Hồi ký chiến trường K (Campuchia) haley

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nguồn: bacbaphi.com

Lời Tựa



Tình cờ những lần lang thang trên mạng, tìm kiếm những trang web về chiến tranh và vũ khí,tôi may mắn được đọc những dòng hồi ký của một cựu chiến binh viết về cuộc chiến đấu của mình và các đồng đội ở chiến trường K. Là một người không bao giờ đọc truyện dài trên mạng, nhưng lần này đối với tôi lại hoàn toàn khác, những dòng hồi ký đã làm tôi không thể dứt ra được, khi đọc bài này, tôi đã thức trắng 2 đêm để nghiền ngẫm và suy nghĩ, những cảm xúc khác nhau cứ đan xen lẫn lộn trong đầu, lúc cười đến đau bụng trước những chuyện tếu của lính trẻ, lúc lại xúc động đến rơi nước mắt khi thấy đồng đội mình nằm xuống, rồi những con người tất cả dành hết tình cảm, tình yêu thương cho những người trai trẻ đang đi chiến đấu ở biên cương để bảo vệ tổ quốc.
Được phép của tác giả của cuốn hồi ký này ( nguyên tựa đề là: Tổ Tam Tam, còn lý do vì sao có tên là Tổ Tam Tam, khi các bạn đọc sẽ hiểu, mình thay đổi tựa đề cho các bạn đọc hiểu rõ hơn ) tác giả là cựu chiến binh Lê Thái Thọ, tôi xin post những dòng này lên cho các bạn đọc, các bạn sẽ thấy được những và cảm nhận được những nguy hiểm những mất mát trong chiến tranh, mà không có cuốn sách nào nói lên được. Hãy đọc! rồi các bạn sẽ hiểu và có những cảm nhận như của tôi....

Thọ.. Thọ..dậy đi, dậy đi..
Nghe tiếng thì thào của thằng Minh, tôi nhè nhẹ vén màn ( mùng ) trở dậy. Nhẹ nhàng và rón rén, tôi cuộn chiếc chăn chiên cho nó giống như hình người đang nằm ngủ, giắt màn cẩn thận, mặc vội bộ quần áo K74 rồi cùng với thằng Minh bước ra ngoài sân. Trời vẫn còn tối lắm, Tôi và thằng Minh luồn qua hàng rào của Trung đoàn bộ rồi trượt xuống ven con suối nhỏ đi thẳng về phía chiêc cầu Bê tông trên đường quốc lộ 21 từ Xuân Mai đi Sơn tây. Ngay chân cầu, thằng Long " thần sầu " đã đứng đợi hai đứa chúng tôi từ lúc nào rồi chẳng biết nữa. Cả ba thằng chúng tôi lùi lũi thẳng hướng Thị trấn Xuân mai rảo bước. Đằng đông, trời đã dần hửng sáng.
Chiều qua, lúc ăn cơm chiều, ba thằng chúng tôi đã nhất trí với nhau là sáng sớm hôm nay sẽ té về Hà nội. Chẳng là cách đây ba hôm, toàn trung đoàn đã có lệnh cấm trại. Đợt này chắc là đi rồi, cách đây hơn 10 ngày, trung đoàn 36 - Trung đoàn Bắc Bắc của F308 - đã xuất quân đợt 1 nhưng toàn là lính cũ thôi, lính 74,75, 76 chứ bọn lính mới 77 chúng tôi thì chưa thấy ai động đến. Nhưng đến đợt này, chắc chắn chúng tôi không thể thoát được. Ba thằng bàn nhau " chuồn ", không phải chúng tôi có ý định đảo ngũ đâu mà chẳng qua là muốn đảo qua nhà thăm bố mẹ, anh em trước khi dấn thân vào cuộc chiến, một cuộc chiến mà chúng tôi không lường hết được những gì đang chờ đợi chúng tôi ở phía trước.
Đến Xuân mai, trời đã sáng hẳn. Không kịp ăn sáng, mà làm gì có tiền mà ăn sáng. Ba chúng tôi rẽ vội về đường quốc lộ số 6. Cứ loáng quáng ở đây, mấy thằng vệ binh sư đoàn nó bắt được thì có mà công cốc. Đi mới được khoảng gần 1 cây số, phía sau chúng tôi xuất hiện một chiếc xe tải.
A..xe dân sự chúng mày ạ. Thằng Minh hí hửng kêu lên.
Bọn tôi vẫy rối vẫy rít. Chiếc xe từ từ dừng lại. Anh lái xe thò đầu ra hỏi :
- Mấy ông đi về đâu?
- Anh cho bọn em về Hà nội với.
- Xe tôi không về Hà nội đâu, chỉ về đến Hà đông thôi.
- Thế cũng tốt quá rồi. Thằng Long " thần sầu " từ nãy đến giờ mới thốt ra rồi leo tót lên thùng xe. Xe chạy khá nhanh vì đường cũng vắng. Khoảng gần 10 giờ sáng, chúng tôi đã về đến Hà đông. Chúng tôi chia tay bác tài, không quên nói lời cảm ơn và đi thẳng tới bến xe Hà đông.
......

... Ba đứa chúng tôi đi xe bus tuyến Hà đông - Bờ hồ. Về đến nơi đã gần 11 giờ trưa, ba thằng hẹn nhau đúng 2 giờ chiều có mặt tại nhà của tôi ( Phố Lê Thái Tổ ) để cùng nhau lên đơn vị. Thằng Minh thì về nhà ở Nguyễn Hữu Huân, thằng Long về nhà ở Phố Hàng Hòm.
Tôi về đến nhà khi cả nhà đã ăn xong cơm trưa. Mẹ tôi bảo thằng em đun lại món bò xốt vang để tôi ăn với bánh mỳ. Cơm nước xong xuôi, tôi ngồi nói chuyện với Bố mẹ tôi về chuyến đi sắp tới của chúng tôi. Ai cũng cảm nhận thấy được mối hiểm nguy ẩn chứa trong chuyến đi ấy mà chẳng ai dám nói thẳng ra. Hai thằng em trai của tôi vẫn còn quá bé nhỏ ( thằng lớn 14, thằng nhỏ 12 ) để hiểu thấu đáo những gì mà anh chúng nó sắp phải trải qua. Chúng vẫn hồn nhiên, vui vẻ ngồi nghe, thỉnh thoảng lại tranh giành nhau chí choé.
Thời gian trôi đi thật nhanh, những giờ phút bên gia đình thân yêu chẳng mấy chốc đã cạn. Long, Minh đã tới thật đúng hẹn, tôi chia tay gia đình. Mẹ tôi khi ấy đã rất yếu, bệnh tim của Mẹ tôi đã tới thời kỳ tăng nặng nhưng Mẹ tôi vẫn cố gắng tiễn tôi ra đến cổng. Bàn tay Mẹ tôi nắm chặt tay tôi như không muốn buông rời. Cố gắng rút tay ra khỏi bàn tay của Mẹ, tôi quay đầu bước đi mà không dám quay lại nhìn Mẹ lần cuối. Nước mắt nhạt nhoà....Ai mà biết được liệu tôi có còn được gặp lại Mẹ tôi lần nào nữa hay không?
Chúng tôi " bò " lên đến đơn vị vào khoảng hơn 5 giờ chiều. Ba thằng chúng tôi ngồi bệt trên bãi cỏ trước cổng vào trung đoàn bộ. Mỗi đứa miên man suy nghĩ mỗi hướng, bỗng thằng Minh lên tiếng :
- Này chúng mày, chuyến đi này tao thấy " lành ít, dữ nhiều " đấy. Thôi mỗi thằng hãy ghi vào sổ tay những địa chỉ cần báo tin của nhau đi. Nếu trong ba chúng ta, thằng nào không may hy sinh trước, thằng còn sống phải có nhiệm vụ viết thư báo tin cho gia đình, người thân. Phải ghi nhớ nơi chôn cất để sau này gia đình còn biết chỗ mà vào thăm.
Ghi chép xong, nào có nhiều nhặn gì đâu. Tôi chỉ có địa chỉ gia đình, thằng Long cũng vậy, riêng thằng Minh có tới hai địa chỉ, ngoài gia đình ra nó còn thêm địa chỉ của cô bạn gái thân - Cô gái tên lả Minh Nguyệt - Trăng sáng - thằng Minh gọi tên cô gái như vậy, chúng tôi bước chân vào cổng Trung đoàn, thằng nào cũng chắc chắn nhận một án kỷ luật vì tội đào ngũ.
May thay, buổi tối hôm đó chẳng có một án kỷ luật nào được đơn vị đưa ra ngoài sự nhắc nhở nhẹ nhàng của chính trị viên C18 thông tin.

Sáng sớm hôm sau, ban chính trị E36 gọi tôi lên gặp. Phen này thì " chết chắc ' rồi. Tôi thầm nghĩ như vậy. Nhưng không, đồng chí trợ lý ban chính trị trung đoàn vui vẻ pha trà mời tôi uống rồi nói:
- Sắp tới, Trung đoàn sẽ tổ chức buổi lễ xuất quân cho các đồng chí vào trong kia. Ban chính trị đã quyết định chọn em thay mặt cho toàn bộ anh em chiến sỹ thuộc Trung đoàn ta và hai trung đoàn bạn là 102 và 88 đọc lời tuyên thệ trước Bộ tư lệnh sư đoàn trước khi đi làm nhiệm vụ mới. Em về chuẩn bị sẵn ra giấy để hôm này phát biểu cho mạch lạc.
Thế là từ lúc đó, chúng tôi cứ cuốn vào công việc. Nào nhận quân trang bổ xung, nào trả lại quân trang không sự dụng đến. Sau này chúng tôi mới biết bộ phận quân nhu của E36 thật là láo toét. Những chiếc chăn chiên ( len tái sinh dệt lại ấy mà ) đã cấp phát cho tụi lính mới chúng tôi là thuộc quân trang niên hạn 5 năm, cấp vĩnh viễn. Thế mà họ lại ra lệnh thu lại với lý do : Vào trong kia, khí hậu nóng không dùng tới nên họ thu lại, vào trong kia, đơn vị mới sẽ cấp đồ mới phù hợp hơn.
Bi đông, tăng... ( không có võng đâu nhé ) đầy đủ.
Chiều ngày 16.05.1978, những chiếc xe Zin 151, 157 đến đón bọn chúng tôi đỗ chật sân bóng của tiểu đoàn 2. Tôi nói thêm cho rõ là tổ " Tam Tam " chúng tôi thuộc biên chế của C18 thông tin - E36 - F308. Khi huấn luyện tân binh, Minh và Long thuộc D1 còn tôi thuộc D2. Kết thúc huấn luyện chiến sỹ mới, chúng tôi được " nhặt " lên C20 trinh sát. Huấn luyện ở C20 xong lại bổ xung về C18 thông tin. Mới có mấy tháng đời quân ngũ mà sao tôi chuyển lắm đơn vị thế không biết. Nhờ có chút ít kiến thức vật lý học thời phổ thông, tôi được C18 thông tin cho làm trợ giảng về điện và dòng điện cho bọn lính thông tin mới toé toè toe khi học sử dung máy 2W - P 105. Thế mới có chuyện là tôi được cử thay mặt anh em ra đi làm nhiệm vụ mới đọc lời hứa trước Bộ TL sư đoàn chứ.
Tất cả sự chuẩn bị được hoàn tất vào sáng 17.05.4978. Đúng 2 giờ chiều ngày 17.05, tất cả chúng tôi tập trung đông đủ tại sân bóng của D2.
Sau lời giới thiệu của chính uỷ Trung đoàn, tôi thay mặt anh em lên hứa hẹn đại ý là Ri rỉ rì ri cái gì cũng hoàn thành tốt, xứng đáng với danh hiệu sư đoàn quân tiên phong anh hùng. Tôi lên gân rất máu rằng đã đi là đến, đã đến là đánh thắng, không sợ khó khăn gian khổ hy sinh. Các bạn bây giờ thông cảm cho cái thằng tôi, vừa thôi mài đít trên ghế nhà trường, trong đầu vẫn còn thấm đẫm hình ảnh của Paven Coocsaghin, của Nguyễn văn Trỗi, Nghuyễn Viết Xuân... thì điều đó cũng chẳng có gì là lạ.
Tư lệnh kiêm chính uỷ sư đoàn, đại tá Mai Thuận lên phát biểu căn dặn trước đoàn quân, ông nói rằng bọn chúng tôi vào trong kia không phải tất cả đều đi chiến đấu, có đồng chí sẽ đi làm nhiệm vụ kinh tế.. như trồng cỏ, đi chăn bò, vắt sữa... Chắc ông sợ nói thật rằng chúng tôi phải đi chiến đấu thì tỷ lệ " lính chuồn chuồn " sẽ cao lên chăng???
15g30, Tất cả lên xe
Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ lên tàu tại ga Thường tín tức là xe đến Hà đông sẽ rẽ phải đi qua Văn điển xuống ga Thường tín. Chán thật, mấy thằng lính Hà nội lại không được thấy thủ đô lần cuối rồi...

Và mưa, mưa... cả đoàn xe lầm lũi đi trong mưa mịt mù trắng xoá. Có lẽ ông trời cũng thương cảm cho hơn 900 thằng lính chúng tôi chăng? Bóng đêm đã dần buông. Về đến thị xã Hà đông, trời ngớt mưa. Đoàn xe vẫn lao thẳng.
- Ôi trời, không rẽ phải à? Cả đám lính tiểu đội tôi ồ lên sung sướng. Về Hà nội rồi, về ga Hàng cỏ rồi !!! Không còn nghi ngờ gì nữa, tuyến hành quân đã có sự thay đổi. Thay vì xuống ga Thường tín nay đổi lại thành ra ga Hàng cỏ để lên tàu. Đám lính Hà nội sung sướng hò reo ầm ĩ. Đoàn xe lướt qua phố phường, đây rồi khu CN Cao Xà Lá là đây. Những vũng nước mưa còn đọng lại trên đường phản chiếu ánh sáng điện lấp loá trước cổng nhà máy. Mấy con chuột cống chạy đi, chạy lại kiếm ăn và cắn nhau kêu chí choé. Xe đi đến đường Tây sơn, thằng Minh thì thầm với tôi :
- Nhà Nguyệt ở đây đấy. Nó chỉ tay sang bên phải, dãy nhà hai tầng mái ngói có những cây bàng đứng im lìm, cô quạnh.
Bỗng nhiên, có rất nhiều rất nhiều những chiếc phong bì bay lấp loá trong ánh đèn đường vàng vọt khi mờ khi tỏ. Thư, thư nhiều quá các bạn ạ. Thì ra lũ lính tráng trên xe tung thư xuống mặt đường. Mấy hôm vừa rồi cấm trại, chúng nó tranh thủ viết thư về cho người thân, bây giờ chúng đem ra tung xuống đường phố. Cả đoàn xe lính hét lên ầm ĩ :
- Bà con ơi, cô bác anh chị ơi. Chúng tôi là Bộ đội trên đường đi chiến đấu. Mong bà con nhặt và bỏ vào thùng thư giúp chúng tôi với.
Thế là người dân đi đưòng ùa nhau nhặt. Người đang đi xe đạp trên đường dừng xe nhặt, người dân trong nhà cũng lao ra nhặt, người già nhặt, trẻ em cũng tranh nhau nhặt. Cảnh tượng ấy thật vô cùng ý nghiã và xúc động. Những bàn tay cầm đầy phong bì thư của chúng tôi còn đưa lên vẫy vẫy mãi không thôi. Dân Hà nội của tôi đó, những người thân yêu của tôi đó. Xin chào nhé Hà nội ơi. Chúng tôi nguyện sẽ không làm hổ danh Thủ đô yêu dấu.

Khoảng 7 giờ tối, đoàn xe từ từ rẽ vào đường Trần hưng Đạo và dừng hẳn trước quảng trường Nhà hát nhân dân ( Cung Văn hoá Hữu nghị bây giờ ).
- Tất cả các đồng chí ở nguyên trên xe, không có lệnh, không đồng chí nào được xuống.
Tiếng ông cán bộ dẫn quân đi oang oang ra lệnh.
Trên xe, chúng tôi ồn ào bàn tán. Bỗng có thằng la lớn :
- Bà con cô bác ơi, chúng tôi là lính Hà nội đang trên đường hành quân đi chiến đấu. Nhờ bà con cô bác báo giúp cho gia đình chúng tôi với.
Thế là có bao nhiêu người dân gần đó, những người bán hàng lặt vặt trước cổng nhà hát, những đôi tình nhân đang đèo nhau đi " bát phố ", tất cả, tất cả đều xúm lại vây quanh đoàn xe quân sự của chúng tôi. Tiếng nhắn nhủ, tiếng gọi nhau ầm ĩ cả một góc phố. Tôi nhìn thấy một đôi anh chị đèo nhau trên chiếc xe Phượng hoàng ghé lại gần. tôi hét tướng lên :
- Anh chị ơi, cho em nhờ tí chút.
Họ dừng lại và nghe tôi nói :
- Em nhờ anh chị giúp em tới báo cho gia đình em ở ngay Phố Lê Thái Tổ, gần hiệu kem Bốn mùa. Nhanh lên anh chị nhé. Bọn em dừng chân ở đây không lâu đâu.
Hai người nhanh chóng phóng xe vút đi. Tôi yên tâm chờ đợi. Thằng Minh, thằng Long không biết có nhờ được ai không nhỉ? Trong lúc cuống quýt, ồn ào tôi cũng chẳng có tâm trạng nào mà để ý đến chúng nó.
Một lúc sau, tôi nhìn thấy Bố tôi đi cùng thằng em út đi xe đạp tới. Tôi mừng rỡ vẫy gọi rối rít.
Đúng lúc ấy có lệnh xuống xe để vào ga lên tàu. Tôi tập trung toàn tiểu đội ( à, trước khi hành quân, tôi được tạm cử làm A trưởng để duy trì kỷ luật hành quân ) theo bước của toàn đơn vị đi ra ga Hàng cỏ. Bố và em trai tôi cũng dắt xe theo sau, vừa đi vừa thì thào nói chuyện. Thằng em tôi vừa theo Bố tôi đi Quảng ninh về, nó đội trên đầu chiếc mũ cói đan rộng vành, mặt đen nhẻm cứ nhìn anh mà chẳng biết nói gì, cứ nắm chặt lấy tay anh lắc lắc. Bố tôi căn dặn nhiều điều, nào giữ gìn sức khoẻ, nào vào đến nơi phải viết thư ngay về cho Bố mẹ, nào phải nhanh nhẹn, bình tĩnh vv ..và vv. Chẳng gì ông cụ cũng là lính Điện biên năm xưa nên có vẻ bình tĩnh lắm. Nhưng tôi biết, dưới cái vẻ bình tĩnh và can trường ấy là một nỗi lo đến thắt ruột cho cái tính mạng của thằng con trai cả vừa mới tròn 19 hoa niên.
- Đại đội hàng dọc, trung đội hàng dọc. Tất cả theo thứ tự.... theo tôi.
Tiếng cán bộ dẫn quân vang lên dứt khoát. Đã đến giờ chia tay rồi, cả đoàn quân rùng rùng chuyển động. Tôi vội nắm chặt tay Bố và em mà chẳng nói lên lời rồi chạy lên đứng đầu tiểu đội. Nước mắt nhạt nhoà... Tôi vốn là người rất hay xúc động nhất là trước những cảnh chia ly.

Chúng tôi vào ga, cả sân ga đông đặc người và người. Bố mẹ, anh chị em, người yêu, rồi thì bạn gái, bạn trai... lúc bấy giờ tôi mới thấy mình ngốc vô cùng. Nhưng Bố và em tôi đã về rồi. Tôi nhìn ra ngoài cổng ga với vẻ đầy luyến tiếc. Lúc này, tôi mới sực nhớ đến thằng Minh, thằng Long. Chẳng hiểu chúng nó có ai ra tiễn không nhỉ? Tôi quay ra hỏi thằng Minh. Nó im lặng không trả lời tôi. Tôi chợt hiểu ra và cùng im lặng mà không dám hỏi gì thêm nữa. Hoàn cảnh thằng Minh ra sao, tôi còn lạ gì. Bố mẹ nó bỏ nhau từ mấy năm nay rồi, ông anh trai là thương binh hạng ba chống Mỹ. Nó đâu phải là diện đi bộ đội đợt này, nhưng vì hoàn cảnh đáng buồn của gia đình, chán đời nó xung phong đi lính. Bây giờ nào có ai ra với nó đây !!! Chúng tôi lên tàu ngồi lặng lẽ. Dưới sân ga ồn ào kẻ đi người lại. Từng nhóm, từng nhóm quây quần với gia đình, bạn bè trò chuyện. Trời lại đổ mưa, cơn mưa đầu hạ trút xuống rào rào. Theo lịch, tàu 8 giờ là chuyển bánh vậy mà bây giờ đã hơn 10 giờ rồi. Trong tôi bỗng xuất hiện một suy nghĩ trở nên nhỏ nhen đáng ghét, tôi chỉ muốn tàu chạy ngay bây giờ để nhanh chóng chấm dứt cái cảnh hàn huyên ầm ĩ đang diễn ra trước mắt tôi. Để cho tất cả bọn nó cũng " bằng phân " với ba đứa chúng tôi. Tàu chạy, thế là xong. Hết chia tay, hết vui cười, hết cả khóc lóc...
Mãi đến 10g30 đêm .. ..Tu..tu..tu ....sịch..sịch..sịch. Con tàu phì một hơi dài rồi lầm lũi băng trong đêm mưa gió

... Các chú lính sau một buổi chiều vừa hành quân, vừa trải qua quá nhiểu xúc cảm của buổi chia tay bây giờ đã bắt đầu thấm mệt. Đó đây, nhiều chú đã ngủ ngà ngủ gật mặc cho tiếng bánh sắt rít ầm ĩ trên đường ray. Có thằng lấy tấm nilon trải ngay ra trên sàn tàu giữa lối đi đánh ngay một giấc. Cả đoàn tàu quân sự toàn lính " sợ gì bố con thằng nào " !!!? Ba thằng chúng tôi vẫn chưa ngủ, cái xúc cảm của cuộc chia tay vẫn còn rất mạnh mẽ làm chúng tôi chẳng thể nào nhắm mắt được.
Kịch kịch...kịch kịch...kịch kịch, tiếng bánh xe lăn trên đường ray vẫn vọng tới đều đều như cố ru chúng tôi chìm vào giấc ngủ.
Khoảng 12 giờ đêm ngày 20.05, chúng tôi đến ga Biên hoà. Tất cả chúng tôi được lệnh xuống tàu. Thành phố Biên hoà đã chìm trong giấc ngủ, phố phường im ắng, chỉ còn tiếng những bước chân hối hả của đoàn bộ đội chúng tôi hành quân trong đêm. Hơn một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã tới cổng trạm giao liên Long bình. Mệt mỏi rã rời, chẳng ai bảo ai chúng tôi ngả ba lô nằm ngổn ngang ngay trên con đường dẫn vào cổng trạm. Bọn vệ binh gác cổng nhất định không mở cổng cho chúng tôi vào bên trong vì chưa có lệnh. Ngủ cái đã. Lũ chúng tôi gối đầu bằng chiếc ba lô, đánh thẳng cẳng một giấc đến sáng.
Trời đã sáng bảnh, sau khi cán bộ dẫn quân làm xong thủ tục, chúng tôi lục tục đổ quân vào binh trạm. Chao ôi, sao mà lớn đến vậy. Cái tổng kho Long bình mà tôi từng nghe nói bây giờ hiển hiện ngay trước mắt tôi. Hàng rào giây thép gai có đến hàng chục lớp. Nào bùng nhùng, nào cũi chó, cũi lợn, nào hàng rào B40 tầng tầng lớp lớp. Tôi chợt nghĩ đến những chiến tích vang dội của bộ đội đặc công năm trước đã từng tung hoành trên cái mảnh đất mà tôi đang đứng. Đang ngơ ngác nhìn ngắm và hồi tưởng, tôi giật mình khi thằng Long vỗ vào vai :
- Này, vào nhận chỗ ở rồi đi tắm giặt một cái cho nó tỉnh người.
Thằng Long " thần sầu " đã nhanh chóng hỏi thăm được nơi có giếng nước. Tôi và Minh lẽo đẽo đi theo nó vào nhận phòng ở. Những căn nhà lợp tôn trống hoếch trống hoác, gió thổi ù ù mang theo đầy bụi cát.
Cái giếng nằm ngay bên phải cổng trạm. Giếng to dễ sợ. Có lẽ chưa bao giờ tôi nhìn thấy cái giếng nào to đến thế. Thành giếng làm bằng những tấm tôn cong cong của Mỹ, có lẽ nó được tận dụng từ những tấm tôn dùng để lợp vòm cho nhà chứa máy bay thì phải. Vậy mà phải dùng đến ba bốn tấm mới quây hết được chiếc thành giếng. Bộ đội chen chân đầy xung quanh thành giếng để tắm giặt. Cũng may mà ở trên thành giếng buộc cố định rất nhiều gầu múc nước nên chúng tôi tắm giặt rất nhanh. Chỉ tội nước giếng đục như nước sữa, chẳng biết là nước sạch hay bẩn.
Tắm xong, tôi và Minh đi lang thang trên những con đường chạy ngang dọc trong binh trạm. Một vài chiếc xe chở khách của binh trạm đang chất đồ lên nóc xe, mấy đồng chí bộ đội chắc được đi phép ra Bắc đang tranh thủ chằng buộc lại con búp bê trên nóc ba lô. Tôi thầm ước ao không biết đến bao giờ mình cũng được như họ.
Buổi trưa, trong binh trạm nóng kinh người. cả cái tổng kho rộng mênh mông mà chẳng có lấy một bóng cây xanh nào. Cái nóng từ trên mái tôn hắt xuống, cái nóng từ dưới đất hắt lên, cái nóng theo gió thổi qua những ô cửa sổ không cánh. Nóng không thể ngủ được, nóng đến nhược cả người.

Sáng sớm hôm sau, sau khi ăn xong bữa sáng tôi rủ Long và Minh đi ra ngoài chơi. Ba thằng chúng tôi theo sự chỉ dẫn của mấy ông lính ở trong binh trạm, lần theo lối " cửa mở " chui rào thoát được ra ngoài. ( " cửa mở " là từ ngữ chỉ những lối mòn xuyên qua các lớp hàng rào kẽm gai, bãi mìn do lính tráng muốn ra ngoài tự mở lấy ). Ngã ba Tam hiệp lèo tèo vài ba quán xá, nhiều nhất là nước mía đá, nhưng chiếc xe đẩy bán nước mía giăng hàng bán ở khắp nơi. Tôi mua ba bịch nước mía đá cho ba đứa. Chà chà, ngọt và mát lịm. Lần đầu tiên tôi được uống nước mía như thế này. Lúc ấy, ở ngoài Bắc làm gì đã có. Và bánh mỳ kẹt thịt, những chiếc bánh nhỏ thôi nhưng nóng giòn và thơm ngon vô cùng. Ba đưa chúng tôi cái gì cũng ăn, cũng thử. Ngon và lạ miệng, ở ngoài Bắc đang phải ăn bo bo, cơm độn. Vào đây sẵn tiền của gia đình vừa " tắc tế " ba chúng tôi tự cho phép mình xả láng đôi chút trước khi bước vào cái tương lai mà chẳng thằng nào đoán định trước được.
Tôi nhìn thấy những chiếc xe lam, xe ô tô loại Daihatsu nhỏ chở khách, trên thành xe đề tuyến Tam hiệp - Sài gòn. Không phải suy nghĩ gì lâu la, tôi nhanh chóng ra quyết định: Lên xe. Chỉ khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã có mặt tại Ngã tư Hàng Xanh. Sài gòn đây rồi, thành phố Hồ chí Minh đây rồi. Ba chúng tôi lang thang đi bộ, tôi tạt vào bưu điện Hàng Xanh gửi một bức điện về báo cho gia đình là tôi đã vào đến nơi an toàn. Thằng Minh, thằng Long chẳng thấy chúng nó gửi thư từ hay điện đóm gì cả. Thậm chí, chúng nó còn đứng ở ngoài chờ tôi mà chẳng thèm vào. Thôi kệ chúng mày.
Sở thú, đại sứ quán Mỹ, dinh độc lập .. chúng tôi cứ lang thang đi bộ, ngắm nghía ngước nhìn, trông chẳng khác gì " bò đội nón ". Rồi buổi trưa, cũng lại chễm chệ vào một nhà hàng, tôi nhớ không nhầm thì nó ở góc đường Đồng khởi và Sương Nguyệt Ánh bây giờ. Cũng khăn dải bàn trắng muốt, cũng ghế dựa đàng hoàng như ai.
- Cho xin ba tô hủ tiếu . Tôi dõng dạc gọi.
Cũng lại lần đầu tiên được ăn hủ tiếu. Là lạ, ngon ngon. Vèo một cái, ba tô hủ tiếu chui tọt vào ba cái dạ dày đang sôi lên sùng sục vì đói. Chẳng bõ bèn gì nhưng chẳng nhẽ lại gọi mỗi thằng thêm... ba bát nữa. Ngượng chết.
Ba chú bộ đội, sao tiết chỉnh tề, quân hàm " chuẩn tướng " lại tiếp tục lang thang cho đến nửa buổi chiều rồi quay về ngã ba Tam Hiệp. Với tinh thần tiến công liên tục như lời hứa trước Bộ tư lệnh sư đoàn bữa trước, vừa nhìn thấy quán có tấm biển đề : " A, xin mời Cầy tơ bảy món " ở ngay xế cổng binh trạm. Tôi liền cùng hai chiến hữu lập tức xung phong. Ra khỏi quán, trời đã nhập nhoạng tối. Chúng tôi " chân nam đá chân siêu " loạng choạng trở về căn cứ.

Ngày hôm sau, 23.05.1978. vừa ăn sáng xong chúng tôi đã thấy một đoàn xe ca sơn vàng đỏ tím xanh tiến vào binh trạm. Binh trạm thông báo cho đoàn tân binh chúng tôi hôm nay sẽ về đơn vị mới, tất cả không được đi đâu. Đang định rủ rê chúng nó “ đột rào “ ra ngoài để đi Sè goòng lần nữa Thế là phèo ! Trong túi tôi vẫn còn hơn 40 đồng nữa ( Ngày ấy, 40 đồng là to đấy các bạn ạ. Lương trung uý chỉ có 75 đồng thôi ). Cả ngày hôm qua, cả ba thằng mới tiêu hết có hơn 30 đồng.
Chúng tôi chuẩn bị ba lô, quân tư trang sẵn sàng để lên đường. Buổi sáng các sư đoàn 7, 341 lấy quân trước. Cuộc chia tay diễn ra vô cùng bịn rịn, cảm động. Giữa tân binh với nhau, giữa tân binh với cán bộ khung F308 dẫn quân đi. Xin chào các anh nhé, các anh trở lại xứ Bắc quê hương thân yêu, còn chúng tôi, những người ở lại chưa biết sẽ có những gì chờ đợi ở phía trước. Trong khu vực doanh trại vang lên tiếng hát : “ Chúng tôi, người chiến sỹ sư đoàn tự hào thay hai tiếng Tiên phong, đâu có ngại ngùng chi gian khó....” Những cái bắt tay, những cái ôm... tôi với anh dù đã quen hay vẫn còn lạ nhưng không sao, chúng ta đều là lính của Quân Tiên phong cả mà.
Chúng tôi tranh thủ bắt chuyện làm quen với anh em đến nhận quân. Thôi thì đủ các thứ chuyện về cuộc chiến đang ngày đêm diễn ra tại chiến hào biên giới. Nào là vào đấy chúng mày phải hết sức cẩn thận, có thằng đi đái đêm cũng vấp phải mìn lá, cụt cẳng dễ như chơi. Nào chuyện lính có kinh nghiệm chiến đấu thì đã giải quyết cho ra quân hết rồi, còn lại toàn bọn ú a ú ớ như chúng mày vào trận cứ lơ ngơ như “ bò đội nón “. Bắn B40, B41 xong lại cứ nhìn loanh quanh để tìm nhặt cắt tút vv.. và vv. Có những chuyện thật, nhưng cũng có những chuyên mà chúng tôi biết chắc là các bố bịa ra để “ doạ “ chúng tôi. Tôi chẳng thấy ông nào ở trại chăn nuôi bò hay nông trường trồng lúa đến nhận chúng tôi về để đi vắt sữa hoặc đi cày cả. Tất cả sẽ phải rồi sẽ phải lao ra mặt trận. Hết rồi nhé Thọ ơi, Minh ơi, Long ơi đừng có tơ tưởng hão huyền nữa.
Sau bữa cơm trưa vội vàng, lũ tân binh còn lại tập trung nghe đọc danh sách. Thằng về E1, thằng về E2, thằng về E3. Lại chia tay, lại bịn dịn. Khoảng hơn 2 giờ chiều, chúng tôi lên xe để về đơn vị mới. Ngồi trên xe, tôi ngắm nhìn cảnh vật làng quê miền nam qua ô cửa sổ. Những luỹ tre làng ở miền bắc quê tôi được thay bằng những hàng dừa xanh ngăn ngắt. Cũng trời xanh mây trắng, cũng những cánh đồng lúa xanh mát êm đềm. Xa xa, chóp núi Bà Đen màu xanh sám loáng ẩn hiện trông giống hệt chiếc bát B52 úp ngược. Đất nước thật thanh bình và đẹp. Những người nông dân đang làm đồng ven lộ nhìn thấy đoàn xe của chúng tôi, họ ngẩng mặt lên nhìn rồi lại cúi xuống chăm chú làm việc, cũng đôi khi có những cánh tay đưa lên vẫy vẫy. Liệu rằng có ai trong số họ biết chúng tôi đang đi đâu không nhỉ? Nghĩ đến cái cảnh đất nước thanh bình, phong cảnh tươi đẹp vô cùng mà mình thì đang lao vào chỗ chết, tôi thấy dâng lên một cảm giác nghèn nghẹn, một chút chát đắng trong lòng, thật chẳng thích thú chút nào.

Xe vẫn chạy, đoạn đường từ thị trấn Trảng Bàng trở đi, đường bắt đầu xóc kinh khủng. Lính tráng ngủ ngà ngật, không khí trên xe nóng nực và ngột ngạt vô cùng. Tôi vẫn không hề chợp mắt. Tôi nhớ nhà, nhớ Hà nội thân yêu của tôi, nơi mà bây giờ đã cách xa gần hai nghìn cây số. Cái khoảng cách đơn thuần vật lý ấy sao đối với tôi nó xa xôi đến vậy. Mới ngày nào, tôi và bọn cùng lớp còn chốn học để ra bãi cát sông Hồng đùa nghịch, sang tận bờ đê bên Gia lâm xem máy bay cất hạ cánh... Thế mà bây giờ, mỗi đứa mỗi nơi, tất cả đã cách xa, xa lắm rồi. Nhớ ngày mới bước vào quân ngũ, tôi vẫn hồn nhiên viết rằng :
“ Ba năm lính không dài đâu em nhé
Nó trôi qua như giấc ngủ trưa hè
Mặt hồ Tây chưa kịp thay ngọn sóng
Anh đã về, cô bé có tin không? “
Nhưng có lẽ, vào lúc này đây cái niềm tin hồn nhiên ấy đã bắt đầu lung lay, bắt đầu thay đổi. Có lẽ cuộc chiến đấu đang chờ đợi tôi ở phía trước không thể nào kết thúc trong ngày một ngày hai. Xung đột biên giới , ai mà biết nó kéo dài đến bao giờ?

Hơn 5 giờ chiều, chúng tôi đã đến nơi. Tôi cũng không hiểu mình đang ở đâu . Một xóm nhỏ bé vắng vẻ, không một bóng người dân. Đó đây, chỉ thấy toàn lính là lính. Tôi, Minh, Long được hướng dẫn vào tạm trú trong một ngôi nhà gạch, mái ngói, sàn lát gạch hoa bóng lộn. Mùi ẩm thấp sực lên chứng tỏ đã từ lâu nhà không hề có người ở. Trong nhà không có một chút đồ đạc nào ngoài chiếc bàn thờ ở chính giữa. Thằng Minh lên tiếng :
- Chắc dân ở đây chạy hết rồi chúng mày ạ.
Tôi và thằng Long đi quanh nhà xem xét. Ngước nhìn lên phía trên bàn thờ, một bức tranh rất lớn vẽ một con mắt toả ánh hào quang rực rỡ lồng trong khung kính, treo trang nghiêm ở giữa. Bức tường bên tay phải có một tấm bằng dạng như huân chương, trong đó có ghi : Đại đạo tam kỳ phổ độ và địa danh nơi chúng tôi đang đứng chân ( tôi đoán như vậy ). Xã Tân Thuận ( hay Tam thuận tôi nhớ không chắc lắm ), huyện Bến Cầu, Tỉnh Tây Ninh. À, thì ra chúng tôi đang ở đây. Thằng Long xem xét chăm chú một bức tranh treo trên tường rồi bảo :
- Này, Đạo này thờ cả Tôn Ngộ Không chúng mày ạ.
Một bức tranh thờ cỡ nhỏ, vẽ rất nhiều nhân vật. Từ Đức Phật thích ca mâu ni, Phật Bà quan Âm... và có cả Tề thiên đại thánh đang vung cây gậy như ý. Có lẽ đúng như thằng Long nói.
Thằng Long nhanh chóng tìm được cái giếng, nước trong và mát. Cái thằng này cứ củ lẩn cù lần cả ngày chẳng nói lấy một câu, nhưng được cái rất chu đáo. Trong khi tôi và thằng Minh cứ lang thang xem xét vớ vẩn thì nó lo mượn chổi ở tận đâu mang về quét dọn nhà sạch sẽ. Giăng mắc dây phơi quần áo cho chúng tôi cần thận. Đúng là Long “ thần sầu “.
- Thôi, tất cả đi tắm giặt đi. Thằng Long ra lệnh. Tất nhiên là “ tuân chỉ “ rồi. Tắm táp xong xuôi, cái mệt nhọc phần nào đã trôi bớt đi theo dòng nước mát. Chúng tôi dải chiếu nằm kềnh ra giữa nền đá hoa mát rượi
Một anh lính cũ sang gọi chúng tôi đi ăn cơm chiều. Bữa cơm đầu tiên trong đời lính chiến thật không nuốt nổi. Cơm thì vừa hôi, vừa vàng khè, thức ăn chẳng có gì ngoài đĩa rau muống luộc vừa sống, vừa già. Thêm một đĩa nhỏ là đĩa tép rang mặt chát. Vừa trải qua một ngày mệt mỏi, cộng thêm nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ bạn bè do vậy tôi không thể nào ăn hết được bát cơm. Ăn cơm xong, trời vừa tối. Chúng tôi trở về căn nhà trú quân, trong nhà vo ve đầy muỗi. Mặc dù ở đây không phải là Đồng Tháp Mười “ muỗi nhiều như trấu vãi, đỉa nhiều như bánh canh “ mà Nguyễn Sáng đã từng mô tả trong các truyện ngắn của mình, nhưng đối với chúng tôi, những thằng lính Hà nội mới chân ướt chân ráo vào đây đã là quá khủng khiếp. Giặc đâu chưa thấy nhưng chúng tôi đã phải chiến đấu với bọn giặc muỗi khốn kiếp này cái đã. Một anh lính cũ thấy chúng tôi loay ha loay hoay mắc màn khi trời mới vừa tắt nắng, liền phì cười :
- Sao tụi bây đi ngủ sớm “ dậy “ ?
- Chúng em thấy muỗi nhiều quá nên tìm cách mắc màn thôi chứ ngủ nghê nỗi gì. Thằng Minh mau mắn trả lời.
Anh liền bày cho chúng tôi ra ngoài vườn vơ một búi rơm và bẻ thêm một ít lá tươi, tất cả được đặt ngay trên vỉa hè ngôi nhà, cạnh chiếc cửa ra vào rồi đốt. Một làn khói đặc quoánh bốc lên xua đuổi những đàn muỗi hung hãn ra xa. Anh em ngồi vui vẻ trò chuyện trong cái làn khói mờ mịt ấy.
Đêm ấy, chúng tôi ngủ rất ngon giấc mặc dù thỉnh thoảng trong đêm khuya, tôi vẫn vẳng nghe tiếng pháo ì ùng từ tận đâu vọng lại.

Bữa trưa hôm ấy, ngoài những món “ truyền thống “, trong mâm cơm đơn vị còn xuất hiện món “ gà đồng “. Thịt chuột ấy mà. Lúc gần trưa, một bà má từ ở đâu mang đến cho chúng tôi một rổ chuột, con nào con ấy béo tròn to bằng cổ tay. Bà xếp đều những con chuột lên bãi cỏ ven đường, vơ một nắm rơm phủ lên rồi thui, bà lật qua, lật lại những con chuột và thui cho đều. Tôi chăm chú đứng nhìn bà má làm nhưng trong lòng thì sợ phát khiếp. Tôi vốn sợ chuột từ bé. Cứ nhìn thấy chuột là hồn vía tôi bay đi đâu hết cả. Má mang số chuột vừa thui ra cầu ao trước nhà. Soạt..soạt.. má lột da con chuột rất nhanh, cả rá chuột bây giờ con nào con ấy trắng phau phau. Đầu, đuôi, chân, cẳng bỏ hết, rạch bụng, bỏ ruột. Chà chà..bây giờ trông cũng hấp dẫn đấy chứ nhỉ. Má chặt thịt chuột ra thành những miếng đều nhau bằng ba đầu ngón tay. Hành khô, mắm muối, bột ngọt, hạt tiêu bắc nêm vào ướp cho ngấm. Nào, bắc chảo lên tụi bây. Tôi giúp Má “ nổi lửa lên em “, thịt chuột được rán hơi vàng rồi cho vào một cái xoong, Má đổ vào một ít nước nước cốt dừa và nước dừa rồi bảo tôi đun liu riu nhỏ lửa. Chả gì lúc còn ở nhà, nhà tôi chỉ có ba anh em trai, mẹ tôi lại ốm yếu nên việc chợ búa, bếp núc tất cả đều ở một tay tôi nên chuyện nấu ăn tôi cũng chẳng ngô ngọng gì lắm. Mùi xoong thịt chuột khía nước dừa bốc lên thơm ngào ngạt điếc cả mũi.
A lê, tiến lên ! Tất cả xúm xít lại, rượu vào và Zô..zô...zô.... Món này mà nhậu với rượu đế chắc cũng đã lắm đây. Bà má hiền hậu nhìn chúng tôi. Một anh lính cũ bảo tôi :
- Chú mày biết không, ở đây thịt chuột phải 7 đồng một ký, trong khi đó thịt bò ngon chỉ có 5 đồng thôi. Bả quý chúng mày lắm mới đem cho và làm cho chúng mày nếm thử đó.
Tôi ngồi ăn cũng hô hào zô ..zô nhấm nháp chút rượu, tôi vốn không uống được là bao, nhưng tôi không hề động đũa đến món thịt chuột hấp dẫn kia mặc dù biết rằng rất là ngon đấy. Lúc giúp má làm bếp, tôi đã mấy lần suýt chết sặc vì nuốt nước miếng. Thằng Minh, thằng Long thì cứ chén tì tì , xít xoa ra chiều thích thú.
Buổi chiều, ba thằng chúng tôi lang thang ra đầu xóm. Thì ra đây là nơi trú quân của một trạm quân y , tôi chẳng biết là của đơn vị nào, những chiếc xe “ Đốt “ chở thương binh từ chiến tuyến về thỉnh thoảng lại rú còi ầm ĩ. Người ta khiêng thương binh xuống xong, chiếc xe lại quay đầu phóng đi ngay nghe chừng vội vã. Chúng tôi hiểu rằng, chiến sự xảy ra rất gần đây, rất khốc liệt và chúng tôi chắc cũng sắp tham gia vào những sự kiện khốc liệt ấy.

Hai ngày tiếp theo đó, toàn bộ tụi lính mới tò te chúng tôi tập trung lại để học chính trị và nghe về truyền thống của Quân đoàn, sư đoàn và nhất là truyền thống anh dũng của trung đoàn 1, trung đoàn mang tên Bình giã ( Cái vụ này nhờ Trungsy1 nhắc lại tôi mới nhớ ra. Chứ tôi cứ lẫn lộn giữa Đồng xoài với Bình giã mà chẳng biết trung đoàn nào là trung đoàn của mình - Cảm ơn Trungsy1 nhé ), cái địa danh nhắc tới trận đánh thử lửa đầu tiên giữa lực lượng viễn chinh tinh nhuệ của quân đội Mỹ với Chủ lực của quân giải phóng miền nam Việt nam. Ngồi nghe mà thằng Minh càu nhàu với tôi :
- Sốt ruột, cứ làm như có mỗi trung đoàn này anh hùng. Lão này mà nghe truyền thống trung đoàn 36 của mình chắc là phải vãi đái !
Thì ra, trong tâm tưởng của nó, nỗi nhớ về trung đoàn cũ vẫn bao trùm tất cả. Cũng phải thôi, mới có hai ba ngày, làm sao đơn vị mới có thể gắn bó với chúng tôi như đơn vị cũ – Trung đoàn Bắc Bắc thân yêu của chúng tôi được.

Ngày hôm sau 27.05.1978, sau bữa cơm trưa, chúng tôi được lệnh chuẩn bị sẵn sàng để lên đường. Tụi lính mới chúng tôi tập trung lại nghe quân lực trung đoàn đọc danh sách phân chia tân binh về từng tiểu đoàn, từng đại đội. Thế là lại chia tay. Thằng Long về hoả lực C14 DK82 của D3, tôi và thằng Minh cùng về C11 – D3. Hai thằng mừng rú lên. Thế là “ tổ tam tam “ của chúng tôi đã chia thành hai mũi, nhưng vẫn còn may là cùng trong đội hình chiến đấu của tiểu đoàn 3. Chúng tôi, vai mang ba lô theo sự hướng dẫn của cán bộ tiểu đoàn về đơn vị mới. Tiểu đoàn 3 hiện đang trú quân ở một xóm nhỏ giữa cánh đồng, cách không xa trung đoàn là bao. Có lẽ đây chỉ là nơi trú quân tạm thời để nghỉ ngơi và bổ xung quân số sau những trận chiến ác liệt và hao binh tổn tướng. Chúng tôi đến một căn nhà nhỏ - căn nhà của ban chỉ huy tiểu đoàn. Giữa cái sân nho nhỏ là một đống vũ khí bộ binh cũ rích. Một đồng chí cán bộ tiểu đoàn nói với chúng tôi :
- Đây là vũ khí trang bị tạm thời cho các đồng chí, mỗi đồng chí, tuỳ theo khả năng sử dụng của mình hãy chọn lấy một khẩu rồi sau đó về luôn đơn vị của mình như đã được biên chế.
Tôi chọn đi chọn lại, cuối cùng nhặt lấy một khấu AK47 còn tương đối tàm tạm. Thằng Minh cũng vậy, nó cũng tự trang bị một khẩu AK như tôi. Từ khi về đến tiểu đoàn, tôi không còn nhìn thấy thằng Long đâu nữa. Thằng Minh vừa kiếm ở đâu được một chiếc mũ sắt của lính nguỵ cũ, nó liền đội ngay lên đầu, nhe nhởn cười với tôi :
- Đội thứ này còn tốt chán so với cái mũ cối đểu của mày. Mũ này mảnh đạn văng vào chắc chẳng ăn thua gì đâu.
Lũ lính mới về bổ xung vào cho C11 chỉ khoảng 9, 10 đứa. Tôi với Minh về cùng một B. Lại được cùng hầm với mày rồi Minh ơi. Tôi thầm nghĩ như vậy.

Đại đội 11 trú quân trong một ngôi nhà nhỏ. Không, phải gọi là lều thì đúng hơn. Ba bề bốn bên trống hoác. Trong nhà chẳng có ai ngoài một bà má đang đun nấu nồi gì đó dưới bếp. Bên cạnh nhà, một con bò đang ung dung nằm nhai trệu trạo dưới gốc cây Bông gòn lúc lỉu những quả là quả. Thỉnh thoảng, một cơn gió nhẹ thổi tới, những bông gòn được gió đưa đi bay vật vờ, thư thái. Đại đội 11 lúc ấy có chừng hai chục mạng, cả cán bộ lẫn chiến sỹ, cộng với chúng tôi mới bổ xung là thành khoảng ba chục. Tốp lính cũ đón chúng tôi cũng không lấy gì làm nồng nhiệt lắm. Có lẽ họ đã quá quen với những lần bổ xung như thế này rồi chăng. ( Sau này tôi mới biết, trong năm 1978, đơn vị được bổ xung 12 đợt tất cả. Vậy mà chỉ qua vài trận, con số của đại đội chỉ còn đếm trên đầu ngón tay ). Những người lính cũ, kẻ đứng, người ngồi đang kể chuyện gì cho nhau nghe mà cười nói rất rôm rả, chẳng tỏ ra cần để ý đến lũ chúng tôi. Tôi bắt đầu có cái cảm giác khó chịu cho cái thái độ “ bất lịch sự “ của những người đồng đội mới này. Lúc ấy, có hai anh lính cũ khiêng về đặt ở giữa sân một cái hòm gỗ dài và vô số những thùng đạn. Tốp lính cũ lúc đó mới xúm vào cùng chúng tôi dùng dao mở thùng đạn. Chúng tôi được phát mỗi người 150 viên đạn AK, những viên đạn vàng óng sáng lóng lánh như được mạ vàng, trông thật đẹp mắt. Chẳng bù cho hồi còn ở ngoài 308, tôi được phân công đi lên kho Lương Sơn nhận đạn về phục vụ bắn đạn thât. Tôi thó được 10 viên AK mà cứ phải dấu dấu diếm diếm mãi để dùng bắn linh tinh hồi tập huấn trinh sát ở Đà Bắc – Hoà Bình, tí nữa còn bị ăn một án kỷ luật. Tốp lính cũ bật chiếc thùng gồ dài dài ra. Chao ôi, một khẩu RPD Trung quốc mới cứng cựa, khẩu súng được bọc trong một lớp giấy tẩm dầu, trong quét đầy mỡ “ bò “. Một anh đi mượn bà má một chiếc nồi to rồi đun lấy một nồi nước sôi. Họ tháo tung khẩu trung liên rồi rửa kỹ từng bộ phận bằng nước sôi có hoà lẫn xà bông. Đến lúc lắp lại khẩu súng, tôi thấy họ cứ lúng ta lúng túng không lắp nổi hai má thép trượt trong ổ quy lát, tôi liền nhanh nhẩu :
- Các anh để em lắp giúp cho. Ở ngoài bắc, em toàn sử dụng loại RPD này mà.
Chỉ trong nháy mắt, tôi đã lắp xong khẩu súng. Roát..tạch...roát...tạch. Khẩu súng đã hoạt động trơn tru. Ôi, sau này tôi mới biết là tôi “ dại “. Một anh, chắc là cán bộ đại đội thấy vậy liền nói :
- Hay lắm thằng em, anh giao luôn cho thằng em giữ khẩu này. Còn khẩu AK, em đưa đây để anh cho người mang trả về cho tiểu đoàn.
Thế là “ toi “, thay vì tôi mang cơ số đạn 150 viên, bây giờ tôi đã phải mang thêm 150 viên nữa vì cơ số của RPD là 3 hộp đạn, mỗi hộp 100 viên. Trong mỗi hộp có 4 dây tiếp đạn, mỗi dây 25 viên. Cả đạn cả súng có lẽ phải hơn mười ki lô có lẻ. Trong khi chúng nó chỉ nhoáng một cái đã lắp xong đạn vào băng, còn tôi thì hì hục mãi mới xong vì dây tiếp đạn còn mới cứng, ấn đạn vào dây đau cả mấy đầu ngón tay.
Có tiếng bà má gọi :
- Này mấy con, ra ăn mỗi đứa bát chè má vừa nấu rồi còn lên đường chứ.
Ơ, thế không ở đây nữa à, lại còn đi đâu nữa đây. Tôi thầm nghĩ. Không phải tôi sợ gì việc phải đi chiến đấu, nhưng tôi nghĩ rằng ít nhất phải cho chúng tôi từ từ làm quen đơn vị, làm quen đồng đội, làm quen.....làm quen...đủ thứ, rồi mới đưa chúng tôi vào trận chứ. Mới chân ướt chân ráo thế này thì... quả là một cú sốc!
Nồi chè bà má chiêu đãi chúng tôi trước khi ra trận chắc hẳn là ngon lắm. Nhưng nào tôi có húp được tí nào đâu. Mồm miệng nhạt thênh thếch, cái cảm giác buồn buồn, chan chán. Một chút lo lo, một chút nhơ nhớ gia đình, quê hương, thật là khó tả.

Nào, chúng ta lên đường ra trận.
Chúng tôi hành quân theo hàng một ra đến lộ, mấy cái xe Reo quân sự đã đợi sẵn ở đó. Cả tiểu đoàn lên xe nhằm biên giới thẳng tiến. Xe đi đến một ngôi chùa nhỏ ven đường thì dừng lại. Chính trị viên đại đội ( người Hải phòng - tôi quên mất tên rồi ) nói lớn :
- Đây là “ cứ ba lô “ của đại đội ta tại Mộc Bài, các đồng chí tân binh đưa hết đồ đạc, tư trang không cần thiết xuống xe để cất vào “ cứ “. Mỗi đồng chí chỉ nên mang theo những thứ thật cần thiết như : Mùng, khăn mặt, bàn trải đánh răng, quần áo lót và một bộ quần áo dài. Còn những thứ khác không cần thiết thì để lại.
Tôi và thằng Minh nhanh chóng thống nhất bỏ nốt bộ quần áo dài ở lại, Chỉ mặc duy nhất một bộ trên người cho nó nhẹ. Tôi cố đem theo thêm một quyển sổ tay ghi chép, một cái bút Trung quốc và mấy chiếc phong bì để viết thư. Đoàn xe lao nhanh.
Biên giới là đây ư, một dải bờ đê mới đắp, bên trên trồng chi chít những cây tre gai chạy dài tít tắp. Mấy cái nhà đổ vỡ tan hoang, nơi đây chắc trước là nhà của đồn biên phòng. Bên kia biên giới, những cánh đồng mênh mông không một bóng người, những cây Thốt lốt mọc men theo bờ ruộng, in bóng u buồn trên nền trời mây giăng xám xịt. Chiều đang dần buông, không khí vắng lặng hoang tàn, lạnh lẽo. Xe chạy khoảng vài chục phút thì dừng lại. Tôi nhẩm tính xe mới chạy được khoảng chục cây số là cùng.
- Tất cả xuống xe. Xe chỉ chở các đồng chí đến đây. Còn từ đây trở đi, các đồng chí hành quân bộ. Anh Hành – Lê Đại Hành ( tức Hành “ chéc “ ) - chính trị viên tiểu đoàn lên tiếng.
Chúng tôi xuống xe. Đường hãy còn tốt sao không chở anh em đi một đoạn nữa, đến lúc nào đường không đi được nữa thì thôi. Tôi thầm thắc mắc. Như thấu hiểu suy nghĩ của tôi, một anh lính cũ ( sau tôi mới biết đấy là B trưởng B tôi – Anh Nhạn, Nhạn Khùng ) nói để tôi hay :
- Thật ra xe có thể đi đến tận “ cứ “ anh nuôi, nhưng đù má mấy thằng lái xe D29 này nó sợ bị Miên nó phụt DK nên bắt anh em mình xuống đây đấy.
À, thì ra là vậy. Có nghĩa là chúng tôi đã rất gần địch rồi. Chúng tôi đi khoảng một lúc là tới cứ anh nuôi của đại đội. Một căn nhà ở ngay ven lộ 1, chúng tôi tạt vào hạ súng xuống ngồi nghỉ. Mới có một đoạn đường mà sao tôi đã thấy oải vì khẩu súng quá nặng. Khi còn huấn luyện, tôi cũng giữ khẩu này nhưng chỉ giữ để lau chùi bảo quản thôi làm gì có đạn. Còn bây giờ chỉ thêm 3 cơ số đạn nữa thôi mà sao nó nặng thế không biết. Chúng tôi được anh nuôi chia cơm, cơm nóng ăn với tép rang ( lại tép rang – Tôi sợ tép rang từ hồi ấy cho đến tận bây giờ ) và mỗi thằng hai nắm cơm vắt cùng một gói tép ( lại tép ), tiêu chuẩn để ăn cho đến chiều hôm sau. Ăn xong, chúng tôi ngồi nghỉ trên những khúc gỗ tròn nằm rải rác xung quanh ngôi nhà.

Bỗng Ùng...ùng..ùng.... vu...vu...vu..
Tôi và thằng Minh nhanh như cắt, ôm súng lao cắm đầu vào cửa hầm chữ A ngay bên cạnh chỗ ngồi. Trong hầm đầy bùn và nước lõm bõm. Ầm...ầm...ầm tiếng pháo nổ từ phía rất xa vọng lại. Tiếng cười rộn lên khắp nơi. Tốp lính cũ đang cười ngả cười nghiêng. Anh Nhạn “ khùng “ B trưởng vội giải thích cho chúng tôi :
- Chúng mày phải lắng nghe để phân biệt, tiếng ùng..ùng đấy là tiếng nổ đầu nòng của cối 82 ly, còn tiếng vu...vu.. là tiếng đạn nó bay trên đầu mình, vậy là nó sẽ rơi ở rất xa chỗ mình đứng. Lúc nào mày nghe thấy nó xẹt...xẹt chói tai thì phải lăn ngay xuống, dù đấy là rãnh nước hay hố nước. Nó sẽ lao xuống và nổ ngay bên cạnh mình đấy. Đù má, may thì mình sống, không may thì mình dính. Chúng mày lao vào hầm như lúc nãy là...đù má.. không kịp đâu.
Thỉnh thoảng, trong câu nói của anh cứ kèm hai tiếng “ đù má “.Nhưng tôi vẫn nhìn anh với tấm lòng biết ơn. Bài học đầu tiên của chúng tôi trên chiến trường thật sống động và dễ nhớ. Giáo cụ trực quan là quả pháo nhằm bắn thẳng vào chúng tôi, kết quả bài học là mạng sống của chúng tôi. Làm gì mà chẳng dễ thuộc. Anh còn hướng dẫn chúng tôi từ cách mắc tăng võng như thế nào vừa chắc chắn nhưng vừa dễ tháo khi cần mà lại không bị nước mưa hắt vào khi mưa to. Tôi biết những lời dặn dò của anh là sự đúc kết xương máu của biết bao thế hệ những người lính chiến chúng tôi. Anh nói : “ Trên chiến trường, chúng mày nhanh 1/10 giây là chúng mày thắng, chúng mày chậm 1/10 giây là “ đù má “ chúng mày phải trả bằng mạng sống. Hãy nhớ lấy điều đó “. Nhưng anh ơi, học thì thuộc đấy nhưng hành thì thật là khó. Nào ai biết thế nào là nhanh, thế nào là chậm đây. Lúc biết ra thì tất cả đã là quá muộn rồi. Anh đưa cho tôi và thằng Minh mỗi đứa một cái túi mìn Claymo còn khá mới để đựng những đồ lặt vặt. Thằng Minh bây giờ ngoài khẩu AK còn có nhiệm vụ mang thêm quả Claymo nữa.

Trời tối hẳn, chúng tôi bắt đầu di chuyển. Lúc đầu, cả tiểu đoàn còn di chuyển ngay trên mặt lộ. Đi được khoảng hơn 1 cây số, chúng tôi bắt đầu rẽ trái xuống đi men theo ven lộ. Hôm nay đã là hạ tuần rồi, trăng mọc rất muộn vả lại cũng nhiều mây nên trời tối đen. Tôi quan sát xung quanh mà chẳng nhìn thấy gì, chỉ thấy bóng những cây thốt lốt đen thui in bóng lên nền trời mờ ảo. Thỉnh thoảng, lệnh từ phía trên truyền xuống thì thào..im lặng...im lặng hoặc ...đi thấp xuống, cúi thấp xuống. Nghe lệnh đi thấp xuống, tôi lom lưng thấp xuống nhưng chỉ một đoạn ngắn lưng tôi đã mỏi nhừ. Khẩu RPD bây giờ mới tỏ rõ cho tôi biết sức nặng của nó, cái hộp tiếp đạn dự phòng cứ lách cách đập vào chiếc Xanh tuya lông làm hông tôi càng mau mỏi. Mình thật là ngu. Tôi lầm bẩm. Bỗng một bàn tay ấn vào vai tôi :
- Đi thấp xuống chú em, nó nhìn thấy nó cho một tràng mười hai ly tám bây giờ.
Tôi cố nhìn xung quanh. Có thấy chó gì đâu, tối mù thế này ngay cả người bên cạnh còn chẳng nhìn rõ nữa là địch ở mãi tít tận đâu đâu. Tôi thầm nghĩ. Ngay lúc đó, cùng...cùng...cùng...cùng....Những cục lửa đỏ lừ to bằng nắm tay bay vèo vèo trên mặt lộ. Bỏ mẹ, nó nhìn thấy mình rồi à !!!? Khẩu 12.8 ly của địch đặt ngay trên mặt lộ từ tít phía trên bắn xối xả một lúc rồi im bặt. Anh Nhạn thì thào :
- Nó bắn hú hoạ đấy em ạ. Em chuẩn bị cùng anh vượt lộ nhé. Kiểm tra lại xem đã chắc chắn tất cả chưa?
Tôi xem lại súng đạn, tư trang. Trong lồng ngực, tim tôi đập thình thịnh, hơi thở gấp gáp. Không, chẳng phải tôi sợ đâu nhưng tôi hồi hộp quá. Lần đầu tiên trong đời, tôi phải đi trước một mũi súng cứ rình rập để bắn mình. Đừng cười, cứ thử đi rồi sẽ biết. Nó bắn mình thật chứ đâu phải trò đánh trận giả ngoài Bờ hồ thời còn mặc quần thủng đít mà cười. Cùng...cùng...cùng..loạt đạn vừa dứt, anh Nhạn kéo tôi chạy băng qua mặt lộ rồi anh lại chạy lộn lại phía bên kia. Cứ như vậy, những anh lính cựu binh lần lượt hướng dẫn chúng tôi băng qua mặt lộ một cách an toàn. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Thì ra cũng không có gì ghê gớm lắm nhỉ. Chúng tôi đi men theo bên phải lộ rồi băng qua một khu vườn đào lộn hột ( đấy là sáng hôm sau tôi mới biết ). Trung đội tôi tới chiếm lĩnh một khu vườn rậm rạp. Một đơn vị của E209 - F7 được lệnh rút về tuyến sau bàn giao trận địa lại cho chúng tôi. Chúng tôi ổn định lại đội hình, phân công nhau các hướng phải phụ trách. Tôi và thằng Minh được phân công gác một mũi. Tôi gác từ tối đến nửa đêm, thằng Minh gác từ nửa đêm đến sáng. Chao ôi, nhớ lại ngày còn đang huấn luyện ngoài 308. Cả đại đội mới có một vọng gác. Lần lượt từ trung đội nọ sang trung đội kia, mỗi trung đội gần 30 thằng. Tính ra cả 6, 7 tháng huấn luyện tôi mới phải gác có 3, 4 lần. Mỗi lần 1 tiếng đồng hồ mà đã thấy ngại. Đã có lần trời rét quá, trong phiên gác tôi tìm cái ổ rơm chuyên dùng để ủ thùng nước nóng cho đại đội uống, ngủ một mạch. Đến khi B trưởng thấy quá giờ mà chẳng thấy tôi gọi đổi gác, ra kiểm tra thấy tôi vẫn ôm súng nằm ngủ ngon lành. Kết quả là sáng hôm sau nhận một án kỷ luật là đào một hố chứa rác ngay đầu nhà đại đội. Bàn tay phồng rộp vì đào trên đất đá ong. Vậy mà bây giờ, đêm nào cũng phải gác mà lại chỉ có hai thằng một đêm. Mà mấy ông lính cũ lại cứ nằm ngủ chỏng dái trong hầm. Điên máu thật. Đúng là ma cũ bắt nạt ma mới.
- Thằng em gác đến nửa đêm, lúc nào thấy chòm Tua rua lên đến đỉnh đầu thì vào gọi thằng Minh ra thay gác. Nhớ là chỉ bấm vào chân nó thôi, đừng gọi ầm lên nhé.
Dặn dò xong chúng tôi, anh Vinh “ heo “ chui ngay vào hầm ngủ. Chòm sao Tua rua, cái chòm sao cong cong hình giống như cái dải đất hình chữ S Việt nam ta đó, sao lúc này nó bò lên chậm chạp đến như vậy. Ngồi gác mà tôi cứ ngắm nhìn lên bầu trời. Nó xoay xoay nhích dần lên một cách chậm chạp vô cùng. Xung quanh tôi chỉ còn tiếng vo ve của đàn muỗi khổng lồ háu đói, tiếng côn trùng kêu rên rỉ , ộp oạp từ ngoài cánh đồng vọng vào. Vừa sốt ruột ngắm chòm Tua rua, tai tôi lại phải căng ra để nghe tiếng côn trùng rỉ rả. Lúc nãy, anh Nhạn đã dặn chúng tôi là nếu thấy côn trùng đang kêu mà bỗng im bặt thì phải gọi các anh dậy ngay. Có thể bọn trinh sát Miên nó bò vào tập kích đấy. Đầu óc tôi căng lên như sợi dây đàn. Thỉnh thoảng lại có chú chuột đồng chạy đâm bổ vào chỗ tôi ngồi. Chao ơi là sợ. Kiểu này ngày mai mình phải khâu cái khăn mặt lại thành cái mũ chùm vào đầu để chống muỗi mới được, kẻo sau mấy hôm thì sốt rét là cái chắc. Cái bọn muỗi này xoa thuốc chống muỗi cũng chẳng ăn thua gì. Các bạn hãy hình dung người lính như tôi ngồi gác đêm ra sao nhé. Đầu đội chiếc mũ cối, dưới là chiếc khăn mặt bông màu xanh lá được khâu lại, trùm lên phủ từ trên đầu xuống kín gáy, chỉ hở mỗi đôi mắt. Chân đi đôi giầy lính cao cổ, tất ( vớ ) kéo cao chùm ra ngoài ống quần. Tất cả chỉ để chống muỗi. Phần da thịt nào hở ra ngoài không trùm kín được thì xoa thuốc chống muỗi của Mỹ.

Rồi thì cuối cùng, đêm gác đầu tiên trên chiến tuyến cũng đã trôi qua một cách yên bình. Mấy ngày hôm sau, chúng tôi khi thì kiểm tra sửa sang lại công sự, khi thì ngồi tán tào lao. Các anh lính cũ đã nhìn chúng tôi bằng ánh mắt thân thiện. Các anh tận tình chỉ bảo tỉ mỉ cho chúng tôi từng tí một. Sáu tháng huấn luyện có lẽ chẳng có tác dụng sát sườn bằng những cuộc nói chuyện tào lao xung quanh ấm trà Blao và gói thuốc rê lúc này. Thằng Minh ngồi tỷ mẩn khắc tên Minh Nguyệt bằng tiếng Trung Quốc lên quả da láng M26. Cái thằng đến là tài hoa. Chơi đàn ghita cũng được, hát cũng được, vẽ vời cũng không đến nỗi nào. Nó được thừa hưởng cái gien tài hoa của Bố nó, hoạ sỹ Quang Mộng Goòng. Dáng cao cao, trắng trẻo, nếu không có chiến tranh thằng này mà đi cua gái thì khối em “ chết “ với nó. Khắc xong nó thầm thì với tôi : “ Quả này tao sẽ dùng để chia đôi với tụi nó. Chúng nó không bao giờ bắt sống được thằng Minh này”. Có lẽ những câu chuyện bên bàn trà về sự dã man của lính Pôn Pốt đối với tù binh đối phương khi rơi vào tay chúng đã tác động đến thằng Minh. Nó lau chùi quả M26 đến là cẩn thận. Chắc nó lo rằng khi cần sử dụng đến mà quả lựu đạn này lại không nổ chăng? Các bữa ăn buổi sáng và buổi trưa vẫn diễn ra như thưòng lệ, cơm nắm và tép rang. Riêng buổi chiều, anh nuôi mang trực tiếp....tép rang và cơm nóng lên trận địa. Ôi, cái món tép chết tiệt ấy. Vừa mặn chát, sạn ngấm sạn ngầm lại còn có mùi tanh tanh, thum thủm. Thật khó mà nuốt được. Tôi thuộc vào cái loại “ phàm phu tục tử “ mà cũng thấy chối. Được cái, đơn vị đang hoạt động tĩnh tại, các anh em trong các B cũng rất chịu khó cải thiện. Nào thì rau tập tàng nấu canh, vài ngọn lá ớt, vài ngọn rau dền, mùng tơi, vài ngọn rau muống mọc hoang và cả cái thứ rau gì lá hơi tim tím, nhơn nhớt hình giống như ba ngón tay xoè ăn chua chua, ngọt ngọt như có mì chính mà tôi quên mất tên ( Nấu canh cá thì tuyệt vời - Ở Việt nam tôi không thấy có ), thế là được một nồi canh hoàn hảo, nào thì ớt xanh bằm trộn bột canh và ....thịt chuột đồng. Anh B phó họ Quách ( tôi quên mất tên ) người dân tộc Mường – Hoà Bình làm bẫy bắt chuột rất nghề. Chỉ một vài đoạn lõi dây dù, vài thanh tre là có được ngay dăm cái bẫy. Bỏ một ít hạt cơm vào cái hốc khoét ở bờ ruộng là sáng hôm sau, tôi đã thấy 2 ống đựng đạn DK82 đầy nhóc toàn chuột. Sợ xanh mắt !!! Những bữa ăn như vậy, tôi thường chuồn sang B bên cạnh ngồi ăn với chúng nó để khỏi phải thưởng thức cái món thịt chuột dù rằng rất ngon lành kia. Thỉnh thoảng, anh Nhạn lại kiếm ở đâu mang về cho chúng tôi một vài mầm ngọn cây dừa. Ngọt và ngon ra phết. Ăn ngon hơn khoai lang sống rất nhiều.

Lại nói một chút về nơi chúng tôi đứng chân. B tôi chiếm giữ một vị trí ở đầu phum, ngay phía sau lưng là một con đường nhỏ nối phum với lộ 1 dài chừng 100 m, chếch sang bên trái, phía sau con đường là nơi đặt khẩu DK 82 của C14 thằng Long ngay cạnh vườn trồng đào lột hột. Phía trước băng qua một cánh đồng hẹp rộng chừng 250 mét là phum Ang Kunh địch đang chiếm giữ. Bên tay phải là chốt của B1 trong cùng đại đội. B của tôi nằm ngoài cùng, hơi chếch phía trên so với khẩu DK của C14. Chếch bên tay phải là một khoảng rừng tràm thấp nhưng rất rậm rạp. Bọn địch thường lợi dụng khu rừng tràm này để lẻn vào tập kích đơn vị tôi. Chốt của tôi, thằng Minh, anh Nhạn là một khu vườn nhỏ nằm ngoài cùng. Trên chốt có hai cái hầm, một hầm chữ Z là hầm chiến đấu, một hầm thùng dùng để ngủ. Trên nóc hầm thùng có lát bằng ba tấm gỗ tốt, dày khoảng 15 phân to như chiếc phản. Mặt gỗ bóng nhãy. Chiều nào yên tĩnh, tôi và thằng Minh cũng leo lên nóc hầm nằm gác chân lên nhau nói chuyện chơi. Chuyện gia đình, chuyện quê hương, bạn bè, chuyện về “ Trăng sáng “ của nó. Nó cứ nhớ mãi hình ảnh đôi chân trắng nõn của nàng khi đi gánh nước. Trắng nõn...trắng sáng...trắng lấp lánh chập chờn khi ẩn khi hiện trong dòng hồi tưởng. Rồi nó kể nó làm quen với cô nàng ra sao, chuyện tình của nó với cô nàng đến đâu rồi... Còn tôi, tôi cứ nằm trên tấm phản, vừa nghe chuyện của nó, vừa ngắm nhìn những đàn ngỗng trời bay miệt mài lên hướng bắc. Ôi, giá mà mình được là con ngỗng này nhỉ. Chắc chỉ một hai hôm sau là mình có thể chao cánh bay lượn trên bầu trời Hà nội thân thuộc rồi. Cứ như vậy...

.Hôm nào rảnh, chúng tôi lại chuồn sang khẩu đội DK 82 của thằng Long chơi. Sang đó để ngồi nghe chuyện do một anh lính 74 người Thanh hoá kể, thôi thì đủ các chuyện. Từ “ Vết thù hằn trên lưng ngựa hoang “, rồi chuyện Tam quốc... ( Mà sao anh ấy lại có thể thuộc làu làu đến như vậy nhỉ? ). Khi thì tán chuyện tào lao đủ thứ trên đời.
Thằng Long vẫn cứ như vậy, vẫn ù lì như thường lệ. Nó ngồi trong hầm chăm chú đọc sách mặc kệ mọi chuyện ầm ào diễn ra xung quanh. Nó đọc những gì mà chăm chú đến vậy? Thưa các bạn, nó đang nghiền nào tiếng Anh, toán, lý ,hoá ... Nó bảo với tôi rằng nó phải ôn kẻo lại quên mất. Sau khi ra quân, nó sẽ tiếp tục thi vào Bách khoa. Ôi, ông bạn “ Thần sầu “ của tôi ơi, ông mơ mộng quá, hâm quá mất rồi. Nhưng rồi sau đó một tuần, trong trận đánh tấn công đầu tiên, dưới sức nặng của những quả DK 82 nó phải mang vác, nó mới hiểu ra rằng có lẽ những quyển sách toán , lý, hoá ...kia phải ném xuống vệ đường. Có chăng chỉ giữ lại quyển nào có giấy tốt tốt, mềm mềm để phục vụ cho công đoạn cuối cùng trong hệ ...tiêu hoá. ( Lúc ấy, chưa thằng nào trong chúng tôi nghiện thuốc lá, thuốc rê ).

Chiều ngày 15.06.1978, chúng tôi tập trung lên quan sát sở đại đội nghe bổ biến về chiến dịch tấn công sẽ diễn ra ngày mai. Chúng tôi sẽ phải đánh chiếm mục tiêu là ngã ba Chi Phu. Đội hình tiến công sẽ được xe tăng T54 và M41 yểm trợ, pháo quân đoàn, pháo sư đoàn chi viện bằng 155 mm và 105 mm. Tôi thấy thái độ của anh Nhạn tỏ ra rất vui. Anh bảo chúng tôi:
- Ngày mai đánh chắc cũng nhàn thôi, đù má ( lại đù má ) chúng mày đừng lo.
Chúng tôi được phát bổ xung đạn dược, lương khô và mỗi thằng tiêu chuẩn được một hộp thịt gà - Hà lan hẳn hoi, nặng 800gr. Bên ngoài có đề “ hàng viện trợ cho nhân dân Việt nam trong cơn bão số... “. Có lẽ chúng tôi may mắn được hưởng ké đây mà. Buổi chiều hôm ấy, bữa cơm thật là tươm tất. Có canh rau tập tàng, có đọt dừa xào với...nước thịt gà hộp, có thịt gà hộp đã ướp thêm chút gia vị, bột ngọt, có bát bột canh trộn ớt bằm nhuyễn. Tất nhiên không thể quên cảm ơn các anh nuôi đã mang cho các B một vài lít chất cay. Cứ chén xả phanh đi, ngày mai rồi hãy tính. Đã có mỗi thằng mấy phong lương khô 701 rồi, sợ gì đói. Bữa ăn thật quá đã. Ăn xong, có trà Blao, thuốc lá Đà lạt. Chỉ cần cạy quả mìn Claymo ra, véo một ít thuốc nổ bằng đầu ngón tay dẻo như kẹo kéo là chúng tôi đủ nấu nước uống cho cả bọn. Ngọn lửa xanh lè, nóng rừng rực.

5 giờ sáng hôm sau, chúng tôi băng qua mấy thửa ruộng trước mặt, bí mật tiền nhập, chiếm lĩnh vị trí tấn công. Tiến đến sát bờ tre phía ngoài phum Ang Kunh trước mặt, thằng Minh, anh Nhạn giá chặt 2 quả Claymo xuống đất, rồi dòng dây điện về chỗ chúng tôi. Tôi cũng giá khẩu RPD nhằm thẳng vào ô cửa sổ của căn nhà sàn lợp ngói.
Oàng...oàng....oàng... Pháo quân đoàn, sư đoàn đã đồng loạt nổ. Những ánh lửa chớp lên nhang nháng. Ùng ..oàng..ùng...oàng tiếng DK82 của B thằng Long đang quất từng quả đĩnh đạc. Anh Nhạn, thằng Minh cũng bấm 2 quả Claymo, thực ra tôi đã nhìn thấy thằng địch nào đâu mà hai ông ấy vẫn cứ bấm. Chắc cho nó nhẹ để còn xung phong. Tôi nhằm thẳng ô cửa sổ kéo từng điểm xạ ngắn. Anh Nhạn nhìn tôi gật gù ra chiều ưng ý lắm. Liếc sang cạnh, thằng Minh mặt lấm tấm mồ hôi đang mím mồm, mím lợi điểm xạ hai viên một. Chà, bài học “ sâu tay cò, không lo tắc cú “ bây giờ mới mang ra sử dụng đây, Tôi thầm nghĩ. Phía bên tay trái, trên lộ 1, những chiếc xe tăng T54 và M41 lừ lừ hành tiến, thỉnh thoảng lại giật lên một cái, chớp lửa đầu nòng loé lên rồi tôi mới nghe thấy một tiếng... Oành !
- Đù má, lên tụi bay.
Anh Nhạn tay xách khẩu M79 vọt lên phía trước. Thằng Minh tiến sát theo sau. Tôi lễ mễ ôm khẩu súng “ khốn nạn “ của tôi lao lên, vừa chạy tôi vừa quét túi bụi. Bắn bừa đi cho nó nhẹ bớt. Tiếp cận được tới bờ một con kênh đào, tôi dừng lại để thay hộp tiếp đạn. Thế là hết 100 viên. Bọn địch không chịu nổi trước sức tấn công mãnh liệt của chúng tôi đã bắt đầu rút chạy. Chúng chạy toé ra cánh đồng phía bên tay phải. Những bóng người mặc quần áo đen chạy bán sống bán chết. Thằng mang theo vũ khí, thằng chạy tay không. Chắc là bên cánh trái, với sự có mặt của xe tăng, chúng không dám rút theo phía bên ấy. Chúng không ngờ rằng bên này lại có chúng tôi đang nằm phục đóng lõng. Cả B tôi đồng loạt nổ súng, tiếng cóc..cóc.. oành .. oành của khẩu M79 của anh Nhạn rung lên như tiếng trống, tiếng AK của thằng Minh, tiếng RPD của tôi hoà nhịp hệt như một dàn hoà tấu khi khoan, khi nhặt. Vừa bắn, tôi lại phải vừa để ý nhặt từng dây tiếp đạn rơi ra. Không nhặt thì tí nữa lấy gì mà lắp đạn. Sao cái loại súng này thiết kế dở thế không biết !!! Chúng tôi lao dọc theo bờ kênh, tiến một đoạn ngắn, tôi nhìn thấy một thắng lính Pôn Pốt, nằm ngay trong lòng kênh cạn nước thở phì phò. Một đoạn ruột chắc dính mảnh xé rách bụng lòi ra ngoài. Tôi bỗng thấy thương cảm, đi đến gần định lấy ra cuộn bằng Mỹ để băng giúp cho nó. Thằng Minh gọi giật giọng :
- Thọ, để đấy tao băng cho nó cho.
Tôi vừa ngoảnh lại thì tằng tằng...tằng tằng. Cả bốn viên AK đã găm vào ngực tên lính. Thằng Miên mắt trợn ngược lên, đầu nghẹo sang một bên. Nó đã về với nước chúa.
Thằng Minh lầu bầu :
- Đằng nào mà nó chẳng chết, lòi ruột gan ra rồi. Mày băng cho nó, thế tí nữa mày bị thì lấy c..ra mà băng à?
Nó mắng tôi xối xả. Dù thế nào, trong tôi vẫn cảm thấy bàng hoàng. Đến gần trưa, chúng tôi đã tiến được chừng khoảng 1 cây số và nhập vào đội hình chiến đấu của tiểu đoàn. Vác trên vai khẩu súng, tôi lững thững đi theo sau mấy cái T54 đang hành tiến. Cạnh đấy, thằng Long mặt mày đen nhẻm khói súng vừa đi vừa cười nhăn nhó, quả DK 82 trên vai chắc là nặng lắm đấy. Ba lô sách của nó đã biến đi đâu mất, thay vào đó là cái túi mìn Claymo mỏng mảnh. Có thế chứ, đã sáng mắt ra chưa “ con “. Giữa trận mạc tùm lum khói súng thế này còn bày đặt học với cả hành. Đúng là “ cả ngố “. Anh Nhạn nhay nháy mắt cười, nói với chúng tôi :
- Đù má, tao đã bảo mà. Chúng mày thấy không, trận này đánh nhàn lắm mà.
Ngã ba Chi phu vẫn còn cách xa chừng hai, ba cây số. Chúng tôi không đánh thẳng theo trục lộ mà lại rẽ sang phía tay trái đánh sang Phum Prey Ko Ki. Phía trước, cách chừng 200 m là mấy dãy nhà ngói dài, xem chừng giống như một khu trường học cũ. Cặp bên trái khu trường là một con kênh khô cạn chạy dọc thẳng tắp. Phía trước khu trường, bên cạnh chiếc ao nhỏ, những bụi chuối mọc xanh mướt mát. Chúng tôi vọt lên chạy phía trước những chiếc xe tăng, bỗng thằng Minh lấy báng súng gõ gõ vào thằng chiếc T54, anh lính phụ trách khẩu 12 ly 8 cúi xuống gào lên :
- Cái gì vậy ông?
Theo hướng tay chỉ của thằng Minh, một khẩu 12 ly 8 của địch đặt trên ô cửa sổ ngôi nhà sàn mái ngói phía xa đang khạc lửa mãnh liệt vào đội hình chúng tôi. Anh lính xe tăng gật đầu rồi tụt vào xe. Chiếc xe dừng lại, chiếc nòng pháo, từ từ quay o o lấy hướng xạ kích. Oàng.... một nửa ngôi nhà mái đỏ biến mất. Quá chính xác ! Với khoảng cách gần một cây số mà T54 bắn, phải nói là “ thôi rồi Lượm ơi “. Khẩu 12 ly 8 của địch đã bị tiêu diệt, chúng tôi ào lên tiến sát bờ ao, nơi có mấy cây chuối mọc.
- “ Chà, mệt. Nghỉ cái đã chúng mày”. Anh Nhạn “ Khùng “ bảo nhỏ chúng tôi.
Chúng tôi nằm lăn ra cạnh bờ ao và khát nước. Suốt mấy tiếng đồng hồ chiến đấu dưới trời nắng chói chang, chiếc bi đông đầy nước từ sáng đến giờ đã không còn một giọt. Tôi lấy dao găm xả luôn cây chuối nhỏ mọc ngay trước mặt. Móc lấy phần lõi cho luôn vào mồm nhai. Chát thế không biết. Thằng Minh nhai thấy chát quá liền phun ra phì phì. Nó tháo chiếc mũ sắt vục ngay một mũ nước ao, cái thứ nước đục ngầu, tanh tanh, ngờn ngợn đất đưa ngay lên mồm tu ừng ực. Thôi thì theo nó vậy, tôi cũng làm một hơi. Ngọt, mát và đã khát quá. Thằng nào đói, đã có lương khô. Ăn lương khô 701, uống nước ao tù, làm gì mà chẳng no bụng !!!

Nghe chừng đã đỡ đói và mệt, theo lệnh của tiểu đoàn, chúng tôi tiếp tục đánh chiếm ngôi trường ( cứ cho là như vậy, có bố ông giời biết là khu nhà ấy là nhà gì ? ) phía trước. Trung đội tôi tản ra, men theo những tán cây trong vườn bí mật tiếp cận sát dãy nhà . Tôi và Minh, men theo hành lang, đến một cái của sổ không có cánh cửa. Thằng Minh ra hiệu cho tôi luồn sang bên trái, nó ép sát người bên phải. Cả hai cùng rút chốt hai quả M26. Một..hai..ba, hai tiếng nổ bùng lên phía trong lớp học, thằng Minh nhanh như cắt chống tay vào bậu cửa sổ, tung người lao vào phía trong bắn loạn xạ. Tôi lạch bạch ôm súng nhảy vào theo nó. Khói tan, chẳng có thằng mẹ nào chết cả. Nhưng vì cái động tác như phim Liên xô rất gây ấn tượng của nó mà sau trận này, nó được đề nghị thưởng huân chương chiến công hạng ba còn tôi được bằng khen đấy. Trong chiến đấu, thằng Minh là một chiến sỹ rất dũng cảm, thông minh nhưng pha đôi chút lãng tử, liều lĩnh của chàng trai Hà thành. Nó cứ học ở đâu đó, trên phim, trong sách truyện rồi áp dụng vào thực tế.
Chúng tôi lao ra phía cửa sổ đằng sau, lính Pôn Pốt chạy đen cánh đồng phía sau. Chúng tôi nằm xuống bãi đất phía sau trường, khẩu RPD trong tay tôi nổ rung lên bần bật. Do tầm bắn quá thấp, tôi không thấy thằng địch nào ngã cả. Tôi hét lên :
- Minh ơi, súng thấp tầm quá.
Thằng Minh liền quay ngay lại, nó vớ ngay hai cái càng khẩu RPD của tôi, quỳ cạnh một gốc cây bên cạnh và đưa càng súng của tôi lên vai. Lại một kiểu của Bế Văn Đàn rồi. Mặc kệ, tôi siết cò. Những tràng đạn dài của chúng tôi đã quét hết toán lính địch đang chạy trên cánh đồng, hắt chúng xuống con kênh chạy dài bên cạnh. Anh Vinh “ heo “ đang đứng bên cạnh gốc cây bỗng kếu ối một cái. Một viên đạn của địch bắn trúng cái mông béo tròn của anh, máu phun ra thành vòi. Anh Nhạn băng bó cho anh Vinh xong, bộ phận vận tải liền chuyển anh Vinh về tuyến sau. Những chiếc xe tăng sau khi húc đổ ngôi trường, chồm lên hướng ra thẳng ngoài cánh đồng. Tiếng súng dần thưa thớt.
Khung cảnh buổi chiều trên chiến trường thật khó quên. Những ngôi nhà sàn gỗ bốc cháy ngùn ngụt, nổ lốp đốp, khói bốc lên đen đặc một góc trời. Đó đây, những xác giặc nằm rải rác. Bộ đội sau gần một ngày chiến đấu liên tục đã gần như kiệt sức, tranh thủ nằm nghỉ ngay trên mặt ruộng. Những chiếc xe tăng gầm gầm gừ gừ chạy tới chạy lui. Thỉnh thoảng lại oàng ..oàng bắn vào những ngôi nhà sàn còn sót ở phía xa xa. Tôi vừa nghỉ, vừa tranh thủ lắp nốt những viên đạn cuối cùng trong cơ số mang theo vào hộp tiếp đạn. Đến gần tối, chúng tôi vào tiếp quản phum Prey Ko Ki ( tên những phum này có được là do bản đồ của Trungsy1 và Tuaans cung cấp, xin cảm tạ hai bạn - rất mong các bạn theo sát để giúp tôi nhé ), cách Chi phu chừng 2, 3 ki lô mét về hướng đông nam. Quan sát sở đại đội đóng bên tay phải con lộ nhỏ đi lên sẽ gặp lộ 1 tại ngã ba Chi Phu. B tôi chốt ngoài rìa phum, bên tay phải đại đội. Anh Nhạn phân công tôi và Minh ra hẳn ngoài cánh đồng, đào hầm lập chốt tiền tiêu ngoài đó, cách con đường nhỏ khoảng 50m. Vừa mệt, vừa đói. Làm sao mà đào được hầm đây. Tôi và thằng Minh đi tháo những cánh cửa sổ của những ngôi nhà còn nguyên vẹn, đem về lát ngang trên rãnh dẫn nước vào ruộng, dải ni lon đi mưa xuống, căng tấm tăng lên thành một cái lều nhỏ. Súng ống để bên cạnh. Cơm nước xong xuôi, hai thằng nằm thẳng cẳng trên chốt. Quá ngon !!!

Tới gần nửa đêm, cơn mưa ập đến xối xả, nước mưa rơi trên mái tăng cứ rào rào như gõ trống, phía dưới gầm lều, nước chảy mạnh thành dòng. Hai thằng chúng tôi cứ thu lu trong lều, lúc đầu còn cảnh giác thay nhau căng mắt ra theo rõi xung quanh. Đến lúc mệt quá rồi thì .... kệ mẹ địch. Các bố chúng mày phải ngủ cái đã. Sống chết có số. Thế là hai thằng cứ nằm ôm nhau ngủ giữa đồng không mông quạnh, đánh thẳng một giấc đến khi trời sáng.
Sáng hôm sau, có lệnh dừng củng cố tại chỗ. Tôi và Minh đi lang thang xem những ngôi nhà nằm trong khu vực đóng quân của đại đội. Trong một ngôi nhà, tôi nhặt được một con dao găm lưỡi dao cong cong, chuôi sừng có nạm bạc rất sắc và đẹp. Trong khi lang thang, thỉnh thoảng bọn địch từ phía đầu phum mạn Chi phu phát hiện thấy bọn tôi lại bắn 12 ly 8, hàng loạt tiếng nổ chát chúa cùng.. cùng.. cùng, cùng ...cùng ...cùng. Cóc sợ !!! Có lẽ trải qua trận chiến đấu như ngày hôm qua, thì tiếng cùng...cùng vớ vẩn của khẩu 12 ly 8 không còn gây.....sao xuyến cho hai thằng tôi nữa.
Buổi chiều 17.06, chúng tôi nhận được thư nhà do anh nuôi mang tới. Nào thư của Bố mẹ, thư của các em tôi, thư của các bạn... Thằng Minh mặt mày hớn hở. Nó nhận được thư của Minh Nguyệt – Trăng Sáng. “ Anh Minh mến nhớ “ - lần đầu tiên Nguyệt gọi tao bằng anh đấy, nó vui vẻ khoe với tôi. Chúng tôi ngồi trên ngôi nhà sàn đổ nát, cùng chung nhau đọc những cánh thư nhà. Buồn vui lẫn lộn.
Sau hai ngày dừng lại nghỉ ngơi, củng cố đơn vị. Rạng sáng ngày 19.06, trung đoàn chúng tôi tổ chức đánh chiếm ngã ba Chi phu. Vào khoảng 3 giờ sáng chúng tôi bắt đầu hành quân, đến hơn 4 giờ sáng tiểu đoàn 3 bí mật tiếp cận mục tiêu, hướng tấn công của tiểu đoàn 3 là hướng đông nam, phía bên tay trái ngã ba Chi phu. Qua mấy đêm mưa liên tục, nước ngập đầy các thửa ruộng mà mấy bữa trước còn khô nứt nẻ. Kiểu này T54 khó mà đánh hành tiến cùng với bộ binh đây. Tôi thoáng nghĩ. Dù mới tham gia chiến đấu nhưng tôi đã có được cái cảm giác “ ấm sườn “ mỗi khi nghĩ đến có xe tăng cùng tham gia trận đánh. Vững tin lắm, yên tâm lắm các bạn ạ. Bò vào sát vị trí được phân công, theo lệnh của anh Nhạn, mỗi đứa chúng tôi đào một cái hầm, nói là hầm cho oai chứ nó chỉ to hơn cái ổ gà đẻ tí chút. Nhờ có mưa, đất mềm nên chỉ sau mấy phút hai đứa chúng tôi đã dũi xong hai cái....ổ. Nước ngấm vào rất nhanh, phút chốc hai cái ổ đã ngập đầy nước. Thằng Minh lăn xuống nằm rồi thì thầm với tôi : “ Như là hồ bơi Quảng bá mày ạ “. Cái thằng, lúc nào nó cũng tếu táo được. Có lẽ nó cố tình như vậy để quên đi nỗi buồn của gia đình nó chăng? Cha là một hoạ sỹ tài hoa, mẹ là nghệ sỹ đoàn cải lương Chuông vàng. Ông bà chia tay để lại cho nó nỗi buồn khôn tả, rồi cô bạn gái của nó – Trăng Sáng kia nữa, nó ngỏ lời mà chưa được đáp lại. Tất cả điều ấy đều đọng lại trong đôi mắt của nó, tôi biết rõ như vậy. Có thể cũng vì những điều ấy mà trong chiến đấu, nó bao giờ cũng lao lên phía trước. Mạnh mẽ, dứt khoát đôi chút liều lĩnh bất chấp những hiểm nguy đang đe doạ bản thân mình. Cho đến bây giờ, khi ngồi viết những dòng này, những hành động đầy quả cảm, máu lửa và kiêu hùng của thằng Minh, người đồng đội, đồng hương thân yêu vẫn hiện lên rõ nét trong tâm chí của tôi hơn bao giờ hết.

5g30 ! Tiếng pháo chi viện của quân đoàn, sư đoàn đã phát hoả. Vi..u u .. Oành.. oành.. Những ánh lửa loé lên như chớp giật, những đám lửa bùng cháy như muốn xé rách bầu trời vừa tảng sáng. Tiếng súng các cỡ nổ dồn dập. Này, chết mẹ mày đi này, này chết cụ mày đi này.... vừa lẩm bẩm trong mồm, tôi vừa xiết cò súng. Từng tràng đạn nổ dài hoà nhịp với tất cả. Trong tôi, mọi suy nghĩ vớ vẩn về cái chết, về quê hương, gia đình, bạn bè lúc trước khi nổ súng bỗng biến đâu hết cả. Pháo chi viện vừa ngưng bắn. Xung pho..o..ong! Tôi sách súng vượt qua mấy bụi cây Mắc cỡ, ào lên chiếm ngay mô đất sát cạnh ngã ba. Bọn địch dựa vào hệ thống hầm hào phòng ngự, chống đỡ quyết liệt. Tiếng DK75, DK82 của địch nổ chát chúa, mấy chiếc tăng T54 không thể tiến lên được. Mùa mưa đã đến, T54 chỉ còn mỗi con đường độc đạo là lộ 1, nên không thể tạo thế bao vây chia cắt quân địch. Chúng tôi giành nhau với địch từng mét đất trong ngã ba. Đến quá trưa, địch – ta chia nhau mỗi bên giữ một nửa thị trấn Chi Phu. đại đội chúng tôi chiếm được một khu nhà sàn ngay sát bên trái lộ 1. Chúng tôi nhanh chóng đào hầm, triển khai kế hoạch chiến đấu phòng ngự giữ chốt.

Những bữa ăn lương khô + nước ao tù của mấy ngày qua, lúc này đã bắt đầu phát huy tác dụng với tôi. Bụng tôi đau quặn. Tôi cứ xì xoẹt suốt, không biết là bao nhiêu lần. Người choáng váng, mệt bã. Tôi vốn có bộ máy tiêu hoá cực kém ( theo “ gia truyền “ của gia đình bên nội ), nên cứ ăn hơi lạ bụng là biết tay nhau ngay. Thằng Minh lo lắng ra mặt, nó trèo lên cây ổi ngay cạnh hầm, hái mấy bút ổi non đưa cho tôi nhai, nuốt. Sang ngày hôm sau, cái bụng tôi êm dần.
Thời gian chốt tại Chi phu của đại đội tôi không hề êm ả như lần chốt trước. Địch – ta cùng chung nhau một nơi, chỉ cách nhau có một khoảng trống nhỏ rộng chừng hơn 100 mét. Phía trước hầm của B tôi là một rặng le dày, bên một gốc cây Me cổ thụ, trước rặng le là một cái giếng xây, vài ruộng rau muống đã cằn. Qua mấy ruộng rau đã là bên địch. Bên phải ruộng, sát lộ 1 là những bầu sen chạy dài lên phía trước. Sáng nào cũng vậy, lũ M113 gắn DK 75, DK 82, pháo 105 mm của địch nằm bên kia sông Bang Kougne phía cầu Tà Yên cũng ùng oành nhả đạn vào chốt của chúng tôi từ sáng đến trưa thì mới dứt. Bọn lính bộ binh địch thì hò hét trô..trô..trô nhặng xị. Chúng tôi bình tĩnh đợi địch đến gần rồi đồng loạt nổ súng hất ngược bọn chúng ra xa. Cứ như vậy, ngày nào cũng giống ngày nào, kéo dài hết cả tuần. Xế trưa ngày 22.06, Anh B phó họ Quách tên Um hay Sum rất khó nhớ, lên sát gốc cây Me để quan sát tình hình địch, một quả cối 82 nổ bất thình lình ngay trên ngọn, mảnh văng tứ tung. Anh gục xuống tại chỗ, anh Truyền – y tá đại đội băng lên kéo anh vào nấp sau bức tường đổ. Chúng tôi xé áo của anh ra, một dòng máu đỏ tươi dịn ra ngay sát dưới vú trái. Anh đã tắt thở.
- Đứt cuống tim chúng mày ạ. Anh Truyền thở dài phán.
Cũng mảnh quả cối đó, thằng Minh dính ngay một mảnh vào ngón tay ở bàn tay phải.
- “ Nhẹ thôi “, trúng mánh rồi. Nó nhe răng cười với tôi và giao hẹn
- Tao đi viện vài ngày rồi lại về với mày.
Thế là còn lại chỉ mình tao. Tôi thầm nghĩ. Xung quanh vẫn còn biết bao đồng đội nhưng tôi vẫn không tránh được cái cảm giác trống trải khẽ len vào tôi. Có nó ở bên cạnh chia sẻ, tôi yên tâm biết bao.

...Mấy hôm nay, chiều nào trời cũng mưa rất to. Những hạt mưa quất thẳng vào tôi ràn rạt. Hạt mưa rơi xuống nòng súng bốc hơi xèo xèo, nghi ngút. Tôi đang thẳng tay quất những loạt đạn thẳng căng vào bọn khốn khiếp. Bỗng xoạch.. tiếng súng tắt đột ngột. Khẩu RPD của tôi câm như hến. Hết đạn rồi à? Không phải, dây tiếp đạn vẫn còn thòng ra những viên đạn vàng choé. Tôi kéo quy lát lên đạn. Quy lát bó chặt cứng không nhúc nhít. Bọn địch thấy tiếng trung liên im bặt liền hò hét xông lên. Chết mẹ rồi Thọ ơi. Giữa lúc như thế này mà lại dở chứng tắc súng thì “ thôi rồi Lượm ơi “. Tôi hét lên :
- Anh Nhạn, súng em bị tắc rồi.
Anh Nhạn hô khẩu đội đại liên 3 càng Kô li cốp bắn yểm trợ rồi nhào sang hầm tôi. Tôi mở ốp khoá nòng, tháo băng đạn ra. Viên đạn kẹt cứng trong ổ chứa. Hai anh em mắm môi, mắm lợi kéo khoá nòng. Vẫn không được.
- Mày mang súng chạy về quan sát sở đại đội, bảo bọn nó sửa cho. Đù má, mưa gió thế này, mấy hôm đ... chịu lau súng nên cho mày chết.
Tôi chui ra khỏi hầm, chạy băng về hầm đại đội trong tiếng đạn rít vèo vèo bên tai. Anh Bình “ trắng “ ( để phân biệt với một anh cũng tên là Bình – B trưởng B3 người Đông Anh – Hà nội ) B trưởng B1, vừa lên quyền đại đội trưởng C11 thay đại đội trưởng kiêm chính trị viên bị thương trong trận chiếm Chi phu hôm 19.06 thấy tôi liền hỏi :
- Sao vậy thằng em? Tôi phân trần trong hơi thở gấp :
- Em đang bắn, súng bỗng nhiên bị tắc.
- Tại thằng em quá lười, không chịu lau chùi bảo quản phải không? Anh ôn tồn nói. Tôi gật đầu.
Đánh nhau liên miên, tôi thấy súng còn mới toanh, cứ bóp cò là nổ, cần gì phải lau với cả chùi. Ai ngờ nó lại tắc tị giữa lúc như thế này. Một bài học thấm thía. Trong lúc ngồi chờ cho quân khí khắc phục khẩu súng. Anh Bình, anh Truyền y tá pha “ bồi dưỡng “ cho tôi một cốc bột sữa trứng, tiêu chuẩn của cán bộ đại đội. Đúng là “ đường sữa phát từ trên phát xuống, cuốc xẻng phát từ dưới phát lên “. Lính tráng phía dưới chúng tôi nào có biết bột trứng, bột sữa nó mặn ngọt như thế nào đâu. Anh Truyền vỗ vai tôi với giọng rất “ chính trị viên :
- Ở dưới này, nghe RPD của em nổ, bọn anh yên tâm lắm. Rất đĩnh đạc.
Của đáng tội, tôi nghe cũng “ phổng cả mũi “. Tất cả những cốc sữa trứng, ngụm trà, điếu thuốc và những lời động viên có cánh ( mấy hôm ở chốt, tôi bắt đầu tập tọng hút thuốc ) nhằm mục đích động viên tôi, tôi biết vậy.
Lại nói một chút về anh Truyền y tá. Anh Truyền chỉ là y tá đại đội nhưng rất có uy tín trong các lớp cán bộ của C11. Khi bố trí đội hình tấn công hay phòng ngự, ý kiến tham gia của anh rất có trọng lượng, thậm chí có khi là quyết định bởi bề dày tham gia chiến đấu của anh. Đại trưởng, đại phó, chính trị viên thi nhau hy sinh, bị thương còn anh vẫn cứ vẫn yên vị. Chính nhờ “ sống lâu “ như thế nên anh đã trở thành “ lão làng “ trong việc chỉ đạo tác chiến của đơn vị tôi. Anh tỏ ra bao dung với tôi khi lần gặp nhau đầu tiên, tôi đã “ anh anh, tôi tôi “ với anh khi biết anh là y tá. Đến bây giờ tôi mới hiểu anh.

Súng đã sửa xong, tôi vác súng lao cắm cổ về vị trí chiến đấu quen thuộc. Tiếng súng lại nổ giòn đĩnh đạc. Trong lúc tôi chạy về sửa vũ khí, một quả DK82 đã “ hốt “ gọn tổ đại liên của đại đội. Ba thằng, hai chết tại chỗ một bị thương rất nặng. Thằng Ước “ lác “ - dân Nghệ an cùng đoàn với tôi đang nằm thở khò khè, nặng nhọc, mắt vẫn “ lác lộn " toàn lòng trắng. Anh Nhạn lật người nó lên xem rồi phán :
- Đù má, nó sắp chết rồi.
Thằng Ước bỗng cố ngẩng đầu lên :
- E..e.m....em..chư...chư..a ..ch..ết..đ...âu.C..á..c..anh..c..ứ..u..em với.
Đang lo lắng, thương cảm, tôi vẫn phải phì cười. Cái thằng này sao mà nó lác đến vậy. Hai lòng đen mắt nó cứ chập ríu vào với nhau. Vậy mà lại được điều vào tổ đại liên. Chẳng biết bắn chác ra sao? “ Một thằng bảo an nhìn hoá ra ba thằng bình định “. Chúng tôi vẫn trêu đùa nó như vậy. Vậy mà bây giờ.......
Liên lạc đại đội báo cho tôi biết, tôi phải về quan sát sở đại đội ngay. Về đến nơi, anh Bình, anh Truyền pha nước mời tôi và nói :
- Chắc em đã biết, tổ đại liên vừa bị xoá. Bọn anh đã cân nhắc kỹ, trong đại đội không ai có thể sử dụng khẩu đại liên này hơn em cả. Nghe tiếng điểm xạ của em, bọn anh tin rằng khẩu đại liên sẽ phát huy tốt tác dụng nếu rơi vào tay em.
Bốc phét, lại chiến thuật “ động viên “ vớ vẩn. Nhưng tôi biết, đằng sau những lời ngọt ngào ấy là mệnh lệnh chiến đấu. Tôi không nhận mà được với các ông ấy à? Đồng thời, anh Bình cũng thông báo tôi được nâng quân hàm, từ binh nhì lên binh nhất. Trinh sát tiểu đoàn thông báo có ít nhất hơn 40 tên ngục ngã trước mũi súng của đại đội tôi. Tôi trở về bàn giao lại khẩu RPD để sang nắm tổ đại liên. Binh nhất Lê thái Thọ. Có tôi ! Và ..kình..kình...kình.. tiếng đại liên của tôi lại vang lên ròn rã, góp phần đánh bật mũi tấn công của mấy thằng Pốt chó đểu.

Rạng sáng ngày 25 .06 ( ngày sinh nhật lần thứ 19 của tôi ).Tiểu đoàn 3 của chúng tôi được lệnh rút về phía sau để nghỉ ngơi và củng cố. Trận địa phòng ngự Chi Phu được giao lại cho D1 đảm trách. Bàn giao trận địa xong, chúng tôi rút theo lộ 1 về tuyến sau, Gọi là tuyến sau nhưng thực chất cũng chỉ cách tiền duyên chừng hơn 1 cây số. Thôi thế cũng “ ấm “ chán. Nơi chúng tôi nghỉ ngơi chính là “ cứ “ anh nuôi của đại đội, một ngôi nhà sàn nằm nép mình bên phải lộ 1. Ngay trên mặt lộ bên cạnh cứ, hai khẩu 105 mm và hai khẩu cối 106,7 mm của quân đoàn hay sư đoàn suốt ngày đêm ầm ầm nhả đạn. Chúng tôi tranh thủ tắm giặt, ngủ nghê sau một tuần chiến đấu căng thẳng. Cả đại đội “ nồng nỗng “ ào ra thửa ruộng phía sau cứ. Nước ruộng trong văn vắt. Nào chạy nhảy, cười đùa té nước ầm ĩ cả một góc đồng. Nào cho tao xin tí xà phòng... Mày quê ở Phú thọ à? Thôi, kỳ cho tao cái lưng. Chiếc dép cao su chở thành vật dùng để kỳ cọ rất hiệu quả, ghét cứ bay đi hàng mảng ( vì cả tuần có tắm giặt gì đâu ), chỉ còn lại những tấm lưng, phản ngực đỏ au, sạch sẽ, mỡ màng. Quần áo phơi đầy trên những bụi cây lúp xúp. Chúng tôi nhanh chóng tạm quên ngay những ngày máu lửa, bi thương vừa trải. “ Mưa lúc nào, mát mặt lúc đó “ – Lính mà em. Lại có thư, thằng nào ít cũng phải có dăm ba lá. Tòng teng nằm trên cánh võng ( lúc này, lũ lính mới chúng tôi vừa được nhận quân trang bổ xung ), quần đùi áo may ô thoải mái, thằng thì đọc thư, thằng viết thư, thằng nghêu ngao hát hò vui vẻ. Nằm chán, tôi lại đi lên mặt lộ xem mấy khẩu pháo của ta bắn. Hay thật, tôi nhìn rất rõ quả đạn 105 mm bay ra khỏi nòng. Cõ lẽ gia tốc lúc ban đầu còn nhỏ nên đạn bay rất chậm, nhìn rõ mồn một.

Dưới bếp, mấy anh nuôi đang hồ hôi, mồ kê nhễ nhại trổ tài nấu nướng bồi dưỡng cho mấy thằng thoát chết trở về. Bữa ăn có gì nhỉ? Dưa leo, rau sống, bánh tráng, thịt heo luộc, thịt rang mặn, cơm canh đủ cả, thuốc rê thì hàng táp. Tất nhiên là không thể thiếu được can rượu trong vắt như mắt mèo. Bao nhiêu phụ cấp toàn đơn vị đều do anh nuôi giữ hộ cả. Ngoài tiền mua thuốc rê, vở viết Cogido ( dùng để cuốn thuốc là chủ yếu ) và mấy thứ lặt vặt để gửi lên trên chốt, còn lại đổ tất vào những cuộc nhậu này cả. Gạo tiền của thằng đã chết, của thằng đã bị thương đi viện. Mặc kệ, đã có nhà nước lo. Bây giờ phải lo cho những thằng còn lại, cho nó xả láng mấy hôm. Nay sống, mai ngẻo biết thế nào được.
Trong bữa nhậu, anh Bình – quyền C trưởng nói thủng thẳng :
- Tao nói trước, bọn D1 nó chẳng giữ được lâu đâu. Chúng mày cứ chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, nó mà bục chốt là tụi mình phải lên lấy lại đó.
Mỗi một đơn vị đều có những cái “ dớp “ mà khó có thể giải thích rõ ràng rành mạch bằng lời được. Tiểu đoàn 1 của trung đoàn tôi chốt chặn rất kém. Cũng những con người ấy, vũ khí trang bị ấy, thế mà cứ động chốt là lại bị “ bung “. Mà chốt đã bị “ bung “ đơn vị nào phải đánh chiếm lại rất khổ. Máu phải đổ ra nhiều hơn so với đánh chiếm lần đầu. Cả bàn nhậu lặng đi một lúc. Anh Truyền y tá ôn tồn :
- Mày nói làm gì cho anh em nó mất vui. Lúc nào trên bảo đánh thì ta đánh. Việc của chúng ta là đánh. Lo trước làm gì cho mệt xác.
Chỉ ngày hôm sau, sau bữa nhậu buổi chiều chúng tôi được lệnh lên đường. Có lẽ nào lời nói của Anh Bình “ trắng “ đã thành sự thật. Nhưng thật ra không hẳn như vậy. Buổi trưa hôm ấy, một xe Zep chở tốp cán bộ tham mưu quân đoàn đi qua nơi nghỉ ngơi của chúng tôi lao lên chốt Chi phu. Người lái xe cứ rõi theo đường dây thông tin hữu tuyến rải ven đường mà đi. Mải nói chuyện, anh lái xe và mọi người không để ý đến đường dây hữu tuyến đã hết từ lúc nào. Bỗng phía trước mặt xuất hiện một thằng lính Pốt cầm khẩu B40 lao ra chặn đường. Bỏ mẹ rồi, thì ra xe đã vượt qua tuyến tiền duyên lúc nào không biết. Chiếc xe quay đầu định tháo lui. Không kịp nữa rồi. Ùng...oàng... hai tiếng nổ gần như chập vào một. Toàn bộ tốp cán bộ tham mưu quân đoàn chẳng thoát một ai. Lo rằng, trong tốp cán bộ có ai đó bị thương và bị địch bắt sống, kế hoạch dự định tấn công đánh chiếm nốt Chi Phu và phát triển lên chiếm cầu Tà yên sẽ bị lộ. Cấp trên ra lệnh cho Trung đoàn 1 cùng với các đơn vị bạn lập tức lên đường đánh chiếm các mục tiêu như kế hoạch đã dự tính. Chỉ có thời gian là thay đổi. Ngày N - ... .

ữa nhậu vừa kết thúc. Đại đội chúng tôi lại lên đường, Tôi lại trở về với B của anh Nhạn với khẩu RPD quen thuộc. Vài anh lính còn đang trong trạng thái lơ mơ. Đi trên bờ ruộng mà thỉnh thoảng lại loạng choạng bổ nhào xuống ruộng lõm bõm nước. Tiếng cưòi vẫn rộ lên.... Chúng tôi lại nhằm hướng nam, nơi có con lộ nhỏ không tên vừa đánh bữa trước. Trời tối, chúng tôi tập trung tại một căn nhà nhỏ ở phum Prey Ko ki. Sau khi chính trị viên tiểu đoàn phổ biến nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị. Anh đứng trên một mô đất cao nói với chúng tôi :
- Đợt chiến đấu sắp tới sẽ diễn ra rất quyết liệt, tính bất ngờ có thể không còn nữa. Nhưng tôi xin hứa với các đồng chí, các đồng chí cứ yên tâm chiến đấu. Nếu đồng chí nào chẳng may hy sinh, chúng tôi dù rằng phải hy sinh thêm ba bốn đồng chí nữa để mang xác các đồng chí về, chúng tôi cũng quyết không để các liệt sỹ nằm lại trận địa.
Trong chiến đấu đối với người lính, cái sợ nhất có lẽ là bị đồng đội bỏ rơi mình nằm trong tay địch, dù còn sống hay đã chết. Nghe chính trị viên nói vậy, chúng tôi cũng yên lòng phần nào. Do kết quả của những bữa ăn xả láng vừa qua, bụng tôi lại có vấn đề. Thật chết vì cái mồm. Nguời mệt rã rời.
Đêm ấy, tôi ngồi gác để cho anh Nhạn và thằng Màu ( người Tam đảo Vĩnh phúc - lính mới tò te được bổ xung vào B tôi thay thằng Minh ) ngủ trước. Đang gác, người tôi bỗng lạnh run, hai hàm răng va vào nhau cầm cập, chân tay run lẩy bẩy. Bỏ mẹ, sốt rét rồi. Từ chỗ tôi ngồi gác vào đến hầm thùng, nơi Anh Nhạn đang nằm chỉ có khoảng chưa đến chục mét mà tôi bò mãi mới đến nơi. Tôi thì thào báo cáo với anh Nhạn. Anh Nhạn ra gác thay cho tôi và bảo tôi vào hầm nằm. Thằng Màu lấy hết màn, tăng, nilon đắp lên người tôi, lấy 2 viên Quinin cho tôi uống. Vẫn run lập cập. Thằng Màu liền đè cả người nó lên người tôi cho ấm. Ôi, cái tình đồng đội sao mà ấm áp thế, đáng quý thế. Màu ơi, bây giờ em ở đâu?
Sáng hôm sau, người tôi ê ẩm rã rời, các khớp xương như muốn long ra từng đoạn. Cơn sốt đã dứt nhưng tôi vô cùng mệt. Tôi liền báo cáo với anh Nhạn xin phép cho tôi được về cứ anh nuôi nghỉ ngơi ít ngày cho lại sức. Anh Nhạn trầm ngâm một lát rồi động viên tôi :
- Thọ ạ, nếu B mình còn nhiều người thì anh sẽ đồng ý cho em về cứ ngay. Nhưng em xem, cả B bây giờ còn có 3 anh em. Nếu em về nghỉ thì còn mỗi anh và thằng Màu ú a ú ớ, nó chưa đánh đấm bao giờ.... Thôi, em cố gắng một chút nhé. Em đưa khẩu RPD cho anh, còn em em cầm lấy khẩu M79 này cho nhẹ.
Lần đầu tiên tôi thấy anh nhẹ nhàng đến vậy, tịnh không thấy một tiếng đù má, đù cha trong câu nói của anh. Tôi lặng lẽ cầm lấy khẩu M79 và dây đạn anh đưa. Tôi còn biết nói gì nữa. Trung đội đã hao tổn qúa nhiều trong suốt những trận đánh vừa qua. Mỗi người còn lại phải cố ráng lên một chút vậy.

Chúng tôi không ngờ rằng, trận đánh chiếm Chi phu lần này lại nhàn đến vậy. Khi tiểu đoàn 3 lên đến nơi, các đơn vị bạn đã giải quyết xong. Chúng tôi thong thả hành quân hướng về cầu Tà yên. Người mệt mỏi rã rời sau trận sốt rét, tôi đi rất chậm và nghỉ liên tục. Mãi đến trưa, chúng tôi mới lên đến nơi. Do anh nuôi không thể đưa cơm lên kịp, chúng tôi dừng chân bên một căn nhà nhỏ cạnh cầu Tà yên để nấu cơm ăn trưa. Khoảng 2 g chiều, chúng tôi rẽ xuống con đường nhỏ bên tay trái hướng về phum Prey khlok. Chiều tà thê lương, vắng lặng không một tiếng súng. Không gian quánh đặc mùi tử khí. Chốc chốc, chúng tôi lại bắt gặp những xác người ( địch hay dân nhỉ? ), xác trâu bò hoặc vừa chết, hoặc chết đã lâu bốc mùi sặc sụa. Vòng vèo mãi đến lúc trời tối mịt, chúng tôi mới tới được Prey Ampil. Mệt rã rời, cả trung đội ( mà cũng chỉ còn có 3 mống ) chui vào một căn lều sát ngay bên đường. Chẳng kịp mắc võng, tôi lăn ra đất ngủ một mạch. Sáng hôm sau tỉnh dậy, tôi mới nhận ra cả bọn nằm ngủ ngay trong chuồng bò, phân vẫn còn đầy trên mặt đất. Chúng tôi thay nhau đi đào hầm, xác định vị trí xạ kích... Buổi chiều, sang C14 tìm thằng Long xem nó có ổn không? Hơn nửa tháng, đánh liên miên cũng chẳng kịp để ý đến nhau nữa. Đang đi, bỗng thấy tiếng gọi Thọ ơi í ới. Hoá ra bọn thằng Chương bên C12 ( hay C13 nhỉ??? ) ở phố Ngõ Trạm. Chúng nó vừa bắn chết mấy con Trâu. Thấy tôi, chúng nó gọi vào để ăn thịt Trâu luộc chấm với muối ớt. Anh em xa lâu ngày nay gặp lại, tay bắt mặt mừng, vui quá thể.
- Sao chúng mày không xào thịt lên ăn có phải ngon hơn không? Tôi hỏi.
- Làm gì có mỡ, mắm muối. Thôi cứ luộc lên, mỗi thằng một tảng.
Thịt nhiều vô kể. Cả mấy con trâu, chúng nó chỉ xẻo lấy có mấy cái đùi sau và tim, gan. Còn thì vứt tất. Thật phí của giời.
Hôm sau, chúng tôi nghỉ ngơi và bổ xung thêm trang bị, tôi nhận khẩu B40, còn khẩu RPD giao lại cho thằng Màu. Tôi hướng dẫn cho Màu cách tháo lắp, cách sử dụng khẩu súng. Thằng Màu thủ thỉ kể cho tôi về gia đình, về bản thân nó. Đang ở nhà chăn trâu, nó phải đi bộ đội. Huấn luyện chỉ hơn một tháng đã phải lên đường vào đây. Nó chưa được bắn một phát súng nào. Nó bảo tôi :
- Anh ơi, lúc nào các anh “ chạy “, anh nhớ bảo em với nhé !
- Yên tâm đi, nhưng sao mà phải “ chạy “? Tôi lên giọng “ lính cựu “.
- Thì em nghe thấy mấy anh bảo, thỉnh thoảng mình vẫn bị Miên nó đánh cho chạy “ re kèn “ mà !
Tôi bảo nó mang súng ra ngoài hầm phía sau, lúc nào nghe thấy tiếng súng bọn Miên bắn thì cho nó bắn thoải mái. Lúc nào nghe tiếng súng mà nó hết thấy sợ thì thôi.
Đến khoảng nửa đêm hôm ấy, đại đội chúng tôi được trinh sát trung đoàn dẫn đi đánh phối thuộc với trung đoàn 2. Đêm tối như hũ nút, tôi cứ bì bõm bước thấp bước cao theo sát anh Nhạn đi phía trước. Cứ có lệnh nghỉ tại chỗ là tôi đặt ịch giá đạn xuống đất, không thèm tháo nó ra khỏi vai và tranh thủ nhắm mắt. Buồn ngủ quá trời. Chúng tôi đi theo một bờ đê của con sông chạy về thị xã Svayrieng. Đang vừa đi, vừa ngủ gà gật bỗng..Ùm. Tôi phi cả người xuống sông. Thằng Màu vội vàng kéo tôi lên. Xung quanh, chúng nó cứ bịt mồm cười khùng khục. Trinh sát trung đoàn không bắt được liên lạc với trung đoàn 2, chúng tôi lại quay về vị trí cũ. Đêm hôm sau cũng vẫn như vậy, chúng tôi cứ ra đi lúc nửa đêm và về lúc gần sáng. Sáng hôm sau, anh Nhạn càu nhàu tôi :
- Đi đột ban đêm mà giày của mày cứ lép nha lép nhép, lộ bố nó mất.
- Nhưng nước nó cứ tràn vào giày của em, đi nặng chình chịch. Tôi cãi.
- Đù má, mày ngu lắm. Lấy dao chặt ngay cái mũi giày đi “ con ạ “. Nước có vào, chỉ cần chống mũi giày lên là ra hết.
Lại một bài học bổ ích cho tôi. Tôi và thằng Màu lập tức thực thi “ mệnh lệnh “.

Chiều ngày 06.07.1978, trời mưa tầm tã. Trung đoàn tôi được lệnh đánh lên chiếm khu nhà tôn nằm ở dải đất cao nhô lên phía trước phum Prey Ampil. Vừa lên được khoảng hơn trăm mét, bọn địch đã phát hiện thấy chúng tôi. DK, B40, B41 đạn nhọn của chúng bắn xối xả vào đội hình của ta. Không thể lên được. Sau hơn một tiếng nằm úp mũ lên, che mặt ngủ giữa trời mưa, chúng tôi được lệnh rút về vị trí cũ.

Chiều hôm sau, hội nghị quân chính đại đội được tổ chức. Anh Han “ đen “ người Thanh hoá – Lính 74, nguyên B trưởng cối 82 bên C14 được điều về thay anh Bình “ trắng “, vừa bị thương hôm trước làm đại đội trưởng. Anh Han người to cao và đen, nói năng mạnh mẽ, dứt khoát chứ không nhỏ nhẹ như anh Bình. Hội nghị trình bày phương án tác chiến của ngày mai. Ngày mai, chúng tôi sẽ vẫn đánh lên khu nhà tôn phía trước. Nhưng phương án có sự thay đổi. Bên tay phải chúng tôi, trung đoàn 2 đảm trách, khu vực giữa là trung đoàn 3, bên tay trái là trung đoàn Vàm cỏ. Trung đoàn tôi là dự bị của sư đoàn, tiểu đoàn 3 là dự bị của trung đoàn, còn C11 của tôi là dự bị của tiểu đoàn. Trợ chiến gồm có 4 chiếc M113 của lữ 22, pháo 155 của quân đoàn 300 quả, 2 khẩu 105mm, 2 khẩu 85 mm nòng dài, 2 khẩu 37 mm của sư đoàn hạ nòng bắn thẳng. Quá chuẩn !!! Thế thì chúng mày có mà nát như tương. Đại đội tôi lại là dự bị của dự bị của dự bị. Ba lần dự bị thì chỉ có mà ngồi chơi xơi nước. Tôi sung sướng thầm nghĩ.

5g30 sáng ngày 08.07.1978, tiếng pháo quân đoàn, sư đoàn đồng loạt nổ. Tôi ngồi thu lu cùng đồng đội trên luỹ đất mọc toàn cây le, nhìn thấy toàn cảnh của trận chiến. Còn hay hơn cả xem phim “ Giải phóng “ của Liên xô. Ùng.. ùng.. ùng Oàng.. oàng... oàng pháo ta nện dữ dội. Tiếng 105 ly âm âm nặng nề, tiếng 85mm thì thẳng căng đanh sắc, tiếng 37 ly dồn dập. Những chớp lửa nhằng nhằng giật bay mái tôn, khói bốc lên cuồn cuộn. Chà chà, quá sướng, quá hay, quá đã !!!. Phát này thì chúng mày phải nát như tương Bần. Pháo vừa chuyển làn, xe M113 lừ lừ tiến sau bộ binh của trung đoàn Vàm cỏ, hai trung đoàn 2 và 3 bộ đội cũng bắt đầu xung phong thoắt ẩn thoắt hiện sau những cây Thốt lốt. Nhưng sao thế kia. Một M113 bị DK của địch bắn cho tung xích. Bộ đội lao lên rồi ngã xuống. Ôi, sao “ bị “ nhiều thế kia, ngã nhiều quá. Các đơn vị vận tải lao lên khiêng, vác thương binh tử sĩ về tuyến sau. Đang mải chăm chú xem “ phim “, tôi bỗng nghe tiếng thông tin 2W đứng cạnh tôi :
- 919001, 919001...
Thôi bỏ mẹ rồi ! mã 919001 là ký hiệu của đại đội tôi. Chắc có khó khăn nên đơn vị dự bị phải vào trận rồi. Mà cái trò đánh đã không thắng thì dự bị phải lao vào chỗ đang khó khăn nhất. Dĩ nhiên !!! Tôi xốc giá đạn lên vai, tay sách thêm một quả B40. Anh Han dẫn chúng tôi lao ra hướng của trung đoàn 3. Tuyến tiến công vướng toàn sình lầy. Chúng tôi cứ phải lao men theo bờ ruộng. Thảo nào mà bộ đội bị thương vong nhiều như vậy. Bọn địch cứ nhằm bộ đội ta đang di chuyển rất chậm do vướng sình mà bắn. Lại ngã rồi, lại ngã rồi.... Tôi lao lên nhằm thẳng phía trước. Ùng..oành. Tôi nổ súng. Tai tôi ù đặc. Nhớ lời anh Nhạn dặn, tôi làm luôn phát nữa. Thông tai rồi.

Bắn B40, B41 khi vào trận là cứ phải làm liền hai phát để thông tai. Rút kinh nghiệm đã được chứng kiến, tôi không chạy theo bờ ruộng vì sợ bị địch bắn tỉa, ba chúng tôi lội ào xuống sình chạy tản ra. Phập.. phập.. phập.. chíu.. chíu.. chíu.. đạn đại liên của địch xiên vèo vèo trước mặt. Tôi lấy quả đạn thằng Màu đang cầm cắm ngay vào nòng, nhìn thấy ổ đại liên của địch đang nhả đạn, tôi bóp cò. Ùng ..oàng. Trượt mẹ nó rồi ! Tôi nằm chúi đầu xuống ven bờ ruộng. Phập.. phập.. phập.. chíu.. chíu.. chíu.. đạn đại liên của địch cày ngay trước mặt tôi. Chắc thằng này đã nhìn thấy tôi rồi. Không thể di chuyển đi đâu được vì xung quanh toàn sình lầy. Nằm đây chắc chết quá. Tôi thầm nghĩ vậy. Lại phập.. phập.. chíu.. chíu.. Cằm tôi bỗng giật lên. Thôi bỏ mẹ, dính rồi, máu chảy đỏ ngực áo.
- Anh Nhạn, em dính rồi.
Tôi vừa nhỏm dậy định rút thêm một quả đạn thì ... bụp ! Tôi thấy toàn thân tê dại. Một viên đại liên nữa của địch phá nát bàn tay phải của tôi. Tôi hét :
- Anh Nhạn, em lại bị viên nữa.
- Nằm im đấy, tao sẽ sang băng cho. Đù má, sao trận này dính nhiều thế này.
Anh Han C trưởng thấy tôi bị thương liền chồm sang, vớ ngay khẩu B40 của tôi lắp đạn và bóp cò...Ùng.... oàng. Tiếng đại liên địch im bặt. Quá đau, tôi thò tay còn lại rút con dao găm chiếm lợi phẩm mà tôi rất quý, cắt tất cả dây đeo giá đạn, bỏ luôn cả túi mìn Claymo trong đó có sổ sách, đồ dùng cá nhân...., cả con dao quý báu của tôi nữa. Vứt , vứt hết. Tôi nghe tiếng anh Nhạn hét ầm lên :
- Đù má thằng Han nhé, mày làm cháy hết người ông rồi.
Thì ra, trong khi đang loay hoay để bò sang chỗ tôi, anh Nhạn đã bò ngay sau khẩu B40 đúng lúc anh Han nổ súng tiếp. Cả quầng lửa chùm lên lưng anh Nhạn. Anh Han hét :
- Chửi con c..., mày và thằng Thọ băng bó xong cố chạy về tuyến sau đi. Nằm đây đợi vận tải thì có mà toi cả nút.
Anh Nhạn lao đi, cái áo đã bay đi cả mảng để trần ra tấm lưng đỏ như tôm luộc, da lợt từng đám trông dễ sợ.
Tôi tê dại cả nửa người, nhưng nằm đây thì chết là cái chắc. Tôi cố gắng vùng dậy, cứ theo bờ ruộng chạy về. Bọn địch chắc nhìn thấy tôi liền bắn theo chiu chíu.Vừa nhìn thấy hầm cối 60 của đại đội, tôi phi cả người lao xuống. Bọn ở cối 60 giúp tôi băng lại vết thương ở cằm và ở tay. Một viên sượt qua xé rách cằm, một viên xuyên qua lòng bàn tay phải làm toác lòng bàn tay và cổ tay tôi. May rồi, nếu viên ở cằm mà dịch lên chút nữa thì có mà....đi buôn hoa quả sớm. Hoá ra, ở đời chết cũng không phải dễ.
Ngồi ở hầm cối của đại đội, tôi chứng kiến trận đánh tiếp tục. Bộ đội ta vẫn không thể nào tiến lên được. Đù má, phải mang bọn trinh sát ra mà chém đầu. Ai lại vạch hướng tấn công toàn vào bãi sình thế này, chết là phải. Tôi lầm bầm. Ở hầm bên cạnh, trung đoàn trưởng trung đoàn 1 - Trung tá Ba C.... - đứng theo dõi trận đánh cùng mấy vị chắc là sĩ quan tham mưu. Ông buồn bã :
- Sao dính nhiều thế này. Tao thương mấy thằng lính chết trẻ quá.........
Hai chiếc M113 còn lại đang dỉn dỉn bò về theo đường lộ. Một sĩ quan tham mưu bảo tôi :
- Thôi, thằng em ra lộ, bảo mấy thằng M113 nó cho về phẫu trung đoàn. Chắc đơn vị sắp rút rồi.
Thế là thua, thua đau đớn. Tôi cứ tưởng rằng trận đánh này sẽ vô cùng nhàn nhã. Binh hùng tướng mạnh thế kia mà. Ngờ đâu lại tan tác đến vậy. Tôi chán chường, đau đớn ( cả thể xác lẫn tinh thần ) loạng choạng ra lộ. Mấy lính trên xe kéo tôi lên chiếc M113 chạy thẳng về trạm phẫu trung đoàn tại Ang Tamok. Lúc đó là 11g ngày 08.07.1978.

Tại trạm phẫu trung đoàn, thương binh nằm la liệt khắp nơi. Tiếng kêu la, tiếng rên rỉ, những khuôn mặt méo đi vì đau đớn, cánh tay tôi giờ đã sưng vù to như bắp chuối làm phồng căng cả tay áo K74. Tôi ngồi dựa lưng vào cột nhà sàn nhìn ngó xung quanh. Trận đánh này trung đoàn chắc thiệt hại nặng. Hoá ra, trận nào mình chuẩn bị tinh thần để vào trận ác liệt thì lại nhàn, trận nào mình tưởng nhàn như đi chợ thì lại bị đánh đến “ biêu đầu mẻ trán “. Thương binh được phân loại ngay. Trọng thương – trung thương – khinh thương. Bộ phận phẫu chủ yếu là phân loại thương binh, băng bó và phát quần áo cho anh em nào quá rách, cho anh em ăn tạm bát cháo để lấy lại sức. Những chiếc xe tải chở thương đi lại tấp nập. Tôi được băng bó sơ qua, phân loại là trung thương rồi quẳng lên một chiếc xe chở về phẫu của sư đoàn đóng tại Chi Phu. Tại phẫu Chi Phu, bác sỹ Cường - người Hà nội cùng khối 68, tiểu khu Hàng Trống với tôi ( thấy bác sỹ bảo vậy – hay cũng là một cách động viên đây ) trực tiếp chăm sóc vết thương cho tôi. Nhìn vết thương đầy bùn đất, bác sỹ bảo :
- Để tránh bị nhiễm vi trùng uốn ván, tốt nhất là em để anh cắt bàn tay đi cho an toàn.
- Ấy anh ơi, anh mà cắt cụt tay em thì em còn làm ăn được gì? Tôi nghĩ đến bàn tay viết lách nay cụt lủn. Chán chẳng buồn chết.
- Anh cố gắng giữ cho em. Tôi nài nỉ.
Bác sỹ không nói gì, anh cắt lọc rồi đổ ôxy già vào rửa vết thương. Anh đổ vào vết thương của tôi 1 lọ Penicelin bột rồi khâu túm lại.
- Anh chỉ sơ cứu tạm thế này, chiều về Sài gòn, các bác sỹ ở đấy sẽ sử lý tiếp nhé.
Chiếc ô tô tải thương của sư đoàn chở tiếp chúng tôi về Mộc bài thì dừng lại. Các Má, các chị ở đấy xúm lại đỡ bọn thương binh chúng tôi xuống xe. Nào nước mía, nào bánh ú, bánh mì.... Nhưng tôi thì không uống nổi, nuốt nổi. Phần thì đau, phần thì sợ uống vào sẽ loãng máu mà chết.
Chiếc máy bay HU1A phành phạch đến đón chúng tôi. Quả này có khi được về thẳng viện 108 cũng nên, Tôi thầm nghĩ vơ vẩn.
Lên máy bay, do rung lắc mạnh. Một thương binh trong số bọn tôi bị thương vào đầu, ộc máu ra.... Từ thương binh anh đã chuyển sang... từ trần. Tôi nằm thiếp đi trong cơn đau đớn và mệt mỏi.
Sân bay Tân Sơn Nhất buổi chiều nóng giẫy. Hơi nóng phả từ đường băng bốc lên ngột ngạt. Chiếc HU1A từ từ tắt máy, những chiếc xe cứu thương đợi sẵn từ bao giờ nhanh chóng áp sát. Mấy cô y tá trẻ măng, mặc áo bờ lu trắng toát nhẹ nhàng chuyển chúng tôi từ máy bay xuống xe. Đồng chí liệt sỹ được “ ưu tiên “ một mình một xe, còn chúng tôi cứ ba, bốn thằng một xe cùng y tá lao nhanh về viện, vừa đi xe vừa hú còi inh ỏi. Chúng tôi đến viện 115 ( đường Nguyễn tri Phương thì phải ) và nhanh chóng được đưa ngay vào phòng cấp cứu. Sau khi cắt lọc lại, vết thương của tôi được khâu vá và định vị lại phần xương mỏm chân quay bị vỡ. Rất may là không phải cắt cụt. Mừng hết biết !!!.

gày hôm sau, tại phòng bệnh trên tầng hai, tôi nằm cùng với một lính của F341, vết thương thấu phổi và gãy tay trái. Lúc nói chuyện tôi được biết nó cũng là người Hà nội, nhà trên đường Tây sơn – đối diện gò Đống đa. Ngày mai, nó có tên trong danh sách đi A, sẽ lên máy bay ra điều trị tại viện 103 trong Hà đông. May quá. Tôi liền nhắn gửi nó báo tin cho gia đình biết tình hình của tôi. Đến bây giờ, tôi và gia đình cũng không nhớ được cậu bạn mới quen ấy tên là gì? số nhà bao nhiêu đường Tây sơn. Thật là ân hận. Chỉ biết rằng, chỉ 3, 4 ngày hôm sau, gia đình tôi đã biết tin về tôi.
Phòng bệnh tôi nằm điều trị rất đông thương binh, phải đến 50 giường, chia làm hai dãy. Thương binh đủ các loại, từ các mặt trận gửi về. Sáng sáng đó đây vang lên tiếng ..tá bô... tá bô.. ầm ĩ. ( lẽ ra phải gọi : Y tá ơi, cho tôi xin cái bô ). Cả phòng chỉ có hai em y tá phục vụ, làm sao có thể kịp đưa ...bô cho các “ bố “ được. Mà chỉ chậm một chút là các “ bố “ bĩnh ngay ra giường. Thật quá quắt. Đã vậy, mấy ông thương binh nặng lại còn chơi khăm. Họ bố trí cho hai thằng ở hai đầu cùng nhau gọi bô, chưa xong cho hai thằng đầu, thằng ở giữa phòng lại gọi. Cứ thế.. cứ thế.. họ hành hạ hai cô bé đến là tội. Phục vụ tôi là cô y tá tên Mai - người Sài gòn, nói năng nhỏ nhẹ không biết cáu bao giờ. Mặc cho các thương binh cáu gắt, giận dỗi, Mai vẫn nhẹ nhàng làm tốt công việc theo chức trách. Nào đưa thương binh đi tắm, nào đi xem tivi, nào mắc mùng... Tôi vô cùng biết ơn và cảm phục cô y tá ngày ấy. Tôi biết ơn bác sỹ Chín ( tôi không biết tên mà chỉ thấy mọi người gọi theo thứ ), người bác sỹ của QL VNCH đã nhiệt tình chăm sóc vết thương cho tôi. Tôi cũng nhớ mãi cái cách tiêm của bác sỹ, trông sợ vô cùng. Bác sỹ cầm xi lanh trên tay, phi đánh phập một cái vào bắp tay rồi bơm thuốc nhưng lại chẳng gây đau cho thương binh chúng tôi.

Tôi nằm cùng với một cậu ở F7, cậu ta bị thương vào ổ bụng. Hai thằng chúng tôi cứ thay nhau, hôm nay mày báo ăn cháo sữa thì tao báo ăn cháo thịt, ngày mai lại ngược lại. Cháo thịt thì mỗi xuất nửa chậu nhôm, cháo sữa thì một ngày một hộp “ Ông Thọ “. Hai chúng tôi ăn chung một xuất cháo thịt vẫn không hết. Sữa thì cuối tuần gom lại ra ngoài bán 7 đồng một hộp. Tiền tiêu thoải mái luôn. Tôi nhờ nó viết thư cho ông anh rể của tôi lúc ấy cũng đang là bộ đội ở QK9. Từ ngày gửi thư, chiều nào tôi cũng ra cổng viện mong ngóng anh. Mong hoài mà chẳng thấy tăm hơi. Buồn thật !!!!
Vết thương của tôi cũng liền miệng nhanh chóng, tôi được chuyển về Quân y viện 4 của quân đoàn tại căn cứ Sóng Thần – Bình dương.
Cuối tháng 7.1978, tôi ra viện về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Lại vòng vèo Sóng thần, Đồng dù, Trảng lớn. Lần này tôi đi một mình với phương tiện tự túc. Cuối cùng, bước chân của tôi đã dừng tại cứ ba lô của đại đội tại Mộc bài. Trong cứ cũng toàn thương binh.

Tôi dừng tại cứ một ngày, đến ngày 27.07.1978 thì tôi quyết định đi bộ lên chốt, lúc ấy trung đoàn tôi vẫn ở Nam Prasaut đóng tại Prey tayung còn tiểu đoàn 3 chốt tại Phum Prey Chamna. Chẳng mấy chốc tôi đã đến Ba vét, chỉ huy sở sư đoàn 9 đang trú tại đây. Mệt ! tôi ghé vào nghỉ chân tại dãy nhà đầu tiên. Đây là dãy nhà của phòng Hậu cần sư đoàn. Thấy tôi, một thương binh còn đang băng cuốn kín tay, mấy anh trong ban quân nhu sư đoàn mời tôi vào ngồi nghỉ, uống nước. Hôm đó đúng ngày 27.07, ngày TBLS nên trên bàn còn có bánh kẹo, bia “ con cọp “... Tôi đang ngồi nói chuyện, một chiếc xe “ Đốt - hồng thập tự “ dừng lại đỗ ngay ven đường. Anh lái xe bước vào xin ngụm nước. Chắc đã quen nhau, mấy lính quân nhu hỏi :
- Xe chở gì vậy anh ?
- À, chở một tử sỹ của C11, D3, E1. Anh lái xe trả lời.
Nghe đến vậy, tôi giật thót người. Đúng đại đội tôi rồi. Tôi thoáng nghĩ đến thằng Minh. Lúc này, chắc nó đã ra viện. Mình nặng như thế mà còn đi viện chưa đến một tháng mà vết thương của nó thì .... Nghĩ đến đó, tôi hỏi anh lái xe :
- Anh ơi, cho em hỏi một chút. Liệt sỹ tên là gì vậy anh?
- Long ! Lê Phú Long – Hà nội. Bị lĩnh trọn một quả AT tăng vào rạng sáng nay.
Trời ơi, ( anh lái xe chắc nhầm đơn vị. C14 thành C11 ). Long ơi, mày đã bị rồi sao? Tôi chạy vội ra xe, chiếc xe “ đốt “ cũng thấp. Tôi nhìn vào xe. Thằng Long nằm đó, mắt nhắm nghiền, một mảng ngực và cánh tay trái bay đi đâu mất. Máu, máu đông lại đen đặc. Long ơi, thế là Tổ Tam tam của chúng mình đã mất đi một thành viên, thế là cái lời nhắn nhủ trên bãi cỏ trước cổng E36 đã một phần biến thành hiện thực, thế là hết những mộng mơ về cổng trường đại học của mày.. thế là... thế là... hết Long ơi. Chiếc xe chở Long đi rồi, tôi vẫn còn thần thờ nhìn theo... những đám bụi cuốn theo bánh xe chạy....mờ dần...mờ dần rồi khuất hẳn, nước mắt tôi giàn giụa.

Không còn bụng dạ nào để tiếp tục ngồi uống nước, tôi lập tức tiếp tục lên đường, bước chân bây giờ trở nên nặng nề. Những hình ảnh của thằng Long cứ bán riết lấy tôi lên đến tận nơi tiểu đoàn đứng chân. Người đầu tiên tôi gặp là thằng Hoan – N. C. Hoan ở phố HT. Nó cùng C14 với thằng Long, nhưng thằng Hoan làm liên lạc cho đại đội. Tôi hỏi han tình hình về cái chết của thằng Long, nó cứ u a ú ớ. Cái thằng này cho đến bây giờ cũng vậy, cứ động nói đến những năm tháng khói lửa ngày xưa là nó có vẻ chẳng mặn mà. Hắn chỉ thích nói đến việc xây dựng kinh tế gia đình, làm ăn, buôn bán. Mặc dù bây giờ vẫn đang đeo quân hàm trung tá hay thượng tá gì đó. Buồn hết sức cho những người đồng đội chóng quên quá khứ như vậy. ( Hoan à, nếu mày có đọc những dòng này, mày đừng giận tao nhé. Điều đó cũng lý giải tại sao tao ít ghé qua nhà mày. Bởi gặp mày, tao cũng chẳng biết nói chuyện gì cả - thứ lỗi nhé Hoan ).
Tôi nhanh chóng hỏi đường về C11, đại đội thân yêu của tôi, nơi mà thằng Minh đang làm tôi lo lắng đến cháy ruột gan. C11 của tôi kia rồi. Đại đội nằm bên một khoảng đất tương đối rộng. Hầm quan sát sở đại đội nằm ngay cạnh ven đường. Băng qua khoảng đất rộng là hầm tiên tiêu của thằng Minh. Nhìn thấy tôi, thằng Minh chạy lại ôm chầm lấy tôi toe toét cười :
- Mày về rồi đấy à? Thế vết thương có nặng lắm không? Mày “ bị “ mà tao chẳng biết mày nằm ở đâu để đến chơi.... Nó hỏi tôi một thôi, một hồi làm tôi chẳng kịp trả lời.
- Thôi, mày về hầm tao nhé. Thằng Minh phán.
Nó chẳng cần biết tôi có được đại đội phân về với nó nữa hay không. Nó cứ làm như nó là...đại đội trưởng không bằng. Nó rủ tôi ra chỗ bốn cây Thốt lốt mọc thẳng thành một hàng, giải ni lon ra rồi hai thằng nằm nói chuyện. Chuyện nó đi viện ra sao? nó bỏ đi chơi Sài gòn như thế nào ? chuyện “oánh đấm “ vừa qua ai còn, ai mất? Chuyện nó mới nhận được thư Trăng sáng. Nó khoe :
- Nàng đã “ chấp nhận “ lời tỏ tình của tao rồi. Thằng Minh nói giọng đầy phấn chấn.
Trong thời gian tôi đi viện, đại đội có nhiều đổi thay. Thằng Màu cũng bị thương rồi, trong đơn vị xuất hiện toàn chiến sỹ mới. Cán bộ chỉ huy cũng mới. Nó bây giờ chuyển sang bắn B41... Tôi thông báo cho nó vụ thằng Long bị “ dính “, nó lặng người trầm ngâm. Đến bây giờ nó mới được biết. Thằng Minh có vẻ rắn rỏi và trưởng thành lên rất nhiều, nằm nói chuyện với tôi, nghe 12.8 ly của địch nổ toang toác mà tôi thấy nó hầu như chẳng để ý gì đến. Còn tôi cứ giật mình thon thót. Bạn không biết chứ, gần một tháng được nằm nơi hoà bình, phố phường đô hội, cơm có người bưng, nước có người rót, tắm có người kỳ lưng.. con người ta chóng “ hư “ quá. Những phản xạ có được nhờ trải qua trận mạc bỗng biến đâu mất cả. Giờ đây, nghe tiếng đạn nổ đầu nòng cũng đã giật bắn mình. Trong sâu thẳm, le lói trong tôi một nỗi sợ mơ hồ. Chán thật !!!
Đến cuối giờ chiều, đại đội gọi tôi lên. Đại đội trưởng ( mới ) thông báo cho tôi biết : Theo thông báo của tiểu đoàn, do vết thương của tôi chưa ổn định nên tiểu đoàn quyết định tôi sẽ về tập trung tại trung đoàn để đi an dưỡng một thời gian. Khi nào vết thương bình phục hoàn toàn sẽ trở về đơn vị. Tôi vừa mừng vừa buồn lẫn lộn. Tôi lại sắp xa thằng Minh rồi, đến bao giờ mới gặp lại nó đây.

Chiều tà, tôi lên đường trở lại chỉ huy sở trung đoàn. Thằng Minh tiễn tôi đến tận quan sát sở tiểu đoàn. Tôi và nó dặn dò nhau đủ thứ. Với vẻ tần ngần, nó lấy ví, chiếc ví nhựa màu xanh có in hình một cô gái nghiêng đầu cười nhay nháy mắt quen thuộc. Nó rút ra đưa cho tôi một tấm ảnh chân dung. Tấm chân dung chụp nó nhìn nghiêng, mặc quân phục sao, tiết đang hoàng hồi ở Xuân Mai.
- Tao tặng mày tấm ảnh này, mày cầm lấy làm kỷ niệm Thọ nhé.
Giọng thằng Minh nghe chừng xúc động. Tôi chưa từng thấy nó như thế bao giờ.
- Mày thật vớ vẩn. Tao chỉ đi an dưỡng một thời gian rồi tao lại trở về với mày thôi mà. Tôi gạt đi.
Tôi đã từng chứng kiến những “ linh cảm “, những “ kiêng cữ “ vô cùng chính xác nhưng vô cùng khó giải thích của những người lính chiến chúng tôi. Tôi lo sợ rằng, hành động của Minh như thế này có lẽ báo trước một điều gì đó chăng?
- Mày cứ cầm lấy cho tao vui. Nếu khi mày trở lại đơn vị, mình còn gặp lại nhau thì tao sẽ xin lại. Thằng Minh nói dứt khoát.
Thế là đúng rồi. Thằng Minh chắc đã có những linh cảm rất rõ ràng nên nó mới hành động như thế. Tôi nhận tấm ảnh từ tay Minh mà trong lòng buồn rười rượi. Tôi linh cảm rõ ràng lần gặp nhau này của chúng tôi là lần cuối cùng.
- Mày ở lại nhớ cẩn thận nhé, Minh nhé. Tôi xúc động dặn dò.
- Cứ yên tâm đi. Nó toét miệng cười rạng rỡ. Nó muốn làm tôi vui đây.
Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, nước mắt tôi trào ra.
- Thôi, mày đi đi. Nó đẩy tôi ra rồi quay đầu rảo bước.
Tôi đứng nhìn theo cái dáng cao gầy của nó mãi cho đến khi bóng nó khuất sau rặng le ven đường. Tôi trở về trung đoàn trong những bước đi nặng nề. Quãng đường không xa mà sao cảm thấy như là vô tận.
Sáng hôm sau, nhập vào đoàn thương binh của trung đoàn, chúng tôi lại cuốc bộ về Bến Cầu, nơi đại đội an dưỡng Trung đoàn đứng chân. Về đến cứ Ba lô Mộc bài, tôi nghỉ lại ở đó mấy ngày.

Vừa về đến Mộc bài buổi sáng thì buổi chiều, Bố tôi lặn lội vào thăm tôi. Ôi, cha con gặp nhau mừng rỡ. Thì ra, cậu bạn cùng nằm với tôi ở viện 115 đã báo tin tôi bị thương. Cả gia đình vô cùng lo lắng. Bố tôi bố trí sắp xếp công việc xong, liền đi ngay vào thăm tôi. Ông cứ lang thang khắp mọi nơi tôi đã từng đi qua. Viện 115, viện QĐ4. Đồng dù, Trảng lớn... Đến đâu người ta cũng bảo tôi vừa ở đây nhưng đã đi rồi. Cứ thế, bước chân tìm con của Bố tôi cuối cùng dừng lại tại cứ ba lô của đại đội - Cứ Mộc Bài. Tôi và các anh trong cứ bố trí cho bố tôi một chỗ nằm trong ngôi chùa đổ nát. Ăn uống thì chẳng có gì chỉ có cơm, rau, tép và.... thịt chuột. Bố tôi sợ hãi ra mặt.
- Chà lính tráng ăn ở tạm bợ quá con ạ. Hồi ở Điện biên, khó khăn gian khổ thế nhưng cũng không đến nỗi như các con bây giờ. Bố tôi than phiền.
Đã thế, mấy ông thương binh đại đội lại còn kể với bố tôi chuyện rằng tháng trước mấy thằng trinh sát Miên bò vào giết chết cả chục thương binh ở trạm phẫu ngay bên kia đường, nào là chuyện ở đây, cách biên giói có chưa đầy trăm mét, Miên vẫn ì oàng tập kích suốt.... Sợ quá, hai hôm sau ông đòi tôi đưa về thành phố Hồ chí Minh ngay. Tôi đưa ngay ông về thành phố, vả lại tôi cũng không thích ông ở đây lâu làm gì. Ở nhà Mẹ tôi đang ốm yếu, rất cần có ông ở bên cạnh.
Tôi trở về cứ đại đội, lấy Ba lô của thằng Long bên cứ C14 gần đó mang ra bưu điện Gò dầu Hạ để gửi về cho gia đình nó những di vật cuối cùng. Tôi phải hoàn thành cái lời hứa của Tổ Tam tam trước lúc lên đường. Xong xuôi, tôi “ nhập tịch “ vào đại đội an dưỡng K24.

Ngày 15.08.1978, đang chuẩn bị ăn cơm chiều. Tôi có khách. Thằng Thọ, cũng tên là Thọ - Thọ “ con “ người Hà tĩnh, lính mới của C11 cùng B với tôi và Minh đến gặp tôi :
- Anh Minh hy sinh rồi anh Thọ ạ. Ngay câu đầu tiên, Thọ “ con “ thông báo.
Tôi bàng hoàng cả người. Minh ơi, lẽ nào mày cũng đã ra đi. Tôi không thể cầm nổi nước mắt. Cái thằng Minh, thằng bạn thân nhất của tôi lẽ nào nó đã hy sinh. Lẽ nào cái Tổ Tam Tam thân yêu của chúng tôi chỉ còn lại bơ vơ một mình tôi sao? Tôi lặng người ngồi nghe Thọ “ con “ thuật lại diễn biến cuộc chiến đấu cuối cùng của Minh.

Ngày 11.08.1978, vừa sáng ra bọn địch đã tổ chức tấn công vào chốt của tiểu đoàn 3. Có sự yểm trợ của M113, bọn địch hung hãn lao vào tấn công các chốt của đại đội. Thằng Minh dũng cảm cùng với anh em đẩy lùi được nhiều đợt tấn công của địch. Khoảng 11 giờ trưa, chúng tổ chức tấn công lần nữa. Tiếng súng địch nổ toang toác khắp nơi. DK 82, DK 75 của chúng bắn như vãi đạn. Thằng Minh thấy xe M113 nó vượt qua cánh đồng trống trước mặt lao vào, nó vọt ra khỏi hầm vác B41 nện liên tiếp mấy trái. Khói súng toả ra mù mịt. Một sơ xuất chết người đã xảy ra. Sau khi bắn xong mấy trái B41, thằng Minh đã không di chuyển ngang. Chỗ đứng bắn bị lộ, bọn địch tập trung DK quất tới tấp vào chỗ Minh đang đứng. Một mảnh đạn cắm thẳng vào trán nó. Minh gục xuống. Anh em trong B lao ra kéo nó vào hầm. Một lúc sau, Minh tỉnh lại, mở mắt và bảo :
- Em lấy giúp anh cái ví.
Trong lúc nhào ra khỏi hầm để bắn, nó đánh rơi mất chiếc ví ở cạnh hầm. Thằng Thọ “ con “ nhặt chiếc ví đưa lại cho Minh. Nó từ từ mở ví ra. Đây ảnh gia đình nó lúc còn đông đủ, đây là ảnh Minh Nguyệt – Trăng sáng thân yêu của nó, đây những lá thư của Minh Nguyệt mà nó vừa nhận được. Minh từ từ xem lại tất cả rồi cất vào ví. Nó khó nhọc nói :
- Em cầm lấy chiếc ví này rồi đưa về cho anh Thọ.
Minh nói xong, nó nôn ra vài lần rồi nhắm mắt.
Cuộc chiến đấu càng về trưa càng trở lên khốc liệt. Các đại đội 13, 12 rồi đến đại đội 11 của tiểu đoàn 3 lần lượt bị đánh bật khỏi chốt. Do áp lực rất mạnh của địch. Thi hài của Minh cùng với ba chiến sỹ nữa của C11 vẫn nằm lại trên trận địa.

Minh ơi, thế là cái “ linh cảm “ khủng khiếp của mày đã trở thành sự thật. Thế là không bao giờ tao còn được nhìn thấy mày nữa.

Minh, Long hai thành viên của cái Tổ Tam Tam thân thuộc đã vĩnh viễn nằm xuống. Chúng mày đã chiến đấu một cách anh dũng. Chúng mày đã nằm xuống đầy vinh quang. Chúng mày không hổ danh là những chàng trai Hà thành sống, chết đầy kiêu hãnh. Minh ơi, Long ơi hãy yên nghỉ nhé. Vĩnh biệt chúng mày, hai người bạn thân yêu.

Minh hy sinh đúng vào ngày bà mẹ của Minh – Bà Lý Nguyệt Liên vào đến Trảng lớn thăm con. Sau hai lần đi đi lại lại mà không được gặp được con ( vì sư đoàn cố giấu ). Cuối cùng ông Hai Đỏ - Thiếu tá phụ trách căn cứ sư đoàn, đành phải thông báo cho bà mẹ của Minh. Được tin, tôi cũng về Trảng lớn để gặp Bà mà không gặp vì Bà đã trở về Thành phố Hồ Chí Minh – Tôi đã về Thành phố Hồ Chí Minh để gặp Bà trong một đêm mưa như trút tại một căn nhà nhỏ gần cầu Công Lý – Theo đúng những gì chúng tôi đã cùng hứa với nhau, tôi mang cho Bà chiếc ba lô đựng những di vật cuối cùng của Minh. May mắn làm sao mà cũng kỳ lạ làm sao, bức ảnh Minh tặng tôi là di ảnh cuối cùng mà gia đình Minh có được về nó.

Tôi – Lê Thái Thọ, nguyên chiến sỹ C11, D3, E1, F9 viết những dòng hồi ức này như một nén hương tưởng niệm, xin kính dâng lên hương hồn hai người bạn tôi đã nằm xuống trên mảnh đât phía nam cầu Prasaut , thuộc tỉnh PrayVeng CPC – Quang Minh ( 62 Nguyễn Hữu Huân, Hà Nội ) và Lê Phú Long ( 25 Hàng Hòm, Hà nội ) và biết bao liệt sỹ khác. Ngoài Lê Phú Long đã có mộ chí đàng hoàng, còn Liệt sỹ Quang Minh, cho đến nay vẫn chưa tìm được hài cốt. Nếu trong các bạn, ai phát hiện thêm điều gì về phần mộ hoặc hài cốt của Quang Minh, xin liên hệ ngay với tôi qua trang Quansuvn này. Tôi đã từng nhờ đến nhà ngoại cảm Phan Bích Hằng nhưng vẫn chưa có kết quả khả dĩ nào.

- Xin cám ơn các bạn đã chăm chú theo dõi bài viết này.
- Xin cám ơn trang Quansuvn đã cho tôi cơ hội để hồi tưởng và viết những trang viết này.
- Đặc biệt, tôi xin tận từ đáy lòng cảm ơn Trungsy1 - đồng đội cùng sư đoàn 9 - người đã truyền cho tôi cảm hứng để có thể viết được những trang viết đầy xúc cảm này.
Xin Cám ơn tất cả !

Tôi nằm mấy tháng an dưỡng tại đại đội an dưỡng của Trung đoàn tại Bến Cầu, Tây Ninh. Thực tế chỉ có an mà không có dưỡng. Tức là chỉ có nghỉ ngơi còn ăn uống thì cực vô cùng ( kém xa hồi còn đang tác chiến ). Thương binh lúc nào cũng đói, đói đến quằn ruột. B tôi ( cũng chia thành các B như bình thường ) nằm tại một túp lều ( nó chỉ là nơi nhốt cặp bò của chủ nhà đã đi sơ tán ) của chú Tư cạnh rìa làng. Cách nhà đại đội chừng 200m. Ăn uống chỉ có 2 bữa ăn chính là trưa và tối. Hàng ngày thương binh chia nhau đi cắm câu, tát cá để cải thiện. Tối tối lại thêm nghề đi soi ếch. Nhưng mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng đói vẫn hoàn toàn đói. Một đêm mưa to gió lớn ( mà sao kỳ vậy, các bài viết của tôi hay rơi vào những đoạn có thời tiết xấu tệ ). Cả B quá đói mà chẳng biết làm gì để có cái cho vào bụng. Tôi nảy ra ý định đi bắt trộm gà. Lập tức toàn bộ " cán bộ chiến sỹ " đều hưởng ứng nhiệt liệt. Nhà chú Tư ( chủ nhà cho chúng tôi ở nhờ ) đều đã đi sơ tán hết vì ở đó rất gần đường biên ( cách khoảng 400 mét ), chú có để lại 1 cặp bò ngủ cùng chúng tôi - Giường chúng tôi kê gọn một đầu, phía cuối giường là chỗ ngủ của 2 con bò - ngoài ra còn có mấy con gà thả rông. Tôi và anh Tâm ( cùng C11 với tôi - người Thanh hoá ) được phân công đi bắt gà, còn anh Cảnh cụt ( người Đông anh - HN ) được phân công sang anh nuôi đại đội xin gạo. Tôi đi ra ngoài vườn. Lũ gà nhà chú Tư toàn ngủ đậu trên các cành cây. Tôi khe khẽ luồn tay vào bụng con gà mái to nhất đang ngủ ngà ngủ gật. Con gà chỉ kêu nho nhỏ, vả lại trời đang mưa to nên có kêu tôi cũng không sợ gì. Qu..o..á ..c , con gà đã bị tôi vặn ngéo cổ. Anh Cảnh cụt nhờ tài ăn nói nên cũng xin được một mũ cối gạo. Lông, lòng ruột tất cả được cho vào túi nilon dấn chìm xuống ruộng lúa cạnh nhà. Cơm nóng, thịt gà rang... ôi sao mà ngon đến vậy. Chỉ có 4 anh em mà chơi hết cả nồi cơm to tướng ( một mũ cối gạo chứ đâu có ít ).
Chỉ khổ chú Tư, sáng hôm sau phát hiện mất con gà cứ đi tìm khắp xóm. Mấy anh em chúng tôi cũng hè nhau toả đi tìm giúp chú. He he.... Tìm mãi chẳng thấy !!!? Cả lũ liên an ủi chú Tư : Có lẽ hôm qua, trời mưa sấm chớp ầm ầm nên có lẽ nó sợ nên chạy đi đâu đó mất tiêu rồi chú ạ.

Có lẽ trong đời lính của tôi, không có thời gian nào trôi đi vô vị như những ngày nằm tại đại đội an dưỡng này. Suốt ngày chỉ nghĩ đến ăn mà cũng không xong. Cái đói lúc nào cũng thường trực trong dạ dày. Đói đến mức không thể đi đâu chơi được, ngày chỉ nằm chờ hai bữa cơm như cơm phát chẩn. Cả tháng chỉ có ngày lĩnh nhu yếu phẩm và phụ cấp là mặt mũi lũ thương binh chúng tôi mới tươi lên đôi chút. Có tiền, tôi và thằng Dụ ( Thanh hoá ) lập tức phải san sẻ cho những bà bán hủ tiếu ngoài thị trấn Gò Dầu ngay. Để lâu cũng không được, mất ngay ! Vì đói quá nên trong đại đội an dưỡng xuất hiện nhiều vụ lấy cắp quân tư trang của nhau. Tối nằm ngủ, tôi phải gối đầu mình lên chiếc ba lô, nhưng không thể lại được với các " Bố " nhà ta. Toàn cỡ ...trinh sát đặc công cấp....Bộ cả. Chúng nó chỉ rình lúc mình trở mình là...xong. Thế là lại trở về với nhất bộ quần áo mặc.... cả ngày.
Trên đơn vị, cả sư đoàn vừa tháo chạy sau một đợt tấn công của Pôn Pốt tại cầu Prasaut. Cả sư đoàn về đóng hết xung quanh Chi phu - phía đông cầu Tà yên. Đơn vị nghỉ ngơi, bổ xung trang bị, quân số.
Tháng 11.1978, nghe tin trên cứ Trảng lớn có đợt lính mới bổ xung về toàn lính Hà nội. Tôi liền nhảy xe đò về Trảng lớn tìm bạn và đồng hương Hà nội để hóng chuyện về quê hương. Chẳng có ai quen mặt nhưng cũng thoả được phần nào nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Rất nhiều lính Hà, lại Hoàn kiếm đàng hoàng nhé.
Sau 2 ngày, tôi trở về Tà beng ( À, bây giờ tôi nhớ ra rồi. Xóm ấy có tên là Tà Beng ). Cả đại đội vắng tanh như chùa Bà đanh. Hỏi những người còn lại, họ cho tôi biết cả đại đội lên D32 an dưỡng tại Trảng lớn để khám sức khoẻ và đi A.
Ôi, đi A - Chữ A đơn giản mà sao có sức hấp dẫn lũ thương binh chúng tôi lúc ấy đến thế. Đi A - là về quê hương, là về với gia đình thân thuộc, là sự sống, là hoà bình... đi A là tất cả với chúng tôi lúc đó.
Tôi lập tức nhảy xe quay lại Trảng lớn.

D32 an dưỡng của F9 nằm gọn ở một góc căn cứ Trảng Lớn, bên cạnh đại đội " thu dung ". Cả D bao gồm 5,6 dãy nhà tôn. Mái lợp tôn, tường cũng bằng tôn, gường nằm bằng sắt..." ấm " đáo để. Mặc dù tháng 11, 12 ngoài Miền Bắc đang rét cắt da, cắt thịt thì lũ chúng tôi đang bị hầm đến chảy mỡ trong những cái...lò tôn này. Thương binh thằng cụt tay, thằng cụt chân, thằng sọ não... đều chỉ " đánh " mỗi chiếc quần đùi, còn thì trần trùng trục hết. Ăn uống có khá hơn khi còn nằm dưới an dưỡng trung đoàn. Đại khái bữa ăn còn có tí rau, tí thịt mặc dù phần ngon thì cũng chẳng đến lượt thương binh, " Gà teo cơ, canh rau toàn quốc, nước chấm đại dương ". Thương binh ăn đủ ngày 3 bữa. Ăn xong là trà lá, cờ quạt... ( Cờ quạt chứ không phải là cờ bạc đâu nhé ) và...bắt rệp. Chao ôi, tôi chưa thấy ở đâu nhiều rệp như ở D32 này. Hôm nào nắng to, chúng tôi mang giát giường ra phơi. Từng đoàn quân họ nhà rệp lũ lượt kéo nhau từ những khe kẽ giát giường ra vì ánh mặt trời thiêu đốt. Chúng tôi không dám giết chúng bằng tay vì quá hôi. Một mảnh báo cuộn lại rồi đốt là xong. Rệp nổ lép bép như thóc rang.

Thương binh tại D32 này có phong trào thi đua rất sôi nổi. Đó là " treo tay " - Khẩu hiệu " chịu khó treo tay, có ngày ra Bắc " được thực hiện tương đối triệt để. Thằng cụt, thằng bị đạn nó phang trúng tay thì treo đã đành. Nhưng có những thằng bị mảnh M79 nó xiên, sẹo chỉ to bằng nốt ghẻ ruồi cũng rất " nhiệt tình, chịu khó " treo tay. Phải nói là một sự kiên trì ghê gớm, sự kiên trì khủng khiếp. Cánh tay bị dính ( dù chỉ rất nhẹ thôi ) được dùng một dải băng cứu thương treo cố định trước ngực. Cánh tay đó nằm cố định, không tham gia bất cứ hoạt động gì. Dần dần qua thời gian dài, nó teo lại. Chỉ còn da bọc xương, trông phát khiếp. Bác sỹ giám định y khoa nhìn thấy đã muốn ...đuổi ra Bắc rồi. Cánh tay như vậy còn " đánh đấm " gì nữa !!!? Vậy là thành công.. thành công... đại thành công rồi. Mời anh đóng vai chính bộ phim .... đường về quê Mẹ. Sướng !!!!

Rồi thì cũng đến ngày giám định y khoa, thương binh sau khi giám định xong được phân loại. Ai yếu sức khoẻ thì ra bắc, ai còn đủ sức khoẻ thì lên đường trở lại đơn vị. Tôi khám đạt thương binh loại 1 ( cũ ), không đủ tiêu chuẩn đi A nên chuẩn bị sẵn sàng trở về đơn vị. Được thôi, đây đâu có ngán gì !!!
Một buổi sáng, cán bộ đại đội gọi tôi lên giao nhiệm vụ :
- Các anh bên phòng chính trị của sư đoàn có sang xin em về ban chính sách sư đoàn. Ý em thế nào ?
- Dạ thưa, sang bên ấy làm công việc gì ạ? Tôi hỏi.
- Thì lo cất bốc hài cốt liệt sỹ chứ làm gì nữa.
- Vậy thì cho em về đơn vị chiến đấu. Tôi trả lời. Tôi nghĩ đến cảnh phải đi đào mộ, bốc xương bốc cốt mà rùng mình. Tôi vốn sợ ma lắm do vậy chẳng thà đi đánh nhau còn dễ chịu hơn. Anh cán bộ phòng 2 ( phòng chính trị ) không nói gì và ra về. Tôi đã xác định tư tưởng sẽ trở về trung đoàn tiếp tục tham gia chiến đấu. Mấy hôm sau, đại đội lại gọi tôi lên. Một sỹ quan đeo quân hàm thiếu uý tiếp tôi. Anh tự giới thiệu là Bùi Xuân Hùng - thiếu uý trợ lý phòng hậu cần sư đoàn. Anh hỏi tôi về trình độ văn hoá, quá trình công tác và có ý muốn xin tôi về phòng làm văn thư, thống kê. Văn thư, thống kê à? OK ! Tôi đồng ý ngay lắp tự. Ngay sáng hôm ấy, tôi làm thủ tục và khoác ba lô theo anh Hùng về phòng Hậu cần sư đoàn.
Phòng hậu cần sư đoàn nằm ngay cạnh đường băng sân bay Trảng lớn. Tôi được sắp xếp nơi ăn, chốn nghỉ khá là tươm tất. Ăn uống thì tự nấu lấy theo từng ban. Ở hậu cứ này, chỉ còn tôi, anh Hùng và thằng Nghĩa. Tất cả phòng chủ yếu nằm trên tiền phương hết. Bình thường, bữa ăn cũng chẳng có gì nhưng thỉnh thoảng anh Hùng lại đi ra chợ mua đồ ăn tươi về thế là... nhậu. Bia 33 con cọp thì " tạm ứng " ngay kho hậu cần. Cuộc sống có vẻ ngon lành, êm đềm. Nhưng, cái số tôi không thể ngồi yên một chỗ được. Nó cứ luôn nhấp nhổm, bứt dứt khó chịu. Cả ngày chẳng làm cái gì, chỉ chăm chăm đun nước, nấu ăn chán chết đi được.

Công việc của thằng lính nhân viên thống kê, kế hoạch cũng giúp cho tôi hay được " bát ngát " đi đây đi đó. Khi thì Phú giáo ( Bình dương ), khi thì Sóng thần ( QĐ4 ). Sư đoàn có một nông trường ở tại Phú giáo. Tôi thỉnh thoảng đi xuống lấy số liệu vớ vẩn về tăng gia sản xuất, nhận các yêu cầu về cung cấp phân bón, thuốc trừ sâu... Một lần tôi đi xuống bằng xe Reo, gần đến nông trường thì xe bị mất phanh ( mất thắng ). Chú Bảy lái xe ( lái xe của QLVNCH cũ ) liền bảo tôi đi mua cho chú xị rượu. Chết mẹ ! Ông này không sửa nổi xe nên bảo tôi mua rượu về nhậu suông đây. Tôi vừa đi mua, vừa lầm bầm. Tôi mua rượu về, chú Bảy liền đổ xị rượu vào thay cho dầu phanh. Xe tiếp tục lên đường. Hoá ra, khi " bí " rượu có thể thay cho dầu phanh được.
Một lần, cả lũ nhân viên của phòng hậu cần chúng tôi được cử đi nhận dầu Diesel tại căn cứ Sóng thần. D29 có nhiều xe bồn loại 4000 lít, 6000 lít nhưng chỉ có 1 chiếc 11.000 lít là chiếc xe cũ của Mỹ. Chúng tôi lên từ chiều hôm trước. Sáng hôm sau làm thủ tục nhận 11.000 lít dầu. Máy bơm không có, mấy thằng thay nhau bơm tay từ sáng đến quá trưa mới đủ số lượng. Cánh tay thằng nào, thằng ấy mỏi rã rời. Khoảng 3,4 chiều xe mới ra đến xa lộ Đại hàn. Anh lái xe gạ :
- Làm trận " cầy tơ bảy món " chứ chúng mày?
Đang đói và mệt, nghe đến nhậu mắt thằng nào thằng ấy rạng rỡ như " những ánh sao đêm ". Nhưng tiền thì tất cả đều " trên răng dưới... cát tút " lấy đâu ra tiền mà nhậu với chả nhẹt. Anh lái xe vừa nói vừa cười :
- Mấy thằng ngố, cứ nhậu thả dàn đi. Tao đảm bảo ngày mai sẽ giao đủ, thậm chí còn giao dư 11000 lít dầu.
Nói thực hiện ngay đi đôi với làm. Anh gọi chủ quán xách " can " tháo luôn 5,6 can đầy. Cả lũ nhậu nhẹt mệt nghỉ. Sau khi ăn uống đã đời. Anh cho xe chạy một đoạn chừng vài chục cây số. Đến khu rừng cao su ven đường thì dừng xe.
- Thôi, đêm nay chúng ta nghỉ tại đây.
Chúng tôi nằm ngủ ngổn ngang ngay trên đường quốc lộ. Nằm cạnh anh lái xe, anh giải thích để tôi yên tâm:
- Cả ngày phơi nắng, xe dầu này nó nở ra cả trăm lít. Mình có bán tí chút cũng chẳng " nhằm nhò " gì. Bây giờ đừng về sư đoàn vội. Về sớm, sáng mai giao hàng dầu nó hao. Ngày mai mình chạy về đến nhà vào tầm quá trưa, dầu nó lại nở ra. Giao có dư luôn.
Bài học đầu tiên của ngành " hậu cần " với tôi là như vậy. Quả nhiên, chiều hôm sau chúng tôi giao hàng đầy đủ. Dầu không thiếu một giọt. Tóm lại khi nhận xăng dầu thì phải nhận hàng từ sáng sớm, giao hàng thì phải giao buổi chiều.

Rồi thì những tháng ngày vô vị nằm tại cứ Trảng lớn cũng đã trôi qua.
Ngày Chủ nhật 17.06.1979 tôi được lệnh đi tiền phương. Lâu lắm rồi bây giờ mới lại được cầm khẩu súng trên tay, dù chỉ là khẩu AK nhỏ bé. Một chút bồi hồi, một chút lạ lẫm. Xe D29 đón chúng tôi, trên xe toàn là cán bộ chiến sỹ của các phòng ban và lính D29 lên tiền phương. Các anh chắc đi đi về về nhiều lần nên không thấy lạ chứ còn tôi thì có đôi chút hồi hộp. Hôm qua tôi đã đi mua sắm cho mình đầy đủ mọi thứ cần thiết, tất cả cho hết vào chiếc thùng gỗ đựng đạn B40. Đúng là lính sư đoàn đi chiến trường cũng khác với lính trận. Lính trận càng gọn nhẹ bao nhiêu thì lính " kiểng " càng kềnh càng bấy nhiêu. Thử xem trong thùng gỗ B40 mang theo những gì?
- Quần áo dài, quần áo lót : 2, 3 bộ ( lính chốt chỉ có nhất bộ ).
- Xà bông thơm, xà bông giặt ( quá xa xỉ với lính chốt )
- Giấy viết vài tập, bút bi vài chiếc..
- Nilon, tăng võng...đầy đủ.
và nhiều thứ khác.
Trên xe các anh cũng toàn mang thùng gỗ, thùng tôn chứ rất ít người mang ba lô. Xe chạy qua nhưng địa danh mang bao kỷ niệm đối với tôi. Mộc bài, ba vét... kia rồi ngã tư Rừng Sở, Chi Phu, cầu Tà Yên những địa danh thấm máu biết bao đồng đội. Nhìn hai chiếc T54 bị bắn cháy, màu đỏ gạch cua nằm gục nòng bên cạnh cầu Prasaut tôi chợt nhớ đến câu chuyện " đổi hai xe lấy một mã " vang khắp sư đoàn của Trung đoàn trưởng trung đoàn tôi vài tháng trước. Đường xóc kinh khủng mãi đến tối mịt, chúng tôi mới đến PhnomPenh. Xe nghỉ lại tại một căn nhà nhỏ hai tầng rất đẹp cạnh cầu " Sập ". PhnomPenh đã hồi sinh, điện nước đầy đủ. Ban đêm, thành phố hoàn toàn yên tĩnh. Tôi mắc mùng trên ban công lầu hai để ngủ. Đêm an toàn nhưng phải cái rất nhiều muỗi.

Quả là viết về mấy ông " lính cậu " này khó thật. " Suốt ngày dài lại đến đêm thâu " toàn ăn, ngủ, tán láo khó mà có cảm hứng để viết được. Thôi, được đến đâu, hay đến đấy. Em xin các bác hai chữ " đại xá " nhé.

....Xe chạy theo lộ 5 hướng thị xã Congpongchnang thẳng tiến. Dọc đường, thỉnh thoảng chúng tôi bắt gặp những chiếc xe quân sự cháy đen nằm chỏng chơ ven đường. Đoạn dốc gần ngã tư rừng dừa, có tới 5, 6 chiếc T54, T59 của ta cháy đen thui. Đến ngã tư rừng dừa, chúng tôi tạm dừng chân nghỉ uống nước. Đây là hậu cứ cũ của D29. Trong căn nhà ven đường, loáng thoáng vài ba anh bộ đội ngồi đung đưa trên cánh võng. Một anh dáng người đậm chắc đang nằm ngủ trên chiếc võng màu xanh " sĩ lâm " lạ mắt. Một anh cán bộ trong đoàn chúng tôi đến bên cạnh đập đập vào thành võng. Người đang nằm trên võng vung tay nhảy bật dậy đứng thế thủ. Nhận rõ anh cán bộ vừa đánh thức mình, người kia cười ha hả và nói một tràng tiếng Miên. Lúc ấy, qua giới thiệu, tôi mới được biết đó là thằng cha tiểu đoàn trưởng D10 Quân đội CM CPC - Khi đó, các sư đoàn của ta đều phải có nghĩa vụ xây dựng 01 tiểu đoàn cho bạn gọi là " tiểu đoàn dân vận ". Thằng cha này rất giỏi võ nghệ. Trông mặt thấy ghét. Mặt vuông, góc cạnh, tóc xoăn...phải nói là đàn ông Campuchia nhiều cha rất đẹp trai, công bằng mà nói là ăn đứt anh em mình chỉ tội da đen và tóc xoăn tít thôi. Gặp thằng cha này ở ngoài mặt trận, chắc nó lãnh đủ ...cả băng.
Xe chạy đến thị xã vào lúc quá trưa. Một thị xã nhỏ đẹp nằm nép mình ven bờ tonlesap.

....Chạy miết luôn qua thị xã không dừng lại. Đi khoảng vài cây số, chiếc xe rẽ vào con đường lát bê tông chạy êm ru. Bộ tư lệnh tiền phương của sư đoàn nằm xung quanh khu vực sân bay Kampongchhnang.
Đây là một sân bay quân sự lớn do Trung quốc giúp PônPốt xây dựng đang trong thời kỳ hoàn thiện. Đường băng chạy dọc theo hướng bắc - nam. Toàn bộ khu vực phía nam của sân bay tựa vào dãy núi cao chừng 200 mét. Phía đông là khu vực trú quân của 3 phòng ( Tham mưu - Chính trị - Hậu cần ). Phòng tham mưu ăn ở khang trang nhất nằm ngay ngoài cùng ( chắc khu này là dành cho phi công và chỉ huy sân bay ), kế đến là phòng hậu cần, gần cạnh đường băng là phòng chính trị. D29 ở ngay đầu đường băng. Lính có câu : " Ăn hậu cần, nằm tham mưu, lên sao chính trị " chẳng sai tẹo nào. Phía tây đường băng là các đơn vị trực thuộc lần lượt D10 ( dân vận - sau một thời gian thì giải tán), D26 ( thông tin ), D27 ( trinh sát ). Sát đường băng phía đông cạnh đài chỉ huy là trại tù binh.
Tôi về phòng hậu cần, do thiếu tá ( sau đó lên trung tá ) Nguyễn Do ( Mười Do ) làm trưởng phòng.

Công việc ở tại tiền phương này chẳng có gì cố định. Khi thì xuống các trung đoàn lấy số liệu tiện xe chở luôn mấy tử sĩ về sư, khi thì đi chốt của phòng ở các điểm chốt như ngoài thị xã, trên thị trấn Pôlây, Cô cháp, Tà lia, chùa Lông chó.... ( mà tôi cũng chẳng biết tại sao chúng tôi đặt tên là chùa Lông chó nữa ). Nhiệm vụ quan trọng nữa là tổ chức, kết hợp cùng với dân đánh cá trên sông Tônlêsap và biển hồ để cung cấp thực phẩm cho bộ đội. Do có những chốt như vậy, việc chúng tôi chạm và đấu súng với Pốt là chuyện đương nhiên. Hóa ra làm lính " kiểng " trên sư cũng chẳng an toàn lắm.

Sau khi nghỉ ngơi mấy ngày, tôi được lệnh cùng với một xe của D29 chở đạn và gạo lên tiếp tế cho chốt Pôlây. Cùng đi với tôi có Đức ( tức Đức cối ), Tâm cả hai đều là dân Thanh Hoá. Chúng tôi chuẩn bị súng ống, đạn dược đầy đủ. Con đường lộ 5 từ sân bay lên Pô lây thật vắng vẻ, ít xe cộ qua lại. Tất cả cầu cống trên đường đều có chốt của F15. Xe chạy không nhanh lắm vì đường rất xấu. Anh lái xe bảo chúng tôi phải giao hàng nhanh để còn về sớm, cứ quá 2 giờ chiều vẫn còn lang thang trên đường dễ bị “ phục “ lắm. Chúng tôi lên tới thị trấn, xe rẽ phải vào một con đường nhỏ hướng ra phía Biển Hồ. Đường hẹp và khó đi, xe len lỏi luồn lách qua những rặng cây loà xoà. Một ngôi chùa nhỏ nằm ngay ven đường, đứng trên thùng xe, tôi nhìn thấy trong gian chính ngôi chùa chứa đầy ắp sọ người. Tôi thoáng nghĩ đây chỉ mới là một thị trấn nhỏ mà số người chết dưới chế độ Pôn Pốt còn nhiều như thế này, nếu cả đất nước CPC thì số lượng người chết còn khủng khiếp tới đâu !!!? Xe đi tới khu vực Biển hồ, chốt của đơn vị tôi nằm ngay trên sông. Tôi giương AK bắn ba phát súng báo hiệu là xe chúng tôi đã tới. Một lát sau, một chiếc xuồng ra đón chúng tôi. Anh em trong chốt đã cho cả người ra canh giữ xe ô tô cẩn thận. Chúng tôi chuyển súng đạn, gạo, nhu yếu phẩm xuống xuồng và cùng đi ra chốt.

Chốt trên sông - một trận địa chốt hoàn toàn mới và lạ đối với tôi. Đó là hai, ba chiếc nhà bè được ghép lại. Nhà làm bằng gỗ, mái lợp tôn. Nhà tương đối rộng rãi, thoáng mát. Cả chốt ước chừng một trung đội “ cứng “. Ở đây, hoàn toàn bất ngờ tôi gặp lại Lợi “ Bọ “ người cùng huấn luyện ở ngoài 308 với tôi, hiện nay phụ trách tại đây. Chốt trang bị hoả lực mạnh : một 12.8 ly, một cối 60, một RPD, một B40 và còn lại là AK, AR15... anh em toàn bộ là thương binh nhưng chưa được xếp hạng thương tật hoặc xếp hạng rồi nhưng chưa đủ điều kiện ra Bắc. Lợi, Vân, Sơn, Mạnh Đạt.... toàn những lính đã từng chinh chiến cả. Sau bữa cơm trưa rất thịnh soạn gồm các món toàn làm từ cá tươi ( bọn ở chốt này không bao giờ phải lo đến thực phẩm ), Mạnh Đạt ( Thái lọ ) nguyên lính thông tin hữu tuyến của E2 vui vẻ giới thiệu với tôi về chốt của chúng nó qua mấy câu thơ tự viết :


“ Chúng tôi ở trên sông
Nơi có những cánh rừng ngập trong lòng nước
Con chim có nhiều nhưng không làm tổ được
Lũ giặc rình mò, cái chết ở bên trong

Chúng tôi ở trên sông
Nơi có những chiều thuyền về đầy cá
Cô gái Khơ me ửng hồng đôi má
Gọi tên chúng tôi, anh Coong tóp Việt nam

Khi mây lặng trời êm
Chiếc Ca nô nhẹ lướt
Có những lúc sông giận mình mấy lượt
Là khi mây đen giăng đầy trời

.....
Toàn con trai nhưng rất yêu nhau
Đứa nào cũng đòi lên cạn
Nhưng chẳng bù cho mùa hạn
Đi mấy lần đã ngại đau chân.......... “

Chẳng là chốt cách thị trấn Pô lây rất xa, nếu mùa nước nổi thì còn có xuồng đưa đến sát thị trấn. Mùa khô, nước rút ra xa, muốn đi chơi Pôlây phải “ cuốc bộ “ xái cẳng.

Sau khi chuyển, bàn giao xong hàng hoá, chúng tôi nhanh chóng lên đường trở về. Phải khẩn trương, kẻo về muộn sẽ không được an toàn trên đường.
Xe qua một chiếc cầu ngoài thị trấn một đoạn, một anh lính của F15 xin đi nhờ xe. Qua câu chuyện góp vui, chúng tôi được biết anh được đi phép nên đang tìm cách quá giang về Việt nam. Biết chúng tôi chỉ về đến thị xã nhưng anh vẫn xin đi. Được đoạn nào, hay đoạn đó.
Chiếc xe Gát chầm chậm chạy như rùa bò lên chiếc dốc Rừng xanh nằm khoảng giữa hai chiếc cầu từ Phum Tuol Roko đến Phum W. Thnna Keo, mấy thằng ngồi trên xe đang cười ngả cười nghiêng khi nghe tôi kể chuyện tiếu lâm... Vừa lên đỉnh dốc, bỗng toác.. toác... toác tiếng súng AK, AR15 nổ xung quanh như xé vải. Địch phục kích !!! Tôi xoay người lại nép mình vào góc thành xe, giương súng bắn trả. Cậu lính của F15 từ ghế băng cuối xe lao về phía tôi chúi đầu xuống như tránh đạn. Đức “ cối “, Tâm cũng bò ra sàn xe vừa tránh đạn vừa ... bắn lên trời. Anh lái xe tăng tốc miết bàn đạp ga phóng như điên như dại. Bắn hết đạn, tôi quanh sang thằng Đức hét :
- Đưa tao một băng !
- Băng bằng sắt, băng bằng sắt... Thằng Đức vừa trả lời lạc giọng, vừa lấy tay vỗ vỗ vào băng đạn.
Thì ra, tôi hét nó đưa cho tôi băng đạn, trong lúc cuống cuồng nó lại tưởng tôi bảo nó đưa cho tôi cuộn băng cứu thương nên mới có sự nhầm lẫn như vậy. Đến chiếc cầu sắt gần Phum W, Thnna Keo, chiếc xe dừng lại vì có chốt của F15 ở đó. Thôi chết rồi, tôi lại bị thương rồi. Máu phun ra ướt sũng chiếc áo lính tôi đang mặc. Nhưng sao tôi không có cảm giác đau gì nhỉ !!!? Tôi ngoái nhìn lại phía sau. Cậu lính của F15 đi nhờ đã dính một viên xiên qua thái dương, gục đầu lên vai tôi và chết tại chỗ. Thằng Tâm thì dính một viên vào ngực bên phải đang nằm thở khò khè. Tôi nhờ mấy anh em của F15 nhanh chóng băng bó cho Tâm và chúng tôi cho xe chạy nhanh về thẳng D33 nằm ngoài thị xã. Bàn giao thương binh tử sỹ xong, xe chúng tôi chạy về Sân bay. Lúc ấy mới khoảng 5.30 chiều.

Những tháng ngày cuối năm 1979 sang đầu 1980, nhiệm vụ chủ yếu của tụi lính chúng tôi vẫn là đi áp tải đạn, gạo, quân nhu cho các đơn vị ở tuyến trước. Tiện chuyến xe thì lại nhận liệt sỹ chở về. Những tuyến đuờng từ Sân bay đi xuống ga Bamnak ( chỉ huy sở E2 - của Trungsy1 ) hay theo lộ 27 xuống ga Romeas ( chỉ huy sở E1 ) là những tuyến đường " chết chóc ". Thằng nào ở trong danh sách phải đi áp tải là coi như... đi vào cửa tử. Hai bên đường toàn rừng Khộp xen lẫn cỏ tranh. Vắng lặng...vắng ngắt ... cả một đoạn dài mấy chục cây số mà cấm thấy bóng dáng chiếc xe ô tô nào cùng đi cho...đỡ sợ. Bác tài xế thì cắm đầu chạy, không nói không rằng, mặt mũi căng thẳng. Cánh cửa cabin xe bên phía tay lái bao giờ cũng chỉ khép hờ hờ. Cứ nghe Oành... là bác phi cả người ra khỏi xe mà không cần biết tiếng nổ ấy là gì. Lính tráng chốt một chỗ còn yên tâm. Nếu nó đánh vào cũng nổ súng trước, cũng còn chỗ ẩn nấp. Đằng này xe là một mục tiêu rõ ràng và duy nhất. Trên xe chỉ có mỗi khẩu AK hay AR15 đánh đấm cái giề !!!? Nhiều khi thoáng thấy bóng người lại căng thẳng hơn vì không phân biệt nổi đây là dân hay là địch??? Địch hay là " du kích " Tôi dám cá một ăn mười rằng nếu cho các bạn chọn giữa làm lính chiến dưới đơn vị chiến đấu với làm lính áp tải phòng Hậu cần thì bạn sẽ chọn PHƯƠNG ÁN 1. Tuần nào cũng mang bản thân mình ra làm mục tiêu di động vài lần thì cái cảm giác ấy rất là...Yomost. Tốp người đang ngồi trên xe bò lăn bánh lộc cộc trước mặt là ... địch đấy ! Ồ, không có lẽ là dân đi làm rẫy.. Không, không phải dân đâu.. địch đấy. Trong đầu cứ luôn căng ra để ra câu hỏi và tự trả lời. Trả lời sai là... tiêu. Và nhiều anh lính trong đơn vị đã trả lời sai !!! Tôi cũng có vài lần trả lời sai nên trên người lại thêm vài ba cái sẹo nữa. He ..he..he ..Ơn trời, số tôi đẻ ra đã tên là ..Thọ.

Năm 1980, lính tráng bên K bắt đầu rơi vào tình cảnh thiếu lương thực, thực phẩm trầm trọng. Chúng tôi ở Hậu cần sư đoàn mà cũng đã bắt đầu phải ăn độn...đậu xanh. Lúc đầu cũng dễ ăn. Mình cứ nghĩ là giống như ngày tết, Mẹ có nấu đậu xanh để gói bánh chưng, bánh tét mà mình thó được một nắm. Đậm đậm, bùi bùi... ngon đáo để. Nhưng đến khi phải ăn trừ bữa bằng đậu xanh thì ... ớn luôn. Cũng may mà thời gian thiếu thốn ấy kéo dài không lâu.
Để tăng thêm thức ăn cho bộ đội, nhất là các đơn vị đóng gần sư đoàn. Phòng Hậu cần đã hợp tác với dân Khơme sống ven sông Tonlesap tổ chức đánh bắt cá. Dòng sông Tonlesap và Biển hồ quả là một vựa cá khổng lồ. Mùa mưa, Biển hồ dâng nước tràn lên khắp các cánh rừng ven hồ. Lũ cá thi nhau sinh sôi trong các cánh rừng ngập nước đầy ắp thức ăn. Chúng lớn nhanh như thổi. Đến mùa khô, Biển Hồ thu nhỏ lại chỉ còn 1/10 diện tích. Cá từ các cánh rừng đổ về Biển Hồ và các lạch sông. Cá tra, cá lóc trắng, lóc đen, cá hô, cá chẻm, cá chày, cá trôi... trên là trời dưới là cá. Bộ đội lập các chốt đóng ở những vị trí ngã ba các rạch sông bảo vệ địa bàn đánh bắt cá cho dân. Ăn chia theo tỷ lệ 40/60, bộ đội lấy 40 %. Trung bình mỗi tháng, chúng tôi được chia khoảng 250 tấn cá. Cá tươi cấp thẳng cho các đơn vị, cá mang về đổ ra sân bay phơi làm cá khô, làm nước mắm.... Cả đường băng sân bay Congpôngchnang ngập toàn cá lá cá.
Vậy, người dân Khme họ đánh bắt cá như thế nảo? Câu cá, quăng lưới... Không, sai hết. Họ dùng búa gỗ đóng những cây gỗ lớn xuống lòng sông. Cứ cách 5 mét đóng một cọc, đóng ngập xuống đáy lòng sông, phần trên còn nhô lên mặt nước khoảng 4,5 mét. Dùng một loại dây rừng gọi là dây Trại ( càng ngấm nước càng dai ) đan kết hợp với tre tạo thành những tấm phên lớn chặn xuống lòng sông. Cả dòng sông được ngăn lại chỉ hở ra 1, 2 cửa gọi là cửa đáy. Ở đó họ quây lưới và... xúc cá. Cá nhiều đến nỗi cứ một hai tiếng, nếu xúc không kịp thì phải xả đáy lưới ra một lần để xả cá xuống hạ lưu, kẻo cá dồn về làm rách đáy. Xúc đầy những ca nô loại lớn lại chạy vào bờ đổ lên xe của D29 chạy về sân bay. Cả đêm, chúng tôi cứ rầm rập chở cá về lên kế hoạch cung cấp cho các đơn vị, không chia hết thì đổ ra sân bay làm nước mắm và phơi khô. Cá chỉ đổ về nhiều vào các đêm từ mùng 8 âm lịch đến hết ngày 15 âm lịch là bắt đầu ít dần và chỉ đổ về đêm chứ ban ngày thì không có.
Lũ chúng tôi khi đó bữa ăn chỉ toàn cá là cá. Cá nướng, cá kho, nấu canh chua, nấu cháo cá... Thằng nào trực nhật thì quả là khố nạn vì ... cá.
Một hôm, phiên tôi trực nhật. Thằng Đạt " Thái lọ " nó đi áp tải cá mang về bắt tôi phải làm một con cá Hô nặng chừng 30 kg. Vẩy cá Hô to bằng ba ngón tay, cứng như đá. Tay tôi bị thương cầm dao không chắc nên không thể nào mổ được con cá. Cuối cùng, tôi phải bảo thằng Thanh - đồng hương Thanh trì - nó làm giúp, trầy trật mãi hai đứa mới làm được con cá cho anh em ăn. Tôi " căm " thằng Đạt lắm. Tôi chờ đến phiên thằng Đạt trực nhật, tôi và thằng Thanh đi lấy về hai bao tải toàn cá rô đuôi hồng ( một loại cá rất ngon nhưng chỉ nhỏ bằng lòng bàn tay ) về bắt thằng Đạt làm. Làm suốt từ sáng đến trưa vẫn chưa hết số cá tôi và thằng Thanh mang về. Thằng Đạt ngồi dưới bếp khóc hu hu.... ( Anh em đã ra " sắc lệnh " thằng nào trực nhật phải làm hết những thứ mà anh em đi " cải thiện " được ) vừa khóc vừa chửi là hai thằng chó khố nạn... nó thù tao đây mà......

Cá nhiều quá, chúng tôi liền nghĩ đến việc đào hố, đổ cá xuống để ngâm làm nước tưới rau tăng gia. Rau muống, đậu đũa, bí xanh bí đỏ... cứ tốt ù ù nhờ được tưới thứ nước ngâm cá ấy.
Phòng Hậu cần tổ chức chăn nuôi heo, nuôi vịt. Chúng tôi cũng làm một chiếc chuồng nuôi mấy con heo. Chẳng biết giống má như thế nào mà trông đàn heo như đàn heo rừng. Con nào cũng vằn vện vàng vàng đen đen nhưng lớn nhanh như thổi. Heo ăn cám nấu với cá và rau mà. Thấy chúng tôi nuôi heo mau lớn, đại úy Ba Vinh - phó chủ nhiệm phòng Hậu cần cũng nuôi một chú. Heo của thủ trưởng cũng lớn rất mau. Muỗi thì nhiều, sợ nó đốt con heo yêu quý. Ông ba Vinh lấy luôn màn tuyn để mắc trong chuồng cho heo ngủ. Chúng tôi nhìn thấy phát ghét. Lính tráng chẳng có mùng để ngủ, đây heo của thủ trưởng lại có màn tuyn xịn để dùng. Một đêm, trong lũ chúng tôi, có thằng ( bây giờ tôi vẫn không biết là thằng nào? ) bò vào chuồng heo của thủ trưởng Ba Vinh, nổi lửa đốt chiếc màn tuyn vẫn đang mắc cho heo ngủ. Lửa cháy bùng bùng... Thủ trưởng hô tụi lính ra dập lửa. Than ôi, dập xong lửa thì chú heo của thủ trưởng cũng bị bỏng rộp, da cháy loang lổ. Thủ trưởng nhìn thấy chú heo như vậy liền ra sức cứu chữa bằng cách lấy mật ong bôi lên các vết bỏng. Báo hại cho chú heo, thấy mật ngọt, lũ kiến rừng bâu vào đốt cho kêu eng éc suốt đêm. Sang ngày thứ ba, cảm thấy không thể kéo dài được, thủ trưởng nhờ đến bọn tôi cứu chữa chú heo tội nghiệp kia bằng ... dao, bằng thớt. Lâu lắm, chúng tôi mới được bữa thịt lợn tươi ngon đến vậy.

nghe bác lethaito kể chuyện cá tui tuổi cho phận tui quá.F tui cũng có hẳn 1C ở biển hố làm công tác cải thiện cho tòan F nhưng thiệt tình là cả E tui chưa bao giờ thấy con cá hoặc miếng khô nào,khổ thiệt.năm 80 cũng có nghe nói các MT khác thiếu gạo riêng các F chiến đấu MT 479 thì vô tư.D phó chính trị cũa chúng tôi phổ biến như thế.Thực đơn muôn thở cũa tụi tui là 2 lon thịt xay(hàng viện trợ made in hà lan) hòa cùng nước muối làm màu bằng nước gạo rang, rau muốn luộc,nước canh là nước luộc rau và mì chính theo định lượng ,bấy nhiêu đó là bữa ăn cũa 40 con người.Dòng suối mongco boray chúng tôi ném bộc phá mải cá cũng trốn hết, muốn đánh có cá phải lần lên tận đầu nguồn tiếp giáp với biên giới xa hơn chục km, mà phải đi cả 1c, trang bị đầy đủ,căng ra mà bão vệ mấy người đánh bắt cá, rầm rộ như thế nhưng thu họach chẳn được bao nhiêu,được vài chục ký là mừng lắm rồi.Lâu lâu tổ chức 1 lần như thế, rối cũng phải ngưng, chúng tôi đành phải nhịn thèm vì nếu mà bị địch phục, tổn thất vài em là D trưởng bị rớt sao như không.Rừng khộp mùa khô cũng không dể kiếm được con mang, con mển nào, lâu lâu độp được con cheo là mừng húm.Súng nổ đì dùng hòai có con thú nào dám ỡ gần cho mà bắn, hở các bác.Có 1hôm D phổ biến xuống các B là mổi B cữ ra 3 đ/c súng đạn đầy đũ đi gùi thị voi??? chúng tôi đi tất cả 15 người, địa điểm là C21 trinh sát E96, thằng c21 nầy nó nằm hơi xa Ebộ 96 từ chổ chúng tôi cuốc bô cũng phải mất 1 buổi cứng mới đến nơi.Ra đi từ sáng sớm khỏang 1h trưa thì chúng tôi tới nơi, cả bọn ngồi nghĩ ăn cơm vắt uống nước, xong thì anh khanh Btruởng cũa tôi mới đến hầm BCH C và xin được nhận thịt,bác C trưởng niềm nở mời anh khanh và chúngtôi uống nước, sau 1 hồi thăm hỏi qua lại bác ấy đột ngột hỏi là đi nhận thịt voi có đem theo búa và đục sắt không, tôi và A khanh ngớ người chẳng hiểu gì sất còn bác ấy và mấy anh c21 cười sặc sụa làm chúng tôi càng thêm ngơ ngác.Thì ra là như thế nầy: khuya đêm hôm trước có 1 con voi dẩm phải mìn tăng cũa các bác ấy gài, vì mấy hôm nay nghe tiếng chúng nó kêu rất gần, cả đàn gần chục con, nên các bác đem mìn tăng ra gài hy vọng kiếm 1 con cải thiện.Con voi nầy cừ thiệt từ nơi mìn nổ nó lếch đi được hơn 2km rồi mới chết, đến chổ xác voi chết các bác ấyhết hồn vì tưởng nó nhỏ chỉ khòang 1,2 tấn là cùng ai ngờ nó to cở 5,6 tấn, phải dùng búa xẽng, đục đá mới tốc lớp da nó lên , lấy thịt phải đục xương mất cả buổi, thịt nhiều quá ăn không hết nên BCH mới điện báo cho E thông báo cho các D khác xuống ăn phụ.Mượn dụng cụ, chúng tôi ra hiện trường, xác con voi chỉ còn cái đầu và phần thân mà phần thân chỉ còn thịt nằm phía dưới , bên trên chỉ còn trơ xương sườn và gân, cái vòi và 4 cái chân mất tiêu không thấy.Chúng tôi tiến hành đục tiếp, rất nhiều đơn vị đến lấy nên cũng vui, mỗi người 1 tay nên chẳng mấy hồi phá bõ được mười cái xương sườn mấy chục người hè nhau kéo bỏ bộ lòng thối um, rồi mới chia nhau khu vực đục lấy thịt.Chúng tôi lấy 15 balô thịt đầy, mổi cái cũng phải trên 20kg.Trong khi xã hơi chúng tôi đốt lữa lên nướng mạnh ai nấy ăn, ăn cho đã thèm, thịt voi nướng chấm muối hầm sao mà nó ngon lạ lùng( thực ra nó nhạt thết hà các bác ạ mà lại nhão nửa chứ so với thịt nai,cheo,mển thua xa lắc).Nhìn chúng tôi vừa ăn vừa khen 1 bác lính c21 người thanh hóa( bác nầy sau mới biết la người dan tộc quê ở hoằng hóa thì phải) nhìn chúng tôi cười cười nheo mắt nói :cũa ngon người ta ăn hết rồi mà không biết.Thì ra con voi có mấy món ngon nhất là vòi ,và 4cái dựng cũa nó, hầm nó lên cho mềm ăn ngon tuyệt, theo tôi tính mấy món đó cũng phải có hơn 100 cân...hic hic mấy bác c21 chả mời tụi nầy 1 bát, nhưng cũng rất là cám ơn các bác ấy đãchiêu đải tụi nầy 1 bữa thịt ngon nhất trong đời.Chúng tôi lên đường về đơn vị, chắccác bạn của tôi cũng đang chờ có 1 bữa ăn ngon.../

Tháng 6/1980, sư đoàn tổ chức phát thẻ Đảng viên đợt đầu tiên. Trong số được phát thẻ đợt này có chuẩn úy Lập - chúng tôi thường gọi là anh Năm Lập - người Thái Bình - đi lính từ năm 1966/67 nhưng chẳng hiểu sao đến lúc này vẫn mang quân hàm chuẩn úy. Anh Năm Lập ở cùng với hạ sỹ Vi Văn Tởm người dân tộc Thổ - Thanh Hóa. Cả hai người phụ trách trông coi kho lúa chiến lợi phẩm do sư đoàn thu được của địch hồi đánh vào Âm leng. Kho lúa nằm ngay chân núi cạnh phòng Tham mưu sư đoàn.

Ngày 09/06/1980 anh nhận được quyết định phục viên về quê với vợ con. Thôi mừng ơi là mừng. Vốn là một tay thiện xạ nổi tiếng trong khối các cơ quan trong BTL sư đoàn, anh Năm Lập thường hay đi săn đêm. Chúng tôi ở nhà, cứ nghe tiếng súng nổ là chuẩn bị sẵn đòn khênh, dây thừng để đi khiêng thú về. Hầu như ít khi anh phải về tay không. Nhưng anh chưa về với chị được ngay vì phải đến ngày 15/06 thì đảng ủy sư đoàn mới phát thẻ đảng viên. Anh quyết định ở lại chờ nhận thẻ Đảng. Mấy chục năm còn ở đuợc nữa là chỉ còn có vài ngày !!! Vả lại không nhận thẻ Đảng bây giờ, khi trở về địa phương lại lằng nhà lằng nhằng chẳng biết đến bao giờ mới nhận được thẻ Đảng.
Ngày 15/06, sau khi dự lễ nhận thẻ Đảng đợt đầu tiên. Anh mừng vui và tuyên bố sẽ vào rừng kiếm con gì về nhậu một bữa để chia tay với anh em chúng tôi. Tối hôm đó vừa đi một lúc, chúng tôi đã nghe thấy tiếng súng bắn báo hiệu của anh. Chúng tôi đi và khiêng về một con Mễn. Vậy là nhậu tơi bời. Thịt Mễn mềm, ngọt ngon không thể nào tả đuợc. Con Mễn này đang có thai. Anh Năm Lập bèn lấy ngay cả bọc bào thai của nó cho vào nồi cháo đang sôi sùng sục. Nồi cháo hầm xương Mễn nay lại thêm bọc bào thai nên thơm ngon và sánh vô cùng. Ngọt, ngon và bổ hết sảy.
Sau khi nhận thẻ Đảng xong, anh Năm Lập cũng chưa thể về Việt nam ngay được vì chưa có xe về nước. Thời gian này, tình hình xăng dầu gặp nhiều khó khăn. Phòng Hậu cần chúng tôi được lệnh hạn chế cấp lệnh cho các chuyến xe về nước. Ngày trước, khi xăng dầu còn xông xênh chỉ cần sư đoàn có một thi hài liệt sỹ là chúng tôi cũng cấp lệnh một chuyến xe chở liệt sỹ về Việt nam. Nay tình hình có khó khăn, sư đoàn lệnh phải chờ mỗi xe chở đủ 4 liệt sỹ mới được cấp lệnh điều động xe. Mà những ngày này, liệt sỹ chưa... chết đủ nên chưa có xe về nước. ( Xin lỗi, tôi không biết dùng từ gì chính xác hơn từ chờ...chết cho đủ ) .
Ngày 16/06 anh Năm Lập lại đi săn. Lần này anh cũng nhanh chóng hạ được một con heo rừng. Chúng tôi lại nhậu và lần này con heo lại có...bầu. Trong dạ con của con heo là một bọc 5 chiếc bào thai heo bé tí xíu. Bạn đã ăn bào thai heo rán bao giờ chưa? Ngon tuyệt vời, nhất là đối với những con... sâu rượu.
Đến ngày 18/06, chúng tôi được nhận nhu yếu phẩm hàng tháng. Xà bông, đường, thuốc lá, bánh kẹo... Nhân dịp nhận nhu yếu phẩm, anh Năm lại bảo đi kiếm cái gì về nhậu chơi. Nếu săn được sẽ bảo thằng Tởm xuống gọi chúng tôi lên để nhậu. Nhưng hôm đó chúng tôi chẳng thấy ai gọi lên kho lúa để nhậu cả. Chắc hôm nay anh Năm về không rồi.
Chiều hôm sau, 19/06 thằng Tởm hớt hải chạy xuống báo cho chúng tôi biết : Cả đêm qua, anh Năm đi săn không thấy về. Hóa ra đêm qua khi thấy anh Năm không về, thằng Tởm một mình một súng đã vào rừng đi tìm anh Năm. Thỉnh thoảng nó lại bắn mấy viên đạn lửa vạch đường để báo cho anh Năm nhưng chẳng thấy gì. Sáng nay, nó lại một mình vào rừng tìm tiếp cũng chẳng thấy nên bây giờ mới xuống báo cho chúng tôi. Phòng tham Mưu liền điều vệ binh sư đoàn, D27 trinh sát kết hợp cúng chúng tôi vào rừng tìm anh Năm. Đến tận chiều ngày hôm sau 20/06, chúng tôi mới tìm thấy anh Năm Lập nằm vắt người trên con đường mòn dành cho xe bò đi trong rừng cách sư đoàn bộ chừng hơn ba cây số.
Anh Năm đã dính phải lựu đạn gài, người nằm úp sấp. Súng và tư trang cá nhân không còn gì. Mới có hai ngày mà người anh Năm đã trương lên bốc mùi nồng nặc. Anh lại bị Kỳ đà nó gặm nham nhở cả mặt mũi, chân tay trông rất sợ. Tôi, Tởm và Chung " Mập " khiêng anh Năm về mà lòng đau đớn vô cùng. Thật thương cho anh, anh ra đi mà không được hưởng quyền lợi gì cả. Anh đã bị cắt quân số từ ngày mùng 9/06 lại chết trong hoàn cảnh như vậy nên vợ con chẳng được hưởng tiêu chuẩn Liệt sỹ. Tôi là người được cử ra để cùng với tổ khám nghiệm tử thi lập biên bản. Thật kỳ lạ, trong hòm đạn B40 đựng tư trang cá nhân. Chúng tôi thấy anh đang viết dở dang khoảng 10 lá thư. Thư cho vợ, thư cho con gái, con trai, thư cho bố mẹ nuôi, thư cho ban bè.... nhưng tất cả đều viết dở, không có lá nào viết trọn vẹn. Tất cả đều đề ngày 18/06/1980. Anh Năm Lập về nước ngay ngày hôm sau, trên xe đã có đủ 4 thi hài liệt sỹ.

.. Giữa năm 1980, anh Bảy Việt - chủ nhiệm hậu cần E2 về phụ trách đơn vị tôi. Đại uý Phạm quốc Việt là một chỉ huy thông cảm và hiểu lính vô cùng. Anh có dáng người thấp, hơi đậm, đầu hói lơ thơ vài sợi tóc ( bọn tôi toàn gọi trộm là Việt “ hói “ ). Nghe anh em đồn rằng : mỗi sợi tóc trên chiếc đầu hói của đại uý Bảy Việt rụng xuống đất là ở đó có một cây vàng ( 10 chỉ đó ) mọc lên. Việc kiện toàn lại đơn vị được thực hiện ngay sau khi anh Việt về nắm quyền chỉ huy. Tất cả các sỹ quan trợ lý đều được đưa ra các chốt để nằm cùng với anh em. Trước đây, các chốt đều do các hạ sỹ quan chỉ huy ( mà cao nhất là trung sỹ ), nay thì Thượng uý Hai Thí đi chốt Pô lây, trung uý Ba Vui chốt ở ngoài thị xã Congpongchnang. Các chốt ở Tà lia, Cô tráp, chùa Lông chó... đều được tăng cường thêm quân số và vũ khí trang bị. Các sỹ quan trợ lý nằm lì ở cứ Trảng lớn và Đồng dù đều được gọi lên tiền phương hết. Anh em lính tráng mừng ra mặt vì đời sống các chốt được quan tâm đúng mức. Súng đạn, phương tiện được tăng cường để đảm bảo tuần tra, đánh địch trên sông.
Để có thêm xuồng máy phục vụ công tác đánh địch trên sông, đơn vị tôi nhất trí cử Trung uý Ba Vui và tôi về Phnompenh liên hệ với Bộ Thuỷ sản Campuchia để xin thêm 02 chiếc máy Bobo. Hai anh em mang theo giấy giới thiệu của Phòng Hậu cần F9 đi làm việc.
Đến Phnompenh, hai anh em đến Bộ thuỷ sản CPC để xin máy. Ở đó, người ta giải thích rằng việc xin máy Bobo này bộ Thuỷ sản không có quyền cấp mà việc duyệt cấp máy thuỷ cho bộ đội phải do Bộ quốc phòng CPC phụ trách. Người ta hướng dẫn chúng tôi sang chỗ ông Pensovan để làm việc. Thời điểm đó, Pensovan đang chức vụ cao ngút trời. Tổng bí thư Đảng NDCM Campuchia, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng kiêm bộ trưởng bộ quốc phòng. Ôi dào, sang thì sang sợ chó gì !!! Hai anh em đi bộ sang Bộ quốc phòng CPC lúc đó đóng ở cạnh sở chỉ huy tiền phương QĐ4. Vòng trạm gác, người ta yêu cầu xuất trình giấy tờ. Hai anh em, ngoài tờ giấy giới thiệu của phòng Hậu cần F9 gửi bộ Thủy sản thì chẳng có thứ giấy tờ gì nữa. Họ yêu cầu để súng đạn ngoài trạm gác cổng và cho vào phòng khách ngồi chờ. Một cô gái Khme xinh như mộng, mặc quân phục ra pha trà mời chúng tôi uống và nói chúng tôi đợi một chút rồi bộ trưởng sẽ ra tiếp. Một lát sau, ông Pensovan ra tiếp chúng tôi. Sau khi nghe chúng tôi trình bày về việc đi xin máy về phục vụ chiến đấu, Ông ôn tồn bảo ( tất nhiên là cuộc nói chuyện toàn bằng tiếng.... Việt ):
- Về việc này, chúng tôi sẵn sàng cấp cho các đồng chí ngay để phục vụ công tác. Nhưng để cho tiện việc theo dõi về sau, các đồng chí nên sang gặp đồng chí Sáu Nam nhờ đồng chí ấy cho mấy chữ sang đây, tôi sẽ cấp ngay.
He ... he... he thế là thành công rồi, hai anh em tí tớn khoát súng sang tiền phương Bộ Quốc phòng của ta. Đang trình bày với anh lính cảnh vệ ngoài vọng gác, bỗng thấy một ông đeo quân hàm thượng tá đầu hói hất hàm hỏi :
- Hai đồng chí đi đâu thế này ?
Lại mất công trình bày từ đầu cho ông thượng tá phe ta nghe rõ ngọn ngành câu chuyện đi xin máy của hai anh em. Nghe xong, ông thượng tá trợn mắt :
- Hai đồng chí liều thật, chẳng biết phép tắc, nghi lễ ra sao? Hai ông lính quèn mà dám lên tận Bộ Quốc phòng người ta để gặp Bộ trưởng !!! May mà hai đồng chí gặp tôi ở đây chứ lại vào gặp đồng chí Sáu Nam thì tôi nghĩ thủ trưởng đồng chí, người ký giấy giới thiệu chắc chắn sẽ ... rớt sao và bị kỷ luật.
Ôi trời, nghe ông thượng tá nói mà hai anh em sợ run như dẽ. Anh em rón rén xin phép ông thượng tá rồi... chuồn thẳng. Hoá ra Pensovan đã có ý định nhờ tay Ông Sáu Nam trị chúng tôi về tội lếu láo mà chúng tôi ngu ngơ không hề nghĩ tới. Hú vía....Mùa khô 1980, nước non trở nên thiếu trầm trọng. Mỗi lần tắm giặt mấy thằng lại xin thiếu tá Ba Hoành - Trưởng ban kỹ thuật công trình một chiếc xe giải phóng hoặc " vọt tiến " chở anh em lên chiếc hồ phía đầu sân bay để tắm giặt, nước hồ thì đục ngầu, bẩn dễ sợ. Nước ở mấy cái giếng chỉ đủ để phục vụ nhu cầu ăn uống... khổ quá trời.
Ông Mười Do - Trung tá trưởng phòng ra lệnh cho mấy anh em chúng tôi phải xây một chiếc bể nước thật to để đựng nước mưa. Gạch thì có sẵn ở ngay sân bay, toàn một loại gạch đúc bằng xi măng vuông thành sắc cạnh. Chỉ thiếu mỗi xi măng. Nghe nói dưới ga Romea - nơi Trung đoàn 1 đứng chân có rất nhiều kho xi măng. Lập tức một xe Hồng hà chở lính tráng với đầy đủ súng đạn lên đường. Chúng tôi bốc lên đầy một xe xi măng đủ để xây bể nước cho cả các phòng ban trên sư.
Có gạch, có xi măng chúng tôi bắt tay vào xây bể dưới sự chỉ đạo kỹ thuật của anh Nguyễn hữu Tình - Hạ sỹ già nhất đơn vị. Lính 78 đi bộ đội khi đã 30 tuổi.
Tôi không biết xây nhưng cũng bị " động viên " vào đội xây bể. Chiếc bể được xây rất to, đựng được khoảng 20 m3 nước nằm ngay đâu hồi của dãy nhà tôi ở. Anh em vừa làm, vừa tán chuyện lếu láo, vui vẻ. Tính tôi hay tếu táo, trêu trọc mọi người. Tôi vừa xây, vừa " mắng " thằng Ninh " mường " ( Nó là dân Hà tây nên anh em chúng tôi gọi nó như vậy ) :
- Đù má, mày xây kiểu gì mà cái thành bể trông cứ như " eo " ông Mười Do thế này.
Chẳng là thủ trưởng Mười Do có cái bụng rất " vĩ đại " như chị em có bầu được 7,8 tháng mà cái thành bể chỗ thằng Ninh " mường " xây cũng cong cong như vậy. Tôi đâu có ngờ rằng thằng công vụ của ông Mười Do đang ngôi trên bậu của sổ nghe thấy tôi nói vậy, nó liền " bẩm báo " cho xếp của nó biết. Thôi rồi lượm ơi !!! Đời tôi thế là ra cái .. tóp. Ông này trước lính Miền nam tập kết, học ở trường Lục quân Sơn tây. Chắc nhiều lần chốn trường về Hà nội bát phố bị đám thanh niên Hà thành cho ăn đòn vì tội nghênh ngang, đi chợ Đồng xuân thì bị móc ví nên căm lính Hà nội lắm. Nay lại nghe thằng công vụ nói vậy nên càng muốn " ăn tươi nuốt sống " tôi. Khổ cái thân tôi, nào có phải tôi có ác ý gì đâu. Chỉ tại cái mồm tôi hay tếu táo, đùa cợt mà mang vạ. Sau tôi nghe anh Mười Nhạc nói với tôi :
- Mày nói chi mà ổng " hận " mày lắm đó. Ổng nói là còn Mười Do thì thằng Thọ đừng bao giờ mong lên cấp, lên chức. Đừng bao giờ nghĩ chuyện ra quân hay đi phép.
Chao ôi là ngao ngán. Mà ổng làm thế thật. Tròn ba tuổi quân, đánh nhau cũng chai cả tay nhưng tôi vẫn mang quân hàm binh nhất - phụ cấp cả thâm niên 17 riên không hơn không kém. Anh em lục tục được đi phép về thăm gia đình, nhiều thằng vào sau tôi nhiều cũng vẫn được đi nhưng cứ nhìn thấy tên tôi trong danh sách đề nghị là ổng gạt. Mẹ kiếp ! đời chó má thật. Trong khi Mẹ tôi đang ốm rất nặng, không biết sống chết lúc nào, muốn được về nhìn mặt Mẹ lần cuối cũng không xong.
Trong khi mấy ông sỹ quan có gia đình ở T.P Hồ chí Minh thì cứ vù một cái lại tót về, xe đơn vị đưa đón tận nơi. Hỏi không hận sao được
Có chuyện trung uý bác sỹ của D33 ( bệnh xá sư đoàn ) quê Hải hưng tôi quên mất tên rồi. Anh có điện báo của gia đình gửi vào :
- Bố chết, về ngay. Cầm bức điện, anh cầm lên thủ trưởng xin đi phép. Thủ trưởng động viên anh nên vượt qua đau thương, đằng nào thì bố... cũng chết rồi ráng ở lại phục vụ công tác. Đơn vị đang bước vào chiến dịch nên thương binh về nhiều.. vv... và ...vv. Anh sang bên ban tôi ngồi uống trà và ..chửi đổng :
- Mẹ chúng nó chứ, chúng nó vợ ỉa không ra cũng về, mà mình thì bố chết chúng nó cũng không giải quyết. Ngày mai tao nhờ chính chúng nó về Việt nam điện hộ tao trả lời gia đình tao mấy chữ.
- Thế anh điện nội dung như thế nào? chúng tôi nhao nhao hỏi.
- Chôn ngay kẻo thối. Anh trả lời tưng tửng.

Đầu năm 1981 sau tết Âm lịch Tân Dậu, trong lúc thủ trưởng Mười Do lên đường đi học Học viện Hậu cần ngoài bắc mấy tháng. Thiếu tá Tư Thu ( Dân Hàn Thuyên - Hà nội ) lên giữ chức quyền trưởng phòng HC cho gọi tôi lên và nói :
- Chú em có muốn đi phép mấy tháng không? Tôi muốn nhảy lên vì sung sướng lắp bắp :
- Có chứ, có chứ. Thế anh cho em đi mấy tháng? Đối với anh Tư, bọn chúng tôi có thể vui vẻ thân mật nói năng bỗ bã được. Anh Tư cười và bảo tôi :
- Theo quy định, chú mày chỉ được nghỉ phép một tháng nhưng tao cho mày ở nhà 3, 4 tháng tuỳ ở mày. Cho mày và thằng Thanh ( dân Thanh Trì - lính 78 ) đi luôn đợt này cho có bạn có bè.
Vậy là tôi " mồm huýt sáo vang " về thông báo cho thằng Thanh biết và chuẩn bị lên đường. Tôi ra ngoài thị xã Congpongchnang nhờ mấy thằng ngoài chốt mua được một thùng đại liên mật ong rừng về làm quà cho Mẹ, mua mấy mảnh vải Tê tơ rông, vài tút Samit về cho Bố và mấy đưa em. Bạn bè đồng đội trong đơn vị đứa ở Vĩnh phú, đứa Hà tây, đứa Hải phòng đều viết thư và gửi quà về gia đình và nhắn nhủ " nhớ phải đến thăm nhà tao đấy ". Ok, tôi ừ hết. Tôi và Thanh lên đường về cố hương với ba lô con cóc lặc lè trên vai mà chẳng thấy chút nặng nhọc nào, lòng vui phơi phới.
Xe đơn vị đưa chúng tôi về căn cứ Trảng lớn - Tây ninh. Ở đấy, nghỉ một hai hôm, hai chúng tôi đưa về trạm giao liên Long bình để nhập vào đoàn cán bộ, chiến sỹ đi ra bắc.
Trạm Long bình đây. Cảnh vật vẫn như xưa, vẫn chiếc giếng nước khổng lồ và những dãy nhà gió thổi ù ù suốt ngày đêm. Chính cái nơi này mấy năm trước tôi, Minh và Long còn ao ước đến ngày nào được nhập trạm trở về quê Bắc. Nay tổ Tam Tam chỉ còn mình tôi trên cõi đời này được trở về sứ Bắc. Hai người bạn, người đồng chí đồng đội thân thương đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường ác liệt. Và còn biết bao nhiêu người lính trẻ trong cái đoàn quân hơn 900 người năm ấy không có được cái may mắn như tôi hôm nay. Ôi, chiến tranh ! Mi đã nuốt biết bao nhiêu mạng người vào cái dạ dày khổng lồ của mi rồi hả???
Chúng tôi nhanh chóng được cấp vé tàu và hướng dẫn nhập trạm 99 ( quân khu Thủ đô ) khi trả phép.
Con tàu đưa chúng tôi về quê hương. Trên tàu, rất ít bộ đội chẳng giống như chuyến tàu quân sự đưa chúng tôi ra đi năm nào. Những người dân trên tàu tranh thủ buôn bán ngay trên tàu. Qua ga nào bán gạo rẻ họ mua gạo, ga bán miến rẻ họ mua miến. Hàng hoá chất đầy trong toa cứ ngồn ngộn. Qua ga Mương mán thấy dân họ mua nhiều Miến dong, Tôi và Thanh cũng làm mua vài " vác " Miến để buôn lấy tí tiền tiêu vặt.
Con tàu từ từ trườn qua đèo Hải vân. Cái không khí lạnh miền bắc quen thuộc bắt đầu tràn vào khoang tàu. Bao nhiêu năm, bây giờ tôi mới được hưởng lại cái cảm giác lành lạnh, gai gai người thân thuộc mà cứ ngỡ rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại. Càng ra phía Bắc, cái lạnh càng dữ dội. Hai chúng tôi vẫn cứ phong phanh bộ quân phục hè, mặt mũi hai thằng cứ tái dần như miếng thịt trâu chết. Vinh, Thanh hoá, Nam định... và kia rồi Hà nội. Hà nội đây rồi ! Hai chúng tôi ngó qua cửa sổ ngắm nhìn công viên Thống nhất khi tàu chạy ngang qua. Cảm giác bồi hồi thật khó tả, ruột gan cứ nhộn nhạo. Tàu dừng bánh tại ga Hàng cỏ, hai thằng nhìn đống miến dong mà phì cười ngao ngán. Lẽ ra khi đến Thanh hoá, Nam định lúc con buôn tràn lên tàu gạ bán thì phải bán quách nó đi có phải bây giờ nhẹ tênh không nhưng thằng Thanh lại muốn về Hà nội bán chắc có lãi hơn.
" Mua tận gốc, bán tận ngọn " thằng Thanh nói giọng rất có nghề. Tại ga Hà nội, bọn con buôn cũng tràn lên đòi mua nhưng chúng nó chỉ trả giá bằng đúng giá bọn tôi mua tại trong kia, thế mới tức. Cuối cùng, để cho nhẹ gánh Tôi bảo Thanh bán mẹ nó đi cho rồi. Thế là công cốc chẳng lãi được xu nào mà mệt cả người vì khuân với vác.

Hai thằng lững thững ra khởi ga. Xích lô nhao đến. Tôi bảo Thanh :
- Thôi, bọn mình đi bộ cho khoẻ. Bộ đội mà ngồi xích lô kiểm soát QS nó túm được rách việc lắm. Mày về nhà tao nghỉ ngơi rồi tao sẽ lấy xe đạp đèo mày về nhà.
Hai thằng cuốc một mạch về đến bờ hồ. Nhà tôi đây rồi nhưng cái cổng lớn ngày tôi đi vẫn còn, nay Intimex nó đã chiếm dụng và xây bịt vào mất. Nhà tôi đi đường nào nhỉ? Hai thằng đặt ba lô xuống chiếc ghế đá trước cửa ngồi nghỉ chân. Hồ Hoàn kiếm vẫn như xưa, chỉ khác nỗi cảnh đó đây mọc lên mấy chiếc hầm trú ẩn, lô cốt ở góc hồ. Dấu tích của cuộc chiến tranh biên giới phía bắc năm trước còn sót lại.

. Chân tay đã đỡ mỏi, đầu óc đã đã hồi hộp. Tôi và Thanh khoác ba lô lên vai bước qua đường xanh rì bóng Sấu để về nhà. Vừa mới bước đến vì hè bên này, chú Tỵ người hàng xóm nhận ngay ra tôi, chú quăng chiếc xe đạp và chạy vào chiếc ngõ nhỏ hét ầm lên : Ông bà Hào ơi, thằng Thọ nó về đây này ! Thằng Thọ nó về này !
Cả cái ngõ nhỏ xôn xao, phút chốc đã đông đặc người dân trong " xóm ". Một lũ trẻ lộc ngộc cứ cuống quýt ôm lấy tôi. Trong đám trẻ này đứa nào là thằng Dũng, thằng Giang em tôi? Đứa nào cũng luôn miệng em đây, em đây. Tôi không thể nhận ra đứa nào hết, mới có mấy năm mà đứa nào cũng cao lớn lộc ngộc, đầu tóc bù xù dài lết bết ( hồi ấy thanh niên vẫn còn mốt để tóc dài ). Bố mẹ tôi đây rồi ! Cả hai cụ đều gầy vêu vao nhất là Mẹ tôi. Mẹ mừng rỡ ôm lấy tôi, bàn tay cứ vuốt ve khuôm mặt tôi, Mẹ thì thầm :
- Mẹ tưởng không bao giờ còn được gặp con nữa.
Nước mắt mẹ chảy dài trên khuôn mặt gày yếu, xanh mướt.Tôi giới thiệu Thanh với cả nhà. Thằng Giang bây giờ đã cao trông ra dáng thanh niên lắm rồi, mái tóc để dài xoăn tít ôm lấy khuôn mặt gầy nhẳng trông lại càng gầy hơn. Tôi nhìn quanh nhà, ngôi nhà vẫn không có gì thay đổi. Vẫn mái nhà bán mái lụp xụp khi xưa. Một mâm cơm thịnh soạn đã dọn sẵn từ bao giờ. Hóa ra hôm nay nhà tôi có khách. Ông anh con bác ruột tôi từ Đà nẵng ra chơi. Ngồi hàn huyên một lúc thì thằng Dũng em tôi đi đón ông chú ruột tôi cũng về đến nhà. Chú tôi và em Dũng ôm lấy tôi mừng rỡ, chú cứ nhắc đi nhắc lại : Niềm vui hôm nay thật bất ngờ, rất bất ngờ. Ôi sau bao năm gặp lại mà tôi thấy ai cũng gày gò, mặt mũi xanh sám đi. Chắc mấy năm nay, cuộc sống ngoài này vô cùng thiếu thốn, cực khổ.
Cơm nước xong xuôi, em Dũng xung phong đèo xe đạp đưa Thanh về nhà dưới Thanh trì. Tôi hẹn Thanh sẽ xuống nhà chơi sau vài hôm nữa.
Trong thời gian nghỉ phép tôi tranh thủ đi khắp nơi để đến thăm và đưa quà cho các gia đình bè bạn, đồng đội cùng đơn vị. Đến đâu tôi cũng được tiếp đón thân tình, họ coi tôi như con em của họ nay đã trở về vậy. Miền bắc những tháng năm này đang oằn mình chịu đựng sự thiếu thốn. Thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu hàng hóa tiêu dùng. Đi đến đâu tôi cũng chỉ thấy những khuôn mặt gầy gò, xanh xám ốm yếu. Quần áo ít khi nhìn thấy lành lặn.
Thấm thoắt hai tháng đã trôi qua, tôi bắt đầu cảm thấy ... chán ở nhà. Tôi nhớ đơn vị, nhớ đồng đội. Cái cảnh ở nhà cứ hết ra lại vào không có việc gì làm, ăn không ngồi rồi thật vô vị. Tôi bàn với Thanh đi trả phép sớm. Trong tâm trạng cũng như tôi, Thanh nhanh chóng đồng ý. Chúng tôi ra trạm 99 ( đối diện ga Hàng cỏ ) trình giấy và xin nhập trạm. Hai hôm sau chúng tôi lên đường trở lại đơn vị.

Vào đến đơn vị, người chúng tôi chạm mặt đầu tiên là.... thủ trưởng Mười Do. Ông đang chăm chút cho mấy cây Đậu bắp đang xanh um trổ hoa kết trái. Nhìn thấy chúng tôi khoác ba lô vào cổng, ông cười nửa miệng, khuôn mặt to béo đầy rỗ hoa gần như ...méo lại :
- Ừ..hừ.... Mầy mà cũng đi phép hả Thọ? Tôi cười ..cũng như mếu :
- Vâng ! Mời thủ trưởng tối sang ban em uống chút trà bắc quê hương.
Tôi lẩm bẩm sao mình xui thế, vừa vào đã chạm mặt lão già này rồi. Anh em trong đơn vị thấy chúng tôi vào ùa đến hỏi han, chuyện trò vui vẻ. Thuốc sợi Lạng sơn vàng ươm thơm ngào ngạt, trà Thái nguyên được mở ra. Anh em từ quan đến lính quây quần bên ấm trà chuyện nổ như ngô rang. Nào chuyện nhà chuyện cửa, chuyện phố phường, chuyện quê hương. Trong thời gian hai tháng tôi cũng đã cố đi đến nhiều nhà bạn bè trong đơn vị nên cũng có nhiều chuyện để kể, mang quà của gia đình cho chúng nó... các câu chuyện cứ kéo dài mãi đến nửa đêm.
Sáng hôm sau, anh Bảy Việt bảo tôi và Thanh :
- Tao thấy chúng mày gầy đi nhiều đấy, chắc Miền bắc đói ăn nên chúng mày vào sớm chứ gì? Nghỉ thêm một hai hôm nữa, hai đứa chúng mày áp tải mấy bè cá đi Phnompenh bán nhé.
Mấy hôm sau, chúng tôi ra thị xã xuống bè đi Phnompenh.
Ở đơn vị, thằng nào được đi Phnompenh áp tải cá thì sướng như vua con. Sáng dậy có trà, cà phê ( loại cafe tan của Mỹ ) uống, ăn sáng thì bánh bao, xôi dừa. Trưa, tối đến thì có cá đầy bè muốn ăn con nào thì ăn, chán cá thì có thịt heo, thịt vịt, rau xanh ê hề... Tối thay nhau đi bát phố vì tiền tiêu cũng rủng rỉnh. Cơm nước có người nấu phục vụ. Công việc là ghi chép xem hàng ngày bán được bao nhiêu tấn cá, bảo vệ không cho dân bán cá trộm qua mặt mình. Công việc chỉ có vậy. Thời gian kéo dài chừng một tháng đến một tháng rưỡi. Hết cá, chúng tôi lại quay trở về căn cứ sư đoàn ở sân bay.

Cuối năm 1981. sư đoàn 9 nhận lệnh lật cánh sang lộ 6 - Stung, Siêm riệp. Tất cả các phòng ban của cơ quan sư đoàn bộ đều lục tục xuống tàu tại cảng CPChnang. Mỗi đơn vị để lại một ít lính tráng để trông coi cứ đợi bàn giao cho đơn vị bạn. Riêng các chốt của phòng hậu cần vẫn ở lại bảo vệ dân đánh cá để có cái mà cải thiện cho sư đoàn. Thằng Thanh trố ở lại tại sân bay trông " cứ " để đợi bàn giao. Ban ngày nằm nghêu ngao vớ vẩn cùng một thằng nữa tôi quên mất tên. Ban đêm, hai cu cậu ra dân mượn xe bò đánh vào doanh trại gỡ ngói ( ngói lợp vẫn còn mới lắm ), gỡ vì kèo, xà gồ... mang ra bán cho dân K lấy tiền. Gì chứ những mánh kiếm tiền thì Thanh trố thuộc loại cáo già. Sau này hắn kể với tôi là hắn gỡ hết bốn dãy nhà của phòng 3, rồi ăn sang cả khu phòng 2 thì bọn lính đơn vị khác mới đến nhận địa bàn.
Tôi và một anh em khác như Tàm, Hiển cào cào, Thượng uý Hai Thí... nằm trong danh sách đi Stung. Con tàu đưa chúng tôi sang CP Thơm xuất phát từ sáng ở CPChnang đi dọc theo dòng sông Sen, đến quá chiều thì tới CP Thơm. Mấy thằng chúng tôi đổ bộ vào ngôi chùa lớn ngay sát bờ sông. Nơi ăn chốn nghỉ là hành lang rộng mênh mông, sạch sẽ của ngôi chùa. Sắp xếp xong xuôi, chúng tôi cùng nhau đi ra sông tắm, tiện thể mua ít thức ăn chuẩn bị bữa cơm chiều. Dòng sông không rộng lắm lại nông, chúng tôi bơi qua bên kia sông chơi và để mua thực phẩm. Giá cả đắt hơn ở CPChnang. 8 Riel một kg rau cải, 3.5 - 4.0 Riel một kg cá trắng. Thôi đành ăn cá vậy, chúng tôi chẳng có nhiều tiền để ăn rau. Chúng tôi lang thang đi xem phố xá. Cạnh bờ sông, một chuồng nuôi cá sấu được rào chắc chắn bằng hàng rào sắt xung quanh. Nghe những người dân bảo rằng ngày xưa, dưới thời Pôn pốt lũ cá sấu này toàn được nuôi bằng thịt trẻ em. Thỉnh thoảng, chúng cứ quoăng vào chuồng sấu vài đứa trẻ. Thế là xong một bữa.
Chúng tôi trở về " doanh trại " chùa. Mượn nồi niêu của dân, của các vị sư sãi để nấu ăn với lời căn dặn là nấu xong phải rửa thật sạch sẽ, đừng để những mùi " trần tục " bám vào. Các vị sư sãi trong chùa chỉ ăn một bữa vào lúc chính ngọ do đi khất thực mà có. Khi họ ăn xong, nhân dân hay bộ đội nếu đói có thể vào lấy đồ thừa của họ mà dùng ( Tất nhiên là vẫn ngon lành, sạch sẽ ). Buổi tối tiếng ê a...AK...DK...M79...12 ly 8... của kinh kệ của sư sãi vang lên trong khung cảnh tĩnh mịch, buồn buồn của không gian chùa rộng lớn. Chúng tôi vào chùa xem họ cầu khấn rất thoải mái... Ngày hôm sau, hàng loạt lều bạt dã chiến được dựng lên bên bờ sông Sen ngay cạnh chiếc chuồng nuôi cá sấu. Chúng tôi trở về trú trong những cái lều bạt để đợi ô tô sư đoàn đến đón đưa lên Stung.
Stung, một thị trấn ven lộ 6 rợp bóng xoài. Các phòng ban sư đoàn đều trú tạm trong nhà dân. Mấy thằng chúng tôi được phân về ở trong nhà của đôi vợ chồng dân K tuổi đã tam tứ tuần. Ông chồng suốt ngày đi vắng còn bà vợ ở nhà thỉnh thoảnh lại giã một nồi " cốm " mang tiếp tế cho thằng con chắc là lính Pốt vẫn ở trong rừng. Bà vợ thấy tôi suốt ngày nằm nhà, chẳng hay đi chơi bèn lân la trò chuyện. Có lần bà ta hỏi giọng tỉnh bơ : Bòng Thọ, Chuây Camphuchia Vietnam hao ây? Tôi nhe răng ra cười trừ.... mặt đỏ gay mà không biết trả lời ra sao. Tết năm ấy, chúng tôi đón tết Nhâm tuất tại thị trấn Stung trong cái lạnh ghê người. Năm ấy sao lại lạnh dữ thế. Mỗi đứa chúng tôi chỉ có mong manh một mảnh khăn dù làm chăn, lại phải ngủ ngoài hiên nhà. Gió thổi ù ù, mấy thằng nằm ôm nhau theo kiểu úp thìa mà vẫn không bớt lạnh. Trong nhà, vợ chồng thằng cha chủ nhà dưới chiếu, trên chăn ấm áp nên đâm rửng mỡ. Rúc rích mèo chuột rung cả ngôi nhà sàn ọp ẹp làm chúng tôi càng thêm khó ngủ.

Tết nhất đã qua, phòng hậu cần giao cho bọn tôi đi xây dựng căn cứ mới cách Stung khoảng 10 km về phía CP Thơm. Đây là một khu rừng Khộp ngay sát đường lộ 6. Bọn tôi đóng quân tạm trong vườn xoài của dân. Những ngày đầu, chúng tôi dựng lều bạt dã chiến để ở, đào hầm hào để sẵn sàng chiến đấu. Ông Hai Thí mặc dù đã 47 - 48 tuổi nhưng vẫn đào đất rất hăng. Những bắt thịt ở tay chân ông cuồn cuộn, gân guốc. Bụng, ngực ông đầy những đám lông soăn tít. Chúng tôi vẫn nói đùa gọi ông là người tiền sử, có " lông từ cần cổ xuống tận cuống đít ". Ông dùng xẻng phá một góc bụi tre gai để làm hầm chiến đấu, nhìn cái hầm đâm đầu vào bụi tre, tôi thầm cười không hiểu hướng xạ kích mà ông định làm sẽ nhằm vào đâu đây mà không dám nói. Thôi kệ ông ấy, việc mình là ông đào đất thì mình xúc đất đổ ra ngoài. Chỉ có xúc đất đổ ra ngoài mà ba thằng chúng tôi đã mệt nhoài, chẳng theo kịp nổi ông. Tôi và Tàm bỏ đi làm một chiếc bếp dã chiến. Cơm ăn chẳng có gì ngoài cá khô và bát canh rau cải thiện. Xong xuôi nơi ăn chốn ở, tôi và ông Hai Thí thường vác súng đi săn bắn, đánh cá để cải thiện. Mất mấy quả M26 mà chẳng được con cá nào. Chiếc hồ sen rất lớn ngay gần nơi đóng quân vậy mà chẳng có chút cá nào. Ông Hai Thí còn có biệt tài bẫy gà rừng, chỉ với một ít sợi dây dù, vài cành tre nhỏ là thỉnh thoảng chúng tôi lại được cải thiện bằng mấy chú gà rừng ông bẫy được. Thơm ngon vô cùng. ( Đoạn tiếp theo tôi đã kể với các bạn về việc thằng Hiển làm cháy lều bạt, còn tôi bắn chó của dân rồi - ở đây tôi không nhắc lại nữa )

Sau khi nhận án kỷ luật " nâng lên hạ xuống " chỉ trong 5 phút. Tôi, Tàm và Hiển cào cào lĩnh án ...đi chốt tại khúc sông phía trong chốt Cô Cháp.

Chiếc xuồng lớn chở Tôi, Tàm, Hiển cùng một khẩu 12 ly 8, một B40, một RPD và 2 khẩu AK cúng đạn gạo, mắm muối ( không có thực phẩm ), xoong nồi... hướng về phía Biển Hồ. Khúc sông Tonlesap đoạn đổ ra Biển hồ chia thành hàng trăm nhánh lớn nhỏ như một mê hồn trận không biết đâu mà lần. Ngay sát bờ sông là những cánh rừng Tràm xanh rì mọc um tùm, dây leo chằng chịt. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp đôi ba chiếc xuồng của dân đánh cá qua lại. Chúng tôi đi qua chốt Tà lia. Ở đấy có Thanh, Quân, Đào lé chốt ngay dòng sông lớn. Thấy xuồng chúng tôi chạy qua, chúng nó đưa tay vẫy vẫy. Chúng tôi ghé vào và được chúng nó cho một chiếc xuồng ba lá nhỏ xinh với đầy đủ mái chèo. Sống ở vùng toàn sông nước này mà không có xuồng thì kể như bó chặt tay chân lại. Chúng nó ném cho chúng tôi vài ba con cá để ăn ngay trong buổi chiều, con nào con ấy vẫn còn giẫy đành đạch nặng chừng 2 kg.
Ngay đối diện chốt Tà lia, có một nhánh sông nhỏ dẫn vào sâu trong khu rừng rậm rạp. Chúng tôi men theo nhánh sông đến một ngã ba nối với một dòng sông lớn khác thì dừng lại. Được mấy người dân tốt bụng giúp sức, chẳng bao lâu một cái lán nhỏ được dựng lên làm nơi ở cho chúng tôi ngay trên bãi đất rìa ngã ba sông. Xung quanh là nước, đằng sau là rừng. Địa thế chốt thật nguy hiểm cho chúng tôi. Nếu chúng nó từ những cánh rừng sau lưng đánh hất ra thì không hiểu chúng tôi biết chạy đằng nào? Lán dựng xong, những người dân đưa chúng tôi lên đây chào tạm biệt ( hay vĩnh biệt nhỉ? ) để ra về.
Ba thằng hì hục lắp súng, lắp đạn sắp xếp nơi ăn ngủ và phân công nhau các hướng phụ trách khi lâm trận. Đánh nhau cũng đã được mấy năm, cũng ít nhiều trải qua các cảm giác khác nhau trong chiến đấu nhưng chưa bao giờ tôi có cái cảm giác " lạnh lưng " như ở chốt này. Một vùng sông nước, rừng rậm bao la trước mặt, sau lưng vậy mà chỉ có 3 thằng lính trơ trọi trên cái rìa sông mỏng dính như lưỡi mèo. Tôi bần thần đứng suy nghĩ và đưa ra các tình huống khi xảy ra chiến sự. Địch dùng xuồng có gắn máy đánh vỗ mặt vào chốt hay nó đánh tập hậu từ khu rừng sau lưng? hay cả hai? Nếu cả hai hướng thì.... Tôi chẳng thèm nghĩ tiếp nữa.
- Đi vơ củi nấu cơm tụi mày. Tôi hô thằng Hiển và Tàm.
Mỗi thằng một tay, chẳng mấy chốc cơm nước đã xong xuôi. Ở chốt này, thực phẩm, thức ăn không đáng ngại. Chỉ cần khẩu AK. Bòm ! thế là cá rán, cá nấu canh chua, cá kho đầy đủ. Chỉ ngại duy nhất là nước ăn. Sống giữa vùng sông nước mênh mông mà lại thiếu nước. Nước sông đục ngầu và tanh ngòm toàn mùi cá. Để tam thời có nước nấu nướng, chúng tôi đã phải dùng phèn chua ( chuẩn bị sẵn ở " nhà " ) để đánh. Tuy có hơi chát nhưng vẫn còn hơn là dùng ngay nước sông.

Chiếc lán chúng tôi ở có chiều ngang chừng 3 mét, chiều dài chừng 4 - 4.5 mét, trên lợp lá Thốt lốt, xung quanh trống hoếch trống hoác. Có một cái sàn cách mặt đất chừng 70 - 80 phân, sàn làm bằng cành cây có rải một lớp đăng ( dùng đánh bắt cá ) cho êm. Cơm nước xong, trời chưa tối mà muỗi đã nhiều như vãi trấu. Đánh hơi thấy mùi thịt người, chúng xông vào đốt như bầy thiêu thân. Chúng tôi vội vã lên sạp mắc mùng rồi chui vào nằm nói chuyện phiếm mặc dù ánh mặt trời vẫn chưa tắt hẳn. Trời tối dần, xung quanh bóng đêm bắt đầu dần buông. Khu rừng Tràm phía sau lán lào xào trong tiếng gió thổi ào ào. Mặt sông rộng nên gió thổi càng dữ. Trong tiếng gầm gào của thiên nhiên, chúng tôi chẳng nghe được những tiếng động xung quanh. Thế này thì địch vào đến tận nơi tôi nằm, tôi cũng chẳng thể phát hiện ra. Tôi bảo thằng Hiển nằm bên cạnh :
- Đêm phải tổ chức gác thôi mày ạ. Tao thấy ớn lắm.
- Đ.M, Bây giờ mà ra ngoài gác thì chết vì Miên đâu chẳng thấy mà chết ngay vì muỗi đốt đã.
Thằng Tàm thủng thẳng trả lời. Thằng Tàm nguyên là lính chiến, đã ít nhiều trải qua chiến đấu nên chuyện sống chết đối với nó dù sao đã từng chứng kiến. Còn thẳng Hiển cào cào nguyên là lính trồng sắn của sư đoàn tại nông trường Phú giáo ( Bình Dương ) đã đánh đấm trận nào đâu, kinh nghiệm chẳng có nên tôi cũng hơi ngài ngại. Mả cha nó, bọn ngoài chốt Tà lia đã được ở ngoài ngã ba sông lớn, hoả lực mạnh, quân số đông ( chúng nó có tận 4, 5 thằng lận ) mà lính thì toàn thương binh, đánh đấm có sỏi trong đầu. Còn chốt của mình đã ẻo về quân số lại yếu về kinh nghiệm cho nên cảm thấy lạnh sườn cũng phải. Nghe theo thằng Tàm tham mưu, cả ba đứa liều chết nằm lì trong mùng, ôm súng ngủ một mạch đến sáng.
Sáng hôm sau, thằng Tàm bảo chúng tôi đắp ụ cho khẩu 12ly8. Khẩu 12.8 được giá ngay cạnh lều có tầm xạ kích cả hướng mặt sông và rừng phía sau lưng. Khẩu RPD sẽ phụ trách hướng sau lưng chếch bên tay phải.Thế bố trí đội hình thế là tạm ổn. Thằng Tàm lại nêu " sáng kiến " đào giếng lấy nước ăn. Từ chiều hôm ấy đến suốt cả ngày hôm sau, chúng tôi hì hụi đào giếng. Giếng sâu tới cả 4 mét mà chẳng có tí nước nào mặc dù nằm ngay cạnh bờ sông ! Thế mới lạ. Công toi vô ích, mệt cả người. Lại đành dùng nước sông đánh phèn vậy.

Xác định với nhau rằng nếu địch vào, đánh không nổi thì chạy. Chạy bằng cách nào? Mấy thằng ngồi uống trà nghe Radio ( có một cái Radio, các chốt thay nhau mỗi chốt được giữ một tuần ) nhưng bàn tính rất sôi nổi. Có lẽ còn hơn bọn tác chiến tiểu đoàn, trung đoàn chuẩn bị vào chiến dịch. Trước mắt, tất cả phải chèo xuồng thật giỏi. Thế là nghị quyết " chèo xuồng " ra đời. Ban ngày, mấy thằng thay nhau tung tăng tập tành. Ban đầu, cái xuồng nó chẳng theo ý mình cứ quay ngang quay dọc như chong chóng. " Không thày đố mày làm nên ", các cụ đã dạy thế. Thằng Tàm, Tôi và thằng Hiển nhảy ra mấy khẩu súng. Cùng...cùng...cùng... Tằng ...tằng ... tằng... Tiếng 12ly8, tiếng RPD, tiếng AK nổ giòn giã... Chỉ một lúc sau, chiếc xuồng chở bọn thằng Quân cụt, Đào lé, Thanh trố với súng ống đầy đủ lướt sóng băng tới. Cả lũ chúng tôi nhe răng ra cười.
- Mẹ khỉ. chúng tao ngoài kia tưởng chúng mày bị úp nên vội vào chi viện. Có chuyện gì vậy ? Đào lé ( Thanh Hoá ) văng tục tùm lum. Mà cái thằng này đến lạ. Mắt nó lé đến híp cả lại mà sao vẫn trúng tuyển đi bộ đội nhỉ???
Nghe chúng tôi " trình bày ", cả lũ hiểu ra và nhiệt tình dạy bảo. Thằng Quân cụt chèo xuồng thiện nghệ, chân nó cũng vung vẩy, đá đá rất điệu, cả thân mình cũng uốn éo theo nhịp tay. Nhìn nó chèo xuồng, khăn Cà ma cuốn vai ai mà bảo nó là Công tóp Việt nam? Nhờ các " thày " tận tình chỉ bảo, chỉ mấy hôm sau cả ba chúng tôi đã có thể ngược xuôi khắp khu vực. Tối đến, khi thì thằng Thanh, khi thì Quân cụt, Đào lé... chèo xuồng vào với chúng tôi để ... ngủ và tán phét. Có chúng nó qua lại, bọn tôi cũng bớt đi nỗi sợ hãi.
Một buổi tối, vào khoảng 8 - 9 giờ, Tôi nằm ngoài cùng bỗng nghe thấy tiếng mái chèo khua róc rách lẫn trong tiếng gió thổi ù ù. Có địch tập kích ! Cả ba thằng ôm súng lăn nhanh ra khỏi lán. Tôi lao về khẩu 12.8, thằng Tàm ôm lấy khẩu RPD, thằng Hiển cào cào lập cập cầm khẩu AK nằm lăn ra bên cạnh ụ 12.8. Phía hạ lưu, hai ba chiếc xuồng nhỏ lố nhố bóng người từ từ tiến đến gần. Tôi khéo khoá nòng khẩu 12.8... Roạt... Tiếng la thất thanh:
- Ấy ấy... bọn tao... bọn tao ..đừng bắn... đừng bắn.
Hoá ra ngoài chốt Tà lia, chúng nó đi bảo vệ dân Việt kiều vào đánh cá trộm trong khu vực chúng tôi quản lý. Tý nữa thì ăn đòn cả nút. Hôm sau, thằng Thanh trố ra bật mí với chúng tôi :
- Ở chốt này kiếm được nhiều tiền lắm chúng mày ạ! Cứ cho dân Việt kiều vào khu vực mình bảo vệ để nó đánh cá. Cho một hai thằng cầm súng đi bảo vệ, ăn chia tứ - lục. Mình 6 nó 4. Mỗi đêm làm vài tạ cá lóc ( cá trắng dính lưới thì lại thả ra không lấy vì rẻ tiền - 1.5 - 2.0 riel một kí, cá đen ( lóc, lóc bông ) 4 - 5 riel một kí ). Tiền tiêu thoải mái, cải thiện ăn uống mệt nghỉ.
Thảo nào, ngoài chốt chúng nó hút toàn Samit, In tẹc, ba con một, ăn uống thì thịt heo, thịt vịt, dưa leo đầy đủ.... Còn chốt mình quanh đi canh cá, quẩn lại cá kho, cá nướng...phát ớn luôn.

Nghe kinh nghiệm từ thằng Thanh truyền lại, lập tức chúng tôi thực hiện liền. Chốt tôi nhất trí cử thằng Tàm đi nhờ xuồng dân về thị xã CP Chnang móc nối với dân Việt kiều từ miền tây sang đánh cá. Hôm sau, thằng Tàm đã dẫn lên một gia đình Việt kiều, người chồng thứ tư nên chúng tôi gọi là anh chị Tư. Anh chồng khoảng 26 - 27 còn người vợ chắc chừng trên hai chục, Gia đình họ có hai đứa con, một đứa mới sinh chừng vài tháng. Cả hai đứa con đều ở lại trên một chiếc xuống lớn nằm ngoài thị xã - đối diện với khu nhà chúng tôi trú quân. Còn hai vợ chồng cùng nhau vào khu vực sông rạch chúng tôi quản lý để đánh cá. Tỷ lệ ăn chia nhanh chóng được thống nhất. Hàng ngày, chúng tôi thay nhau cử người đi bảo vệ, anh chồng giăng lưới bắt cá trong các luồng lạch vắng vẻ khắp các cánh rừng ven cửa Biển hồ. Thỉnh thoảng, chị vợ lại ở lại lán của chúng tôi cơm cơm nước nước, còn anh chồng một mình cặm cụi kiếm ăn. Kể từ khi có vợ chồng anh Tư, cuộc sống của chốt bọn tôi trở nên sinh động. Từ trước chỉ có ba thằng đực rựa, nay đã có bóng người con gái ra ra vào vào. Chị Tư đun nước pha trà, đôi khi nấu cơm cho cả bọn tôi ăn luôn thể. Vui ra phết! Nghe hai vợ chồng anh chị Tư xưng hô với nhau, bọn tôi cứ cười vật vã. Chị Tư gọi chồng bằng anh xưng tui, còn anh Tư gọi vợ bằng mày xưng tao ! Ngồi uống trà tán láo tôi liền bảo hai vợ chồng :
- Này, anh chị Tư. Vợ chồng " đầu gối tay ấp " sao anh lại gọi vợ bằng mày tao như vậy, tôi nghe hổng có vô. Thế ngày xưa khi hai người yêu nhau cũng gọi nhau như vậy à?
Anh Tư cười ha hả :
- Yêu đương gì mấy ông ơi, Ba má kêu lấy vợ thì lấy vợ chứ có biết yêu đương nỗi gì. Gọi riết thành quen rồi. Mà dân miền tây tụi em toàn gọi nhau như vậy không hà.
Tôi nói bây giờ sống phải khác đi, gọi anh em cho nó có tình nghĩa. Anh Tư nghe vậy vừa cười, vừa gọi vợ :
- Em ơi, châm cho anh ấm trà. Nói xong anh cười ha hả ra chiều vừa thích chí vừa ngượng miệng lắm lắm.
Cứ hai ba ngày, cá lóc đầy ghe là anh Tư cùng một trong ba đứa chúng tôi vọt về thị xã cân, bán cá chia nhau. Khi kéo ghe lên chốt, chúng tôi lại sắm bột ngọt, thuốc lá, me nắm, rau cỏ thịt thà... và cả gạo ngon nữa. Gạo đơn vị cấp phát vừa hôi, vừa mốc vứt mẹ nó đi cho rồi. Cuộc sống lên hương trông thấy. Thỉnh thoảng, khi vào rừng chúng tôi còn phát hiện những tổ ong rừng, nhiều tổ to gần bằng nửa chiếc chiếu đơn. Chúng tôi nhờ dân ( hay bắt dân nhỉ? ) trèo lên lấy tổ, vắt lấy mật. Đầu lán là 3 chiếc can 25 lít treo lủng lẳng lúc nào cũng đầy ắp mật ong rừng ngọt ngào, thơm ngát. Thừa mật ong, chúng tôi nhờ mua gạo nếp về nấu chè. Nồi chè đặc sánh, ngọt đến xít họng.

Có một ngày chủ nhật, thằng Thanh trố chèo xuồng sang chốt của bọn tôi chơi. Nghe Radio phát buổi ca nhạc " theo yêu cầu thính giả ", thằng Thanh ma giáo nhờ tôi viết thư " tình " ( thằng này văn hoá có lớp 7 trường làng, đang học dở thì...cô giáo chết ). Cứ lấy tên và địa chỉ em nào nghe ngon lành một chút là gửi thư tình.... " Theo yêu cầu của bạn....Thu Hương, sinh viên lớp... trường đại học sư phạm Vinh... " thế là nó túm lấy địa chỉ nhờ tôi viết mấy trang tán tỉnh ba lăng nhăng. Vậy mà khoảng một hai tháng sau nó cũng được hồi âm. Cô nàng gửi ảnh cho nó đàng hoàng và cũng xin ảnh của nó để biết mặt. Thằng này chuyên có những trò tếu táo. Nghe " em " xin ảnh, nó cắt luôn cái hình quảng cáo kem đánh răng Hynos có in hình thằng da đen nhe răng cười và gửi lại cho nàng. Thế là mất đứt liên lạc.
Thằng Thanh nằm kể tôi nghe về quê hương Yên sở của nó, nó cứ ước ao ngày mai yên hàn sẽ về quê làm ao nuôi cá. Thỉnh thoảng sẽ trở về quê nội tận Thái nguyên buôn về Hà nội vài ba lô chè " móc câu " là tiền tiêu thoải mái. Nó bảo tôi sau này tôi lấy vợ, mỗi mâm cỗ cưới của mày tao mua cho một con cá chép là cực sang rồi, chè Thái mày khỏi lo đi. Của nhà trồng được mà!
Tối tối, chúng tôi vẫn lên " giường " khi mặt trời chưa đi ngủ để tránh muỗi. Lên " giường " sớm, trời nóng bức mà nằm trong mùng thì làm sao ngủ được? Thế là nảy sinh ra chuyện. Thằng Tàm ra một quy định là mỗi thằng phải kể một câu chuyện " yêu đương " của bản thân, đến 9 giờ thì tắt " đài ". Đến lượt thằng nào mà không kể được, nó sẽ thò chân sang nhấc mùngcủa thằng ấy lên. Chỉ trong chốt lát, muỗi mẹ muỗi con sẽ tràn vào đầy trong mùng là ...hết ngủ. Nghe thấy hình thức " kỷ luật " như thế, chẳng thằng nào dám ho he. Để làm gương, nó sẽ là ngưởi mở đầu.

. Rồi một ngày tháng 4 năm 1982, thủ trường phòng HC - trung tá Mười Do xuống kiểm tra đơn vị. Sau khi làm việc với anh Sáu Ngân, tôi và mấy thằng nhận lệnh trở lại Stung. Chiếc xe giải phóng của D29 chở chúng tôi ( đâu khoảng 4, 5 đứa tất cả ) cùng với thủ trưởng lắc lư trên con đường dài tít tắp, xóc kinh hồn. Những địa danh đã trở nên quen thuộc như phà Nếch đăm, ngã ba Scun, CP Thơm... và kia căn cứ sư đoàn kia rồi. Quang cảnh đã khác xưa rất nhiều, những dãy nhà lá mọc lên trên những khu rừng xưa kia còn hoang vắng. Doanh trại các đơn vị, phòng ban được tổ chức ngăn nắp, gọn gàng. Tôi trở về ban mà cảm thấy cái gì cũng mới, cái gì cũng là lạ. Có lẽ những tháng ngày nằm chốt, được tự do tung tẩy đã tạo thành thói quen, nay phải gò mình vào kỷ luật nên tôi cảm thấy lạ và bức bối.
Một ngày đầu tháng 6/1982, hôm ấy tôi phải nằm gác điện thoại ở ngôi nhà trực ban của phòng. Khoảng gần 6 giờ sáng, tiếng chuông điện thoại reo lên cành cạch. Tôi ể oải cầm lấy ống nghe :
- A lô, phòng hậu cần nghe đây.
- A lô, phòng hậu cần F9 đấy hả? Tôi trên mặt trận 479 đây.
- Dạ, có tôi đang nghe ạ.
- Đồng chí báo cho đồng chí phụ trách phòng HC, đồng chí Mười Do thủ trưởng phòng HC F9 đã hy sinh sáng nay tại bệnh viện của mặt trận. Tôi la lớn :
- Rõ !
Lúc ấy chưa đến giờ báo thức, tôi vội chạy ba chân bốn cẳng lên nhà của anh Tư Thu - thiếu tá phó phòng. Tôi gõ cửa dồn rập :
- Anh Tư, anh Tư... Anh Tư ra mở cửa và hỏi :
- Cái gì vậy chú mày?
- Thủ trưởng Mười Do hy sinh rồi, điện của mặt trận vừa báo về anh Tư ạ.
Nói thật lòng, tin thủ trưởng hy sinh mà trong tôi cảm thấy vừa trút đi được một gánh nặng. Rồi đây tôi sẽ được phục viên, được chuyển ngành như tôi mong muốn. Anh Tư xem chừng đọc được ý nghĩ của tôi, anh bảo :
- Liều liệu cái thần hồn, đi báo tin thủ trưởng hy sinh mà mặt mày trông tươi hơn hớn thế kia à? Thôi, về phòng trực ban đi.
Tôi chạy như bay về căn nhà trực ban mà trong lòng cứ khấp kha khấp khởi.

Chiều hôm ấy, một chiếc máy bay trực thăng phành phành bay qua đầu chúng tôi, anh Tư Thu ngước nhìn theo và bảo tôi :
- Máy bay chở anh Mười về nước đấy.
Thế là cũng xong một đời người. Hóa ra lời nói " độc " của ông Mười đã trở thành sự thật.
Hai hôm sau khi anh Mười chết, anh Tư gọi tôi lên bảo tôi :
- Chú mày lên phòng TM , trên ấy đang tổ chức khám sức khỏe cho quân nhân ra quân đợt này. Chú mày phục viên hay đi lao động nước ngoài?
Dạo ấy, những người lính ra quân như bọn tôi được ưu tiên đi lao động ở các nước Đông Âu, nếu đi sẽ về Quân đoàn để tập trung học chính trị trước khi lên đường. Tôi chẳng còn bụng dạ nào để đi nữa, tôi chỉ muốn chạy như bay về thăm Mẹ mà thôi. Tôi đề nghị anh Tư cho tôi chuyển ngành về ngành Ngoại thương Hà nội, nơi tôi đã có quyết định tiếp nhận từ khi tôi về phép. Ngày 6/6/1982, tôi rời Stung lên xe về nước. Ngày 8/06/1982, chiếc xe chở tôi lao qua cửa khẩu biên giới Mộc bài. Tôi đã chắp tay lạy chín vái thề rằng không bao giờ tôi trở lại mảnh đất này nữa. Mảnh đất đã lấy đi của tôi tuổi trẻ, sức lực và biết bao bạn bè, đồng đội. Ngày 15/06/1982, tôi trở về đến Hà nội.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro