạm thời ngăn bọn người Mạnh Thần Thông tiến vào đây, bởi vậy ta mới bảo các người không nên đóng lối ra phía bên kia!” Tên vệ sĩ ấy mới nói: “Không phải là ta không tin ngươi, chuyện quan trọng như thế này, lẽ ra Khấu tổng quản phải đưa lệnh bài cho ngươi, ngươi hãy lấy lệnh bài ra làm bằng cứ!” Kim Thế Di vốn biết chẳng dễ dàng gạt người ta, chàng chẳng qua chỉ muốn thử xem mà thôi, lúc này đã chứng thực rằng tù binh bị nhốt ở đây, cũng chẳng cần phải dài dòng nữa, thế rồi chàng mới cười ha hả nói: “Được, lệnh bài ở đây, nếu các ngươi không tin thì cứ đến xem!” Bọn thị vệ trố mắt ra, đang đợi chàng lấy lệnh bài, Kim Thế Di cười chưa dứt thì đột nhiên ra tay nhanh như điện chớp, điểm huyệt đạo của bọn chúng. 

Hai người chạy vào trong, trên đường cũng gặp vài vệ sĩ, thấy họ mặt đồ ngự lâm quân thì đều không tra hỏi, đi được không lâu thì đến một căn thạch thất, bên ngoài có một đám vệ sĩ, Kim Thế Di lớn giọng nói: “Ta phụng lệnh đến xem xét tù binh, ở đây có xảy ra chuyện gì không?” Tên thị vệ trưởng nói: “Không có chuyện gì, bên ngoài thế nào rồi?” Kim Thế Di nói: “Mạnh Thần Thông giết không ít người, giờ đây Tây Môn tiên sinh và Tư Không đại nhân đang ác chiến với y. Khấu tổng quản lo bọn tù binh này thừa cơ vượt ngục bởi vậy kêu bọn ta đến xem thử.” Thị vệ trường nói: 

“Ngươi có thể ra ngoài nói với Khấu tổng quản là ông ta đừng lo lắng. Bọn này tuy là võ lâm cao thủ nhưng đã trúng độc của Tây Môn tiên sinh, công lực đã không còn, tôi lại dùng gông cùm tay chân chúng lại, ở đây lại có đông người, bọn chúng mọc cánh cũng khó thoát!” Kim Thế Di nói: “Được, ngươi làm rất tốt! Nhưng bọn ta đã phụng lệnh đến đây thì cũng phải xem xét một tí, lát nữa mới trở về báo cáo.” Thị vệ trưởng đã nhận ra Kim Thế Di là người đã tỉ thí lúc nãy, thầm nhủ: “Chắc là Khấu tổng quản thấy y võ nghệ cao cường cho nên mới sai y đến đây canh giữ tù binh cho chắc ăn?” thế rồi lấy ra chìa khóa, lòng chợt nhủ: “Không đúng, không đúng! Khấu tổng quản đã phái người tuần tra, sao lại không phái người của mình mà lại sai một tên ngự lâm quân đến đây? Huống chi hai người này cũng mới tới, sao Khấu tổng quản có thể tin bọn chúng.” Tên thị vệ trưởng ấy còn đang ngần ngại thì chợt nghe tiếng gió lướt tới. 

Kim Thế Di đã lướt qua bên cạnh y, cười nói: “Không cần ngươi lo lắng, để tự ta mở!” tên thị vệ trưởng cả kinh, lúc này mới phát hiện chìa khóa đã nằm trong tay Kim Thế Di. 

Tên thị vệ trưởng quát lớn: “Này, sao ngươi lại vô lễ đến thế!” rồi chụp về phía Kim Thế Di, Kim Thế Di đang cúi người tra chìa vào ở khóa, chẳng hề để ý đến đòn tấn công của tên thị vệ trưởng, tên thị vệ trưởng giỏi cầm nả thủ, chụp trúng vai chàng, đang định nói: “Có muốn ta bóp nát xương tỳ bà của ngươi không?” y chưa nghĩ xong thì chợt thấy một luồng lực lớn dồn ngược ra, nhất thời té chổng cẳng. Kim Thế Di dùng công phu Triêm y thập bát điệt đánh ngã tên thị vệ trưởng, đồng thời đã mở được cửa, chỉ thấy bên trong có một đám người, tay chân bị xiềng xích kêu loảng xoảng. Kim Thế Di dùng Thiên độn truyền âm nói với Lệ Thắng Nam: “Muội chặt gãy gông xiềng cho những người này, để huynh đối phó với bọn chúng.” Lúc này tên thị vệ trưởng đã đứng dậy, quát lớn: “Giết chết hai người này!” mười mấy tên vệ sĩ rút binh khí xông ào về phía họ, Lệ Thắng Nam nhân lúc bọn chúng chưa hợp vây thì thi triển khinh công tuyệt đỉnh, sử dụng Thiên la bộ pháp lướt vào bên trong như làn khói, Kim Thế Di cười rằng: “Các người dám chống lại mệnh lệnh, nể tình đồng liêu, ta chỉ phạt nhẹ, các người hãy nằm ở đây một lát!” rồi thi triển công phu điểm huyệt độc môn, dùng Thiên la bộ pháp luồn qua lạch lại như bươm bướm xuyên hoa, chỉ trong khoảnh khắc, mười mấy tên vệ sĩ đều đã bị chàng điểm ngã. 

Kim Thế Di vào phòng giam tù nhân, bốn góc phòng đều có ngọn đèn yếu ớt, nhìn kỹ lại thì thấy số tù binh Tây Môn Mục Dã trao cho Khấu Phương Cao đều ở đây, Lệ Thắng Nam đang dùng Tài vân kiếm chặt gông cho họ mà vẫn chưa xong, bọn người ấy thấy hai võ quan ngự lâm quân đến thì ai nấy đều kinh hãi, Hoài Chân hòa thượng quát: “Các ngươi lại giở trò gì nữa đây?” Kim Thế Di nói: “Ta muốn mời đại hòa thượng nhà ngươi ra ăn một bữa thịt chó.” Hoài Chân nổi giận nói: “Nói càn, đệ tử Thiếu Lâm có thể bị giết chứ không chịu nhục, rốt cuộc ngươi muốn làm gì?” 

Kim Thế Di nói: “Ô, ta đã quên người xuất gia không ăn thịt chó, được, vậy thì trước tiên mời nếm một viên dược hoàn!” Lệ Thắng Nam chém gãy cùm tay và chân cho y, Kim Thế Di lấy một viên thuốc đưa trước mặt y, Hoài Chân đẩy hai chưởng ra, Kim Thế Di nói: “Hãy ngậm thử viên thuốc này, đây chẳng phải thịt chó, ra ngoài rồi sẽ tính tiếp!” rồi tay trái bóp vào cằm y, Hoài Chân đành há miệng ra, Kim Thế Di nhét viên thuốc giải vào. Hoài Chân hòa thượng chỉ cảm thấy một luồng nhiệt khí nổ vào đan điền, trong người rất dễ chịu, trong khoảnh khắc công lực đã hồi phục, y chưng hửng nhìn Kim Thế Di, Kim Thế Di cả cười: “Ngươi có tin chưa?” Hoài Chân chắp tay nói: “Bần tăng đã trách nhầm thí chủ, xin hỏi cao tính đại danh của thí chủ, tôn sư là ai?” Kim Thế Di nói: “Ta chỉ là hạng vô danh tiểu tốt trong võ lâm, không cần phải hỏi đến.” Chàng đổ thuốc trong bình ra đưa cho Lệ Thắng Nam nói: “Loại thuốc này rất linh nghiệm, muội hãy cho mỗi người họ uống một viên.” Lệ Thắng Nam mỉm cười nói: “Được, nhưng muội chẳng ưa bà già ấy, nhường cho huynh ra ơn.” Kim Thế Di bước đến bên cạnh Tào Cẩm Nhi, cười nói: “Tào chưởng môn, chắc bà không cần dùng thuốc của tôi chứ?” Tào Cẩm Nhi nhìn thẳng vào mặt Kim Thế Di, run rẩy nạt hỏi tựa như thấy ma: “Ngươi... ngươi là ai?” Kim Thế Di cười nói: “Tôi chỉ là một tên vô danh tiểu tốt, không đáng cho Tào chưởng môn nhắc.” Cửa phòng giam đã mở mộtlúc lâu, lúc này tù nhân bên trong đều đã thấy rõ tình hình bên ngoài. Có vài người đã uống thuốc giải đồng thanh kêu lớn: “Tào chưởng môn, đây đúng là thuốc giải, đừng nghi ngờ!” Tào Cẩm Nhi lạnh lùng nói: “Ta chưa bao giờ dễ dàng nhận ân huệ của người khác, trừ phi ta biết lai lịch của ngươi.” Té ra Tào Cẩm Nhi nghe giọng Kim Thế Di rất quen, cho nên đã nghi ngờ. Sư thúc của Tào Cẩm Nhi là Cam Phụng Kỳ là người giỏi thuật dị dung nhất, khi còn trẻ bà ta cũng thường dùng dị dung đơn thay đổi dung mạo đi lại trên giang hồ. Bởi vậy bà ta vừa nhìn thì biết ngay Kim Thế Di đã dùng dị dung đơn để che giấu mặt thật. Bà ta cũng nghi ngờ đó là Kim Thế Di nhưng vẫn chưa dám đoán, lòng thầm nhủ: “Nghe giọng nói tựa như là y, nhưng tên ma đầu này chẳng phải đã chết rồi sao? Lẽ nào Phùng Lâm lại gạt mình? Nếu đúng là y, tại sao lại có lòng tốt cứu mình?” Kim Thế Di thấy bà ta gàn rỡ như thế, nhớ lại trước đây bà ta đã đối xử với Cốc Chi Hoa rất khắc bạc, nhất thời lửa giận bốc lên. Chàng có ý làm khó cho nên dùng Thiên độn truyền âm nói bên tai bà ta rằng: “Bà muốn biết tôi là ai ư? Được, vậy tôi nói cho bà biết, tôi chính là đại ma đầu mà bà đòi đuổi xuống Mang Sơn, không cho bái tế Lữ Tứ Nương! Tôi cứu bà không phải vì bà mà vì nể mặt Cốc Chi Hoa, bà có hiểu chưa?” Chàng nói chưa xong thì chỉ nghe Tào Cẩm Nhi kêu lớn một tiếng, phun ra một ngụm máu tươi rồi ngất đi! 

Hồi Thứ Bốn Mươi Hai

     Chuyện bất ngờ lại xảy ra, mọi người đều thất kinh, trong số tù nhân có Lư Đạo Lân. y vội vàng chạy tới kêu: “Chưởng môn sư tỷ, tỷ sao thế?” Kim Thế Di làm cho Tào Cẩm Nhi giận đến nỗi ói máu hôn mê, trong lòng cũng thấy hối hận, thầm nhủ: “Bà già này ngang ngạnh gàn rỡ, đúng là trước sau không hề thay đổi.” Rồi bắt mạch cho bà ta, nói với Lư Dạo Lân: “Bệnh sư tỷ vì nhất thời xúc động cho nên chỉ ngất một lát, chắc là không nguy hiểm đến tính mạng. Giờ đây chúng ta phải tranh thủ ra ngoài. Người hãy cõng bà ta đi theo ta. Ở đây có một viên thuốc, người để bà ta tỉnh dậy thì lập tức cho bà ta uống, nếu bà ta không chịu thì ngươi cứ ép.” Lư Đạo Lân không hiểu nguyên cớ, ngạc nhiên thầm nhủ: “Tại sao sư tỷ lại không chịu uống thuốc giải của y?” Y cầm viên thuốc lên ngửi, mùi vị, hình dáng cũng giống như viên thuốc lúc nãy mình đã uống, bởi vây mới cẩn thận cất vào. Lúc này mọi người tuy cảm thấy hai người Kim, Lệ lai lịch bất minh, rất kỳ quặc nhưng cũng đều tin họ. Lư Đạo Lân đáp tạ Kim Thế Di rồi cõng Tào Cẩm Nhi đi theo sau chàng ra đường hầm. 

Trong đường hầm còn có hai ba mươi tên võ sĩ, có người nghe cửa nhà lao mở thì cũng đã chạy tới. Lúc này hơn hai mươi đệ tử các phái đã hồi phục công lực, hạ gục bọn võ sĩ mà không cần Kim Thế Di ra tay. Chỉ trong chốc lát bọn họ đã đến lối ra, cánh cửa đá đã được khóa lại, Hoài Chân hòa thượng định mở ra, Kim Thế Di ngưng thần lắng nghe, bên ngoài hình như có tiếng bước chân, vội vàng kêu lên: “Khoan đã!” rồi nắm hai tên võ sĩ bị thương, sau đó mở cánh cửa ném hai người ấy ra. 

Đột nhiên có tiếng kêu thê thảm như xé tim rách phổi vang lên, tiếp theo là một luồng gió lạnh cuốn tới, Kim Thế Di ném hai tên võ sĩ ra, lập tức tiếp một chưởng của Mạnh Thần Thông! Té ra Mạnh Thần Thông và Dương Xích Phù đã giết hết bè đảng của Tây Môn Mục Dã, sau đó mới đi tìm Tây Môn Mục Dã và Kim Thế Di, phát hiện Tây Môn Mục Dã đã chết ở lối vào địa đạo. Khấu Phương Cao lập tức biết chuyện không hay xảy ra, chỉ đành nhờ Mạnh Thần Thông giúp đỡ, Mạnh Thần Thông đang có ý trừ kình địch duy nhất của mình, lập tức cười ha hả rằng: “Ta đã giết xong Tây Môn Mục Dã, cũng nên giúp các người một tay để các người khỏi bị hoàng thượng trách mắng. Chắc chắn Tây Môn Mục Dã đã bị tên tiểu tử ấy giết. Được, ta sẽ giết tên tiểu tử ấy, các người có thể đổ mọi tội lỗi cho y!” Khấu Phương Cao mừng ra mặt, thầm nhủ: “Mất một Tây Môn Mục Dã lại có được một Mạnh Thần Thông, y lại không tranh công với mình, ha ha, đây đúng là họa chuyển thành phúc.” Vì thế vội vàng đi trước dẫn đường, cả đám người Mạnh Thần Thông chặn ở lối ra đường hầm, vừa lúc đó bọn người Kim Thế Di cũng xông ra. 

Kim Thế Di tiếp một chưởng của Mạnh Thần Thông, tuy có thể chống đỡ nổi nhưng cũng cảm thấy toàn thân lạnh lẽo. Số là khi luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ chín, dù cho hiểu cách luyện công, mà nội công lại đến mức chính tà hợp nhất, ít nhất cũng phải mười năm, tuy Kim Thế Di đã được nửa quyển bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, hiểu được sự ảo diệu trong đó nhưng vẫn chưa luyện Tu la âm sát công. Chàng chỉ có thể chống cự nhờ vào hộ thể thần công, nhưng rốt cuộc vẫn hơi thua thiệt. 

Lúc này Mạnh Thần Thông đã đoán được chàng là Kim Thế Di, y vừa lo vừa mừng, mừng là vì công lực của mình vẫn có thể hơn đối phương một bậc, lo là vì Kim Thế Di có thể tiếp nổi Tu la âm sát công tầng thứ chín của y bởi vậy thần sắc thay đổi, thầm nhủ: “Nếu không trừ y lúc này, cuối cùng y sẽ trở thành mối họa đối với mình.” Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Mạnh Thần Thông vừa chiếm được thượng phong thì chiêu thứ hai đã phát ra nhanh như điện xẹt, lần này hai chưởng đều đẩy ra, chưởng trái ngưng tụ Tu la âm sát công đến tầng thứ chín, chưởng phải là Kim cương chưởng pháp cương mãnh nhất, một chưởng âm nhu, một chưởng dương cương, cả hai đều ở cảnh giới cao nhất, trong thiên hạ này có lẽ chỉ một mình Mạnh Thần Thông làm được. 

May mà Kim Thế Di biết được điều đó, thế rồi chàng xoay người đảo ra phía sau, ngón giữa búng một cái trước tiên hóa giải chưởng lực Tu la âm sát công, chưởng phải thì dùng nội công thượng thừa Bốn lạng đẩy ngàn cân dẫn nhẹ qua một bên, chỉ nghe một tiếng ầm vang lên, chưởng của Mạnh Thần Thông vỗ hụt, luồng Kim cương chưởng lực đã đánh chết một tên ngự lâm quân đứng gần họ. Ai nấy đều cả kinh, vội vàng tản ra xa. 

Kim Thế Di dùng hết sức mình mới có thể giải được một chiêu của y, chàng không khỏi thối lui ba bước. Mạnh Thần Thông hú dài một tiếng, lớn giọng quát: 

“Tên tiểu tử, ngươi còn muốn chạy?” rồi chiêu thứ ba lại đánh tới như cuồng phong, Ở chiêu này chưởng trái y vẫn dùng Tu la âm sát công, chưởng phải thì hóa thành cầm nả thủ, thi triển loại công phu lợi hại hơn Kim cương chưởng là âm dương bạch cốt trảo, năm ngón móc lại, một búng một chụp, trong khoảnh khắc điện chớp lửa xẹt, đã tấn công vào mười đại huyệt trên người Kim Thế Di, nếu bị y chụp trúng thì dù có công phu bế huyệt thượng thừa nhất cũng khó thoát. Toàn thân Kim Thế Di nằm trong chưởng ảnh của y, chàng dùng bất cứ thân pháp và bộ pháp nào cũng đều khó tránh, vả lại năm ngón tay của y chia thành năm luồng lực đạo, nếu Kim Thế Di lại dùng công phu Bốn lượng đẩy ngàn cân thì không thể ứng phó nổi. Trong khoảnh khắc nguy ngập, Kim Thế Di không lùi mà tiến, quát lớn: “Đến rất hay!” hai chưởng cùng đẩy ra, chưởng trái dùng tự quyết chữ ngự, hóa giải Tu la âm sát công của Mạnh Thần Thông, chưởng phải dùng gậy ông đập lưng ông, sử dụng Kim cương chưởng lực vỗ vào mạch môn của Mạnh Thần Thông! Đó là lối đánh lưỡng bại câu thương, nếu Mạnh Thần Thông chụp tới, đương nhiên có thể nắm được kỳ kinh bát mạch của chàng, nhưng nếu mạch môn của Mạnh Thần Thông bị Kim Thế Di vỗ vào, vì lực đạo trên bàn tay này của y đã chia thành năm luồng, chắc chắn chẳng thể nào chống đỡ nổi Kim cương chưởng lực, mạch môn sẽ vỡ, ít nhất cũng hao tổn mười năm công lực. 

Tuy Kim Thế Di thua thiệt nhiều hơn, bởi vì kỳ kinh bát mạch mà bị đứt thì võ công cũng chẳng còn, nhưng Mạnh Thần Thông có quá nhiều kẻ thù, hễ công lực bị hao tổn thì chỉ có con đường chết, cho nên dù biết hơi chiếm được tiện nghi nhưng cũng không dám liều với chàng. 

Chưởng thế của hai bên đều nhanh đến cực điểm, Mạnh Thần Thông thấy Kim Thế Di dùng lối đánh lưỡng bại câu thương thì hoảng hồn, vội vàng khép năm ngón tay lại, biến trảo ấy thành Thiên tinh chưởng lực rồi đánh ra, lần này tuy hai bên dùng chân lực nội gia chạm nhau, nhưng Mạnh Thần Thông cậy công lực của mình thâm hậu hơn đối phương, nếu chạm nhau như thế y sẽ có lợi hơn nhiều. 

Nào ngờ công lực của Kim Thế Di tuy không bằng y, nhưng chàng đã học được tâm pháp nội công chính tông của phái Thiên Sơn, vả lại đã hiểu được nguyên lý võ học thượng thừa, nhờ vậy đã dung hợp tâm pháp nội công thượng thừa nhất của hai phái chính tà, cho nên nếu luận về uy lực công lực tuy không bằng Mạnh Thần Thông nhưng lại tinh thuần hơn y nhiều, hai chưởng vừa giao nhau, Mạnh Thần Thông cảm thấy không ổn ngay tức thời, nội lực của đối phương tuy không phản công lại mạnh mẽ nhưng tựa như vô cùng vô tận, mặc cho mình tấn công đến mức nào những đối phương vẫn có thể chống cự nổi cũng giống như sóng dữ vỗ vào bờ đê kiên cố! Y liên tục đẩy ra bảy tám lần, lần sau mạnh hơn lần trước, Kim Thế Di vẫn đứng vững chẳng hề nhúc nhích! Lúc này Mạnh Thần Thông mới biết, tuy công lực của mình hơn đối phương một bậc nhưng muốn đánh bại đối phương thì không phải dễ! Nửa bộ bí kíp mà Mạnh Thần Thông lấy nghiêng về mặt thực dụng, Mạnh Thần Thông thấy tỉ thí nội lực không dễ thắng nên lập tức rút chưởng đổi chiêu, chuẩn bị dùng các loại công phu tà độc để thử hư thực của đối phương, xem thử môn nào có thể khắc chế được đối phương, đồng thời chốc chốc lại phát ra một chưởng Tu la âm sát công tầng thứ chín, bởi vì tuy Kim Thế Di có thể chống đỡ được Tu la âm sát công nhưng cứ mỗi khi tiếp chưởng thì hơi kém hơn. 

Kim Thế Di ứng phó với Tu la âm sát công tuy hơi đuối sức, nhưng Mạnh Thần Thông dùng Tu la âm sát công đến tầng thứ chín cũng rất hao phí chân lực, không thể đánh chưởng này đến chưởng khác cho nên Kim Thế Di vẫn có thể chống đỡ nổi. 

Kim Thế Di một mình đại chiến với Mạnh Thần Thông, những người khác không xen tay vào được, nhưng hai bên cũng đã đứng bên bờ sông Ngự Hà triển khai hỗn chiến! Khấu Phương Cao coi trọng nhất là chưởng môn của phái Mang Sơn. Trong đám tù binh bà ta có thân phận cao nhất, nhà vua lại có ý đích thân thẩm vấn, bởi vậy không thể để cho bà ta chạy thoát. Y liếc mắt nhìn chỉ thấy Tào Cẩm Nhi được một hán tử cõng trên lưng, tựa như đã bị thương, trong lòng cả mừng, chẳng màng đến những tù binh khác, thế là nhảy bổ về hán tử ấy. 

Khấu Phương Cao là đại nội tổng quản, võ công quả thật kinh người, đám tù binh bị Tây Môn Mục Dã bắt chỉ có vai trò hàng số hai trong các phái, nào có thể chốngtrả nổi, may mà mục tiêu của y chỉ có một mình Tào Cẩm Nhi, dù như thế cũng có hai đệ tử phái Hoa Sơn, một đệ tử phái Thanh Thành bị y ném bị thương bằng Thôi bi thủ. Trong chớp mắt, Khấu Phương Cao đã nhảy bổ đến sau lưng hán tử, hán tử này chính là Lư Đạo Lân, y nghe tiếng gió ở sau lưng thì không cần quay đầu lại cũng biết có kẻ địch đuổi theo, tay trái cầm thiết tỳ bà lập tức bổ ra sau. 

Trong cây thiết tỳ bà có chứa ám khí, y vừa ấn tay vào thì ba mảnh thấu cốt đinh bay ra. Khấu Phương Cao lạnh lùng cười, búng ngón giữa, chỉ nghe hai tiếng tách tách vang lên, hai mảnh thấu cốt đinh đã bật ra, nhưng vì khoảng cách quá gần, lực đạo của ám khí lại quá mạnh, Khấu Phương Cao búng xong hai mảnh thấu cốt đinh thì ngón tay cũng cảm thấy đau đớn, bởi vậy khi búng đến mảnh thấu cốt đinh thứ ba thì chỉ có thể làm cho nó lệch hướng, bay lướt qua mặt y kêu vù một tiếng, mặt bị cào một đường. 

Khấu Phương Cao cả giận, một tay đoạt cây thiết tỳ bà của Lư Đạo Lân, một tay chụp vào bối tâm của Tào Cẩm Nhi, trong khoảnh khắc nguy hiểm muôn phần ấy, chợt nghe một tiếng quát: “Ngừng tay!” té ra đó là công phu Sư tử hống của Phật môn, Khấu Phương Cao giật mình, chẳng thể nào chụp xuống được, một luồng quyền phong cương mãnh từ sau lưng đấm tới. 

Khấu Phương Cao nhặt cây thiết tỳ bà toan đánh ra, cây thiết tỳ bà ấy chịu không nổi luồng đại lực, bị người ấy dùng chùy bổ bẹp dí. Lúc này Khấu Phương Cao không khỏi lạnh mình, chỉ đành tạm thời buông Tào Cẩm Nhi, khi quay đầu lại thì thấy người vừa mới ra tay chính là một hòa thượng cao lớn. 

Té ra người ấy chính là Hoài Chân, trong số các tù nhân, y là người có võ công cao nhất. 

Lúc này y đã hồi phục công lực nhờ uống thuốc của Kim Thế Di, vừa vung cây chùy đấm bẹp cây thiết tỳ bà, đã vung tiếp một chùy bổ xuống đầu Khấu Phương Cao, Khấu Phương Cao thuận thế chụp vào huyệt khúc trì của y, cú chụp này của Khấu Phương Cao có thể bóp vỡ cả sắt đá, nào ngờ Hoài Chân hòa thượng là đệ tử đắc ý của Thống Thiền thượng nhân, Kim cương bất hoại thân tháp cũng đã có được năm thành hỏa hầu, Khấu Phương Cao chụp vào cánh tay của y tựa như chạm phải cây trụ sắt, chẳng những chẳng bấu được mà ngón tay còn nhói đau, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Hoài Chân hòa thượng đánh ra một chiêu Đăng sơn khóa hổ, đấm bốp một quyền vào ngực của Khấu Phương Cao, đây là quyền có uy lực mạnh nhất trong Ngũ hành quyền của phái Thiếu Lâm, Khấu Phương Cao vội vàng buông tay đảo người vọt ra sau năm tấc, quyền của Hoài Chân hòa thượng vừa chạm vào áo của đối phương thì bị y phất tay lại trúng vào mạch môn, Hoài Chân hòa thượng có hộ thể thần công, tuy không bị thương nhưng luồng kình lực cương mãnh ấy cũng bị y hóa giải đến bảy phần, quyền chạm ngực y chỉ khiến cho y hơi lắc lư mà thôi. Hai người giao thủ hai chiêu, đều biết đối phương là kình địch, Hoài Chân hòa thượng triển khai mười tám lộ thần quyền, mỗi quyền đều như sấm sét, Khấu Phương Cao chỉ đành dùng hai môn công phu Phất vân thủ và Thiên tinh chưởng cương nhu tương tế đối phó với La Hán thần quyền của y. 

Đệ tử phái Hoa Sơn là Đỗ Tử Tường và đệ tử phái Không Động là Phương Đồng có võ công chỉ kém Hoài Chân và Tào Cẩm Nhi, cả hai người hợp lực đấu với Tư Không Hóa cũng bất phân thắng bại. 

Phía bên Mạnh Thần Thông còn có một người võ công cực kỳ cao cường là Lăng Tiêu Tử, luận theo vai vế là sư huynh của Tư Không Hóa, luận công lực cũng trên Tư Không Hóa, trong cuộc chiến Mang Sơn y đã từng bại trong tay Lệ Thắng Nam, lúc này Lệ Thắng Nam tuy cải dạng nam trang nhưng Lăng Tiêu Tử cũng đã nhận ra thanh bảo kiếm mà nàng sử dụng, y lập tức múa cây phất trần nhảy đến chặn đường Lệ Thắng Nam. 

Lệ Thắng Nam đã trúng kịch độc, chỉ nhờ bích linh đơn mới giữ dược chân khí, công lực đã giảm đi không ít, vốn không phải đối thủ của Lăng Tiêu Tử, may mà cây Tài vân kiếm của nàng là thân binh lợi khí, nàng múa tít thanh kiếm thủ thật chặt, Lăng Tiêu Tử cũng chẳng làm gì được nàng. 

Trong lúc hỗn chiến, người cao hứng nhất là đệ tử của Mạnh Thần Thông, Thần Thâu Cơ Hiểu Phong, y nhân nước đục bắt cá, đã đánh cắp rất nhiều đồ vật, song y không dám tiến đến gần Kim Thế Di. Y vừa thấy Lệ Thắng Nam rút ra một thanh bảo kiếm thì cả mừng, lập tức cười ha hả rằng: “Ta không lấy được Băng phách hàn quang kiếm, nhưng thanh kiếm này cũng là vật hiếm có.” Cơ Hiểu Phong hành động như bóng ma, Lệ Thắng Nam tuy múa rít thanh kiếm đến nỗi gió mưa không lọt nhưng y vẫn đứng một bên chờ cơ hội là thò tay vào, suýt nữa nàng đã bị y đoạt mất thanh kiếm. Lệ Thắng Nam liên tiếp phóng ra hai nắm độc châm, thấy Cơ Hiểu Phong vẫn đứng một bên mà nhòm ngó, đợi thời cơ là hành động, Lệ Thắng Nam trong lúc nguy cấp thì nảy ra kế, nạt lớn: “Tên tiểu tử nhà ngươi sao mà vô dụng đến thế, gần đây là hoàng cung, trong hoàng cung có không ít báu vật, ngươi không đến lấy mà lại dòm ngó thanh bảo kiếm của ta!” Cơ Hiểu Phong đã mấy lần toan giật kiếm nhưng chẳng được, vả lại còn có một lần suýt nữa ngón tay bị chém trúng, huống chi Lệ Thắng Nam lại có nhiều ám khí lợi hại, y cũng hơi kiêng dè, nghe Lệ Thắng Nam nhắc như thế thì y ngẩn người ra, lập tức cười: “Ngươi nói cũng rất có lý, nên chọn thứ dễ hơn vậy!” Cơ Hiểu Phong tựa như một luồng khói, đến cũng nhanh mà đi cũng nhanh, nói xong chữ cuối cùng thì đã biến mất. Khấu Phương Cao thầm thất kinh, nhưng y bị Hòa Chân hòa thượng cầm chân nên thoát thân không được, Mạnh Thần Thông lại đang toàn lực ác đấu với Kim Thế Di, chẳng thể nào quản nổi đồ đệ. Khấu Phương Cao đánh liều, thầm nhủ: “Để tên tiểu tặc này đánh cắp báu vật trong đại nội, mình đương nhiên sẽ mang tội, nhưng dù sao vẫn nhẹ hơn là để bọn này chạy trốn.” Lúc này phe bên y chiếm thượng phong, Khấu Phương Cao quát: “Bắt sống bà già lại trước tiên!” 

Kim Thế Di đang rất lo lắng, tuy chàng có thể cầm cự được, nhưng Lệ Thắng Nam dần dần đã đuối sức, vòng kiếm quang càng lúc càng thu nhỏ, cây phất trần của Lăng Tiêu Tử múa tít, bao trùm cả nàng. Lư Đạo Lân cõng Tào Cẩm Nhi, bị vây ở giữa, chỉ nhờ vào bọn Đỗ Tử Tường và Phương Đồng chống trả giùm y, tình huống cũng rất nguy cấp! Mạnh Thần Thông quát lớn một tiếng, lại vỗ ra một chưởng Tu la âm sát công tầng thứ chín, Kim Thế Di tiếp chưởng này thì giật mình, bất đồ rùng mình, té ra khi cao thủ tỉ đấu với nhau kiêng kị nhất là phân tâm, hai người cách nhau không nhiều, Kim Thế Di lo lắng cho Lệ Thắng Nam, chỉ hơi sơ ý thì Mạnh Thần Thông đãchiếm thượng phong. 

Bọn người phía Tào Cẩm Nhi đã tụ tập xung quanh Lư Đạo Lân, kết thành một vòng tròn bảo vệ cho Tào Cẩm Nhi. Nhưng phía Mạnh Thần Thông còn có Dương Xích Phù, y đã luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ bảy, bọn người bảo vệ cho Tào Cẩm Nhi chẳng ai địch nổi, lại bị y đả thương thêm mấy người, lúc này y đang sắp xông vào bên trong. 

Ngay trong lúc nguy cấp, chợt nghe tiếng chuông vang lừng, càng lúc càng gấp, không cần nói cũng biết đó là tiếng chuông trong hoàng cung. Khấu Phương Cao và Tư Không Hóa đều cả kinh, thầm nhủ: “Chẳng lẽ lại có thích khách xông vào hoàng cung! Hay thị vệ trong hoàng cung đã phát hiện ra Cơ Hiểu Phong?” Cơ Hiểu Phong thì còn đỡ, nếu là thích khách thì sự việc rất nghiêm trọng. Đang lúc tấn công gấp, bọn vệ sĩ và ngự lâm quân nghe tiếng chuông thì lập tức chậm tay. Khấu Phương Cao nói: “Tư Không đại nhân, ông dẫn một số người vào cung hộ giá!” Nói chưa dứt thì chợt thấy Thần Võ Môn ở hậu cung mở rộng, bốn thớt ngựa phóng ra, phía sau là một đám võ sĩ. Chạy xe trên ngự đạo trong cung là chuyện chẳng nhỏ, trừ phi hoàng đế, hoàng tử và các thân vương quý tộc mới được phép cưỡi ngựa vào và bọn ngự lâm quân đều kinh hãi, ngoại trừ Mạnh Thần Thông vẫn đang ác đấu với Kim Thế Di, những người khác đều đã ngừng tay. 

Trong chớp mắt, mấy thớt ngựa này đã đến bên bờ sông Ngự Hà, kị sĩ đi đầu là một hoàng tử trẻ tuổi mặc y phục sang trọng! Khấu Phương Cao nhận ra đó là hoàng tử thứ mười lăm Ngung Viêm, vua Càn Long có mười bảy người con trai, trên Ngung Viêm còn có mười bốn a ca, nhưng y lại được vua cha yêu thương nhất, các đại thần thân tín đều biết Càn Long có ý cho y nối ngôi (Chú thích: Ngung Viêm chính là vua Gia Khánh sau này). 

Trên lưng thớt ngựa thứ hai lại có hai người, một người là Cơ Hiểu Phong, ngườikia là một ông già tuổi khoảng sáu mươi, tinh thần vẫn còn khỏe khoắn, sắc mặt hồng hào, chẳng hề có vẻ già cả tí nào, Cơ Hiểu Phong bị trói chéo hai tay ngồi trước mặt ông ta, vừa nhìn thì đã biết y đã trở thành tù nhân của người này. Khấu Phương Cao thấy cảnh này thì càng thất kinh hơn cả gặp hoàng tử thứ mười lăm Ngung Viêm, lòng thầm nhủ: “Đây là ai? Cơ Hiểu Phong là thiên hạ đệ nhất thần thâu, lai vô ảnh khứ vô hình mà vẫn bị y bắt!” Lúc này thớt ngựa thứ hai và thứ ba cũng nối đuôi chạy tới, trên ngựa là một nam một nữ, hình như là một đôi vợ chồng trẻ. 

Ngung Viêm lộ vẻ bàng hoàng, đến khi thấy Khấu Phương Cao thì mới thở phào, vội vàng kêu lên: “ Khấu tổng quản, Đường tiên sinh tìm ông!” rồi quay đầu lại hỏi: 

“Tôi có thể về cung chưa?” Người được gọi là Đường tiên sinh mỉm cười: “Đa tạ hoàng tử đã đi theo chúng tôi, đã gặp Khấu tổng quản, tôi có thể lo liệu chuyện này, xin mời hoàng tử cứ tùy tiện!” Ngung Viêm mừng vỡ vì được thả, vội vàng quay đầu ngựa trở lại, có quá nửa bọn vệ sĩ trở về theo y, còn một nửa thì tựa như không muốn bỏ qua tuồng hay cho nên ở lại. 

Khấu Phương Cao thấy Ngung Viêm và đám vệ sĩ này đều vội vàng thì ngạc nhiên, đang định bước tới hỏi Đường tiên sinh là ai, chợt nghe Cơ Hiểu Phong nói: 

“Đường đại hiệp, đây là sư phụ của tôi, ngài có cho tôi đi chưa?” người ấy gật đầu nói: “Được, ngươi đi đi!” rồi buông hai tay, Cơ Hiểu Phong lộn người xuống ngựa, cười hì hì: “Đây là lần đầu tiên tôi thất thủ bị bắt, nhưng cũng đáng lắm, trong khắp thiên hạ này từ xưa đến nay, chưa có người cùng nghề nào có thể chạy ngựa trong hoàng cung như tôi!” rồi lớn giọng nói: “Sư phụ, sư phụ, người hãy dành lại một chút hơi sức, đừng đánh nhau với tên tiểu tử nữa! Chưởng môn phái Thiên Sơn, Đường đại hiệp đến!” Khấu Phương Cao kinh hãi, lúc này mới biết ông già bắt Cơ Hiểu Phong là thiên hạ đệ nhất võ lâm Đường Hiểu Lan! Mạnh Thần Thông nghe học trò kêu thế thì dù có gan to bằng trời cũng không khỏi giật mình, thầm nhủ: “Một mình Kim Thế Di đã là kình địch, nay lại có kẻ giỏi hơn cả Kim Thế Di, chuyện này giải quyết thế nào đây?” Kim Thế Di nhân lúc y đang lo lắng thì hai tay vung lên, lướt qua một bên Mạnh Thần Thông nhảy qua giữa vòng. 

Té ra Kim Thế Di một là không muốn lộ mặt trước Đường Hiểu Lan, hai là với thân phận của Đường Hiểu Lan, ông ta cũng không cần chàng giúp đỡ, cho nên chàng nhân cơ hội này thoát khỏi Mạnh Thần Thông, kéo Lệ Thắng Nam bỏ chạy! Lệ Thắng Nam sau khi trúng độc, khổ đấu một lúc lâu thì sức cùng lực kiệt, nàng suýtmất mạng bởi Thiên Sơn thần mảng của Đường Hiểu Lan, lúc này vẫn chưa hết sợ, may mà Kim Thế Di nhảy đến kịp lúc đỡ lấy nàng chứ nếu không nàng đã ngã xuống, Lệ Thắng Nam nắm tay Kim Thế Di, nôn ra một ngụm máu tươi! Lúc này Lăng Tiêu Tử mới ngừng tay nhưng vẫn đang để ý Lệ Thắng Nam, chỉ thấy có một bóng trắng lướt tới như điện chớp, chưa kịp nhìn rõ thì người ấy đã kéo Lệ Thắng Nam chạy. 

Lăng Tiêu Tử không biết lợi hại, còn đang định đuổi theo, y toan vung cây phất trần thì nghe bóp một tiếng, té ra đã bị đánh một bạt tai! Đó là Kim Thế Di đang nôn nóng bỏ chạy, chẳng muốn lấy mạng y, cái tát này chỉ có ba phần lực đạo, nhưng dù như thế Lăng Tiêu Tử cũng hoa cả mắt, trên mặt còn để lại năm dấu tay! Đường Hiểu Lanvừa nhìn thì đã nhận ra Lệ Thắng Nam, ông ta cũng thấy kẻ kẻo Lệ Thắng Nam chạy đi là người đã cứu Lệ Thắng Nam thoát khỏi kiếm của Phùng Lâm, nhưng lại không biết đó là Kim Thế Di, lòng thầm ngạc nhiên, nhủ rằng: “Mình ẩn cư mấy năm mà không ngờ trong các hậu bối lại có nhân tài nổi bật. Người này có thể đánh ngang sức với Mạnh lão quái, quả thật không thể coi thường, nhưng không biết tại sao y gặp mình đã bỏ chạy?” Nếu lúc bình thường ông ta nhất định tìm cho ra lẽ, nhưng giờ đây mục đích là cứu bọn Tào Cẩm Nhi và đối phó với Mạnh Thần Thông, bởi vậy tuy nghi ngờ nhưng cũng không để ý đến Lệ Thắng Nam và Kim Thế Di nữa. Té ra Đường Hiểu Lan đã đến chùa Thiếu Lâm gặp Thống Thiền thượng nhân, biết Tào Cẩm Nhi bị một người áo vàng không rõ lai lịch bắt sống, cũng biết trong cuộc đại chiến Mang Sơn, chưởng môn các phái suýt nữa đã bại trong tay Mạnh Thần Thông. Với mối giao tình giữa Đường Hiểu Lan và Lữ Tứ Nương, không đợi Thống Thiền thượng nhân lên tiếng, ông ta đã đi cứu Tào Cẩm Nhi, ông ta lại biết trong số kẻ địch có phó thống lĩnh ngự lâm quân là Bạch Lương Ký, bởi vậy mới nghi ngờ đám người áo vàng quá nửa có liên quan đến triều đình, vì thế bảo Phùng Lâm, Chung Triển, Lý Tâm Mai ở lại chùa Thiếu Lâm giúp cho Thống Thiền thượng nhân, còn ông ta thì dắt vợ chồng Đường Kinh Thiên đột nhập vào hoàng cung điều tra tin tức. 

Khi còn trẻ Đường Hiểu Lan đã cùng Lữ Tứ Nương đến hoàng cung mấy lần, đương nhiên thông thuộc đường lối. Ông ta vốn đến gặp hoàng đế, khi đến cửa ngự thư phòng thì đã thấy Càn Long, Càn Long là người học võ công, rất cảnh giác, y vừa thấy có bóng người lạ thì lập tức lẩn vào vách đôi, chạy thoát từ cửa ngầm, ông ta không bắt được hoàng đế nhưng đã bắt được người đứng hầu bên cạnh Càn Long là Ngung Viêm. 

Thị vệ trong cung kéo tới, Đường Hiểu Lan không muốn đả thương nhiều người, chỉ đành nói rõ mình là ai, bọn thị vệ nghe ông ta là chưởng môn của phái Thiên Sơn Đường Hiểu Lan thì hoảng hồn, huống chi hoàng tử thứ mười lăm đã lọt vào tay ông ta, đương nhiên không dám ra tay. Thế rồi Đường Hiểu Lan hỏi Ngung Viêm có biết chuyện các nhân vật võ lâm bị bắt hay không. 

Đường Hiểu Lan là một bậc đại hiệp, vốn chẳng có ý bắt hoàng tử làm con tin, nhưng Ngung Viêm bị ông ta hỏi thì kinh khiếp, sợ rằng ông ta làm hại mình, bởi vậy mới ấp úng nói: “Chuyện này... chuyện này không liên quan đến ta và phụ hoàng, chuyện bắt người là... là Khấu tổng quản làm, đêm nay Khấu, Khấu tổng quản không... không ở trong cung...” Đường Hiểu Lan nghe Khấu Phương Cao không ở trong cung, chỉ hơi nhíu mày, Ngung Viêm vội vàng nói: “Y... y đang ở Li Cung, cách đây không xa, ông... ông không tin thì tôi có thể dẫn ông đi tìm.” Đường Hiểu Lan thầm nghĩ có hoàng tử đi cùng thì không sợ Khấu Phương Cao không xuất hiện, Ngung Viêm đang nôn nóng muốn thoát thân, vội vàng kêu người đem ngựa đến cho Đường Hiểu Lan, Đường Kinh Thiên và Băng Xuyên Thiên Nữ.  

Lúc này Cơ Hiểu Phong cũng đang đột nhập vào hoàng cung, bọn thị vệ chẳng phát hiện, y đứng trên mái ngói thì nghe tiếng ồn ào phía dưới, lại còn thấy rất nhiều vệ sĩ, tựa như đang có chuyện gì quan trọng xảy ra, y nhất thời tò mò cho nên thò đầu xuống nhìn, toan định nhân lúc lộn xộn thì kiếm chác chút ít, y tránh được tất cả bọn vệ sĩ nhưng làm sao thoát nổi đôi mắt của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan thấy trong cung có nhân vật khinh công cao siêu như thế thì cũng cảm thấy ngạc nhiên, thế rồi dùng một đòn Phách không chưởng đánh y rơi xuống. 

Đường Hiểu Lan bắt được Cơ Hiểu Phong, nghe nói thì mới biết Mạnh Thần Thông cũng ở đây, trong lòng cả mừng vì thế mới tóm cả Cơ Hiểu Phong cùng đi. 

Mạnh Thần Thông có ý thử bản lĩnh của Đường Hiểu Lan, bước tới nghênh tiếp, ôm quyền thi lễ nói: “Từ lâu đã ngưỡng mộ đại danh! Đáng tiếc Đường đại hiệp không chịu đến đại hội Mang Sơn, chẳng có duyên lãnh giáo.” Y vừa vái một cái thì dùng nội công tuyệt đỉnh phát ra luồng chưởng lực Tu la âm sát công tầng thứ chín, vì dùng nội công tuyệt đỉnh phát ra, hóa cương mãnh thành thâm trầm, chẳng hề có tiếng gió, như một luồng khí lạnh lại ngầm dồn tới phả vào người Đường Hiểu Lan. 

Đường Hiểu Lan mỉm cười, trả lễ nói: “Nghe nói Mạnh tiên sinh đã đại triển thần thông ở đại hội mang Sơn, đáng tiếc tôi không có phước được xem. Nhưng giờ đây gặp nhau thì cũng thế, nếu Mạnh tiên sinh không tiếc chỉ giáo thì Đường mỗ có thể phụng bồi ở đây, xem thử công phu Tu la âm sát công của Mạnh tiên sinh!” Mạnh Thần Thông thấy ông ta không hề thay đổi thần sắc, vì thế mới kinh hãi, thẩm nhủ: 

“Nếu mình không đấu với Kim Thế Di, có lẽ vẫn đánh tay đôi với y, giờ đây giao thủ chắc chắn sẽ bại.” Thế rồi y vội vàng nói: “Nơi đây gần hoàng cung, nếu chúng ta tỉ thí võ công ở đây thì e rằng sẽ kinh thế hãi tục, thậm chí kinh động đến cửu trùng, chi bằng hãy chọn nơi khác, lúc khác!” Đường Hiểu Lan nhận một vái của y, thật sự cũng thầm lo, nhưng công lực của ông ta quá thâm hậu cho nên cả Mạnh Thần Thông cũng không nhận ra. 

Nội công của Đường Hiểu Lan đã đến cảnh giới chính tà bất xâm, tiếp một đòn Tu la âm sát công tầng thứ chín của Mạnh Thần Thông mà vẫn thấy lạnh mình, nghĩ bụng: “Lão ma đầu này quả nhiên danh đồn không ngoa, Tu la âm sát công của y tuy không đả thương được mình nhưng mình muốn thắng cũng chẳng dễ.” Thế rồi mới cười nói: “Đúng thế, sau khi Mạnh tiên sinh ác đấu, khó lộ thần thông, lẽ ra phải nghĩ ngơi. Vậy cứ chiều theo tôn ý, ông cứ tùy tiện chọn thời gian và địa điểm, tôi sẽ được lãnh giáo Tu la âm sát công và các môn công phu khác!” Mạnh Thần Thông nghe ông ta lại một lần nữa nhắc đến các môn công phu khác tức là đã vạch trần y từng dùng Tu la âm sát công ám toán, và nói thẳng ra lý do y không dám tỉ thí lúc này, Mạnh Thần Thông không khỏi đỏ mặt, y bình sinh tự phụ vô cùng, chưa bao giờ nhịn nhục ai, nhưng đối thủ lúc này là Đường Hiểu Lan, mặc dù đỏ mặt, suýt nữa đã lập tức quyết chiến nhưng đã kiềm được, thế rồi nghỉ ngơi một hồi mới nói: “Sau một tháng, sẽ gặp nhau ở chùa Thiếu Lâm! Theo tôi biết, chưởng môn các phái vẫn còn ở đấy có thể để cho họ chứng kiến võ công của chúng ta!” Cao thủ của các đại môn phái đang ở chùa Thiếu Lâm, Mạnh Thần Thông dám đến chùa Thiếu Lâm tỉ thí võ công, tựa như y đã nắm chắc phần thắng, Đường Hiểu Lan nghe thế thì cũng không khỏi cả kinh. Những người khác thì nghĩ rằng, lúc này Mạnh Thần Thông đã đuối thế, nếu Đường Hiểu Lan lập tức buộc y ra tay thì đã không trừ được y, ít nhất cũng khiến cho y trọng thương, nhưng Đường Hiểu Lan làm sao có thể chiếm tiện nghi của người khác, cho nên mới lập tức chấp nhận ngay. Mạnh Thần Thông dắt bọn Cơ Hiểu Phong bỏ đi. 

Mạnh Thần Thông vừa đi thì Khấu Phương Cao càng thấp thỏm không yên, Đường Hiểu Lan nghiêm mặt, hỏi y: “Khấu tổng quản, bằng hữu của tôi đã phạm tội gì mà Khấu tổng quản lại bắt họ?” lúc này Khấu Phương Cao nào dám đôi co với Đường Hiểu Lan, y vội vàng đẩy trách nhiệm cho Tây Môn Mục Dã, cung kính đáp rằng: “Xin Đường đại hiệp bớt cơn giận, chuyện này chẳng liên quan đến tôi. Là do bọn người Tây Môn Mục Dã làm, giờ đây y cũng đã chết!” Đường Hiểu Lan kêu ồ một tiếng rồi nói: “Té ra bọn Tây Môn Mục Dã đã làm chuyện này? Y chết thế nào?” 

Khấu Phương Cao nói: “Chính là bằng hữu trẻ tuổi của ông vừa mới giết.” Hoài Chân hòa thượng đánh được một lúc lâu thì đầu óc choáng váng, lúc này mới thấy Kim Thế Di và Lệ Thắng Nam đã biến mất, lạc giọng kêu lên: “Ối chao, hai ân nhân của chúng tôi đã bỏ đi, tôi còn chưa đáp tạ họ. Đúng thế, Tây Môn Mục Dã là do người họ Lý trẻ tuổi kia giết.” Đường Hiểu Lan chỉ muốn cứu người, chẳng muốn làm khó Khấu Phương Cao nữa cho nên mới nói: “Nếu Khấu tổng quản không bắt họ vậy họ có thể đi cùng tôi chứ.” Lúc này Khấu Phương Cao thà để mất chức còn hơn đối đầu với Đường Hiểu Lan, cho nên chẳng dám nói nửa chữ “không”. 

Phía sau hoàng cung là Lượng Sơn, Đường Hiểu Lan dắt mọi người lui lên Lượng Sơn rồi ung dung rút lui. Lư Đạo Lân cõng Tào Cẩm Nhi, Tào Cẩm Nhi vẫn còn hôn mê. 

Lúc này không còn lo lắng truy binh đến nữa, Đường Hiểu Lan hỏi: “Tào chưởng môn thế nào rồi? Đặt xuống ta xem thử!” Rồi ông ta bắt mạch mới thấy sáu mạch không đều, tâm hỏa quá thịnh, hơi thở thì rất yếu, Đường Hiểu Lan ngạc nhiên nói: 

“Hình như Tào chưởng môn không bị nội thương, nhưng sao lại hư nhược đến thế?” 

Hòa Chân hòa thượng nói: “Bà ta cũng trúng độc hoa a tu la như chúng tôi.” Đường Hiểu Lan nói: “Theo mạch tượng cho thấy hình như trước đây không lâu, bà ta đã động chân khí, quá phẫn nộ nên ngất đi. Không chỉ vì trúng độc.” Lư Đạo Lân nói: 

“Lúc nãy bằng hữu ấy cũng nói như thế.” Đường Hiểu Lan nói: “Chuyện gì xảy ra? Bằng hữu mà ngươi nói có phải là người ác đấu với Mạnh Thần Thông không? Còn nữa, các người đã trúng độc của hoa a tu la, sao lại khôi phục công lực?” Hoài Chân hòa thượng nói: “Đúng thế, cũng chính người ấy cho chúng tôi uống thuốc giải.” 

Đường Hiểu Lan chen vào hỏi: “Có phải người ấy đi cùng con yêu nữ ấy không? Các người có biết bọn chúng là ai không?” Đỗ Tử Tường đã nhận ra Lệ Thắng Nam là gái giả trai, nói: “Ồ, có phải ngài nói võ quan sử dụng cây bảo kiếm không? Tôi cũng hoài nghi nàng là một thiếu nữ.” Hòa Chân hòa thượng nói: “Mặc kệ nàng là nam hay nữ, nhưng hai người này là ân nhân cứu mạng chúng tôi chứ chẳng phải yêu nữ gì cả!” Hòa Chân tính tình ngay thẳng, may mà Đường Hiểu Lan nói Lệ Thắng Nam là yêu nữ y mới khách sáo vài phần chứ nếu là người khác thì y đã lớn tiếng bênh vực. 

Đường Hiểu Lan ngạc nhiên, thầm nhủ: “Chả lẽ ả yêu nữ ấy chẳng phải người xấu? 

Sao ả lại nhiều lần làm khó Kinh Thiên?” dù Đường Hiểu Lan hiểu biết việc đời, thấy rất nhiều chuyện kì quặc nhưng cũng không thể nào hiểu được tại sao Lệ Thắng Nam lúc chính lúc tà. 

Đường Hiểu Lan lại hỏi: “Vậy Tào chưởng môn không uống thuốc giải của y?” Lư Đạo Lân nói: “Đúng thế, tôi cũng cảm thấy lạ. Sư tỷ ném thuốc giải đi, ngay lúc đó sư tỷ đã ngất xỉu.” Cả đám người tranh nhau kể lại mọi chuyện, Đường Hiểu Lan trầm ngâm một lát rồi nói: “Cứu tỉnh Tào chưởng môn rồi tính tiếp.” Rồi nắm vào mạch môn của bà ta, vận nội công chính tông ra ngón tay dồn vào, giúp huyết mạch của bà ta lưu thông, Tào Cẩm Nhi chợt giật mình, há mồm nôn ra máu ứ, Lư Đạo Lân vội vàng nhét viên thuốc giải vào miệng bà ta. 

Một lát sau Tào Cẩm Nhi dần dần tỉnh táo, Lư Đạo Lân nói: “Tốt rồi, sư tỷ, sư tỷ có nhận ra đây là ai không?” Tào Cẩm Nhi thở hổn hển hỏi: “Hai tên... hai tên...” bà ta chưa nói ra hai chữ “ma đầu” thì Lư Đạo Lân nói: “Không biết hai ân nhân cứu chúng ta ra khỏi ngục rồi cho thuốc giải vì nguyên cớ gì mà đã bỏ đi.” Tào Cẩm Nhi nghe thế thì tức đến nỗi suýt ngất đi. Giữa phái Mang Sơn với Kim Thế Di chẳng có thù oán gì, chỉ là vì trong đại hội Mang Sơn lần trước, Tào Cẩm Nhi quá cứng rắn, không cho Kim Thế Di đến bái tế trước mộ Lữ Tứ Nương cho nên mới xung đột mà thôi. Nay bà ta tuy không muốn nhận ân huệ của Kim Thế Di nhưng cuối cùng cũng đã nuốt viên thuốc giải của người ta bởi vậy trước mặt sư đệ, nếu bà ta nói ra tên của Kim Thế Di, mắng chàng một trận thì cũng tự cảm thấy ngượng ngùng, bà ta lại là một người cực kì háo cường, nhưng cũng chỉ đành nuốt bồ hòn làm ngọt. 

Đường Hiểu Lan đỡ bà ta đi mấy bước thì hỏi: “Thuốc giải này quả nhiên linh nghiệm, Tào chưởng môn, bà thấy thế nào rồi?” Thọ Cẩm Nhi gật đầu nói: “Khỏe... khỏe nhiều rồi! Đa tạ Đường đại hiệp tiên cứu.” Đường Hiểu Lan nói: “Chuyện này toàn là công lao của hai bằng hữu, chẳng có liên quan gì đến tôi. Tào chưởng môn, người bằng hữu đưa thuốc cho bà tên gì, chắc bà biết chứ?” Lư Đạo Lân cũng nói: 

“Người ấy đúng là có lòng tốt, y thấy sư tỷ không chịu uống thuốc cho nên mới để lại thuốc cho tôi. Sư tỷ, lúc đầu tại sao tỷ không chịu uống thuốc giải, có phải nghi ngờ y bất chính hay không?” Tào Cẩm Nhi lúng túng vô cùng, xua tay mắng Lư Đạo Lân: 

“Không cần ngươi can thiệp vào!” Nhưng bà ta có thể mắng sư đệ chứ không thể làm thế đối với Đường Hiểu Lan, bà ta quay đầu thấy Đường Hiểu Lan nhìn với ánh mắt ngạc nhiên, Tào Cẩm Nhi không khỏi đỏ mặt, trầm giọng nói: “Đường đại hiệp, ông cần gì phải hỏi tôi lai lịch của người này. Tôi nghe nói ông còn truyền tâm pháp nội công cho y!” Đường Hiểu Lan giật mình, suýt nữa ông ta đã buột miệng kêu lên. 

Trong lòng thầm nhủ: “Làm sao như thế được? Chẳng lẽ Kim Thế Di quả thật chưa chết?” Ông ta nghĩ kĩ lại, thấy lúc nãy Kim Thế Di đã sử dụng hai môn công phu giống chiêu số của Độc Long tôn giả, tuy đã biến hóa phức tạp nhưng rốt cuộc vẫn còn dấu vết. 

Lúc này Đường Hiểu Lan cũng rối như tơ vò, đầu tiên ông ta nghĩ: “Nếu Tâm Mai biết y còn sống thì không biết sẽ gây ra chuyện gì!” thế rồi mới nghĩ: “Kim Thế Di với ả yêu nữ kia như hình với bóng, thậm chí còn mạo hiểm cứu ả, mối giao tình này không tầm thường tí nào! Không ngờ Kim Thế Di lại yêu một người như thế! Ôi, Kim Thế Di vốn đâu phải là người như thế, chắc là vì gần mực thì đen gần đèn thì sáng!” Đường Hiểu Lan tuy rất mến tiếc cho Kim Thế Di, nhưng ông ta cũng là người ghét ác như thù, tuy không dám đoán chắc chàng đã là người xấu nhưng cũng chẳng còn thiện cảm. Đường Hiểu Lan lại thấy Lý Tâm Mai và Chung Triển ngày càng tốt đẹp hơn thì cuối cùng quyết tâm: “Cứ mặc kệ Kim Thế Di thích ả yêu nữ ấy, mình cũng không cần nói với Tâm Mai...” bọn người Lư Đạo Lân nằm mơ cũng không ngờ rằng người ấy là Kim Thế Di. Họ tuy không biết người ấy là ai nhưng thấy sắc mặt của Tào Cẩm Nhi và Đường Hiểu Lan đều không ổn thì không ai dám hỏi tới. 

Hồi Thứ Bốn Mươi Ba

Lại nói Kim Thế Di dắt Lệ Thắng Nam chạy về Lương Môn, trên đường tuy có nhiều binh lính đi tuần nhưng chỉ thấy một bóng trắng lướt qua, đừng nói là ngăn cản, cả mặt mũi họ thế nào cũng chẳng nhận ra.

Chạy được một hồi thì chỉ nghe Lệ Thắng Nam thở dốc, Kim Thế Di chậm bước, chợt thấy nàng dựa vào người mình, Kim Thế Di nói: “Muội sao thế?” Lệ Thắng Nam nói: “Không đi được nữa!” Kim Thế Di nhìn kỹ lại chỉ thấy hai má nàng đỏ ửng, ánh mắt đờ đẫn, Kim Thế Di nói: “Muội đã trúng kịch độc, lại phải ác đấu với tên đạo sĩ thối lỗ mũi trâu, có lẽ đã quá mệt. Nhưng chúng ta lại không thể tìm khách sạn để nghỉ ngơi, thậm chí ở trong thành Bắc Kinh cũng gặp phiền phức, chỉ đành ra ngoài thành, tìm một nơi vắng vẻ để trị thương cho muội.” Chàng vừa nói vừa ôm vào eo Lệ Thắng Nam, hầu như là bế nàng chạy bộ, Lệ Thắng Nam rất thích, hai mắt chợt sáng trở lại, tinh thần cũng hồi phục được mấy phần, nhưng nàng càng thả lỏng cơ thể, ngoẹo đầu dựa vào vai Kim Thế Di. 

Phía trước chợt có một tên võ quan phóng ngựa tới quát: “Ai thế, đứng lại cho ta!” Té ra đây là tên ngự lâm quân được phái đi tuần cửa thành vừa mới quay về, y nhận ra hai người Kim, Lệ, thế rồi thất kinh nói: “Sao, hai người không cùng Tư Không thống lĩnh dự yến sao?” Kim Thế Di nói: “Đúng thế, Tư Không đại nhân sai chúng tôi ra thành, xin cho mượn ngựa.” Không đợi tên võ quan ấy nói, chàng đã lập tức điểm hôn huyệt của y. 

Kim Thế Di đỡ Lệ Thắng Nam lên lưng ngựa, hai người cỡi con ngựa chạy ra Đông Môn, lúc đó trời cũng vừa mới sáng, cửa thành vẫn chưa mở ra. 

Lính giữ thành hỏi họ có lệnh tiễn ra thành không, Kim Thế Di nào rảnh đôi co với bọn chúng, chàng rút phắt thanh Tài vân kiếm chặt gãy thanh chắn cửa thành rồi đánh ngã tên võ quan ấy, phóng ngựa chạy ra thành. 

Lệ Thắng Nam hình như càng lúc càng yếu, Kim Thế Di đỡ nàng, bàn tay chạm vào bối tâm của nàng, vừa phóng ngựa vừa thôi cung khóa huyệt cho nàng. Đến khi trời sáng thì họ dã rời thành được hơn hai mươi dặm, thớt ngựa ấy tuy là ngựa khoẻ của Mông Cổ nhưng cũng sùi bọt mép. Kim Thế Di thu chưởng lại hỏi: “Có đỡ hơn chưa?” Lệ Thắng Nam nói: “Đỡ hơn một chút, nhưng muội khát nước lắm.” Kim Thế Di nhìn xa, nói: “Lúc này có lẽ họ đã phân thắng thua!” Rồi đột nhiên thở dài. 

Lệ Thắng Nam cười nói: “Huynh vì muội mà không đứng lại xem cuộc đấu, muội thật là cảm kích!” Bởi vì nếu Đường Hiểu Lan và Mạnh Thần Thông đại chiến với nhau thì đó quả là một chuyện hiếm có trong võ lâm hàng trăm năm nay, Lệ Thắng Nam hiểu con người Kim Thế Di, nàng lập tức biết tại sao Kim Thế Di thở dài. 

Kim Thế Di nghe nàng nói dịu dàng như thế, bao nhiêu nỗi tiếc nuối trong lòng chợt tan biến, cũng cười rằng: “Huynh cũng mong Đường Hiểu Lan giết chết Mạnh Thần Thông!” Lệ Thắng Nam nói: “Không, muội thì mong Mạnh Thần Thông vẫn còn sống!” Kim Thế Di nói: “Có thể chính tay giết chết kẻ thù đương nhiên là thống khoái, nhưng Mạnh Thần Thông là kẻ địch chung của võ lâm, ai cũng muốn sớm ngày trừ y. Muội cũng không cần cố chấp phải báo thù nữa.” Lệ Thắng Nam lắc đầu, nói: 

“Nếu Mạnh Thần Thông bị người khác giết chết, vậy thì cũng được, nhưng muội lại không muốn Đường Hiểu Lan giết chết y.” Kim Thế Di trầm ngâm không nói, đôi bên đều hiểu ý nhau. Kim Thế Di hy vọng Đường Hiểu Lan giết chết Mạnh Thần Thông là muốn Lệ Thắng Nam không còn địch ý đối với Đường Hiểu Lan, nhưng nghe nàng nói như thế, rõ ràng nàng vẫn không quên lời tổ huấn, chỉ vì người khai sáng phái Thiên Sơn có mối giao tình với Trương Tam Phong đại hiệp vào ba trăm năm trước, mà Trương Tam Phong là kẻ thù không đội trời chung với Kiều Bắc Minh, cho nên Lệ Thắng Nam sau khi thành tài phải rửa nhục cho sư môn. 

Lệ Thắng Nam nói: “Nếu huynh ngại Đường Hiểu Lan thì đừng nhúng tay vào.” Kim Thế Di nói: “Huynh không ngại ai cả, chỉ...” Lệ Thắng Nam cười hỏi: “Chỉ cái gì? Ồ, muội biết ý của huynh rồi, huynh e ngại cháu gái của Đường Hiểu Lan cho đến nay vẫn chưa quên tình, nhưng đáng tiếc nàng đã có ý trung nhân!” Kim Thế Di bực dọc nói: “Muội nói càn gì thế?” Lệ Thắng Nam cười rằng: “Một câu mà đã chọc giận được huynh, được, coi như muội đã nói sai, muội xin lỗi huynh được chưa? Muội đã nói rằng thật ra huynh có ý trung nhân rồi?” Kim Thế Di bị nàng chạm trúng tâm sự, hình bóng của Cốc Chi Hoa lướt qua trong đầu chàng, Lệ Thắng Nam chợt ho mấy tiếng rồi rên rĩ nói: “Muội khát đến khô cổ!” Kim Thế Di cười nói: “Ai bảo muội nói nhiều để khát khô cổ!” tuy là nói như thế nhưng thấy vẻ đau đớn của Lệ Thắng Nam thì không khỏi xót dạ, ngẩng đầu nhìn lên cười rằng: “Phía trước hình như có người ở, chúng ta đến xin một ít nước.” Mắt Lệ Thắng Nam không tỏ bằng Kim Thế Di, từ xa chỉ thấy một chấm đen, khi vỗ ngựa chạy đến một dặm thì mới nhìn rõ, té ra bên đường có một quán trà. Kim Thế Di cười nói: “Thật tốt, thật tốt, không cần phải xin người ta.” Những quán trà bên đường loại này ở miền bắc đa số là có bán thêm rượu thịt, Kim Thế Di buộc ngựa, kéo Lệ Thắng Nam bước vào, chủ quán trà là một đôi vợ chồng già. Lúc này trời mới sáng không lâu, họ vừa mới mở cửa được một lúc thì có khách vào, hai vợ chồng vừa mừng vừa ngạc nhiên. 

Kim Thế Di kêu lớn: “Có rượu không, đem cho ta một cân, không, đem hai bát trà ra trước.” Bà già giật mình, tựa như đang sợ gì đó, hoảng đến nỗi chẳng thốt ra lời, ông già run rẩy nói: “Mời... mời đại nhân ngồi... tôi... tôi đi rót trà.” Lúc này Kim Thế Di mới thấy trên người Lệ Thắng Nam dính đầy máu, lòng thầm nhủ: “Hai người này thấy mình ăn mặc theo kiểu võ quan, trên người lại có vết máu, chả trách nào sợ hãi đến thế.” Kim Thế Di lấy ra một nén bạc, cười rằng: “Ta biết có vài công sai thường chỉ ăn không chẳng trả tiền, bọn ta không phải hạng người ấy ông cứ cầm nén bạc này trước, lát nữa tính sau. Này, ông có thức gì nhắm rượu?” ông già đã mở tiệm trà được mười mấy năm, chưa bao giờ thấy có một võ quan khách sáo như Kim Thế Di, ông ta nhìn nén bạc mà chẳng dám cầm, vội vàng nói: “Không có quy củ ấy, không có quy củ ấy! Ngài nể mặt chịu đến quán trà nhỏ chúng tôi, tôi nào dám nhận bạc của ngài? 

Vả lại thức ăn vẫn chưa đem ra, nếu ngài thương xót, ăn xong thì cứ tùy tiện thưởng cho vài đồng tiền.” Kim Thế Di cười nói: “Ông có quy củ của ông, ta có quy củ của ta. Người khác ăn xong mới trả tiền, nhưng ta trả tiền trước rồi mới ăn. Nếu ông không nhận thì có nghĩa đã coi bọn ta là kẻ ăn quỵt, ông cứ nhận trước, ăn xong rồi cứ từ từ tính cũng không muộn.” Kim Thế Di nài ép ông già đành phải cầm lấy nén bạc rồi nói: “Quán nhỏ chẳng có gì, chỉ còn thừa một mâm thịt bò muối hôm qua, đem ra cho ngài nhấm rượu được không?” Kim Thế Di nói: “Được, được, ta rất thích ăn thịt bò muối.” Một hồi sau bà già mới hết sợ. 

Kim Thế Di ngồi trò chuyện với họ, biết họ có một con trai và một con gái, con gái thì đã gã chồng, con trai đã bị bắt đi phu năm năm trước, giờ vẫn chưa có tin tức, bởi vậy chỉ có hai người họ bán quán trà này, sau quán trà còn có một gian phòng nhỏ, ngăn với phía trước bằng một tấm rèm. 

Họ đang ngồi trò chuyện thì chợt nghe tiếng vó ngựa lọc cọc, có hai thớt ngựa chạy bên đường, trên ngựa là hai hán tử lưng mang đao. Một người nói: “Hay quá, ở đây có quán trà bán cả rượu thịt, chúng ta vào nghỉ ngơi một lát.” Kim Thế Di nghe rất quen tai, khi nhìn kỹ lại thì nhận ra đó là Bạch Anh Kiệt và Lộ Anh Hào. Hai người này đã từng giao thủ với Kim Thế Di nhưng giờ đây họ không nhận ra chàng. 

Bạch Anh Kiệt liếc mắt nhìn thì thấy có hai võ quan đang ngồi đấy, y là người rất cẩn thận, nói: “Lộ hiền đệ, chúng ta đang lên đường gấp, uống hai chén trà rồi đi. 

Đừng nên ngồi lại lâu!” Lộ Anh Hào nói: “Vội gì! Ở đây còn cách kinh thành chỉ bốn năm mươi dặm đường, cứ lót dạ ở đây sau đó chạy một mạch đến kinh thành ăn cơm trưa. Huống chi, sư tỷ...” nói đến đây thì chợt ngừng lại, té ra Bạch Anh Kiệt đã cấu y một cái. 

Lộ Anh Hào tuy lỗ mãng, nhưng y cũng hiểu ngay, thầm nhủ: “Sư huynh đã quá cẩn thận, cần gì phải sợ hai tên võ quan này?” song y xưa nay kính phục sư huynh chẳng dám nói nhiều lời, rồi đến trước tửu quán gọi hai bát trà, uống xong thì trả tiền rồi vội vàng đi. Lệ Thắng Nam nhận ra hai người Lộ, Bạch, cười rằng: “Hai người này xem ra võ công không tệ nhưng sao thấy chúng ta lại vội vàng bỏ chạy? Chả lẽ bọn chúng là đại đạo vừa mới gây án cho nên sợ công sai?” Kim Thế Di cũng thầm nghi ngờ, nhủ rằng: “Nghe bọn họ nói thế, hình như đã biết tung tích của Tào Cẩm Nhi, nói không chừng bọn họ cũng biết chuyện Đường đại hiệp đến kinh sư cứu Tào Cẩm Nhi. Nhưng đã có Đường đại hiệp cần gì bọn họ phải mạo hiểm vào kinh? Chẳng lẽ phái Mang Sơn xảy ra chuyện gì nghiêm trọng cho nên họ mới nôn nóng đi gặp chưởng môn? Dù không gặp được Tào Cẩm Nhi cũng nhất định sẽ gặp Đường Hiểu Lan?” Lệ Thắng Nam nói: “Huynh đang nghỉ gì thế?” Kim Thế Di chợt bóp tay nàng, Lệ Thắng Nam kêu “Ôi chao” lên một tiếng, Kim Thế Di kêu lên: “Không xong, không xong! Vết thương của người lại phát tác?” Lệ Thắng Nam hiểu ngay, biết chàng chắc chắn có dụng ý, lập tức rên rĩ: “Đúng thế, ta không nên uống rượu, vết thương lại vỡ ra, ôi chao đau quá, làm sao đi nữa đây! Làm sao đây? Làm sao đây?” 

Vợ chồng ông già chủ quán vội vàng chạy tới nói: “Có cần nằm nghỉ ngơi một lát không?” Kim Thế Di nói: “Đêm qua chúng tôi đi bắt cướp, bọn cường đạo rất lợi hại, người huynh đệ của chúng tôi đã bị thương, may mà không nặng. Nhưng giờ đây không thể đi lại được, đang muốn muốn phòng nghỉ ngơi một lát, tôi đi đến phía trước tìm thuốc, sẽ lập tức quay về.” ông già nói: “Được. Đi về phía trước ba dặm đường có một thị tập, ngài mau mua thuốc trở về, tôi sẽ mua thuốc cho ngài.” Kim Thế Di đỡ Lệ Thắng Nam vào phòng rồi nói: “Hai người cứ ra tiếp khách, tôi bôi thuốc kim sang cho y trước, không cần hai người. Nén bạc ấy cứ giữ lấy, coi như là tiền phòng.” Lệ Thắng Nam đợi họ đi xong thì mới hỏi: “Thế Di, huynh đang giở trò gì thế?” Kim Thế Di cười nói: “Huynh sẽ đi mua cho muội một bộ quần áo muội không cần cải trang nữa.” Lệ Thắng Nam nóị: “Nhưng hình như huynh còn có chuyện khác?” Kim Thế Di nói: “Chẳng thể nào giấu được muội, huynh thấy hai người này có điều đáng nghi, xem thử bọn chúng sẽ đi đâu, dù sao muội cũng phải vận công trị thương, huynh đi một lát sẽ trở về.” Thật ra chàng vẫn còn giấu Lệ Thắng Nam, chàng đã sớm biết thân phận của hai người Bạch, Lộ. Lệ Thắng Nam mỉm cười: “Muội biết huynh sẽ không bỏ muội chạy một mình, được, huynh đi đi!” Nàng nói thế rõ ràng đã biết Kim Thế Di có việc giấu mình. Kim Thế Di bất đồ thấy áy náy trong lòng, nghĩ bụng, nàng vẫn chưa khoẻ hẳn, hầu như đã bỏ ý định theo dõi hai người Lộ, Bạch, nhưng hình bóng của một người lthác đã cuốn hút chàng, lại nghĩ Lệ Thắng Nam có bảo kiếm phòng thân, lại có rất nhiều ám khí, tuy công lực vẫn chưa hồi phục nhưng đối phó những cao thủ bình thường trong võ lâm thì còn dư sức, tựa như chàng đã tìm được lý do biện giải cho mình, cuối cùng đã yên tâm ra đi. Kim Thế Di phóng ngựa chạy một hồi thì đã lại thấy hai người kia. Hai người Lộ bạch đang đi tới một ngã ba, Bạch Anh Kiệt từ nhỏ đã theo sư phụ đến kinh thành, nói: “Đi con đường phía đông.” Kim Thế Di đang phóng ngựa đuổi theo, ngay lúc này ở con đường phía tây chợt có hai thớt ngựa phóng tới, trong chớp mắt đã lướt tới chận đầu hai người Lộ, Bạch. 

Lộ Anh Hào cả giận, rút phắt thanh kiếm, Bạch Anh Kiệt thận trọng hơn, ngăn y rồi nói: “Bằng hữu, xin nhường đường!” Nói chưa dứt lời thì người ở phía trước đột nhiên giơ tay, hai người Lộ Bạch chỉ thấy cuồng phong nổi lên, cả hai đều thất kinh, hai thớt ngựa của họ cũng đột nhiên hí dài nhảy dựng lên, hai người Lộ, Bạch vội vàng lộn người xuống ngựa, chỉ thấy hai thớt ngựa tựa như phát điên, nhảy chồm chồm lên vài cái thì bọt mép sùi ra rồi ngã xuống đất. 

Kim Thế Di nhận ra hai người đó là đệ tử của Mạnh Thần Thông, người cao lớn là đại đệ tử Hạng Hồng, còn người kia chắc là nhị đệ tử Hách Hạo. Kim Thế Di thấy Hạng Hồng tung một đòn Phách không chưởng mà đánh ngã hai thớt ngựa, lòng thầm nhủ: “Chỉ không gặp mấy năm mà y đã luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ tư. Chả trách nào hai thớt ngựa không chịu nổi.” Lúc này Bạch Anh Kiệt đã nổi giận, trầm giọng hỏi: “Ta và bọn ngươi không có thù oán với nhau, cớ gì bọn ngươi lại đánh ngã ngựa của ta?” Hạng Hồng cười lạnh nói: “Tiểu thư nhà ta đâu?” Bạch Anh Kiệt chưng hửng, nói: “Tiều thư nào? Ta chẳng biết ngươi là ai cả?” Hạng Hồng cười lạnh nói: 

“Tên tiểu tử họ Bạch, ngươi còn giả ngờ nghệch? Các ngươi đến nhà Cốc Chính Minh ở Tương Dương làm gì? Nói mau, các ngươi giấu tiểu thư nhà ta ở đâu?” 

Kim Thế Di còn cách bọn họ nửa dặm đường nhưng vẫn nghe rất rõ ràng, chàng không khỏi sững người. Té ra sở dĩ chàng đuổi theo hai ngtl Lộ, Bạch, thậm chí bỏ lại Lệ Thắng Nam là vì chàng muốn hỏi tin tức của Cốc Chi Hoa, không ngờ Hạng Hồng đã nói ra trước. 

Lô Anh Hào cả giận nói: “Nói càn, Cốc cô nương là sư muội của bọn ta, ngươi là người gì của nàng mà đám bảo là tiểu thư nhà ngươi?” Hạng Hồng cười lạnh nói: “Sư muội của ngươi? Chẳng phải Tào Cẩm Nhi đã đuổi nàng ra khỏi sư môn từ lâu rồi sao?” Lộ Anh Hào tức giận nói: “Đó là chuyện của bổn phái bọn ta, không cần ngươi quản!” Bạch Anh Kiệt nói: “Hai người không biết đấy thôi, Cốc cô nương đã trở lại Mang Sơn.” Lộ Anh Hào rút phắt thanh trường hếm, hừ một tiếng rồi nói: “Bạch sư huynh, không cần phải nói nhiều với bọn chúng, chỉ hỏi bọn chúng có nhường đường hay không! Hạng Hồng cười nói: “Hách sư đệ, tên tiểu tử này dám ngang ngược bá đạo trước mặt chúng ta, có buồn cười hay không? Hừ hừ, nếu nhà ngươi muốn ngang ngược, bọn ta chính là tổ tông của ngang ngược đây!” Lộ Anh Hào trợn mắt, nén giận nói: “Nghe ngươi bảo thế, hình như bọn ngươi có lý lẽ?” “Đúng thế, bọn ta đến Tương Dương tìm Cốc sư muối, điều đó có liên quan gì đến các ngươi? Các ngươi có lý lẽ gì, nói mau!” Hạng Hồng có ý bỡn cợt y, cười ha hả rồi chậm rãi nói: “Dù cho Cốc cô nương là sư muội của ngươi thì thế nào? Sư phụ tuy là bậc tôn trưởng nhưng đâu bằng cha ruột? Huống chi Tào Cẩm Nhi chẳng qua chỉ là sư tỷ của nàng, các ngươi cũng chỉ là sư huynh. Ta phụng lệnh cha ruột của nàng tìm nàng trở về, sao ta lại không thể hỏi tung tích của nàng? Nói mau các ngươi giấu nàng ở đâu?” Bạch Anh Kiệt đã sớm đoán được y là đệ tử của Mạnh Thần Thông, đang ngầm vận Thiếu Dương thần công chuẩn bị chống chọi Tu la âm sát công, cho nêncứ để mặc cho sư đệ tranh cãi với bọn chúng. Lộ Anh Hào là người thẳng thắn, y chưa bao giờ nghĩ Mạnh Thần Thông là cha của Cốc Chi Hoa, bởi vậy khi hai người này gọi Cốc Chi Hoa là “Tiểu thư nhà ta”, y chẳng hề nghĩ đến Mạnh Thần Thông. Lúc này chợt hiểu ra mới khựng người lại lập tức mắng rằng: “Té ra hai người là nô tài của Mạnh lão tặc, hừ hừ, ta đang muốn tìm các ngươi tính sổ đây?” Hạng Hồng quát: “Tên tiểu tử nhà ngươi giữ mồm cho sạch sẽ, ngươi mắng bọn ta thì được, lại còn dám mắng sư tôn của ta?” Lộ Anh Hào nói: “Ta cứ mắng, Mạnh lão tặc! Mạnh lao tặc!” Hạng Hồng lách người, đánh vù một chưởng về phía Lộ Anh Hào, quát: “Ngươi mắng đi, ngươi mắng thột câu ta đánh ngươi một bạt tai!” Lộ Anh Hào đã có chuẩn bị, miệng vừa mắng thì trường kiếm cũng vẽ ra một đoá kiếm hoa. 

Nào ngờ chưởng này của Hạng Hồng chính là tu la âm sát công tầng thứ tư, vả lại y cũng học được từ Cơ Hiếu Phong loại bộ pháp khéo léo, Lộ Anh Hào chợt thấy khí lạnh đồn tới, bất đồ giật mình, mũi kiếm lệch qua, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Hạng Hồng đã tiến tới phía trước mặt y, vung bàn tay vỗ tới! Trong khoảnh khắc ấy, chợt thấy ánh đao lóe lên, chém xuống giữa hai người! Hạng Hồng thấy giật mình, dù y lướt ra thật nhanh nhưng cũng bị chém một nửa ống tay áo. 

Hạng Hồng cả giận, tay phải giơ lên lại đẩy ra một luồng chưởng lực Tu la âm sát công, lần này là đánh về phía Bạch Anh Kiệt, còn Hách Hạo thì lao về phía Lộ Anh Hào. Hách Hạo dùng một cây bút điểm huyệt, chiêu số cũng hiểm hóc phi phàm nhưng Tu la âm sát công của y chỉ mới đến tầng thứ hai.  

Lộ Anh Hào tuy lạnh đến nỗi răng đánh bồ cạp, nhưng vẫn có thể múa trường kiếm đỡ cây phán quan bút của Hách Hạo, Hách Hạo vừa mới tiến tới thì Bạch Anh Kiệt đột nhiên trở tay chém lại một đao, Hách Hạo thấy rõ mũi đao đã chém xuống y, chẳng thể nào né tránh nổi, nhưng chỉ thấy đầu ngón tay mát rượi, đó là vì Hạng Hồng ứng cứu kịp thời, dùng chưởng lực đánh lệch ngọn đao của Bạch Anh Kiệt chứ nếu không đao ấy chém xuống thì hậu quả khó tưởng tượng. 

Bạch Anh Kiệt chém một hơi mười sáu đao, đến đao thứ mười bảy thì chém bị thương vai của Hạng Hồng, đến đao thứ mười tám thì lại chặt một ngón tay của Hách Hạo. Nhưng Lộ Anh Hào thì ngược lại, chiêu số vừa phát ra thì đã lực bất tòng tâm, theo lý mà nói mỗi người đều học được võ nghệ gia truyền, võ công không hơn kém nhau bao nhiêu, nhưng trong đó có nguyên cớ. Số là từ sau khi Cốc Chi Hoa giao ra ba thiên Thiếu dương thần công, Tào Cẩm Nhi đã chọn vài người sư đệ cùng luyện Thiếu dương thần công, luyện Thiếu dương thần công không những phải có căn cơ võ công vững chắc, mà tính tình cũng phải thâm trầm. Người nóng nảy dù võ công cao cường đến mức nào cũng không thể luyện tốt được. 

Đó cũng chính là lý do tại sao Tào Cẩm Nhi không đỡ nổi Tu la âm sát công của Mạnh Thần Thông như Dực Trọng Mâu. Bạch Anh Kiệt là một trong những người được Tào Cẩm Nhi chọn lựa, Lộ Anh Hào thì hoàn toàn không học được Thiếu dương thần công. 

Kim Thế Di thấy thế thì nghĩ bụng: “Nếu mình không xuất hiện bọn họ sẽ thua chắc!” Chàng đương nhiên không sợ Tu la âm sát công của Hạng Hồng, nhưng lại sợ con ngựa chịu không nổi cho nên buộc ngựa vào gốc cây liễu ven đường, sau đó nghênh ngang bước tới, bóp cổ họng kêu lên: “Sao các ngươi đánh nhau thế? Các ngươi đánh mãi vẫn xong, mau tránh ra cho ta, tránh ra!” Lúc này bọn chúng đang đánh rất gay cấn, Hạng Hồng đã dần dần khắc chế được khoái đao của Bạch Anh Kiệt, thấy đã thắng lợi nào chịu lơi lỏng? Hai người Lộ, Bạch hầu như không thở được nổi, càng chẳng thể nhường đường. Thật ra Hạng Hồng đã biết có người bước tới, người y không nhận ra người này chính là Kim Thế Di cho nên chẳng hề để trong lòng. Thấy Kim Thế Di buộc ngựa rồi nghênh ngang bước tới, lời lẽ ngông cuồng, rõ ràng là có ý quấy rối, lập tức lửa giận bốc lên, chờ Kim Thế Di đến gần thì đột nhiên vỗ một chưởng về phía chàng! Kim Thế Di mắng: “Thật quá đáng, không nhường đường thì thôi, lại còn đánh người?” Hạng Hồng vỗ một chưởng trúng ngực Kim Thế Di, thấy Kim Thế Di cứ xông tới tựa như chẳng hề gì, y không khỏi hoảng hốt, nói thì chậm, sự việc lúc đó diễn ra rất nhanh, Hạng Hồng sắp vỗ ra chưởng thứ hai thì đã bị Kim Thế Di tóm lấy giở bổng lên rồi ném ra xa! Kim Thế Di xông thắng vào giữa cuộc hỗn chiến, đơn đao của Bạch Anh Kiệt, trường kiếm của Lộ Anh Hào, phán quan bút của Hách Hạo trong khoảng sát na dù có muốn tránh hoặc rút lại cũng không kịp, cả ba món binh khí đều đâm vào người Kim Thế Di. 

Bạch Anh Kiệt, Lộ Anh Hào kêu lên lạc giọng, Hách Hạo vẫn dùng lực đâm cây phán quan bút tới, Kim Thế Di mặc kệ hai người Lộ, Bạch, trước tiên đoạt cây phán quan bút của Hách Hạo; bẻ làm hai đoạn rồi quát: “Ngươi cũng cút đi!” Rồi cũng giơ bổng Hách Hạo lên ném về phía Hạng Hồng. 

Cả hai người bị Kim Thế Di ném một cái, không những cảm thấy đau đớn mà toàn thân tựa như bị lửa đốt, té ra Kim Thế Di đã đánh đứt kinh mạch tam tiêu của bọn chúng, phế bỏ Tu la âm sát công. May mà vẫn còn công lực, vẫn có thể cử động được, lúc này bọn chúng chỉ tiếc cha mẹ chỉ sinh ra một cặp giò, nào dám quay đầu lại nhìn! Hai người Lộ, Bạch kinh hoảng, khi nhìn lại thì thấy Kim Thế Di chẳng những không bị thương, cả áo trên người cũng chẳng rách, mà lúc nãy đao và kiếm của họ rõ ràng đã chạm vào người chàng, vì thế càng kinh hãi hơn! Lúc nãy thất kinh là vì sợ ngộ thương Kim Thế Di, giờ đây thất kinh là vì võ công của Kim Thế Di không thể tưởng tượng nổi. Thì ra Kim Thế Di chẳng qua chỉ vận dụng tự quyết chữ “hoạt” của công phu nội gia, nhưng vì bản lĩnh giữa hai bên cách nhau quá xa, vả lại khi đao và kiếm chạm vào người Kim Thế Di, phản ứng bản năng khiến họ giảm kình lực, bởi vậy áo của Kim Thế Di cũng chẳng rách. Lộ Anh Hào là người mau mắn, vừa cảm kích lại vừa khâm phục Kim Thế Di, bước tới cúi đầu lạy tạ, Kim Thế Di cười nói: “Đều là người cùng phe cả, có hoạn nạn phải giúp nhau, Lộ huynh đâu cần khách sáo.” Bạch Anh Kiệt nói: “Xin thứ cho tiểu đệ kém cỏi, không biết đã gặp huynh đài ở đâu? Dám hỏi cao tính đại danh của huynh đài, tôn sư là ai?” Kim Thế Di bịa một cái tên giả rồi nói: “Hai vị Bạch, Lộ vốn đã không nhận ra tiểu đệ, hai tháng trước tiểu đệ cũng đã gặp hai vị huynh đài ở đại hội Mang Sơn. Tiểu đệ là đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm.” Đệ tử các phái tham gia đại hội Mang Sơn cộng lại không dưới năm sáu trăm người, Lộ Anh Hào và Bạch Anh Kiệt là nhân vật có vai vế trong phái Mang Sơn, người khác rất dễ nhận ra, Kim Thế Di nói như thế thì Lộ Anh Hảo chẳng hề nghi ngờ, lòng hơi áy náy, lúng túng cười rằng: “Người tham gia đại hội Mang Sơn quá đông, bây giờ tôi đã nhớ lại, Cam huynh không phải đến trong ngày hội, có phải đi cùng với lão anh hùng Trịnh Càn Nguyên hay không? Lúc nãy tôi thấy rất quen mặt, nhưng không nhớ tên.” Trong đại hội hôm ấy, Thống Thiền thượng nhân dắt theo Thập bát La Hán, ngày hôm sau Trịnh Càn Nguyên mới dắt theo hơn hai mươi đệ tử tục gia đến, Lộ Anh Hào không muốn bảo là không nhận ra Kim Thế Di bởi vậy mới nhắc lại chuyện này. Mà y thật tình cũng nghĩ là Kim Thế Di đi theo Trịnh Càn Nguyên. 

Kim Thế Di thầm cười, giả vờ khen rằng: “Lộ huynh nhớ kỹ thật! Hôm ấy có năm sáu trăm người mà huynh vẫn còn nhớ tôi!” Bạch Anh Kiệt nói: “Chả trách nào võ công của Cam huynh cao minh như thế, té ra là cao đồ của phái Thiếu Lâm! Cam huynh đao thương bất nhập, lẽ nào đã luyện thành Kim cương bất hoại thần công của quý phái?” Kim Thế Di cười nói: “Cũng có luyện qua, nhưng nói luyện thành thì còn kém xa! Tiểu đệ chỉ có được ba bốn phần hỏa hầu.” Bạch Anh Kiệt lại là người tinh tế, nghe Kim Thế Di nói thì càng lúc càng thấy nghi ngờ, số là trong lần đại hội ấy, y cũng là một trong những tri khách, tuy bảo là người quá đông, y hoàn toàn không nhớ nhưng lại đặc biệt để ý đến đệ tử của các môn phái lớn như Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi thế mà chẳng thể nào nhớ nổi có người như Kim Thế Di, vả lại y biết Kim cương bất hoại thần công của phái Thiếu Lâm không bao giờ truyền cho đệ tử tục gia, dù là kẻ đứng đầu đệ tử tục gia là Trịnh Càn Nguyên cũng chỉ hiểu sơ qua về môn công phu này, thế rồi mới nghĩ: “Nếu y đúng là đệ tử tục gia của phái Thiêu Lâm, theo võ công mà luận, lẽ ra đã sớm nổi danh trên giang hồ, tại sao mình chưa bao giờ nghe cái tên này?” Nhưng y tuy hoài nghi song cũng không nghĩ Kim Thế Di là người xấu. Y rất cảm kích vì Kim Thế Di đã giúp mình trong lúc nguy cấp nhất. Lộ Anh Hào thấy sư huynh tỏ vẻ lạnh nhạt thì thầm trách: “Chưa nói là người ta dã cứu mạng, dù chỉ là võ lâm đồng đạo, huynh cũng không nên tỏ ra lạnh nhạt với người ta như thế. Sư huynh bình thường thích kết giao bạn bè, tại sao hôm nay lại bất thường đến thế?” Lộ anh Hào lấy làm lạ, Bạch Anh Kiệt thi lễ với Kim Thếch rồi nói: “Đại ơn này không thể báo, chúng tôi có việc nhỏ phải lên kinh, xin tạm biệt ở đây.” Lộ Anh Hào đang cao hứng, nghe sư huynh nói như thế thì cũng toan bước theo, y chợt kêu lên: “Hỏng bét, hai chân của tôi sao tê rần chẳng đi được?” té ra vì y không luyện Thiếu dương thần công, đã bị nhiễm phải khí âm hàn, không thể nào xua tan được, hễ thời gian kéo dài thì các khớp tay chân đều bị đông cứng. Bạch Anh Kiệt đang định đỡ y thì Kim Thế Di cười nói: “Hiếm có dịp gặp nhau, nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi, tôi có chút chuyện muốn hỏi hai vị huynh đài!” Tay phải chàng kéo Lộ Anh Hào, tay trái nắm Bạch Anh Kiệt, hai người Lộ, Bạch chẳng hề nhúc nhích nổi. 

Lộ Anh Hào chợt thấy một luồng khí ấm áp chạy khắp người đi đến tứ chi, lập tức cảm thấy thoải mái vô cùng. Bạch Anh Kiệt vốn cũng có cảm giác lạnh lẽo, một luồng nhiệt lực từ lòng bàn tay của chàng dồn vào người y, cảm giác lạnh lẽo không còn nữa. Bạch Anh Kiệt đương nhiên biết Kim Thế Di đã dùng nội công thượng thừa giúp mình trừ khí âm hàn, đành phải đứng lại đáp tạ Kim Thế Di rằng: “Đa tạ Cam huynh đã thi ân lần nữa, xin hỏi Cam huynh muốn biết chuyện gì?” Kim Thế Di nói: 

“Xin hỏi hai vị huynh đài có phải đã đến nhà họ Cốc ở Tương Dương không?” Bạch Anh Kiệt nói: “Đúng thế.” Kim Thế Di nói: “Vậy có gặp lệnh sư muội không?” Bạch Anh Kiệt nói: “Huynh hỏi điều này làm gì?” Kim Thế Di nói: “Tôi và lệnh sư muội cũng từng quen biết nhau, trong đại hội Mang Sơn lần đó nàng bị Mạnh Thần Thông điểm huyệt đạo, sau đó không biết tung tích thế nào, cho nên tôi cũng muốn hỏi thăm.” Bạch Anh Kiệt nói: “Không cần Cam huynh lo lắng, lần đó tuy sư muội gặp nguy hiểm, may mà có cao nhân tương cứu đã sớm bình an vô sự.” Y không ngờ rằng người cứu Cốc Chi Hoa thoát hiểm chính là kẻ đang đứng trước mặt mình. 

Kim Thế Di nói: “Tôi muốn hỏi hiện giờ nàng ở đâu, hai vị có gặp nàng không?” Bạch Anh Kiệt ngần ngừ trong chốc lát rồi nói: “Đã gặp.” Kim Thế Di nói: “Vậy Cốc cô nương đang ở đâu? Nàng đã hoàn toàn khỏe chưa?” Bạch Anh Kiệt lại chần chừ, thầm nhủ: “Kẻ họ Cam này là ai, tại sao cũng hỏi chuyện của Cốc sư muội như hai tên đệ từ của Mạnh lão tặc?” Lộ Anh Hào nén không được đáp: “Đều là người cùng phe cả, nói ra cũng chẳng sao, chúng tôi đã gặp Cốc sư muội ở Tương Dương, nhưng hôm sau thì sư muội đã mất tích. Chúng tôi cũng đang muốn biết hiện giờ sư muội đang ở đâu!” Lộ Anh Hào vừa nói ra, Kim Thế Di không khỏi cả kinh, vội vàng hỏi: “Chuyện như thế nào? Chi Hoa... Chi Hoa... nàng đã  mất tích như thế nào?” Kim Thế Di vốn đã giả giọng nói chuyện, nhưng lúc này lo lắng bởi vậy mới lộ ra tiếng thật của mình. Bạch Anh Kiệt giật mình, thầm nhủ: “Giọng nói của kẻ này thật quen tai, chả lẽ đúng là người quen? Sao mình không nhớ ra y là ai? Tại sao y lại phải giả giọng?” Lộ Anh Hào không tinh tế bằng sư huynh của mình, nghe Kìm Thế Di gọi liên hai tiếng “Chi Hoa” mà lại rất thân mật thì cũng hơi ngạc nhiên, thầm nhủ: “Nghe y gọi như thế, có lẽ y và Cốc sư muội không phải quen biết bình thường!” 

Song Lộ Anh Hào tuy nghi ngờ nhưng y cảm kích Kim Thế Di cứu mạng mình, lại khâm phục võ công của chàng, bởi vậy cũng chẳng che giấu điều gì. Lộ Anh Hào nói: 

“Thật không dám giấu, chúng tôi phụng lệnh của chưởng môn sư tỷ đến Tương Dương mời Cốc sư muội trở về. Nghĩa phụ của sư muội là Cốc Chính Minh, Cốc Chính Minh qua đời nhiều năm, sư muội chưa có dịp cúng tế trước mộ của ông ta cho nên sau đại hội Mang Sơn lần ấy, chưởng môn sư tỷ không thấy nàng, đoán rằng nàng đã về quê nhà của nghĩa phụ. Chúng tôi đến nhà họ Cốc quả nhiên gặp sư muội, nhưng chúng tôi khuyên thế nào nàng cũng không chịu về núi. Xem ra hình như nàng rất buồn rầu.. dửng dưng với tất cả mọi thứ, chỉ bảo rằng phải phụng dương nghĩa mẫu cho đến già, không muốn đi ra giang hồ nữa.” Kim Thế Di nghe thế thì lòng xót xa, thầm nhủ: 

“Toàn là mình hại nàng cả.” Lộ Anh Hào nói: “May sao chưởng môn sư tỷ đã đoán được nàng không chịu về núi cho nên đã phái thêm hai sư huynh Trình Hạo và Lâm Sinh, đem kim bài của bổn môn đến khuyên nàng mới chịu.” Tào Cấm Nhi phát ra kim bài triệu kiến đệ tử của bổn môn là chuyện chẳng tầm thường tí nào. Tấm kim bài nào là do thủy tổ của phái Mang Sơn, Độc tý thần ni để lại cho chưởng môn các đời. 

Năm xưa Lữ Tứ Nương cũng nhận được tấm kim bài này của sư phụ mới dám giết Liễu Ân. Kim Thế Di nghe đến đây thì hoàn toàn hiểu dụng ý của Tào Cẩm Nhi, té ra bà ta không chỉ cho phép Cốc Chi Hoa trở lại sư môn mà còn có ý nhường chức chưởng môn cho nàng. Quả nhiên Lộ Anh Hào lại nói tiếp: “Tào sư tỷ quả thực cũng có ý nhường chức chưởng môn cho nàng, song Cốc sư muội lại không biết, chỉ nghĩ rằng Tào sư tỷ sợ mình không trở về bởi vậy mới phát kim bài gọi mình. Nhìn thấy tấm kim bài thì đành phải chấp nhận.” Kim Thê Di hỏi: “Nếu nàng đã chấp nhận về Mang Sơn, tại sao nửa đường mất tích?” Lộ Anh Hào nói: “Không phải nửa đường mất tích mà trong đêm hôm ấy, nàng đã mất tích trong nhà. Nàng và chúng tôi định rằng sáng sớm hôm sau sẽ lên đường, nào ngờ ngày hôm ấy nói nàng tảo mộ quay về, đêm đến thì xảy ra một chuyện lạ lùng.” Kim Thế Di hỏi: chuyện lạ gì?” Lộ Anh Hào nói: “Vì sư muội đã hứa ngày mai sẽ đi cùng chúng tôi, đêm ấy tôi mới yên tâm ngủ, nào ngờ đến nửa đêm thì tôi chợt bừng tỉnh bởi nghe một tiếng kêu thảm thiết, Bạch sư huynh cũng tỉnh dậy, nghe được tiếng kêu ấy là từ lầu phía tây.” Kim Thế Di hỏi: “Vậy hai người ngủ cùng phòng?” Lộ Anh Hào nói: “Đúng thế, tôi và Bạch sư huynh ở cùng phòng, cách lầu tây khá xa. Hai sư huynh Trình, Lâm ở phòng khác, cách lầu tây gần hơn. Ở lầu tây có khuê phòng của Cốc sư muội, trên lầu có hai phòng, phòng còn lại là của Cốc phu nhân.” Kim Thế Di nói: “Ta đã hiểu. Tiếng kêu ấy có phải phát ra từ phòng của Cốc cô nương không?” Lộ Anh Hào nói: “Không phải, là tiếng kêu của Cốc phu nhân. Sau đó tôi và Bạch sư huynh cùng chạy đến lầu tây, đã phát hiện ở cầu thang có hai người.” Kim Thế Di nói: “Chắc là hai vị sư huynh Trình Hạo và Lâm Sinh?” Lộ Anh Hào nói: “Đúng thế, chính là họ. Hai vị sư huynh Trình, Lâm võ công cao hơn chúng tôi rất nhiều, nhưng không biết thế nào mà bị người ta ám toán. Cả hai người họ mặt có khí đen, chẳng thấy có thương tích gì nhưng thần trí hôn mê, chỉ thở phì phò lựa như hai kẻ si ngốc, chỉ mở hai mắt trừng trừng, không nhận ra chúng tôi, cũng không nói chuyện được.” Kim Thế Di thầm nhủ: “Chắc là họ gặp phải chuyện gì kinh tâm động phách cho nên mới hoảng đến mức đó. Nhưng hai người này là đệ tử giỏi trong phái Mang Sơn, đã từng thấy sóng to gió lớn, theo lý thì không thể như thế được. Vả lại họ gặp cường địch thì tại sao không thể kêu lên?” Lộ Anh Hào lại nói tiếp: “Chúng tôi thấy thế thì biết không xong; vội vàng lên lầu gọi sư muội, nhưng cửa phòng của sư muội cũng mở ra, người thì đã biến mất. Lúc này Cốc phu nhân đã nghe tiếng chúng tôi gọi cho nên một bước ra khỏi phòng.” Kim Thế Di nói: “Theo tôi biết, vợ của Cốc Chính Minh cũng là nữ anh hùng võ nghệ cao cường, chẳng kém gì chồng, bà ta có giao thủ với kẻ địch không?” Lộ Anh Hào nói: “Không có, bà ta cũng chẳng biết kẻ địch có tướng mạo thế nào, bà ta bảo đã nghe có tiếng động trong phòng Cốc sư muội, khi ngồi dậy thì chỉ như thấy có một bóng đen tựa như đang cõng một người lướt qua mái ngói đối diện, bà ta chưa kịp thi triển khinh công đuổi theo thì bị người đó ném một tấm ngói. Khi chúng tôi nhìn lại thì thấy trên trán bà ta còn sưng, máu vẫn chưa ngừng chảy.” Kim Thế Di kinh hãi, thầm nhủ: “Cốc Chi Hoa đã được Lữ Tứ Nương chân truyền, võ công còn cao hơn cả Tào Cẩm Nhi, còn Cốc phu nhân tuy võ công hơi kém hơn nàng nhưng trên giang hồ cũng thuộc loại cao thủ nhất lưu, sao lại chẳng hề chống cự nổi, để kẻ đích bắt cóc Cốc Chi Hoa?” Lộ Anh Hào tiếp tục nói: “Lúc đầu tôi tưởng là bọn đệ từ của Mạnh Thần Thông, nhưng theo Bạch sư huynh nói, triệu chứng của hai sư huynh Lâm, Trình chẳng giống như bị thương bởi Tu la âm sát công, đáng tiếc hai người Lâm, Trình đều đã hôn mê thần trí, không thể nói chuyện, chúng tôi mời danh y đến chữa trị, mấy ngày sau họ vẫn chẳng hề tỉnh. Bởi vậy chẳng thể nào biết được chuyện gì đã xảy ra.” Kim Thế Di vắt óc suy nghĩ, chỉ cảm thấy có rất nhiều điều kỳ lạ. Cốc Chi Hoa đã tự bỏ trốn hay bị người ta bắt cóc? Nếu bị người ta cắt cóc thì người này có lẽ là cùng một giuộc với Mạnh Thần Thông. 

Bạch Anh Kiệt nói: “Lúc đầu tôi cũng nghi ngờ là Mạnh Thần Thông, nhưng thấy hai vị sư huynh không giống như bị Tu la âm sát công đả thương, vả lại lúc nãy còn gặp hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông, bọn chúng cũng tra hỏi tông tích của Cốc sư muội, có thể thấy Cốc sư muội không rơi vào tay bọn Mạnh Thần Thông.” 

Kim Thế Di thầm nhủ: “Còn có một lý do thứ ba nữa, bọn chúng vẫn chưa biết. Mạnh Thần Thông đang ở Bắc Kinh, tính lộ trình và thời gian, y không thể nào đến Tương Dương bắt con gái.” Chính vì như thế, Kim Thế Di càng tin rằng chuyện này là một câu đố khó giải. 

Lộ Anh Hào tiếp tục nói: “Theo quy củ của phái Mang Sơn chúng tôi, đệ tử nhận kim bài của chưởng môn nhân phải đem kim bài về nghe lệnh, bởi vậy kim bài này đã nằm trong tay Cốc sư muội.” Kim Thế Di nói: “Như thế có phải tấm kim bài đã mất tích cùng Cốc cô nương không?” Lộ Anh Hào nói: “Chính là thế! Chúng tôi đang nôn nóng gặp chưởng môn sư tỷ. Giờ đây chưởng môn các phái vẫn còn ở chùa Thiếu Lâm, nếu muốn gặp sư tỷ, cũng chuẩn bị đến chùa Thiếu Lâm một chuyến.” Kim Thế Di nói: “Hai người đang vội lên đường, ta không làm trễ nải công việc của hai người nữa. Hai người cứ lấy ngựa của hai tên kia mà dùng. Chúng ta tạm biệt ở đây, ngày sau sẽ gặp lại.” Lộ Anh Hào đang định cung tay cáo biệt, Bạch Anh Kiệt chợt nói: 

“Lần này đa tạ huynh đài đã giúp đỡ, cảm kích không nguôi. Nhưng không biết huynh đài có thể cho biết chân danh thực tính hay không?” Y vừa nói vừa vái dài Kim Thế Di. 

Lộ Anh Hào ngẩn người, thầm nhủ: “Chả phải y đã nói danh tính rồi sao? Sao còn nghi ngờ y là giả nữa?” Nhưng lại lo Kim Thế Di không vui. 

Kim Thế Di mỉm cười: “Bạch huynh quả nhiên là người cao minh. Các người gặp Tào chưởng môn chắc chắn sẽ biết ta là ai?” Lộ Anh Hào bất giác ngạc nhiên, trong khoảnh khắc này, y chưa kịp hỏi tiếp thì Kim Thế Di đã lắc người lướt ra, phóng lên ngựa vung roi chạy mất. Tuy Kim Thế Di nói cười với hai người Lộ, Bạch, nhưng trong lòng thì trĩu nặng, trên suốt quãng đường chàng luôn nhớ đến Cốc Chi Hoa, thầm nhủ: “Chi Hoa gặp nạn, mình sao có thể không lo? Đêm hôm ấy chỉ có hai người Trình, Lâm thấy mặt kẻ địch, nếu mình có thể giúp họ tỉnh dậy, có thể tìm ra một chút manh mối.” Nghĩ đến đây thì đột nhiên chuyện xưa lại dâng lên trong lòng, đêm chàng gặp lại Cốc Chi Hoa ở Mang Sơn, Lệ Thắng Nam đột nhiên xuất hiện, rồi lại đánh đứt kinh mạch để bị trọng thương ngăn cản chàng đuổi theo Cốc Chi Hoa. 

“Giả sử mình nói chuyện này cho Thắng Nam biết, nàng có chịu cho mình đến Tương Dương điều tra tung tích của Chi Hoa không? Giờ đây nàng vẫn chưa khỏe, nếu nàng không chịu đi cùng mình, mình có thể bỏ mặc nàng không?” Hình ảnh nàng thiếu nữ ấy khiến cho chàng rối bời lòng dạ! 

Hồi Thứ Bốn Mươi Tư

Kim Thế Di vẫn còn đắn đo, thầm nhủ: “Quay về gặp Lệ Thắng Nam rồi tính tiếp.” Rồi chàng đến thị tập nhỏ mua quần áo, chàng lựa một hồi thì chọn được hai bộ nữ trang. Người trong thị tập thây chàng chọn nữ trang thì đều lấy làm lạ, nhưng vỉ chàng là một võ quan nên không ai dám hỏi. 

Lúc này đã gần trưa, Kim Thế Di thầm nhủ: “Chắc Thắng Nam đang nóng lòng chờ đợi.” Thế rồi vội vàng phóng ngựa quay về. 

Quán trà cách thị tập không quá bốn năm dặm. Kim Thế Di phóng ngựa chỉ khoảng thời gian một cây nhang thì đã thấy quán trà trước mặt, đột nhiên thấy hai hán tử nông phu hớt hải chạy, Kim Thế Di lấy làm lạ, hỏi lớn: “Các người có chuyện gì thế?” Hai người thấy chàng là võ quan, càng kinh hoảng hơn, lắp bắp nói: “Có cường đạo, có cường đạo, cường đạo giết... giết người rồi!” Kim Thế Di cả kinh, nghĩ bụng chả lẽ Lệ Thắng Nam gặp phải kẻ địch cho nên đã bị giết? Chàng thấy hai nông phu này chẳng biết võ nghệ, chẳng giống kẻ cường đạo cho nên phóng nhanh về quán trà. 

Chỉ thấy quán trà vắng lặng, Kim Thế Di đã dự cảm có điều không may, chàng bước vào thì thấy bên trong có hai cái xác, đó là vợ chồng ông lão bán trà, sờ vào thì cái xác vẫn còn ấm, rõ ràng bị hai không lâu.  

Kim Thế Di vạch rèm cửa, kêu lớn: “Thắng Nam!Thắng Nam!” Trong phòng chỉ có cái giường trống chứ chẳng thấy bóng đáng Lệ Thắng Nam đâu! 

Kim Thế Di kinh hãi, nghĩ bụng Lệ Thắng Nam có bảo kiếm, lại có hàng trăm loại ám khí lợi hại, lại nhanh nhạy tuyệt luân, tuy võ công chưa hồi phục nhưng cao thủ thuộc hàng nhất lưu cũng chưa chắc làm gì được nàng, làm sao dễ dàng bị người ta bắt đi, vả lại nàng cũng biết mình đến thị tập mua quần áo, dù gặp phải cường địch, chống không lại cũng có thể chạy thoát, dùng Thiên độn truyền âm kêu cứu, thị tập cách quán trà chỉ có năm dặm, nếu nàng dùng Thiên độn truyền âm thì mình đã nghe thấy. 

Dù Kim Thế Di đã trải qua vô số phong ba nhưng lúc này cũng rối trí, chỉ cảm thấy Lệ Thắng Nam mất tích li kỳ như Cốc Chi Hoa! Lúc này bên ngoài có tiếng người ồn ào, có người nói: “Bên trong có tiếng động, hung thủ vẫn còn ở trong đấy, cẩn thận, cẩn thận!” Tiếp theo là có tiếng người quát tháo. Kim Thế Di bước ra, chỉ thấy bên ngoài quán trà có người đứng lố nhố, té ra đám dân quê nghe ở đây xảy ra chuyện cho nên dẫn đoàn luyện đến điều tra. Bọn người này thấy chàng là một võ quan thì đều khựng người lại, trong nhất thời không ai động thủ. Kim Thế Di thấy hai tên dân quê đang đứng ở đó thì vội vàng chụp lấy bọn chúng, quát hỏi: “Các người có thấy hình dáng kẻ cường đạo như thế nào không?” Hai tên dân quê ấy vội vàng đáp: 

“Chúng tôi chẳng hề thấy mặt cường đạo.” Kim Thế Di nói: “Vậy lúc nãy tại sao các ngươi lại bảo có cười đạo giết người?” Hai tên dân quê nói: “Chúng tôi vào đình uống chén trà, phát hiện có hai các xác, đương nhiên là bị cường đạo giết.” Kim Thế Di cũng cảm thấy buồn cười, thầm nhủ: “Mình cũng thật hồ đồ!” Chàng lập tức vẹt đám đông phóng lên ngựa, chọn con đường mà lúc nãy chàng nừa đi qua đuổi theo, phía sau lưng chỉ nghe đám người ấy kêu la ầm ĩ, té ra bọn chúng lo rằng chàng là hung thủ tưởng rằng chàng ăn xong không chịu trả tiền nên phải giết chủ quán. 

Kim Thế Di chạy một mạch đến hơn mười dặm, dùng Thiên độn truyền âm gọi mà chẳng nghe trả lời, trên đường cũng chẳng phát giác có chuyện đáng nghi, vì thế lại tìm sang hướng khác, cho đến trời tối mà vẫn chẳng có manh mối gì. 

Kim Thế Di rất thất vọng, nhưng không biết thế nào mà trong cơn thất vọng lại pha lẫn một chút nhẹ nhàng, thầm nhủ: “Thắng Nam không phải là nữ nhi bình thường, không những võ công cao cường, cơ trí chẳng ai bằng, dù có lọt vào tay kẻ địch, chỉ cần kẻ địch không hại chết nàng, nàng sẽ có cách thoát thân.” Vả lại Kim Thế Di vẫn chưa biết kết quả của cuộc tỉ võ giữa Mạnh Thần Thông và Đường Hiểu Lan, chàng tưởng rằng lần này Mạnh Thần Thông không chết cũng bị trọng thương, có thể kẻ hại Lệ Thắng Nam không phải là Mạnh Thần Thông bởi vậy càng yên lòng hơn. Thế rồi chàng mới nhủ rằng: “Chuyện Chi Hoa mất tích tuy cũng li kỳ như thế, nhưng còn có hai người Trình Hào và Lâm Sinh, chỉ cần mình có thể làm cho họ tỉnh táo, chắc có thể biết được một chút manh mối.” Kim Thế Di đã quyết định nên ngay trong đêm ấy phóng ngựa lên đường, thớt ngựa chịu không nổi cho nên chàng bỏ ngựa, nhân lúc đêm tối thi triển khinh công chạy đến gần hai trăm dặm, đến khi trời hửng sáng chàng mới nghỉ một lúc, rồi lại mua một con ngựa khác, đến tối thì lại dùng khinh công lên đường, ban ngày thì lại đổi ngựa, chỉ trong vòng mười ba ngày đã từ Bắc Kinh đến Tương Dương, may mà nội công của chàng đã sắp đến cảnh giới thượng thừa nhất, mỗi ngày chi nghỉ ngơi một canh giờ thì thể lực đã hồi phục.  

Tuy Cốc Chính Minh đã mất được năm năm nhưng chỉ nói đến Lưỡng Hồ đại hiệp Cốc Chính Minh thì người trong thành Tương Dương ai cũng biết, Kim Thế Di tìm ra nhà họ Cốc chẳng mấy khó khăn. 

Nhà họ Cốc ở một làng nhỏ nằm ở phía tây thành Tương Dương mười dặm, Kim Thế Di chạy thẳng đến nhà họ Cốc, chỉ thấy cửa đóng then cài, tường nổi rêu xanh tựa như đã từ lâu không ai chăm sóc cho căn nhà, Kim Thế Di đến gõ cổng, cánh cổng hé ra, một thiếu nữ ăn mặc như nha hoàn đứng bên trong hỏi ra: “Người là ai?” Kim Thế Di nói: “Tôi họ Cam, là bằng hữu của tiểu thư nhà cô, đến đây thăm tiểu thư.” Nha hoàn ấy đáp: “Tiểu thư không có ở nhà.” Kim Thế Di nói: “Vậy xin gặp gia chủ mẫu cũng được, làm phiền cô báo cho một tiếng.” Nha hoàn ấy nói: “Người từ đâu tới?” 

Kim Thế Di nói: “Tôi từ chùa Thiếu Lâm Tung Sơn đến đây.” Chàng biết nhà họ Cốc là võ học thế gia, dẫu nha hoàn hay nô bộc cũng biết chùa Thiếu Lâm, chàng lo nhà hoàn này không chịu vào báo, hoặc đã báo mà Cốc phu nhân không chịu gặp cho nên mới mạo nhận là khách đến từ chùa Thiếu Lâm, ả nha hoàn ấy nhìn chàng dò xét rồi chậm rãi nói: “Gia chủ mẫu của tôi cũng đã ra ngoài, nếu người có bái thiếp thì để lại.” Kim Thế Di rất thất vọng: “Sao, gia chủ mẫu của cô cũng ra ngoài chưa về? Ra ngoài từ hồi nào?” Nha hoàn đáp: “Gần một tháng nay. Kim Thế Di suy đoán, điều đó có nghĩa là cách thời gian Cốc Chi Hoa xảy ra chuyện không lâu thì liền hỏi: “Khi nào thì bà ta mới trở về?” Nha hoàn đáp: “Tôi làm sao biết? Người thích đi đâu, đi bao lâu, bọn chúng tôi không bao giờ dám hỏi!” Kim Thế Di ngồi nghĩ ngợi rồi lại hỏi tiếp: “Còn hai đệ tử phái Mang Sơn, một người tên là Trình Hạo, một người lên là Lâm Sinh nghe nói đang dưỡng bệnh ở nhà cô, nàng là bằng hữu của tôi, vậy cho tôi gặp họ được không?” Nha hoàn ấy nói: “Có phải hai người sư huynh đồng môn của tiểu thư vẫn hôn mê chưa tỉnh không?” Kim Thế Di mừng rỡ nói: “Đúng thế, đúng thế. Giờ họ có còn hôn mê không, đừng lo, tôi biết y thuật có thể chữa trị cho họ.” 

Nha hoàn ấy nói: “Hai vị đại gia ấy cũng rời khỏi đây từ lâu.” Kim Thế Di rất lấy làm lạ, hỏi: “Họ hôn mê chưa tỉnh, sao có thể bỏ đi?” Nha hoàn ấy nói: “Đương nhiên là có người rước họ đi.” Kim Thế Di hỏi: “Ai thế?” Nha hoàn ấy tựa như có vẻ bực đọc, nói: “Sao người lại hỏi lắm thế, làm sao tôi biết là ai? Tóm lại không phải bằng hữu của họ thì là huynh đệ đồng môn của họ.” Nàng ta ngập ngừng rồi lại nói tiếp: “Trong nhà chỉ còn lại vài người chúng tôi, mỗi người để lại bái thiếp, đợi gia chủ mẫu tôi quay về, tôi sẽ cho bà biết.” Nói rồi thì đóng sầm cánh cửa. Kim Thế Di vội vàng cao giọng hỏi: “Đợi đã, tôi còn một việc muốn hỏi cô nương, những người ấy rước họ đi từ khi nào?” Nha hoàn ấy bực dọc đáp: “Không nhớ rõ, hình như mười ngày trước.” Rồi nghe tiếng bước chân của nàng bước vào nhà trong. Kim Thế Di chẳng hỏi được gì thì rất thất vọng, tiu nghỉu đi theo đường cũ trở về. 

Đi một hồi thì chàng chợt nghĩ: “Lời lẽ của ả nha hoàn này có sơ hở nhiều lắm, nàng bảo Cốc phu nhân ra ngoài được gần một tháng mà bọn Trình, Lâm mới rời khỏi đây được hơn mười ngày. Hai người này bị hôn mê, Cốc phu nhân và chồng ba ta đều mang danh hiệp nghĩa, sao có thể bỏ mặc hai người này?” Nếu là trước kia Kim Thế Di đã xông vào nhà họ Cốc hỏi cho ra lẽ, nhưng giờ đây tính tình chàng thay đồi rất nhiều; lại nhớ Cốc phu nhân là nghĩa mẫu của Cốc Chi Hoa, nếu bà ta đúng là ở trong nhà, mình xông vào thì đôi bên rất khó ăn nói với nhau! Cho nên cuối cùng bỏ ý nghĩ đó, thầm nhủ: “Tối nay mình sẽ đến xem cho rõ ràng.” Kim Thế Di buồn bã ra khỏi làng, chợt thấy có vài tên ăn mày con đi qua đi lại trong làng, tựa nhủ rất chú ý đến mình, tựa như thầm lấy làm lạ. Bọn ăn mày con thấy Kim Thế Di nhìn thì đến xin tiền, Kim Thế Di tuy nghi ngờ, nhưng cũng không thèm để ý, chỉ ném vài đồng tiền rồi bỏ đi.  

 Khi về đến Tương Dương thì trời đã về chiều, ở góc bên ngoài thành có lão ăn mày, Kim Thế Di liếc nhìn bóng y thì thầm cười: “Sao hôm nay cứ gặp toàn ăn mày thế này?” Chợt kẻ ăn mày ấy quay đầu lại, Kim Thế Di vừa nhìn thì giật mình, té ra đó chính là Dực Trọng Mâu. 

Lúc này Kim Thế Di đã thay đổi y phục không còn mặc quan phục nữa nhưng vẫn còn dùng thuốc dị dung, Dực Trọng Mâu không nhận ra chàng, tuy cảm thấy người này hình như quen mặt nhưng không để ý. 

Kim Thế Di chậm bước, thầm nhủ: “Dực Trọng Mâu đến Tương Dương làm gì?” 

Ngay lúc này có ba người bước ra cửa thành, người đi đầu ăn mặc rất sang trọng, tai to mặt lớn tựa như là một người nhà giàu, còn hai người kia là kẻ theo hầu, tên nhà giàu này liếc nhìn Dực Trọng Mâu rồi mắng: “Ăn mày thối nhà ngươi ở đâu mà đến đây xin ăn, bọn công sai không chịu can thiệp, thật là mất thể diện người Tương Dương chúng ta.” Dực Trọng Mâu nghênh ngang đáp rằng: “Ta ngồi đây bắt rận, đâu có chặn trước cửa thành xin ăn!” Tên nhà giàu cả giận mắng: “Ăn mày thối dám lắm lời!” Dực Trọng Mâu điềm nhiên nói: “Mùi trên người ngươi còn thối hơn ta nhiều.” 

Tên nhà giàu ấy kêu lớn: “Phản rồi, phản rồi?” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, hai tên tùy tùng của y đã nhảy bổ về phía Dực Trọng Mâu, một tên quát: “Công sai không quản thì ta quản!” Một người quát: “Ngươi dám đôi co với Tề đại gia ta lột da ngươi!” Kim Thế Di đứng nhìn, thầm cười: “Để hai tên này nếm khổ.” 

Nghĩ chưa dứt thì chợt thấy hai tên tùy tùng ấy ra tay như điện, một tên dùng thủ pháp Phân thân thác cốt, một tên dùng công phu Uyên ương liên hoàn thoái, đường quyền đánh ra vù vù, nào phải là tùy tùng bình thường, rõ ràng đây là hai cao thủ nội gia! 

Dực Trọng Mâu vốn đang nằm dưới đất, hai tên này ra đòn quá bất ngờ, suýt nữa đã đá trúng vào người y, may mà y ứng biến nhanh, thi triển tuyệt kỹ của Cái Bang là Giáng long thủ, ngồi dưới mặt đất mà thân hình cứ xoay tựa như trôn ốc, giật chân của tên tùy tùng kéo ra sau. 

Ngay lúc này, tên tùy tùng còn lại đã sử dụng công phu Phân thân thác cốt, chụp về phía Dực Trọng Mâu. Kim Thế Di vừa thấy bọn chúng ra tay thì biết hai tên tùy tùng này chẳng phải hạng tầm thường nhưng Dực Trọng Mâu có thể đối phó dư sức, bởi vậy cứ mặc kệ bọn họ, lại chú ý đến tên nhà giàu họ Tề kia. 

Chỉ thấy ngón tay y búng một cái, một luồng ngân quang bật ra, đó là tuyệt kỹ phóng mai hoa châm đâm huyệt, đối với Kim Thế Di thì đó chẳng là gì cả, nhưng tên nhà giàu này đứng cách Dực Trọng Mâu đến sáu bảy trượng. Nếu phóng mai hoa châm bay xa đến ba trượng coi như cũng là cao thủ nhất lưu trên giang hồ, nhưng người này có thể đứng cách sáu bảy trượng mà phát mai hoa châm, Kim Thế Di vừa nhìn thì đã biết công lực của y hơn Dực Trọng Mâu. Nếu Dực Trọng Mâu không bị hai tên tùy tùng kia cản trở, có lẽ vẫn có thể tránh được, nhưng nếu đồng thời ứng phó ba người thì y làm không được. Kim Thế Di giật mình, lập tức quát một tiếng: “Ba người bức hiếp một kẻ ăn mày già cả, đúng là vô sỉ!” Chỉ nghe vù một tiếng, luồng ngân quang tắt hẳn, té ra Kim Thế Di đã phun ra một cây phi châm, đánh rơi mai hoa châm của người ấy. Dực Trọng Mâu giật chân của một tên tùy tùng đẩy về phía trước, kẻ kia lại chụp trúng đồng bọn của y, đau đến nỗi kêu ối chao một tiếng, người mềm nhũn, thế là cả hai người ngã dồn vào nhau. 

Người có vẻ như nhà giàu quát: “Là bằng hữu phương nào? Mời ra đây gặp mặt!” Nói chưa dứt lời thì chợt thấy có một nắm bùn bay tới, bịt kín miệng của y, bên tai chỉ nghe có người nói: “Ngươi mà còn bức hiếp đại gia ăn mày này nữa, ta lại sẽ cho ngươi nếm tiếp ba cân bùn thối, ngươi chỉ là hạng tiểu bối, muốn gặp ta phải luyện thêm mười năm nữa?” Y nghe có người nói bên tai nhưng chẳng thấy bóng ai; miệng lại không thể nói khiến cho y tức đến nỗi chết di sống lại! Lúc này Dực Trọng Mâu cũng biết có cao nhân tương trợ, nhưng Kim Thế Di dùng thuật Thiên độn truyền âm nói với tên nhà giàu bởi vậy y không thấy, thế là y ngầm đáp tạ, vái lên trời mà nói rằng: “Bằng hữu hảo tâm không cần nổi giận, kẻ ăn mày già này bị người ta bức hiếp đã quen. Hỡi ơi, nếu đại gia này không cho tôi bắt rận ở đây, tôi sẽ tránh đi! Các ngườicứ tự đánh nhau chẳng liên quan gì đến ta, ba vị đai gia xin mời! Xin mời!” Vừa nói vừa cầm cây gậy gõ lọc cọc, đi đến một góc khá xa mới ngồi xuống, vẫn giở mền ra bắt rận. Tên nhà giàu ấy nào dám gây thêm chuyện, y phun bùn ra rồi lại hai tên tùy tùng thưởng cho mỗi tên một bạt tai, cả ba tên cúp đuôi chạy thẳng, miệng tuy còn thầm mắng nhưng không dám nhìn lại Dục Trọng Mâu. 

Kim Thế Di thích thú lắm, thầm nhủ: “Đáng tiếc mình có chuyện khác, không rảnh điều tra lai lịch của ba tên này, chỉ cho bọn chúng nếm một chút khổ coi như cũng đã có lời cho bọn chúng.” Lúc này chàng đang đi trên đường phố Tương Dương, chợt thấy lại có hai kẻ ăn mày nữa. 

Kim Thế Di thầm nhủ: “Phải rồi, chả trách này hôm nay mình gặp nhiều ăn mày như thế, họ đều là đệ tử của Cái Bang, bang chủ đã đến, bọn chúng phải tới bái kiến.” 

Màn đêm buông xuống, đèn hoa treo khắp nơi, người qua kẻ lại trên đường rất náo nhiệt. Kim Thế Di đặc biệt để ý đến hai tên Cái Bang đột nhiên thấy trong đám đông tựa như có một người quen mặt, lướt qua vai hai tên Cái Bang, người ấy chạm nhẹ họ, hai tên Cái Bang không để ý, vẫn cắm cúi đi tiếp. 

Kim Thế Di chợt lạnh mình, lúc này đã nhận ra người đó chính là Cơ Hiểu Phong, không khỏi lấy làm lạ: “Tại sao Cơ Hiểu Phong lại đến Tương Dương? Trên người hai tên ăn mày này có vật gì mà đáng cho y thi triển tuyệt kỹ Diệu thủ không không?” Chỉ trong chốc lát Cơ Hiểu Phong đã lẩn vào trong đám người, nhưng trên đường phố Kim Thế Di không tiện thi triển khinh công, chàng ngậm hai phần nội kình vẹt đám người ra, những người xung quanh chợt cảm thấy có một luồng đại lực đẩy họ, bất giác tản ra hai bên, Kim Thế Di nhanh chóng tóm được Cơ Hiểu Phong, khẽ nói: “Bằng hữu, theo ta!” Cơ Hiểu Phong đi theo Mạnh Thần Thông được ba năm, võ công cũng đã có thể chen chân vào hàng cao thủ nhất lưu trên giang hồ, y bị Kim Thế Di tóm cổ tay thì toàn thân tê rần, chẳng thể động đậy nổi, đành phải để cho chàng lôi đi. Mọi người tuy cảm thấy hai người này lạ nhưng cứ tường rằng họ là bằng hữu quen thân gặp nhau cho nên không để ý tới. Chỉ có những người bị Kim Thế Di dùng nội kình đẩy ra thì trố mắt, vẫn chưa biết Kim Thế Di đã giở trò. 

Kim Thế Di lôi Cơ Hiểu Phong ra một bên, ghé vào tai y thì thầm nói: “Ngươi trả cho ta thứ vừa mới ăn cắp của tên ăn mày ấy!” Cơ Hiểu Phong là thiên hạ đệ nhất thần thâu, nhãn quan rất lợi hại, Kim Thế Di tuy đã thay đổi dung mạo nhưng y vẫn nhận ra đó chính là tên quan quân đã từng giao thủ với sư phụ của mình, thế rồi mới thầm than xui xẻo, lạnh lùng nói: “Coi như ta đã gặp đại tổ tông của giặc cướp, được, ta đưa cho ngươi, ngươi buông tay ra trước!” Rồi lấy ra một bọc đồ, Kim Thế Di cầm lấy bóp thế thì biết đó là một cái tráp nhỏ, chàng hỏi: “Cái gì thế này? Ở đây ta nể mặt ngươi vài phần, nếu ngươi gạt ta thì ta sẽ cho ngươi biết tay!” Cơ Hiểu Phong lộ vẻ khúm núm nói: “Võ công của ngươi tuy cao nhưng té ra là người mới vào nghề, theo quy củ của nghề chúng ra, gặp phải đối thủ cao minh hơn nẫng tay trên, y muốn lấy vật gì thì bọn ta chỉ dâng lên bằng hai tay chứ không dám giấu hoặc vứt bỏ.” Kim Thế Di hiểu biết rộng rãi, nghĩ trong chốn hắc đạo có một quy củ, hễ bị đồng đạo nẫng tay trên thì dù không chấp nhận cũng phải đưa, rồi sau đó tìm cách trả thù, khi bị nẫng tay trên chỉ có nhận thua. Thế rồi Kim Thế Di bỏ bọc đồ vào trong áo, nói: “Khoan đã, ta muốn hỏi ngươi vài câu!” Cơ Hiểu Phong đã đoán chàng đang hỏi gì, nhân lúc Kim Thế Di cất bọc đồ vào trong áo thì đột nhiên phóng vọt người lên mái nhà, Kim Thế Di chẳng thể nào tóm được nữa, Cơ Hiểu Phong đứng trên mái nhà kêu lớn: “Có trộm, có trộm, mau bắt trộm! Mau bắt trộm!” Trên đường phố đang đông người, Cơ Hiểu Phong đột nhiên phóng vọt lên mái nhà, lại kêu toáng lên như thế, nhất thời kinh động mọi người, ai nấy đều nhốn nháo. Trong lúc hỗn loạn, Cơ Hiểu Phong đã biến mất dạng! Khinh công của Kim Thế Di tuy chẳng kém Cơ Hiểu Phong nhưng chàng chỉ hơi chậm một bước, vả lại mọi người đều nhìn về phía mình, trong tình huống ấy nếu chàng đuổi theo thì người ta sẽ càng kinh hãi hơn, Kim Thế Di không muốn để lộ hành tung, chỉ đành để cho Cơ Hiểu Phong chạy thoát, thế rồi mới thi triển Thiên la bộ pháp luồn qua lách lại trong đám đông, cuối cùng thoát ra khỏi nơi ấy.  

Kim Thế Di vốn muốn bắt Cơ Hiểu Phong để hỏi tin tức của Mạnh Thần Thông, nhưng không ngờ Cơ Hiểu Phong lại quá xảo quyệt, chỉ hơi sơ ý thì y đã thoát được, Kim Thế Di thầm nhủ: “Lần này Cơ Hiểu Phong đến Tương Dương quá nửa là phụng lệnh Mạnh Thần Thông đến điều tra tung tích của Cốc Chi Hoa. Xem ra có lẽ lão ma đầu này vẫn chưa mất mạng dưới kiếm của Đường Hiểu Lan!” Kim Thế Di đến trọ tại một khách sạn ở con đường tương đối vắng vẻ, chàng đóng cửa phòng lại rồi mở bọc đồ ra, thì ra đó là một cái bái tráp vuông, trong tráp là bái thiếp đề tên Dực Trọng Mâu, đó là gởi cho nghĩa mẫu của Cốc Chi Hoa. Kim Thế Di vốn nghi ngờ Cốc phu nhân chưa rời khỏi nhà, thấy bái thiếp này thì lại càng tin hơn, thầm nhủ: “Tin tức của Cái Bang đúng là nhanh lẹ nhất, nếu Cốc phu nhân không có ở đây, Dực Trọng Mâu chắc chắn sẽ không đến, càng không thể gởi bái thiếp cầu kiến.”  

Xem ra tiểu nha đầu này toàn nói dối, không những Cốc phu nhân còn ở nhà mà cả hai người Trình Lâm vẫn chưa rời khỏi đây, cho nên Dực Trọng Mâu mới vội vàng đến.” Chỉ có một chuyện là Kim Thế Di vẫn chưa hiểu, nếu chẳng phải ả nha dầu ấy không có lệnh thì quyết không dám bịa đặt, vậy tại sao Cốc phu nhân lại phải giấu người ngoài? Hay là Cốc Chi Hoa không chịu gặp chàng? 

Kim Thế Di lòng rối như tơ vò, thầm nhủ: “Dù thế nào đi nữa, đêm nay mình đến đấy rồi tình tiếp.” Lần trước trong Huyền Diệu quán ở Mang Sơn, Kim Thế Di đã gặp hai người Qui Tàng Tử và Thích Đạo An, chàng đã lột mặt nạ da người của bọn chúng, lúc này chàng định đến thăm nhà họ Cốc, đang định dùng mặt nạ da người, nhưng khi tìm lại trong người mới phát hiện mất một tấm. Lúc đầu Kim Thế Di ngẩn người ra, sau đó thì chợt hiểu ra, nghĩ bụng: “Mình buộc Cơ Hiểu Phong đưa ra tang vật, không ngờ cũng bi y đánh cắp đồ. May mà còn một cái mặt nạ.” Đầu canh hai tới Kim Thế Di đeo mặt nạ lặng lẽ rời khỏi khách sạn, không đầy nửa canh giờ thì đến nhà họ Cốc. Chàng đang định phóng vào trong thì chợt thấy có tà áo lướt qua, có hai bóng đen phóng vào nhà họ Cốc từ phía đông bắc.  

Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Khinh công thật cao cường, người phía sau chưa tính, người phía trước đúng là nhẹ như chiếc lá, rơi xuống đất mà chẳng phát ra tiếng, nếu chỉ luận về khinh công chỉ e Mạnh Thần Thông chẳng bì được y.” Kim Thế Di nín thở nhín qua kẽ lá, người phía sau chính là tên mập trông giống như một kẻ giàu có mà chàng đã gặp ban ngày, người phía trước có bộ mặt vô cảm, lạnh lẽo đến nỗi khiến cho người ta trông y giống như ma, Kim Thế Di thầm cười: “Ta tưởng là ai, té ra là Cơ Hiểu Phong. Chả trách nào y đánh cắp một tấm mặt nạ da người của mình, lẽ nào y định nhát ma Cốc phu nhân?” Nghĩ chưa dứt thì lại thấy hai bóng đen vượt qua tường, hai người này lại kém hơn người, không những có tiếng gió mà thậm chí có thể nghe được hơi thở nặng nề của bọn chúng, khi cả hai người này rơi xuống đất, phải nhẹ nhàng mới không phát ra tiếng động. Kim Thế Di nhận ra bọn chúng là hai tên tùy tùng. Thật ra với những võ công giang hồ bình thường, khinh công của haingười này cũng đã không kém, nhưng so với Cơ Hiểu Phong thì khác một trời một vực. 

Cơ Hiểu Phong nhìn láo liên rồi vẫy tay, có vẻ như bảo không có người. Té ra Cơ Hiểu Phong rất thính tai lanh mắt, chỉ cần hơi có tiếng động thì y có thể nghe ra. Đó cũng là nguyên nhân tại sao Kim Thế Di phải nín thở, Kim Thế Di thầm cười xem thử Cơ Hiểu Phong giở trò gì. 

Chỉ thấy Cơ Hiểu Phong chỉ về phía căn nhà nằm ở giữa vườn rồi lướt như một làn khói về phía căn nhà chính. 

Kim Thế Di hiểu loại thủ ngữ trong hắc đạo, Cơ Hiểu Phong đã dùng tay để nói rằng: “Ngươi đi trói bà già, ta đi tìm người.” Kim Thế Di vốn muốn theo dõi Cơ Hiểu Phong, nhưng chợt nghĩ lại: “Chi bằng đi xem Cốc phu nhân trước, công lực của tên mập này quả thực hơn Cơ Hiểu Phong, chỉ e Cốc phu nhân không đối phó lại y. Dù sao Cơ Hiểu Phong cũng sẽ gặp lại bọn chúng,cứ để y lấy vài món trong nhà họ Cốc cũng chẳng sao.” Tên nhà giàu dắt hai kẻ tùy tùng phóng lên mái ngói, Kim Thế Di lặng lẽ bám theo chúng, trong phòng vẫn còn ánh đèn, tên nhà giàu trông to béo nhưng cử động thì rất nhẹ nhàng, y dùng tư thể Đảo quyện chu đu người xuống ngó vào bên trong. Còn hai tên tùy tùng thì đứng ngay cái giếng trời được khảm pha lê ở giữa mái nhà nhìn vào. Kim Thế Di nằm phục bên cạnh bọn chúng, nhẹ nhàng gỡ một miếng ngói mà cả hai tên chẳng hề hay biết. 

Kim Thế Di đã nghe bên trong có hai người đang đánh cờ, lòng thầm cười: “Hàn phu nhân cũng là bậc anh thư, sao hai tên ngốc này đứng trên giếng trời nhìn xuống mà bà ta vẫn không phát hiện?” Không ngờ vừa nhìn thì Kim Thế Di cũng thất kinh. 

Té ra người đánh cờ với Cốc phu nhân là Phùng Lâm, điều đó khiến cho Kim Thế Di ngạc nhiên, Kim Thế Di định thần thầm nhủ: “Chả trách nào Cốc phu nhân chẳng hề giới bị, té ra Phùng Lâm đang ở đây!” nghe Phùng Lâm cười nói: “Cốc phu nhân, bà đi nước này thật lợi hại, đành phải đả kiếp với bà! (Chú thích: “đả kiếp” là một thuật ngữ trong cờ vây trong tình huống đôi bên có thể ăn quân nhau, quân của bên mình sau khi bị quân đối phương ăn, phải đợi một nước nữa mới có thể ăn lại quân của đối phương, bởi vậy nước này cần phải tìm chỗ tiêu hại của đối phương để tấn công làm cho đối phương mình phải ứng chiến, đây gọi là “kiếp”) “Làm gì có kiếp để đả?” 

Phùng Lâm nói: “Đừng vội, đừng vội, tôi đã tìm được rồi, tôi đả cho bà xem!” Bà ta vốn đang nắm mấy quân cờ trong bàn tay, khi nói đến chữ “đả” thì vung tay ném quân cờ. Công phu Trích diệp phi hoa của Phùng Lâm rất lợi hại, mỗi cánh hoa mỗi chiếc lá cũng có thể lấy mạng người ta, huống chi đó là những quân cờ rắn chắc hơn hoa lá nhiều, chỉ nghe bên tai có tiếng gió bay tới, hai quân cờ vây xuyên qua mái ngói trúng vào hai kẻ đang phục trên giếng trời, ầm một tiếng cả hai đều rơi xuống. Công việc của tên béo thì lại rất ghê gớm, thấy Phùng Lâm vung tay lên thì lập tức buông mũi chân, dùng đầu táng vào cửa, dù như thế nhưng mông của y vẫn bị một quân cờ đánh trúng, tuy da thịt dày nhưng như bị đao đâm vào. 

Tên béo ấy gầm lớn: “Mụ già thật hiểm độc, ta liều với mụ!” Tiếng đến thì người đến, dây lưng vung ra đánh về phía Phùng Lâm, té ra dây lưng của y là một thanh nhuyễn kiếm bằng bạch kim. 

Phùng Lâm cười nói: “Ta tưởng là ai, té ra là thương nhân Giả Hạo, lần mua bán này ngươi lỗ vốn chắc!” Nói xong cũng tháo sợi dây đai cuộn về phía tên béo, cười nói: “Đai tơ đổi đai vàng coi như cũng đã lời!” Té ra tên mập này họ Thương tên là Hạo, vì y tai to mặt lớn, lại họ Trương cho nên giang hồ đều tưởng y xuất thân từ giới phú thương, bởi vậy mới gọi y là Ác Thương Giả, hai tên tùy tùng là đồ đệ của y. 

Phùng Lâm phất sợi dây đai tựa như rồng bay, kêu lên vù vù, uy lực còn dữ dội hơn thanh nhuyễn kiếm bằng bạch kim gấp ba lần, Giả Hạo chỉ có nước chống đỡ. 

Kim Thế Di không muốn gặp Phùng Lâm, thầm nhủ: “Có lẽ phải hơn mười chiêu Phùng Lâm mới thu thập được tên béo này, mình nhân cơ hội đi xem thử Cơ Hiểu Phong giở trò gì, không biết y có tìm được ai hay không?” Kim Thế Di chạy về hướng phòng Cốc Chi Hoa, nhưng chỉ thấy cửa phòng mở toang, trước phòng đều có một ả nha hoàn, ánh mắt đờ đẵn, chẳng hề nhúc nhích tựa như tượng gỗ, đó đương nhiên là do Cơ Hiểu Phong bày trò. Kim Thế Di thầm nhủ: “Cơ Hiểu Phong quả nhiên là một tên lão tặc, đoán rằng phùng Lâm và Cốc phu nhân đến thì sẽ cứu người, tra hỏi trước, lúc đó y có thời gian tìm người.” Kim Thế Di biết bọn nha hoàn chẳng nguy hiểm đến tính mạng cho nên phóng vào bên trong, không lâu sau thì nghe tiếng động. Chỉ nghe y lẩm bẩm: “Thật xui xẻo, chẳng thấy sư muội mà chỉ thấy hai kẻ bệnh hoạn.” Kim Thế Di rất hiếu kỳ, thầm nhủ: “Sư muối mà Cơ Hiểu Phong vừa nói chắc là Cốc Chi Hoa. Mạnh Thần Thông đã sai Hạng Hồng và Hách Hạo đến nơi này dò thám, chả lẽ y vẫn chưa biết Cốc Chi Hoa mất tích” Tại sao Cơ Hiểu Phong nói có vẻ như cho rằng Cốc Chi Hoa còn ở nhà họ Cốc?” Bên trong phòng có hai cái giường, Trình Hạo nằm bên giường tay trái, Lâm Sinh nằm bên giương tay phải, còn có một ả nha hoàn bị điểm huyệt đạo, đó chính là người đã nói chuyện với Kim Thế Di lúc ban ngày. Cơ Hiểu Phong đưa mắt nhìn xung quanh thi lẩm bẩm: “Tìm không ra người cũng phải lấy một ít đồ, không thể đi tay không trở về.” Rồi y lục trên người nha hoàn ấy lấy ra một tấm khăn tay, y trải ra rồi đưa lên mũi ngửi, cười rằng: “Thơm quá, thơm quá!” Cơ Hiểu Phong đang đeo mặt nạ da người, ả nha hoàn vừa sợ vừa thẹn, toàn thân run bần bật, mặt đỏ ửng lên.  

Kim Thế Di thấy vẻ thẹn thùng của ả nha hoàn thì thầm cười: “Ai bảo ban ngày ngươi hung dữ với ta như thế, ta để cho ngươi nếm khổ thêm một lát. Chàng thầm cười nhưng lại phì lên một tiếng, Cơ Hiểu Phong quay đầu lại, chưa kịp nói ra chữ “ai” thì đã bị Kim Thế Di tóm lấy. 

Kim Thế Di cười nói: “Ngươi lấy đồ của ta rồi lại đến đây trêu ghẹo nha hoàn nhà người, ta cũng cho ngươi nếm khổ.” Rồi tiện tay lột mặt nạ và điểm luôn huyệt đạo của y. 

Kim Thế Di đỡ Trình Hạo lên xem, miệng Trình Hạo phát ra tiếng khè khè, mắt trắng dã tựa như kẻ bị si ngốc, Lâm Sinh cũng như thế. 

Kim Thế Di cả kinh, té ra hai người này cũng bị điểm huyệt đạo, loại công phu điểm huyệt này không có gì lạ, lạ ở chỗ là Kim Thế Di cũng không thể biết là thủ pháp của nhà nào, trong lúc gấp gáp chàng không thể nào giải khai được. Mà thông thường thì nếu bị điểm huyệt đạo trên mười ngày, võ công dù cao đến mức nào, nguyên khí cũng bị tổn thương, mà mạch tượng của hai người này thì chẳng hề có điều gì khác lạ, có thể thấy đó là một loại công phu điểm huyệt tà phái ảo diệu. 

Kim Thế Di trầm ngâm một lúc thì thầm nhủ: “Chả lẽ là thủ pháp điểm huyệt của Hồng giáo Tây Tạng?” Trong cuốn bí kíp võ công mà chàng lấy được, có liệt kê thủ pháp điểm huyệt của các phái chính tà, cùng các loại công phu giải huyệt, còn cách điểm huyệt của Mật tông Hồng giáo thì bí kíp chỉ nhắc đến triệu chứng của người bị hại, nhưng không ghi thủ pháp và cách giải, chắc là năm xưa Kiều Bắc Minh vẫn chưa tham ngộ ra, triệu chứng của hai người này cũng giống như trong bí kíp ghi. 

Kim Thế Di thầm nhủ: “Thật kỳ lạ, các bậc đại sư võ học trong Mật Tông Hồng giáo chưa bao giờ nghĩ đến việc đời, vả lại hai người Trình, Lâm cũng chẳng có tên tuổi gì lớn trong võ lâm, sao họ lại có thể làm ra chuyện thế này?” Chàng nghĩ chưa dứt thì chợt nghe bên ngoài có tiếng động, Kim Thế Di vội vàng nấp vào sau trướng, chỉ thấy phùng Lâm và Cốc phu nhân bước vào. Phùng Lâm vừa thấy Cơ Hiểu Phong thì mắng: “Ta tưởng là ai, té ra tên tiểu tặc nhà ngươi.” Năm ngoái khi mẹ con Phùng Lâm ghé Băng cung, Cơ Hiểu Phong đến gởi thư cho Mạnh Thần Thông, mời vợ chồng Đường Kinh Thiên đến Mang Sơn, tiện tay đã rút cây ngọc thoa của Lý Tâm Mai! Phùng Lâm nhớ thù trước, cánh tay tát cho một bạt tai. Cơ Hiểu Phong đã bị Kim Thế Di điểm huyệt đạo, chẳng thể nhúc nhích được, chỉ thầm than xui xẻo! Bạt tai ấy khiến cho mặt của Cơ Hiểu Phong sưng lên, thấy y chẳng hề nhúc nhích thì Phùng Lâm biết ngay y đã bị người ta điểm huyệt đạo bởi vậy càng kinh hãi hơn. 

Kim Thế Di nín thở, Phùng Lâm chẳng nghe được gì, vả lại bà ta cũng không ngờ có người nấp trong phòng cho nên trước tiên giải huyệt đạo cho Cơ Hiểu Phong rồi hỏi y. 

Nào ngờ Kim Thế Di đã dùng thủ pháp điểm huyệt độc môn của Độc Long tôn giả, Phùng Lâm trong lúc nôn nóng không giải được huyệt đạo. Song bà ta cũng biết một loại công phu của Mật tông Hồng giáo, có thể dùng chân lực của bản thân đánh chấn động kỳ kinh bát mạch của đối phương để huyệt đạo của đối phương tự giải. 

Song cách giải huyệt này rất bá đạo, người bị điểm huyệt tuy có thể tự giải nhưng nguyên khí sẽ bị tổn thương, cho nên trong đại hội Mang Sơn lần trước, Cốc Chi Hoa bị điểm vào ẩn huyệt, Phùng Lâm không dám dùng phương pháp này. 

Giờ đây phùng Lâm muốn hỏi cung Cơ Hiểu Phong, bà ta đương nhiên không khách sáo với y, sau khi thử bằng những cách giải huyệt khác thì nhíu mày giơ tay, lạnh lùng nói: “Được, dù sao ngươi cũng chỉ là một tên tiểu tặc, bị tàn phế cũng đáng kiếp, ta không lấy mạng ngươi, chỉ làm cho ngươi từ rày về sau không thể ăn trộm được nữa!”.  

Kim Thế Di nghe Phùng Lâm nói thế thì biết bà ta sẽ đùng phương pháp tàn khốc để giải huyệt cho Cơ Hiểu Phong, không khỏi lạnh mình, một là sợ Cơ Hiểu Phong khai mình ra, hai là chàng cũng có mấy phần mến tiếc Cơ Hiểu Phong, thầm nhủ: “Cơ Hiểu Phong tuy là đệ tử của Mạnh Thần Thông, nhưng cũng chẳng phải ]à hạng đại ác. Vả lại trên giang hồ có một Diệu thủ Thần thâu cũng thêm phần náo nhiệt” Lúc này, Cốc phu nhân đã giải huyệt đạo cho ả nha hoàn, ả nha hoàn ấy run rẩy nói: “Trong phòng, còn có... còn có một ngươi!...” Phùng Lâm chưa kịp vỗ chưởng xuống, nghe thế thì giật mình, trong chớp mắt, Kim Thế Di đột nhiên kéo tấm màn, nhảy tót ra, nhẹ nhàng búng vào hổ khẩu của Phùng Lâm, đồng thời giải huyệt cho Cơ Hiểu Phong, dùng Thiên độn truyền âm nói: “Tiểu tặc, chạy mau!” những động tác của Kim Thế Di nhanh như điện chớp, Phùng Lâm thấy cổ tay tê rần, chỉ thấy một khuôn mặt xám xịt lướt qua người bà ta, dù Phùng Lâm lớn gan cũng không khỏi giật mình! Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Cơ Hiểu Phong và Kim Thế Di đã nhảy tót ra khỏi cửa lướt đi như làn khói. Khinh công của hai người đều trên Phùng Lâm, bà ta có đuổi theo cũng chẳng kịp. 

Kim Thế Di thấy Phùng Lâm không đuổi theo, chàng cũng không đuổi theo Cơ Hiểu Phong nữa mà lẳng lặng quay mặt trở lại nghe lén Phùng Lâm nói chuyện. 

Phùng Lâm rất ngạc nhiên, Phùng Lâm càng thắc mắc hơn khi biết kẻ đã chế phục Cơ Hiểu Phong chính là người đã cứu y, chỉ thấy bà ta đi đi lại trong phòng, lẩm bẩm: “Chả lẽ là y? Chả lẽ y vẫn còn sống?” Phùng Lâm vốn rất thông minh, bà ta gặp Kim Thế Di vài lần, vả lại khi bà tỉ thí võ công với Tán Mật pháp sư, Kim Thế Di đã dùng tuyệt đỉnh thần công tương trợ, giúp bà chuyển bại thành thắng tuy chàng không lộ mặt nhưng Phùng Lâm đã nghi người đó là chàng, song bà ta nằm mơ cũng không ngờ rằng Kim Thế Di đã quay lại, đứng bên ngoài cửa sổ nhìn lén bà ta. 

Cốc phu nhân đến kéo bức màn ở giường hai vị Lâm, Trình lại, thở phào, nói: 

“May mà chẳng sao, lúc nãy tôi sợ chết khiếp.” Phùng Lâm nói: “Cốc phu nhân đừng lo, trước khi huyệt đạo của hai người này được giải, dù trời long đất lở họ cũng chẳng biết.” Cốc phu nhân nói: “Quái nhân lúc nãy đến đây có dụng ý gì? Có phải là người của Tào Cẩm Nhi không? Nếu họ đã thấy sơ hở thì thật ngại!” Phùng Lâm cười nói: 

“Không thể, người của phái Mang Sơn không thể có được công phu như thế. Vả lại dù họ có nghi cũng phải đến gặp bà theo lễ tiết giang hồ, chắc chắn sẽ không đến bừa như thế.” Kim Thế Di nghe thế thì ngạc nhiên, ngay lúc này một ả nha hoàn bước vào báo: “Bang chủ của Cái Bang Giang Nam Dực Trọng Mâu đến cầu kiến chủ mẫu, bái thiếp đã gởi tới.” Cốc phu nhân nói: “Vừa nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đã tới! Phùng nữ hiệp, bà đoán không sai, Tào Cẩm Nhi quả nhiên sai sư đệ của bà ta đến cầu kiến, tôi e rằng không giấu được y nữa.” Phùng Lâm nói: “Tôi tạm thời không gặp y, nếu bất đắc dĩ thì bà có thể đổ mọi tội cho tôi, bảo rằng tôi đã điểm trúng huyệt đạo của họ, kêu Dực Trọng Mâu đến nói chuyện với tôi. Chắc Dực Trọng Mâu và Tào Cẩm Nhi cũng chẳng chẳng dám làm gì tôi.” Kim Thế Di mới hiểu ra những điều họ nói lúc nãy, chàng cười thầm: “Mình thật là hồ đồ không ngờ Phùng Lâm cũng biết công phu điểm huyệt của Mật tông Hồng giáo.” Thật ra đó không phải là vì chàng không thông minh mà bởi chàng không ngờ đi rằng chuyện này là do Phùng Lâm làm! 

Hồi Thứ Bốn Mươi Lăm

Kim Thế Di biết ai đã điểm huyệt đạo của hai người Trình, Lâm, nhưng vẫn còn một câu đố càng khó giải hơn, tại sao Phùng Lâm lại dùng công phu điểm huyệt của Mật tông Hồng giáo biến họ thành hai kẻ si ngốc? Tuy bảo Phùng Lâm quái gở, nhưng không đến nỗi quái gở như thế? Chỉ nghe Phùng Lâm dặn tiếp: 

“Nếu Dực Trọng Mâu không tìm ra sơ hở, giấu được thì cứ giấu, nếu không phải lúc bất đắc dĩ thì không được nói tôi ra.” Cốc phu nhân nói: “Tôi biết.” Rồi Cốc phu nhân một mình đi ra ngoài gặp Dực Trọng Mâu. Kim Thế Di thầm nhủ đi xem thứ Dực Trọng Mâu sẽ làm trò gì đây rồi lặng lẽ đi theo Cốc phu nhân.

Cốc phu nhân hàn huyên mấy câu thì hỏi: “Không biết Dực bang chủ đêm khuya đến đây có gì chỉ giáo?” Dực Trọng Mâu nói: “Có hai việc quan trọng cần phu nhân cho biết và giúp đỡ, bởi vậy đêm khuya mới cầu kiến, mong phu nhân lượng thứ vì đêm đã khuya mà vẫn tới làm phiền.” Cốc phu nhân nói: “Dực bang chủ quá khách sáo. Không biết hai chuyện quan trọng gì?” Dực Trọng Mâu nói: “Chuyện thứ nhất là tôi được Thống Thiền thượng nhân ủy thác, bảo tôi mau chóng tìm Phùng nữ hiệp trở về, Cốc phu nhân nghe bảo Thống Thiền thượng nhân muốn tìm Phùng Lâm thì thất kinh, nói: “Có phải chùa Thiếu Lâm đã xảy ra chuyện gì?” Dực Trọng Mâu nói: 

“Đúng thế. Mạnh Thần Thông đã hẹn chưởng môn phái Thiên Sơn Đường Hiểu Lan tỉ võ ở chùa Thiếu Lâm vào ngày mười lăm tháng tới, đệ tử của bổn bang ở Bắc Kinh đã dùng bồ câu đưa thư báo cho Thống Thiền thượng nhân. Mạnh Thần Thông dám khiêu chiến ở chùa Thiếu Lâm chắc chắn đã có mưu đồ, bởi vậy Thống Thiền thượng nhân cũng phải chuẩn bị trước, hẹn cao thủ các phái cùng nhau tìm cách ứng phó. Vả lại tỷ tỷ của Phùng nữ hiệp là Phùng Anh cũng đến chùa Thiếu Lâm, đang đợi Phùng nữ hiệp ở đấy.” Kim Thế Di thầm nhủ: “Té ra Đường Hiểu Lan và Mạnh Thần Thông vẫn chưa quyết chiến ở Bắc Kinh, cách lúc tỉ võ còn mười bảy ngày, chả trách nào Dực Trọng Mâu lại nóng lòng đến thế, cũng may Cái Bang tin tức lanh lẹ, lại có bồ câu truyền thư mới có thể đưa thư cho các nơi.” Dực Trọng Mâu nhìn Cốc phu nhân, ngập ngừng rồi lại nói tiếp: “Nghe nói Phùng nữ hiệp đã đến chỗ phu nhân, không biết có thể để tôi gặp bà ta hay không?” Cốc phu nhân rất ngạc nhiên, thầm nhủ: 

“Phùng Lâm từng bảo, bà ta không nói cho ai biết đã ở đây, vả lại bà ta cũng vì tìm con gái, thuận đường đến nhà mình, sao Dực Trọng Mâu lại biết?” nhưng lần này Dực Trọng Mâu phụng lệnh Thống Thiền thượng nhân, Cốc phu nhân cũng không thé nói dối được, Dực Trọng Mâu đã nói thẳng ra, Cốc phu nhân đành phải bảo: “Đúng thế, Phùng nữ hiệp đang ở đây. Ông đợi một lát để tôi bảo nha hoàn mời bà ta ra. Phùng nữ hiệp xưa nay thích đông vui, chắc chắn ngày mai sẽ trở về chùa Thiếu Lâm. Còn chuyện thử hai là gì?” Dực Trọng Mâu nói: “Chuyện thứ hai là tôi phụng lệnh chưởng môn sư tỷ đến đây tìm Cốc sư muội, mời sư muội trở về. Nếu giờ đây không thể trở về thì chỉ e từ rày về sau chẳng thể gặp lại nữa.” Cốc phu nhân nói: “Lệnh sư tỷ chẳng lẽ chưa biết Chi Hoa mất tích sao?” Dực Trọng Mâu nói: “Tào sư tỷ gần đây vừa mới thoát hiểm trở về, chính vì nghe Cốc sư muội mất tích cho nên rất lo lắng, ngày đêm mong ngóng Cốc sư muội có thể trở về gặp mặt. Bởi vì... bởi vì e rằng sư tỷ không thể đợi được bao lâu nữa.” Lúc này giọng nói của y chợt trầm xuống, vẻ ngậm ngùi lộ trên khuôn mặt.  

Cốc phu nhân cả kinh, vội vàng nói: “Lệnh sư tỷ không khỏe sao?” Dực Trọng Mâu nói: “Đúng thế. Sư tỷ tuy may mắn được Đường đại hiệp cứu thoát trở về nhưng không ngờ lại lâm trọng bệnh. Sư tỷ đã là người có tuổi, lần này lại bị hành hạ, sau khi ra khỏi ngục bổn phái lại gặp khó khăn, đúng là tâm lực hao tổn, cho nên mới mắc bệnh không thể ngồi dậy được!’ Dực Trọng Mâu thở dài, tiếp tục nói: “Lần này Tào sư tỷ bị nhốt ở kinh sư, biết triều đình coi phái Mang Sơn là kẻ đại địch, chỉ lo dù vượt qua khỏi cửa ải Mạnh Thần Thông nhưng họa lớn của bổn phái vẫn còn! Trong số các đệ tử đời thứ ba, Cốc sư muội là truyền nhân của chưởng môn đời trước, đã được vun bồi từ lâu, tuy tuổi trẻ nhất nhưng kiến thức, võ công của sư muội đều hơn người, cho nên Tào sư tỷ có ý ra lệnh cho sư muội tiếp nhiệm chưởng môn, lần trước sai hai vị sư đệ Trình, Lâm đem kim bài đến gọi chính là muốn sư muội tiếp nhiệm chưởng môn.” 

Cốc phu nhân gật đầu: “Tôi đã biết dụng ý của lệnh sư tỷ, đáng tiếc từ sau khi Chi Hoa mất tích cho đến nay vẫn chẳng có tin tức gì.” Dực Trọng Mâu chẳng màng đến câu nói của Cốc phu nhân, tựa như nghĩ Cốc Chi Hoa đang ở bên cạnh, nói: “Tào sư tỷ ngại Cốc Chi Hoa vẫn còn nhớ chuyện trước kia bị đuổi ra khỏi sư môn cho nên luôn tỏ ý hối tiếc, căn dặn tôi phải giải thích với Cốc sư muội, Cốc sư muội ơi, nếu muội không chịu quay về, Tào sư tỷ chắc chắn sẽ tưởng rằng muội đang trách sư tỷ, chỉ e sư tỷ chết cũng không nhắm mắt! Tào sư tỷ còn nói, nếu Cốc sư muội không chịu làm chưởng môn, cũng nên quay về gặp mặt một lần, đôi bên thương lượng giải quyết những khó khăn của bổn phái. Tào sư tỷ còn nói, Lữ cô cô có chí nguyện phản Thanh phục Minh, sau khi Lữ cô cô chết, sư tỷ tiếp nhiệm chưởng môn, hổ thẹn không kế thừa chí lớn người trước, Cốc sư muội là truyền nhân của Lữ cô cô, sư tỷ chỉ đành gởi gắm hy vọng cho Cốc sư muội. Sư tỷ còn nói, Cốc Chi Hoa tuy trách cứ sư tỷnhưng cũng mong sư tỷ nể mặt sư phụ, bổn phái sắp gặp họa lớn, bởi vậy nên bỏ mối hiềm khích trước trở về cùng nhau tìm cách ửng phó. Sư tỷ bảo ta nhất định phải chuyển lời cho Cốc sư muội. Cốc phu nhân, bà có thể tìm hộ tôi, để cho tôi được gặp sư muội hay không?” Nói vừa dứt chợt có người khóc: “Tào sư tỷ, là muội sai rồi. Nhưng muội đâu có trách tỷ!” một thiếu nữ bước ra ngoài, đó chính là Cốc Chi Hoa! 

Kim Thế Di đang nhìn thì thấy Cốc Chi Hoa xuất hiện, không khỏi vừa lo vừa mừng, chàng suýt nữa tưởng mình nằm mơ, nếu không có Cốc phu nhân và Dực Trọng Mâu ở đó chàng đã nhảy bổ ra. 

Chỉ thấy Cốc Chi Hoa dung nhan liều tụy, tựa như vừa trải qua một cơn bạo bệnh, đừng nói là Kim Thế Di cảm thấy đau đớn, Dực Trọng Mâu cũng không kìm được nỗi xót xa, nói: “Cốc sư muội, trước đây muội đã chịu nhiều thiệt thòi, Tào sư tỷ cũng cảm thấy áy náy, bảo ta xin lỗi với muội. Muội có nghe được những lời ta nói lúc nãy không?” Cốc Chi Hoa lấy tay áo lau nước mắt, gật đầu, khẽ nói: “Muội rất cảm kích ý tốt của sư tỷ.” Ngay lúc này, Phùng Lâm bước vào, thấy Cốc Chi Hoa đang khóc thì chỉ nghĩ nàng bị trách mắng, thế rồi sầm mặt nói với Dực Trọng Mâu: “Lão ăn mày già, tất cả đều do ta làm, chính ta đã điểm huyệt đạo của Trình Hạo và Lâm Sinh, Cốc Chi Hoa không màng đến kim bài, chống lệnh của Tào Cẩm Nhi cũng là do ta, chẳng liên quan gì đến Cốc Chi Hoa, ông muốn trách thì cứ trách ta, ta không thể để cho ông bức hiếp nàng!” Té ra Phùng Lâm đến nhà họ Cốc vì con gái. Từ sau khi Lý Tâm Mai thoát hiểm vẫn chưa trở về chùa Thiếu Lâm, trên đường đã gặp lại mẹ, Lý Tâm Mai nhớ nhung Cốc Chi Hoa, nàng đoán Cốc Chi Hoa mất tích ở Mang Sơn ngày ấy rất có thể đã thoát hiểm, trở về Tương Dương thăm nghĩa mẫu, bởi vậy muốn đến Tương Dương một chuyến. Phùng Lâm biết tâm ý của con gái, lấy cớ sợ bè đảng của Mạnh Thần Thông làm chuyện bất lợi đối với nàng, liền khuyên nàng, bảo rằng sẽ tự đi tìm Cốc Chi Hoa cho nàng, đồng thời nàng không được nói chuyện bà đã đến Tương Dương cho người khác biết. 

Phùng Lâm đã sớm nghi Kim Thế Di còn sống, đã đoán được người âm thầm giúp mình, sau đó cướp Cốc Chi Hoa chính là Kim Thế Di, thậm chí bà cũng đoán Kim Thế Di và Cốc Chi Hoa có lẽ đang ở Tương Dương. 

Phùng Lâm chính mắt thấy Kim Thế Di thân mật với Lệ Thắng Nam, Cốc Chi Hoa, bà rất bất mãn, may mà con gái và Chung Triển ngày càng mến nhau, có thể nghĩ đến hôn sự, lúc này trong lòng Phùng Lâm, Chung Triển đáng tin cậy hơn cả Kim Thế Di, bà muốn con gái mình lấy Chung Triển, bởi vậy bà mới sợ lại có rắc rối xảy ra, nếu để con gái biết Kim Thế Di còn sống, có lẽ sẽ đến Tương Dương gặp Kim Thế Di, lúc đó hôn sự giữa nàng với Chung Triển sẽ tan vỡ, vả lại cũng không biết nàng sẽ gây ra chuyện gì? Cho nên bà mới cố khuyên nàng, rồi đích thân đi một chuyến. Bà chuẩn bị sau khi đến Tương Dương nếu gặp Kim Thế Di thì sẽ mắng cho chàng một trận, cảnh cáo chàng không được bán cột con gái của mình, nếu không gặp Kim Thế Di mà chỉ có Cốc Chi Hoa thì bà ta cũng khuyên Cốc Chi Hoa một phen. 

Quả nhiên đến Tương Dương bà chỉ gặp Cốc Chi Hoa. Nhưng họ chưa kịp nói chuyện gì thì hôm sau hai người Trình, Lâm đã đến, khiến cho Cốc Chi Hoa càng lún sau vào phiền não. 

Cốc Chi Hoa đã sớm chán nản vì chuyện của cha mình, bởi vậy mới trở về Tương Dương, quyết lòng phụng dưỡng nghĩa mẫu đến già. Thế nhưng vết thương chưa lành thì Tào Cẩm Nhi đã liên tiếp sai người đền thúc giục nàng trở về, cuối cùng thậm chí sai Trình Hạo, Lâm Sinh đem kim bài đến gọi! Lúc đó, Cốc Chi Hoa nhận kim bài, đang đắn đo chưa quyết! Tuy Trình Hạo và Lâm Sinh không bảo Tào cẩm Nhi muốn nàng tiếp nhiệm chưởng môn nhưng nàng đã đoán Tào Cẩm Nhi có ý đó. 

Tuy nàng đã cắt đứt tình cha con với Mạnh Thần Thông nhưng y rốt cuộc vẫn là cha ruột của nàng, nếu tiếp nhận chưởng môn thì cha con sẽ trở thành tử địch. Cốc Chi Hoa có thể chẳng màng đến cha, thậm chí y bị ai giết cũng là đáng tội, Cốc Chi Hoa đều có thể không nghe không hỏi. Nhưng nếu bảo nàng thống suất đồng môn, liều mạng với cha ruột của mình thì đó là điều bất nhẫn! Cốc phu nhân không có con cái, thương yêu Cốc Chi Hoa như cốt nhục, đương nhiên hy vọng nàng ở bên cạnh mình, nhưng Cốc Chi Hoa là đệ tử của phái Mang Sơn, giờ đây chưởng môn phái Mang Sơn dùng kim bài để gọi nàng, người trong võ lâm rất coi trọng tôn sư, Cốc phu nhân cũng không dám giữ nàng lại. 

Đêm ấy hai mẹ con thương lượng, vẫn còn ngần ngại chưa quyết định. Phùng Lâm biết chuyện này, bà ta là người thích lo chuyện bao đồng nhất, một mặt là vì con gái của mình, một mặt là vì muốn Cốc Chì Hoa dứt khoát, đã nghĩ ra một kế, lôi hết mọi chuyện vào mình, đêm ấy đã điểm huyệt đạo hai người Trình, Lâm, lại bảo Cốc Chi Hoa giả vờ mất tích, Cốc Chí Hoa chẳng còn cách nào, vả lại Phùng Lâm là kẻ đã nói là làm, chẳng màng đến hậu quả, Cốc Chi Hoa chỉ đành nghe theo bà ta. 

Sau khi làm xong việc này, Phùng Lâm lại khuyên Cốc Chi Hoa đừng nghĩ đến Kim Thế Di nữa. Thật ra không cần Phùng Lâm phải nhiệt tình như thế, Cốc Chi Hoa đã chán nản. Song cũng vì Phùng Lâm quá nhiệt tình, không những “Tội bạc tình bạc nghĩa” của Kim Thế Di tăng thêm, mà còn tăng thêm nỗi ưu phiền cho Cốc Chi Hoa, hôm sau thì nàng ngã bệnh. Khi Dực Trọng Mâu đến đây, Cốc Chi Hoa tuy đã hết bệnh nhưng vẫn chưa hoàn toàn hồi phục, nàng nghe nha hoàn bảo có bang chủ Cái Bang đến thì gắng gượng lặng lẽ ra nghe lén, nên đã nghe được những lời của Dực Trọng Mâu. Đến cuối cùng thì không kìm được nước mắt nên chạy ra. Dực Trọng Mâu nói: “Cốc sư muội, muội đã nghe hết những lời của huynh, vậy ý của muội như thế nào? Ngày mai có thể đi cùng chúng tôi không?” Cốc Chi Hoa nói: “Muội sẽ nghe sư huynh căn dặn, nhưng muội phải nói trước, muội rất cảm kích hậu ý của Tào sư tỷ, nhưng muội không dám làm chưởng môn nhân. Mong Dực sư huynh nói trước cho Tào sư tỷ hiểu.” Dực Trọng Mâu mỉm cười: “Muội yên tâm, Tào sư tỷ quyết không làm khó muội. Sau này hẵng tính.” Lúc này Phùng Lâm mới biết Dực Trọng Mâu không phải tráchcứ Cốc Chi Hoa, bà nghe Cốc Chi Hoa bảo sẽ trở về thì hơi không vui, lạnh nhạt nói: “Té ra là hai người đã bàn trước cả rồi, lần này ta đã mất công làm nhiều chuyện.” Bà ta ngập ngừng rồi quay sang Cốc Chi Hoa tiếp tục nói: “Tiếp nhiệm chưởng môn thì không sao, nhưng tinh thần vẫn chưa hoàn toàn hồi phục, đến lúc đó làm sao ứng phó nổi cuộc đại chiến ấy?” Cốc Chi Hoa ngạc nhiên, hỏi: “Đại chiến gì?” Phùng Lâm nói: “Cô nương vẫn chưa biết đấy sao? Mạnh Thần Thông đã hẹn ngày mười lăm tháng tới sẽ tỉ thí với chúng ta tại chùa Thiếu Lâm. Sư tỷ của cô nươngđang ở chùa Thiếu Lâm, cô nương đến đó sẽ gặp.” Cốc Chi Hoa giật mình, sắc mặt trắng bệch, Dực Trọng Mâu vội vàng nói: “Lần này có Đường đại hiệp chủ trì, phần thắng đã nắm chắc trong tay.” Cốc Chi Hoa thấy đau nhói trong lòng, nàng cố gắng vịn bàn mới có thể gượng lại được. Kim Thế Di nấp trên cây, từ trên cao nhìn xuống có thể thấy rõ được vẻ mặt của mỗi người, chàng không khỏi đau lòng cho nàng, thầm mắng Phùng Lâm lắm chuyện. Nhưng chàng nghĩ lại, nếu Phùng tâm không nói, đợi đến khi Cốc Chi Hoa đến chùa Thiếu Lâm mới biết thì nàng càng bị kích động hơn. Giờ đây Cốc Chi Hoa biết trước bởi vậy nàng có thể quyết định đi hay không. 

Trong lòng Cốc Chi Hoa hiện lên hai cảnh tượng, Tào Cẩm Nhi đang nằm trên giương, trút hơi thở cuối cùng, mắt vẫn chưa khép lại, nhất định chờ cho được mình. Cảnh tượng kia là Mạnh Thần Thông giương oai diễu võ, chưởng môn các phái đêu nguyền rủa y. 

Cảnh tượng thứ nhất làm cho nàng nhói lòng, cảnh tượng thứ hai khiến cho nàng cảm thấy nhục nhã. Đúng là tiến thoái lưỡng nan. Trong lúc nàng như đứt ruột từng khúc, tâm trí rối bời, vẻ mặt hiền từ của sư phụ như hiện ra trước mắt nàng, sư phụ một đời vì nước quên nhà, có mấy lúc nghĩ đến bản thân? Nghĩ đến đây, Cốc Chi Hoa tựa như có thêm dũng khí, nàng đột nhiên ngẩng đầu lên, nói: “Bổn phái đã gặp nguy nan, Tào sư tỷ thì đang bệnh, về tình về lý muội cũng phải theo sư huynh trở về. Được đến lúc đó, muội sẽ nghe sư huynh sắp xếp.” Dực Trọng Mâu thở phào, quay đầu lạnh lùng nhìn Phùng Lâm. 

Phùng Lâm nói: “Ông nhìn tôi làm gì? Chẳng lẽ định hỏi tội tôi?” Dực Trọng Mâu nói: “Không dám. Chỉ là muốn hỏi hai người Trình, Lâm đã mạo phạm Phùng nữ hiệp thế nào, mong Phùng nữ hiệp nói ra để tôi xử phạt họ.” Phùng Lâm và phái Mang Sơn tuy có quan hệ sâu xa, nhưng ra tay điểm huyệt đạo của hai người Trình, Lâm là đã làm mất mặt phái Mang Sơn, điều đó dã phạm vào đại kị của võ lâm, bởi vậy Dực Trọng Mâu buộc bà ta phải chuộc lỗi. 

Dực Trọng Mâu không hổ là chủ của một bang, lời lẽ rất sắc bén, không phải trực tiếp hỏi tội Phùng Lâm mà trái lại hỏi sư đệ của mình đã làm gì Phùng lâm, nếu Phùng Lâm không đáp được thì tất nhiên đã đuối lý. Phùng Lâm không ngờ Dực Trọng Mâu lại hỏi thế, không trả lời được nên sắp trở mặt với ông ta, Cốc Chi Hoa chợt quỳ xuống đất, dập đầu trước Dực Trọng Mâu nói: “Đó đều là lỗi của muội, vì lúc đó muội không muốn trở về cho nên nhờ Phùng cô cô dùng cách này tạm thời đối phó, muội chấp nhận lãnh gia pháp của bổn môn.” Thực ra lúc đó toàn là do Phùng Lâm tự ý quyết định, Cốc Chi Hoa chỉ nghe theo bà ta mà thôi. 

Dực Trọng Mâu đương nhiên biết Cốc Chi Hoa giải vây cho Phùng Lâm, cố ý gánh tội về phía mình. Nhưng đã có đệ tử bổn phái nhận tội thì không thể trách người ngoài được, nếu thế sẽ khiến cho y khó xử. Cốc phu nhân nói: “May mà hai vị Trình, Lâm tuy bị điểm huyệt đạo gần một tháng, sức khỏe không hao tổn, vừa giải huyệt đạo thì có thể khôi phục như thường. Họ là khách của tôi, nếu Dực bang chủ có ý trách cứ thì xin hãy trách tôi.” Dực Trọng Mâu nghe thế thì xuống thang, kéo Cốc Chi Hoa đứng dậy, nói: “Nể mặt nghĩa mẫu của muội, chuyện đã qua thì thôi. Vậy Phùng nữ hiệp, giờ đây làm phiền bà giải huyệt cho hai sư đệ của tôi.” Phùng Lâm rất áy náy, khẽ hừ một tiếng, ngay lúc này chợt nghe bên ngoài có tiếng động nhẹ, Phùng Lâm đang tức tối, mắng rằng: “Lại là một tên tiểu tặc chán sống!” Rồi bốc một nắm cờ vãi ra theo thủ pháp Thiên nữ tán hoa. 

Chỉ nghe một giọng nói già nua cười lạnh: “Cốc phu nhân, bà đối xử với khách như thế thật quá đáng!” Phùng Lâm thất kinh, cùng Cốc phu nhân chạy ra, dưới ánh trăng chỉ thấy ba ông già đang đứng xếp hàng, người đứng rìa bên trái là Dương Xích Phù, phía phải là Lăng Tiêu Tử, ở giữa chính là đảo chủ đảo Đồ Long Phù Li Tiệm, một màn bột mỏng bay là đà trong gió, té ra nắm cờ đã bị Phù Li Tiệm dùng chưởng lực Giáng long phục hổ chưởng đánh vỡ nát. 

Cốc phu nhân nhận ra Đồ Long đảo chủ Phù Li Tiệm, biết Phù Li Tiệm và Mạnh Thần Thông là bằng hữu. Hơn ba mươi năm trước, lần đầu tiên võ lâm vây đánh Mạnh Thần Thông, vợ chồng Cốc Chính Minh cũng tham gia, lúc đó Cốc Chính Minh chạm với y một chưởng thì hơi thua thiệt, sau đó hai vợ chồng liên thủ mới đánh bạiđược y. Song điều kỳ lạ là hai mươi năm sau Mạnh Thần Thông lại gây chấn động võ lâm nhưng không thấy Phù Li Tiệm xuất hiện. 

Số là sau khi Phù Li Tiệm thất bại ở Trung Nguyên đã trốn đến một hòn đảo nhỏ ở Đông Hải khổ luyện võ công, y vốn không biết việc Mạnh Thần Thông ra biển tìm bí kíp võ công, sau đó vì Mạnh Thần Thông đi mãi đến ba năm chẳng có tin tức gì, Dương Xích Phù biết nơi ở của Phù Li Tiệm cho nên đến tìm y, mời y chèo thuyền đi tìm Mạnh Thần Thông, Mạnh Thần Thông đang bị vây trên đảo Hỏa sơn, lại chẳng biết đóng thuyền, chẳng chống chọi nổi với sóng biển, may mà Phù Li Tiệm chèo thuyền đến cho nên mới thoát nạn trở về trung thổ. Lúc đó phù Li Tiệm luyện một loại võ công kỳ môn vẫn chưa đạt thành, Mạnh Thần Thông nhớ ơn tương cứu, vừa khéo trong nửa quyển bí kíp của y có ghi chép bí quyết luyện môn công phu ấy cho nên Mạnh Thần Thông đã truyền cho y, hẹn với y rằng sau khi luyện thành thì đến giúp Mạnh Thần Thông. 

Bè đảng của Mạnh Thần Thông rất nhiều, y cũng biết con gái của mình ở Tương Dương, lần đầu tiên y sai Hạng Hồng và Hách Hạo đến, chẳng làm gì được; bởi vậy lần này mới nhờ Phù Li Tiệm đi tìm con gái của mình, đồng thời phái Dương Xích Phù, Cơ Hiểu Phong, Lăng Tiêu Tử, Giả Hạo đến giúp y, Mạnh Thần Thông cũng đoán Cốc Chi Hoa không chịu đi theo, cho nên mới dặn họ rằng phải bắt cóc cho được Cốc phu nhân, lúc đó Cốc Chi Hoa chắc chắn phải đi theo. Bọn Giả Hạo, Cơ Hiểu Phong là tốp đầu tiên, không ngờ Giả Hạo gặp phải Phùng Lâm, Cơ Hiểu Phong gặp phải Kim Thế Di nên thua liểng xiểng. Giả Hạo bị bắt, Cơ Hiểu Phong cũng suýt nữa bị Phùng Lâm phế võ công. Cơ Hiểu Phong thoát hiểm không dám quay lại, chỉ kể lại mọi chuyện với Dương Xích Phù, có điều giấu chuyện bị Kim Thế Di chế phục.  

Lăng Tiêu Tử, Phù Li Tiệm, Dương Xích Phù tiến vào thì nghe bọn Phùng Lâm, Dục Trọng Mâu, Cốc Chi Hoa nói chuyện. Cốc phu nhân thấy Phù Li Tiệm thì thầm thất kinh, chỉ nghĩ rằng y đến báo thù năm xưa, cho nên mới hỏi theo lễ tiết giang hồ: 

“Phù đảo chủ đến đây có ý gì?” phù Li Tiệm trả lời: “Đến đây đòi một người, tại sao bà lại giấu con gái của người ta?” Phùng Lâm mắng: “Buồn cười, sao Cốc phu nhân lại giấu con gái của mình?” Phù Li Tiệm đáp: “Bà mới đúng là buồn cười, ai mà không biết nghĩa nữ của bà ta chính là con gái ruột của Mạnh tiên sinh? Bây giờ ta không đôi co với bà nữa, lát nữa chúng ta sẽ lại tỉ thí!” Dương Xích Phù nói: “Sư huynh ta thấy bà nuôi dưỡng con gái của mình nên không muốn làm khó bà. Nếu bà biết điều thì hãy mau mau kêu nó theo bọn ta trở về!” Cốc phu nhân mắng: “Ngươi tưởng đem Mạnh lão tặc ra dọa được ta sao? Hừ, đừng nói là ngươi, dù sư huynh của ngươi đích thân đến đây ta cũng không thể để cho y bắt con gái của ta!” Phù Li Tiệm cười lạnh: “Bà có gan nói như thế, được, tôi mời bà nói chuyện với Mạnh tiên sinh đây!” Nói chưa dứt lời thì phóng vọt lên, năm ngón chụp xuống đầu Cốc phu nhân. 

Đúng là nhanh như cuồng phong điện chớp! Phùng Lâm thấy Phù Li Tiệm vừa ra tay cũng phất ống tay áo lên, động tác của hai người nhanh đến cực điểm, chỉ nghe bốp một tiếng, phùng Lâm thi triển công phu Lưu vân thiết tụ ống tay áo mềm mại trở nên như một cây gậy sắt, đánh bốp vào hổ khẩu của y. 

Phù Li Tiệm quát lớn một tiếng, nghiêng người Phóng vọt về phía trước mấy bước, năm ngón đâm vào vách tường mới có thể kìm người lại. Bụi bay ra, trên vách tường xuất hiện năm cái lỗ, Phù Li Tiệm cả giận quát: “Hay lắm, ta sẽ đánh mụ già nhà ngươi trước! Ngươi rút kiếm ra, Phù mỗ chỉ dùng đôi chưởng đấu với Thiên Sơn kiếm pháp của ngươi!” Phùng Lâm cười lạnh: “Đối với tên lão tặc nhà ngươi, cần gì dùng kiếm?” Rồi tháo sợi dây đai phất ra, toàn sử đụng những chiêu số của trường kiếm đánh về phía Phù Li Tiệm. 

Công phu thiết tụ của Phùng Lâm vỗ vào hổ khẩu của y mà chẳng hề chi, vốn là không nên khinh địch. Nhưng Phùng Lâm kiêu ngạo đã quen, tuy biết người này võ công cực cao nhưng chiêu lúc nãy cũng coi như đã chiếm được một chút thượng phong, Phù Li Tiệm muốn dùng đôi chưởng đấu với Thiên Sơn kiếm pháp của bà ta, bà ta nào chịu thua, bởi vậy mới dùng đai tơ nghênh địch. 

Gần mười năm qua, trừ khi đấu với những đối thủ cực kỳ cao cường, bà rất ít khi dùng kiếm, nhưng cũng đã luyện thành một môn công phu, có thể sử dụng một dây đai tơ như nhuyễn kiếm, vừa có thể dùng để cuộn binh khí của kẻ địch, bà ta tự tin dùng sợi dây đai này dù không thắng được Phù Li Tiệm cũng không thua được y. 

Nào ngờ cú chụp lúc nãy của Phù Li Tiệm chỉ có bảy phần lực đạo, nếu Phùng Lâm dùng kiếm thì ít nhất có thể ngang sức với y, nay lại dùng sợi đây đai, tuy nội công của bà ta đã lên đến mức thương thừa, sợi dây đai chẳng bì được với bảo kiếm, cho nên chiêu số dần dần lộ sơ hở. 

Chợt thấy Phù Li Tiệm vỗ ra một chưởng có cả một luồng kình phong, sợi dây đai của bà ta bật ra, chẳng hề chạm được vào người y, trong lúc kịch chiến chợt nghe soạt một tiếng, Phù Li Tiệm xé đứt một đoạn dây đai, y được nước dấn tới lập tức lướt tới chụp trảo thứ hai vào ngực Phùng Lâm. Cũng trong khoảng sát na ấy, Phùng Lâm dùng tự quyết chữ “ngự” rút sợi dây đai ra khỏi tay kẻ đích, đồng thời đột nhiên sử dụng thủ pháp điểm huyệt của Mật tông Hồng giáo, ngón trỏ của tay trái búng một cái vào huyệt khúc trì của Phù Li Tiệm. 

Phù Li Tiệm không ngờ bà ta lại biết thủ pháp điểm huyệt này của Hồng giáo cho nên mới trúng đòn, may mà y đã luyện thành Thái hành ngũ huyền âm khí công, đây là loại khí công của tà phái, cũng giống như Thái thanh khí công của chính phán mà Kim Quang đại sư đã luyện, y vừa bị búng trúng huyệt khúc trì thì lập tức nảy sinh phản ứng, chân khí nghịch chuyển, đẩy huyệt đạo vừa mới bị bế, dù như thế nhưng cánh tay cũng tê rần, hầu như chẳng thể động đậy được. Thế rồi tay trái vỗ ra một chưởng, vội vàng thối lui ba bước. Đáng tiếc Phùng Lâm không nắm chắc thời cơ, bà ta thấy Phù Li Tiệm bị mình điểm trúng huyệt mà chẳng hề chi thì không khỏi giật mình, cho nên chỉ hơi chậm lại, Phù Li Tiệm lại vận chân khí đi một vòng, dồn ra tứ chi, thế là trở lại bình thường. Phù Li Tiệm thử xong một chiêu thì biết công phu điểm huyệt của Phùng Lâm rất lợi hại, không dám lướt người tiến lên nữa, bèn dồn chưởng lực đẩy ra, kình phong kêu lên vù vù như dời núi lấp biển, nội công của Phùng Lâm tuy đã đạt cảnh giới nhất lưu nhưng cũng cảm thấy áp lực nặng nề, dần dần cầm cự không nổi. Nhưng vì Phù Li Tiệm không dám mạo hiểm tiến tới, cả hai bên vẫn giằng co chưa phân thắng bại. 

Lăng Tiêu Tử và Dương Xích Phù không đợi được nữa, Lăng Tiêu Tử nói: “Cốc phu nhân, bà nói con gái của Mạnh tiên sinh không có ở đây, tại hạ muốn lục soát một lát!” Cốc phu nhân lạnh lùng trả lời: “Cốc Chính Minh tuy đã qua đời, nhưng ngườinhà của ông ta đâu dễ bị bức hiếp? Lấy đao ra?” Hai ả nha đầu mỗi người ném ra một thanh liễu diệp đao, Cốc phu nhân chụp hai thanh đao, đứng thủ ở trước cửa, trầm giọng nói: “Ngươi muốn tiến vào thì phải hỏi hai thanh đao của ta đây!” Lăng Tiêu Tử cười lạnh: “Xin được thỉnh giáo Nga Mi đao pháp của phu nhân!” Rồi y múa phất trần, quấn vào chuôi đao của Cốc phu nhân. Cốc phu nhân là đệ tử của Vô Tướng thần ni phái Nga Mi, khi còn trẻ đã nhờ đôi liêu diệp đao này hành hiệp giang hồ với chồng, xưa nay vô địch. Cốc Chính Minh giành được tiếng Lưỡng Hồ đại hiệp cũng nhờ vợ giúp đỡ không ít, nay tuy bà đã già nhưng hùng phong vẫn còn. 

Lăng Tiêu Tử cậy võ công cao cường, chiêu thứ nhất đã muốn đoạt binh khí của Cốc phu nhân nào ngờ Nga Mi đao pháp của Cốc phu nhân quả thật có chỗ hơn người, đao quang lướt lên, chém đứt mấy sợi phất trần, Lăng Tiêu Tử không quấn được chuối đao, chỉ cảm thấy khí lạnh dồn tới, vội vàng rút phất trần lại, chỉ nghe soạt một tiếng, lưới đao lướt qua, đôi phất trần của y đã bị chém đứt! Đôi liễu diệp đao của Cốc phu nhân là bách miến đao, nếu Lăng Tiêu Tử rút tay không nhanh thì ngón tay cũng suýt bị chặt đứt. 

Lăng Tiêu Tử thấy không ổn thì chiêu số lập tức thay đổi, dồn lực vào cây phất trần, hàng ngàn sợi tơ phất trần tụ lại thành một bó, tựa như một cây đại bút lông sói, cây phất trần lên kêu keng một tiếng như kim khí giao nhau. Trong số các bè đảng của Mạnh Thần Thông, Lăng Tiêu Tử là cao thủ có tên tuổi, công lực hơn Cốc phu nhân đến ba phần, hai cây đao của bà tuy chưa rơi khỏi tay nhưng cũng bị y đánh bật mấy bước! Cốc phu nhân rời khỏi cửa, Dương Xích Phù lách người tiến vào bên trong, cười ha hả rằng: “Ăn mày già, bằng hữu cũ đến đây, sao ngươi lại nấp ở đây không chịu gặp? Được, ngươi không gặp ta, ta đành phải gặp ngươi!” Vì Cốc Chi Hoa vẫn chưa khỏe hẳn cho nên Dực Trọng Mâu phải ở trong phòng bảo vệ cho nàng. Cốc Chi Hoa vốn muốn ra giúp nghĩa mẫu chống cường địch nhưng Dực Trọng Mâu kiên quyết không cho nàng động thủ, bảo nàng phải lui vào sương phòng, trong sương phòng có một cánh cửa ngầm, khi cần thiết có thể trốn ra từ cánh cửa ngầm ấy. Dực Trọng Mâu cầm cây gậy sắt, đứng vững như núi, lớn giọng mắng: “Dương Xích Phù, Mạnh Thần Thông đã khó giữ thân, ngươi còn muốn a dua theo y? Nhân lúc còn làm ít chuyện xấu, sau này ngươi có thể sẽ được mở cho một mạch lưới!” Té ra Dương Xích Phù rất cẩn thận, tuy giúp sư huynh nhưng không làm nhiều chuyện ác, cho nên Dực Trọng Mâu mới khuyên y như thế. 

Nào ngờ từ ngày Mạnh Thần Thông lấy được bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh thì Dương Xích Phù cho rằng cả hai người bọn họ từ nay sẽ xưng bá thiên hạ, đã quyết lòng đi theo sư huynh, nào có thể nghe lời tốt của Dực Trọng Mâu.  

Dương Xích Phù cả cười: “Ta chỉ đến đây tìm con gái của sư huynh. Sao lại nói a dua làm ác? Ta khuyên ngươi bớt lo chuyện bao đồng, ta có thể mở một mạch lưới cho ngươi!” Dực Trọng Mâu trầm giọng nói: “Được, nếu ngươi đã không nghe lời tốt, ta đành phải quyết một trận thư hùng với ngươi!” Dương Xích Phù cưới nói: “Đúng thế, năm năm trước chúng ta vẫn chưa quyết trận thư hùng ở Mạnh gia trang, không biết mấy năm nay đôi bên đã tiến bộ đến mức nào?” Cười vừa dứt thì lập tức vỗ ra một chưởng! Y tưởng chưởng ấy sẽ hại được Dực Trọng Mâu. 

Nào ngờ Dực Trọng Mâu chỉ hừ một tiếng, lập tức vung cây gậy ra bổ xuống đầu Đương Xích Phù. Ông ta tiếp một chưởng của Dương Xích Phù, tuy vẫn thấy khí lạnh dồn tới rất khó chịu nhưng vẫn có thể chống chọi được. 

Dương Xích Phù thấy mình đánh ra một đòn Tu la âm sát công tầng thứ bảy mà chẳng làm gì được ông ta thì hơi kinh ngạc, nhưng y vẫn không sợ, cười rằng: “Ăn mày già, té ra ngươi chẳng thể bì với ngày trước. Chúng ta tỉ thí một phen.” Rồi sử dụng Thiên la bộ pháp, né tránh gậy ấy của Dực Trọng Mâu, tiếp theo lại sử dụng công phu âm dương trảo, hai trảo chụp tới, hai luồng lực đạo tiếp dẫn nhau, cây gậy của Dực Trọng Mâu lệch qua một bên, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Dương Xích Phù lập tức lướt người tiến tới, chiêu thứ hai đã chụp xuống ngực Dực Trọng Mâu, nếu bị y chụp trúng thì ngực sẽ nát bét. Dực Trọng Mâu đột nhiên xoay một vòng, té xuống đất, cây gậy vểnh lên, đâm ngược vào huyệt khí du trước ngực của Dương Xích Phù, chiêu này rất tinh diệu, hiểm hóc vô cùng, giả sử Dương Xích Phù cúi người chụp xuống thì khó tránh lưỡng bại câu thương, Dương Xích Phù tự tin nắm chắc phần thắng, nào chịu liều mạng, trước tiên dùng Thiên la bộ pháp né tránh rồi tìm cách phản công. 

Nào ngờ Dực Trọng Mâu đánh tròn cây gậy tựa như một rừng gậy, bày ra trước mắt một bức tường gậy, Đương Xích Phù liên tiếp giở ra mấy loại võ công kỳ ảo mà chẳng đánh vào được. Dực Trọng Mâu đã sử đụng Phục ma trượng pháp. Dương Xích Phù thấy trượng pháp của ông ta quá hiểm hóc đành bỏ ý định tốc thắng, thế rồi lui xuống mấy bước, dùng Phách không chưởng phát ra Tu la âm sát công, Phục ma trượng pháp của Dực Trọng Mâu rất hao phí công lực, lại phải dùng Thiếu dương thần công để chống lại khí lạnh, thời gian hơi kéo dài thì dần dần đuối sức, từng giọt mồ hôi lớn như hạt đậu rơi xuống, đồng thời răng cũng đánh bò cạp, toàn thân run rẩy. 

Hai người đều thi triển tuyệt học, càng đánh càng hăng, Dực Trọng Mâu đã sử đụng đến ba mươi sáu chiêu trong đoạn thứ hai của Phục ma trượng pháp, ông ta đã dốc hết toàn lực, mỗi chiêu đều rất cương mãnh, mỗi chưởng của Dương Xích Phù phát ra cũng như gió lốc, dồn tới như dời núi lấp biển. 

Đây tuy là một gian nhà xây bằng gạch xanh, rất kiên cố, nhưng hai cao thủ kịch chiến một hồi thì vách tường cũng lung lay, mái ngói chấn động rơi xuống! Cốc Chi Hoa nấp trong sương phòng, tuy không được Dực Trọng Mâu cho phép ra tay nhưng ngay lúc này nàng cũng như con thuyền nhỏ chòng chành giữa biển khơi, làm sao để cho sư huynh chống chọi với sóng gió một mình, nàng nghiến răng lấy cây Sương hoa kiếm kéo cửa phòng nhảy phắt ra. 

Dực Trọng Mâu cả kinh, vội kêu lên: “Sư muội, chạy mau!” Ngay lúc đó, bên tai Cốc Chi Hoa chợt nghe giọng nói quen thuộc: “Chi Hoa, muội đừng lo, để huynh đuổi lão tặc này cho muội!” Cốc Chi Hoa khựng người, đứng ngây ra như trời trồng. 

Dực Trọng Mâu vốn đã khó chống đỡ, lại thêm chỉ phân thần thì Phục ma trượng pháp chợt chậm lại, uy lực giảm xuống, Dương Xích Phù thấy có sơ hở thi lập tức thi triển Thiên la bộ pháp lướt tới vỗ về phía ông ta một chưởng! Chưởng này tựa như sấm chớp, mạnh mẽ vô cùng, Dực Trọng Mâu đang đánh ra một chiều Thiết tỏa hoành giang, cây gậy quét ngang ra, không ngờ Dương Xích Phù lại lướt tới trước mặt ông ta, cây gậy chưa kịp thu về thì chưởng phong đã dồn xuống! Trong khoảnh khắc sinh tử, chợt có điều lạ xảy ra, chỉ nghe bốp một tiếng, hai chưởng giao nhau, Dương Xích Phù chấn động bay bổng lên tựa như quả bóng, rơi ra ngoài cửa! Dực Trọng Mâu liều tiếp một chưởng, tuy vẫn cảm thấy lạnh đến thấu tim nhưng chợt thấy chưởng lực của mình tăng lên gấp bội, cả bản thân ông ta cũng không khỏi ngẩn người! Bên ngoài vọng vào tiếng kêu của Cốc phu nhân, Dực Trọng Mâu định thần, vội vàng đuổi theo, ông ta tưởng rằng Cốc phu nhân bị Lăng Tiêu Tử và Dương Xích Phù vây đánh, nào ngờ vừa ra thì thấy không những Dương Xích Phù chạy mất dạng, cả Lăng Tiêu Tử cũng cuốn phất trần cúp đuôi chạy theo. Cốc phu nhân cũng đứng ngẩn ra, lẩm bẩm: “Chuyện gì thế này?” Té ra Lăng Tiêu Tử đại chiến với Cốc phu nhân đến gần trăm chiêu, đao pháp của Cốc phu nhân tuy tinh diệu, nhưng khí lực lại không bằng đối phương, cây phất trần của Lăng Tiêu Tử lúc tụ lúc tán, khi tán thì tựa như hàng ngàn cây kim đâm vào huyệt, khi tụ thì như đại bút quét ngang, khi đến gần trăm chiêu thì hai đao của Cốc phu nhân đã đánh tới, Lăng Tiêu Tử nắm thời cơ để thi triển sát thủ, bên tai chợt nghe nói: “Đạo sĩ thối lỗ mũi trâu, ngươi không mau cút đi chả lẽ còn đợi ta thưởng cho ngươi một tát?” trong cuộc đại chiến ở bên sông Ngự Hà, Lăng Tiêu Tử bắt Lệ Thắng Nam, bị Kim Thế Di tát cho một bạt tai, lúc này chợt nghe giọng nói của chàng vang lên bên tai thì kinh hoảng, cao thủ đang lúc tỉ đấu thì làm sao phân thần, ngay lúc y giật mình thì Cốc phu nhân đã chém đao tới, vạch một vết thương dài hơn ba tấc trên vai y, thật ra dù y không bị thương, nghe giọng nói của Kim Thế Di cũng đã bỏ chạy! Lúc này Phùng Lâm và Phù Li Tiệm vẫn còn đang giằng co với nhau, Phù Li Tiệm thấy hai tên đồng bọn đã thua chạy, không khỏi giật mình, Phùng Lâm phất sợi đai tới, cuộn chân trái của y, Phù Li Tiệm phóng vọt người lên, khi hạ xuống đất thì đột nhiên có một tảng đá lăn về phía y, chạm phải ngón chân của y, nói cũng lạ, hộ thể thần công của Phù Li Tiệm đã sắp đến cảnh giới đệ nhất lưu nhưng bị tảng đá lăn trúng thì đau đến thấu tim, chân đứng không vững, Phùng Lâm không biết có người giúp mình, vừa thấy có sơ hở thì lập tức tung cước đá tới, trúng vào mông của kẻ địch, bà ta dốc hết toàn lực tung cú đá ấy khiến Phù Li Tiệm lăn cù cù! Phù Li Tiệm bật người dậy, phòng vọt qua tường, ném lại một câu: “Nhà ngươi ám toán, thắng cũng chẳng vinh dự gì, có gan đến chùa Thiếu Lâm quyết một trận thư hùng!” Phùng Lâm cười ha hả: “Thua chính là thua, còn nói những lời như thế làm gì? Ai ám toán.... ha ha...thật buồn cười, may mà mọi người thấy thế mà còn chưa phục!” 

Phụng Lâm đang đắc ý, chợt thấy Cốc phu nhân và Dực Trọng Mâu nhìn nhau, chẳng phụ họa bà ta câu nào, cũng chỉ mỉm cười. Phùng Lâm chưng hửng ngừng cười, một lát sau mới nghe Dực Trọng Mâu lẩm bẩm: “Tôi thấy chuyện hôm nay có điều gì kỳ lạ!” Phùng Lâm vốn là người một đại hành gia võ học, sau khi đắc ý thì nghĩ kỹ lại cũng thấy thật đáng ngờ, Dực Trọng Mâu đã nói ra điều bà ta đang nghĩ trong bụng. 

Phùng Lâm kêu lớn: “Không xong!” Rồi kéo Cốc phu nhân vào bên trong: “Mau, mau đi xem con gái của bà!” Kim Thế Di ngầm giúp Cốc phu nhân đánh bại Dương Xích Phù và Phù Li Tiệm, lại dọa Lăng Tiêu Tử bỏ chạy, nhân lúc trong phòng không có người thì thi triển khinh công tuyệt đỉnh phóng vào trong phòng, đẩy cửa phòng, khẽ kêu: “Chi Hoa, Chi Hoa! Sao muối không lên tiếng?” Thiếu nữ trong phòng lẳng lặng ngẩng đầu lên, trong khoảnh khắc này Kim Thế Di kinh hãi đến ngẩn người ra, thiếu nữ ấy chẳng phải là Cốc Chi Hoa mà là Lệ Thắng Nam! Kim Thế Di cố trấn tĩnh, vội vàng hỏi: “Muội... sao muội đến đây?” Lệ Thắng Nam hừ một tiếng rồi điềm nhiên nói: “Huynh đến được, còn muội đến không được ư?” Kim Thê Di nói: “Muội... hôm ấy muội xảy ra chuyện gì? Huynh tưởng muội đã mất tích!” Lệ Thắng Nam nói: 

“Người khác mất tích thì huynh lo đến như thế, chẳng quản đường xa chạy đến Tương Dương, muội mất tích thì có hề chi?” Kim Thế Di không rảnh tranh cãi với nàng, vội vàng nắm tay nàng hỏi: “Cốc cô nương đâu?” Lệ Thắng Nam cười lạnh, chậm rãi nói: “Cốc cô nương ấy à...” Kim Thế Di nói: “Nàng làm sao?” “Huynh cứ tự tìm đi!” Lệ Thắng Nam lộ vẻ oán hờn, Kim Thế Di thấy thế thì mồ hôi tuôn ra, chợt thất kinh kêu lên: “Muội đã giết nàng?” Rồi bóp mạnh tay Lệ Thắng Nam, Lệ Thắng Nam cố nénkhông kêu lên, Kim Thế Di dỏng tai lắng nghe, nghe bên trong phòng có hơi thở nặng nề, Kim Thế Di buông tay Lệ Thắng Nam, táng mạnh vào vách tường, vách tường bật ra, người bên trong vách thấy hành tung đã bại lộ cho nên lập tức phóng vọt ra từ cánh cửa ngầm. 

Cánh cửa ngầm thông ra hậu viên, dưới ánh trăng có một thiếu nữ đứng một mình, Kim Thế Di bớt lo hơn, chàng điểm mũi chân phóng vọt lên lướt tới bên cạnh kêu lên: “Chi Hoa, Chi Hoa, muội không sao chứ?” 

Đó chính là: Vô hạn đau lòng vô hạn hận, nào ngờ bể ái nổi phong ba. 

Hồi Thứ Bốn Mươi Sáu

Kim Thế Di vừa kéo tay áo nàng, chợt nghe soạt một tiếng, Cốc Chi Hoa rút phắt thanh kiếm lia xuống phía dưới, cắt đứt nửa mảnh tay áo. Kim Thế Di thất kinh, chàng vội dùng công phu Đàn chỉ thần công đánh rơi kiếm của nàng, nhưng lại sợ làm nàng giận hơn, chàng chỉ hơi chần chừ thì thấy Cố Chi Hoa đã trở ngược mũi kiếm chĩa vào ngực mình, nói: “Ngươi dám chạm đến ta, ta lập tức chết trước mặt ngươi.” Kim Thế Di đành bó tay, trong một lúc cũng chẳng biết nói gì, chỉ nghe nàng nói tiếp: “Từ rày về sau, ngươi là người, ta là ta đôi bên chẳng liên quan gì nhau, cứ coi như đây chẳng hề quen nhau!” Giọng nói hay vẻ mặt đều lạnh lùng đến cực điểm! 

Kim Thế Di lắp bắp nói: “Muội... muội sao thế? Muội nghe huynh nói...” Cốc Chi hoa nói: “Ngươi nói gì ta cũng đều không tin” Kim Thế Di lo đến nỗi trán nổi gân xanh, nói: “Chi Hoa, chắc chắn muội đã hiểu lầm! Nàng... nàng...” Nhưng mối quan hệ giữa chàng với Lệ Thắng Nam làm sao có thể giải thích trong vài ba lời? Chàng chỉ nói được mấy chữ nàng chứ chẳng biết bắt đầu từ đâu. Cốc Chi Hoa nghe chàng nói mấy chữ nàng thì càng phẫn nộ hơn, lạnh lùng nói: “Nàng đều đã nói cả rồi, không cần ngươi phải nhắc lại! Ngươi mà không đi, ta sẽ kêu lên!” Thế rồi nàng kêu thật: “Mẹ, ra đây mau, mau bắt kẻ trộm!” Cốc phu nhân và bọn Phùng Lâm chạy ra, lúc này Lệ Thắng Nam đầu xõa tóc cũng từ trong xông ra, Cốc phu nhân thấy là một thiếu nữ lạ mặt thì kêu ồ một tiếng, chưa kịp hỏi nàng là ai thì Lệ Thắng Nam đang tức giận, rút phắt thanh Tài vân kiếm ra nhanh như điện chớp, chém gãy hai thanh liễu diệp đao của Cốc phu nhân, Phùng Lâm cả giận, vung sợi đai bằng tơ cuộn vào hai chân nàng, nào ngờ cây kiếm của Lệ Thắng Nam là thần binh lợi khí, sắc bén hơn Du long kiếm, đúng là chém sắt như bùn, thổi lông lập tức đứt, tuy sợi đai bằng tơ không chịu lực Phùng Lâm lại dùng tự quyết “niêm” và “ngự” nhưng bị kiếm quangcủa nàng lia tới thì đứt thành mười mấy mảnh bay lả tả, trong tay chỉ còn lại nửa đoạn. 

Dực Trọng Mâu nhận ra Lệ Thắng Nam là nàng thiếu nữ đại náo Mạnh gia trang năm xưa, vội vàng kêu lên: “Là người quen!” Phùng Lâm vãi một nắm cờ bằng thủ pháp Thiên nữ tán hoa, Lệ Thắng Nam tuy có bảo kiếm hộ thân nhưng huyệt phong phải phía sau lưng, huyết kiên tỉnh trên vai trái, huyệt thích mã ở chân phải đều bị trúng cờ, may mà nàng đã luyện công phu na di huyệt đạo trong bí kíp của Kiều Bắc Minh, tuy lo nhưng vẫn có thể chịu nổi. Phùng Lâm nghe Dực Trọng Mâu kêu, tuy còn năm sáu quân cờ trong tay nhưng không tiếp tục bắn ra, Lệ Thắng Nam ngay lúc đó phóng vọt người lên một cây đại thụ, chạy ra ngoài vườn! Lúc này Cốc Chi Hoa đang kêu lớn, Phùng Lâm và Cốc phu nhân không đuổi theo Lệ Thắng Nam nữa mà vội vàng chạy về hướng ấy. Cốc Chi Hoa đến trước mặt nghĩa mẫu thì không thể nào cầm cự được nữa, ngã vào lòng bà ta, toàn thân mềm nhũn, Cốc phu nhân ôm chặt nàng khẽ gọi: “Chi Hoa, Chi Hoa, con sao thế?” Cốc Chi Hoa thổn thức nói: “Mẹ, chúng ta mau rời khỏi nơi đây!” Lúc này từ xa vọng lại tiếng cười lạnh của Lệ Thắng Nam. 

Phùng Lâm rất thông minh, thấy Cốc Chi Hoa như thế thì hiểu ngay người đứng bên cạnh đó chính là Kim Thế Di, bất đồ lửa giận bốc lên, thế là vãi nắm cờ ra, gằn giọng quát: “Không ngờ ngươi còn mặt mũi đến gặp ta!” Kim Thế Di thở dài phóng vọt người lên bay qua khỏi tường, đêm nay chàng đã không thể nào giải thích được đành phải ra đi! Mấy quân cờ trúng người chàng, chàng cũng không hề phòng bị, chỉ là hộ thể thần công tự phản ứng, khiến những con cờ ấy đều rơi xuống, chàng cũng cảm thấy đau nhói, nhưng một chút đau đớn ấy không bằng vết thương trong lòng chàng, Lệ Thắng Nam chạy đến một con đường nhỏ, Kim Thế Di đã đuổi theo kịp. Lệ Thắng Nam cười lạnh ngừng lại, nói: “Huynh từ xa xôi chạy đến Tương Dương, sao không gặp gỡ ý trung nhân của huynh một lúc mà đuổi theo tôi làm gì?” Kim Thế Di tức đến nỗi trợn mắt, thở dốc hỏi: “Rốt cuộc muội đã nói gì với nàng?” Lệ Thắng Nam thản nhiên nói: “Chẳng nói gì cả, người huynh thích muội lấy lòng còn không kịp, nào dám đắc tội gì với nàng?” Kim Thế Di quát: “Rốt cuộc muội đã nói gì?” Lệ Thắng Nam chậm rãi nói: “Sao huynh lại nôn nóng như thế, tại sao không đích thân hỏi nàng?” Nàng ngập ngừng rồi lại bật cười: “Huynh yên tâm, muội cũng có lòng tốt với nàng, những lời đã nói toàn là nghĩ cho nàng cả.” Kim Thế Di nói: “Rốt cuộc đã nói gì?” Lệ Thắng Nam nói: “Muội muốn mời nàng uống rượu mừng, muội bảo ba năm trước chúng ta đã bái đường thành thân trên đảo hoang, không thể nào mời nàng uống rượu mừng. Muội còn khuyên rằng, khi kết hôn tốt nhất mời vài bậc danh túc trong võ lâm đến chứng hôn thì đáng tin hơn!” Kim Thế Di tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, mắng lớn: “Cô... cô... cô đúng là...” Lệ Thắng Nam cũng trừng mắt, quát hỏi: 

“Đúng là cái gì?” Kim Thế Di vốn định nói: “Cô đúng là không biết liêm sỉ!” Nhưng bị nàng quát như thế thì lại bảo: “Cô đúng là quá đáng, lẽ ra không nên đùa với tôi như thế! Lần đó tôi bái đường thành thân với cô là vì thúc thúc của cô ép buộc, tôi và cô chẳng phải đã nói là chỉ làm một đôi vợ chồng giả, khi về trung thổ thì chỉ coi là huynh muội hay sao?” Lệ Thắng Nam đanh mặt lại nói: “Kim Thế Di, huynh mới đúng là không biết lý lẽ!” Kim Thế Di cố nén giận, hỏi: “Hay lắm, cô còn có lý lẽ gì. 

Tôi muốn nghe thử?” Lệ Thắng Nam nói: “Mặc dù trên đảo hoang chúng ta chỉ là đôi vợ chồng giả, nhưng có phải chúng ta đã từng bái đường thành thân hay không? Tôi chỉ nói thực nhưng không bảo chúng ta là vợ chồng thật! Ai bảo cô ta chưa nghe thì đã bỏ chạy, còn trách tôi được sao?” Kim Thế Di nghe nàng nói như thế thì đuối lý, một lúc sau mới nói: “Được, tôi hỏi cô, hôm ấy tôi đi mua quần áo cho cô, bảo cô đợi tôi trở về tại sao cô không đợi? Có phải cô cố ý mất tích hay không?” Lệ Thắng Nam nói: “Đúng thế” Kim Thế Di trách: “Vậy tôi có lỗi gì với cô? Cô... cô...” Chàng thầm trách Lệ Thắng Nam đã li gián mình và Cốc Chi Hoa nhưng không biết sao lại hơi e dè; chỉ buông ra được mấy chữ “cô” thì chẳng nói gì được nữa. 

Lệ Thắng Nam cười lạnh: “Huynh không có lỗi với tôi? Ngày hôm ấy tại sao huynh gạt tôi? Bảo là mua quần áo cho tôi, thật ra đuổi theo hai tên tiểu tử phái Mang Sơn, hỏi tin tức của Cốc Chi Hoa, huynh tưởng tôi không biết sao?” Té ra Lệ Thắng Nam rất thông minh, gặp hai người Lộ, Bạch thì nàng thấy thần sắc của Kim Thế Di không ổn, sau đó lại thấy lời lẽ của chàng có sơ hở cho nên đã nghi ngờ. Vì thế sau khi Kim Thế Di bỏ đi thì nàng giả vờ mất tích, sau khi biết tin tức thì lập tức chạy đến Tương Dương, sớm hơn Kim Thế Di nửa ngày, khi chàng đến nhà họ Cốc thì nàng đã nấp trong phòng của Cốc phu nhân. Kim Thế Di nghe nàng hỏi thì áy náy trong bụng, nhưng lửa giận lại bốc lên, trừng mắt nhìn Lệ Thắng Nam: “Dù tôi có chuyện giữa cô, cô cũng không cần như thế. Được, tôi lại hỏi cô, có phải cô đã giết đôi vợ chồng già hay không?” Lệ Thắng Nam nói: “Đúng thế, chính là tôi đã giết họ bịt miệng. Dù sao họ cũng đã sáu bảy mươi tuổi, tôi không giết họ, họ cũng chẳng sống thêm được mấy ngày!” Kim Thế Di không kìm được giận, nhảy bổ tới giáng một cái tát vào mặt Lệ Thắng Nam! Lệ Thắng Nam nằm mơ cũng không ngờ Kim Thế Di đánh mình, nàng kêu lên lạc giọng: “Kim Thế Di, ngươi hay lắm, ngươi hay lắm... Dù ta có chết cũng khiến cho ngươi một đời chẳng yên!” Rồi nàng bưng mặt bỏ chạy, chẳng thèm nhìn đến Kim Thế Di. Kim Thế Di tát xong thì đột nhiên thấy trong lòng đau nhói, trong nhất thời toàn thân đuối sức, đứng thộn mặt ra đấy một lát sau chàng mời dần dần tỉnh táo trở lại, lẩm bẩm: “Mình làm gì thế này? Tại sao mình lại đánh nàng, tại sao thế?” 

Rồi chàng tự đấm vào ngực mình, kêu lên: “Thắng Nam! Thắng Nam!” Nhưng Lệ Thắng Nam đã chạy đi xa, trong sơn cốc chỉ vọng lại tiếng của chàng! Kim Thế Di run bần bật, tựa như mình vừa bị trúng đòn, trong đời chàng chưa bao giờ đau khổ như thế này. Đột nhiên canh tượng đáng sợ hiện ra trước mắt, đó là trong ngày đại chiến ở Mang Sơn, chàng cứu Cốc Chi Hoa ra ngoài, đang định thổ lộ tấm chân tình thì Lệ Thắng Nam đột nhiên xuất hiện, tự đánh đứt kinh mạch của mình, ngăn không cho chàng đuổi theo Cốc Chi Hoa, lúc này chàng không cần nhắm mắt cũng thấy gương mặt đầy máu của Lệ Thắng Nam hiện ra trước mắt mình, chàng chợt nghĩ “Thắng Nam... chắc là nàng không đến nỗi làm chuyện dại dột?” Lần này mình khiến cho nàng đau lòng hơn trước nhiều!” Nghĩ đến đây thì thấy lạnh cả người, Kim Thế Di chạy như điên, dùng thuật Thiên độn truyền âm gọi hai chữ “Thắng Nam” cả mấy trăm lần mà xung quanh vẫn tĩnh lặng, chẳng nghe Lệ Thắng Nam trả lời! Tay chân Kim Thế Di đều bị gai đâm nát, dù chàng có võ công tuyệt đỉnh nhưng cuối cùng thì vẫn sức cùng lực kiệt! Kim Thế Di ủ rũ ngồi xuống, bên cạnh chàng có một dòng suối mát chảy qua, Kim Thế Di vốc nước suối rửa mặt, rồi lại rửa vết máu trên người, chàng dần dần tỉnh táo trở lại, chàng đột nhiên lại nhớ đến ánh mắt oán hờn của Lệ Thắng Nam, bên tai còn nghe câu nguyền rủa của nàng: “Kim Thế Di, ngươi hay lắm, ngươi hay lắm... Dù có chết ta cũng khiến cho ngươi một đời chẳng yên...” Ánh mắt ấy, lời nguyền rủa ấy khiến cho chàng lạnh mình, nhưng cũng làm cho chàng cảm thấy một chút an ủi, bởi vì chàng nhớ lại tính cách của Lệ Thắng Nam, nàng quyết không để cho mình có được Cốc Chi Hoa, lời nguyền rủa ấy cho thấy nàng quyết tâm báo thù, trừ phi nàng thấy mình và Cốc Chi Hoa gặp chuyện bất hạnh, nàng sẽ không làm chuyện dại dột. Kim Thế Di dần dần bình tĩnh trở lại, nhưng không lâu sau thì một ý nghĩ khác khiến cho chàng lo sợ lại dâng lên trong đầu, chàng tự hỏi mình: 

“Mình rốt cuộc có yêu Chi Hoa không? Hay là mình yêu Thắng Nam?” Chàng luôn cho rằng mình yêu Cốc Chi Hoa nhưng trải qua chuyện đêm nay, sau khi chàng đánh Lệ Thắng Nam một bạt tai mới cảm thấy hối hận và đau đớn, lúc này bình tĩnh nhớ lại, hình như không chỉ tấm tình si của Lệ Thắng Nam giành cho chàng đơn phương mà chàng đã nảy sinh một thứ tình cảm khó giải thích đối với Lệ Thắng Nam! Kim Thế Di càng nghĩ càng rối trí, bất giác trời đã sáng, ánh nắng buổi sáng chiếu rọi xuống sơn cốc, gió buổi sáng mơn man hoa dại, Kim Thế Di cũng tỉnh táo, chàng nhớ lại những hành vi ác độc của Lệ Thắng Nam, nhất là giết đôi vợ chồng già nhân hậu trong quán trà, chuyện này càng khiến cho chàng không thể nén nhịn được, đột nhiên chàng nghĩ rất dứt khoát: “Người mình cần đương nhiên là Cốc Chi Hoa!” Chàng nghiến chặt răng tựa như dùng hết khí lực của toàn thân, cố gắng xua đuổi hình bóng của Lệ Thắng Nam trong lòng mình. Vì thế chàng xuống núi chạy thẳng đến Tung Sơn, chàng biết Cốc Chi Hoa không muốn gặp mình, nhưng chàng đã quyết lòng ngầm đi theo nàng, hy vọng chờ đến khi nàng bình tĩnh thì sẽ tìm cơ hội giải thích. 

Lúc này Cốc Chi Hoa rất đau đớn, nhưng điều đó đã khiến cho nàng quyết định mãi mãi xa rời Kim Thế Di! Vì thế lúc này lòng chẳng có tạp niệm, trái lại còn bình tĩnh hơn lúc trước. Sáng sớm hôm sau thì nàng cùng bọn Phùng Lâm, Dực Trọng Mâu, Trình Hạo, Lâm Sinh đến chùa Thiếu Lâm. 

Hai người Phùng, Dực lo nàng vừa mới khỏi bệnh, Phùng Lâm cho nàng uống hai viên bích linh đơn, Dực Trọng Mâu thì dùng bồ câu đưa thư báo cho đệ tử Cái Bang ởcác trạm đổi ngựa cho họ. Trên suốt quãng đường chẳng có chuyện gì xảy ra. Hôm nay họ đã đến huyện thành Yên Sư, cách Tung Sơn chỉ còn ba mươi dặm, Cốc Chi Hoa muốn đi thẳng đến chùa Thiếu Lâm. Nhưng lúc này trời đã về chiêu, Dực Trọng Mâu lo nàng vẫn chưa khỏe hoàn toàn, đường núi khó đi, vả lại vẫn còn hai ngày nữa mới đến cuộc hẹn với Mạnh Thần Thông. thế rồi mới khuyên Cốc Chi Hoa nghỉ lại một đêm ở Yên Sư, sáng sớm mai lên đường cũng chẳng muộn, vì không muốn Tào Cẩm Nhi lo lắng vừa đến Yên Sư thì đã sai đệ tử Cái Bang dùng bồ câu đưa thư báo với chùa Thiếu Lâm họ đã sắp đến. 

Cốc Chi Hoa thấy sư huynh đã sắp xếp ổn thỏa thì cũng chấp nhận. Đêm hôm ấy Phùng Lâm và Cốc Chi Hoa ngủ cùng phòng. Khoảng canh ba, Cốc Chi Hoa đang mơ màng thì nghe Phùng Lâm kêu lớn, tiếp theo là tiếng loạt soạt vang lên, Cốc Chi Hoa giật mình tỉnh dậy, ngay lúc này chỉ thấy có người vén màn, cây Sương hoa kiếm của Cốc Chi Hoa đang đặt bên gối, ngay lúc ấy có người thò tay vào. Cốc Chi Hoa lập tức rút kiếm bật người dậy chém vào tay người ấy. 

Người ấy vội vàng rút cái gối đỡ lên, Cốc Chi Hoa đâm xuyên cây kiếm qua cái gối, người ấy ném gối nhảy lùi ba bước, Cốc Chi Hoa định vọt xuống giường thì thấy phùng Lâm đang đấu với một hán tử, đồ đạc trong phòng vung tứ tung, bộ đồ trà trên bàn đều vỡ tan. Người ấy cười: “Ngươi muốn đánh chỉ tự chuộc khổ!” rồi vung tay chộp vào mạch môn của nàng. Cốc Chi Hoa đánh ra một chiêu Hoành vân đoạn phong, chém ngang cây kiếm ra nhanh như điện chớp, người đó không ngờ kiếm pháp của nàng tinh diệu đến thế, kêu ối chao một tiếng, vội vàng rút tay vẫn cười: “Chẳng chém trúng!” Cốc Chi Hoa nghe đó là một giọng nói lạ lại đâm tiếp ra một kiếm.  Bên ngoài vọng lại tiếng binh khí giao nhau, Dực Trọng Mâu cũng đang quát tháo, họ cũng đã gặp cường địch. Hán tử đang ác chiến với Phùng Lâm kêu lớn: “Ra ngoài đánh sẽ thoải mái hơn.” Phùng Lâm tức giận nói: “Ta sợ người đấy hử?” Nghekhẩu khí, hình như Phùng Lâm vẫn chưa chiếm được phần hơn, Cốc Chi Hoa bất đồ lạnh mình, hán tử ấy tung một cước đá bật cánh cứa, Cốc Chi Hoa cũng nhảy vọt ra, bên ngoài là một mảnh sân, chỉ thấy bọn người Dực Trọng Mâu đang ác chiến, đối thủ của Dực Trọng Mâu là một ông già râu dài phất phơ, sử dụng một đôi hổ trảo, đôi bên đánh đến khó phân thắng bại, Trình Hạo và Lâm Sinh thì lại đấu với một võ quan trung niên tay cầm cây roi đồng, võ quan trung niên ấy múa cây roi kêu lên vù vù, lấy một địch hai mà công ít hơn thủ. 

Té ra Phùng Lâm đang đấu với đại nội tổng quản Khấu Phương Cao, kẻ toan bắt Cốc Chi Hoa là thống lĩnh ngự lâm quân Tư Không Hóa, ông già đang ác đấu và Dực Trọng Mâu là giáo đầu ngự lâm quân Nam Cung Ất, võ quan đấu với hai người Trình, Lâm là cao thủ ngự lâm quân Hô Diễn Húc. Té ra lần đó Khấu Phương Cao thay mặt hoàng đế chủ trì tiệc mừng công, đầu tiên là bị Mạnh Thần Thông đến gây sự, tiếp theo là bị Kim Thế Di gây náo loạn, Tây Môn Mục Dã bị giết chết, tù binh đều vượt ngục, điều đó vẫn chưa tính, chỉ ngay trong đêm ấy thì xảy ra chuyện cha con Đường Hiểu Lan xông vào hoàng cung, bắt hoàng tử mười lăm là Ngang Viêm, uy hiếp y dẫn đường đến hỏi tội Khấu Phương Cao. Sự việc đã xảy ra, vua Càn Long nổi giận, giáng bọn Khấu Phương Cao, Tư Không Hóa mỗi người ba cấp, ra lệnh lấy công chuộc tôi. 

Chuyện thứ nhất là buộc họ phải bắt kẻ đầu não của phái Mang Sơn trở về, bởi vậy Khấu Phương Cao, Tư Không Hóa chỉ đành hợp tác với Mạnh Thần Thông, họ đã biết Mạnh Thần Thông hẹn quyết chiến với Đường Hiểu Lan ở chùa Thiếu tâm, thế là liền dắt theo một đám cao thủ đại nội, đến trước thời hạn, bày binh bố trận ở các nơi gần Tung Sơn, chờ đợi cơ hội ra tay, bọn họ tính rằng, dù cho có bắt không được nhân vật chủ chốt của phái Mang Sơn, bắt được đệ tử của phái Mang Sơn cũng có thể ăn nói với nhà vua. 

Chúng biết bọn người Phùng Lâm vào ở đây, trong số này lại có bốn đệ tử quan trọng của phái Mang Sơn, vả lại còn có Cốc Chi Hoa là truyền nhân của Lữ Tứ Nương, đương nhiên mừng rỡ. Mà Lữ Tứ Nương là kẻ đã giết chết cha của Càn Long là Ung Chính, nếu bắt được Cốc Chi Hoa dâng lên thì chắc chắn công sẽ lớn hơn bắt Tào Cẩm Nhi! Tư Không Hóa biết được tin này đầu tiên thì liền báo cho Khấu Phương Cao, dẫn theo Nam Cung Ất, Hô Diễn Húc đang đêm đến bắt người, vì thế một cuộc kịch chiến đã diễn ra. 

Trong bốn người thì vốn Khấu Phương Cao có bản lĩnh cao nhất, nhưng vì Tư Không Hóa nhận được tin tức đầu tiên, Khấu Phương Cao chỉ đành nhường công đầu cho y, để y bắt Cốc Chi Hoa còn mình thì đối phó Phùng Lâm, năm xưa Phùng Lâm cũng từng theo Lữ Tử Nương xông vào hoàng cung, đương nhiên giá trị của bà ta chẳng kém gì Cốc Chi Hoa. 

Nào ngờ bọn họ sắp xếp như thế nhưng cũng có sơ hở, bọn họ chỉ biết là Phùng Lâm võ công cao nhất, tường rằng Cốc Chi Hoa trẻ tuổi, võ công chẳng thể cao cường nổi, Tư Không Hóa đích thân ra tay thì chắc chắn bắt được. Nào ngờ Cốc Chi Hoa tuy tuổi còn trẻ nhưng đã học được chân truyền của Lữ Tứ Nương, Huyền nữ kiếm pháp càng tinh diệu vô cùng, Tư Không Hóa động thủ với nàng, được hai mươi hai chiêu mà chẳng hề chiếm được phần hơn, nếu chẳng phải nàng chưa hồi phục tinh thần thì y đã thất bại. Nhưng Cốc Chi Hoa cũng vì mới hết bệnh, tinh thần chưa hồi phục, sau ba mươi chiêu thì dần dần đuối sức, Tư Không Hóa cả mừng, thay đổi chưởng pháp đánh ra Bảy mươi hai đường đại cầm nả thủ, vốn là thủ pháp cầm nã này chẳng phải là võ công kỳ điệu gì, nếu là lúc bình thường, với khinh công của Cốc Chi Hoa thì nàng có thể ứng phó dư sức, nhưng lúc này nàng vừa mới hết bệnh, khí lực không bằng, cho nên không linh hoạt bằng lúc bình thường, đại cầm nã thủ của Tư Không Hóa lại hàm chứa nội lực hùng hậu, kiếm pháp của Cốc Chi Hoa đều bị y đánh bật ra, vòng kiếmcàng lúc càng thu nhỏ, dần đần nàng thi triển Huyền nữ kiếm pháp rất khó khăn. Phùng Lâm thấy thế thì cả kinh, định xông qua ứng cứu, chân vừa mới dời bước thì Khấu Phương Cao đã phát giác, cả cười rằng: “Nhà ngươi đúng là đồ tát bùn qua sông, khó lo cho thân mình còn muốn cứu người khác? Hãy an phận cho ta!” Phùng Lâm cả giận, xoay người vun vút, đột nhiên phất hai ống tay áo ra, chỉ nghe bốp một tiếng, bụng dưới của Khấu Phương Cao đã bị bà ta vỗ trúng, Phùng Lâm đã thi triển công phu Thiết tụ thần công, hai ống tay áo còn hơn hai cây roi đồng, nếu là người khác thì e rằng bụng vỡ ruột lòi ra, nhưng Khấu Phương Cao là đại nội tổng quản, võ công quả thật hơn người thường, Phùng Lâm vỗ hai ống tay áo xuống thì tựa như vỗ vào một khối bông. Té ra Khấu Phương Cao có ý muốn khoe công phu, để bà ta đánh trúng, nhân lúc Phùng Lâm chưa kịp thò hai cánh tay trong ống tay áo ra thì quát lớn: “Ngoan ngoãn nằm xuống cho ta?” Hai chưởng đẩy về phía trước, chưởng lực vừa phát ra thì tựa như dời núi lấp biển! May mà Phùng Lâm cũng là người có nhiều kinh nghiệm, vừa cảm thấy không ổn thì lập tức thi triển tuyệt kỹ Miêu ưng phốc kích, Khấu Phương Cao đẩy hai chưởng ra thì cảm thấy trước mắt hoa lên, Phùng Lâm đã phóng vọt người lên cao rồi cũng quát lớn: “Ngoan ngoãn nằm xuống cho ta!” Năm ngón tay chụm lại tựa như mỏ chim từ trên không bổ xuống, mổ vào đỉnh đầu Khấu Phương Cao, Khấu Phương Cao cúi gập người lướt ra mấy trượng, kết quả là hai bên chẳng ai nằm xuống. Khấu Phương Cao lướt về hướng chặn giữa Phùng Lâm và Cốc Chi Hoa, lúc này hai bên đều rút binh khí ra, Khấu Phương Cao dùng một cây lưu tinh chống đỡ Thiên Sơn kiếm pháp của Phùng Lâm, cây lưu tinh của y dài đến một trượng ba thước, khi thi triển thì trong chu vi ba trượng gió mưa không lọt. Phùng Lâm chiếm phần hơn về kiếm pháp nhưng Khấu Phương Cao lại có công lực cao hơn, Phùng Lâm đã gần mười năm không dùng kiếm, tưởng rằng kiếm pháp vừa triển khai thì có thể nắm chắc phần thắng, nào ngờ vẫn bị cây lưu tinh của Khấu Phương Cao chặn lại chẳng thể nào vượt qua. Mảnh sân trong khách sạn không rộng rãi lắm, cây lưu tinh của Khấu Phương Cao chiếm mất không gian đến hai trượng, Cốc Chi Hoa càng chẳng thể né tránh được. Phùng Lâm không xông tới được, hai bên ác đấu ở hai nơi, Dực Trọng Mâu chỉ ngang tài ngang sức với Nam Cung Ất, hai người Trình, Lâm thì đang đuối sức, chẳng thể nào ứng cứu, tình cảnh của Cốc Chi Hoa càng lúc càng nguy hiểm. Tư Không Hóa cười lạnh: “Chưa buông kiếm thì còn đợi lúc nào?” Tiếng đến thì người đến, y lập tức lao người tiến tới, tay trái chụp chuôi kiếm, chưởng phải chụp xuống vai Cốc Chi Hoa! Cú chụp này hiểm độc vô cùng, chuôi kiếm của Cốc Chi Hoabị y chụp lấy, chẳng thể nào chém ngược lại được, chỉ thấy năm ngón tay của Tư Không Hóa như móc câu chụp tới, đầu ngón tay đã chạm vào vai áo, chỉ cần y phát kình lực thì xương tỳ bà của Cốc Chi Hoa bị y bóp nát! Trong khoảnh khắc này chợt nghe tiếng quát: “Ngừng tay!” Tư Không Hóa nghe tiếng quát ấy thì sững người, móng tay chỉ cào rách được áo Cốc Chi Hoa chứ không dám dùng kình bóp xuống. 

Nói thì chậm, sự việc lúc đó diễn ra rất nhanh, chỉ thấy một bóng đen lướt tới như tên rời cung, rồi người đó búng bốp vào hổ khẩu của Tư Không Hóa, Tư Không Hóa kêu lớn một tiếng, loạng choạng thối lui đến sáu bảy bước, kêu lên: “Mạnh tiên sinh,Mạnh tiên sinh? Ông làm gì thế?” Té ra người đó chính là Mạnh Thần Thông! Mạnh Thần Thông mắng: “Tên tiểu tử nhà ngươi dám bức hiếp... bức hiếp một thiếu nữ?” 

Tư Không Hóa kêu lên: “Mạnh tiên sinh, ông không biết đấy thôi, thiếu nữ này chính là đệ tử của Lữ Tứ Nương phái Mang Sơn, là chưởng môn sau này của phái Mang Sơn! Vả lại ả... ả là khâm phạm hoàng thượng muốn bắt!” Thực ra, Tư Không Hóa mới không biết, Mạnh Thần Thông làm sao để cho y bức hiếp con gái của mình, không đợi y nói xong thì đã cả giận, vung tay tát bốp vào mặt y, quát rằng: “Ta mặc kệ khâm phạm gì, ngươi dám động đến của nó ta lấy mạng ngươi!” Y quát xong vẫn chưa hết giận, lại tóm Tư không Hóa giơ bổng lên, ném y qua bức tường. Mạnh Thần Thông đến bất ngờ khiến cho đôi bên đều thất kinh, Cốc Chi Hoa ngẩn người ra, chỉ nghe Mạnh Thần Thông quát lớn: “Các ngươi cút hết cả cho ta!” Nam Cung Ất thấy không ổn thì nhảy tót qua bức tường, Khấu Phương Cao thầm nhủ: “Chả lẽ Mạnh Thần Thông đã nổi điên?” Y chỉ hơi chần chừ thì Mạnh Thần Thông đã đánh một đòn Phách không chưởng về phía y, dù Khấu Phương Cao công lực thâm hậu cũng không khỏi rùng mình, y vội vàng chạy thục mạng. Hô Diên Húc là một tên mãng phu, đang định tranh cãi với Mạnh Thần Thông thì Mạnh Thần Thông tung chân đá một cước, cả thân hình y bay bổng lên, may mà Khấu Phương Cao đang nhảy vọt lên bức tường vẫn chưa nhảy xuống, Hô Diên Húc rơi về phía y, Khấu Phương Cao vội vàng tóm lấy y, dắt y bỏ chạy, tuy Hô Diên Húc thoát nạn nhưng trúng một cú đá của Mạnh Thần Thông bởi vậy công phu Kim trung tráo cũng bị phá. Chính Cơ Hiểu Phong đã báo với Mạnh Thần Thông nên y biết Cốc Chi Hoa cũng đến chùa Thiếu Lâm. Y vừa nghe tin thì lập tức đến ngay.  

Sau khi Mạnh Thần Thông đuổi ba cao thủ đại nội thì trừng mắt quát bọn Phùng Lâm: “Các người đã điếc rồi cả sao không cút mau cho ta!” Phùng Lâm cả giận lia thanh kiếm về phía Mạnh Thần Thông, Dực Trọng Mâu cũng đánh liều vung cây gậy thi triển Phục ma trượng pháp. Mạnh Thần Thông mắt lộ hung quang, cười gằn rồi phân hai chưởng ra. Chưởng trái đánh Dực Trọng Mâu, chưởng phải tấn công Phùng Lâm. Cốc Chi Hoa thấy thần sắc của y không ổn thì giật mình, vội vàng kêu lên: “Nếu ông giết họ, tôi cũng chẳng muốn sống!” Mạnh Thần Thông vỗ hai chưởng xuống, nghe nàng nói thế thì đột nhiên xoay người, thu lại năm phần chưởng lực, trầm giọng nói: “Được, nể mặt con, ta không lấy mạng của chúng, nhưng ta cũng không muốn chúng xuất hiện trước mặt!” Cây gậy sắt của Dực Trọng Mâu bị chưởng lực củay đánh lệch sang một bên, công lực của Phùng Lâm cũng tương đương y, Mạnh Thần Thông phát ra năm phần nội lực không cản được bà, kiếm pháp Phùng Lâm bắt nguồn từ Bạch Phát ma nữ, ngược lại với kiếm pháp Thiên Sơn chính tông, gọi là Phản Thiên Sơn kiếm pháp, kiếm pháp các phái đều không quỷ dị bằng, Mạnh Thần Thông chưa dùng hết chưởng lực, mũi kiếm của Phùng Lâm vung lên, chém bật ngược trở lại từ một phương vị mà Mạnh Thần Thông không ngờ đến. Mạnh Thần Thông hừ một tiếng, nhô vai tiếp kiếm, thanh trường kiếm của Phùng Lâm đã chạm vào vai y, chợt cảm thấy một luồng lực đạo mạnh mẽ đẩy kiếm của mình lên, chẳng thể nào chém xuống được nữa! Mạnh Thần Thông đã phát động Thần công hộ thể đánh bật Phùng Lâm thối lui năm bước, suýt nữa đã trúng phải cây gậy của Dực Trọng Mâu. 

Cốc Chi Hoa chỉ tưởng rằng cha mình thi triển sát thủ nàng kêu hoảng một tiếng nhảy bổ lên, Mạnh Thần Thông xoay người lại, vung tay ra lập tức chụp được nàng, nói: “Cha đã hứa với con, quyết không nuốt lời, con đừng lo, ta chỉ đuổi bọn chúng mà thôi!” Cốc Chi Hoa bị y tóm lấy, chẳng thể nào cử động được, nghe nói như thế thì mới hơi yên lòng. 

Phùng Lâm mắng: “Không biết liêm sỉ, cậy mạnh cướp người!” Mạnh Thần Thông tức giận nói: “Thật quá đáng, chuyện cha con ta có liên quan gì đến ngươi? Ngươi lắm mồm thì cũng ăn một tát!” Phùng Lâm quả nhiên kiêng dè cho nên không dám mắng nữa. 

Mạnh Thần Thông ôm Cốc Chi Hoa, sợ nàng tự sát, thành thử y chỉ dùng một tay ứng phó hai người Phùng, Dực cho nên cũng rất mất sức. 

Trong cuộc kịch chiến chỉ nghe tiếng loạt soạt vang lên, Phùng Lâm múa kiếm như gió, quỷ dị khó lường, trong khoảnh khắc đã đâm bảy lần lên người Mạnh Thần Thông, Mạnh Thần Thông có hộ thể thần công, mũi kiếm chạm vào người thì bị y hóa giải kình lực, tuy không bị thương nhưng áo cũng bị đâm vô số những lỗ nhỏ! Hai người Trình Hào và Lâm Sinh công phu kém xa, không thể xen vào được, chỉ đành đứng một bên, Mạnh Thần Thông liên tiếp bị Phùng Lâm dấn tới, lại đã nói trước cho nên không thể sử dụng tuyệt chiêu lấy mạng bà ta, trong lòng rất tức tối. Y liếc mắt nhìn chợt thấy hai người Trình, Lâm đứng một bên, thế là lắc người vọt ra khỏi làn kiếm và gậy, nhảy bổ về phía hai người Trình, Lâm! Dực Trọng Mâu kinh hoảng, vội vàng nhảy bổ theo múa gậy ứng cứu. Nào ngờ Mạnh Thần Thông đang muốn y làm thế, chỉ nghe tiếng loạt soạt vang lên, hai người Trình, Lâm đã ngã xuống đất! Dực Trọng Mâu chỉ tưởng sư đệ mình trúng độc thủ, giận dữ mắng lớn: “Ta liều với ngươi!” Rồi múa cây gậy thành vòng tròn, bổ xuống thiên linh cái của Mạnh Thần Thông! Chiêu này được gọi là Lôi điện giao oanh, là chiêu có uy lực lớn nhất trong Phục ma trượng pháp, y đã dốc hết toàn lực dồn vào đòn đánh này! Chiêu này mà đánh ra không phải địch chết thì ta vong, nếu không định ôm nhau chết cùng với kẻ cường địch thì không nên sử dụng. 

Ngay lúc này, Phùng Lâm cũng đã sử dụng công phu Miêu ưng phối kích, cây trường kiếm đánh ra một chiêu Đảo quyện ngân hà từ trên cao đâm xuống, đây là một sát chiêu của Thiên Sơn kiếm pháp, nếu hai chiêu đồng thời đánh tới, Mạnh Thần Thông chỉ dùng một tay đối phó thì e rằng không đủ sức, nhưng lúc này mỗi người đều vội cứu người, tâm phù khí loạn bởi vậy bị Mạnh Thần Thông lợi dụng sơ hở, trong khoảnh khắc chớp mắt, chỉ nghe Mạnh Thần Thông hú dài một tiếng, chưởng dẫn nhẹ qua, cây gậy sắt của Dực Trọng Mâu đến trước, bị y dẫn qua thì lập tức đổi hướng quét ngang ra, vừa vặn chạm phải nhát kiếm của Phùng Lâm từ trên không đâm xuống, chỉ nghe rắc một kiếm, cây trường kiếm của Phùng Lâm gãy làm hai đoạn, còn người thì phóng đổ về phía Dực Trọng Mâu, Dực Trọng Mâu cũng đứng không vững, chồm người về phía trước. Hai người sắp va vào nhau, Mạnh Thần Thông cười ha hả, vung tay ra búng hai cái, chỉ trong chớp mắt thì đã điểm được huyệt đạo của hai người. Dực Trọng Mâu thì ngã sấp mặt xuống đất, Phùng Lâm thì chổng vó lên trời. Mạnh Thần Thông đã toàn thắng nhưng cũng thầm kêu: “Thật nguy hiểm!” Bởi vì y đã hứa với con gái trước là không lấy mạng của hai người này cho nên chỉ dùng xảo kình hóa giải sức mạnh của hai người ấy, vì thế y mới có thể ung dung chế phục kẻ cường địch, loại võ công thượng thừa lấy khéo chế thắng, mượn lực đánh lực này là phải nắm đúng thời gian, nếu chỉ sơ sẩy thì bản thân đã mất mạng trước

Cốc Chi Hoa kinh hoảng, vừa thấy hai người ngã xuống đất thì kêu thét lên, lập tức ngất đi. Mạnh Thần Thông vỗ nhẹ lên lưng nàng, dùng chân lực giúp huyết mạch của nàng thông suốt, một hồi sau Cốc Chi Hoa dần tỉnh lại, Mạnh Thần Thông cười nói: “Con khờ ơi, cha đã hứa với con đâu có lẽ nào nuốt lời?” Lúc này Cốc Chí Hoa mới nhìn rõ, chỉ thấy bốn người phe mình nằm dưới đất mà trên mình chẳng hề có vết máu, hơi thở của mỗi người đều nặng nề. 

Cốc Chi Hoa có công lực tuy kém nhưng về mặt võ học cũng đã đến cảnh giới nhất lưu, vừa nhìn thì biết ngay họ đã bị điểm vào ẩn huyệt, tuy đã mất tri giác nhưng không nguy hiểm đến lánh mạng. 

Mạnh Thần Thông đặt con gái xuống, cười rằng: “Thôi được, giờ đây cha con ta có thể nói chuyện với nhau. Con đã biết cha hẹn ngày tỉ võ với Đường Hiểu Lan rồi phải không?” Cốc Chi Hoa thản nhiên nói: “Đúng!” Thì Mạnh Thần Thông nói: “Vậy con đến đây giúp họ chống lại cha phải không?” Cốc Chi Hoa nói: “Nếu ông không biết sửa sai, người trong thiên hạ đều coi ông như kẻ địch.” Mạnh Thần Thông nói: 

“Con đừng né tránh câu hỏi của cha, cha đang hỏi con! Còn con?” Cốc Chi Hoa nghe Mạnh Thần Thông hỏi giấn tới thì nước mắt lưng tròng, một lát sau mới nói: “Tôi... tôi vốn không muốn gặp ông, lần này là vì Tào sư tỷ bệnh nặng, tôi mới chạy tới chùa Thiếu Lâm. Không may... không may...” Mạnh Thần Thông nói: “Không may là gặp phải cha có đúng không?” Trong mắt nàng đột nhiên dấy lên một tia hy vọng, nàng dịu dàng nói: “Là phước hay là họa chỉ cách nhau một ý nghĩ nếu... nếu ông biết kìm cương ngựa trước bờ vực thẳm, nghe lời tôi, thì cuộc gặp gỡ lần này là điều may lớn trong điều không may!” Mạnh Thần Thông thở ra, vẻ mặt vốn nặng nề dần dần giãn ra, nói: “Được, dẫu cho người trong khắp thiên hạ đối đầu với cha, chỉ cần con không đối đầu là được, lúc ở Mang Sơn cha đã hỏi con, giờ đây cha hỏi con thêm một lần nữa, đây có lẽ là lần cuối cùng, con... con rốt cuộc có nhận ta làm cha không?” Cốc Chi Hoa ngẩng đầu lên, nhìn chằm chằm cha mình rồi chậm rãi nói: “Tôi vẫn đáp như trước, chỉ cần ông theo ba điều kiện của tôi, tôi chấp nhận chiều theo ông, cùng ông hưởng tuổi trời.” Mạnh Thần Thông im lặng không nói, mặt lộ vẻ rất kỳ quặc, Cốc Chi Hoa lo lắng nhìn y, một hồi sau Mạnh Thần Thông chợt nói: “Con nói lại ba điều kiện ấy một lần nữa!” Cốc Chi Hoa lại một lần nữa đấy lên tia hy vọng, nàng nói rành rọt: “Một là ông hãy giao ra bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh; hai là từ rày về sau ông mãi mãi rút lui khỏi võ lâm; ba là ông phải nhận lỗi với chưởng môn các phái, cầu xin họ tha tội. Nếu ông làm được ba điều này tôi nguyện đứng ra nói hộ cho ông. 

Cho đến khi oán thù kết thúc, cha con chúng ta sẽ tìm một nơi non xanh nước biếc ẩn cư, cùng hưởng niềm vui thiên luân!” Mạnh Thần Thông thở dài nói: “Giờ đã quá muộn, cha đã hẹn Đường Hiểu Lan ngày sau tỉ võ, nếu cha chấp nhận ba điều kiện của con, người trong thiên hạ chỉ nghĩ rằng ta sợ y!” Cốc Chi Hoa nói: “Không, không! Nếu ông có thể hối lỗi, họ chỉ khen ông là bậc đại trí đại dũng...” Mạnh Thần Thông hừm một tiếng, không đợi nàng nói xong đã trả lời như chém đinh chặt sắt: 

“Không được! Con chẳng hề hiểu ta, chỉ cần ta còn một hơi thở thì quyết không cúi đầu trước người khác! Huống chí ta đã phí tâm lực cả đời mới luyện được võ công như ngày hôm nay, mục đích là muốn võ lâm công nhận là đệ nhất cao thủ. Cha không thể cúi đầu trước người khác, giờ đây cha đã hẹn Đường Hiểu Lan thì phải quyết một trận thư hùng với y!” Cốc Chi Hoa rất thất vọng, nàng buồn bã nói: “Vậy giữa chúng ta chẳng còn gì để nói nữa!” Mạnh Thần Thông lại thở dài, sắc mặt nặng nề vô cùng, đột nhiên ánh mắt của y trở nên dịu dàng, nói: “Nhưng cha có thể hứa một điều kiện với con, đó chỉ là vì con!” Cốc Chi Hoa nghe tim mình đập mạnh, nàng vội vàng hỏi: “Điều kiện nào?” Mạnh Thần Thông nói: “Cha sẽ giao bí kíp võ công cho con! Còn hai chuyện kia cha không thể làm được, này, con có hiểu dụng ý của cha không?” Cốc Chi Hoa chưng hửng, trong nhất thời chẳng đoán được dụng ý của y. Mạnh Thần Thông nhìn sâu vào mắt nàng, khẽ nói: “Con có biết triều đình đang bắt người của phái Mang Sơn không, đặc biệt là muốn bắt con? Người lúc nãy muốn bắt con là thống lĩnh ngự lâm quân Tư Không Hóa, kẻ ác đấu với Phùng Lâm là đại nội tổng quản Khấu Phương Cao. Với võ công của con vẫn còn có thể miễn cưỡng đối phó với Tư Không Hóa, nhưng còn Khấu Phương Cao, dù con có luyện năm năm nữa chỉ e không phải là đối thủ của y, vả lại cao thủ trong đại nội không chỉ có hai người họ, cha làm sao không lo cho con?” Cốc Chi Hoa cao giọng nói: “Khi sư phụ còn sống đã từng dạy tôi, hành sự phải quang minh chính đại, dù lấy yếu địch mạnh, lấy ít địch đông, xông vào chốn dầu sôi lửa bỏng cũng chẳng hề chi. Khi sư phụ tôi còn sống chỉ dùng thanh kiếm ba thước xông vào hoàng cung, giết chết bạo quân, nào có màng đến sự sống chết của bản thân?” Cốc Chi Hoa nói như thế có nghĩa là không chịu lấy nửa cuốn bí kíp, nhưng nàng nghĩ đến ý tốt của y cho nên ánh mắt trở nên dịu dàng. 

Mạnh Thần Thông gật đầu nói: “Mặc dù chúng ta hành sự khác nhau nhưng con có được chí khí như thế cũng không hổ là con gái của ta!” Y ngập ngừng rồi lại chậm rãi nói: “Lần này cha hẹn Đường Hiểu Lan tỉ võ, thắng bại vẫn chưa biết, nếu cha may mắn đắc thắng thì sẽ trở thành võ lâm chí tôn, đương nhiên có thể bảo vệ cho con. Nhưng ta tự thấy cuộc tỉ võ này chỉ e lành ít dữ nhiều, bởi vì nếu ta thua thì đó là ngày tàn của ta! Năm xưa ta lạc mất hai mẹ con của con, chẳng thể nào chăm sóc cho con, phải để cho con làm con của người khác, mang họ của người khác, đó là việc đáng tiếc suốt đời của cha. Giờ đây ta truyền nửa bộ bí kíp võ công cho con, chẳng qua là chỉ muốn chuộc một chút lỗi lúc trước, khi còn sống cha không thể lo lắng cho con, khi chết đi cũng có thể bảo vệ cho con. Con đã được Lữ Tứ Nương chân truyền, học được tâm pháp nội công chính tông, nếu có thể tham ngộ được các loại võ công kỳ ảo trong bí kíp, không khó trở thành thiên hạ đệ nhất cao thủ! Dù con có gọi ta một tiếng cha hay không, con cũng giúp cha hoàn thành tâm nguyện này!” Lời lẽ Mạnh Thần Thông thê lương cùng cực, tựa như đó là lời dặn lúc lâm chung! Lúc này Cốc Chi Hoa mới biết nỗi khổ tâm của cha mình, nghĩ bụng y đã liều mạng trải qua trăm cay ngàn đắng mới có thể lấy được nửa cuốn bí kíp võ công, nay lại tặng cho đứa con gái chỉ coi mình là kẻ địch, mặc dù nàng hận y nhưng rất cảm động, trong nhất thời lệ tuôn trào, suýt nữa bật ra hai tiếng “cha ơi” nhưng cuối cùng vẫn kìm được. 

Mạnh Thần Thông thấy cuối cùng con gái nhận nửa cuốn sách của mình thì như trút được gánh nặng, rơi nước mắt, y biết rõ con gái không muốn đi theo y nhưng vẫn không nỡ xa rời nàng! Mạnh Thần Thông đưa tay ra, Cốc Chi Hoa chỉ đứng lặng yên, y buồn bã nói: “Đây có lẽ là lần gặp mặt cuối cùng của cha con ta, con hãy cho cha hôn một cáí” Ngay lúc ấy chợt nghe bên tai có tiếng nói vang lên: “Mạnh lão tặc, ngươi chỉ biết bắt nạt kẻ yếu đuối, có dám quyết một trận thư hùng với ta không?” 

Mạnh Thần Thông giật mình, Cốc Chi Hoa chẳng nghe được giọng nói ấy, nàng vẫn đang thẫn thờ ra ở đấy! Mạnh Thần Thông nghe giọng nói này, lại nhìn con gái, thấy Cốc Chi Hoa vẫn đang đờ đẫn, ngay lúc này giọng nói quen thuộc lại vang lên bên tai: “Mạnh lão tặc, ngươi có dám đánh với ta một trận không?” Mạnh Thần Thông biến sắc, khẽ nói: “Con phải giữ cho kỹ quyển bí kíp này, đừng để rơi vào tay người khác!” Nói đến câu cuối cùng thì y đã vọt qua tường! 

Cốc Chi Hoa chỉ tưởng rằng vì mình không màng đến y nên đau lòng tuyệt vọng bỏ đi, tay cầm nửa quyển bí kíp võ công mà lòng hoang mang! Nàng nào biết Mạnh Thần Thông đã bị Kim Thế Di dùng Thiên độn truyền âm dụ đi. Té ra Kim Thế Di vẫn ngầm bảo vệ cho nàng, khi chàng ở khách sạn bên cạnh thì nghe phía bên này có tiếng chém giết cho nên vội vàng chạy tới, song chàng vẫn chậm hơn Mạnh Thần Thông một bước. Khi Mạnh Thần Thông đưa tay ra muốn nắm lấy tay nàng, Kim Thế Di không biết chỉ tưởng rằng y muốn cướp con gái, bởi vậy mới phát ra Thiên độn truyền âm. 

Mạnh Thần Thông đang hậm hực trong bụng, phóng vọt người về phía Kim Thế Di. Hai người đều triển khai khinh công tuyệt đỉnh chạy như gió đuổi điện chớp, trong chớp mắt đã rời khỏi thị trấn. 

Kim Thế Di có ý dụ địch cho nên chạy về hướng Tung Sơn. Mạnh Thần Thông quát: “Kim Thế Di, ngươi có gan khiêu chiến với ta, sao lại bỏ chạy?” Kim Thế Di cười nói: “Ta đang muốn tìm một nơi để tiện ra tay?” Mạnh Thần Thông cười lạnh: 

“Chúng ta động thủ mà cũng phải chọn địa điểm sao? Ta thấy hình như ngươi muốn tìm một ngôi mộ có phong thủy tốt! Được! Ở đây cũng rất tốt, ngươi cứ nằm lại ở đây đi thôi!” Khinh công của Kim Thế Di chẳng kém gì Mạnh Thần Thông, nhưng luận về công lực thì lại kém một bậc, khi hai người nói chuyện, tốc độ của Mạnh Thần Thông vẫn không giảm, còn Kim Thế Di thì bị ảnh hưởng chút ít, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ trong chớp mắt Mạnh Thần Thông đã người đến tiếng đến, vỗ một chưởng về phía Kim Thế Di! Chưởng này là Tu la âm sát công tầng thứ chín đương nhiên không thể coi thường, may mà Kim Thế Di đã phòng bị, chàng chỉ hơi lắc người thì sử đụng thủ pháp điểm huyệt độc môn trở tay búng ngược lại! Mạnh Thần Thông biết thủ pháp điểm huyệt của chàng rất lợi hại, y cũng hơi kiêng dè, vìkhông muốn lưỡng bại câu thương cho nên đã biến thực chiêu thành hư chiêu, dùng Thiên la bộ pháp né tránh. Kim Thế Di nhờ có hộ thể thần công, chỉ cần không để y đánh trúng vào người thì Tu la âm sát công cũng chẳng làm gì được chàng. Kim Thế Di chỉ muốn cầm chân, du đấu với y, nào ngờ Mạnh Thần Thông thấy một chưởng chẳng làm được gì thì quát lớn một tiếng, hai chưởng cùng đẩy ra! Kim Thế Di cả kinh, bởi vì Tu la âm sát công rất hao tốn chân lực, phát một chưởng cũng đã không dễ, mà nay Mạnh Thần Thông lại đẩy ra liên tục hai chưởng, uy lực tăng thêm một bậc, nhất thời khiến cho Kim Thế Di chẳng thở nổi. Té ra vì đối phó với Đường Hiểu Lan, trong một tháng nay Mạnh Thần Thông đã khổ tâm nghiên cứu, hiểu được điều bí mật cuối cùng trong nửa quyển bí kíp võ công, Tu la âm sát công đã đến mức tùy tâm sở dục, thu phát tự nhiên, y đẩy ra hai chưởng cũng có nghĩa là có hai Mạnh Thần Thông tấn công Kim Thế Di. Lần trước Kim Thế Di đối địch với Mạnh Thần Thông ở bên dòng sông Ngự Hà cũng hơi núng thế, nay uy lực của Tu la âm sát công lại tăng thêm một bậc, Kim Thế Di làm sao chống đỡ nổi? May mà chàng dùng thủ pháp điểm huyệt độc môn du đấu với y, nếu không chỉ e trong mười chiêu đã không chống cự nổi.  

Mạnh Thần Thông liên tục đánh ra mười mấy chiêu, Kim Thế Di cảm thấy khí huyết nhộn nhạo, lục phủ ngũ tạng như đảo lộn, trong lúc nguy cấp đã nghĩ ra cách, chàng dột nhiên phun phù một bãi nước bọt về phía Mạnh Thần Thông. Mạnh Thần Thông biết tuyệt kỷ phun độc long châm của chàng, tuy giờ đây vài cây độc long châm chẳng làm gì được y, nhưng nếu bị nước bọt của chàng văng trúng thì cũng là một điều sỉ nhục, như vậy mới vận chân khí nội gia, thổi ngược nước bọt trở lại. Làm thế tuy có thể tránh được cái nhục bị nước bọt văng trúng mặt nhưng chưởng lực cũng hơi giảm xuống. Kim Thế Dư thừa cơ thi triển thân pháp cổ quái, chàng lộn người ra mấy trượng, thoát khỏi phạm vi chưởng lực của Mạnh Thần Thông. 

Mạnh Thần Thông cả giận quát: “Tiểu tử, ngươi muốn chạy? Hay lắm, xem ngươi có thể chạy đi đâu?” Rồi y điểm mũi chân phóng vọt lên như mũi tên đuổi theo Kim Thế Di như hình với bóng. 

Xem ra y sắp đuổi kịp, chợt có ba người chạy tới, thiếu nữ ở giữa kêu lên: “Tên lão tặc kia chính là Mạnh Thần Thông!” Té ra chùa Thiếu Lâm nhận được bồ câu đưa thư của Dục Trọng Mâu, biết bọn Phùng Lâm, Cốc Chi Hoa đã đến huyện thành Yên Sư, cách Tung Sơn chỉ có ba mươi dặm. Lý Tâm Mai nôn nóng gặp Cốc Chi Hoa, vả lại sợ nàng xảy ra chuyện cho nên bảo Phùng Anh cùng đi đón với mình, Phùng Anh cũng muốn gặp lại em gái cho nên mới gọi Chung Triển cùng đi. 

Phùng Anh không biết Mạnh Thần Thông đuổi theo Kim Thế Di, chỉ tưởng là một đệ tử chính phái, bởi vậy lập tức rút kiếm, cả người lẫn kiếm hóa thành một đạo ngân hồng đâm thẳng về phía Mạnh Thần Thông! Phùng Anh là đệ tử của nữ hiệp tiền bối phái Thiên Sơn Dị Lan Châu, võ công cao hơn em gái của mình, chẳng kém gì Đường Hiểu Lan, kiếm này đâm tới như sấm sét bùng nổ, Mạnh Thần Thông bất giác giật mình, chỉ đành tiếp lấy kiếm ấy, chỉ nghe soạt một tiếng, kiếm quang lướt qua, tóc của Mạnh Thần Thông đã bị chém một lọn. Mạnh Thần Thông đương nhiên lạnh mình, Phùng Anh cũng không khỏi thất kinh, chiêu kiếm vừa rồi là Đại tu di kiếm thức tinh diệu nhất trong Thiên Sơn kiếm pháp, bà tưởng rằng có thể để lại một vết thương trên người Mạnh Thần Thông nhưng nào ngờ chỉ chém được một lọn tóc của y, đó là do Mạnh Thần Thông đang gấp đuổi theo Kim Thế Di cho nên không thể kìm người lại. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ nghe Mạnh Thần Thông gầm lớn một tiếng, hai chưởng đẩy ra trước ngực, chưởng lực vừa phát ra thì lập tức gió lạnh bốc lên Phùng Anh múa thanh kiếm hóa thành một luồng ánh sáng hộ toàn thân, Mạnh Thần Thông đánh không vào, Phùng Anh trong luồng ánh sáng mà áo quần phất phới, thần sắc vẫn tự nhiên, chẳng hề lo lắng. Lý Tâm Mai kinh hoảng kêu lên nắm lấy tay Chung Triển, té ra Kim Thế Di mang mặt nạ da người, bộ dạng trông rất đáng sợ, lúc này Lý Tâm Mai mới chạm mặt chàng, nàng nằm mơ cũng không ngờ rằng người này chính là Kim Thế Di. Chung Triển cũng giật mình, nhưng sau đó trấn tĩnh trở lại, nói: “Đừng sợ, đây là người cùng phe.” Y và Phùng Anh đều nghĩ như nhau: “Người này đã bị Mạnh Thần Thông đuổi theo, chắc là đệ tử của chính phái. Chung Triển bất giác ôm Lý Tâm Mai, chợt thấy quái nhân bước về phía mình, bất giác đỏ mặt, vội vàng buông tay, đang định bước lên nói chuyện với Kim Thế Di, Kim Thế Di đột nhiên lướt qua y như cơn gió lốc, Lý Tâm Mai cảm thấy có một bàn tay vuốt nhẹ lên tóc mình, bất giác kêu lên kinh hãi, trong chớp mắt Kim Thế Di đã đi xa. 

Cốc Chi Hoa ngồi trong sân một hồi sau, thần trí dần dần tỉnh táo, xung quanh chẳng có ai, yên lặng đến đáng sợ, té ra mọi người trong khách sạn đã bị Mạnh Thần Thông điểm huyệt đạo, mà bọn Phùng Lâm thì đã bị y đùng thủ pháp nặng tay phong bế huyệt đạo, phải mười hai canh giờ sau mới có thể tự giải. 

Cốc Chi Hoa thử giải huyệt cho Phùng Lâm mà chẳng thấy có hiệu quả, đang lo lắng thì chợt nghe một giọng nói vang lên: “Đừng lo, huynh biết giải cứu!” Dưới ánh trăng có một bóng người hiện ra, Kim Thế Di đang đứng trước mặt nàng. 

Cốc Chi Hoa muốn né tránh, nhưng hai chân chẳng nhấc lên nổi, Kim Thế Di khẽ thở dài, nói: “Muội nghe huynh nói vài câu có được không? Hỡi ôi, muội đã biết có ngày này thì đâu cần phải như lúc đầu?” Cốc Chi Hoa không khỏi hỏi: “Ngày này thì thế nào? Lúc đầu thì thế nào?” Kim Thế Di nói: “Lần đầu tiên muội gặp huynh, lúc đó người ta đều bảo huynh là một đại ma đầu mà muội vẫncứ tin tưởng, sau đó chúng ta trải qua rất nhiều chuyện đau lòng, đôi bên lại an ủi lẫn nhau. Không ngờ trái lại muội tin tưởng người ngoài?” Cốc Chi Hoa chưng hửng, nói: “Người ngoài nào?” rồi nàng nhớ lại người ngoài mà Kim Thế Di nói chính là Lệ Thắng Nam, trong lòng chợt có cảm giác ngọt ngào, nhưng vẫn nghiêm mặt nói: “Người ngoài thế nào? Người coi vợ mình là người ngoài? Tôi không ngờ người là hạng vô tình vô nghĩa đến thế!” 

Hồi Thứ Bốn Mươi Bảy

Cốc Chi Hoa nói đến câu cuối cùng thì không khỏi rân rấn nước mắt, nàng vốn có ý trách Kim Thế Di là vô tình vô nghĩa, nhưng ngữ khí thì tựa như nói giúp cho Lệ Thắng Nam, thật ra đó chính là thái độ hờn trách của người Kim Thế Di vội nói: “Ai bảo nàng là vợ của huynh?” Cốc Chi Hoa nói: “Nàng đã nói như thế còn là giả? Tôi không tin trên đời lại có nữ nhi nào không biết liêm sỉ, mạo nhận người khác là chồng mình! Nàng bảo, nàng và huynh đã thành hôn trên hoang đảo, chủ hôn chính là anh trai của nàng, có chuyện đó hay không?” Kim Thế Di rất lúng túng, chỉ đành gật đầu nói: “Đúng thế, có chuyện như thế?” Cốc Chi Hoa biến sắc, phất ống tay áo toan bỏ đi, nhưng toàn thân cứ cứng đờ, chỉ cảm thấy trời xoay đất chuyển, toàn thân đuối sức, Kim Thế Di kéo nàng, thở dài: “Muội không biết bên trong có nội tình, đó chẳng qua là kế quyền nghi lúc đấy, điều này... điều này là giả! Vợ chồng giả! Muội có hiểu không? Muội không hiểu Huynh sẽ nói thật cho muội biết, muội có biết nàng là ai không? Nàng chính là hậu duệ của Lệ Kháng Thiên, đại đệ tử của Kiều Bắc Minh năm xưa!” Cốc Chí Hoa khựng người, nói: “Điều đó đâu có liên quan gì đến chuyện hai người là vợ chồng?” lúc này nàng vẫn đau lòng nhưng thấy Kim Thế Di cuống lên thì lời lẽ cũng mềm mỏng hơn. 

Kim Thế Di kể lại những ngày đầu mình gặp gỡ Lệ Thắng Nam, cho đến khi làm ra vợ chồng giả trên hoang đảo nửa tháng thì mới ngừng lại, cuối cùng nói: “Huynh chỉ vì nàng có ơn nên mới giúp nàng báo thù, đối xử với nàng như huynh muội. Muội đã hiểu tâm sự của huynh chưa?” chàng nói một hơi đến đây thì mới ngừng lại, nhìn Cốc Chi Hoa nhưng vẫn cúi đầu, trong lòng cảm thấy áy náy. Bởi vì kẻ thù của Lệ Thắng Nam là Mạnh Thần Thông, Kim Thế Di hứa giúp nàng trả thù, có nghĩa là phải giết cha của Cốc Chi Hoa, mặc dù Cốc Chi Hoa không nhận cha, nhưng chàng vẫn cảm thấy ái ngại. Cốc Chi Hoa đứng thẫn thờ một lúc rất lâu, rất lâu, vẫn chẳng nói được câu nào. Trong lúc lặng lẽ, lòng nàng như dậy sóng, nàng nhớ lại rất nhiều chuyện. Từ trong câu chuyện của Lệ Thắng Nam, nàng càng biết cha mình độc ác đến mức nào, vì bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh mà đã giết hại cả nhà Lệ Thắng Nam. Lúc đầu nàng tuy còn hơi nghi ngờ những lời của Kim Thế Di nhưng sau đó thì có thể thông cảm. Nhưng nàng vẫn có chỗ không hiểu chàng, trái tim của nữ nhi là nhạy cảm nhất, từ lời của Kim Thế Di nàng nghe được chàng không chỉ xót thương đối với Lệ Thắng Nam mà thôi, nếu không có một chút gì yêu đương, với tính cách của chàng làm sao có thể cam chịu thiệt thòi làm vợ chồng giả với Lệ Thắng Nam? 

Lại còn chịu mãi đi theo nàng, chăm sóc nàng hết mực? Có lẽ tình yêu ấy trôn sâu trong lòng mà cả bản thân chàng cũng không nhận ra, nhưng với một tâm hồn nhạy cảm như Cốc Chi Hoa, nàng đã dễ dàng nhìn thấy điều đó! Thử nghĩ trong mắt tình nhân, làm sao có thể để rơi vào một hạt cát? Mặt khác, sau khi Cốc Chi Hoa biết thân thế của Lệ Thắng Nam thì nàng cảm thấy rất áy náy, tuy nàng không chịu nhận Mạnh Thần Thông là cha nhưng dẫu sao y vẫn là người đã sinh ra nàng, và cũng là người đã giết cả nhà Lệ Thắng Nam! Nghĩ đến đây, nàng cảm thấy mình như thiếu nợ Lệ Thắng Nam, nếu giờ đây lại đoạt tình lang của nàng ta nữa thì món nợ ấy càng nặng hơn. Cốc Chi Hoa nghĩ ngợi rất lâu, một hồi sau thì nàng thở dài, buồn bã nói: “Thế Di, muội đã biết tâm sự của huynh!” Kim Thế Di như một tên tội đồ được phóng thích, chàng vội vàng hỏi: “Giờ đây muội có thể tha thứ cho huynh chứ?” Cốc Chi Hoa khẽ nói: “Chuyện này không thể nói là tha thứ, huynh thích kết bằng hữu với ai, muội làm sao ngăn cản được? Trước kia huynh đã khích lệ và giúp đỡ muội rất nhiều, muội cảm kích vô hạn. Nhưng... nhưng...” Kim Thế Di nói: “Nhưag cái gì?” Cốc Chi Hoa đỏ mặt, cuối cùng nói: “Nhưng có điều suốt đời này muội không nghĩ đến tình cảm trai gái nữa.” Kim Thế Di kêu lên: “Chi Hoa, muội không chịu tin huynh sao?” 

Cốc Chi Hoa nói: “Không, muội tin huynh không đi vào nẻo tà, sư phụ của muội hy vọng ở huynh rất nhiều, muội cũng mong huynh có được thành tựu lớn hơn trong võ học, để danh lại cho đời sau!” Kim Thế Di nói: “Không, huynh không phải nói điều này!” Cốc Chi Hoa không đáp, thế rồi mới nói tiếp: “Muội hoàn toàn biết ý tốt của huynh đối với muội, nhưng chuyện muội đã quyết định thì mãi mãi không bao giờ thay đổi nữa. Muội không có gì đáp đền, huynh hãy cầm lấy nửa cuốn bí kíp võ công này!” Kim Thế Di khựng người, Cốc Chi Hoa đã dúi nửa quyển sách vào tay chàng, vẻ mặt nàng rất cương quyết, tựa như đang ra mệnh lệnh buộc Kim Thế Di phải tuân theo! Kim Thế Di định lên tiếng nhưng trong một lúc cũng chẳng biết nói gì, ngay lúc này chợt nghe Lý Tâm Mai kêu lên: “Cốc tỷ tỷ, Cốc tỷ tỷ, có nhớ muội không?” Té ra Mạnh Thần Thông thấy Kim Thế Di bỏ đi, cũng chẳng thèm đánh nhau làm gì, cho nên vội vàng thi triển Kim cương chưởng lực phóng vọt ra khỏi màn kiếm quang của Phùng Anh rồi bỏ chạy. Phùng Anh đã biết họ ở trong khách sạn này, sau khi đánh lui Mạnh Thần Thông thì cùng hai người Chung, Lý tìm đến, Lý Tâm Mai mong gặp bạn cũ, nàng cứ kêu ầm lên. 

Kim Thế Di giật mình, Lý Tâm Mai và Chung Triển đến đây, chàng không muốn để cho nàng biết mình vẫn còn sống, chàng nhìn nửa cuốn bí kíp, định trả lại những chợt đổi ý, thế là cất vào áo, khẽ nói: “Muội đừng để cho Tâm Mai biết là huynh... Chi Hoa, sau này huynh có thể gặp muội không?” Cốc Chi Hoa lắc đầu nhưng thấy Kim Thế Di đứng khựng lại thì bất giác lại gật đầu, lúc này bọn Phùng Anh đã tiến vào Kim Thế Di phóng vọt người qua vách tường, tiện tay búng mấy hòn đá trở lại giải huyệt đạo cho bọn Phùng Lâm.  

Chỉ nghe Lý Tâm Mai kêu lên: “Ồ, lại là quái nhân này! Chuyện... chuyện gì thế này? Mẹ, mẹ ơi, mẹ làm sao thế?” bọn Phùng Lâm, Dực Trọng Mâu nằm sóng soài dưới đất, Lý Tâm Mai thấy thế thì cả kinh, Phùng Anh giật mình, bà ta vốn muốn đuổi theo quái nhân ấy nhưng thấy thế thì chỉ đành dừng lại. Phùng Lâm công lực thâm hậu hơn, vừa giải huyệt đạo thì tỉnh ngay, bà ta mở mắt vội vàng hỏi ngay: “Mạnh lão tặc đâu?” Lý Tâm Mai nói: “Mạnh lão tặc đã bị dì đuổi đi. Mẹ, mẹ có sao không?” 

Phùng Lâm đỏ mặt, ấp úng: “Không cẩn thận bị Mạnh lão tặc ám toán, may mà tỷ tỷ đến kịp lúc. Bà ta tưởng rằng Phùng Anh đến kịp lúc nên mới đuổi Mạnh Thần Thông đi, đang định đáp tạ tỷ tỷ thì Phùng Anh cười nói: “Tâm Mai nói chẳng rõ ràng tí nào, công lao ấy chẳng phải của tỷ. Tỷ và Mạnh Thần Thông giao thủ với nhau cách đây mười dặm, kẻ khác đã giải huyệt đạo cho muội.” Lúc này bọn Dực Trọng Mâu mới tỉnh táo trở lại, nghe thế thì hỏi: “Là ai thế?” Phùng Anh nói: “Là một quái nhân đeo mặt nạ da người. Khi tỷ và Mạnh Thần Thông gặp nhau, y đang bị Mạnh Thần Thông truy đuổi, không ngờ y đã trở về đây trước.” Dực Trọng Mâu kêu ôi chao một tiếng, vội vàng hỏi: “Quái nhân đâu?” Phùng Anh nói: “Y vừa thấy tôi và Tâm Mai vào thì đã bỏ chạy. Huynh có biết người ấy là ai không?” Phùng Lâm nghe tỷ tỷ nói thì biết ngay đó là Kim Thế Di, vội vàng ho một tiếng rồi bảo: “Người ấy đấy à? Y... y là đệ tử thứ ba của Kim Quang đại sư, tính tình cũng như muội, rất thích gây chuyện ồn ào, tỷ tỷ, tỷ cũng đã gặp qua y song y đeo mặt nạ cho nên không nhận ra đấy thôi.” Kim Quang đại sư có ba đệ tử, đều là những người rất nghiêm nghị, Phùng Anh chưng hửng nhưng bà ta hiểu em gái của mình, lập tức đoán ra chắc chắn có điều lạ, bà ta không muốn nói ra lai lịch của y trước mặt mọi người cho nên mới nói bừa một phen, bởi vậy Phùng Anh cũng chẳng hỏi nữa. 

Lý Tâm Mai lại kêu lên: “Cốc tỷ tỷ, sao tỷ lại không vui? Không muốn gặp muội ư?” Phùng Lâm nhẹ kéo tay áo Cốc Chi Hoa, Cốc Chi Hoa mỉm cười: “Sao tỷ lại không muốn gặp muội? Nhưng tỷ đang lo cho chưởng môn sư tỷ nên trong lòng hơi buồn. Lý Tâm Mai vỡ lẽ ra, nàng gật gù nói: “Tào chưởng môn trước đây không tốt với tỷ, nhưng giờ đây đang thực sự nhớ tỷ, mỗi ngày đều hỏi tỷ có đến hay chưa, lát nữa trời sáng chúng ta sẽ lập tức đến chùa Thiếu Lâm.” Phùng Anh đi xem một vòng trong khách sạn, giải huyệt đạo cho tất cả những người bị Mạnh Thần Thông điểm. 

Khi Mạnh Thần Thông điểm huyệt những người này chỉ dùng thủ pháp nhẹ nhất, Phùng Anh lẳng lặng giải huyệt cho họ, họ cũng chẳng biết gì, tựa như đang nằm mơ. 

Phùng Anh để lại một ít tiền phòng, đến khi trời vừa hửng sáng thì lập tức quay trở về chùa Thiếu Lâm. 

Cuộc đại chiến sẽ diễn ra vào trưa ngày mai, lúc này chùa Thiếu Lâm đang khẩn trương, hầu hết cao thủ các phái đều đến. Vốn là sau khi Cốc Chi Hoa thăm bệnh thì sẽ trở về Mang Sơn, không ngờ Tào Cẩm Nhi bệnh rất nặng, lúc Cốc Chi Hoa đến thì bà ta đã có hiện tượng hồi quang phản chiếu, tinh thần phấn chấn, nói chuyện một hồi với Cốc Chi Hoa thì hôn mê bất tỉnh nhân sự, rơi vào trạng thái hấp hối. Vì thế Cốc Chi Hoa đương nhiên không thể bỏ đi, chỉ đành ngồi canh bên giường bệnh. May mà Tào Cẩm Nhi đã sắp xếp rất chu đáo, bà ta chỉ định khi mình lâm trọng bệnh thì Dục Trọng Mâu sẽ tạm thời làm chưởng môn, sau khi chết sẽ trao lại cho Cốc Chi Hoa, bởi vậy Cốc Chi Hoa không cần phải ra mặt đối đầu với cha mình. 

Tuy như thế, Cốc Chi Hoa vẫn lo lắng không yên, bởi vì Mạnh Thần Thông đã bảo sẽ lên Thiếu Lâm tự tỉ thí với Đường Hiểu Lan, “Nếu ông ta đến, mình có gặp không?” đối với Cốc Chi Hoa, đó là một chuyện rất khó khăn. 

Sáng sớm hôm nay, chùa Thiếu Lâm tập hợp mọi người, ai nấy đều căng thẳng, đợi Mạnh Thần Thông đến. Đại Trí và Đại Bi thiền sư trong Thập bát La Hán đứng canh ở Ngoại tam đường, chợt nghe có tiếng ồn ào, Đại Bi thiền sư thất kinh, nói: “Chả lẽ Mạnh Thần Thông đến sớm như thế sao?” Đại Trí thiền sư đang định báo tin, chợt thấy có ba người lạ mặt xông vào Ngoại tam đường, đệ tử đứng canh ngoài cửa không cản nổi. 

Đại Trí, Đại Bi nhận ra một người là Cơ Hiểu Phong, còn hai người kia là hai tăng nhân Tây Tạng mũi cao mắt sâu, Đại Trí, Đại Bi đồng thanh quát: “Ngừng bước!” Cơ Hiểu Phong cười hì hì lách người lướt qua hai vị thiền sư, Đại Trí và Đại Bi cả giận: “Chùa Thiếu Lâm há để người ngoài làm càn?” Rồi hai người vỗ ra bốn chưởng, hai tăng nhân ấy hừ một tiếng rồi nói: “Sao lại có cái quy củ thối tha như thế?” Rồi cả hai người hích vai, chỉ nghe bốp bốp hai tiếng, Đại Trí và Đại Bi chấn động đến nỗi bay bổng lên, may mà công lực của họ thâm hậu, khi đang ở trên không trung thì lộn người hạ xuống đất. Hai người này có võ công cao nhất trong Thập bát La Hán, nếu là người khác thì đã ngã chổng cẳng. 

Đệ tử Thiếu Lâm và khách khứa đều chạy vào trong báo tin. 

Ba người không đợi họ hợp vây đã xông tới góc sân thử ba. Chợt nghe một tiếng ho, có hai nhà sư gầy gò bước ra, đó chính là hai vị trưởng lão trong Đạt Ma viện cùng vai vế với Thống Thiền thượng nhân, Duy Thức đại sư và Duy Chân đại sư. 

Cơ Hiểu Phong vừa mới bước vào Đạt ma viện thì Duy Thức và Duy Chân đã chắp tay nói: “Xin hỏi thí chủ đến đây có chuyện gì?” Cơ Hiểu Phong chỉ cảm thấy một luồng tiềm lực mạnh mẽ đẩy ra, nhất thời khí huyết nhộn nhạo, còn may y có thân pháp nhanh nhẹn, vừa cảm thấy không ổn đã lướt trở lại ba trượng mới thoát khỏi phạm vi chưởng lực của hai nhà sư già.  

Hai phiên tăng nghênh ngang bước về phía trước, cung tay hỏi: “Trong hai vị ai là Thống Thiền thượng nhân?” khi đang nói thì nội lực đôi bên đã chạm nhau, tà tăng bào của hai nhà sư chùa Thiếu Lâm phồng lên, tựa như có gió thổi qua mặt hồ, còn thân trên của hai tăng nhân Tây Vực thì cũng hơi lắc lư. 

Duy Chân đại sư nói: “Té ra ba vị đến tìm phương trượng của bổn tự, xin mời đợi một lát để chúng tôi sai đệ tử vào thông báo.” Cơ Hiểu Phong nói: “Làm phiền ông hãy mời Đường chưởng môn của phái Thiên Sơn.” Y đã biết bản lĩnh của hai chưởng lão, cho nên cũng không dám ngông nghênh nữa. Duy Thức đại sư đi trước dẫn đường, đưa khách vào Kết duyên tịnh xá chờ đợi, đó là nơi tiếp khách của chùa Thiếu Lâm. Ngồi không lâu thì Thống Thiền thượng nhân và Đường Hiểu Lan đã tới. 

Thống Thiền thượng nhân thấy các đệ tử Phật môn thì đọc Phật hiệu, chắp tay hỏi: “Đại đức quang lâm, xin thứ lỗi thất kính. Không biết ba vị có chuyện gì chỉ giáo?” Cơ Hiểu Phong cung kính thi lễ rồi nói: “Phụng lệnh gia sư, đến đây thăm hỏi phương trượng và Đường chưởng môn.” Hai nhà sư Tây Vực lúc nãy đã thử nội lực của hai trưởng lão Duy Chân và Duy Thức, lúc này lại có ý thử Thống Thiền thượng nhân và Đường Hiểu Lan, hai người chắp tay vái ra ngoài rồi đồng thời nói: “Bọn tiểu tăng Trúc Pháp Lan, Trúc Pháp Hưu từ lâu đã ngưỡng mộ tiếng tăm của chùa Thiếu Lâm, lần này được Mạnh tiên sinh mời đến xem buổi thịnh hội.” Thống Thiền thượng nhân mỉm cười, nói: “Té ra là thế, thật không dám nhận hai chữ ngưỡng mộ.” Ông ta có Thần công hộ thể Kim cương bất hoại, người không nhúc nhích, tựa như chẳng hề hay biết. 

Thống Thiền thượng nhân lấy từ bi làm đầu, lại là thân phận chủ nhân cho nên mới nương tay, tiếp ám kình của họ mà chẳng hề phản chấn trở về; Đường Hiểu Lan thì không hề khách sáo, hộ thể thần công dùng đến năm phần lực phản chấn, chân lực nội gia của hai nhà sư Tây Vực đã phát ra, tựa như ném đá vào biển lớn chẳng hề có tăm hơi, vừa cảm thấy không ổn thì người chấn động tựa như bị sóng lớn đè xuống đầu lập tức loạng choạng thối lui mấy bước, suýt nữa đã ngã xuống! Đường Hiểu Lan nói: “Hai vị cứ đứng vững, không cần khách sáo, xin mời ngồi.” Hai nhà sư kinh hãi, chẳng còn vẻ cuồng ngạo nữa, thế rồi mới thi lễ với Đường Hiểu Lan, nói: “Từ lâu đã nghe võ công của Đường chưởng môn là đệ nhất ở miền trung thổ, quả nhiên danh bất hư truyền, xin được thứ lỗi.” Lần này thì thi lễ theo quy củ, Đường Hiểu Lan cũng trả lại một lễ chứ chẳng dùng thần công phản chấn. 

Đường Hiểu Lan tuy chế phục được họ nhưng trong bụng cũng hơi lo, công lực của hai nhà sư Tây vực này chỉ kém Thống Thiền thượng nhân, nhưng hơn một bậc so với chưởng môn của các phái, xem ra Mạnh Thần Thông lần này lại lôi kéo không ít người tài, bản thân Đường Hiểu Lan đương nhiên chẳng e sợ, nhưng lại có xảy ra hỗn chiến thì đệ tử các phái khó tránh tử thương. Cơ Hiểu Phong dâng thư lên, Thống Thiền thượng nhân xem qua một lượt, đưa cho Đường Hiểu Lan nói: “Mạnh tiên sinh không đến chùa Thiếu Lâm nữa, thời gian tỉ thí cũng không nổi, nhưng địa điểm thì dời đến bãi Thiên Tràng, Đường chưởng môn, ông thấy thế nào?” Đường Hiểu Lan nhận bức thư xem qua một lượt, đại ý nói rằng sợ tỉ võ trong chùa Thiếu Lâm, chẳng may làm hư hao tượng Phật chùa cổ thì lòng chẳng yên cho nên đổi sang bãi Thiên Tràng. Đường Hiểu Lan cũng có ý này, cho nên mới nói với Cơ Hiểu Phong: “Ý của lệnh sư rất hợp với ý ta. Ngươi cứ về nói với tôn sư, Đường mỗ sẽ đến đúng lúc.” Hai nhà sư Tây Vực nói: “Từ lâu đã ngưỡng mộ quý tự là thánh địa Phật môn miền trung thổ, nay thấy chùa cổ trang nghiêm quả nhiên khí tượng bất phàm, hôm nay có duyênđến đây, rất muốn tham quan một phen, không biết phương trượng có chấp nhận haykhông?” Thống Thiền thượng nhân đọc một tiếng Phật hiệu rồi nói: “Cùng là đệ tử cửa Phật, hai vị từ xa đến đây, tiểu tự theo lý phải tiếp đãi. Duy Thức, Duy Chân hai đệ hãy cùng Bản Không sư đệ đưa họ đi xem.” Bản Không là giám tự của chùa ThiếuLâm, võ công chỉ kém Thống Thiền thượng nhân, Thống Thiền thượng nhân biết Cơ Hiểu Phong là Diệu thủ thần thâu, bảo Bản Không theo họ là để âm thầm giám sát. 

Sau khi khách rời khỏi Kết duyên tịnh xá, Thống Thiền thượng nhân nhíu mày, nói: “Đường đại hiệp, ông thấy Mạnh Thần Thông thật sự có lòng tốt như thế không? Có phải thật sự vì mến tiếc chùa Thiếu Lâm nên mới đổi địa điểm không?” Đường Hiểu Lan nói: “Có lẽ y sợ chúng ta chiếm địa lợi cho nên mới không chịu đến chùa Thiết Lâm. Bãi Thiên Tràng là nơi nào?” Thống Thiết thượng nhân nói: “Nơi ấy nằm ở phía bắc Tung Sơn, cách bổn tự chỉ có mấy dặm.” Đường Hiểu Lan nói: “Vậy cũng rất tiện lợi.” Thống Thiền thượng nhân nói: “Nhưng bãi Thiên Tràng là một nơi tuyệt địa!” 

Đường Hiểu Lan hỏi: “Sao?” Thống Thiền thượng nhân nói: “Bãi Thiên Tràng nằm ở dưới đáy cốc, xung quanh có núi bao bọc cho nên gọi là bãi Thiên Tràng. Nơi ấy rất rộng rãi.” Đường Hiểu Lan nói: “Nếu y có mai phục dưới cốc, chúng ta cũng không cần sợ! Theo tôi thấy, Mạnh Thần Thông tuy chẳng chuyện ác gì không làm, nhưng xưa nay tự phụ, chắc là không đối phó với chúng ta bằng thủ đoạn bỉ ổi như thế!”

Thống Thiền thượng nhân nói: “Ông nói rất đúng, dù y có mai phục gì trong cốc cũng còn tốt hơn động võ trong chùa Thiếu Lâm.” Lúc này chùa Thiếu Lâm đang có nhiều cao thủ, từ sau khi biết Mạnh Thần Thông sắp đến khiêu chiến thì ngày đêm đều có người tuần tra xung quanh, người phụ trách công việc tuần tra là Đại Hùng thiền sư, kẻ đứng đầu Thập bát La Hán. Thống Thiền thượng nhân gọi Đại Hùng vào hỏi, Đại Hùng thiền sư nói ở bãi Thiên Tràng chẳng có ai đáng nghi, Thống Thiền thượng nhân mới bớt lo. 

Một hồi sau Bản Không đại sư vào bẩm báo đã tiễn khách đi. Đường Hiểu Lan cười nói: “Có mất thử gì không?” Bản Không đại sư nói: “Tôi cũng biết đó là Diệu thủ thần thâu cho nên phòng bị trước. Tôi chỉ dắt họ đi tham quan vài tòa đại điện và những nơi không quan trọng, còn tàng kinh các thì không cho vào. Đôi mắt láo liên của Cơ Hiểu Phong thật lợi hại, tựa như rất để ý, ôi chao...” Thống Thiền thượng nhân nói: “Sao thế?” Bản Không đại sư thở dài: “Không ngờ tôi cẩn thận phòng bị mà vẫn bị mắc lỡm?” Thống Thiền thượng nhân nói: “Mất thứ gì, có quan trọng không?” Bản Không đại sư nói: “Là một chiếc nhẫn ngọc cổ, tuy không quan trọng nhưng là vật tôi rất quý, tôi đeo trên ngón giữa của tay phải, trước khi rời khỏi đây y còn cúi gập người vái tôi, tôi trả lễ cho nên đỡ y dậy, không ngờ đã bị y đánh cắp, đến giờ mới phát giác.” Lời lẽ rất rầu rĩ. Số là Bản Không đại sư sau khi mất vợ mới xuất gia, chiếc nhẫn ngọc cổ này là di vật của vợ ông ta.  

Duy Thức thiền sư nói: “Người xuất gia tứ đại giai không, vật ngoài thân có mất đi cũng chẳng sao. Nhưng hôm nay Mạnh Thần Thông đột nhiên đổi ý, phải nhờ hai vị sư huynh hao tâm tổn sức sắp xếp trở lại.” Bởi vì lần này Mạnh Thần Thông tuy khiêu chiến với Đường Hiểu Lan nhưng lại liên quan đến người của hai bên và cao thủ các phái chính tà, đến lúc đó khó tránh xảy ra chuyện bất ngờ, cho nên phải sắp xếp kỹ càng trước. 

Thống Thiền thượng nhân trầm ngâm một lúc rồi mới nói: “Bản Không sư đệ, đệ và tứ đại trưởng lão của Đạt Ma viện và các đệ tử Đại Hùng, Đại Trí, Đại Thông ở lại giữ chùa. Tăng chúng trong nội tam đường cũng sẽ ở lại một nửa để đề phòng, số còn lại theo ta đến bãi Thiên Tràng. Còn đệ tử các phái thì cứ để cho chưởng môn của họ cách đặt.” Thế là kế hoạch đã định, nửa canh giờ sau mọi việc đã sắp xếp ổn thỏa, đệ tử chùa Thiếu Lâm đến gần ngàn người, tuy một nửa đã đến bãi Thiên Tràng nhưng số còn lại vẫn đủ giữ chùa. Còn đệ tử các phái đều muốn xem cuộc tỉ võ trăm năm hiếm gặp này, chỉ có vài nữ hiệp của phái Thanh Thành, bốn đại đệ tử Trình, Lâm, Lộ, Bạch của phái Mang Sơn và Lý Tâm Mai của phái Thiên Sơn chấp nhận ở lại cùng Tào Cấm Nhi và Cốc Chi Hoa. Phùng Lâm vốn muốn ở lại cùng con gái nhưng không muốn bỏ qua sự kiện hiếm có này cho nên cuối cùng vẫn đi. Chung Triển là đệ tử của Đường Hiểu Lan, không thể không đi cho nên đành phải tạm thời chia tay Lý Tâm Mai. Tào Cẩm Nhi đang trong trạng thái hấp hối, lúc nào cũng có thể tắt thở, các đệ tử phái Mang Sơn vốn không nỡ rời bà ta, nhưng Mạnh Thần Thông là kẻ địch của phái Mang Sơn, bởi vậy sau khi bàn bạc, cuối cùng quyết định chỉ để lại Cốc Chi Hoa và bốn đại đệ tử, những người khác thì cùng Dực Trọng Mâu đến bãi Thiên Tràng. 

Một đoàn người rầm rộ kẻo đến bãi Thiên Tràng. Lúc ấy trời vừa đúng ngọ. Bọn người Mạnh Thần Thông đã đợi ở đó, xung quanh y ngoại trừ bọn Dương Xích Phù, Cơ Hiểu Phong, Phù Li Tiệm, Lăng Tiêu Tử và hai phiên tăng vừa mới đến chùa Thiếu tâm, còn có vài người lạ. Thống Thiền thượng nhân lại hỏi đệ tử Thiếu Lâm, biết bọn người Mạnh Thần Thông cũng vừa mới tới được một lúc, cũng chẳng có sắp xếp gì đặc biệt. Thế rồi mỗi phe chiếm một bên, Mạnh Thần Thông và Đường Hiểu Lan, Thống Thiền thượng nhân chậm rãi bước ra giữa sân. 

Thống Thiền thượng nhân chào Mạnh Thần Thông trước rồi nói: “Hai vị đều là bậc đại sư võ học đương thế, hôm nay giá lâm Tung Sơn, bổn tự được tiếp đãi cảm thấy rất vinh dự. Nhưng lão nạp cũng có điều lo nên muốn nói vài câu.” Mạnh Thần Thông nói: “Xin mời nói.” Thống Thiền thượng nhân nói: “Với công lực của hai vị, hôm nay đủ khiến cho mọi người mở rộng tầm mắt. Nhưng hai vị chỉ ngừng ở chỗ lấy võ kết bạn, đừng làm cho máu đổ ở danh sơn, đồng đạo gặp tai ương.” Ý của Thống Thiền thượng nhân rất rõ ràng, chỉ là hy vọng cuộc tỉ võ này chi là chuyện cá nhân hai người, tốt nhất đừng xảy ra chuyện hỗn chiến; đồng thời cũng hy vọng họ quyết thư hùng về mặt võ học, không nên làm chuyện tốn thương đến tính mạng. 

Đường Hiểu Lan nói: “Mạnh tiên sinh là khách, tôi mong được nghe ý kiến của tiên sinh.” Mạnh Thần Thông nói: “Phương trượng lấy từ bi làm đầu, Mạnh mỗ rất khâm phục. Nhưng chỉ e không thể được như phương trượng mong muốn. Thứ nhất hôm nay bằng hữu có mặt rất đông, những người này chẳng phải là thuộc hạ của tôi, tôi chẳng thể nào kìm chế được họ. Thứ hai, hôm nay tôi thỉnh giáo Đường chưởng môn là hy vọng ông ta không giấu nghề, cho tôi thấy tuyệt kỹ phái Thiên Sơn để được mở rộng tầm mắt. Tôi đương nhiên cũng không giấu nghề, dù hơn kém rất xa cũng phải dốc hết sức mình ra, như thế thì làm sao dừng lại đúng lúc. Nay chỉ đành nghe theo mệnh trời, nếu tôi được chết dưới kiếm của Đường chưởng môn cũng chẳng tiếc, chẳng may tôi thắng được một chiêu nửa thức lỡ tay đả thương Đường chưởng môn cũng mong thiền sư thứ lỗi. Nhưng ý của tôi lại cũng giống như ý của thiền sư, hôm nay chỉ muốn thỉnh giáo Đường chưởng môn, chẳng liên quan gì đến người khác. Nếu tôi thua cuộc mà không mất mạng, nhất định sẽ mãi mãi rời khỏi võ lâm, sau này quyết không trả thù, dù có người khác tim tôi trả thù, tôi cũng chỉ tỉ thí với những kẻ thù mà thôi, quyết không làm lớn chuyện.” Mạnh Thần Thông tuy không nghe theo ý của Thống Thiền thượng nhân nhưng cũng đã thề đây chỉ là việc riêng giữa y với Đường Hiểu Lan, dù cho nửa chừng trở thành cục diện hỗn chiến y cũng đối phó với một mình Đường Hiểu Lan chứ không đánh bừa, đả thương đến người khác. Thống Thiền thượng nhân đoán Đường Hiểu Lan nắm một nửa phần thắng, chỉ cần Mạnh Thần Thông không đánh bừa thì coi như đã yên tâm, thế rồi mới bảo: “Nếu tôn ý đã như thế, lão nạp cũng không nhiều lời nữa. Còn tỉ võ như thế nào xin mời hai vị tự định đoạt với nhau.” 

Đường Hiểu Lan nói: “Mạnh tiên sinh, ông là khách, mời ông ra đề, tôi sẽ chiều theo.” Mạnh Thần Thông sớm đã có mưu đồ nhưng giả vờ suy nghĩ một hồi sau đó nói: “Tôi nghĩ đạo võ học rất tinh thâm ảo diệu, liên quan rất rộng, không chỉ giới hạn ở võ học, đối với hai người chúng ta, làm sao có thể vừa bước ra đã giơ quyền động cước, múa đao rộng kiếm, bắt chước bọn mãng phu?” Đường Hiểu lan nói: “Mạnh tiên sinh nói phải, vậy ý của ông là tỉ thi bằng văn chương?” Trong lòng cảm thấy ngạc nhiên, Mạnh Thần Thông lúc nãy đã bảo muốn quyết sống chết với ông ta, tùy theo số trời, sao trong chốc lát lại đổi giọng như thế? 

Mạnh Thần Thông tiếp tục nói: “Không phải là tỉ thí bằng văn chương, cũng chẳng phải tỉ thí bằng võ học, hôm nay hiếm có được cơ hội tốt, chúng ta phải dốc hết bình sinh ra tỉ thí một phen, xem thử ai giỏi ai dở?” Đường Hiểu Lan nói: “Đạo võ học rộng như biển lớn, mênh mông vô bờ bến, nếu tỉ thí toàn diện thì không biết tỉ thí như thế nào, mong Mạnh tiên sinh chỉ rõ?” Mạnh Thần Thông nói: “Đạo võ học tuy bao la rộng lớn nhưng theo ngu kiến của tôi, không ngoài ba phương diện, thứ nhất là kiến thức về mặt võ học, thứ hai là dũng khí và đảm lượng của người học võ, thứ ba là tài nghệ của bản thân. Tôi muốn ra ba đề mục cho ba phương diện này, không biết Đường chưởng môn có chấp nhận không?” Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Kiến thức và tài nghệ của bản thân quan trọng như nhau, y nói điều đó không sai. Nhưng đối với dũng khí và đảm lượng y lại nói không rõ ràng, cảnh giới cao nhất của võ học không phải là cái dũng của bọn thất phu, cũng không phải là đảm lượng chẳng sợ chết, mà chính là chính khí hạo nhiên. Nhưng Mạnh Thần Thông đâu cần phải nói điều này.” 

Song Đường Hiểu Lan tuy không đồng ý hết với kiến giải của Mạnh Thần Thông nhưng đã nói trước, vả lại phần lớn những lời của y cũng hợp lý, thế rồi chỉ đành gật đầu đáp: “Vậy xin mời Mạnh tiên sinh ra đề.” Mạnh Thần Thông nói: “Đường chưởng môn là thiên tài nghiên cứu võ học, lẽ ra Mạnh mỗ không xứng ra đề, nhưng đã được nhường cho nên cung kính chi bằng tuân mệnh, tôi chỉ đành làm trò cười mà thôi.” Y ngập ngừng rồi lại nói tiếp: “Ba lần tỉ thí, ai thắng được hai thì coi như toàn thắng. Tôi biết Đường chưởng môn là người rộng lượng, chẳng để tâm đến chuyện thắng thua nhưng cũng phải nói trước, để người khác khỏi nghị luận.” Đường Hiểu Lan vuốt râu cười nói: “Mạnh tiên sinh nói rất phải, ai thắng ai thua cũng đừng nên để trong lòng, nếu tôi thua trước hai trận, trận thứ ba cũng không cần tỉ thí nữa.” Đường Hiểu Lan đồng ý với y tỉ thí ba trận, chưởng môn của các chính phái đều chấn động, trong lòng thầm lo, nếu tỉ thí bản lĩnh võ công, ai cũng cho rằng phần thắng nghiêngvề Đường Hiểu Lan, nhưng nếu tỉ thí kiến thức và đảm lượng, vả lại cũng không biết Mạnh Thần Thông giở trò gì, bởi vậy cũng khó đoán được ai thắng ai thua. Mạnh Thần Thông nói: “Được, tôi sẽ đưa ra đề mục đầu tiên, mời Đường chưởng môn chọn một đệ tử đắc ý nhất ra tỉ thí võ công với tiểu đồ!” Đường Hiểu Lan ngạc nhiên nói: “Chẳng phải đã nói đề mục thử nhất là xem kiến thức võ học của ai hơn hay sao?” 

Mạnh Thần Thông nói: “Đúng thế, nhưng cũng chính như Đường chưởng môn đã nói, đạo võ học không bờ bến, nếu cả hai người chúng ta lấy tinh nghĩa võ học ra mà làm khó nhau, cả ba ngày ba đêm cũng chưa chắc nói hết, mọi người cũng chưa chắc thích những lời đàm luận của chúng ta. Chi bằng cứ để cho bọn đệ tử tỉ thí bằng võ công bổn môn, sau đó chúng ta sẽ chỉ ra chỗ ưu kém trong võ công của chúng, ông nói một điều, tôi sẽ nói theo một điều, như thế cũng có nghĩa chúng ta bình luận võ công của nhau. Xem ra ai chỉ ra ưu điểm và khuyết điểm nhiều hơn thì người đó thắng, như thế chẳng phải sẽ có căn cứ thực tế hơn là nói suông sao?” Đường Hiểu Lan gật đầu: “Biện pháp này cũng giống với các người xưa luận kiếm nhưng không hoàn toàn giống nhau mà cũng có mặt mới mẻ.” Mạnh Thần Thông nói: “Nếu Đường chưởng môn đã đồng ý, vậy xin phái một cao đồ ra đây. Đây là tiểu đồ Cơ Hiểu Phong, Đường chưởng môn và Thống Thiền thượng nhân đều đã gặp.” Đường Hiểu Lan thấy Mạnh Thần Thông phái ra Cơ Hiểu Phong thì nhíu mày, thầm nhủ: “Gã này khinh công siêu phàm, chỉ e Chung Triển chẳng đối phó nổi.” Bởi vì trận này thực tế là một cuộc tỉ võ hai lần, tuy việc thắng thua được quyết định bởi hiểu biết của Đường Hiểu Lan và Mạnh Thần Thông về võ học của đối phương nhưng nếu đệ tử đại diện cho bổn môn thua thì rốt cuộc cũng chẳng vinh quang gì. 

Đại đệ tử của Đường Hiểu Lan là Chung Triển, tuy bảo kiếm pháp đã được chân truyền, nhưng hoa hầu vẫn còn thiếu, Đường Hiểu Lan đang đắn đo thì Đường Kinh Thiên bước ra nói: “Cha, cha cho phép con lãnh giáo cao đồ của Mạnh tiên sinh.” 

Mạnh Thần Thông cười ha hả : “Thiếu chưởng môn đích thân ra tay đúng là đã coi trọng tiểu đồ. Ngươi hãy cẩn thận lãnh giáo thiếu chưởng môn?” Đường Kinh Thiên mang thân phận thiếu chưởng môn của phái Thiên Sơn, lại thành danh đã lâu, uy vọng còn cao hơn rất nhiều chưởng môn của các phái khác, tỉ thí với Cơ Hiểu Phong thật sự là thắng cũng chẳng hay ho gì, không thắng thì sẽ bị chê cười. Lúc nãy Đường Hiểu Lan không muốn bảo chàng bước ra chính là vì thế, nhưng giờ đây việc đã rồi, đành phải chấp nhận. Cơ Hiểu Phong cười hì hì: “Xin mời Đường thiếu chưởng môn rút kiếm!” Đường Kinh Thiên sầm mặt, nói: “Ngươi dùng chưởng thì ta cũng dùng chưởng!” Mạnh Thần Thông cười nói: “Đường thiếu chưởng môn đã hiểu nhầm, trận này tôi và lệnh tôn tỉ thí hiểu biết đối với võ học, dùng biện pháp này để tí thí chính làmuốn thấy tinh hoa võ học của đối phương, sau đó có thể căn cứ vào mà bình luận. Quý phái lừng lẫy võ lâm nhờ kiếm pháp, nếu Dường thiếu chưởng môn không dùng kiếm, thì lát nữa tôi biết nói từ đâu?” Đường Hiểu Lan nói: “Thiên nhi, con cứ dùng kiếm đi!” Đường Kinh Thiên cũng đành chịu, rút cây Du long kiếm ra, Cơ Hiểu Phong cười một tiếng nói: “Thanh kiếm này ánh sáng lấp lánh, trông rất thú vị!” rồi đưa tay toan chụp vào cổ tay của Đường Kinh Thiên. 

Đường Kinh Thiên cả giận, đâm ngược lại một chiêu Hoành vân đoạn phong, kiếm pháp của chàng đã đến mức tùy tâm sở dục, đột nhiên đâm ra một kiếm nhanh như điện chớp, Cơ Hiểu Phong kêu lên: “Ôi chao, không xong!” Rồi y lướt người né tránh, quay đầu lại cười: “Còn may không trúng!” Sau đó sử dụng Thiên la bộ pháp phối hợp với khinh công tuyệt đỉnh, lời chưa dứt thì đã vòng ra sau lưng của Đường Kinh Thiên, vươn tay chụp lấy bảo kiếm của chàng. 

Cơ Hiểu Phong biết bản lĩnh thực của mình chẳng bằng Đường Kinh Thiên cho nên cố ý chọc giận để thừa cơ ra tay, Đường Kinh Thiên quả nhiên trúng kế, những chiêu đầu vì tâm phù khí loạn cho nên có một lần đã bị Cơ Hiểu Phong chạm trúng vào chuôi kiếm, may mà căn cơ của Đường Kinh Thiên rất vững chắc, vừa cảm thấy không ổn thì chân lực nội gia lập tức phát ra, ngón tay của Cơ Hiểu Phong như chạm vào điện, chấn động đến nỗi thối lùi ba bước.  

Đường Kinh Thiên thâu nhiếp tinh thần, hú dài một tiếng triển khai Truy phong thập bát thức trong Thiên Sơn kiếm pháp, từng chiêu đánh gấp ra, chỉ trong chớp mắt thì tựa như sóng biển vỗ vào bờ, hết đợt này đến đợt khác! Thân pháp của Cơ Hiểu Phong cũng nhanh đến cực điểm, y dùng Thiên la bộ pháp phối hợp với khinh công tuyệt đỉnh, luồn qua lách lại trong màn kiếm quang của Đường Kinh Thiên. Chỉ thấy ánh kiếm bóng người trùng trùng điệp điệp, tất cả những người đứng xem đều hoa cả mắt, tựa như xoay người theo Cơ Hiểu Phong. 

Đường Kinh Thiên thét một tiếng, kiếm chiêu càng lúc càng nhanh hơn, vòng kiếm quang càng lúc càng mở rộng như kết thành một màn ánh sáng bọc Cơ Hiểu Phong vào ở giữa, Cơ Hiểu Phong tuy vẫn có thể gắng gượng chống trả nhưng Truy phong thập bát thức, nếu chỉ hơi sơ suất thì sẽ máu rơi tại chỗ, vả lại nội lực của y cũng không thể cầm cự được lâu như Đường Kinh Thiên, Cơ Hiểu Phong rất lanh mắt vừa thấy không ổn thì lập tức mạo hiểm ra chiêu áp sát tới trước người Đường Kinh Thiên, hai tay búng ra, một luồng hàn phong lựa như một mũi tên vô hình bắn thẳng vào hai mắt của chàng. 

Đó chính là công phu Huyền âm chỉ. Môn công phu này được Kiều Bắc Minh cải biến từ Tu la âm sát công, song Tu la âm sát công thì dùng chưởng lực, uy lực đương nhiên mạnh hơn dùng chỉ, nhưng Tu la âm sát công khó luyện còn Huyền âm chỉ thì dễ, Mạnh Thần Thông vì muốn cho y có thành tựụ cho nên sau khi lấy bí kíp về trung thổ thì lập tức dạy cho Cơ Hiểu Phong luyện môn công phu này. 

Huyền âm chỉ lực của Cơ Hiểu Phong lúc này tương được với công lực tầng thử ba của Tu la âm sát công, vốn là chẳng thể làm gì được Đường Kinh Thiên nhưng y dựa vào thân pháp lanh lẹ, dùng đòn hiểm hóc đột kích đôi mắt của Đường Kinh Thiên. 

Đường Kinh Thiên tuy có nội công thâm hậu những đôi mắt là nơi nội công không thể luyện đến, may mà chàng cũng lanh lẹ, vừa cảm thấy không ổn thì nhắm hai mắt, bước xoay người qua, dù như thế nhưng trán cũng bị Cơ Iíểu Phong búng trúng một cái, khi mở mắt ra thì hai mắt vừa sưng vừa đỏ, nước mắt chảy ròng ròng. 

Cơ Hiểu Phong cười nói: “Thiếu chưởng môn, ta chỉ đánh nhẹ ngươi một cái mà không ngờ lại đau đến thế, đừng khóc nữa!” Đường Kinh Thiên cả giận, thi triển sát chiêu, một chiêu Đại mạc cô yên cuộn thẳng ra, một thanh kiếm tựa như biến thành hàng trăm thanh kiếm từ bốn phương tám hướng đánh về phía Cơ Hiểu Phong, chỉ nghe một tràng tiếng loạt soạt vang lên. Áo trên người Cơ Hiểu Phong đã bị kiếm đâm rách năm sáu chỗ nhưng cũng chưa chạm được vào người y.  

Cơ Hiểu Phong cũng thật lớn gan, dưới màn kiếm ảnh mịt mờ mà vẫn áp sát tới người Đường Kinh Thiên, lại giở trò cũ phát ra Huyền âm chỉ, lần này Đường Kinh Thiên đã phòng bị, chàng thổi ra một luồng chân khí nội gia, tựa như gió xuân giải đông hóa giải Huyền âm chỉ của y. 

Nhưng cũng chính vì Đường Kinh Thiên dùng chân khí nội gia chế ngự Huyền âm chỉ lực cho nên không khỏi ảnh hưởng đến tốc độ kiếm chiêu, Cơ Hiểu Phong dần dần có thể lấy lại ưu thế. Lúc này hai bên đều kinh hoảng, một bên sưng mắt, một bên áo quần rách rưới tính ra cũng đồng đều nhau, nhưng với thân phận của Đường Kinh Thiên thì càng cảm thấy hổ thẹn, thầm nhủ: “Nếu mình để y thoát nổi một trăm chiêu thì làm sao ăn nói với các bậc tiền bối?” Bản lĩnh của chàng vốn cao hơn Cơ Hiểu Phong nhiều, nghĩ đến đây thì lập tức nảy ra một ý. Đường Kinh Thiên biết muốn thắng được kẻ địch thì phải lấy sở trường của mình để đánh sở đoản của kẻ địch, thế là thay đổi kiếm pháp, từ cực nhanh trở thành cực chậm, mỗi kiếm như treo một vật nặng ngàn cân, chàng chậm rãi đâm đông một kiếm, tây một kiếm. Cơ Hiểu Phong giật mình, chỉ cảm thấy áp lực trùng trùng từ bốn phương tám hướng dồn tới, dù bộ pháp của y nhẹ nhàng, tay chân lanh lẹ cũng không thể tiến sát tới gần Đường Kinh Thiên. 

 Trong vòng tám thước xung quanh Đường Kinh Thiên tựa như có một bức tường sắt dựng lên, mà bức tường sắt ấy không ngừng mở rộng ra ngoài, bao vây cả Cơ Hiểu Phong. Té ra Đường Kinh Thiên đã sử dụng Đại tu di kiếm thức, nội lực của toàn thân dồn ra mũi kiếm, bề ngoài tựa như chẳng tai hại bằng Truy phong kiếm thức nhưng kình lực ấn chứa sâu xa, dồn ra tựa như dòng sông ngầm. Khinh công của Cơ Hiểu Phong cao minh hơn Đường Kinh Thiên, nội công thì lại kém rất xa, lần này bị Đại tu di kiếm thức vây khốn, phải vùng vẫy như trong dòng nước siết, dù có bơi giỏi cũng khó thoát thân, chỉ hơi sơ sẩy thì họa giáng xuống đầu Cơ Hiểu Phong thấy không xong, thầm nhủ: “Mình thua cũng không sao, nhưng nếu bó tay chịu trói thì sư phụ cũng mất mặt, mình thua cũng phải thua cho vinh quang một chút.” Đường Kinh Thiên từng bước ép tới, Cơ Hiểu Phong đột nhiên xông về phía kiếm của chàng tựa như liều mạng. Đường Kinh Thiên chưng hửng, bởi vì hai bên đã nói trước, trận tỉ thỉ này mỗi bên đại diện cho bổn môn ấn chứng võ công của đối phương, tuy nói binh đao vô tình, sống chết do trời nhưng Cơ Hiểu Phong tội không đáng chết, nếu giết y thì cũng hơi áy náy. 

Kiếm thuật của Đường Kinh Thiên đã đến mức thu phát tự nhiên, ý niệm vừa động thì mũi kiếm lập tức trượt sang một bên, nào ngờ Cơ Hiểu Phong chính là muốn chàng như thế, nhân thời Cơ ấy, áp lực giảm xuống thì lập tức thí triển khinh công tuyệt đỉnh Nhất hạc xung thiên phóng vọt người lên, đồng thời thi triển công phu âm dương trảo.  

Loại công phu âm dương trảo này, chân lực của hai chưởng là một nhu một cương, hai luồng lực đạo dẫn dắt lẫn nhau, tạo thành một vòng xoáy, đủ đế chế ngự tiềm lực của Đại tu di kiếm thức phát ra, nếu công lực của Cơ Hiểu Phong bằng năm thành của Mạnh Thần Thông, không những có thể hóa giải áp lực mà còn mượn lực đạo của Đường Kinh Thiên rồi dồn chàng vào chỗ chết. Đường Kinh Thiên liếc mắt lừa, tay trái đè dẫn xuống, xử ra năm phần chân lực, hay cho Cơ Hiểu Phong, y vừa phóng vọt người lên thì đồng thời cũng trong khoảnh khắc ấy đã tấn công Đường Kinh Thiên ba chiêu, ba chiêu này đều là võ công tà phái trong bí kíp của Kiều Bắc Minh, một là âm dương trảo, hai là Tồi tâm chưởng, ba là Huyền âm chỉ, Đường Kinh Thiên dùng bảo kiếm hộ thân, công lực của bản thân lại hơn y, không đến nỗi bị ám toán nhưng cũng hơi núng thế, trong chớp mắt đã để Cơ Hiểu Phong thoát đi. 

Cơ Hiểu Phong đang hú hồn, định quay đầu lại trêu mấy câu, nào ngờ chưa đứng vững thì đột nhiên có một luồng ám kình xé gió bay tới, Cơ Hiểu Phong xoay người trên không trung, dù y né tránh lanh lẹ cũng trúng một cây Thiên Sơn thần mãng của Đường Kinh Thiên, lập tức rơi xuống đất. 

Hồi Thứ Bốn Mươi Tám

Thiên Sơn thần mãng là loại ám khí uy lực nhất, may mà Đường Kinh Thiên nương tay, vả lại Cơ Hiểu Phong lướt ra đến bảy tám trượng mới bị chàng bắn trúng, bởi vậy tuy bị thần mãng bắn trúng nhưng chẳng hề phạm đến xương. 

Trong cuộc tỉ thí này Đường Kinh Thiên đã thắng, nhưng thắng cũng rất mất sức, chàng thầm kêu: “Hổ thẹn.” Đường Hiểu Lan nói: “Thiên nhi, cho y một viên trích linh đơn.” Cơ Hiểu Phong phóng vọt lên, nói: “Không cần người đưa, ta đã tự lấy, nói xong thì lấy ra một bình ngọc nhỏ, trong có mười mấy viên thuốc, y lấy ra hai viên rồi ném bình thuốc về cho Đường Kinh Thiên, cười rằng: “Đa tạ ngươi đã nương tay, ta không đám lấy nhiều, trả cho ngươi số còn lại.” Té ra lúc nãy lướt sát tới người Đường Kinh Thiên đối chưởng, y đã móc bình ngọc này. Lúc đó Đường Kinh Thiên đang chú tâm ứng phó không ngờ đã mắc lỡm. Thế rồi chàng nhận lấy bình ngọc mà chẳng nói lời nào.  

Mạnh Thần Thông điềm nhiên nói: “Hai người đã dốc hét sức, giờ đến lượt tôi lĩnh giáo tinh nghĩa võ học của Đường chưởng môn.” Đường Hiểu Lan nói: “Mạnh tiên sinh không cần khách sáo, xin nhờ ông chỉ giáo võ công cho tiểu nhi trước.” 

Mạnh Thần Thông nói: “Cũng được, tôi sẽ ném gạch dẫn ngọc. Trước tiên nói về nội công của lệnh lang, theo tôi thấy y đã luyện đến thần khí hợp nhất, nhưng vẫn chưa luyện đến cảnh giới tam tượng quy nguyên.” Đường Hiểu Lan thất kinh, không ngờ y lại rõ nội công tâm pháp chính tông của bổn môn như bàn tay. Số là năm xưa Kiều Bắc Minh đã đàm luận về nội công với tổ sư của phái Thiên Sơn là Hoắc Thiên Đô, Kiều Bắc Minh đã ghi những lời này trong bí kíp võ công. 

Song nội công chính tông phải luyện từ gốc, muốn luyện đến cảnh giới cao nhất cũng phải mất đến ba mươi năm, không nhanh chóng có thành tựu như nội công của tà phái, cho nên Mạnh Thần Thông tuy biết tâm pháp nội công chính tông trong bí kíp nhưng chỉ trong vòng ba năm, đừng nói là y không có lòng nhẫn nại, dù có chịu luyện cũng khó được tinh thuần, song nếu y đem ra đàm luận thì có thể thao thao không ngớt. 

Đường Hiểu Lan gật đầu: “Điều Mạnh tiên sinh nói chính là chỗ kém của tiểunhi, Đường mỗ rất khâm phục.” Mạnh Thần Thông nói: “Đường chưởng môn đừng khách sáo.” Đường Hiểu Lan nói: “Theo tôi thấy, nội công của lệnh đồ hình như là công phu quá chú trọng đến tẩy mao phật tủy, có dư bá đạo, không đủ vương đạo.” 

Đường Hiểu Lan chỉ dựa vào hiểu biết của bản thân để bình luận võ công của đối phương, không nói cặn kẽ như Mạnh Thần Thông, nhưng coi như cũng đã nói đúng chỗ, Mạnh Thần Thông cũng thầm phục, cho nên gật gù. 

Tiếp theo Mạnh Thần Thông lại đàm luận Thiên Sơn kiếm pháp của Đường Kinh Thiên, bởi vì năm xưa Kiều Bắc Minh bại dưới kiếm của Trương Đan Phong, sau đó đã nghiên cứu mấy mươi năm, giả sử kẻ địch là Trương Đan Phong, Thiên Sơn kiếm pháp là do Trương Đan Phong chỉ điểm cho Hoắc Thiên Đô rồi Hoắc Thiên Đô mới sáng tạo ra, tuy không giống nhau hoàn toàn, vả lại trải qua hơn hai trăm năm, được người của phái Thiên Sơn cải tiến, nội dung phong phú hơn nhiều nhưng rốt cuộc cũng cùng một nguồn với kiếm pháp của Trương Đan Phong.  

Chỉ nghe Mạnh Thần Thông thao thao bất tuyệt, tựa như nói ra mà chẳng cần suy nghĩ, chỉ ra đến mươi ba chỗ sơ hở trong Thiên Sơn kiếm pháp, tiếp theo là nói mười một điều tinh diệu trong kiếm pháp của Đường Kinh Thiên, Đường Kinh Thiên nghe mà trợn mắt há mồm, thầm bội phục. Mạnh Thần Thông hơi ngừng lại rồi mỉm cười, sau đó lại nói tiếp: “Kiếm pháp của lệnh lang tuy có mười chỗ sơ hở nhưng trong đó có chín chỗ sơ hở là do bản thân vẫn chưa luyện tới nơi, bởi vậy khuyết điểm thật sự của kiếm pháp chỉ có bốn chỗ mà thôi trong kiếm pháp của các phái các nhà vẫn có thể tính là hàng đệ nhất!” Đường Hiểu Lan nghe y khen thì trong bụng càng rầu hơn, ông ta chưa từng thấy những loại công phu mà Cơ Hiểu Phong sử dụng. Với khả năng của ông ta, có thể miễn cưỡng chỉ ra ưu điểm khuyết điểm nhưng nhiều nhất cũng chỉ có thể nói được mươi điều, so với hai mươi bốn điều mà Mạnh Thần Thông đã nói thì cách nhau đến một nửa. Mạnh Thần Thông cười: “Tiểu đồ chỉ theo tôi ba năm, võ nghệ vẫn chưa tinh, sơ hở chắc nhiều hơn mong Đường đại hiệp không tiếc chỉ giáo. Mạnh mỗ nguyện nghe cao luận. Ồ, sao Dường đại hiệp lại chần chừ? Đúng rồi, cuộc tỉ thí này của chúng ta còn thiếu người bình phán, có cần mời các vị đại sư võ học ra đây bình luận cho chúng ta một phen hay không?” Đường Hiểu Lan trầm giọng nói: 

“Không cần. Mạnh tiên sinh hiểu biết rộng rãi, kiến học hơn người, Đường mỗ thấy không bằng tôi chịu nhận thua trận này.” Ông ta vừa nói ra lời ấy, toàn trường đều thất sắc, có rất nhiều người thầm bất bình, trong cuộc tỉ võ thật sự thì con trai ông ta đã thắng, những tỉ võ bằng miệng thì ông ta lại thua, đó chẳng phải Mạnh Thần Thông đã chiếm tiện nghi rất lớn hay sao? Nhưng họ đã nói trước, cho nên mọi người tuy bất bình nên cũng đành chịu. 

Mạnh Thần Thông nói: “Đường chưởng môn khiêm nhường, Mạnh mỗ rất lo lắng, hổ thẹn không dám nhận lời khen, chỉ đành đa tạ ông. Thôi được, bây giờ có thểbắt đầu cuộc tỉ thí thứ hai chưa?” Đường Hiểu Lan nói: “Mời Mạnh tiên sinh ra đề.” Trong lòng thầm lo, không biết y lại giở trò gì để làm khó mình.

Mạnh Thần Thông kêu lên: “Dương sư đệ, đệ chuẩn bị xong chưa?” Dương Xích Phù nói: “Đã xong!” Chỉ thấy y bưng ra một cái mâm, trong cái mâm có một cái ly lớn, hai cái ly nhỏ, ly lớn thì chứa đầy nước, ly nhỏ thì trống không. Mọi người cảm thấy rất kỳ lạ, không biết những thứ này đùng để làm gì. Mạnh Thần Thông lấy ra một cái túi giấy nhỏ, xé ra trước mặt mọi người, đổ bột trong túi vào cái ly lớn, sau khi khuấy đều thì san ra hai cái ly nhỏ, dung lượng của hai cái ly nhỏ bằng với một cái ly lớn. Mạnh Thần Thông làm xong xuôi thì mới chậm rãi nói: “Loại bột trong chiếc túi này là do bảy loại thuốc độc hợp thành, sau khi uống xong thất khiếu sẽ chảy máu mà chết! Trận này tỉ thí dũng khí và đảm lượng, không biết Đường chưởng môn có đảm lượng cùng tôi uống cạn một ly hay không?” Không ai ngờ đến Mạnh Thần Thông lại đưa ra cách tỉ thí như thế này, ai nấy đều xôn xao bàn tán. Mạnh Thần Thông lại lạnh lùng nói: “Các vị đừng ồn, trước tiên hãy nghe tôi nói một lời.” Giọng nói của y tuy không cao, nhưng mỗi chữ tựa như kim khí gõ vào nhau, át tiếng của tất cả mọi người. 

Mạnh Thần thông cười lạnh nói: “Nếu nói đến thuốc giải độc, trong thiên hạ không có loại nào bằng Thiên Sơn liên, Đường chưởng môn lại có bích linh đơn bào chế từ Thiên Sơn liên, vả lại trận này là tỉ thí đảm lượng chứ không phải tỉ thí bản lĩnhgiải độc, Đường chưởng môn là người có tiếng tăm trong võ lâm, Mạnh mỗ cũng chẳng phải là hạng vô danh, thử hỏi trước mắt mọi ngươi, ai dám sau khi uống rượu độc mà mở mắt nhìn đối phương chết đi còn bản thân mình lại uống thuốc giải để mong được sống, không sợ anh hùng trong thiên hạ chê cười sao?” những câu ấy lợi hại vô cùng, cắt cả đường sống của Đường Hiểu Lan, ai nấy đều nhìn nhau chẳng nói lời nào. Chỉ nghe Mạnh Thần Thông lại cười ha hả: “Thật ra các vị cũng không cần lo lắng, tôi sẽ nói cho các vị hay, gói bột thuốc này gồm bảy thứ cực độc hợp thành, đó là khổng tước đảm, hạc đỉnh hồng, kim tàm trùng, hồng xà diên, đoạn trường hoa, hủ cốt thảo, hắc tâm liên, hễ trúng phải một trong bảy loại độc này nếu lập tức uống những loại thuốc giải như Thiên Sơn liên có lẽ sẽ giữ mạng được một giờ; bảy loại hợp thành mà lại pha trong rượu, trên đời này chẳng có thuốc nào giải nổi! Đây là cuộc tỉ thí công bằng nhất, tôi và Đường chưởng môn cùng uống thuốc độc, cùng chết một lúc không ai chiếm tiện nghi của ai!” Đường Hiếu Lan đã hứa trước, để mặc cho y ra đề, mà đề tài y đưa ra, tuy Đường Hiểu Lan khó tưởng tượng nhưng nghe ra lại rất công bằng, người kế bên Đường Hiểu Lan đều điên ruột, ai nấy cũng kinh hoảng nhìn Đường Hiếu Lan, lòng thầm kêu: “Hỏng bét, hỏng bét!” Thử hỏi Đường Hiểu Lan đã nói trước thì làm sao nuốt lời? Dương Xích Phù bưng cái khay đến trước mặt họ, Mạnh Thần Thông nói: “Nếu Đường chưởng môn không có đảm lượng, nhận thua cũng được. Vậy thì về sau Mạnh mỗ làm chuyện gì thì cũng mong Đường chưởng môn đừng để ý đế!” Đường Hiểu Lan đã thua một trận, nếu nhận thua trận này, tất nhiên trận thứ ba không cần đấu nữa, theo qui củ võ lâm, ông ta phải lập tức trở về Thiên Sơn, cho nên Mạnh Thần Thông mới nói như thế. 

Đường Hiểu Lan chợt lên tiếng: “Không cần nhiều lời, ta sẽ chiều theo!” Giọng nói vẫn bình tĩnh như thường, thần thái trang nghiêm cực kỳ! Thống Thiền thượng nhân niệm một tiếng Phật hiểu rồi khẽ khen rằng: “Đường đại hiệp đúng là đại từ đại bi, đại nhân đại dũng. Tuy chưa xuống tóc nhưng đã có lòng Bồ Tát!” Đường Hiểu Lan biết nếu mình nhận thua, chẳng ai có thể chế phục nổi Mạnh Thần Thông, cho nên mới chấp nhận ôm nhau cùng chết với đại ma đầu để cứu võ lâm thoát khỏi một trận hào kiếp. 

Đường Hiểu Lan chấp nhận uống thuốc độc mà chẳng hề do dự, Mạnh Thần Thông tựa như rất bất ngờ, mặt hơi biến sắc nhưng vẫn bình thản trở lại trầm giọng nói: “Đã như thế chúng ta bắt đầu ngay thôi. Đường chưởng môn, hai ly rượu độc này đều như nhau, để người khác khỏi bàn ra tán vào, xin mời ông chọn trước một ly.” 

Đường Hiểu Lan nói: “Tôi đương nhiên tin Mạnh tiên sinh.” Rồi tiện tay bưng một ly trước mặt.  

Mạnh thần Thông cũng bưng ly còn lại, hai người đứng đối diện nhau, Mạnh Thần Thông nói: “Đường chưởng môn, xin mời ông chỉ định một người phát hiệu lệnh, khi đếm một thì chúng ta cùng nâng ly, đếm tới hai thì chúng ta kề ly vào môi; đếm đến tiếng thứ ba thì chúng ta đổ rượu vào miệng, ông thấy có công bằng không?” 

Đường Hiểu Lan nói: “Lệnh sư đệ đang ở trong sân,cứ để y phát hiệu lệnh.” Thầm nhủ: “Nếu để bằng hữu của mình phát lệnh, chỉ e họ không thể kêu ra tiếng.” Tuy Dương Xích Phù đã biết cuộc tỉ thí này sẽ xảy ra. nhưng y không ngờ Đường Hiểu Lan lại đồng ý, lúc này hoảng sợ đến nỗi sắc mặt tái xanh, vội hít sâu một hơi, một lát sau mới run run nói: “Một!” Cả hai người cùng nâng ly, các đệ tử chính phái phe Đường Hiểu Lan, có người lấy tay che mặt không dám nhìn, có người khẽ bật tiếng khóc. 

Dương Xích Phù lại đếm “Hai!” Cả hai người Đường, Mạnh đưa chén rượu độc lên môi, Đường Kinh Thiên chấn động cõi lòng, hầu như muốn lấy Thiên Sơn thần mãng bắn về chén rượu, chàng vừa nảy ra ý nghĩ ấy thì chợt thấy ánh mắt của chamình trừng trừng, sáng như điện nhìn về phía mình! Đường Kinh Thiên bất giác giật mình, chỉ đành cúi đầu xuống. 

Lúc này có đến ngàn ngươi nhưng tĩnh lặng như một thung lũng chết, tựa như có thể nghe được tiếng cây kim rơi xuống đất! Cuối cùng Dường Xích Phù trầm giọng kêu một tiếng “Ba!” Ngay lúc này, chợt thấy Mạnh Thần Thông cung tay trái, hai ngón tay búng ra keng một tiếng, chén rượu trong tay Đường Hiểu Lan rơi xuống đất về thành từng mảnh, rượu độc băng tứ tán, phát ra ánh lửa màu xanh lam, cỏ dại bị dính rượu độc đều lập tức khô quéo lại. Đường Hiểu Lan quát: “Thế là sao?” Nói chưa đứt thì Mạnh thần Thông đã ném chén rượu độc ra xa, cười khổ sở nói: “Quả nhiên Đường chưởng môn có đảm lượng, coi như tôi thua trận này!” Mạnh Thần Thông vốn cho rằng Đường Hiểu Lan không dám uống rượu độc, cho đến khoảnh khắc sinh tử, y nghĩ dù sao mình cũng đã thắng một trận, cuối cùng đã chịu lép, thà đấu một trận với Đường Hiểu Lan chứ không dám lấy mạng ra cá cược! Trong trận này Mạnh Thần Thông cứ lấn lướt tới, mọi người đều như có một tảng đá nặng ngàn cân trong lòng, cho đến lúc này nghe rõ Mạnh Thần Thông đã nhận thua thì mới thở phào. 

Hiểu lan nói: “Tôi tưởng không cần tỉ thí trận thứ ba nữa, không ngờ Mạnh tiên sinh lại nhường trận này, Đường mỗ chỉ đành lại lãnh giáo Mạnh tiên sinh.” Mạnh Thần Thông cười gượng nói: “Mạnh mỗ chỉ vì muốn xem võ công tuyệt thế của Đường chưởng môn cho nên vẫn chưa muốn chết. Nếu lúc nãy hai người chúng ta cùng chết, tôi chẳng có được cái phước ấy.” Câu này đương nhiên là tự giải vây cho mình, nhưng cũng cho thấy y muốn liều mạng cùng Đường Hiểu Lan. 

Đường Kinh Thiên nói: “Con trả Du long kiếm lại cho cha.” Đường Hiểu Lan cười nói: “Cũng được, đã gần hai mươi năm nay cha không dùng kiếm, hôm nay mới phá lệ vì Mạnh tiên sinh!” Mạnh Thần Thông nói: “Xin đa tạ, xin mời ban chiêu.” 

Đường Hiểu Lan nói: “Mạnh tiên sinh là khách, Đường mỗ nào dám vượt qua!” Mạnh Thần Thông nói: “Nếu thế xin... chỉ... giáo y kéo dài ba chữ này nghe rất chối tai, tựa như một cây dùi nhọn đâm qua màng nhĩ người ta, đó chính là môn công phu quái dị trong tà phái tên gọi Lịch thanh đoạt phách, tuy không bằng công phu Sư tử hống của Phật môn nhưng làm rối loạn tinh thần của đối phương. Những đệ tử chính phái công lực hơi kém đều chịu không nổi, vội vàng bịt lỗ tai. 

Nội công, định lực của Đường Hiểu Lan hơn hẳn người khác, môn công phu bàng môn tả đạo đương nhiên chẳng làm tinh thần ông ta phân tán, nhưng ông ta cũng phải ngưng thần ứng phó, Mạnh Thần Thông nói đến chữ “giáo”, đột nhiên hai chưởng chắp lại đẩy mạnh về phía trước, bề ngoài tựa như y thi lễ, nhưng đã ngầm dồn ra chưởng lực tầng thứ chín của Tu la âm sát công, vả lại hai chưởng cùng đẩy ra mạnh hơn lúc nãy gấp hai lần! Đường Hiểu Lan giật mình, nhưng thần sắc vẫn tự nhiên, ôm kiếm vái trở lại, thân hình vẫn không thay đổi, thối lùi ra sau ba bước, trong chớp mắt chỉ thấy chòm râu dài rung lên bần bật, ánh mắt lấp lánh, lạnh lùng nói: “Mạnh tiên sinh không cần nhiều lễ, Đường mỗ trả chiêu đây!” Du long kiếm rút soạt ra khỏi bao chậm rãi đâm về phía trước. 

Nhát kiếm này tuy chậm nhưng hàm chứa biến hóa cực kỳ phức tạp ảo diệu, Mạnh Thần Thông biết nếu mình chỉ hơi nhúc nhích thì kiếm của đối phương sẽ đâm theo như hình với bóng, cho nên vẫn đứng yên giơ ngang chưởng trước ngực, mỉm cười nói: “Mạnh mỗ đã bày trò trước, Đường chưởng môn đừng khách sáo, cứ mặc sức ban chiêu.” Cử chỉ tựa như rất ngạo mạn nhưng thực sự đứng dò yếu quyết võ học, lấybất biến ứng vạn biến. 

Muốn đối phó vô loại kiếm pháp thượng thừa này của Đường Hiểu Lan chỉ có một cách như thế. Ngoại trừ hai vị Thái sơn bắc đẩu của võ lâm là Thống thiền thượng nhân và Kim Quang đại sư, tất cả những người khác đều lấy làm lạ, Giang Nam nói: “Đối đấu này đúng là kỳ lạ vô cùng, miệng thì khách sáo nhưng mắt thì mở to như đèn lồng, hai bên nhìn nhau mà vẫn chưa chịu mau mau động thủ, cứ người này đẩy người kia nhường. Thế là sao?” Một nữ đệ tử phái Nga Mi đứng bên cạnh bật cười, Trần Thiên Vũ liếc nhìn chàng: “Đệ hiểu cái gì, đừng nói càn!” Thật ra Trần Thiên Vũ cũng chẳng biết đang xảy ra chuyện gì, cho rằng Giang Nam càng nói thì càng sai, người ta sẽ nghĩ rằng chúng ta bất kính đi Đường đại hiệp. 

Lúc này hai người Đường, Mạnh đều tập trung tinh thần, chẳng hề nghe thấy lời bàn tán của những người xung quanh. Đường Hiểu Lan vẫn đứng vữa vàng, khi cây kiếm còn cách ngực Mạnh Thần Thông ba thước thì đầu kiếm rung rung. Mạnh Thần Thông cũng hiên ngang giơ ngang chưởng trước ngực, thần sắc nặng nề vô cùng. Trải qua khoảng thời gian một tuần trà, Đường Hiểu Lan thấy trong ánh mắt của Mạnh Thần Thông có chút lo sợ thì đột nhiên đâm kiếm ra! Bởi vì hai bên công thủ đều sử dụng các loại võ công cao thâm nhất, bên ra tay tấn công trước nếu không tính toán chính xác, giành ngay ưu thế áp đảo từ ban đầu khi vừa mới tấn công thì thế thủ đương nhiên sẽ yếu đi, đối phương có thể thừa Cơ tấn công vào. Kiếm thuật của Đường Hiểu Lan đã đến cảnh giới cao nhất, chỉ thấy cây Du long kiếm lia lên không trung, múa ra một màn kiếm ảnh, chỉ trong vòng một chiêu đã tấn công vào ba mươi sáu đại huyệt của Mạnh Thần Thông. Chỉ nghe mấy tiếng loạt soạt vang lên liên tiếp, tiếp theo là một tiếng coong nghe rất rõ ràng, lần này thì cả Thống Thiền thượng nhân và Kim Quang đại sư cũng không nhìn thấy rõ, chỉ thấy Mạnh Thần Thông đã lộn người phóng ra. Đường Hiểu Lan đuổi gấp theo, ánh bạch quang như điện giáng vào lưng của Mạnh Thần Thông, cát chạy đá bay tựa như cuồng phong trỗi dậy. Nhất thời có hai người đều bị bao trùm bởi gió cát! Thống Thiên thượng nhân định thần, thở phào nói với Kim Quang đại sư: “Nguy thật, nhưng rốt cuộc Đường đại hiệp đã chiếm thượng phong!” Số là Mạnh Thần Thông lấy được nửa quyển bí kíp võ công, phần chủ yếu nhất là nghiên cứu cách đối phó Thiên Sơn kiếm pháp may mà chiêu này của Đường Hiểu Lan là do tổ sư Lăng Mạt Phong mới sáng tạo, lúc đó Kiều Bắc Minh đã chết được nhiều năm, Đường Hiểu Lan lại biến hóa thêm, nhân lúc Mạnh Thần Thông lộ vẻ hí hửng thì bất ngờ đánh ra. Quả nhiên khiến cho y luống cuống chân tay, nhát kiếm ấy đã cắt chòm râu của y, lại đâm rách đến bảy chỗ trên trường sam của y. 

Nhưng Mạnh Thần Thông cũng rất ghê gớm, y tuy không biết chiêu này nhưng đã hiểu được nguyên lý của Thiên Sơn kiếm pháp, bởi vậy trong lúc nguy ngập đã sử dụng Thiên la bộ pháp phối hợp với khinh công Đăng vân tông thoát thân, vả lại khi né chiêu này còn sử dụng công phu Huyền âm chỉ búng vào thân kiếm của Đường Hiểu Lan. Cú búng này tuy chẳng làm gì được Đường Hiểu Lan nhưng cũng khiến cho thanh Du long kiếm trở nên lạnh lẽo như băng tuyết! Đường Hiểu Lan cũng không khỏi giật mình, té ra Mạnh Thần Thông đã luyện được bản lĩnh Cách vật truyền công lợi hại nhất trong tà phái, y dùng Huyền âm chỉ phát ra Tu la âm sát công, bắn trúng vào Du long kiếm, lập tức tựa như có một luồng hàn khí truyền vào, đánh thẳng vào mạch môn cổ tay phải của Đường Hiểu Lan. 

Mạch môn là nơi yếu hại của con người, chỉ kém có tâm tạng, nội công của Đường Hiểu Lan tuy đã đến mức tinh thuần nhưng cũng không thể không vận khí chống đỡ.  

Đối với Mạnh Thần Thông, cuộc chiến này là tìm sự sống trong cái chết, bởi vậy tuy thanh Du long kiếm phát huy áp lực to lớn nhưng y vẫn ráng liều mạng tấn công, thi triển các loại võ công tà phái hiểm độc nhất, đúng là sóng trước chưa lặng sóng sau đã dồn tới, Thống Thiền thượng nhân đã là một cao tăng đắc đạo, đã biết rõ Đường Hiểu Lan có thể giữ vững thượng phong, nhưng nhìn cuộc ác chiến chưa từng có này cũng không khỏi lo âu. 

Lúc này Đường Hiểu Lan lại áp dụng chiến lược ban nãy của Mạnh Thần Thông, lấy bất biến ứng vạn biến, triển khai Đại tu di kiếm thức, nhốt cả hai bên vào màn kiếm quang, mặc cho Mạnh Thần Thông tấn công mạnh mẽ đến mức nào, ông ta vẫn chẳng dời bước một phân. Mặc dù Mạnh Thần Thông đánh ra nhiều kỳ chiêu nhưng chẳng thể nào phá nổi màn kiếm quang hộ thân của ông ta. Vả lại nội cóng của Đường Hiểu Lan thâm hậu chẳng ai bì, Mạnh Thần Thông thi triển các loại thần công của tà phái trong màn kiếm quang, tiềm lực chạm vào người ông ta đều bị ông ta hóa giải tựa như ném đá vào biển khơi, dù nước bắn lên tung tóe nhưng cuối cùng cũng chìm nghỉm, y thấy tấn công mạnh mẽ chẳng được ích gì thì trong bụng thầm lo lắng. 

Số là y đã đốc hết tâm trí nghĩ ra ba cuộc tỉ thí, cuộc thứ nhất do Cơ Hiểu Phong đấu với Đường Kinh Thiên. Đây là một kế sách vẹn cả đôi đường, một mặt có thể thắng Đường Hiểu Lan bằng cách bình luận võ công, mặt khác lại có thể quan sát Thiên Sơn kiếm pháp, cho nên trận thứ nhất chính là chuẩn bị cho cuộc tỉ thí thật sự trong trận thứ ba. Nào ngờ y tuy biết được bí quyết Thiên Sơn kiếm pháp trong bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, lại đã quan sát trước nhưng khi động thủ thì vẫn cảm thấy khó ứng phó. Điều đó không những là do Thiên Sơn kiếm pháp đã cải biến, vả lại Đường Hiểu Lan đã dùng nội công tinh thuần để vận dụng bộ kiếm thuật thiên biến vạn hóa, dù một chiêu bình thường đến mức nào nhưng uy lực cũng tăng lên đến bất ngờ, tuy Mạnh Thần Thông đã chuẩn bị trước nhưng cũng chỉ có thể miễn cưỡng chống đỡ chứ chưa nói đến phá giải được. 

Đang lúc kịch chiến chợt nghe tiếng loạt soạt vang lên, tà áo của Mạnh Thần Thông lại bị thủng thêm mấy chỗ, tiếp theo đó ở vai lại trúng một nhát kiếm, may mà y đã có chuẩn bị trước, vội vàng dùng Thiên la bộ pháp né tránh cho nên da chỉ bị xước nhẹ. Mạnh Thần Thông vừa kinh vừa hoảng, trong lòng thầm nhủ, “Nếu cứ giằng co mãi e rằng mình chỉ có thể chống đỡ, rốt cuộc sẽ mất mạng dưới kiến của y.” 

Ác niệm chợt nảy ra, y dùng chưởng lực như dời núi lấp biển đẩy nhẹ thanh kiếm của Đường Hiếu Lan ra rồi lướt tới nhanh như điện chớp, lại búng vào chuôi kiếm ba cái! 

Chiêu này rất hiểm hóc, chỉ thấy kiếm quang lướt qua, tóc Mạnh Thần Thông bị chém một mảng, suýt nữa đã trọc đầu! Đương Xích Phù và Cơ Hiểu Phong đều không khỏi kêu lên thất thanh, lúc nãy khi hai bên kịch chiến, bảo kiếm của Đường Hiểu Lan đã bị Mạnh Thần Thông búng bốn năm lần, nhưng mỗi lần đều cách nhau một lúc, mạch môn tuy bị tà khí âm hàn đánh vào nhưng với nội lực của mình, Đường Hiểu Lan vẫn chưa cảm thấy gì, lần này bị búng liên tiếp ba lần, dù nội công của Đường Hiểu Lan chẳng ai bì kịp nhưng cũng không khỏi giật mình, cổ tay cảm thấy hơi tê. 

Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Mạnh Thần Thông vung hai tay lên nhảy bổ tới, Đường Hiểu Lan quát: “Hay lắm!Ta muốn xem thử Tu la âm sát công!” Rồi cây Du long kiếm phóng ra, một đạo ngân quang bay thẳng tới, mọi người đều kinh hãi, chỉ nghe bốp bốp hai tiếng, bốn chưởng đã giao nhau. 

Đệ tử chính phái thấy Đường Hiểu Lan ném kiếm thì không khỏi thất sắc. Họ không biết rằng Đường Hiểu Lan tự bỏ kiếm cố ý tỉ thí nội công với y. Bởi vì mạch môn của ông không những đã bị khí âm hàn đánh vào, cổ tay cũng hơi tê, nếu vẫn dùng Thiên Sơn kiếm pháp thì không thể linh hoạt như lúc đầu, chắc chắn sẽ tạo sơ hở cho Mạnh Thần Thông, bởi vậy chi bằng dùng nội công tinh thuần tỉ đấu thì càng nắm chắc phần thắng hơn. 

 Mạnh Thần Thông cũng có ý như thế. Y đương nhiên biết nội công của mình không bằng Đường Hiểu Lan nhưng Tu la âm sát công lại có thể làm đối phương hao tổn chân lực, trong tình huống ấy, có lẽ y sẽ may mắn giành được phần thắng; hơn nữa nếu không thắng đến cuối cùng y vẫn có thể thi triển loại thần công tà phái lợi hại nhất để cùng chết với kẻ địch. 

Một lúc sau, chỉ thấy trên đỉnh đầu Đường Hiểu Lan khó bốc lên như bị chụp lồng hấp, những cao thủ võ công cao cường đều biết ông ta dùng nội công tuyệt đỉnh đẩy tà khí trong người ra, không khỏi vừa lo lắng vừa khâm phục. 

Mạnh Thần Thông đã luyện đến nội công chính tà hợp nhất, tuy không tinh thuần thâm hậu như Đường Hiểu Lan nhưng bá đạo hơn nhiều, hai bên đã sắp đến lúc sinh tử tồn vong. Mạnh Thần Thông cố gắng thi triển, đẩy nội lực như dời núi lấp biển từ lòng bàn tay đánh ra! Chòm râu dài của Đường Hiếu Lan bay phất phơ, khí trắng trên đầu càng lúc càng dày, nhưng nội lực của Đường Hiểu Lan phát ra tuy nhu hòa vô cùng nhưng cũng rất dẻo dai, mặc cho Mạnh Thần Thông dồn ra đến mức nào ông ta vẫn có thể phòng ngự được, chân chẳng hề nhúc nhích. Không những như thế, nội lực của Mạnh Thần Thông đều bị ông ta hóa giải. Hai người một chính một tà, thi triển thần công tuyệt đỉnh dồn ép nhau, một người như mùa đông lạnh lẽo, một người như ngày xuân ấm áp, hàn khí lạnh lẽo cuối cùng đã tan biến trong làn gió mùa xuân. 

 Nhưng các bậc đại sư võ học đều không thể biết được sự biến hóa vi diệu ấy, họ chỉ nghĩ rằng một bên công một bên thủ, mà Đường Hiểu Lan thì chủ thủ, Mạnh Thần Thông chủ công. 

Lúc đầu họ nghĩ rất lạc quan, nếu Đường Hiểu Lan đấu công phu chân thực thì nắm chắc được phần thắng, giờ đây hai người tỉ thí nội công mà vẫn giằng co với nhau Đường Hiểu Lan hơi đuối thế, ai nấy đều lo lắng. Nếu tỷ thí bằng môn khác, phía bại có lẽ không đến nỗi mất mạng, chỉ có tỉ thí nội công thì không được may mắn như thế, hễ thắng thua vừa phân thì lập tức biết ngay sống chết! Nếu đôi bên cân bằng thì sẽ lưỡng bại câu thương! Vả lại hai đại cao thủ này đều có thần công tuyệt thế, trong thiên hạ không ai có thể hóa giải nổi! Mọi người đều căng thẳng đến nỗi như ngừng thở. Trong khoảnh khắc căng thẳng ấy, Thống Thiền thượng nhân nheo mắt lắng nghe, chợt nghe có tiếng xì xì, Thống Thiền thượng nhân thất kinh, vội vàng hỏi: 

“Đạo huynh, tiếng gì thế?” Kim Quang đại sư ngưng thần lắng nghe, nói: “Thật lạ, hình như dưới đất có thứ gì chui qua đây.” Thống Thiền thượng nhân nói: “Hình như không giống con người?” Kim Quang đại sư nói: “Không giống.” Tiếng xì xì này tựa như đang đốt giấy.” Âm thanh ấy cực kỳ nhỏ bé, ngoại trừ hai vị đại sư, chẳng ai phát hiện, Thống Thiền thượng nhân càng nghe càng nghi ngờ, đang định lên tiếng thì chợt nghe người phía bên Mạnh Thần Thông kêu hoảng, chỉ thấy một bóng người nhảy bổ vào đám người, kẹp một người rồi bỏ chạy, bọn cao thủ như Lăng Tiêu Tử, Dương Xích Phù, Phù Li Tiệm chẳng thể nào ngăn cản nổi. Phùng Anh kêu lên: “Này, muội muội, muội xem, người này đã ác đấu với Mạnh Thần Thông hôm ấy!” Phùng Lâm mở to mắt nhìn, chẳng lên tiếng, lòng thầm nhủ: “May mà Mai nhi không có ở đây.” 

Người ấy đeo mặt nạ da người, động tác nhanh đến kỳ lạ, giữa thanh thiên bạch nhật mà xuất hiện như một bóng ma, ngoại trừ Phùng Lâm, chẳng ai biết người đó là ai, nhưng nhận ra người mà y kẹp lấy, đó chính là thống lĩnh ngự lâm quân Tư Không Hóa. Mà bản lĩnh của Tư Không Hóa thì ai cũng biết, tuy chẳng phải là cao thủ thuộc hàng tuyệt đỉnh nhưng cũng có thể thuộc hàng nhất lưu, thế nhưng bị người ấy bắt một cách dễ dàng, ai cũng đều thất kinh. Khi mọi người kêu hoảng, người ấy đã chạy xuống sườn núi, vài đệ tử Thiếu Lâm vội vàng chạy theo ngăn cản, người ấy giọng nói: “Thứ này rất hợp với ta!” Rồi đưa tay giật cây phương tiện sản trong tay Đại Bi thiền sư. Y kẹp Tư Không Hóa, nhưng tay chân cũng rất lanh lẹ, các đệ tử Thiếu Lâm bày trận ngăn cản nhưng chẳng hề chạm được vào áo y! Lúc này Đường Kinh Thiên đã nhận ra người ấy chính là kẻ đã cứu Lệ Thắng Nam, sợ rằng y làm chuyện bất lợi đối với cha mình cho nên phóng ra một lượt ba cây Thiên Sơn thần mãng! Người ấy một tay kẹp Tư Không Hóa, một tay cầm cây phương tiện sản từ lưng chừng núi nhảy xuống, Thiên Sơn thần mãng bay đến như điện chớp, y chưa chạm đất thì Thiên Sơn thần mãng đã phóng vào bối tâm của y! 

Kẻ này rơi từ trên cao xuống đầm nước ở bên dưới, nước bắn lên tung tóe! Nhất thời tiếng hoan hô và tiếng la hét hòa vào nhau, có người kêu lên vì thân pháp của kẻ này quá đẹp đẽ, có người lại kêu hoảng vì y rơi xuống đầm nước! Thống Thiền thượng nhân rất ngạc nhiên, thầm nhủ: “Người này võ công trác tuyệt, chẳng kém gì Đường Hiểu Lan, theo lý mà nói y có thể đánh rơi Thiên Sơn thần mãng nhưng không hiểu sao lại làm thế?” Khi mọi người đang kêu hoảng thì người ấy đã phóng ra khỏi đầm nước, toàn thân ướt đẫm, vẫn một tay kẹp Tư Không Hóa một tay cầm phương tiện sản rồi chạy xuống núi! Giang Nam thấy người ấy không bị thương thì mới thở phào, lau mồ hôi trán, Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, đệ sao thế? Lúc nãy tại saokêu Đường chưởng môn đừng ra tay?” Giang Nam ấp úng: “Đệ thấy người này chín phần là... là...” Trần Thiên Vũ nói: “Là ai?” Giang Nam nói: “Là Kim đại hiệp” Trần Thiên Vũ nói: “Đệ lại nói càn, Kim Thế Di đã bị cá mập nuốt. Phùng nữ hiệp của phái Thiên Sơn đã đến Xà đảo, nhặt di vật của y, có thể là giả sao? Lẽ nào y còn sống trên đời?” Giang Nam nói: “Huynh không tin thì nhìn kỹ lại, y tuy mang mặt nạ những thân hình và bộ pháp lại không thay đổi, huynh chẳng nhận thấy sao?” Lúc nãy Kim Thế Di trầm giọng nói một câu, Trần Thiên Vũ không để ý, giờ đây nhìn kỹ lại thì thân hình của người ấy quả nhiên rất giống Kim Thế Di. 

Lúc này Kim Thế Di đã kẹp Tư Không Hóa xuống dưới đáy cốc, Kim Thế Di quát trong tai y: “Nói mau hỏa dược chôn ở đâu?” Rồi thọc tay vào bên sườn y, Tư Không Hóa lập tức cảm thấy có như hàng ngàn hàng vạn con rắn độc đang cắn xé trong người, đúng là không có lối tra tấn nào độc địa hơn kiểu này! Kim Thế Di buông y xuống, vỗ nhẹ lên vai y để cho bớt đau đớn, quát hỏi: “Ngươi mau dắt ta đi, dập tắt hết thuốc nổ, nếu không ngươi sẽ còn được nếm mùi nữa” Tiếng xì xì ở dưới đất càng lúc càng gần, té ra là độc kế của Khấu Phương Cao và Tư Không Hóa, bọn chúng đã chôn thuốc nổ dưới đáy cốc, đào một con mương rộng ba tấc đặt sẵn dây dẫn, chờ cho mọi người đang chú ý đến trận chiến thì người mai phục ở bên ngoài cốc sẽ đốt dây dẫn. Bãi Thiên Tràng vốn là một vùng bồn địa núi non vây quanh khoảng vài dặm, là một tử cốc chẳng có lối thoát, nếu thuốc nổ bộc phát, cả bãi Thiên Tràng sẽ bị lật lên, người trong cốc, thậm chí những người đứng trên sườn núi nhìn từ xa cũng bị nổ tan xác! Bọn chúng khuyên Mạnh Thần Thông đổi địa điểm, dời đến bãi Thiên Tràng với lý do là chùa Thiếu Lâm là đại bản doanh của kẻ địch, quyết chiến trong chùa Thiếu Lâm rất bất lợi. Mạnh Thần Thông nghe bọn chúng nói cũng có lý, lại nghe con gái mình ở trong chùa, y sợ con gái thấy cảnh quyết chiến sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng, mà bãi Thiên Tràng cũng là một nơi tỉ võ rất tốt, cho nên chấp nhận đề nghị của bọn chúng. Song bọn chúng còn đề nghị Mạnh Thần Thông thống lãnh bè đảng hỗn chiến với người phe chùa Thiếu Lâm, Mạnh Thần Thông không chấp nhận. Y đã là một đại ma đầu tâm địa độc ác, không ngờ bọn chúng còn độc hơn, định quét sạch Mạnh Thần Thông cùng với tất cả các nhân vật võ lâm, Kim Thế Di vẫn âm thầm theo dõi Tư Không Hóa và Khấu Phương Cao, nghe được bí mật này nhưng lại không biết dây dẫn được chôn ở đâu, bởi vậy mới xuất hiện bắt Tư Không Hóa buộc y khai ra nơi chôn thuốc nổ. 

Thật ra lúc này không cần Kim Thế Di dùng cực hình nữa, Tư Không Hóa cũng phải mau chóng dập dây dẫn, bởi vì lúc này y đang ở chốn tuyệt địa, hễ thuốc nổ bộc phát thì cả y cũng tan xác.  

Tư Không Hóa chạy đến quay một tảng đá, dùng lực vần tảng đá ra, Kim Thế Di dùng cây sản xúc đất, chỉ thấy bên dưới quả nhiên có một lớp thuốc nổ rất dày, chàng lại xúc ra, chỉ thấy một sợi dây dẫn đang cháy tới nơi, Kim Thế Di vội vàng dập tắt, thở phào: “Thật nguy hiểm!” Dây dẫn chỉ còn cách khối thuốc nổ không quá một trượng! Chàng chưa kịp định thần thì nghe bùm một tiếng, một cây hỏa tiễn bay vút lên không trung nổ bùng ra, một trái cầu lửa rơi xuống trước mặt họ, Kim Thế Dù đánh một đòn Phách không chưởng đẩy trái cầu lửa trở lại, nói thì chậm, sự việc diễnra rất nhanh, mũi tên thử hai, thứ ba tiếp tục bắn lên, Kim Thế Dù cởi tấm áo ướt đẫm chụp lên khối thuốc nổ, điểm huyệt Tư Không Hóa rồi ném y đè lên. Khi ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy bọn người Khấu Phương Cao hướng hỏa tiễn bắn tới, may mà bọn chúng vì tránh họa cho nên lên trên sườn núi cao, ngoại trừ những mũi hỏa tiễn do Khấu Phương Cao và các cao thủ đại nội bắn ra, tất cả những hỏa tiễn còn lại chưa xuống tới đáy cốc thì đã rơi ở lưng chừng núi. Lập tức tiếng kêu hoảng vang lên, hai phái chính tà đều có rất nhiều người bị hỏa tiễn đốt cháy! Sự việc bất ngờ ấy khiến cho toàn trường đại loạn. Cao thủ hai phái chính tà vừa kinh vừa giận, hùa nhau đánh về phía bọn người Khấu Phương Cao. Khấu Phương Cao thống lĩnh bốn mươi đại nội thị vệ và ngự lâm quân chiếm cứ một ngọn núi, rồi từ trên cao không ngừng phóng hởa tiễn xuống! 

Lúc này Đường Hiểu Lan và Mạnh Thần Thông đã tới khoảnh khắc căng thẳng, cả hai bên đều toàn thần chú ý, ứng phó đối phương, nếu ai sơ sảy thì người đó sẽ bị nội lực của đối phương chấn động đến chết! Mặc dù xung quanh trời xoay đất chuyển, cả hai người họ như chẳng hề nghe, chẳng hề thấy. Có vài mũi hỏa tiễn rơi xuống bên cạnh họ, cỏ dại bắt đầu bốc cháy, may mà vẫn chưa ăn lan đến người họ. Đống thuốc nổ cũng là mục tiêu của hỏa tiễn, Kim Thế Di chẳng thể nào phân thân, thấy Đường Hiểu Lan sắp bị hỏa tiễn bắn trúng, lửa đã bắt đầu ăn lan về phía họ, nếu không đến ứng cứu thì ngọc đá đều nát, Đường Hiểu Lan và Mạnh Thần Thông đều mất mạng trong biển lửa! Kim Thế Di đành rời khỏi đống thuốc nổ, lăn vào trong ánh lửa, đến bên cạnh họ, bật người dậy dốc hết công lực của toàn thân, đẩy hai chưởng tách ra hai bên trái phải, ngay lúc này chỉ nghe ầm một tiếng chấn động lỗ tai, khối thuốc nổ đã bị hỏa tiễn của Khấu Phương Cao bắn trúng, lập tức bùng nổ. 

Hồi Thứ Bốn Mươi Chín

Công lực của Kim Thế Di kém hai người, theo lý mà nói dù dốc hết toàn lực cũng chẳng thể nào tách họ ra, may mà Kim Thế Di cực kỳ thông minh, chàng dùng công phu Ngự lực hóa giải lực đạo của đôi bên được hai phần, vốn là vẫn không thể tách ra, nhưng ngay lúc này khối thuốc nổ bộc phát, bất cứ cao thủ võ lâm nào cũng không thể chống lại được, chỉ thấy ba bốn người tách ra, Đường Hiểu Lan bị ném ra xa đến hơn mười trượng, Mạnh Thần Thông công lực hơi kém hơn, ngã vào trong đống lửa, nhưng Kim Thế Di thì đã chuẩn bị trước, chàng phóng người vọt lên, gót chân chỉ bị cháy một mảng bị thương rất nhẹ. 

May mà Kim Thế Di đã làm ướt lớp ngoài của khối thuốc nổ, lại có Tư Không Hóa nằm đè lên, cho nên tuy bùng nổ nhưng uy lực đã giảm xuống rất nhiều, đá trong vòng mười trượng đều bị ném lên, thuốc nổ tiếp tục bốc cháy, tiếng ầm ầm vang lên không ngớt bên tai, ngọn lửa dần dần ăn lan ra, chỉ trong chốc lát cả sơn cốc đều chìm trong lửa. Còn Tư Không Hóa thì đã thịt nát xương tan. 

Lần này đúng là nguy hiểm đến cực điểm, nếu chẳng nhờ Kim Thế Di hóa giải hai thành lực đạo của hai người Đường, Mạnh, họ đang giáng chưởng vào nhau, không thể nào rút tay lại được, bị lực chấn động bốc lên, lực chấn động này cộng thêm với chưởng lực của đối phương, đôi bên chắc chắn sẽ mất mạng. Nếu thuốc nổ chưa bị ướt, chắc chắn hậu quả không thể tưởng tượng nổi, dù họ có khả năng lơn bằng trời, e rằng cũng phải bước theo Tư Không Hóa, thịt nát xương tam Lúc này mọi người xung quanh đều nháo nhào. Những người đứng dưới bãi Thiên Tràng đều tìm cách chạy lên cao, còn những người đứng trên sườn núi thì tấn công về phía bọn Khất Phương Cao. 

Kim Thế Di là người đầu tiên xông ra khỏi đám lửa. Đường Hiểu Lan cởi phắt chiếc trường bào, sử đụng nội công tuyệt đỉnh múa tấm trường bào kêu lên vù vù, tựa như một chiếc thuẫn bài quét lửa ở hai bên ra, khi ông ta ra khỏi đám lửa thì tấm trường bào cũng cháy thành tro! Phùng Anh và Thống Thiền thượng nhân vội vàng chạy đến tiếp ứng, cho ông ta uống bách hoa ngọc lộ hoàn, thứ thuốc có thể giải hoả độc của chùa Thiếu Lâm.  

Trong ánh lửa chỉ nghe Mạnh Thần Thông gầm lớn, xông thẳng ra như hung thần ác sát, y phát ra một luồng chưởng lực Tu la âm sát công tầng thứ chín, một luồng khí âm hàn hộ ở trên đầu chống lại độc hỏa, Mạnh Thần Thông bị nội thương nặng hơn Đường Hiểu Lan rất nhiều, nhưng vì có Tu la âm sát công hộ thể, cho nên y không đến nỗi vất vả như Đường Hiểu Lan. 

Y xông ra cùng lúc với Đường Hiểu Lan nhưng lại khác hướng. Thống Thiền thượng nhân cả kinh sợ y nhân lúc hỗn loạn thì giết bừa một phen. Đường Hiểu Lan nhìn Mạnh Thần Thông rồi nói: “Y đã bị tôi đả thương ba kinh mạch dương, phía bên đó có Kim Quang đại sư và tân chưởng môn của phái Thanh Thành, dù y dám làm càn cũng chẳng làm gì được!” Chợt nghe Mạnh Thần Thông quát: “Tên tiếu tử Khấu Phương Cao nhà ngươi thật thâm độc, dám đốt chết luôn cả lão Mạnh ta đây. Ta đã sống hơn sáu mươi tuổi, đây là lần đầu tiên mới bị ám toán, hừ hừ, ta không giết chết tên tiểu tử nhà ngươi thì anh hùng thiên hạ sẽ chê cười.” Chỉ thấy y nói xong mấy câu này thì đã leo lên vách núi cao mấy chục trượng, y chọn một con đường mạo hiểm nhất để xông về phía bọn Khấu Phương Cao. Đường Hiểu Lan thở dài: “Lão ma đầu này thật kiêu ngạo, chẳng chịu thiệt thòi tí nào. Y bị thương không nhẹ, nếu nổi giận nữa, dù cho có bế quan trị thương ngay tức khắc cũng chỉ có thể sống thêm nửa năm, thế mà y lại còn muốn động thủ với người ta!” Lúc này bọn người Đường Kinh Thiên cũng đã gần xông lên tới ngọn núi ấy, có vài cao thủ thị nội bị trúng Thiên Sơn thần mãng nên trận thế rối loạn. Khấu Phương Cao vốn muốn rút lui chợt thấy Mạnh Thần Thông xông tới, lại bảo muốn lấy mạng y, càng hoảng đến nỗi hồn phách tan biến, nào dám nấn ná ở lại. 

Mạnh Thần Thông xông thẳng lên ngọn núi, vung chưởng đánh ngã vài tên ngự lâm quân, đám người ấy kêu gào chạy tứ tán. Đường Kinh Thiên nhắm về hướngKhấu Phương Cao, phóng ra một cây Thiên Sơn thần mãng, Khấu Phương Cao đã lăn xuống sườn núi, Thiên Sơn thần mãng bắn tới chạm vào người Mạnh Thần Thông, Mạnh Thần Thông cười lạnh: “Ngươi bắn đồ đệ ta bị thương, ta cũng cho ngươi nếm tên của ta!” Thế rồi hai ngón tay búng ra, cây Thiên Sơn thần mãng trở ngược hướng bắn về phía Đường Kinh Thiên, Phùng Lâm đang ở bên cạnh chàng, vội vàng đẩy chàng ra, vù một tiếng, cây Thiên Sơn thần mãng bay lướt qua giữa họ, Mạnh Thần Thông cười ha hả đuổi theo Khấu Phương Cao! Chợt ở sườn núi có hai người nhảy vọt ra, quát rằng: “Mạnh lão tặc, ngươi còn muốn chạy?” một người là Dực Trọng Mâu, một người là Tân Ẩn Nông.  

Hai người này đều có thù sâu hận lớn với Mạnh Thần Thông. Họ biết chẳng phải là đối thủ của Mạnh Thần Thông nhưng cũng muốn liều mạng với y. Họ chỉ mong có thể kìm chân Mạnh Thần Thông trong chốc lát, chờ những cao thủ khác xông lên thì cùng nhau bắt Mạnh Thần Thông. 

Phục ma trượng pháp của Dực Trọng Mâu cương mãnh phi thường, Tân Ẩn Nông lại là một danh gia kiếm thuật, nếu bình thường thì Mạnh Thần Thông chẳng hề để mắt đến họ, nay đã bị nội thương thì trong lòng thầm lo. 

Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Tân Ẩn Nông đã lia kiếm lên không trung, đâm vào ngực Mạnh Thần Thông, Mạnh Thần Thông xoay người né tránh mũi kiếm, hai ngón tay búng ra, một luồng chỉ phong bắn vào hai mắt Tân Ẩn Nông, Tân Ẩn Nông chợt rùng người, lia kiếm chém ngang ra, chỉ nghe soạt một tiếng, mạch môn của Tân Ẩn Nông đã bị Mạnh Thần Thông bắn trúng đau đến tận tim phổi, nhưng bụng dưới của Mạnh Thần Thông cũng bị y đâm trúng một kiếm, máu tuôn ra thành vòi. 

Cũng trong khoảnh khắc này, cây thiết trượng của Dực Trọng Mâu cũng đã bổ xuống như Thái sơn áp đỉnh, Mạnh Thần Thông gầm lớn một tiếng, trở tay đẩy ra một đòn Tu la âm sát công tầng thứ chín, Dực Trọng Mâu phóng cây gậy sắt ra, chiêu này là đòn sát thủ cuối cùng trong Phục ma trượng pháp tên gọi Tiềm long phi thiên, đó là chuẩn bị cùng chết với kẻ địch. Cây trượng đánh trúng vào lưng của Mạnh Thần Thông, dù Mạnh Thần Thông đã luyện Thần công hộ thể Kim cương bất hoại nhưng cũng không khỏi hai mắt tối sầm, miệng phun ra một ngụm máu tươi. Lúc này Dực Trọng Mâu đã bị chưởng của y đánh ngã xuống đất. Mạnh Thần Thông cả giận lập tức xoay người lại vỗ chưởng xuống. Cũng trong lúc này, Thống Thiền thượng nhân đã đến nơi, vung tay phát ra một lúc một trăm lẻ tám viên niệm châu, Mạnh Thần Thông kêu lớn một tiếng phóng ra sau, lộn một vòng rồi hạ xuống sườn núi, một trăm lẻ tám viên niệm châu chạm vào người y đều bị nát thành bột, nhưng cũng có bảyviên đánh trúng vào các đại huyệt của y, khiến cho y bị thương càng thêm nặng, chân khí hầu như không thể ngưng tụ được! Thống Thiền thượng nhân niệm một tiếng “A di đà Phật!”, Đỡ Dực Trọng Mâu dậy, may mà Dực Trọng Mâu đã luyện Thiếu dương huyền công bị trúng một chưởng của Mạnh Thần Thông cũng không đến nỗi mất mạng, nhưng người cứ run lên cầm cập như lên cơn sốt. Tân Ẩn Nông chưa luyện Thiếu dương huyền công, chưởng phong quét tới thì bị thương còn nặng hơn cả Dực Trọng Mâu, may mà công lực của y thâm hậu, tuy bị thương nặng nhưng cũng chẳng hề chi.  

Dực Trọng Mâu nói: “Mạnh lão tặc hình như đã bị nội thương, uy lực của Tu la âm sát công không bằng như trước, sao lão thiền sư không nhân Cơ hội này mà trừ y?” Thống Thiền thượng nhân chắp tay niệm một tiếng A di đà Phật rồi chậm rãi nói: “Mạnh Thần Thông tội ác đầy đầu, ngày chết đã sắp tới, cư sĩ cũng không cần báo thù nữa.” Bởi vì Mạnh Thần Thông đã bị thương ba kinh mạch dương, vốn là chỉ có thể sống không quá nửa năm, nay lại trải qua ma trận ác đấu, trúng một gậy của Dực Trọng Mâu, lại trúng bảy viên niệm châu của Thống Thiền thượng nhân, chắc chắn không thể sống quá mười ngày Thống Thiền thượng nhân là một cao tăng lấy từ bi làm đầu, vốn chẳng muốn thừa lúc người ta nguy ngập mà làm tới, ông ta chẳng qua chỉ vì cứu mạng hai người Dực, Tân, buộc phải thi triển thần công Định châu giáng ma của Phật môn, càng khiến cho Mạnh Thần Thông mau chết hơn, tuy không có gì sai trái nhưng trong lòng cũng thấy bất nhẫn. 

Ngay lúc ấy Khấu Phương Cao vội vàng cúp đuôi lếch thếch bỏ chạy, được khoảng hơn mười dặm, y vừa mới thở phào thì chợt nghe bên tai có người thét lên: 

“Tên tiểu tử, ngươi có chạy đằng trời cũng không thoát khỏi bàn tay ta!” Khấu Phương Cao kinh hoảng. 

Giọng nói này rõ ràng là của Mạnh Thần Thông nhưng chẳng thấy bóng dáng y đâu.  

Khấu Phương Cao bị Mạnh Thần Thông dùng Thiên độn truyền âm làm rối loạn tinh thần, tuy dốc hết sức chạy trốn nhưng đôi chân chẳng nghe lời, chỉ trong chốc lát thì đã bị Mạnh Thần Thông đuổi tới nơi. 

Khấu Phương Cao kêu lên: “Đại địch ở trước mắt, Mạnh tiên sinh cần gì phải đối phó với người nhà?” Mạnh Thần Thông mắng: “Rắm thối, lúc nãy không nghe ngươi nói như thế? Cả lão phu mà ngươi cũng hại, còn muốn ta tha cho ngươi?” Khấu Phương Cao thấy Mạnh Thần Thông chẳng chịu tha thì đánh liều, chẳng cần xin xỏ mà trái lại cười lạnh rằng: “Mạnh tiên sinh, ông chỉ biết trách người chứ không biết trách mình, đúng thế, tôi muốn khiến cho ông chết cùng Đường Hiểu Lan nhưng rốt cuộc cũng chưa từng giết ông. Ông bảo tôi ám hại ông, vậy tôi hỏi ông cả đời này đã hại bao nhiêu người? Họ Khấu tôi chẳng qua cũng bắt chước theo họ Mạnh ông mà thôi.” Mạnh Thần Thông chưng hửng, trong lúc gấp gáp chẳng biết đối đáp thế nào. 

Khấu Phương Cao thừa Cơ lại co giò chạy tiếp, Mạnh Thần Thông chợt quát lên: “Thà ta phụ người chứ đừng để người phụ ta, hay lắm, họ Mạnh này suốt đời làm chuyện ác, hôm nay giết ngươi cũng coi như là làm một chuyện tốt!” Nói chưa dứt thì đã đẩy ra Tu la âm sát công! Khấu Phương Cao dốc hết toàn lực chống trả , chỉ thấy huyết khí nhộn nhạo, toàn thân lạnh buốt, nhưng y vẫn chưa ngã xuống, cả bản thân cũng thấy bất ngờ. 

Khấu Phương Cao là đại nội tổng quản, võ công đương nhiên bất phàm. Y loạng choạng thối lui đến sáu bảy bước, hóa giải kình lực trên người của mình, định thần rồi trong lòng dấy lên tia hy vọng, nhìn Mạnh Thần Thông rồi cười ha hả: “Mạnh tiên sinh, té ra ông đã bị trọng thương, ông giết được tôi cũng chẳng sống được bao lâu, cần gì phải khổ thế? Ở đây tôi có đại nội linh đơn, chi bằng chúng ta giảng hòa thôi!” 

Lẽ nào Mạnh Thần Thông không biết mình đã sắp chết, không những như thế mà y còn biết chẳng có linh đơn nào có thể cứu sống nổi mình. Điều này thì Khấu Phương Cao không biết, Mạnh Thần Thông điềm nhiên nói: “Đa tạ tấm lòng tốt của ngươi, nhưng ngươi có biết giờ đây ta đang nghĩ gì không?” Khấu Phương Cao thấy thần sắc của y không ổn thì ngẩn người ra. Mạnh Thần Thông cười lạnh: “Ta tung hoành một đời, chỉ có người thua ta, hôm nay ta suýt mất mạng trong tay ngươi, hừ hừ, nếu trước khi chết mà không giết được ngươi thì ta làm sao nhắm mắt được?” Khấu Phương Cao run giọng kêu lên: “Mạnh tiên sinh, ông... ông không nghe lời hay, cả mạng mình mà cũng không cần sao?” Mạnh Thần Thông cười lạnh: “Đúng thế, ta đang muốn tổng quản đại nhân nhà ngươi lót xác cho ta!” nói chưa dứt lời thì tay trái đã phát ra một đòn kim cương chưởng lực, tay phải đẩy ra một đòn Tu la âm sát công tầng thứ chín! 

Cả hai tay cùng đẩy ra hai loại kỳ công chí âm chí dương, chí cương chí nhu, đó là đòn đánh ngưng tụ công lực cả đời của Mạnh Thần Thông, Khấu Phương Cao làm sao có thể chống trả nổi, chỉ nghe một tiếng thét xé tim rách phổi vang lên, Khấu Phương Cao sụm xuống đất, máu thịt bầy nhầy, rõ ràng chẳng thể sống nổi. Mạnh Thần Thông ngửa mặt cười lớn, chợt thấy chân khí tản mát, bụng đau như cắt, ngay lúc này đột nhiên nghe một giọng nói vang lên bên tai: “Mạnh lão tặc, nay đến lượt ta tính sổ với ngươi! Món nợ bốn mươi ba mạng người, nay tính thế nào đây? Ngươi nói đi?” 

Giọng nói nghe đầy oán hờn, dù y là một đại ma đầu giết người không chớp mắt, nghe tiếng kêu đòi mạng ấy cũng không khỏi lạnh mình, đó chẳng phải ai khác mà chính là Lệ Thắng Nam. 

Mạnh Thần Thông quay đầu lại, nói: “Lệ cô nương, ngươi khổ công tu luyện để báo thù, lão phu rất khâm phục! Ta giết cả nhà ngươi, nay ta chỉ có một mạng này, ngươi lấy được thì cứ lấy!” Rồi đột nhiên lắc người phóng vọt tới. Lệ Thắng Nam đã chuẩn bị trước, ống phun trong tay nàng nhắm về phía Mạnh Thần Thông, một làn khói phun ra, Mạnh Thần Thông kêu lớn một tiếng phóng vọt lên ba trượng, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Lệ Thắng Nam lại phóng ra một sợi đai năm màu quấn hai chân y.  

Mạnh Thần Thông đảo trúc người xuống, chụp sợi đai xé toạc, nào ngờ sợi đai cắm đầy độc châm lập tức lòng bàn tay Mạnh Thần Thông bị đâm vô số những lỗ nhỏ, bản thân sợi đai màu được chế từ mười mấy loại rắn độc, nọc độc thấm vào máu, độc tính phát tác. Mạnh Thần Thông gầm rú tựa như một có thú hoang đã bị thương, ba mươi sáu đại huyệt đề ngứa ngáy lạ thường! Té ra Lệ Thắng Nam đã 1ấy Bách độc chân kinh của Tây Môn Mục Đã, đã chê được hai loại thuốc độc lợi hại nhất trong chân kinh, một loại là ngũ độc tán dùng ống đồng phun ra, một loại là sợi dây đai tên gọi xà nha sách này, dẫu cho khi Mạnh Thần Thông chưa bị thương, gặp phải hai loại vũ khí bí mật này cũng khó chống đỡ huống chi lúc này chân khí của y đã tản mát, làm sao có thê phòng bị được? 

Mạnh Thần Thông trợn mắt, quát lên: “Hay lắm thủ đoạn trả thù của ả nha đầu nhà ngươi còn độc ác hơn cả lão phu! Rồi y cắn đầu lưỡi, phun ra một ngụm máu tươi! Phun ra ngụm máu ấy, Mạnh Thần Thông chợt quát lên một tiếng, xông ra khỏi màn khói, nhảy bổ về phía Lệ Thắng Nam, người chưa đến thì chưởng lực đã đẩy ra như dời núi lấp biển! Đó là loại công phu lợi hại nhất của tà phái tên gọi Thiên ma giải thể đại pháp, hễ dùng loại công phu này thì bản thân sẽ chết chắc, nhưng trước đó vẫn có thể ngưng tụ tinh lực toàn thân đánh một đòn cuối cùng, đòn này có uy lực mạnh hơn lúc bình thường ba lần, khi Mạnh Thần Thông tỉ thí với Đường Hiểu Lan, y đã từng nghĩ khi đến lúc cuối cùng thì sẽ liều với Đường Hiểu Lan bằng cách này. Lệ Thắng Nam cả kinh, vội vàng rút phắt thanh Tài vân kiếm, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Mạnh Thần Thông nhảy bổ đến, Lệ Thắng Nam cũng đâm kiếm ra. 

Trong khoảng sát na điện chớp lửa xẹt, Lệ Thắng Nam bị chưởng lực của Mạnh Thần Thông đè nén đến ngạt thở, nàng chợt cảm thấy toàn thân nhẹ hẫng, bị người ta kéo một cái, trong chớp mắt đã cách xa Mạnh Thần Thông đến hơn mười trương. Lệ Thắng Nam nhìn lại thì chỉ thấy Mạnh Thần Thông đã ngã xuống vũng máu, trên ngực còn cắm cây Tài vân kiếm, chuôi kiếm còn rung lên bần bật! Mạnh Thần Thông dãy dụa trong vũng máu, chợt y ngồi bật dậy, rút thanh kiếm cười gằn nói: “Ta có thể trả mạng cho người nhưng không thể để cho ngươi ra tay!” rồi thanh kiếm lia ngang, một cái đầu bay vọt lên! Từ lúc hiểu việc đời cho đến nay, ngày nào Lệ Thắng Nam cũng nhớ đến chuyện trả thù, nhưng nay thấy cảnh tượng như thế thì cũng không khỏi trợn mắt há mồm, lòng cực kỳ kinh hãi! Kim Thế Di bước ra, lắc đầu, thở dài: “Làm lắm chuyện bất nghĩa chắc chắn sẽ tự đào hố chôn mình, câu này chẳng sai tí nào. Nay muội đã báo được thù lớn, huynh mong muội lấy Mạnh Thần Thông làm gương, đừng đi theo vết xe đổ của y nữa.” Người kéo Lệ Thắng Nang thoát hiểm chính là Kim Thế Di, cũng may mà Mạnh Thần Thông trải qua mấy cuộc ác chiến, bị thương nặng nề, tuy dùng Thiên ma giải thể đại pháp chân lực tăng lên gấp ba lần nhưng cũng chỉ hơi cao hơn trước lúc bị thương chút ít, bởi vậy Kim Thế Di mới chống trả nổi. Nếu y chỉ hơi bị thương, chỉ e hai người Kim, Lệ sẽ bị chết dưới chưởng của y. Lệ Thắng Nam ngẩn người ra, lúc này nàng mới định thần, lạnh lùng nói: “Kim Thế Di, ngươi không đến chùa Thiếu Lâm thăm Cốc Chi Hoa còn đến đây làm gì?” Kim Thế Di chưa kịp nói thì Lệ Thắng Nam đã rời chàng, chỉ thấy nàng cầm cái đầu của Mạnh Thần Thông lên bỏ vào trong bao da, sau đó chậm rãi bước về phía cái xác. 

Lệ Thắng Nam dùng một loại thuốc độc rải vào cái xác, chỉ trong thời gian một cây nhang, cái xác chảy thành một vũng máu nhầy nhụa, chỉ còn sót lại một ít lông tóc cùng với một đống xương và vài thử linh tinh, dù Kim Thế Di lớn gan cũng phải dựng tóc gáy.  

Thật ra Lệ Thắng Nam cũng hơi sợ hãi, nàng cố rút thanh kiếm, lật đống xương ra tìm kiếm. 

Kim Thế Di nói: “Không cần tìm, ở chỗ huynh đây!” Lệ Thắng Nam ngạc nhiên quay đầu, trầm giọng hỏi: “Ngươi nói gì?” Kim Thế Di lấy nửa quyển bí kíp võ công,nói: “Có phải muội tìm nửa cuốn sách này không?” Lệ Thắng Nam khựng người, hỏi: “Làm sao huynh có?” Kim Thế Di nói: “Muội không cần biết. Quyển sách này vốn thuộc của muội, muội cứ việc lấy lại.” Lệ Thắng Nam nói: “Sao huynh không giữ lấy?” Kim Thế Di thản nhiên nói: “Huynh vốn chẳng cần thứ gì của Kiều Bắc Minh, trước đây huynh đã hứa với muội, giúp muội trả thù cho nên mới học võ công trong nửa cuốn bí kíp, giờ đây muội đã trả xong mối thù lớn, huynh cũng làm xong việc cần làm, vậy còn giữ lại làm gì?” Kim Thế Di đã trả lại cho Lệ Thắng Nam nửa phần đầu của cuốn bí kíp, giờ đây chàng trả tiếp nửa phần sau, từ rày về sau chỉ có một mình Lệ Thắng Nam có thể học võ công tuyệt thế của Kiều Bắc Minh, nhưng nàng nghe Kim Thế Di nói thế là có ý khác, nỗi lo lắng trong lòng hơn cả nỗi vui mừng vì được bí kíp, nàng giật mình run rẩy hỏi: “Huynh... huynh nói thế là có ý gì?” Kim Thế Di chậm rãi nói: “Huynh làm xong những chuyện đã hứa, từ rày về sau chúng ta đường ai nấy đi! Nếu muội muốn, chúng ta vẫn có thể là huynh muội, nếu muội không muốn thì cũng được!” Lệ Thắng Nam biến sắc, gằn giọng nói: “Hay, hay lắm! Ngươi đi đi, rồi sẽ có một ngày ngươi sẽ quay trở lại quỳ xuống trước mặt ta, van xin ta!” Khi Kim Thế Di nói chuyện với Lệ Thắng Nam tuy rất bình tĩnh nhưng trong lòng đau khổ muôn phần, không biết chàng đã suy nghĩ bao lâu mới có thể quyết tâm nói được những lời như thế, nhưng chàng vẫn cảm thấy đau khổ, chàng không dám nhìn mặt Lệ Thắng Nam, không dám nghe Lệ Thắng Nam nói, chàng sợ mình sẽ không kìm chế nổi, cho nên chàng vất lại nửa cuốn bí kíp rồi quay người bỏ đi thẳng một mạch! Một tiếng sấm chợt nổ vang ngang trời, ánh sét chớp lên, mưa như trút nước, Kim Thế Di hơi tỉnh táo, thầm nhủ: “Trận mưa này rất đúng lúc, họ không cần tốn công cửu hỏa. 

Không biết lúc này họ đã trở về chùa Thiếu Lâm hay chưa?” “Mỗi người đều có nơi cần đi, mình...mình nên đi đâu đây?” Trong ánh chớp, từ xa có thế thấy tòa kiến trúc cao nhất chùa Thiếu Lâm, kim cương tháp, té ra chàng đã bất giác đi gần đến chùa Thiếu Lâm. Kim Thế Di chợt bừng tỉnh, té ra chàng muốn đến chùa Thiếu Lâm để thăm Cốc Chi Hoa! Chàng bước về phía trước mấy bước, đột nhiên lại lui ra sau mấy bước, lòng thầm nói: “Không, không thể!” Hôm nay Tâm Mai không có ở bãi Thiên Tràng, chắc chắn là ở trong chùa cùng với Chi Hoa, ngay lúc này mình không tiện gặp nàng!” Kim Thế Di xoay đầu đi được mấy bước rồi nghĩ: “Mình quyết tâm cắt đứt với Thắng Nam là vì cái gì? Chẳng phải muốn Chi Hoa hiểu lòng mình sao? Lúc nàynàng rất đau khổ, chì có một mình mình mới có thể an ủi cho nàng, nhưng mình lại sợ đầu sợ đuôi chẳng dám gặp nàng!” Nghĩ đến đây chàng quay đầu lại, đi về phía chùa Thiếu Lâm, nhưng chỉ đi được mấy bước thì lại nghĩ trong bụng: “Nàng giờ đây đang chăm sóc cho Tào Cẩm Nhi, Tào Cẩm Nhi hận mình đến thấu xương, bà ta gặp mình chắc chắn sẽ nổi giận, nói không chừng sẽ mnmđứt hơi mà chết, họ chẳng phải khiến cho Chi Hoa càng đau lòng hơn sao? Vả lại chùa Thiếu Lâm có đông người, cũng chẳng phải là nơi nói chuyện. Thôi, thôi mìnhcứ cố nhịn một lúc, đợi nàng trải qua trận phong ba này rồi hàng gặp!” Mưa càng lúc càng lớn, trong lòng Kim Thế Di cũng như nỗi giông tố, vốn là những điều chàng suy nghĩ rất có lý, nhưng ở tận đáy lòng, chàng không muốn đến chùa Thiếu Lâm còn có một nguyên nhân nữa mà chàng không dám nghĩ tới. Cả bản thân chàng cũng không hiểu, sau khi đoạn tuyệt với Lệ Thắng Nam, chàng không dám đi gặp Cốc Chi Hoa lập tức có phải là vì Cốc Chi Hoa hay không? Hay là vì Lệ Thắng Nam? Hoặc là vì tâm trạng hoảng sợ của mình? 

Cuối cùng Kim Thế Di đã đi ngược hướng chùa Thiếu Lâm, chàng đi một mình trong lúc trời nổi cơn mưa gió, nhưng lòng cảm thấy hoang mang, từ lúc quen biết Lệ Thắng Nam cho đến nay, chàng vẫn luôn phiền não vì không thể nào thoát khỏi nàng, nay đã cắt đứt, chàng cảm thấy nhẹ nhàng nhưng hình như lại cảm thấy một nỗi phiền não sâu xa khác. Tựa như một người đột nhiên chẳng thấy hình bóng của mình thì không khỏi cảm thấy như đánh mất mở thứ gì đó. 

Chợt có một bóng đen lướt qua người chàng một trượng, trong mưa gió trời đất mịt mùng, bóng đen ấy nhanh đến lạ thường, nếu chẳng phải Kim Thế Di tinh mắt thì chẳng thể nhìn thấy được. Kim Thế Di thất kinh, chợt hiểu ra, quát hỏi: “Cơ Hiểu Phong, là ngươi?” Cơ Hiểu Phong đành ngừng bước, quay đầu nói: “Kim đại hiệp, là huynh! Lần trước được cứu, Cơ mỗ xin đa tạ!” Kìm Thế Di nói: “Ngươi làm trò gì mà lén lút thế?” Cơ Hiểu Phong nói: “Tôi tìm sư phụ, tôi biết các người căm ghét ông ta, nhưng ông ta rốt cuộc cũng là sư phụ của tôi. Ông ta đã bị thương tôi không thể không tìm.” Kim Thế Di nói: “Không ngờ Mạnh Thần Thông lại có một đồ đệ trung thành như ngươi, coi như y cũng được nhắm mắt.” Cơ Hiểu Phong kinh hãi nói: “Huynh nói gì?” Kim Thế Di nói: “Không cần phải tìm nữa, sư phụ của ngươi đã chết! Y suốt đời không biết đã giết bao nhiêu người, nay bị kẻ thù giết cũng coi như ý trời, ngươi đừng nên đau lòng làm gì. Ngươi chạy cho mau, người của chùa Thiếu Lâm sắp trở lại, ta có thể tha cho ngươi, nhưng còn họ thì chưa chắc!” Nói đến đây quả nhiên từ xa nghe có nhiều tiếng bước chân. 

Cơ Hiểu Phong vội vàng bỏ chạy, Kim Thế Di cũng chẳng muốn đụng đầu bọn người Phùng Lâm thầm nhủ: “Khi Cốc Chi Hoa trở về Mang Sơn, mình lại sẽ đến gặp nàng.” Rồi phóng người lướt đi trong mưa. 

Cốc Chi Hoa đang ngồi bên giường bệnh, lòng vốn đã nặng nề, lúc này trời mưa như trút nước thì càng đau lòng hơn, Tào Cẩm Nhi tựa như hồi quang phản chiếu, chợt gắng gượng ngồi đậy, dựa vào vách, hỏi: “Có tin tức gì chưa?” Cốc Chi Hoa nói: 

“Chưa!” Tào Cẩm Nhi thở dài: “Tỷ chỉ lo không đợi được tin vui, nhưng lần này có Đường đại hiệp chủ trì, tỷ đã rất yên tâm. Điều tỷ không yên tâm là muội...” Cốc chi Hoa thất kinh, nói: “Sư tỷ không yên tâm điều gì?” Tào Cẩm Nhi ho mấy tiếng rồi trầm giọng nói: “Chi Hoa, tỷ muốn muội hứa hai chuyện, nếu không tỷ chết không nhắm mắt.” Cốc Chi Hoa nói: “Xin chưởng môn sư tỷ căn dặn.” 

 Tào Cẩm Nhi nắm tay nàng nói: “Việc thứ nhất, muội nhất định phải tiếp nhiệm chưởng môn, bổn phái có thể trùng hưng được hay không toàn trông vào muội đấy!” 

Cốc Chi Hoa nói: “Điều này... điều này...” Tào Cẩm Nhi trợn mắt: “Muội... muội muốn làm tỷ thất vọng sao?” Cốc Chi Hoa nói: “Điều này...muội... muội sẽ cố gắng hết sức.” Lúc này Tào Cẩm Nhi mới nở nụ cười, nói: “Được, thế mới là hảo sư muội của ta.” Cốc Chi Hoa cho bà uống một ngụm nhân sâm, một hồi sau bà ta lại nói: 

“Việc thứ hai, điều này... có lẽ ta đã làm khó muội, muội có chấp nhận hay không là tùy, nhưng ta... ta không thể không nói!” Cốc Chi Hoa nói: “Mong sư tỷ cứ căn dặn, dù chuyện khó đến mức nào, muội cũng không từ chối!” Tào Cẩm Nhi nói: “Bổn phái là một trong sáu chính đại môn phái, muội đã chấp nhận tiếp nhiệm chưởng môn, ta mong người coi trọng thân phân chưởng môn phái Mang Sơn, đừng qua lại với tên ma đầu kia nữa!” Tào Cẩm Nhi cố gắng nói ra một hơi rồi mở mắt nhìn nàng, ho không ngừng. 

Cốc Chi Hoa nghe như thế thì biết bà ta muốn nói đến Kim Thế Di, bất giác vừa thẹn vừa giận đánh liều nói: “Sư tỷ yên tâm, suốt đời này muội không gả cho người ấy!” Nói xong thì nước mắt tuôn rơi, lòng đau như cắt! Tào Cẩm Nhi ho mấy tiếng thì mỉm cười nói: “Vậy tỷ đã yên tâm, song không gả cho người khác, điều đó cũng không cần...” Đang định nói tiếp thì chợt nghe có tiếng ồn ào trong mưa. 

Tào Cẩm Nhi kinh ngạc hỏi: “Xảy ra chuyện gì? Chả lẽ, chả lẽ Mạnh... Mạnh Thần Thông đã đánh tới nơi? Không, không thể có chuyện như thế? Muội... muội bảo Tâm Mai ra ngoài hỏi thử.” Tuy Tào Cẩm Nhi bảo tin tưởng Đường Hiểu Lan, nhưng cuộc chiến hôm nay quan hệ quá lớn, bà ta đang lúc nguy cấp, vừa nghe có gió thổi cỏ lay thì càng không khỏi nghi thần nghi quỷ. 

 Cốc Chi Hoa chưa bước ra cửa thì nghe Bạch Anh Kiệt đã vào kêu lên: “Sư tỷ!” Tào Cẩm Nhi vội vàng nói: “Anh Kiệt, chuyện gì thế?” Bạch Anh Kiệt thở hổn hển nói: “Sư tỷ, chuyện mừng!” Tào Cẩm Nhi nói: “Chuyện mừng gì? “ Bạch Anh Kiệt nói: “Mạnh... Mạnh Thần Thông chẳng thể sống nổi, Dực sư huynh của chúng ta đã đánh y một gậy!” Tào Cẩm Nhi ngẩn người ra rồi nói: “Có thật không?” Bạch Anh Kiệt nói: “Không sai tí nào, có người từ bãi Thiên Tràng về báo tin, Đường đại hiệp về ở phía sau!” Bạch Anh Kiệt là một trong các đệ tử Mang Sơn ở lại chùa Thiếu Lâm, y nghe tin cho nên vội vàng chạy vào báo, trong nhất thời cũng chẳng kể được kỹ càng, cho nên nói trước chuyện Dực Trọng Mâu đánh Mạnh Thần Thông một gậy, nghe ra có vẻ như Mạnh Thần Thông bị Dực Trọng Mâu đánh chết. Nghe y nói như thế trái lại Tào Cẩm Nhi không dám tin, bà lại mở to mắt, lẩm bẩm: “Thật không? Thật không?” nói chưa dứt thì chỉ thấy Phùng Lâm vội vàng chạy vào, cười ha hả nói: 

“Tào chưởng môn, thù lớn của quý phái đã trả, Mạnh Thần Thông chẳng thể sống nổi!” té ra Phùng Lâm lo cho con gái, vừa thấy đại cuộc đã xong thì chạy về trước, bà nta ngại Cốc Chi Hoa cho nên không gọi Mạnh lão tặc mà kêu là Mạnh Thần Thông. 

Lúc này lòng Cốc Chi Hoa rối bời, cha của nàng làm nhiều chuyện ác, chết cũng là ý trời, nhưng khi nghe được tin này thì không khỏi chấn động. 

 Tào Cẩm Nhi nói: “Lão ma đầu ấy chết bởi tay ai?” Phùng Lâm nói: “Y bị đại ca của tôi đánh chấn thương ba kinh mạch dương, sau đó bị Dực bang chủ đánh trúng một gậy, lại bị Thống Thiền thượng nhân đánh trúng một xâu niệm châu, tuy chưa mất mạng nhưng cũng không thể sống quá mười ngày. Đại ca và Thống Thiền thượng nhân đều nói như thế cho nên mới để cho y chạy thoát.” Tào Cẩm Nhì nói: “Tại sao để cho y chạy thoát?” Phùng Lâm nói: “Thống Thiền thượng nhân nói, nghệ tình y cũng là một bậc tôn sư võ học, dẫu sao cũng chẳng thể sống được,cứ để y tự giải quyết lấy. “ Bọn Phùng Lâm chưa biết rằng, Mạnh Thần Thông đã bị Lệ Thắng Nam giết chết, cả thi thể cũng hóa thành một vũng máu. Tào Cẩm Nhi nói: “Vậy lão ma đầu ấy đã chết chắc?” Phùng Lâm nói: “Chết chắc!” Tào Cẩm Nhi trợn mắt, đột nhiên cười ha hả, Phùng Lâm nghe tiếng cười có điều khác lạ, bà ta thất kinh vội vàng nói: “Tào chưởng môn, bà sao thế?” Tiếng cười đột nhiên dứt hẳn, Phùng Lâm chạy về phía trước, đưa tay ra sờ thì đã đứt hơi, Tào Cẩm Nhi đã cười cho đến chết. Cốc Chi Hoa khóc oà lên, Phùng Lâm nói: “Sư tỷ của cô nương chết trong vui mừng, con người ai chẳng chết, nhưng bà ta chết trong niềm vui như thế, cô nương còn khóc gì nữa?” Cốc Chi Hoa một nửa là khóc cho sư tỷ, một nửa là khóc cho thân mình. Phùng Lâm càng khuyên nàng càng khóc dữ.  

Không lâu sau thì bọn Đường Hiểu Lan, Dực Trọng Mâu, Thống Thiền thượng nhân đều trở về, nghe Tào Cẩm Nhi đã chết thì ai nấy cũng vào phòng thăm hỏi. 

Thống Thiền thượng nhân, vợ chồng Đường Hiểu Lan cùng vài chưởng môn thân thiết với phái Mang Sơn đến nhìn mặt Tào Cẩm Nhi lần cuối rồi để Cốc Chi Hoa và nữ đệ tử phái Mang Sơn khâm liệm cho Tào Cẩm Nhi, Lý Tâm Mai tuy không phải là người của phái Mang Sơn nhưng thấy Cốc Chi Hoa đau đớn nên cũng ở lại cùng nàng. Nhân vật đầu não của các phái đều thay quần áo, đến Kết duyên tịnh xá trò chuyện với Thống Thiền thượng nhân. Lúc này các đệ tử của chùa Thiếu Lâm được phái đi tuần tra đã phát hiện xác của Khấu Phương Cao quay về báo tin, mọi người nghe thế thì mừng càng thêm mừng. Tuy Tào Cẩm Nhi chết đi nhưng mối nguy hại của Thiếu Lâm đã được trừ khử, thống lĩnh ngự lâm quân và đại nội tổng quản cũng lần lượt chết theo, người trong các chính phái đều như trút được gánh nặng. Thế nhưng vài vị thiền sư chùa Thiếu Lâm đều rầu rĩ, tựa như có vẻ hổ thẹn. Phùng Lâm giật mình, hỏi: “Lúc nãy tôi thấy có một người chạy trong mưa, trông bộ dạng rất giống Cơ Hiểu Phong, có phải tên này thừa Cơ lẻn vào chùa không?” Giám tự của chùa Thiếu Lâm là Bản Không thượng nhân nói: “Đúng thế. Bần tăng chỉ hơi sơ sẩy đã bị y vào tàng kinh các lấy trộm ba cuốn kinh thư, đang định thú tội với phương trượng sư huynh.” Thống Thiền thượng nhân nói: “Ba quyển kinh thư nào?” Bản Không thượng nhân nói: “Đó là ba quyển tâm pháp nội công. Một quyển là Thái hư chân kinh luyện khí, một quyển là Thái huyền chân kinh luyện thần... “ Những quyển bí kíp võ công quan trọng nhất của Thiếu Lâm là Dịch cân kinh, Tẩy tủy kinh, nhưng ba quyển tâm pháp nội công này cũng là kinh điển nội gia quan trọng, mọi người nghe thấy thì đều kinh hoàng thất sắc. 

Bản Không thượng nhân lại nói tiếp: “Hai tăng nhân Tây Vực đến cùng Cơ Hiểu Phong sáng nay đã bị trưởng lão Đạt Ma viện bắt sống, xin hỏi sư huynh xử phạt thế nào?” Thống Thiền thượng nhân nói: “Cùng là đệ tử cửa Phật, lại đã là khách của bổn tự, cứ thả cho họ đi thôi. Mạnh Thần Thông đã chết, Cơ Hiểu Phong cũng chẳng làm được trò trống gì, đệ hãy thay ta chọn mười sáu đệ tử đắc lực chia thành tám hướng truy bắt. Từ rày về sau phải cẩn thận hơn.” Chưởng môn các phái thấy chùa Thiêu Lâm xảy ra chuyện thì ái ngại, cũng hứa sẽ để ý tông tích Cơ Hiểu Phong giúp chùa Thiếu Lâm. 

Té ra hai tăng nhân Tây Vực đã sớm có ý đánh cắp sách của chùa Thiếu Lâm, thừa lúc bãi Thiên Tràng đại loạn, Thống Thiền thượng nhân chưa kịp trở về, thuyết phục Cơ Hiểu Phong giúp chúng đánh cắp sách. Cơ Hiểu Phong đang muốn tìm sư phụ, nghĩ bụng có lẽ sư phụ cũng nhân Cơ hội này đến chùa Thiếu Lâm gây sự cho nên hứa với bọn chúng, tiện thể đến chùa Thiếu Lâm nghe ngóng tin tức. Cơ Hiểu Phong đã quen thói trộm cắp, cứ đến một nơi thì phải tiện tay lấy đi vài thứ, cho nên y tuy không có ý đánh cắp sách nhưng cũng lấy ba quyển kinh điển nội gia của chùa Thiếu Lâm. Cũng may mà lúc đó mưa to gió lớn, nếu không dù y có khinh công tuyệt đỉnh cũng không thoát nói đôi mắt của trưởng lạo Đạt Ma viện. 

Bàn xong chuyện Cơ Hiểu Phong, Dục Trọng Mâu nói: “Lần này toàn nhờ Đường đại hiệp và các vị rút đao tương trợ, giết chết kẻ địch của võ lâm, tệ phái cũng trả được mối thù lớn. Tuy chưởng môn sư tỷ của tệ phái không may qua đời, nhưng chết cũng nhắm mắt. Khi còn sống, Tào Cẩm Nhi đã chỉ định đệ tử của Lữ sư thúc là Cốc Chi Hoa làm chưởng môn kế nhiệm của phái Mang Sơn, sau khi an táng Tào sư tỷ, tệ phái lại sẽ chọn ngày lành cử hành điển lễ, nay bẩm cáo trước, đến lúc đó xin mời các vị trường bối quang lâm.” Theo quy củ võ lâm, chưởng môn kế nhiệm phải để tang cho chưởng môn tiền nhiệm ba tháng, sau đó mới có thể chính thức tiếp nhiệm.  

Thủ lĩnh của các phái nghe tin này thì đều mừng vì phái Mang Sơn đã có người kế nhiệm. Đường Hiểu Lan và Phùng Anh càng mừng hơn, Đường Hiểu Lan vuốt râu cười nói: “Năm xưa chúng tôi và Lữ Tứ Nương vào cung hành thích Ung Chính, chuyện xưa vẫn còn như hiện ra trước mắt, nay thấy đệ tử của bà tiếp nhậm chưởng môn, thời gian quả thật qua rất mau. Chúng tôi đều đã già cả!” Nhớ lại mối giao tình với Lữ Tứ Nương năm xưa, nhớ lại sự tích anh hùng thuở trước, Đường Hiểu Lan không khỏi vừa mừng vừa buồn. 

Thủ lĩnh các phái thấy chùa Thiếu Lâm đã bình yên vô sự nên cũng lần lượt ra về, hẹn ngày cùng đến Mang Sơn chúc mừng, chỉ vì phái Thiên Sơn xa xôi, Đường Hiểu Lan để lại con trai và con dâu làm sử giả cho phái Thiên Sơn, sau này sẽ đếnMang Sơn dự lễ. 

Lý Tâm Mai vốn cũng muốn xin mẹ ở lại cùng mình, nhưng Phùng Lâm không chịu, Phùng Lâm lấy cớ phái Thiên Sơn cứ ba năm phải khảo võ công một lần, năm nay lại tới lượt, muốn con gái trở về núi luyện kiếm. Phùng Lâm cười nói: “Thiên hạ không có buổi tiệc nào không tàn, con và Cốc cô nương bên nhau đã lâu, cuối cùng rồi cũng phải chia tay, chi bằng cứ để một chút tình ý, sau này gặp lại, huống chi ba năm nay con đã sao nhãng luyện tập, cả Chung  Triển cũng hơn con, con không sợ sau này hắn bắt nạt hay sao?” Lý Tâm Mai thẹn thùng đỏ mặt, nói: “Mẹ, mẹ lại cười con.” Phùng Lâm nói: “Mẹ không nói đùa, dù Chung Triển trung hậu thành thực, nhưng con cũng phải luyện võ công cao cường hơn hắn!” Mấy năm nay Chung Triển nuông chiều Lý Tâm Mai, nhất là sau lần cùng trải qua hoạn nạn, tình cảm của haingười ngày càng tốt đẹp, Lý Tâm Mai đã thầm chấp nhận y. Cho nên nghe mẹ nóinhư thế thì nàng chỉ cảm thấy e thẹn chứ chẳng hề giận dữ. Nàng là người háo thắng, nghe mẹ nói khích thì nghĩ cũng có lý, vả lại Chung Triển cũng muốn nàng cùng trở về núi, Lý Tâm Mai đành nghe theo họ. Nàng không biết rằng Phùng Lâm sợ nàng biết tin Kim Thế Di vẫn còn sống cho nên mới hối thúc nàng trở về. Mấy ngày sau, đệ tử phái Mang Sơn đưa linh cữu của Tào Cẩm Nhi trở về Mang Sơn an táng, bọn Đường Hiểu Lan trở về Thiên Sơn, Lý Tâm Mai đành phải cáo biệt Cốc Chi Hoa, đôi bên quyến luyến không rời. 

Khi chia tay, Lý Tâm Mai chợt khẽ nói: “Cốc tỷ tỷ, tỷ còn nhớ Lệ cô nương không?” Cốc Chi Hoa ngạc nhiên, nói: “Có phải muội bảo Lệ Thắng Nam không?” 

Lý Tâm Mai nói: “Đúng thế. Muội biết trước kia nàng cùng Kim Thế Di ra biển, nhưng gần đây biểu ca của muội gặp nàng, hình như nàng coi phái Thiên Sơn là kẻ thù, cướp Du long kiếm của biểu ca muội, sau đó đã bị dì của muội đoạt lại. Lệ cô nương thật khó hiểu, có lúc hình như nàng đối với muội rất tốt, nhưng cũng có một lần lừa muội. Muội thấy nàng cũng chẳng có ý tốt với tỷ, giờ đây tỷ trở lại giang hồ, phải cẩn thận một chút.” Lý Tâm Mai không biết rằng, Cốc Chi Hoa đã gặp Lệ Thắng Nam. Cốc Chi Hoa nghe nàng nhắc lại chuyện xưa thì lòng đau nhói, nàng cố kìm nén mà nói rằng: “Đa tạ muội, tỷ sẽ cẩn thận. Nhưng theo tỷ thấy, có lẽ Lệ cô nương sẽ không tìm đến tỷ nữa!” Bởi vì nàng nghĩ, mình đã đoạn tuyệt với Kim Thế Di, Lệ Thắng Nam đã hài lòng. Lý Tâm Mai hơi lấy làm lạ, hỏi: “Tại sao tỷ nghĩ như thế?” 

Cốc Chi Hoa không muốn cho nàng biết Kim Thế Di vẫn còn sống, đáp bừa rằng: 

“Không sao cả, tỷ và nàng chẳng có nợ nần gì, nàng còn tìm tỷ làm chi?” Cốc Chi Hoa nói như thế Lý Tâm Mai lại nghĩ sang mặt khác: “Đúng thế, Lệ Thắng Nam và Mạnh Thần Thông có thù oán, trước kia nàng căm hận Cốc tỷ tỷ, có lẽ là vì Cốc tỷ tỷ là con của Mạnh Thần Thông. Nay Mạnh Thần Thông đã chết, chắc là sẽ không gây phiền phúc cho Cốc tỷ tỷ!” Nàng sợ lại nhắc đến chuyện này khiến Cốc Chí Hoa buồn lòng cho nên lảng sang chuyện khác: “Cốc tỷ tỷ, chúc mừng tỷ sắp tiếp nhiệm chưởng môn, đáng tiếc muội không thể đến xem lễ. Có món quà nhỏ xin tặng tỷ. Một tấc lòng mong tỷ nhận lấy.”  

Rồi nàng lấy ra một cái tráp, nói tiếp: “Ở đây có một đóa Thiên Sơn liên, tỷ cứ giữ lấy để giành sau này.” Cốc Chi Hoa thấy nàng khẩn khoản đành phải nhận rồi hai người gạt nước mắt từ biệt nhau. 

Cốc Chi Hoa về núi chịu tang, tinh thần dần dần trở lại bình thường, trước đây nàng thường thấy hổ thẹn với đồng môn là vì chuyện của cha mình, nay cha nàng đã chết, khó tránh bức xúc một lúc, nhưng nay mọi việc đã qua tựa như mây đen đã qua, bầu trời trở lại trong xanh, vì thế mà nàng quyết tâm trùng chấn lại thanh oai của bổn môn để chuộc tội cho cha mình. Mặt khác cũng vì chuyện tình cảm riêng tư không như ý nên nàng quyết chí ở một mình. Bọn Dực Trọng Mâu thấy nàng ngày càng tốt hơn thì thầm mừng . 

Chớp mắt ba tháng đã trôi qua, Dực Trọng Mâu chọn ngày mười lăm tháng tám làm ngày chưởng môn mới chính thức tiếp nhậm. Thiệp đã phát ra các nơi, chưởng môn các phái có người thì đích thân đến, có người thì không đến nhưng cũng sai đệ tử đến chúc mừng. 

Ngày hôm nay phái Mang Sơn vui khác hẳn ngày thường, đại lễ tiếp nhiệm chưởng môn mới cử hành theo đúng giờ, sau khi bái lạy chưởng môn sư tổ ba đời trước, buổi lễ xong thì đến trưa. Tiếp theo chưởng môn lại nhận lời chúc mừng của sứ giả các phái. Không khí đang vui vẻ, Lâm Sinh chợt vào báo: “Bên ngoài có một thiếu nữ áo đen muốn vào gặp chưởng môn, có gặp hay không, mong chưởng môn cho biết!” Cốc Chi Hoa nói: “Là bằng hữu của phái nào, có hỏi lai lịch chưa?” Lâm Sinh nói: “Nàng bảo là tri giao ngày trước của chưởng môn, chưởng môn gặp tự nhiên sẽ biết.” Cốc Chi Hoa giật mình, nói: “Được, mời nàng vào.” Nàng đã biết người đó là ai, nhưng hôm nay là ngày trọng đại, về lý về tình nàng cũng không thế từ chối tiếp khách, dù biết rõ nàng có ý đến gây sự nhưng cũng không hề run sợ. 

Chỉ trong chốc lát, Lâm Sinh dắt theo một thiếu nữ tiến vào, Cốc Chi Hoa vừa nhìn thì quả nhiên đó là Lệ Thắng Nam. Bọn Dực Trọng Mâu, Lộ Anh Hào, Bạch Anh Kiệt đã từng gặp Lệ Thắng Nam, họ chỉ biết Lệ Thắng Nam có thù oán với Mạnh Thần Thông, tuy cảm thấy nàng đến đường đột nhưng cũng không đề phòng. 

Vợ chồng Đường Kinh Thiên không khỏi thầm kinh, trong lòng bực bội. Nhưng vì hôm nay họ cũng chỉ là khách, tuy đối mặt với kẻ thù, cũng chỉ âm thầm cảnh giác. 

Cốc Chi Hoa nói: “Lệ cô nương, hôm nay ngọn gió nào thổi cô nương đến đây thế? Xin thứ tôi không thể nghênh đón từ xa.” Lệ Thắng Nam cười nói: “Hôm nay Cốc cô nương tiếp nhiệm chưởng môn, người trên giang hồ sao không biết? Tôi đến đây muốn uống một chén rượu mừng của cô nương.” Cốc Chi Hoa thấy nàng vui vẻ cười nói tự nhiên thì thầm nhủ: “Ở đây cao thủ như mây, dù nàng quỷ kế đa đoancũng chưa chắc làm được chuyện gì.” Thế rồi mới nói khách sáo vài câu: “Tôi có tài cán gì mà làm phiền cô nương đến chúc mừng, xin mời ngồi.” Lệ Thắng Nam không ngồi xuống ghế mà bước tới gần thêm mấy bước rồi chậm rãi nói: “Tôi hôm nay một là đến chúc mừng cô nương, hai là cũng chuẩn bị một món quà quý giá để tặng cho cô nương!” Xưa nay chưa bao giờ khách tự khen quà của mình quý giá bởi vậy Lệ Thắng Nam vừa nói ra thì đệ tử phái Mang Sơn đều cả kinh. Cốc Chi Hoa chưng hửng, nói: “Cô nương đích thân đến đây, tôi đã cảm kích không nguôi. Cần gì phải mang theo quà quý giá?” Lệ Thắng Nam cười rằng: “Đừng khách sáo, món quà khác thì cô nương có thể không nhận, nhưng món quà này cô nương phải nhận đấy!” 

Hồi Thứ Năm Mươi

Cốc Chi Hoa thắc mắc lắm, chỉ đành nói: “Nếu thế tiểu muội xin lãnh nhận. 

Dực sư huynh, xin mời sư huynh nhận hậu lễ của Lệ cô nương!” Lệ Thắng Nam lại cười: “Mời Cốc cô nương xem qua trước món quà này, chẳng phải tôi tự khoác lác, món quà này đúng là không tầm thường, đối với quý phái thật là quý giá vô cùng!” Chỉ thấy nàng trịnh trọng bưng một cái tráp vuông, chậm rãi mở ra, đệ tử phái Mang Sơn đều mở to mắt muốn xem thử trong tráp là món quà quý giá gì. Đột nhiên chỉ nghe Cốc Chi Hoa kêu thét lên một tiếng, một cái đầu người lăn ra, râu tóc dựng ngược, thần sắc như còn sống, đó là cái đầu của Mạnh Thần Thông! Cái đầu của Mạnh Thần Thông vừa rơi ra thì toàn trường đều kinh hãi. 

Bởi vì sau cuộc tỉ thí ở bãi Thiên Tràng, tuy Đường Hiểu Lan đã đoán Mạnh Thần Thông chắc chắn sẽ chết nhưng không thấy xác y, nhân sĩ võ lâm rốt cuộc vẫn chưa yên tâm, bởi vậy trong hơn ba tháng nay người của các phái đều chia nhau ra điều tra, nay đột nhiên xuất hiện thủ cấp của y thì làm sao không kinh hãi cho được! 

Lệ Thắng Nam cười rằng: “Thế nào? Tôi tặng thủ cấp của kẻ thù quý phái, chắc là không có món quà nào quý hơn món quà này chứ?” Trong chớp mắt, Cốc Chi Hoa tựa như hồn rời khỏi xác, nàng đang khựng người ra ở đấy, chẳng nói được nửa câu nào, Dực Trọng Mâu định đến đỡ nàng, nàng đã bất giác bưng đầu cha mình! Dực Trọng Mâu nói: “Sư muội, đưa cho tôi, đừng nhìn nữa!” Theo quy củ võ lâm, có người tặng đầu của kẻ thù thì đúng là một món quà không gì quý giá bằng, đệ tử phái Mang Sơn lẽ ra phải cúi đầu lạy tạ Lệ Thắng Nam mới phải. Tuy Dực Trọng Mâu biết rõ Lệ Thắng Nam có ý đến khiêu khích chưởng môn của mình, nhưng chỉ cũng có thể nói như thế chứ chẳng thể nào trách được Lệ Thắng Nam. 

Nào ngờ Dực Trọng Mâu nói chưa dứt lời thì Cốc Chi Hoa đột nhiên lại kêu thét lên, cái đầu rơi xuống đất còn bản thân nàng cũng ngất xỉu. Hai đệ tử phái Mang Sơn vội vàng lên đỡ nàng, chạm phải cái đầu người thì cũng kêu lên như xé tim rách phổi, chẳng những họ chẳng đỡ được Cốc Chi Hoa mà cũng ngã ngửa xuống đất! Dực Trọng Mâu kinh hoảng, trong số khách khứa có Giang Nam y ẩn Diệp Dã Dật vội vàng bước tới, kêu lớn: “Có kịch độc, đừng chạm vào đầu người!” Lệ Thắng Nam nhân lúc hỗn loạn, chạy ra ngoài kêu lớn: “Cốc cô nương, mong rằng sau này sẽ gặp lại!” Đường Kinh Thiên vung ra ba cây Thiên Sơn thần mãng, quát: “Yêu nữ, ngươi đã hại chết người còn muốn chạy?” Lệ Thắng Nam rút ra cây kiếm chém rơi ba cây Thiên Sơn thần mãng, cười lạnh nói: “Thiếu chưởng môn, đừng gấp, tôi giải quyết xong chuyện này thì sẽ tự đến Thiên Sơn.” Chỉ nghe Diệp Dã Dật nói: “Cốc chưởng môn đã trúng ngũ độc tán. Ngũ độc tán là của Thất âm giáo. Giáo phái này đã bị tiêu diệt từ lâu nhưng không hiểu sao giờ đây lại xuất hiện. Y thư tổ truyền của tôi có ghi triệu chứng khi bị trúng ngũ độc tán, nhưng lại không ghi cách giải. Theo truyền thuyết nói, Thất âm giáo có một quyển Bách độc chân kinh, sau đó đã bị Kiều Bắc Minh cướp đi. Nay có lẽ thiếu nữ họ Lệ này đã lấy được Bách độc chân kinh!” Cao thủ các phái đều nhìn nhau lòng thầm nghĩ: “Nếu là thế, chả lẽ một Mạnh Thần Thông vừa chết đi lại xuất hiện Mạnh Thần Thông khác?” Dực Trọng Mâu nghe thế thì lòng càng nặng nề, nhưng ông ta lại hơi thắc mắc, lúc nãy Lệ Thắng Nam còn bảo sau này sẽ gặp lại Cốc Chi Hoa, theo nàng nói, hình như Cốc Chi Hoa không thể chết trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng giờ đây thì lành ít dữ nhiều, chả lẽ Lệ Thắng Nam đã gạt họ? Mà Lệ Thắng Nam có ý giết Cốc Chi Hoa, vậy còn gạt họ làm gì?  Diệp Dã Dật lại hòa Thiên Sơn liên với rượu, Tạ Vân Trân cạy miệng Cốc Chi Hoa đổ vào. 

 Lúc này Cốc Chi Hoa chỉ thoi thóp thở, da thịt cũng bắt đầu cứng lại, đổ Thiên Sơn liên vào miệng mà nàng cũng chẳng thể nuốt được, Diệp Dã Dật dùng ngân châm kích thích huyệt đạo của nàng rồi dùng rượu sâm đổ vào miệng nàng, khó khăn lắm Thiên Sơn liên mới trôi xuống được. 

Nhưng trải qua một lúc lâu sau mà Cốc Chi Hoa vẫn hôn mê không tỉnh, mạch cũng chẳng thấy mạnh hơn. Đường Kinh Thiên nói: “Thiên Sơn liên vốn là loại thánhdược giải độc tốt nhất, sao lại chẳng có chút công hiệu?” Diệp Dã Dật thở dài nói: “Không phải Thiên Sơn liên mất công hiệu mà bởi sinh Cơ của Cốc chưởng môn đã sắp ngừng, khí huyết không thể vận hành, dù cho có linh dược cải tử hồi sinh e rằng cũng chẳng có hiệu quả.” Đường Kinh Thiên nói: “Có thể đả thông kinh mạch giúp khí huyết của nàng vận hành để phát huy dược lực không?” Diệp Dã Dật nói: “Khó, khó lắm. Trừ phi mời lệnh tôn đến, dùng nội công tuyệt đỉnh tương trợ thì có lẽ vẫn còn hy vọng. Nhưng dù như thế cũng chỉ tạm thời giữ được mạng, muốn khỏi hẳn thì phải có thuốc giải đúng bệnh. Dực bang chủ, xin thứ tôi nói thẳng, giờ đây khó có thể cứu nổi chưởng môn của quý phái, chi bằng ông hãy chuẩn bị hậu sự thôi!” Dực Trọng Mâu rầu rĩ, lòng đau như cắt, và nữ đệ tử của phái Mang Sơn bắt đầu bật khóc. 

Dực Trọng Mâu lòng rối như tơ vò, đấm ngực kêu lên: “Trong ba tháng mà hai chưởng môn gặp bất hạnh, chả lẽ khí số của phái Mang Sơn đã suy?!” Ngay lúc đó chợt nghe bên ngoài có tiếng người ồn ào, tiếng bước chân, tiếng cãi nhau vọng vào, Dực Trọng Mâu cả giận nói: “Thật quá đáng, sóng trước chưa rút sóng sau đã vỗ tới, phái Mang Sơn của ta dễ bức hiếp đến thế sao?” Y tưởng là ma đầu nào lại đến gây sự, bất đồ giận đến xanh mặt. 

Lại nói Kim Thế Di sống u uất trong ba tháng trời, đã mấy lần toan lên Mang Sơn nhưng vì Cơ hội chưa tới. Cho đến khi nghe được tin Cốc Chi Hoa đã hoàn toàn bình phục, lại phát thiệp mời bằng hữu giang hồ đến dự lễ tiếp nhậm chưởng môn, tâm trạng mới dần dần thoải mái, chàng thầm nhủ: “Sóng gió đã qua, chắc là nàng đã dần dần bình tĩnh. Tâm Mai và Chung Triển trở về Thiên Sơn, giờ đây nếu mình lộ mặt chắc cũng không hề chi. Mình cũng nên đi thăm nàng!” Chàng cũng đoán được rằng sự xuất hiện của mình sẽ gây xôn xao cho nên không lên tham gia điển lễ, chàng chần chừ ở dưới chân núi một lúc lâu, cho đến khi mặt trời lên quá đầu, nghe tiếng chuông báo hiệu cử hành đai điển thì mới từ từ lên núi.  

Nhưng chàng vẫn còn có một mối tâm sự, đó là sau khi gặp riêng Cốc Chi Hoa thì công khai lộ mặt, hay lộ mặt trước gặp bọn Dực Trọng Mâu rồi mới đi gặp Cốc Chi Hoa? Kim Thế Di vừa đi vừa nghĩ bất giác đã đến con đường dẫn vào khu vườn mộ của Độc Tý Thần Ni, từ chân núi lên Huyền Nữ quán đến đây cũng được nửa đoạn đường, chợt thấy một bóng người từ trên sườn núi chạy gấp ra, Kim Thế Di giật mình, ngẩn người ra, lạc giọng kêu lên: “Thắng Nam, là muội?...” Lệ Thắng Nam lạnh lùng, phất tay áo nói: “Kim tiên sinh, ông thế nào rồi?” Kim Thế Di định nắm tay nàng, thấy nàng như thế thì cũng không khỏi sững người ra. Lệ Thắng Nam cười lạnh: “Ông còn đứng đấy làm gì? Người ta đang đợi ông, hãy mau vào đi thôi “ Kim Thế Di ấp úng nói: “Thắng Nam... muội... muội sao thế?” Lệ Thắng Nam nói: “Sao, chả lẽ tôi không được phép đến đây?” Kim Thế Di vội vàng hỏi: “Muội đã đến Huyền Nữ quan? Nhưng sao lại chạy xuống? Muội tính đi đâu?” Lệ Thắng Nam thản nhiên nói: 

“Chúng ta đã ân đoạn nghĩa tuyệt, đường ai nấy đi, ông cứ mặc kệ tôi!” Lần đầu tiênKim Thế Di mới nghe bốn chữ “Ân đoạn nghĩa tuyệt” từ miệng Lệ Thắng Nam, chàng thấy như có sấm nổ trên đầu, trong nhất thời không biết nói thế nào, lúc này Lệ Thắng Nam đã chạy vượt qua chàng. Kim Thế Di cố nén không đuổi theo nàng, chợt nhớ lại hôm nay mình đến thăm Cốc Chi Hoa, thế là định thần thầm nhủ: “Không thể, không thể? Trong lòng mình chỉ có một mình Cốc Chi Hoa, Thắng Nam... nàng đã không muốn đối xử với mình như huynh muội, mình còn đuổi theo làm gì? Chẳng phải tự chuốc lấy phiền toái, tự chuốc lấy khổ hay sao?” lúc này đang là buổi trưa, mặt trời đang ở trên cao, xung quanh hoa dại ở rộ, lúc này cảnh Mang Sơn thật là đẹp nhưng Kim Thế Di thấy cõi lòng tê tái, chàng nhớ lại khi còn ở với Lệ Thắng Nam trên hoang đảo, bao nhiêu lời nói êm ái dịu dàng, bao nhiêu ân cần âu yếm, cả hai cùng trải qua hoạn nạn, không ngờ lại có kết cuộc như hôm nay! Kim Thế Di thấy lòng nguội lạnh, thầm nhủ: “Chuyện quá khử cứ để cho nó đi qua, mình tự thấy chẳng hổ thẹn gì với Thắng Nam. Thôi được, cứ coi như đó là một người chưa bao giờ quen!” 

Nhưng bóng hình của Lệ Thắng Nam tựa như lởn vởn trước mặt chàng, rõ nhất là nụ cười khiến người ta yêu thương của nàng, trong chớp mắt nụ cười ấy biến mất thay vào là ánh mắt oán hờn, vẻ mặt phẫn uất, thần thái giá lạnh! Kim Thế Di rùng mình: 

“Nàng đến Mang Sơn làm gì? Tại sao nàng nhìn mình với ánh mắt như thế? Tựa như đầy mỉa mai, tà ác, oán hờn, sung sướng?” chàng nghĩ như thế thì bất chợt thấy lạnh mình, Kim Thế Di đã thấy hình như có điều gì không may, lúc này chàng đã không thể nhớ đến quá khứ êm đềm, chàng chỉ muốn biết Cốc Chi Hoa có bình an hay không. Chàng vội vàng ba chân bốn cẳng chạy như tên bay như Mang Sơn! Đệ tử Mang Sơn canh trước Huyền Nữ quán chợt thấy Kim Thế Di lướt tới thì không khỏi cả kinh, bốn năm trước Kim Thế Di đại náo Mang Sơn khiến Tào Cẩm Nhi suýt nữa chẳng xuống thang được. Những đệ tử này lúc đó đã từng giao thủ với chàng, một trong tám đại đệ tử của Mang Sơn là Lư Đạo Lân vội vàng phát ra tín hiệu, cùng các đệ tử bày thành thế trận chặn trước mặt, giơ ngang đao quát hỏi: “Tên ma đầu nhà ngươi vẫn chưa chết sao? Đến đây làm gì? Bọn ta đâu có phát thiệp mời cho ngươi?” 

Kim Thế Di nào có tâm trạng đôi co với y, đánh ra một chưởng đẩy Lư Đạo Lân sang một bên, nói: “Không phải ta đến đây đánh nhau, Cốc chưởng môn của các ngươi thế nào? Ta muốn gặp nàng?” Các đệ tử đều cả giận quát: “Ngươi còn muốn gặp chưởng môn của ta?” Thế là vung đao múa kiếm xông tới bao vây! Bởi vì trước khi ra biển, Kim Thế Di và Lệ Thắng Nam như hình với bóng, nhiều người trong võ lâm biết chuyện này, thậm chí có người còn cho họ là một đôi tình nhân. 

Nay Lệ Thắng Nam vừa mới đi, Kim Thế Di đã đến, đệ tử phái Mang Sơn càng cho chàng là đồng đảng của nàng. 

Kim Thế Di thi triển võ công Tiêm y thập bát điệt, những người chạm phải chàng đều bị văng ra, chỉ trong chốc lát các đệ tử phái Mang Sơn đều bị chàng đánh ngã chổng vó, trong lúc đó hai người Lộ Anh Hào và Bạch Anh Kiệt nghe tiếng chạy ra, Kim Thế Di vung hai tay tóm lấy họ: “Lộ huynh, Bạch huynh. Hãy mau đắt tôi vào, tôi không phải đến đây gậy chuyện ? Thế nào, các người còn mở mắt nhìn tôi làm gì? Không nhận ra tôi sao? Mùa xuân năm nay kẻ đánh lui đệ tử của Mạnh Thần Thông chính là tôi! Các người đã nhớ chưa? Hãy tin tôi chẳng có ác ý!” Lần đó Kim Thế Di giả mạo thành đệ tử tục gia của chùa Thiếu Lâm, cứu hai người Lộ, Bạch, lúc đó Bạch Anh Kiệt cũng nghi ngờ thân phận của chàng, nay nghe chàng nói thì vỡ lẽ ra. Bạch Anh Kiệt nói: “Ồ, té ra người là ân nhân, tôi dắt người vào. Nhưng người hãy buông nhẹ tay được không?” Té ra Kim Thế Di đang rất gấp gáp, bất giác đã dùng kình, suýt nữa đã bóp nát xương của họ. Bọn Dực Trọng Mâu, Đường Kinh Thiên nghe bên ngoài có tiếng ồn ào, không hẹn mà đều chạy ra xem, thấy Kim Thế Di hộc tốc chạy vào, Dực Trọng Mâu thất kinh, Dường Kình Thiên đã rút kiếm quát: “Kim Thế Di, ngươi muốn thế nào?” Kim Thế Di kêu lên: “Cốc Chi Hoa đâu?” Đường Kinh Thiên nói: “Ngươi còn hỏi đến nàng, hảo bằng hữu của người đã hại chết nàng!” Kim Thế Di kinh hoảng, đứng sững sờ, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Đường Kinh Thiên đã đâm tới một kiếm, Băng Xuyên Thiên Nữ vội vàng kêu: “Đừng!” Rồi vung tay chụp lại, chỉ nghe soạt một tiếng, cây Du long kiếm đã đâm qua áo của Kim Thế Di, nếu không nhờ Băng Xuyên Thiên Nữ kẻo lại thì suýt tí nữa đã đâm một lỗ trên người của chàng! Đường Kinh Thiên tức giận nói: “Sao muội còn nói giúp cho y? Lần trước y đã cứu ả yêu nữ trong tay của cha, chả lẽ muội còn chưa biết?” Té ra Phùng Lâm và Đường Hiểu Lan biết được người đó là Kim Thế Di đã nói với Đường Kinh Thiên và Chung Triển nhưng chỉ giấu một mình Lý Tâm Mai. 

Băng Xuyên Thiên Nữ nói: “Hình như không phải y đồng mưu với ả yêu nữ!” 

Kim Thế Di ngẩn người, chàng chợt kêu lớn một tiếng, phất ống tay áo suýt nữa đã hất ngã Đường Kinh Thiên, rồi chàng vươn tay chụp lấy Dực Trọng Mâu kêu lên: “Nàng ở đâu, mau dẫn ta vào xem!” Lúc này Dực Trọng Mâu cũng biết Kim Thế Di không có ý xấu, giật mình nói: “Hãy theo tôi, giờ đây sư muội chỉ còn hơi thở cuối cùng!” Kim Thế Di bước vào trong phòng, thấy bọn nữ đệ tử phái Mang Sơn chuẩn bị cho Cốc Chi Hoa, bất đồ toàn thân run bần bật, hai mắt tối sầm, khụy gối xuống gào lên: “Đều là lỗi của huynh, huynh đến chậm một bước!” Băng Xuyên Thiên Nữ vội vàng nói: “Thế Di, huynh hãy bình tĩnh, Cốc cô nương vẫn chưa đứt hơi? Chúng tôi đã cho nàng uống Thiên Sơn liên, nhưng không có cách nào giúp khí huyết nàng vận hành!” Kim Thế Di nhảy bật lên, chẳng hề để ý đến chuyện nam nữ, cúi xuống ngực Cốc Chi Hoa nghe nhịp tim của nàng, một lúc sau thì chàng đứng dậy, trong mắt lộ tia hy vọng, nói Dực Trọng Mâu: “Hãy mau chuẩn bị một căn tịnh thất.” Dực Trọng Mâu mừng rỡ, vội vàng làm theo. Kim Thế Di bước vào tịnh thất, đóng cửa phòng lại, trịnh trọng căn dặn không ai được vào quấy rối. 

Bọn Lư Đạo Lân đều thấp thỏm lo âu, vây quanh Dực Trọng Mâu hỏi: “Làm thế có ổn không? Có tin nổi tên ma đầu này không?” bởi vì giờ đây Cốc Chi Hoa đã là chưởng môn phái Mang Sơn, Dực Trọng Mâu để cho cô nam quả nữ cùng một phòng, nếu Kim Thế Di có thể cứu sống Cốc Chi Hoa thì thôi, nếu không được thì phái Mang Sơn lại sẽ chịu nhục thêm, chỉ e sau khi Cốc Chi Hoa chết thì sẽ đội thêm nỗi oan không trong sạch, Dực Trọng Mâu nghe các sư đệ nói như thế thì không khỏi giật mình, nhưng thần sắc vẫn như thường, gật đầu, kiên quyết nói: “Dù người khác nói thế nào, ta vẫn tin y!” Trong phái Mang Sơn Dực Trọng Mâu chỉ kém Tào Cẩm Nhi, y đã nói như thế, các đệ tử phái Mang Sơn đều không dám nhiều lời. 

Kim Thế Di đóng cửa phòng lại, định thần, điều hòa hơi thở rồi thầm khấn: “Trời cao phù hộ, giúp con cứu sống Chi Hoa muội muội.” Thế rồi ngồi xếp bằng, hai chưởng đặt lên huyệt toàn Cơ trước ngực Cốc Chi Hoa, từ từ thôi cung quá huyệt cho nàng. 

Nội công của Cốc Chi Hoa có căn Cơ vững chắc, được ngoại lực tương trợ, thế là tự nhiên nảy sinh phản ứng, qua nửa canh giờ, chỉ nghe nàng ho nhẹ, ngực dần dần phập phồng, đó là nàng đã thở được, máu ứ trong người cũng đã có hiện tượng được hóa giải. 

Kim Thế Di cả mừng, cố gắng đẩy thêm công lực. Nửa canh giờ sau, hơi thở của Cốc Chi Hoa càng mạnh hơn, chẳng khác người thường bao nhiêu. Chất kịch độc trên người Cốc Chi Hoa dần dần chuyển vào lòng bàn tay của nàng, Kim Thế Di chỉ dùng nội công thượng thừa đẩy ra đầu ngón tay, chàng cắn rách hai đầu ngón tay giữa của nàng, nặn ra máu độc, sau đó lại dùng Nhất chỉ thiền công điểm vào ba mươi sáu đại huyệt trên toàn thân của nàng, kinh mạch của Cốc Chi Hoa được thông suốt, dược lực của Thiên Sơn liên đi khắp tứ chi, cuối cùng đã đần dần tỉnh táo. Kim Thế Di cũng mệt bã người. Chàng vừa mừng vừa lo, tim đập bình bình, nắm chặt hai tay của Cốc Chi Hoa, chỉ thấy Cốc Chi Hoa dần dần mở mắt, kêu lên: “Đây là đâu? Có phải ta đang nằm mộng? Ngươi... ngươi...” Kim Thế Di vội vàng nói: “Huynh là Thế Di, muội đừng sợ.” Cốc Chi Hoa nói: “Làm sao muội ở đây?” Rồi nàng chớp mắt, tựa như đang cố nhớ đến chuyện xưa, chợt nàng rút tay ra, kêu lên: “Không đúng, Lệ cô nương đâu? Làm sao chỉ có chúng ta ở đây? Lệ cô nương của huynh đang ở đây, sao huynh lại không đi cùng nàng?” Kim Thế Di nói: “Là nàng đã hại muội, chỉ trách huynh đến muộn một bước! Nàng đã chạy, từ rày về sau chúng ta hãy mặc kệ nàng!” 

Cốc Chi Hoa khẽ nói: “Huynh nói sao, mặc kệ nàng? Chẳng phải huynh và nàng cùng đến hay sao?” Kim Thế Di nói: “Làm sao cùng đến được? Mấy tháng trước chúng tôi đã chia tay! Huynh không ngờ lòng dạ nàng độc ác đến thế! Nhưng những chuyện này đều đã qua, Chi Hoa, muội có chấp nhận là bằng hữu của huynh suốt đời không?” Cốc Chi Hoa sững người ra, toàn thân run bần bật, chẳng thể ngồi nổi, Kim Thế Di đỡ nàng. Cốc Chi Hoa chợt kêu: “Không được, không được! Thế Di, đa tạ huynh đã cứu sống muội nhưng tốt nhất từ rày về sau chúng ta đừng gặp nhau nữa. Cốc Chi Hoa vì quá xúc động, nói liền mấy câu cho nên ho một tràng, chỉ cảm thấy toàn thân uể oải, tứ chi rũ rượi. 

Kim Thế Di rơi nước mắt mà nói rằng: “Toàn là do huynh hại muội cả, suýt nữa muội đã mất mạng, chả trách nào muội không chịu thứ lỗi cho huynh!” Cốc Chi Hoa nói: “Không, muội chẳng trách huynh tí nào cả. Thực ra Lệ Thắng Nam hại muội, trái lại muội rất vui!” Kim Thế Di bất giác ngạc nhiên, Cốc Chi hoa chợt mỉm cười, nói:“Chàng ngốc, điều này mà cũng không hiểu sao, huynh nghe thử xem, tại sao nàng lại hại muội, nếu... nếu...” Nàng ho thêm mấy tiếng rồi mặt đỏ ửng. 

Kim Thế Di vỡ lẽ ra, bởi vì Lệ Thắng Nam hại Cốc Chi Hoa là do Kim Thế Di yêu Cốc Chi Hoa, mà Cốc Chi Hoa lại vui mừng khi bị trúng độc là vì nàng đã biết tâm ý của chàng. Kim Thế Di khẽ nói: “Muội đã mệt, hãy nằm xuống nghỉ ngơi, để huynh nói giúp hai câu đó của muội. Nếu... nếu huynh khiến cho nàng hài lòng, nàng có hạ độc muội không? Chi Hoa muội muội, có phải muội muốn nói hai câu này không?” Cốc Chi Hoa im lặng, trên mặt nàng hiện nét cười, Kim Thế Di lại nói: “Chi Hoa muội muội có tin huynh không? Tại sao muội lại vẫn chưa chịu?” Cốc Chi Hoa nói: “Muội đã là một phế nhân, Thiên Sơn liên chỉ có thể kéo dài hơi tàn của muội, chả lẽ huynh không nhận ra sao?” Kim Thế Di nắm tay nàng nói: “Vậy huynh sẽ hầu hạ muội suốt đời suốt kiếp!” Cốc Chi Hoa trào nước mắt, đó là nước mắt đau đớn, cũng là nước mắt xúc động, trong khoảnh khắc nàng hầu như suýt nữa đã chấp nhậnlời cầu hôn của Kim Thế Di, nhưng nàng vẫn nói ra hai chữ: “Không được!” Kim Thế Di nói: “Tại sao?” Cốc Chi Hoa nói: “Muội đã hứa với Tào sư tỷ, suốt đời suốt kiếp quyết chẳng lấy ai!” Kim Thế Di nói: “Sao lại cứ để một người chết ngăn chặn giữa chúng ta?” Cốc Chi Hoa cắn môi nói: “Không, muội đã hứa với sư tỷ, không thể thay đổi được nữa! Thế Di, muội chết đi cũng cảm kích huynh, nhưng muội không thể làm vợ của huynh! Lời đã nói hết, huynh hãy đi đi, từ rầy về sau đứng đến tìm muội nữa!” Nàng nói một hồi thì đã quá mệt, đến câu cuối cùng thì hơi thở càng yếu, lời nói cũng chẳng rõ ràng được nữa.  

Thực ra, chính vì nàng cảm kích tấm chân tình của Kim Thế Di cho nên không muốn Kim Thế Di hy sinh vì mình, không muốn liên luỵ cả đời Kim Thế Di, nàng đem lời hứa đối với Tào Cẩm Nhi ra là để ngụy biện cho mình mà thôi. 

Kim Thế Di khựng người một hồi, chàng lại suy ngẫm lời lẽ của Cốc Chi Hoa, chàng vốn là người thông minh, dần dần cũng hiểu được ý nàng, biết nếu muốn nàng chấp nhận thì ngoại trừ giúp nàng hồi phục, như thế nàng kết hôn với mình mới khôngthấy đã liên lụy mình. 

Nhưng làm sao mở giúp nàng khỏe lại, đó chẳng phải là điều Kim Thế Di làm được. Chàng buông màn xuống, hạ giọng nói: “Quá khứ như một cơn ác mộng, đừng nhắc đến nữa, muội cứ ngủ một lát, chốc nữa huynh sẽ vào gọi muội.” Cốc Chi Hoa mỉm cười: “Muội rất yên lòng, huynh đừng lo lắng cho muội, nếu đêm nay là một giấc mơ thì đó là một giấc mơ lành. Thế Di, huynh hãy để muội nằm mơ thêm một chốc, đừng vào đánh thức muội. Muội nghĩ huynh chắc chắn cũng vào trong mơ gặp muội, chúng ta cứ gặp nhau trong mơ.” Kim Thế Di vừa mừng vừa lo, mừng là vì sau cơn mưa trời lại sáng, Cốc Chi Hoa đã hiểu đúng về chàng. Còn buồn là vì chỉ e đây là một cơn ác mộng, dù ác mộng trở thành mộng lành, mộng cũng chẳng trở thành thật! Bọn Dực Trọng Mâu đang nôn nóng chờ bên ngoài, chợt thấy Kim Thế Di sắc mặt trắng bệch, uể oải bước ra thì bất đồ sững người, một lúc sau Dực Trọng Mâu mới dám hỏi: “ Thế nào rồi?” Kim Thế Di buồn bã ngồi xuống, nói: “Nàng đã sống nhưng giờ đã ngủ.” Dực Trọng Mâu nói: “Chỉ cần tính mạng không nguy là được.” Kim Thế Dí nói: “Tính mạng thì không nguy hiểm, nhưng muốn trở lại bình thường e rằng rất khó. Diệp tiên sinh, y đạo của ông cao minh, ông hãy vào thăm một lát.” Mọi người thấy Kim Thế Di mệt mỏi như thế thì biết chàng đã dốc hết sức mình cứu Cốc Chi Hoa. Đường Kinh Thiên rất ái ngại, bước tới thi lễ nói: “Thế Di huynh, lúc nãy tôi trách nhầm huynh. “ Kim Thế Di nói: “Cả bản thân tôi cũng không tha cho mình, làm sao có thể trách các người. Mối họa này vì tôi mà có!” 

Băng Xuyên Thiên Nữ đã đoán được sáu bảy phần, thay vì ngạc nhiên thì mỉm cười nói: “Thế Di, huynh cũng đã mệt, hãy nghỉ ngơi một lát, đừng nghĩ ngợi nhiều nữa!” Một hồi sau, Diệp Dã Dật bước ra nói: “Tính mạng không có gì nguy hiểm, nhưng phải có thuốc giải đúng chứng mới không tàn phế! Ngũ độc tán của ả yêu nữ này quá lợi hại!” Lúc này Dực Trọng Mâu đã kể lại mọi chuyện cho Kim Thế Di, cuối cùng thở đài: “Chuyện này thật đúng là khiến người ta khó đoán. Kim đại hiệp bảo ả yêu nữ này muốn lấy mạng Cốc sư muội, sau khi Cốc sư muội trúng độc lại cố ý để một đường sống, muốn người ta đến xin thuốc giải.” Kim Thế Di hỏi: “Lúc đó các người có xin hay không?” Dực Trọng Mâu nói: “Sao lại không! Nhưng ả không cho, bảo rằng muốn xin thuốc giải phải tìm người thích hợp!” Kim Thế Di giật mình, chàng đương nhiên hiểu người thích hợp đó chính là mình. Lệ Thắng Nam tính rất chính xác, nàng đoán rằng Kim Thế Di chắc chắn sẽ lên Mang Sơn cho nên đã ra tay hạ độc Cốc Chi Hoa trước để buộc chàng đến cầu xin mình. Đến nước này, Kim Thế Di chỉ đành đi tình Lệ Thắng Nam. Thế nhưng từ dạo ấy Lệ Thắng Nam bặt tin, Kim Thế Di tìm nàng khắp chân trời góc biển mà chẳng thấy đâu. 

Hai năm sau, hôm nay là ngày lễ cưới của Lý Tâm Mai với Chung Triển. Khách khứa đến dự rất đông, trong đó có cả đôi vợ chồng mới cưới Giang Nam và Trâu Giáng Hà. Ai nấy đều cười nói chỉ có mình Giang Nam là đứng im thin thít. Lý Tâm Mai vẫy tay: “Giang Nam, sao hôm nay ngươi lại im lặng đến thế. Qua đây nói chuyện!” Giang Nam xưa nay nổi tiếng lắm chuyện nghe Lý Tâm Mai nói thế thì cười hì hì rằng: “Thôi được, tôi chúc cô nương hai câu may mắn, chúc cô nương ngày này sang năm có một đứa bé vừa trắng vừa tròn.” Lý Tâm Mai giả vờ giận dỗi nói: “Ăn nói chẳng tử tế tí nào, ta tường ngươi đã đổi tính.” Chợt thấy Giang Nam tuy nở nụ cười nhưng rất gượng gạo, Lý Tâm Mai chưng hửng, hỏi: “Giang Nam, ngươi có tâm sự gì?” Giang Nam nói: tâm sự của tôi là muốn sớm ngày ăn trứng gà đỏ của cô nương.” Theo tập tục, trẻ vừa mới sinh ra đời thì phải luôn trứng gà đỏ, có người chen vào: “Trên Thiên Sơn không thể nuôi gà!” Giang Nam nói: “Các người biết một mà không biết hai, gà tuyết Thiên Sơn ngon hơn gà nhà nhiều, chắc là trứng của gà tuyết cũng ngon lắm.” Lý Tâm Mai nói: “Đừng nói càn nữa, dù sao chúng ta cũng là bằng hữu cùng trải qua hoạn nạn, có còn nhớ chuyện ở Giang Nam hay không? Chuyện gì ngươi cũng nói cho ta biết. Ta nhớ có một lần Lệ cô nương gạt ta, nhờ ngươi mà ta mới biết nàng nói dối.” Lý Tâm Mai là nàng thiếu nữ vô tư, nàng vẫn luôn nhớ đến Kim Thế Di, nàng chẳng hề giấu điều đó, cho nên vừa gặp Giang Nam thì nhờ lại chuyện bọn Giang Nam và Trần Thiên Vũ tìm Kim Thế Di. Nào ngờ nàng đã chạm đúng tâm sự của Giang Nam, té ra Giang Nam là người trọng tình nghĩa, chàng đang đau lòng cho Kim Thế Di. 

Trâu Giáng Hà đã từng dặn Giang Nam đừng nói càn, nhưng lúc này đã có người gợi tâm sự của chàng, chàng nén không được nói: “Đúng thế, tôi đã biết Lệ cô nương chẳng phải người tốt, tôi đã căm ghét nàng từ lâu chứ không giống như hôm nay mọi người mới căm ghét nàng!” Lý Tâm Mai ngạc nhiên, nói: “Ngươi nói sao, Lệ Thắng Nam lại xuất hiện trên giang hồ?” Giang Nam thấy mình đã nói lỡ lời, trong nhất thời không thể quanh co được, chỉ đành ấp úng: “Điều này, điều này... tôi không nghe nói.” Lý Tâm Mai nói: “Không đúng, lúc nãy chẳng phải ngươi nói nay có rất nhiều người căm ghét nàng hay sao?” Giang Nam nói: “Nàng xưa nay hành sự xảo quyệtt thâm độc, đương nhiên có nhiều người căm ghét nàng!” Lý Tâm Mai nói: “Không, không, không đúng. Lúc nãy ngươi bảo hôm nay chứ không phải lúc trước. Nàng nhất định đã quay lại, chắc là đã kết oán với người cho nên ngươi mới nói như thế.” Bởi vì năm xưa Lệ Thắng Nam cùng Kim Thế Di ra biển, nếu Lệ Thắng Nam có thể trở về, Kim Thế Di có thể vẫn còn sống, dù không như thế ít nhất cũng có thể hỏi nàng Kim Thế Di còn sống hay đã chết. Lý Tâm Mai nghe như thế, bọn Phùng Lâm, Đường Kinh Thiên cũng biết nàng nghĩ như thế. Phùng Lâm nhíu mày, đang định bịa chuyện gạt nàng, Lý Tâm Mai đã vội hỏi: “Giang Nam, ngươi nhất định biết tin tức của Lệ cô nương, nàng đã ở đâu?” lúc này Giang Nam chỉ im lặng. 

Lý Tâm Mai lại thở dài: “Đáng tiếc hôm nay Cốc tỷ tỷ không đến.” Câu này của nàng có hai ý nghĩa, thử nhất, nếu Cốc Chi Hoa ở đây thì nàng có thể thương lượng, thứ hai nàng tưởng rằng Cốc Chi Hoa cũng như mình, vẫn chưa biết Kim Thế Di còn sống hay đã chết, cho nên nôn nóng báo cho Cốc Chi Hoa rằng Lệ Thắng Nam đã trở về, từ Lệ Thắng Nam có thể biết được tin tức của Kim Thế Di, té ra khi Lý Tâm Mai chấp nhận lấy Chung Triển, nàng đã quyết định, dù Kim Thế Di trở về nàng cũng nhường cho Cốc Chi Hoa. Trong ngày đại hỉ của nàng, nàng cũng cầu xin trời đất chúc cho Cốc Chi Hoa được mối duyên lành. 

Lý Tâm Mai vừa nói thì chợt nghe một giọng nói vang lên bên tai: “Té ra cô cũng còn tốt như thế, tôi tưởng cô chỉ nhớ đến Cốc tỷ tỷ của cô? Nhưng vẫn còn nhớ đến tôi, tôi ở đây!” Lý Tâm Mai cả kinh giật mình, ngay lúc này chỉ nghe Đường Hiểu Lan lớn giọng nói: “Là quý khách phương nào, xin thứ lỗi không đón.” Té ra Lệ Thắng Nam dùng thuật Thiên độn truyền âm, nói với Lý Tâm Mai, người khác thì không nghe nhưng nội công của Đường Hiểu Lan đã đến lúc lư hỏa thuần thanh, ông ta tuy không hiểu thuật Thiên độn truyền âm nhưng đã phát giác có điều kỳ lạ. 

Chỉ thấy một bóng người hiện lên ở ngoài cửa, Lệ Thắng Nam cười khanh khách bước vào, các đệ tử tiếp khách của phái Thiên Sơn chợt thấy có một thiếu nữ xinh đẹp xuất hiện, mà lại không biết nàng đi tới từ hướng nào thì đều ngẩn người ra, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Phùng Lâm và Đường Hiểu Lan đã đồng thời ra tay, Phùng Lâm đứng xoay người về phía nàng, trở tay phất ống tay áo lại, Đường kinh Thiên cũng rút kiếm ra đâm về phía nàng! Cũng ngay lúc đó, Trâu Giáng Hà và Lý Tâm Mai cùng kêu thét lên, chỉ thấy Giang Nam lộn nhào ra ngoài, lao thẳng vào vách tường, may mà được Tiêu Thanh Phong kéo lại. 

Hồi Thứ Năm Mươi Mốt

Giang Nam rất lanh lẹ, vừa thấy Lệ Thắng Nam tiến vào thì đã biết nàng ta sẽ gây điều bất lợi đối với mình cho nên lập tức lộn người ra, may mà Đường Kinh Thiên và Phùng Lâm đã tấn công tới, Lệ Thắng Nam muốn tát chàng một bạt tai nhưng không được, chỉ đành dùng một đòn Phách không chưởng đẩy một cái khiến cho chàng phải lộn nhào. 

Phùng Lâm phất ống tay áo ra, chỉ nghe soạt một tiếng, ống tay áo đã bị rách một mảng, cây bảo kiếm của Đường Kinh Thiên đâm ra như điện chớp, tưởng là sẽ trúng vào người nàng, nhưng không biết thế nào mà trượt sang một bên, bộ pháp cũng không vững, thế là lao về phía trước mấy bước, soạt một tiếng, thanh kiếm đâm vào cái bàn trà bên cạnh Lý Tâm Mai. 

Lệ Thắng Nam cười lạnh: “Đây là quy củ nào, tuy ta không nhận được thiệp mời, đến chúc mừng chả lẽ cũng phạm tội chết! Sao các người lại muốn lấy mạng ta?” 

Đường Hiểu Lan nói: “Lâm muội ngừng tay, phải hỏi rõ nàng trước. Lệ cô nương, nếu cô thật sự đến đây chúc mừng, Đường mỗ đương nhiên lấy lễ tiếp đãi, dù ngày trước cô làm chuyện xấu gì, hôm nay cũng quyết không làm khó cô. Nhưng nếu cô muốn gây rối, phái Thiên Sơn này không phải là nơi làm càn!” Lệ Thắng Nam điềm nhiên nói: “Ồ, té ra phái Thiên Sơn là nơi thánh địa ư? Hôm nay tôi mới biết điều này! Có Đường chưởng môn ở đây, tiểu nữ sao dám làm càn!” Nàng xông thẳng vào lễ đường, đệ tử phái Thiên Sơn mới phát hiện, cho nên nàng nói mấy câu mỉa mai ấy, người trên kẻ dưới phái Thiên Sơn đều cảm thấy mất mặt, nhưng chỉ vì có chưởng môn ở đây cho nên bọn họ chỉ dám giận mà không dám lên tiếng. 

Lệ Thắng Nam hơi ngừng rồi lại tiếp tục nói: “Tôi đến đây để chúc mừng. Lý cô nương, chúng ta tuy không phải tri giao nhưng năm xưa đã từng bị nhốt trong nhà Mạnh Thần Thông, coi như cũng đã cùng trải qua hoạn nạn, nay tôi là một người khách không mời đến đây chúc mừng, chắc cô nương cũng không từ chối?” Lý TâmMai nói: “Xin đa tạ!” Rồi nàng nhìn mẹ và Đường Hiểu Lan. 

Lệ Thắng Nam lại nói tiếp: “Nhưng cũng không hẳn chỉ vì chúc mừng!” Phùng Lâm nén không được quát: “Vậy ngươi muốn thế nào?” Lệ Thắng Nam cười lạnh nói: “Không phải ta muốn thế nào mà chính con gái của bà muốn gặp ta, nể tình con gái bà tôi mới đến đây. Lý cô nương, cô nương muốn gặp tôi có phải định dò hỏi tin tức của ai không?” Lý Tâm Mai không khỏi hỏi: “Nghe nói mấy năm trước cô nương cùng y ra biển. Nay y có về cùng cô nương không?” Lệ Thắng Nam cười khanh khách: “Cái gì? Y là ai? Cô nương đã là tân nương nên ngại nói chứ gì? Tôi nói hộ cô nương vậy, ý cô nương muốn hỏi tin của Kim Thế Di phải không?” Nàng vừa nói ra thì khách khứa đều biến sắc. Lệ Thắng Nam cười rồi lạnh lùng nói: “Cô nương có lòng tốt còn muốn gặp y, nhưng đáng tiếc y đã chẳng nhớ đến cô nương nữa. Song chính vì như thế cho nên tôi mới chúc mừng cô nương. Không phải tôi khen ngợi cho cô nương, cô nương lấy người này còn tốt hơn nhiều gã Kim Thế Di bạc tình bạc nghĩa?” Phùng Lâm cả giận nói: “Yêu nữ, ngươi buông rắm thối xong chưa? Cút mau cho ta!” Lệ Thắng Nam cười lạnh nói: “Ồ, ta đã nói sai điều gì? Chả lẽ kẻ làm nhạc mẫu cho rằng Kim Thế Di tốt hơn con rể của mình sao?” Phùng Lâm tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, Chung Triển khẽ nói: “Mẹ, Tâm Mai muốn biết tin tức của Kim Thế Di, vậy cứ để cho Lệ cô nương nói. Người khác nói gì con không màng!” Lệ Thắng Nam nói: “Tôi đúng là tinh mắt, rốt cuộc chàng tân lang này thông tình đạt lý. Lý cô nương, nói thực với cô, Kim Thế Di vẫn còn sống nhưng trong lòng y chỉ có một mình Cốc Chi Hoa, đã quên cô từ lâu.” Lý Tâm Mai cả mừng, lẩm bẩm: “Vậy thì tốt, vậy thì tốt. Nhưng Cốc tỷ tỷ có biết không?” Lệ Thắng Nam nói tiếp: “Cô nói tốt ư? Đúng thế, Kim Thế Di cũng muốn tốt. Đáng tiếc, đáng tiếc... chỉ e mối duyên của họ suốt đời này vô vọng!” Lý Tâm Mai kêu lên: “Tại sao?” Lệ Thắng Nam nói: “Giờ đây Cốc Chi Hoa không biết sống hay chết, nàng không thể làm vợ Kim Thế Di nữa, cũng không thể đến thăm cô nương!” Lý Tâm Mai cả kinh, nàng loạng choạng đứng dậy, đang định hỏi nguyên cớ gì, Đường Kinh Thiên và Bạch Anh Kiệt đã không nén được: “Tâm Mai, đừng hỏi nữa. Cốc Chi Hoa bị ả yêu nữ này hại!”Khách khứa trong hoa đường đều ngoác mồm ra mắng nàng. 

Lệ Thắng Nam kêu lên: “Đường chưởng môn, ông bảo thế nào? Chả lẽ nói ra không giữ lời?” Đường Hiểu Lan tái xanh mặt, xua tay nói: “Các vị hãy yên lặng. Lệ cô nương, hôm nay tôi coi cô là khách, không làm khó cô. Cốc chưởng môn phái Mang Sơn là điệt nữ của tôi, tôi không thể mặc kệ. Nghe nói cô nương muốn tỉ thí với phái Thiên Sơn chúng tôi vậy xin mời Lệ cô nương hãy chọn một ngày!” Ông ta vừa nói ra, mọi người vừa lo vừa mừng, lo là vì Đường Hiểu Lan là thiên hạ đệ nhất cao thủ, chẳng phải hạng tầm thường, mà lại khiêu chiến với Lệ Thắng Nam. Mừng là vì có Đường Hiểu Lan ra mặt, Lệ Thắng Nam dù có bay lên trời cũng không thoát khỏi bàn tay ông ta, coi như mối thù của Cốc Chi Hoa đã được trả. Khách khứa trong hoa đường im lặng, mọi người đều đợi Lệ Thắng Nam trả lời. Chỉ nghe nàng cười khanh khách rồi nói: “Đa tạ Đường chưởng môn đã coi trọng tôi, tôi còn có một món quà nữa, để tôi lấy ra rồi hẵng tính tiếp.” Nàng vừa nói ra thì mọi người đều giật mình. 

Trước kia Lệ Thắng Nam đem đầu Mạnh Thần Thông đến làm quà khiến Cốc Chi Hoa trúng độc, chuyện này ai cũng biết. Nay Lệ Thắng Nam lại sắp lấy quà ra, nhớ lại chuyện này thì ai cũng thầm lo, không biết nàng sẽ giở trò gì? Phùng Lâm vội vàng bảo vệ cho cho con gái, vợ chồng Đường Kinh Thiên bảo vệ cho Chung Triển.  

Lệ Thắng Nam nhoẻn miệng cười: “Món quà nhỏ này của tôi tuy không có giá trị liên thành nhưng cũng là thứ Đường chưởng môn đang cần.” Nói xong nàng lấy ra một bình ngọc, trong bình có ba viên thuốc màu đỏ, Lệ Thắng Nam cầm cái bình nói: “Đây là thuốc giải ngũ độc tán, uống ba viên thì hoàn toàn hồi phục. Đường chưởng môn, nếu ông tặng ba viên thuốc này cho Cốc Chi Hoa, phái Mang Sơn sẽ nhận ơn của ông!” Vì thuốc giải này, đệ tử phái Mang Sơn và rất nhiều võ lâm cao thủ đều đuổi đến đây, không ngờ Lệ Thắng Nam lại đem tặng. Đường Hiểu Lan chưng hửng, nói: “Ai có tâm thiện, trời sẽ phù hộ. Lệ cô nương, đa tạ món quà của cô nương, từ rày về sau mối thù giữa cô với phái Mang Sơn coi như xóa bỏ, tôi cũng không cần tính sổ với cô nữa.” Không ngờ Lệ Thắng Nam mỉm cười rồi lại nói tiếp: “Vốn tôi thật lòng muốn tặng cho ông món quà này, đáng tiếc các người không coi tôi là khách, tôi vừa vào đến đây thì các người mắng nào là yêu nữ nào là ma nữ, nay ông muốn món quà này thì phải đem một chút đồ ra đổi.” Đường Hiểu Lan trầm giọng nói: “Cô nương muốn thứ gì?” Lệ Thắng Nam điềm nhiên nói: “Muốn ba cái dập đầu của ông! Từ rày về sau tôi đến nơi nào thì đệ tử phái Thiên Sơn phải tránh xa ba mươi dặm.” Nàng nói chưa xong thì khách khứa trong đường đều nổi giận. 

Đường Hiểu Lan dựng ngược râu tóc, hừ một tiếng rồi nói: “Lệ cô nương, cô hiếp người quá thể!” Lệ Thắng Nam cười rằng: “Ông không chịu dập đầu trước tôi cũng được, nhưng ông phải lấy bằng bản lĩnh của mình.” Đường Hiểu Lan nói: “Ồ, té ra cô nương muốn phân cao thấp với tôi?” Lệ Thắng Nam nói: “Đúng thế, nếu ông thắng được tôi, tôi xin dâng thuốc giải; nếu tôi may mắn thắng được ông, danh hiệu thiên hạ đệ nhất cao thủ phải nhường cho tôi. Một vật đổi một vật coi như cũng công bằng! Đương nhiên, Đường đại hiệp lẽ nào sợ không thắng nổi tôi? Cho nên tôi đã chọn một ngày để ông trổ oai phong trước mặt anh hùng thiên hạ, lấy được thuốc giải, đó chính là song hỷ lâm môn!” Đường Hiểu Lan nói: “Lệ cô nương, tôi không đấu khẩu với cô, xin mời xuất chiêu!” Lệ Thắng Nam nói: “Hoa đường đèn đỏ treo cao, tỉ võ ở đây chẳng hợp tí nào, Đường chưởng môn, hãy ra ngọn núi phía trước mặt, tôi sẽ lãnh giáo ông?” Đường Hiểu Lan nói: “Tùy cô nương!” Ông ta tuy rất giận nhưng vẫn không thất lễ, thế rồi quát bọn đệ tử không được ồn ào, đích thân đi trước dẫn đường lên ngọn lãnh phong ở đối diện. 

Ngày vui không ngờ lại ra nông nỗi này, khách khứa trong hoa đường đều đi ra theo. Cả đôi tân nhân vừa mới bái đường thành thân cũng mặc lễ phục đi theo sau Đường Hiểu Lan. Giang Nam cười hì hì nói: “Từ xưa đến giờ không có một hôn lễ nào kỳ lạ thế này.” 

Mọi người theo hai người Đường, Lệ lên ngọn lãnh phong, chỉ thấy ở đó có tám thiếu nữ áo trắng đứng hầu, thấy Lệ Thắng Nam thì cúi người miệng gọi “Tiểu thư!”, xem ra tựa như là nha hoàn của nàng. Đám đông không khỏi kinh hãi, bởi vì có thể lên Thiên Sơn tuyệt đỉnh, võ công chẳng phải tầm thường, không ngờ hai năm nay Lệ Thắng Nam đã tìm được tám nha hoàn như thế này. 

Lệ Thắng Nam cười nói: “Hôm nay Đường chưởng môn hẹn ta đơn đả độc đấu, các người đứng một bên, không được ra tay.” Rồi nàng xoay người cười với Đường Hiểu Lan: “Đường chưởng môn, ông có chuyện gì căn dặn người nhà hay không?” Ý nàng muốn bảo Đường Hiểu Lan nên căn dặn trước chuyện hậu sự của mình. Dù Đường Hiểu Lan giỏi nhịn nhưng nghe những lời này thì không khỏi bốc lửa giận, ông ta trầm giọng nói: “Nói như thế, trong cuộc tỉ võ hôm nay, Lệ cô nương có ý muốn liều mạng với lão phu?” Lệ Thắng Nam nói: “Không dám. Nhưng đường đao mũi kiếm chẳng có mắt, chi bằng nói trước thì tốt hơn. Tôi chỉ là một kẻ hậu bối vô danh, có thể chết trong tay Đường chưởng môn cũng chẳng oán.” Đường Hiểu Lan nói: “Tốt, Đường mỗ năm nay ngoài lục tuần, có thể chôn thây ở Thiên Sơn cũng chẳng tiếc. Nếu Lệ cô nương có ý nguyện như thế, bộ xương già này cũng trao cho cô nương!” Đường Hiểu Lan đã bốc lửa giận nhưng còn kìm được. Còn khách khứa thì đã không chịu nổi, lập tức có hai người chạy ra. Một người là một ông già râu tóc bạc phơ, đó chính là trưởng lão của phái Không Động Ô Thiên Lang, người kia là một đạo sĩ trung niên tay cầm trường kiếm, đó chính là Tùng Thạch. 

Tùng Thạch đạo nhân kêu lên: “Giết gà cần gì đến dao mổ trâu! Đường đại hiệp, xin nhường cho tôi!” Ô Thiên Lang thì nói: “Đường đại hiệp, ông đã trúng kế, ả yêu nữ này coi thường người khác, ông đơn đả độc đấu với ả, có thắng cũng chẳng vinh quang gì. Lão hủ ghét nhất là hạng tiểu bối hậu sinh vô tri ngông cuồng, để tôi dạy ả một bài học.” Lệ Thắng Nam cười lạnh nói: “Lão già sống dai kia, còn chưa biết trời cao đất dày, lần trước bị bọn Mạnh Thần Thông đả thương có khỏe hay chưa? Sao còn dám đến gây sự. Ta ghét nhất là hạng người ỷ già lên mặt, được, ta sẽ dạy cho ngươi một bài học để anh hùng thiên hạ cùng cười!” Ô Thiên Lang là người cao tuổi nhất trong những nhân vật thành danh trong võ lâm, lần trước bị Mạnh Thần Thông đả thương đã là một mối nhục lớn; nhưng rốt cuộc Mạnh Thần Thông cũng cùng một hàng với y, nay bị một thiếu nữ trẻ tuổi mắng cho một trận thì càng thấy nhục hơn. Ô Thiên Lang tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, lập tức xông ra múa chưởng đánh tới. 

Lệ Thắng Nam nhẹ nhàng né tránh, kêu lên: “Khoan đã!” Nàng nói chưa dứt thì đột nhiên tới trước mặt Tùng Thạch đạo nhân, nhẹ nhàng vỗ y một cái rồi nói: “Còn tên đạo sĩ thối nhà ngươi, ta thấy ngươi thật chướng mắt, ta không rảnh đánh với từng người, hai ngươi cứ cùng xông lên!” Tùng Thạch đạo nhân đã là cao thủ thuộc hàng nhất lưu, nhưng không tránh nổi cú vỗ của Lệ Thắng Nam, bất đồ vừa kinh vừa giận, đâm ra một kiếm theo bản năng. 

Trong tình hình ấy, Đường Hiểu Lan muốn ngăn cũng không kịp, dặm chân thầm kêu: “Hỏng bét, hỏng bét!” Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Lệ Thắng Nam cười rằng: “Lão già khốn kiếp, lão cứ ỷ già lên mặt, ta nhổ râu lão trước!” Ô Thiên Lang múa hai chưởng thành vòng tròn, đẩy ra tuyệt kỹ Kim hoàn chưởng của phái Không Động, che kín môn hộ. Bô Kim hoàn chưởng dùng phòng thủ thì rất kín đáo, lại thêm Ô Thiên Lang có công lực mấy mươi năm, hai chưởng hợp thành vòng tròn thì dù đao kiếm đâm vào cũng bị chưởng lực của lão đánh gãy! Nào ngờ Lệ Thắng Nam đột nhiên lướt người tới trước, Ô Thiên Lang thấy nàng thò tay vào giật râu, haichưởng hất lên, chưa kẹp trúng cổ tay của nàng thì Lệ Thắng Nam đã giật bộ râu của lão ra, dưới cắm Ô Thiên Lang xuất hiện một vệt máu! Cũng trong khoảnh khắc này, chỉ nghe Lệ Thắng Nam cười ha hả xoay người, thanh trường kiếm của Tùng Thạchđạo nhân đã lọt vào tay nàng. 

Lệ Thắng Nam vung mạnh cổ tay, rắc một tiếng, thanh trường kiếm gãy thành hai đoạn! Nàng cả cười nói: “Lão già khốn kiếp, đạo sĩ thối, có còn muốn dạy cho ta một bài học nữa không?” Chỉ như thế đã đủ khiến cho toàn trường kinh hãi, cả Đường Hiểu Lan cũng thất kinh! Vốn là Đường Hiểu Lan đã nhận ra võ công của Lệ Thắng Nam quái dị, cũng đã đoán được Ô Thiên Lang và Tùng Thạch đạo nhân không phải đối thủ của nàng, nhưng không ngờ bọn họ lại bại nhanh đến thế, thê thảm đến thế! 

Năm xưa Ô Thiên Lang đấu với Mạnh Thần Thông, cũng đến mấy mươi chiêu mới bại, nay lại thêm Tùng Thạch đạo nhân, theo lý có thể chống cự được lâu hơn nhưng không ngờ chỉ trong vòng mấy chiêu đã bị nàng ta dễ dàng đánh bại, Đường Hiểu Lan không ngờ đến kết quả như thế này! Thực ra công lực của Lệ Thắng Nam không cao hơn Mạnh Thần Thông năm xưa nhưng nàng đã học được bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, đều đã biết tuyệt kỹ trấn sơn của các nhà các phái, đã nhận ra Ô Thiên Lang công lực tuy cao nhưng tuổi đã già, thân pháp và bộ pháp không nhanh nhẹn bằng nàng cho nên mới có thể dùng thủ pháp nhanh như chớp phá Kim hoàn chưởng của ông ta. Song nàng dùng nội lực đánh gãy trường kiếm của Tùng Thạch đạo nhân là bản lĩnh chân thực, Đường Hiểu Lan có thể nhận ra, giờ đây chỉ về nội công Lệ Thắng Nam không kém gì Mạnh Thần Thông năm xưa. 

Người của phái Không Động và Nga Mi vội vàng chạy ra cứu người, chỉ nghe Ô Thiên Lang gầm lớn rồi ngã ngửa xuống đất. Té ra ông ta đã tức đến nỗi ngất xỉu. 

Đường Hiểu Lan nói: “Bản lĩnh của cô nương cao cường đến thế, chi bằng cứ để tôi lãnh giáo. Tình nghĩa của các bằng hữu, tôi xin ghi nhận trong lòng!” Mọi người tuy căm phẫn nhưng tự thấy võ công không bằng, vả lại Đường Hiểu Lan đã nói như thế, cho nên cũng chẳng ai dám đến khiêu chiến Lệ Thắng Nam. Tùng Thạch đạo nhân lui xuống, đệ tử phái Không Động cũng đỡ Ô Thiên Lang trở về. Tiếng ồn ào dứt hẳn, mọi người đều tập trung tinh thần chuẩn bị xem Đường Hiểu Lan đối phó với Lệ Thắng Nam thế nào. Đường Hiểu Lan nói: “Cô nương là khách phương xa, vậy tỉ thí như thế nào mong cô nương nói rõ?” Lệ Thắng Nam nói: “Năm xưa Đường chưởng môn tỉ thí với Mạnh Thần Thông cũng trải qua ba trận. Giờ đây tôi cũng bắt chước dùng ba trận để quyết sinh tử với ông!”Nàng nhấn mạnh ba chữ “quyết sinh tử!” Rõ ràng lời lẽ còn ngông cuồng hơn cả Mạnh Thần Thông lúc trước. Trong cuộc tỉ thí với Mạnh Thần Thông, có hai trận không phải quyết thắng thua bằng võ công, lúc đó Đường Hiểu Lan suýt nữa đã thua bởi cách tỉ võ kỳ quặc của y. Giờ đây Lệ Thắng Nam toan dùng ba trận để quyết sinh tử, quần hùng nghe xong đều thầm lo trong bụng.  

Đường Hiểu Lan tuy không sợ nhưng trong lòng thầm giận: “Ả yêu nữ này còn xảo quyệt hơn cả Mạnh Thần Thông, không biết ả dùng cách gì đế làm khó mình đây?” Lệ Thắng Nam chậm rãi nói: “Tôi sẽ không làm giống như Mạnh Thần Thông, tôi sẽ đấu ba trận rất gọn gàng, chỉ dùng võ học cả đời để quyết sinh tử!” Đường Hiểu Lan thở phào, điềm nhiên nói: “Lệ cô nương thật mau mắn, xin hỏi ba trận sẽ đấu như thế nào?” Lệ Thắng Nam nhướng mày, nói: “Trong ba trận này tôi chỉ dùng tuyệt kỹ của ông để tỉ thí, chắc chắn sẽ khiến ông hài lòng. Trận thứ nhất tôi sẽ đấu kiếm pháp với ông, trận thứ hai tôi sẽ tỉ thí nội công với ông; trận thứ ba tôi sẽ lãnh giáo công phu ám khí của ông, xem thử Thiên Sơn thần mãng của ông lợi hại đến mức nào?” 

Nàng vừa nói ra lời ấy, tất cả mọi người đều vừa kinh vừa mừng, bởi vì ba môn công phu mà Lệ Thắng Nam đòi tỉ thí chính là tuyệt kỹ áp đảo võ lâm của phái Thiên Sơn, kiếm pháp của phái Thiên Sơn dung hợp sở trường của các nhà các phái, mấy trăm năm nay đều đứng hàng đệ nhất thiên hạ. Nội công của Đường Hiểu Lan không ai bì nổi, năm xưa chống lại Tu la âm sát công của Mạnh Thần Thông mà chẳng hề tổn thương, Lệ Thắng Nam chỉ là một thiếu nữ hơn hai mươi tuổi, bản lĩnh dù hơn Mạnh Thần Thông nhưng nội công cũng không thể bằng y. Thiên Sơn thần mãng là loại ám khí có uy lực nhất, Lệ Thắng Nam đòi Đường Hiểu Lan sử dụng loại ám khí này đúng là gan dạ đến cực điể! Mọi người đều thầm nhủ: “Ả yêu nữ này thật không biết sống chết, dám tỉ thí với Đường đại hiệp ba môn tuyệt kỹ chấn động võ lâm! Dù bản lĩnh của ả cao hơn nữa chẳng thoát khỏi Du long kiếm của Đường đại hiệp, cũng không thể chịu nổi chân lực nội gia của ông ta; huống chi là trận cuối cùng, chắc chắn sẽ chết bởi Thiên Sơn thần mãng!” Có người hỏi: “Đã bảo tỉ thí bằng ba môn võ công, vậy có thể dùng độc để thủ thắng không?” Trong số khách khứa thì Bản Không đại sư của chùa Thiếu Lâm là có tư cách cao nhất, bèn nói: “Theo lão nạp thấy, nếu dùng binh khí và ám khí có độc tuy kém quang minh chính đại nhưng cũng không khỏi vượt qua phạm vi tỉ thí của Lệ cô nương, nếu dùng chất độc thì hình như nên cấm. Không biết Lệ cô nương thấy thế nào?” Lời của Bản Không bề ngoài tựa như có lợi cho Lệ Thắng Nam nhưng thật ra là ngầm giúp Đường Hiểu Lan, với võ công trác tuyệt như Đường Hiểu Lan thì làm sao có thể trúng ám khí hoặc binh khí của Lệ Thắng Nam? Bản Không thượng nhân chỉ là lo Lệ Thắng Nam đột nhiên sử dụng thuốc độc trong cuộc đấu. 

Lệ Thắng Nam nghe xong cười lạnh: “Bản Không đại sư, ông cũng đã coi thường tôi!” Bản Không đại sư chắp tay nói: “Vậy Lệ cô nương không dùng độc? Nếu là như thế thì coi như lão nạp đã quá lời, lấy bụng tiểu nhân do lòng quân tử, thứ tội, thứ tội!” Lệ Thắng Nam cười lạnh nói: “Nếu các người thấy tôi ra tay dùng độc dược, tôi sẽ để mặc cho các người loạn kiếm phân thây? Chẳng những như thế mà binh khí hay ám khí của tôi cũng chẳng có độc.” Mọi người nghe nàng nói như thế thì đều như trútđược gánh nặng trong lòng. Đường Hiểu Lan thầm ngạc nhiên, nghĩ bụng: “Khẩu khí của ả yêu nữ này thật lớn, ả không dùng độc dược, vậy dựa vào bản lĩnh gì thắng mình? Chả lẽ chỉ trong vòng hai năm mà ả đã luyện được võ công quái dị tuyệt thế vô song?” Lệ Thắng Nam rút kiếm ra khỏi vỏ, ôm kiếm nói: “Xin mời Đường chưởng môn rút kiếm ban chiêu!” Lệ Thắng Nam rút thanh kiếm ra, mọi người đều không khỏi thất kinh, thanh kiếm này trong suốt, mỏng tựa tờ giấy, phát ra luồng ánh sáng màu xanh nhạt, vừa nhìn thì đã biết đó là thần binh lợi khí, xem ra thanh kiếm này còn tốt hơn cả Du long kiếm. Đường Kinh Thiên vội vàng trao Du long kiếm cho cha nói: “Cha, người dùng thanh kiếm này.” Đường Hiểu Lan nói: “Được!” Rồi nhận lấy thanh kiếm, cười khổ nói: “Không ngờ chỉ trong vòng hai năm mà ta phải hai lần dùng bảo kiếm. Lệ cô nương, cô nương là khách phương xa, xin mời ban chiêu trước!” 

Lệ Thắng Nam tuy ngông cuồng, nhưng khi tỉ kiếm thì vẫn lấy lễ hậu bối ôm kiếm vái một cái, sau đó đâm soạt ra một kiếm. 

Nhát kiếm này đủ mười phần lực đạo, nhưng trong mắt của Đường Hiểu Lan chiêu số chẳng có gì đặc biệt, Đường Hiểu Lan là đại tôn sư kiếm thuật, thấy nàng vừa đâm nhát kiếm này thì biết nàng muốn dùng thanh bảo kiếm chặt gãy Du long kiếm của mình, cho nên tương kế tựu kế không né tránh mà giơ kiếm chặn ngang, sauđó dùng tự quyết chữ “niêm” dán chặt vào cây Tài vân kiếm của Lệ Thắng Nam.  

Tài vân kiếm quả thực tốt hơn Du long kiếm, nếu hai bên có công lực tương đương nhau, hai kiếm vừa giao nhau thì Du long kiếm chắc chắn sẽ gãy, nhưng nay hai kiếm giao nhau chỉ nghe tiếng loạt soạt vang lên, cây Tài vân kiếm của Lệ Thắng Nam cứ lướt qua lướt lại trên cây Du long kiếm mà không thể nào thoát ra được. Té ra luồng kình lực mà nàng đánh tới đã bị Đường Hiểu Lan hóa giải, bảo kiếm tuy bén nhưng không thể xuất kình được cho nên cũng vô dụng. Đường Hiểu Lan ngầm vận huyền công, định xoay cây kiếm nàng rơi, Lệ Thắng Nam chợt cúi gập người, thanh bảo kiếm đẩy về phía trước, nàng dùng phương pháp mượn lực trong võ công thượng thừa, bật ngược trở lại, hóa giải luồng niêm kình của Đường Hiểu Lan, rồi nàng lắc người lướt ra cách đó ba trượng, xoay liên tiếp hai vòng. Đường Hiểu Lan nói: “Lệ cô nương đứng vững, Đường mỗ trả chiêu đây! Đường Hiểu Lan thử chiêu này đã biết công lực của Lệ Thắng Nam không bằng mình, song nàng có thể hóa giải niêm kình của mình thì cũng chẳng kém gì Mạnh Thần Thông năm xưa. Đường Hiểu Lan nắm chắc phần thắng trong tay, đang ngại thân phận của mình, đợi nàng đứng vững rồi mới trả chiêu, Lệ Thắng Nam cười lạnh: “Ông đừng khách sáo, tôi chẳng nhận ơn đâu!” 

Đường Hiểu Lan đánh một chiêu trong Đại tu di kiếm thức tên gọi Bát phương phong vũ, nếu kiếm chiêu của ông ta là thực, kẻ địch sẽ bị vây trong vòng kiếm quang, không thể nào thoát ra được. Nhưng bởi vì ông ta đã đánh trước một chiêu, ra tay hơi chậm, Lệ Thắng Nam thi triển Thiên la bộ pháp lướt người ra khỏi vòng kiếm quang của ông ta, rồi nàng đột nhiên đâm lại một kiếm, lập tức chuyển thủ thành công, liên tiếp tấn công chín đại huyệt của Đường Hiểu Lan. Đường Hiểu Lan mỉm cười: “Hay lắm, kiếm pháp của cô nương cũng rất độc đáo?” thế rồi ông ta đưa kiếm chặn lên, vẫy ra chín đóa kiếm hoa hóa giải toàn bộ kiếm pháp kỳ môn đâm huyệt của LệThắng Nam. Lệ Thắng Nam tựa như chẳng hề lúng túng, khi cây Du long kiếm sắp đâm trúng nàng, chợt chỉ nghe nàng cười một tiếng thì đột nhiên trở tay đâm thẳng vào yết hầu của Đường Hiểu Lan! Té ra Lệ Thắng Nam mặc một bộ giáp nhuyễnngọc mỏng như cánh ve, đó là một trong ba món báu vật Kiều Bắc Minh để lại, Kiều Bắc Minh cũng đề phòng đệ tử cách thế của ông ta chưa chắc thắng nổi truyền nhân của Trương Đan Phong, bởi vậy trong chương cuối cùng của bí kíp đã truyền lại diệu kế phá địch, dạy đệ tử dùng ba món báu vật để thủ thắng, đó chính là trước tiên dùng Tài vân kiếm chặt gãy thân kiếm của đối phương. Nếu không được thì mặc áo giáp nhuyễn ngọc phòng thân, để lộ sơ hở, chịu một kiếm của đối phương, sau đó thừa cơ phản đòn; nếu không đắc thủ thì cuối cùng vận dụng cây ngọc cung. Mạnh Thần Thông lấy được nửa cuốn sau của bí kíp cũng biết diệu kế phá địch này nhưng ba món báu vật của Kiều Bắc Minh thì nằm trong tay Lệ Thắng Nam. Bộ áo giáp ngọc này có thể chịu được các loại bảo đao bảo kiếm, bởi vậy Lệ Thắng Nam bị Đu long kiếm đâm trúng, tuy bị nội lực của đối phương chấn động nhưng vẫn không bị thương, thế rồi lập tức làm theo bí kíp truyền dạy, dùng thủ pháp nhanh như điện chớp trở kiếm đâm lại! Biến cố bất ngờ này khiến cho quần hùng đều chấn động tâm can, lập tức tiếng reo hò trợ oai ngừng hẳn, khi mọi người đang hoa mắt lên thì chợt nghe Đường Hiểu Lan quát: “Kiếm pháp thật hiểm độc” Cả Bản Không đại sư cũng chưa nhìn thấy rõ, đột nhiên đã thấy Đường Hiểu Lan đã thoát thân ra, kiếm quang của Du long kiếm đã bao bọc toàn thân Lệ Thắng Nam! Té ra may mà Đường Hiểu Lan còn có lòng từ bi, khi Lệ Thắng Nam đột nhiên đưa lưng về phía mình, ông ta tuy chưa kịp thu thế nhưng cũng đã thu bảy phần kình lực, vì thế kiếm chiêu vẫn chưa dùng hết. Nhưng cũng chính vì Lệ Thắng Nam đã từng học kiếm pháp bí truyền của Kiều Bắc Minh, tuy không thể phá nổi Thiên Sơn kiếm pháp nhưng cũng có thể gắng gượng chống trả, chỉ thấy hai luồng kiếm quang bay lượn trên đỉnh núi tuyết, kiếmquang quét đến đâu thì hoa tuyết bay đến đó. Ai cũng thầm nhủ: “Chả trách nào Đường đại hiệp phải đích thân ra tay, kiếm thuật của ả yêu nữ này quả nhiên bất phàm!” mọi người một mặt khen ngợi kiếm thuật của Lệ Thắng Nam, một mặt đã thấy Đường Hiểu Lan chiếm thượng phong cho nên không ai lo lắng. 

Quả nhiên khi đến gần một trăm chiêu, Đường Hiểu Lan dùng một chiêu Long môn kích lãng, cây Du long kiếm lia lên không trung một vòng, lập tức một luồng ngân quang lướt ra như điện chớp, khiến Lệ Thắng Nam không thể thi triển được thanh bảo kiếm, có vài người đứng xem kêu lên: “Đường đại hiệp thắng rồi!” Nào ngờ chợt thấy Lệ Thắng Nam xoay người, đưa lưng về phía kiếm của Đường Hiểu Lan, có nghĩa là đã mở rộng môn hộ, chẳng hề phòng bị, cứ để mặc cho bảo kiếm của Đường Hiểu Lan đâm vào lưng nàng, mọi người tuy đều đoán Đường Hiểu Lan sẽ thắng nhưng không ngờ Lệ Thắng Nam lại sử dụng chiêu ấy, tất cả đều khựng người! Đường Hiểu Lan tinh thông kiếm thuật các phái, nhưng kiếm thuật của bất cứ phái nào cũng không có lý tự tìm đến cái chết, bởi vậy Đường Hiểu Lan gặp quái chiêunày cũng không khỏi khựng người, ông ta đánh chiêu này như điện chớp, thu tay không kịp, chỉ nghe keng một tiếng, mũi kiếm đã chạm vào lưng của Lệ Thắng Nam. 

Chuyện bất ngờ đã xảy ra, theo lẽ thanh Du long kiếm rất sắc bén, cộng với công lực của Đường Hiểu Lan thì chắc chắn sẽ đâm thủng lưng Lệ Thắng Nam nhưng không ngờ chỉ vì một ý nghĩ từ bi mà đã cứu được mạng mình. Bởi vì kiếm chiêu của ông ta chưa đẩy ra hết, hậu kình vẫn còn giữ lại, cho nên Lích Thắng Nam đột nhiên phản đòn ông ta vẫn có thể chống đỡ nổi, nàng lia thanh kiếm đâm về phía trước ngực ông ta cũng là lúc ông ta rút kiếm về. Tuy Đường Hiểu Lan có cảm giác hơi lúng túng nhưng rốt cuộc kiếm thuật ông ta đã đến mức lư hỏa thuần thanh, trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc đã hóa giải chiêu hiểm độc ấy của Lệ Thắng Nam. Nay Đường Hiểu Lan dùng lại chiêu Bát phương phong vũ, Lệ Thắng Nam đã biết chiêu số này, lại muốn dùng Thiên la bộ pháp né tránh cũng không kịp, chỉ cần Đường Hiểu Lan đẩy kiếm về phía trước, sẽ lập tức đâm vào cổ họng nàng! Đường Hiểu Lan đột nhiên cười ha hả: “Đã nhường, trận này không cần phải đấu nữa!” rồi đột nhiên thu kiếm về , nghiêm mặt nói: “Lệ cô nương, cô tuy quyết sống chết với tôi, nhưng tôi chỉ cần phân thắng thua với cô!” Lệ Thắng Nam sợ đến nỗi toàn thân toát mồ hôi lạnh, ngẩn người ra rồi nói: “Ông vốn có thể lấy mạng tôi, ông không cần là chuyện của ông. Trận này tôi đã thua, hai trận sau vẫn phải đánh.” Đường Hiểu Lan gật đầu nói: 

“Điều đó đương nhiên, đã nói rõ phải tỉ thí ba trận, đương nhiên phải tiếp tục. Cô nương cũng không cần nhận tấm lòng của tôi, có bản lĩnh gì cứ việc thi triển. Đường mỗ cũng muốn mở rộng tầm mắt, chuyện sống chết cũng chẳng đặt trong lòng.” Mọi người đều hơi bất bình, cảm thấy Đường Hiểu lan quá phóng khoáng, nhưng trận này là tỉ thí nội công, hoàn toàn dựa vào chân tài thực học, công lực của Đường Hiểu Lan hơn đối phương một bực, lúc này đám đông tuy bất bình nhưng trong lòng cũng thầm nhủ: “Trận này tha cho ả, trận sau tỉ thí nội công, ả yêu nữ khó tránh thất bại, dù Đường đại hiệp không muốn lấy mạng ả, ả bại liên tiếp hai trận cũng phải đưa thuốc giải ra!” Trong sân có một tảng băng cao khoảng ba trượng, bề mặt bằng phẳng như gương, Lệ Thắng Nam nói: “Chúng ta lên trên đó tỉ thí nội công, thế nào? Nếu ai chịu không nổi, rơi xuống trước thì coi như thua.” Đường Hiểu Lan nói: “Chủ theo ý khách, mời Lệ cô nương.” Hai người vọt lên tảng băng ngồi xếp bằng, hai chưởng chạm vào nhau tỉ thí nội công. 

Hai người vừa chạm chưởng vào nhau thì Đường Hiểu Lan lập tức cảm thấy lạnh lẽo lạ thường, lòng thầm cười rằng: “Đúng rồi, giờ đây ả cũng luyện Tu la âm sát công đến tầng thử chín, chả trách nào lại chọn tỉ thí trên tảng băng.” Một hồi sau, chỉ thấy mặt trên của tảng băng dần dần tan ra, nơi hai người ngồi lõm xuống, té ra Đường Hiểu Lan dùng nội công thuần dương phản kích, không những có thể chống lại Tu la âm sát công của Lệ Thắng Nam mà dư lực còn truyền xuống tảng băng. 

Một hồi sau, Lệ Thắng Nam áo quần đẫm ướt, hơi thở nặng nề, mọi người đều tưởng rằng Đường Hiểu Lan sắp thắng, nào ngờ khi nhìn kỹ lại thì mới phát hiện thần sắc của Đường Liiểu Lan ngày càng nặng nề, tựa như đang toàn thần chống cự, chẳng hề đám buông lỏng, lớp băng bên cạnh Lệ Thắng Nam bị tan ra nay ngưng kết trở lại. 

Té ra trước khi tỉ thí, Lệ Thắng Nam đã ăn vào rất nhiều hoa A tu la, nàng học được cách ăn hoa A tu la và đẩy hương hoa vào hơi thở để đả thương kẻ thù, giờ đây nang đang dùng cách đó để đối phó với Đường Hiểu Lan; nàng càng thở nặng nề thìhương hoa A tu la càng nồng.  

Dù nội công của Đường Hiểu Lan thâm hậu vô cùng, cũng phải phân thần ứng phó, cứ như thế khoảng cách giữa hai bên ngày càng gần. Tuy Đường Hiểu Lan vẫn chiếm thượng phong nhưng Lệ Thắng Nam cũng có thể gắng gượng ứng phó nổi. 

Đường Hiểu Lan cũng cảm thấy Lệ Thắng Nam đang giở trò, nhưng lúc nãy nàng bảokhông dùng độc dược, cho nên giờ đây nàng thở ra hương thơm cũng không tính là vi phạm lời hứa. Vả lại nội công của Đường hiểu Lan đã đến lúc bách tà bất xâm, ông ta đã chuẩn bị đối phó với độc dược của Lệ Thắng Nam. 

Thế rồi Đường Hiểu Lan nín hơi thở, ngầm vận huyền công, không bao lâu thì lấy lại ưu thế áp đảo, chỉ thấy Lệ Thắng Nam sắc mặt tái nhợt, khóe miệng đột nhiên rịn máu! Đường Hiểu Lan mềm lòng, đang định thu hồi vài phần chân lực để khỏi ép chết nàng, ông ta vừa nghĩ như thế đột nhiên nghe Lệ Thắng Nam cười gằn, lực đạo trong hai chưởng của nàng tăng lên rất nhiều, Đường Hiểu Lan thất kinh, dốc hết toàn lực ra chống trả nhưng người vẫn lắc lư hai cái! Đó là chuyện không thể hiểu nổi, công lực của Lệ Thắng Nam vốn chẳng bằng Đường Hiểu Lan, vả lại rõ ràng đã đến lúc khí suy lực kiệt, đột nhiên yếu thành mạnh, thậm chí vượt cả Đường Hiểu Lan! 

Tất cả những bậc đại sư võ học đang xem đều kinh hãi, cả Đường Hiểu Lan cũng cảm thấy ngạc nhiên. May mà nội công của Đường Hiểu Lan thâm hậu vô cùng, thế rồi ông ta dằn khí xuống, toàn thần ứng phó, thế công của Lệ Thắng Nam như mưa to gió lớn, nhưng cũng chẳng cầm cự được bao lâu, một hồi sau Đường Hiểu Lan dần dần lấy lại thế cân bằng, đang định thừa cơ phản kích thì Lệ Thắng Nam chợt cười lạnh một tiếng nữa, phun ra một ngụm máu, lần này còn lợi hại hơn lúc nãy, chưởng lực dồn tới như dời núi lấp biển, đồng thời trong người Đường Hiểu Lan tựa như có một luồng khí lạnh đánh vào, ông ta lạnh đến nỗi nổi da gà, khí huyết ngưng trệ! Té ra Lệ Thắng Nam đã dùng loại nội công lợi hại nhất trong tà phái là Thiên ma giải thể đại pháp. Trước khi chết Mạnh Thần Thông cũng dùng Thiên ma giải thể đại pháp giết Khấu Phương Cao. Nam Lệ Thắng Nam đã hiểu được toàn bộ tâm pháp thượng thừa trong bí kíp của Kiều Bác Minh, khi vận dụng thì còn lợi hại hơn cả Mạnh Thần Thông. Nay công lực tăng lên gấp ba lần, coi như Đường Hiểu Lan ứng phó với hai Lệ Thắng Nam bởi vậy mới cảm thấy chống đỡ không nổi! Bản Không đại sư thấy không ổn, không màng đến quy củ tỉ thí mà kêu lên: “Không xong!” rồi chạy ra, đang định liều mạng tách hai người ra! Trong lúc này Lệ Thắng Nam chợt cười một tràng dài, hai chưởng thu lại, chỉ thấy Đường Hiểu Lan ngã chúc đầu xuống! Lệ Thắng Nam kêu lớn: “Một ơn trả lại một ơn chúng ta không nhận ơn của nhau. Tôi đối với ông thế nào, Đường chưởng môn, chắc ông cũng hiểu?” Bản Không đại sư vội vàng chạy tới đỡ Đường Hiểu Lan, Lệ Thắng Nam đánh Đường Hiểu Lan một chưởng, chưởng lực vẫn chưa hết, Bản Không đạt sư chạm tay vào người Đường Hiểu Lan, tựa như bị sét đánh, lập tức bật ngửa ra cách đó một trượng. 

Đường Hiểu Lan quả đúng là người võ công cao cường nhất trên đời, chỉ thấy ông ta lộn người lại phóng tới đỡ Bản Không đại sư, Bản Không đại sư thầm kêu: “Hổ thẹn!” Lúc này mới biết nếu mình xông tới tách họ ra thì chỉ có mất mạng chứ chẳng ích gì. 

Đường Hiểu Lan xoay người lại, cung tay nói: “Đa tạ cô nương đã nương tay! Cô nương nội công huyền diệu, Đường mỗ khâm phục!” Ông ta nói ra câu ấy thì tất cả mọi người đều kinh hoàng thất sắc! Bởi vì Đường Hiểu Lan nói như thế không những đã thừa nhận nội công của Lệ Thắng Nam hơn mình mà còn thừa nhận nàng có bản lĩnh lấy mạng ông ta, ông ta chỉ rơi xuống tảng băng thì coi như nàng đã nương tay! 

Lúc này những người tưởng rằng Lệ Thắng Nam khoác lác đều không khỏi nhìn nhau, chẳng nói thành tiếng. Đường Hiểu Lan quang minh lỗi lạc, ông ta có thể phán đoán được nội lực của đối phương, tin rằng nội công của Lệ Thắng Năm có thể giết chếtông ta bởi vậy mới thừa nhận Lệ Thắng Nam nương tay. Thực ra Đường Hiểu Lan không biết rằng, Thiên ma giải thể đại pháp là môn công phu rất hao tốn chân lực, nếu phát huy đến cực độ, vẫn có thể lấy mạng Đường Hiểu Lan nhưng bản thân của nàng cũng sẽ ói máu mà chết. Lệ Thắng Nam nhảy xuống tảng băng, điềm nhiên nói: “Trong trận tỉ kiếm ông đã tha cho tôi, trận này tôi tha cho ông, vậy là huề, chuyện này không cần nhắc đến nữa, giờ đây tôi muốn lĩnh giáo Thiên Sơn thần mãng của Đường chưởng môn.” Đường Kinh Thiên thấy ánh mắt cha mình đờ đẫn, sắc mặt xám ngoét: đó là hiện tượng chưa bao giờ có, chàng biết ông ta đã hao tổn nguyên khí, bènbước lên khẽ nói: “Cha, chi bằng đổi ngày khác tỉ thí ám khí!” Đường Kinh Thiên cố gắng nói nhỏ nhưng Lệ Thắng Nam đã nghe thấy, cười ha hả rằng: “Đường thiếu chưởng môn định nài nỉ tôi dùm cho lệnh tôn? Đường chưởng môn, nếu ông quả thực đã kiệt lực, tôi cũng không làm khó, sẽ để cho ông sống thêm một ngày nữa!” Đường Hiểu Lan trừng mắt, ánh mắt có thần, tựa như trở thành một người khác, lớn giọng nói: “Đã nói rõ hôm nay tỉ thí ba trận, dù thế nào Đường mỗ cũng phải chiều đến cùng! Trận này đôi bên không cần lưu tình, nếu cô nương có bản lĩnh thì cứ lấy mạng của lão phu!” Lúc này sắc mặt của Lệ Thắng Nam đã trắng bệch như tờ giấy, nhưng nàng lại cười ha hả: “Hay, quả nhiên không hổ là bậc tôn sư võ học thiên hạ đệ nhất!” 

Rồi nàng vẫy tay, chỉ thấy bốn ả thị nữ mặc áo trắng cầm một cây cung, cây cung này trong suốt ánh sáng chói mắt, đó chính là cây ngọc cung được làm bằng hàn ngọc dưới đáy biển, một trong ba món báu vật của Kiều Bắc Minh! Không ai từng thấy hay từng nghe nói về cây cung này, tất cả ánh mắt đều tập trung vào cây cung. Giang Nam thầm lo: “Sao cây cung này lại kỳ quái đến thế?” Lệ Thắng Nam đảo mắt một vòng, lạnh lùng nói: “Tôi không tự lượng sức mình, dùng cây cung này đối phó với Thiên Sơn thần mãng tuyệt thế vô song của Đường chưởng môn! Xin mời vị võ lâm tiền bối nào ra đây thử xem sao!” Đường Hiểu Lan ngạc nhiên nói: “Thử cái gì?” Lệ Thắng Nam nói: “Có người ngờ rằng cây cung của tôi cổ quái, nếu không thử thì làm sao các 

vị yên tâm?” Đường Hiểu Lan nhíu mày, nói: “Cần gì phải thử?” Giang.Nam kêu lên: 

“Để mọi người nhìn một phen cũng tốt.” Tân Ẩn Nông bước ra, nói: “Tiểu ca này nói rất đúng, lão phu không phải hoài nghi mà bởi vì cây cung này là báu vật hiếm có trên đời!” Tân Ẩn Nông là chưởng môn thay thế của phái Thanh Thành, võ công còn cao cường hơn cả Bản Không đại sư, vả lại tinh thông các loại ám khí, kiến thức hơn người, rất thân thiết với Đường Hiểu Lan, miệng nói không hoài nghi nhưng thực ra chính vì không yên tâm, sợ Đường Hiểu Lan thua thiệt cho nên mới đến xem thử cây ngọc cung quái lạ. 

Lệ Thắng Nam thấy Đường Kinh Thiên cũng lộ vẻ kinh hoàng thất sắc, mỉm cười nói: “Xin mời hai người đến thử xem, cũng không cần là võ lâm tiền bối, Đường thiếu chưởng môn, ngươi không cần khách sáo, xin mời bước ra đây. Còn ngươi nữa, Giang Nam, ngươi cũng bước ra đây xem cho rõ để khỏi sau này ngươi lại nói càn.” Giang Nam nói: “Được, nếu cô nương đã có lời mời tôi cũng muốn mở rộng tầm mắt.” Đường Kinh Thiên bước ra. 

Giang Nam dưa tay sờ, chỉ cảm thấy bàn tay lạnh lẽo, ngoài ra chẳng có điều gì khác lạ. Bốn ả thị nữ đột nhiên đồng thanh nói: “Đứng vững đấy!” Bốn người cùng buông tay, cây cung rơi vào tay Giang Nam, Giang Nam kêu lớn: “Đè chết ta rồi!” 

Rồi té sấp xuống, Đường Kinh Thiên cả kính vội vàng chạy đến đỡ may mà chàng ở bên cạnh Giang Nam, mà Giang Nam lại né tránh lanh lẹ, lăn xuống đất tránh ra đến ba trượng, chỉ bị đuôi cây cung chạm trúng nhưng dù như thế khi đứng dậy cũng tái mặt, miệng rịn máu. Mẹ con Dương Liễu Thanh vội vàng chạy tới, Trâu Giáng Hà trách: “Chỉ tại huynh lo chuyện bao đồng, sao rồi?” Giang Nam nói: “Còn may, may mà không bị nó đè trúng, nếu không đã thành một cái bánh thịt!” Công lực của Đường Kinh Thiên đương nhiên hơn Giang Nam, nhưng khi chàng cầm lấy cây ngọc cung cũng chịu không nổi. Cây ngọc cung này làm bằng hàn ngọc dưới đáy biển, nặng gấp trăm lần so với sắt thép cùng thể tích, năm xưa Kim Thế Di cũng chỉ có thể cầm cây ngọc cung chứ không thể sử dụng. Nay công lực của Đường Kinh Thiên cũng ngang bằng với Kim Thế Di lúc đó cho nên cầm cây ngọc cung được một lúc thì trán nổi gân xanh, hơi thở nặng nề. 

 Tân Ẩn Nông thất kinh, vội vàng nói: “Lão phu cũng mở rộng tầm mắt.” Thế rồi nhận lấy cây ngọc cung, công lực của ông ta nhỉnh hơn Đường Kinh Thiên một chút, nhưng vẫn cảm thấy mất sức, ông ta nhìn kỹ thì thấy cây cung nặng nề lạ thường, ngoài ra chẳng có điều gì khác lạ. Ông ta nhìn kỹ lại cây cung, nếu dùng đồ bạc hoặc đồ ngọc thử bấtcứ loại thuốc độc nào cũng sẽ có chấm đen hoặc có màu xám, nay thấy cây cung trong suốt thì mới yên tâm. 

Lệ Thắng Nam nói: “Còn có ba cây tên ngọc, xin mời Tân chưởng môn xem thử.” Tân Ẩn Nông thấy ba cây tên giống nhau, cầm lấy một tên rồi đặt lên dây kéo thử, dù ông ta dốc hết sức mình nhưng cũng chẳng thể nào kéo căng ra được. Ông ta hoảng hồn đặt xuống, nói: “Lệ cô nương thần lực kinh người, có thể dùng được cây ngọc cung nặng nề như thế này. Lão phu chỉ có khâm phục!” Lệ Thắng Nam cười lạnh nói: “Các người đã xem kỹ chưa? Bộ cung tên của ta có phải là ám khí tẩm độc không?” Tân Ẩn Nông chẳng nói được lời gì, chỉ đáp rằng: “Cô nương đã nói đùa. Chẳng qua chúng tôi chỉ muốn mở rộng tầm mắt chứ không phải chẳng tin cô nương.” 

Đường Kinh Thiên thầm lo trong lòng, nghĩ bụng: “Cung tên đều không có độc, nhưng nặng nề lạ thường, chắc là dùng cây cung này bắn tên, uy lực chỉ e hơn Thiên Sơn thần mãng nhiều, cha mình vừa mới tỉ thí nội công với ả, chỉ e, chỉ e... Ôi, việc đã đến nước này, tên đã lắp lên cung cũng đành phải bắn ra. Chỉ mong trời cao phù hộ, chuyện rủi thành may!” Vốn là tất cả những người ở đây đều tường rằng Đường Hiểu Lan có thể dễ dàng thắng Lệ Thắng Nam nhưng lúc này cũng đều nghĩ như Đường Kinh Thiên. 

Trước ánh mắt mọi người, chỉ thấy Lệ Thắng Nam nhẹ vuốt đuôi tóc, sửa sang lại quần áo, chậm rãi nói: “Đường chưởng môn, mỗi người chúng ta đều thắng một trận, trận này là trận cuối cùng. Hai trận trước ông nhường cho tôi ra chiêu, trận này tôi nhường cho ông. Thế này nhé, xin mời ông phát ra trước ba cây Thiên Sơn thần mãng, sau đó tôi sẽ kính lại cho ông ba cây tên ngọc. Nếu tôi chống đỡ không nổi thần mãng của ông, bị ông bắn chết thì coi như số tôi đã hết, chẳng trách oán gần mọi người đều không ngờ đến lúc này Lệ Thắng Nam lại nhường cho Đường Hiểu Lan. 

Họ đang lo lắng Đường Hiểu Lan vẫn chưa hồi phục công lực, chỉ e chẳng thể tiếp nổi tên ngọc của Lệ Thắng Nam, nếu cho Đường Hiểu Lan phóng trước thì sẽ có cơ hội thủ thắng. Lúc này bọn họ đều sợ Đường Hiểu Lan không chấp nhận, Bản Không đại sư lên tiếng: “Lệ cô nương nói phải, có đi thì phải có lại!” Tiêu Thanh Phong cũng nói theo: “Đúng thế, Lệ cô nương đã có ý tốt. Đường đại hiệp theo lý phải nhận, nếu không người ta sẽ tưởng rằng ông coi thường nàng!” Đường Hiểu Lan cũng áy náy lắm, không ngờ mình là thiên hạ đệ nhất cao thủ mà phải để cho một tên vãn bối nhường một trận, Đường Hiểu Lan chỉ đành nói: “Được, nếu Lệ cô nương đã nói như thế Đường mỗ chỉ đành tuân lệnh.” Đường Kinh Thiên lấy ra ba cây Thiên Sơn thần mãng cho cha, Đường Hiểu Lan hít một hơi rồi nói: “Lệ cô nương, hãy cẩn thận!” rồi hai ngón tay búng một cái, lập tức một luồng ánh sáng màu đỏ bắn thẳng như điện chớp về phía Lệ Thắng Nam! Thiên Sơn thần mãng xé gió bay trên không trung. Mọi người thấy ông ta vừa tỉ thí nội công mà phát thần mãng ra lại có uy lực kinh người như thế thì không khỏi trợn mắt há mồm! Lệ Thắng Nam cúi người rút kiếm lia lên, chỉ nghe coong một tiếng, một luồng bạch quang lướt ra, luồng ánh sáng màu đỏ bị luồng bạch quang chạm phải lập tức tắt ngấm! Thiên Sơn thần mãng đã bị Tài vân kiếm của nàng chém gãy thành hai đoạn! Thiên Sơn thần mãng còn cứng rắn hơn cả sắt thép, đây là lần đầu tiên bị người ta dùng binh khí chặt gãy, ai nấy đều kinh hoàng thất sắc Nhưng Lệ Thắng Nam cũng loạng choạng thối lui bảy tám bước, nàng dựa vào gốc tùng, hơi thở phì phò, sắc mặt trắng như tờ giấy! Đường Hiểu Lan nói: “Cô nương có cần nghỉ một lát không?” nói chưa đứt thì chỉ thấy Lệ Thắng Nam phóng vọt ra đứng ở giữa sân, thản nhiên nói: “Uy lực của Thiên Sơn thần mãng quả nhiên tuyệt thế vô song, nhưng cũng chưa chắc bắn chết được tôi, Đường chưởng môn, không cần ông lo lắng, còn hai cây nữa xin mời cứ phóng ra!” Nói xong thì phun ra thêm một ngụm máu. Đường Hiểu Lan thấy mỗi lần nàng phun máu thì lại khỏe hơn trước, ông ta rất ngạc nhiên thầm nhủ: “Loại nội công tà môn này thật quái dị!” Lúc này ông ta nào dám lưu tình, thế rồi ngầm vận huyền công, dồn lực vào ngón tay, phóng ra cây Thiên Sơn thần mãng thứ hai! Cây Thiên Sơn thần mãng xé gió kêu vù vù; bay còn mạnh hơn cây lúc nãy, Lệ Thắng Nam tựa như vì giữ khí lực, rút thanh kiếm về, đợi cho đến khi Thiên Sơn thần mãng đến trước mặt tại đột nhiên phóng người lướt xé ra, chỉ nghe soạt một tiếng, tà váy nàng cũng bị thần mãng xé rách một miếng, rồi nàng cũng té nhào xuống đất. Mọi người chưa nhìn thấy rõ, chỉ tưởng Lệ Thắng Nam bị thần mãng bắn trúng, ai nấy đều kêu hoảng, tâm trạng của họ đều rất mâu thuẫn, lúc đầu thì mong Đường Hiểu Lan giết nàng, nhưng sau thấy nàng trẻ tuổi, lại luyện thành một môn võ công siêu phàm nhập thánh, thấy nàng bị thương bởi thần mãng thì không khỏi luyến tiếc. 

Trong tiếng kêu kinh hãi của mọi người, chỉ thấy Lệ Thắng Nam đã lộn người bật dậy, lạnh lùng nói: “Còn một cây cuối cùng, lúc này không phát thì còn đợi lúc nào?” Té ra nàng dùng Thiên la bộ pháp phối hợp với khinh công thượng thừa né tránh cây thần mãng, tuy chưa bị thương nhưng đã khí suy lực kiệt, vì nàng cầm cự không nổi cho nên mới té xuống. Đường Hiểu Lan thấy thế thì mềm lòng, hầu như không muốn phát ra cây thần mãng thử ba. Nhưng ông ta biết nội công của đối phương quái dị, nghĩ lại nếu mình nương tay, đến khi nàng phóng tên thì e rằng mạng mình khó giữ. 

Đúng là tên đã lắp vào cung, không thể không bắn! Đường Hiểu Lan nghiến răng, thầm khẩn cầu: “Mong cây thần mãng này chỉ đả thương nàng!” Tuy là thế nhưng đây là lúc phân thắng thua, ông ta cũng phải dốc hết toàn lực! Đường Hiểu Lan đã dùng mười thành công lực để phát ra cây thần mãng thứ ba, cây thần mãng bật ra như sấm sét! Lệ Thắng Nam không rút kiếm chống đỡ, cũng không dùng khinh công né tránh, chỉ thấy thần mãng bắn tới, nàng xoay người, soạt một tiếng cây thần mãngbắn trúng vào lưng của nàng, nàng kêu thảm một tiếng loạng choạng thối lui mấy bước, lảo đảo như muốn ngã xuống! Khi bọn thị nữ vội vàng ra đỡ nàng, mọi người đều căng thẳng đến nỗi nghẹt thở. Bỗng thấy Lệ Thắng Nam đẩy bọn thị nữ ra, trở tay rút cây thần mãng, cây thần mãng chẳng hề dính máu! Lệ Thắng Nam ném cây thần mãng rồi lạnh lùng nói: “Đường chưởng môn, bây giờ đến lượt tôi!” Té ra nàng mặc bộ nhuyễn giáp bằng ngọc, tiếp cây thần mãng cuối cùng của Đường Hiểu Lan, tuy bị nội lực của Đường Hiểu Lan đánh chấn thương, nguyên khí giảm xuống nhưng vẫn còn có thể cầm cự được. Lệ Thắng Nam nói câu ấy, tất cả mọi người đều im lặng, chỉ nghe thấy nhịp tim của mình đập. Đến cục diện như thế này, dù Đường Hiểu Lan không trúng tên của nàng, quá lắm cũng chỉ có thể huề với nàng. Đường Hiểu Lan chậm rãi nói: “Đường mỗ đã bày trò, chỉ mong ném đá dẫn ngọc, xin mời cô nương phóng tên!” Bốn ả thị nữ khiêng cây ngọc cung tới, Lệ Thắng Nam không cầm cây cung, chỉ thấy nàng nhíu mày, mặt lộ vẻ cười khổ. 

Mọi người thấy vẻ mặt của nàng như thế thì dấy lên một tia hy vọng trong lòng, đều nghĩ rằng: “Đường đại hiệp đã tổn thương nguyên khí, nhưng tình hình này có lẽ ả yêu nữ bị thương nặng hơn ông, dùng cây ngọc cung nặng nề như thể chưa chắc đã vừa tay!” Chỉ thấy Lệ Thắng Nam trợn mắt, đột nhiên cắn đầu lưỡi phun ra một màn mưa máu, tinh thần đột nhiên phấn chấn, cầm cây ngọc cung giơ cung lắp tên, rít lên: 

“Đường chưởng môn tiếp tên!” nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ nghe tiếng đây cung bật như sấm sét, cây ngọc tiễn bắn về phía ngực Đường Hiểu Lan nhanh như sao chổi! Đường Hiểu Lan quát 1ên một tiếng, vung cây Du long kiếm hóa thành một đạo ngân hồng lia lên không trung, chỉ thấy ánh sáng chạm nhau trên không trung phát ra tiếng kêu chấn động lỗ tai của tất cả mọi người, chỉ thấy ánh ngân quang xà xuống đất, chỉ thấy kiếm và tên đều cắm vào tảng băng, chuôi kiếm đuôi tên rung lên bần bật không ngừng! Sau một hồi im lặng như tờ, tất cả mọi người đều hoan hô như sấm dậy ! Các bậc võ học tôn sư như Bản Không đại sư, Tân Ẩn Nông, Tiêu Thanh Phong thì không reo theo mọi người mà tâm trạng càng nặng nề hơn. Thủ pháp ném kiếm đánh tên của Đường Hiểu Lan đẹp đẽ lạ thường, nhưng còn kém hơn công phu vung kiếm chém thần mãng của Lệ Thắng Nam một bậc. Đường Hiểu Lan phải mượn lực xung kích của thanh kiếm mới có thể hóa giải kình đạo của mũi tên, rõ ràng ông ta đã mất lòng tin đối với công lực của mình, không dám đợi mũi tên bay đến mới vung kiếm đánh rơi. 

Các bậc võ học tôn sư thầm lo, nhưng không biết Lệ Thắng Nam càng thất kinh hơn. Nàng tưởng rằng sau khi Đường Hiểu Lan tỉ thí nội công, dốc hết toàn lực phóng ra ba cây thần mãng thì sẽ sức cùng lực kiệt, không ngờ ông ta còn đủ sức đánh rơi tên ngọc của mình, nàng thầm nhủ: “Mình phải nhờ Thiên ma giải thể đại pháp mới tăng được công lực còn ông ta chỉ dựa vào công lực còn sót lại. Nếu so bần lĩnh chân thực, dù mình luyện mười năm nữa cũng chưa chắc bằng ông ta.” Đường Hiểu Lan hít sâu một hơi, đột nhiên ngồi xếp bằng xuống đất, nói: “Lệ cô nương, uy lực thần tiễn của cô nương quả thực vô song trên đời, nếu tôi chết bởi tên của cô nương cũng chẳng oán. Xin mời phát tiếp.” Lệ Thắng Nam nghiến răng, trầm tư trong chốc lát rồi cầm cây ngọc cung, kẻo căng dây ra, vút một tiếng: mũi tên thứ hai đã bật ra! Đường HiểuLan đã không còn kiếm phòng thân, khi thấy mũi tên bắn tới thì ông ta vẫn ngồi yên! 

Trong tiếng kêu kinh hãi của mọi người, chỉ thấy Đường Hiểu Lan chậm rãi giở hai chưởng lên, nói ra cũng rất lạ, cây tên bắn tới trước người ông ta thì đột nhiên chậm lại như bị cản. Đường Hiểu Lan vung hai chưởng lên, cây tên rơi xuống lòng bàn tay của ông ta tựa như có người cầm cây tên đặt nhẹ vào. Đường Hiểu Lan thi triển công phu kỳ điệu ấy khiến cho tiếng kêu kinh hãi trở thành tiếng reo hò, nhưng mọi người đều không hiểu tại sao Đường Hiểu Lan dùng Du long kiếm đánh rơi cây tên thứ nhất của Lệ Thắng Nam lại phí sức đến thế, còn mũi tên thứ hai của nàng mạnh hơn lúc nãy mà trái lại ông ta vẫn có thể chụp một cách nhẹ nhàng như thế? 

Mọi người nào biết, lúc này Đường Hiểu Lan đang thầm kêu khổ. ông ta chụp cây tên chẳng hề mất sức, nhưng thực ra đã phải ngưng tụ công lực của cả đời, nội công của ông ta đã sắp cạn kiệt! Đường Hiểu Lan như đèn khô dầu cạn, người bên cạnh chưa biết, Lệ Thắng Nam cũng không khỏi thầm khâm phục, nàng thầm hỏi: 

“Chả lẽ mình phải giết chết một bậc tôn sư võ học thiên hạ đệ nhất hay sao?” trong khoảnh khắc này, nàng hầu như đã mềm lòng, nhưng chỉ trong chớp mắt nàng nhớ lại di ngôn của Kiều Bắc Minh, trong đầu hiện lên hình bóng của Kim Thế Di, rồi lại thầm nói với mình: “Mũi tên này mình thực sự không phải bắn Đường Hiểu Lan!” Nàng nghiến răng từ từ giở cây ngọc cung lên, bắn mũi tên thứ ra về phía Đường Hiểu Lan! Đường Hiểu Lan vẫn ngồi xếp bằng dưới đất, nghe dây cung bật thì trong lòng đã tuyệt vọng: “Không ngờ Đường Hiểu Lan này lại chết trong tay bởi một kẻ hậu bối trẻ tuổi!” Cũng trong lúc dây cung bật ra, chợt nghe một tiếng quát: “Ngừng tay!” 

Ngón tay Lệ Thắng Nam hơi run rẩy nhưng mũi tên cũng đã bật ra! Đột nhiên có một bóng trắng lướt tới phía trước Đường Hiểu Lan khoảng mười bước, phóng vọt người lên, keng một tiếng, mũi tên quay đầu cắm vào tảng băng. người ấy cũng rơi xuống! Rất nhiều người đồng thanh kêu lên: “Kim Thế Di!” Giang Nam huơ chân múa tay gào lên: “Tôi đã biết thế nào Kim đại hiệp cũng đến! Này, Kim đại hiệp, tôi ở đây!” 

Lý Tâm Mai vừa lo vừa mừng, nàng muốn chạy tới nắm tay Kim Thế Di nhưng hai chân chẳng nghe lời, trong khoảnh khắc này nàng cũng không biết lòng mình có cảm giác gì, chỉ thàm nhủ: “Y đã trở về y đã đến đây.” Té ra món binh khí mà Kim Thế Di dùng để đánh rơi cây ngọc tiễn chính là cây gậy sắt của Độc Long Tôn Giả.Phùng Lâm đã nhặt cây gậy sắt này ở Xà đảo, lâu nay vẫn đặt trong phòng của Lý Tâm Mai. Kim Thế Di rơi xuống rồi bật dậy, đi thẳng về phía Lệ Thắng Nam. 

Hồi Thứ Năm Mươi Hai

Lệ Thắng Nam chẳng thèm ngó đến chàng, chỉ lạnh lùng nói với Đường Hiểu Lan: “Đường chưởng môn, đây là nơi của ông, giờ có người đến quấy rối, ông nói thế nào đây? Chúng ta có cần tỉ thí nữa không?” Đường Hiểu Lan thở dài đứng dậy, chưởng môn nói: “Lệ cô nương, tôi thừa nhận võ công của cô hơn tôi, còn tỉ thí gì nữa?” Giọng nói nghe rất thê lương, ai nấy đều buồn cho ông ta. 

Lệ Thắng Nam đột nhiên ngửa mặt cả cười, nói: “Đường chưởng môn, ông không thua tôi, ông chỉ thua Kiều tổ sư của tôi, ông có biết không? Tôi là truyền nhân cách thế của Kiều Bắc Minh! Kiều tổ sư, con đã tuân theo di ngôn của người, đánh bại truyền nhân của Trương Đan Phong và Hoặc Thiên Đô, tâm nguyện của người đã được hoàn thành, dưới suối vàng cũng có thể nhắm mắt!” Lúc này mọi người mới biết Lệ Thắng Nam đến đây là tranh tiếng cho sư môn, rửa nỗi nhục cho Kiều Bắc Minh. Kim Thế Di bước đến phía trước nàng, khẽ nói: “Thắng Nam, giờ muội đã được như ý nguyện, trở thành cao thủ đệ nhất võ lâm, muội còn muốn gì nữa? Huynh thấy muội tha được thì cứ tha!” Lệ Thắng Nam cười lạnh, điềm nhiên nói: “Kim Thế Di, ta hỏi ngươi, người muốn gì?” Kim Thế Di nói: “Cốc Chi Hoa chưa từng đắc tội với muội, muội cần gì phải khiến nàng sống giở chết giở?” Lệ Thắng Nam đanh mặt nói: “Nói như thế, ngươi đến đây để xin thuốc có phải không?” Lệ Thắng Nam đã biết mà vẫn hỏi, Kim Thế Di chỉ đành gật đầu: “Vì loại thuốc này, huynh đã tìm muội hai năm nay.” Lệ Thắng Nam nói: “Ngươi cần thuốc ư? Được, ngươi và ta cũng tỉ thí ba trận đi thôi!” Kim Thế Di nói: “Sao muội lại nói như thế? Muội không nể mặt Kim Thế Di hôm nay cũng phải nhớ đến Kim Thế Di ngày trước, chả lẽ muội tưởng rằng võ công trùm đời thì hoàn toàn không nhớ đến tình xưa hay sao?” Kim Thế Di không nói còn đỡ, nói thì tựa như châm dầu vào lửa, chợt thấy Lệ Thắng Nam trợn mắt, nỗi oán hận chứa đầy hai mắt, nàng nhìn Kim Thế Di một hồi rồi cười rú lên: “Kim Thế Di ơi Kim Thế Di, té ra cũng có một ngày người cầu xin ta! Ngươi còn mặt mũi nào nhắc chuyện xưa với ta? Hừ, may mà hôm nay võ công của ta hơn ngươi, nếu không chỉ e ngươi sẽ đến đây đánh ta mắng ta chứ không cầu xin ta như thế?” Kim Thế Di tận mắt, kêu lên: “Cô... cô...” chàng chỉ nói được mấy chữ cô chứ chẳng hề nói thêm được chữ nào. 

Lệ Thắng Nam cười lạnh nói: “Thế nào? Người đã bảo ân đoạn nghĩa tuyệt với ta, giờ lại bảo ta nhớ đến tình xưa nghĩa cũ gì nữa?” Thật ra bốn chữ “Ân đoạn nghĩa tuyệt” là do chính nàng nói, nhưng Kim Thế Di trong lúc tức giận, Lệ Thắng Nam đổvấy cho chàng, chàng cũng chẳng phản bác. I ịch Thắng Nam lại nói: “Đúng thế,ngươi nhắc lại chuyện xưa, lúc đó đúng là ngươi tốt với ta, ta cũng nhớ lại khoảng thời gian ngày trước, đáng tiếc thời gian không trở lại, Kim Thế Di của giờ đây không giống như Kim Thế Di trước đây.” Nàng dùng Thiên độn truyền âm để nói mấy câu đó, mọi người thấy môi nàng mấp máy nhưng cũng chẳng biết nàng nói gì? Kim Thế Di nghe nàng nói chua chát như thế thì nén không được cũng đau lòng, thế rồi cũng dùng Thiên độn truyền âm nói: “Chuyện quá khứ thìcứ để nó trôi qua, dù huynh không tốt với muội, hai chúng ta cũng chẳng thể đi cùng một đường nữa. Mong muội ban cho huynh thuốc giải, suốt đời này huynh cảm kích ân đức của muội?” Lệ Thắng Nam tỉ thí mong ba trận vốn mặt đã chẳng còn sắc máu, lúc này càng trắng bệch, đột nhiên nàng trợn mắt, gằn giọng nói: “Té ra đối với ngươi những viên thuốc giải này quan trọng đến thế sao?” Kim Thế Di biết mình nói lỡ lời, khiến cho nàng nổi cơn ghen, nhưng chàng chưa bao giờ giấu những lời trong lòng của mình đối với Lệ Thắng Nam, dù cho chàng không nói Lệ Thắng Nam cũng biết chàng đang nghĩ gì. 

Lệ Thắng Nam trách như thế, Kim Thế Di chỉ đành im lặng. Lệ Thắng Nam nghiến răng nói: “Hay lắm, Kim Thế Di, ngươi giỏi lắm! Ta hận không giết được ngươi! Hừ, nếu ta không nhớ tình nghĩa ngày trước, ngươi tưởng rằng có thể tiếp nổi mũi tên lúc nãy?” Kim Thế Di rất hiểu tính cách của nàng, biết rằng vẫn còn cơ hội thay đổi tình huống, vội vàng nói: “Đa tạ muội đã nương tay! Nếu muội đã hận huynh như thế, sau khi huynh lấy thuốc giải thì cứ mặc muội xử trí, muốn lấy mạng của huynh, huynh cũng chấp nhận.” Lệ Thắng Nam cười lạnh nói: “Nói đi nói lại, trăm câu ngàn lời cũng không rời thuốc giải. Hừ, hừ, cũng chẳng trách nào ngươi lo lắng đến thế. Độc tính của ngũ độc tán ngày càng nặng nề, giờ đây ả chỉ giở sống giở chết, vài ngày nữa kịch độc sẽ thấm vào xương cốt phủ tạng, lúc đó ngươi có hái hết Thiên Sơn tuyết liên xuống cho ả cũng chẳng ích gì. Nàng mỹ nhân đẹp tựa như hoa của người cuối cùng sẽ thối rữa toàn thân mà chết! Hừ, ngươi tưởng ta sẽ lấy mạng ngươi? Ta để cho ngươi nhìn thấy ả chết như thế chẳng phải tốt hơn hay sao?” Kim Thế Di biết nàng đang oán mình, nhưng nghe nàng nói như thế cũng không khỏi nổi da gà, chỉ e nàng nói là làm. 

Kim Thế Di cười thảm: “Nếu là thế, trên đời này chẳng còn huynh nữa. Cứ để muội sống một mình đi thôi! Thắng Nam, dù huynh không tốt với muội, nhưng đó là chuyện của huynh, tại sao muội hại người vô cớ?” Lệ Thắng Nam nói: “Hay lắm, người đã biết đối xử không tốt với ta, lại còn xách mồm không đến cầu xin thuốc giải của ta?” Kim Thế Di chưng hửng, chẳng biết nàng muốn gì, Lệ Thắng Nam lại nói tiếp: “Ngươi có nhận sai hay không?” Kim Thế Di nói: “Ngày ấy trên núi Tung Sơn, vì một lúc nóng nảy đã vô lễ với nàng, chuyện này ta nhận sai.” Trong lòng thì thầm nói: “Dù ta yêu Cốc Chi Hoa cũng chẳng phải là lỗi lầm gì.” Sắc mặt Lệ Thắng Nam giãn ra, nàng hừ một tiếng rồi nói tiếp: “Hôm nay ngươi có còn cứng cỏi được nữa không? Được, nếu ngươi đã có lòng nhận sai, trước mặt anh hùng thiên hạ ngươi phải biết làm điều gì rồi chứ?” Kim Thế Di ngạc nhiên hỏi lại: “Điều gì?” Lệ Thắng Nam cười lạnh nói: “Ngươi mau quên đến thế sao?” Kim Thế Di chợt nhớ ra, lần đó khi tát nàng một cái, trước khi bỏ đi nàng đã từng nói: “Rồi sẽ có một ngày, ta bắt ngươi quỳ xuống cầu xin ta!” Nhớ lại lời đó, Kim Thế Di chợt chấn động cõi lòng, chàng định thần, bốn mắt gặp nhau, chỉ cảm thấy ánh mắt của Lệ Thắng Nam lạnh lùng đến cùng cực, chẳng hề có chút tình cảm nào. 

Kim Thế Di rất kiêu ngạo, chưa bao giờ phải xin xỏ ai, năm xưa chàng gặp nguy mà chẳng hề thèm xin Thiên Sơn tuyế liên của Đường Hiểu Lan. Nhưng nay Cốc Chi Hoa đang gặp nguy, chàng đành phải khuất phục Lệ Thắng Nam. Những người đứng bên cạnh thấy cả hai đều mấp máy môi mà chẳng nghe tiếng, vẻ mặt cứ thay đổi liên hồi, một lúc thì tựa như đang tranh cãi, một lúc thì tựa như đang nói lời yêu thương, oán trách lẫn nhau. Mọi người đều ngạc nhiên xầm xì bàn tán. Phùng Lâm hạ giọng nói với Phùng Anh: “Kim Thế Di quả nhiên chẳng phải hạng tốt lành gì, may mà Mai nhi không lấy hắn.” Giang Nam cũng hạ giọng nói với Trâu Giáng Hà: “Xem ra hình như hai bên đang cãi nhau, tôi chỉ lo ả yêu nữ này mê hoặc Kim đại hiệp!” Kim Thế Di thì thầm nhủ: “Mình đánh nàng một bạt tai, vốn là mình chẳng đúng, hai năm qua mình vẫn rất hối hận. Huống chi giờ đây là vì Chi Hoa muội muội?” Mọi người đang xầm xì bàn tán chợt nghe Kim Thé Di lớn giọng nói: “Được, giờ đây huynh quỳ xuống trước muội, cầu xin muội giơ cao quý thủ, ban cho thuốc giải!” Chàng đã dập đầu nhận tội với Lệ Thắng Nam trước mặt anh hùng thiên hạ theo ý nàng muốn. Mọi người đều nghe rất rõ ràng Giang Nam kêu lớn che mặt, Lý Tâm Mai thì cúi đầu, không dám nhìn cảnh ấy, lòng thầm than: “Đáng thương cho Thế Di ca ca!” Anh hùng thiên hạ đều cảm thấy phẫn nộ khó nhịn được, nhưng cũng đành chịu! Trong nhất thời tất cả mọi người đều như bị thôi miên, ai nấy đều cúi đầu không nỡ nhìn Kim Thế Dichịu nhục. 

Kím Thế Di nuốt nước mắt khụy gối xuống, Lệ Thắng Nam không đợi chàng quỳ xuống đất, nàng cuốn ống tay áo đỡ Kim Thế Di đứng dậy, cười rằng: “Ta nhận đại lễ của ngươi, nam nhi không thể quỳ gối, ta không muốn để cho ngươi bì thiên hạ anh hùng chê cười.” Nàng buông ống tay áo ra, Kim Thế Di đứng thẳng dậy, chỉ thấy nàng cũng trả lại một lễ. Kim Thế Di hổ thẹn, vội vàng hỏi: “Giờ thì muội có thể cho huynh thuốc giải chưa?” Lệ Thắng Nam lạnh lùng nói: “Ngươi đã nhận lỗi với ta, chúng ta chẳng còn xích mích, ta cũng không trả thù một chưởng của ngươi năm xưa. 

Nhưng điều đó đâu có liên quan gì đến thuốc giải?” Nàng nói những câu ấy nghe rất bình thản nhưng Kim Thế Di thì đứng sững người ra! Lệ Thắng Nam bật cười, nàngchợt đổi giọng dịu dàng nói: “Sao huynh lại lo đến thế? Chả lẽ mấy viên thuốc giải mà quan trọng hơn cả sinh mạng sao? Vốn là muội có thể cho huynh, nhưng lại có một việc rất khó!” Kim Thế Di sững người, vội vàng hỏi: “Chuyện khó gì?” Lệ Thắng Nam nói: “Huynh đã quên gia quy của nhà họ Lệ chúng ta rồi sao?” Nàng ngập ngừng rồi lại dùng thuật Thiên độn truyền âm nói: “Năm xưa huynh có nhớ tại sao thúc tổ của muội không giết huynh không? Nhà họ Lệ không để cho người ngoài biết bí mật của mình, càng không để cho người ngoài chia chác đồ vật của mình. Bởi vậy suýt nữa ông ta đã giết huynh, nhưng sau đó lại tha cho huynh, chắc huynh cũng hiểu lý do.” Đương nhiên Kim Thế Di hiểu điều đó. Bởi vì với mối quan hệ giữa nhà họ Lệ với nhà họ Kiều, bất cứ những thứ gì thuộc về bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh thì Lệ gia đã coi đó là đồ của mình. Quyển Bách độc chân kinh lúc đầu tuy là của giáo chủ Thất Âm giáo nhưng sau đó Kiều Bắc Minh đã cướp đi truyền cho nhà họ Lệ, bởi vậy họ càng có lý do coi đó là bí kíp của nhà mình. Nay Kim Thế Di tuy chỉ xin thuốc giải, nhưng lại có liên quan đến Bách độc chân kinh, theo quy củ của nhà họ Lệ, nàng không thể lấy thuốc cho người ngoài, trừ phi Kim Thế Di là người nhà họ Lệ. 

Kim Thế Di nằm mơ cũng không ngờ rằng Lệ Thắng Nam lại đưa ra một thứ gia quy kỳ quặc đến thế? Năm xưa thúc tổ của Lệ Thắng Nam không giết chàng là bởi vì Lệ Thắng Nam nhận chàng làm chồng. Giờ đây Lệ Thắng Nam đưa ra thứ gia quy ấy chỉ có một dụng ý, đó chính là đòi Kim Thế Dí nhận nàng làm vợ nàng mới chịu đưa ra thuốc giải! Trong khoảnh khắc Kim Thế Di đứng trơ ra như một pho tượng nhưng trong lòng thì rối bời! Lệ Thắng Nam lạnh lùng nói: “Từ nhỏ muội đã không tin số phận, thứ muội muốn có nhất định phải lấy cho được, dù cho số phận đã an bài, muội cũng phải cố gắng lấy cho bằng được!” Trong tất cả những người có mặt, Lý Tâm Mai là người quan tâm Kim Thế Di nhất, tuy nàng không nghe cuộc nói chuyện của họ, những từ vẻ mặt Kim Thế Di nàng có thể cảm thấy có điều không ổn, đang thắc mắc thì chợt thấy Kim Thế Di rời khỏi Lệ Thắng Nam chậm rãi đi về phía mình.  

Phùng Lâm thất kinh, Phùng Anh hạ giọng nói: “Muội muội, muội đừng lo, y quyết không làm điều vô lễ.” Lý Tâm Mai chứa chan nước mắt, nàng vừa mừng vừa hơi đau lòng. Kim Thế Di bước tới trước mặt nàng, nói: “Muội muội, hôm nay là ngày vui của muội, xin thứ huynh đã đến trễ.” Lý Tâm Mai ngẩn ra một lúc, nói: “Huynh trở về được thì rất tốt, huynh không cần phải nói gì cả, muội chẳng hề trách huynh.” 

Kim Thế Di nói: “Hôm nay là ngày đại hỉ, huynh chẳng có vật quý gì làm quà cho muội. Mấy năm trước ở ngoài biển, huynh nhặt được một ít đồ, nay tặng cho muội.” Nói xong thì lấy ra một cái tráp. 

Kim Thế Di mở cái tráp, bên trong cái tráp đựng nào là vỏ sò, lông chim, sỏi, các loại hạt... 

Kim Thế Di nói: “Đây là lông chim phỉ thuý, đáng tiếc huynh không thể bắt một con cho muội chơi. Đây là lông chim sẻ biển, đẹp hơn cả lông hạc núi Đại Tuyết, còn đây là vỏ sò trên Xà đảo, màu gì cũng có. Những hòn sỏi này thì huynh nhặt ở núi lửa, muội sờ thử xem có thấy nóng hay không? Còn đây là hạt của một loại kỳ hoa ngoài biển, huynh cũng không biết tên, muội hãy thử trồng ở nơi gần suối nước nóng, xem có thể đơm hoa kết trái hay không?” Khi mới quen biết Kim Thế Di, Lý Tâm Mai còn là một cô bé thích chơi những thứ kỳ lạ, năm đó họ đi ngang qua núi Đại Tuyết, Lý Tâm Mai thường đòi Kim Thế Di bắt chim, hái hoa dại, nhặt sỏi cho nàng. 

Lý Tâm Mai rân rấn nước mắt, lòng thầm nhủ: “Té ra dù ở ngoài biển y vẫn không quên mình! Chao ôi, trong mắt y, mình vẫn mãi mãi là một tiểu muội muội!” 

Lý Tâm Mai bưng cái tráp, hai tay run run, có mấy phần thương cảm, nhưng vẻ mặt thì rất xúc động. Áng mây sầu trong lòng Chung Triển tán biến, y thầm nhủ: “Mình đã nhận ra, họ vốn chẳng qua chỉ là tình huynh muội. Chỉ là trước đây Tâm Mai còn quá nhỏ, cả bản thân nàng cũng không biết đó là thứ tình cảm gì.” Một giọt nước mắt trong veo rơi xuống, một lát sau Lý Tâm Mai mới nói: “Món quà này quý giá hơn bất cứ thứ gì, Thế Di ca ca, đa tạ huynh! Mong rằng sau này muội cũng sẽ uống rượu mừng của huynh!” Kim Thế Di cười khổ sở nói: “Hôm nay muội có thể uống rượu mừng của huynh! Huynh định thương lượng với muội...” Lý Tâm Mai kinh hoảng, kêu lên: “Cái gì? Huynh... hôm nay huynh mời muội uống rượu mừng?” Đột nhiên nàng hiểu ra, hôm nay Kim Thế Di cưới Lệ Thắng Nam chứ không phải Cốc Chi Hoa! Kim Thế Di cố nén nỗi xúc động trong lòng mình, chàng hạ giọng nói: “Đúng thế, hôm nay huynh mời muội uống rượu mừng. Nhưng chuyện này vừa mới quyết định, huynh nhất thời định không đến, cho nên muốn thương lượng với muội, mượn chỗ của muội, mượn đồ của muội, mượn rượu thịt của muội để làm hôn lễ, bày tiệc mời khách!” Lý Tâm Mai ngẩn người ra rồi nói: “Đây là chuyện lớn cả đời, huynh đã nghĩ kỹ chưa?” 

Kim Thế Di nói đầy vẻ thê lương: “Đã nghĩ kỹ, muội còn chưa biết sao? Ngoại trừ con đường này huynh còn có thể đi con đường nào khác?” Lý Tâm Mai đương nhiên hiểu, đó hoàn toàn là vì Cốc Chi Hoa. Nàng chẳng hề muốn Kim Thế Di lấy Lệ Thắng Nam nhưng nàng cũng như Kim Thế Di, chẳng thể nào mở mắt nhìn Cốc Chi Hoa chết đi. 

Lý Tâm Mai cố gượng cười: “Thế Di ca ca, vậy muội cũng chúc mừng cho huynh. Không ngờ chúng ta lại thành hôn trong cùng một ngày, những thứ huynh cần đã có sẵn. Huynh cứ việc lấy mà dùng.” Ai cũng nghe cuộc nói chuyện giữa Kim Thế Di với Lý Tâm Mai, nhưng có người đã bật khóc, đó chính Giang Nam. Trâu Giáng Hà kề tai chàng nói: “Họ một người chịu đánh, một người chịu đòn, huynh còn khóc cái gì?” Giang Nam thút thít nói: “Huynh chỉ đau lòng cho Cốc nữ hiệp.” Rồi nước mắt tuôn xuống như mưa, trong nhất thời chẳng thể dừng được. Trâu Giáng Hà luống cuống che cho chàng. Bộ mặt Lệ Thắng Nam lạnh lẽo tựa như chẳng hề nghe thấy gì. 

Kim Thế Di bước tới trước mặt Đường Hiểu Lan, cúi người thi lễ rồi nói: “Tôi không cha không mẹ, chẳng có người thân hay trưởng bối, Đường đại hiệp, ông có muốn làm chủ hôn cho tôi không?” Đường Hiểu Lan sững người, nghĩ ngợi trong chốc lát rồi nói: “Bằng hữu của lệnh sư trên đời có lẽ chỉ có vợ chồng tôi. Tôi vẫn coi thiếu hiệp là con cháu, hôm nay thiếu hiệp có thể kết duyên với nữ anh hùng võ công đệ nhất thiên hạ, tôi cũng đã rất vui mừng, đương nhiên không từ chối!” Đường Hiểu Lan chịu làm chủ hôn cho họ, nhiều người cảm thay bất ngờ. Họ nào biết rằng, Đường Hiểu Lan có một nỗi khổ khác, ông ta biết giờ đây chẳng ai chế phục nổi Lệ Thắng Nam, Kim Thế Di lòng dạ thiện lương, mong rằng sau khi Lệ Thắng Nam kết hôn với chàng thì sẽ cải tà quy chính, Lệ Thắng Nam bước lại, thi lễ rồi nói: “Đa tạ Đường chưởng môn không nhớ chuyện xưa mà giúp cho chúng tôi.” Rồi xoay sang Kim Thế Di nói: “Huynh thật hồ đồ, sao còn chưa mời khách?” Kim Thế Di bị nàng dắt tựa như một con rối, chàng thẫn thờ quay lại vái quần hùng rồi nói: “Hôm nay tôi và Lệ cô nương thành hôn, mong các vị nể mặt đến uống một chén rượu.” Chàng nói xong, xung quanh im lặng như tờ, chẳng ai trả lời. 

Đường Hiểu Lan nói: “Hôm nay nhà tôi đúng là song hỉ lâm môn, hai đôi tânnhân, một đôi là đồ đệ và cháu gái của tôi. Một đôi là Kim hiền diệt và nữ anh hùng võ công thiên hạ đệ nhất. Ha ha, đây quả là chuyện tốt trăm năm hiếm gặp trong võ lâm, xin mời các vị cùng trở lại hàn xá chúc mừng cho hai đôi tân nhân.” Một là Đường Hiểu Lan đã ra mặt, hai là bữa tiệc rượu này là của Lý Tâm Mai và Chung Triển, theo lễ tiết hay tình nghĩa cũng đều phải đến uống rượu, ba là họ cũng tò mò, tuy ai nấy e đè Lệ Thắng Nam nhưng cũng muốn xem hôn lễ của nữ ma đầu này. 

Thế rồi mọi người theo Đường Hiểu Lan trở về lễ đường. Nhưng không khí đã khác hẳn lúc nãy, khi hai người Chung, Lý thành hôn, ai nấy đều vui mừng, cười nói huyên thuyên; nhưng lúc này thì ai nấy cũng rầu rĩ, đệ tử phái Mang Sơn càng phẫn hận, đau thương hơn. Giang Nam bước vào cửa lễ đường, chợt khóc lớn: “Dù ả có giết ta, ta cũng không muốn thấy ả và Kim đại hiệp bái đường!” Trâu Giáng Hà tái mặt, vội vàng kéo chàng lại, trách rằng: “Huynh không đi thì thôi, sao lại kêu lớn làm gì?” 

May mà Lệ Thắng Nam chẳng hề để ý, nàng dắt tay Kim Thế Di bước vào lễ đường, chẳng hề quay đầu nhìn lại. 

Trong lễ đường đôi đèn cầy màu đỏ vẫn còn cháy, Đường Hiểu Lan sai người cắm vào một đôi đèn đỏ, thị nữ của Lệ Thắng Nam bước lên nói: “Mời tiểu thư thay áo.” Tân phòng của nàng vừa mới được bố trí, Lý Tâm Mai tuy không muốn nhưng cũng đành để cho nàng vào phòng mình thay đồ. Chung Triển nói: “Kim huynh, huynh có cần thay đồ mới không?” Kim Thế Di lắc đầu, khẽ nói: “Không cần!” Một hồi sau chỉ thấy mấy ả thị nữ tay cầm đèn lồng đỏ đi trước dẫn đường, Lệ Thắng Nam mặc một bộ đồ trắng, tà áo dài quét đất uyển chuyển bước ra trông như thiên tiên hạ phàm. Lý Tâm Mai nói: “Lúc này tôi mới biết Lệ cô nương không những võ công cao cường mà xinh đẹp không ai sánh bằng. Huynh xem, bộ váy áo của Lệ cô nương đẹp biết bao!” Té ra Lệ Thắng Nam đã đoán được có chuyện này xảy ra, nàng đã chuẩn bị cả lễ phục kết hôn. Lý Tâm Mai bề ngoài là khen nàng nhưng thực sự là đang mỉa mai. Vì lúc nãy Kim Thế Di lộn người xuống đất cho nên trên người dính đầy bùn đất, đôi tân nhân sánh vai nhau trông rất buồn cười Nhưng ai cũng lấy làm buồn cho Kim Thế Di, nào có tâm trạng nghĩ đến chuyện đó. 

Chỉ thấy vẻ mặt Lệ Thắng Nam rất kỳ lạ, tuy trên mặt vẫn còn hồng hào nhưng ánh mắt thì đờ đẫn, chẳng biết là vui sướng hay đau thương. Vẻ mặt Kim Thế Di càng kỳ lạ hơn, tựa như bị người ta bắt trói đem ra pháp trường, ai cũng đều nhận ra chàng đã cố tránh ánh mắt của Lệ Thắng Nam. 

Mọi người chỉ tưởng Kim Thế Di đang đau khổ, nhưng thực ra chàng đã có ý quyết chết, Té ra chàng đã nói với Lệ Thắng Nam, sau khi bái đường thành hôn, Lệ Thắng Nam sẽ trao thuốc giải cho chàng, chàng lập tức trở về Mang Sơn cứu Cốc Chi Hoa, sau đó sẽ trở lại làm vợ chồng với Lệ Thắng Nam. Thực ra thứ chàng cần chẳng qua là thuốc giải, chàng chuẩn bị cứu xong Cốc Chi Hoa sẽ tự sát. Chàng lấy tính mạng của mình ra để lừa gạt lấy thuốc giải của Lệ Thắng Nam. Thêm hôn lễ tiến hành trong không khí sầu thảm ấy. Khi giao bái, Kim Thế Di không thể né tránh nhìn vào mặt Lệ Thắng Nam nữa, chỉ thấy da nàng nhợt nhạt, dưới ánh nến trông nàng rất xinh đẹp nhưng hình như không phải là cái đẹp của một tân nương từ, cái đẹp không phải làm cho người ta động lòng mà khiến cho người ta kinh hãi. 

Lễ xong, tiệc mừng đã bày ra, bọn thị nữ nói: “Tiểu thư, mời vào tân phòng nghỉ ngơi, lát nữa sẽ kính rượu.” Kim Thế Di lặng lẽ đi theo nàng, chợt thấy hình như Lệ Thắng Nam đưa mảnh giấy cho ả thị nữ. Kim Thế Di thầm nhủ: “Không biết nàng lại giở trò gì?” Lệ Thắng Nam đi vào tân phòng, đuổi bọn thị nữa ra, đóng cửa phòng lại dịu đàng hỏi: “Thế Di, huynh có còn hận muội không?” Kim Thế Di không đáp. Lệ Thắng Nam thở đài: “Dù huynh hận muội thế nào, rốt cuộc hôm nay muội cũng đã trở thành thê tử của huynh, muội đã mãn nguyện.” Kim Thế Di lạnh lùng nói: “Đúng thế, muội đã thành công! Vậy thuốc giải đâu?” Lệ Thắng Nam buồn bã nói: “Biết trước như thế, muội thà ở lại đảo hoang cho xong.” Kim Thế Di gằn giọng nói: “Giờ đây chẳng phải muội đã hài lòng rồi sao?” Lệ Thắng Nam nói: “Đúng thế, nhưng rốt cuộc cũng chẳng còn gì! Thế Di, nếu chúng ta còn ở trên hoang đảo thì tốt biết bao!” Kim Thế Di thầm kêu lên: “Ai bảo cô trở thành như thế này? Tình nghĩa ngày xưa đã trôi ra biển đông, chẳng thể quay lái được nữa.” Chàng nghĩ như thế nhưng cũng đành dỗ nàng: “Chúng ta là vợ chồng, ngày tháng bên nhau vẫn còn dài. Muội đưa cho huynh thuốc giải để cho huynh làm xong chuyện rồi sẽ trở về với muội.” Lệ Thắng Nam thở dài: “Thế Di, huynh không thể gạt được muội!” Rồi nàng nước mắt lưng tròng, Kim Thế Di thấy ánh mắt u oán của nàng, trọng lòng không khỏi áy náy, trước đây chàng chưa bao giờ thích Lệ Thắng Nam. Nhưng lúc này chàng đành phải nói: “Huynh gạt muội cái gì? Chúng ta chẳng phải đã là phu thê rồi sao?” Lệ Thắng Nam tựa như nghĩ ngợi, một hồi sau mới lấy ra một cái tráp ngọc vuông, nói: “Thuốc giải ở đây, còn có mấy món muội cho huynh.” Kim Thế Di cũng chẳng cần hỏi đó là thứ gì, vội vàng cầm lấy, Lệ Thắng Nam chợt nói: “Thế Di, muội mong huynh làm cho muội mấy chuyện.” Kim Thế Di cả kinh, kêu lên: “Sao, muội lại giở trò gì?” Lệ Thắng Nam mỉm cười: “Không giở trò gì cả, huynh đừng lo, huynh chỉ cần nghe muội nói, dù muội nói gì huynh cũng không được cắt ngang. Thế Di, dù sao đi nữa chúng ta cũng có một đoạn tình, chả lẽ huynh không kiên nhẫn nghe muội nói mấy câu sao?” Kim Thế Di thấy vẻ mặt nàng rất kỳ lạ, chỉ đành nói: “Được, nói đi!” Lệ Thắng Nam nói: “Muội biết huynh yêu Cốc cô nương, muội cũng muốn hai người có kết quả tốt. Chỉ mong sau này khi huynh trước hoa dưới trăng, uyên ương bên bờ, nhớ đến muội một lúc, nhớ rằng có một người từng rất yêu huynh, muội sẽ... muội sẽ cảm kích không nguôi “ Kim Thế Di nói: “Đến nước này muội còn nói những điều như thế?” Lệ Thắng Nam cười khổ nói: “Huynh tưởng rằng muội ghen với nàng ư? Không, mỗi câu muội nói đều tận đáy lòng. Huynh đừng cắt ngang nữa, hãy nghe muội nói.” Kim Thế Di thấy sắc mặt nàng không ổn, đang lúc lo lắng thì nghe nàng nói: “Thế Di, chuyện đầu tiên là muội muốn huynh phải tự bảo trọng, dù xảy ra chuyện gì cũng phải gạt qua một bên, huynh có hứa với muội không?” Kim Thế Di lạnh mình thầm nhủ: “Chả lẽ nàng đã biết mình có ý muốn tự sát? Chả lẽ Cốc Chi Hoa trúng độc quá nặng không thể cứu nổi?” Lệ Thắng Nam nói: “Huynh hứa đi, huynh hứa muội mới yên tâm trao thuốc giải cho huynh.” Kim Thế Di ngần ngừ rồi nói: “Được, huynh hứa với muội.” 

Lệ Thắng Nam nở nụ cười rồi nói: “Thế Di, muội cũng mong huynh tiếp tục rèn luyện võ công, sau này huynh sẽ trở thành một bậc võ học tôn sư hơn hẳn người trước, muội đã từng là vợ của huynh, đến ngày huynh thành công, dù muội ở đâu cũng mừng cho huynh.” Kim Thế Di nghe nàng nói rất thành khẩn, lòng thầm nhủ: “Chả lẽ nàng muốn trao bí kíp của Kiều Bắc Minh cho mình?” Kim Thế Di tuy không mong muốn gì điều này nhưng cũng rất cảm động, thế rồi mới nói: “Đa tạ ý tốt của muội. Đa tạ kỳ vọng của muội, huynh sẽ cố gắng hết sức.” Tuy là nói như thế nhưng thật ra chàng vẫn không bỏ ý nghĩ tự sát. 

Lệ Thắng Nam thở ra rồi nói: “Huynh là người trọng lời hứa, huynh đã hứa thì muội yên tâm.” Kim Thế Di có tật giật mình, chàng cố gắng kìm nén để nàng không thấy điều đó. Lệ Thắng Nam nói: “Thôi được, huynh cứ cầm cái ngọc tráp này.” Kim Thế Di cầm cái ngọc tráp rồi nói: “Muội còn có gì căn dặn không? Huynh đi đây!” Lệ Thắng Nam nói: “Huynh tới đây để cho muội nhìn lại, để muội hôn huynh một cái!” Kim Thế Di vốn căm ghét nàng, nhưng không biết thế nào mà lúc này chàng rất xúc động, không kềm được nên hôn nàng một cái. 

Trong khoảnh khắc, mắt Lệ Thắng Nam ánh lên niềm vui, tựa như một đóa hoa hồng nở rộ, nàng khẽ nói: “Thế Di, thực ra huynh cũng yêu muội!” Đột nhiên nét cười biến mất, đóa hoa hồng nở rộ trong khoảnh khắc đã khô héo! Kim Thế Di kinh hãi, chỉ cảm thấy Lệ Thắng Nam dần dần lạnh ngắt! Té ra khi Lệ Thắng Nam tỉ thí nội công với Đường Hiểu Lan đã dùng Thiên ma giải thể đại pháp, bị nội thương rất nặng nề, chỉ nhờ môn tà công của nàng mới có thể gắng gượng đến lúc này. Giờ đây nàng đã giải quyết xong mối tâm sự, chân khí tản mát nên lập tức ngọc nát hương tàn! Kim Thế Di kinh hoảng, kêu lên: “Thắng Nam, Thắng Nam Muội sao thế? Muội sao thế? Huynh hứa với muội tất cả!” Đáng tiếc Lệ Thắng Nam chẳng thể nào trả lời được, trong khoảnh khắc ấy, Kim Thế Di như thấy sét đánh ngang mày, mắt hoa lên, hầu như hồn rời khỏi xác, chàng chẳng có cảm giác gì nữa, muốn khóc cũng không thành tiếng. Cửa phòng đột nhiên mở ra, tám ả thị nữ của Lệ Thắng Nam bước vào, kêu lên: “Quả nhiên tiểu thư đã chết!” Té ra tờ giấy là Lệ Thắng Nam đưa cho ả nha hoàn lúc nãy là căn dặn họ làm hậu sự cho mình. Nàng đã dặn khi nào trong phòng có tiếng kêu phát ra thì mới được mở tờ giấy ra xem. 

Kim Thế Di chợt kêu lên: “Thắng Nam, huynh có lỗi với muội!” Rồi ôm nàng, ả thị nữ của Lệ Thắng Nam kêu lên: “Toàn là do ngươi hại tiểu thư của bọn ta!” Rồi lập tức chĩa thanh trường kiếm vào lưng chàng. Kim Thế Di chẳng hề nhúc nhích trước mũi kiếm sáng quắc. Lúc này chàng chỉ nghĩ đến Lệ Thắng Nam, ả nha hoàn lúc nãy kêu lên: “Tiểu thư dặn không được giết y!” Rồi nhảy tới kẻo xác Lệ Thắng Nam, nói: “Tiểu thư nói, không cần ngươi phải lo chuyện của tiểu thư nữa, bọn ta phải tuân di ngôn của tiểu thư, ngươi hãy đi ra cho mau!” Kim Thế Di đấm ngực khóc rằng: “Thắng Nam, muội cứ yên tâm ra đi, nay huynh đã thừa nhận muội là thê tử! Các người hãy chôn nàng, bia để trống chờ ta về.” Lúc này, khách khứa cũng đã biết đã xảy ra biến cố, mọi người chạy vào chỉ thấy Kim Thế Di phóng ra chạy như bay! Lý Tâm Mai cũng chẳng giữ được chàng! Lại nói Cốc Chi Hoa nằm trên giường bệnh hai năm, sức khỏe ngày càng suy yếu, nàng đã biết sinh mạng của mình chỉ còn tính từng ngày, nàng cũng từng bảo Kim Thế Di không cần quay trở lại, nhưng trong lúc bệnh tình nguy cấp, nàng không khỏi nhớ đến chàng, mong có thể gặp mặt chàng lần cuối cùng. 

Hôm nay là ngày thứ mười tám sau khi phái Thiên Sơn xảy ra chuyện, Thiên Sơn cách Mang Sơn hàng vạn dặm, đương nhiên Cốc Chi Hoa chẳng biết điều gì đã xảy ra, nàng đang chờ người nàng phái đi dự hôn lễ trở về! Dực Trọng Mâu đang ngồi trò chuyện với nàng bên giường bệnh, y biết tâm trạng của nàng, an ủi rằng: “Sư muội, muội đừng nôn nóng, đường xa vạn dặm, chắc Bạch sư đệ không trở về ngay được! Đường đại hiệp và Lý Tâm Mai đều nhớ đến muội, lần trước còn bảo Tiêu Thanh Phong mang bích linh đơn đến tặng, ai cũng mong muội sớm ngày lành bệnh.” Cốc Chi Hoa cười khổ nói: “Chỉ e muội không đợi được Bạch sư huynh trở về.” Ngoài Kim Thế Di, Cốc Chi Hoa còn nhớ đến Lý Tâm Mai. Nhưng khi nàng vui cho Lý Tâm Mai, cũng không khỏi đau buồn cho mình. Lý Tâm Mai đã có nơi chốn còn nàng thì đang nằm chờ chết, chỉ e trước khi chết cũng chẳng thể gặp được người thương yêu một lần. Hôm nay nàng lại sốt cao mấy lần, cho đến khì trời chạng vạng thì dần ngủ thiếp đi, nàng nằm thấy ác mộng, nàng thấy Kim Thế Di toàn thân bị trói, máu lệ chan hòa. Nàng đang định kéo chàng thì thấy Lệ Thắng Nam xuất hiện trước mắt họ,chém xuống một kiếm... Cốc Chi Hoa kêu lên lạc giọng: “Thế Di, Thế Di!” Ngay lúc này, chỉ thấy một bàn tay ấm áp vuốt tóc nàng, một giọng nói quen thuộc vang lên: “Chi Hoa, Chi Hoa! Đúng thế, là huynh đây!” Cốc Chi Hoa mở mắt, chỉ thấy Kim Thế Di ngồi bên cạnh mình, trong khoảng sát na ấy, nàng hầu như tưởng rằng mình vẫn còn đang nằm mơ! Dực Trọng Mâu nói: “Tốt rồi, Thế Di đã mang thuốc giải trở về. Y đợi muội tỉnh, y đã đợi cả nửa ngày.” Rồi quay sang Kim Thế Di nói: “Tôi sẽ cho đồng môn biết tin này để họ cùng mừng.” Đương nhiên là Dực Trọng Mâu có ý để cho họ nói chuyện riêng với nhau. 

Cốc Chi Hoa gắng gượng nắm tay Kim Thế Di, nàng lại cảm thấy chàng là một người thực sự, có đa có thịt, nàng thở phào, khẽ nói; “Ồ, đúng là huynh! Không phải chúng ta gặp nhau trong mơ?” Kim Thế Di nói: “Huynh đã hứa với muội, đương nhiên phải đem thuốc giải về cho muội. Chi Hoa, muội đừng vội nói, hãy uống mấy viên thuốc này trước đã!” Kim Thế Di khẽ đỡ nàng dậy, rót một ly nước đưa cho nàng, Cốc Chi Hoa nói: “Thế Di, muội không biết cảm kích huynh thế nào mới phải!” Chỉ thấy Kim Thế Di nở nụ cười khổ, Cốc Chi Hoa giật mình, thầm nhớ lại cơn ác mộng lúc nãy, nhưng Kim Thế Di không cho nàng lên tiếng, đã nhét viên thuốc vào miệng nàng rồi bảo nàng uống nước vào. 

Cốc Chi Hoa uống liền ba viên thuốc giải, máu ứ bắt đầu tản ra, bụng sôi lên ùng ục, Kim Thế Di đặt nàng xuống rồi nói: “Muội hãy thử vận khí. Để huynh giúp muội đánh tan dược lực.” Cốc Chi Hoa chỉ đành loại trừ tạp niệm, vận khí theo lời chàng, 

Kim Thế Di nhẹ nhàng xoa bóp cho nàng, Cốc Chi Hoa chỉ cảm thấy một luồng khí ấm chạy trong người rất thoải mái! Khoảng một tuần trà sau, Cốc Chi Hoa vận chuyển chân khí đi một vòng, Kim Thế Di ngừng xoa bóp, nói: “Huynh để lại một đơn thuốc, muội cứ uống thuốc theo đơn khoảng mười lần là khỏe hẳn.” Cốc Chi Hoa chỉ cảm thấy tinh thần thoải mái, nhưng khi nàng nhìn vào mắt của Kim Thế Di thì vẻ sung sướng tựa như bị mây đen che khuất, ánh mắt của Kim Thế Di tựa như ẩn chứa một niềm đau khôn nguôi, còn vẻ mặt thì tựa như rất tuyệt vọng. 

Cốc Chi Hoa khẽ hỏi: “Thế Di, giờ đây huynh còn lo gì nữa? Muội không ngờ có thể gặp lại huynh? Đêm hôm qua muội còn nghe dù sống hay chết muội cũng mặc, chỉ cần trước khi chết có thể gặp lại huynh một lần muội có thể yên lòng từ biệt cõi nhân gian. Không ngờ muội không những gặp lại huynh mà còn có thể tiếp tục sống. Thế Di, sao huynh lại không vui?” Kim Thế Di nói: “Không, huynh rất vui. Muội tai qua nạn khỏi, lỗi lầm của huynh cũng giảm nhẹ.” Chàng miệng thì nói vui nhưng mắt thì ửng đỏ. Cốc Chi Hoa sững người, nói: “Thế Di, huynh còn áy náy vì muội sao? Đó không phải là lỗi lầm mà toàn là do Lệ... Lệ cô nương...” Kim Thế Di không để nàng nói tiếp đã cướp lời: “Không, Chi Hoa, muội không biết...” Cốc Chi Hoa nói: “Không biết cái gì?” Kim Thế Di nói: “Lỗi của nàng toàn là lỗi của huynh cả! Muội đừng trách nàng, những lỗi lầm của nàng đều do huynh gánh chịu!” Kim Thế Di nói rất thành thực, rất đau đớn, Cốc Chi Hoa chợt cảm thấy lạnh mình, nàng ngẩn người ra một chốc rồi kêu lên: “Thế Di, làm sao huynh lấy được thuốc giải? Có phải nàng cam tâm tình nguyện trao cho huynh không?” Kim Thế Di gật đầu: “Đúng thế!” Cốc Chi Hoa nói: “Ồ, vậy thì nàng thế nào rồi?” Kim Thế Di nói: “Nàng...nàng đã chết!” Giọt nước mắt chảy dài xuống mặt Kim Thế Di, trong khoảnh khắc này, Cốc Chi Hoa đã hiểu tất cả, nàng tuy không biết Lệ Thắng Nam đã chết như thế nào nhưng nàng biết Kim Thế Di thật sự yêu Lệ Thắng Nam! Kim Thế Di khẽ nói: “Cốc Chi Hoa, huynh luôn yêu quý muội, về sau cũng không thay đổi. Nhưng huynh đã hứa với một người, không phải hứa trước mặt nàng mà là sau khi nàng chết, lòng đã hứa với nàng rằng suốt đời này ngoài nàng chẳng lấy người thứ hai nào cả! Chi Hoa, Chi Hoa! Muội... muội có hiểu cho lòng huynh không?” Kim Thế Di nuốt nước mắt, nói tiếp: “Trước khi nàng chết huynh đã cử hành hôn lễ với nàng. Lúc đó huynh... huynh không biết nàng sẽ chết, chỉ muốn gạt lấy thuốc giải của nàng. Chao ôi... tuy không phải huynh chính tay giết chết nàng nhưng nàng đã chết vì huynh! Khi huynh và nàng cử hành hôn lễ, huynh chẳng gọi nàng một tiếng thê tử, nhưng sau khi nàng chết, huynh đã thừa nhận nàng là thê tử của huynh.” Cốc Chi Hoa run lẩy bẩy, nàng cố gắng kìm nước mắt, dịu dàng nói: “Đại trượng phu phải coi trọng lời hứa, huynh đã có danh phận với nàng, lại dã hứa với nàng, đương nhiên phải nên coi nàng là thê tử. Thế Di, muội cảm kích huynh đến đây thăm muội, cũng cảm kích Lệ cô nương cuối cùng đã trao thuốc giải. Thế Di, muội mãi mãi sẽ coi huynh là bằng hữu thân thiết nhất, huynh không cần lo cho muội, muội có thể chịu được!” Kim Thế Di nói: “Chi Hoa, muội kiên cường hơn huynh nhiều, nếu muội không nói thế, huynh hầu như đã không chịu nổi. Ôi, Chi Hoa, huynh mãi mãi yêu quý muội!” Chàng siết chặt tay nàng rồi bước ra cửa. 

Cho đến khi Kim Thế Di đi xa, Cốc Chi Hoa mới bật khóc! Đúng thế, nàng kiên cường hơn Kim Thế Di, nhưng nàng đau lòng còn hơn cả chàng! 

Một tháng sau, bên nấm mồ mới có chàng trai trẻ đặt tấm bia mộ, chàng trai đó chính là Kim Thế Di, trên tấm bia mộ đề mấy chữ “Ái thê Lệ Thắng Nam chi mộ.” 

Lệ Thắng Nam là người chàng đã từng xót xa, căm hận và thương yêu. Khi nàng còn sống, chàng không biết người mình yêu là nàng, đến khi nàng chết đi chàng mới nhận ra điều đó. Lúc này chàng mới biết rằng, chàng vẫn tưởng rằng mình yêu Cốc Chi Hoa, nhưng trong tình yêu ấy, lý trí nhiều hơn tình cảm, đó là bởi vì chàng biết Cốc Chi Hoa sẽ là một “Hảo thê tử.” Còn tình cảm của chàng đối với Lệ Thắng Nam thì phát triển một cách tự nhiên, cũng có thể nói tình cảm mạnh mẽ của Lệ Thắng Nam đã lôi kéo chàng. Chàng đặt xong tấm bia mộ thì lấy hai quyển sách trong một cái tráp ngọc ra đốt trước mộ nàng, khẽ nói: “Thắng Nam, đây là thứ của muội, muội hãy nhận lấy.” Cuối cùng quyển bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh mà người trong võ lâm ai cũng mong muốn đã bị thiêu thành tro bụi. Kim Thế Di cũng thấy rất tiếc nhưng chàng không muốn nhìn vật nhớ người, vả lại chàng cũng không muốn để lại mối họa này cho nhân gian, chàng cũng đã hiểu tâm pháp thượng thừa trong cuốn bí kíp, chàng phải đi theo con đường của võ công chính phái, dung hợp tâm pháp của bí kíp sáng tạo ra một môn võ công quang minh chính đại. 

Chàng đốt bí kíp, đứng một mình trước mộ tựa như một pho tượng đá. Bóng chàng trải dài trong ánh nắng chiều. Chàng sững sờ nhìn bóng mình, chiếc bóng đột nhiên biến thành Lệ Thắng Nam, nàng đã trở thành chiếc bóng đi suốt cuộc đời chàng. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro