hội chợ phù hoa 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 21: CÃI NHAU VÌ MỘT CÔ GÁI TRIỆU PHÚ

Người ta rất dễ yêu bất cứ cô gái nào có những đức tính như cô Swartz. Trông thấy cô gái triệu phú, trong trí ông lão Osborne nảy ngay ra một giấc mơ to tát đầy tham vọng. Ông ta sốt sắng và ngọt ngào khuyến khích hai cô con gái làm thân với cô thiếu nữ giầu có; ông nói rằng, là một người cha, được thấy con mình biết chọn bạn mà chơi như thế, ông rất hài lòng. Ông ta thường bảo cô Rhoda:

- Cô ạ, cô sẽ không thấy ở ngôi nhà tầm thường này của chúng tôi ở khu phố Russell vẻ lộng lẫy, bề thế, và những khách khứa sang trọng như cô quen gặp ở West End đâu. Hai em nó quê kệch thực thà lắm, nhưng rất ngoan ngoãn, và rất mến cô: điều đó là một vinh dự, đối với chúng nó... tôi nói rằng đó là một vinh dự. Tôi chỉ là một thương gia giản dị, tầm thường... một người rất thật thà; không tin cô cứ hỏi mấy ông bạn tôi trong công ty Hulker và Bullock mà xem; hồi còn mồ ma cụ ông nhà ta, cụ vẫn thường có giao dịch đi lại. Cô sẽ thấy gia đình chúng tôi rất hòa thuận, giản dị, hạnh phúc... và tôi nghĩ cũng có thể nói rằng rất được kính nể...cô Rhoda ạ, cơm nước tầm thường, chủ nhà quê kệch, nhưng tấm tình thì rất nồng nhiệt đấy...Cô Rhoda thân mến ơi, xin cho phép tôi nói như vậy vì tôi quý cô lắm; thực tình là như thế, tôi quý cô lắm. Một cốc sâm banh! Hicks đâu, lấy một cốc sâm-banh hầu cô Swartz đây!

Ai dám nghi ngờ rằng ông già Osborne không tin lời nói của chính mình là thực tâm, và hai cô con gái không yêu quý cô Rhoda thực sự? Trong Hội chợ phù hoa, người ta bám lấy bọn có của một cách rất tự nhiên. Nếu những người có tâm hồn đơn giản nhất thường quen nhìn sự thịnh vượng bằng con mắt có cảm tình (tôi thách người dân Anh nào dám bảo rằng không thấy hai tiếng "giầu có" có ý nghĩa trang trọng, nghe rất thú vị, và tôi thách cả bạn nữa, nếu người ngồi ăn cạnh bạn có nửa triệu bạc, đố bạn không nhìn anh ta với đôi chút thiện cảm đấy)...Vậy nếu người thường vẫn có cảm tình với đồng tiền thì những con người ưa phù hoa còn thiết tha với nó đến đâu? Thiện cảm của họ xổ ra vồ vập chào đón đồng tiền. Đồng tiền làm thức tỉnh nơi họ bao tình cảm mặn mà đối với người có của đáng yêu. Tôi biết một số người không chịu cho phép mình tự do chiếu cố giao thiệp với những kẻ không có chút thế lực địa vị gì trong xã hội. Họ chỉ chịu thả tình cảm của họ ra trong những cơ hội tốt. Chứng cớ là hầu hết những người trong gia đình Osborne suốt mười lăm năm nay không thể sao thân mật được với Amelia Sedley, thế mà chỉ qua một buổi tối, họ đã say mê cô Swartz được đến như vậy, quả là một thí dụ rất lãng mạn về hiện tượng "bị thu mất hồn".

Cô chị cùng cô em gái và bà Wirt bàn nhau:

- Đám ấy xứng với anh George quá nhỉ. Cái cô Amelia vô duyên kia cắn gót không đáng! Đẹp trai như anh ấy, dáng điệu lại hiên ngang rắn rỏi, có địa vị, nhiều đức tính, thật là người chồng xứng đáng của cô ấy.

Hai chị em mơ màng với những ảo tưởng quay cuồng trong óc, nào là được dự những buổi dạ hội ở Quảng trường Portland, được vào chầu trong Hoàng cung, nào là được giới thiệu với các bậc vương công. Suốt ngày họ chỉ nói chuyện với cô bạn mới đáng yêu này về George và những chỗ bè bạn có tăm tiếng của ông anh trai.

Ông già Osborne cũng thấy đám này xứng đáng với con trai mình quá. Con ông sẽ xin giải ngữ, sẽ vào Quốc hội, sẽ trở thành một nhân vật có tiếng tăm, có quyền thế. Máu ông ta đã sôi lên với một vẻ hào hứng thành thực kiểu Anh; ông đã vội nhìn thấy con trai ông biến cái tên Osborne thành tên một gia đình quý tộc, và rất có thể con trai ông sẽ mở đầu cho một dòng dõi toàn những vị nam tước danh giá. Ông hết sức dò hỏi ở khu City và ở Phòng Hối đoái, kỳ cho biết rõ được mọi chuyện liên quan đến tài sản của cô gái triệu phú, nào là số tiền cô gửi ngân hàng thế nào, nào là tài sản của cô ở đâu. Người cung cấp nhiều tin tức nhất cho ông ta là anh chàng Fred Bullock; anh chàng cũng đang thèm món bở này (chính mồm anh ta nói ra như vậy) ; nhưng anh ta lại trót đính hôn với Maria Osborne mất rồi. Song, tuy không lấy được cô gái làm vợ mình, anh chàng Fred vô tư ấy cũng hoàn toàn tán thành muốn cô kia trở thành vợ của anh vợ mình. Anh ta mách nước: "George phải tấn công trước và phải chiếm ngay trái tim cô ấy, "lấy vợ thì cưới liền tay"()...Bây giờ cô ấy mới chân ướt chân ráo về kinh đô, phải tấn công ngay; nếu không, chỉ vài tuần nữa, lỡ có thằng nào ở West End mang cái danh vị quý tộc mò về đây mà câu cô ta thì nó đá đít bọn dân City chúng mình mất; năm ngoái bá tước Fitzrufus nẫng cô Grogram như vậy đấy; bấy giờ cô ta đang đính ước với thằng Podder nhà Podder và Brown. Ông ạ, càng nhanh tay, càng tốt; con nghĩ thế đấy.

Lúc ông già Osborne đã ra khỏi phòng khách của nhà ngân hàng, anh chàng Bullock mới sực nhớ đến Amelia, mới nghĩ ra rằng cô ta xinh quá, và cũng gắn bó với Osborne thiết tha quá. Và anh ta cũng có bỏ ra ít nhất là mười giây quý báu của mình để thương hại cho cô thiếu nữ không may gặp tai họa.

Trong khi Osborne được Dobbin, người bạn và là vị thần hộ mệnh của mình, thức tỉnh những tình cảm đáng quý, đang quay về với Amelia thì ông bố và hai cô con gái cũng đang tính toán việc vợ con cho anh như vậy; họ yên trí đời nào anh ta cưỡng lại.

Một khi ông già Osborne làm cái việc mà ông gọi là "gợi ý" thì người ngu si nhất cũng phải hiểu ông muốn nói gì. Đá một anh hầu ngã lộn xuống cầu thang, như thế ông ta gọi là "gợi ý" cho anh hầu xin thôi việc. Vốn tính bộc trực, quen lối tế nhị riêng của mình, ông ta bảo bà Haggistoun rằng đúng ngày con trai ông cưới cô Rhoda làm vợ, ông sẽ biếu ngay bà này một tờ ngân phiếu năm ngàn đồng; ông cũng gọi như thế là "gợi ý", và tự cho đó là một thủ đoạn ngoại giao hết sức khôn khéo. Cuối cùng, ông lão cũng đã "gợi ý" cho George về cô thiếu nữ triệu phú, nghĩa là ra lệnh cho anh chàng phải lập tức cưới ngay cô ta, không khác gì ông sai bác quản lý mở nút một chai rượu, hoặc ra lệnh cho người thư ký thảo một lá thư.

Nghe ông bố "gợi ý" như vậy, George hết sức bối rối.

Anh ta đang say sưa trong mối duyên rất đằm thắm vừa nối lại với Amelia ; mối tình êm đềm biết bao. So sánh hình dáng và cử chỉ của người yêu với cô gái triệu phú, anh ta thấy khác nhau một trời một vực, là càng thấy câu chuyện cưới cô này làm vợ là quái gở và tức cười. Anh chàng nghĩ thầm: "Cứ tưởng tượng mọi người trông thấy mình đi xe ngựa hoặc ngồi trong "lô" ghế riêng ở rạp Opera cạnh bà tiên gỗ đào hoa tâm nhỉ!" Không những thế, trong gia đình nhà Osborne anh con trai cũng bướng bỉnh chẳng kém gì ông bố, một khi đã thích cái gì là thực hiện kỳ được; mà khi tức giận thì George cũng thô bạo chẳng khác gì ông Osborne.

Khi ông bố chính thức "gợi ý" anh ta lần đầu tiên về vấn đề lấy cô Swartz, George còn ngọt ngào kiếm cách nói lảng:

- Tiếc rằng ba không quyết định việc này sớm hơn. Bây giờ không kịp nữa rồi; không biết chúng con phải lên đường ra ngoại quốc hôm nào. Đành chờ đến khi con trở về nước vậy, nếu may mà con về được.

Anh ta gắng tỏ cho cha hiểu rằng bây giờ không phải lúc tính chuyện nhân duyên, vì trung đoàn thứ...không biết ngày nào rời khỏi nước Anh; còn ít ngày nữa, cần để thu xếp công việc, không lòng nào lo chuyện yêu đương. Bao giờ anh ta trở về đeo lon thiếu tá, lúc ấy sẽ hay. George thêm:

- Con xin hứa với ba rằng, bằng cách này hay cách khác, ba cũng sẽ được thấy tên George Osborne đăng trên báo "Tin tức".

Câu trả lời của ông bố căn cứ trên những tin tức thu lượm được ở khu City, nghĩa là, nếu chậm chân, chắc chắn bọn con nhà dòng dõi ở West End sẽ phỗng tay trên cô gái mất; và nếu anh ta chưa cưới được cô Swartz bây giờ, ít nhất cũng nên đính hôn ngay có giấy tờ cẩn thận làm bằng, khi nào về nước chỉ việc làm lễ cưới là xong; hơn nữa ông muốn con trai hiểu rằng một khi người ta có thể ngồi nhà mà kiếm được mỗi năm một vạn đồng, thì có hóa dại mới đi ra nước ngoài mà thí mạng. George chặn ngay:

- Nghĩa là cha muốn con tỏ ra hèn nhát, và chịu bôi nhọ tên tuổi dòng họ nhà ta vì món tiền vốn của cô Swartz?

Câu nói làm ông già choáng cả người. Nhưng ông ta vẫn kiên quyết đáp:

- Ngày mai, anh sẽ đến ăn cơm trưa ở đây, và bất cứ hôm nào có cô Swartz đến chơi, anh cũng phải có mặt ở đây để tiếp Nếu anh cần tiền, cứ hỏi ông Chopper.

Thế là dự định của anh ta về Amelia lại gặp thêm một trở ngại nữa. Dobbin và George đã hội ý với nhau nhiều lần về việc này. Ý kiến của người bạn về biện pháp giải quyết vấn đề như thế nào, ta đã rõ. Riêng đối với Osborne, một khi đã định làm gì mà gặp một hai trở ngại, thì anh ta càng thêm quyết tâm vượt kỳ được.

Cô gái lai da đen hoàn toàn không hay biết một tý gì về âm mưu của gia đình Osborne đối với mình (cũng lạ thay, không rõ tại sao bà bạn "vú già" của cô không nói cho biết); cô cứ yên trí những lời nịnh hót của hai cô bạn gái là tình cảm chân thành, nên đối đãi lại cũng nồng nàn không kém; như ta đã có dịp trình bầy, tính cô vốn vẫn sôi nổi. Nếu muốn cho thật đúng sự thật thì phải nói thêm rằng cô ưa đến Đường công viên cũng có một lý do riêng; nói tóm lại thì cô thấy George Osborne là một anh chàng trẻ tuổi rất khôi ngô; ngay buổi tối đầu tiên gặp anh ta trong buổi dạ hội tại nhà Hulkers, cô đã rất chú ý đến bộ râu quai nón của anh ta rồi. Cô cũng không phải là người đầu tiên cảm anh chàng vì bộ râu: George vẫn có cái dáng điệu đặc biệt, vừa ngạo nghễ vừa thẫn thờ, vừa hăng hái lại vừa uể oải. Trông anh ta như một người đang say mê cuồng dại, đang ủ ấp những điều bí mật, và đang có nhiều điều đau đớn giày vò về đường tình ái cũng như về chuyện chơi bời. Giọng nói âm vang mà thấm thía; khi anh ta nói "Tối hôm nay nóng quá", hoặc mời một cô bạn gái dùng kem, giọng nói của anh ta cũng buồn buồn, đầy vẻ tâm tình, y như anh ta đang báo cho người này biết tin mẹ anh ta chết, hoặc đang thổ lộ tình yêu vậy. Anh ta ngạo nghễ nhìn bọn trai trẻ vẫn giao thiệp với ông Osborne bằng nửa con mắt; giữa bọn công tử loại ba ấy, anh ta tự coi là một người anh hùng. Nhiều người chế nhạo và ghét cay ghét đắng George, nhưng lại có người như Dobbin chẳng hạn, thán phục anh ta một cách mù quáng. Bộ râu anh ta đã bắt đầu phát huy tác dụng và quấn lấy trái tim của Swartz rồi. Mỗi khi có hy vọng gặp Osborne ở khu phố Russell, thì cô thiếu nữ tốt bụng và thật thà này lại tỏ vẻ hết sức săn đón mong được gặp mặt hai cô bạn gái mới quen. Cô ta tiêu vô khối tiền để mua áo mới, mua vòng tay, mua mũ, và những túp lông cài đầu to tướng. Có ta ra sức tô điểm thực khéo mong vị "hoàng tử" của mình ra để chiếm được lòng anh chàng. Hai cô bạn gái thỉnh thoảng lại trịnh trọng đề nghị cô ta trổ tài âm nhạc; thế là cô hát ba bài hát, chơi hai bài dương cầm như mọi lần, và tự lấy làm thích thú hơn lần trước. Trong những phút giải trí thú vị ấy, bà bạn vú già cùng bà Wirt ngồi cạnh đó nghiên cứu cuốn "Danh bạ quý tộc" và nói chuyện với nhau về giới quý phái thượng lưu. Hôm sau ông bố lại "gợi ý" ít phút trước giờ ăn trưa, Osborne đang nằm dài trên chiếc ghế xô-fa trong phòng khách, dáng điệu hệt một người đang âu sầu mơ mộng.

Theo đúng lời cha, anh ta đã đến tìm ông Chopper tại khu City, (ông lão thương gia thường cho con những món tiền lớn không có mức nhất định, sự rộng rãi của ông cũng rất tùy hứng). Đoạn, George đến Fullham ở chơi đó ba tiếng đồng hồ với cô Amelia thân yêu của anh ta; cuối cùng George trở về nhà, thì thấy cô chị và cô em gái đang ngồi trong phòng khách, cứng quèo trong bộ quần áo bằng vải sa hồ bột; hai bà nạ dòng đang quàng quạc trò chuyện ở cuối phòng, còn cô Swartz thực thà thì vẫn mặc tấm áo sa tanh màu hổ phách cô rất ưa, lại đeo đủ các thứ vòng tay bằng ngọc Thổ-nhĩ-kỳ, vô số nhẫn, đếm không xuể, rồi đính cả những hoa, những lông cùng đủ mọi thứ trang sức lặt vặt khác; trông cô ta giống hệt một người thợ thông ống khói vào tháng năm.

Cô chị và cô em gợi mãi mà George không chịu bắt chuyện; họ bèn xoay câu chuyện về vấn đề "mốt" ăn mặc, và về buổi tiếp tân vừa qua trong Hoàng cung; anh chàng đâm chán ngấy. Anh ta so sánh họ với Emmy...so sánh giọng nói the thé với tiếng nói trong vắt, êm ái của người yêu, so sánh những điệu bộ sỗ sàng, những bộ áo hồ cứng để hở cả khuỷu tay của họ với cử chỉ dịu dàng kín đáo mà duyên dáng của người yêu. Cô Swartz đáng thương lại ngồi đúng ngay vào chỗ mọi khi Emmy vẫn ngồi. Hai bàn tay đeo toàn nhẫn đặt xòe ra như hai cái quạt trên tấm áo sa-tanh màu hổ phách; những nạm ngọc và hoa tai lóng lánh sáng quắc; cô ta ngồi giương đôi mắt to tướng ngó đây ngó đó. Thật là sự vô công rồi nghề và sự thỏa mãn hiện thành hình người; cô ta còn nghĩ rằng mình duyên dáng quyến rũ lắm. Hai cô bạn khen cô ta mặc chiếc áo sa tanh ấy rất nổi, các cô chưa từng thấy thế bao giờ.

Lúc gặp lại người bạn thân, George bảo:

- Thật là đồ chết tiệt, trông cô ta hệt như con búp bê Trung-hoa, suốt ngày chỉ ngồi nhe răng ra cười, và lắc lư cái đầu. Lạy Chúa, Will ạ, xuýt nữa tôi quăng cho cái đệm ghế xô-fa vào mặt đấy.

Nhưng anh ta cũng kịp tự kiềm chế được nỗi bực mình.

Hai chị em cô Osborne bắt đầu chơi dương cầm bài "Trận đánh thành Praha", George không chịu được nữa, kêu lên:

- Thôi đừng chơi cái... cái "của" ấy nữa! Tôi muốn phát điên lên đây. Cô Swartz, mời cô biểu diễn một bài. Cô muốn hát bài gì thì hát, nhưng xin đừng chơi bài "Trận đánh thành Praha".

Cô Swartz hỏi:

- Tôi hát bài "Cô Mary mắt biếc" nhé. Hay là điệu Cabinet?

Hai cô bạn đồng thanh:

- Điệu Cabinet hay lắm.

Anh chàng chán đời ngồi trong ghế xô-fa vội kêu lên:

- Điệu hát ấy nhàm chán lắm rồi.

Cô Swartz khe khẽ nói:

- Giá có lời trước mặt, thì tôi hát được bài "Dòng sông Tajy"().

Tức là bài cuối cùng trong kho vốn liếng âm nhạc của cô thiếu nữ.

Mang vội đáp:

- Ồ, tôi có bài "Dòng sông Tage" () đây.

Và chạy đi tìm cuốn sách nhạc. Không ngờ cuốn sách nhạc lại chính là của một cô bạn gái tặng họ, có ghi tên ngoài bìa.

Nghe Swartz hát xong. George rất tán thưởng (vì anh ta nhớ Amelia vẫn ưa hát bài này lắm). Cô Swartz đang hy vọng được mời hát lại, tay lật đi lật lại tờ bìa cuốn sách, chợt nhìn thấy cái tên Amelia Sedley ghi ở góc tờ giấy. Cô ta quay phắt lại kêu lên:

- Trời đất ơi, Amelia của tôi đấy ư? Có đúng Amelia học ở trường bà Pinkerton không? Đúng rồi, tôi biết. Chị ấy bây giờ ở đâu thế?

Cô Maria Osborne vội nói ngay:

- Đừng nhắc đến cô ấy nữa; gia đình cô ấy mất hết uy tín rồi. Cha cô ấy lừa dối ba tôi; tên cô ấy sẽ không bao giờ được nhắc đến ở đây nữa.

Ấy là cách cô Maria trả miếng George vì đã tỏ ra tàn nhẫn đối với bài "Trận đánh thành Praha" lúc nãy.

George đứng phắt dậy:

- Cô là bạn của Amelia, vậy thì cầu Chúa che chở cho cô; cô Swartz ạ, đừng có nghe mồm hai cô kia. Amelia không hề đáng trách điều gì. Cô ấy là người đáng quý nhất...

Jane vội kêu lên ngay:

- George, cậu không được nhắc đến cô ấy. Ba cấm đấy.

- Ai cấm được tôi? Tôi cứ nhắc đến đấy. Tôi nói rằng cô ấy là người đáng quý, dịu dàng, thùy mị, đáng yêu nhất nước Anh đấy. Phá sản hay không phá sản, thì chị gái tôi cũng cứ xách dép cho cô ấy không đáng. Cô Swartz ạ, nếu cô quý Amelia, hãy đến thăm cô ấy đi. Bây giờ Amelia chẳng có ai bầu bạn. Cầu Chúa ban phúc lành cho ai đánh bạn với cô ấy. Tôi coi người nào nói tốt cho Amelia là bạn; người nào nói xấu cô ấy tôi coi là kẻ thù. Cô Swartz, cảm ơn cô.

George đứng dậy bắt tay cô thiếu nữ. Cô em gái vội kêu lên, giọng van lơn:

- Kìa, anh George!

George giận dữ tiếp:

- Tôi nói rằng, tôi cảm ơn bất cứ ai tỏ ra yêu quý cô Amelia Xét....

Anh ta ngừng lại. Ông Osborne đã đứng trong phòng mặt tái đi vì giận, cặp mắt đỏ tía sáng quắc lên như hai hòn than hồng. Mặc dù George thôi không nói nữa, nhưng máu trong người anh sôi lên, cho ngay đến tất cả mọi người trong các thế hệ của dòng họ Osborne lúc ấy cũng không bắt được anh chịu lép. Lập tức George lấy lại bình tĩnh, nhìn giả ông bố với điệu bộ tỏ ra vừa quyết định, vừa thách thức, khiến cho ông già bối rối vội quay mặt đi. Ông già hiểu ngay cuộc chiến đấu đã bắt đầu. Ông nói:

- Bà Haggistoun, cho phép tôi dẫn bà sang phòng ăn, George, anh hãy đỡ cô Swartz cùng đi.

Mọi người bước ra ngoài. George nói với cô thiếu nữ:

- Cô Swartz, tôi yêu Amelia ; suốt đời chúng tôi nguyện sống bên nhau.

Suốt bữa ăn, George liến thoắng nói chuyện đến nỗi chính anh ta cũng phải ngạc nhiên về mình, làm cho ông bố càng bực. Chắc chắn cơn bão tố sẽ nổ ra sau khi khách ra về. Giữa hai bố con cũng có sự khác nhau, ông bố tính tình thô bạo cục cằn, nhưng anh con trai còn táo bạo cương quyết gấp ba lần bố, anh ta không những có thể tấn công mà còn có đủ sức chống đỡ. Biết rõ cuộc xung đột nhất định sẽ xảy ra, anh ta ăn rất bình tĩnh và ngon miệng trước khi cuộc chiến đấu bắt đầu. Trái lại ông già Osborne hết sức hồi hộp; ông uống nhiều rượu. Nhiều lần ông ta lẫn lộn trong câu chuyện nói với những người khách đàn bà ngồi cạnh. Thấy George điềm nhiên như không, ông lão càng căm. Ông gần phát điên khi thấy cái cách George lạnh lùng gấp chiếc khăn ăn lại, cúi gập người xuống chào cô Swartz và mở cửa cho cô ta, đoạn anh ta rót một cốc vang đầy tu một hơi cạn, nhìn thẳng vào mặt bố như muốn nói: "Thưa các vị ngự lâm quân, xin mời bắn trước". Ông già cũng rót rượu uống lấy sức, nhưng bàn tay ông run run, chạm chai và miệng cốc kêu lanh canh. Thở một hơi dài, mặt đỏ tía, ông già bắt đầu:

- Này anh, sao anh dám nhắc đến tên con bé ấy trước mặt cô Swartz ngày hôm nay, ngay trong phòng khách của tôi? Tôi hỏi anh, sao anh dám làm như vậy?

- Khoan đã, thưa ba, đừng nói là "dám làm". Người ta không dùng tiếng "dám làm" để nói với một đại úy trong quân đội nước Anh.

Ông bố đáp:

- Tôi muốn nói gì với con trai tôi không ai cấm được. Tôi có thể cắt đứt không cho nó xu nào. Tôi có thể biến nó thành một thằng ăn mày cũng dược. Tôi cứ nói tiếp ý tôi.

George kiêu hãnh đáp:

- Tuy là con trai ba thật, nhưng con là một người thượng lưu. Nếu có ý kiến gì, muốn trao đổi hoặc muốn ra lệnh cho con điều gì, yêu cầu cha dùng những lời lẽ lịch sự mà con vẫn quen nghe.

Khi nào người con trai tỏ vẻ kiêu hãnh thì bao giờ cũng khiến cho người cha hoặc là hoảng sợ hoặc là tức giận. Ông già Osborne vẫn ngấm ngầm e ngại những cử chỉ, những điệu bộ quý phái của con trai. Các bạn độc giả hẳn cũng có kinh nghiệm là trong Hội chợ phù hoa, một người thô kệch thường không ưa thấy có người lịch sự ở bên mình.

- Xưa kia cha tôi không hề cho tôi được hưởng nền giáo dục, những điều kiện tốt, cũng như bao nhiêu tiền nong như ngày nay tôi đã cho anh. Nếu tôi không nhờ có tiền mà lọt được vào một nơi chỉ có một ít số người vào nổi, thì có lẽ con trai tôi khó lòng huênh hoang khệnh khạng với đáng điệu ông hoàng được - ông già nhấn mạnh mấy tiếng trên có vẻ hết sức mỉa mai - Vào thời chúng tôi, người ta không tin rằng một người thượng lưu lại chửi lại bố. Xưa kia, nếu tôi cư xử như vậy, thì bố tôi đã đạp tôi ngã lăn xuống thang gác rồi.

- Con có chửi lại ba đâu. Con chỉ nói xin ba nhớ cho rằng con trai ba cũng là một người thượng lưu như ba. Con hiểu lắm, ba cho con rất nhiều tiền (George vừa nói vừa thọc tay vào túi vuốt ve tập giấy bạc vừa lấy của ông Chopper buổi sớm) ; ba nhắc đến việc ấy hơi nhiều đấy, không sợ con quên đâu.

- Tôi muốn anh nhớ hộ cả chuyện khác nữa. Tôi muốn anh đừng quên rằng, trong căn nhà này - nếu như anh còn thèm hạ cố ở đây - tôi là ông chủ, và cái tên kia...anh...rằng anh...và...tôi nói...

- Và cái gì thưa ba?

George hơi nhếch mép cười, hỏi lại, vừa rót đầy thêm một cốc rượu khác. Ông bố văng một tràng rất tục.

- ...!Và không bao giờ cái tên Sedley còn được nhắc đến ở đây Tôi không muốn nghe đến tên bất cứ đứa nào trong bọn chúng nó anh hiểu chưa?

- Thưa ba, không phải con nhắc đến tên cô Sedley trước, chỉ vì chị con và em gái con nói xấu cô ấy với cô Swartz; con thề sẽ bênh vực cô ấy bất cứ ở đâu. Không ai được phép nói xấu cô ấy trước mặt con. Gia đình nhà ta đã làm khổ cô ấy quá đủ rồi, bây giờ có thể buông tha đừng hành hạ cô ấy thêm nữa. Bây giờ cô ấy khổ lắm rồi. Trừ ba ra, người nào mở mồm nói xấu cô ấy, con bắn.

Đôi mắt ông bố trợn tròn như lồi ra khỏi mắt:

- Còn gì nữa, nói nốt đi.

- Nói nốt gì, thưa ba? Nói nốt về chuyện chúng ta đã cư xử tàn tệ thế nào với cô gái thiên thần ấy à? Ai đã xui con yêu cô ấy? Chính ba. Con rất có thể chọn yêu người khác, và còn đòi hỏi cao hơn, có thể cao hơn cả cái xã hội của gia đình nhà ta nữa; nhưng con đã vâng lời ba. Bây giờ, khi chúng con đã yêu nhau thì ba ra lệnh cho con đang tay cắt đứt mối tình, bắt con trừng phạt cô ấy, giết chết cô ấy cũng nên... mà vì lỗi của những người khác.

Girogiơ càng nói càng giận dữ, càng hăng hái:

- Đùa cợt với tình yêu của một người con gái như vậy là một điều đáng xấu hổ, lạy Chúa...? Một vị thiên thần như vậy... Những người khác so với cô ấy còn kém xa, đến nỗi họ có thể sinh ra ghen ghét; chỉ vì cô ấy tốt quá, hiền hậu quá nên người ta không dám thù ghét đấy thôi. Nếu con bỏ cô ấy, ba nghĩ rằng cô ấy quên được con sao?

Ông bố quát lên:

- Tôi không thèm để tai nghe những chuyện yêu đương con cà con kê của anh. Gia đình tôi không thể cưới một đứa ăn mày về làm dâu được. Chỉ cần nói một tiếng, là anh có ngay mỗi năm tám nghìn đồng; nếu anh không muốn thì mặc xác anh. Lạy Chúa, anh cuốn gói mà xéo khỏi cái nhà này đi. Tôi hỏi lại anh lần cuối cùng, anh có vâng lời tôi không? Có hay không?

George bẻ cổ áo lên đáp:

- Cưới cái con bé lại da đen ấy làm vợ? Thưa ba, tính con không ưa mầu nâu. Xin ba đi tìm một thằng da đen quét đường ở Fleet Macket. Con không muốn lấy một hoa khôi mọi đen làm vợ.

Ông già Osborne giận dữ giật mạnh cái dây chuông vẫn dùng để gọi bác quản lý lấy rượu vang...mặt ông sa sầm, ông ra lệnh đánh xe đưa đại úy Osborne đi.

Một giờ sau, bước vào quán rượu Slaughters mặt hãy còn tái mét, George nói:

- Thế là hết.

Dobbin hỏi:

- Cái gì ông bạn?

George kể lại cuộc va chạm giữa mình và cha. Anh ta thề độc một câu và nói:

- Ngày mai, tôi cưới Amelia. Dobbin ạ, càng ngày tôi càng thấy yêu nàng hơn.

Chương 22: LỄ CƯỚI VÀ TUẦN TRĂNG MẬT

Kẻ thù dù can đảm, gan góc đến mấy mà bị đói thì cũng phải hàng phục, cho nên trong cuộc đấu tranh ta vừa miêu tả ở trên, ông Osborne không sợ đối thủ của mình. Ông tin rằng khi cạn túi, thế nào George cũng đầu hàng không điều kiện. Kể ra cũng có điều không may cho ông, vì ngay hôm hai bố con cãi nhau, George đã vớ được món tiền của bố. Nhưng ông già nghĩ ngần ấy tiền cũng không tiêu được mãi, chẳng qua ngày đầu hàng chỉ lùi lại ít lâu. Cho nên trong ít hôm, hai bố con không nhìn mặt nhau, ông bố tuy khó chịu trước sự im lặng của con nhưng vẫn yên trí; bởi vì, như lời ông lão nói, "kiến trong miệng chén còn bò đi đâu", ông chỉ cần chờ đợi kết quả như ông dự tính. Ông có kể lại cho hai con gái nghe chuyện xích mích giữa hai bố con, nhưng lại dặn thêm đừng chú ý đến làm gì, lại bảo nếu George trở lại, cứ tiếp đón thân mật như không có chuyện gì xảy ra hết. Đến bữa ăn vẫn bày bát đĩa của George như mọi khi; ông già hình như có ý nóng ruột đợi con trai quay về thì phải, nhưng mãi vẫn không thấy mặt anh ta. Phái người đến tiệm cà-phê Slaughters hỏi thăm thì thấy nói anh ta cùng bạn là đại úy Dobbin đã rời khỏi thành phố rồi.

*

Một buổi sáng ảm đạm cuối tháng tư, mưa rơi tầm tã đổ xuống vỉa hè dẫy phố cổ có tiệm cà phê của lão Slaughters; George Osborne bước vào tiệm, mặt mày phờ phạc, tái mét, tuy anh ta diện rất bảnh. George mặc một tấm áo màu xanh nước biển có đính một khuy đồng, ngoài khoác một chiếc áo gilê bằng da, rất đúng "mốt". Đại úy Dobbin có mặt trong tiệm cà-phê; anh ta cũng mặc bộ áo xanh có khuy đồng; tấm áo choàng nhà binh và chiếc quần màu xám nhạt thường vẫn đeo trên cái thân hình khẳng khiu của anh ta đã được cất đi. Dobbin ngồi trong quán cà phê đã đến hơn một tiếng đồng hồ. Anh ta giở hết báo nọ đến báo kia, nhưng không sao đọc được, hết nhìn đồng hồ có đến hàng chục lần, lại nhìn ra ngoài phố, mưa vẫn rơi tầm tã, người qua lại nện guốc cồm cộp để lại những cái bóng đen dài trên nền đá lát bóng loáng. Thỉnh thoảng anh ta lại gõ nhịp lên mặt bàn, hoặc cắn cụt cả móng tay (anh ta vẫn có thói quen trang điểm cho bàn tay hộ pháp của mình như vậy), rồi lại đặt chiếc thìa cho nằm chênh vênh trên miệng cốc sữa, và nghiêng cốc cho nó rơi xuống.v.v... Tóm lại, anh ta có vẻ đang băn khoăn điều gì, cố tìm những trò giải trí lặt vặt cho qua thời giờ, y như những người đang có chuyện gì ghê gớm ám ảnh tâm trí.

Vài người bạn thường đi lại ở tiệm cà-phê, nói đùa Dobbin về bộ áo lộng lẫy và cử chỉ băn khoăn của anh. Có người hỏi đùa, hay là Dobbin sắp đi cưới vợ, Dobbin cười đáp khi nào có việc vui mừng sẽ gửi biếu ông bạn (tức là thiếu tá công binh Wagstaff) một cái bánh. Cuối cùng đại úy Osborne hiện ra, diện rất bảnh nhưng sắc mặt tái nhợt, và có vẻ băn khăn như ta đã thấy. George rút ra chiếc mùi xoa màu vàng thơm sực mùi nước hoa lau bộ mặt nhợt nhạt, bắt tay Dobbin, nhìn lên đồng hồ treo trên tường, và sai John, bác hầu bàn lấy rượu ca-cao. Anh ta uống luôn hai cốc một cách vội vã. Dobbin hỏi thăm sức khỏe thế nào.

George đáp:

- Suốt đêm qua đến sáng, không chợp mắt được phút nào. Nhức đầu, và sốt kinh khủng. Chín giờ mới dạy đến Hummums tắm được một cái. Y như cái buổi sáng mình cùng Rocket ra bãi thi ngựa ở Quebec ấy Dobbin ạ.

William đáp:

- Mình cũng thấy thế. Sáng hôm ấy, mình còn hồi hộp hơn cậu nữa. Nhưng hôm ấy, cậu ăn bữa điểm tâm cẩn thận lắm, mình còn nhớ. Bây giờ hãy ăn tý gì đi đã.

- Will, cậu thật là một người bạn tốt. Mình muốn uống mừng sức khỏe của cậu, và vĩnh biệt...

Dobbin ngắt lời:

- Thôi, thôi. Hai cốc là đủ rồi. Này John, cất rượu đi. Hạt tiêu đây, cho một ít vào món gà và ăn mau mau bên, lẽ ra chúng mình phải ở đấy rồi.

Lúc hai viên đại úy nói với nhau mấy câu ngắn ngủi như vậy là khoảng mười hai giờ rưỡi. Chiếc xe ngựa của đại úy Osborne đã đợi từ lâu; hành lý của đại úy, anh hầu đã bỏ vào trong xe. Hai viên đại úy che chung một cái ô bước vội vào xe, còn anh hầu leo lên chỗ ngồi của xà ích, luôn mồm chửi trời mưa và rủa anh xà ích ngồi bên cạnh áo ẩm quá bốc hơi mù mịt. Anh hầu nói một mình như để tự an ủi: "Đến cửa nhà thờ, ta sẽ tìm một cái xe khác tốt hơn". Chiếc xe chuyển bánh, chạy dọc phố Piccadilly, hồi ấy nhà Apsley và nhà thương St. George vẫn còn xây bằng gạch đỏ; trên những cột đèn ngoài phố vẫn thắp đèn dầu, Achilles còn chưa sinh và đài chiến thắng Pimlico() chưa dựng, mà cái bày quái vật hình như muốn nhảy qua các nóc nhà xung quanh kia cũng chưa có... Chiếc xe qua Brompton tiến về phía một ngôi nhà thờ gần phố Fullham.

Một chiếc xe bốn ngựa khác cũng đã chờ sẵn ở đó, trông giống loại xe lồng kính rất đẹp. Trời vẫn mưa rầu rĩ, chỉ có vài người vô công rồi nghề qua lại. George nói:

- Chết cha! Tôi chỉ thuê có hai ngựa thôi mà.

- Ông chủ tôi muốn dùng bốn ngựa cơ ạ.

Anh hầu của Joseph Sedley đang đứng chờ lên tiếng.

Anh này cùng anh hầu của Osborne theo George và William vào trong nhà thờ, hai người đồng ý với nhau rằng cưới xin mà không có ăn tiệc, không có hoa, thì thật "cà mèng" không thể tưởng tượng được ông bạn cũ Joe Sedley của chúng ta bước ra, nói:

- Đây rồi; George, chậm năm phút đấy nhé. Trời với đất. Lạy Chúa! Y như mùa mưa ở Bengal vậy. Nhưng xe tôi thì không mưa nào lọt vào được. Vào đi; Emmy và mẹ tôi đã ở trong kho đồ thánh rồi.

Joe Sedley trông đường bệ quá. Anh ta béo hơn trước nhiều. Cổ áo cũng may cao hơn, mặt trông đỏ hơn. Bộ cà vạt đính ở cổ áo lòa xòa rủ xuống chiếc áo gi-lê sặc sỡ. Hồi ấy chưa có những đôi ủng da véc-ni, nhưng đôi ủng cao cổ của anh ta cũng bóng nhoáng, trông như đôi ủng trong truyện cổ, có người soi vào đó mà cạo râu được. Bông hoa hồng bạch to tướng mừng đám cưới gắn trên ngực áo, trắng muốt như một cái lá mộc lan.

Thì ra George chơi nước bài liều. Anh ta sắp làm lễ thành hôn. Vì thế mặt anh ta tái mét, băn khoăn, mất ngủ suốt đêm và sáng ra thì bổi hổi bồi hồi trong dạ. Tôi đã biết trong trường hợp tương tự, nhiều người cũng có tâm trạng như vậy. Có lẽ đến lần làm lễ cưới thứ ba hay thứ tư thì cũng quen đi, nhưng lần đầu tiên thì gay go lắm.

Đại úy Dobbin kể lại cho tôi rõ rằng cô dâu mặc một tấm áo choàng bằng lụa màu nâu, đội một cái mũ rơm có băng hồng. Một tấm chàng mạng bằng voan Santily che kín mặt, đó là món quà của ông anh Joseph Sedley. Đại úy Dobbin đã đề nghị được tặng cô dâu một chiếc đồng hồ vàng có dây, hôm ấy cũng thấy cô dâu đeo. Bà mẹ cho nốt cô con gái chiếc trâm nạm kim cương, món đồ trang sức cuối cùng của bà già còn sót lại. Trong khi cuộc hôn lễ đang tiến hành, bà Sedley ngồi trên một tấm ghế khóc nức nở. Chị hầu gái người Ai len và bà Clapp phải khuyên nhủ mãi. Ông Sedley không muốn chứng kiến cuộc hôn nhân. Joe thay mặt cha; anh ta đưa cô dâu đến trước bàn thờ; đại úy Dobbin đóng vai phù rể.

Trong nhà thờ chỉ có những nhân viên hành lễ và mấy người dự đám cưới. Hai anh hầu đứng mãi tận ngoài xa nhìn vào có vẻ vênh váo. Mưa vẫn rơi tầm tã đập vào cánh cửa sổ lộp bộp. Trong những phút cuộc hành lễ tạm ngừng, nghe tiếng mưa rơi bên ngoài và tiếng bà Sedley khóc thút thít. Giọng nói của vị mục sư vang lên buồn buồn vọng vào những mảnh tường trống rỗng. Osborne nói câu "con xin ưng thuận" với giọng rất trầm. Câu trả lời của Emmy run run thốt ra tự đáy lòng nhưng không ai nghe rõ, trừ đại úy Dobbin.

Cuộc lễ xong; lần đầu tiên sau hàng bao nhiêu tháng trời Joe Sedley bước tới hôn em gái, bây giờ đã là cô dâu mới; vẻ rầu rĩ đã biến mất trên mặt George, bây giờ trông anh ta rất tươi tỉnh và kiêu hãnh. Anh ta thân maajt đặt tay lên vai Dobbin nói:

- Bây giờ đến lượt anh.

Dobbin bước tới đặt tay vào má Amelia...đoạn, họ sang kho đồ thánh để ký vào sổ chứng hôn.

- Dobbin ơi cầu chúa ban phúc cho cậu nhé.

George nắm chặt tay bạn, hình như hơi rơm rớm nước mắt; William chỉ gật đầu đáp lại. Anh ta đang bị xúc động quá, không nói được nhiều. Osborne dặn:

- Viết thư luôn nhé. Lúc nào rỗi rãi nhớ lại chơi, nghe không.

Phút ly biệt giữa bà mẹ và cô con gái rất cảm động; đôi vợ chồng trẻ dắt nhau lên xe:

- Mấy thằng ranh con, tránh ra đằng kia.

George quát mấy đứa trẻ đang đứng xúm xít quanh cửa nhà thờ, Đôi vợ chồng bước ra xe bị nước mưa xối vào mặt ướt hết. Quần áo anh xà ích ướt đẫm. Bọn trẻ con hò reo rầm rầm lúc chiếc xe lăn bánh, bùn bắn tứ tung.

Dobbin đứng lại trong khung cửa nhà thờ nhìn theo, vẻ mặt rầu rầu. Bọn trẻ con thấy thế cứ trêu cợt anh chàng, nhưng anh ta không để ý đến chúng, cũng như tiếng chúng cười đùa.

- Dobbin chúng ta về nhà đi ăn thôi.

Có tiếng người nói sau lưng Dobbin; một bàn tay nặng nề đặt mạnh lên vai anh, làm cho chàng tỉnh cơn mơ mộng. Nhưng viên đại úy không lòng nào ăn tiệc với Joe Sedley. Anh ta đưa bà già đang mếu máo cùng mấy người hầu lên xe của Joe Sedley, rồi, không nói thêm lời nào, từ biệt họ. Chiếc xe chuyển bánh, bọn trẻ con lại reo ầm lên chế nhạo lần nữa.

- Này đây, bọn ăn mày ranh con.

Dobbin vứt cho chúng mấy đồng xu, và bước ra ngoài mưa lủi thủi đi một mình. Thế là hết hẳn. Họ cưới nhau rồi, và họ rất sung sướng; anh chàng cầu Chúa. Từ bé, chưa hề bao giờ anh ta cảm thấy cô độc, đau khổ như lúc này. Anh chàng khát khao mong sao cho chóng qua mấy ngày đầu để gặp lại Amelia.

Khoảng mười ngày sau buổi hôn lễ vừa nói trên, ba chàng trai trẻ quen biết của chúng ta đang thưởng thức phong cảnh đặc biệt của Brighton: một bên là dẫy biệt thự có cửa sổ chấn song hoa, một bên là biển, nước xanh biếc.

Những người dân Luân đôn ngắm nhìn say sưa cảnh biển rộng, mặt nước sôi nổi như chúm chím cười, điểm lấm tấm những cánh buồm trắng, với hàng trăm chiếc ca-nô lượn sát bờ như hôn dải gấu áo màu lam của biển cả. Còn những kẻ ưa cuộc sống của con người hơn những phong cảnh kỳ thú khác thì lại hướng về phía những người ở chung nhà lấy làm khoái trá vô cùng. Tại cửa một biệt thự khác, thấy chị hầu gái Polly xinh xắn đang ôm cậu Omnium vào lòng mà vuốt ve; trong khi ấy ông bố là Jacob ngồi cạnh cửa sổ nhà dưới đang khoái trá điểm tâm món tôm bể, và đọc tờ "Thời báo". Xa xa đằng kia là mấy chị em cô Leery đang liếc theo mấy chàng sĩ quan ngự lâm quân trẻ tuổi rong chơi trên bãi biển, hoặc là một anh chàng người Luân-đôn đang giơ chiếc ống nhòm to như cái nòng súng ca-nông bắn đạn sáu cân nhìn ra ngoài khơi y như muốn chỉ huy tất cả những thuyền du lịch, thuyền đánh cá, thuyền tắm đang bơi ra bơi vào. Nhưng chúng ta có thì giờ đâu mà tả cảnh Brighton mãi? Brighton chính là Naples, nhưng là thành phố Naples sạch sẽ, mà bọn cùng đinh là những nhà quý tộc; Brighton bao giờ cũng mát mẻ, đáng yêu, duyên dáng như bộ áo của một anh hề. Hồi câu chuyện này xảy ra, đi từ Luân-đôn đến Brighton mất bảy tiếng đồng hồ, nhưng nay chỉ mất khoảng một giờ rưỡi; và sau này khoảng cách ấy rất có thể còn rút ngắn hơn nữa trừ phi Joinville mang quân đến oanh tạc một cách không đúng lúc.

Một trong số ba người đang đi, lên tiếng:

- Con bé trong căn nhà mé trên hiệu bán đồ trang sức phụ nữ kia trông kháu quá nhỉ. Này, Crawley, có thấy lúc mình đi qua nó cứ liếc theo mãi không?

Người bạn đáp:

- Thôi ông Joe, ông đừng làm cho nàng đau khổ; ông Don Juan ơi, chớ đùa cợt với tình yêu của nàng.

- Cứ để mặc tôi.

Joe Sedley khoái trí lắm, vừa nói vừa lấy điệu bộ thật tình tứ liếc mãi chị hầu gái nói trên. Lần này đi chơi Brighton, trông Joe còn sang trọng hơn cả lúc dự lễ cưới em gái. Anh ta mặc mấy cái gilê thật là "mốt"; một cậu công tử xoàng chỉ cần một cái cũng đã đủ thích. Anh ta lại mặc một tấm áo kiểu nhà binh, với đủ mọi thứ lon hoa và khuy đồng đen, cùng những đường thêu vằn vèo. Gần đây, cu cậu lại đâm ra cũng kéo lê đôi ủng có cựa gót kêu lanh canh, cũng ưỡn ngực vênh vang, và tròn mắt lên mà liếc tất cả những chị hầu gái gọi là "ngon mắt" một tý.

Chàng công tử hỏi hai bạn:

- Trong lúc chờ các bà ấy quay lại, chúng mình làm cái gì bây giờ?

"Các bà ấy " đang ngồi xe của anh Rottingdean.

Một người to lớn có bộ râu vuốt xi đen góp ý kiến:

- Ta chơi vài ván bi-a.

Joe hơi hoảng đáp:

- Thôi, thôi, ông đại úy ơi! Hôm nay không chơi bia-a nữa. Crawley ạ, chơi hôm qua thế là đủ rồi.

Crawley cười nói:

- Anh chơi cừ lắm. Đúng không, Osborne? Năm cú liền hôm qua, anh ta chơi cừ quá.

Osborne đáp:

- Tuyệt lắm, Joe thật là một nhân tài trong làng bi-a; những môn khác chơi cũng giỏi. Ước gì ở đây có tổ chức săn hổ nhỉ? Chúng mình rất có thể tham dự và giết chơi vài con trước khi về ăn cơm. (Con bé nào đang đi kìa! Joe, nom cái cổ chân xinh quá, hả?). Kể cho nghe lại câu chuyện săn hổ đi; anh gặp hổ trong rừng rậm thế nào nhỉ? Này, Crawley, chuyện hay lắm nhé. Nói đến đây, George ngáp một cái, tiếp:

- Thời giờ cứ đằng đẵng ấy nhỉ, chậm quá. Ta làm cái gì bây giờ?

Crawley đề nghị:

- Hay là chúng ta đi xem mấy con ngựa vừa đem từ Hội chợ Lewes về đây.

- Joe định bắt cá hai tay ():

- Sao chúng mình lại không đi chén bánh ngọt ở quán Dutton nhỉ. Con bé ở nhà Dutton nom kháu ra phết.

George bàn:

- Ta đi đón xe "Tia chớp" đi, đến giờ xe về rồi đấy.

Ý kiến này được tán thành. Cả ba quay lại trạm xe ngựa để chờ xe "Tia chớp" về.

Đang đi, họ gặp chiếc xe ngựa trần mui của Joe, trên có sơn huy hiệu riêng lộng lẫy. Ở Cheltenham, anh ta vẫn thường ngự trên chiếc xe lộng lẫy này đi chơi một mình trong tỉnh, trông bệ vệ ra phết, tay khoanh trước ngực, đầu đội mũ vành bẻ tam giác; cũng đôi khi may mắn hơn, có cả đàn bà ngồi bên cạnh.

Lúc này thấy có hai cô thiếu nữ ngồi trên xe; một người bé nhỏ, tóc nâu nhạt, ăn bận theo "mốt" tối tân nhất; người kia mặc một tấm áo lụa màu nâu, đội mũ nan có băng màu hồng, khuôn mặt tròn trĩnh, hồng hào, hớn hở, trông rất ưa nhìn. Xe đến gần ba người đàn ông, thì cô nói sau kìm ngựa lại; dường như vì cử chỉ "oai phong" của mình vừa rồi mà cô ta luống cuống, đỏ ửng mặt lên, trông đến buồn cười, và nói:

- George, chúng em đi chơi vui lắm... bây giờ về, thích quá Anh Joseph, đừng bắt nhà em về muộn nhé.

Rebecca giơ một ngón tay xinh xinh lồng trong chiếc bao da dê kiểu Pháp dọa Joe:

- Anh Sedley ơi? Đừng rủ rê các ông chồng chúng tôi chơi bời bậy bạ nhé, anh là hư lắm đấy. Không chơi bi-a, không hút thuốc lá, không ngỗ ngược.

- Chị Crawley thân mến...A...Tôi xin lấy danh dự mà hứa... Joe chỉ nói được có thế. Nhưng anh ta đã chú ý lấy một điệu bộ rất cầu kỳ, nghiêng nghiêng cái đầu mỉm cười nhìn "cố nhân", một tay chắp sau lưng chống một cái can, một tay (cái tay đeo nhẫn kim cương) đưa lên nắn nắn chiếc cà-vạt và vuốt chiếc gi-lê. Chiếc xe chuyển bánh, anh ta còn giơ bàn tay đeo nhẫn gửi theo một cái hôn cho hai người đàn bà. Joe ước gì tất cả Cheltenham, Chowringhee, tất cả Calcutta được nhìn thấy anh đang vẫy chào một con người tuyệt sắc như vậy, và đang đi chơi cùng một tay nổi tiếng phong lưu là Rawdon Crawley trong đội ngự lâm quân.

Sau khi lấy nhau, cô dâu chú rể chọn Brighton làm nơi nghỉ ngơi hưởng thú trăng mật. Họ thuê mấy căn phòng tại khách sạn "Thủy quân", sung sướng hưởng thụ hạnh phúc êm đềm của mình trong thời gian chờ đợi Joe cũng ra đấy. Mà cũng chẳng phải họ chỉ có Joe là bạn ở đây. Một buổi chiều đang đi men theo bờ biển trở về khách sạn, họ gặp hai vợ chồng Rebecca. Hai cặp vợ chồng mới cưới nhận ra nhau ngay. Rebecca ôm chầm lấy cô bạn thân nhất đời.

Crawley hoan hỉ nắm tay Osborne rung tít. Chỉ mấy giờ sau, Becky đã tìm được cách khiến cho George quên hẳn mấy câu dấm dẳng cô ta nói với anh chàng hồi nọ. Đại úy Osborne còn nhớ không nhỉ, cái lần ta gặp nhau tại nhà Crawley phu nhân ấy mà, em có hơi thiếu lịch sự đối với anh. Hồi ấy, em cứ yên trí anh thờ ơ với chị Amelia thân yêu của em. Em giận quá, thế là đâm ra hỗn xược, tàn nhẫn, và vô ơn nữa cơ chứ. Anh tha lỗi cho em nhé! Rebecea, rất thẳng thắn, rất duyên dáng, chìa tay ra cho Osborne bắt; anh chàng đành giơ tay ra thôi. Cứ thẳng thắn và khiêm tốn mà nhận rằng mình có lỗi đi, có khi vì vậy mà thu lợi nhiều không biết chừng cơ đấy. Ngày trước tôi có quen một người sang trọng, vốn là tay hâm mộ Hội chợ phù hoa; tính ông ta thường hay gây ra những chuyện phiền lòng nho nhỏ làm tội những người xung quanh, cốt để về sau lại rất anh hùng, rất thẳng thắn mà xin lỗi họ...kết quả thế nào? Nghĩa là ai cũng đâm ra mến ông bạn Crocky Doyle của tôi; họ bảo rằng tính ông ta có hơi nóng, nhưng bản chất là người tốt nhất đời đấy. Cho nên thái độ khiêm tốn của Becky được Osborne coi là rất chân thành.

Hai cặp vợ chồng trẻ không thiếu gì chuyện kể cho nhau nghe. Họ tranh cãi về chuyện cưới xin của nhau. Hai bên thảo luận về những kế hoạch xây dựng tương lai hết sức thẳng thắn và nhiệt tình. Họ ấn định sẽ giao cho Dobbin việc báo cho ông già Osborne biết tin con trai ông lấy vợ.

Osborne cứ nghĩ đến cuộc gặp gỡ sẽ xảy ra cũng đủ rùng mình. Rawdon thì vẫn đặt mọi hy vọng vào Crawley phu nhân, nhưng chưa thấy động tĩnh gì. Không có cách nào mò vào trong ngôi nhà ở Đường công viên được, hai vợ chồng anh cháu trai đành bám sát bà lão về Brighton, tay chân của họ lúc nào cũng túc trực sẵn sàng trước cửa nhà bà để nghe ngóng.

Rebecca cười nói:

- Chị ạ, giá chị được nhìn thấy mấy ông bạn quý của Rawdon lúc nào cũng rình ở cửa nhà em. Chị đã bao giờ nhìn thấy một lão chủ nợ hay là một bác mõ tòa có tay sai đi kèm chưa? Tuần trước, có hai thằng quái ác nó cứ ngồi bên hàng hoa quả trước cửa rình suốt cả tuần lễ, đến nỗi chủ nhật chúng em mới dám thò mặt ra đường. Nếu bà cô không nghĩ lại, không hiểu rồi chúng em làm ăn ra sao?

Rawdon cười ầm lên, kể lại đến một tá chuyện lý thú về lão chủ nợ và cách Rebecca nói năng khéo léo với hắn ta như thế nào. Anh ta thề ầm ĩ lên rằng cả Âu châu này ít có người đàn bà nào đuổi khéo bọn chủ nợ tài tình bằng vợ mình. Hầu như ngay sau khi lấy nhau, Rebecca đã có dịp sử dụng tài nghệ của mình và anh chồng thấy ngay vợ mình là một con người vô giá. Hai vợ chồng vẫn được nhiều người tín nhiệm, nhưng cũng có vô số văn tự nợ, riêng khoản tiền mặt thì bao giờ cũng kiết xác. Những chuyện nợ nần ấy có làm cho Rawdon bớt vui vẻ không? Không; trong Hội chợ phù hoa, ai mà chẳng đã thấy có khối người nợ đìa ra mà vẫn ung dung ra phết; họ chẳng thiếu thứ gì, mà tâm trạng thì cứ phởn phơ thoải mái như không. Hai vợ chồng Rawdon thuê một ngôi nhà đẹp nhất ở Brighton, ông chủ trọ, mỗi khi bưng đĩa thức ăn đầu tiên của bữa cơm lên, lại cúi rạp xuống mà chào y như họ là những vị khách quý quen thuộc. Rawdon thì cứ tha hồ chê bai các bữa ăn và các thứ rượu, bạo mồm chẳng kém chẳng thua gì những tay tai to mặt lớn trong vùng. Thì ra nhiều khi những thói quen ông hoàng, một bộ cánh và một đôi ủng thật bảnh, kèm theo một dáng điệu khệnh khạng, cũng có thể thay thế cho một khoản lớn ở nhà băng được.

Hai cặp vợ chồng đến chơi nhà nhau luôn. Sau hai ba ngày, hai người đàn ông tổ chức chơi pich-kê, còn hai cô vợ ngồi riêng một chỗ chuyện trò tri kỷ. Nhờ có thú tiêu khiển này, và nhờ có Joe Sedley ngự trên chiếc xe ngựa mui trần to tướng cũng ra chơi vài ván bi-a, thành ra cái ví Rawdon đầy lên đôi chút và có tiền mặt mà tiêu, cái khó mà nhiều khi các bậc thiên tài trác tuyệt cũng phải bó tay không vượt qua nổi.

Thế là ba người đàn ông cùng đi ra đón xe "Tia chớp".

Đúng giờ, không sai một phút, chiếc xe chật ních những người tiến đến; người gác cổng tỉnh thổi một hồi tù và thường lệ; chiếc "Tia chớp" chạy như bay qua phố, tiến về trạm xe.

George kêu ầm lên, thú quá, khi nhìn thấy ông bạn nối khố ngồi ngất ngưởng trên mui xe; anh ta hứa đến thăm ngay mà bây giờ mới thấy mặt:

- Hoan hô, Dobbin kia rồi.

- Nào, ông tướng, khỏe mạnh chứ? Cậu về chơi, mình vui quá. Emmy gặp cậu chắc mừng lắm đấy.

Osborne nồng nhiệt bắt tay bạn ngay lúc Dobbin vừa xuống xe; đoạn anh ta thấp giọng, lo lắng hỏi:

- Có tin tức gì không? Anh lại khu phố Russell chưa? Ông cụ bảo sao? Kể lại mình nghe hết cả đi.

Dobbin vẻ mặt nhợt nhạt đăm chiêu, đáp:

- Tôi gặp ông cụ rồi, Amelia... à, chị George thế nào? Để tôi kể lại mọi chuyện anh nghe; nhưng đây là tin quan trọng nhất; nghĩa là...

- Nói phăng ra, ông tướng.

- Chúng ta được lệnh sang Bỉ. Tất cả binh đoàn, cả đội ngự lâm quân. Heavytop bị bệnh thống phong; ông ta đang phát điên lên vì không đi lại được. O'Dowd sẽ tạm quyền chỉ huy. Tuần sau chúng ta lên tầu ở Chatham.

Tin về cuộc chiến tranh không khỏi khiến hai vị tân lang của chúng ta xúc động mạnh mẽ; vẻ mặt ba người đàn ông trông đăm chiêu hẳn đi.

Chương 23: ĐẠI ÚY DOBBIN TIẾP TỤC VẬN ĐỘNG

Không rõ tình bằng hữu có một sức mạnh huyền bí gì mà khiến được một con người thường ngày vẫn lùy xùy, hoặc lạnh lùng hoặc nhút nhát có thể trở thành khôn ngoan, hoạt động, cương quyết, trong khi lo liệu công việc cho bạn mình? Cũng giống như trường hợp của Alexis, sau khi được giáo sư khoa thôi miên Elliotson khoa tay vài cái trước mặt, anh ta bỗng nhiên coi khinh những sự đau đớn về thể xác, quay lưng lại cũng đọc được sách, mắt nhìn thấy cách hàng dặm đường, biết trước cả tuần lễ sau sẽ xảy ra những chuyện gì, ấy là chưa kể bao việc kỳ lạ khác; thế mà thường ngày, anh ta chỉ là một đồ vô tích sự. Trong những sự việc ở đời cũng vậy, mãnh lực diệu kỳ của tình bạn biến được kẻ thù nhút nhát thành can đảm, người e lệ thành bạo dạn, kẻ lười biếng thành năng động và người xốc nổi trở thành điềm tĩnh và khôn ngoan. Vì cớ gì một viên thầy kiện hủy bài cãi của mình mình đi, và chịu tìm đến ông bạn đồng nghiệp tài ba hơn để xin giúp ý kiến? Tại sao một vị bác sĩ mắc bệnh, lại cho chịu đi mời ông thầy thuốc vẫn cạnh tranh với mình đến nghe mạch, mà không ngồi vào trước gương thè lưỡi ra soi để tự mình định bệnh kê đơn lấy? Những câu hỏi ấy xin nhường các bạn đọc giải quyết hộ; các bạn vẫn thông minh, vẫn rõ chúng tôi có thói vừa cả tin lại vừa hoài nghi, vừa dễ dãi, vừa bướng bỉnh, tin người, nhưng lại không tin ngay chính mình. Anh bạn Dobbin của chúng ta thuộc loại người dễ tính, giả dụ trước kia bị gia đình thúc bách quá, có lẽ anh ta đã xuống nhà bếp mà lấy chị đầu bếp làm vợ. Ví phỏng chỉ để lo việc cho bản thân thôi, thì đối với anh ta đi ra phố cũng là chuyện trăm nguy ngàn khó; nhưng nếu lại là lo việc cho Osborne thì anh chàng quen "cơm nhà việc người" này rất hăng hái, không quản khó nhọc, y như một tay chạy việc ích kỷ nhất, xưa nay chỉ biết mưu lợi cho bản thân.

Trong khi George và cô vợ trẻ đang say sưa hưởng thụ những ngày nồng nàn hạnh phúc đầu tiên của tuần trăng mật ở Brighton, thì anh chàng Dobbin thật thà này ở lại Luân-đôn với tư cách là đại diện toàn quyền của bạn để thu xếp nốt những chuyện liên quan đến việc cưới xin vừa qua. Nhiệm vụ của Dobbin còn phải làm cho Joe và em rể thân mật với nhau hơn, nhằm mục đích dùng cái địa vị ủy viên tài phán quận Boggley Wollah của Joe bù vào chỗ ông Sedley bị mất hết danh vọng vì phá sản; cũng lại Dobbin phải lo vận động sao cho ông già Osborne thuận trở lại công nhận hôn ước giữa hai gia đình; và cuối cùng, Dobbin sẽ tìm cách báo tin George cưới vợ cho ông già biết, sao cho ông đỡ bực mình.

Dobbin mới tính toán rằng, trước khi đến chạm trán với ông chủ gia đình Osborne để báo tin này, cần tranh thủ cảm tình của những người trong nhà đã và, nếu có thể, vận động được cho hai chị em cô Osborne về phe mình.

Theo ý anh ta, không có lẽ nào hai cô thiếu nữ lại nỡ lòng giận George vì chuyện này. Ở đời có người phụ nữ nào lại bất bình thực sự vì cuộc tình duyên lãng mạn? Chẳng qua họ cũng chỉ khóc lóc gọi là tý chút, rồi cũng sẽ làm lành với George thôi; thế là hai cô con gái và Dobbin, cả ba sẽ góp sức mà bao vây ông Osborne. Viên sĩ quan lục quân kiêm chính khách đại tài này bắt đầu tìm một biện pháp vui vẻ hoặc một chiến thuật khả dĩ dẫn hai chị em cô Osborne đi vào câu chuyện bí mật của George một cách từ từ và khéo léo. Dobbin chỉ cần dò hỏi xem mẹ mình thường hay đi chơi những đâu và gặp những ai, là có thể biết nên đến chỗ nào thì có hy vọng gặp mặt hai chị em cô Osborne. Xưa nay, anh ta vẫn rất ghét những chuyện khách khứa. Tiệc tùng -những thú vui này, than ôi, khá nhiều người đàn ông biết suy nghĩ lại rất say mê - nhưng anh ta cũng tìm cách len vào bằng được một cuộc tiếp tân có mặt hai chỉ em cô thiếu nữ. Trong buổi dạ hội này, Dobbin nhảy với mỗi cô một hai lần, tỏ ra đặc biệt lịch thiệp, đoạn mới lấy can đảm yêu cầu cô Jane Osborne sớm hôm sau cho gặp mặt khoảng mươi phút để báo một tin hết sức quan trọng.

Cớ làm sao nghe Dobbin nói thế, cô ta lại giật nảy mình, nhìn chằm chằm anh chàng một lúc rồi cúi mặt xuống, như thể muốn ngã ngay vào cánh tay anh ta mà ngất lịm đi? Nhưng may quá, đúng lúc ấy Dobbin lại vô ý giẫm ngay lên bàn chân cô ta, nhờ thế cô thiếu nữ tự trấn tĩnh được kịp thời. Tại sao cô ta lại bị xúc động đến khi nghe lời yêu cầu đó của Dobbin? Ai mà biết được. Chỉ biết rằng sớm hôm sau, khi Dobbin đến thăm thì cô Maria không có mặt trong phòng khách như mọi khi; còn bà Wirt thì cũng bỏ ra ngoài lấy cớ đi tìm cô Maria; còn lại một mình anh chàng đại úy ngồi với cô Jane Osborne. Cả hai cùng yên lặng: chiếc đồng hồ có tượng Iphigenia đặt trên mặt lò sưởi kêu tích tắc nghe rõ mồn một, rõ một cách khó chịu. Cuối cùng, cô Osborne lên tiếng trước, có ý khuyến khích :

- Buổi dạ hội đêm qua vui quá nhỉ, và...và...hồi này ông khiêu vũ tiến bộ lắm, đại úy Dobbin ạ.

Cô thân mật tiếp theo, có vẻ hơi ranh mãnh:

- Hẳn phải có người nào luyện hộ ông, có đúng không nào?

- Giá cô được xem tôi nhảy điệu "reel"() với bà thiếu tá O'Dowd của chúng tôi, và điệu "jig"() nữa... cô đã xem nhảy điệu "jig", bao giờ chưa? Nhưng theo ý tôi, nhảy với cô, người kém cũng thành giỏi; cô nhảy khéo tuyệt.

Cô thiếu nữ tò mò hỏi:

- Bà thiếu tá có trẻ đẹp không, ông đại úy? Người đẹp lại hỏi tiếp:- Chao ôi! Là vợ sĩ quan chắc phải ghê gớm lắm nhỉ? Tôi khó lòng tưởng tượng nổi vào thời buổi chiến tranh này, cái bà ấy còn nghĩ đến chuyện khiêu vũ được. Đại úy Dobbin ạ, thỉnh thoảng cứ nghĩ đến cậu em George yêu quý của tôi cùng bao nhiêu nỗi hiểm nguy đang đe dọa thân phận đáng thương của người lính mà tôi run lên vì sợ hãi đấy. Trong trung đoàn của ông có nhiều sĩ quan có vợ không, ông đại úy?

Bà Wirt đang ghé tai vào cửa nghe trộm, nghĩ bụng: "Chết thật, cái cô này ăn nói lộ liễu quá đi mất". Nhưng câu nói thầm của bà không lọt đến tai người ngồi trong phòng.

Dobbin đi thẳng vào vấn đề:

- Trong bọn anh em chúng tôi, cũng có một người vừa cưới vợ; hai người yêu nhau đã lâu, nhưng họ nghèo quá, không một xu dính túi ().

Nghe mấy tiếng "yêu nhau đã lâu và nghèo", cô Osborne bèn kêu lên:

- À tuyệt quá nhỉ? Thật là thi vị!

Thấy cô thiếu nữ tỏ vẻ thông cảm, Dobbin bạo dạn hơn, tiếp:

- Anh ta là một thanh niên tuấn tú nhất trung đoàn đấy. Cả quân đội không có sĩ quan nào can đảm và đẹp trai hơn; mà người vợ thì xinh thật là xinh! Giá cô nhìn thấy cũng phải yêu cô Osborne ạ; cô mà gặp cô ấy thì nhất định cô cũng mến.

Cô thiếu nữ nghĩ thầm giờ phút quyết định đã bắt đầu vì thấy Dobbin có vẻ lúng ta lúng túng, những thớ thịt trên mặt anh ta cứ giật giật, đôi bàn chân to kếch động đậy luôn, mấy ngón tay thì cứ lần mãi trên hàng khuy áo, hết cởi ra lại cài vào. Chắc rằng điệu bộ anh chàng lúng túng thế kia, ý hẳn sắp sửa dốc cạn bầu tâm sự, cô bèn hăm hở sửa soạn lắng nghe. Vừa lúc ấy, chiếc đồng hồ trên có pho tượng Iphigenia kêu rè rè một hồi, rồi ngân nga điểm mười hai tiếng liền. Chỉ gõ có mười hai tiếng chuông mà tưởng như lâu đến một giờ. Cô thiếu nữ chưa chồng đang khát khao chờ đợi thấy đồng hồ đánh chuông sao mà chậm quá thế! Dobbin nói:

- Nhưng hôm nay tôi không định nói chuyện về việc cưới xin...nghĩa là việc cưới xin của...nghĩa là...không, tôi định nói rằng...cô Osborne ạ, tôi định nói chuyện về anh bạn George thân yêu của tôi.

- Thì ra ông nói chuyện về George!

Giọng nói của cô thiếu nữ lộ vẻ thất vọng quá rõ ràng làm cho cô Maria và bà Wirt đứng nghe trộm ngoài cửa phải bật cười; Dobbin xuýt nữa cũng phải tủm tỉm vì không phải là anh ta không biết rằng mình đã lọt được vào mắt xanh của cô thiếu nữ. Trước kia, nhiều lần George đã bỡn cợt bạn thế này: "Bỏ mẹ thật! Thế mà anh không chịu lấy bà gái già Polly nhà tôi làm vợ. Anh chỉ hỏi một tiếng là xong. Tôi đánh cuộc với anh năm đồng ăn hai này."

Dobbin bèn nói tiếp:

- Thưa vâng, về George. Giữa anh ấy và cụ ông nhà ta trước kia có chút xích mích. Tôi quý anh ấy lắm...chắc cô cũng biết chúng tôi thân nhau như anh em ruột...cho nên tôi không ao ước gì hơn là được thấy hòa khí giữa cụ nhà và anh ấy. Cô Osborne ạ, chúng tôi sắp phải ra ngoại quốc rồi. Mệnh lệnh xuất quân sẽ ban xuống không biết lúc nào. Mà ra trận thì cũng không biết thế nào mà nói trước...Cô Osborne ạ, việc gì mà sợ hãi...Vì vậy, trước khi đi ra, cũng mong anh ấy được cụ nhà thương đến.

Cô thiếu nữ đáp:

- Đại úy Dobbin, nào có chuyện lôi thôi gì đâu; xưa nay giữa hai cha con vẫn thường có những chuyện xích mích nhỏ. Ngày nào chúng tôi cũng mong George trở về. Ba tôi chỉ ước mong điều hay cho cậu ấy. George cứ yên trí trở về nhà, tôi cam đoan mọi sự đều ổn thỏa, êm đẹp. Em Rhoda nó hồi nãy đây còn có vẻ rất buồn rầu, bực bội; nhưng tôi biết, thế nào nó cũng sẵn sàng tha thứ cho anh nó. Đại úy, ạ phụ nữ chúng tôi vẫn dễ tha thứ lắm cơ.

Dobbin rất khôn ngoan đáp ngay:

- Một vị thiên thần như cô chắc hẳn dễ tha thứ cho người khác rồi. Vả lại người đàn ông nào làm cho đàn bà đau khổ, thật đáng tội lớn. Giả dụ có người đàn ông nào không trung thành với cô, liệu cô cảm thấy thế nào nhỉ?

- Tôi ấy à?...Thế thì tôi chết mất...Tôi sẽ nhảy qua cửa sổ tự tử ngay... Tôi sẽ uống thuốc độc... Tôi sẽ héo hon rầu rĩ đi mà chết. Chắc chắn như vậy.

Tuy cô thiếu nữ hăng hái tuyên bố thế, nhưng thực ra, cô đã từng trải qua đôi ba cuộc thất bại trên trường tình mà chưa hề thấy bao giờ cô nghĩ đến chuyện từ bỏ cõi đời.

Dobbin lại tiếp:

- Tôi biết nhiều người cũng có một tấm lòng chung thủy cao quý như cô đấy. Tôi không định nói về cô thiếu nữ triệu phú con gái cái gia đình ở Tây Ấn đâu; tôi chỉ muốn nói về một người con gái trước kia đã từng được George yêu, và từ tấm bé đã chỉ một lòng tâm tâm niệm niệm nghĩ tới anh George. Tôi đã thấy cô ấy chịu đựng cảnh sa sút thiếu thốn một cách nhẫn nại, không hề than vãn nửa lời tuy rất đau khổ, không ai chê trách được điều gì Tức là tôi muốn nói về cô Amelia Sedley. Cô Osborne thân mến, không có lẽ con người rộng lượng như cô lại nỡ giận anh George chỉ vì anh ấy trung thành với Amelia? Ví thử George bỏ rơi Amelia, liệu chính anh ấy có khỏi bị lương tâm cắn rứt hay không? Cô hãy thương lấy Amelia...xưa nay cô ấy vẫn quý cô lắm cơ mà...và...và...hôm nay tôi được George ủy nhiệm đến đây thưa lại với cô rằng anh ấy coi sự đính ước cũ với Amelia là một điều thiêng liêng nhất và tôi cầu xin cô ít nhất thì cũng bênh vực cho anh ấy.

Khi nào Dobbin có điều gì xúc động mạnh, thường thường sau vài câu nói lúng túng rụt rè ban đầu, anh ta nói rất lưu loát; lần này tài hùng biện của Dobbin rõ ràng có ảnh hưởng đến thái độ của cô thiếu nữ. Cô đáp:

- Dạ...thật là một điều...hết sức kỳ quái...hết sức đau xót thật không ngờ... không biết ba tôi sẽ nghe ra sao. Thế là bao nhiêu công lao của ba tôi định gây dựng cho George một cơ đồ lộng lẫy huy hoàng, cậu ấy đổ xuống sông xuống biển sạch... Nhưng mà, đại úy Dobbin ạ, cậu nó nhờ tay ông lo liệu giúp, thật là biết "chọn mặt gửi vàng" đấy.

Ngừng một lát cô nói tiếp:

- Tuy vậy, cũng không ăn thua gì. Đối với cô Sedley, tôi vẫn có bụng mến...thành thực mà nói thế, chắc ông cũng rõ. Xưa nay, chúng tôi vẫn không tán thành cuộc nhân duyên này lắm, nhưng chúng tôi đối với cô ấy vẫn rất tốt...tốt lắm. Có điều ba tôi không bằng lòng đâu, chắc chắn như vậy. Vả lại, ông cũng hiểu rằng một người thiếu nữ có giáo dục... mà sáng suốt, biết điều, thì phải... nghĩa là...đại úy Dobbin ạ, thế nào George cũng phải thôi cô ấy đi, không có cách nào khác.

Dobbin chìa tay ra nói:

- Thế ra một khi người yêu bị lâm vào cảnh hoạn nạn, người đàn ông đành phải bỏ rơi họ sao? Cô Osborne ơi, có thật đó là lời chính cô khuyên tôi không? Xin cô hãy thương lấy Amelia; George không thể nào bỏ cô ấy được đâu. Không thể nào như vậy được. Ví dụ bây giờ cô nghèo đi, liệu có nên khuyên người đàn ông bỏ cô không?

Câu hỏi khôn ngoan này xúc động trái tim cô Osborne không ít; cô đáp:

- Đại úy ạ, không rõ bọn thiếu nữ đáng thương chúng tôi có nên tin lời đường mật của đàn ông các ông không. Xem tính tình cô ta hiền hậu như thế có lẽ cũng cả tin. Tôi e rằng đàn ông các ông độc ác lắm, hay lừa dối lắm.

Đồng thời, Dobbin cảm thấy bàn tay cô Osborne đưa ra xiết chặt lấy tay mình.

Dobbin buông tay cô ta ra có vẻ hơi hốt hoảng nói:

- Hay lừa dối! Cô Osborne thân mến ạ; đàn ông chúng tôi không phải ai cũng thế đâu. Em trai cô không phải là hạng người ấy. George đã yêu Amelia từ hồi hai người còn nhỏ. Sẽ không có sự giàu sang phú quý nào xui được anh ấy từ bỏ Amelia để lấy người khác làm vợ. Bây giờ George phải thôi cô ấy sao? Có phải cô khuyên George hành động như vậy không?

Cô Jane còn biết trả lời thế nào nữa, nhất là cô lại đang ôm một ý định thầm kín đối với Dobbin. Không sao trả lời được cô đành nói đỡ đòn thế này:

- Vâng, nếu các ông không phải là tuồng dối trá thì ít nhất các ông cũng lãng mạn lắm lắm.

Đại úy Dobbin khôn ngoan bỏ qua lời nhận xét, không cãi lại. Cuối cùng, sau một hồi thuyết lý khéo léo đầy lễ độ, Dobbin cảm thấy lúc này cô Osborne đã được chuẩn bị tâm trạng đầy đủ để nhận tin tức cuối cùng; anh chàng bèn rót vào tai cô thiếu nữ: "George không sao xa cách Amelia được, George đã cưới Amelia làm vợ rồi".

Đoạn anh ta kể lại tỷ mỷ cuộc hôn lễ mà các bạn đã rõ: Dobbin bảo rằng nếu George không giữ lời ước cũ, có lẽ Amelia đến chết vì đau khổ mất; ông Sedley nhất định không chịu công nhận việc cưới xin này, nhưng rồi cũng thu xếp ổn thỏa. Joe Sedley cũng đã từ Cheltenham về để dẫn em gái đến trước bàn thờ làm lễ. Sau đó đôi vợ chồng mới ngồi xe bốn ngựa của Joe đi Brighton hưởng tuần trăng mặt, George hy vọng rất nhiều sẽ được chị và em gái giúp đỡ mình xin cha tha thứ; George tin chắc như vậy, vì hiểu rằng tâm hồn phụ nữ vốn hiền thục và dịu đàng. Đoạn Dobbin yêu cầu cô Osborne cho phép mình gặp lại (cô sẵn sàng ưng thuận ngay), rồi đứng dậy cáo từ, anh ta đoán chắc chỉ năm phút sau là câu chuyện sẽ đến tai cô Maria và bà Wirt. Đại úy Dobbin cúi chào rồi từ giã.

Dobbin vừa ra khỏi cửa thì cô Maria và bà Wirt đã nhảy xổ vào trong phòng; thế là câu chuyện bí mật được cô Jane kể lại đầu đuôi tỷ mỷ. Công bằng mà nói thì cả hai cô thiếu nữ không ai lấy làm khó chịu lắm về việc này. Những cuộc hôn nhân táo bạo như thế vẫn có một cái gì đặc biệt khiến cho rất ít người đàn bà nghe chuyện mà công phẫn thực sự; hai cô thiếu nữ lại thấy mến phục Amelia hơn trước, vì cô đã nhận lời thành hôn với George trong trường hợp éo le này. Đang khi ba người sôi nổi bàn tán với nhau không biết rồi ông Osborne sẽ có thái độ ra sao, thì ngoài cửa đã có tiếng gõ cửa mạnh, y như tiếng sét đột ngột của sự trả thù, làm cho cuộc hội kín phải ngừng lại. Mọi người đoán chắc "ba" đã về; nhưng không phải. Đó chỉ là anh chàng Frederick Bullock; y lời hẹn, anh ta từ khu City đến mời hai cô thiếu nữ đi xem triển lãm hoa.

Chẳng nói cũng rõ Bullock được mọi người kể lại ngay câu chuyện bí mật. Nghe xong, thấy bộ mặt anh ta đã ra có vẻ hết sức ngạc nhiên, khác hẳn cái vẻ đa cảm đang lộ ra trên nét mặt hai cô gái. Bullock là một nhà doanh thương, có cổ phần trong một hãng buôn lớn. Anh ta hiểu rõ cổ phần trong một hãng buôn lớn. Anh ta hiểu rõ thế nào là đồng tiền, và giá trị của nó ra sao. Niềm hy vọng làm cho đôi mắt ty hý của anh ta sáng rực lên. Anh ta vừa mỉm cười với cô Maria vừa tính nhẩm rằng phen này sự điên rồ của George hẳn sẽ nâng giá trị của cô vợ chưa cưới lên thêm ba vạn đồng nữa là ít.

Anh ta nhìn cô chị vợ, vẻ mặt kính nể, nói:

- Trời đất ạ; chị Jane, Eels nghe tin này chắc đến phát khóc mất. Chị sắp đáng giá năm vạn đồng rồi đấy.

Cho đến lúc này, hai chị em cô thiếu nữ chưa kịp nhớ đến chuyện tiền nong; suốt cuộc đi chơi sáng hôm ấy, Bullock luôn mồm bỡn cợt hai chị em về vấn đề này; đến trưa, khi hai cô về nhà dùng bữa, chính họ cũng cảm thấy hãnh diện hơn trước thái độ ích kỷ ấy; nào có gì là khác thường đâu? Bởi vì sớm hôm nay kẻ viết truyện này có đi xe ngựa thuê từ Richmond; lúc xe đến trạm thay ngựa, tôi ngồi ngất nghểu trên mui nhìn xuống thấy ba đứa trẻ bẩn thỉu đang vầy một vũng nước bên vệ đường, cười đùa vui vẻ lắm. Bỗng có một con bé chạy đến nói: "Này Polly, em mày được một xu đấy". Lập tức ba đứa kia bỏ vũng nước, chạy ra nịnh nọt con bé Peggy đi trước, đám trẻ con bâu theo sau, cả bọn đường hoàng tiến tới quày hàng kẹo của một bà gần đấy.

Chương 24: ÔNG OSBORNE XÓA TÊN CON TRONG QUYỂN THÁNH KINH

Báo tin cho cô chị và cô em gái Osborne xong, Dobbin vội vã đến khu City để thực hiện phần nhiệm vụ còn lại, cũng là phần việc khó khăn nhất. Cứ nghĩ đến phải gặp mặt ông già Osborne, Dobbin cũng đã thấy ngài ngại; nhiều lần anh ta định cứ để hai chị em cô Osborne báo tin ấy cho cha họ, vì anh ta biết họ không thể giấu tín việc ấy được lâu. Nhưng Dobbin hứa với George sẽ kể lại tình hình khi ông Osborne biết tin con lấy vợ như thế nào. Vì vậy, anh ta tìm đến phố Thames, nơi đặt văn phòng của ông Osborne tại khu City, và đưa một tấm thiếp tỏ ý muốn được tiếp trong nửa giờ để nói về việc của con trai ông cụ là George. Người đưa thư trở về cho biết ông lão rất vui lòng, và muốn gặp mặt viên đại úy ngay lập tức; thế là Dobbin đến gặp mặt ông lão. Dobbin bước vào văn phòng của ông già, cảm thấy hình như mình là kẻ có tội, và yên trí giữa hai người sẽ xảy ra một cuộc thảo luận gay go. Dáng điệu âu sầu, vẻ mặt lo lắng, anh ta đi ngang qua gian phòng ngoài, nơi ông Chopper ngồi làm việc, thấy ông này ngồi bệ vệ sau bàn giấy, gật đầu chào có vẻ chế nhạo làm cho Dobbin càng mất tinh thần. Ông Chopper nháy mắt, gật đầu, giơ cái bút chì về phía cửa phòng làm việc của chủ, vui vẻ một cách đặc biệt nói:

- Mời ông vào, cụ chủ trong ấy đấy.

Ông Osborne cũng đứng dậy đón, giơ tay ra bắt rất thân mật:

- Thế nào, con thân yêu, khỏe chứ?

Thái độ vồ vập của ông già càng khiến cho tay "thuyết khách" của George cảm thấy mình có tội. Bàn tay anh ta đờ ra trong nắm tay của ông lão. Anh ta cảm thấy như chính mình ít nhiều đã gây ra mọi chuyện rắc rối. Chính anh ta đã đưa George trở lại với Amelia, chính vì anh ta đã tán thành, đã khuyến khích, đã gần như sắp đặt tất cả việc hôn nhân; bây giờ anh ta đã đến để kể lại cho ông Osborne nghe, thế mà ông già tươi tỉnh tiếp đãi như vậy, lại thân mật vỗ vai, anh ta mà gọi "Dobbin con thân yêu". Chao ôi! Nghĩ mà có thể treo cổ lên tự vẫn ngay được.

Ông Osborne hoàn toàn yên trí rằng Dobbin đến cốt báo tin George chịu đầu hàng rồi. Lúc nhận được tấm thiếp của Dobbin, ông Chopper và chủ đã trao đổi ngay về chuyện hai cha con xích mích với nhau; cả hai đều cho rằng George đã chịu khuất phục. Mấy hôm nay họ vẫn chờ đợi tin này.

Ông Osborne bật mấy ngón tay chuối mắn kêu đánh tách một cái, xóc xóc mấy đồng ghi nê trong túi cho kêu sủng soảng, liếc nhìn người làm công của mình với vẻ mặt của kẻ thắng trận, nói:

- Lạy Chúa, ông Chopper ạ, chúng ta sẽ tổ chức một đám cưới thật linh đình.

Vừa thọc cả hai tay vào túi xóc xóc mấy đồng đồng tiền, vẻ mặt yên trí hể hả, ông Osborne ngồi trên ghế bành nhìn thẳng vào Dobbin đang tái mặt đi im lặng; ông già nghĩ thầm:

- Là một đại úy trong quân đội mà thế này thì đần quá. Tại sao không học thằng George lấy ít cử chỉ lịch sự nhỉ?

Cuối cùng Dobbin thu hết can đảm bắt đầu:

- Thưa cụ, tôi đến báo cụ hay một tin, rất quan trọng. Sáng nay tôi có đến trại ngự lâm quân, và được tin chắc chắn rằng trung đoàn của chúng tôi sẽ được lệnh điều động ra ngoại quốc; nội trong tuần này sẽ sang Bỉ. Chắc cụ cũng thấy, trước khi lại được về nước, thế nào cũng phải tham chiến và cũng có thể nhiều người trong số chúng tôi gặp điều bất hạnh.

Ông Osborne có vẻ trầm ngâm:

- Thằng con...tôi chắc trung đoàn sẽ làm tròn nhiệm vụ, thưa ông.

Dobbin tiếp:

- Thưa cụ, bọn Pháp rất mạnh. Phải một thời gian khá lâu thì quân Nga và quân Áo mới đến tiếp viện được. Như vậy chúng ta phải đứng đầu sóng ngọn gió. Chắc chắn Boney sẽ gây cho ta rất nhiều khó khăn.

Ông già cau mày:

- Ông định nói gì vậy? Tôi tin rằng không một người Anh nào lại sợ bọn Pháp.

- Tôi chỉ muốn cụ hiểu cho rằng, trước khi chúng tôi lên đường, xin cụ hãy nghĩ đến những sự nguy hiểm ghê gớm chắc chắn chúng tôi sẽ gặp phải...mà nếu có sự xích mích giữa cụ và anh George thì...thì...thưa cụ, mong cụ cũng vui lòng bỏ qua cho; được không ạ? Tôi nghĩ rằng, nếu sau này George gặp điều gì không may, chắc cụ chẳng bao giờ tự tha thứ cho mình vì lúc chia tay vẫn còn giận anh ấy.

Mặt Dobbin đỏ tía lên; anh ta cảm thấy rõ ràng mình là thằng phản bội, bởi vì nếu không có anh ta chắc hẳn hai cha con nhà này không có chuyện gì phải xích mích với nhau. Tại sao không lùi cuộc hôn nhân của George lại? Việc gì phải hối hả thế. Anh ta cảm thấy George có thể xa cách người yêu của mình mà không đến nỗi chết vì đau khổ. Còn Amelia thì cũng rất có thể hàn gắn được vết thương lòng. Chính vì anh ta nên mới có chuyện cưới xin rồi sinh ra bao nhiêu chuyện rắc rối. Mà bởi đâu? Chỉ tại anh ta yêu cô thiếu nữ quá, không đành lòng nhìn cô ta đau khổ; hoặc có lẽ vì Dobbin không thể chịu nổi tình trạng lửng lơ nó giày vò mình, nên sẵn sàng chấm dứt nó cho xong chuyện...giống như khi có người chết, ta muốn chôn cất cho nhanh chóng, hoặc như ta biết chắc chắn phải xa cách một người thân yêu, thì chỉ khi đã chia tay nhau rồi, tâm trạng mới thư thái được.

