Hồi 40-60

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 40

Ước Hội Tử Vong

Ngưu Thiết Oa giật mình, vụt quay người lại, chẳng thấy bóng dáng người nào cả.

Gã làm gan hỏi:

- Ai... Ai gọi tôi đó?

Âm thinh đáp:

- Ta!

Ngưu Thiết Oa nắm chặc hai bàn tay, gằn từng tiếng:

- Ta! Ta là ai mới được chớ? Mà ta ở đâu?

Âm thinh vang lên:

- Ta ở đây!

Ngưu Thiết Oa phát hiện ra, âm thinh phát xuất từ nơi một bụi cây gần đó, bụi cây phô hình thành một vầng đen dưới ánh trăng nhạt.

Gã nắm cứng hơn hai bàn tay, từ từ bước về phía đó.

Âm thinh quát khẽ:

- Ngưu Thiết Oa! Không nên bước lại gần! Đứng lại ngay đi!

Ngưu Thiết Oa trầm giọng:

- Tôi không đứng! Tôi cứ bước tới, tại sao tôi phải nghe lời các hạ chứ?

Âm thinh hừ nhẹ:

- Ta thấy ngươi đứng đó, tịch mịch quá, nên định lân la trò chuyện cho ngươi giải khuây, nếu ngươi bước tới, thì ta bỏ đi ngay, ta đi rồi, ngươi chẳng ngại tịch mịch sao? Ta có hảo ý với ngươi mà sao ngươi chẳng chịu hiểu?

Ngưu Thiết Oa dừng chân lại liền.

Rồi gã nhoẻn miệng cười thốt:

- Thế các hạ chỉ có ý gợi chuyện cho tôi vui vậy thôi! Thế ra, các hạ có hảo ý với tôi! Như vậy tôi phải nghe lời các hạ mới hợp đạo lý cho chứ!

Âm thinh cười nhẹ:

- Phải đó! Như vậy mới hợp đạo lý!

Ngưu Thiết Oa chớp mắt:

- Các hạ là ai? Do đâu các hạ biết tên họ tôi?

Âm thinh đáp:

- Chẳng những ta biết tên họ ngươi, mà ta còn hiểu biết được nhiều việc khác nữa kia! Hầu hết các sự việc trên đời nầy, ta đều biết rỏ!

Ngưu Thiết Oa trố mắt:

- Thật vậy à? Các hạ biết rất nhiều việc à?

Âm thinh tiếp:

- Tự nhiên! Nếu ngươi không tin, cứ hỏi ta một vài việc xem!

Ngưu Thiết Oa hỏi liền:

- Đại ca của tôi là ai?

Âm thinh đáp:

- Là Phương Bửu Ngọc.

Ngưu Thiết Oa ạ lên một tiếng:

- Các hạ đoán ra, chứ làm gì biết được! Bây giờ, tôi hỏi tiếp:

Gã suy nghĩ một lúc, đoạn cất tiếng:

- Sư phó của tôi là ai?

Âm thinh đáp:

- Là Châu Phương!

Ngưu Thiết Oa lại ạ lên một tiếng:

- Bây giờ, tôi hỏi các hạ , tôi đang nghĩ đến một người, các hạ có biết là tôi đang nghĩ đến ai chăng?

Âm thinh đáp:

- Ngươi nghĩ đến hai người, chứ chẳng phải một, hai người đó là Ngưu Thiết Lan, em gái ngươi, và Khương Phong!

Ngưu Thiết Oa trợn tròn đôi mắt, sửng sốt một lúc lâu.

Gã lòng ngay, bụng rỗng, bình sanh chẳng có điều chi bí ẩn cả và điều bí mật lớn lao, nếu có, thì chỉ là việc nhớ tưởng đến một vài người.

Hiện tại người trong bụi cây lại hiểu rõ, tự nhiên gã phải kinh ngạc.

Lâu lắm, gã thở dài thốt:

- Khá lắm! Tôi phục các hạ đó! Quả thật, các hạ biết quá nhiều việc.

Âm thinh cười hì hì:

- Còn ta, ta là ai, ngươi biết không?

Ngưu Thiết Oa lắc đầu:

- Không biết được đâu!

Âm thinh lại hỏi:

- Đại ca ta là ai? Sư Phụ ta là ai? Ngươi có biết không?

Ngưu Thiết Oa lại lắc đầu:

- Cũng không biết nốt!

Âm thinh hỏi tiếp:

- Ta nhớ đến ai, ngươi biết không?

Ngưu Thiết Oa thở ra:

- Chịu thôi!

Âm thinh cũng thở dài:

- Thì ra, ngươi chẳng biết việc gì cả! Thì ra ngươi chỉ là một con trâu, vóc thì to, đầu óc thì rổng!

Ngưu Thiết Oa thẹn đỏ mặt:

- Chưa hẳn vậy! Tôi cũng biết được một vài việc chứ?

Âm thinh hỏi:

- Ngươi biết được những việc gì? Đến phong thơ do đại ca ngươi vừa tiếp được đó, phong thơ nói gì, ngươi cũng chẳng biết thì còn việc gì mà ngươi biết?

Ngưu Thiết Oa cười lớn:

- Lầm to! Lầm to, các hạ Ơi! Phong thơ của đại ca tôi, bất quá chỉ có mấy chữ, tôi thuộc nằm lòng! Ít nhất tôi cũng biết được một việc chứ!

Âm thinh hừ lên:

- Ta không tin!

Ngưu Thiết Oa bực tức:

- Các hạ không tin? Được, tôi cho các hạ biết, các hạ nghe đây, tờ thơ có mấy chữ như vầy:

Bên ngoài... rừng dâu...

Gã chữa lại:

- Không, không nó như thế nầy mới đúng... đèn đỏ tại rừng dâu...

Âm thinh cười:

- Khá lắm, như vậy là ngươi không quá ngốc, bởi ngươi cũng còn biết được một vài việc. Nhưng, ngươi nên nhớ điều nầy, chúng ta nói đùa với nhau cho vui, đùa như trẻ nít, ngươi đừng thuật lại với đại ca ngươi nhé, đại ca ngươi biết được sẽ cho ngươi là một ngốc tử đấy!

Ngưu Thiết Oa gật đầu:

- Tôi biết rồi! Thực ra dù đại ca tôi cho tôi là một ngốc tử cũng chẳng sao. Chỉ có...có cái nàng tiểu công chúa đó thì... nhất định là tôi không để cho nàng khinh tôi!

Âm thinh im bặt.

Ngưu Thiết Oa chờ đợi một lúc lâu, chẳng nghe người đó nói gì nữa liền cao giọng hỏi:

- Các hạ có nghe tôi nói không?... Hừ! Các hạ bảo rằng đến đây trò chuyện cho tôi đỡ tịch mịch, rồi lại nín thinh, tôi còn trò chuyện với ai?

Âm thinh vẫn im bặt.

Ngưu Thiết Oa hét:

- Các hạ không nói gì, tôi sẽ bước tới đấy nhé! Đừng trách tại sao tôi bước tới đấy nhé!

Đợi một lúc, chẳng nghe tiếng nói từ bụi cây vọng ra, Ngưu Thiết Oa bước tới liền.

Gã đưa cánh tay hộ pháp, sè hai bàn tay cứng như sắt ra trước mặt, vẹt cành cây, sục sạo một lúc, chẳng gặp ai cả.

Gã càu nhàu:

- Quái! Hắn mới nói chuyện với ta đó rồi hắn biến đâu mất rồi?

Gã xô gã đẩy những cành cây ào ào, rột rạt, nhưng vô ích, gã chẳng gặp gì cả.

Gã bực dọc, lại sục sạo một lúc nữa, bất giác thấy một người ngồi thu hình dựa một gốc cây.

Gã bật cười ha hả:

- Đó! Đó! Các hạ định trốn đâu cho khỏi tay tôi chứ?

Gã bước tới gần một chút, bổng gã lùi lại liền, rồi gã đứng lại mồm há hốc, mắt trợn trừng, mặt xanh dờn.

Trước mắt gã, người ngồi đó có gương mặt như mặt quỷ, da sần sùi, có chỗ tét ra thành những đường ngắn trắng toát, mũi phồng to, mắt lồi ra.

Một mình gã, giữa đêm khuya, tại cảnh vắng, gặp một con người như vậy, dù gan lỳ Ngưu Thiết Oa cũng phải rợn người, huống chi gã chưa có gan lỳ?

Thân hình gã rung bần bật.

Lưỡi gã líu lại một lúc lâu, gã mới ấp úng hỏi:

- Ngươi... ngươi là cái quái gì?... Ngươi là người hay quỷ? Sống hay chết?

Người đó ngồi bất động, câm lặng.

Trong khi Ngưu Thiết Oa đăm đăm nhìn người đó, phía sau lưng gã, có người gọi:

- Thiết Oa! Ngươi đang nói chuyện với ai đó?

Đang sợ, nghe người gọi, Ngưu Thiết Oa càng sợ hơn, gã quay nhanh mình lại, nhận ra Phương Bửu Ngọc và Tiểu công chúa đang nhìn gã.

Chẳng rõ họ xuất hiện từ lúc nào!

Ngưu Thiết Oa mầng như khát nước hai hôm gặp giòng suối mát, hấp tấp kêu lên:

- Đại ca! Đại ca đã trở lại! May quá, chính là đại ca! Nếu không phải đại ca, chắc tôi điên mất! Tôi chết mất!...

Phương Bửu Ngọc lấy làm lạ:

- Ngươi đã thấy gì?

Ngưu Thiết Oa đưa tay chỉ:

- Đại ca nhìn kia, bên gốc cây đó!

Phương Bửu Ngọc nhìn theo tay gã chỉ, bất giác hãi hùng, nhưng chàng trấn định tâm thần ngay, bước tới.

Ngưu Thiết Oa bước theo chàng ấp úng hỏi:

- Người đó... chết rồi hay... còn sống, hở đại ca?

Tiểu công chúa hớt đáp:

- Chỉ sợ hắn đã chết!

Phương Bửu Ngọc vụt hỏi:

- Cô nương xem kỹ, xem hắn là ai!

Ngưu Thiết Oa trố mắt:

- Đại ca nhận ra hắn?

Tiểu công chúa kêu lên thất thanh:

- Hắn! Thì ra chính là hắn! Chúng ta tìm mãi mà chẳng gặp, không ngờ hắn lại ở đây! Kẻ nào hạ độc thủ khiến hắn ra thân thể đó?

Ngưu Thiết Oa nhìn kỹ, vụt rú lên:

- Hắn! Hắn cầm đèn đỏ vừa rồi!

Đại hán bị hủy hoại gần như biến thể, bất quá họ bằng vào một vài đặc điểm của con người vừa ly khai, mà nhận ra thôi.

Tiểu công chúa căm hờn:

- Độc! Tàn độc thật!

Phương Bửu Ngọc cúi mình xuống quan sát kỹ hơn một chút, lẩm nhẩm:

- Kỳ quái! Kỳ quái! Thủ pháp phân cân dịch cốt!

Tiểu công chúa cười lạnh:

- Bây giờ ngươi mới thấy như vậy à!

Phương Bửu Ngọc thốt:

- Tại hạ đã thấy từ lúc đầu, song không tin lắm, bởi thủ pháp đó thuộc về vũ học của chánh tông nội gia, cứ theo chỗ hiểu biết của tại hạ, thì ngày nay trên giang hồ chỉ có mấy người trong các phái Vũ Đương, Thiếu Lâm, Nga My là biết xử dụng, số người đó rất hạn chế! Vậy ai đã hạ thủ?...

Tiểu công chúa lạnh lùng:

- Trong hàng đệ tử nội gia chánh tông, há chẳng có kẻ lòng lang dạ sói, lừa bạn, phản thầy sao? Ta chỉ ước mong kẻ nào hạ độc thủ, đừng chết gấp thôi, thì sớm muộn gì ta cũng biết được kẻ đó là ai!

Nàng cúi xuống, đập tay vào mấy huyệt đạo, đại hán rung chuyển mình, thân thể co rút lại.

Sau cùng, hắn kêu lên một tiếng, tỉnh lại.

Hắn tỉnh lại nhưng tỏ vẻ đau đớn phi thường. Chừng như cái đau đớn hành hạ hắn quá độ, chịu không nổi, hắn tỉnh lại.

Ngưu Thiết Oa mọc ốc đầy mình, Phương Bửu Ngọc bất nhẫn quá.

Nhưng, tiểu công chúa thản nhiên như thường, thần sắc chẳng hề biến đổi.

Nàng lạnh lùng nhìn đại hán, hỏi:

- Tỉnh lại rồi phải không? Sao chưa mở mắt?

Đại hán mở mắt ra, trông thấy tiểu công chúa, mặt lộ vẻ hân hoan ngay, song trong vẻ hân hoan có ẩn ước niềm kinh hải.

Hắn rung giọng thốt:

- Tôi chẳng có nói gì cả! Tôi không có nói chi hết!...

Phương Bửu Ngọc giật mình:

- Người đó muốn các hạ nói gì?

Đại hán cứ kêu lên:

- Tôi chẳng có nói gì cả! Tôi không có nói chi hết!...

Phương Bửu Ngọc cố kiên nhẫn:

- Ai hạ thủ hãm hại các hạ ?

Đại hán vẫn rung giọng:

- Tôi không biết! Tôi chẳng biết việc gì cả!

Tiểu công chúa cười nhẹ:

- Tốt! Thôi ngươi yên tâm, đi đi!

Đại hán vừa buông tiếng:

- Đa...

Tiểu công chúa vỗ nhẹ vào một huyệt đạo, hắn không kịp tiếp theo tiếng tạ, thân hình co quắp lại, rồi bất động.

Hắn ra đi vĩnh viển.

Ngưu Thiết Oa biến sắc:

- Cô nương...

Tiểu công chúa điềm nhiên:

- Hắn không thể sống được, hắn còn sống thêm mấy phút giây chịu thêm đau đớn, cuối cùng cũng chẳng hy vọng sống sót, thà đưa hắn đi sớm cho hắn được nhẹ nhàng. Ta tốt với hắn chẳng lẽ ngươi không biết điều đó?

Ngưu Thiết Oa há hốc mồm, lâu lắm gã chẳng thốt được một lời nào.

Phương Bửu Ngọc từ từ cất tiếng:

- Như tại hạ đã ức đoán, người hạ thủ tất thuộc nội gia chánh tông và hạ thủ với mục đích hỏi cung hắn một vài điều quan trọng!

Tiểu công chúa mỉm cười:

- Rồi làm sao?

Phương Bửu Ngọc không lưu ý đến thái độ của nàng, tiếp luôn:

- Bây giờ thì tại hạ hiểu rồi! Chẳng những cô nương biết được người đó hỏi hắn về việc gì, mà cô nương còn biết người đó là ai!

Tiểu công chúa cười gằn:

- Thật vậy à?

Phương Bửu Ngọc nhìn thẳng vào mắt nàng:

- Người đó là ai? Y bức đại hán cung khai với y những gì?

Tiểu công chúa lạnh lùng:

- Ngươi hỏi dồn ta làm chi vậy? Ngươi nghiêm giọng hỏi ta như vậy, là ta nói ngay cho ngươi nghe à?

Phương Bửu Ngọc chụp tay nàng, cao giọng:

- Cô nương nói, hay không nói?

Tiểu công chúa bĩu môi:

- Ta không nói, rồi ngươi sẽ làm gì ta?

Phương Bửu Ngọc trừng mắt nhìn nàng, nàng cũng trừng mắt nhìn lại chàng.

Cả hai trừng nhau một lúc, Phương Bửu Ngọc thở dài, buông tay ra thốt:

- Cô nương không nói, một ngày nào đó, tại hạ cũng biết được vậy!

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Cứ thong thả mà chờ!

Bỗng, Ngưu Thiết Oa kêu lên:

- Nữa rồi! Còn nữa, lại đây mau, còn một người ở đây này!

Phương Bửu Ngọc vọt mình tới, quả thấy một người nằm trong bụi cỏ, chàng sờ vào mình người đó nhận ra tay chân hắn đã lạnh.

Hắn đã chết, và có lẽ đã lâu.

Ngưu Thiết Oa lật xác hắn trở lên, gã vụt kêu lên một tiếng oái!

Người đó bị trúng độc, thất khiếu chảy máu.

Hiển nhiên, hắn không đợi ai bức hỏi, tự nuốt độc dược mà chết.

Phương Bửu Ngọc thầm than:

- Quả nhiên môn quy của Hỏa Ma Thần rất sum nghiêm, cho nên đại hán nầy thà chết chứ không chịu tiết lộ điều bí mật! Suy theo đó, ta thấy điều bí mật nầy phải quan trọng lắm!

Ngưu Thiết Oa nhìn xác chết lẩm nhẩm:

- Các ngươi đáng thương quá, vừa gặp chúng tôi là phải chết liền!

Gặp sớm chết sớm, gặp trễ chết trễ! Các người...

Bỗng, Phương Bửu Ngọc buột miệng thốt:

- Đúng rồi!

Ngưu Thiết Oa giật mình nhảy dựng:

- Cái gì đúng, đại ca?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Hai người nầy, trước khi gặp chúng ta đã có vẻ sợ hãi rồi, và sau khi gặp chúng ta, lại phóng chân chạy chết, chừng như họ là có ai đó sắp sửa hãm hại họ, chực chờ hãm hại họ!

Ngưu Thiết Oa gật đầu:

- Chắc vậy đó, đại ca! Nhưng... nhưng kẻ nào đó, làm thế là có ý tứ gì?

Phương Bửu Ngọc giải thích:

- Chỉ vì kẻ đó là tử đối đầu của Hỏa Ma Thần chứ còn gì nửa? Kẻ đó thực ra chưa biết ai là môn hạ của Hỏa ma Thần, cho nên theo dõi hai đại hán từ lâu mà không hạ thủ, vì còn nghi ngờ. Khi thấy hai đại hán tiếp xúc với chúng ta rồi, y mới hạ thủ vì lúc đó y đã biết chắc rồi.

Chỉ có những môn hạ của Hỏa Ma Thần mới tiếp xúc với bọn ta thôi, ít nhất cũng trong hiện tại. Ngươi thấy đó, vừa ly khai chúng ta, là bị hại ngay!

Ngưu Thiết Oa trố mắt:

- Mà kẻ kia là ai?

Phương Bửu Ngọc lắc đầu thở dài:

- Làm sao ta biết được? Có điều ta nghi ngờ là kẻ ấy rất am tường sự việc của ta, chứ nếu không thì làm sao hiểu được, phàm những ai liên lạc với ta trong lúc nầy là môn hạ của Hỏa Ma Thần?

Ngưu Thiết Oa lại gật đầu:

- Phải đó!... Nhưng...

Phương Bửu Ngọc chận lại:

- Còn một điểm nầy nửa, là kẻ nào đó đợi các đại hán tiếp xúc với ta rồi, sau đó mới hạ thủ. Như vậy có nghĩa là y có phần nào cố kỵ ta!

Ngưu Thiết Oa mỉm cười:

- Tôi hiểu rồi. Kẻ đó ngán vũ công của đại ca!

Phương Bửu Ngọc cười khổ:

- Sự tình đâu có giản đơn như vậy, Thiết Oa!

Chàng suy đoán là người nào đó, nấp trong bóng tối hành sự có quan hệ mật thiết với chàng.

Và cái điều mà y bức hỏi các đại hán, hẳn cũng không ngoài sự quan hệ đó.

Tuy nhiên, chàng chỉ biết được như vậy thôi. Cái điều chàng biết, chẳng giúp gì cho chàng tìm ra manh mối cả, bởi điều đó rất mù mờ, nếu không nói là tầm thường.

Thế thì làm sao chàng biết được người đó là ai? Và người đó muốn cho hai đại hán tiết lộ những gì mà bức hỏi họ, đến nỗi cả hai phải chết?

Chàng suy tư đến xuất thần, lâu lắm chàng thở dài thốt:

- Từ đây đến rừng dâu bên ngoài thành Đông Xương, nơi phía Tây, trước khi tìm thấy ngọn đèn đỏ, chúng ta phải hết sức thận trọng dọc đường. Xem có ai theo dõi chúng ta chăng!

Đến bây giờ, chàng mới nhớ đến cái việc lưu ý đề phòng thì kể ra cũng quá muộn rồi!

Bởi, Ngưu Thiết Oa đã tiết lộ với người bí mật trước đó không lâu, người bí mật đã hiểu địa điểm rồi, còn theo dõi làm chi nữa, đương nhiên y phải đến đó trước chàng, chờ đón chàng hội diện với Hỏa Ma Thần.

Ngưu Thiết Oa không cần nói đến Đông Xương thành, gã chỉ nói đến rừng dâu thôi, cũng đủ lắm rồi, bởi trong một vùng không rộng đó, liệu có mấy rừng dâu? Gã lại còn nói đến ngọn đèn đỏ thì người đó chẳng cần sục sạo khắp nơi, chỉ đứng ra xa lưu ý nơi nào có đèn đỏ, là âm thầm đến nấp quanh đấy.

oo Họ đi hết đêm đó, suốt ngày sau chiều lại, họ đến Đông Xương thành.

Họ vào cửa Đông, họ ra cửa Tây.

Suốt hành trình, từ bờ Hoàng Hà đến Đông Xương, Phương Bửu Ngọc không gặp một người nào có dáng vẻ khả nghi.

Bất quá, những người chàng gặp là hào kiệt vũ lâm, họ mến mộ chàng mà tìm gặp chàng, và chàng tìm lời khéo để thoái thoát sự phiền nhiểu của họ.

Tuy không gặp gì khả nghi, Phương Bửu Ngọc vẫn chẳng hề lơi cảnh giác.

Ra khỏi thành rồi, chàng lưu ý chung quanh, qua từng bước một, với sự thận trọng đó chàng đi tới, khi hoàng hôn xuống, chàng đã thấy xa xa trước mặt, một khu rừng dâu.

Yên hà còn rạng rỡ nơi phương Tây, hoàng hôn đang đuổi dồn những người và vật cuối cùng còn luyến tiếc canh tác nơi đồng áng trở về mái ấm, trả im lặng cho không gian. Phương Bửu Ngọc đảo mắt xem gần nhìn xa, chẳng thấy một bóng người nào khả nghi cả.

Chàng không thấy, trên thế gian nầy có ai tinh vi nhãn lực hơn chàng?

Như vậy, là chàng không phát hiện ra một người nào theo dõi đến đây, như vậy là chàng được yên tâm.

Chàng thở phào.

Đoạn, chàng nhẹ bước tiến vào khu rừng dâu.

Một đợt khói mờ từ rừng dâu, tỏa lên không trung, vờn vờn rồi lan rộng, rồi tan dần, tan dần...

Đâu đây có tiếng gà gáy xa xa, gà gáy lúc hoàng hôn hẳn là gà rừng, nhưng đã có khói, tất có nhà, có người ở, có gia súc, biết đâu đó chẳng phải là một tiếng gà nhà, buồn cô tịch mà gáy lên cho nhẹ bớt hoang liêu?

Bình tịnh quá, im lặng quá, chẳng có một điểm gì chứng tỏ bất tường đang chờ đón chàng nơi đây...

Không gian lâng lâng, chẳng gợn niềm trần tục thì làm gì có sát khí bốc bừng?

Chàng đi tới.

Thưa thưa, những ngôi nhà nông phu phô mái có nơi cửa đóng, có chỗ người ngồi tựa cửa nghe gió lộng rì rào, hoặc nhìn mây muộn bay về xa thẳm.

Họ ngồi đó, chờ thê tử làm xong bữa cơm chiều, và cả gia đình sẽ quây quần bên mâm cơm thanh đạm, hưởng thanh bình vui với kiếp sống thanh cao.

Một vài trẻ nhỏ đương rượt chó tung tăng nhốn nháo, buông lung bình dị trong khung cảnh êm đềm.

Cảnh giác của Phương Bửu Ngọc trước cuộc buông trôi của đời vô tư lự qua kiếp sống thanh bần của dân địa phương, có phần nào lơi lỏng.

Trong phút giây, chàng tưởng chừng rừng dâu là nơi thanh tịnh cho những ai quá lao tâm tiều tử, tìm quên lãng qua một thời gian.

Không thanh tịnh sao được chứ? Bởi cái kiếp sống nơi đây êm đềm trôi như thế từ bao đời, nếu có sóng gió gì thì sóng gió đó đến với chàng, và tự chàng tìm đến đây để nghinh đón sóng gió, chứ người dân tại đây nào có liên hệ gì?

Đối với bất kỳ ai, khung cảnh nầy phải là thanh tịnh, trừ ra đối với chàng và Hỏa Ma Thần.

Nhưng rồi chàng cũng thấy ngọn đèn đỏ.

Ngưu Thiết Oa vụt kêu lên:

- Đèn đỏ! Đèn đỏ kia rồi đại ca!

Phương Bửu Ngọc cười khổ:

- Ta chẳng hiểu tại sao Hỏa Ma Thần lại chọn nơi nầy ước hẹn với ta! Một nơi nhàn cư, lạc nghiệp, ai nỡ nhẫn tâm phá hoại chứ! Phản cái an tường của dân chúng là tự mình chuốc lấy bất tường đó! Sau cơn sóng gió, ai sẽ bù cái xáo trộn cho họ vậy?...

Tiểu công chúa từ từ thốt:

- Cuộc sống êm đềm quá, thì còn gì là thú vị? Cảnh êm đềm là cảnh chết, người dân ở đây phải trải qua cơn kích thích hải hùng, có như vậy họ mới nghỉ đến tiến thủ, chứ nếu không thì suốt đời họ buông trôi tâm hồn theo vô vị mà mỗi chiều hôm, mây từ xa đến, cuốn về nơi xa xa để cuối cùng họ xuôi tay về với cát bụi! Họ là những kẻ thừa trên thế gian, họ phải trả chỗ đứng lại cho những người thiếu chỗ đứng!

Phương Bửu Ngọc thở dài.

Chàng không đáp! Đáp làm chi với nàng, khi nàng phát nguyện làm cho chàng luôn bực dọc, nàng nhất định ám chàng cho đến phút cuối của cuộc đời?...

Dĩ nhiên chàng đi về hướng ngọn đèn đỏ.

Ngọn đèn đỏ treo trước một khu nhà gồm mấy ngôi nhà cỏ, chung quanh có dậu trúc bao bọc.

Nhà không cài cửa, cửa khép hờ, từ xa cũng có thể thấy khe hở.

Một con chó vằn vện trắng đen nằm bên trong cánh cổng rào nghe động sủa lên.

Chó sủa mặc chó, mấy con gà vàng cứ mổ thóc trong sân, cạnh thềm nhà, đều đều.

Khói chiều còn vờn quanh trên mái. Phảng phất trong không gian mùi cơm chín thoảng lên thơm phức.

Nếu không có ngọn đèn đỏ, thì chắc chắn không khi nào Phương Bửu Ngọc tin tưởng là Hỏa Ma Thần lại chọn ngôi nhà nầy hội diện với chàng.

Chàng bước chân rất nhẹ, chừng như sợ gây nên tiếng động, phá tan cái yên tịnh quá thiêng liêng nầy.

Và chàng quyết tâm, bằng mọi cách, tránh cho khung cảnh thanh nhả nơi đây phải nhuộm máu hồng.

oo Họ đến nhà.

Con chó ngưng sủa nhưng còn gâu gâu mấy tiếng, nhìn người lạ.

Phương Bửu Ngọc khẽ dặng hắng một tiếng, cất cao giọng hỏi:

- Trong nhà có ai chăng?

Gió thổi qua, gió luồn đến cửa, gió rít qua khe trúc, nghe vu vu.

Phương Bửu Ngọc lại hỏi một lượt nữa.

Bên trong nhà chẳng có ai hồi đáp.

Ngưu Thiết Oa trầm giọng:

- Hay chẳng phải nơi nầy?

Phương Bửu Ngọc cũng hoài nghi, lẩm nhẩm:

- Tấu xảo chăng? Ngọn đèn đỏ nầy, vô ý trung mà có, chứ chẳng phải do Hỏa Ma Thần nêu lên?

Tiểu công chúa lắc đầu:

- Làm gì có sự tấu xảo như thế được?

Nàng xô cửa, ngang nhiên bước vào nhà.

Ngôi nhà đó gồm ba gian, gian có cửa, gian giữa là một khách sảnh, nơi đó có một cái bụt thờ, và thần tượng là Quan Âm Đại Sĩ, và một bức tượng Quan Thánh Đế Quân.

Trước bụt thờ, có bàn Bát Tiên, trên bàn có ba bộ chén đũa, có một chiếc giỏ, trong giỏ mường tượng có mấy cái thố, dĩa, bình trà.

Bên tả, có một cái cửa ăn thông qua ngọa phòng, trong đó có một chiếc giường gỗ, xem chừng nặng lắm, trên giường có mấy chiếc chăn, mấy cái gối.

Mùi cơm nóng xông ra phưng phức, từ cửa hậu đưa tới.

Củi cháy từ nơi bếp vang lên lách tách, nghe rõ ràng.

Gian khách sảnh ấm áp vô cùng.

Nhìn cách bày trí trong nhà, vật dụng tất cả đều thích hợp với nếp sống một nông phu, dù khó tánh đến đâu cũng không ai tìm được một đặc điểm gì để có thể nghi ngờ đây là một ngôi nhà ngụy trang cả.

Nhà không có người.

Họ đi qua một vọng cửa, họ sang tả, qua hữu, vào tận sau bếp họ chẳng thấy một bóng người.

Đến bây giờ, tiểu công chúa mới lộ vẻ kinh dị.

Phần Phương Bửu Ngọc thì tự hỏi chẳng rõ Hỏa Ma Thần muốn giở một trò chi nữa đây.

Tiểu công chúa cứ đi vòng quanh nhà, từ trước ra sau, từ tả sang hữu, đi như thế đến mấy lượt, vừa đi vừa lẩm nhẩm:

- Không lý họ chưa đến?

Ngưu Thiết Oa không để ý đến vật gì ngoài cái giỏ có đựng mấy cái thố, dĩa, giỏ để bên trong chiếc lồng bàn to lớn.

Gã lại còn hểnh mũi hít hít mùi cơm thơm phức, mắt gã chớp liền liền.

Nếu có ai đứng gần gã, hẳn nghe trong ruột gã có tiếng rột rột , như con ma đói đang gào trong đó.

Sau cùng không dằn được cái nhột nhạt nơi dạ dày, gã đưa tay giở chiếc lồng bàn lên.

Bỗng, gã rú lên một tiếng kinh khủng, rồi lùi nhanh hai bước.

Gã ngã xuống nền nhà, mang luôn chiếc lồng bàn trong tay.

Phương Bửu Ngọc giật mình, hỏi gấp:

- Cái gì thế?

Ngưu Thiết Oa lí nhí:

- Đại ca xem... đại ca xem... ai... ai...

Trong chiếc giỏ, có một cái thố, cũng đựng thức ăn nấu bằng lưỡi chim anh vủ màu đỏ hiện ra trước mắt, hòa lẫn với màu trắng màu vàng của vài vật gia vị.

Phương Bửu Ngọc nhìn thoáng sang Tiểu công chúa, thốt:

- Họ đã đến đây rồi!

Tiểu công chúa điềm nhiên:

- Họ đã đến, là họ còn ở quanh đây, chưa đi đâu xa!

Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một chút:

- Lửa còn cháy, cơm chưa dọn lên, điều đó chứng tỏ họ chưa đi đâu xa, nhưng họ đi như thế, là có vẻ vội vàng.

Chàng lẩm nhẩm tiếp:

- Tại sao họ bỏ đi? Họ còn đi đâu nửa?

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Ngươi không đoán ra được, thì ngồi đây mà chờ, chờ họ đến mà hỏi, chứ lí nhí cái gì?

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Chừng nào họ mới trở lại? Biết họ có thể trở lại hay không?

Tiểu công chúa bĩu môi, nhìn chiếc giỏ, rồi hỏi:

- Tại sao lại không trở lại? Dĩ nhiên họ phải trở lại, bởi họ chưa gặp ngươi kia mà!

Nàng chép miệng:

- Trông thấy cái giỏ nầy, ta nghe đói liền. Chúng ta cứ ăn, ăn no rồi hãy tính.

Ngưu Thiết Oa vỗ tay cười lớn:

- Phải! Ẩm thực vi tiên! No bụng rồi, hãy nghĩ đến chuyện dùng óc.

Cái chủ ý đó, đáng ngợi lắm lắm!

oo Họ ăn xong, là đêm xuống hoàn toàn.

Đêm thu nào cũng lạnh, và đêm thu nào cũng sáng, không trăng thì có sao, huống chi có trăng?

Sao và trăng, sang mùa thu, chừng như hợp mùa, nên nhả sáng rất dồi dào.

Phương Bửu Ngọc lấy một chiếc ghế, đặt dựa cửa, ngồi xuống đó.

Chàng nhìn trời, chàng nhìn cây, tâm tư dao động mạnh.

Chàng suy nghĩ, nghĩ về dĩ vãng, nghĩ việc hiện tại, nghĩ đến tương lai, đến viễn ảnh cuộc chạm trán với người áo trắng lúc sang xuân.

Càng nghĩ, chàng càng thấy tâm trí rối loạn vô cùng.

Tiểu công chúa ngồi gần bụt thờ, tay chỏi má, mắt đăm đăm nhìn bức tượng Quan Âm xuất thần.

Ngưu Thiết Oa đang cho con chó ăn.

Gió thu thổi rì rào. Sao thu chơm chớp trên nền trời, ánh sao sáng xuyên qua cành lá, rải châu ngọc khắp nơi, không gian có lạnh song cái lạnh dìu dịu, mơn man êm đềm.

Phương Bửu Ngọc nhìn trời, nhìn cảnh, rồi nhìn tiểu công chúa, nhìn ngôi nhà trang trí nhả khiết...

Chàng có cảm nghĩ là mình được ưu đãi nhất đời, bởi bên mình có bạn hiền trung hậu, có người vợ đẹp, ngoan, tất cả đều lồng trong một khung cảnh thanh khiết...

Nhưng, cảm nghĩ bao giờ cũng là ảo tưởng, mà ảo tưởng thì rất khó thành sự thật, dù hiện tại có giao niềm tin cho chàng, song với thời gian, bao nhiêu nước chảy qua cầu?...

Bỗng, tiếng chó sủa vang, kéo chàng về thực cảnh.

Ngưu Thiết Oa tặc lưỡi:

- Tiểu cẩu, còn miếng thịt trâu nầy, ngươi không ăn thì phí quá, ngươi không ăn, ta sẽ ăn!

Con chó lại sủa vang lên.

Tiểu công chúa day lại, cau mày:

- Những người đó chẳng lẽ chết hết rồi? Tại sao mãi đến bây giờ cũng chưa trở lại? Chúng ta đợi đã quá lâu rồi đó!

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Phải, lâu lắm rồi! Có lẽ đã được ba khắc thời gian rồi đó!

Tiểu công chúa lại hỏi:

- Giả như chúng ta đợi thêm ba khắc nữa, họ vẫn không trở lại thì phải làm sao?

Phương Bửu Ngọc trầm giọng:

- Câu đó, cô nương nên tự hỏi lấy mình thì phải hơn!

Tiểu công chúa dậm chân:

- Khốn nạn!

Nàng mắng ai? Mắng chàng hay mắng mấy người nào đó, bảo họ đến đây, rồi bỏ họ bơ vơ?

Nàng càu nhàu:

- Đi đâu chứ? Đi đâu mà đến bây giờ không trở lại?

Ngưu Thiết Oa cứ đùa với con chó:

- Tiểu cẩu! Ngươi không ăn thịt trâu, không ăn cơm, ngươi lại ăn chéo áo rách của ta, sao ngươi ngốc thế?...

Gã cười tít toát, gã mắng, gã để mặc con chó cắn chéo áo cứ như thế, gã đi vào nhà.

Tiểu công chúa lẩm nhẩm:

- Người ta đang nóng nẩy, bồn chồn, ngốc tử cứ đùa với chó mải, còn gì đáng bực hơn?

Phương Bửu Ngọc không lưu ý đến nàng, từ từ đứng lên, đi tới đi lui mấy bước, rồi trầm giọng buông thõng:

- Chỉ sợ có biến cố!

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Biến cố gì? Trừ ngươi và ta ra, còn ai biết được trong ngôi nhà tầm thường nầy, có cuộc ước hẹn quan trọng? Có thể những người đó...

Bỗng, Ngưu Thiết Oa kêu lên kinh hải:

- Người chết! Người chết! Có người chết tại đây này!

Phương Bửu Ngọc và Tiểu công chúa giật mình chạy bay vào.

Con chó khom mình tại chân giường, sủa vang.

Ngưu Thiết Oa đứng trước chiếc giường, trơ như tượng đá.

Tiểu công chúa hét:

- Quỷ hớp hồn ngươi rồi phải không, làm gì la oái lên như thế?

Ngưu Thiết Oa rung rung giọng:

- Dưới giường... dưới giường...

Gã vụt đưa tay nâng bổng chiếc giường lên.

Dưới giường có hai xác chết, nằm song song cạnh nhau.

Thoạt đầu, Phương Bửu Ngọc đinh ninh hai xác chết đó là người trong trong ngôi nhà nầy, bọn thuộc hạ của Hỏa Ma Thần giết đi để chiếm ngôi nhà, mà cũng để giữ kín cuộc ước hẹn.

Nhưng, chàng nhìn kỷ lại nhận ra hai người đó, mặc y phục đen, mày rậm miệng rộng.

Cả hai chết đã lâu, song vẻ sợ hãi còn lồ lộ trên gương mặt.

Người ăn vận như vậy, nào phải là nông phu tầm thường? Hiển nhiên họ là thuộc hạ của Hỏa Ma Thần.

Tay chân xác chết đã lạnh, thân mình không một vết thương, lại không một vết máu.

Nhìn qua, chẳng ai biết được họ bị nội lực chấn động gây cái chết hay trúng độc.

Phương Bửu Ngọc cúi mình xuống, phát giác ra nơi ngực của mỗi người, ngay chỗ tim có một hòn đá to bằng quả trứng, hòn đá che khuất vết thương!

Phương Bửu Ngọc đoán là cả hai bị kiếm xuyên thủng ngực, mỗi người chỉ bị một nhát kiếm thôi, máu chưa kịp chảy ra, hung thủ đã lấy đá nhét vào vết thương ngăn chận.

Phương Bửu Ngọc kinh hải:

- Kiếm pháp quá nhanh, quá độc!

Tiểu công chúa hỏi:

- Tại sao kẻ kia lại biết được nơi nầy mà tìm đến hạ thủ chứ?

Rồi nàng tiếp:

- Sự việc hết sức cẩn mật, mà vẩn có người biết được, kỳ quái vô cùng!

Phương Bửu Ngọc trầm giọng:

- Có thể ai đó tiết lộ bí mật?

Tiểu công chúa lạnh lùng:

- Người trong Ngũ Hành Ma Cung, chết là đành chịu chứ chẳng hề tiết lộ một tin tức nào ra ngoài! Hà huống, nếu hai gã nầy muốn tiết lộ, cũng chẳng làm sao biết được trong phong thơ Hỏa Ma Thần viết gì?

Phương Bửu Ngọc biết rỏ Hỏa Ma Thần hành sự rất cẩn mật, nên tin ngay là tiểu công chúa nói đúng.

Tiểu công chúa vụt hỏi:

- Phong thơ đó, hiện giờ ở đâu?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Tại hạ giữ trong mình đây! Đọc xong rồi, tại hạ cất kỹ, sợ có kẻ dòm ngó.

Tiểu công chúa lại hỏi:

- Thơ viết gì, ngươi có tiết lộ điều đó với ai chăng?

Phương Bửu Ngọc cười khổ:

- Cô nương tưởng tại hạ có thể làm được việc đó à?

Tiểu công chúa dậm chân:

- Như vậy chỉ có trời mới hiểu!

Ngưu Thiết Oa cúi đầu từ lâu, lúc đó chịu không nổi nữa, lên tiếng liền:

- Những lời thơ trên, chính tôi đã nói cho một người nghe!

Tiểu công chúa biến sắc:

- Ngươi? Ngươi nói cho một người nghe? Người nào?

Ngưu Thiết Oa đáp:

- Tôi nào biết người đó là ai? Tôi...

Gã ấp úng thuật lại sự tình.

Tiểu công chúa vò đầu bức tóc, giương mắt nhìn trừng trừng Ngưu Thiết Oa, lâu lắm nàng mới thở dài:

- Thông minh quá! Thật là thông minh!

Ngưu Thiết Oa đinh ninh là nàng sẽ mắng gã như tát nước vào mặt, nhưng nàng chỉ buông mắt một câu như vậy thôi làm gã sững sờ.

Gã lại ấp úng hỏi:

- Sao... cô nương... không mắng?

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Tại sao ta phải mắng ngươi?

Ngưu Thiết Oa đáp:

- Tại vì tôi làm lỗi!

Tiểu công chúa cười nhạt:

- Ta mắng một người nào, là người đó xứng đáng cho ta mắng, chứ như ngươi thì...

Nàng lắc đầu, nhìn ra xa xa...

Nàng không nói tiếp, nàng nín lặng, nhưng cái nín lặng của nàng còn nặng, còn khó chịu hơn một lời mắng.

Nhưng, Ngưu Thiết Oa đâu phải là con người sống về tâm lý, gã làm sao hiểu được cái lối mắng người mà chẳng cần dùng ngôn ngữ? Gã làm sao thấm được cái lối mắng câm?

Gã hỏi:

- Cô nương không mắng à? Phải mắng chứ, nếu cô nương không mắng thì tôi xốn xang lắm đó! Mắng đi! Phải mắng tôi vài câu, tôi mới yên tâm, cô nương ạ!

Tuy giận tràn lòng, tiểu công chúa cũng phải bật cười:

- Ngu như trâu!...

Phương Bửu Ngọc ngưng trọng thần sắc, từ lúc đầu, cau mày suy tư, bây giờ trầm giọng nói:

- Người đó tinh thông thủ pháp phân cân dịch cốt, kiếm pháp lại lợi hại phi thường, lại biết rõ sự tình giữa tại hạ và Ngưu Thiết Oa, người đó là ai chứ?

Chàng hỏi, vì cái ý phải được nêu ra bằng một câu hỏi, chứ thực sự chàng có hỏi nơi ai, nếu không là chàng hỏi chính tâm tư chàng?

Chỉ có tâm tư chàng mới đáp được câu hỏi đó!

Hồi 41

Đông Doanh Nhất Đao

Tiểu Công Chúa không nói một tiếng nào.

Phương Bửu Ngọc dừng lại một chút, rồi từ từ tiếp:

- Người nào đó, hành động như vậy, là không ngoài mục đích ngăn chặn mọi liên lạc của tai hạ với Hỏa Ma Thần, hạ thủ rồi, y vẫn để nguyên can trạng tại chỗ, cốt khiến cho tại hạ không nghi ngờ. Nhưng, chúng ta đến đây, chừng như sớm hơn sự dự tính của y, nên y không đủ thì giờ di chuyển hai thi thể đó. Rồi cũng...

Tiểu Công Chúa chận lời:

- Y làm như vậy, với mục đích gì chứ?

Phương Bửu Ngọc trầm giọng:

- Y đến đây trước, sát hại hai người kia, chắc là để đoạt một phong thơ mà y tin là họ có mang trong mình, để hiểu sự tình, để hạ thủ ở chặng đường kế tiếp...

Tiểu Công Chúa cười lạnh:

- Còn gì nữa? Ngươi từng là thần đồng mà!

Phương Bửu Ngọc điềm nhiên:

- Y không có ác ý đối với tại hạ, cho nên chẳng chịu chường mặt tiếp xúc với tại hạ, điều này chứng tỏ rõ rệt là y muốn trở ngăn tại hạ làm việc cho Hỏa Ma Thần.

Bỗng, chàng ngẩng đầu lên hỏi:

- Đúng vậy chăng?

Tiểu Công Chúa mắt sáng mắt lên:

- Ngươi giảng giải dài dòng, bây giờ ta mới hiểu rõ cái ý của ngươi.

Nhưng tại sao người nào đó muốn ngăn trở? Hắn phải có một duyên cớ gì chứ.

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Đương nhiên rồi. Theo tại hạ chỉ có hai nguyên nhân. Người này có thù với Hỏa Ma Thần, và không muốn bất cứ ai trên thế gian nầy hiệp tác với Hỏa Ma Thần.

Tiểu Công Chúa gật đầu:

- Nguyên nhân thứ hai?

Phương Bửu Ngọc trầm giọng:

- Người đó không muốn tại hạ tiêu hao tâm lực, để có thể nghinh chiến với Bạch Y kiếm khách trong tương lai.

Chàng dừng lại một chút, rồi từ từ thốt:

- Căn cứ vào nguyên nhân thứ hai, tại hạ có thể ước đoán được phần nào về con người đó...

Tiểu Công Chúa giương mắt tròn đôi mắt:

- Ngươi đoán là ai?

Phương Bửu Ngọc lắc đầu, cười nhẹ không đáp.

Nụ cười của chàng hàm chứa một thâm ý, nhìn nụ cười đó, Tiểu Công Chúa hết sức kỳ quái.

Song đã biết là Phương Bửu Ngọc chẳng muốn nói, thì nàng có hỏi cũng bằng thừa.

Không hỏi, tự nhiên nàng tức, nàng không chịu kém, cũng làm nư lại, không nói gì nữa mà cũng không nhìn chàng.

Ngưu Thiết Oa đảo mắt, đôi tròng của gã xoay tròn tròn, một lúc lâu vụt cao giọng thốt:

- Tôi chẳng cần biết người đó là ai, tôi chẳng cần biết y làm gì, và làm gì, với mục đích gì, tôi chỉ muốn hỏi đại ca một điều thôi.

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Ngươi muốn hỏi điều gì?

Ngưu Thiết Oa buông gấp :

- Chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta sẽ đi đâu đây?

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Chưa làm gì, chưa đi đến đâu! Chúng ta đợi.

Ngưu Thiết Oa kêu lên:

- Đợi? Đợi đến bao giờ?

Phương Bửu Ngọc cười nhẹ:

- Gấp là chi? Gấp, là việc của người khác, nào phải là việc của mình? Người ta đang cầu mình, chứ mình có cầu ai đâu. Đến Bạch Thủy Cung, hay không đến chẳng quan hệ gì đến chúng ta cả!

Chàng đáp thay lời Ngưu Thiết Oa, nhưng ánh mắt lại hướng về Tiểu Công Chúa.

Tiểu Công Chúa hoàn toàn không nhìn chàng, song hỏi:

- Ngươi nhìn ta làm gì? Nhìn cũng chẳng ích chi!

Phương Bửu Ngọc tặc lưỡi:

- Quái thật! Cô nương không nhìn tại hạ, lại biết tại hạ nhìn cô nương!

Tiểu Công Chúa trầm ngâm một lúc lâu, rồi quay đầu lại, hằn học:

- Phải, ta có nhìn ngươi! Và giờ đây ta cũng nhìn ngươi! Ta cố ý lờ đi, chứ thực sự thì ta nhìn ngươi. Một mỹ nam tử, ai không muốn nhìn?

Phương Bửu Ngọc già thủ đoạn hơn:

- Cô nương quá khen! Đa tạ! Đa tạ!

Tiểu Công Chúa rít lên:

- Đừng đắc ý! Đừng gấp! Giả như ngươi cho rằng hiện tại ta biết phải làm gì, thì ngươi lầm! Cho ngươi rõ, hiện ta cũng chẳng biết phải làm gì, phải đi về đâu!

Phương Bửu Ngọc cao giọng:

- Cô nương không biết, thật vậy?

Tiểu Công Chúa hừ một tiếng:

- Ngũ Hành Ma Cung thực sự Ở đâu? Đó là trọng địa đối với khách giang hồ. Biết chỗ Ngũ Hành Ma Cung, kể ra hàng nghìn người. Song đến được Ngũ Hành Ma Cung phỏng được mấy có mấy người?

Phương Bửu Ngọc thở ra:

- Chỉ sợ chưa có đến một người!

Tiểu Công Chúa tiếp:

- Hỏa Ma Thần không chỉ rõ lộ đồ cho chúng ta, chẳng phải lão có dàn cảnh sự tình cho ra vẻ huyền bí, mà cũng chẳng phải lão tự gây phiền lụy cho lão. Chỉ vì, lão sợ rằng ngươi biết được điều đó rồi ngươi sẽ chẳng giữ trọn vẹn bí mật, mà Ngũ Hành Ma Cung thì chẳng thích ai biết đến hành tung!

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Có lý!

Tiểu Công Chúa lại tiếp:

- Địa điểm Ngũ Hành Ma Cung bí mật, nhưng việc ngươi đến Ngũ Hành Ma Cung lại không bí mật. Khách giang hồ đoán định là Hỏa Ma Thần sẽ chỉ dẫn lộ đồ cho ngươi, do đó, kẻ kia dùng đủ mọi thủ đoạn, bắt những người mang tin đến cho ngươi, để bắt các người ấy cung khai địa điểm Ma cung Ngũ Hành. Còn như cái việc ngăn trở ngươi đến đó, thì ta không tưởng kẻ kia quá chú trọng.

Phương Bửu Ngọc lắc đầu:

- Cô nương có nhận xét của cô nương, tại hạ có sở kiến của tại hạ.

Dù sao thì tại hạ cũng nghĩ rằng người ấy có ý định ngăn trở tại hạ.

Tiểu Công Chúa cau mày:

- Tại sao người ấy muốn ngăn trở ngươi?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Giả sử người đó có muốn biết Ngũ Hành Ma Cung ở tại chỗ nào, thì cứ theo dõi chúng ta, hà tất phải xuất lực hạ thủ ở mỗi trạm dừng?

Hà tất phải đi trước chúng ta?

Tiểu Công Chúa trầm ngâm một lúc:

- Ngươi có lý!

Ngưu Thiết Oa vụt kêu lên:

- Kỳ quái! Kỳ quái!

Tiểu Công Chúa day qua gã:

- Cái gì nữa đó, ngốc tử?

Ngưu Thiết Oa thốt:

- Đại ca và cô nương cứ nói mãi về Ngũ Hành Ma Cung, làm như nơi đó là thiên đàng, ai ai cũng muốn tới! Tôi tự hỏi, nơi đó có gì hấp dẫn khiến thiên hạ thích đến chứ?

Tiểu Công Chúa mỉm cười:

- Nơi đó chẳng có gì hấp dẫn cả, chẳng những từ xưa đến nay, không có ai tới được, mà dù có tới được nơi đó rồi cũng không thể sống sót mà trở về. Vậy mà vẫn có người muốn tới đó, Thiết Oa ạ!

Ngưu Thiết Oa trố mắt:

- Cô nương biết tại sao chứ?

Tiểu Công Chúa không đáp, Phương Bửu Ngọc cất tiếng:

- Trong Ngũ Hành Ma Cung có Thanh Mộc chủ nhân, ngày trước là một vị minh chủ võ lâm, tóm thâu quá nhiều tài vật, nếu kê khai số bạc vàng châu báu của lão ấy, người đời chỉ nghe thôi cũng đủ xanh mặt rồi, chẳng đợi gì phải nhìn thấy mà choá cả mắt đến mù luôn.

Tiểu Công Chúa gật đầu:

- Đúng vậy! Người, vì tiền mà chết, chim vì mồi mà chết, ai ai cũng biết như vậy, song trên đời chẳng ai dè được lòng. Nhưng, ngoài Thanh Mộc chủ nhân ra, ngươi còn biết chi nữa chăng?

Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một lúc:

- Theo lời truyền thuyết trên giang hồ, thì dưới tay Kim Hà Vương có bọn Huỳnh Kim ma nữ, chúng tuổi trẻ, đẹp người vóc dáng yểu điệu, lại có cái thuật dụ dẫn ai tiếp cận với chúng...

Chàng không thể dứt câu tròn ý, bởi đoạn cuối của câu khó nói thành lời, bởi nó thô tục nó ti bỉ vô cùng, bởi sự thật là nếu ai giao tiếp với bọn Huỳnh Kim Ma Nữ, sướng thì sướng hơn tiên, mà rồi cái khổ theo liền, khổ còn hơn sa địa ngục.

Chàng không nói, Tiểu Công Chúa cũng thừa hiểu, nàng đỏ bừng mặt, xì một tiếng lớn:

- Ngươi chưa tròn một tuổi giang hồ mà đã hiểu quá nhiều sự việc, nghe nhiều quá truyền thuyết! Thì ra ngươi...

Nàng lại hừ một tiếng, đoạn tiếp:

- Cho ngươi biết, những điều ngươi tiêm nhiễm trong đầu óc thuộc loại dơ dáy, thì ra ngươi chẳng phải là một kẻ tốt chi đó...

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Thiên hạ nói làm sao, tại hạ thuật lại làm vậy, cô nương đã hỏi, tại hạ phải nói...

Tiểu Công Chúa lại hừ thêm tiếng nữa:

- Tốt! Tốt! Ta cũng cho là ngươi có lý, lỗi là tại khách giang hồ truyền thuyết cái dơ dáy cho nhau nghe, vô hình trung, ngươi lại nghe!

Ta hỏi ngươi, ngươi còn biết điều chi nữa chăng, nếu còn thì cứ nói luôn, đừng ấm ớ!

Phương Bửu Ngọc điềm nhiên:

- Tiền tài, sắc dục, hai điều đó còn chưa đủ sao?

Tiểu Công Chúa bĩu môi:

- Việc gì, ngươi cũng biết, biết hết, thế tại sao ngươi chẳng biết tiền tài, sắc dục, tuy có sức hấp dẫn, song chỉ hấp dẫn bọn hạ đẳng cùng lưu, bọn phi nhân phi nghĩa, bọn vong bổn vong tông, bọn lòng thú hình người? Phàm những ai từng nói đạo đức, từng học cao minh, thì khi nào lại xem mấy lượng bạc, một vài ánh mắt, một vài nụ cười có giá trị ngang một lương tâm đâu? Con người ta, nào phải tất cả đều là chó, mà thấy thịt quăng liền nhào tới, táp liên hồi?

Nàng nhấn mạnh thêm:

- Nữ sắc, chung quy rồi ra sao? Bất quá, con người đẹp đến đâu hấp dẫn đến đâu, lúc sống thì được thiên hạ nâng niu, chuyền tay như châu báu. Khi chết rồi, thịt rữa, xương thối, ai ai cũng bịt mũi mà qua, ai ai cũng nhăn mày mà ngoảnh mặt, thì nữ sắc có phải là quý, vĩnh viễn quý đâu?

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Không vì tiền tài, không vì sắc dục, thế hạng người cao minh như cô nương vừa nói đó quý, muốn gì?

Tiểu Công Chúa trầm giọng:

- Không lẽ ngươi chẳng nghe giang hồ truyền thuyết chủ nhân Mậu Thổ Cung là một kẻ phong nhã, thu nhặt tất cả những bức họa từ nghìn xưa, tích trữ trong cung, ngoài ra không tiếc tiền mua tất cả những đồ vật xưa, kể ra, những đồ vật và những bức danh họa đó, có giá trị ngang với cơ nghiệp một quốc vương. Lại còn Hỏa Ma Thần chế luyện những hỏa khí vô song, bất cứ một vị vương đế nào muốn có đầy đủ phương tiện để giữ vững giang san, cũng tha thiết mong chiếm được những hỏa khí đó. Người ta ham thích, người ta muốn đến tận Ngũ Hành Ma Cung, chiếm đoạt những vật đó, hơn là tiền tài, hơn là nữ sắc, bởi nữ sắc, nơi nào cũng có, tiền tài lại dễ tìm ra, còn những vật kia thì cầm như hi hữu. Song người ta không biết đường đi đến Ngũ Hành Ma Cung, người ta cũng chẳng dám va chạm đến Hỏa Ma Thần.. Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Cô nương nói đúng! Những vật trong Mậu Thổ Cung rất quý, những hỏa khí của Hỏa Ma Thần còn quý hơn!

Tiểu Công Chúa tiếp:

- Nhưng, nhân vật chân chính cao thượng là không xem những thứ đó là quý, họ còn nhìn xa hơn!

Phương Bửu Ngọc trố mắt:

- Họ nhìn về cái chi khác nữa?

Tiểu Công Chúa đáp:

- Như ta nói rằng, họ nhìn về mẹ vợ ngươi, thì chắc ngươi sẽ hiểu họ nhìn vào cái gì.

Phương Bửu Ngọc kinh ngạc:

- Mẹ vợ tại hạ!

Chàng kêu lên:

- Tại hạ hiểu rồi!... Cô nương muốn nói đến Thủy...

Tiểu Công Chúa cười lạnh:

- Ngươi là trượng phu của Thủy Thiên Cơ, ngươi quên điều đó sao?

Phương Bửu Ngọc cười khổ:

- Tại hạ... việc đó...

Ngưu Thiết Oa vỗ tay reo vang:

- Phải! Phải! Cô nương không nói, cơ hồ tôi quên mất! Ngày đầu tiên gặp tôi, đại ca có nói chuyện đó cho tôi biết.

Phương Bửu Ngọc đưa mắt trừng nhìn gã, nhưng gã nào có thấy ánh mắt chàng, gã đang khom lưng cười...

Tiểu Công Chúa lạnh lùng:

- Xem ra ngươi cũng chưa quên, mà cũng chẳng bao giờ ngươi quên được Thủy Thiên Cơ đã là vợ của ngươi, đương nhiên Bạch Thủy Cung chủ nhân phải là mẹ vợ ngươi!

Phương Bửu Ngọc cười lạnh:

- Rồi làm sao?

Tiểu Công Chúa giận giữ giọng sành sỏi:

- Xem ra, ngươi cũng chẳng hiểu được bao nhiêu việc! Ngươi mù mờ đến cả mẹ vợ ngươi! Cho ngươi biết, mẹ vợ ngươi ngày trước là một nữ nhân đẹp nhất trong thiên hạ, trong võ lâm chẳng biết có đến bao nhiêu người từng quỳ mọp dưới gấu quần bà ta van xin một chút tình yêu, giả như bà ta bằng lòng cười với họ một tiếng là họ sẵn sàng lăn đùng ra chết tức khắc, chết vui, chết sướng!

Phương Bửu Ngọc điềm nhiên:

- Nhưng hiện tại thì...

Tiểu Công Chúa hừ nhẹ:

- Ngươi cho rằng, hiện tại bà ấy đã già thì chẳng còn hấp dẫn nữa?

Nàng không đợi chàng nghĩ gì, tiếp luôn:

- Ngươi lầm! Hiện tại, bà chẳng già tý nào. Đừng tưởng năm tháng qua dần, tuổi bà chồng chất mà bà già! Tuổi tác không liên quan gì đến sắc đẹp của bà ta cả, thời gian chẳng ảnh hưởng gì đến nhan sắc của bà ta cả! Bà vẫn còn hấp dẫn như thuở đang xuân, bà vẫn còn làm đắm say lòng bất cứ một nam nhân nào! Ngày nay, cũng như ngày trước, vẫn có vô số người bạo gan hơn, mong tưởng bà ta chiếu cố!

Phương Bửu Ngọc thở dài.

- Chàng không nói tiếng nào, bởi chàng biết nói gì đây?

Ngưu Thiết Oa vụt hỏi:

- Địa điểm Ngũ Hành Ma Cung thiên hạ không biết đã đành, đến cô nương mà cũng chẳng biết nữa sao?

Tiểu Công Chúa lắc đầu:

- Ta không biết!

Ngưu Thiết Oa lắc đầu:

- Tôi không tin! Rõ ràng là cô nương từ Ngũ Hành Ma Cung đi ra, có lý nào mình lại không biết là cái nơi mình đã ở?

Tiểu Công Chúa trầm ngâm một lúc rồi thở dài:

- Rèm châu ngàn lớp, che tầm mắt vào cũng như ra, chẳng khác mù!

Ngưu Thiết Oa kêu lên:

- Cô nương nói gì?

Tiểu Công Chúa tiếp.

- Ngồi trong xe tối, rong đường thẳng, lắng tiếng xe lăn, chẳng thấy gì!

Phương Bửu Ngọc giải thích:

- Nàng nói rằng, lúc rời cung nàng ngồi trong xe kín, xe chạy đi, nàng chẳng thấy đất trời, xe ngừng, nàng xuống, nào biết mình từ đâu đến, và nào biết mình đã đến địa phương nào?

Ngưu Thiết Oa à lên một tiếng:

- Thì ra, họ dè dặt đến cả cô nương.

Tiểu Công Chúa vụt ngẩng mặt lên:

- Tại sao họ chẳng tin tưởng ta? Tại sao họ dè dặt ta? Chẳng qua họ sợ ta đi đường mệt nhọc, nên dùng phương tiện chuyên chở đó, giúp ta được khoan khoái! Cỗ xe đó hạng người như ngươi ngàn đời chẳng được ngồi!

Nàng thừa nhận Ngưu Thiết Oa nói đúng, song chỉ thừa nhận ngầm, khi nào nàng xác nhận công khai?

Bởi nàng có cái tánh quật cường, chẳng bao giờ chịu ai chế ngự, dù có bị chế ngự cũng âm thầm chịu đựng nàng không thích ai nên lên sự kiện đó.

Nghe ai nêu lên, dù nêu đúng, nàng cũng bẻ lại như thường để chứng tỏ trong bất cứ tao ngộ nào, cũng do nàng chủ động sự tình, chẳng ai làm chi được nàng, nếu nàng không muốn.

Ngưu Thiết Oa cười lớn:

- Thôi đi cô nương ơi! Cô nương nói thế chứ trong tâm, cô nương cũng cho tôi nói đúng, cô nương cũng dư biết là họ chỉ xem cô nương như người ngoài, họ chẳng để cho cô nương biết tý gì về hành động của họ. Bây giờ, cô nương còn khoe tốt cho họ làm chi? Người ta giam lỏng cô nương trong xe, mà cô nương lại cho là ưu đãi à? Người ta bịt mắt cô nương, đưa đi mà cô nương cho rằng sợ cô nương mệt nhọc. Thôi đi cô nương ơi!

Gã thốt với cái vẻ ngây ngô, khờ khạo của gã, song lời nói của gã chua cay làm sao?

Công chúa là tượng trưng cái xảo. Ngưu Thiết Oa là tượng trưng cái chất phác, đối với chất phác, cái xảo trá trở thành vô hiệu.

Nhưng cái chất phác của gã đáng sợ Ở chỗ là khi chẳng cần nêu ý kiến thực sự, thì gã ngây ngô đáng buồn cười, khi cần bày tỏ một ý niệm, thì gã lập luận rất xác thực, sắc bén, cay chua.

Gã có biết là mình nói cay chua chăng?

Điều đó, có ai hiểu?

Nhưng người nghe lại ngột ngạt quá chừng.

Rồi Tiểu Công Chúa nhìn sững gã, tự hỏi gã thực sự ngu ngốc, khờ khạo, hay là gã giả vờ.

Ngưu Thiết Oa lại lẩm bẩm:

- Như vậy, chúng ta chỉ còn cách là ở lại đây mà chờ. Tuy nhiên điều cần biết là chúng ta phải chờ đến chừng nào? Cái gì cũng có giới hạn, bởi chúng ta chẳng phải chỉ có mỗi một việc chờ mà thôi!

Gã day qua Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Đại ca có biện pháp gì chăng?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Việc nầy...

Đột nhiên, có tiếng dặng hắng vang lên đâu đây, tiếng dặng hắng vừa nhỏ vừa ngắn nhỏ hơn cả tiếng con thạch sùng tặc lưỡi.

Nhưng, ai ai cũng nghe lọt dù họ đang nói chuyện với nhau.

Tiếng dặng hắng rất bình thường.

Nhưng chẳng rõ tại sao mọi người đều nghe như không bình thường chút nào.

Tiếng dặng hắng mường tượng bao hàm một cảnh báo, một khiêu khích...

Phương Bửu Ngọc ngưng ngay câu nói.

Tiểu Công Chúa đảo mắt nhìn quanh.

Ngưu Thiết Oa hét lên:

- Ai dặng hắng đó?

Bên ngoài cửa, có người hỏi vọng vào:

- Có Phương thiếu hiệp trong nhà này chăng?

Ngưu Thiết Oa reo lên:

- Đến rồi! Đến rồi! Chúng ta khỏi chờ nữa!

Gã vọt ra trước chẳng thấy gì.

Xa xa, dưới tàng cây có một bóng người.

Người đứng đó bất động như pho tượng, tàng cây rủ bóng che khuất y. Ngưu Thiết Oa trông thấy lờ mờ, không làm sao nhận diện được.

Nhưng chẳng rõ làm sao, quanh mình người đó sát khí tỏa lan rộng ra, sát khí càng phút càng bốc mạnh, lan dày, Ngưu Thiết Oa là con người đần độn cũng nhận ra điều đó.

Gã kinh khiếp cơ hồ hơi thở ngừng lại.

X Đêm, vẫn là đêm thu, nơi thôn dã khung cảnh tịnh mịch vô cùng.

Lá thu rơi, sao đêm chớp, lúc đó chừng như bị sát khí ngưng đọng, lá không rơi, sao không chớp nữa.

Dĩ nhiên, gió cũng dừng.

Sát khí tại chiến trường, tại cuộc đấu, sát khí nào lại chẳng nói lên sự giết người? Sát khí làm sao có sự khác biệt, ở nơi này so với nơi khác?

Bởi chung qui vẫn là sát khí.

Lạ lùng thay, trong giờ phút nầy, tại đây, sát khí lạ thường, tuy chẳng ai giải thích nổi cái điểm lạ thường đó.

Dù vậy, họ vẫn nhận thấy cái điểm khác thường. Chẳng qua khung cảnh tạo ra cảm giác, cảm giác sanh ảo tưởng và chính ảo tưởng của họ khác thường, nên họ có ý nghĩ là sát khí lạ thường.

Một con người xuất hiện, phát ra sát khí lạ thường, hắn con người đó không phải tầm thường vây!

Phương Bửu Ngọc trầm giọng nói:

- Các hạ là ai?

Từ người đó bỗng có hai điểm sáng chớp lên, hai điểm sáng đó là đôi mắt của y, trước khi Phương Bửu Ngọc hỏi y đôi mắt đó nhắm lại sau khi chàng nói, đôi mắt đó mới mở ra.

Y mở mắt ra rồi, y vẫn bất động, chẳng thốt một tiếng nào...

Con chó vàng nằm im từ lâu, lúc đó đứng lên, đuôi dựng lên, tai dựng lên, toàn thân thể nó như bứng một thứ nhựa mới.

Ánh mắt đó chớp, nó sủa vang lên, rồi nó vọt tới.

Phương Bửu Ngọc sợ cho nó quát:

- Chó! Dừng lại, chó!

Nhưng con chó làm gì biết nghe? Làm gì nó chịu dừng lại theo lời chàng?

Một làn sáng chớp lên, xẹt tới.

Con chó vàng không kịp kêu lên một tiếng nhỏ, thân hình nó bị tiện làm đôi.

Sát khí đã phát động rồi, sát khí đã kết tinh rồi, biến thành máu, bắt đầu bằng máu chó.

Máu nào cũng máu, máu nào chẳng tanh? Sự giết chóc đã khơi màu, bắt đầu trên xác một con chó.

Ngưu Thiết Oa sững sờ.

Gã muốn mắng một câu, mắng rằng con người đó tàn nhẫn quá, hiếu sát quá, đến một con chó cũng chẳng dung tha!

Song, lưỡi gã như cứng lại, lưỡi cứng thì làm sao phát ngôn được?

Từ trong bóng tối, người ẩn nấp đã thủ nơi tay một thanh đao dài.

Nói là đao, bởi vũ khí đó có hình thức là đao, hoặc giả người xử dụng nó thích gọi là đao, chứ nó giống một thanh trường kiếm. Bởi từ chuôi đến mũi nhọn, nó thẳng tắp, chẳng hề uốn cong tại một khoảng nào.

Nhưng nó là đao! Đao chỉ bén có một bề, chứ không bén cả lưỡi lẫn sống.

Phương Bửu Ngọc nhìn thanh đao, ánh mắt của chàng ngời lên địch ý. Cái ý đó nổi lên thành khí chống lại sát khí của đối phương.

Chàng nhìn một lúc lâu, buột miệng thốt:

- Đao tốt quá!

Người đó cũng thốt:

- Đao tốt quá!

Phương Bửu Ngọc tiếp:

- Đao của họ Bành, Ngũ hổ đoạn môn đao, có bản rộng, còn loại đao tại Sơn Tây, vùng Thái Hanh, thì thân ngắn, trừ hai lại đao đó, còn thì các loại đao khác đều có hình thức uốn cong cong.

Người đó gật đầu:

- Đúng vậy.

Phương Bửu Ngọc lại tiếp:

- Thanh đao này không có tại Trung Thổ!

Người đó gật đầu.

Phương Bửu Ngọc tiếp luôn:

- Đao này xuất phát từ Đông Doanh!

Người đó gật đầu:

- Đúng vậy!

Phương Bửu Ngọc vụt quát to:

- Bằng hữu là ai?

Người đó cười lên mấy tiếng, đoạn rời bóng tối, bước ra.

Dưới ánh sao, y hiện ra trong bộ y phục đen bó sát người, đầu vấn khăn đen, trùm cả mặt, chỉ còn chứa hai lỗ vừa đủ cho một đôi mắt nhìn, đôi mắt của y sáng lạ lùng, tuy đôi mắt chưa mở rộng như thường.

Phương Bửu Ngọc quát:

- Bằng hữu là ai?

Người đó bật chuỗi cười dài, cười một lúc, rồi thốt:

- Đã không là bạn mới, đã không là bạn cũ. Lại chẳng phải thù nhân, hỏi tên nhau làm làm gì? Có nói ra, các hạ cũng chắng hiểu!

Phương Bửu Ngọc trầm giọng:

- Các hạ đến đây, muốn chỉ giáo điều chi?

Người đó gằn lên từng tiếng mạnh:

- Người cố hữu đất Đông Doanh, nhờ tại hạ mang thanh đao nầy, đến đây tặng các hạ.

Phương Bửu Ngọc giật mình:

- Cố hữu đất Đông Doanh? Người áo trắng?

Người đó gật đầu:

- Đúng! Chính là y!

X Đêm xuống sâu, không gian, càng tịnh tịch, sát khí càng nặng đọng. Sát khí bốc mãi không ngừng, càng bốc càng nặng đọng.

Một loại sát khí phi phàm, không giống sát khí ở mọi cuộc đấu.

Sát khí bây giờ không còn bốc từ người áo đen nữa bởi y là sứ giả của Bạch Y kiếm khách.

Sát khí bốc từ nơi xa xăm, bay về đây cô đọng tại đây, bao bọc quanh mình Phương Bửu Ngọc, chiếm không gian do chàng mở, chiếm cục diện do chàng hoạt động.

Người áo đen, chẳng có gì khác thường, thanh đao cũng chẳng có gì khác thường, nhưng thanh đao đó, có mang theo một chiêu thức của người áo trắng, và cái chiêu đó, phải là một chiêu kinh người.

Và sát khí bốc từ thanh đao, sát khí phát động từ Đông Doanh, theo thanh đao vào Trung Nguyên, đến đây, để bốc lên bao trùm Phương Bửu Ngọc.

Một chiêu thức từ Đông Doanh, vượt trùng dương vào Trung Thổ hẳn phải là một chiêu độc nhất vô nhị, một chiêu nói lên cái giá trị của con người thắng hoặc bại.

Nhưng, Phương Bửu Ngọc bình tĩnh phi thường. Không sợ hai cái đó đã đành, chàng cũng chẳng tỏ ra hiếu kỳ bởi sự việc tầm thường quá, chừng như nằm trong sở liệu của chàng vậy.

Trong khi chàng nhìn thanh dao, thì Tiểu Công Chúa và Ngưu Thiết Oa nhìn chàng.

Tiểu Công Chúa nhìn chàng, gương mặt nàng biến đổi dần dần!

Trên gương mặt đó, chợt tan biến mất cái vẻ ngạo mạn, cái vẻ khinh người, mỉa mai và hiện tại thì niềm kinh sợ hiện ra, cùng với sự khâm phục.

Tuy nhiên, nàng cũng còn tật đố và vì tật đố nên nàng hận.

Hận vì bất cứ trên phương diện nào, nàng cũng cảm thấy là mình còn kém, kém xa chàng.

Chàng là người yêu của nàng, song nàng lại không thích người yêu hơn nàng về mọi mặt.

Càng không thích điều đó, nàng lại càng thấy chứng minh điều đó, chứng minh hằng ngày, rồi nàng bực nên hằn học, nên mỉa mai, tìm cách làm khổ chàng, chàng khó chịu thì nàng thích thú, chàng thản nhiên thì nàng ức.

Bây giờ đây nàng khâm phục Phương Bửu Ngọc có sự hiểu biết rộng, có thái độ trầm tịch như núi, song nàng ức lắm.

Phương Bửu Ngọc cười nhạt hỏi:

- Người áo trắng đất Đông Doanh nhờ các hạ mang thanh đao đến đây hẳn phải là một thanh đao quý, Phương Bửu Ngọc này đương nhiên phải bái lãnh. Có điều, do đâu người áo trắng lại biết được trên thế gian này, có một Phương Bửu Ngọc, tại hạ hết sức thắc mắc.

Người áo đen chỉnh một câu:

- Thanh đao nầy, không phải duy nhất tặng các hạ, độc một mình các hạ. Người áo trắng không nói rõ điều đó.

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Thế thì do mỹ ý của các hạ?

Người áo đen tiếp:

- Cái ý của người áo trắng như thế nầy, y trao cho tại hạ một thanh đao, bảo tại hạ mang vào Trung Thổ, tặng vị đệ nhất cao thủ trong võ lâm, chứ chẳng phải là tặng chính danh Phương Bửu Ngọc. Tại hạ vào Trung Nguyên từ lâu và mang thanh đao đi khắp sông hồ, tìm đủ mặt cao thủ, buồn làm sao tại hạ chẳng thấy ai xứng đáng tiếp nhận nó cả.

Nói là tiếp nhận thanh đao, chứ thực ra phải tiếp nhận một chiêu đao, tiếp được chiêu rồi mới làm chủ được đao. Do đó, thanh đao đến giờ phút này, còn nơi tay tại hạ, và tại hạ đang tìm các hạ.

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Như vậy là trên giang hồ, chưa có một nhân vật nào tiếp nổi chiêu đao kỳ diệu?

Người áo đen trầm giọng:

- Người trên giang hồ Trung Thổ không thể tiếp một chiêu đao đó, cũng chẳng lạ gì, bởi dưới gầm trời nầy, trong bốn phương thế giới, biết được chiêu đao đó, chỉ có hai người! Hai người thôi chẳng thể có người thứ ba được!

Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Chiêu đó, do người áo trắng chế ra!

Người áo đen gật đầu:

- Đúng vậy!

Phương Bửu Ngọc bỗng chỉnh nghiêm thần sắc, nghiênh mình chào.

Người áo đen cười lạnh:

- Tại sao bỗng nhiên các hạ lại thủ lễ? Hay là các hạ muốn bảo tại hạ mang thanh đao trở về Đông Doanh?

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Các hạ vượt vạn dặm trùng dương vào tận Trung Nguyên, lẽ nào tại hạ muốn các hạ phí công mà trở về? Tại hạ làm lễ như vậy là tỏ cái ý kính các hạ, bởi các hạ là bậc cái thế anh hùng.

Chàng dừng lại một chút đoạn tiếp luôn:

- Người áo trắng trao cái chiêu thần bí cho các hạ, như vậy là các hạ được sự tín nhiệm trọn vẹn của y. Các hạ được y xem trọng, Bửu Ngọc này nào dám xem thường các hạ?

Người áo đen điềm nhiên:

- Hay! Phấn tốt dành tặng giai nhân, kiếm báu dành tặng tráng sĩ, nếu thanh đao này có về tay các hạ, thì cũng xứng người xứng vật lắm đó! Và chuyến đi của tại hạ không đến nỗi quá vô công.

Phương Bửu Ngọc nghiêng mình:

- Chẳng dám nhận sự quá khen của các hạ!

Người áo đen tiếp:

- Tại hạ kính các hạ là bậc tráng sĩ, nên có mấy lời, muốn bày tỏ cùng các hạ.

Phương Bửu Ngọc ngưng đọng thần sắc:

- Xin lắng tai nghe lời vàng ngọc.

Người áo đen trầm ngâm một chút:

- Thanh đao này, bén vô cùng, song chẳng phải là một vật hoàn toàn, mà chiêu đao do tại hạ mang đến đây, cũng chẳng phải là không sơ hở, cho nên các hạ đừng tưởng nó là mảnh da trời, liên lạc khắp mọi nơi. Nó có một nhược điểm rất dễ phá...

Phương Bửu Ngọc ạ lên một tiếng:

- Như vậy...

Người áo đen lạnh lùng chận lời:

- Nhưng các hạ đừng vội cao hứng, cái chỗ hở của chiêu đao rất nhỏ mà chiêu đao thì quá nhanh, gấp quá, đao chớp lên là chiêu phát hiện dù cho bậc tuyệt học kỳ tài, cũng chẳng làm sao nhận ra chỗ sơ hở duy nhất có được.

Bỗng Ngưu Thiết Oa cao giọng hỏi:

- Tại sao các hạ biết là đại ca tôi không thể?

Người áo đen lờ đi, như chẳng nghe gì, cứ tiếp luôn theo ý của y:

- Còn một điều này nữa, là chiêu đó xuất phát, chắc chắn là có ánh máu chớp lên, có người táng mạng, do đó, giả sử như các hạ không muốn tiếp chiêu đao kỳ lạ này, ngay bây giờ hãy nói đi là vừa, nếu không thì dù có hối tiếc cũng chẳng còn kịp vậy.

Phương Bửu Ngọc cười nhẹ:

- Nếu tại hạ từ khước, chỉ e khiếm nhã đối với các hạ?

Người áo đen gật đầu:

- Hay lắm!

Phương Bửu Ngọc vòng tay:

- Tại hạ xin mời!

X Ngôn ngữ, thanh âm, tất cả đều im bặt.

Động tác biểu hiện cảm tình đều đình chỉ.

Tại cục trường, có bốn người, cả bốn người đều là pho tượng chẳng ai nói với ai một tiếng nào...

Hai tay của Phương Bửu Ngọc, vừa vòng ra thi lễ, hai tay đó chưa buông thõng xuống, tay tả ngưng ngang bên dưới huyệt Nhũ Tuyền, tay hữu còn giữ lại một bên huyệt Khí Nang.

Hai tay chàng dừng lại ở những vị trí đó, bất động, không lên mà cũng chẳng xuống hơn một ly, trông chàng như một pho tượng đá được tạc thành trong tư thế đó.

Vì, nếu chàng nhích động một chút, là mất mạng liền, đối thủ thốt xong, đã hờm hờm xuất chiêu, mà chiêu thế xuất phát hẳn nhanh vô tưởng, đợi chiêu thế thành hình rồi, chàng chẳng làm sao ứng phó kịp.

Do đó, chàng phải chuẩn bị và phòng thủ nơi cần phòng thủ nhất áng ngữ được những nơi đó rồi chàng mới vững tâm chờ.

Khoảng cách giữa hai tay tả hữu của chàng, ước độ một thước, phàm người học võ, thấy chàng thủ tay chân như vậy hắn phải cười thầm, bởi cái tư thế đó bày rõ một sơ hở quá rộng. Con nhà võ cho rằng thế thủ đó hiến dâng cho đối phương ít nhất cũng trăm đường tấn công, và đường nào cũng nguy hiểm cả.

Tiểu Công Chúa thấy thế than thầm:

- Phương Bửu Ngọc ơi! Sao ngươi to gan thế? Sao ngươi dám kinh thường đối phương thế? Với tư thế này, ngươi phải bị một tay thông thường hạ dễ dàng, đừng nói gặp phải một đại kình địch. Trời! Người ta đã nói sẽ đánh ra một chiêu đao kỳ tuyệt, mà ngươi lại thủ như vậy sao?

Về võ học, bất quá Tiểu Công Chúa còn lục đục trong phạm vi võ thuật, còn Phương Bửu Ngọc thì đã đạt đến giới cảnh vũ đạo rồi, võ thuật có quy có củ, có lề lối, còn vũ đạo thì vô cùng, bao la, mông lung tùy ý tùy tâm, hợp với thiên nhiên mà biến hóa.

Nàng làm sao thấy được chỗ kỳ diệu trong đấu pháp của Phương Bửu Ngọc?

Chàng thủ thế như vậy, làm nàng hận, trong khi hận nàng chỉ muốn sao cho đối phương xuất chiêu ngay, sát hại cho đáng đời một gã ngạo mạn, khinh thường địch.

Nhưng nàng lại đâm lo, lo thay cho chàng.

Nàng cũng chẳng hiểu tại sao mâu thuẫn đó phát sanh nơi nàng, phát sanh luôn trong bất cứ trường hợp nào, và luôn luôn hai ý niệm đó vẫn tương trì nhau, chẳng ý niệm nào nhượng ý niệm nào để vĩnh viễn chìm lặng tận đáy lòng.

Ngưu Thiết Oa lại vui mừng ra mặt, gã nghĩ:

- Đại ca của ta đáng mặt anh hùng, thật xứng đáng cho ta tôn là đại ca. Trên thế gian này chỉ có mỗi một đại ca ta mới thủ nổi một cái thế kì diệu như vậy. Trên thế gian nầy, có tay nào tạo nên một tư thế có hàng trăm sơ hở như vậy đâu? Sơ hở càng nhiều, địch càng hoang mang, chẳng biết do nơi sơ hở mà tấn công vào. Cái hay ở chỗ gây hoang mang cho địch trong việc lựa chọn phương hướng và địa điểm tấn công. Giả như để hở một điểm thôi đối phương chắc chắn là sẽ nhắm vào sơ hở duy nhất đó, đối phương sẽ quyết định hơn. Hì hì! Diệu tuyệt!

Diệu cực! Ta không tưởng nổi! Đại ca ơi! Tôi phục đại ca quá chừng.

Tiểu Công Chúa suy tưởng một đường, Ngưu Thiết Oa suy tưởng một nẻo.

Tiểu Công Chúa suy tưởng theo võ học, Ngưu Thiết Oa suy tưởng theo giản đơn, theo trực tánh.

Theo võ học, phải phức tạp.

Theo giản đơn, dĩ nhiên là giản đơn rồi.

Và ai thông minh hơn? Ai ngu xuẩn? Thông minh hay ngu xuẩn đều nằm trong cái luật quy chân, tất cả từ cái chân biến ra cái xảo để từ cái xảo trở về cái chân.

X Nửa khắc thời gian trôi qua.

Ngưu Thiết Oa đứng bên ngoài chẳng cần chú ý phòng thủ, mà vẫn nghe đôi chân mỏi rụng.

Nhưng gã chẳng dám nhích động thân hình, gã đứng sừng sững tại chỗ, như pho tượng vô tri vô giác.

Gã đã thế, Phương Bửu Ngọc là người trong cuộc, làm sao dám phân tâm?

Tiểu Công Chúa thầm nghĩ:

- Kỳ quá! Người đó sao lại chưa động thủ? Chẳng lẽ hắn cố ý kéo dài thời gian để cho Phương Bửu Ngọc phải mòn sức? Hay là hắn cho rằng hễ động thủ là Phương Bửu Ngọc chết ngay hắn bất nhẫn nên còn ngần ngại?

Nàng càng nghĩ, càng thấy khó hiểu tâm tư rối loạn lên.

Nàng cho là sự tình phức tạp vô cùng.

Sự tình thật ra rất giản đơn, bởi nàng suy tưởng cầu kỳ, thành ra phức tạp, phức tạp do suy tưởng của nàng, chứ nào phải do sự tình.

Tuy nhiên, nàng có chỗ hơn người, là cái phức tạp đó, nàng suy luận ra kết quả.

Rồi nàng lại nghĩ:

- A! Ta hiểu ra rồi! Chỉ vì tư thế của Phương Bửu Ngọc để lộ quá nhiều sơ hở, hàng trăm sơ hở, do đó gã kia chắng biết nên chọn hướng nào và nhằm vào bộn phận nào mà xuất thủ. Hắn do dự, cái khổ về hắn chứ nào phải Phương Bửu Ngọc. Diệu tuyệt! Diệu cực! Đáng phục!

Bỗng ánh đao chớp lên.

Người áo đen hai tay cầm đao, thân hình từ từ chuyển động. Chân tả dịch vào trung tâm, thân mình xoay qua, xoay hết sức chậm.

Thanh đao dài, theo đà xoay chuyển thân hình, vẽ thành một vòng tròn.

Thế chuyển mình, thế xoay tròn, xem rất đẹp mắt. Đẹp đến độ người xem phải mê mẩn tâm thần, tâm thần mê mẩn thì ý chí phải lung lay.

Người mê mẩn đến độ quên cả thở.

Nếu không nhìn tận mắt, chắc chẳng ai tin được là cái thế chuyển mình rất tầm thường như vậy lại hấp dẫn người xem đến mê mẩn tâm thần.

Giả như có ai tin đi nữa, thì người tin hẳn phải cho rằng kẻ xử dụng đao có một ma thuật chi đó, khiến người xem xuất thần, chứ chẳng phải do chính cái thế xoay mình, vòng đao.

Tịch mịch!

Tịnh mịch âm thinh, nhưng không tịnh mịch động tác, vì đao và người đã nhích động rồi.

Cái chuyển mình của người áo đen như một điệu vũ mê ly hòa theo nhịp nhạc, một thứ nhạc không thanh âm, thứ nhạc của đất trời, có cái tiết tấu huyền diệu.

Tiểu công chúa không tránh khỏi sức hút của điệu vũ, điệu nhạc đó, một điệu nhạc nghe bằng nhân điện chứ chẳng nghe bằng thính giác, nàng xuất thần.

Rồi thì người áo đen cử cao trường đao, đao lên cao, song từ dưới lên trên, như sắp thành một chồng đao, một chút nhích lên là chồng thêm một thanh, chặt chẽ phi thường.

Sau cùng đột nhiên...

Ánh đao lại chớp, chẳng hiểu tại sao ánh đao tạo thành một bức tường quang, bức tường đó chớp sáng rực từ từ cuốn dồn tới Phương Bửu Ngọc.

Cả một bức tường quang dồn tới thì còn biết thanh đao nào sẽ kích ngay bộ phận nào.

Bức tường quang thoạt lúc đầu chậm, dần dần nhanh sau cùng thì quá nhanh.

Đứng bên ngoài, Tiểu công chúa không thể suy tưởng đao sẽ kích vô chỗ nào.

Nhưng diễn tiến đó đến phút cuối nhanh vô tưởng, nhanh hơn ánh sáng lùa qua khe cửa vào phòng.

Rồi đao rít gió, tiếng gió mường tượng tiếng thú rên.

Tiểu công chúa và Ngưu Thiết Oa chỉ thấy bóng người chớp lên, liền theo đó, gió đao, ánh đao hoàn toàn ngưng hẳn. Gió đao lặng, ánh đao tan biến.

Người áo đen và Phương Bửu Ngọc đã thay đổi vị trí của nhau, người nầy sang chỗ đứng của người kia.

Người áo đen đưa cao trường đao.

Phương Bửu Ngọc giữ tay tả nơi ngực, án ngữ bộ phận đó, bàn tay hữu đưa về phía hậu, sè ra, cánh tay vươn như cánh chim.

Đặc biệt hơn, họ đứng vậy, không phải đối diện, mà lưng đối lưng.

Họ như hai pho tượng. Không một người nào làm một động tác nhỏ.

Qua cái "chạm" đó ai thắng ai bại?

Tịch mịch!

Không gian ngưng đọng nặng nề.

Thời gian vẫn không ngưng... thời gian cứ trôi qua, mặc người đời giết chóc nhau. Thời gian qua, lâu lắm rồi...

Bỗng người áo đen thở dài.

Cái thở dài của y hẳn phải dài, đúng với danh từ nầy, vì bao nhiêu hơi thở bị dồn ứ qua suốt một khắc thời gian, bây giờ mới được tuôn ra, đã tuôn phải tuôn cho hết vì hơi thở đó rất nặng, rất độc...

Thở hết khí ứ đọng, người áo đen buông gọn:

- Chiêu tuyệt diệu! Tuyệt diệu...

Y ngã xuống liền khi buông dứt tiếng cuối.

Thế là Phương Bửu Ngọc thắng.

Ngưu Thiết Oa thích chí, reo to:

- Đại ca thắng! Hoan hô đại ca! Đại ca thắng!

Phương Bửu Ngọc xoay mình,vọt lên cạnh người áo đen hỏi gấp:

- Các hạ có sao chăng?

Người áo đen nhếch nụ cười thảm:

- Có sao?... Bại chứ có sao? Bại!.... Bại!... Bại!

Câu nói mở đầu còn nghe rõ, dần dần nhỏ lại câu nói rất khó ngắn ngủi, y thốt chậm, câu nói khéo dài, đến tiếng cuối cùng thì âm thinh chỉ còn vang phào phào nghe rất khó.

Âm thinh càng nhỏ, nhỏ dần, gương mặt của y càng thê thảm nhiều dần, sau rốt y cười lên ba tiếng ha ha như ba tiếng nấc, rồi im lặng.

Không còn một âm thinh nào vang lên, bất quá hơi thở của y còn thoang thoảng vậy thôi.

Phương Bửu Ngọc cắn răng, vụt cởi phăng chiếc áo của người đó, dưới ánh sao, một đốm gì hiện ra nơi ngực y.

Đốm đỏ, do Phương Bửu Ngọc vừa rồi phất tay trúng ngực, còn lưu lại, chàng nhìn lại, thì ra là một lỗ thủng, mấy thanh xương ngực gãy vụn qua cái chạm tay của chàng.

Chưởng lực mãnh liệt kinh hồn.

Phương Bửu Ngọc buồn rầu cúi đầu than khẽ:

- Tại hạ lỡ tay!... Chưởng lực phát ra cũng hơi mạnh...

Chàng than như thế thì người áo đen hy vọng gì sống sót.

Y cố gắng nói mấy tiếng:

- Không... không sao. Các hạ chẳng có gì đáng trách.

Phương Bửu Ngọc đột nhiên rít lên:

- Đáng trách lắm chứ! Đáng trách lắm! Chúng ta không oán không thù, tại hạ chẳng nên...

Như hồi sinh người áo đen gắt chận:

- Hừ, trách các hạ làm sao được. Các hạ thừa hiểu chính tại hạ bức bách các hạ phải xuất thủ kia mà! Chính tại hạ bức bách các hạ phải xuất độc thủ kia mà, nếu không thì làm sao có sự tình như thế nầy?

Vẫn như lần trước, lúc đầu, giọng y hơi to, đến tiếng cuối thì âm thinh yếu, yếu đến độ không nghe rõ.

Bất thình lình y cười mấy tiếng, nụ cười, tiếng cười ảm đạm bi thương.

Y tiếp:

- Thực ra, cũng chẳng phải tại hạ bức các hạ. Chính là cái chiêu đao bức các hạ mới đúng hơn. Tại hạ đã nói, chiêu đó xuất phát rồi thì ánh máu ngời lên, và phải có người táng mạng.

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Các hạ... chẳng lẽ các hạ biết trước là cái chiêu đó...

Người áo đen lại chận lời:

- Phải! Tại hạ biết trước. Cái chiêu đó phát xuất, một trong hai chúng ta phải chết, Không thể có trường hợp khác được.

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Nhưng tại sao các hạ vì người khác mà tự chuốc lấy cái khổ vào mình? Các hạ đem sanh mạng làm vậy thực nghiệm cho người ta, thế là có ý tứ gì?

Người áo đen thở ra:

- Trước khi truyền cái chiêu thức đó cho tại hạ, người áo trắng có nói, nếu chẳng có ai phá nổi chiêu đó, thì tại hạ đương nhiên trở thành vô địch trên giang hồ, tùy ý tung hoành, bằng ngược lại, có ai đó phá được chiêu đó thì tại hạ phải táng mạng. Tại hạ có suy nghĩ rất kỹ, sau một thời gian lâu mới quyết tâm tiếp nhận cho người áo trắng truyền dạy cái chiêu tuyệt diệu. Tại hạ cam tâm tình nguyện, thì còn oán trách được ai.

Phương Bửu Ngọc mơ màng một lúc lâu, buông giọng não nùng:

- Lấy sanh mạng vô giá của một con người, đổi lấy một chiêu đao.

Trời! Tại sao các hạ khinh thường chuỗi ngày do tạo hóa ban cho? Có cái ích lợi chi, khiến các hạ phải động tâm mà chấp nhận một cuộc đổi chác thê thảm như thế chứ?

Người áo đen hừ một tiếng:

- Các hạ cho là sự cam tâm của tại hạ không có giá trị gì?

Phương Bửu Ngọc không đáp câu đó, chỉ thốt lên cái cảm nghĩ của mình:

- Chiêu đao quả thật lợi hại, quả thật kinh thiên động địa, có thể làm cho quỷ khóc, thần sầu, chiêu đao tạo sát khí quá nhiều. Song, bởi sát khí quá nhiều, quá dày, tại hạ mới phá nổi. Nếu sát khí vơi vơi lỏng lẻo, thì chắc chắn là tại hạ vô phương đối phó.

Chàng nêu lên một điểm triết lý của võ học, chỉ có những người võ học cao thâm, mới thấu triệt được.

Người áo đen trầm ngâm một lúc lâu đoạn gật đầu:

- Đúng!... Đúng!.... Sát khí quá dày, dày là phải cứng, chiêu đưa ra, cái khí cũng cứng theo, khi gần như thành vật hữu thể, ngươi dễ thấy cái vật hữu thể đó, giả dĩ sát khí loãng thì mờ mờ khó thấy sơ hở, sát khí dày thì ánh mắt rà theo, để tìm chỗ sơ hở, sát khí bốc ra, cuồn cuộn, trong chỗ cuộn phải có mối tiếp giáp nhau, đối phương, cứ nhắm vào chỗ tiếp giáp mà công vào. Nơi tiếp giáp, bao giờ cũng kém kiên cường hơn chỗ liên lạc.

Bỗng y hét lên, hét xong một tiếng y lại tiếp:

- Nhưng trên thế gian này, trừ một Phương Bửu Ngọc ra còn ai phá được chiêu đao của tại hạ?

Y thở dài kết thúc:

- Chỉ có một các hạ! Duy nhất các hạ mà thôi!

Tiểu công chúa hừ lạnh một tiếng chen lời:

- Chưa chắc!

Người áo đen cao giọng:

- Chưa chắc? Cô nương có biết lai lịch của chiêu đao đó chăng?

Tiểu công chúa ngẩng mặt lên không bĩu môi:

- Thế ngươi biết?

Hồi 42

Chờ Người Xứ Lạ

Người áo đen hỏi lại:

- Cô nương có nghe nói đến cái chiêu Nhất Nộ Sát Long trong thư pháp Thiếu Lâm Tam Tuyệt chăng?

Cô nương có nghe nói đến chiêu Bán Cô Nhất Phú Khai Thiên Địa mà năm xưa Liễu đại hiệp đã dùng để áp đảo khách giang hồ chăng?

Tiểu công chúa mỉm cười:

- Trong võ lâm hào kiệt, cho rằng hai chiêu đó thuộc hàng bá đạo, bởi thuộc về bá đạo nên chẳng còn nhân đạo nữa, tuy nhiên, hai chiêu đó có liên quan gì đến chiêu đao của ngươi đâu?

Người áo đen vẫn không đáp, chỉ tiếp nối theo cái ý của y:

- Cô nương có biết là trong Tam Đại Lưu phái của võ lâm Đông Doanh, có chiêu Nghinh Phong Nhất Trảm, chiêu nầy là tuyệt học của Nhất Lưu Thái đao chăng?

Tiểu công chúa lạnh lùng:

- Ta không nghe nói đến, song ta nghĩ rằng chiêu đao ngươi vừa nói đó, rất có oai phong trong võ lâm Đông Doanh, và đương nhiên phải lợi hại lắm.

Người áo đen gật đầu:

- Đúng vậy, và cái chiêu do tại hạ thi triển vừa qua, chính là chiêu tổng hợp vũ học của Đông Doanh, thắng được chiêu đó, là thắng tất cả những võ sĩ Đông Doanh...

Y thốt, càng thốt càng làm tiêu hao phần khí lực tàn dư, tàn lực chỉ đủ duy trì y qua một thời gian ngắn, độ một vài khắc, song y dùng tàn lực để bắt chuyện với Phương Bửu Ngọc và tiểu công chúa , thì cái chết phải đến với gấp với y.

Y dừng lại để thở, để gom nhặt tàn lực định nói thêm những gì còn muốn nói.

Y thốt, thì Phương Bửu Ngọc và Tiểu công chúa thốt, y dừng thì cả hai cũng dừng, dừng để cho y lấy sức mà tiếp tục.

Chỉ còn Ngưu Thiết Oa chẳng nói gì, gã đứng đó nghe song phương đối đáp, gã nhìn bên này, rồi nhìn sang bên kia.

Khi người áo đen dừng thốt, thì cả ba lại nhìn nhau.

Phương Bửu Ngọc vẫn còn hối tiếc và chưởng lực của chàng, càng hối tiếc, chàng càng thương cảm.

Tiểu công chúa nhìn người áo đen, niềm nghi hoặc hình thành dần dần trong tâm tư nàng, chừng như nàng có phát hiện ra một sự lạ lùng...

Ngưu Thiết Oa cứ nhìn đăm đăm nơi hông người áo đen, nơi có một vật gì, gã càng nhìn, càng động tính hiếu kỳ.

Vật đó là vật gì, trông kỳ quái thế?

Mường tượng một bình nước, trên đầu bình, lại có một cây kim, loại kim rỗng ruột, nhưng lúc đó kim đã rơi ra bày một lỗ trống, dĩ nhiên lỗ trống chỉ to bằng kim.

Không gian vẫn trầm tịch như thường.

Song có tiếng gì vang lên trong chiếc bình đó, như tiếng nước sôi, rất nhỏ, phải chú ý lắng tai mới nghe được.

Cái gì ở trong bình phát động lên âm thanh đó?

Ngưu Thiết Oa suy nghĩ mãi chẳng hiểu nổi.

Tiểu công chúa trầm ngâm suy tư về điều chưa phát hiện, một lúc lâu nàng chợt kêu lên:

- Đúng rồi! Chính hắn! Nhất định là hắn!

Phương Bửu Ngọc nhìn sang nàng:

- Cô nương nói cái chi? Ai là hắn? Hắn là ai?

Tiểu công chúa không đáp.

Bỗng nàng cúi xuống, đưa tay giật vuông khăn che lửng lơ gương mặt của người áo đen.

Gương mặt đó hiện lộ rõ rệt, một gương mặt xanh dờn, như chẳng có một điểm máu.

Phương Bửu Ngọc kêu lên hãi hùng:

- Trời! Các hạ?... các hạ đây sao?

Ngươi đó, là Thiết Kim Đao, đã vắng bóng trên giang hồ qua một thời gian lâu, vắng bóng một cách bí mật.

Trước đó, Phương Bửu Ngọc nhìn qua dáng dấp y, thấy cử động của y, chàng nhớ mang máng đến một người, song tìm hiểu mãi vẫn chẳng biết người đó là ai mà có cái vẻ quen quen.

Tại Nhạc Dương lâu ngày trước, bất quá chàng chỉ thấy thoáng qua Thiết Kim Đao cho nên ấn tượng không sâu đậm lắm, bây giờ chàng gặp lại con người cũ làm sao nhớ rõ được trong nhất thời khi người đó dấu mặt mày, dù là dấu nửa phần, vả lại trong lúc đêm tối sao mờ.

Nhạc Dương lâu!

Cái gì đã diễn ra tại đó, cách đây sáu bảy năm rồi, một thời gian không phải ngắn, với thời gian đó khách giang hồ trải qua bao nhiêu thương hải tang điền? Đời giang hồ luôn luôn có nhiều sóng gió, sóng gió vẫn dấy lên không ngừng, thì trong khoảng thời gian sáu bảy năm, biết bao nhiêu biến chuyển xảy ra? Con người đâu phải nhớ tất cả mọi việc đã qua một cách dễ dàng?

Cũng sáu bảy năm về trước, chàng và Tiểu công chúa nấp sau một bức rèm trên chiếc thuyền buồm ngũ sắc, nhìn Quảng Châu Ngọa Hổ Đao yêu cầu Tử Y Hầu truyền thọ một bí kỹ!

Tiểu công chúa nhìn sững Thiết Kim Đao một lúc lâu, đoạn thốt:

- Kỳ quái? Chẳng có gì kỳ quái cả! Ta đã nhận ra ngươi.

Thiết Kim Đao nhếch nụ cười thảm:

- Cô nương không kỳ quái, chứ tại hạ kỳ quái! Tại hạ kỳ quái! Tại hạ biết rõ, cô nương là con gái yêu của Tử Y Hầu, song tại hạ không biết tại sao cô nương nhận ra tại hạ?

Tiểu công chúa mỉm cười:

- Cho ngươi biết, ngày đó Linh Nhi thơ thơ chỉ điểm cho ngươi cách thức hóa giải cái chiêu Càn Khôn Phá Thiên Thức trong Du Long Câu Pháp, ta... ta cùng hắn ở phía trong bức rèm nhìn thấy rõ ràng. Và ta nhớ rõ dung mạo ngươi, dáng dấp ngươi.

Thiết Kim Đao thở dài:

- Thời gian qua thấm thoát đã bảy năm mà cô nương vẫn còn nhớ.

Tiểu công chúa điềm nhiên:

- Chẳng có cái gì mà ta quên cả! Cái gì qua ngang mắt ta một lần là vĩnh viễn cái đó nằm trong ký ức ta. Ta đã trông thấy ngươi, dù ngươi có biến thành tro, thành đất, trông thấy tro thấy đất là ta nhận ra ngay tro, đất đó do ngươi hóa thành.

Nàng đảo mắt nhìn sang Phương Bửu Ngọc, cười lạnh một tiếng tiếp:

- Chẳng những là ngươi, cho dù là một câu nói, ai nói từ bao lâu qua, ta vẫn nhớ.

Nàng trầm giọng tiếp:

- Ta còn nhớ một câu nói.

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Câu gì?

Tiểu công chúa ngẩng mặt lên, không buồn lưu ý đến chàng, thầm nghĩ:

- Người ta, ai ai cũng cho rằng ta không bằng ngươi, có đúng là ta thua kém ngươi chăng? Sớm muộn gì, ngươi cũng phải chết nơi tay ta.

Ngươi chết nơi tay ta thử xem thiên hạ còn cho rằng ta kém ngươi nữa chăng? Nhất định là ta phải cho ngươi chết, để ngươi biết là ta chẳng hề thua kém ngươi.

Nàng nói thế, hay tưởng thế, bởi lòng tự ái của con người mà nhất là lòng tự ái của một thiếu nữ ương ngạnh, quật cường.

Nàng có biết chăng, Phương Bửu Ngọc chết đi nàng cũng chẳng sống sót được sao.

Nhưng dù sao thì hiện tại nàng cứ nghĩ như thế, nàng nghĩ mà không cần biết cái hậu quả, nếu điều nàng nghĩ sẽ thành sự thực.

Đúng ra cái tự ái của nàng, chẳng phải do thù oán mà có.

Nàng đang bị hai ý niệm chi phối:

Yêu và hận.

Cả hai ý niệm đều mạnh, cả hai cùng dành giật nàng.

Và nàng chưa ngả hẳn bên nào, khi thì nghiêng bên này, khi thì nghiêng bên kia.

Phương Bửu Ngọc thở dài, nghĩ có chờ nghe nàng nói, cũng thêm khổ thôi, chứ nàng có khi nào bỏ lỡ một dịp moi móc, mai mỉa chàng?

Chàng nhìn Thiết Kim Đao con người sắp chết vì chưởng lực của chàng.

Bao nhiêu sự việc của chàng còn làm chàng nặng nỗi ưu tư.

Giờ đây, thêm một niềm sầu mới, với cái chết của Thiết Kim Đao.

Bây giờ chàng phải làm sao?

Chàng cười khổ, thốt:

- Tại hạ vĩnh viễn không quên được Thiết đại hiệp và...Bàn Long...

Thiết Kim Đao lộ vẻ thảm thương phi thường:

- Cho Phương thiếu hiệp biết, sự việc giữa tại hạ và Bàn Long Câu giờ đây đã thành dĩ vãng...

Phương Bửu Ngọc trố mắt:

- Đã thành dĩ vãng? Niềm cừu hận giữa hai vị đã hóa giải rồi?

Thiết Kim Đao mỉm cười:

- Bàn Long Câu đã chết tại nơi tay tại hạ.

Phương Bửu Ngọc giật mình:

- Các hạ... các hạ...

Thiết Kim Đao nhắm mắt, gằn từng tiếng:

- Tại hạ dùng chiêu đao vừa rồi sát hại Bàn Long Câu. Không ngờ tại hạ cũng chết vì chiêu đao đó. Hay! Hay quá! Nếu trên thế gian nầy không có chiêu đao đó thì làm sao Bàn Long Câu chết? Tại hạ chết?

Những thớ thịt trên gương mặt y giật rung rung, đôi môi y nhếch ra, chẳng rõ y cười hay khóc.

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Thì ra, các hạ vì quyết tâm muốn thắng Bàn Long Câu nên tiếp nhận cái chiêu đao tàn độc do người áo trắng truyền cho.

Chàng lạnh mình.

Những sự tương tranh trên giang hồ nhiều khi phát xuất từ một sự kiện nhỏ nhen, rồi song phương cùng nuôi cái chí sát diệt lẫn nhau để đầu độc trọn cuộc sống, để cuối cùng song phương cùng rũ tay về bên kia thế giới, chẳng ai được sự thỏa mãn lâu dài...

Thiết Kim Đao thở dài:

- Tử Y Hầu chết đi, trên giang hồ không còn danh sư nữa, do dó tại hạ rời Trung Nguyên, đến tận Đông Doanh, tại hạ phải mất hơn nửa năm dài mới tìm được người áo trắng.

Y dừng một chút, đoạn tiếp:

- Tại hạ thỉnh cầu người áo trắng truyền cho cái thuật tất thắng.

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Người áo trắng đáp ứng các hạ thực là một điều trên chỗ tượng tưởng của mọi người.

Thiết Kim Đao cười nhẹ:

- Thoạt đầu, y không bằng lòng. Y còn mắng tại hạ, chê trách tại hạ, khinh miệt, chế nhạo tại hạ. Nhưng chẳng biết tại sao sau đó y lại đáp ứng.

Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một chút:

- Chỉ trong thời gian thoáng mắt y thay đổi chủ ý? Có sự việc gì làm cho y thay đổi chủ ý nhanh chóng như thế?

Phàm những khách giang hồ gặp nhau như bèo trôi với nước, gặp đó rồi rời nhau đó, để bất thường gặp nhau trong một ngày nào đó.

Tương ngộ, phân ly, do hoàn cảnh, hơn là do người.

Phương Bửu Ngọc gặp Thiết Kim Đao, không tìm mà gặp, chẳng biết nhau trước khi gặp trong trường hợp ly kỳ, rồi phân ly nhau cũng không phải do người muốn phân ly, bởi có ai tha thiết với ai? Bởi ai cũng có việc lo riêng.

Họ gặp nhau, họ phân ly nhau, là sự rất thường, mà trên giang hồ, nào phải chỉ có việc hợp tan mới là điều đáng chú ý?

Trên giang hồ những biến chuyển bất ngờ nhanh chóng, thường xảy ra như ban ngày ăn mấy bữa, đêm ngủ mấy giờ, không thể không có, mà lại nhanh chóng.

Nhưng, cái lẽ hợp tan của Phương Bửu Ngọc và Thiết Kim Đao hơi khác thường.

Khác thường ở cái chỗ gặp nhau rồi để một phải chết bởi một.

Cố nhân gặp nhau, chưa nhìn được nhau lại đánh nhau, khi có một người sắp viễn du sang bên kia bờ thế giới, thì mới nhận ra nhau, nhận ra để rồi xa nhau vĩnh viễn, xa nhau là do vũ học tân kỳ của nhau.

Tạo hóa chơi khăm!

Cố nhân chưa tròn một nụ cười, thì đôi mắt đã cay để suối lệ đượm trên...

Ngưu Thiết Oa bất chấp đến câu chuyện họ trao đổi nhau bất chấp thái độ của nhau.

Gã chẳng nhìn gì, chẳng nghe gì.

Gã chỉ nhìn vật đeo nơi hông Thiết Kim Đao.

Vật đó chừng như là một chiếc hộp, trong hộp đựng gì, gã cố tìm hiểu mãi song gã làm sao suy đoán được?

Bỗng gã bước tới, cúi mình xuống đưa tay giật lấy chiếc hộp.

Thiết Kim Đao đã biến sắc mặt sau khi thọ thương, giờ lại biến sắc rõ hơn, rung rung giọng kêu lên:

Buông!...Buông ra!...

Nhưng, làm sao y đập tan sự hiếu kỳ của Ngưu Thiết Oa nổi? Gã chụp được chiếc hộp rồi lập tức chạy ra xa xa.

Gã vừa chạy, vừa cười thốt:

Đừng sợ! Ta chẳng lấy tuốt đâu! Ta chỉ xem qua một chút thôi.

Thiết Kim Đao hét:

- Xem cũng không được! Chiếc hộp đó... mở ra không nên. Đừng mở, tại hạ van các hạ.

Ngưu Thiết Oa hừ một tiếng:

- Ngươi làm gì như cha chết thế? Ta xem qua một tý cũng không được nữa à? Qúy lắm sao? Ta chẳng cướp đoạt của ngươi đâu!

Gã cười gã thốt, gã mở nấp chiếc hộp.

Một vật gì từ chiếc hộp, bay vù lên.

Ngưu Thiết Oa kinh ngạc, đưa mắt nhìn theo vật đó.

Vật đó, là một điểm trắng, lao vút lên không, nhanh như tên bắn.

Thoáng đó, vật đó mất dạng.

Ngưu Thiết Oa kêu to:

- Chim! Một con chim! Hắn có mang chim theo mình! Kỳ quái thật.

Thiết Kim Đao biến sắc mặt phi thương, rung giọng thốt:

- Một con bồ câu!

Ngưu Thiết Oa nhìn y:

- Một con bồ câu thì đáng giá bao nhiêu mà ngươi hét la, ngươi làm như người ta toan sát hại không bằng! Nếu muốn ta sẽ tìm một con khác, trả lại cho ngươi!

Phương Bửu Ngọc và tiểu công chúa hết sức kinh dị, thấy Thiết Kim Đao quá chú trọng đến một con bồ câu như vậy.

Tiểu công chúa vụt hỏi :

- Con bồ câu có điểm gì đặc biệt?

Thiết Kim Đao đáp, nhưng tâm hắn chơi vơi tận đâu đâu :

- Chẳng có gì đặc biệt cả!...Chẳng có!

Tiểu công chúa hừ một tiếng :

- Nó có mang gì quý báu nơi mình nó chăng?

Thiết Kim Đao thều thào vì quá kích động:

- Không!... Không phải vậy đâu.

Tiểu công chúa lại hừ một tiếng, lớn hơn:

- Thế sao tại ngươi khẩn trương?

Đôi mắt của Thiết Kim Đao lồi ra, vì y gương mắt nhìn về hướng con chim bồ câu bay đi, nó bay về hướng Đông, gương mặt y lộ vẻ bi thương ảm đạm vô cùng.

Rồi y lẩm bẩm:

- Chim câu bay đi, người áo trắng lại đến. Người áo trắng đến gấp.

Tiểu công chúa cau mày:

- Lời nói đó có nghĩa như thế nào chứ?

Nàng không hiểu ý tứ của Thiết Kim Đao như thế nào khi y thốt lên câu đó, song nàng nhìn ánh mắt của y, cũng đoán được là sẽ có sự bất thường.

Cho nên nàng biến sắc, sau khi hỏi gọn mấy tiếng.

Thiết Kim Đao thốt:

- Trước khi tại hạ rời Đông Doanh Tam Đảo, vượt qua trùng dương vào lục địa Trung Nguyên, người áo trắng có trao cho tại hạ một con chim bồ câu, y có dặn khi nào gặp được người biết cách phá giải chiêu đao tuyệt diệu, tại hạ phải lập tức thả bồ câu ra, cho nó bay về hải đảo.

Y sẽ rời hải đảo ngay từ giây phút con chim bồ câu về tới nơi.

Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Giá như chim bồ câu không về, thì...

Thiết Kim Đao chận:

- Chim câu không về, là tại Trung Nguyên chẳng có ai phá nổi chiêu đao, và đương nhiên tại hạ trở thành vô địch trong võ lâm Trung Nguyên, tại hạ không có đối thủ tại Trung Nguyên, y còn đến lục địa mà làm gì nữa? Y không đến, là võ lâm Trung Nguyên lại tránh được sát kiếp hãi hùng.

Y trầm giọng tiếp:

- Chim câu không về đảo, là y không đến, y không đến là võ lâm Trung Thổ tránh được cái họa tiêu diệt. Bây giờ thì.. bây giờ thì... chim câu đã bay đi rồi.

Y thở dài, nhìn về hướng trời Đông, tặc lưỡi:

- Làm sao?... Làm sao?...

Phương Bửu Ngọc trầm ngâm, Tiểu công chúa vội hỏi:

- Ngươi muốn tránh sát kiếp cho võ lâm, nên tuy đáp ứng người áo trắng, ngươi quyết định không thả chim câu bay về đó. Có đúng vậy chăng?

Thiết Kim Đao lại thở dài:

- Làm như vậy, tuy tại hạ thất tín với người áo trắng, song bù lại, tại hạ cứu được bao nhiêu sanh mạng. Sự thất tín đó cũng đáng giá lắm.

Tiểu công chúa cười lạnh:

- Nếu thực sự ngươi có hảo ý đó, thì tại sao ngươi còn đeo con chim bồ câu nơi mình? Ngươi có thể giết chết chim đi, ngươi có thể nướng nó, dùng làm vật nhắm rượu như vậy có phải là không còn lo ngại nó thoát đi trong một phút giây sơ hở nào đó, chẳng hạn như nó không bị Ngưu Thiết Oa phóng thích.

Thiết Kim Đao cười thảm:

- Tại hạ nghĩ, mình chết rồi, thì người khác sống sót hay chết đi điều đó còn can hệ chi nữa? Để cho người áo trắng vào Trung Thổ càn quét tất số hào kiệt võ lâm, điều đó còn can hệ gì nữa, khi tại hạ đã rũ tàn dưới lòng đất lạnh? Song... bây giờ, giờ phút tại hạ sắp rời bỏ cõi đời chắng biết tại sao, cái ý tưởng ban sơ đột nhiên biến đổi.

Tiểu công chúa ngưng đọng ánh mắt nhìn y, sau một lúc lâu, nàng thở dài thu ánh mắt hướng về chỗ khác lặng lẽ gật đầu.

Qua mấy phút giây, nàng cất giọng u buồn, thốt:

- Phải! Một con người trước khi bước qua bên kia thế giới hẳn có thay đổi chủ ý, hoặc toàn diện, hoặc phiến diện. Cho dù là một kẻ đại gian, đại ác khi biết mình không còn sống sót được nữa thời thường có thể làm một vài việc gì tốt, hoặc ít ra cũng có những cảm nghĩ thiện lương.

Ngưu Thiết Oa từ lúc đầu sững sờ đứng lặng nghe họ đối đáp với nhau, bỗng đưa tay tát mạnh vào mặt mình, tát đến chảy nước mắt, rồi gã cất tiếng oang oang:

- Tại tôi! Tôi đáng tội chết! Tôi đáng chết lắm...

Gã bước đến trước mặt Phương Bửu Ngọc, quỳ xuống, rung rung giọng:

- Đại ca! Ngưu Thiết Oa đáng chết, đại ca đánh chết Thiết Oa đi!

Đánh đi đại ca!

Phương Bửu Ngọc lắc đầu, thở dài:

- Ngươi không có gì đáng trách.

Ngưu Thiết Oa kêu lên:

- Tại sao chẳng có gì đáng trách tôi, hở đại ca? Chính tôi thả con chim câu mà. Giả như người áo trắng...

Phương Bửu Ngọc chận lời:

- Dù ngươi không thả chim câu, người áo trắng vẫn đến như thường.

Thiết Kim Đao trố mắt:

- Thế ra, Phương thiếu hiệp không tin tại hạ à?

Phương Bửu Ngọc thở ra:

- Chẳng phải tại hạ không tin Thiết đại hiệp. Bất quá tại hạ khám phá được cái dụng ý của người áo trắng thôi.

Thiết Kim Đao lấy làm lạ:

- Dụng ý của y như thế nào?

Phương Bửu Ngọc ngẩng mặt lên không từ từ thốt:

- Sáng chế ra được chiêu đao đó, chính người áo trắng cũng chưa biết được là chiêu đao có sơ hở hay chăng, và sơ hở ở chỗ nào. Y dùng đại hiệp làm vật thí nghiệm, cái dụng ý của y là ở chỗ đó. Bởi con người có tật thành tánh như y, khi nào lại đem điều nghiên cứu bằng tâm huyết hiến không công cho người khác?

Thiết Kim Đao buồn thảm ra mặt:

- Đúng!... Thiếu hiệp luận rất đúng!

Bỗng, y trợn tròn đôi mắt hét to:

- Đúng!... Đúng lắm!

Phương Bửu Ngọc trầm giọng:

- Đại hiệp vừa nghĩ ra điều chi đó?

Thiết Kim Đao thốt:

- Lúc y trao con chim bồ câu cho tại hạ, y có một đường giây nơi chân chim tại hạ vô tình thấy nơi đầu giây, có mảnh giấy có ghi hai chữ...

Phương Bửu Ngọc hỏi gấp:

- Chữ chi?

Thiết Kim Đao đáp:

- Dưới nách!

Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một lúc lâu, lại nhìn trời, thở dài thốt qua mơ màng:

- Phải! Người áo trắng quả là một tay tuyệt thế kỳ tài trong võ lâm. Y biết rõ cái sơ hở của chiêu thức là ở dưới nách, có điều y dự đoán không chuẩn đích cho lắm đó thôi. Mà điều đó có cần gì bởi trúng đích, hay chung quanh đích cũng thế, người thủ chiêu đao vẫn táng mạng như thường.

Thiết Kim Đao trầm giọng:

- Như chim câu trở về đảo rồi, là y sẽ đoán đúng chỗ.

Phương Bửu Ngọc cười khổ:

- Phải! Đó mới là cái ý thiết thực của y. Chứ còn như việc vào Trung Nguyên, thì cầm chắc như đã quyết định rồi, chẳng thể nào y không đến. Bởi y đã ước hẹn, sang mùa hoa nở tới đây, là y sẽ có mặt tại Trung Nguyên, giữ tròn cái hẹn bảy năm. Chim câu có về hay không về, điều ấy chẳng liên quan đến việc vào Trung Nguyên, mà chỉ liên quan đến chiêu đao thôi.

Ngưu Thiết Oa cười hì hì:

- Như vậy là tôi không đáng trách!

Con người chất phác đó, muốn khóc là khóc, muốn cười là cười, vì một lý do nhỏ mọn, cũng khóc hoặc cười được như thường thành thật mà khóc hoặc cười, khoc ngay mà cũng để mà cười, song lại khóc cũng chẳng khó khăn gì.

Nhưng, gã khóc, gã cười, tùy gã có ai còn tâm tình nào để ý đến gã!

Phương Bửu Ngọc, Tiểu Công chúa và Thiết Kim Đao đều trầm trọng suy tư, chắng có ai thốt một lời nào.

Sau cùng Thiết Kim Đao cất tiếng, giọng nói của y có vẻ biến đổi phần nào, giọng nói hơi ồ ồ, chứng tỏ khí lực chẳng còn bao nhiêu nữa.

- Người áo trắng đã biết chỗ sơ hở nằm dưới nách, với khối óc minh mẫn của y, y sẽ suy ra cách phá dễ dàng. Nhưng tại hạ... thì lại hiến thân làm vật thực nghiệm cho y. Chẳng những tại hạ tự hại lấy mình, mà còn hại đến người khác. Trời! Vì sao tại hạ lại làm được một sự tai hại phi thường như thế này chứ?

Thần sắc của y càng lúc càng bi thảm quá chừng.

Bất thình lình y đưa tay đập vào ngực, rồi gào lên:

- Ta chết! Oan mạng thay cho ta! Ta chết oan, chết ức...

Một tiếng nấc vang lên, máu vọt từ vết thương, máu vọt từ miệng, y tắt thở mà máu vẫn còn trào.

Chết!

Thiết Kim Đao vì hư danh mà chết.

X Đêm tàn.

Không gian đọng khí uất của người ra đi, và người còn ở lại nghe ngực bị dồn ép nặng nề.

Tiểu Công chúa ngưng ánh mắt nhìn Phương Bửu Ngọc, đột nhiên hỏi:

- Cái chiêu đao đó chỉ có một chỗ sơ hở thôi sao?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Đúng vậy, chỉ có một chỗ dưới nách thôi. Tại hạ thực ra cũng chẳng biết cách phá, mãi đến lúc ánh đao chớp lên, mũi đao đến sát bên mặt rồi, cầm chắc là phải chết...

Chàng thở dài tiếp nối:

- Trong phút giây cửu tử nhất sinh đó, tại hạ thấy ánh đao sáng ngời chừng như một vầng mây bạc bao quanh cơ thể, chứ chẳng riêng gì phần mặt...

Tiểu Công chúa hỏi gấp:

- Rồi làm sao ngươi nhận ra chỗ hở?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Trong vầng ánh sáng bạc đó, bỗng nhiên tại hạ nhận ra có chỗ đen đen xanh xanh, lẫn lộn với ngân quang. Hiện nhiên vầng sáng bạc đó không dày đồng đều, chỗ nào quá dày thì sáng trắng lên, chỗ nào còn mỏng thì ánh sáng mờ mờ, và phần đen đen xanh xanh là những bóng cây sau lưng y, ánh đao mỏng chỗ đó không che khuất trọn. Phàm muốn kích phá một đường đao mình phải kích vào chỗ ánh đao dày, vì nơi đó có chỗ sơ hở, chứ còn mấy chỗ mỏng, trái lại rất kín đáo. Tại hạ không do dự, xung phá ngay chỗ ánh đao dày. Bây giờ nghĩ lại, mới hiểu rõ như thế, chứ lúc đó thì bất quá tại hạ xung kích cầu may... Tại hạ làm một việc mạo hiểm, không hơn không kém, chứ cái chết chỉ cách mình bằng đường tơ kẽ tóc, làm sao có đủ thì giờ cho mình suy tính?...

Tiểu Công chúa thở phào:

- Nhưng lại thành công!

Phương Bửu Ngọc thì thở dài:

- Lúc đó, tại hạ nào chắc là mình thành công. Chẳng khác chi tại hạ nhắm con mắt, hành động liều nhắm đích xác nơi ánh đao dày xung phá. Nếu cho rằng tại hạ làm như một con bướm bay qua ngọn lửa thì cũng không sai lắm.

Tiểu Công chúa mỉm cười:

- Cái chiêu bướm bay qua lửa thế mà tuyệt. Có thể sánh với cái chiêu Tác Kiển Tự Phược của Thất Diệt sư thái là người khai sáng ra phái Kim Hoa Sơn năm xưa.

Phương Bửu Ngọc thấy nàng khen mình, chỉ mỉm cười tiếp:

- Lúc đó, tại hạ cảm thấy toàn thân phát lạnh, như nhúng mình trong nước một cách bất thình lình. Tiếp theo đó, một cảm giác kỳ diệu chạy khắp cơ thể.

Tiểu Công chúa hỏi:

- Cảm giác đó như thế nào?

Phương Bửu Ngọc không đáp, chỉ than:

- Nếu không có cái cảm giác đó, dù tại hạ có tránh khỏi bị hại vì chiêu đao, cũng không làm sao phá giải được.

Tiểu Công chúa bực tức, hỏi dồn:

- Mà cái cảm giác đó như thế nào, sao ngươi không nói cho ta biết?

Phương Bửu Ngọc thốt:

- Lúc đó, tại hạ bị sát khí bốc tử ánh đao bức bách, toàn thân tại hạ phát lạnh, chỉ có mỗi một nơi còn âm ấm, tại hạ lấy làm lạ, tự hỏi dù ánh đao hay ánh kiếm cũng thể có khi nào phát ra mà làm ấm đối phương được?

Tiểu Công chúa gật đầu:

Đúng vây, làm gì có việc đó? Đao quang kiếm quang luôn luôn gây cái lạnh chung quanh, tuyệt đối không khi nào phát xuất cái khí ám được.

Phương Bửu Ngọc tiếp:

- Hiển nhiên khí ấm đó do thân thể Thiết Kim Đao phát ra y đang dồn công lực, và y duy trì tình trạng đó qua một thời gian lâu, tâm tư y khẩn trương, cái khí ấm trong người y từ từ bốc cao...

Tiểu Công chúa gật đầu:

- Đúng vậy!

Phương Bửu Ngọc lại tiếp:

- Khí ấm đó, lúc bình thường chẳng ai cảm giác cả, nhưng khi đó đạo quang bốc lạnh, tạo nên một cực đoan, làm nổi bật rõ rệt cái khí ấm, trong đao quang mà có khí ấm, đúng là sơ hở của chiêu thế, như vậy là có sơ hở, mà nơi có khí ấm là đao quang không được kín đáo lắm của chiêu thế.

Tiểu công chúa dù có ganh tỵ đến đâu cũng phải thán phục, nàng không dấu vẻ thán phục, lại gật đầu công nhận:

- Đúng vậy!

Nàng dừng lại một chút, rồi điểm một nụ cười:

- Chưởng lực của ngươi, phát xuất vào chỗ ấm đó, và ngươi gọi cái chiêu của ngươi là Hồ Điệp Bắt Hoa. Diệu tuyệt. Không thể tưởng tượng nổi!

Phương Bửu Ngọc tiếp nối:

- Sở dĩ tại hạ không do dự vung tay tung chưởng lực liền. Dù tại hạ không cố ý gây thương tích cho y, song trong tình huống đó tại hạ bắt buộc phải vận dụng tất lực bình sanh.

Tiểu Công chúa lại gật đầu:

- Biết như vậy, nên Thiết Kim Đao có chết cũng chẳng oán hận ngươi được. Dùng tận lực đánh ra, chẳng phải cố ý quật ngã y, mà chỉ vì cái chiêu đao của y quá độc, bắt buộc ngươi phải đánh mạnh. Ta đứng bên ngoài thấy sát khí của chiêu đao, cũng phải lạnh mình.

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Cũng nhờ sát khí bốc mạnh lên và dày như thế, tại hạ mới có cảm giác như vừa giải thích. Nếu không có phần khí ấm bốc ra, thì chắc là tại hạ không phá nổi chiêu đao nổi như vậy.

Tiểu công chúa trầm ngâm một lúc lâu, đoạn từ từ hỏi:

- Chỉ có mỗi một mình ngươi là phá nổi chiêu đao đó, ngoài ngươi ra, còn ai phá nổi? Có đúng thế không?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Cứ theo sự hiểu biết của tại hạ, thì trong thiên hạ, có ít nhất cũng bảy tám danh gia chuyên dùng ám khí, phàm những người dùng ám khí thì nhãn lực của họ rất tinh vi, bảy tám danh gia đó hẳn phải có nhãn lực phi thường, tại hạ tin rằng họ có thể nhận thấy chỗ sơ hở của đường đao, cũng như tại hạ vậy.

Tiểu công chúa trầm giọng:

- Đành là họ có nhãn lực họ nhận thấy chỗ xanh, đen như ngươi nhưng chắc gì họ có can đảm tránh chỗ xanh đen mà xung kích vào những chỗ sáng, dày? Những nơi sáng dày là những nơi sát khi bốc mạnh đạo quang lạnh rợn, họ phải ngán.

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Vị tất họ kém can đảm, cô nương. Đừng nói chi ai. Kim Bất Úy nhị thúc của tại hạ cùng Thiết Oa hiền đệ cũng có cái can đảm đáng ngợi lắm. Thành thật mà nói, tại hạ còn kém họ một phần.

Tiểu Công chúa hừ một tiếng:

- Đành là họ có can đảm, xung phá ngay nơi đao quang sáng dày, song làm gì họ minh mẫn như ngươi biết khai thác cái cảm giác ấm ấm đó?

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Nói về minh mẫn, thì tại hạ chịu kém cô nương kém xa.

Tiểu Công chúa lại hừ lạnh một tiếng:

- Đành là có người minh mẫn hơn ngươi, song làm sao suy toán thời gian, bộ vị chuẩn xác như ngươi? Vừa xuất thủ là phá giải chiêu đao ngay, đối phương dù có muốn xoay trở, cũng chẳng làm gì kịp.

Phương Bửu Ngọc lại cười:

- Cô nương quá khiêm nhượng, ít nhất tại hạ cũng đã thấy cô nương xuất thủ hơn một lân rồi mà.

Tiểu Công chúa mỉm cười:

- Tốt! Ta cũng cho đi, là có người tinh mắt hơn ngươi, có người can đảm hơn ngươi, có người linh mẫn hơn ngươi, thậm chí cũng có người mạnh chưởng lực hơn ngươi, nhưng thử nói trên thế gian nầy có ai gồm đủ mọi điểm đó, như ngươi? Bất quá họ chỉ hơn ngươi một điểm còn ngươi thì bao gồm mọi điểm như vậy họ có thể sánh được với ngươi chăng? Mà muốn phá chiêu đao đó, cần phải gồm tất cả mọi điểm như ta vừa kể.

Ngưu Thiết Oa vỗ tay:

- Phải! Trừ đại ca của tôi ra, còn ai gồm đủ những điểm đó? Nhất định là đại ca tôi duy nhất.

Tiểu Công chúa gật đâu:

- Phải! Trừ Phương Bửu Ngọc ra, còn ai đâu?

Phương Bửu Ngọc ngưng ánh mắt nhìn nàng một lúc lâu rồi cười nhẹ, hỏi:

- Bỗng dưng cô nương lại khen dồi tại hạ, chẳng hay cô nương có ý tứ gì?

Tiểu Công chúa cũng cười:

- Ngươi được khen tặng cực độ, rồi sanh ra lúng túng phải không?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Đúng vậy đó cô nương! Tại hạ lúng túng thật sự khi được khen dồi.

Tiểu công chúa cười ròn, cười tươi quá!

- Sở dĩ ta khen tặng ngươi quá độ như thế, là vì ngươi chẳng còn sống được bao lâu nữa, Nếu ngay từ giờ phút này, ta không khen tặng ngươi, thì chỉ sợ không còn bao nhiêu cơ hội nữa. Phải biết, chẳng phải cơ hội lúc nào muốn có là có.

Ngưu Thiết Oa nổi giận:

- Cô nương nói cái gì mà khó nghe thế? Nếu cô nương còn nói như vậy, tôi sẽ...

Phương Bửu Ngọc mỉm cười, chận gã:

- Để cô nương nói đi, hiền đệ, chẳng hại chi đâu. Cái tánh của cô nương là thế mà. Khi nào thấy kém ai một chút là tìm cách ganh đua ngay. Chẳng hạn, đưa người ta lên cao rồi bất thình lình giật chân cho người ta rơi xuống đất chẳng những thế lại còn muốn ngoạm một miếng mới hả.

Tiểu Công chúa không giận, bật cười khanh khách:

- Tánh ta như thế đó, ta cho ai ăn đường, tự nhiên là trong đường phải có chất độc, chứ nếu không thì ta có điên dại gì lại phí của như vậy?

Ngưu Thiết Oa còn giận, cao giọng:

- Cô nương nói rằng đại ca tôi không còn sống được bao lâu nữa, lời nói đó căn cứ vào đâu? Thiết Oa nầy muốn nghe, nghe cho rõ, cô nương thử nói đi.

Tiểu Công chúa cười hì hì:

- Chiêu đao của người áo trắng, có phải là chỗ sơ hở duy nhất ở dưới nách chăng?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

Đúng vậy!

Tiểu Công chúa nói tiếp:

- Chim câu quay trở về đảo, người áo trắng sẽ thức phá ra chỗ sơ hở hắn sẽ sửa chữa bổ túc chiêu đao cho tận thiện tận mỹ, hắn thừa trí tuệ làm cái việc đó, ngươi có nghĩ như vậy chăng?

Phương Bửu Ngọc lại gật đầu:

- Đúng vậy!

Tiểu Công chúa tiếp:

- Nếu chiêu đao đó được bổ túc hoàn toàn, thì có phải là nó trở thành vô địch chăng?

Phương Bửu Ngọc gật đầu luôn:

- Đúng vậy!

Rồi chàng thốt:

- Nếu người áo trắng bổ túc chiêu xong, thì trên thế gian nầy, chẳng có một nhân vật nào phá nổi chiêu đao đó.

Tiểu công chúa gật gù:

- Kể luôn ngươi?

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Đương nhiên rồi cô nương. Kể cả tại hạ trong số những người bất lực.

Tiểu công chúa cười vang:

- Ngươi phải biết, sớm muộn gì hắn cũng đến đây, và chậm lắm là vào mùa hoa nở tới đây. Hôm nay ngươi phá được chiêu đao đó, thì sang năm, ngươi sẽ phải chết vì chiêu đao đó.

Phương Bửu Ngọc giật mình!

Một lúc lâu, chàng thở dài gật đầu:

- Cô nương nói đúng.

Tiểu công chúa lại cười khanh khách:

- Mùa hoa nở sang năm, đến gấp lắm đó nhé. Mùa hoa nở đến gấp là ngươi chết gấp. Cho nên, đến Bạch Thuỷ Cung lần nầy giá như ngươi còn sống sót trở về, thì những ngày còn lại trước mùa hoa nở chẳng có bao nhiêu. Như vậy là ngươi vắn số thấy rõ.

Ngưu Thiết Oa hét:

- Đại ca tôi chết gấp, cô nương thích chí lắm phải không?

Tiểu công chúa không quan tâm đến gã, nàng chỉ nhìn Phương Bửu Ngọc, chăm chú nhìn chàng.

Nàng muốn nói gì, bỗng Phương Bửu Ngọc quay nhanh người rồi vọt đi.

Chàng vừa nhích động thâm hình, là cao giọng quát lên:

- Bằng hữu dừng lại đi!

Thoáng mắt, chàng đã đi vào sâu trong khu rừng.

Tự nhiên Tiểu công chúa và Ngưu Thiết Oa chạy theo liền.

Một bóng người mờ mờ phía trước, chạy hết sức nhanh, nhưng dù hắn vận dụng tốc độ nào, cũng chẳng chạy thoát khỏi Phương Bửu Ngọc.

Qua mấy phút Phương Bửu Ngọc đã theo kịp sát bên hắn, chàng đưa tay chụp áo hắn, đoạn quay đầu nhìn lại Tiểu công chúa thốt:

- Hắn nấp cạnh chúng ta từ lâu lắm, vậy mà chúng ta chẳng hay biết chi cả.

Rồi chàng hướng qua người đó tiếp luôn:

- Bằng hữu có công rình rập lâu như vậy, tại hạ phải xem mặt bằng hữu mới được.

Phương Bửu Ngọc chẳng làm gì, song người đó quỳ xuống ngay, rung rung giọng thốt:

- Tôi không nhìn, tôi chẳng thấy chi hết, đại gia ơi! Đại gia buông tôi đi, đại gia tha cho tôi đi.

Tiểu công chúa lạnh lùng:

- Ngươi nên biết là ngươi đã sa vào tay của Phương Bửu Ngọc đại hiệp, có việc gì, cứ thật khai ra, đừng giấu diếm vô ích.

Phương Bửu Ngọc dịu giọng:

- Bằng hữu tên họ chi? Đến đây với mục đích gì?

Người đó đáp:

- Tôi... tôi chỉ là một tiểu dân, một tiều phu, đại gia ơi. Phương đại gia ơi, tôi chẳng có ý tứ chi cả, xin đại gia tha cho.

Phương Bửu Ngọc nhận ra, người đó đúng là một tiều phu, chàng liền buông tay, đoạn cau mày hỏi:

- Y là chủ nhân ngôi nhà chăng?

Câu hỏi đó, dĩ nhiên nhiên hướng về Tiểu công chúa, song nàng không đáp, nàng trầm ngâm một lúc, rồi bật cười khan mấy tiếng, nàng bước tới vỗ tay lên đầu vai người đó, đoạn bảo:

- Ngươi quay đầu lại xem sao?

Người đó thốt:

- Tôi không dám quay đầu.

Ngưu Thiết Oa gắt:

- Ngươi cứ quay đầu lại, cô nương đó đâu có ăn thịt ngươi mà ngươi sợ.

Tiểu công chúa tiếp:

- Phải đó, Ta không ăn thịt người mà, ngươi sợ cái gì chứ?

Người đó dù chết thì chịu chết, chứ nhất định không quay đầu.

- Tôi không dám! Tôi không dám...

Tiểu công chúa mỉm cười:

- Được! Ngươi không chịu quay lại, thì ta bước tới trước mặt ngươi.

Nàng chưa buông dứt câu, người đó đã đưa hai tay che mặt.

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Ngươi chẳng phải là gái khuê môn bất xuất, mà thẹn thùng người ngoài? Buông tay đi! Ngươi không buông thì ta kéo tay ngươi đấy.

Nàng dợm tay.

Người đó kinh hãi, rú lên một tiếng, thân hình nhũn lại, ngã xụm xuống, chẳng rõ vô tình hay cố ý, hắn ngã thế nào, gương mặt úp xuống đất.

Hắn giữ cứng mặt sát đất, trừ hắn chết đi mới có thể xốc mặt hắn lên, đừng mong bảo hắn ngóc dậy.

Phương Bửu Ngọc vô cùng nghi hoặc, chẳng hiểu tại sao hắn không dám nhìn ai.

Ngưu Thiết Oa cũng bực, cúi xuống nắm áo hắn, giở giọng lên thốt:

- Mình là nam tử hán đại trượng phu, làm như thiếu nữ cấm phòng không bằng. Vậy thì còn mặt mũi gì?

Người đó lại kêu lên kinh hãi, toan đưa hai tay che mặt song Tiểu công chúa nhẹ phất bàn tay, hắn cảm thấy hai tay tê dại liền không còn cử động được nữa.

Không dùng tay che được, thì hắn vùng vẫy nhưng hắn làm sao thoát khỏi bàn tay cứng như gọng kềm của Ngưu Thiết Oa.

Ngưu Thiết Oa xách hắn đưa lên, chẳng khác nào con ó xớt con gà, gà làm sao thoát khỏi?

Còn một tay Ngưu Thiết Oa án lên đầu người đó gọi Phương Bửu Ngọc:

- Đại ca xem mặt của y đầy nốt ruồi, lại rỗ chằng chịt nữa, tự nhien y không muốn cho ai nhìn là phải lắm.

Phương Bửu Ngọc ngưng ánh mắt nhìn hắn.

Trong rừng, lá cây nằm lợp đất, vậy mà mặt mày người đó dính đầy bùn đất.

Tuy nhiên, Phương Bửu Ngọc cũng nhận ra y. Chàng vội cười lớn hỏi:

- A! Lý Tướng Quân! Các hạ làm gì ở đây?

Tiều phu, chính là Bạch Mã tướng quân Lý Danh Sanh.

Ngưu Thiết Oa giật mình, buông hắn xuống liền, rồi cười lên ha hả:

- Lý tướng quân! Lý Danh Sanh! Con bạch mã của ngươi đâu? Từ bao lâu nay, chẳng ai thấy ngươi cỡi con ngựa trắng của ngươi.

Bạch Mã tướng quân Lý Danh Sanh, tuy chẳng lúc nào không tìm cách lừa thiên hạ, song Ngưu Thiết Oa và Phương Bửu Ngọc chẳng hề oán hận hắn, bởi hắn chẳng làm gì có hại đến cả hai. Trái lại gặp hắn đây cả hai còn vui vẻ hơn, cả hai nghĩ đến việc hắn làm cảm thấy thích thú vô cùng.

Song, Phương Bửu Ngọc thích thú về những việc xa xưa, chứ còn hiện tại thì chàng tự hỏi hắn có mặt quanh đây với mục đích gì. Và có thể chàng không thích thú nổi, bởi những mực đích đó của Lý Danh Sanh.

Lý Danh Sanh khổ sở vô cùng, đáp:

- Ngựa trắng của tại hạ, tại hạ đã bán từ lâu, cái danh hiệu Bạch Mã Tướng Quân tại hạ cũng không dùng đến nữa.

Hắn cao giọng hơn một chút:

- Phương Bửu Ngọc đại hiệp! Ngưu Thiết Oa đại hiệp! Hai vị cầm như chưa gặp gỡ tại hạ lần nào vậy, là hay lắm.

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Tại sao bán bạch mã? Hay là trong mấy lúc sau này, các hạ làm ăn thất bại?

Lý Danh Sanh thốt:

- Lấy cái việc lừa người làm kế sinh nhau, lâu rồi tại hạ cũng chán, tại hạ đã bỏ nghề đó, bây giờ tại hạ chuyển qua nghề đốn củi, để kiếm ăn cũng thừa thãi!

Hắn cao giọng hơn một chút:

- Phương đại hiệp! Ngưu đại hiệp! Chúng ta sẽ gặp nhau lại trong một ngày sau vậy!

Hắn quay mình, dợm bước đi.

Ngưu thiết Oa vội chụp tay hắn, giữ lại:

- Đi đâu mà vội? Chúng ta phải đàm đạo thêm một lúc nữa chứ!

Lý Danh Sanh thốt:

- Các vị là một bậc vương giả trong hàng kiếm khách, một là công chúa trong võ lâm, một là hào kiệt giang hồ, còn tại hạ thì chỉ là một gã tiều phu hèn hạ, làm sao dám đối diện đàm đạo với các vị?

Tiểu công chúa vụt hỏi:

- Sao ngươi biết được ta?

Lý Danh Sanh giật mình, biến sắc, ấp úng:

- Tại ha..... tại ha..... không biết chi cả, bất quá tại hạ nói mơ hồ...

Tiểu công chúa lạnh lùng:

- Ngươi và hai người đó, là bằng hữu với nhau, họ không có ác ý đối với ngươi, ngươi và họ không có cừu hận tại sao vừa thấy họ, là ngươi toan chạy đi? Tại sao ngươi toan lánh mặt họ?

Lý Danh Sanh đổ mồ hôi ướt đầu:

- Tại hạ... tại hạ không...

Tiểu công chúa chận lại.

- Ngươi có! Có mà! Sao ngươi lại nói không? Có thể do ngươi biết một bí mật gì đó, ngươi không muốn nói sự bí mật với họ, ngươi sợ họ bắt gặp ngươi rồi họ hỏi cho nên...

Nàng gằn giọng tiếp:

- Hẳn ngươi có một mưu đồ gì!

Lý Danh Sanh rung giọng kêu lên:

- Tại hạ không có mưu đồ gì hết! Tại hạ chẳng biết một bí mật nào cả, tại hạ chẳng nghe, chẳng thầy chi cả. Tại hạ chẳng biết gì cả.

Bỗng, Tiểu công chúa đưa tay lên tát vào mặt hắn bảy lượt, nặng giọng hỏi:

- Ngươi, biết hay không biết?

Lý Danh Sanh kêu to:

- Tôi không biết! Tôi...

Tiểu công chúa vung tay, đấm vào mũi hắn một đấm, cười nhẹ hỏi:

- Biết hay không biết?

Đôi má của hắn sưng đỏ ửng, mũi cũng sưng lên, máu mũi chảy ròng ròng.

Cùng một lúc với máu nước mắt của hắn trào ra tuôn như xối.

Rồi thân hình hắn rung rung, cuối cùng thì hắn ngã sụm xuống.

Hắn đưa tay xoa má, xoa mũi, hắn lấy ống tay áo lau nước mắt rồi hắn rung rung giọng thốt:

- Tại hạ biết!

Hồi 43

Mỹ Nhân Tâm

Tiểu công chúa mỉm cười:

- Đánh có đau lắm không? Phải chi ngươi tự nói ngay lúc đầu, thì ta đâu phí công xuất thủ, mà ngươi cũng chẳng đau đớn!

Lý Danh Sanh dù đau đớn vô tưởng nhưng cũng cố gắng chịu đựng, hấp tấp thốt:

- Không đau! Không đau! Tại hạ...

Tiểu công chúa vẫn cười:

- Ngươi không đau? Thế ra ta đánh nhẹ à? Vậy ta tái diễn môt lần nữa xem!

Lý Danh Sanh kêu lên:

- Đau! Đau! Bây giờ mới nghe đau đây, cô nương ơi! Đau quá đi thôi! Đau có thể chết được đó!

Phương Bửu Ngọc đứng bên cạnh bật cười.

Thực ra là chàng cũng nhận rõ là Lý Danh Sanh có ẩn dấu một sự việc gì, chàng không cần xuất thủ gạn hỏi ra, bởi chàng thừa hiểu mẫu người như Lý Danh Sanh chẳng có gì sâu sắc kỉên quyết cả, vả lại tài nghệ của hắn cũng vào loại tầm thường, Tiểu công chúa thừa sức chế ngự hắn.

Ngưu Thiết Oa vốn tánh thành phác, chẳng biết cái gian giảo của ai cả, nghe Lý Danh Sanh chẳng biết gì cũng tin như vậy, nên thấy tiểu công chúa đánh hắn không nương tay, gã cũng bất bình thay cho Lý Danh Sanh.

Song gã nhìn sang Phương Bửu Ngọc, thấy chàng khoanh tay bất động, cũng nín luôn.

Bỗng tiểu công chúa gằn từng tiếng:

- Thật sự, trong mấy năm nay ngươi làm nghề đốn củi?

Lý Danh Sanh đáp nhanh:

- Thật vậy đó cô nương! Tại hạ nào dám lừa...

Tiểu công chúa trừng mắt:

- Nói nhảm! Nơi đây là rừng dâu, ai cho phép ngươi vào đây đốn củi? Mà, trong một khu rừng dâu, làm gì có củi cho ngươi đốn đủ cho ngươi mua bán nuôi sống?

Lý Danh Sanh giải thích:

- Tại hạ...tại hạ đi nơi khác đốn củi, sở dĩ tại hạ có mặt trong rừng này là vì tại hạ có nhà cửa tại đây.

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Cũng được đi! Vậy có nghĩa là ngươi cư ngụ trong khu rừng dâu này? Ta hỏi ngươi, trong hai hôm nay, việc gì đã xảy ra tại đây? Ta tin chắc là ngươi phải biết, có đúng thế chăng?

Lý Danh Sanh vẫn giọng hấp tấp, đáp:

- Không!.... Có chứ! Có cô nương ạ! Tại hạ biết! Tại hạ biết!

Hắn muốn nói không, song tiểu công chúa nhìn hắn, thành ra hắn trở lại, phải nhận là mình biết, biết hết mọi chuyện!

Tiểu công chúa cười hì hì:

- Đã biết, ngươi cứ nói, nói cho ta nghe, nói hết nhé! Tất cả những gì ngươi biết! Không được giấu một chi tiết nhỏ mọn nào nhé!

Lý Danh Sanh đưa tay xoa má, rồi bóp chóp mũi, hai nơi đó xưng vù.

Hắn khóc rưng rưng, hắn mếu máo:

- Tại hạ...nói ra rồi...chỉ sợ không sống được nữa, cô nương ơi!

Tiểu công chúa lạnh lùng:

- Nếu ngươi không nói, hẳn ngươi sống được chăng?

Lý Danh Sanh khóc tiếng to hơn, vừa khóc vừa thốt:

- Tại hạ...tại hạ...

Hắn rên rỉ:

- Nói! Tại hạ nói...

Tiểu công chúa đang lạnh mặt đó liền nở nụ cười, gật đầu:

- Vậy là ngươi thông minh đó! Thôi! Nói đi!

Lý Danh Sanh tiếp:

- Ngôi nhà bên ngoài đó là của bằng hữu tại hạ, họ Trần, tại hạ gọi hắn là Hồng Ti Tử, cứ mỗi chiều, nhân nhàn rỗi, tại hạ đến với hắn chuyện trò, uống năm ba chén rượu.

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Lão Trần có vợ con chăng?

Lý Danh Sanh đáp:

- Hắn có vợ và hai người con gái!

Hắn liếc nhanh sang Phương Bửu Ngọc, đoạn tiếp:

- Nhưng tại hạ đến đó để đàm đạo với hắn chứ chẳng phải để chú ý tới con hắn!

Tiểu công chúa thốt:

- Xem cử động của ngươi vừa rồi ta biết rõ ngươi chẳng phải là kẻ có tâm địa lương thiện gì. Được rồi, ngươi đến đó tìm bạn hay tìm con bạn, mặc kệ ngươi, cứ nói tiếp đi!

Lý Danh Sanh tiếp:

- Hôm qua, vào giờ ngọ, tại hạ định đến với lão Trần để cho lão biết, chiều lại, tại hạ dùng cơn với lão. Song vừa đến trước cửa, tại hạ nghe trong nhà có tiếng la kêu cứu mạng.

Hắn thở dài rồi tiếp:

- Tại hạ nhận ra ngay, chính là thanh âm của lão Trần. Không dám vào nhà vội, tại hạ nấp sau một thân cây nhìn vào, xem cho biết việc gì xảy ra trong nhà...

Ngưu Thiết Oa nổi giận:

- Bằng hữu kêu la cứu mạng, ngươi không vào ngay mà tìm chỗ ẩn nấp à?

Lý Danh Sanh đáp:

- Tại hạ không đủ sức cứu hắn, tại hạ...

Ngưu Thiết Oa quát:

- Hèn! Ngươi hèn lắm! Mà thôi cũng được đi, bởi ngươi sợ chết, không ai cấm ngươi sợ chết, chỉ có lương tâm ngươi cấm ngươi thôi! Cứ nói tiếp ngươi thấy gì nào?

Lý Danh Sanh thở ra:

- Tiếng kêu cứu vang lên một lần rồi tắt lịm. Kế đó, tại hạ thấy mấy người đi ra, họ lùa hai con gái của lão và vợ chồng lão đi!

Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Mấy người đó có hình dáng như thế nào?

Lý Danh Sanh trầm ngâm một chút:

- Mũi to, mắt lớn, họ có vẻ hung ác lắm, mặt họ bừng bừng sát khí, họ đồng vóc, đồng dạng, chẳng khác những hình tượng được chung đúc chung khuôn.

Phương Bửu Ngọc và Tiểu công chúa đưa mắt nhìn nhau, Lý Danh Sanh lấy làm lạ, hỏi:

- Các vị nhận ra họ?

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Ngươi cứ nói, việc của ngươi là nói hết nhừng gì nghe và thấy, đừng để ý đến bọn ta làm gì!

Lý Danh Sanh tiếp:

- Vợ chồng, con cái lão Trần khóc sướt mướt, rên rỉ nghe thảm thương quá, tuy nhiên, chẳng một ai bị thương tích gì, mà họ cũng chẳng bị trói. Tại hạ thở phào, hơi nhẹ lo cho họ.

Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Rồi bọn người áo đen dẫõn gia quyến lão Trần đi đâu?

Lý Danh Sanh lắc đầu:

- Tại hạ không được biết! Có tất cả năm người áo đen, ba người đưa gia quyến lão Trần đi, hai người ở lại trong nhà.

Ngưu Thiết Oa thở dài:

- Hai tên đó xấu số quá chừng! Chứ phải chúng dành đi để bọn kia ở lại thì đã sao!

Gã giục:

- Rồi sao nữa, nói tiếp đi?

Lý Danh Sanh thốt:

- Tại hạ nấp xa xa, tuy khá xa song vẫn không dám thở mạnh, lòng vừa sợ vừa lấy làm kỳ. Bởi lão Trần nào phải giàu có gì mà những người đó bắt đi khảo của?

Hắn thở dài, dừng một chút rồi tiếp:

- Tại hạ muốn biết sự tình thế nào, nên cố lách mình theo mấy thân cây, tìm một chỗ thuận tiện nhìn vào. Hai người áo đen đó chẳng làm gì khác hơn là khuân bàn dọn chén đĩa, rồi đặt trên bàn đó có một giỏ lớn. Trong đó có những thố, những đĩa, khói bốc lên nghi ngút. Tại hạ biết ngay họ đang dọn bữa ăn, song lạ lùng thay họ dọn rồi song chẳng ngồi ăn, một người lấy chiếc đèn lồng màu đỏ đốt lên, đem treo nơi cửa, còn người kia thì nhóng cổ nhìn ra xa, chừng như y trông đợi ai vậy. Thỉnh thoảng họ nói với nhau một vài câu...

Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Họ nói với nhau những gì?

Lý Danh Sanh lắc đầu:

- Tại hạ không nghe được. Bất quá lúc đó tại hạ hiểu mang máng được là cả năm người bọn họ hợp sức với nhau làm một việc hết sức tầm thường là họ mượn nhà của lão Trần để tiếp khách. Vì một việc nhỏ mọn như vậy, họ phải phí bao nhiêu công lực thời gian, lại mang tiếng là bức bách chủ gia rời bỏ nhà đi nơi khác. Tại sao họ không chi ra một số tiền, thiết tưởng lão Trần cũng ưng thuận trong một thời gian chứ? Đuổi người ta đi làm chi như vậy?

Tiểu công chúa lại hừ một tíêng:

- Đừng tìm hiểu vô ích. Ngươi chẳng hiểu được gì đâu, cứ nói tiếp cho ta nghe đi!

Lý Danh Sanh thốt:

- Hai người đó đứng lại cửa đón, chờ khách, ngờ đâu khách lại do cửa sau mà vào thẳng ra phía trước, họ đi rất nhẹ, họ đến sát bên lưng hai người áo đen, mà cả hai vẫn không hay biết gì cả. Con tim tại hạ lúc đó đập mạnh, suýt rơi khỏi lồng ngực...

Phương Bửu Ngọc chớp mắt:

- Bốn năm người khách có hình dáng như thế nào?

Lý Danh Sanh đáp:

- Họ vận y phục đen, đầu bao kín vải đen, chẳng trông thấy mặt mũi họ ra sao. Thoạt đầu, tại hạ tưởng hai người trước và mấy người sau cùng một tổ chức nào đó, nhưng nhìn kỹ lại thì thấy bọn người sau ai ai cũng cầm kiếm mặt bốc bừng sát khí. Một người trong bọn họ bảo hai người kia quay đầu lại. Hai người kia giật mình, cấp tốc quay mình, nhưng thân hình vừa nhích động, thép kiếm chớp lên, cả hai ngã nhào.

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Họ không hỏi hai người kia một tiếng sao?

Lý Danh Sanh thốt:

- Họ chẳng hỏi một tiếng nào. Họ vung kiếm quét nhanh vô tưởng, bình sanh tại hạ chưa từng thấy ai có thủ pháp nhanh như thế!

Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một lúc:

- Các hạ có nhận ra kiếm pháp của họ thuộc môn phái nào không?

Lý Danh Sanh lắc đầu:

- Tại hạ không nhận ra nổi!

Phương Bửu Ngọc lại suy nghĩ một lúc:

- Theo các hạ nhận xét thì kiếm pháp người đó được bao nhiêu năm tu vi?

Lý Danh Sanh cũng suy nghĩ một lúc như chàng rồi đáp:

- Theo xét đoán của tại hạ thì kiếm pháp của hai người đó ít lắm cũng được bốn năm mươi năm hoa? hầu, người nào chưa luyện trong một thời gian dài như vậy đừng hòng thành tựu như họ, và nhất là phải luyện tập không ngừng mới mong đạt cái kết quả phi thường đó. Kỳ quái hơn hết cả là cả hai cùng sử dụng một kiếm pháp, lại cùng một mức độ, chẳng ai kém ai. Tại hạ nghĩ một người luyện được kiếm pháp như vậy, thật là hiếm có trên đời, bỗng dưng xuất hiện đến hai người cùng một lúc. Trên thế gian này sao lại có nhiều người tài ba không tưởng nổi như thế?

Phương Bửu Ngọc cau mày, lẩm nhẩm:

- Bốn năm mươi năm...

Ngưu Thiết Oa lại hỏi:

- Rồi sau đó?

Lý Danh Sanh tiếp ; - Giết xong hai người áo đen, cả hai lục soát trong người chúng, tại hạ cho rằng họ là những tay cường đạo mới lục soát như vậy, và lấy hết sức làm lạ, tại sao người có kiếm thuật cao siêu như thế lại hành nghề cường đạo. Bỗng một người kêu lên:

- Đây rồi! Ở đây rồi!

Hắn thở dài rồi tiếp:

- Cả hai giết người để đoạt lấy một mảnh giấy!

Phương Bửu Ngọc hấp tấp hỏi:

- Đọc mảnh giấy rồi, họ có nói chi với nhau chăng?

Lý Danh Sanh đáp:

- Một người hỏi:

Từ đây đến phủ Đại Danh có bao nhiêu dặm đường? Người kia đáp:

Không xa lắm. Y không nói rõ số dặm đường, chỉ đáp gọn như vậy thôi. Người kia giục:

Thế thì chúng ta đi ngay.

Phương Bửu Ngọc giật mình:

- Đại Danh phủ! Thì ra là Đại Danh phủ!

Tiểu công chúa lại hỏi:

- Rồi họ đi liền?

Lý Danh Sanh thở dài:

- Phải chi họ đi liền!

Phương Bửu Ngọc trố mặt:

- Chứ họ còn làm chi nữa? Họ nói với nhau những gì nữa?

Lý Danh Sanh thốt:

- Một người trong bọn họ bỗng cất tiếng:

các vị thư thả một chút, đợi tại hạ tìm gốc cây làm cái việc đại tiện.

Ngưu Thiết Oa bật cười ha hả:

- Hắn đại tiện không đúng lúc cho ngươi đó!

Lý Danh Sanh cười khổ:

- Bây giờ nhắc lại, thì phải buồn cười, song lúc đó tại hạ kinh hãi, tưởng Diêm vương sai quỷ sứ đi tìm mình song phải chịu vậy chứ chạy đi đâu cho kịp? Tại hạ nghĩ quanh đó có nhiều gốc cây, nào phải chỉ có một gốc cây của tại hạ đâu? May thay hắn không đến gần tại hạ và tại hạ mong mỏi y làm cái việc đó cho gấp gấp rồi kéo nhau đi cho rồi. Ngờ đâu y đi đến bìa rừng, phóng mình lao vút lên không uốn vài vòng rồi đáp xuống...

Ngưu Thiết Oa cười khanh khách:

- Hắn đại tiện ngay giữa không trung, một một lối đại tiện hi hữu!

Chắc ngươi lúc đó chết điếng trong lòng?

Lý Danh Sanh thở dài:

- Y đâu có đại tiện! Y đã phát hiện ra tại hạ từ lúc trước, y nói đến đại tiện là để trấn an tại hạ, cho tại hạ đừng chạy đi đâu vậy thôi, cho tại hạ đừng phòng bị vậy thôi!

Phương Bửu Ngọc kinh ngạc:

- Người đó có thính giác và nhãn lực tinh vi vô tường! Mà hành động lại trầm tĩnh cũng sợ! Người đó là ai chứ? Chúng ta có thể đoán ra được chăng?

Ngưu Thiết Oa hỏi:

- Ngươi có bị hắn chụp chăng?

Lý Danh Sanh đáp:

- Tự nhiên là phải bị!

Ngưu Thiết Oa trố mắt:

- Sao họ không làm thịt ngươi?

Lý Danh Sanh cười khổ:

- Tại hạ nghĩ mình phải số chết rồi! Nhưng chẳng một ai trong bọn họ nhận ra tại hạ, họ đinh ninh tại hạ là một tiều phu chân thật.

Tiểu công chúa mím cười:

- Ngươi đóng kịch khéo lắm mà!

Lý Danh Sanh tiếp:

- Tại hạ nằm sát đất, như con vịt chờ người đồ tể khai đao, tại hạ luôn miệng van xin, một người trong bọn thốt:

gã này không phải là người trong giới giang hồ, gã chẳng hiểu chi đâu, buông tha cho gã đi.

Tại hạ hết sức hân hoan, nhưng một người bảo:

buông tha không được đâu, gã đã nghe và thấy tất cả những việc của chúng ta rồi!

Tiểu công chúa cười nhẹ:

- Ngươi lại chỉ trời chỉ đất, thề sống thề chết, là không bao giờ tiết lộ những gì đã được nghe với ai, thấy ngươi van xin khẩn thiết, có thể là ngươi viện dẫn là nhà có mẹ già hơn chín mươi tuổi chẳng ai nuôi, con còn nhỏ được ba tháng và vợ mới chết lúc sinh đứa bé!

Lý Danh Sanh cười như mếu:

- Thì cũng phải vậy, chứ sao cô nương? Nhưng người đó do dự, y muốn giết tại hạ, may thay trong số cũng có người muốn tha... trong tình trạng lơ lửng đó, tại hạ nghe con tim ngừng lại, hơi thở muốn đứt ngang...!

Tiểu công chúa rùn vai:

- Xem ra bọn người đó hẳn thuộc chính phái, nên không muốn giết lầm kẻ vô cớ. Gặp ta chắc chắn là ngươi mất mạng rồi! Đáng lý ra, họ phải nhận thấy mẫu người như ngươi chẳng thể nào giữ kín như bình!

Lý Danh Sanh biến sắc, run run giọng:

- Nhưng việc đó có liên quan đến cô nương thì tại hạ nhất định giữ bình, tuyệt đối không hề tiết lộ với ai dù dưới một áp lực nào. Yên trí đi cô nương, nếu tại hạ không giữ lời hứa thì xin...

Tiểu công chúa khoát tay:

- Được rồi, khỏi phải thề, còn gì nữa thì ngươi cứ nói hết ra đi Lý Danh Sanh thở ra mấy lượt, hơi trấn tĩnh tâm thần, tiếp:

- Bốn năm người đó chưa quyết định nên tha hay giết tại hạ, đột nhiên một người vận y phục đen từ bên ngoài rừng chạy vào, vừa thở hồng hộc vừa thốt:

Phương Bửu Ngọc và Tiểu công chúa đã đến.

Tiểu công chúa à lên một tiếng:

- Thì ra, họ có dặn người ở bên ngoài canh chừng!

Lý Danh Sanh tiếp:

- Tại hạ nghe họ nói đến danh hiệu của hai vị hết sức sợ hãi mà họ cũng hoang mang thoảng thốt, họ lập tức khiêng hai xác chết vào nhà.

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Vì gấp quá, nên họ không kịp vùi hai thi thể đó!

Lý Danh Sanh lại tiếp:

- Tại hạ thấy họ khẩn trương, vừa mừng vừa sợ, là vì họ gấp quá không kịp nghĩ suy, có thể giết tại hạ cho rảnh tay rảnh trí, mừng là vì họ lo cho việc của họ, có thể họ quên tại hạ lắm và như vậy là tại hạ thoát chết.

Hắn đưa tay áo lau mồ hôi trán rồi tiếp:

- Do đó tại hạ lại càng kêu van, càng khẩn cầu cố làm ra vẻ thảm thiết. Cuối cùng một người bảo tại hạ:

chạy đi, chạy càng xa càng tốt, tuyệt đối không nên trở lại. Một người căn dặn:

sự việc ngày nay, ngươi thấy gì, nghe gì, phải giữ bí mật tuyệt đối giữ bí mật xem như chẳng nghe thấy gì cả, từ nay không nên đề cập với bất kỳ ai nhé! Tại hạ mừng quá, mừng đến nỗi quên cả cảm tạ, phóng chân chạy liền.

Tiểu công chúa thốt:

- Cái số của ngươi còn dài đấy!

Ngưu Thiết Oa nói:

- Ngươi đã chạy đi sao còn trở lại?

Lý Danh Sanh ấp úng:

- Tại hạ...tại hạ...thì tại... hạ... trở lại xem...

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Hay cho tên gian hoạt như hồ ly. Ngươi định nói ngoa đấy phải không? Ngươi quay trở lại để nhìn thôi à? Hừ! Chẳng phải ngươi đưa đường cho Thiết Kim Đao đến đây à? Nếu ngươi không đưa đường thì hắn làm sao biết được Phương Bửu Ngọc có mặt ở đây mà tìm?

Lý Danh Sanh sửng sốt, há hốc mồm, lưỡi cứng lại, lâu lắm hắn mới lấy lại bình tĩnh, hắn thở dài lẩm nhẩm:

- Chẳng việc gì tại hạ giấu cô nương đựơc! Chẳn ai giấu cô nương được việc chi cả!

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Đó là lẽ dĩ nhiên, ngươi còn phải nói?

Lý Danh Sanh tiếp:

- Tại hạ chạy chết, chạy không cần nhận định phương hướng, bởi còn thì giờ đâu mà nhận định phương hướng! Cốt làm sao càng xa nơi đó là được rồi, xa càng sớm càng hay! Tại hạ chạy không nhìn trước mặt, bất thình lình chạm mặt một người. Thì ra chẳng phải tại hạ vô tình chạm người đó mà là người đó cố ý chặn tại hạ lại.

Tiểu công chúa mỉm cười:

- Thật là tấu xảo! Tấu xảo tuyệt diệu!

Lý Danh Sanh thở dài:

- Tấu xảo hay không tấu xảo, tại hạ chẳng hề nghĩ đến, có điều thấy người đó vận y phục đen, tại hạ hoảng kinh rồi. Tại hạ định quay người chuyển hướng tiếp tuc chạy, người đó chụp tại hạ, giữ lại hỏi. Y hỏi:

đêm hôm nơi rừng vắng, ngươi làm gì chạy chết như vậy? Tại hạ níu lưỡi nói mãi chẳng được tiếng nào rõ ràng. Bỗng người đó kêu lên:

thì ra ngươi!

Tiểu công chúa trố mắt:

- Thiết Kim Đao nhận ra ngươi?

Lý Danh Sanh gật đầu:

- Tại hạ và y quen nhau hai mươi năm trước.

Tiểu công chúa à lên một tiếng:

- Các ngươi là lão bằng hữu!

Lý Danh Sanh tiếp:

- Nhận ra hắn là bạn cũ, tại hạ thở phào, nhẹ nhõm người. Tại hạ hỏi hắn đến đây làm gì, y nói là theo dõi Phương Bửu Ngọc suốt lộ trình dài nhưng đến vùng phụ cận, Phương Bửu Ngọc bỗng nhiên mất hút.

Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Rồi các hạ đưa hắn đến đây?

Lý Danh Sanh đáp:

- Tại hạ nghĩ, hắn đến tìm các hạ, các hạ cũng chẳng có ý bại hoại gì đó, cho nên nể tình bằng hữu, tại hạ đưa hắn đến đây. Nào ngờ đến đây rồi, hắn không cho tại hạ ra mặt, mà lại bắt tại hạ nấp mình sau một thân cây chờ y. Tại hạ cũng vui lòng làm theo ý muốn của y. chừng thấy y và các hạ động thủ, tại hạ hết sức kinh hoàng, sau đó thấy các hạ giết y, tại hạ lại càng sợ hãi, không còn dám xuất đầu lộ diện nữa.

Khổ thay tại hạ chưa kịp chạy đi thì các hạ phát hiện ra tại hạ.

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Ngươi thấy đó, sự việc nào có liên quan gì đến ngươi đâu! Thế tại sao ngay từ đầu ngươi chẳng chịu nói thật đi?

Lý Danh Sanh thở dài:

- Tại hạ đã thoát ly giang hồ từ lâu, không muốn dính dấp đến bất cứ việc gì của ai cả. Cô nương phải biết những điều thị phi ân oán trên giang hồ, một khi vướng phải rồi thì vĩnh viễn chẳng cởi mở ra được, và oan nghiệt sẽ truyền đời truyền kiếp. Ly khai giang hồ là cái may vô tưởng, còn ai muốn quay trở lại cái luẩn quẩn đó nữa? Cơm ngày hai bữa, ngủ đêm năm canh là ước nguyện của tại hạ, miễn sao chuỗi ngày còn lại mãi mãi được an nhàn.

Nói như thế là hắn giải thích sự im lặng của hắn.

Bởi cái miệng kiện cái thân con người, ham nói thì luôn luôn gặp cái họa bất kỳ. Hắn không chịu nói gì là do cái chủ trương đó.

Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một lúc lâu.

Ngưu Thiết Oa gật gật đầu tỏ vẻ tán đồng lập luận đó.

Tiểu công chúa luôn chớp mắt, nàng chớp vì tâm tư nàng dao động vì nhiều ý niệm chợt hiện.

Đôi mắt của nàng hướng sang Ngưu Thiết Oa, dừng lại, ngừng một chút rồi hỏi:

- Hắn nói thế ngươi tin được chăng?

Ngưu Thiết Oa đáp nhanh:

- Hắn nói thật, toàn là sự thật, tại sao tôi không tin được?

Tiểu công chúa lại nhìn sang Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Ngươi tin hay không tin lời hắn?

Phương Bửu Ngọc cười nhẹ:

- Tin hay không tin, cái gì cũng chỉ nửa phần thôi!

Lý Danh Sanh thong thả thốt:

- Tại hạ nói toàn sự thật, không một tiếng sai ngoa!

Tiểu công chúa mỉm cười:

- Hắn tin nửa phần, nhưng ta thì tin hoàn toàn, tin trọn vẹn!

Lý Danh Sanh mừng rỡ:

- Nếu vậy, cô nương buông tha cho tại hạ đi?

Công chúa điềm nhiên:

- Cũng được, nhưng ngươi chờ ta một chút để ta thương lượng với Phương Bửu Ngọc.

Nàng day qua Ngưu Thiết Oa:

- Ngươi ở đây giữ hắn nhé!

Đoạn nàng nắm tay Phương Bửu Ngọc kéo chàng đi xa xa.

X Ra đến bên ngoài rừng rồi, Tiểu công chúa buông tay.

Bên ngoài là nơi trống trải, đên thu dù lạnh nhưng bầu trời thì trong vắt đẹp vô cùng, ngàn sao cẩn nơi nền xanh chiếu sáng dịu xuống trần gian, ánh sao phủ quanh mình nàng, nàng hiện ra như một nàng tiên rời cung trời dạo quanh trần thế...

Phương Bửu Ngọc nhìn mái tóc đen huyền phất phơ theo chiều gió, lòng chàng man mác bâng khuâng...

Khung trời đẹp, ngàn sao lớn nhỏ đẹp, song mọi vẻ đẹp đều không hấp dẫn chàng, chàng chỉ nhìn cái đẹp trước mắt, cái đẹp trong tầm tay.

Dù cái đẹp đó hữu hoại, không sánh bằng cái đẹp thiên nhiên, cái đẹp đó vẫn quyến rũ chàng như thường, bởi chàng chẳng phải thiên nhiên thì đương nhiên chàng phải đắm say cái gì hữu hoại, có giới hạn sinh tồn.

Là con người, ai ai cũng có dục vọng, khác chăng là thanh cao hay thô tục.

Còn đam mê dục vọng thì khoan nói đến thiên nhiên, bởi thiên nhiên dành cho hạng siêu nhiên.

Tài nghệ của chàng là siêu nhiên, nhưng lòng chàng còn trần tục, đừng ai trách hiện nay chàng lờ đi cái đẹp thiên nhiên để chuyên chú vào cái đẹp hữu hoại, Tiểu công chúa biết rõ Phương Bửu Ngọc đang nhìn mình song nàng vờ vĩnh hỏi:

- Ngươi nhìn gì? Ngươi đang tưởng gì?

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Tại hạ tưởng gì, cô nương hỏi làm chi? Cô nương nào hiểu được!

Đêm là đồng lõa của mọi liều lĩnh.

Có những việc người ta không dám làm ban ngày, thì đêm đến, bóng đêm, không khí đêm như khuyến khích người ta làm.

Có những lời người ta ngượng nói ban ngày nhưng đến đêm thì thao thao bất tuyệt.

Đêm nẩy tội lỗi, ngày cảnh cáo, sửa chữa con người tội lỗi.

Trên thế gian này, nếu có ai làm thống kê, hẳn đã thấy những tội lỗi do người đời phạm, đều lấy đêm làm bối cảnh cho một số trường hợp.

Tiểu công chúa vụt cúi đầu, lâu lắm mới ngẩng lên, một nụ cười điểm nơi vành môi, nhưng nụ cười đó tan biến ngay khi đầu đã ngẩng lên tròn tư thế.

Gương mặt tươi như hoa chợt lạnh lùng.

Mặt đã lạnh lùng thì lời nói cũng lạnh lùng:

- Ta không cần biết ngươi đang tưởng gì, ta bất chấp điều đó.

Ngươi có tưởng như thế nào, mặc ngươi. Ta chỉ hỏi ngươi Lý Danh Sanh nói như vậy ngươi có tin hay không tin? Tin thì ngươi tin điểm nào, không tin thì điểm nào làm cho ngươi hoài nghi?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Những việc hắn thấy có thể là đúng như hắn nói. Hắn bị bắt rồi được tha, có thể sự thật là như vậy. Hai điểm đó theo tại hạ nghĩ có thể là sự thật. Nghĩa là chúng ta tin được hai điểm đó.

Tiểu công chúa gật đầu:

- Ừ! Còn nhừng gì hắn nói ngoa?

Phương Bửu Ngọc tiếp:

- Điều thứ nhất:

hắn không thể kham nổi một cuộc sống bạc nhươc như hắn khoa trương, cái việc hắn ly khai giang hồ, cam chịu sống ở một khu rừng tịch mịch, cái điểm đó tại hạ chẳng tin được...

Tiểu công chúa điềm nhiên:

- Ngươi nói thứ nhất, hẳn phải có thứ hai thứ ba?

Phương Bửu Ngọc gật đầu, rồi chàng tiếp:

- Thứ hai:

con người như Thiết Kim Đao làm gì lại đi kết giao với hắn, mà hắn cho rằng Thiết Kim Đao là bằng hữu của hắn, lại là lão bằng hữu. Cho nên nghe hắn nói là nể tình một lão bằng hữu, nên hắn đưa người đến gặp chúng ta là tại hạ đã hoài nghi rồi.

Tiểu công chúa vẫn thản nhiên:

- Thứ ba...?

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Có một, có hai phải có ba. Nhất quá tam mà! Tuy vậy, trong trường hợp này, có hai cũng đủ lắm rồi, cần gì đến ba?

Tiểu công chúa gật đầu, tiếp:

- Cũng được, bây giờ ta hỏi ngươi, hắn nói ngoa hẳn phải có mục đích gì? Tại sao hắn dấu chân tướng sự việc, hắn nói như vậy có ích gì cho hắn? Việc của người mà mình dấu trước hết có lợi cho người, hắn làm lợi cho người, hắn có lợi gì riêng cho hắn?

Phương Bửu Ngọc cười khổ:

- Điều đó... tại hạ chịu thôi, không đoán nổi!

Tiểu công chúa cười lạnh:

- Ngươi thường tự hào là thông minh, thế ra ngươi thông minh cũng có lúc chẳng hiểu gì cả!

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Tại hạ không biết, còn cô nương? Cô nương biết được à?

Tiểu công chúa không đáp câu hỏi chỉ buông gọn:

- Ta không tự hào ta thông minh, chẳng ai cho ta là thông minh, ta khác ngươi!

Phương Bửu Ngọc hừ một tiếng:

- Bỏ qua hai tiếng thông minh ấy đi! Bây giờ tại hạ xin hỏi, cô nương muốn xử trí hắn như thế nào đây?

Tiểu công chúa chớp mắt:

- Ngươi muốn xử trí hắn làm sao?

Phương Bửu Ngọc thầm nghĩ:

- Sao ta lại không biết ý ngươi! Ngươi định bụng tha hắn rồi âm thầm theo hắn!

Nhưng, chàng mỉm cười đáp:

- Tại hạ không đoán nổi ý tứ của cô nương!

Tiểu công chúa thốt:

- Ta muốn phóng thích hắn, rồi âm thầm theo dõi hắn xem hắn đi về đâu. Xem hắn có mục đích gì lại cố giấu sự thât với chúng ta?

Phương Bửu Ngọc vỗ tay:

- Hay quá! Hay quá! Tại hạ thật tình không nghĩ ra phương pháp tuyệt diệu như vậy nổi!

Tiểu công chúa mỉm cười.

Lần thứ nhất nàng hân hoan vô cùng.

Phải chứ, ít nhất cũng phải có một lần, nàng sáng suốt hơn Phương Bửu Ngọc chứ?

Chẳng lẽ nàng kém chàng, kém luôn luôn kém ở mọi phương diện hay sao?

Thương hại cho nàng quá, sao nàng mãi đấu trí với Phương Bửu Ngọc thế?

Nàng cười hì hì tiếp:

- Ta là kẻ ngốc, lắm lúc kẻ ngốc cũng có ý kiếm hay. Ngươi là bậc thông minh, lắm lúc bậc thông minh cũng ngán kẻ ngốc!

Phương Bửu Ngọc nhìn nàng cười nhẹ, chàng cười nghe quái dị vô cùng.

Tiểu công chúa sừng sộ:

- Ngươi cười gì?

Phương Bửu Ngọc điềm nhiên:

- Giọng cười của tại hạ kỳ quái là vì con người của cô kỳ quái quá!

Tiểu công chúa trừng mắt:

- Ta có chi kỳ quái?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Trước mặt người ngoài có lúc cô nương tỏ ra rất thân thiện với tại hạ, nhưng khi người ngoài đó đi mất rồi thì cô nương lại sừng sộ, gắt gỏng, chỉ trích, mỉa mai, tại hạ không chịu nổi.

Tiểu công chúa chỉ hừ một tiếng:

- Ta cao hứng thế nào thì làm thế ấy, tùy hứng của ta, hoặc ta buông tha ngươi, hoặc ta đuổi theo ngươi, có thế thôi, chẳng có gì đáng cho là kỳ quái!

Phương Bửu Ngọc vẫn cười:

- Còn nữa cô nương ạ! Giữa chúng ta là một cuộc so trí liên tục, chúng ta luôn luôn đấu tranh với nhau, chúng ta luôn phục vụ cho tự ái của nhau. Nhưng nếu cần đối phó với ai khác thì lập tức cô nương đứng sau tại hạ liền, sẵn sàng tiếp trợ tại hạ về mọi mặt!

Tiểu công chúa dậm chân:

- Ta hiệp tác với ngươi? Hừ! Đừng nuôi mộng!

Bỗng, nàng quay mình thoắt đi như muốn đi xa gấp gấp.

X Ngưu Thiết Oa trợn tròn đôi mắt, to như hai chiếc lục lạc, gã nhìn trừng trừng Lý Danh Sanh không chớp.

Lý Danh Sanh mỉm cười bắt chuyện:

- Mấy năm không gặp nhau, bây giờ tại hạ nhận ra ngươi đã lớn, lớn quá rồi đó!

Ngưu Thiết Oa điềm nhiên:

- Có khi nào ta thấp nhỏ đâu? Trước, ta cũng cao lớn như thường!

Lý Danh Sanh tiếp:

- Trước, ngươi có tâm địa rất tốt!

Ngưu Thiết Oa điềm nhiên:

- Bây giờ, dù tâm địa ta có tốt hơn, ta cũng chẳng phóng thích ngươi!

Lý Danh Sanh giật mình.

Hắn không cười nổi nữa. Hắn biết là mình thổi kèn bên cạnh tai trâu, điệu kèn có huyền dịêu cũng chẳng ảnh hưởng gì.

Một lúc lâu bỗng hắn lấy tay vỗ bụng bình bịch, rồi hắn há rộng miệng kêu lên:

- Trời ơi! Đau bụng quá! Đau suýt...

Ngưu Thiết Oa cười khì khì:

- Kẻ nào lừa ta, ta còn có thể mắc mưu, chứ như ngươi, hà hà! Đại ca ta chưa trở lại đây, thì ngươi đừng hòng giở trò gì! Chỉ cần ngươi làm một cử động nhỏ thôi ta cũng đập vỡ sọ ngươi liền!

Lý Danh Sanh thực sự đâu có đau bụng.

Hắn nhìn lom khom Ngưu Thiết Oa một lúc lâu, hắn thở dài:

- Mấy năm không gặp nhau! Bây giờ ngươi biến đổi rất nhiều! Bây giờ ngươi thông minh hơn ngày trước nhiều!

Một người cười nhẹ, đáp thay Ngưu Thiết Oa:

- Hắn không thông minh đâu, dù là một điểm nhỏ! Hắn là ngốc tử, nhưng ngươi phải biết, ngốc tử chẳng phải là con người dễ bị lừa, bởi càng thông minh càng dễ bị lừa, chỉ có ngốc tử chẳng hề tin ai nên không dễ bị lừa!

Người phát ra câu nói là Tiểu công chúa.

Câu nói vừa buông dứt, nàng đã đến nơi.

Nàng chạy đi, rời biệt Phương Bửu Ngọc, không phải để đi đâu cả mà để trở lại nơi này.

Nàng đảo mắt nhìn quanh xem có việc gì khác lạ xảy ra trong lúc nàng và Phương Bửu Ngọc vắng mặt, đoạn mỉm cười tiếp:

- Người thông minh, lòng lo nghĩ quá nhiều thành đa nghi, mắt muốn nhìn tất cả thành hoang mang, do đó tâm tư không vững chắc dễ bị dao động, nếu nghe được chuyện gì hữu lý là người thông minh dễ bị dao động tâm thần ngay. Còn kẻ ngu ngốc chẳng cần nhìn ra xa, chẳng cần nghe nhiều việc, do đó chẳng cần tìm hiểu ngoài những cái gì ngu ngốc cho dễ hiểu. Huống chi kẻ ngu ngốc đã đinh ninh là ngươi sắp lừa hắn, hắn đã lập sẵn sàng rào ngăn chặn, dù ngươi có làm gì cũng chẳng làm dao động nổi kẻ ngu ngốc. Ngươi lừa dĩ nhiên là không mong gì thành công rồi, mà ngươi nói thật hắn cũng chẳng nghe. Hắn không nghe thì làm sao hắn tin?

Lý Danh Sanh thở dài:

- Cô nương nói phải, thật ra tại hạ chỉ nói những lời chân thật, tại hạ chẳng nói một lời sai ngoa. Vậy mà hắn vẫn không tin! Cô nương nghĩ, có tức chết cho tại hạ không?

Tiểu công chúa bước tới, vỗ lên vai hắn, cười nhẹ, tiếp:

- Chẳng có quan hệ gì cả! Ngươi nói lời chân thật, hắn không tin, ta tin! Hắn không tin, ngươi chẳng thiệt thòi gì, ta tin ngươi lại có lợi hơn...

Lý Danh Sanh cả mừng:

- Cô nương.. cô nương và Phương thiếu hiệp bằng lòng phóng thích tại hạ?

Tiểu công chúa gật đầu:

- Đúng đó! Ngươi muốn đi cứ đi!

Lý Danh Sanh vụt đứng lên, chớp mắt:

- Tại hạ...tại hạ đi được chứ hở cô nương?

Tiểu công chúa mỉm cười:

- Tự nhiên! Ngươi muốn đi lúc nào tùy ý, ngay từ phút giây này người được tự do rồi đó!

Lý Danh Sanh mừng vô tưởng, hắn muốn tin lại không dám tin, hắn không muốn tin thì sự tình rõ rệt quá, không tin không được.

Hắn đưa tay chà mắt, hắn nhìn Phương Bửu Ngọc.

Chàng chẳng nói gì cả.

Bỗng hắn vụt chạy đi, sợ họ đổi ý.

Tiểu công chúa nhìn theo bóng của hắn, điểm phớt một nụ cười.

Phương Bửu Ngọc chợt hỏi:

- Chúng ta chưa đuổi theo?

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Ngươi gấp gì chứ?

Phương Bửu Ngọc thốt:

- Dù thuật khinh công của hắn tầm thường, song hắn gian hoạt vô tưởng, hà huống hiện tại đang đêm, hắn thuộc đường lối, chúng ta là người lạ cảnh lạ vùng, giả như hắn lấp đâu đó, chúng ta làm sao tìm ra hắn?

Tiểu công chúa cười nhẹ:

- Ngươi yên trí! Hắn chẳng thoát đi đâu mất dấu!

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Bằng vào đâu?

Tiểu công chúa mỉm cười:

- Vô luận hắn trốn ở đâu, ta cũng có cách tìm ra hắn.

Phương Bửu Ngọc nhìn sững nàng:

- Công nương có ma thuật chi?

Tiểu công chúa khoat tay:

- Thôi! Đừng hỏi nữa! Ngươi nóng nảy thì chúng ta cứ đuổi theo hắn. Rồi ngươi sẽ biết là tại sao hắn không thể trốn tránh chúng ta được!

Nàng day qua Ngưu Thiết Oa căn dặn:

- Ngươi đợi ở đây nhé! Đừng đi đâu cả!

Ngưu Thiết Oa cau mày ; - Đại ca! vị cô nương đó dựa vào đâu mà ra lệnh đến cả tôi như vậy?

Phương Bửu Ngọc an ủi gã:

- Lần này, hiền đệ nên nghe lời nàng đi!

Ngưu Thiết Oa nhìn theo bóng hai người khuất dần, miệng lẩm nhẩm:

- Không hiểu nổi! Thả người ra để theo dõi người ta, bắt lại! Nàng ấy có cái tật quái dị thế?

Gã ngồi xuống nhìn lên nền không đếm sao.

X Trong một khu rừng, nếu có ánh sao chiếu xuống, ánh sao đó đương nhiên phải mờ nhạt, bởi phải vượt qua nhiều chướng ngại, bởi phải len qua nhiều ngăn trở.

Qua ánh sáng mờ mờ đó, dù Phương Bửu Ngọc có nhãn lực hơn người, chàng cũng chẳng nhìn xa đúng như ý muốn.

Nhãn lực của chàng hiện tại, giới hạn trong vòng bốn năm trượng.

Ngoài khoảng cách đó chàng chẳng trông thấy được gì.

Nhưng, Lý Danh Sanh đâu còn luẩn quẩn trong vòng bốn năm trượng.

Cả hai vọt đi, qua một đoạn đường, Phương Bửu Ngọc chợt hỏi:

- Cái tài truy nã của cô nương đâu? Bỏ quên tại Vạn Trúc Sơn trang rồi phải không?

Thay vì hận, Tiểu công chúa phì cười:

- Đừng gấp chứ...

Rồi nàng chỉ tay về phía trước:

- Cái gì đó, ngươi nhìn xem!

Phương Bửu Ngọc nhìn theo tay nàng, thấy xa xa trong bóng tối có một điểm xanh biếc như lân tinh, mường tượng như lửa ma.

Điểm xanh biếc đó di động chứ không ở nguyên một chỗ.

Phương Bửu Ngọc lấy làm kỳ:

- Cái gì thế?

Hỏi rồi chàng không đợi tiểu công chúa đáp, điểm nụ cười tươi thốt:

- Thì ra cô nương dùng thuật mọn!

Tiểu công chúa gật đầu:

- Đúng vậy! Vừa rồi ta vỗ tay lên vai hắn, cốt lưu ký hiệu nơi hắn, ký hiện đó là Phụ Cốt Lân Đinh, loại đinh đó bám vào mình hắn, dính mãi mãi như liền với xương. Nên hắn đi đến đâu, chất lân tinh chớp chớp đến đó, ta cứ theo đốm lân tinh mà đi theo hắn, làm gì hắn phát giác nổi. Chính chúng ta đây vận dụng nhãn lực mà không thấy hắn, ngoài cái điểm lân tinh ra thì hắn làm sao phát hiện ra chúng ta đang đi theo sau?

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Tại hạ kém cô nương về cái điểm đó!

Tiểu công chúa nhìn chàng:

- Nghĩa là về các điểm khác thì ngươi hơn ta?

Phương Bửu Ngọc chỉ cười khổ chứ không nói gì.

Tiểu công chúa cũng bĩu môi chứ không nói gì nữa.

Cả hai âm thầm theo dõi Lý Danh Sanh, hay đúng hơn, nhắm điểm lân tinh làm hướng đạo mà đi tới.

Điểm lân tinh di động nhanh lắm, thỉnh thoảng lại dừng dừng rồi tắt. Hiển nhiên lúc điểm lân tinh tắt là lúc Lý Danh Sanh quay nhìn lại phía sau. Bờ vai chuyển ra phía trước, bị áng khuất.

Cũng như có lúc hắn đi quanh co như để đánh lạc dấu nếu như có ai theo dõi, cũng chẳng có ai hiểu là hắn chuyển hướng về nơi nào.

Phương Bửu Ngọc thốt:

- Con người đó gian hoạt phi thường, hắn biết rõ là thuật khinh công còn kém, hắn không sánh được với chúng ta, nên thay vì hắn đi nhanh, hắn lại bước chậm. Phàm một người chạy chốn, có ai chạy chậm bao giờ? Do đó, nếu chúng ta cứ tưởng hắn chạy mau, rồi giở thuật khinh công chạy theo hắn, phải bỏ hắn lại dọc đường, trong khi đó, hắn ung dung thay đổi lộ trinh, là chúng ta mất dấu. Nếu không nhờ cô nương sáng suốt, thì hành tung của chúng ta phải bị hắn phát hiện.

Tiểu công chúa lạnh lùng:

- Ta có ra gì đâu? Ta làm sao sánh được với ngươi? Nói chi cái việc có nhờ ta hay không nhờ?

Phương Bửu Ngọc cười vuốt:

- Cô nương...

Bỗng chàng ngưng bặt câu nói.

Phía trước, điểm lân tinh đã tắt.

Họ đã đến bìa rừng dâu, bên ngoài bìa rừng có một ngọn núi nhỏ, cây cối mọc thành rừng, che khuất ngọn núi, cánh rừng đó có phần dày hơn rừng dâu nhiều.

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Hắn đã phát hiện ra chúng ta?

Tiểu công chúa không đáp, nhún chân nhảy lên một cành cây.

Phương Bửu Ngọc cũng nhảy theo nàng. Họ cúi đầu nhìn xuống, thấy điểm lân tinh vẫn còn sáng, có điều, Lý Danh Sanh nằm sát mặt đất, do đó nếu đứng dưới nhìn tới thì chẳng phát hiện ra, chỉ đứng từ trên cao nhìn xuống thì mới thấy.

Phương Bửu Ngọc thì thầm:

- Bỗng nhiên hắn lại nằm xuống như vậy, hắn có nghi ngờ gì đó!

Tiểu công chúa lắc đầu:

- Chẳng bao giờ hắn nghi ngờ có chúng ta theo dõi đâu. Bởi hắn nhìn về phía đó, chứ nào phải về phía sau hắn đâu. Có thể là con đường trước mặt không ổn cho hắn, sự gì phát sanh gây bất lợi cho hắn sao đó. Hoặc giả hắn nằm đây, chờ người mà hắn có ước hẹn, đến nơi gặp hắn. Mà cũng có thể hắn phát hiện ra một biến cố gì xảy ra cho người ước hẹn với hắn, thành ngăn trở kẻ đó, và hắn chưa giám tiếp tục đi tới.

Phương Bửu Ngọc gật gù:

- Rất đúng! Rất đúng! Bây giờ chúng ta làm sao đây?

Tiểu công chúa đáp:

- Chúng ta chờ xem động tĩnh thế nào rồi hãy tính. Nếu ở đây không tiện thì mình lại đi nơi kia!

Nàng đưa tay chỉ.

Phương Bửu Ngọc tán đồng liền:

- Phải! Phải! Chúng ta phải chờ xem động tịnh.

Bỗng tiểu công chúa bật cười:

- Ngươi biến thành con sâu nhái tiếng từ lúc nào thế? Ta nói chi là ngươi lập lại y như vậy! Ta không tin là ngươi chẳng chỉ ra, ta cũng không tin là ngươi không quyết định như vậy trước khi ta nói. Tại sao ngươi còn hỏi ta?

Hồi 44

Ngũ Hành Cung thần bí

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Hỏi một vì câu cũng chẳng được nữa sao hở cô nương?

Tiểu công chúa cười nhẹ:

- Ngươi mua lòng ta phải không? Ngươi...

Bỗng nàng trầm lạnh gương mặt, tiếp:

- Ngươi cũng lạ lùng thật, trước mặt ta có lúc ngươi tranh khôn, ngươi lấn hiếp ta, ta đuối lý phải chịu thua, có lúc ngươi lại tỏ ra nhu hiền, hoà thuận, nói sao nghe vậy, ngoan ngoãn như một ngốc tử, như chẳng hiểu một sự việc gì. Tại sao thế chứ? Ngươi xem ta là một trẻ nít lên năm lên bảy chăng?

Phương Bửu Ngọc sững sờ nhìn thoáng qua năm bảy lượt rồi buông nhẹ tiếng thở dài:

- Rất tiếc cô nương chẳng còn như một cô bé cắm hoa như ngày nào, hay chú ý cắm hoa hơn, chỉ thích một việc hay cắm hoa vào bình!

Giá như cô nương trở lại bé hơn như ngày xưa thì... hay biết mấy! Hay biết mấy!

Tiểu công chúa chớp ngời ánh mắt rồi mười ngón tay rung rung, rồi đôi môi mọng đỏ rung rung.

Chừng như nàng muốn nói gì đó.

Nhưng, nàng cắn môi, rồi nhảy xuống đất, đoạn chạy vụt tới trước.

X Dâu đã được hái lá rồi, cành thưa, cả hai chạy dưới cành dâu nhắm hướng đã định trước mà chạy, do đó để theo dõi dễ dàng cử động của Lý Danh Sanh.

Cả hai còn trong một khoảng an toàn, nằm nép mình sát mép đất.

Lý Danh Sanh không hề biết có người nằm canh đang theo dõi hành động của hắn.

Đừng nói Phương Bửu Ngọc và Tiểu công chúa im hơi, bặt tiếng, nếu như cả hai có gây tiếng động, vị tất Lý Danh Sanh nghe lọt?

Bởi lúc đó hắn ngưng thần chú ý về phía trước mặt. Chừng như hắn có nghe một thanh âm gì...

Một cơn gió thoảng qua, mang đến cho hắn lẫn Phương Bửu Ngọc và tiểu công chúa tiếng vũ khí chạm nhau xuất phát từ phía ngọn núi có rừng dày bao phủ.

Chen lẫn tiếng chạm vũ khí, có tiếng gắt, tiếng quát, kì quái hơn nữa, lại có cả tiếng cười của nữ, phụ họa với tiếng cười luôn có tiếng vỗ tay.

Những thứ tiếng đó nào phải có thể cùng phát sinh ra một lúc, bởi không ai đánh nhau, vừa cười vừa mắng, lại có thể vỗ tay được.

Cái đạo lý là như vậy, cái đạo lý chẳng thể chấp nhận một sự nghịch thường như vậy.

Nhưng Phương Bửu Ngọc và Tiểu công chúa nghe rõ ràng, không thể không tin dù nghịch thường.

Và đương nhiên, cả hai phải kinh dị.

Cả hai phải nhìn nhận diễn tiến nơi xa xa đó thần bí vô cùng.

Tiểu công chúa và Phương Bửu Ngọc đưa mắt nhìn nhau. Họ tự hỏi, có việc gì đã xảy ra nơi sườn núi phía trước.

Vũ khí chạm là có sát khí bốc bừng, nhưng tiếng cười vang lên như để xóa tan sát khí.

Dù sao cả hai vẫn thấy có sự ác liệt nơi đó dù tiếng cười có vui tươi, cởi mở...

Họ đã không hiểu thì Lý Danh Sanh làm gì hiểu nổi?

Thoạt đầu hắn sợ hãi, dần dần tánh hiếu kỳ phát động lấn át cả niểm sợ hãi, hắm bò sát trên mặt đất từ từ trườn tới.

Sườn núi có rạp, tự nhiên có thừa chỗ lấp, Lý Danh Sanh đi tới, Tiểu công chúa và Phương Bửu Ngọc cũng đi tới.

Lý Danh Sanh ẩn mình xong thì cả hai cũng ẩn mình kín đáo.

X Sườn núi là một bãi lài, bãi lạ, uốn quanh vòng ra phía hậu có một khoảng đất trống.

Có lẽ khoảng đất trống đó là dành cho các cô nương hái lá dâu, khi nghỉ mệt thì tụ lại với nhau đùa giỡn, ăn uống...

Hiện tai, nơi đó có mười mấy cô nương vận y phục thôn nữ.

Mùa hái dâu đã qua rồi, họ tụ lại nơi đây làm gì trong đêm vắng khuya?

Cho nên cách bố trí nơi đây đáp ứng đúng sở nguyện của hạng thiếu nữ yêu đời, mà đến những nàng chán thế cũng muốn hoà mình trong khung cảnh.

Trung tâm là một khoảng đất trống bằng phẳng, sạch sẽ.

Nơi hướng Đông, có một ngôi nhà mát, mái đen, lan can hồng, nhà không rộng lắm song cũng có chỗ đủ cho vài mươi nàng nằm ngồi nghỉ ngơi sau giờ cần giải lao.

Nơi hướng Tây, có một sân dài làm hí trường đài không lớn lắm, khoảng trống trước đài cũng không rộng, có thể đó là nơi các nàng diễn kịch cho nhau xem, các nàng thay đổi nhau mà diễn kịch, kẻ nào diễn thì lên đài, kẻ nào không vai trò gì thì dự khán.

Chắc chắn là không có một ngoại nhân nào vào xem kịch, bởi không còn dư một chỗ đứng nào.

Nơi hướng Nam, có mấy chiếc ghế đá, vài chiếc bàn cũng bằng đá, trên mặt một chiếc bàn phảng phất có khắc hình một bàn cờ, còn bàn kia lại có đầy quả cây, màu sắc hấp dẫn phi thường.

Còn về hướng Bắc chẳng có gì, nơi đó có một bức tường xây bằng đá nhỏ, bằng cát, bằng đất nhồi. Tường rất dài, có lẽ đây là bức tường vạn lý trường thành của các nàng, không phải để ngăn chặn rợ Hung Nô mà là để chắn lối những kẻ hiếu kỳ dòm ngó các nàng đang khi hứng thú dâng cao.

Đã ví bức tường như vạn lý trường thành, thì đi theo hướng đó, cách khoảng đều, có những toà canh nho nhỏ. Trong những toà canh đó có quân lính, có ngựa, có xe, trên tường cũng có quân tuần.

Dĩ nhiên, nhà canh, quân lính, ngựa xe cũng từ đá cát tạo thành.

Và những hình tượng đó chứng tỏ cái tánh vui trẻ con của các nàng.

Bao nhiêu đó cũng đủ rồi, cần gì hơn?

Bao nhiêu đó cũng đủ cho các nàng khuây khỏa nếu gặp điều phiền muộn, nhất là cái khung cảnh tịch mịch nên thơ này, chẳng ai tìm đến quấy nhiễu các nàng.

Nhưng giờ đây, nơi đây có ánh sao ánh kiếm chơm chớp, giờ đây sát khí bao trùm.

X Tiểu công chúa và Phương Bửu Ngọc hết sức kinh dị, mà cả hai cũng thích thú vô cùng.

Có khoảng mười ba mười bốn thiếu nữ vận thôn trang, ngồi rải rác trong toà nhà mát, trên sân đài hí trường, trên bãi có nơi có mấy chiếc ghế.

Họ đảo mắt láo liên, hết nhìn nơi này đến nơi khác.

Nơi một khoảng đất trống, có hai người đang giao đấu. Hai người này có võ công khá cao, có thể liệt họ vào hàng thượng lưu cao thủ trên giang hồ.

Một người sử dụng Uyên Ương song kiếm, kiếm pháp tinh diệu đến nỗi kiếm khí bốc ra lạnh rợn.

Phương Bửu Ngọc nấp ngoài xa hai mươi trượng vẫn nghe lạnh.

Người kia sử dụng một c iếc trượng dài, trượng vung vun vút như rồng dợn mình.

Song kiếm lợi hại nhưng chẳng làm sao xâm phạm vào vùng trượng ảnh nổi.

Trượng và kiếm tung hoành, bóng vũ khí như che khuất hai đấu thủ, nhưng Phương Bửu Ngọc và Tiểu công chúa có nhãn lực hơn người, có thể nhận định dễ dàng.

Bỗng, Tiểu công chúa kêu lên:

- Thì ra là bà ta!

Phương Bửu Ngọc cũng kêu lên:

- Bảy năm không gặp, không ngờ hôm nay lại xuất hiện ở đây!

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Sao lại bảy năm không gặp? Chính ta đã gặp bà ấy trên Thái Sơn trong ngày đại hội kia mà!

Phương Bửu Ngọc điềm nhiên:

- Cô nương nói đến Vạn lão phu nhân, còn tại hạ nói về một người khác!

Tiểu công chúa cau mày:

- Một người khác? Người khác là ai? Ngươi nhận ra à?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Lai lịch của người đó nói ra thì dài dòng lắm! Tại hạ chỉ nói cho cô nương biết đại khái, bà ta là Vương Đại Nương, vợ của Vương Bán Hiệp, còn những gì thuộc về bà ta, sau này tại hạ sẽ kể cho cô nương nghe!

Tiểu công chúa trợn tròn đôi mắt một lúc lâu, miện lẩm nhẩm:

- Vương Bán Hiệp?...Vương Đại Nương?... tại sao bà ta lại động thủ với Vạn lão phu nhân? Tại sao Vạn lão phu nhân chưa trở về Bạch Thủy Cung?

Lần này Phương Bửu Ngọc kinh ngạc vô cùng, chàng nhìn nàng một lúc lâu, hỏi:

- Vạn lão phu nhân trở về Bạch Thủy Cung?

Tiểu công chúa thốt:

- Ta chỉ sợ cái mụ...Vạn lão phu nhân bị mụ mẹ vợ ngươi mua chuộc từ lâu!

Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một lúc:

- Phải rồi!....Vạn lão phu nhân đã trở thành thuộc hạ Bạch Thủy Cung, cho nên bà ta không muốn cho tại hạ đến Thủy Cung! Người ước hẹn gặp Lý Danh Sanh có thể à bà ta!

Tiểu công chúa gật đầu:

- Chứ còn ai nữa?

Rồi nàng bĩu môi:

- Tại sao mà bỗng nhiên ngươi thông minh như vậy?

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Nhờ trời mà không khi nào tại hạ ngu cả!

Tiểu công chúa nghiến răng:

- Ngươi!....Ngươi!....

Cả hai đối thoại với nhau thanh âm rất nhỏ, vì giữ cho thanh âm được nhỏ, họ phải nhích lại gần nhau, và đến phút giây này, Tiểu công chúa chợt nhận thấy đôi môi nàng như phớt qua lỗ tai Phương Bửu Ngọc.

Môi nàng sát vành tai Phương Bửu Ngọc, đang lúc tức giận, nàng lại nghiến răng, vô tình nàng lại nghiến luôn cả vành tai chàng.

Phương Bửu Ngọc đau quá song chẳng dám kêu lên, mồ hôi lạnh tuông thành từng hạt lớn, ráng chịu đựng.

Nàng nghiến mạnh, song Phương Bửu Ngọc không giận.

Chàng biết, nang nghiến mạnh là yêu nhiều, bởi có yêu nhiều mới hận nhiều, vả lại có hận nhiều mới nghiến mạnh.

Giá như nàng có nghiến đứt vành tai, Phương Bửu Ngọc cũng chẳng kêu la, trái lại càng khoan khoái.

oOo Bảy năm xa cách.

Bảy năn trước, Phương Bửu Nhi chẳng biết mảy may vũ công.

Bảy năm sau, chàng trở thành kỳ vọng của toàn thể vũ lâm, chàng sẽ trở là đối thủ duy nhất của người áo trắng từ Đông Doanh đến.

Thì, bảy năm qua, Vương Đại Nương cũng phải tiến bộ, mọi người không tiến bộ, hoặc ít hoặc nhiều.

Riêng về Vương Đại Nương thì bà tiến bộ rất nhiều.

Ngày trước bà sử dụng đôi quảy mẫu tử, bây giờ thì bà sử dụng đôi kiếm uyên ương.

Quảy là mẫu tử, kiếm là uyên ương, hai loại vũ khí có lối đánh như nhau, song dùng uyên ương kiếm thì phần linh hoạt hiện rõ rệt hơn.

Nhìn vào trận đấu, Phương Bửu Ngọc nhận ra kiếm quang dần dần lấn át trượng ảnh, dần dần bao phủ trượng ảnh.

Thường thường, Vạn lão phu nhân vừa đánh vừa lấy ô mai rim đường mà ăn, bây giờ bà ta không còn thì giờ để ăn nữa.

Thường thường, bà vừa đánh vừa mắng đối phương, bây giờ, thay vì mắng, bà thở, thở mũi rồi thở luôn miệng.

Bọn thiếu nữ ở xa cũng như ở gần, cùng vỗ tay reo hò, cùng cười vang để trợ Oai Vương Đại Nương.

Có nàng bóc vỏ trái cây rồi lấy cả vỏ và hạt quăng vào mình Vạn lão phu nhân.

Có nàng lại ứng khẩu đọc câu vè, câu thơ chế nhạo Vạn lão phu nhân.

Lại có nàng lại to tiếng mắng chửi để khích nộ mụ ta, đó cũng là một thủ đoạn tiếp trợ người trong cuộc, một cách gián tiếp, vì đối phương sôi giận phải rối loạn.

Chúng vỗ tay, chúng cười, chúng mắng, đọc vè, đọc thơ, tất cả những trò đó không làm gì hại đến thể xác Vạn lão phu nhân song ảnh hưởng rất nặng đến tâm thần mụ ta. Và cuối cùng thì mụ sôi giận tưởng chừng có thể điên lên được.

Phương Bửu Ngọc buồn cười quá, nghĩ rằng phen này Vạn lão phu nhân gặp phải kẻ tử đối đầu rồi.

Vạn lão phu nhân càng đánh càng tỏ ra khẩn cấp, càng khẩn cấp càng loạn đấu pháp, một lúc lâu bà ta cao giọng mắng:

- Mụ già thúi! Mụ già tàn phế dơ dáy kia! Ta có giết cha giết mẹ ngươi đâu, ta có cướp chồng ngươi đâu, ta có cừu oán gì với ngươi, mà ngươi lại toan thí mạng với ta?

Vương Đại Nương lạnh lùng:

- Ai thí mạng với ngươi? Ta chỉ muốn giết ngươi thôi! Ta giết ngươi chứ ta có liều mạng với ngươi đâu? Ngươi có tài ba gì mà dám nói câu đó?

Vạn lão phu nhân hừ một tiếng:

- Ngươi biết ta là ai chăng?

Vương Đại Nương cũng hừ một tiếng:

- Nếu không biết ngươi là ai thì tại sao ta lại muốn giết ngươi?

Vạn lão phu nhân cười lạnh:

- Ngươi đã nhận ra ta là ai, thì ta hỏi ngươi, thế ta có cừu oán gì với ngươi mà ngươi muốn lấy mạng ta?

Vương Đại Nương cười hăng hắc:

- Ngươi thử đoán xem?

Bà ta hư cả đôi chân, năm xưa dùng hai chiếc quảy, một mẫu một tử luân lưu cho mình, lúc đánh thì chiếc này hỗ trợ chiếc kia, bởi tàn tật như vậy, bà luyện một thân pháp biến ảo phi thường, thoắt ẩn thoát hiện, khiến đối phương khó lòng phòng bị bà ta từ hướng nào tấn công tới, công rồi lại lui về hướng nào.

Ngày nay bà dùng đôi kiếm uyên ương, không rõ nhẹ hơn đôi quảy năm xưa bao nhiêu, song thân pháp thì biến ảo hơn gấp nhiều lần, lại nguỵ dị gấp mấy lần.

Vạn lão phu nhân cố gợi chuyện để phân tâm Vương Đại Nương, rồi tìm sơ hở mà công vào hoặc ít nhất cũng có thể đào tẩu.

Ngờ đâu cái tâm của đối phương chưa phân hóa mà tinh thần đã rối loạn rồi.

Vương Đại Nương cũng già thủ đoạn lắm, bảo bà ta suy đoán thử xem có khác nào bảo bà ta ngửa cổ chịu chết.

Bởi trong lúc ác đấu, bao nhiêu tâm trí để nhận định đấu pháp của đối phương, tập trung như vậy lắm khi còn không nhận định được gì.

Bây giờ bảo bà ta dùng tâm trí cho việc hoàn toàn không liên quan đến trận đấu, thế thì còn làm sao xuất thủ được?

Vạn lão phu nhân có lẽ đã biết mình mắc mưu lại càng tức tối hét to:

- Ta không đoán nổi... ta không đoán nổi!

X Tiểu công chúa hỏi:

- Thực sự Vương Đại Nương có thù oán gì với Vạn lão phu nhân, ngươi biết không?

Chừng như nàng cũng biết cái lỗi của nàng nên muốn dàn giải cho Phương Bửu Ngọc đừng hận.

Do đó nàng mới hỏi một câu hỏi để gợi chuyện, cho phôi pha căng thẳng.

Phương Bửu Ngọc cười thầm, trầm ngâm một chút rồi đáp:

- Có thể sự việc bắt nguồn từ Vạn Đại Hiệp.

Tiểu công chúa tiếp:

- Luận về tài nghệ của Vương Đại Nương, ta thấy có nhiều dịp đánh chết Vạn lão phu nhân được lắm, nhưng bà ta lại cứ trì hoãn mãi, bà ta bỏ lỡ mấy dịp rồi, lạ thật, tại sao bà ta lại làm thế?

Phương Bửu Ngọc mìm cười:

- Bà ta muốn bắt sống chứ không muốn đánh chết!

Tiểu công chúa gật đầu:

- Đúng! Bắt sống bà ta để dụ dẫn Vạn Tử Lương, tuy nhiên...

Bỗng Vạn lão phu nhân thét lên một tiếng kinh khủng, bà ta hứng một nhát kiếm nơi đầu vai tả, máu chảy đỏ ngời.

Máu chảy nhiều, song bà ta dồi dào khí lực nên thừa máu chứ vết thương đó không nặng lắm.

Vạn lão phu nhân nhìn thấy máu của bà ta chảy ra nhiều quá, biến sắc mặt liền.

Thân hình nhũn lại, một tiếng keng vang lên, bà buông chiếc trượng xuống đất.

Từ lâu, bà chỉ nhìn thấy máu người, chưa từng nhìn thấy máu bà.

Bây giờ thấy máu của mình, thấy lần đầu tiên, bà hoảng sợ.

Phương Bửu Ngọc lại buồn cười một phen nữa.

Tiểu công chúa thốt:

- Luận về con người tham sống sợ chết thì chắc là chẳng có ai sánh bằng bà ta.

Vương Đại Nương cũng giật mình trước thay đổi quái dị của Vạn lão phu nhân, song bà ta vẫn tấn công liên tục, đều đều, không nơi châm thủ pháp.

Trong thoáng mắt, nhân lúc Vạn lão phu nhân kinh hoảng vì máu của mình lùi lại, Vương Đại Nương phóng luôn ba mũi kiếm, cả ba đều trúng vào vai Vạn lão phu nhân. Nơi mũi kiếm đâm vào là huyệt đạo khá trong yếu.

Vạn lão phu nhân mắng:

- Mụ già thúi!

Chỉ mắng được ba tiếng, Vạn lão phu nhân ngã nhào.

Ngưng mắng để ngã, ngã rồi bà ta lại mắng tiếp, mắng to giọng, mắng gấp giọng, mắng nặng hơn.

Luận về tài năng tất phải nhận Vạn lão phu nhân là tay vô địch.

Vương Đại Nương vụt tung mình bay lên không rồi đáp lại chỗ ngồi, được chế tạo riêng biêt cho tình trạng tàn phế của bà, dĩ nhiên chỗ ngồi đó phải mềm phải ổn.

Bà đáp xuống rồi, một thiếu nữ mang chăn lông đắp ngang chân bà.

Hai thiếu nữ vừa nâng cái bàn ngồi của bà lên, vừa hỏi:

- Cái khối thịt kia có nên băm vằm cho nó nát như cám chăng?

Vương Đại Nương đáp:

- Không cần vội! Trở về trước rồi hãy tính sau!

Bỗng có tiếng người cười hì hì.

Tiếng cười dứt, người đó bước tới cục trường.

Người đó là Lý Danh Sanh. Phương Bửu Ngọc sững sờ không tưởng là hắn xuất hiện đột ngột như vậy.

Xuất hiện trong lúc này nghĩa là làm sao?

Nếu hắn ước hẹn với Vạn lão phu nhân thì làm sao hắn dám chường mặt khi Vương Đại Nương còn đó? Hơn nữa Vương Đại Nương là kẻ thắng trận!

Xuất hiện như vậy là hắn về bè với Vương Đại Nương sao?

Khó hiểu, khó hiểu vô cùng!

Nhưng Vạn lão phu nhân vừa nhìn thấy hắn thì kinh ngạc kêu lên:

- Ngươi... thì ngươi ra là đồng đảng của mụ tàn phế thúi kia!

Lý Danh Sanh cười hì hì:

- Bà đừng hiểu lầm tại hạ đồng đảng với ai, bà nên biết là việc bà nhờ tại hạ, tại hạ đã làm rồi, bà còn oán hận gì tại hạ nữa chứ?

Phương Bửu Ngọc hết sức lạ kỳ, sự việc hồ đồ quá, chàng không sao hiểu nổi.

Trong khi đó, bọn tiếu nữ vừa cười vừa chạy tới, có mấy nàng khiêng Vạn lão phu nhân,còn mấy nàng khác thì đi bên cạnh Lý Danh Sanh tỏ vẻ thân mật vô cùng.

Một nàng hỏi:

- Ngươi có gặp Phương Bửu Ngọc chứ?

Lý Danh Sanh đáp:

- Đương nhiên là có!

Cô nàng cười vang rồi hỏi tiếp:

- Hắn đẹp trai không? Vũ công của hắn có cao lắm không?

Lý Danh Sanh mỉm cười:

- Cô nương hỏi chi? Còn hỏi nữa ta sẽ giận cho đấy! Hắn à? Ngoài cái mặt trắng ra, ngoài cái tuổi non ra, hắn có gì lạ đâu?

Bọn thiếu nữ cười giòn:

- Nghĩa là hắn kém ngươi? Aï Ạ! Thẹn! thẹn à? Trời ơi! Con chuột ơi! Thẹn lắm!

Rồi tất cả cùng cười, tất cả cùng kéo đi.

X Phương Bửu Ngọc thừ người ra đó.

Chàng chẳng biết mình phải làm gì, chàng cũng không nghĩ mình phải làm gì bởi chàng quá sững sờ.

Thì ra, trong mấy năm nay, Lý Danh Sanh về bè với Vương Đại Nương.

Điều làm cho chàng kinh ngạc hơn hết là bọn thiếu nữ đó lại biết chàng.

Hay ít ra chúng biết tên chàng.

Chàng tự hỏi:

- Lý Danh Sanh và Vương Đại Nương đang mưu tính việc chi đây?

Họ có ý tứ gì với ta?

Tiểu công chúa cười lạnh hỏi chàng:

- Ngươi nghe chúng nói chuyện với nhau chứ? Ngươi có cao hứng không? Hừ! Ngươi có vũ công cao, người ta phục, ngươi đẹp đẽ người ta si mê!

Phương Bửu Ngọc không để ý đến câu nói của nàng, ậm ừ đáp:

- Ừ!

Tiểu công chúa sừng sộ:

- Ừ cái gì? Sao ngươi không nói? Ừ như thế, ai biết ngươi nghĩ sao?

Phương Bửu Ngọc đang theo đuổi một ý nghĩ, không nghe nàng nói gì, bỗng chàng đứng lên buông gọn:

- Đi!

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Đi? Đi đâu? Đi theo mấy nàng đó phải không?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Phải! Đi theo họ tìm cách giải cứu Vạn lão phu nhân!

Tiểu công chúa lại hừ một tiếng:

- Cứu bà ta? Tại sao lại phải cứu bà ta?

Phương Bửu Ngọc điềm nhiên:

- Trước hết, vì Vạn đại hiệp, sau đó để truy nguyên sự tình.

Thốt xong chẳng đợi công chúa nói gì, chàng vọt mình đi liền.

Tự nhiên tiểu công chúa phải chạy theo.

Theo một người còn sợ mất hút, theo một đoàn người, cái mục tiêu phải lớn hơn, cho nên dễ dàng vô cùng. Vì quá dễ dàng, chàng không cần tiếp cận, chỉ giữ một khoảng cách vừa phải thôi.

Tiểu công chúa gắt:

- Tại sao không vượt kịp lên chúng?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Chờ xem chúng đi về đâu!

Trên gò trong khu rừng có một con đường nhỏ.

Con đường đá nhỏ lại ẩn khuất dưới một tàng cây, hơn nữa lại đang đêm, bóng tối lan tràn, nếu không quen thuộc đường này, chắc chẳng một ai trông thấy, mà có thấy đi nữa cũng khó đi theo con đường đó.

Đoàn thiếu nữ đi theo con đường đó vào sâu trong rừng.

Đi một lúc lâu, họ đến một khoảng trống, tại khoảng trống đó có một cái động.

Thì ra, cái gò có khu rừng rậm bao phủ bọc quanh một cái động, nói rằng động vì nó trũng xuống chứ thực ra nó chỉ là một cái chảo.

Chung quanh lòng chảo có vô số hoa, toàn là hoa lạ không biết tên.

Thời tiết lúc đó là mùa thu, hoa đã tàn tạ, nhưng hoa nơi đây tươi tốt như thường.

Hoa đẹp dưới ánh sao mờ mờ, càng đẹp hơn, đẹp huyền ảo.

Giữa các luống hoa có dòng suối nhỏ, vắt qua như dải lụa bạch, bên cạnh suối có nhà, độ bốn năm nóc liên tiếp nhau, tuy dựng lên sơ sài nhưng vẫn thừa vẻ trang nhã.

Đoàn thiếu nữ vừa đi vừa cười đùa, đến nơi đó, kéo nhau vào nhà.

Họ vào rồi, họ trả không gian lại cho đêm dưới ánh sao mông lung, tất cả đều chìm trong tịch mịch.

Hoa mờ ảo, suối trắng mờ ảo, khung cảnh thơ mộng vô cùng.

Phương Bửu Ngọc trù trừ trong khu rừng.

Chàng còn bàng hoàng với sự gặp lại Vương Đại Nương sau bảy năm cách biệt. Bây giờ, bà ta có vẻ tiến bộ hơn xưa.

Tiến bộ đây là nói về tài nghệ, về phong vận con người mà cũng về lối sống.

Chàng nghĩ, có thể khinh thường bất cứ ai khác, chẳng hạn Vạn lão phu nhân, chứ đối với Vương Đại Nương thì tuyệt đối không nên xem thường bà ta.

Bởi, bà nuôi dưỡng một tinh thần cầu tiến quá mạnh, với tinh thần đó, bà tập cho bà một tính kiên nhẫn, bằng cớ là bà đã im hơi bặt tiếng suốt bảy năm dài.

Nếu hôm nay, Phương Bửu Ngọc không gặp bà ta một cách bất ngờ tại đây, thì chàng có thể quên bà ta tại đây rồi, mà dù có nhớ cũng chẳng biết bà ta sống hay chết, sống thì ở tại địa phương nào.

Bời không thể khinh thường bà, chàng không thể dấn thân vào vùng căn cứ của bà.

Do đó, chàng trù trừ.

Trù trừ để tìm phương cách đột nhập, chứ chẳng phải do dự với cái ý rút lui.

Tiểu công chúa nóng nảy hơn, vội bước tới.

Phương Bửu Ngọc hấp tấp gọi:

- Hãy khoan! Đừng vội, cô nương!

Tiểu công chúa không quay đầu lại:

- Đã đến đây, còn do dự gì nữa? Nếu sợ sệt thì đừng theo đuổi chúng, đỡ nhọc hơn chăng?

Phương Bửu Ngọc thốt:

- Nhưng...

Tiểu công chúa gạt ngang:

- Ngươi muốn giải cứu Vạn lão phu nhân, muốn truy nguyên sự tình gì thì sớm muộn gì cũng phải chạm mặt chúng, tại sao không chạm mặt sớm cho rồi, còn chần chừ làm gì?

Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một chút:

- Cô nương nói phải!

Đã cho là phải, tất nhiên phải đi, chàng bước theo Tiểu công chúa ngay.

Cả hai rời khu rừng, len lỏi trong những bụi hoa.

Bỗng từ một bụi hoa, có tiếng cười khúc khích, rồi có tiếng vọng ra:

- Khách! Khách đến kìa!

Phương Bửu Ngọc giật mình.

Thì ra đó là tiếng con chim anh vũ, nó học nói tiếng người rất sành, nó cười và thốt xong, chấp cánh bay ra, đôi cánh xanh quạt nhanh, óng ánh dưới ánh sao mờ.

Nó bay về phía mấy ngôi nhà.

Chưa đến nơi, nó thốt lên:

- Khách! Có khách đến! Có khách đến!

Tiểu công chúa bật cười khanh khách:

- Một con chim lại làm khiếp hãi Phương đại hiệp! Cái gan của Phương đại hiệp đáng khen quá chừng!

Phương Bửu Ngọc chỉ còn cười khổ chứ biết nói sao bây giờ?

Từ trong ngôi nhà, ba thiếu nữ bước ra, họ chạy đến chiếc cầu bắc ngang suối, cầu có mành mành sơn đỏ, cầu không bắt thẳng mà lại uốn qua, uốn lại thành mấy đoạn thật là cầu kỳ.

Cả ba cùng cất tiếng:

- Khách đâu? Khách ở tại đâu?

Họ vừa nói vừa cười, chừng như họ vui, vào giờ khắc nào cũng vui, chừng như bình sinh họ không hề gặp chuyện gì làm cho họ buồn bực, cho nên mở miện ra là họ cười.

Rồi họ thấy Phương Bửu Ngọc và Tiểu công chúa, họ đứng chận lại.

Khách lạ, họ phải thủ lễ, họ không cười nữa, sáu con mắt giương tròn nhìn tới.

Phương Bửu Ngọc đằng hắng một tiếng ; - Chào các cô nương!

Một nàng mặt tròn cao giọng hỏi:

- Các hạ là ai? Các hạ đến đây có việc chi?

Giọng nàng thì cao, song nàng cố làm ra vẻ dịu hòa, duyên dáng, giọng nói thản nhiên, song ánh mắt thoáng hiện niềm kinh hãi.

Tuy nhiên, niềm kinh hãi của nàng thiên về hiếu kỳ hơn là địch ý.

Bởi, Phương Bửu Ngọc đẹp trai.

Một thanh niên đẹp trai như chàng, bình sanh họ chưa từng thấy.

Phàm nam gặp nữ, hay nữ gặp nam, đối tượng đẹp thì bao giờ cảm tình cũng dễ phát sinh và phát sanh nhanh chóng.

Cả ba nàng nhìn chàng lom lom làm chàng ngựơng nghịu phần nào.

Chàng vòng tay, nghiêng mình đáp:

- Tại hạ...

Tiểu công chúa lạnh lùng chặn lời:

- Ngươi đến đây với tánh cách hoà hay chiến, bạn hay thù?

Phương Bửu Ngọc đỏ mặt.

Thiếu nữ mặt tròn trố mắt:

- Thù? Cái chi là thù?

Câu hỏi đó đương nhiên nàng hướng về Tiểu công chúa, nói với Tiểu công chúa, nàng dùng cái giọng hơi ngang một chút, trong khi nói, nàng chống nạnh hai tay nơi hông.

Nhưng Tiểu công chúa không quan tâm đến thái độ khiêu khích của thiếu nữ, nàng đang tức Phương Bửu Ngọc, cố làm sao phá cho được chàng, nàng mới hả dạ.

Nàng tiếp nối:

- Hắn là Phương Bửu Ngọc đó! Hắn đến đây tìm người lãnh đạo của các ngươi đó! Hắn đến để đòi lại một người đó!

Cả ba thiếu nữ thoáng biến sắc, cùng kêu lên một lượt:

- Phương Bửu Ngọc?

Cả ba cùng quay người lại một lượt, cùng quay chân chạy trở lại ngôi nhà.

Họ chạy nhanh nhưng nàng nào cũng cố quay đầu nhìn lại, họ nhìn cho rõ thiếu niên đẹp trai, họ nhìn cho rõ dịp này, họ sợ không còn dịp nào được thấy mặt chàng nữa.

Một thoáng sao, từ trong ngôi nhà có tiếng hét vang lên, kế đó có tiếng la hoảng.

Chừng như mọi người ở đó đang nhôn nhao, tán loạn.

Tiểu công chúa đẩy Phương Bửu Ngọc tới:

- Sao thừ người ra đó? Chưa chịu vào à?

Phương Bửu Ngọc không còn cách nào khác hơn là mạnh dạn bước tới.

Cái dáng bên ngoài của ngôi nhà xem ra rất trang nhã, song biết đâu bên trong chẳng có mai phục? Và mỗi tấc đất là một cạm bẫy chờ đón người lạ?

Đương nhiên, trong một khung cảnh như vậy phải có sát khí thâm trầm, và nơi nào có sát khí lại không làm cho con người khiếp sợ?

Phương Bửu Ngọc đã có nhận xét tế nhị về Vương Đại Nương, thì muốn vào trong nhà, chàng phải đề cao cảnh giác. Chàng giới bị chu đáo, tuyệt đối chẳng hề dám khinh địch.

Nhưng, Tiểu công chúa trái lại dửng dưng như thường, mường tượng nàng chẳng xem Vương Đại Nương ra cái quái chi.

Nàng ngang nhiên đi tới như về nhà của nàng.

Trong nhà, đèn rất lu, lu gần như bỏ hoang, bất quá có một vài đốm lửa nghĩa trang vậy thôi.

Nhưng, ngay sau khi ba thiếu nữ báo động, đèn trong nhà được đốt sáng, lên nhà có bao nhiêu ngọn đèn đều được đốt tất, số ánh sáng chiếu đến tận dòng suối.

Phương Bửu Ngọc đi trên cầu, có cái cảm tưởng như là mình đang vượt giải ngân hà trên nền trời đen thẳm.

Có tiếng của Vương Đại Nương vang lên.

Bà ta vừa cười vừa thốt:

- Qúy khách đến, thứ cho tiện thiếp bất hạnh mang tật nguyền, không ra ngoài nghênh tiếp! Xin vào cứ vào! Vào để cho tiện thiếp được cái vinh dự đãi trà!

Phương Bửu Ngọc trầm giọng:

- Phương Bửu Ngọc này xin tuân mạng!

Vương Đại Nương càng khách sáo, chàng càng đề phòng. Hơn một lần chàng chứng nghiệm thế nào là nụ cười có chứa đao bén, và nhất định là nếu không từ nay về sau, thì ít nhất lần này chàng không thể mắc mưa ai.

Cửa ngôi nhà mở rộng.

Nơi hai bên cửa có những chiếc đầu thò ra rồi thụt, thụt rồi thò, chừng như tất cả thiếu nữ trong nhà đều cố nhìn cho rõ chàng trai đẹp có tài cao, có nàng thập thò đến mấy lượt, và nàng nào không thò ra được lại kéo nhẹ những nàng tham nhìn, dành lấy chỗ.

Nhưng nào ai biết được, trong tay chúng có loại ám khí gì, lợi hại như thế nào?

Đứng gần bên còn không trông thấy loại ám khí nhỏ bé, thì đứng xa làm sao Phương Bửu Ngọc nhận ra?

Bỗng, như đợt khói nhẹ theo gió đùa, Phương Bửu Ngọc xẹt vào nhà.

Chàng vào sau khi đã vận chân khí quanh mình, phong bế các huyệt đạo.

Cho dù tất cả nhừng thiếu nữ, cho dù có thật sự cầm ám khí, đồng loạt một vung tay, vị tất làm gì thương tổn cho chàng nổi?

Không, chẳng nàng nào nhích động với địch ý rõ rệt.

Nơi mà chàng tường là có bóng dáng tử thần, nơi đó sao thanh bình an tịnh quá chừng.

Dưới ánh trăng của nhiều ngọn đèn, Vương Đại Nương tựa mình trên chiếc giường đặc biệt có nệm êm, lót gấm.

Mỗi thiếu nữ đều có cầm một vật trong tay.

Vật đó là một mảnh dưa hấu, có nàng ngoạm một vài miếng, có nàng còn để nguyên.

Trong khi chàng giới bị đến từng chân lông kẽ tóc, thì giờ đây chàng thấy một cảnh tượng như thế này, thật đáng buồn cười thay!

Chàng vòng tay điểm nụ cười vô nghĩa đáp:

- Hân hạnh quý chủ nhân không khước từ cuộc viếng thăm bất ngờ này!

Rồi chàng nghiêm giọng hỏi:

- Vương Đại Nương có nhận ra Phương Bửu Ngọc này chứ?

Vương Đại Nương cười tươi:

- Làm sao già quên được thiếu hiệp? Trừ Phương Bửu Ngọc ra, trên thế gian này tìm đâu ra một chàng thanh niên anh tuấn, khả ái như vậy?

Chủ nhân khen khách, bọn thiếu nữ cười khúc khích, không gian êm ấm vô cùng.

Vào đây với cái ý không hảo thuận lắm, vào rồi thấy ai cũng tươi vui niềm nở, ai ai cũng tò sự ngưỡng mộ chân thành, thì Phương Bửu Ngọc bắt đầu câu truyện ra sao đây?

Chàng còn phân vân, người đứng sau chàng cất tiếng:

- A! Vương Đại Nương! Bà mạnh giỏi chứ?

Vương Đại Nương cười vang:

- Ái chà! Tiểu công chúa! Già quên mất chào nàng! Lâu lắm rồi không thấy Tiểu công chúa, giờ gặp lại thì ra già gặp một tiên nữ giáng trần! Cô nương ngày nay đẹp quá, nếu Phương thiếu hiệp không hạ cố đến tìm già, thì chắc gì già được cái hân hạnh được đón tiếp cô nương tại ngôi nhà này!

Tiểu công chúa gắt nũng:

- Ai biết bà ở đây mà đến?

Vương Đại Nương vẫn với vẻ vui tươi, tiếp:

- Cô nương không biết à? Già không tin nổi, cô nương ơi! Chẳng lẽ Hỏa Cung Chủ không nói cho cô nương biết?

Tiểu công chúa mỉm cười:

- Chẳng có ai nói cho tôi biết cả! Cái chỗ ở của bà thần bí còn hơn động tiên, tôi không dám nói là động quỷ, bởi làm gì có động tiên trên thế gian, chỉ có động quỷ thôi!

Rồi nàng cao giọng hỏi:

- Thực ra nơi đây có chi thần bí, bà cho tôi biết được chăng?

Phương Bửu Ngọc sững sờ, thấp giọng:

- Cô nương quen bà ta?

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Có khi nào ta nói là không quen bà ấy đâu?

Phương Bửu Ngọc giật mình, song cười tỉnh ngay:

- Phải! Phải! Đúng là cô nương chẳng hề nói!

Chàng thầm nghĩ trong mấy năm qua, Vương Đại Nương âm thầm làm một việc gì đó thần bí lắm, và qua cái việc đó, bà và Hỏa Ma Thần có kết cấu với nhau.

Bà vắng bóng trên giang hồ rất lâu, khi Hỏa Ma Thần xuất hiện, bà cũng xuất hiện trở lại luôn.

Hỏa Ma Thần chưa góp mặt giang hồ, song sự việc trên giang hồ, lão hiểu như lòng bàn tay.

Điều đó cũng chẳng lạ gì, bởi chính Vương Đại Nương tường thuật cho lão rõ mọi diễn tiến.

Nhưng Vương Đại Nương đã làm gì trong mấy năm nay?

Trong khi chàng mơ màng suy tư, thì Tiểu công chúa cười, Vương Đại Nương cười, bọn thiếu nữ cũng cười...

Bỗng Tiểu công chúa kêu lên:

- A! Vạn lão phu nhân đã ra kìa!

Vạn lão phu nhân chẳng rõ đã ra từ lúc nào, đang ngồi ủ rũ một góc.

Lý Danh Sanh đứng một bên, điểm một nụ cười có phần ngương ngạo, ngượng nghịu.

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Tại hạ biết rồi!

Tiểu công chúa cau mày:

- Ngươi biết cái chi?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Trong ngôi nhà cỏ nơi rừng dâu, hẳn là thuộc hạ của Vương Đại Nương cư trú, cho nên Hỏa Ma Thần ước hội chúng ta tại ngôi nhà đó...

cô nương nghĩ có đúng vậy chăng?

Vương Đại Nương mỉm cười đáp chận công chúa:

- Đúng vậy! Chẳng những ngôi nhà đó là của già, mà luôn cả ngôi rừng dâu cũng của già. Thiếu hiệp biết không, bọn thiếu nữ rỗi rảnh sanh buồn, nên mượn công việc trồng dâu nuôi tằm giải khuây.

Phương Bửu Ngọc gật gù:

- Và cái lão hộ lưu nào đó do Lý Danh Sanh nêu ra cũng chỉ là con người giả tạo...Hắn chẳng thấy chi cả, những gì hắn nói toàn là sự bịa đặt, chỉ có trong tưởng tượng của hắn thôi.

Lý Danh Sanh cười khổ:

- Chẳng phải tại hạ thực ý cố tình lừa thiếu hiệp, mà chỉ vì Vương...

Vương Đại Nương chận liền:

- Biến cố phát sanh trong rừng dâu, già chẳng biết mảy may, nhưng khi thiếu hiệp và Tiểu công chúa đến nơi, thì già trông thấy. Già sợ hai vị chẳng biết nơi đây, mà đến đây để tìm già, cho nên già nhờ Lý Danh Sanh làm hướng đạo hoặc thông tri sự tình cho thiếu hiệp hiểu. Khi môn hạ Hỏa Ma Thần đến mượn nhà, thì già có mấy tấm thiệp ghi địa danh Đại Danh Phủ.

Lý Danh Sanh thốt:

- Tuy nhiên, những gì tại hạ nói, chẳng phải hoàn toàn do tại hạ bịa đặt. Tại hạ không thấy họ động thủ, song Thiết Kim Đao thấy rõ.

Phương Bửu Ngọc trầm giọng:

- Rồi hắn thuật lại cho các hạ nghe?

Lý Danh Sanh gật đầu:

- Do đó, tại hạ tin chắc thế nào thiếu hiệp cũng đến.

Phương Bửu Ngọc lại hỏi:

- Các hạ có thật sự là bằng hữu của Thiết Kim Đao chăng?

Lý Danh Sanh mỉm cười:

- Nào chỉ là bằng hữu thôi đâu! Tại hạ và hắn ngày trước là bạn đồng môn, tại hạ còn là sư huynh của hắn, chỉ... tại hạ lười học tập...

thành ra...

Hắn không cần nói nữa, người nghe cũng hiểu hắn nói gì.

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Trên đời đâu có những tấu xảo kỳ lạ như thế này? Thật tình tại hạ chịu thôi! Dù có giàu tưởng tượng đến đâu cũng không suy đoán nổi.

Lý Danh Sanh thốt:

- Những sự tấu xảo trên đời nào phải hiếm có! Khi nào thiếu hiệp bằng tuổi tại hạ bây giờ, tự nhiên rồi thiếu hiệp sẽ biết. Giả như cái việc tại hạ vừa ló đầu ra là gặp ngay Vạn lão phu nhân!

Phương Bửu Ngọc tiếp:

- Vạn lão phu nhân nhận ra các hạ dễ dàng. Bà ấy không muốn cho tại hạ đến Bạch Thủy Cung, cho nên bà uy hiếp các hạ, gặp tại hạ bịa chuyện lừa dối tại hạ, bà ta sơ xuất lại không biết được các hạ là bằng hữu của Vương Đại Nương.

Chàng không đợi ai tiếp lời, nhìn thoáng qua Tiểu công chúa rồi tiếp luôn:

- Tất cả sự việc vừa diễn ra, cô nương hiểu rõ! Cô nương lại giả vờ mù mờ, để hí lộng tại hạ, biến tại hạ thành một ngốc tử...

Tiểu công chúa trầm lặng một lúc lâu, đoạn gằn từng tiếng:

- Phải! Ta biết mọi việc! Ta biết trước! Ta cố ý lừa ngươi! Ta chỉ muốn biến ngươi thành một ngốc tử!

Bỗng nàng đứng lên, bước ra cửa, đôi vai của nàng rung rung.

Phương Bửu Ngọc cười lạnh:

- Cô nương đã cố tình lừa gạt tại hạ,ï thì hà tất...

Vương Đại Nương cất tiếng:

- Nàng không lừa thiếu hiệp đâu! Đừng buộc tội oan cho nàng!

Phương Bửu Ngọc giật mình:

- Tại hạ buộc tội oan cho nàng?

Vương Đại Nương tiếp:

- Nàng chẳng biết việc chi cả! Nàng chẳng biết mảy may sự tình!

Nàng không biết già ở tại đây, nàng cũng không biết Lý Danh Sanh hiệp tác với già! Do đó nàng không hiểu được Lý Danh Sanh nói thật hay bịa.

Phương Bửu Ngọc hoang mang:

- Thế...tại hạ đoán sai?

Vạn lão phu nhân vụt thốt:

- Ngươi sai! Hoàn toàn sai! Chẳng những ngươi nói oan cho nàng mà ngươi còn nói oan luôn cho già! Ngươi là ngốc tử, một tiểu ngốc tử!

Ngươi cho rằng ngươi hiểu hết mọi chuyện nhưng thực ra ngươi chẳng hiểu được bao nhiêu! Bất quá ngươi tự cho rằng ngươi là kẻ thông minh, chứ thiên hạ vị tất cho ngươi là kẻ thông minh?

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Tại hạ nói oan cho bà điều chi?

Vạn lão phu nhân hừ một tiếng:

- Ngươi có biết vì sao già đến nơi này chăng? Tấu xảo như ngươi?

Nói cho ngươi hiểu, ta theo dấu một người, thành ra lạc bước đến đây!

Phương Bửu Ngọc trố mắt:

- Ai? Bà theo dõi ai?

Vạn lão phu nhân gằn giọng:

- Người đó, ngươi chẳng biết đâu! Già theo dõi hắn từ Thái Sơn đến đây, dọc đường, hắn làm gì già đều biết rõ!

Phương Bửu Ngọc sững sờ:

- Việc đó thì...

Vương Đại Nương cười lớn:

- Dễ! Rất dễ! Bà có những thức ăn cho ngươi, tùy ngươi chọn!

Không đợi cho Vương Đại Nương ra lệnh cho các thiếu nữ mang thức ăn đến, Phương Bửu Ngọc bước lại bàn, lấy dưa, trái cây đưa cho Vạn lão phu nhân.

Vạn lão phu nhân lại đòi:

- Già khát quá!

Phương Bửu Ngọc lại rót trà cho bà.

Các thiếu nữ cười khúc khích.

Vương Đại Nương cũng cười:

- Được Phương thiếu hiệp hầu ăn uống, kể ra ngươi cũng tốt phúc đấy!

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Bây giờ, bà có đủ sức lực nói chưa?

Vạn lão phu nhân ăn xong, uống xong, từ từ thốt:

- Già theo dõi các lão quỷ Thiết Nhiệm, Như Ý!

Phương Bửu Ngọc giật mình, Vương Đại Nương biến sắc.

Tiểu công chúa cũng kinh hãi phi thường. Nàng quay nhanh đầu lại, kêu lên:

- Thì ra là họ!

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Sau khi đại hội Thái Sơn giải tán, già len lỏi vào Vạn Trúc Sơn Trang, nhưng lúc già đến nơi thì ngươi đã khởi hành rồi. Đương nhiên già thất vọng, ngờ đâu...

Phương Bửu Ngọc chú ý:

- Rồi sao nữa?

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Già phát giác ra bọn Thiết Nhiệm, Như Ý ngầm điều động đệ tử của họ, chẳng hiểu họ định làm gì...

Phương Bửu Ngọc hỏi gấp:

- Sau đó?...

Hồi 45

Danh Tài Và Mỹ Sắc

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Tưởng đâu họ sẽ làm gì, nào ngờ họ chỉ âm thầm theo dõi ngươi. Họ theo dõi ngươi, già theo dõi họ.

Dọc đường, giả như có một người nào trò chuyện với ngươi, là họ tìm cách ngăn chặn người đó, cật vấn đủ điều.

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Thì ra là họ! Thảo nào mà kiếm pháp chẳng lợi hại phi thường...!

Thảo nào mà họ chẳng Phân Cân Thốt Cốt...! Đáng lý thì tại hạ phải nghĩ ngay đến họ!

Vạn lão phu nhân lại tiếp:

- Già hết sức kỳ quái, chẳng hiểu sao cái bọn già đợi chết đó lại hành động như vậy. Mãi đến sau này, già mới thức ngộ ra chân lý sự tình. Thì ra, họ sợ chuyến đi này có điều chi sơ thất, mà ngươi là người duy nhất sẽ đối phó với Bạch Y Kiếm Khách trong một ngày gần đây, họ không muốn cho ngươi gặp hiểm nguy trước khi hội ngộ với người áo trắng. Do đó, họ muốn đến Bạch Thủy Cung trước ngươi. Thật ra, cái bọn phế vật đó dù cho có đến Bạch Thủy Cung đông hơn nữa cũng chẳng làm được gì, và chung quy chỉ để giao nạp sinh mạng cho người trong cung thôi.

Phương Bửu Ngọc trầm buồn ra mặt:

- Các vị tiền bối đó, đối với tại hạ hết lòng thương mến ủng hộ chu đáo, họ xứng đáng nêu gương nghĩa khí trên giang hồ, hàng hậu sanh như tại hạ còn lâu mới so bì với họ kịp!

Vạn lão phu nhân cười nhạt:

- Đường đường là những bận tông chủ môn phái, lại có những hành động lén lút mờ ám, nhất là cái lão Thiết Nhiệm, lòng đạo tặc của thuở thiếu thời vẫn không cải, họ có gì xứng đáng nêu gương chứ?

Phương Bửu Ngọc sợ bà ta nói mãi rồi lại nói những lời khó nghe, nên chận lại:

- Sau đó sự tình như thế nào hở bà?

Vạn lão phu nhân thốt:

- Theo họ đến đây, già chứng kiến họ hành động, họ xuất thủ trước khi ngươi đến, rồi họ đi, già bắt buộc phải chờ ngươi, để chỉ điểm cho ngươi hiểu.

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Thế ra bà... bà...

Vạn lão phu nhân lạnh lùng:

- Ngươi là một đại ngốc tử nên mới tưởng già ngăn trở ngươi đến Bạch Thủy cung. Ngươi lầm to! Già chỉ sợ ngươi không đến được Bạch Thủy cung thôi!

Bà dừng lại một chút rồi tiếp:

- Nhưng, muốn chỉ điểm ngươi, già phải qua bao nhiêu lụy phiền, đã thế, chưa chắc ngươi đã tin già! Trong khi già do dự, may thay lại gặp con quái vật Lý Danh Sanh.

Lý Danh Sanh mỉm cười:

- Bà ấy nói đúng sự thật, Phương thiếu hiệp ạ! Bà bức hiếp tại hạ phải đến tố cáo mọi việc với thiếu hiệp, chỉ cho thiếu hiệp phải đến nơi nào, nhưng bà ta không biết được tại hạ đã nói chi với thiếu hiệp, dù tại hạ có lừa thiếu hiệp, chẳng qua cũng do hảo ý mà thôi!

Vạn lão phu nhân cười lạnh:

- Ngươi khác! Già khác! Già chẳng có môt chút hảo ý nào cả! Già biết là đến Bạch Thủy cung, ngốc tử coi như đi vào cõi chết, do đó, già muốn ngốc tử đi, chớ già ngăn cản làm gì?

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Những sự kỳ hoặc ở đời, chẳng ai biết sao mà nói! Một số người ngăn chặn, trong khi một số khác khuyến khích! Lạ thay, những người đó lại có liên quan ít nhiều với nhau!

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Còn môt việc này nữa ta muốn nói luôn cho ngươi biết. Thủy nương nương đã đoán định thế nào ngươi cũng đến Bạch Thủy cung, người sẵn sàng nghinh đón ngươi, người chò đợi ngươi từ lâu lắm rồi!

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Tốt!....Tốt!....

Chàng như ngây ngất trước những sự việc dập dồn, tất cả diễn tiến vừa qua đều ngoài ý tưởng của chàng.

Thực tình, nằm mộng chàng cũng không nghĩ nổi là có những sự việc như vậy.

Tiểu công chúa đột nhiên cười lạnh:

- Phương Bửu Ngọc, cho ngươi biết, dù ngươi không làm ra vẻ ngu ngốc, song ngươi cũng chẳng có vẻ gì thông minh cả. Trên thế gian này, có biết bao nhiêu sự việc, ngươi có nghĩ tài ba cũng chẳng làm sao đoán ra nổi!

Nàng dừng lại một chút, đằng hắng, lấy giọng cao, dõng dạc tiếp:

- Bởi, ngươi chẳng phải là thánh, ngươi cũng chẳng phải là thần!

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Đúng đó cô nương! Trí tuệ của mỗi người, dù trí tuệ đó có sáng suốt đến đâu thì cũng có giới hạn!

Bỗng, có tiếng thốt bên ngoài vào, dịu dàng trầm ấm:

- Có khách! Khách đến!

Bây giờ, Phương Bửu Ngọc không còn lầm nữa, chính con chim anh vũ báo động.

Nó báo động từ xa, nó vỗ cánh đến ngôi nhà cỏ rồi kêu tiếp:

- Có khách! Khách đến!

Bọn thiếu nữ vừa cười vừa chạy ra, luôn luôn các nàng cười, bất cứ là ai cũng cười trước, khi nào đụng độ với việc không hề cười thì các nàng nín cười. Các nàng vui tính thay.

Phương Bửu Ngọc cũng như Tiểu công chúa, có thể Vạn lão phu nhân cũng thế, hết sức kỳ quái.

Vương Đại Nương ẩn náu nơi này, hoang vắng âm u, sao lại có khách? Mà chừng như khách đến rất thường, cho nên họ mới huấn luyện chim anh vũ để báo động.

Một người ẩn náu sao lại có nhiều khách? Nếu còn tiếp xúc với người thường xuyên thì ẩn náu làm chi?

Chàng muốn biết khách nào đó, đến đây làm gì?

Nhưng, Vương Đại Nương mỉm cười thốt:

- Nơi phía sau còn một gian nhà trống, chẳng hay Phương thiếu hiệp có thể vào đó ngơi nghỉ một chút chăng? Già tiếp xong người tục khách này rồi sẽ đàm đạo với thiếu hiệp.

Làm sao Phương Bửu Ngọc từ khước?

Chủ nhân đã tỏ cái ý không muốn cho chàng dự thính cuộc đối thoại của bà với khách, thì chàng đâu có thể phủ nhận một lễ độ bắt buộc chàng rút lui?

Tiểu công chúa và Vạn lão phu nhân cũng phải đi theo chàng.

X Phía sau có một gian nhà không lớn lắm, trang trí cũng như gian trước, nhã khiết vô cùng.

Nới đó, có hai thiếu nữ túc trực, như để tùy sai, cả hai cũng cười tươi, cười mãi, chắc chắn là vẻ cười đó dành cho Phương Bửu Ngọc.

Bên ngoài có tiếng cười không ngừng vang lên, trong rẻo có, ròn tan có.

Trong những tiếng cười trong trẻo, ròn tan đó, bỗng có giọng nói thô kệch vang lên:

- Chắc Vương Đại Nương không ngờ hôm nay tại hạ đưa rất nhiều người đến đây! Cho đại nương biết, những người này cũng là những tay khá lắm đấy!

Vương Đại Nương nương cười lớn:

- Các vị này là ai?

Giọng thô kệch vang lên tiếp:

- Đại nương phải tạ Ơn tại hạ mới được đấy nhé! Nếu tại hạ nói tên những vị ấy thì sợ vành tai của đại nương phải vỡ mất!

Vương Đại Nương lại ạ lên một tiếng:

- Già không sợ vỡ tai đâu, các hạ cứ nói đi!

Bọn thiếu nữ lại cười khúc khích, tiếng cười tuy nhỏ, song nhiều nàng cười môt lượt, thành ra âm vang cũng khá lớn.

Phương Bửu Ngọc ngưng thần, lắng nghe câu chuyện bên ngoài.

Nhưng hai thiếu nữ ở bên cạnh chàng, nắm tay chàng, lay mạnh, vừa cười vừa thốt:

- Chuyện bên ngoài có chi vui đâu mà thiếu hiệp lắng nghe, hãy nghe chị em tôi ca hát những bài sơn ca đây này!

Chẳng rõ họ lấy từ đâu ra, lúc đó, mỗi nàng cầm một cặp sanh, cả hai cùng nhịp cùng ca lên, tiếng sanh, tiếng ca vang lừng.

Lời ca, chẳng rõ vô tình hay hữu ý, tự họ bịa ra hay có sẵn bài bản, chứa đựng những niềm oán trách tình phụ, chia ly.

Bên ngoài những tiếng nhát gừng vọng vào, không phải người nói theo cái lối nhát gừng, mà là các thiếu nữ ca hát, nhịp sanh, làm mất lấp, nhiễu tiếng, thành ra Phương Bửu Ngọc nghe tiếng được tiếng mất:

- Vị này là...còn vị này là Thủy Thượng...còn vị kia là đệ nhất hảo hán vùng Tam Tương, vị đó từng nổi danh vùng Cửu Giang... vị cuối đó...

Phương Bửu Ngọc không làm sao nghe được rõ ràng và đầy đủ.

Tiểu công chúa cười lạnh lại lạnh lùng nhìn sang Phương Bửu Ngọc, chừng như ánh mắt nàng ngầm đưa cái ý cho chàng hiểu, người ta muốn ca muốn hát, ngươi làm gì ngăn chặn được chứ?

Quả thật, Phương Bửu Ngọc còn làm gì được trong trường hợp này?

Người ta đối dữ, chàng chẳng ngán, song người ta đối hiền, thì chàng cảm như vô phương.

Chàng đành nhẫn nại, chờ hai thiếu nữ dứt bản rồi, chàng điểm một nụ cười tán thưởng.

Họ lại ca tiếp.

Vạn lão phu nhân đột nhiên thốt:

- Các tiểu cô nương ca hát nghe hay lắm, già phải thưởng mới được, già xin thưởng các cô trái cây vừa đỏ mà vừa lớn.

Bà có trong tay hai quả quýt. Bất tình lình bà đứng lên xuất thủ nhanh như gió vọt tới nhét vào miệng mỗi nàng một quả luôn cả vỏ.

Hai thiếu nữ đương nhiên không tưởng là Vạn lão phu nhân không làm thế, chẳng hề đề phòng, nên không làm sao tránh kịp.

Miệng bị trám, tự nhiên họ phải nín.

Họ đưa tay định moi quýt ra, song Vạn lão phu nhân trầm gương mặt quát khẽ:

- Hai tiểu cô nương chẳng nể nang chi già này cả sao? Già thưởng cho mà không ăn toan móc ra? Giá biết vậy, già đã tống phân ngựa vào đó cho không hoài của.

Cái lối uy hiếp người đó, chẳng có chút ảnh hưởng đối với ai khác, nhưng hai nàng là những thiếu nữ chưa mảy may kinh nghiệm, tự nhiên hai nàng phải sợ hãi, bất động liền, cứ ngậm quả quýt , mà chịu.

Vạn lão phu nhân mỉm cười:

- Ngoan như vậy là được lắm đó! Ta yêu lắm! Đừng gấp, cứ từ từ mà ăn!

Bà day qua Phương Bửu Ngọc bảo:

- Còn ngươi cứ từ từ mà nghe!

Chính bà cũng lấy quả quýt, từ từ bóc vỏ, từ từ ăn.

Phương Bửu Ngọc buồn cười thầm nghĩ:

- Bất cứ trong thủ trường hợp nào, bà ta cũng có thủ đoạn đặc sắc.

Chàng bước đến cửa, áp tai vào bảng gỗ nghe.

Lúc đó, Vương Đại Nương cười vang rồi thốt:

- Quả nhiên toàn là những nhân vật lừng danh, từ lâu rồi, gia gia ước ao được dịp hội kiến. Hôm nay, chẳng biết ngọn gió nào lại hốt trọn các vị đưa đến đây một lượt cho già? Hân hạnh quá! Hân hạnh quá!

Một giọng nói lanh lảnh vang lên:

- Bọn tại hạ từng nghe nói đến cái chỗ ở thanh nhã của Vương Đại Nương, nơi đấy có rất nhiều hoa đẹp. Hoa không biết nói và hoa biết nói, nên muốn đến thưởng thức cả hai loại. Niềm ao ước càng ngày càng lớn, song dịp may thì càng ngày lại càng hiếm...

Một người khác tiếp nối:

- Mãi đến hôm nay, Hùng đại ca thương tình, mới đưa đường dẫn lối cho nội bọn đến non tiên...

Một người khác phụ hoạ:

- Nhưng bọn này lại khác Nguyễn Triệu lưu thân, đến thiên thai rồi lại không muốn trở về trần thê nữa.

Người giọng thô kệch cười lớn:

- Ta nhận thấy các ngươi ủ rũ, tiều tuỵ như kẻ chán đời, chụp dịp tự tử, nên thương hại quá đưa các ngươi đến đây, tìm cái hương vị nhân sinh, giúp các ngươi lần đếm các hạt chuỗi của đời tàn, thế thôi. Ta từ bao lâu nay, nếu có cơ hội, là làm việc nhân đức, đưa các ngươi đến đây, cũng là một việc nhân đức đó!

Tất cả đều cười vang, tiếng cười lộng mạnh, như có thể tung nóc ngôi nhà.

Một giọng nói oang oang như tiếng thanh la vỡ cất lên:

- Lữ lão đệ Ơi! Vui đi, vui lên đi! Vui để chứng tỏ cái ý tốt của Hùng lão ca!

Một thiếu niên cười nhỏ:

- Tiểu đệ vui làm sao được chứ?

Người có giọng thô kệch thốt:

- Lữ lão đệ sai lầm rồi đó! Phàm là đại trượng phu, đáng làm là làm, đáng bỏ là bỏ, tại sao lại lưu luyến như nhi nữ thường tình? Chúng ta dù sao cũng là những kẻ hữu danh, chúng ta chưa đến nỗi nào hèn kém cả!

Người có giọng thanh la bể tiếp:

- Phải lắm! Huống chi cái việc đó gần như qua rồi, mình phải lên tinh thần, vừa tìm lạc thú, vừa dựng lại cái gì đã ngã trong dĩ vãng chứ!

Ngươi xem kìa, vị cô nương đó khả ái biết bao, vị cô nương đó, sẽ được dành cho ngươi! Nhận gấp đi! Vui gấp lên đi!

Thiếu niên ấp úng:

- Tiểu đệ...! Tiểu đệ...!

Người có giọng thô kệch chận lại:

- Đừng ấp a ấp úng chi cả! Thịt tới, miệng cứ ngoạm! Chọn đi, thịt nai thịt ngỗng, thịt nào thích, ngươi cứ ngoạm!

Bỗng hắn kêu lên:

- Anh em xem kìa! Lữ lão đệ nhìn ai đó chứ? Có lẽ người đó là người lý tưởng của lão đệ!

Vương Đại Nương cất tiếng:

- Vị Lữ công tử đó quả nhiên có đôi mắt rất tinh! Thoáng nhìn qua là nhận ngay được viên ngọc lành ẩn trong các viên sỏi! Số một của già đó! Đã là của quý thì đâu phải tùy tiện cho mỗi ai muốn hưởng thì hưởng!

Người thô kệch cười lớn:

- Tại hạ biết lắm mà! Vào đây là cầm như vào động hồ ly! Được rồi, không cho tùy tiện thì bà cứ đưa điều kiện ra đi! Phải biết, Lữ lão đệ cũng là người, hào sảng lắm đấy!

Vương Đại Nương tỏ vẻ khó khăn:

- Việc này... Già chịu thôi! Hãy để cho cô nương nói!

Người có giọng thanh la lại cười sang sảng:

- Được! Được! Cô nương cứ nói đi, nói nhanh lên nào!

Bọn thiếu nữ cười to.

Vương Đại Nương thốt:

- Số một của già nói rằng số một chẳng muốn chi cả mà chỉ muốn La công tử truyền cho thương pháp liên hoàn gồm bốn mươi tám chiêu từng làm chấn động giang hồ!

Người có giọng nói thô kệch vỗ tay xuống bàn rầm rầm, cười vang:

- Dễ! Rất dễ! Hết sức dễ!

X Phương Bửu Ngọc nghe đến đó, thoáng bíên sắc.

Tiểu công chúa bước đến cạnh chàng hỏi:

- Ngươi biết được họ là những ai chứ?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Lữ công tử chính là Bửu Ma thần thương Lữ Vân!

Công chúa cau mày:

- Có phải là người giao đấu với ngươi bên bờ hồ Động Đình chăng?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Chính hắn! Còn Hùng đại ca chính là Đa Tí Hùng Hùng Hồ tại tiểu Cô Sơn. Hắn mang trong mình ít nhất cũng mười loại ám khí, mỗi loại để một nơi trong người, mỗi nơi tự phát ra ám khí đó nếu cần, riêng về đôi tay hắn có thể phát ra tám loại, mỗi loại nhắm vào một bộ phận riêng biệt của địch.

Tiểu công chúa lại hỏi:

- Còn cái tên có giọng nói như thanh la bể?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Bán Thiên Vân Đơn Nghị Thành tại Cửu Giang.

Tiểu công chúa lại hỏi:

- Còn...

Phương Bửu Ngọc tiếp luôn:

- Người kia là Ma Thành Tôn Ngọc Long.

Bỗng Vạn lão phu nhân chen vào:

- Bốn người đó có mặt tại đây, hẳn là bọn Võ Sương Khuông Tân Sanh, Nam Xương Cao Quan Anh, Kỳ Môn Triệu Kiếm Minh cũng đến đây luôn!

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Có thể như vậy!

Tiểu công chúa hỏi:

- Toàn là những kẻ đã chiến bại dưới tay ngươi?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Họ có giao thủ với tại hạ! Sau đó, chẳng biết vì lý do gì, họ lại mất tích luôn cho đến bây giờ!

Tiểu công chúa chớp mắt:

- Chúng nói đến đây giải muộn, có là mấy hôm sau này, chúng gặp phiền muộn nặng nề... Nhưng...ai đã gây phiền muộn cho chúng? Ngươi có đoán ra chăng?

Phương Bửu Ngọc cười lạnh:

- Hỏa Ma Thần!

Vạn lão phu nhân cười:

- Ta cứ tưởng Vương Đại Nương ở đây, làm ăn nghiêm chỉnh lắm, ngờ đâu mụ ta lại là một ma nữ Bạch My, thêm cái Lý Danh Sanh cũng dấn thân trên con đường buôn hương bán phấn, cam tâm một chồng hờ cho bất cứ nàng nào!

Bà nêu một chuyện bất nhã lắm, nhưng sự thật là sự thật, nói lên một sự thật tất phải dùng một ngôn ngữ chính xác.

Tiểu công chúa cau mày, khoát tay, ngầm bảo bà đừng nói nữa.

Nhưng, Vạn lão phu nhân vẫn tiếp:

- Cái động của mụ ta không giống như bất cứ cái động nào trên thị trấn. Mụ ta không đòi tiền, mụ ta chỉ đòi vũ công!

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Thảo nào mà vũ công của bà ta không ngừng tiến bộ! Bảy năm nay, bà ta học thêm rất nhiều tuyệt kỹ. Xem ra, cái mưu đồ của bà ta cũng to lớn lắm!

Tiểu công chúa cau mày:

- Đem công phu học tập vất vả trong bao nhiêu năm dài để đổi lấy... đổi lấy... Hừ! Trên thế gian này sao lại có con người ngu ngốc đến độ đó, lạ lùng thật!

Vạn lão phu nhân cười nhẹ:

- Lạ lùng chi việc đó! Vũ công là cái sự ngoại thân, đem cái sự ngoại thân để đổi lấy sự khoan khoái nội thân, nghĩ ra cũng hợp lý lắm chứ? Vả lại, sau cuộc đổi chác rồi, họ cũng chẳng mất mát tý nào, như vậy họ có lợi lắm chứ? Một thiếu nữ do cha mẹ sinh ra, đương nhiên phải bảo gìn thân thể, nàng không giữ mà lại đem cống hiến cho người, thì chính nàng thua thiệt chứ người đâu có thua thiệt!

Tiểu công chúa trầm giọng:

- Nhưng, một nơi bí ẩn như thế này...

Vạn lão phu nhân chận lời:

- Cô nương muốn nói tại sao nhiều người biết được mà đến? Tự nhiên phải có kẻ đưa đường khách tìm hoa chứ? Cô nương phải hiểu, địa điềm càng thần bí thì địa điểm đó càng hấp dẫn con người! Phải nhìn nhận mụ Vương Đại Nương này là một con hồ ly tinh vậy! Chỉ có loại hồ ly tinh mới nghĩ ra phương pháp kỳ quái, thu thập tất cả tinh hoa vũ thuật!

Hai thiếu nữ lúc đó đã đẩy quả quýt ra khỏi miệng rồi, nghe Vạn lão phu nhân tiết lộ nghề nghiệp của chúng, hết sức thẹn, mặt đỏ hồng, gầm đầu xuống.

Tuy vậy, quá quen với nghề nghiệp, dù e thẹn, chúng vẫn không xóa nhòa được ấn tượng xấu xa, thành ra cái tật gặp trai đẹp là nhìn.

Đầu cúi xuống, chúng vẫn đảo mắt nhìn len lén Phương Bửu Ngọc.

Trong lúc đó, Phương Bửu Ngọc cũng cúi đầu trầm tư.

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Lại động tâm rồi phải không?

Đột nhiên, Phương Bửu Ngọc nhảy vọt ra ngoài.

X Bên ngoài, sự nhiệt náo đã lên cao độ.

Vương Đại Nương vẫn tựa mình nghiêng nghiêng trên chiếc giường đặc biệt. Gương mặt của bà tươi như hoa mới nở.

Hai thiếu nữ ngồi bên hai chiếc đùi của một đại hán. Đại hán đó vận y phục gấm rực rỡ, hắn có đôi mắt to, mày rậm, một bàn tay đặt lên lưng thiếu nữ, bàn tay đó không ngưng đi lên đi xuống, từ bờ vai nàng xuống đến hông, rồi rà quanh hông một vòng, rồi ngực đến ngực, đến cổ, cuối cùng hoành lên lưng, tuần hoàn trở lại.

Đại hán đó chính là Đa Tý Hùng Hùng Hồ, tay sử dụng ám khí hữu danh tại vùng Tiểu Cô Sơn.

Một người khác đang ngồi, hắn cao hơn mọi người một chiếc đầu, nhưng đầu hắn lại nhỏ hơn bất kỳ đầu ai hiện diện, đầu nhỏ, đôi mắt phải nhỏ.

Người đó là Ma Thành Tôn Ngọc Long, giang hồ xưng là Trí Đa Tinh.

Một người khác đầu to vóc lùn chính là Võ Xương Khuông Tân Sanh.

Ngoài ra, có đủ mặt những người do Phương Bửu Ngọc, Vạn lão phu nhân nêu ra như Kỳ Môn Triệu Kiếm Minh, gương mặt vàng, ăn nói ngang ngang ngạnh ngạnh, Nam Xương Cao Quan Anh thì có gương mặt non choẹt, tuy niên kỷ khá cao.

Trội hơn hết trong bọn là Lữ Vân, ngoại hiệu Bửu Ma Thần Thương tay hảo hán thượng đẳng vùng Tam Tương.

Phương Bửu Ngọc nhận ra, chỉ vắng mặt một người, và ngườu vắng mặt là Ngư Truyên Giáp.

X Ngồi đó, Lữ Vân hơi đỏ mặt.

Bên cạnh hắn, có một thiếu nữ nhan sắc tuyệt vời, lại thêm điệu bộ tập rành cho nghề nghiệp, hấp dẫn phi thường.

Hắn đỏ mặt nhưng hắn bất động, hắn không dám mò tay vào người thiếu nữ, mặc dù những đồng hành ai ai cũng vào việc từ lâu.

Thiếu nữ cố bám rịn lấy tay hắn, điểm nụ cười duyên thốt:

- Lữ công tử ơi! Mình đi thôi, mình ở đây, người ta cười mãi thẹn chết đấy!

Đi tất nhiên là vào chỗ kín, một gian phòng nào đó được trang trí cho cái nghiệp này.

Lữ Vân như bị đóng đinh tại chỗ, không đứng lên.

Bên kia, Hùng Hồ dùng hai bàn tay to như chiếc quạt bồ bóp bóp hông hai thiếu nữ, tưởng chừng như chiếc hông của hai nàng phải đứt ra, phải nát bấy.

Hai thiếu nữ uốn éo mình, có lẽ là quá đau nên hai nàng nhăn mặt mím môi, tuy nhiên, nới mép có gắn một nụ cười, loại nụ cười chiêu đãi.

Hai nàng mượn cái cớ mắng yêu để mắng khéo một tay chơi ác.

Hùng Hồ cười giòn:

- Lữ lão đệ Ơi! Đi đi chứ! Người ta mời vào động thiên thai sao chẳng chịu đi! Lão đệ sợ vào đó rồi người ta làm thịt à? Ha... ha... ha...

ha...! Chẳng sao đâu! Người ta nuốt không trôi đâu, nuốt vào rồi thì cũng phải nhả ra như thường! Đi đi! Đừng sợ!

Thiếu nữ đó vừa cười tủm tỉm vừa nói:

- Quỷ ơi là quỷ, ăn nói không ngượng mồm à? Nào ai nuốt? Nào ai ăn! Dơ ơi là dơ!

Đơn Nghị Thành bật cười ha hả:

- Hùng đại ca nói sự thật mà cô nương không có gan tiếp nhận một sự thật?

Trong cuộc vui, một người xướng bao nhiêu người phụ hoa. liền, tiếng cười tiếng nói vang lên ồn ào như chợ vỡ.

Đang lúc náo nhiệt đó, một người từ phía hậu, vén rèm bước ra.

Một người trong cuộc trông thấy, ngưng ngay cười nói, trố mắt.

Một người ngưng, nhiều người ngưng, tất cả đều ngưng.

Cuộc nhiệt náo bỗng chốc tắt lịm. Bao nhiêu vòng tay đều lỏng ra, nam theo nam, nữ theo nữ, nam nữ cùng xê dịch ra xa nhau hơn.

Mọi cặp mắt đều đổ dồn về người mới xuất hiện. Mọi gương mặt đều biến sắc, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc lâu hoặc mau.

Đa Tý Hùng Hùng Hồ giương tròn đôi mắt, muốn quát lớn nhưng âm thanh quát ra không đủ độ cao như ý muốn:

- Ngươi...

Đơn Nghị Thành đổ mồ hôi, hạt to bằng hạt đậu, từ chiếc đầu quá nhỏ rơi xuống như mưa tuyết, tiếp nối câu nói của Hùng Hồ bỏ nửa chừng:

-... làm sao...

Rồi Tôn Ngư Long lại lên tiếng:

-... lại đến đây...?

Một câu nói gồm sáu tiếng.

- Ngươi làm sao lại đến đây?

Câu nói quá ngắn ngủi như thế, vậy mà phải có đến ba người mới nói tròn. Phải đến ba người, người nào cũng mất cả tự nhiên, người nào cũng mất cả lực khí.

Người đó là Phương Bửu Ngọc.

Chàng cười nhẹ hỏi lại:

- Cách biệt nhau đã lâu, các vị được bình an từ ngày đó chứ?

Đơn Nghị Thành phải lấy hết can đảm, đưa tay lên lau mồ hôi, ấp úng:

- Bình... bình an!

Tôn Ngọc Long miễn cưỡng phụ hoạ:

- Rất bình an...

Hùng Hồ cố gắng kết thúc:

- Không một điểm nhỏ bất bình an!

Bửu Ma Thần Thương Lữ Vân xô thiếu nữ qua một bên, chạy đến bên cạnh Phương Bửu Ngọc, thoáng đỏ mặt:

- Phương đại hiệp mạnh giỏi đấy chứ?

Vương Đại Nương mỉm cười tiếp nối:

- Tại đại hội Thái Sơn, tài nghệ áp đảo quần hùng, một nhát kiếm đưa đến tiếng danh đầy động khắp Cửu Châu! Phương đại hiệp tự nhiên phải được bình an chứ, cần chi phải hỏi? Rất bình an, tuyệt đối bình an!

Bà dừng lại một chút rồi tiếp:

- Thì ra, các vị quen nhau cả! Chính điều đó mới là điều tốt nhất!

Bà đảo mắt nhìn quanh các thiếu nữ gắt:

- Bay đâu! Đứng đó mà trợn trừng cho vọt tròng mắt đấy à? Ta hỏi các ngươi, Phương đại hiệp sẽ ngồi đâu?

Phương Bửu Ngọc khoát tay:

- Không đại nương ạ...

Chàng đảo mắt nhìn qua tất cả, sau cùng ánh mắt ngừng nơi Lữ Vân, thốt:

- Tại hạ muốn đàm đạo mấy câu với Lữ huynh, chẳng hay...

Lữ Vân thốt:

- Phương đại hiệp cứ phân tỏ!

Cả hai cùng bước ra ngoài, trước cái nhìn hiếu kỳ của mọi người.

Có kẻ muốn nói gì đó song chẳng làm sao phát âm ra được. Lời nói vừa vượt qua khỏi yết hầu liền trở xuống họng, vĩnh viễn không làm sao lộn trở lên.

Ánh mắt của họ chớp mãi chứng tỏ mỗi người cũng có mấy ý niệm trong đầu.

oOo Phương Bửu Ngọc cùng Lữ Vân, người trước, người sau đi thẳng đến một cụm hoa.

Lúc đó, sao đã thưa dần.

Không bao lâu nữa, vầng thái dương sẽ trở về cùng vạn vật. Thời gian này là thời gian hoa nở, hương hoa ngào ngạt.

Phương Bửu Ngọc dừng chân, quay mình lại, điểm một nụ cười:

- Lữ huynh...

Lữ Vân chặn lời:

- Có phải Phương đại hiệp muốn hỏi gần đây tại hạ Ở địa phương nào?

Phương Bửu Ngọc điềm nhiên:

- Giả như Lữ huynh không tiện nói thì thôi vậy!

Lữ Vân thở dài:

- Nói thật với Phương đại hiệp, sau ngày chúng ta gặp nhau, tại hạ tiếp được một phong thơ, tại hạ liền giả theo sự chỉ dẫn trong thơ, đến cuối cùng rồi tại hạ bị quản thúc!

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Quản thúc?

Lữ Vân lại thở dài:

- Bọn tại hạ tám người cùng bị giam lỏng trong một nhà lao tối tăm, chẳng hề có ánh mặt trời chiếu đến, cả tám người cùng hiệp sức hiệp trí, làm mọi cách để thoát khỏi nhà lao song không thể thoát đi được!

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Tám vị đều là bậc anh hùng, hiệp sức lại thì lực lượng đó nào phải tầm thường, tại sao...?

Lữ Vân cười khổ:

- Ai bị giam cầm, tình cảnh như thế nào, tại hạ không rõ, riêng về bọn tại hạ thì...

Hắn thở dài mấy lượt nữa rồi tiếp:

- Tiếp được phong thơ, tại hạ đến ngay nơi ước hẹn. Đến nơi đó rồi, tại hạ thấy...

Phương Bửu Ngọc chặn lời:

- Thấy Hỏa Ma Thần?

Lữ Vân lắc đầu:

- Chẳng phải lão! Mà là một con người tàn phế, hoàn toàn xa lạ đối với tại hạ. Người đó không cử động được, song gặp hắn rồi, tại hạ mê man liền. Khi tỉnh lại mới hay là mình đã nằm trong nhà lao.

Phương Bửu Ngọc chú ý:

- Một người tàn phế? Một lão nhân? Lão nhân đó là ai chứ? Còn các vị kia, có tao ngộ như Lữ huynh không?

Lữ Vân gật đầu:

- Đại khái là vậy!

Phương Bửu Ngọc suy tư một chút:

- Phong thơ đó như thế nào mà tất cả đều tin tưởng cưc độ vậy chứ?

Bỗng chàng nhận ra vẻ hổ thẹn trên gương mặt của Lữ Vân.

Hắn cúi đầu lẩm nhẩm:

- Phong thơ đó... phong thơ đó...

Hắn khó nói vô cùng. Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Dù phong thơ đó như thế nào cũng chẳng quan hệ lắm, Lữ huynh bỏ qua đi!

Lữ Vân ngẩng đầu lên:

- Phương đại hiệp thông cảm như vậy, tại hạ hết sức cảm kích, nhưng...

Bỗng hắn lắc đầu, cao giọng tiếp:

- Tại hạ phải nói, nếu không nói thì chẳng xứng với lòng tốt của đại hiệp. Lúc thiếu thời, tại hạ có làm một việc, nếu bằng hữu biết được việc đó, chắc chắn là tại hạ phải ẩn náu rừng sâu, núi cao, chẳng dám nhìn mặt ai nữa. Phong thơ đề cập đến việc đó, và dọa nếu tại hạ từ chối đến chỗ hẹn, lập tức việc kia sẽ được công bố trên giang hồ...

Phương Bửu Ngọc chú ý:

- Lữ huynh bị bức như thế! Tưởng Hùng huynh và các vị kia chắc cũng bị bức vì một sự việc nào đó! Không ngờ đối phương lợi hại quá chừng, biết đến cả việc tư riêng của tám vị!

Lữ Vân trầm ngâm một chút:

- Về việc riêng tư, tại hạ chẳng có nhiều, thế mà vị đó...

Hắn không nói tiếp nhưng cái ý đã rõ lắm rồi, việc riêng tư của hắn không nhiều, thế mà người đó còn biết được, huống chi bọn Hùng Hồ có lắm việc riêng tư, đương nhiên người đó phải hiểu, hiểu việc của người có nhiều là việc rất dễõ còn hiểu việc của người ít việc đương nhiên là một sự lạ.

Bởi người ít việc bao giờ cũng giữ bí mật, thế mà việc bí mật được giữ gìn như vậy vẫn bị người ngoài phát giác, kể ra vẫn phải kinh ngạc.

Phương Bửu Ngọc hiểu được cái ý của Lữ Vân, nhếch miệng cười khổ:

- Lữ huynh nghĩ đúng!

Sau một lúc lâu, chàng chợt hỏi:

- Lão nhân tàn phế đó có hình dáng như thế nào?

Lữ Vân hồi ức lại sự tình một phút:

- Tại hạ được thấy lão ta vào một buổi tối, hoàng hôn, dưới ánh đèn mờ. Lão ta như một cái xác chết, mặt mày được bao bọc trong một bao trắng, nơi nào có lột phần da trên cơ thể người, nơi đó có dấu vết quái dị, chừng như bị lửa đốt cháy, nhìn thoáng qua, ai ai cũng phải hãi hùng và chẳng còn ai dám nhìn lại một lần thứ hai nữa!

Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một lúc, đoạn kêu lên:

- Đúng rồi! Chính là con người ấy!

Lữ Vân trố mặt:

- Phương đại hiệp nhận ra y?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Có thể là lão ta là vị minh chủ võ lâm ngày trước, có thể lão ta là chủ nhân Thanh Mộc Cung, những vết sẹo của lão ta có thể là do Bạch Thủy nương gây nên. Mộc lang quân vì muốn cứu cho phụ thân mà phải bôn tẩu xuôi ngược giang hồ, tìm diệu dược, nhờ vậy mà lão duy trì gượng gạo đến ngày nay, nhưng thương thế của lão vẫn chưa lành lặn hẳn.

Lữ Vân kinh hãi kêu lên:

- Thủ đoạn của Bạch Thủy nương tàn độc như thế à?

Phương Bửu Ngọc cười khổ:

- Nói về thủ đoạn tàn độc, thì trên thế gian này, bà ta là vô địch!

Liên tưởng đến việc mình phải đến lãnh giáo nơi con người tàn độc đó, Phương Bửu Ngọc cảm thấy lạnh rợn khắp mình, tuy nhiên chàng vẫn giữ vẻ thản nhiên, rồi chàng hỏi:

- Còn Ngư Truyền Giáp đại hiệp? Sao chẳng thấy cùng đi với các vị đến đây?

Lữ Vân đáp:

- Ngư huynh nhất định về quê, còn tại hạ thì, bổn ý cũng muốn trở lại nhà, song ý chí không được kiên cường, bị họ lôi cuốn đến đây.

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Đang trong lứa tuổi thanh niên, có ai tránh khỏi cái hấp dẫn của nếp phong lưu, gặp đâu vui thì vui, nghe đâu có nhiệt náo thì tìm đến, lẽ thường mà, Lữ huynh! Bất quá, nếu chỉ vì cái việc mua vui trong chốc lát, Lữ huynh phải đánh đổi bốn mươi tám đường thương liên hoàn thì đáng tiếc thật, thật là một cuộc đổi chác quá đáng!

Lữ Vân thở dài:

- Về việc đó, làm sao tại hạ chẳng biết? Song tại hạ bị bằng hữu bức bách phải đáp ứng, đã đáp ứng rồi chẳng lẽ thất tín? Huống chi đối với một nữ nhân, mình càng không nên thất tín!

Đoạn hắn cười lên mấy tiếng, tiếp:

- May là thương pháp của tại hạ có rất nhiều bí ẩn, tuy nó không huyền diệu bằng kiếm pháp của đại hiệp, song bất cứ ai muốn tập luyện nó, đừng tưởng là một sớm một chiều là thành công nổi!

Chàng đành cười khổ thốt:

- Nếu thế thì hãy biết là thế! Tại hạ chỉ mong Lữ huynh...

Bỗng có người cao giọng thốt:

- Hai vị đã nói xong việc riêng tư chưa?

Người đó chính là Đa Tý Hùng Hùng Hồ, hắn vừa nói vừa bước tới.

Lữ Vân nhìn Phương Bửu Ngọc gấp giọng:

- Phương đại hiệp có điều chi cần phân phó tại hạ?

Phương Bửu Ngọc suy nghĩ một giây lát lâu:

- Không!

Hùng Hồ đã đến nơi.

Có mặt kẻ thứ ba, làm sao Phương Bửu Ngọc dám nói chi?

Hùng Hồ cười nói:

- Tại hạ có mấy câu muốn nói với Phương đại hiệp, nói cho vui vậy thôi!

Lữ Vân chụp dịp liền:

- Nếu vậy thì tại hạ xin cáo từ!

Hắn đi gấp, chẩng hiểu tại sao hắn hấp tấp vội vàng ly khai Phương Bửu Ngọc.

Phương Bửu Ngọc cười một tiếng, lại thở dài một tiếng:

- Xem ra Lữ huynh hơi hăng rồi đấy!

Hùng Hồ mỉm cười:

- Tại hạ không thấy mặt trời suốt một khoảng thời gian dài, đương nhiên phải háo hức, Lữ huynh đệ củng thế mà đại hiệp. Huống chi, lai ở trong lứa tuổi khí huyết phương cương, con tim còn tràn ắp nhựa sống, dày sinh lực của xuân thì. Đừng nói chi hăng say, chúng ta có thể bảo là sự ham muốn có thể làm điên người được lắm. Ai nói không muốn, chính người đó lại muốn mạnh, muốn gấp hơn ai cả.

Phương Bửu Ngọc cười nhẹ:

- Hùng huynh có điều chi chỉ giáo?

Hùng Hồ đáp:

- Lãnh giáo thì phải hơn! Tại hạ có mấy điều khó hiểu quá!

Phương Bửu Ngọc điềm nhiên:

- Việc khó, Hùng huynh không hiểu nổi thì làm sao tại hạ hiểu nổi?

Hùng Hồ hỏi:

- Hỏa Ma Thần hao phí bao nhiêu tâm lực, lừa bọn tại hạ, quản thúc một thời gian dài, tại sao lại phóng thích tất cả? Chẳng lẽ lão ấy điên đến dộ làm cái việc hại người mà chẳng có lợi cho mình? Tại sao lão tự chuốc cái nhọc mà chẳng hưởng gì cả?

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Việc ấy... thì tại hạ có thể hiểu!

Hùng Hồ gật đầu:

- Biết như vậy nên tại hạ mới thỉnh giáo Phương đại hiệp.

Phương Bửu Ngọc tiếp:

- Lúc đó, Hỏa Ma Thần muốn tại hạ phải mang oan uổng, không còn ai biện bạch cho tại hạ. Lão ta muốn giang hồ xem tại hạ như một tên lừa gạt man trá, các vị đều là những người từng giao du với tại hạ, các vị sẽ là nhân chứng giúp tại hạ giải tỏa niềm oan, do đó, lão ta lừa các vị biệt lập hẳn một nơi. Rồi ngày nay, niềm oan uổng của tại hạ đã được biện bạch, lão ta còn muốn giữ các vị lâu nữa làm gì? Tự nhiên, lão phải phóng thích các vị.

Hùng Hồ mỉm cười:

- Tuy nhiên, tại hạ cũng phải nhìn nhận lão ấy còn nhân tánh, cho nên, thay vì giết bọn tại hạ, lão lại phóng thích.

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Chính thế đó, Hùng huynh! Làm công việc có hại cho người mà không có lợi cho mình, chẳng khi nào chịu làm! Giết các vị, lão có lợi gì đâu? Trái lại, phóng thích các vị, chẳng những lão giải tỏa được mối thù, bởi dù sao các vị cũng hận lão, mà biết đâu sau khi được tự do, các vị lại không cảm kích lão?

Hùng Hồ thốt:

- Nếu lão ta nghĩ là bọn này cảm kích thì thật là lão ta nuôi mộng. Lão phóng thích bọn tại hạ chỉ vì lão tưởng là trong bọn tại hạ có người chưa khâm phục Phương đại hiệp, biết đâu sau khi được tự do, những người đó sẽ tìm gặp đại hiệp mà gây lụy phiền? Và nếu đúng như vậy, thì lão ta khoan khoái biết bao?

Phương Bửu Ngọc cau mày cười nhẹ:

- Có việc như vậy sao ?

Hùng Hồ gật đầu:

- Có thể lắm chứ? Tại hạ biết có hai kẻ, chẳng xem trời cao, chẳng nhìn đất rộng, hai kẻ đó cho rằng đại hiệp may mắn mới thắng chúng, bởi cho như vậy, chúng phải tìm đại hiệp để tái đấu.

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Đa tạ Hùng huynh chỉ điểm!

Hùng Hồ chận lời:

- Đại hiệp không nên tạ Ơn tại hạ. Chỉ vì tại hạ không thích hai tiểu tử đó, do chỗ không thích, tại hạ ghét luôn hành vi thái độ của chúng, tự nhiên tại hạ phải đem thái độ nói cho đại hiệp biết. Có điều, xin đại hiệp hiểu cho là tại hạ nói đúng sự thật.

Phương Bửu Ngọc cười ròn:

- Hùng huynh có tánh hào hiệp như vậy, đáng phục lắm!

Hùng Hồ tiếp:

- Cái tâm của hai kẻ đó không tốt, nhưng cái tài của hai kẻ đó phải kể có hạng lắm. Bị quản thúc chung với bọn tại hạ nhưng chúng lại biệt lập ở một góc nhà, ngày đêm thì thầm to nhỏ với nhau, thỉnh thoảng lại cười lên khúc khích. Tuy chúng to nhỏ với nhau, song ở một nơi quá nhỏ, dù chúng không muốn cho ai nghe, mình cũng nghe như thường, dù mình không muốn nghe thì cũng nghe như thường. Và tại hạ đã nghe chúng nói những gì với nhau.

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Họ nói gì với nhau?

Hùng Hồ tiếp:

- Gian manh gặp gian manh, chúng đồng ý đồng tình với nhau cực độ. Chúng nghiên cứu vũ công, tìm những sơ hở của đại hiệp, chuẩn bị một ngày nào thuận tiện sẽ đối phó với đại hiệp.

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Con nhà võ, nghiên cứu võ học là điều đáng mừng, đồng tâm đồng lực mà làm việc, ta thiết tường họ đáng khen lắm chứ? Miễn sao họ vì vũ học chứ đùng vì một chút bạc vàng thì thôi!

Hùng Hồ hừ một tiếng:

- Nhưng con người đó khi nào lại chẳng nghĩ đến lợi lộc? Phương đại hiệp dường tin tưởng họ là chính nhân quân tử mà lầm! Đành rằng đại hiệp không sợ, nhưng đề phòng trước vẫn tốt hơn!

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Đa tạ Hùng huynh chỉ điểm!

Hùng Hồ tiếp:

- Tại hạ chưa kịp cho đại hiệp biết chúng là ai. Chúng...

Phương Bửu Ngọc chận lại:

- Hùng huynh không nói, tại hạ cũng hiểu rồi!

Hùng Hồ trố mắt:

- Phương đại hiệp nói cho nghe?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Ma Thành Tôn Ngọc Long và Cửu Giang Đơn Nghị Thành!

Hùng Hồ vỗ tay:

- Đúng vậy! Chính cái bọn khốn nạn đó!

Y dừng lại một chút rồi tiếp:

- Thật ra, chúng cũng có tài, trên đời này hiếm có người thủ thắng nổi trước chúng. Cũng nhờ chúng có bản lĩnh khá cao nên mới tồn tại đến ngày nay, nếu không thì hẳn chúng đã ra ma từ lâu.

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Tuyệt chiêu bí học của họ, tại hạ đã lãnh giáo qua rồi! Luận về chiêu thức tàn độc, tại hạ công nhận cái chiêu Ngô Cương Khảm Quế của Tôn Ngọc Long cũng huyền diệu lắm!

Hùng Hồ lại hừ một tiếng:

- Tôn Ngọc Long đã sử dụng chiêu Ngô Cương Khảm Quế tàn sát biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt. Trên giang hồ, thiên hạ truyền thuyết hai câu, tưởng đại hiệp cũng biềt chứ?

Hồi 46

Tìm hoa gặp máu

Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Hai câu đó như thế nào?

Hùng Hồ đáp:

- Có cái miệng khuyết đức, trong nước chặt đôi chân, đó là câu trước, còn câu sau là lén lên lầu cô nương, trong mây đánh nát đầu.

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Hai câu, bốn đoạn, nói về tuyệt kỹ của một người! Hai đoạn câu trước ám chỉ Ngư Truyền Giáp và Tôn Ngọc Long, chiêu thức của họ đánh ra chia làm ba đường, đường nào cũng xảo diệu, tuy nhiên vũ công của họ rất khác biệt.

Hùng Hồ tiếp:

- Đúng vậy! Còn hai câu sau ám chỉ Đơn Nghị Phi Hoa Lãnh Băng Ngư và Bán Thiên Vân Đơn Nghị Thành, Lãnh Băng Ngư dù lợi hại song cái chiêu Vân Trung Kích Điện của Đơn Nghị Thành cũng chẳng vừa.

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Thật vậy! Theo tại hạ nghĩ Vân Trung Kích Điện có phần ác hơn Thiên Thượng Phi Hoa, có điều chiêu Vân Trung Kích Điện ngày nay mất đi nhiều uy khí, cho nên nó mất đi cái ngôi vị bá đạo trong vũ học, cũng vì thế, người sử dụng không tỏ rõ cái linh diệu của nó.

Hùng Hồ tiếp:

- Hai chiêu Ngô Cương Khảm Quế và Vân Trung Kích Điện đành là có khuyết điểm, chứ nếu không thì chưa chắc gì cả hai lại bại dưới tay đại hiệp.

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Chiêu Ngô Cương Khảm Quế, phần linh xảo thì có dư mà phần hung mãnh thì không đủ, có thể là vì Tôn Ngọc Long ốm nhỏ. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn nhận một sự tương phản trong vấn đề, là vì có thân vóc ốm nhỏ, Tôn Ngọc Long đánh chiêu đó không đủ cái oai lực, song nhờ hắn ồum nhỏ hắn mới sử dụng được chiêu đó.

Hùng Hồ cau mày:

- Qua cái sự tương phàn đó, chúng ta phải thấy cái đạo lý của vấn đề là muốn đánh ra được chiêu Ngô Cương Khảm Quế, phải là con người ốm nhỏ mà phải vừa có nội lực mới phát huy được cả linh xảo lẫn hùng mạnh.

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Phải đó Hùng huynh!

Hùng Hồ trầm giọng:

- Giả như cả hai cùng liên thủ, đồng thời phát xuất tuyệt kỹ của mỗi người, một công thượng bộ, một công hạ bộ thì đại hiệp phải làm sao? Phương đại hiệp có nghĩ đến trường hợp như vậy chăng?

Phương Bửu Ngọc cau mày trầm ngâm một lúc:

- Nếu cả hai liên thủ và đồng thời đánh ra chiêu độc thì chăc chắn gây khó khăn cho đối phương nhiều.

Hùng Hồ gật đầu:

- Phương đại hiệp biết như vậy, tuyệt đối không nên khinh thường.

Y dừng lại một chút đoạn tiếp:

- Phương đại hiệp xem kìa!

Rồi hắn thấp giọng:

- Vừa nhắc đến, chúng lại ra ngay!

Đơn Nghị Thành với thanh âm như loa bể thốt oang oang:

- Lão Hùng ơi! Đã xong chuyện rồi chứ? Nếu không còn chuyện gì đáng nói nữa thì nhường Phương đại hiệp cho bọn này nói mấy câu giải khuây xem!

Hùng Hồ thì thầm:

- Phương đại hiệp có muốn tại hạ...

Phương Bửu Ngọc mỉm cười chận lời:

- Khỏi! Không sao đâu! Hùng huynh cứ đi đi!

Hùng Hồ thoáng do dự.

Cuối cùng hắn bưới đi, vừa đi vừa liếc sang Tôn Ngọc Long va Đơn Nghị Thành, lẩm nhẩm:

- Khéo đấy nhé! Gậy ông đập lưng ông thì có mà đi đời!

X Câu nói đó đương nhiên Hùng Hồ nói cho Đơn Nghị Thành và Tôn Ngọc Long nghe, song cả hai từng xem trời bằng vung, khi nào lại để ý đến lời cảnh cáo khéo đó.

Họ có nghe thật, nhưng họ lờ đi bởi họ quá ỷ tài.

Tôn Ngọc Long cất tiếng trước, mở đầu là một tràng cười, có phần nào cao ngạo, sau đó là một câu đầy khách sáo:

- Cách nhau hơn tháng, giờ lại gặp nhau, tại hạ trông ra đại hiệp ngày trở nên tuấn tú. Nghe giang hồ truyền thuyết, tại đại hội Thái Sơn, Phương đại hiệp biểu lộ Oai phong làm khiếp vía hào kiệt bốn phương, tại hạ hoan hỉ vô cùng!

Đơn Nghị Thành bật cười ha hà tiếp nối:

- Chỉ hận bọn tại hạ là phường bị thịt, vô tích sự, sanh giữa đời lại chẳng tạo được chút danh dự với đời, đã vậy còn bị người quản thúc một nơi...

Y dừng lại một chút rồi cười vang tiếp:

- Uổng thay, bọn tại hạ không được mục kích một trường nhiệt náo có lẽ không tiền khoáng hậu! Con nhà võ mất một dịp bằng vàng để học hỏi thật là điều đáng hận!

Tôn Ngọc Long cười sang sảng tiếp nối:

- Không xem bằng mắt thì mình cứ tưởng tượng ra cũng chẳng sao!

Đơn Nghị Thành phụ họa:

- Cho nên chúng ta không dằn lòng được, chúng ta cần đối diện với Phương đại hiệp, để nói lên cái niềm hân hoan đó!

Cả hai giao chuyển, người này dứt người kia tiếp nối, họ nói mãi với nhau một lúc, dù họ đối thoại với Phương Bửu Ngọc song họ chưa cho chàng đáp lời.

Trong giọng nói của họ, chừng như có mỉa mai, có thách thức, có khinh khi, có nghi ngờ.

Cả hai mượn sự bắt chuyện với Phương Bửu Ngọc để càng phút càng đến gần chàng, có nói chuyện, họ không sợ Phương Bửu Ngọc nghi ngờ. Họ đến gần, họ chiếm tư thế thuận lợi. Một bên tả một bên hữu, họ đứng làm sao bên này có thể tiếp ứng bên kia kịp lúc, hoặc cả hai cùng xuất thủ trong một ưu thế.

Họ quyết chiếm tiên cơ, để từ ưu thế đó tạo nên cái chiến thắng quyết định.

Phương Bửu Ngọc biết rõ, chàng lờ đi, tỏ ra chẳng hề phòng hộ.

Chàng cười nhẹ hỏi:

- Trong phút giây này, hai vị đến đây cùng với một mục đích là tâng bổng tại hạ lên tận mây xanh mà thôi, phải chăng?

Tôn Ngọc Long mỉm cười:

- Làm gì có chuyện tâng bốc? Bọn tại hạ thành thật khen Phương đại hiệp mà! Tại hạ...

Phương Bửu Ngọc chận lời:

- Hai vị đưa tại hạ lên cao quá, chừng kéo xuống thấp, chắc tại hạ không chịu đâu!

Đơn Nghị Thành cười hăng hắc:

- Phương đại hiệp nói đùa nghe vui quá chừng!

Phương Bửu Ngọc điềm nhiên:

- Thỉnh thoảng cũng nên nói cao cho vui, cho đời đỡ tẻ, các vị ạ!

Tôn Ngọc Long và Đơn Nghị Thành đồng thanh thốt:

- Phải! Chí lý! Phương đại hiệp hiểu đời lắm lắm...!

Cả hai cùng cười vang.

Phương Bửu Ngọc cũng cười vang.

Ai trông thấy cái cảnh đó, tất phải cho rằng cả ba rất hợp ý đồng tình, nhưng lắng nghe mọi chuyện cho thật kỹ một chút thì trận cười đó, ba mặt người, có hai âm thanh.

Một âm thanh chứa đầy sát cơ, một âm thanh kia chứa vẻ thách thức chờ đợi...

Trong khi cùng cười vang, Tôn Ngọc Long và Đơn Nghị Thành đưa mắt nhìn nhau.

Họ đừng hòng làm một ám hiệu gì qua khỏi mắt của Phương Bửu Ngọc, bởi chàng đã lưu tâm đến họ từ lâu.

Vũ khí của Tôn Ngọc Long có cái tên là Lưu Tinh San Nguyệt Phủ, một trong mười ba thứ binh khí ngoại môn.

Phi Long Phủ giống như Lưu Tinh Chùy, nhưng khác ở chỗ là Chùy thì tròn còn Phủ thì có lưỡi.

Chùy và Phủ có chạm khắc hình rồng, Chùy cũng như phủ, không có cán, vì thay vì cán, người ta dụng cột vũ khí vào đường dây, dây bằng sợi bạc đánh lại, dài độ ba trượng.

Trong khoảng ba trượng đó, địch đứng cách nào, sát một bên hay nửa vời, đều bị tấn công dễ dàng, chứ không phải ở gần rồi người xử dạng phải lúng túng, mất cả linh diệu thủ pháp.

Lợi hại hơn nữa, Phi Long Phủ lại có đôi, một đánh ra xa, một đánh trong khoảng gần, trừ ra đối phương lọt ra ngoài tầm ba trượng thì mới hy vọng an toàn trong phút giây.

Hiện tại, Phi Long Phủ đang lủng lẳng nơi hông Tôn Ngọc Long.

Còn vũ khí của Đơn Nghị Thành là một chiếc Kim Trảo Chùy.

Kim Trảo Chùy không giống bất kỳ loại chùy nào trên giang hồ, hình cái móng, có cán dài năm thước bảy tấc, mỗi lần đánh ra có áp lực trên ba trăm cân.

Và hiện tại, Kim Trảo Chùy nằm gọn trong tay chủ nhân của nó.

Nằm gọn trong tay, chừng như chủ nhân nó mân mê nó, chứ chủ nhân nó chưa tỏ rõ tư thế sẵn sàng xuất thủ. Song, nắm cán chùy như vậy thì muốn xuất thủ lúc nào lại chẳng kịp?

Phần Tôn Ngọc Long thì bàn tay hắn cũng rà rà quanh đôi Phi Long Phủ, chỉ một cái trở tay là đôi phủ bay ra liền.

Đến lúc nào thì cả hai mới biểu diễn Ngô Cương Khảm Quế và Vân Trung Kích Điện?

oOo Tiếng cười vẫn còn vang.

Trên cao, sao mờ trăng nhạt.

Không rõ do sát khí bốc lên từ tiếng cười hay do thiếu kém ánh trăng sao, những đóa hoa ngào ngạt hương lại mất đi cái vẻ tươi đẹp.

Tôn Ngọc Long đứng cạnh Phương Bửu Ngọc độ ba thước hơn mà Phương Bửu Ngọc lại tay không. Giả như hắn dùng chưởng đánh tới thì tất chàng phải né về phía tả độ một thước.

Nhân cái né của chàng, Tôn Ngọc Long sẽ tung ngọn phủ ngắn sang, ngọn phủ đó sẻ chém tiện đôi chân chàng.

Nhưng nếu chàng né về phía tả của chàng, thì bên đó có sẵn Đơn Nghị Thành, họ Đơn sẽ xuất chiêu Vân Trung Kích Điện từ bên trên giáng Chùy xuống, dù chàng có nhanh nhẹn đến đâu cũng chẳng làm sao thoát được.

Cả hai đứng trong tư thế rất thuận, có thuận tất nhiên phải có lợi.

Cái lợi thứ nhất là họ chiếm tiên cơ, cái lợi thứ hai là họ dồn chàng vào cảnh tiến thoái lưỡng nan, hơn nữa lại chẳng mảy may hy vọng phản công hoặc hoá giải.

Trước khi xuất thủ, họ đã giành tất cả thuận lợi rồi, xuất thủ là thu lượm kết quả ngay.

Cao thủ tính toán có khác.

Phương Bửu Ngọc bị chận cả hai mặt như vậy, không thể nào thủ kín cả hai mặt, mà cũng chẳng làm sao công ra hai mặt.

Còn như chi trì một phía thì chàng bỏ trống trọn một phía, mặc tình cho đối phương của phía trống đó làm gió làm mưa.

Một điều bất tiện cho Phương Bửu Ngọc là dù muốn, chàng cũng chẳng thể xuất thủ trước.

Chàng chỉ còn có cách là chờ đối phương tấn công, rồi tùy theo lối phát xuất thế công của đối phương mà ứng biến đối phó.

Trong khi cười, họ Đơn và họ Tôn nghĩ cách xuất thế công.

Trong khi cười, Phương Bửu Ngọc cũng nghĩ cách phản công, nếu đối phương sử dụng cùng một lúc hai chiêu Ngô Cương Khảm Quế và Vân Trung Kích Điện.

X Cười để chuẩn bị cho cái gì sẽ xảy ra sau khi cười.

Chuẩn bị xong rồi, tràng cười đương nhiên chấm dứt.

Tiếng cười dứt, không gian trầm lặng, ánh thép bốc lạnh, ánh mặt ngời lạnh, hoa cũng nhạt sắc luôn như sợ phải chứng kiến một cảnh rùng rợn.

Đơn Nghị Thành và Tôn Ngọc Long tay rà vũ khí, Phương Bửu Ngọc không có vũ khí thì rà tay vào đâu?

Chàng đưa tay tả lên xoa xoa chiếc cằm trắng, tròn, còn tay hữu thì buông thõng xuống, bàn tay giữ ngang hông, không giang ra xa lắm mà cũng giữ cho đừng quá gần.

Vừa lúc đó, Đa Tý Hùng Hùng Hồ ra đến nơi, theo y còn có bốn năm người nữa.

Trong số người đó, có Lữ Vân và Tiểu công chúa.

Họ Ở trong nhà nghe tiếng cười có vẻ quái dị, họ kinh ngạc cùng kéo nhau ra, song họ không đến gần.

Từ xa xa, Hùng Hồ nhìn vào cục diện bỗng biến sắc kêu lên:

- Không xong rồi!

Lữ Vân hỏi:

- Phương Bửu Ngọc đứng về phía đó thì hạ bộ về phía tả quá trống trải, làm sao chịu nổi cái chiêu Ngô Cương Khảm Quế của Tôn Ngọc Long? Còn bên phía hữu thì thượng bộ cũng chẳng kín đáo gì, rất dễ cho Đơn Nghị Thành xuất chiêu Vân Trung Kích Điện đánh vào. Hắn...

tại sao... hắn lại để lộ như vậy? Trong khi hắn biết rõ đường hướng công kích của hai chiêu đó như thế nào rồi?

Tiểu công chúa lạnh lùng:

- Cho đến giờ phút này, ta chưa thấy Phương Bửu Ngọc có làm cái gì tỏ ra ngu ngốc cả!

Hùng Hồ ấp úng:

- Nhưng... hiện tại...

Bỗng, kim ngân quang loé lên.

Điều lạ lùng là mọi người không sao hiểu nổi Phi Long Phủ thay vì xuất phát theo chiêu Ngô Cương Khảm Quế, thì lại theo chiêu Vân Trung Kích Điện công tới.

Còn Kim Trảo Chùy cũng thay đổi chiêu luôn, Đơn Nghị Thành lại đánh ra chiêu Ngô Cương Khảm Quế, chứ không phải Vân Trung Kích Điện.

Thì ra cả hai thay đổi chiêu thế với nhau, và đó là sự tính toán của họ. Sự tính toán đã có từ ngày họ bị Hỏa Ma Thần quản thúc.

oOo Hùng Hồ hết sức kinh hãi, kêu kên một tiếng.

Đơn Nghị Thành nửa chồm nửa cúi thân mình, vung Kim Trảo Chùy đánh vào bên trên đầu gối của Phương Bửu Ngọc, cái đích là chỗ cách đầu gối độ một tấc bảy phân.

Y cao người dài chân, không thích hơp với lối công vào hạ bộ, nhưng đánh ra chiêu đó, hắn vẫn tỏ rõ cái khí thế vô cùng mãnh liệt.

Còn Tôn Ngọc Long người nhỏ, chân thấp, rất kỵ lối công thượng bộ, vậy mà hắn vung Phi Long Phủ xuống đầu Phương Bửu Ngọc cũng uy mãnh phi thường.

X Kim quang chớp ra.

Ngân quang xẹt xuống.

Là ánh sáng, cái chớp cũng như cái xẹt, đương nhiên phải nhanh, gia dĩ khoảng cách của các đối thủ không xa lắm, họ lại ức độ kỹ càng, thì cái chết cũng phải đến nhanh.

Phương Bửu Ngọc đột nhiên nghiêng người.

Bàn tay rờ cằm, bỏ cằm bay ra, chẳng rõ chàng áp dụng thủ pháp nào, bàn tay của chàng chụp đúng chiếc cán Phi Long Phủ, rồi cũng chẳng thấy chàng dụng lực, Tôn Ngọc Long vì đánh cao phải bay lên cao, lúc đó rơi xuống ngay như bị lôi mạnh.

Đoạn Phương Bửu Ngọc chuyển Phi Long Phủ từ tay tả sang tay hữu, bàn tay hữu khẽ vẫy lên.

Chàng vẫy lên, nhưng một tiếng keng lại vang ở phía dưới.

Chẳng rõ chàng chuyển thế bàn tay từ lúc nào, chiếc Phi Long Phủ từ trên chặt xuống Kim Trảo Chùy, tiếng keng vừa vang, lửa bắn tung toé.

Chíêc Phi Long Phủ bị Phương Bửu Ngọc đoạt, thân hình bị kéo xuống, Tôn Ngọc Long phải rơi theo, nhưng hắn chẳng làm sao thoát rời được, bởi đầu dây đã cột cứng vào cổ tay.

Chặt chiếc phủ xuống, chạm vào Kim Trảo Chùy rồi, Phương Bửu Ngọc lại giật tay lôi Tôn Ngọc Long còn ở lưng chừng không, nhào nghiêng nghiêng xuống, đầu chếch xuống, thân chổng lên, trọn thân hình lao vào Đơn Nghị Thành.

Bốp! Hai chiếc đầu lâu chạm vào nhau, hai thân hình cùng ngã nhào xuống.

Phương Bửu Ngọc đã bước ra ngoài, xa hơn ba thước, miệng điểm nụ cười.

Động tác của cả ba diễn ra đồng thời gian, động tác chỉ diễn ra trong thời gian choáng mắt.

Những người đứng bên ngoài đều là những tay hùng bá một phương trời, song chẳng ai trông thấy Phương Bửu Ngọc xuất thủ như thế nào cả.

Chàng đánh nhẹ nhàng quá, ung dung quá, như không dụng lực, như không chuyên chú, mường tượng thừa nước xuôi dòng mà đẩy thuyền nhẹ lướt.

Thế mà chàng vận phá hai tuyệt chiêu từng làm táng mạng chẳng biết bao nhiêu danh thủ giang hồ.

Nói rằng chàng dùng vũ công mà hạ hai tay lợi hại nhất đời thì chắc là không ai tin được, bởi ngay những người tài giỏi hiện diện cũng chẳng biết chàng dùng thủ pháp nào.

Hùng Hồ thừ người ngồi tại chỗ như tượng gỗ, mãi một lúc lâu hắn mới hoàn hồn lẩm nhẩm:

- Kỳ quái...! Kỳ quái...!

Tiểu công chúa cười lạnh:

- Bây giờ thì ngươi thấy rõ là Phương Bửu Ngọc không ngu ngốc chứ?

Hùng Hồ không đáp lời nàng, bước nhanh về phía Phương Bửu Ngọc, nắm lấy tay chàng vặc vặc:

- Phương huynh! Phương đại hiệp ! Bây giờ tại hạ mới biết vũ công của Phương đại hiệp cao gấp năm mười lần tại hạ tưởng tượng. Tại hạ biết trước thế nào Phương đại hiệp cũng đánh bại hai người đó, song không tưởng nổi là đại hiệp hạ họ một cách dễ dàng, còn dễ dàng hơn bất cứ người trưởng thành nào hạ một hài nhi hai ba tuổi.

Phương Bửu Ngọc cười nhẹ:

- Xem thì dễ dàng đấy Hùng huynh ạ! Song nếu tại hạ tính sai một chút, sai về bộ vị, sai về thời gian thì chính tại hạ đã nằm đó rồi chứ chẳng phải hai vị ấy!

Chàng điểm một nụ cười tuy có vẻ xã giao song vẫn không kém thành thật:

- Tại hạ lấy làm cảm kích Hùng huynh nhiều lắm!

Hùng Hồ đưa tay xoa đầu:

- Cảm kích tại hạ?

Phương Bửu Ngọc gật:

- Nếu không có Hùng huynh tiết lộ sự tình, thì làm sao tại hạ biết được hai vị nghiên cứu võ công chờ ngày phục thù? Nhờ biết bọn họ có nghiên cứu như vậy, tại hạ mới nghĩ ra cách đối phó!

Hùng Hồ cười khổ:

- Phương thiếu hiệp chế ngự đối thủ hay quá! Thoạt đầu tại hạ cứ lo sợ cho thiếu hiệp vô cùng.

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Nếu lúc đó tại hạ không sẵn tay xoa cằm thì không làm sao chụp kịp chiếc Phi Long Phủ. Còn như không chụp được cán phủ, tại hạ phải xoay người về bên tả, đồng thời lùi lại. Làm như vậy tại hạ tránh được thế công của Kim Trảo Chùy, song vai tả phải hứng chiếc phủ. Nếu tại hạ tránh chiếc chùy, tất không thể lùi bởi lùi là xích lại gần chiếc phủ, thay vì dang ra xa. Mà không lùi thì lại bị Kim Trảo Chùy đập vào đầu gối.

Chàng thở dài tiếp:

- Hai tuyệt chiêu cùng xuất phát một lượt, tránh bên này, chạm bên kia, thực là cái chết nằm trong đường tơ kẽ tóc! Nếu tại hạ tính toán lệch thời gian cũng như lệch bộ vị một chút thôi, tất phải táng mạng rồi đó, Hùng huynh!

Hùng Hồ lắc đầu. Ánh mắt ngời niềm thán phục.

Một lúc lâu, y hỏi:

- Có lẽ thiếu hiệp đoán định được là hai gã đó đổi chiêu với nhau?

Phương Bửu Ngọc lại gật:

- Tại hạ nghe Hùng huynh nói là trong nhà lao, họ bí mật nghiên cứu võ công với nhau, tại hạ nghĩ ngay đến trường hợp họ đổi chiêu, chứ chẳng khi nào họ liên thủ mà sử dụng chiêu cũ. Vì tại hạ biết lối xuất thủ của họ rồi, họ không thể thủ thắng với lối cũ, dù họ hiệp công với nhau. Chỉ còn có cách đổi chiêu, làm cho tại hạ không thể ngờ, có như vậy họ mới chắc thắng!

Chàng dừng lại rồi điểm một nụ cười tiếp luôn:

- Hùng huynh cũng biết chứ, phàm muốn phục thù, ít nhất cũng phải có một cái gì mới mẻ, chắc chắn mới dám xuất thủ, bởi môt kẻ chiến bại đem vũ công trước đó mà giao đấu lại thì có khác nào tự tìm cái bại thứ hai? Vũ công đã kém, cái đó đành rồi, hơn nữa đích đã biết rõ đấu pháp của họ rồi, họ mong gì thành công? Cho nên, họ cần phải có cái gì mới mẻ, đặc biệt. Mà trong nhà lao họ học với ai để được có cái đặc biệt đó, nếu không thương nghị đổi chiêu?

Hùng Hồ đồng ý ngay:

- Phương thiếu hiệp luận cao minh quá! Tại hạ khâm phục thực tình!

Rồi y hỏi:

- Hẳn Phương thiếu hiệp khẳng định như vậy mới ứng phó với họ chứ?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Thực sự thì lúc đầu tại hạ chưa biết đích xác họ chủ ý đổi chiêu hay không! Mở đầu, lúc họ cất tiếng cười vang, tại hạ mới khẳng định họ đổi chiêu, và sự thương nghị trong nhà lao, như Hùng huynh đã nói, chính là cuôc thương nghị đổi chiêu đó!

Hùng Hồ lắc đầu:

- Tiểu hiệp nói khó hiểu quá! Tại sao mãi đến lúc họ cười thì thiếu hiệp mới khẳng định?

Phương Bửu Ngọc điềm nhiêm:

- Đơn Nghị Thành cười, bờ vai không rung động. Tôn Ngọc Long cười, toàn thân rung chuyển!

Hùng Hồ trố mắt:

- Điều đó có liên quan gì đến việc đổi chiêu?

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Có chứ! Liên quan hệ trọng lắm chứ! Lúc cười toàn thân rung động là Tôn Ngọc Long không chú trọng đến hạ bộ, hắn bỏ hẳn như vậy là vì hắn vận động chân khí dồn lên thượng bộ. Chân khí dồn lên trên thì chẳng bao giờ hắn đánh xuống hạ bộ của tại hạ. Mà hắn lại sở trường đánh hạ bộ, cho nên tại hạ lấy làm lạ, tại sao một người sở trường đánh hạ bộ lại vận đẩy chân khí lên thượng bộ?

Hùng Hồ kêu lên:

- Đúng! Đúng! Muốn đánh ra chiêu Ngô Cương Khảm Quế, Tôn Ngọc Long phải giở phần hạ bộ vững như núi. Phần dưới không vững thì chẳng khi nào hắn dám đánh ra chiêu đó.

Phương Bửu Ngọc tiếp:

- Tôn Ngọc Long không đánh xuống hạ bộ, lại giành đánh thượng bộ, thì đương nhiên Đơn Nghị Thành phải bỏ phần thượng bộ, để thay Tôn Ngọc Long đánh xuống hạ bộ. Và như vậy là họ thay đổi chiêu thức với nhau rõ rệt.

Chàng dứng lại đó, cười nhẹ mấy tiếng rồi tiếp:

- Suy ra rồi mới thấy đạo lý rất giản đơn!

Hùng Hồ cười lớn:

- Nghe xong mới thấy giản đơn, chứ nếu thiếu hiệp không giải thích thì tại hạ làm sao hiểu nổi?

Bọn Khuông Tân Sanh, Triệu Kiếm Minh cũng lắc đầu tỏ vẻ khâm phục.

Họ nghĩ, dù họ có luyện vũ công đến bao nhiêu năm nữa, dù mức thành tựu của họ có cao đến đâu đi nữa, họ cũng chẳng tùy cơ ứng biến được ảo diệu như chàng.

Đường trường mà liệu địch, liệu để tìm cách đối phó, liệu nhanh chóng, điều đó chẳng ai dạy được, mà chẳng phải mỗi giờ làm được, học được.

Đó là thiên tư của con người.

Mà thiên tư thì chẳng phải mỗi người mỗi có.

Vừa lúc đó, từ trong nhà, tiếng cười của Vương Đại Nương vọng ra, tiếng cười tắt, bà gọi:

- Các vị vào chứ? Già phải dọn tiệc rượu mọn để mừng Phương đại hiệp! Các vị vào đây uống với già một chén rượu cho tiệc mừng thêm long trọng!

X Rượu thuộc loại quý, mà rượu quý thì màu như hổ phách.

Vương Đại Nương cười cười nói nói, cởi mở phi thường. Bọn thiếu nữ chiêu đãi tân khách với một nghệ thuật tuyệt diệu khiến ai khó tánh cũng phải thích các nàng.

Tại bàn tiệc, ai ai cũng thấy mình còn kém Phương Bửu Ngọc quá nhiều. Ai ai cũng có vẻ thẹn, bởi thẹn nên thoạt đầu sanh mặc cảm, thoạt đầu họ còn dè dặt, nhún nhường, nhưng rượu vào lời ra rồi thì cái hứng bốc lên, cái hứng đánh tan niềm mặc cảm và đến lúc đó thì chân tướng của mỗi người bắt đầu hiện lộ.

Họ đã bước ra ngoài cái vỏ thận trọng, họ bắt đầu ba hoa.

Rượu ngon, không thuốc mê, không thuốc độc, quanh mình thì thiếu nữ cười nói, âm thinh ấm dịu, nàng nào cũng đẹp, sẵn sàng thỏa mãn tân khách bất cứ sự kiện gì.

Thử hỏi còn ai không buông lung tâm tình để hưởng thụ niềm hoan lạc đang dâng lên cao độ?

Phương Bửu Ngọc cười nhẹ, uống ít, bình tĩnh dự tiệc, ung dung theo dõi mọi diễn biến xung quanh. Bởi tân khách bắt đầu biến hóa, với men rượu càng phút càng nồng.

Và không lâu lắm, sự biến hóa mà chàng ức đoán đã chuyển mình sang giai đoạn nghiêm trọng.

Bắt đầu từ Vương Đại Nương, bà từ từ rút êm ra khỏi cuộc tiệc.

Bà vào nhà trong một lúc, bọn thiếu nữ bước ra, nắm tay áo của Cao Quan Anh và Khuông Tân Sanh, nàng cúi thấp đầu, tì vào tai cả hai mấy câu.

Cao Quan Anh và Khuông Tân Sanh lập tức vào nhà trong.

Họ đi vào, đương nhiên phải có hai thiếu nữ cùng đi, có như vậy mới hợp lý, vì đến đây là đi tìm hoan lạc mà, hoan lạc phải bắt đầu từ rượu và gái, rượu đã uống rồi, nếu không cần gái thì họ vào trong làm gì? Mà cần gái thì phải tránh chỗ đông người chứ?

Bên trong có tiếng chân người xê dịch, tuy nhỏ, song nghe rõ, rồi có tiếng vũ khí rít gió.

Thỉnh thoảng Vương Đại Nương cười lên mấy tiếng rồi tán thưởng...

Nửa khắc thời gian sau, một thiếu nữ bước ra thì thầm bên Triệu Kiếm Minh và Lữ Vân.

Triệu Kiếm Minh thì sẵn sàng, còn Lữ Vân thì thoải mái một lúc rồi do dự, cuối cùng cũng đứng lên di vào trong.

Như lần trước với Cao Quan Anh và Khuông Tân Sanh, có hai thiếu nữ đi theo.

Rồi có tiếng chân người xê dịch, rồi có tiếng vũ khí rít gió, rồi có tiếng cười tán thưởng của Vương Đại Nương.

Sau đó một lúc lâu, có tiếng của Tôn Ngọc Long và Đơn Nghị Thành.

Cả hai đã tỉnh lại, chưa đi đâu, cả hai được mời vào nhà trong như bốn người trước.

Rồi có tiếng chân người xê dịch, rồi có tiếng vũ khí rít gió, rồi có tiếng cười tán thưởng của chủ nhân.

Sau đó không một tiếng động nào từ phía hậu vọn ra.

Những người vào trong cũng chẳng trở ra.

Họ đã đóng góp cho Vương Đại Nương rồi? Và giờ đây họ hưởng thụ cái gì ngang giá với sự đóng góp đó?

Tại gian khách sảnh, chỉ còn lại Phương Bửu Ngọc nở một nụ cười, một tiểu công chúa với gương mặt lạnh lùng, một Lý Danh Sanh với vẻ ve vuốt và năm sáu thiếu nữ.

Tự nhiên còn có Đa Tý Hùng Hùng Hồ.

Y đang cười đang nói với Phương Bửu Ngọc song đôi mắt thì hướng về phía hậu, nơi vọng cửa ngăn đôi căn nhà, vọng cửa thông vào nhà trong.

Và nhà trong là nơi hiện diễn tiến những trò hoan lạc.

Hắn có vẻ bất an, hắn có vẻ như đang ngồi muốn đứng, đang đứng lại muốn ngồi, đứng hay ngồi đều khẩn cấp cả.

Tiểu công chúa lạnh lùng nhìn hắn, bỗng nhiên nàng gọi:

- Hùng đại hiệp!

Hùng Hồ giật mình vội cười săn đón hỏi:

- Có chi chỉ giáo?

Tiểu công chúa hỏi:

- Có lẽ Hùng đại hiệp thường đến địa phương này?

Hùng Hồ ấp úng:

- Không thường đến... Đến bất thường... bất quá... độ chừng ba bốn lần chi đó...!

Tiểu công chúa cười:

- Ba lần? Bốn lần? Cũng chẳng nhiều, nhưng cũng đủ cho Hùng đại hiệp làm những cuộc trao đổi! Hiến công phu lấy hoan lạc! Cho nên Vương Đại Nương không cần gọi đến Hùng đại hiệp nữa! Bởi đại hiệp chắc chẳng còn gì cống hiến cho bà ấy! Bởi đại hiệp đã xuất hết vốn rồi nên bà ấy không chịu hùn hợp nữa!

Hùng Hồ đỏ mặt, đằng hắng mấy tiếng:

- A!.... A! Rượu này cũng khá đấy chứ?

Tiểu công chúa cười mỉa:

- Thôi đi! Ngươi đừng vờ vĩnh nữa! Ta đã hiểu hết rồi! Vũ công của ngươi, ngươi đã đem đổi sạch sành sanh, bây giờ người ta đâu còn cần ngươi mà hòng được mời mọc? Bất quá, người ta cho ngươi uống mấy chén rượu, để nhìn kẻ khác vui đùa, như vậy ngươi chưa đủ tức sao còn nói gượng?

Hùng Hồ đỏ mặt ấp úng:

- Cái đó... thì...

Bỗng Vương Đại Nương cười vang:

- Làm gì có việc đó! Không đâu! Dù cho già không rộng rãi lắm, già vẫn không dám khinh thường hùng đại hiệp. Bởi Hùng đại hiệp là lão bằng hữu của già mà! Cô nương đừng nghĩ lầm như vậy!

Rồi bà trở ra ngoài.

Vào cũng như ra, bà đều nhờ bọn thiếu nữ khiêng chứ bà làm gì đi nổi?

Bà xoa tay vào má một thiếu nữ, cười nhẹ bảo:

- Qùy liễu đầu? Ngươi với Hùng đại hiệp nào phải là người xa lạ, tại sao ngươi ngồi ỳ ra đó? Ngươi bỏ Hùng đại hiệp cô đơn như vậy mà xem được? Mời Hùng đại hiệp vào đi!

Thiếu nữ đó vờ e ấp:

- Tôi chỉ sợ lần này, Hùng đại hiệp lại chán tôi thôi!

Hùng Hồ lần này mặt càng đỏ hơn, lúng túng hơn:

- Tại hạ... tại hạ...

Thiếu nữ bước tới, nắm tay áo y nũng nịu:

- Đi! Mình đi thôi!

Phương Bửu Ngọc cười đưa đẩy:

- Đi đi Hùng huynh! Hùng huynh cứ tự tiện!

Vương Đại Nương cười lớn:

- Phải đó! Cứ đi đi Hùng đại hiệp! Có gì đâu mà phải rụt rè? Nào có phải là chuyện làm mất mặt đâu? Phương Bửu Ngọc thiếu hiệp ở đây đã có già tiếp đãi, Hùng đại hiệp hãy yên trí!

Tự nhiên, Hùng Hồ bước đi.

Vương Đại Nương nhìn qua Phương Bửu Ngọc điểm một nụ cười:

- Già cứ tưởng sau khi biết già làm cái nghề này, Phương thiếu hiệp sẽ nổi giận, giận lên có thể phóng hỏa đốt cơ nghiệp của già này, ngờ đâu thiếu hiệp chẳng có cảm nghĩ gì phương hại cho già!

Phương Bửu Ngọc cười nhẹ:

- Tuy tại hạ không là tiểu nhân, song tại hạ cũng chẳng phải lũ người đạo mạo chi đó, mà dám nói đến đời tư của ai? Huống chi Vương Đại Nương hành sự cũng rất công bình, song phương đều thỏa thuận, thì tại sao tại hạ lại phải can dự vào chứ?

Vương Đại Nương vỗ tay:

- Phải! Phương thiếu hiệp quả có bổn sắc anh hùng! Chứ còn các vị như Tôn Ngọc Long và Đơn Nghị Thành vẫn còn lẩn quẩn trong vòng khách sáo!

Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Hai vị đó có thọ thương chăng?

Vương Đại Nương bật cười khanh khách:

- Thọ thương thì không, có điều, đầu thì sưng to như quả cam!

Tiểu công chúa cười lạnh:

- Vậy chúng vẫn lỳ mặt ở đây, cười nói như thường!

Vương Đại Nương thốt:

- Họ không đáng trách đâu cô nương, chính tại già đó! Già cố van cầu họ Ở lại, họ nể già lắm nên chưa rời đi đó thôi! Họ không dám nhìn Phương thiếu hiệp, mà những người khác cũng chẳng ai nỡ nhìn họ. Có thể trong chốc lát nữa đây, họ len lén rút đi...

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Còn bà nữa! Bà chỉ chực chờ ai có ngón nghề gì hay là tìm cách thu nhặt cho kỳ được! Hại người đó đã hiến nghề cho bà rồi, họ có đi khỏi nơi này, bà vẫn thủ lợi kia mà! Bà còn cầm chân họ Ở lại làm chi lâu cho tốn rượu?

Vương Đại Nương cười hì hì:

- Cô nương nghĩ sai cho già rồi! Già...

Phương Bửu Ngọc chận lời:

- Chắc là trong mấy năm nay, Vương Đại Nương đã góp nhặt rất nhiều chứ? Chẳng hay Vương Đại Nương góp nhặt tuyệt nghệ của các môn phái để làm gì?

Vương Đại Nương cười gấp:

- Phương thiếu hiệp lợi hại quá! Hỏi như thế có khác nào dồn già vào chỗ khó? Nào già có mục đích chi đâu? Thiếu hiệp phải hiểu, sau lần được giáo huần sau lầu Hoàng Hạc, già không dám chường mặt trên giang hồ nữa, thì khi nào già dám mơ cái việc trùng hưng tác phong?

Phương Bửu Ngọc mơ màng:

- À!

Vương Đại Nương tiếp:

- Bất quá, già muốn cho bọn thiếu nữ học chút ít vũ công, chúng là những cô nhi, hoàn cảnh của chúng đáng thương hai lắm! Chúng có chút ít tài nghệ trong mình phòng thân, người đời không hiếp đáp chúng. Còn như già thì...

Bà thở dài rồi tiếp:

- Già đã cao tuổi, hơn nữa lại tàn phế, còn mong gì hơn là yên ổn sống nốt mấy ngày còn lại? Một ngày cũng phải, hai ngày cũng phải, miễn sao ngày nào được thanh nhàn là đủ, cho đến khi nào chui vào quan tài thì...

Phương Bửu Ngọc mơ màng:

- À!

Vương Đại Nương cười lớn:

- Già nói thật đấy! Phương thiếu hiệp không tin sao?

Phương Bửu Ngọc từ từ đáp:

- Chỉ mong sự thật là thế, nếu không thì...

Chàng mỉm cười bỏ lửng câu nói.

Tuy chàng mỉm cười, chàng không nói gì nhưng hai tiếng " nếu không" lại rất đầy nghĩa, ai ai cũng hiểu hai tiếng đó hàm ý như thế nào.

Vương Đại Nương cười vuốt:

- Phương thiếu hiệp yên trí lớn! Trên giang hồ có nhân vật như thiếu hiệp thì dù dọa chết già, cũng chẳng ai xúi giục, già cũng làm ngay! Thú thật, già không đến nỗi ngốc mà không tiếc mạng sống!

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Thôi bỏ qua việc đó đi! Vương Đại Nương! Bây giờ tại hạ có thể thỉnh giáo Vạn lão phu nhân ra đây chăng?

Vương Đại Nương thoáng do dự:

- À... à... bà ấy... bà ấy đang ngủ say như chết, Phương thiếu hiệp nên thương xót cho bà ta, đã già lại mập mạp, không còn thích hoạt động cho lắm, nên để cho bà ta ngủ thẳng giấc một lúc.

Rồi bà tiếp:

- Còn Phương thiếu hiệp! Thiếu hiệp nên ngơi nghỉ một lúc chứ?

Tiểu công chúa ngáp dài:

- Bà ấy có sao, mặc bà, riêng tôi thì tôi cần nghỉ ngơi một chút.

Nàng kêu lên:

- Vương Đại Nương ơi! Chắc bà có thừa giường chứ? Tôi muốn gủ đây bà ạ!

Không đợi Vương Đại Nương nói gì, nàng lại tiếp:

- Nhưng tôi lại thích ngủ trên giường của bà thôi! Chứ giường khác thì... thì... vừa không êm, vừa hôi hám!

Nàng nói mấy tiếng cuối, gương mặt nàng đỏ bửng.

Những thíêu nữ đứng quanh đó cũng đỏ bửng mặt.

Đến cả Phương Bửu Ngọc cũng đỏ mặt luôn.

Vương Đại Nương cười hắc hắc:

- Cô nương thì biết chi mà nói êm với hôi?

Bà quát bọn thiếu nữ:

- Các ngươi đưa vị thiên kim công chúa vào giường của ta gấp đi nào!

Đoan, bà day qua Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Còn thiếu hiệp?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Tại hạ còn một nghĩa đệ, hắn ở...

Vương Đại Nương cười nhẹ:

- Thiếu hiệp khinh già quá, những việc như vậy già lại để cho thiếu hiệp bận tâm sao? Thiếu hiệp xem có phải Lý Danh Sanh đã vắng mặt từ lâu rồi không?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Phải! Lý bằng hữu đã không có mặt tại đây từ lâu!

Vương Đại Nương tiếp:

- Già biết vị nghĩa đệ của thiếu hiệp thành thực chất phác, không thể chịu nổi bọn liễu đầu này nên đã nhờ Lý Danh Sanh mang rượu thịt đến tận nơi cho hắn dùng.

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Vương Đại Nương chu đáo quá!

Vương Đại Nương tiếp luôn:

- Con người, có ai bằng sắt bằng đá đâu? Con người ai cũng cần cái ăn cái uống ai cũng cần nghỉ ngơi một lúc chứ? Phần nghĩa đệ của thiếu hiệp kể như cũng xong, phần của thiên kim tiểu thu cũng xong, còn thiếu hiệp? Thiếu hiệp cứ ngỉ đi, đến giờ ngọ thì già sẽ đánh thức thiếu hiệp. Thiết tưởng dù Phương thiếu hiệp có việc khẩn cấp như thế nào, dù có nghỉ nửa ngày đi nữa cũng chẳng mất thì giờ cho lắm.

Một thiếu nữ bước tới dìu Phương Bửu Ngọc vào một gian phòng vô cùng khả thiết.

Vào đó rồi chàng đóng nhanh cửa lại.

Chàng có việc lo sợ...

Chàng không sợ ai, chàng chỉ sợ nụ cười của thiếu nữ đưa đường đó.

Chàng sợ ánh mắt của nàng.

Chàng sợ nàng đưa chàng đến đó rồi không chịu trở ra.

oOo Phương Bửu Ngọc đóng cánh cửa rồi, thiếu nữ đứng bên ngoài cười nhẹ.

Đồng thời gian khi Phương Bửu Ngọc ở bên trong đóng cửa để ngăn thiếu nữ, thì bên ngoài nàng cũng buông xuống một tấm cửa sắt.

Nàng ấn tay vào chiếc nút nơi vách, một cánh cửa sắt được che dấu kín bên trên từ từ hạ xuống, không gây một tiếng động khẽ.

Mà dù có tiếng động thì tiếng cửa đóng cũng lấn át rồi, bên trong chẳng nghe lọt.

Thiếu nữ chạy ra đại sảnh.

Vương Đại Nương trầm giọng hỏi:

- Xong rồi chứ? Có làm kinh động hắn không?

Thiếu nữ gật đầu:

- Xong rồi, cửa sắt hạ rất êm, chẳng gây một tiếng động nhỏ.

Vương Đại Nương thở phào:

- Bây giờ, ngươi hiệp với Tiểu Thất, khuân mười bốn chiếc rương lên xe, bảo Tiểu Tam và Tiểu Cửu chuẩn bị ngựa, sau cùng thì các người thu xếp các hỏa liệu cho sẵn sàng.

Thiếu nữ do dự:

- Còn... Còn...

Vương Đại Nương cau mày:

- Còn gì nữa?

Thiếu nữ thở ra:

- Thiêu hủy cơ nghiệp này, uổng quá đại nương ơi! Huống chi họ Phương kia đối với chúng ta chẳng đến nỗi nào, chúng ta nỡ làm vậy sao?

Vương Đại Nương cười lạnh:

- Ngươi biết gì mà tiếc với thương? Muốn thành công lớn thì tiếc chi cái cơ nghiệp nhỏ này? Còn cái gã họ Phương đó... Hừ! Đừng cho là hảo hiền lắm mà lầm. Nụ cười của hắn có chứa gươm đao, ngươi làm gì biết lòng dạ của hắn ra sao mà dám phê phán việc làm của ta?

Thiếu nữ biết lỡ lời, vội cười vuốt:

- Đại nương nói đúng! Dù hắn có lợi hại cũng không qua nổi đại nương được! Bất quá, đại nương thiêu hủy mấy ngôi nhà tầm thường này, bù lại đại nương lại sát hại được hắn, kể ra lợi ích rất nhiều mà thiệt chẳng bao nhiêu.

Vương Đại Nương gật đầu:

- Ngươi biết được như vậy là khá lắm đó! Hắn chết rồi thì tại Trung Nguyên còn ai là đối thủ của mẹ con ta?

Bà xưng mẹ với các thiếu nữ là hợp lý hơn xưng sư phó, qua nghề nghiệp đổi xác thịt lấy vũ công này.

Rồi bà giục:

- Đi đi chứ?

Thiếu nữ mỉm cười:

- Tôi đi ngay!

Vương Đại Nương chờ cho thiếu nữ khuất dạng rồi, điểm một nụ cười hiểm độc, nhìn bọn thiếu nữ còn lại hỏi:

- Chúng ta bắt đầu từ bên nào?

Một thiếu nữ đáp:

- Tôi thấy gã có giọng nói như thanh la bể khó thoát khỏi mình nên khởi sự từ hắn trước, đại nương nghĩ sao?

Vương Đại Nương gật đầu:

- Cũng được! Vậy là tên đó dẫn đầu. Vậy hiện giờ hắn ở đâu?

Thiếu nữ thốt:

- Hắn ở phòng nhị thơ!

Vương Đại Nương tiếp:

- Chúng ta đi thôi! Rồi các con sẽ thấy thủ đoạn của mẹ! Các con đã bị bọn nam nhân thúi tha dày vò quá chừng, chẳng lẽ chúng chịu mọi sự ưu đãi mà không phải chịu khổ lại sao?

X Cơ nghiệp của Vương Đại Nương gồm mấy ngôi nhà kiến tạo sơ sài bên cạnh con suối trong, ngôi nhà này cách ngôi nhà kia độ trượng, mỗi ngôi chỉ có một gian phòng dùng làm nơi hành lạc của bọn người ham mê cái thú xác thịt.

Bên ngoài nhà thì sơ sài, song bên trong lại được trang trí vô cùng trang nhã.

Xa xa, vòng quanh các ngôi nhà là những khóm hoa. Ngoài các khóm hoa có các cây to che mát.

Vào khu vực này rồi, không ai muốn trở ra, bời nơi đây có đủ những gì cho con người miệt mài trong trác táng.

Nôi đây là quê hương ôn nhu của hạng người trời sanh ra để hưởng thụ.

Nơi đây, giả như trước kia, vào đây rồi, khách làng chơi còn có hy vọng trở ra.

Hiện tại, đã vào rồi thì đừng mong trở về với gia đình.

Bởi quê hương ôn nhu sắp biến thành quê hương của oan hồn.

Chưa ai tưởng tượng được cái gì đang chờ đợi họ bên ngoài ngưỡng cửa, bởi họ còn bận tưởng đến cái gì đang còn nắm trong tay.

Vả lại, khi nào họ lại tưởng tượng nơi đây có những hiểm nguy chực chờ.

Nếu là một nơi nguy hiểm, sao nơi này lại được xem như tiên cảnh, thần động?

Cho nên, ai đang ngụp lặn trong hoang lạc, càng ngụp lặn sâu hơn với tiếng cười càng lúc càng ấm, tiếng nói càng lúc càng dịu, thêm vàu đó bao nhiêu màu mè quyến rũ đưa hồn người phiêu phưởng chơi vơi.

Trong ngôi nhà thứ hai, Bán Thiên Vân Đơn Nghị Thành như quên mất cái nhục bại vừa rồi trước Phương Bửu Ngọc mà đêm tàn y cũng chưa hay.

Bỗng một tiếng bình vang lên.

Cánh cửa phòng bật mở tung.

Đơn Nghị Thành kinh hãi, tung mình lên, nhảy xuống giường. Lúc này, hắn nhảy xuống giường, phải biết điệu bộ của hắn bối rối như thế nào?

Nói là hắn trần truồng cũng không đúng mà dù cho ai trong tình cảnh đó, lâu lắm mới chỉnh tề.

Nhưng người đến nơi, chẳng phải là ai xa lạ mà chính là Vương Đại Nương.

Đơn Nghị Thành thở phào cười khổ, rồi lắc đầu:

- Đại nương vất vả chi như thế này...

Thép kiếm ngời lên, thép kiếm thay lời chận ngang câu nói của hắn.

Một đạo ngân quang xẹt tới.

Đơn Nghị Thành biến sắc mặt xanh rờn, vừa né tránh vừa quát:

- Ngươi?

Y né nhanh, nhưng đạo ngân quanh nhanh hơn, vả lại Vương Đại Nương đã thuộc nằm lòng thủ pháp của hắn qua các cuộc đổi chác vũ công bằng xác thịt, cho nên hắn né bên nào, Vương Đại Nương đã biết trước, kiếm quang chận bên đó.

Rồi trong chớp mắt, mũi kiếm đã đâm vào yết hầu của Đơn Nghị Thành.

Máu! Ôn nhu hương đã đẫm máu khách ôn nhu...

Máu vọt ra nhuộm đỏ chăn màn màu trắng, chung quanh giường, chăn màn tráng như điểm hoa hồng.

Đơn Nghị Thành có số đào hoa nên chết giữa hoa.

Song, chỉ là hoa máu.

Hồi 47

Lâm Nguy Rõ Mặt

Bọn thiếu nữ đi sau Vương đại nương reo lên:

- Hay! Hay quá! Kiếm chớp là công thành!

Vương đại nương nhìn thi thể Đơn Nghị Thành, lạnh lùng thốt:

- Chúng cứ tưởng là trong một thời gian ngắn ngủi ta không làm sao học được tuyệt kỹ của chúng! Do đó, chúng chẳng ngần ngại phô trương trọn vẹn sở học của chúng và không dấu diếm một tuyệt chiêu nào. Chúng có biết đâu ta không chủ trương học võ công của chúng mà ta chỉ muốn biết thủ pháp của chúng như thế nào mà thôi!

Trong khi đó thì chúng chẳng biết mảy may võ công của ta. Lấy cái biết rõ của ta chống đối với cái không biết của chúng, đương nhiên ta thắng, chúng bại, dễ dàng như thế mà ta không thắng thì đúng ta là một kẻ ngu nhất trần gian.

Bọn thiếu nữ khâm phục ngay:

- Trong võ lâm ngày nay, đại nương biết ít nhất cũng hơn nửa số công phu của các môn phái, còn những kẻ kia, bất quá khư khư sở cậy độc có một tuyệt kỹ của họ, như vậy làm sao chẳng bị đại nương đánh bại.

Vương đại nương hơi cao ngạo một chút:

- Cái đó đã hẳn rồi. Bây giờ chúng ta tiếp tục công tác với một kẻ khác!

Thiếu nữ bầu bạn với Đơn Nghị Thành lúc đó đã mặc xong y phục, dù vừa tỉ tê ân ái với Đơn Nghị Thành đó, lạnh lùng nhìn xác y như nhìn xác của một con vật chết ở ven đường. Nàng bước theo Vương đại nương thốt:

- Tôn Ngọc Long ở trong phòng lục muội, đại nương ạ!

Biết rồi! Hắn là mục tiêu thứ hai của ta!

oOo Tuy bình minh đã lên, trong phòng của Lục muội vẫn còn ánh đèn.

Đèn chiếu lên giấy bồi, che cửa sổ, nhuộm lớp giấy vàng vàng, đèn còn cháy, song bên trong im lìm.

Mường tượng người trong phòng đã ngủ.

Một thiếu nữ đưa tay che miệng, cười nửa nụ, buông gọn:

- Cái gã họ Tôn sao kém sức chịu đựng thế, mới đó mà liệt người đến đỗi phải thiếp đi!

Một thiếu nữ trong số các nàng khiêng chiếc ghế của Vương đại nương bảo:

- Ngươi bước đến bật cửa đi!

Thiếu nữ trước mỉm cười đáp:

- Phải đó, chính ta muốn thực nghiệm cái ngón Uyên Ương Hồ Điệp Cước của Khuông Tân Sanh đây!

Nàng thốt xong vọt mình tới bộ pháp nhẹ nhàng, đúng là cái dáng một con bướm vờn hoa.

Nàng đã tới trước cửa phòng Lục muội, chưa kịp co chân mang chiếc giày thêu rất đẹp đá vào cánh cửa, cánh cửa vụt mở một đạo ngân quang chớp sáng xẹt ra ngoài.

Thiếu nữ nằm mộng cũng không tưởng có sự như thế xảy ra, bất quá nàng chỉ kịp kinh hãi chứ tài nào né tránh khỏi gương mặt tươi như hoa đẫm ướt máu hồng.

Bọn thiếu nữ biến sắc mặt xanh dờn, chúng khiếp đảm đến độ chẳng nàng nào dám kêu lên nửa tiếng.

Trong khi đó, thiếu nữ thọ thương nhào lăn trên mặt đất cắn răng cố chịu đau, cũng chẳng kêu la tiếng nào.

Con người luyện được nhẫn nại như vậy, chẳng phải một sớm một chiều mà thành công, như thế đủ biết Vương đại nương đã hao phí rất nhiều tâm trí giáo huấn bọn thiếu nữ dưới tay.

Cầm chiếc Phi Long Phủ nơi tay, Tôn Ngọc Long cười lớn:

- Có lẽ Vương đại nương lầm Tôn Ngọc Long này đó chăng? Tại hạ háo sắc thật đó, song đôi mắt chưa đui, đôi mắt của tại hạ đã nhìn tâm địa của Vương đại nương ngay từ lúc vào khu vực này! Và đại nương đừng tưởng cái âm mưu của mình hoàn toàn chu đáo, bí mật!

Vương đại nương cười nhẹ:

- Già từng nghe giang hồ truyền thuyết Tôn Ngọc Long có quả tim bảy lỗ, bình sanh chưa hề thất bại một lần nào. Giờ đây già mới được hân hạnh chính mắt trông thấy cái sáng suốt của bậc anh hùng cái thế.

Tôn Ngọc Long chớp mắt, từ từ tiếp:

- Giả như bà biết rõ tại hạ chẳng phải kẻ dễ trêu, thì bà nên cấp tốc bước đi nơi khác, nhường lối cho tại hạ ly khai chốn này. Tại hạ hứa chắc là ly khai ngay chẳng hề nấn ná lại đây gây phiền phức cho bà.

Vương đại nương hỏi:

- Còn các người kia?

Tôn Ngọc Long đáp nhanh:

- Các người kia có chết hay sống điều đó có liên quan gì đến tại hạ?

Những người đó đã cam tâm tình nguyện vùi xác trong hoa thì cứ để cho họ được tròn sở vọng. Tại hạ công sức đâu lo nghĩ đến chuyện mênh mông?

Vương đại nương bật cười khanh khách:

- Ngươi thông minh đó!

Tôn Ngọc Long điềm nhiên:

- Phàm những ai chọn kiếp sống giang hồ mà muốn được no ăn ấm mặc, sung sướng thung dung tất phải có ít nhiều thông minh. đại nương ơi, nếu tại hạ ngu xuẩn thì làm sao sống đến ngày nay?

Vương đại nương gật đầu:

- Được rồi!

Bà bảo bọn thiếu nữ:

- Tránh qua một bên, nhường lối cho Tôn đại hiệp!

Tôn Ngọc Long bật cười ha hả đủng đỉnh bước ra, hắn đi chậm như đếm từng bước, nhưng lúc đi ngang qua Vương đại nương hắn vụt nghiêng mình, phóng như bay.

Hắn nghi ngờ tuy Vương đại nương chấp thuận cho hắn đi song đã chắc gì bà buông tha hắn một cách quá dễ dàng như vậy?

Nhưng hắn chạy đi xa rồi mà Vương đại nương vẫn bất động.

Tôn Ngọc Long thở phào.

Lúc đó, hắn đã cách Vương đại nương độ hai trượng, hắn tính chạy thêm mấy trượng nữa mới chắc ý hơn.

Ngờ đâu, từ phía sau Vương đại nương vẫy tay lên không. Thanh kiếm trong tay bà vút đi, nhắm thẳng vào lưng hắn.

Kiếm lao đi, rít gió, một con người như Tôn Ngọc Long đương nhiên phải nghe lọt tiếng gió đó và hiểu ngay sự tình như thế nào rồi.

Hắn kinh hãi toan hụp mình xuống.

Lúc đó hắn chưa khôi phục hoàn toàn công lực đã mất phần lớn qua cuộc thảm bại trước Phương Bửu Ngọc vừa rồi. Cho nên động tác của hắn kém nhanh nhẹn đã đành, mà lại còn có phần miễn cưỡng.

Hắn vừa hụp xuống, bất giác đôi chân như nhũn lại, hắn ngã chúi tới.

Cũng may, hắn tránh kịp thanh kiếm bay xớt ngang qua bên trên mình hắn. Hắn chưa kịp mừng thì một thanh kiếm thứ hai đã bay tới.

Lần này thì hắn đành chịu không còn lăn đi đâu kịp tránh nữa.

Một tiếng phập vang lên, thanh kiếm bắn trúng lưng hắn xéo mông trổ xuống bụng hắn.

Đà kiếm đi rất mạnh, mũi kiếm cắm sâu trong đất như đóng đinh hắn tại đó.

Một thiếu nữ thở dài:

- Tôi cứ tưởng võ công của hắn cũng khá cao, ngờ đâu hắn chỉ là một tên vô dụng.

Vương đại nương cười lớn:

- Ngươi cho rằng hai nhát kiếm của ta dễ tránh lắm hay sao?

Thiếu nữ đó hấp tấp thốt:

- Tôi...

Vương đại nương chặn lời:

- Cho ngươi biết, hai nhát kiếm đó có cái tên là Tử Mẫu Truy Hồn Thoát Thủ Kiếm, xem thì giản đơn lắm, song thực sự thì ngụy dị phi thường. Cái chỗ nguỵ dị là thanh kiếm bay trước lại đến sau, thanh kiếm bay sau lại đến trước, mà gần như đồng thời một lượt, mặc dù ta phải hai lần xuất thủ. Do đó, đối phương né tránh khi nghe tiếng gió đầu tiên, ngờ đâu thanh kiếm thứ hai vút đến, chạm trúng đụng lúc đối phương tránh thanh kiếm thứ nhất. Rồi thanh kia lại tiếp nối luôn dù cho ai nhanh nhẹn đến đâu, bất quá chỉ né tránh một trong hai thanh là khá lắm rồi.

Thiếu nữ tròn mắt:

- Thế thì tuyệt diệu! Tôi lại thấy, Tử Mẫu Truy Hồn Kiếm của đại nương có phần nào giống Tử Mẫu Kim Thoa.

Vương đại nương gật đầu:

- Đúng vậy, tử mẫu kiếm của ta thoát thai từ Tử Mẫu thoa, vì do Tử Mẫu thoa mà ra, nên Tử Mẫu kiếm phải lợi hại hơn, những gì kém khuyết nơi Tử Mẫu thoa đã được bổ túc hoàn toàn nơi Tử Mẫu kiếm.

Ngoài ra, thoa chỉ dài bốn tấc, kiếm lại dài ba thước, sự chênh lệch đó quan trọng lắm, cho nên thoa chẳng làm sao mà sánh được kiếm.

Thiếu nữ thở dài:

- Bây giờ tôi mới hiểu!

Vương đại nương tiếp:

- Ta dám quả quyết trong võ lâm ngày nay, chẳng có mấy người tránh thoát Tử Mẫu kiếm của ta. Và tuyệt kỹ đó, nếu không gặp lúc cấp bách lắm chẳng khi nào ta mang ra xử dụng. Ngươi có biết tại sao không?

Rồi bà giải thích luôn:

- Lẽ thứ nhất, ta không muốn ai biết được ta có tuyệt kỹ đó. Lẽ thứ hai, là nếu kiếm phóng ra mà đối phương thoát chết thì chính ta phải mất mạng! Nếu không mất mạng thì cũng thọ thương nặng!

Một thiếu nữ hỏi:

- Như Phương Bửu Ngọc? Hắn có thể tránh được Tử Mẫu kiếm chăng?

Vương đại nương cảm thấy mình như bị ai tát tay mạnh vào mặt dù thiếu nữ đó thành thật mà nêu lên câu hỏi.

Đang đắc ý, bà xịu mặt ngay, bà trầm ngâm một lúc sau cùng, bà nhếch nụ cười vừa nhẹ vừa thâm, ẩn ước có vẻ tàn khốc.

Đoạn bà thốt:

- Ta cũng chưa biết sao mà nói!... Cũng may cho ta, chưa được biết là tốt, bởi muốn biết thì...

Bà không nói tiếp, nhưng cái ý của bà là muốn biết thì phải thực nghiệm, mà thực nghiệm là làm một cuộc đánh đổi sanh mạng.

X Chẳng rõ các gian phòng khác như thế nào, chứ gian phòng dành cho Phương Bửu Ngọc kiến tạo và trang trí hết sức cầu kỳ. Cầu kỳ không phải ở chỗ dát vàng, nạm ngọc, rèm châu, giường ngà. Những vật dụng trong gian phòng rất bình thường, bất quá có phần nào nhã khiết mà thôi.

Cầu kỳ ở chỗ nó không giống một gian phòng của bất cứ gia cư nào trên lục địa. Nó giống như một khoang thuyền, tuy thực sự nó không bềnh bồng, nhưng vào đó rồi chàng có cảm giác như mình lênh đênh trên mặt nước.

Cầu kỳ ở chỗ mỗi tấc vách được dùng để vẽ một bức đồ, một hình tượng, hoặc treo một vật trang trí, hoặc gì gì nữa, chẳng có một tấc nào bỏ không.

Trong gian phòng đó có một chiếc giường, so với mọi chiệc giường khác thì nó nhỏ hơn nhiều, giường đặt tận góc phòng cạnh có một chiếc ghế nhỏ, một chiếc bàn nhỏ trên bàn có một bình hoa cũng nhỏ luôn.

Hình như chủ nhân có một dụng ý chi đó, nên những gì trong gian phòng cũng như chính gian phòng đều thu hẹp hình thức.

Hình thức thu hẹp, cũng là một điểm cầu kỳ của người kiến tạo căn phòng.

Phương Bửu Ngọc kiểm soát một lượt.

Gối đẹp, nệm êm chăn ấm, màn hoa, trà thơm, bông lạ màu sắc mát mắt.

Còn gì nữa, mới đủ cho một người khó tánh, trong lúc cần phải nằm?

Những gì ăn được, uống được trong gian phòng, lại không có độc.

Những đồ vật được sắp xếp đúng vị trí, chứng tỏ không có một cạm bẫy nào mà những vật đó che dấu.

Vào đây, ta được an thân lại còn được an tâm.

Dè dặt hơn, chàng lấy ngón tay bửa nhẹ vào vách cửa.

Cửa bằng gỗ chứ không bằng sắt.

Chàng lại gõ vào vách phòng, vách là loại tường đất, điều đó thì chàng chắc chắn lắm rồi.

Và như vậy, gian phòng này không phải là một hang quỷ, nếu chàng còn nghi ngờ thì thực là chẳng phụ cái hảo ý của Vương đại nương quá chừng.

Một gian phòng như thế này, đâu phải là một nhà ngục.

Giá như có một sự bất trắc nào đó xảy ra chàng muốn thoát đi cũng chẳng khó khăn gì.

Phải chứ, dè dặt như chàng, tinh tế như chàng, nếu không khám phá ra cạm bẫy thì phải hiển nhiên là chẳng có cạm bẫy.

Chắc chắn là mình an toàn rồi, Phương Bửu Ngọc suy nghĩ đến trường hợp Vương đại nương không có ý hại chàng! Điều này làm cho chàng hết sức lạ lùng!

Chàng không bao giờ tưởng tượng một sự việc như thế.

Bây giờ bà ta không còn hại người nữa sao? Bà ta hồi đầu hướng thiện thực sự rồi sao?

Nếu thế, chàng sẵn sàng tha thứ cho bà, quên những hành động độc ác của bà từ nhiều năm qua.

Con người có tội, đang lúc gây tội chàng còn dung thứ được huống hồ một người đang nuôi đường thiện ý ăn năn?

Đối với ngoại nhân chàng hết sức rộng lượng, song đối với riêng mình, thì luôn luôn chàng nghiêm khắc, chàng chủ trương dung nhân, khắc kỷ, nên lúc nào cũng đề cao cảnh giác để đạt đến chân, thiện, mỹ.

Nghĩ ngợi một lúc, chàng lên giường nằm.

Cơn mệt mỏi từ hai hôm nay, chàng bỏ quên đó, giờ khi chàng đặt lưng xuống chiếc giường êm ái thì nó trở lại nhanh chóng, nó bắt đầu kéo đôi mi mắt chàng đè nặng, trong lúc chăn nệm tự chàng đưa chàng từ mơ màng vào giấc mộng.

Chàng ngủ chẳng biết được bao lâu.

Bỗng chàng bừng tỉnh, tim đập mạnh. Tâm linh đã khích động rồi, và mỗi khi con tim đập mạnh như vậy là chắc chắn có một biến cố đối với chàng.

Chàng từng ứng nghiệm như vậy từ ngày dấn thân vào kiếp giang hồ.

Chàng đảo quanh mắt, nhìn quanh gian phòng.

Tất cả những vật dụng còn y nguyên, vật nào ở đâu, vẫn ở đấy, còn đủ như lúc chàng mới vào.

Như vậy là chẳng có ai vào đây trong lúc chàng ngủ.

Như vậy là biến cố không phát sinh ngay tại gian phòng.

Thế thì tại sao tâm linh chàng báo động? Tại sao Vương đại nương hãm hại chàng nếu thực sự có biến cố?

Chàng còn mệt, nhưng tâm trí vẫn sáng suốt. Thoạt tiên chàng cử động tay chân. Tay chân cử động như thường. Rồi chàng vận khí, lưu chuyển khắp thân thể. Không một huyệt đạo nào bị bế tắc. Không một bộ phận nào đau đớn hoặc khác lúc bình thường.

Như vậy chàng cũng không trúng độc. Nếu có biến cố, thì biến cố từ đâu đến, biến có do ai và bằng cách nào? Nếu không có biến cố, tại sao tâm linh lại báo động?

Bất giác chàng giật mình.

Bên ngoài có tiếng động, tiếng động rất kì dị, mường tượng tiếng tằm ăn dâu, mà cũng giống tiếng gió quét qua một cánh rừng khô, cành gãy đổ.

Âm thanh đó là gì nhỉ?

Phương Bửu Ngọc vận dụng khối óc tinh minh, tìm hiểu mãi song không hiểu nổi.

Lạ lùng thay, âm thinh không lớn, nhưng lại vang đều, vang liên tục chừng như vang đủ bốn phía.

Chưa tìm hiểu được âm thinh đó là âm thinh gì, Phương Bửu Ngọc bỗng nghe nóng.

Chẳng những nghe nóng, chàng còn cảm thấy ngột, không khí oi bức như đang giữa mùa hạ, không một ngọn gió con.

Cái gì thế?

Không còn nghi ngờ gì nữa, hẳn là có biến cố rồi, chàng tin chắc chắn như vậy, có điều chưa biết biến có thế nào.

Chàng lập tức hướng tới mở cửa.

Then chốt được tháo gỡ kỹ lắm, song chàng đẩy thế nào cửa vẫn không bật cánh.

Không do dự chàng vung tay đấm vào cửa.

Công lực của Phương Bửu Ngọc nào phải tầm thường? Tự nhiên, cánh cửa vỡ, vánh rơi từng mảnh nhỏ xuống nền phòng.

Nhưng vô ích, bên ngoài còn có một khung cửa sắt chắn cứng.

Cửa sắt không có thép bưng bít, mà chỉ gồm toàn những chấn song sắt kết thành cột song rất to, bất cứ một người nào, công lực cao thâm đến đâu cũng không làm sao mà phá nổi.

Qua những chấn song, những lưới lửa táp vào.

Lưỡi lửa phớt qua mặt Phương Bửu Ngọc, chàng lùi lại tránh, rồi bước nhanh tới tung chưởng định phá các chấn song.

Cũng vô ích luôn.

Những chấn song không hề rung chuyển. Thế là chắc rồi, người ta phóng hỏa thiêu hủy ngôi nhà này, đốt cháy chàng!

Chàng nhảy tạt qua một bên vách.

Vách bằng đất làm sao nổi một chưởng của chàng?

Đất rã ra rơi xuống lộp độp. Nhưng trong đất cũng có những chấn song to như song cửa.

Thì ra, vách đất tô lên đó nguỵ trang chấn song và hiện tại Phương Bửu Ngọc như ở trong một chiếc lồng sắt.

Vách bằng đất tô, trong đất hẳn phải có cỏ, cỏ khô là vật rất nhạy lửa, lửa bên ngoài táp vào gặp cỏ, cỏ bốc cháy bừng bừng.

Lửa đã vào phòng rồi, từ cửa, từ một vách. Một phía vách đã vậy hẳn các phía vách kia cũng vậy.

Phương Bửu Ngọc dù thông minh tuyệt đỉnh, trong cảnh này cũng đành chịu chết, chẳng nghĩ được cách nào thoát thân.

Bỗng chàng nghe có tiếng người kêu la.

Tiếng kêu phát lên từ phía tả vọng lại.

Phương Bửu Ngọc nghĩ ngay đến Tiểu Công Chúa. Bất giác chàng giật mình, nghĩ là nàng cũng đồng cảnh ngộ với chàng.

Chàng vọt mình về phía tả, vung chưởng vào vách.

Đất rã ra, rơi xuống chấn song sắt hiện rõ. Bên kia hàng song sắt, Tiểu Công Chúa đang gào thét ầm ĩ.

Gương mặt đẹp ngày nào giờ đây mất sắc, niềm kinh hãi lẫn căm hờn bốc lên. Phương Bửu Ngọc nghe nhói ở con tim.

Thà rằng chàng chịu một tai nạn, hoạn họa, chàng không muốn nàng gặp cảnh hãi hùng.

Trong gian phòng của nàng, lửa cũng bắt đầu xâm nhập.

Cả hai gian phòng liền vách nhau cả hai người vừa thấy nhau, Tiểu Công Chúa lập tức chạy đến cạnh chấn song, oà lên khóc.

Bên này lòn tay qua, bên kia lòn tay lại, chấn song ngăn chặn ở giữa họ cùng nắm tay nhau, họ cùng bóp mạnh tay nhau, họ áp sát thân hình vào chấn song, cho được gần nhau hơn.

Qua giữa chấn song đối mặt kề nhau thân thiết vô cùng.

oOo Lửa bắt đầu đốt cháy, chăn màn, dần dần bén sang những vật khác.

Trong hai gian phòng, vật nào cũng dẫn hỏa, trừ mấy cái chén nước, bình trà, bình hoa.

Lửa bên trong cháy, lửa bên ngoài cháy.

Khoảng trống còn lại cả hai thu hẹp dần, số lượng không khí tiêu hao dần dần, đúng hơn, dưỡng khí tiêu hao dần dần.

Nóng.

Cái gì cũng nóng, chấn song bằng sắt càng nóng hơn.

Phương Bửu Ngọc và Tiểu Công Chúa áp mặt vào chấn song cả hai đều không nghe nóng chút nào.

Hiện tại họ không sống bằng xác, mà họ sống bằng hồn, họ chỉ nghĩ đến nhau bất chấp lửa gần, lửa xa, lửa ngoài, lửa trong.

Thân hình họ rung rung, tay họ rung rung, tay càng rung họ càng bóp mạnh.

Tiểu Công Chúa hé môi lướt trên má Phương Bửu Ngọc, một lần, hai ba lần, mươi lần, ngàn muôn lần, mãi mãi...

Lướt một lúc nàng gọi:

- Bửu Ngọc!...

Tha thiết quá mà cũng thống thiết quá. Hai tiếng đó đầy đủ lắm rồi, hai tiếng đó nói lên tất cả ý niềm chất chứa từ bảy năm qua, hai tiếng đó mở rộng cánh cửa lòng khi hỏa ngục mở rộng cửa đến họ.

Phương Bửu Ngọc rung giọng:

- Hiền muội!...

Mãi đến hôm nay, sau một thời gian dài hoa bảy lần trổ lá, bảy lượt thay, chàng mới nói được hai tiếng mà chàng dành sẵn nơi đầu lưỡi.

Nhưng hai tiếng đó, dính khàn đầu lưỡi, hàng trăm, hàng ngàn lần, chàng toan đưa ra ngoài vẫn không làm sao đưa lọt vành môi và cuối cùng thì chàng lại dùng hai tiếng cô nương mà đàm thoại.

Giờ đây, trong tầm tay của tử thần, chàng mới thốt lên được.

Thôi được rồi, chàng thốt mãi thôi để bù trừ những khi ấm ức nơi yết hầu, từ yết hầu ra, từ đầu lưỡi vào...

Chàng rung người khi thốt lên hai tiếng đó, rồi chàng tiếp nối luôn:

- Hiền muội có sao không?

Tiểu Công Chúa cũng như chàng, chờ mãi suốt bảy năm mới nghe được ba tiếng đó.

Giá như trước kia, chàng gọi nàng như vậy hẳn nàng đã sừng sộ rồi, dù khoan khoái, dù rung cảm cũng sừng sộ như thường bởi nàng không chấp thuận cho Phương Bửu Ngọc thắng lợi trước mặt nàng bất cứ về phương diện nào.

Giờ đây, khi cả hai cùng sắp sửa nắm tay nhau bước qua ngưỡng cửa Quỷ Môn Quan, nàng quên mất cái thói quen sừng sộ, cái thói tranh thắng trẻ con của nàng, nàng đê mê với hai tiếng hiền muội mà chàng vừa xưng hô.

Để đáp lại, nàng đổi ngay tiếng gọi:

- Tiểu muội,... chẳng sao, còn... Phương ca?... Phương ca có thể thoát đi được chăng?

Phương Bửu Ngọc hỏi lại:

- Hiền muội? Thoát đi được chăng?

Tiểu Công Chúa cười đáp:

- Tiểu muội...

Nàng hỏi nhanh:

- Không lẽ Phương ca cũng như hiền muội?...

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Như vậy rồi hiền muội ơi! Chúng ta đồng cảnh ngộ!

Họ đối đáp với nhau, gấp giọng, họ nghẹn ngào, họ nức nở, cho nên họ không nói kịp những gì muốn nói, muốn gấp, thành ra lấp vấp, khi tiếng nói thoát lọt rồi, âm thinh hơi lệch đi phần nào.

Tiểu Công Chúa đổ lệ như mưa, giọng nàng rung cực độ:

- Phương ca đành chịu chết với tiểu muội?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Đành! Đành lắm hiền muội ơi! Chết với hiền muội là cái chết sung sướng nhất, êm ái nhất! Được chết với hiền muội, cảm bằng hưởng ngàn tuổi thọ!

Tiểu Công Chúa hỏi:

- Giả như Phương huynh thoát đi được, Phương huynh có bỏ rơi tiểu muội chăng?

Phương Bửu Ngọc hỏi lại:

- Đâu hiền muội nói thử nghe?

Tiểu Công Chúa thốt gấp:

- Phương ca không bỏ rơi! Không bỏ rơi tiểu muội!

Phương Bửu Ngọc kéo tay nàng, sát mình hơn, buông tay nàng, ôm lưng nàng, gật đầu nhanh:

- Không bỏ rơi! Không! Nhất định không, hiền muội ạ!

Tiểu Công Chúa khóc mãi! Mặt nàng đang ngập lệ, lệ chảy xuống không kịp, lệ trào mi ứ đọng.

Nhưng miệng nàng lại nở một nụ cười!

Lệ sung sướng, nụ cười tươi quá dưới cơn mưa lệ! Nàng thốt:

- Tốt! Tốt! Chúng ta cùng chết chung, Phương ca ơi...

Phương Bửu Ngọc cũng cười qua màn lệ:

- Phải! Chết chung! Mình chết chung với nhau, hiền muội ơi!...

Rồi chàng tiếp:

- Tâm ý của ngu ca hiền muội thừa hiểu rồi mà!

Tiểu công chúa nức nở:

- Tiểu muội... trước kia...

Nàng lắc mạnh đôi vai của Phương Bửu Ngọc, rồi nàng gào lên:

- Phương ca ơi! Tiểu muội lỗi lắm! Tiểu muội không xứng đáng với Phương ca!

Phương Bửu Ngọc vuốt ve:

- Không đâu! Hiền muội chẳng có lỗi gì cả. Mà dù hiền muội có lỗi, một câu nói dó cũng xoá tan mọi lỗi rồi! Ngu ca nghe được câu đó lòng cởi mở phi thường! Ngu ca hân hoan lắm hiền muội ạ!

Tiểu Công Chúa tiếp:

- Tiểu muội biết, trước kia, tiểu muội luôn làm cho Phương ca thương tâm. Phương ca khó chịu nhưng... Phương ca có biết không, tiểu muội càng chống đối Phương ca, lại càng yêu Phương ca vì quá yêu nên mãi trêu phá Phương ca...

Phương Bửu Ngọc chận lại:

- Còn ngu ca...

Tiểu Công Chúa lại chận:

- Tánh tình của nữ nhân, nam nhân không hiểu nổi đâu, Phương ca ơi! Tiểu muội...

Nàng mủi lòng khóc nữa!

Vừa khóc nàng vừa thú tội:

- Tiểu muội ích kỷ, tiểu muội đa nghi, tiểu muội tự đắc tật đố, tuy yêu Phương ca, tiểu muội không thích nghe ai khen Phương ca thông minh tài giỏi hơn tiểu muội, cái tâm của tiểu muội là con độc xà chực có cơ hội là cắn, là hủy diệt Phương ca.

Phương Bửu Ngọc dịu giọng:

- Được! Được rồi, hiền muội, hiện tại thì chẳng còn quan hệ, chẳng còn gì quan hệ cả hiền muội ạ!

Tiểu Công Chúa rung giọng:

- Nhưng... Phương ca có tha thứ cho tiểu muội không?

Phương Bửu Ngọc thốt gấp:

- Tha? Ngu ca có chấp nhứt hiền muội bao giờ đâu? Không bao giờ ngu ca để ý đến những sự trêu phá của hiền muội cả! Ngu ca biết mà, vì hiền muội quá yêu ngu ca mà!

Tiểu Công Chúa tự mắng:

- Tại sao tiểu muội bại hoại quá chừng?

Nàng lo sợ, hỏi tiếp:

- Phương ca quên hết những lỗi lầm của tiểu muội, phải không Phương ca?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Phải! Phải! Quên hết! Quên tất cả!

Chàng nhấn mạnh:

- Cái tâm của ngu ca, chẳng khi nào biến đổi!

X Lửa vẫn cháy.

Lửa cháy càng lúc càng mạnh.

Lửa càng nóng, tình của họ càng nóng, tình của họ nóng hơn lửa, nên họ không xem cái nóng của lửa ra gì.

Cách khoảng chấn song, họ vẫn cố ôm nhau, ôm càng lúc càng khăng khít.

Song sắt bị lửa nung nóng, họ vẫn không màng. Họ cứ nép sát mình vào song. Họ cố ôm nhau chặt hơn.

Giờ đây, họ hoàn toàn ở trong biển lửa.

Lửa dợn sóng, nhưng là sóng mà người đi sông đi biển gọi là sóng lưỡi búa, có điều là sóng lửa cao ngọn hơn.

Sóng nước ầm ầm, sóng lửa rần rần, sóng nước làm chết người chậm, sóng lửa làm chết người gấp.

Họ vẫn không màng đến cái gì ngoài họ, họ vẫn tiếp tục tâm sự:

- Phương ca ơi! Trước kia tiểu muội rất sợ chết! Giờ thì tiểu muội cảm thấy cái chết hấp dẫn quá, cái chết đáng yêu quá! Tiểu muội nếu còn hai tay nữa, chắc tiểu muội ôm ngay cái chết, sợ nó chạy đi!

Nàng thốt say sưa, nếu Phương Bửu Ngọc không chận lời, có lẽ nàng còn ca tụng cái chết lâu hơn.

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Phải! Cái chết không đáng sợ, không có gì đáng sợ. Cái chết hấp dẫn lắm!

Tiểu Công Chúa say sưa:

- Tiểu muội thích cái chết quá chừng, Phương ca ơi!

Phương Bửu Ngọc mơ màng:

- Ngu ca cũng vậy!

oOo Họ khỏi cần mong muốn. Họ khỏi sợ mất, bởi cái chết đang tiến dần đến họ, và cái chết đã đến tầm tay của họ rồi, họ chỉ vươn tay ra chụp là được.

Lửa càng bốc cháy rần rần họ càng ôm nhau chặt hơn.

Bỗng có người cao giọng thốt:

- Người xưa có nói:

Sớm nghe cái đạo lý, chiều lại có chết cũng vui!

Hai tiểu tử kia, các ngươi đúng là sớm nghe cái tình rên rỉ, chiều lại có chết cũng chết với thú vị!

Tiểu Công Chúa và Phương Bửu Ngọc cùng giật mình, cùng kêu lên:

- Vạn Lão Phu Nhân?

Người đó cười khổ thành tiếng:

- Không là già thì còn là ai nữa? Hai người cởi mở mà chết, còn già thì oan hờn mà chết! Già chết oan uổng quá! Hai ngươi chết có đôi có bạn xuống huỳnh tuyền vẫn còn tỉ tê tâm sự với nhau được, già chết đi lại trở thành một con quỷ đơn côi!

Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Bà ở đâu?

Chàng không cần nghe Vạn Lão Phu Nhân đáp, vừa quay người lại đã thấy Vạn Lão Phu Nhân trong gian phòng bên hữu, vách ngăn đã ngã, lửa cũng bắt cháy bên trong như gian phòng của chàng và của Tiểu Công Chúa.

Vạn Lão Phu Nhân cũng đến cạnh chấn song cho được gần họ.

Trong hoạn nạn, con người đồng cảnh thường nhích lại gần nhau, gần thân thể mà cũng gần linh hồn.

Tiểu Công Chúa vẫn còn nắm tay Phương Bửu Ngọc, lẩm nhẩm:

- Chết, chắc chắn là phải chết, thì tại sao lại không vui mà chết?

Buồn rồi có hy vọng sống sót được không? Vạn Lão Phu Nhân ơi, bình thường bà rất sáng suốt, rất hiểu thời vụ lắm mà sao hôm nay bà tối dạ thế chứ?

Trong khi nàng thốt, Phương Bửu Ngọc nhìn quanh.

Thì ra khác hơn mọi ngôi nhà, chỉ có mỗi một gian phòng, ngôi nhà này có bốn phòng và Vương đại nương nhốt cả ba dưới một mái nhà.

Vạn Lão Phu Nhân hừ một tiếng hỏi lại:

- Ai bảo với ngươi là chúng ta phải chết? Ai bảo chứ?

Lửa đã cháy xém mớ tóc bạc của bà, lửa cũng cháy một phần y phục của bà. Vậy mà bà vẫn chưa tin là phải chết!

Bà hét lớn:

- Nếu là một kẻ nào khác, thì phải chịu chết là lẽ đương nhiên rồi.

Song Phương Bửu Ngọc chẳng phải là một kẻ tầm thường, Phương Bửu Ngọc là con người phi phàm, thì khi nào lại chịu chết? Phương Bửu Ngọc! Ngươi đừng quên mình là một siêu nhân, trời sanh ra ngươi để làm những cái gì mà tất cả thế nhân không làm nổi! Phương Bửu Ngọc!

Ngươi luôn luôn phải nhớ như vậy!

Phương Bửu Ngọc trầm gương mặt, vẻ ảm đạm hiện lên, thở dài:

- Tại hạ đã hết sức mình...

Vạn Lão Phu Nhân sôi giận:

- Vô lý! Vô lý! Ngươi đã hết sức? Sức gì? Ngươi đinh ninh là mình phải chết, ngươi bị cái chết ám ảnh, ngươi cảm thấy sống là khổ là phiền, là lụy, ngươi muốn tránh cái khổ cái lụy phiền... Sức gì mà ngươi cho là hết? Tại sao hết? Ngươi dùng sức vào việc gì? Nói cho ta nghe đi?

Phương Bửu Ngọc lắc đầu:

- Tại hạ đã thực nghiệm rồi, bà ạ! Hoàn toàn vô vọng!...

Vạn Lão Phu Nhân quát:

- Biết! Ta biết ngươi có thực nghiệm rồi, nhưng trước khác, bây giờ khác, trước khi chấn song sắt còn nguội lạnh, sắt phải cứng, giờ thì lửa đã nung, lửa nung đã lâu sắt phải mềm! Ngươi biết chưa? Sao ngươi quên điều đó? Hở Phương Bửu Ngọc!

Phương Bửu Ngọc chớp mắt:

- Điều đó...

Tiểu Công Chúa dịu giọng:

- Đừng, Bửu Ngọc, đừng thử nữa làm gì! Kéo dài sự sống làm chi?

Càng sống dai, càng chịu khổ dài, chết là giải thoát, chết là nhẹ nhàng, Bửu Ngọc ơi!

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Hà huống lửa cháy dữ thế này... ngu ca...

Vạn Lão Phu Nhân gầm lên như sấm:

- Vô dụng! Hai kẻ vô dụng! Sao các ngươi ngu thế? Tuổi còn trẻ tương lai còn dài, hưởng thọ còn chờ vô số, danh vọng, tiền tài, ái ân tình nghĩa, bao nhiêu hạnh phúc đang được dành cho các ngươi ở cuối đoạn đường, tại sao các ngươi bỏ dở độ đường? Già như ta còn chưa muốn chết, sao các ngươi chán sống trong khi mùi sữa mẹ còn phảng phất nơi vành môi?

Phương Bửu Ngọc nhìn bà, rồi lại nhìn Tiểu Công Chúa, đoạn cúi đầu buông gọn:

- Tại hạ hết năng lực rồi bà ạ!

Vạn Lão Phu Nhân hét:

- Câm! Câm ngay! Ta không muốn nghe lời nói nhảm. Cái vọng khí cầu san của ngươi đã tiêu tan rồi, bây giờ thì ngươi quá nhu nhược, ngươi vẫn còn muốn sống, sống dai nhưng ngươi sợ khổ, ngươi trốn tránh cái khổ, ngươi ngán đấu tranh giành sự sống! Hèn! Hèn! Phương Bửu Ngọc!

Tiểu Công Chúa nhắm mắt lại, thốt mơ màng:

- Chết! Một cái gì tưởng tượng xa xăm! Một cõi u mờ, nhưng lại êm đềm khoan khoái... Chết là đi vào mông lung nơi đó không ai bận lo nghĩ đến ai, không ai quấy nhiễu ai...

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Ngu ca mệt lắm rồi!... Mệt suốt bảy năm qua, mệt từng ngày, càng ngày càng mệt thêm, ngu ca cần ngơi nghỉ, ngu ca mong được ngơi nghỉ vĩnh viễn! Vĩnh viễn!

Lửa đã cháy đến mình Vạn Lão Phu Nhân nhiều hơn trước, y phục bắt lửa, bà dập tắt nơi này thì nơi khác lại bén lên, bà luôn tay dập tắt, bà tức hay bà run sợ, những ý niệm tương phản khuấy động mạnh tâm tư bà.

Bà run người, bà nghiến răng.

Bỗng bà bật cười cuồng dại.

Tiểu Công Chúa nói:

- Bây giờ bà thức ngộ ra cái chết là điều khoan khoái nhất nên bà bật cười có phải không?

Vạn Lão Phu Nhân càng cười lớn:

- Ta cười, vì ta có một mắt mà cũng như mù. Từ lâu ta đinh ninh là Phương Bửu Ngọc đáng mặt anh hùng, ngờ đâu, hắn chỉ là một tên khốn nạn, một gã súc sanh. Ta nhìn lầm người!

Phương Bửu Ngọc dựng cao đôi mày, nhưng chàng cố lắng niềm phẫn uất, giữ vẻ thản nhiên thốt:

- Mắng đi bà, cứ mắng! Mắng đến khi nào bà cảm thấy cần để cho cái lưỡi nghỉ ngơi thì thôi. Bà cho rằng cái sống đáng hưởng, và ai ai cũng cố gắng kéo dài cái sống. Bà hưởng được bao nhiêu năm, hở bà?

Giả như hạn định cái sống trong vòng trăm năm thì trong vạn sáu ngàn ngày đó bà có sung sướng trọn chăng? Bà có nhớ rằng, con sâu làm hỏng trái, còn bướm làm hỏng hoa; và sanh lão bện tử là kẻ thù của cái sống chăng? Đem lên bàn cân mà nhìn, cái sướng nhẹ hơn cái khổ nhiều đó bà! Huống chi, cái sướng hiện lên, rồi tiêu tan như mây, như khói, bà ham làm chi mà không tìm gấp cái chết? Bà còn lưu luyến thiết tha chi cái phù phiếm mà không tìm lối thoát muôn đời? Bà quý trọng làm chi cái sống tạm giữa thế nhân mà không tìm cái sống vĩnh viễn với đất trời? Thôi đi bà, chết là phải đó bà! Bà thích sống cứ sống, tại hạ thấy cần phải chết, bà cứ để cho tại hạ chết.

Vạn lão phu nhân lại hét:

- Súc sanh! Khốn nạn! Hèn mạt! Ngươi có biết tại sao ta mắng ngươi không?

Phương Bửu Nhi lắc đầu:

- Không biết được đâu bà ạ! Bởi tại hạ chẳng muốn tìm hiểu làm gì!

Vạn lão phu nhân cao giọng:

- Con người ta ai ai cũng có cha mẹ, ngươi có cha mẹ không?

Phương Bửu Nhi gật đầu:

- Có chứ? Không có cha sanh, mẹ đẻ, làm sao có tại hạ?

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Con người ta, ai ai cũng trông thấy cha mẹ chứ ngươi có thấy cha mẹ ngươi lần nào chưa?

Phương Bửu Nhi rung rung người.

Chàng ấp úng:

- Tại hạ... tại hạ...

Lúc mới sanh ra, chàng được đưa ngay đến nhà ngoại tổ, sống với ngoại tổ, cho đến lúc Bạch Tam Không bị người áo trắng dùng kiếm đánh trọng thương, Bạch Tam Không xa lánh hồng trần, tám đồ đệ ly tán mỗi người một nơi...

Chàng cũng rời quê hương sống kiếp lưu ly...

Cho đến ngày nay, chàng nào có biết cha mẹ chàng là ai?

Cho đến ngày nay, có nghe ai nói đến cha mẹ chàng?

Lần thứ nhất, chàng mới nghe đề cập đến hai đấng sanh thành.

Nhưng đề cập mơ hồ, đề cập như một nguồn sản xuất, không tên không họ...

Một nguồn sản xuất vô danh, nếu không phải là vô thừa nhận!

Chàng xúc động tâm tình rung người, cúi đầu xuống.

Vạn lão phu nhân lại tiếp:

- Tiểu súc sanh! Ngươi có biết cha mẹ ngươi hiện giờ ở đâu chăng?

Phương Bửu Nhi lại rung lên.

Đột nhiên, chàng kêu lớn:

- Cha mẹ tại hạ Ở đâu, chẳng lẽ bà biết được?

Vạn lão phu nhân bật cười ha hả:

- Nếu ta chẳng biết, thì khi nào ta nói chuyện đó với ngươi?

Phương Bửu Nhi rút tay khỏi bàn tay của tiểu công chúa hỏi gấp:

- Ở đâu? Ở đâu? Bà nói nhanh lên!

Vạn lão phu nhân mắng:

- Tiểu súc sanh! Ngươi hèn, sợ sống khổ, ngươi muốn chết để trốn tránh cái khổ, thì cứ chết đi, còn hỏi gì nữa? Sắp chết rồi, ngươi có biết cũng chẳng ích lợi gì.

Phương Bửu Nhi nóng nảy quá chừng, trong lòng nóng hơn bên ngoài.

Chàng rung giọng quát:

- Nói! Bà chịu nói không?

Vạn lão phu nhân hừ lạnh:

- Ngươi muốn nghe, ta cũng chịu khó nói cho ngươi nghe. Cha mẹ ngươi hiện tại đang chịu đựng một sự thống khổ mà bất cứ ai trên thế gian này cũng không đủ sức chịu đựng, muốn chết không chết được, muốn sống thì chẳng ai dung cho sống!

Phương Bửu Nhi choáng váng mặt mày, như vừa bị sét đánh vào đầu.

Chàng băng mình qua vùng lửa, đến sát chấn song ngăn chàng và Vạn lão phu nhân, rung giọng hỏi:

- Thật hở bà?

Vạn lão phu nhân cười lạnh:

- Ta lừa ngươi làm gì? Ta lừa một kẻ sắp chết làm gì chứ? Hơn nữa ngươi không nên lo lắng cho họ làm chi, họ đã chịu khổ qua bao nhiêu năm tháng rồi bây giờ chịu thêm một thời gian nữa kể cũng chẳng sao.

Thời gian còn lại trong kiếp sống của họ đó mà, ngươi hiểu chứ?

Phương Bửu Nhi hét lên một tiếng, chàng nhào tới.

Chẳng rõ vô tình hay hữu ý, Vạn lão phu nhân thọt đầu trượng qua bên kia phòng giam của chàng.

Chàng chụp đầu trượng giật mạnh.

Vạn lão phu nhân buông tay luôn.

Bây giờ, lửa cháy khắp gian phòng, cháy y phục, cháy tóc chàng.

Chàng vung chiếc trượng đánh chan chát vào những chấn song sắt bị lửa nung đỏ.

Có những chấn song cong queo, có những chấn song gãy lìa.

Phương Bửu Nhi giật mình, không rõ chàng vui mừng hay chàng kinh hãi.

Vạn lão phu nhân kêu lớn:

- Ngươi muốn cứu cha mẹ, thì đừng bao giờ tưởng chết!

Bà vọt mình ngang qua lỗ hổng sang phòng chàng.

Phương Bửu Nhi trở lại chấn song ngăn cách tiểu công chúa, vận công lực vung chiếc trượng đập mạnh, đoạn chàng đảo bộ đập luôn chấn song cửa.

oOo Lửa bên ngoài vẫn cháy đều, cháy mạnh.

Nhưng Phương Bửu Nhi, tiểu công chúa và Vạn lão phu nhân đã ra khỏi vùng lửa.

Vạn lão phu nhân nhảy xuống suối reo lên:

- Khoái! Khoái vô cùng!

Đứng bên bờ suối, tiểu công chúa như mất hồn, ngoại cảnh không còn gây cho nàng một cảm giác nào cả.

Thực ra nào phải chỉ có một mình nàng mất hồn? Tất cả ba người đều mất hồn, bởi con người từ cõi chết trở lại cõi sống tránh sao được sự sửng sốt trong phút giây bất ngờ.

Có điều Vạn lão phu nhân và Phương Bửu Nhi trầm tĩnh hơn nên cả hai lấy lại bình thường nhanh chóng hơn.

Trong lúc chạy, cả ba còn ở giữa biển lửa, họ nhắm mắt chạy đến suối rồi, họ tưởng đâu đã thoát nạn.

Họ thấy nước, ai ai cũng lộ vẻ mừng, nhưng chỉ có Vạn lão phu nhân là có phản ứng nhanh, nhảy xuống suối trầm mình trước, Phương Bửu Nhi và tiểu công chúa còn sững sờ.

Và khi cả ba hoàn toàn bình tĩnh, cùng nhìn ra chung quanh, bất giác họ biến sắc mặt.

Phương Bửu Nhi kêu lên thất thanh:

- Cái gì thế này? Tại sao?

Thì ra lửa cháy khắp bốn phía, lửa cháy vòng ngoài, cách họ xa xa.

lửa bén dần vào họ.

Vòng vây lửa khép lại rất nhanh.

Cả một rừng hoa đang làm mồi cho lửa.

Thực ra, hoa cỏ, cây cối chung quanh là sinh vật, có chết khô mới bắt lửa, chứ còn tươi xanh thì làm gì cháy nổi?

Nhưng, chừng như trên mặt đất, khắp nơi, đều có mồi dẫn hỏa, do đó lửa lan dần, lan đến đâu đốt khô hoa cỏ cây cối đến đó, hoa cỏ và cây héo rồi khô, lại bắt lửa tiếp trợ cho mồi.

Cho nên lửa gặp sinh vật không tắt.

Chỉ trong mấy phút giây nữa, là lửa sẽ đến nơi.

Vạn lão phu nhân trồi đầu khỏi mặt suối, đảo nhanh mắt nhìn quanh cũng kêu gấp:

- Nguy! Nguy! Chạy đi lập tức!

Phương Bửu Nhi cũng chưa chịu chạy hỏi:

- Còn cái việc tại hạ hỏi bà đó, bà nói đi!

Vạn lão phu nhân hét:

- Vô luận ngươi hỏi gì, trước hết chúng ta phải chạy, chạy để thoát chết rồi hẵng hay!

Phương Bửu Nhi do dự một chút, rồi nắm tay tiểu công chúa cùng nhảy xuống suối trầm giọng bảo:

- Bốn phía đều có lửa, chỏ có con suối này là lối thoát duy nhất thôi!

Vạn lão phu nhân tán đồng ngay:

- Thông minh đấy, bé con! Nhanh lên kẻo muộn mất!

Tiểu công chúa hiện tại lừng dừng như kẻ mất hồn, không còn một phản ứng để mặc cho Phương Bửu Nhi lôi đi.

Cũng may, suối không sâu lắm, họ đi rất dễ dàng.

Cây rừng, khóm hoa, nhà... tất cả đều làm mồi cho lửa.

Lửa bốc cao ngọn, suýt soát với ngọn cây, lửa ánh rực trời, nhuộm đỏ con suối giống như suối máu.

Một vài cành khô bị cháy, theo gió lốc bay xuống suối, đó là trở ngại duy nhất cho ba người thôi.

Phương Bửu Nhi một tay nắm tiểu công chúa, tay kia vung chiếc trượng dài, đánh ra phía trước, gạt bắn những tàn lửa bay đến.

Chàng như Hồng hài nhi xung phá Liệt Hỏa trận!

Có thể bảo đây là lần thứ nhất, Phương Bửu Nhi phát động hùng oai, chứ bình thường thì chàng hết sức khiêm nhường, dù là khi giao đấu với một người quyết lấy mạng chàng.

Giả như đừng bận lo sợ về thế lửa đang hoành hành thì Vạn lão phu nhân và tiểu công chúa phải thán phục chàng lắm lắm.

Song, trong cảnh sống chết qua mấy đường tơ kẽ tóc này, hai người còn cái tâm đâu mà tán thưởng võ công tuyệt đỉnh.

Nói là võ công cũng không đúng bởi muốn thi triển võ công, ít nhất cũng phải có một đối tượng.

Ở đây, thực sự cũng không có đối tượng, nhưng một thứ đối tượng không hồn, không chiêu thức, một thứ đối tượng không vũ công, thì Phương Bửu Nhi đâu có thi triển võ công?

Nếu có thán phục chàng tất phải thán phục cái gan lỳ, cái trầm tĩnh của chàng.

Trong một trường hợp như thế này, còn giữ được trầm tĩnh để chặn đón cơn hãi hùng, kể ra phải là một người giàu tự tin lắm vậy!

Tự tin để tự cứu mình, tự tin để tự cứu đồng bạn.

Thỉnh thoảng, một cái cành cây bốc cháy rơi xuống, thỉnh thoảng lửa lại lan đến giữa suối do gió bốc đưa đi ở những nơi giòng suối co hẹp lại.

Rồi theo gió, nhiều thứ mùi cuốn đến, trong đó có những mùi khó ngửi, chẳng hạn mùi thịt cháy, thịt thú và thịt người...

Ai ngửi cùng một lúc nhiều mùi, hẳn phải gặp một vài mùi không thích lắm, và chính những mùi đó làm cho cả ba buồn nôn từng cơn.

Phảng phất qua những mùi đó, cái chết lởn vởn trước mặt họ. Và khi lửa bắt cháy đến thân xác họ, thì những mùi đó sẽ bốc từ xác họ mà loang ra không gian.

Chắc chắn là có người chết cháy trong cơn đại hỏa hoạn này.

Vạn lão phu nhân cau mày:

- Cái gì đã xảy ra? Không lẽ cường địch của Vương đại nương đến bất ngờ, phá hủy cơ nghiệp của mụ ấy, giết chết thuộc hạ mụ ấy? Hoặc giả...

Đột nhiên nơi bờ suối có tiếng rên.

Tiếng rên vọng đến tai họ, mặc dù tiếng lửa cháy kêu vù vù, ào ào, tiếng cây đổ rắt rắt...

Tiếng người rê, chứ không phải tiếng thú.

Nơi đây, làm gì có thú rừng? Nếu có thú, hẳn là thú nhà mà Vương đại nương đâu có nuôi thú?

Họ không phải tìm hiểu lâu, tiếng rên đó của ai phát lên.

Người phát lên tiếng rên từ trong lửa chạy ra, rồi phóng nhanh xuống suối.

Phương Bửu Nhi cấp tốc lướt tới, đưa tay đón người đó.

Y phục của người đó đã bị lửa đốt loang lổ, có nơi da phồng, có chỗ da mất, bày khoảng thịt ửng hồng.

Người đó chính là Bửu Mã thần thương Lữ Vân.

Phương Bửu Nhi kêu lên thất thanh:

- Lữ huynh!... Có tại hạ đây! Tỉnh lại đi, Lữ huynh! Tỉnh gấp!

Suýt hôn mê vì lửa, chạy chết, Lữ Vân may mắn chạy về phía suối, nhảy xuống suối rồi nước mát làm cho y tỉnh lại, y nghe rõ Phương Bửu Nhi gọi y.

Mở mắt ra y trông thấy Phương Bửu Nhi, y rất mừng, song phải một lúc lâu y mới hoàn toàn bình tĩnh, rồi y rên một lúc, sau cùng mới hỏi:

- Phương huynh... Phương thiếu hiệp... Mộng hay thực đây thiếu hiệp?

Phương Bửu Nhi đáp nhanh:

- Không phải mộng, Lữ huynh! Tại hạ đây, Phương Bửu Nhi đây, chúng ta còn sống cả mà! Tại sao Lữ huynh ra thân thể này? Việc gì đã xảy ra, Lữ huynh?

Lữ Vân thở phào, nhếch nụ cười thảm:

- Xong rồi! Tất cả đều xong rồi, Phương thiếu hiệp ơi! Chẳng còn gì nữa! Chỉ đáng hận cho tại hạ, không nghe lời thiếu hiệp, đem võ học bí truyền chỉ điểm cho ác phụ! Nếu không thì làm gì có sự việc như ngày nay! Nếu tất cả chưa truyền sở học cho ác phụ thì làm sao có người bị mụ ta ám hại?

Phương Bửu Nhi kêu lớn:

- Vương đại nương? Bà ta hạ thủ đoạn tàn độc?

Lữ Vân rung rung giọng:

- Chính mụ là thủ phạm!

Phương Bửu Nhi hỏi nhanh:

- Còn Hùng đại hiệp? Còn những người kia?

Lữ Vân thở dài:

- Xong! Xong rồi, Phương thiếu hiệp ơi! Họ đã ra đi, đi vĩnh viễn!

Chỉ có mỗi mình tại hạ! Nhưng... còn lại mà để làm gì?...

Phương Bửu Nhi khuyến khích:

- Phấn khởi lên, Lữ huynh, Lữ huynh không chết đâu! Tại hạ dám quyết đoán chắc như vậy!

Hồi 48

Huỳnh Kim Bí Cung

Lã Vân điểm một nụ cười ảm đạm:

- Tại hạ có nghĩ đến cái chết đâu, Phương thiếu hiệp?

Nhưng...

Giọng nói của y yếu dần, mí mắt của y sụp dần.

Phương Bửu Ngọc hét to:

- Lã huynh! Tỉnh lại gấp. Lã huynh! Đừng bao giờ để cho cơn mê xâm chiếm cơ thể. Lã huynh không thể chết! Lã huynh cần phải sống để phục thù!

Lã Vân lẩm nhẩm:

- Phục thù!... Hỏa!... Cái chiêu tuyệt quá!... Cái chiêu Quán Nhật Hồng! Ngực của tại hạ... ái!... Ngực của tại hạ... Vương Đại Nương ơi! Sao bà ác thế?

Cuối cùng, y nấc lên một tiếng khá lớn, âm thinh cuối cùng của y.

Thân mình y chuyển mạnh, chuyển lần cuối cùng, để rồi bất động luôn.

Bất động vĩnh viễn!

Lửa trên bờ táp xuống, lửa bắn hoa từ những cành khô, lửa rực chung quanh, song chưa vượt nổi làn ranh nước suối.

Vạn Lão Phu Nhân lẩm nhẩm:

- Không ngờ Lã Vân chết vì cái chiêu Quán Nhật Hồng! Mà ta cũng không tưởng nổi là Vương Đại Nương đã học được cái chiêu bất truyền của phái Nga My. Độc! Ác độc thật. Đã giết người còn phóng hỏa! Mụ ta muốn tung một mẻ lưới là bắt tất cả thiên hạ võ lâm hay sao chứ?

Phương Bửu Ngọc nghiến răng:

- Vô luận làm sao, tại hạ nhất định không dung tha cho bà ấy?

Vạn Lão Phu Nhân lạnh lùng:

- Người mà ngươi không thể dung tha, nào phải chỉ có một mụ ấy?

Còn Bạch Y Kiếm Khách đó chi? Còn Hỏa Ma Thần, còn Bạch Thủy Nương đó chi? Nhưng, nếu lúc nãy mà ngươi chết rồi thì những kẻ khác...

Phương Bửu Ngọc ngẩng mặt lên không, cao giọng hét:

- Trời cao xin chứng minh lời thề nguyện của Phương Bửu Ngọc này! Vô luận làm sao Phương Bửu Ngọc không thể chết! Phải sống!

Sống để trừ hung diệt bạo!

Chàng bước dài, bước mạnh theo lòng suối tiến tới.

Lửa dù mạnh, có lửa nào đốt cháy nước?

Và nước cứ chảy theo dòng vĩnh viễn không thay đổi phương hướng.

Phương hướng của giòng suối là từ trong vùng lửa đỏ ra ngoài.

Đi theo phương hướng đó, bọn Phương Bửu Ngọc rồi cũng ra khỏi vùng lửa đỏ.

Lửa cháy trọn khu rừng, lửa không cháy nổi một ngọn suối con thì lửa không vượt qua nổi một gò cao, nói rằng gò vì nó chưa thành núi.

Tai nạn đã qua!

Vạn Lão Phu Nhân đứng trên mặt đất còn thở ồ ồ.

Bà thở mạnh, buồng ngực phập phồng, nhưng thân thể bất động.

Ngoài bộ ngực phập phồng bà đứng lặng như xác chết, không còn làm một cử động nào được.

Một con người từ cảnh tối nguy, tinh thần căng thẳng tận dụng công lực, thoát chết rồi, ai không sửng sốt đến thất thần?

Vạn Lão Phu Nhân thừ người, Tiểu Công Chúa cố gắng kéo chéo áo lau mặt.

Vô luận trong hoàn cảnh nào, nàng không muốn Phương Bửu Ngọc trông thấy cái vẻ xác xơ của nàng.

Bởi nàng sợ cái xác xơ đó sẽ làm mất mát phần nào sắc đẹp.

Bất cứ trong trường hợp nào, nàng có thể rũ lạnh như xác chết nhưng khi cần bảo vệ sắc đẹp, nhất là bảo vệ trước mặt Phương Bửu Ngọc, thì chưng như nàng có cả một siêu lực giúp nàng phấn động tinh thần.

Nàng chẳng bao giờ muốn Phương Bửu Ngọc thấy cái vẻ bê bối của nàng.

Về phần Phương Bửu Ngọc, chàng cũng chẳng được chỉnh tề hơn ai, hình dáng của chàng tồi tàn quá độ với lớp y phục cháy rách tả tơi, song trái lại, tinh thần chàng vương mạnh.

Dừng chân một chút, chưa ai thật khoẻ khoắn, chàng hét to:

- Đứng lên! Chạy nữa!

Vạn Lão Phu Nhân vừa thở vừa hỏi:

- Đứng lên? Chạy nữa?

Bà lắc đầu tiếp:

- Vô phương rồi! Bây giờ, người có giết ta, cứ giết, chứ bảo ta đứng lên, ta chịu thôi! Hơn thế, ta còn muốn ngủ một giấc nữa đây! Một giấc ngủ phải dài ít nhất cũng ba ngày ba đêm!

Phương Bửu Ngọc trầm giọng:

- Bây giờ chưa ngủ được đâu bà ơi!

Vạn Lão Phu Nhân hừ một tiếng:

- Tại sao chưa ngủ được, các ngươi muốn đi cứ đi, ta ở lại đây ngủ một giấc dài.

Phương Bửu Ngọc lắc đầu:

- Tại hạ đi, bà cũng phải đi!

Vạn Lão Phu Nhân cười lạnh:

- Tại sao? Con trai ta, còn không muốn sống chung với ta, sao ngươi lại muốn kèm ta bên cạnh? Ngươi phải biết, cũng như tất cả những người trên giang hồ, ta là một con quỷ cô đơn, ta đi, ta ở một mình ta, sao ngươi lại...

Phương Bửu Ngọc lạnh lùng:

- Bà hãy đưa tại hạ đi gặp phụ mẫu của tại hạ, rồi sau đó bà muốn đi đâu thì đi, nhất định tại hạ không ngăn trở nữa!

Vạn Lão Phu Nhân chớp mắt:

- Song thân ngươi? Ngươi là con còn chẳng biết song thân là ai, ở đâu, thì làm sao ta biết nổi?

Phương Bửu Ngọc chụp áo bà, giơ bà lên hỏng khỏi mặt đất hét:

- Bà không biết? Bà vừa nói gì với tại hạ, trước đây?

Vạn Lão Phu Nhân vốn có tính khí quật cường, thấy Phương Bửu Ngọc làm oai, bà nổi tính lên sừng sộ:

- Ta nói gì? Ta nói ở đâu? Ta chỉ nói là hiện giờ song thân của ngươi chịu khổ chứ ta nào có nói là họ Ở đâu?

Phương Bửu Ngọc đỏ mặt.

Chưa bao giờ chàng để lộ phẫn nộ đối với bất kỳ ai trong bất cứ tình huống nào.

Chưa bào giờ chàng biến đổi sắc mặt.

Nhưng bây giờ, chàng đã phá lệ.

Và không kiềm hãm được cơn phẫn uất, toàn thân chàng rung lên.

Chàng rung giọng hỏi:

- Bà... bà dám hí lộng tại hạ phải không? Bà dám giở trò đùa như vậy với tại hạ phải không?

Vạn Lão Phu Nhân kêu lên:

- Ta... ta...

Bà là một con hô ly cái, gian hoạt có thừa, giỏi chối, khéo bịa, nhưng trước cơn phẫn nộ của Phương Bửu Ngọc, bà cảm thấy rợn người.

Bà sợ hãi thật sự, nên chẳng dám nói chi nữa.

Dù sao, bà cũng còn thích sống dù ngày trời còn lại cho bà chẳng bao nhiêu, bà vẫn chưa muốn đốt giai đoạn.

Bà phải sống đến phút cuối mà tạo hoá dành cho bà.

Bằng mọi giá bà phải sống, để ăn cho đủ số lượng ô mai rim đường, hạt đào rang...

Chết mà không ăn đủ số lượng, bà sẽ hận mãi mãi nơi tuyền đài.

Một người, mỗi chút mỗi nổi giận thì cái giận đó chẳng đáng sợ.

Một người bình sanh không giận, lúc giận là trời phải long, đất phải lở.

Phương Bửu Ngọc tiếp:

- Bà có thể đùa, có thể lừa tại hạ bất cứ việc chi, bất cứ trong trường hợp nào. Nhưng về cái việc này... cho bà biết...

Bỗng một bàn tay mềm dịu đặt nhẹ nơi đầu vai chàng.

Rồi một giọng nói êm như ru vang lên bên tai chàng:

- Buông tha cho bà ấy đi!

Phương Bửu Ngọc gằn giọng:

- Buông tha?

Tiểu Công Chúa ôn tồn thốt:

- Dù bà ấy có lừa ngươi chẳng qua là vì bà ấy muốn tốt cho ngươi đó!

Trong biển lửa, quyết tâm cùng chết với nhau, họ tỏ lộ tâm tình chất chứa trong suốt bảy năm dài.

Họ xưng hô nhau bằng những danh từ thân thiết nhất.

Giờ đây, họ ra khỏi biển lửa, họ đã trở về thực tế, thì cái thực tế trả lại cho họ những gì họ đã quên, bị lửa làm cho họ quên.

Trước tiên là lối xưng hộ.

Vạn Lão Phu Nhân chụp dịp, kêu to:

- Phải đó! Già muốn tốt cho ngươi mà! Già muốn cứu ngươi thoát chết mà! Già có quyền bịa mọi chuyện, miễn làm sao cứu sống ngươi được thì thôi!

Phương Bửu Ngọc chung quy cũng phải buông tay.

Tiểu Công Chúa từ từ tiếp:

- Hà huống, chúng ta còn phải đến Bạch Thủy Cung gấp, có bà ấy đưa đường, thì càng thêm tiện cho chúng ta chứ sao!

Phương Bửu Ngọc thở dài:

Nhưng, thay vì mừng, Vạn Lão Phu Nhân lại biến sắc kêu lên:

- Muốn ta đưa đường! Ta... già nào biết Bạch Thủy Cung ở tại địa phương nào?

Tiểu công chúa lạnh lùng:

- Nếu quả thật bà chẳng biết Bạch Thủy Cung ở đâu thì bà đúng là một người vô dụng.

Vạn Lão Phu Nhân thừa nhận liền:

- Phải! Phải! Già là một người vô dụng!

Tiểu Công Chúa cười nhẹ:

- Nếu là người vô dụng, thì bà còn sống làm chi? Những khoảng đất trên thế gian này đâu có dành để cho hạng người vô dụng? Bà thông minh, bà khôn khéo, bà cứ suy nghĩ thử xem, nếu bà là người vô dụng, thì chúng tối còn để bà sống để làm gì? Bà muốn sống tất phải làm người hữu dụng cho chúng tôi!

Lúc đó, Vạn Lão Phu Nhân đã đứng lên rồi.

Bỗng, bà ngồi phịch xuống bà lại nhăn nhó mặt, lẩm nhẩm:

- Già... già...

Tiểu Công Chúa mỉm cười:

- Bây giờ thì chắc là bà đã hiểu Bạch Thủy Cung ở tại địa phương nào rồi chứ?

Bỗng, Vạn Lão Phu Nhân quỳ xuống, buông giọng thiết tha:

- Tiểu Công Chúa ơi! Công chúa đẹp, công chúa tốt ơi! Hãy dung tha cho già là con người đáng thương hại lắm đó, công chúa ơi! Công chúa thử nghĩ xem nếu già đưa người ngoài đến Bạch Thủy Cung thì cái mạng đáng thương của già này liệu còn tồn tại trên thế gian này nữa chăng?

Tiểu Công Chúa điềm nhiên:

- Nếu ta không đưa người đến đó, liệu cái thân già đáng thương của bà có còn tồn tại trên thế gian này nữa chăng?

Vạn Lão Phu Nhân rung rung giọng:

- Già vạn cầu công chúa, trăm cầu công chúa, ngàn cầu công chúa!

Lương tâm của công chúa đáng được người đời noi gương, chắc chắn là công chúa chẳng bao giờ bức già đáng thương đáng hại này đến nỗi phải chết uổng chết oan trong khi già còn muốn sống! Công chúa ơi, già chưa muốn chết, dù già đã sống quá nhiều ngày rồi, già chịu khổ sở quá nhiều ngày rồi, chẳng trông những ngày còn lại ít ỏi kia già lại khổ thêm, khổ mãi đến giây phút cuối cuộc đời? Già khổ già lại cô đơn, già đau buồn với kiếp goá phụ từ nhiều năm tháng rồi. Già chết chồng, già lại mất con. Công chúa ơi, đến con trai của già cũng hắt hủi già!...

Bà khóc.

Giọt lệ già trông bi đát làm sao.

Bà khóc ồ ồ bất chấp ở cái tuổi của bà, khóc như vậy thì chán chường, trơ trẽn quá.

Bà cứ thốt lên những lời lâm ly thống thiết, bà cứ khóc như suối đổ sườn non, như gió quét ngàn cây. Tiểu Công Chúa vẫn lạnh lùng nhìn bà, trừng mắt nhìn bà.

Hơn thế, môi nàng nhếch nhẹ thành nửa nụ cười, nụ cười vừa lạnh, vừa mỉa mai, vừa khinh miệt...

Vạn Lão Phu Nhân hết khóc lại van cầu, hết van cầu lại khóc, bà van cầu và khóc một lúc khá lâu.

Thoạt đầu, Tiểu Công Chúa còn nhếch nửa nụ cười, bà khóc mãi, khóc quá nhiều, van cầu quá nhiều, làm cho nụ cười của nàng tan biến mất.

Nụ cười tan biến nơi vành môi còn lại vẻ lạnh lùng, vẻ mỉa mai, vẻ khinh miệt.

Lạnh lùng, mỉa mai, khinh miệt còn tồn tại, lại có phần hiện rõ hơn, như vậy là Vạn Lão Phu Nhân hết hy vọng rồi.

Bà còn khóc, còn van cầu làm chi nữa?

Bà đưa bàn tay quét ngấn lệ hỏi:

- Không lẽ già không có cách gì lay động nổi lòng dạ của ngươi?

Tiểu Công Chúa cười nhẹ:

- Bà thử khóc một lần nữa xem! Có thể lần sau bà có kết quả!

Đôi mắt đã ráo lệ rồi, Vạn Lão Phu Nhân vụt đựng lên cất giọng căm hờn:

- Tốt! Tốt lắm đó, tiểu liễu đầu! Cứ đi theo già! Đi!

Tiểu Công Chúa gật gù:

- Thì ra bà cũng biết số phận đấy!

Vạn Lão Phu Nhân hừ một tiếng:

- Cho ngươi biết, con đường dài vô tưởng, dọc đường nếu có cơ hội, là già ly khai ngươi liền, đừng mong có một lần thứ hai...

Tiểu Công Chúa cười nhẹ, chận lời:

- Yên trí đi, bà ạ! Bà mà thoát khỏi tay tôi rồi, kể như bà có thủ đoạn lắm đó. Tối chẳng bao giờ tìm lại bà đâu!

Vạn Lão Phu Nhân gật đầu:

- Càng hay!

Bà bước đi liền.

Bà hoàn toàn khác trước, hoàn toàn là một người khác lạ.

Phương Bửu Ngọc thầm nghĩ:

- Mụ già này là con người thay đổi đa đoan, nếu chẳng có Tiểu Công Chúa...

Chàng nhìn thoáng qua nàng, cơn bồng bột trào dâng, bất giác bước tới cạnh nàng, chàng thốt khẽ:

- Đa tạ!

Tiểu Công Chúa trừng mắt nhìn chàng.

Bỗng nhiên, thần tình biến đổi, gương mặt nàng trở lên lạnh lùng.

Đến nụ cười lạnh cũng không nở nổi trên gương mặt đó.

Rồi nàng trầm giọng:

- Đa tạ để làm gì? Lâu nay ta không vì ngươi mà hành động đâu!

Phương Bửu Ngọc giật mình:

- Nhưng... chúng ta...

Tiểu Công Chúa chận lại!

- Đưa ngươi đến Bạch Thủy Cung là trách nhiệm của ta, chỉ có cái việc đó mới tạo nên liên hệ giữa ta và ngươi trong bao nhiêu ngày qua, trừ việc đó ra, ta với ngươi chẳng liên hệ gì cả. Ngươi đừng tỏ lời ra mà cũng chẳng có gì phải tạ Ơn ngươi. Ngươi đến đó là dứt khoát liên hệ giữa nhau. Ta tròn nhiệm vụ, ngươi cũng được toại nguyện.

Phương Bửu Ngọc ấp úng:

- Nhưng vừa rồi... cô nương còn nói...

Tiểu Công Chúa cười lạnh:

- Vừa rồi?... Hừ!... Việc vừa rồi là việc đã qua. Việc đã qua còn nói làm gì nữa? Ngươi chưa chết thì ta phải sống, lời nói vừa rồi, chẳng thành vấn đề nữa.

Nàng quay nhanh mình bước theo Vạn Lão Phu Nhân liền.

Phương Bửu Ngọc giật mình, đúng là chàng lâm vào cảnh lỡ khóc lỡ cười.

Chàng cười khổ, tự thốt:

- Ta cứ tưởng là Vạn Lão Phu Nhân giỏi tráo trở, ngờ đâu còn có kẻ tráo trở tài tình hơn bà! Mà tráo trở một cách tàn nhẫn hơn bà! Người ta dùng cái biến hoá đối với mình thì từ nay mình nên dùng cái bất biến hoá đối với người ta!

Rơi vào tay Tiểu Công Chúa, Vạn Lão Phu Nhân cảm thấy không có cái khổ nào bằng.

Bà có trăm ngàn thủ đoạn, cũng không thể mang những thủ đoạn đó ra áp dụng, tìm cách thoát thân.

Bời, chẳng có một thủ đoạn nào có hiệu quả trước nàng công chúa non tuổi nhưng già mưu.

Giữa đêm khuya, Tiểu Công Chúa đang ngủ say vùi.

Bà đứng lên định chuồn đi, nàng đã mở mắt nhìn bà.

Rồi bà có cảm tưởng là đôi chân bà như bị một đoạn đường dây vô hình ràng buộc liền với Tiểu Công Chúa.

Bà nhích động một chút là làm kinh động đến nàng.

Sáng ra, bà đòi đi đại tiểu tiện.

Tiểu Công Chúa chấp thuận:

- Bà cứ đi!

Nàng không theo bà gìn giữ kề bên.

Dĩ nhiên là bà mừng. Bà mở cửa, bước gấp. Bà bước đi, không phải đi đại tiện, tiểu tiện gì. Bà chuồn luôn.

Nhưng như bóng ma, Tiểu Công Chúa lại xuất hiện trước mặt bà.

Nàng chấp tay sau lưng, đứng nghẻo đầu, nhìn bà nghiêng nghiêng.

Nàng cười mỉm.

Nàng lại hỏi:

- Xong chưa?

Vạn Lão Phu Nhân còn nói gì nữa? Còn biết làm sao nữa?

Trừ lúc bà đại tiểu tiện, còn thì Tiểu Công Chúa luôn luôn giương tròn mắt nhìn bà. Vĩnh viễn nhìn bà. Có lúc, thay vì đi thẳng, con đường phải ngắm hơn thì Vạn Lão Phu Nhân lại đi vòng, kéo dài con đường.

Tiểu Công Chúa, hoặc vô tình, hoặc cố ý hỏi:

- Giả như có người nào đó thay vì đi thẳng lại tìm lối quanh co, thì người đó tự tạo tội lỗi cho mình rồi vậy! Tại sao lại phải làm như thế chứ? Có trốn thoát được chăng? Đã không hy vọng trốn thoát, tại sao gây nên tội? Theo tôi thì, tốt hơn nên đưa nhau tới đó, càng sớm càng tốt, tới đó rồi sẽ tìm cách thoát đi. Và lúc đó, chắc không ai ngăn trở!

Nàng mỉm cười tiếp:

- Bà nghĩ, một người đưa bà đến nơi muốn đến, đến rồi mà người đó bỏ đi, bà còn cần gì truy nã chăng?

Vạn Lão Phu Nhân tức uất có thể chết được.

Một ngày qua.

Hai ngày, rồi ba ngày.

Đến ngày thứ ba, Vạn Lão Phu Nhân phục ngay, không còn tìm cách lừa, tìm cách thoát đi nữa.

Bà cười khổ thốt:

- Tiểu công chúa ơi! Công chúa là tổ tông của già đó! Từ bao lâu rồi, già chưa từng chịu phục ai, bây giờ thì già đành nhận bại trước Tiểu công chúa!

Tiểu công chúa mỉm cười:

- Bà nói quá lời! Bà sanh tôi được, chứ tôi làm gì thành tổ tông của bà?

Nàng dịu giọng hỏi tiếp:

- Còn bao nhiêu dặm đường? Còn bao nhiêu thời gian nữa chúng ta đến Bạch Thủy Cung hở bà?

Vạn lão phu nhân trầm ngâm một chút:

- Đường còn không xa. Thời gian còn không lâu. Nhiều nhất là hai hôm nữa thôi.

Phương Bửu Nhi chen vào:

- Thì ra Bạch Thủy Cung vẫn trong lãnh thổ Trung Nguyên!

Vạn lão phu nhân hỏi:

- Chứ ngươi tưởng là ở phương trời nào?

Phương Bửu Nhi thở dài:

- Cứ theo lời truyền trên giang hồ, thì địa điểm của Bạch Thủy Cung vô cùng thần bí, địa điểm đó ai cũng đinh ninh là tại đỉnh Thần Sơn nơi hải ngoại... Ngũ Hành Cung đặt căn cứ trên đỉnh Thần Sơn.

Vạn lão phu nhân hừ một tiếng:

- Bây giờ ngươi nghĩ như thế nào?

Phương Bửu Nhi trầm ngâm một chút, từ từ đáp:

- Ngày nay... theo tại hạ nghĩ thì... bất quá Ngũ Hành Cung có căn cứ tại một nơi nào đó, hoặc trong rừng sâu, hoặc trên núi cao, hoặc tận một hang động hoang vu, ở những nơi quanh năm suốt tháng chẳng có bóng người đời thấp thoáng vãng lai. Còn về kiến trúc thì... hoặc tân kỳ, hoặc thông thường, rộng lớn hay nhỏ hẹp tùy theo sở thích của chủ nhân...

Rồi chàng mỉm cười hỏi:

- Tại hạ đoán có đúng chăng?

Vạn lão phu nhân thốt:

- Trên thế gian có biết bao nhiêu sự việc, lúc sơ khởi thì rất tầm thường, song theo năm tháng trôi qua với lời truyền thuyết của con người, nay thêm một chút, mai thêm một chút, mỗi người lại thêm một chút, thêm mãi, rồi sự việc tầm thường đó cuối cùng trở thành phi thường, thần bí, người thuật lại có cái ý vẽ vời khoe khoang sự thấy xa hiểu rộng của mình rồi người nghe lại dùng ảo tưởng mà suy diễn cho đến ngày nào đó, sự việc tầm thường biến thành thần thoại!

Phương Bửu Nhi gật đầu:

- Tại hạ cũng vừa nêu lên suy luận đó...

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Tuy nhiên, dù sự việc người đời thần thoại hoá, cũng còn một vài dấu vết lưu lại thế nhân chứng tỏ cái lý do thực tế biến thành hoang đường. Giả như già không tận mắt nhìn những dấu vết đó, thì chẳng khi nào già tin được, có một thực tế trong cái hoang đường truyền khẩu.

Phương Bửu Nhi chớp mắt:

- Thì ra Ngũ Hành Cung cũng có phần nào trung thực trong cái hoang đường do thế nhân tạo dựng?

Vạn lão phu nhân sửa chữa ngay:

- Già không hề đưa ra một xác nhận như vậy!

Phương Bửu Nhi cau mày:

- Nếu thế thì... Ngũ Hành Cung chỉ là...

Vạn lão phu nhân xoay chiều câu chuyện:

- Ngươi đã muốn đến đó, trước sau gì ngươi cũng đến đó, đến là thấy như thế nào tại sao nóng nảy tìm hiểu?

Phương Bửu Nhi thốt:

- Tại hạ hy vọng...

Vạn lão phu nhân điểm một nụ cười ẩn ước có vẻ thần bí, từ từ tiếp:

- Hiện giờ, tốt hơn hết là ngươi đừng hy vọng chi cả, ngươi cũng đừng tưởng nghĩ đến điều chi cả, vô luận làm sao, khi trông thấy Ngũ Hành Cung rồi, ngươi sẽ không tránh khỏi kinh ngạc.

Phương Bửu Nhi ạ lên một tiếng:

- Ngạc nhiên hay kinh sợ?

Vạn lão phu nhân điềm nhiên:

- Cả hai!

Phương Bửu Nhi mỉm cười:

- Thật vậy?

Chàng bước đến khung cửa sổ mơ màng một lúc, đoạn lẩm nhẩm:

- Có lẽ giờ đây, môn hạ của Hỏa Ma Thần cho rằng tại hạ thất tín, nếu không thì cũng tưởng là tại hạ thất tung! Và có lẽ họ đã phân công đi khắp bốn phương trời tìm tại hạ!... Còn Thiết Nhiêm Đạo Nhân và các vị kia, đến phủ Đại Danh rồi nhất định tra cứu hành tung của thuộc hạ Hỏa Ma Thần! Tất cả đều biết đâu tại hạ âm thầm đi đến cái nơi mà bên này muốn, bên kia không!

Vạn lão phu nhân hỏi:

- Ngươi đoán thử xem bọn Thiết Nhiêm Đạo Nhân có đến được Bạch Thủy Cung chăng?

Phương Bửu Nhi thở dài:

- Khó đoán lắm bà! Tuy nhiên tại hạ mong rằng họ sẽ chẳng bao giờ đến được nơi đó! Họ đừng đến đó là hơn!

Bỗng đâu đây có tiếng cười hắc hắc vang lên, rồi một câu nói tiếp theo lạnh lùng:

- Chỉ sợ ngươi thất vọng!

oOo Thời gian lúc đó đúng nửa đêm, không gian im vắng lạnh lùng.

Địa điểm là một sơn thôn, và nơi Phương Bửu Nhi tạm trú là một ngôi khách sạn không lớn lắm.

Đứng bên trong cửa sổ nhìn ra, trên đầu ngàn sao án chớp, song trước mắt là vùng tối âm u. Vùng tối lan rộng vô biên.

Bên ngoài khung cửa sổ không xa lắm, có rừng trúc loạn, trúc mọc rất dày. Lá trúc không nhiều nhưng cành giao chuyển chằng chịt, thành che khuất ánh sao mờ.

Tiếng cười, tiếng nói phát lên từ khu rừng trúc vọng đến.

Phía sau rừng trúc là lưng đồi, đồi thấp đồi cao ngàn vạn ngọn đồi.

Những ngọn đồi phụ thuộc Thái Hành Sơn.

Núi là núi hữu danh, thôn là thôn hoang lạnh, khách điếm là điếm vắng vẻ cô tịch.

Đêm lại về khuya.

Trong khung cảnh đó, trong thời gian đó, bất cứ tiếng cười nào cũng không gây niềm hân hoan, huống hồ người nghe tiếng cười lại mang nhiều tâm sự lo âu?

Giả như tiếng khóc, tiếng than thì người nghe bất quá chỉ chua xót thôi. Nhưng lại là tiếng cười! Nghe như mỉa mai, như thách, như khinh miệt, như hăm dọa...!

Người nghe bắt phải lạnh mình!

Vạn lão phu nhân bước tới cửa sổ hỏi:

- Ai đấy chứ?

Bà hỏi ai? Hỏi người phát ra tiếng cười hay hỏi Phương Bửu Nhi?

Có thể là bà hỏi Phương Bửu Nhi, vì âm thinh của bà rất khẽ.

Trước khi hỏi, bà đã biến sắc mặt rồi. Sau khi hỏi, bà càng biến sắc hơn.

Phương Bửu Nhi mỉm cười:

- Ai? Bà còn phải hỏi ai nữa sao? Bà không thể đoán nổi à?

Vạn lão phu nhân lẩm nhẩm:

- Ai?... Ai?...

Phương Bửu Nhi trầm giọng:

- Hỏa Ma Thần, sao các hạ chưa xuất hiện?

Tràng cười lại vang lên từ rừng trúc vọng đến:

- Thính tai lắm! Khá đó!

Một người từ từ rời ven rừng trúc bước ra, dưới ánh sao mờ trong như một vừng lửa đỏ, nhưng lại là một thứ lửa không ngời, một thứ lửa chớp chớp như quỷ.

Phương Bửu Nhi gật đầu:

- Các hạ đến đúng lúc quá! Tại hạ đang...

Hỏa ma thần cười vang:

- Những gì ngươi vừa nói, đều sai cả! Ta biết rõ chẳng bao giờ ngươi thất tín. Ta cũng biết luôn, chẳng khi nào ngươi thất tung. Cho nên ta có nhọc công tìm kiếm ngươi khắp bốn phương trời đâu?

Phương Bửu Nhi cau mày:

- Do đâu mà các hạ biết tại hạ có mặt tại đây?

Hỏa Ma Thần điềm nhiên:

- Có Tiểu công chúa bên cạnh ngươi thì khi nào ta lại mất hút ngươi. Ngươi chẳng biết ta ở đâu mà tìm, chứ ta thì bất cứ lúc nào muốn gặp ngươi là biết rõ ngươi ở đâu để đến ngay nơi đó gặp ngươi.

Phương Bửu Nhi chợt biến sắc, liếc nhanh mắt sang Tiểu công chúa hỏi nhẹ:

- Thế ra dọc đường cô nương có lưu ký hiệu?

Tiểu công chúa lạnh lùng:

- Đúng vậy! Bởi lẽ đương nhiên là phải vậy. Ngươi không nên lấy làm lạ.

Phương Bửu Nhi thở dài:

- Không lấy làm lạ về sự việc, mà chỉ lạ lùng tại sao cô nương chẳng cho tại hạ biết.

Tiểu công chúa cười lạnh:

- Cho ngươi biết? Tại sao ta phải cho ngươi biết? Ta đã nói với ngươi rồi mà, cái trách nhiệm của ta là đưa ngươi đến nơi ngươi muốn đến, phải đến, trừ công việc đó ra ta chẳng liên quan chi đến ngươi cả.

Phương Bửu Nhi trầm ngâm một lúc đoạn tiếp, thở dài:

- Cô nương nói đúng! Lỗi ở tại hạ!

Vạn lão phu nhân cười khẩy một tiếng rồi lẩm nhẩm:

- Từ nghìn xưa, khách đa tình luôn luôn đa khổ! Tiểu tử ơi, già thấy ngươi...

Phương Bửu Nhi vụt hét lên:

- Hỏa ma thần! Ngươi bảo ta thất vọng? Câu nói đó có ý tứ như thế nào?

Hỏa ma thần từ từ thốt:

- Có phải là ngươi hy vọng bọn Thiết Nhiêm Đạo Nhân đừng đến Bạch Thủy Cung? Vô ích, bọn họ đã đến nơi rồi! Họ đến từ lâu và có thể hiện giờ họ đã...

Phương Bửu Nhi giật mình chận lời:

- Họ đã đến nơi rồi? Ai chỉ dẫn đường lối cho họ đến đó.

Hỏa Ma Thần thản nhiên:

- Bổn cung!

Phương Bửu Nhi cao giọng:

- Ngươi? Trước kia ngươi không muốn họ đến đó sao bây giờ...

Hỏa Ma Thần cười hắc hắc:

- Họ muốn tìm nơi nạp mạng, thì ta còn cấm cản những kẻ muốn chết làm gì khi mà họ chán sống? Cho ngươi biết, họ đã sát hại chín tên thuộc hạ của ta, tuy ta không thể tự sức báo thù, song ta cũng biết cách mượn tay người làm công việc đó, thay thế cho ta!

Rồi lão cười lớn.

Lão cười cuồng dại, niềm oán độc bốc mạnh như có thể làm mờ ánh sao đã mờ rồi.

Phương Bửu Nhi sững sờ.

Lâu lắm, chàng lẩm nhẩm:

- Họ muốn đến, là họ đến? Có sao với cái tài giết người của họ, đi đến đâu mà chẳng lọt? Bất cứ nơi nào, họ chẳng hề thất bại!

Vạn lão phu nhân cười lớn:

- Buồn cười thay!... Buồn cười thay!...

Phương Bửu Nhi trầm giọng:

- Tại sao?

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Già không cười ai khác, mà chỉ cười ngươi!

Phương Bửu Nhi hừ một tiếng:

- Tại hạ có gì đáng cười?

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Ta cười là vì ngươi biết rõ, đi như vậy, họ sẽ gặp dữ nhiều lành ít, song ngươi không chịu nhận chân sự tình, ngươi lại tìm cách dối mình, ngươi có bám víu vào cái mong manh để tự an ủi mình.

Phương Bửu Nhi cao giọng:

- Tại hạ nói đúng sự thật! Họ là những người bất khả xâm phạm!

Vạn lão phu nhân hừ một tiếng:

- Ngươi nói đúng sự thật? Hừ! Ta hỏi ngươi bọn Thiết Nhiêm Đạo Nhân có sánh được Hỏa Ma Thần, Mộc Lang Quân chăng? Hỏa Ma Thần, Mộc Lang Quân còn bị đuổi chạy vắt chân lên cổ, liệu bọn Thiết Nhiêm Đạo Nhân...

Phương Bửu Nhi không đợi bà nói dứt câu, phóng mình qua khung cửa sổ dừng chân trước mặt Hỏa Ma Thần, nắm tay rung rung giọng hỏi:

- Họ đến đó từ lúc nào?

Hỏa Ma Thần cười quái ác:

- Lâu! Rất lâu!... Bây giờ ngươi có đi ngay, cũng chẳng còn kịp làm gì nữa! Có thể là những gì phải xảy ra đã xảy ra rồi!

Phương Bửu Nhi rung bắn người lên, qua phút giây chấn động chàng lại sững sờ.

Rồi một lúc sau, lâu lắm, chàng bình tĩnh trở lại, hét to:

- Bạch Thủy Cung ở đâu bây giờ ngươi phải nói cho ta biết! Nói gấp cho ta biết!

Hỏa Ma Thần ung dung bảo:

- Ngươi ngẩng đầu lên!

Phương Bửu Nhi ngẩng đầu nhìn ra trước mắt, dưới ánh sao mờ, bóng núi nguy nga đồ sộ hiện rõ.

Chàng bực gằn từng tiếng:

- Ngẩng đầu để làm gì?

Hỏa Ma Thần bình tĩnh hỏi:

- Ngươi có thấy chi chăng?

Phương Bửu Nhi hừ lạnh:

- Nền trời! Ngàn sao!...

Hỏa Ma Thần chận lời:

- Còn gì nữa?

Phương Bửu Nhi tiếp:

- Mây, núi, núi liền mây...

Bỗng chàng kêu lên thất thanh:

- Bạch Thủy Cung ở tại Thái Hành Sơn?

Hỏa Ma Thần từ từ gật đầu:

- Phải!

Phương Bửu Nhi quay mình, toan như chạy đi ngay.

Hỏa Ma Thần thốt:

- Một mình ngươi đi, dù có tìm năm bảy tháng vị tất tìm được!

Phương Bửu Nhi cau mày:

- Tại sao?

Hỏa Ma Thần cười nhẹ:

- Địa phương rộng lớn, tuy Bạch Thủy Cung ở tại đây, song ngươi có biết đích xác ở địa điểm nào chăng? Một mình ngươi phải mất bao nhiêu thời gian mơi đi giáp một vòng chu vi hơn trăm dặm, rồi còn lục soát?

Lão cười nhẹ, rồi lạnh lùng tiếp:

- Hà huống dù ngươi có đi ngang qua địa điểm đó, ngươi cũng chẳng làm sao biết được?

Phương Bửu Nhi dậm chân:

- Đã biết như vậy, tại sao ngươi không đưa gấp ta đến đó?

Bỗng, Tiểu công chúa nạt khẽ:

- Ngươi đứng lại đó cho ta!

Nhưng, nàng không nạt Phương Bửu Nhi bởi Phương Bửu Nhi chưa nhúc nhích kia mà, bất quá chàng chỉ quay mình thôi rồi chàng đứng nguyên vị tại chỗ, trong tư thế đó.

Nàng nạt Vạn lão phu nhân, trong lúc khẩn cấp nàng không cần xưng hô bà ta bằng cái tiếng bà.

Nàng gọi cộc lốc bằng tiếng ngươi, như gọi một kẻ dưới tay trong vòng quản thúc của nàng.

Nàng vừa bắt gặp Vạn lão phu nhân nhích động thân hình, hẳn nhiên, bà ta thừa dịp chuồn đi.

Chân tả còn bước tới, chân hữu còn ở tại hậu, Vạn lão phu nhân cười gượng:

- Đã có Hỏa... Hỏa cung chủ dẫn đường, già còn ở lại đây làm chi?

Già có thể đi được rồi!

Tiểu công chúa cao giọng:

- Ai bảo là bà có thể đi?

Vạn lão phu nhân vẫn cười:

- Chứ đã có người đưa đường rồi, cô nương còn dùng già vào việc chi nữa? Già ở lại là thừa!

Phương Bửu Nhi cất tiếng:

- Nể mặt Vạn đại hiệp, chúng ta để cho bà ấy muốn đi đâu thì đi.

Vạn lão phu nhân kêu lên:

- Phải đó! Cô nương ơi! Cô nương tốt bụng để cho già đi nhé!

Tiểu công chúa lạnh lùng:

- Cho bà đi? Để bà gấp rút về Bạch Thủy Cung báo cáo sự tình à?

Để dọc đường, bà đặt cạm bẫy, lừa bọn này à?

Đoạn nàng bĩu môi tiếp nối:

- Nếu là ai khác, ta có thể cho đi đó, nhưng bà thì không! Bà không được đi đâu hết, bà gian hoạt xảo quyệt lắm, chẳng gì tin nổi bà. Giữ bà bên cạnh tôi mới yên tâm!

Vạn lão phu nhân lùi lại mấy bước, buông mình trên ghế lẩm nhẩm:

- Hà tất cô nương muốn hại già! Hà tất hại già, hở cô nương!

Tiểu công chúa thản nhiên:

- Bà đừng trách tôi, hãy tự trách là phải hơn! Tại vì ngày trước bà đã hại quá nhiều người rồi, tự nhiên bà cũng phải bị người hại lại. Phải có vay có trả chứ bà. Đến lượt bà rồi đó nhé!

Vạn lão phu nhân thở dài thườn thượt.

Rồi bà lấy hạt đào, quả mai, liền nhét vào miệng, vừa nhai hết lại lấy, bà nhét vào hạt khác.

Dọc theo đường đến đây, bà cẩn thận mua sắm chất chứa đầy các chiếc túi trên áo bà.

Bây giờ, nếu bà ngồi đó mà nhai, mà nuốt, có lẽ đến nửa ngày mới hết số tích trữ.

Tiểu công chúa nhìn bà mỉm cười:

- Bà còn muốn nói gì nữa chăng?

Vạn lão phu nhân vừa nhai vừa lẩm nhẩm:

- Già còn nói gì được nữa? Gặp cô nương là gặp kẻ tử đối đầu, già nhận bại là hơn!

Rồi bà cau mày tiếp:

- Lạ thực, người ta có việc lo lắng, chẳng ai ăn gì vô, còn già sao lại khác thường, lòng càng rối rắm, miệng lại càng ăn ngon!

X Sương mù phủ xuống quá dày, quanh các đỉnh núi của dãy Thái Hành Sơn, nhìn đâu đâu cũng chỉ thấy bàng bạc một màu trắng đục.

Đêm càng xuống sâu, sương càng rơi dày, và bình minh dù lên từ lâu sương vẫn chưa tan mỏng.

Trong lớp sương mù dày đặc đó, Phương Bửu Nhi theo đường lên núi.

Núi quá cao, sương che khuất mắt, sương trên cao, hòa lẫn với mây sớm, tiếp màu không làm sao phân biệt được khoảng nào là sương, khoảng nào là mây.

Hỏa Ma Thần không đi theo chàng.

Lúc đến chân núi, lão thốt:

- Ta chẳng cần đến đó làm gì. Ta ở lại đây, chờ tin lành của ngươi.

Tiểu công chúa và Vạn lão phu nhân kèm hai bên chàng. Nhưng đứng trên đỉnh cao, sương mù bao phủ chung quanh, chàng cảm thấy mình tịch mịch vô cùng.

Nhìn ra xa, hiện mờ mờ qua lớp sương mù dần dần tan biến theo ánh thái dương lên, Phương Bửu Nhi thấy muôn trùng ngọn thấp, ngọn cao, thấp thì hiểm trở phi thường, cao lại uy nghi hùng tráng.

Hiểm trở, uy nghi, hùng tráng, xuyên qua làn sương mờ ảo nơi nào cũng thần bí, mông lung, cảnh vật hiện ra nửa hư, nửa thực, Phương Bửu Nhi dù can trường thiết thạch vẫn nghe lạnh chuyển khắp người.

Chàng mơ màng suy tư, tâm tưởng như phiêu phưởng tận phương trời xa, Tiểu công chúa đứng cạnh chàng, dù là người thân nhất hiện tại của chàng cũng cầm như cái bóng xa vời...

Chàng có cảm giác tất cả đều lùi lại sau vai, chỉ có một mình chàng là tiến tới, tiến tới mãi...

Tiến về nơi vô định mịt mờ...

Tại sao chàng có cảm giác đó?

Bây giờ đây chàng có nghĩ ngợi gì, dù gần, dù xa, sự việc cũng đã rồi.

Sự việc đó, là chàng hiện diện tại Thái Hành Sơn.

Sự việc đó, là chàng đã tiếp cận Bạch Thủy Cung.

Chàng chỉ có mỗi một con đường, đường trước mắt.

Chàng chỉ có mỗi một mục đích, mục đích đó ở tận đầu đường. Bao nhiêu ngày qua rồi, thân thể vận động, tâm tư vận động, trải qua gian lao nguy hiểm để đến đây...

Nhìn trước mắt chẳng thấy gì.

Ngoảnh mặt về sau lưng tất cả đều chìm trong ảo tưởng nhạt mờ.

Chàng hướng sang Vạn lão phu nhân hỏi:

- Đi về hướng nào nữa đây?

Vạn lão phu nhân đưa tay chỉ lên. Nơi bà chỉ là vùng sương mù.

Phương Bửu Nhi cau mày:

- Nơi đó? Bà có lầm chăng?

Vạn lão phu nhân lắc đầu:

- Không thể lầm!

Phương Bửu Nhi cũng lắc đầu:

- Đường chẳng có, chúng ta bước trong sương mù mà đi?

Vạn lão phu nhân điểm một nụ cười thần bí, từ từ đáp:

- Theo thần thoại, thì Vương cung phải ở trong lớp sương mù đó, tận đỉnh núi cao.

Phương Bửu Nhi biến sắc:

- Thế ra bà cho rằng Ngũ Hành Cung chỉ có trong thần thoại?

Trong hư không man mác?

Vạn lão phu nhân điềm nhiên:

- Hư là thực, thực là hư! Không là sắc, sắc tức là không!

Tiểu công chúa gắt:

- Bà ấy điêu! Đừng hỏi, đừng nghe bà ta!

Vạn lão phu nhân bật cười khanh khách:

- Phải đó! Già điên, nếu chưa điên, là cũng muốn điên!

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Nhưng hiện giờ, bà không thể điên được! Bà không muốn như vậy được. Hãy gấp...

Vạn lão phu nhân đột nhiên hỏi:

- Bây giờ là chừng nào?

Phương Bửu Nhi đáp:

- Có lẽ đã vào giờ ngọ.

Vạn lão phu nhân kêu lên:

- Nhanh! Nhanh quá! Ngươi sẽ thấy ngay bây giờ đây!

Phương Bửu Nhi cau mày:

- Chừng nào? Còn bao lâu nữa?

Vạn lão phu nhân thốt:

- Chừng nào thấy được là sẽ thấy. Muốn gấp cũng chẳng được. Gấp vô ích.

Đoạn bà ngồi xuống xếp bằng tròn.

Phương Bửu Nhi dù gấp cũng chẳng biết làm sao hơn. Chàng lại nhìn lên, qua lớp sương mù, phảng phất thấy có ánh sáng. Ánh sáng đó gồm bảy màu lóng lánh chiếu lên.

Ánh sáng đó càng lúc càng to dần rồi trăm ngàn ngọn núi cao thấp lộ ra, qua ánh sáng bảy màu tất cả như huyền huyền ảo ảo.

Giữa vùng ánh sáng đó, có một cảnh trí tân kỳ.

Một con đường dài hướng lên, đường gồm những nấc thang, chứ không bằng mặt như tất cả con đường quanh núi.

Tiểu công chúa kêu lên:

- Đúng rồi chính nơi đó!

Vạn lão phu nhân lẩm nhẩm:

- Quanh năm, suốt tháng, sương mù bao phủ, mỗi ngày chỉ hiển lộ một lần, và hiển lộ rồi biến mất ngay.

Phương Bửu Nhi thở dài:

- Một địa điểm tân kỳ!

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Bây giờ thì ngươi tin già chưa? Hư mà thực, thực mà hư, không không sắc sắc... Một nơi có thật nhưng rất gần thần thoại. Bảo rằng có cũng được mà không cũng được...

Bà mỉm cười kết luận:

- Lẽ mầu nhiệm của hoá công, sự tinh xảo của hoá công là vô thượng. Ngươii đừng đem cái thông minh của kẻ phàm trần, suy tưởng công tác của cao thiên!

Những bậc thang nối tiếp theo đường dài, chiếu ngời kim quang, Phương Bửu Nhi nhìn mãi đến si si dại dại.

Chàng thừ người ra đó đứng nhìn.

Không lâu lắm, màu vàng óng ánh của các bậc thang mờ dần, mờ dần.

Vạn lão phu nhân vụt đứng lên:

- Đi! Đi gấp! Nếu không sương mù lại phủ, chúng ta chẳng thấy nẻo mà bước.

Hồi 49

Lên Trời Chưa Phải Khó

Nơi Phương Bửu Ngọc đang đứng cũng là một đỉnh núi.

Nhưng nhìn lên tận đỉnh có sương mù che phủ chàng thấy quá cao, cao như tiếp liền với nền trời xanh, dù sương mù che khuất chẳng thấy nên trời.

Nơi đỉnh cao đó chừng như có một thế giới riêng biệt.

Nơi đó lơ lửng giữa khoảng không có tiếp liền với nền trời hay không, qua lớp sương mù Phương Bửu Ngọc không nhận định rõ.

Nơi đó mường tượng xa hẳn thế gian, bởi những ngọn núi cao trong vùng hầu như thấp lè tè, bao quanh chẳng khác những ngọn sóng nhấp nhô bọc một hòn hải đảo.

Theo chân Vạn Lão Phu Nhân, Phương Bửu Ngọc đi lên, có thể bảo là chàng lên từng bước, từng bước.

Chàng đi giữa sương mù, đi một lúc rất lâu, độ một khắc thời gian qua một khu rừng sầm uất, đến một nơi sơn cốc âm u lúc đó mới thật sự đặt chân lên những bậc thang.

Đường thang lên trời.

Thang đương nhiên là lên, thang lên dài vô tận, chẳng ai thừa công đếm những bậc, dù không đếm, ai ai cũn phải lấy số ngàn mà ức độ và chẳng biết có bao nhiêu ngàn.

Phương Bửu Ngọc vận dụng nhãn lực nhìn lên chẳng làm sao thấy tận đầu.

Mà nơi tận đầu thang có phải là địa điểm chàng cần đến chưa, hay là còn phải đi một lúc nữa?

Đâu đâu cũng là sương mù.

Không có ánh mắt nào nhìn thủng sương mù, không có tâm tư nào tưởng tượng được trong sương mù, bên sau sương mù có những gì, bởi quá mông lung quá mờ dị, chẳng có một cảnh trí một vật thể nào làm điểm tựa để suy điển rộng hơn...

Đường thang rất dài, lại thòng lên cao đường thang quá dốc khó đi vô cùng.

Bên hữu đầu thang dưới có tấm biển, nơi biển có mấy chữ:

- Đường thang lên trời, theo đường thang này sẽ đến đỉnh.

Đặt chân lên thang thứ nhất Vạn Lão Phu Nhân dụng lực, bà lộ vẻ thận trọng hơn lúc động thủ với tay đại kình địch.

Thang vừa đứng vừa trơn, chân bước rất khó khăn.

Hai bên đường thang có vô số hoa cỏ, và hoa toàn là những loại hiếm có dưới trần.

Dọc theo đường thang, cách khoảng vài mươi bậc lại có hoặc kiếm gãy, hoặc xương người trắng xóa, hoặc lộ liễu ngay trên đường, hoặc nửa ẩn nửa hiện, trong những bụi cỏ.

Hoa trắng, cỏ xanh, sương đục, rồi sương mờ giăng mắc khắp nơi, tất cả nói lên sự thần bí của một nơi đi sâu vào thần thoại từ lâu lắm rồi.

Vạn Lão Phu Nhân thở dài thốt:

- Ngươi thấy đó, đến Bạch Thủy Cung có khác nào vào quỷ môn quan. Từ xưa đến nay có ai đi mà được về? Bao nhiêu xương trắng kia, bao nhiêu đoạn thép đó chứng tỏ nơi đây là cấm địa! Muốn đến Bạch Thủy Cung phải có gan, gan không, chưa đủ phải có tài, tài không chưa đủ, phải là tài cao siêu việt! Tài cao tài siêu việt trên bậc Phương Bửu Ngọc vẫn phải chết như thường! Huống hồ Phương Bửu Ngọc?

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Nơi đây chẳng lẽ đến cái việc mai táng...

Vạn Lão Phu Nhân lạnh lùng chận lời:

- Tại sao cần phải mai táng? Nên để lộ liễu như vậy chứ, cho kẻ sau thấy gương kẻ trước, cho người sau nuôi mộng làm cái việc vá trời, vừa đến đây, thức ngộ ngay mình ngông cuồng rồi trở lại gấp, khi còn kịp trở lại!

Rồi bà thở dài tiếp:

- Nói là nói vậy, chứ thực ra cũng không cần nêu gương, bởi kẻ nào đến đây, có muốn trở về cũng không trở về được.

Phương Bửu Ngọc đảo mắt nhìn quanh hỏi:

- Chỉ sợ bà nói quá sự thật đấy thôi, giả như hiện tại tại hạ muốn trở lại thì làm gì có người biết mà làm khó dễ?

Vạn Lão Phu Nhân mỉm cười:

- Ngươi nghĩ vậy là chưa hiểu Bạch Nương Nương lợi hại như thế nào! Nương nương là bậc toàn năng toàn tri, ngươi đinh ninh là chẳng ai hay biết ngươi đã đến đây, bởi ngươi chẳng thấy một bóng người thấp thoáng. Kỳ thực Nương Nương đã hay rồi.

Phương Bửu Ngọc cười lớn:

- Thì ra bà nói lên câu đó chẳng phải để cho tại hạ nghe! Bà đã biết cái tội đưa người lại đây, bà sợ tội, nên trước hết tâng bốc chủ nhân một vài câu ve vuốt cái tánh cao ngạo của chủ nhân, để chủ nhân khoan khoái mà tha thứ cho bà, bà mong muốn câu nói đó vang đến tai chủ nhân lắm, chứ làm gì...

Vạn Lão Phu Nhân không nao núng:

- Ngươi tưởng rằng Bạch Nương Nương không hay biết?

Phương Bửu Ngọc cười nhẹ:

- Bà ấy chẳng phải là thần tiên, làm gì bà ta nghe được biết được?

Bỗng có ai đâu đây cất tiếng:

- Ngươi lầm rồi!

Giọng nói rất nhẹ, rất dịu, rất trong, chung quanh chẳng có một bóng người, song giọng nói như phát ra ngay bên tai.

Phương Bửu Ngọc giật mình, lập tức dừng chân.

Giọng nói đó tiếp tục vang lên:

- Ngươi sợ rồi sao? Ngươi không dám đi lên nữa à?

Phương Bửu Ngọc sửng sốt.

Vạn Lão Phu Nhân đã nhào xuống đất nửa quỳ nửa mọp.

Giọng nói phát ra trong khung cảnh này, khung cảnh thần bí giọng nói càng làm tăng cái vẻ thần bí, bởi chính giọng nói cũng thần bí luôn, như có một ma lực nào làm cho người nghe phải khiếp.

Cái tâm đã khiếp sợ thần bí càng tăng gia.

Nhưng Phương Bửu Ngọc chỉ giật mình thôi chứ còn kinh sợ như Vạn Lão Phu Nhân thì không.

Đương nhiên làm gì chàng lại quỳ mọp như Vạn Lão Phu Nhân? Và trên gương mặt chàng chẳng có một biểu hiện nào chứng tỏ chàng kinh sợ.

Bất quá chàng động tính hiếu kỳ, trong vẻ hiếu kỳ ẩn ước có niềm phấn khởi.

Chừng như chàng vừa khám phá ra một việc gì vậy.

Người bí mật vận với âm thanh nhẹ dịu tiếp:

- Vạn Hoàng Anh ngẩng đầu lên đi!

Vạn Hoàng Anh tự nhiên là tên của Vạn Lão Phu Nhân.

Lệnh ban ra nói ngẩng lên, Vạn Lão Phu Nhân thay vì ngẩng đầu lên lại càng mọp xuống sàn bậc thang, nếu có thể chui luôn vào đất bà cũng chui liền.

Người bí mật hỏi:

- Ngươi biết tội chưa?

Vạn Lão Phu Nhân run như cầy sấy:

- Tôi... tôi... đã biết tôi rồi... đáng lẽ tôi không nên đưa người đến đây... cầu... cầu xin lão nhân gia... dung thứ... dung thứ...

Bà không thể xưng là tại hạ, bà cũng chẳng dám dùng tiếng già, bà chỉ dùng một tiếng tôi thông thường như mọi người thường ở hạng dưới, hay chẳng thuộc giới giang hồ.

Người bí mật điềm nhiên:

- Dung thứ cho ngươi?

Vạn Lão Phu Nhân vập đầu côm cốp trên bậc đá:

- Dung thứ... cho tôi... lão nhân gia ơi! Tôi là kẻ vô dụng như một con chó già, lão nhân gia có gia tội tôi cũng chẳng có ích lợi gì đó lão nhân gia ơi!

Lời cầu khần của Vạn Lão Phu Nhân ngân vang loang trong không gian hòa vào sương mù từ từ lên đỉnh cao.

Không một tiếng đáp.

Vạn Lão Phu Nhân vẫn còn mọp tại chỗ.

Lâu lắm người bí mật mới cất tiếng:

- Đi! Cứ đi! Ngươi chẳng xứng đáng cho ta xuống tay!

Vạn Lão Phu Nhân mừng trên chỗ tưởng:

- Đa tạ... đa tạ lão nhân gia!

Người bí mật tiếp:

- Xuống núi lần này cứ thẳng đường mà chạy, không được dừng chân lại đấy nhé, không được quay đầu lại đấy nhé! Ngươi chạy thật xa, thật xa, chạy luôn ra hải ngoại và khi chưa ra biển khơi chẳng được mở miệng nói tiếng gì đấy nhé!

Vạn Lão Phu Nhân vập đầu:

- Tuân mạng! Tuân mạng!

Người bí mật lại tiếp:

- Nếu ngươi cãi lịnh ta, chỉ nói một tiếng thôi ta cũng nghe lọt, nếu ngươi dừng chân một giây thôi, ta cũng biết rõ và như vậy ngươi đừng than van là chết oan, chết uổng đấy nhé!

Vạn Lão Phu Nhân luôn luôn gật, luôn luôn thốt lên hai tiếng tuân mạng.

Sau cùng người bí mật bảo:

- Thôi! Đi đi!

Vạn Lão Phu Nhân vụt đứng lên quay mình chạy đi liền, chẳng dám nhìn trở lại.

Phương Bửu Ngọc và Tiểu Công Chúa nhìn theo bóng bà trầm tư.

Người bí mật gọi:

- Phương... Bửu... Ngọc!

Tiếng gọi rất chậm, rất nhẹ.

Phương Bửu Ngọc giật mình:

- Các hạ... biết...

Người đó cười một tiếng:

- Tự nhiên ta biết ngươi! Ta biết ngươi khi ngươi còn cách đây ngàn dặm, ta biết thế nào ngươi cũng đến đây chẳng có một việc gì của ngươi mà ta không biết! Ngươi sợ hãi làm gì?

Lần thứ nhất người bí mật cười.

Tiếng cười ngân lên như gió khua lục lạc nhỏ, như những xâu châu ngọc chạm vào nhau, tiếng cười có cái hấp lực dũng mạnh phi thường chẳng một ai chống trả nổi.

Tiếng cười giọng nói chứng tỏ người phát ra là một nữ nhân.

Tiểu Công Chúa vốn là nữ nhân nghe tiếng cười đó cũng đâm mê huống hồ nam nhân?

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Bà đúng là một nhân vật phi phàm!

Bà đó vẫn với giọng nhẹ dịu:

- Bây giờ dù ngươi muốn trở xuống cũng còn kịp!

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Thật vậy hở bà? Tại hạ chỉ sợ đã muộn!

Người bí mật bảo:

- Ngươi thử ngẩng mặt lên xem!

Phương Bửu Ngọc ngẩng mặt lên, Trước mắt chàng là một vọng cửa đá cao vô tưởng, cửa hình tròn.

Cửa được kiến tạo cực kỳ huy hoàng mỷ lệ.

Nếu nói trên thế gian này có những cái tuyệt xảo, thì vọng cửa này là kết quả của cuộc công trình xảo diệu phi thường, chẳng khác nào một viên ngọc không tỳ không vết.

Dù ai khó tánh đến đâu cũng chẳng tìm ra một điểm đáng chỉ trích trong công trình kiến tạo đó.

Bên trên vọng cửa có mấy chữ thoáng đọc qua là ai ai cũng kinh sợ:

- Vào cửa này ra kiếp khác!

Người bí mật lại hỏi:

- Ngươi thấy rõ chứ?

Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Chữ to quá tự nhiên tại hạ phải trông thấy!

Người bí mật tiếp:

- Ngươi còn muốn vào chăng?

Phương Bửu Ngọc thản nhiên:

- Bà không xuống đây đương nhiên là tại hạ phải lên! Muốn lên đó đương nhiên tại hạ phải vào cửa!

Người bí mật thở dài:

- Ta mong sao ngươi sẽ không hối hận!

Rồi người bí mật nín luôn, lâu lắm chẳng nói một tiếng nào nữa.

Có thể bà ta đã bỏ đi?

Có thể bà ta đang ẩn mình đâu đó, bên trong cửa chờ chàng?

Chàng day mặt về phía sau, nhìn Tiểu Công Chúa đoạn bước từ bước một chững chạc tiến lên.

Chàng biết rõ qua ngưỡng cửa đó dù chàng có sống sót mà trở về thì chắc chắn là vận mạng của chàng phải có biến quan trọng, cải biến như trở về một thế giới khác hoặc như người từ âm phủ được Diêm Vương cho hồi sinh.

Tiếc là chàng không tin.

Trái lại chàng còn cương quyết bước tới, mượn cái chững chạc để đắn đo cân nhắc suy lường...

Cái chững chạc đó sẽ giúp chàng khoảng thời gian cần cho sự suy tường.

Vạn Lão Phu Nhân sợ Cung Chủ Bạch Thủy Cung còn hơn một con dê non sợ con hổ đói.

Niềm sợ hãi đó ăn sâu vào xương tủy, không ai làm sao cho bà hết sợ nổi.

Quả nhiên Vạn Lão Phu Nhân chẳng dám dừng chân dù là một giây một phút.

Không dừng chân, thì làm sao nghỉ ngơi?

Ngày chạy mãi đã đành, đêm cũng chạy luôn và dĩ nhiên là bà cũng chẳng dám ngủ.

Bà quá sợ như có một ngọn roi nào theo sát lưng bà, giả như bà dừng chân lại là ngọn roi đó quất lên lưng, lên đầu bà.

Khi bà chạy đến Tế Hà thì bà gần như chẳng còn nhân dạng nữa.

Tế Hà là một bến sông, giòng sông Huỳnh Hà.

Từ nơi đó có thể ngồi thuyền thẳng ra biển, và đó cũng là lối thông ra biển duy nhất của Huỳnh Hà.

Cho nên nơi đây thuyền chen san sát, thuyền đông chẳng kém Trường Giang.

Vạn Lão Phu Nhân không còn chiếc trượng dài nơi tay như lúc nào.

Hiện tại bà cầm một cành cây thay cho trượng.

Bà không còn đi đứng nổi nữa, tuy bà bước song chẳng khác nào bà kéo lết đôi chân.

Bà tiều tụy quá chừng, đôi mắt bà mất thần thành lờ mờ như mắt bệnh nhân.

Giờ đây, phải là những người thân với bà những người từng tiếp cận bà ta ít nhất cũng trên mấy mươi năm, mới nhận ra được bà.

Mà bà cũng không hy vọng ai nhận ra được bà cả.

Tại bến sông, một đại hán đang gọi oang oang:

- Ăn phải chon cơm trắng, đi thuyền phải chọn thuyền vững, vị nào muốn đến tỉnh thành Tế Nam, Thanh Thành, Lợi Tân, xin xuống thuyền của chúng tôi đây! Bảo đảm du khách ngồi thuyền như ngồi núi!

Bên cạnh hắn có một tiểu tử tay sai của hắn.

Tiểu tử cũng cao giọng phụ họa theo ý của đại hán:

- Chuyến đi cuối cùng đây, các qúy khách! Mất chuyến này các vị phải chờ đến ba hôm nữa mới khởi hành được đó.

Vạn Lão Phu Nhân chập choạng tiến đến thuyền.

Bà không muốn nơi đường bộ, bà không còn khí lực theo đường bộ nữa.

Đại hán đưa cánh tay thép chận bà:

- Bà già! Bà muốn gì đây?

Vạn Lão Phu Nhân lắc đầu không dám nói gì.

Cung Chủ Bạch Thủy Cung đã cấm bà mở miệng kia mà.

Bà có cảm tưởng là một con mắt thần đang dán vào lưng bà, đương nhiên làm sao bà dám nói gì?

Đại hán cười lạnh tiếp:

- Hình dáng của bà như thế đó bà cũng muốn đáp thuyền nữa sao?

Cho bà biết giá một chuyến đi không phải ít đâu, bà làm gì có bạc trang trải nổi? Đừng hy vọng nữa bà ơi! Làm cái nghe lấy mồ hôi đổi cơm áo này, còn lau lắm chúng tôi mới biết thương người.

Vạn Lão Phu Nhân lắc lắc chiếc đầu rồi lại gật cũng đủ số như đã lắc.

Đại hán nổi giận:

- Cái lão bà này đáng ghét lạ! Tôi đã nói sao bà có nghe chăng? Bà có chịu cút đi chăng?

Hắn đưa bà tay như chiếc quạt nan bồ, đẩy Vạn Lão Phu Nhân.

Vạn Lão Phu Nhân lạnh lùng nhìn bàn tay hộ pháp của hắn.

Chỉ cần bàn tay đó phớt nhẹ chéo áo bà là đại hán vĩnh viễn không còn xử dụng bàn tay đó nữa.

Nhưng vừa lúc đó Vạn Lão Phu Nhân có cảm giác là người nào đó đã đến phía sau lưng bà.

Lúc đó tại bến sông có rất đông người.

Người thì đông, song chỉ là những người thường. Điều đặc biệt là người đến sau lưng bà lại khác hẳn với một kẻ kia.

Nơi lưng có một áp lực đang dồn ép đến bà, áp lực đó xâm nhập vào người bà.

Người ở sau lưng bà hiển nhiên là một cao thủ võ lâm!

Phàm là cao thủ trong võ lâm, ai ai cũng có một trực giác rất nhạy, tiếp cận nhau là biết nhau liền, chẳng cần hỏi, chẳng cần ai cung khai lai lịch...

Bà không còn tự chủ được nữa, dù có làm trái lịnh Bạch Thủy Cung Chủ phần nào bà cũng phải làm.

Và bà nhấc thân mình sang qua phía tả độ hai bước.

Trong khi bà nhích chân, bàn tay hộ pháp của đại hán trên thuyền cũng đã đẩy tới.

Bàn tay đó đẩy vào khoảng không.

Đại hán giật mình giương tròn đôi mắt nhìn bà.

Hắn không tưởng nổi là mặt bà tiều tụy như bóng ma lại tránh được một cái đẩy của hắn.

Nhưng Vạn Lão Phu Nhân nào chú ý đến hắn? Cái người bà cần chú ý ở phía sau lưng bà kìa.

Bà khẽ liếc mắt nhìn về phía hậu, nhìn nghiêng nghiêng chứ không dám quay đầu đối diện hẳn.

Bởi Bạch Cung chủ cấm bà quay đầu.

Tuy nhìn nghiêng nghiêng Vạn Lão Phu Nhân cũng thấy được.

Người đó có thân vóc rất cao, ít nhất cũng độ trên tám thước, một thân vóc rất khôi vĩ, đầu đội nón lá, nón chụp xuống tận vai, choàng một chiếc áo màu đỏ phủ xuống tận chân.

Người đó đứng bất động, nhưng cái khí thế từ thân hình bốc ra rất mạnh, gây khiếp đảm những kẻ chung quanh một ai dám nhìn y.

Vạn Lão Phu Nhân nhận ra y ngay.

Y là Công Tôn Hồng ngoại hiệu là Thiên Long Công!

Tuy nón chen kín mặt tuy vận chiếc áo khác với trong đêm đại hội Thái Sơn, Công Tôn Hồng không che dấu nổi chân tướng trước mặt Vạn Lão Phu Nhân.

Bởi thân hình khôi vĩ khí thế cương mãnh của y đã tố cáo chân tướng y hơn nửa phần.

Và phần nhỏ còn lại đó, nếu ai có ký ức khá một chút tất khám phá ra ngay và rất nhanh.

Vạn Lão Phu Nhân lập tức cúi đầu.

Có lẽ từ lúc đầu Công Tôn Hồng không để ý đến bà.

Song khi thấy bà nhít động đôi chân dịch thân hình sang bên tả y nhìn bà liền.

Chính thân pháp của Vạn Lão Phu Nhân làm cho y lưu ý đến bà.

Một lão bà già nua tiều tụy như thế đó làm gì tránh kịp một cái đẩy của đại hán.

Thân pháp đó nói lên một đặc biệt ở lão bà trước mắt y cho nên y phải nhìn.

Song y đã nhận thức ra lão bà chẳng phải là một con người tầm thường vậy thôi, hiện tại y đang mang nặng bao nhiêu sự lòng, còn thì giờ đâu quan tâm đến những gì chẳng liên quan với y?

Rồi y không lưu ý đến bà nữa.

Đại hán bước tới trước mặt Công Tôn Hồng, điểm nụ cười chiêu đãi hỏi:

- Khách quan muốn đáp thuyền?

Công Tôn Hồng buông gọn:

- Ừ!

Bỗng chừng như y chợt nhớ ra điều gì vội tiếp:

- Đừng làm khó dễ chi đến bà này nhé, tiền đã có ta, ta đảm phụ cho bà ngươi cứ chở!

Không khí thuyền phòng có phần nào khó thở vì cái nóng do người đông tạo nên. Ai ai cũng cảm nhận thấy ngột ngạt trong lúc đầu chưa quen.

Thuyền không cũ kỹ lắm, cũng khá kiên cố, nhưng khoang thuyền hết sức thô, chẳng có vật gì trang trí cho nhã ái, bất quá có hai chiếc ghế dài, quá dài dọc theo hông thuyền, loại ghế dùng chèn nhét bao nhiêu người cũng đủ, dù chỉ một vài người ngồi trái lại cũng chẳng đủ, mà nhiều người ngồi cũng còn thêm người người được như thường.

Trong chuyến đi này hành khách không đông lắm, chưa cần chiếm chỗ ngồi.

Hành khách còn bận sắp xếp hành lý ở khoang sau, có người chiếm ngay chỗ đặt hành lý hoặc nằm hoặc ngồi.

Khách giang hồ xuôi ngược, bất quá đèo bên mình một tay nải là nhiều, bởi không vướng bận hành trang, Công Tôn Hồng ngồi ngay nơi một chiếc ghế dài.

Y ngồi bất động, trông y như một tòa thiết tháp.

Vạn Lão Phu Nhân cũng chiếm một chỗ ngồi khiêm nhượng, bà ngồi ủ rũ như cây héo từ nhiều năm chẳng có một giọt mưa xuân tưới lên đầu bà cúi xuống nửa phần mệt mỏi, nửa phần muốn che dấu hành tung.

Khi vào thuyền đi ngang qua Công Tôn Hồng, bà cũng có nghiêng mình chào y như để cảm tạ sự can thiệp của y với chủ thuyền cho bà được đi trong chuyến đò này.

Bà chỉ nghiêng mình chào thôi, chứ chẳng mở miệng.

Công Tôn Hồng gật đầu rồi cũng nín lặng.

Y không quan tâm đến sự việc nhỏ nhen đó hay y chẳng có điều lo nghĩ quá nặng nề, điều lo nghĩ đó chiếm trọn tâm tư y, y chẳng còn thì giờ tâm trí nghĩ đến việc gì khác?

Hành lý sắp xếp yên nơi yên chỗ, mỗi người đều có một chỗ nằm ngồi ưng ý rồi, hành khách mới bắt đầu nghĩ về hiện cảnh.

Họ bắt đầu gợi chuyện với nhau, chuyện trên trời dưới đất, chuyện không khí trong thuyền, chuyện sóng gió trong hành trình, chưa ai đi sâu vào tâm sự.

Bởi có ai dám đem tâm sự giải bày cũng người xa lạ?

Khung cảnh khởi nhiệt náo phần nào.

Nhưng đại hán chưa mở dây tách thuyền rời bến.

Hắn còn nhóng, biết đâu chẳng có một vài người nào đó bận chút việc riêng tư đến trễ?

Nếu chở thêm một vài người hắn sẽ có thêm tiền, chở ít chở nhiều cùng một chuyến đi, cũng bao nhiêu tổn phí, thì đương nhiên hắn phải nhóng thêm.

Công Tôn Hồng như có việc khẩn cấp không thể chần chờ, cao giọng gọi đại hán:

- Cứ tách bến đi! Nếu hành khách chưa đủ số ta sẽ đền vào chỗ thiệt hại cho người.

Đại hán mừng rỡ, mở dây thuyền ngay.

Thuyền ra giữa sông, hành khách thở phào.

Trên thuyền ai nấy cũng bắt chuyện với nhau, song chẳng ai dám nói gì với Công Tôn Hồng.

Không ai bắt chuyện với mình, Công Tôn Hồng cũng chẳng buồn nói năng với ai cả, và chính y mong muốn đừng ai hỏi han quấy rầy y, trong khi cần được yên tĩnh.

Vạn Lão Phu Nhân ngồi nơi góc thuyền chốc chốc nhìn thoáng sang Công Tôn Hồng tự hỏi:

- Ngươi này từ đâu đến vùng Tế Hà này? Bây giờ ngươi định đi về đâu mà lại đáp thuyền với ta khẩn cấp như thế? Ngươi đang lo ngại về chuyện gì...

Gió càng phút càng thổi mạnh nhưng lại ngược chiều, thuyền không thể đi thẳng, phải từ từ chéo theo đường gẫy như chữ chi, từ bờ phía tả, đâm xiên qua bờ hữu rồi từ bờ hữu đâm xiên về bờ tả, cứ thế mà tiến.

Đi như vậy rất phí thời gian, song chẳng còn cách nào hơn khi gió nghịch chiều.

Thái dương chếch về Tây, nắng vàng bắt đầu chiếu xuống khoảng sông dài.

Sóng vỗ nhấp nhô, đầu sóng nhuộm vàng óng ánh, trông xinh đẹp phi thường.

Rồi thuyền xuôi lướt nhanh, thuyền ngược xiên qua đảo lại, thuyền đan lưới vào nhau, bên trên từng đàn chim lượn, chim cũng đan lưới như thuyền.

Khung cảnh sông dài lúc hoàng hôn rải vàng xuống nước, giăng muôn màu trên nền trời xa xa, có cái sức quyến rũ vô tận cùng, khách xuôi thuyền còn ai không man mác tâm thần, cảm thấy một niềm cảm khoái nhẹ dâng lên, tâm tư nhìn sóng nước, nhìn mây trời, lòng ngây ngất với chất men hồ hải, tưởng chừng nhìn siêu thoát khỏi tục trần...

Chính Vạn Lão Phu Nhân mang nặng sầu tư của con người bị đày ải đến tận miền xa, cũnng nghe lòng êm vô cùng.

Ngồi không ngắm cảnh nhìn trời, là cái quyền của người chi tiền cho một chuyến đi, nhưng người thu tiền đâu nhàn hạ như hành khách lúc gió ngược chiều.

Từ chủ thuyền đến trạo phu đều tháo mồ hôi hạt lèo lái con thuyền tranh từng tấc nước với gió.

Họ cởi phăng áo ngoài, họ để lộ thân thể như những pho tượng đồng đen óng ánh, họ chú hết tâm thần điều khiển con thuyền.

Thuyền vẫn theo lối chữ chi mà tiến, khó khăn chậm chạp vô cùng.

Sông rộng, thuyền xiên qua rẽ lại không ngăn khoảng xoay chiều cho lắm.

Cứ theo lệ, gần đến bờ bên này rồi, còn cách độ ba trượng là thuyền quày mũi để trở sang bên kia.

Bỗng từ bên bờ, một đường giây dài bay vút xuống.

Đầu giây có thòng lọng, thòng lọng như có mắt, không tròng vào đâu mà lại tròng đúng chiếc cần trục nơi mũi thuyền.

Chủ thuyền kinh hãi, phu thuyền kinh hãi.

Tất cả kêu lên:

- Cái gì thế này? Sao lạ lùng thế?

Trên bờ sông một tiếng đáp vọng xuống, nhưng đường giây cứ bị rút ngắn dần con thuyền vào bờ dần.

Kéo một con thuyền to từ ngoài xa sang vào tận bờ, nếu không do nhiều người thì ai đó hẳn phải có thần lực cử đảnh vạn cân nặng.

Bây giờ thì chẳng những chủ thuyền, phu thuyền kinh hãi mà hành khách cũng khiếp đảm.

Tất cả bắt đầu xôn xao nháo nhốn, ai ai cũng hiện lộ rõ vẻ hoang mang.

Và hành khách hỏi hành khách, rồi hành khách lại hỏi chủ thuyền.

Chẳng ai đáp lời, bởi nào ai biết gì mà đáp?

Vạn Lão Phu Nhân nhìn khẽ Công Tôn Hồng.

Công Tôn Hồng vẫn ngồi bất động, lù lù như chiếc tháp tự nhiên, gương mặt y biến đổi.

Thuyền, cuối cùng phải cặp bờ.

Hơn mười đại hán vận y phục chẹt hiệp lực nhau kéo thuyền, người nào cũng mày rậm mắt to, người nào cũng có vẻ hung bạo như ác quỷ.

Đứng chen trong bọn đại hán, có hai thiếu nữ xinh đẹp tuyệt vời.

Một nàng mặc đỏ, một nàng mặc xanh nàng nào cũng gắn nụ cười nơi vành môi thành gương mặt đẹp lại càng đẹp, càng tươi hơn.

Mỗi nàng nâng một chiếc mâm, nàng áo xanh nâng mâm có bình rượu nàng áo đỏ nâng mâm có chén rượu.

Bình, chỉ có một chén cũng chỉ có một chiếc, bình và chén đều bằng ngọc, và đồng màu với áo của mỗi nàng.

Bọn phu thuyền hết sức tức giận song giận mà làm gì, bởi ai ai cũng sợ hãi.

Hai thiếu nữ từ từ bước đến gần bờ, từ từ nhấc chân lên.

Không ai thấy hai nàng nhảy hay bay, chân họ vừa nhấc lên là họ đã đứng nơi mũi thuyền rồi.

Nàng áo đỏ mỉm cười thốt:

- Chẳng có gì đâu các vị đừng sợ.

Nàng áo xanh tiếp:

- Chúng tôi đến đây, chỉ muốn dâng rượu cho một vị khách, ngoài ra chẳng có mục đích gì khác.

Nàng áo đỏ nói theo:

- Dâng rượu rồi là các vị tiếp tục hành trình, chúng tôi không dám cầm các vị Ở đây lâu!

Họ cười rất tươi, họ nói rất dịu, tuy vậy mọi người vẫn còn sợ như thường.

Có kẻ làm gan lẩm nhẩm:

- Dâng rượu? Rượu tiễn đưa? Sao lại có cái lối dâng rượu lạ lùng như thế này?

Nhưng hai thiếu nữ đã vào trong thuyền rồi.

Thấy hai thiếu nữ, Vạn Lão Phu Nhân kinh hãi phi thường bà thun người lại, vừa thun người vừa nép sát vào góc thuyền.

Nhận ra chiếc đầu còn thừa bà chui đầu vào giữa hai gối, dấu luôn hai tay.

Bà đã nhận ra hai thiếu nữ đó.

Họ là đệ tử của Vương Đại Nương, một kèm Đa Tý Hùng, một kèm Lã Vân trong đêm đó tại rừng dâu.

Hai nàng không thấy bà.

Họ không nhìn bà thì làm sao thấy bà được, họ đang nhìn Công Tôn Hồng.

Nàng áo đỏ kêu lên:

- Hay! Hay quá! Thì ra Công tôn đại hiệp có mặt trong thuyền này.

Công Tôn Hồng từ từ đứng lên.

Hai thiếu nữ từ từ bước tới.

Công Tôn Hồng ngưng trọng thần sắc, cất tiếng nói:

- Hai cô nương...

Nàng áo đỏ chận lời:

- Công Tôn đại hiệp không nên đa nghi, bọn chúng tôi đến đây không có ác ý đâu!

Nàng áo xanh tiếp:

- Gia sư nhận rằng đại hiệp là người thủ tín, nói đi là đi, tỏ ra tư cách anh hùng, xứng đáng trong hàng ngủ võ lâm cho nên...

Thiếu nữ áo đỏ tiếp:

- Cho nên người sai bọn tôi đến đây tiễn hành Công Tôn đại hiệp làm tỏ rõ cái tráng chí của đại hiệp, nêu gương sáng trên giang hồ.

Nàng cầm mâm có bình lấy chiếc bình rót rượu vào chén ngọc trên mâm nàng kia.

Rượu không là màu san hô, rượu này có màu xanh trong xem ra ngon lắm, Công Tôn Hồng nhìn chén rượu một lúc bỗng lộ vẻ bi thương lẫn thống khổ.

Thiếu nữ áo đỏ điểm nụ cười duyên thốt:

- Rượu tiễn hành, đương nhiên không thể có mỗi một chén, và chén thứ nhất hàm ý chúc Công Tôn đại hiệp trên đường đài được bình an, đại hiệp là bậc anh hùng trọng tín nghĩa, đáng được người đời xem như thần tượng...

Thiếu nữ áo xanh đưa chiếc mâm có chén rượu đến gần Công Tôn Hồng tiếp:

- Xin mời đại hiệp!

Công Tôn Hồng do dự một chút đoạn ngẩng mặt lên, buông tiếng than:

- Cũng được!

Rồi y chụp lấy chén rượu uống cạn.

Thiếu nữ áo xanh bật cười khanh khách:

- Như vậy mới khoan khoái chứ! Như vậy mới đáng hoan nghinh chứ! Quả nhiên tửu lượng hơn người!

Thiếu nữ áo đỏ rót thêm một chén thốt:

- Chén thứ hai hàm cái ý khuyên Công Tôn đại hiệp đừng bi thương đừng thống khổ, bằng vào võ công đó đại hiệp thừa lập nên một sự nghiệp lớn lao nơi hải ngoại.

Nàng dừng lại một chút, cười nửa nụ tiếp:

- Hà huống, tuy đại hiệp bại nơi tay gia sư, bại như thế cũng chẳng phải là điều đáng hận, trong võ lâm bao nhiêu người thành danh từ nhiều năm qua, vẫn phải bại nơi tay gia sư như thường. Cái bại còn thê thảm hơn gấp trăm gấp ngàn lần đó đại hiệp ơi!

Thiếu nữ áo xanh nói tiếp:

- Công Tôn đại hiệp thấy rõ như thế chứ?

Rồi nàng giục:

- Nào mời đại hiệp! Xin mời đại hiệp uống cạn chén thứ hai.

Công Tôn Hồng cắn răng, gân trán nổi vòng lên lên, chụp chén rượu uống luôn.

Thiếu nữ áo đỏ mỉm cười:

- Chén thứ ba, xin vô phép với đại hiệp nhé, là chén cảnh cáo, nếu đại hiệp không thủ tín còn lẩn trốn trong võ lâm Trung Nguyên thì...

Nàng lại cười dừng câu nói.

Nàng dừng lại để nở một nụ cười.

Nụ cười vẫn duyên dáng song phảng phất có một cái gì sắc bén như kiếm như đao.

Nàng dừng lại thiếu nữ áo xanh tiếp:

- Phải nhìn nhận Công Tôn đại hiệp có may mắn hơn người, bởi từ xưa đến nay, nào có một ai được sống sót dưới tay gia sư? Cho nên đại hiệp cần phải uống chén rượu này, uống để nhớ mãi những gì đã nói, uống để mừng cho vận số vẫn còn đỏ như thường.

Nàng đưa mâm ra cười nói:

- Nào, xin mời đại hiệp!

Công Tôn Hồng biến sắc.

Trong ánh mắt của y lửa hận đã bốc đỏ ngời, và đôi bàn tay của y nắm chặc lại cứng rắn như hai quả chùy.

Hai thiếu nữ vẫn cười, thản nhiên như chẳng hề trông thấy những biểu lộ đó nơi Công Tôn Hồng.

Cuối cùng, Công Tôn Hồng cũng phải uống luôn chén thứ ba.

Thiếu nữ áo đỏ tiếp:

- Rượu thường là ba chén, cái số lễ độ mà, song hiện tại còn chén thứ tư.

Bỗng nàng trầm gương mặt, những gì tươi vui nơi gương mặt vụt biến mất, ánh mắt nàng cũng mất luôn vẻ tình tứ, trở nên sắc lạnh vô cùng.

Ánh mắt đó chiếu thẳng vào mặt Công Tôn Hồng một lúc lâu, đọan nàng thốt:

- Chén thứ tư, hàm cái ý cảnh cáo như chén thứ ba nhưng lại thuộc về một việc khác.

Nàng gằn từng tiếng một:

- Vĩnh viễn đại hiệp không nên trở lại Trung Nguyên!

Nàng áo đỏ nghiêm giọng, nhưng nàng áo xanh lại cười:

- Thực ra trong võ lâm Trung Thổ chẳng có gì đáng cho đại hiệp lưu luyến, cho nên một người nào đó ra đi rồi mà còn trở lại, thì đúng là một kẻ kém trí, có chết cũng chẳng đáng cho ai thương tiếc.

Nàng cũng nhấn mạnh từng tiếng:

- Có đúng vậy không đại hiệp?

Công Tôn Hồng chấn động toàn thân, lồng ngực phập phồng gấp nhịp, hơi thở nghe rõ ràng.

Lâu lắm y rung rung giọng thốt.

Lần đầu tiên y mới cất tiếng, từ lúc hai thiếu nữ mời rượu:

- Tốt!... tốt!... nhờ hai cô nương khi trở về phục lệnh lịnh sư, trình cho lịnh sư biết rằng, Công Tôn Hồng không còn mặt mũi nào trở lại Trung Nguyên.

Bỗng y chụp chén rượu uống một hơi cạn như ba lần trước.

Đoạn y bóp chén rượu vỡ vụn trong tay, y nhìn những mảnh ngọc vụn phát thệ:

- Nếu tại hạ trở về thì tại hạ sẽ như chiếc chén này!

Hai thiếu nữ cười vang, vỗ tay bôm bốp:

- Hảo nam nhi! Hảo nam nhi!

Bất thình lình hai nàng chồm tới mỗi nàng đeo một bên vai Công Tôn Hồng, mỗi nàng hôn vào má y, tiếng hôn vang lên chong chóc.

Rồi cả hai cùng tiếp:

- Riêng bọn chúng tôi kính dâng đại hiệp như vậy đó, tuy không là rượu song vẫn làm say người hơn rượu chứ, phải không đại hiệp?

Hai nàng lùi ra xa xa, vòng tay nghiêng mình buông luôn:

- Chúng tôi xin cáo từ!

Cả hai quay mình bước khỏi khoang thuyền, không hề quay đầu lại.

Hành khách trong thuyền thấy cả hai có vẻ hấp dẫn quá, họ nhìn mê mệt quên cả sợ hãi.

Hai nàng đã đi rồi họ vẫn còn ngây ngất.

X Thuyền lại tách bờ.

Từ trên bờ hai thiếu nữ hát vang, tiếng hát vọng xuống chen lẫn với tiếng cười:

- Gió vi vu hề, sông tê lạnh! Đại hiệp đi hề không bao giờ trở lại Trung Nguyên! Trung Nguyên hề, từ nay mất một người võ lâm! Võ lâm hề! Từ nay càng vắng người.

Tiếng hát vang lên, rung chuyển trọn thân hình to lớn của Công Tôn Hồng.

Chẳng rõ cái rung chuyển của y hay vì gió, con thuyền cũng rung chuyển luôn.

Và Vạn Lão Phu Nhân cũng rung chuyển luôn.

Bây giờ bà đã minh bạch rồi, Công Tôn Hồng bị Vương Đại Nương đánh bại, trước khi động thủ, cả hai cùng long trọng phát thệ.

Và lời thề đó có thể như vầy:

- Người nào bị bại rời khỏi Trung Nguyên vĩnh viễn không được trở lại.

Bà thầm than:

- Xong! Thế là xong! Tài nghệ như Công Tôn Hồng hắn vẫn bại dưới tay Vương Đại Nương, đã đánh bại Công Tôn Hồng bà ta còn bức đuổi gấp ra hải ngoại, cái mụ đại ma đầu đó có võ công cao cường, lại điều khiển bọn hồ ly... đúng là mối họa lớn cho võ lâm.

Cảnh nhiệt náo trong thuyền bây giờ lắng đọng hoàn toàn, chẳng một ai có năng khiếu khôi hài tái tạo nổi!

Thuyền cứ tiến, thuyền qua khỏi tỉnh Thành Tế Nam vào đại phận Tế Dương.

Trong thời gian đó thuyền có cặp lại một bãi bến, có hành khách lên bờ có hành khách xuống thuyền...

Trong thời gian đó Công Tôn Hồng vẫn ngồi bất động tại chỗ.

Khi đêm xuống thuyền đến Thanh Thành.

Có người sắp soạn chăn mền chuẩn bị ngủ một giấc ngon.

Công Tôn Hồng thở dài y cũng sắp soạn chỗ ngủ, y lấy chiếc chăn quấn trên lưng xuống trải rộng ra.

Bây giờ Vạn Lão Phu Nhân mới nhận ra y thọ thương.

Thương thế ở trên đầu vai, mảnh bố trắng bọc bên ngoài, còn dấu máu.

Công Tôn Hồng cắn răng chịu đau gỡ mảnh bố, rắc thuốc kim thương lên đó.

Thực ra thì chẳng phải vết thương làm cho y đau đớn, mà chính là niềm đau đớn phát tự trong tâm.

Đêm thanh vắng nước sông xuôi giòng nước róc rách, hai bên mạn thuyền như buông lời than thở.

Sông rộng về khuya có sương lạnh phủ mờ mặt nước, sương làm mờ nhạt ánh đèn, đèn thuyền, đèn nhà đâu đâu cũng hiện ra như những chấm nhỏ chấm to.

Ánh đèn, dù nhạt cũng đủ soi mờ mờ giòng nước chảy.

Đột nhiên trong ánh đèn mờ dợn dợn theo giòng nước có một bóng người.

Người đó đội chiếc nón lá, khoác chiếc áo tơi, có cái dáng dấp của một ngư phủ.

Nhưng ngu phủ làm sao lại có oai khí bốc bừng quá rõ rệt?

Vạn Lão Phu Nhân và Công Tôn Hồng giật mình.

Công Tôn Hồng cấp tốc kéo chiếc khăn che kín mình hơn, đồng thời y cũng kéo sụp chiếc nón xuống thấp một chút nữa.

Người đó đội chiếc nón sâu hơn Công Tôn Hồng, chiếc nón che kín gương mặt dù chẳng có chiếc nón đó Công Tôn Hồng cũng khó nhận diện vì bóng đêm lờ mờ, chẳng trông được rõ ràng.

Bây giờ bóng người đó đi đến trước cửa thuyền.

Một cơn gió quét qua hất nhẹ chiếc nón của y lên, y đưa tay chụp lại nhưng Công Tôn Hồng cũng kịp thời trông thấy đôi mắt của y sáng rực như hai điểm sao.

Y đứng tại cửa thuyền, đảo mắt nhìn khắp nơi cuối cùng dừng lại nơi mặt Công Tôn Hồng.

Công Tôn Hồng khẽ nghiêng đầu qua một bên, tránh ánh mắt đó.

Đến lúc Công Tôn Hồng trở đầu về tư thế cũ, bất giác sững sờ vì người đó ngồi xuống đối diện với nhau.

Cùng chung một khoang thuyền gần nhau quá, dù cho ai có cố dấu mặt dấu mày đến đâu cũng vẫn bị người khác trông thấy như thường bất quá sớm hay muộn thôi.

Và cuối cùng Vạn Lão Phu Nhân cũng thấy được nửa phần mặt của người đó.

Bà lại giật mình lượt nữa.

Bởi bà đã nhận ra người đó y chẳng phải ai xa lạ y cũng có mặt tại Thái Sơn trong đêm đại hội cũng có sự tranh chức vô địch võ lâm để đại diện võ lâm, đối hó với người áo trắng tư Đông Doanh Tam Đảo sắp đến Trung Nguyên.

Người đó là Mai Khiêm, ngoại hiệu Thiên Đao!

Mai Khiêm làm gì tại đất Thanh Thành? Mai Khiêm làm gì lại xuống thuyền? Hắn định đi đâu?

Hay hắn cũng bị trục xuất như Công Tôn Hồng?

Bây giờ hắn đáp thuyền để ra hải ngoại, và cũng vĩnh viễn chẳng trở về Trung Thổ nữa như Công Tôn Hồng?

Công Tôn Hồng len lén đưa tay kéo chiếc nón xuống thấp hơn trước.

Trong gian thuyền tất cả hành khách đều ngủ, ai ngủ là nằm, chỉ có hai người ngồi, ngồi là còn thức.

Hai người ngồi, đương nhiên là Công Tôn Hồng và Mai Khiêm.

Họ ngồi đối diện, không ai nói với ai, song oai khí còn lại trong người họ đang bốc mạnh, hai oai khí đó đang tương trì nhau trong khi còn người bất động.

Vạn Lão Phu Nhân nhìn cả hai thầm nghĩ:

- Lại sắp có cuộc vui khai diễn nữa đây! Ta hy vọng đừng ai lôi cuốn ta vào vòng, ta muốn được yên thân thôi.

Đêm cứ xuống.

Sương càng phủ, rơi càng dày, sương càng dày đèn càng mờ.

Người trong thuyền ai ngủ càng ngủ say, ai thức càng thao thức.

Bỗng, Mai Khiêm vòng tay:

- Chào Công Tôn đại hiệp.

Công Tôn Hồng không ngẩng đầu lên, lâu lắm y mới vòng tay đáp lại:

- Chào Mai đại hiệp!

Mai Khiêm đáp:

- Thì ra Công Tôn đại hiệp còn nhận ra tại hạ!

Công Tôn Hồng không đáp liền, lâu lắm như trước y mới lạnh lùng đáp:

- Thì ra Mai đại hiệp còn nhận ra tại hạ!

Mai Khiêm lại tiếp:

- Thiên Long Côn vô địch trong thiên hạ còn ai không biết!

Công Tôn Hồng không đáp.

Lâu gấp hai lần trước y vẫn không đáp.

Mai Khiêm chờ đợi quá lâu còn nóng nảy phần nào, đằng hắng mấy tiếng rồi tiếp:

- Từ ngày cách biệt tại Thái Sơn thắm thoát đã gần tròn một trăng rồi!

Công Tôn Hồng thở ra từ từ thốt:

- Gần tròn một trăng rồi!

Mai Khiêm tiếp:

- Sau đại hội Thái Sơn anh hùng giải tán, tại hạ cứ mơ cái phong thể của Công Tôn đại hiệp, mãi nghĩ rằng, muốn gặp đại hiệp cũng phải khó khăn vất vả lắm, ngờ đâu lại gặp nhau tại đây!

Công Tôn Hồng lơ lửng:

- Ừ!

Mai Khiêm thở dài:

- Gặp nhau, lại gặp trong cảnh này, tiếc thay!

Công Tôn Hồng trầm ngâm một lúc lâu rồi, hỏi lại:

- Tiếc làm sao?

Lần này Mai Khiêm không đáp.

Công Tôn Hồng cũng chẳng hỏi thêm.

Cả hai bình tịnh, song Vạn Lão Phu Nhân không bình tịnh, bà nóng nghe sự tình, song cả hai lại im lặng.

Bà sôi giận, nếu có thể, bà nắm đầu cả hai nhấc bổng lên quay một lúc rồi bức phải nói, nói hết những gì bà cần nghe.

Người trong thuyền vẫn ngủ say.

Người thức vẫn thao thức, mỗi ngưòi theo đuổi niềm tâm sự riêng, hai ngồi một nằm, ngồi đầu đó cân nhắc nằm nóng nảy chờ nghe.

Thời gian trôi qua đều đều đêm cứ xuống, sương cứ rơi đèn cứ mờ.

Lâu lắm Mai Khiêm từ từ cất tiếng:

- Thiên Long Côn danh chấn thiên hạ, từ lâu tại hạ mơ ước được dịp thỉnh giáo, rất tiếc sau ngày đại hội Thái Sơn công việc quá nhiều thành không rỗi rảnh... giờ đây!... giờ đây... rất tiếc Công Tôn đại hiệp thọ thương!

Lời nói rất ôn hòa, êm dịu song cái ý quá lạnh quá sắc bén.

Hắn tiếp:

- Dù muốn giao thủ cũng không thể giao thủ bởi khi nào tại hạ dám vô lễ với người thọ thương!

Công Tôn Hồng mơ màng:

- Ai!... đáng tiếc...

Bỗng y bật cười lớn, cười cuồng dại.

Tiếng cười lớn đột nhiên phát lên mọi người đều giật mình thức dậy cùng ngồi nhanh lên, cùng sợ hãi hỏi:

- Cái gì thế?

Chủ thuyền cũng ló đầu vào khoang hỏi:

- Cái gì thế?

Gã định mắng mấy tiếng, song bốn ánh mắt trừng thẳng vào mặt hắn vừa nghiêm vừa lạnh, vừa hung.

Hắn làm sao chịu đựng nổi ánh mắt của Công Tôn Hồng và Mai Khiêm?

Hắn nín lặng.

Công Tôn Hồng lạnh lùng hỏi:

- Sắp sáng chưa chủ thuyền?

Hắn đáp nhanh:

- Sắp... sắp sáng rồi!

Công Tôn Hồng lại hỏi:

- Sắp mở thuyền chưa?

Hắn đáp nhanh:

- Sắp!... sắp mở thuyền!

Trước bốn ánh mắt đó còn ai dám nói lên cái ý trái ngược?

Thuyền mở dây tiếp tục hành trình.

Khi thái dương lên đến đầu cây, thuyền đến Lợi Tân cặp bến.

Chủ thuyền ngồi mở cửa khoang thuyền, cao giọng thốt:

- Đến bến rồi, các vị sửa soạn lên bờ nhưng trước khi lên các vị nhớ lộ phí nhé!

Hắn cười kết thúc câu nói sặc mùi con buôn.

Không ai muốn ở lại lâu nhìn mặt hai người lầm lỳ đáng sợ, nên tất cả hành khách đều lên bờ nhanh chóng.

Trừ Công Tôn Hồng, Mai Khiêm và Vạn Lão Phu Nhân.

Chủ thuyền dợm mấy lượt định hỏi tiền, định giục họ lên bờ hắn do dự mãi, sau cùng đánh bạo hắn bước luôn vào khoang gãi đầu, ấp úng:

- Đã đến bến cuối cùng rồi, các vị...

Công Tôn Hồng vụt hỏi:

- Thuyền đậu luôn? Không đi nữa sao?

Chủ thuyền mỉm cười:

- Đi chứ, nhưng trở lại Tế Hà! Các vị... không lẽ muốn trở lại Tế Hà nên không lên bờ?

Mai Khiêm nạt:

- Trở lại Tế Hà? Điên sao?

Chủ thuyền bắt đầu sợ:

- Thế thì... thì... xin các vị lên bờ.

Công Tôn Hồng trầm giọng:

- Thuyền không đi tới nữa à?

Chủ thuyền biến sắc:

- Đi tới? Để ra biển?

Mai Khiêm gật đầu:

- Phải! Ra biển!

Chủ thuyền sợ quá sụn chân tại chỗ:

- Thuyền này không ra biển được, các vị Ơi!

Công Tôn Hồng cùng Mai Khiêm nhìn nhau.

Chợt Mai Khiêm bướt tới rút thanh đoản đao nơi hông chủ thuyền lấy ngón tay bám vào mũi đao, thanh đao gãy liền.

Đoạn Mai Khiêm cười nhạt, trong khi chủ thuyền như cầy sấy:

- Như vậy đó đủ bắt buộc ngươi ra biển không?

Chủ thuyền vập đầu ngay:

- Xin... xin các vị...

Công Tôn Hồng móc trong mình ra một vật, quăng tới trước mặt chủ thuyền.

Hồi 50

Lưu Vong Hải Ngoại

Chủ thuyền kinh hãi.

Một tiếng cốp vang lên, một thỏi vàng rơi trên sàn thuyền, trước mặt hắn.

Thỏi vàng phô màu óng ánh tuy dương quang không chiêu sáng lắm trong thuyền, vàng vẫn sáng chói, hấp dẫn vô tưởng.

Chủ thuyền rung người lên, ánh mắt thoáng hoa lên.

Công Tôn Hồng hỏi:

- Đã đủ cho ngươi thay đổi chủ ý chưa?

Chủ thuyền nhìn thỏi vàng, tặc lưỡi, rồi thở ra:

- Tiểu nhân còn vợ, còn con... cầu xin...

Mai Khiêm và Công Tôn Hồng nhìn nhau.

Mai Khiêm lấy trong mình ra một vật quăng đến trước mặt chủ thuyền.

Vật đó rơi xuống, nằm bên cạnh thỏi vàng của Công Tôn Hồng.

Vật đó là một thỏi bạc, độ hai mươi lượng.

Chủ thuyền giương tròn mắt. Bỗng hắn đứng lên, cao giọng thốt:

- Được rồi! Đã vậy, thì cho vậy, đành vậy! Tiểu nhân xin bán sanh mạng nầy!

Một lúc sau, thuyền ra biển.

Trong khoảng thời gian ngắn ngủi trước khi thuyền ra biển, chủ thuyền mua sắm đầy đủ mọi nhu cầu vật thực, nước uống.

Đương nhiên hắn cũng có giã từ những bằng hữu, hắn cũng có nhắn gởi tin tức về gia đình, hắn không quên chuyển số bạc vàng về cho vợ con chi dụng tại nhà trong thời gian hắn vắng mặt.

Trong khi chủ thuyền sắm sửa cuộc ra khơi, Vạn lão phu nhân lại lo dọn dẹp một chỗ ẩn thân kín đáo nơi góc khoang thuyền.

Mai Khiêm và Công Tôn Hồng vẫn bất động tại chỗ, đối diện nhau, cùng nhìn nhau.

Tinh quang của họ sáng rực. Trông khiếp hãi vô cùng.

Khi con thuyền ra đến cửa sông, thì bữa ăn trưa được dọn.

Bữa ăn dọn giữa hai người, chủ thuyền dọn ra rồi lập tức lui khuất dạng.

Hắn không phải là người trong võ lâm, hắn chẳng biết thế nào là khí thái kiêu hùng.

Hắn cũng chẳng biết thế nào là sát khí.

Song hai vị khách ôn thần nầy, hắn cảm thấy lạnh người.

Cái lạnh không buốt, cái lạnh nầy chỉ làm cho hắn đông máu từng cơn, từng cơn, mỗi lần đông máu là mỗi lần hắn ngạt thở.

Cho nên hắn không muốn ở cạnh hai người lâu, trường hợp bị bắt buộc.

Cơm, dĩ nhiên phải nóng, thức ăn cũng phải nóng, khói cơm và khói thức ăn bốc lên, quyện quấn xung quanh khoang thuyền vờn vờn trước mũi Vạn lão phu nhân.

Nước dãi nhỏ ròng ròng hai bên khóe miệng bà.

Nhưng thuyền chỉ sắp sửa ra khơi, thuyền chưa vượt khỏi cửa sông.

Thuyền còn trong lục địa, thì bà chưa có quyền mở miệng, dù là trong thoáng mắt thuyền sẽ ra khơi.

Bà thèm ăn, thèm có thể rung người song bà phải nhẫn nại.

Đợi!

Đã đợi được bao lâu rồi thì sao lại chẳng đợi được thêm mấy phút giây.

Mai Khiêm cầm đũa:

- Xin mời!

Công Tôn Hồng cũng cầm đũa:

- Xin mời!

Hai người bắt đầu ăn.

Họ ăn như hổ, mà lại là hổ đói họ ăn nhiều ăn nhanh.

Mai Khiêm đưa đũa vào đĩa thịt, thì Công Tôn Hồng đưa đũa vào đĩa cá và ngược lại.

Cả hai chẳng bao giờ chạm đũa tại một đĩa chung.

Khi các đĩa cạn như chùi rồi, Công Tôn Hồng toan buông đũa chợt y nhìn sang đôi đũa của Mai Khiêm.

Bất giác, mí mắt y rung rung.

Đôi đũa vẫn còn trong tay y.

Đũa của Mai Khiêm, dĩ nhiên là phải do bàn tay cầm.

Đôi đũa đó, trong bàn tay Mai Khiêm, do ba ngón tay kềm giữ.

Ngón cái và ngón trỏ đè một chiếc, ngón giữa đè một chiếc tựa vào hổ khẩu tay.

Đũa của chủ thuyền là đũa trúc, loại đũa thông thường.

Đôi đũa hiện giờ ở trong tay Mai Khiêm lại bọc ngời kiếm khí gieo lạnh người đối diện.

Đôi đũa còn dính nước thịt, nước cá, một vài mảnh cơm, xong xem như mũi kiếm.

Và đôi đũa đó, chỉ thẳng Công Tôn Hồng, một chiếc ngay huyệt Thiên đột, chiếc kia ngay huyệt Khuyết Bôn.

Thấy như vậy rồi, Công Tôn Hồng phải làm sao?

Chẳng rõ vô tình, hay cố ý, y xoay đôi đũa của y ra ngoài, lòng bàn tay ngửa lên, đầu đũa chỉ sang Mai Khiêm, ngay hai huyệt Khí Kim và Khố Phòng, thuộc bộ tả hữu Thủ Túc Dương Minh Kinh.

Đầu đũa xoay xoay như vẽ những vòng tròn.

Bên kia, dùng đầu đũa làm kiếm, và áp dụng cái lối điểm huyệt bằng mũi kiếm, một lối điểm huyệt cực kỳ khó khăn bởi kiếm chạm vào địch, không gây thương thế bằng sắc bén mà chỉ chế ngự địch qua huyệt đạo.

Lối điểm huyệt của bên này cũng lợi hại vô cùng, có thể là khó khăn hơn, đó là lối điểm bằng vòng tròn.

Điểm bằng vòng khó chạm đúng huyệt phải làm sao áp vòng tròn quanh huyệt đạo, rồi công lực từ vòng tròn tập trung ngay huyệt đạo do đó mà thành khó.

Mai Khiêm mấp máy môi, như người sắp cười, nhưng không cười.

Rồi từ từ y thốt:

- Cơm đã xong bữa rồi, giả như bây giờ, Công Tôn đại hiệp có muốn xuống thuyền thiết tưởng cũng không muộn.

Xuống thuyền?

Thuyền đang ở giữa dòng sông, thuyền xuôi ra biển, bảo xuống thuyền là xuống đâu?

Xuống ngay giữa dòng nước?

Công Tôn Hồng điềm nhiên, hỏi lại:

- Mai đại hiệp định xuống thuyền ngay bây giờ?

Mai Khiêm lắc đầu:

- Tại hạ không hề xuống thuyền!

Công Tôn Hồng điềm nhiên:

- Không lẽ thuyền nầy chẳng thể chở hai người chúng ta?

Mai Khiêm lạnh lùng:

- Không thể!

Công Tôn Hồng chớp mắt:

- Mai đại hiệp hẳn không muốn cho ai biết cái nơi sắp đi đến. Nếu chẳng phải vậy thì cả hai chúng ta cùng có cái ý ra khơi cả, tại sao lại chẳng thể cùng thuyền?

Mai Khiêm vẫn lạnh lùng:

- Trên thuyền có đại hiệp, tại hạ bực bội qua chừng.

Công Tôn Hồng điềm nhiên:

- Nếu đại hiệp cảm thấy bực bội, thì nên rời thuyền ngay.

Mai Khiêm trầm giọng:

- Công tôn đại hiệp quyết ý không xuống thuyền?

Công Tôn Hồng gật đầu:

- Phải!

Mai Khiêm hừ một tiếng:

- Nếu vậy...

Lập tức, đôi đũa nhích động. Đầu đũa bay sang Công Tôn Hồng.

Công Tôn Hồng rụt tay về một chút, đôi đũa nhích động đầu kẹp nhanh đũa của Mai Khiêm.

Mai Khiêm khẽ nhếch bàn tay, đôi đũa xoay vòng nương đà xoay, y vận kình lực, phóng đôi đũa tới nhắm vào huyệt Thừa Khấp dưới mí mắt của Công Tôn Hồng.

Ai ở trong trường hợp y, cũng phải nghĩ là nên phóng đôi đũa thẳng vào mặt đối phương, song y không làm vậy, y chỉ nhằm vào yếu huyệt đó mà công tới.

Chẳng phải Mai Khiêm có hảo ý gì khi nhắm vào huyệt đó. Trái lại, y còn độc hơn là khác.

Bởi y ước độ, thế nào thấy y xuất chiêu đó, Công Tôn Hồng cũng hụp đầu.

Nếu Công Tôn Hồng hụp đầu, thì đôi đũa sẽ chạm trúng mắt của Công Tôn Hồng.

Bằng y nhắm vào đôi mắt, Công Tôn Hồng hụp đầu xuống đương nhiên đôi đũa sẽ trúng trán.

Và trúng trán đối phương, y có thu hoạch kết quả gì đâu?

Cho nên phát xuất chiêu công, cái đích ban đầu là huyệt Thừa Khấp song cái đích thực sự là đôi mắt.

Đừng tưởng y có từ tâm.

Nếu có từ tâm, khi nào y lại xuất thủ? Vả lại y đã có thái độ mỉa mai khiêu khích ngay từ lúc bước xuống thuyền kia mà.

Thế đánh ra rất nhanh, đôi đũa chớp lên là sắp đến đích rồi.

Công Tôn Hồng phản ứng cũng nhanh.

Nhưng, y không hụp đầu, y lại né đầu qua một bên.

Đôi đũa của Mai Khiêm trượt đích đâm vào khoảng không, cạnh xương gò má của y.

Và cùng thời gian, bàn tay của Công Tôn Hồng cũng máy động.

Đũa trong tay y cũng bay ra, đũa nhắm vào yếu huyệt thiếu âm kinh tay chân, một tả, một hữu của Mai Khiêm.

Mai Khiêm đánh hụt thấy đối phương công qua lập tức trầm bàn tay đôi đũa hạ xuống.

Rồi từ dưới, bật dội trở lên như hai quả bóng nhồi.

Trong khi đó, đôi đũa của Công Tôn Hồng từ bên trên đổ xuống.

Nhưng xuống được nửa tầm, lại rẽ sang mỗi chiếc một bên, từ đó lao thẳng vào bộ phận có chiếc rún của Mai Khiêm.

Mai Khiêm trong tư thế ngồi không làm sao hoá giải được chiêu công đó.

Tay tả bỏ không, lập tức y dùng tay đó kéo chiếc bàn làm khiên, che bụng.

Cộp! Cộp!

Hai tiếng cộc lốc vang lên.

Đũa của Mai Khiêm đâm phập vào thành thuyền, phía hậu Công Tôn Hồng.

Đũa của Công Tôn Hồng cắm phập vào mặt bàn.

Đũa là đũa trúc, bàn và vách làm bằng gỗ, gỗ phải rắn hơn trúc, thế mà trúc cắm sâu vào gỗ ba tấc.

Cả hai vẫn ngồi phát xuất tuyệt chiêu, vận dụng công lực, thế chẳng những mạnh mà lại còn độc.

Thế lại nhanh, người nào chậm trong đương tơ kẽ tóc, là mất mạng.

Vạn Lão phu nhân đương nhiên mục kích cuộc đấu lạ kỳ từ đầu đến cuối.

Mồ hôi lạnh đẫm ướt y phục bà.

X Con thuyền bắt đầu tròng trành.

Thuyền tròng trành, là đã ra biển... sóng biển làm chao động.

Hiện tại thuyền rời lục địa ra khơi.

Mặc cho thuyền nghiêng chao đảo, Công Tôn Hồng và Mai Khiêm vẫn ngồi cứng tại chỗ, chẳng hề nghiêng theo thuyền. Hay nói một cách khác họ không hề đổi tư thế ngồi, dù thuyền chao, thuyền đảo cách nào.

Cả hai cũng không nói với nhau một tiếng gì.

Vật dụng trong khoang thuyền rơi đổ loảng xoảng, cả hai cũng chẳng để hề chú ý.

Vật dụng rơi, đổ là một điều thiệt hại lớn lao cho chủ thuyền.

Song chẳng rõ hắn bận điều khiển con thuyền hay hắn ngán hai vị Ôn thần trong khoang, hắn chẳng dám vào khoang thu dọn hoặc an trí những vật chưa rơi đổ.

Vật thực trên bàn còn lại phần nào, gồm một vài trái cây, bị Mai Khiêm giật mặt bàn rơi xuống sàn, bây giờ thuyền chao, những trái cây long lóc lăn đến góc thuyền chỗ Vạn Lão phu nhân đang thu mình ngồi bó gối.

Vạn Lão phu nhân nuốt nước bọt, nhìn thoáng qua Mai Khiêm và Công Tôn Hồng rồi len lén đưa tay ra, khều khều mấy trái cây lăn gần đến bà hơn.

Mấy trái cây sắp sửa nằm gọn trong tay bà, và từ đó sẽ lên miệng bà.

Nhưng, bất ngờ mấy chiếc đũa ác ôn từ xa bay vút tới cắm đúng trên mấy trái cây đó, đũa lún xuống sàn gỗ, đóng cứng mấy trái cây tại chỗ.

Đũa đó là đũa thừa bên cạnh Mai Khiêm, rơi xuống sàn thuyền lúc y giật mạnh bàn làm nghiêng.

Mai Khiêm không nhích động thân hình, không quay đầu, chỉ lạnh lùng bảo:

- Bước ra đây!

Vạn Lão phu nhân rung người.

Lâu lắm Vạn lão phu nhân chưa nhích động.

Mai Khiêm hừ một tiếng:

- Chưa chịu bước ra à?

Bỗng, Vạn lão phu nhân hét lên:

- Chết ta rồi!

Tất cả những vật bà phủ lên mình, để che dấu thân hình vụt tung bay tứ phía.

Bà như quả cầu, lao vút từ góc, ra giữa khoang thuyền.

Ra đến đó, việc đầu tiên bà làm là đưa tay hốt những trái cây văng tứ tung trên sàng, hốt được trái nào, bà nhét vội vào miệng nhai ngấu nghiến.

Chừng như có trái cây bà chưa kịp nhai, bà đưa vào miệng là nuốt ngay.

Rồi bà vọt tới cạnh nồi cơm, còn lại bao nhiêu cơm trong nồi bà lấy tay vốc lên, vốc được bao nhiêu quăng nhanh vào chiếc miệng hả rộng như hố.

Mấy hôm liền bà không ăn không uống mà!

Công Tôn Hồng, Mai Khiêm lạnh lùng nhìn bà.

- Bà có cần gì việc đó? Ẩm thực vi tiên, đói mấy hôm nay gặp cái gì ăn được, cứ ăn.

Bà vừa ăn vừa thốt:

- Bị các ngươi phát giác rồi, ta cứ ăn, ăn rồi muốn gì các ngươi cứ muốn, ta no bụng là được.

Bây giờ, bà mới dám nói lên thành tiếng.

Bạch Thủy Cung chủ cho phép bà mở miệng khi thuyền ra khơi.

Bây giờ thuyền ra khơi rồi, bà có quyền nói.

Mai Khiêm lạnh lùng hỏi:

- Cơm không nuốt làm sao trôi?

Vạn lão phu nhân điềm nhiên:

- Muốn biết nuốt trôi hay không trôi, ngươi cứ đói đủ ba hôm.

Bà cười hắc hắc hỏi:

- Ngươi dám nhịn đói để thực nghiệm không, Mai Khiêm?

Mai Khiêm giật mình:

- Bà nhận ra tại hạ?

Công Tôn Hồng thấy một chiếc đùi gà nằm cạnh chân, nhặt lên quăng cho bà.

Bà chụp liền, đưa lên miệng nhai, vừa thốt:

- Ngươi như vậy vẫn còn chút lương tâm đó, Công Tôn Hồng!

Công Tôn Hồng giật mình:

- Bà nhận ra tại hạ?

Vạn lão phu nhân cười hắc hắc:

- Đương nhiên!

Công Tôn Hồng trố mắt:

- Làm sao bà biết tại hạ?

Vạn lão phu nhân gắt:

- Ta chỉ có một cái miệng, miệng nào để ăn, miệng nào phải nói?

Ngươi không thể đợi ta ăn xong rồi hãy nói sao?

Mai Khiêm chăm chú nhìn bà.

Một lúc lâu, hắn vụt hét lên:

- Thì ra chính là bà?

Vạn lão phu nhân cứ ăn, ăn no rồi, đưa tay lau mép, lúc đó mới điểm một nụ cười, hỏi:

- Ngươi cũng nhận ra già nữa à?

Khỏe người rồi bà lại xưng già, Lúc hấp tấp, bà bỏ hẳn cái tiếng già xưng ta.

Mai Khiêm trầm giọng:

- Bà là...Vạn lão phu nhân!

Vạn lão phu nhân bật cười khanh khách:

- Nhãn lực khá đấy.

Công Tôn Hồng giật mình:

- Mẫu thân của Vạn đại hiệp?

Vạn lão phu nhân hừ một tiếng:

- Kỳ quái thật! Bất cứ ai gặp già cũng đề cập đến cái tên bất hiếu đó cả. Không lẽ trên giang hồ thanh danh già kém cái tên súc sanh đó?

Mai Khiêm lạnh lùng:

- Tại hạ tuy không nhận ra được bà, nhưng cái danh lớn của bà thì tại hạ từng nghe, chẳng hiểu sao, một người có danh lớn như bà, hôm nay lại có hành tung quá ngụy dị?

Vạn lão phu nhân cười hì hì:

- Cái gì là hành tung ngụy dị? Từ bao giờ hành tung của già cũng kỳ bí, thần không hay quỷ không hiểu, cho đến nay ngươi cũng chưa hiểu được điều đó sao?

Mai Khiêm trầm giọng:

- A!... Hừ!...Hừ!

Đối thoại với bà ta, hắn còn nói năng làm sao cho thắng lý?

Vạn lão phu nhân khệnh khạng bước tới, ngồi xuống cạnh Công Tôn Hồng, rồi bà vươn vai, uốn mình, rồi cuối cùng thở phào thốt:

- Khoẻ! Khoẻ quá! Khoẻ kinh khủng.

Bà lim dim đôi mắt, chực nhắm lại.

Bà cảm thấy khỏe quá, từ chỗ tù túng ra chỗ thong thả, từ cảnh đói lại được no, bà muốn ngủ nữa, ngủ thêm để bù trừ.

Công Tôn Hồng đột nhiên nhìn Mai Khiêm, hỏi:

- Thuyền có thêm một người, đại hiệp thấy sao?

Mai Khiêm rùn vai:

- Tại hạ thấy y như đại hiệp thấy! Bực!

Vạn lão phu nhân vụt mở mắt, gắt:

- Ngươi định quăng hai chúng ta xuống biển?

Mai Khiêm buông gọn:

- Ừ!

Vạn lão phu nhân bật cười khanh khách:

- Một ngươi, liệu có thắng nổi hai chúng ta không?

Mai Khiêm trầm giọng:

- Có thể Công Tôn đại hiệp không xem tại hạ là kẻ thù. Nói một cách khác, y không bao giờ chấp nhận đứng chung hàng ngũ với bà.

Vạn lão phu nhân cười hắc hắc:

- Mới đó, muốn giết người ta cho kỳ được, bây giờ lại nói vậy, già nghĩ ngươi sợ hắn. Có phải ngươi sợ hắn không? Tại sao ngươi vuốt đuôi hắn?

Đúng là thủ đoạn của hồ ly tinh, biết rõ chỗ nhược của đối phương mà kích vào.

Ngồi trong một góc bà thấy rõ, theo về Công Tôn Hồng thì vững hơn, cho nên bà bỏ rơi Mai Khiêm.

Hơn nữa bà kích Mai Khiêm, mong cuộc tương tàn khai diễn sớm.

Mai Khiêm cao giọng:

- Tại hạ ra biển lần này, không phải để du lịch, cho nên không muốn có người cùng theo, dù người đó là Công Tôn Hồng đại hiệp. Tuy nhiên tại hạ còn nể trọng y là bậc anh hùng!

Vạn lão phu nhân chớp mắt:

- Không phải đi du lịch? Chẳng lẽ ngươi đi biển với một sứ mạng nào đó?

Mai Khiêm đáp gọn:

- Bà nói đúng!

Công Tôn Hồng giật mình:

- Sứ mạng gì?

Mai Khiêm cười nhẹ:

- Thứ cho tại hạ nói ra, bởi không thể nói.

Y dừng lại một chút, đột nhiên hét lớn:

- Vô luận làm sao, không một ai được cùng đi chung chuyến với tại hạ. Trong chúng ta ba người, nếu máu tại hạ không đổ thì là máu hai vị nhất định phải có máu đổ. Không thể tuyển chọn cách nào khác.

Y nhấn mạnh:

- Mong Công Tôn đại hiệp nghĩ kỹ!

Công Tôn Hồng trầm ngâm một chút:

- Ra biển lần nầy, thực sự thì tại hạ không có mục đích, nếu Mai đại hiệp vì sứ mạng mà đi, và nếu sứ mạng đó quan trọng tại hạ sẽ đổi thuyền.

Mai Khiêm mỉm cười:

- Đa tạ!

Công Tôn Hồng vụt trầm gương mặt:

- Nhưng, Mai đại hiệp có thể cho biết sứ mạng đó như thế nào?

Mai Khiêm biến sắc:

- Như vậy là Công Tôn đại hiệp muốn giao thủ?

Công Tôn Hồng cười lạnh:

- Như vậy! Mai đại hiệp muốn giao thủ hơn tiết lộ sứ mạng?

Mai Khiêm trầm giọng:

- Chính thế!

Không khí căng thẳng giữa song phương.

Mũi tên đã lắp vào dây cung rồi, ngón tay lơi là tên bay đi ngay.

Bỗng, Vạn lão phu nhân cười lớn:

- Sứ mạng của hắn, dù hắn không nói ra già cũng thừa hiểu.

Mai Khiêm hừ lạnh:

- Bà biết?...Bà biết gì?

Vạn lão phu nhân điềm nhiên:

- Tại Đại hội Thái Sơn, già đã thấy ngươi có vẻ khác thường, già nghi ngay là ngươi có một mưu mô.

Công Tôn Hồng kinh dị:

- Hắn có mưu mô gì?

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Tại Đại hội Thái Sơn, ai ai cũng tưởng dùng tuyệt kỹ để áp đảo quần hùng, cho nên tất cả đều xử dụng trọn vẹn sở học. Tiếng là so tài nghệ, chứ thực là một cuộc tương tàn, trong đó yếu chết mạnh sống.

Công Tôn Hồng thở dài:

- Đúng vậy đó bà!

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Ai ai cũng tận dụng sở năng, chỉ có hắn là dấu diếm thực lực, người ta giở đúng mười thành, còn hắn, bất quá phát sáu bảy thành mà thôi.

Công Tôn Hồng kêu lên:

- Ạ ?

Vạn lão phu nhân lại tiếp:

- Nếu không có mưu đồ gì đó thì tại sao hắn lại dụng tâm như vậy?

Mai Khiêm cười lạnh:

- Tại hạ nghĩ, vì một chút hư danh mà liều sống chết với nhau, thì vô lý quá. Tại hạ không thể làm như mọi người, và tại hạ tự hỏi sao mọi người ngu xuẩn thế.

Vạn lão phu nhân bật cười ha hả:

- Ngươi nói nghe hay lắm! Thực ra thì...

Công Tôn Hồng trố mắt:

- Thực ra thì sao hở bà?

Vạn lão phu nhân thốt:

- Trước đây hắn từ Đông Doanh Tam đảo trở về Trung thổ tìm mọi cách tạo thanh danh cho mình, Nhưng đến lúc có cơ hội chánh thức đương mặt với võ lâm, thì hắn không xử dụng toàn lực. Bây giờ người áo trắng từ hải đảo sắp vào lục địa, ai ai cũng mong mục kích một cuộc đấu kinh hồn, riêng hắn lại âm thầm đến hải đảo.

Rồi bà cười lạnh gằn từng tiếng:

- Ngươi có thấy hành động của hắn kỳ quái không?

Công Tôn Hồng trầm ngâm một lúc:

- Phải đó bà, kỳ quái thật.

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Ngươi đã thấy là kỳ quái, thế ngươi có đoán được mưu đồ của hắn chăng?

Công Tôn Hồng lại suy nghĩ một lúc, vụt kêu lên:

- Hay là... hay là hắn với người áo trắng Tam Đảo Đông Doanh...

Vạn lão phu nhân vỗ tay:

- Còn gì nữa? Hắn là người của Bạch Y kiếm khách. Hắn vâng lệnh Bạch Y kiếm khách vào Trung Nguyên quan sát và theo dõi tình hình, hắn là nội tuyến của Bạch Y kiếm khách. Lần nầy về Tam Đảo, chắc chắn là hắn có mang theo tin cho đồng đảng. Nhưng, điều cần yếu là chúng ta phải hiểu cái tin đó như thế nào?

Đột nhiên Mai Khiêm ngẩng mặt nhìn lên mũi thuyền cười ha hả, hắn cười được một lúc rồi cao giọng thốt bâng quơ:

- Thú vị quá! Thú vị quá chừng!

Vạn lão phu nhân trừng mắt hỏi:

- Già nói có đúng không?

Mai Khiêm không đáp câu hỏi, mà lại quát to:

- Giả như ngay từ bây giờ, bà bằng lòng nhảy xuống biển, thì tại hạ nể mặt Vạn đại hiệp, cho bà thoát đi êm thấm. Bằng bà cưỡng lại...

Hai cánh tay cánh tay hắn vươn ra, trong mỗi bàn tay có một thanh Tỏa Liêm Đao.

Đao chớp lên sáng ngời.

Vạn lão phu nhân cười lạnh:

- Ngươi tưởng rằng già ngán sợ hai thanh đao cùn, vô dụng của ngươi đó à? Hà hà! Già cũng muốn cho ngươi thấy chút lợi hại của già, song rất tiếc...

Mai Khiêm hừ một tiếng:

- Rất tiếc cái chi?

Vạn lão phu nhân điềm nhiên:

- Có Công Tôn Hồng đại hiệp đây, khi nào y lại để cho già xuất thủ?

Mai Khiêm day sang Công Tôn Hồng trầm giọng:

- Ngươi nghĩ sao?

Bây giờ, hắn không còn dùng lối khách sáo nữa bởi song phương đã rõ mặt đối lập với nhau rồi, có khách sáo cũng vô ích, vả lại còn tỏ ra thấp hèn, núp mình sau lễ độ mong chờ một sự lượng tình.

Công Tôn Hồng cũng không đáp ngay câu hỏi của hắn lại hỏi ngược:

- Lời bà ấy vừa nói, có đúng sự thật chăng?

Mai Khiêm rùn vai:

- Nếu ngươi không tin được bà ta, thì ta khỏi giải thích.

Công Tôn Hồng thoáng đắn đo:

- Việc đó...

Bỗng Vạn lão phu nhân đưa tay chụp chiếc khăn đỏ trên mình Công Tôn Hồng giật xuống, đoạn thốt:

- Già nói những gì vừa rồi, đều có căn cứ, ngươi còn để cho hắn dụ hoặc nữa sao? Hãy hạ sát hắn đi, nhất định là ngươi làm được một việc đại hữu ích cho võ lâm vậy.

Công Tôn Hồng do dự:

- Nhưng...

Vạn lão phu nhân đảo tròn đôi mắt:

- Hay là ngươi đúng như hắn đã nói? Hay là ngươi quả thật thọ trọng thương? Ngươi ức độ công lực không còn đủ để thủ thắng trước y?

Nếu vậy, ngươi để cho già thay ngươi làm cái việc đại hữu ích cho vũ lâm...

Công Tôn Hồng bật cười vang:

- Một vết thương bình thường, đâu có thể làm cho tại hạ mất cái oai phong trước một Mai Khiêm?

Câu nói vừa buông dứt, y khẽ nhích động thân mình.

Thiên Long Côn đeo nơi sườn, đã nằm gọn trong tay y.

X Thuyền chao động mạnh, chao như quả bóng.

Những vật rơi vãi trên sàn thuyền từ trước lăn long lóc dồn về một góc.

Trung gian trở thành trống trải, tuy không rộng, song tạm thời cũng có thể được xem như một đấu trường.

Một đấu trường thu hẹp.

Hẹp hay rộng, có nghĩa chi điều đó?

Cao thủ giao đấu với nhau, chẳng chọn khoảng rộng hẹp thế nào cũng gọn như thường.

Miễn là họ có một chỗ đặt chân thôi.

Bên ngoài, chừng như hoàng hôn đã xuống, đêm sắp về, bóng tối đậm dần dần trong khoang thuyền.

Bóng tối đậm, tối phải nặng nề, không gian càng nặng nề hơn vì sát khí bừng lên.

Cái nặng pha lẫn rợn rùng, người trong cuộc vừa rùng mình vừa ngạt thở.

Sát khí từ Tỏa Liêm Đao bốc ra, sát khí từ Thiên Long Côn bốc ra, sát khí từ bốn ánh mắt chong chong nhìn nhau, cho đến Vạn lão phu nhân cũng bốc bừng sát khí từ khóe miệng cố gằn nụ cười hiểm độc.

Cũng trong khuôn khổ của định ý hủy diệt lẫn nhau, nhưng cả hai không dùng đũa như trước. Họ đang dùng đến vũ khí sở trường, thì cái định ý tương tàn phải hiện diện nét hơn, và sát khí phải nặng nề hơn.

Tỏa Liêm Đao có cương có nhu, có rắn, có dẻo, xa thì hơn ba trượng gần lại quá gần, hầu như kề bên, xa hay gần cũng hữu hiệu như nhau.

Tỏa Liêm Đao là một loại vũ khĩ biến hóa nhất trên giang hồ, mà cũng phức tạp nhất.

Trái lại, Thiên Long Côn không chuyên về cái biến, nó từ cái biến trở về nguyên thể, nó từ cái hư trở về cái thực, nó chuyên quy bổn, hoàn chân, thuần phác giản dị.

Nó là cái vụng, dùng cái vụng thắng cái xảo.

Thiên Long Côn là loại vũ khí ít biến hóa nhất, đơn giản nhất trên giang hồ.

Biết được đặc tánh, sở năng của mỗi vũ khí rồi, bằng vào sự tương khắc, cũng có thể đoán được loại nào vững căn hơn loại nào.

Hai loại vũ khí đó, cầm như hai thái cực, một cực động, một cực tịnh một cực biến, một cực thuần.

Động, biến, chuyên công, tịnh thuần chuyên thủ.

Chuyên công, là phải đánh trước. Tiên hạ thủ vi cường.

Chuyên thủ là phải đánh sau, bố trí chặt chẽ rồi từ từ chuyển từ bước một, từ giai đoạn bước vào gian đoạn nào, cũng vững chắc như núi.

Cả hai cũng biết như nhau, đối tượng là địch thủ cường mãnh nhất trong đời, do đó chẳng ai dám vong động.

Công Tôn Hồng nắm chặt Thiên Long Côn, móng tay phát trắng.

Mai Khiêm cũng chẳng dám kinh thường.

Khoảng cách giữa song phương bất quá độ năm thước, hai đấu thủ ghìm nhau, vũ khí sẵn sàng xuất phát, nếu có một thuận tiện.

Thoạt đầu người bất động, vũ khí cũng bất động.

Dần dần người chưa động, tay bắt đầu động vũ khí đương nhiên động theo.

Thiên Long Côn và Tỏa Liêm Đao nhúc nhích rồi.

Giai đoạn ghìm mau vượt qua, đến giai đoạn giao động.

Vũ khí song phương nhích động tựa hồ đồng thời. Chẳng rõ vì côn động nên đao động hay ngược lại.

Vô luận loại nào nhích trước, chỉ biết là cả hai loại đều nhích rồi.

Bốn mắt ngời tinh quang kỳ dị.

Cao thủ giao đấu, chẳng phải đợi đến lúc xuất chiêu mới tìm sơ hở, họ nghiên cứu cả bộ vị của nhau và thời thường khi họ tìm sơ hở ngay trong bộ vị lúc chưa xuất thủ.

Thuyền cứ lướt sóng, càng lúc càng ra khơi, càng ra khơi càng tròng trành.

Mặc thuyền tròng trành, hai đấu thủ đứng cứng như đinh đóng trên sàn thuyền.

Giá như thuyền có đảo lộn, bất quá cả hai chỉ đảo lộn theo đà thuyền, chân chẳng bao giờ rời sàn gỗ, thân hình chẳng bao giờ ngã xuống.

Họ bất động. Thực sự thì họ động Họ bất động để chuẩn bị động, những cái gì được chuẩn bị đã chuyển động rồi, và bất động bên ngoài, che dấu cái động bên trong của tâm của não.

Vũ khí hơi nhích động, nhưng song phương chưa xuất chiêu.

Vạn lão phu nhân nóng nảy trong tâm, song ngoài mặt vẫn bình tĩnh.

Bà cười lạnh hỏi:

- Tại sao ngươi chưa xuất thủ, Công Tôn Hồng?

Bà nhìn qua Mai Khiêm.

Thoạt đầu, bà chưa thấy thế đao có gì đặc biệt, song càng nhìn, bà càng biến sắc nhìn một lúc, bà chẳng rõ mình xuất thần từ lúc nào.

Lấy con mắt nhà võ nhìn, bà thấy đao và người dung hòa với nhau làm một, rất chỉnh tề kín đáo.

Bà nghĩ ra một trăm chiêu thức, thử đánh vào cái tư thế của Mai Khiêm, bà chắc chắn chẳng chiêu nào đánh trúng tư thế đó.

Rồi dần dân bà cảm thấy luôn sát khí bốc từ Tỏa Liêm Đao phủ trùm bà, dù bà đứng tại một góc xa xa.

Bà thầm nghĩ:

- Nếu ta là Công Tôn Hồng, có thể ta đã nằm trên cũng máu rồi.

Bà nhìn qua Công Tôn Hồng.

Nhưng đó là cái ý định, chứ bà không thể duy chuyển ánh mắt rời khỏi đao, chừng như ánh thép đao thu hút mạnh ánh mắt của bà.

Bà cố trấn định tâm thần, chuyển động ánh mắt, song đành chịu, ánh mắt vẫn dán vào đao.

Rồi bà lại nghĩ:

- Nếu Phương Bửu Ngọc có mặt tại đây, chẳng rõ hắn tìm ra được sơ hở của Mai Khiêm chăng?

Bà tự hỏi rồi tự đáp:

- Có thể là tìm được:

Bà tức uất tự trách:

- Cũng là đôi mắt như nhau, tại sao hắn thấy được còn ta không thấy được?

Ánh đao thu hút ánh mắt của bà rất mạnh, bà mất cả tự chủ, không còn nghĩ ngợi viễn vông gì nữa được.

X Một thanh đao, dù là đao quý, làm gì có hấp lực như thế?

Tỏa Liêm Đao dù được chế tạo bằng một phương thức tân kỳ, dù bằng một chất thép thuần nhất, vô luận làm sao, nó vẫn là một vật chết.

Vật chết là vật không có linh hồn sao lại có ma lực hấp dẫn người nhìn nó.

Điều đó tuy phức tạp mà nghĩ ra lại rất giản đơn.

Một bức họa, dù là họa mỹ nhân, đẹp đâu vẫn là một bức họa, nó không là người, nó không có linh hồn, mà nó vẫn làm say đắm người ngắm.

Một bức họa, có sanh mạng khi nó được một danh thủ tạo nên.

Thì một thanh đao, một thanh kiếm cũng có sanh mạng khi nó được một cao thủ tuyệt vời cầm nó.

Cao thủ tuyệt vời cầm vũ khí, phải khác hơn những kẻ thông thường.

Và cái lối cầm vũ khí đặc dị đó, tạo cho vũ khí một cái oai thế đặc dị.

Chính cái oai thế đó ảnh hưởng đến người xem, rồi do ảo hóa mà người xem tưởng nó có linh hồn, đương nhiên nó tỏa ra cái ma lực thu hút tâm tư người xem.

Tuy Mai Khiêm chưa đạt đến cái mức vô thượng diệu huyền về đao pháp, cho dù sao thì thành tựu được như hắn trên thế gian nầy chẳng có mấy người.

Và, Vạn lão phu nhân, cho rằng thành tựu như hắn, là quá đủ dùng.

Thừa dùng nữa là khác.

Cần chi phải đạt đến giới cảnh siêu nhiên?

Bởi, như vậy là hoàn toàn, là tận thiện tận mỹ.

Trên đời có cái chi hoàn toàn, bởi tạo hoá ố toàn? Cho nên, đao pháp của Mai Khiêm chẳng cần toàn vẹn như một viên ngọc không tỳ vết.

Học võ học đến độ thừa dùng, là thừa sức lập sự nghiệp, như vậy cũng đủ làm cho bất cứ ai trên giâng hồ được mãn nguyện.

Đại khái là lập luận của Vạn lão phu nhân là thế. Cũng có một số người đồng ý với bà, song chung quy, đó chỉ là cái ý chung của những kẻ cầu danh, chứ không cầu học, cầu tiến.

Vạn lão phu nhân vẫn còn kém nhãn lực, thì làm sao thấu đáo diệu cảnh của võ học.

Học võ, có ba giai đoạn, là võ nghiệp, võ thuật và võ đạo.

Muốn có võ nghiệp chỉ cần tu chí trong một thời gian, muốn trau dồi vũ thuật, phải phí cả một cuộc đời, muốn thấu triệt võ đạo phải xa hẳn thế tục nghiên cứu không ngừng.

Cho nên khách giang hồ còn xuôi ngược đó đây là hạng người nhắm vào võ nghiệp.

Những người đó còn tiếp xúc thế nhân, thường tiếp xúc với thế nhân.

Khi bắt đầu xa thế tục, là họ bước sang giai đoạn võ thuật. Và thấu triệt võ thuật rồi, họ đương nhiên tiến đến giới của võ đạo.

Chỉ có những kỳ nhân dị khách mới có can đảm khước từ mọi danh vọng của thế gian, mà chuyên chú vào võ thuật.

Và khi họ đạt đến độ đại thành, họ mới đúng là những tay am tường võ đạo.

Cho nên, võ nghiệp phục vụ cá nhân, võ thuật phục vụ toàn giới, còn võ học phục vụ cho muôn đời, đại đồng tổng quát.

Vạn lão phu nhân còn lục đục trong võ nghiệp, làm gì có nhãn lực nhận xét xa hơn.

Nếu sự ước đoán của bà là đúng, thì Mai Khiêm là kẻ thừa hành đường lối của Bạch Y kiếm khách, mà Bạch Y kiếm khách lại nghiên cứu võ học. Như vậy sự cách biệt của bà và Mai Khiêm quá xa, bà làm sao nhận thức mức đạt thành của Mai Khiêm.

Bà khâm phục là phải.

Qua một lúc lâu, bà mới di chuyển ánh mắt từ thanh đao của Mai Khiêm sang Công Tôn Hồng.

Bà thấy Công Tôn Hồng tập trung nhãn quang một cách quái dị.

Nhãn quang của y, thay vì tập trung nơi vũ khí của y lại tập trung trên thân đao của Mai Khiêm.

Chừng như y quên hẳn vũ khí của y.

Cũng như bà, y bị ma lực thanh đao thu hút.

Có thể là do y thọ thương nên tinh thần dao động, còn Vạn lão phu nhân thì tâm tư rối loạn trong mấy hôm sau này, nên tinh thần cũng dao động.

Do đó, họ dễ bị ảnh hưởng của khí thế địch.

Mai Khiêm chưa xuất thủ, cái khí thế đã áp đảo phần nào đối thủ rồi.

Địch yếu dần, là hắn mạnh dần, sát khí từ thanh đao càng phút càng tăng, địch càng phút càng bị áp đảo mạnh hơn.

Đột nhiên con thuyền đảo lộn, như có bàn tay khổng lồ nào đó chụp lấy nó mà tung lên.

Thuyền đảo lộn như bị tung bổng lên, Mai Khiêm và Công Tôn Hồng dù vững bộ vị cách nào cũng phải bị quăng theo thuyền.

Cả hai bị quăng, bộ vị bị hủy diệt, sát khí cũng tan biến luôn.

Cả hai không còn ghìm nhau nữa, họ trở lại bình thường chẳng phải là hai đấu thủ quyết tử chiến.

Trở lại bình thường, họ đương nhiên nghe tiếng động chung quanh bây giờ thì họ nghe rõ tiếng sóng ầm ầm, trong tiếng sóng có tiếng thét, tiếng la của chủ thuyền và phu thuyền.

Những tiếng động đó đã có từ lúc thuyền ra khơi tiếng động dù mỗi phút giây trôi qua là mỗi gia tăng, song họ có lưu ý đến đâu mà biết.

Chỉ từ phút giây nầy, họ mới nghe rõ.

X Gió vẫn thổi vụt vù.

Sóng biển gào ầm ĩ.

Con thuyền lắc lưu như quả bóng nhồi. Con người trong thuyền có tay, có chân còn bám víu, thế mà vẫn nhào nhào lăn nghiêng lăn ngửa nói chi đến những đồ vật?

Trước oai khí của trời, con người trở nên nhỏ bé, Mai Khiêm và Công Tôn Hồng tự cho mình là chủ thể của tất cả, ít nhất cũng là chủ thể của con thuyền, giờ đây cả hai cảm thấy cái ta vô giá trị.

Thiên nhiên! Con người qua muôn vạn thế hệ, vẫn còn nhỏ bé đối với thiên nhiên:

Chủ thuyền kêu lên inh ỏi.

Buồm đứt, thuyền đảo mạnh. Tất cả vịn chắc vào chỗ nào có thể vịn được.

Chừng như có kinh nghiệm qua những lúc thuyền nhồi, chủ nhân đã bố trí sẵn những chỗ vịn, Vạn lão phu nhân, Công Tôn Hồng và Mai Khiêm không đợi giục, vội nắm chắc tay vào những chỗ đó.

Cả ba đều là những bậc anh hùng, từng vào tử ra nguy, thế mà lúc nầy cũng biến sắc.

Không phải họ sợ chết như những kẻ thông thường, song ít nhất họ cũng phải tranh đấu, có tranh đấu rồi chết cũng chẳng buồn.

Nhưng ở đây họ hoàn toàn bất lực, bởi lực lượng của họ chỉ đem chống trả với đồng loại chứ đối với thiên nhiên thì cầm như vô dụng.

Sóng biển to như những hòn núi, lượn nầy qua, lượn khác đến, con thuyền thoạt hụp xuống sâu mấy trượng, rồi trồi lên cao, mới lần hụp, trồi, là mỗi lần hứng nứoc từ đầu sông tạt vào.

Bọn ba người ướt sũng như dầm cơn mưa to.

Nhưng, qua phút giây kinh hãi, tất cả đều bình tĩnh trở lại.

Mai Khiêm gọi to:

- Công Tôn Hồng! Ngươi nên tạ Ơn trời biển mới phải. Chính trời biển nổi cơn gió sóng, cứu mạng ngươi đó.

Hắn phải gọi to, vì gió thổi ào ào sóng đánh ầm ầm.

Công Tôn Hồng cũng cao giọng:

- Chưa chắc đâu, Mai Khiêm!

Mai Khiêm hừ một tiếng:

- Tại sao chưa chắc? Vừa rồi giả như ta muốn giết ngươi sớm, ta cứ việc xuất thủ, song ta còn chần chừ, đo đó cơn bão nổi lên đúng lúc cho ngươi...

Công Tôn Hồng bật cười cuồng dại:

- Mai Khiêm! Muốn giết ta có khó chi đâu, ngươi cứ bảo gió lặng, sóng êm thuyền ngừng. Ngươi thừa lợi hại làm nổi việc đó chăng? Ha ha! Giờ thì chẳng hiểu, chứ hiện tại ngươi cũng bất lực như ta, ngươi cũng đầu hàng thiên nhiên như ta:

Mai Khiêm căm hận:

- Ta không thể khiến gió câm, song ta có thể làm cho miệng ngươi câm.

Vạn lão phu nhân cười hắc hắc:

- Ngươi...

Bỗng bà ngưng bặt câu nói.

Bên ngoài có tiếng kêu thất thanh:

- Cứu... mạng... cứu...

Tiếng kêu cứu đành rằng ở bên ngoài, song nghe từ trên cao hơn mấy mươi trượng vọng xuống.

Hiển nhiên người đó bị sóng tung lên, trong khi bị tung lên thì thuyền hụp xuống, khoảng cách mới xa như vậy.

Tiếng kêu cứu còn vang tiếp mấy lần nữa, mỗi lần vang mỗi lần nhỏ hơn, cuối cùng thì mất hẳn.

Nếu cho trong bọn Vạn lão phu nhân ba người chết điếng cũng chẳng quá đáng chút nào.

Họ không thể nói được một tiếng, mà dù có nói được, họ cũng chẳng biết nói.

Nước bên ngoài trào vô, cuốn ra, cuốn theo tất cả những đồ vật , rương tráp, ghế, bàn, nồi niêu chén bát lành cũng bị cuốn, vỡ cũng bị cuốn, trừ ba người còn bám víu vào những trụ an toàn, nên chưa về chầu hà bá.

Bỗng Công Tôn Hồng kêu lên:

- Mai Khiêm, đề phòng! Ngươi ở gần khung cửa sổ lắm đấy!

Đúng lúc một đợt nước đùa vào rồi cuốn trở ra, qua khung cửa sổ đó.

Nhờ Công Tôn Hồng cảnh giác, Mai Khiêm bám chặt vào cọc khỏi trôi theo nước.

Hắn thốt to:

- Đa tạ!

Nhưng, Vạn lão phu nhân lại bị cuốn ra ngoài.

Một vật gì, móc vào chân bà, bà chụp ngay vật đó, như thế bà còn chưa văng ra khỏi thuyền.

Vật đó, là Tỏa Liêm Đao của Mai Khiêm.

Mai Khiêm hét lớn:

- Nắm chắc đường giây! Tuyệt đối không buông tay!

Vạn lão phu nhân rung rung giọng:

- Tại sao ngươi cứu ta?

Mai Khiêm lạnh lùng:

- Biển lặn, sóng êm rồi bà không nhảy xuống nước, tại hạ sẽ quăng bà xuống. Chứ bây giờ thì khác, bà chưa phải chết, tại hạ cứu bà. Tại hạ cứu bà như Công Tôn Hồng cứu tại hạ. Chúng ta giết nhau, chứ chẳng thể để cho cái gì giết chúng ta.

Vạn lão phu nhân thốt:

- Ngươi... đa tạ ngươi!.... Đa tạ ngươi!...

Mắt Công Tôn Hồng ướt.

Y khóc, hay nước biển tạt vào?

Dù y khóc, đó cũng là lẽ đúng.

Bởi y là con người, bởi đó là nhân tánh. Ai không cảm kích trước một cử động nhân đạo.

Hiện tại cả ba chẳng còn gì, ngoài nhân tánh.

Họ cố bám víu vào nhân tánh, để khi chết đi, họ vẫn chết "con người" chứ không chết "con vật." Và trong hoàn cảnh đó, họ không còn thù hận nhau nữa mà họ có thể tiết lộ cho nhau những gì bí mật nhất trong đời họ.

Đột nhiên, Công Tôn Hồng hỏi:

- Mai Khiêm! Giữa ngươi và Bạch Y kiếm khách, sự quan hệ như thế nào?

Mai Khiêm trầm ngâm một chút:

- Bạch Y kiếm khách... là...

Công Tôn Hồng không nghe rõ đoạn cuối câu nói.

Chẳng rõ tại y, thần trí rối loạn, hay gió thổi mạnh quá át cả tiếng nói của Mai Khiêm.

Hồi 51

Tạm Qua Đại Nạn

Khi cơn bão biển ngừng, đêm đã xuống.

Mai Khiêm khôi phục thần trí trước nhất.

Ánh sao chiếu chênh chếch vào thuyền, rọi gương mặt hắn, mắt hắn hoa lên, hắn chớp liền mấy lượt.

Ánh mắt vừa quen với bóng đêm, hắn cao giọng gọi:

- Công Tôn Hồng! Công Tôn Hồng!

Hắn gọi luôn hai lượt.

Tuy có ánh sao rọi vào, con thuyền qua cơn bão biển, bị xáo động tơi bời, những đồ vật gì còn lại không bị sóng cuốn đi, đều thay nơi đổi chỗ, hỗn loạn bừa bãi. Trong phút giây ngắn ngủi hắn không làm sao nhận định được khung cảnh quanh mình một cách rõ rệt.

Gió bên ngoài còn dư lực vẫn thét ầm ầm, sóng vẫn vỗ đùng đùng song trong khoang thuyền là một cảnh chết.

Tử tịch đè nặng không gian, đè nặng luôn lên tâm tư của người hiện diện.

Mại Khiêm gọi to, chưa có liếng đáp.

Công Tôn Hồng ở đâu? Vạn lão phu nhân ở đâu?

Mai Khiêm cất tiếng là hắn còn đó, hắn vô sự. Hai người kia im lìm họ có sao chăng?

Lâu lắm có tiếng đáp:

- Ta ở đây!

Mai Khiêm thở phào:

- Thế là ngươi chưa chết! Tốt quá!

Tốt là sao?

Hắn trông cho Công Tôn Hồng tạm thời thoát cái nạn bão biển này, hay hắn nghĩ là Công Tôn Hồng còn sống đó để cho hắn hạ thủ ?

Chính hắn muốn tự tay hạ sát hơn là ỷ vào oai thế thiên nhiên?

Hắn muốn tự tay đẩy Công Tôn Hồng xuống biển, nếu y không tự ý nhảy xuống?

Trong bóng tối, một người đứng lên, vừa đứng lại ngã xuống. Ngã rồi đứng, đứng lại ngã. Qua mấy lượt đứng ngã như vậy người đó mới bước đến được gần Mai Khiêm.

Mai Khiêm trầm giọng:

- Công Tôn Hồng!

Người đó là Công Tôn Hồng!

Y hỏi:

- Chính ta! Còn... Vạn lão phu nhân?

Mai Khiêm buông gọn:

- Ở đây!

Nhưng hắn kêu lên:

- Sao lạ vậy?

Hắn kéo đầu dây, nơi đầu dây chẳng có gì cả.

Công Tôn Hồng kêu lên:

- Bà ấy... hay haỵ.. đã...

Mai Khiêm run giọng:

- Ta đã bảo bà nắm chặt đầu dây... ngờ đâu... Hừ, cái số của bà...

Công Tôn Hồng thở dài:

- Đáng thương thay cho bà! Không ngờ bà lại...

Mai Khiêm cũng thở dài:

- Dù bà ta không phải là con người tốt, song chỉ với cái buổi cận địa viễn thiên mà vẫn còn lang bạt khắp đó đây, mang chiếc thân lênh đênh giữa dòng đời không định hướng, ai là người có chút tâm trường, lại không lượng xét cho bà mà quên đi những gì bà đã làm.

Công Tôn Hồng tiếp:

- Bên ngoài bà có vẻ tàn ác, nhưng trong thâm tâm bà còn chút thiện lương. Có thể bà ta mang một niềm uất hận vô biên, khiến cho bà có những hành động nghịch thường! Cho nên việc làm của bà đáng trách mà tình cảnh của bà lại đáng thương!

Trước cơn bão, họ cương quyết, họ cứng rắn, họ nhất định đưa nhau vào cuộc tương tàn.

Rồi từ chỗ chết, họ may mắn trở về chỗ sống, lòng họ bỗng nhiên mềm nhũn, họ nghĩ đến sự đời điên đảo tâm ly, họ thấy cái chết mãi kề bên cái sống, dù sao họ cũng chạnh lòng trước lẽ ở đi, họ cảm khái vô cùng, họ thở dài não ruột.

Bỗng một người cất tiếng:

- Đa tạ các ngươi dành lời tốt đẹp cho già!

Công Tôn Hồng và Mai Khiêm lộ hẳn niềm vui, cùng kêu lớn:

- Vạn lão phu nhân?

Vạn lão phu nhân cười một tiếng:

- Nếu không là già, thì còn ai nữa? Vạn lão phu nhân chưa chết, các ngươi yên trí.

Một người từ khoang hậu bò ra khoang tiền...

Ra đến nơi bà bật cười khanh khách:

- Già không ngờ già chết đi lại có người thở than, luyến tiếc xót thương. Nếu biết vậy già đã chết rồi, sung sướng mà chết!

Tuy bà cười lớn, giọng cười của bà run run.

Bà mừng vì sống sót hay thương cảm vì có người bi hoài đến cái thân phận của bà?

Thuyền bồng bềnh theo gió đẩy, sóng nhồi.

Cả ba bỗng thấy lời nói của họ rất thừa, rất nhạt trong cảnh tình này.

Cảm thấy như vậy họ nín lặng.

Đúng trong lúc không khí giữa họ căng thẳng cực độ, nặng nề cực độ, con thuyền bỗng bị chấn dội lại mãnh liệt.

Mai Khiêm, Công Tôn Hồng, Vạn lão phu nhân đã mệt lả qua cơn bão, cơn bão ngừng từ lâu, họ chưa lấy lại bình thường, bây giờ con thuyền lại bị chấn dội như có mãnh lực siêu huyền bắn tung trở lại khiến cả ba giật mình, tuy khí lực tiêu tan, họ vẫn nhảy vọt ra mũi thuyền nhìn quanh quẩn tìm nguyên nhân biến cố vừa phát sinh.

Đêm dù dài, đêm vẫn qua, đêm đã qua rồi, cả ba chịu đựng cơn dập nhồi của sóng biển, chưa ai ngủ được một phút giây đêm lại hết.

Nơi phương Đông nền trời rực sáng và trước mắt họ là lục địa, trên bờ lục địa có một bóng người. Chính người này đã đẩy bật con thuyền ngược lại đột ngột, mãnh liệt suýt làm thuyền lật úp.

Con thuyền bị đẩy lùi, nhưng không đi xa trái lại nhùng nhằng tại chỗ.

Từ trên bờ, có một đường dây dài thòng xuống, đầu dây kia bám sát đầu thuyền, hay đúng hơn một chiếc thòng lọng nơi đầu dây rơi đúng cọc buồm giữ con thuyền liên lạc với lục địa.

Đường dây có thòng lọng đó, hiển nhiên do người đó phóng đi Chính một mình y, vừa đẩy bật con thuyền, vừa giữ lại đó. Con thuyền đi biển nào phải nhỏ, y làm được việc đó hẳn phải có một công lực phi phàm.

Đã có sức mạnh, lại cách quăng dây rất chuẩn, rất xa, còn người đó tỏ rõ tuyệt kỹ mà trên giang hồ ít có tay nào sánh bằng.

Người đó là ai?

Trên mặt biển làm gì có hạng người đáng sợ như thế, nếu không phải là yêu ma, quỷ mỵ?

Và bờ lục địa kia là đâu?

Bọn Vạn lão phu nhân sửng sốt, máu như ngừng chảy hơi thở đứt.

Kế tiếp họ rung người lên, chính Vạn lão phu nhân rung kịch liệt hơn cả.

Cuối cùng, bà ngã quỵ tại chỗ.

Biển đã nổi cơn giận vô tình, oai trời thì chẳng biết trước như thế nào, rồi giờ đây lại đến người xuất hiện, phiền phức sẽ đến với họ.

Trong tình cảnh này, con người đinh ninh tự thấy mình quá bé nhỏ, trước bất cứ một hăm dọa nào đương nhiên phải khủng khiếp.

Bao nhiêu hăm dọa đã qua, dư oai còn đọng nơi tâm tư họ giờ đây thêm một hăm dọa mới nữa họ phải hãi hùng.

Người xuất hiện kia tưởng tượng cho một hăm dọa là cái chắc rồi.

Bậc hào kiệt khạc ra lửa, mửa ra khói như Công Tôn Hồng, như Mai Khiêm vẫn không khỏi chùn lòng, dù cho họ có thừa sức ứng phó với người xuất hiện.

Phải họ có thừa sức ứng phó, bởi trên thế gian này nào phải mỗi ai cũng có thể chế ngự nổi họ?

Huống chi, trong trường hợp này, họ có thể liên thủ, ngự địch.

Vậy mà họ vẫn khiếp đảm như thường.

Người trên bờ kia quăng dây rồi chẳng phải giữ thuyền lại dó mà ngắm.

Tự nhiên y kéo đường dây.

Y kéo mạnh thế nào mà con thuyền như bay. Phút chốc đã đến bờ.

Bình!

Mũi thuyền đã chạm vào lục địa, tiếp theo tiếng bình, tràng cười của người trên bờ, tràng cười vang lên khanh khách, rờn rợn.

Nhưng tràng cười không mảy may có âm thinh của con người.

Tràng cười vùng lên như tiếng chim đêm như vượn hú, như sài lang tru, chỉ nghe một tiếng thôi cũng bắt rùng mình, huống hồ nghe cả tràng?

Nếu có ai nghe quỷ khóc một lần chắc phải cho rằng hiện tại họ nghe quỷ khóc.

X Tràng cười thê lương bi thảm quá chừng.

Mai Khiêm và Công Tôn Hồng lấy lại bình thường. Rồi lâu lắm, Mai Khiêm nhìn sang Công Tôn Hồng hỏi gọn:

- Thế nào?

Công Tôn Hồng cắn răng cương quyết:

- Vô luận hắn là người là quỷ, chúng ta phải tranh lấy cái sống nhường cái chết cho hắn!

Mai Khiêm gật đầu:

- Phải! Tiên hạ thủ vi cường!

Họ vẫn chưa mất khí khái hùng cường của bậc đại hiệp. Và đối diện với con người ngụy dị kia, dù họ biết chắc sau lưng người đó có nhiều nguy hiểm chực chờ họ, họ vẫn tỏ được cái ngang tàng của con người bất khuất.

Bất quá họ khiếp hãi trong phút giây bất ngờ thôi!

Họ biết vô luận như thế nào cũng phải giành quyền sống với đối tượng trên bờ.

Đối tượng lợi hại làm sao, điều đó chẳng thành vấn đề nữa, bởi họ không thể khoanh tay chờ cái chết đến với họ. Phải tận dụng nhân lực, sau đó nếu số trời đã định cho họ phải chết về tay đối phương trên bờ kia, họ sẽ nhắm mắt ra đi, nhẹ nhàng ra đi không chút oán hận.

Đồng tình rồi là họ hoạt động ngay, vì Mai Khiêm đã cho rằng tiên hạ thủ vi cường.

Cả hai cùng bước ra khoang mui thuyền.

Quái vật trên bờ lại bật cười ha hả tấn công họ liền...

Nhưng quái vật không nhanh bằng họ. Một tả, một hữu, vừa ra đến mũi thuyền là đánh tới.

Họ đánh với tất lực bình sanh, họ đánh để giành sự sống liều mạng, có chết là chết hùng, không chết tức nhiên là sống.

Gió biển vẫn gào, sóng biển vẫn cuồn cuộn, sóng biển đập bờ ầm ầm, gió và sóng như lạo thêm khí thế cho hai vị anh hùng mạt lộ.

Vạn lão phu nhân không hề tin tưởng là cả hai xuất thủ là đắc thủ, song bà hy vọng.

Họ thành công, bà cũng an toàn như họ. Như họ chết, bà cũng chẳng mong sống sót được nào.

Họ giành sự sống cho họ, họ cũng giành cho bà, đương nhiên bà phải hòa đồng ý niệm của họ.

Không xuất thủ, chưa xuất thủ tiếp trợ thì bà hy vọng ước mong, cầu nguyện cho họ đắc thủ.

Bên trên bờ, quái vật thu thế công về chờ xem cả hai đánh như thế nào.

Hắn luôn luôn cười vang, cười cuồng dại.

Chưởng phong, quyền phong của Mai Khiêm và Công Tôn Hồng cuốn tới như bao bọc quanh quái vật.

Chẳng rõ do hấp lực của chưởng và quyền của cả hai, hay tấu xảo hỗ trợ họ, gió vụt thổi mạnh, sóng vụt vỗ mạnh, sóng ập vào bờ đúng năm lượn, vừa lớn vừa mạnh.

Vạn lão phu nhân hét to:

- Đắc thủ ! Đắc thủ rồi !

Năm lượn sóng đập vào bờ mạnh như thế đo,ù bọt nước bắn tứ tung, trắng xóa bao trùm cả ba.

Cả ba đây là Mai Khiêm, Công Tôn Hồng và quái vật.

Trong vùng bọt biển trắng xóa, cả ba như chìm trong sóng biển.

Song đồng thời gian nước cuốn về khơi, Mai Khiêm và Công Tôn Hồng nhảy trở về thuyền. Họ nhảy đi rất nhanh, họ nhảy về còn nhanh hơn một phần.

Vạn lão phu nhân thích chí, reo vang dội Bình ! Bình !

Nhưng bà nín lặng ngay.

Lạ lùng chưa! Cả hai nhảy trở về, sau cùng lại cùng ngã xuống sàn thuyền.

Trên bờ, quái vật còn đó y nguyên trong tư thế vừa rồi, như chẳng hề nhích động.

Hắn không nhích động, mà hai cao thủ võ lâm Trung Nguyên ngã nhào.

Hắn làm cách nào?

Tại sao họ Mai và Công Tôn Hồng bại dễ dàng?

Vạn lão phu nhân vốn sợ hãi phi thường lúc thuyền bị giữ lại.

Niềm sợ hãi chưa hết mặc dù với niềm hy vọng vừa lóe lên, bà hết sợ mới phải.

Bây giờ hy vọng tiêu tan, sự thật phơi bày rõ rệt. Mai Khiêm và Công Tôn Hồng thảm bại rồi!

Bà xám mặt trở lại, mình rung rung, mắt mở tròn, miệng há hốc.

Trong khi đó, quái vật từ từ bước tới, mỗi phút giây mỗi gần thuyền hơn...

Quái vật đã đến.

Gương mặt của hắn mang một màu sắc nửa trắng, nửa xám, trông hết sức kỳ dị.

Vạn lão phu nhân làm gì có can đảm nhìn hắn, song cái tánh hiếu kỳ lại thúc đẩy bà phải nhìn.

Sợ hãi và hiếu kỳ dâng cao một lúc, hiếu kỳ thắng cuộc, cuối cùng bà nhìn.

Chưa nhìn bà cứ tưởng bất quá đó là một con người có hình dáng kỳ dị, và bà gọi là quái vật chẳng qua là vì cái ý căm hận một kẻ ác, toan hãm hại bà và họ Mai, họ Công Tôn.

Nhưng nhìn rồi bà nhận ra đối tượng không phải là con người.

Bất quá đối tượng chỉ có một vài nét giống người thôi.

Quái vật không mặc y phục, từ hông trở xuống gối không quá gối hắn bận một xâu chuỗi là như khố ngắn.

Thân hình của hắn to lớn.

Mặt quá vật trắng xám, nhưng thân hình lại đen như sắt.

Hắn vẫn có mắt, có mũi, có tai song mắt, mũi và tai bị phủ trùm bầng một lớp tóc xụ xộp rối bồng.

Ánh mắt hắn chớp chớp sáng ngời qua lớp tóc.

Quái vật là chi? Quỷ núi? Tinh biển? Yêu rừng?

Quái vật đi rất chậm, như người đếm bước, song đến gần, hắn vọt tới nhanh vô tưởng, thân hình rít gió, cuốn vù vù.

Hắn không nhìn Vạn lão phu nhân nửa mắt, hắn vọt thẳng vào khoang thuyền.

Liền sau đó, những tiếng binh, bốp, rắc vang lên...

Con thuyền bị bão biển dập dội, long đinh lỏng ván có mảnh bị nước cuốn mất, con thuyền là hình ảnh của điêu tàn, giờ đây lại bị hắn đập phá tan hoang.

Vạn lão phu nhân rũ mình một đống nơi góc, muốn chạy trốn, song hai chân như nhũn lại không chịu theo ý bà nữa.

Bà muốn đứng lên để tránh một vài mảnh gỗ văng tứ tung, cũng không làm sao đứng được.

Bà đành thu mình một chỗ, nhìn quá vật đập đông phá tây.

Phá đập tan tành ở khoang trước, hắn đập tung cửa ngắn vào khoang sau, hắn khuân tất cả thức mắm, muối khô, thịt, cá, gạo, củi, nồi niêu những gì còn lại sau cơn bão, quăng ra khoang trước. Hắn vọt theo ra, hắn hạ thấp thân mình xuống, đưa mũi ngửi từng món, từng món.

Mắt hắn nhìn háu háu những vật đó.

Thịt, là thịt sống dù có ướp muối, hắn ngửi một lúc lại táp xống xộc như heo.

Hắn vừa táp vừa nhai, ngon như người vừa ăn vật thực nấu chín.

Vạn lão phu nhân đổ mồ hôi lạnh tràng hạt lớn.

Bà nghĩ:

- Hắn đói quá rồi! May mà trong thuyền còn thịt còn cá, chứ nếu không hắn dám ăn thịt người, và chắc chắn là ta phải bị hắn ngoạm trước!

Ngờ đâu, quái vật ăn mấy miếng, bỗng buông hũ thịt xuống rồi nhìn, rồi thở dài.

Trên gương mặt hắn hiện rõ cái vẻ khó khăn, như muốn ăn mà chẳng dám ăn nữa.

Vạn lão phu nhân hết sức kỳ quái.

Bà thầm hỏi:

- Tại sao hắn không ăn nữa? Hắn sợ gì?

Quái vật nhảy dựng lên, rồi đấm ngực, rồi dậm chân như tức bực vì muốn ăn mà không dám ăn, không ăn được.

Vạn lão phu nhân sững sờ.

Bà hết sức lấy làm lạ, quên cả sợ hãi buột miệng hỏi:

- Ngươi... tại sao ngươi không dám ăn?

Quái vật run giọng:

- Tại sao ta chẳng dám ăn? Chỉ vì ta giành phần cho bọn yêu tinh cái, bọn yêu tinh chuyên hãm hại người ấy mà. Chuyên chà đạp người chết ấy mà!

Vạn lão phu nhân trố mắt.

Quái vật biết nói tiếng người? Biết được điều đó Vạn lão phu nhân còn sợ hơn gấp trăm lần trước.

Bà buột miệng hỏi, vì hết sức lấy làm lạ, không dằn được tánh hiếu kỳ, nhưng bà không mong hắn hồi đáp, bởi khi nào bà tưởng tượng được hắn biết tiếng người!

Bà nghĩ, quái vật chẳng biết sợ ai, thật sự thì hắn sợ yêu tinh.

Chắc chắn yêu tinh đó phải lợi hại lắm!

Có bao nhiêu yêu tinh ở trên hòn đảo này với hắn?

Nếu chỉ là một yêu tinh thì trên đảo này lại có đến hai quá vật đã ghê gớm như vậy rồi, lại còn sợ quá vật kia, thì làm sao bọn của bà đối phó nổi?

Chết!

Chắc chắn là phải chết rồi!

Công Tôn Hồng và Mai Khiêm đã chết hay còn sống? Dù họ còn sống... họ cũng chẳng sống được bao lâu nữa.

Quái vật bước đến cạnh Công Tôn Hồng và Mai Khiêm, nhấc bổng cả hai lên, nhìn một thoáng rồi quăng xuống như cũ. Đoạn hắn bước tới trước mặt Vạn lão phu nhân hét:

- Đứng lên!

Hai hàm răng đập vào nhau cành cạch, Vạn lão phu nhân lí nhí:

- Ngươi... ngươi muốn... muốn tạ..

Quái vật lại hét:

- Ta muốn ngươi đứng lên!

Vạn lão phu nhân run run tay, chỏi xuống sàn thuyền cố gắng đứng lên, run run giọng:

- Ta già rồi thịt da lại tanh, sao bằng hai gã kia, họ còn trẻ thịt thơm ngon. Ngươi muốn ăn, nên ăn thịt họ!

Quái vật nhe hai hàm răng trắng dã, bật cười khanh khách:

- Ngươi già, nhưng thân thể còn cường tráng lắm, không kém gì hai gã đó!

Thấy hai hàm răng đó, nghe giọng cười đó Vạn lão phu nhân sợ hãi vô tưởng, bà không còn biết nói gì, bật khóc ngay.

Bà rên rỉ:

- Ngươi... ngươi muốn... thật sự ngươi muốn...

Quái vật chân lại:

- Ta muốn ngươi thu dọn tất cả những vật thực đó rồi mang đến cho yêu tinh. Nếu ngươi còn vận đỏ, sau khi yêu tinh ăn rồi, thừa lại thứ nào, có thể yêu tinh cấp cho ngươi ăn thứ đó.

oOo Quái vật đáng sợ thật, song may thay, hắn chẳng ăn thịt người.

Vạn lão phu nhân mang thịt muối, cá muối, cá khô trên cả hai vai, dù có nặng cũng chẳng sao.

Nhưng mùi hôi thúi bốc ra từ những vật thực đó làm bà khó chịu vô cùng.

Bà suýt nôn mấy lượt, song cố gắng chịu đựng.

Đi một đoạn đường, bà nảy sanh cái ý muốn quẳng đi, song gan bà bao lớn mà dám làm cái việc đó.

Bà còn ham sống kia mà?

Rồi bà nghĩ, bất quá tạm thời bà ngửi cái mùi hôi thúi đó, khi nào tới nơi tới chỗ, rồi là khỏe người, và biết đâu bà chẳng được chia phần như quái nhân đã bảo?

Bà thấy yên tâm với cái ý miễn cưỡng chịu đựng tạm thời đó. Hơn nữa bà cũng yên tâm luôn về quái nhân, bởi quái nhân không ăn thịt người.

Bỗng bà giật mình.

Quái nhân này không ăn thịt người, còn yêu tinh kia thì sao? Con yêu tinh mà bà sắp chạm mặt đây, nó hung dữ như thế nào?

Chế ngự được quái nhân, bắt quái nhân làm nô lệ, hẳn con yêu tinh đó phải ghê gớm hơn quái nhân gấp trăm, gấp ngàn lần.

Điều làm cho bà thắc mắc hơn hết, là không biết hình dáng yêu ra sao.

Có thể yêu tinh có một thể hình đáng sợ lắm, đáng sợ một cách không tưởng nổi.

Sợ, điều đó hẳn nhiên rồi.

Sợ cứ sợ, hiếu kỳ vẫn hiếu kỳ. Đó là cái tánh cố định của Vạn lão phu nhân.

Dù cái gì đó đáng sợ lắm, bà chưa biết cái đó ra sao, bà quyết tìm cho kỳ được.

Cho nên, yêu tinh đáng sợ chừng nào, bà càng muốn chóng gặp chừng ấy.

Hòn đảo hiện tại đây có phần ấm dịu hơn tại Trung Thổ nhiều.

Nơi bờ đảo, có một cây đa. Tuy loại đa, song khác biệt hơn những cây tại Trung Nguyên, cây mọc thẳng đứng, lại cao, cành nhỏ, trông mường tượng như chiếc trường thương do ai dựng lên từ muôn đời.

Vào xa xa trong đảo, có vô số cây nhỏ, cây to mọc chen chúc nhau quá rậm rạp.

Đi đi mãi, tánh hiếu kỳ sôi động bao nhiêu rồi cũng lắng dịu niềm sợ hãi to lớn đến đâu rồi cũng thành lớn, bởi mệt nhọc đã xâm chiếm cơ thể bà, bà càng chán nản, chỉ muốn chết ngay cho yên đời bà.

Bà khấn vái hoàng thiên hậu thổ, làm sao có một tiếng sét bất thần lừ trên không nổ vang, chắn dội nát đầu bà, hoặc đất dưới chân bỗng nứt ra thành hố sâu cho bà rơi tọt vào đó.

Hoặc giả, nếu mạng sống của bà còn dài, thì cái số phận mà bà vái van cầu khẩn cho bà chuyển sang quái nhân kia sau đó bà tìm cách ly khai hòn đảo quỷ này.

Bà nghĩ, phải có một nhiệm màu. Hiện lại chỉ có một nhiệm màu mới cứu bà thoát nạn. Không có nhiệm màu là bà cầm chắc cái chết trong tay, có điều chết sớm hay muộn thì bà chưa rõ được.

Chết là cái chắc.

Quái nhân đi trước, đôi chân hắn vừa đen vừa ốm, đôi chân xấu xí làm sao, ngón quá dài, móng cũng quá dài, đúng như đôi chân vượn.

Nhưng đôi chân xấu đó lại bước đi rất nhanh, lối bước lại có phần đẹp, đi trên cát ướt, hắn chẳng lưu lại một dấu vết nào, đủ biết bộ pháp của hắn nhẹ nhàng vô tưởng.

Bình sanh, Vạn lão phu nhân chưa từng thấy một ai có thuật khinh công ngang mức độ hắn.

Phải biết bà đã cao tuổi lắm rồi ít nhất bà cũng có trên mấy mươi tuổi giang hồ, từng gặp nhiều tay hào kiệt vậy mà bà cho là chẳng ai có thuật khinh công bằng quái nhân, như vậy người thành tựu về môn công này, kể ra cũng hiếm thấy.

Bà thầm so sánh, dù cho Phương Bửu Ngọc, Bạch Thủy Cung chủ hay đến cả Tử Y Hầu khi xưa, cũng vị tất đã bằng quái nhân, chứ đừng nói là hơn hắn.

Đành rồi!

Đành bỏ hẳn cái ý định trốn. Chẳng thể nào trốn khỏi! Chỉ còn trông mong một mầu nhiệm nào đó thôi!

Mà trên đời này có ai được nhiệm màu tiếp trợ đâu? Nhiệm màu thuộc về ảo tưởng, khi nào ảo tưởng thành hình?

Bây giờ, cả hai tiến vào rừng.

Quái nhân vừa đi vừa càu nhàu:

- Yêu tinh ! Yêu tinh ! Phải có một ngày nào đó ta lột da ngươi, ta chặt xác ngươi ra thành trăm, thành ngàn mảnh vụn. Nhất định phải có ngày đó. Hừ hừ!

Đi một lúc lâu hắn dừng chân...

Đoạn hắn thốt:

- Đến rồi! Tại đây!

Vạn lão phu nhân đưa tay chà mắt, bà chà qua rồi chà lại, chà mãi hàng mươi lượt, bà vẫn còn sợ mình hoa mắt, trông lầm.

Trong một khu rừng, rừng là phải ở trên lụa địa, làm gì có một chiếc thuyền, tuy vậy nó vẫn giữ đủ hình thể làm cho con người liên tưởng đến một chiếc thuyền.

Tuy cái phần còn lại đó, so với nguyên chiếc, chẳng lớn lắm song đem so với thuyền của Vạn lão phu nhân, phần còn lại đó lớn hơn nhiều.

Như thế con thuyền nguyên vẹn hẳn phải to lớn phi thường.

Phần thuyền còn lại đó, lớn như vậy làm thế nào nó lọt vào khu rừng này được? Ai khuân, ai vác, bao nhiêu người khuân vác?

Trên cái đảo quỷ này có bao nhiêu người?

Phản thuyền nằm trong khu rừng sau rừng là núi.

Từ trên núi, một dòng suối nhỏ chạy xuống xa xa, trông như một giải lụa bạch trải dài.

Cạnh bờ suối, bên dưới núi có một ngôi nhà nhỏ. Nhà bằng thân cây, vách bằng cành cây ghép lại lợp bằng lá cây.

Nhà rất đơn giản, song tại nơi đây thiếu hẳn phương tiện dụng cụ, dựng lên một ngôi nhà như vậy, kể ra cũng như làm được một kỳ công.

Ngôi nhà cách phần thuyền độ mươi thước.

Thời gian lúc đó vào bình minh, thái dương đã lên, cành lá còn ướt sũng sương đêm, dương quang chiếu vào phản ánh long lanh như muôn ngàn muôn hạt châu đeo gắn khắp nơi.

Vạn lão phu nhân vẫn còn chà mắt để tìm thực giác là mình không hoa mắt trông lầm.

Bởi bà làm sao tưởng nổi ở cái đảo hoang u quỷ quái này, lại có một phần thuyền to trên cạn, lại có một ngôi nhà bên cạnh?

Quái nhân đưa bà về chỗ yêu tinh ở, bà cứ nghĩ là một hang động nào đó thôi.

Bà sững sờ một lúc rất lâu.

Bỗng từ phía sau thuyền có tiếng ca ngâm vang lên về phía tai bà.

Âm thinh ấm dịu, trong trẻo, nghe âm thinh đó ai khó tính cũng phải mê mẩn tâm thần.

Giọng ca ngâm không rõ lắm, song Vạn lão phu nhân mang máng nhận ra lời ca có đượm ý niềm hoan lạc, tin tưởng ở tương lai, hy vọng lẫn hạnh phúc bốc bừng...

Yêu tinh?

Chính yêu tinh đã phát lên những lời ngâm đó? Nếu không phải là yêu tinh, thì quái nhân dừng chân lại đây làm gì? Vả lại hắn bảo là đến nơi rồi kia mà?

Đột nhiên một cánh buồm được trương lên.

Cánh buồm duy nhất trương lên từ một cột buồm, cũng duy nhất còn sót lại nơi bộ phận con thuyền.

Dưới ánh dương quang, cánh buồm rạng rỡ phi thường.

Cánh buồm đó không lạ mắt với Vạn lão phu nhân.

Cánh buồm đó, cũng không lạ mắt đối với toàn thể anh hùng hào kiệt trong võ lâm Trung Nguyên.

Bởi đó là cánh buồm ngũ sắc.

Rồi Phương Bửu Ngọc từ từ bước lên thang mây.

Thang mây là tiếng gọi của con đường, thang từ lưng chừng núi lên cao, lên mãi, lên chẳng biết đến đâu bởi đầu trên của thang bị mây che khuất. Thang lên đến tận mây, phải được gọi là thang mây, điều đó hẳn nhiên rồi, chứ chẳng phải thang bằng mây ngày nào đó, huyền thoại còn thanh truyền trong dân gian, những tiên ông tiên bà, tiên nam tiên nữ lúc nào hứng xuống lên trần thế.

Chàng từ từ bước.

Chàng lên một nấc là tiến đến gần Mê Cung một phút, khoảng cách dù xa, chàng bước dù chậm, cuối cùng cũng phải có lúc đến nơi.

Đến nơi đó, thế nào rồi cũng đến, chàng gấp làm gì?

Vả lại Mê Cung là đến cảnh chết, ít nhất Phương Bửu Ngọc cũng nghĩ như vậy!

Đến cảnh chết có ai vội vàng?

Và bây giờ, nếu chàng có muốn trở lại kể cũng muộn rồi. Không trở lại được, thì phải đi tới bởi cũng chẳng thể dừng chân.

Không ai cấm chàng dừng chân, song dừng chân lại là hèn là sợ.

Nếu muốn dừng chân để mang tiếng hèn thì thà trở lại còn hơn.

Chàng càng lên cao, càng nhận ra sương mù quá dày, sương càng dày khung cảnh càng lộ vẻ thần bí.

Sương dày đến độ con người phải bàng hoàng mê man...

Ngày nào trông thấy cánh buồm ngũ sắc, hào kiệt anh hùng võ lâm Trung Nguyên đều cung cung kính kính bái vọng như đối với đấng quân vương gương mẫu từng ban phúc trạch cho vạn dân.

Ngày nay, tại nơi hoang đảo giữa khu rừng con, điểu thú còn vắng bóng, huống hồ con người, cánh buồm ngũ sắc đó, trương lên gió vẫn lồng, màu vẫn chói, nhưng oai phong còn đâu?

Nơi đây còn ai cung cung kính kính như đấng quân vương.

Vạn lão phu nhân vừa ngậm ngùi trước cái biến thiên tàn nhẫn mà cũng hiếu kỳ với phát hiện bất ngờ.

Bà suýt buộc miệng kêu lên một tiếng để biểu lộ sự hãi hùng cực độ. Bà còn đắn đo do dự, bà còn sửng sốt bàng hoàng, cánh buồm ngũ sắc cứ lên, từ từ lên, cuối cùng thì đến tột đỉnh cần trục.

Buồm trên cao, lộng gió, màu sắc chớp ngời, buông cái vẻ huy hoàng xuống phần thuyền còn lại xóa tan những nét điêu tàn.

Phần thuyền, theo ảo tưởng của Vạn lão phu nhân, bên thành con thuyền nguyên vẹn và vẫn uy nghi lẫm liệt như thuở nào.

Bây giờ thì bà không còn hãi hùng nữa, bà si si dại dại nhìn cánh buồm, bà bị vẻ huy hoàng của cánh buồm thu hút thần hồn dật dờ, chân vô ý trung từ từ bước tới.

Tiếng ca ngâm đột nhiên im bặt.

Nơi cột buồm một bóng người hiện ra, cũng huy hoàng như cánh buồm.

Người đó rất đẹp.

Tóc mịn như tơ, buông dài như dòng suối ngọt, tóc phủ bờ vai, đôi mắt sáng như dao, xanh biếc như nước ao thu, người đó hiện rõ như tiên nữ lâm phàm.

Vẻ đẹp của người đó tăng cái huy hoàng của cánh buồm hay cánh buồm tăng vẻ đẹp của người đó?

Chỉ biết người hiện ra, người dưới cánh buồm càng đẹp hơn, buồm trên đầu người huy hoàng hơn.

Người đó hiện ra, Vạn lão phu nhân suýt đứng tim.

Phải một phút bà mới buột miệng kêu lên:

- Thủy Thiên Cơ!

Bà không tưởng nổi yêu tinh lại chính là Thủy Thiên Cơ?

Về phần Thủy Thiên Cơ, trông thấy Vạn lão phu nhân cũng hết sức kinh dị.

Cả hai nằm mộng cũng không tưởng nổi là có sự gặp gỡ ly kỳ như thế này.

Nàng cười!

Bảy năm qua rồi! Bảy năm! Từ ngày Tử Y Hầu chết trong trận so tài với người áo trắng ở biển Đông.

Từ ngày cơn bão biển tàn phá chiếc thuyền mang cánh buồm ngũ sắc!

Có lẽ trong bảy năm qua Thủy Thiên Cở mới nở nụ cười khoan khoái, nụ cười đúng với cái nghĩa vui tươi của nó.

Gặp một người từ lục địa Trung Nguyên đến đây. Và người đó không xa lạ với nàng.

Cần gì người đó là thân hay đối lập? Gặp được một người là đã khuây khỏa niềm hoài vọng cố hương.

Nàng vẫn đẹp như ngày nào. Nụ cười của nàng vẫn còn đầy đủ hấp lực. Nụ cười có thể làm mê mẩn bao nhiêu người.

Bảy năm qua nàng đâu còn mảnh y phục nào che thân?

Hiện tại, nàng mặc một chiếc áo ngắn.

Áo không bằng hàng lụa. Nơi đây làm gì có hàng lụa gấm vóc cho nàng tô điểm vẻ bách mỵ thiên kiều?

Chiếc áo ngắn của nàng bằng lông chim kết thành với lá cây.

Chính chiếc áo gần như thiên nhiên đó làm tăng vẻ đẹp ảo huyền của nàng.

Chẳng rõ nàng có mặc chiếc quần ngắn nào chăng, tà áo xuống đến gối vừa trắng mịn, vừa no tròn, cái no tròn của mỹ thuật chứ chẳng phải của thô sơ cường bạo.

Đôi chân hơi dài, biểu hiện rõ rệt của sự thanh cao, nói lên vẻ quý phái. Đôi chân từ phần tà áo xuống bàn, dù dùng kính hiển vi cũng chẳng tìm ra một vết sẹo nhỏ.

Đôi chân tròn, mịn, thon thon dài, trắng như tuyết nhưng phơn phớt hồng.

Trận thế gian này có cái chi đẹp hơn đôi chân đẹp của nữ nhân?

Và cũng chẳng có cái gì xấu hơn đôi chân xấu của nữ nhân.

Đừng cho rằng ai ai cũng có đôi chân hoàn hảo. Giả như có ngắn một chút, giả như làn da thô một chút hoặc ẩn ước có lông xanh hoặc kém màu hồng phơn phớt hoặc có phần nào to tuy không hẳn là mập hoặc một vết sẹo nho nhỏ...

Cho nên người có đôi chân tuyệt hảo rất hiếm có trên đời.

Bởi hiếm nên chỉ có mỗi một mình Thủy Thiên Cơ có được mà thôi!

Đúng là một đôi chân tuyệt hảo!

Vạn lão phu nhân dù là thuộc phái nữ, dù đã già trông thấy đôi chân đó cũng phải mê tít.

Rồi còn nụ cười, còn ánh mắt còn nhiều điểm nữa bà cũng mê luôn.

Vì bà mê mẩn trước sắc đẹp tiêu hồn của Thủy Thiên Cơ, nên kêu lên mấy tiếng rồi ngây người nhìn mãi.

Thủy Thiên Cơ cất cao giọng trong trẻo thốt:

- Không ngờ!.... Thật không ngờ!.... Tại hoang đảo lạnh lùng bỗng nhiên lại gặp cố nhân!.... Vạn lão phu nhân? Bà mạnh chứ ? Mấy năm qua chắc bà hưởng phúc rất nhiều. Rất nhiều hở bà?

Vạn lão phu nhân bừng tỉnh:

- Già... già...

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Đương nhiên bà không lường là gặp tôi tại đây!

Vạn lão phu nhân ấp úng:

- Già... già...

Thủy Thiên Cơ rời cột thuyền, bước xuống đất:

- Xa cách bao nhiêu năm dài gặp lại nhau bà chỉ có mỗi một tiếng già thốt với tôi à? Bà không còn tiếng nào khác nữa sao?

Vạn lão phu nhân bây giờ mới hoàn toàn khôi phục bình thường, thở dài mấy lượt nhưng cũng chưa đi vào đề chánh:

- Mộng? Già có nằm mộng chăng?

Bà nghiêng vai hạ những vật thực mang theo, bỏ nằm trên đất.

Thủy Thiên Cơ rời mắt từ gương nhặt bà, chuyển xuống những vật thực đó, rồi từ những vật thực nhìn sang quái nhân.

Đoạn nàng cười nhẹ thốt:

- Tốt! Tốt! Thế ra ngươi cũng biết vâng lời ta! Ngươi không ăn lén!

Quái nhân buông gọn:

- Ừ!

Thúy Thiên Cơ mỉm cười:

- Không ăn lén, là không ăn nhiều đấy! Chứ ngươi có ăn, ăn hai miếng!

Nàng đảo mắt sang Vạn lão phu nhân, cười nhẹ tiếp:

- Bà có biết chăng, tại hoang đảo này muốn qua ngày qua tháng thật ra cũng khổ vô cùng. Hôm nào có hải điểu bay đến, hôm nào bắt được con cá, con cua, con sò, là hôm đó vận đỏ lắm đấy. Cho nên...

Nàng liếc sang quái nhân lại tiếp:

- Đến cả vị cao tăng có thinh danh hiển hách trong võ lâm là Già Tinh đại sư trông thấy những vật này cũng phải thèm rỏ dãi, dù lại lão là người trì trai thủ giới. Có thể lão cũng ăn lén như thường.

Vạn lão phu nhân suýt nhảy dựng lên:

- Già Tinh đại sư? Hắn là Già Tinh đại sư? Quái vật đó...

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Bà khó tin lắm phải không?

Vạn lão phu nhân trố mắt nhìn quái nhân trừng trừng.

Trời! Già Tinh đại sư lại biến thành một quái vật? Tại sao? Tại sao?

Tạo vật trớ trêu thay!

Già Tinh đại sư? Còn đâu tác phong ngày nào của con người thần tượng võ lâm?

Tất cả đều giã từ lão, bởi lão đã biến thành quái vật?

Vạn lão phu nhân thở ra:

- Cao xanh! Cao xanh! Có thể như vậy được chăng? Sự thật là vậy được chăng?

Thủy Thiên Cơ thở dài:

- Tôi cũng mong như bà, mong là đó không phải là sự thật. Nhưng biết làm sao được hở bà? Tôi chứng kiến sự thật đó từ bảy năm qua rồi bà ơi!

Vạn lão phu nhân lẩm bẩm:

- Già Tinh đại sư! Già Tinh đại sư!

Thủy Thiên Cơ trầm giọng:

- Trong mấy năm nay, nếu không có Già Tinh đại sư. Nhờ đại sư nghĩ ra trăm phương ngàn kế, tìm cái ăn, cái uống... Nếu không nhờ đại sư!.... Ba chúng tôi đã ra ma rồi!....

Vạn lão phu nhân giật mình:

- Ba!

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Phải! Ba! Chúng tôi ba người!

Vạn lão phu nhân trố mắt.

Ba người? Người thứ ba là ai?

Bà buột miệng hỏi:

- Còn ai nữa? Người thứ ba?

Thủy Thiên Cơ điềm nhiên:

- Cần gì phải hỏi? Bà trông thấy là nhận ra ngay!

Vạn lão phu nhân cau mày:

- Bây giờ người đó ở đâu?

Thủy Thiên Cơ đáp:

- Ở tại đây, rất tiếc là bà không trông thấy hắn!

Rồi nàng thở dài tiếp:

- Tôi, tôi cũng không trông thấy hắn!

Vạn lão phu nhân giật mình:

- Cô nương... không trông thấy hắn?

Thủy Thiên Cơ gật đầu.

Vạn lão phu nhân kinh hãi:

- Hắn... hay hắn...

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Hắn không là quái vật, tự nhiên hắn chẳng biết phép ẩn thân?

Vạn lão phu nhân trố mắt:

- Người đó không biết phép tàng hình, lại không có mặt tại đây, thế thì y ở đâu?

Thủy Thiên Cơ đưa tay chỉ:

- Ở trong đó, bà cũng như tôi không có nhãn lực xuyên tường, tạc bích thì làm sao trông thấy được?

Nơi tay nàng chỉ, là một vuông phòng kín bít, liền lạc chẳng thấy một khe hở nào?

Vuông phòng đó là một bộ phận của con thuyền buồm ngũ sắc.

Những bộ phận khác hoặc bị hủy diệt trọn vẹn, hoặc còn lại một vài mảnh ván, đoạn gỗ, nhưng vuông phòng này chẳng hề bị hư hại.

Nó còn nguyên vẹn, bởi nó bằng thép.

Thủy Thiên Cơ thở dài:

- Nếu không có hắn ở trong đó, thì tôi làm gì phải hao phí tâm và lực đưa phần thuyền còn lại đến hải đảo này, rồi từ hải đảo đưa lên đây?

Rồi nàng hỏi:

- Bà có biết tôi phải phí bao nhiêu ngày cho cái việc đưa vuông phòng từ bờ hải đảo đến khu rừng này chăng?

Vạn lão phu nhân chớp mắt:

- Mươi ngày... Hai mươi ngày...

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Đúng ba trăm sáu mươi ngày đó bà?

Nụ cười của nàng vẫn duyên dáng song đượm phần nào thê lương.

Vạn lão phu nhân chưa kịp nói tiếng gì, đột nhiên nàng khoát tay:

- Thôi đi đi! Khi nào cần ăn cứ đến ăn!

Nàng bảo ai đi?

Đương nhiên là Già Tinh đại sư!

Lão cắn răng, lão nhìn đống thực vật, đoạn từ từ quay mình, bất thình lình bước gấp, như chạy trốn không hề quay đầu trở lại dù trong một thoáng...

Vạn lão phu nhân sững sờ.

Bà nhìn Thủy Thiên Cơ, phải nhận ra nàng đúng là một kỳ nữ.

Bà thở dài thốt:

- Cho đến hôm nay, già mới thật sự khâm phục cô nương!

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Thật vậy hở bà?

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Già nghĩ mãi chẳng hiểu cô nương làm cách nào chế ngự một tay lợi hại cỡ Già Tinh đại sư? Lão ấy cam khuất phục cô nương trọn vẹn kể cũng lạ lùng thật!

Thủy Thiên Cơ lại cười:

- Trên thế gian này có nam nhân nào tôi không chế phục được hở bà?

Bỗng nàng nhảy vọt lên thuyền, đứng trước một ống đồng ăn thông vào vuông phòng thốt:

- Cho ngươi biết được một tin lành! Hôm nay có món ăn khá lắm.

Theo ống đồng thông hơi một âm thinh vọng ra:

- Phải chăng mình có...

Thủy Thiên Cơ dịu giọng:

- Hiện tại ngươi không nên hỏi gì cả. Ngươi cứ làm công quả buổi sáng cho xong đi, khi nào xong thì ta sẽ tường thuật cho ngươi biết.

Ngươi hiểu chứ?

Người bên trong vuông phòng đáp:

- Được ! Ta nghe ngươi ?

Thủy Thiên Cơ mỉm cười, dù nụ cười của nàng, người bên trong chẳng thấy.

Nàng tiếp:

- Nghe ta như vậy là tốt lắm dó. Bây giờ ta đi làm một vài món ăn cho ngươi.

Tất cả những vật dụng trong ngôi nhà cây lá đó đều bằng loài vật biển.

Một chiếc vỏ rùa biển làm mặt bàn, ngoài ra như bình nước chén, muỗng đĩa cũng đều bằng vỏ hến, vỏ sò, vỏ rùa con...

Đặc biệt nhất trong nhà có một chiếc giường treo.

Lúc mệt, leo nằm đó, chao chao chiếc giường lắc lư như nằm võng, con người khoan khoái làm sao!

Vạn lão phu nhân tán thưởng:

- Không ngờ ở tại một hòn đảo hoang vu lại có những vật này!

Khoan khoái vô cùng?

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Khoan khoái?

Nụ cười của nàng tắt dần dần.

Nàng mất nụ cười, thần sắc trở nên trầm buồn, từ từ thốt:

- Dù nơi đây có đủ những tiện nghi, có những cao lương mỹ vị, nhưng cái đó không bù lại được một điều hết sức khó chịu, nếu mình không nhẫn nại chịu đựng, tất dám tự tử lắm đó bà. Bà phải biết, thế mà tôi chịu đựng suốt bảy năm qua, kể ra tôi cũng kiên nhẫn lắm đó!

Nàng hỏi:

- Bà biết đó là điều gì chăng?

Vạn lão phu nhân đưa một nhận xét:

- Cái đó?

Thủy Thiên Cơ lắc đầu:

- Có nghĩa chi đâu bà? Điều mà tôi muốn nói đến, còn khó chịu hơn nữa kìa!

Vạn lão phu nhân trố mắt:

- Đau, ốm, lạnh, sợ? Đau ốm không thuốc thang, lạnh không y phục, không nhà kín, luôn luôn sống trong hãi hùng, trước những bất ngờ tai hại?

Thủy Thiên Cơ lại lắc đầu:

- Cũng chẳng thấm gì bà ơi! Hơn nữa kia!

Vạn lão phu nhân thở dài:

- Thế thì già đành chịu thôi! Theo ý già, những sự kiện do già vừa nêu ra là khó chịu nhất. Giả như không may gặp một sự kiện thôi, trong những sự kiện già cũng chết được rồi! Còn cái gì khó chịu hơn nữa chứ?

Thủy Thiên Cơ trầm buồn ra mặt:

- Bà có biết không? Điều khó chịu nhất, đáng sợ nhất, tại hoang đảo này là sự tịch mịch. Bà ăn cao lương mỹ vị, bà vẫn không quên tịch mịch. Bà ngủ ngon cách nào, khi ngủ đương nhiên chẳng sao, lúc thức dậy, bà kêu khổ liền, vì chung quanh im ắng quá!

Vạn lão phu nhân trầm ngâm một lúc đoạn thở ra:

- Cô nương nói đúng! Tịch mịch là điều đáng sợ nhất!

Còn ai hiểu tư vị của tịch mịch cho bằng bà?

Bà ngán sợ nó suốt mấy mươi năm qua, bà xuôi Nam ngược Bắc, xuống Đông lên Tây, cốt để tránh tịch mịch, trốn chạy nó.

Nó vẫn đuổi theo bà khắp bốn phương trời.

Trên thế gian này chẳng một ai cảm thông nổi niềm tâm tư của bà.

Tịch mịch là điều tàn ác nhất, nó hủy diệt tất cả ý chí, hy vọng, dung nhan...

Nó là nguồn gốc của tiều tụy, mỏi mòn, ủ rũ...

Tịch mịch đó là một nỗi khổ rồi lại chịu đựng sự tịch mịch đúng bảy năm.

Thủy Thiên Cơ mơ màng nhìn về phía cửa nhà...

Bên ngoài cánh buồm ngũ sắc vẫn sáng chói dưới ánh dương quang.

Lâu lắm, Thủy Thiên Cơ cất giọng xa xăm:

- Bảy năm qua!.... Mỗi năm có bao nhiêu ngày? Ngày nào cũng như ngày nào, cứ sáng là tôi kéo buồm ngũ sắc lên cao, rồi chiều đến, rồi hạ xuống!.... Buồm lên cao, hy vọng lên, một thứ hão vọng ảo huyền, một thứ hy vọng thuộc về vô vọng. Buồm hạ xuống hy vọng cũng tắt theo, để ngày mai lại vươn theo cánh buồm. Ngày ngày tôi kéo buồm lên cao cho hy vọng lên theo, để lúc họ buồm hy vọng tắt. Hy vọng tắt là tịch mịch trở về! Bao nhiêu chiều buông xuống trong suốt bảy năm? Bao nhiêu tịch mịch với những điều đó? Tuy nhiên.. tuy nhiên...

Vạn lão phu nhân thở dài:

- Tuy nhiên năm tháng trôi qua rồi, lâu dần cô nương có cảm tình với cánh buồm ngũ sắc!

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Đúng vậy! Tại sao bà biết?

Vạn lão phu nhân điềm nhiên:

- Già tuy là một kẻ vô dụng, nhưng cái số tuổi khá cao của già cũng giúp già thu được phần nào kinh nghiệm trên đường đời. Đối với nhân tình thế thái, già có một phần nhận xét ít sai ngoạ..

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Trong cảnh tịch mịch, nếu có một người từng trải thế thái nhân tình ở bên cạnh để sớm hôm giãi bày tâm sự thì còn gì bằng.

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Bởi cô nương có cảm tình đặc biệt với cánh buồm ngũ sắc cho nên cô nương trân trọng nó, giữ gìn nó được, bảy năm sau nó vẫn còn y như bảy năm trước!

Bà dừng lại một chút rồi tiếp luôn:

- Năm xưa, cánh buồm ngũ sắc có huy hoàng, cô nương không mảy may quan tâm đến vẻ huy hoàng cái nó. Bắt đầu từ hôm nay, nếu nó được ra khơi, nếu nó tỏa rực cái huy hoàng như ngày nào thì chính là cái công trình cô nương tái tạo cho nó. Cái huy hoàng của nó dẫn đầu cho cái huy hoàng của cô nương. Có đúng thế không?

Thủy Thiên Cơ nhắm mắt một lúc lâu, đột nhiên trầm giọng thốt:

- Bà lầm!

Vạn lão phu nhân cau mày:

- Già lầm?

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Bà đoán sai cái ý của tôi! Hoài bão của tôi là một ngày nào đó tôi cỡi con thuyền sứt mẻ này về lục địa thăm nhà! Tôi chỉ nghĩ đến việc trở về nhà ngoài ra chẳng có gì làm cho tôi phải trầm tưởng.

Vạn lão phu nhân sững sờ nhìn nàng một lúc:

- Thật thế sao?

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Thật thế, bà ạ!

Vạn lão phu nhân hỏi:

- Giá như bây giờ cô nương có thể trở về quê hương, cô nương nghĩ sao?

Thủy Thiên Cơ đáp nhanh:

- Thì tôi ly khai nơi đây tức khắc!

Vạn lão phu nhân lại hỏi:

- Cô nương có thể bỏ cái người trong vuông phòng sắt kia được chăng?

Thủy Thiên Cơ mở tròn đôi mắt:

- Tại sao tôi không ly khai được con người đó? Hắn với tôi chẳng có một điểm nhỏ liên quan... hà huống, Thủy Thiên Cơ là con người như thế nào, chắc bà cũng hiểu chứ?

Vạn lão phu nhân gật đầu:

- Năm xưa, cô nương là một nữ nhân vô tình nhất trần gian, lòng dạ của cô nương cứng hơn sắt đá, lạnh lẽo hơn giá băng. Ngày này, biết đâu vật đổi sao dời lòng người cũng biến đổi theo. Chịu đựng sự tịch mịch suất bảy năm dài, thiết tưởng là dù sắt đá, sắt đá cũng phải thay màu đổi sắc, huống hồ lòng dạ lại là một nữ nhân trong lứa tuổi mộng xuân?

Thủy Thiên Cơ cười lạnh:

- Bà cho rằng tôi phải thay đổi? Bà nghĩ rằng tôi có thay đổi?

Không đâu, bảy năm trước tôi như thế nào, thì bảy năm sau tôi vẫn như thế ấy! Thời gian, tịch mịch, có hiệu năng chuyển biến mọi sự vật trên đời, hiệu năng đó không ảnh hưởng đến tôi đâu bà!

Nhưng Vạn lão phu nhân quả quyết:

- Cô nương có biến đổi già tin chắc như vậy! Đối với vật vô tri vô giác như cánh buồm ngũ sắc kia, cô nương còn sanh cảm tình tha thiết thì đối với một người, làm sao tránh được mơ hoài?

Thủy Thiên Cơ thoáng giật mình:

- Tôi...

Vạn lão phu nhân mỉm cười tiếp:

- Đừng toan che giấu già điều chi cả, cô nương ! Đừng, bởi vô ích !

Giả như trong tâm cô nương có một niềm hy vọng đcp, thì làm sao cô nương chịu đựng nổi tịch mịch suốt bảy năm dài? Niềm hy vọng đó là nguồn nghị lực bất tận của cô nương. Và cô nương thấy rằng có một ngày nào đó, hy vọng trở thành sự thật, nên cô nương cố chịu đựng.

Thời gian chịu đựng dù trường kỳ, cô nương cũng không nao núng, miễn niềm hy vọng kia vẫn còn, miễn đừng có một sự việc gì đó giết chết niềm hy vọng!

Thủy Thiên Cơ gắng gượng hỏi:

- Niềm hy vọng của tôi?

Vạn lão phu nhân điềm nhiên đáp:

- Phải! Cô nương có một niềm hy vọng. Đến cả những ai lâm bịnh sắp sửa rơi vào vòng tay tử thần cũng còn niềm hy vọng, huống chi cô nương chưa thấy một hiện tượng nào rõ rệt diệt niềm hy vọng đó, thay vào bằng tuyệt vọng? Và niềm hy vọng của cô nương, ký thác nơi người ở trong vuông phòng kín đáo kia!

Bà nhìn thẳng vào ánh mắt Thủy Thiên Cơ. Bà như thấy rõ tâm tư của nàng.

Thủy Thiên Cơ run người lên ấp úng:

- Tôi... tôi...

Bỗng nàng ngã người vào mình Vạn lão phu nhân bật khóc to lên.

Trước kia nàng có vô tình như Vạn lão phu nhân đã nói chăng?

Hay chỉ là một trò chơi nguy hại, nhốt cảm tình kín đáo để mang cái mặt nạ giá băng lừa người đời?

Trong lứa tuổi bảy năm về trước của nàng, nàng có quyền đùa cợt, không ai cấm nàng, nhưng nàng phải đề cao cảnh giác những trò đùa đó, sẽ có ngày hướng trở lại nàng, và vô hình chung nàng tiếp nhận những hậu quả của trò đùa.

Đừng ai bỡn cợt với cảm tình!

Trong bảy năm qua sống tịch mịch giữa hoang đảo, nàng còn gặp ai đâu để đùa dai?

Không đùa được, lại chịu áp lực cửa tịch mịch, ngày qua ngày tình cảm nhốt kín bỗng nhiên bốc dậy.

Cái gì dồn ứ, khi bốc lên, là phải bốc mạnh, bốc gấp, bốc như tranh thủ thời gian, bắt lại những tháng năm bỏ phí.

Cái gì dồn ứ, khí vỡ ra là chẳng có mãnh lực nào ngăn chặn nổi.

Vạn lão phu nhãn dùng mấy câu tâm tư xui xỉa cho cái vỏ kín đáo của nàng thủng đi mấy lỗ, tình cảm nhốt kín vọt ra liền.

Tình cảm vọt mạnh, cuốn theo dòng suối từ bao giờ chưa vơi một hạt, suối lệ của lứa tuổi thanh xuân...

Khóc!

Lần thứ nhất, Thủy Thiên Cơ khóc, đương nhiên là nàng khóc bù trừ, cái khóc của nàng phải mãnh liệt.

Nàng khóc ồ ồ, hay suối lệ chảy ồ ồ?

Có thể là cả hai.

Vạn lão phu nhân đưa tay vuốt nhẹ qua lại hai bên bờ hai của.

nàng, miệng bà điểm một nụ cười kín đáo.

Bà cười, vì bà biết rõ số phận của bà được yên ổn rồi.

Bởi, bà đã chinh phục được Thúy Thiên Cơ, còn ai dám chạm đến bà nữa chứ?

Nàng đang cần bà, còn ai hiểu rõ nàng khuyên dỗ nàng có hiệu lực bằng bà?

Thì khi nào Thủy Thiên Cơ chấp nhận cho bất kỳ ai hãm hại người tri kỷ của nàng là bà đó?

Gió bây giờ thổi nhẹ.

Gió rất mát có phần nào ấm áp chứ không lạnh như trước nữa.

Vạn lão phu nhân dịu giọng:

- Cô nương! Bình tâm tịnh trí đi cô nương, có điều chi cứ nói cho già biết, già sẽ giúp ý kiến cho!

Thủy Thiên Cơ thốt qua nức nở:

- Tôi... Tôi phải bắt đầu thuật lại từ đoạn nào?

Vạn lão phu nhân ôn tồn hỏi:

- Trước hết cô nương cho già biết người trong vuông phòng kia là ai?

Thủy Thiên Cơ buông từng tiếng một, ngập ngừng:

- Chính là... gã to đầu...

Vạn lão phu nhân rú lên thất thanh:

- Hắn?

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Ừ!

Hồi 52

Cực Hình Tịch Mịch

Vạn lão phu nhân hết sức lấy làm lạ, không hiểu tại sao một mỹ nhân lại có thể tha thiết với lão to đầu.

Từ cổ chí kim, gái sắc phải sánh với trai tài, gái sắc cũng phải có học, trai tài cũng phải khôi ngô.

Trai tài, không khôi ngô cũng đừng mong có mắt xanh để ý.

Huống chi, Thủy Thiên Cơ từng nổi tiếng là vô tình?

Một nữ nhân vô tình, khi động tình hẳn phải có một động cơ phi thường chứ?

Con người được lọt vào mắt xanh của nàng hẳn phải phi phàm về tài, cũng như về mạo.

Người trong vuông phòng kia, về tướng mạo cầm như dưới mức bình thường.

Còn về tài?

Bà lẩm bẩm:

- Thì ra hắn!.... Hừ!.... Hắn thông minh, hắn trầm tĩnh, hắn biết gây hoan hỉ nơi người... Hắn xứng đáng cho một thiếu nữ giao phó trọn cuộc đời trong tay hắn!

Bà nói thế nghĩa là làm sao?

Bà có mỉa mai chăng hay bà vuốt ve tự ái của Thủy Thiên Cơ? Dù sao nàng không bao giờ thấu đáo nội tâm và ý của mụ hồ ly này.

Bởi giọng nói của bà êm dịu quá, thái độ của bà thành thật quá!

Thủy Thiên Cơ thốt:

- Tôi chẳng biết làm sao tôi lại có thể...

Vạn lão phu nhân mỉm cười:

- Làm gì cô nương hiểu được tại sao mình bỗng nhiên lại có cảm tình tha thiết với hắn? Loại cảm tình đó, đến với chúng ta bất ngờ hơn một tiếng sét nữa cô nương ơi! Chính những lúc bất ngờ nhất, nó lại đến với ta! Cho nên, có những trường hợp thiếu nữ ghét cay ghét đắng một nam nhân, bỗng chốc phát hiện ra mình không thể thiếu vắng nam nhân đó được. Và thời thường thì quá muộn, bởi nam nhân kia, có gan đâu chịu đựng sự phũ phàng của thiếu nữ mà ôm ấp sự khinh miệt chờ đợi một ân huệ bố thí?

Thủy Thiên Cơ mơ màng:

- Tôi như vậy có là bạc không hở bà?

Vạn lão phu nhân vội trấn an nàng:

- Không đâu, cô nương không lầm! Chỉ cần biết tình yêu có chân thành hay không, chính đó là điểm chánh, chứ còn việc chọn người, đứng ngoài cuộc còn ai dám có ý kiến gì? Huống chi đã chắc đâu ý kiến của người người là đúng? Cho nên luận tình nên luận chân hay giả, và điều đó chỉ có mỗi một cô nương biết cho cô nương thôi, già đành chịu?

Rồi bà hỏi:

- Tại sao hắn tự giam mình trong phòng kín suốt bảy năm dài?

Thủy Thiên Cơ không đáp câu đó, chỉ thở dài:

- Tôi sợ khi ra ngoài rồi hắn không sống nổi!

Vạn lão phu nhân trố mắt:

- A! Tại sao?

Thủy Thiên Cơ thốt:

- Vuông phòng đó là kho sách của Tử Y Hầu!

Vạn lão phu nhân kêu lên:

- Kho sách?

Bà lộ vẻ khích động mạnh, run giọng tiếp:

- Nếu thế trong đó hẳn có những bí kíp võ công của Tử Y Hầu?

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Sở học bình sanh của Tử Y Hầu đều thu gọn trong gian phòng đó!

Vạn lão phu nhân biến đổi thần sắc đến không còn là bà nữa.

Trên thế gian, những người học võ có ai nghe tin đó mà chẳng rung động cả tâm thần?

Và bất cứ ai cũng phải biến đổi thần thái như Vạn lão phu nhân cả.

Lâu lắm bà mới lấy lại bình tĩnh.

Rồi bà từ từ thốt:

- Cô nương nói phải! Giam mình trong suốt bảy năm đó, hẳn hắn học hết những sách của Tử Y Hầu, hắn sẽ đọc hết sở học của Tử Y Hầu, hắn am tường tất cả tinh túy của võ công, có điều công lực của hắn kém phần nào đó. Một khi hắn ra khỏi phòng, thì Già Tinh đại sư sẽ hạ thủ đoạn, hắn sẽ không thoát khỏi tay lão ấy. Thật ra chẳng phải một mình Già Tinh đại sư có ý đó mà thôi, già sợ tất cả những luyện võ trên thế gian này...

Thủy Thiên Cơ thở dài:

- Ai ai cũng có ý sát hại hắn. Chính tôi đây ngày sau có cơ hội trở lại lục địa, tôi cũng không dám để cho hắn trở về.

Vạn lão phu nhân gật đầu:

- Vậy là chu đáo! Hiện tại chỉ có mỗi một mình Già Tinh đại sư có ý sát hại hắn, nhưng khi trở về Trung Thổ rồi cái số người mong tàn diệt hắn không nhỏ đâu, nếu già chẳng nói là có thể tất cả hào kiệt võ lâm đều có ý đó!

Ánh mắt của Thủy Thiên Cơ ngời tia sáng kỳ dị, chẳng rõ trong tâm tư nàng có những ý niềm gì đột hiện.

Nàng ngẩng đầu lên nhìn ra ngoài, cánh buồm ngũ sắc lộng gió phần phật, mơ màng một lúc, sau cùng thong thả buông từng tiếng:

- Tuy nhiên khi hắn lãnh hội trọn vẹn sở học của Tử Y Hầu thì trên thế gian này có ai thừa sức lấy tánh mạng của hắn? Đành là như bà nói, công lực cũng dự một phần trong cái thế bại thành, song võ thuật vẫn thắng võ lực!

Vạn lão phu nhân cười nhẹ:

- Và đến lúc đó, hắn đương nhiên trở thành một môn đệ tiếp nhận y bát chân truyền của Tử Y Hầu, hắn sẽ trương cánh buồm ngũ sắc lộng gió khơi... hắn sẽ giương oai khắp giang hồ!

Thủy Thiên Cơ thở dài:

- Chỉ mong được như lời bà!

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Cho nên, cô nương cam tâm chờ đợi, âm thầm với tịch mịch mà chờ đợi. Thọ nhận mọi gian khổ mà chờ đợi. Cô nương không oán hận phong ba bão táp đưa đẩy mình đến hoang đảo này, đương đầu với mọi thiếu thốn, chẳng qua niềm hy vọng đẹp trong tâm kia tạo nghị lực cho cô nương!

Thủy Thiên Cơ mơ màng:

- Thật ra tôi không tha thiết chi lắm đến một viễn ảnh huy hoàng... mà chỉ vì tôi...

Vạn lão phu nhân mỉm cười:

- Làm sao cô nương không tha thiết? Tất cả những gì thuộc về tương lai hắn, phải có liên hệ đến cô nương chứ! Khi cái danh của hắn gây chấn động bốn phương trời, thì nơi chiếc thuyền có cánh buồm ngũ sắc phải có một nữ chủ nhân!

Thủy Thiên Cơ thở ra:

- Nhưng tôi... tôi lại...

Vạn lão phu nhân cười khanh khách:

- Ngôi vị nữ chủ nhân, ngoài cô nương ra còn ai chiếm được?

Đột nhiên Thủy Thiên Cơ thoáng đỏ mặt.

Rồi nàng cúi đầu.

Vạn lão phu nhân chớp liền ánh mắt mấy lượt vụt thốt:

- Còn một vài điểm già chưa được hiểu!

Thủy Thiên Cơ hỏi:

- Những điểm chi đó bà?

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Già Tinh đại sư sợ có người tranh đoạt bí kíp võ công của Tử Y Hầu nên cam tâm tình nguyện ở lại hoang đảo này, chịu khổ, chịu cực suốt bảy năm qua, không chịu trở lại Trung Nguyên.

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Bà đoán đúng thâm ý của lão ta!

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Tại sao lão vâng lời cô nương như một tên nô lệ? Điều khiển được một người cỡ đó, nào phải dễ dàng?

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Tự nhiên là phải khó khăn, song tôi có phương pháp!

Không đợi Vạn lão phu nhân hỏi. nàng giải thích luôn:

- Già Tinh đại sư dù cao cường, vẫn còn dục vọng. Khi lão muốn chiếm đoạt một cái gì, lão phải thủ đắc vật đó, nếu vật chưa về tay, lão không chịu bỏ cuộc!

Vạn lão phu nhân trố mắt:

- Cô nương muốn nói đến bí kíp võ công của Tử Y Hầu?

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Phải! Nếu lão ta không vâng lời tôi, tôi bảo Hồ Bất sầu hủy diệt những bí kíp đó ngay. Trước khi lão nhìn qua những bí kíp đó, vô luận làm sao lão không để bất cứ ai hủy diệt. Cho nên lão nhẫn nại, chờ đến khi nào thấy được rồi hãng hay!

Vạn lão phu nhân thở dài:

- Đợi như vậy khi Hồ Bất Sầu ra khỏi phòng kín, chẳng những lão không mong chiếm đoạt gì, mà đến tánh mạng lão cũng chẳng bảo toàn nổi!

Thủy Thiên Cơ cười khổ:

- Biết vậy rồi, song lão còn làm sao khác hơn?

Nàng dừng lại một chút đoạn tiếp luôn:

- Bỏ nơi đây, về lục địa là không hy vọng được gì. Ở lại đây lão còn hy vọng, dù là mỏng manh. Miễn có hy vọng là đủ, lão cần gì mỏng manh hay vững chắc? Bởi có hy vọng bao giờ cung dễ chịu hơn là vô vọng!

Vạn lão phu nhân thở dài:

- Cô nương nói đúng? Con người có dục vọng là có nhược điểm. Vì dục vọng, họ phô bày rõ rệt nhược điểm cho đối phương lợi dụng dễ dàng. Sở dĩ thế, Già Tinh đại sư mới bị cô nương chế ngự.

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Đó là nhược điểm của nhân tánh!

Vạn lão phu nhân trầm ngâm một chút:

- Thế ra, ai ai cũng có nhược điểm?

Thủy Thiên Cơ cười nhẹ:

- Ai có nhân tánh là có nhược điểm. Trừ khi mất nhân tánh thì lại khác!

Vạn lão phu nhân chớp mắt:

- Không ngờ cô nương lại am tường nhân tánh hơn cả già, hơn nhiều!

Thủy Thiên Cơ không nói gì nữa.

Một lúc lâu, nàng vụt hỏi:

- Bà từ Trung Thổ đến đâu chắc bà hiểu rõ tình hình võ lâm nơi đó chứ? Bà có thể cho biết đại khái như thế nào chăng?

Vạn lão phu nhân cười hì hì:

- Có khác gì như trước đâu, cô nương còn phải hỏi? Cũng hỗn loạn, cũng kết oán gây thù chém giết lẫn nhau, cũng tranh giành đoạt lợi cũng đuổi bắt, trốn tránh, khiêu khích nhau trên khắp bốn phương trời.

Trừ khi nào người trong võ lâm chết sạch, thì võ lâm mới cải biến bộ mặt. Mà người trong võ lâm chết sạch thì còn gì là võ lâm nữa?

Thủy Thiên Cơ đưa ánh mắt ra phương trời xa thẳm một lúc lâu nàng cất giọng trầm buồn hỏi:

- Còn... tiểu tử đó... giờ đây hắn đã trưởng thành rồi?

Hỏi như thế là hỏi làm sao?

Con người nếu chưa chết, thì năm tháng trôi qua cũng có lúc phải trưởng thành chứ?

Có ai bảy năm trước là một đứa bé, bảy năm sau vẫn là một đứa bé được sao?

Chắc là nàng muốn hỏi về sự đắc thất, bại thành trên đường dời hơn là sự lớn lên của tiểu tử!

Tiểu tử mà nàng nhắc nhở đây là ai?

Vạn lão phu nhân mỉm cười:

- Cô nương hỏi đến cái tên chồng nhỏ bé của cô nương?

Chồng nhỏ là chồng trẻ vợ già, chứ chẳng phải chồng hai, chồng bạ..

Bất giác, Thủy Thiên Cơ đỏ mặt cười gượng:

- Hắn ra sao?

Vạn lão phu nhân đáp:

- Tự nhiên hắn phải trưởng thành, hắn đâu có đứng một chỗ cho thời gian đi qua?

Thủy Thiên Cơ lại hỏi:

- Tôi muốn biết về tình huống của hắn kìa?

Vạn lão phu nhân lại cười:

- Chẳng những càng lớn lên hắn càng tuấn tú, khôi ngô, mà tánh tình hắn càng ôn nhu, hòa dịu vô cùng. Già đây lăn lộn trên giang hồ hơn mấy mươi năm, chưa từng trông thấy một chàng trai nào đẹp bằng hắn. Hắn đúng là đệ nhất mỹ nam tử ngày nay! Ngoài ra, hắn...

Thủy Thiên Cơ chớp mắt, chận lời:

- Ngoài ra, hắn có vũ công rất khá!

Vạn lão phu nhân bật cười ha hả:

- Nếu chỉ là khá thôi, thì còn nói làm gì? Cho cô nương biết hiện nay hắn là đệ nhất anh hùng trong võ lâm đấy!

Thủy Thiên Cơ hân hoan ra mặt điểm nụ cười nhẹ:

- Tôi biết lắm mà! Ngày trước tôi đã nhận ra hắn có phẩm chất phi phàm!

Vạn lão phu nhân bật cười khanh khách:

- Sở dĩ thế cô nương mới ưng thuận làm vợ hắn!

Thủy Thiên Cơ cũng cười:

- Ngày trước đùa vui, ngờ đâu lại thích thú quá độ. Có thể... có thể giờ đây hắn đã quên mặt người vợ già của hắn ngày nào...

Rồi nàng thở dài đứng lên, vụt hỏi:

- Bây giờ hắn ở đâu?

Vạn lão phu nhân chớp mắt rồi cũng thở dài:

- Hắn là bậc đại anh hùng, đại hào kiệt, khi nào tiếp xúc với cỡ người như già mà già biết được hành tung của hắn?

Thủy Thiên Cơ nhìn ra bên ngoài cửa, trông thấy ánh dương quang lung linh trên cành lá mơ màng, một lúc lâu, rồi lẩm bẩm:

- Chỉ mong hắn sống được yên lành!

Phương Bửu Ngọc cứ đi lên, lên mãi.

Đột nhiên chàng không còn nghe tiếng chân vang lên từ phía hậu, bất giác giật mình quay lại trông thấy tiểu công chúa lẽo đẽo ở sau xa.

Chàng bước không nhanh lắm, tại sao tiểu công chúa chẳng theo kịp?

Chàng hết sức kỳ quái, đứng lại đó chờ.

Tiểu công chúa hấp tấp bước lên, ngực nàng phập phồng, hơi thở dập dồn, màu đỏ nơi gương mặt biến thành sắc trắng, trông đáng sợ.

Phương Bửu Ngọc kinh hãi kêu lên thất thanh:

- Cô nương làm sao thế?

Tiểu công chúa vừa thở hào hển vừa đáp:

- Không sao cả... Chẳng sao cả...

Phương Bửu Ngọc trầm giọng:

- Cô nương bệnh?

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Thế ngươi mong ta mắc bệnh à?

Phương Bửu Ngọc cười khổ:

- Đâu phải! Tại hạ lo sợ cho cô nương mà?

Tiểu công chúa cười lạnh:

- Đa tạ ngươi! Ta chết hay sống mặc ta, ngươi quan tâm làm chi?

Phương Bửu Ngọc thở dài, không nói gì nữa quay mình lặng lẽ bước đi.

Thang mây cao vút, vút tận nền trời, thang dẫu dài, cũng có lúc phải tận cùng.

Và cuối cùng Phương Bửu Ngọc cũng lên đến tận đầu thang trên đỉnh núi.

Đến nơi rồi đảo mắt nhìn quanh chàng giật mình sững sờ tại chỗ.

Theo sự tưởng tượng của chàng, một nơi có nhiều sự tích trở thành thần thoại, được truyền thuyết trên giang hồ từ nhiều năm qua, dù không được kiến tạo với châu ngọc, với bạc vàng thì ít nhất cũng có một vẻ huy hoàng hùng vĩ nào đó.

Không! Nơi đây chẳng có gì đặc biệt cả!

Sương trắng lạnh lùng, chỗ dày chỗ mỏng, sương bao phủ khắp đầu non, sương giăng mắc trọn mặt hồ bởi hình ảnh trước nhất đập vào mắt chàng là một mặt hồ, vì sương giăng che khuất tầm mắt, không không rõ mặt hồ rộng lớn được bao trượng, vuông, tròn.

Sương trắng, nước hồ cũng trắng.

Trong tầm mắt chàng một màu trắng đục hiện ra.

Bạch Thủy Cung? Ở đâu? Nói đến cung phải nghĩ ra những nhà ngang, nhà lầu, nhà trệt có tường, có hoa viên... Tóm lại phải nghĩ đến một công trình kiến trúc đại quy mô, bởi cung phải chứa đựng hàng trăm, hàng ngày người.

Cung ở đâu?

Chàng nhìn quanh quẩn cố vận dụng nhãn lực soi màn sương tìm một hình ảnh, chứng thật sự hiện diện của cung.

Vô ích !

Trước mắt chàng là nước, chung quanh chàng, là sương!

Phương Bửu Ngọc đứng bên bờ hồ, quan sát một lúc lâu, rồi chờ đợi một lúc, cuối cùng chàng cao giọng thốt:

- Cho Bạch Thủy Cung chủ hay Phương Bửu Ngọc đã đến đây, và Phương Bửu Ngọc cầu kiến!

Âm thinh của chàng vọng vào khoảng không nhưng mặt hồ phản dội lồng lộng.

- Phương Bửu Ngọc cầu kiến!.... Phương Bửu Ngọc cầu kiến!....

Chỉ có tiếng dội, không có tiếng hồi đáp.

Tiểu công chúa lạnh lùng:

- Rống mãi mà kêu, kêu mãi đến rách toạc cổ cũng chẳng có ai đáp ứng đâu!

Phương Bửu Ngọc trố mắt:

- Tại sao?

Tiểu công chúa cười mỉa:

- Tại vì bà ấy đưa ra một vấn đề khó cho ngươi. Một vấn đề thứ nhất đây, dẫn đầu cho vô số vấn đề khác, cũng nan giải như nhau!

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- A ! Nhưng...

Bỗng chàng cười tiếp:

- Cô nương cho rằng chẳng ai chú ý đến tại hạ? Cô nương xem kìa, cái gì lướt đến đó?

Trong màn sương trắng, trên mặt hồ, có bóng một chiếc thuyền.

Con thuyền từ từ rẽ nước tiến về phía chàng Nhưng chẳng thấy bóng người trên thuyền.

Chờ con thuyền đến sát bờ rồi, Phương Bửu Ngọc nhảy xuống.

Trong thuyền có người, song người nằm sát lườn thuyền, phần có sương mờ che khuất nên từ xa Phương Bửu Ngọc không thấy rõ.

Người trong thuyền, thuyền tiến đến phía chàng tức nhiên người đến nghinh tiếp chàng, thế tại sao lại nằm sát lườn thuyền?

Chàng hết sức lấy làm lạ, bước tới lật ngửa người đó lên.

Mặt người đó trắng nhợt, đôi mắt nhắm nghiền, chừng như hắn đã ngưng thở.

Gương mặt đó, không lạ lùng gì đối với Phương Bửu Ngọc.

Trời ! Có thể như thế được sao?

Phương Bửu Ngọc kêu lên:

- Thiết Nhiệm đạo trưởng!

Đạo nhân hôn mê trầm trầm.

Tiểu công chúa cũng đã xuống thuyền, lạnh lùng thốt:

- Thế là xong cho lão?

Phương Bửu Ngọc không nói gì, quan sát khắp người đạo nhân.

Không có dấu vết chi cả. Chàng làm mọi phương pháp cấp cứu, song vẫn vô hiệu quả, đạo nhân mê man trầm trầm.

Bên trong, người lo cho người, bên ngoài con thuyền cứ bềnh bồng trên mặt nước.

Phương Bửu Ngọc nóng lòng như ngọn lửa đốt cao ngọn bên trong, song chẳng làm gì được cho đạo nhân, chàng lại nhìn khắp mặt hồ, chẳng thấy một chiếc thuyền nào khác.

a xa hơn phía bờ cũng không có một mái nhà.

Bạch Thủy Cung ở đâu?

Còn cung chủ? Đã trở lên đây trước chàng, bà ta hiện giờ ở đâu? Về cung hay còn lẩn khuất đâu đây, theo dõi từng cử động của chàng?

Chàng lẩm bẩm thành lời cái ý nghĩ đó.

Tiểu công chúa nhìn chàng chăm chú.

Chàng lại lẩm bẩm:

- Phải chi có nàng tại đây!

Tiểu công chúa bĩu môi:

- Ngươi nhắc đến người vợ già của ngươi?

Phương Bửu Ngọc thở dài buông tình theo ý nghĩ của chàng:

- Phải chi có nàng tại đây, nàng không...

Tiểu công chúa cười lạnh:

- Nàng không thể để ngươi nguy khốn? Đúng vậy chăng?

Phương Bửu Ngọc cười khổ:

- Ít nhất nàng cũng...

Tiểu công chúa hừ một tiếng:

- Còn ta, ta an nhiên để ngươi thọ khốn nguy?

Phương Bửu Ngọc lắc đầu:

- Tại hạ đâu có ý nghĩ như vậy, cô nương ! Tại hạ chỉ...

Tiểu công chúa đột nhiên hét lớn:

- Ngươi có ý nghĩ đó ! Đã có ý nghĩ đó, sao ngươi còn giữ ta nơi đây.

Ngươi... ngươi.....ngươi...

Bất thình lình nàng nhún chân, nhảy xuống hồ.

Một tiếng ùm vang lên, bọt nước bắn tung tóe, bọt nước rơi xuống rồi mặt nước khép lại, vùi sâu tiểu công chúa mất dạng.

Lâu lắm, nàng vẫn chưa trồi lên mặt nước.

Sương xuống dày hơn trước đó. Phương Bửu Ngọc còn nhìn được xa, bây giờ chàng nhìn không ngoài mấy trượng.

Trong màn sương đó, Phương Bửu Ngọc đơn độc với con thuyền bềnh bồng...

Tại hoang đảo, dương quang càng lúc càng sáng..

Thủy Thiên Cơ nhìn ánh dương quang một lúc lâu, bỗng quay đầu lại điểm phớt nụ cười:

- Đã đến giờ ăn rồi! Hôm nay, có món ăn ngon, tôi có thể làm một bụng no nê bù trừ những lúc thiếu thốn. em ra, bà cũng tốt phúc lắm đấy nhé. Bây giờ bà ngồi đây, hơn nữa...

Tốt phúc? Cái đó đã hẳn rồi! Bởi vật thực, là của bọn Vạn lão phu nhân, Công Tôn Hồng, Mai Khiêm.

Quái nhân cướp đoạt bắt bà mang về cho nàng dùng, bất quá nàng lấy của người đãi người chứ nào phải của gì nàng mà nàng mang ra đãi người khác, lại gọi người ta tốt phúc?

Chẳng khác nào kẻ cướp thu đoạt tài sản của người, bắt luôn người về trại, dùng tài sản đó nuôi lại người để cho người sống người phục dịch cho, rồi lại gọi là nhờ mình mà người được ấm no!

Vạn lão phu nhân làm gì có thể ngồi bất động tại chỗ mà chờ ăn?

Bà thốt:

- Già muốn dạo quanh bên ngoài một lúc!

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Cũng được nhưng phải lưu ý đấy nhé bà. Lạc đường thì khổ!

Vạn lão phu nhân cười lớn:

- Già xuôi ngược trên giang hồ từ lúc mười tám tuổi, sáu Bắc bảy Nam mười ba tỉnh khắp Trung Nguyên, nơi nào cũng có dấu chân già, già vẫn thuộc đường như lòng bàn tay! Không lạc đường tại một lãnh thổ lớn, thì khi nào lại lạc tại một chỗ nhỏ hẹp như thế này?

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Vậy càng hay cho bà. Nhưng phải nhớ là về sớm, nếu bữa ăn xong rồi mà bà chưa về, thì mặc bà đấy.

Nàng thốt với giọng vui, hứng thú dâng tràn, miệng nở nụ cười...

Trông nàng đẹp rạng rỡ quá chừng.

Vạn lão phu nhân chắp tay sau lưng ung dung bước ra ngoài, bà từ từ bước, như người vô sự rời nhà ra đi là một cuộc nhàn du, song vừa khuất tầm mắt Thủy Thiên Cơ, bà bước gấp liền.

Không lâu lắm bà rời khỏi khu rừng.

Nơi miệng bà một nụ cười bí hiểm hiện lên, bà lẩm bẩm:

- Mỗi cá nhân đều có ít nhất cũng một nhược điểm. Ngươi nói phải đấy Thủy Thiên Cơ. Nhưng ngươi cũng biết là ngươi cũng có nhược điểm như mọi người chăng?

Bỗng bà ngưng câu nói.

Lưỡi bà cũng cứng lại bởi bà thấy một sự kiện hết sức hãi hùng và cái điều bà trông thấy nếu chẳng ai chính mắt trông thấy như bà chắc chắn là chẳng hề tin được nếu chỉ nghe thuật lại thôi.

Bà thấy điều gì?

Thái dương lên cao, chiếu sáng rực bờ hải đảo, cái vàng khô ướt lẫn lộn, chớp ngời óng ánh.

Trên bãi cát, có chiếc đầu người. Đầu người cũng chẳng phải là một sự lạ, bởi những nhân vật võ lâm có ai chẳng hơn một lần thấy xác chết? ác toàn vẹn hoặc xác cụt chân cụt tay, hoặc xác không dầu, hoặc một chiếc đầu thôi còn xác đã thất lạc nơi nào.

Song sự lạ là một chiếc đầu ở trên bãi cát hoang vu và chiếc đầu đó lại chuyển động.

Chiếc đầu đó đưa ót về phía bà, và giờ đây nó từ từ quay lại, quay về hướng bà.

Bà kinh khiếp cực độ, thân hình run run, đôi chân như nhũn lại.

Thoạt trông thấy chiếc đầu, bà còn sợ là mình hoa mất vì ánh nắng thành trông lầm.

Chà đôi mất mấy lượt, bà nhìn lúc đó bà mới chắc chắn là một chiếc đầu người thật sự.

Đầu người chẳng những chuyển động được đến chiếc miệng cũng chuyển động luôn.

Miệng lại thốt thành lời, và chiếc đầu đó bảo:

- Ai? Lại đây xem nào!

Vạn lão phu nhân nghe tim mình ngừng đập, cặp mắt chẳng còn hạt máu.

Lạ lùng thay, đôi chân nhũn, lại nặng. Giá như bà nhấc chân lên được có thể bà thoát chạy liền và chạy rất xa.

Đôi mắt ma quái đó, nhìn bà trừng trừng.

Và đôi mắt đó, chẳng phải của ai xa lạ, chính là Già Tinh đại sư.

Tại sao?

Già Tinh đại sư chỉ còn lại một chiếc đầu? Ai sát hại lão? Cắt đầu lão bỏ lại đây, người đó mang xác lão đi đâu?

Vạn lão phu nhân sợ hãi đến lặng người.

Bình sanh bà gặp nhiều cảnh gian nguy, hung hiểm, song mỗi lần hoạn nạn bà có thừa cơ trí tự giải thoát lấy mình.

Nhưng ra đến hoang đảo này bà biến thành một kẻ ngu xuẩn nhất đời. Bao nhiêu trí tuệ như để lại tại cửa sông trước khi ra khơi, cái linh lợi biến ứng giờ đây nhụt cùn, chẳng khác nào một mũi dùi nhọn ngày ngày đục đá, lâu dần trở thành một thỏi sắt thô kệch.

Sự việc trước mất rất giản đơn, thế mà bà không nghĩ ra!

Cát thì mềm, cát vun lên, có khác nào một tấm nệm êm, Già Tinh đại sư vùi mình trong cát để ló độc một chiếc đầu, và chiếc đầu xoay theo hướng tùy thích.

Bất chợt lão trông thấy Vạn lão phu nhân nhìn trừng trừng.

Dù cho ai cũng biết rõ, hiện tại lão bực tức phi thường sự bực tức đó lão nuôi dưỡng từ bảy năm qua, càng ngày nó càng lớn mạnh và lão đâm hằn học với bất kỳ ai, với tất cả mọi người.

Lão có đổ sự bực tức đó lên đầu Vạn lão phu nhân kể cũng chẳng lạ lùng gì.

Già Tinh đại sư nhe hai hàm răng trắng nhởn phát lên một tràng cười khanh khách hỏi:

- Ngươi sợ?

Vạn lão phu nhân ấp úng:

- Già... già...

Bà quen miệng, đối với ai, cũng xưng già, đối tượng là ai có bao nhiêu tuổi.

Trừ ra, những người uy hiếp được bà, những người đó mới được nể trọng phần nào và bà đổi lối xưng hô.

Già Tinh đại sư gọi:

- Ngươi bước lại đây xem thử đi!

Như mất cả tự chủ Vạn lão phu nhân từ từ bước tới chân bà như đeo đá, nặng chình chịch. Bước được một bước là đổ mồ hôi, khi bà đến gần Già Tinh đại sư thì y phục bà ướt sũng, chảy nước ròng ròng.

Già Tinh đại sư hỏi:

- em kỹ chưa? Có cái gì đáng sợ chăng?

Vạn lão phu nhân run run giọng:

- Đại sự.. đại sự..

Bỗng bà hét lên một tiếng nhún chân nhảy cao bật cười ha hả:

- Già đã thấy rồi!

Cát chơm chớp lấp lánh như sao.

Sóng cuộn vào bờ, ào ào trườn trên cát, rút lui để rồi trở lại sóng và cát đùa cợt nhau muôn đời, chạm nhau ầm ĩ song vẫn hòa thuận nhau, bởi chẳng bên nào bị bên nào gây thiệt hại.

Vì song phương cùng êm dịu, song phương cùng chịu nhau, chịu để mãi mãi giữ hòa khí với nhau.

Gần đây là bãi cát vàng, xa kia là trùng dương, trên cao là nền xanh thẳm trong veo chăng một vầng mây vấy bợn...

Cảnh đẹp bao la có đệm tiếng nhạc hải triều giữa cảnh đó, con người thấy khí hùng bốc mạnh.

Trong khung cảnh đó hiện lại có hai người, hay đúng hơn một người và một chiếc đầu lâu. Hai người đó có thưởng thức cảnh đẹp chăng? Hai người đó, có cảm thấy khí hùng bốc mạnh chăng?

Hay tâm tư của mỗi người có một cuộn tơ rối? Và nhiều ý niệm phức tạp đang dâng lên, xáo trộn tâm tư họ mãnh liệt phi thường?

Nhưng họ là những tay thừa kinh nghiệm, họ không hề để lộ một cảm nghĩ nào...

Vạn lão phu nhân trấn định tấm thần rồi bật cười vang, tiếp:

- Không ngờ đại sư ở đây khổ luyện võ công, già này nghe cũng lắm, thấy cũng nhiều, song không hiểu nổi đại sư luyện môn công thần bí gì. Chẳng hay đại sư có thể cho già biết qua?

Già Tinh đại sư cười khanh khách:

- Luyện công? Ta luyện công gì chứ?

Vạn lão phu nhân chớp mắt:

- Nếu đại sư không luyện công, thì đang làm gì? Chẳng lẽ đại sư làm một trò đùa cho già xem?

Già Tinh đại sư cũng cười, nhưng giọng cười có vẻ hằn học:

- Trò đùa? Ta còn tâm tình để đùa với ngươi được à?

Vạn lão phu nhân trố mắt:

- Thế thì đại sư làm gì đấy?

Già Tinh đại sư hừ một tiếng:

- Cho ngươi biết, con người ta lúc đói lả, không chịu nổi, nếu tìm chỗ cát ấm vùi mình, thì cảm thấy khỏe liền, khỏe như vừa ăn xong một bữa ăn ngon, ăn no vậy!

Vạn lão phu nhân giật mình, rồi vụt bật cười lớn:

- Thì ra là thế!

Già Tinh đại sư gạt ngang:

- Bao nhiêu đó đủ rồi, ta chẳng còn khí lực tiếp chuyện với ngươi lâu hơn. Ngươi đi đi!

Lão nhắm mắt liền.

Vạn lão phu nhân nhìn chiếc đầu tóc theo gió, lất phất phủ kín.

Bà chớp chớp mắt, điểm một nụ cười thốt:

- Tuân mạng!

Bà từ từ đứng lên, từ từ quay mình song mắt vẫn còn nhìn chiếc đầu.

Già Tinh đại sư tựa hồ không hề nhướng mí mắt.

Đi được hai bước, đột nhiên Vạn lão phu nhân quay nhanh mình lại, phóng chân đá mạnh vào mặt đại sư, ngay huyệt Nghinh Hương...

Tay, chân thân mình vùi sâu trong cát, chẳng những không thể tránh né mà còn vô phương đón đỡ cái đá bất ngờ đó.

Như vậy, Vạn lão phu nhân cầm chắc đắc thủ rồi.

Ngờ đâu Già Tinh đại sư bật cười ha hả, tràng cười vang lên lồng lộng, cát bắn lên tung tóe.

Từ trong cát, lão vụt đứng lên.

Lão đứng lên, đầu xê xích, cái đá của Vạn lão phu nhân dĩ nhiên tung vào khoảng không.

Chẳng những bà không thành công trái lại bà còn khó chịu vì cát bắn vào người bà từ đầu xuống chân, cát tạo thành một bức màn che khuất tầm mắt bà...

Bà chưa kịp làm một phản ứng gì, bàn tay của Già Tinh đại sư đã chụp vào yết hầu bà...

Vạn lão phu nhân hoảng sợ, song yết hầu bị chận nghẹt chẳng nói năng gì được chỉ ú ớ:

- Đại... đại... sư Bà nín luôn nói mà cũng nín thở.

Già Tinh đại sư bật cười ghê rợn:

- Ngươi là cái quái chi? Một lão súc sanh như ngươi làm gì hại ta nổi chứ?

Vạn lão phu nhân nghẹt thở, lè lưỡi dài thòng ú ớ:

- Thạ.. thạ..

Đại sư cười hắc hắc:

- Tha cho ngươi? Ngươi muốn giết ta, ta cũng muốn lấy mạng ngươi Điều đó rất công bình, điều đó rất công bình, bất quá ngươi không đắc thủ, còn ta lại thành công. Giả như ta chết thì giờ đây ngươi đâu mở miệng van xin ta, có phải vậy không?

Vạn lão phu nhân nghe đầu choáng váng, mắt hoa lên, óc nóng bừng bừng, tai khởi sự nổ lùng bùng. Kế tiếp, đôi mắt bà sôi ra như hai quả chanh, bà cố hết sức để nói mấy tiếng, song chẳng tiếng nào nói thoát ra được, chỉ nghe khét khét như khi gào.

Già Tinh đại sư càng phút càng bóp mạnh tay hơn.

Vạn lão phu nhân thấy bóng tối phủ trước mắt, tay chân run run, mồ hôi trán khởi đổ lấm tấm.

Bỗng Già Tinh đại sư buông tay.

Vạn lão phu nhân ngã xuống cát liền.

Già Tinh đại sư bật cười ha hả:

- Nếu ta giết ngươi như thế này, thì có khác nào cho ngươi chết sướng. Ngươi chết sướng ta lại không khoái! Cho nên ta định vùi đầu ngươi dưới cát sâu, cho ngươi...

Đang mất hết khí lực qua cái bóp cổ vừa rồi, Vạn lão phu nhân lại nhảy dựng lên được, song nhảy lên rồi, liền ngã xuống không đứng nổi, bà run run giọng kêu vang:

- Đại sư lầm rồi! Già này chẳng hề có ý hãm hại đại sư! Tại sao già phải có ý đó chứ? Đại sư! Già đang cần thương lượng với đại sư đây mà!

Một việc quan trọng lắm, đại sư ơi!

Già Tinh đại sư cười lạnh:

- Ngươi tưởng ta có thể nghe ngươi nói ma nói quỷ đấy à?

Vạn lão phu nhân lắc đầu:

- Không! Già không bịa chuyện đâu! Việc quan trọng lắm!

Già Tinh đại sư bắt đầu chú ý:

- Hừ!

Bỗng, lão chụp Vạn lão phu nhân nhấc cao, chân lên trời đầu xuống đất.

Lão muốn vùi đầu bà ta vào cát, cứ thế ấn xuông mãi bà sẽ bị chôn vùi.

Thân xác của bà chẳng nặng cho lắm, trong tay đại sư bà như một con gà, con thỏ. Vạn lão phu nhân kêu lên thất thanh:

- Đại sư! Buông già đi! Đại sư ơi ! Già vừa có một chủ ý giúp đại sư có gấp bí kíp võ công của Tử Y Hầu!

Câu nói đó có hiệu lực phi thường.

Già Tinh đại sư cấp tốc buông tay. Vạn lão phu nhân rơi phịch xuống cát ngồi thở dài.

Già Tinh đại sư trừng mắt hét:

- Ngươi nói thật hay bịa chuyện lừa ta?

Vạn lão phu nhân vừa thở,vừa đáp:

- Thật! Thật! Già có gan bao lớn lại dám lừa đại sư!

Già Tinh đại sư lại hét:

- Nếu vậy hãy nói gấp! Ngươi có phương pháp gì?

Vạn lão phu nhân lí nhí như có vẻ sợ hãi - Dễ! Dễ! Rất dễ đại sư ạ!

Bà ta đúng là một lão hồ ly, biết rõ Già Tinh đại sư mắc mưu rồi, bà trấn định thần sắc từ từ đứng lên.

Bà điểm một nụ cười bí hiểm.

Già Tinh đại sư gằn giọng:

- Dễ? Ngươi cho là dễ? Bảy năm qua ta nghĩ ngàn phương vạn phương song chẳng phương nào hữu dụng cả. Liễu đầu Thủy Thiên Cơ đó chẳng phải là một kẻ dễ đối phó!

Vạn lão phu nhân mỉm cười:

- Nàng lợi hại cách nào, võ công của nàng cũng kém, bì với đại sư sao được chứ?...Đại sư cứ vươn tay ra là chế ngự nàng ngay?

Già Tinh đại sư cười lạnh:

- Điều đó ta há chẳng biết sao? Nhưng ta chế ngự nàng rồi, Hồ Bất Sầu bên trong vuông phòng hủy diệt các pho sách liền. Ta còn hy vọng gì chứ?...

Vạn lão phu nhân cười nhẹ:

- Họ dùng oai bức hiếp đại sư, tại sao đại sư không trở mặt bức hiếp lại họ? Bức hiếp cách nào cho Hồ Bâ l Sầu không dám hủy diệt các pho bí kíp võ công.

Già Tinh đại sư thở dài:

- Ta có phương pháp gì bức hiếp lại họ được?

Vạn lão phu nhân quả quyết:

- Có! Phải có mới được ! Có cái chắc đó, đại sư!

Già Tinh đại sư sáng mắt lên:

- Như thế nào? Ta phải làm sao?

Vạn lão phu nhân chợt kêu lên:

- Sao lạ thế này...

Bà vỗ tay vào trán chách chách, tặc lưỡi:

- Lạ quá ! Chẳng trách già này hay lãng trí là thường. Mới nghĩ ra phương pháp đó, bỗng quên mất!

Già Tinh đại sư nhảy dựng lên, rồi giậm chân thình thịch:

- Quên? Quên cái gì nhanh chóng thế? Quên cái gì lạ thế?

Vạn lão phu nhân lại đấm tay vào đầu thình thịch thốt:

- Càng cao tuổi, già càng dễ quên!.... song nếu đại sư đáp ứng ruột điều kiện cho già vui, già nhớ lại liền.

Già Tinh đại sư hừ một tiếng:

- Điều kiện gì nói mau?

Vạn lão phu nhân thốt:

- Đại sư sát hại Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ đoạt bí kíp võ công già không có lợi chi trong đó, hơn nữa có thể già cũng bị đại sư sát hại luôn.

Già Tinh đại sư trừng mắt:

- Ta thề không giết ngươi ?

Vạn lão phu nhân lắc đầu:

- Già tin nổi sao? Lấy gì bảo chứng lời thề của đại sư?

Già Tinh đại sư trầm giọng:

- Giá trị của lời nói bảo chứng cho lời nói!

Vạn lão phu nhân lại lắc đầu:

- Rất tiếc, bình sanh già có tánh đa nghi, bất cứ ai nói gì già cũng không tin. Mấy mươi năm qua cái tánh đa nghi của già có tăng chứ không có giảm...

Già Tinh đại sư bực tức:

- Được rồi! Ngươi muốn có sự bảo chứng như thế nào?

Vạn lão phu nhân điểm một nụ cười:

- Chỉ cần đại sư khuất phục một chút, quỳ huống lạy già nhận già là mẹ nuôi, già...

Già Tinh đại sư hét:

- Câm! Câm ngay! Ăn nói hồ đồ là có chết với ta!

Vạn lão phu nhân thở dài:

- Đại sư không chịu thì thôi! Già chẳng còn biết làm sao!

Già Tinh đại sư tức uất, nhảy lên xoi xói, nhảy mãi vẫn không hết tức, lão vừa nhảy vừa quát tháo ầm lên, rồi túm Vạn lão phu nhân bật cười ha hả:

- em ra ngươi cũng trọng tuổi. em ra kẻ xuất gia có thể kính những thí chủ khắp bốn phương như cha nuôi mẹ dưỡng, ta có lạy ngươi nhận làm mẹ nuôi cũng chẳng quan hệ gì!

Vạn lão phu nhân bật cười khanh khách:

- Phải đó! Phải đó!

Già Tinh đại sư quỳ xương lạy mấy lạy thốt:

- Mẹ nuôi, con lạy mừng mẹ đây!

Lão muốn có pho bí kíp võ công, muốn đến phát điên, lão còn sợ nhục nhã chi nữa? Huống chi ở đây có ai trông thấy lão lạy Vạn lão phu nhân? Và một khi lão chiếm được pho bí kíp rồi, thì lo gì Vạn lão phu nhân không lạy lão đến sói đầu van xin tha tội?

Vạn lão phu nhân gật đầu:

- Được! Con đứng lên đi! Con của mẹ có hiếu để quá chừng?

Bà moi trong túi moi mãi một lúc lâu mới lấy ra được một quả ô mai, bà trao cho Già Tinh đại sư bảo:

- Mẹ chẳng có vật gì cả, mẹ tặng con vật này làm cái lễ mừng con!

Già Tinh đại sư cung kính tiếp nhận bỏ vào miệng nhai ngay?

Hồi 53

Chuẩn Bị Đường Về

Vạn lão phu nhân vụt kêu lên thất thanh:

- Trời ! Con nhai? Nhai rồi nuốt luôn sao?

Già Tinh đại sư cười hì hì:

- Thì quà mẹ biếu phận làm con phải vui vẻ tiếp nhận. Nhận thì phải ăn mới phải đạo làm con chớ?

Vạn lão phu nhân giậm chân:

- Nguỵ.. chí nguy!....

Già Tinh đại sư biến sắc mặt:

- Sao? Mẹ nói sao?

Vạn lão phu nhân tỏ vẻ khổ sở:

- Nguy! Nguy rồi con ơi! Vật đó chi để xem, chứ không nên ăn! Ăn không được con ơi!

Già Tinh đại sư càng sợ hãi:

- Tại sao không ăn được?

Vạn lão phu nhân thở dài:

- Mẹ quên cho con biết, vật ấy có tẩm độc!

Già Tinh đại sư hét lên tiếng lớn, với tay chụp bà liền, run run giọng hỏi gấp:

- Mẹ nói sao? Độc...

Vạn lão phu nhận gật đầu:

- Ngoài mẹ ra, chẳng ai giải trừ nổi!

Già Tinh đại sư trợn mắt:

- Ngươi là một yêu bà! Ta xé xác ngươi! Ngươi chết với ta!

Vạn lão phu nhân bật cười ha hả:

- Ngươi giết ta, ai cứu ngươi? Ngươi giết ta, ngươi có sống được chăng?

Bây giờ bà không còn giữ cái lối xưng hô nữa, bà giở thái độ trắng trợn đối với nhà sư. Già Tinh đại sư hét:

- Giải độc cho ta! Mau lên!

Vạn lão phu nhân điềm nhiên:

- Ta nghĩ cũng nên giải độc cho ngươi lắm, song đáng tiếc thuốc giải không sẵn trong mình. Muốn có thuốc giải, phải chờ đến lúc trở về Trung Thổ mới được!

Rồi bà pha trò tiếp:

- Con ơi, con không nên khẩn trương quá độ như vậy. Chất độc tuy kịch liệt, song nó phát tác rất chậm, giả như ngươi một mực hiếu thuận với ta thì trong vòng năm ba tháng, nó chẳng hề phát tác!

Già Tinh đại sư nổi giận cực độ trừng mắt nhìn bà như muốn nuốt sống, sau cùng lão thở dài buông tay lẩm bẩm:

- Được! Ta phục ngươi!

Vạn lão phu nhân lại cười khanh khách:

- Nếu già không thi hành kế đó thì khi ngươi chiếm được bí kíp võ công rồi ngươi sẽ giết già là cái chắc, chứ đừng nói là ngươi còn nhìn nhận già như mẹ nuôi nữa! Giờ đây già yên tâm để làm cho ngươi đi lấy quyển bí kíp đó!

Già Tinh đại sư cao hứng trở lại hỏi:

- Lấy bí kíp đã đành, nhưng phải diệu kế chứ? Diệu kế như thế nào, ngươi nói cho ta biết đi?

Vạn lão phu nhân thốt:

- Về võ công Thủy Thiên Cơ kém ngươi xa, mười không bằng một!

Nhưng nàng lại sai khiến ngươi được như một tên nô lệ bảo làm cái gì, ngươi làm cái đó, ngươi đi ngay. Tại sao thế chứ?

Già Tinh đại sư căm hận:

- Tại vì con yêu tinh đó biết đã rõ cái ý của ta vô luận làm sao ta không thể để cho những bí kíp võ công của Tử Y Hầu bị tiêu diệt, tạ..

nếu ta không thấy qua một lần các quyển bí kíp đó, chắc chắn là ta không nhắm mắt!

Vạn lão phu nhân gật đầu:

- Phải? Ngươi dám đem sanh mạng đánh đổi với quyển bí kíp...

Chính đó là một nhược điểm của ngươi, Thủy Thiên Cơ nắm được nhược điểm đó trong tay, tự nhiên lung lạc ngươi dễ dàng...

Già Tinh đại sư nghiến răng kêu như thép rít, mắng:

- Con yêu tinh! Nàng đúng là một con yêu tinh!

Vạn lão phu nhân cười nhẹ:

- Dù nàng là một con yêu tinh, điều đó đáng ngại chi đâu! Bởi yêu tinh cũng có nhược điểm vậy chứ? Nếu ngươi nắm được nhược điểm của nàng trong tay thì ngươi vẫn có thể sai khiến nàng ngược lại như thường!

Già Tinh đại sư chớp mắt:

- Nàng... nàng cũng có... nhược điểm? Nhược điểm của nàng như thế nào?

Vạn lão phu nhân thong thả ngồi xuống rồi từ từ tiếp:

- Hiện tại nàng đang nấu nướng, sửa soạn bữa ăn, ngươi có thể đến đó xuất thủ chế ngự nàng...

Già Tinh đại sư nổi giận:

- Ngươi tưởng làm như vậy là diệu kế à? Một gã ngốc cũng biết làm như vậy là có hại, huống chi ta? Ta giết nàng, Hồ Bất Sầu hủy diệt các bí kíp võ công ngay..... Giả như ta hạ sát nàng, nàng không kịp kêu lên một tiếng nào, như thế cũng không ổn, bởi tiểu tử đó nếu trọn ngày không nghe tiếng nàng hắn cũng hủy diệt các pho bí kíp như thường.

Ngươi hiểu chứ, ta có muốn lấy mạng sống của chúng đâu, ta chỉ muốn các quyển sách quý báu kia thôi! Dù ta ăn từng miếng thịt của chúng, điều đó có ích gì cho ta?

Vạn lão phu nhân lạnh lùng:

- Ai bảo ngươi hạ sát nàng?

Già Tinh đại sư hừ một tiếng:

- Thì..... ngươi chẳng phải ngươi vừa...

Vạn lão phu nhân chân lời:

- Ta chỉ bảo ngươi chế ngự nàng thôi! Ta biết, nếu ngươi giết nàng thì Hồ Bất Sầu sẽ hủy diệt các pho sách. Cũng như, nếu bây giờ Hồ Bất Sầu hủy diệt sách thì ngươi giết nàng ngay!

Rồi bà cười nhẹ tiếp:

- Nhưng nếu ngươi chế ngự nàng đồng thời cảnh cáo cho Hồ Bất Sầu biết nếu hắn phá hủy một trang sách thôi, không đợi gì hắn phá hủy trọn quyển sách hay nhiều quyển, ngươi sẽ đập chết Thủy Thiên Cơ! Thử hỏi ngươi hăm dọa như vậy, Hồ Bất Sầu có dám trái ý ngươi chăng?

Già Tinh đại sư vỗ tay reo lên:

- Đúng! Chẳng khi nào tiểu tử dám trái ý ta! Cái đạo lý đó rất đúng, cũng như ta chẳng khi nào dám trái ý nàng. Ta nhất định không để mất bí kíp, thì hắn cũng nhất định để Thủy Thiên Cơ bị giết!

Vạn lão phu nhân gật đầu:

- Vậy là ngươi hiểu rồi đó. Quyển bí kíp, là nhược điểm của ngươi, Thủy Thiên Cơ là nhược điểm của Hồ Bất Sầu! Chúng đang nắm nhược của ngươi, ngươi cũng nắm nhược điểm của chúng chứ!

Già Tinh đại sư lo ngại:

- Ta chỉ sợ tiễu tử họ Hồ đó không mê Thủy Thiên Cơ ngang mức độ ta mê các quyển bí kíp. Nếu quả thật như vậy thì... thì...

Vạn lão phu nhân quả quyết:

- Ta biết chắc, Hồ Bất Sầu mê Thủy Thiên Cơ hơn ngươi mê sách, ngươi tin ta đi!

Già Tinh đại sư lại hừ một tiếng:

- Bằng nào đâu, ngươi dám nói chắc chứ?

Vạn lão phu nhân mỉm cười:

- Tình yêu nam nữ thanh thiếu niên, ngươi là một nhà sư, làm gì thấu đáo bằng ta? Trước khi già, ta cũng có lúc trẻ chứ? Trẻ là có yêu, tự nhiên ta biết tình yêu như thế nào? Nhìn thoáng qua một đôi nam nữ nào ta biết ngay họ yêu nhau tới mức độ nào, hoặc thành thật hoặc giả dối!

Bà nói đúng quá, ít nhất cũng đúng với trường hợp của Già Tinh đại sư, bởi lão xuất gia từ lúc còn ấu thơ, nào lão biết ái tình là cái gì?

Trên thế gian này chi có những kẻ mất bình thường hoặc không hề tiếp cận với nữ sắc mới mê sách hơn mê nữ sắc.

Và lão là một trong những kẻ đó. Nếu lão biết yêu, lão mới biết sách không quý bằng tình yêu, và sách không quyến rũ lão mê tít như tình yêu.

Bởi lão có cái thích nghịch thường, lão mới chịu đựng nổi cảnh sống tại đây suốt bảy năm dài.

Lão lẩm bẩm:

- Ngươi nói là tiểu tử Hồ Bất Sầu và yêu tinh Thủy Thiên Cơ có một mối tình tha thiết? Yêu gì được khi cả hai không thấy mặt nhau?

Vạn lão phu nhân mỉm cười:

- Ta đã bảo ngươi chẳng biết quái gì về tình yêu giữa nam và nữ.

Ngươi nghe ta nói đây trước khi đến đây họ có thấy nhau, họ yêu nhau từ khi đó. Đến đây rốt họ không thấy nhau, họ cùng nôn nao bức rức rạo rực, càng vắng nhau họ càng yêu nhau. Chứ cứ mỗi ngày mỗi thấy nhau, mỗi chúi mũi vào nhau thì lâu dần thành chán. Cho nên, càng thiếu vắng nhau tình yêu càng gia tăng. Yêu mà hưởng dụng thường quá, tình yêu phải nhàm chán, dễ chán, dễ khinh thường. Yêu mà hưởng dụng quá nhiều, thành thừa, dễ sanh mệt mỏi đến lúc đó, họ chẳng còn tha thiết nhau lắm, cho nên dám chắc nếu bây giờ ngươi uy hiếp Thủy Thiên Cơ nhất định Hồ Bất Sầu phải khẩn trương ngay!

Già Tinh đại sư lắc đầu:

- Thật tình ta chẳng hiểu chi hết!

Vạn lão phu nhân cười mỉa:

- Nếu ngươi hiểu được thì ngươi là một sư hổ mang rồi?

Già Tinh đại sư bật cười vang:

- Nếu bây giờ ta hiểu! Vật gì mình tha thiết mà chưa chiếm được thì mình xem trọng, mình quý, mình nghĩ là nếu chiếm được hẳn mình giữ gìn kỹ hơn sanh mạng. Ái tình cũng thế, có phải vậy chăng?

Vạn lão phu nhân gật đầu:

- Con nuôi mẹ dễ dạy đấy!

Già Tinh đại sư trừng mất còn bà ta thì cười hì hì.

Nhưng Già Tinh đại sư bỗng cau mày trầm giọng:

- Đành rằng ta nắm sanh mạng của Thủy Thiên Cơ, còn Hồ Bất Sầu lại nắm mấy quyển bí kíp. Song dù ta biết hắn chẳng bao giờ dám hủy diệt bí kíp, ngược lại hắn cũng biết ta chẳng bao giờ dám giết Thủy Thiên Cơ. Nếu ta không buông tha Thủy Thiên Cơ ngược lại hắn cũng chẳng chịu rời bí kíp. Như vậy, cuộc tương trì vừa vô tận vừa vô ích, có phải là phí sức một cách oan uổng chăng?

Vạn lão phu nhân gật đầu:

- Ngươi nói nghe cũng có lý, tuy nhiên ngươi đừng quên Hồ Bất Sầu hoàn toàn mất tự do, còn ngươi muốn làm gì cũng được. Ngươi có thể đối với hắn...

Già Tinh đại sư hỏi gấp:

- Đối với hắn, ta có thể làm gì?

Vạn lão phu nhân nheo nheo mắt:

- Điều cần yếu là hắn không dám hủy diệt các bí kíp. Còn ngươi ở bên ngoài, ngươi không thể dùng lửa, bức hắn thoát ra sao? Ta nghĩ đối với hắn, ngươi có thể làm như vậy đó. Hắn thoát ra ngoài rồi ngươi chế ngự hắn dễ dàng, bởi ngươi thừa sức làm cái việc đó mà.

Già Tinh đại sư mừng suýt điên loạn lên:

- Phải! Phải đó! Ta ngốc quá, việc giản đơn như vậy mà chẳng nghĩ ra! Ngốc thật!

Vạn lão phu nhân mỉm cười:

- Vô luận sự việc gì, giảng giải cho thông suốt rồi cũng đều biến thành đơn giản cả. Ngày xưa khi mượn buồm nào ai biết Khổng Minh Gia Cát làm gì? Song khi mượn tên rồi, tướng sĩ mới biết mưu cao, không tất cả đều thấy đơn giản quá chừng. Trước khi làm, chẳng ai biết phải làm như thế nào? Sau khi làm rồi ai ai cũng nhận ra là mình làm được như thường. Cho nên, mọi việc đều có cái đạo lý, biết rõ cái đạo lý của sự việc rồi, thì có sự việc nào chẳng giản đơn?

Già Tinh đại sư gật đầu mấy lượt:

- Đúng! Đúng!

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Thi hành xong việc đó, sẵn thuyền của ta kia, bất quá mình sửa chữa lại phần nào, còn lo gì chẳng có phương tiện di chuyển về lục địa?

Già Tinh đại sư cao hứng còn hơn được Phật rước về Tây phương, reo lên:

- Ha ha! Trong võ lâm Trung nguyên còn ai là đối thủ của ta nữa chứ?

Vạn lão phu nhân điềm nhiên:

- Khoan tự đắc vội! Ta sợ vẫn còn có kẻ là đối thủ của ngươi như thường! Ít nhất là một người !

Già Tinh đại sư nhảy dựng lên:

- Ai? Ai?

Vạn lão phu nhân buông từng tiếng:

- Phương Bửu Ngọc! Nhưng ta ước mong, hiện giờ hắn đã chết rồi!

Những vòng tròn sóng lăn tăn, mở rộng dần rồi dần tan biến. Mặt hồ trở lại bằng phẳng như mặt gương.Tiểu công chúa không hề trồi lên.

Phương Bửu Ngọc nhìn mặt nước, mắt dán tại chỗ nàng nhảy xuống. Mặt nước liền lại không lưu một vết nào, mặt nước ngăn một bóng hình yêu quý. Bóng hình đó mang theo xuống đáy nước cả tâm tư chàng, đứng trên nhìn xuống, chàng ngây người như tượng gỗ.

Trong khi đó, sương cứ xuống, vương phủ chung quanh càng phút càng dày sương thu hẹp tầm mắt chàng. Mà dù sương có tan, chắc chàng cũng chẳng thấy gì, bởi ánh mắt của chàng đang xoi trên mặt nước tìm lại bóng hình kia.

Chàng chẳng nhìn một nơi nào khác.

Thời gian qua, đều nhịp đi quạ..

Lâu lắm, gương mặt của Phương Bửu Ngọc mới biểu lộ những cảm nghĩ của chàng về việc vừa qua.

Nhưng những cảm nghĩ đó vô cùng phức tạp chẳng làm sao biết rõ thật sự chàng vui buồn như thế nào...

Lòng chàng có cơn bão đang lên, bên ngoài tịch mịch như cảnh chết. Bất thình lình một tiếng ùm vang lên, bọt nước bắn tung tóe.

Những vòng sóng tròn lại rồi mở lộng dần dần.

Giữa những vòng tròn sóng dợn, một người chìm sâu xuống đáy nước.

Người đó chính là Phương Bửu Ngọc.

Chàng theo người yêu? Hay chàng có ý chi khác?

Vòng tròn sóng mở rộng, xa dần, xa dần rồi tan biến. Mặt hồ trở lại bằng phẳng như mặt gương.

Phương Bửu Ngọc không hề trồi lên.

Dương quang càng phút càng chiếu sáng cánh buồm gấm năm màu.

Buồm gấm năm màu dưới ánh dương quang chói sáng càng hiện lộ vẻ huy hoàng.

Dương quang sáng rực, buồm gấm huy hoàng tô điểm ngôi nhà mới lợp lá cái vẻ thần kỳ thoắt tục.

Từ trong nhà tiếng ca hát vọng ra, âm thinh ấm dịu vô cùng.

Nhìn dương quang, nhìn cánh buồm, nhìn ngôi nhà thần kỳ thoát tục, nghe tiếng cá, tiếng hát vang đều kia còn ai tưởng nơi đây có người chịu khổ suất bảy năm dài.

Tiếng ca, tiếng hát biểu lộ một niềm hy vọng vô biên, viễn ảnh một cuộc đời mới, sáng lạn, hiện ra trước mắt nàng.

Bởi tiếng ca tiếng hát kia hẳn là do Thủy Thiên Cơ phát lên.

Nàng vừa ca hát, vừa nấu nướng. Nàng cắt thịt, nàng nướng cá, nấu cơm. Lửa cũng reo lên, hòa với niềm hân hoan của nàng.

Nàng phân chia phần ăn của mỗi người không công bình, bởi nàng giành phần nhiều cho Hồ Bất Sầu.

Bù lại nàng cam tâm với phần ít nhất, giả như Vạn lão phu nhân hoặc Già Tinh đại sư có tranh chấp thì nàng có lý do tắc trách ngay.

Lửa reo, mỡ từ thịt, từ cá chảy ra xèo xèo, như phụ họa với niềm vui của nàng.

Là giai nhân đẹp đến cả những lúc buồn, thì khi vui nhộn lên giai nhân phải đẹp hơn.

Hiện tại nàng có vẻ là một tiên nữ hạ trần.

Từng phúc giây cao hứng phô tài nấu nướng, giúp bữa ăn ngon cho người trần thế.

Sầu đau có hiệu năng tàn tạ, thì hạnh phúc cũng có nhiệm màu tạo rực rỡ.

Hiện tại nàng đẹp rực rỡ, đẹp hơn lúc nào hết.

Nàng đang vui, bỗng nghe tiếng người phía sau lưng.

Nàng hỏi:

- Phải Già Tinh đại sư đó không?

Già Tinh đại sư đáp:

- Phải!

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Chưa đến giờ ăn mà đại sư đi đâu đó? Gấp lắm sao? Đói đến nơi rồi à?

Một bàn tay vươn tới đen đúa như chân thú có móng nhọn dài. Bàn tay đó gộp những miếng thịt nướng đang bốc thơm nực nồng.

Thủy Thiên Cơ nổi giận:

- Đại sư quên quy củ rồi à?

Già Tinh đại sư chẳng nói gì cứ đưa thịt vào miệng mà nhai, mà nuốt.

Thân vóc của lão nhỏ, ốm, nhưng miệng lão quá rộng, trong một thoáng lão ăn mất miếng thịt to nhất.

Thủy Thiên Cơ sôi giận cực độ nhảy lên choi choi, hét:

- Đại sư đói đến mức đó à? Tôi và đại sư ước hẹn với nhau như thế nào đại sư không giữ đúng ước hẹn đó?

Già Tinh đại sư vẫn không nói năng gì, nhai đến miếng thịt thứ hai. Khi lão ăn hết miếng thịt đó thì Thủy Thiên Cơ đã lắng dịu, cơn phẫn nộ trở lại, bình hòa như chẳng có việc gì xảy ra.

Hơn thế, nàng còn điểm một nụ cười, cười vui như chính nàng mời nhà sư ăn vậy.

Nàng còn tâm cơ hơn bất kỳ ai trên thế gian này, đừng ai có một chủ mưu gì mà nàng nhìn thoáng qua lại không thấu đáo tận tường.

Thì, Già Tinh đại sư thay đổi thái độ một cách đội ngột. Thay đổi như biến đổi thành một con người hoàn toàn khác lạ. Đương nhiên nàng phải hiểu, có một lý do nào đó, và cái sự biến đổi này chắc chắn là bất lợi cho nàng rồi.

Nhà sư đổi thái độ thì nàng phải đổi phương pháp, thay vì tiếp tục phẫn nộ, nàng đấu dịu liền. Già Tinh đại sư còn nhai ngồm ngoàm, miệng đầy ứ thịt, vẫn cố gắng lẩm bẩm một câu:

- Ngon! Ngon và thơm làm sao!

Thủy Thiên Cơ cười vuốt:

- Nếu đại sư thấy thích, thì tôi nướng thêm mấy miếng nữa cho mà dùng. Thịt còn kia nhiều chán!

Nàng không giận, nàng còn hòa dịu, điều đó làm cho Già Tinh đại sư phải lấy làm lạ hỏi:

- Sao ngươi biến đổi thế?

Thủy Thiên Cơ cười vuốt, không đáp ngay câu hỏi:

- Vô luận như thế nào tôi vẫn cam tâm tình nguyện cấp cho đại sư dùng, đại sư cứ dùng bằng thích!

Già Tinh đại sư hết sức kinh ngạc, quên cả ăn, chớp chớp mắt hỏi:

- Thật vậy à?

Thủy Thiên Cơ vừa cười vừa gật đầu:

- Thật chứ! Đại sư còn hoài nghi nữa sao? Thịt đó ướp muối hơi mặn, ăn thì phải uống, để tôi đi lấy nước cho!

Nàng ung dung bước đi, tay cầm chiếc vỏ rùa mà họ dùng làm thay chén, mắt lại liếc nhà sư, miệng lại cười duyên dáng.

Nàng đi ngang qua mặt đại sư thản nhiên.

Bỗng Vạn lão phu nhân bên ngoài gọi Già Tinh đại sư:

- Cẩn thận đấy! Đừng để mắc mưu liễu đầu!

Thủy Thiên Cơ lúc đó đã ra đến bên ngoài rồi.

Vạn lão phu nhân vừa buông dứt câu là nàng chớp nhanh bàn tay, một đạo ngân quang lóe lên, bay vút đến Già Tinh đại sư.

Đại sư nhún chân nhảy vọt lên cao.

Thủy Thiên Cơ chạy luôn, song vừa chạy được một trượng từ phía hậu, một đạo kình phong bay vút đến.

Nàng không hề quay đầu nhìn lại, hai bàn tay phất ngược về sau, mười ngón tay rung động.

Chiêu đó có cái tên là Bá Vương Khước Giáp, chiêu thức có cái tầm hoạt động rất rộng, xem thì chẳng có gì ngụy dị, đẹp đẽ cả.

Nhưng được nàng sử dụng chiêu thức đó dù không nguy dị, cũng phải ngụy dị, dù không đẹp cũng phải đẹp.

Và đương nhiên bởi nó biến đổi nên thành lợi hại phi thường.

Vạn lão phu nhân đứng xa xa trông thấy thủ pháp của nàng bất giác kinh hãi, suýt nhảy dựng lên lẩm bẩm:

- Không ngờ liễu đầu tiến bộ đến giới cảnh đó!

Vô ích.

Chiêu thức của Thủy Thiên Cơ ngụy dị lợi hại như thế nào, mà gặp Già Tinh đại sư rồi cầm như trẻ nít múa roi.

Nàng chạy đi một trượng xa, nàng đánh trả lại cả hai tay, chưởng phong từ sau vút tới, trong khi Già Tinh đại sư còn lơ lửng trên không.

Thế mà nàng không thoát khỏi.

Chưởng phong vút tới, chưởng phong chưa chạm nàng. Già Tinh đại sư đã đến sát bên nàng.

Bàn tay của nàng vừa đánh trả về phía hậu, Già Tinh đại sư đã nắm chặt cổ tay nàng.

Đại sư chỉ gặt tay một chút nàng đã ngã nhào liền.

Song nàng vẫn cười, nụ cười hết sức tươi. Nàng trầm tịnh thốt:

- Đại sư tàn nhẫn quá. Tôi đối đãi đại sư hết sức tử tế, tại sao đại sư chụp cổ tay tôi? Đại sư còn bóp mạnh đau vô cùng?

Già Tinh đại sư bật cười ha hả:

- Cũng may, ta không còn ở lứa tuổi thanh thiếu, nên cái màu mè của ngươi đối với ta trở thành vô dụng. Ngươi đừng toan mê hoặc ta vô ích !

Thủy Thiên Cơ điềm nhiên:

- Tôi không cần mê hoặc đại sư, chính đại sư cũng đã hôn mê rồi!

Bởi một con người chờ đợi bao nhiêu năm qua, mong vật về tay, vật đó sắp về tay, đại sư tự mình làm cho mất mát thì chẳng hôn mê là gì?

Đầu óc đại sư để đâu! Thế là xong rồi đó, đại sư ơi!

Già Tinh đại sư hừ một tiếng:

- Ngươi chết là xong phải không?

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Đương nhiên là chắc! Nếu đại sư không buông tay, tôi lập tức gọi Hồ Bất Sầu...

Già Tinh đại sư cười mỉa:

- Ngươi gọi hắn?

Thủy Thiên Cơ đảo ánh mắt thu ba, gọi to liền:

- Hồ Bất Sầu! Hồ Bất Sầu! Ngươi nghe tiếng ta gọi chứ?...

Liền theo đó, Hồ Bất Sầu từ trong vuông phòng kín hỏi vọng ra:

- Việc chi đó? Tại hạ có nghe rõ đây, cô nương?

Âm thinh không to lắm, song vọng ra rất rõ ràng. Già Tinh đại sư nghe không sót một lời như Hồ Bất Sầu đứng bên cạnh nói vào tai lão.

Giả như một người thường, ở trong đó có gào, có hét đến rách cả yết hầu cũng chẳng làm sao cho âm thinh thoát lọt được ra bên ngoài.

Song Hồ Bất Sầu làm được, lại chừng như không hề cố gắng lắm, nếu y không động lực cao độ thì chắc chắn không phát âm được như thế.

Thủy Thiên Cơ đánh tiếp một đòn lâm lý thứ hai:

- Bây giờ ngươi chuẩn bị đi nhé. Bắt đầu cái việc phá hủy các pho bí kíp!

Âm thinh của Hồ Bất Sầu lại vọng ra có vẻ khẩn trương:

- Cô nương... hay là cô nương đã...

Thủy Thiên Cơ đáp nhanh:

- Phải đó, lão hòa thượng đã động thủ!

Nàng không muốn để cho Già Tinh đại sư phát hiện ra sự khẩn trương trong câu nói của Hồ Bất Sầu, nên thốt gấp như vậy cốt chận lời, Hồ Bất Sầu tự nhiên hiểu thấu ý tứ của Thủy Thiên Cơ.

Y vội sửa giọng, từ khẩn trương giọng nói trở nên lạnh lùng, y thốt:

- Được rồi nếu cô nương muốn tại hạ phá hủy thì tại hạ cũng chiều theo ý cô nương, phá hủy. Bởi có lưu lại cũng vô ích, vì tại hạ đã thuộc nằm lòng tất cả các quyển sách đó rồi!

Thủy Thiên Cơ day qua Già Tinh đại sư, cười nhẹ hỏi:

- Đại sư có nghe không?

Già Tinh đại sư hét lớn:

- Hồ Bất Sầu! Nếu ngươi phá hủy một trang sách thôi, bất cứ sách gì trong phòng đó, ta giết Thủy Thiên Cơ! Cảnh cáo cho ngươi biết.

Ngươi có nghe tiếng ta nói đấy chứ?

Bên trong phòng chẳng một tiếng đáp lại.

Chừng như Hồ Bất Sầu sửng sốt trước lời hăm đọa của nhà sư.

Nụ cười trên môi Thủy Thiên Cơ chợt tắt.

Nàng đảo mắt sang Vạn lão phu nhân, thốt với giọng hơi trầm:

- Tốt lắm! Bà thật tốt?

Vạn lão phu nhân bật cười khanh khách:

- Việc đó có can chi đến gì?

Thủy Thiên Cơ điềm nhiên:

- Giả như Già Tinh đại sư hiểu được lối hành sự như vậy thì khi nào lão chờ đến hôm nay?

Vạn lão phu nhân cười vang:

- Ngươi thông minh đó!

Thủy Thiên Cơ tiếp:

- Bà đắc ý lắm phải không? Nếu có một mối lợi gì bà không ngần ngại bán luôn con của bà để thủ đắc với mối lợi đó. Đúng vậy không, hở bà? Tôi nghĩ mãi chừng hiểu sau này rồi bà sẽ chết bằng cách nào?

Vạn lão phu nhân cười híp mắt:

- Chết cách nào lại chẳng chết? Có phải chết bằng cách này là chết tuyệt, còn chết bằng cách kia lại được sống lại đâu? Cách chết, đối với già chẳng có ý nghĩa gì, bởi chung quy chết là hết sống!

Thủy Thiên Cơ nhìn sững bà mãi mãi, lúc lâu, nơi môi ẩn ước có một nụ cười song nàng chưa để cho nụ cười hiện lộ vội.

Rồi nàng thốt:

- Nhưng bây giờ bà đắc ý, tôi sợ hơi muộn rồi bà ơi?

Vạn lão phu nhân bỗng trầm giọng:

- Ngươi đừng tưởng rằng Hồ Bất Sầu không dám phá hủy các pho sách. Già Tinh đại sư không dám động đến ngươi phải vậy không?

Thủy Thiên Cơ lạnh lùng:

- Không phải rồi sao?

Vạn lão phu nhân mỉm cười:

- Chẳng lẽ ngoài cái việc không dám động chạm đến ngươi, Già Tinh đại sư chẳng còn cách nào khác bức cái gã to đầu ra khỏi phòng à?

Ngươi thừa thông minh, có thể là ngươi phải ngươi còn nhiều cách khác lắm chứ!

Già Tinh đại sư cười lớn:

- Lửa... Lửa đốt gian phòng đó..... Lửa...Ha ha!

Tự nhiên lão đắc ý lắm.

Nhưng bên trong gian phòng Hồ Bất Sầu cũng cười vang.

Già Tinh đại sư cao giọng:

- Ngươi cười gì? Trong phút giây này ngươi vẫn cười được, thật ta phục ngươi quá chừng!

Hồ Bất Sầu cười thêm một lúc nữa, rồi hỏi:

- Đại sư dùng lửa? Tại hạ bắt buộc bước ra, hai tay dâng bí kíp cho đại sư! Ha ha! Cái chủ ý của đại sư như vậy đó phải chăng?

Già Tinh đại sư lạnh lùng:

- Không lẽ ngươi có phương pháp đối phó?

Hồ Bất Sầu cười lớn như trước:

- Chỉ cần đại sư đốt lên một ngọn lửa thôi nhất định trong kiếp này đại sư không trông thấy một trang sách, đừng nói là trông thấy nhiều quyển?

Già Tinh đại sư quát:

- Ngươi dám hủy diệt à? Ngươi thản nhiên cho Thủy Thiên Cơ chết à?

Hồ Bất Sầu hừ một tiếng:

- Tại sao tại hạ không thể thản nhiên? Đành rằng tại hạ không nỡ để cho nàng bị đại sư sát hại, song nếu bây giờ tại hạ trao những bí kíp đó ra ngoài cho đại sư thì chẳng những nàng không tránh khỏi bàn tay ác độc của đại sư mà luôn đến tại hạ cũng không bảo tồn sanh mạng.

Tại hạ biết như vậy lắm, nên thản nhiên như thường, bởi không thản nhiên cũng chẳng làm sao hơn. Nàng chết, tại hạ chết, bí kíp bị hủy diệt. Thế là gọn, rất gọn. Sau đó đại sự muốn làm gì thì làm.

Già Tinh đại sư biến sắc.

Lão sững sờ, chẳng biết nói gì nữa.

Điều làm cho lão lo nghĩ nhiều hơn hết chẳng phải là số phận của các quyển bí kíp, mà chính là cái việc Hồ Bất Sầu đã thuộc lòng tất cả các bí kíp đó.

Như vậy làm sao lão để cho y sống còn trên thế gian được chứ?

Nhưng giết y rồi, lão sẽ được gì? Chung quy sách cũng bị hủy diệt.

Thủy Thiên Cơ cười tươi trở lại.

Nàng hỏi:

- Bây giờ thì các vị đã thấy gã to đầu cũng thông minh đấy chứ?

Cho các vị biết gã là một nam nhân rất thông minh trong số nam nhân tôi đã tiếp xúc lúc còn tại lục địa. Các vị đừng mong lừa gã nổi!

Già Tinh đại sư bỗng nhảy vọt đến trước mặt Vạn lão phu nhân chụp tay vào áo bà cao giọng gắt:

- Tất cả đều do chủ ý của ngươi!.... Bây giờ ngươi liệu thế nào?

Vạn lão phu nhân thở dài:

- Không dùng được cách này, mình còn cách khác, còn rất nhiều cách ngươi làm gì nóng nảy thế?

Già Tinh đại sư buông tay hừ một tiếng:

- Nhưng... bây giờ... bây giờ.. Vạn lão phu nhân cười nhẹ:

- Bây giờ thì ngươi cứ trông ta đây!

Bà từ từ bước tới trước mặt Thủy Thiên Cơ. Đột nhiên bà vươn tay, chiếc áo ngắn của Thủy Thiên Cơ bị bà xé toát làm đôi, bày to chiếc ngực trắng mịn.

Gió biển quệt qua làn da hứng gió rờn rợn ốc Thủy Thiên Cơ bất động đến cả việc đưa tay che ngực nàng cũng không làm.

Về điểm đó nàng rất giống Hồ Bất Sầu, phàm làm một việc chi xét ra vô ích, nhất định là họ không chịu làm.

Vạn lão phu nhân cười lớn:

- Hồ Bất sầu, người có thấy chăng? Làn da ngực của Thủy cô nương mịn quá, trắng quá. Ánh thái dương chiếu vào, làm tăng vẻ rạng rỡ biết bao. Nam nhân nào trông thấy lại chẳng khích động?

Bà tiếp tục cười rồi tặc lưỡi:

- Ta hỏi là hỏi vậy thôi chứ làm gì ngươi trông thấy được? Đáng tiếc cho ngươi thật!

Bên trong phòng im lặng hoàn toàn.

Vạn lão phu nhân tiếp:

- Hồ Bất Sầu? Nếu ta là ngươi chắc chắn ta không để cho nàng rơi vào tay bất cứ một nam nhân nào khác. Ngươi thử nhắm mắt lại đi rồi tưởng tượng xem, nếu có bàn tay nam nhân nào khác xoa xoa nắn nắn nơi phần ngực của nàng... Nếu có nam nhân nào khác kéo nàng vào lòng ép sát phần ngực đó vào ngực hắn... ngươi nghĩ sao hở Hồ Bất Sầu?

Thủy Thiên Cơ bật cười vang:

- Rất tiếc cho bà là tại đây không có một nam nhân nào khác!

Vạn lão phu nhân hừ một viếng:

- Chẳng có nam nhân nào khác? Thế thì Già Tinh đại sư là nữ nhân à?

Thủy Thiên Cơ xì mạnh:

- Nhưng Già Tinh đại sư là một lão hòa thượng!

Già Tinh đại sư vụt cười khan:

- Hòa thượng không phải là nam nhân sao?

Vạn lão phu nhân vỗ tay:

- Khá lắm ! Khá lắm ! Ngươi nói nghe lắm?

Già Tinh đại sư mỉm cười:

- Ta tuy là một lão hòa thượng song tự lượng sức mình, chẳng kém hạng thanh thiếu niên cho lắm, giả như ngươi không tin cứ thực nghiệm xem, ta bảo đảm hòa thượng Thiên Trúc cũng có tài cán siêu biệt, tạo cái khoái cho người!

Vạn lão phu nhân càng vỗ tay mạnh, vỗ gấp bà càng cười giòn:

- Hay! Hay quá chừng! Ngươi càng nói, càng nghe hay!

Già Tinh đại sư tiếp:

- Bình sanh ta chưa hề biết một nữ nhân động tâm như thế nào, hôm nay thì ngươi...

Thủy Thiên Cơ không hề biến sắc điềm nhiên một nụ cười:

- Đại sư nói cho vui đấy thôi chứ khi nào lại dám làm như đã nói!

Vạn lão phu nhân cười mỉa:

- Y không dám làm?

Bà day qua Già Tinh đại sư gằn giọng:

- Ngươi có nghe nàng nói đó chăng? Ngươi dám làm chăng?

Già Tinh đại sư bật cười cuồng dại:

- Tại sao ta không dám làm? Vì những quyển bí kíp đó, ta có thể làm mọi việc bất cứ việc gì?

Vạn lão phu nhân lại hối:

- Mà ngươi có biết là phải làm như thế nào không đấy chứ? Một lão hòa thượng chắc gì dã biết những chuyện như vậy?

Già Tinh đại sư cao giọng:

- Ta chưa làm việc đó. Chứ vẫn biết như thường!

Vạn lão phu nhân gật gù:

- Vậy là hay lắm. Giá như ngươi không biết thì ta chỉ điểm cho mà làm. Ta thừa kinh nghiệm về việc đó. Bây giờ ngươi bước tới đi, đặt tay lên ngực nàng đi!

Già Tinh đại sư cười lớn:

- Được rồi!

Bàn tay có ngón và móng đen như móng chân thú vươn ra.

Bất giác Thủy Thiên Cơ rú lên, vô luận là nàng có tánh quật cường đến đâu chung quy nàng vẫn là nữ nhân.

Vạn lão phu nhân vỗ tay cười lớn:

- Hồ Bất Sầu ơi! Hồ Bất Sầu! Ngươi không thấy hẳn cũng nghe rõ chứ? Bây giờ thì Thủy cô nương của ta đang rung người lên đó, ta nhìn mà cũng phát rung đây, huống chi nàng ở trong cảnh? Rất tiếc ta không phải là nam nhân, cho nên ta đành đứng nhìn. Nếu ta là nam nhân, hẳn ta phải giành giật với lão hòa thượng rồi!

Một tiếng cạch vang lên.

Cửa gian phòng thuyền mở rộng.

Thủy Thiên Cơ hét lên:

- Hồ Bất Sầu! Trở vào phòng ngaỵ..

Nhưng Hồ Bất Sầu đã ra khỏi phòng rồi.

oOo Y hiện ra dưới ánh dương quang, với thân vóc gầy ốm làn da xanh nhợt, tóc như đoanh lại, chiếc đầu đã to, thân hình nhỏ lại càng làm cho chiếc đầu to hơn.

Y phục của y không còn hình thể nguyên thủy, biến thành một mớ vải vụn được phủ lên mình y. Đã rách, lại mục nát, cơn gió nhẹ thổi qua mớ vải vụn đó rã rời, bay tơi tả như những cánh bướm.

Còn gì là khí khái một nam nhân ở con người y.

Đừng nói là khí khái của một nam nhân, hiện tại y như mất đi rất nhiều nhân dạng.

Bởi, không còn nhân dạng, y có vẻ hoạt kê vô cùng.

Song chẳng ai dám cười, cho dù y có vẻ hoạt kê hơn nữa. Vì ánh mắt của y sáng quá, sắc quá, sắc hơn một thanh kiếm quý.

Chẳng những thế gương mặt của y hồng nhuận như đang nhiễm một sinh khí siêu nhiên.

Chỉ có gương mặt là hồng nhuận thôi, còn những nơi khác thì xanh xao như người đau lâu năm mất máu.

Ánh mắt đó nhìn đến ai là người đó phải run sợ liền, một ánh mắt biểu lộ Oai lực phi thường.

Bất cứ ai bị giam hãm trong bóng tối âm u suốt bảy năm dài, ra đến bên ngoài rồi nhìn ánh dương quang, đôi mắt cũng phải xốn, mí mất cũng phải chớp, song Hồ Bất Sầu không xốn mắt, không chớp mí.

Hơn nữa y còn nhìn trừng trừng Vạn lão phu nhân và Già Tinh đại sư.

Tia nhìn của y làm Vạn lão phu nhân lùi lại mấy bước.

Có một thứ khí bốc từ người Hồ Bất Sầu, trong võ lâm người ta gọi là Bá Khí.

Bá khí bốc ra chạm vào người đối tượng, lạnh rợn người, bá khí còn làm hoa mắt đối tượng.

Bàn tay của Già Tinh đại sư còn cách làn da ngực của Thủy Thiên Cơ, bàn tay đó bất động nửa chừng, không đưa tới mà cũng chẳng buông lỏng, mường tượng biến thành gỗ.

Lão đang cười, cười lớn, miệng há rộng, bây giờ miệng vẫn há rộng, nhưng tiếng cười đã tắt. Đôi môi không làm sao khép lại được.

Chính lão mới thật sự có vẻ hoạt kê hơn Hồ Bất Sầu.

Thủy Thiên Cơ cũng sửng sốt.

Hồ Bất Sầu từ từ bước tới, bước không mau, nhưng bước đều đều không ngừng.

Già Tinh đại sư đã bình tĩnh lại rồi. Lão từ từ thốt:

- Chờ đợi suốt bảy năm dài, cuối cùng rồi ta cũng làm cho ngươi ra được.

Hồ Bất Sầu lạnh lùng:

- Chắc đại sư cao hứng lắm?

Già Tinh đại sư ấp úng:

- Tạ.. Tạ..

Bỗng lão ngẩng mặt lên không, bật cười cuồng dại.

Mãi đến lúc đó, lão mới cười lên được.

Hồ Bất Sầu tiếp:

- Bảy năm qua, Thủy cô nương...

Câu đó y hướng về Thủy Thiên Cơ thốt lên mấy tiếng, chưa dứt câu, y nhìn sang nàng.

Nhưng, vừa nhìn sang y cúi đầu ngaỵ Nàng không sợ trời, không sợ đất. Già Tinh đại sư nham nhở, nàng còn bình tĩnh cười được. Thế mà ánh mắt Hồ Bất Sầu vừa quét qua, nàng đỏ mặt liền, rồi đưa tay, cố che giấu thân hình, che được phần nào hay phần đó.

Nàng cũng cúi thấp đầu, thấp giọng hỏi:

- Ngươi... tại sao ngươi ra khỏi phòng?

Hồ Bất Sầu đáp:

- Tại hạ không thể không ra, ra được càng sớm càng hay!

Thủy Thiên Cơ lại hỏi:

- Tại sao ngươi không thể không ra?

Hồ Bất Sầu vụt ngẩng mặt lên, nhìn thẳng vào nàng:

- Tại.. vì cô nương?

Thủy Thiên Cơ run người.

Nàng thừa hiểu, Hồ Bất Sầu sẽ đáp như vậy, do sự suy tư mà hiểu, khoan khoái mà hiểu, tuy y chưa xác nhận sự hiểu biết của nàng.

Nàng không ngờ, y đáp nhanh thế, gọn thế.

Chưa có sự xác nhận, nàng cũng nghe khoái cảm dâng tràn, huống chi nghe rồi?

Tự nhiên nàng phải run vì xúc động.

Nàng cúi thấp đầu hơn một chút, giấu gương mặt vừa ửng hồng hơn trước.

Một lúc, nàng ngẩng mặt lên nói:

- Sao ngươi nói như thế, trong phút giây này? Chậm nói lại một thời gian chẳng được sao? Chậm lại có phải hay hơn không?

Hồ Bất Sầu điềm nhiên:

- Cái thế bắt buộc phải nói, không nói không được. Thà nói lên ngay trong phút giây này!

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Phải! Nếu chậm hơn, sợ chẳng còn dịp nói được!

Vạn lão phu nhân đến bây giờ mới hoàn hồn, bật cười vang:

- Giả như ngươi muốn chết, biết mình là sắp chết thì có gì cứ nói còn chi nữa cứ nói hết. Thong thả mà nói! Già Tinh đại sư đã đợi đúng bảy năm còn được thì có đợi thêm vài khắc cũng chẳng sao!

Già Tinh đại sư lắc đầu:

- Ta không đợi được đâu!

Hồ Bất Sầu cũng lắc đầu:

- Tại hạ cũng chẳng có lời gì nói nữa!

Một không thể kéo dài thời gian, một không muốn kéo đài thời gian. Song phương đốt giai đoạn.

Dương quang vẫn chiếu sáng, có điều hơi nóng hơn trước một chút.

Nhưng, dương quang nóng đó, không làm nóng được không gian cục trường bởi sát khí bốc ra mạnh quá.

Sát khí bốc từ hai đấu thủ.

Hồ Bất Sầu và Già Tinh đại sư như hai con gà chọi, chủ gà còn nắm cái đuôi, song mỏ gà đã chong nhau, lông cổ xù lên.

Chủ gà là Vạn lão phu nhân và Thủy Thiên Cơ. Gà có chết tại trận đấu thì chủ gà cũng chết luôn.

Nếu là bảy năm về trước, đừng nói chi đứng nghinh địch Già Tinh đại sư, Hồ Bất Sầu cũng không làm nổi thì nói chi đến cái việc động thủ với nhà sư?

Nhưng giờ đây, y hiên ngang đối diện, bình thản mà nghinh địch, oai khí của một cao tăng vùng Thiên Trúc không có ý nghĩa gì nữa.

Y không còn là một tay non trên giang hồ, đối đầu với một cao thủ thượng đỉnh.

Y có tác phong của một tông chủ võ lâm.

Nếu là bảy năm về trước, Già Tinh đại sư chắc phải cười lớn, cười một gã thiếu niên ngông cuồng lấy trứng chọi đá.

Nhưng bây giờ, đại sư không cười được.

Giờ đây, lão nhận thấy một vầng khí vừa lạnh vừa sắc bén như kiếm khí bốc từ người Hồ Bất Sầu, vừa bốc ra là lan rộng nhanh.

Lão cảm thấy gờm đối tượng ngay.

Giam mình trong phòng kín suốt bảy năm, Hồ Bất Sầu xuất hiện chẳng khác nào một thanh kiếm được tay thợ chế luyện tinh vi suốt bảy năm dài, hôm nay đúng ngày phá lò, lấy kiếm, thanh kiếm xuất hiện , lộ rõ cái vẻ lợi hại của nó.

Bá khí bốc ra, đành là không sắc bén như một thanh kiếm, song dù sao thì nó cũng gây cái lạnh nơi đối tượng, cho nên cao thủ giao đấu với nhau, chỉ sợ kiếm khí chứ không ngán cái sắc bén của chính thanh kiếm.

Già Tinh đại sư trước đó có cái ý khinh thường Hồ Bất Sầu, tưởng chừng như y bước ra khỏi phòng là với một cái nhìn lão có thể quật ngã y ngay.

Nhưng bây giờ thì bá khí làm cho lão rợn lạnh, từ rợn lạnh lão đi đến do dự, rồi cuối cùng, lão ngán luôn.

Bởi thế, nghinh nhau một lúc lâu, lão chưa dám xuất thủ.

Thủy Thiên Cơ tuy không cười bằng miệng, nhưng cười bằng mắt.

từ sợ hãi nàng chuyển sang hy vọng.

Phải như thế mới được chứ, lẽ đâu giam mình đăng đẳng suốt bảy năm dài, vào như thế nào thì ra như thế đó được sao?

Ít nhất cũng phải có thay đổi chứ!

Có thay đổi cái công của nàng ở bên ngoài phục dịch từ cái ăn cái uống cho y, bảo vệ an ninh cho y mới không uổng.

Hơn thế, hoài bão của nàng trong phạm vi tình cảm được ve vuốt thỏa đáng, vì con người lý tưởng của nàng quả thật xứng đáng với sự tiến bộ trên mức mong ước.

Dù sau cuộc chiến này, Hồ Bất Sầu có bại đi nữa nàng cũng không buồn.

Vạn lão phu nhân nhìn song phương nghinh nhau, thở dài mấy lượt tự lẩm bẩm:

- Chắc chắn là cuộc chiến này phải kéo dài rồi! Có thể là đến hoàng hôn, chưa bên nào thắng chưa bên nào bại!

Võ công của bà cũng khá cao, tuy bà chưa được liệt vào hàng cao thủ luyện đỉnh trong võ lâm, song tài nghệ đó trên giang hò, có mấy kẻ luyện được.

Huống chi kinh nghiệm chiến trường của bà rất phong phú, về phương diện kiến thức, Bà không nhường bất cứ một nhân vật hữu danh nào.

Bà hiểu rõ Già Tinh đại sư chưa dám xuất thủ.

Nhuệ khí của Hồ Bất Sầu đã làm cho lão chùn lòng. Mà lão chùn lòng là cả một sự phi thường, bởi bình sanh trừ Tử Y Hầu ra lão chưa hề biết chùn lòng trước một đối thủ nào?

Cũng có thể nói là bình sanh, trừ Tử Y Hầu ra Già Tinh đại sư chưa hề nếm mùi thất bại.

Bây giờ lão sợ bại, nên do sự khai chiến.

Lão sợ bại chẳng phải lão kém tài. Lão do dự vì chưa biết nên xuất phát một chiêu nào thật độc, một chiêu làm cho Hồ Bất Sầu bối rối, y bối rối tất nhiên phải phân tâm. Lúc đó thì lão có hy vọng hơn nhiều.

Lão muốn với một chiêu thức thôi lão phải hạ Hồ Bất Sầu ngay, không cần xuất phát chiêu nào kế tiếp.

Muốn được vậy lão phải làm sao?

Làm sao?

Giả như xuất phát chiêu đầu, lão không hạ được đối phương ít nhất lão cũng chiếm được tiên cơ. Không hạ được, không chiếm tiên cơ được thì lão phải khổ, vì cuộc chiến này là một khổ chiến, chắc vậy rồi!

Lão do dự, bởi lão có chiến lược.

Nhận xét được điều đó, Vạn lão phu nhân lẩm bẩm:

- Già Tinh đúng là một tay khá!

Bà nhếch nụ cười hiểm độc, tự thốt tiếp:

- Hồ Bất Sầu ! Hồ Bất Sầu ! Thế nào cũng xong cho ngươi! Sớm hay muộn cũng xong cho ngươi!

Bà chắc chắn, Già Tinh đại sư không xuất thủ, đương nhiên Hồ Bất Sầu không khi nào dám xuất thủ.

oOo Nhưng, Vạn lão phu nhân đoán sai.

Hồ Bất Sầu đột nhiên quắc mắt, bắn tinh quang sáng rực. Cùng theo tinh quang đôi tay chớp liền.

Chiêu thức phát xuất xem ra chẳng có gì ngụy dị, nhưng mông lung mơ hồ, rộng như sa mạc, sâu như đáy biển, chừng như chiêu thức đó hàm súc tất cả huyền diệu, không thể nào lường được cái huyền diệu đó thôi, bởi nước biển không lường, cát sa mạc không đếm được.

Đánh ra một chiêu độc, đương nhiên đối phương phòng thủ chặt chẽ hơn. Đánh ra một chiêu thường, đối phương khinh miệt, cảnh giác phải lơi.

Rồi trong cái tầm thường đó hàm súc cái huyền diệu sẵn. Hồ Bất Sầu phát huy cái huyền diệu đúng lúc là nắm cơ tất thắng trong tay.

Lối đánh đó gọi là công kỳ bất bị đúng theo chiến thuật.

Tại sao cho rằng lối đánh đó là công kỳ bất bị?

Chỉ vì Già Tinh đại sư khi nào lại nghĩ Hồ Bất Sầu dám xuất thủ trước?

Chính Vạn lão phu nhân cũng nghĩ như lão kia mà.

Già Tinh đại sư hừ một tiếng:

- Tốt!

Dù chiêu đó có đem lại thành công cho Hồ Bất Sầu hay không nó vẫn xứng đáng được đối tượng tán thưởng.

Bởi, từ xưa có biết bao người thành danh nhờ áp dụng chiến thuật đó.

Nhưng đối tượng là Già Tinh đại sư, một nhân vật thuộc hàng tông sư môn phái thì Hồ Bất Sầu cũng khó mong xuất thủ là đắc ý ngay.

Muốn thắng lão ít nhất y cũng phải động thủ một cách cam go, đó là chỉ nói cái ý muốn của y thôi chứ còn toại ý thì lại là một việc khác.

Già Tinh đại sư có lối phản ứng cực kỳ nhanh nhẹn.

Đang nghinh tư thế, chứ chưa nghinh chiêu, đại sư chưa vận tụ chân khí bố phòng khấp thân.

Vừa thấy Hồ Bất Sầu chớp mắt sáng rực lên. Lão biết ngay y sắp xuất thủ rồi.

Bàn tay của Hồ Bất Sầu chưa vươn ra, lão đã vận tụ chân khí dồn vào đôi tay của lão sẵn sàng.

Hồ Bất Sầu động thủ thuật sự, nhà sư cũng động thủ thật sự song phương đương thời động thủ.

Thế là chiến thuật công kỳ bất bị của Hồ Bất Sầu không còn hiệu lực nữa.

Bây giờ chỉ còn chờ công lực của hai chưởng kình xuất phát một lượt, định đoạt thất bại của song phương.

Với nội lực họ đánh ra kẻ nào bại, chắc chắn là kẻ đó phải mất mạng.

Mà nói về nội lực, phải nói đến niên số tu vi.

Già Tinh đại sư ít nhất cũng luyện tập qua mấy mươi năm dài, công lực tu vị phải quan trọng.

Còn Hồ Bất Sầu, trước khi vào phòng kín tuổi chưa tròn hai mươi, ở trong phòng kín luôn bảy năm, y bất quá chỉ được hơn hai mươi tuổi.

Tuổi đời của y chưa sánh được số năm tu vi của GIà Tinh đại sư thì làm sao y có nội lực thân hậu bằng nhà sư?

Trước khi y vào phòng, y chỉ là một người thông thường có học võ, song sự thành lựu hầu như không có giá trị gì.

Dù trong bảy năm khổ luyện, y có chắc gì bắt kịp khoảng cách giữa y và Già Tinh đại sư.

Một thanh niên hơn hai mươi tuổi đánh với một lão sư trên sáu mươi tuổi, có số năm tu vi gấp hai tuổi đời của thanh niên, liệu Hồ Bất Sầu thủ thắng nổi chăng khi cuộc đấu chuyển sang phương diện nội lực?

Về nội lực, trên giang hồ có nhân vật nào sánh được Già Tinh đại sư?

Thủy Thiên Cơ nhận ra Hồ Bất Sầu lúc xuất thủ thì theo lối thông thường nhưng khi biến chiêu thì áp dụng đúng phương pháp của Tử Y Hầu.

Do đó, nàng không đến đỗi tuyệt vọng.

Ngờ đâu, Hồ Bất sầu đang biến chiêu đó, lại trở về thủ pháp thông thường cũ.

Thủy Thiên Cơ xanh mặt.

Một tiếng bình vang lên.

Hai chưởng kình chạm nhau, Thủy Thiên Cơ nhắm mất lại rú thất thanh:

- Ong! Thế là xong!....

Nhưng nàng không phải lo sợ cho Hồ Bất Sầu. Nàng khỏi phải lo.

Bởi nàng nghĩ sai.

Thật sự thì nội lực Hồ Bất Sầu không đạt đến mức thâm hậu khả quan, song y đánh ra với những dồn ứ suốt bảy năm dài.

Tích lượng dồn ứ đó phải nhiều, khi phát xuất ra phải mạnh. Mạnh vì dồn ứ, chứ chẳng do tu vi mà có.

Thử tưởng tượng, một cơn mưa, dù to tích lượng nước dù nhiều, song làm sao nhiều hơn tích lượng nước của nhiều cơn mưa nhỏ, dồn chứa suối bảy năm dài? Tích lượng nước đó nếu khởi thành dòng thì có kém gì một con sông lớn?

Đương đầu với số nước một con sông, liệu Già Tinh đại sư chống nổi cái khí nước khổng lồ cuốn đến mạnh như núi đổ chăng?

Bình! Tiếng đó phải lớn, bởi nó là tiếng chạm của hai kình lực phi phàm.

Già Tinh đại sư bị hất tung ra ngoài.

Khi Thủy Thiên Cơ mở mắt ra, Vạn lão phu nhân lại nhắm mắt lại rồi bà cùng kêu lên thất thanh.

Hồi 54

Một Điểm Thông

Hồ Bất sầu đứng nguyên tại chỗ bất động như thân gỗ trồng. Vóc hình nhỏ thó hiện dưới ánh dương quang, trong con mắt của Vạn lão phu nhân, vóc hình đó biến thành khổng lồ.

Chẳng những thế những mảnh y phục tơi tả còn bám víu trên thân vóc đó, cách đây mấy phút, trông vừa tồi tàn vừa khôi hài thì bây giờ ngời lộng huy hoàng, như những mảnh vàng mảnh ngọc mường tượng y dang mặc một chiếc áo giáp vô giá.

Rồi thì bà nhìn lên mớ tóc rối bồng thành đoanh của y, bà có cảm tưởng đó là một chiếc mão chỉ dành riêng cho tay vô thượng độc nhất võ lâm...

Già Tinh đại sư nhào xuống, cố gắng đứng lên, song thân mình vừa đứng, lại loạng choạng rồi ngã trở lại.

Nơi hai khóe miệng, có hai dòng máu từ từ rỉ...

Lão cố gắng thêm mấy lần nhưng vẫn không làm sao đứng được.

Lão bật cười cuồng dại, cười một lúc cao giọng thốt:

- Tốt! Tốt lắm! Bần tăng quả nhiên không phí công chờ đợi suốt mấy năm dài!....Chờ đợi qua thời gian đó, để được thấy một sự thật. Bí kíp võ công của Tử Y Hầu đúng là vô địch trong thiên hạ. Tiểu tử to đầu hôm nay thắng được bần tăng, là một chứng minh hùng hồn cho sự kiện đó...

Hồ Bất Sầu điềm nhiên đáp:

- Rất tiếc, đại sư chi thấy một chứng minh chứ không thể thấy bí kíp!

Già Tinh đại sư cười lớn:

- Bần tăng có thấy được hay không điều đó không quan hệ gì. Võ công vô thượng của Tử Y Hầu sau ngày lão ấy chết, còn được lưu truyền đời sau là một điều may mắn lớn cho võ lâm Trung Nguyên. Bần tăng không may, song võ lâm hữu phúc, như thế là quý rồi! Bần tăng còn mong cầu chi hơn nữa chứ?

Hồ Bất Sầu nhìn xuống đất theo dõi từng cố gắng của nhà sư lưu ý đến tiếng cười cuồng dại của một cao tăng nhưng quái dạng.

Bất giác y sinh lòng kính phục.

Kính phục vì ý chí cương quyết của nhà sư. Cái ý chí đó nhắm vào mục tiêu duy nhất nhà sư bảo trì cái ý chí đó, trong mục tiêu đó suốt đời.

Ngày nay đại sư gần lên tuần thất thập, vẫn giữ nguyên chí đó.

Trên giang hồ phỏng có mấy tay kiên trì lắm ý lâu dài được như đại sư?

Chính cái điểm đó làm Hồ Bất Sầu khâm phục lão.

Nuôi dưỡng ý chí đó là lão tận tâm phục vụ cho võ đạo. Lão muốn nâng võ đạo lên ngôi vô thượng.

Lão thành tâm lo cho võ đạo hơn chính cá nhân lão. Y thở dài bước tới định nâng lão đứng lên.

Bỗng Thủy Thiên Cơ bật cười ha hả, cười lên mấy tiếng lại hét to:

- Mụ yêu tinh kia, định đi đâu chứ?

Hồ Bất Sầu giật mình quay nhìn lại, thấy Thủy Thiên Cơ chụp tay áo của Vạn lão phu nhân.

Thấy con gà nhà đã rũ lông xếp cánh, cụp đuôi rồi, Vạn lão phu nhân biết nguy cớ sắp đến có ý chuồn êm.

Thừa lúc không ai lưu ý đến bà, bà sẽ lén bước đi, bước được ba bước, Thủy Thiên Cơ phát hiện ra mưu toan của bà, vội chụp tay áo bà giữ lại.

Bà nhũn thân hình sụp xuống nhăn nhó mặt:

- Thủy cô nương!.... Cô nương làm khó dễ già chi thế?

Thủy Thiên Cơ cười hì hì:

- Làm khó bà? Đáng lẽ tôi băm vằm xác bà ra thành trăm thành ngàn mảnh mới phải mới được!

Vạn lão phu nhân run run giọng:

- Già luôn luôn đối xử tốt với cô nương mà!

Thủy Thiên Cơ cười hì hì:

- Bà đối xử tốt với tôi à? Tôi xem bà như bằng hữu, như tri giao, bà tìm đủ trăm phương ngàn kế, quyết hại tôi cho kỳ được! Toan làm hại cho tôi phải chết là tốt đối với tôi hay sao?

Vạn lão phu nhân kêu vang thiết tha:

- Đành là giá có tội song cạnh cái tội đó còn có cái công!

Thủy Thiên Cơ cười tươi, tiếng cười rất ấm rất dịu.

Nàng càng cười tươi và ấm dịu, Vạn lão phu nhân càng sợ hãi, bà sợ đến líu lưỡi lại.

Bà hiểu rõ, mỗi lần giết người, Thủy Thiên Cơ cười tươi, cười ấm dịu như vậy.

Giọng cười của nàng càng lúc càng ngọt, dịu hòa, giọng nói của nàng cũng ngọt dịu vô cùng.

Nàng hỏi:

- Bà nói là bà có công, chứ cái công đó như thế nào, bà giải thích cho tôi nghe đi?

Vạn lão phu nhân chưa hết sợ:

- Nếu không có già... thì Hồ Bất... Hồ đại hiệp có lẽ hiện giờ còn ở trong vuông phòng kín kia. Hồ đại hiệp không ra khỏi phòng thì có ai đánh ngã Già Tinh đại sư cho cô nương?

Thủy Thiên Cơ bật cười khanh khách:

- Bà nói hay quá! Cái lưỡi của bà đó, có hiệu năng làm cho người chết sống lại đấy! Nhưng cho bà hay, tôi không nghe bà đâu, vô luận bà nói gì, tôi cũng muốn...

Bỗng Hồ Bất Sầu gọi vọng lại:

- Tha cho bà ấy đi, Thủy cô nương!

Thủy Thiên Cơ quay mặt lại cười ròn:

- Tại sao ngươi muốn ta thả cho bà ta? Bà đã hại bao nhiêu người rồi, như vậy chưa đủ sao, còn lưu mạng sống cho bà ta, để bà hại thêm nữa? Bà ta là một nữ yêu tinh đấy!

Hồ Bất Sầu thở dài:

- Nhưng bà ấy nói có lý. Nếu bà ta không sắp xếp cái đó cho Già Tinh đại sư thi hành thì chẳng biết đến năm tháng nào tại hạ ra khỏi phòng kín. Bởi muốn ra phòng, ít nhất cũng phải chờ đến khi nào mình tự tin! Mà ở trong đó mãi làm gì có dịp cho mình tự tin sự thành tựu của mình?

Y cười khổ tiếp:

- Có thể tại hạ hoài nghi mãi đến vô cùng tận đó, và chắc chắn là không dám bước ra vậy!

Thủy Thiên Cơ ngưng ánh mắt nhìn hắn.

Một lúc lâu, nàng mỉm cười, dịu giọng thốt:

- Được! Ngươi muốn ta tha cho bà ta, ta xin vâng lời. Bất cứ việc gì, ngươi muốn sao, ta làm vậy!

Cần tàn độc, nàng có thể tàn độc hơn bất cứ ai trên đời.

Cần dịu hiền, nàng cũng có thể dịu hiền hơn bất cứ ai trên đời.

Hồ Bất Sầu gật đầu:

- Đa tạ cô nương?

Nụ cười của Hồ Bất Sầu hiện tại chừng như có một ma lực hấp dẫn hơn bảy năm về trước.

Thủy Thiên Cơ lại nhìn y, đúng hơn nàng nhìn nụ cười của y đoạn nhẹ giọng:

- Chính ta phải tạ Ơn ngươi mới đúng!

Bất thình lình nàng hôn phớt lên má Hồ Bất Sầu rồi như con én liệng, nàng vọt nhanh vào nhà.

Khi nàng trở ra ngoài, Hồ Bất Sầu đang ở tại dòng suối tắm rửa.

Lần đầu tiên sau bảy năm qua y mới tắm rửa.

Nếu không có một nghị lực phi phàm, thì còn ai có thể chịu đựng nổi cái khổ bảy năm không tắm rửa?

Con thú không tắm, thì vẫn vẫy nước, thì con người làm sao bảy năm dài không có một giọt nước trên mình?

Cánh buồm ngũ sắc đã hạ xuống rồi và trong tay Thủy Thiên Cơ có một chiếc bao.

Thời gian cấp bách lắm, sau bảy năm còn gì nữa?

Đã đến lúc họ lên đường.

Hồ Bất Sầu hỏi:

- Con thuyền của Vạn lão phu nhân còn sử dụng được chăng?

Vạn lão phu nhân đáp nhanh:

- Còn! Còn!

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Miễn nó đừng chìm thôi, mình còn có cách điều khiển nó lướt đi như thường.

Hồ Bất Sầu lại hỏi:

- Trên thuyền có ai khác nữa chăng?

Vạn lão phu nhân đáp:

- Có chứ, song lại bị Già Tinh đại sư giết chết hết rồi!

Hồ Bất Sầu thở dài.

Y nhìn sang Già Tinh đại sư, lão đã ngồi yên được từ lâu, lão đang xếp bằng tròn, bất động như tượng Phật.

Lão chưa chết cái xác, song lão đã chết cái tâm.

Lão biết rõ, vĩnh viễn lão không thể đạt đến ngôi vị độc tôn trong võ lâm.

Ngôi vị tuyệt đỉnh đó, đã về tay kẻ khác rồi Hồ Bất Sầu thở dài lượt nữa đoạn gọi Vạn lão phu nhân:

- Bà dìu đại sư nhé?

Thủy Thiên Cơ trố mắt:

- Dìu lão? Thế ngươi định mang lão cùng theo à?

Hồ Bất Sầu gật đầu:

- Vô luận làm sao cũng là một bậc tông sư trong võ lâm. Chúng ta không thể bỏ rơi lão!

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Mọi người đều muốn giết, riêng ngươi lại thương tài!

Vạn lão phu nhân mỉm cười:

- Đúng vậy đó, cô nương!

Vạn lão phu nhân bước tới nâng Già Tinh đại sư. Lão như tê liệt, chẳng còn cử động được nữa.

Hồ Bất Sầu vào khoang thuyền góp nhặt mấy mươi quyển sách bằng lụa vàng, dùng cánh buồm ngũ sắc bao lại kín đáo.

Y làm việc đó, vừa thận trọng vừa kín đáo.

Thủy Thiên Cơ nhìn những quyển sách đó cũng sanh lòng tôn kính ngay. Sách là tim óc của Tử Y Hầu. Sách là tinh hoa của võ thuật.

Ngoài Tử Y Hầu ra còn ai góp nhặt vừa đầy đủ vừa tinh vi như thế?

Một vật báu như thế phàm con nhà võ ai không tôn kính?

Qua những quyển sách còn có bóng hình bậc tiền bối siêu phàm.

Sách tượng trưng người, người lưu sách cho ngàn đời sau, còn ai chẳng biết ơn?

Vạn lão phu nhân không dám bước theo Thủy Thiên Cơ nhìn cho thỏa mắt, song đứng xa xa bà len lén nhìn, nhìn một cách thèm thuồng.

Chỉ có Già Tinh đại sư thì đôi mắt như đờ không còn đảo tròng háo hức nữa.

Lão thật sự mất hết sinh lực, hay có một mưu định gì?

Cam tâm chịu vất vả, gian lao suốt bảy năm dài đến tuân hành mạng lệnh cho Thủy Thiên Cơ, từ lịnh nhỏ đến lịnh lớn như một tên nô lệ trung thành, cốt chờ đợi một ngày nào đó chính mắt nhìn mấy pho sách quý.

Ngày nào đó đã đến rồi tại sao lão dửng dưng?

Lão cảm thấy mình không còn hy vọng chi nữa nên không nhìn chăng? Nhìn làm chi cho lòng thêm đau buồn?

Vạn lão phu nhân đi trước dẫn đường.

Chỉ có bà mới biết con thuyền đậu tại chỗ nào. Dù Già Tinh đại sư cũng biết như bà, song lão đã biến thành cái xác không hồn, còn giúp ích gì cho nội bọn?

Huống chi Vạn lão phu nhân lại dìu đại sư? Hai người đó đi trước, dù cho ai dẫn đường cũng thế thôi.

Hồ Bất Sầu đeo chiếc bao bí kíp, Thủy Thiên Cơ đeo chiếc bao vật dụng theo sau.

Thủy Thiên Cơ đảo mắt nhìn quanh vẻ u buồn thoáng hiện nơi gương mặt.

Nàng trầm giọng thốt:

- Bảy năm qua, không ngày nào là ta không mơ tưởng sớm rời hoang đảo, trở lại đất liền. Nhưng bây giờ sắp sửa ly khai nơi đất quỷ này, ta cảm thấy tâm tư man mác làm sao! Có ai không lưu luyến một địa phương nào đã khắc ít nhiều kỷ niệm của mình?

Hồ Bất Sầu không đáp.

Nàng điểm phớt một nụ cười tiếp:

- Giờ đây, ta nhận ra cái đảo quỷ này vẫn còn có cái gì khả ái, vừa lưu lại một mảnh lòng, mà cũng vừa mang theo bao kỷ niệm êm đềm, giả như có một ngày nào ta không còn bị ràng buộc bởi một sự đời nhỏ nhen nào, có thể là ta trở lại đây, sống suốt chuỗi ngày tàn, để rũ đống xương lạnh tại một nơi hoang vắng xa hẳn tục trần. Ta nhận thấy không nơi nào thích hợp cho ta hơn đây!

Hồ Bất Sầu ngưng ánh mắt nhìn nàng, lâu lấm y mới nhẹ nở một nụ cười thốt:

- Nếu thật sự cô nương có ý đó thì chung quy vẫn có một ngày cô nương được mãn nguyện!

Thủy Thiên Cơ nhìn y:

- Chắc vậy?

Hồ Bất Sầu gật đầu:

- Chắc vậy cô nương!

Bốn mắt nhìn nhau, đôi lòng hứa hẹn một hoài mơ.

Chiếc bao trên vai Hồ Bất Sầu rất to, tất phải nặng, song y mang nó như chẳng mang vật gì, bước chân thoăn thoắt.

Bao nhẹ, hay y nóng lòng trở về quê cha đất tổ quên đi cái nặng nề?

Vạn lão phu nhân cũng nóng lòng về lục địa nên bước rất mau.

Không lâu lắm, đoàn người gồm bốn mạng đã đến bờ biển.

Dưới ánh dương quang, mặt biển ngời màu xanh biếc, trải rộng tận mù khơi, ánh mắt con người làm sao nhìn thấu bờ dối diện của đại dương?

Hồ Bất Sầu từ chỗ hẹp ra nơi rộng, rộng bao nhiêu cũng chưa vừa với cái ý phiêu bồng của con người nuôi dưỡng đại chí từ nhiều năm qua.

Nhìn mặt biển mênh mang, y nghe lòng phơi phới bay cao, lòng thoáng qua ánh mắt vút tận miền xa.

Biển? Chung quanh là biển, trước mắt là biển, gần như xa đều là biển.

Thuyền đâu?

Sóng biển tràn bờ, tràn lên rồi cuốn về khơi để trở lại cát vàng.

Bọt biển văng tung tóe, tiếng sòng ầm ì, tiếng gió rào rào.

Hồ Bất Sầu day sang Vạn lão phu nhân trầm giọng:

- Thuyền đâu?

Vạn lão phu nhân biến sắc.

Không phải bà sợ Hồ Bất Sầu hay Thủy Thiên Cơ làm khó dễ chi bà. Bởi bà cũng mong muốn trở về như họ, khi nào bà dám nói dối? Nói dối làm chi một sự việc có thể chứng minh trong phút giây, ai ai cũng cần có sự chứng minh đó?

Bà biến sắc vì sự việc diễn tiến quá bất thường.

Con thuyền đó bà cùng Già Tinh đại sư vào rừng, ngày chưa tàn, bà đưa nội bọn trở ra, thuyền mất dạng!

Thuyền đâu chứ? Làm sao bà đáp được câu hỏi đó?

Bà run run giọng thốt:

- Rõ ràng!.... Nó ở tại đây!.... Rõ ràng...

Thủy Thiên Cơ hừ một tiếng:

- Rõ ràng nó ở tại đây, nhưng nó đi đâu rồi?

Vạn lão phu nhân ấp úng:

- Kỳ quái... kỳ quái... kỳ quái...

Bà cứ kêu mãi hai liếng đó, bà kêu không biết bao nhiêu lượt, bà chỉ kêu như vậy thôi chẳng nói được gì hơn.

Hồ Bất Sầu cau mày:

- Hay nó bị sóng biển tràn bờ cuốn trôi?

Vạn lão phu nhân lắc đầu:

- Không thể có việc đó, vì chính già...

Thủy Thiên Cơ chận lời:

- Nếu không thể có việc đó, thì đúng là có người cướp thuyền vượt biển rồi!

Vạn lão phu nhân lại lắc đầu:

- Cũng không thể có việc đó. Bởi Công Tôn Hồng và Mai Khiêm đã chết, chính mắt già trông thấy như vậy mà!

Thủy Thiên Cơ giậm chân:

- Cái gì cũng không thể? Không thể tuốt? Nhưng thuyền vẫn mất dạng. Thế là nghĩa làm sao chứ? Không lẽ quỷ đoạt thuyền?

Vạn lão phu nhân xuất hạn ướt đầu:

- Ky quái... Kỳ quái thật!

Bỗng Già Tinh đại sư cao giọng:

- Hai người đó không chết!

Thủy Thiên Cơ hỏi gấp:

- Sao đại sư biết?

Già Tinh đại sư lạnh lùng:

- Chính ta hạ thủ, tự nhiên ta biết!

Vạn lão phu nhân trố mắt:

- Nhưng rõ ràng già thấy...

Già Tinh đại sư chân lại:

- Ta hạ thủ thế nào chẳng lẽ ta không hiểu nặng nhẹ ra sao chăng?

Lão nói như thế còn ai cãi lý được?

Luyện võ công đến mức thành tựu, đương nhiên lão muốn đánh mạnh đánh nhẹ tùy ý, nhất định không lầm được.

Vạn lão phu nhân ngồi phịch xuống cát, kêu lên tuyệt vọng:

- Rồi! ong rồi! Thế là xong! Nhất định hai gã đó cướp thuyền ra khơi rồi!

Già Tinh đại sư ngẩng mặt lên không bật cười cuồng dại:

- Tốt! Tốt! Thuyền mất là điều rất tốt. Không còn ai tưởng đến việc trở về!

Lão rít lên:

- Hồ Bất Sầu ! Ngươi khổ luyện bảy năm chung quy rồi cũng trở thành vô ích!

Bảy năm công phu, bỏ trôi theo dòng nước! Dòng nước cuốn đi, cuốn cả công phu hạnh phúc!

Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ nhìn nhau, nhưng thay vì thở dài họ lại cười.

Thủy Thiên Cơ hỏi:

- Trên đảo này có gỗ chứ?

Hồ Bất Sầu gật đầu:

- Có rừng là phải có gỗ! Hẳn như vậy rồi!

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Có gỗ là ta có thể trở về đất liền!

oOo Rừng có loại cây lớn, có cây rắn chắc, gia dĩ bốn người đều là những tay võ dũng siêu phàm, công việc kết một chiếc bè không khó khăn lắm, có điều thiếu phương tiện đốn gỗ, thành ra phải mất một thời gian lâu.

Lâu là nói theo cái ý muốn gấp của họ, chứ sang ngày thứ ba là bè hoàn thành.

Thủy Thiên Cơ cao hứng hơn ai hết.

Chính nàng lo cái việc trương lá buồm ngũ sắc lên chiếc bè đó.

Rồi bè cũng ra khơi, cánh buồm ngũ sắc cũng lộng gió như ngày nào, trước bảy năm.

Bè nhờ buồm, buồm nhờ gió, gió lại xuôi buồm ra khơi nhanh chóng và thẳng đường trở lại TrungNguyên.

Chỉ một khắc sau họ quay đầu nhìn lại không còn thấy hòn đảo nữa.

Gió một chiều giúp họ nhận định phương dễ dàng.

Ngày có gió, đêm có sao, đi biển nhờ sao không lạc lối.

Đêm đó rồi cũng qua đi, ngày mới lại bắt đầu, ngày thứ hai trên con đường biển trở về Trung Thổ.

Ngủ say một đêm, thái dương vừa lên, Thủy Thiên Cơ thức dậy.

Dưới ánh nắng ban mai, trông nàng đẹp huy hoàng.

Hồ Bất Sầu lẩm bẩm:

- Miễn sao đừng có bão, đừng có mưa, là trong vài hôm nữa mình sẽ đến đất liền.

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Không đâu, làm gì có bão, có mưa? Trời đã thử thách chúng ta suốt bảy năm trời, thì bây giờ phải ban thưởng cho chúng tạ để bù lại thời gian hành thú.

Vạn lão phu nhân mỉm cười phụ họa:

- Phải! Phải! Theo sự kinh nghiệm của già, già tin chắc là trong vòng mấy hôm nữa, nhất định không có bão, không có mưa đâu! Thủy cô nương và Hồ đại hiệp đã đến hồi thái lai sau cơn bỉ cực đó!

Thủy Thiên Cơ cười nhẹ:

- Bà cũng giỏi khen mà cũng giỏi ước mơ!

Hồ Bất Sầu nhìn xa xa sóng nước muôn trùng lẩm bẩm:

- Bảy năm qua rồi! Cố nhân ai còn ai mất...

Thủy Thiên Cơ gắt yêu:

- Lo nghĩ làm gì, đến đất liền rồi là biết, ở đây có ai biết chi đâu mà than vãn vẩn vơ?

Hồ Bất Sầu gật đầu:

- Đợi bảy năm vẫn còn đợi được không biết tại sao chỉ còn mấy hôm nữa tại hạ nôn nóng phi thường!

Y thơ màng tiếp tục lẩm bẩm:

- Mạc đại cạ.. Kim nhị cạ.. có lẽ bảy người đều thành danh hết rồi!

Thủy Thiên Cơ tỏ vẻ tin tưởng:

- Với tài nghệ của họ, thành danh là điều dĩ nhiên cho họ rồi!

Hồ Bất Sầu gật đầu:

- Tại hạ cũng nghĩ như vậy!

Y quay qua Vạn lão phu nhân, tiếp hỏi:

- Bà từ đất liền qua đây chắc bà hiểu hiện nay những người đó ra sao chứ?

Vạn lão phu nhân thoái thác:

- Già... già không biết đích xác lắm!

Thủy Thiên Cơ cười lớn:

- Bao nhiêu lần ngươi hỏi, là bấy nhiêu lần bà đáp không biết không biết! Ngươi còn hỏi bà ta làm gì?

Hồ Bất Sầu mơ màng:

- Hỏi để cho vơi bớt cái gì tại hạ thắc mắc. Bởi dù sao cũng chỉ là sự ức đoán của chúng, ta, mà ức đoán thì có bao giờ chắc chắn? Tại hạ không yên tâm về họ, cô nương ạ! Tuy bà ấy nói không biết, tại hạ vẫn không tin là bà ấy chẳng biết gì. Bởi trên giang hồ bà là người xuôi ngược thường xuyên. Nơi nào cũng có mặt bà, việc gì cũng chẳng qua lọt được kiến thức của bà. Thì làm sao bà không biết được ít nhất tin tức về khách giang hồ trong số bảy sư huynh của tại hạ?

Thủy Thiên Cơ bĩu môi:

- Biết trăm việc, biết ngàn việc, chưa hẳn là biết hết mọi việc. Tự nhiên cũng có việc mà bà rất mù mờ, đừng tưởng bà ta là thánh mà biết được tất cả sự việc trên thế gian.

Vạn lão phu nhân chụp ngay câu nói đó:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Một lúc lâu, Hồ Bất Sầu tiếp nối:

- Còn Bửu Nhi? Tiểu tử đó ngày nay đã trưởng thành rồi hẳn rất thông minh, tại hạ tin rằng thế nào hắn cũng thành danh, tại hạ thắc mắc một điều, lớn lên hắn biến đổi hình dáng như thếnào...

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- Cái câu đó người...

Hồ Bất Sầu cười nhẹ chận lời:

- Tại hạ biết, câu nói đó tại hạ hỏi đi hỏi lại rất nhiều lần. Hỏi để mà hỏi chứ nào ai đáp cho tại hạ biết đâu? Cứ mỗi lần tại hạ nhớ đến hắn, thì tại hạ nôn nao bứt rứt làm sao ấy! Do đó, cuối cùng rồi cũng phải lập lại câu hỏi cũ rích...

Thủy Thiên Cơ trầm ngâm một lúc lâu, đoạn trầm buồn buông một câu:

- Ngươi nhớ đến họ, nhắc đến họ chẳng biết có ai nhớ đến ngươi, nhắc nhở ngươi chăng?

Hồ Bất Sầu cười khổ:

- Tuy không có gì chứng chắc điều đó, tại hạ vẫn tin rằng họ luôn luôn nhớ đến tại hạ! Mà dù cho chẳng ai nhớ tại hạ, mình nhớ đến họ là đủ rồi! Trước hết hãy biết cho mình, đủ tình đủ ý với bạn đồng môn, như vậy mới vẹn thủy chung!

Thủy Thiên Cơ cười nhạt:

- Ta thì khác, ai nghĩ đến ta, ta nghĩ lại, ai không nhớ ta, chẳng tội gì ta phải nhớ lại!

Hồ Bất Sầu mỉm cười:

- Chỉ vì hoàn cảnh của mỗi người mỗi khác, hoàn cảnh tạo cảm tình, hoàn cảnh duy trì hay hủy diệt cảm tình, tất cả đều do hoàn cảnh, cô nương ạ! Tuy nhiên có loại cảm tình, muôn năm bất diệt, đó là loại cảm tình chân chánh thành thật, phát sinh từ thanh khí cho nên đời gọi là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu! Dù tao ngộ trên con dường đời, cảm tình đó vẫn được duy trì mãi mãi. Cô nương...

Bỗng từ bao nhiêu thời khắc ngồi bất động như tượng đá, Già Tinh đại sư ngẩng mặt lên không cười cuồng dại.

Tràng cười của lão có âm thanh quái dị đáng sợ.

Thủy Thiên Cơ cau mày:

- Đại sư cười chi?

Già Tinh đại sư cười một lúc nữa rồi cao giọng đáp:

- Ta cười các ngươi! Bọn người vẩn vơ với mộng, nói qua cơn mơ!

Thủy Thiên Cơ phát cáu:

- Đại sư biết gì dám chỉ trích bọn tôi? Phải biết bọn tôi...

Già Tinh đại sư chận lại:

- Bọn ngươi đừng mơ tưởng thấy lại họ! Bọn ngươi đừng mơ tưởng trở lại Trung Nguyên!

Vạn lão phu nhân biến sắc:

- Ngươi... ngươi nói sao?

Già Tinh đại sư nhấn mạnh:

- Chiếc bè này, chìm ngay bây giờ!

Thủy Thiên Cơ nhảy dựng lên không còn giữ lễ độ nữa:

- Ngươi câm ngay!

Già Tinh đại sư cười lạnh:

- Dây chằng các thân gỗ, sắp đứt đến nơi!

Thủy Thiên Cơ, Hồ Bất Sầu, Vạn lão phu nhân không hẹn mà cùng đồng nhìn xuống các đường dây ràng chằng chịt những cây gỗ.

Đúng như Già Tinh đại sư đã nói, nhiều đường dây đã đứt rồi. Dây chẳng phải một tao, mà do nhiều tao kết lại. Hầu hết những đường dây đều đứt, có đường còn lại vài tao, có đường đứt đoạn.

Nhờ thế, chiếc bè chưa tan rã.

Nhưng hàng chục tao vẫn không chịu đựng nổi áp lực sóng biển, còn lại một vài tao có thấm vào đâu?

Chắc chắn trong khoảnh khắc đây, những tao dây cuối cùng sẽ đứt, những thân gỗ rời ra.

Cuộc ly tán giữa họ sắp sửa thành hình và chẳng biết ai sẽ vào bụng cá trước?

Hồ Bất Sầu là con người trầm tĩnh nhất trong bọn cũng phải biến sắc mặt.Y trầm giọng hỏi bâng quơ:

- Tại sao thế này? Tại sao?

Còn ai biết tại sao?

Bè đi biển dây đứt, thân gỗ rời rã, đương nhiên là do áp lực của những lượn sóng to giập nhồi, chứ còn tại sao nữa?

Nhưng Già Tinh đại sư nhắm mất lại, lạnh lùng đáp:

- Tại ta đấy! Ta chặt đứt dây!

Thủy Thiên Cơ túm lấy lão lên hét lớn:

- Ngươi điên phải không? Ngươi chán sống rồi phải không?

Già Tinh đại sư gật đầu:

- Ta bất cần sanh mạng nữa!

Vạn lão phu nhân run run giọng:

- Ngươi sợ ta không trao giải dược cho ngươi phải không? Cho nên, ngươi đinh ninh là phải chết rồi hành động điên cuồng như vậy phải không?

Già Tinh đại sư buông gọn:

- Ừ!

Vạn lão phu nhân kêu lên:

- Trời! Ta lừa ngươi, gạt ngươi chứ nào phải là chuyện thật? Loại Ô mai đó ta ăn hằng ngày, ta ăn hàng chục hàng trăm, làm gì có độc mà ngươi sợ quá đỗi như thế chứ?

Già Tinh đại sư lạnh lùng:

- Có độc cũng chẳng sao, không độc cũng thế thôi!

Vạn lão phu nhân hấp tấp hỏi:

- Vậy tại sao ngươi hành động như thế?

Già Tinh đại sư vụt mở mắt ra, nhìn trừng chiếc bao chứa dựng những bí kíp của Tử Y Hầu. Ánh mắt của lão sáng rực.

Lão buông từng tiếng một:

- Ta không làm chủ những vật đó, thì những vật đó phải theo ta về đáy biển sâu?

Vạn lão phu nhân run cả tay, cả chân, hét lên:

- Điên! Điên... Ngươi điên mất rồi!

Hồ Bất Sầu quát lớn:

- Tất cả giữ sự yên tịnh. Chúng ta sẽ...

Già Tinh đại sư bật cười cuồng dại:

- Hồ Bất Sầu! Hồ Bất Sầu ! Giữ sự bình tịnh để làm gì? Ngươi học hết võ công của Tử Y Hầu để làm gì? Để làm gì chứ? Hồ Bất Sầu!

Lão rít lên:

- Để theo ta, nằm yên dưới lòng biển lạnh?

Bỗng lão đứng lên nhào tới Hồ Bất Sầu.

Hồ Bất Sầu đánh ra một chưởng chặt hai cánh tay của đại sư.

Già Tinh đại sư rút tay về, rồi chụp tới như độc xà táp chuột, Hồ Bất Sầu cũng biến chiêu đánh vào mạch môn của lão.

Trong phút giây, song phương trao đổi bảy tám chiêu, chiêu nào cũng độc cũng nhanh.

Thủy Thiên Cơ và Vạn lão phu nhân kinh hãi đến xanh mặt. Họ như quên cái chết đến nơi, theo dõi cuộc đấu qua từng chiêu một.

Qua một lúc lâu, Hồ Bất Sầu chẳng gây thương tổn gì được cho Già Tinh đại sư mà đại sư cũng chẳng làm chi nổi Hồ Bất Sầu.

Đội nhiên có tiếng rắc rắc, bựt vang lên.

Chiếc bè rã thành bốn năm phần. Thủy Thiên Cơ kêu lên thất thanh:

- Hồ Bất Sầu!

Sóng biển tràn tới cuốn nàng đị..

Trong lúc dở nổi dở chìm, nàng mường tượng nghe tiếng gọi:

- Thủy Thiên Cơ..... Tiếng gọi đó hòa với tiếng sóng vỗ ầm ầm cùng tiếng cười cuồng dại của Già Tinh đại sư.

Thủy Thiên Cơ cố vùng vẫy, cố lướt mình qua sóng, tiến đến chỗ tiếng gọi phát ra, nhưng làm sao nhận định phương hướng chính xác trong trường hợp đó.

Sóng biển dìm nàng xuống, nàng lại vọt mình trồi lên, rồi nhờ biết ít nhiều thủy tính, nàng nổi phình phình trên mặt biển.

Trên mặt biển, những thân gỗ, những đường dây, những vật dụng mang theo từ hải đảo còn trôi lềnh bềnh, trào lên hụp xuống theo sóng dập nhồi.

Nhưng chẳng có một người nào.

Thủy Thiên Cơ bật khóc. Nàng khóc, chẳng phải nàng lo ngại cho sanh mạng của Già Tinh đại sư hoặc Vạn lão phu nhân.

Nàng khóc, chẳng phải nàng lo ngại cho sinh mạng của chính nàng.

Nàng lo ngại cho Hồ Bất Sầu.

Chợt nàng phát hiện ra đối với người ngoài, nàng quan tâm quá nhiều, quan tâm hơn chính nàng. Phát hiện ra điều đó, nàng cũng chưa tin là vậy.

Nhưng, sự thật là như vậy, hiện tại nàng lo cho Hồ Bất Sầu quá độ.

Nàng vớ một thân gỗ, nàng theo đó, mặc cho sóng vỗ đưa đi đâu thì đưa, nàng gào lên:

- Hồ Bất Sầu! Hồ Bất Sầu!.... Ngươi ở đâu?

Kêu lên làm gì?

Tiếng nói của con người ở biển khơi có gió lộng, có sóng gầm, còn ai nghe lọt?

Có thể chính người gào thét còn không nghe âm thinh của mình, huống chi người mà mình hướng vọng?

Và người mình hướng vọng đó, ở gần hay ở xa, hay đã chìm dưới đáy biển sâu rồi?

Đôi mắt nàng mờ dần, không còn trông thấy gì rõ rệt nữa.

Đôi mắt mơ hồ, do nước biển từ bên ngoài bắn vào, hay do lệ thảm từ bên trong tràn ra.

Nàng gào to quá, nhiều quá, giọng nói của nàng trở nên khàn khàn, giọng nói nhỏ dần.

Và cuối cùng nàng chẳng trông thấy gì cả, dù là mờ mờ...

Nàng hôn mệ..

Chẳng rõ nàng hôn mê được bao lâu bỗng nàng tỉnh lại, nàng nghe như có bàn tay ai đó, nắm mớ tóc của nàng rồi một giọng nói hơi trầm nhưng có phần ấm dịu, vang lên văng vẳng bên tai nàng:

- Tỉnh lại! Tỉnh lại cô nương! Tại hạ Ở đây sát một bên đây...

Thủy Thiên Cơ mở bừng đôi mắt.

Hồ Bất Sầu thật sự Ở bên cạnh nàng. Thì ra nàng không nằm mộng, trong phút giây, nàng cảm thấy khích động vô cùng...

Không một danh từ nào diễn tả đúng niềm khích động đó, có hàm chứa biết bao tình cảm.

Bất chấp hắn như thế nào, nàng ôm chầm hắn, rên rỉ:

- Đừng đi nữa nhé ! Đừng đi đâu nữa nhé! Vĩnh viễn ở cạnh ta!

Vĩnh viễn! Chúng ta không thể rời nhau nữa!....

Hồ Bất Sầu nghe mặn nơi miệng.

Nước biển hay nước mắt?

Y không nói tiếng gì. Y không nói được mà cũng chẳng cần phải nói gì. Hai người đã ôm chặt được vào một thân cây. Sóng biển đưa thân cây chập chờn theo sóng nước. Tình dù nồng, ý dù thắm, nghĩa phải keo sơn.

Song, để làm gì trong cảnh này? Một khung cảnh tàn khốc, tử thần đang chớp cánh lượn trên dầu sóng, vầng vầng theo gió, chực chờ họ.

Tuy nhiên biết chẳng làm được gì hơn, cả hai đành để mặc cho nước đẩy gió đùa.

Dù không quên được, họ cũng cố quên, bắt buộc phải quên cái nguy quanh mình.

Họ để cho nguồn lòng cuộn chảy, hai nguồn lòng kết hợp thành giòng, và tâm hồn họ theo giòng tâm tư đó mà bay tận phương trời xa, nơi mà sắc huy hoàng của tình yêu nghinh đón họ.

Nhưng sức người có hạn.

Họ không chi trì nổi với biển động, gió đùa, sức bám víu vào sự sống dần dần kém giảm. Tay họ đau, thân họ đau, từ đau đến tê đi chẳng mấy chốc.

Biết đâu trong phút giây bất lực nào đó, họ buông tay?

Gió thản nhiên hét, biển thản nhiên gào, bất chấp hai cuộc đời vừa lên hương yêu đương.

Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ còn chi trì được bao lâu nữa?

Những ngày trên đảo, họ trông ánh dương quang đẹp làm sao.

Thật ra thì chỉ có Thủy Thiên Cơ trông thấy ánh dương quang mà thôi chứ Hồ Bất Sầu nhốt mình trong phòng kín thấy gì được?

Giờ đây họ Oán hận ánh dương quang vô cùng.

Nóng quá! Nhất là khi họ đẫm mình trong nước mặn. Nắng chiều, nước khô, chất mặn vừa kết tinh, vừa rít gây cái cảm giác khó chịu phi thường.

ác thịt khó chịu, đôi mắt cũng hoa luôn. Đầu óc cũng hỗn loạn luôn.

Cả hai tưởng chừng có thể buông tay trong phút giây nào đó. Thà buông tay mà chìm lỉm cho xuống đáy biển, thà chết cho rồi chứ bám víu vào sự sống một cách bấp bênh khác nào bám vào tuyệt vọng, thì tội gì phải đầy đọa thân xác, tội gì phải kéo dài sinh mạng thêm mấy phút?

Tuy nhiên họ không buông tay, họ nhìn qua tuyệt vọng, tìm một viễn ảnh một hy vọng.

Họ gợi chuyện, cho quên đi phần nào thực tế của chính họ.

Thủy Thiên Cơ hỏi:

- Còn... Vạn lão phu nhân?

Hồ Bất Sầu lắc đầu:

- Tại hạ không được rõ!

Thủy Thiên Cơ lại tiếp:

- Già Tinh...

Hồ Bất Sầu lại lắc đầu:

- Cũng không biết nốt!

Thủy Thiên Cơ mỉm cười:

- em ra, chỉ có hai chúng ta là còn sống!

Hồ Bất Sầu trầm giọng:

- Nhưng được bao lâu nữa?

Thủy Thiên Cơ điềm nhiên:

- Dù sao, cũng lâu hơn họ được mấy phút mấy khắc và biết đâu...

Hồ Bất Sầu thở dài:

- Cô nương... cô nương...

Tuy nói thế, tuy cố gượng quên nhưng Thủy Thiên Cơ vốn là nữ nhân, có nữ nhân nào lại không yếu mềm lòng dạ?

Khi hành sự thì có chí khí như nam nhân, song khi nghĩ đến số phận tâm tình, thì nữ nhân nào cũng yếu mềm cả, trừ những người không tha thiết đến sự sống nữa!

Thủy Thiên Cơ bật khóc.

Hồ Bất Sầu an ủi:

- Cô nương...

Thủy Thiên Cơ vẫn còn khóc:

- Đáng lẽ ta không nên khóc. Đáng lẽ ta phải cười... Có người bên cạnh ta, ta còn mong muốn gì hơn, sống có nhau, chết có nhau, ta còn mong muốn gì hơn?...

Rồi nàng ngưng khóc thật, nàng lại cười.

Nhưng thà nàng khóc, tiếng khóc của nàng, Hồ Bất Sầu còn dễ chịu hơn. Tiếng cười của nàng, như những nhát dao đưa vào tim gan của hắn. Mỗi tiếng cười vang là mỗi lần hắn nghe nhói trong lòng.

Hắn đứt ruột vì âm thinh quá bi đát của tiếng cười, hắn còn đứt ruột vì niềm thiết tha của Thủy Thiên Cơ dành cho hắn...

Hắn khuyên Thủy Thiên Cơ cười vui, song chính hắn lại muốn khóc.

Lệ thảm không trào tuôn, lệ ứ trong yết hầu làm giọng hắn khàn khàn sệt sệt.

Hắn lẩm bẩm:

- Không ngờ cô nương đối xử với tại ha.....

Thủy Thiên Cơ chận lời:

- Ta cũng không ngờ là ta có thái độ này đối với ngươi... Người đời cho rằng đó là duyên, duyên tiền kiếp có đúng thế không? Bởi cái duyên đó cho nên chúng ta mới gặp nhau, bình thường thì chẳng làm sao chúng ta gặp nhau, bởi dù có cái duyên tiền kiếp, chúng ta cũng không hề tìm gặp nhau. Do đó, cao xanh bày ra tai nạn đưa đẩy chúng ta cởi mở tâm tình để hoàn thành cái duyên tiền kiếp.

Hồ Bất Sầu mơ màng:

- Tai nạn!.... Thừa chết thiếu sống!...Tại hạ nên cảm kích cao xanh hay phải hận?

Thủy Thiên Cơ đáp nhanh:

- Riêng ta, thì ta cảm kích cao xanh! Nhờ cao xanh sắp xếp tai nạn, tạo dịp cho chúng ta gần nhau, nhờ cao xanh ta mới hiểu thế nào là cảm tình chân chánh, nhờ cao xanh ta mới biết yêu thành thật! Con người biết yêu và được yêu rồi thì cái chết còn nghĩa lý gì nữa?

Phải!

Chết là cái gì, có gì đáng sợ đâu?

Còn biết yêu và được yêu là đạt được cứu cánh của lẽ sống. Trăm ngàn giấc mơ, chẳng có giấc mơ nào đẹp bằng giấc mơ tình, giấc mơ tình đã thực hiện, còn người còn mong muốn chi hơn?

Huống chi, chết trong lúc tình yêu lên hương là bảo vệ tình yêu trọn vẹn?

Rồi ngày hết đêm về.

Về theo đêm, có sao trời xoa dịu cái khổ của ánh nắng ban ngày.

Song chẳng có đêm nào vô tận, đêm qua ngày lại đến, luân phiên ngày đêm chia vũ trụ, giành vũ trụ với nhau.

Họ bềnh bồng theo sóng nước như thế chẳng biết được bao nhiêu đêm ngày.

Dĩ nhiên trong hoàn cảnh đó, con người dù là sắt đá, sắt đá cũng tiêu mòn, huống hồ là da, thịt xương?

Thủy Thiên Cơ và Hồ Bất Sầu như ngọn đèn ngày càng cạn dầu, càng lụi tim.

Đã đến lúc họ không còn kháu chuyện với nhau được nữa.

Môi vẫn mấp máy, song tiếng nói không có âm hưởng nào, ánh mắt lờ đờ như những kẻ quáng manh.

Họ không còn nói gì với nhau nữa.

Và họ cũng chẳng dùng ánh mắt thay lời được nữa, bởi nhãn quang mất hẳn tinh thần.

Nhưng lòng của họ lại dung hợp với nhau hơn bao giờ hết.

Họ lấy lòng hiểu lòng, họ sẵn sàng bước sang thế giới bên kia, lòng dung hợp, ý chí dung hợp.

Họ chui mình vào cái vỏ cứng của tình yêu, của chung tình và cái vỏ đó chực dịp lăn qua lằn ranh sanh tử, để vĩnh viễn yêu nhau nơi khung trời xa lạ, nơi đó họ thung dung tự tại, họ sống mãi với trời đất.

Họ sẵn sàng bước qua thế giới an tường, để vĩnh viễn yêu nhau, để cho tình yêu của họ bất diệt...

Một tiềm lực siêu nhiên, bỗng đến với Thủy Thiên Cơ như ngọn đèn sắp tắt, bừng lóe lên, nàng gọi Hồ Bất Sầu:

- Dấu yêu! Hẹn gặp nhau bên kia thế giới...

Hồ Bất Sầu cũng vùng lên, vượt qua mọi suy nhược:

- Sao? Đi gấp thế à?

Thủy Thiên Cơ thở dài:

- Kiệt quệ rồi! Không làm sao chi trì nổi nữa... Ta muốn đị.. Ta phải đị..

Hồ Bất Sầu run giọng:

- Không! Thủy muội ! Thủy muội không thể đi được!....

Thủy Thiên Cơ lắc đầu:

- Gắng gượng làm chi nữa Hồ huynh? Chung quy rồi cũng buông xuôi! Gắng gượng là kéo dài đau khổ. Hồ huynh để cho tiểu muội ra đi, chẳng lẽ Hồ huynh bắt tiểu muội phải khổ?...

Hồ Bất Sầu gấp giọng:

- Nhưng... nhưng... Thủy muội...

Hắn không nói được, hắn nắm chặt tay Thủy Thiên Cơ, sợ nàng vuột mất.

Thủy Thiên Cơ thở dài:

- Hãy để cho tiểu muội đi, Hồ huynh! Cho tiểu muội đi sớm, Hồ huynh!

Hồ Bất Sầu nghiến răng:

- Nếu có phải đi chúng ta cùng đi!

Thủy Thiên Cơ lắc đầu:

- Hồ huynh không được đi! Không được? Hồ huynh còn cơ hội!

Hồ Bất Sầu cười thảm:

- Cơ hội gì sau khi Thủy muội ra đi? Cơ hội dù có, có để làm gì?

Thủy muội có biết nhờ đâu mà nguy huynh chi trì sanh mạng suốt bảy năm trời không? Nhờ Thủy muội đó. Giờ đây, được chết cùng cảnh, cùng lúc với Thủy muội thì đúng là một diễm phúc của ngu huynh rồi.

Thủy muội ơi...

Bỗng hắn kêu lên:

- Không? Thủy muội không chết! Ngu huynh cũng không chết!

Thủy muội trông kia xem cho biết cái gì !

a xa một cánh buồm ló dạng.

oOo Con thuyền lướt sóng tiến nhanh về phía họ.

Gom tàn lực, Hồ Bất Sầu gọi to:

- Bằng hữu nào trên thuyền đó? Có thể lái thuyền lại đây cứu nạn bọn này chăng?

Trên thuyền, chẳng có có người chăng, không một tiếng người vỏng lại.

Hớ Bất Sầu lại gọi:

- Bằng hữu trên thuyền có nghe tiếng kêu cứu chăng?

Con thuyền cứ bềnh bồng, không đến gần mà cũng chẳng dang ra xa.

Thuyền có buồm giương, nhưng vắng bóng người thủy thủ.

Thủy Thiên Cơ chợt hỏi Hồ Bất Sầu:

- Chừng như thuyền không có người?

Hồ Bất Sầu không đáp, chỉ thốt:

- Kỳ quái.. thật là kỳ quái!

Thủy Thiên Cơ lẩm bẩm:

- Hay là thuyền bị cướp, người trên thuyền bị giết hết?

Hồ Bất Sầu cương quyết:

- Vô luận làm sao, chúng ta hãy tìm cách lên thuyền rồi hẵng hay!

Lên thuyền có gì khó khăn đâu? Nhưng cả hai quá kiệt sức, thành phải vất vả lấm mới bơi đến gần thuyền, rồi còn bám víu vào những vật gì có thể bám víu...

Cuối cùng họ cũng lên được thuyền.

Lên thuyền là thoát nạn trầm thủy, lên thuyền là một bước tiến dài đến sự sống, đáng lẽ họ vui.

Song họ không vui khi lên thuyền.

Hồi 55

Đạo Nghĩa Của Kẻ Cướp

Hồ Bất Sầu buông gọn:

- Quả thật trên thuyền không có người!

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Ừ, nếu có người hẳn họ đã ra mặt rồi.

Hồ Bất Sầu tiếp:

- Nếu đúng là thuyền này gặp cướp, mong là bọn chúng lưu tình phần nào.

Thủy Thiên Cơ đồng ý:

- Ừ, mong là thế. Chúng cướp gì thì cướp. Đừng lấy thực phẩm và nước uống thì tốt.

Trong cơn nguy cấp, trước khi phó thác thân mình vào tay tử thần, họ đổi lối xưng hô, gọi nhau huynh huynh muội muội, nắm tay thân mật. Trong lúc tuyệt vọng, họ cởi mở với nhau. Giờ lên thuyền rồi, họ lại thấy hi vọng bừng lên. Cái sống gần lại, cái chết xa dần, họ lại trở lại lối xưng hô cũ. Hồ Bất Sầu nói:

- Cô nương ngồi đây, để tại ha.....

Hắn định đi xem xét con thuyền. Nhưng Thủy Thiên Cơ còn nóng nảy hơn, khi nào chịu ngồi yên một chỗ? Nàng nói:

- Ta đi theo ngươi.

Họ liền cùng nhau mà đi. Lúc lên thuyền họ mới ngồi nơi mũi thuyền, giờ mới vào trong khoang trong. Vừa vào được vài bước, họ dừng chân ngay. Cả hai người cùng kêu lên một lượt. Trong thuyền không có người, chỉ có một tử thi hiện ra trước mắt họ. Một xác chết.

Không biết chỉ có một hay còn nữa, nhưng biết rằng hiện trước mặt họ có một xác chết.

Tử thi này nằm ngay cửa khoang thuyền. Y phục rách nát tơi tả, tóc rối bù, dường như đã chết từ lâu lắm rồi. ác chết không mang thương tích, chỉ thấy khoảng giữa đôi mày có một điểm nhỏ. Không phải là vết bầm mà là vết thương nhỏ, máu rỉ ra đọng quanh đen sì.

Thủy Thiên Cơ kêu lên:

- Ngươi xem kìa. Vết đỏ đó là một vết thương chí mạng, nếu không sao nạn nhân bỏ mạng.

Hồ Bất Sầu kêu thất thanh:

- Là người áo trắng.

Thủy Thiên Cơ biến sắc theo:

- Nhất định là hắn. Ngoài hắn ra còn ai có thể có thủ pháp tuyệt diệu như thế.

Đoạn nàng âm trầm:

- Nhưng không biết nạn nhân là ai?

Hồ Bất Sầu nói nhỏ:

- Bị người áo trắng hạ độc thủ hẳn chẳng phải là kẻ tầm thường.

Thủy Thiên Cơ đề nghị:

- Ta rửa sạch mặt y thì có thể nhận ra hắn là ai.

Hồ Bất Sầu nhìn chăm chú hồi lâu, lại nhìn quanh thuyền một lượt rồi nói:

- Không cần. Tại hạ đã nhận ra nạn nhân rồi.

Hồ Bất Sầu đang hướng mắt nhìn về một nơi khác, Thủy Thiên Cơ bất giác nhìn theo hướng đó. Có một thanh đao hình dáng rất quái dị.

Thủy Thiên Cơ kêu lên:

- Thiên Đao Mai Khiêm.

Hồ Bất Sầu nói:

- Tuy tại hạ chưa từng gặp Mai Khiêm lần nào, song nhìn qua vũ khí cũng có thể đoán ra người. Đúng là Thiên Đao Mai Khiêm.

Thủy Thiên Cơ thở dài:

- Thì ra họ chưa chết lúc đó! Thì ra con thuyền này của họ, Vạn lão phu nhân dùng vượt biển. Khi họ tỉnh lại rồi thì len lén thả thuyền đi.

Giữa biển khơi thì gặp người áo trắng.

Hồ Bất Sầu thở dài:

- Nếu Mai Khiêm ở đây thì hẳn Công Tôn Hồng cũng ở đây.

Thủy Thiên Cơ trầm giọng:

- Và Công Tôn Hồng cũng chịu chung số phận.

Hồ Bất Sầu suy nghĩ một lúc:

- Sự tình kỳ quái thật...

Thủy Thiên Cơ cũng gật đầu:

- Phải. Có điều rất kỳ lạ. Cho dù họ gặp người áo trắng, song mặt biển mênh mang, sao người áo trắng lại có thể biết đích xác con thuyền này chở họ? Trên biển đâu chỉ có duy nhất một con thuyền này? Hắn sao có thể tìm tới đây mà hạ sát họ?

Cả hai bước vòng qua một bên xác chết, đi sâu hơn vào trong. họ gặp một xác chết nữa. Cái xác này mặt úp xuống, hai tay vươn tới, mười ngón tay cong lại như móc câu nắm cứng sàn thuyền. Song sàn thuyền là mặt phẳng, y không thể nắm lại được. Hẳn trước khi chết, y cố gắng trườn tới. Hồ Bất Sầu thở dài:

- Quả nhiên là Công Tôn Hồng cũng còn ở trên thuyền và chịu chung số phận với Mai Khiêm.

Thủy Thiên Cơ trầm buồn gương mặt:

- Y cũng...

Bỗng có tiếng rên từ thi thể đó. Hồ Bất Sầu cùng Thủy Thiên Cơ cùng giật mình lui lại mấy bước.

- Tạ.. ta không phải là Công Tôn Hồng.

Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ hai tay run run, đưa ra chẳng biết để làm gì, đoạn cất giọng hỏi:

- Vậy...các hạ là ai?

Người đó không nói gì nữa, chỉ kêu mơ hồ:

- Nước...nước...

Nước. Tiếng đó đánh mạnh vào tiềm thức của Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ. Cả hai cùng thấy tự dưng môi mình khô nẻ, yết hầu cũng khô cạn, mà bụng dạ thì như lửa đốt. Không để ý tới họ còn chịu nổi. Giờ nhớ lại rồi, họ khó chịu vô cùng. Đói còn có thể chịu được, nhưng khát thì không thể chịu được, trừ phi có việc gì đó khiến họ quên đi. Họ đang khát, có lẽ cũng lâu chẳng kém người đang nằm kia. Thủy Thiên Cơ hấp tấp hỏi:

- Nước? Nước ở đâu?

Bàn tay của xác chết bất động, song ngón tay khẽ gõ nhẹ lên sàn thuyền.

Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ cùng nhào tới, đạp mạnh chân xuống sàn thuyền.

Sàn thuyền rung rinh. một khoảng ván không còn dính liền với sàn thuyền nữa.

Hồ Bất Sầu lấy tay gỡ mảnh ván đó lên.

Bên dưới có mấy chiếc vò đồng đen, đúng là vò đựng nước.

Vò bằng đồng là để ngừa lúc ra biển, biển động thuyền chao vô cớ cũng không bị vỡ.

Hồ Bất Sầu đưa hai tay xuống bê lên một vò. Hắn đưa chiếc vò cho Thủy Thiên Cơ.

Nhưng Thủy Thiên Cơ lại đưa chiếc vò trở lại nhường hắn uống trước.

Cả hai nhường nhau mấy lượt, chợt cùng nhìn người nằm đó, đoạn cho hắn uống trước.

Nước trên sa mạc là sinh mạng của con người. Trên biển nước cũng là sinh mạng con người.

Con người ai không cần nước. Bất cứ nơi đâu con người cũng có thể tìm ra nước để dùng, trừ sa mạc và trên biển.

Nước vào miệng, xác chết sống lại ngay. Hai tay hắn chụp lấy chiếc vò, giữ chặt lấy nó, quyết không buông lỏng cho ai có ý định chiếm đoạt.

Có nước, Thủy Thiên Cơ cũng khôi phục cái rạng rỡ của nhan sắc.

Nước vào miệng nàng như giọt sương rơi trên đoá hoa hàm tiếu.

ác chết, à không, là người sắp chết, trở mình nằm ngửa trên sàn thuyền.

Giữa đôi mày y cũng có một điểm đỏ, nhỏ xíu, nhưng không sâu lắm.

Nếu sâu thì y làm gì sống nổi.

Thế mới hay số mạng con người, khi số chưa tận thì gặp hoa. cũng không mất mạng.

Hồ Bất Sầu uống nước sau cùng, và hắn cũng uống tới giọt cuối cùng trong vò. Ong rồi hắn mới hỏi:

- Các hạ là ai?

Người đó đáp:

- Ta là Thiên Đao Mai Khiêm.

Thủy Thiên Cơ ạ lên một tiếng:

- Vậy người kia mới là Công Tôn Hồng?

Mai Khiêm gật đầu:

- Phải.

Y lại hỏi:

- Các người là ai?

Hồ Bất Sầu đáp nhanh:

- Tại hạ Hồ Bất Sầu, còn...

Mai Khiêm giương mắt, hẳn y nghĩ càng lớn càng hay, kêu lên thất thanh:

- Hồ Bất Sầu? Ngươi là sư thúc của Phương Bửu Ngọc ?

Hồ Bất Sầu nở nụ cười thoa? mãn:

- Không ngờ Bửu nhi giờ đã thành danh trên giang hồ rồi.

Mai Khiêm nhắm mắt lẩm bẩm:

- Trời còn ban phúc cho ta. ui khiến ta trước khi vĩnh biệt thế gian lại gặp được ngươi.

Hồ Bất Sầu kinh ngạc:

- Các hạ nói câu đó là có dụng ý gì?

Mai Khiêm từ từ nói:

- Có chứ. Phải có dụng ý gì ta mới nói như thế chứ. Chẳng những một vài việc mà là nhiều việc lắm đó Hồ Bất Sầu.

Hồ Bất Sầu khoát tay:

- Có gì cần nói thì các hạ cũng cứ thư thả nghỉ cho khỏe đã. Sau này hãy nói, bình tĩnh mà nói, từ từ mà nói, như thế sự tình cũng rõ ràng hơn. Chúng ta còn nhiều thời gian mà.

Mai Khiêm lắc đầu:

- Không, thời gian không còn nhiều đâu. Khát nước khát quá nhiều tuy lả người song không chết ngay. Uống nước vào rồi tuy có khỏe nhưng khỏe lại chết mau hơn. Ta thấy cái chết gần quá rồi, bất quá chỉ còn chừng...

Hồ Bất Sầu dậm chân:

- Sao ta lại quên mất điều quan trọng này. Phàm ai thọ thương điều tối kỵ là uống nước. Uống nước rồi tuy khỏe hơn nhưng cũng chết gấp hơn. Các hạ đã biết thế, tại sao... còn sống... lại uống nhiều?...

Mai Khiêm nhếch mép cười thảm:

- Không uống cũng chết, mà uống cũng chết. Thế thì tội gì không uống? Chết mau chết chậm cũng đều phải chết, có gì khác nhau?

Thủy Thiên Cơ thấp giọng:

- Ta hiểu. Đành rằng sinh mạng là quý, nhưng lúc hy vọng sống sót chẳng còn thì nước lại quý hơn sinh mạng. Dù sao cũng chết, thà chết khoái vẫn hơn.

Đoạn nàng giục:

- Nếu không còn nhiều thời gian nữa thì ngươi có gì nên nói gấp, kẻo không còn kịp nữa.

Mai Khiêm hỏi:

- Ngươi biết Bạch Tam Không chứ?

Bạch Tam Không là Thanh Bình Kiếm Khách, là ngoại tổ phụ của Phương Bửu Ngọc, là sư phó của Hồ Bất Sầu, đương nhiên là y biết. Hồ Bất Sầu nghe hỏi giật mình, song cố giữ bình tĩnh điểm một nụ cười, gật đầu:

- Là đệ tử há không biết sư phụ sao?

Mai Khiêm tiếp:

- Tốt! Tốt lắm. Cho ngươi biết, sư phụ của ngươi còn sống...

Hồ Bất Sầu thản nhiên:

- Tại hạ biết điều đó!

Mai Khiêm lại tiếp:

- Trên giang hồ hiện nay tuy thiên hạ biết rõ lão chưa chết, song ai cũng đinh ninh là lão còn ẩn cư trong khu rừng già của họ Kim. Ai cũng cho rằng lão đã chán ngán mọi sự tranh chấp trong võ lâm cầu yên thân nơi rừng vắng, không muốn tiếp xúc với thế nhân. Thật rạ..

Hồ Bất Sầu chớp mắt:

- Thật ra như thế nào?

Mai Khiêm nói:

- Thật ra Bạch Tam Không đã tái xuất giang hồ dưới một hình thức khác. Lão đã làm bao nhiêu việc rồi. Đêm đại hội tại Thái Sơn, chính lão đã khám phá mưu đồ của Hỏa Ma Thần. Chính lão hủy những vật hỏa do Hỏa Ma Thần chôn giấu quanh núi.

Hồ Bất Sầu sao biết được chuyện xảy ra tại Trung Nguyên bảy năm qua, cho nên Mai Khiêm nói vậy hắn cũng biết vậy, chẳng biết có phải sự thật đúng thế không. Tuy nhiên nghe việc làm phải của sư phụ thì tự nhiên cũng cảm thấy tự hào. Hắn vừa kinh hãi vừa hoan hỷ trước những chuyện Mai Khiêm tiết lộ, hắn hỏi:

- Đại hội gì trên Thái Sơn? Hỏa vật gì của Hỏa Ma Thần?

Mai Khiêm đáp:

- Những việc đó ngươi từ từ sẽ hiểu khi trở về Trung Nguyên.

Hồ Bất Sầu lại hỏi:

- Các hạ có gặp lão nhân gia chăng?

Mai Khiêm cười thảm:

- Nếu không gặp người thì sao hôm nay ta lại bềnh bồng mặt biển chờ chết như thế này?

Hồ Bất Sầu hỏi:

- Sao lại thế?

Mai Khiêm đáp:

- Thuở tráng niên, ta từng tới Đông Doanh học võ. Lúc trước cũng có quen biết với Bạch Tam Không. Ta có ý trở lại Đông Doanh một lần, trước khi đi ta lại gặp Bạch Tam Không, được lão cho biết một điều bí mật.

Hồ Bất Sầu trố mắt:

- Là bí mật gì?

Mai Khiêm đáp:

- Về người áo trắng.

Hồ Bất Sầu kêu khẽ:

- Lão nhân gia đã nói những gì với các hạ?

Mai Khiêm tiếp:

- Từ ngày thảm bại dưới kiếm của người áo trắng, Bạch Tam Không để tâm nghiên cứu võ công của người áo trắng, cuối cùng cũng có thể tìm ra cách phá thế kiếm kỳ diệu của ỵ..

Dừng lại một chút Mai Khiêm tiếp:

- Vì cảm cái ơn người áo trắng dưới lưỡi kiếm đã nương tình cho lão năm xưa, Bạch Tam Không chẳng hề tiết lộ cách phá chiêu kiếm đó cho bất kỳ ai.

Hồ Bất Sầu hỏi:

- Vậy tại sao lão nhân gia lại tiết lộ với các hạ?

Mai Khiêm giải thích:

- Chỉ vì lúc ta gặp lão thì lão đang hồi nguy cấp, sự sống chết chẳng biết thế nào. Lão lại chỉ có một Phương Bửu Ngọc là người thân, do đó lão phải tiết lộ với ta. Tiết lộ cho ta là vì Phương Bửu Ngọc đó.

Hồ Bất Sầu lấy làm lạ:

- Vì Phương Bửu Ngọc ?

Mai Khiêm gật đầu:

- Đúng. Phương Bửu Ngọc hiện đã được toàn thể đồng đạo võ lâm coi là đối thủ của người áo trắng.

Hồ Bất Sầu cau mày:

- Tại hạ vẫn chưa thấy có sự liên quan gì tới Phương Bửu Ngọc.

Mai Khiêm thở dài:

- Nếu Bạch Tam Không đem cách phá giải thế kiếm kỳ diệu đó cho Phương Bửu Ngọc hay thì có khác gì lão đã phụ hảo ý của người áo trắng năm xưa? Còn ta, ta lại là bằng hữu của người áo trắng. Lão cho ta biết bí mật đó là muốn ta tìm tới ngay Đông Doanh tam đảo, tìm gặp người áo trắng, cho y hay rằng Trung Nguyên đã có người khám phá ra thế kiếm kỳ diệu của y rồi. Biết như thế, người áo trắng có thể sẽ bỏ qua việc vào Trung Nguyên lấy máu rửa kiếm. Thế thì không những Phương Bửu Ngọc khỏi nguy, mà đồng đạo võ lâm Trung Nguyên cũng tránh được một trường sát kiếp hãi hùng.

Hồ Bất Sầu nói:

- Nhưng... nhưng... các ha.....

Mai Khiêm cười buồn:

- Nhận sự ủy thác của Bạch Tam Không, ta tức khắc lên đường xuôi về Đông Hải. Ngờ đâu trên con thuyền định mệnh này ta bị người hiểu lầm. Mình bị hiểu lầm mà không thể giải thích, thật khổ sở biết bao.

Chỉ còn một cách...

Hồ Bất Sầu thở dài:

- Nhận sự ủy thác, quyết làm tròn sự ủy thác đó bằng mọi giá, các hạ quả là người đáng kính phục.

Mai Khiêm thở dài:

- Đáng kính? Đáng kính cái gì? Hảo tâm, hùng khí? Trời! Ngươi có biết đâu, sau cuộc chiến ác liệt tại Thái Sơn, lại tới trận bão biển vừa qua, kế đó lại gặp sài lang hổ báo, quái nhân...

Hồ Bất Sầu cười :

- Không có quái nhân. Lão là Già Tinh đại sư đó.

Mai Khiêm kêu một tiếng thất thanh, mặc dù y đã kiệt sức mà vẫn có thể kêu to như vậy được:

- A, thì ra là lão.

Y trầm ngâm hồi lâu rồi lại tiếp:

- Ta bị lão đánh một chưởng ngất lịm đi. Thực ra thì ta cũng không bị thương tổn gì. Tỉnh lại ta cùng Công Tôn Hồng đẩy thuyển ra khơi nhằm hướng Đông tới Đông Doanh đảo.

Hồ Bất Sầu cau mày:

- Tại sao Công Tôn Hồng...

Mai Khiêm đáp:

- Như ta đã nói, ta bị người hiểu lầm. Song ta thà để người hiểu lầm còn hơn là làm hỏng việc của Bạch Tam Không. Ta im lặng. Công Tôn Hồng lại bức bách ta phải tiết lộ. Cuối cùng ta cũng nói cho hắn biết. Lúc đó ta muốn trở về, thì Công Tôn Hồng lại khuyến khích ta, muốn giúp ta tới Đông Hải. Ai ngờ, trên đường đi lại gặp người áo trắng từ Đông Doanh đảo vào Trung Nguyên.

Hồ Bất Sầu trố mắt:

- Làm sao các hạ thấy thuyền mà có thể biết là thuyền của người áo trắng?

Mai Khiêm cười:

- Dám dùng thuyền con vượt biển, phi hắn ra còn ai có bản lĩnh đó?

Hồ Bất Sầu thở dài:

- Quả đúng là vậy.

Mai Khiêm lại tiếp:

- Tại hạ cùng Công Tôn Hồng tới chặn thuyền y lại, cho hai thuyền cặp với nhau rồi cả hai cùng sang thuyền hắn. Ta cho hắn hay, trong võ lâm Trung Nguyên đã có người khám phá ra thế kiếm tuyệt độc của hắn rồi. Còn khuyên hắn đừng tới Trung Nguyên nữa.

Hồ Bất Sầu hỏi:

- Vậy y đáp thế nào?

Mai Khiêm thở dài, một lúc sau mới nói:

- Hắn không nói, chỉ nhìn ta cười lạnh mà thôi.

Mai Khiêm kể lại sự tình mà mồ hôi đổ ra ướt áo, dường như trước mắt hắn là người áo trắng đang đứng cười lạnh vậy. Y nói tiếp:

- Nụ cười lạnh của y tức là bức ta xuất thủ. Nếu y muốn, ta sẵn sàng nghênh chiến với y, ta không sợ mà còn tin là mình sẽ thắng. Vì ta đã được Bạch Tam Không chỉ điểm cho cách thức phá chiêu kiếm của y rồi...

Mai Khiêm dừng lại một chút rồi lại tiếp:

- Ngờ đâu... khuyết điểm mà Bạch Tam Không tìm ra trong chiêu kiếm của y, thì bản thân y, qua bảy năm nghiên cứu cũng tự thấy và sửa đổi. Ngươi hiểu không? Việc gì phải đến sẽ đến.

Y trầm giọng kết luận.

- Kiếm pháp của y quả thật vô song, trên đời này khó ai mong tìm ra một sơ hở nhỏ nơi kiếm pháp y. Nó liền lạc như da trời, như nước biển, không một kẽ hở.

Hồ Bất Sầu nghe nói cúi đầu suy nghĩ. Nghĩ rồi lẩm bẩm một mình:

- Các hạ đã bại, Công Tôn Hồng cũng không được buông tha.

Mai Khiêm cười:

- Chúng ta chết không hối tiếc gì, chỉ lo võ lâm Trung Nguyên...

Thủy Thiên Cơ vụt hỏi:

- Võ lâm Trung Nguyên chẳng lẽ không còn người có thể đối phó?

Mai Khiêm thở dài:

- Cho tới giờ theo như tại hạ biết, chắc chắn không ai có thể là đối thủ của y.

Thủy Thiên Cơ mơ màng:

- Vậy, Phương Bửu Ngọc thì sao?

Mai Khiêm thở dài:

- Đành rằng võ công của Phương Bửu Ngọc đã tới mức siêu thần nhập hoá. Nhưng niên kỷ của Phương Bửu Ngọc có được là bao? Đương nhiên cậu ta chưa thể luyện tới độ lô hỏa thuần thanh. Vì muốn được tới mức đó phải trải qua cả giai đoạn dài. Nghìn năm trước, nghìn năm sau, không ai có thể đốt cháy giai đoạn được. Người áo trắng không kể tài, chỉ kể tuổi thôi cũng hơn Phương Bửu Ngọc ít nhất mười năm tu vi.

Cách biệt căn cơ giữa hai người rất lớn, niềm tin nơi Phương Bửu Ngọc cũng không chắc chắn lắm...

Mai Khiêm nói đã nhiều nên bắt đầu cảm thấy mệt. Người y run lên.

Thủy Thiên Cơ cũng run rẩy, nhưng nàng không run vì mệt, nàng thấy sợ. Nàng như nghe thấy lời người áo trắng thốt ra bảy năm trước.

Người áo trắng đã lưu lại sự ám ảnh cho bất kỳ người nào đã trót khoác lên mình chiếc áo giang hồ. Chẳng cứ gì một Thủy Thiên Cơ, mà tất cả những cao thủ võ lâm Trung Nguyên đều vậy.

Bảy năm qua cũng không thể xóa mờ nỗi ám ảnh đó:

- "Bảy năm sau ta sẽ trở lại Trung Nguyên, lấy máu rửa kiếm, rửa nỗi nhục bại trên thanh kiếm này." Trước mắt Thủy Thiên Cơ hiện ra cảnh người này kế tiếp người kia ngã gục trên con đường người áo trắng đi qua. Máu chảy thành hồ, màu máu dưới nắng đỏ rực.

Trong khi nàng hãi hùng với viễn ảnh, Mai Khiêm đã thở rất gấp, ngực y phập phồng, hơi thở ngắn dần, gấp hơn... và lồng ngực đó chỉ giây phút sẽ vĩnh viễn không thể phập phồng được nữa...

Thời gian y lưu luyến cõi trần chẳng còn bao nhiêu.

Hồ Bất Sầu lẩm nhẩm:

- Nhưng dù sao sự nghiên cứu của gia sư cũng có chỗ đúng. Bằng cớ là các hạ đã không chết ngay dưới một kiếm của người áo trắng lúc giao đấu.

Mai Khiêm buông từng tiếng:

- Chỉ...vì...

Hồ Bất Sầu nói gấp:

- Các hạ có thể cho tại hạ biết cách phá thế kiếm đó chăng?

Mai Khiêm thốt qua cơn mê:

- Có thể chứ... chỉ vì... tại ha.....

Kiếm pháp của người áo trắng bảy năm trước cũng kể như siêu việt lắm rồi. Phá được kiếm pháp đó hẳn phải là một chiêu thức siêu việt hơn. Vài lời nói của Mai Khiêm lúc hấp hối nói sao cho hết. Hồ Bất Sầu hiểu ngay là câu hỏi của y quá thừa rồi, vội hỏi tiếp:

- Các hạ hãy cho biết gia sư hiện ở đâu? Tại hạ sẽ tìm tới chỗ người chờ giải thích về cách phá chiêu đó.

Mai Khiêm buông từng tiếng đứt đoạn:

- Lão... dặn... Bạch Thủy... Cung! Ta mong... lão chưa... đến... nỗi nào...

Hồ Bất Sầu kêu to:

- Bạch Thủy Cung?

Thủy Thiên Cơ cũng thất sắc:

- Lão nhân gia tới Bạch Thủy Cung? Để làm gì?

Mai Khiêm đáp:

- Chỉ... vì... chỉ vì lão...

Mai Khiêm nói tới đó thì không nói được tiếng nào nữa. Vĩnh viễn không còn nói được tiếng nào nữa.

---***--- Đêm đã xuống.

Đêm xuống trên lục địa, đồng hoang, núi vắng, rừng sâu, nơi nào cũng có cái vẻ hãi hùng ghê rợn của đêm về.

Huống chi đêm về trên mặt biển bao la?

Đêm về trên mặt biển, khi con người bềnh bồng theo tiếng nước, thuyền trôi vô định, còn gì gây hoang mang cho người phó mặc cho sóng dập gió đùa.

Thuyền không đèn.

Bóng tối trùm bên ngoài, bóng tối đọng bên trong, Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ thu hình nơi một góc, nghe gió lộng, nghe sóng gầm, mặc cho thuyền phiêu dạt.

Thuyền lên, thuyền xuống, thuyền đảo, tùy theo sóng lượn, cả hai như lưu xác lại đó, đưa hồn về tận đâu đâu.

Họ ngồi tại chỗ, bất động, chẳng biết đã được bao lâu.

Họ chưa chết, họ bất động lâu bao nhiêu, cuối cùng rồi họ cũng phải cử động. Tay chân, xác thân không cử động, thì họ kháo chuyện với nhau.

Hồ Bất Sầu lẩm nhẩm:

- Câu nói của Mai Khiêm đứt đoạn, tại hạ không hiểu rõ, y nói chính gia sư đến Bạch Thủy cung hay người nào khác đến đó? Cô nương phải biết, tâm tư y rối loạn, y có thể nói một tiếng có nhiều nghĩa, chẳng qua y mất hết khí lực không còn diễn tả nổi những gì y muốn nói, diễn tả rõ ràng riêng rẽ, cho nên y gộp nhiều ý lại trong một tiếng nói! Còn ai hiểu được y muốn nói gì thật sự?

Thủy Thiên Cơ cau mày:

- Chứ ngươi nghĩ, ngoài lão nhân gia ra, Mai Khiêm còn đề cập đến ai nữa? Và ai đến Bạch Thủy cung, nếu không phải là lão nhân gia?

Hồ Bất Sầu thở dài:

- Thế cô nương quên là Phương Bửu Ngọc hiện nay cũng thành người... cũng có một nhiệm vụ! Võ lâm đã đặt kỳ vọng nơi hắn, tại sao hắn không thể đi đó, đi đây? Tại sao hắn không thể đến Bạch Thủy cung? Biết đâu hắn chẳng gặp tai nạn tại Bạch Thủy cung, rồi gia sư hay được tin đó, cấp tốc đến nơi tìm cách giải cứu hắn?

Thủy Thiên Cơ không nói gì.

Nàng nói gì bây giờ, khi nàng hoàn toàn bất lực đối với những sự việc xảy ra trên lục địa?

Hồ Bất Sầu lẩm nhẩm:

- Chỉ mong lão nhân gia còn sống sót. Mai Khiêm cũng có nói tới mấy tiếng... chỉ mong... Vậy lão nhân gia e là sẽ gặp chuyện không hay ở Bạch Thủy Cung...

Hắn mơ màng, mắt hiện nỗi lo âu. Sau cùng hắn tiếp:

- Còn Bửu nhi. Lão nhân gia vì Bửu nhi mà tới đó, hẳn Bửu nhi cũng gặp nguy hiểm, biết đâu nó chẳng...

Hắn không dám nghĩ tiếp trọn ý, nhưng gương mặt chừng như biến sắc. Thủy Thiên Cơ hét lên:

- Đừng nói nữa. Ta muốn ngươi đừng nói thêm gì nữa.

Hồ Bất Sầu thở dài:

- Phải, ta không nói nữa là hơn.

Thủy Thiên Cơ trầm giọng:

- Có những việc ngươi không cần nói ta cũng hiểu. Thà để ta tự hiểu còn hơn ta phải nghe ngươi xác nhận những việc đó. Ta sợ, ta sợ lắm...

Hồ Bất Sầu cười khổ:

- Cô nương hiểu?

Trong bóng tối, hắn không thấy sắc mặt của nàng. Nhưng hắn vẫn thấy đôi mắt đẹp của nàng hiện chìm trong suối lệ, lệ tuôn thành dòng từ đôi mắt đó. Thủy Thiên Cơ nói:

- Ngươi yên tâm! Ta tuy đối xử với ngươi tốt... song nếu sư phó ngươi có mệnh hệ nào tại Bạch Thủy Cung, ngươi cứ việc xa lánh ta, ta không dám trách ngươi. Ngươi cứ lạnh nhạt với ta, kể cả việc... kể cả việc chống đối ta nếu muốn...

Hồ Bất Sầu cúi đầu trầm ngâm, buông nhẹ:

- Đa tạ cô nương.

Hắn cúi đầu, vì hắn không muốn cho Thủy Thiên Cơ thấy rằng hắn đang khóc.

Hai tiếng đa tạ thốt nhẹ tênh, mà chua xót vô cùng. Trong hoàn cảnh này hai tiếng ấy chẳng hợp chút nào, nhưng không nói hai tiếng đó thì hắn không biết nói tiếng gì.

Hắn không muốn nói nhiều, bởi cũng không có gì nhiều để nói. Hắn cũng không thể yên lặng.

Bắt buộc, hắn phải nói. Không còn tiếng nào thích hợp hơn. Dù chua xót, cũng phải nói.

Đa tạ?

Đa tạ vì nàng đã hiểu cho hắn? Đa ta vì nàng nhận chịu hậu quả của sự tình, nếu sự tình tại Bạch Thủy cung kết thúc đúng như sự lo sợ của cả hai?

Và nếu chuyện hai người lo lắng xảy ra thật, thì những gì họ chung đắp thời gian qua sẽ tan vỡ hoàn toàn ư?

Viễn cảnh đó hiện ra, thử hỏi họ không đau lòng sao được?

Đau lòng mà không thể nói gì được, họ đành khóc.

Bóng tối che khuất, họ không thấy mặt nhau nhưng cảm được nỗi đau trong lòng nhau.

Cái tâm lúc này hữu dụng hơn đôi mắt.

Với tâm tư trầm trọng đó, họ ngồi bất động trong bóng tối rất lâu.

Bỗng Hồ Bất Sầu chạy ra ngoài chụp lấy tay lái.

Trời tối đen, không một vì sao.

Gió thổi ù ù, xoay vần không phân hướng...

---***--- Một ngày ...

Hai ngày...

Con thuyền cứ buông trôi theo sóng và gió. Sóng đẩy tới, gió thổi lui, không còn biết trôi giạt đi đâu nữa.

Trên thuyền cũng có một ít nước uống, nhưng thức ăn chẳng còn.

Thức ăn đã bị Già Tinh đại sư vơ hết lúc quăng dây kéo thuyền vào bờ hải đảo, bắt Vạn Lão phu nhân mang đi.

Già Tinh đại sư đoạt những thức ăn đó cố ý nuôi họ, ngờ đâu hiện tại họ lại chịu hậu quả như thế. Có thuyền, có đồ ăn cho họ dùng để trở lại Trung Nguyên, rồi chính họ lại hủy hoại những nhu cầu cấp thiết trời dành cho họ.

Chịu đói lúc bồng bềnh trên biển mấy ngày, chịu đói lúc lên thuyền cũng chừng đấy hôm, bây giờ cái đói là điều khổ sở nhất.

Lúc đói, họ mới thấy giá trị của sự sống.

Khát chết nhanh, đói chết chậm. Nhưng bao giờ cũng thế, sự trì hoãn càng khiến con người ta chịu đựng đau khổ nhiều hơn, bởi nó cứ từ từ mà đến, thấm dần...

Thuyền có thể tiến tới chăng, hay chỉ quay cuồng theo gió và sóng, một vòng giữa biển.

Suốt mấy ngày, họ chưa thấy một chút gì là bóng dáng đất liền, cũng không thấy bóng dáng một cánh buồm nào. Có thể họ đang bềnh bồng ngoài thủy lưu của thương thuyền chăng? Họ đã lạc vào vùng biển không bao giờ có thuyền lai vãng chăng?

Dần dần, họ mất cả tự chủ. Họ không còn khí lực để giữ được hy vọng, lí trí nữa.

Họ tựa mình vào nhau lúc nào không biết.

Vận mạng đưa họ tới gần cái chết, vận mạng cũng đưa họ tới gần nhau hơn, nếu không phải có sự nguy hiểm thế này, chắc họ chẳng bao giờ có thể gần nhau tới thế.

Song lúc họ gần nhau, là lúc họ xuôi tay giao phó sinh mạng cho tử thần rồi, và đó là niềm an ủi cho họ lúc xuôi tay giao phó sanh mạng cho tử thần.

Phải!

Ít ra cũng phải có gì an ủi họ chứ? Nếu không thì thật quá bất công. Họ vừa yêu nhau, họ còn dè dặt với nhau thì tai nạn tới dồn dập, họ còn chưa kịp cầm tay nhau, chưa kịp nhớ mùi thân thể nhau đã phải chia lìa hay sao?

Cái chết cũng thật nhiệm mầu.

Đôi vợ chồng hận nhau tới mấy, khi còn sống nhất quyết không chịu nhìn mặt nhau, nhưng khi một trong hai người chết đi, người kia lại ngậm ngùi luyến tiếc hồi tưởng ân tình xưa cũ, rồi trong lòng chỉ còn thương tiếc chứ nào thấy hận thù nữa.

Cái chết đưa con người đến gần nhau, nếu gần rồi càng gần hơn, nếu xa thì nhích lại gần. Cái chết xoá tan hận thù, như vậy không phải là cũng đáng ca ngợi lắm sao?

Cái chết nghĩ ra có đáng sợ chi đâu? Chỉ có những kẻ sống tham, sống hèn mới sợ chết!

Lúc này, hai người đang tựa vào nhau, họ không nói gì, không phải bởi họ không muốn, mà là họ không còn sức lực để nói nữa...

Tâm trí họ mơ hồ, như có một màn sương mờ bao phủ. Đói, khát, tuyệt vọng. Màn sương khói lớn dần, loang ra ngày một rộng.

Họ đã mất hết tâm cầu sống từ lâu, họ đã sẵn sàng chờ cái chết tới.

Mà cho dù họ có còn luyến tiếc sự sống cũng không làm gì được nữa. Họ đã kiệt sức, tay chân vô lực, đầu óc bồng bềnh, không còn suy nghĩ ý thức nổi nữa.

Họ muốn ngủ một giấc, họ biết là giấc ngủ này sẽ là ngàn năm.

Giấc ngủ này thật khó chống chọi lại. Họ dành toàn bộ khí lực cho nhau trong phút cuối cùng.

Hồ Bất Sầu nắm tay Thủy Thiên Cơ nhẹ giọng:

- Thủy muội không cần bận tâm...

Họ sắp chết, nên lại đổi lối xưng hô, để tận hưởng cảm giác ngọt ngào trước khi vào cõi u linh. Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Phải. Tiểu muội cần gì bận tâm? Từ giờ phút này chúng ta sẽ ở bên nhau mãi mãi. Không việc gì, không người nào có thể làm chúng ta lìa xa.

Hồ Bất Sầu cũng gật đầu:

- Đúng thế, Thủy muội. Không việc gì, không người nào...

Trên gương mặt bất động của họ dường như đều có một nụ cười.

Hai người đã không còn chỉ tựa vào nhau nữa. Thủy Thiên Cơ ngồi gọn trong lòng Hồ Bất Sầu, Hồ Bất Sầu vòng tay ôm lấy tấm thân mảnh mai ấy vào lòng.

Trong tư thế đó, họ chờ cái chết đến với họ.

Bỗng nhiên có ba tiếng vun vút cất lên.

Ba tiếng đó chừng như do có vật xé gió lao đi.

Ba mũi tên! Ba mũi tên từ xa bắn tới, cắm phập vào mũi thuyền.

Ba mũi tên nặng màu đen, có chùm lông đỏ như máu ở đuôi. Phóng những mũi tên đó đi xa mà không sợ gió đùa chệch hướng thì người phóng cũng kể là người có thần lực.

Nhưng hiện tại dù sét đánh ngang tai, hai người Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ cũng không quan tâm, huống gì ba mũi tên.

Hắn chỉ nghe trong họng mình phát ra âm thanh:

- Cướp biển... Cướp biển đến!....

Cướp thì sao? Cả hai có gì đáng cướp?

Sinh mạng ư? Chuyện đùa, họ đã chờ thần chết từ lâu lắm rồi.

Sóng vỗ, gió thổi. Trong sóng gió có tiếng cười vang dội, tiếng cười của những tên cướp biển vô đạo trên nổi khỗ đau của đồng loại. Tiếng của loài dã thú, chỉ biết đói là ăn.

Hồ Bất Sầu cười, Thủy Thiên Cơ cũng cười, song tiếng cười của họ suy nhược không thành tiếng.

Một giọng nói giương oai thô kệch từ ngoài vọng vào:

- Thiên hạ giương oai. Bá hải vô địch.

Có người vô địch trên lục địa, xưng hùng xưng bá trên lục địa thì cũng có người vô địch trên mặt biển, xưng hùng xưng bá trên mặt biển.

Có điều thiên hạ trên biển không nhiệt náo bằng trên lục địa.

Bởi sống trên biển là cuộc sống bồng bềnh trôi nổi, tùy sóng mà đi, tùy gió mà tới, xem ra cướp trên biển kém phát tài hơn trên lục địa.

Oai!

Trên lục địa muốn thị Oai lúc nào không được. Những con người yếu ớt hơn họ lúc nào cũng sẵn để bắt nạt.

Trên biển làm gì có chuyện như thế, đâu phải lúc nào cũng có người để họ thị Oai.

Nhiều thì mau nhàm, ít thì khi có càng kích thích mạnh hơn. Thế nên gặp dịp là phải thị Oai.

Lại một giọng tiếp:

- Thuận ngã giả sinh. Kháng ngã giả tử!

Rồi cả hai hét lên như dã thú gầm.

Rồi tiếng bình bình vang dội, như có người lôi thuyền vỡ cả mui.

Dây móc được quăng từ thuyền kia sang, rồi bọn hải tặc theo dây mà sang. Tiếng chân dậm trên sàn thuyền bình bình như búa nện.

Thuyền của bọn cướp không to lắm, xem chừng đông người nên khá chật chội. Trên cao mui thuyền cánh buồm đen phất phơ theo gió, kêu phần phật.

Bọn cướp biển quần áo sặc sỡ, mình mang áo chẽn da, loại giáp không tay như áo lá, chỉ che kín được phần ngực và lưng phòng ám khí.

Những bắp tay chắc nịch đen sạm như đồng lộ ra đầy sinh lực.

Chúng như những tượng đồng, Búa nện không nát, đừng nói là người phàm. Chúng đang nhảy lên thuyền của Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ, miệng hò hét tay múa vũ khí tít mù.

Ai yếu bóng vía chỉ nhìn chúng cũng đủ sợ phát khiếp. Chúng ồ ạt xông lên tựa như hổ đói sút chuồng.

Nhưng Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ là hai kẻ đang chờ chết, họ chẳng sợ, họ thấy mình sắp được giải thoát. Họ còn không buồn nhìn lên nữa.

Bọn cướp biển phá khoang thuyền, thấy trong đó chỉ có hai xác người còn ôm ấp nhau, rũ ra trong góc.

Đi đánh cướp mà lại gặp trường hợp như thế, còn gì chán bằng. Bao nhiêu hùng khí lập tức xẹp xuống. Chúng không hò hét, không múa động binh đao.

Có kẻ nào đã cướp tay trên của bọn chúng chăng? Những ngày sau sẽ rất xui xẻo. Bọn cướp biển đi không trở về không là một điều xui nhất trên đời.

Không tên nào lên tiếng.

Rồi chúng lên tiếng mắng chửi, chẳng biết là chửi ai, nhưng cứ văng ra cho đã tức mình. Chúng soát một lượt nữa quanh chỗ Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ.

Một tên kêu lên:

- Hai kẻ này chưa chết.

Một giọng khác nói:

- Hai tên này từ đâu tới? em quần áo mà đoán thì hình như từ Dã Nhân Quốc tới.

Một tên khác bước tới kéo tóc Thủy Thiên Cơ giật mạnh cho ngửa mặt ra, nhìn một hồi cười hi hí:

- Nàng này xem ra được quá chừng. Bất quá cho nàng ăn uống vài hôm chúng ta đã có thể có trong tay một mỹ nhân. Chuyến đi này kể như cũng không xui lắm. Hí hí...

Nhiều tên khác nữa chạy đến, chúng thô bạo vuốt ve má, cổ, vai Thủy Thiên Cơ. Chúng biết đâu rằng chỉ cần chúng cho nàng ăn uống vài hôm thì mỹ nhân khôi phục sắc đẹp phi phàm nhưng cũng khôi phục công lực phi phàm. Lúc đó thì thay vì mỹ nhân phục vụ chúng, e rằng bọn chúng có ba ngàn mạng cũng bị mỹ nhân tàn sát không còn một mống.

Vừa lúc đó, có một tràng cười ha hả tử nơi thuyền của bọn cướp, một giọng nói oang oang vọng lên:

- Bọn các ngươi làm gì mải miết trên đó? Có gì đáng giá mau khuân về đây. Lão nhân gia đang sốt ruột chờ các ngươi đây.

Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ đều nhận ra giọng nói đó rất quen, nhưng thần trí họ đã không còn sáng suốt, không nghĩ ra và cũng không muốn nghĩ đó là ai. Một tên cướp hằn học:

- Cái lão bất tử chết bầm đó lại thị Oai với chúng ta rồi.

Lão bất tử, là nam hay nữ? Một tên khác đáp; - Biết làm sao? Chúng ta không đương cự nổi lão thì phải chịu để lão sai khiến thôi.

Một tên khác hừ một tiếng:

- Nếu biết có ngày hôm nay chúng ta đừng cứu mụ nữa, để mụ chìm luôn đáy biển làm mồi cho cá có hơn không.

Bọn chúng lầm bầm chửi rủa, nhưng cũng chỉ đủ nghe với nhau, không dám để người kia nghe thấy. Chúng mắng mụ nào đó đầy đoa. bọn chúng đến điên, thành thử bọn chúng chặn thuyền cướp rồi đi tay không về tay trắng.

Thực sự thì bọn chúng cũng không trở về tay không. Chúng lôi luôn cả Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ sang thuyền chúng. Trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê, Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ bị chúng khiêng qua thuyền kia. Đến nơi, mùi rau cải, thịt cá, mùi rượu, mùi mồ hôi, tất cả hoà trộn thành một thứ mùi ghê tởm xộc vào mũi họ.

- Thì ra là hai ngươi. Trời đất bao la mà sao hẹp vậy? Mới xa nhau đó đã lại gặp nhau rồi.

Người vừa nói là Vạn Lão phu nhân.

---***--- Trên thuyền kẻ cướp, cái gì có thể thiếu chứ không thể thiếu đồ ăn thức uống, nhất là rượu.

Vàng rất nhiều, bạc cũng thừa, y phục chất đống...

Tất cả bừa bãi trong khoang lẫn với những tạp vật khác, có trời biết nó là những thứ gì.

Cho dù chẳng ích lợi gì với chúng, chúng đã mất công đánh cướp thì cứ mang về, mang về rồi quẳng chỏng chơ bừa bãi.

Những thứ kia dùng cả đời cũng đã hết đâu, mà phải quan tâm.

Hoặc giả hết rồi lại có, có rồi khinh thường, tiêu hoang tới hết, lại cướp, lại có...

Một vòng quanh quẩn của bọn cướp, chỉ có thế.

Chính giữa những đống lộn xộn đó có một cái bàn lớn đựng rất nhiều đồ ăn, thức uống.

Vạn Lão phu nhân đang ngồi cạnh đó. Bà ta đang ăn, tay vấy mỡ, miệng vấy mỡ, tóc vấy mỡ...

Tay, mồm bà hoạt động liên tục. Bà đang bù đắp những ngày bềnh bồng trên sóng.

Hồ Bất Sầu từ chỗ bị bỏ rơi, giờ gặp lại đồng loại, nhưng là những kẻ hiểm ác tàn độc. Hắn cảm thấy thế nào hắn cũng không biết. Nhưng trong lòng hắn nảy sinh hào khí đã tắt từ lâu. Hắn nở một nụ cười trên đôi môi khô nẻ:

- Thì ra là bà.

Vạn lão phu nhân cười ha hả:

- Chắc ngươi không bao giờ tưởng tượng được là già còn sống? Già quả có phúc phận, mạng già còn dài lắm. Khi nào già chết oan uổng như thế chứ.

Bọn cướp biển nhìn nhau. Mắt bọn chúng cho thấy bọn chúng có cùng một ý nghĩ:

- "Bọn họ quen nhau!" Chúng hơi e ngại. Chúng từ từ lui về khoang hậu. Chúng biết ở lại cũng không ích gì, bởi Vạn Lão phu nhân quen hai người, mà chúng thì dưới quyền sai bảo của bà.

Thủy Thiên Cơ nép sát mình vào ngực Hồ Bất Sầu, yếu ớt:

- Vậy là xong.

Hồ Bất Sầu gật đầu:

- Ong.

Rơi vào tay Vạn Lão phu nhân, họ còn mong gì nữa.

- Chẳng khi nào bà ta chịu buông tha chúng ta.

Hồ Bất Sầu gật đầu tiếp:

- Đúng.

Hai người càng ép người vào sát nhau hơn, tay trong tay nắm chặt hơn. Họ hối là lúc trước không cố gắng chống cự mà chết trong tay lũ kẻ cướp, còn hơn giờ rơi vào tay Vạn Lão phu nhân.

Chết cách nào cũng là chết, trừ cái chết dưới tay Vạn Lão phu nhân.

Vạn Lão phu nhân thấy bọn cướp lui ra thì gọi lại nói:

- Sao các ngươi còn không mang chiến lợi phẩm ra mà chia nhau đi.

Bọn cướp kinh ngạc ấp úng:

- Nhưng... Hai người đó...

Vạn Lão phu nhân cười ha hả nói:

- Phải, hai người đó là bằng hữu của già. Nhưng các ngươi cũng đã phải vất vả nhiều, không lẽ lại không được hưởng gì? Thôi thì già phân chia đồng đều. Gã nam kia già có chỗ dùng tới, còn nữ, già không cần, các ngươi muốn dùng thì đưa vào trong kia mà dùng.

Bọn cướp biển vừa kinh hãi vừa mừng rỡ. Bọn chúng mừng rỡ vì được hưởng phần thưởng bất ngờ quá. Cái phần chúng ao ước trước khi mang hai người về đây, đã tưởng như tiêu thành mây khói khi thấy hai người có quen biết nhau.

Bây giờ, Vạn Lão phu nhân không trách phạt bọn chúng, còn cho bọn chúng được như ý. Cả bọn đều sửng sốt ngây người ra một lúc lâu.

Vạn Lão phu nhân giục:

- Các ngươi còn chờ gì nữa? Mỹ nhân như hoa như ngọc ngay trước mắt các ngươi không thấy thèm sao?

Rồi bà nghiêm giọng bảo:

- Tuy nhiên các ngươi phải đề phòng đấy nhé. Đừng thấy mỹ nhân mềm mại ôn nhu trước mắt mà tưởng nàng ngoan ngoãn hiền lành.

Nàng còn hung dữ hơn cọp cái ngàn lần. Các ngươi tuyệt đối không nên cho nàng ta ăn uống gì cả, dưỡng hổ di hoạ, các ngươi có nghe câu đó bao giờ chưa? Nàng mà phục sức lại thì các ngươi chết cả lũ cho mà xem! Ha ha, thôi thì các ngươi có hưởng thì hưởng cho mau, đừng bồi bổ con mồi cho béo rồi chuốc hoa. vào thân.

Hồ Bất Sầu trơ trơ như gỗ, chừng nếu có uất ức cũng không có khí lực phát tác nữa.

Bản thân hắn còn không lo được, nói gì lo cho nàng. Hắn đành giương mắt nhìn bọn cướp lôi Thủy Thiên Cơ vào khoang sau.

Thủy Thiên Cơ cũng quay đầu nhìn hắn tha thiết.

Đó là lần cuối bọn họ nhìn thấy nhau chăng?

---***--- Vạn Lão phu nhân nhanh chóng đóng cánh cửa ngăn hai khoang lại rồi quay lai nhìn Hồ Bất Sầu cười:

- Chắc bọn chúng nghĩ rằng ta là một mụ già mất nết, tóc bạc răng rụng rồi mà còn thích trai tơ! Chúng không ngờ cũng phải, ai lại nhốt mình với trai một chỗ như ta chứ...

Bà từ từ cầm lên một chiếc đùi gà, đưa lên mũi ngửi, hướng mắt sang Hồ Bất Sầu nở một nụ cười trơ trẽn:

- Ngươi nghĩ già lưu ngươi lại đây để làm gì nào?

Hồ Bất Sầu nhắm mắt lại, tỏ ý không quan tâm tới bà ta muốn làm gì mình, cũng không muốn biết bà ta sẽ nói gì tiếp theo. Làm gì Vạn Lão phu nhân không biết thái độ tảng lờ của hắn. Cho nên, bà vẫn tiếp như thường:

- Ngươi nhắm mắt lại? Phải, ngươi không dám nhìn chiếc đùi gà này phải không? Thực ra ngươi có gì phải sợ, cứ nhìn như thường, ngươi chọn món nào, già sẽ cho ngươi ăn món đó.

Hồ Bất Sầu cắn răng, cố nhẫn nại, cố chống lại sự thèm khát đang lồng lộn trong lòng, chỉ sợ nó trào ra ngoài.

Lúc buồn ngủ, sợ ngủ thì luôn cố mở mắt ra, bây giờ không ngủ lại cố nhắm mắt lại, mà mi mắt lại cứ chực mở lên vì thèm muốn kích thích quá độ, dù không ăn được cũng muốn nhìn cho khoái.

Mắt không mở, nhưng mũi có cánh, không cách nào ngăn được mùi thịt thơm phức chui vào.

Hắn sao có thể ngừng thở được.

Mà còn thở là còn hít thấy mùi gà, mùi vị khuấy động sự thèm muốn mạnh hơn. Hắn phải tự đấu tranh hết sức khổ sở, thân hình run lên bần bật.

Vạn Lão phu nhân cười hì hì:

- Ngửi đi, ngửi xem, mùi thịt gà thật thơm ngon. Bọn cướp này cũng sành ăn lắm, chúng nấu nướng ngon tuyệt.

Bà đưa chiếc đùi gà gần mũi Hồ Bất Sầu, vung vẩy trước mũi hắn.

Những thớ thịt trong người Hồ Bất Sầu giật giật, mi mắt mấp máy, mũi phập phồng...

Lòng hắn không muốn, nhưng lòng không muốn cũng không ngăn được gân thịt giật giật ngoài ý muốn. Nhưng dù sao hắn cũng chưa chịu khuất phục, bởi hắn còn nhắm mắt, còn cắn răng.

Chiếc đùi gà cuối cùng cũng được Vạn Lão phu nhân rút về. Bà bật cười khanh khách:

- Ngươi có muốn ăn không? Ngươi nghĩ ăn là rất khó ư? Dễ lắm!

Ngươi chỉ cần đáp ứng ta một điều kiện, chiếc đùi gà này sẽ là của ngươi, những món ăn trên bàn cũng là của ngươi.

Hồ Bất Sầu giọng run run:

- Cái...gì...điều kiện...gì...

Vạn Lão phu nhân thấy hắn chịu trả lời thì mừng rỡ:

- Ngươi đừng làm bộ nữa.

Hồ Bất Sầu lắc lắc đầu. Vạn Lão phu nhân dằn từng tiếng:

- Cho ta biết bí quyết võ công của Tử Y Hầu. Sách đã không còn, ngươi phải đọc cho ta nghe.

Gom tàn lực, Hồ Bất Sầu hét lên:

- Không! Ta không nói. Ngươi đừng có mơ.

Vạn Lão phu nhân cười lạnh:

- Ngươi không nói, được thôi, ta cũng không ép ngươi. Nhưng...

Bà cười nghe rợn người, rồi tiếp:

- Chiếc đùi gà này ngon tuyệt. Chỉ nhìn thôi cũng thấy ngon, ngửi mùi nó sao nghe dạ dày cào cấu khó chịu quá.

Bà đưa chiếc đùi gà tới gần mũi Hồ Bất Sầu.

Hồ Bất Sầu quay mặt đi tránh né, tự y đấm vào ngực mình thình thịch. Y tự hành hạ thân xác mình, vì thân xác đó sao cứ không chịu nghe theo y, cứ đòi theo những kích thích của thèm muốn.

Vạn Lão phu nhân cười:

- Hảo tiểu tử. Tội gì làm khổ mình như thế. Ngươi hứa với ta một lời ta sẽ cho ngươi ăn mà. Chiếc đùi gà này rất ngon, ngươi cắn thử một miếng xem sao.

Bà đưa tay xé một miếng quăng xuống đất cạnh Hồ Bất Sầu. Hắn co rút thân mình, sợ rằng bản thân không đủ sức chống chọi với sự thèm muốn.

Nhưng không được rồi, người hắn run lên.

Hắn tự hận mình sao yếu hèn thế! Con người lúc bình thường là một anh hùng, thế mà chỉ là cơn đói thôi lại cũng hèn hạ thế sao? Như thế thì còn mặt mũi nào nữa.

Đã trải qua bao nhiêu khổ cực, chịu đói bao ngày trên sóng nước bềnh bồng, tới phút cuối lại không chịu nổi sự thèm muốn sao?

Đùi gà còn trên tay Vạn Lão phu nhân, Hồ Bất Sầu còn chống chọi lại được với sự thèm muốn, vì hắn biết người trước mặt hắn là Vạn Lão phu nhân, hơn nữa lại e chụp không được lại xấu hổ hơn.

Giờ miếng thịt lại nằm chỏng chơ bên cạnh hắn, không ai coi giữ cả. Chỉ đưa tay một cái là hắn có được ngay.

Chống lại sự thèm muốn lúc này thật khó khăn. Có thắng nổi lòng thèm muốn hay không, là lúc này đây.

Hắn đã tranh đấu, nếu đã tranh đấu mà không thắng thì thật dở.

Thế là kém nghị lực. Kém nghị lực mới để cho sự thèm muốn bùng lên.

Mồ hôi ướt đầu ướt mặt hắn.

Hắn cắn môi, máu chảy ra từ đôi môi khô bỏng.

Vạn Lão phu nhân dỗ dành:

- Hảo tiểu tử, ăn đi. Già không cười ngươi đâu, ai cũng thế mà thôi, đói thì phải ăn, có cái ăn tội gì không ăn?

Sự thèm muốn đã thắng.

Cuối cùng thì hắn cũng đã chịu thua.

Hắn chồm tới chụp miếng thịt gà, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến.

Đói bốn năm hôm, ăn một miếng nhỏ để làm gì?

Sức ăn của bọn võ phu dũng mãnh như thế nào mà một miếng thịt đòi khoa? lấp nổi? Chẳng qua một giọt nước giữa sa mạc lúc thái dương ngay đỉnh đầu mà thôi.

Thà rằng không ăn. Hắn chỉ thèm muốn suông. Giờ ăn một miếng rồi, sự thèm muốn càng mạnh mẽ hơn.

Lục phủ ngũ tạng đã nhích động đòi thỏa mãn.

Thân xác yên lặng, các tế bào im lặng, thần hồn yên lặng.

Bây giờ thì hắn đã ăn một miếng thịt rồi. Thần hồn cũng rung động. Thần hồn cũng trực tiếp đòi hỏi.

Vạn Lão phu nhân đã sốt ruột lắm rồi, nhưng ngoài mặt vẫn tươi tỉnh. Bà dịu dàng nói:

- Nói đi, để được ăn no, ăn cho khoái dạ, ăn cho bõ mấy ngày đói khát. Nói là việc dễ, chống lại cái đói là việc khó, sao lại cứ đâm đầu vào việc khó mà bỏ việc dễ?

Hồi 56

Càng Già Càng Sống Dai

Hồ Bất Sầu co người lại, hai đầu gối kẹp lấy đầu khoanh mình như con gấu trúc.

Hắn muốn thu nhỏ thân mình, càng nhỏ càng tốt, hoặc giả thu mãi tới biến mất càng hay.

Nhưng lời nói của Vạn Lão phu nhân vang bên tai, như một ma lực. Hắn không muốn nghe, nhưng chẳng biết làm sao chống không nổi ma lực đó, thành ra lại lắng tai nghe tiếp.

Nhưng cho dù hắn không lắng tai nghe, thì những lời nói đó của xoáy mãi bên tai, làm sao đẩy bật ra được.

Vạn Lão phu nhân tiếp lời:

- Chỉ cần ngươi nói thôi, cứ nằm đó mà nói thì... hì hì... không phải chỉ một đùi gà này vào miệng ngươi, còn nửa con nữa, còn thịt nướng, cá tươi hấp, thịt lợn thịt gà thịt bò, thứ gì cũng có. Thật hấp dẫn, tất cả sẽ là của ngươi.

Bà ta lại cười nói không ngừng:

- Tội gì không nói? Tội gì nhịn? Ai cấm ngươi nói mà ngươi không dám nói để phải chịu hành hạ như thế? Người ta sống là phải ăn, có ai sống mà để nhịn không? Có cái ăn mà chịu nhịn thì thật ngốc quá.

Hồ Bất Sầu hận mình quá, hận vì mình cố chống chọi lại mà không nổi.

Hắn không có ai để trút sự uất ức, ngoài bà ra.

Do đó, Vạn lão phu nhân hứng tất cả.

Hắn gào lên:

- Câm! Câm ngay. Ngươi câm miệng lại cho ta.

Vạn Lão phu nhân mỉm cười đắc ý:

- Ngươi xem đây, thịt nướng thật thơm, thơm quá. Ngươi ngửi thử xem. Ngon lắm Hồ Bất Sầu à. Tất cả những món ngon này đều đang chờ ngươi, ngươi cứ nói một tiếng là được ăn ngay, vừa nói vừa ăn cũng được mà, ta không cần ngươi nói hết ngay đâu...

Hồ Bất Sầu quằn quại một lúc nữa, lăn lộn một lúc nữa, rồi hắn hét lên:

- Nói! ...Ta nói!

Vạn Lão phu nhân mừng hết chỗ nói, song còn e dè:

- Ngươi thật bằng lòng nói ư?

Hồ Bất Sầu đấm ngực thình thịch, gật gật đầu như chày giã gạo, ra sức gào lên:

- Ta bằng lòng nói. Đúng thế đấy, ta không còn là con người nữa rồi!....

Bọn cướp biển mang Thủy Thiên Cơ tới tận lái thuyền, nơi đó có một khoảng rộng kín gió.

Chúng cùng cười vang ầm lên. Đứa nào đứa ấy hớn hở. Giọng cười thô kệch, giọng nói thô kệch, và đương nhiên là tục tằn.

Kẻ cướp có tên nào là thanh lịch?

Một hán tử bước ra, hắn có gương mặt rỗ chằng, vành tai trái có móc một chiếc kim hoàn lắc lư theo điệu bộ vung vít của hắn, bên hông lủng lẳng một lưỡi đao cong sáng chóe.

Hắn có dáng ngụy dị hơn tất cả bọn kia.

Giờ hắn bước ra, vừa cười vừa nói:

- Thật không ngờ lão bất tử chết bầm đó, già đến độ cúp mình như tôm, vẫn còn thói phong tình hoa nguyệt. Thấy trai là mê tít đến híp mắt. Lão chẳng thèm đợi đến xong bữa nữa, vội vội vàng vàng đuổi chúng ta ra ngay rồi đóng cửa lại mà hú hí...

Lại một gã khác tiếp lời. Gã này hình vóc to lớn, đầu lại bé nhỏ quá. Người gã lớn như vậy lại mặc một chiếc áo chẽn chẹt ngang cộc tớn, thật khôi hài. Đầu gã đội một chiếc khăn đỏ trông như tiểu ở chùa.

- Nhưng lão bất tử đó thật không có mắt. Mụ ta chọn chi một tên to đầu như thế. Đầu to mà thân lại nhỏ, làm gì mà thoa? mãn được mụ háu đói đấy chứ. Phải đầu nhỏ mình to thì mới có ích trong cái việc đó chứ.

Lại một gã thứ ba tiếp:

- Ngươi thật chẳng biết gì cả. Phàm là còn trẻ, sức lực mới sung, chứ già rồi còn bao nhiêu khí lực đâu. Mụ này cũng tinh khôn lắm, làm việc gì cũng tính toán cả. Thuyền nhỏ sao chịu nổi cơn giông lớn? Mụ cũng phải liệu sức mình mà chọn lựa chứ? Nếu là ngươi chắc ngươi dám cố ăn để cho bung cái bụng lắm.

Tên đầu nhỏ mình to vừa rồi xì một tiếng:

- Có ngươi không biết cái gì. Con người ta càng già càng dẻo càng dai. Đừng tưởng mụ ta gì rồi mà khinh.

Gã kia không chịu thôi:

- Đã thế sao ngươi không nhập cuộc?

Gã đầu nhỏ lại nói:

- Ai gọi đến ta mà ta nhập cuộc chứ.

Gã đảo mắt nhìn Thủy Thiên Cơ một cách trơ tráo, cười dâm đãng mà rằng:

- Huống chi ở đây có sẵn một tiểu mỹ nhân, ta nhập cuộc với tiên nữ không hay hơn là với mụ chồn già bẩn thỉu đó hay sao?

Gã lại nói tiếp:

- Nếu các anh em tốt với ta, xin hãy nhường nàng cho ta. Ta nhận lãnh xung phong, có gì nguy hiểm ta cam chịu.

Gã mặt rỗ bây giờ mới lên tiếng:

- Nguy hiểm gì chứ cái nguy hiểm đó có ai không thích gặp. Thôi đi, phiên đầu nhất định không dành cho ngươi rồi.

Một tên khác nói:

- Không phải hắn, cũng không phải ngươi. Trận đầu để cho ta đi.

Bọn chúng còn đang tranh cãi thì một giọng như lệnh vỡ vang lên:

- Tất cả các ngươi dẹp hết sang một bên cho ta.

Người này mang giày đen, vấn khăn đen, quần đen, ống quần lại quấn bằng bố đen, mặt mũi cũng đen như lọ ghẹ. Con mắt hữu của hắn có gắn một tròng đen thay cho con mắt đã hỏng.

Hắn là Độc Nhãn Long trong hàng hải tặc.

Tuy hắn có một con mắt, nhưng con mắt đó lại sáng dị thường.

Mắt hắn chiếu tới đâu, bọn hải tặc im bặt tới đó. Ánh mắt hắn là một thứ ánh sáng tàn bạo, thích nhìn màu máu.

Một tên vội cười vuốt, nói:

- Long lão ca đã muốn thì bọn tiểu đệ sẽ hai tay dâng lên cho lão ca.

Độc Nhãn Long lạnh lùng:

- Ta chỉ nói các ngươi dẹp qua một bên, ta không nói sẽ giành phần với các ngươi.

Gã kia mừng rỡ:

- Long lão ca thật sự không muốn ạ? Thế thì tiểu đê.....

Độc Nhãn Long quát:

- Đừng léo nhéo nữa. Vào trong mang thức ăn ra đây nhanh lên.

Thức ăn ngon đấy nhé.

Gã kia giật mình lí nhí:

- Nhưng...Nhưng...chúng ta đâu thể cho ả ăn ?

Độc Nhãn Long trừng mắt:

- Ai nói với các ngươi không thể? Hay ngươi tự ý định đoạt?

Gã kia ấp úng:

- Chính...lão...lão...

Độc Nhãn Long giận sôi lên:

- Ngươi nghe mụ ấy, hay nghe ta?

Gã kia xanh mặt, chẳng dám nói thêm. Hắn liếc qua Thủy Thiên Cơ, vẻ tiếc rẻ hiện rõ trong mắt. Thế rồi gã cũng cố một câu chót:

- Nếu cho ả ăn, khi ả khôi phục lại khí lực thì e ả ăn sống chúng ta hết.

Độc Nhãn Long cười lạnh:

- Thật vậy à?

Gã kia lại nói:

- Ả hồi phục sức lực thì chúng ta không ai có thể động tới một sợi lông chân của ả.

Độc Nhãn Long lại cười:

- Chúng ta không động tới nàng. Chúng ta không động tới nàng thì nàng cũng sẽ không ăn sống chúng ta làm gì.

Bọn cướp giật mình.

Thủy Thiên Cơ đã lả người ra rồi.

Từ nãy tới giờ, nàng nằm nghe bọn chúng tuôn ra những lời thô tục, biết là bọn chúng sắp hại tới mình, nhưng cũng chẳng đủ sức làm gì nữa. Nay nàng nghe câu nói này thì cũng hết sức ngạc nhiên.

Nếu nàng mở mắt ra hẳn nàng sẽ thấy thần sắc bọn cướp còn kinh ngạc hơn gấp mười lần. Bọn chúng trong sự kinh ngạc cũng hiện rõ sự thất vọng. Gã đối thoại với Độc Nhãn Long vừa rồi hẳn là tên can đảm nhất trong bọn. Vẫn chưa chịu thôi:

- Nhưng... Long lão cạ.. Thịt đã dâng lên tới miệng, lẽ nào lại chỉ vờn mà không táp.

Độc Nhãn Long lạnh lùng:

- Ngươi muốn chạm tới nàng?

Gã kia cười vuốt:

- Lão ca nên thương xót tất cả anh em. Cả năm nay rồi có ai được lên bờ? Tay không được sờ vào con đàn bà nào, nhịn thèm nhịn khát.

Đã không có mồi thì thôi, nay có rồi sao lại chỉ nhìn mà không được...

Gã còn chưa nói xong đã im bặt. Bàn tay to như cái quạt của Độc Nhãn Long tát qua mặt gã cắt đứt luôn câu nói. Gã này không những ngã nhào mà còn lăn tròn ra xa mấy vòng.

Độc Nhãn Long quắc mắt nhìn bọn còn lại đang co rúm người, trầm giọng:

- Còn đứa nào muốn nói nữa không?

Kẻ cướp chỉ hùng hổ với nạn nhân mà thôi. Trước mặt thủ lĩnh thì chúng là những con cừu non.

Chúng sợ thủ lĩnh còn hơn sợ cha, nhắm mắt mà tuân phục. Phải cũng thế mà trái cũng thế, thủ lĩnh đã nói gì là phải làm ấy, cấm có được cãi. Cho nên, giờ nhìn mặt Độc Nhãn Long còn tên nào dám ho he gì nữa.

Độc Nhãn Long lại quát:

- Bây giờ tên nào đi lấy thức ăn?

Bọn cướp tranh nhau đi lấy, đi để lấy lòng, đi để tránh giáp mặt Độc Nhãn Long trong lúc đang giận dữ, tất cả tranh nhau mà đi, ầm ầm như ong vỡ tổ. Độc Nhãn Long cười ha hả:

- Các ngươi làm ra vẻ tuân phục ta, nhưng các ngươi hiện giờ hết sức bất bình. Các ngươi không phục, ta lại còn không hiểu sao? Các ngươi đang tự hỏi sao Long lão ca vốn chẳng thân thích bằng hữu của nàng, sao lại đứng ra giúp nàng, phải không?

Bọn cướp thấy thủ lĩnh đã dịu lại, nhưng vẫn không hết sợ,đồng loạt la lên:

- Không! Không phải như thế đâu lão ca. Làm gì bọn tiểu đệ dám nghĩ quấy cho lão ca.

Độc Nhãn Long lại đột nhiên thét lên:

- Ta hỏi phải hay không phải?

Bọn cướp thấy thế thì hoảng hồn, cúi đầu đáp mau:

- Phải, phải, Long lão ca nói rất phải.

Độc Nhãn Long cười lạnh lùng:

- Nếu các ngươi cho là phải, nếu các ngươi cho là ta gánh vác chuyện không liên quan tới mình, làm khổ anh em, thế là các ngươi lầm rồi.

Bọn cướp cúi đầu, không tên nào dám ngẩng đầu lên nhìn. Độc Nhãn Long nói tiếp:

- Nếu ta muốn tha cho nàng, thì cũng là vì anh em cả. Ta có cái đạo lý của ta.

Hắn hừ một tiếng, thay vì giải thích cái đạo lý của hắn cho tất cả thì hắn lại nói:

- Các ngươi nghĩ mụ già kia đáng để cho chúng ta hận chăng?

Lần này thì chúng đáp thành thật, tất cả đồng nói:

- Đáng hận.

Độc Nhãn Long tiếp:

- Nếu chúng ta cam tâm suốt đời khuất phục mụ già đó, phụng dưỡng mụ hơn mẹ, lại đưa mụ về đất liền an toàn, thử hỏi chúng ta có còn mặt mũi nào nhìn lại thủ lĩnh của chúng ta? Thủ lĩnh có không trách cứ, chúng ta có còn mặt mũi nào nhìn người đời? Cái tin bọn cướp biển ta khiếp nhược chịu quy phục một bà lão truyền rộng ra trên giang hồ thì làm sao chúng ta còn dám nhìn đồng đạo võ lâm nữa? Các ngươi còn muốn khiếp nhược phục vụ mụ già đó?

Câu nói của y đánh trúng tâm lý của bọn cướp, tất cả đều lộ vẻ căm hờn, nghiến răng ken két mắng lên; - Lão bất tử chết bầm, mụ già đáng chết.

Độc Nhãn Long lại cười:

- Các ngươi ở đây chửi rủa có khiến mụ chết chăng? Các ngươi mắng ở đây, có ai dám mắng chửi trước mặt mụ không? Ngoài cách ở đây mà chửi rủa, các ngươi còn làm được những gì?

Tất cả nhìn nhau không nói. Một gã thở dài:

- Chúng ta đánh không lại mụ, cho dù có mắng cũng không lanh miệng bằng mụ. Thế thì phải làm sao?

Độc Nhãn Long nói:

- Chúng ta không đánh thắng mụ thì chúng ta nhờ người trợ giúp.

Bọn cướp biển đưa tay gãi đầu:

- Chúng ta có thể nhờ ai được đây? Tìm đâu?

Độc Nhãn Long nhìn Thủy Thiên Cơ dằn giọng:

- Chính là vị cô nương này.

Bọn cướp rập nhau kêu:

- Nàng? Chúng ta nhờ tới nàng ư?

Độc Nhãn Long cười lạnh:

- Các ngươi đúng là một lũ ngốc. Các ngươi cũng chưa tới mức mù mà, không thấy mụ quái vật sợ nàng như sợ cọp hay sao? Ta nghĩ lúc đó nếu không phải vị cô nương này đã mất hết khí lực thì chắc mụ ta đã quỳ ngay dưới chân nàng mà van xin tha mạng rồi.

Bọn cướp suy nghĩ một lúc rồi hân hoan reo lên:

- Phải rồi. Đúng rồi. Chính xác là thế. Cũng nhờ Long lão ca. Lão ca thật sáng suốt, không có Long lão ca thì bọn tiểu đệ làm sao biết được.

Độc Nhãn Long quát:

- Còn ở đó mà bốc thơm ta. Còn không mau mang thức ăn tới cho vị cô nương này.

Ăn. Thủy Thiên Cơ bắt đầu ăn. Từ những đồ ăn nhẹ trước. Như một cánh hoa khô héo ban ngày khi đêm xuống, dung nhan nàng tươi lại. Ánh mắt sáng linh hoạt. Dần dần, nàng lấy lại sức lực, nàng có thể tự ngồi lên được. Nàng đưa mắt nhìn bọn cướp, bọn chúng cũng đang chờ nàng hồi sinh. Nàng điềm nhiên cười, nói:

- Đa tạ các ngươi.

Nàng không dùng hai tiếng "các hạ" vì nàng nghĩ dùng hai tiếng đó là coi bọn cướp ngang hàng với mình, là tự tôn chúng lên, tự hạ mình xuống.

Nàng không muốn thấp hơn chúng.

Nàng tỏ ra bất cần. Chúng đang cần nàng. Chúng cần nàng thì chúng phải phục vụ nàng, lấy lòng nàng.

Nàng không cười bọn chúng còn không cảm thấy gì. Nàng cười lên, chúng ngỡ ngàng. Chưa bao giờ bọn chúng thấy một nụ cười quyến rũ như thế.

Thủy Thiên Cơ tuổi trẻ song thủ đoạn có thừa, làm gì không rõ cảm giác của bọn chúng trong lúc này. Nàng lại làm cho nụ cười thêm dịu, giọng nói thêm ngọt, như chim oanh chào buổi sáng mùa xuân:

- Ta đã chuẩn bị chết, ta bằng lòng nhận cái chết. Vậy mà các ngươi lại cứu ta. Các ngươi cứu ta thì đương nhiên ta phải sống. Ta cũng không thích sống lại cho lắm, nhưng dù sao các ngươi cũng đã có hảo ý với ta. Cái hảo ý đó ta làm sao để báo đáp cho các ngươi đây?

Bỗng nhiên nàng đứng lên, đi một vòng, dừng chân trước mỗi người, đưa tay ngọc vuốt nhẹ lên mặt chúng, dịu dàng âu yếm mơn man...

Bọn cướp biển hồn xiêu phách tán. Chúng biến thành những bức tượng gỗ.

Lúc đó có khi có dao rạch vào da thịt chúng tới tận xương chúng cũng không hay. Chúng đang chìm trong ánh mắt mỹ nhân mất rồi.

Chúng bị nàng hớp hồn phách, chẳng tên nào cử động hay nói được tiếng nào.

Trừ Độc Nhãn Long. Hắn còn giữ tinh thần phần nào.

Hắn ấp úng nói không thành tiếng:

- Cô nương... cô... tại hạ...

Đứng trước Thủy Thiên Cơ, hắn mất hết cái oai phong của kẻ từng tung hoành hồ hải. Nói hồ hải cho Độc Nhãn Long mới chính xác, vì hắn vốn là cướp biển, địa bàn chính là trên biển.

Khác với bọn giang hồ, tuy nói giang hồ nhưng hầu như hoạt động trên cạn, mấy khi qua hồ vượt sông.

Hắn từng ngang dọc hồ hải bao nhiêu năm, tới giờ trước mặt Thủy Thiên Cơ thì hắn chẳng khác con rồng cụp đuôi xếp vây chờ tiên nữ sai khiến vậy.

Thủy Thiên Cơ cười duyên, nói:

- Các ngươi cứu ta nhằm mục đích gì ta hiểu cả. Các ngươi cứ mặc ta hành động, ta bảo đảm sẽ khiến cho các ngươi được toại nguyện.

Độc Nhãn Long chớp mắt:

- Cái lão yêu bà đó...

Thủy Thiên Cơ lại nhẹ cười:

- Mụ ta đâu có cánh mà ngươi lo mụ ta có thể trốn thoát?

Nàng dịu dàng quá, nhẹ nhàng ôn nhu. Có gì ở nàng khiến cho người ta sợ đâu?

Độc Nhãn Long lấy can đảm hỏi:

- Nhưng... hiền dịu như cô nương... làm thế nào có thể hạ thủ giết người được. Thực ra cô nương...cô nương đã từng giết người chưa?

Thủy Thiên Cơ nói:

- Ta chưa từng giết một người.

Độc Nhãn Long nghe nói thở dài:

- Nếu vậy, ta chỉ e...

Thủy Thiên Cơ chặn lời y:

- Ta nói chưa từng giết một người, tức là giết một người một lần, chứ không phải là chưa từng giết người. Mỗi lần ta ra tay thường phải giết hàng mấy chục mấy trăm người. Tính ra số người mất mạng dưới tay ta cũng lên tới gần năm ngàn người rồi.

Độc Nhãn Long giương mắt nhìn nàng. Bọn cướp biển sau phút giây choáng váng cũng trong mắt nhìn nàng.

Thủy Thiên Cơ điềm nhiên vươn tay, duỗi chân. Nàng ngồi xuống.

Rồi nàng vặn lưng, ưỡn ngực, nằm xuống sàn.

Nói tới việc giết người tới hàng ngàn, nàng vẫn không tỏ vẻ gì hối hận. Nàng nói chuyện giết người như người ta nói chuyện giết gà mổ heo vậy.

Giết người với nàng bình thường như người ta ăn cơm ngày hai bữa, như trò chơi giải sầu.

Bọn cướp biển hãi hùng.

Nàng đúng là một ác la sát. Chúng bắt đầu thấy sợ.

Nàng đã hứa giết yêu bà kia cho chúng, nhưng liệu thế có lợi hay có hại. Hay lại là đuổi cáo cửa trước rước beo cửa sau? Lấy ác đổi lấy cái ác độc hơn thì có gì hay đâu?

Gió ngàn khơi lồng lộng, thổi tung mái tóc đen mượt của nàng.

Tóc nàng dài và đen. Màu tóc tương phản với màu da trắng mịn hiện ra từ những chỗ y phục không che giấu. Thân thể nàng trong tư thế đó hơi lộ. Nhưng nàng dường như không quan tâm. Nàng cứ bình thản duỗi chân vươn tay thật thoải mái.

Trước mặt nàng có tới hơn chục tên đàn ông đang nhìn nàng, vừa thích thú vừa e sợ, nàng cũng không coi ra đâu. Nàng không e thẹn, còn muốn phơi lộ hơn nữa.

Nàng cần gì quan tâm chúng là nam nhân hay nữ nhân.

Nam nhân thì sao? Chúng khi nào dám chạm tới nàng?

Huống chi chúng đang cần nàng. Van xin nàng, làm nàng vui lòng còn không được, khi nào dám làm nàng giận. Nhưng thân thể nàng khêu gợi quá.

Bọn cướp nhìn nàng hau háu, có tên nuốt nước bọt ừng ực. Chúng không dám nhìn nữa, e nhìn nữa sinh thèm muốn.

Thèm quá mà không thể làm gì để thoa? mãn thì làm sao chịu nổi.

Nhưng không nhìn lại tiếc, tiếc thì phải nhìn, nhìn bây giờ nếu không sau này không còn có cơ hội ngắm nàng nữa.

Độc Nhãn Long cũng ngây người ra một lúc lâu. Rồi hắn thu hết can đảm phá vỡ sự im lặng. Hắn cũng chỉ nói vài câu đứt đoạn chứ cũng chẳng thành câu thành lời suôn sẻ cho lắm:

- Cô nương... cộ.. cô nương... chưa... đi...

Hắn nói đi tức là đi ra khoang trước, khoang có Vạn Lão phu nhân đang ở trong đó. Là việc bọn hắn muốn nhờ vả nàng. Nhưng hắn không dám giục. Chỉ nói được có thế dò thái độ của Thủy Thiên Cơ.

Thủy Thiên Cơ nói:

- Đi bây giờ, lúc công lực ta chưa khôi phục hoàn toàn, vạn nhất có điều gì xảy ra thì sao?

Nàng đã nói hai chữ "vạn nhất", tức là nàng muốn nói Vạn Lão phu nhân vốn chẳng thể chống lại nàng nổi. Nhưng biết đâu trong lúc cùng đường, Vạn Lão phu nhân liều mình thì không biết sự tình sẽ thế nào.

Con giun con dế bị xéo cũng còn ngo ngoe, huống chi con người.

Độc Nhãn Long cúi đầu kêu nhỏ:

- A!

Hắn không nói gì nữa, một lúc sau mới buông một câu:

- Vị đi cùng cô nương...

Thủy Thiên Cơ đáp:

- Hắn tên Hồ Bất Sầu. Hắn...

Nàng không nói tiếp, dừng lại hỏi ngược Độc Nhãn Long:

- Ngươi thấy hắn thế nào?

Nàng mỉm cười, nụ cười của nàng ngọt ngào đủ cho bọn cướp thấy mối liên hệ giữa nàng với Hồ Bất Sầu.

Một đứa trẻ lên ba cũng biết nhìn mặt mẹ mà đoán nhận giận dữ hài lòng, huống chi Độc Nhãn Long.

Hắn trả lời:

- Oai phong lắm. Có khí phách lắm. Chỉ vì...chỉ sợ... y quá ... yếu.. Hắn định nói Hồ Bất Sầu quá ốm, tức là nhỏ con. Hình vóc nhỏ bé thường bị coi là không thích hợp cho việc đấm đá. Hắn muốn nói Hồ Bất Sầu vô dụng, song lại sợ Thủy Thiên Cơ nổi giận nên nói chệch sang từ yếu, để chỉ hoàn cảnh của Hồ Bất Sầu lúc này.

Thủy Thiên Cơ cười khan:

- Nếu không phải hắn đã nhịn đói bao nhiêu ngày, hắn thừa sức đánh bại cả ngàn tên cỡ ngươi.

Độc Nhãn Long nói nhanh:

- Phải, phải. Nhưng bây giờ thì y đang trong cơn nguy hiểm.

Thủy Thiên Cơ lại cười:

- Nguy hiểm? Nếu hắn gặp nguy hiểm ta làm gì còn an toàn nơi này? Cho dù hắn gặp nguy hiểm, ta cũng không bỏ chạy, ta sẽ cùng chết với hắn.

Độc Nhãn Long không chú ý tới những gì nàng nói, hắn thắc mắc:

- Nhưng mụ yêu bà đó...

Thủy Thiên Cơ xì một tiếng:

- Mụ dám làm gì hắn? Ngươi yên tâm đi. Hắn có tát vào mặt mụ năm tát bảy tát mụ cũng không dám động tới hắn.

Độc Nhãn Long trừng trừng nhìn nàng. Hắn hỏi:

- Tại sao lại như vậy?

Nàng điềm nhiên:

- Chỉ vì mụ ta cần hắn giúp mụ.

Độc Nhãn Long lại hỏi:

- Mụ yêu cầu hắn giúp việc gì?

Thủy Thiên Cơ cười đáp:

- Việc gì ngươi cũng không cần biết làm gì.

Độc Nhãn Long lại nói:

- Cô nương chắc vậy ư?

Thủy Thiên Cơ nhìn hắn:

- Ngươi không tin ta?

Độc Nhãn Long hấp tấp:

- Không phải. Nhưng cô nương ở đây, làm sao biết những việc xảy ra trong khoang trên?

Thủy Thiên Cơ nói:

- Ta cần gì có mặt tại đó, ta đoán cũng đủ biết những việc xảy ra trong đó. Hồ Bất Sầu hắn...

Bỗng có một tiếng rú vang lên...

Tiếng rú đau đớn đó là tiếng của Vạn Lão phu nhân. Độc Nhãn Long giật mình:

- Lão yêu bà. Đã có chuyện gì xảy ra?

Thủy Thiên Cơ cũng hơi kinh hãi. Nàng nói:

- Ngươi dìu ta tới đó gấp!

Độc Nhãn Long cúi mình xuống nâng nàng lên. Hắn giật mình lần nữa. Hắn bất động. Thủy Thiên Cơ giục:

- Dìu ta tới đó chứ?

Độc Nhãn Long ấp úng:

- Nhưng... cô nương... cô...

Thủy Thiên Cơ gắt:

- Nhưng làm sao? Ngươi thật làm mất thời gian quá. Nhanh lên.

Độc Nhãn Long vẫn bất động:

- Lực khí không còn một chút nào, như thế cô nương làm sao...

Thủy Thiên Cơ nạt lớn:

- Ngươi thì biết cái gì. Ai nói ta không còn một điểm lực khí? Ta chỉ dồn tụ lực khí một nơi để chống lại yêu bà. Ngươi đừng làm mất thời gian nữa.

Độc Nhãn Long thở ra:

- Được rồi.

Đoạn hắn đưa tay đỡ Thủy Thiên Cơ.

Thủy Thiên Cơ cho dù có luyện võ, song nàng vẫn là nữ nhân.

Thân hình mảnh mai, lại trong lúc suy nhược nào có nặng gì.

Độc Nhãn Long sức trai tráng, cho dù có là mười nàng hắn cũng nâng được.

Nhưng không hiểu sao hắn làm việc đó rất lóng ngóng, dìu nàng đi mà không khác gì nâng thái sơn trên vai trong con đường hẹp vậy.

Hắn gắng sức thấy rõ, một lúc lâu mới tới được khoang trên.

Bây giờ, trong khoang không một tiếng động. Cửa khoang vẫn đóng kín.

Thủy Thiên Cơ nói:

- Phá cửa đi.

Độc Nhãn Long đang dìu Thủy Thiên Cơ đi, bọn cướp còn lại hăm hở kéo nhau đạp đổ cánh cửa.

Cướp phá là nghề của bọn chúng, nghe Thủy Thiên Cơ nói, bọn chúng xuất thủ liền, bọn chúng phá cửa chẳng khó khăn. Cánh cửa bung ra liền.

Vạn Lão phu nhân đang dùng tay tả đỡ lấy má. Bên mặt tả của bà ta bê bết máu.

Hồ Bất Sầu tựa mình vào ghế, miệng hắn cũng vấy máu. Máu lan ra môi và mép, thật ghê sợ.

Bàn tay hữu của Vạn Lão phu nhân đang chụp nơi cổ Hồ Bất Sầu, chính bàn tay của bà đang ép hắn xuống chiếc ghế. Cánh cửa bung ra, bà giật mình buông tay lùi lại mấy bước.

Bà nhìn bọn cướp quát:

- Các ngươi...

Chưa kịp nói hết câu, bà chợt thấy Thủy Thiên Cơ đang đứng đó.

Cổ họng như nghẹn lại, bà đứng chôn chân tại chỗ.

Thủy Thiên Cơ lúc đó không còn tựa vào tay của Độc Nhãn Long nữa. Nàng đứng thẳng người, uy nghiêm. Môi nàng nở nụ dười duyên dáng, quyến rũ như lúc nào.

Chẳng có chút gì tỏ ra là nàng đang ốm yếu hết.

Nhìn nụ cười đó, không ai tưởng được trước đó chưa đầy nửa canh giờ, nàng thở không ra hơi, như người đã chết.

Nàng nhẹ giọng hỏi:

- Bà mạnh giỏi chứ, Vạn Lão phu nhân?

Vạn Lão phu nhân chưa hết sững sờ, người cứng đờ ra. Từng thớ thịt trên gương mặt giật giật liên hồi. Miệng há rộng ra mà chẳng nói được tiếng nào. Một lúc lâu sau mới phát ra được vài tiếng:

- Ngươi..làm sao ngươi...

Thủy Thiên Cơ cười ngọt ngào:

- Bà thấy đây là một chuyện rất kỳ quái phải không? Chính ta cũng thấy kỳ quái, huống chi bà? Song thật ra chẳng có gì là kỳ quái.

Bởi đó là sự khó chịu nhất, khó chịu hơn một chứng bệnh hiểm nghèo, nhưng cũng lại chóng qua. Nhanh lắm bà ơi, nếu bà muốn biết ta nói thực hay không, cứ thử nhịn đói vài hôm xem sao.

Nhịn đói. Thì Vạn Lão phu nhân cũng đã trải qua cơn đói.

Bà đã từng nhìn Công Tôn Hồng và Mai Khiêm ăn mà rỏ giãi. Bà cũng là người từng chịu đói, sau đó ăn mấy miếng, bà lại sức ngay.

Thủy Thiên Cơ vừa nói vừa tiến tới. Nàng bước từ từ, như một con hổ đã biết chắc con mồi phải vào miệng nó, nó không vội vã. Nàng bước tới một bước, Vạn Lão phu nhân lùi một bước.

Nàng cứ bước, Vạn Lão phu nhân cứ lùi, song nàng cũng không bước tới cùng, nàng hướng sang Hồ Bất Sầu.

Vạn Lão phu nhân lúc này cũng đã lùi sát vách thuyền, không còn chỗ mà lùi nữa. Bà đứng lại, người dán vào vách như con thạch sùng, có điều là bám bằng lưng, không phải bằng bụng.

Thủy Thiên Cơ nhìn Vạn Lão phu nhân cười:

- Vạn Lão phu nhân, bà sợ cái gì. Bất quá ta chỉ lấy mạng bà mà thôi, có thể làm gì hơn? Cùng lắm ta chặt bà ra trăm mảnh, ngàn đoạn, ta có thể làm gì hơn? Ta chỉ có thể quẳng đoạn xương mảnh thịt bà xuống cho cá ăn, có thể làm gì hơn?

Vạn Lão phu nhân run giọng nói:

- Thủy cô nương, già biết già đã đắc tội với cô. Không phải, già đắc tội với cả hai người. Cô nương xem, già cũng đã bị trừng phạt rồi đây...

Bà ta buông tay ra, bàn tay không còn che khuất nửa mặt nữa, mọi người đều thấy rõ là tai bên tả của bà đã không còn vành tai nữa.

Thủy Thiên Cơ bật cười khanh khách:

- Oa, sao lại có việc hay như vậy nhỉ? Ta biết rồi, có phải Hồ Bất Sầu nói nhỏ quá, bà nghe không rõ nên kề sát tai vào miệng hắn, ngờ đâu hắn ta đang lúc đói, ngửi thấy mùi thịt thì bất kể thịt sống thịt chín thịt người thịt lợn gì cũng cắn nhai ngấu nghiến. Tai người cũng dòn lắm, hắn quả thật cũng là người sành ăn, chọn lấy miếng ngon mà cắn!

Bọn cướp biển nghe nói thấy hơi tức cười song cũng lấy làm kinh dị. Bọn chúng đều nghĩ:

- "Một nam nhân sắp chết đói mà cũng lừa cắn được một bên tai lão yêu bà, kể ra cũng là kẻ thủ đoạn cao." Vạn Lão phu nhân quả là đã lầm mưu Hồ Bất Sầu. Lúc đó hắn giả bộ đói không chịu nổi nữa, bằng lòng nói để được ăn. Hắn thì thầm nhỏ tiếng lừa cho Vạn Lão phu nhân tới gần.

Vạn Lão phu nhân cười khổ:

- Thủy cô nương thật thông minh quá. Chẳng khác nào tận mắt trông thấy.

Thủy Thiên Cơ cười:

- Bà quá khen. Lời khen dối, nhưng cũng làm ta ngượng muốn chết. Không hiều Hồ Bất Sầu nói những gì mà bà thích nghe tới nỗi như thế? Bà muốn nghe những gì từ hắn vậy?

Vạn Lão phu nhân ấp úng:

- Hắn... Hồ đại hiệp...

Thủy Thiên Cơ chặn lời:

- Để ta đoán xem nhé. Có phải hắn nói về bí quyết luyện công của Tử Y Hầu không? Có đúng thế không?

Vạn Lão phu nhân cúi mặt thở dài:

- Thật là khổ. Không gì có thể giấu nổi cô nương.

Thủy Thiên Cơ lại cười; - Bà đã nghe được bí quyết võ công của Tử Y Hầu rồi, chắc là võ công của bà phải tiến bộ nhiều lắm, chỉ e, ta cũng không còn là đối thủ của bà nữa.

Vạn Lão phu nhân lắc đầu lia lịa:

- Sau có thể nhanh như thế cô nương!

Thủy Thiên Cơ gật gù:

- Cũng may ta nhanh tay, nếu không ta đã mất mạng dưới tay bà rồi.

Vạn Lão phu nhân chối bay:

- Không có chuyện đó đâu, cô nương. Không phải vậy đâu.

Thủy Thiên Cơ điềm nhiên:

- Ta còn yêu đời lắm. Bà chắc cũng vậy chứ? Nhưng trong chúng ta chỉ có một người được sống trên đời mà thôi.

Vạn Lão phu nhân run lên, bà nói:

- Thủy cô nương, tội nghiệp cho già mà, cô nương...

Thủy Thiên Cơ dịu giọng:

- Có phải bà muốn ta phải ra tay hay không? Tự xử bà còn có thể chết nhẹ nhàng theo ý mình, chứ nếu ta đã ra tay...

Vạn Lão phu nhân sụp người xuống lạy sống Thủy Thiên Cơ, ôm chân nàng cầu khẩn:

- Thủy cô nương. Hãy thương cái thân già của già một chút. Không vì già thì cũng nể mặt con của già, tha cho già một lần đi.

Thủy Thiên Cơ lạnh nhạt:

- Con của bà là ai? Con của bà thì có liên quan gì tới ta?

Vạn Lão phu nhân kêu lên:

- Cô nương tha cho cái mạng già của già thì già sẽ nói cho cô biết một bí mật. Một điều tối mật, cô nương ạ.

Thủy Thiên Cơ chớp mắt nhìn Vạn Lão phu nhân, mỉm cười nói:

- Bà muốn nói thì ta bỏ chút thời gian nghe cũng không sao.

Nhưng trước hết hãy điểm vào các huyệt Kiên Tĩnh, Khí Huyệt, và mấy huyệt hai bên xương gối bà đã, rồi muốn nói gì thì nói.

Vạn Lão phu nhân đồng ý tức thì:

- Được, được.

Bà nhanh tay làm theo lời của Thủy Thiên Cơ. Bà ta làm mạnh tay thực sự. Thủy Thiên Cơ đứng ngay đó, bà sao dám làm dối. Thủy Thiên Cơ chờ bà xong mới cười lớn nói:

- Thật kỳ lạ. Sao bà nhát chết quá vậy, không dám động thủ với ta? Thật ra công lực của ta chưa khôi phục hoàn toàn, nếu bà động thủ thì ta tuyệt đối không thể chống đỡ.

Vạn Lão phu nhân tưởng như sét đánh ngang tai. Mặt bà ta thoắt đỏ, rồi lại chuyển qua màu trắng. Bà uất quá, thốt không ra tiếng, âm thanh như tiếng khỉ khẹt:

- Ngươi...

Bà ta không còn gọi Thủy Thiên Cơ hai tiếng cô nương nữa, chứng tỏ bà ta tức giận tới cực điểm. Thủy Thiên Cơ bật cười:

- Người trên giang hồ nói rằng Vạn Lão phu nhân thà quỳ gối xin tha mạng cũng không chịu giao đấu mà chẳng nắm chắc phần thắng trong tay. Quả thật cũng đúng. Nếu không nhờ thế bà đã không sống tới ngày hôm nay. Nhưng tiếc là đó chỉ là chuyện ngày xưa mà thôi.

Lần này bà đừng hy vọng gì nữa cho mất công. Bà chuẩn bị dọn mình làm chuyến viễn du đi là vừa.

Vạn Lão phu nhân biến sắc mặt thành xám tro. Bà ta lẩm nhẩm:

- Chịu. Ta chịu bại rồi.

Bà cao giọng một chút:

- Thủy cô nương. Cô nương quả thật lợi hại. Ta chịu thua rồi. Tâm phục khẩu phục. Cô có động thủ ta cũng không có gì không phục.

Thủy Thiên Cơ điềm nhiên:

- Vậy thì tốt. Bây giờ bà có thể kể điều bí mật cho ta nghe được rồi.

Nàng chưa giao chiến, nhưng chẳng khác nào nàng vừa trải qua một trận ác chiến. Nàng thấy mệt mỏi hơn cả khi giao chiến thực sự.

Nàng mỉm cười, nụ cười nhẹ nhàng bình thản, song mồ hôi nàng đã ướt cả tóc mai.

Nàng đã lấy lại phần nào khí lực, song chút khí lực đó đủ cho nàng đứng vững, bước vài bước, chứ nào đủ cho nàng xuất chiêu tranh thắng bại với Vạn Lão phu nhân. Nàng cũng hiểu, vừa rồi, nàng chỉ hơi run chân lảo đảo người một chút thì tất Vạn Lão phu nhân đã phát hiện ra ngay, thế nào bà cũng quyết một trận.

Nàng đã đứng trên lằn ranh sinh tử. Dáng vẻ ung dung của nàng chính là lợi thế, hoặc nàng bại, hoặc Vạn Lão phu nhân bại.

Kết cục, nàng đã thắng.

Vạn Lão phu nhân nhìn nàng một lúc lâu. Rồi bà thở dài thốt:

- Được, già nói. Già sẽ nói. Điều bí mật đó liên quan tới Thủy cô nương và Phương Bửu Ngọc.

Nước.

Là nước hồ nên trong và lạnh.

Trong, vì quanh năm suốt tháng lắng đọng, nước hồ là tịnh thủy, tịnh nên lạnh hơn nước chảy thành dòng.

Phương Bửu Ngọc dùng phép Thiên cân trụy trầm mình xuống đáy hồ.

Chàng cảm thấy đáy hồ đó không giống bất kỳ đáy hồ nào trên thế gian. Chàng tin chắc như thế, nhưng cũng vì thế mà muốn tìm xuống đáy xem thử.

Có cuộc thám hiểm nào dễ dàng. Mỗi cuộc thám hiểm là đem sinh mạng thử thách với số mệnh, xem nó ngắn dài thế nào.

Chàng xuống tới đáy rồi vận nhãn lực nhìn quanh, hiểu là mình không đoán sai.

Vùng hồ rộng lớn thật, nhưng nước hồ không sâu lắm. Chàng không tưởng được là nước hồ lại quá cạn như thế, cạn gần như không thành hồ, là vũng thì đúng hơn.

Chàng mới dùng phép Thiên cân trụy không bao lâu, thân mình vừa ướt nước đã thấy chân chạm đáy hồ rồi.

Nước rất trong, chàng nín thở đi tới, mắt nhìn rõ ràng những gì xung quanh, những gì xa xa ...

Những thứ chàng trông thấy làm chàng sững sờ.

Đó là người.

Một con người, hơn nữa, người đó lại là nữ nhân.

Phải rồi, đây là Bạch Thủy Cung, trong Bạch Thủy Cung làm gì có nam nhân.

Nữ nhân đó đi lại trong nước nhẹ nhàng lả lướt, như một mỹ nhân ngư vậy.

Cá lội tung tăng lửng lơ, còn nàng thì chân vẫn chạm đáy hồ. Tóc nàng lòa xòa dập dờn theo làn nước, xanh mướt như rong biển. Mắt nàng đen lay láy như hai hạt huyền châu.

Nàng cười, vừa cười vừa lướt tới nhập vào lòng Phương Bửu Ngọc.

Ngực nàng áp sát ngực chàng, đôi chân thon quấn quanh chân chàng chặt cứng. Trong tư thế đó, dĩ nhiên nàng đeo trọn thân mình vào thân thể Phương Bửu Ngọc.

Nhưng mặc nàng muốn làm gì thì làm, Phương Bửu Ngọc đứng yên không phản kháng.

Không hiểu chàng có thích như thế không.

Nàng nắm tay Phương Bửu Ngọc giật giật. Như thế là nàng bảo chàng đi theo nàng.

Phương Bửu Ngọc không do dự, chàng bước theo liền.

Trước mắt chàng mờ mờ hiện ra khu cung điện, như cung điện của Long Vương vậy.

Chàng đang hướng tới gần nó.

Càng tới gần, chàng càng nhận thấy những tòa cung điện đó vĩ đại tráng lệ tới không tưởng.

Là thủy cung, tất nhiên ngoài ngọc châu còn có san hô cẩn khảm khắp nơi. Trân châu, mã não, san hô, ngọc trai... khảm chạm theo những hình thù kỳ quái, toàn những loài thú trong tưởng tượng.

Cái đẹp kiến trúc, sánh sao nổi cái đẹp sống động của mỹ nhân.

Cung điện đẹp thì có người đẹp, chính là những thiếu nữ gần như khỏa thân này. Các nàng là những vật trang trí động, lượn lờ trong nước trong một vũ điệu huyền diệu.

Cung của nữ vương dĩ nhiên phải có nhiều người.

Phương Bửu Ngọc thấy rất nhiều thiếu nữ lượn qua lại, song cũng chẳng hiểu các nàng bận rộn như thế để làm gì, để chọc ghẹo chàng chăng?

Có điều, cảnh tượng nơi đây không có một điểm nào giống trần gian nữa. Một thế giới biệt lập với thế tục, dù vẫn có bóng người hiện hữu.

Nơi đây chỗ nào cũng có nước, nước trong động này trong hơn bên ngoài, cũng lạnh hơn bên ngoài. Nơi đây là lối xuất nhập Bạch Thủy Cung.

Bên ngoài Bạch Thủy Cung đã đẹp như vậy, bên trong Bạch Thủy Cung hẳn còn tráng lệ hơn nữa.

Cuối động, Phương Bửu Ngọc thấy bốn chữ kết bằng trân châu:

"Thủy Cung Đại Môn".

Thay vì đi tới, thiếu nữ nắm tay chàng vọt lên cao.

Đầu chàng đã nhô lên khỏi mặt nước. Ánh sáng bên trên chiếu vào mắt chàng.

Mắt hoa lên, chàng chưa kịp nhận định đó là thứ ánh sáng gì, châu ngọc hay dương quang thì một giọng nói êm nhẹ đã vang lên, vọng tới tai chàng:

- A! Phương thiếu hiệp đã tới đó phải không? Nương nương chờ thiếu hiệp đã lâu lắm rồi.

Nơi chàng nhô đầu lên là một cái ao, chu vi tương đối nhỏ hơn mặt hồ bên ngoài.

Đây là khu chính của Bạch Thủy Cung, mặt hồ là bức bình phong, muốn vào Bạch Thủy Cung chỉ có thể qua thủy đạo dưới đáy hồ rồi lên đây.

Nhà cửa hẳn phải quanh ao, chứ khi nào nổi lềnh bềnh trên mặt nước.

Nhưng cho tới ao này rồi, Phương Bửu Ngọc vẫn chưa thấy nhà mà chỉ nghe tiếng người.

Theo hướng âm thanh phát ra, chàng nhìn thấy một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt vời đang đứng nơi bậc thềm xây bằng đá cạnh ao.

Chung quanh khung cảnh rực rỡ sắc màu của các vật trân quý.

Trong ánh sáng ấy, nàng thiếu nữ hiển hiện trước mắt, lộng lẫy vô cùng. Chiếc áo nàng mặc mỏng manh như sương, đủ bảy màu sắc. Màu áo rạng ngời, nhan sắc nàng cũng ngời sáng.

Phương Bửu Ngọc cứ ngây ra, cũng không biết là cảnh với người phần nào đẹp hơn nữa. Có lẽ cả hai đều đẹp, bổ sung khuyết điểm cho nhau, khiến tất cả cùng rạng ngời hơn.

Là nói thế, nhưng nào chàng có thấy khuyết điểm nào?

Nhìn cảnh thì được, nhìn áo cũng được, nhưng Phương Bửu Ngọc không dám nhìn người.

Mà đã không nhìn người sao thấy được áo, bởi nhìn áo là thấy người, áo mỏng hơn khói chiều.

Mọi đường cong, mọi nét lượn tròn, tới cả những sợi lông mỏng mảnh nơi kín đáo nhất trên thân thể nàng chàng đều có thể thấy rõ ràng...

Làm sao chàng dám nhìn, nếu không muốn thần hồn bay tận đỉnh Vu Sơn vờn mây tìm bóng hình thần nữ. Chàng cúi gằm mặt xuống.

Thiếu nữ cười :

- Phương thiếu hiệp, có phải chàng thấy thiếp xấu xí khó coi lắm phải không?

Phương Bửu Ngọc vẫn không dám ngẩng đầu lên:

- Tại hạ nào có ý nghĩ đó.

Thiếu nữ lại cười:

- Vậy tại sao chàng lại không muốn nhìn thiếp?

Nàng đẹp, với vẻ đẹp đó, không ai biết thật sự nàng đang ở lứa tuổi nào. Hẳn ai cũng cho rằng nàng mới chỉ ngoài hai mươi tuổi. Nàng cười, nụ cười không ngây thơ. Một nụ cười của người từng trải, sắc sảo.

Phương Bửu Ngọc lại càng lúng túng hơn:

- Việc đó, việc đó...

Chàng làm thế nào diễn tả cho được ý của chàng. Thiếu nữ vẫn cười:

- Chàng cho là thiếp ăn mặc quá hở hang khiếm nhã chăng?

Nàng không đợi cho Phương Bửu Ngọc nói lời nào, vẫn nụ cười rạng rỡ, nàng tiếp:

- Chàng có biết tại sao con người phải mặc y phục chăng?

Phương Bửu Ngọc như lạc vào chốn mơ, chẳng còn chút tâm tư ở trần thế. Chàng trả lời hàm hồ:

- Người ta mặc y phục, là vì... là vì phải mặc y phục...

Thiếu nữ chặn lời:

- Nhưng nguyên nhân là vì sao? Việc gì cũng có nguyên nhân của nó chứ?

Phương Bửu Ngọc bâng quơ:

- Thì..mặc y phục để chống lạnh...

Thiếu nữ cười giòn:

- Nhưng ở đây không phải quá lạnh.

Quả vậy, vừa rồi trầm mình dưới nước chàng còn thấy lạnh, chứ lên bờ rồi chàng thấy ấm áp vô cùng. Chàng ấp úng :

- Mặc y phục để khỏi thẹn thùng...

Thiếu nữ lại nói :

- Tại sao lại phải thẹn, thân xác con người không phải ai cũng do cha mẹ sinh ra. Một sản phẩm qua nhiều gian khổ, sinh ra còn phải nuôi dưỡng tới hoàn thiện hoàn mỹ. Sản phẩm đó phơi bày trước mắt thế gian là sự hãnh diện của cha mẹ. Tại sao phải che giấu công trình kì diệu đó, tại sao không cho cha mẹ quyền được tự hào về sản phẩm họ bỏ bao công sức để hoàn thành? Càng đẹp càng nên phô bày. Không, chẳng có gì khiến chúng ta phải thẹn thùng cả, chỉ những kẻ lòng đầy ác niệm mới cho đó là điều đáng thẹn thùng nhơ bẩn. Đã là người trong võ lâm sao tư tưởng lại hẹp hòi làm vậy?

Phương Bửu Ngọc dặng hắng mấy tiếng liền, song không thốt nên lời. Thiếu nữ nói tiếp:

- Những kẻ không dám phô trương chân thật là những kẻ có ác niệm trong lòng, y phục là phương tiện giúp cho chúng che giấu những xấu xa của chúng mà thôi.

Phương Bửu Ngọc thấy mình đã mất quá nhiều thời gian cho những chuyện không đâu này, chàng gạt ngang:

- Cảm phiền cô nương đưa tại hạ vào gặp Cung chủ. Càng mau càng tốt.

Thiếu nữ lại cười:

- Điều đó không có gì khó khăn. Nhưng trước khi đưa chàng đi, thiếp muốn chàng trả lời một câu hỏi. Những điều thiếp nói vừa rồi có đúng hay không?

Phương Bửu Ngọc nóng lòng nói:

- Chừng như là không sai đâu, cô nương.

Nàng gật đầu:

- Nếu không sai xin chàng hãy cởi bỏ y phục ra. Chàng cởi bỏ y phục xong rồi thiếp sẽ đưa chàng đi gặp Cung chủ.

Phương Bửu Ngọc bình sinh không sợ trời không sợ đất. Song nghe nàng nói mà chàng suýt nhảy dựng lên, mặt mày tái xám, chân bước lui một bước.

Chàng đang đứng trên thềm ao. Bước tới thì không sao, chứ bước lui thì tất rơi xuống ao liền.

Một tiếng ùm vang lên, nước bắn tung toé.

Quần áo chàng chưa kịp khô đã lại ướt trở lại, thân mình chới với dưới ao. Chàng ngoi đầu lên, thấy hai thiếu nữ vẫn còn đó, chẳng biết từ đâu đã lại xuất hiện thêm hơn mười nàng nữa, cũng áo mỏng bày trọn thân hình như thế. Những tấm thân nóng bỏng quyến rũ. Tất cả đứng trên bậc thềm, lả lơi nhìn xuống.

Thiếu nữ khi nãy cười khanh khách:

- Trên mình Phương thiếu hiệp hẳn có tật thẹo gì xấu xí lắm nên mới sợ phải để thân trần e người ta thấy phải không?

Những nàng kia cũng cười theo, tiếng cười của các nàng trong trẻo êm tai vô cùng.

Trước khi tới Bạch Thủy Cung, Phương Bửu Ngọc đã suy nghĩ đắn đo sự lợi hại kỹ lắm rồi. Chàng đã tiện thể nghĩ rất nhiều phương cách để ứng phó với muôn ngàn nghịch cảnh bất ngờ, nhưng chàng không bao giờ có thể ngờ được mình lại rơi vào hoàn cảnh oái oăm như thế này.

Chẳng có gì là nguy hiểm, nhưng mà thật quá oái oăm. Con người trút xiêm y không thẹn thùng thì còn là con người nữa chăng, nhất là khi bây giờ, chàng phơi mình trước hằng mươi thiếu nữ cũng gần như trần trụi.

Phải làm sao đây?

Có cách nào để đối phó không?

Dĩ nhiên, nếu chàng là dâm tặc thì không nói làm gì. Một tên dâm tặc hẳn cho đây là ưu đãi trời cho, sẽ chẳng ngại ngùng cởi bỏ xiêm áo mà đùa giỡn với tiên nữ.

Một loạt những tiếng ùm ùm vang lên, những thiếu nữ đó đã nhảy xuống ao cả. Các nàng vỗ nước nhồi sóng lao tới Phương Bửu Ngọc.

Những tấm thân trắng nhễ nhại theo làn sóng bì bạch lướt tới.

Phương Bửu Ngọc hét to:

- Nếu các cô nương tới gần hơn, tại hạ sẽ quay trở lui ngay.

Chàng biết là câu nói đó chẳng thể làm gì thay đổi tình hình được.

Song lúc đó quá bối rối, chàng hét bừa. Chứ chàng nghĩ, khi nào các cô này chịu buông tha cho chàng đi? Cho dù có, chàng có thể đi được chăng?

Hồi 57

Sát Thủ Tam Kiếm

Phương Bửu Ngọc khẩn cấp ra mặt:

- Các cô nương không dừng lại à? Tại hạ xin đi đây!

Thấy chàng cương quyết như thế, bọn cung nữ liền lùi lại. Phương Bửu Ngọc đắc ý đảo mắt nhìn một lượt, cười thật tươi:

- Tại hạ biết mà. Không phải chỉ có tại hạ muốn mau chóng gặp mặt cung chủ, mà cung chủ cũng đang nóng lòng gặp mặt tại hạ. Nếu bây giờ tại hạ mà quay mình trở lui tất các cô nương bị trách cứ ngay, phải vậy không?

Mấy nàng không nói gì, nhưng hiển nhiên là đúng thế, vì mấy nàng đã dừng lại đó thôi.

Biết là chàng sẽ không trở lui, nhưng biết đâu chàng lại liều thì sao. Lúc đó dù chàng thoát không lọt, chàng bị bắt trở lại thì thời gian hội kiến của chàng với cung chủ cũng chậm lại phần nào, các nàng vẫn bị quở trách như thường, nói chi tới chuyện để chàng đi khỏi...

Phương Bửu Ngọc tiếp luôn:

- Bây giờ các cô nương mau tránh đường cho tại hạ vào bờ, nếu không tại hạ sẽ lập tức quay trở lại đó.

Chàng dợm mình bước tới. Các nàng dạt cả sang hai bên nhường lối cho chàng đi.

Chàng lội lên bờ, lên tới bậc thềm cao nhất mới dừng lại, đứng đó rũ nước cho ráo y phục, rồi tiến tới phía trước mặt. Chàng đi chưa khuất, thiếu nữ trước đó nói chuyện với chàng lại hét to:

- Đứng lại, ta còn hỏi!

Phương Bửu Ngọc dừng lại, nhưng không quay đầu:

- Cô nương muốn nói gì?

Nàng thấp giọng:

- Thiếu hiệp có biết cung chủ ở đâu không?

Phương Bửu Ngọc cười:

- Đã đến Bạch Thủy Cung, việc tìm gặp cung chủ không phải là vấn đề lớn.

Nàng cười nhạt:

- Đường lối trong Bạch Thủy Cung cực kỳ phức tạp, ngoài ra lại có cơ quan chuyển động không ngừng. Nếu không biết cách điều khiển cơ quan thì dù có đi suốt đời cũng chưa chắc đã tới nơi.

Nàng dừng một lúc rồi tiếp:

- Từ trước tới nay không biết bao nhiêu người đã lọt vào Bạch Thủy Cung, nhưng nào có ai đã gặp mặt cung chủ đâu? Tất cả đều bị ngăn chặn tại cơ quan "tin tức" này. Cơ quan này còn gọi là cơ quan "tiêu tức." Sở dĩ có tên đó là vì ai vào tới nơi đó rồi thì trong cung đều biết liền. Một khi trong cung đã biết tin tức rồi thì người đó bị ngăn trở tại đó, tiêu tan tin tức với bên ngoài, vĩnh viễn không thể thoát ra được.

Nàng kết một câu:

- Thiếu hiệp đừng nên nghĩ vào tới cung rồi lại có thể dễ dàng gặp mặt nương nương của chúng ta.

Phương Bửu Ngọc cười nhẹ:

- Những người trước là những người trước, tại hạ là tại hạ. Tại hạ khác họ chứ.

Nàng lắc đầu:

- Quả thật thiếu hiệp có điểm khác với bọn người trước, nhưng vị tất...

Phương Bửu Ngọc cắt lời:

- Biết là khó nhưng tại hạ cũng thử xem sao.

Nàng đột nhiên bật cười:

- Nếu thiếu hiệp bằng lòng cởi y phục để mình trần truồng thì ta sẵn sàng đưa thiếu hiệp tới gặp nương nương. Đâu cần phải... Thiếu hiệp sao cứ muốn làm khổ mình một cách vô ích như thế.

Phương Bửu Ngọc chặn lời ngay:

- Chẳng sao đâu, cô nương.

Chàng đối đáp với nàng một lúc lâu, song thủy chung vẫn không quay đầu lại nhìn. Nói tới câu "chẳng sao đâu, cô nương", chàng liền bước đi.

Thiếu nữ kia mím môi, dậm chân nói với theo:

- Thiếu hiệp quyết định như vậy sau này đừng có hối hận nhé.

Phương Bửu Ngọc không dừng lại, vừa đi vừa đáp:

- Thật ra cởi bỏ y phục nào phải việc khó khăn? Song thái độ của cô nương nôn nóng hấp tấp như thế, muốn dùng trăm phương ngàn kế buộc tại hạ tuân lời khiến tại hạ nghi ngờ quá chừng. Hẳn cô nương phải có toan tính âm mưu gì đó, cho nên...

Chàng đứng lại cười một tiếng rồi tiếp:

- Cho nên, tại hạ thà hối hận sau này, bây giờ nhất định không chịu cởi bỏ y phục đâu.

Nói xong chàng lại tiếp tục rảo bước. Thiếu nữ nhìn theo bóng chàng, sững sờ không nói được lời nào. Đến cả nụ cười vốn thường trực cũng không còn trên môi nữa.

Phương Bửu Ngọc tiếp tục đi tới. Càng đi, chàng càng thấy lòng động rộng lớn thêm lên. Đường đi tuy khúc khuỷu song nơi nào cũng được trang sức huy hoàng tráng lệ, rất ra dáng một khu cung điện cấm thành.

Ngoài những đồ trang trí do người sắp đặt còn có cả những nét tự nhiên thiên phú.

Người trang trí kiến trúc nơi này quả khéo sắp xếp, biết cách phối hợp tài tình giữa thiên nhiên và đồ nhân tạo vô cùng tinh vi. Trên vách đá nào cũng có gắn châu ngọc hoặc thành chữ, hoặc dưới dạng những bức họa.

Những chữ gì, hình thế nào, Phương Bửu Ngọc đều bỏ qua không dám nhìn lâu.

Cũng không hẳn chàng sợ những chữ, bức họa đó có ẩn giấu cơ quan nguy hiểm gì, chàng sợ những chữ, bức họa đó khêu gợi trong chàng một ý niệm gì làm chàng thiếu quyết tâm.

Hơn lúc nào hết, chàng muốn giữ vững ý chí, tuyệt đối không để tư tưởng phân tán.

Nơi đây ánh sáng châu ngọc bảy màu chiếu xuống đường đi, khiến cho lòng động như giát ngọc giăng gấm, rực rỡ đẹp mắt vô cùng.

Bất giác chàng quay đầu trở lại.

Sau lưng chàng không có một ai.

Suy nghĩ một lúc, chàng cao giọng:

- Bạch Thủy Cung chủ ở đâu? Có Phương Bửu Ngọc đến xin được diện kiến.

Không một lời đáp lại.

Chỉ có tiếng của chính chàng dội lại từ những vách đá. Tiếng vọng âm vang, hồi lâu mới mất hẳn.

Chàng hiểu tuy không thấy cửa nhưng chắc chắn có cửa, cửa phải đặt theo quy tắc nào đó, mắt thường khó thấy, người ngoài không biết rõ quy luật thì không thể mở. Vì nếu không có quy tắc gì hết thì người trong cung cũng khó có thể đi lại thuận tiện được.

Nhưng quy luật đó là gì, những cơ quan đặt nơi đây như thế nào, đặt ở đâu?

Nhìn vào nơi nào cũng thấy ánh sáng châu ngọc sáng lòa, chàng nhãn lực linh mẫn cách mấy cũng khó lòng nhận ra.

Trong lòng chàng nóng nảy vô cùng, song chàng phải cố ghìm cho thật bình tĩnh thản nhiên.

Chàng nhẹ nhàng bước tới, đi quanh một vòng nữa. Chàng cố nhìn thật kỹ từng chi tiết nhỏ.

Và chàng cũng phát hiện ra, trong trăm ngàn nhũ đá trong động, có một cái khác hẳn những cái khác.

Không những hình dạng có sự khác biệt, nó còn bóng nhẵn, sáng hơn hẳn những cái khác. Hẳn là nó phải ẩn giấu bí mật gì đó.

Chàng tiến tới gần nhìn cho rõ hơn.

Quả nhiên trên nhũ đá này không có rong rêu bao phủ như những nhũ đá khác, đó là lý do trông nó có vẻ sáng bóng hơn. Hẳn là có người thường xuyên chạm tới nó.

Chàng đưa tay nắm lấy, lay, lắc, xoay một vòng. Một đường nứt rạn hiện ra ở một vách đá gần đó.

Từ trong đường nứt đó có tiếng cười vọng tới tai chàng. Một giọng nói trầm ấm tiếp theo tiếng cười:

- Khá lắm đó Phương Bửu Ngọc. Cuối cùng ngươi cũng tìm được khung cửa. Có điều tìm được cửa vào là một chuyện, dám bước qua cửa lại là chuyện khác. Ngươi dám hay không? Ngươi nên suy nghĩ cho kỹ.

Phàm kẻ nào bước qua cánh cửa đó rồi, thì đều không thể sống sót mà trở ra đâu. Ta nói trước cho ngươi biết sau này khỏi hối hận.

Đường nứt lớn dần, cuối cùng hiện thành một khung cửa.

Giọng nói đó lúc đầu thì lớn, sau nhỏ dần. Tới khi khung cửa hiện ra hoàn toàn thì giọng nói tắt hẳn.

Dường như người nói đã đi xa khỏi chỗ đó tới mươi trăm trượng vậy.

Bên trong tối om, không thể thấy một cái gì. Không hiểu là mặt đất bằng hay là ăn thông xuống sâu. Có thể lại là hang động ăn sâu xuống, vì âm thanh vang lên nghe âm u như từ trong lòng đất.

Phương Bửu Ngọc mỉm cười, điềm nhiên bước qua khung cửa đó.

Phương Bửu Ngọc vừa bước qua, cánh cửa liền khép lại, nhanh chóng.

Một màu tối đen bao trùm, đặc quánh tới độ có thể cô đọng thành vật hữu thể. Phương Bửu Ngọc tưởng như mình vừa rơi từ thiên đường xuống địa ngục.

Cho dù là địa ngục chàng cũng phải bước tới.

Không đi tới cũng không được, vì chàng đã bị đoạn hậu rồi, và không lẽ lại đứng im tại chỗ mong cửa mở ra trở lại. Thật là nằm mơ giữa ban ngày.

Tuy mắt không thể nhìn thấy gì trong bóng tối như thế, chàng cũng biết là mình đang đi xuống chứ không phải đi ngang.

Chàng sờ soạng lần vách dò từng bước.

Thoạt đầu, chàng thấy lạnh. Đi một lúc, khí lạnh tan dần, hơi ấm thay đó lan tỏa. Rồi cuối cùng không khí trở nên nóng dần, nóng khó chịu, tới ngạt thở, bỏng rát. Chàng chạm tay vào đâu cũng thấy nóng.

Vách đá nóng như thép nung chảy. Chàng chạm tay vào vách đá thấy không khác gì chạm phải thép đang nóng chảy.

Chàng không dám sờ soạng gì nữa.

Nhưng tối như thế, chàng không khỏi va vào vách đá. Mảnh áo chưa khô nước hồ chạm phải vách đá làm phát ra một tiếng "xèo" ghê người, khoảnh khắc đã ra tro.

Phương Bửu Ngọc kinh hoàng, chàng không dám bước tới thêm nữa. Ngay cả cử động cũng không dám.

Chỉ e lại chạm phải vách đá. Nơi này như một cái lò bát quái vậy.

Chàng muốn cười một tiếng thật lớn, mượn tiếng cười trấn áp sự sợ hãi.

Song chàng còn bận dùng định lực cầm giữ cho mồ hôi bớt thoát khỏi cơ thể.

Mồ hôi ra nhiều khiến cơ thể dễ chịu hơn, nhưng chàng hiểu, nếu cứ thế thì chẳng mấy chàng thành cái xác khô.

Nhưng nếu không thì, da thịt chàng như bị nung, nóng bỏng, khô rát.

Nhiệt độ trong lòng động hẳn phải cao lắm rồi. Chàng có cảm giác mình là một cái bánh bị nướng trong lò.

Trong tình thế đó, ai có thể chịu nổi chăng?

Phương Bửu Ngọc đã thấy mắt hoa lên, tâm thần rối loạn.

Bỗng đâu một tiếng cười trong trẻo vang lên, một tiếng nữ nhân ở đâu đó nói:

- Nóng quá phải không Phương Bửu Ngọc, sao ngươi không bỏ bớt quần áo có phải là đỡ nóng hơn không?

Bóng tối bao phủ, Phương Bửu Ngọc không sao nhận định được tiếng cười, tiếng nói của nàng đó phát ra từ đâu. Chàng không sao xét đoán được.

Cái nóng kinh người vẫn bao phủ. Chàng nghiến răng, nín lặng không nói lời nào.

Nàng đó lại nói tiếp:

- Nơi đây bóng tối bao phủ, nào có ai nhìn thấy ngươi mà ngươi phải ngượng ngùng? Cởi bỏ quần áo ra, ta sẽ đưa ngươi thoát khỏi đây.

Ngươi nhìn lại mà xem, ta có nói dối ngươi đâu, tay đưa lên trước mặt cũng không thấy ngón, ngươi còn sợ ai trông thấy cơ chứ. Hãy cởi bỏ y phục ra nào...

Phương Bửu Ngọc đã định nín lặng luôn, song nàng cứ nói đi nói lại mãi. Chàng hét lớn:

- Cô nương muốn gì ở tại hạ, sao cứ nhất định muốn tại hạ chịu cởi bỏ y phục mới nghe? Cô nương háo hức thèm muốn được nhìn cái gì trên người tại hạ vậy?

Chừng như nàng ta cũng e thẹn hay sao đó, nên một lúc sau mới thấy nàng đáp trả:

- Ta chẳng muốn gì cả. Tại ngươi nhất định không chịu cởi bỏ y phục, ta nhất định muốn ngươi phải cởi bỏ y phục. Ta muốn ngươi phải khuất phục, nhượng bộ ta, có vậy thôi.

Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Cô nương biết tại sao tại hạ nhất định không để thân trần hay không?

Nàng cười lớn:

- Chính ta đang muốn biết lý do tại sao ngươi ngoan cố như thế đây!

Phương Bửu Ngọc nói:

- Một nam nhân trần truồng đứng trước mặt những nữ nhân cũng không mảnh vải che thân, thử hỏi hắn còn có thể giữ được ý chí kiên cường chăng? Đương nhiên, hắn chẳng thể làm được việc gì ngoài chuyện mơ mơ tưởng tưởng... mơ tưởng tới toàn những chuyện dâm dật.

Hắn chẳng thể thực hiện được ý định ban đầu nữa. Bởi hắn đã bị những thèm muốn nhấn chìm rồi.

Phương Bửu Ngọc nhấn mạnh:

- Phải, hắn sẽ không còn ý chí để chống cự lại với cái cần phải chống đối. Cái hắn cần phải chống đối trên con đường hắn phải tới đây.

Không một tiếng nói đáp lại. Phương Bửu Ngọc nói tiếp:

- Các cô nương muốn lấy thân thể mỹ miều đánh tan ý chí của tại hạ, nhưng đáng tiếc. Kế sách đó áp dụng với nam nhân nào còn có thể được, chứ với Phương Bửu Ngọc tại hạ thì đừng mong mang lại kết quả.

Lâu lắm mới lại thấy tiếng cười từ nơi nào đó vang lên, giọng nói trong trẻo đó lại cất lời:

- Thông minh lắm, Phương Bửu Ngọc. Đáng khen lắm.

Một chuỗi cười vang lên kết thúc câu nói, tiếng cười nhỏ dần, nhỏ dần. Một lúc sau thì tắt hẳn.

Thiếu nữ đã đi xa lắm rồi.

Phương Bửu Ngọc nghĩ đứng đây mãi thì cũng chết. Chàng cởi chiếc áo ngoài, dùng chiếc áo quấn quanh bàn tay như một bao tay thật dày.

Rồi lần lần theo vách đá, hướng theo phía tiếng cười của thiếu nữ vừa nãy mà bước.

Chàng bước đi từng bước, dè dặt.

Vừa rồi tay áo chàng chạm nhẹ vào vách đá có một chút mà đã khô cháy. Chàng sợ cái bao tay áo này cũng không chịu được bao lâu nên chỉ chạm thật khẽ và thật nhanh cho đỡ có cảm giác chơi vơi mà thôi.

Bàn tay qua bao nhiêu lớp vải mà vẫn thấy bỏng rát.

Phương Bửu Ngọc mặc kệ. Chàng mím môi bước tới.

Nếu là ai khác, trong hoàn cảnh này có khi đã bỏ cuộc từ lâu, không chừng lúc này còn ở bên ngoài khung cửa trần truồng đùa giỡn với mấy nàng bên bờ ao kia.

Còn Phương Bửu Ngọc bản tính bướng bỉnh gan lỳ, việc càng khó khăn chàng lại càng quyết muốn làm cho kỳ được. Chàng cứ đi tới.

Nhiệt độ trong lòng hang dần dịu lại, Phương Bửu Ngọc khấp khởi mừng thầm.

Bỗng nhiên, thiếu nữ trước đó lại xuất hiện đâu đây, vì chàng nghe thấy tiếng nàng cười rồi hỏi:

- Phương Bửu Ngọc, ngươi có muốn biết ngươi đã đi tới đâu chưa?

Đoạn nàng nói luôn:

- Cái tên Phương Bửu Ngọc có danh lắm. Ngươi đã đi được một quãng đường gian khổ, như thế mới xứng với cái tên đó. Ta thành thật khen ngươi đó.

Phương Bửu Ngọc cố lấy giọng tự nhiên, thực sự chàng đang rất mệt mỏi:

- Đa ta cô nương quá khen. Tại hạ đã đến trước mặt cô nương rồi.

Thiếu nữ cười lớn nói:

- Để ta cho ngươi thấy hiện tại ngươi đã đi tới đâu.

Nàng nói xong thì liền bật mồi lửa, lửa cháy sáng lên rồi tắt liền, song khoảng thời gian ngắn ngủi đủ cho Phương Bửu Ngọc nhận rõ khung cảnh nơi chàng đứng.

Trời!

Chàng đang đứng sát ngay bên khung cửa chàng đã bước qua lúc trước.

Chàng vất vả khổ sở đi tới, đi mãi, cuối cùng lại trở lại chỗ cũ.

Tuy là trở lại chỗ cũ, nhưng cánh cửa đã đóng rồi. Nó đóng từ lúc chàng vừa bước qua cửa.

Phương Bửu Ngọc sững sờ, chàng thấy mình không khác gì con dã tràng xe cát biển Đông.

Chàng còn chưa hết bàng hoàng, thiếu nữ đã lại cười vang:

- Ta đã nói trước với ngươi rồi mà! Nơi đây hang động biến hóa vô cùng. Giờ ngươi đã chịu tin ta chưa? Ngươi còn cứng đầu nữa hay thôi?

Ta nghĩ ngươi nên ngoan ngoãn tự mình cởi bỏ y phục ra là hơn.

Phương Bửu Ngọc hét to:

- Không!

Thiếu nữ dịu dàng nói:

- Chỉ cần ngươi chịu để mình trần, ta sẽ dẫn ngươi tới gặp nương nương ta ngay lập tức. Ngươi sẽ thoát khỏi cái mê cung này, thoát khỏi cái nóng ghê người mà ngươi phải chịu đựng? Tại sao ngươi lại cứ phải ngoan cố như thế? Tại sao ngươi quá cương cường như thế? Thử hỏi ngươi ương ngạnh như thế chết đi có ai tạc bia ghi khắc những lời tán dương ngươi chăng? Ngươi thật quá ngốc nghếch, Phương Bửu Ngọc !

Phương Bửu Ngọc cười lạnh:

- Tại hạ sẽ không chết đâu, cô nương!

Thiếu nữ nín lặng hồi lâu, đoạn gằn giọng:

- Được rồi! Thử xem ngươi còn chịu đựng được bao lâu nữa.

Bất luận là ai sau khi trải qua trăm cay ngàn đắng, bao nhiêu nguy hiểm gian nan, cuối cùng lại không thu được kết quả nào, cũng cảm thấy tuyệt vọng, cũng sẽ phải cúi đầu chấp nhận số mệnh. Bất luận là ai cũng sẽ phải ngã gục cùng với sự đổ vỡ của của công trình xây đắp, ý chí tiêu tan, lòng kiên nhẫn không còn.

Nhưng Phương Bửu Ngọc không thế.

Chàng là con người phi thường, thay vì tuyệt vọng, chàng chấp nhận thất bại.

Như một ván cờ đã kết thúc, người ta sắp lại quân đánh ván khác vậy.

Chàng bình tĩnh sắp đặt phương sách khác.

Người ta đi trong bóng tối, mười người có tới tám chín người dùng tay quờ quạng thay mắt, trong số đó thì cả tám người dùng tay tả để sờ, họ để tay hữu phòng bất trắc.

Phương Bửu Ngọc vừa rồi cũng thế. Và cuối cùng chàng cũng đã quay lại đây.

Bây giờ, chàng tháo chiếc áo ra quấn sang tay hữu.

Tay tả bị chiếc áo bao chặt tới tê liệt, hiện không còn cảm giác gì nữa.

Tuy nhiên, nghị lực có thừa, kiên nhẫn có thừa mà khí lực thì lại chẳng phải vô tận.

Quanh quẩn một thời gian lâu như thế, sức lực chàng hẳn nhiên bị suy kiệt.

Bây giờ lại phải đi lại con đường đó, nhưng là theo phía hữu.

Chàng liệu đi được bao lâu trong cái nóng như nung ấy.

Một lúc sau, chàng cảm thấy chân nặng như đeo đá, mắt hoa lên như ngàn ánh sao trước mắt, tâm thần dần dần rồi loạn.

Nóng!

Cái nóng không chỉ bên ngoài. Còn nóng từ bên trong.

Bao nhiêu nước trong mình thoát ra thành mồ hôi. Mồ hôi vừa tạo thành gặp nóng bốc thành hơi tiêu tan mất.

Người chàng như phơi dưới ánh nắng cả trăm ngàn độ thiêu đốt.

Cứ dần cạn khô, cạn khô.

Thể xác con người bằng xương bằng thịt, chịu sao nổi cái nóng như thế.

Chàng cần nước. Nước uống vào trong, nước thấm bên ngoài.

Chàng tưởng mình có thể hét to lên. Cho chàng một chút nước, điều kiện gì chàng cũng chấp nhận hết.

Nhưng không, chàng không hét không gào không đòi hỏi gì cả.

Nếu bắt chàng cởi bỏ y phục thì đừng hòng. Chàng cắn răng lê bước.

Rồi trước mắt tự dưng tối sầm, chàng khuỵu chân, ngã xuống.

Phương Bửu Ngọc mê man...

-- - Trong cơn mơ, chàng thấy mình quay lại thời niên thiếu...

Khi chàng chỉ là đứa bé con vô tư lự, ngày ba bữa cơm, ăn xong thì đọc sách.

Thế giới của chàng vỏn vẹn trong khu vườn sau của ngoại, có cây tùng cổ soi bóng mát. Lúc không khí viêm nhiệt, chàng cởi áo nằm dài trên tảng đá. Chàng mong một cơn mưa.

Rồi mưa thật.

Mưa rơi trên những mái nhà, qua những tán lá dày.

Chàng ngửa mặt hứng từng giọt mưa mát lành, trong trẻo như những hạt châu.

Thật khoan khoái biết bao...

Bỗng nhiên có tiếng gọi chàng văng vẳng đâu đây:

- Phương Bửu Ngọc...Phương Bửu Ngọc...

Chàng chập chờn nửa tỉnh nửa mơ, chàng còn ngỡ tiếng gọi đó là tiếng ai đó trong nhà ngoại, hay của một trong tám người đệ tử của Thanh Bình kiếm khách.

Chàng còn nhớ, trong số tám người đó có Hồ Bất Sầu là người quan tâm tới chàng nhiều nhất.

Là tiếng của Hồ Bất Sầu gọi chàng chăng?

Tiếng gọi vẫn vang lên mông lung:

- Phương Bửu Ngọc...Phương Bửu Ngọc...

Đó không phải là tiếng của Hồ Bất Sầu.

Chàng bắt đầu tỉnh hẳn.

Trong mơ, chàng khoan khoái biết bao nhiêu, thì khi tỉnh lại, chàng thấy khó chịu biết bao nhiêu.

Chàng giận dữ vô cùng, chàng muốn mơ tiếp. Cái nóng khó chịu chỉ chờ chàng tỉnh lại là chụp lấy chàng, ngạt thở. Nhưng đó bất quá cũng là những ấn tượng về cảnh gian khổ lúc trước lưu lại, chứ thật ra thì cũng có ít nhiều thay đổi.

Nước!

Trên mặt chàng quả có nước đọng lại. Sao lại như vậy, cơn mưa vừa rồi là mộng hay là thực đây?

Trên đầu chàng có tiếng gọi vọng xuống:

- Phương Bửu Ngọc ! Ngươi đã tỉnh lại rồi chứ?

Phương Bửu Ngọc đưa mắt nhìn lên. Chẳng rõ từ khi nào, trên trần động vốn liền lạc hiện ra một lỗ hổng. Giữa lỗ hổng đó, một thiếu nữ thò đầu nhìn xuống. Gương mặt xinh xẻo của nàng án ngữ trọn lỗ hổng. Mớ tóc mềm như tơ buông lơi lơ lửng.

Nàng dịu dàng cười nói:

- Phương Bửu Ngọc, bây giờ ngươi đã nhận ra một điều rằng thân thể ngươi chẳng phải sắt đá rồi chăng? Ngươi đã gượng không nổi, ngươi đã ngã quỵ, ngươi còn nhớ là ngươi đã ngã đó chứ? Ngươi có chịu khuất phục chưa anh chàng ương ngạnh?

Phương Bửu Ngọc không đáp trả, rên rỉ:

- Nước!....nước...

Nàng tiếp tục thỏ thẻ:

- Trong chén vàng này đựng một loại nước rất thơm, rất ngọt. Vừa rồi ta chỉ mới nhỏ trên mặt ngươi ba giọt mà đã có thể cứu ngươi tỉnh lại. Bây giờ nếu ngươi bằng lòng nói một câu ngươi chịu khuất phục, ta sẽ cho ngươi trọn chén.

Phương Bửu Ngọc thều thào:

- Nước thơm... nước ngọt...

Chàng có cái vẻ dật dờ của một người vừa thoát khỏi cơn mê, lại như sắp mê trở lại. Nàng vẫn dịu dàng kiên nhẫn tiếp:

- Đây này, ngươi nếm thử một giọt nữa xem công hiệu thứ nước này như thế nào!

Nàng lại nhỏ xuống vài giọt. Bỗng Phương Bửu Ngọc hét lên:

- Không! Ta không khuất phục! Ta không chịu phục!

Nàng lắc đầu thở dài:

- Tính khí ngươi thật lạ lùng. Ngươi không phải trâu, cớ sao lỳ hơn trâu? Ngươi thật ngoan cố như một con trâu ngốc nghếch vậy. Ngươi có phải chịu hành hạ lâu hơn thì cũng đừng oán trách ta.

Nàng hất chén nước vào vách đá.

Vách đã nóng bỏng. Nước chạm vách đá bốc thành hơi liền. Không còn dấu vết gì.

Vách đá khô bỏng như chưa từng có chuyện gì xảy ra.

Nàng đã bỏ đi, lỗ hổng đã được bít lại, bóng tối lại trở về, lần này còn như đen đặc hơn.

Phương Bửu Ngọc đột ngột tung mình vọt lên. Chàng tung mình nhanh, mạnh, chừng như cái vẻ dật dờ vừa rồi là giả bộ vậy, chứ không phải là do thứ nước thần diệu kia làm chàng tỉnh lại.

Lỗ hổng trên trần động mở ra trước đó để lọt ánh sáng vào, hướng theo ánh sáng, Phương Bửu Ngọc đã kịp nhận ra hình thế bên trong động chỗ đó. Bây giờ chàng cứ theo hình thế ghi nhớ mà tìm chỗ dựa bò lên.

Như thế thật chẳng phải dễ dàng gì.

Chàng vẫn phải mò mẫm, tay chân đau buốt.

Bỗng chàng trông thấy một đôi chân.

Là chân của nam nhân. Đôi chân xuất hiện trước mắt chàng, rất gần.

Dĩ nhiên là gần, vì nếu không chàng làm sao nhìn thấy trong bóng tối như thế.

Đôi chân này mang giày rất sang trọng. Đôi vớ bằng tơ mỏng.

Hẳn người này phải là người có thân phận cao quý. Hai chân đó bất thần nhích động, như định phóng ra một cước, chính xác hơn thì là song phi cước.

Nếu đôi chân đó mà đá trúng Phương Bửu Ngọc thì chàng rớt xuống đất liền. Bao công sức bò lên trên này sẽ lại tiêu tan. Chàng sẽ phải làm lại từ đầu nếu đủ ý chí, khả năng, sức lực làm lại.

Phương Bửu Ngọc sợ cứng người. Chàng đang ở thế rất cheo leo, không phương kháng cự. Đôi chân đó chỉ chạm nhẹ vào chàng thôi cũng đủ làm chàng rớt xuống rồi...

Nhưng đôi chân chỉ hơi nhúc nhích một chút rồi bất động. Nhìn thấy bất động như tư thế vẫn như chực phóng ra.

Phương Bửu Ngọc nép mình tại chỗ.

Nói là leo lên, không hẳn là chàng leo vách đá mà lên. Bất quá con đường rất dốc, lại có đá lởm chởm. Nếu không dè dặt chạm chân vào từng mô đá kẽ nứt thì không thể leo.

Mà leo lên được nhưng không cẩn thận là té nhào bươu đầu sứt trán như chơi.

Bây giờ chàng đang phải rất cẩn trọng. Chàng không dám ngẩng lên nhìn đôi chân đó nữa.

Nhưng chàng nghĩ người đó ít ra cũng không lõa thể, ngươi đó vẫn còn mặc y phục như chàng.

Vào tới Bạch Thủy Cung này mà còn có thể mặc y phục trên người không phải là điều lạ lùng sao?

Bất kỳ nam nhân nào vào đây cũng buộc phải thoát y. Hắn cũng là một nam nhân, sao lại có thể ngoại lệ?

Chàng còn đang cảm thấy khó hiểu, thì một giọng nói trầm vang lên:

- Ngươi đã vào được tới đây rồi, chẳng phải là chưa trải qua muôn ngàn khó khăn. Để ta nói cho ngươi biết, từ đây vào trung khu của Bạch Thủy Cung đoạn đường chẳng phải còn xa lắm đâu. Nhưng đoạn đường này lại nguy hiểm khó khăn gấp trăm ngàn đoạn đường ngươi đã trải qua. Ngươi phải thật cẩn thận mới được.

Phương Bửu Ngọc càng lấy làm kỳ quái hơn nữa. Ai vừa nói với chàng vậy?

Đã là người của Bạch Thủy Cung sao lại nói với chàng không chút ác ý. Còn tỏ vẻ như lo lắng cho chàng nữa, giống lời của sư phụ nói với đệ tử, người cha nói với con trai...

Người đó là ai, tại sao lại quan tâm tới chàng?

Phương Bửu Ngọc muốn hỏi lắm, nhưng chàng nghĩ lại thì thấy không nên hỏi, đúng ra là chàng không dám hỏi. Bởi chàng sợ nếu chàng hỏi người đó lại không đáp.

Người đó nói tiếp:

- Tuổi ngươi còn nhỏ song nghị lực phi thường, khiến cho ai ai cũng phải khâm phục. Nếu ngươi giữ vững được ý chí tới cùng, thì dù ngươi có gian khổ, song ngươi cuối cùng cũng sẽ được hưởng phước lộc.

Người đó không chỉ ân cần lo lắng, còn khuyến khích chàng.

Phương Bửu Ngọc không dám tin. Chàng hoài nghi. Nhưng chàng không nói gì, chỉ đáp gọn:

- Đa tạ.

Người đó im lặng một lát rồi lại tiếp:

- Ngươi còn đứng lên nổi chăng?

Phương Bửu Ngọc nói:

- Nổi!

Người đó lại hỏi:

- Nếu thế sao ngươi không đứng lên và đi tới?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Phải. Tại hạ đứng lên. Tại hạ đi tới.

Chàng đứng lên. Người đó đã bước đi rồi. Y bước rất chậm, dường như chân bị cột với vật chi nặng lắm. Hai tay y ôm lấy mặt.

Phương Bửu Ngọc hỏi:

- Sao các hạ không cho tại hạ được diện kiến tôn nhan?

Người đó đáp:

- Ngươi bất tất phải thấy mặt ta. Ngươi thấy thanh kiếm của ta là đủ.

Câu nói vừa dứt, y nhúc nhích bờ vai.

Một bờ vai nhích động chẳng phải là một động tác quá lộ liễu, mấy ai để ý.

Nhưng Phương Bửu Ngọc là người tinh tế, trong bóng tối mờ mờ cũng có thể nhận thấy cái nhích vai của y.

Nhích vai thì có gì đặc biệt? Y nhích vai để chuẩn bị xuất thủ, hay đã để lộ một chuôi kiếm mà y che dấu? Chỉ thấy Phương Bửu Ngọc giật mình buột miệng kêu khẽ:

- Sửu Chuyển Càn Khôn Sát Thủ Kiếm.

Đồng thời với câu chàng nói, một ánh chớp loé lên.

Ánh chớp loé đó tưởng như làn kiếm quang của Tưởng Tiếu Dân ngày nào khi thi triển một chiêu thức của Hải Nam kiếm phái.

Sửu Chuyển Càn Khôn Sát Thủ Kiếm!

Nhưng ánh chớp hiện tại có phần nhanh hơn kiếm quang của Tưởng Tiếu Dân ngày trước nhiều.

Chiêu thức cũng thuần mỹ kín đáo trầm tĩnh già dặn hơn nhiều.

Nếu như ngày trước chàng không thấy qua đường tuyệt kiếm tuyệt kỹ đó, thì hiện tại đâu còn có thể né tránh kịp ánh kiếm quét ngang người, và như thế thì còn mong gì vào tới trung khu Bạch Thủy Cung?

Ánh kiếm lóe lên nơi đầu vai, nhưng làn kiếm quang lại từ dưới nách y đi ngược lên.

Do phản ứng từ bản năng tự vệ hơn là thực tài, Phương Bửu Ngọc nhảy dạt qua một bên xa tới hơn hai thước tránh né ánh kiếm.

Chàng nhảy qua rồi, ánh kiếm lại chuyển hướng theo chàng liền.

Chàng đã nghĩ trong khoảng cách đó, nếu ánh kiếm có quét tới cũng chỉ làm rách áo chàng là cùng, chứ chưa thể chạm nổi tới da thịt chàng.

Nhưng mũi kiếm còn cách ngực chàng độ non nửa thước thì dừng lại.

Dừng kiếm một cách cấp kỳ như thế, người sử kiếm hẳn không phải tay vừa. Tài nghệ của y trội hơn Tưởng Tiếu Dân là cái chắc.

Một nhát kiếm có lưu tình.

Phương Bửu Ngọc thở ra thốt lên:

- Đa tạ!

Kiếm đưa ngang rồi từ từ hạ xuống, một giọng nói hững hờ vang lên:

- Ngươi có thấy đường kiếm này rồi?

Phương Bửu Ngọc thành thật đáp:

- Có thấy một lần.

Người đó khẽ gật đầu:

- Ngươi thật may mắn. Nếu chưa từng thấy lần nào chắc chắn ngươi phải thọ thương.

Người đó lại trầm giọng tiếp:

- Vừa rồi ta dùng một chiêu kiếm sát thủ toan giết ngươi, sao ngươi còn cảm tạ ta?

Phương Bửu Ngọc cười khổ:

- Tại hạ không phải quá ngu dốt, không nhận ra đường kiếm lưu tình hay sao?

Người đó lạnh lùng:

- Tuy có lưu tình, song cũng đủ lấy mạng ngươi.

Phương Bửu Ngọc lại cười:

- Đành vậy. Nhưng Phương Bửu Ngọc vẫn còn sống đây.

Người đó im lặng một lúc lâu. Bất thình lình, y há miệng cười ha hả:

- Phải, hiện tại ngươi còn sống. Gặp đường kiếm đó hai lần mà không mất mạng, nghĩ lại trên thế gian này chỉ sợ không có kiếm pháp nào làm ngươi thương tổn cho nổi. Chẳng có một chiêu.

Trên Thái Sơn, Phương Bửu Ngọc đã thấy Tưởng Tiếu Dân thi triển. Sau đó, chàng bị Tưởng Tiếu Dân dùng chiêu kiếm đó toan sát hại chàng bên rừng già, gần thị trấn mà chàng và Ngưu Thiết Oa, Tiểu công chúa dừng chân ăn mì, trạm đầu tiên từ Vạn Trúc sơn trang trên con đường đến nơi ước hẹn cùng Hỏa Ma Thần. Bây giờ, chàng lại thấy người này sử chiêu đó.

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Chẳng có, có thể không nhiều, nhưng vẫn phải có chứ?

Người đó không cười nữa. Giọng y lại trở nên lạnh lùng:

- Phải, vẫn có. Ít nhất là ba.

Phương Bửu Ngọc điềm nhiên:

- Tại hạ chưa được lĩnh giáo.

Chưa được lĩnh giáo?

Người biết chiêu đó không phải là kẻ đối diện thì câu đó là thừa.

Nếu chính người đối diện biết sử chiêu đó thì lại là một câu thách thức.

Cho dù Phương Bửu Ngọc có thành thực tới đâu, câu nói đó cũng hàm ý thách thức hơn là học hỏi mất rồi.

Không biết y nghĩ gì, chỉ thấy y nói:

- Ngươi gấp gì cần lĩnh giáo?

Người kia nãy giờ vẫn đưa lưng về phía Phương Bửu Ngọc không hề quay mặt lại, mặc dù y đang đối thoại với chàng.

Nói tới đây, đột nhiên, y quăng kiếm ngược lại phía Phương Bửu Ngọc.

Phương Bửu Ngọc đưa tay đón bắt lấy thanh kiếm về tay.

Lúc chàng nhìn lên, người đó đã mất dạng.

Con đường phía trước ngoằn ngoèo khúc khuỷu, bí hiểm vô cùng.

Bạch Thủy Cung, theo như nhận xét của Phương Bửu Ngọc, là một cứ địa kiến tạo trong lòng núi, như thế, quanh năm suốt tháng chẳng có ánh thái dương chiếu tới. Nơi đây chỉ dùng minh châu làm đèn.

Minh châu tuy sáng nhưng ánh sáng lạnh lùng.

Không hiểu có phải do ảnh hưởng của ánh sáng đó hay không mà con người nơi đây tính khí cũng quái dị như thế.

Phương Bửu Ngọc có nằm mơ cũng không bao giờ nghĩ có người nào trên thế gian lại thích chui vào lòng núi lạnh mà kiến tạo cơ đồ, sống biệt lập với đồng loại như vậy.

Sống cuộc sống biệt lập đã là một sự lạ, lại tạo nên một khu đại điện quy mô, đó lại càng lạ lùng hơn.

Phương Bửu Ngọc cứ suy nghĩ mãi, cuối cùng trên môi nở một nụ cười lẩm bẩm một mình:

- Người vừa rồi hẳn nhiên là người của Bạch Thủy Cung rồi.

Nhưng y có thân phận thế nào trong cung? Qua giọng nói của y xem ra rất quan tâm tới ta, chẳng khác một bằng hữu tha thiết tới sự an toàn của tri kỷ vậy. Đã có thái độ đó, sao lại tự dưng rút kiếm muốn hạ sát mình? Rồi bất thình lình lại bỏ ý định đó? Đã nương tình với ta sao lại không theo cho trọn rồi trong giây phút bất ngờ nào đó xuất luôn ba đường kiếm tuyệt diệu hãm hại ta luôn? Như y đã nói, có ít nhất ba đường kiếm pháp có thể làm thương tổn tới ta kia mà? Kỳ quái lắm, định dành ba đường kiếm đó cho ta sao lại còn tặng cho ta thanh kiếm làm vũ khí phòng thân làm gì?

Thanh kiếm người kia tặng cho Phương Bửu Ngọc là một thanh trường kiếm, thân mỏng nên dĩ nhiên rất nhẹ. Thanh kiếm này sắc bén vô cùng, được chế luyện từ một chất thép thuần túy hoàn toàn không chút tỳ vết dù là rất nhỏ.

Cầm thanh kiếm trong tay, Phương Bửu Ngọc thấy tinh thần lên cao trở lại, khoan khoái vô tưởng. Cơ hồ đã quên tất cả gian lao vất vả khổ sở hiểm nguy đã trải qua, quên cả đói khát từ lúc tới chân núi.

Mà thời gian đã qua lâu lắm rồi, nào phải là một sớm một chiều.

Từ lúc tới chân núi, chàng sống từng phút từng giây đều kinh hoàng thử thách, tinh thần lúc nào cũng căng thẳng cực độ.

Trong hoàn cảnh đó, chàng có thể giữ được thần trí như bình thường thì cũng đáng phục lắm.

Cái cảm giác đó thật ra rất thông thường, ai ai cũng có thể có được.

Giống như thư sinh gặp một quyển sách quý, hay được bằng hữu tặng cho một quản bút đẹp. Giống như một người nghiện rượu bỗng nhiên vớ được rượu quý trong hầm...

Con nhà võ, có gì xem trọng bằng vũ khí, nhất là với Phương Bửu Ngọc, vũ khí đến tay đúng lúc quá. Người học võ có thanh kiếm trong tay là có một vật hộ thân, là tăng thêm phần sống sót. Cho nên, Phương Bửu Ngọc khoan khoái vô cùng.

Trước mắt chàng đã chớm hiện lên một viễn ảnh sáng lạn. Dù chưa có dịp giao đấu, nhưng có kiếm trong tay, chàng thấy vững tâm lắm.

Phương Bửu Ngọc bèn đứng tại chỗ, vận dụng tâm ý hợp nhất với kiếm. Chuẩn bị tinh thần xong xuôi, chàng mới yên tâm bước tới.

Chàng cứ từ từ mà bước.

Bây giờ, lòng chàng phơi phới. Những cảnh tượng ngụy dị xung quanh, chàng cũng không buồn nhìn tới, có nhìn cũng chẳng lấy làm lạ lùng như trước nữa.

Bởi tâm ý chàng chỉ tập trung nơi thân kiếm.

Tính mạng chàng trông cậy cả nơi thanh kiếm đó.

Bây giờ thì tâm ý và kiếm đã hợp nhất.

Kiếm là người, người là kiếm.

Vạn nhất có chuyện gì xảy ra, chàng phản ứng gì thì cũng là chính mũi kiếm phản ứng thay chàng.

Ánh sáng trong lòng động vụt tắt.

ung quanh chàng bây giờ bóng tối phủ trùm càng tối hơn nữa.

Nơi nào có bóng tối nơi đó lại chẳng lạnh lùng? Trừ phi nằm trong lò kín xung quanh có lửa cháy thì mới không lạnh mà thôi.

Phương Bửu Ngọc có cảm giác chàng đang lạc bước chốn mộ địa.

Nhưng chàng vẫn bước tới, chậm song đều. Bây giờ chàng không chạm tay lên vách đá để dò đường như trước. Tâm kiếm hợp nhất, chàng di chuyển bằng tâm linh, mũi kiếm dẫn đường. Mũi kiếm như có mắt và tai, còn tinh diệu hơn mắt và tai của chàng.

ung quanh chàng hoàn toàn im lặng. Khung cảnh đen tối chết chóc. cái im lặng hãi hùng ghê rợn. Cái im lặng đầy sát khí bao trùm, ẩn giấu cạm bẫy.

Tự nhiên, chàng thấy rùng mình. Tóc dựng ngược lên, da nổi hột.

Lâu lắm mà không hề có một biến hoá nào trong khung cảnh đó.

Chỉ có sát khí ngày một dày hơn. Sát khí từ mọi phía, cuồn cuộn đổ đến như sóng trào bao trùm lấy chàng, rợn người. Áp lực theo đó tăng lên đè chàng muốn ngạt thở.

Chàng nghe hơi thở mình nặng dần.

Nhưng chàng vẫn bước tới, tuy bước chân có chậm hơn trước. Bước chân chậm và ngắn. Chàng nhích từng bước, từng tấc.

Trong bóng tối đột nhiên có ánh thép sáng lòe, rồi tắt liền.

Phương Bửu Ngọc thấy ánh thép sáng lóe lên, song tuyệt nhiên không thấy người cầm kiếm. Thấy kiếm mà không thấy người cầm kiếm.

Tại sao lại thế.

Là ma sử kiếm, hay kiếm được người ta treo lơ lửng?

Nhưng có một điều chắc chắn là đã có ánh théo lóe sáng, thanh kiếm không có người cầm, đã có một ma lực nào đó điều khiển kiếm nhích động ngăn chặn bước tiến của chàng.

Muốn tiến tới, chàng chỉ có một cách, là phải đánh bại thanh kiếm đó. Nói thế chẳng qua là một cách nói để mô tả tư thế thanh kiếm, chứ kiếm không người sử thì làm sao mà thành chiêu cho được.

Nhưng rõ ràng, đây là một chiêu kiếm bừng bừng sát khí đang chờ chàng.

Chiếu kiếm này hẳn là một chiêu kinh thiên dộng địa, là một trong ba đường kiếm người lạ mặt đã nói với chàng, ba đường kiếm có thể làm thương tổn tới chàng.

Phương Bửu Ngọc dừng chân.

Mũi kiếm cũng bất động. Trong bóng tối, không thể trông thấy một vật gì, ngoại trừ thanh kiếm, chính xác hơn là ánh kiếm. Ánh kiếm ngời sát khí.

Là sát khí lóe sáng, chứ không phải là kiếm khí chớp sáng.

Đã từng vào sinh ra tử trong bao cuộc quyết đấu hãi hùng, nhưng Phương Bửu Ngọc chưa bao giờ thấy loại sát khí nào kỳ dị như loại sát khí này.

Thường thường, sát khí bốc lên do người cầm kiếm. Sát khí từ người truyền qua kiếm mà tỏa rộng, bao phủ cả người cầm kiếm. Nhưng ở đây thì sát khí chỉ bao quanh thân kiếm, không hề lan rộng ra ngoài xa thân kiếm một tấc một ly nào.

Không có phần lan rộng của sát khí, Phương Bửu Ngọc không tài nào nhận ra vị trí của người cầm kiếm.

Nhưng không có người cầm kiếm thì lấy đâu ra sát khí trên kiếm.

Tự thanh kiếm sao có thể phát ra sát khí được?

Cho dù là vật nổ, gây sát thương chết chóc nhưng đã là vật thì không thể tự dưng phát sinh sát khí được. Chỉ khi nào nằm trong tay người, dưới sự điều khiển của con người nó mới có thể phát sinh sát khí được mà thôi.

Trời!

Quả thật chuyện này ngoài sức tưởng tượng của Phương Bửu Ngọc.

Người cầm kiếm và sát khí trên kiếm tách làm hai.

Thân kiếm hợp nhất mới có kiếm khí và sát khí. Thân và kiếm phân thành hai thể riêng biệt thì sao kiếm lại có sát khí? Trên thế gian này lại có tay kiếm khách nào có thể làm được điều đó hay sao?

Phương Bửu Ngọc không sao tưởng tượng nổi.

Nhưng giờ đây chàng có muốn không tin cũng không được, vì nó hiển hiện trước mắt chàng.

Phương Bửu Ngọc kinh ngạc trước kiếm thuật của người này, nhưng cũng vì thế mà chàng bớt lo. Người đó không tỏa ra sát khí, chứng tỏ người đó cũng không có ác ý với chàng.

Bất quá y đưa ra một chiêu độc để xem tài dụng kiếm của chàng như thế nào mà thôi.

Y không hợp nhất thân kiếm bởi y không thực sự muốn hại chết chàng.

Phương Bửu Ngọc đã luyện kiếm thành tựu tới mức độ nhất định mới có thể ý thức được điều đó. Chỉ chàng mới nhận ra trong sát khí từ thanh kiếm chỉ hiển lộ phần rất nhỏ nhân khí. Người đó không muốn cùng chàng sinh tử.

Phương Bửu Ngọc cảm thấy khâm phục kiếm thuật người này vô cùng. Kiểm soát nhân khí trong sát khí của thanh kiếm, không mấy ai dám nghĩ có thể đạt tới.

Phương Bửu Ngọc nhìn thanh kiếm một lúc, chợt nhớ tới nhát kiếm của Thiết Kim Đao.

Ngày đó, Thiết Kim Đao cũng thử một đường đao đầy sát khí, song trong vòng sát khí lại ẩn giấu nhân khí.

Sát khí dù mạnh mà nhân khí kém, thì cái sát ý tiêu diệt đối phương không hiển hiện, bất quá chỉ là do đường đao, kiếm quá lợi hại mà phát sinh chứ chủ ý người sử đao kiếm không hẳn muốn như thế.

Chiêu kiếm tóm lại rất độc, một chiêu kiếm không nương tình, nhưng người sử kiếm thì lại nương tình.

Như vậy tức là sao? Nguyên nhân là thế nào?

Tịch mịch.

Không gian quanh Phương Bửu Ngọc là sự tịch mịch, cô đọng đặc quánh.

Đột nhiên chàng nghe như có một điệu nhạc rất êm song rất lạnh vang lên đâu đó. Điệu nhạc này rất khẽ, tựa như cánh muỗi vo ve bên tai.

Cùng với điệu nhạc, mũi kiếm nhích động vẽ một vòng tròn. Một vòng tròn lạnh người nhưng đẹp phi thường, cái đẹp chỉ có những con mắt võ thuật mới cảm thấy được.

Nhạc ngân run run, mũi kiếm run run, ánh sáng nơi mũi kiếm điểm một điểm sáng nhỏ li ti hơn cả hạt cát, vờn vờn tạo thành một vòng chuỗi hạt sáng kỳ ảo.

Cái đẹp đó, chỉ một nhãn lực tinh vi mới nhận ra kịp.

Phương Bửu Ngọc giật mình.

Thân kiếm có nhích động, giống như đường đao của người áo trắng nhích động. Mũi kiếm xoay vòng nhanh hơn, chuỗi hạt sáng lan nhanh hơn, biến thành một màn trắng, bức màn đó như bị gió đùa, xô nhanh tới Phương Bửu Ngọc.

Kiếm tạo gió rít lên, tiếng rít tuy nhỏ song không gian vắng lặng quá, tiếng rít tựa như tiếng dã thú kêu gào.

Hẳn nhiên Phương Bửu Ngọc phải có phản ứng.

Chàng chưa chạm kiếm của đối phương. Kiếm của đối phương chuyển động thay đổi tư thế, chàng cũng biến đổi tư thế của thanh kiếm nơi tay, cả hai bên đều đồng thay đổi vị trí.

Hai bên không còn đứng nguyên tại chỗ nữa.

Tuy rằng hai thanh kiếm không chạm nhau, nhưng kiếm khí thì đã chạm nhau rồi. Công lực hai bên tương đương, nên chưa bên nào bị đối phương gây chấn động.

Trong bóng tối, có tiếng thở dài khe khẽ.

Tiếng thở dài đó, trong hoàn cảnh này có tác động mạnh mẽ. Bởi hai người đang đứng trên đường ranh giới giữa sống và chết.

Cuộc đấu này không giống cuộc đấu nào trên giang hồ. Nó không mãnh liệt, không có tiếng động chan chát coong coong hay đinh đinh đang đang gì cả, nhưng tính chất nguy hiểm thì lại có thừa.

Trong cuộc đấu này, bại đồng nghĩa với cái chết, và nếu bại thì cũng chỉ bại với một nhát kiếm mà thôi, xuất thủ một lần duy nhất.

Một cuộc chiến phân thắng bại bằng một chiêu kiếm, thì chiêu kiếm đó phải là kết tinh sở học của cả một đời người.

Hai người lại yên lặng trở lại. Như hai bức tượng gỗ. Chỉ khác Phương Bửu Ngọc lộ hình, còn người kia ẩn hình.

Hai người đứng lặng như thế dường như đã lâu lắm. Bỗng một giọng già vang lên:

- Chiêu kiếm này, ngươi đã thấy qua?

Giọng nói hàm ẩn sự kinh dị.

Người đó, kinh dị không phải do thấy Phương Bửu Ngọc tránh né được chiêu kiếm, mà là vì y nhận thấy rằng Phương Bửu Ngọc hình như đã thấy chiêu kiếm đó rồi.

Chiêu kiếm đó có thể y cho là độc đáo, độc nhất trên giang hồ chưa ai từng trông thấy, và y kinh dị vì không hiểu làm sao Phương Bửu Ngọc lại biết được.

Phương Bửu Ngọc nghe hỏi, điềm nhiên đáp:

- Phải!

Người đó lại hỏi:

- Ai đã thi triển chiêu thức đó cho ngươi thấy?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Thiết Kim Đao!

Người đó có vẻ hãi hùng:

- Thiết Kim Đao? Ỵ..

Phương Bửu Ngọc chặn lời:

- Tuy là y thi triển chiêu đao, nhưng chiêu đao chừng như không phải của y.

Người đó lấy làm lạ:

- Vậy là sao?

Phương Bửu Ngọc nói:

- Bởi Thiết Kim Đao vâng lệnh mà thi triển chiêu đao đó.

Người kia kêu lên một tiếng:

- Bạch Y Nhân?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Chính là Bạch Y Nhân!

Người đó nghe nói trầm lặng một lúc lâu:

- Chiêu đao của Thiết Kim Đao có giống chiêu kiếm của ta chăng?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Mười phần giống chín. Có một điểm khác biệt. Điểm khác đó rất lớn.

Người kia hỏi:

- Thế nghĩa là gì?

Phương Bửu Ngọc giải thích:

- Chiêu đao của y sát khí phát không đồng đều, chỗ dày chỗ mỏng nên có sơ hở. Nhân khí của y rất ấm, nhân khí thoát ra chỗ dày không lọt, thoát qua chỗ mỏng. Tại hạ có thể nhận thấy được điều đó, nhằm chỗ nhân khí lọt ra mà công vào sẽ đả bại được y.

Người trong bóng tối lại trầm ngâm một lúc. Sau cùng y thở dài nói:

- Tốt!

Phương Bửu Ngọc lại nói:

- Đối với các hạ thì khác. Trước khi xuất thủ các hạ không dồn khí lực quá nhiều trong chiêu thức, các hạ không khẩn trương xuất chiêu, nên nhiệt độ trong người bình hòa không nóng hơn cũng không lạnh hơn. Do đó, tại hạ biết rằng tuy kiếm bừng bừng sát khí nhưng các hạ không nuôi sát khí. Sát khí là do chiêu tuyệt độc chứ chẳng phải do người mà có.

Người đó nghe Phương Bửu Ngọc phân tích thì a lên một tiếng:

- A!

Phương Bửu Ngọc lại nói tiếp:

- Thiết Kim Đao có sát ý, tại hạ thì không. Chính cái sát khí sẽ chỉ rõ chỗ sơ hở trong vầng đao khí khi nó lọt ra ngoài. Nhưng các hạ thì không có sát ý, nên tại hạ không thể tìm thấy chút sơ hở. Phàm người học kiếm thuật, có thành tựu đến mức nào cũng không thể từ nhãn lực trần tục mà nhìn thấy được sát khí, chỉ có thể dựa vào cảm giác mà thôi. Nhưng nếu đối phương không có sát ý thì vô phương. Các hạ có thể luyện được thân kiếm hợp nhất, song khi phối hợp rồi mà các hạ lại có thể tách ra được tùy ý, quả thật là chỗ tuyệt diệu của các hạ vậy. Nhưng tiếc là tạo hoá đố toàn. Các hạ tách được sát khí với nhân khí thì sát khí lại mất đi cái uy lực cúa nó, vì không được sự hỗ trợ của nhân khí nữa.

Phương Bửu Ngọc kết luận:

- Chiêu kiếm dù độc, nhưng kiếm vẫn là vật thể chết. Các hạ không cho nó một cái hồn, ngược lại lại đoạt của nó phần nhân khí thì làm sao nó có thể có một sức mạnh mãnh liệt cho nổi?

Chàng thở dài:

- Chiêu đao của Thiết Kim Đao có sự hỗ trợ của nhân khí, do đó có ánh máu. Máu là điểm sát phạt, bắt buộc tại hạ phải giữ tính mạng mà phản công không còn con đường nào khác. Còn chiêu kiếm của tại hạ không có nhân khí, đương nhiên huyết quang cũng không có, tại hạ căn cứ vào đâu mà phản công? Chưa bị dồn vào cuối đường, tại hạ chưa thể thi triển một chiêu sát thủ được.

Người kia thở dài:

- Đúng thế. Kiếm chiêu tuy độc mà không có sát ý thì chẳng khi nào khích động sát cơ nơi đối phương. Đó cũng là đạo lý tối thượng của kiếm đạo vậy.

Phương Bửu Ngọc trầm giọng:

- Nhưng tại sao các hạ lại phải xuất một chiêu độc trong khi các hạ không có ý sát hại tại hạ? Làm như thế không phải là mâu thuẫn lắm sao? Thật tình, tại hạ không sao hiểu nổi dụng tâm của các hạ.

Người kia lạnh lùng:

- Thà không biết hay hơn.

Phương Bửu Ngọc lại hỏi:

- Còn một điều nữa. Chiêu đó là chiêu của Bạch Y Nhân, không hề truyền cho bất kỳ ai trên giang hồ. Tại sao tại hạ lại học được? Các hạ có thể nói cho tại hạ biết được chăng?

Người kia lảng đi:

- Từ từ rồi ngươi sẽ hiểu, cần chi phải hỏi. Cũng không lâu nữa đâu.

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Không lâu ư?

Người kia bối rối đáp:

- Phải, phải, không lâu lắm đâu.

Câu nói chỉ có mấy tiếng. Tiếng đầu vang lên nghe rất gần, mà tiếng cuối nghe xa ngoài mấy trượng. Thuật khinh công của người đó kể ra cũng cao siêu vô cùng. Di chuyển trong bóng tối nhanh như thế, người đó hẳn phải là nhân vật có danh tiếng trong võ lâm.

Nhưng, y là ai?

Người đàn ông lúc trước có nói:

có ba chiêu kiếm có thể gây tổn thương được chàng. Đã xong một chiêu rồi, còn hai chiêu nữa. Nếu chàng hóa giải được hai chiêu đó nữa thì trên thế gian này không ai có thể hạ chàng nổi.

Phương Bửu Ngọc đang hết sức nghi hoặc. Đã hai lần chàng thoát chết qua hai đường kiếm rồi. Mà cả hai lần vừa rồi, người thi triển đều không hề có ác ý với chàng. Tại sao?

Đương nhiên đây là chuyện kỳ quái, càng nghĩ càng thấy khó hiểu.

Chàng vốn nổi danh là tay đệ nhất thông minh trong thiên hạ, tới độ tiểu công chúa vốn tự phụ mình là kẻ trí tuệ bậc nhất mà cũng phải ghen tỵ, thế mà giờ cũng không hiểu nổi nguyên nhân.

Hai đường kiếm chàng vừa gặp đều có thể cho là có hai người xuất chiêu, chứ không phải là một. Thế thì hai người trước kia có liên quan gì tới hai người vừa rồi?

Có thể đặt giả thiết Vô Tình Công Tử Tưởng Tiếu Dân có liên quan tới Bạch Thuỷ Cung, do đó người trong cung có thể đã học kiếm pháp của hắn. Nhưng đường kiếm thứ hai của Bạch Y Nhân thì làm sao người trong Bạch Thủy Cung học được?

Có ai lại sang tận Đông Doanh Tam Đảo chăng?

Dù là có người sang tới đó, vị tất Bạch Y Nhân đã chịu truyền thụ.

Huống chi, chàng vẫn nghĩ là giữa Bạch Y Nhân với Bạch Thủy Cung không thể có chút xíu liên quan được. Nhưng như thế thì tại sao trong Bạch Thủy Cung lại có người biết chiêu kiếm đó?

Chàng cứ nghĩ đi nghĩ lại, đặt ra giả thuyết này khác rồi lại bác bỏ, rốt cục vẫn không tìm ra lời giải đáp dù là gượng gạo.

Còn hai chiêu sát thủ nữa. Hai chiêu, hẳn lại do hai người xuất chiêu, hai người đó đang chờ chàng phía trước.

Hai người trước chưa xuất hiện, nhưng hai người sau thì hẳn là đã chặn đường rút lui của chàng rồi.

Trước hai người, sau hai người, giữa là chàng với bóng tối dày đặc.

Cả bốn người đều có những chiêu sát thủ ghê gớm. Một điều khác nữa khiến chàng lo ngại là công lực chàng đã suy giảm nhiều quá. Bởi đói, khát, vất vả, lo sợ.

Không nói tới chuyện rút lui, hai chiêu kiếm sát thủ kia chàng đã có thể vượt qua, nhưng hai người phía trước, chàng chưa biết sẽ thế nào.

Họ sẽ xuất chiêu gì? Chàng có thể hóa giải hay không?

Chàng mải nghĩ, tới nỗi quên mất thực tại. Chân cứ bước mà không biét ánh sáng đã tràn ngập lòng động từ bao giờ. Ánh sáng từ một trái châu lớn trên nóc động, chiếu xuống soi rõ bóng chàng trên đất.

Chàng thấy trên mặt đường có dấu chân.

Dấu chân rải rác, không biết từ đâu tới, cũng không biết đi tới đâu. Dấu chân đó một phần hẳn do người đối thoại với chàng vừa rồi lưu lại.

Dấu chân đó biết đâu từ trung tâm Bạch Thủy Cung đi ra đến đây.

Có thể người đó đến từ trung khu Bạch Thủy Cung, và y cố tình lưu lại dấu chân để chỉ đường cho chàng.

Vô tình, hay cố ý?

Không thể là vô tình được! Dấu chân rất sâu, nhất là với người luyện võ, đâu thể là không dụng tâm?

Phương Bửu Ngọc suy nghĩ hồi lâu rồi quyết định đi theo dấu chân đó.

Đường đi tới quanh co biến hoá phi thường, đúng như thiếu nữ nơi bờ ao đã cảnh báo trước với chàng. Với những ngả rẽ bất thường, quả thật, nếu không có dấu chân thì Phương Bửu Ngọc không biết sẽ phải chọn lối kiểu gì.

Chàng đã định sẽ không quan tâm tới những vật trên đường đi, song chàng vẫn nhìn thấy những hàng chữ kỳ quái.

Những hàng chữ khắc trên một mặt tảng đá lớn, rong rêu bám đầy gần như bị che khuất hết cả.

Có tám chữ cả thảy.

Phương Bửu Ngọc đọc được tám chữ đó là:

"Nhiễm Hồng Sơn Trang. Tinh Linh Tiểu Lâu" Phương Bửu Ngọc giật mình.

Đây không phải là nơi Tưởng Tiếu Dân đã ghi trên phong bì thư mà hắn đã nhờ chàng mang hộ tới nơi khi hắn chặn đường chàng bên khu rừng, khi chàng cùng Tiểu công chúa và Ngưu Thiết Oa đi tìm Hỏa Ma Thần hay sao?

Hồi 58

Một Chiêu Tuyệt Thế

Phong thư của Tưởng Tiếu Dân theo lời hắn thác lại phải được trao tận tay chủ nhân Tinh Linh tiểu lâu.

Nếu vậy thì ước đoán của Phương Bửu Ngọc không sai, Tưởng Tiếu Dân quả có liên quan tới Bạch Thủy Cung.

Thảo nào lúc trao thư hắn không cần nói Tinh Linh tiểu lâu ở địa phương nào. Hắn hiểu là thế nào chàng cũng tới Bạch Thủy Cung.

Bất giác chàng đưa tay sờ trong mình. Phong thư vẫn còn đó.

Tưởng Tiếu Dân lấy cái chết để đổi một lời hứa của chàng, một lời hứa một mạng người, có khi nào chàng quên được.

Phương Bửu Ngọc nghĩ cũng may mà chàng đi một công hai việc.

Chứ nếu một việc chuyển thư không thì lặn lội tới đây mà chết thật oan mạng quá chừng. Có đến đây rồi mới biết đường vào Tinh Linh tiểu lâu là đường dẫn tới Uổng Tử Thành.

Chàng lại nghĩ, nếu như lúc trước Tưởng Tiếu Dân có chỉ đường cho chàng thì chàng cũng nhận lời như thường. Vì chàng đâu có thể tưởng tượng rằng trên thế gian lại có một nơi người ta không thể lui tới.

Người ta không cấm đến, song cứ muốn đến nếu mất mạng cũng chẳng oán trách ai được. Không phải tự mình muốn thế hay sao?

Đến Tinh Linh tiểu lâu phải rẽ qua một ngả khác. Đến Tinh Linh tiểu lâu rồi lại trở lại đây để tiếp tục đi tới trung tâm Bạch Thủy Cung, thật khó hơn lên trời.

Hơn nữa, ai biết được ẩn giấu sau việc nhờ vả đưa thư, Tưởng Tiếu Dân đã sắp xếp một âm mưu gì?

Chàng không dám chắc con người mang nỗi nhục bị chàng đánh bại có hảo ý với chàng.

Trong mười người đã hết chín, có nhục rửa nhục, có thù trả thù.

Đấy là lẽ đương nhiên, Tưởng Tiếu Dân có muốn hại chàng cũng là bình thường.

Tinh Linh tiểu lâu là nơi như thế nào, an toàn hay nguy hiểm, nơi thanh bình yên ả hay miệng cọp hang rồng, chàng không biết. Nguy hiểm thì chưa chắc, nhưng điều chắc chắn là công lực chàng phải tiêu hao đáng kể.

Giả sử lúc này có biến cố phát sinh, chàng cũng không có đủ sức mà ứng phó hữu hiệu. Ngay bây giờ còn thế, nói gì đi tới cuối con đường dài ngắn bao nhiêu chàng cũng chẳng biết, nguy hiểm cỡ nào chàng không hay.

Một con đường chẳng phải quan lộ bằng phẳng. Đương đầu với bao nhiêu sự việc ngoài sức tưởng tượng chỉ để thực hiện một lời hứa suông với kẻ đã toan giết mình, giết không được lại mượn nhờ chàng trao thư hộ, trao rồi lợi lộc đâu không thấy, lại phải quay ngược lại để tới Bạch Thủy Cung.

Chàng đủ sức làm những việc đó chăng?

Điều làm chàng lo ngại hơn cả là từ Tinh Linh tiểu lâu trở về Bạch Thủy Cung, chàng còn phải đối đầu với hai nhân vật nào đó đang chờ chàng, mỗi người với một chiêu kiếm kinh thiên động địa, mà chiêu nào cũng có thể lấy mạng chàng dễ dàng.

Muốn vượt qua hai người đó khoan nói tới tài, hãy nói tới lực trước.

Con người bằng xương bằng thịt, sức lực là có hạn, đâu có vô biên.

Cho nên bao đời nay biết bao người không đủ lực mà ngã gục.

Chàng thì sao?

Chàng bần thần suy nghĩ.

Nên làm không?

Rẽ sang tả hay hữu đây?

Rẽ sang tả là lối đi Tinh Linh tiểu lâu, rẽ bên hữu là đường tới Bạch Thủy Cung.

Hướng tả cơ hội trở về giảm đi, chàng chẳng có hy vọng tới Bạch Thủy Cung.

Hướng hữu, cơ hội trở về cũng giảm như thế, chàng không có hi vọng tới Tinh Linh tiểu lâu trao thư. Rẽ hướng nào cũng có cơ lỡ ước hẹn. Đã hẹn thì không thể lỗi hẹn, đã hứa thì không thể quên lời hứa.

Tả hay hữu, hướng nào cũng quan trọng như nhau, phải làm sao đây?

Phương Bửu Ngọc thở dài, lẩm bẩm:

- Tưởng Tiếu Dân lấy cái chết đổi một lời hứa của ta, ta há không dám lấy cái chết để giữ trọn lời hứa? Danh dự một đời ta trong lời hứa đó, ta lờ đi được sao?

Chàng quay người rẽ sang hướng tả.

Con đường tới Tinh Linh tiểu lâu. Chàng cứ đi theo bảng chỉ đường, chứ nào biết tiểu lâu đó ở đâu, cách xa bao nhiêu, kiến trúc thế nào, chủ nhân là ai, thuộc thành phần nào trong võ lâm.

Tinh Linh tiểu lâu nằm trong khu vực Bạch Thủy Cung như vậy, Tinh Linh tiểu lâu lệ thuộc Bạch Thủy Cung chăng?

Nếu thật vậy thì người ở Tinh Linh tiểu lâu có liên quan thế nào với Bạch Thủy Cung chủ? Nếu không? làm gì có chuyện một nước hai vua một đất hai chủ? Hoặc giả chủ nhân Tinh Linh tiểu lâu và Bạch Thủy Cung chỉ là một người?

Chàng vừa đi vừa ghi nhớ những đặc điểm của con đường. Từ lúc vào đường động tới đây, con đường nóng có, lạnh có, ướt át có. Nhưng vào sâu hơn, đường đi trở nên sáng sủa, lại được trang trí huy hoàng chẳng khác lối đi ở cung tiên. Tuy thế, đi về hướng nào kia, chứ hướng tới Tinh Linh tiểu lâu thì chàng chẳng cảm thấy thoải mái chút nào.

Một màu đen tối, những khúc quanh khúc khuỷu, hơi ẩm ngột ngạt...

Tinh Linh tiểu lâu cận kề Bạch Thủy Cung, song hai nơi như trời với vực, như địa ngục với thiên đàng, như cung tiên với động quỷ. Chưa đến tiểu lâu đã phải trải qua con đường này ai mà không chán ngán.

Tới nơi, chàng thấy Tinh Linh tiểu lâu bất quá cũng chỉ là một ngôi nhà nhỏ tầm thường. Nơi đây chẳng phải Bạch Thủy Cung đâu. Không thể có liên quan tới Bạch Thủy Cung được.

Bạch Thủy Cung được người ta nhìn qua mắt người khác với lời đồn và tưởng tượng nhiều hơn là chứng kiến, một người tưởng tượng, nhiều người tưởng tượng. Cuối cùng, Bạch Thủy Cung trở thành một nơi huyền bí trong thần thoại, dù là chẳng xa xôi.

Tiểu lâu đặt trên một khu đất cao, có thêm bậc đá dẫn lên cửa chính. Cửa mở rộng, một thứ ánh sáng mờ mờ chiếu hắt ra bên ngoài.

Phương Bửu Ngọc từ từ bước lên thềm. Mỗi bước, mỗi nghi vấn lại nảy sinh chồng chất lên những nghi vấn trước đó của chàng, xen lẫn với những suy đoán của chàng, trở đi trở lại, quấn quýt rối rắm không sao gỡ ra được.

Tinh Linh tiểu lâu là một phần của Bạch Thủy Cung chăng? Nếu có thì chủ nhân là ai? Nếu không thì nó sao lại được dựng trong địa phận của Bạch Thủy Cung? Bạch Thủy Cung chủ sao lại chấp nhận một kẻ không liên quan cư trú tại mật khu?

- Dám hỏi chủ nhân Tinh Linh tiểu lâu có mặt trong đó không?

Phương Bửu Ngọc cao giọng gọi.

Không một tiếng trả lời.

Nhưng lại có tiếng động gì đó, như tiếng sóng đùa, nước cuốn vang lên, không lớn, nhưng cũng không nhỏ, đủ cho chàng nghe thấy.

Đó là tiếng gì?

Phương Bửu Ngọc lại bước lên. Hơn mười bậc nữa, lại hỏi tiếp:

- Tại hạ đến đây để thực hiện sự ủy thác của một người. Tại hạ phải trao một phong thư tới tận tay chủ nhân. Có ai đó xin vào báo với chủ nhân hộ tại hạ.

Lần này thì có tiếng người đap. Người đáp lại đó có giọng nói u sầu vô tả, như từ cõi u minh vọng về, từ bãi tha ma vọng tới.

- Chủ nhân của Tinh Linh tiểu lâu đã chết rồi.

Phương Bửu Ngọc nhận ra âm thanh đó là của một nữ nhân. Giọng điệu u sầu song êm ái, trong trẻo vô cùng. Nhưng lại đượm vẻ lạnh lẽo.

Người đó nói cho chàng biết một tin chàng không hề tưởng tượng nổi, chứ đừng nói mong hay không mong. Chàng sững người:

- Chết rồi ư?

Người đó nín lặng không nói.

Hỏi thế chứ chàng cũng không chờ nghe lời phản bác, cần gì phải xác nhận. Có lý do gì người ta phải dối chàng?

Mất thời gian, trì hoãn cuộc hành trình tới Bạch Thủy Cung?

Tìm được Tinh Linh tiểu lâu là lời hứa coi như đã thực hiện tới chín phần rồi. Chỉ còn hội kiến với người nhận thư nữa là chàng hoàn tất sứ mạng bất đắc dĩ này. Thế mà, thế mà người ta nói với chàng, người nhận thư đã ra đi vĩnh viễn.

Chàng đã tốn công vô ích, chàng đã làm việc như một con dã tràng rồi.

Con dã tràng chỉ tốn công sức, còn chàng phải đùa với sinh mạng mình. Điều chàng làm là vô nghĩa. Tưởng Tiếu Dân, người từ cõi âm cung có theo bước chân chàng chăng? Có thông cảm cho chàng chăng?

Chắc hắn không bao giờ cho rằng chàng không thực hiện lời hứa. Hắn phải biết chàng đã làm tròn bổn phận.

Thư không tới tay người, không phải lỗi của chàng, đó là một bất hạnh ngoài ý muốn, ngoài tưởng tượng của chàng.

Còn ở lại làm gì nữa, trong khi vẫn còn việc quan trọng khác chờ chàng. Chàng đâu có thể trao thư cho người ở trong kia, người vừa báo hung tin cho chàng được?

Chàng thở dài, từ từ quay người chầm chậm bước xuống thềm, bước chân càng lúc càng nặng nề. Đi như thế này nghi vấn đã không giải được lại càng sâu thêm. Đã tới đây ít ra cũng phải biết thêm chút gì về toà tiểu lẩu này chứ. Chỉ thế thôi, chàng thật sự cũng không phải quá hiếu kỳ.

- Còn...còn cô nương là ai?

Người trong nhà đáp:

- Ta là chủ nhân Tinh Linh tiểu lâu.

Chàng giật bắn người.

Thế là thế nào? Chàng không thấy sợ, chàng thấy giận.

- Cô nương định đùa tại hạ phải không?

Giọng nói vẫn lạnh lùng:

- Đùa? Người chết khi nào lại đùa được.

Chàng dựng tóc gáy. Nữ nhân nói chủ nhân Tinh Linh tiểu lâu đã chết. Sau đó nói mình là chủ nhân. Như thế tức là chủ nhân vẫn còn sống. Thế mà lại xác nhận mình đã chết. Còn nói người chết không hề đùa. Chàng vẫn còn giận. Chuyện vô lý quá.

Chàng gằn từng tiếng:

- Thực sự cô nương là ai?

- Ta là chủ nhân ở đây. Ta đã chết rồi. Hiện tại đang nói với ngươi là linh hồn âm u của ta.

Thế này thì chàng tức lắm. Chàng quay nhanh người lại, mỗi bước năm bảy bậc. Chàng đã vào trong lầu.

Tường nhà bằng đá, chẳng có gì đặc biệt. Trong hang sâu, toà nhà nào chẳng lạnh lẽo. Cái lạnh hang sâu thì còn có thể chịu được. Chứ cái lạnh ở đây khó chịu quá. Nó âm u, đầy tử khí.

Vào đây, không ai còn cảm giác mình đang sống. Trong những đồ vật, tới ngay cả hơi thở của mình, cũng nhìn thấy sự chết chóc.

Gió.

Gió cũng lạnh. Gió thì thào qua cửa sổ, như than khóc, ai oán não nùng. Thì ra chính gió đã tạo ra âm thanh như sóng đùa chàng nghe vừa rồi.

Tiếng vang không lớn, nên giống tiếng bi hờn oán thán...

Tựa mình bên cửa sổ, một thiếu nữ mơ màng nhìn qua cửa. Lưng áp vào cửa, nàng vận chiếc áo sa đen, suối tóc huyền buông xõa phất phơ trong gió. Tà áo cũng phất phơ, áo theo tóc, tóc rủ áo. Nếu nàng không đối thoại với chàng, hẳn chàng nghĩ đó là một pho tượng đá.

Tử khí chính từ đó, từ người nàng, lan rộng khắp không gian trong tiểu lâu. Chưa bao giờ Phương Bửu Ngọc gặp một u linh. Chàng nghĩ, trên thế gian này nếu có u linh xuất hiện sống chung với người, hẳn chính là nàng.

Màu áo đen của nàng khiến khung cảnh âm u rùng rợn càng tăng vẻ huyền bí.

Bản thân nàng đã huyền bí, sự huyền bí lan sang sự vật khác khiến tất cả đều mang vẻ bí ẩn.

Thân thể nàng che phủ bởi suối tóc đen, áo nàng lại màu đen, người nàng là một khối đen mờ ảo dưới ánh đèn vàng nhạt, chỉ có gò má nàng trắng như bạch ngọc lộ ra ngoài. Chàng không thấy trọn vẹn gương mặt nàng. Nhưng giọng nói đó, dáng vẻ đó, gò má đó, đủ đoán được nàng đẹp lắm, đẹp vô cùng. Nàng chắc hẳn là đã biết chàng lên thềm vào lầu, nhưng dù đã nói chuyện với chàng, giờ nàng cũng không hề quay đầu lại.

- Tinh Tinh tiểu lâu bất quá chỉ là nơi cư trú của một u hồn, ngươi... tại sao ngươi lại đến?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Tại hạ đã trình bày rồi. Tại hạ tới đây là do sự ủy thác của một người, người đó nhờ tại hạ mang đến một phong thư.

Nàng lại hỏi:

- Một phong thư? Cho ai?

Nàng đã nghe chàng nói là trao cho chủ nhân tiểu lâu, thế mà giờ lại hỏi lại. Chàng trả lời, hơi do dự một chút:

- Trao cho cô nương... trao chọ.. chủ nhân của tòa tiểu lâu.

Nữ nhân áo đen trầm ngâm một lúc lâu, đoạn nàng từ từ nói:

- Nhưng chủ nhân của bức thư là ai?

Chàng cũng hơi tư lự một hồi:

- Người nhờ tại hạ trao thư tên là Tưởng Tiếu Dân.

Nàng đáp:

- Có, ta nhận ra hắn. Song... hắn đã chết rồi.

Phương Bửu Ngọc kinh hãi:

- Hắn chết rồi. Đúng thế. Nhưng cô nương làm sao lại biết?

Nữ nhân áo đen không đáp, chỉ gằn giọng hỏi lại:

- Tại sao ta lại không biết?

Phương Bửu Ngọc lại hỏi lại tiếp:

- Tại sao cô nương biết là hắn đã chết?

Nữ nhân hỏi ngược lại chàng như thế, chứng tỏ mọi hoạt động của Tưởng Tiếu Dân nàng nắm rất rõ. Sự sống chết của hắn với nàng như sống chết của người trong nhà, một lẽ tự nhiên nàng phải biết.

Điều đó chứng tỏ giữa nàng và Tưởng Tiếu Dân có mối liên hệ mật thiết.

Nhưng thực sự thì Phương Bửu Ngọc không tin là lại có mối liên quan mật thiết giữa nàng với Tưởng Tiếu Dân. Tưởng Tiếu Dân chết ngoài ngàn dặm, mà chàng thì ngay lúc Tưởng Tiếu Dân chết, đã ngày đêm tới đây không nghỉ ngày nào.

Cái tin hắn chết sao lại về đây trước chàng được?

Tinh Linh tiểu lâu cũng chẳng phải ở nơi thành thị nhiều người qua lại, thì tin tức đó được thông báo về đây bằng cách nào? Ngoài chàng ra ai có can đảm vào địa phận Bạch Thủy Cung?

Cho nên chàng thấy rất ngạc nhiên.

Nàng chẳng hề chú ý tới thái độ của chàng, còn chàng thì cứ hỏi mặc kệ nàng hỏi vặn, bên hỏi qua bên hỏi lại thành ra chẳng ai đáp lời ai.

Chàng lại ước đoán. Có lẽ Tưởng Tiếu Dân tới đây thường xuyên, và giờ thì đã qua kỳ hạn đó rồi, nên nàng mới cho rằng hắn đã chết.

Hay ít ra là Tưởng Tiếu Dân có hẹn tới đây, nhưng do tai nạn bất ngờ, hắn chết nên mới lỗi hẹn.

Phải thế chăng?

Tuy nhiên, chàng vẫn hỏi:

- Nhưng...tại sao hắn phải đến đây?

Nữ nhân nhẹ giọng, u buồn:

- Ta và hắn có ước hẹn, hắn không thể lỗi hẹn.

Chàng đoán đúng rồi. Có quen nhau, có ước hẹn, có gặp nhau mới có ước hẹn với nhau chứ.

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Cũng có thể vì một việc gì đó rất quan trọng hắn bận giải quyết nên không đến đúng hẹn. Sao cô nương lại chắc chắn hắn đã chết?

Nữ nhân lạnh lùng:

- Không gì có thể ngăn trở hắn đến đây đúng hẹn với ta trừ cái chết. Bất luận có chuyện gì cũng không cầm chân hắn được. Bởi người ước hẹn với hắn chính là ta, chứ không phải ai khác. Ngươi nghe rõ chứ. Chính là ta ước hẹn với hắn.

Chính là nàng. Cái đó đã hẳn. Chàng có nghĩ khác đâu.

Nhưng tại sao nàng ước hẹn thì Tưởng Tiếu Dân không thể không đến?

Nàng nói xong quay người đối diện với Phương Bửu Ngọc.

Nàng đổi tư thế quá đột ngột. Phương Bửu Ngọc hết sức kinh dị.

Chàng không rõ nàng sắp có thái độ gì với mình.

Từ tư thế hững hờ chuyển nhanh sang tư thế đối diện, sự đổi thay đó là tốt hay xấu, chàng không dám đoán.

Gương mặt nàng tuyệt đẹp, song quá trắng. Trắng đến vô cảm.

Gương mặt trắng tương phản với màu tóc đen càng thêm vẻ huyền bí.

Ánh mắt nàng có một ma lực làm ngưng nhịp đập của con tim, bất kỳ nam nhân nào bắt gặp ánh mắt nàng hẳn cũng phải ngừng thở, máu ngừng luân chuyển.

Nàng đang nhìn thẳng vào mặt Phương Bửu Ngọc, ánh mắt xuyên qua mắt chàng, đi thẳng vào tâm hồn chàng, như thấu rõ những gì sâu kín nhất trong chàng.

Nàng gằn từng tiếng:

- Hắn với ta có ước hẹn với nhau. Trừ phi hắn chết, không gì có thể ngăn hắn đến với ta. Có việc gì ngăn trở hắn được chứ, phải không?

Trước ánh mắt nàng, chính Phương Bửu Ngọc cũng thấy mất bình tĩnh:

- Phải! Cô nương nói đúng.

Chàng tiếp :

- Thật sư..... Tưởng Tiếu Dân đã chết rồi.

Chàng nói nhỏ, bình thản nhưng bi thương. Nàng nói, vô cảm, như nói về một người xa lạ:

- Ta biết hắn chết rồi. Nên ta cũng phải chết.

Như nàng đã nói với Phương Bửu Ngọc lúc đầu.

Nàng là chủ nhân của toà tiểu lâu, nàng chết rồi, đây chỉ là u linh của nàng. Giọng nói nàng bình thản quá, nhưng bên trong ẩn giấu bao niềm ai oán như sóng ngầm nơi biển cả.

Phương Bửu Ngọc vụt ngẩng đầu lên.

Tới tận bây giờ, từ lúc nàng quay lại đối diện với chàng, bây giờ chàng mới nhìn thẳng vào mặt nàng.

Chàng thấy vẻ bi ai thống thiết của nàng. Thấy cả vẻ mẫn tuệ của nàng.

Từ nàng thoát lên vẻ thông minh tuyệt đỉnh.

Nhưng tất cả ẩn giấu dưới một vẻ lạnh lùng giá băng.

Tưởng Tiếu Dân là con người vô tình. Hắn lấy hai chữ đó làm ngoại hiệu. Người trên giang hồ gọi hắn là Vô tình công tử.

Nhưng nữ nhân này còn vô tình hơn hắn. Ít ra cũng một bậc.

Có ai ngờ, hai kẻ vô tình gặp nhau lại thành hai kẻ thâm tình với nhau.

Chung tình rất mực, không một sức mạnh nào phá được khối chung tình đó. Đến độ một người chết đi, người còn lại cũng chết theo, xác thân chưa chết, nhưng tâm hồn đã đi theo người rồi.

Nàng dù còn giữ thân xác đó, nhưng nàng không dùng thân xác để tiếp xúc với đời, nàng dùng u linh của nàng, u linh giúp nàng gặp lại người xưa, giờ giúp nàng tiếp xúc với đời chờ ngày vĩnh viễn cùng người phiêu du.

Chàng nhìn nàng. Nàng cũng nhìn chàng. Lạ lùng thay, rõ ràng nàng hoàn toàn xa lạ với chàng, nhưng càng nhìn càng cảm thấy có quen biết nàng. Nàng ở trên cao, ngoài tầm tay chàng, chàng không thể với tới. Thế nhưng lại có cảm giác nàng đang ở bên, chỉ cần chàng đưa tay ra là nàng đã có thể trong vòng tay chàng để chàng an ủi âu yếm...

Trời ơi, nhưng giờ chẳng phải lúc để chàng nghĩ vẩn vơ. Chàng rút phong thư trong người ra. Phong thư theo chàng lên cạn xuống hồ, trải mấy lần ướt rồi lại khô, chẳng biết nó còn rõ chữ hay không nữa.

Chàng nói:

- Bất luận thế nào, phong thư này cũng phải được trao cho cô nương.

Nàng nhún vai:

- Trao cho ta? Ngươi cứ giữ lấy. Ai có nó cũng có gì khác biệt đâu?

Chàng thoáng giật mình:

- Cô nương không muốn xem?

Nàng điềm nhiên :

- em cũng được, không xem cũng được, chẳng có gì khác biệt.

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Nhưng...tại ha....mang nó từ xa tới đây...

Nàng lạnh lùng:

- Vậy ngươi đọc cho ta nghe!

- Tại hạ đọc? Đâu có tiện cô nương?

Nàng hỏi:

- Sao lại không tiện?

Phương Bửu Ngọc ấp úng:

- Bởi... phong thự.. có thể chứa đựng chuyện riêng của hai người...

Nàng trầm giọng xa xăm:

- Người đã chết rồi, cũng có điều bí mật nữa sao?

Phương Bửu Ngọc sững người. Một lúc sau, chàng thở dài, rồi từ từ mở phong thư ra.

Tay mở, lòng những mong qua mấy lần ướt nước, chữ trên thư không bị lem luốc tới không thể đọc.

Chàng muốn thư còn nguyên vẹn cho tròn lời hứa với người đã khuất. Chàng muốn nó còn nguyên tự tích vì nó chứa đựng ý niệm thiêng liêng của một tâm hồn ký gửi tới một linh hồn.

Có phong thư tình nào không thiêng liêng, khi tình cảm giữa đôi uyên ương đang hồi nồng nhiệt.

Chàng không ngờ.

Trên thế gian không ai có thể tưởng tượng được, không riêng gì chàng. Trong bì thư chỉ có một tờ giấy trắng. Một mảnh giấy trinh nguyên không một vết lấm mực.

Phong thư mà Tưởng Tiếu Dân hết sức trân trọng, dám đổi cả sinh mạng để lấy một lời hứa nhằm buộc chàng phải mang tới chỉ có một tờ giấy trắng.

Riêng hắn, hắn chết để buộc chàng hứa hẹn, riêng chàng, chàng bất chấp hiểm nguy. Cả hai hy sinh vì một tờ giấy trắng đến tay một người hiện đã chỉ còn là linh hồn u lạnh. Có ai trong trường hợp của chàng ngờ được chuyện xảy ra như thế.

Phương Bửu Ngọc ngây người, còn nàng vẫn lạnh lùng cố hữu.

Nàng không thấy đó là lạ, chừng như nàng không màng tới phong thư có chữ hay không, có hay không dường như chẳng liên hệ gì tới nàng.

Chính nàng cũng nói thế kia mà.

Người của nàng đã chết, chính nàng cũng như đã chết, nàng chỉ còn là một u linh, thư từ còn ý nghĩa gì nữa? Còn gì đáng cho nàng để tâm trên thế gian này? Một người vắng bóng, cả vũ trụ hóa hư không.

Nàng nói:

- Thư đó, ta đã thấy rồi.

Phương Bửu Ngọc không hiểu. Chàng thông minh, nhưng giờ chàng đầu hàng:

- Nhưng... tờ thự..

Tờ giấy trắng, nàng lại nói nàng đã thấy rồi, là làm sao?

Những phong thư trước Tưởng Tiếu Dân gửi đến nàng đều là giấy trắng, hay một dấu hiệu ngầm nào đó thoa? hiệp với nhau dù thư không chữ?

Nàng điềm nhiên nói:

- Ý tứ của thư ta đã hiểu rõ.

Phương Bửu Ngọc tròn mắt:

- Cô nương hiểu? Một tờ giấy trắng không chữ, cô nương hiểu thế nào?

Nàng lạnh lùng:

- Vậy nhưng ta hiểu. Bởi ta hiểu ý tứ của hắn nên không cần xem thư.

- Vậy ý tứ của hắn như thế nào?

Nàng đáp:

- Hắn trao một phong thư không chữ cho ngươi mang đến đây chẳng phải nhắn nhủ gì ta cả. Chỉ cốt để ta thấy mặt ngươi. Ý của hắn là thế. Đơn giản vậy thôi.

Phương Bửu Ngọc giật mình. Tưởng Tiếu Dân muốn nàng thấy mặt chàng, để làm gì?

Chàng thấp giọng:

- Thấy mặt tại hạ? Tại sao hắn lại muốn như vậy?

- Tự nhiên phải có một nguyên nhân.

Phương Bửu Ngọc hỏi gấp:

- Nguyên nhân thế nào?

Nàng thản nhiên:

- Sau này ngươi sẽ rõ. Tự nhiên ngươi sẽ rõ.

Phương Bửu Ngọc cao giọng:

- Tại sao cô nương không nói ra ngay bây giờ cho tại hạ biết? Sao thái độ của cô cũng giống hai người tại hạ đã gặp, tất cả đều bí mật như muốn che giấu một sự thật nào đó với tại hạ. Tại sao? Việc gì kì quái thế chứ?

Nàng không đáp, cũng không nhìn chàng.

Nàng nhẹ nhàng bước đi, phất phơ như theo gió đẩy mây đưa. Nàng ra ngoài mặc Phương Bửu Ngọc ở đó.

Chàng tâm thần không khỏi cảm thấy rối loạn, kì dị trước thái độ của nàng. Chàng nhớ tới Tưởng Tiếu Dân, tự hỏi hắn dàn cảnh thế này làm gì?

Chàng thoáng có ý nghĩ Tưởng Tiếu Dân muốn chàng thế chân hắn trong lòng u nữ, chỗ trống của hắn để lại sau chuyến vĩnh du.

Nhưng không được, nghĩ thế chẳng phải tự cho mình có giá trị lắm ru?

Thế không hợp lý, có ai tự dưng nhường người yêu cho người khác để lấy cái chết về mình. Khi yêu người ta thường ích kỷ. Dù phải chết, vĩnh viễn rời bỏ trần thế cũng vẫn còn ích kỷ, có khi còn muốn mang theo người yêu về bên kia thế giới cùng mình. Làm gì có chuyện nhường?

Nhường chắc gì người ta đã chịu? Mà không, chắc chắn là không phải. Cho dù đúng thế, chàng không nhận, chàng không yêu nàng dù nàng đẹp tuyệt trần, mà nàng cũng chắc gì thuận theo sắp xếp đó.

Nàng yêu hắn đến thế kia mà, hắn chết, nàng chỉ còn thân xác vất vưởng. Còn chàng, chàng có tiểu công chúa khả ái kia.

- - Nàng quay lại, mang theo một chiếc mâm đựng thức ăn.

- Ăn đi.

Nàng nói lạnh lùng, nhưng như có ma lực kì lạ, chàng không thể cưỡng lại.

Huống chi đã lâu chàng không được ăn những món ngon như thế.

Cần gì giọng nói đầy ma lực của nàng.

Chàng không khách sáo. Chàng gác hết mọi việc sang bên.

Chàng ăn xong, nàng lại mang đến một chậu nước cùng một chiếc khăn mặt sạch sẽ. Nàng không hỏi chàng một tiếng, cứ tự ý nàng nàng làm. Chẳng để ý chàng có cảm tưởng gì.

Nàng lẳng lặng cởi khuy áo, rồi cởi luôn áo ngoài của chàng.

Cởi áo, điều đó trước kia chàng không tự làm thì nhất định chẳng để ai làm.

Nhưng bây giờ nàng làm chàng cũng chẳng ngăn trở.

Chàng cũng không hiểu sao tự dưng mình lại ngoan ngoãn như thế.

Như một đứa em trai cần chị gái chăm sóc.

Nàng nhúng khăn vào chậu, rồi lau qua mấy vết thương trên người chàng. Nàng làm với thái độ lạnh lùng nhưng cử chỉ lại hết sức dịu êm.

Nước hẳn có hoà lẫn thuốc, vì nàng lau tới đâu, chàng nghe mát tới đó, không chỉ vết thương chỗ bị bỏng lúc trước, mà cả toàn thân, tâm hồn chàng cũng dịu lại.

Nhưng những nghi vấn trong chàng thì vẫn không dịu đi chút nào.

Một nữ nhân lạnh lùng như thế, sao lại có thể ôn nhu chăm sóc chàng một cách thiết tha như vậy được.

Tưởng như vợ chăm sóc chồng cũng chỉ tới thế là cùng.

Thoạt đầu, chàng im lặng. Sau đó thì chàng nhịn không nổi, hỏi :

- Cô nương làm thế là ý tứ gì? Có phải là tỏ lòng biết ơn tại hạ đã mang thư tới đây chăng?

Nàng thản nhiên:

- Phong thơ đó, có ý nghĩa gì với ta đâu, mà nk cho là có ơn với ta?

Phương Bửu Ngọc hơi thẹn, chàng cúi đầu, thấp giọng:

-Đúng vậy! Đó không phải là một phong thơ, thì làm gì có ơn? Một mảnh giấy trắng suông, chẳng có nghĩa gì cả!

Nữ nhân giải thích:

-Ta làm thế, chỉ vì ta đã thấy mặt ngươi!

Phương Bửu Ngọc vụt ngẩng đầu lên, tiếp hỏi:

- Chỉ vì cô nương đã thấy mặt tại hạ? Nhưng tại sao thấy được mặt tại hạ rồi cô nương lại làm thế? Tại sao?

Nữ nhân thản nhiên:

- Tại vì ta rất muốn thấy mặt ngươi, ta ước mong được thấy mặt ngươi.

Phương Bửu Ngọc cứ đi theo cái vòng lẩn quẩn của nàng:

- Nhưng tại sao cô nương ước mong thấy được mặt tại hạ? Thậm chí cô nương chưa biết mặt tại hạ kia mà? Cô nương đâu có biết tại hạ là ai?

Nữ nhân lạnh lùng:

- Sao ta lại chẳng biết ngươi là ai? Ngươi là Phương Bửu Ngọc, chứ còn ai khác nữa?

Phương Bửu Ngọc giật mình kêu lên:

- Cô nương nhận ra tại hạ! Tại sao? Tại sao chứ?

Nữ nhân đáp:

-Hiện tại, dù nguyên nhân có như thế nào, cũng chẳng còn quan hệ nữa. Hiện tại, kể như chẳng có nguyên nhân! Hiện tại ta và ngươi chẳng có quan hệ với nhau nữa!

Nàng quay mình, lạnh lùng tiếp lời:

- Người chết, đương nhiên chẳng còn quan hệ đối với bất kỳ ai!

Phương Bửu Ngọc hết sức kỳ quái, trố mắt nhìn nàng, trầm giọng nói:

- Cô nương... Chẳng lẽ cô nương có quan hệ gì với tại hạ từ trước?

Nữ nhân thốt:

- Vô luận quan hệ như thế nào giữa ta và ngươi, hiện tại cái quan hệ đó không còn nữa, nó đã thuộc về quá khứ, hiện tại những gì ta đã làm cho ngươi, vì ngươi mà làm, ta đã làm xong, ngươi nên...

Phương Bửu Ngọc bực tức hét lớn:

- Tại hạ chẳng hiểu gì cả, cô nương càng nói, tại hạ càng thấy mù mờ!

Nữ nhân điềm nhiên:

- Ngươi chẳng cần hiểu làm gì. Bởi ta và ngươi chẳng còn mảy may quan hệ, ngươi đừng nhớ tới ta, ta cũng chẳng nhớ đến ngươi, chỉ vì...

Phương Bửu Ngọc vụt đứng lên, đi mấy bước, rồi nghĩ sao đó lại lùi về chỗ và ngồi xuống. Nàng lại nói tiếp:

- Lần trước, Tưởng Tiếu Dân cũng từ ngả này mà ra. Hắn vọt qua cửa sổ đó. Chỉ có hai cửa sổ đó là lối ra duy nhất. Hắn ở lại đây dưỡng thương mấy hôm rồi nhảy qua cửa sổ đó. Dưới cửa sổ là biển cả, nước biển mềm mại dịu êm, nước biển chẳng làm bất cứ ai bị thương tổn.

Phương Bửu Ngọc thở dài:

- Tại hạ đã đoán cô nương trọn đời ở đây hẳn tịch mịch thê lương khó chịu lắm. Vì thế khi cứu hắn, vừa gặp hắn cô nương đã ký gửi trái tim cho hắn.

Nàng bình thản:

- Hắn xứng đáng cho bất cứ nữ nhân nào ký gửi tâm tình. Hắn là một nam nhân đầy đủ tư cách như nữ nhân mong muốn.

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Đúng, hắn là một nam nhân tốt, rất tốt. Nhưng... nhưng...

Chàng nắm chặt tay, rồi đột nhiên vung tay hét to:

- Nhưng cô nương còn trẻ quá, sao cô không sống, tại sao cô nương không chịu sống chứ?

Nàng hơi u sầu :

- Bởi trái tim ta hắn đã mang đi mất rồi. Người không tim thì sống làm sao, phải không?

Chàng trầm ngâm:

- Cô nương đã quyết định như vậy sao?

Nàng gật đầu:

- Phải, ta đã quyết định rồi. Còn ngươi, ngươi nhảy qua cửa sổ xuống biển mà đi đi. Bạch Thủy Cung chẳng có gì cho ngươi lưu luyến.

Ở đây chỉ có bi thương âu sầu tịch mịch mà thôi...

Chàng thở dài, lẩm bẩm:

- Bây giờ tại hạ đã hiểu. Tưởng Tiếu Dân muốn tại hạ mang thư không lời tới trao cho cô nương ngoài việc muốn cô nương thấy mặt tại hạ còn có dụng ý khác. Hắn biết thế nào tại hạ cũng bị khốn như hắn, và khi lâm vào cảnh khốn đốn rồi, tại hạ chỉ còn nhờ cô nương chỉ đường thoát đi. Tại hạ nghĩ vậy có đúng không cô nương?

Nữ nhân buông gọn:

- Có thể đúng, có thể không.

Phương Bửu Ngọc lại tiếp:

- Đúng hay không đúng, tại hạ cũng không thể thoát. Tại hạ không thể đi một cách đơn giản như vậy. Tại hạ chỉ đi sau khi gặp mặt cung chủ Bạch Thủy Cung mà thôi. Bạch Thủy Cung này có nhiều điều bí mật liên quan tới tại hạ. Bằng mọi giá tại hạ phải tìm hiểu những bí mật đó. Tại hạ chưa thể rời khỏi nơi này chừng nào còn chưa hiểu những điều cần hiểu.

Nàng hỏi hắn, chính câu hắn hỏi nàng trước đó:

- Ngươi đã quyết định như vậy?

Phương Bửu Ngọc cương quyết:

- Chắc chắn là như thế, cô nương.

- Ngươi không hối hận sau này?

- Tại sao tại hạ phải hối hận?

Nàng đáp:

- Vì nơi đây tất cả đều tàn khốc. Tất cả đều có thể khiến ngươi tổn thương đau đớn. Ngươi muốn đi cứ đi. Đi tới nơi sẽ hiểu. Tại đây có một con đường thông tới chỗ Bạch Thủy Cung chủ.

- Đường đi không phải bên ngoài mà ngay trong nhà. Nàng đứng trước lối đi đó, nói:

- Cứ theo con đường này ngươi sẽ gặp mặt Bạch Thủy cung chủ nương nương.

Phương Bửu Ngọc nói gì, làm gì, cũng cố chú ý tới vẻ mặt của nàng.

Chàng muốn dò nét biến hóa nơi gương mặt nàng.

Và chàng đã thấy gương mặt lạnh lùng đó có sự thay đổi.

Sự biến đổi đó, là khi nàng nói mấy chữ Bạch Thủy nương nương.

Chừng như có một sự ám ảnh nào đó, hiện lên gương mặt nàng, khi nàng nói bốn tiếng đó.

Một sự Oán hận. Tình cảm nàng đã chết theo cái chết của Tưởng Tiếu Dân, nhưng bây giờ lại còn đó sự Oán hận. Tất cả, chỉ còn sự Oán hận mà thôi.

Sự Oán hận đó là sinh khí của nàng, sinh khí gắn liền u linh với cơ thể. Oán độc tiêu tan, sinh khí sẽ mất, u linh cũng rời xa trần thế.

Niềm oán hận đã đè nén ăn sâu từ lâu trong nàng, có lẽ đã phát sinh lâu lắm, càng ngày càng lớn, tới hôm naỵ..

Nàng ở trong Bạch Thủy Cung, hẳn nàng và Bạch Thủy Cung chủ có một liên quan đặc biệt. Tại sao nàng lại hận Bạch Thủy Cung chủ?

Chàng muốn hiểu ngay điều đó. Không còn thời gian nữa. Không thể chậm trễ. Chàng vòng tay đáp:

- Đa tạ cô nương chiếu cố chỉ điểm cho đường đi nước bước. Tại hạ xin cáo từ.

Nàng khoát tay:

- Hãy khoan. Ngươi không nên cảm tạ ta. Ta có việc yêu cầu ngươi.

Chàng sững sờ.

Yêu cầu chàng? Việc gì mới được chứ? Nàng ở đây gần như biệt lập với thế giới bên ngoài, còn thiết gì mà yêu cầu chàng?

Nàng lạnh lùng tiếp:

- Ta nói, ngươi đáp ứng hay không đáp ứng cũng không sao.

Chàng hấp tấp:

- Bất luận việc gì tại hạ cũng chịu. in cô nương cứ nói.

Nàng hơi trầm ngâm:

- Trong lòng ta có một nghi vấn. Chỉ có ngươi có thể giải thích nghi vấn đó thôi.

Phương Bửu Ngọc nghiêm giọng:

- Chính cô nương không giải thích được thì chắc là tại hạ vô năng rồi.

Nữ nhân trầm gương mặt:

- Ta biết ngươi giải thích được.

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Nghi vấn của cô nương thuộc lĩnh vực nào?

Nữ nhân đáp:

- Võ công.

Chàng chớp mắt:

- Võ công? Cô nương lại thiết tha với võ công?

Nàng không trả lời, chỉ tiếp:

- Từ ngày có tri thức tới nay, ta tự hỏi không biết trong võ học có chiêu nào mà bất cứ ai cũng không phá nổi?

Chàng ấp úng:

- Chuyện đó... tại hạ tưởng... trên thế gian này, từ cổ chí kim, chẳng có một ai giải đáp nổi.

Nàng lại tiếp:

- Có thể ngươi đúng. Vấn đề đó chừng như nan giải vậy. Dù là có người nào đó giải được thì ta cũng làm sao biết, bởi ta suốt đời giam mình trong toà tiểu lâu tịch mịch này, xa rời nhân thế...

Chàng trầm ngâm một lát:

- Trên giang hồ xưa tới nay có biết bao nhiêu môn phái. Mỗi môn phái lại có một tuyệt kỹ riêng. Nhưng chẳng có tuyệt kỹ nào mà người ta có thể hoành hành khắp thiên hạ. Giả như có một ngón nghề độc đáo, môn phái nào đó có thể tạm thời ngang dọc giang hồ, nhưng không có nghĩa là ngón nghề ấy vô địch không ai phá nổi. Cô nương chắc cũng hiểu đạo lý đó chứ?

Nàng gật đầu:

- Ta hiểu.

Chàng cũng gật đầu:

- Thực vậy đó cô nương. Tuyệt đối không thể có một chiêu nào không thể hóa giải.

Nàng lạnh lùng:

- Tuy nhiên, biết là biết vậy, song chẳng có ai chứng minh được sự tuyệt đối đó Phương Bửu Ngọc mỉm cười:

- Cái đó đã hẳn.

Nàng lại nói tiếp:

- Ta biết, hay ta nghĩ vậy, cho nên ngày ngày ta cứ suy tư, nghiên cứu. Ta có sáng chế ra nhiều chiêu thức, song sáng chế ra rồi ta lại bỏ ngay, bởi chính ta cũng thấy rõ là những chiêu thức đó có nhiều sơ hở.

Ta tự nhận thấy sơ hở thì ta cần gì còn phải hỏi ai?

Phương Bửu Ngọc chú ý:

- Rồi sau đó?

Nữ nhân tiếp:

- Ta gặp Tưởng Tiếu Dân. Hắn ở lại đây dưỡng bệnh một thời gian.

Ta xin hắn dẫn giải rõ những môn công phu, tuyệt chiêu của hắn cho ta biết qua.

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Không những thông minh tuyệt đỉnh, Tưởng Tiếu Dân là dòng dõi võ lâm thế gia. Hắn biết hầu hết các môn công phu, chiêu thức của các phái lớn trên giang hồ. Kiến thức của hắn rộng lắm.

Nàng nói tiếp:

- Những chiêu thức hắn kể có một số giống với những chiêu thức do ta sáng chế ra, một số khác lại hoàn toàn bất đồng. Sau đó hắn từ biệt ra, trở lại giang hồ. Còn lại mình ta đem những chiêu bất đồng đó phối hợp với những chiêu do ta sáng chế, chọn lấy tinh túy của các chiêu tạo thành một chiêu tổng hợp.

Phương Bửu Ngọc tặc lưỡi:

- Cô nương thông minh vô cùng, trên đời này chắc gì có người sánh kịp.

Nàng không để ý nói tiếp:

- Sáng chế ra chiêu tổng hợp đó ta phải mất một năm dài. Và ta tin rằng trong thiên hạ chẳng môn phái nào có một chiêu giống thế, hoặc giả có chiêu nào độc đáo hơn chiêu đó.

Phương Bửu Ngọc nhìn sững:

- Sao cô nương chứng minh được điều đó?

Nàng giải thích:

- Bởi nếu trên đời này có chiêu đó thì nó đã vang danh khắp võ lâm từ lâu, đương nhiên, Tưởng Tiếu Dân cũng sẽ biết. Còn một điểm nữa. Phần nhiều những chiêu độc là những chiêu chuyên giết người, mà chiêu giết người thì lại không tuyệt đối, vì địch thủ có phòng bị trước những chiêu sau nữa. Các chiêu của ta chính ta cũng không biết cách hóa giải, người ngoài làm sao biết được. Chiêu của ta không độc ở hình thức, địch dễ coi thường. Nó hàm súc huyền cơ, mà nói tới huyền cơ thì quỷ thần cũng phải chịu thôi.

Nàng kết luận:

- Chiêu sát thủ của tất cả các môn phái, ta hóa giải dễ dàng.

Tưởng Tiếu Dân có thể biểu diễn cho ta xem nên ta dám tin chắc như vậy. Còn chiêu của ta chỉ có mình ta biết nó nên ta dám quyết nó là độc đáo.

Phương Bửu Ngọc vô cùng cao hứng:

- Chiêu đó vô cùng ảo diệu phải không cô nương?

Nàng trầm ngâm một chút rồi nói:

- Tự ta cũng không biết hóa giải chính chiêu ta nghĩ ra, song ta cũng không chứng minh được là không một người nào trên đời có thể phá nổi, bởi trong võ lâm ngày nay chỉ có một người là có thể chứng minh chiêu của ta có thể hóa giải hay là bất khả kháng mà thôi.

Phương Bửu Ngọc trầm giọng:

- Tại sao chỉ có tại hạ chứ không còn ai khác?

Nữ nhân đáp:

- Bởi vì cứ theo lời người giang hồ thì tựa hồ ngươi là đương kim đệ nhất cao thủ trong võ lâm. Nếu ngươi không hóa giải nổi chiêu của ta thì chắc chắn không còn ai hóa giải nổi.

Phương Bửu Ngọc suy nghĩ một lúc rồi cao giọng:

- Với mọi sự việc trên đời cô nương còn không quan tâm nữa, thì tại sao cô nương lại muốn chứng thực chiêu kiếm đó? Hay cô nương muốn dùng chiêu kiếm đó để đối phó với một người?

Nàng điềm nhiên:

- Cũng có thể như vậy mà cũng không hẳn như vậy.

Chàng hỏi tiếp:

- Người cô nương muốn đối phó là ai?

Nàng lạnh lùng:

- Điều đó... ngươi không cần biết.

Phương Bửu Ngọc lại hỏi:

- Có phải là Bạch Thủy nương nương không? Cô nương căm hận bà ấy đến thế à? Tại sao cô nương lại căm hận bà ấy?

Nàng nhìn chàng, một lúc sau từ từ lùi lại:

- Ngươi đã đáp ứng yêu cầu của ta thì còn hỏi làm gì?

Phương Bửu Ngọc lặng người một hồi lâu rồi buông tiếng thở dài:

- Lấy kiếm đi, cô nương.

Ánh sáng chớp lên, trường kiếm đã rời khỏi vỏ.

Nàng đâm mũi kiếm xuống chân Phương Bửu Ngọc, giữ mũi kiếm trong tư thế đó cách chân chàng độ ba thước. Phương Bửu Ngọc giật mình kêu lớn:

- Chiêu thức gì kỳ lạ thế?

Nàng điềm nhiên:

- Là chiêu do ta sáng chế.

Phương Bửu Ngọc tròn mắt:

- Nhưng chiêu đó sao có thể hại được tại hạ? Bất cứ ai cũng không thể bị hại bởi chiêu này.

Nàng nói:

- Chính vì chiêu đó trước mắt không có vẻ làm thương tổn tới ai, cho nên không ai nghĩ tới cách hóa giải. Cũng vì chưa ai thấy một chiêu như thế.

Phương Bửu Ngọc sững người một lúc rồi nhếch mép cười khổ:

- Nhưng chiêu đó căn bản không cần hóa giải...

Nàng hừ một tiếng:

- Ai nói không cần hóa giải?

- Cần gì ai nói. Thấy là hiểu ngay.

Nàng gật đầu:

- Được! Ngươi xem đây!

Nàng từ từ thu trường kiếm về, rồi lại đâm theo chiều hướng cũ.

Đích xác chiêu đó không làm hại gì chàng được.

Nhưng ánh kiếm vừa chớp lên, chàng đột nhiên vừa ngả người vừa vọt xéo về phía sau, ngã ngồi xuống cách đó hai trượng.

Vẻ kinh hãi hiện rõ trên gương mặt chàng.

Nàng lạnh lùng:

- Chiêu đó không cần hóa giải phải không? Tại sao ngươi lại phải tránh đi?

Chàng còn chưa hết kinh sợ:

- Lợi...lợi hại thật! Bây giờ tại hạ mới thấy rõ sự lợi hại của nó.

Hồi 59

Những Kẻ Si Tình

Nữ nhân áo đen hỏi:

- Ngươi có thể thấy gì? Ngươi chắc nhận ra được điểm lợi hại của chiêu kiếm ư?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Mũi kiếm đâm thẳng xuống chân không thành chiêu thức nào, tự nhiên khiến người ta khinh thường. Chỉ một phút giây khinh thường đó người sử kiếm biến chiêu đổi thế kiếm, không ai có thể phản ứng kịp, vì khoảnh khắc sao có thể nghĩ ra nên dùng chiêu nào chống đỡ hữu hiệu?

Nữ nhân áo đen lại hỏi:

- Vậy ngươi biết tại sao lại không thể ngăn chặn kịp thời không?

Phương Bửu Ngọc lắc đầu:

- Tại hạ chưa thử chiêu đó, tuy nhiên...

Thực ra ở trên chàng đã nói đó là do giây phút khinh thường, bị đối phương xuất kỳ bất ý biến chiêu mới không thể chống đỡ được. Vậy mà nàng còn hỏi nữa, chắc chắn là nàng muốn chàng giải thích sự cao thâm của chiêu kiếm.

Hoặc giả nàng hỏi như thế tức là nàng cho rằng chiêu kiếm là vô địch bất khả kháng cự rồi.

Phương Bửu Ngọc chưa kịp chuẩn bị, nàng hỏi bất ngờ như vậy chàng cũng lúng túng không biết phải nói sao. Song cũng chỉ do dự một chút, nàng chưa kịp nói gì chàng đã kêu lên:

- Tại hạ nghĩ ra rồi! Cái bộ vị và mũi kiếm chống xuống đó, từ bộ vị đó để chuyển sang thế công khác có thể gọi là khía cạnh tử vong của con người.

Nàng tròn mắt nhìn chàng một lúc rồi nói:

- Đúng thế! Với bất kỳ người nào, dưới chân đều là khía cạnh tử vong. Trên thế gian này có môn phái nào có một chiêu thức để chuyên tấn công vào phía dưới chân của địch thủ chăng? Hoặc từ bên dưới chân mà chuyển biến một thế công vào các bộ vị khác chăng? Chắc chắn là không rồi, vì điều đó cũng như là có một con rắn lại đi cắn vào chót mũi người đi rừng vậy. Không ai nghĩ là lại có thể có một chiêu như thế nên không một ai từng nghĩ tới cách phá giải. Vì thế khi gặp chiêu thức của ta, không ai để ý, không ai sợ hãi. Cùng người ta giao đấu sống chết mà không để ý tới chiêu thức của người ta, không biết chiêu đó lợi hại như thế nào, thế thì chẳng phải là tự đặt mình vào tử địa hay sao? Mình tự đặt mình vào tử địa cũng không hay, thế thì bảo sao cái chết không là chắc chắn được.

Phương Bửu Ngọc phụ họa theo:

- Đúng thế! Dựa vào cái chết để từ cái chết trở về cái sống, đó là điểm tinh túy của võ học cũng như binh pháp. Binh pháp và võ học theo thời gian phát triển theo nhiều hướng, mỗi hướng có đặc điểm khác nhau nhưng đều là chung một gốc vậy.

Nàng gật đầu:

- Cuối cùng ngươi cũng đã hiểu.

Phương Bửu Ngọc lại tiếp luôn:

- Chiêu đó trên giang hồ quả thật không môn phái nào có được.

Chỉ vì không ai nghĩ rằng có một chiêu như thế. Ngàn năm nay không một nhân vật nào biết lợi dụng khai thác nó, chưa ai hiểu được cái đạo lý của chiêu thức đi vào đường chết để sau đó trở lại cái sống. Chưa ai hiểu được thấu đáo cái tinh túy của chiêu thức đó, chỉ vì nó không chỉ là một chiêu thức, nó là tinh túy của võ học.

Nàng chưa kịp nói gì thêm, Phương Bửu Ngọc đã lại nói tiếp luôn:

- Nếu chẳng phải là bậc kỳ tài khi nào lại nghĩ ra được một chiêu thức quán tuyệt thế gian như thế chứ.

Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một chút lại nói:

- Nhưng cũng có thể chưa phải là bất khả đối phó đâu cô nương!

Nàng à lên một tiếng:

- Tại sao?

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Vì cô nương quên mất mấy điểm.

Nàng lạnh lùng:

- Những điểm nào?

Phương Bửu Ngọc giải thích:

- Điểm tối quan trọng là khi cô nương đâm mũi kiếm ra bình dị như thế, đối phương cũng có thể xuất một chiêu đồng thời với cô nương.

Trong khi đâm mũi kiếm ra, cô nương mất đi sự phòng ngự bản thân.

Cô nên nhớ rằng khi sử chiêu đó, cô đang tự đặt mình trong thế hoàn toàn không phòng bị. Cô nương phải xét mình trong trường hợp nào, tỷ thí võ công hay tử chiến. Nếu là tỷ thí võ công, cô nương xuất chiêu, đối phương không phản công mà đứng lặng người giây phút mà tìm cách phá giải, có thế cô nương không phải lo ngại đến tính mạng, và có thế chiêu thức của cô nương mới độc đáo. Nếu trong trường hợp tử chiến, cô nương xuất chiêu, địch thủ cũng xuất thủ. Ai nhanh tay hơn người đó chiếm tiện nghi hơn, sống chết trong gang tấc, mỗi giây phút là mỗi cơ hội, khi nào đối phương chịu để ý nghiên cứu chiêu thức của cô nương làm gì? Chiêu thức có cao siêu nhưng không làm gì hại được tới địch thủ, trái lại còn tạo cơ hội cho địch thủ.

Nàng im lặng một lúc lâu. Phương Bửu Ngọc lại nói:

- Nếu như cô nương tìm cách bổ túc chiêu đó sao cho hoàn bị chu đáo thì hay biết bao. Để sao cho khi xuất chiêu cô nương vẫn có cách phòng bị ngừa đối phương tấn công bất ngờ thật nhanh chóng. Nếu đối phương không thèm nhìn qua chiêu thức của cô nương mà tấn công ngay khi cô nương chưa tròn chiêu, lại trong trạng thái không đề phòng, như thế có khác nào tự tử đâu cô nương?

Phương Bửu Ngọc kết luận:

- Chiêu kiếm của cô nương sáng chế tuy rằng cao siêu thì thật cao siêu, nhưng vẫn còn sơ hở. Nếu khắc phục được sơ hở đó thì mới thật là chiêu kiếm vô địch thiên hạ. Cho dù nó không phải là chiêu kiếm ngàn năm vĩnh viễn là vô địch thì cô nương cũng có thể dựa vào nó mà tung hoành trong thiên hạ như múa gậy trong rừng hoang. Không ai có thể chống lại cho nổi với chiêu kiếm đó của cô nương cả.

Nữ nhân dường như có vẻ thất vọng.

Nàng đã là một u linh. Nàng buồn và lạnh đã từ lâu, bây giờ nàng lại thất vọng thì cái buồn lại càng nặng nề hơn, cái lạnh càng thấm thía hơn. Ánh mắt xa xăm của nàng hướng nơi vô định...

Nàng chỉ có chiêu kiếm đó là niềm hy vọng cuối cùng, hy vọng dùng chiêu thức đó để trả hận. Bây giờ Phương Bửu Ngọc chỉ rõ điểm sơ hở của chiêu kiếm rồi, hy vọng của nàng tan vỡ.

Nàng chẳng còn gì để vương vấn cõi trần nữa, u linh như được chắp cánh, phiêu du vào cõi mịt mờ...

Lâu lắm, nàng mới nói:

- Ta không thể.

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Phải, hiện giờ thì cô nương vô năng thật rồi. Bởi chính cô nương đã tự đặt mình trong tử địa. Cô đang đứng trong vị trí của chiêu thức cô nương sáng chế. Nhưng đứng trong vị trí của cô nương trở về cái sống, cô nương sẽ tìm được lối đi để sinh tồn. Chừng nào cô nương chưa tìm ra đường về mảnh đất sinh tồn tức là chiêu kiếm còn có sơ hở. Khi nào rời khỏi tử địa, là khi đó sơ hở được sửa chữa. Nhưng chắc gì cô nương rời khỏi tử địa kịp thời trước một đối phương lợi hại?

Chàng thở dài kết luận:

- Một chiêu rất hay, nhưng tiếc là không thực dụng.

Nàng trầm ngâm không nói. Sau cùng, nàng chuyển động thân mình, nói với Phương Bửu Ngọc:

- Ngươi đi đi!

Nàng nói chàng đi, song chàng chưa kịp cất bước nàng đã bước đi rồi.

Nàng đi gấp, chừng như không muốn nghe chàng nói thêm câu gì nữa. Bất luận là chàng nói gì lúc này, nàng cũng không muốn nghe.

Nàng đã đi rồi, Phương Bửu Ngọc còn đứng đó suy nghĩ mông lung.

Không hơn nửa ngày, chàng đã gặp ba người. Người nào người nấy quái dị vô cùng, mỗi người một kiểu, song đều cực kỳ quái dị.

Người thứ nhất đột nhiên thi triển sát thủ pháp với chàng, song lại nương tay với chàng.

Người thứ hai cũng thi triển sát thủ pháp, nhưng cũng lưu tình. Y dùng chiêu thức của Bạch Y kiếm khách, không sử võ học của Trung Nguyên.

Hai người đó chàng không được thấy mặt. Chỉ có người thứ ba chàng được diện kiến.

Nàng lạnh lùng quá. Thế nhưng Phương Bửu Ngọc lại luôn thường trực cái cảm giác rất thân thiết. Cái ý nghĩ là nàng có mối liên hệ nào đó với mình không sao xoá bỏ được.

Chàng tin chắc mối liên hệ đó phải kỳ dị lắm, nhưng chàng cũng không nghĩ ra được mối liên hệ đó kỳ dị như thế nào.

Nàng cũng thi triển một sát thủ pháp, nàng cũng lưu tình. Nói là lưu tình kể như thừa, bởi chàng đã động thủ đâu. Bất quá chỉ như nàng biểu diễn chiêu thức cho chàng thấy mà thôi.

Tại sao cả ba người đó lại thi triển sát thủ pháp với chàng?

Tại sao xuất chiêu rồi lại không ai giết chàng?

Tại sao cả ba người lại nương tình?

Chiêu thức đưa ra độc thật, song chẳng có ý hãm hại chàng. Họ có dụng tâm gì mà làm thế?

Ba người đó có thể xem như những tay hùng bá trong võ lâm hiện đại, thắng được họ kể ra trên giang hồ không có mấy người.

Với tài nghệ của họ, hạ sát chàng không phải là điều quá khó.

Họ cho chàng thấy tài nghệ của họ, và không sát hại chàng, phải chăng là họ muốn khoe khoang?

Chàng suy nghĩ hồi lâu cũng thấy giả thiết đó không hợp lý, cuối cùng chàng chừng như bừng tỉnh cơn mơ tự hỏi:

- Họ muốn chỉ điểm ta những chiêu tuyệt độc đó chăng? Họ có liên quan gì tới ta? Họ là người trong Bạch Thủy Cung, làm sao có thể có quan hệ với ta được, mà lại tới những ba người, ba người tuyệt luân?

Phức tạp, phức tạp thật!

Vừa phức tạp, vừa mâu thuẫn!

Phương Bửu Ngọc nhức đầu muốn vỡ xương sọ, nghĩ mãi vẫn không ra cách lý giải nào xuôi xuôi cả.

Nghĩ quanh nghĩ quẩn, cuối cùng chàng vẫn không thấy chút ánh sáng nào.

Chàng nhất định không suy nghĩ nữa, có nghĩ thêm cũng thế mà thôi.

Theo lối nữ nhân áo đen đã chỉ, chàng đi.

Chàng cho rằng gặp mặt Bạch Thủy Cung chủ rồi, tất mọi nghi vấn sẽ được giải đáp.

Trước sau gì chàng cũng phải gặp cung chủ. Gặp được bà ta là sẽ hiểu mọi sự tình, thế thì tội gì bây giờ phải hành hạ bộ Óc của mình?

Vạn Lão phu nhân bị Thủy Thiên Cơ gạt, đưa tay tự điểm vào huyệt đạo của mình.

Thủy Thiên Cơ đưa tay với lấy chiếc đùi gà, tay kia nâng Hồ Bất Sầu lên. Nàng đưa chiếc đùi gà tới tận miệng Hồ Bất Sầu.

Vạn Lão phu nhân nói:

- Điều bí mật đó có liên quan tới Bạch Thủy Cung chủ và Phương Bửu Ngọc.

Thủy Thiên Cơ giật mình. Cơ hồ buông rơi chiếc đùi gà xuống sàn thuyền. Nàng kêu lên:

- Mẹ ta và Phương Bửu Ngọc lại có liên quan hay sao?

Vạn Lão phu nhân thấp giọng:

- Thực sự cô nương không biết?

Thủy Thiên Cơ nổi giận:

- Bà cho là ta nói dối ư?

Vạn Lão phu nhân từ từ tiếp:

- Cô nương rời Bạch Thủy Cung cũng đã bảy tám năm rồi, dĩ nhiên những gì xảy ra trong thời gian đó cô nương không hề hay biết là phải. Còn những việc xảy ra trước đó, khi cô nương chưa rời khỏi đó thì cô nương phải biết chứ? Không ít thì nhiều, không rõ ràng minh bạch cũng phải phong thanh, sao lại không biết chút gì được?

Thủy Thiên Cơ cau mày:

- Việc gì của mẹ ta, ta tuyệt nhiên không bao giờ dám hỏi tới. Mẹ không cho phép ta được hỏi bất cứ điều gì. Ngay cả phòng riêng của mẹ ta cũng ít khi bước chân tới.

Nàng cố lấy giọng thản nhiên mà nói. Giọng nàng có vẻ thản nhiên thật, nhưng nơi chân mày thoáng hiện niềm oán hận uất ức. Có một người mẹ là Bạch Thủy Cung chủ, Thủy Thiên Cơ muốn gì mà chẳng được. Nàng có thể có được những thứ mà những nữ nhân khác có mơ cả đời cũng không có được. Thế mà oái oăm thay, những điều tự nhiên thông thường nhất mà những người khác đương nhiên có, nàng lại không có.

Bảo sao nàng không tủi phận?

Bảo sao nàng không oán hận?

Bởi những điều nàng muốn có gì là cao xa? Nó hiện hữu trong mỗi gia đình, chỉ riêng gia đình nàng không có, nàng mong ước từ khi mới biết suy nghĩ, nhưng nàng vẫn không có.

Đó là tình thân.

Hay đúng hơn, đó là tình mẫu tử!

Không có sự yêu thương chăm sóc của người mẹ, con người dù sống chung với mẹ cha nhưng cũng không khác gì trẻ mồ côi.

Vạn Lão phu nhân thở dài:

- Sự việc của Thủy nương nương cho dù là ai cũng không dám hỏi, huống chi là cô nương. Việc riêng tư của cha mẹ, phận làm con sao dám luận bàn, đó cũng là lẽ thường. Song nghĩ cho cùng, ngay cả với cô nương mà Thủy nương nương cũng không dành cho ngoại lệ thì thật là quá khắt khe. Chỉ vì mười sáu năm trước, à không, phải đã mười bảy năm rồi, một sự việc phát sinh trong Bạch Thủy Cung. Cô nương có nghe nói tới việc đó chứ?

Thủy Thiên Cơ cau mày suy nghĩ một lúc, rồi hỏi:

- Mười bảy năm trước? ...Đã có chuyện gì đã xảy ra trong Bạch Thủy Cung?

Vạn Lão phu nhân nói:

- Mười bảy năm trước có một đôi nam nữ đã xâm nhập vào Bạch Thủy Cung. Trong vòng bốn mươi năm qua, ngoài hai người đó không còn ai lọt vào được trong phòng ngủ của Thủy nương nương nữa. Bọn họ là những người duy nhất gây chấn động Bạch Thủy Cung.

Thủy Thiên Cơ chợt kêu lên:

- Đúng rồi! Ta nhớ ra rồi! Hai người đó là một cặp vợ chồng. Võ công của họ rất cao, mà cơ trí lại có thừa. Tuy nhiên,...

Nàng thở dài:

- Cuối cùng cũng vẫn bại trong tay của mẹ tạ..

Vạn Lão phu nhân gật đầu:

- Nhưng Thủy nương nương không giết họ. Những người duy nhất lọt vào Bạch Thủy Cung đã không bị giết, trái lại còn được chấp thuận sống tại đó.

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Phải! Bởi vì trước khi giao thủ, mẫu thân ta đã đánh cuộc với họ:

nếu mẫu thân ta bại sẽ nhường lại Bạch Thủy Cung cho họ, còn nếu họ bị bại thì vĩnh viễn không được rời Bạch Thủy Cung.

Nàng vừa nói vừa vuốt ve Hồ Bất Sầu.

Nghe nàng nói tới đó, Hồ Bất Sầu thầm nghĩ:

- Đôi vợ chồng đó là ai? Họ thuộc thành phần nào trong võ lâm?

Sao võ công đã cao mà hào khí cũng cao?

Vạn Lão phu nhân nói:

- Dưới tay của Thủy nương nương, từ trước tới nay chưa từng ai toàn mạng. Vậy tại sao bà lại đánh cuộc với hai người đó như thế? Có lẽ cô nương cũng biết nguyên nhân chứ?

Thủy Thiên Cơ đáp:

- Lúc đó ta còn nhỏ nên chưa hiểu gì cho lắm, nhưng lúc đó ta cũng lấy làm lạ về việc đó. Ta còn hỏi mẹ ta nữa:

nếu thắng họ thì sao mẹ không giết họ như bao kẻ đã bại dưới tay người, hà tất phải nêu điều kiện như thế?

Vạn Lão phu nhân hỏi:

- Rồi Thủy nương nương có cho cô nương biết nguyên nhân tại sao không?

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Dù sao ta cũng là con gái của mẫu thân mà.

Vạn Lão phu nhân tỏ vẻ chú ý:

- Thủy nương nương đã nói gì?

Thủy Thiên Cơ trầm ngâm một lúc lâu, rồi mới thấp giọng nói:

- Điều đó thì có liên quan gì tới bí mật mà bà sắp kể chăng?

Vạn Lão phu nhân vội vàng nói:

- Không quan hệ thì nói làm gì? Quan hệ lớn lắm đó cô nương!

...Nếu cô nương không nói thì già cũng khó lòng nói tiếp cho cô nương về bí mật đó cho được.

Thủy Thiên Cơ lại trầm ngâm một hồi. Đoạn nàng phẩy tay:

- Các người lui ra đi! Việc này không quan hệ tới các ngươi, có ở lại nghe cũng vô ích.

Bọn hải tặc đang nín thở chờ nghe, nhưng nàng đã lệnh cho chúng lui, chúng cũng không dám ở lại. Chúng rút liền. Chờ cho tên cuối cùng đã lui ra ngoài rồi, Thủy Thiên Cơ mới nói tiếp:

- Thoạt đầu mẹ ta cũng không muốn nói. Mà nếu lúc đó ta trưởng thành rồi chắc chắn mẹ cũng không nói cho ta biết. Có thể mẹ nghĩ ta còn nhỏ, không hiểu sự đời, có nói cũng không hại gì. Mặt khác cũng có thể mẹ muốn đem sự lòng tâm sự với ai đó miễn không làm hại người là được, mà một đứa bé như ta thì có thể làm gì hại tới người được, huống chi đó lại là con gái người?

Nàng thở dài tiếp luôn:

- Mẹ ta xoa trên tóc ta mà nói rằng, trừ phụ thân ta đã chết từ lâu, nam nhân đó là người duy nhất người nặng tình. Do đó, bất luận là thế nào, người cũng không thể giết y được.

Vạn Lão phu nhân thở dài:

- Phải! Có một cô gái nào đủ can đảm xuống tay giết người mình yêu?

Thủy Thiên Cơ tiếp:

- Lúc đó ta hiếu kỳ hỏi mẹ rằng:

Nếu đã thích nam nhân đó, sao không giết vợ y mà lại để cho hai người cùng sống? Nếu người vợ còn sống, có khi nào người chồng lại ưng thuận rời bỏ ả mà sống với người?

Mẹ ta nói:

Nếu người giết chết vợ y, thì vĩnh viễn y sẽ hận người, không chịu tha thứ cho người, làm sao có thể chung sống với người được? Bất quá, bà chỉ có thể chiếm được thân xác y, bắt y phải thỏa mãn vật dục mà không thể chiếm được tình yêu của y. Thế nên trong Bạch Thủy Cung đã có một bộ ba, một chồng hai vợ, một công khai, một thầm lén. Cũng bắt đầu từ đó, tôi có ý niệm về một thứ tình cảm khác ngoài tình mẫu tử trong đời người, là tình yêu giữa một nam nhân và nữ nhân.

Nói tới đó, ánh mắt nàng bất giác hướng sang Hồ Bất Sầu.

Hồ Bất Sầu buột miệng hỏi nhanh:

- Rồi sau đó?

Y hơi cao giọng, chứng tỏ khí lực đã trở lại. Thủy Thiên Cơ hân hoan ra mặt, môi đào hé nở, thốt:

- Sau khi đả bại hai vợ chồng, mẹ ta sắp xếp cho hai người ở một nơi trong cung. Lại cấm mọi người trừ phi cần kíp không được bén mảng tới đó.

Vạn Lão phu nhân chép miệng:

- Bạch Thủy Cung chủ quả thật là người đa tình.

Thủy Thiên Cơ cười:

- Ta vẫn còn nhớ nơi đó là một ngôi lầu, tên gọi là Tinh Tinh tiểu lâu. Từ trung khu Bạch Thủy Cung cũng có thể nhìn thấy ngôi lầu đó.

Song ta cũng không dám tới xem qua lần nào. Mãi tới một ngày, người thiếu phụ đó chết đị..

"Người thiếu phụ" là Thủy Thiên Cơ gọi người vợ của nam nhân kia để phân biệt với người còn trinh trắng. Đúng ra nàng nên gọi là nương tử, bởi nàng không biết người đó có con hay chưa. Hồ Bất Sầu kêu lên:

- Bà ấy chết? Tại sao lại chết? Bị bệnh hay là...

Thủy Thiên Cơ khoát tay:

- Hồ huynh đừng nghĩ quấy. Mẹ ta đã nói một tiếng tha, thì nhất định người đó không chết vì thủ đoạn của mẹ ta đâu. Mẹ cho dù không phải hoàn toàn là người tốt, nhưng không phải là kẻ không biết trọng chữ tín.

Hồ Bất Sầu cúi đầu ấp úng:

- Hồ Bất Sầu này thật đáng hổ thẹn. Nhưng không biết bà kia vì sao mà chết?...

Thủy Thiên Cơ chặn lời:

- Người đó trước khi vào cung đã mang thai. Ở trong cung được sáu tháng thì sinh hạ một bé gái kháu khỉnh. Nhưng vì sinh khó nên chưa kịp nghe một tiếng gọi mẹ đã qua đời rồi.

Hồ Bất Sầu thở dài. Thủy Thiên Cơ cũng không nói gì nữa. Một lúc sau Hồ Bất Sầu hỏi:

- Bé gái đó sau cũng lớn lên chứ? Hay cũng đã chết theo mẹ?

Thủy Thiên Cơ lắc đầu:

- Nàng không chết. Mẫu thân tôi đã nuôi dưỡng nàng tới lúc khôn lớn. Cũng vì nàng mà mẹ hai lần xuất cung tìm vú nuôi nàng. Ngay từ nhỏ nàng đã rất xinh đẹp. Nhưng từ nhỏ đã sống trong cảnh tịch mịch, tính tình nàng cũng trầm lặng. Suốt ngày nàng chỉ ngồi một chỗ, thẫn thờ, nghĩ ngợi mông lung. Nàng nghĩ những gì thì không ai biết được.

Hồ Bất Sầu hỏi tiếp:

- Vậy còn phụ thân nàng?

Thủy Thiên Cơ thở dài:

- Phụ thân nàng quả thật là một bậc hảo hán. Hứa sao làm vậy.

Từ khi bại dưới tay mẫu thân ta, tuyệt nhiên không hề đề cập tới việc xuất cung lấy một lần. Mẹ cũng không lúc nào rời xa y, khi chén rượu khi cuộc cờ, lúc đọc sách lúc dùng trà. Sống chung với nhau thời gian lâu như thế, tự nhiên giữa hai người nảy sinh tình cảm. Nhưng ta có thể khẳng định, cho tới trước khi ta xuất cung, cả hai vẫn tuyệt đối giữ lễ, không nói với nhau một câu nặng lời, hay có một cử chỉ lả lơi...

Hồ Bất Sầu thở dài:

- Vậy mới đáng mặt anh hùng hảo hán. Mà lệnh đường cũng là một bậc kỳ nữ trên đời. Thực rạ.. một đôi kỳ nhân như họ, nếu có thành vợ chồng với nhau cũng hợp lý.

Thủy Thiên Cơ thở dài:

- Hồ huynh thông minh hơn người, lại rộng lượng biết cảm thông những uẩn khúc lòng người.

Lần đầu tiên từ khi rời hoang đảo, trên môi Hồ Bất Sầu điểm một nụ cười:

- Ngu huynh tuy là hủ lậu thô kệch, nhưng cũng vẫn biết như thế nào là hợp tình hợp lý, thế nào là miễn cưỡng cẩu thả!

Đoạn y mơ màng lẩm nhẩm:

- Lạ thật! Đôi vợ chồng đó võ công cao siêu như vậy, hẳn là có danh phận trên giang hồ. Tại sao họ mất tích lâu như thế mà giang hồ không một ai bàn tán gì cả? Huynh chưa từng nghe chuyện tương tư.....

Thật ra họ là ai?...

Đột nhiên Vạn Lão phu nhân nói:

- Chỉ vì đôi vợ chồng đó là hai kiếm khách có hành tung bí mật.

Trên giang hồ ít có ai biết đến họ. Bất quá thiên hạ hiểu qua lời truyền rằng có hai người từng du lãm khắp dọc ngang hồ hải, chuyên can thiệp vào mọi chuyện bất bình mà chẳng quản hiểm nguy. Có ai biết được tên họ của họ đâu, nói chi đến dòng dõi xuất thân của họ thế nào...

Hồ Bất Sầu vẫn mơ màng:

- Một đôi vợ chồng niên thiếu hành hiệp giang hồ, quả thật tâm hồn cao khiết, thích cái thú vui tự do nơi núi rừng sông nước. Hạng người như thế đáng được người đời kính phục lắm.

Thủy Thiên Cơ nhìn y khẽ nở nụ cười:

- Muốn sống cuộc sống của đôi vợ chồng đó nghĩ rằng cũng chẳng có gì khó khăn.

Vạn Lão phu nhân chợt hỏi:

- Cô nương biết họ là ai chứ?

Thủy Thiên Cơ giật mình:

- Ta không biết tên họ hai người đó. Lúc đó tôi không có ý hỏi tên họ của họ, mà mẹ ta cũng không hề tiết lộ nửa lời. Ngoài mẹ ta ra, trong Bạch Thủy Cung chắc không còn ai biết được nữa.

Vạn Lão phu nhân trầm giọng:

- Và đó là điều bí mật trọng đại. Nhưng già lại biết được điều bí mật đó.

Thủy Thiên Cơ trong mắt nhìn Vạn Lão phu nhân, hỏi:

- Bà biết được họ là ai sao? Có thật vậy không?

Vạn Lão phu nhân nhấn mạnh từng tiếng:

- Đôi vợ chồng đó chính là phụ thân và mẫu thân của Phương Bửu Ngọc.

Thủy Thiên Cơ cùng Hồ Bất Sầu cùng a lên một tiếng, vẻ kinh ngạc tột độ. Cả hai giương bốn mắt tròn nhìn Vạn Lão phu nhân. Vạn Lão phu nhân điềm nhiên tiếp:

- Thủy nương nương thừa biết nếu mọi việc bị tiết lộ ra ngoài thì Thanh Bình kiếm khách tất sẽ huy động toàn thể hào kiệt võ lâm tới tận Bạch Thủy Cung đòi con về. Vì thế bà không hề cho ai biết tên họ của hai người đó.

Hồ Bất Sầu lấy lại bình tĩnh, hỏi:

- Không lẽ từ ngày đó, Phương sư huynh của tại hạ đã ở luôn tại Bạch Thủy Cung tới giờ phút này hay sao?

Vạn Lão phu nhân đáp:

- Phải. Y ở luôn tại đó như đã hứa trước khi giao thủ với Bạch Thủy nương nương.

Thủy Thiên Cơ cau mày:

- Nếu thế, thiếu nữ tại Tinh Linh tiểu lâu là em gái của Phương Bửu Ngọc hay sao?

Vạn Lão phu nhân gật đầu:

- Đúng! Chính là em gái hắn. Nàng tên là Phương Linh Ngọc.

Hồ Bất Sầu trầm ngâm:

- Phương Bửu Ngọc đến Bạch Thủy Cung có phải là vì hắn đã biết được điều bí mật đó chăng?

Vạn Lão phu nhân lắc đầu:

- Phương Bửu Ngọc chưa hề biết một mảy may sự tình.

Hồ Bất Sầu lấy làm lạ:

- Vậy Phương Bửu Ngọc tới Bạch Thủy Cung làm gì?

Vạn Lão phu nhân không trả lời ngay, chỉ nói:

- Đoạn cố sự này, nửa trước là do Thủy cô nương thuật lại, còn nửa sau dĩ nhiên do già kể tiếp. Nhưng trước khi già kể chuyện già xin cho hai vị biết hai điều...

Hồ Bất Sầu nóng nảy:

- Bà nói gấp đi!

Vạn Lão phu nhân nói:

- Điều thứ nhất, Phương Linh Ngọc đã trưởng thành, tính tình nàng lạnh lùng cô tịch quá chừng. Có lúc nàng ngồi lặng luôn hai ba ngày liền mà không nói một tiếng. Nàng cứ ngồi nguyên một chỗ, bất động, trầm tự..

Thủy Thiên Cơ thở dài:

- Điều đó ta cũng có tưởng tượng được, cũng không có gì làm lạ.

Bởi trong hoàn cảnh của nàng có thể vui được hay sao? Huống chi, cuộc sống trong Bạch Thủy Cung chẳng phải chốn náo nhiệt. Người ta muốn tìm một chỗ vui, thì đừng bao giờ nghĩ đến Bạch Thủy Cung.

Rồi nàng giục:

- Bà hãy nói điều thứ hai đi!

Vạn Lão phu nhân nói tiếp:

- Chín năm sau khi vợ chết, Phương đại hiệp cuối cùng cũng xiêu lòng trước sự thiết tha săn đón của Thủy nương nương. Hai người yêu nhau, sống với nhau như vợ chồng...

Hồ Bất Sầu kêu lên:

- Có việc đó hay sao? Thật sao Vạn Lão phu nhân?

Vạn Lão phu nhân mỉm cười:

- Thì Hồ thiếu hiệp chẳng nói, hai người có thành vợ chồng thì cũng hợp tình hợp lý hay sao?

Hồ Bất Sầu thở ra:

- Đúng vậy! Tại hạ không có lý do để trỉ chích một sự tác hợp như thế. Trên thế gian này cũng chẳng có ai có thể trách họ được.

Vạn Lão phu nhân tiếp:

- Phương đại hiệp không lầm người. Bởi Thủy nương nương rất mực ôn nhu. Có thể nói bà là người vợ tuyệt vời nhất trên thế gian. Bất cứ việc gì, nếu là Phương đại hiệp muốn, thì bà vâng theo, không bao giờ làm điều gì nghịch ý phu quân. Những khi nào Phương đại hiệp buồn, bà cũng dám cho chồng xuất cung, thay đổi không khí tìm thú tiêu khiển...

Hồ Bất Sầu trố mắt:

- Vậy sao? Thế thì tại sao Phương huynh của tại ha.....

Vạn Lão phu nhân lắc đầu:

- Phương đại hiệp có chịu rời Bạch Thủy Cung lần nào đâu mà Hồ thiếu hiệp đã vội trách tại sao đại hiệp không chịu về thăm gia đình.

Không, người không chịu bỏ lời giao ước lúc song phương động thủ năm xưa. Người nói rằng suốt cả cuộc đời, người cũng chẳng thể rời khỏi Bạch Thủy Cung. Có chết cũng chết trong Bạch Thủy Cung mà thôi...

Hồ Bất Sầu thở dài:

- Phương sư huynh... Phương đại ca quả là người thủ tín, nhất ngôn cử đỉnh...

Vạn Lão phu nhân lại nói:

- Chẳng những đối xử hết lòng với chồng, Thủy nương nương lại thương yêu Phương Linh Ngọc như con ruột, thấy chồng buồn bực quạnh hiu, bà còn cố ý cho một thiếu niên vào tận Tinh Linh tiểu lẩu cùng Phương cô nương bầu bạn. Bà vờ như không hay biết gì cả...

Thủy Thiên Cơ chớp mắt:

- Vậy đôi nam nữ sau đó ra sao?

Vạn Lão phu nhân đáp:

- Sau đó Phương cô nương muốn thiếu niên kia rời cung.

Thủy Thiên Cơ trầm ngâm một lúc lâu, đoạn thốt với giọng u buồn:

- Phụ thân nàng như bị chôn sống nơi Bạch Thủy Cung, thì khi nào nàng lại muốn người tình của mình chịu số phận như thế? em ra bề ngoài nàng lạnh lùng, nhưng bên trong nàng lại có tình cảm sâu sắc nhất thế gian. Vì yêu người thiếu niên kia, nàng không muốn tương lai của hắn bị huỷ diệt tại Bạch Thủy Cung, thà rằng một mình nàng chịu khổ...

Vạn Lão phu nhân nói:

- Mãi tới về sau, Thủy nương nương mới hiểu được nguyên nhân sầu muộn của hai cha con Phương đại hiệp. Phương đại hiệp chỉ muốn gặp mặt con gái một lần, xem nó trưởng thành có hình dung như thế nào. Từ ngày vợ chết, đại hiệp đã sống biệt lập với đời rồi. Còn Phương cô nương cũng ước mong gặp vị ca ca của nàng, tức là Phương Bửu Ngọc.

Cả Phương đại hiệp cũng thế, âm thầm nhớ nhung người con trai trưởng. Nhưng nhớ là nhớ vậy thôi, chứ người không hề rời khỏi cung.

Con gái sống chẳng xa cũng không gặp được, nói chi tới đứa con cách xa ngàn dặm?

Hồ Bất Sầu trầm giọng:

- Nếu Phương Bửu Ngọc biết được sự tình, hẳn nó có bận việc chi, quan trọng tới đâu cũng phải xếp lại mà tức tốc tới Bạch Thủy Cung tìm cha tìm em.

Vạn Lão phu nhân gật đầu:

- Già cũng nghĩ vậy. Song thiếu hiệp và cô nương phải biết, sự tình đã giữ kín mười bảy năm rồi, chẳng một mảy may tiết lộ ra ngoài...

Hồ Bất Sầu cau mày:

- Tại sao họ lại tuyệt đối giữ kín như thế? Ngay cả với Phương Bửu Ngọc họ cũng không tiết lộ là sao?

Vạn Lão phu nhân lắc đầu:

- Là ai thì may ra họ còn tiết lộ, chứ với Phương Bửu Ngọc thì họ càng tuyệt đối giữ bí mật hơn.

Hồ Bất Sầu trố mắt:

- Tại sao?

Vạn Lão phu nhân hừ một tiếng:

- Hồ thiếu hiệp không nghĩ ra tại sao ư?

Thủy Thiên Cơ thốt lời:

- Tuy rằng mẫu thân của Phương Bửu Ngọc không phải chết nơi tay mẫu thân ta, nhưng nếu như phụ mẫu hắn không vì lời giao kết mà lưu lại vĩnh viễn nơi Bạch Thủy Cung thì có thể mẫu thân Phương Bửu Ngọc cũng sẽ không vì sinh khó mà tới nỗi vong mạng. Trong cung không hề có người thai nghén, làm sao trong lúc khẩn cấp đó có thể giúp gì được cho mẫu thân hắn chứ. Cho nên dù muốn dù không, mẫu thân ta cũng phải chịu phần trách nhiệm trong đó. Phương Bửu Ngọc biết được chuyện đó sao mà không hận mẫu thân ta tới xương tủy cho được? Ai mà biết được chuyện gì sẽ xảy ra?

Hồ Bất Sầu gật đầu, thở dài mấy tiếng. Nhưng y cũng tìm lý lẽ cãi lại:

- Có thể là mọi chuyện sẽ như Thủy muội nói. Nhưng bây giờ, mẫu thân của muội cũng là mẫu thân của Phương Bửu Ngọc, dù sao hắn cũng phải nể mặt phụ thân hắn chứ?

Y dừng lại một chút rồi lại nói tiếp:

- Tuy nhiên vấn đề cũng rắc rối lắm đó. Giả sử Phương Bửu Ngọc cứ khăng khăng báo thù cho mẹ thì Phương huynh chẳng lẽ lại bênh vực vợ mà chống lại con? Bênh vợ là phụ tình người vợ tào khang ngày trước, còn nếu để mặc Phương Bửu Ngọc đối phó với Thủy nương nương thì huynh ấy lại mang tiếng là người bội nghĩa. Công bằng mà nói, Thủy nương nương là người có ơn với Phương huynh chứ chẳng phải có thù oán. Bà ấy không phải đã không giết vợ đoạt chồng, lại còn đợi sau khi Phương tẩu qua đời tới tám chín năm mới gá nghĩa cùng Phương huynh đấy thôi...

Thủy Thiên Cơ nói tiếp luôn:

- Còn thiếu một điều nữa, là một điều vô cùng quan trọng. Hiện nay Phương Bửu Ngọc được toàn thể võ lâm Trung Nguyên ủy thác một việc trọng đại, có thể nói hắn là người nắm giữ vận mạng võ lâm. Như thế thì còn ai dám đem điều bí mật này cho hắn biết. Nếu hắn biết rồi, chắc chắn hắn sẽ bị phân tâm. Phàm là con nhà võ, trước một cuộc chiến sinh tử mà lại phân tâm thì đã cầm chắc thất bại trong tay. Hắn bại rồi, không chỉ có hắn, mà toàn thể võ lâm cũng bại theo hắn. Cho nên, nếu có người nào đó biết được bí mật tại Bạch Thủy Cung thì ít nhất cũng nhẫn nhịn chờ tới sau ngày hắn làm tròn sứ mệnh uỷ thác của hào kiệt giang hồ đã.

Hồ Bất Sầu trầm tư một lúc lâu, đoạn thốt:

- Nghĩ ra Phương đại ca quả thật đáng thương. Nếu hiện giờ người có gặp con chắc người cũng không thể nhìn nhận? Mong gặp con, nhưng gặp rồi lại chẳng thể gọi một tiếng con, còn gì đau khổ bằng?

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Điều đó đương nhiên. Song người làm cha mẹ, người nào cũng thà chính mình đau khổ, cũng không muốn con mình phải đau lòng.

Nàng cười thảm, tiếp luôn:

- Tình cảm, nếu là chân chính thì tình cảm nào cũng được lồng trong cái khung hy sinh. Bởi cha mẹ thương con, vợ yêu chồng, chồng yêu vợ,... đều nghĩ tới hạnh phúc của người kia, chứ nếu giành hạnh phúc phần mình bất kể tình cảm người kia giành cho mình sâu nặng tới đâu thì sao gọi là tình được. Đó chẳng phải là ích kỷ, lợi dụng tình cảm hay sao, không thể nói đó là tình cảm chân chính được. Yêu chân chính là cho tất cả mà không mong nhận lại chút gì, yêu người là thành toàn cho người. Người vui là mình vui. Chân lý của tình cảm là thế.

Hồ Bất Sầu ngưng ánh mắt nhìn Thủy Thiên Cơ không nói gì, nhưng trong lòng xao động...

Thủy Thiên Cơ nhìn sang Vạn Lão phu nhân hỏi:

- Hai cha con Phương đại hiệp chỉ có mỗi một ước vọng là gặp mặt Phương Bửu Ngọc thôi?

Vạn Lão phu nhân đáp:

- Đó là nguyên nhân lớn nhất, chứ không phải là duy nhất!

Thủy Thiên Cơ cau mày:

- Vậy những nguyên nhân khác là như thế nào?

Vạn Lão phu nhân nói:

- Trước hết chúng ta cũng phải ghi nhận hảo ý của Thủy nương nương, bởi bà cũng đồng tình với mọi ước vọng của cha con Phương đại hiệp. Trong mười bảy năm trường, họ nghiên cứu rất nhiều môn công phu kỳ ảo, những chiêu thức độc đáo. Song họ không nuôi dưỡng cái tâm tranh giành ngôi bá chủ võ lâm. Những chiêu thức họ sáng chế ra cốt lưu lại cho người, chứ không dùng để áp đảo võ lâm đồng đạo.

Thủy Thiên Cơ gật đầu:

- Phải đó! Và trong thâm tâm của họ đã có sẵn một truyền nhân, người đó không ai ngoài Phương Bửu Ngọc.

Vạn Lão phu nhân tiếp:

- Phương thiếu hiệp học được những chiêu thức đó rồi thì khi giao đấu với người áo trắng từ Đông Doanh Tam Đảo sẽ có nhiều hy vọng thắng hơn. Do đó, họ muốn gặp Phương thiếu hiệp trước khi cuộc đấu quyết tử với người áo trắng diễn ra.

Bà thở dài, tiếp:

- Gặp được Phương thiếu hiệp là chắc rồi, nhưng lần gặp gỡ đó sẽ khiến họ đau khổ, bởi họ không thể tiết lộ sự bí mật giữ kín suốt mười bảy năm trời kia. Ít nhất, họ cũng phải nén lòng đợi cuộc chiến kết thúc.

Thủy Thiên Cơ tỏ vẻ lo lắng:

- Nhưng ngày hội chiến định với người áo trắng đã gần kề.

Phương Bửu Ngọc dù thông minh tuyệt đỉnh, cũng khó lòng lãnh hội trọn vẹn tuyệt học của họ trong khoảng thời gian ngắn như vậy được.

Vạn Lão phu nhân mỉm cười:

- Muốn làm điều phi thường phải dùng tới thủ đoạn phi thường. Có thể họ sẽ sắp bày cách thế nào đó cho Phương Bửu Ngọc trước hết phải trải qua nhiều gian lao khổ sở hiểm nguy, có thể họ dám để Phương Bửu Ngọc chết đi sống lại, họ làm thế là để bức bách trí thông minh của Phương Bửu Ngọc phải nảy nở nhanh, đốt cháy giai đoạn mà nảy nở, như một cái cây đáng ra sang xuân mới nở hoa, họ tưới nước bao bọc trong không khí ấm cho nở hoa ngay trong mùa đông. Với sự từng trải đó, Phương Bửu Ngọc sẽ lãnh hội dễ dàng những gì họ truyền dạy.

Thủy Thiên Cơ gương mặt sáng rỡ:

- Bà nói rất có lý. Luyện võ ba năm chắc gì thành tựu bằng thực nghiệm sở học trong một hoàn cảnh mà sự chết sống cách nhau đường tơ kẽ tóc. Trong hoàn cảnh sống chết, bản năng tự nhiên sẽ khích động phản ứng tinh diệu. Những phản ứng đó, người học võ quy củ làm gì có được? Vì không có hiểm nguy, bản năng làm sao sống dậy?

Hồ Bất Sầu cũng đồng tình:

- Hợp lý lắm! Người ta chỉ có thể vận dụng toàn năng khi nào bị dồn tới bờ vực sống chết mà thôi. Có thể phương pháp họ vận dụng với Phương Bửu Ngọc là phương pháp này lắm!

Vạn Lão phu nhân gật đầu:

- Phải! Không còn phương pháp nào hữu hiệu hơn!

Thủy Thiên Cơ vụt nói:

- Còn một điều bà chưa biết!

Vạn Lão phu nhân cười mỉm:

- Làm gì trên thế gian lại có những việc gì mà già lại không biết chứ?

Thủy Thiên Cơ hừ một tiếng:

- Bà có biết là ông của Phương Bửu Ngọc có đến Bạch Thủy Cung chăng?

Vạn Lão phu nhân giật mình:

- Thanh Bình kiếm khách Bạch Tam Không? Nếu vậy thì Phương Bửu Ngọc vào cung sẽ nội hiệp ba đời ông cha cháu?

Hồ Bất Sầu thở dài:

- Điều đáng nói là khi gặp nhau rồi chẳng được nhận nhau! Không nhận nhau thì Phương Bửu Ngọc làm gì biết được có sự nội hiệp tam đại?

Bỗng có tiếng kêu xôn xao ở bên ngoài:

- Cái gì thế?...Cái gì thế?...

Thủy Thiên Cơ lập tức dìu Hồ Bất Sầu bước ra ngoài khoang thuyền. Trên mặt nước, một chiếc bao to lớn đang bị sóng dập vùi.

Chiếc bao làm bằng gấm ngũ sắc.

Chính là chiếc bao do Thủy Thiên Cơ lấy mảnh buồm ngũ sắc quấn quanh các quyển bí kíp võ công của Tử Y Hầu.

Một xác người nằm vắt ngang trên chiếc bao đó.

Tuy cái xác đó đã trương phình lên, có một vài chỗ nơi mặt mất thịt mất da, xong bọn Thủy Thiên Cơ cũng nhận ra thi thể của Giả Tinh đại sư.

Hồ Bất Sầu thở dài:

- Cuối cũng thì lão ta cũng chiếm được!

Thủy Thiên Cơ cười:

- Chiếm được rồi lão cũng chết luôn! Chết, coi như lão chẳng được gì cả!

Hồ Bất Sầu nói tiếp:

- Chết với sống chẳng thành vấn đề nữa. Con người khao khát một điều, bình sinh chỉ suy nghĩ về điều đó, chỉ sợ không nắm được. Chứ đã nắm được rồi thì chết cũng vui, chết với sự mãn nguyện trong lòng, dù sao cũng khoái so với sự thất vọng!

Đường dù xa, có khó khăn thế nào, trì chí đi mãi cũng có lúc tới tận cùng!

Phương Bửu Ngọc cuối cùng cũng đã đi trọn con đường bí mật do nữ nhân áo đen tại Tinh Tinh tiểu lâu chỉ cho.

Chàng tới Bạch Thủy Cung, hay đúng hơn tới tận cư gia của Thủy nương nương.

Khác với bên ngoài, tại đây một khung cảnh huy hoàng hiện ra trước mắt Phương Bửu Ngọc, dĩ nhiên sang quý, dĩ nhiên là đầy đủ tiện nghi.

Nơi chàng tới, đúng ngay tẩm cung của Thủy nương nương.

Hiện tại, một người đang ngồi ở trung ương, trên mình có hàng trăm lượt sa mỏng che phủ, nơi mặt cũng tới mươi lượt sa mỏng phủ che.

Trong cung không có gió, nhưng các lớp sa phiêu phất, tạo nên những làn sóng dợn, người ngồi đó mà như tiên nữ đang cưỡi mây. Mây bay bay đưa tiên tử lên tới chín tầng trời.

Người đó đã là tiên tử, hẳn phải là mỹ nhân.

Mỹ nhân ẩn mình trong lớp sa thưa trông chẳng khác làn mây mỏng, lơ lửng giữa khoảng trời cao.

Nàng không cử động.

Phương Bửu Ngọc không nhìn thấy mặt nữ nhân đó, song vẫn hiểu người đó phải là bậc tuyệt thế giai nhân, vô cũng mỹ lệ.

Chàng khiếp hãi thật sự.

Trong những giây đầu tiên, lưỡi chàng như cứng lại, không thể nói được một câu nào, đại để như thông báo chàng đã tới chẳng hạn.

Rồi, một âm thanh vang lên, êm dịu như tiếng nhạc, từ trong lớp sa mỏng, vọng ra nhẹ nhàng, rõ ràng:

- Tốt lắm! Cuối cùng ngươi cũng đã đến!

Lúc này Phương Bửu Ngọc mới nói được. Chàng nghiêm trang thốt:

- Phương Bửu Ngọc bái kiến Bạch Thủy Cung chủ!

Bạch Thủy Cung chủ điềm nhiên:

- Ngươi trải qua trăm nguy ngàn hiểm, muôn vạn gian lao tới đây, hẳn ngươi đã nuôi ý cùng bản cung khai trường tử chiến. Đã muốn cùng ta liều sống chết thì cần chi giữ lễ như thế?

Bà hơi mỉm cười, gật đầu:

- Chu đáo lắm, Phương Bửu Ngọc!

Phương Bửu Ngọc giật mình. Chàng sững sờ một lúc, rồi mới ấp úng được mấy câu:

- Việc này... việc đó... tại...

Tại sao, chàng cũng không hiểu, đã không hiểu thì nói thế nào?

Bạch Thủy Cung chủ cũng không hỏi tới nữa, bà nói tiếp:

- Trước khi tới đây, ngươi đã thoát chết ba lượt, ngươi có hận ta chăng?

Phương Bửu Ngọc sững sờ lần nữa, chàng ấp úng:

- Tại ha..... tại ha.....

Từ trong làn sa mỏng có mấy tiếng cười nhẹ vọng ra. Bạch Thủy Cung chủ lại hỏi tiếp:

- Bây giờ ngươi đã tới đây rồi, vậy ngươi muốn gì?

Phương Bửu Ngọc trầm ngâm một lát, chàng nói:

- Để làm tròn lời hứa với một người, tại hạ vào cung, thỉnh cung chủ...

Bạch Thủy Cung chủ nhận lời:

- Được! Ngươi không cần nói dài dòng. Ta hiểu cả rồi! Ngươi yên tâm, nhiệm vụ của ngươi đã tròn. Ta đáp ứng ngươi.

Phương Bửu Ngọc giật mình. Nằm mơ chàng cũng không tưởng tượng nổi sự tình lại diễn ra một cách đơn giản như thế. Chàng vòng tay, nghiêng mình tỏ vẻ cảm kích:

- Đa tạ cung chủ!

Bạch Thủy Cung chủ lại hỏi:

- Ngươi còn điều gì cần nói nữa chăng?

Phương Bửu Ngọc nói:

- Tại hạ muốn thỉnh giáo về việc vừa rồi...

Bạch Thủy Cung chủ đáp lời:

- Sự liên hệ giữa người và người, biết thì tốt, không biết thì thôi, ngươi hỏi làm gì?

Phương Bửu Ngọc nín lặng hồi lâu. Sau cùng chàng thở dài:

- Cung chủ không muốn nói, tại hạ có hỏi nữa cũng vô ích. Chỉ vì...

sẽ có một ngày nào đó tại hạ sẽ trở lại Bạch Thủy Cung khám phá bí mật này...

Bạch Thủy Cung chủ hỏi:

- Tại sao ngay từ bây giờ ngươi không làm việc đó, phải để dành tới ngày nào khác xa xôi?

Phương Bửu Ngọc nghiêm giọng:

- Hiện tại tại hạ có trách nhiệm nặng nề bên mình. Để thi hành trách nhiệm đó tại hạ chẳng tiếc mạng. Khi trách nhiệm chưa xong thì tại hạ không dám không sợ chết.

Bạch Thủy Cung chủ gật đầu:

- Cũng được. Tùy ngươi thấy tiện lúc nào cứ đến lúc đó.

Phương Bửu Ngọc tiếp:

- Sự việc ở đây kể như đã xong. Nếu cung chủ không ngăn trở, tại hạ xin cáo từ.

Bạch Thủy Cung chủ hỏi:

- Ngươi đã đến được đây tất cũng có thể tự đi rạ.. Nhưng... ngươi gặp ta rồi, tại sao lại chỉ hỏi về nhân sự, mà không hỏi tới võ công?

Phương Bửu Ngọc giật mình:

- Tại hạ cũng có thể nói chuyện võ công hay sao?

Bạch Thủy Cung chủ đáp:

- Sao lại không được? Nhưng, muốn hỏi ta tốt hơn ngươi nên tự hỏi!

Phương Bửu Ngọc cau mày:

- Tự hỏi?

Bạch Thủy Cung chủ gật đầu:

- Hiện nay ngươi đã là đệ nhất nhân trong võ lâm. Ta không nói ngươi là đệ nhất cao thủ, vì nếu xét về võ công có thể vẫn có kẻ hơn ngươi. Ngươi là đệ nhất nhân, bởi tất cả mọi người đều kỳ vọng nơi ngươi. Đã là đệ nhất nhân, hẳn ngươi phải có một số vốn võ học quan trọng. Có nghi vấn gì ngươi cũng có thể tự suy nghĩ tìm lời giải đáp.

Giả như ngươi bình tâm tĩnh trí suy nghiệm nghiên cứu cẩn thận thì ngươi sẽ thu được bao nhiêu lợi ích.

Phương Bửu Ngọc suy nghĩ hồi lâu, đoạn nghiêng mình:

- Phương Bửu Ngọc hôm nay được nghe những lời vàng ngọc của cung chủ thật chẳng khác người nằm mộng tỉnh cơn mê. Hỏi ngươi sao bằng hỏi mình? Cái đạo lý đó rất cao thâm! Tuy giản đơn song hiệu quả vô cùng. Đa ta cung chủ giáo huấn.

Bạch Thủy Cung chủ chừng như có mỉm cười. Nhưng Phương Bửu Ngọc không nhìn thẳng nên cũng không biết có phải vậy thật hay không. Bạch Thủy Cung chủ lại nói:

- Ta nghĩ, trong ngày hôm nay, qua bao lần nguy hiểm ngươi đều thoát khỏi, hẳn võ công của ngươi cũng đã tinh tiến phần nào!

Phương Bửu Ngọc đáp:

- Quả có như vậy, cung chủ.

Bạch Thủy Cung chủ tiếp:

- Ngươi thử tự hỏi mình xem tại sao võ công lại tăng tiến?

Phương Bửu Ngọc trầm tư hồi lâu:

- Tại hạ vào đây trước sau gặp đúng ba chiêu sát thủ, chính ba chiêu đó khai sáng con đường cho kẻ mê muội này, như vậy là có tinh tiến rồi...

Bạch Thủy Cung chủ lại hỏi:

- Trong ba chiêu đó, có những điểm tương đồng chăng?

Phương Bửu Ngọc cúi đầu suy nghĩ.

Chàng miên man với dòng suy tư, không rõ lúc nào, chàng đã ngồi hẳn xuống đất, thay vì đứng như lúc đầu.

Và cũng không biết từ lúc nào, trước mắt chàng đã dọn sẵn thức ăn, đều là những thứ của ngon vật lạ. Tới khi giật mình trở về thực tại, chàng mới nhận ra mình đã ăn một phần rồi.

Những món trân quý đó chàng ăn mà không hề có cảm giác nào, thậm chí chẳng biết mình ăn khi nào.

Thật ra đừng nói tới ngon hay không ngon, ăn hay không ăn, tới thời gian trôi qua bao lâu chàng cũng không nhớ, hơi thở mình chàng cũng không rõ còn hay không. Chàng đã chìm sâu trong suy tư.

Bạch Thủy Cung chủ để yên cho chàng suy nghĩ, bình thản.

Đột nhiên, Phương Bửu Ngọc tung người đứng lên, cao giọng:

- Chiêu thứ nhất và chiêu thứ hai một chính một phản, chính tức phản, phản tức chính, bởi sự đảo điên đó mà cả hai uy lực mãnh liệt phi thường. Còn chiêu thứ ba lại quá ngược đời, xuất hai chiêu đầu mình có thể hạ sát đối phương ngay. uất chiêu cuối là tự mình đặt vào thế hiểm nguy, có thể mất mạng trong vị trí đó lắm. uất hai chiêu đầu nếu địch không bị hạ là mình nguy. Giết được địch thủ là mình nắm lấy cái sống, không được là mình nguy. Có thể nói đó là lúc dùng chiêu thứ ba, chiêu thức có vị trí tử, để từ tử trở về sinh. Sử ba chiêu đó mình làm cái việc luân phiên lưu chuyển sinh tử tử sinh, cuối cùng, đáng lẽ phải chết thì mình lại sống.

Chàng dừng một lúc, đoạn kết luận:

- Cái đạo lý huyền diệu của ba chiêu là thế. Tự nó mâu thuẫn lẫn nhau, tự nó tương hỗ cho nhau qua những chuyển tiếp kỳ diệu.

Đôi mắt chàng sáng rực lên, miệng điểm nụ cười. Chàng tiếp luôn:

- Cường đó rồi nhược đó, nhược đó mà lại cường đó, nối tiếp luân phiên, biến chuyển cục diện, giành phần tất thắng cho mình. Cho là ba chiêu khác biệt mà thật ra là có liên quan chặt chẽ.

Lần này, trong màn sa vọng ra tiếng cười. Bạch Thủy Cung chủ nhẹ nhàng thốt:

- Ngươi nói đúng lắm. Đó cũng là đạo lý cao thâm huyền diệu nhất trong võ học. Ngoài ngươi ra chẳng có ai có thể phân giải nổi một cách tường tận như thế.

Phương Bửu Ngọc nghiêng mình:

- Tuy Phương Bửu Ngọc này suy diễn ra, song nếu chẳng có cung chủ chỉ điểm cho thì vẫn còn mê muội, làm gì được khai thông mà thấy rõ chân lý đó?

Bạch Thủy Cung chủ mỉm cười:

- Tuy thế, ngươi cũng không nên tạ Ơn trước. Hãy tự hỏi mình ba chiêu đó tương quan hỗ trợ nhau như thế nào? Liệu ngươi có thể hợp nhất thành một chiêu hay không?

Phương Bửu Ngọc cúi đầu ngẫm nghĩ, đoạn thốt:

- Nếu dung hợp được thì hẳn sẽ có một chiêu vô địch. Nhưng dung hợp ba chiêu đó lại chẳng phải việc dễ dàng.

Bạch Thủy Cung chủ hỏi:

- Ngươi có thể làm được không?

Phương Bửu Ngọc trầm tư:

- Tại hạ hy vọng là vậy.

Bạch Thủy Cung chủ gật đầu:

- Thì ngươi hãy tự hỏi mình lần nữa xem. Phải làm thế nào để dung hợp ba chiêu thành một chiêu duy nhất được?

Nói dứt lời, bà xoay người bước đi. Màn sa mỏng phiêu bồng tựa mây...

Bà bước đi không thèm quay người nhìn lại đến một lần, bỏ mặc Phương Bửu Ngọc với vấn đề nan giải.

Chẳng những nan giải với Phương Bửu Ngọc, đó là vấn đề khó khăn của bất cứ nhân vật nào trên giang hồ.

Bởi chắc gì có người ứng phó được ba chiêu, những người chưa vượt qua ba chiêu thì sao có thể hiểu được chỗ huyền diệu của nó, làm sao dung hợp được thành một?

Phương Bửu Ngọc xuất thần, ánh mắt xa xăm thoáng bóng hình Bạch Thủy nương nương khuất dần bên ngoài tẩm cung.

Hồi 60

Đỉnh Vinh Quang

Thời khắc trôi chầm chậm, lâu, lâu lắm rồi.

Chẳng biết đã bao lâu từ lúc Thủy nương nương bỏ đi, và bao lâu đã trôi qua khi bà trở lại. Chỉ biết hiện giờ bà đang đứng lặng nhìn Phương Bửu Ngọc.

Bà nhìn chàng, thần sắc thản nhiên vô chừng.

Phương Bửu Ngọc thở ra mấy hơi dài, cất giọng trầm buồn thốt:

- Tại hạ lầm!

Bạch Thủy Cung chủ hỏi:

- Ngươi lầm? Lầm như thế nào?

Phương Bửu Ngọc từ từ trình bày:

- Có thể dung hợp chiêu thứ nhất và chiêu thứ hai làm một, nhưng nếu gộp luôn chiêu thứ ba vào đó thì hình như không thể được rồi. Trừ phi lúc động thủ, mình nhân cái vị trí chết của chiêu thứ ba mà xuất ra hai chiêu đầu. Cho nên, chỉ có thể lấy chiêu thứ ba làm bàn đạp để xuất hai chiêu kia, chứ khó mà dung hợp cả ba chiêu làm một được.

Bạch Thủy Cung chủ nói:

- Có phải ngươi muốn nói, đặt mình trong cái nhược để phát huy cái cường, làm như thế đối phương khinh cái nhược mà không phòng ngừa cái cường xuất phát sau đó bất thình lình, và nhờ đó mà mình có thể chiếm được cơ hội thủ thắng chăng?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Đúng thế! Nếu mình vừa vào cuộc đã đánh ra hai chiêu đầu thì đối phương có thể hoàn thủ, dù thắng dù bại cũng hoàn thủ được và như thế đối phương có cơ hội giành cái sống với mình. Còn nếu như thoạt đầu mà mình sử ngay chiêu thứ ba, đối phương sẽ hoang mang không biết thực lực của mình ra sao. Thừa dịp đó mà chuyển nhanh sang hai chiêu kia thì cầm chắc là đắc thủ.

Bạch Thủy Cung chủ lại hỏi:

- Nghĩa là ngươi cho rằng không thể dung hợp trọn ba chiêu thành một?

Phương Bửu Ngọc lắc đầu:

- Chắc chắn không thể được!

Bạch Thủy Cung chủ trầm ngâm một lúc:

- Trên thế gian này chẳng có một sự việc gì mà con người không thể làm được. Bất quá chỉ là việc khó và dễ, đã làm được và chưa làm được mà thôi. Ngươi thử suy nghĩ kỹ lại xem. Ta tin rồi ngươi sẽ làm được. Còn nếu như ngươi chưa nghĩ ra thì tốt hơn hết ngươi đừng rời khỏi Bạch Thủy Cung.

Phương Bửu Ngọc la lên:

- Tại sao?

Bạch Thủy Cung chủ lạnh lùng:

- Chẳng tại sao cả. Lẽ đơn giản là ngươi nếu không nghĩ ra được cách dung hợp ba chiêu, ngươi sẽ không làm sao đủ sức thoát khỏi nơi này!

Phương Bửu Ngọc cao giọng:

- Cung chủ, bà...

Chàng khỏi cần nói tiếp. Bởi vì chẳng có ai nghe chàng nói cả.

Bạch Thủy Cung chủ đã đi xa lắm rồi. Lần này, bà đi rất nhanh, không như lần trước-bà đi ung dung thong thả. Bà không muốn nghe chàng nói gì cả.

Không ra được, thì Phương Bửu Ngọc phải suy nghĩ, phải cố gắng suy nghĩ mà tìm ra cách dung hợp ba chiêu. Chàng nghiên cứu hết hai ngày ba đêm nữa.

Đúng hai ngày ba đêm sau, Bạch Thủy Cung chủ trở lại. Bà hỏi ngay:

- Đã tìm ra cách chưa?

Phương Bửu Ngọc lắc đầu:

- Tại hạ cho rằng không thể được. Dù thật sự có cách nào đó, tại hạ thú thật, không thể nghĩ ra!

Bạch Thủy Cung chủ điềm nhiên:

- Tốt! Vậy ngươi nên nghỉ đi một lúc cho tâm thần ổn định lại.

Chúng ta sẽ bàn tiếp sau.

Bà bước ra liền sau khi câu nói ngắn ngủi dứt. Khi bà trở lại lần thứ ba, Phương Bửu Ngọc còn đang ngủ. Chàng ngủ ngay trên nền tẩm cung, tuy ngủ nhưng mắt chàng vẫn mở trao tráo. Bạch Thủy Cung chủ vừa bước vào, chàng nhận thấy ngay. Bà lại hỏi:

- Đã tìm ra cách chưa?

Phương Bửu Ngọc nhìn chân bà chứ không dám nhìn lên mặt:

- Tại hạ vẫn...

Bỗng chàng tung mình lên, xoay người đáp xuống kêu lớn:

- Rồi! Tại hạ đã nghĩ ra rồi! Nghĩ ra rồi!

Mừng vui quá đỗi, chàng chạy lòng vòng trong tẩm cung như trẻ nhỏ. Đoạn chàng dừng lại trước mặt cung chủ, thở hào hển, nói:

- Phải! Hai chiêu đầu không hẳn là phải đứng trong một vị trí mà đánh ra. Cũng có thể đứng trong vị trí như chiêu thứ ba. Bất quá ta chỉ cần thay đổi tư thế một chút. Với tư thế mới đó, bất luận từ góc độ nào mình cũng có thể đánh rạ..

Đến lượt cung chủ kêu lên:

- Thật thế sao?

Phương Bửu Ngọc cao giọng:

- Giả làm sao được cung chủ?

Bạch Thủy Cung chủ trầm lặng một lúc lâu, ánh mắt bà mơ màng vọng hướng nơi vô định. Trong ánh mắt đó ẩn giấu cả quá khứ và tương lai... Cuối cùng, bà nói:

- Tốt lắm!.... Tốt lắm!.... Tốt lắm!....

Bà nói hai chữ đó đến sáu bảy lượt. Đoạn cao giọng hỏi:

- Ngươi đã hợp nhất được ba chiêu thành một, như vậy có thể nói bây giờ ngươi đã là vô địch thiên hạ rồi! Đã là vô địch sao ngươi còn chưa chịu đi? Còn ai có thể ngăn cản ngươi nữa?

Phương Bửu Ngọc gật đầu:

- Cung chủ nói rất đúng!

Chàng quay mình bước ra cửa cung. Bạch Thủy Cung chủ không ngăn cản. Bà nhẹ buông một tiếng thở dài.

Tiếng thở dài ấy tuy nhẹ, song Phương Bửu Ngọc đã nghe thấy.

Chàng dừng chân, quay mình lại nói:

- Tại hạ chưa đi được!

Bạch Thủy Cung chủ hỏi:

- Ngươi còn việc chi nữa chăng? Ta đã nói rồi, hiện giờ dù ngươi muốn hỏi gì ta cũng không trả lời đâu. Tuy nhiên, một ngày nào đó ngươi trở lại đây, rất có thể tạ..

Phương Bửu Ngọc chặn lời:

- Không phải việc đó, cung chủ! Điều tại hạ muốn nói là... tại hạ không phải đến một mình, thì cũng không thể một mình ra đị..

Tấm sa mỏng trên mặt Bạch Thủy Cung chủ khẽ lay động, không hiểu có phải bà cười nhẹ hay không. Bà dịu dàng hỏi:

- Ngươi định chờ tiểu công chúa?

Phương Bửu Ngọc nói từng tiếng:

- Đúng như vậy!

Bạch Thủy Cung chủ lắc đầu:

- Nàng chưa đi được đâu. Nếu ngươi đợi nàng, chỉ sợ sẽ phải chờ lâu lắm.

Phương Bửu Ngọc lạnh lùng:

- Dù là một năm, hay trọn đời này, tại hạ vẫn chờ.

Bạch Thủy Cung chủ trầm giọng:

- Ngươi chịu chờ nàng trọn đời? Thật như thế sao?

Phương Bửu Ngọc từ từ cúi đầu, giọng chàng ảm đạm:

- Chắc là phải vậy đó, cung chủ!

Chàng thở dài nói tiếp:

- Bao nhiêu việc trọng đại đang chờ đợi tại hạ ngoài chuyện cá nhân, nhất là cuộc chiến sắp tới với người áo trắng từ Đông Doanh tam đảo tới. Bất kể với giá nào, tại hạ không thể vắng mặt, tại hạ sao có thể để toàn thể võ lâm thất vọng được...

Chàng vụt ngẩng đâu, giọng run run nói tiếp:

- Muốn thắng cuộc chiến đó, tại hạ cần sự có mặt của nàng bên cạnh. Không có nàng, tại hạ không còn hy vọng!

Cung chủ điềm nhiên hỏi:

- Tại sao?

Phương Bửu Ngọc cười thảm:

- Tại hạ sống được tới hôm nay sở dĩ bởi hai người. Phải, chỉ có hai người thôi. Một là người áo trắng, tại hạ cần phải sống để thắng y, một người khác là nàng. Nếu trên đời này tại hạ có thể tạo dựng tiếng tăm sự nghiệp gì, thì đó là vì nàng, cho nàng. Nếu không có nàng thì tại hạ phải xây dựng sự nghiệp làm gì? Tại ha.....

Chàng khóc.

Đưa tay lau mấy dòng lệ không kìm nén nổi, chàng cao giọng nói tiếp:

- Nếu không có người áo trắng, tại hạ làm gì đạt được thành tựu võ công như thế này, nếu không có nàng, làm gì tại hạ còn tồn tại tới ngày hôm nay!

Bạch Thủy Cung chủ trầm ngâm một lúc lâu. Bà nhìn chàng rồi từ từ nói:

- Những lời nói đó tại sao ngươi không nói thẳng với nàng? Ta không ngờ, thế gian chắc cũng không ai ngờ được Phương Bửu Ngọc lại là kẻ si tình tới độ lấy ái tình làm lẽ sống như thế.

Phương Bửu Ngọc lại cúi đầu:

- Nàng có tính khí quật cường vô cùng. Luôn luôn không bao giờ chịu để tại hạ hơn nàng về bất cứ mặt nào. Nàng có biết đâu tại hạ phải sử tới trí thông minh là để chuẩn bị đối phó với người áo trắng, nào phải nhằm mục đích hơn nàng? Thực ra, dù có hơn nàng, tại hạ cũng vui lòng nhận thua, bất cứ việc gì tại hạ cũng sẵn sàng nhận thua nàng hết. Cung chủ thử nghĩ xem, những việc như vậy làm sao tại hạ có thể nói thẳng với nàng? Làm sao nàng tin tại hạ? Huống chi nếu nàng biết là vì yêu nàng mà tại hạ sẵn sàng chịu kém, thì điều đó càng khiến nàng tự ái hơn. Tự ái và tính khí quật cường ấy sẽ phân cách nàng với tại hạ, vĩnh viễn!....

Bạch Thủy Cung chủ thở dài:

- Nếu đổi lại là ta, ta sẽ tin ngay. Nếu đổi lại là ta, nhất định ta sẽ không hờ hững với mối chân tình như thế. Tiếc là...

Từ phía sau bức màn gấm, bỗng có giọng nghẹn ngào thốt:

- Ta tin! Bây giờ thì ta tin rồi!....

Câu nói buông dứt, một bóng người tha thướt vén màn lao ra, lao luôn vào lòng Phương Bửu Ngọc.

Đó là một nữ nhân tóc dài buông xõa, mớ tóc bay phất phơ theo đà vút tới phủ lên mặt chàng, đáp trên vai chàng, mớ tóc trùm cả hai tạo thành một khối.

Gương mặt nữ nhân có vẻ tiều tụy, nhưng sắc đẹp của nàng không giảm sút mà dường như vẻ đẹp còn sâu hơn.

Nàng chính là Tiểu công chúa.

Phương Bửu Ngọc chỉ kịp mở rộng vòng tay, ôm lấy tấm thân mảnh mai ấy vào lòng.

Thân ngọc trong tay chàng nhẹ hẫng, nàng đã đồng ý trao trọn thể xác cũng như linh hồn cho chàng.

Nàng buông mình, như thể xác nhận câu nói vừa rồi, nàng tin tưởng nơi chàng.

Phương Bửu Ngọc một tay ghì siết tấm ngọc, một tay vuốt ve từ tóc xuống lưng, rồi lại từ lưng ngược lên vai mềm...

Lâu lắm rồi, bàn tay của chàng chưa chạm tới làn da mềm mại của nàng. Chàng đưa tay nâng nhẹ cằm nàng. Nàng ngẩng mặt lên, mắt nhìn mắt, chàng dịu dàng thốt:

- Hiền muội, muội ốm quá!

Hiền muội!

Phải! Có gì ngăn trở chàng nói lên hai tiếng đó. Từ nay, hai tiếng cô nương phải rút lui nhường chỗ cho hai tiếng hiền muội thân thiết nồng nàn hơn. Nàng nũng nịu thiết tha:

- Tại ca ca đó. Đền cho muội đi. Làm sao cho bằng xưa thì làm.

Tất nhiên rồi! Cần gì nàng nói. Nếu thịt chàng có thể khiến nàng trở lại như xưa ngay tức khắc, thì chàng lập tức lóc từng mảnh thịt cho nàng ăn không hối tiếc.

Mỗi người chỉ nói một câu ngắn ngủi, song gồm đủ những tình cảm chất chứa trong bảy năm qua và cả những hứa hẹn tương lai.

Bên trong bức màn có hai tiếng thở nhẹ của bậc cao niên. Trong tiếng thở dài như có cả niềm vui...

Tiếc là Phương Bửu Ngọc không nghe thấy hai tiếng thở dài đó.

Nhưng Bạch Thủy Cung chủ thì nghe rất rõ. Bà quay mặt lại phía sau, dịu giọng thốt:

- Mong tất cả những người hữu tình trong thiên hạ tụ họp nhau lại thành một đại gia đình!

Bảy năm trôi qua!

Bảy năm, vật đổi sao dời, bao nhiêu kẻ tử người sinh.

Nơi nào có sự thay đổi, chứ bờ biển này vẫn y như ngày nào. Có chăng giờ đây hình ảnh chiếc thuyền buồm ngũ sắc đã tan biến theo bọt sóng trùng dương.

Cho dù chiếc thuyền buồm đó còn lại trên đời, hẳn nó cũng chẳng đậu lại nơi đây đến muôn đời. Bất quá mỗi năm nó đến một lần, rồi sau đó lại ra khơi để năm sau trở lại.

Nhưng suốt bảy năm nay, nó đã không hề trở lại. Khách giang hồ chỉ hay rằng Tử Y Hầu đã chết, chứ không ai biết số phận chiếc thuyền buồm ra sao.

Bảy năm qua, cảnh sắc bờ biển vẫn không có gì thay đổi. Nhưng sáu năm đầu, chẳng một ai dám tới đây ngắm cảnh trời mây, nhìn sóng bạc đầu, bởi vẫn còn đó, ấn tượng về một cuộc chiến hãi hùng.

Đến năm nay, hạn định bảy năm kia đã đến, đương nhiên bờ biển phải có ngày náo nhiệt.

Và từ đầu năm đã có kẻ đến nơi đây trước rồi.

Ai đến đây, do hiếu kỳ mà tới hay do nóng nảy mà tới, chứ không ai đến để nghinh đón người áo trắng, cùng y khai diễn một cuộc chiến định đoạt vận mệnh võ lâm Trung Nguyên.

Cho nên, họ háo hức gặp lại người áo trắng để có cái ý thức là cuộc chiến không hề được hoãn lại một thời gian nào khác, vậy thôi. Và họ phải tránh gặp mặt người áo trắng, càng tránh được bao lâu càng hay.

Không rõ những kẻ hiếu kỳ ẩn mình nơi đâu, chứ hiện giờ thì bờ biển vẫn vắng vẻ... Không một bóng người.

Không!

Thật ra bờ biển không hoàn toàn vắng vẻ, bởi có bóng một người.

Người này mặc áo trắng, người đó cũng không thay đổi dáng hình dung mạo, dù thời gian bảy năm không phải là ngắn.

Người đó chính là Bạch Y Kiếm Khách, người mà toàn thể võ lâm đang chờ đợi, trong háo hức, e sơ.....

Màu áo trắng quá, như sự tinh khiết của một người cả đời hết lòng nghiên cứu võ học. Mớ tóc đen dài buông xoã của y làm nổi bật hơn màu áo trắng. Mớ tóc đang phất phới trên đầu y, trước mặt ỵ..

Y đứng thẳng người, dáng vẻ oai nghiêm kinh khiếp.

Thoáng nhìn qua, dường như không có gì thay đổi nơi y. Nhưng thật ra đã có sự biến đổi.

Đó là ở đôi mắt.

Đôi mắt y sáng lạ lùng, sáng hơn bảy năm về trước. Thanh kiếm của y vẫn ngời sáng như ngày nào. Có lẽ bảy năm qua y không hề lơi là việc lau chùi thanh kiếm, mà mỗi lần đụng tới là nâng niu trân trọng, bởi thanh kiếm là người bạn đường duy nhất của y trong chuyến vượt trùng dương tới Trung Nguyên hoàn thành ước hẹn.

Y đã tới đây ba hôm rồi.

Trong ba ngày đã có không ít máu chảy đầu rơi.

Bởi, như đã nói, đã có không ít người đến đây từ đầu năm. Khi người áo trắng xuất hiện, số hào kiệt quy tụ cũng khá đông rồi.

Thoạt đầu, không ai là không e ngại y nên không ai ra mặt.

Nhưng cái cảnh trốn tránh chui rúc cũng nhàm. Hơn nữa họ nghĩ, dù sao cũng là những tay hùng cứ một phương, ngang dọc giang hồ bao năm, chẳng lẽ lại khiếp nhược chưa đánh đã thua.

Cuối cùng thì cũng ngứa ngáy chân tay mà chạm mặt.

Nhưng, chạm mặt với người áo trắng kể như chán sống rồi. Bảy năm trước, có ai từng thoát chết dưới đường kiếm của y chăng? Trừ một người Thanh Bình kiếm khách mà y hạ tay nương tình, và một Tử Y Hầu. Song Tử Y Hầu sau đó cũng đã chết vì cạn kiệt chân khí.

Một khoảng thời gian bảy năm đem lại bao nhiêu tinh tiến cho người dốc tâm lực tu vi?

Ngày nay người áo trắng hẳn còn ghê gớm hơn ngày trước. Đường kiếm tuyệt diệu nay hẳn lại càng tuyệt diệu hơn.

Thử hỏi cao thủ Trung Nguyên mong gì tranh tài với y?

Một người chết! Hai người chết! Ba người chết! Nhiều người chết.

Hào kiệt anh hùng nối nhau gục ngã dưới đường kiếm của y. Thanh kiếm của y khô sáng, nhưng dường như vẫn thấy từng giọt máu nhỏ xuống...

Không lâu lắm, quần hùng từ các nơi đổ dồn về ba ngày một. Ba hôm trước họ đã đến, như họ đã từng đến ba ngày trước đó nữa.

Mỗi lần tới, đến thì nhiều mà người về thì ít, họ đã đi con đường viễn du dưới lưỡi kiếm của người áo trắng. Hôm nay, sẽ lại có bao nhiêu người tiếp tục nối bước viễn du, để cho đồng đạo võ lâm phải uất hận trong khi chờ tới lượt mình?

Sau lưng người áo trắng là mặt biển mênh mang, trước mặt y giờ quần hùng đã quy tụ. Y đưa đôi mắt lạnh lẽo nhìn khắp quần hùng, nói:

- Bảy năm! Bảy năm qua rồi mà võ học Trung Nguyên không hề tinh tiến mảy may. Sau Tử Y Hầu, võ lâm Trung Nguyên đã chìm lặng rồi sao?

Biển người trước mặt y im thin thít, không ai dám đáp lại câu nói mỉa mai của y.

Họ không nói gì, nhưng máu nóng trong người họ sôi sục, dòng máu anh hùng biết giận nhưng cũng biết mình bất lực.

Họ muốn lướt tới, trăm người một lượt, ngàn người một lượt...

Nhưng để làm gì?

Trong ba ngày qua đã bao người gục ngã? Họ đều là những người một thân tuyệt kỹ, mà với tuyệt kỹ đó họ có thể đứng vững trên giang hồ. Họ không phải là những kẻ hữu danh vô thực, nhưng họ cũng đã gục ngã. Liệu những người tới sau có gì hơn những người đến trước?

Còn nếu như muốn dùng thịt đè người, lấy số đông mà mong áp đảo Bạch Y kiếm khách thì lại là một điều quá ư buồn cười.

Càng đông lại càng khiến nhau vướng bận. Bạch Y kiếm khách có thể không cần chọn đích, y cứ vung kiếm một nhát đánh ra thì năm bảy người gục.

Y có thể vung kiếm suốt ngày, song quần hùng có là những con thiêu thân chăng?

Từ xưa tới nay có ai nghe nói thiêu thân lao vào lửa có thể dập tắt lửa chăng?

Thế nên tất cả đứng nguyên tại chỗ. Tất cả cố tiêu hóa cái câu nói mỉa mai đó của người áo trắng.

Tất cả đều uất hận, nhưng chính người người uất hận nhất lại chính là người áo trắng. Câu nói mỉa mai của y không kẻ nào dám phản ứng lại, mang lại cho y sự thất vọng vô biên.

Chờ đợi đúng bảy năm, vượt trùng dương từ Đông Doanh tam đảo xa xôi tới đây mà vẫn không tìm ra được một đối thủ. Tại sao võ lâm Trung Nguyên lại thiếu vắng người tài tới thế?

Bỗng từ trong đám đông có tiếng kẻ nào đó vọng lên:

- Công Tôn Bất Trí! Các hạ trốn ở xó nào rồi? Phương Bửu Ngọc chưa đến, Phương Bửu Ngọc hắn không dám đến, thì các hạ phải thay thế hắn chứ? Làm cái việc thanh bình cho thiên hạ mà các hạ cũng không có gan làm nữa hay sao?

Âm thanh đó rất trong trẻo, chứng tỏ người vừa thốt ra là một nữ nhân.

Quần hùng đang yên lặng bỗng dao động lên như mặt hồ bình lặng gặp cơn gió mạnh xô đùa.

Một vài người cao giọng phụ họa, dù là không hiểu họ có biết Công Tôn Bất Trí là ai không:

- Phải đó, rất phải! Phương Bửu Ngọc không dám đến, đương nhiên Công Tôn Bất Trí phải ra mặt. Vô luận thế nào Công Tôn Bất Trí cũng không thể đứng yên mà nhìn đồng đạo võ lâm ngã gục vô ích.

Một vài người, rồi nhiều người phụ họa, rồi toàn thể võ lầm cũng hò hét vang ầm cả lên, tiếng thét lấn át cả tiếng sóng gầm. Từ trong đám đông, một người chạy lên, cao giọng nói:

- Công Tôn Bất Trí và Mạc Bất Khuất phân công nhau đi khắp nẻo giang hồ tìm Phương Bửu Ngọc. Giả như quần hùng muốn cho cả hai phải chết thì Kim Tổ Lâm này xin thay họ mà chết trước!

Y thủ một ngọn Hoa Thương, vừa thốt lên vừa chạy thẳng về phía người áo trắng.

Người áo trắng vẫn đứng yên, lạnh lùng nhìn Kim Tổ Lâm.

Y bình thản chờ Kim Tổ Lâm đến gần, đoạn nhích động thân hình, Kim Tổ Lâm thẳng trớn không kìm nổi lao thẳng ra hướng biển.

Người áo trắng cười lạnh:

- Tại hạ vì võ đạo mà tới đây chứ chẳng phải để nhìn những kẻ ngu xuẩn chết dưới thanh kiếm này. Nếu hiếu thắng ngông cuồng, chẳng hiểu gì về võ đạo, nghĩ rằng cứ phải lấy cái chết để chứng tỏ thân phận trượng phu thì cứ tìm cách nào đó mà chết, đừng làm bẩn thanh kiếm của ta. Những ai am tường võ đạo cứ bước ra, những ai quen thói vũ phu thì xin lùi lại, ta không có thời gian làm công việc của tên đao phủ đâu!

Chạy xuống biển đến khi nước ngang ngực, Kim Tổ Lâm mới dừng lại được. Lúc này người áo trắng đã nói xong rồi.

Y quay mình nhìn người áo trắng, sửng sốt.

Y không còn chút dũng khí nào để có thể bước quay lại bờ nữa.

Trong khi đó, quần hùng đưa mắt nhìn nhau, cơn xáo động bỗng chốc tắt liền. Một biển người im lặng, như ngàn bức tượng gỗ sắp thành hàng trước mặt người áo trắng. Người hận, người chán cúi đầu chẳng muốn nhìn ai.

Người áo trắng lại ngửa mặt lên, thở dài:

- Trời đất mang mang, võ lâm nhân số đông hơn cát sông Hằng.

Thế mà ta chẳng gặp một ai khả dĩ gọi là đối thủ. Người tài hiếm lắm thay. Rồi ra võ đạo cũng phải chìm sâu trong bụi thời gian, ngàn sau còn có ai biết đến võ đạo là gì nữa. Bây giờ võ đạo đã suy vi thê thảm lắm rồi.

Y tặc lưỡi:

- Giết! Giết tất cả, lấy máu của họ nhuộm hồng biển rộng này để làm gì chứ? Ta có thể cứu nguy cho võ đạo được đâu? Buồn thay cho kiếp vận của nền võ học.

Cánh tay mang thanh trường kiếm của y buông thõng xuống, như thể treo vào đó ngàn cân đá tảng. Y đưa tay kia khoát khoát về phía quần hùng:

- Đi! Hãy đi đi! Đi hết đi! Đừng kẻ nào ở lại! Ta tha chết cho tất cả!

Sét nổ bên tai cũng không làm quần hùng chấn động bằng mấy câu nói này của người áo trắng.

Tha chết, tha chết cho tất cả! Mà là tất cả võ lâm Trung Nguyên!

Thế là tha cho kiếp vận của võ lâm Trung Nguyên!

Nhục nhã!

Võ lâm Trung Nguyên nhục! Cái nhục của họ là đã không giữ được thể diện của võ lâm Trung Nguyên. Hay nói cách khác, những phần tử ưu tú của võ lâm Trung Nguyên đều có mặt ở đó bị sỉ nhục.

Họ thà chết còn hơn nghe người áo trắng nói mấy câu đó. Thà họ bị giết như những con hổ kiêu hùng dưới tay kẻ đi săn, còn hơn như một con chó cúp đuôi thế này.

Nhưng, biết rửa nỗi nhục đó bằng cách nào?

Kim Tổ Lâm bật khóc. Y gào lên:

- Cao xanh! Cao xanh! Ngoài Phương Bửu Ngọc ra trên thế gian không còn ai là đối thủ của hắn hay sao? Không ai dám động thủ với hắn nữa sao? Võ lâm không lẽ chỉ có Phương Bửu Ngọc một cột chống trời? Giả như Phương Bửu Ngọc không đến, quần hào phải chịu cúi đầu nghe hắn sỉ nhục?...

Mỗi lời của Kim Tổ Lâm như những nhát roi quất vào mặt hào kiệt giang hồ.

Mọi người đều đã khóc.

Những tay chọc trời khuấy nước, nghênh ngang một thủa, giờ đây thảy đều thúc thủ nghe người ta lăng nhục.

Không phải họ sợ chết! Nhưng chết mà không cứu vãn được tình thế, chết cũng vô ích, chết cũng không rửa được nỗi nhục.

Tuy nhiên cũng có người không nhẫn nhịn được.

Trong đám đông có một tiếng cười lạnh vang lên, nối tiếp là một giọng nói lạnh không kém:

- Phương Bửu Ngọc! Hắn đã là cái quái gì? Nếu gặp ta, ta giết hắn không chớp mắt. Sở dĩ ta chưa xuất thủ là muốn coi bọn người ngốc nghếch các ngươi còn nạp mạng cho hổ đói được bao nhiêu người nữa.

Các ngươi cứ lao đầu vào mà chịu chết, chết cho hết đi rồi ta ra tay cũng chẳng muộn.

Giọng nói đó, do chính người đã phát xuất đầu tiên, gọi tên Công Tôn Bất Trí lúc vừa rồi.

Người đó là một nữ nhân.

Quần hùng giật mình, song chẳng ai biết được nhân vật đó là người nào.

Nữ nhân đó tiếp:

- Làm gì các ngươi thừ người ra như những xác chết thế? Tại sao chưa tránh qua hai bên để nhường lối cho ta tiến tới? Để ta coi tên tiểu tử áo trắng kia tài ba thế nào mà lại dám coi thường thiên hạ tới thế.

Tưởng như trên thế gian có mỗi một hắn thôi chắc?

Người áo trắng thoáng biến sắc. Ánh mắt của y ngời lên, chờ xem cái người lớn tiếng đó là ai.

Rần rần, biển người dao động, rẽ làm hai tại trung tâm, một con đường lớn hiện ra liền.

Theo con đường đó, bốn người thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần khiêng một chiếc kiệu đi vào.

Ngồi trên chiếc kiệu là một nữ nhân tuổi đã trung niên, trên gương mặt đã có những đường nhăn. Thế mà, ánh mắt của bà vẫn còn ma lực kinh hồn, nhìn nam nhân nào, nam nhân đó phải ngây ngất.

Tóc bà vấn cao, trên tóc cài trâm ngọc, trên mình khoác áo gấm tỏ vẻ sang quý.

Điều lạ lùng là trên mình bà có tám thanh kiếm thuộc loại kiếm dài, ánh thép ngời ngời, tỏ rõ là những thanh kiếm báu.

Quần hùng có kẻ nhận ra bà, kêu lên thất thanh:

- Nữ ma đầu Vương Đại Nương! Có phải là bà ấy không?

Một người khác nói:

- Còn ai nữa? Đúng là bà ta rồi! Nghe nói chính Công Tôn Hồng cũng bị bà ta đánh bại. Bà ta đủ sức làm địch thủ của người áo trắng lắm!

Một truyền mười, mười truyền trăm. Cả biển người trong cơn tuyệt vọng vụt hứng khởi trở lại.

Trong trường hợp này, vô luận là ai, hắc bạch giáo, trộm cắp, gian manh dâm tặc... nếu là địch thủ của người áo trắng thì đều được hoan nghênh như thần tượng.

Chưa cần biết có thắng nổi người áo trắng không, nhưng Vương Đại Nương đã được võ lâm coi như đệ nhất anh thư!

Phải, bà ấy chính là Vương đại nương!

Không hẹn mà quần hùng rập nhau hô vang dậy, tiếng hô chấn động cả một góc trời.

Vương Đại Nương đảo mắt nhìn quanh một vòng, miệng nở một nụ cười.

Người áo trắng vẫn bình thản như không. Y lạnh lùng nhìn Vương Đại Nương, buông một câu gọn lỏn:

- Thì ra là một nữ nhân!

Vương Đại Nương cười mỉa:

- Nữ nhân thì sao? Nữ nhân vẫn có thể giết được ngươi như thường!

Người áo trắng thở dài khoát tay:

- Ngươi đi đi! Bình sinh ta không thích động thủ với nữ nhân!

Vương Đại Nương bĩu môi:

- Ngươi có muốn không động thủ cũng không được!

Bà từ từ phẩy nhẹ tay.

Hai đạo kiếm quang chớp lên, xẹt thẳng tới.

Dù bà dùng tay, kiếm vẫn nhanh như thường, nhanh hơn mũi tên rời cung.

Hai đạo kiếm quang đó làm gì được người áo trắng?

Bởi người áo trắng đang nhìn bà, dù là không chú ý lắm cũng là nhìn, và hẳn là thấy những cử động của bà. Một tay kiếm thông thường cũng có thể tránh được hai đường kiếm đó, huống chi là người áo trắng.

Thế thì tại sao Vương Đại Nương lại phóng ra? Như thế có phải là phí phạm hai thanh kiếm không? Gặp đại địch mà số ám khí trong mình hao hụt một cách vô ích, đúng là một cái bại lớn rồi.

Chẳng qua bà dụ địch mà thôi.

Chỉ cần người áo trắng khẽ nhích động thân hình thôi, là bà xuất phát tuyệt học của mình ngay.

Tuyệt học đó là kiếm pháp Tử Mẫu Truy Hồn Sát Thủ. Hai lưỡi kiếm bay ra, một trước một sau nhưng lưỡi phóng sau tới đích trước, và sau cùng để công thật sự, còn trước chỉ dùng để nhử địch mà thôi.

Hai đạo kiếm quang này bay ra là để dọn đường cho Tử Mẫu Truy Hồn Sát Thủ kiếm pháp mà thôi.

Nhưng người áo trắng không hề nhích động thân hình. Y chỉ vung tay lên, một vệt sáng lạnh chớp ngời, rồi tiếng thép ngân dài như một điệu nhạc du dương bất tận.

Chừng như không có tiếng va chạm nào vang lên, nếu có thì tiếng động đó cũng quá nhỏ. Thanh kiếm đón đỡ hai làn kiếm quang của Vương Đại Nương tạo thành bốn đạo ngắn hơn, bốn đạo đó chỉ lóe lên rồi tắt lịm.

Quanh chỗ đứng của người áo trắng bốn đoạn kiếm nằm phơi lộ trước mắt quần hùng.

Lập tức, hai đạo kiếm quang chớp lên. Vương Đại Nương không chờ đôi kiếm trước rơi xuống đất, cùng lúc khi người áo trắng nhích động cánh tay, bà cũng phẩy tay, phóng tiếp hai thanh kiếm khác.

Bốn đoạn kiếm vừa chạm đất, hai đạo kiếm quang khác đã nối tiếp trên đường hướng tới chỗ người áo trắng liền.

Trường kiếm nơi tay đã được vung lên, ngăn chặn hai đạo kiếm quang trước chưa kịp thu về thì hai đạo kiếm quang sau đã tới nơi, hiển nhiên người áo trắng không thể dùng kiếm nghinh đón kịp thời, y phải nhích động thân hình sang một bên để né tránh.

Thân hình y còn chưa nhích động, một đạo kiếm quang thứ năm đã vút tới liền, chặn ngay trước mặt y theo hướng chuyển động.

Người áo trắng chớp mắt bật cười:

- Khá! Khá lắm!

Tiếng cười vừa dứt, y đã rời xa khỏi vị trí hơn hai thước, từ chỗ đứng, y nhún chân nhảy vút lên cao, uốn người vòng xuống đáp phía hậu.

Đạo kiếm quang thứ sáu xẹt tới.

Đạo kiếm quang này chớp lên gần như đồng thời với cái nhún chân của người áo trắng. Khi y vừa đáp xuống thì đạo kiếm quang này đã ở sát bên rồi.

Cái diệu của cách phóng kiếm của Vương Đại Nương là thoạt đầu, kiếm quang vút tới từ từ, nếu cứ ước độ theo tốc độ của kiếm quang mà chờ hóa giải thì không kịp, bởi, khi gần tới đích, tức là trước mặt người áo trắng thì đột nhiên kiếm quang lại tăng tốc độ, bay quá nhanh. Đó là một điều trái ngược với lý thường xưa nay vậy.

Trước thế tấn công ảo diệu của Vương Đại Nương, người áo trắng không có chỗ lùi mà cũng không còn chỗ tiến, có tạt qua trái phải gì cũng không kịp.

Quần hùng tin tưởng Vương Đại Nương phải đắc thủ, liền reo hò vang dội.

Nhưng họ mừng chẳng được lâu.

Trong khi họ tưởng đâu người áo trắng vô phương né tránh, hẳn nhiên y phải chết dưới đạo kiếm quang thứ sáu của Vương Đại Nương, thì y lại ung dung nhún chân tung bổng người lên không.

Vương Đại Nương biến sắc, lập tức rời chiếc kiệu, tung người lên không theo. Còn hai thanh kiếm nơi tay, bà không phóng đi nữa mà cầm mỗi tay một kiếm, và vừa chuyển đà vọt tới đối phương vừa vung tay chém tới liền.

Bà hét lên:

- Ngươi giỏi lắm! Liệu ngươi tránh được hai kiếm này chăng?

Kiếm quang chớp lên, một bên hai đạo, bên kia một đạo, ba làn chớp sáng xẹt ra nghinh nhau như giao long quấn lộn vào nhau.

Có tiếng động rất khẽ vang lên, người áo trắng lộn mình một vòng, chiếc áo rộng của y căng gió, phiêu phiêu phất phất tà tà đỡ y chạm đất.

Bên kia, Vương Đại Nương không đáp xuống, mà bà rơi theo sức nặng của thân mình. Bà rớt bịch trên cát, mình nằm ngửa, tay vẫn còn giữ thanh kiếm. Giữa đôi mày của bà, người ta nhìn thấy một vết thương nhỏ do mũi kiếm chọc vào.

Bà đã bất động.

Trọn đời làm việc ác, cuối cùng lại đem sinh mạng tạ lại cho võ lâm. Dẫu sao, bà cũng chết cho võ lâm Trung Nguyên.

Bà sống trong nhục nhã, trong sự khinh miệt của toàn thể anh hùng hào kiệt trên giang hồ. Nhưng bà chết trong vinh quang.

Giả như lúc này còn có người nào giữ thành kiến xưa mà nhìn thấy bà nằm ngửa trên cát, với vết thương nơi chân mày kia, thì cũng sẽ xóa bỏ thành kiến mà chuyển sang thương xót bà.

Huống hồ phần đông đã sẵn sàng quên những thành tích bất hảo của bà ngay từ lúc bà thách đấu với người áo trắng?

Tất cả đều cúi đầu, không nỡ nhìn xác của bà. Ngàn người như một, chung một tiếng thở dài.

Người áo trắng ngưng ánh mắt nơi mũi kiếm, vài giọt máu tươi vẫn còn đọng nơi đó, từ từ thấm từng giọt xuống nền cát ẩm, miệng y lẩm nhẩm:

- Nữ nhân! Ta cũng không ngờ có một nữ nhân học võ tới mức thành tựu như vậy.

Bỗng Kim Tổ Lâm nhảy như con choi choi, như thể dưới chân y là than hồng. Y gào lên chẳng khác một tên điên:

- Nhìn kìa! Cái gì thế kia?... Cái gì thế?... Hở?...

Người áo trắng cũng quay đầu lại. Mặt y thoáng đổi sắc liền.

Trên mặt biển thoáng hiện một cánh buồm nơi xa.

Cánh buồm lớn dần, rõ ràng dần, phô ra trên sóng năm màu chói lọi.

- - Quần hùng cũng trông thấy cánh buồm đó, như người áo trắng.

Một cánh buồm ngũ sắc!

Bảy năm trước, cánh buồm tượng trưng cho một uy lực vô biên.

Chủ nhân của cánh buồm đó đã buộc được người áo trắng phải trở về Đông Doanh tam đảo học nghệ thêm bảy năm.

Bảy năm đã hết. Người áo trắng đã trở lại.

Tử Y Hầu đã không còn. Nhưng cánh buồm ngũ sắc cũng đã trở lại.

Không cần biết người trên thuyền là ai, người năm xưa hay người mới, nhưng chỉ cần cánh buồm ngũ sắc xuất hiện, toàn thể võ lâm lại hy vọng, một niềm phấn khởi vô cùng.

Không hẹn mà toàn thể đều hò reo vang dậy, cùng chạy như bay tới sát mép nước để nhìn cho rõ hơn.

Có người quá cao hứng, chạy thẳng ra ngoài biển, tới khi nước tới cổ tới ngực họ mới chịu dừng lại. Họ đang ở phía trước người áo trắng.

Y quay mình lại thành ra họ Ở phía sau, bây giờ họ chạy lên trước, thành ra họ lại ở phía trước người áo trắng.

Bởi người áo trắng vẫn không nhích động, từ khi quay mình theo hướng chỉ của Kim Tổ Lâm.

Quần hùng ào tới, nhưng cũng không ai dám bén mảng tới gần y quá. Thành ra thay vì chạy ngang qua y, họ vòng ra xa.

Cả một khoảng chu vi tới mấy trượng vuông dành riêng cho y đứng. Những người không đến gần mé nước thì đành đứng phía sau đồng đạo võ lâm, không ai dám chen chúc lên trên, tránh đặt chân phải vùng chu vi mấy trượng vuông đó.

Y cũng đang nhìn cánh buồm ngũ sắc, thần sắc của y vẫn lạnh lùng thản nhiên như thường.

Hiện tại, không ai đoán được y đang mừng hay lo.

Y mừng vì có thể trên chiếc thuyền ngũ sắc kia có một đối thủ đáng để y so tài vũ đạo. Y cũng có thể lo vì nếu gặp phải kình địch, y có thể không thủ thắng nổi.

Dốc tâm vì võ học, thì thắng hay bại cũng không thành vấn đề, nhưng dù sao thắng vẫn hơn bại.

Quần hùng vẫn không ngớt hò reo. Tiếng reo hò từng đợt, từng đợt, như những cơn sóng ngoài khơi cuốn vào bờ. Tiếng sóng tiếng người hợp thành một, chấn động một vùng Đông Hải.

Chiếc thuyền đó hiển nhiên là của Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ.

Cả hai người ở trên thuyền chắc chắn là có nghe tiếng reo hò vang dội từ nơi bờ biển vọng ra.

Qua khung cửa sổ thuyền, họ nhìn vào bờ thấy một biển người lao nhao lố nhố. Trông như một đống tôm cá nhảy xoi xoi trong lưới. Tới gần hơn thì trông như một đàn dê đang chuyển mình nhấp nhô.

Hồ Bất Sầu và Thủy Thiên Cơ thầm nghĩ, có lẽ những người đó đã quên mất rằng Tử Y Hầu đã quy tiên, họ đang hy vọng Tử Y Hầu có mặt trên chiếc thuyền buồm ngũ sắc như bảy năm trước.

Cánh buồm ngũ sắc tượng trưng cho một uy lực tối thượng, chủ nhân của nó là bậc khả kính bậc nhất của võ lâm.

Trước nhiệt tâm của đồng đạo, Hồ Bất Sầu không ngăn nổi giọt lệ hoài bi.

Trong khi Hồ Bất Sầu chú ý trọn vẹn tới đám hào kiệt võ lâm hiện diện trên bờ, thì Thủy Thiên Cơ lại chỉ chú ý tới mình Hồ Bất Sầu mà thôi. Nàng nhìn y thử ướm hỏi một câu:

- Giả như họ chẳng thấy Tử Y Hầu, họ có tuyệt vọng chăng?

Hỏi thế là nàng muốn hỏi xem Hồ Bất Sầu liệu có đủ sức thay thế Tử Y Hầu hay không, chứ làm gì mà nàng không hiểu đám người kia tuyệt vọng thế nào. Có lẽ Hồ Bất Sầu cũng hiểu thâm ý của nàng, hắn đáp:

- Không! Họ sẽ không tuyệt vọng đâu!

Hắn vụt quay đầu lại đối diện với nàng, ánh mắt ngời lên sự quyết tâm. Hắn gằn từng tiếng một:

- Huynh nhất định không thể để cho họ tuyệt vọng!

Trước vẻ cương quyết của Hồ Bất Sầu, đáng lẽ Thủy Thiên Cơ phải phấn khởi tinh thần, phải gây niềm khích lệ cho hắn, thì nàng lại cúi đầu, mặt hoa lộ vẻ u sầu hỏi khẽ:

- Hồ ca ca, huynh nhất định phải xuất thủ chăng?

Hồ Bất Sầu gật đầu:

- Huynh chẳng còn cách nào khác. Trong trường hợp này chẳng thể làm một cuộc tuyển chọn đâu!

Thủy Thiên Cơ lại cúi đầu thấp hơn nữa. Nàng trầm lặng, xuất thần.

Trên bờ biển, tiếng hô vẫn chưa dứt.

Con thuyền vẫn giương cánh buồm huyền thoại càng lúc càng tiến gần hơn tới bờ biển. Tiếng hô càng lúc càng rõ hơn, chói tai.

Một niềm khát vọng dồn chứa từ bao lâu giờ mới có dịp phát tiết.

Tiếng hô vẫn vang dội. Con thuyền cứ tiến. Thủy Thiên Cơ cứ tiếp tục cúi đầu. Một lúc lâu, nàng từ từ cất tiếng:

- Phải! Hồ ca ca đâu có thể tuyển chọn! Cho dù là có cũng không thể khác hơn! Thôi!.... Hồ ca ca cứ tùy ý thi hành...

Hồ Bất Sầu nắm lấy tay nàng thật chặt. Y nắm chặt tay nàng, đôi mắt y thoáng ướt, rớt ra một giọt lệ. Thêm một giọt nữa, lại thêm giọt nữa...

Những giọt nước mắt từ một kẻ vũ phu cằn cỗi...

Những giọt lệ rớt trên bàn tay ngọc của Thủy Thiên Cơ nóng bỏng.

Những giọt lệ từ giã của kẻ anh hùng trước khi bước vào con đường vĩnh du. Những giọt lệ sẽ mãi mãi lưu lại cho kẻ độc hành trên vạn nẻo đường trần với vành khăn tang trắng quanh trái tim rớm máu.

Tay nắm tay, Hồ Bất Sầu cắn răng lấy hết can đảm nói lên lời cuối cùng:

- Thủy muội ở lại. Dù thế nào cũng phải bảo trọng lấy mình nhé!

Nếu hôm nay huynh ra đi mãi mãi không còn trở lại bên muội nữa.

Bỗng Thủy Thiên Cơ ngẩng đầu, run run giọng hỏi:

- Hồ ca cạ.. ca ca nói gì?...

Hồ Bất Sầu nghiêm nghị:

- Huynh đã suy nghĩ kỹ lắm rồi. Huynh nhớ những chiêu thức trao đổi giữa Tử Y Hầu và người áo trắng trong cuộc so kiếm lần trước.

Huynh đã đắn đo cân nhắc, dù trong bảy năm qua nghiên cứu võ học không ngừng vẫn không thể là địch thủ của người áo trắng. Đừng nói là trong bảy năm, võ công của y đã tinh tiến nhường nào, y không tiến bộ chút nào thì huynh cũng không có hy vọng thủ thắng...

Đến lúc này, Thủy Thiên Cơ mới khóc.

Trước đó, nàng vẫn hy vọng, rằng Hồ Bất Sầu không có hy vọng thắng được người áo trắng chỉ là ước đoán của nàng mà thôi.

Nàng hy vọng rằng trong bảy năm Hồ Bất Sầu dày công nghiên cứu đã có tiến bộ đủ để trở thành đối thủ của người áo trắng.

Thâm tâm, nàng vẫn mong Hồ Bất Sầu có thể thay đổi tình thế.

Giờ đây, chính y lại tự thú bại trước khi xuất thủ, niềm hy vọng của nàng tan biến.

Hồ Bất Sầu phải chết dưới kiếm của người áo trắng sắp trở thành sự thật không thể thay đổi được mất rồi. Như thế, nàng sẽ mất Hồ Bất Sầu mãi mãi, vĩnh viễn không thể gặp y nữa, vĩnh viễn bàn tay nàng không bao giờ được y nắm chặt như bây giờ nữa...

Nàng bật khóc!....

Nàng thổn thức không thành tiếng:

- Đã tự lượng sức mình, sức người, đã biết động thủ là bại, sao Hồ ca ca lại quyết tâm chạm mặt với y làm gì chứ?

Mắt vẫn còn đỏ hoe, Hồ Bất Sầu điểm nụ cười khổ thốt:

- Thắng được y là không có hy vọng, nhưng huynh có thể dồn y vào tử địa, để cả hai đồng quy ư tận. Huynh nghĩ mình có chiêu thức đủ uy lực bức y vào tình thế đó. Huynh chết, y cũng phải chết. Huynh chết quần hùng tri ân, y chết thì mối họa cho võ lâm cũng được diệt trừ. Nói cho cùng, giả như y không chết cũng phải thọ thương, khi đó quần hùng có thể làm nốt công việc cuối cùng, y thọ thương rồi thì không còn đáng sợ nữa.

Hắn vỗ ngực bình bình, cao giọng:

- Huynh ở trong cái thế phải chết, tất không thể tham sinh. Chết như thế mới đáng giá. Chết mà đáng thì sợ gì mà không chết!

Thủy Thiên Cơ run người, nàng xô y ra, gằn từng tiếng:

- Phải! Đi đi! Hồ ca ca cứ đi đi! Tìm một cái chết vinh quang! Cần gì quan tâm tới muội nữa...

Hồ Bất Sầu quay mình bước gấp ra khoang thuyền. Y bước vội vã, để can đảm không vì những giọt lệ của Thủy Thiên Cơ mà giảm dần.

Bởi Thủy Thiên Cơ đang quỳ gối trên sàn thuyền, òa khóc lớn.

Quần hùng không thất vọng.

Họ thấy người xuất hiện không phải là Tử Y Hầu, nhưng người đó cũng oai dũng khí phách, phong độ hiêng ngang bất khuất không kém Tử Y Hầu.

Người đó đứng ở mũi thuyền, tiếng hoan hô ngưng bặt.

Thần sắc của người áo trắng biến đổi thấy rõ. Nhưng không phải vì y khiếp hãi, đó là vì y phẫn khích, ánh mắt y ngời lên ánh lửa khoái hoạt.

Con thuyền từ từ chạm bờ cát...

Người áo trắng nhìn Hồ Bất Sầu một lúc lâu, đoạn thong thả buông từng tiếng:

- Được lắm! Tử Y Hầu rồi cũng có một truyền nhân! Phần tạ.. cuối cùng cũng có một địch thủ! Ít nhất cũng phải như thế chứ! Nếu không chẳng hóa ra giang hồ toàn là xác chết thây ma hay sao.

Hồ Bất Sầu không đáp.

Hắn không muốn nói, bởi hắn cũng chẳng có gì muốn nói với người áo trắng cả.

Nói làm gì? Nói bất quá để trì hoãn cuộc chiến lại đôi chút mà thôi, mà trì hoãn để làm gì?

Nói để làm gì, nếu chẳng thể xoay chuyển tình thế? Vả lại, nào ai muốn nói đâu. Dù không ai hiếu chiến cũng bắt buộc phải giao thủ, giao thủ vì võ đạo chứ chẳng phải tư thù, vô luận thế nào cuộc chiến vẫn phải khai diễn.

Mọi lời nói trong trường hợp này đều thừa thãi cả.

Hồ Bất Sầu chỉ buông gọn một tiếng:

- Mời!

Nhưng người áo trắng vẫn đứng lặng tại chỗ.

Y trầm tĩnh chẳng phải y khinh thường Hồ Bất Sầu, mà chính là để lắng dịu niềm phấn khích trong tâm tư từ nãy giờ.

Khi ánh lửa trong mắt y đã dịu lại, y mới từ từ đưa thanh kiếm ra trước thốt:

- Mời!

Hai tiếng "mời" gọn gàng thốt ra khai diễn một tấn thảm kịch trong võ lâm, những ngón nghề sắp được diễn viên khai triển cho đồng đạo võ lâm thưởng thức.

Mọi người đều hồi hộp, chẳng ai dám thở mạnh.

Ánh dương quang chừng như cũng mờ đi, hoặc giả vì người ta không còn thấy gì khác hơn hai đối thủ đang đứng, nên cảnh vật cũng bị xóa nhòa, mà dương quang cũng nhạt.

Hay là hai ánh kiếm chớp lên, kiếm quang sáng rợn người mà lu mờ ánh dương.

Trên chiếc thuyền ngũ sắc, Thủy Thiên Cơ đã nắm sẵn trong tay một thanh chủy thủ, mũi chủy thủ nhắm ngay ngực nàng.

Ánh mắt ướt lệ của nàng hướng lên bờ biển.

Chỉ cần Hồ Bất Sầu ngã gục, tim nàng cũng ngừng đập.

Nàng nhất định cùng ra đi một lượt với Hồ Bất Sầu. Chậm một giây nàng cũng không chịu. Nàng sợ chỉ khoảnh khắc chậm trễ, Hồ Bất Sầu sẽ bỏ nàng mà đi, nàng không theo kịp hắn trong chuyễn vĩnh du.

Sống nàng không thể sống cùng hắn, nàng sợ khi chết nàng cũng phải cô đơn một bóng.

Trường kiếm đã bắt đầu rung động dưới ánh dương.

Người cầm kiếm bắt đầu nhấc bước, cát lạo xạo dưới bước chân kiếm khách.

Cát vốn sắc vàng, nhưng hiện tại đã trở thành đen một màu máu khô, máu đã chảy quá nhiều trong những ngày quạ..

Bỗng có tiếng kêu thật lớn, tiếng kêu xuất phát một cách cuồng loạn:

- Người áo trắng là của tại hạ!.... Không một vị nào được động thủ với y!.... Không một vị nào!

Tiếng kêu dường như còn xa lắm, nhưng người nói câu đó giở thuật khinh công chạy nhanh như gió. Tiếng kêu vừa dứt đã thấy người đó tới nơi rồi.

Đám hào kiệt đừng vòng ngoài hướng đó quay mình lại, thấy người đó thì đều thét vang:

- Phương Bửu Ngọc! Phương Bửu Ngọc đã đến rồi!

Hai thanh trường kiếm đang rung động chờ xuất thủ đều ngưng lại. Hai người cầm kiếm cũng dừng chân.

Một bóng người lao vút tới, bay ngang trên đầu quần hùng đáp xuống trước trường chiến.

Tiếng thét vừa rồi tuy cao, song chỉ có một vài người phát ra. Lần này thì toàn thể quần hùng hiện diện đều đồng thét lên:

- Phương Bửu Ngọc!....Phương Bửu Ngọc!

Ngôn ngữ của họ chừng như chỉ còn có ba tiếng đó mà thôi, họ chẳng nói thêm tiếng nào ngoài ba tiếng đó.

Trên thuyền, Thủy Thiên Cơ lỏng tay nắm thanh chủy thủ, thanh chủy thủ rớt xuống sàn thuyền.

Hồ Bất Sầu vứt thanh kiếm, reo lên:

- Bửu Ngọc, cuối cùng ngươi vẫn tới kịp lúc.

Từ trước, người áo trắng đứng bất động, chừng nghe Hồ Bất Sầu gọi, y mới chịu quay mình lại, bởi y biết là Phương Bửu Ngọc đã tới nơi rồi.

Phương Bửu Ngọc vận một chiếc áo trắng sáng chói. Màu trắng của áo rực lên dưới ánh dương, làm lóa mắt người nhìn.

Người áo trắng cũng khó nhận ra dung mạo chàng ngay.

Không phải y kém nhãn quang, mà là bởi ánh mắt của Phương Bửu Ngọc chiếu thẳng vào y khiến y chấn động.

Phương Bửu Ngọc ung dung cúi xuống nhặt thanh trường kiếm của Hồ Bất Sầu, nắm tay người đại thúc.

Chàng nhìn Hồ Bất Sầu hồi lâu, Hồ Bất Sầu cũng nhìn chàng, cả hai gật đầu, không ai nói một tiếng nào.

Họ không nói gì cả, bởi nơi cổ họng đã bị niềm cảm xúc tuôn trào dâng ngập, khiến họ tưởng như nghẹt thở.

Đột nhiên, Phương Bửu Ngọc lui bước.

Chàng lùi bước, còn người áo trắng thì bước tới.

Người trong cuộc không ai run tay, mà người ngoài cuộc thì không ai không rùng mình.

Lui được bốn bước, đột nhiên Phương Bửu Ngọc ngã xuống. Chàng ngã xuống, trong khi người áo trắng lại bước tới, thành ra chàng ngã sát nơi chân y.

Nếu lúc đó, y đưa kiếm xuống là Phương Bửu Ngọc đứt đầu ngay.

Chẳng hiểu sao trường kiếm của người áo trắng lại bất động trong giây phút ngàn năm có một đó.

Nói là bất động cũng không hẳn, mũi kiếm của y không làm sao chạm tới được khoảng giữa đôi mày của Phương Bửu Ngọc.

Nguy! Một cảnh tượng hết sức rùng rợn.

Nhưng mũi kiếm chưa hạ xuống...

Một đạo kiếm quang đột nhiên từ nơi đầu bàn chân của người áo trắng xẹt lên, rồi máu túa ra theo đạo kiếm quang.

Trong khi đó, người áo trắng lảo đảo thân mình, nhưng y vẫn gượng ngẩng mặt nhìn lên không, bật cười cuồng dại:

- Đường kiếm tuyệt diệu!....Đường kiếm vô địch trong thiên hạ!

Y cười một lúc lâu, sau đó thân mình mới từ từ ngã xuống.

Gió như ngừng, sóng như lặng, mọi người ai nấy đều nín thở.

Hãi hùng quá, bất ngờ quá, cảnh tượng vừa rồi làm mọi người sững sờ tới quên cả hò reo hoan hô.

Nhanh như thế sao? Dễ dàng như thế sao?

Phương Bửu Ngọc đã đứng lên, nhìn chiếc xác trước mặt, cái xác của con người suốt đời toàn lực cho võ học, tới nỗi trở thành một ác ma.

Y đã giết quá nhiều người, thiên hạ giang hồ không ai không nguyền rủa khinh bỉ y. Với cái tài phi thường đó, y thừa sức tạo thanh lập danh, nhưng y không làm thế. Y tìm cách chứng tỏ võ công tuyệt thế bất chấp danh dự, thì có khác nào y hi sinh danh dự? Và lần này, y hy sinh lần cuối cùng, y đã không giữ được tính mạng.

Lúc sống, không ai không muốn y chết, y chết rồi, không ai không vui mừng. Nhưng không ai tàn nhẫn mà mắng chửi ngay sau khi y vừa ngã gục.

Phương Bửu Ngọc trầm trầm nét mặt, không hề tỏ vẻ đắc ý, cái đắc ý của kẻ thắng trận sau mỗi trận đấu, nhất là trước một đối thủ như người áo trắng.

Chàng đắc ý sao được, khi người nằm kia chết vì lý tưởng lồng trong phạm vi võ đạo.

Có điều con đường đi tìm lý tưởng và cách thức thực hành lý tưởng có khác thường mà thôi.

Phàm đã là con nhà võ, ai không nghiên cứu võ đạo ấn chứng sự thành tựu?

Chỉ vì y làm cuộc ấn chứng võ công qua xác chết của võ lâm đồng đạo, do đó y không được hoan nghênh mà thôi.

Dường như y chưa chết. Ngực y còn hoi hóp, mắt y còn chớp chớp.

Y nhìn Phương Bửu Ngọc, điểm một nụ cười nói thều thào:

- Đa tạ ngươi!

Phương Bửu Ngọc thở dài, cúi đầu hỏi:

- Tại sao người đa tạ tại hạ? Tại hạ đã giết người chết kia mà?

Người áo trắng nhìn lên trời, một áng mây trắng trôi ngang qua tầm mắt của y.

- Ngươi không hiểu đâu! Vĩnh viễn ngươi không hiểu được tại sao ta lại đa tạ ngươi. Người như ta, người như ngươi sống trên thế gian này, sống càng lâu càng thêm tịch mịch mà thôi!

Tri kỷ chỉ có thể gặp chứ không thể tìm!

Tri kỷ hiếm thay trên đời!

Tri kỷ của kiếm khách lại càng hiếm!

Tri kỷ của kiếm khách chân chính là địch thủ! Kiếm khách không địch thủ cuộc đời tịch mịch làm sao!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hết