Ông Osborne dịu dàng nói:

- William, ông là người rất tốt; và George không nên chia tay nhau mà vẫn còn xích mích. ông xem đấy, đối với nó, tôi đã làm mọi việc một người cha có thể làm. Tôi chắc rằng tôi đã cho nó nhiều gấp ba lần ông cụ nhà ta cho ông để tiêu. Tôi không khoác lác làm gì đâu. Vì nó, tôi đã vất vả, tôi đã phải phí biết bao tâm lực, tài trí; ông cứ hỏi Chopper, cứ hỏi ngay chính nó thì biết ông cứ hỏi cả khu City ở Luân-đôn này. Thật thế, tôi đã lo cho nó một đám mà bất cứ nhà quý tộc nào trong nước cũng phải thèm muốn...cả đời, tôi chỉ nhờ nó có một việc ấy...thế mà nó không nghe tôi. Vậy thì tôi có lỗi không? Tôi chỉ muốn điều hay cho nó, vì vậy tôi phải chịu vất vả như một tên tù khổ sai từ khi sinh ra nó đến giờ. Không ai có thể bảo tôi ích kỷ được. Cho phép nó trở về, tôi sẵn lòng quên hết và tha thứ. Còn chuyện cưới xin thì thôi, chưa nói đến vội. Nó sẽ làm lành với cô Swartz; và bao giờ nó trở về với cái lon đại tá sẽ lo việc thành hôn cũng không muộn. Nếu chỉ cần có tiền là được làm đại tá thì, lạy Chúa, yên trí lắm. Ông đã khuyên nó biết nghĩ lại, thật may mắn quá. Dobbin, tôi biết lắm, chính nhờ có ông mới được vậy. Lâu nay, ông vẫn giúp nó thoát nhiều rắc rối. Nó cứ trở về, tôi sẽ không nghiêm khắc. Hôm nay, cả hai anh em về khu phố Russell ăn cơm nhé. Vẫn ngôi nhà mọi khi, và vẫn đúng giờ thường lệ. Sẽ có thịt thú rừng, và sẽ không ai căn vặn nó điều gì hết.

Thấy ông già ca ngợi và tỏ ý quá tin tưởng mình. Dobbin rất đau lòng. Càng nghe ông già nói, Dobbin càng cảm thấy mình có tội. Anh ta đáp:

- Thưa cụ, có lẽ cụ đã hiểu; vâng, chắc chắn như vậy. George là người cao thượng quá, chắc không bao giờ chịu lấy vợ vì tiền. Nếu cụ đe dọa sẽ truất quyền thừa kế vì cưỡng lời cụ, e rằng anh ấy càng thêm gan góc

Ông Osborne vẫn khôi hài, nói:

- Thế nào? Chết chưa? Cái ông này. Muốn cho nó mỗi năm được hưởng tám nghìn hoặc một vạn đồng, mà ông gọi là dọa nó? Lạy Chúa, nếu cô Swartz ưng lấy tôi thì tôi xin ký ngay cả hai tay. Tôi không khó tính lắm về chuyện nước da sẫm hay nhạt.

Ông già nhếch mép một cách tinh quái và cười khà khà. Vị "sứ giả" trịnh trọng đáp:

- Thưa cụ, cụ quên mất rằng đại úy Osborne đã có nơi đính ước.

Đột nhiên lại nghe nhắc đến chuyện này, ông Osborne vừa ngạc nhiên, vừa tức giận.

- Đính ước nào? Ông định nói chuyện quái quỷ gì đấy? Ông không định nói rằng cái thằng con tôi ngu xuẩn đến mức cứ nhất định bám chặt lấy đứa con gái của tên lừa đảo, phá sản kia chứ? Ông có định đến đây cốt cho tôi biết rằng nó nhất định lấy con bé ấy làm vợ không? Lấy nó làm vợ, đẹp đẽ nhỉ! Con trai tôi, kẻ thừa kế của tôi mà lấy con gái một tên ăn mày từ cống rãnh chui lên. Nếu thật thế, thì nó hãy kiếm một cái chổi liệu mà đi quét đường sớm. Tôi nhớ ra rồi, mọi khi con bé vẫn lượn quanh con tôi mà liếc tình. Nhất định cái thằng bố lừa đảo nó xui nó "chài" con tôi đây.

Dobbin ngắt lời: dường như anh cảm thấy hài lòng vì chính mình phát cáu:

- Thưa cụ, ngày xưa, ông Sedley vẫn chơi thân với cụ. Đã có hồi cụ không gọi ông ấy là đồ lừa đảo, là đồ khốn, mà gọi bằng những danh từ khác đẹp đẽ hơn. Chính vì cụ mà có chuyện đính ước kia, cho nên George không có quyền chơi đùa, muốn lấy muốn bỏ tùy thích...

Ông già Osborne quát lên:

- Lấy với chả bỏ! Cái thằng con trai thượng lưu nhà tôi cũng nói với tôi y như thế đấy; cái hôm thứ ba cách đây nửa tháng, nó khệnh khạng vác mặt đến dọa dẫm bố đẻ ra nó về những chuyện quận đội nước Anh dự trận. Vậy ra chính ông, ông đại úy, chính ông xui nó nói thế. Xin đa tạ ông, ông đại úy ạ. Thế ra ông muốn dắt bọn ăn mày vào nhà tôi; cảm ơn cái trò vô tích sự của ông lắm lắm, ông đại úy ạ. Lấy con bé ấy... Hi hi? Việc gì tôi phải lấy nó nhỉ? Tôi cam đoan với ông rằng chẳng cần phải cưới xin gì thì con bé ấy vẫn cứ bám lấy nó cho mà xem.

Dobbin đứng phắt dậy, giận dữ ra mặt:

- Thưa cụ, tôi sẽ không để cho ai nói xấu cô ấy trước mặt tôi, nhất là người nói xấu lại là cụ.

- Ông thách thức tôi đấy phải không? Được, để tôi kéo chuông gọi mang hai cây súng lục. Thằng George cử ông đến để chửi bố nó, có phải không?

Ông Osborne vừa nói, vừa giơ tay kéo chuông.

Dobbin, giọng run run nói:

- Cụ Osborne, chính cụ đã sỉ nhục một con người tốt nhất đời này. Cụ nên tránh cho cô ấy điều đó vì cô ấy đã là vợ con trai cụ.

Dobbin không nói gì thêm được nữa, bước ra ngoài.

Ông Osborne ngồi phịch xuống ghế bành mắt mở trừng trừng nhìn theo. Nghe tiếng chuông, một nhân viên bước vào. Viên đại úy bước ra sân thì ông Chopper, người thư ký riêng, đầu để trần chạy theo. Ông ta túm lấy vạt áo Dobbin, hỏi:

- Lạy Chúa tôi, có chuyện gì thế? Cụ chủ tôi đang như điên kia kìa. Ông George đã làm gì vậy?

- Ông ấy cưới cô Sedley đã năm hôm nay rồi. Chính tôi đi phù rể, ông Chopper ạ; và ông nên ủng hộ người bạn của ông ta.

Viên thư ký già lắc đầu:

- Đại úy ơi, nếu quả thế thì thật là một tin buồn. Cụ chủ không bao giờ tha thứ cho ông ấy đâu.

Dobbin yêu cầu ông Chopper thấy tình hình thế nào thì báo cho mình biết tại khách sạn, nơi anh ta vẫn trọ, đoạn buồn bã đi về hướng Tây, hết sức hoang mang về chuyện đã qua, cũng không biết rồi câu chuyện sẽ xoay ra sao.

Tối hôm ấy khi cả gia đình ông Osborne ở khu phố Russell họp mặt lúc dùng bữa tối, mọi người thấy ông già vẫn ngồi chỗ cũ, nhưng sắc mặt có vẻ rầu rĩ; như mọi khi, thấy ông ta không vui mọi người cũng im lặng không dám nói năng gì. Hai cô con gái và Bullock cùng ngồi ăn yên trí rằng ông Osborne đã biết tin ấy rồi. Trước đôi mắt âu sầu của bố vợ, Bullock cũng thấy bối rối và cũng ngồi yên lặng; nhưng hôm ấy anh ta tỏ vẻ đặc biệt săn sóc đến cô Maria ngồi bên cạnh và cô chị ngồi mé đầu bàn chủ tọa bữa ăn. Bà Wirt thì ngồi trơ trọi một mình. Giữa bà và cô Jane có một chỗ để trống; những khi về nhà ăn cơm, George vẫn ngồi chỗ ấy. Mong con trai sẽ trở về, ông Osborne vẫn ra lệnh dọn phần ăn của anh ta. Suốt bữa ăn, không có chuyện gì xảy ra, chỉ có tiếng Frederick thủ thỉ tâm tình với người yêu, và tiếng bát đĩa chạm vào nhau kêu lanh canh. Bọn gia nhân rón rén ra vào để hầu ăn. Vẻ mặt bọn họ trông còn rầu rĩ hơn cả những người đi đưa đám ma. Ông Osborne lầm lỳ không nói không rằng, ngồi cắt khoanh thịt nai định dành riêng để mời Dobbin đến ăn tối. Nhưng hầu như ông ta cũng không đụng đến phần ăn của mình mặc dầu ông uống rất nhiều rượu; bác quản lý rất chăm chú rót thêm rượu vào cốc của chủ.

Cuối cùng đúng lúc bữa ăn chấm dứt, ông Osborne đưa mắt nhìn khắp mọi người, rồi dừng lại trên chiếc đĩa của George. ông giơ tay trái chỉ vào chiếc đĩa. Hai cô con gái nhìn bố, không hiểu, hoặc đúng hơn, sợ không dám hiểu; bọn gia nhân cũng không biết chủ muốn gì. Sau cùng, ông thề độc một câu, đứng dậy nói:

- Cất cái đĩa này đi.

Đoạn ông đẩy chiếc ghế của mình ra đằng sau, bước về buồng riêng. Mé sau phòng ăn của ông Osborne là một gian buồng thường vẫn được mệnh danh là phòng làm việc. Phòng này dành riêng cho ông chủ gia đình. Sáng chủ nhật nào không muốn đi nhà thờ, ông Osborne thường vào ngồi một mình trong phòng này và, ngồi thoải mái trong tấm ghế bành bọc da đỏ, ông đọc báo. Trong phòng, kê hai cái tủ sách lồng kính, chứa toàn tác phẩm cổ điển đóng cẩn thận, gáy mạ vàng. Có những quyển "Niên giám", những tập"Tuần báo của người thượng lưu", những tập "Thuyết giáo" của Blairs, và những tác phẩm của Hume and Smollett. Suốt từ ngày mồng một đầu năm cho tới ngày 31 tháng chạp ông không hề lấy sách ra xem bao giờ, cũng không một ai trong nhà dám táo gan mó đến; thỉnh thoảng, những buổi tối chủ nhật không có khách đến chơi, ông Osborne mới lôi tập kinh thánh và cuốn kinh cầu nguyện nằm trong góc tủ cạnh cuốn "Danh bạ quý tộc" ra; ông rung chuông tập hợp tất cả mọi người trong phòng ăn và cất cái giọng oang oang the thé đọc một cách long trọng. Từ trẻ con đến bọn đầy tớ trong nhà, không ai bước vào trong căn phòng này mà không thấy sờ sợ. Chính tại đây ông Osborne vẫn ngồi kiểm tra sổ sách chi tiêu trong nhà, và soát lại cuốn sổ rượu của bác quản lý. Cửa sổ căn phòng này trông ra một cái sân rải đá sỏi và phía ngoài nối vào phòng. Thường ngày, khi nghe thấy ông chủ đứng trong cửa sổ la hét, chửi rủa, là anh xà ích vội tòi ngay từ trong căn lều của mình ra để nghe lệnh. Mỗi năm bốn lần bà Wirt được bước vào căn phòng này để lĩnh tiền công, cũng như hai cô con gái được vào để nhận tiền bố cho tiêu vặt từng quí. Hồi George còn bé nhiều lần đã bị án đòn trong căn phòng này; trong khi ấy, bà mẹ nem nép ngồi ở cầu thang, hồi hộp đếm từng ngọn roi một. Bị trừng phạt như vậy, mà ít khi thẳng bé kêu lấy một tiếng. Bà mẹ đau thương lại giấu giếm vuốt ve hôn hít con trai, và cho tiền để an ủi thằng bé. Mé trên lò sưởi, có treo một bức tranh gia đình; sau khi bà Osborne chết, người ta tháo nó ngoài phòng khách đem treo vào đây. Tranh vẽ George cưỡi một con ngựa non, người chị lớn bế cậu ta lên ngang bó hoa trang trí, cô em út nắm tay mẹ. Cả bốn mẹ con má hồng hồng, môi tô son đỏ thắm, nhìn nhau mà mỉm cười, đúng kiểu cổ truyền của những bức tranh gia đình. Bây giờ, bà mẹ nằm lâu dưới mộ đã bị quên rồi... hai cô con gái và cậu con trai còn bận biết bao nhiêu chuyện riêng và tuy họ vẫn sống chung dưới một mái nhà, nhưng thật ra đã hết sức xa lạ đối với nhau. Vài chục năm nữa, khi những người trong tranh đã có tuổi, bức tranh sẽ trở thành mỉa mai làm sao! Những trò hề tình cảm kia, những nụ cười dối trá và những dáng điệu giả dối, tự mãn kia, không biết còn để lại gì nữa không? Trong phòng ăn, nơi trước kia treo bức tranh gia đình này bây giờ treo bức chân dung toàn thân của George tay cầm một bình mực lớn bằng bạc, ngồi trong ghế bành.

Thấy ông Osborne lui vào trong gian phòng riêng, mọi người nhẹ cả mình. Lúc bọn gia nhân đã lùi ra cả, họ mới xì xào bàn tán sôi nổi với nhau, đoạn mọi người rón rén lên gác; Bullock khe khẽ nhấc đôi giầy cứ kêu cót két lên để theo tiễn. Anh ta không còn bụng dạ nào ngồi lại uống rượu vang một mình, vì cảm thấy mình kề sát ông già ghê gớm đang ở trong phòng làm việc bên cạnh.

Mãi đến ít nhất là một tiếng đồng hồ sau khi trời đổ tối, bác quản lý tuy không được lệnh gọi nhưng cũng bạo gan gõ cửa phòng để mang nến và nước trà vào. Ông chủ gia đình ngồi trong ghế bành, vờ như đang đọc báo khi người đầy tớ đặt cây nến và khay nước trà lên mặt bàn bên cạnh rồi bước ra, ông Osborne bèn đứng dậy khóa cửa lại. Lần này thì không còn nghi ngờ gì nữa; mọi người trong nhà đều biết chắc chắn một việc ghê gớm lắm sắp xảy ra cho cậu George.

Chiếc bàn giấy lớn bằng gỗ đào-hoa-tâm của ông Osborne có một cái ngăn kéo dành riêng để đựng giấy má của con trai. Mọi thứ giấy tờ liên quan đến George từ bé tới lớn đều để cả trong đó: Đây là những sách phần thưởng George, những sách tập vẽ còn ghi lại nét vẽ của George, và của ông giáo; đây là những lá thư khi mới biết viết, chữ to tướng, nét nguệch ngoạc, George viết hỏi thăm bố mẹ và xin bánh. Trong thư nhắc luôn đến tên cha đỡ đầu là ông Sedley. Đọc qua mấy trang thư bắt gặp cái tên ấy, ông Osborne mấp máy đôi môi nhợt nhạt thất ra mấy tiếng chửi rủa; sự ngán ngẩm và nỗi căm giận khủng khiếp vò xé lòng ông. Những lá thư ấy đều được xếp gọn; dán giấy nhãn bên ngoài và buộc bằng dây vải đỏ. Có tập ngoài thấy ghi "Thư của George, xin 5 si-linh, ngày 23 tháng tư, 18... trả lời ngày 25 tháng tư. Trên một tập khác George xin một con ngựa non, 13 tháng mười"... Lại trên một tập khác, thấy viết "Biên lai của thày giáo Swishtail" "Biên lai đã thanh toán, trả tiền thợ may cho George...lấy vào tiền của tôi, tháng sáu v.v...Rồi đến những lá thư con trai ông gửi từ Tây Ấn về, những lá thư của luật sư riêng, những tờ báo có đăng tin con ông được bổ nhiệm; lại có cả một cái roi ông vẫn dùng để đánh đòn khi George còn bé và một tấm huy hiệu hộp, trong có một nắm tóc của con trai, đựng trong một phong bì bằng giấy; hồi còn sống, vợ ông vẫn đeo tấm huy hiệu này.

Ông bố đau khổ ngồi hàng giờ, mân mê hết thứ nọ đến thứ kia, hồi tưởng lại những kỷ niệm đã qua. Những tập giấy này gói ghém bao nhiêu niềm kiêu hãnh, bao nhiêu nguyện vọng công bằng ấp ủ thiết tha. Xưa kia, ông đã từng hãnh diện vì con trai bao nhiêu! Hắn là, một đứa bé kháu khỉnh chưa từng thấy. Ai cũng bảo trông nó như con nhà quý phái. Một lần, có một bà quận chúa gặp nó ở Kew Gardens đã phải chú ý đến nó; bà ta ôm lấy nó mà hôn và hỏi tên là gì. Có nhà tư sản nào ở Luân-đôn này đẻ được đứa con như vậy? Đã có con trai một ông hoàng nào được chăm sóc hơn nó chưa? Bất cứ thứ gì có tiền mua được, là con trai ông phải có. Những ngày đi dự lễ phát phần thưởng, nó thường mặc áo mới, đi xe bốn ngựa đến trường, và tung hàng vốc tiền xu mới cho các bạn học. Có lần ông cũng đi với George tới chỗ trung đoàn của anh ta trú quân trước khi sang Canada, ông đã thết các sĩ quan một bữa tiệc sang trọng, có thể mời quận công York tới dự được. Có bao giờ ông từ chối không thanh toán một món nợ nào của George đâu? Đây, những văn tự nợ ấy còn đây ông đã thanh toán không một lời căn vặn. Khối vị tướng lĩnh trong quân đội không có được con ngựa của nó mà cưỡi. Lúc ông nghĩ đến George, ông lại thấy hình ảnh con trai hiện lên trước mắt trong nhiều trường hợp... này đây là sau bữa ăn, anh ta trông đường bệ như một ông hoàng bước vào phòng ngồi uống rượu cạnh cha ở đầu bàn... này đây, là ở Brighton, con trai ông cưỡi ngựa vượt qua hàng rào không kém bất cứ một tay săn thiện nghệ nào... và đây, con trai ông được giới thiệu tiếp kiến vị Hoàng tử nhiếp chính trong buổi chiêu đãi; cả hoàng cung đố kiếm đâu ra được một người trai trẻ lịch sự bằng. Bây giờ đâu hết cả rồi? Cưới con gái một người phá sản làm vợ và từ bỏ nhiệm vụ, từ bỏ tất cả tương lai sự nghiệp? Thật là nhục nhã! Thật là tuyệt vọng!

Đau đớn bao nhiêu cho tâm hồn trìu mến đầy những cao vọng của người cha già nua này. Ông Osborne ngồi trầm ngâm suy nghĩ trên những xếp giấy má đó; ông lần giở từng tờ với vẻ mặt cay đắng, sầu khổ, tuyệt vọng, của những kẻ cùng quẫn khi hồi tưởng lại những ngày hạnh phúc đã qua. Đoạn ông rút tất cả giấy má trong ngăn kéo rũ bỏ vào trong một cái hộp khóa lại, chằng dây và gắn xi cẩn thận. Sau đó, ông mở tủ sách, lấy tập kinh thánh đồ sộ bìa đỏ mà ta đã nói tới... quyển sách trông thật trang trọng nét vàng mạ óng ánh, ít khi được nhìn đến. Trên trang đầu, có một bức tranh đầu sách vẽ cảnh Abraham đang hiến tế Isaac. Theo lệ thường, ông Osborne vẫn ghi lên trang đệm của cuốn sách bằng những chữ to, viết nắn nót như chữ một viên thư ký, ngày ông cưới vợ, ngày vợ ông chết, ngày sinh và tên của các con ông. Đầu tiên là Jane, rồi đến George Sedley Osborne rồi Maria Frances, có kèm theo ngày làm lễ rửa tội cho mỗi đứa trẻ.

Ông lấy bút cẩn thận xóa tên George trên trang giấy. Chờ cho mực khô hẳn, ông mới đặt quyển sách vào chỗ cũ. Đoạn, ông rút một chiếc ngăn kéo khác đựng những giấy tờ riêng của mình, lấy ra một tài liệu, đọc lại một lượt, rồi vò nhầu châm vào ngọn nến đốt; ông nhìn cho tờ giấy cháy hết hẳn trong lò sưởi mới thôi. Đó là tờ di chúc ông đã thảo sẵn. Đốt xong tờ di chúc, ông ngồi vào bàn viết một lá thư, rung chuông gọi người hầu, và ra lệnh sớm hôm sau mang gửi. Lúc đó trời vừa sáng, ông mới lên giường nằm. Cùng với ánh nắng mặt trời, cả nhà đã dậy; chim chóc ríu rít ca hát giữa những vòm lá tươi xanh quanh khu quảng trường Russell.

William Dobbin rất muốn lấy lòng mọi người trong gia đình Osborne và cả những người có quan hệ với nhà này vì anh ta thấy rằng, trong cơn hoạn nạn, George càng có thêm nhiều bạn càng tốt. Vốn hiểu rất rõ rằng rượu ngon ảnh hưởng lớn đến tâm hồn người ta như thế nào nên lúc quay về quán trọ, Dobbin lập tức viết ngay một lá thư lời lẽ rất lịch thiệp, mời Thomas Chopper tôn ông ngày hôm sau quá bộ đến tiệm Slaughters dùng bữa tối với mình. ông Chopper nhận được thư trước khi rời khu City ra về; lập tức viết thư trả lời: "Ông Chopper vô cùng hân hạnh và lấy làm vinh dự được hầu tiếp đại úy Dobbin". Tối hôm ấy trở về nhà ở Somers' Town, ông đem ngay chuyện mình được mời ăn và tóm tắt nội dung bức thư trả lời ra khoe với vợ và mấy cô con gái; cả gia đình ngồi uống trà cứ sôi nổi bàn tán mãi về những quân nhân và những người tại West End. Lúc các con gái đã đi ngủ cả, hai vợ chồng ông Chopper mới bàn tán với nhau về những chuyện kỳ lạ xảy ra trong gia đình cụ chủ. Chưa bao giờ người thư ký này thấy chủ mình xúc động mạnh đến như thế. Lúc đại úy Dobbin đã ra về, ông ta đi vào gặp ông Osborne thấy ông già tím mặt lại như đang cơn giận dữ ghê gớm; ông ta yên trí rằng giữa viên đại úy trẻ tuổi và ông Osborne đã xảy ra cuộc cãi lộn gì gay go lắm. Ông Chopper được lệnh lập một bản thống kê tất cả những món tiền đã giao cho đại úy Osborne trong khoảng ba năm vừa qua. "Cậu ấy tiêu tiền cũng đã khiếp", người thư ký nói một mình như vậy, và lại càng thêm kính phục cả hai bố con ông chủ mình hơn vì họ coi tiền như rác. Hình như họ xích mích với nhau vì chuyện cô Sedley thì phải. Bà Chopper ngỏ ý rất thương cô thiếu nữ là mất đứt một ông chồng bảnh trai. Riêng ông Chopper thì không lấy gì làm thông cảm lắm với con gái một nhà kinh doanh kém may mắn đã không trả nổi một phần nhỏ số nợ của mình. Ông vẫn kính trọng gia đình ông Osborne hơn bất cứ gia đình nào khác tại khu City ở Luân-đôn: ông hy vọng và ước ao rằng đại úy George sẽ lấy con gái một nhà quý tộc.

Đêm hôm ấy, người thư ký ngủ một giấc ngon lành hơn ông chủ. Sớm hôm sau, ông Chopper ăn sáng rất ngon miệng, mặc dầu suốt đời ông chỉ có đường đen để pha rượu; đoạn ông hôn các con, và mặc bộ áo chiều chủ nhật đẹp nhất của mình với chiếc sơ-mi có cổ hoa để đi làm; ông lại hứa với bà vợ đang trầm trồ ngắm chồng rằng tối nay sẽ không uống quá nhiều rượu "poóc-tô" của đại úy Dobbin mời.

Đúng giờ như thường lệ, ông Osborne đến khu City; bọn nhân viên vì nhiều lý do vẫn có thói quen để ý dò xét nét mặt ông, thấy hôm ấy ông ta có vẻ bơ phờ nhợt nhạt.

Đến giữa trưa, ông Higgs (tại văn phòng lục sự Higgs và Blatherwick, ở Bedford Row) được mời đến gặp. Ông này được đưa vào phòng riêng của ông Osborne: hai người đóng kín cửa ở trong ấy đến hơn một tiếng đồng hồ. Khoảng một giờ trưa, ông Chopper nhận được thư của đại úy Dobbin do một người hầu mang lại, có kèm theo một lá thư gửi cho Osborne; viên thư ký vội đem vào cho chủ. Một lúc sau ông Chopper và ông Birch, một người thư ký khác, được chủ gọi vào yêu cầu làm nhân chứng. Ông Osborne nói. "Tôi vừa làm lại một tờ di chúc khác". Mấy người nhân viên ghi tên mình vào, không ai nói gì thêm. Lúc ông Higgs bước ra phòng ngoài, mặt ông ta có vẻ đặc biệt đăm chiêu, trịnh trọng; ông ta nhìn thẳng vào mặt ông Chopper, nhưng không giải thích tý gì. Suốt ngày hôm đó, ai ai cũng thấy ông Osborne có vẻ đặc biệt bình thản và dịu dàng; những người thấy điệu bộ ông rầu rĩ cứ lo lắng mãi bây giờ rất ngạc nhiên.

Hôm ấy, ông không gọi ai bằng tên tục, cũng không thề độc câu nào. Ông nghỉ sớm và trước khi ra về, lại gọi viên thư ký chính đến một lần nữa để dặn dò mọi công việc. Sau đó, ông có vẻ ngần ngại một lúc, rồi mới hỏi ông Chopper có biết đại úy Dobbin còn ở trong thành phố hay không. Ông Chopper đáp rằng chắc vẫn còn. Thực ra, cả hai cùng biết rõ điều đó. Ông Osborne lấy một phong thư ngoài bì đề gửi cho Dobbin và bảo người nhân viên của mình trao ngay tận tay viên đại úy. Đoạn ông cầm lấy mũ, trong cái nhìn có một vẻ gì rất kỳ lạ nói.

- Ông Chopper, bây giờ thì tôi có thể yên tâm được rồi.

Đúng lúc ấy, đồng hồ điểm hai giờ, Frederick Bullock đến đón bố vợ, rồi cả hai cùng đi.

*

Viên đại tá chỉ huy trung đoàn thứ..., trong đó có đại đội của Dobbin và Osborne, là một quân nhân đã già; hồi mới nhập ngũ, ông ta đã từng chiến đấu dưới quyền chỉ huy của tướng Wolfe ở Quebec. Đã lâu lắm rồi, vì già yếu quá nên ông ta không chỉ huy được nữa. Tuy vậy, ông ta vẫn quan tâm đến trung đoàn mà về danh nghĩa ông vẫn là người chỉ huy. Một vài sĩ quan trẻ tuổi vẫn được ông ta mời cùng ăn một bàn, điều này bây giờ rất hiếm trong giới sĩ quan cao cấp; Dobbin được người quân nhân già ấy đặc biệt yêu mến hơn cả. Dobbin rất thích những tác phẩm văn học nói về chiến tranh, anh ta có thể kể chuyện về Frederick đại đế và về Hoàng hậu cùng những cuộc chinh chiến dưới triều nhà vua này, rành mạch không kém chính viên đại tá mấy tý. Ông già này rất thờ ơ đối với những cuộc chiến thắng hiện tại, chỉ để hết tâm hồn thán phục những nhà chiến thuật năm mươi năm về trước. Đúng hôm ông Osborne chữa lại tờ di chúc, và ông Chopper bận tấm áo đẹp nhất của mình, thì viên sĩ quan này gửi giấy mời Dobbin đến dùng cơm. Ông báo cho người sĩ quan trẻ tuổi con cưng của mình trước hai ngày về việc xuất quân sang Bỉ mà mọi người đang nóng ruột chờ đợi. Mệnh lệnh chuẩn bị sẽ trao cho đội Ngự lâm quân khoảng một hai ngày sau.

Hiện giờ, mọi đồ quân trang quân dụng đã đầy đủ, trung đoàn sẽ xuất phát trong tuần lễ này. Trong thời gian trú quân ở Chatham trung đoàn đã mộ thêm được một số tân binh. Viên võ quan già hy vọng rằng những binh sĩ trong trung đoàn đã giúp ông ta đánh bại Montcalm ở Canada, và đuổi bộ đội của ông Washington chạy dài ở Long Island, sẽ giữ vững được truyền thống chiến đấu anh dũng trên chiến trường Bỉ. Ông ta đưa bàn tay nhợt nhạt run rẩy nhúm ra một ít bột thuốc lá để hít, rồi chỉ vào tấm áo ngủ của mình, chỗ trái tim của ông vẫn còn đang yếu ớt đập, nói:

- Anh bạn ạ, bây giờ thì, nếu anh có cái "chuyện ấy"(), nếu anh cần an ủi cô Philis nào, có cần từ biệt ông cụ, bà cụ hoặc lập di chúc để lại thì tôi khuyên anh không nên chậm trễ.

Đồng thời ông giơ một ngón tay cho người bạn trẻ tuổi bắt và gật gật cái đầu có mái tóc rắc phấn, để thõng xuống sau gáy như cái đuôi. Dobbin ra về rồi, ông ngồi vào bàn viết một "bức tình thư" (ông già này đặc biệt tự đắc về trình độ tiếng Pháp của mình) gửi cho cô Amenaide ở rạp hát của Hoàng gia.

Những tin tức ấy làm cho Dobbin trở thành đăm chiêu suy nghĩ; anh ta nhớ đến các bạn ở Brighton; anh ta cũng tự thấy ngượng với mình vì vẫn cứ nghĩ đến Amelia trước nhất (trước tất cả mọi sự, trước cả ông bố, bà mẹ, các cô em, và nhiệm vụ của mình... nhiều khi cả lúc mới thức dậy, hoặc lúc đi ngủ, và cứ suốt ngày như vậy); Dobbin trở về nhà trọ, gửi cho ông Osborne một lá thư vắn tắt báo tin mới nhận được, và tỏ ý hy vọng rằng hay tin ấy hai cha con George sẽ trở lại hòa thuận với nhau.

Người mang lá thư này vẫn là người bữa trước đã đưa giấy mời ông Chopper. Được tin, người thư ký này rất lo lắng; thư đề gửi cho ông ta; vừa bóc thư, ông này vừa lo bữa tiệc đang hy vọng phải hoãn lại. Đến lúc thấy nội dung lá thư chỉ nhắc lại lời mời, ông mới yên tâm (đại úy Dobbin viết "Tôi sẽ chờ ông vào hồi năm giờ rưỡi"). Chopper rất săn sóc đến công việc của gia đình ông chủ, nhưng được mời thế này thì còn muốn gì hơn?(), một bữa đại tiệc đối với ông vẫn quan trọng hơn công việc của bất cứ một ai trên thế gian này.

Lẽ dĩ nhiên là gặp bất cứ viên sĩ quan nào trong trung đoàn, Dobbin cũng kháo ngay cái tin vừa được viên đại tá cho biết. Anh ta nói cả cho viên sĩ quan cầm cờ Stubble gặp tại nhà viên luật sư của mình được biết; anh chàng này có cái khí thế hăng hái của con nhà võ, vội tìm đến cửa hiệu bán đồ quân trang sắm ngay một cây kiếm mới. Anh chàng trai trẻ, tuy mới mười bảy tuổi đầu, cao khoảng sáu mươi lăm inch, tạng người vốn lẻo khoẻo lại sớm bị rượu chè làm cho thêm ốm yếu, nhưng có tinh thần dũng cảm không khác gì sư tử. Anh ta nhấc nhấc cây kiếm uốn cong, rồi múa tít y như đang tung hoành giữa đám quân Pháp, vừa giậm chân huỳnh huỵch xuống đất, vừa hét: "Ha! Ha!";Anh ta đâm hai, ba nhát kiếm vào Dobbin; viên đại úy vừa cười vừa lấy cây gậy trúc gạt đỡ. Có lẽ vì vóc người khẳng khiu gày gò, nên Stubble được xung vào đội khinh binh bảo vệ. Trái lại viên sĩ quan cầm cờ Spooney, vóc người rất cao lớn; anh ta thuộc đại đội khinh binh của đại úy Dobbin.

Anh ta đang đội thử chiếc mũ da gấu, khiến cho bộ mặt như già thêm mấy tuổi nom đến dữ tợn. Đoạn, cả hai người đến quán rượu Slaughters gọi dọn một bữa rượu tươm tất, rồi ngồi viết thư; đầy thương yêu, nhưng mà chữ nghĩa viết đầy những lỗi chính tả. Chao ôi, hồi ấy khắp nước Anh có biết bao trái tim hồi hộp đập, biết bao bà mẹ vừa khóc sướt mướt vừa cầu kinh trong các gia đình.

Stubble đang ngồi viết thư ở một cái bàn uống cà-phê trong quán rượu của lão Slaughters, nước mắt chảy ròng ròng, nhỏ lã chã xuống giấy (cu cậu đang nhớ đến mẹ, mà rất có thể không bao giờ còn gặp lại được nữa). Dobbin cũng sắp sửa viết một lá thư gửi George Osborne; thấy vậy, anh ta lặng yên suy nghĩ, rồi cất giấy bút đi. Anh ta tự nhủ: " Viết làm gì? Hãy để cho họ được hưởng thêm một đêm hạnh phúc nữa. Sáng sớm mai, mình về thăm nhà sớm, rồi sẽ đi Brighton".

Dobbin đứng dậy đặt bàn tay to lớn của mình lên vai Stubble mà bảo rằng nếu hắn chịu từ bỏ tính rượu chè be bét thì sẽ trở thành một quân nhân rất tốt, cũng như xưa nay hắn vẫn là một người bạn trung thực, tốt bụng. Nghe nói, mắt Stubble sáng ngời lên vì Dobbin vẫn được cả trung đoàn khen là người sĩ quan giỏi nhất và sáng suốt nhất.

Stubble vừa chùi mắt, vừa nói:

- Cảm ơn anh, anh Dobbin ạ. Tôi vừa viết cho mẹ tôi rằng tôi sẽ là một quân nhân xứng đáng. Anh ơi, mẹ tôi quý tôi quá cơ. Rồi anh ta lại khóc sướt mướt, và tôi cũng không dám chắc là viên đại úy dễ xúc động kia có rơm rớm nước mắt hay không.

Cả hai viên sĩ quan cầm cờ, viên đại úy và ông Chopper cùng ngồi ăn trong một căn phòng. Ông Chopper trao cho Dobbin một lá thư của chủ; trong thư ông Osborne viết mấy lời vắn tắt cảm ơn Dobbin và nhờ trao cho đại úy George Osborne lá thư gửi kèm theo. ông Chopper nói cũng không được biết gì hơn. Ông tả lại dáng điệu của ông Osborne, và kể lại cuộc hội ý giữa mình và chủ hôm trước; lại tỏ ý rất lấy làm lạ tại sao ông chủ của mình không thề độc với ai, và - đặc biệt lúc mọi người đã uống rượu vang - ông Chopper còn ngỏ nhiều ý kiến phỏng đoán về nguyên nhân gây ra thái độ của chủ; nhưng cứ uống thêm một cốc, thì ý kiến của ông ta lại mơ hồ thêm một tý, và cuối cùng thì không ai hiểu ông ta định nói gì nữa. Mãi đến một giờ khuya, viên đại úy mới gọi một chiếc xe ngựa dong đưa ông ta về. Ông Chopper say mềm, vừa nấc lên vừa thề rằng suốt đời sẽ là bạn của viên đại úy.

Khi đại úy Dobbin từ biệt cô Osborne, như ta đã biết, anh ta ngỏ ý xin phép sẽ được gặp lại cô này một lần nữa.

Hôm sau, cô thiếu nữ chưa chồng cứ ngóng ngóng chờ anh chàng suốt ngày. Ví thử Dobbin trở lại và nếu anh chàng hỏi cô cái câu hỏi mà cô đã sửa soạn để trả lời, thì có lẽ cô đã tuyên bố ủng hộ cậu em trai, và rất có thể sự xích mích giữa George và ông bố đang sung tiết đã được giải quyết ổn thỏa. Nhưng mặc dù cô ngồi nhà chờ đợi mà viên đại úy vẫn biệt tăm. Anh ta còn bận giải quyết những công việc riêng, còn bận về thăm và an ủi cha mẹ; rồi mới một giờ sáng, anh ta đã leo lên chiếc xe ngựa "Tia chớp" để đi Brighton thăm các bạn.

Ngày hôm ấy, cô Osborne nghe thấy ông bố ra lệnh cấm gia nhân không cho cái thằng khốn nạn đa sự Dobbin còn được bước chân vào nhà; thế là tia hy vọng cuối cùng cô gái còn ủ ấp trong lòng cũng tắt ngấm nốt. Anh chàng Frederick Bullock lại đến chơi, cứ quấn quít lấy cô Maria, và tỏ ra đặc biệt săn sóc ông già đang suy sụp tinh thần. Mặc dầu ông lão nói rằng lòng đã thanh thản, nhưng rõ ràng những biện pháp ông dùng để trấn tĩnh vẫn tỏ ra chưa có tác dụng rõ rệt, và những chuyện xảy ra hai ngày vừa qua rõ ràng đã vò xé tâm hồn ông.

Chương 25: CÁC NHÂN VẬT CHÍNH TRONG TRUYỆN THẤY CẦN TỪ GIÃ BRIGHTON

Khi được dẫn tới gặp mấy người đàn bà tại khách sạn Hải quân, Dobbin tỏ ra đặc biệt vui tính và hay chuyện; điều này chứng tỏ rằng càng ngày anh chàng sĩ quan trẻ tuổi này càng trở thành một người giả dối hết sức Anh ta cố tìm cách giấu kín sự xúc động của mình vì gặp lại bà George trong một hoàn cảnh mới; hơn nữa, anh ta cũng không muốn để lộ ra là mình đang lo lắng về những hậu quả do những tin tức mình mang đến gây ra. Nếu Amelia rõ những nỗi lo âu đó, chắc chắn cô sẽ đau khổ vô cùng. Dobbin bảo George rằng:

- George ạ, theo ý tôi thì chỉ trong ba tuần lễ nữa hoàng đế nước Pháp sẽ tấn công chúng ta đấy, bằng cả bộ binh lẫn kỵ binh. Hắn sẽ buộc quận công phải tham dự một cuộc chiến tranh mà đem so sánh thì chiến sự ở Bán đảo chỉ là trò trẻ con. Nhưng anh cũng hiểu chứ, đừng có hở ra cho chị ấy biết đấy: Cũng có thể chúng ta sẽ không dự trận, như vậy nhiệm vụ của chúng ta ở Bỉ sẽ chỉ là một cuộc hành quân mà thôi...Nhiều người nghĩ như vậy, và nghe nói Brussels toàn những người lịch sự và vô số các bà các cô rất diện. Hai người đồng ý với nhau sẽ chỉ cho Amelia biết như vậy về nhiệm vụ của quân đội Anh ở Bỉ.

Bàn tính với nhau xong, anh chàng Dobbin giả dối vui vẻ đến chào "bà George Osborne", anh ta cố gắng xen vào vài lời chúc tụng về việc hôn nhân của Amelia, (nhưng cũng phải thú thực rằng những lời chúc tụng ấy vụng về một cách thật đáng thương). Đoạn, anh ta nói về Brighton, về khí hậu vùng biển, về những thú giải trí trong vùng, về những cảnh đẹp trên đường đi, và về giá trị của chiếc xe hiệu "Tia chớp" cùng đôi ngựa... Anh chàng chuyện trò tíu tít làm cho Amelia không hiểu ra sao cả, nhưng Rebecca thì rất thú vị; cô ta soi mói nhìn viên đại úy, như cô ta vẫn hay nhìn soi mói bất cứ người nào ngồi gần mình.

Sự thật thì Amelia xưa nay vẫn coi thường người bạn của chồng mình là đại úy Dobbin. Anh ta có tật nói hơi ngọng...Điệu bộ thì quê kệch, vụng về. Amelia mến Dobbin chỉ vì anh ta quý chồng mình (nói cho đúng, cái đức tính ấy cũng chẳng có giá trị gì lắm), và vẫn yên trí rằng George đã tỏ ra rất rộng lượng khi hạ cố đánh bạn với anh chàng sĩ quan này. Nhiều lần trước mặt Amelia, George đã bắt chước lối nói ngọng và những điệu bộ vụng về tức cười của bạn; tuy nhiên cũng phải công nhận rằng, bao giờ anh ta cũng nhiệt tình ca ngợi đức tính của Dobbin. Giữa những ngày vui vẻ của thắng lợi trong tình yêu, vì chưa hiểu rõ Dobbin, nên Amelia có ý coi thường anh chàng William thực bụng. Dobbin hiểu rõ Amelia nghĩ về mình thế nào, và cũng đành lòng cam phận. Rồi cũng phải có ngày cô ta hiểu rõ Dobbin hơn và thay đổi ý kiến về anh chàng; nhưng ngày ấy cũng còn xa.

Riêng đôi với Rebecca thì chưa đầy hai giờ đồng hồ ngồi cạnh Dobbin, cô ta cũng đã thấu rõ gan ruột anh chàng rồi. Cô ta không ưa gì Dobbin, và trong thâm tâm đối với anh chàng lại có ý ngài ngại; mà về phần Dobbin thì cũng không thấy có cảm tình gì lắm đối với Rebecca. Anh ta thực thà quá, thành ra những khoa nịnh nọt giả dối của cô này không có tác dụng gì; và hình như do linh tính, Dobbin không muốn gần gũi người đàn bà này, cho nên cũng có tính ghen ghét; thấy Dobbin quý mến Amelia, cô ta càng không ưa. Tuy nhiên, cô ta vẫn tỏ ra có lễ độ và thân mật trong cách đối xử. Một người bạn của Osborne? Bạn của người ân nhân quý nhất đời của cô? Rất có thể Becky thực tâm yêu quý người ấy, vì cô ta nhớ lại điệu bộ anh chàng đêm hôm đi xem hội ở Vauxhall; lúc thay áo dự bữa ăn tối, cô ta lại đem anh chàng ra làm trò cười một lúc. Rawdon Crawley thì không buồn để ý đến Dobbin; hắn cho anh ta là một chàng ngờ nghệch, tuy tốt bụng, nhưng chỉ là con cháu bọn hạ tiện ở khu City. Còn Joe thì hết sức đàng hoàng tỏ thái độ kẻ cả đối với anh chàng. Khi George theo về phòng của Dobbin, lúc chỉ có hai người với nhau, Dobbin mở ngăn kéo bàn lấy ra lá thư của ông Osborne gửi đưa hộ cho con trai. "Không phải chữ của ba tôi rồi", George có vẻ hơi hốt hoảng nói vậy. Mà đúng thế. Lá thư do viên luật sư riêng của ông Osborne viết, lời lẽ như sau:

Bedford Row, ngày 7-5-1815

Thưa ông.

Tôi được cụ Osborne ủy cho nhiệm vụ báo để hay rằng cụ kiên quyết giữ vững những ý định mà ông đã rõ. Cho nên, sau việc hôn nhân của ông, cụ đã quyết định từ nay thôi không coi ông là một người trong gia đình. Quyết định ấy là dứt khoát, không thay đổi.

Tuy rằng những món tiền đã tiêu về ông khi còn nhỏ tuổi cộng với số tiền trong những tín phiếu đứng tên cụ nhà mà ông đã lĩnh trong mấy năm vừa qua, đã vượt quá xa số tiền ông có quyền được hưởng (nghĩa là một phần ba số tài sản của cụ bà Osborne đã quá cố, mà do việc cụ bà mất đi, ông được chung hưởng cùng cô Jane Osborne và cô Maria France Osborne), song tôi được cụ Osborne cho biết rằng cụ không trừ số tiền ấy vào tài sản riêng của ông, và món tiền 2.000 đồng đặt lãi bốn phần trăm (tức là một phần ba món tiền 6.000 đồng) sẽ được trực tiếp hoàn lại ông hoặc qua luật sư riêng của ông, miễn là có giấy biên nhận.

Kẻ hầu việc tận tụy của ông, Higgs.

Tái bút: Cụ Osborne muốn tôi báo cáo ông rõ một cách dứt khoát rằng cụ không muôn nhận bất cứ giấy má thư từ gì của ông, hoặc liên hệ với ông về vấn đề này hoặc về bất cứ vấn đề nào khác.

George giận dữ nhìn Dobbin, nói:

- Anh thu xếp công việc khéo nhỉ? Đọc xem, Dobbin - Và anh ta ném lá thư cho bạn - Lạy chúa, thế là bây giờ tôi đi ăn mày; cái bệnh đa tình của tôi đưa đến kết quả mới tốt đẹp chứ. Sao chúng ta lại không chờ ít lâu nữa? Trong khi ra trận tôi rất có thể xơi một viên đạn; và rồi Emmy là vợ góa của một thằng ăn mày thì sinh sống ra làm sao? Chỉ tại anh tất cả: Anh mà chưa thấy tôi lấy vợ và phá sản thì anh chưa yên tâm mà. Hai nghìn đồng đối với tôi thì nghĩa lý quái gì cơ chứ? Không đủ tiêu trong hai năm. Từ hôm về đây tôi đã mất với Crawley một trăm bốn mươi đồng tiền đánh bài và chơi bi-a rồi. Anh thu xếp công việc cho thiên hạ giỏi quá đấy.

Dobbin tái mặt đi, đọc hết lá thư, rồi đáp:

- Kể ra tình hình cũng gay go thật, và đúng như anh nói, lỗi tại tôi một phần.

Anh ta cười cay đắng tiếp:

- Tuy vậy vẫn có người muốn đánh đổi lấy địa vị của anh cơ đấy. Anh thử nghĩ xem, trong trung đoàn có được bao nhiêu sĩ quan có hai nghìn đồng trong tay. Bây giờ, anh phải ăn tiêu trong phạm vi tiền lương thôi, chờ khi nào ông cụ nghĩ lại sẽ hay; nếu không may anh chết, thì vợ anh sẽ lĩnh mỗi năm một trăm đồng.

George tức quá, kêu lên:

- Anh nghĩ rằng một người quen tiêu pha như tôi có thể sống nổi với tiền lương và một trăm đồng mỗi năm? Dobbin, anh ăn nói thế thì ngốc thật. Với món tiền ranh ấy, làm sao cho tôi giữ được địa vị của tôi trong xã hội? Tôi không thể bỏ thói quen cũ được; tôi phải có đầy đủ tiện nghi. Từ bé, tôi không ăn cháo mà sống như MacWhirter, hay ăn khoai mà no như O'Dowd. Anh muốn rằng vợ tôi phải giặt quần áo lính, hoặc sống chui rúc trong một toa tàu chở hàng để bám lấy trung đoàn mà sống sao?

Dobbin vẫn vui vẻ đáp:

- Được, được; rồi chúng ta sẽ kiếm cho chị ấy một phương tiện vận chuyển tốt hơn. Nhưng anh bạn George ơi, hãy nhớ rằng bây giờ anh phải dằn lòng mà chịu đóng vai ông hoàng bị mất ngôi đã; hãy kiên nhẫn mà chờ ngày mây tan gió lặng. Cũng không lâu lắm đâu. Tôi đánh cuộc rằng, nếu tên anh được đăng trên báo "Tin tức" thì nhất định ông cụ sẽ nghĩ lại.

George đáp:

- Đăng trên báo "Tin tức"! Đăng ở mục nào? Có phần chắc trong mục danh sách thương binh tử sĩ, và ở hàng đầu.

Dobbin mỉm cười đáp:

- Dào ôi? Bao giờ chúng mình bị thương, lúc ấy hãy tha hồ mà khóc mếu, George, anh rõ đấy, tôi cũng sẽ giành được chút ít, và chẳng có vợ con gì cả; tôi sẽ không quên tên con trai đỡ đầu của tôi trong di chúc đâu.

Thế là đôi bạn lại làm lành với nhau. Dobbin với George vẫn hay cãi nhau đấy rồi thân nhau đấy như thế....

Osborne bảo rằng không ai có thể giận Dobbin được lâu và anh ta cũng rộng lượng mà tha thứ cho Dobbin, sau khi đã vô cớ gây sự với bạn.

Rawdon Crawley từ trong phòng rửa mặt nói vọng ra với vợ đang ngồi trang điểm trong phòng ngủ để sắp đi ăn cơm tối:

- Becky, tôi bảo này...

- Gì thế Tiếng Becky the thé đáp. Cô ta đang ngoái cổ lại sau lưng soi vào gương. Becky mặc một tấm áo ngoài trắng muốt, mới tinh, hai vai để trần, cổ đeo vòng, thắt lưng màu xanh lơ nhạt, rõ ràng là hiện thân của tuổi thanh xuân hạnh phúc, vô tội và trinh bạch.

- Không biết khi Osborne theo trung đoàn ra trận, thì cô vợ làm thế nào nhỉ?

Crawley bước vào phòng; vừa dùng hai cái bàn chải to tướng chải đầu, anh ta vừa đưa mắt qua nạm tóc bù xù thán phục liếc nhìn cô vợ đẹp Becky, đáp:

- Chắc chị ấy phải khóc đến sưng mắt. Đã nhiều lần, hễ nghe ai nhắc đến chuyện này chị ấy lại khóc hết nước mắt. Còn mình thì chắc chẳng cần quái gì đâu nhỉ? Rawdon thấy vợ có vẻ vô tình, cáu kỉnh hỏi lại.

Becky đáp:

- Rõ khỉ lắm! Anh không thấy em nhất định đòi theo anh cùng đi à? Vả lại, anh khác. Anh dự trận với tư cách là sĩ quan liên lạc của tướng Tufto; chúng mình có phải ra tiền tuyến đâu.

Rebecca vừa nói vừa ngửa mặt lên với một dáng điệu mê hồn đến nỗi anh chồng phải cúi xuống mà hôn ngay một cái.

Becky đưa mắt liếc chồng thật tình tứ, tiếp:

- Rawdon, anh yêu...anh có nghĩ đến việc...có lẽ trước khi đi anh nên đòi cái...cái món tiền Cupid () nợ anh thì hơn.

Becky gọi George Osborne là Cupid; cô ta luôn mồm tán tụng bộ mặt đẹp trai của George; và mỗi khi George đến thăm hai vợ chồng buổi tối khoảng nửa giờ trước khi đi ngủ để đánh bài tay đôi, thì không lần nào cô không sán lại đứng cạnh mà âu yếm ngắm anh chàng.

Nhiều lần Becky đã gọi George là một anh chàng "bán giời không cần văn tự", và dọa sẽ đem những thói xấu của anh ta mách lại với Emmy. Cô đem thuốc lá lại mời anh chàng hút, và châm cả lửa hộ; cô hiểu rất rõ cử chỉ này có tác dụng thế nào, vì trước kia cô đã có nhiều dịp thực hành với Rawdon Crawley. Còn anh chàng thì yên trí rằng Becky là một người vui tính, nhí nhảnh, láu lỉnh, phong nhã và hết sức duyên dáng. Trong những cuộc giong xe đi chơi cũng như trong những bữa tiệc buổi tối, lẽ dĩ nhiên Becky nổi bật hẳn so với cô Emmy đáng thương: cô này cứ nhút nhát ngồi im trong khi chồng mình và Rebecca tán chuyện với nhau ríu rít; còn đại úy Crawley (và cả cô nữa, khi anh chàng đã đến nhập bọn với hai cặp vợ chồng mới cưới) thì cứ ngồi nốc rượu tỳ tỳ không nói không rằng.

Đôi khi Emmy cũng thấy hơi khó chịu đối với bạn.

Thấy Rebecca khôn ngoan, khéo léo và duyên dáng quá, cô cảm thấy bối rối và đâm ra bực mình. "Mới lấy nhau được có một tuần lễ, mà George đã nhạt nhẽo với mình, đã muốn trò chuyện với người khác rồi?". Nghĩ đến tương lai mà cô run sợ. Cô nghĩ thầm; Anh ấy thông minh thế, tài hoa thế, mình thì đần độn thế này, rồi chung sống với nhau ra sao nhỉ? Lấy mình làm vợ, anh ấy thật cao thượng quá bỏ tất cả mọi thứ mà hạ cố đến mình? Lẽ ra mình phải từ chối mới đúng, nhưng lòng mình không cho phép, biết làm thế nào? Lẽ ra mình đừng đi lấy chồng, cứ ở nhà săn sóc ba mới phải. Lần này là lần đầu tiên cô nhớ ra mình đã quên bẵng mất cả cha mẹ (mà lời lương tâm kết tội cô thiếu nữ cũng có đôi chút căn cứ) khiến cho mặt cô đỏ ửng lên vì xấu hổ. Cô tự nhủ: "Ôi, mình thật tồi quá, ích kỷ quá... ích kỷ vì đã bắt George phải cưới mình làm vợ. Mình biết lắm, mình có xứng đáng với anh ấy đâu...Không có mình thì anh ấy sung sướng bao nhiêu... nhưng... mình đã cố, mình đã cố quên anh ấy rồi mà..." Kể ra chưa đầy một tuần lễ sau ngày thành hôn mà cô dâu cũng phải nghĩ ngợi và tự thú những lời như vậy thì cũng đau khổ thật.

Buổi tối trước ngày Dobbin tới thăm đôi vợ chồng trẻ này là một buổi tối tháng năm, trăng sáng rực rỡ, không khí ấm áp, thơm ngát; cánh cửa trông ra bao lơn mở rộng.

George và Rebecca đứng trên bao lơn ngắm mặt biển phẳng lặng sáng long lanh trải ra trước mặt họ, còn Rawdon và Joe thì ngồi trong nhà chơi bài. Không ai chú ý đến Amelia nằm ngả trên một chiếc ghế bành lớn đưa mắt theo dõi hai cặp bạn; người đàn bà dịu dàng và trơ trọi ấy chỉ biết đánh bạn với những ý nghĩ đắng cay đầy thất vọng và hối hận.

Chưa đầy một tuần trôi qua mà cơ sự ra thế này rồi? Nếu cô nhìn về tương lai. Nhưng Emmy nhút nhát, không dám nhìn thẳng vào tương lai, đành cứ một mình lênh đênh trên mặt đại dương mênh mông kia, cũng không đủ sức chèo chống nữa, nếu không được người che chở và hướng dẫn. Tôi biết bà Smith vẫn coi thường Amelia ; nhưng thưa quý bà, đàn bà con gái mấy ai được trời ban cho một sức mạnh tinh thần tráng kiện như bà?

George thở phào một hơi thuốc lá, làn khói uốn éo lượn vòng lăn trên không, nói:

- Chao ơi? Đêm nay đẹp tuyệt, trăng sáng vô cùng.

- Thuốc lá anh hút làm cho không khí thơm sực? Em ưa thứ thuốc ấy lắm. Ai dám bảo rằng mặt trăng cách xa chúng ta những hai mươi ba vạn sáu ngàn tám trăm bốn mươi bảy dặm? Becky mỉm cười ngó lên chiếc đĩa vàng trên trời, tiếp: - Anh xem xem còn nhớ kỹ thế, có thông minh không? Ôi chao! Chúng em học được những chuyện ấy trong trường bà Pinkerton đấy! Mặt biển lặng lẽ quá nhỉ, mọi vật trông rõ mồn một. Em dám nói rằng gần như nhìn thấy cả bờ bể nước Pháp!

Và đôi mắt xanh biếc, lóng lánh của cô ta quắc lên như muốn chiếu những tia sáng xuyên thủng màn đêm.

Becky nói tiếp:

- Anh có biết một buổi sáng kia em định làm gì không? Hình như em bơi cũng khá đẹp thì phải. Em mới định bụng rằng hôm nào bà bạn tâm tình của bà cô Crawley nhà em...tức là bà Briggs, anh biết đấy...anh có nhớ không...cái bà mũi diều hâu, tóc dài rối bù xù ấy mà... em định khi nào bà Briggs ra bể tắm, em sẽ bơi theo và bàn chuyện làm lành mới bà ta ngay dưới nước; anh xem kế ấy thế nào?

George nghe nói đến cuộc hội đàm dưới nước, phá ra cười, Rawdon ở trong vừa xóc xóc cái ống đựng súc sắc vừa hỏi vọng ra:

- Này, hai người làm gì mà ồn ào thế, hử?

Amelia tưởng mình sắp phát điên lên một cách lố bịch, và lui vào phòng riêng nằm tấm tức khóc một mình.

Đến chương này, câu chuyện của chúng ta có vẻ như hơi quanh co. Ở trên, đã kể qua câu chuyện xảy ra buổi sớm thế nào, bây giờ ta cùng nhau lui về ngày hôm trước để cho câu chuyện có đầu đuôi. Các bạn có thể thấy từ cung tiếp tân của Hoàng đế, xe ngựa của những vị đại sứ và những viên đại thần chạy vụt ra từ một cái cửa riêng, trong khi ấy những công nương của đại úy John đứng đợi đến lượt mình được bay nhảy. Trong phòng đợi của ông Tổng trưởng bộ Tài chính, bạn có thể gặp nửa tá người còn kiên tâm chờ đợi được tiếp, và được gọi tên lần lượt từng người một; thế rồi đột nhiên, có một vị tai mặt người Ai len nào đó vừa mới vào mà lập tức leo ngay qua đầu thiên hạ đang sốt ruột chờ để chui vào một phòng ông Thứ trưởng; cho nên trong khi bố cục một câu chuyện, nhà tiểu thuyết cũng buộc lòng phải xử lý bất công như vậy. Tuy rằng cũng cần kể lại đủ những chi tiết lặt vặt, nhưng hễ gặp một tình tiết quan trọng, thì lập tức những chi tiết kia bị gạt "ra rìa" ngay. Cho nên, việc Dobbin đến Brighton đem theo tin đội Ngự lâm quân sắp xuất phát sang Bỉ, và tin toàn bộ quân đội đồng minh đã tập trung ở nước này, đặt dưới quyền chỉ huy của Quận công Wellington...một tin tầy đình như thế, nhất định phải giành được quyền ưu tiên so với những chi tiết tầm thường khác trong chuyện. Vì vậy không thể nào tránh khỏi chút lộn xộn ấy cũng là thích đáng và cũng không đáng trách lắm.

Cho đến nay chúng ta mới đi qua chương XXII, một quãng, vừa đúng lúc để tập hợp những nhân vật chính trong truyện vào phòng trang điểm trước bữa ăn trưa như thường lệ, đúng vào ngày Dobbin tới Brighton.

Không rõ vì George thương vợ hay vì anh ta còn bận thắt ca-vát mà anh ta không nói ngay với Amelia tin bạn vừa đem từ Luân-đôn về. Nhưng rồi anh ta cũng đi vào phòng vợ, tay cầm phong thư của viên luật sư, dáng điệu thật nghiêm trang trịnh trọng. Làm cho cô vợ vốn đang nơm nớp chờ đợi những chuyện ghê gớm nhất sắp xảy ra rồi. Amelia chạy đến ôm chầm lấy chồng mà van xin chồng hãy nói thực hết mọi chuyện: "Có phải anh được lệnh xuất phát không, có phải tuần sau anh ra trận không? Đúng rồi, em biết hết cả rồi".

George tránh không trả lời về việc ra trận, chỉ buồn bã lắc đầu nói:

- Không. Emmy ạ; không phải chuyện ấy. Anh không lo cho bản thân anh; anh lo cho em thôi. Anh vừa nhận được tin tức không hay của ba anh. Ông cụ từ bỏ anh rồi; ông cụ không nhận chúng mình nữa rồi; thế là từ bây giờ chúng mình nghèo xơ xác. Anh có thể kham được, nhưng em, em yêu của anh, em chịu đựng làm sao? Em đọc xem.

Anh đưa bức thư cho vợ.

Amelia dịu dàng nhìn chồng, khóe mắt đầy lo lắng, nuốt từng lời nói đầy tình cảm cao thượng của George; đoạn cô ngồi xuống giường đọc bức thư chồng vừa trao cho với điệu bộ đau khổ một cách trang trọng của kẻ tử đạo.

Song, đọc hết lá thư, nét mặt cô lại bừng sáng lên. Người đàn bà tâm hồn nồng nàn này không vì nghĩ đến việc phải cùng người chồng yêu dấu chia sẻ sự nghèo túng thiếu thốn mà lo ngại. Đối với Amelia, điều đó thực sự lại như có cái gì thú vị là khác. Và, cũng như mọi khi, cô cảm thấy hơi hổ thẹn vì lẽ trong phút bi đát như vậy mà lại có cảm tưởng sung sướng được; cô vội kiềm chế niềm hứng thú của mình lại, và khẽ nói:

- George ơi, cứ nghĩ đến phải xa ba anh, chắc anh đau khổ đến đứt từng khúc ruột đấy nhỉ.

George rầu rĩ đáp:

- Đúng thế đấy.

Amelia tiếp.

- Nhưng ba không thể giận anh lâu được đâu. Ai mà giận anh lâu cho được, em chắc chắn thế. Người chồng yêu quý nhất đời của em ơi, rồi thế nào ba cũng tha thứ cho anh. Ôi, nếu ba không tha thứ cho anh thì em cũng không thể nào tha thứ cho em được đâu.

George đáp:

- Emmy đáng thương của anh ơi, anh lo lắng không phải vì anh gặp tai họa, mà là vì em. Anh không sợ nghèo và không phải nói khoác chớ, anh tự thấy cũng có tạm đủ tài năng để tự lực làm nên.

Anh có thừa đi ấy chứ.

Cô vợ ngắt lời anh, yên trí rằng chiến tranh sắp chấm dứt và ông chồng sắp đeo lon cấp tướng đến nơi.

Osborne liền nói tiếp:

- Phải lắm, anh sẽ tự lực làm nên sự nghiệp không kém gì người khác; nhưng còn em, em yêu quý; cứ nghĩ rằng em phải chịu thiếu thốn mọi tiện nghi, và không có một địa vị xứng đáng trong xã hội mà vợ anh có quyền hưởng, anh không sao chịu nổi. Người vợ yêu dấu của anh mà phải sống trong trại binh như vợ một tên lính, lẽo đẽo theo trung đoàn hành quân, rồi cũng đành phải chịu đựng mọi sự thiếu thốn phiền nhiễu ư? Điều đó làm anh khổ tâm lắm.

Thấy chồng lo lắng chỉ vì một chuyện ấy, Emmy yên tâm quá; cô vịn vào tay chồng gương mặt rạng rỡ, mủm mỉm cười và bắt đầu thủ thỉ hát đoạn điệp khúc bài hát,Chiếc cầu thang cữ: mà cô vẫn thích; nội dung khúc hát là lời cô thiếu nữ, sau khi trách anh chàng Tôm đã thờ Ơ lạnh nhạt với tình, lại hứa hẹn sẽ vá quần và sẽ pha hộ cả rượu, nếu anh chàng chung thủy, thực lòng và không bỏ rơi cô. Amelia yên lặng một lúc, trong khi ấy trông cô sung sướng và trẻ hẳn ra, nét mặt ấy đàn bà nào cũng phải ao ước; rồi cô nói:

- Vả lại, hai nghìn đồng cũng là một món tiền to lắm đấy chứ, phải không George?

Thấy vợ quá ngây thơ, Giorgỉơ cười phá lên; cuối cùng cả hai xuống nhà dùng bữa. Amelia níu lấy cánh tay George, miệng vẫn còn thủ thỉ hát tiếp bài "Chiếc cầu thang cũ", đầu óc hoàn toàn thảnh thơi thoải mái so với mấy ngày vừa qua.

Thế là bữa ăn sáng tưởng như sẽ diễn ra trong bầu không khí ảo não lại hóa ra rất vui vẻ.

Nghĩ đến cuộc hành quân sắp tới, George cảm thấy hào hứng sôi nổi, quên cả nỗi buồn do lá thư truất quyền thừa kế gây ra. Còn Dobbin thì vẫn tiếp tục đóng vai trò rôm chuyện; anh ta đem những chuyện về quân đội đóng ở Bỉ ra kể cho đôi vợ chồng mới cưới nghe, toàn những chuyện dạ hội và ăn chơi lu bù. Đoạn, nhằm một mục đích không nói ra, anh chàng đại úy khôn khéo này bắt đầu kể chuyện vợ ông thiếu tá O'Dowd thu xếp gói ghém cả cái tủ áo của mình và của chồng như thế nào, chuyện bà ta nhét đôi phù hiệu của chồng vào hộp đựng trà ra sao, rồi chuyện bà ta gói chiếc khăn đội đầu màu vàng trứ danh của mình, trên có đính một cái lông chân thụy hồng, vào một tờ giấy dầu và nhét cả vào trong chiếc hộp biếc đựng mũ nhà binh của chung; anh chàng ngạc nhiên không biết khi đến Ghent, trong buổi chiêu đãi của vua nước Pháp, hoặc trong buổi đại hội của nhà binh ở Brussels, thiên hạ nhìn thấy chiếc khăn ấy sẽ nghĩ thế nào.

Amelia giật nảy cả mình kêu lên:

- Ghent! Brussels? Trung đoàn được lệnh xuất phát rồi phải không, George? Đã xuất quân rồi ư?

Trên bộ mặt tươi cười dịu dàng lộ rõ vẻ hoảng hốt; như do linh tính, người đàn bà níu chặt lấy chồng. George ôn tồn đáp:

- Đừng sợ, em yêu của anh! Đó chỉ là một cuộc vượt bể trong mười hai tiếng đồng hồ, có gì đáng ngại đâu em, Emmy, em cũng sẽ cùng đi với anh cơ mà.

Becky nói xen vào:

- Tôi cũng đi đây. Tôi ở chỗ phòng tham mưu, Tướng Tufto đến là hay tán tỉnh tôi; có phải không, Rawdon?

Nghe vợ nói, Rawdon vẫn cứ cười hô hố lên như mọi khi, William Dobbin thì đỏ bừng mặt lên; anh ta bảo George:

- Chị ấy đi sao được. Anh nghĩ xem...

Dobbin định nói tiếp: "nguy hiểm lắm đấy", nhưng suốt bữa ăn tối vừa rồi, anh ta chẳng đã nói đủ mọi chuyện để chứng minh rằng không có sự gì nguy hiểm đấy sao?

Thành ra anh chàng đành cứ lúng túng ngồi im.

- Em sẽ đi cùng anh.

Amelia cương quyết dứt khoát nói vậy, George tán thành, đưa tay vuốt ve cằm vợ và hỏi khắp mọi người rằng có bao giờ gặp được người đàn bà đáng quý như vợ mình không.

Anh ta bảo vợ:

-Em sẽ có một bà u già là bà thiếu tá O'Dowd".

Nhưng có chồng bên cạnh, Amelia còn điều gì đáng lo sợ nữa? Thế là nỗi ngại ngùng vì ly biệt cũng tiêu tan; vả lại, dầu rằng chiến tranh với bao nguy hiểm vẫn còn đe dọa, nhưng cũng phải hàng tháng nữa mới xảy ra được.Ý nghĩ thoải mái ấy khiến cho cô Amelia nhút nhát kia cảm thấy hạnh phúc, dường như hiệp ước đình chiến đã được ký kết. Trong thâm tâm Dobbin cũng tán thành cách thu xếp như vậy; điều anh ta ước mong nhất trên đời là được hàng ngày nhìn thấy mặt Amelia ; anh ta còn nuôi một ước vọng thầm kín là sẽ săn sóc, che chở cho cô thiếu nữ nữa. Dobbin nghĩ thầm: "Ví thử mình được làm chồng Amelia, chẳng bao giờ mình cho vợ đi theo. Nhưng George mới là người có quyền, mình chỉ là bạn, phản đối không tiện".

Rebecca vòng tay ôm ngang lưng bạn dẫn ra khỏi phòng ăn, nơi bao nhiêu chuyện quan trọng vừa được bàn bạc xong; mấy người đàn ông còn ngồi lại uống rượu, nói chuyện, cười đùa ầm ĩ.

Ngay buổi tối hôm ấy, Rawdon nhận được một mẩu giấy của vợ; đọc xong anh ta lập tức vò nhàu, châm nến đốt ngay, nhưng chúng tôi đã may mắn nhìn được qua vai Rebecca đọc thấy nội dung thế này:

"Tin quan trọng. Bà Bute đã đi rồi. Đêm hôm nay, đòi tiền Cupid; rất có thể ngày mai hắn lên đường đấy. Nhớ nhé. R."

Do đó, lúc mấy người đàn ông sắp cùng nhau sang buồng các bà để dùng cà-phê, thì Rawdon nắm lấy cánh tay Osborne, ngọt ngào nói:

- Này cậu, nếu tiện cậu thanh toán hộ với mình cái khoản kia đi thôi.

Kể ra đối với George điều đó cũng không lấy gì làm tiện lắm, nhưng anh ta cũng rút trong ví ra một tập giấy bạc trao cho Rawdon, và một tờ ngân phiếu có thể thanh toán trong phạm vi một tuần lễ để bù vào số tiền còn thiếu.

Giải quyết xong việc này, George, Joe và Dobbin vừa hút thuốc lá vừa họp một "hội nghị quân sự", đồng ý quyết định hôm sau tất cả sẽ di chuyển về Luân đôn trong chiếc xe mui trần của Joe. Riêng Joe thì muốn ở lại Brighton tới khi nào Rawdon rời đi mới về, nhưng bị Dobbin và George cố ép thành ra cuối cùng anh cũng đồng ý. Cho được xứng đáng với địa vị của mình, Joe thuê hẳn hai cặp ngựa để kéo xe. Thế là hôm sau, ăn sáng xong, cả bọn lên đường. Hôm ấy Amelia dậy từ sáng sớm, thu xếp gói ghém hành lý một cách hết sức nhanh nhẹn; còn Osborne thì vừa nằm dài trên giương, vừa phàn nàn rằng không có đứa đầy tớ gái nào để giúp đỡ vợ. Nhưng được tự mình thu xếp mọi việc, Amelia lại thấy thích vì không rõ tại sao lúc này cô cảm thấy hơi ngài ngại đối với Rebecca. Tuy lúc chia tay hai người hôn nhau thật đằm thắm, nhưng Amelia vẫn có ý ghen với bạn; ngoài những đức tính khác của phụ nữ, cô cũng có cả thói xấu ấy.

Ngoài những nhân vật đã lui tới Brighton như đã nói ở trên, chúng ta cũng không thể quên được rằng ở đây còn một số bạn cũ của chúng ta, thí dụ như bà Crawley cùng đoàn tùy tòng của bà.

Chỗ bà Crawley dưỡng bệnh chỉ cách nơi vợ chồng Rawdon trọ khoảng một quãng đường, nhưng bà lão cũng vẫn cương quyết đóng cửa không cho hai vợ chồng thằng cháu bén mảng đến, như ở Luân-đôn vậy. Bà Bute Crawley còn ở bên cạnh bà em chồng một phút nào thì bà còn tìm mọi cách tránh cho bà em khỏi bị quá xúc động vì phải nhìn thấy mặt thằng cháu trai bất trị. Mỗi khi "bà cô" già đi xe ngựa dạo chơi mát, bà Bute bao giờ cũng phải đi kèm mỗi người một bên. Và nếu như bất chợt gặp hai vợ chồng Rawdon, mặc dầu anh chàng bao giờ cũng cố ngả mũ chào, nhưng bà Crawley cùng đoàn hộ giá cứ thản nhiên như không bước qua, lạnh nhạt một cách tàn nhẫn; Rawdon bắt đầu tuyệt vọng. Nhiều lần anh chàng rầu rĩ bảo vợ:

- Ở đây cũng chẳng hơn cóc gì Luân-đôn.

Cô vợ bao giờ cũng vui tính hơn chồng, đáp:

- Sống trong một khách sạn đủ tiện nghi ở Brighton vẫn cứ tốt hơn trong một nhà giam con nợ ở Đường Chancery chứ. Mình quên mất hai thằng công sai của lão Moses, nhân viên sở Cảnh sát rồi à? Chúng rình trước cửa nhà ta suốt một tuần lễ ròng. Đám bè bạn ở đây cũng toàn là đồ ngốc thật đấy, nhưng ông Joe và đại úy Cupid thì vẫn cứ dễ chịu hơn mấy thằng tay sai của lão Moses; phải không, anh Rawdon yêu quý?

Rawdon vẫn buồn bã, nói:

- Quái thật, sao chúng nó chưa đem trát đến tận đây bắt mình nhỉ?

- Bao giờ có chuyện ấy, ta sẽ có cách đối phó.

Cô Becky táo tợn kia đáp vậy, lại vạch rõ cho chồng biết cuộc gặp gỡ với Joe và Osborne có lợi như thế nào; tình bạn đã đưa đến cho Rawdon một món tiền mặt kha khá rất đúng lúc. Anh chàng sĩ quan ngự lâm lại làu bàu:

- Ngần ấy chưa chắc đã đủ trả tiền khách sạn.

Cô vợ bao giờ cũng sẵn sàng có ý kiến vội đáp:

- Thì việc gì phải trả tiền khách sạn cơ chứ?

Thằng hầu của Rawdon vẫn đi lại thân mật với cánh đầy tớ trai trong nhà bà Crawley; hắn được lệnh hễ gặp bác xà ích của bà này là lập tức phải bỏ tiền ra mời uống rượu kỳ được, cho nên nhất cử nhất động của bà lão Crawley đều không thoát được khỏi mắt đôi vợ chồng trẻ. Không những thế Rebecca còn khôn ngoan nảy ra ý kiến nên ốm một tí, và mời đúng ngay ông thày thuốc vẫn săn sóc cho bà gái già này thành ra việc cung cấp tin tức có thể gọi là khá chu đáo. Bề ngoài, vì bị bó buộc, nên bà Briggs cũng phải tỏ ra ghét bỏ vợ chồng Rawdon. Nhưng tính bà vốn tốt và cũng dễ tha thứ. Bây giờ, cái cớ để bà ghen ghét không còn nữa, bà cũng chẳng thấy ghét bỏ gì Rebecca, mà chỉ nhớ lại tính tình vui vẻ và những lời lẽ ngọt ngào của cô ta. Thật ra thì cả bà Briggs và bà Firkin là người hầu riêng của bà Crawley, cũng như toàn thể gia nhân trong nhà, đều đang rên xiết với ách thống trị độc tài của bà Bute là kẻ mới thắng thế. Ở đời thói thường vẫn vậy; người đàn bà đáng kính nhưng nghiệt ngã kia lại muốn phát triển quá mức những thuận lợi của mình, và cứ muốn lợi dụng sự thắng thế một cách tàn nhẫn. Chỉ trong vòng mấy tuần lễ, bà ta đã biến bà già ốm yếu thành một con người ngoan ngoãn hết sức, đến nỗi bà lão hoàn toàn bị khuất phục trước mệnh lệnh của bà chị dâu, đến nỗi cũng không dám hé miệng thở than với bà Briggs và bà Firkin về tình trạng nô lệ của mình nữa. Bà Bute đo cả từng cốc rượu vang hàng ngày bà Crawley được phép uống một cách hết sức chính xác, làm cho bà Firkin và bác quản lý hết sức bất bình vì thấy mình bị tước mất cả cái quyền cai quản mấy chai rượu nho. Bà Bute giữ cả quyền phân phối cho mọi người phần bánh, phần thịt, nhiều ít tùy theo ý riêng. Mỗi ngày ba buổi, sáng, trưa, và tối, bà ta đem những thứ thuốc ghê gớm theo đơn bác sĩ đến, dỗ ngon dỗ ngọt, cuối cùng bà lão ốm phải ngoan ngoãn uống hết; thấy thế bà Firkin nói: "Bà chủ đáng thương của tôi uống thuốc ngoan như một con cừu vậy". Bà ta lại quyết định cả việc dùng xe ngựa hay dùng ghế có bánh xe lăn để đi chơi; tóm lại bà Bute săn sóc người em chồng ốm tận tình hết mực. Nếu có khi nào người ốm tỏ ý phản đối một cách yếu ớt, muốn ăn thêm một tý, hoặc muốn uống bớt một ít thuốc, lập tức bà Bute giơ cái chết ra dọa, thế là bà Crawley hàng phục ngay.

Bà Firkin phàn nàn với bà Bute thế này:

- Bà chủ mất hết ý chí rồi. Đã ba tuần nay, bà ấy chưa bảo tôi là "con khỉ" lần nào.

Cuối cùng, bà Bute quyết định thải cả người hầu riêng của bà chủ tức là bà Firkin, cả Bowls, tức là bác gia nhân thân tín to béo, và cả bà Briggs nữa; bà lại còn định viết thư về nhà thờ gọi hai cô con gái lên, để di chuyển cái hình hài ốm yếu của bà em chồng về trại Crawley Bà chúa; thì đúng lúc ấy xảy ra một việc giời đánh, khiến cho bà phải bỏ dở công việc lý thú trên.

Số là đức cha Bute Crawley chồng bà, một đêm kia đi chơi về khuya, ngã ngửa gãy mất cái xương đùi, chân bị sưng tấy lên, sốt li bì; vậy bà Bute đành rời Sussex để về Hamshire vậy. Bà hứa rằng hễ ông Bute bình phục, lập tức bà sẽ trở lại với bà em thân yêu ngay. Lúc ra về bà còn để lại cho bọn gia nhân những chỉ thị dứt khoát về cách săn sóc người ốm. Bà vừa bước chân lên chiếc xe ngựa ở Southampton, lập tức trong nhà bà Crawley vui như mở hội, suốt mấy tuần lễ qua, chưa lần nào mọi người trong gia đình được hể hả như vậy. Ngay hôm ấy, bà Crawley bỏ liều thuốc buổi chiều; cũng ngay chiều hôm ấy, bác Bowls ung dung mở một chai rượu nho ra để mình và bà Firkin thưởng thức. Đêm hôm ấy, là Crawley và bà Briggs tự cho phép mình thay thế những bài giảng đạo của Porteus bằng một ván bài "pich-kê"; tóm lại y như ta thường: "Chủ vắng nhà, gà vọc niêu tôm" vậy.

Mỗi tuần khoảng hai ba buổi, bà Briggs có lệ ra bể lắm lúc sáng tinh sương; bà ngồi trong một chiếc xe tắm, mặc một cái áo bằng dạ mỏng, đầu đội mũ bằng vải sơn, thoải mái ngâm mình dưới nước. Chúng ta cũng rõ Rebecca biết bà Briggs có thói quen này nhưng không muốn tấn công ngay như đã đe từ trước. Cô ta quyết định chờ khi bà này vừa tắm xong mới phục kích một trận, nghĩa là đúng lúc trong người bà này mát mẻ, tâm hồn đang nhẹ nhàng khoan khoái. Cho nên Becky dậy từ sớm tinh mơ, mang một cái ống nhòm vào phòng khách trông ra biển, hướng về phía những chiếc xe tắm trên bãi cát. Cô nhìn bà Briggs bước vào chiếc xe riêng của mình, rồi xuống nước. Becky tiến ra bờ bể đúng lúc vị nữ thủy thần mà cô ta đang đi tìm bước ra khỏi chiếc xe tắm đi về phía bờ dải đá cuội. Thật là một bức tranh tuyệt vời: bãi cát thoai thoải, đám phụ nữ tắm nổi bật trên hàng đầu, xa xa phía sau là dãy núi đá dài tít tắp cùng những ngôi nhà được vừng dương buổi sớm chiếu sáng rực rỡ. Rebecca mỉm sẵn một nụ cười thật duyên dáng; bà Briggs vừa ló đầu ra khỏi căn phòng thay áo, cô giơ ngay cái bàn tay xinh xinh trắng muốt ra. Thế thì làm sao mà bà Briggs không phải chào lại? Bà này nói:

- Chào cô Sha... chào bà Crawley.

"Bà Crawley" nắm chặt lấy tay bà Briggs áp vào ngực và đột nhiên vòng hai tay ôm lấy bà này mà hôn một cách âu yếm rồi nói: "Bà bạn ơi, bà bạn thân mến ơi!"

Giọng nói biểu lộ một tình cảm vô cùng chân thành làm cho bà Briggs suýt nữa thì phát khóc, và ngay cả cô gái hầu tắm cũng phải cảm động.

Rebecca lôi kéo bà Briggs vào một câu chuyện thân mật khá lâu một cách rất dễ dàng. Bà Briggs kể lại tất cả mọi chuyện xảy ra từ chuyện xảy ra hôm Becky đột ngột bỏ nhà bà Crawley ở Đường công viên mà đi cho tới ngày nay, cũng như câu chuyện tốt đẹp tức là việc bà Bute ra về. Bà này còn tỉ mỉ kể lại tất cả bệnh trạng của bà Crawley, triệu chứng thế nào, uống những thuốc gì, rành rọt, chân tơ kẽ tóc, đúng cái lối đàn bà ưa kháo chuyện.

Phụ nữ mà được kể cho nhau nghe về chuyện mình đau ốm thuốc men ra sao thì có bao giờ mà họ chán được? Cho nên bà Briggs kể không chán mồm mà Rebecca nghe cũng không chán tai. Cô ta thực sự cảm tạ trời đất khi nghĩ rằng những con người trung thành quý báu vô giá như bà Briggs và bà Firkin đã tận tụy săn sóc vị ân nhân của họ trong thời gian bà đau ốm. Cầu thượng đế ban phúc lành cho bà. Tuy bề ngoài hình như Rebecca đã không giữ tròn bổn phận mình đối với bà Crawley, nhưng sự lầm lỗi của cô chẳng là điều tự nhiên và dễ tha thứ sao? Làm sao cô lại có thể không trao trái tim cho người đàn ông đã chiếm được lòng mình? Nghe cô than thở như vậy, bà Briggs, con người đa cảm ấy, đành chỉ biết ngước mắt nhìn lên trời mà thở dài thông cảm, và nhớ lại rằng chính mình mấy chục năm về trước cũng đã có nhiều phút yếu lòng như vậy; tóm lại bà Briggs cho rằng tội cô Rebecca cũng không nặng lắm.

Rebecca nói:

- Bao giờ tôi quên được người đã sẵn lòng cưu mang một kẻ mồ côi trơ trọi. Không bao giờ; mặc dầu người ấy đã ruồng bỏ tôi, nhưng tôi sẽ còn yêu quý mãi mãi, và sẽ sẵn sàng hy sinh đời tôi để đền đáp công ơn. Bà Briggs thân mến ơi, tôi yêu kính bà Crawley hơn hết thảy mọi người trên đời này vì bà là ân nhân của tôi, và là cô anh Rawdon yêu quý của tôi; tôi yêu quý cả những người nào trung thành với bà nữa. Vào địa vị tôi, chẳng bao giờ tôi đối xử với những người bạn trung thành của bà Crawley như cái bà Bute đa sự đáng ghét kia đâu.

Rebecca lại tiếp:

- Bề ngoài, tưởng như Rawdon là người thô lỗ, vô tình, nhưng thật ra anh ấy giầu tình cảm lắm, đã hàng trăm lần anh ấy rơm rớm nước mắt bảo tôi rằng thật là phúc đức mà trời đã run rủi cho bà cô quý báu nhất đời của mình có được hai người bạn đáng quý là bà Firkin và bà Briggs. Nếu như kế hoạch đen tối của con người ghê gớm là bà Bute thành công, nghĩa là tống khứ được hết cả những người thân thiết của bà Crawley đi chỗ khác, và để cho bà lão khốn khổ kia thành một nạn nhân rơi vào tay những con mụ độc ác nhà lão tu sĩ - Rebecca cũng lo rằng điều này có thể xảy ra được lắm - thì cô ta xin bà Briggs nhớ rằng căn nhà của cô ta tuy tầm thường thật nhưng cũng sẵn sàng mở rộng cửa đón tiếp bà này. Becky say sưa thốt lên:

- Bà bạn yêu quý ơi! Trên đời này vẫn còn những con người không biết quên ơn, và đàn bà không phải ai cũng như bà Bute Crawley cả đâu!

Rebecca lại tiếp:

- Nhưng tôi phàn nàn mà làm gì nhỉ? Tuy rằng vì bà cụ mà tôi khổ, nhưng tôi vẫn mang ơn, bởi lẽ Rawdon yêu quý của tôi là cháu bà cụ.

Đoạn Rebecca tố cáo hết mọi khóe ăn ở của bà Bute ở trại Crawley Bà chúa cho bà Briggs nghe. Hồi ấy, cô không hiểu gì nhưng bây giờ mới vỡ lẽ rằng té ra bà Bute đã tìm trăm phương nghìn kế, kỳ cho hai người mê nhau mới thôi...té ra cả hai con người trẻ tuổi thơ ngây đó đã cùng đưa nhau sa vào cạm, thế là yêu nhau, rồi lấy nhau, rồi mất toi "cơ nghiệp" vì những âm mưu của bà Bute.

Sự thực quả có như vậy. Bà Briggs vẫn biết rõ chuyện này từ trước, nghĩa là bà Bute đã cố ghép Rawdon và Rebecca làm vợ chồng. Tuy công nhận Rebecca hoàn toàn vô tội, nhưng bà Briggs cũng không thể giấu được người bạn gái rằng rất có thể Rebecca không bao giờ còn tranh thủ được cảm tình của bà Crawley nữa, vì bà lão này hẳn không thể tha thứ cho thằng cháu trai cái tội lấy vợ dại dột như vậy.

Về vấn đề này Rebecca đã có chủ ý: cô vẫn không hề mất tinh thần. Nếu ngay bây giờ bà Crawley chưa chịu tha thứ, thì ít nhất cũng có thể hy vọng trong tương lai bà ta sẽ nghĩ lại. Thậm chí bây giờ giữa Rawdon và danh hiệu nam tước cũng chỉ còn có một trở ngại là anh chàng Pitt Crawley ốm đau quặt quẹo. Nếu có chuyện gì xảy ra cho anh ta thì mọi việc sẽ ổn. Rebecca đã bóc trần được mọi mưu mô xảo quyệt của bà Bute khiến cho mọi người nghi ngờ bà này, thế cũng đủ cả rồi, và rất có thể cũng có lợi cho Rawdon nữa. Sau một giờ trò chuyện với bà bạn cũ, Rebecca thân mật chia tay, yên trí rằng chỉ vài giờ sau là cuộc trò chuyện vừa rồi phải lọt đến tai bà Crawley.

Cuộc hội đàm kết thúc, vừa lúc Rebecca cần trở về khách sạn để dự bữa tiệc chia tay với mấy người bạn hôm trước. Rebecca âu yếm từ biệt Amelia, tưởng chừng hai người quý nhau như chị em ruột. Cô lấy mùi xoa ra lau mắt mãi, rồi ôm chặt lấy cổ bạn, y như hai người sắp xa nhau suốt đời; lúc xe ngựa chuyển bánh cô lại thò cổ ra ngoài cửa sổ mà vẫy mãi mùi xoa (nhưng nó khô xác, chẳng có tý nước mắt nào). Sau đó, cô quay vào bàn ăn, xơi mất mấy con tôm bể một cách cực kỳ ngon lành đúng kiểu một người đàn bà đang bị xúc động mạnh. Vừa nhai nhồm nhoàm Becky vừa kể lại cho Rawdon nghe về cuộc gặp gỡ vừa qua với bà Briggs. Rêbeca tỏ ý hy vọng rất nhiều làm cho anh chàng cũng lấy phần hào hứng. Xưa nay vẫn thế, buồn hay vui, cô vợ vẫn có cách làm cho chồng phải bắt chước theo mình.

- Mình yêu ơi, ngồi vào bàn viết ngay hộ em một lá thư cho bà Crawley đi. Mình sẽ nói rằng mình ngoan thật là ngoan, đại khái như vậy.

Thế là Rawdon ngồi vào bàn viết ngoay ngoáy:

Brighton, thứ năm...

- Cô thân yêu của cháu...

Viết đến đây anh chàng sĩ quan hào hiệp không tưởng tượng ra được lời nào nữa. Anh cắn bút nhìn vợ. Chị vợ thấy mặt chồng dài ra không sao nhịn được cười, bèn chắp hai tay sau lưng đi đi lại lại trong phòng đọc cho chồng viết tiếp như thế này:

Trước khi giã từ nước nhà ra đi dự trận, lần này rất có thể cháu gặp sự rủi ro...

- Cái gì?

Rawdon ngạc nhiên hỏi lại, nhưng cũng thấy ngay ý nghĩa khôn khéo của câu nói, vừa cười vừa viết tiếp:

Rất có thể cháu gặp sự rủi ro; cháu đến đây...

Ông sĩ quan ngự lâm ngắt lời:

- Becky, sao không viết: đến ở đây? Đến ở đây cũng đúng ngữ pháp chứ sao?

Rebecca giậm chân xuống đất, nhắc lại:

Cháu đến đây để từ biệt cô, người bạn thân thiết và cũng là người bạn đầu tiên trong đời. Trước khi phải xa cách cô, rất có thể xa cách mãi mãi, một lần nữa, cháu thiết tha xin cô cho phép được siết chặt bàn tay đã ban cho cháu bao niềm hạnh phúc trong đời cháu.

- Bao nhiêu hạnh phúc trong đời cháu.

Rawdon lặp lại câu nói, vừa nguệch ngoạc viết vừa lấy làm ngạc nhiên, không hiểu sao mình lại viết quá dễ dàng như vậy.

Cháu chỉ cầu xin cô có một điều thôi, nghĩ là khi chia tay, cô đừng giận cháu nữa. Cháu cũng thừa hưởng được truyền thống kiêu hãnh của dòng họ cao quý nhà ta, nhưng không phải trong tất cả mọi vấn đề. Cháu đã cưới con gái một họa xĩ làm vợ, song cháu không hề sấu hổ vì việc ấy...

Rawdon vội kêu lên:

- Không, nếu tôi có xấu hổ thì cứ đâm tôi một nhát đao cho chết tôi.

Rebecca bẹo tai chồng, cúi xuống ngó xem anh chàng có phạm lỗi chính tả nào không, tiếp:

- Ông nỡm ơi, họa sĩ phải viết s, và xấu hổ thì viết x chứ.

Anh chồng chữa lại, hết sức thán phục sự hiểu nhiều biết rộng của cô giáo yêu quý. Rebecca đọc tiếp:

- Cháu cứ tưởng rằng cô cũng chẳng lạ gì tình gắn bó của chúng cháu vì chính bà Bute Crawley đã khuyến khích chúng cháu. Nhưng chúng cháu cũng không trách bà ấy. Cháu đã cưới một người vợ nghèo, nhưng cháu sẵn sàng chịu trách nhiệm về việc cháu làm. Cô thân yêu ơi, còn việc chia gia tài thì xin cứ tùy cô, cháu sẽ không bao giờ phàn nàn lấy nửa lời.

Cháu muốn cô tin rằng cháu quý cô không vì tiền bạc. Trước khi từ giã nước Anh, cháu muốn cô cháu mình hòa thuận với nhau như xưa. Xin cô cho cháu được gặp mặt trước khi lên đường. Biết đâu vài tuần, vài tháng nữa chẳng là quá muộn, cháu sẽ không có cái sung sướng được cô ban cho một lời từ biệt khi rời bỏ xứ sở ra đi.

Becky ngọt ngào nói:

- Bà ấy không nhận ra được lời lẽ của em đâu; em đã cố đọc những câu ngắn ngủi, cộc lốc...

Bức thư được gửi cho bà Briggs. Bà Briggs lấy điệu bộ hết sức bí mật vừa trao cho bà Crawley bức thư, vừa nói mấy lời đơn giản, ngây thơ:

- Bà Bute đi rồi, chúng mình có thể đọc thư này được đấy!

Nghe vậy, bà Crawley nói:

- Bà Briggs đọc cho tôi nghe nào.

Nghe bà Briggs đọc xong, bà Rawdon lại cười phá ra.

Thấy bà Briggs có vẻ rất cảm động vì lời lẽ trung thực, ân cần trong thư, bà chủ nói:

- Bà nỡm ơi, không thấy à? Có phải lời lẽ của thằng Rawdon đâu. Suốt đời nó chỉ viết thư cho tôi để xin tiền; mà thư nó viết thì từ đầu chí cuối đầy rẫy nào lỗi chính tả, nào gạch xóa, nào lỗi ngữ pháp; lại cái con rắn độc kia xỏ dây vào mũi nó rồi đây.

Bà Crawley nghĩ thầm: "Chúng nó cùng một giuộc như nhau cả. Đứa nào cũng muốn mình chết để chia của". Im lặng một lúc, bà nói tiếp, giọng hết sức điềm tĩnh:

- Nói cho cùng, gặp thằng Rawdon cũng chẳng sao; bắt tay từ biệt nó một cái cũng chẳng mất gì cơ mà. Miễn là đừng có chuyện rắc rối, thì gặp mặt nó một tý cũng không sao. Nhưng con người ta chịu đựng cũng có giới hạn chứ; bà nhớ hộ rằng, tôi trân trọng yêu cầu "bà Rawdon" tránh mặt tôi cho...tôi nhất định không thể nhìn mặt bà ấy được.

Bà Briggs đành bằng lòng với thái độ tha thứ nửa vời của bà chủ. Bà ta nghĩ rằng muốn cho hai cô cháu làm lành với nhau, tốt nhất là xui Rawdon rình ở ngoài mỏm núi, chỗ hàng ngày bà Crawley hay ngồi ghếch bánh xe ra đó hóng mát.

Và hai cô cháu đã gặp nhau ở đó. Không rõ khi thấy mặt thằng cháu yêu quý ngày xưa, trong thâm tâm bà Crawley có chút nào cảm động không, nhưng bà cũng chìa hai ngón tay ra cho anh cháu bắt, miệng mỉm một nụ cười rất tươi, y như hai cô cháu chỉ mới xa nhau ngày hôm trước. Còn Rawdon thì đỏ tía mặt lên, vì bối rối và quá sung sướng; anh chàng nắm ngay lấy tay bà Briggs mà rung tít lên. Có lẽ anh ta cảm động vì tiền, cũng có thể vì quý cô; hoặc giả có khi anh ta thấy sau trận ốm mấy tuần qua, cô mình trông tiều tụy quá mà xúc động chăng.

Về nhà, kể lại cuộc gặp gỡ cho vợ nghe anh ta nói:

- Bà lão chơi cho mình một vố ác quá. Tôi tự cảm thấy lố bịch thế nào ấy. Tôi đi kèm bên cái ghế quỷ quái của bà lão đến cửa nhà; thế rồi bà Briggs ra đỡ bà cụ vào. Tôi cũng muốn vào trong nhà, nhưng mà...

Cô vợ rít lên:

- Thế ra anh không vào à, Rawdon?

- Không, mình ạ; lúc ấy nếu tôi mà không run bắn người lên thì tôi cứ chết đâm chết chém"!

- Đồ ngốc! Lẽ ra anh phải vào trong nhà, rồi nhất định ở lỳ đấy không ra nữa mới đúng.

Anh chàng sĩ quan ngự lâm to lớn xịu mặt nói:

- Thôi đừng rủa tôi nữa Becky. Có lẽ tôi là đồ ngốc thật, nhưng mình không được nói thế mới phải.

Và anh chàng cau có nhìn vợ một cách dữ tợn, trông không lấy gì làm dễ chịu lắm. Rebecca vội tìm cách vuốt ve cho anh chàng thô lỗ bớt giận:

- Thôi, anh yêu ơi, ngày mai anh phải cẩn thận hơn nhé. Bà cụ có cho gọi hay không cũng mặc, cứ đến thăm như thường.

Anh chồng đáp rằng sẽ tùy thích làm theo ý riêng, và yêu cầu vợ từ giờ ăn nói phải biết giữ mồm giữ miệng một tý. Đoạn anh chồng bị chạm tự ái bỏ đi chơi bi-a suốt buổi chiều, lúc nào vẻ mặt cũng lầm lỳ, im lặng và cáu bẳn.

Nhưng cũng vẫn như mọi khi, chỉ đến đêm là anh chàng đành chịu công nhận vợ khôn ngoan sáng suốt hơn mình; anh ta vô cùng buồn rầu vì phải công nhận rằng vợ mình có lý: cô ta đã linh cảm thấy cái hậu quả tai hại do việc làm của chồng gây ra.

Nhất định bà Crawley phải xúc động ít nhiều khi gặp lại mặt cháu sau một thời gian dài xa cách vì xích mích.

Bà ta đã nhiều lần mơ màng nhớ lại cuộc gặp gỡ đó. Bà nói với bà Briggs:

- Trông thằng Rawdon béo ra và già đi nhiều nhỉ. Mũi nó đỏ rói, trông mẽ nó hồi này xuống tệ; lấy con bé ấy làm vợ nó đâm ra bệ rạc quá. Bà Bute bảo rằng hai đứa vẫn uống rượu với nhau, có nhẽ đúng. Phải, gần nó, sặc mùi rượu mạnh đến khiếp. Bà không thấy à?

Bà Briggs cố cãi rằng bà Bute vẫn có thói nói xấu tất cả thiên hạ, nhưng vô ích; theo thiển ý của một người tầm thường bề dưới như bà, bà thấy bà Bute là một...

- Là một người đàn bà xảo quyệt chứ gì? Phải có thế, bà ấy có hay nói xấu người khác thật, nhưng tôi vẫn chắc chắn rằng chính con kia đã làm cho thằng Rawdon sinh rượu chè nghiện ngập. Cái bọn con nhà hà tiện chúng nó vẫn thế...

Bà Briggs đáp:

- Thưa bà, được gặp lại bà, anh ấy cảm động lắm. Tôi chắc rằng khi bà nghĩ đến lúc anh ấy sắp ra trận gặp bao nguy hiểm...

Bà gái già bỗng đùng đùng nổi giận, kêu váng lên:

- Bà Briggs, nó hứa cho bà bao nhiêu tiền đấy, y như rằng lại bắt đầu khóc rồi. Tôi ghét cái thói giả dối ấy lắm. Sao lúc nào cũng cứ làm phiền tôi? Đi về buồng mà khóc, rồi gọi Firkin cho tôi... thôi, ở lại đây; ngồi xuống, hỉ mũi đi, đừng khóc nữa; rồi viết hộ tôi một lá thư cho đại úy Crawley.

Bà Briggs đáng thương ngoan ngoãn ngồi xuống trước bàn viết. Trên bàn vẫn còn mấy tờ giấy đầy những dòng chữ viết ngoáy, nét chữ cứng cáp mạnh mẽ của bà Bute Crawley để lại.

- Viết đi: "Thưa ngài thân mến", hay là "ngài thân mến", thế phải hơn. Viết rằng theo lời bà Crawley yêu cầu. Không! Viết rằng theo lời ông Creamer, thầy thuốc của bà Crawley thì những sự xúc động quá mạnh rất nguy hiểm cho sức khỏe của tôi, vì vậy, tôi không thể dự những cuộc bàn cãi về công việc gia đình, cũng không thể gặp gỡ ai được. Cảm ơn hắn ta về cuộc thăm viếng vừa rồi, và bảo hắn đừng hy vọng tôi giúp đỡ tiền nong nữa. Bà Briggs, viết thêm rằng tôi chúc hắn đi đường mạnh khỏe, và nếu hắn quá bộ đến thăm viên luật sư riêng của tôi ở công viên khách sạn Gray, sẽ có thư gửi cho hắn. Được lắm, thế là ổn; hắn sẽ phải bỏ Brighton mà đi.

Bà Briggs ngoan ngoãn viết lá thư theo đúng ý bà chủ.

Bà này lại tiếp:

- Bà Bute ra đi mới đúng một ngày mà đã đến quấy rầy tôi rồi, thế thì quá lắm. Bà Briggs, viết thư cho bà Bute Crawley, bảo rằng không cần bà ấy trở lại đây làm gì...không cần trở lại mà cũng không thể trở lại được nữa đâu. Tôi không muốn làm một kẻ nô lệ ngay chính trong nhà này. Tôi không muốn bị nhịn đói, và bị đầu độc. Tất cả chúng nó, đứa nào cũng muốn giết tôi... tất cả... tất.

Nói đoạn, người đàn bà già nua trơ trọi rũ ra khóc thảm thiết.

Màn cuối cùng của tấn hài kịch đáng ghê sợ có bà ta sắm vai trong Hội chợ phù hoa cũng sắp kết thúc; dẫy đèn sáng rực rỡ đã tắt dần từng ngọn, từng ngọn một, và tấm màn tối tăm sẵn sàng buông xuống rồi.

Hai vợ chồng Rawdon đọc đến đoạn cuối cùng của lá thư, thấy lời lẽ bà Briggs rất ngọt ngào nói về việc mời Rawdon đến tìm viên luật sư riêng của bà Crawley ở Luân- đôn, thì cũng thấy được an ủi đôi phần, tuy rằng mới đầu cũng thất vọng vì bị bà cô từ chối không tha thứ tội lỗi cũ.

Thế là mưu mẹo của bà lão muốn sớm tống cổ Rawdon về Luân-đôn thành công.

Anh ta có món tiền được bạc của Joe và của Osborne, bèn thanh toán tiền khách sạn. Ông chủ khách sạn đâu ngờ rằng cho đến ngày hôm ấy, ông mới chắc chắc được trả tiền sòng phẳng. Bởi vì, cũng giống như một viên tướng gửi lại hành lý về hậu tuyến trước khi bắt đầu trận đánh, Rebecca đã khôn ngoan gói ghém tất cả mọi thứ đáng tiền giao cho thằng hầu của George gửi về Luân-đôn bằng xe ngựa và trông nom hộ. Ngày hôm sau, Rawdon và vợ cũng dùng xe ngựa về nốt. Rawdon nói:

- Tôi vẫn muốn gặp mặt bà lão một tý trước khi đi.Trông bà ấy rầu rĩ, tiều tụy quá, nhất định không thọ thêm được mấy tý đâu. Không biết cái ngân phiếu đáng giá bao lăm? Độ hai trăm đồng nhỉ? Không có lẽ lại dưới hai trăm đồng, phải không, Becky?

Vì được hai người phụ tá của ông Moss quá bộ đến thăm luôn, nên hai vợ chồng Rawdon không về nhà ở Brighton, mà đến trọ tại khách sạn. Sáng sớm hôm sau, Rebecca đã có dịp gặp lại mấy ông khách quý ấy lúc đang trên đường đến nhà bà Sedley ở Funham để thăm cô bạn Amelia và mấy người bạn ở Brighton. Nhưng đám bè bạn của cô đã đi Chatham rồi; từ Chatham họ đi Harwich để lên tàu sang Bỉ cùng với trung đoàn thứ... chỉ còn lại một mình bà lão Sedley trơ trọi khóc lóc vì đau khổ. Trở về nhà, Rebecca thấy chồng cũng vừa đến công viên khách sạn Gray về. Anh ta cáu quá vì đã rõ số phận mình:

- Trời đất ơi, Becky, mụ ấy thí cho mình có hai mươi đồng bạc.

Trước sự thất vọng của Rawdon, Becky cũng phải phá ra cười vì tuy bị đánh lừa, nhưng cô cũng công nhận bà lão là người đa mưu.

Chương 26: GIỮA LUÂN ĐÔN VÀ CHATHAM

Từ giã Brighton, anh bạn George của chúng ta ra vẻ một ông hoàng ngự xe bốn ngựa đến một khách sạn thật lịch sự ở khu phố Cavendish, một dãy phòng trang hoàng lộng lẫy đã được sửa soạn sẵn sàng để chờ đón cặp tân lang và tân giai nhân: trên mặt bàn tiệc bày toàn bát đĩa loại quý, xung quanh có đến nửa tá người hầu da đen đứng yên lặng túc trực sẵn sàng. George ra hiệu mời Joe và Dobbin ngồi, điệu bộ lịch sự như một ông hoàng. Lần đầu tiên Amelia ngồi chủ tọa bàn tiệc mà George gọi là bàn tiệc do chính cô chiêu đãi, cô có vẻ e dè ngần ngại làm sao.

George hết chê rượu rồi, lại quát tháo bọn hầu bàn, Joe thì ra sức mà chén món xúp ba-ba có vẻ khoái chí lắm. Dobbin làm nhiệm vụ tiếp món ăn cho anh ta, vì Amelia ngồi chủ tọa bàn tiệc không có kinh nghiệm nên lúng ta lúng túng mãi với đĩa thịt ba-ba đặt trước mặt; cô tiếp cho anh trai cả thịt lẫn mai không phân biệt. Thấy bữa tiệc sang trọng quá, mà mấy gian phòng thuê để đãi tiệc cũng hết sức lộng lẫy. Dobbin phát hoảng.

Ăn xong, thừa lúc Joe ngủ gật trong ghế bành, Dobbin khẽ trách bạn rằng món thịt ba-ba và rượu sâm-banh đặt quá thừa mứa, ăn tiêu sang như một vị giám mục, nhưng vô hiệu, George nói:

- Xưa nay đi đâu tôi vẫn quen tiêu pha cho ra con người lịch sự, và dĩ nhiên, nhà tôi cũng sẽ du lịch cho xứng với tư cách một phu nhân. Túi tôi còn tiền, nàng sẽ không thiếu một thứ gì hết.

Anh chàng "quen thói bốc trời" đó hoàn toàn hài lòng về tính hào phóng của chính mình. Dobbin cũng chẳng cố gắng phân tích cho anh ta hiểu rằng hạnh phúc của Amelia không phải là ở chỗ được ăn nhiều xúp ba-ba nữa.

Ăn xong được một lúc, Amelia dè dặt ngỏ ý muốn về nhà ở Fullham thăm mẹ một chút; George đành ưng thuận, nhưng cũng có vẻ không thoải mái lắm. Amelia nhanh nhảu bước về phòng ngủ của mình để sửa soạn; gian phòng rộng mênh mông, ở giữa kê một cái giường đồ sộ trông như một cái linh cữu lớn; xưa người em gái của hoàng đế Halixander đã ngủ trên giường này, khi những người bạn đồng minh đang thất bại tại nơi đây. Cô quàng khăn san, đội mũ trùm lên đầu, trong lòng dào dạt sung sướng.

Lúc Amelia quay lại phòng ăn vẫn thấy George còn ngồi uống rượu vang, không có ý tỏ ra muốn đứng lên. Cô hỏi chồng:

- Anh có về nhà với em không, anh yêu?

Không đâu. Tối nay "anh yêu" còn "có việc bận". Đã có thằng hầu của George ra thuê xe ngựa đưa cô về thăm nhà. Chiếc xe ngựa đã đỗ trước cửa khách sạn; Amelia đưa mắt nhìn chồng hai ba lần, rồi thất vọng từ biệt chồng mà bước xuống thang gác. Đại úy Dobbin cũng xuống theo dắt tay Amelia đỡ lên xe rồi đứng nhìn theo mãi. Chính thằng hầu cũng lấy làm ngượng không muốn nói rõ địa chỉ cho anh xà ích ngay trước mặt đám hầu bàn của khách sạn; hắn bảo cứ đánh xe đi một quãng rồi sẽ nói cũng được.

Dobbin đi bộ về nhà trọ của mình là quán Slaughters; anh ta lẩn thẩn nghĩ rằng giá được cùng ngồi trên xe ngựa với bà Osborne thì sung sướng biết bao nhiêu. Sở thích của George thì lại khác hẳn; sau khi đã uống rượu vang chán chê rồi, anh ta đi mua một nửa vé để vào rạp hát lúc giữa chừng xem tài tử Kean sắm vai Shylock. Đại úy Osborne có tính mê xem diễn kịch; chính anh ta cũng đã có dịp sắm vai chính một cách khá xuất sắc trong vài vở kịch diễn trong trại lính. Joe vẫn ngủ lăn ra cho đến tối mịt; mãi tới lúc thằng hầu vào dọn dẹp bát đĩa ra và tu nốt chai rượu còn dở trên bàn tiệc, nghe tiếng động anh ta mới tỉnh dậy.Trạm xe ngựa gần đó lại phải cung cấp một chiếc xe đưa vị anh hùng béo phệ về nhà làm bạn với cái giường ngủ.

Bà Sedley vừa thấy chiếc xe đỗ trước cổng nhà đã vội chạy ra đón cô dâu mới đang vừa run run vì xúc động, vừa thút thít khóc; bà ôm ghì lấy con, tình mẫu tử khăng khích dào dạt trong lòng. Ông Clapp bận áo sơ mi trần đang đứng xới mấy cây trong vườn hoảng hốt chạy vào trong nhà. Chị hầu gái người Ai len nhảy bổ từ trong bếp ra mỉm cười chúc mừng cô chủ: "Cầu Chúa ban phúc lành cho cô".

Amelia lảo đảo gần như không đủ sức leo nổi hết cầu thang dẫn lên phòng khách.

Mấy cái vòi nước lại được dịp chảy; hai mẹ con lại được ghì chặt lấy nhau trong gian phòng ấm cúng mọi ngày, họ khóc lóc thế nào, các bạn đọc hơi có tính đa cảm cứ tưởng tượng ra cũng đủ biết. Đàn bà lúc nào mà chẳng khóc được? Nước mắt họ sẵn sàng chảy ra bất cứ trường hợp nào, khi vui khi buồn cũng như lúc có công việc gì khác. Và sau một chuyện quan trọng như chuyện về nhà chồng, dĩ nhiên bà mẹ và cô con gái phải được tự do bộc lộ thói đa cảm cố hữu của phụ nữ. Cứ kể cũng êm đềm, và cũng hay hay.

Vào những dịp đi lấy chồng thì chính tôi đã từng thấy nhiều người đàn bà xưa nay vẫn không ưa nhau lúc ấy lại ôm lấy nhau mà vừa khóc vừa hôn nhau thật nồng nàn. Ví thử họ quý nhau thực, không biết lúc ấy họ đối với nhau đến thế nào? Đối với các bà cũng đi lấy chồng lần thứ hai; và ai dám bảo rằng trong những dịp này, các cụ già lại không có tình cảm tương tự, vì các cụ vốn giàu tình mẫu tử hơn ai hết? Có thể nói rằng một người đàn bà chỉ thực sự hiểu thấu thế nào là tình mẫu tử khi họ đã đến tuổi có cháu gọi bằng bà. Chúng ta hãy để mặc hai mẹ con bà Sedley ngồi với nhau trong căn phòng khách tranh tối tranh sáng mà thì thầm, mà thở vắn than dài, rồi hết cười tại khóc. Ông già Sedley cũng vậy, lúc xe ngựa vừa đỗ ngoài cổng, ông chưa biết là ai, ông không chạy xổ ra ngay để đón con gái, nhưng lúc Amelia bước vào phòng, ông cũng hôn con rất âu yếm; ông lão vẫn ngồi trong phòng như mọi khi với đủ các thứ giấy má, dây buộc hàng và sổ kế toán. Ngồi với vợ con một lúc, ông khôn khéo đứng dậy ra ngoài, để cho họ được tự do.

Thằng hầu của George đang đứng khinh khỉnh nhìn ông Clapp bận áo xơ-mi trần tưới nước cho mấy cụm hồng. Tuy vậy, hắn cũng lễ phép ngả mũ chào ông Sedley. Ông lão hỏi chuyện hắn về con rể ông, về chiếc xe ngựa của Joe, không biết đôi ngựa của anh ta đã mang về Brighton chưa. Ông lại hỏi cả đến chiến tranh nữa. Lát sau chị hầu gái bưng một cái khay trên có đặt một chai rượu vang ra cho ông; ông già nhất định đòi rót rượu mời tên người nhà.

Đoạn ông thưởng cho hắn một đồng nửa ghi-nê nói:

- Bác Trotter, hãy uống mừng sức khỏe cho ông chủ và bà chủ của bác đi. Và đây, bác cầm lấy gọi là để khi về nhà uống chút rượu cho ấm bụng.

Thằng hầu của George cầm tiền đút túi, nét mặt lộ vẻ vừa ngạc nhiên vừa khinh khỉnh.

Tính từ hôm Amelia rời bỏ nhà nhỏ bé này ra đi mới được chín ngày...nhưng nhớ lại cái buổi mình từ biệt nó để đi với George, Amelia cảm thấy như đã lâu lắm rồi. Giữa hiện tại và cuộc đời thiếu nữ vừa qua như có một vực thẳm ngăn cách. Nhìn lại quá khứ, Amelia thấy mình gần như là một người hoàn toàn khác; hồi ấy cô còn là một thiếu nữ chưa chồng, đang yêu say đắm, suốt ngày chỉ tâm niệm nghĩ đến người yêu; đáp lại sự trìu mến của cha mẹ, cô chỉ tỏ một thái độ nếu không phải là vô ơn thì cũng là hờ hững, coi như tự nhiên mình có quyền được hưởng, vì tâm hồn và trí tuệ cô còn mải hướng về một mục đích duy nhất là thỏa mãn ước vọng của mình. Ngẫm lại cuộc sống trong những ngày ấy, những ngày vừa mới trôi qua mà tưởng như xa xôi lắm rồi, Amelia cảm thấy xấu hổ và hối hận vì thấy cha mẹ đối với mình vẫn âu yếm như trước. Phải chăng lúc đã chiếm được phần thưởng - tức là thiên đường trong cuộc sống - thì con người may mắn ấy lại bỗng cảm thấy hoài nghi và không thỏa mãn?

Thường thường sau khi đã để cho đôi nhân vật nam nữ của mình thành vợ thành chồng, nhà tiểu thuyết vẫn buông tấm màn xuống, coi như tấm kịch đã trọn; ấy là lúc những nỗi băn khoăn, những sự vật lộn trong cuộc đời đã chấm dứt, như thể một khi người ta leo lên được cõi niết bàn của cuộc sống gia đình, thì thấy cỏ cây tươi tốt bốn mùa, mọi sự đều đáng hài lòng cả. Hai vợ chồng chỉ còn một việc là ghì chặt lấy nhau mà thơ thẩn đi xuống cái dốc dẫn đến tuổi già, đầy hạnh phúc. Song cô Amelia bé nhỏ của chúng ta vừa chân ướt, chân ráo bước vào địa giới của cái xứ sở mới mẻ này đã phải quay nhìn sang bờ sông xa tít bên kia để ngó lại những bộ mặt quen thuộc đang buồn rầu vẫy tay từ biệt mình.

Để gọi là mừng cô dâu mới về thăm nhà, bà mẹ nghĩ nên sửa soạn một bữa tiệc; hai mẹ con hàn huyên với nhau một lúc, bà để con gái ngồi lại một mình rồi xuống nhà dưới lo chuẩn bị dọn một bữa tiệc trà thật long trọng (gian nhà này là chỗ ở cho vợ chồng ông Clapp; chị hầu gái người Ai len là chị Flanagan, khi đã rửa bát đĩa xong xuôi và gỡ xong những chiếc cặp uốn tóc ra, thì cũng ngủ ở đấy). Ở đời mỗi người có một cách bộc lộ tình cảm riêng; bà Sedley nghĩ rằng nhân dịp đặc biệt này, Amelia hẳn phải thích một chiếc bánh mềm uống với nước trà và thật nhiều mứt cam đựng trong một cái bát thủy tinh.

Trong lúc bà mẹ bận sửa soạn món mứt ở dưới bếp thì Amelia rời gian phòng khách lên gác; không hiểu sao tự nhiên Amelia lại lẩn về căn phòng nhỏ của riêng mình hồi chưa đi lấy chồng, và lại ngồi xuống đúng chiếc ghế xưa kia đã nhiều lần mình ngồi lặng lẽ rầu rĩ hàng giờ. Cô cảm thấy như chiếc ghế bành dang rộng hai cánh tay ra đón mình, như đón một người bạn cũ; tâm trí cô vơ vẩn nhớ về tuần lễ vừa qua, nhớ về cuộc sống hồi còn con gái. Khi đã nhớ lại những kỷ niệm buồn bã, mơ hồ qua, Amelia lại luôn luôn than thở vì điều hằng mong ước, một khi đạt được, không đem lại sự vui sướng mà chỉ có sự đau khổ và hoài nghi; đáng thương thay cô thiếu nữ bé bỏng tội nghiệp và trong trắng, lang thang trơ trọi giữa những đám người hỗn độn trong Hội chợ phù hoa này.

Amelia ngồi đây âu yếm mường tượng lại hình ảnh George; trước ngày cưới, cô đã từng quỳ xuống mà thờ phụng hình ảnh con người ấy. Cô có dám tự thú nhận rằng con người thực ngoài cuộc đời khác xa hình ảnh người thanh niên anh hùng cô hằng phụng thờ trong mộng không? Chưa đâu vì người đàn bà muốn thắng nổi tính kiêu hãnh và thói phù hoa của chính mình để dám tự thú những điều như vậy, cần trải qua một thời gian dài, dài lắm... và phải đã bị đàn ông lừa dối nhiều lần. Lúc ấy đôi mắt xanh sáng long lanh và nụ cười ma quái của Rebecea lại hiện ra ám ảnh làm cho Amelia rùng mình; cô ngồi lặng một lúc lâu, tâm trí băn khoăn nghĩ ngợi, dáng điệu thờ thẫn, y như cái ngày nào lúc chị hầu gái bước vào trao cho cô lá thư của George ngỏ ý muốn nối lại mối duyên gần đứt đoạn.

Amelia nhìn chiếc giường nhỏ có trải đệm trắng; mấy ngày trước đây, chiếc giường ấy vẫn còn là của cô. Amelia thầm ước đêm nay lại được ngủ trên chiếc giường này, rồi cũng như ngày xưa, sáng ra thức dậy lại được thấy mẹ cúi xuống nhìn mình mỉm cười. Cô nghĩ đến chiếc linh cữu to tướng phủ vải hoa sặc sỡ kê trong gian phòng sang trọng mông mênh và tối tăm kia đang chờ đợi mình trong tòa khách sạn đồ sộ ở khu phố Cavendish mà ghê cả người. Ôi, chiếc giường bé nhỏ thân yêu! Đã biết bao đêm dài, cô nhỏ những giọt nước mắt đầm đìa trên mặt gối? Đã biết bao lần cô tuyệt vọng muốn cứ nằm trên giường như thế mà từ giã cõi đời. Nhưng bây giờ ước vọng của cô đã thành sự thật rồi; người tình nhân cô yêu đến đau khổ chẳng đã trở thành của cô mãi mãi rồi sao? Và bà mẹ hiền từ của cô cũng đã bao lần kiên nhẫn âu yếm quanh quẩn bên chiếc giường này săn sóc cho cô? Amelia lại bên chiếc giường quỳ xuống. Tấm linh hồn e lệ, dịu dàng và thiết tha nhưng đã bị giầy vò ấy hướng về thượng đế tìm nguồn an ủi, hướng về một sức mạnh mà phải nhận rằng xưa kia ít khi người thiếu nữ ấy tìm đến. Cho đến nay lòng tín ngưỡng của Amelia là tình yêu; nhưng giờ đây trái tim buồn rầu đang ứa máu vì thất vọng kia đã bắt đầu cảm thấy cần một nguồn an ủi khác rồi.

Chúng ta có quyền lắng nghe, hoặc nhắc lại đây những đời cô cầu nguyện không nhỉ? Thưa các bạn đó là những điều bí mật vượt ra ngoài phạm vi của Hội chợ phù hoa là cái thế giới của cuốn truyện này.

Điều có thể thấy được là khi bữa tiệc trà đã dọn ra cô thiếu nữ trẻ măng của chúng ta bước xuống thang gác, vẻ mặt hớn hở hơn nhiều. Cô không còn băn khoăn than thở cho số phận của mình, cũng không nghĩ đến thái độ lạnh nhạt của George hoặc đôi mắt của Rebecca như vừa rồi nữa. Cô xuống nhà hôn cha mẹ, ríu rít nói chuyện với ông lão, và làm cho ông Sedley cảm thấy vui vẻ khác hẳn mọi ngày. Cô ngồi vào cây dương cầm của Dobbin mua tặng vừa đàn vừa hát những bài hát cũ kỹ mà ông già rất ưa nghe. Cô nhận xét trà pha rất ngon, lại khen cách mẹ bày mứt trong bát thủy tinh cực khéo. Vì quyết làm cho mọi người trong nhà vui vẻ, nên chính cô cũng thấy mình vui lây. Trở về khách sạn, Amelia nằm xuống chiếc linh cữu ngủ thiếp đi; mãi tới lúc George đi xem hát về, cô mới thức dậy đón chồng với một nụ cười.

Ngày hôm sau George còn có những việc quan trọng hơn là việc đi xem ông Kean đóng vai Shylock. Vừa về đến Luân-đôn, anh ta đã viết thư ngay cho những luật sư của cha, tỏ ý muốn gặp mặt họ sớm hôm sau. Khi ở khách sạn anh ta chơi bi-a và đánh bài với đại úy Crawley đã thua gần hết nhẵn túi; trước khi lên đường ra nước ngoài, thế nào cũng phải lo lấy một món bù vào; không có cách nào khác, anh ta đành khấu vào khoản hai nghìn đồng mà mấy ông thày kiện được lệnh giao lại cho anh ta. George tin chắc như đinh đóng cột rằng chỉ sau một thời gian ngắn thế nào ông bố cũng phải nghĩ lại. Phải, có một cậu con trai quý báu như anh ta, bậc cha mẹ nào đành tâm giận lâu cho được? George còn tính toán rằng ví thử tài năng và giá trị của mình trong quá khứ không đủ khiến ông lão nguôi giận mà tha thứ, thì anh ta sẽ quyết tâm lập những chiến công thật hiển hách trong chiến dịch sắp xảy ra; như vậy hẳn ông lão phải hồi tâm nghĩ lại. Nhưng nếu ông cụ cứ khăng khăng một mực sắt đá thì sao? Dào ôi! Cuộc đời đang rộng mở trước mặt ta; chẳng lẽ đánh bài với thủ hạ, George cứ bị đen mãi sao. Vả lại hiện giờ cứ biết hãy còn hai nghìn đồng tiêu cái đã.

Thế là George lại thuê xe ngựa cho Amelia về thăm bà Sedley một lần nữa. Anh ta giao toàn quyền cho hai người liệu mà sắm sửa không được thiếu thứ gì, sao cho bà George Osborne có thể viễn du ra ngoại quốc xứng đáng như một bậc mệnh phụ. Thời giờ cấp bách, chỉ có chẵn một ngày để thu xếp việc này; chẳng nói ta cũng rõ hai mẹ con bà Sedley bận rộn thế nào. Lần này, bà Sedley lại được ngồi xe ngựa, tíu tít đi hết hàng len dạ này đến cửa hiệu và những người bán hàng xun xoe theo tiễn rất lễ độ; bà lão cảm thấy mình lại được là bà Sedley ngày xưa, và lần đầu tiên kể từ khi lâm vào cảnh hoạn nạn, bà sung sướng thật sự. Chính Amelia cũng lấy việc được đi thăm các cửa hiệu, được nhìn ngắm, được mà cả, được mua sắm những thức hàng đẹp mắt ấy là việc làm thú vị.

Đối với Amelia tuân theo ý chồng là một điều hạnh phúc; cô sắm một lô khá nhiều đồ dùng của phụ nữ, và tỏ ý rất có khiếu thẩm mỹ; mấy bác bán hàng đều phải công nhận như vậy.

Về cuộc chiến tranh sắp nổ ra, Amelia chả cần chú ý lắm. Bonaparte thì rõ ràng sẽ bị đè bẹp, có lẽ chẳng cần đánh cũng tan. Ngày nào tầu thủy ở Margate cũng chật ních những hành khách đi Brussels và Ghent; đàn ông cũng như đàn bà, toàn những người sang trọng lịch sự.

Người ta có cảm tưởng họ đi du lịch hơn là tham gia một cuộc chiến tranh: Báo chí ra sức mà giễu cợt tên phiêu lưu hãnh tiến một cách không thương xót. Cái tên dân đảo Corse khốn nạn ấy mà dám đương đầu với quân đội đồng minh Âu châu, dám chống lại thiên tài quân sự trác tuyệt của Wellington? Amelia coi khinh hắn như rơm rác. Con người hiền hậu dịu dàng ấy thường suy nghĩ theo ý kiến của người xung quanh, vì bản tính giản dị và phục tùng, cô không quen có thái độ của riêng mình. Tóm lại Amelia và bà mẹ chỉ những mua sắm mà bận túi bụi suốt một ngày trời; cô rất sung sướng vì thấy mình thắng lợi ngay trong bước đầu ra mắt giới thượng lưu của thành phố Luân- đôn.

Trong khi ấy George, mũ lệch về một bên đầu, hai khuỷu tay khuỳnh khuỳnh, tiến về Bedford Row; anh ta đường hoàng bước vào phòng làm việc của mấy ông luật sư, như thể mình là ông chúa mà đám thư ký mặt tai tái đang ngồi cạo giấy kia là nô lệ cả. George gọi một người ra lệnh đi báo ngay cho ông Higgs rằng đại úy Osborne đang đợi; điệu bộ anh ta khệnh khạng hung hăng, làm như cái lão luật sư "dân thường" kia, mặc dù có kiến thức gấp ba lần anh ta, giầu hơn anh ta gấp năm mươi lần, và có kinh nghiệm sống hơn anh ta gấp một nghìn lần, cũng phải lập tức xếp mọi việc làm ăn lại để ra hầu tiếp ông đại úy ngay. George không nhận thấy bọn nhân viên trong phòng nhìn nhau mà cười tỏ ý chế nhạo; viên thư ký đầu bàn giấy, liếc nhìn mấy bác thư ký tập sự; mấy bác thư ký tập sự gật gù với mấy người chạy giấy mặc quần áo chật ních. George điềm nhiên ngồi gõ gõ cái can vào chiếc ủng, khinh khỉnh nhìn cái bọn người cùng khổ, coi họ như rơm rác. Nhưng cái bọn cùng khổ này biết tỏng mọi chuyện của anh chàng rồi. Tối tối, ngồi uống bia với nhau trong quán rượu, họ vẫn lôi chuyện xích mích giữa hai bố con anh ta ra kháo với đám thư ký làm việc tại những phòng vật tư khác. Ở thành phố Luân-đơn này, đố có việc gì thoát khỏi tai mắt bọn luật sư và đám thư ký của họ. Bọn này soi mói biết hết mọi chuyện; và họ chỉ ngồi có một chỗ mà ngầm thống trị cả thành phố.

Có lẽ khi bước chân vào phòng giấy của ông Higgs, George hy vọng thấy ông này được ủy quyền trao cho mình lá thư hòa giải của cha. Cũng có lẽ anh ta làm ra cái vẻ lạnh lùng, khinh khỉnh ấy cốt để tỏ ra mình không cần gì, mình đã quyết định rồi. Nhưng đáp lại thái độ hung hăng của George, viên luật sư tỏ ra thản nhiên, mặt cứ lạnh như tiền, làm cho cử chỉ khệnh khạng của anh chàng trở thành lố bịch. Anh chàng đại úy bước vào thấy ông Higgs đang bận viết gì trên một tờ giấy. Lão nói:

- Mời ông ngồi chơi để một lát; tôi sẽ tiếp ông ngay.

Phiền ông Poe mang sổ chi lại đây hộ.

Đoạn lão lại cúi xuống hí hoáy viết tiếp. Ông Poe đi lấy sổ chi tiền mang lại; lão tính tiền chiết khấu của số hai nghìn đồng rồi hỏi xem đại úy Osborne muốn rút món này ra bằng ngân phiếu hay muốn chuyển khoản để mua tín phiếu. Lão thản nhiên tiếp:

- Hiện vắng mặt một người làm chứng trong chúc thư của bà Osborne đã quá cố, nhưng khách hàng của tôi muốn thanh toán công việc càng sớm càng tốt, nên bằng lòng thỏa mãn yêu cầu của ông ngay.

Viên đại úy bực mình lắm, đáp:

- Ông cho tôi một tờ ngân phiếu.

Thấy lão luật sư ghi rõ cả số tiền lẻ: George nói ngay:

- Vứt quách chỗ xu hào lẻ ấy đi, không cần.

Thấy cử chỉ hào hùng của mình làm cho lão thầy kiện già ngượng đỏ mặt, George khoái trí lắm; anh ta đút tấm ngân phiếu vào túi, hiên ngang bước ra khỏi phòng giấy:

Ông Higgs bảo ông Poe:

- Chỉ hai năm nữa, thằng này sẽ vào nhà đá.

- Ngài xem liệu cụ Osborne có nghĩ lại không?

Ông Higgs đáp:

- Có họa khi nào trời sụp.

Viên thư ký nói:

- Anh chàng này là tay "bán giời không cần văn tự". Mới cưới vợ được một tuần lễ đấy; thế mà tôi đã gặp anh ta cùng mấy tay sĩ quan khác bâu lấy cô đào Highflyer mà đưa lên xe của ả sau buổi diễn kịch rồi.

Sau đó hai thầy trò xét đến hồ sơ của một thân chủ khác; họ không buồn nhớ tới George Osborne nữa.

Tờ ngân phiếu thuộc về tài khoản lưu ký tại ngân hàng Hulker và Bullock tại phố Lombard; George đến ngay nhà ngân hàng này để lấy tiền. Lúc anh ta bước vào, Frederick Bullock đang cúi bộ mặt vàng ệch xuống một cuốn sổ kếch xù, bên cạnh một bác thư ký lặng lẽ ngồi túc trực. Trông thấy viên đại úy bộ mặt vàng khè của Bullock bỗng đổi sang một thứ màu khủng khiếp hơn; anh ta vội lủi vào gian phòng khách phía trong, điệu bộ nom như kẻ có tội. George đang bận hau háu nhìn món tiền (vì chưa bao giờ anh ta được cầm một lúc số tiền lớn như vậy) cũng không kịp để ý đến sắc mặt hoặc sự lẩn tránh của cái anh chàng "thây ma" đang theo đuổi em gái mình kia.

Tối hôm ấy Fred Bullock đem chuyện George rút tiền ra kể lại với ông Osborne. Anh ta nói:

- Anh ấy coi bộ đường hoàng lắm, rút ngay một lúc cả số tiền không để lại một xu. Ăn tiêu bừa phứa như anh ấy thì hai nghìn bạc liệu được mấy bữa?

Ông Osborne văng tục rầm lên bảo rằng ông "đếch" cần quan tâm đến chuyện George ăn tiêu thế nào và bao giờ thì hết tiền. Hồi này ngày nào Fred cũng đến khu phố Russell ăn bữa tối.

Về phần George anh ta rất hài lòng về công việc của mình hôm ấy. Anh ta cấp tốc sửa soạn hành lý và ký ngân phiếu thanh toán tiền hàng Amelia vừa sắm sửa, hào phóng như một ông hoàng.

Chương 27: AMELIA ĐI THEO TRUNG ĐOÀN CỦA CHỒNG

Khi cỗ xe ngựa lịch sự của Joe chạy đến đỗ tại cổng khách sạn ở Chatham, người đầu tiên Amelia gặp lại chính là anh chàng đại úy Dobbin quen thuộc. Anh ta vừa đi bách bộ có đến một tiếng đồng hồ ngoài phố để chờ các bạn. Trông viên đại úy rõ ra vẻ con nhà võ với quân phục đính lon vàng chóe, thắt lưng đỏ, cây kiếm đeo lủng lẳng bên sườn. Joe hết sức kiêu hãnh vì được quen một người như vậy; anh chàng dân thường to béo lên tiếng chào Dobbin một cách thân mật đặc biệt, khác hẳn các anh ta vẫn đối xử với người bạn này hồi ở Brighton và phố Bond.

Cùng đi với viên đại úy có anh chàng sĩ quan cầm cờ Stubble. Nom thấy chiếc xe ngựa tiến đến gần khách sạn, anh chàng này kêu lên: "Trời ơi? Người đâu mà xinh tuyệt!"

Tỏ ý rất phục Osborne là tay biết chọn vợ. Thật thế, với tấm áo cưới có đính đăng-ten hồng, đôi má ửng đỏ lên vì cuộc hành trình vừa qua, nom Amelia thật tươi tắn và xinh đẹp, hoàn toàn xứng đáng với lời ca tụng của viên sĩ quan cầm cờ. Thấy Stubble khen Amelia, Dobbin tỏ vẻ bằng lòng lắm. Anh chàng sĩ quan cầm cờ tiến lên đỡ người thiếu nữ xuống xe, nhận ra ngay một bàn tay xinh xinh nhỏ nhắn đón lấy tay mình, và một bàn chân cũng xinh xinh nhỏ nhắn đáng yêu làm sao đặt xuống bậc cửa xe.

Anh ta bỗng lúng túng mặt đỏ lên, cúi rạp xuống chào một cách thật lịch sự. Nhìn thấy phù hiệu của trung đoàn thứ...thêu trên mũ Stubble, Amelia cũng mỉm cười rất tươi cúi chào trả lại, làm cho viên sĩ quan trẻ tuổi gần như chết đứng. Từ hôm ấy trở đi Dobbin đối với Stubble rất có cảm tình; những buổi hai người cùng đi dạo hoặc đến chơi nhà nhau, Dobbin thường khéo khuyến khích anh chàng nói chuyện về Amelia. Và trong đám sĩ quan trẻ tuổi của trung đoàn thứ... cái việc tán dương và thờ phụng bà Osborne bỗng trở thành một cái "mốt". Những cử chỉ giản dị tự nhiên, điệu bộ khiêm tốn và thân mật của Amelia đã chinh phục được tâm hồn tất cả mọi người. Kẻ viết truyện này không sao dùng ngòi bút mà miêu tả nổi sự giản dị mà hấp dẫn của người thiếu nữ ấy. Nhưng chúng ta, ai là người đã từng tiếp xúc với những thiếu nữ như thế này mà không thấy - mặc dầu họ chỉ mới nói với ta một câu, đại khái đã trót hẹn nhảy với người khác điệu quadrille sắp tới rồi, hoặc than thở rằng hôm nay sao trời nóng quá - bao nhiêu đức tính tốt đẹp nơi họ? Xưa nay George vẫn nổi tiếng trong trung đoàn, bây giờ lại càng được anh em kính phục vì tấm lòng cao thượng dám cưới một cô vợ nghèo không của hồi môn, và vì con mắt tinh đời, khéo kén được người vợ sao mà xinh đẹp, dịu dàng như vậy.

Bước chân vào phòng khách được sửa soạn sẵn để chờ đón các nhà du khách, Amelia ngạc nhiên nhìn thấy trên bàn có một lá thư để gửi cho bà đại úy Osborne. Lá thư viết trên một mảnh giấy màu hồng hình tam giác có đóng một con dấu hình con chim bồ câu ngậm cành lá ô-liu, ngoài bì gắn nhiều dấu xi màu xanh nhạt; chữ viết to nhưng nét không khỏe, rõ ra chữ đàn bà.

George cười bảo vợ:

- Thư của bà Peggy O'Dowd đấy. Nom con dấu cũng biết ngay.

Quả thật đó là thư của bà thiếu tá O'Dowd. Bà này mời Amelia ngay tối hôm ấy đến dự một buổi họp mặt thân mật do bà tổ chức. George bảo vợ:

- Em nên đến dự. Em sẽ nhân dịp làm quen với mọi người trong trung đoàn. Bởi vì ông O'Dowd chỉ huy trung đoàn, nhưng chính bà Peggy lại chỉ huy ông O'Dowd.

Nhưng hai vợ chồng vừa mới kịp đọc xong lá thư thì cửa phòng bỗng mở toang; một người đàn bà to béo, tươi tỉnh, bận bộ áo đi ngựa bước vào, theo sau là hai viên sĩ quan trong trung đoàn của Osborne.

- Gớm, tôi không sao nén lòng chờ đợi tới giờ bữa tiệc trà - buổi chiều được. Ông George thân mến ơi, giới thiệu tôi với bà ta đi. Rất hân hạnh được biết bà, và được giới thiệu nhà tôi là thiếu tá O'Dowd với bà.

Người đàn bà vừa nói vừa thân mật nắm chặt đấy tay Amelia ; cô thiếu nữ biết ngay đấy chính là bà thiếu tá, người đã bị chồng mình nhiều lần đem ra làm trò cười. Bà này lại vui vẻ tiếp:

Hẳn bà đã nhiều lần được nghe ông nhà ta kể chuyện về tôi chứ ?

Ông thiếu tá chồng bà xen vào:

- Nhất định bà đã nghe kể chuyện nhiều lần rồi.

Amelia mỉm cười đáp:

- Quả có thế.

Bà O'Dowd lại nói:

- Chắc ông George ít nói tốt cho tôi, phải không?

- Ông ấy thật đến tồi.

Ông chồng bà ta làm bộ láu lỉnh xen vào:

- Điều ấy thì khỏi phải bàn.

George cười xòa. Bà O'Dowd quất roi ngựa đến đét một cái ngụ ý ra lệnh cho ông chồng đừng bép xép nữa, rồi bà yêu cầu George giới thiệu mình với "Bà đại úy" theo đúng thủ tục của khoa xã giao.

George trịnh trọng lên tiếng:

- Xin giới thiệu với mình đây là người bạn rất tốt, rất quý báu của tôi, bà Auralia Margaretta, còn gọi là bà Peggy.

Viên thiếu tá lại chêm vào:

- Lạy chúa, ông nói đúng quá đi mất.

-...còn gọi là bà Peggy tức Michael O'Dowd thiếu tá phu nhân, lệnh ái của tôn ông Fitzjurld Ber'sford de Burgo Malony ở Glenmalony, quận Kildare.

Bà thiếu tá điềm nhiên tiếp theo, rất kiêu hãnh:

- Và tại quảng trường Muryan, Doblin.

Ông thiếu tá chồng bà cũng thì thầm:

- Đúng lắm, tại quảng trường ông Muryan.

Bà vợ lại nói:

- Chính tại đó, xưa kia ông đã lặn lội theo đuổi tôi mãi, phải không, ông thiếu tá yêu quý?

Ông thiếu tá gật đầu công nhận, như ông quen công nhận bất cứ điều gì vợ nói trước công chúng.

Thiếu tá O'Dowd đã từng phục vụ đức Hoàng đế tại khắp mọi nơi trên mặt trái đất này; mỗi bậc thang danh vọng của ông được đánh dấu bởi những chiến công trên cả sự oanh liệt, tuy vậy ông ta lại là người khiêm tốn, ít nói và hiền lành nhất đời; đối với bà vợ, ông ta ngoan ngoãn vâng lời như một thằng nhỏ. Ngồi ăn với các sĩ quan trong quán ăn nhà binh, ông không nói mấy, cứ ra sức mà nốc rượu. Rượu say bí tỷ rồi ông mới lặng lẽ chệnh choạng lần về trại. Khi ông lên tiếng, ấy chỉ là để tán thành ý kiến của hết thảy mọi người về bất cứ vấn đề gì. Cứ thế, cuộc đời ông trôi qua một cách hết sức thoải mái, dễ chịu. Bầu trời nóng bức xứ Ấn Độ không hề khiến ông bẳn tính bao giờ, cũng như đối với ông, bệnh sốt rét vàng da đành chịu khoanh tay bất lực. Ông tiến ra trận địa với thái độ hoàn toàn bình thản y như lúc ngồi vào bàn ăn. Món thịt ngựa hay món xúp ba-ba đối với ông đều đáng thưởng thức như nhau. Ông còn bà cụ thân sinh đã già là cụ O'Dowd ở O'Dowdstown; từ nhỏ, chưa bao giờ ông trái lời mẹ, trừ việc ông trốn nhà xin tòng ngũ, và việc ông cứ nhất định cưới bằng được cái bà Peggy Malony ghê gớm này làm vợ.

Bà Peggy có năm chị em cả thảy, trong số mười một người con vừa trai vừa gái thuộc gia đình quý tộc Glenmalony; ông O'Dowd đối với bà thuộc hàng anh họ, nhưng về bên họ ngoại, thành ra không có cái hân hạnh vô song là được mang dòng máu của gia đình Malony trong người, dòng máu mà bà Peggy yên trí rằng cao quý nhất thế giới. Bà đã đi Doblin chơi chín lần, lại đã hai lần đi Cheltenham và Bath mà không tìm được người xứng đáng trao duyên gửi phận. Cho đến năm đã gần ba mươi ba cái xuân xanh, bà bèn ra lệnh cho ông anh họ là Mick phải cưới mình làm vợ; ông anh họ thực thà vâng lệnh đưa bà sang Tây Ấn, để bà chủ tọa những cuộc họp mặt của các vợ sĩ quan trong trung đoàn thứ...vì ông vừa được đến chỉ huy đơn vị này.

Chỉ sau nửa giờ ngồi chơi với Amelia cũng như ngồi chơi với bất cứ người nào khác, bà O'Dowd đã đem gia thế nhà mình ra khoe với người bạn mới thật cặn kẽ. Bà vui vẻ nói:

- Bà bạn thân mến ạ, trước kia tôi vẫn có ý muốn được coi ông George là người trong nhà đấy. Cô Glorvina em gái nhà tôi mà làm bạn với ông ấy thì đẹp đôi quá. Nhưng câu chuyện đã qua chả nên nhắc lại làm gì; bây giờ bà đã kết bạn trăm năm với ông ấy, tôi quyết định sẽ coi bà như em gái, tôi sẽ coi bà như một người trong gia đình. Nói có Chúa trời chứng giám, bà có bộ mặt xinh đẹp đáng yêu lắm, chắc chắn chúng mình sẽ thân nhau ngay; gia đình chúng tôi có thêm một người nữa.

- Đúng lắm, sẽ có thêm một người nữa.

Ông O'Dowd xen vào tỏ ý tán thành, Amelia cũng cảm thấy sung sướng và biết ơn, vì đột nhiên được tiếp xúc ngay với nhiều người sẵn có cảm tình với mình như vậy.

Bà vợ ông thiếu tá lại nói:

- Chúng tôi ở đây đều là người tốt. Bà sẽ thấy khắp quân đội không có đơn vị nào anh em đoàn kết một lòng với nhau như ở đây, và cũng không đâu có một câu lạc bộ nào thú vị bằng. Không ai gây sự cãi nhau bao giờ, không hề có chuyện bôi nhọ nói xấu nhau. Chúng tôi quý nhau lắm cơ.

George cười đáp:

- Thí dụ như bà Magenis chẳng hạn, nhỉ?

- Bà đại úy Magenis và tôi đã làm lành với nhau rồi, tuy rằng cách bà ấy đối xử với tôi có thể sẽ khiến tôi tóc bạc trắng đi vì phiền muộn mà chết.

Ông thiếu tá vội kêu lên:

- Ấy chớ, thế thì hỏng hết bộ tóc huyền của bà, hoài của?

- Thôi, im đi, ông Mick, ông ngớ ngẩn lắm. Bà Osborne thân mến ạ, cái bọn các ông chồng vẫn không chừa thói cứ hay nhúng mồm vào. Tôi vẫn bảo ông Mick nhà tôi luôn luôn rằng đừng có bao giờ mở mồm ra làm gì, trừ trường hợp phải chỉ huy lính, hoặc để nốc rượu ăn thịt thì không kể.

Lúc nào chị em mình ngồi riêng với nhau tôi sẽ kể cho bà nghe mọi chuyện trong trung đoàn để bà biết mà liệu giữ gìn. Bây giờ bà hãy giới thiệu tôi với ông anh trai của bà đi; ông ấy trông thật bệ vệ, lịch sự, làm cho tôi nhớ đến ông anh họ của tôi là Dan Malony quá (bà biết không, tức là thuộc chi họ Malony Ballymalony ấy mà; chị dâu tôi là Ophalia Scully Oystherstown, là em họ của bá tước Poldoody đấy) Thưa ông Sedley, vô cùng hân hạnh được làm quen với ông. Chắc ông vui lòng đến dùng cơm tại quán ăn nhà binh chúng tôi hôm nay? Ông Mick, chớ quên lời căn dặn của ông bác sĩ nhé; hôm nay xin ông uống in ít thôi cho tôi nhờ.

Viên thiếu tá đáp:

- Mình ạ, hôm nay là bữa tiệc trung đoàn 15 tổ chức thiết chúng ta đấy. Nhưng bảo họ viết giấy mời ông Sedley cũng tiện thôi.

- Simple, đi hộ ngay... đây là thiếu uý Simple, sĩ quan cầm cờ trong trung đoàn chúng tôi, khi nãy quên chưa giới thiệu với bà... chạy ngay bộ sang tìm trung tá Tavish nói rằng bà thiếu tá O'Dowd gửi lời chào nhé, và báo rằng đại úy Osborne có ông anh vợ đến chơi, sẽ đến thăm câu lạc bộ của trung đoàn 15 lúc năm giờ đúng...Bây giờ thì hai chị em mình, ta cùng ăn với nhau một chút gì cho vui chứ?

Bà O'Dowd chưa nói dứt câu đã thấy thiếu uý Simple nhảy bổ xuống thang gác đi thi hành lệnh trên rồi.

Đại úy Osborne nói:

- Sự phục tòng là linh hồn của quân đội Emmy ạ. Trong khi bà O'Dowd ở đây trò chuyện cho mình vui, chúng tôi phải đi lo nhiệm vụ.

Đoạn hai viên đại úy mỗi người khoác một cánh tay ông thiếu tá, vừa lôi ông ta ra ngoài vừa nhìn qua sau đầu ông ta mà cười với nhau. Được ở một mình với người bạn mới, bà O'Dowd bắt đầu dốc ra đủ các thứ chuyện con cà con kê, làm cho cô thiếu nữ đáng thương của chúng ta cứ rối cả lên, không sao chịu nổi. Bà kể cho Amelia nghe hàng trăm thứ chuyện liên quan đến cái gia đình đông đúc của bà, mà từ nay người thiếu phụ trẻ tuổi đang ngơ ngác kia có hân hạnh được coi là người nhà.

- Bà Heavytop, vợ ông đại tá, đã chết ở Jamaica rồi; bà mắc bệnh sốt rét vàng da, lại đèo thêm chứng đau tim. Cái ông đại tá đã già mà còn "chơi trống bỏi", đầu hói, sọ giơ ra như gáo dừa mà còn chấp chới một cô bé người lai thổ dân.Bà Magenis tuy có thiếu giáo dục thật, nhưng cũng là người tốt; đáng tiếc là có cái lối mồm loa mép giải, giá đánh bài với mẹ thì cũng bịp chứ chẳng tha. Còn bà đại úy Kirk thì mới nghe nói đến chuyện chơi bài bà cứ ngước mãi đôi mắt tôm rồng lên ra vẻ sợ hãi lắm. (Xưa kia ông cụ thân sinh ra tôi, vốn ngoan đạo, rất chăm chỉ đi lễ nhà thờ, và chú tôi là ông Dane Malôny, một vị giám mục hẳn hoi, đêm nào cũng đánh bài với nhau để giải trí, có sao đâu).

Bà O'Dowd lại tiếp:

- Nhưng mấy bà ấy không đi theo trung đoàn đâu. Bà Magenis còn bận ở nhà giúp việc bà mẹ, hình như làm nghề bán lẻ khoai và than ở Islington gần Luân-đôn thì phải; thế mà lúc nào cũng thấy bà ta khoác lác rằng ông cụ thân sinh kinh doanh nghề tàu biển, hễ thấy tàu nào chạy trên sông cũng lôi chúng tôi ra chỉ cho xem bằng được. Bà Kirk và lũ con ở lại khu phố Bethesda để được luôn luôn gần gũi đức cha linh hồn là mục sư Ramshorn. Hoàn cảnh bà Bunny cũng đáng chú ý lắm... nói cho đúng thì bao giờ cảnh bà ấy cũng thế...Chả là bà ta đã đẻ cho ông trung úy Bunny tới bảy đứa con mà. Vợ thiếu úy Posky cũng mới đến đây trước bà có hai tháng thôi. Bà ta cãi nhau với Tom Posky đến hàng chục bận rồi, cứ ồn lên khắp cả trại lính (họ kể chuyện rằng hai vợ chồng nhà này quăng cả bát đĩa lên đầu nhau. Tom bị sưng tím một bên mắt, nhất định giấu không chịu nói vì sao). Có lẽ bà vợ sắp bỏ về với mẹ, đâu như mở một nhà chứa trọ cho các thiếu nữ ở Richmond thì phải. Thế thì bỏ nhà đi lấy chồng làm gì cho khổ? À, mà bà đã theo học ở trường nào đấy nhỉ? Tôi đã từng được thụ hưởng giáo dục tại trường Flanahan ở Ilyssus Grove gần Dublin; học phí đắt vô kể, nhưng được cái có một bà hầu tước dạy chúng tôi nói tiếng Pháp hệt giọng Pháp lại có cả một vị trung tướng trong quân đội Pháp đã về hưu dạy chúng tôi tập thể dục.

Amelia không sao hết bỡ ngỡ, vì đột nhiên thấy mình trở thành một người trong cái gia đình kỳ quái này, tức là cái gia đình có bà O'Dowd là chị cả. Đến giờ uống nước trà buổi chiều, cô được giới thiệu với các phụ nữ khác; vì cô e lệ đáng yêu lại không đẹp một cách lộng lẫy, nên họ đối với cô ra chiều cũng có cảm tình; cho tới lúc các sĩ quan trong trung đoàn 15 đến, thấy người nào cũng có vẻ chú ý tới Amelia, mấy người chị em của cô dĩ nhiên mới bắt đầu moi ra đủ mọi thứ khuyết điểm. Bà Magenis bảo với bà Bunny:

- Tôi hy vọng rằng từ nay trở đi Osborne sẽ tu tỉnh lại.

Ví thử một tay bán giời không văn tự có thể hối cải mà thành người chồng tốt, thì bà này cũng có phúc đấy.

Bà O'Dowd thì thầm với bà Posky như vậy. Bà Posky vừa bị Amelia cướp mất địa vị cô vợ mới nhất trong trung đoàn, cũng đang căm giận kẻ thoán đoạt. Bà Kirk, học trò của ngài Ramsorn, bèn ra cho Amelia vài câu hỏi thuộc về nguyên tắc đạo lý, để xem cô có thông giáo lý không, có phải là tín đồ Gia-tô giáo thực sự không. Thấy người thiếu nữ đáp lại bằng những lời lẽ đơn giản, bà này cho rằng Amelia còn đang chìm trong bóng tối dày đặc, bèn đưa tặng mấy cuốn sách đạo rẻ tiền trong có vẽ tranh minh họa... đại khái là cuốn "Sa mạc gió hú", "Người đàn bà giặt thuê ở Wandsworth", "Cây lưỡi lê cừ khôi nhất trong quân đội Anh quốc". Mong cho bạn được ơn trên soi thấu trước khi đi ngủ, bà Kirk yêu cầu Amelia ngay đêm ấy nên đọc cho xong mấy cuốn sách rồi hãy lên giường nằm.

Riêng bọn đàn ông vốn là những người tốt bụng, cứ xúm xít xung quanh cô vợ xinh đẹp của bạn, giở hết vẻ hào hoa của con nhà võ ra để tỏ lòng ngưỡng mộ. Hôm ấy Amelia cũng gọi được là thắng lợi, trong lòng phấn khởi đôi mắt sáng ngời lên. George thấy vợ được chú ý cũng tỏ vẻ tự hào, vì Amelia khéo đáp lại những sự săn sóc và những lời chúc tụng của các bạn; cô rất tươi tỉnh và duyên dáng, tuy cử chỉ có phần mộc mạc và hơi e lệ một chút. Còn George trong bộ quân phục...ôi chao trong phòng đố ai nom điển trai bằng anh ta? Amelia cảm thấy chồng đang âu yếm nhìn mình; mặt cô sáng ngời lên, sung sướng vì tình yêu của chồng. Cô tự nhủ thầm quyết định thế này: "Mình sẽ tiếp đãi bạn bè của anh ấy chu đáo. Mình sẽ quý hết thảy người nào quý anh ấy. Mình sẽ hết sức vui vẻ để làm cho anh ấy vừa lòng". Tóm lại, trung đoàn đã đón nhận Amelia rất nhiệt tình. Các đại úy đều đồng tình, các trung úy đều hoan nghênh và các thiếu úy thì đều bị "thu mất hồn". Ông già Cutler, thầy thuốc nhà binh chêm vào vài câu khôi hài...những câu khôi hài có vẻ lính tráng quá, không tiện nhắc lại ở đây. Cackle phụ tá quân y đã từng tòng học tại Edinburgh đại học đường, ra điều muốn sát hạch cô về khoa văn chương, bèn dẫn ra ba câu thơ tiếng Pháp của mình để thử tài. Viên thiếu uý trẻ tuổi Stubble cứ đi hết người này đến người khác mà thì thầm: "Lạy Chúa, con người quả là xinh đẹp nhỉ". Anh chàng cứ ngây người ra mà ngắm Amelia cho tới lúc rượu mang ra mới thôi.

Riêng đại úy Dobbin, suốt buổi tối hôm ấy anh ta không nói chuyện nhiều với Amelia, Dobbin cùng đại úy Porter thuộc trung đoàn 15 đưa Joe, trở về khách sạn; Joe say bí tỉ. Câu chuyện săn hổ Joe mang ra kể rất có kết quả ở quán ăn nhà binh cũng như trong buổi tiếp tân do bà O'Dowd chủ tọa với chiếc khăn to tướng trên đầu có đính lông một con chim thụy hồng. Giao ông ủy viên tài phán cho người hầu xong, Dobbin đi quanh quẩn rồi đến hút thuốc lá ở ngoài cửa khách sạn. Trong khi ấy, George choàng khăn san cho vợ cẩn thận rồi từ biệt bà O'Dowd đưa vợ về, sau khi đã bắt tay khắp mặt đám sĩ quan trẻ tuổi. Họ theo ra tận ngoài cửa để tiễn; xe ngựa chuyển bánh, họ còn đồng thanh reo to lên để chào. Về đến khách sạn Amelia bước xuống xe trao bàn tay xinh xinh cho Dobbin, mỉm cười và trách anh sao suốt buổi tối hôm ấy chẳng thèm để ý đến mình chút nào.

Sau khi khách sạn đã đóng cửa, hàng phố cũng đã tắt đèn đi ngủ cả. Dobbin vẫn còn đứng hút thuốc lá theo dõi ánh đèn tắt đi trong phòng khách của George, rồi lại sáng lên trong gian phòng ngủ kề ngay bên cạnh. Lúc anh ta trở về chỗ mình ở, trời đã gần sáng. Trên mặt sông đã nghe tiếng ồn ào vẳng lại từ những chiếc tàu thủy; những chiếc tàu này đang lấy khách và chất hàng để sửa soạn xuôi dòng sông Thames.

Chương 28: AMELIA SANG BỈ

Trung đoàn cùng các sĩ quan sẽ được chuyển vận bằng tàu bể do chính phủ Hoàng gia cung cấp đặc biệt. Hai ngày sau bữa tiệc trà tổ chức ở nhà O'Dowd, đoàn tàu từ từ tiến theo dòng sông đi Ostend, giữa những tiếng hoan hô sôi nổi từ những chiếc tàu của công ty Đông Ấn và của những binh sĩ đứng trên bờ sông, dàn quân nhạc cử bài "Thượng đế phù hộ cho nhà vua" vang lên; các sĩ quan vừa hò reo cổ vũ vừa giơ cao mũ vẫy chào; quần chúng cũng hoan hô nhiệt liệt. Chàng Joe phong tình sẵn sàng lĩnh nhiệm vụ theo hộ vệ cô em gái và bà vợ viên thiếu tá; Mớ hòm xiểng to kếch xù của bà này cùng với tấm khăn bịt đầu có đính chiếc lông chim nổi danh cũng được chuyển đi cùng vời đồ quân dụng của trung đoàn. Hai nữ nhân vật của chúng ta không có hành lý cồng kềnh đi rất thoải mái đến Ramsgate; từ đó, họ tới Ostend, trên một con tàu khác.

Bây giờ bắt đầu một đoạn đời mới của Joe, có rất nhiều sự kiện xảy ra đủ cung cấp đề tài cho anh chàng kể chuyện trong hàng chục năm sau; ngay cả chuyện săn hổ cũng bị xếp xó, vì Joe còn bận kể biết bao nhiêu chuyện ly kỳ hấp dẫn về chiến dịch Waterloo vĩ đại. Ngay buổi anh chàng nhận đi hộ vệ cho cô em gái ra nước ngoài, người ta bắt đầu thấy Joe thôi không cạo râu nữa. Ở Chatham, anh ta theo dõi rất chăm chú mọi cuộc duyệt binh và tập tành của đơn vị. Anh ta lại lắng nghe kỹ càng mọi câu chuyện giữa "các anh em sĩ quan" (sau này, thỉnh thoảng Joe vẫn còn gọi họ như vậy) và cố thuộc lòng những danh từ quân sự càng nhiều càng hay. Trong những cuộc nghiên cứu ấy, bà O'Dowd đã giúp đỡ anh ta rất nhiều. Cuối cùng, khi họ bước lên chiếc tàu thủy "Đóa hồng xinh" để đến đích thì Joe xuất hiện với tấm áo có đính khuy hoa theo lối nhà binh, mặc quần trắng và đội một chiếc mũ lưỡi trai có lon vàng sáng chói. Anh ta lại cho đem theo cả chiếc xe lên tàu; gặp hành khách nào trên tàu anh ta cũng kín đáo cho biết rằng mình đang đi theo đội quân của Quận công Wellington. Thiên hạ yên trí anh ta là một nhân vật quan trọng, một đặc phái viên nào đó, hoặc ít nhất thì cũng phải là một tín sứ của chính phủ.

Cuộc hành trình qua mặt bể làm cho anh ta vô cùng khổ sở; hai người đàn bà cũng mệt mỏi không kém. Nhưng lúc con tàu đến Ostend, Amelia như người được sống lại vì thấy chiếc hải thuyền chở trung đoàn của chồng cặp bến gần như cùng một lúc với chiếc "Đóa hồng xinh". Joe về khách sạn trước, người mệt rã rời; đại úy Dobbin đi kèm hai người đàn bà, sau đó trông nom việc chuyển chiếc xe cùng đồ đạc của Joe đem vào phòng thuế quan; lúc này Joe không có ai theo hầu, vì tên người nhà của Osborne và thằng hầu béo phị của Joe đã âm mưu với nhau ở Chatham dứt khoát không chịu vượt biển. Cuộc phiến loạn hết sức đột ngột xảy ra đúng vào ngày cuối cùng trước khi lên đường làm cho Joe Sedley lo sốt vó suýt nữa thì quyết định bỏ dở cuộc hành trình, nhưng bị đại úy Dobbin giễu cợt (theo lời Joe thì Dobbin hiếu sự không thể tả được) anh chàng lại đi vậy. Vả lại, bộ râu của anh ta đã rậm rồi; cuối cùng Joe lên tàu thiếu những người hầu béo tốt, kiểu cách, chỉ biết nói tiếng Anh như ở Luân-đôn, Dobbin đã tìm cho Joe và hai người đàn bà cùng đi một thằng hầu bé nhỏ người Bỉ da đen đen; không biết nó nói thứ tiếng gì, nhưng có điệu bộ nhanh nhẩu tháo vát, lúc nào nó cũng khéo gọi tôn ông Sedley, một điều "bẩm quan lớn", hai điều, "bẩm quan lớn", thành ra cũng được vị quý khách mau có cảm tình. Bây giờ Ostend đã thay đổi nhiều rồi; trong số những người Anh qua đó du lịch, không còn mấy người có vẻ là những vị vương công hoặc biết cư xử như những người thuộc dòng dõi quý tộc nước Anh như xưa. Hầu hết họ đều ăn mặc tồi tàn, chơi bi-a, nốc rượu bí tỷ, bê tha cờ bạc và ưa la cà quanh những tấm bàn nhờn mỡ ở các quán ăn.

Lệnh trên đã ấn định rằng mọi quân nhân trong đội quân của Quận công Wellington mua gì đều phải trả tiền. Đó là tác phong thích hợp nhất trong sự giao thiệp với một dân tộc toàn những người buôn bán. Một xứ sở chuộng thương mại như thế mà được tiếp đón một đội quân khách hàng sòng phẳng thì thật là đại hồng phúc. Cái đất nước được đội quân ta đến che chở chẳng có tí gì là quân sự hết.

Trải qua một thời gian dài trong lịch sử, họ vẫn nhường cho người nước khác đánh nhau hộ trên đất nước họ, khi tới quan sát lại trận địa của chiến dịch Waterloo, kẻ viết truyện này có hỏi bác xà ích trông vạm vỡ có vẻ một cựu chiến bình, xem bác ta có tham dự trận đánh ấy không.

Bác ta đáp: "Cũng không tồi lắm"()...Có lẽ không một người Pháp nào muốn nói câu đó cũng như muốn có tình cảm đó của bác ta; trái lại, anh chàng bồi ngựa đi theo xe chúng tôi, trước kia là một tử tước, con trai một viên tướng trong quân đội thời đế chế bị phá sản; hắn ta chịu ngửa tay nhận một ngụm bia đáng giá một xu mà uống. Âu cũng là một bài học hay vậy.

Cái xứ sở giàu có, phong lưu ấy chưa bao giờ có vẻ thịnh vượng như hồi đầu mùa hạ năm 1815; những bộ quân phục màu đỏ của chúng ta làm cho bộ mặt của những cánh đồng xanh rì và những thành phố lặng lẽ tươi tỉnh hẳn lên. Từng đoàn xe ngựa lộng lẫy của người Anh chen chúc nhau trên những đường phố thênh thang, và những chiếc tàu thủy nhỏ trườn dọc theo những cánh đồng cỏ mỡ màng cùng những làng xóm cũ kỹ lạ mắt và những lâu đài cổ kính ẩn giữa những bụi cây cổ thụ; trên tàu chật ních toàn những hành khách phong lưu người Anh. Hồi ấy những người lính trơn uống rượu ở tửu quán trong làng trả tiền rất sòng phẳng. Anh lính Donald, người xứ Highlander, trú quán trong những trại ở Bỉ đã đu đưa cái nôi cho em bé ngủ, trong khi Jean và Jeannette còn bận chuyển rơm ngoài đồng về nhà. Các họa sĩ của chúng ta, ai yêu những đề tài quân sự, hãy nhân cảnh đó mà dựng ngay một bức tranh để minh họa cho cách người Anh tham chiến đứng đắn như thế nào. Quân sĩ người nào trông cũng chỉnh tề, hiền lành như trong một cuộc duyệt binh ở quảng trường Hyde.

Trong khi ấy, Napoléon nấp sau những dãy pháo đài ở biên giới đang sửa soạn một cuộc tấn công, xô đẩy những con người hiền lành ấy vào trong máu lửa, và giết chết khá nhiều người trong bọn họ. Nhân dân Anh ai cũng triệt để tin tưởng vào vị tướng lĩnh chỉ huy: Quận công Wellington được toàn nước Anh hoàn toàn tín nhiệm không kém gì người Pháp đã say sưa tôn sùng Napoléon một thời. Việc chuẩn bị tự vệ tỏ ra hoàn toàn chu đáo. Khi lâm sự, lực lượng tiếp viện hùng hậu lại sẵn sàng can thiệp kịp thời, cho nên không ai nghĩ đến chuyện nguy hiểm, và những vị khách du lịch của chúng ta - trong số đó, có hai người thuộc phái yếu, bản tính nhút nhát - đều cảm thấy thoải -mái yên tâm như mọi du khách người Anh khác.

Trung đoàn có những viên sĩ quan quen thuộc của chúng ta phục vụ đã dùng những tàu thủy đi sông để chuyển quân đến Bruges và Ghent, rồi từ đó đi đường bộ tới Brussels. Joe vẫn đi kèm hai người đàn bà trên tàu thủy của nhà nước, loại tàu rất sang trọng đầy đủ tiện nghi, người nào đã từng đi du lịch xứ Flanders không ai quên được. Những chiếc tàu này đi chậm, nhưng về khoản cung cấp ăn uống thì tuyệt; có một giai thoại rằng một du khách người Anh định đến thăm nước Bỉ trong một tuần, đã đi trên một chiếc tàu loại này; ông ta khoái việc phục vụ trên tàu quá, đến nỗi cứ ở lỳ trên tàu mà đi đi lại lại từ Bruges đến Ghent mãi, cho tới khi người ta phát minh ra xe hỏa. Khi đó, sau cuộc hành trình cuối cùng, ông ta nhảy xuống sông tự vẫn. Joe sẽ không chết như vậy; anh ta chỉ ăn tiêu thật sang trọng; bà O'Dowd cứ góp ý kiến mãi rằng nếu có thêm cô em chồng bà là Glorvina cùng đi thì hạnh phúc của anh thật là hoàn toàn. Suốt ngày anh ta ngồi trên boong tàu để uống rượu bia xứ Flemish, để hò hét, sai bảo tháng hầu là Isidor và để tán chuyện với hai người đàn bà.

Hồi này bỗng nhiên Joe hóa ra can đảm ghê gớm. Anh ta kêu ầm lên: "Boney dám tấn công quân ta! Emmy, cô em gái thân yêu của anh ơi, đừng sợ, không có gì nguy hiểm đâu. Anh cam đoan với cô rằng hai tháng nữa, quân đội đồng minh sẽ vào Paris, và anh sẽ đưa cô đến dự tiệc tại "cung điện Hoàng gia", thật đấy! Ba mươi vạn quân Nga, cô hiểu không, ba mươi vạn quân Nga đang qua Mayence, vượt sông Rhine tiến vào nước Pháp; cô em gái ơi, ba mươi vạn quân dưới quyền chỉ huy của Wittgenstein và Barclay de Tolly! Cô không biết gì về chiến thuật, chiến lược, nhưng anh là người am hiểu; cô phải biết bộ binh Pháp không thể đương đầu với bộ binh Nga, và tướng tá của Boney thì không ai đáng cắp gươm theo hầu tướng Wittgenstein. Lại còn quân Áo nữa chứ, tất cả là năm mươi vạn con người ra con người. Dưới quyền chỉ huy của Schwartzenberg và hoàng tử Charles, chỉ mười ngày hành quân nữa là đến biên thùy nước Pháp, ấy là chưa kể quân Phổ do một viên mãnh tướng chỉ huy là Hoàng tử thống chế. Murat chết rồi, đố tìm đâu được một viên tướng chỉ huy kỵ binh tài giỏi bằng ông ta đấy. Đúng không, bà O'Dowd? Việc gì mà phải sợ nào? Hả ? Mang thêm bia lên đây?

Bà O'Dowd bảo rằng cô Glorvina nhà bà cũng không hề biết sợ ai trên đời, kể cả những người Pháp - vừa nói bà vừa nốc cạn một cốc bia và nháy mắt một cái, tỏ ý rất thưởng thức món giải khát.

Nhờ được tiếp xúc thường xuyên với phái phụ nữ ở Chentenham và Bath nên ông bạn cựu ủy viên tài phán của chúng ta đỡ được phần nào tính dát gái thuở trước; nhất là lúc này lại có thêm men rượu trợ lực, anh chàng đâm ra ba hoa tệ. Đối với trung đoàn, Joe đã trở thành khá thân mật; bọn sĩ quan được Joe thết đãi hào phóng lại càng thú vị trước những điệu bộ cố làm ra vẻ nhà binh của anh ta. Có một trung đoàn danh tiếng khi hành quân đã dùng một con dê dẫn đầu một đội quân và dùng một con hươu dẫn đầu một đội quân khác cho nên George đã khôi hài, ám chỉ ông anh vợ rằng trung đoàn của mình sẽ do một con voi dẫn đầu.

Từ khi đưa Amelia ra mắt trung đoàn, dường như George có ý ngượng vì vài người bạn trong đại đội mà anh ta buộc lòng phải giới thiệu với vợ. Anh ta ngỏ ý với Dobbin quyết định xin chuyển ngay sang một trung đoàn khác, để tránh cho vợ khỏi phải tiếp xúc với cái đám đàn bà thô bỉ ở đây (điều này, khỏi phải nói, ta cũng biết Dobbin hoàn toàn tán thành). Nhưng cái cảm tưởng hổ thẹn vì bè bạn của mình thường thấy trong nam giới nhiều hơn là trong nữ giới (dĩ nhiên, trừ một số các bà lớn kiểu cách thì lại hay ngượng vì chuyện này lắm); vì vậy vốn tính giản dị, mộc mạc, Amelia không hề có cái ngượng ngập giả tạo mà chồng lầm coi là tế nhị.

Bà O'Dowd đội cái mũ có đính một mớ lông gà, trên ngực đeo lủng lẳng một chiếc đồng hồ báo thức to tướng, thỉnh thoảng vô cớ lại réo chuông cứ ầm lên. Bà ta kể lại rằng cái ngày bước chân lên xe hoa về nhà chồng, ông thân sinh ra bà đã tặng bà chiếc đồng hồ đó làm quà cưới.

Khi Amelia phải tiếp xúc với bà thiếu tá, thấy bà ta trang sức kỳ quái như vậy, cũng như vì nhiều điểm khác, Osborne ngượng chín cả người. Nhưng Amelia chỉ thấy thú vị, tuyệt nhiên không hề cảm thấy khó chịu điều gì.

Trong suốt thời gian cuộc hành trình quen thuộc đối với hầu hết mọi người dân Anh trung lưu ấy, ta có thể có người bạn đồng hành hiểu biết hơn, nhưng khó lòng kiếm được một người bạn lý thú hơn bà thiếu tá O'Dowd.

- Này bà chị, nói về tàu thủy chạy sông ấy mà, không đi xem những cái tàu chạy từ Dublin đến Ballinasloe thì không được. Chạy nhanh như gió ấy, mà gia súc ở đây thì đẹp cha chả là đẹp ! Bà có biết không, cụ thân sinh ra tôi xưa kia đã được thưởng huy chương vàng trong một cuộc triển lãm về một con bò non bốn tuổi đẹp vô cùng; bây giờ khắp nước này, không đào đâu ra được một con bò như vậy nhé. Chính ngài Quận công cũng đã dùng một miếng thịt nó; ngài dạy rằng chưa hề ăn một miếng thịt nào ngon đến thế.

Joe vừa thở dài vừa tỏ ý tán thành rằng về cái món thịt bò vừa ngon, không béo, không gầy, thì nước Anh quả là nhất thế giới.

Bà thiếu tá đáp:

- Trừ Ailen, thưa ông, giống bò tốt nhất của các ông đều mua ở đấy cả.

Như tất cả mọi người dân Ailen khác, bà cũng ưa đề cao đất nước mình trong khi so sánh với các xứ sở khác. Tuy chính bà khơi ra, nhưng bà thấy đem so sánh những phiên chợ gia súc ở Bruges với những phiên chợ Dublin là một việc làm vô cùng khôi hài. Bà vừa cười ầm lên đến rung chuyển cả nhà cửa, vừa bảo: "Các ông làm ơn mách tôi biết họ xây cái chòi trên nóc chợ kia làm gì thì hay quá."

Đi qua chợ, họ thấy lố nhố toàn những anh người Anh. Sáng sáng tiếng kèn đồng của nhà binh Anh đánh thức mọi người dậy, và tối đến, nghe tiếng kèn hơi và tiếng trống "cà rùng" của quân đội Anh, mọi người lên giường đi ngủ. Đất nước này cũng như toàn thể âu châu đều đang được quân sự hóa, và sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử sắp sửa xảy ra rồi. Vậy mà bà Peggy O'Dowd thực thà kia, người có liên quan đến sự kiện lịch sử ấy hơn ai hết, vẫn cứ tiếp tục tán chuyện mãi về Balinafad, về giống ngựa ở Glenmalony, và về thứ rượu ngon cất ở đấy. Joe thì không ngớt lời ca tụng gạo và món cay ở Dumdum ngon tuyệt; còn Amelia thì chỉ mê mải nghĩ đến chồng, không biết tỏ tình yêu với chồng thế nào cho thật khéo... y như trên đời đối với họ chỉ có chuyện ấy là quan trọng.

Ai ưa gấp tập sử lại mà đi vào những giả định về những biến chất có thể xảy ra trong quá khứ ngoài những điều đã trở thành sự thật tàn nhẫn, (ấy tức là một loại suy tưởng lạ lùng, thú vị, nhiều sáng tạo và hữu ích nhất đấy ạ!) ắt nghĩ rằng Napoléon đã chọn lầm một lúc bất lợi nhất để trốn khỏi đảo Elba về đất liền, để thả con diều hâu của hắn bay từ vịnh San Juan đến nhà thờ Đức Bà. Các sử gia của phe chúng ta chép lại rằng quân đội đồng minh may mắn vẫn còn đủ sức sẵn sàng đánh ngã vị hoàng đế đảo Elba bất cứ lúc nào. Giữa các "ông lái" tai to mặt lớn họp nhau lại ở Vienna để tùy sở thích chia năm sẻ bảy lãnh thổ Âu châu, đã có quá nhiều mâu thuẫn đến nỗi suýt nữa những đội quân đã chiến thắng Napoléon lại phải một phen đánh lộn nhau, nếu con người mà toàn thể bọn họ đều thù ghét và khiếp sợ không trở lại. Này là một vị đế vương có một đạo quân sẵn sàng chiến đấu, vì ngài vừa mới chiếm được Ba-lan và nhất định bám chặt lấy quyền thống trị trên đất nước này; kia là một vị khác mới cướp được một nửa xứ Saxony, cũng đang muốn nắm thật chặt không chịu rời. Nước Ý cũng đang được một vị thứ ba chiếu cố nhòm ngó. Ông nọ to tiếng mắng ông kia là tham lam; ví thử tên dân đảo Corse chịu ngồi đợi trong nhà tù thêm ít lâu, khi nào mấy cường quốc kia quay ra cắn xé nhau rồi hãy về, có lẽ hắn đã ung dung nuốt trôi tất cả rồi. Song, nếu quả thế thì câu chuyện này và các nhân vật trong truyện sẽ ra sao? Nếu nước biển cạn hết thì biển sẽ ra thế nào?

Trong thời gian ấy, việc đời cứ bình thản trôi đi, đặc biệt là những trò ăn chơi, dường như không có chuyện gì chấm dứt nổi cũng như không có kẻ thù nào ngoài mặt trận. Trung đoàn được lệnh đóng quân ở Brussels; mấy nhà du lịch của chúng ta ai cũng bảo rằng được đến thăm một thành phố vui vẻ sầm uất nhất châu Âu như Brussels thật là một hân hạnh lớn. Tại đây, những quầy hàng của hội chợ phù hoa bày la liệt, trang hoàng lộng lẫy và hấp dẫn nhất trần đời. Cờ bạc chơi tha hồ, nhảy nhót thả cửa; tiệc tùng ở đây thì đủ sức thỏa mãn ngay cả anh chàng Joe tham ăn. Lại có một hý viện, trong đó một Catalani kỳ diệu làm cho thính giả mê hồn, rồi thì những đường phố thênh thang mỹ lệ được những bộ quân phục lộng lẫy làm tôn vẻ đẹp. Amelia rất thích thành phố cổ kính hiếm có này với những phong cảnh và cách kiến trúc lạ kỳ. Cô chưa hề bao giờ được ra ngoại quốc, cho nên nhìn cái gì cũng thấy lạ mắt và thú vị. George và Joe chung nhau thuê một căn nhà thật lịch sự. George tính vốn hào phóng lại hết sức chiều vợ. Suốt nửa tháng trăng mật, Amelia cảm thấy mình là cô dâu mới hạnh phúc nhất nước Anh.

Mỗi ngày trong cái thời gian sung sướng này họ lại có thêm những trò giải trí mới mẻ, hoặc đi thăm một ngôi nhà thờ, hoặc lại đi xem một phòng triển lãm hội họa...hoặc giong xe ngựa đi chơi, hoặc đi coi hát. Đội nhạc binh của cái trung đoàn chơi nhạc suốt ngày. Các bậc tai mặt của nước Anh đều đến công viên, nơi một đại hội của nhà binh đang được thường xuyên tổ chức. Mỗi đêm George lại dẫn vợ đến một nơi giải trí mới, anh ta bằng lòng mình lắm và tuyên bố rằng hồi này mình đâm ra rất ưa cuộc sống gia đình. Được đi chơi đây đó với George, đối với cô Amelia bé bỏng kia, thế cũng đủ cho tim cô hồi hộp đập vì sung sướng rồi. Lá thư nào cô gửi về thăm mẹ cũng đầy những lời lẽ hạnh phúc và biết ơn chồng. George bắt cô phải sắm đăng ten, vòng cổ, đồ trang sức và đồ chơi đủ thứ; ôi, chồng cô thật là người tất nhất đời, rộng lượng nhất đời!

George vốn mang tâm lý của một người Anh chính cống, lấy việc được gặp gỡ những vị vương công, những bậc mệnh phụ chen chúc nhau tại những nơi công cộng là một điều vô cùng thích thú. Tại đây, họ vứt bỏ thái độ lạnh lùng, kiêu hãnh, kẻ cả thường ngày ở nhà, và hạ cố hòa mình với tất cả thiên hạ. Một buổi tối, đến dự dạ hội do viên tướng chỉ huy sư đoàn có đơn vị của George tổ chức, anh chàng có hân hạnh được khiêu vũ với công nương Blanche Thistlewood, tức là con gái bá tước Bareacres; anh ta rối rít chạy đi lấy đồ giải khát và nước đá để mời hai người đàn bà quý tộc; lại cũng chính anh ta vịn tay đẩy chiếc xe của Bareacres phu nhân. Về nhà, George luôn mồm ca tụng bá tước phu nhân; ngay đến ông Osborne cũng không có nhiệt tình được hơn thế. Hôm sau, George lại đến thăm hai mẹ con bà bá tước rồi cưỡi ngựa đi kèm bên xe của họ trong công viên; anh ta lại mời họ dự tiệc tại một khách sạn lớn; thấy họ nhận lời, George xuýt phát điên lên vì sung sướng. Ông lão Bareacres tính vốn không kiêu kỳ lắm, lại phàm ăn, nên sẵn sàng đi dự tiệc ở bất cứ đâu.

Bareacres phu nhân, sau khi nghĩ ngợi về bữa tiệc mình đã nhận lời một cách hơi quá vội vàng, hỏi con gái:

- Không biết ngoài chúng mình ra, có người phụ nữ nào khác không nhỉ?

Công nương Blanche, hồi nãy mới còn say sưa trong cánh tay của George mà quay hàng giờ theo một điệu "valse" mới nhập cảng, vội kêu ầm lên:

- Trời đất? Má ơi, anh chàng không đem vợ đến chứ? Đàn ông bọn họ còn chịu đựng được, chứ vợ họ thì... ôi thôi. Ông bá tước già nói:

- Vợ ông ta à? Họ đồn rằng vừa cưới xong, người đẹp mê hồn.

- Thôi được; Blanche ạ, ba mày đã muốn thế thì ta cứ đến dự; nhưng bao giờ về nước Anh, ta cũng chẳng cần đi lại với họ làm gì.

Những vị tai mặt này quyết định với nhau khi nào về phố Brussels, hãy cứ nhận lời đi dự tiệc cái đã, và chiếu cố để cho anh chàng chịu trả tiền cũng thú. Tuy nhiên để cứu vãn lại đôi chút danh dự, họ tìm mọi cách làm cho Amelia phải khó chịu, nghĩa là nhất định không đả động gì đến cô trong khi nói chuyện. Cái thứ danh dự này thì đám đàn bà quý phái nước Anh thuộc loại trùm. Nếu ta hay la cà trong Hội chợ phù hoa mà lại biết triết lý đôi chút, thì cứ chịu khó quan sát cách giao thiệp của một bà quý phái đối với bọn phụ nữ tầm thường, ta sẽ thấy nhiều điều lý thú.

Buổi dạ hội hôm nay, George, tiêu vô khối tiền, ấy thế mà đối với Amelia cũng lại là bữa giải trí khổ tâm nhất trong suốt tuần trăng mật. Cô viết thư kể lại bữa tiệc về cho mẹ, lời lẽ thật đau khổ. Nào là Bareacres bá tước phu nhân không không thèm bắt chuyện với mình, nào là công nương Blanche cứ giơ mãi cái ống nhòm mà soi mói nhìn mình, nào là thấy thái độ của họ như vậy, Dobbin hết sức phẫn nộ, rồi lúc ăn xong, lão bá tước lại đòi xem tờ hóa đơn tính tiền; lão kêu ầm lên rằng bữa tiệc đắt thế mà tồi quá.

Đọc thư, bà lão Sedley thấy con gái bực mình phàn nàn rất nhiều về sự thô lỗ của bọn khách, nhưng bà cũng vẫn sung sướng; đi đến đâu bà cụ cũng khoe rằng Emmy, con gái bà đánh bạn với Bareacres bá tước phu nhân; đến nỗi ông Osborne ở khu City cũng biết tin con trai mình thết tiệc các vị công nương quý tộc và các mệnh phụ.

Ai đã từng biết tướng George Tufto, tước tùy giá Hiệp sĩ, và đã có dịp gặp mặt ông ta - trong mùa hội thì điều ấy cũng dễ lắm - ắt còn nhớ hình ảnh này: vào những buổi đẹp trời, ông ta khệnh khạng đi chơi ở Pall Mall, bận áo chế lót bông, đi ủng cao cổ bóng lộn, dáng điệu lẩy bẩy, mắt cứ gườm gườm nhìn người qua đường như muốn khiêu khích, hoặc cưỡi một con ngựa màu hạt dẻ mà liếc tình vào trong những xe ngựa của người ta chơi trong công viên.

Nhưng bây giờ chẳng ai còn nhận ra trên con người tướng Tufto hình ảnh vị sĩ quan dũng cảm trong cuộc chiến tranh ở Tây-ban-nha và trong chiến dịch Wateeloo xưa kia nữa. Bây giờ ông ta có một bộ tóc rậm quăn quăn màu nâu, đôi lông mày đen nhánh và bộ ria mép đỏ quạch; thế mà vào năm 1815, đầu ông ta lại hói, tóc hơi ngả bạc nhưng chân tay còn mập mạp; bây giờ chân tay ông ta khẳng khiu quá rồi. Cái hồi ông ta ngót thất tuần (nay ông lão đã gần tám mươi), tự nhiên bộ tóc màu nâu và quăn tít; rồi lông mày và ria mép cũng thay màu nết. Những đứa xấu mồm bèn phao tin rằng nghe ông lão độn bông, còn bộ tóc là tóc giả, vì tóc lão có bao giờ mọc đâu. Tom Tufto là cháu nội lão vẫn xích mích với lão mấy chục năm nay; Tom tuyên bố rằng một buổi cô Jaisey, đào hát ở Hí viện Pháp, kéo rơi tuột cả bộ tóc giả của ông hắn; nhưng cái thằng Tom ấy vẫn nổi danh là hay thù vặt và ghen ghét, vì thế cũng chẳng nên để ý đến bộ tóc giả của vị tướng ấy làm gì. Một bữa kia, mấy viên sĩ quan trong trung đoàn...của chúng ta là cà trong chợ hoa ở Brussels; họ vừa đi thăm Tòa thị chính về. Bà O'Dowd bảo rằng so với cái lâu đài của ông thân sinh ra bà ở Glenmalony thì Tòa thị chính ở đây không được to và đẹp bằng. Bỗng họ thấy một sĩ quan cao cấp đi ngựa, có lính hộ vệ theo sau, tiến vào chợ. Viên sĩ quan xuống ngựa, vào dãy hàng hoa, chọn mua một bó hoa đẹp nhất. Người bán hàng bọc hoa vào giấy; viên sĩ quan lên ngựa, trao bó hoa cho anh lính hầu; anh lính ôm bó hoa nhăn răng ra cười và đi theo ông quan thầy; vị sĩ quan phóng ngựa đi và có vẻ hài lòng lắm.

Bà O'Dowd lên tiếng:

- Ước gì các ông được xem hoa ở Glenmalony. Ba tôi nuôi ba người thợ làm vườn người Scotchland và chín thằng phụ việc. Nhà tôi có một sào "nhà kính". Còn dứa thì nhiều như đậu ở Luân-đôn lúc đang mùa ấy. Nho nhà tôi mỗi chùm phải nặng tới năm sáu cân; tôi xin lấy danh dự cam đoan rằng hoa mộc lan nhà tôi mỗi bông phải to bằng một cái ấm đun nước pha trà ấy.

Anh chàng Osborne quỷ quái chỉ thích gợi chuyện để giễu cợt bà O'Dowd (Amelia cứ khẩn khoản xin chồng tha cho đừng trêu bà ta làm gì), nhưng Dobbin thì không "tiêu" được bà này; anh ta phải lẩn vào đám đông, chuồn ra một chỗ thật xa rồi mới dám phá ra cười, làm cho người đi chợ ai cũng lấy làm quái lạ. Bà O'Dowd hỏi:

- Này, cái ông đại úy kệch cỡm ấy đâu rồi nhỉ? Ông ấy lại chảy máu cam rồi phỏng? Lúc nào cũng thấy ông ấy nói mình chảy máu cam, có nhẽ, khi nào hết máu trong người mới khỏi bệnh chắc! Này ông O'Dowd, có phải hoa mộc lan ở Glenmalony to bằng cái ấm đun nước không?

Viên thiếu tá đáp:

- Peggy, đúng lắm, còn to hơn nữa cơ.

Câu chuyện bị ngắt đoạn khi viên sĩ quan vừa nói trên đến mua hoa. George nói:

- Con ngựa đẹp thế nhỉ?

- Giá ông được nhìn thấy con ngựa của em tôi là Molasses; nó đã ăn giải một cái bình bạc chạm ở Curragh đấy. Bà thiếu tá lại kêu ầm lên, rồi thao thao bất tuyệt kể lai lịch gia đình mình; ông chồng ngắt lời vợ:

- Đúng là tướng Tufto, chỉ huy sư đoàn bộ binh thứ...rồi - ông điềm nhiên nói tiếp - Trong chiến dịch vây hãm Talavera ông ta và tôi cùng bị đạn vào một chân như nhau.

George cười hỏi:

- Nhờ thế mà được thăng chức nhỉ? Tướng Tufto? Này, mình ơi, vợ chồng Crawley cũng đến kìa.

Amelia thấy như nhói một cái trong tim, không biết tại sao. Cô thấy đột nhiên mặt trời như tối lại, những mái nhà cổ kính với những trường hồi nhọn hoắt bỗng mất dần vẻ đẹp tuy lúc ấy là buổi hoàng hôn rực rỡ của một ngày đẹp đẽ, lộng lẫy nhất cuối tháng năm.

Chương 29: BRUSSELS

Joe thuê một đôi ngựa để kéo chiếc xe mui trần của anh ta, chiếc xe song mã lộng lẫy kiểu Luân-đôn, trong những cuộc giong xe đi chơi Brussels, trông anh ta cũng có mẽ người đáo để. George cũng mua riêng một con ngựa, anh ta và Dobbin vẫn thường cưỡi ngựa đi kèm bên cạnh chiếc xe, trên xe có Joe và em gái ngồi. Hôm ấy, như thường lệ, họ ra công viên chơi, và thấy rõ George nói đúng; hai vợ chồng Rawdon Crawley cũng có mặt ở Brussels.

Rebecca đi giữa một đám đông cưỡi ngựa, toàn những người tai mặt ở Brussels; cô ta bận một tấm áo kỵ mã thật lịch sự bó khít người, cưỡi một con ngựa Ả-rập nhỏ rất đẹp, dáng điệu vô cùng thoải mái; hồi còn ở trại Crawley Bà chúa, cô ta đã được cụ Pitt và chính Rawdon dạy cho cưỡi ngựa nhiều lần. Cô sóng ngựa đi bên viên tướng hào hoa Tufto.

Bà thiếu tá O'Dowd bảo với Joe đang bắt đầu đỏ tía mặt lên:

- Đích thị công tước rồi. Còn người cưỡi ngựa nâu là bá tước Uxbridge. Trông mới lịch sự làm sao? Cậu Molloy Malony nhà tôi giống ông ta như hai giọt nước vậy!

Mới đầu Rebecca không tiến lại chiếc xe ngựa, nhưng lúc nhìn thấy cô bạn cũ Amelia ngồi ở trong thì cô chào bằng một nụ cười thật duyên dáng, giơ bàn tay lên hôn gửi một cái và vẫy về phía chiếc xe, đoạn cô lại quay sang tiếp tục câu chuyện với tướng Tufto. Ông này hỏi: "Viên sĩ quan béo ị đội mũ đính lon vàng kia là ai đấy?" Rebecca đáp đó là một viên chức trong công ty Đông Ấn. Rawdon Crawley thúc ngựa tách khỏi đám đông tiến ra thân mật bắt tay Amelia, và bảo Joe: "Thế nào, ông bạn, mạnh khỏe chứ?" Đoạn anh ta quay sang cứ trố mắt lên mà nhìn vào tận mặt bà O'Dowd cùng cái túm lông cài trên mũ; bà này yên trí anh chàng phải lòng mình đứt đuôi rồi.

George từ phía sau lập tức cùng Dobbin thúc ngựa tiến lên, họ giơ tay lên vành mũ chào mấy vị khách quan trọng. Osborne nhìn thấy ngay trong số đó có cả cô vợ Rawdon. Thấy Rawdon thân mật ghé vào bên xe trò chuyện với Amelia, anh ta khoái lắm, bèn sôi nổi bắt chuyện với viên sĩ quan tùy tòng của tướng Tufto. Còn Rawdon và Dobbin thì chỉ khẽ gật đầu chào nhau một cách hết sức lạnh nhạt.

Crawley bảo George rằng mình cùng tướng Tufto hiện đang trọ tại khách sạn Công viên, lại hứa với George sẽ đến thăm ngay anh ta tại chỗ ở riêng. George nói:

- Ba hôm nay không gặp mặt anh, buồn quá. Tôi vừa tổ chức một bữa tiệc tại khách sạn...cũng khá vui. Bá tước Bareacres cùng phu nhân và công nương Blanche cũng có lòng đến dự... giá có mặt thì tuyệt.

Thấy bạn đã tỏ rõ mình cũng đang trở thành một con người sang trọng, George từ biệt Rawdon; Rawdon nhập vào đoàn quý khách cưỡi ngựa, còn George và Dobbin lại quay về kèm hai bên xe ngựa của Amelia.

Bà O'Dowd lại nói:

- Công tước cưỡi ngựa trông đẹp nhỉ? Họ Wellesleys và họ Molony là thân thích với nhau đấy. Nhưng thật khốn khổ, tôi chẳng dám mơ đến chuyện tự giới thiệu mình với Công tước, có lẽ cứ để ngài nhớ ra mà nhận họ hàng trước thì phải hơn.

Lúc nhân vật quan trọng kia đã đi rồi, Joe mới cảm thấy thoải mái hơn trước; anh ta cũng góp ý kiến:

- Công tước thật là một quân nhân có tài. Thử hỏi xưa nay ai thắng được trận nào như trận Salamanca? Phải không, Dobbin? Nhưng có biết ngài nghiên cứu kỹ thuật quân sự ở đâu không? ở Ấn Độ đấy, thưa người anh em. Rừng rậm chính là trường học quân sự của các vị tướng lĩnh, xin nhớ hộ thế cho. Bà O'Dowd ạ, tôi cũng có quen công tước; trong một buổi dạ hội, cả tôi và ngài cũng đã cùng nhảy với cô Cutler, con gái ông Cutler trong đội pháo binh; cô ta đẹp tuyệt trần đời; ở Đumdum ấy mà.

Suốt buổi đi chơi hôm ấy, họ chỉ bàn tán với nhau về cuộc gặp gỡ mấy nhân vật quan trọng, ngay trong bữa ăn cũng vậy, mãi tới giờ đi xem hát ở rạp Opera mới thôi.

Cảnh tượng dường như không khác gì ở nước Anh.

Trong rạp hát toàn những bộ mặt quen thuộc người Anh; từ lâu khắp thành phố người ta đã sôi nổi ca tụng cách làm đầu của phụ nữ Anh-cát-lợi. Cách chải tóc của bà O'Dowd cũng được chú ý không kém. Mớ tóc quăn trước trán có đính một hàng ngọc Ailen; theo ý bà, cả rạp hát không ai có vật trang sức nào đẹp bằng. Phải ngồi cạnh bà O'Dowd, Osborne khổ tâm vô cùng nhưng bà này hễ nghe nói mấy ông bạn trẻ đi đâu chơi là nhất định mò đến tìm kỳ được bởi lẽ bà đinh ninh rằng được đi chơi cùng bà, họ phải sung sướng lắm lắm.

George thường vẫn yên trí để vợ ngồi một mình với bà O'Dowd. Anh ta bảo vợ:

- Mọi lần bà ấy có ích cho em lắm; nhưng may quá, bây giờ có Rebecca rồi, em sẽ bầu bạn với cô ta, còn cái bà Ailen kia thì ta xin đủ thôi.

Nghe chồng nói, Amelia không đáp, mà làm sao biết được cô đang nghĩ gì nhỉ?

Ngó qua Hý viện Brussels, bà O'Dowd cũng thấy hay hay, nhưng vẫn cho không bằng Hý viện Dublin ở phố Fishamble được; và theo ý bà âm nhạc của người Pháp cũng không thể nào so sánh với thứ âm nhạc du dương của tổ quốc bà. Bà cứ bô bô nói hết chuyện này đến chuyện khác, thản nhiên như không, hết cụp rồi lại mở cái quạt giấy đem theo làm nó kêu cứ soàn soạt.

- Này Rawdon, anh yêu của em, cái bà kỳ quặc ngồi cạnh Amelia kia là ai thế Một người đàn bà ngồi trong lô ghế phía trước mặt hỏi vậy (bà này ở nhà riêng vẫn quen suồng sã với chồng, nhưng trước đám đông lại càng tỏ ra thân mật hơn nữa). Anh có nhìn thấy người đội khăn có đính cái gì vàng vàng kia kìa, mà mặc áo sa tanh đỏ, có đeo cái đồng hồ to tướng không?

- Ngồi gần người đàn bà xinh xinh bé nhỏ mặc áo trắng ấy à?

Một ông sang trọng đứng tuổi ngồi cạnh người đàn bà nói trên cũng lên tiếng; trên ngực áo của ông này có đính một hàng cuống huy chương, cổ thắt một chiếc cà-vạt hoa trắng to tướng; ông ta mặc bao nhiêu là áo gi-lê.

- Người đàn bà xinh xinh mặc áo trắng là Amelia đấy, thưa trung tướng: chả người đàn bà đẹp nào thoát được khỏi mắt ngài, ngài thật tệ quá.

- Ồ, trên đời này, tôi chỉ thấy có một người đẹp thôi, thưa bà- viên tướng thú vị đáp.

Người đàn bà cầm bó hoa to tướng đập vào người lão một cái.

Bà O'Dowd nói:

- Đích thị ông ta rồi. Chẳng phải bó hoa ông ta mua ngoài chợ hoa là gì!

Rebecca thấy cô bạn gái nhìn về phía mình, bèn đưa bàn tay xinh xinh lên miệng gửi một cái hôn. Bà thiếu tá O'Dowd lại tưởng cái hôn ấy dành cho mình bèn mỉm cười thật duyên dáng đáp lại, làm cho anh chàng Dobbin bất hạnh kia lại phải nhảy bổ ra ngoài "lô" ghế một lần nữa.

Hết màn kịch, George bỏ chỗ ngồi ra ngoài một lát; anh ta đến chào Rebecea tại chỗ cô này ngồi; gặp Rawdon ngoài hành lang, hai người trao đổi với nhau mấy câu về những chuyện xảy ra trong nửa tháng vừa qua. George láu lỉnh hỏi:

- Anh thấy ngân phiếu của tôi hợp lệ chưa?

Rawdon đáp:

- Tốt lắm anh bạn ạ. Rất hân hạnh được để cho anh phục thù. Ông cụ nhà "nghĩ lại" chưa?

George đáp:

- Chưa, nhưng rồi cũng ổn thôi, vả lại anh cũng biết tôi còn ít tiền của bà cụ để lại cho. Bà cô đã "hồi tâm" rồi chứ?

- Gửi cho tôi được hai mươi đồng, gớm; cái bà lão chết tiệt,vắt cổ chầy ra nước. Bao giờ chúng ta lại gặp nhau nhỉ? Thứ ba này trung tướng dùng cơm ở ngoài. Thứ ba anh đến chơi được không? Bảo Sedley cạo bộ râu đi. Một anh dân thường lại để râu xồm xoàm và mặc áo có khuy hoa là nghĩa lý quái gì? Thôi nhé thứ ba cố đến chơi, nghe không.

Đoạn Rawdon cùng hai người trai trẻ ăn bận sang trọng đi chỗ khác; hai người này cùng làm việc với anh ta tại phòng tham mưu của trung tướng. George không được vui lòng lắm vì bị mời đến chơi đúng vào ngày viên trung tướng dùng cơm ở ngoài.

Anh ta nói:

- Tôi muốn vào chào chị ấy một tý.

Rawdon đáp:

- Hừm, xin tùy anh.

Anh chàng có vẻ không bằng lòng; hai người sĩ quan trẻ tuổi láu lỉnh nháy mắt với nhau. George từ giã họ qua hành lang đi về "lô" ghế của viên trung tướng; anh ta nhớ rất kỹ số phòng.

- Cứ vào!

Có tiếng nói thanh thanh vọng ra; anh bạn của chúng ta bước vào, thấy ngay Rebecca trước mặt. Cô ta đứng phắt dậy vỗ tay, và chìa cả hai bàn tay ra cho George bắt; được gặp George cô ta cũng thích quá. Viên trung tướng huân chương đầy ngực cứ trân trân ngó anh chàng, mặt lầm lì cau lại, coi bộ như muốn hỏi anh là cái thằng quái nào thế nhỉ?

Rebecca say sưa reo lên:

- Đại úy George thân mến? Anh thật tốt quá, lại đến tận đây! Trung tướng và em đương sắp cảm thấy buồn. Thưa trung tướng, đây là đại úy George mà tôi đã nói chuyện với ngài.

Viên trung tướng chỉ hơi nghiêng nghiêng mình gọi lại đáp:

- Đúng thế, đại úy George thuộc trung đoàn nào nhỉ?

George nói số trung đoàn của mình, anh ta ước gì được nói thêm rằng đó là một đơn vị kỵ binh rất tinh nhuệ.

Viên tướng vẫn kiêu hãnh ra mặt, tiếp:

- Chắc vừa mới từ Tây Ấn về phỏng? Trong cuộc chiến tranh vừa rồi không thấy tham chiến nhiều. Đông quân ở đây chứ, đại úy George?

Rebecca xen vào:

- Không phải là đại úy George, ngài thật chẳng biết cái gì, đại úy Osborne.

Viên trung tướng vẫn cứ cau có hết nhìn Becky lại nhìn George.

- Đại úy Osborne, phải. Có họ hàng gì với gia đình quý tộc L-Osborne không đấy?

- Chúng tôi cùng mang chung một huy hiệu của dòng họ.

George đáp vậy, mà sự thực quả có như thế. Mười lăm năm về trước, ông Osborne đã đi hỏi một nhà chuyên môn và "cóp" đúng cái huy hiệu của nhà L - kia trong sách "Danh bạ quý tộc" để sơn lên chiếc xe của mình. Nghe George tuyên bố vậy, viên tướng không đáp; ông ta cầm lấy chiếc ống nhòm xem hát - hồi ấy người ta chưa chế ra loại ống nhòm hai ống kính - giơ lên quan sát khắp phòng. Nhưng Rebecca trông thấy rõ con mắt bên kia của ông đang chiếu ra những tia lửa hằn học về phía mình và George.

Cô càng tỏ vẻ thận trọng hơn:

- Chị Amelia có mạnh khỏe không? Nhưng em chẳng cần phải hỏi: chị ấy trông đẹp ra đấy. Còn cái người đàn bà đẹp beo béo ngồi cạnh chị ấy là ai thế? Ý trung nhân của anh chứ gì? Gớm, đàn ông các anh tệ thật. Lại cả anh Sedley đang ăn kem kìa: coi bộ anh ấy ăn ngon quá! Thưa trung tướng, sao chúng ta lại chưa ăn kem nhỉ?

Cơn giận dữ của viên trung tướng bùng lên:

- Để tôi đi mua mang về bà xơi ạ?

George ôn tồn:

- Xin lỗi ngài, cứ để tôi.

- Không, em cũng muốn đến chỗ Amelia một tí: chị ấy thật đáng quý. Đại úy George, đưa tay cho em vịn.

Nói đoạn, cô gật đầu chào viên tướng, lanh lẹn bước ra ngoài hành lang. Lúc chỉ có hai người đi cạnh nhau, cô ta đưa mắt nhìn George một cách thật lạ lùng mà láu lỉnh, cái nhìn ngụ ý. "Anh có hiểu câu chuyện ra sao không? Có thấy hắn phát điên phát rồ vì tôi không"? Nhưng George không nhận thấy. Anh ta còn bận sắp đặt kế hoạch riêng của mình, và đang mải mê thích thú với ý nghĩ mình có khả năng hấp dẫn đàn bà rất tài.

Rebecca cùng người đàn ông chiếm được cô ta vừa ra khỏi, viên tướng khẽ thốt lên một tiếng chửi khá tục tĩu, đến nỗi kẻ chép chuyện chắc chắn rằng nếu có viết ra thì những người thợ sắp chữ trong nhà in cũng không dám in. Tiếng chửi ấy phát từ đáy lòng viên trung tướng; kể cũng lạ thay, thế mới biết con người ta khi cần thiết ai cũng có thể dốc ra hàng kho những câu nói thô bỉ, tục tĩu đầy giận dữ và hằn học đến như vậy.

Đôi mắt xinh đẹp của Amelia cũng đang lo lắng chăm chú theo dõi cử chỉ của cặp trai gái đã khiến cho viên tướng phát khùng lên vì ghen. Nhưng khi Rebecca bước vào trong lô ghế của cô, Amelia ôm chầm lấy bạn, mặc dầu đang ở chỗ đông người. Cô ôm lấy người bạn thân thiết mà hôn ngay trước mặt mọi khán giả, ngay cả trước mặt viên tướng, vì lúc này lão đang hướng ống nhòm về phía "lô" ghế của Osborne. Bà Crawley cúi chào. Cô thật lịch sự. Cô ngắm nghía mãi cái trâm Cairngorm và những hạt kim cương Ai len sáng ngời của bà O'Dowd và nhất định bảo rằng kim cương ấy đích thị là của mỏ Golconda. Cô ta chuyện trò tíu tít, quay đi ngó lại, uốn éo, mỉm cười với người này, tươi tỉnh với người nọ, cốt để cho con người ghen tuông, ngồi mé bên kia nom, thấy rõ qua chiếu ống nhòm xem hát.

Lúc màn vũ ba-lê bắt đầu (trong màn kịch này các nghệ sĩ đã tỏ ra có thiên tài vô địch), Becky trở về "lô" ghế của mình, lần này khoác tay đại úy Dobbin. Không, lần này cô không muốn đi cùng George: anh ta cần phải ở lại; để trò chuyện với cô Amelia thân yêu quý báu nhất đời của anh ta chứ.

Dobbin lặng lẽ dẫn Rebecca về "lô" ghế của cô ta không nói một lời, mặt buồn thiu như người đi đưa đám; lúc trở về chỗ của mình, anh ta thì thầm với George:

- Con mụ đóng kịch khéo thật. Cứ lăn lộn uốn éo như con rắn ấy. Anh có thấy không, suốt thời gian ngồi ở đây, cô ta đóng kịch cho lão trung tướng ở bên kia xem đấy.

George nhe hàm răng trắng muốt cười, giơ tay vê vê bộ ria mép màu phổ phách:

- Đóng kịch hả?... Cóc cần; cô ta là hoa khôi đẹp nhất nước Anh đấy. Dobbin, anh không lịch sự một tí nào. Nhưng mà kìa, nhìn xem; cô ta chưa nói, tướng Tufto đã toét miệng ra cười rồi? Chao ôi! Đôi vai mới xinh làm sao! Emmy, sao em không mua lấy một bó hoa! Ai cũng đem theo hoa cả. Bà O'Dowd chen vào:

- Thế sao ông không mua một bó?

Cả Dobbin và Amelia thầm cám ơn câu trả lời đúng lúc của bà này, nhưng sau đó hai người đàn bà đều không có vẻ được hài lòng. Amelia buồn rầu nhận thấy kẻ địch của mình lộng lẫy quá, duyên dáng quá, trội hơn hẳn mình.

Còn bà O'Dowd suốt buổi tối hôm ấy cũng lặng thinh sau sự xuất hiện rực rỡ của Rebecca, không tán chuyện về Glenmalony nữa.

Mấy ngày sau, có lần Dobbin hỏi George:

- George, anh định bao giờ mới chừa đánh bạc đấy? Anh hứa với tôi như thế có dễ đã một thế kỷ rồi nhỉ?

-Còn anh, anh định bao giờ mới nghỉ dạy luân lý cho tôi? Việc quái gì anh phải lo? Chúng tôi chơi cò con với nhau thôi mà. Đêm qua tôi được. Anh cho rằng Crawley bịp à? Cứ chơi thực thà với nhau thì từ giờ đến cuối năm tôi cũng hòa vốn.

- Nhưng tôi tin rằng nếu hắn thua, hắn không có tiền trả đâu.

Lời khuyên của Dobbin cũng chẳng có tác dụng gì hơn mọi lần. Bây giờ Osborne và Crawley đã thành đôi bạn nối khố. Tướng Tufto đi dự tiệc ở ngoài luôn. Kề sát bên phòng của viên trung tướng là căn phòng của hai vợ chồng viên sĩ quan tùy tòng; tại đây, bao giờ George cũng được tiếp đón nồng hậu.

Lần vợ chồng George đến thăm vợ chồng Crawley ở đây, thái độ của Amelia khiến cho lần đầu tiên xuýt nữa hai vợ chồng thành ra giận nhau. George mắng vợ một cách thô bạo vì cô không muốn đi với mình, và lúc đến chơi, sao lại tỏ thái độ kiêu ngạo, kẻ cả quá đối với vợ Rawdon là bạn cũ. Amelia không đáp lại một lời. Nhưng đến lần thăm viếng thứ hai thì cô lại càng tỏ ra vụng về lúng túng, vì thấy chồng cứ ngó mình chằm chằm, còn Rebecca thì lại thỉnh thoảng liếc mắt nhìn mình soi mói. Dĩ nhiên Rebecca càng tỏ ra thân mật gấp bội, không hề chút nào chú ý đến thái độ lạnh nhạt của bạn.

- Hình như Amelia trở thành kiêu ngạo hơn từ khi tên ông cụ được nêu trong...từ khi cụ Sedley gặp rủi ro thì phải.

Rebecca bảo nhỏ George, cố ý làm dịu bớt câu nói.

Cô ta tiếp:

- Thật đấy. Hồi chúng ta còn ở Brighton, em đã có cái hân hạnh được chị ấy ghen thì phải. Bây giờ, em đoán chắc rằng chị ấy thấy em và Rawdon sống chung với trung tướng, chị ấy ghét đấy. Nhưng mà anh nghĩ xem, túng như chúng em, nếu không có bạn san sẻ bớt sự chi tiêu thì làm thế nào? Anh tưởng Rawdon không đủ sức bênh vực danh dự cho em sao. Nhưng em cũng đội ơn Emmy lắm, đội ơn lắm lắm.

George đáp:

- Dào ôi ? Ghen đấy! Gái nào là gái chẳng hay ghen?

- Còn đàn ông các anh thì không? Tối hôm đi xem Opera, anh và tướng Tufto, hai người chả ghen với nhau là gì? Này, hôm ấy lão muốn ăn thịt em, vì em cùng đi với anh sang thăm cô vợ vớ vẩn của anh đấy; em thèm vào để ý đến anh và lão ta.

Vợ Rawdon vừa nói vừa lắc đầu một cách rất xược.

- Anh dùng cơm ở đây nhé? Nhà em ăn cơm với viên tổng tư lệnh. Nghe như có nhiều tin quan trọng lắm. Họ đồn rằng quân Pháp đã vượt biên giới rồi. Sẽ không có ai quấy rầy chúng ta đâu.

Tuy vợ hơi khó ở, nhưng George cũng nhận lời. Đến hôm nay anh chàng mới lấy vợ chưa được sáu tuần lễ, thế mà anh ta không tức giận khi thấy vợ mình bị một người đàn bà khác giễu cợt. Anh chàng tốt bụng ấy cũng không biết bất mãn với chính mình nữa. George nghĩ thầm: "Kể ra thế cũng tồi, nhưng mặc kệ; chả lẽ làm tài trai có một người đàn bà đẹp cứ nhất định lăn đến với mình thì bảo làm thế nào?" Anh chàng vẫn thường mỉm cười gật gật cái đầu một cách có ý nghĩa, bảo với Stubble và Spooney cùng những người bạn khác trong câu lạc bộ sĩ quan rằng: "Tôi cũng khá là lả lơi với đàn bà"; bọn này tỏ vẻ khâm phục tài ba này còn hơn cả lòng dũng cảm của anh chàng.

Từ thượng cổ đến nay, trong Hội chợ phù hoa, sau những chiến thắng về quân sự, thì chiến thắng trong ái tình vẫn là nguồn kiêu hãnh đối với đàn ông; nếu không, tại sao mấy cậu học sinh vẫn huênh hoang khoe gái mê mình, và Don Juan lại trở thành bất hủ?

Osborne yên trí rằng mình sinh ra đời để chinh phục đàn bà, và phụ nữ mê mình như điếu đổ. Cho nên anh ta không dám cưỡng lại định mệnh, cứ hoàn toàn thản nhiên phục tùng ý trời. Thấy Emmy không hề tỏ ý rầy la ghen tuông, chỉ lặng lẽ kín đáo sầu khổ một mình, anh ta cho rằng vợ không hay biết gì về chuyện yêu đương lộ liễu giữa mình và Rebecca : Bất cứ khi nào cô này rỗi rãi là thấy hai người cùng sóng ngựa đi chơi với nhau. George nói dối Amelia là mình bận lo việc của đơn vị (Amelia biết thừa anh chàng nói dối); mặc vợ lẻ loi ở nhà với ông anh ruột, tối nào anh ta cũng đến nhà Crawley để cúng tiền cho anh chồng và để tưởng rằng chị vợ chết mê chết mệt vì mình.

Rất có thể hai vợ chồng nhà này cũng chưa bao giờ âm mưu dứt khoát với nhau rằng trong khi, chị vợ ve vuốt anh chàng trẻ tuổi thì anh chồng moi tiền, nhưng họ hoàn toàn hiểu mánh khóe của nhau; cho nên Rawdon hoàn toàn vui vẻ, mặc Osborne ra vào tùy thích.

George mải mê với những người bạn mới, thành ra giữa anh ta và William Dobbin không được thân mật như cũ. George thường tránh mặt bạn ở chỗ đông người hoặc trong đơn vị vì, như ta đã biết, anh ta không ưa gì bạn "lên lớp" về luân lý cho mình nghe. Dobbin bực mình về nhiều cách cư xử của George, muốn bảo cho bạn biết rằng tuy anh ta có bộ râu quai nón rậm thật và vẫn tự hào là lịch duyệt, nhưng thực ra còn ngây thơ như một cậu học sinh, rằng Rawdon đang rắp tâm biến George thành nạn nhân của gã như bao kẻ khác từ trước đến nay, lúc nào vét hết tiền, hắn sẽ đá đít anh chàng thẳng cánh; nhưng nghĩ lại, Dobbin thấy cũng vô ích; đời nào George chịu cho là phải.

Vì vậy, những khi đến nhà Osborne thỉnh thoảng may mắn được gặp ông bạn cũ, Dobbin hết sức tránh không gợi đến câu chuyện đau lòng vô ích ấy làm gì. Còn anh bạn George của chúng ta thì đang bận say sưa ngập lặn trong những thú vui của Hội chợ phù hoa.

Từ thời Darius đến nay, chưa bao giờ có một bọn theo quân đội để ăn bám nào đẹp đẽ lộng lẫy như cái bọn đoàn sĩ quan tùy thuộc của quận công Wellington ở Bỉ vào năm 1815. Có thể nói rằng hội hè tiệc tùng kéo dài liên miên cho mãi tới khi chiến sự nổ ra. Ngày rằm tháng sáu cùng năm này, có một buổi dạ hội lịch sử do một quận chúa tổ chức. Khắp Brussels nô nức chờ đợi. Tôi đã được chính những bà có mặt tại thành phố hồi đó kể lại rằng giới phụ nữ bàn tán sôi nổi về cuộc dạ hội; họ còn quan tâm hơn cả đối với tin tức kẻ thù ngoài mặt trận. Người ta đánh nhau, vận động nhau, van xin nhau để có bằng được một chiếc vé dự dạ hội. Song cũng chỉ những bà sang trọng của người Anh mới có, vì họ không từ một cách nào cốt sao len lỏi được vào chỗ ăn chơi của các vị thượng lưu nước họ.

Joe và bà O'Dowd thèm một tấm tiếp mời quá, nhưng không kiếm đâu ra. Mấy người bạn của họ may mắn hơn; thí dụ nhờ có hầu tước Bareacres chạy chọt, có lẽ để trả nợ bữa tiệc bữa nọ. George vớ được một tấm thiếp,mời đại úy và bà Osborne; anh chàng lấy làm hân hạnh quá. Dobbin là bạn của mọi viên tướng chỉ huy sư đoàn, một hôm vừa cười vừa chìa cho "bà Osborne" xem một tấm thiếp mời tương tự, làm cho Joe phát tức lên vì thèm muốn; George ngạc nhiên quá, không biết anh bạn làm thế nào mà cũng chui được vào xã hội thượng lưu. Ông bà Rawdon thì dĩ nhiên cuối cùng cũng được mời, vì quen một viên thiếu tướng chỉ huy lữ đoàn kỳ binh.

George sắm sửa áo mới và đủ mọi đồ trang sức cho Amelia. Đúng buổi tối đã ấn định, hai vợ chồng đi xe ngựa đến dự buổi dạ hội nổi tiếng. Nhưng Amelia không quen một người nào tại đây. Osborne mon men lại gần Bareacres phu nhân; mụ này đánh bài lờ, coi như cho George tấm thiếp mời thế là quá đủ. George mặc Amelia ngồi nghĩ ngợi một mình trên một tấm ghế dài. Có lẽ anh ta cho rằng mình đã sắm áo mới, lại dẫn vợ đến dự dạ hội, cho vợ giải trí, thế cũng đã quá lịch sự rồi chăng? Trong thâm tâm, Amelia cũng không cảm thấy vui lắm ngoài anh chàng Dobbin thực thà kia, cũng không người nào đến quấy rầy cô. Buổi dạ hội đối với Amelia là một thất bại thảm hại (vì anh chồng hơi bực bội); nhưng trái lại, lần đầu tiên, bà Rawdon bước vào xã hội thượng lưu lại thành công rực rỡ.

Cô ta đến rất muộn, mặt tươi cười rạng rỡ, bận một tấm áo đẹp tuyệt. Đứng giữa toàn những bậc quý khách, trước bao nhiêu ống nhòm hướng về phía mình, Rebecca có vẻ vẫn điềm nhiên, hoàn toàn tự chủ như khi cô ta dẫn đám học trò nhỏ trong trường học bà Pinkerton đến nhà thờ. Cô quen biết khối đàn ông ở đấy, và những tay công tử bột cứ bâu lấy cô. Các bà các cô thì thầm với nhau rằng Rawdon đã rủ cô ta trốn khỏi một tu viện, và cô ta chính là một người thuộc dòng họ Montmorency. Thấy Becky nói tiếng Pháp rất thạo, người ta lại càng cho tin đồn ấy là có cơ sở; mọi người đồng ý rằng cử chỉ của cô rất lịch sự, dáng điệu cực phong nhã. Có đến năm chục người đàn ông lập tức xúm xít vây quanh, yêu cầu được cái vinh dự khiêu vũ với Becky. Cô ta đáp rằng đã có người mời rồi, và chỉ nhảy rất ít. Sau đó, cô lập tức tiến về chỗ Emmy ngồi rầu rĩ đau khổ một mình không ai chú ý đến; thật là một đòn điếng người đối với người thiếu nữ trẻ dại này. Vợ Rawdon đến bên cạnh nói với cô bạn Amelia thân yêu toàn những lời thân ái nhất đời, với một điệu bộ hết sức kẻ cả. Cô ta chê áo của Amelia may vụng, tóc Amelia tết không khéo, và tỏ ý ngạc nhiên sao bạn mình lại có thể đi một đôi giầy như thế được. Becky cam kết sáng hôm sau sẽ bảo người thợ may áo chẽn () của mình đến giúp Amelia. Cô ta lại hết lời khen buổi dạ hội rất vui, toàn những người quen biết cả, người tầm thường thì hết sức ít. Sau một nửa tháng và sau ba bữa tiệc lớn, người đàn bà trẻ tuổi này đã có đủ thì giờ học thuộc lòng những tiếng lóng của giới thượng lưu, nói thạo không kém gì những tay chính cống; có điều Becky nói tiếng Pháp quá thạo, người ta có thể nhân đó mà đoán ra rằng cô không phải là con nhà dòng dõi. Lúc mới vào gian phòng hội, George bỏ mặc Amelia ngồi một mình trên chiếc ghế dài; đến lúc thấy có Rebecca ngồi cạnh vợ, anh ta lập tức quay lại. Lúc này Becky vừa mới diễn thuyết cho bạn nghe xong về những thói xấu George đang mắc phải:

- Trời ạ, chị thân yêu ơi, chị phải bảo anh ấy thôi đi, đừng đánh bạc nữa, nếu không rồi thì tai vạ vào thân đấy, đêm nào Rawdon và anh ấy cũng chơi bài; chị biết đấy, anh ấy có giàu đâu; nếu không cẩn thận rồi Rawdon sẽ được hết tiền mất. Sao buổi tối không đến em chơi cho vui, cứ ngồi nhà buồn thiu với cái ông đại úy Dobbin kia? Kể ra ông ta cũng dễ thương lắm, nhưng mà hai chân to bè bè ra ai mà yêu được. Bàn chân anh ấy nhà chị trông xinh lắm...anh ấy đã lại kia...đi đâu về đấy, ông tướng? Chị Emmy đang khóc đỏ mắt vì anh đấy. Anh tìm em để nhảy điệu quadrille phải không?

Thế là cô ta đặt bó hoa và chiếc khăn san xuống cạnh Amelia, rồi thoăn thoắt cùng George bước ra khiêu vũ.

Chỉ có đàn bà mới độc địa đến thế. Dễ thường ở đâu những mũi tên nhọn của cô có tẩm thuốc độc, nó làm cho người ta đau đớn gấp nghìn lần thứ khí giới cùn của đàn ông. Cô Emmy đáng thương của chứng ta suốt đời chưa biết thù ghét ai, giễu cợt ai, giờ đây đành chịu bất lực trong bàn tay tàn nhẫn của kẻ địch.

George khiêu vũ với Rebecca độ hai ba lần...Amelia cũng chẳng biết rõ là mấy lần nữa. Cô cứ ngồi trơ trọi trong một xó, chẳng ai buồn để ý tới; chỉ có Rawdon thỉnh thoảng lại gần nói vài câu chuyện vụng về. Đến khuya, đại úy Dobbin mới đánh bạo mang đồ giải khát lại cho cô và ngồi bên cạnh. Dobbin không muốn hỏi thăm tại sao cô có vẻ sầu khổ như thế, nhưng vì nước mắt cứ muốn trào ra nên Amelia phải nói thác rằng vợ Rawdon vừa mách George vẫn bê tha bài bạc. Dobbin nói:

- Kể cũng lạ, khi người ta đã mê cờ bạc thì người ta bằng lòng chui vào cái cạm bẫy rất vô lý của những thằng khốn kiếp.

Emmy đáp:

- Đúng thế.

Nhưng cô đang nghĩ đến chuyện khác; không phải chuyện mất tiền làm cho cô buồn khổ.

Cuối cùng, George trở lại tìm chiếc khăn san và bó hoa của Rebecca. Cô này đã đi chỗ khác rồi, cũng không thèm quay lại từ biệt Amelia lấy một lời. Người đàn bà đáng thương mặc chồng mình đi lại, không hé răng nói nửa lời, cứ ủ rũ gục đầu xuống ngực. Có người đã gọi Dobbin ra chỗ khác; anh ta đang thì thầm nói chuyện với bạn là viên tướng chỉ huy sư đoàn, không để ý đến việc George bỏ đi lần này. Lúc George trao bó hoa lại cho Rebecca thì trong bó hoa có cài một mảnh giấy cuộn tròn lại như con rắn giữa những bông hoa mĩ miều. Rebecca thoáng nhìn bó hoa, nhận ngay ra mảnh giấy. Hồi còn trẻ, cô ta đã từng nhiều lần dùng phương pháp thông tin này. Cô đưa tay ra nhận bó hoa, hai luồng mắt giao nhau; George thấy rõ Becky đã hiểu sẽ tìm thấy gì trong bó hoa. Rawdon vội vàng dắt vợ đi; anh chàng này còn đang bận bịu nghĩ ngợi điều gì nên không kịp nhận ra bạn và vợ đang ra hiệu cho nhau. Vả lại điều đó cũng chỉ là chuyện vặt, Rebecca giơ một bàn tay cho George và như mọi khi, liếc mắt rất nhanh nhìn anh chàng, đoạn cúi chào rồi đi. George nghiêng mình đáp lễ; anh ta không đáp lại Crawley, cũng chẳng nghe thấy Crawley nói gì nữa, vì đầu óc còn đang sôi nổi quay cuồng với những ý nghĩ của kẻ thắng trận.

Amelia cũng nhìn thấy phần đầu của cảnh trả lại bó hoa. George chiều ý Rebecca trở lại lấy hộ hoa và khăn san thì có gì là lạ? Mấy hôm nay, George đã từng làm công việc ấy có hàng chục lần, nhưng không hiểu sao lần này Amelia không thể chịu được. Đột nhiên nắm chặt lấy cánh tay Dobbin ngồi bên cạnh, nói:

- William, anh vẫn luôn luôn tử tế với tôi... tôi... tôi...thấy hơi khó ở. Đưa tôi về nhà.

Amelia cũng không thấy mình đã gọi Dobbin bằng tên thánh của anh ta, như George thường gọi bạn. Dobbin vội vàng đưa vợ bạn đi ngay. Chỗ vợ chồng George ở cũng gần đây thôi; hai người len lỏi qua đám đông đứng chen chúc bên ngoài. Trông những người này còn có vẻ sôi nổi hào hứng hơn cả những người dự hội bên trong.

Đã hai ba lần, đi chơi khuya về thấy vợ còn thức đợi mình, George cáu kỉnh gắt vợ; vì vậy lần này Amelia về nhà là đi nằm ngay; nhưng cô không ngủ được vì trí óc còn đang bị bao nhiêu ý nghĩ giày vò; ngoài đường tiếng người phi ngựa và bao nhiêu tiếng ồn ào không ngớt mà cô cũng không nghe thấy gì.

Trong khi ấy, Osborne say sưa như điên dại, đi thẳng đến chiếu bạc, đặt một tiếng bạc thật lớn. Anh ta trúng liên tiếp mấy tiếng bạc liền, nghĩ thầm "Tối hôm nay, mình gặp đủ mọi thứ may mắn". Nhưng sự may mắn trong canh bạc cũng không làm dịu được sự sôi nổi trong lòng. Một lúc sau, anh ta móc túi lấy tiền được bạc đi đến quầy rượu giải khát nốc một lúc mấy cốc rượu vang. Anh ta đang ba hoa cười nói ầm ỹ với những người xung quanh như kẻ điên thì bị Dobbin tóm được, Dobbin đã đến chỗ đánh bạc, nhưng không thấy. Mặt George đỏ tía vui vẻ bao nhiêu thì mặt Dobbin tái nhợt và trang trọng bấy nhiêu.

- A ha, Dop! Lại đây làm vài cốc, anh bạn quý ơi! Rượu của ngài Quận công thì tuyệt! Này, ông cho vài cốc nữa đây. Anh ta run rẩy giơ cốc ra để lấy rượu. Dobbin vẻ mặt vẫn trang nghiêm đáp:

- George, về thôi. Đừng uống nữa.

- Uống đi, không gì thú vị hơn đâu. Cứ uống đi, rồi da mặt anh sẽ hồng lên cho mà xem. Này, cầm lấy.

Dobbin lại gần thì thầm điều gì với bạn. George giật nảy mình, gào lên một tiếng "Hoan hô" như phát dại, đặt phăng chiếc cốc lên mặt bàn rồi lập tức khoác tay bạn bước ra phố. William nói:

- Quân địch vượt sông Samber rồi. Đội tả quân của chúng ta đã giáp chiến. Ba tiếng đồng hồ nữa chúng ta xuất quân.

George bước ra ngoài, khắp người rần rật lên vì hào hứng, tin tức đợi chờ từ lâu nay đã đến một cách quá đột ngột. Lúc này mọi chuyện bướm ong rắc rối còn có nghĩa lý gì nữa? Trên con đường đi đến trại binh anh ta rảo bước, đầu óc quay cuồng trăm nghìn ý nghĩ... cuộc sống trong quá khứ, và may rủi trong tương lai... rồi cô vợ và có thể cả đứa con nữa, đứa con anh ta rất có thể vĩnh biệt mãi mãi mà chưa hề biết mặt...ôi, George hối hận quá về thái độ của mình đêm hôm nay; liệu anh có đủ thư thái trong tâm hồn khi từ biệt con người thùy mị vô tội đã hết lòng yêu anh ta mà bị rẻ rúng không?

Tưởng lại cuộc đời có vợ ngắn ngủi trong mấy tuần lễ vừa qua, anh ta thấy mình đã xài phá một cách đáng sợ số vốn cỏn con. Thật là vô cùng dại dột và bừa bãi. Giả thử gặp chuyện gì không may, liệu còn để lại được những gì cho vợ? George cảm thấy mình không xứng đáng với tình yêu của Amelia. "Tại sao mình lại cưới Amelia làm vợ nhỉ? Mình có đủ tư cách lập gia đình đâu? Tại sao lại cưỡng lời ông cụ? Bao giờ ông cụ cũng vẫn rộng lượng đối với mình cơ mà?". Bao nhiêu tình cảm phức tạp bề bộn trong lòng: hy vọng, hối hận, cao vọng, yêu thương, và ích kỷ nữa.

George ngồi vào bàn viết một bức thư gửi cho cha, khi nhớ lại cái điều trước kia anh đã nói, khi anh ta nhận đấu súng tay đôi với người khác. Lúc gấp bức thư vĩnh biệt lại thì trời cũng vừa tảng sáng. Anh ta dán lại, và hôn bức thư một cái. Anh nghĩ rằng mình quá bội bạc mà bỏ người cha rộng lượng ấy để ra đi và nghĩ đến trăm ngàn điều tốt mà ông già nghiêm khắc đã làm cho anh.

Lúc về nhà, George ngó vào phòng Amelia thấy vợ nằm yên lặng, hai mắt như đang nhắm lại; thấy vợ ngủ, anh ta rất vui. Khi rời dạ hội về nhà, thấy người hầu đang sửa soạn hành lý George ra hiệu cho bác này yên lặng; việc sửa soạn làm rất nhanh và kín đáo. Anh tính toán không biết nên vào đánh thức vợ dậy hay là viết giấy gửi lại để Joe sẽ báo tin xuất quân cho Amelia biết? George bước vào phòng nhìn vợ một lần nữa. Lần trước, khi George bước vào phòng Amelia chưa ngủ nhưng cứ nhắm mắt, không muốn chồng thấy mình thức lại cho là mình có ý trách móc gì. Nhưng thấy chồng trở về với mình sớm như vậy, người đàn bà nhút nhát này cảm thấy yên tâm hơn. Lúc George rón rén bước ra khỏi phòng, cô quay nhìn về phía chồng rồi nhẹ nhàng ngủ thiếp đi. George lại quay vào; lần này anh ta đi rón rén khẽ hơn. "Khuôn mặt dịu dàng tai tái hiện ra dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn đêm đôi vành mi đỏ vì khóc đã nhắm chặt; một cánh tay tròn trĩnh, mịn màng trắng làm sao? Thật hiền hậu thùy mị và lẻ loi làm sao! Vậy mà sao ta quá ích kỷ, tàn nhẫn, bội bạc?".

Anh ta đến bên giường nhìn vợ ngủ, lòng tràn đầy hối hận, lương tâm day dứt. "Một kẻ tồi tệ như mình sao dám nghĩ đến việc cầu nguyện cho con người trong sạch như Amelia? Cầu Chúa ban phúc lành cho nàng". George đến bên cạnh giường, nhìn vào bàn tay bé nhỏ mịn màng, bàn tay cũng như đang ngủ say. Và anh lặng lẽ cúi xuống bộ mặt hiền hậu tai tái ngả trên tấm gối.

Hai cánh tay xinh đẹp giơ lên vòng lấy cổ George:

- George, em còn thức đấy.

Người con gái đáng thương vừa nói vừa thổn thức, trái tim nhỏ bé đang kề sát ngực George như muốn vỡ ra. Thì ra cô vẫn thức; đáng thương quá, nhưng thức làm gì? Vừa lúc ấy, từ chỗ tập trung quân, tiếng kèn đồng bắt đầu lanh lảnh vang lên bay lan ra khắp tỉnh. Và cả thành phố choàng thức dậy giữa những tiếng trống của đoàn quân nhạc bộ binh và tiếng kèn hơi kêu rin rít của đoàn quân xứ Scotland.

Chương 30: THIẾP BÊN SONG CỬA, CHÀNG NGOÀI CHÂN MÂY

Chúng tôi không dám có ý muốn lạm dự vào hàng những nhà tiểu thuyết quân sự. Chúng tôi là những người dân thường; khi chiến sự xảy ra, chúng tôi sẵn sàng lùi về hậu tuyến và ngoan ngoãn chờ, còn hơn làm quẩn chân những người chiến sĩ dũng cảm cho nên chúng tôi chỉ dám theo trung đoàn thứ...tới cổng thành phố mà thôi; đến đây, để thiếu tá O'Dowd ra đi với nhiệm vụ của mình, chúng tôi quay lại với bà thiếu tá cùng mấy người đàn bà và đám hành lý của họ.

Ngài thiếu tá cùng phu nhân không được mời đến dự buổi dạ hội vừa miêu tả ở trên, thành ra trong khi những người ham thích hưởng thụ khoái lạc cũng ngang với việc làm nhiệm vụ đang đắm mình trong lạc thú thì họ nằm khểnh ở nhà làm một giấc ngủ thật yên trí. Ông thiếu tá điềm nhiên kéo chiếc mũ ngủ xuống trùm kín hai tai, bảo vợ:

- Peggy, mình yêu ơi, tôi chắc chỉ hai ba ngày nữa, sẽ có một buổi dạ hội linh đình xưa nay chưa từng có.

Đối với ông, bất cứ buổi dạ hội nào cũng không thú bằng nốc một cốc rượu rồi lên giường đi ngủ. Riêng bà Peggy thì cũng muốn triển lãm chiếc khăn quấn đầu có chiếc lông chim thụy hồng tại buổi dạ hội kia một tý, nhưng câu nói của ông chồng làm cho bà ta đâm ra đăm chiêu tợn.

Ông thiếu tá lại bảo vợ: :

- Độ nửa tiếng đồng hồ trước khi tập hợp, đánh thức tôi dậy nhé. Mình yêu ơi, đến một rưỡi đánh thức tôi dậy; xem mọi thứ sắp sẵn cả chưa. Có nhẽ tôi không về ăn sáng được đâu Câu nói ấy ngụ ý sáng hôm sau trung đoàn sẽ xuất phát; viên thiếu tá im tiếng rồi ngủ. Lúc này bà O'Dowd khoác tấm áo ngủ, trên mái tóc đầy những chiếc cặp búp bằng giấy. Vốn là một người nội trợ xứng đáng, bà nghĩ rằng lúc này không phải là lúc đi ngủ, mà phải làm việc.

Bà tự nhủ:

- Bao giờ Mick đi rồi, mình còn khối thì giờ ngủ, lo gì. Đoạn bà buộc lại chiếc va-ly của chồng cho chặt, chải lại bộ binh phục và chiếc mũ, xếp thứ tự sẵn sàng. Bà còn bỏ sẵn vào túi áo của chồng một gói thức ăn và một cái chai nhỏ đựng được đến già nửa lít rượu cô-nhắc rất ngon. Thứ rượu này cả hai vợ chồng cùng ưa lắm. Lúc kim đồng hồ báo thức chỉ một giờ rưỡi, đồng thời tiếng chuông ngân nga báo đúng giờ tai hại đã điểm (bà chủ nhà vẫn khoe rằng tiếng chuông đồng hồ nhà bà hay như chuông nhà thờ), bà O'Dowd đánh thức chồng dậy; bà lại đã chuẩn bị sẵn sàng một tách cà-phê thật ngon như mọi tách cà phê buổi sáng ở Brussels. Ai dám bảo rằng những cử chỉ săn sóc tế nhị của người đàn bà này không đủ tỏ tình cảm nồng nhiệt bằng những dòng nước mắt và những trận khóc rũ rượi của những thiếu phụ đa cảm hơn?

Tách cà-phê hai vợ chồng uống chung nhau giữa tiếng kèn đồng báo lệnh xuất quân cùng tiếng trống nổi vang lên khắp thành phố, chẳng phải là có ích lợi và đúng chỗ hơn những lời nỉ non khóc lóc ư? Kết quả là viên thiếu tá xuất hiện trước ba quân, mặt mũi hồng hào, râu cạo nhẵn thín. Trông ông ta ngồi đường hoàng trên lưng con ngựa chiến vẻ tươi tỉnh, nhanh nhẹn, ba quân cũng thấy thêm phần tin tưởng và phấn khởi. Bà thiếu tá đứng trên bao lơn đón đoàn quân đi qua, vui vẻ vẫy tay chào; tất cả các sĩ quan đều chào lại. Tôi đảm bảo rằng sở dĩ bà không muốn đích thân mình dẫn đầu trung đoàn xuất trận, không phải vì bà thiếu can đảm, mà chính vì bà vẫn còn tính kín đáo của phụ nữ đấy thôi.

Những ngày chủ nhật và trong những ngày long trọng, bà O'Dowd thường vẫn trịnh trọng giở một cuốn sách giảng đạo của một ông chú chịu chức chánh xứ ra đọc; cuốn sách trên đã an ủi bà rất nhiều, khi bà cùng chồng lênh đênh trên mặt biển từ Tây Ấn hồi hương; hồi ấy vợ chồng bà suýt chết vì tàu đắm. Sau khi trung đoàn lên đường rồi, bà lại trở về trầm tư mặc tưởng với cuốn sách; có thể bà không hiểu rõ lắm những dòng chữ mình đang đọc, tâm trí còn bận để đâu đâu, nhưng bà vẫn không sao chợp mắt được, mặc dầu đã cố ý đặt chiếc mũ ngủ của ông chồng trên gối ngay cạnh mình. Đời là như vậy đấy Jack hoặc Donald lưng đeo ba-lô mà ra đi đeo đuổi mộng công danh, chân vui bướu, miệng ngân nga bài hát "Vĩnh biệt người tình"; riêng kẻ ở lại chịu cảnh phòng không bóng chiếc... đêm ngày đằng đẵng nhớ thương sầu muộn.

Rebecca hiểu rõ rằng nhớ thương là chuyện vô ích mà đa sầu đa cảm lắm thì chỉ tổ chuốc thêm sự đau khổ vào thân; cho nên cô ta khôn ngoan quyết định sẽ không buồn rầu vô ích làm gì; phải ly biệt cùng đức ông chồng cô chịu đựng với thái độ dũng cảm không kém gì phụ nữ thành Spartan thời cổ. So với người đàn bà bé nhỏ cương nghị này thì phút kẻ đi người ở, đại úy Rawdon bị xúc động mạnh mẽ hơn nhiều, Rebecca đã làm chủ được con người có bản tính thô bạo cục cằn này rồi: anh chàng đã yêu, đã thờ phụng cô vợ với hết cả tâm hồn mình. Suốt đời, chưa bao giờ anh ta được hưởng hạnh phúc đầy đủ bằng khoảng thời gian sống chung với vợ mấy tháng vừa qua. So với lạc thú gia đình anh ta vừa được hưởng, thì bao nhiêu trò giải trí khác như thi ngựa, đàn đúm, săn bắn, cờ bạc, những mối tình với mấy cô bán đồ trang sức trước kia, cùng những thắng lợi dễ dàng của một anh chàng quân nhân vụng về, đều trở thành nhạt phèo như nước ốc. Bao giờ cô vợ cũng biết tìm cách vui lòng chồng. Anh chàng thấy cứ ngồi nhà cạnh vợ cũng đủ thú vị nghìn lần đi chơi với bất cứ ai, bất cứ ở đâu kể từ bé đến giờ. Cho nên anh ta rủa thầm những chuyện rồ dại của mình trong quá khứ, lại phàn nàn mãi rằng bao món nợ chồng chất ngập mặt chưa trả xong, nay sinh tác hại cản trở bước tiến của vợ trong giới thượng lưu.

Đêm đêm trò chuyện với nhau, anh ta vẫn ca cẩm nhiều về chuyện này với Rebecca, tuy rằng hồi chưa vợ, anh ta không hề bao giờ lấy đó làm bận tâm. Chính Rawdon cũng ngạc nhiên về hiện tượng này, anh ta thường nói:

- Mẹ cha nó? (cũng có khi anh ta văng ra một tiếng còn thô tục hơn, vì quen tính tự do trong ngôn ngữ) trước khi lấy vợ chẳng bao giờ mình thèm để ý là mình đang ký tên vào giấy tờ gì miễn là lão Moses còn bằng lòng đợi, hoặc lão Levy ưng thuận cho chịu thêm ba tháng nữa, thì mình cứ ký văng mạng. Ấy thế mà từ khi lấy vợ, thề rằng chưa lần nào mình mó đến tờ giấy có đóng dấu đấy, họa chăng để yêu cầu hoãn nợ thì có.

Bao giờ Rebecca cũng biết khéo léo tìm cách xua đuổi nỗi sầu muộn của chồng; cô thường bảo:

- Ô hay, ông ngợm ơi, nào ta đã mất hết hy vọng về bà cô đâu? Nếu bà lão "chơi khăm" chúng mình thì sao anh không dùng đến tờ báo Tin tức? Mà thôi, để bao giờ ông Bute về chầu giời, em sẽ có kế khác. Theo luật thì anh em trai có quyền thừa kế cai quản nhà thờ chứ gì? Vậy thì anh cứ việc bán phăng chức đại úy về đi tu là xong.

Cứ nghĩ đến câu chuyện bàn với vợ. Rawdon lại phá ra cười rũ rượu. Nửa đêm còn nghe tiếng cười hô hố của anh sĩ quan cận vệ vang khắp cả khách sạn. Tướng Tufto nằm trong phòng ở mãi tầng trên cũng nghe rõ; hôm sau, trong khi ăn Rebecca kể lại câu chuyện đêm trước, lại bắt chước điệu bộ Rawdon, viên tướng lấy làm thú quá.

Nhưng đấy là chuyện quá khứ. Khi có tin tức đích xác chiến tranh đã nổ ra, sắp phải tiến quân thì bỗng nhiên Rawdon trở thành nghiêm trang khác hẳn trước. Lúc Rebecca giễu cợt, anh chàng phát cáu, giọng hơi run run, bảo vợ:

- Becky, mình không nghĩ rằng tôi nhát sợ chứ? Người tôi to lớn thế này, dễ trúng đạn lắm. Ví thử tôi chết thì hỏi có gì để lại cho mình, và có thể là cho hai mẹ con nữa, mà sinh sống? Này, bà Crawley ơi, không phải là chuyện đáng cười đâu. Rebecca tìm cách nói ngọt ngào vuốt ve để ông chồng bị chạm tự ái nguôi cơn giận. Thường thường khi để cho mình bị lôi cuốn theo cái khuynh hướng ưa hài hước nghịch ngợm, Rebecca hay giở giọng châm biến ra (như hầu hết mọi trường hợp khác), nhưng rồi cô cũng lấy lại được vẻ mặt trang nghiêm ngay:

- Mình yêu ơi, mình tưởng em không biết đau lòng sao? Cô ta vội vàng quệt cái gì ở khoé mắt rồi mỉm cười nhìn vào mặt chồng. Chồng đáp. Đây này, nếu tôi chết, xem tôi để lại cho mình được những gì? Cho đến bây giờ tôi vẫn gặp nhiều may mắn trong khi đánh bạc; đây là hai trăm ba mươi đồng. Tôi hãy còn mười đồng Napoléon trong túi, thế là thừa tiêu rồi. Trung tướng trả lương mọi người hậu hĩnh như một ông hoàng. Nếu tôi chết cũng không phải lo tốn phí về tôi. Đừng khóc, mình; biết đâu tôi lại chẳng cứ sống để làm cho mình khó chịu? Phải đấy, hai con ngựa của tôi, tôi sẽ để cả ở nhà, tôi cưỡi con ngựa thồ màu xám của trung tướng: giá nó rẻ hơn; tôi sẽ báo cáo rằng ngựa của tôi bị què; giả thử tôi chết, mình bán hai con ngựa cũng được món tiền. Hôm qua, lúc chưa biết tin phải đi trận, thằng Grigg đã trả con ngựa non chín mươi đồng, thế mà ngu quá, tôi lại cứ khăng khăng rằng dưới một trăm nhất định không bán. Thế nào con Bullfinch cũng đã được giá ấy; nhưng mình nên bán ngay tại đây, bởi vì tôi còn nợ tụi lái ở Anh nhiều lắm không nên đem nó về nước. Cái con ngựa cái non trung tướng cho mình, bán cũng được một món tiền đấy. May quá, ở đây ta lại không nợ nần ai như ở Luân- đôn.

Rawdon cười tiếp:

- Bộ đồ trang điểm của tôi đáng giá hai trăm đồng...nghĩa là tôi nợ người bán hai trăm đồng. Mấy cái lọ có nút bằng vàng giá ba hay bốn chục đồng. Góp tất cả những thứ ấy lại, cả cặp áo, nhẫn, đồng hồ, dây chuyền và mọi đồ trang sức khác: chỗ ấy vô khối tiền. Ngày trước, bà Crawley mua chiếc đồng hồ và cái dây đeo mất những một trăm đồng. Đừng quên mấy cái lọ có nút bằng vàng nhé. Dại quá, biết thế mình lấy thêm một ít xong. Edwards đã xui mình cứ lấy cái gót giầy bằng bạc mạ vàng; đáng lẽ mình có một bộ đồ trang điểm đầy đủ, cả cái bồn nước bằng bạc và đủ chai lọ không thiếu thứ gì. Nhưng thôi, có sao hay thế, phải không Becky?

Đó tức là tờ di chúc của đại úy Crawley vậy. Mới cách đây mấy tháng, anh ta chỉ biết quý trọng cái thân thể của chính mình, bây giờ tình yêu đã thay đổi hẳn tính anh ta.

Crawley làm một bản thống kê những món đồ dùng vặt vãnh, cố tìm xem liệu nhỡ mình gặp tai nạn thì vợ sẽ bán được bao nhiêu. Anh ta lấy bút chì nguệch ngoạc kê ra giấy những thứ có thể bán được lấy tiền cho người vợ góa, nét chữ to và vụng về như chữ trẻ con...đại khái thế này: chiếc súng hai nòng, 40 đồng ghi-nê; chiếc áo choàng đi săn viền lông thú, 50 đồng bảng Anh; đôi súng lục có cả bao bằng gỗ hồng (đã dùng súng này bắn chết đại úy Marker) 20 đồng bảng Anh, bộ yên ngựa và áo yên, bộ yên ngựa đã dùng đi chơi v.v... Rebecca được quyền thừa kế tất cả.

Thực hiện nghiêm túc kế hoạch đã đặt ra, viên đại úy chỉ bận bộ quân phục cũ nhất, tồi tàn nhất, dành những bộ quần áo mới lại cho vợ, rất có thể sẽ là cô vợ góa. Và anh chàng công tử bột nổi tiếng ở Windsor và công viên Hyde mặc một bộ đồ tầm thường như một viên đội để ra trận, đôi môi còn mấp máy như muốn lẩm nhẩm cầu kinh cho cô vợ trẻ ở nhà. Anh ta bế bổng vợ lên, ghì chặt lấy vợ một phút, ấp sát vào trái tim đang đập thình thình của mình.

Khi buông vợ xuống đất để ra đi, mặt anh chàng đỏ bừng, hai mắt lờ đờ. Anh ta cưỡi ngựa bước song song bên cạnh viên trung tướng lặng lẽ rít thuốc lá. Hai người thúc ngựa mau để theo kịp lữ đoàn của viên tướng đã đi trước. Mãi tới khi đã đi được vài dặm đường, anh ta mới thôi không xoắn ria mép và mới mở mồm nói chuyện.

Cô Rebecca khôn ngoan, như ta đã rõ, quyết định không vì sự ly biệt với chồng mà để cho sự sầu não vô ích giày vò mình. Cô ngó qua cửa sổ vẫy tay từ biệt chồng; chồng đi rồi, cô còn đứng đó một lúc lâu nhìn ra ngoài. Lúc này những mái nhà thờ cao vút, và những đầu hồi của những ngôi nhà cổ kính dưới ánh nắng sớm rọi tới vừa đỏ ửng lên. Đêm qua, Becky không được nghỉ ngơi tý nào, trên mình vẫn còn mặc bộ quần áo dự dạ hội rất đẹp, mớ tóc vàng rủ xuống cổ, những búp tóc soăn soăn đã hơi duỗi ra, mấy món tóc xõa xung quanh đôi mắt quầng thâm vì đêm trước mất ngủ. Becky ngắm nghía mình trong gương nói: "Trông mình mà phát khiếp! Cái áo hồng này làm cho nước da mình đâm ra tái thêm".

Và cô ta cởi tấm áo hồng ra đồng thời có một mảnh giấy từ trong tấm áo lót rơi xuống đất. Rebecca mủm mỉm cười nhặt lên, bỏ vào trong chiếc hộp đựng đồ trang điểm khóa lại. Đoạn cô ta cắm bó hoa được tặng trong buổi dạ hội vào một cốc nước rồi lên giường nằm ngủ một giấc thật thoải mái.

Đến mười giờ thức dậy, Rebecca thấy cả thành phố hoàn toàn yên tĩnh. Cô ta uống một tách cà phê rất ngon miệng, thấy mình đã lại sức sau những xúc động lúc sớm. Ăn xong, Rebecca bắt đầu soát lại bản thống kê của anh chồng thực thà và tự xét lại hoàn cảnh của mình. Nếu có sự gì không may thì, nói cho cùng, cô ta cũng ung dung chán. Ngoài những vật chồng để lại, Becky còn có đồ trang sức và áo sống riêng cơ mà. Khi mới cưới vợ, chúng ta đã biết, Rawdon ăn tiêu rất hào phóng. Viên trung tướng, một tên nô lệ dốc lòng thờ phụng Rebecca, đã tặng cô ta nhiều vật rất đẹp, thí dụ, không kể con ngựa cái non, còn có mấy chiếc khăn san bằng lụa Casơmia, mua trong một cuộc bán đấu giá tài sản của vợ một viên tướng người Pháp bị phá sản, và nhiều thứ đồ trang sức khác sắm tại một hiệu kim hoàn, thứ nào cũng chứng tỏ người mua là một tay sành sỏi và lắm của. Còn mấy cái "máy tích tắc" (anh chàng Rawdon vẫn gọi là đồng hồ bằng cái tên này) thì cứ kêu tích tắc trong buồng nghe cũng vui tai. Một buổi tối, cô phàn nàn rằng chiếc đồng hồ của mình hay hỏng; chiếc đồng hồ này do thợ người Anh chế tạo, và là tặng vật của Rawdon. Lập tức sáng hôm sau cô ta nhận được ngay hai chiếc khác: một chiếc rất xinh, khắc hiệu Leroy, hộp vỏ và dây đeo có khảm ngọc Thổ-nhĩ-kỳ, một chiếc hiệu Brequet, có nạm ngọc bích, chỉ nhỉnh hơn đồng nửa cơ-rao một tý. Một chiếc là của Tướng Tufto mua tặng còn chiếc kia là của đại úy Osborne, còn người hào hoa phong nhã. Amelia không có đồng hồ, nhưng nói của đáng tội, nếu cô hỏi thì George cũng mua cho rồi. Còn Tufto phu nhân ở nước Anh thì chỉ có mỗi một chiếc đồng hồ cổ lỗ sĩ của bà cụ thân sinh để lại, có thể dùng thay thế cho chiếc chậu rửa mặt bằng bạc mà Rawdon đã nói ở đoạn đầu. Nếu các ông Howell và James công bố danh sách những người mua đồ trang sức trong hiệu của họ, hẳn có lắm gia đình phải ngạc nhiên. Và nếu những vật trang sức ấy chỉ về tay những bà vợ chính thức và các cô con gái mà thôi, thì khối gia đình sang trọng trong Hội chợ phù hoa đã có vô số vật quý vô giá. Tính toán về những vật quý giá ấy xong xuôi, Rebecca không phải không thấy thú vị khi nhận ra rằng nhỡ có chuyện rủi ro thì mình vẫn có thể bắt đầu lại cuộc đời với ít nhất là sáu hoặc bẩy trăm đồng vốn liếng. Thế là suốt buổi sáng, cô ta chỉ loay hoay thu dọn, xếp đặt, ngắm nghía, và bỏ các thứ vào hòm khóa lại cẩn thận coi bộ rất hí hửng.

Giữa đám giấy mà trong ví của Rawdon lại có cả một tấm ngân phiếu của Osborne trị giá hai mươi đồng. Nhìn tấm giấy Rebecca nghĩ đến vợ Osborne. Cô tự nhủ: "Mình phải đi lĩnh ngay món tiền này mới được. Rồi sẽ qua thăm chị Emmy đáng thương ấy một tí.

Tuy nói rằng truyện này không có nhân vật chính, thực ra ít nhất cũng phải có một nhân vật chính là một người đàn bà.

Trong quân đội Anh vừa ra trận, mà không một người lính nào, kể cả bản thân ngài quận công vĩ đại kia nữa, có được thái độ điềm tĩnh, can đảm trước những khó khăn của tương lai vô định bằng người đàn bà phi thường này tức là cô vợ bé bỏng của viên sĩ quan tùy tòng.

Trong đám người quen thuộc của chúng ta, còn có một người nữa cũng bị bỏ lại hậu phương, một người "dân thường"; chúng ta có quyền hiểu biết đôi chút về cảm xúc và cử chỉ của người này: ấy là ông bạn cựu ủy viên thu nhập quận Boggley Wollah của chúng ta vậy. Cũng như nhiều người khác, tiếng kèn đồng mới sớm tinh sương đã giục giã làm anh chàng thức dậy.Vốn tính hay ngủ nhiều, lại rất có cảm tình với cái giường, cho nên nếu không bị ai phá rối, thì anh ta đã mặc xác mọi thứ tiếng kèn đồng, trống trận và kèn hơi của quân đội Anh quốc tha hồ thi nhau nổi lên, mà cứ tiếp tục ngáy khò khò một giấc như lệ thường. Người phản đối không phải là George Osborne, vì tuy ở chung nhà với Joe, nhưng anh chàng này còn bận tíu lên về việc riêng, hoặc có lẽ bận sầu não vì nỗi biệt ly với vợ, nên không kịp nghĩ đến chuyện sang từ giã ông anh rể đang ngon giấc. Vậy thì không phải là George mà là Đại úy Dobbin; anh ta dựng bạn dậy, nhất định đòi bắt tay bạn một cái trước khi lên đường.

- Cảm ơn anh lắm lắm.

Joe vừa ngáp vừa rủa thầm viên đại úy. Dobbin lắp bắp nói:

- Tôi...tôi không muốn lên đường mà không lại từ biệt anh một chút bởi vì, anh cũng rõ, trong số chúng tôi có thể có người không trở về; và tôi muốn được thấy các bạn khỏe mạnh vui vẻ và... và...như thế ấy mà, anh hiểu chứ.

Joe dụi mắt đáp:

- Anh định bảo gì cơ?

Viên đại úy không nghe bạn nói, cũng chẳng để ý đến anh chàng béo ị đội mũ ngủ, người được anh ta làm ra vẻ rất quý mến. Anh chàng đạo đức giả này còn bận ngóng về phía cửa buồng của George mà lắng tai nghe. Anh ta cứ rảo bước đi lại trong phòng, va cả vào ghế, bàn tay đánh nhịp trống, đưa móng tay lên miệng nhấm...nghĩa là tỏ ra hết sức muốn trấn tĩnh sự rối ren trong lòng.

Mọi ngày, Joe gần như vẫn coi thường viên đại úy, lúc này bắt đầu ngờ rằng anh mất can đảm. Joe mỉa mai nói:

- Tôi có thể giúp anh việc gì nhỉ, Dobbin?

Viên đại úy lại bên giường đáp:

- Tôi nhờ anh hộ một việc mà anh có thể làm được; Anh Sedley ạ, mười lăm phút nữa, chúng tôi ra trận, có thể cả George và tôi cũng không trở về được nữa. Anh nhớ kỹ nhớ, khi nào chưa biết đích xác tin tức ra sao thời chớ rời khỏi thành phố này vội. Anh phải ở lại đây chăm nom em gái anh, an ủi cô ấy, đừng để có chuyện gì xảy ra. Nếu George có mệnh hệ nào, nhớ rằng trên đời này, cô ấy chỉ còn trông cậy được vào anh mà thôi. Nếu quân ta thất bại, anh phải lo đưa cô ấy về Anh cho an toàn. Anh phải lấy danh dự mà hứa với tôi rằng sẽ không bao giờ bỏ mặc cô ấy nhé. Tôi biết anh không phải là người như thế. Còn về chuyện tiền nong tốn kém thì xưa nay anh vẫn rộng rãi. Anh có cần thêm tiền không? Nghĩa là tôi muốn nói rằng nếu có chuyện gì không may xảy ra thì anh có đủ tiền trở về Anh không?

Joe kiêu hãnh đáp:

- Thưa ngài, khi nào tôi cần tiền, khắc tôi biết, nên hỏi ở chỗ nào. Còn về em gái tôi thì không cần ngài dạy tôi phải ăn ở sao cho phải lẽ.

Dobbin vui vẻ nói:

- Anh Joe ạ, anh nói thế mới thật là người cao thượng.

-George ra đi, vợ ở nhà được người tốt bụng như anh săn sóc, tôi cũng yên tâm. Vậy tôi có thể bảo với George rằng anh đã lấy danh dự mà hứa sẽ luôn luôn ở bên cạnh Amelia trong những lúc khó khăn chứ?

- Dĩ nhiên... dĩ nhiên rồi.

Joe đáp; Dobbin cũng hiểu rằng về chuyện tiền nong, bạn vốn là người rộng rãi.

- Và anh sẽ trông nom đưa Amelia rời khỏi Brussels nếu quân ta thất bại?

Anh chàng ngồi trên giường la lên:

- Thất bại! Ma quỷ ơi? Làm gì có chuyện ấy. Thôi đừng giả vờ dọa tôi đi.

Thấy Joe tỏ vẻ quyết định săn sóc em gái cẩn thận, bấy giờ tâm trí Dobbin mới thấy hoàn toàn thư thái. Viên đại úy nghĩ thầm: "Ít nhất thì nếu có chuyện bất hạnh xảy ra, Amelia vẫn còn có chỗ dựa".

Nếu như đại úy Dobbin hy vọng được nhìn thấy mặt Amelia một lần nữa để thỏa mãn ước muốn cá nhân mình, và để lấy thêm nghị lực trước khi trung đoàn ra trận, thì thói ích kỷ xấu xa ấy thật đáng trừng phạt. Phòng ngủ của Joe có cửa mở thông ra một căn phòng khách chung của gia đình, mé bên kia lại có cửa thông sang phòng của Amelia, Tiếng kèn đồng đã đánh thức mọi người trong nhà dậy: bây giờ thì chả cần phải giấu giếm gì nữa, bác người hầu của George đang lúi húi buộc hành lý trong phòng ngủ, thỉnh thoảng lại ném ra cho người hầu những thứ cần phải mang theo khi hành quân. Và lúc này Dobbin được thỏa mãn ước vọng sâu kín anh vẫn ấp ủ trong lòng: anh ta lại được nhìn mặt Amelia một lần nữa. Nhưng bộ mặt mới tiều tụy làm sao! Bộ mặt trắng bệch, đờ đẫn đầy vẻ thất vọng. Mãi sau này, vẻ mặt Amelia lúc ấy còn ám ảnh Dobbin mãi như một tội ác, và cứ mỗi lần nhớ đến, anh lại thấy đau nhói trong tim vì mong mỏi và xót thương.

Amelia khoác một tấm áo choàng trắng toát, tóc xõa xuống vai, đôi mắt mở to trừng trừng mà như không có ánh sáng. Muốn giúp đỡ một tay vào việc sửa soạn cho chồng ra đi, và để tỏ rằng mình cũng có ích đôi chút trong phút long trọng này, người đàn bà đáng thương ấy cứ cầm lấy cái thắt lưng của George trong ngăn kéo và lẽo đẽo theo sau chồng đi đi lại lại trong phòng lặng lẽ nhìn chồng sửa soạn hành lý. Cô bước ra khỏi phòng dựa lưng vào tường; ấp chiếc thắt lưng vào ngực, mảnh vải đỏ thắm rủ xuống tận đất như một dòng máu trào ra. Trước cảnh tượng ấy, viên đại úy đa cảm của chúng ta thấy thắt ruột lại hối hận. Anh ta nghĩ thầm: "Trời đất ơi, ta có quyền gì len lỏi vào một sự đau khổ đến như thế kia?". Chẳng có cách nào an ủi con người lặng lẽ sầu não ấy cho được. Anh ta bất lực đứng nhìn Amelia một lúc lâu, cõi lòng vò xé tơi bời vì xót thương như một người cha chứng kiến sự đau đớn của đứa con đẻ rứt ruột.

Cuối cùng, George cầm tay Emmy dắt trở vào trong phòng ngủ, rồi bước ra một mình. Thế là xong cuộc ly biệt.

Anh ta lên đường.

- Lạy Chúa, thế là xong.

George vừa nghĩ thầm, vừa nhảy xuống thang gác, thanh kiếm cắp dưới nách, anh ta nhanh nhẹn chạy tới chỗ tập trung quân, má đỏ hồng lên, mạch máu trong người chạy rần rật. Ở đây, lính và sĩ quan cũng đang vội vã theo lệnh tập hợp hàng ngũ. Canh bạc lớn là cuộc chiến tranh sắp bắt đầu rồi, và anh ta cũng có tham gia một chân.

Bao nhiêu là hoài nghi, hy vọng và khoái cảm. Liệu được hay thua? Biết bao nhiêu sự bất ngờ đầy say sưa? So với lần này bao nhiêu canh bạc khác anh ta đã dự thật không nghĩa lý gì. Từ bé đến giờ chàng trẻ tuổi này đã quen lao vào bất cứ một trò chơi nào cần đến sức khỏe và sự khéo léo của một lực sĩ với tất cả sức lực của mình. Được các bạn hoan hô cổ vũ, anh ta đã chiếm những giải vô địch trong trường và trong trung đoàn anh ta đã giật giải hàng trăm lần, từ những trò chơi criquer hồi bé, đến những cuộc đua ngựa do nhà binh tổ chức, và đi đến bất cứ đâu, anh ta cũng được đàn bà cũng như một kẻ dễ dàng được quần chúng hoan nghênh, vì có sức khỏe, có can đảm ấy, sẽ dùng được gì trong chiến trận? Từ cổ chí kim, sức khỏe và lòng dũng cảm vẫn là đề tài quen thuộc của văn chương; và kể từ câu chuyện thành Troy đến nay, thi ca vẫn ưa chọn nhân vật trung tâm là một chiến sĩ. Tôi băn khoăn tự hỏi có lẽ vì người đời đều hèn nhát cả, nên thiên hạ mới xưng tụng sự can đảm đến như vậy, và mới đề cao sự dũng cảm trong trận mạc trên mọi đức tính khác để mà đền đáp và thờ phụng chăng.

Thế là, nghe tiếng gọi sa trường rộn rã, George cũng rứt được ra khỏi đôi cánh tay trìu mến của người vợ suýt nữa làm anh ta nhụt chí khí. Trong thâm tâm, anh ta cũng hơi cảm thấy hổ thẹn vì mình đã bịn rịn hơi lâu, tuy cũng không đến nỗi quyến luyến vợ nhiều quá. Những người bạn khác của George cũng cùng một tâm trạng say sưa hào hứng như vậy, từ viên thiếu tá to béo dẫn đầu đoàn quân ra trận đến Stubble, viên sĩ quan cầm cờ bé nhỏ ngày hôm ấy lĩnh nhiệm vụ mang quân kỳ của trung đoàn.

Cuộc hành quân bắt đầu giữa lúc mặt trời vừa mọc...

Cảnh tượng thật hào hùng...đội nhạc binh dẫn đầu, nổi khúc nhạc tiến quân của đơn vị... rồi đến viên thiếu tá chỉ huy trưởng, cưỡi trên lưng con ngựa Pyramus cao lớn...theo sau là đội cận vệ, có viên đại úy dẫn đầu. Đi giữa đoàn quân là hai viên sĩ quan cầm cờ, một già một trẻ giương cao hai lá cờ quân kỳ... rồi đến George đi trước đại đội của mình. Anh ta ngước nhìn lên mỉm cười với Amelia rồi đi thẳng. Tiếng kèn của đội nhạc binh cũng dần dần tắt chương.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro