Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

HỒI KÝ CỦA ALEXANDER V. PYL''CYN


Biên tập: Artem Drabkin
Phiên dịch: Bair Irincheev
Xuất bản bởi Helion & Company Ltd. năm 2006

Cho tất cả các sĩ quan và chỉ huy shtrafnik của Tiểu đoàn 8 Trừng giới / Phương diện quân Belorussia 1, những người đã dẫn dắt Tiểu đoàn qua những nẻo đường chiến tranh để đến được Berlin.


1
BẮT ĐẦU



Tôi sinh năm 1923 trong 1 gia đình công nhân xe lửa vùng Viễn Đông nước Nga. Căn nhà của gia đình nằm rất gần đường ray khiến mỗi khi có đoàn tàu chạy qua nó lại rung lên bần bật như thể bản thân căn nhà cũng sẵn sàng tham gia 1 chuyến đi dài. Cả gia đình đều quá quen thuộc với đường sắt và những tiếng động nên khi chuyển tới 1 căn nhà khác xa đường ray, chúng tôi mãi vẫn ko quen được với sự tĩnh mịch, nó giống như 1 cái gì đó phản tự nhiên với chúng tôi. Cha tôi, Vasily Vasilievich Pylcyn, sinh năm 1881, là người vùng Kostroma. Vì 1 số lý do, gặp vấn đề với cảnh sát hay 1 cuộc hôn nhân đổ vỡ nào đó, ông đã trốn chạy đến Viễn Đông. Ông nói về chuyện này rất mù mờ và chỉ khi bị bắt buộc, nhưng thực tế là ông đã đổi cả tên họ. Tôi tin tên thật của ông là Smirnov và từng là 1 người có học. Chúng tôi có cả 1 thư viện lớn văn học cổ điển Nga trong nhà. Nếu tôi nhớ chính xác, ông là quản đốc của đám công nhân đường sắt và sau này là xưởng trưởng. Ông cực kỳ khéo tay, đóng được những đồ gỗ phức tạp, giỏi việc cắt gọt kim loại, mọi loại thùng chậu gỗ kể cả dùng để muối rau củ ông đều tự làm lấy. Ông rất nghiêm khắc trong cuộc sống gia đình khiến chúng tôi phát sợ mỗi khi nhìn thấy ông, mặc dù ông ko bao giờ đánh.

Tuy là người có vị trí xã hội, nhất là trong các tổ chức dân quân tự vệ như Osoaviakhim chẳng hạn, nhưng ông ko bao giờ vào Đảng. Năm 1938, cha tôi bị bắt vì thiếu trách nhiệm trong việc sửa chữa 1 đoạn đường ray dẫn tới 1 tai nạn tàu khách và bị tuyên án 3 năm tù. 1 bản án được mọi người cho là công bằng. Ông mãn hạn ngay trước khi Cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại bùng nổ. Cha tôi có thói quen kỳ lạ là nói 1 mình rất to. 1 lần ông nói oang oang "Hitler cho thấy hắn là kẻ thông minh hơn tất cả các nhà lãnh đạo thiên tài của chúng ta", và gọi các nhà lãnh đạo ví dụ như Stalin là "thằng Nga say". Ai đó đã nghe được điều này và báo cho nhà chức trách, hồi đó có hàng đống tay chỉ điểm, hay còn gọi là "chim gõ kiến". Cha tôi bị bắt lần nữa, cũng như nhiều người khác, ông bị đưa từ Viễn Đông đến 1 nơi xa xôi phía Bắc nào đó, hay như ông là Siberia và mất tại đó.

Mẹ tôi, Maria Danilovna, trẻ hơn cha tôi 20 tuổi. Bà là con 1 gia đình công nhân đường sắt bình thường, 1 gia đình người Siberia, gốc Nga thuần chủng, như cách người ta gọi ngày đó là chaldon Danila Leontievich Karelin. Hồi đó từ chaldon cũng có ý nghĩa như cheldon ở Viễn Đông và được 1 số người giải thích giống kiểu từ chelovek''s Dona - người sông Đông, tức là người Cossack sông Đông. Mãi sau này tôi mới biết chaldon thực ra là "người Siberia gốc Nga thuần chủng" để phân biệt với di dân từ các vùng phụ cận nước Nga tới.

Bà ngoại tôi tên là Ekaterina Ivanovna, tên thời con gái là Smertina, đến từ vùng Khakassia. Ông ngoại tôi kể đã "bắt cóc" bà từ 1 làng ngoại ô Khakassia. Ông bà ngoại tôi là người mù chữ mặc dù bà ngoại đếm tiền rất chuẩn thậm chí ko cần nhìn. Mẹ tôi cũng mù chữ nhưng rất lắm mồm và mê tín. Tôi đã dạy bà đọc và viết khi vào lớp 1 mặc dù tôi đã biết đọc từ lúc 4 hay 5 tuổi. Tôi đã nài nỉ bà đến likbez, 1 lớp xoá mù chữ, và tôi là "giám thị" của bà. Mẹ tôi học môn tập đọc rất tốt, bà đã có thể đọc, chậm nhưng vững, và viết mặc dù thỉnh thoảng cũng sai. Tuy nhiên bà ko có nhiều thời gian cũng như kiên nhẫn để học nhiều hơn. Dù sao mức biết đọc biết viết cũng là đủ để bà học lấy 1 nghề, bà trở thành người trực tổng đài tín hiệu đường sắt ga Kimkan khi chiến tranh bùng nổ và phụ nữ phải thay thế đàn ông trong mọi công việc. Bà vẫn tiếp tục làm việc ở vị trí này nhiều năm sau chiến tranh.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:31:30 PM

Trước chiến tranh gia đình tôi ko giàu có gì, tôi nghĩ chẳng có gia đình nào giàu có nổi vào thời gian đó. Nhưng chúng tôi đã sống sót qua nạn đói bi thảm năm 1933 mà ko mất thành viên nào trong gia đình, phần lớn là nhờ rừng taiga đã cung cấp cho chúng tôi thức ăn. Cha tôi cũng là 1 thợ săn chuyên nghiệp và thú chơi của ông cũng đồng thời nuôi sống chúng tôi, chỉ đến mùa đông thì mới thực sự có khó khăn. Cha tôi thường đi vào rừng taiga mỗi ngày nghỉ và trở về với vài con thỏ hay sóc, đôi khi cả gà lôi. Nhờ vậy, chúng tôi được nuôi dưỡng tốt, thích nhất là thịt sóc, chúng thật ngon. Thêm nữa cha tôi còn biết chế biến những bộ da thỏ và sóc để đổi lấy bột mì và đường. Trong dịp nghỉ lễ mùa thu cha tôi cũng hay vào rừng kiếm hạt thông Siberia, mang về nhà hàng bao đầy và ép ra thứ dầu hảo hạng bằng 1 máy ép tự chế.

Mẹ tôi dùng những gì còn lại sau khi ép để làm ra "sữa thông Siberia" bằng cách đun sôi nó trong nước. Bà cũng thường cho thêm hạt thông vào bột mì làm bánh. Mẹ tôi có thể nướng bánh chỉ với 1 lượng bột nhỏ, trộn với lúa mạch đen hồi đó có thể mua được ở cửa hàng và bột yến mạch. Thứ bánh mì này có màu đen thui hoặc nâu nhưng đã cứu được chúng tôi qua nạn đói. Truyền thống thu thập rau quả rừng và nấm cũng góp phần cứu chúng tôi. Các thứ rau quả muối hoặc mứt phơi khô giúp chúng tôi qua cơn đói và bệnh thiếu vitamin C phổ biến ở vùng Viễn Đông thời đó. Ngay từ nhỏ chúng tôi đã được dạy hái nấm, kiếm quả rừng và biết cách phân biệt chúng. Ko có nhiều loại quả rừng ở Viễn Đông ngoại trừ giống "táo Tầu" như chúng tôi vẫn gọi, người ta đùa là chúng được bán theo đơn vị "cốc" thay vì kg vì chúng quá nhỏ, ngoài ra còn dâu rừng, quả kim ngân và nho dại.

Cha tôi và ông ngoại biết cách làm lờ, họ bắt cá ở con sông nước lạnh và chảy siết gần đó ko phải bằng dây câu mà bằng lờ. Thỉnh thoảng họ mang về những con cá nhỏ đẹp như cá cảnh. Mùa cá hồi đẻ họ mang về những con cá hồi chửa tướng, giống cá hồi Siberia có thể nặng tới 6 - 8kg! Đương nhiên lúc này chúng tôi thu được hàng đống trứng cá đỏ, mặc dù thứ này lúc nào cũng bán đầy ở cửa hàng. Tất tật các thứ hải sản đều được nấu nướng hoặc hun khói, muối hoặc phơi khô để dành cho mùa đông. Mọi thứ đều chỉ dùng để ăn. Những thức ăn đủ loại đó đã giúp chúng tôi sống sót qua mùa đông dài lạnh lẽo, tạo nên sự dẻo dai cho những người Siberia chúng tôi. Có lẽ đó cũng là lý do khiến dân Siberia sống tốt hơn qua những năm đói kém so với dân sống ở trung tâm nước Nga hay dân Ukraina.

Cha mẹ tôi sinh được 7 đứa con nhưng 3 đứa ko nuôi được, hồi đó thế là rất bình thường. 4 đứa còn lại sống được đến khi chiến tranh bùng nổ là 2 anh trai, cô em gái và tôi. Cha tôi ko bao giờ kể về tổ tiên họ hàng nên tôi cũng ko biết ai ngoài ông ngoại Danila và bà ngoại Kate. Hồi đó người ta cũng ít khi lập gia phả về những người họ hàng. Bạn chẳng bao giờ cần biết nếu bạn ko muốn phát hiện điều gì đó ko hay cho bạn và gia đình! Tuy vậy tôi biết họ hàng bên ngoại rất rõ, các con cháu gia đình Karelin sống gần chúng tôi. Đầu tiên là anh của mẹ tôi, Petr Danilovich, cũng là xưởng trưởng và là Đảng viên. 1 cách hoàn toàn bất ngờ, ông bác rơi vào cuộc bắt bớ loạn xạ năm 1937 và biến mất trong vùng đất vô tận Siberia hay Cực Bắc, để lại bà vợ ốm yếu và 5 đứa trẻ. Mấy người anh em họ này đã lớn lên, đi học và sống sót qua chiến tranh, nhiều người còn sống đến nay.

Phải đến bây giờ, sau 70 năm tôi mới bắt đầu hiểu ra ko thể có quá nhiều "phản động" và "kẻ thù của nhân dân" như thế được. Tuy nhiên tôi phải thừa nhận rằng vào thời đó việc truy tìm "kẻ thù của nhân dân", việc bắt bớ, mặc dù chưa có các phương tiện truyền thông điện tử, đã thu hút nhiều người kể cả đám trẻ con chúng tôi. Tôi nhớ hồi tôi học lớp 2 hay 3 gì đó chúng tôi đã lùng tìm 1 chữ ký tắt bí mật "VKP(b)!" trên bìa vở và trong những bức tranh của Vasnetsov in trong sách giáo khoa, nếu ko tìm thấy thầy giáo còn mắng là tìm chưa kỹ. Những vụ bắt bớ bất ngờ với những người quen biết ví dụ bác tôi, 1 người có lẽ hoàn toàn vô tội, được xem là "sai sót nhỏ" trong nỗ lực "bắt những tên phản động, gián điệp và tất cả các loại kẻ thù của nhân dân" trong 1 đất nước khổng lồ rộng lớn. Câu nói "Bạn ko thể có món trứng rán nếu ko đập vỡ trứng" được nhấn mạnh nhiều lần trên truyền thông thời đó. Điều khó tin là cùng với chiến dịch truy lùng "kẻ thù" đó, hệ thống truyền thông cũng quảng bá lòng yêu nước và lý tưởng CS cho ko chỉ thanh niên mà tất cả toàn thể nhân dân. Bạn chỉ cần nhắc lại những bộ phim và bài hát yêu nước thời ấy, tất cả chúng đều làm ta thêm yêu Tổ quốc, và với tinh thần yêu nước cao độ đó chúng ta đã bước vào cuộc chiến "thần thánh" chống phát xít Đức.

Cuộc thanh trừng dù đã lấy đi 1 thành viên gia đình nhưng đã ko mở rộng ra những người liên quan. Có lẽ điều đó chỉ xảy ra ở vùng Viễn Đông nước Nga này. Em gái mẹ tôi, Klavdia Danilovna, sinh năm 1915 vẫn tiếp tục làm điện tín viên, 1 người khi đó gần như chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của trạm điện tín, dù rằng anh trai đã bị bắt. Cô tôi lấy 1 kỹ sư, Vasily Alekseevich Baranov, ra mặt trận từ những ngày đầu tiên của cuộc chiến và trở thành sĩ quan KGB sau chiến tranh. Chú ấy làm sĩ quan KGB tại Riga (Latvia) cho đến tận lúc mất năm 1970. Vợ chồng chú có 1 người con là em họ tôi, Stanislav, sinh năm 1938, cậu ta đã tốt nghiệp Học viện Biên phòng và trở thành 1 sĩ quan tốt. Trước ngày Liên Xô sụp đổ, cậu ấy bị đưa vào danh sách "phù thuỷ đỏ" ở Latvia và do các hành động kỳ thị của chính quyền Latvia, cậu ấy phải rời Cộng hoà Latvia chạy về Nga.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:31:48 PM

Như đã nói, tôi có 2 người anh. Tôi giống lạ lùng với người anh sinh năm 1918, đến mức làm bạn bè lẫn lộn. 2 chúng tôi đều giống mẹ và ông ngoại Danila. Ivan có nhiều tài lẻ, anh có thể chơi tất cả các loại nhạc cụ kể cả harmonica và đặc biệt giỏi vẽ. Anh cũng rất giỏi toán, ngay sau khi tốt nghiệp cấp 3 anh đã được mời về dạy toán ở trường làng tôi, trường này dạy học sinh đến lớp 7. Năm 1937 anh đi lính nghĩa vụ trong lực lượng phòng vệ bờ biển thuộc Hạm đội Thái Bình Dương, tại đó anh dạy toán cho những lính thuỷ còn ít học còn bản thân anh được nhận vào 1 khoá đào tạo điện đài viên. Năm 1942 anh được gửi ra mặt trận và hy sinh tháng 9/1943 khi đang chiến đấu tại Tập đoàn quân 5 Xung kích, Phương diện quân Nam. "Trung sĩ Cận vệ Ivan Vasilievich Pylcyn đã trung thành với lời thề của mình, thể hiện chủ nghĩa anh hùng và lòng dũng cảm, anh đã ngã xuống trong 1 trận đánh vì Tổ quốc XHCN ngày 18/9/1943". Đó là bức công thư mà gia đình tôi nhận được cùng giấy báo tử của anh.

Anh thứ 2 Viktor lớn hơn tôi 3 tuổi, chẳng có tài năng gì đặc biệt. Thứ duy nhất anh thừa hưởng từ cha tôi là thói quen nói rất to, đặc biệt là khi nói mơ, và phong thái mô phạm. Sau khi tốt nghiệp cấp 3, anh làm trợ lý trưởng ga trong 1 năm rồi đi lính nghĩa vụ năm 1939, phục vụ trong 1 lữ đoàn đổ bộ đường ko ở Viễn Đông. Ngay sau khi chiến tranh bùng nổ, lữ đoàn của anh được chuyển tới Ukraina, tại đó anh phải đối mặt với những đòn tấn công phủ đầu chết chóc của cỗ máy quân sự Đức và trải qua giai đoạn rút lui đau đớn. Anh bị thương khi đang bảo vệ Bắc Caucasus, sau đó tham chiến ở Stalingrad và mất tích tại đó tháng 12/1942.

Em gái tôi Antonina Vasilievna sinh năm 1927, hiện sống tại St Petersburg, trước đây là Leningrad. Thực sự là việc cha và bác ruột bị bắt trong thời kỳ Stalin lãnh đạo đã ko ngăn cản việc cô ấy được bầu vào Soviet của làng. Sau đó em tôi chuyển tới Leningrad làm nhân viên cơ yếu cho 1 phòng tuyển quân. Việc cha bị bắt cũng ko ảnh hưởng đến việc tôi vào Đảng, từ 1 lính Hồng quân bình thường tôi đã lên dần tới cấp đại tá. Vì thế cả 2 anh em tôi đều thấy rằng câu nói "con ko phải chịu trách nhiệm về những việc làm của cha" là đúng. Tuy nhiên tôi nghĩ mỗi người có 1 số phận khác nhau và việc liên quan tới những người bị bắt có thể vẫn tiếp tục tác động đến cuộc đời ai đó.

Tôi học ở trường làng đến khi tốt nghiệp lớp 7, tại đó tôi đã được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Komsomol. Lên lớp 8 tôi học ở trường do ngành đường sắt mở ở Obluch''e, 1 thị trấn gần đó, đó chính là lúc cha tôi bị bắt. Anh cả đã bị gọi nhập ngũ, vì vậy mẹ tôi ko thể chu cấp cho tôi ăn học chỉ với tiền lương ít ỏi của anh 2 Viktor. Thế là tôi quyết định viết 1 bức thư cho Dân uỷ phụ trách ngành đường sắt L. M. Kaganovitch, trong thư tôi kể hết những khó khăn của gia đình khi để tôi đi học. Tôi cũng viết rằng cha tôi đang thi hành hình phạt tù vì tội bất cẩn. Ngay sau đó tôi, 1 cậu học sinh, đã nhận được 1 bức quốc thư trong đó cho biết lệnh của Dân uỷ chi trả mọi khoản tiền học và tiền phòng ở ký túc xá của tôi khi học trung học và cho đến cả đại học. Tôi cũng nhận được vé xe lửa miễn phí đi và đến bất kỳ trường nào. Tôi vẫn còn nhớ rõ cái chữ ký độc đáo ở đầu bức công thư, "L. Kaganovitch", với 1 chữ L rất to viết tắt chữ Lazar. Nhờ vậy tôi được trả tiền cho 3 năm học.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:31:59 PM

Như tôi biết sau này, chồng cô Klavdia Danilovna của tôi còn có 1 hành động liều lĩnh hơn khi còn nhỏ. Khi học hết lớp 6, chú ấy ko được đi học nữa vì gia đình quá nghèo, thế là chú ấy, 1 đứa trẻ 14 tuổi sống ở 1 ngôi làng bị Chúa lãng quên vùng Yaroslavl, đã tự mình đến Moscow. Chú ấy đã gặp được Nadezhda Konstantinovna Krupskaya, vợ goá của Lenin, lúc này là Phó Dân uỷ phụ trách Giáo dục Liên Xô, kết quả là Dân uỷ phụ trách Giáo dục ra lệnh: "Chấp thuận cho Vasily Baranov vào lớp 7". Sau đó chú theo học 1 trường dạy nghề, thật khó tin là hồi đó rất nhiều vụ việc đã được giải quyết theo cách kiểu như vậy.

Đương nhiên việc lo cho lũ trẻ là quan trọng nhất. Tôi và em gái cùng 5 người anh em họ con ông bác đã bị bắt được 2 bà mẹ nuôi dưỡng, cả 2 đều đã mất chồng. Có lẽ ký ức về họ ko có gì đặc biệt, những người phụ nữ Nga chăm chỉ mãi mãi được trân trọng.

Ko giống như ở trường làng, ở trường trung học đường sắt Obluch''e hàng ngày chúng tôi phải tham gia các hoạt động quốc phòng sau giờ học. Thực tế đó là 1 tổ chức tốt, huấn luyện quân sự cho học sinh. Chúng tôi ko có giáo viên quân sự mà có các trung sĩ đến từ các đơn vị quân đội đóng trong thành phố. Họ đến thăm chúng tôi theo định kỳ và dạy tất cả các khoa mục quân sự. Đám trẻ trai gái đều háo hức tham gia các khoá học đó. 1 số đứa quan tâm đến câu lạc bộ hàng ko, tại đó chúng được học lái máy bay và nhảy dù, nhờ vậy chúng có cơ hội theo học Học viện Ko quân ngay sau khi tốt nghiệp lớp 9.

Tổ chức quân sự trong trường học bao gồm các trung đội, tương đương các lớp, và đại đội, tức là cả khối lớp. Ví dụ 3 lớp 10 hợp thành 1 đại đội, tập hợp tất cả 3 khối 8, 9 và 10 của trường lại chúng tôi có 1 "tiểu đoàn chiến sĩ nhỏ". Đứa giỏi nhất mỗi lớp sẽ là trung đội trưởng, đứa mẫn cán nhất trong số đó sẽ được chỉ định làm đại đội trưởng, đứa lớn tuổi nhất trong khối 10 sẽ là tiểu đoàn trưởng. Khi tôi được bầu làm Bí thư Đoàn trường hồi lớp 9, cấp bậc của tôi trở thành "Chính uỷ tiểu đoàn". Thông thường, bí thư chi Đoàn Komsomol các lớp sẽ là các Ctrị viên đại đội. Chúng tôi thực thi trách nhiệm "chiến sĩ nhỏ" 1 cách hết sức nghiêm túc! Chúng tôi thậm chí còn đính cầu vai vào áo sơmi và áo khoác, với các sao vạch làm bằng thiếc, và rất tự hào về chúng. Kiểu định danh cũng tương tự: "Đồng chí Chính uỷ tiểu đoàn trẻ tuổi!" Ở trường tôi, từ đứa bé nhất trở đi đều tôn trọng và ủng hộ các lực lượng vũ trang. Có cả những lớp huấn luyện kỹ năng chỉ huy. Tôi phải nhắc lại là các kinh nghiệm "chiến sĩ nhỏ" đó, theo đánh giá cảm tính của tôi khi đi nghĩa vụ lúc chiến tranh bùng nổ, là rất thiết yếu!

Tôi tốt nghiệp lớp 10 năm 1941, 2 ngày trước hôm 22/6, ngày tai hoạ đối với toàn thể đất nước tôi. Ngay sau lễ tốt nghiệp chúng tôi tới trung tâm của vùng, thị trấn Bira, để nộp đơn xin vào các học viện quân sự. Hồi đó đám thanh niên Soviet đều mê cuồng Học viện Ko quân, ko có thì Học viện Xe tăng và Pháo binh, ko có thì các học viện khác. Tôi chọn Viện nghiên cứu quân sự Novosibirsk, khoa kỹ sư đường sắt vì truyền thống gia đình và để thể hiện lòng biết ơn với Dân uỷ phụ trách ngành Đường sắt đã cho tôi đi học miễn phí. Dù sao đó cũng là 1 viện nghiên cứu quân sự. Nhưng rồi tất cả dự định và mơ ước của chúng tôi đã tan tành khi nghe tin chiến tranh bùng nổ chính tại Bira, đây là nơi chúng tôi được nghe giọng nói của Molotov. Tin chiến tranh thình lình vang lên vào 7h tối ở Viễn Đông chỗ tôi, cùng lúc với Moscow, nhưng ở đó lúc này mới là buổi trưa. Ngay lập tức, như thể có 1 sự chỉ huy, 1 hàng người dài đã xuất hiện trước phòng tuyển quân. Thật là 1 đêm chủ nhật hạnh phúc và thảnh thơi! Tất cả đàn ông đều xếp hàng đăng lính. Sự ngạo mạn của bọn Nazi đã đi quá xa, và chúng tôi đều muốn cho chúng biết chúng tôi sẵn sàng đập lại. "1 chút máu sẽ đổ trên đất đai của kẻ thù, và cuối cùng chúng ta sẽ đập tan quân địch (*)".

Trong 2 ngày, đám thanh niên mới tốt nghiệp trung học chúng tôi ko nghe được thông tin gì về những lá đơn xin học từ các học viện quân sự. Tôi đã nhanh chóng đổi ý và viết 1 lá đơn mới xin vào Học viện Xe tăng. Sau đó chúng tôi được trả lời là tất cả các học viện quân sự đều đã hết chỗ và chúng tôi được gọi nhập ngũ như lính dự bị động viên bình thường. Chúng tôi được cho 2 ngày để chuẩn bị hành lý, thế là chúng tôi nhanh chóng quay về đóng gói tư trang. Sau 1 cuộc chia tay ngắn ngủi cùng gia đình, những chuyến tàu quân sự đã nhanh chóng đưa chúng tôi tới các vùng khác nhau thuộc Viễn Đông.

Tôi lên 1 chuyến tàu với nhiều bạn cùng trường, đoàn tàu chạy về hướng tây và niềm vui của chúng tôi ko tồn tại lâu, mới 2 ngày sau chúng tôi đã dừng lại tại Belogorsk, thị trấn chỉ cách chỗ chúng tôi ở có 300km, tại đây chúng tôi trở thành tân binh Trung đoàn 5 Bộ binh Dự bị của Tập đoàn quân 2 Cờ Đỏ thuộc Quân khu Viễn Đông. Quân khu đã được đổi tên là Phương diện quân nhưng cái tên này vẫn chưa thực sự được sử dụng. Trung đoàn mới thành lập vội vã này còn chưa có đủ chỉ huy trong khi các đoàn tàu vẫn đổ tới vô số tân binh.

Chỉ huy đại đội tôi là chính uỷ tập sự Nikolai Vasilievich Tarasov. Tôi nhớ rõ vị chỉ huy đầu tiên trong cuộc đời binh nghiệp này. Anh ta cao dong dỏng và hơi yếu ớt nhưng có 1 vẻ rất điềm tĩnh trong đôi mắt mệt mỏi. Mới chỉ có 2 "khối vuông" trên cầu vai, anh ta đã chỉ huy 1 đại đội hơn 500 người. Binh lính thuộc đủ mọi lứa tuổi, chưa từng được huấn luyện quân sự và nhiều người mù chữ, họ là những người được động viên ngay trong ngày đầu tiên, hầu hết đến từ những làng nhỏ hẻo lánh sâu trong rừng taiga. Tarasov, đại đội trưởng đầu tiên của tôi, lập tức tách những người đã tốt nghiệp từ cấp 2 trở lên ra, và chỉ với 1 cái liếc qua anh ta có thể bổ nhiệm ai đó tạm thời làm trung đội trưởng hay tiểu đội trưởng, tôi được chỉ định là trung đội trưởng. Rồi khi đám người hỗn loạn đã dần dần trở thành 1 đơn vị quân đội có tổ chức, ngày thứ 2 đại đội trưởng đưa tất cả chúng tôi tới 1 banya (nhà tắm hơi), gọi vậy nhưng thực ra bên trong chỉ có hàng dãy vòi sen. Tại đây chúng tôi được cắt tóc, sau đó là kỳ cọ, và nhận quân phục. Chúng tôi nhét mình vào những "ủng quá to, mũ quá rộng, che kín cả mắt". Chúng tôi trở nên giống nhau đến mức có thể ko nhận ra được cả bạn mình chứ đừng nói là biết ai ở trung đội nào.

Đại đội càng lúc càng có vẻ nhà binh hơn. Chúng tôi được đưa tới 1 khu trại dựng bằng lều bạt cách canteen 3km. Mọi con đường đều dẫn tới canteen, chính uỷ tập sự Tarasov của chúng tôi khích lệ mọi người bằng các nghi thức và những bước đi theo kiểu duyệt binh. Trong khi đó đám "trung đội trưởng" chúng tôi cố hết sức giúp đỡ anh ta, trổ hết học vấn và kỹ năng. Đại đội trưởng, kỳ lạ thay, cũng tổ chức được cả việc chuẩn bị cho lễ tuyên thệ và nói chuyện riêng với nhiều người trong chúng tôi. Tôi cảm thấy khâm phục vì anh ta đã có đủ thời gian và nhiệt tình làm những việc đó! Nikolai Vasilievich Tarasov còn là 1 chỉ huy thực sự mẫu mực, 1 chính uỷ với nghĩa tốt đẹp nhất của từ này. Tôi xin nhắc lại anh ta và những quyết định của anh ta đã tạo nên nhiều quãng thời gian tốt đẹp trong cuộc đời tôi.

(*) 1 đoạn trong bài hành khúc phổ biến những năm 30 "Nếu mai có chiến tranh".

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:32:09 PM

Chúng tôi được ngủ khoảng 5 - 6h/ngày, Ctrị viên thì còn ít hơn. Tuy nhiên vài ngày sau thì có 1 trung uý và 1 thiếu uý vừa tái ngũ từ lực lượng dự bị động viên tới. Mỗi người tiếp nhận 1 nửa đại đội. Tôi ko nhớ họ của 2 vị chỉ huy mới nhưng cả 2 đều tháo vát, bề ngoài chắc nịch và là những người rất vui tính, người này gọi người kia là "Trung tướng" và "Thiếu tướng".

Vài ngày sau nữa chúng tôi được đưa tới bãi tập bắn và tất cả những ai hoàn thành các bài tập với súng trường đều được làm lễ tuyên thệ ngay. Buổi lễ tuy ko long trọng lắm nhưng tôi vẫn nhớ từng chi tiết nhỏ. Chúng tôi thề trung thành với Tổ quốc, với Liên Bang CHXHCN Soviet. Đó là 1 ngày đặc biệt trong đời tôi, trước đây tôi chưa từng thề thốt vì bất kỳ chính phủ hay quốc gia nào, chỉ biết có Chúa. Vậy mà cả 40 năm đời binh nghiệp tôi đã phụng sự chỉ dưới lời thề quân đội duy nhất này.

Chúng tôi làm quen dần với việc tình trạng căng thẳng thường xuyên và các khoá huấn luyện. Sau khoảng 1 tháng, đại đội tôi đã gần như 1 tổ chức quân đội sẵn sàng làm nhiệm vụ. Có lẽ các chỉ huy - Ctrị viên cũng phải tự hào vì cái đám đông ô hợp chúng tôi đã có thể bước đều trên đường phố. Đại đội trưởng tạm thời tức trung uý của chúng tôi khích lệ mọi người bằng những câu đùa thô lỗ: "Ngẩng đầu, hếch mũi lên! Nhìn vào đám con gái đang ngắm các cậu ấy! Nụ cười của đám gái đó ko làm dạng 2 chân các cậu ra được đâu, nhưng chắc họ đang nghĩ đến chuyện đó đấy!" Những câu đùa bao giờ cũng được việc!

Thời gian trôi qua, đại đội tôi được phân vào các trung đoàn và sư đoàn của "Tập đoàn quân Viễn Đông, chỗ dựa vững chắc" như chúng tôi vẫn hát trong bài hành khúc. Chúng tôi cảm thấy tiếc vì phải chia tay với đại đội trưởng, người đã trở thành 1 người cha thật sự của đại đội. Đó là 1 tấm gương về sự tận tuỵ, 1 sĩ quan Ctrị thực sự. Tôi chắc chắn Ctrị viên đã trải qua 1 quãng thời gian khó khăn với chúng tôi, đã bỏ ra nhiều tinh thần, thời gian và hy vọng cho đơn vị này, đã chia sẻ với mỗi người chúng tôi 1 phần con tim anh.

Số phận đưa đẩy tôi vào trung đội trinh sát Trung đoàn 198 Bộ binh / Sư 12 Bộ binh / Tập đoàn quân 2 Cờ Đỏ / Phương diện quân Viễn Đông, đóng tại Blagoveshensk trên sông Amur. Viên chỉ huy quan trọng nhất với tôi tại đó là trung đội phó, Trung sĩ Zamyatin. Tôi nhận hình phạt kỷ luật đầu tiên là từ anh ta, "1 khiển trách cá nhân". Nó diễn ra như thế này: Vì tôi rất cao nên trong các bài thể dục buổi sáng, hầu hết là chạy, tôi thường vượt lên trước mọi người kể cả những binh sĩ lớn tuổi trong trung đội. Khi trung sĩ ra lệnh "bước dài" tôi càng chạy những bước dài hơn bằng đôi chân rất dài của mình và chạy nhanh hơn nữa. Vậy là cánh già trong trung đội nói móc "ở đây cậu sẽ có đủ chỗ để chạy, đừng chạy quá nhanh". Tất nhiên là tôi sẽ phải chạy chậm lại nhưng sau vài lần va chạm như vậy trung đội đã cho trung đội dừng lại, lệnh cho tôi bước khỏi hàng và ra 1 tuyên bố "khiển trách cá nhân", sau đó ko còn ra lệnh nào nữa. Tôi cảm thấy hết sức bị xúc phạm, tôi có thể chạy nhanh hơn, vậy mà lại ko được. Tôi ko viết thư về nhà kể về lời khiển trách này mà giữ nỗi hổ thẹn cho riêng mình, cố gạt nó đi trong 1 thời gian dài nhưng nó vẫn bám riết lấy tôi cho đến 1 hôm có cuộc hành quân vũ trang 30km và tôi giúp 1 người lính hoàn toàn kiệt sức. Tôi sách súng hộ và thực sự là lôi anh ta về đến đích. Trung sĩ khen ngợi tôi vì đã thể hiện tinh thần giúp đỡ đồng đội và thông báo xoá án khiển trách. Tôi thấy thật hạnh phúc!

Tôi ít khi gặp trung đội trưởng, trung uý Zolotov, thực tế trung đội do Zamyatin điều hành. Tôi ko nhớ tí nào về trung đoàn trưởng của mình nhưng còn nhớ sư trưởng, 1 sĩ quan lùn mập người Gruzia, tướng Chanchibadze, cuối chiến tranh là chỉ huy Tập đoàn quân 2 Cận vệ. Sự tháo vát và khắt khe của ông đã dạy cho chúng tôi nhiều điều. Xét 1 cách toàn diện, những môn "khoa học để giành chiến thắng" đã lấy đi nhiều mồ hôi của chúng tôi. Áo khoác gimnastyorka (thể thao) của lính đều thấm đẫm mồ hôi đến mức có thể dựng đứng trên sàn nhà mà ko đổ! Tôi đã từng gặp vấn đề với khớp đầu gối và gia đình đã chữa chạy cả bằng thuốc bác sĩ cho lẫn thuốc do bà ngoại tự bào chế mà ko xong. Vậy mà sau khoá huấn luyện căn bệnh này đã hoàn toàn biến mất và ko bao giờ tái phát. Môi trường quân đội quả có thể chữa lành nhiều loại bệnh cả thể chất lẫn tinh thần.

Việc huấn luyện quân sự tại Phương diện quân Viễn Đông cực kỳ căng thẳng. Tôi đoán ko lầm thì khoa mục chính là hành quân, ko cần biết là kiểu hành quân gì. Nó được dùng để thay thế cho các bài huấn luyện thể lực và nhiều loại bài tập kỹ năng chiến đấu khác. Trước hết là hành quân vũ trang với tất cả các đơn vị trinh sát trong sư đoàn, bao gồm cả đại đội trinh sát sư đoàn. Đó là 1 cuộc hành quân 60km băng đồng, những ai từng sống ở Viễn Đông đều hiểu thế nghĩa là gì. Rừng taiga bao phủ kín suốt dọc đường! Nên nhớ ngoài mang theo súng trường hay súng máy, mỗi người lính còn phải mang balô hay túi dết nặng tối thiểu 30kg. Cuộc hành quân trở nên cực kỳ gian khổ, đặc biệt với những lính mới nhập ngũ như chúng tôi. Đó là 1 ngày nóng nực tháng 8 nhưng trung đội tôi là đơn vị đầu tiên hoàn thành bài tập, ko chỉ hành quân mà còn trong tiếng hát quân hành! Khi đã hoàn toàn kiệt sức, chỉ muốn ngã lăn ra vào những km cuối cùng, chúng tôi bắt đầu hát! Với giọng ngắc ngứ, hoàn toàn ko đúng giai điệu gì hết, chúng tôi đã hát! Càng ngày càng to hơn và vui vẻ hơn, bước chân mỗi lúc 1 đều đặn và mạnh mẽ hơn. Bài hành khúc đã mang lại cả sức mạnh lẫn tinh thần! Nếu tôi nhớ ko nhầm chúng tôi đã hát bài hành khúc của Tập đoàn quân Viễn Đông: "Tập đoàn quân Viễn Đông, chỗ dựa vững chắc".

Sư trưởng đang chờ đợi những người lính trinh sát ở cuối đường cũng hoà vào lời ca và trung đội tôi về đích với hàng quân thẳng tắp và đầu ngẩng cao! Sư trưởng cho trung đội dừng, phát biểu cảm ơn những người lính bằng chất giọng Gruzia đặc trưng: "Tôi thưởng cho trung đội 1 đôi ủng mới!" Tôi phải nói rằng lúc đó hầu hết ủng của chúng tôi đều đã rách te tua. Cánh già trong trung đội cho rằng chúng thể nào cũng được thay nhưng chiến tranh đã thay đổi tất cả, tất cả ủng của chúng tôi đều đã quá đát rất xa. Vì vậy "1 đôi ủng mới" có ý nghĩa đặc biệt trong việc giải quyết vấn đề này. Trung đội trưởng, trung uý Zolotov, lúc này mới thể hiện quyền hạn ko thể bàn cãi của mình là giao đôi ủng mới cho người có đôi ủng thảm hại nhất trung đội. Chiếc ủng cũ được sử dụng làm vật liệu để sửa chữa vá víu những đôi ủng còn có thể sửa được. Thật tốt là rất nhiều chiếc ủng nhờ đó đã được vá!

Tôi phục vụ tại trung đội trinh sát cho đến ngày 1/1/1942. Đúng ngày đầu năm mới tôi bất ngờ bị gọi đi gác lá cờ của trung đoàn. Đến đêm, nhanh đến mức thậm chí ko cho tôi cơ hội kịp lau súng, tôi vẫn còn rất tiếc vì chuyện đó, họ gửi tôi tới Học viện Bộ binh Vladivostok 2. Đây là 1 sáng kiến của tổ chức Đoàn Thanh niên Komsomol địa phương. Đầu tiên tôi sung sướng vì được đến Vladivostok, thành phố mà tôi đã từng nghe nói đến nhiều và là ước mơ thời thơ ấu của tôi. Thế nhưng hoá ra Học viện lại nằm ở thành phố Komsomolsk trên sông Amur.

Tôi học tại đây trong 6 tháng. Đó là 6 tháng căng thẳng, tập trung học tập các khiến thức và kỹ năng chiến đấu. Tôi xin nhắc lại đó là 6 tháng mùa đông nhưng tôi vẫn cảm thấy vô cùng ấm áp tại Học viện. Tôi nhớ tất cả các giáo viên với lòng biết ơn sâu sắc, đầu tiên là thượng sĩ đại đội Khasmutdinov. Trung đội trưởng của đám sĩ quan tập sự chúng tôi là trung uý Lilichkin, 1 người rất trẻ, đại đội trưởng là đại uý Litvinov, 1 người cực kỳ tao nhã. Họ đều tỏ ra miễn nhiễm ko ngờ với điều kiện khí hậu cận Bắc cực ở vùng này. Tôi cũng xin nhắc lại với lòng kính trọng các đồng đội của mình, đặc biệt là người bạn giường bên cạnh Nikolai Pahtusov, ca sĩ đại đội Andrey Lobkis, người có thể hát ngay cả trong những ngày băng giá nhất, và anh bạn cận thị lúc nào cũng buồn ngủ Sergey Vetchinkin. Họ cũng như nhiều người khác đã giúp tôi vượt qua những giai đoạn khó khăn nhưng tôi chưa từng gặp lại 1 ai. Tôi ko thể ko kể lại 1 số chi tiết trong quãng đời tại Học viện và những giáo viên tại đó.

Học viện đặt tại 1 vùng ngoại ô tên là Mylki cách sông Amur ko xa. Lịch học cực kỳ căng thẳng. Bài tập buổi sáng bắt đầu 2h trước bữa sáng, thường là các bài tập thể dục hoặc tập sử dụng lưỡi lê, đó là bài tập hàng ngày. Chúng tôi ko được nghỉ ngày nào trừ phi đêm trước đã tập hành quân vũ trang. Trong trường hợp đó chúng tôi sẽ nhận được thức ăn khô cho bữa sáng, thường là cá hộp hoặc cháo thịt đặc đóng hộp, cứ 2 người 1 hộp. Bữa sáng trong canteen thường gồm gồm bột mì nướng (ta hay gọi là bánh nắp hầm - Maseo), cháo yến mạch hay kiều mạch, 1 miếng bánh mì phết bơ và trà đường. Chúng tôi tập thể lực nặng khiến ko 1 loại thực phẩm giàu calori nào đáp ứng đủ. Trước bữa trưa chúng tôi luyện tập ngoài trời, trong điều kiện nhiệt độ tháng 1 và 2 đôi khi xuống dưới âm 30 độ C. Sau bữa trưa thì trời đã bắt đầu tối, chúng tôi học 2 - 3h trong lớp những môn bao gồm vẽ và đọc bản đồ, lý thuyết đạn đạo, vũ khí nhẹ, công binh, tín hiệu và truyền tin, v.v... Sau đó chúng tôi làm bài tập hoặc tự học. Hàng đêm trước bữa tối chúng tôi còn phải tập luyện hoặc trượt tuyết 1 - 2h. May mắn thay tuyến đường trượt tuyết dẫn tới gần 1 tiệm tạp hoá, chủ cửa hàng luôn mở muộn để dành cho chúng tôi. Tuy nhiên ko may là kho của cửa hàng chỉ có mỗi thịt cua đóng hộp, những hộp cua xếp kín các kệ và cửa kính, 1 hộp nhỏ giá chỉ 50 kopek nên chúng tôi thường mua loại này, đó là khẩu phần tăng cường của chúng tôi. Chúng tôi ăn nó ngay khi về đến trại hoặc giữ lại cho bữa sáng hôm sau, trộn vào với cháo. Đó là 1 sự phối hợp hoàn hảo, món ăn thật là ngon!

Bữa trưa rất giàu calori. Giai đoạn đầu chúng tôi có cháo ngũ cốc đặc hoặc súp mì sợi, ko thì súp bắp cải với thịt, thêm vitamin bổ sung trông giống những bụi tầm xuân khô giúp ngăn ngừa bệnh thiếu vitamin. Giai đoạn sau chúng tôi được ăn ko hạn chế cháo hoặc mì sợi với thịt, dưa muối kiểu Siberi và cá hồi. Điều đó cho thấy Viễn Đông là nơi giàu hải sản! Tuy nhiên ở đây người ta dạy chúng tôi để đi chiến đấu chứ ko phải diễu binh, vì vậy mặc dù khẩu phần ăn rất tốt và giàu dinh dưỡng nhưng cái lạnh dưới ko khủng khiếp cùng khối lượng vận động khổng lồ đã rút cạn số calori đó. Chỉ những người phục vụ trong nhà bếp mới có thể được ăn nhiều như mong muốn, đó có lẽ là lý do người ta nghĩ ra 1 hình phạt bổ sung là cấm được phục vụ trong bếp. Công việc duy nhất của những người bị hình phạt này là cọ nhà xí dành cho lính!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:32:18 PM

Cảm giác đói thường trực khiến chúng tôi luôn nhớ tới những ký ức quê hương ngọt ngào với những món ăn thơm ngon mà các bà các mẹ làm trước chiến tranh. Chúng tôi thường trao đổi về chúng trong những lúc nghỉ chia nhau điếu thuốc. Người bạn gần gũi nhất của tôi ở Học viện, Nikolai Pahtusov, đến từ Nikolaevsk trên sông Amur, cậu ta thực sự thích kể 1 cách hùng hồn về mẹ mình, về món ngỗng tuyệt hảo bà nấu trong những dịp lễ lớn. Cậu ta thậm chí còn sửng cồ với các học viên khác khi họ cứ cắt ngang câu chuyện bằng cách xin cậu ta ngừng lời: "Đừng làm tôi đói thêm!"

Tôi còn nhớ rất rõ giáo viên môn bản đồ. Thầy mới chỉ là thiếu uý, tên là Elman, 1 sĩ quan người Estonia được gọi nhập ngũ từ lực lượng dự bị động viên. Thầy dạy chúng tôi xác định phương hướng bằng cách xem sao, cách xác định tuần trăng và xác định thời điểm trăng tròn hay bắt đầu có trăng với sai số chỉ 1 ngày. Tôi đã biết tất cả các bí quyết này từ khi còn nhỏ, ông ngoại Danila đã dạy tôi, nhưng chỉ tại Học viện tôi mới biết được lời giải thích khoa học cho chúng nhờ thầy giáo bản đồ. Đó quả là 1 người thú vị và hiểu biết. Thầy biết cách khắc sâu những kiến thức cần thiết vào đầu chúng tôi, đó chính là điều người ta nóng lòng chờ đợi ở lớp học này. Thầy tổ chức những buổi thực hành thiên văn, thầy thị phạm cách làm rồi cho từng nhóm tìm con đường ngắn nhất hoặc con đường thuận lợi nhất, nhóm nào thắng sẽ được thưởng khi thì là 1 gói thuốc lá mahorka, khi thì là 1 chai nước hoa Eau de cologne. Đó là những phần thưởng giá trị vào lúc đó, chúng tôi hút bất kỳ loại thuốc lá nào vớ được, ai mà chả muốn được thở hít thứ khói thơm tho ngọt ngào sau những buổi tập thể lực đến kiệt sức cơ chứ! Theo quy định của quân nhu, các học viên trường quân sự ko được phát thuốc lá trong khi phần lớn đều nghiện thuốc.

Có 1 trại tù cạnh học viện bao bọc bằng rào gỗ. Các tù nhân có thuốc lá và thường bán cho chúng tôi, 60 rúp 1 bao, bằng đúng 1 tháng lương học viên! Chúng tôi đưa tiền cho họ qua các lỗ hàng rào và nhận lại bao thuốc nhưng các tù nhân cũng rất hay lừa đảo đám trai trẻ chúng tôi. Trong bao thuốc có khi chỉ là 1 nhúm mahorka, còn lại là mùn cưa, lá thông khô và thậm chí là cứt ngựa khô! 1 gói bưu phẩm chứa đầy thuốc lá gửi từ nhà là 1 lễ hội thực sự với toàn thể học viên. 10 - 12 người truyền tay nhau hút 1 điếu! Đó là lý do vì sao 1 gói mahorka là món quà quý giá thưởng cho sự "chuyên cần" của chúng tôi.

Tôi sẽ mãi mãi nhớ tới thầy dạy pháo binh và vũ khí cá nhân, đại uý Babkin. Thầy là 1 người cực kỳ nhộn, ko bao giờ cho ai có cơ hội ngủ gật trong giờ học. Nếu ai đó buồn ngủ sau 1 buổi học ngoài trời trong băng giá, thầy sẽ kể 1 câu chuyện vui khiến cả trung đội hoặc đại đội nổ tung trong những tràng cười, và thế là cơn buồn ngủ biến mất. Thầy cũng sắp xếp những cuộc thi tháo lắp súng trường bán tự động Tokarev (SVT). Nó có 1 số khác biệt so với súng trường tiêu chuẩn Mosin Nagant, trung liên Degtyarev (RPD), súng trường tự động Simonov (AVS) và các loại vũ khí khác. Giờ tôi ko thể nhớ nổi tất cả các loại súng nữa.

Tôi đã trải qua 6 tháng tại Học viện, từ ngày đầu tiên của năm 1942 đến tháng 7/1942, và tốt nghiệp loại ưu, có nghĩa là hoàn thành xuất sắc mọi khoa mục. Tôi được phong cấp trung uý cùng 17 học viên tốt nghiệp loại ưu khác. Đó là cấp hàm đầu tiên của tôi. Trong hơn 100 học viên chỉ có khoảng 70 người hoàn thành các khoa mục, họ được tốt nghiệp hạng "tốt" và "đạt", những người trượt bài tốt nghiệp chỉ được làm trung sĩ.

Chúng tôi nhận chứng minh thư chỉ huy, sau này gọi là chứng minh thư sĩ quan, và trang bị. Mỗi người được 1 thắt lưng có dây đeo qua vai bằng da, túi đựng bản đồ, bao cho loại súng ngắn ổ quay Nagant, súng này sẽ chỉ được phát tại đơn vị. Chúng tôi diện áo len gimnastyorka đồng phục mới cứng với cầu vai mới và 2 quân hàm có gắn kubari tức "khối vuông". Họ phát cho chúng tôi quần có viền mầu quả mâm xôi, mũ lưỡi trai với băng mũ cũng màu quả mâm xôi và thậm chí cả 1 đôi ủng da dài. Chúng tôi đi lại với tất cả những thứ quân phục mới tinh đó 1 cách hết sức tự hào, lắng nghe tiếng lạo xạo phát ra từ dây lưng và đôi ủng mới. Tuy nhiên, niềm vui của chúng tôi ko kéo dài! Hầu hết các thiếu uý và trung sĩ được gửi ra mặt trận, trong khi tất cả các trung uý được gửi tới các đơn vị tại Viễn Đông. 1 nhóm nhỏ sĩ quan mới tốt nghiệp trong đó có tôi được chỉ định làm trung đội trưởng trong Lữ đoàn Bộ binh Độc lập 29 dưới quyền đại tá Suin.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:32:32 PM

Ngay từ ngày đầu tiên nhận trung đội, tôi cũng như mọi trung úy mới nhậm chức đều bắt đầu bằng việc viết đơn xin chuyển tới các tập đoàn quân đang chiến đấu ở mặt trận phía tây. Các tiểu đoàn thuộc lữ đoàn tôi đóng tại hồ Hanka trên biên giới với Mãn Châu, nơi đang bị quân Nhật chiếm đóng. Lữ đoàn trưởng tập hợp tất cả chúng tôi lại và chứng minh 1 cách bình thản nhưng lôi cuốn rằng Phương diện quân Viễn Đông "nhàn rỗi" của chúng tôi có thể rất nhanh chóng và bất ngờ chuyển sang tình trạng chiến đấu cao!

Mùa đông đến, mặc dù chúng tôi đóng tại phía nam vùng đất Viễn Đông Liên Xô nhưng băng giá cũng rất ghê gớm, những cơn gió mạnh ko dứt khiến cuộc sống trở nên rất ko thoải mái. Trong các cuộc hành quân bằng ván trượt chiếm rất nhiều thời gian, chúng tôi được phát ko chỉ mũ lót len chỉ hở 1 lỗ cho mắt và mồm mà cả túi bọc dương vật để giúp nó ko bị cóng! Cuối năm 1942, khi cuộc tấn công của quân Đức vào Stalingrad bị chặn đứng và nguy cơ quân Nhật tấn công đã giảm bớt, mỗi tiểu đoàn lấy 1 đại đội bổ sung cho mặt trận. Họ được đưa lên tàu hoả chạy về phía tây vào những ngày đầu tiên của tháng 1/1943.

Sau này tôi được biết chúng tôi được chia ra tạo thành bộ khung cho quân đội Nam Tư, tiếp đó là các sư đoàn mới thành lập của Woisko Polsko (Quân đội Ba Lan - Maseo), và Lữ đoàn Tiệp Khắc dưới quyền Ludvig Svoboda. Đoàn tàu của chúng tôi thực sự đã "phóng như bay" tới Zima. Những đầu máy hơi nước đã phải thay thế nhanh chóng và ko đủ thời gian để nhận thức ăn nóng từ bếp trung đoàn mặc dù nó nằm ngay trên tàu. Chúng tôi thậm chí ko kịp nhận 1 xô nước nóng tại ga. Tuy nhiên tại ga Zima chúng tôi bất ngờ dừng lại. Chúng tôi đứng chân tại đó mà ko làm gì cả gần 1 tuần, hình như các đơn vị người Nam Tư chưa thành lập xong. Sau đó chúng tôi lại được đưa đi tiếp với tốc độ rùa bò, mất cả tháng để tới Ufa, thủ phủ của Bashkiria. Vượt qua Ufa, chúng tôi bị tống xuống ở ga Alkino trong đêm.

Chúng tôi trở thành bộ khung của Trung đoàn 59 Bộ binh Dự bị, Lữ 12 Bộ binh Dự bị thuộc Quân khu Nam Ural. Công việc chủ yếu của trung đoàn là huấn luyện tân binh, phần lớn họ đều đã có tuổi và đến từ các nước cộng hoà Hồi giáo thuộc Liên Xô. Chúng tôi dạy họ các kỹ năng chiến đấu cơ bản, tổ chức họ thành các đại đội dự bị cho Phương diện quân. Cũng giống như các sĩ quan khác, việc này tốn nhiều thời gian của tôi, suốt 9 tháng trời tôi phải viết các loại báo cáo và đơn từ gửi Phương diện quân. Chính tại đây tôi được vào Đảng và số phận đã mang tới cho tôi 1 cô gái sơ tán từ Leningrad. 1 năm sau, tại mặt trận, cô đã trở thành vợ tôi trong suốt phần đời còn lại.

Chúng tôi được nuôi dưỡng theo "Voentorg" (hệ thống cấp phát theo tem phiếu dành cho quân đội - Maseo). Thực đơn bao gồm chủ yếu là súp bắp cải muối chua, hình như muối từ tận 2 năm trước! Bữa chính cũng vẫn là thứ bắp cải này hầm nước lã! Chúng tôi ko được nhận chút thịt nào, thay vào đó là cá trích thứ phẩm đỏ quạch, chắc cũng được muối từ nhiều năm trước. Chúng tôi nghe nhiều lời đồn đại hài hước rằng thứ thực phẩm này đã được lựa chọn nhằm làm tăng lòng yêu nước cho các sĩ quan, họ sẽ muốn ra mặt trận để được ăn uống tốt hơn! Tôi còn nhớ mấy sĩ quan đã kể 1 câu chuyện cười rằng các nhân viên cung tiêu trong hệ thống Voentorg đã góp tiền để sản xuất 1 chiếc máy bay gửi cho mặt trận nhưng các phi công đều từ chối bay vì trên món quà có hàng chữ "Voentorg", cánh phi công nói nó sẽ bị đạn "bạn" bắn hạ ngay tắp lự! Cái này chắc cũng giống các nhân viên cung tiêu nông trang tập thể. Tất cả đám sĩ quan chúng tôi đều mong mỏi đến lượt được phục vụ trong nhà ăn của lính. Lính tráng được cho ăn hoàn toàn khác với súp, mì sợi hoặc cháo kiều mạch với thịt, đại khái thế. Nhờ vậy chúng tôi có thể được ăn uống đầy đủ 1 lần sau mỗi 2 tuần!

Đến tầm tháng 8 hay đầu tháng 9 gì đó, 1 trong vô số đơn xin của tôi đã có tác dụng. Cùng 1 nhóm nhỏ sĩ quan khác, tôi được gửi tới IORR, trung đoàn sĩ quan dự bị độc lập trực thuộc Quân khu, và sau đó được gửi tới trung đoàn tương tự của Phương diện quân Belorussia. Chúng tôi nhận nhiệm vụ trong Trung đoàn 27 IORR, gác 1 số khu vực quan trọng có khả năng bị quân địch tấn công. Nhưng đây vẫn ko phải là tuyến đầu, nơi tất cả chúng tôi đều khát khao có mặt.

1 ngày đầu tháng 12/1943, tôi được triệu đến cho 1 sĩ quan tham mưu cấp trung đoàn phỏng vấn, đó là 1 đại uý. Mặc dù trong phòng rất ấm áp nhưng viên đại uý vẫn mặc nguyên áo khoác da cừu và cài thắt lưng nghiêm chỉnh như thể sẵn sàng rời khỏi đây bất kỳ giây phút nào. Gương mặt anh ta đen sạm vì nắng gió và tôi bất thần nhận ra tai phải của anh đã cụt. Viên đại uý xem kỹ bản lý lịch sơ sài của tôi, sau đó hỏi vài câu về gia đình, về Học viện và tình hình sức khoẻ của tôi. Bất thần đại uý nói: "Rất tốt! Anh sẽ gia nhập Tiểu đoàn Trừng giới của chúng tôi, trung uý ạh!" Tôi líu cả lưỡi vì shock và hỏi lại: "Nhưng tại sao ạh?" Ngay lập tức ký ức về người cha phải ngồi tù 3 năm trước chiến tranh chạy qua óc tôi như 1 luồng điện, 1 lỗi cẩu thả dẫn tới 1 tai nạn đường sắt, và sau đó ông còn bị tống vào trại dành cho những kẻ nghi ngờ phản quốc hồi đầu chiến tranh. Tất nhiên mọi người đều biết câu châm ngôn: "Con ko phải chịu trách nhiệm cho cha" nhưng tôi ko thể tìm ra lời giải thích nào khác cho việc bị tống vào Tiểu đoàn Trừng giới.

Nhưng đại uý đã trả lời: "Hỏi sai rồi, trung uý! Ko phải tại sao, mà là nhằm mục đích gì. Anh sẽ chỉ huy các shtrafnik (*) và giúp họ chuộc lại lỗi lầm đối với Tổ quốc. Anh sẽ cần cả kiến thức lẫn sức chịu đựng. Anh có 30 phút để chuẩn bị đồ đạc!" Như người ta thường nói: "1 gã trai chỉ cần cài lại thắt lưng là đã chuẩn bị xong đồ đạc", 1 nhóm nhỏ sĩ quan đã đứng sẵn sàng chờ viên đại uý vài phút sau đó. Thì ra anh ta là tham mưu trưởng Tiểu đoàn Trừng giới Độc lập 8, đại uý Vasily Afanasievich Lozovoi. Tôi đã bắt đầu cuộc đời lính tuyến đầu với anh vào năm 1943. 25 năm sau chiến tranh, tôi gặp lại anh trong 1 khoá học dành cho sĩ quan cao cấp Quân khu Kiev, khi đó tôi đã là đại tá và anh cũng là đại tá, tôi nhận ra anh chính nhờ cái tai phải bị cụt.

Tháng 12/1943, lúc này tiểu đoàn đang bị thiếu hụt nặng nề cả sĩ quan cơ hữu lẫn shtrafnik, vì vậy họ lấy 18 sĩ quan trung và đại uý chúng tôi vào để thay thế cho những chỗ khuyết. Phần lớn họ là các frontovik (lính tuyến đầu) đầy kinh nghiệm quay lại mặt trận từ bệnh viện, tôi là sĩ quan "thò lò mũi xanh" duy nhất trong số đó. Tuy ngạc nhiên nhưng tôi cũng tự hào vì được chọn vào 1 nhóm toàn các sĩ quan frontovik dày dạn trận mạc.

(*) Shtrafnik là cách gọi phổ biến dành cho những sĩ quan và binh lính phải thụ án trong các tiểu đoàn quân phạm (Shtrafnoi battalion - Tiểu đoàn trừng giới, hay shtrafbat trong tiếng Nga).

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:32:57 PM

1h sau chúng tôi đã sẵn sàng trên xe tải, bật đèn gầm phóng ra tiền tuyến. Ai nấy đều nhìn rõ tuyến đầu rung chuyển trong ánh lửa đạn pháo, những loạt đạn vạch đường đủ màu và những quả pháo sáng lơ lửng trên bầu trời. Tiểu đoàn 8 Độc lập Trừng giới (dành cho sĩ quan) đang bố trí phòng thủ dưới hoả lực Đức bắn tới từ khắp xung quanh. Họ vẫn chưa biết gì về chúng tôi, nhưng chúng tôi đã trở nên rất gần gũi với họ. Tôi có biết đôi điều về các tiểu đoàn trừng giới nhưng chắc chắn là ít hơn những người cùng đi. Dù sao tôi cũng biết Mệnh lệnh 227 nổi tiếng của Dân uỷ Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên tình trạng thực tế khác xa những gì tôi tưởng tượng! Thật ko may, tôi ko hề có các bảng biểu thống kê tổ chức cũng như trang bị của tiểu đoàn, và thống kê này khác xa những gì bạn có thể tưởng tượng ra.

Tham mưu trưởng kỳ cựu của tiểu đoàn là thiếu tướng F. A. Kiselev, ông đã phục vụ trong tiểu đoàn ngay từ ngày đầu thành lập cho đến tận khi nó bị giải tán sau chiến tranh. Ông có kể lại về cấu trúc tiểu đoàn trong hồi ký của mình. Tiểu đoàn gồm các binh sĩ cơ hữu và tạm thời trong đó binh sĩ tạm thời là những người bị đưa vào để chuộc tội hoặc lỗi thi hành sai nhiệm vụ, tức là các shtrafnik. Tình cờ tôi được biết tại 1 số tiểu đoàn trừng giới người ta vẫn gọi các shtrafnik theo cấp bậc cũ, chỉ thêm vào từ "trừng giới", thí dụ "thiếu tá trừng giới" hay "binh nhì trừng giới" v.v... Tôi ko biết quy định này do ai đưa ra nhưng ở tiểu đoàn tôi điều đó ko được áp dụng. Thực tế các sĩ quan cơ hữu ko muốn gây căng thẳng bằng cách gọi binh sĩ với chữ shtrafnik đứng trước, vì vậy chúng tôi gọi tất cả các binh sĩ tạm thời trong tiểu đoàn là "binh sĩ tạm thời". Ngược lại họ gọi chúng tôi theo cấp bậc thông thường, ví dụ "đồng chí đại uý".

Tướng Kiselev viết trong hồi ký: "Các binh sĩ cơ hữu của tiểu đoàn là các sĩ quan tham mưu, đại đội trưởng, trung đội trưởng, Ctrị viên, thượng sĩ cho các đơn vị nhỏ, pháo binh, hậu cần, anh nuôi, quân lương và 1 số vị trí khác. Tiểu đoàn gồm ban tham mưu, 3 đại đội súng trường, 1 đại đội tiểu liên, 1 đại đội súng máy, 1 đại đội cối, 1 đại đội súng trường chống tăng, 1 trung đội quân cảnh, 1 trung đội hậu cần và 1 trung đội truyền tin." Ngoài ra tôi biết tiểu đoàn còn 1 trung đội quân y với 1 trạm phẫu cấp tiểu đoàn. Đương nhiên còn có cả đại diện Smersh (Smert'' Shpionam - Cái chết cho bọn gián điệp), đó là 1 bộ phận đặc biệt.

Bạn chiến đấu của tôi, Petr Zagumennikov, cũng kể giống tôi trong cuốn hồi ký của anh về những ngày đầu của tiểu đoàn. Anh viết rằng ban đầu tại mỗi đại đội hay trung đội đều có cả chỉ huy lẫn Ctrị viên, hay Politruk. Bản thân Petr sau khi tốt nghiệp trung uý đã được đề nghị gia nhập tiểu đoàn sau 1 đợt trị thương với tư cách Ctrị viên trung đội khi còn rất trẻ, chưa đầy 19 tuổi. Petr ko đồng ý, vừa may quy định phải có Ctrị viên ở cấp trung và đại đội được bãi bỏ. Thực tế ý tưởng ban đầu phải có quá nhiều sĩ quan ở mỗi cấp như vậy sẽ khiến cho ko thể chỉ huy các shtrafnik, những người có thể vốn đã là đại tá và chỉ bị tạm thời giáng chức. Người ta nhận ra nó ko thực tế và thế là mỗi đại đội chỉ còn 1 chỉ huy phó, ko có Ctrị viên. Mỗi trung đội có 2 chỉ huy phó lấy từ các shtrafnik. Tuy nhiên việc giảm 1 số lượng lớn Ctrị viên như vậy khiến ban tham mưu tiểu đoàn có rất nhiều sĩ quan Ctrị. Tuy nhiên đó là biên chế tiểu đoàn sau khi đã thay đổi dựa trên kinh nghiệm từ những trận đánh mà tôi có tham gia.

Vì tôi chỉ gia nhập tiểu đoàn vào cuối năm 1943 nên tôi sẽ kể về giai đoạn trước đó theo lời kể của 2 sĩ quan khác. Bạn chiến đấu Petr Zagumennikov, người đã là sĩ quan cơ hữu của tiểu đoàn từ ngày đầu thành lập, và 1 cựu shtrafnik, thiếu tá Semen Basov, binh sĩ tạm thời đầu tiên bị đưa vào tiểu đoàn và tham chiến ngay từ trận đầu.

Tiểu đoàn Trừng giới Độc lập 8 (dành cho sĩ quan) của Phương diện quân Trung tâm thành lập cuối tháng 4/1943 tại làng Zmievka, cách Orel ko xa. Các binh sĩ cơ hữu hầu hết là các sĩ quan đã kinh qua trận Stalingrad. Biên chế và trang bị của tiểu đoàn thực ra tương đương với 1 trung đoàn bộ binh bình thường. Tiểu đoàn trưởng (kombat) mang quân hàm đại tá, dưới có 2 phó, 1 tham mưu trưởng và 1 chính uỷ, tất cả đều mang hàm trung tá, và chỉ huy hậu cần. Tham mưu trưởng có 4 phó, G1, G2, G3 và G4, tất cả đều là thiếu tá. Mỗi đại đội có từ 200 người trở lên, trông ko khác gì 1 tiểu đoàn bộ binh bình thường. Vì vậy về mặt số lượng 1 tiểu đoàn trừng giới rất giống với 1 trung đoàn bộ binh thường. Cấp bậc của đại đội trưởng là thiếu tá và trung đội trưởng là đại uý.

Tháng 7/1943 khi trận Kursk nổ ra, tiểu đoàn đã được biên chế đầy đủ và bố trí phòng thủ tại khu vực Ponyri - Maloarkhangelskoe trong vùng trách nhiệm của Sư 7 Bộ Binh Lithuania. Tại đây đã diễn ra cuộc thử lửa đầu tiên của tiểu đoàn. Sau những trận đánh cực kỳ dữ dội và giằng co, tiểu đoàn đã giữ vững được vị trí. Sau đó họ phản công chọc thủng tuyến phòng ngự địch và tiến về hướng Trosna. Những trận đánh đầu tiên này đã chứng minh khả năng khắc phục khó khăn vô song của binh sĩ, cho thấy khả năng của tiểu đoàn có thể đảm nhiệm 1 mũi phản công quyết định của chiến dịch, và sau đó là thẳng tiến bất chấp thương vong nặng nề. Sau trận Kursk, tiểu đoàn tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ khác. Họ đã vượt qua những trận đánh ác liệt nhất tại khu vực Kursk, tại bắc Ukraina, trong đó có trận Putivl, và tiếp theo là tiến tới sông Dnepr và vùng ngoại ô Chernigov. Chỉ sau ngần ấy trận đánh tiểu đoàn mới được nghỉ và bổ sung quân số tại làng Dobryanka. Sau khi nhận quân bổ sung, tiểu đoàn được đưa tới đầu cầu Loev trên sông Sozh thuộc đất Belorussia với nhiệm vụ mở rộng đầu cầu. Hoàn thành nhiệm vụ này, giải phóng xong thị trấn Loev, Tiểu đoàn Trừng giới lại tham gia các cuộc tấn công về hướng Gomel.

Lúc này Phương diện quân Trung tâm đã đổi tên thành Phương diện quân Belorussia. Tiểu đoàn trở thành 1 bộ phận của Tập đoàn quân 48 do tướng P. L. Romanenko chỉ huy. Tiểu đoàn đánh mở đường tới thị trấn Rechitsa, góp phần hợp vây thành công Gomel. Sau khi Gomel được giải phóng ngày 26/11/1943, tiểu đoàn đã duyệt binh xuyên qua thành phố, tới làng Pervomaiskoe thuộc tỉnh Zhlobin và bố trí phòng thủ tại các vị trí trên bờ trái sông Dnepr. Vài ngày sau, quân Soviet mở cuộc tấn công sau 2h pháo kích. Tiểu đoàn đã tiến được 4 - 5km nhưng các đơn vị bạn 2 bên ko tiến được khiến tiểu đoàn bị hở sườn. Quân Đức ngay lập tức tận dụng cơ hội và cắt rời tiểu đoàn bằng 1 cuộc tấn công 2 mũi kiểu càng cua. Để phá vỡ vòng vây tiểu đoàn đã chịu tổn thất nặng nề và bị đẩy trở lại vị trí phòng thủ ban đầu. Đây chính là lúc tôi đến với tiểu đoàn trong 1 nhóm gồm 18 sĩ quan từ lực lượng dự bị Phương diện quân. Chỉ có 3 sĩ quan trong số này sống sót đến ngày chiến tranh kết thúc là Michael Goldstein, Ivan Matvienko và tôi. Đúng như lời bài hát: "Chỉ còn 3 người đứng vững trong số 18 chàng trai ..."

Đến tiểu đoàn, tôi nhận 1 trung đội mặc dù sau này mới biết tôi được chỉ định làm đại đội trưởng theo lệnh của Phương diện quân. Khi biết điều này tôi cảm thấy ngạc nhiên vì ko hiểu mình sẽ trở thành loại đại đội trưởng gì khi chưa từng chỉ huy 1 trung đội trong chiến đấu? Sai lầm này đã được tiểu đoàn chỉnh sửa chính xác. Kombat (*) gửi cho tôi 1 bức thư hỏi tôi có muốn chỉ huy 1 trung đội trinh sát ko. Đó là lần đầu tiên tôi được trò chuyện với trung tá Osipov, tôi ngạc nhiên vì lòng tốt sự chăm lo như 1 người cha của ông đối với tôi. Tôi rất sung sướng nhận lời đề nghị. Tôi từng là trung đội trưởng trinh sát ở Phương diện quân Viễn Đông, tức là nhiệm vụ này cũng khá gần gũi với tôi! Tôi xin nói thêm đây chính là lý do tại sao Kombat đề nghị tôi nhận nhiệm vụ này. Việc bố trí trái mệnh lệnh cấp trên này được chính thức hoá bằng 1 tờ lệnh của tướng Rokossovski, chỉ huy Phương diện quân, vào cuối tháng 3 mãi sau đó. Thực tế chỉ huy Phương diện quân ko có thời giờ kiểm tra những thứ ít quan trọng như vậy.

Tiếp đó, vào cuối tháng 12, trong những ngày đầu tiên tôi chỉ huy trung đội, tôi nhận ra mình chưa hiểu tất cả những đặc thù của tiểu đoàn trừng giới và mối quan hệ giữa các shtrafnik với các sĩ quan. Điều duy nhất tôi chú ý là các sĩ quan kỳ cựu gọi cả sĩ quan cơ hữu lẫn shtrafnik bằng cùng 1 đại từ nhân xưng "anh". Điều đó khiến ko ai phải khó chịu, ngược lại cách xưng hô ko chính thức này khiến mọi người trở nên gần gũi và ko tạo ra sự phân biệt giữa các shtrafnik và các sĩ quan. Phần lớn các shtrafnik trước khi bị đưa vào tiểu đoàn trừng giới đều có cấp bậc cao, họ cũng lớn tuổi hơn chúng tôi nhiều. Các shtrafnik thường có cấp bậc trước đây là thiếu tá hoặc trung tá, tuy nhiên tôi chưa từng nghe là có đại tá nào phục vụ trong tiểu đoàn tôi như 1 shtrafnik.

Tôi đã 1 phen kinh ngạc vì sự cố đầu tiên trong những ngày đầu ở Tiểu đoàn Trừng giới. 1 shtrafnik tới bếp dã chiến dưới đường hào thì 1 shtrafnik khác nhìn thấy và chạy tới gặp, shtrafnik thứ 2 vừa từ sở chỉ huy tiểu đoàn về sau khi bàn giao 1 số tài liệu từ tuyến đầu. Đây là cuộc trò chuyện giữa họ với nhau: Người ở bếp nói với người vừa từ ban tham mưu về: "Tôi có 1 cái đồng hồ vàng của Đức rất xịn, anh có muốn nó ko?" - "Ý anh muốn nói là chúng ta trao đổi ko toan tính?" - "Ko, tôi sẽ giơ tay lên để anh bắn vào ở khoảng cách độ 5 - 6m, ko xa hơn vì như vậy có thế trượt, cũng ko gần hơn vì sẽ để lại vết thuốc súng trên vết thương." - "OK! Nhưng trước tiên cho tôi xem cái đồng hồ đã." Khi người muốn bị thương giơ cánh tay có đeo cái đồng hồ vàng lên, người thứ 2 ra lệnh: "Giờ thì mày giơ nốt tay kia lên, đồ khốn! Cao nữa lên! Tao sẽ cho mày biết ko phải ai trong đám khốn nạn này cũng như mày!" Sau đó shtrafnik thứ 2 giải người kia lên sở chỉ huy tiểu đoàn như 1 tên tội phạm. Tiểu đoàn trưởng thu cái đồng hồ rồi đưa cho 1 cảnh vệ còn tay shtrafnik muốn giả bộ bị địch bắn bị thương thì bị đưa ra toà án binh. Tôi ko biết điều gì xảy ra với hắn, nhưng điều đó ko quan trọng, điều quan trọng nhất trong câu chuyện này là mối quan hệ giữa các shtrafnik với nhau. Vấn đề ko phải cấp bậc trước đây của họ là gì hay việc họ bắt 1 người khác hoặc 1 frontovik, điều cốt yếu là thái độ của bản thân các shtrafnik với những kẻ xảo trá thối tha. Ko có nhiều shtrafnik như vậy, nhưng thỉnh thoảng chúng ta vẫn đi qua mặt họ mà ko biết.

(*) Kombat - cách gọi tắt của Hồng quân cho từ "komandir bataliona" (tiểu đoàn trưởng).

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:33:18 PM

2
ROGACHEV VÀ KINH NGHIỆM CHIẾN TRƯỜNG ĐẦU TIÊN



Ngay từ hồi ấy và cho đến tận giờ, chúng tôi vẫn nghĩ Tiểu đoàn 8 Độc lập Trừng giới đã đóng vai trò quan trọng trong việc giải phóng vùng Rogachev, khu vực Gomel thuộc Belorussia. Vấn đề nằm ở chỗ hàng loạt cố gắng của chúng tôi trong các cuộc tấn công nhằm chọc thủng các cứ điểm kiên cố trên tuyến phòng thủ Đức ở sông Dnepr và sông Druit, hay phá vỡ đầu cầu Rogachev trên sông Dnepr, tất cả đều thất bại. Kẻ địch hiểu rằng mất Belorussia có nghĩa là mở ra con đường ngắn nhất đến các nước Baltic cùng hàng loạt hậu quả khác tiếp theo. Vì vậy quân Đức liên tục tăng quân và gia cố sức phòng thủ của khu vực này. Belorussia cũng là con đường ngắn nhất tiến vào Ba Lan và Đông Phổ, điều này cũng cực kỳ quan trọng. Đó là lý do tiểu đoàn tôi được đưa tới để tham gia vào việc phá huỷ đầu cầu Rogachev và đánh chiếm nó.

Trước trận đánh, tiểu đoàn tôi được nghỉ và nhận bổ sung tại làng Maiskoe Buda thuộc tỉnh Koshelev. Có rất nhiều người mới tới, trong đó ko chỉ có các sĩ quan frontovik phạm tội mà cả các cựu sĩ quan Hồng quân đã buông súng trốn vào dân chứ ko chịu tham gia du kích khi lọt vào các vòng vây hồi năm 1941. Chúng tôi thậm chí còn nghĩ ra 1 tên lóng dành cho họ: "những người bị vây". Ngoài ra còn 1 số cựu sĩ quan Hồng quân mới được giải thoát khỏi các trại tập trung và ko qua được cuộc thẩm vấn của các đặc vụ Smersh. Các Polizei (cảnh sát người địa phương tại các vùng tạm chiếm - Maseo) và những kẻ hợp tác với địch khác ko được đưa vào tiểu đoàn tôi, chúng có 1 số phận khác.

Có rất nhiều tài liệu của giới sử gia ngày nay viết rằng tất cả tù binh Soviet sau khi được giải thoát lại bị đưa vào các trại tập trung Soviet theo lệnh của Stalin, rằng tất các tù binh đó đều bị coi là "kẻ thù của nhân dân". Thực tế là Tiểu đoàn Trừng giới của tôi cũng được bổ sung 1 số sĩ quan dạng này tuy nhiên những tài liệu đó viết hơi quá. Lệnh chỉ nói rằng các các cựu sĩ quan tù binh đã "ko giữ được mình" và hợp tác với địch mới bị đưa vào các tiểu đoàn trừng giới. Tuy nhiên họ ko bị đưa vào các tiểu đoàn trừng giới theo bản án của toà án binh mà theo nghị quyết của 1 ban gồm những người có phận sự xem xét các trường hợp này, các ban này được thành lập và giao trách nhiệm theo Mệnh lệnh 270 ngày 16/8/1941 của Stavka. Mệnh lệnh này ghi rõ: "Hành vi đầu hàng địch ngang với tội phản quốc". Vấn đề là các ban này ko quan tâm xem ai là người chủ động đầu hàng quân Đức, ai bị bắt làm tù binh do bị thương hay lâm vào các hoàn cảnh bi thảm khác. Nếu nhóm đầu xứng đáng bị trừng phạt vì tội phản quốc và làm trái lời tuyên thệ thì nhóm sau lại ko làm gì có lỗi với đất nước. Tôi nghĩ thật bất công khi coi tất cả các cựu tù binh là kẻ phản quốc, nhưng đó là thực tế đã xảy ra. Tôi xin nhắc lại là các ban nói trên ko có đủ thời gian để xem xét từng trường hợp đối với mọi tù binh được giải thoát. Ngoài ra thực tế là các tiểu đoàn và đại đội trừng giới chỉ mới được thành lập trong các năm 1942 - 1943, chúng rất cần người mà chẳng toà án binh nào có thể xử nhiều sĩ quan đến mức đủ cho các tiểu đoàn trừng giới. Vì vậy người ta phải sử dụng các ban đặc biệt này để đẩy nhanh quá trình hoàn thiện quân số cho các đơn vị trừng giới "theo lệnh của Dân uỷ Bộ Quốc phòng, Đồng chí Stalin". Tất nhiên, họ ko quan tâm đến các số phận khác nhau của các tù binh. Nhìn bề ngoài thì việc làm của các ban này là "có lợi" cho quân đội, nó giúp giải quyết tình hình thiếu quân số cho các đơn vị trừng giới thời điểm đó. Tuy nhiên cái từ "có lợi" ấy chỉ là 1 thủ đoạn, rất nhiều chuyện bất công đã được thực hiện nhân danh "có lợi".

Bên cạnh đó, 1 số sĩ quan lại bị tống vào các tiểu đoàn trừng giới ko phải theo bản án của toà quân sự hay nghị quyết của các ban mà đơn giản chỉ bởi lệnh của chỉ huy quân đoàn hay tập đoàn quân. Tiểu đoàn tôi có rất nhiều cựu tù binh bị đưa vào theo nghị quyết của các ban và theo lệnh của chỉ huy các cấp. Theo tôi, trong 1 số trường hợp, lệnh của các vị chỉ huy cấp cao có lẽ là công bằng. Tình hình của chúng tôi lúc đó cũng đang cần bổ sung khẩn cấp sau khi tiểu đoàn bị thiệt hại nặng nề trong trận đánh ác liệt tại Zhlobin. Chúng tôi nhận được quân bổ sung nhiều ko kém gì 1 trung đoàn bộ binh. Mỗi trung đội có tới 50 người, các đại đội có khi lên tới 300 người, toàn tiểu đoàn đôi lúc có tới 850 "tay lê" như cách chúng tôi thường gọi. Tiểu đoàn tôi đông gấp 3 lần 1 tiểu đoàn bộ binh thường trong Hồng quân.

Chiến dịch Rogachev - Zhlobin của Phương diện quân Belorussia diễn ra từ ngày 21 đến ngày 26/2/1944, đúng như tất cả các sách vở chính thức về cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại đã viết. Tuy nhiên với chúng tôi chiến dịch bắt đầu sớm hơn. Đêm 17/2 toàn tiểu đoàn bất thần bị đánh thức và lập tức di chuyển, chỉ để lại các đơn vị hậu cần, hỗ trợ và vài cảnh vệ ở lại làng Maiskoe. Suốt đêm chúng tôi hành quân được khoảng 25km về hướng mặt trận. Sáng sớm chúng tôi tập trung trong 1 cánh rừng ngay sát tuyến đầu, tại đây người ta bắt đầu phát áo nguỵ trang mùa đông màu trắng và thức ăn khô. Sau đó 1 đội đặc nhiệm công binh chiến đấu và 1 trung đội súng phun lửa tới. Đến trưa chúng tôi đã sẵn sàng chiến đấu nhưng ko biết nhiệm vụ là gì. Tiểu đoàn nhanh chóng dàn đội hình, thì ra còn có cả 1 đơn vị lớn nữa đi cùng nhưng họ chỉ có quân số bằng 1/4 chúng tôi, họ cũng mặc đồ nguỵ trang đi tuyết và thậm chí có cả ván trượt. Sau đó chúng tôi được biết đó là 1 tiểu đoàn trượt tuyết. Các tiểu đoàn có quân số thật khác nhau. Chỉ mãi sau này tôi mới biết tiểu đoàn mình những ngày đó lớn đến mức nào.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:33:26 PM

1 lúc sau, 1 nhóm "ông lớn" đến xem xét đội hình của chúng tôi trên những chiếc jeep Willy. Họ đều mang quân hàm cấp tướng hoặc đại tá. Thì ra đó là chỉ huy Tập đoàn quân 3, trung tướng Gorbatov, điều đó có nghĩa là chúng tôi đã được thiên chuyển từ Tập đoàn quân 48 của tướng P. L. Romanenko sang Tập đoàn quân 3 của Gorbatov. Đó là 1 viên tướng cao và oai vệ, ông nói chuyện ngắn gọn với chúng tôi nhưng với 1 vẻ rất chu đáo, ko giống cách các tướng lĩnh thường nói. Ông nói bằng giọng nhẹ nhàng như thể cha nói với con. Tôi để ý thấy ông tựa vào 1 cây gậy gỗ lớn có nhiều mấu và nghĩ có lẽ ông mới vừa trở lại sau khi bị thương. Chỉ sau này tôi mới nghe được huyền thoại về vị tướng "vinh quang" Alexander Vasilievich Gorbatov đã "dạy dỗ những thằng ngu" bằng chính cây gậy này. Bằng những lời nói ngắn gọn đầy cảm xúc, viên tướng cho biết chúng tôi được giao 1 nhiệm vụ bất thường khó khăn nhưng quan trọng. Chúng tôi phải xuyên qua chiến tuyến địch, khuyấy đảo hệ thống thông tin của chúng, ông cũng nói ông hy vọng chúng tôi sẽ hoàn thành nhiệm vụ 1 cách vẻ vang. Nhiệm vụ này, ông nói, sẽ chứng tỏ sự thật rằng công tác chỉ huy của Phương diện quân và Tập đoàn quân là có trong những tiểu đoàn như tiểu đoàn tôi. Ông cũng thông báo từ ngày 17/2, Phương diện quân Belorussia của chúng tôi đã được đổi tên thành Phương diện quân Belorussia 1. Ông hứa nếu nhiệm vụ được hoàn thành tốt, tất cả các shtrafnik đã chứng tỏ được khả năng vượt qua nghịch cảnh, ko quản ngại máu xương sẽ được trả tự do, ko phải tiếp tục ở trong tiểu đoàn trừng giới nữa mà sẽ được trở về cấp bậc cũ, những người xứng đáng thậm chí sẽ còn được tặng thưởng huân huy chương.

Chi tiết về nhiệm vụ được kombat (tiểu đoàn trưởng) đại tá Arkadi Aleksandrovich Osipov giải thích cho chúng tôi. Nhiệm vụ là bí mật tiềm nhập qua tuyến phòng ngự địch trong đêm 18 rạng ngày 19/2. Chúng tôi sẽ tránh đụng độ với địch mà lao thẳng về phía hậu tuyến của chúng, tới vùng ngoại vi phía tây Rogachev. Tại đó, kết hợp với tiểu đoàn trượt tuyết, chúng tôi sẽ cố gắng đánh chiếm thị trấn, giữ nó cho đến khi lực lượng chính của Tập đoàn quân tới. Chúng tôi có 72h để hoàn thành nhiệm vụ, được phát đạn dược và đồ ăn khô đủ cho ngần ấy thời gian bao gồm thịt hộp, bánh mì khô và đường. Số đồ ăn khô này ko nhiều và cũng ko bổ béo lắm, đặc biệt là khi chúng tôi sẽ phải di chuyển trên những con đường phủ tuyết dày. Trung đội trinh sát của tôi được lệnh dẫn đầu. Chúng tôi nghĩ tiểu đoàn trượt tuyết sẽ có 1 khoảng thời gian dễ dàng hơn so với chúng tôi! Tuy nhiên, tôi ko cảm thấy khó chịu lắm với tình trạng tuyết dày đặc, trại lính mùa đông của Học viện vùng Viễn Đông vẫn còn tươi mới trong tâm trí tôi.

Nhớ lại hồi đó, đầu tháng 2/1942, các học viên Học viện Bộ binh tại Komsomolsk trên sông Amur đã phải trải qua 18 ngày trong trại dã chiến. Lúc đó tuyết "ngập đến ngang bi của bạn" như thầy giáo dạy pháo binh và vũ khí cá nhân, đại uý Babkin, thường nói. Nhiệt độ xuống dưới âm 35 độ C. Chúng tôi hành quân 50 - 60km trong rừng taiga, chân quấn xà cạp và đi ủng, trong ba lô mang theo những đôi ủng dạ nữa để tiếp tế cho các đơn vị khác. Tới trại, chúng tôi dựng những căn lều lớn bằng cây thông Sibêri hoặc cây linh sam, mỗi lều dành cho 1 trung đội. Chúng tôi được cho phép đốt những đống lửa nhỏ trong lều để giữ ấm, đặc biệt là vào ban đêm. Chúng tôi bỏ ủng da vào ba lô và đi ủng dạ. Vấn đề là đống lửa chỉ giúp làm ấm cho 5 - 7 người, số còn lại đều lạnh cóng, vì vậy nhờ sự mắt nhắm mắt mở của trung đội trưởng, 1 người vừa tốt nghiệp Học viện Bộ binh Khabarovsk, chúng tôi đã thêm vào đống lửa mỗi lúc 1 nhiều củi cho đến khi cả căn lều bất thần bốc cháy. Tro và tuyết tan là tất cả những gì còn lại từ căn lều của chúng tôi. Trung đội trưởng bị khiển trách nặng còn chúng tôi bị cấm dựng 1 căn lều khác. Chúng tôi đành phải tìm cách giữ ấm bản thân trong lều của các trung đội khác nếu kiếm được 1 chỗ trong đó.

Ban ngày thì chúng tôi ko có thời gian để rét. Chúng tôi liên tục "đẩy lui các cuộc xung phong của địch", hoặc tấn công ồ ạt các quả đồi, hoặc hành quân đường dài bằng ván trượt, hoặc hành quân bộ qua vùng tuyết phủ dày, v.v... Khi 18 ngày dài dằng dặc đó kết thúc, chúng tôi được lệnh quấn xà cạp và đi ủng da trở lại. Lúc lôi những chiếc ủng ra khỏi balô, chúng tôi nhận thấy chúng đã đóng băng cứng đơ vì bị ướt do ngấm tuyết khi chúng tôi hành quân đến trại. Chúng tôi lại phải đốt lửa đun cho tan băng, tôi đã hơ ủng quá gần ngọn lửa khiến nó bị co lại và ko làm sao cho nó trở lại kích cỡ ban đầu được. Những ngón chân to tướng lạnh cóng của tôi đã bị nhồi cứng trong cái ủng đó suốt đoạn đường về, da nứt nẻ mặc dù chưa đến nỗi chảy máu. Ban y tế Học viện đang cần thêm 1 số y tá, thế là tôi được miễn phải mang bất kỳ loại giày ủng nào, điều đó cũng có nghĩa là được miễn tham gia mọi khoá học ngoài trời. Tuy nhiên tất cả những thứ được miễn đó tôi đều phải hoàn thành cho đủ khoá học tại Học viện.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:33:40 PM

Tại Belorussia năm 1944, cách duy nhất để chuyển thương binh tử sĩ đi là dùng ván trượt kéo xe trượt tuyết. Trong trường hợp chúng tôi ko chiếm được Rogachev, nhiệm vụ sẽ chuyển thành tấn công tuyến vận chuyển hậu cần tại khu vực hậu phương chiến thuật của địch cách đó 20km. Chúng tôi sẽ cho nổ các cây cầu, tiêu diệt các sở chỉ huy và ban tham mưu, nói chung là quấy rối địch. Đây là chiến thuật gây hỗn loạn cho đối phương và ngăn chúng đưa thêm các đơn vị dự bị lên, gây thiệt hại và phân tán binh lực địch. Nhiệm vụ chính của chúng tôi là thu hút sự chú ý của quân Đức, giữ chân lực lượng chúng xa tuyến đầu, khi đó quân ta sẽ mở 1 cuộc tấn công khác với hy vọng sẽ thành công hơn. Mục tiêu lớn của cuộc tấn công là tiêu diệt địch tại đầu cầu Rogachev trên sông Dnepr và giải phóng thị trấn. Theo cách thông thường lúc đó, việc giải phóng Rogachev là để chào mừng ngày thành lập Hồng quân 23/2, đây được xem như 1 món quà hiến dâng cho Tổ quốc trong ngày lễ.

Có lệnh cấm chúng tôi mang bất cứ giấy tờ tài liệu nào vào đất địch, đây là quy định phải tuyệt đối chấp hành! Vì vậy chúng tôi phải nhanh chóng trao mọi giấy tờ, chứng minh thư và các tài liệu khác cho các Ctrị viên trong sở chỉ huy tiểu đoàn, họ vẫn ở lại chiến tuyến quân ta. Lúc này tôi chưa có huân huy chương nào, vì vậy tôi chỉ giao lại chứng minh thư sĩ quan và thẻ Đảng viên dự bị. Việc giao giấy tờ này diễn ra trong những giờ chờ đợi ngày hôm đó. Sau đó chúng tôi được ăn bữa trưa kiêm bữa tối no căng, rồi được nghỉ, tôi còn nhớ cảm giác nóng lòng chờ đợi lúc tiến vào hậu tuyến địch khi đó.

Tướng A. V. Gorbatov kể lại cuộc đột kích này trong cuốn hồi ký "Những năm tháng và những cuộc chiến" (Years and Wars) của ông. Nhưng ông gọi tất cả chúng tôi là "đội đặc nhiệm trượt tuyết" theo ngôn ngữ kiểm duyệt thời đó.

"Vào 18h họ được ăn vượt mức và đi nghỉ. 2 tiểu đoàn chỉ được nghỉ 1 thời gian ngắn. 23h họ được báo động và hành quân về phía tây. Đội đặc nhiệm trượt tuyết có nhiệm vụ quan trọng là vượt qua chiến tuyến tấn công thị trấn Rogachev ngay trong đêm."

Vị tiểu đoàn trưởng dũng cảm và đầy kinh nghiệm, đại tá Osipov dẫn đầu chúng tôi trong nhiệm vụ bất thường và khó khăn này. Ông vốn sinh trưởng tại Rogachev và thêm nữa vốn là thợ săn và dân chài dày dạn kinh nghiệm, ông thông thuộc từng cánh rừng 2 bên sông Dnepr tại vùng này từ trong tim. Đó là lý do ông biết chỗ tốt nhất để áp sát các vị trí quân Đức, vượt qua tuyến chướng ngại vật và vượt qua tuyến đầu mà chúng ko biết. Tôi chưa hề có kinh nghiệm gì trong những chiến dịch như thế này và rất khâm phục khi kombat của mình đã đưa được hầu hết tiểu đoàn vượt qua tiền tuyến mà địch ko nhận ra, dù thực tế ông là thổ dân vùng này đi nữa. Tướng Gorbatov đã dùng những mỹ từ tốt đẹp miêu tả chiến dịch này. Ông kể tiểu đoàn đã đi xuyên qua chiến tuyến Đức "như sợi chỉ xuyên qua lỗ kim". Tiểu đoàn trưởng của tôi đã chỉ ra vị trí chính xác cho các công binh cắt đứt hàng rào thép gai Đức. Đó là 1 lựa chọn hoàn hảo!

Đêm ko trăng đã giúp chúng tôi giấu mình rất tốt. Tôi tin chỉ huy Tập đoàn quân đã đặc biệt lựa chọn đêm ngay trước kỳ trăng mọc này để tạo thuận lợi cho 2 tiểu đoàn. Bọn Đức có bắn "đèn", tức là pháo sáng, nhưng bằng những mệnh lệnh cương quyết được tuyên trước khi xuất phát, bằng sự từng trải của những người lính và trên hết là bằng khát khao được sống sót, tất cả chúng tôi đều "đông cứng", nằm bất động trên mặt đất mỗi khi 1 quả pháo sáng bốc cháy trên bầu trời. Bộ áo liền quần màu tuyết trắng cũng khiến chúng tôi gần như biến mất. Sự tin tưởng của bọn Đức rằng tuyến phòng thủ của chúng rất khó lại gần cũng giúp đỡ chúng tôi, địch tỏ ra rất chủ quan. Chúng treo rất nhiều vỏ đồ hộp rỗng lên dây thép gai được rải suốt dọc tuyến chướng ngại vật, những vỏ hộp này sẽ phát tiếng động nếu ai đó chạm phải dây thép gai. Thế nhưng gần như cả tiểu đoàn tôi đã chui qua 1 lối đi hẹp mà bọn Đức ko hề phát hiện!

Nhiệm vụ này là cuộc thử lửa đầu tiên của tôi mặc dù tôi đã có 1 số kinh nghiệm về phòng ngự tại chỗ. Tôi đoán đó là lý do tôi có thể nhớ rất rõ từng chi tiết về cuộc đột kích vào hậu tuyến quân Đức này. Thỉnh thoảng bọn Đức cũng bắn vào những vị trí dễ bị xâm nhập trên tuyến phòng thủ của chúng bằng súng máy. Tôi nhớ đúng lúc đang bò dưới hàng rào thép gai thì cảm thấy có gì đó đập vào mình. Sau đó tôi mới biết 1 viên đạn Đức đã xuyên qua bi đông gắn trên balô của tôi, 1 cái balô sidor như cách người ta thường gọi sau này. Tôi ko thể hiểu tại sao chúng tôi lúc nào cũng phải mang theo những chiếc bi đông trong khi chẳng có cách nào dùng. Tôi đoán mang chúng theo chỉ để phòng hờ, phải sau đó tôi mới hiểu 1 người lính bao giờ cũng cần 1 chiếc bi đông!

Đi áp hậu hàng quân tiểu đoàn là đại đội do đại uý Matvienko chỉ huy, ông đến cùng 1 nhóm quân bổ sung cho tiểu đoàn tôi. Ông đã có kinh nghiệm chiến đấu đáng kể được chứng thực bằng 2 Huân chương Cờ Đỏ trên quân phục. 1 lính của ông đã ko may vướng vào hàng rào dây thép gai làm kích hoạt hệ thống báo động làm bằng vỏ đồ hộp rỗng của bọn Đức. Bọn Fritz được báo động và tập trung hoả lực súng trường, súng máy vào khu vực phát ra tiếng động trên hàng rào thép gai. Lúc này các đơn vị dẫn đầu tiểu đoàn đã vượt qua tuyến hào đầu tiên của quân Đức, nó gần như hoàn toàn trống vì hầu hết bọn Đức đã chui vào các hầm ngầm và boongke cho ấm, những tên còn trong hào chưa kịp giật mình sửng sốt thì đã bị giết chết bằng lưỡi lê. Ngay lập tức chúng tôi phải xuất đầu lộ diện để thu hút sự chú ý của những tên Đức đang chạy ra khỏi hầm, chúng tôi cần hỗ trợ các anh em đang mắc kẹt trên tuyến rào thép gai. Mọi người đều ở rất gần và nổ súng vào bọn Đức ko cần lệnh, trong khi đó trung đội súng phun lửa phóng ra hàng loạt lưỡi lửa khổng lồ vào những điểm tập trung bộ binh Đức dưới hào và các cửa hầm. Thật là 1 cảnh tượng kinh hoàng! Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy những người bị thiêu sống và nghe được tiếng gào thét của họ. Thật ghê sợ!

Đại đội của Matvienko bị tổn thất nhưng vẫn cố chọc thủng chiến tuyến và nhập được vào lực lượng chính của tiểu đoàn. Các đại đội khác trong tiểu đoàn và các trung đội phối thuộc đã sớm vượt qua chiến tuyến mà ko hề chịu 1 tổn thất nào. Sau đó tiểu đoàn trưởng ra cho tôi 1 lệnh khác là giữ vị trí chặn hậu cho đại đội. Đây có lẽ là nhiệm vụ quan trọng nhất với tôi khi đó vì tôi sẽ phải tách khỏi tiểu đoàn trưởng, phải tự mình quyết định 1 cách độc lập và chịu trách nhiệm về điều đó.

Bọn Đức chẳng hiểu sao cả 1 đội đặc nhiệm lớn như vậy có thể vượt qua chiến tuyến, có lẽ vì vậy mà trong các trận đánh tiếp theo đó tại hậu tuyến quân Đức chúng thường gào lên sợ hãi: "Du kích Nga!" Như tôi biết sau này sự sợ hãi của chúng ko phải ko có cơ sở, có tới trên 350.000 du kích hoạt động tại Belorussia trong các đơn vị du kích có thể lên tới cấp lữ đoàn. Tôi ko biết tiểu đoàn trượt tuyết vượt chiến tuyến ở đâu và cũng ko gặp 1 ai là lính tiểu đoàn này trong suốt cuộc đột kích. Hình như họ có nhiệm vụ khác và họ đã ko thể gặp được chúng tôi do địa hình tại khu vực này. Sau khi cuộc tập kích bất ngờ của chúng tôi vào hậu tuyến địch kết thúc, tờ báo của Tập đoàn quân viết: "Cuộc tập kích khó tin đã được thực hiện nhờ sự táo bạo và quyết đoán của đội đặc nhiệm Osipov và tiểu đoàn trượt tuyết của Kamirny". Nhờ vậy chúng tôi biết rằng tiểu đoàn trượt tuyết cũng hoàn thành nhiệm vụ của họ.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:34:03 PM

Nhiều năm sau, tôi đọc được trong Bách khoa thư quân sự Soviet rằng những người lính tiểu đoàn trượt tuyết đó thuộc Trung đoàn 120 Bộ binh / Sư 5 Bộ binh, họ đã vượt chiến tuyến 24h sau chúng tôi tại 1 địa điểm khác chếch về phía bắc Novy Byhov. Sau 24h nữa, theo Bách khoa thư viết: "Trong 1 trận vận động chiến dũng cảm, 1 trung đoàn tách ra từ sư đoàn đã đánh chiếm được khu vực này. Sau khi hội quân được với tiểu đoàn trượt tuyết, họ đã cắt đứt đường xe lửa nối giữa Rogachev và Mogilev cùng tuyến đường cao tốc Rogachev - Novy Byhov. Quân địch ở phía bắc đã bị cắt rời khỏi đội hình." Tiểu đoàn tôi chiến đấu ở cách đó 1 quãng về phía nam, sau khi tiêu diệt 1 sở chỉ huy lớn của bọn Đức tại làng Madory, chúng tôi đã cho nổ nhiều đoạn cũng của tuyến đường ray nói trên, nó xuất phát từ Rogachev hướng về phía tây bắc, và cắt đứt ngã 3 đường đi Bobruisk và Zhlobin.

Trở lại năm 1944, chúng tôi chỉ được biết về "cuộc đột kích anh dũng vô song" của tiểu đoàn trượt tuyết qua mẩu tin ngắn trên tờ báo của Tập đoàn quân sau khi cuộc đột kích đã kết thúc. Thật tình cờ, đây cũng là lần duy nhất 1 tiểu đoàn trừng giới được nhắc tới trên phương tiện truyền thông, dù chỉ dưới cái tên "đội đặc nhiệm", rất có thể người đọc sẽ hiểu đây là 1 đội đặc nhiệm của du kích. Tiểu đoàn trừng giới của tôi ko bao giờ được đề cập trong bất kỳ tài liệu công bố chính thức nào trong suốt cuộc chiến. Các nhà quay phim, chụp ảnh, đại diện các báo và thậm chí cả các cấp chỉ huy sư đoàn, ko 1 ai từng đến thăm chúng tôi. Hình như các "ông lớn" đã cho rằng các tiểu đoàn trừng giới và hoạt động của chúng là những "điều cấm kỵ".

Ngay khi tiểu đoàn tôi tới được khu vực giáp vùng ngoại ô phía tây bắc Rogachev, kombat mở điện đài liên lạc với sở chỉ huy Tập đoàn quân. Tướng Gorbatov 1 lần nữa lại gọi chúng tôi là "đội đặc nhiệm". "Chúng tôi nhận được tin tức từ đội đặc nhiệm trượt tuyết. Họ đã tới Rogachev nhưng các trinh sát đã phải chiến đấu trong những căn hầm của địch ngay trước thành phố. Chỉ huy đội đặc nhiệm đã có 1 quyết định đúng đắn. Anh ta biết rằng yếu tố bất ngờ đã ko còn và ko thể mở cuộc xung phong vào thành phố, nhưng có thể rút đội đặc nhiệm vào rừng để quấy rối hệ thống liên lạc của địch." Tất cả những gì Gorbatov mô tả đều đúng. Nếu chúng tôi cố đánh chiếm thành phố, chúng tôi sẽ thất bại. Phần lớn lực lượng Đức chưa bị tiêu diệt trong khi chúng tôi ko có pháo binh, thiết giáp, thậm chí cối còn chả có! Đại đội cối tiểu đoàn do thiếu tá Pekura chỉ huy mà bạn tôi, Michael Goldstein là 1 thành viên, trong cuộc đột kích này chiến đấu như 1 đại đội bộ binh. Trong khi đó đại đội súng trường chống tăng và trung đội súng phun lửa chả có tác dụng gì trong tình hình này. Bọn Đức vẫn còn rất nhiều quân với trang bị nặng cả ở trong và xung quanh Rogachev.

Chúng tôi nhanh chóng nhận được lệnh hành động theo kế hoạch đã đề ra, tức là phá huỷ hệ thống thông tin liên lạc của địch. Đó chính là những gì chúng tôi đã làm trong suốt thời gian ở sau lưng địch. Chúng tôi đã gây ra 1 sự hoảng loạn lớn tại hậu phương quân Đức. Tiểu đoàn tôi di chuyển và chiến đấu cả bằng những nhóm nhỏ lẫn bằng cả tiểu đoàn như 1 đội đặc nhiệm cỡ cực lớn. Các nhóm nhỏ phá các thiết bị quân sự địch, lính pháo binh Đức bị giết hoặc bị bắt, pháo chiếm được dùng để bắn vào các điểm tập trung quân Đức dễ thấy hoặc các kho tàng v.v... Trong số các shtrafnik có nhiều sĩ quan pháo binh hoặc xe tăng, thậm chí cả phi công, vì vậy ko khó để sử dụng những khẩu pháo Đức chiếm được. Sau khi bắn xong, những khẩu pháo hoặc cối đó sẽ bị cho nổ hoặc phá huỷ bằng nhiều cách. Chúng tôi cũng đốt các kho lương thực và đạn dược, chiếm các đầu mối giao thông quan trọng và cắt dây thông tin. Khi mới bị bắt, bọn Đức đều khai chỉ huy của chúng tin rằng đã có từ 1 đến 2 sư đoàn bộ binh lọt vào hậu phương cùng nhiều du kích. Tất nhiên sau cuộc thẩm vấn những tên Đức này sẽ bị bắn chứ ko được thả. Đó là giai đoạn đầu những hành động quấy rối hậu phương địch của tiểu đoàn tôi.

1 trong các hoạt động diễn ra ở giai đoạn giữa là giải phóng những người dân Belorussia bị bắt làm nô lệ. Tôi nghĩ nó diễn ra vào khoảng trưa ngày thứ 2 của cuộc đột kích khi chúng tôi tiến đến 1 điểm tập trung và phát hiện 1 hàng dài dân thường đang đi về phía tây dưới sự áp giải của 1 số tên Đức mang vũ khí. Chúng tôi đã biết về việc bọn Đức bắt dân thường Soviet sang Đức làm lao động khổ sai. Kombat, như đã nói vốn là dân vùng này, đã ra lệnh giải thoát những người nông dân. Toán áp giải Đức ko đông với chỉ độ 15 lính gác, chúng bị giải quyết xong chỉ trong vài phút. Chúng tôi giải thoát cho khoảng 300 thường dân Soviet, họ bị bọn Đức bắt đi đào hào trên mặt đất đóng băng dưới những họng súng. Theo sự hướng dẫn của chúng tôi, tất cả các thường dân giải tán, trốn vào rừng, sau đó trở về làng.

Tuy vậy, ở vị trí trung đội trưởng đi chặn hậu đoàn quân, tôi nhận ra có 1 nhóm 6 phụ nữ bám theo chúng tôi xuyên qua rừng. Tất nhiên nhóm phụ nữ ăn mặc rất khác chúng tôi và có thể làm lộ vị trí quân ta vào 1 lúc đen đủi nào đó. Tôi đã phải giải thích đi giải thích lại cho họ về điều đó nhưng vẫn ko ăn thua, đám phụ nữ đi theo cho đến tận tối vì họ sợ bị bọn Đức bắt lại. Khi đêm xuống, tôi 1 lần nữa giải thích với họ giờ là lúc họ có thể đi, trở về làng mà ko ai nhận ra. Có vẻ như lần này sự "khai sáng" của tôi có tác dụng. Khi chúng tôi dừng lại, ko còn thấy những phụ nữ trẻ này đâu nữa. Nhưng ngay khi trời sáng và đơn vị tiếp tục hành quân, trinh sát báo cáo có 1 nhóm người lạ đang đi theo chúng tôi. Tôi ước giá đó là bọn Đức đi theo thì tốt, nhưng khi lại gần quan sát tôi nhận ra đám "bạn cũ", những phụ nữ trẻ, và họ đang mặc 1 kiểu áo nguỵ trang đi tuyết kỳ quặc. Thì ra khi đêm xuống họ đã cởi quần áo ra và mặc lại những cái áo lót trắng ra ngoài bộ đồ nông dân. Những chiếc mũ da cừu của họ có lớp lót màu trắng cũng được họ lộn trái ra để đội. Tuy bực vì họ cứ đi theo nhưng chúng tôi ko thể nhịn được cười khi nhìn thấy bộ dạng đó! Chúng tôi buộc phải chấp nhận giải pháp của họ, cho họ đi theo 1 quãng cho đến khi có 1 phương án hay ho hơn! 1 đoàn lớn xe tải Đức xuất hiện trên đường cao tốc hướng về Rogachev, chúng tôi tấn công đoàn xe, và ngay khi trận đánh bắt đầu, "tiểu đội chị em" đã biến mất trong nháy mắt!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:34:44 PM

Tôi phải nói thêm là đội hình tiểu đoàn được sắp xếp sao cho có súng máy, súng trường chống tăng và súng phun lửa ở cả tiền, trung và hậu quân. Lính phun lửa trang bị ROKS, ống phun lửa với bình dầu KS (kerosene - Maseo) đeo lưng. Dầu KS sẽ phát cháy khi tiếp xúc với ko khí và cũng được gọi là "Molotov cocktail", tuy nhiên hồi đó chúng tôi chưa biết nickname này. Ngay khi phát hiện đoàn xe tải Đức, cả tiểu đoàn nằm im, khi những chiếc xe đi đầu phóng ngang qua vị trí đơn vị cuối cùng, chúng tôi đồng loạt khai hoả bằng tất cả các loại vũ khí vào toàn bộ chiều dài đoàn xe. Cuối hàng quân của chúng tôi là trung đội súng trường chống tăng do thượng uý Petr Zagumenikov chỉ huy, 1 sĩ quan dày dạn kinh nghiệm tuy chỉ mới 20 tuổi, anh đã từng bị thương và là bạn của tôi. Quân của anh đã hạ 2 chiếc xe đi đầu đoàn xe Đức. Cùng lúc đó, 2 chiếc xe đi cuối hàng cũng bị nhóm súng trường chống tăng đi tiên phong hạ, toàn bộ đoàn xe Đức bị khoá chặt trên mặt đường cao tốc chật hẹp, xung quanh là tuyết dày ngập. Bọn Đức nhảy khỏi xe dưới làn đạn và lao vào bất cứ chỗ nào có thể trong hoảng loạn. 1 số tên mất hết lý trí và chạy thẳng về phía chúng tôi, đâm đầu vào những luồng đạn súng máy và tiểu liên quân ta. Những tên còn lại chạy sang bên kia đường, gào lên "Du kích Nga!" và hầu hết đều bị các shtrafnik đuổi theo giết chết trong rừng. Tất nhiên 1 số tên đã thoát được, chúng tôi ko dám đuổi chúng ra xa khỏi rừng nhưng đã giết thêm nhiều tên bằng cách bắn đuổi theo.

Tôi đã ko thể hạ 1 tên trong số chúng bằng cây tiểu liên của mình. Hắn chạy 1 cách thành thạo từ cây này sang cây khác, nấp sau chúng, tôi thì quá bị kích động với cảm giác săn đuổi này và bắn mà ko ngắm. Cuối cùng tôi phải rút khẩu súng lục Nagant ra khỏi bao, ngắm cẩn thận và bắn hạ hắn ngay phát đầu tiên ở khoảng cách chừng 100m. Đó là lần tự tay giết người đầu tiên của tôi. Niềm tin của tôi vào độ tin cậy của khẩu súng lục này, ko chỉ trong cận chiến mà cả ở khoảng cách xa, đã được chứng thực. Đây là "chiến tích" đầu tiên của tôi và nó khiến tôi có cảm giác thoả mãn ko thể tả. Tôi đã giết 1 người, lần đầu tiên trong đời, trong tình trạng hoàn toàn tỉnh táo, giết hắn 1 cách có cân nhắc.

Tôi phải nhắc lại 1 vụ việc xảy ra trong thời gian tôi ở trung đoàn dự bị tại Ufa. Chúng tôi được huấn luyện trong những cái gọi là "đại đội bổ sung" cho mặt trận. Tân binh của các đại đội này đến từ Bashkiria, Tatarstan và thậm chí cả Kazakhstan. Thỉnh thoảng lại có 1 vụ đào ngũ, trong 1 vụ như vậy tôi trở thành nhân chứng cho việc hành quyết 1 kẻ đào ngũ. Hắn đã bị tuyên án tử hình và bị hành quyết trước toàn trung đoàn. Kẻ đào ngũ bị buộc phải quỳ xuống trong 1 cái hố vừa mới đào cạnh bãi tập chiến thuật, quay lưng về phía trung đoàn. Tôi có thể nhớ rõ cái đầu cạo trọc và đôi tai to bất thường của hắn, nó đỏ rực và ánh mặt trời chiếu qua làm đôi tai phát ra ánh sáng màu hồng. 1 sĩ quan, có lẽ là thành viên toà án binh, đọc bản án rồi hỏi xem ai tình nguyện bước ra thực thi, câu trả lời chỉ là sự im lặng đáng sợ. Ko 1 ai trong trung đoàn tình nguyện bước ra. Sau đó có 2 người bước tới từ 1 nhóm đứng cách chúng tôi 1 quãng, súng ngắn cầm tay. Họ bước tới kẻ đã bị tuyên án đang run cầm cập, và như có 1 sự chỉ đạo nào đó, cả 2 cùng lúc nổ súng vào kẻ đào ngũ, hắn ngã vào huyệt mộ đào sẵn.

Cả trung đoàn đứng chết lặng. Tôi có thể nghe thấy cả những tiếng nghẹn ngào hay rên rẩm trong hàng quân. Cả trung đoàn vẫn đứng im như vậy cho đến khi mấy người lính lấp xong huyệt, phủ lên 1 lớp cỏ đã chuẩn bị sẵn. Vào lúc đó, tôi nhớ mình đã suy nghĩ rất nhiều để xem cách chết nào là tốt hơn, trên chiến trường hay giống thế này, chết như 1 con chó dại. Tôi để ý thấy những nấm đất nhỏ gần đó, cũng mới được phủ cỏ. Có lẽ đây ko phải là cuộc xử bắn tại chỗ đầu tiên. Trong tôi dâng lên cảm giác vô cùng sợ hãi và chán ghét. Họ vừa mới giết 1 người mình, 1 người Soviet, chỉ vì anh ta hèn.

Giờ đây, trong trận chiến, tôi đã tự tay giết 1 người, nhưng đó là kẻ thù, và tôi có cảm giác hoàn toàn khác. Shtrafnik ko bắt tù binh, thậm chí dù bọn Đức xin hàng bằng cách hô "Hitler kaput!" thì các shtrafnik vẫn bắn và nói: "Chúng tao đủ đạn cho cả mày nữa, đồ khốn!" Chúng tôi làm sao có thể tự cho phép mình thể hiện tình người, bắt chúng làm tù binh trong tình trạng cực kỳ hung hiểm phía sau chiến tuyến địch này? Tuy nhiên, tôi đã lệnh cho người của mình ko giết 1 kẻ mặc quân phục Đức. Hắn giơ 2 tay lên trời và kêu lên bằng tiếng Nga: "Đừng bắn! Tôi là người Nga; là người mình, dân Kaluga!" Tôi muốn biết câu chuyện của hắn, dù cho tôi ko cần phiên dịch, tôi muốn biết cái gì đã khiến hắn quay súng chống lại chính những đồng bào mình? Tuy nhiên ngay khi hắn nói hắn vốn là 1 Hồng quân bị bọn Đức bắt 1 năm trước, 1 shtrafnik đã văng tục và chĩa khẩu tiểu liên vào cổ hắn nã 1 loạt. Thế là cuộc thẩm vấn của tôi với người đàn ông đến từ Kaluga đã ko thành, nhưng tôi ko thấy tiếc lắm về vụ đó. Trong trận chiến, tên địch tốt nhất là tên địch chết!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:35:05 PM

Thay vì kéo dài 2 - 3 ngày như kế hoạch, cuộc đột kích của chúng tôi đã diễn ra trong 5 ngày. Trong suốt thời gian đó chúng tôi đã tiêu diệt nhiều đoàn xe địch đang trên đường ra tiền tuyến. Tại làng Madory, chúng tôi tiêu diệt sở chỉ huy của 1 đơn vị Đức lớn và phá huỷ nhiều cây cầu ở phía tây Rogachev. 2 kho đạn có quân địch canh gác đã bị đốt cháy bằng súng phun lửa và chúng tôi có thể nghe thấy đạn vẫn nổ rất lâu sau đó. Nhìn chung tiểu đoàn tôi đã hoạt động rất mạnh khiến cho đến ngày thứ 4 chúng tôi đã dùng hầu hết số đạn súng máy và tiểu liên. Chúng tôi được lệnh giữ lại 10 - 20 viên đạn cho mỗi khẩu tiểu liên nhưng trong nhiều trường hợp chúng tôi chẳng còn nổi số đó! Kombat báo cho sở chỉ huy Tập đoàn quân qua điện đài rằng chiến dịch của chúng tôi đã kết thúc, ông thông báo thêm là chúng tôi đã dùng hầu hết đạn vũ khí cá nhân các loại.

Hình như Tập đoàn quân đã quyết định gửi cho chúng tôi 1 ít đạn bằng đường ko. 2 chiếc máy bay "bắp ngô" nhỏ xuất hiện trên đầu chúng tôi vào buổi trưa nhưng bất thần xuất hiện những loạt súng phòng ko của bọn Đức. Chúng tôi sửng sốt nhận ra rằng suốt đêm qua mình đã ở cạnh 1 khẩu đội phòng ko Đức mà ko phát hiện ra chúng! Đồng thời, bọn Đức cũng ko nhận ra chúng tôi! Những chiếc máy bay hiểu ngay chuyện gì đang diễn ra, quay đầu lại và, ơn Chúa, bay thoát mà ko sứt mẻ gì. Các đội súng phun lửa lập tức bò tới chỗ mấy khẩu súng phòng ko và thiêu ra tro theo đúng nghĩa đen cả súng lẫn quân địch. Thật tuyệt khi có trung đội súng phun lửa đi cùng! Họ còn giúp chúng tôi lần nữa vào cuối ngày thứ 4 khi phát hiện 1 hàng dài bộ binh Đức. Lính phun lửa đã thiêu chết gần hết cả hàng quân Đức đó. Phe ta lúc đó gần như ko còn súng máy, tiếng thét thảm thiết của những tên Nazi đang bốc cháy làm tai chúng tôi ong ong 1 lúc lâu. Tôi nghĩ ko gì làm đám lính mệt lử chúng tôi khoái trá hơn tiếng thét của những tên địch bị thiêu sống đó, chúng tôi vô cùng căm thù chúng. Tôi xin nhắc lại 1 câu nói: "Mùi xác địch thật là thơm!" Có lẽ câu đó đúng ngay cả khi đó là xác chết cháy.

Tất nhiên chúng tôi ko thể mang đi tất cả trang thiết bị mà bọn Đức bỏ lại. Nhưng chúng tôi có lấy tiểu liên, trung liên và tất nhiên cả súng ngắn, phần lớn là loại Walter và Parabellum. Rất nhanh sau đó nhiều người trong chúng tôi đã có trong tay 2 khẩu tiểu liên, 1 của Nga và 1 của Đức, dù có rất ít đạn cho mỗi khẩu. Chúng tôi cố phá huỷ mọi trang thiết bị của bọn Đức mà mình chiếm được, chiếm lấy khẩu phần ăn Đức để bổ sung cho số đồ khô thảm hại của mình đã gần hết nhẵn. Chúng tôi rất ngạc nhiên với bánh mì Đức, chúng được bọc nilon và có ghi năm sản xuất rất sớm như 1937 hay 1938! Đó quả là 1 vòng đời sản phẩm quá dài. Chúng tôi có thể cắt và ăn chúng thậm chí dù chúng đang đóng băng cứng ngắc, dù sao cũng ngon hơn thứ bánh mì khô của ta nhiều. Chúng tôi cũng ngạc nhiên với những thanh lớn bơ trộn mật ong Ersatz (thế phẩm - Maseo), hình như tên nó cũng là Ersatz. Thứ sandwich làm bằng bánh mì phết bơ trộn mật ong chính là thứ chúng tôi đang cần, và có rất nhiều. Chúng tôi cũng ngạc nhiên khi thấy hình như cả lính lẫn sĩ quan Đức đều được phát chocolate trong khẩu phần vì thấy rất nhiều chocolate trong các kho lương thực đánh chiếm được. Rất tốt thôi, chúng sẽ cung cấp cho chúng tôi nhiều calori.

Có rất nhiều tình huống bất ngờ xảy ra, nhưng thương vong của chúng tôi rất nhỏ. Chúng tôi kéo những người bị thương ko thể tự di chuyển bằng xe trượt, và cả những đồng chí đã hi sinh trong số đó có Bí thư Đảng uỷ thiếu tá Zheltov. Ông đã bị giết khi đang săn đuổi 1 nhóm lính Đức chạy khỏi đoàn xe tải lớn đã nhắc tới ở đoạn trước. Đó là 1 sĩ quan tuyệt vời, vốn là 1 thầy giáo làng, cực kỳ chăm chỉ trong công tác Ctrị. Đáng tiếc tôi ít khi gặp được những người làm công tác Ctrị tốt như vậy trong suốt đời binh nghiệp, cả trong và sau chiến tranh. Giờ tôi ko nhớ được từng chi tiết, nhưng tôi có thể nói trong 5 ngày đó chúng tôi ko có cơ hội nào để có được chút hơi ấm ngoại trừ những lúc đốt các kho lương thực hay sở chỉ huy địch, chúng tôi thường cho nổ tung chúng rồi đốt. Tuy nhiên chúng tôi ko thể đứng lâu cạnh những đám cháy đó vì ko đủ sức chờ đợi 1 cuộc phản công của bọn Fritz. Điều đó cũng có nghĩa là chúng tôi ko dám đốt lửa trại ban đêm hoặc trú tạm trong những túp lều của nông dân.

Chúng tôi có rất ít thời gian để ngủ, chỉ thỉnh thoảng tiểu đoàn mới dừng lại 1 chút vào ban đêm. Nhiều người trong chúng tôi cố ngủ ngay khi đang di chuyển, điều này giống với hồi tôi còn ở Học viện, tôi biết cách làm điều này. Chúng tôi thậm chí ko dám mơ tới thức ăn nóng. Đến ngày thứ 5, kombat lệnh cho chúng tôi tránh giao chiến với địch trừ phi thật cần thiết để bảo toàn số đạn dược còn lại. Chúng tôi đã gây ầm ĩ quá mức ở vùng hậu phương địch, phá hoại tuyến hậu cần của chúng 1 cách đáng kể, và lúc này những người lính của Tập đoàn quân 3 đã bắt đầu tấn công.

Trong tình hình đó, chúng tôi phải giấu mình, nhờ vậy mặc dù gần như ko còn vũ khí đạn dược gì cả, chúng tôi vẫn ko bị đại quân Đức đang rút lui phát hiện. Rồi đến khi chúng tôi nghe thấy có cuộc đọ súng ngay gần, súng máy nổ ran, ngay sau đó là tiếng pháo bắn. 1 shtrafnik vốn là sĩ quan pháo binh gần như gào lên với tiểu đoàn phó Kudryashov đang ở gần chỗ anh ta: "Đồng chí đại tá! Đó là tiếng pháo chống tăng 45mm của ta! Chắc quân ta đang tấn công!" Đầu tiên ko ai tin anh ta, đại tá quyết định kiểm tra và cử luôn anh ta cùng vài người nữa đi với tư cách vừa là trinh sát vừa là phái viên. Họ bắt đầu di chuyển về phía phát ra tiếng súng thật thận trọng, có cảm giác thời gian như dừng lại! Chúng tôi đã biết về lực lượng của Vlasov và bọn bulba, tức là những người Belorussia chống lại Hồng quân. Chúng tôi thực sự ngại phải chạm trán chúng khi đã hết đạn thế này! Nhưng 1 lúc sau chúng tôi thấy 2 người của mình thoát về cùng với ko phải những tên phản bội mà là vô số sĩ quan và binh lính Hồng quân. Mọi người mừng vui khôn xiết! Tất cả nhảy dựng lên rồi chạy về phía quân ta, y như trong phim! Thì ra họ cũng nghi chúng tôi là 1 đơn vị trong số bọn phản bội. Khi những cái ôm hôn và những lời chào đã qua, các sĩ quan tiểu đoàn tôi nói chuyện với các sĩ quan đơn vị bộ binh vừa gặp. Sau đó chúng tôi cũng được thông báo lại vắn tắt tình hình. Thì ra Tập đoàn quân 3 của chúng tôi và đơn vị bạn là Tập đoàn quân 50 đã phá được tuyến phòng thủ Đức, nhưng là chậm 2 ngày so với kế hoạch.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:35:17 PM

Họ đã chiếm được Rogachev, Tập đoàn quân 3 đã quét sạch đầu cầu trên bờ trái Dnepr của quân Đức này, nó rộng 45km và sâu 12km. Như tướng Gorbatov đã viết trong hồi ký về giai đoạn này, Tập đoàn quân chỉ mất vài người vì mìn Đức. Moscow gửi lời chào tới những người lính Tập đoàn quân vào ngày 24/2 và tổ chức lễ mừng việc giải phóng Rogachev khỏi ách chiếm đóng. Tuy nhiên lúc đó chúng tôi chưa biết gì về những sự kiện này vì pin đài đã hết sạch. Chúng tôi ko nhận được chút thông tin nào từ Tập đoàn quân trong ngày cuối cùng của cuộc đột kích. Chúng tôi cũng ko hề biết Phương diện quân Belorussia 2 đã được thành lập, 1 số đơn vị thuộc Phương diện quân Belorussia 1 được chuyển sang Phương diện quân mới. Tuy nhiên khi biết tiểu đoàn mình vẫn được ở lại Phương diện quân Belorussia 1 dưới quyền vị tướng vĩ đại Rokossovski, tất cả chúng tôi đều vui mừng, ko lâu sau đó Rokossovski trở thành Nguyên soái. Nhiều người trong số chúng tôi vẫn thường kể về cuộc viếng thăm mặt trận của Rokossovski, ông tới các chiến hào của tiểu đoàn tôi ngay sau trận ác chiến tại Zhlobin mà tiểu đoàn đã phải chịu thương vong nặng nề. Những người có vinh dự nói chuyện với ông đều cực kỳ cảm động! Mọi người đều ca tụng lối nói chuyện bình thản và tử tế của ông đối với cả các shtrafnik lẫn các chỉ huy của họ. Chỉ tiếc là tôi đã ko được gặp ông.

Vậy là "cuộc đột kích anh dũng vô song" vào hậu tuyến địch đã thực sự chấm dứt. Chẳng có biệt đội chặn hậu nào trong những trận đánh của chúng tôi như 1 số sử gia xấu bụng ngày nay viết. Sự thật là những cựu sĩ quan này mặc dù đã phạm tội nhưng vẫn là những người Soviet lương thiện, họ sẵn sàng lấy công chuộc tội với lòng dũng cảm, sức chịu đựng và sự anh hùng. Tôi phải nói rằng hầu hết các shtrafnik đều hiểu rõ tội lỗi của mình và giờ sẵn sàng chuộc lỗi. Chúng tôi lập tức được cho về hậu tuyến tại 1 ngôi làng gần đó.

Mệt gần chết, nhiều người đã lăn ra ngủ ngày trên đường, ko buồn chờ nhà bếp mang súp nóng đến. Lúc này chúng tôi thực sự cần căng tin tiểu đoàn! Binh lính lăn ra ngủ thậm chí ngay trước ngưỡng cửa những căn nhà gỗ ấm áp vì trời ko có tuyết. Chúng tôi đã chịu quá nhiều mệt mỏi trong 5 ngày khó khăn vừa qua. Vì sự kiệt sức đó chúng tôi đã mất thêm vài người. 3 shtrafnik ngủ bên bếp lò trong 1 căn lán mà chẳng buồn tháo thắt lưng và cởi bỏ vũ khí, 1 trong số họ vẫn còn 1 quả lựu đạn F-1 Limonka đeo trên thắt lưng, nó nổ tung khi họ đang ngủ. Chỉ còn 1 trong số 3 người sống sót và được đưa ngay vào trạm cấp cứu, 2 người còn lại chết. Tất cả chúng tôi đều shock! Khi đã vượt qua những thử thách như vậy mà lại chết khi mọi thứ đã kết thúc, chết ngay đêm trước ngày được cho rời khỏi Tiểu đoàn Trừng giới thì thật bi kịch.

Như chỉ huy Tập đoàn quân đã hứa, tất cả các binh sĩ tạm thời, tức là các shtrafnik trong Tiểu đoàn Trừng giới, đều được phục chức và nhiều người còn được nhận huân huy chương. Huân chương Danh dự hạng 3, Huy chương vì sự dũng cảm và xuất sắc trong chiến đấu. Họ là những anh hùng! Những việc làm anh hùng của họ đã xoá sạch vết nhơ do những tội lỗi trước đây họ gây ra. Tuy nhiên các huân huy chương chưa đủ xứng đáng với sự anh dũng của họ. Tôi phải nói rằng các shtrafnik ko hứng thú cho lắm với Huân chương Danh dự hạng 3, theo quy định, Huân chương này chỉ dành cho lính trơn và hạ sĩ quan, các sĩ quan ko coi Huân chương này ra gì (*). Đương nhiên, nhiều người trong số họ ko muốn người khác biết mình đã từng có thời gian bị đưa vào tiểu đoàn trừng giới với cấp bậc shtrafnik thường, và thế là tấm Huân chương bị vứt ngay. Các sĩ quan tiểu đoàn hầu hết cũng được thưởng huân chương. Bạn tôi Petr Zagumennikov được nhận Huân chương Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại hạng 2. Philip Kiselev người sau này trở thành trung đội trưởng quân cảnh, tức chỉ huy quân cảnh Tiểu đoàn, cùng sĩ quan tham mưu của anh nhận Huy chương Dũng cảm lần thứ 2. Cuối chiến tranh anh ta lên tới trung tá tham mưu trưởng tiểu đoàn. Tôi phải nói rằng các sĩ quan đều đánh giá cao Huy chương Dũng cảm, nó cũng có giá trị tương tự như Huân chương Danh dự đối với binh lính. Các đại đội trưởng Matvienko và Pekur được nhận Huân chương Cờ Đỏ, đó được xem là 1 trong những loại Huân chương danh giá nhất. Tôi ko nhớ được hết những người được tặng thưởng huân huy chương. Cùng với nhiều sĩ quan khác, tôi chẳng nhận được huân huy chương nào, hình như chúng tôi chưa khẳng định được bản thân thân trong trận đánh, hay còn lý do nào khác? Tuy nhiên ngay sau đó chỉ huy Phương diện quân, tướng Rokossovski, đã thăng chức cho tôi lên thượng uý, và tôi cho đó là phần thưởng cho cuộc đột kích.

Các trung đội trưởng lập tức viết giấy giới thiệu và giấy chuyển quân cho mọi shtrafnik, đó là các giấy tờ cơ bản để giải phóng họ khỏi tiểu đoàn trừng giới và để trao phần thưởng cho họ. Tiểu đoàn trưởng Osipov viết giấy đề nghị thăng thưởng cho các cá nhân xứng đáng, ko đề cập gì đến phần thưởng cho cá nhân ông. Việc phân phát các phần thưởng, trong nhiều trường hợp nếu ko muốn nói là tất cả, do các cấp chỉ huy quyết định. Ví dụ tướng Gorbatov đã giải phóng tất cả các shtrafnik tham gia cuộc đột kích và đánh giá họ là những người trung thực và dũng cảm trong chiến đấu, ko cần biết họ có bị thương hay ko. Tôi nhắc tới điều này vì Tiểu đoàn Trừng giới của tôi đã từng được đặt dưới sự chỉ huy của nhiều Tập đoàn quân khác, và các chỉ huy tập đoàn quân có cách đánh giá khác nhau về tiểu đoàn tôi. Ví dụ chỉ huy Tập đoàn quân 65, tướng Pavel Ivanovich Batov, chỉ phục chức cho các shtrafnik chết hoặc bị thương trong chiến đấu và sử dụng đến cùng số còn lại. Trung tá Baturin, người thay thế Osipov ở Ba Lan, rất ham hố các loại huân huy chương và rất miễn cưỡng khi phải trao nó cho các đại đội trưởng và trung đội trưởng. Ông ta bao giờ cũng chờ đợi trước hết là phần thưởng của mình và ko muốn ai được phần thưởng cao hơn!

Trở lại với việc viết giấy chuyển quân cho các shtrafnik, tôi xin nói thêm rằng những giấy tờ này phải được chỉ huy ký rồi chuyển cho tham mưu tiểu đoàn. Họ sẽ lên danh sách những người được giải phóng khỏi tiểu đoàn trừng giới. Sau đó, tất cả giấy tờ lại được chuyển tới sở chỉ huy Tập đoàn quân và tiếp đó là toà án binh Tập đoàn quân hoặc Phương diện quân. Giấy giới thiệu để tặng thưởng huân huy chương lại được sở chỉ huy tiểu đoàn xử lý riêng. Trong khi guồng máy quan liêu trên đang hoạt động, và tôi cho rằng ko cách nào làm cho nó nhanh hơn được, tiểu đoàn tôi được quay về làng Maiskoe thuộc tỉnh Buda - Koshelev, nơi chúng tôi đã rời đi để tiến hành cuộc đột kích vào hậu phương địch. Dân địa phương chào đón chúng tôi trở về 1 cách vô cùng nồng hậu và mến khách như thể chúng tôi đi làm họ phát ốm. Loại lương thực chính mà những người Belorussia này cung cấp cho chúng tôi là khoai tây, các loại dưa muối và rượu tự nấu cũng bằng khoai tây. Chúng tôi đã phải chờ đợi khá lâu kể từ lần nhận được 100g vodka sau khi cuộc đột kích kết thúc!

(*) Huân chương Danh dự bắt đầu được trao năm 1943 và cả 3 hạng của nó đều chỉ để tưởng thưởng cho các lính trơn, hạ sĩ quan cho đến thượng sĩ (riêng trong Ko quân có thể trao cho đến cấp thiếu uý). Huân chương Danh dự thực chất là hậu duệ trực tiếp của danh hiệu thời trước cách mạng "Ghi nhận sự xuất sắc trong thực hiện quân lệnh" (tức Huân chương Thánh George, cũng chỉ được trao cho lính trơn và hạ sĩ quan) và cũng khá có giá trị. Người được đủ 3 hạng Huân chương Danh dự sẽ được hưởng các đặc quyền ngang với Anh hùng Liên Xô.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:35:40 PM

Các cô gái làng vui mừng chào đón sự trở về của các shtrafnik và sĩ quan, những người mà họ vẫn hẹn hò. Cánh "binh sĩ tạm thời", như cách gọi chính thức, chỉ là những sĩ quan bị tạm giáng chức, phần lớn họ có học hành và trình độ văn hoá cao. Thêm vào đó đầu họ cũng đã lâu chưa bị cạo theo kiểu lính nên tất cả đều có cùng kiểu đầu như mọi sĩ quan bình thường. Chúng tôi đã để lại nhiều kỷ niệm tốt đẹp cho dân địa phương. Ai mà biết được 1 người tốt hay xấu nếu chỉ xét đến những hình phạt mà nhà chức trách dành cho họ, điều đó chỉ có thể biết chính xác qua ánh mắt các bà các cô dân địa phương. Các sĩ quan cơ hữu của tiểu đoàn phần lớn còn trẻ với tuổi đời 20 - 25 cũng hết sức hoà đồng với các cô gái làng. Các đơn vị hậu cần và hỗ trợ, các kho vũ khí đạn dược của tiểu đoàn đều đóng trong làng, chúng tôi ko thể mang theo tất cả vào hậu tuyến địch, tất cả giấy tờ của chúng tôi cũng để lại đây, nhiều shtrafnik vẫn ở lại làng để canh giữ chúng. Nhiều người mới bị tuyên án phục vụ trong tiểu đoàn cũng đã tới làng. Khi quân ta chiến đấu giải phóng Belorussia, số những "người bị vây" tăng lên. Tình hình chiến sự hiện nay cũng khiến nhiều binh sĩ mắc lỗi ko hoàn thành nhiệm vụ, vậy là số frontovik bị nhận án đưa vào tiểu đoàn tôi cũng tăng lên.

Trong bất kỳ trường hợp nào, chúng tôi cũng vẫn có đủ số binh lính tạm thời để thay thế số được cho ra. Thậm chí trước khi số shtrafnik được phục chức, trong vài ngày chúng tôi đã phải lập thêm 2 đại đội. Quá trình phục chức cho các shtrafnik vẫn đang tiến hành, nhiều đại diện toà án binh Phương diện quân và Tập đoàn quân tới tiểu đoàn để xem xét các quyết định điều động với sự có mặt của các trung đội trưởng. Họ chính thức huỷ các bản án, phục chức cho các shtrafnik, 1 số sĩ quan cao cấp còn được gắn lại quân hàm ngay tại chỗ. Cùng lúc đó họ còn ra các quyết định trả lại các danh hiệu nhà nước và các giấy tờ cần thiết. Sau đó các cựu shtrafnik đã hoàn toàn trở lại là các sĩ quan và được gửi về đơn vị cũ.

Những "người bị vây" thì được gửi về làm sĩ quan các trung đoàn dự bị giống như các sĩ quan ở nơi tôi vừa rời khỏi cùng các bạn chiến đấu khác. 1 số "người bị vây" vẫn còn mang cấp hàm cũ ví dụ như "công binh chiến đấu" hay "sĩ quan kỹ thuật" với đủ loại cấp bậc. Họ được nhận cấp hàm mới thấp hơn cấp hàm cũ 1 - 2 bậc. Quy định này vốn đã được áp dụng chung trong quân đội khi đổi cấp hàm. Thật ko may, tôi ko được tham gia vào cuộc "tẩy uế" cho những người đã được xoá bỏ tội lỗi với Tổ quốc vì phải làm trung đội trưởng của 1 trong 2 đại đội mới thành lập. Chắc tôi bị đưa vào đây vì mới chỉ kinh qua cuộc thử lửa đầu tiên và chưa có đủ kinh nghiệm chiến trường.

Các đại đội của tiểu đoàn lại nhận 1 nhiệm vụ mới: đánh chiếm 1 đầu cầu trên sông Drut'' từ tay bọn Đức. Để hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi phải tiến tới khu vực bờ sông mà bọn Đức đang kiểm soát 1 cách bí mật vào ban đêm mà ko có pháo dọn bãi. Ko được hô "Hurrah!" để làm quân địch thật bất ngờ. Chúng tôi tiến thẳng vào 1 ngôi làng, tên gì tôi quên rồi, đẩy bật bọn Đức ra khỏi tuyến hào đầu tiên và được cam kết rằng các đơn vị khác của Tập đoàn quân sẽ chiếm đầu cầu.

Lại 1 lần nữa, đêm hoàn toàn ko trăng và có nhiều mây. Bọn Đức hoàn toàn ko chờ đợi 1 cuộc xung phong của quân ta, chúng có lý do để bình chân như vại, thậm chí ko thèm bắn pháo sáng. Ko giống như băng trên sông Dnepr, băng trên sông Drut'' cực kỳ dễ vỡ nếu bị pháo bắn. Đầu tiên chúng tôi thử vượt sông bằng cách đi bộ để khỏi làm vỡ mặt băng. Có lẽ mặt băng quá dễ vỡ này là lý do khiến bọn Đức tỏ ra rất khinh suất, thậm chí ko thèm chiếu sáng xung quanh các chiến hào của chúng. Điều duy nhất chúng làm là bắn bừa đạn cối vào mặt băng trên sông. Thật khốn nạn làm sao tôi lại bị ngã, mặt băng chỗ này đã từng bị vỡ và mới đông lại 1 chút, tôi rơi tõm xuống nước và cố hết sức tìm 1 chỗ có băng đóng chắc hơn nhưng vô hiệu, băng xung quanh tôi rất mỏng và vỡ tan trong tay tôi. Dòng chảy bên dưới kéo tôi đi, áo và quần bông nặng lên từng giây. Xin nói thêm là tôi ko biết bơi, đến giờ vẫn thế, vì vậy bạn có thể hiểu lúc đó tôi đã kề cận cái chết đến mức nào.

Đây là 1 thiếu sót lớn của tôi đã được nhiều lần chỉ ra trong những kỳ kiểm tra thể chất trước chiến tranh, mặc dù tôi biết trượt tuyết, nhảy cao và xa, bắn rất giỏi. Tuy nhiên, tôi đã được tay shtrafnik giao liên của mình cứu, anh ta lúc nào cũng ở gần chỗ tôi. Trung đội tôi mới được thành lập và tôi chưa có cơ hội biết tên anh ta, mặc dù đáng ra tôi nên biết! Khi anh ta trông thấy, hay nghe thấy tiếng tôi lóp ngóp trong nước, cố gắng 1 cách vô vọng để thoát lên trên lớp băng, anh ta vẫn còn ở chỗ băng mỏng. Anh ta nằm ngay xuống miệng hố băng, chìa khẩu tiểu liên ra để tôi nắm lấy nòng súng. Người lính từ từ kéo khẩu tiểu liên lên miệng cái hố mà với tôi như thể cửa vào địa ngục. Cuối cùng tôi cũng tới được 1 chỗ băng dày, đập vỡ đám băng mỏng xung quanh và trèo được lên trên. Đoạn tiếp theo của cuộc hành trình chúng tôi chỉ dám bò, và ko chỉ có mỗi chúng tôi mới bò.

Ngay khi chúng tôi tới được bờ sông, chỗ này rất dốc, ánh lửa bùng lên. Quân ta đã bắt đầu khai hoả làm bọn Đức hoàn toàn bất ngờ. Quân Đức phòng thủ sông Drut'' rất mạnh, chúng có boongke bê tông với tháp pháo bọc thép, bãi mìn dày đặc, 3 lớp rào thép gai và nhiều thứ khác. Tuy nhiên vị trí mà chúng tôi tấn công lại ko có mìn và rào thép gai rất yếu. Điều đó 1 lần nữa chứng minh rằng chỉ huy Tập đoàn quân đã cố tránh mọi thương vong ko cần thiết, cho dù đó là thương vong của shtrafnik. Các trinh sát đã làm việc rất tốt và tìm ra điểm yếu trên tuyến phòng ngự Đức. Ko cần giữ im lặng nữa. Chúng tôi có thể nghe thấy những tiếng thét tuyệt vọng của bọn Đức, chúng ko có hy vọng gì trong 1 trận chiến giáp lá cà ban đêm. Các shtrafnik gầm lên những tiếng chửi rủa tục tĩu nhất, những tiếng thét chế nhạo và chiến thắng thay vì tiếng "Hurrah!" Tôi tới được tuyến hào đầu tiên cùng tay giao liên và nhiều người khác đã bị ngã xuống băng. Tuyến hào này vừa được người của tôi chiếm và quét sạch bọn Đức. Có rất nhiều xác lính Đức cả dưới hào lẫn đằng sau. Các shtrafnik vẫn tiếp tục xung phong ở nhiều nơi và thậm chí đã tới được tuyến hào thứ 2.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:35:52 PM

Tôi bị ướt và lạnh thấu xương, cố làm ấm bằng cách di chuyển thật nhiều nhưng vô hiệu. Tẩu thuốc có giúp tôi đôi chút, tôi là con nghiện hút tẩu nặng từ trước khi ra trận. Cái tẩu rất to, chứa được nhiều thuốc, có hình dáng tiêu chuẩn khiến nó có thể giữ ấm rất lâu. Thuốc lá của tôi ướt và các đồng đội trong hào vui lòng chia sẻ số thuốc của họ cho tôi. Tẩu thuốc giữ ấm cho ngón tay tôi, nhưng toàn bộ phần còn lại của cơ thể đã bắt đầu mất điều khiển vì bị cóng. Bộ quân phục của tôi thấm đẫm nước và đang dần đóng băng, ko giống với 1 tấm áo giáp mà giống với 1 cái mai rùa hơn. Tôi ko sao cử động chân tay được nữa, chỉ còn có thể quay đầu y như 1 con rùa. Đôi ủng dài của tôi hoá thành 1 cục băng và tôi sợ chân mình sẽ bị cóng, tình hình còn tệ hơn nhiều hồi ở trại mùa đông Học viện khi những ngón chân to tướng của tôi bị cóng lạnh. Đại đội trưởng, thiếu tá Syrovatski, nhận thấy tôi ko thể tiếp tục làm trung đội trưởng nữa, anh lệnh cho 2 shtrafnik bị thương nhẹ mang tôi về trạm xá tiểu đoàn. Họ kéo tôi về trên 1 tảng băng lớn qua sông Drut'' ngay trong đêm đó.

Bác sĩ tiểu đoàn, đại uý Stepan Petrovich Buzun, người chắc nịch và có chòm râu bác sĩ điển hình, là người chịu trách nhiệm về các vết thương tại trạm xá tiểu đoàn đặt trong 1 cái lều có lò sưởi. Tôi nghĩ chưa từng có ai, kể cả các shtrafnik, gọi ông bằng cấp bậc quân đội. Bác sĩ Buzun và phụ tá của ông, trung uý Ivan Demenkov, cắt bỏ bộ quân phục đóng băng cứng đơ của tôi bằng 1 cái kìm cắt dây thép gai. Họ lột sạch quần áo của tôi ra và lập tức mát xa toàn thân bằng cồn. Đương nhiên họ cũng cho tôi uống 1 lượng rượu hợp lý và sau đó mặc lại quân phục khô cho tôi, hình như họ được cấp sẵn quân phục khô đề phòng các trường hợp như của tôi, và kho quân phục nằm ngay gần đó. Họ còn đưa cho tôi 1 đôi ủng nỉ khô và ấm. Vì trong lều đã đầy thương binh nên họ đào cho tôi 1 cái hố sâu trên tuyết, bên cạnh lều, đáy hố lót cành linh sam và 1 cái áo mưa. Sau đó họ đặt tôi vào, đắp 1 cái áo mưa nữa, phủ cành linh sam lên và đắp 1 lớp tuyết dày lên trên cùng, chỉ để lại 1 lỗ nhỏ để thở. Tôi ko hiểu rõ giá trị của loại giường này lắm, nhưng đương nhiên thấy rất ấm sau cuộc mát xa bằng cồn cùng với chút rượu trong dạ dày, tôi ngủ ngay lập tức.

Sáng ra tôi rời khỏi "hang ổ" của mình với tâm trạng của 1 người vừa được nghỉ ngơi hoàn toàn, tràn trề sinh lực. Tôi thậm chí còn ko bị chảy nước mũi, biểu hiện thường gặp khi bị nhiễm lạnh, viêm phổi hay viêm phế quản. 1 tuần sau đó cổ tôi mọc nhiều mụn, đó là hậu quả ko mong muốn duy nhất của vụ bơi lội ngoài kế hoạch dưới hố băng. Theo như Stepan Petrovich, vị bác sĩ sáng suốt của tiểu đoàn, sau này giải thích đó là nhờ sự vận động của của toàn bộ nguồn lực nội tại trong cơ thể tôi trong điều kiện kiệt sức vì cố gắng quá mức. Hồi đó chúng ta chưa sử dụng từ "stress". Đây chính là sự khác biệt chủ yếu giữa chiến đấu và mọi hoạt động khác của con người. Như tôi biết sau này, trong chiến tranh con người ta ít ốm hơn rất nhiều so với bình thường và có ốm cũng ko nặng bằng. Thực tế cũng chẳng có bệnh dịch nào xảy ra cả. Như trường hợp của tôi, tôi cho rằng đó là do từ nhỏ tôi đã quen sống ở nơi lạnh giá, và sau đó còn được huấn luyện tại Học viện ở Viễn Đông. Luôn tiện tôi cũng muốn nói rằng bác sĩ Stepan Petrovich của chúng tôi từng là 1 shtrafnik, ông quyết định ở lại làm sĩ quan cơ hữu tiểu đoàn sau khi mãn hạn. Ko ai nói đến chuyện này trong tiểu đoàn, nhưng tôi biết nhiều trường hợp tương tự, và rất kính trọng những sĩ quan đã có những quyết định như vậy.

Trong khi tôi còn đang ngủ trong cái hốc tuyết của mình, đơn vị của tôi đã hoành thành nhiệm vụ và thậm chí còn áp sát được ngôi làng, tại đó 1 trung đoàn bộ binh đã tiếp tục tiến hành cuộc tấn công. Thật ko may, đóng góp của tôi trong trận đánh chỉ gồm cuộc bơi lội dưới hố băng và giấc ngủ trong hang tuyết là hết. Tôi rất thất vọng vì kinh nghiệm trận mạc của mình chỉ tăng lên có tí tẹo. Thứ duy nhất làm tôi ghi nhớ suốt đời là tên con sông Drut'' trên đất Belorussia. Tôi đã ko được chứng kiến trung đoàn bộ binh khép vòng vây lực lượng Đức mà tuyến phòng thủ của chúng đã bị các shtrafnik xé toạc. Mọi người kể cho tôi nghe về những trận pháo kích dữ dội được tiến hành liên tục bằng Katyusha. Ko hiểu 1 đơn vị shtrafnik đã tiến quá sâu vào tuyến phòng ngự Đức hay đơn giản do họ mất liên lạc mà đã bị 1 pháo đội Katyusha bắn nhầm, nhiều quả Katyusha rơi sát các shtrafnik gây 1 số thương vong. Những người chứng kiến đều nói giờ mới hiểu tại sao bọn Đức sợ những loạt Katyusha đến thế.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:36:09 PM

Sau khi được trung đoàn bộ binh thay vị trí, các đại đội tân lập tham chiến rút về tuyến sau nhập vào lực lượng chính của tiểu đoàn. Ko may, cuộc tấn công phải dừng lại sau đó vì vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của bọn Đức. Chỉ mãi đến cuối tháng 6 chúng tôi mới được nghe tin tức về cuộc vượt sông Drut'', khi chiến dịch Bagration bắt đầu, và đất nước Belorussia từng chịu nhiều đau khổ dưới ách chiếm đóng của bọn Đức đã được giải phóng hoàn toàn.

Vào lúc đó, binh sĩ thuộc các đại đội tân lập vừa trở về từ bờ bên kia sông Drut'' nhanh chóng được xếp lên xe tải đưa đến khu vực phía đông Byhov. Có lẽ Tập đoàn quân cũng đã lên kế hoạch sử dụng Tiểu đoàn Trừng giới ở đó. Đó là suy đoán của tôi thôi vì chúng tôi chẳng có thông tin chính thức nào. Mặc dù lúc đó đã là đầu tháng 3 nhưng tự nhiên vẫn làm chúng tôi kinh ngạc với những trận mưa tuyết dữ dội. Tuyết rơi dồn dập suốt nhiều ngày. Chúng tôi vừa kịp đến vị trí trước khi mọi con đường trở nên ko thể đi được. Suốt cả tuần chúng tôi bị cắt rời khỏi mọi đơn vị hậu cần của tiểu đoàn, những tay vui tính gọi đó là "ăn kiêng theo thời tiết". Vì ko tìm đâu ra thực phẩm, thực đơn của chúng tôi chỉ còn là thứ súp nấu từ tuyết đun sôi, đó là thứ duy nhất rất sẵn! Chúng tôi còn 1 ít thịt bò đóng hộp của Mỹ, 1 hộp cho cả 1 đại đội! Quân ta gọi loại thịt bò hộp này là "mặt trận thứ 2", nó có rất ít mỡ và chỉ vài mẩu thịt vụn. Thứ súp cực kỳ loãng của chúng tôi chỉ có duy nhất 1 thứ của thịt bò, đó là mùi. Để thêm vào món súp đó, mỗi người chúng tôi được 1 mẩu bánh mì khô. Ko có cách nào kiếm được thức ăn ở đây để phụ thêm vào "thực đơn ăn kiêng", thật trái ngược với lúc ở làng Maiskoe.

Sau trận mưa tuyết dữ dội, con đường được người ta dùng xe tăng mở trở lại, cuộc tấn công bị đình chỉ. Chúng tôi lại được xe tải chở đến làng Gorodets, gần Maiskoe. Chúng tôi biết từ đây đến Maiskoe rất gần nên dễ dàng nối lại những mối quan hệ cũ với dân địa phương. Quá trình phục vụ trong thành phần Tập đoàn quân 3 của tướng Gorbatov kết thúc, tôi nghĩ tất cả chúng tôi đều có những kỷ niệm tốt đẹp nhất trong suốt cuộc chiến với viên tướng tử tế này. Có tin đồn rằng vì cả Gorbatov lẫn Rokossovski đều từng bị bắt và bị xét xử bằng các bản án bất công nên họ cư xử với các shtrafnik rất có tình người. Tôi nghĩ giờ là lúc tốt nhất để kể về 1 huyền thoại, cũng có thể là chuyện thật, về Gorbatov. Chuyện kể rằng sau khi giải phóng Rogachev, công binh làm 1 cây cầu tạm cho bộ binh và xe loại nhẹ đi qua những chỗ băng đóng ko chắc trên sông Dnepr. Chiếc cầu rất hẹp và chỉ có thể đi 1 chiều. Chỉ huy việc điều phối vượt sông nhận lệnh của Gorbatov là chỉ cho những xe pháo ra tiền tuyến qua sông, vậy là có rất nhiều xe phải nằm lại bờ tây Dnepr, trong đó có cả những chiếc jeep Willy.

Chỉ huy việc vượt sông là 1 thiếu tá to cao khoẻ mạnh, anh tuân thủ mệnh lệnh và ko cho phép những xe quay về từ tiền tuyến qua sông vì như vậy sẽ phải chặn dòng xe đang nối nhau ra mặt trận. Ko ngờ chiếc jeep Willy của tướng Gorbatov cũng bị chặn trong số này, ông nhảy khỏi xe và yêu cầu cho xe mình qua sông gấp. Viên thiếu tá nhắc lại mệnh lệnh của chính ông và từ chối làm theo lời yêu cầu. Tướng Gorbatov nộ khí xung thiên vì sự bất tuân thượng lệnh của viên thiếu tá, ông bất thần vung cây gậy nổi tiếng vụt luôn. Viên thiếu tá cũng phản ứng lại 1 cách bất ngờ ko kém. Anh ta quay nhanh người đánh trả tướng quân thật mạnh làm ông mất thăng bằng ngã lộn qua thành cầu rơi xuống tuyết. Thật là shock! Nhiều sĩ quan nhảy khỏi xe jeep chỉ huy, 1 số chạy xuống giúp tướng quân, số khác rút súng ngắn ra tay, vồ lấy viên thiếu tá và giữ chặt tay anh ta. Có vẻ như số mạng tay thiếu tá chỉ còn đếm từng giây. Tướng quân phủi tuyết khỏi quân phục, bước tới chỗ viên thiếu tá và ra lệnh thả anh ta ra, sau đó rút chai rượu của ông ra.

Cả Tập đoàn quân đều biết chỉ huy ko uống rượu, hút thuốc và ko cả văng tục. Ông đã bỏ rượu từ khi còn trẻ và trong cuộc chiến, dù có bị bạn bè chửi vì ko chịu uống ông cũng chỉ nói mình sẽ chỉ uống trong Ngày Chiến thắng. Vì vậy việc ông mang theo chai rượu còn làm các sĩ quan shock hơn. Gorbatov tự mình rót 1 chén vodka đầy đưa cho cho viên thiếu tá đang sửng sốt, nói: "Làm tốt lắm thiếu tá! Uống đi, coi như lời xin lỗi và phần thưởng cá nhân của tôi cho anh. Tôi đã dạy dỗ vô số thằng ngu bằng cây gậy này, anh là người khôn đầu tiên tôi gặp. Hãy tiếp tục công việc, tôi sẽ gửi ngay cho anh 1 tấm huân chương thực sự." Đó là 1 câu chuyện nghe rất huyền thoại về tướng Gorbatov, nhưng tất cả chúng tôi đều muốn tin. Có lẽ nó có thật! Thật tiếc là chúng tôi ko bao giờ được chiến đấu dưới sự chỉ huy của ông nữa.

Sau khi tới Gorodets, chúng tôi mất nhiều thời gian để nhận những người mới tới, trang bị vũ khí và thắt chặt tình đoàn kết trong các đơn vị. Các buổi huấn luyện quân sự cũng được tổ chức, mục đích chính là để các dạy các cựu phi công, sĩ quan hậu cần và các loại sĩ quan kỹ thuật khác cách chiến đấu như bộ binh. Tức là bắt hành quân, bò trườn, đào hầm hào, vượt chướng ngại vật và sử dụng đúng cách các loại tiểu liên, súng máy, súng trường chống tăng, thậm chí cả panzerfaust thu được của bọn Đức. Tuy nhiên điều khó nhất là dạy họ cách vượt qua nỗi sợ mà nhiều shtrafnik bị khi ném lựu đạn, đặc biệt là loại F-1. Mảnh của loại lựu đạn này thậm chí có thể gây chết người ở khoảng cách 200m trong khi 1 người lính được huấn luyện tốt cũng chỉ ném xa độ 50 - 60m. Chúng tôi dạy họ ném lựu đạn thật, có nổ thật. Binh lính được ném lựu đạn ra từ trong hào, nhưng vẫn còn nhiều người ko đủ can đảm nên đã ném đi ngay.

Quá trình tổ chức và huấn luyện kết thúc vào khoảng giữa tháng 5. Đương nhiên, trong thời kỳ này chúng tôi đã thiết lập được quan hệ gần gũi với những người dân địa phương. Cũng có nhiều câu chuyện lãng mạn, ko chỉ giữa binh sĩ tiểu đoàn và các cô gái địa phương. Thì ra còn có 1 sân bay cách chỗ chúng tôi ko xa với 1 tiểu đoàn phục vụ bay (BAS) đóng ngay cạnh. Phần lớn binh sĩ tiểu đoàn này là những cô gái trẻ.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:36:31 PM

1 ngày xuân ấm áp, tôi nhớ mình nghe thấy 1 tiếng nổ trên con lộ, gần như ngay giữa làng. Thì ra do đất mềm ra, 1 quả mìn chống tăng Đức đã nổi lên bề mặt, 1 con ngựa kéo xe chở đạn pháo đã dẫm lên làm quả mìn phát nổ. Thật ngạc nhiên là số đạn pháo ko bị nổ theo và người đánh xe ko chết. Anh lính đánh xe bị thương được đưa vào trạm phẫu còn chú ngựa béo tốt chết ngay tại trận. Tất nhiên vụ nổ gây hoảng sợ cho nhiều người, nhưng kết quả phụ là bếp ăn tiểu đoàn có cơ hội nâng cao khẩu phần. Giao liên Zhenya của tôi (tôi ko thể nhớ họ anh ta) cũng kiếm được 1 miếng mỡ ngựa, anh ta là 1 đầu bếp cừ và đã làm nguyên 1 nồi cực kỳ ngon gồm thịt, khoai tây, tỏi và 1 số gia vị khác mà anh ta xin được của chủ nhà. Chúng tôi mời các vị chủ nhà cùng dùng bữa tối cải thiện này, trong khi Zhenya cũng mời các nữ binh sĩ trẻ của tiểu đoàn phục vụ bay (BAS) mà anh ta quen. Tất nhiên, các vị chủ nhà góp thêm 1 ít quốc lủi cho bữa tối. Mọi người đều hoan hỉ và tán thưởng chàng đầu bếp, đặc biệt là các cô gái đến từ sân bay. Có vẻ như khẩu phần của họ ko được thịnh soạn bằng cánh phi công. Tuy nhiên, tất cả các cô đều đổ thức ăn đi khi nghe được đây chính là thịt con ngựa bị mìn nổ chết! Thật tồi tệ, họ chưa bao giờ dùng thử 1 món ăn "kỳ cục" như vậy.

Suốt 1 thời gian dài chúng tôi ở Gorodets đã diễn ra rất nhiều cuộc hẹn hò và nhảy nhót vào buổi tối. Khi chiều xuống dần và chúng tôi ko phải tập quân sự, chúng tôi lại đồng thanh hát những bài ca trong căn lán lính theo sáng kiến của ai đó. 1 bài hát về tiền tuyến, nếu được hát lên ngay tại đó, vào lúc đó, và nếu lại do chính những người lính thể hiện, thì nghe thật cảm động, thậm chí theo cách nào đó giống 1 bài hát rửa tội. Mọi người hát mới thiết tha làm sao! Chúng tôi ko có quản ca hay người lĩnh xướng, nhưng chúng tôi có đủ giọng bass lẫn tenor, giọng chính lẫn giọng bè. Chúng tôi hát rất chuyên nghiệp khiến dân làng kéo tới tụ tập quanh lán nghe buổi hoà nhạc ngẫu hứng mà nước mắt rưng rưng. Chúng tôi ko hát những bài ca Belorussia vì chỉ biết mỗi 2 bài nhạc nhảy Belorussia, nhưng chúng tôi hát rất nhiều bài ca Ukraina về những người Cô dắc Zaporozhie hay đại loại thế. Thường thường chúng tôi hát những bài ca Nga, trong đó có 1 bài về Yermak mà chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đoạn "và quân đội ta, dữ tợn trong chiến đấu, ngã xuống mà ko buông kiếm". Chúng tôi cũng thường hát bài ca ưa thích "Đừng lảng vảng quanh tao, lũ quạ đen".

Hình như những bài hát này phù hợp nhất với các shtrafnik và tâm trạng của họ. Chúng tôi mất nhiều thời gian để tổ chức tiểu đoàn ở Gorodets, vì vậy chúng tôi hát rất nhiều bài, những cô gái địa phương tô điểm thêm những bài hát đó bằng giọng cao và thanh. Tất cả những cái đó làm chúng tôi thêm gần gũi, những buổi khiêu vũ và hẹn hò phần lớn kết thúc với 1 đám cưới. Những đám cưới chẳng có gì, nhưng nó đã diễn ra, thực sự diễn ra! Nhiều phụ nữ đã ko hề nhìn thấy đàn ông suốt 1 thời gian dài, và tiếc thay, chỉ có Chúa mới biết chúng tôi còn sống thêm được bao lâu. Đó là lý do khi chúng tôi nhận lệnh lên tàu ngay lập tức, chúng tôi có thể tưởng tượng ra bao nhiêu nước mắt rơi nơi những người dân địa phương. Ko chỉ những cô gái trẻ mà cả nhưng phụ nữ lớn tuổi cũng khóc, họ đã quen với việc được chúng tôi giúp đỡ việc nhà và cảm thấy tiếc cho mối quan hệ nồng ấm với những chú lính "rắc rối". Mặc cho tất cả những chuyện đó, việc lên tàu vẫn diễn ra ko gặp rắc rối gì, và đến tối con tàu rời ga trên tuyến đường ray mới sửa. Vậy là chúng tôi đã được tái bố trí gần như từ cực xa nhất của cánh phải Phương diện quân sang cánh trái, tức là phía tây nam vùng mới giải phóng thuộc Belorussia.

Chuyến tàu chạy nhanh hết mức mà tuyến đường ray mới sửa có thể chịu đựng được. Chúng tôi chú ý tới cách bọn Đức phá huỷ đường ray trong quá trình rút lui. Tôi nhớ có 2 phương pháp khá bất thường, 1 là kéo theo toa tàu cuối 1 dụng cụ giống cái cày khổng lồ để phá các thanh tà vẹt, 2 là lắp vào đường ray những dụng cụ gì đó khiến cho cả đoạn ray dựng ngược lên vuông góc với mặt đất, trông như 1 cái hàng rào khổng lồ dài nhiều km.

Trước hết, chúng tôi vượt qua Gomel, Rechitsa và Kalinkovichi. Sau đó con tàu đi xuyên qua Ukraina, qua Ovruch, Sarny và tới Manevichi. Qua ga này thì đường ray chưa được khôi phục, vì vậy chúng tôi phải tiếp tục hành quân bộ, chỉ có ban chỉ huy tiểu đoàn và các đơn vị hỗ trợ là có xe tải. Trong 3 ngày chúng tôi đã hành quân được 100km hướng về phía thị trấn Ratno thuộc Ukraina, hiện vẫn còn nằm trong tay quân Đức. Như vậy là Phương diện quân Belorussia 1 đã đánh chiếm vùng tây bắc Ukraina trên cánh trái. Tại đó chúng tôi được giao 1 khu vực phòng thủ trên sông Vyzhevka, thay chỗ cho 1 trung đoàn bộ binh cận vệ.

Bản thân con sông tuy hẹp nhưng vùng đầm lầy bờ sông cũng đủ tạo ra 1 vùng phân tuyến rộng gần 1km. Các chiến hào đã được gia cố cho phòng thủ và được những người lính tiền nhiệm của chúng tôi đào từ mùa đông trước. Chúng có tầm quan sát tốt, nằm bên rìa 1 rừng cây non. Vậy là chúng tôi đã được bố trí vào Sư 38 Bộ binh Cận vệ Lozov / Tập đoàn quân 70, chỉ huy Tập đoàn quân là tướng V. S. Popov chứ ko còn Gorbatov nữa.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:36:48 PM

3
''LŨ KẺ CƯỚP CỦA ROKOSSOVSKI''



Vậy là cuối tháng 5/1944, tiểu đoàn tôi đã được tái bố trí tại khu vực sát thị trấn Ratno thuộc Ukraina, nơi vẫn còn nằm dưới ách chiếm đóng của bọn Đức. Thị trấn này ở phía bắc thị trấn Kovel'' cũng thuộc Ukraina và cũng đang nằm trong tay bọn Đức. Chúng tôi tới sông Vyzhevka thay thế cho 1 đơn vị được gửi sang 1 khu vực mặt trận khác. Đại đội 1 của tôi trấn giữ cánh phải tiểu đoàn, đại đội trưởng là đại uý Ivan Vladimirovich Matvienko, đại đội phó là 1 chàng trai rất trẻ và đầy nhiệt huyết, thượng uý Ivan Georgievich Yanin. Tất cả các trung đội trưởng đều trên dưới 20 tuổi, tôi chỉ huy trung đội 3 và do đó phụ trách cánh trái đại đội. Trung đội 2 chỉ huy là trung uý Fuad Bakirovich Usmanov, 1 "người Bashkiria", như cách anh ta tự gọi mình, bố trí bên cánh phải của tôi. Chúng tôi gọi anh theo tên Nga là Fedya hay Todd. Trung đội 1 do trung uý Dmitri Bulgakov chỉ huy, nhưng tôi ko nhớ tên lót của anh. 2 trung đội trưởng nói trên đều lớn hơn Ivan Yanin và tôi độ 2 - 3 tuổi.

Mặc dù đã có 1 thời gian dài tổ chức lực lượng, các trung đội và đại đội vẫn còn thiếu binh sĩ tạm thời, có lẽ do khu vực này ko có các chiến dịch quy mô lớn dẫn tới tình trạng thất nghiệp của các toà án binh. Số "người bị vây" vì thế cũng ít. Tiểu đoàn tôi được giao 1 khu vực phòng thủ rất rộng, 1 shtrafnik nói đùa bằng thứ thổ âm Cáp ca dơ nặng trịch: "1 công dân Soviet cho mỗi km chiến tuyến!" Tất nhiên điều này là phóng đại, nhưng thay vì mỗi người bố trí cách nhau 8 - 10 bước như cẩm nang bộ chiến đã ghi, quân của tôi bố trí người này cách người kia 50 - 60m. Chỉ khi nhận được quân tăng cường khoảng cách này mới giảm đi 1 chút. Thời gian chúng tôi tổ chức đội hình và huấn luyện chiến đấu cũng được dành để tìm hiểu thêm về binh lính. Có lẽ nhờ đó tôi nhớ thêm được tên nhiều người mặc dù tôi ko nhớ họ trong phần lớn trường hợp. Hy vọng mọi người tha thứ nếu tôi chỉ gọi họ bằng tên trống ko trong hồi ký. Theo bảng phân công, mỗi trung đội trưởng có 2 phó được chỉ định theo lệnh của tiểu đoàn trưởng trên cơ sở giới thiệu của trung đội trưởng và đại đội trưởng.

1 trong 2 phó của tôi vốn là 1 trung đoàn trưởng dày dạn kinh nghiệm, đã chiến đấu hơn 2 năm nhưng mắc sai lầm trong 1 trận đánh, nguyên trung tá Sergey Ivanovich Petrov. Phó thứ 2 vốn là sĩ quan chỉ huy hậu cần 1 sư đoàn phạm tội, cũng là nguyên trung tá tên là Shul''ga, tôi ko nhớ họ. Tại trung đội tôi ông có trách nhiệm cung cấp đạn dược, lương thực và mọi thứ cần thiết cho chiến đấu. Ông làm công việc của mình 1 cách khôn khéo, có nhiều sáng kiến và rất tinh thông trong việc vận chuyển, giao nhận và hậu cần. Phải nói thật là may mắn cho tôi, 1 trung uý 20 tuổi chưa có kinh nghiệm, 1 trung đội trưởng tép riu, mà lại có được 2 vị trung tá dầy dạn làm phó, mặc dù họ chỉ bị giáng chức tạm thời. Tôi đã hy vọng tận dụng được kinh nghiệm sống và chiến đấu của 2 người họ, cả 2 đều lớn tuổi hơn tôi nhiều, đó có lẽ là lý do chính tôi đề cử họ. Tiểu đội trưởng thứ nhất của tôi là cựu thiếu tá pháo binh, cao to, đẹp trai, khoẻ mạnh, có cái tên lạ nên dễ nhớ Puzyrei. 1 cựu đại uý biên phòng là chỉ huy tiểu đội 2, mặt mỏng quẹt, có vẻ tốt bụng và trí tuệ kiểu cổ điển nhưng đôi mắt rất sắc và lúc nào cũng ánh lên sự sắt đá. Tiểu đội trưởng thứ 3 là đại uý thiết giáp Lugovoi, có bộ ria kiểu vệ binh thế kỷ 19, người lùn tịt nhưng rất nhanh và lúc nào cũng sẵn sàng hành động.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:36:59 PM

Giao liên của tôi, cũng là người chăm lo sự an toàn cho tôi là 1 cựu trung uý còn rất trẻ so với hầu hết shtrafnik khác nên mọi người chỉ gọi anh ta bằng tên, Zhenya. Đó là 1 người lính cực kỳ nhanh nhẹn, luôn có mặt mọi nơi mọi lúc. Cậu ta bị tống vào tiểu đoàn trừng giới vì phóng quá tốc độ trên chiếc mô tô Đức chiến lợi phẩm và cán phải 1 bé gái 7 tuổi làm nó bị thương nặng tại ngôi làng nơi đóng xưởng sửa chữa của cậu. Mức án phải nhận là 2 tháng phục vụ trong tiểu đoàn trừng giới. "Tham mưu trưởng" ko chính thức của tôi, đúng hơn là văn thư, là cựu đại uý Hạm đội Bắc Hải, tên là Vinogradov. Anh ta thông thạo tiếng Đức nhưng thật lạ lùng, có vẻ như chính sự hiểu biết cao về ngôn ngữ của kẻ địch đã đưa anh vào tiểu đoàn trừng giới. Điều duy nhất tôi ko hiểu là tại sao anh bị thiên chuyển quá xa như vậy, từ Hạm đội Bắc Hải đến Phương diện quân Belorussia. Anh ta vốn chỉ huy 1 trạm sửa chữa thiết bị vô tuyến nào đó của hải quân, khi kiểm tra lại các radio mới sửa anh đã chuyển sóng sang nghe bài phát biểu của Goebbels, Bộ trưởng tuyên truyền Đức. Vinogradov ko nghĩ gì tới hậu quả sẽ xảy ra và bắt đầu dịch rất to ra tiếng Nga cho các thuộc cấp đang có mặt nghe, ai đó đã báo cho công tố viên hoặc đặc vụ Hải quân, kết quả là Vinogradov nhận bản án 2 tháng tại tiểu đoàn trừng giới vì tội "tuyên truyền cho địch".

Tất nhiên, quân luật rất nghiêm và sự nghiêm khắc đó là chính đáng. Nhưng trong trường hợp này sự nghiêm khắc của luật pháp ko đóng vai trò chính mà là áp lực trong những lời tố cáo và sự nghi ngờ trong giới sĩ quan cao cấp. Nhiều người đã phải chịu uất ức vì chuyện này. Thường là họ chỉ phạm 1 số sai lầm hoặc làm hỏng việc gì đó, thực ra làm gì mà chẳng có sai lầm. Ko may cho họ, luật lệ phải tìm ra kẻ giơ đầu chịu báng, bỏ qua thực tế về hoàn cảnh và đặc thù của người vi phạm. Câu chuyện của Vinogradov chỉ là 1 ví dụ. Tôi dùng anh ta làm văn thư vì anh ta viết lách rất hoàn hảo và cũng có thể làm phiên dịch, mặc dù tôi cũng biết tiếng Đức khá tốt từ hồi còn đi học.

Chúng tôi bố trí tại khu vực trước đây do 1 đơn vị cận vệ trấn giữ. Họ để lại cho chúng tôi những tuyến hào được đào đắp tốt, thành được gia cố bằng cọc gỗ hoặc ván. Khu vực trung đội tôi phụ trách cũng có hầm rộng rãi, mái gia cố 3 lớp gỗ súc, nó đã đứng vững trong suốt thời gian tôi ở đây dù nhiều lần bị trúng đạn pháo trực tiếp. Những cây thông xung quanh đã bị đạn pháo phạt cụt hết. Tôi ở cùng hầm với 2 trung đội phó, văn thư và giao liên. Ban chỉ huy đại đội đặt tại khu vực trung đội 2, cũng trong 1 cái hầm tương tự.

Như tôi đã mô tả vắn tắt, ko có bãi mìn trước mặt chúng tôi nhưng ngay sau các chiến hào là cả 1 rừng mìn bẫy treo trên các thân cây đổ. Chúng tôi lập tức đánh dấu những chỗ có mìn trên bản đồ, đó từng là 1 phần của rừng cây non bị chặt hoặc bị đổ, giờ lấm chấm vết đánh dấu những quả mìn chống bộ binh được nguỵ trang. Như tôi biết sau này, 1 số mìn là loại PMD-6 chứa 200g thuốc nổ TNT, còn lại là loại chứa 74g TNT. 1 bãi mìn bẫy đã được đặt trong mùa đông, các quả mìn được sơn trắng nguỵ trang nên rất dễ dàng phát hiện vào mùa hè. Bãi mìn thứ 2 tách biệt với bãi 1 bằng 1 con đường và được đặt sau khi tuyết đã tan. Các quả mìn được sơn màu kaki và rất khó nhận ra trong cỏ. Tôi đã có 1 ý định mạo hiểm là chuyển các quả mìn ra khu phân tuyến trước mặt đại đội, ý định đó càng tăng thêm khi tôi thấy tuyến phòng ngự quân ta có vẻ quá yếu. Tôi ko có cựu công binh chiến đấu nào trong trung đội, nhưng đã được học về cả mìn Nga lẫn mìn Đức khi còn ở Học viện, từ A đến Z. Vì thế tôi quyết định tự làm. Tôi ko muốn lôi kéo shtrafnik nào vào việc nguy hiểm này. Như người ta thường nói: "1 công binh chiến đấu chỉ có thể nhầm 1 lần trong đời". Thú thực là tôi chưa từng thấy câu nào đúng hơn thế.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:37:08 PM

Ko hiểu sao tôi chưa từng nghĩ đến chuyện bãi mìn này ko chỉ được đánh dấu trong bản đồ của chúng tôi mà trong cả bản đồ của tiểu đoàn trưởng, sư trưởng và chỉ huy Tập đoàn quân vì đây là 1 khu vực phòng thủ quan trọng. Tất nhiên bãi mìn sau lưng ko được đặt nhằm mục đích ngăn các shtrafnik bỏ chạy. Tôi phải nói rõ là chưa có trường hợp nào chúng tôi phải đặt đơn vị chặn hậu sau tiểu đoàn như 1 số sử gia xấu bụng ngày nay viết. Điều đó hoàn toàn ko cần thiết. Tôi dám khẳng định rằng các tiểu đoàn trừng giới dành cho sĩ quan đều là những ví dụ điển hình về tinh thần vượt khó trong mọi tình huống chiến trận.

Tất nhiên, tôi bắt đầu công việc "công binh chiến đấu" từ bãi mìn trắng. Suốt ngày tôi tháo gỡ chúng và đêm đến thì đặt lại ở phía trước hào chừng 30 - 50m, phủ lên 1 lớp đất nguỵ trang. Khi làm việc này, tôi luôn nhắc nhở mình 1 quy tắc vàng mà đại đội trưởng hồi còn ở Học viện, thượng uý Litvinov, đã dạy: "Nếu đã sợ thì đừng làm! Còn nếu làm thì đừng sợ!" 1 số quả mìn khá lạ lẫm với tôi, chúng là 1 hộp gỗ chứa 1 chai thuỷ tinh bẹt đầy thuốc nổ TNT bên trong, kíp nổ gắn trực tiếp vào cổ chai, cái chai được bọc rất kỹ bằng giấy nến. Thứ giấy này rất đắt, tôi đã dùng nó để viết thư khi được cho phép. Lúc đó tôi đang trải qua 1 giai đoạn lãng mạn với việc sáng tác những bài thơ tuổi teen, đặc biệt là cho cô gái tôi yêu. Thứ giấy gỡ ra từ mìn cực kỳ hữu dụng với tôi.

Những người vợ chờ chồng ngoài mặt trận là vấn đề cực kỳ phức tạp những năm đó. Có những trường hợp đáng tiếc như Simonov đã viết trong "Thư ngỏ gửi người phụ nữ ở thị trấn Vichuga". Bức thư này là để trả lời bức thư trơ trẽn mà người đàn bà này gửi cho chồng, 1 trung uý ngoài mặt trận. Các sĩ quan vẫn gửi lương qua ngân hàng về cho gia đình. Người đàn bà này viết mình ko cần số tiền lương đó nữa vì đã có người khác, 1 sĩ quan giàu có và đẹp trai hơn. Bức thư gây shock đó đã ko đến được tay người trung uý xấu số, anh đã hy sinh trước đó. Rõ ràng sự tàn khốc của chiến tranh và sự kìm nén cảm xúc kéo dài đôi khi làm người ta hèn hạ đi tới mức bản năng. Nhiều điều khó chịu phải đối mặt trong những năm đó, có cả nạn trộm cướp. Những kẻ mất tư cách đó có 1 lời bào chữa: "Chiến tranh sẽ xoá sạch mọi tội lỗi" hoặc "Ko cần biết - đó là chiến tranh!" Đó là những chuyện đã xảy ra và người ta ko thể từ chối ko viết lại. Chúng tôi cũng có 1 trường hợp tương tự như người đàn bà Vichuga của Simonov. 1 sĩ quan trên đường trở lại mặt trận sau khi trị thương, anh quyết định tạt qua nhà thăm vợ và bắt gặp vợ cùng với người tình. Anh ta bắn chết cả 2 và bị tống vào tiểu đoàn trừng giới của tôi.

Số giấy gỡ từ mìn cho tôi có cái để viết ra những bài thơ, trong khi phần khó hiểu còn lại, chai thuỷ tinh chứa TNT, cũng trở nên ngày 1 gần gũi với tôi. Tiểu đội trưởng dưới quyền tôi, Omelchenko, được lệnh hỗ trợ tôi và nhanh chóng học được cách đặt và gỡ mìn, chúng tôi trở thành 1 tổ hợp tác lao động. Tôi tìm kiếm và gỡ những quả mìn trong bãi mìn đằng sau lưng, trong khi cậu ta cài chúng ra trước chiến hào! 1 thời gian sau, khi chúng tôi đi quanh khu vực phòng thủ, chúng tôi phát hiện ra 1 đống đồ hậu cần bị bỏ quên trong 1 chuồng ngựa gồm mìn vướng nổ POMZ-2 và mìn chống bộ binh. Tôi nghĩ chứ viết tắt POMZ có nghĩa là "mìn nổ mảnh chống bộ binh dành cho các công trình phòng ngự". Những quả mìn trông giống những quả lựu đạn F-1, bên trên có 1 sợi dây dài độ 20 - 30cm còn sợi dây thép thì được căng ra nối với kíp nổ. Khi ai đó chạm vào sợi dây thép quả mìn sẽ nổ. Đặt loại mìn này cần chú ý, cẩn thận và chính xác hơn nhiều. Nó nguy hiểm hơn hẳn các loại mìn chống bộ binh thông thường. Tuy nhiên tôi quyết định "tại sao phải bỏ phí số mìn này" và bắt đầu lên kế hoạch cài chúng! Tôi tự cài mìn vì ko dám tin tưởng vào Olmechenko mặc dù anh ta đã có nhiều kinh nghiệm. Nếu bị dính mìn sẽ chỉ có mình tôi chết!

1 thời gian sau, đại đội trưởng của tôi, 1 sĩ quan lớn tuổi đầy kinh nghiệm, nói khéo để tôi hiểu rằng tôi ko có quyền gỡ bỏ 1 bãi mìn đã được đặt theo lệnh của cấp cao hơn. Vì thế tôi nói với đại đội trưởng trong báo cáo gửi lên tiểu đoàn sẽ chỉ nói rằng chúng tôi đang đặt loại mìn POMZ trước các chiến hào, đại đội trưởng chấp nhận khiến tôi cũng phải ngạc nhiên. Tuy nhiên, ông quyết định phải lập bản đồ chi tiết về bãi mìn trước các chiến hào, chỉ rõ từng quả, từng loại mìn. Mọi thứ tiến triển tốt đẹp, trong khi tôi vẫn làm việc với những quả mìn "trắng". Chúng tôi đã đặt được 200 trái mìn trắng vào vị trí mới, nguỵ trang chúng mà ko gặp sự cố nào. Tôi cũng đã cài được độ 1/2 số mìn POMZ mới tìm thấy, vậy là đã có 1 bãi mìn dày đặc trước các vị trí quân ta.

Sau khoảng 1 tháng từ lúc đến vị trí phòng thủ mới, chúng tôi đã nắm vững địa hình tại đây. Chúng tôi tìm thấy nhiều bụi quả việt quất chín mọng cách chiến hào ko xa, nó nằm ngay sau bãi mìn treo đằng sau lưng, và nhiều người trong chúng tôi đã chạy tới đó khi được nghỉ để bù vào lượng vitamin thiếu hụt sau mùa đông lạnh lẽo. Các đơn vị hậu cần tìm thấy nấm trong rừng, vì thế súp nấm trở thành món ăn thường xuyên. Đó thật là 1 thực đơn rất tốt trong thời chiến! Sau này tôi nghĩ lại trong giai đoạn phòng ngự cố định đó các đơn vị hậu cần đã làm việc rất tốt.

Các đội hậu cần cả của sư đoàn và tập đoàn quân đều làm việc tốt chưa từng thấy, chúng tôi luôn nhận được thức ăn đúng lúc. Các sĩ quan được nhận khẩu phần bổ sung, thậm chí thỉnh thoảng có cả bơ đóng hộp của Mỹ và cá hộp, thuốc lá thì khỏi nói. Sĩ quan được phát thuốc lá Belomorkanal, tôi được phát 1 gói thuốc loại nhẹ để hút tẩu. Các shtrafnik được ghi trong danh sách những người hút thuốc được phát mahorka, ai ko hút thuốc được nhận thêm đường. Tôi thậm chí đã thử hút mahorka bằng tẩu, kết quả thật ấn tượng, tôi gần như mất tiếng sau cuộc thử nghiệm. Tất cả sự dễ thở này làm tôi nhớ lại tình cảnh thiếu thuốc hồi ở Học viện vùng Viễn Đông. Vậy mà ở đây, trong những chiến hào phòng thủ cố định, chúng tôi đã sống rất tốt. Các đơn vị hậu cần thậm chí còn tổ chức tắm hơi dã chiến được 2 - 3 lần cùng với thay đổi quân phục. Chúng tôi cũng cực kỳ sung sướng với thời tiết, nó khô và ấm, thơm phức mùi thông.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:37:18 PM

Ko còn những trận pháo kích hàng ngày của bọn Đức, ko có mọi hoạt động quân sự thường xuyên khác, có thể xem việc đứng chân trong vị trí phòng thủ này của chúng tôi giống như 1 kỳ nghỉ ngoài dự liệu, mặc dù có hôm trời nóng ko chịu nổi. 1 trong các shtrafnik của tôi đã bị say nắng, chúng tôi nhanh chóng làm anh ta tỉnh lại và tôi nhớ lại trường hợp xảy ra với mình trong 1 buổi tập quân sự hồi tháng 8/41, khi còn ở trung đội trinh sát tại Viễn Đông. Đó cũng là 1 ngày hè nóng nực, khi tôi đang cố nhấc cao chân khi tập hành quân theo kiểu diễu binh thì chợt thấy mọi thứ hoá thành 2. Tôi mất thăng bằng và ngã khỏi hàng. Những người lính khác khiêng tôi vào chỗ có bóng râm, đổ nước lạnh vào đầu và ngực, cho tôi uống thứ nước gì đó cực kỳ mặn. Tôi lập tức nhớ lại rằng sáng hôm đó tôi đã ko ăn viên muối mà trung đội trưởng đã dặn phải nuốt trước khi uống trà. Thay vì vậy, chúng tôi tháo thuốc ra khỏi điếu thuốc lá rồi nhét muối vào. Đến lúc đó tôi mới hiểu loại muối này được đóng viên để nuốt mà ko cảm thấy mặn, đây là cách thông thường nhưng hữu ích để ngăn say nắng. Giờ đây tại mặt trận Belorussia, khi những người lính dày dạn kinh nghiệm của tôi vây quanh, tôi lệnh cho tất cả các tiểu đội trưởng nghiêm túc tuân thủ quy trình bổ sung muối trong bữa sáng. Sau đó chúng tôi ko còn gặp trường hợp say nắng nào nữa trong suốt quá trình phòng thủ lẫn các chiến dịch tấn công đến kiệt sức sau này. Phương pháp đó thật hữu dụng!

Nhiều năm sau chiến tranh, rừng thông xanh thơm ngát vẫn còn mãi trong ký ức của tôi về giai đoạn phòng thủ và bãi mìn treo khốn nạn đó. Trở lại thời điểm tháng 6/44, tôi đã bắt đầu chuyển sang bãi mìn xanh. Nó khó phát hiện hơn rất nhiều và sau vài chục lần gỡ mìn vận may của tôi đã hết, tôi làm 1 trái mìn nổ tung, đó là ngày 26/6. Tôi nhớ rất chính xác là vào khoảng giữa trưa, tôi đi kiểm tra các vị trí của trung đội và thấy mọi thứ vẫn ổn. Tôi ăn vài quả việt quất ngon lành rồi tiếp tục công việc thường ngày tại bãi mìn. Lúc đó tôi đã gỡ được mấy quả mìn để dưới 1 gốc cây. Khi tôi bước sang bên, tôi cảm thấy như mình bay lên cao và nghe thấy có tiếng nổ bên dưới. Quá trình bay lượn đó diễn ra rất ngắn ngủi, gần như ngay lập tức tôi thấy mình nằm thẳng cẳng trên mặt đất, mặt úp xuống. Cảm giác đầu tiên của tôi là chân trái đang bốc cháy như địa ngục! Sau đó tôi nghĩ tôi ko còn chân! Tôi quyết định lật người lại xem có mất cái gì ko và khi nhấc đầu lên, tôi sợ cứng cả người! 1 quả mìn nằm cách mắt tôi chỉ độ 10 - 15cm! Chỉ có phép mầu mới khiến đầu tôi ko kích hoạt quả mìn đó. Đó chính xác là thời điểm tôi có sợi tóc bạc đầu tiên! Tôi lấy lại bình tĩnh và bắt đầu gỡ quả mìn 1 cách hầu như tự động. Tôi cẩn thận gỡ kíp nổ và tháo sợi dây thép buộc quả mìn vào thân cây thông. Kinh nghiệm là điều thật tuyệt vời! Lúc đó tôi đã gỡ hơn 200 quả mìn. Sau đó tôi cẩn thận nhìn quanh và nhận ra 1 quả mìn nữa ngay cạnh. Chỉ sau khi gỡ nốt nó tôi mới dám lật người lại và thấy chân mình vẫn còn, kể cả bàn chân, có điều nó gập ngược vào trong 1 góc 90 độ. Tôi thử cử động ngón chân và nó có hoạt động, điều đó có nghĩa là chân và bàn chân tôi vẫn còn dính vào người!

Tôi nhận ra chân mình ko bị thổi bay có lẽ chỉ bởi tôi đã ko dẫm thẳng lên quả mìn. Hình như tôi đã dẫm ủng vào 1 cành cây nằm dưới đất làm kích hoạt quả mìn, nó nổ cách tôi khoảng 30cm. Tiểu đội trưởng Puzyrei nghe thấy tiếng nổ lao đến chỗ tôi mà ko thèm nhìn xuống chân, kêu lên: "Trung uý, còn sống ko?" Tôi hiểu anh ta có thể đạp phải mìn bất cứ lúc nào chứ ko may mắn như tôi nên hét to hết sức có thể: "Dừng lại! Đừng cử động! Tôi sẽ tự ra!" Bằng cách nào đó tôi đã đứng dậy được và bắt đầu bước ra phía con đường, lê cái chân bị thương đi nhưng ko có cảm giác đau. Sự đau đớn chỉ đến sau này. Tôi cảm thấy có chất lỏng lép nhép trong ủng, hiểu ngay rằng đó là máu. Đó là lần bị thương đầu tiên của tôi!

Phải mất nhiều cố gắng tôi mới tới được con đường, Puzyrei và giao liên Zhenya đỡ lấy tôi, đưa vào hầm và cắt bỏ đôi ủng dài. Họ băng chân tôi bằng bộ đồ cứu thương rồi lấy xe ngựa chở tôi về trạm phẫu tiểu đoàn. Chúa mới biết họ kiếm đâu ra cái xe! Trạm phẫu nằm gần chỗ chúng tôi, cạnh sở chỉ huy tiểu đoàn trong 1 ngôi làng có cái tên lạ nên dễ nhớ Vydranitsa. Tối hôm đó, sau khi được băng bó cẩn thận, tôi được đưa về trạm xá tiểu đoàn bằng xe ngựa. Tại đó họ tiêm cho tôi 2 mũi, 1 giảm đau và 1 chống uốn ván rồi đóng nẹp chân cho tôi. Đó là lúc tôi thực sự cảm thấy đau! Người ta sát trùng vết thương rồi băng cùng với 1 thanh nẹp cứ như thể chân tôi đã gãy. Giờ tôi mới nhận ra sự đáng sợ của loại mìn trong chai thuỷ tinh. Các bác sĩ lấy ra những mảnh thuỷ tinh lớn từ vết thương của tôi, nhưng vẫn còn những mảnh nhỏ, chúng ko thể phát hiện kể cả bằng chụp X quang. Những mảnh thuỷ tinh này chỉ tự rò rỉ dần ra khiến vết thương rất lâu lành.

Vài ngày sau khi bị thương tôi bắt đầu tập đi bộ với 1 cái nạng. Đầu tiên là những bước xiêu vẹo, đau đớn nhưng càng ngày tôi càng bước mạnh mẽ và chắc chắn hơn. Tôi sớm bỏ được nạng và chuyển sang dùng 1 cây gậy chống và vài tuần sau bỏ luôn gậy khi trở về đơn vị. Sau 1 tuần điều trị tại trạm xá tiểu đoàn, tôi đã xin các bác sĩ cho về lại đơn vị, tôi gào khóc xin về khi thấy có 1 bóng trắng lướt qua đầu! Osobist (sĩ quan phản gián NKVD - Maseo) của tôi, thượng uý NKVD Gluhov, cũng tới chỗ tôi và thẩm vấn rất kỹ. Ông ta muốn biết ai đã quyết định rời bãi mìn treo trong rừng? Tôi nhận trách nhiệm là đã "thanh toán" bãi mìn này trong khu vực phòng thủ của mình và đã làm điều đó mà ko có sự cho phép của sĩ quan cấp trên. Trạm xá tiểu đoàn cho tôi ra viện, giấy xuất viện ghi: "Xuất viện theo đề nghị khẩn khoản của bệnh nhân, điều trị ngoại trú tại đơn vị".

Trong khi tôi ko ở đơn vị, 1 sự cố bất ngờ đã xảy ra. Phụ tá của tôi trong hoạt động công binh chiến đấu Omelchenko, do đã có 1 số kinh nghiệm nên quyết định tiếp tục đặt những quả mìn POMZ mà ko có tôi. Anh ta chết vì vô tình đụng phải kíp nổ 1 quả mìn chính anh vừa đặt trong đêm. Thật ko may, quả mìn hoạt động quá hiệu quả, đúng là 1 người công binh chiến đấu chỉ "phạm 1 sai lầm duy nhất" trong đời. Sai lầm của Omelchenko là sai lầm cuối cùng trong đời anh. Các bạn tôi trong sở chỉ huy tiểu đoàn kể họ đã thảo luận nhiều lần xem làm cách nào để cứu tôi khỏi toà án binh. Họ muốn ngăn tôi từ 1 sĩ quan cơ hữu tiểu đoàn trừng giới thành 1 shtrafnik thực thụ.

Vasily Afanasievich Lozovoi, tham mưu trưởng tiểu đoàn, sau này kể cho tôi nghe kombat (tiểu đoàn trưởng), lúc đó vẫn còn là đại tá Osipov, đã đích thân lên nói chuyện với chỉ huy Tập đoàn quân 70, tướng V. S. Popov. Ông khen ngợi lòng dũng cảm của 1 người trẻ tuổi như tôi và đề nghị tướng quân ko trừng phạt. Ông nói: "Tay trung uý trẻ này đã có được rất nhiều kinh nghiệm, và sẽ ko bao giờ còn ra 1 quyết định non nớt, thiếu suy nghĩ nào nữa!"

1 nhân tố khác đã cứu tôi là 1 đêm 1 nhóm trinh sát Đức đã đi vào bãi mìn. Có lẽ chúng định thâm nhập các chiến hào quân ta để bắt 1 tù binh nhằm tìm hiểu xem đơn vị mới nào đang chịu trách nhiệm khu vực mặt trận này. Có vẻ như bãi mìn của tôi đã gây cho chúng 1 bất ngờ lớn, bằng chứng là những "vị khách" Đức bỏ lại 1 chiếc ủng Đức đầy máu và 1 số trang bị khác!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:37:30 PM

Vết thương "may mắn" của tôi xảy ra trong giai đoạn mặt trận yên tĩnh. Thỉnh thoảng trong phòng ngự có những lúc rỗi rãi, các sĩ quan lại nói chuyện với các shtrafnik về kinh nghiệm chiến trường. Đó là 1 kiểu trao đổi kinh nghiệm, 1 cách nâng cao kiến thức quân sự và cũng là để hiểu biết lẫn nhau hơn. Tôi còn nhớ lúc đó chúng tôi đã kể đủ loại truyện cười và giai thoại, 1 số phải nói là tục, thậm chí rất tục tĩu nữa là khác. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng hát những bài phổ biến, xuyên tạc lời ca và nhấn giọng vào những đoạn ngang trái cuộc đời. Thí dụ, bài hát lãng mạn nhiều người biết "Đêm đen" bị chúng tôi hát thành "và bạn se sẽ bỏ sulphidine vào nôi em bé" thay vì lời đúng là "và bạn se sẽ lau nước mắt bên nôi em bé". Sulphidine là loại thuốc thường dùng để chữa bệnh lậu. Những lúc đó chúng tôi thật là vô lại!

Tôi nhớ Misha Goldstein, tên thật ghi trong thẻ Đoàn viên là Musya. Anh từng tham chiến trận Moscow và Stalingrad, rất tự hào vì đã được nhiều huân huy chương và nhiều vết sẹo đầy đầu. Anh ta thích kể chuyện cười về dân Do Thái, chuyện cười về mặt trận ở Tashkent, về tay bắn tỉa với cây súng cong, và về 2 người trả lời mệnh lệnh của trung đội trưởng: "Tiến lên, những chú chim ưng!" rằng: "Chúng tôi là sư tử, ko phải chim ưng." Những chuyện cười đó ko bị chúng tôi cấm đoán tí nào, chúng tôi lắng nghe, thậm chí dù cho Misha ko phải 1 người kể chuyện hay, và cảm thấy khoái chí với những câu chuyện đùa. Bình thường Misha là người rất vui tính, nhảy giỏi và thổi harmonica hay. Đoàn xe hậu cần của tiểu đoàn chia cho đại đội tôi 1 xe ngựa để chở đồ dùng cá nhân cho các sĩ quan. Đó là nơi chúng tôi cất giữ cái kèn harmonica của Misha, máy quay đĩa của tôi cùng bộ sưu tập đĩa hát và các tư trang khác ko thể nhét vào balô. Chiếc máy quay đĩa thường được chơi trong những lúc rỗi rãi. Trong những giờ phút yên lặng buổi tối chúng tôi thậm chí còn tổ chức "hoà nhạc" qua điện đài để cho các cô điện đài viên sư đoàn nghe.

Từ câu chuyện của các sĩ quan dày dạn kinh nghiệm, tôi biết rằng vụ nổ mìn may mắn của mình ko phải là trường hợp đặc biệt cho lắm, đã có nhiều trường hợp "may mắn" giống như vậy. 1 câu chuyện của đại đội trưởng, đại uý Matvienko, gây ấn tượng mạnh và tôi còn nhớ đến giờ. 1 lần ông bị 1 tên Đức to lớn phục kích, hắn túm lấy ông kéo về bên kia chiến tuyến. Bằng cách nào đó Ivan đã lên gối được 1 phát vào giữa 2 chân tên trinh sát Đức, hắn bị bất ngờ, ngã lăn ra và trong 1 giây buông lơi "con mồi". Ngay tức khắc Ivan vùng ra, đấm thẳng vào giữa 2 mắt hắn và chạy mất.

1 shtrafnik của tôi, cựu thiếu tá Avdeev, hoá ra từng chỉ huy đại đội trừng giới độc lập của Tập đoàn quân. Đại đội trừng giới độc lập ko chỉ gồm các cựu sĩ quan như tiểu đoàn trừng giới của tôi mà còn có lính thường và cựu tù hình sự được trao cơ hội lấy công chuộc tội tại mặt trận. Avdeev kể cho chúng tôi chuyện vì sao chính ông lại bị tống vào tiểu đoàn trừng giới. Đại đội của ông đã phải tiến công trong những điều kiện cực kỳ khó khăn và sau 3 ngày đánh nhau trong 1 ngôi làng lớn ông đã mất hơn nửa đại đội vốn có khoảng 500 người. Viên thượng sĩ phụ trách văn thư đại đội đã "quên" báo cáo thiệt hại này khi đại đội đã được nghỉ và cho về tuyến sau. Vậy là người ta gửi tới đồ ăn và rượu cho toàn đại đội 1 cách rất hào phóng kể cả với số lượng ban đầu. Tất nhiên ko ai muốn trả lại, đại đội trưởng Avdeev quyết định tổ chức 1 bữa tối hoành tráng để tưởng niệm những người hùng đã ngã xuống và trao huân huy chương cho những người được khen thưởng. Bản thân Avdeev cũng được Huân chương Cờ Đỏ hạng 3, các sĩ quan còn sống sót khác của đại đội cũng đều được thưởng. Ông mời 1 số sĩ quan từ bộ chỉ tập đoàn quân, kể cả sĩ quan phòng nhì Tập đoàn quân, thậm chí cả các sĩ quan toà án binh và công tố viên cũng được mời. Chỉ có các Ctrị viên và sĩ quan NKVD là ông quên ko mời. Ngay sau đó Avdeev đã phải lãnh hậu quả, ông bị kết tội báo cáo láo để được nhận số lương thực quá mức cần thiết với bản án 5 năm tù, chuyển đổi thành 2 tháng tại tiểu đoàn trừng giới. Tấm huân chương cao quý mà ông vừa được nhận, các sĩ quan toà án binh và công tố viên quân sự có mặt cả trong bữa nhậu lẫn trong phiên toà, đã chẳng giúp gì cho ông. Có nhiều điều để học hỏi trong những câu chuyện như vậy.

Lúc này, bọn Đức đang gia tăng cuộc chiến tranh tuyên truyền chống chúng tôi. Chúng thường xuyên dùng máy bay thả truyền đơn hoặc bắn loại đạn pháo đặc biệt chứa truyền đơn. Những tờ truyền đơn này kêu gọi chúng tôi đầu hàng, chỉ việc "mang theo truyền đơn này qua bên kia chiến tuyến", chúng thường được gọi là giấy BIG, "lưỡi lê cắm xuống đất". 1 số lượng lớn truyền đơn nói về con trai Stalin và Molotov đã đầu hàng quân Đức và hàng tá câu chuyện khác mà chúng tôi chẳng tin chút nào. Có cả những truyền đơn doạ chúng tôi về những lý do, hoặc những tấm gương, nhiễm những căn bệnh sẽ khiến bạn phải vào bệnh viện 1 thời gian dài. Đầu tiên tôi phải báo cáo lại việc này với sĩ quan NKVD của mình, Gluhov, và thỉnh thoảng các Ctrị viên kiểm tra chúng tôi rất kỹ, vì vậy ko shtrafnik nào dám cất giấu truyền đơn, đặc biệt là giấy BIG. Hình như các cán bộ được lệnh làm vậy, tuy nhiên họ sớm nhận ra các shtrafnik tuy ko dùng các truyền đơn dù chỉ cho việc cuốn thuốc hút nhưng có dùng làm giấy vệ sinh. Thế là các "cảnh sát đạo đức" bình tĩnh lại và ngừng việc kiểm tra chúng tôi.

Tôi chú ý đến 1 loại truyền đơn đặc biệt thông báo 1 mật lệnh của Stalin rằng ko được tặng thưởng huân huy chương cho các binh sĩ ko bị thương. Thật hết sức vô lý! Tiểu đoàn tôi có nhiều sĩ quan được vài ba huân huy chương mà chưa từng bị thương. Tuy nhiên nó làm tôi nhớ lại 1 trường hợp trùng hợp thú vị. Trong trận đột kích Rogachev tôi đã ko được danh hiệu gì, tôi từng nghĩ đó là do cha mình bị bắt năm 1942 vì có những lời xúc phạm lãnh tụ và ko phục vụ quân đội trong giai đoạn đầu chiến tranh. Tôi còn nghĩ tới 1 lý do có thể khác là 1 trong 2 người anh trai tôi đã mất tích trong chiến đấu vào cuối năm 1942 tại Stalingrad. Có lẽ anh ấy đầu hàng bọn Đức? Tôi đã suy nghĩ đủ thứ trong đầu, thật có quá nhiều cách và thời gian để nghĩ ngợi trong những ngày đó.

Tuy nhiên, sau khi bị thương vì mìn, thay vì bị trừng phạt vì đã gỡ mìn khi ko được phép thì đến đầu tháng 7 tôi lại được nhận Huân chương Sao Đỏ theo lệnh của chỉ huy Tập đoàn quân 70, tướng V. S. Popov. Như "bố" Osipov, kombat của chúng tôi nói trong lễ trao huân chương, tấm huân chương này trao cho "sự kiên quyết, sáng tạo và dũng cảm thể hiện trong trận Rogachev". Vậy là tôi đã được nhận huân chương cho "cả quá trình nói chung", đó là điều rất thường ở tiểu đoàn. Huân huy chương được tặng ko phải cho 1 trận đánh điển hình mà cho cả quá trình kéo dài. Tuy nhiên ngay cả sau khi nhận huân chương tôi vẫn ko tin vào tờ truyền đơn của bọn Đức. Có lẽ sau cuộc đột kích kombat chưa thấy cần thiết đề cử tặng huân chương cho tôi, đặc biệt là khi chúng tôi biết quá rõ kombat của mình chính xác và khắt khe đến thế nào. Con người ông là 1 sự kết hợp kỳ lạ giữa nhiều đặc điểm, 1 bên là sự nghiêm khắc đến lạnh lùng, 1 bên là lòng tốt, sự quan tâm như 1 người cha với binh sĩ. Đó là lý do chúng tôi gọi ông là "bố" hay "cha" khi chúng tôi nói chuyện với nhau. Đó là cái kết tốt đẹp cho câu chuyện bãi mìn của tôi!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:37:52 PM

Tôi đã từng nói bọn Đức nhiều lần cố gắng tìm hiểu xem đơn vị mới nào đang đối mặt với chúng ở khu vực này. Bằng cách nào đó chúng đã phát hiện chúng tôi là 1 tiểu đoàn trừng giới vì ko lâu sau chúng đã dùng bài hát nổi tiếng Katyusha, phiên bản tiếng Đức "Wolga - Wolga, Mutti Wolga" để bắt đầu các buổi phát thanh tuyên truyền qua loa công suất lớn. Sau bài hát chúng thúc giục các shtrafnik quay súng chống lại "những tên chỉ huy bạo chúa", chúng cũng gọi tiểu đoàn trừng giới của tôi là "Những tên kẻ cướp của Rokossovski". Chúng tôi biết nickname này đã được đặt cho tiểu đoàn từ đầu năm 1943 khi tiểu đoàn thành lập và tham chiến những trận đầu tiên ở vòng cung Kursk trong thành phần Phương diện quân Trung tâm dưới quyền tướng Konstantin Konstantinovich Rokossovski. Giai đoạn phòng ngự 1 bên cánh Phương diện quân Belorussia 1 này có nhiều cuộc đụng độ lẻ tẻ, 1 số trôi qua mà ko để lại gì trong trí nhớ tôi. Trí nhớ con người chỉ chọn lấy những điều quan trọng, nhưng những gì xảy ra trong giai đoạn phòng ngự sau đó và cuộc tấn công tiếp theo tôi vẫn còn nhớ rất rõ.

Ấn tượng về "kỳ nghỉ ngoài dự liệu" tất nhiên cách xa so với thực tế. Thường xuyên có pháo kích và những trận pháo đôi khi gây nhiều thương vong. Ví dụ 1 quả trái phá hạng nặng đã bắn đúng căn hầm thiếu chắc chắn nơi bạn tôi trong chuyến phiêu lưu tại Rogachev, trung đội trưởng súng trường chống tăng Petr Zagumennikov, đang ngồi cùng các binh sĩ, kết quả 3 chết, 2 bị thương. Bạn tôi suýt chết, bị sốc sức ép nhưng vẫn sống và bị điếc 1 thời gian dài sau vụ nổ. Có lẽ anh ta đã đọc môi để hiểu câu hỏi của tôi: "Sao cậu ko vào trạm xá tiểu đoàn?" Anh ta đã trả lời: "Nó sẽ tự khỏi!" Vậy đấy!

Như đã nói, bọn Đức cố tìm sơ hở để đập tan tuyến phòng ngự quân ta. 1 chiếc "khung ảnh", tức là loại máy bay trinh sát Đức 2 thân FW189, thường lượn trên các vị trí của chúng tôi ở độ cao thấp. 1 tay lính súng máy shtrafnik đã làm 1 cái giá để bắn máy bay từ 1 bánh xe ngựa cũ, trên đặt khẩu DP của anh ta. Trong 1 chuyến viếng thăm của chiếc "khung ảnh", anh ta đã nã 1 loạt đạn vừa vạch đường vừa xuyên giáp rất chính xác khiến chiếc "khung ảnh" bắt đầu rơi. Nó chỉ vừa kịp vượt sang bên kia sông thì đâm xuống đất và nổ tung, thậm chí phi công ko kịp nhảy dù ra. Chúng tôi cực kỳ sung sướng! Ko chỉ bởi "chúng ta là lá cờ đầu!" mà cái chính là ai cũng vui mừng thay cho anh bạn kia! Chúng tôi biết bất cứ cá nhân nào tự mình hạ được 1 xe tăng hoặc 1 máy bay địch, kể cả shtrafnik, cũng sẽ được tặng thưởng Huân chương Chiến tranh Vệ quốc! Cũng có nghĩa là dứt khoát anh ta sẽ được giải thoát khỏi tiểu đoàn trừng giới, ko cần chờ đến khi bị thương. Đây quả là 1 tin tốt, đặc biệt là trong giai đoạn phòng thủ, khi mà thời gian trôi đi quá chậm chạp với các shtrafnik.

Ko may, với 1 số shtrafnik khác thì chẳng bao giờ có loại "hành vi anh hùng" nào. Như đã nói bọn Đức pháo kích các vị trí quân ta hàng ngày. Pháo binh ta theo quy định ko phản pháo. Có nghiêm lệnh phải tiết kiệm đạn dược, cả pháo binh lẫn bộ binh. Chúng tôi nhận thấy tính đúng giờ nổi tiếng của người Đức có vẻ xa lạ với quân ta. Chúng bắn pháo vào vị trí ta theo giờ cố định, hầu như lúc nào cũng vào khoảng sau 9h tối 1 chút. Mặc dù tất cả chúng tôi đều náu kỹ dưới hào sau 9h tối nhưng vẫn có nhiều shtrafnik bị thương rất vô lý, toàn là vết thương nhẹ vào phần mềm, chủ yếu là mông. Nếu 1 shtrafnik bị thương có nghĩa là anh ta đã trả xong tội lỗi bằng máu của mình, và sẽ được cho ra khỏi Tiểu đoàn trừng giới. Số lượng những người bị thương kiểu này ngày 1 tăng đến mức đáng ngờ. Vì vậy sau đó các sĩ quan osobist (phản gián) đã đến và, tôi nghĩ có sự hỗ trợ của các shtrafnik khác, phát hiện công nghệ để nhận các vết thương kiểu này.

Thì ra các tay shtrafnik bịp bợm đã ném lựu đạn vào 1 căn lán gỗ nào đó trong trận pháo kích của bọn Đức, sau đó nhặt lấy những mảnh gỗ bắn ra. Họ lấy 1 viên đạn tiểu liên, tháo bỏ đầu đạn, để lại nửa lượng thuốc nổ trong đạn rồi nhét 1 mảnh gỗ có kích thước phù hợp vào thay cho đầu đạn. Sau đó thì dễ thôi, chờ tới 1 trận pháo kích khác, tay bịp bợm nã viên đạn đó vào mông mình và với "vết thương nhẹ" này nhận được lệnh giải thoát mong muốn khỏi tiểu đoàn trừng giới. Sau khi trò bịp bị phát hiện, hầu hết các cựu "thương binh" đều phải quay lại toà án quân sự với tội cố ý tự gây thương tích để đào thoát khỏi tiểu đoàn trừng giới. Ko 1 ai trong các "kẻ khôn khéo" đó trở lại tiểu đoàn. 1 số nhận án tử hình công khai, xét gộp luôn với tội lỗi cũ. Họ bị hành quyết, thường là trước sự hiện diện của các shtrafnik khác. Hầu hết những người chứng kiên đều tán thành bản án và cả việc hành quyết công khai. Trong tiểu đoàn trừng giới của tôi người ta tỏ thái độ cực kỳ phản đối những kẻ hèn nhát và những "tên bịp bợm" kiểu như vậy.

Tôi ko thể viết điều gì giúp cho 1 tay shtrafnik hèn nhát khác đã đến trung đội tôi trong giai đoạn phòng ngự. Tôi sẽ chỉ nhắc đến tên hắn, dù nó cũng giống như mọi cái tên khác, Geft. Tôi làm điều này nhằm mục đích nếu con cháu người này đọc cuốn sách họ sẽ ko quá bối rối về tổ tiên mình, người họ vẫn tin là vị anh hùng trong cuộc chiến chống bọn Nazi. Hắn đến tiểu đoàn vào đầu tháng 6. Khi 2 trung đội phó và tôi đọc bản án của hắn, chúng tôi đều cảm thấy ghê tởm. Nói theo kiểu hiện đại, hắn can án quấy rối tình dục và hiếp dâm theo kiểu rất đồi bại. Hắn từng là thiếu tá công binh và đứng đầu 1 đơn vị hậu cần thuộc 1 sở chỉ huy cấp cao. Hắn sắp đặt để được ăn 1 mình và buộc các nữ binh sĩ phục vụ như người ở, ko chỉ với tư cách hầu bàn mà cả làm tình với hắn trong bữa sáng và bữa tối. Chúng tôi hiểu điều đó có nghĩa gì mặc dù những ngày đó chúng tôi chưa biết nhiều về tình dục. Geft doạ những nữ binh sĩ khốn khổ rằng nếu họ từ chối đề nghị của hắn hay tố cáo, hắn sẽ tống họ vào đại đội trừng giới. Các cô gái khốn khổ ko biết rằng phụ nữ ko bị đưa vào đại đội trừng giới, có quy định rõ ràng như vậy. Bản án của hắn rất nặng, 10 năm tù, đổi thành 3 tháng tại tiểu đoàn trừng giới. Đó có lẽ là bản án công minh nhất chúng tôi từng biết.

Khi hắn báo cáo trước tôi và thấy mấy ngôi sao nhỏ trên cầu vai chỉ ra rằng tôi chỉ là 1 trung uý, hắn nhấn mạnh cấp hàm cũ, ngạo mạn tự gọi mình là "thiếu tá công binh Geft". Tôi phải nhắc nhở hắn rằng hắn đang bị huyền chức, dù chỉ là tạm thời, Chúa muốn như vậy. Tôi cũng nói với hắn rằng hắn cần cố gắng lớn để được trở lại cấp hàm cũ. Tại đây, trong tiểu đoàn trừng giới, cấp hàm của hắn giống mọi người khác: "binh sĩ tạm thời". Tôi tập hợp 1 hội đồng quân sự nhỏ gồm tôi và 2 trung đội phó, chúng tôi quyết định đưa Geft vào tiểu đội của Puzyrei, chỗ xa nhất trên khu vực phòng thủ của trung đội. Chúng tôi nghiêm khắc nhắc nhở hắn lúc nào cũng phải chú ý quan sát no-man-land, đặc biệt là khi bọn Đức pháo kích nhằm mục đích ngăn địch bí mật thâm nhập tuyến phòng ngự quân ta, chui vào các chiến hào dưới sự che chở của đạn pháo. Tôi còn đặc biệt nhấn mạnh bọn Đức đã từ lâu tìm cách săn tù binh tại khu vực này.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:38:05 PM

Ngay đêm đầu tiên, Puzyrei đã báo cáo cho tôi biết Geft chỉ nằm bẹp dưới đáy hào, che đầu bằng áo mưa trong suốt trận pháo kích của bọn Đức. Vì thế hắn đã bị 1 shtrafnik khác cho ăn đòn. Tôi lệnh cho tay tiểu đội trưởng của mình phải dạy dỗ gã "công binh dâm tặc" theo cách khác thuyết phục hơn. Ngay sau đó, kẻ truỵ lạc bị tiểu đội trưởng và 1 shtrafnik lôi tới hầm của tôi, và hắn lại bị nện thêm 1 trận nữa vì tội hèn nhát. Geft nhận ra hậu quả sẽ hết sức tệ hại nếu hắn tiếp tục giữ thói hèn. Hắn ngã lăn ra khỏi cửa hầm, kêu thét như 1 con thú, trông thật ghê tởm. Tiếng kêu tuyệt vọng của Geft chứng tỏ hắn đã hiểu rõ sự nghiêm trọng của tình hình. Hắn có thể bị xử bắn nếu chúng tôi báo cáo lại hành vi hèn nhát của hắn với osobist (phản gián NKVD).

Sĩ quan osobist hiếm khi lai vãng tới các chiến hào, thú thực tôi ko biết rõ công việc của anh ta, chỉ biết lúc nào anh ta cũng ngồi ở sở chỉ huy, thỉnh thoảng cử 1 giao liên đi gọi 1 shtrafnik, người bị gọi sẽ quay lại chiến hào sau độ nửa tiếng. Tuy nhiên trong trường hợp này tôi biết lệnh "dạy dỗ theo cách thuyết phục hơn" của tôi là đủ rồi, tôi chỉ ra thêm lệnh thu giữ vũ khí của Geft để hắn ko làm điều gì ngu ngốc, sau đó buộc hắn đào 1 hố cá nhân dưới sự canh gác. Cái hố trở thành 1 kiểu điếm canh bất đắc dĩ, Geft run rẩy vì sợ trong hố cho tới tận sáng, khi tôi có 1 buổi nói chuyện dài với hắn. Nói thật đây ko phải 1 buổi nói chuyện thú vị gì, mặc dù tính kiêu căng của hắn đã hoàn toàn biến mất nhưng trước đây tôi chưa từng gặp trường hợp hèn đến mức bệnh hoạn nào đến thế này. Tôi lệnh cho tiểu đội trưởng trả vũ khí cho Geft, nhưng phải để mắt đến hắn trong suốt thời gian hắn ở tiểu đoàn. Tôi được báo cáo là hắn đã thôi ko trốn trong các trận pháo kích nữa nên nghĩ hắn đã vượt qua được tính hèn. Tôi hy vọng sau sự việc này hắn sẽ phục vụ đủ 3 tháng trong tiểu đoàn trừng giới rồi được tha, nhưng điều đó đã ko thành hiện thực.

Trong giai đoạn phòng ngự kéo dài, cả bên hậu cần lẫn quân bưu đều làm việc tốt. Chúng tôi thậm chí còn được nhận cả báo, dù ít thôi, như Pravda, Sao Đỏ hay như chúng tôi thường gọi là Sao Nhỏ, Komsomol Pravda. Cùng với đó tôi cũng nhận được thư của mẹ và chị em gái từ Viễn Đông. Thư từ của họ bao giờ cũng đến nơi dù có chút chậm trễ. Chính trong giai đoạn phòng thủ này tôi đã nhận được bức thư đau buồn về Ivan, anh trai tôi, đã hy sinh tại mặt trận 1 năm trước, 1943. Cái tin này đã làm tôi đau buồn mất 1 thời gian dài.

Các sĩ quan Ctrị quân ta cũng hoạt động rất ráo riết, thông báo cho chúng tôi về các sự kiện tại mặt trận này và các khu vực mặt trận khác. Chúng tôi nhận tin Mặt trận thứ 2 đã mở với cảm xúc lẫn lộn, tuy thoả mãn và sung sướng nhưng vẫn có chút bực mình, chúng tôi đã phải chờ đợi sự kiện này 3 năm mà. Chúng tôi thậm chí còn chào mừng quân Đồng minh phương tây bằng những loạt súng trường và tiểu liên bắn về phía bọn Đức, mặc dù đã có nghiêm lệnh tiết kiệm đạn dược. Nếu ko mất tới 2 năm để bàn thảo và trì hoãn, mạng sống của vô số binh sĩ, tù binh và dân thường tại các vùng tạm chiếm có lẽ đã được bảo toàn! Vào năm 1944 tất cả chúng tôi đều đã biết đà tiến về phía tây của quân ta là ko thể đảo ngược hay dừng lại. Liên bang Soviet ko còn cần Mặt trận thứ 2 cấp thiết như 2 năm về trước. Nhưng người ta ko thể há miệng chờ sung, dù sao cũng phải cảm ơn họ đã đổ bộ! Như chúng ta đều biết, quân Đồng minh đã đổ bộ vào Normandy ngày 6/6/44.

Tại mặt trận này chúng tôi cũng nhớ đó chính là ngày sinh nhà thơ vĩ đại Pushkin, hôm đó đồng thời là ngày sinh người con gái tôi yêu Rita, cô ấy sau này làm y tá trong 1 bệnh viện dã chiến thuộc Phương diện quân Belorussia 1. Những lá thư của cô ấy được gửi tới rất nhanh chứng tỏ cô đang ở đâu đó gần đây. Tôi thoả thuận với Rita 1 phương cách để đánh lừa hệ thống kiểm duyệt quân đội, nhờ đó chúng tôi có thể cho nhau biết mình đang ở đâu. Chúng tôi dùng 1 bộ mật mã chung, tức là trong thư chúng tôi viết tên những người mình gặp, những người mình gửi và nhận thiếp để ghép các chữ viết tắt lại thành tên địa phương. Thí dụ nếu tôi nhận được bưu thiếp từ "Sonya, Lena, Ukhov, Tsarev và Kolya" thì có nghĩa là bệnh viện đang đóng ở Slutsk. Kiểm duyệt quân đội chưa bao giờ phát hiện ra mánh này.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:38:23 PM

Chúng tôi đọc báo và những bản chép tay các tin tức mới nhất phát trên đài "Từ Thông tấn xã Soviet" 1 cách say mê. Sau nhiều chậm trễ chúng tôi đã nhận được tin về cái chết của tướng Vatutin, người đã bị thương nặng ở Sarny. Theo tin chính thức, ông bị 1 nhóm người của Bendera bắn bị thương, bọn này từng theo phe ta. Có nhiều toán phỉ và những tên thám báo Nazi trong các khu rừng. Có tin 1 số lượng lớn tù binh gồm từ tướng lĩnh, sĩ quan đến binh lính Đức đã bị dẫn đi qua Moscow khiến mọi người ngạc nhiên nhưng gây ấn tượng mạnh. Cùng lúc đó chúng tôi được biết về cái chết anh dũng của binh nhì Cận vệ Yuri Smirnov thuộc Phương diện quân Belorussia 3. Anh đã bị bọn Nazi tra tấn và sau đó đóng đinh trên cửa 1 căn hầm nhưng chúng vẫn ko moi được thông tin gì từ anh. Tin này làm lòng căm thù bọn Nazi trong chúng tôi tăng cao và khiến nhiều cuộc mít tinh tự phát được tổ chức trong đó mọi người thề sẽ trả thù cho "Yuri của chúng ta". Các báo đều đăng tin chiến dịch tấn công của 3 Phương diện quân Belorussia đã bắt đầu với tên gọi Chiến dịch Bagration. Tin hay nhất là việc giải phóng Zhlobin, nơi tiểu đoàn tôi đã chiến đấu tháng 12/43, nó đã được giải phóng vào ngày đặc biệt 26/6, cái ngày đáng nguyền rủa mà tôi đã làm nổ trái mìn.

Phương diện quân Belorussia 1 của tôi bố trí trải dài 900km từ bắc xuống nam. Như tôi biết sau này, có 63 sư đoàn Đức đối diện với Phương diện quân. Theo các báo cáo tình báo, chúng tôi được biết Thống chế Busch, viên chỉ huy kém thành công của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm Đức, đã bị thay thế bằng Model. Các sĩ quan tiểu đoàn nói vui: "Anh bảo Model? OK, đưa Model cho tôi!" Có lẽ 1 số sĩ quan đã nhái câu nói của Chapaev trong bộ phim nổi tiếng thời trước chiến tranh: "Anh bảo 1 cuộc tấn công tâm lý? OK, đưa tâm lý cho tôi!" Chúng tôi có thể thấy thời gian phòng ngự sắp chấm dứt và chúng tôi đang được chuẩn bị cho 1 cuộc tấn công sắp tới căn cứ vào lệnh trinh sát các hoả điểm địch và bắt tù binh. Cuộc tấn công tại khu vực này của mặt trận đã đến gần.

Chúng tôi dùng đủ mọi cách đánh lừa địch để thu thập thông tin tình báo. Ví dụ đại đội tôi có thượng uý Ivan Yanin 20 tuổi, từng nhận 3 huân chương mà chưa hề bị thương. Mỗi khi nhìn thấy anh trong trận đánh, tôi luôn nhớ tới câu thơ của Maxim Gorky "Chúng ta đang hát bài ca về cơn điên của những người can đảm". Để vẽ lại các hoả điểm địch, phát hiện cách chúng bố trí các loại vũ khí, chàng Ivan nhỏ bé của chúng tôi đã đeo đầy đủ các huân huy chương lấp lánh và gắn cầu vai diễu binh vàng choé. Ko hiểu anh ta lấy nó ở đâu ra? Chúng tôi chỉ có cầu vai lính trận màu xanh lá cây. Đeo xong anh ta đứng thẳng lên mặt công sự và từ từ đi bộ dọc các chiến hào trong 1 ngày nắng đẹp, dưới tầm nhìn hoàn hảo của bọn Đức. Chắc bọn Fritz nghĩ anh là 1 sĩ quan cao cấp vì cái cầu vai lấp lánh như của 1 viên tướng, chúng khai hoả, thậm chí dùng cả pháo và cối. Thế là các trinh sát ta chỉ việc đánh dấu nơi các loạt đạn phát ra, hoàn thành tấm bản đồ về toàn bộ tuyến phòng thủ Đức. Thật kỳ lạ, tay sĩ quan vừa điên vừa dũng cảm này ko hề bị 1 vết thương nào trong suốt cuộc dạo chơi dưới làn đạn Đức, như thể cậu ta có 1 thứ bùa bảo vệ nào đó! Mãi sau này cậu ta mới bị giết nhưng vẫn ko hề bị 1 vết thương nào, tôi sẽ kể chuyện đó sau. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng chọc cho bọn lính súng máy Đức nổ súng để phát hiện vị trí. Những nghệ sĩ súng máy của chúng tôi chơi 1 bản hoà tấu đặc biệt, nghe giống thế này: "ta ... ta ... ta - ta - ta!" và sau độ 5 - 6 loạt như vậy tên Fritz mất hết kiềm chế nã 1 tràng dài vào vị trí ta. Đó chính xác là điều chúng tôi muốn!

Kombat (tiểu đoàn trưởng) Osipov, tham mưu trưởng Lozovoi và cả các sĩ quan Ctrị đến thăm các chiến hào thường xuyên hơn. Tôi ko muốn nói "tất cả các sĩ quan Ctrị đều vô dụng", điều đó ko đúng! Trong suốt đời quân ngũ của tôi, cả ngoài mặt trận lẫn sau chiến tranh, tôi đã gặp rất nhiều sĩ quan Ctrị dũng cảm, thông minh, có trách nhiệm và hữu dụng. Thiếu tá Olenin, Ctrị viên của tôi, đã bỏ hầu hết thời gian dưới các chiến hào trong giai đoạn phòng thủ tôi kể. Ông là người thay thế Zheltov đã hy sinh trong cuộc đột kích vào Rogachev. Tôi phải nói rằng ông là 1 người thay thế tốt. Olenin là người tốt, chính trực và dũng cảm. Ông ko tạo khoảng cách với với chúng tôi và khi cần hướng dẫn binh sĩ ông làm gương bằng hành động của chính mình. Tôi ko muốn giấu hay che đậy cảm giác của mình khi đó, thực sự là cái tên quá giống Lenin của ông đã gây va chạm giữa chúng tôi. Về cơ bản, việc thực thi nhiệm vụ Ctrị 1 cách có tổ chức và phương pháp trong binh sĩ sẽ rất có ý nghĩa và làm lên tinh thần mọi người. Cánh sĩ quan chúng tôi với tư cách là Đảng viên cũng thực hiện nhiệm vụ Ctrị theo cách riêng như nói chuyện hoặc làm gương. Tôi nghĩ mọi sĩ quan vừa là Đảng viên vừa là lính chiến đều mang trong mình 1 chút phong cách chính uỷ, theo nghĩa tốt đẹp nhất của từ này. Chúng tôi ko thường xuyên sử dụng khẩu hiệu "Vì Đất mẹ, vì Stalin", trong nhiều trường hợp nó ko thích hợp. Tuy nhiên cá nhân tôi dùng câu này rất nhiều mặc dù tôi ko phải Ctrị viên. Trong những năm 1940s chúng tôi đều giống như các Ctrị viên.

Cánh trinh sát sư đoàn nhiều lần cố bắt 1 tù binh nhưng đều thất bại. Vậy là 1 nhiệm vụ đặc biệt được giao cho Tiểu đoàn Trừng giới của tôi. Mới đầu sư trưởng Sư 38 Bộ binh, tướng G. M. Soloviev, muốn tổ chức 1 trận đánh trinh sát với toàn tiểu đoàn hay chí ít là 1 đại đội. Nhưng kombat tìm ra 1 giải pháp tốt hơn. Chúng tôi hầu như đã biết được toàn bộ mạng lưới hoả lực súng máy Đức và cả các vũ khí khác, vì vậy chúng tôi quyết định bắt tù binh theo cách khác. 1 trận đánh trinh sát sẽ dẫn tới thương vong ko cần thiết, đặc biệt là trước cuộc tấn công chính. "Bố" quan tâm tới mạng sống của mọi shtrafnik! Theo ý tưởng của kombat, đại đội 1 của tôi và người của đại đội súng trường chống tăng sẽ làm ra vẻ chuẩn bị xây 1 cây cầu vượt bãi lầy tại vị trí này. Vasily Tsigichko, 1 sĩ quan dẻo dai chắc nịch với cặp môi dày và giọng nói ngọt ngào ấm áp được đặc biệt giao nhiệm vụ này. Chắc là bọn Đức đã phần nào đoán được cuộc tấn công sắp đến, trong khi đó khu vực đầm lầy này lại cần được chuẩn bị nếu quân ta định tấn công vượt sông, chí ít là phải làm 1 con đường hoặc cầu cho xe pháo hạng nhẹ. Vì vậy toàn bộ kế hoạch lừa đảo của chúng tôi là làm ra vẻ điều đó là thật. Đại uý Pavel Tavlui chỉ huy đại đội 2 được lệnh hỗ trợ chúng tôi trong cái gọi là nhiệm vụ này.

Chúng tôi mang nhiều súc gỗ lớn tới bờ sông trong đêm vì bãi mìn treo trong rừng phía sau đã ko còn nguy hiểm, sau đó bổ vào chúng bằng xẻng đào hào thay vì rìu như thể đang đẵn gỗ và đóng đinh chúng lại với nhau. 1 nhóm mai phục mạnh được bố trí ngay sát bờ sông, đối diện bên kia "cầu". Ko có "mẻ lưới" nào được cất trong đêm đầu, nhưng đêm hôm sau nhờ ánh trăng các lính canh quân ta đã phát hiện 1 nhóm lính Đức đang bò về hướng bờ sông lầy lội. Chúng bị nhóm mai phục lặng lẽ tấn công. Những tên Đức định chống cự hoặc gây tiếng động bị giết bằng lưỡi lê SVT, 3 tên còn lại bị bịt miệng, đè nghiến ra rồi khiêng về bờ bên ta. Sau 1 cuộc thẩm vấn ngắn của văn thư kiêm phiên dịch Vinogradov, chúng bị đưa tiếp lên sở chỉ huy tiểu đoàn. Chúng tôi tóm được 3 tù binh, trong đó có cả 1 sĩ quan! Kết quả là 8 shtrafnik tham gia cuộc mai phục đã được giải thoát khỏi tiểu đoàn trừng giới trước thời hạn và còn được đề xuất khen thưởng, dù đó chỉ là huy chương.

Sau vụ bắt tù binh thành công, tôi có 1 cảm giác hồi hộp ngày càng tăng với cuộc tấn công sắp đến. Tôi viết 1 lá đơn xin vào Đảng, và tôi ko phải người duy nhất. Chỉ những người chứng tỏ được bản thân trong chiến đấu mới được kết nạp, do đó số Đảng viên tăng rất nhanh trong thời chiến. Các Đảng viên ko chỉ chịu trách nhiệm về bản thân mà còn phải chịu trách nhiệm với nhiệm vụ được giao và với những người dưới quyền. Đặc quyền duy nhất với những người thực sự tin vào giá trị của danh hiệu Đảng viên là được đi đầu những cuộc xung phong, và đi đầu dưới làn đạn địch. Lá đơn của tôi rất ngắn: "Tôi muốn được ở trong đội quân tiên phong của những người bảo vệ Tổ quốc". Tiếng hô tập hợp "Các Đảng viên, tiến lên!" ko phổ biến trong tiểu đoàn trừng giới, nhưng vẫn còn trong tim các sĩ quan đang muốn vào Đảng. Phải mãi sau này tôi mới phân biệt được giữa những Đảng viên chân chính và những kẻ còn lại. Nhiều người đã gia nhập Đảng Bolshevik và sau đó là Đảng CS nhằm mục đích tiến thân hoặc trở thành những chức sắc trong Đảng như bí thư Đảng ủy tiểu đoàn, trung đoàn hay bí thư chi ủy địa phương bên dân sự. Mãi sau này người ta mới gọi đó là những kẻ "thoái hóa biến chất". Nhưng quay trở lại đây, tại mặt trận, những kẻ như vậy sẽ bị nhận ra dễ dàng qua sự giả dối và thói đạo đức giả. Chúng ta có thể nhận rõ bản chất 1 con người trong chiến tranh. Họ trở nên hoàn toàn lạc loài giữa các sĩ quan, bị chế nhạo hoặc quay lưng.

Nói về bản thân tôi, tôi đã là Đảng viên dự bị từ mùa thu năm 43, nhưng giờ mới là mùa hè năm 44. Tôi đã được thăng chức lên thượng uý, nhận 1 Huân chương, vì vậy tôi thấy mình xứng đáng trở thành Đảng viên chính thức. Thậm chí đến bây giờ, nhiều năm sau chiến tranh, tôi vẫn tự hào vì được nhận thẻ Đảng mới từ văn phòng Ctrị Sư 38 Bộ binh Cận vệ Lozov đúng 1 ngày trước khi cuộc tấn công bắt đầu. Nó ngang với phần thưởng nhà nước cao quý nhất, ghi nhận sự tiến bộ của tôi.

Quãng đời trước của tôi thế là chấm dứt, từ đây cuộc sống của tôi được chia sẻ cho người khác, có giá trị hơn và chuẩn mực hơn. Từ thời điểm đó tôi là 1 Đảng viên. Tôi chịu nhiều trách nhiệm hơn đối với thành công, và còn nhiều hơn nữa nếu thất bại hoặc sai lầm. Từ thời điểm này tôi phải dẫn dắt mọi người bằng cách nêu gương cả trong chiến đấu lẫn trong mọi mặt cuộc sống. Tôi tự hào với vai trò và trách nhiệm đó. Tôi phải chứng minh rằng tôi phù hợp với vai trò của mình trong ko chỉ trong cuộc tấn công sắp tới mà trong suốt cả phần đời còn lại.

Chiến dịch Bagration đã được vạch ra và chỉ huy bởi tướng Rokossovski, lúc đó là người đứng đầu Phương diện quân. Trận đánh mà theo sử sách là trận đánh vì Belorussia. Nó bắt đầu ngày 24/6/44, gần đúng 3 năm sau ngày chiến tranh bùng nổ.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:38:42 PM

4
CHIẾN DỊCH BAGRATION



Cuối cùng chúng tôi cũng tham gia vào chiến dịch Bagration vào thời điểm tung ra đòn tấn công vu hồi. Tiểu đoàn được cấp đủ đạn dược từ 2 tuần trước chiến dịch. Chúng tôi nhận 200 - 250 viên đạn cho mỗi khẩu tiểu liên PPSh, các viên đạn đều được bọc giấy thiếc bỏ trong hộp carton. Nhiều khẩu tiểu liên có tới 2 băng đạn, mỗi băng 71 viên. Lính súng trường nhận 2 bao đạn bổ sung may bằng vải bạt đeo sệ cả thắt lưng. Lính súng máy cũng được cấp đạn với số lượng lớn. Có lẽ đây là kết quả tốt đẹp của lệnh tiết kiệm đạn khi phòng ngự. Chúng tôi cũng được nhận thức ăn khô, ko khác mấy khẩu phần khô được nhận trước cuộc đột kích vào Rogachev, chỉ khác là có thêm 1 hộp nhỏ phó mát Mỹ rất nặng mùi. Chúng tôi vẫn gọi mọi đồ Mỹ và Anh là "gửi tới từ Mặt trận thứ 2". Ngoài ra còn thêm 1 chút mỡ kiểu Ukraina màu hơi vàng, chắc do chúng tôi đang ở Ukraina. Cả đạn dược và đồ ăn đều được cấp cho 3 - 5 ngày chiến đấu. Người ta cũng cố để cho chúng tôi ăn ít nhất 1 bữa nóng mỗi ngày. Tất cả chúng tôi đều đã quen thuộc với việc nhận thức ăn nóng từ bếp dã chiến trong giai đoạn phòng ngự, còn bây giờ tất nhiên chúng tôi sẽ chỉ nhận được đồ ăn nóng khi tấn công nếu điều kiện cho phép.

Các đơn vị hậu cần đã chăm lo tốt, thậm chí họ còn sửa chữa hoặc thay mới những đôi giày ủng quá rách nát. Chúng tôi sẽ có 1 cuộc hành quân và chiến đấu dài trên vùng đất cát sỏi và lầy lội Belorussia, vượt hơn 100km tới biên giới với Ba Lan. Những "người bị vây" quen đi ủng ngắn quấn xà cạp còn phần lớn lính tiểu đoàn đi ủng cao vì vốn đều là sĩ quan cả, mặc dù đang bị cách chức, vậy là chúng tôi nhận được toàn ủng cao để thay thế cho lính nếu cần. Nhiều sĩ quan đã phải đổi đôi ủng dài đẹp nhưng rách lấy những đôi ủng cao kirsa đó. Sĩ quan chúng tôi được nhận loại ủng thấp, mới cứng sản xuất tại Anh, cũng được gọi là "từ Mặt trận thứ 2"! Thứ ủng này bóng lộn, trông hợp với 1 cuộc diễu binh hơn, với chúng tôi nó có vẻ quá to, thiếu co giãn, bè bè đến mức kỳ cục và đế quá cứng. Sau này chúng tôi còn phát hiện đế ủng làm bằng giấy bồi ép trộn hồ, nó phồng lên sau 2 - 3 ngày hành quân trên đồng lầy Belorussia, trong khi đó độ bóng và độ cứng còn mất nhanh hơn. Tôi phải bọc chân bằng xà cạp, được cấp cùng với ủng, nó rất dai và dài, chúng tôi có thể dùng vào nhiều việc thậm chí cả băng bó vì được cấp cả 1 đôi. Chúng tôi cũng dùng nó làm quà tặng cho các cô gái quen biết.

Sửa chữa giày ủng, đặc biệt là trong điều kiện chiến trường bao giờ cũng cần ý thức tiết kiệm và sự hiểu biết về các dụng cụ. 1 đôi ủng có thể xẻ thịt để sửa nhiều đôi khác. Nhưng 1 sự kiện nhiều ý nghĩa đã xảy ra. Đội hậu cần mang đến cho chúng tôi nhiều đôi ủng trận Đức mới tinh và đề nghị tất cả chúng tôi đổi những đôi ủng kirsa cũ rách đi vì sắp có 1 chuyến hành trình dài! Lúc đó bích chương tuyên truyền nổi tiếng "Chúng tôi sẽ tới Berlin cho được!" vẽ 1 người lính Hồng quân đi đôi ủng dài mới cứng vừa xuất hiện. Ko ai trong chúng tôi chịu lấy những đôi ủng Đức, có lẽ vì trong nhiều tấm bích chương khác đã vẽ những đôi ủng kiểu này dẫm đạp lên Tổ quốc tôi. Tất cả những điều này vẫn còn tươi mới trong ký ức tôi.

Kỹ năng khéo léo của các shtrafnik đã tạo ra những đôi ủng cao "Jimmy" thời thượng với các chi tiết hoàn mỹ, đặc biệt là khi dành cho các chàng trung đội trưởng trẻ tuổi ưa ăn diện. Rất nhiều người trong chúng tôi đã cố chạy theo các mốt thời trang trẻ khi đó. Họ còn làm cả ủng từ áo mưa lính! Để nó trông giống ủng da, chủ nhân đôi ủng thường phải đổ vào đó nhiều thứ khó tưởng tượng như mỡ lợn, đường và nhiều thứ khác! Chiếc ủng sáng bóng lên, nhưng ko bền chắc hơn được. Cũng giống những chiếc ủng Anh, nó rụng từng mảng ngay trong ngày tiến công đầu tiên. Chúng tôi ko hành quân trên đường nhựa mà là trên những vùng đất lầy lội hoặc cát sỏi. Voentorg (hệ thống cấp phát theo tem phiếu quân đội) cũng "tham gia" vào quá trình chuẩn bị tiến công của quân ta và có đến chỗ chúng tôi vài lần. Như tôi từng nói, tất cả những gì chúng tôi có thể tưởng tượng ra thì Voentorg đều ko có. Ko có thuốc lá, nước hoa, dao cạo, thậm chí cả kem đánh răng, chẳng có gì hết! Thứ duy nhất họ mang tới bán là những mẩu giấy cắt thành cỡ vừa để cuốn thuốc hút, cúc áo lính và quân hàm màu xanh lá cây để đính lên áo bành tô. Có nhiều lời đồn rằng mọi thứ hữu dụng hơn đã bị bán sạch trước khi đưa được tới tiền tuyến.

Quá trình chuẩn bị tiến công đã qua. Tôi nhận lệnh quét sạch nhiều lối đi qua bãi mìn mà mình đặt ngay trong đêm ngày 18/7/44 để sẵn sàng cho việc xung phong vào các vị trí Đức. Tôi nghĩ đây là lần đầu tôi nghe câu thành ngữ: "Bị trừng phạt vì sáng kiến". Mặc dù chính tôi đã đặt những quả mìn này nhưng tháo nó ko phải dễ. Đó lại là 1 đêm trăng thượng tuần, đêm vừa tối vừa ngắn. Tôi ko thể dùng đèn, vì vậy phải làm mọi việc trong sờ soạng. Tôi ko muốn giao việc này cho ai trong trung đội vì ko muốn bi kịch của Omelchenko tái hiện. Rồi tôi cũng gỡ mìn xong cho mấy tuyến đường, đánh dấu bằng những cái que đính mảnh vải trắng trước rạng đông, nhưng chiếc áo trấn thủ thì đẫm ướt mồ hôi. Đây quả là 1 công việc căng thẳng!

Trời vừa hửng sáng chúng tôi đã nghe thấy tiếng đại bác gầm. Đây là trận pháo phủ đầu quân ta chờ đợi đã lâu. Trong khi pháo binh nã đạn vào các vị trí Đức đơn vị tôi đã vượt qua bãi mìn và bố trí gần sát bờ sông. Cuối cùng là tiếng rít của Katyusha báo hiệu xung phong. Trời đã sáng hẳn và giống như trong phim, có thể nhìn rõ tất cả quân ta đều đứng bật dậy lao về phía các chiến hào Đức. Mọi người đều cực kỳ kích động. Kỳ lạ nhất là bọn Đức ko hề bắn trả. Chúng tôi nghĩ cánh pháo binh đã làm việc thực sự tuyệt vời đến mức tiêu diệt hầu hết các ổ súng máy Đức! Với 1 chút khó khăn, chúng tôi đã ào xuống bờ sông lầy lội, qua luôn cả con sông Vyzhevka, hoá ra nó rất nông. Khi chúng tôi nhảy vào các chiến hào Đức trong tiếng hô "Hurrah!" thì còn thấy kỳ lạ hơn. Chúng trống rỗng! Chúng tôi biết dọc các tuyến hào ngoài bọn lính Hungary mà chúng tôi gọi là Magyar còn những tên Nazi thiện chiến thuộc Sư đoàn Totenkopf. Tất cả chúng biến đâu mất rồi? Có lẽ chúng đã biết rõ ngày giờ tấn công của ta. Vậy là tiếng hô "Hurrah!" của chúng tôi tắt dần khi ai nấy đều nhận thấy các chiến hào ko có địch. Ở khía cạnh khác thì việc này là tốt, bọn Đức đã tự rút, trong khi chúng tôi đã chuẩn bị cho 1 trận giáp lá cà! Cuộc tấn công này theo tôi hiểu, căn cứ vào lệnh, đã bắt đầu trên toàn cánh trái Phương diện quân.

Hướng tiến công của tiểu đoàn cũng là hướng tiến của Sư 38 nhằm vào thị trấn Malorita và sau đó là Domachevo, phía nam Brest, nhằm mục đích khép vòng vây quanh Brest. Chúng tôi nhanh chóng nắm được tình hình, nhờ thực tế cũng như nhờ thông báo của sở chỉ huy tiểu đoàn, là quân Đức đang rút lui tại nhiều nơi. Chúng lập các đội khóa đuôi để phá hủy cầu cống và đặt mìn các tuyến đường. Nhưng chúng định rút bao xa và các đội khóa đuôi đang ở đâu? Nếu tôi nhớ chính xác, chỉ huy trung đoàn 110 Bộ binh Cận vệ bố trí đại đội tôi bên cánh của trung đoàn. Sau khi tới tuyến hào thứ 2, 1 giao liên đã trao lệnh của trung đoàn trưởng chuyển gấp hướng tiến công nhằm chiếm 1 phần thị trấn Ratno, quân địch vẫn còn bố trí phòng ngự ở ngoại ô thị trấn. Chúng tôi cần đánh chiếm nó để ngăn quân địch cho nổ cây cầu qua sông Pripyat''. Sau khi hành quân chừng 200 - 300m trên khu vực khô ráo hướng về phía bờ sô Pripyat'', hàng quân của tôi rơi vào những loạt đạn dài của súng máy hạng nặng. Đại đội 1 của tôi và đại đội 2 đi sau dưới quyền đại úy Pavlui chúi xuống tránh đạn và lập tức chuẩn bị súng ống, lựu đạn cho trận đánh.

Ngay sau khi nhìn thấy tín hiệu xung phong, trong giai đoạn tấn công này tín hiệu xung phong là những quả pháo sáng màu xanh lá cây, cả đại đội chạy dọc bờ sông dưới sự yểm hộ của những luồng đạn tiểu liên và súng máy bắn tập trung, hướng thẳng về phía Ratno. Bọn Đức có nhiều boongke bê tông và gỗ trong thị trấn. Chúng tôi ném lựu đạn vào bất kỳ chỗ nào có bọn Đức bắn ra, theo sát chúng theo đúng nghĩa đen và cả 1 nhóm lớn lính đại đội, hầu hết là thuộc trung đội của Usmanov và trung đội tôi, đã lên được cầu. Chúng tôi nhanh chóng giết sạch bọn lính canh và công binh chiến đấu đang định cho nổ cầu. Quân ta chiếm lĩnh cây cầu và củng cố các vị trí bên bờ tây con sông. Tất nhiên chúng tôi có thương vong, sau đó tôi phát hiện còn nhiều shtrafnik nữa bị thương bên bờ tây nhưng ko chịu rời trận địa. Họ có quyền làm thế, vì họ đã rửa sạch tội lỗi "bằng máu của mình", nhưng họ còn có thể chiến đấu được và vì vậy vẫn tiếp tục chiến đấu! Có nhiều trường hợp như vậy, điều đó chứng minh rằng các shtrafnik hiểu giá trị chung của trận đánh cao hơn cá nhân họ. Tất nhiên có những shtrafnik đã nói những điều linh tinh về chuyện họ bị "tắm máu" và cố thoát khỏi chiến địa càng sớm càng tốt. Nhưng đó là chuyện của cá nhân họ, lương tâm họ, 1 số người còn ko có chút tình đồng đội nào.

Ngay sau khi tới được ngoại vi phía tây Ratno đã thấy xe tăng ta vượt qua cầu, theo sát chúng tôi. Tôi ko hiểu sao xe tăng ko chiếm quách cây cầu trước chúng tôi. Có khác gì đâu! Nhưng vào lúc đó tôi làm gì có thời gian mà phân tích tình thế. Tôi cần tập hợp trung đội, tận dụng lúc nghỉ ngơi này để thống kê tổn thất và xem xét nhiệm vụ tiếp theo. Cả bộ binh lẫn thiết giáp đang tiến về con đường cao tốc đi Brest, trong khi chúng tôi vẫn còn 1 chặng đường dài nữa mới tới Malorita. Ko may sau đó tôi nhận thấy mình có 1 mất mát đáng kể. Trung đội tôi có 3 chết 3 bị thương nhưng Geft ko nằm trong số đó. Ko ai thấy hắn chết hay bị thương, tiểu đội trưởng Puzyrei chỉ nhún vai bối rối. Chúng tôi đưa Geft vào danh sách mất tích, mãi sau này chúng tôi mới tìm ra lý do thật của sự biến mất này.

Mất khoảng 30 phút để chúng tôi tập hợp các trung đội đã phân tán hoặc trộn lẫn với nhau trong cuộc tấn công vào ngoại ô Ratno và cây cầu, gửi thương binh về tuyến sau. Sau đó chúng tôi nhận lệnh tái tập hợp vào trung đoàn lúc này đã vượt sông Pripyat'' cách chúng tôi 1 quãng về phía nam và đang tấn công vào làng Zhirichi, tiếp đó là tới hồ Turskoe. Trong cuộc tiến công vào làng Zhirichi, trung đoàn cũng như chúng tôi 1 lần nữa gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của quân Đức. Những đơn vị nhỏ bé chúng tôi nhanh chóng bị đưa tới mũi nhọn các đợt xung phong, nhằm vào các vị trí nguy hiểm nhất để tăng cường sức mạnh cho trung đoàn. Mỗi khi chúng tôi được phối thuộc vào 1 đơn vị bộ binh, tôi nhận thấy tinh thần của họ lập tức tăng lên. Họ hiểu rất rõ rằng có những cựu sĩ quan thuộc đủ các cấp hàm, đủ quân binh chủng đang ở bên họ và cùng họ tham gia cuộc xung phong. Cứ như thể cánh bộ binh được nhận 1 mũi tiêm làm tăng tinh thần. Thật là 1 quyết định sáng suốt khi lập 1 đội đặc nhiệm từ những người thuộc các binh chủng khác nhau.

1 lính súng máy shtrafnik trung đội tôi, ko may là tôi ko thể nhớ tên anh ta, báo cáo rằng nhiều ổ súng máy Fritz đang nã đạn tập trung gây thương vong cho quân ta từ gác mái 1 trang trại lớn. Chúng bắn qua những lỗ đục trên tường căn nhà chính lợp cỏ khô. Bộ binh trung đoàn bắn trả nhưng ko ăn thua. Khi bò ra bãi trống, náu mình dưới con hào đào vội nông choèn, chúng tôi tưởng tượng ra thương vong sẽ lớn đến thế nào vì những ổ súng máy đó, thậm chí trước khi bắt đầu xung phong, còn trong cuộc xung phong chúng có thể hạ rất nhiều quân ta như phát cỏ. Vậy là tay shtrafnik phán: "Tôi sẽ hun khói chúng ra khỏi đó." Anh ta lấy 1 băng đạn cháy lắp vào khẩu súng máy, tôi hiểu ra anh ta định đốt trụi trang trại xấu số đó. Đấy là 1 trang trại đẹp và thật tiếc phải đốt nó, nhưng chúng tôi đang ở trong trận chiến. Trong ánh hoàng hôn tôi có thể thấy rõ những loạt đạn của tay súng máy can đảm bắn vào mái trang trại. Mùa hè nóng nực đã qua từ cách đây hơn tháng đã hong cho mái cỏ khô rang, vì vậy chúng bắt cháy chỉ sau vài phút. Hoả lực súng máy Đức câm họng và đúng lúc đó chúng tôi nhìn thấy pháo sáng màu xanh lá bay lên trời. Trùng hợp ngẫu nhiên chăng?

Các shtrafnik và sau đó lính bộ binh trung đoàn, chỉ thoáng sau đã hoà làm 1 khối, bật dậy xông vào làng đầy phấn khích trong những loạt đạn tiểu liên và súng trường. Trận chiến diễn ra ngắn ngủi, chỉ 15 - 20 phút sau ngôi làng đã hoàn toàn về tay quân ta. Ánh sáng từ những căn nhà cháy soi sáng ngôi làng trong ráng chiều. Có nhiều xác lính Đức, nhưng cũng có nhiều tên chạy thoát, chúng đã đồng loạt rút lui như thể nhận được 1 mệnh lệnh nào đó. Tận dụng bóng đêm và cánh rừng dày đặc phía tây Zhirichi, chúng đã biến mất khỏi tầm mắt quân ta. Chúng tôi nhận lệnh dừng lại tạm nghỉ, lại thống kê thương vong và tập hợp trung đội. Tôi cực kỳ thất vọng khi nghe tin người lính súng máy vừa hun khói bọn Đức ra khỏi căn nhà cũng đã hy sinh. Có rất nhiều chuyện ngược đời trong chiến trận. Anh ta giúp giảm thiểu thương vong trong trận đánh vào làng trong khi bản thân mình lại bị giết, anh đã cho đi mạng sống của mình vì người khác. Tất nhiên, đó là quy luật của chiến tranh, nhưng đó là những quy luật tai hại và tôi đã phải trải qua lần này và nhiều lần khác nữa.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:38:51 PM

Khi anh nuôi và xe chở đạn tìm thấy chúng tôi thì trời đã tối đen. Họ khiến chúng tôi ngạc nhiên vì đến rất đúng lúc, suốt cả ngày chúng tôi thậm chí ko có cơ hội cắn 1 miếng thức ăn khô, số lượng đạn dược cũng đã xuống thấp. Chúng tôi nhận được mỗi người nửa âu súp đặc làm từ bột kiều mạch trộn thịt và cả 100g vodka khẩu phần ra trận! Tiểu đoàn phó hậu cần, thiếu tá Izmailov quả là cánh tay phải của kombat. Ông là người cao to và hơi chậm chạp nhưng ra các quyết định rất nhanh. Ông biết cách cung cấp thức ăn và đạn dược cho người của mình trong những tình thế khó khăn nhất. Tôi sẽ nhớ mãi sĩ quan quân lương Moses Zeltszer và sĩ quan cấp đạn Boris Tachaev với lòng biết ơn to lớn.

Trước khi chúng tôi kịp kết thúc bữa ăn duy nhất trong ngày và nhận đạn cùng lựu đạn, giao liên của trung đoàn trưởng lại mang tới 1 lệnh mới. Chúng tôi phải đuổi sát bọn Đức, ko cho chúng cơ hội củng cố vị trí tại những nơi có chướng ngại vật thiên nhiên. Các đại đội của chúng tôi lại được đưa tới cánh phải trung đoàn để độc lập tác chiến. Rõ ràng bọn Đức ko chỉ rút lui đơn thuần mà còn tổ chức các đội khoá đuôi và đặt mai phục nhằm làm chậm bước tiến quân ta. Chúng cũng sẽ củng cố vị trí tại những nơi thích hợp cho phòng thủ. Tất nhiên, chúng tôi đoán được chướng ngại vật thiên nhiên tốt nhất cho chúng là sông Bug, hoặc như chúng tôi thường gọi là sông Tây Bug để phân biệt với sông Nam Bug chảy qua Vinnitsa, Nikolaev rồi đổ ra Biển Đen.

Đêm tối nhưng có nhiều sao, đó là đêm 19/7, thời điểm bắt đầu tuần trăng. Chúng tôi bắt đầu di chuyển chậm về hướng hồ Turskoe trong tình trạng hoàn toàn dò dẫm, định hướng nhờ sao và đo quãng đường đi được chỉ nhờ vào ánh chớp lửa đạn. Chúng tôi liên lạc với nhau bằng cách huýt gió. Suốt đêm chúng tôi di chuyển trong bóng đêm 1 cách hết sức thận trọng và bí mật vì đã mất liên lạc ko chỉ với trung đoàn, lúc này đang ở cánh trái chúng tôi, mà đôi khi cả với sở chỉ huy tiểu đoàn. Sau 1 chút chần chừ, đại đội trưởng quyết định đi vòng qua hồ từ bên trái tới làng Tur, nơi có thể vẫn còn các đội khoá đuôi Đức. Bên cánh phải chúng tôi là 1 sư bộ binh khác, chúng tôi ko liên lạc được với họ, điều đó có nghĩa là cả 2 sườn chúng tôi đều hở. Nghĩ lại lúc đó tình thế thật nguy hiểm, điều gì sẽ xảy ra nếu bọn Đức tấn công thọc sườn chúng tôi? Nhưng lần đó chúng tôi gặp may!

Chúng tôi tới làng Tur vào rạng sáng ngày 20/7 và lại bắn nhau với địch. Nhóm tiền tiêu gặp phải hoả lực súng máy rất mạnh. Lực lượng chính gồm 2 đại đội chúng tôi, trung đội cối của Misha Goldstein và trung đội súng trường chống tăng của Petr Smirnov đụng độ với địch. Smirnov ngay trước trận đánh được chỉ định thay Peter Zagumennikov vừa lên chức đại đội trưởng súng trường chống tăng. Chúng tôi ko hề biết đại đội 3 và các đơn vị khác của tiểu đoàn ở đâu. Nhưng thật bất ngờ chúng tôi nghe thấy tiếng súng nổ ở phía đối diện ngôi làng. Thì ra đó là bộ phận thứ 2 của tiểu đoàn mà chúng tôi vừa mất liên lạc. Họ vòng qua hồ từ bên phải và đến đúng lúc. Toàn thể tiểu đoàn trừng giới, dù chịu nhiều thương vong, đã đánh bật bọn Đức khỏi ngôi làng và đuổi theo lũ Nazi đang rút lui. Tinh thần chúng tôi tuy cao nhưng hiển nhiên ai cũng mệt khiến nhiều người ko thể đuổi sát bọn Đức được nữa. Tất nhiên, đó là kết quả của việc cố gắng quá mức để bắt kịp kẻ địch đang bỏ chạy, ko để chúng có thời gian nghỉ ngơi và củng cố. Chúng tôi hiểu rằng nếu dừng lại chờ đợi có thể dẫn tới thương vong nặng nề khi phải tấn công vào tuyến phòng ngự được chuẩn bị tốt của địch.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:39:10 PM

Sau khi đánh bật bọn Đức khỏi làng Tur, chúng tôi tiến qua 1 quãng rừng rậm rạp tới 1 cánh đồng hoàn toàn khô ráo trải rộng nhiều km. Vì bọn Đức đã lại 1 lần nữa thoát khỏi tầm nhìn và ở đây chẳng có chỗ nào cho chúng phục kích nên trung đội tôi trở lại đội hình hành quân. Tuy nhiên, bọn Đức đã để lại cho chúng tôi 1 sự ngạc nhiên đáng ghét. Lẽ dĩ nhiên hành quân trên đường thì dễ hơn, vì vậy trung đội 1 dẫn đầu đại đội bắt đầu hành quân về phía nam trên con đường nối Malorita với Hotislav, đích mới của cuộc tiến quân. Bất thần có tiếng nổ ở giữa đội hình trung đội 1, ai đó đã dẫm phải mìn. Đại đội trưởng kêu tôi lên trình sát vì tôi đã trở thành "chuyên gia về mìn" nổi danh đại đội. Chúng tôi tìm thấy thêm nhiều quả mìn được nguỵ  trang sơ sài, có lẽ bọn Đức đã đặt chúng hết sức vội vàng. Lính thuộc trung đội của Dmitri Bulgakov đã chỉ canh chừng bọn Đức phục kích mà ko nhìn xuống đường, vì vậy dẫn tới tai hoạ. Chúng tôi báo cáo gấp về những quả mìn lên sở chỉ huy tiểu đoàn, làm những cây dò mìn từ que thông nòng súng trường và tiếp tục hành quân. Từ lúc đó trở đi, ai nấy đều dừng lại từng đoạn, nhìn quanh và nhìn xuống chân. Chúng tôi ko đạp phải quả mìn nào nữa, nhưng đã học được bài học. Tất nhiên nhịp tiến của chúng tôi bị chậm lại rất nhiều. Những trái mìn ko chỉ đặt trên những cánh đồng.

Bất thần trên bầu trời xuất hiện 1 tốp lớn tiêm kích Messerschmitt Đức với những chữ thập đen trên cánh và thân, chúng bắt đầu oanh tạc hàng quân chúng tôi. Chúng tôi nhanh chóng phân tán để tránh tổn thất, binh sĩ bắn trả loạn xạ về phía bọn Messer nhưng ko may những phát đạn đều vô hiệu. Trước khi "bầy quạ đen" Đức bay đi, chúng tôi đã nghe thấy có tiếng động cơ, và đợt sóng máy bay Đức thứ 2 tiến tới, lần này lớn hơn và có vẻ là máy bay ném bom. Theo 1 shtrafnik cựu sĩ quan ko quân, chúng là loại Heinkel hoặc Junker gì đó, tôi ko nhớ chính xác. Ngay khi nhìn thấy rõ có thứ gì đó rơi ra từ những chiếc máy bay, tất cả chúng tôi sợ hãi lao mình xuống đất. Đây là lần đầu tiên tôi rơi vào 1 trận oanh tạc. Tuy nhiên vài sĩ quan và shtrafnik nhiều kinh nghiệm sớm nhận ra bọn Đức đang ném bom kèm 1 thứ gì đó khác qua tiếng rít khủng khiếp nó phát ra khi xoay tròn và rơi xuống. Thì ra bọn Đức ném những mảnh kim loại xuống nhằm làm quân ta sợ hãi. Bản thân tiếng rít khi bổ nhào của máy bay Đức đã rất đáng ghét, cộng thêm tiếng những mảnh kim loại bay trong ko khí tạo thành những tiếng rú rít kinh dị ko thể tưởng, còn đáng sợ hơn cả bom. Những trái bom mảnh và bom HE nổ tung làm dựng lên những cột khói bụi cao ngất, có cả loại "bom ếch" cũng được ném xuống.

Theo các sĩ quan giải thích cho tôi sau này, "bom ếch" là 1 dây gồm nhiều quả bom nhỏ như quả lựu đạn nối lại, chúng tung ra 1 vùng rộng rồi mới nổ. Tôi ko hiểu sao chúng bị gán cho cái tên như vậy, chắc vì tiếng nổ của chúng giống tiếng ngỗng hoặc ếch kêu. Ấn tượng đầu tiên của tôi về cuộc oanh tạc là bầu trời bị xé toạc, ko khí bị dồn nén, những tiếng kêu thét và những cú ngã. Những tiếng động hoà trộn vào nhau, tiếng máy bay bổ nhào, tiếng kêu réo, tiếng gì đó ong ong và tiếng nổ. Tôi chỉ có 1 suy nghĩ, 1 trái bom có thể giết chết tôi tại đây bất kỳ giây phút nào! Có 1 khoảnh khắc sự sợ hãi tột độ xâm chiếm khắp cơ thể, chính xác như vậy. Tôi tự căm ghét sự yếu ớt của mình và nhờ đó cố gắng vượt qua nó.

Những trận oanh tạc làm chậm bước tiến nhưng dù sao chúng tôi cũng tới được làng Hotislav. Thị trấn Malorita nằm bên phải và chắc đang bị lực lượng thiết giáp sư đoàn đánh chiếm vì họ đang tấn công bên phải chúng tôi. Chúng tôi phải vượt 2 con sông, Ryta và Maloryta, trên đường tới Hotislav. 2 con sông đều cạn, mùa khô đã tới được hơn 1 tháng. Bọn Đức có lẽ ko kịp dừng lại tổ chức 1 tuyến phòng nào trên 2 con sông này, chúng chỉ để lại phía sau vài đội khoá đuôi yếu ớt chỉ làm nhiệm vụ nổ súng buộc chúng tôi dàn đội hình hành quân thành đội hình chiến đấu. Sau 1 cuộc chạm súng ngắn chúng rút lui. Bọn Messer Đức 1 lần nữa định oanh kích quân ta nhưng chúng đã bị những "chú chim ưng" với ngôi sao đỏ dưới cánh săn đuổi. Họ bay trong ánh nắng và được quân ta chào đón bằng những tiếng "Hurrah!". Súng trường chống tăng bắn máy bay hiệu quả hơn, tuy vậy vẫn ko ăn thua, chắc do họ sợ bắn nhầm máy bay ta. Đó là lần đầu tiên tôi được xem ko chiến dogfight, rất gần! Trận ko chiến diễn ra ngắn ngủi, đám phi công Đức lập tức bỏ chạy khi 1 chiếc trong số chúng bị bắn hạ, bùng cháy, rơi xuống đất nổ tung cách chúng tôi 1 quãng.

Thật dễ để vượt mấy con sông này. Có 1 chi tiết thú vị là con sông tên là MalorYta trong khi thị trấn bên bờ sông tên là Malorita! Chúng tôi dễ dàng lội qua chúng tiến tới là Hotislav mà ko gặp sự kháng cự nào. Nhiều ngôi làng và trang trại nhìn giống nhau đến kinh ngạc, và tất cả chúng có cùng 1 số phận. Bọn Đức đã đánh bom hoặc đốt chúng cùng với cả dân cư để trả thù các cuộc tấn công của du kích, hoặc đơn giản chỉ là việc cần làm khi phải rút lui. 1 số làng chỉ còn những bếp lò và ống khói còn đứng được trong biển lửa, Hotislav ko phải ngoại lệ.

Tin tưởng vào thành công, cả tiểu đoàn tiếp tục tiến. Đại đội tôi nhận lệnh tiến về phía đường cao tốc theo hướng từ làng Oltush đi về phía bắc. Sau 1 đêm hành quân đại đội đã áp sát con đường cao tốc nối giữa Malorita và Kobrin. Tại đó chúng tôi gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của bọn Đức. Có lẽ chúng để lại 1 đội khóa đuôi chắn ngang con đê cao nằm trước đường cao tốc, chỗ đó cho phép tạo nên 1 tuyến phòng thủ mạnh. Theo tôi nhớ, sáng sớm hôm đó nhóm lính cối của chúng tôi đã có cơ hội chứng minh khả năng bắn chính xác của họ trước cuộc xung phong. Những quả đạn nã chính xác vào các vị trí quân Đức, ngay sau con đê và trước con đường, trông như 1 trận pháo phủ đầu dù ko đủ mạnh như chúng tôi mong muốn. Lệnh xung phong, lao thẳng tới đường cao tốc, ko được để bọn Đức có thời gian chạy thoát. Trận đánh kết thúc sau 1 cuộc chiến giáp lá cà, tôi sẽ ko mô tả chi tiết, nó quá dữ dằn, tàn bạo và khốc liệt. Bọn Nazi có vẻ shock vì quân ta tấn công quá nhanh. Tôi ko thể tổng hợp chi tiết về các trận đánh giáp lá cà vì mỗi trận lại diễn ra 1 kiểu, tuy nhiên tất cả chúng có 1 vài điểm chung. 1 nhà thơ nữ frontovik, Julia Drunina, người đã chết sau chiến tranh khi còn rất trẻ, đã viết bài thơ sau về những điểm chung đó:

?oAi nói rằng chiến tranh ko đáng sợ,
Thì chẳng biết gì về chiến tranh.
Tôi nhìn thấy trận chiến giáp lá cà 1 lần khi đang thức.
Và hàng trăm lần trong những cơn ác mộng!?

Trong suốt cuộc chiến chúng tôi đã đánh giáp lá cà nhiều lần, chúng biến thành những cơn ác mộng suốt nhiều năm sau chiến tranh.

Lúc này đội khóa đuôi Đức đã bị tiêu diệt. Ngay sau trận đánh chúng tôi nghe rõ tiếng động cơ giữa ko khí tĩnh lặng buổi sớm mai. Chúng tôi nghĩ thiết giáp Đức sắp từ trong rừng kéo ra đường cao tốc, tình thế thật là gay go. Tuy nhiên tiếng động cơ chạy xa dần, giờ chúng tôi mới hiểu tại sao đội khóa đuôi Đức nhiều lần thoát khỏi chúng tôi dễ dàng. Chúng có xe tải! Giá mà chúng tôi có vài cỗ xe tăng! Nhưng xe tăng tất nhiên ko thể dùng ở khu vực lầy lội này nên đã tới chỗ khác. Mỗi người đều có nhiệm vụ và số phận của mình. Nhịp tiến quân của chúng tôi chậm dần sau mỗi giờ, mỗi km, chúng tôi đã hành quân mà ko ngủ 3 đêm liền, cộng thêm đêm trước cuộc tấn công cũng chẳng có thời gian nào mà ngủ. Vì vậy tất cả đều hoàn toàn kiệt sức. Đâu phải chúng tôi chỉ hành quân, chúng tôi còn phải xung phong và thường giao chiến những trận ác liệt. Người của tôi ko có cánh trong khi có quá nhiều thứ cần vượt qua! Những cây số hành quân bộ đôi khi trở nên vô cùng dài!

Kombat (tiểu đoàn trưởng) Arkadi Aleksandrovich, người mà ai nấy đều hiểu và cảm thấy đây chính là ?oBố?, mặc dù bản thân toàn đi bằng chiếc jeep Willy nhưng ông hiểu tiểu đoàn của mình đã đến giới hạn. Binh sĩ đã buồn ngủ rũ rượi và sẽ ko thể hoàn thành bất cứ nhiệm vụ gì! Tôi ko biết ông đã sắp xếp thế nào với mệnh lệnh của sư trưởng, nhưng dù sao ông cũng đã lệnh cho chúng tôi dừng tấn công, cho tiểu đoàn nghỉ tối thiểu 3h vì khi đó ko có nguy cơ chạm địch. Lúc đó là khoảng trưa, các đại đội đang đi qua 1 cánh rừng rộng lớn, chúng tôi tới 1 bãi đất cao khô ráo, có tầm nhìn tốt tới mục tiêu tiếp theo, làng Radezh. Kombat chọn đây là nơi tiểu đoàn dừng nghỉ. Đội khóa đuôi Đức ko có chỗ nào để ẩn náu, vì vậy ko có gì ngăn cản chúng tôi có 1 khoảng thời gian nghỉ ngơi thoải mái.

Bạn phải nhìn thấy người của tôi lúc đó mới đánh giá được hết sự quan tâm trong quyết định của vị chỉ huy tử tế. Mọi người đều kiệt sức vì tiến quân ko ngừng, thường là dưới làn đạn. Chúng tôi đã tiến trên vùng đầm lầy Ukraina và Polessie thuộc Belorussia. Trông ai nấy đều nhầu nhĩ với đôi mắt đỏ quạch sau nhiều đêm ko ngủ, tất cả đều khao khát được ném mình xuống đất mà ngủ dù chỉ 1 phút, 1h thì tốt nhất rồi. Suốt 72h trước đó chúng tôi ko có 1 giây nào dừng lại để chợp mắt, lấy lại chút sức lực. Thậm chí ký ức tốt đẹp về bữa ăn mà nhà bếp mang tới ngay sau trận đánh chiếm Zhirichi cũng đã bay đâu mất. Hiển nhiên là cả shtrafnik lẫn sĩ quan đều lăn ra đất ngủ ngay lập tức sau khi nghe lệnh ?onghỉ?. Tiếng ngáy của hàng trăm con người kiệt sức vang lên. Bắt ai đó thay phiên nhau ngủ để canh gác thật vô cùng khó khăn.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:39:33 PM

Trung đội phó của tôi, người thường được tôi gọi theo cấp bậc cũ của ông là đại tá Sergey Ivanovich Petrov, hiểu rất rõ tôi đã khó khăn đến thế nào để theo kịp người của mình. Chân tôi chưa lành hẳn. Ông hiểu rõ và lo hộ tôi bằng cách tự mình nhận cắt đặt phiên gác để tôi được chợp mắt 1 chút. Thật dễ thở khi có ai đó cất hộ gánh nặng trách nhiệm trung đổi trưởng khỏi vai tôi, dù chỉ là 1 lúc. Tôi chìm vào giấc ngủ ngay lập tức giống như mọi người khác. Petrov chỉ đánh thức tôi dậy 1 tiếng rưỡi sau, có lẽ phải mất vài phút tôi mới tỉnh dậy được, chắc lúc đó trông tôi rất shock! Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng tỉnh dậy hẳn và nhận ra rằng cần thay phiên gác, những người gác cũng cần được nghỉ! Tôi cực kỳ sung sướng vì trung đội phó cũng đã lo vụ đó, cám ơn ông đã gỡ cho tôi 1 nhiệm vụ nặng nề là đánh thức 1 số người để thay phiên gác. Các đội hậu cần đã tới với xe nhà bếp và xe chở đạn. Mặc dù bụng rỗng nhưng nhiều người đã đến lấy thêm đạn trước rồi mới trở lại bếp. Tất cả sĩ quan đều nhận lệnh của kombat phải giải thích cho lính là tại sao lúc đó ko được phát 100g vodka, nó có thể làm trầm trọng thêm tình trạng kiệt sức nếu uống khi đói. Đó là lý do chúng tôi chỉ nhận được vodka ngay sau khi có lệnh "Tiến lên!"

Quân ta tiếp tục tiến qua Radezh, đó là 1 ngôi làng nhỏ nhưng rất đẹp. Vì lý do nào đó ngôi làng gần như hoàn toàn nguyên vẹn. Mọi ngôi nhà trong làng đều có vườn cây rậm rạp với nhiều cây ăn quả và những khóm hoa rực rỡ, mặc dù lúc này đã qua giai đoạn giữa mùa hè. Có lẽ điều gì đó đã ngăn bọn Fritz đốt ngôi làng đẹp đẽ này. Tuy nhiên chúng tôi ko thể dừng lại tại đây dù chúng tôi đương nhiên cần cảm ơn những người dân làng đã tiếp đón nồng hậu. Có vẻ như tên làng, Radezh, xuất phát từ "radost" có nghĩa là "niềm vui" hoặc "raduga" có nghĩa là "cầu vồng". Chúng tôi lại tiếp tục tiến nhanh để ko cho bọn Đức kịp củng cố trên bờ tây con sông Bug rộng lớn. Mọi đơn vị Soviet trong khu vực này đều lao về phía con sông, nó rộng, sâu và chảy siết hơn hẳn 2 nhánh sông Ryta và Maloryta của sông Pripyat cũng như những sông suối nhỏ với bờ sông lầy lội mà chúng tôi từng vượt qua. Quá trưa ngày 21/7, chúng tôi 1 lần nữa nằm dưới làn đạn địch ở giữa con đường cao tốc và đường sắt cách sông Bug độ 3 - 5km. Đến đêm chúng tôi cắt được 2 tuyến giao thông này, nó nằm về phía nam Domachevo, ngay sau đó chúng tôi đã áp sát sông Bug. Pháo đài Brest, lúc đó chúng tôi chưa biết tới nó, nằm ngay tại đó.

Trái ngược với mong muốn của chúng tôi, sông Bug ko hề nhỏ và nước chảy cũng ko hề êm. Chúng tôi lại phải vượt qua nó. 1 sự im lặng đáng ngờ và có vẻ hung hiểm bao trùm con sông. Ko có địch trên bờ bên ta. Chúng tôi được chuẩn bị để vượt sông vào sáng sớm, vì vậy có thời gian cho quân nghỉ 1 chút. Tuy nhiên cần 1 chút thời gian để tìm các điểm có thể vượt sông và chuẩn bị chiến đấu. Hầu hết lính đại đội tôi trang bị tiểu liên PPSh, thường gọi là papasha tức là "cha yêu". Nạp thêm đạn vào băng đạn tròn của khẩu PPSh rất khó, đặc biệt là trong đêm. Để làm việc này chúng tôi phải tháo rời băng đạn ra, tức là mở nắp, căng lò so mà ko làm rơi đạn khỏi băng, và nạp thêm từng viên. Đây ko phải việc dễ làm, như những người nhiều kinh nghiệm từng nói, nó giống như người đi ủng lần đầu khi 2 chân đang quấn xà cạp. Những người chưa có kinh nghiệm đều để xà cạp tuột khỏi tay khiến các vòng quấn tuột ra, vậy là phải làm lại từ đầu!

Suốt đêm chúng tôi lặng lẽ tìm kiếm và đánh dấu những chỗ sông cạn, nạp đạn và chuẩn bị vũ khí cho việc vượt 1 con sông lớn. Đó sẽ là 1 cuộc vượt sông khó khăn, đặc biệt là trong tình trạng chúng tôi chẳng có phương tiện vượt sông nào. Ko có thời gian đóng bè hoặc bất kỳ thứ gì tương tự. Chúng tôi đã ngạc nhiên và vui sướng khi 1 sĩ quan từ trung đoàn bên cạnh tới cùng 2 người nữa. Anh ta nói mình được lệnh dùng thuốc nổ TNT đốn hạ nhiều cây lớn cho đổ xuống sông để làm nó cạn bớt tạo điều kiện cho chúng tôi vượt sông. Viên sĩ quan nói thêm anh ta sẽ cố cho nổ những thân cây sao cho gốc cây vẫn nằm trên bờ còn cành lá đổ xuống nước. Để giữ bí mật, việc đốn cây sẽ tiến hành trong khi pháo bắn phủ đầu. Tôi ko rõ có phải kombat là người đưa ra kế hoạch này với sư trưởng ko, hay là ngược lại? Nhưng chúng tôi nghi ngờ việc tay sĩ quan kia có thể đốn hạ cây chính xác như cách anh ta nói!

Pháo binh khai hoả vào mờ sáng. Cối của chúng tôi cũng tham gia vào trận pháo kích. Từ lâu chúng tôi đã quên nickname "cối trượt" mà chúng tôi gọi họ hồi đầu. Chúng tôi có thể nhìn rõ cánh đồng lúa mì khô ráo và 1 vệt bùn dẫn vào 1 cánh rừng nhỏ bên sông, 1 quang cảnh quen thuộc với người Nga. Tuy nhiên bên kia sông Bug đã là nước khác rồi, và suy nghĩ đó cứ ám ảnh tôi. Các công binh chiến đấu tới hỗ trợ cho nổ những cái cây, nhưng họ chỉ thực hiện kế hoạch này ở khu vực trung đội tôi. Những cái cây đổ xuống chính xác như họ đã hứa, gốc trên bờ, ngọn dưới nước. Chúng tôi sung sướng vì thấy những cành cây ko bị nước cuốn đi, tôi nghĩ vận may đã quay lại với mình! Khả năng bơi lội của tôi vẫn chưa tiến triển tí nào sau cuộc tắm hố băng trên sông Drut'' ở Belorussia. Khi chúng tôi bắt đầu vượt sông những cái cây đã làm chúng tôi dễ dàng hơn, những cành cây che phủ những chỗ sâu nhất, những chỗ khác thì thường thôi, nhờ vậy chúng tôi ko cần bơi mà giống như vượt qua 1 cây cầu. Toàn trung đội tập trung hết số xà cạp đang có nối thành 1 sợi dây dài để mọi người bám vào, kể cả những người biết bơi.

Lại 1 lần nữa bọn Đức bỏ vị trí, gần như ko có đánh nhau dù phải vượt qua 1 chướng ngại vật thiên nhiên như con sông này. Chúng bắn trả rất yếu ớt, hầu hết là bằng súng nhỏ, và lại rút lui. Chúng đã bị cảnh báo trước về sức mạnh và tốc độ tiến công của bộ binh ta có thể đuổi kịp cả những đơn vị khoá đuôi cơ giới. Quân ta tập trung trên bờ tây sông Bug và lại tái chuẩn bị cho 1 cuộc chiến trên đất bằng. Chúng tôi 1 lần nữa nhận lệnh tổ chức đội hình hành quân trên đường với 2 hàng song song, sau đó tiếp tục đuổi theo quân địch trên đường và qua 1 quãng rừng trống. Chúng tôi nhận lệnh phải quan tâm đặc biệt đến hoạt động trinh sát và chú ý đến các bãi mìn trên đường tiến công.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:39:47 PM

Vậy là chúng tôi đã ở trên đất Ba Lan. Sư kiện lịch sử được mong chờ từ lâu đã tới. Biên giới phía tây Liên Bang Soviet đã ở sau lưng ta! Hôm nay chính xác là 3 năm sau trận phòng thủ kéo dài 30 ngày tại pháo đài Brest. Chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ nặng nề nhưng vinh quang là giành lại biên thuỳ phía tây Liên Xô, giải phóng đất nước Belorussia nhiều đau thương và pháo đài Brest vinh quang. Sự anh hùng của những người phòng thủ pháo đài Brest chỉ được biết rõ nhiều năm sau chiến tranh. Chúng tôi đã nói về nhiều chuyện ngay khi còn ngồi trong các chiến hào trên phần đất Soviet, rõ ràng là phần lớn chúng tôi chưa từng biết tới việc đi ra nước ngoài. 1 số shtrafnik đã tham gia vào cuộc tiến quân giải phóng Tây Belorussia và Tây Ukraina năm 1939, họ là những nhân chứng sống của sự kiện này và kể cho chúng tôi nghe nhiều chuyện trong đó nhấn mạnh sự thù địch của người Ba Lan. Ví dụ họ kể câu chuyện người Ba Lan chào đón Hồng quân bằng những bó hoa, vài bó bên trong có giấu lựu đạn! Chúng tôi ko muốn tin những câu chuyện kiểu này nhưng ghi nhớ chúng như 1 lời cảnh báo.

Khi hành quân trên đất Ba Lan, đội hình đại đội được bố trí sao cho chúng tôi có thể nhanh chóng tản ra tạo thành đội hình tấn công. Chúng tôi có 1 "mũi nhọn" mạnh đi trước gồm những người lính được trang bị que dò mìn. Mới đi được 1km chúng tôi đã gặp 1 cụ già người Ba Lan nói tiếng Nga rất tốt, ông đứng đợi sẵn, mỉm cười và nói chuyện với chúng tôi với vẻ sung sướng. Ông kể bọn Đức đã chuồn đi trên xe tải ngay khi pháo dọn bãi bắt đầu bắn qua sông. Sau khi vượt sông Bug được độ 3 - 4km, chúng tôi được lệnh quay sang hướng bắc nhằm hướng đường cao tốc Brest - Warsaw ở phía đông thị trấn Ba Lan Byala Podlyaska. Chúng tôi phải thiết lập 1 cứ điểm mạnh trên con đường cao tốc này vì nó là tuyến đường rút lui duy nhất của 4 sư đoàn Đức đang bị vây tại Brest. Tiểu đoàn tôi và các trung đoàn của Sư 38 Bộ binh Cận vệ được giao nhiệm vụ khép vòng vây quanh lực lượng Đức này, cắt đường rút về phía tây của chúng.

Chúng tôi nhất định phải tới được đường cao tốc càng nhanh càng tốt. Vì vậy chúng tôi hành quân ko nghỉ trên 1 con đường xuyên rừng, càng ngày rừng càng rậm. Bất thần 1 tiếng nổ vang lên giữa đội hình trung đội 2! Nghe giống tiếng 1 quả đại bác cỡ lớn. Ngay lập tức chúng tôi nghĩ bọn Đức đã đặt 1 đội khóa đuôi mạnh phía trước. Ngay trước mắt tôi, người của trung đội do Fedya Usmanov, bạn tôi chỉ huy lăn ra đất, chết hoặc bị thương. Nhiều người trong trung đội tôi cũng ngã xuống sau tiếng nổ. Bản thân tôi cũng cảm thấy như bị 1 cú đánh mạnh vào ngực nhưng vẫn còn đứng được. Gần như ngay sau đó những tiếng nổ nhỏ hơn vang lên ở cả 2 bên đường khi mọi người chạy tản ra ẩn núp. Có vẻ như bọn Đức đang nã cối cỡ nhỏ vào mục tiêu định trước. Nhiều người cũng đang ngã xuống ở 2 bên vệ đường, những người chạy tới giúp đỡ cũng ngã xuống nốt, có điều gì đó ko thể tưởng tượng nổi đang xảy ra. Thật lạ là ko có tiếng đạn bay tới, những tiếng nổ phát ra mà ko có tiếng rít điển hình trước đó. Thì ra tất cả chúng tôi đã bị lừa, chẳng có trận pháo kích nào, chỉ là trung đội 2 đã đi vào 1 bãi "mìn lò xo", tức mìn nhảy, tôi biết nó có tên là SMI - 35. Loại mìn này được đặt dưới đất với kíp nổ gắn vào 1 sợi dây thép căng giữa 2 điểm được nguỵ trang trên mặt đất. Khi trái mìn bị kích hoạt, nó bật lên cao 1 - 2m rồi mới nổ. Mỗi trái mìn được nhồi hàng trăm viên bi thép có tác dụng như mảnh đạn, vì vậy chỉ cần 1 quả đã hạ được gần như toàn bộ trung đội 2. Ngoài ra 2 bên đường bọn Đức còn đặt hơn 20 quả mìn chống bộ binh loại thường. Bọn chó má đó đã đoán trước được phản ứng của những người sống sót, họ sẽ lao vào rừng để ẩn núp, và đó chính là nơi chúng đặt bẫy mìn. Chúng tôi đã nhầm lẫn tiếng nổ của loại mìn thường với tiếng nổ của đạn cối.

Điều kỳ lạ nhất là nhóm "mũi nhọn" đã đi qua đoạn đường này với cây dò mìn trong tay, theo sau là đại đội trưởng cùng nhóm tham mưu 5 - 6 người, sau nữa là cả trung đội 1. Ko ai trong số đó đạp phải mìn! Trung đội 2 đã ko được may mắn lắm. Nếu họ ko kích hoạt quả mìn chắc ai đó trong trung đội tôi cũng dính. Tôi ko biết sức mạnh siêu nhiên nào đã bảo vệ cho tôi khi đó. Tôi ko có thứ bùa hộ mệnh nào, ko biết cầu nguyện hay bất kỳ loại lời bùa chú nào, là kẻ vô thần nặng từ nhỏ, thậm chí còn từng là thành viên UMA, Hiệp hội những chiến sĩ vô thần. Tôi sống sót vì vài phút trước vụ nổ tôi cảm thấy có gì đó ko ổn với cây tiểu liên của mình. Nó treo trên cổ tôi và đập vào bụng tôi theo mỗi bước chân. Giao liên của tôi, Zhenya, đã nhắc tôi nhiều lần là phải chỉnh lại khẩu tiểu liên, rút ngắn dây đeo lại, vậy là lúc đó tôi dừng lại chỉnh dây đeo. Tiếng nổ xé toạc ko khí gần như ngay sau đó, 1 viên bi kim loại từ quả mìn bắn rất mạnh vào trúng khẩu tiểu liên của tôi làm nó bay mất cả 1 miếng lớn. Đó là lý do tôi suýt ngã lăn ra! Toàn bộ lực va chạm của viên bi kim loại đã bị khẩu tiểu liên PPSh hấp thụ hết. Rõ ràng là nếu khẩu súng vẫn ở vị trí cũ tôi sẽ ko mất 1 miếng trên khẩu súng mà là có 1 lỗ lớn trên ngực. Tất cả những gì tôi phải nhận chỉ là 1 vết tím bầm khổng lồ chạy từ đầu ti bên này sang bên kia. Tôi cũng đã từng may mắn giống thế này 1 tháng trước, khi gỡ mìn trong cánh rừng phía sau vị trí phòng thủ. Tôi cũng thường xuyên được thần may mắn kèm cặp khi vượt qua những trái mìn và những viên đạn trong suốt cuộc chiến. Nhiều người ko có được may mắn đó, gần như cả trung đội 2 chết, 2 người trung đội tôi cũng chết, trong khi tôi vẫn sống.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

02 Tháng Mười, 2010, 05:39:57 PM

Bạn có thể làm gì được, đó là chiến tranh! Sự may mắn là 1 nhân tố quan trọng trong mọi cuộc chiến. Ko ai có thể chuẩn bị trước hay được chia sẻ sự may mắn. Mức độ huấn luyện, kinh nghiệm hay kỹ năng chiến đấu chẳng đóng vai trò gì ở đây, sự may mắn là cái gì đó mà ta hay gọi là số phận. Fedya Usmanov bị thương nặng, ngực bị xuyên từ trước ra sau. Anh ta có may mắn ko? Anh ta có thể chết như những người khác, điều này khiến anh ta mất 1 thời gian dài mới lấy lại cân bằng, nhưng sau khi rời bệnh viện anh đã trở lại tiểu đoàn. Rất nhiều sĩ quan ko muốn chia sẻ số phận với các shtrafnik và đã ko trở lại tiểu đoàn sau khi bị thương. Người ta có thể hiểu sự lựa chọn đó và ko ai chê trách họ.

Chúng tôi mất rất nhiều người tại đó, phần lớn chết ngay tại chỗ, còn lại chết sau khi bị thương. Sự đáng sợ của loại "mìn lò xo" nằm ở chỗ nó nổ ở độ cao gần ngang bụng. Các vết thương vùng bụng là nguy hiểm nhất trong hầu hết trường hợp và tất nhiên ko thể lập ngay 1 phòng mổ tại chỗ. Điều này là vô phương trong điều kiện chiến trường. Tôi đã chứng kiến nhiều việc trong cuộc chiến, giống như nhiều người khác, nhưng đây là sự cố đầu tiên tôi chứng kiến 1 trái mìn có thể hạ nhiều người đến vậy, ngay 1 quả bom lớn cũng ko làm nổi việc này. Xác người nằm đầy đất, 1 số đã bất động, số khác giãy giụa trong đau đớn. Tiếng gào thét, rên rỉ của những người bị thương, tiếng thều thào của những người đang hấp hối vang khắp nơi. Thật ghê sợ! Ko ai có thể quen với cảnh tượng này, kể cả sau này. Với tôi, đây là cú shock lớn đầu tiên. Hình như nó làm trái tim tôi mất cảm giác với những cái chết sau này. Chúng tôi ko tin có thiên đường sau khi chết, nếu chúng tôi tham chiến, đánh bạc mạng sống của mình thì đó ko phải vì sẽ được lên thiên đường mà chỉ vì lợi ích của đất nước tôi, Tổ quốc tôi, nhân dân tôi.

Chúng tôi để lại 1 nhóm nhỏ, hầu hết là những người bị thương nhẹ, để giúp đỡ những người bị thương khác. Đại đội trưởng báo cáo tổn thất cho ban chỉ huy tiểu đoàn qua điện đài và yêu cầu gửi quân y cùng xe đến sơ tán thương binh. Chúng tôi chôn vội những người chết, chỉ kịp làm 1 bia mộ nhỏ ghi tên những người chôn bên dưới ngôi mộ tập thể. Chúng tôi còn phải tiến lên. Đại đội tôi chỉ còn lại ko hơn 2 trung đội lên đường để hoàn thành nhiệm vụ. Chúng tôi lại ở dưới làn đạn Đức vào xế chiều.

Đạn bắn tới từ khóm rừng cây bulô nhỏ được chúng tôi đánh dấu là "khóm rừng vuông" theo hình dạng của nó trên bản đồ. Chúng tôi đang ở rìa phía tây 1 ngôi làng, khóm rừng còn cách đó khá xa khiến chúng tôi cho nơi đây nằm ngoài tầm súng nhỏ của bọn Đức nên ko bố trí đội hình và nguỵ trang cẩn thận. Thế nhưng đã có 1 khẩu súng máy hạng nặng Đức khai hoả từ khóm rừng. 1 shtrafnik cao lớn đang đứng cạnh tôi bên 1 căn lán từ từ ngã vật xuống đất. Anh ta bị hạ vì loạt đạn đáng lẽ đã bắn trúng tôi và nhiều người khác, chúng xuyên hết vào giữa ngực anh. Tất nhiên chúng tôi ko có nữ cứu thương trong tiểu đoàn trừng giới, mỗi tiểu đội chỉ định 1 số shtrafnik làm cứu thương, điều đó có nghĩa là họ phải mang nhiều đồ để băng bó hơn những người khác. Chúng tôi băng bó người bị thương, kéo anh ta ra sau căn lán và sau đó gửi về trạm phẫu. Hồi đó, theo kinh nghiệm của cánh lính cựu, chúng tôi có vài lý do để chắc chắn rằng ăn đạn xuyên ngực sẽ ko nguy hiểm nếu anh ko chết ngay hoặc có máu phun thành vòi từ vết thương. Tuy nhiên, trường hợp duy nhất chứng minh cho kinh nghiệm này là Fedya Usmanov.

Thì ra khóm rừng vuông chính là nơi bọn Đức dừng lại và thiết lập 1 điểm phòng thủ ngoại vi. Tuyến phòng ngự của chúng ko còn là những nhóm khoá đuôi nhỏ nữa. Mỗi ngôi làng hoặc quả đồi giờ là 1 cứ điểm, cần phải tấn công ồ ạt mới tiêu diệt được. Chúng tôi còn phải chống trả các cuộc phản công đôi khi lên tới 3 - 4 lần/ngày. Tuy nhiên mặc dù tổn thất nặng tinh thần quân ta vẫn cao và thể lực vẫn rất tốt. Đây ko phải do trong tiểu đoàn tôi có nhiều Ctrị viên, tôi chẳng thấy có Ctrị viên vào tới đại đội mình trong suốt những ngày khó khăn đó ngoại trừ viên thiếu tá dữ tướng Olenin, chắc họ đến thăm các đại đội khác. Cuộc tiến công của quân ta trở nên khó khăn và chậm chạp hơn. Phải nói rằng chúng tôi chỉ tiến được 10 - 12 km/ngày với nhiều trận chiến ác liệt đến kiệt sức. Cả kombat và trung đoàn trưởng trung đoàn 110 bên cạnh đều đã cho dừng tấn công đêm, chí ít cũng phải để chút thời gian cho binh sĩ nghỉ ngơi và ăn uống. Thỉnh thoảng người ta còn đãi chúng tôi vodka nhiều hơn khẩu phần vì chịu nhiều tổn thất. Vodka là liều thuốc thực sự chống stress trong tình trạng quá tải cả về thể chất lẫn tinh thần này. Binh lính ko thể xỉn với lượng rượu nhỏ này, nó chỉ làm họ tăng cường sức mạnh, nâng cao tinh thần mà thôi.

Đến trưa 25/7 chúng tôi đã đánh bật được bọn Đức khỏi vị trí phòng ngự cuối cùng nằm giữa tuyến đường sắt và đường cao tốc Brest - Warsaw. Chúng tôi được lệnh dừng lại và phải giữ bằng được mảnh đất này cho đến người cuối cùng, ko để bọn Đức trong cái bẫy Brest có cơ hội tẩu thoát. Con đường cao tốc do chúng tôi trấn giữ trông giống 1 lưỡi dao đâm xuyên tuyến phòng ngự quân ta, kẻ địch cố hết sức chọc thủng cái khe hẹp này. Chúng tấn công vào các vị trí của chúng tôi với sức mạnh kinh khủng, giết chóc, nghiền nát, hành hạ người của ta. Ngay hôm đầu tiên giữ điểm phòng ngự này, chúng tôi đã cảm nhận được bọn Đức liều mạng thoát vòng vây đến mức nào. Chúng tấn công hết đợt này đến đợt khác, và các trận ác chiến diễn ra liên tục.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:37:05 PM

Chúng tôi phải đào hầm hào, tận dụng mọi đặc điểm địa hình thích hợp cho phòng ngự, đó là tất cả những gì chúng tôi cần làm. Địa hình tại đây có đặc điểm là rừng cây dày đặc và tầm nhìn thấp, địa thế này rất bất lợi và nguy hiểm cho quân ta. Bọn Đức pháo kích liên tục bằng đạn nổ, loại đạn mà chúng tôi ít phải đối mặt. Những trái đạn nổ tung khi bắn phải cây cối khiến cho ai nấy đều có cảm tưởng mình bị bắn ở tầm gần từ mọi hướng kể cả từ trên đầu, giữa những tán cây. Thật đáng sợ khi bạn ko biết đạn bay tới từ đâu, có thể cả từ bên sườn, phía sau hoặc từ trên xuống! Tôi lập tức nhớ lại những câu chuyện về bọn bắn tỉa Phần Lan nấp trên cây. Ở Học viện chúng tôi đã được nghe rất nhiều chuyện về chúng. Tôi phải liên tục chạy từ chỗ người này đến người khác trong trung đội, chỉ thị cho họ cách đào hầm hố. Các cựu sĩ quan ko quân, hậu cần và thậm chí cả xe tăng cần những hướng dẫn đó vì họ chẳng có tí kinh nghiệm nào của các "nữ hoàng chiến trận", tức là bộ binh.

Quân địch tấn công bất chấp trở ngại và thương vong. Trước khi màn đêm buông xuống mà với chúng tôi quãng thời gian đó kéo dài như thể nhiều năm, nhóm lính nhỏ bé của tôi đã phải đẩy lui tới 5 đợt xung phong của bọn Đức! Tức là gần như mỗi 30 phút lại có 1 cơn mưa đạn trút vào chúng tôi. Từng đám ko đếm xuể gào thét và nổ súng xông tới, thỉnh thoảng những tên Fritz cuồng loạn lao vào tận vị trí quân ta, và có vẻ như số lượng của chúng ko có giới hạn! Tất cả chúng chạy loạn xạ giữa các vị trí quân ta, tình thế thật đáng sợ khi mà chúng tôi gần như ko thể cất đầu lên nổi dưới luồng đạn súng máy hạng nặng của chúng. Quân ta phải bắn trả giữa tất cả cảnh địa ngục đó, ngắm kỹ để hạ được địch, ko để chúng vượt qua. Đây đó lại có những người của tôi gục chết trên mặt đất. Nhiều shtrafnik dù bị thương nặng và có quyền rời trận địa vẫn ở lại chiến đấu.

Trong khi chặn cuộc tấn công thứ 3 hay 4 gì đó của bọn Đức, tôi đang chạy từ vị trí này tới vị trí khác thì ngã gục vì trúng 1 cú mạnh vào cái chân trái chưa lành hẳn. Vậy đấy, tôi nghĩ, cái chân này lại dính đạn lần nữa! Nhưng khi ngã tôi ko cảm thấy đau đớn chút nào, tôi nhìn lại và thấy 1 cái lỗ ở phần trên chiếc ủng. Thật kỳ lạ, có lỗ đạn mà chân tôi vẫn nguyên. Tôi thò tay sờ ủng để kiểm tra xem có máu ko và lôi ra cái thìa bằng thép ko gỉ của mình. Nó cong gập và xoắn lại! Thì ra viên đạn Đức khi bắn tới đã hết lực hoặc đã đập vào cây nên chỉ có thể làm cong thìa. Giống như những mảnh mìn nhảy từng quật ngã tôi, tôi lại gặp may lần nữa! Thực sự thì cái thìa cũng như khẩu tiểu liên chính là bùa hộ mạng của tôi. Tiếc rằng tôi đã ko giữ được cái thìa này đến hết chiến tranh, nhưng dù sao thì các kỷ vật chỉ là thứ cuối cùng tôi nghĩ đến.

Tối đến các đơn vị hậu cần mang tới cho chúng tôi rất nhiều đạn dược, tất cả chúng tôi đều lấy thật nhiều để dự trữ. Nhiều người thậm chí còn lèn đạn và lựu đạn vào đầy túi chứa mặt nạ phòng độc, vứt mặt nạ đi. Đêm vẫn nóng bỏng. Lợi dụng bóng tối, mấy chiếc xe bọc thép Đức định lẻn qua tuyến phòng ngự của chúng tôi để ra được đường cao tốc nhưng bị các tay súng trường chống tăng đơn vị tôi và các khẩu đội 45mm chống tăng trung đoàn hạ dù trời tối đen. Tôi muốn kể lại sự may mắn của trung đội cối do Misha Goldstein chỉ huy. Trong khi rút lui bọn Đức đã bỏ lại cả 1 kho đạn cối 81mm, loại đạn này phù hợp cả với cối 82mm quân ta, đừng nên chỉ nhìn vào sự khác nhau của cỡ đạn. Goldstein cho bắn số đạn này lên đường cao tốc suốt đêm tạo thành 1 màn chắn hoả lực mạnh và hỗ trợ rất tốt cho cánh lính chống tăng. Tờ mờ sáng chúng tôi thấy cả 1 nhóm lớn gồm lính cưỡi ngựa, xe ngựa và pháo trên đường cao tốc, chúng tiến về phía chúng tôi từ hướng bọn Đức. Cả đám bị pháo và cối ta bắn dữ dội, những tên sống sót quay lui.

Sáng 26/7, các cuộc tấn công của bọn Đức lại tiếp tục với cường độ ko hề giảm sút. Tại 1 trong những cuộc xung phong đó bọn Đức tung ra tới 2 tiểu đoàn bộ binh được 24 xe tăng yểm trợ cùng với máy bay. Đất đá bay tung trời, những tiếng nổ đủ kiểu của bom đạn hoà trộn nhau thành 1 tiếng sấm rền dài. Lần này đã có 2 - 3 xe tăng Đức vượt qua được, nhưng chỉ thế thôi. Phần còn lại của đoàn thiết giáp Đức đã bị chặn đứng bởi sự kiên cường của các shtrafnik và những chiến sĩ sư đoàn Cận vệ. Họ đã chiến đầu hoàn toàn quên mình với tinh thần luôn giữ ở mức cao. 1 cảm giác đặc biệt xảy ra trong trận chiến, đặc biệt là khi trận đánh đó ác liệt và gian khổ, đó là 1 kiểu thăng hoa, khi đó bạn ko còn cảm thấy sợ hãi hay hoảng hốt gì nữa, chỉ còn lại niềm hăng say chiến đấu! Vâng, cái từ "hăng say" đó nghe thật là lạ, nhưng nó đến rất tự nhiên và hoàn toàn có thật! Trong trạng thái xuất thần đó người lính thậm chí ko còn quan tâm đến các vết thương, ko còn biết đau. Tôi biết cảm giác này nhờ trải nghiệm của chính bản thân và các đồng đội. Ai nấy đều chiến đấu dũng cảm và kiên cường, ko 1 ai bỏ vị trí. Tôi nhớ mình đã có tư tưởng so sánh nhiệm vụ ko để địch vượt qua của chúng tôi với những ví dụ khác về lòng quả cảm của những người lính Hồng quân trong các trận đánh Moscow và Stalingrad. "Hãy để hố cá nhân của bạn trở thành trận đánh Moscow và Stalingrad của riêng bạn!" Tôi nói với 1 shtrafnik dưới quyền như vậy. Có lẽ những lời nói này nghe quá cao xa nhưng tôi thấy nó có hiệu quả. Kẻ địch phải nhận thương vong nặng nề, nhưng thương vong quân ta cũng đặc biệt cao. Đó là vì trong các trận đánh trước quân Đức đã gây cho chúng tôi nhiều thiệt hại khi tấn công vào các vị trí phòng thủ tương đối yếu của chúng, trong khi đó thương vong của chúng ko cao.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:37:16 PM

... Năm 1985, nhân kỷ niệm 40 năm Ngày Chiến thắng, tôi đã tìm gặp các đồng đội trong Tiểu đoàn Trừng giới để tổ chức 1 buổi họp mặt. Trong số ít các shtrafnik thường trực và sĩ quan có thiếu tướng Philip Kiselev, từng là đại uý trong trận đánh trên đường cao tốc và phó tham mưu trưởng thứ nhất của tiểu đoàn. Trong các chuyến công du với tư cách tướng quân ông đã thăm lại chiến trường xưa ở Byala Podlyaska, theo ông kể hồi đó vẫn còn những nghĩa trang lớn của các binh sĩ Soviet. Tôi ko rõ những nấm mộ đó có còn tồn tại ko, đã có rất nhiều hành động phá hoại nghĩa trang liệt sĩ Soviet ở Đông Âu. Tướng Kiselev kể ông chưa từng thấy nghĩa trang nào nhiều tên sĩ quan đến như vậy, đó hầu hết là các shtrafnik trong tiểu đoàn tôi. Nhìn những nấm mộ đó có thể xét đoán được cái giá của Chiến thắng nói chung và việc giải phóng Brest nói riêng ...

Bọn Đức cố gắng đến mức liều mạng để phá vây trong 2 ngày nữa và chỉ sau đó chúng mới bắt đầu ra hàng. Cả các chiến sĩ trung đoàn bộ binh Cận vệ và các shtrafnik chúng tôi đều phải đánh quên chết. Chỉ đến bây giờ tôi mới bắt đầu hiểu rõ chúng tôi đã bị quá tải cả tinh thần lẫn thể xác đến mức nào trong những ngày đó. Đến mờ tối ngày thứ 2 ko còn ai cảm thấy sợ chết nữa. Đó là ngày 26/7, bọn Đức tấn công trở lại từ sáng sớm và cài răng lược vào đội hình quân ta. Chúng ko tiến bừa lên nữa mà nằm dán xuống đất vì vừa sợ bị sĩ quan của chính chúng xử tử vừa xuống tinh thần đến mức tuyệt vọng. Tiếng hò hét hăm doạ của bọn sĩ quan Đức quân ta cũng nghe được. Tuy nhiên quân địch vẫn cố áp sát để cận chiến bằng lựu đạn. Mặc cho hoả lực dữ dội của chúng, quân ta mới là người ném lựu đạn trước.

Khi tôi đang thò đầu lên khỏi hào ném 1 quả lựu đạn nữa vào đám lính Đức đang bò tới thì 1 tay súng máy quân ta gục chết ngay cạnh. Tôi lao mình tới khẩu súng máy hạng nhẹ DP vừa im tiếng và cùng lúc cảm thấy 1 đòn mạnh giáng vào bên sườn giống như bị điện giật. Khi ngã xuống đất tôi hoàn toàn mất cảm giác với bên chân phải. Giấy chứng thương của bệnh viện sau này viết đó là 1 "viên đạn xuyên vào mông ở vị trí 1/3 từ trên xuống phá huỷ hệ thống thần kinh". Nói theo cách thông thường tôi bị bắn trúng mông phải, viên đạn cắt đứt hoàn toàn dây thần kinh khiến tôi ko còn điều khiển được chân phải và cũng ko có cảm giác gì về nó nữa.

Cuộc tấn công của bọn Đức bị đẩy lùi, những tên sống sót bò trở lại. Người đồng đội tận tuỵ Zhenya kéo tôi vào 1 chỗ đất trũng, có lẽ là 1 hố đạn pháo. Tại đây tôi nhận thấy viên đạn còn phá vỡ 1 tĩnh mạch lớn khiến tất cả quần áo quanh vết thương nhuốm đầy máu và tôi ko thể cầm máu được. Tôi ko thể ấn chặt tĩnh mạch này lại khi bản thân vết thương cũng ở 1 vị trí quá khó nhìn. Tôi có thể đứng trên cái chân bị thương và dùng nó như 1 điểm để giữ thăng bằng vì ko hề cảm thấy đau đớn gì hết, nhưng ko thể đi được, mọi cố gắng đều vô hiệu. Giao liên của tôi kéo tôi lui về tuyến sau độ 50 - 60m. Tôi rất xin lỗi vì vẫn ko thể nhớ nổi họ anh ta vì toàn chỉ gọi bằng tên. Anh ta nhanh chóng tìm được 1 cô quân y thuộc trung đoàn Cận vệ. Tôi ấn chặt vết thương hết mức có thể để cố cầm máu trước khi cô ta tới.

Cô quân y là 1 cô gái trẻ đẹp và hoàn toàn chưa có kinh nghiệm, có thể thấy rõ trận đánh này là cuộc thử lửa đầu tiên của cô. Cô lấy 1 sợi dây thun ra để cầm máu nhưng khi nhận thấy ko có chỗ nào để buộc cô trở nên rất lúng túng. Đấy là 1 chỗ rất khó để băng bó. Cô gái ngượng chín người khi vô tình chạm vào cái của tôi, điều đó là ko thể tránh khỏi vì vị trí vết thương của tôi là vậy. Tôi thậm chí phải quát cô ta làm nhanh lên, đây là 1 tình huống khó chịu cho cả 2 chúng tôi. Túi băng cá nhân của tôi và số băng cô mang theo ko đủ để băng chặt vết thương chỗ này, tôi từ chối lấy băng của Zhenya vì như vậy anh ta sẽ chẳng còn thứ gì để "bảo hiểm" nếu bị thương sau đó. Chúng tôi phải dùng cái quần lót đẫm mồ hôi và máu của tôi làm băng. Băng bó xong cô quân y và Zhenya khiêng tôi tới trạm phẫu trung đoàn nằm cách tuyến lửa khoảng 200m. Tôi nhìn lại chiến địa lần cuối và bất thần 1 ý nghĩ hiện ra, đó ko phải chiến địa mà là 1 khoảnh rừng bị tàn phá hoàn toàn trong trận đánh khốc liệt. Đạn và mảnh đạn như 1 cơn bão chì đập vụn những thân cây, cành lá tơi tả.

Tôi lập tức cử Zhenya tới chỗ trung đội phó Sergey Petrov, hy vọng ông vẫn còn sống, để lệnh cho ông lãnh trách nhiệm chỉ huy. Độ 1h sau 1 cỗ xe ngựa tới và tôi được đưa lên đó cùng 15 thương binh khác gồm cả shtrafnik và lính trung đoàn Cận vệ. Ngồi cạnh tôi là 1 shtrafnik trong trung đội tôi với khuôn mặt bị thương đến khủng khiếp, 1 viên đạn nổ tung khi bắn trúng 1 bên mũi khiến mắt trái anh ta chỉ còn là 1 hố lớn đầy máu. Sự can đảm và kiên gan của anh có thể nhìn thấy trong bàn tay nắm chặt và hàm răng nghiến lại đến mức cả tay và mặt anh ta trắng bệch như tuyết. Sự im lặng của anh ta cũng rất phi tự nhiên. Có lẽ anh đang cố tập trung để chống lại sự đau đớn ko thể tưởng tượng nổi, chỉ sợ mở mồm ra là sẽ gào hay rên lên.

Kéo xe là 1 con ngựa Đức, giống ngựa kéo pháo to lớn có thể kéo 2 cái xe thế này 1 lúc. Con quái vật của loài ngựa này đưa chúng tôi tới điểm tiếp nhận thương binh tiền phương trung đoàn và tại đây chúng tôi nhận được giấy chứng thương đầu tiên, thường gọi là Thẻ Tuyến Đầu. Nó chứng nhận rằng chúng tôi bị thương trong chiến đấu. Chúng tôi được đưa tới tiểu đoàn quân y gần nhất trên 1 chiếc xe tải lèn đầy thương binh nằm ngồi đủ kiểu. Tại tiểu đoàn quân y chúng tôi bị đưa vào 1 nhà kho dài đầy chật thương binh, được đặt trên 1 lớp cỏ khô dày có mùi thơm và được nhắc nghiêm cấm hút thuốc. Tất cả có thể cháy thui nếu ai đó hút thuốc! Tôi sờ vào túi và nhận ra rằng tôi đã đánh mất tẩu thuốc trong trận đánh, thật tiếc, nó đã trung thành phục vụ tôi 1 thời gian dài.

Thật dễ chịu khi quên hết sự đời trên cái giường cỏ khô thơm tho an bình và thân thuộc này! Thực ra mùi của nó còn lâu mới được gọi là thơm tho vì thấm đẫm mùi khói súng và máu của các thương binh chúng tôi. Trước khi gặp được 1 bác sĩ để chìa tấm giấy chứng thương ra xin được mổ ngay, tôi đã ngủ mất vì ko hề thấy đau. Tuy nhiên có lẽ tôi ko ngủ được lâu vì bị 1 y tá đánh thức. Nhìn mặt cô tôi nhận ra mình đã từng bị đưa vào tiểu đoàn quân y này sau cái lần đen đủi kích nổ quả mìn đúng 1 tháng trước, ngày 26/6. Cô là Tanya, y tá người Kalinin, chúng tôi từng chơi guitar và hát các bài ca Nga lãng mạn cùng cô để phục vụ các thương binh.

Tôi vui mừng nhận ra mình đã nằm trong tay những bác sĩ quen biết. Tôi lập tức hy vọng họ sẽ lại thành công trong việc chữa trị vết thương này và tôi sẽ trở lại mặt trận nhanh chóng. Người ta cáng tôi tới 1 ngôi trường nhỏ hoặc 1 nhà gì đó tương tự để phẫu thuật, có thể nghe thấy tiếng thét và rên từ phòng bên. Vậy ra đó chính là phòng mổ. Những câu chửi rủa rất to bằng tiếng Nga vang lên từ phòng mổ át mọi tiếng kêu gào, tôi nghe cả tiếng bác sĩ quát: "Thuốc gây mê! Đưa tôi thêm thuốc gây mê!" 1 lúc sau tiếng kêu gào tắt dần và những người khiêng cáng khiêng từ trong phòng mổ ra 1 bệnh nhân đã chết. Theo Tanya giải thích bệnh nhân này bị thương rất nặng và vì lý do nào đó thuốc gây mê đã ko có tác dụng. Bệnh nhân đã chết ngay trên bàn mổ ko rõ vì vết thương hay vì bị tiêm quá liều thuốc gây mê. Sau này tôi tìm ra bệnh nhân chết đó là Petukhov, shtrafnik trung đội tôi, vốn là phi công sư đoàn ko quân do Vasily, con trai Stalin, chỉ huy. Thỉnh thoảng Petukhov kể nhiều câu chuyện lý thú về viên sư trưởng, ko thể tưởng tượng là tôi sẽ ko bao giờ gặp lại anh ta nữa.

Tôi là người tiếp theo được đưa lên bàn mổ. Tôi vẫn nhớ mình bị cảm giác sợ hãi đáng khinh xâm chiếm. Tôi thực sự ko muốn chết trong khi mổ như người tiền nhiệm. Tôi ko muốn chết tại đó mà ko phải giữa trận tiền! Giấy chứng tử viết "ngã xuống như 1 người anh hùng trong trận đánh" là 1 chuyện, "chết vì bị thương" lại là chuyện hoàn toàn khác. Nó giống như nỗi sợ mà tôi trải qua hôm đầu tiên ra trận, trong cuộc phòng thủ Zhlobin khi mà tôi bất thần rơi vào 1 trận pháo kích của bọn Đức tại 1 khoảnh rừng trống. Khi đó tiếng rít của mỗi quả đạn bay tới đều có vẻ là quả đạn "dành cho mình", và nó đang bay thẳng vào tôi! Sau vài phút mà với tôi tưởng như dài vô tận, khi đó mong muốn duy nhất của tôi là viên đạn "dành cho mình" hãy bay tới càng sớm càng tốt, thì mọi chuyện kết thúc. Tôi phải thú nhận rằng nỗi sợ đó rất mạnh mẽ, nhưng trong chiến tranh phải tránh được nó, tìm cách vượt qua nó, điều này tôi làm rất thạo. Tôi học cách phân biệt tiếng của các loại đạn và nhận ra rằng ko phải lúc nào cũng cần chúi xuống ẩn núp. Còn tại đây, trong phòng mổ tôi có 1 nỗi sợ hoàn toàn khác, sau này tự nó biến mất. Và đó là 1 chương khác trong câu chuyện chiến trận của tôi, chương về cuộc sống bệnh viện!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:37:43 PM

5
BỊ THƯƠNG



Sau khi shtrafnik Petukhov chết và bị đưa ra khỏi phòng mổ là đến lượt tôi. Tôi tập tễnh trèo lên bàn mổ với sự giúp đỡ của cô y tá, lấy hết can đảm nằm xuống cái bàn nơi 1 người vừa chết. Đó ko phải 1 cảm giác dễ chịu gì nhưng tôi đã cố hết sức. Tôi thấy ngượng vì đã để người khác thấy mình sợ. Đó là 1 ngày nắng đẹp, ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ. Phẫu thuật viên là phụ nữ nhưng tôi chỉ có thể nhìn thấy đôi mắt và lông mày, còn lại bị tấm khẩu trang che kín. Hình như cô ta là người mới của tiểu đoàn quân y này, tôi chưa từng thấy cô trong thời gian điều trị trước đây. Nhiều nhân viên y tế mặc áo trắng tinh đến nhức cả mắt, có lẽ đó chỉ là cảm giác của tôi sau nhiều ngày chỉ toàn gặp các binh lính và sĩ quan trong điều kiện bẩn thỉu và mù mịt khói bụi của chiến trận, họ lột quần áo và trói chặt chân tay tôi vào chiếc bàn. Rõ ràng họ làm thế để tôi khỏi quẫy đạp trong cuộc phẫu thuật. Tôi ko chống cự.

1 y tá đeo khẩu trang, có lẽ là 1 người có tuổi, đứng ở đầu bàn chụp tấm khẩu trang có lót gạc lên mặt tôi. Các y tá khác cởi bỏ hàng đống băng đẫm máu, 1 số làm từ quần lót của tôi. Khẽ khàng, gần như chỉ thì thào, họ buông lời chửi bới kẻ nào đã làm cái việc băng bó này. Tôi kể lại với lòng biết ơn rằng đó là cô quân y trẻ và thiếu kinh nghiệm, cô ấy làm vậy để cố cầm máu cho tôi! Y tá bắt đầu xịt ête vào khẩu trang của tôi trong khi phẫu thuật viên nói với tôi với giọng hết sức nhẹ nhàng: "Chúng tôi đang gây mê cho anh, anh sẽ ngủ và ko cảm thấy đau nữa. Vì vậy hãy bình tĩnh, thư giãn, bắt đầu đếm 1, 2, 3 và cứ thế". Lúc đó dường như có 1 con quỷ đã nhập vào tôi khiến tôi trả lời: "Tôi ko đếm. Cứ làm đi!" Dần dần, sau mỗi hơi thở của tôi, tiếng các y tá cứ xa dần. Y tá đứng đầu bàn hỏi tôi gì đó nhưng tôi trả lời rất uẻ oải và cảm thấy phẫu thuật viên đang xẻ thịt mình. Ko thấy đau tí nào, như thể cô ta đang cắt quần chứ ko phải da thịt tôi. Vậy thôi. Ngay sau đó tôi rơi vào 1 vực thẳm tối đen, thế giới xung quanh tan biến.

Tôi tỉnh dậy trong phòng hậu phẫu vì có ai đó vỗ vỗ vào mặt, giọng nói quen thuộc của Tanya vang lên: "Dậy đi! Dậy đi! Tất cả đã qua". Điều đầu tiên tôi hỏi cô là về tư cách của tôi trong cuộc phẫu thuật. Tôi đã cư xử thế nào và có chửi rủa gì ko? Tôi sẽ cực kỳ hổ thẹn nếu vô tình làm giống như người tiền nhiệm, vì vậy tôi cười sung sướng khi nghe câu trả lời của Tanya: "Mọi thứ đều ổn. Anh hoàn toàn bình tĩnh và ko gây trở ngại gì cho cuộc phẫu thuật". Tôi cố thở sâu để ko tỏ ra ngượng ngập trước mặt 1 đám toàn phụ nữ. Do thuốc gây mê vẫn còn tác dụng hoặc do đã quá kiệt sức sau nhiều ngày chiến đấu liên tục, tôi lại chìm vào giấc ngủ. Tôi ngủ suốt ngày hôm đó, cả đêm luôn, và cuối cùng chỉ tỉnh dậy vào bữa trưa hôm sau. Tôi ngủ say tới mức ko biết người ta đã thay băng và kiểm tra lại vết thương cho tôi.

Cảm giác kỳ lạ với cái chân mất điều khiển khiến tôi lo lắng, nhưng tất cả đã được giải quyết nhờ lời trấn an của cô bác sĩ, người đã xử lý cái chân của tôi trước đó: "Coi nào, đó chỉ là 1 tổn thương thần kinh nhỏ! Nó sẽ mọc liền lại và anh sẽ ổn." Cô bác sĩ thêm là tôi cần cảm ơn vì sao may mắn của mình đã khiến viên đạn bay chệch khỏi 1 động mạch lớn vài milimet. Nếu nó bắn trúng động mạch này tôi sẽ ko thể sống sót tới trạm tiếp nhận thương binh tiền phương trung đoàn vì mất máu. Còn nếu viên đạn bắn trúng tôi chệch đi vài milimet về phía đối diện thì nó sẽ cắt đứt hoàn toàn dây thần kinh chân và tôi sẽ ko bao giờ điều khiển được cái chân này nữa, như vậy tôi sẽ trở thành người què và cuộc đời tôi coi như chấm hết. Tuy nhiên số phận đã cứu giúp tôi: "Vậy là anh lại may mắn lần nữa, quan Thượng!" Đó là nickname mà cô bác sĩ phẫu thuật dùng để gọi các Thượng uý. Đây là lần thứ 3 tôi gặp may mắn lớn, chưa tính tới lần viên đạn làm cong thìa. Trường hợp may mắn của tôi có vẻ như đã chứng minh câu nói: "Điều gì xảy ra 1 lần thì chỉ là tình cờ, 2 lần là ngẫu nhiên còn 3 lần là quy luật". Nhiều điều có lẽ là quy luật trong chiến tranh nhưng còn nhiều điều hơn hoàn toàn chỉ là ngẫu nhiên.

Thì ra trong cuộc phẫu thuật người ta đã ko lấy được viên đạn ra, nó chạy vào trong xương chậu theo 1 đường quái quỷ nào đó khiến người ta ko tìm ra. Ngoài ra cũng bởi ko có máy X quang. Tôi chỉ biết đến sự tồn tại của viên đạn này 1 năm sau khi tôi cảm nhận được nó dưới làn da mông. Nó khiến tôi rất khó chịu khi ngồi hoặc nằm ngửa. Phải sau khi chiến tranh kết thúc nó mới bị lấy ra, trong 1 bệnh viện hoàn toàn khác.

Tôi bị cấm đứng dậy trong 2 ngày đầu tiên sau cuộc phẫu thuật. Đến ngày thứ 3 tôi cùng 1 nhóm lớn thương binh nặng được sơ tán về tuyến sau tới 1 bệnh viện khác. Tiểu đoàn quân y cần thêm chỗ cho các thương binh mới tới. Sau đó tiểu đoàn lại di chuyển tới gần tiền tuyến hơn vì sư đoàn giờ đã tiến xa hơn về phía tây. Căn cứ vào số lượng lớn thương binh được chuyển tới, có thể thấy các trận đánh rất ác liệt. Từ chuyện kể của các thương binh tôi có thể mường tượng 1 phần quá trình chiến đấu chống bọn Đức phá vây. Sư 38 Bộ binh Cận vệ với Tiểu đoàn Trừng giới phối thuộc trong đội hình đã bịt chặt được vòng vây. Trưa 27/7 chúng tôi đã hội quân được với các đơn vị vừa vòng qua Brest từ hướng bắc. Quân địch vắt kiệt sức mạnh còn lại của chúng nhằm chọc thủng vòng vây. Chiều tối 28/7, 1 bộ phận quân Đức đã bị bắt làm tù binh ở Brest nhưng 1 số đơn vị Đức vẫn còn cố đánh tháo ra. Cuối cùng, sáng ngày 29/7, quân ta đã bắt kịp những đơn vị hoàn toàn mất tinh thần và bị đánh bại này tại 1 khu rừng khác và tiêu diệt hoàn toàn chúng khi chúng đã tới được khu vực Byala Podlyaska. Vậy là cuộc chiến của Tiểu đoàn Trừng giới trong thành phần Sư 38 Bộ binh Cận vệ đã chấm dứt đúng vào ngày tôi bị chuyển về tiểu đoàn quân y. Moscow gửi lời chào tới những người lính vinh quang của Phương diện quân Belorussia 1 đã giải phóng Brest bằng 20 loạt đạn bắn ra từ 224 khẩu đại bác! Thật tốt khi biết máu của chúng tôi đổ ra đã ko vô ích.

Như tôi biết sau này, tất cả những người tham gia trận đánh đã nhận được thư cảm ơn của Tổng Tư lệnh Stalin. Chúng tôi, các binh sĩ Tiểu đoàn Trừng giới, lần đầu tiên được nhận tấm giấy chứng nhận về lòng biết ơn này. Ai cũng có thể đoán được tầm quan trọng của bức công thư khi nhìn thấy chân dung Tổng Tư lệnh được in trong đó, nó làm tinh thần tăng cao hẳn lên, chẳng khác gì được tái tạo.

Thay băng trở thành công việc hàng ngày của tôi ở bệnh viện. 2 ngày sau tôi khẩn khoản đề nghị được ko chỉ đứng dậy mà còn đi càng nhiều càng tốt. Tuy vậy tôi phải dùng 1 cái nẹp đặc biệt có khoá và băng xung quanh đặt dưới bàn chân của cái chân còn liệt. Sau 1 thời gian tôi thay băng bằng đai vải bạt khiến nó chắc chắn hơn hẳn. Tôi vẫn ko cảm thấy đau đớn gì hết. Chân tôi vẫn liệt và mất cảm giác, nhưng với sự hỗ trợ của "hệ thống lái bằng dây đai" do tôi phát minh, tôi đã có thể tập đi 1 cách hết sức thận trọng, dù chưa được nhanh như tôi muốn. 1 phần bệnh viện được dành riêng cho chúng tôi, các sĩ quan, đó là 1 căn phòng lớn với giường đôi 2 tầng. Tất nhiên tôi là "người thiếu 1 chân" nên được ở tầng 1, trên đầu tôi là anh chàng thượng uý đẹp trai Nikolai. Anh ta bằng tuổi tôi, 1 tay bó bột vì bị 1 viên đạn đập gãy xương. Chúng tôi tình cờ quen biết nhau nhưng rất nhanh chóng trở thành bạn bè. Chúng tôi có nhiều điểm chung về kinh nghiệm sống và nhân sinh quan. Đó là điều thường xảy ra trong chiến tranh. Gặp gỡ ngắn ngủi, tình bạn keo sơn, và bạn sẽ nhớ mãi trong suốt phần đời còn lại. Y tá của chúng tôi là 1 cô gái người Tartar tên là Aza, 1 người có giáo dục và hiểu biết, thật thú vị khi nói chuyện với cô, và chỉ 1 thời gian ngắn sau mối quan hệ giữa cô và Nikolai đã tiến triển thành 1 cái gì đó cao hơn tình bạn. Tôi nhờ Aza kiếm cho ít sách để đọc vì có quá nhiều thời gian rỗi và đã lâu mất thú vui đọc sách. Tôi cực kỳ sung sướng khi phát hiện ra bệnh viện có cả 1 thư viện kha khá, vì vậy mối quan hệ tốt đẹp với Aza cũng hết sức hữu dụng với tôi.

2 tuần sau bệnh viện được chuẩn bị để di chuyển tới gần mặt trận hơn theo bước tiến quân ta. Tuy nhiên nhiều người trong chúng tôi lại bị đưa xa hơn về tuyến sau vì phải điều trị dài ngày. Điều đó có nghĩa là sẽ ko bao giờ được quay về đơn vị cũ, có khi còn phải sang 1 Phương diện quân khác. Như tôi đã nói quan điểm lãng mạn và khát vọng tuổi trẻ khiến tôi tự hào vì được chỉ huy những sĩ quan kỳ cựu, mặc dù họ đang bị tạm thời tước quân hàm. Tôi ko muốn đánh mất địa vị đặc biệt này tí nào. Nikolai cũng muốn trở lại đơn vị cũ sau khi rời bệnh viện. Chúng tôi thậm chí đã có 1 buổi phỏng vấn với 1 vị thiếu tá già, tham mưu trưởng 1 trung đoàn bộ binh Cận vệ. Ông đề nghị 2 chúng tôi về đơn vị mình với tư cách đại đội trưởng hoặc sĩ quan tham mưu nhưng chúng tôi ko chịu. Đề nghị của ông xem ra thiếu hấp dẫn với tôi vì dù sao trung đội trưởng trong tiểu đoàn trừng giới cũng chỉ huy số người ngang với 1 đại đội trưởng bộ binh thường. Cấp bậc của tôi cũng đã là đại uý, thêm vào đó lương tháng của tôi cũng ngang với các đơn vị Cận vệ và cao hơn các đơn vị bình thường 100 rub. Đó là lý do những tay tếu bảo tiểu đoàn trừng giới "gần giống 1 đơn vị Cận vệ". Thậm chí trong các đơn vị thường và cả đơn vị Cận vệ, 1 ngày phục vụ tại tuyến đầu chỉ được tính bằng 3 ngày bình thường trong khi với tiểu đoàn trừng giới là 6 ngày!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:38:01 PM

Vậy là để ko bị đưa về tuyến sau, chúng tôi quyết định chuồn khỏi bệnh viện này để tới điều trị tại 1 bệnh viện khác gần chiến tuyến hơn. Chúng tôi biết rõ nếu ko có giấy chứng thương tức thẻ thương binh tiền tuyến thì rất khó giải thích việc chuyển tới 1 bệnh viện khác, vì vậy chúng tôi quyết định lấy trộm. Chúng tôi ko muốn Aza dính vào phi vụ này nên chỉ đề nghị cô rời khỏi phòng hồ sơ 1 lúc, vậy là chúng tôi có thể ung dung "thực hiện hành vi phạm tội" và chuồn khỏi bệnh viện. Trong tình trạng hỗn loạn và ầm ĩ của việc di dời bệnh viện tới vị trí mới, chúng tôi đã lấy được giấy chứng thương của mình, nhét vào túi hành lý cá nhân và dông tuốt. Chắc người ta rất buồn cười khi nhìn thấy 2 viên thượng uý trẻ, 1 bó bột tay, 1 di chuyển chân nhờ 1 hệ thống dây đai kỳ quặc làm bằng vải bạt cũ. Chúng tôi từ từ lẻn ra khỏi bệnh viện khi người ta đang bận chất đồ lên xe tải, đi bộ được khoảng 2km mà ko ai biết và tới 1 ngã tư có 1 nữ nhân viên điều phối giao thông cực kỳ dễ thương. Chúng tôi nhờ cô dừng 1 chiếc xe tải đang chạy ra mặt trận, vội vàng và lóng ngóng trèo lên thùng xe và thế là thoát hẳn khỏi bệnh viện, nơi chúng tôi đã ở đó 2 tuần.

Sau 1 chuyến du ngoạn bằng nhiều loại phương tiện, thỉnh thoảng cả bằng cách đi bộ, 3 ngày sau chúng tôi tới được 1 trạm cấp cứu của 1 đơn vị pháo binh gần mặt trận và nhờ họ thay băng vì tôi đã bắt đầu thấy ngứa bên trong. Các nhân viên y tế quyết định tháo bột cho cánh tay của Nikolai. 1 đại uý quân y khá trẻ có bộ ria dài dẫn chúng tôi vào 1 cái lều có sơn chữ thập đỏ. Khi anh ta tháo băng, tôi kinh hãi khi nhìn thấy những con dòi béo trắng đang bám đầy vết thương, có con dài tới 2cm. Chắc thấy tôi có vẻ quá sợ nên vị bác sĩ lập tức trấn an: "Đừng lo, trung uý, có dòi trên vết thương là tốt, trong 3 ngày qua chúng đã làm sạch vết thương và ăn hết mủ. Chẳng có gì nguy hiểm cả." Anh ta sát trùng vết thương, băng lại và để chúng tôi đi, chỉ cho chúng tôi vị trí tiểu đoàn quân y gần nhất. Đã rất gần tuyến đầu rồi, tôi thực sự bất ngờ khi nhận ra đây chính là tiểu đoàn quân y cũ của mình! Lại thêm 1 sự trùng hợp may mắn ko thể tin được! Nikolai được gửi tới bệnh viện từ 1 tiểu đoàn quân y khác nhưng cả 2 chúng tôi đều được chào đón. Đầu tiên họ nghĩ tôi lại nhận thêm 1 vết thương nữa nhưng khi 2 chúng tôi kể lại việc trốn khỏi bệnh viện và lý do làm việc đó, các bác sĩ đã hiểu ra.

Mọi việc đó đã diễn ra trong khoảng trung tuần tháng 8. Hôm 18/8, Ngày Ko lực, chúng tôi lại bị chuyển tới 1 bệnh viện gần nhất. Mỗi người được phát 100g vodka ko chỉ trước mỗi cuộc tấn công mà cả trong các ngày lễ, vì vậy chúng tôi đã uống 100g vodka trong bữa trưa trước khi bị chuyển đi, mặc dù chẳng làm gì cho Ko quân! Chuyến đi khá ngắn ngủi, và trùng hợp kỳ lạ, chúng tôi bị đưa tới đúng bệnh viện mà mình vừa chuồn khỏi! Bệnh viện giờ nằm trong 1 thị trấn Ba Lan nhỏ tên là Byala Podlyaska và đang tiếp nhận thương binh tại vị trí mới này. Nikolai lập tức chạy đi tìm Aza, và vì lúc đó đúng vào giờ ăn trưa nên chúng tôi lại được mời ăn và uống rượu. Đương nhiên chúng tôi ko phản đối. Trước khi kịp lấy lại hơi thở, chúng tôi đã bị đưa gấp tới chỗ giám đốc bệnh viện. Đó là 1 vị đại tá vừa lùn vừa gầy, thân hình khô héo khiến cái quân hàm quân y bé tí trông quá to so với vai ông. Tuy vậy, ông sở hữu 1 chất giọng lệnh vỡ đến khó tin, ko thích hợp chút nào với thân hình nhỏ thó. Ông quát chúng tôi 1 trận! To đến mức làm căn phòng gần như rung lên bần bật như đang có 1 trận pháo kích hay oanh tạc.

Đại tá gọi chúng tôi là những tên đào ngũ, doạ tống chúng tôi vào tiểu đoàn trừng giới cũng như báo cáo Đặc vụ về vụ tẩu thoát của chúng tôi, cô y tá cũng phải chịu hình phạt tương ứng vì đã giúp đỡ việc này. Và để cho lời nói có thêm trọng lượng, vị đại tá còn thêm vào 1 số lượng ko hạn chế những lời chửi bới. Vì 1 lý do nào đó toàn bộ tấn kịch này làm chúng tôi buồn cười hơn là sợ, có lẽ khẩu phần vodka đúp đã phát huy tác dụng. Tôi bình tĩnh trả lời rằng tôi đã quen với cuộc sống ở tiểu đoàn trừng giới, và đào ngũ thì thường là đi xa khỏi tiền tuyến chứ ko phải lại gần! Tôi cũng thêm rằng cô y tá chẳng làm gì trong cuộc đào thoát của chúng tôi cả, đơn giản là chúng tôi đã lấy trộm giấy tờ trong tình hình lộn xộn và gấp gáp lúc di chuyển bệnh viện. Có lẽ mặc dù giọng lưỡi rất chối tai nhưng vị đại tá có trái tim nhân hậu, ông nhanh chóng bình tĩnh lại nhưng nghiêm khắc cảnh báo rằng nếu chúng tôi còn lặp lại trò "vượt thoát anh hùng" thì trước hết phải nói với ông để ông thu xếp các vấn đề pháp lý. Ơn Chúa! Chúng tôi cảm thấy rất có lỗi với Aza. Cô ko tỏ ra tức giận vì chúng tôi đã đẩy cô vào tấn kịch này, sự vui mừng của cô khi gặp lại Nikolai là rất rõ ràng khiến tôi nghĩ câu chuyện đã có 1 kết thúc tốt đẹp.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:38:40 PM

Tôi nghĩ bác sĩ mới của tôi rất dễ thương, đó là 1 nữ đại uý khoảng 30 tuổi và rất quan tâm săn sóc tôi. Trước khi tâng bốc cô, tôi phải kể lại trường hợp 1 nữ đại uý từng phục vụ tại trung đoàn tôi ở Ufa, quân khu Nam Ural, chính xác là tất cả sĩ quan trung đoàn đều mê cô ấy và tìm mọi cách để được nhìn thấy cô. Tôi có thể hiểu được họ. Đại uý Quân y Rodina, đó là tên cô, là người cực kỳ mảnh dẻ, nước da bánh mật tươi sáng và rất đẹp, mắt nâu và to cùng mái tóc dày đẹp dưới cái mũ pilotka rất phù hợp với cô. Chúng tôi hát bài ca về Đất Mẹ có đoạn "chúng tôi yêu Đất Mẹ như vợ mới cưới" nhiều hơn tất cả các bài hát khác. Tuy vậy chẳng ai có được cơ hội với cô, 1 trong các phó chỉ huy trung đoàn là chồng cô, thiếu tá Rodin. Anh là 1 frontovik cao to đẹp trai với nhiều huân huy chương. Tại đây, trong bệnh viện này, sự quan tâm của nữ đại uý quân y đã bắt đầu làm tôi bối rối.

Cuối cùng, 1 hôm cô cho tôi 1 cái hẹn buổi tối "chỉ để nói chuyện". Lời hẹn có vẻ quá thiếu hấp dẫn với tôi, phần vì cô hơn tôi 10 tuổi, phần vì tình yêu mãnh liệt của tôi với Rita, người tôi đã gặp tại trung đoàn ở Ufa. Có vẻ tôi đã thành công khi giả bộ bị ỉa chảy để ko tới chỗ hẹn. Tôi ko chê trách gì cô, các tiêu chuẩn đạo đức rất khác trong chiến tranh, và "tiếng gọi của bản năng xác thịt" là khác nhau với mỗi người. Tất nhiên, sự quan tâm của nữ đại uý sau đó thay đổi ngay lập tức, và tôi bị chuyển cho 1 bác sĩ khác chăm sóc, 1 nam bác sĩ. Tôi rất vui mừng vì điều đó. Dù sao tôi cũng đã nói với tất cả bạn bè ở tiểu đoàn cũng như Nikolai và Aza rằng tôi đã lấy vợ, cho họ xem ảnh Rita. Tôi rất nâng niu tấm ảnh nhỏ đã phai màu này và chắc chắn cuộc tình lãng mạn của chúng tôi sẽ dẫn tới 1 đám cưới, trừ phi 1 trong 2 chúng tôi bị giết.

Vì 1 số lý do người ta lại 1 lần nữa định chuyển các sĩ quan về tuyến sau. Chúng tôi cũng đã sẵn sàng tới xin với giám đốc bệnh viện vì còn nhớ lời dặn của ông. Người chăm sóc chúng tôi, Aza, tìm thấy chúng tôi ngay trước khi đến gặp giám đốc, cô thông báo giám đốc bệnh viện đã chuyển chúng tôi vào nhóm sĩ quan đang bình phục, điều đó có nghĩa là chúng tôi sẽ được ở lại 1 bệnh viện gần tiền tuyến. Chúng tôi biết đại tá giám đốc làm vậy để ngăn chúng tôi lặp lại cuộc đào tẩu. Chúng tôi cũng đang bình phục thật. Ngày đó chúng tôi còn rất trẻ, các vết thương dù là thể chất hay tinh thần đều dễ chữa khỏi khi người ta trẻ. Chúng tôi đã có vô khối vết thương tinh thần khi chứng kiến cái chết của các đồng đội. Cuối cùng họ đã tháo hẳn bột cho Nikolai, mặc dù anh vẫn còn phải mang nẹp nhưng đã bắt đầu các bài tập vật lý trị liệu. Tôi cũng dần cảm thấy dây thần kinh chân bắt đầu lành lại, mặc dù chưa thể tháo bỏ những sợi dây nối với thanh nẹp nhưng tôi cũng đã bắt đầu các bài tập phục hồi dưới sự giám sát của bác sĩ.

Hôm sau chúng tôi được đưa lên xe tải tới thị trấn Ba Lan Kalushin vừa mới được giải phóng hồi đầu tháng 8. Tôi ko nhớ nó cách Warsaw bao xa nhưng lúc đó các đơn vị tiền tiêu Phương diện quân cũng vừa mới vượt sông Vistula ở phía nam thủ đô Ba Lan. Chúng tôi được đưa vào 1 căn nhà còn tốt, trong 1 phòng nhỏ trên tầng 2, mỗi phòng cho 5 - 6 người. Chúng tôi chưa từng quen với tiện nghi như thế này! 1 đại uý tiểu đoàn trừng giới của tôi mới bị thương cũng được đưa tới phòng dành cho sĩ quan này, anh ta ko định quay lại tiểu đoàn sau khi bình phục. Anh kể tôi nghe nhiều tin tốt. Chỉ huy Tập đoàn quân 70 đã tưởng thưởng cho các binh sĩ tham gia tiêu diệt các đơn vị Đức tại Brest và tôi được nhận Huân chương Chiến tranh Vệ quốc. Tôi biết các bạn sẽ hiểu niềm vui của tôi. Khi 1 thợ ảnh địa phương, 1 người cận thị trông rất ốm yếu, đi qua phòng tôi, tất cả chúng tôi mời anh ta vào để chụp ảnh mình đang đeo huân huy chương. Những người khác bảo tôi hãy chụp với 2 huân chương, tấm Huân chương Sao Đỏ của tôi và Huân chương Chiến tranh Vệ quốc hạng 2 mượn của người khác. Ko nghĩ ngợi lâu tôi đồng ý và rất kích động khi nhận lại tấm ảnh rất đẹp với 2 tấm huân chương chiến trận. Tôi ko thể kìm nén được và viết nhiều bức thư gửi cho mẹ và chị em gái ở Viễn Đông, cho người yêu mà sau này sẽ là vợ tôi. Việc chụp ảnh với tấm huân chương của người khác ngay sau đó đã đẩy tôi vào hoàn cảnh rất khó chịu, nó đã dạy tôi 1 bài học tốt cho tương lai.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:38:56 PM

Lúc này, cái chân tôi đã chịu nghe lời trở lại. Các bắp thịt đùi phía ngoài bên phải của phần trên, tôi ko biết giải phẫu học nên ko rõ tên chính xác của nó là gì, vẫn còn hoàn toàn mất cảm giác, chỉ giống như 1 tấm vải dầu lớn dính bên ngoài da. Cảm giác về các bắp thịt bên dưới phần mất cảm giác thì rất rõ, thậm chí chỉ cần chạm nhẹ là đau thấu các bắt thịt bên trong. Tôi làm quen với sự phiền toái này rất nhanh chóng. Theo tư vấn của bác sĩ, tôi massage các bắp thịt rất kỹ, rất mạnh mỗi ngày cho đến khi mất cảm giác đau. Tôi đã phải tiếp tục massage như vậy cho đến tận 10 năm sau chiến tranh! Tôi thích banya, tắm hơi kiểu Nga, và massage phần chân mất điều khiển đó đến khi nó thâm tím lại. Kết quả là phần bắp thịt phía trên đó đã hoàn toàn bình phục, mặc dù mất tới 10 năm.

Rồi tôi cũng được cho ra viện. Tình bạn với Nikolai tiến triển trong suốt thời gian đó bắt nguồn từ sự tôn trọng lẫn nhau. Nikolai ra viện trước tôi 1 chút và vì chúng tôi thay đổi số hòm thư quân bưu nên ko giữ được quan hệ thư từ. Tôi sợ rằng anh ta đã hy sinh ngay sau đó. Chiến tranh bao giờ cũng vẫn là chiến tranh, chết chóc là chuyện thường tình. Tôi vẫn còn rất lấy làm tiếc vì tình bạn của chúng tôi quá ngắn ngủi mặc dù tôi vẫn nhớ về anh trong suốt phần đời còn lại.

1 nhóm lớn sĩ quan chúng tôi được xuất viện hôm 1/9. Giấy chứng thương của tôi ghi: "Xuất viện về đơn vị và tiếp tục điều trị tại nơi điều dưỡng trong 17 ngày." Tôi ko sảo hiểu nổi tại sao họ lại viết là 17 chứ ko phải 15 hay 20. Có quá nhiều điều khó hiểu trong y học với 1 người bình thường, và đây rõ ràng là 1 điều như vậy. Cũng tương tự, ko hiểu họ viết "điều trị tại nơi điều dưỡng" có nghĩa là gì? Kiếm đâu ra 1 nơi điều dưỡng và vào lúc nào? Có thứ viện điều dưỡng nào ở ngoài mặt trận này? Tôi ko hiểu tí nào. Lại nói đến chuyện về đơn vị cũ, tôi vẫn ko sao tưởng tượng được làm thế nào để tìm ra tiểu đoàn mình giữa 1 rừng quân. Thật dễ dàng nếu được chỉ cho 1 điểm trên bản đồ, nhưng tìm 1 tiểu đoàn trừng giới từ bệnh viện trong khi tiểu đoàn có thể đã chuyển tới 1 tập đoàn quân khác hoặc tái phối thuộc trong 1 sư đoàn khác thì làm thế nào?

Tất nhiên chúng tôi có bản đồ ở bệnh viện, nhưng ở trường hợp của tôi trong quá trình điều trị tiểu đoàn đã đi xa tới mức ra khỏi tấm bản đồ chúng tôi có. Chúng tôi chỉ còn biết tin vào các sĩ quan vận tải đã bố trí giao thông cho các đơn vị quân đội qua những nẻo đường lớn. Họ có thông tin về tuyến đường và vị trí của 1 số đơn vị. Chúng tôi cũng hy vọng tìm được đường qua những tấm biển được đặt ở các ngã 3 ngã tư. Những tấm biển chỉ đường này thường được làm bằng gỗ hoặc gỗ dán chỉ rõ hướng đi tới "Bưu trạm #07380" hoặc "Gia đình nhà Osipov", đó là nickname tiểu đoàn trừng giới của tôi. Luôn tiện tôi xin kể thêm là những tay shtrafnik vui tính đã dịch dòng chữ viết tắt "8 DPB 1 BF" ko phải là "Tiểu đoàn Trừng giới 8, Phương diện quân Belorussia 1" mà là "Ban nhạc Piano chuyên nghiệp số 8, Dàn nhạc giao hưởng Belorussia 1". Rất hay!

Chúng tôi vẫy xe đi nhờ hết xe con đến xe tải ra tiền tuyến. Mặc dù cánh tài xế rất ko ưa cho khách đi nhờ nhưng dù chậm, dần dần chúng tôi cũng tới được mặt trận. 3 người của tiểu đoàn tôi, tôi và 2 cựu shtrafnik, mặc dù ko đeo cầu vai nhưng đã quyết định cùng nhau ra mặt trận. Khoảng 3h chiều chúng tôi tới 1 thị trấn Ba Lan nhỏ có ngôi nhà thờ lớn, quân ta gọi tất cả nhà thờ Công giáo Ba Lan đơn giản là nhà thờ. Chúng tôi quyết định dừng lại tìm chỗ ăn trưa. Cả 3 bước tới 1 ngôi nhà có vẻ rất giàu, có hàng rào bao quanh rất đẹp nằm ngay cạnh nhà thờ, và xin chủ nhà 1 chút thức ăn, nói với ông ta chúng tôi sẽ trả lại đồ ăn khô được bệnh viện cấp. Hy vọng của chúng tôi là hão huyền: "Niec nema! Wsistko German zabrav!" - "Tôi chẳng còn gì! Bọn Đức lấy hết rồi!" Đây là câu cửa miệng của tay Ba Lan này, và cũng là của hầu hết dân Ba Lan trước mọi đề nghị của quân ta. Thật trái ngược với những người Belorussia và Ukraina thuộc Liên Xô, họ mới là những người thực sự bị bọn Đức cướp sạch. Sau đó chúng tôi nhận ra rằng nếu đề nghị trao đổi bằng tiền hoặc hàng họ sẽ ko bao giờ nói "bọn Đức lấy hết rồi" cả. Thực tế họ có cả mỡ lợn, gà tây và bimber - quốc lủi Ba Lan được ủ từ loại canxi cacbua nổi tiếng. Điều đó thật lạ lùng! Tôi đoán họ dùng canxi cacbua ko phải để trung hoà mùi dầu mà để loại bỏ phần độc tố trong rượu. Hồi đó bụng chúng tôi còn rất khoẻ nhưng tôi đã bị đau đầu khủng khiếp sau khi uống thứ quốc lủi đó.

Tuy vậy chúng tôi chỉ biết tất cả những chi tiết đó mãi sau này còn hôm đó tay Ba Lan láu cá đã quá dễ dàng thoát khỏi chúng tôi. Hắn chỉ cho chúng tôi nhà vị cha cố Ba Lan ngay đối diện bên kia đường. Tay Ba Lan nói bọn Đức đã ko hề cướp bóc vị cha cố này, ông ta giàu và sẽ chào đón những người Soviet. Chúng tôi thấy hay hay và quyết định qua đó chỉ để xem 1 cha cố Ba Lan thực sự trông thế nào. Cả 3 bước tới vòm cổng và kéo sợi dây chuông vì ko thấy có nút bấm. Tiếng chuông cửa vang lên phía bên kia hàng rào và 1 lỗ cửa nhỏ trên cánh cổng mở ra. Trên ô cửa hiện ra khuôn mặt tròn của 1 cô gái Ba Lan trẻ tóc đỏ, cô nhìn chúng tôi 1 cách tò mò. Khi biết rằng chúng tôi muốn gặp cha cố, cô chạy biến khỏi cái "lỗ châu mai" với tốc độ nhanh nhất mà đôi chân của cô cho phép, quên cả đóng lỗ cửa. Nhờ vậy chúng tôi có cơ hội nhìn khoảnh sân sạch tinh tươm trong nhà cha cố cũng như các nhà cửa, kho đụn xung quanh. Chúng tôi nhìn thấy nhiều cô gái Ba Lan trẻ mũm mĩm trong sân, họ cũng đang tò mò xem ai đang viếng thăm họ. Vài phút sau vẫn cô gái cũ quay lại, mở cửa mời chúng tôi vào: "Proshu, panove Oficery", tức là "xin mời các sĩ quan".

Cô dẫn chúng tôi tới 1 căn nhà được xây rất đẹp làm nơi ở của vị cha cố, ông ta chào đón chúng tôi với nụ cười rộng và khoát tay mời chúng tôi vào nhà: "Xin mời vào, các ngài Hồng quân." Chúng tôi ngạc nhiên vì ông nói tiếng Nga rất tốt và vui mừng vì ko phải tìm từ để giải thích về bản thân. Vị cha cố trông rất thông minh, cười nhiều, đôi mắt bình thản và đầy vẻ từng trải. Cha cố đưa chúng tôi vào 1 căn phòng bày biện những đồ gỗ tuy đơn giản nhưng đẹp, có lẽ là phòng ăn, và để chúng tôi ngồi lên sofa, ông ngồi xuống 1 cái ghế tựa và cuộc nói chuyện bắt đầu. Chúng tôi rất thú vị khi nói chuyện với ông, ông trích dẫn cả cuốn "Những vấn đề của chủ nghĩa Lenin" do Stalin viết, "Lịch sử vắn tắt Đảng Bolshevik" và chủ nghĩa Mark nhiều lần. Đúng là 1 cha cố! Ông có vẻ rành lời lẽ của Lenin và Stalin hơn cả chúng tôi dù chúng tôi đã được đào tạo rất nhiều về những vấn đề đó. Theo lời ông chúng tôi hiểu rằng nhân dân Ba Lan rất cám ơn chúng tôi đã giải phóng họ. Ông thích nhà nước Soviet và Hồng quân, nhưng ghét phải nhìn thấy nông trang tập thể ở Ba Lan! Chúng tôi ko hiểu sao ông rất ghét nông trang tập thể đến thế vì nghĩ rằng đây là hình thức sản xuất nông nghiệp hợp lý nhất. Chúng tôi biết rất rõ là quân ta có lẽ đã ko thể thắng cuộc chiến này nếu ko có các nông trang tập thể trên toàn Liên Xô. Mãi sau này chúng tôi mới biết bộ máy tuyên truyền Đức đã bôi nhọ Liên Xô trong 1 thời gian dài để khiến cho người Ba Lan căm ghét cả đất nước và nhân dân Soviet.

Trong khi chúng tôi bàn luận về các vấn đề Ctrị, các cô gái cứ đi ra đi vào phòng hết người này đến người khác. Có ít nhất 10 cô tham gia chuẩn bị bàn và khi vị cha cố mến khách mời chúng tôi dùng bữa tối, chúng tôi đơn giản là chết lặng. Trong đời chưa bao giờ chúng tôi nhìn thấy nhiều bát đĩa, đồ nhậu và rượu vang đến thế được dọn ra để đặc biệt khoản đãi mình. Tất nhiên chúng tôi hết sức hứng thú trong bữa ăn. Rượu vang là thứ chúng tôi rất ko quen uống, tôi đã thử uống cognac lần đầu tiên trong đời và ko thấy thích thú gì! Chúng tôi thưởng thức hương vị của các loại vodka Ba Lan chính cống từ Wyborowa đến Monopolka, và nhiều món ăn khác chúng tôi cũng chỉ mới được ăn lần đầu. Tay Ba Lan láng giềng đã ko nhầm, bọn Đức thực sự ko lấy khỏi đây thứ gì, có khi còn cho thêm.

Cuộc trò chuyện và bữa tối kết thúc khi trời đã gần tối hẳn. Theo cách lịch sự nhất có thể, chúng tôi cảm ơn cha cố vì sự mến khách, bữa tối tuyệt vời và buổi trò chuyện thú vị. Chúng tôi nói với ông rằng chúng tôi sẽ nhớ buổi tối hôm nay rất lâu, thực tế tôi vẫn nhớ rõ buổi gặp gỡ và bữa tối đó đến giờ! Chúng tôi rời khỏi nhà và còn được cha cố và tất cả các cô gái tiễn 1 đoạn. Chúng tôi tạm biệt, cúi chào các cô gái và vẫn ko hiểu sao chẳng có ai là nam giới phục vụ trong nhà cha cố. Chúng tôi quay lại nhà của người Ba Lan đầu tiên đã chỉ cho chúng tôi con đường sáng với mong muốn cảm ơn lời tư vấn tốt của anh ta và cũng bởi sau khi uống số rượu vang hảo hạng chúng tôi cần 1 chỗ qua đêm vì trời lúc này đã tối hẳn. 1 trong những câu hỏi đầu tiên của chúng tôi dành cho tay Ba Lan này là về cả tá con gái phục dịch cha cố, tay chủ nhà mới hỏi lại: "Các anh ko biết tại sao àh?" và kể 1 câu chuyện cười.

Khi Chúa kiến tạo Trái Đất và loài người, Chúa cũng tạo ra cha cố, và vì cha cố được cho là người thay mặt Chúa trên Trái Đất nên Chúa cấm cha cố lấy vợ. Chúa rất nhân từ, Người biết cha cố chỉ là con người bằng xương bằng thịt nên chấp nhận cho cha cố được hẹn hò 1 người đàn bà mỗi năm 1 lần. Tuy nhiên Chúa quên nói với cha cố chính xác đó là ngày nào, hoặc chính cha cố quên ko biết chừng, nên để ko bỏ qua ngày đó, cha cố "hẹn hò" mọi ngày trong năm. Dù sao chúng tôi cũng thấy tay Ba Lan này có vẻ là người vui tính, anh ta khiến chúng tôi hiểu rằng anh ta và hình như phần lớn người Ba Lan ko phải những người Công giáo sùng đạo cho lắm. Chúng tôi qua đêm ở đó, ăn sáng bằng đồ ăn khô mang theo và uống kava, tức là café, mà tay Ba Lan đưa cho. Chúng tôi cho lại anh ta 1 hộp pho mát Mỹ, nó rất nặng mùi và chúng tôi đã hết muốn ăn nó sau bữa tiệc tối qua.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:39:14 PM

Sau đó chúng tôi tiếp tục hành trình. Khá ngạc nhiên là chúng tôi đã tìm ra tiểu đoàn trừng giới của mình 1 cách dễ dàng mặc dù tấm biển chỉ đường ghi hơi lạ: "Gia đình Osipov - Baturin". Chúng tôi nghĩ 1 đơn vị nào đó có tên Baturin đóng cạnh đơn vị mình nhưng cuối cùng thì ra là đại tá kombat Osipov đã rời tiểu đoàn tôi, ông được thăng chức lên sư đoàn phó theo đề nghị trực tiếp từ sư trưởng 1 sư bộ binh. Thật là 1 cuộc thăng chức tốt đẹp! Từ 1 sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn, lại còn là tiểu đoàn trừng giới độc lập, ông đã nhảy thẳng lên chỉ huy cấp sư! Tuy vậy chúng tôi đều biết ông đã được thăng đại tá khi chỉ huy tiểu đoàn tôi và như vậy có quyền trở thành 1 sư trưởng. Chúng tôi vui mừng cho ông, nhưng cũng tiếc vì ông đã rời tiểu đoàn. Tham mưu trưởng tiểu đoàn Vasily Lozovoi cũng được thăng chức tham mưu trưởng 1 lữ đoàn, Fillip Kiselev bạn tốt và cùng tuổi với tôi thay thế chức vụ đó. Thông thường, như tôi đã nói, chỉ huy các cấp trong tiểu đoàn tôi có quyền và có thể nhận cấp bậc cao hơn trong các đơn vị bình thường 1 mức. Vì thế mới có chuyện trung đội trưởng là đại uý, đại đội trưởng là thiếu tá, tiểu đoàn phó là trung tá, đó là đặc trưng trong hệ thống cấp bậc của tiểu đoàn trừng giới.

Tôi xin nhắc lại chúng tôi vừa vui mừng vì "Bố" được thăng chức vừa tiếc vì vị chỉ huy chu đáo, thông minh và chân thành đã bỏ chúng tôi. Trung tá Baturin được chỉ định làm tiểu đoàn trưởng thay thế, đó là 1 Ctrị viên và suốt chiến tranh phục vụ ở đâu đó sâu trong hậu phương. Khi được chuyển sang ngạch sĩ quan ông mới chỉ có mỗi kỷ niệm chương "20 năm Hồng quân". Ông ko phải 1 người hấp dẫn, khoảng 50 tuổi, lùn và mập. Bụng ông to tới mức mỗi khi vào phòng cái bụng bao giờ cũng đi trước rồi người mới bước theo sau. Trông ông rất giống Ivan Ivanovich Byvalov, nhân vật trong phim Volga - Volga do diễn viên hài nổi tiếng Igor Il''inski thủ vai. Tuy nhiên rất nhanh chóng sau đó chúng tôi biết Baturin hoàn toàn ko phải diễn viên hài. Các phẩm chất lãnh đạo và sự quan tâm của Baturin với các shtrafnik chỉ được thể hiện sau này. Chúng tôi vẫn còn 9 tháng chiến tranh nữa trước mặt.

Ngay hôm đầu trở lại tiểu đoàn, khi chuyển các giấy tờ cho sở chỉ huy tôi đã biết mình được thăng thưởng thật nhưng ko phải huân chương mà chỉ là Huy chương Dũng cảm. Tôi từng nói rằng với các sĩ quan chúng tôi nó tương đương Huân chương Danh dự được trao cho lính và hạ sĩ quan. Tất nhiên tôi vui mừng và tự hào nhưng cùng lúc tôi cũng thấy cắn rứt lương tâm vì lúc ở bệnh viện đã chụp ảnh với Huân chương Chiến tranh Vệ quốc của người khác và gửi cho tất cả những người thân. Thật xấu hổ! Kombat mới Baturin, tôi ko nhớ họ và tên đệm của ông ta, trao cho tôi tấm huy chương. Ông làm việc này 1 cách rất hờ hững, cũng chẳng quan tâm tới việc tổ chức lễ mừng như Osipov từng làm. Baturin hỏi tôi về các danh hiệu tôi từng nhận và ko hiểu sao nhếch mép cười khi tôi nhìn vào tấm huy chương duy nhất ông có, ko phải do sự xuất sắc trong chiến trận mà đơn thuần là nhân kỷ niệm 20 năm thành lập Hồng quân. Cái bắt tay của ông ta lạnh lẽo, hờ hững và tạo 1 ấn tượng ko tốt. Ấn tượng ban đầu bao giờ cũng được nhớ lâu, phần lớn là vậy, và nếu chỉ huy cũ của bạn là người tốt thì người mới sẽ luôn gặp phải sự hồ nghi. Ông chủ mới sẽ cư xử ra sao, nhẹ nhàng hay cứng rắn, có công bằng hay ko, có quan tâm đến cấp dưới ko hay chỉ quan tâm đến tham vọng và sự thăng tiến của mình? Chúng tôi đã có câu trả lời cho những câu hỏi kể trên rất sớm.

Vậy là cùng với huy chương "Dũng cảm", sự lo lắng cũng đến. Ko rõ tôi có kiếm được thêm huân huy chương nào trong các trận đánh sắp tới ko, và hơn nữa, đó có phải là tấm huân chương mà tôi rất mong mỏi ko? Tôi quyết định im lặng về việc này, thậm chí là với anh bạn Fillip Kiselev, người mà tôi có mối quan hệ rất tốt. Tôi ko nói cho bất cứ ai về tấm ảnh xấu số "1 sĩ quan với 2 huân chương trận mạc". Tôi đã ko thể kìm chế để viết thư cho người yêu và gia đình về phần thưởng Huy chương Dũng cảm, nhưng tôi đã ko nói 1 lời nào về tấm huân chương đáng xấu hổ của tôi.

Tiểu đoàn tôi đóng đâu đó trong khu vực Minsk - Mazovecki, gần sông Vistula phía nam Warsaw, nếu tôi nhớ ko nhầm. Tôi chỉ nhớ mỗi vậy, và có 1 đơn vị Ludowe Woisko Polsko - Quân đội Ba Lan - đóng cạnh chúng tôi. Tất nhiên vì là hàng xóm nên chúng tôi cũng biết nhiều người lính Ba Lan, các zolnier. Hơn tất cả chúng tôi biết chúng tôi có thể cùng chiến đấu bên nhau, và biết người sẽ cùng mình bước vào trận chiến bao giờ cũng là điều tốt. Đúng như chúng tôi đoán, phần lớn họ là người Nga, 1 số thậm chí còn ko có tên Ba Lan, số khác tuy có tên Ba Lan nhưng sống cả đời ở Nga. Dù sao họ cũng đã được bố trí vào quân đội Ba Lan tại Nga! Họ đội mũ lưỡi trai 4 cạnh truyền thống Ba Lan với vẻ rất ko phù hợp, chúng có hình vuông chứ ko tròn như mũ lưỡi trai Hồng quân. Họ chào nhau ko phải với cả bàn tay mà chỉ với ngón trỏ và ngón giữa. Chúng tôi ngạc nhiên với rất nhiều điều, ví dụ họ cầu nguyện vào buổi sáng và tập trung vào chủ nhật. Chúng tôi nghe nhiều chuyện tiếu lâm về vụ này, ví dụ như tất cả cha cố trong quân đội Ba Lan đều là Đảng viên và từng là Ctrị viên trong Hồng quân, và nếu ai đó từ chối tham gia hoạt động tôn giáo sẽ bị doạ tống vào tiểu đoàn trừng giới của tôi. Tôi cũng phải nhắc lại rằng cha cố Ba Lan là người có trách nhiệm chứng minh Chúa tồn tại nhưng chính dân Ba Lan là người kể cho chúng tôi những chuyện tiếu lâm về Chúa, cha cố và đàn bà.

Thật hay khi có 1 đơn vị "Ba Lan" như vậy bên cạnh vì họ thường tổ chức các đêm khiêu vũ. Họ có rất nhiều nữ binh sĩ, vì thế chúng tôi thể nào cũng kiếm được bạn nhảy. Phần lớn họ nhảy polonaise, cracovienne, mazurka và các điệu nhảy Ba Lan truyền thống khác, trong đó có 1 điệu có tên nghe giống 1 từ tục tĩu trong tiếng Nga, điệu Kuevyak, với người Nga nghe giống như điệu nhảy "trim"! Rất nhiều người ko thích nhảy lắm nhưng chúng tôi bị thu hút tham gia các tối khiêu vũ vì sự xuất hiện của các cô gái Ba Lan bận quân phục. Các sĩ quan Ba Lan hết sức cố gắng ngăn cản các mối quan hệ giữa cánh sĩ quan chúng tôi với các cô gái Ba Lan trong đơn vị của họ, tuy nhiên họ thường thất bại.

Đơn vị Ba Lan bên cạnh nhận được rất nhiều quân tăng cường từ các vùng gmina và voevodstvo mới giải phóng. Họ huấn luyện những người mới tới trở thành các zolnier. Chúng tôi cũng thành lập 1 đại đội và vài trung đội độc lập từ những người mới tới bổ sung, nhưng số lượng ko được nhiều như trước. Chúng tôi cũng phải huấn luyện, phần lớn các shtrafnik đến từ các binh chủng khác bộ binh nên ko có kinh nghiệm bộ binh. Điểm tốt là phần lớn các shtrafnik cũ đã có rất nhiều kinh nghiệm chiến đấu, vì vậy chúng tôi ko cần dạy dỗ mà tự các shtrafnik hướng dẫn nhau. Họ làm việc này rất nhiệt tình, mỗi người đều có phương pháp riêng, thỉnh thoảng họ còn dùng cách chửi rủa các shtrafnik mới thậm chí cho ăn đòn.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:40:56 PM

Một lần nữa trở lại cuộc sống tại tiểu đoàn trừng giới sau cuộc điều trị dài, tôi khá shock khi hay tin nhiều đồng đội đã hy sinh, trong đó có các shtrafnik trung đội phó của tôi cùng nhiều tiểu đội trưởng. Tôi cũng cảm thấy buồn vì nhiều người vẫn chưa trở về từ bệnh viện. Như tôi từng nói Puzyrei là tiểu đội trưởng tốt nhất của tôi, anh ta cũng đã hi sinh. 60 năm sau chiến tranh tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh anh ta như đang đứng trước mặt, dáng người dong dỏng trong bộ quân phục bó sát, đôi môi mỏng và ánh mắt sắc sảo, luôn sẵn sàng hành động. Tất nhiên tôi cũng muốn biết tin tức về Geft, kẻ đã biến mất ngay ngày đầu tấn công. Tôi rất bực khi biết rằng hắn đã xuất hiện trở lại ngay sau khi tiểu đoàn được nghỉ ở Kalushin, cùng với 1 tấm giấy chứng thương. Giấy chứng thương của hắn do 1 bệnh viện đóng tại nơi hắn từng phục vụ trước khi bị tống vào tiểu đoàn trừng giới cấp, tôi chỉ có bản copy, nó ghi rằng Geft bị thương vào dái tai và do thiếu tá quân y Epstein ký. Tôi nhớ rõ cái tên này. Ko biết có đúng ko nhưng tôi nghĩ viên thiếu tá quân y quen Geft nên đã giúp hắn thoát khỏi tiểu đoàn trừng giới. Nhưng ai làm gì được, giấy chứng thương đã có, và Geft giống như mọi shtrafnik bị thương khác được giải thoát và phục chức. Nếu tôi đoán ko lầm hắn đã hối lộ viên thiếu tá quân y, chẳng hề quan tâm đến chuyện cắn rứt lương tâm giống như mọi việc hắn từng làm với các nữ binh sĩ trước đây.

Tôi được vui mừng chào đón trở lại tiểu đoàn, các sĩ quan chúc mừng cả sự trở lại lẫn tấm huy chương tôi mới được nhận. Đại đội trưởng Ivan Matvienko, người từng nhận Huân chương Suvorov hạng 3 từ tay cựu kombat, vì lý do nào đó vẫn tiếp tục nắm đại đội. Viên sĩ quan được cử tới thay vị trí của Matvienko được giữ lại tiểu đoàn. Có lẽ hơi xiên xẹo, nhưng tôi nghĩ Baturin khó chịu khi nhìn thấy những tấm huân huy chương cao quý trên ngực áo viên đại đội trưởng. Tất nhiên có thể tôi sai! Matvienko nhất định đòi tôi trở lại đại đội ông và tôi vui vẻ nhận lời.

Tôi được giới thiệu với 1 số sĩ quan mới tới. Trung đội trưởng súng máy, thượng uý George Sergeev, được đặc biệt chú ý vì có vẻ rất lúng túng và kiệm lời, vậy mà anh ta lại là 1 sĩ quan dũng cảm và thông minh, từng trải qua nhiều thử thách trên mặt trận, bằng chứng là 1 vết sẹo khổng lồ che kín 1 bên má. Lúc này lính súng máy đã được nhận loại đại liên mới Goryunov chỉ nặng bằng hơn phân nửa loại Maxim cũ, 40kg thay vì 70kg! Tuy nhiên băng đạn ko hề thay đổi và vẫn là 250 viên. 1 trung đội trưởng thay vị trí của Fyodor Usmanov vẫn còn đang điều trị tại bệnh viện, nhưng đại đội trưởng đoan chắc rằng anh ta sẽ sớm trở lại. Trung đội trưởng mới là thiếu uý Ivan Karasev, 1 sĩ quan cao to và rất khoẻ, có khả năng giữ bình tĩnh khó tin, hình như Mayakovski đã viết về mẫu người này như sau: "Tôi sẵn sàng đương đầu với 2 đối thủ, và nếu bạn làm tôi cáu, thì là 3!"

Nói ngắn gọn, tiểu đoàn tôi đang được tích cực tái tổ chức dưới sự chỉ đạo của tân tiểu đoàn trưởng cùng ban tham mưu của ông ta. Vì quân bổ sung tới rất nhỏ giọt nên chúng tôi trước hết chỉ tổ chức 1 đại đội bộ binh chứ ko phải tất cả các đại đội cùng lúc như trước. Đại đội này bao gồm cả các trung đội súng máy, cối và súng trường chống tăng, lúc này toàn tiểu đoàn cũng chỉ có 1 đại đội đó có khả năng tham chiến. Tất nhiên ban tham mưu tiểu đoàn vẫn còn giữ lại trung đội truyền tin, trung đội này có trách nhiện giữ liên lạc ổn định giữa tham mưu tiểu đoàn và đại đội trong bất kỳ điều kiện chiến trận nào. Mỗi ngày trôi qua đều dài, từ sáng sớm chúng tôi đã phải tiến hành huấn luyện. Sau bữa trưa chúng tôi tiếp nhận những người mới tới, nghiên cứu các bản án của họ, kiếm cho họ 1 chỗ trong các trung đội. Tất nhiên chẳng ai nói gì đến y lệnh "17 ngày điều trị tại nơi điều dưỡng" của tôi! Đại uý quân y Stepan Buzun của chúng tôi chỉ gửi tới 1 nhân viên y tế, trung uý quân y Ivan Demenkov, để băng bó lại những chỗ vết thương chưa lành hẳn, massage chân cho tôi. Sau đó Buzun dạy tôi kỹ thuật massage để tôi tự lấy lại cảm giác chân dần dần.

Chúng tôi được biết cuộc nổi dậy ở Warsaw đã bắt đầu. Thậm chí ngay cả các sĩ quan ít kinh nghiệm như chúng tôi cũng cảm thấy tiếc vì thời điểm nổi dậy được lựa chọn quá tồi. Quân ta chẳng thể giúp họ, mà họ cũng ko thể giúp gì cho chúng tôi. Phương diện quân Belorussia 1 đã phải chiến đấu qua 250km chiều sâu phòng thủ của bọn Đức trên 1 địa hình phức tạp với nhiều chướng ngại vật tự nhiên, và các đơn vị hậu cần thì luôn tụt lại 1 cách vô vọng ở phía sau. Thậm chí ngay cả chúng tôi, 1 đơn vị ko tham chiến, cũng rơi vào tình trạng thiếu tiếp tế. Pháo binh đã bắn gần sạch số đạn được phân trong trận pháo phủ đầu trước chiến dịch Bagration, binh sĩ thì đã cạn cả đạn dược lẫn sức lực, vô số xe tăng và chiến cụ khác đang chờ sửa. Như tôi được biết, cuộc nổi dậy bắt đầu rất sớm, vào ngày 1/8, theo hiệu lệnh từ chính phủ Ba Lan lưu vong tại London. Thời điểm đó chúng tôi vẫn còn đang dọn dẹp khu vực Brest trong đội hình Tập đoàn quân 70, trong khi lực lượng chính của tập đoàn quân vừa chiếm Byala Podlyaska và đang chiến đấu tại khu vực Sedlec, cách Warsaw gần 100km. Mặc dù các lực lượng tiền tiêu Phương diện quân đã chiếm đầu cầu Magnushev bên kia sông Vistula ở phía nam Warsaw nhưng quân ta ko còn đủ sức tiếp tục tấn công. Lúc đó tuyến phòng thủ quân Đức đã được củng cố và chúng còn tổ chức được nhiều đòn đánh thọc sườn mạnh vào các cánh quân khác đang hướng tới Vistula. Vậy mà sau này đã có rất nhiều lời kết tội nhằm vào các lãnh đạo Soviet và cá nhân Tổng Tư lệnh Stalin vì "sự thận trọng thiếu thiện ý" nên ko hỗ trợ những chiến sĩ Ba Lan.

Hôm 10 hay 11/9 gì đó, từ ngôi làng nơi chúng tôi đóng quân có thể nhìn rõ 1 phi đội máy bay ném bom "pháo đài bay" khổng lồ của Mỹ bay trên bầu trời Warsaw, khoảng 80 chiếc ném bom cùng nhiều máy bay tiêm kích hộ tống. Thật là 1 cảnh tượng lạ mắt khi xem họ thả đồ tiếp tế cho những người Ba Lan đang chiến đấu tại Warsaw như thế nào. Để tránh hoả lực phòng ko Đức, họ đã bay ở độ cao trên 4,5km! Đương nhiên khi hàng tiếp tế được thả từ độ cao đó chúng sẽ bị tản mát trên diện rộng và tiếp đất ở ngoài phạm vi kiểm soát của những người Ba Lan. Phần lớn các kiện hàng tiếp tế đã rơi xuống sông Vistula hoặc vào khu vực bọn Đức kiểm soát. Tuy vậy pháo phòng ko Đức vẫn bắn hạ được 2 máy bay và các "pháo đài bay" ko bao giờ xuất hiện trở lại trên bầu trời Warsaw nữa. Sau đó từ ngày 13/9 trở đi, theo lời đề nghị muộn màng của lãnh đạo những người khởi nghĩa Ba Lan, cuối cùng họ cũng bắt liên lạc với các sĩ quan tham mưu của Rokossovski, quân ta bắt đầu tiếp tế cho những người Ba Lan. Hàng tiếp tế được thả xuống từ độ cao thấp, các phi vụ phần lớn được thực hiện bởi những chiếc máy bay kukuruznik, tên lính tráng vẫn gọi loại máy bay ném bom đêm hạng nhẹ Po - 2.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:42:02 PM

Nhớ lại chi tiết các sự kiện xảy ra trong quãng thời gian phức tạp đó, tôi phải nói rằng chúng tôi đã tập trung huấn luyện rất chuyên sâu. Đại đội trưởng lấy thêm 1 sĩ quan nữa về đại đội, thượng uý Davletov. Anh ta hướng dẫn tôi cách phối hợp chiến đấu theo đội hình trung đội và lập giáo án huấn luyện hoàn chỉnh về đầy đủ các khoa mục quân sự cần thiết. 1 thời gian sau đại đội trưởng chuyển tôi sang ngạch dự bị, có lẽ vì xét tới vết thương chưa khỏi hẳn của tôi và sự cần thiết phải "điều trị tại nơi điều dưỡng". Vậy là Davletov hoàn toàn nắm trung đội, đó là 1 chàng trai tốt, đẹp trai và là người bạn tốt để thế chỗ cho Fedor Usmanov đang vắng mặt. 2 người họ rất giống nhau, cùng là dân Ural, 1 đến từ Bashkiria, người kia từ Tatarstan, cùng thích hài hước, nhân cách tốt nhưng cứng rắn. Davletov có nước da ngăm đen và gò má cao, lưng hơi còng khiến lúc nào trông cũng có vẻ sẵn sàng hành động ngay tức khắc. Fedor Usmanov trở lại tiểu đoàn ngay sau đó, thế là chúng tôi có 2 "tên Tatar" trong đại đội, đó là cách họ vẫn tự gọi mình.

Dù sao chúng tôi cũng đã có nhiều ngày nghỉ ngơi vui vẻ trong giai đoạn đó. Đội chiếu bóng lưu động tới và chúng tôi được xem nhiều bộ phim hài như Volga - Volga, Rạp xiếc, Những anh chàng may mắn, cùng nhiều bộ phim về các tướng lĩnh Hồng quân nổi tiếng thời Nội chiến. Các bộ phim ngắn về các anh hùng nổi tiếng được chiếu vào buổi tối, thí dụ như bộ phim ngắn về Komdiv Chapaev (*) với câu nói ưa thích "Chúng mày ko thể làm gì được tao", trong phim ông nói câu này khi đang dẫn đầu sư đoàn bơi qua sông xung trận trong WW2. Nikolai Schor (**) và trung đoàn Bogun của ông cũng được dựng phim là đang tiêu diệt bọn Nazi. Rồi cả Maxim, nhân vật nổi tiếng do Boris Chirkov đóng trong bộ phim cùng tên dài 3 tập, cũng trở thành "anh hùng huyền thoại" trong cuộc chiến chống bọn Fritz. Thậm chí "Anh lính Schweik tốt bụng" do Boris Tenin thủ vai cũng khéo lừa những tên tướng Đức! Các bộ phim buổi tối nâng cao sĩ khí quân ta và làm họ vui cười. Điều duy nhất chúng tôi ko được hưởng là người ta đã ko cho các đoàn văn công, lúc này đang là ngôi sao trên mặt trận, tới biểu diễn. Có lẽ các Ctrị viên sợ họ vướng vào các mối quan hệ với shtrafnik, mà đó là 1 sai phạm. Chỉ mỗi 1 lần chúng tôi mời được 1 nhóm nhạc Ba Lan gồm các cô y tá từ 1 quân y viện đóng bên cạnh tập hợp thành 1 nhóm nhảy amateur. Đó là sự kiện được cả các shtrafnik và sĩ quan yêu thích nhất. Chúng tôi cũng có nhiều thời gian để cười đùa. Chỉ huy thông tin tiểu đoàn, thượng uý Pavel Zorin, thỉnh thoảng lại đùa như sau: anh ta đặt điện đài viên ngồi cạnh 1 nhóm sĩ quan đang tán gẫu và yêu cầu dò kênh nào có nhạc, cùng lúc đó anh ta truyền theo cùng tần số bằng giọng nhái Levitan, phát thanh viên nổi tiếng của Đài phát thanh TW Liên Xô, 1 "tin khẩn" về Lệnh của Tổng Tư lệnh tặng thưởng cho các sĩ quan sau đây những danh hiệu vô cùng cao quý, trong đó anh ta nhắc tên 1 trong các sĩ quan đang ngồi đấy. Bạn phải thấy mặt tay sĩ quan đó mới hiểu cả đám đã buồn cười đến thế nào về trò đùa.

Tôi nhớ có lần chúng tôi trò chuyện về binh chủng nào vất vả nhất trong chiến tranh. Nhiều sĩ quan tranh luận rồi hầu hết mọi người đều đồng ý bộ binh là vất nhất. Các shtrafnik cựu phi công phải chiến đấu như bộ binh thường bảo nhẽ ra phải cấp khẩu phần hạng nhất trong Ko Lực cho bộ binh. Sau đó Valery Semykin, trung đội trưởng truyền tin, 1 trong các sĩ quan được khâm phục nhất trong tiểu đoàn, tham gia cuộc trò chuyện. Anh nói: "Bộ binh chiếm lấy chiến hào địch hoặc đào hào tạo thành tuyến phòng thủ của ta, vậy thôi, sau đó bộ binh có thể nghỉ trừ phi phải đào hầm hào tiếp hay bị quân địch tấn công. Trong khi đó các liên lạc viên phải vác những cuộn dây và thiết bị đàm thoại có khi cực kỳ nặng chạy quanh các chiến hào để rải dây và thiết lập đường liên lạc với khoảng cách tối thiểu là 500m nối với đơn vị bạn hoặc hậu tuyến. Nếu pháo bắn hỏng đường dây liên lạc viên lại phải chạy đi chạy lại, vác nặng như 1 con lừa ko chỉ những đồ kể trên mà cả balô và vũ khí cá nhân. Họ phải chạy khắp nơi hoặc hành quân bộ hàng chục km với máy điện đài nặng trịch, tối thiểu là 20kg, và khi bộ binh được dừng nghỉ giữa cuộc hành quân lính thông tin lại phải bật điện đài để bắt liên lạc cho các thượng cấp."

Thế là tất cả đều im lặng, ko thể nói được gì trước lý lẽ của Valery, rồi ai đó, hình như là Vasily Tsigichko, kết thúc quãng im lặng đó bằng giọng trầm và tỉnh bơ: "Và mọi việc làm đó đều vô dụng!" 1 giây sau tất cả sĩ quan và binh lính đều cười vang, Valery cười to nhất. Tôi phải nhắc rằng Valery là người có vẻ cực kỳ trầm tĩnh, tối thiểu anh ta có 3 đức tính: ngay thẳng, sẵn sàng làm việc rất nặng nhọc và thực sự khiêm tốn, sau này khi đại đội bước vào chiến đấu anh đã cho thấy trong thực tế mình còn có thể làm những gì.

Lúc này, các đơn vị nhỏ trong tiểu đoàn đã định hình thành 1 đại đội sẵn sàng độc lập chiến đấu với ko chỉ các trung đội súng trường mà cả các trung đội hoả lực yểm trợ là súng máy, súng trường chống tăng và cối. Binh lính trong các trung đội đều đã học xong mọi khoa mục vũ khí, họ ko chỉ học tháo lắp mà cả sử dụng súng trường chống tăng PTR, súng máy và cối rất thành thạo. Theo bạn tôi, tham mưu trưởng Fillip Kiselev, chúng tôi được biết tiểu đoàn đã nhận được 1 nhiệm vụ chiến đấu.

Tình hình mặt trận ko hề thuận lợi với quân ta chút nào. Ngay từ hôm 5/9, tập đoàn quân 65 đã chiếm 1 đầu cầu qua sông Narev tại khu vực Pultusk - Serotsk, phía bắc Warsaw, tuy nhiên quân ta chỉ vừa đủ sức giữ đầu cầu. Sau ngày 15/9, bọn Đức đã sử dụng tới "quả đấm thép" của chúng, tức là lực lượng thiết giáp, khiến cho vành đai phòng thủ do lực lượng của Batov trấn giữ nhỏ hẳn lại với 2 cánh gần như bị đập tan, tuy vậy đầu cầu vẫn giữ được. Lãnh đạo quân đội Đức gọi đầu cầu Narev là "khẩu súng ngắn nhắm thẳng vào trái tim nước Đức" và tiếp tục cố hết sức tiêu diệt quân ta tại đó. Theo chỉ huy tập đoàn quân 65, tướng Pavel Ivanovich Batov viết trong cuốn hồi ký "Giữa các trận đánh và các chiến dịch", hôm 4/10 "bọn Đức đã tung ra 1 đòn phản công sắc bén, nó hoàn toàn gây bất ngờ cho quân ta. Địch đã chuyển sang tấn công! Xe tăng Đức chọc thủng tuyến phòng ngự quân ta và gần tới được bờ sông." Vậy là ko phải mọi lực lượng ta phòng thủ đầu cầu đã đứng vững được trước đòn đánh. "Nhiều tiểu đoàn rút lui, thương vong ngày 1 tăng. Quân địch đánh vào điểm tiếp giáp giữa 2 đơn vị và tới được sông Narev. Chiều 6/10, xe tăng Đức đã chọc thủng tuyến phòng ngự quân ta. Cho đến tận 10/10 cuộc tấn công của chúng mới chấm dứt."

Dạo đó tôi mới chỉ là 1 trung đội trưởng nên cái nhìn của tôi thực sự mới chỉ ở tầm chiến thuật rất thấp, vì vậy tôi thậm chí ko thể đoán được lý do tại sao quân ta ko thành công như mong đợi. Tình hình tại đầu cầu nghiêm trọng tới mức chỉ huy Phương diện quân, Nguyên soái Rokossovski, phải chuyển sở chỉ huy Phương diện quân về sở chỉ huy Tập đoàn quân 65 để lãnh đạo trực tiếp. Rokossovski lệnh cho 1 quân đoàn tăng cùng nhiều sư bộ binh thuộc lực lượng dự bị Phương diện quân vượt sông tới đầu cầu để hỗ trợ Batov. Có lẽ Nguyên soái cũng nhớ tới "những tên kẻ cướp của Rokossovski", tên lóng mà bọn Đức gọi tiểu đoàn trừng giới của tôi, nhớ tới mức huấn luyện và tinh thần ko biết sợ là gì của các shtrafnik. Vì vậy, ngày 16/10 chúng tôi được lệnh lên xe tải, toàn tiểu đoàn được đưa tới đầu cầu. Giống như 1 dòng suối nhỏ, chúng tôi nhập vào dòng chảy lớn của những đoàn quân đang ngày đêm ko ngừng nghỉ vượt sang đầu cầu.

1 hàng nhỏ gồm những con người kiệt sức chỉ còn có thể lê bước chân, những đứa trẻ chân đất sưng vù đi ngược hướng chúng tôi, họ là những người vừa được giải thoát khỏi các trại tập trung của bọn Đức. Chúng tôi cũng vượt qua những chiếc xe tải quân sự chở đầy nữ binh sĩ từ các tiểu đoàn quân y, các đơn vị vệ sinh dịch tễ hay giặt là, thực sự chúng tôi có cả các đơn vị kiểu này trên mặt trận. Tôi ko hiểu tại sao, nhưng ngay khi đang vượt qua những chiếc xe tải đó thì người của tôi la lên: "Báo động ko kích! Có gì đó trên trời!" Tôi đoán đó là cách lính tráng gây sự chú ý với các cô gái. Trong quãng nghỉ ngắn tại thị trấn Vyshkuv, vừa được đánh chiếm cùng lúc với đầu cầu tức là đầu tháng 9, trên tấm biển chỉ đường tôi nhìn thấy có 1 viện điều dưỡng tại tiền tuyến dành cho các sĩ quan đóng tại đây. "Thì ra đây chính là nơi được ghi trong giấy ra viện", tôi nghĩ. Có lẽ các vị bác sĩ tại quân y viện nghĩ ngay cả 1 sĩ quan cấp uý trung đội trưởng như tôi cũng có thể tìm được 1 chỗ trong viện điều dưỡng này. Tôi ko biết có sĩ quan cấp uý nào được vào đây ko, chắc là ko.

Ngay sau đó chúng tôi đã tới sông Narev, vượt sông bằng cầu phao rồi dừng lại trong 1 ngôi làng nhỏ. Vì 1 số lý do những ngôi làng thế này đều được gọi là Volwark, ban tham mưu tiểu đoàn dừng lại đóng trong 1 Volwark như vậy. Kombat mới đã được 1 sĩ quan liên lạc của Tập đoàn quân đợi sẵn, đại đội trưởng Matvienko cũng được triệu tới ngay sau đó. Sau khi ra khỏi toà nhà nơi đóng ban tham mưu tiểu đoàn, đại đội trưởng tập hợp các trung đội trưởng chúng tôi lại để thông báo vắn tắt tình hình. Tôi tự dưng so sánh Baturin và cách làm việc của ông ta với kombat cũ Osipov. Tôi lập tức nhớ lại cựu kombat luôn ra ngoài để nói với ko chỉ các sĩ quan mà cả các shtrafnik bình thường, khích lệ mọi người bằng những lời chúc may mắn. Tuy nhiên, tân kombat ko cho việc đó là cần thiết, hoặc có lẽ ông ta nghĩ việc nói chuyện với những người sẽ bị ông đẩy vào trận chiến sẽ hạ thấp ông. Trong số họ sẽ có những người ko bao giờ trở về. Là 1 cựu Ctrị viên đáng lẽ ông phải hiểu tầm quan trọng của những lời chúc từ miệng cấp trên đối với binh sĩ, hiểu rằng ông sẽ thực sự được biết ơn nếu nói vài lời vui đùa hay khích lệ tinh thần. Lúc đó chẳng có Ctrị viên nào nói gì ngoại trừ Olenin, ông đã tình nguyện tham chiến cùng đại đội.

Theo tôi được biết căn cứ vào tờ lệnh mà đại đội trưởng đọc cho mọi người nghe, đại đội sẽ di chuyển tới tuyến đầu của đầu cầu. Chúng tôi phải phối hợp phản công với 1 trung đoàn khác, tôi ko nhớ số, nhằm đẩy bọn Đức càng xa càng tốt khỏi vị trí quân ta, hướng về phía Serotsk. Tân tiểu đoàn trưởng ko cho phép bí thư Đảng uỷ tiểu đoàn Olenin đi cùng đại đội, có lẽ ông ta nghĩ thiếu tá bí thư sẽ gây ảnh hưởng đến các quyết định của đại đội trưởng, hoặc lý do nào đó khác, tôi ko biết. Ngay sau đó chúng tôi bắt đầu các trận đánh tái chiếm 1 số vị trí mà quân Tập đoàn quân 65 đã để mất.

(*) Chỉ huy Hồng quân thời Nội chiến Nga, hy sinh trong chiến đấu và trở thành nhân vật chính trong 1 bộ phim cực kỳ nổi tiếng.

(**) Cũng là 1 chỉ huy Hồng quân huyền thoại thời Nội chiến.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:42:18 PM

6
ĐẦU CẦU NAREV



Tôi ko tham gia trận chiến tại đầu cầu Narev ngay từ đầu. Đầu tiên chỉ có đại đội của Matvienko với toàn bộ 3 trung đội, các trung đội trưởng là Bulgakov, Davletov và Karasev. Sau đó là trung đội súng trường chống tăng do Smirnov chỉ huy và trung đội súng máy của Sergeev. Tất cả lên tuyến đầu, tại đây mọi người được chuẩn bị để bắt đầu các trận đánh tái chiếm các vị trí đã mất. Yanin vẫn là đại đội phó. Sáng hôm sau, tôi ko nhớ rõ đó là ngày 18 hay 19/10, đại đội xông ra khỏi chiến hào mà ko có trận pháo chuẩn bị nào theo kế hoạch để mở 1 cuộc tấn công bất ngờ, chỉ trong quá trình xung phong mới có máy bay cường kích mặt đất yểm trợ. Đại đội xông lên nhanh tới mức bọn Fritz ko sao tránh khỏi 1 trận đánh giáp lá cà mà các shtrafnik muốn lôi chúng vào, theo những người tham gia, đó là 1 trận đánh ngắn ngủi nhưng rất tàn bạo. Đại đội phó Ivan Yanin kể cho tôi nghe về trận đánh trong đó anh bao giờ cũng "đi đầu mũi xung phong chính", tôi sẽ cố kể lại câu chuyện của anh ngay sau đây vì thượng uý Ivan Yanin sẽ chẳng thể kể lại câu chuyện này cho bất cứ ai nữa:

Khi các shtrafnik xung phong tới gần tuyến hào tiền tiêu của bọn Đức, Yanin là người đầu tiên ném lựu đạn xuống hào rồi lao xuống theo ngay sau khi quả lựu đạn nổ. Anh bắn nhiều loạt PPSh sang cả 2 bên, nhắm vào những tên Đức đang cố chạy khỏi tuyến hào. Bên cạnh anh là nhiều shtrafnik đang sử dụng lưỡi lê, báng súng và cả xẻng đào hào mà anh chỉ nghe thấy tiếng thịt bị xẻ và xương gãy răng rắc dưới những cú đánh của họ! Trận chiến giáp lá cà nóng bỏng và nhanh gọn tiếp tục từ trong chiến hào ra tới đằng sau, tới khi ko ai còn nghe thấy 1 hơi thở nào của bọn Đức. Những tên ở gần bị giết bằng lê, ở xa bị giết bằng súng.

Kết quả đợt tấn công với công đầu thuộc về Yanin, sĩ quan được yêu quí nhất đại đội, là toàn bộ tuyến hào đầu tiên của bọn Đức đã về tay quân ta. Đại đội ko dừng lại tại đó mà tiếp tục truy kích những tên lính bộ binh Đức đang bỏ chạy, chúng còn bị thêm những chiếc Shturmovik và tiêm kích ta ko kích. Quân dự bị Đức trong tuyến hào thứ 2 nổ súng, bắn cả vào các shtrafnik đang xung phong và quân của chúng đang chạy về vì các shtrafnik thực sự đã đuổi sát sau lưng những tên bỏ chạy. Bị kích thích bởi mùi chiến trận và sự thành công của trận đánh giáp lá cà vừa xong mà quân ta chỉ chịu thương vong ko đáng kể, các shtrafnik đánh bật luôn quân Đức khỏi tuyến hào thứ 2. Sau đó họ dừng lại theo lệnh của đại đội trưởng nhằm lấy lại hơi và nạp lại đạn. Bọn Đức tận dụng từng giây quãng thời gian nghỉ đó để tổ chức 1 cuộc phản kích với sự hỗ trợ của xe tăng và pháo tự hành, cũng là 1 loại tăng nhưng tháp pháo ko quay được. Theo những người tham gia, phải rất khó khăn mới chặn được cuộc phản công này, nhiều lúc ta và địch trộn trấu với nhau, nhiều cuộc đấu giáp lá cà diễn ra cùng lúc khiến ko ai biết bên nào kiểm soát tuyến hào. Chỉ sau đó 1 lúc mới biết các vị trí vẫn nằm trong tay ta.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:42:27 PM

Fedor Usmanov và tôi nằm trong lực lượng dự bị, chỉ có thể nghe tiếng động từ trận đánh gần đó và phấn khích chờ đến lúc người ta cần đến mình. Bất ngờ chúng tôi nhìn thấy tham mưu phó thứ 2 của tiểu đoàn, Valery Semykin, và 1 Ctrị viên mới về tiểu đoàn là trung uý Mirny xuất hiện, ngay sau đó chiếc jeep Willy của kombat phóng tới. Thì ra đại đội trưởng đã gửi thông điệp qua điện đài cho biết ông cần chúng tôi có mặt gấp tại trận địa. Vậy đấy, chúng tôi nghĩ, chắc tình hình ngoài đó thực sự nóng, vì vậy chúng tôi cần có mặt để thay thế ai đó vừa thương vong! Cầu cho đó chỉ là người bị thương chứ ko phải hi sinh! Cả 4 chúng tôi nhảy vào chiếc jeep và lái xe phóng đi như điên, ko thèm quan tâm nhiều đến đường xá đầy ổ gà ổ trâu. Chúng tôi phi với tốc độ như vậy ngay cả khi vượt qua những công sự nổi và những tuyến hào, chiếc jeep đơn giản là vọt qua tất cả chúng.

Khi chúng tôi đến nơi thì đại đội vừa đẩy lui 1 đợt tấn công của bọn Đức, 2 chiếc tăng còn đang bốc cháy ngay sau vị trí ta, ngoài ra cũng tại chỗ đó còn 1 cỗ pháo tự hành Đức trông có vẻ còn nguyên vẹn. Chúng tôi lao tới đúng lúc 1 tay súng trường chống tăng to lớn đang xông vào 1 nhóm lính Đức đang đứng cạnh mấy chiếc tăng cháy, có vẻ chúng muốn đầu hàng. Anh lính nắm khẩu súng trường chống tăng đằng nòng và xoay tít nó với vẻ hăm doạ, thứ vũ khí này dài tới gần 2m và nặng hơn 20kg. Anh ta gào thét gì đó và hình như định phang vỡ sọ mấy tên Đức hoặc hất chúng bay ra đâu đó. Lúc đó trông anh ta thật đẹp, y như người chiến binh Nga Vasily Buslaev trong phim "Alexander Nevski", người đã xẻ đôi hàng lính thập tự chinh Đức trên mặt băng hồ Chudskoe chỉ với 1 cây gậy. Người ta đã cho chúng tôi cùng nhiều người khác xem bộ phim này ngay trước khi tới đầu cầu Narev, vì vậy ấn tượng về nó vẫn còn tươi mới.

Nhiều lính ta đang chạy quanh cỗ pháo tự hành Đức. Bất ngờ nó động đậy, máy gầm lên, chiếc xe xoay ngược lại và nã đạn về phía quân Đức. Thì ra mấy tay cựu sĩ quan tăng của chúng tôi đã khởi động lại được con quỷ thép này mặc dù 1 bên xích của nó đã đứt. Tôi dám chắc nếu cỗ pháo tự hành còn đi được thì thể nào quân ta cũng nhảy vào nó để tiếp tục truy kích bọn Đức đang bỏ chạy. Lúc này phía trước chúng tôi, vì chúng tôi vẫn còn đang phóng xe thẳng về hướng đang có đánh nhau, các trung đội kiên cường của ta đang truy đuổi kẻ địch, bám sát theo đúng nghĩa đen những tên Đức đang rút lui. Chúng tôi được yểm trợ mạnh từ trên ko với những chiếc cường kích mặt đất Il - 2 Shturmovik mà chúng tôi thường gọi là "xe tăng bay" hay "vua chiến trường". Đó là người bạn tốt của các "nữ hoàng chiến trận" - cánh bộ binh. Bọn Đức gọi chúng là "Thần chết đen". Những chiếc máy bay này có thể bắn tên lửa và trang bị nhiều đại liên, chúng là nguồn động viên lớn với những người lính đang xung phong, vì vậy khoảng cách giữa các shtrafnik và bọn Đức đang bỏ chạy rút ngắn từng phút.

Chỉ vài phút sau thì 1 tai nạn bất ngờ xảy ra. Ko rõ trung đội trưởng Davletov đã vượt lên quá xa quân ta hay tay phi công Shturmovik ko phân biệt được giữa quân ta và quân Đức mà 1 loạt đại liên từ chiếc Shturmovik đã giết chết viên trung uý ngay tại chỗ. Ngay khi tôi gặp được đại đội trưởng và được biết về tai nạn thảm khốc này, tôi đã đề nghị và được chấp nhận trở về trung đội lúc này đang ko có người chỉ huy. Lúc này trung đội đã củng cố vững chắc vị trí của mình tại tuyến hào Đức tiếp theo, mọi người đều biết tôi vì tôi cũng tham gia huấn luyện họ cùng Davletov. Trung đội phó báo cáo thương vong, thật may là con số rất thấp, tuy nhiên cái chết của trung đội trưởng là 1 tổn thất lớn. Fedor Usmanov thay thế 1 trung đội trưởng khác bị thương nặng là Bulgakov.

Ngay sau đó chúng tôi đã phải chặn 1 đợt tấn công nữa, bọn Đức cố chiếm lại những vị trí đã mất, chúng đã vượt qua được cú shock đầu tiên nhưng ko thể tập trung đủ lực lượng, vì vậy quân ta đã đẩy lui được cuộc tấn công. Đã sắp hết ngày và đại đội trưởng hạ lệnh gìn giữ những thành quả thu được, củng cố vững chắc các vị trí chúng tôi đang có. Chúng tôi chuẩn bị vũ khí cho trận đánh đêm có thể xảy ra và sẵn sàng đẩy lui mọi cuộc phản kích đêm của bọn Đức. Chúng tôi nhìn thấy mấy căn nhà xây bằng đá, nhà có khung hoặc tầng 1 xây bằng đá trong khi những phần làm bằng gỗ đã bị phá huỷ, cần phải chiếm chúng vào sáng sớm mai. Đó là nhiệm vụ cuối cùng của quân ta trong giai đoạn đầu chiến dịch này.

Quân ta cần tiếp tế đạn và được ăn, chí ít là thực phẩm khô. Tôi ko thể giúp gì cho việc này nhưng đáng ca ngợi làm sao các sĩ quan hậu cần, những người trông ko giống các anh hùng trận mạc chút nào, đã mang đồ ăn tới vào buổi tối trong những chiếc phích. Chúng tôi ko được cấp tí rượu nào mặc dù lúc sáng rượu đã được cấp trong khẩu phần hàng ngày, trước khi cuộc tấn công đầu tiên bắt đầu. Ctrị viên mới, 1 trung uý với huy hiệu Cận vệ trên ngực áo, hoá ra là 1 tay cực kỳ dũng cảm và cởi mở, mọi người khoái anh ta ngay lập tức.

Đêm khá yên tĩnh. Các liên lạc viên nhanh chóng đặt đường dây nối giữa các trung đội và ban chỉ huy đại đội cũng như giữa đại đội với tham mưu tiểu đoàn. Có lẽ sự hiện diện của tham mưu phó thứ 2 (chuyên về thông tin liên lạc và mật mã) Valery Semykin đã giúp hệ thống thông tin được thiết lập nhanh chóng. Valery ko muốn ngồi ở ban tham mưu tiểu đoàn và nghĩ sự hiện diện của anh ở đây, tại đại đội, sẽ có ích hơn. Tất cả chúng tôi đều nhận được danh sách viết tay các mật danh, mật danh của tôi là 18, của đại đội trưởng là 12, con số 12 xướng lên nghe thật quen thuộc - Bug. Mật danh của tham mưu tiểu đoàn là Vistula, vì vậy thật thú vị khi nghe các cuộc đàm thoại trên điện đài: "Vistula, Vistula, tôi là Bug", y như chúng tôi đang kể lại các trận đánh trước vậy, ngay cả sông Narev cũng chỉ là 1 nhánh sông Bug mà chúng tôi vừa vượt qua. Sau này khi chúng tôi chuyển vị trí tới hết tuyến phòng ngự này tới tuyến phòng ngự khác, các mật danh đều được thay đổi. Tất cả đều theo lệnh của Semykin, anh ta có 1 khả năng vô hạn trong việc tưởng tượng ra những cái tên. Tôi viết chi tiết vậy vì sau này Valery còn thể hiện khả năng của mình trong nhiều vấn đề vượt xa 1 tham mưu hay 1 chuyên gia mật mã.

Đêm trôi qua thực sự hoàn toàn yên tĩnh. Bọn Đức ko mở 1 cuộc phản công nào. Có lẽ chúng cũng cũng cố vị trí của mình vì biết quân ta sẽ tiếp tục tấn công khi trời sáng. Tất nhiên chúng cũng nã cối và súng máy vào vị trí ta gây nên nhiều phiền toái. Tuy vậy các lính giác của ta ko nhận thấy động thái chuẩn bị nào của bọn Đức. Trong đêm đại đội trưởng đã giữ liên lạc bằng điện thoại với sở chỉ huy sư đoàn để phối hợp về thời điểm bắt đầu tấn công, tầm bắn của pháo và tín hiệu xung phong sáng hôm sau. Những ngôi nhà mà chúng tôi nhìn thấy còn cách khá xa, tôi đoán phải vài km, như vậy chúng tôi sẽ phải dàn quân tối thiểu 1,5km tính từ tuyến hào vừa chiếm được.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:42:41 PM

Đại đội trưởng quyết định cho dàn trận ngay trong đêm. Ko 1 tiếng động, lợi dụng địa hình và cây lá, quân ta đã vào vị trí sẵn sàng trước cả khi trận pháo kích bắt đầu và nằm đó đợi tín hiệu xung phong. Vì 1 số lý do tôi nhớ được là đêm đó ko có trăng, vậy là 1 lần nữa mặt trăng đã đứng về phe ta. Quân ta di chuyển đến vị trí xuất phát bằng cách chạy từng quãng ngắn trong thời gian nghỉ giữa các loạt đạn, bằng cách bò trên mặt đất, giấu mình trong thảm cỏ xám cuối thu. Chúng tôi đã kiểm tra balô từ tối để đảm bảo ko có gì gây tiếng động hay bỏ quên tại vị trí cũ. Nhờ vậy chúng tôi đã tới được khu vực xuất phát tấn công mà bọn Đức ko hề phát hiện thấy, nguỵ  trang vị trí thật tốt khiến chúng ko thể tưởng tượng rằng chúng tôi đã ở rất gần. Ai nấy đầm đìa mồ hôi vì phấn khích và căng thẳng dù đang là cuối tháng 10, ban ngày ấm nhưng ban đêm rất lạnh. Vì vậy đến nơi mọi người đều run như cầy sấy dưới tấm áo choàng ướt đẫm, cả vì phấn khích chờ đợi cuộc tấn công lẫn vì hơi lạnh buổi sớm mai.

Ngay khi vừa hửng sáng, bầu trời đã bị xé toạc. Trận pháo kích bắt đầu bằng những loạt Katyusha trông như những ngôi sao chổi trên bầu trời buổi sớm. Tôi hơi sợ chúng lại hụt tầm lần nữa và rơi xuống vị trí quân ta như hồi ở sông Drut trên đất Belorussia, tuy nhiên lần này mọi thứ đều làm việc tốt. Pháo và cối tiếp tục bắn khoảng 10 phút nữa rồi những quả pháo hiệu màu đỏ bay lên trời ngay trước loạt Katyusha cuối cùng. Dường như những quả pháo hiệu đỏ đã ném tất cả chúng tôi lên khỏi mặt đất. Cuộc xung phong diễn ra trên toàn bộ trận tuyến đại đội với tốc độ nhanh nhất có thể, tiếp ngay sau trận pháo phủ đầu khủng khiếp khiến quân địch ko kịp lấy lại tinh thần sau cú sốc đầu tiên ngay cả khi quân ta đã xông vào tận trong hào. Ngay cả tay "thợ làm Ctrị" mới tới, cách chúng tôi thường gọi các Ctrị viên tốt bụng, cũng ko hề hô "Vì Tổ quốc, vì Stalin!" mà chỉ xung phong và làm tốt mọi việc với tư cách 1 người lính bình thường. Đúng như chúng tôi mong muốn, bọn Đức ko thể tưởng tượng được là quân ta ở quá gần và trận pháo phủ đầu ngắn đã lấy mất mọi cơ hội để chúng có chút thời gian chuẩn bị chống trả cuộc xung phong. Súng trường chống tăng và súng máy tạo hoả lực yểm trợ tốt cho quân xung phong, bắn chính xác vào từng cửa sổ nhỏ trên những căn nhà đá, lúc này giống như lỗ châu mai boongke. Hoả lực yểm trợ đó đã đảm bảo cho bước tiến nhanh chóng của đại đội những người lính trừng giới ko bị ngăn trở.

Chúng tôi đánh chiếm được mấy căn nhà ngay đợt tấn công đầu tiên và thu được 1 số lượng chiến lợi phẩm đáng kể gồm cả đạn dược và lương thực. Tình cờ đây cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy loại đèn mà bọn Đức dùng thay cho nến, nó gồm 1 hộp carton hoặc bình tròn nhỏ chứa paraffin, giữa có bấc đặt trong 1 cái đế đặc biệt. Loại đèn này thật thuận tiện, ko sợ lật, paraffin chảy ra cũng ko nhỏ giọt như nến thường, mùi rất thơm! Chúng tôi đã dùng những cây đèn này trong nhiều trường hợp, mặc dù đèn Katyusha mới là thứ được dùng nhiều hơn. Katyusha ở đây là những vỏ đạn pháo rỗng, miệng đập dẹt để cắm bấc vào, bấc thường là 1 sợi vải cotton. Dầu được trộn thêm muối cho khỏi nổ được đổ vào trong vỏ đạn theo 1 lỗ khoan đặc biệt. Đèn Katyusha sáng hơn đèn Đức nhưng tạo ra rất nhiều bồ hóng.

Bây giờ, nhiều năm sau chiến tranh, người ta vẫn hỏi tôi shtrafnik có bắt tù binh hay ko. Trong giai đoạn này chúng tôi đã bắt nhiều tù binh, trái với hồi trước. Nhiều tên Đức trong những ngôi nhà đá đã đầu hàng. Quân ta bao giờ cũng chỉ xông vào nhà sau khi đã quẳng lựu đạn vào, nhưng khi tập hợp tất cả bọn Đức còn sống sót lại thì chúng còn đông hơn cả quân số toàn đại đội cùng các trung đội phối thuộc cộng lại. Tôi nghĩ đây là trường hợp đầu tiên các shtrafnik bắt được nhiều tù binh 1 lúc đến thế. Chúng tôi tống tất cả chúng vào 1 căn nhà, thu vũ khí và sau đó là cả đồng hồ, đèn pin, hộp đựng thuốc lá và các tư trang khác coi như chiến lợi phẩm. Xong xuôi chúng tôi cắt vài lính gác ngoài cửa và chỉ chuyển chúng về ban tham mưu tiểu đoàn khi đêm xuống. Áp giải tù binh về tuyến sau là các shtrafnik bị thương nhẹ, các thương binh nặng ko thể tự đi bộ được khiêng về bằng cáng tự làm, chúng tôi bắt tù binh Đức khiêng. Sau này tôi được biết bọn Đức khiêng thương binh ta rất cẩn thận, có lẽ chúng cho rằng lính áp giải sẽ trừng phạt nặng nếu có bất kỳ điều ko hay nào xảy ra cho các thương binh.

Lúc này còn lâu mới tới tối. Đại đội trưởng lệnh củng cố thành quả thu được chứ ko rút về Volwark hay khu trại mà chúng tôi từng ở. Chúng tôi phải báo cáo hoàn thành nhiệm vụ, tình hình mọi mặt, và nhận các mệnh lệnh về các hành động tiếp theo. Tuy nhiên điện đài của chúng tôi cũng "bị thương" nốt, 1 viên đạn hay mảnh đạn gì đó đã bắn trúng nó, dù sao độ 10 - 15 phút sau đường dây liên lạc hữu tuyến cũng đã được thiết lập. Ai nấy đều nghe thấy tiếng: "Vistula, Vistula, tôi là Bug! Chúng tôi nghe rõ!" Tất cả đều cảm thấy nhẹ cả người khi đã kết nối liên lạc thành công.

Binh lính bắt đầu củng cố các cửa sổ bằng gạch và những thanh bê tông vương vãi trên sàn, nhờ vậy những căn nhà đã biến thành boongke. Có vẻ như chúng tôi đã giết và bắt sống toàn bộ quân Đức cố thủ trong mấy ngôi nhà này vì ko thấy tên nào bỏ chạy. Điều đó cũng có nghĩa là địch có 1 phòng tuyến thứ 2 cách đây 1 quãng và đang chuẩn bị 1 điều bất ngờ đáng ghét cho quân ta, nhất là khi tại đó chúng có các đơn vị nguyên vẹn và pháo binh chúng chắc chắn đã có đủ phần tử bắn cho khu vực chúng tôi đang đóng, có điều là chúng chưa bắn thôi. Bất ngờ giữa ko gian thinh lặng chúng tôi nghe thấy ngựa gõ móng và nhìn thấy xe nhà bếp quân ta, với ống khói nghi ngút, đang lao hết tốc lực về phía chúng tôi, trông y như xe súng máy của sư đoàn Chapaev thời Nội chiến! Đó là bữa sáng được chờ đợi đã lâu, kiêm luôn bữa trưa và có lẽ cả bữa tối, đánh xe là thượng sĩ Jacob Lazarenko, cánh tay phải của sĩ quan chỉ huy hậu cần tiểu đoàn. Lúc này đã sang buổi chiều nhưng có 1 quy định bất thành văn trong tiểu đoàn và có lẽ là trong mọi đơn vị tại tiền tuyến, đó là đừng có nói đến chuyện ăn uống trước cuộc xung phong sáng! Trước hết chúng tôi tin rằng xông lên với 1 cái bụng đầy anh ách là vô cùng khó khăn, thứ đến và đây mới là điều quan trọng nhất, sẽ có cơ hội sống sót hơn nhiều nếu bị thương vào bụng khi nó đang rỗng. Niềm hy vọng luôn giúp chúng tôi bình tĩnh, đem lại cho chúng tôi niềm tin và sự đảm bảo mạng sống dù là hão huyền!

Chúng tôi vừa ăn vừa củng cố vị trí, mỗi người được uống 1 cốc vodka. Rượu được rót ra từ những chai tiêu chuẩn nửa lít, cứ 5 người 1 chai. Ko hiểu cánh sĩ quan hậu cần làm thế nào mà mang được vodka đựng trong chai thuỷ tinh ra đây mà ko làm vỡ chúng trong cuộc phi xe ngựa băng đồng! Xe nhà bếp thường xuyên lao xuống những hố bom hoặc đạn pháo, nảy tưng tưng trên những con đường mấp mô, vậy làm thế nào mà những chai rượu này vẫn nguyên vẹn? Tôi thường xuyên nhắc tới việc cung cấp thức ăn tại tiền tuyến vì nó cũng quan trọng như cung cấp đạn dược, ko thể đánh giá thấp cả 2 hoạt động hậu cần này. Việc cung cấp đạn dược đảm bảo điều kiện kỹ thuật cho các chiến binh trong chiến đấu, trong khi điều kiện tâm lý và sức lực của họ hoàn toàn được quyết định nhờ việc cung cấp thức ăn. Tinh thần binh sĩ được quyết định bởi điều kiện tâm lý, mà tinh thần lại là thứ quan trọng nhất trong chiến thắng.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:43:01 PM

Hôm đó ko hiểu sao chúng tôi lại có được 1 quãng thời gian yên tĩnh! Ko súng bắn, ko tiếng đạn pháo hay cối, máy bay ko rít trên đầu. Chúng tôi hoàn thành việc củng cố các vị trí, cả các ngôi nhà, các tầng trệt xây đá sót lại, các chiến hào nối giữa chúng. Chúng tôi thậm chí còn có thời gian kéo xác lính Đức khỏi các căn nhà bị chiếm và đem chôn trong 1 đoạn hào quân Đức đào sẵn. Chúng đã tự đào huyệt chôn mình! Thậm chí còn có thời gian để nghỉ ngơi và ngủ 1 chút. Tuy nhiên cuối cùng 1 trận bão lửa của đạn pháo và cối đã phá tan hy vọng có được 1 đêm yên tĩnh.

Đại đội trưởng chưa kịp báo cáo tiểu đoàn trưởng thì dây thông tin đứt, chúng tôi ko còn cách nào liên lạc với tham mưu tiểu đoàn. Hình như 1 dây thông tin đã đứt ngay trong trận pháo kích trước đó và chúng tôi chỉ còn mỗi 1 dây thông tin nối "trung đội - đại đội - tiểu đoàn". Điều tồi tệ là cánh lính thông tin đã chỉ đặt mỗi 1 sợi dây thông tin giữa các máy điện thoại, sợi thứ 2 nằm dưới đất và chúng tôi phải cắm nó xuống đất khiến chất lượng âm thanh cực kém, nhưng dù sao cũng còn giữ được 50% tín hiệu đường truyền! Đến lúc này, khi chúng tôi đang cần cấp báo tình hình chiến trận có thể thay đổi từng phút thì chẳng còn cách liên lạc nào, ko điện đài, ko điện thoại! Valery Semykin ngồi bên máy bộ đàm, cố gắng khởi động lại nó.

Shtrafnik Kasperovich, 1 chàng Belorussia cao to tóc vàng thuộc trung đội tôi tình nguyện chạy đi tìm chỗ dây đứt. Tôi đã chú ý đến anh này từ trước trận đánh vì chúng tôi có rất ít "người bị vây" mà anh ta là 1 trong số đó. Anh ta thậm chí cũng chỉ có cấp bực cũ, ko còn tồn tại trong Hồng quân là quản đốc kỹ thuật, hay kỹ thuật viên quân đội cấp thấp. Anh ta lúc nào cũng có vẻ ít nói, ít hoạt động, nhút nhát và theo tôi nghĩ, chỉ quan tâm đến mỗi làn da mình. Vì vậy tôi hơi bất ngờ khi anh tình nguyện nhận nhiệm vụ nhưng cũng thực sự sung sướng khi thấy anh cuối cùng đã vượt qua được sự sợ hãi và chán nản. Tôi mừng cho anh. Tuy nhiên, 10 rồi 20 phút sau đường dây vẫn ko được nối lại. Sau 1 trận pháo kích kéo dài, bọn Đức tiếp tục bắn từng loạt vào các vị trí ta và cả khu vực sát phía sau mỗi 5 - 7 phút, và tôi nghĩ tay shtrafnik người Belorussia chắc đã bị giết giống như tay súng máy đã hun khói bọn Đức ra khỏi khu trại ở Belorussia. 1 lần nữa tôi lại nhớ đến thứ logic kỳ lạ của chiến tranh, tôi ko muốn lo lắng về chuyện đó, nhưng nó cứ hiện ra.

Đại uý Matvienko, đại đội trưởng, thúc giục lính thông tin cố khôi phục đường truyền càng nhanh càng tốt. Sau đó thượng uý Valery Semykin, tham mưu phó tiểu đoàn, quẳng toẹt máy bộ đàm mà anh đã cố sửa nhưng ko được đi, lao ra khỏi hầm chỉ với 1 câu: "Tôi sẽ đi!" và biến mất trong ánh chiều tà đang tối dần. Xin nói thêm 1 chút về Valery, anh có vẻ là người khó kiềm chế và dễ xúc động, nhưng rất có ý chí và luôn biết kiềm chế cảm xúc. Tuy có thể xúc động mạnh nhưng khả năng kiềm chế của anh còn mạnh hơn, vì thế trước mặt mọi người trông anh luôn bình tĩnh trong hầu như mọi tình huống. Khoảng 10 phút sau thì tay lính thông tin, người vẫn gào liên tục vào ống nói "Vistula, Vistula, tôi là Bug!" mà chẳng có kết quả gì, bất thần hét lên "Đã có tín hiệu!" Ngay lúc đó bọn Đức lại tiếp tục pháo kích.

Đại uý túm lấy điện thoại và sau vài giây đường truyền đã ổn định, đại đội trưởng kịp báo cáo tình hình, nhận 1 số lệnh, và rồi đường truyền lại đứt lần nữa. Rồi bất ngờ lại có tín hiệu và chừng 10 - 15 phút sau thì Valery quay về, anh ko tìm thấy tay shtrafnik đã ra trước mình. Anh đã tìm được 1 đầu dây đứt nhưng mãi ko tìm ra đầu kia. Thì ra 1 quả đạn pháo Đức đã bắn trúng đường dây khiến đầu kia văng ra xa. Bò dưới làn đạn pháo khắp 1 khu vực rộng, Valery hy vọng tìm thấy cả đầu dây thứ 2 và tay shtrafnik có lẽ đã chết hay bị thương. Anh sớm tìm được đầu dây kia nhưng ko thể nối chúng lại dù đã nắm được mỗi tay 1 đầu dây, khoảng cách giữa chúng quá lớn khiến tay anh phải căng ra. Valery hiểu rằng mỗi giây đều rất quý báu, khi loạt pháo kích tiếp theo diễn ra thì anh mới nối được đường truyền bằng cách ngậm 1 đầu dây giữa 2 hàm răng, đầu dây kia nắm trong tay, biến thân mình thành 1 phần đường dây.

Sau chiến tranh tôi đã đọc nhiều chuyện về những người lính hi sinh thân mình trong trận đánh trong đó có 1 trường hợp tương tự. 1 lính thông tin đã ngậm chặt 2 đầu dây vào miệng, nhưng anh ta đã hy sinh. Có nhiều điều tương tự trong chiến tranh.

Khi Valery cảm thấy cuộc điện đàm đã chấm dứt, anh mới lấy cuộn dây mà anh lúc nào cũng mang theo để phòng hờ nối 2 đầu dây lại và thậm chí còn dùng băng vải bọc lại mối nối. 1 lính thông tin thực thụ luôn mang theo 1 ít dây. Đúng là dân chuyên nghiệp! Khi chúng tôi hỏi làm sao anh biết được cuộc điện đàm đã chấm dứt, Valery trả lời anh có thể cảm thấy 1 luồng điện nhẹ xuyên qua cơ thể khi có đàm thoại và 1 luồng điện mạnh khi liên lạc viên cúp máy, có lẽ điều này chưa từng được biết tới. Valery Semykin đã được tặng Huân chương Dũng cảm vì hành động này. Chúng tôi vẫn là bạn của nhau cho đến tận giờ, sau 60 năm.

Nói về Kasperovich, thì ra hắn đã chạy khỏi chiến địa và đào ngũ. Hồi đó tôi còn ít kinh nghiệm và dễ bị lừa, tôi tưởng nhầm hắn là người tử tế dù đã có 1 trường hợp là Geft. Rất lâu sau tôi vẫn nghĩ Kasperovich mất tích trong khi làm nhiệm vụ, mãi tới tháng 1/1945 sau trận Warsaw hắn mới bị bắt ở đâu đó bên Belorussia và tống trở lại tiểu đoàn tôi.

Những trận pháo kích ngắn nhưng dữ dội kéo dài suốt đêm, và suốt đêm chúng tôi chờ đợi 1 cuộc phản công. Nhưng cuộc phản công chỉ bắt đầu vào sáng sớm, bọn Đức làm theo đúng bài bản cổ điển. Lại 1 trận pháo kích dữ dội nữa, nó chẳng làm gì được ai vì chúng tôi được bảo vệ vững chắc sau những bức tường dày, thậm chí ngay cả các tuyến hào cũng ko bị viên đạn nào bắn trúng. Trong khi trận pháo kích đang diễn ra, thiết giáp và bộ binh Đức tiến về phía chúng tôi tới khoảng cách đủ gần để ngắm bắn hữu hiệu vào các vị trí ta, tuy nhiên điều đó có nghĩa là quân ta cũng có thể bắn trả. Mặc dù vậy, đại đội trưởng vẫn hạ lệnh giữ im lặng, chỉ nổ súng khi nào thấy pháo hiệu khói màu đỏ. Chúng tôi chờ đợi quả pháo hiệu, đó thật là điều đáng sợ! Nhìn thấy kẻ địch đang tiến tới, ngón tay đặt trên có súng mà ko được bắn. Nhưng sau đó trên tuyến xuất phát tấn công của quân Đức xuất hiện thêm nhiều bộ binh đi sau 5 - 6 chiếc xe tăng, bọn bộ binh nấp sau những con quỷ thép đang chạy thẳng ra trước. Đây mới thực sự là những gì đại đội trưởng đang chờ đợi.

Ông bắn pháo hiệu và toàn bộ súng máy quân ta, cả trung liên lẫn đại liên của trung đội George Sergev, đều khai hoả. Hàng quân tấn công của bọn Đức mỏng hẳn đi trước mắt tôi. Súng máy và súng trường chống tăng tập trung bắn vào các lỗ quan sát trên những chiếc tăng đang tiến tới. Tên lái chiếc tăng đi đầu có lẽ bị mất phương hướng vì trúng đạn vào lỗ quan sát nên xoay ngang xe, phơi phần giáp yếu bên sườn ra trước các tay súng trường chống tăng quân ta. Nó bị hạ lập tức. Chiếc Panther bốc cháy và tổ lái chui ra. Thượng uý Sergeev nhảy khỏi hào, tay cầm súng lục chạy thẳng về phía bọn lính lái tăng, hô lên "Yểm trợ tôi!" với trung đội phó, 1 shtrafnik râu ria xồm xoàm với cái tên rất nổi tiếng Pushkin. Tôi ko hiểu sao cậu ta có thể phân biệt được tên sĩ quan giữa nhóm lính tăng Đức đều bận quân phục đen, nhưng Sergeev đã bắn nhiều phát về phía bọn Đức, chạy thẳng đến 1 tên trong số đó và đánh gục hắn, sau đó đè hắn xuống đất cho đến khi 1 số shtrafnik chạy tới.

Đó là bước ngoặt của trận đánh. Những chiếc tăng còn lại định quay lui, phơi sườn ra trước quân ta. Thêm 1 chiếc nữa bị hạ, số còn lại chạy mất. Đại đội trưởng phát tín hiệu "Xung phong!", các shtrafnik xông lên và trong cơn giận dữ giết sạch những tên bộ binh Đức nào còn chưa chạy kịp. Trong khi đó, George Sergeev và những người cùng xông lên với anh dựng tên lính tăng Đức dậy, thu vũ khí, thì ra hắn là 1 Hauptmann, tức là đại uý, chỉ huy tiểu đoàn tăng. Sergeev đã vớ được 1 tù binh đáng giá! Tên tù được gửi về hậu cứ dưới sự áp giải của tổ súng trường chống tăng đã hạ hắn và theo cách đánh giá thông thường, họ xứng đáng được cho ra khỏi tiểu đoàn trừng giới sớm kèm 1 số phần thưởng. Đó là cố gắng cuối cùng của bọn Đức nhằm tái chiếm các vị trí đã mất bên cánh này, chúng ko dám mở thêm cuộc phản công nào nữa. Trong khi đó, chúng tôi phát huy chiến quả và truy kích chúng thêm vài km nữa, chiếm được điểm xuất phát phía sau, có lẽ thuộc lớp phòng thủ thứ 3 của địch trong 1 ngôi làng cạnh thị trấn Serotsk mà chúng tôi có thể nhìn thấy rất rõ bên tay trái, rồi dừng lại.

Bọn Đức có thêm vài lần định tái chiếm các vị trí đã mất, nhưng có lẽ đó chỉ là các cuộc tấn công thăm dò nhằm tìm hiểu khả năng phòng thủ của ta và khả năng thắng lợi của chúng. Chúng tôi đẩy lui các cuộc tấn công đó 1 cách dễ dàng nếu so sánh với các trận đánh trước đây. 2 ngày sau, đại đội tôi được 1 tiểu đoàn bộ binh thay thế, thiếu tá tiểu đoàn trưởng có vẻ hứng thú với gốc gác các binh sĩ đại đội tôi hơn là tìm hiểu sức mạnh của địch trong khu vực này. Hình như họ ko có kế hoạch tiếp tục tiến, chúng tôi đã làm hết phần việc của họ. Đại đội tôi cũng như toàn tiểu đoàn trước đây đóng vai trò quả đám thép đập vỡ tuyến phòng ngự Đức rồi giao lại vị trí cho các đơn vị bình thường khác. Đó là số phận của chúng tôi. Tuy vậy, việc hoàn thành nhiệm vụ trong 3 ngày với thương vong tương đối thấp là 1 kết quả rất tốt. Đại đội ko chỉ tái chiếm được các vị trí đã mất mà còn tiến xa thêm 2 - 3km so với vành đai phòng thủ đầu cầu trước đây. Tất nhiên, lệnh cho ra nghỉ của chỉ huy Tập đoàn quân, tướng Batov, được các shtrafnik trong đại đội xem là sự thừa nhận họ đã tỏ ra dũng cảm, anh hùng, kiên quyết như 1 cựu sĩ quan. Các shtrafnik nghĩ họ sẽ được xá miễn và cho ra khỏi tiểu đoàn trừng giới dù ko bị thương, thậm chí có thể được khen thưởng nếu xứng đáng. Chí ít đó là điều mà 1 chỉ huy tập đoàn quân khác, tướng Gorbatov, đã làm, và cả tiểu đoàn đều biết chuyện này.

Khi đi qua mấy căn nhà đá quen thuộc, giờ là nơi đóng quân của ban chỉ huy hay các đơn vị hậu cần gì đó của tiểu đoàn mới lên thay, đại đội trưởng ra lệnh dừng lại nghỉ 1 lúc. Tôi đến bên mấy chiếc tăng bị hạ cùng vài sĩ quan khác để được tận mắt nhìn chúng thật gần, thật ngạc nhiên khi tại những chỗ giáp xe bị vỡ chỉ có phần bê tông bọc ngoài giáp là bị phá huỷ. Tôi nghĩ Hitler đã thôi ko dùng thứ giáp thép đáng khâm phục của hãng Krupp mà chuyển sang dùng thứ giáp Ersatz (phế phẩm) này cho xe tăng của hắn. Chắc chắn là tôi sai, nhưng đó là ấn tượng đầu tiên của tôi về những chiếc tăng rất được ca ngợi này của bọn Đức. (*)

Đại uý của tôi lại có lệnh toàn đại đội tập hợp thành hàng, ông cám ơn tất cả mọi người đã gương mẫu hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu được giao. "Giờ ta hát 1 bài chăng?" Đó là câu kết thúc bài diễn thuyết ngắn của ông. Hoá ra tay politruk trẻ, trung uý Mirny, có chất giọng rất to và khoẻ. Ngay từ bước hành quân đầu tiên, chúng tôi luôn coi đó là 1 dấu hiệu tốt, anh ta đã bắt đầu hát bài hát nổi tiếng của cánh pháo binh: "Pháo binh, Stalin đã ra lệnh, Pháo binh, Tổ quốc đang kêu gọi." Hình như tay này phục vụ trong pháo binh trước khi về tiểu đoàn trừng giới. Các shtrafnik hào hứng hát theo và tiếp tục hát nhiều bài khác cho đến khi tới căn nhà của chỉ huy tiểu đoàn. Đại đội trưởng dừng tiểu đoàn trước nhà, ra lệnh "Nghiêm!" rồi bước vào trong báo cáo. Vài phút chờ đợi kombat Baturin kéo dài như vô tận, và rồi ông ta bước ra, bình thản như thường lệ, đại đội trưởng theo sau trông như 1 con chó vừa bị đòn. Tôi nghĩ tất cả chúng tôi đều linh tính 1 điều gì đó tồi tệ.

Chẳng có lệnh "Nghỉ!" hay có lẽ ông ta chẳng hề chú ý đến việc cả đại đội đang đứng trong tư thế nghiêm, trung tá Baturin phát biểu 1 bài dài, đầy những lời sáo ngữ chung chung. Điểm chính của bài phát biểu là ông ta, kombat tức tiểu đoàn trưởng, thay mặt cho Tổ quốc cám ơn tất cả chúng tôi vì đã hoàn thành nhiệm vụ. Thay mặt chỉ huy Tập đoàn quân 65, và với danh nghĩa Tổ quốc, ông tập hợp chúng tôi tại đây để phục vụ trung thành và hiến dâng tất cả. Chúng ta sẵn sàng hy sinh mạng sống nếu điều đó là tốt cho Tổ quốc. "Chúng ta nhất định sẽ hoàn thành mọi nhiệm vụ mới mà Liên bang Soviet đề ra để đi tới chiến thắng," vân vân và vân vân. 1 số binh lính bắt đầu xì xào và cử động mặc dù chưa hề có lệnh nghỉ. Baturin cảm thấy binh lính đã đủ xúc động nên nhanh chóng kết thúc bài diễn văn bằng cách thay mặt chỉ huy Tập đoàn quân trao cho chúng tôi 1 nhiệm vụ mới. Đó là mở rộng cánh phải đầu cầu, 1 nhiệm vụ cũng "dễ dàng" như nhiệm vụ mà chúng tôi vừa hoàn tất. Tôi nghĩ tôi đã nghe thấy vài giọng nói bất bình, hy vọng ông ta biết nhiệm vụ vừa hoàn thành "dễ dàng" đến mức nào. Hay ông ta đã biết rồi? Bằng giọng yêu nước giả hiệu, kombat kết thúc bài diễn văn lâm ly bằng câu: "Tổ quốc đang kêu gọi những hành động anh hùng của các bạn!" Tôi nghĩ đó chính là lời bài hát "Tổ quốc gọi" mà chúng tôi vừa hát. Chúng tôi đã mời vận rủi tới, và thiêng thế chứ, nó đến thật!

Sự chán nản, niềm hi vọng cuối cùng bị đập vụn khi nhận thức rõ tình hình khiến các shtrafnik ăn tối mà ko ai buồn cười đùa hay trò chuyện. Ngay cả 100g vodka cũng ko làm họ lên tinh thần. Ngay sau bữa ăn, ko được nghỉ, đại đội lại buộc phải hành quân 15km để sang 1 khu vực mặt trận khác nằm bên cánh phải đầu cầu trước khi trời sáng. Chúng tôi vừa đi vừa chạy, và trước khi trời sáng khá lâu đã nhào được xuống các tuyến hào của Sư 37 hay Sư 108 Bộ binh gì đó, chao ôi, tôi ko thể nhớ nổi. Ai nấy đều nhễ nhại mồ hôi như những con ngựa sau cuộc chạy đua.

(*) Có lẽ tác giả đang nói tới zimmerit, 1 hợp chất phi kim loại được thêm vào giáp xe tăng Đức nhằm chống lại mìn chống tăng nam châm.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:43:21 PM

Mãi sau này, trong cuốn hồi ký của tướng Batov ?oGiữa các chiến dịch và các trận đánh? tôi mới đọc được những lời của chỉ huy Sư 108 Bộ binh. Ông viết: ?oTrận đánh tại đầu cầu Narev là 1 trong những trận khó khăn nhất đối với sư đoàn tôi trong suốt cuộc chiến?. Với tiểu đoàn tôi cũng vậy. Các trung đoàn bộ binh 444, 407 và 539 chiến đấu tại khu vực này nhưng tôi ko nhớ nổi đơn vị nào đã chuẩn bị trận địa cho chúng tôi trước cuộc tấn công và đơn vị nào thay thế sau khi chúng tôi thành công. Ngay cả sau này tôi cũng vẫn ko biết, tiểu đoàn trừng giới hoạt động hầu như độc lập hoàn toàn với các đơn vị khác.

Rất lâu trước khi trời sáng, ngay khi chúng tôi tới các tuyến hào là các đơn vị kia rời đi ngay, vì vậy bọn Đức ko nhận thấy có sự đổi quân. Điều duy nhất chúng tôi biết được từ những người đang rời khỏi hào là tuyến hào tiền tiêu quân Đức chỉ cách chúng tôi có 150m. Họ nói bọn Đức pháo kích dữ dội cả ngày lẫn đêm và vô số tên bắn tỉa cùng xạ thủ súng máy rình rập suốt ngày. Chúng tôi chưa được giao nhiệm vụ cụ thể nhưng đều hiểu mình có mặt ở đây ko phải chỉ để củng cố tuyến phòng ngự. Ngày hôm đó chúng tôi được nhận đạn dược bổ sung trong đó có rất nhiều lựu đạn tấn công RG ?" 42 và RPG ?" 43, chúng có tầm sát thương ngắn hơn loại lựu đạn phòng thủ F ?" 1. Những loại lựu đạn mới nhận được chế tạo để sử dụng khi di chuyển, tức là trong khi xung phong. Mỗi tiểu đội cũng được phát 1 quả mìn chống tăng RPG ?" 40, từ đó chúng tôi kết luận rằng có khả năng đụng độ với xe tăng Đức tại khu vực này.

Xin người đọc lưu ý 1 thực tế là tiểu đoàn tôi luôn được nhận những vũ khí mới với số lượng rất đầy đủ. Chúng tôi dùng loại tiểu liên mới PPS thay cho loại PPSh, chúng tôi cũng được trang bị loại súng trường chống tăng PTRS với hộp tiếp đạn 5 viên. Nhìn chung chúng tôi ko bao giờ cảm thấy thiếu vũ khí. Tôi phải viết điều này vì nhiều sách báo bây giờ nói rằng các shtrafnik hay bị tống ra trận mà ko có vũ khí, 5 hay 6 người mới có 1 khẩu súng trường, vì thế những người ko vũ khí chỉ mong người có vũ khí chết càng sớm càng tốt. Các đại đội trừng giới trực thuộc tập đoàn quân đôi khi có quân số lên tới trên 1.000 người, theo lời Vladimir Grigorievich Mikhailov, chỉ huy đại đội trừng giới Tập đoàn quân 64 kể cho tôi sau chiến tranh, vì vậy có khi ko mang theo đủ vũ khí cho tất cả. Nếu ko đủ thời gian chuẩn bị vũ khí cho đại đội trước khi thực hiện nhiệm vụ thì 1 số strafnik sẽ có súng trường còn số khác chỉ có lưỡi lê. Tôi sẵn sàng thề rằng điều đó ko bao giờ xảy ra ở tiểu đoàn trừng giới dành cho các sĩ quan. Chuyện cố tình tống các shtrafnik ra trận mà ko có vũ khí là nói láo. Tiểu đoàn tôi bao giờ cũng có đủ vũ khí, đôi khi còn là những thứ hiện đại nhất.

Binh lính đã dần bình tĩnh lại và sự bất mãn với kombat bắt đầu giảm bớt. Có lẽ kombat ko muốn hoặc ko dám đề nghị tướng Batov cho tiểu đoàn ra nghỉ và phóng thích những người đã chứng tỏ mình trong trận chiến. Trên hết tôi cảm thấy tiếc cho nhóm xạ thủ súng trường chống tăng, những người mà Baturin có vài lý do để ghét. Nhiều lần các đề nghị phóng thích và thăng thưởng của tôi đã bị ông ta trả lại. Tại sao tôi kể lại chi tiết điều này ư? Vì tôi vẫn còn bực Baturin về mấy vụ này, dù đã gần 60 năm trôi qua. Ngoài ra còn bởi các trận đánh sau đó đã phải trả giá bằng rất nhiều mạng sống của các sĩ quan có kinh nghiệm. Họ đã phải chiến đấu trong tiểu đoàn vì 1 số ?ohành vi sai trái?, tuy nhiên họ hiểu rõ sai phạm, can đảm và sẵn sàng hiến dâng mạng sống để chứng minh lòng trung thành với lời tuyên thệ và với Tổ quốc.

Dù sao tình hình ngày hôm đó cũng cho phép chúng tôi có thể ngủ 1 chút. 1 số ngủ ngồi, số khác thậm chí còn có thể nằm lăn ra trong những cái gọi là công sự nổi, thực chất là những hốc lớn đào vào thành hào. Trần công sự chỉ đắp đất, thứ đất pha cát dễ dàng đổ sập nếu có 1 vụ nổ gần đó. Trong các hốc rất nông khiến người ta chỉ có thể nằm hẳn xuống mới đủ kín đáo để nghỉ ngơi. Các trận pháo kích dữ dội mà đơn vị tiền nhiệm đã thông báo nã lên đầu chúng tôi rất sớm. Hình như bọn Đức tại khu vực này có rất nhiều pháo trong đó có cả loại cối phản lực 6 nòng thường gọi là Vanyusha (*). Chúng tôi gọi chúng là "lợn lòi" vì tiếng rít nghe giống tiếng lợn kêu. Đạn "lợn lòi" rơi gần như thẳng đứng xuống các tuyến hào khiến chúng rất nguy hiểm với những người ngồi trong hào khi nổ. Đó là lý do những người lính tiền nhiệm đào các hốc vào thành hào.

Tôi cần nhắc rằng các shtrafnik thường cố hết sức bảo vệ các chỉ huy của họ. Như đã từng nói, đại đội phó thượng uý Ivan Yanin là 1 sĩ quan cực kỳ dũng cảm, được cả đại đội khâm phục và yêu quý. Để giữ mạng sống cho Ivan trước những viên đạn "lợn lòi" 6 nòng, các shtrafnik đã kiếm 1 hốc cho anh và để cho thêm an toàn, họ đào rộng cái hốc ra để đủ chỗ cho 2 người nữa nằm kẹp 2 bên, che chở cho anh khỏi những mảnh đạn. Trong 1 trận pháo kích các strafnik đòi chui vào nằm cùng trong hốc để che chắn cho Yanin bằng chính thân mình họ, khi tất cả vừa nằm vào thì 1 quả pháo hạng nặng nổ ngay gần đó khiến cái hốc đổ sập, chôn sống cả 3 bên trong. Mọi người đào được người thứ nhất ra, rồi người thứ 2, cả 2 đều còn thoi thóp, nhưng đến khi đào được Yanin ra thì anh đã chết. Người sĩ quan dũng cảm nhất tôi từng biết, Ivan Yanin, đã chết ngạt dưới sức nặng của khối đất dù ko hề bị 1 vết thương nào. Anh ta chưa từng sợ đạn hay mảnh đạn và cũng chưa từng phải vào bệnh viện ngày nào. Đó cũng là 1 nghịch lý của chiến tranh.

Tất cả chúng tôi đều shock nặng vì cái chết bất ngờ của Yanin, theo chúng tôi đó là 1 cái chết hoàn toàn vô duyên. Mặc dù ở mặt trận những cái chết ko phải là chuyện gì bất thường nhưng đây thật là 1 cái chết ngược đời. Chúng tôi vĩnh biệt người đồng đội và gửi xác anh về tuyến sau chôn cất. Tham mưu trưởng tiểu đoàn Philip Kiselev tới hào vào buổi tối, đi cùng với tham mưu trưởng 1 tiểu đoàn bộ binh, nhiều sĩ quan khác cũng tới trong đó 1 số người chúng tôi ko biết. Philip chia buồn cùng chúng tôi và nói Ivan đã có 1 đám tang tươm tất. Tôi và tất cả binh lính, sĩ quan sẽ nhớ đến anh trong suốt phần đời còn lại.

(*) Cũng được biết tới dưới cái tên Đức là Nebelwerfer.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:43:35 PM

... Nhiều năm sau tôi làm trưởng khoa ROTC trường Cao đẳng Cầu đường Kharkov, trường có nhiều sinh viên nước ngoài trong đó có người Ba Lan, vì vậy tôi có nhờ những bạn sống ở vùng Pultusk - Serotsk tìm hộ mộ Yanin nhân dịp nghỉ đông. Hồi đó dân Ba Lan vẫn còn đánh giá cao công lao của những người lính Soviet đã giải phóng họ khỏi bọn Nazi. Các sinh viên Ba Lan trở về sau kỳ nghỉ kể họ có tìm thấy 1 cái tên trong 1 nghĩa trang công cộng lớn ở Pultusk là "Yan Yanin, sĩ quan". Ko nghi ngờ gì nữa, đây chính là Yanin yêu quý của chúng tôi. Có điều tôi ko biết ngôi mộ có còn đến giờ ko, đã có quá nhiều hành động phá hoại tại các nước Đông Âu trong 1 thập kỷ nay...

Trở lại lúc đó, đại đội trưởng tập hợp tất cả các sĩ quan lại rồi báo cáo với Philip rằng ông có kế hoạch chỉ định tôi làm đại đội phó thay cho Yanin. Tôi sẽ vẫn kiêm nhiệm chức danh trung đội trưởng. Kiselev đồng ý với đề xuất và bảo tôi rằng anh ta sẽ yêu cầu kombat ra quyết định chính thức. Matvienko trao cho tôi khẩu súng bắn pháo sáng và túi pháo hiệu vốn là của Ivan. Tôi ko sung sướng lắm vì tất cả những chuyện này. Sau đó Kiselev giới thiệu các sĩ quan đến cùng anh. Họ nói chúng tôi sắp được hỗ trợ để tấn công các vị trí Đức, đánh chiếm các tuyến hào và giữ chúng cho đến khi lực lượng tăng cường tới. Lại 1 lần nữa đại đội tôi được "vinh dự" làm mũi nhọn tấn công, chọc thủng tuyến phòng ngự Đức, tái chiếm các vị trí mà đơn vị khác để mất. Nhiệm vụ lần này rất giống lần ở Rogachev, chúng tôi đã được hỗ trợ để đánh vượt sông Drut, rồi cũng chiếm các tuyến hào địch và giao lại cửa mở đó cho các đơn vị khác. Tuy nhiên ở trường hợp hiện nay thì ko có con sông nào trước mặt, sông Narev đã ở sau lưng, chúng tôi ko phải vượt nó mà là ngăn chặn bọn Đức làm điều đó.

Các sĩ quan hứa với chúng tôi trước khi đi là sẽ có công binh chiến đấu tới trước trận đánh để gỡ mìn phía trước nếu có mìn và sẽ có 1 trận pháo chuẩn bị mạnh trước khi xung phong. Khi tôi thông báo vắn tắt tình hình với các tiểu đội trưởng, tôi ko thấy họ có vẻ phấn khích với thông tin về trận pháo chuẩn bị và việc gỡ mìn. Vì vậy để khích lệ bản thân, tôi lệnh cho các tiểu đội trưởng thông báo cho mọi người về mấy tin vui này rồi báo cáo lại cho tôi hay tinh thần của các shtrafnik. Tôi cho tinh thần là 1 trong những yếu tố quyết định thành công của trận đánh. Tuy vậy trong tim tôi vẫn thấy hơi lo, tôi cảm thấy 1 điều gì đó tồi tệ sắp xảy ra. Tôi cũng có suy nghĩ ngu ngốc rằng mình sẽ chết trong cuộc xung phong sắp tới. Tôi cố xua đuổi nó bằng cách tập trung suy nghĩ vào chỉ 1 điều, đó là làm thế nào để hoàn thành nhiệm vụ trước mắt. Tôi biết nó sẽ bắt đầu vào buổi sáng.

1 nhóm công binh chiến đấu quả thực đã đến sau nửa đêm 1 lúc để gỡ mìn (nếu có) phía trước trận địa đại đội tôi. Họ quay về sau chưa tới 1h, chỉ huy nhóm công binh nói với vẻ sung sướng là ko phát hiện thấy quả mìn nào. Tin này lan nhanh trong đại đội và khiến mọi người đều vui mừng. Các binh lính từ 1 trung đoàn bạn tới từ rất sớm mang theo những chiếc phích chứa bữa sáng cho chúng tôi nhưng họ phải trở về với những chiếc phích còn đầy đồ ăn vì hầu hết binh lính ko chịu ăn trước khi xung phong, đó đã là phong tục. Tuy nhiên ko ai từ chối uống 100g vodka, đó đương nhiên là 1 công cụ quan trọng để nâng cao sĩ khí và nhờ nó chúng tôi chờ trời sáng trong tâm trạng hoàn toàn khác. Cảm giác tồi tệ của tôi có vẻ đã biến mất khiến mọi thứ dễ thở hơn, thậm chí tôi nghĩ mình có thể đánh 1 giấc ngắn độ 20 - 25 phút.

Tôi thức giấc ngay khi tảng sáng, lúc đó có 1 trận pháo kích ngắn của bọn Fritz. Ngay sau đó 1 giao liên lao tới chỗ tôi hét: "Đại đội trưởng chết rồi!" Dù chưa kịp tỉnh táo hẳn nhưng tôi vẫn lệnh cho tay giao liên chạy gấp quanh các tuyến hào để thông báo cho mọi người biết tôi sẽ nắm quyền chỉ huy đại đội và chỉ định trung đội trưởng súng máy, thượng uý Sergeev, làm đại đội phó. Điều đầu tiên khiến tôi đau đầu là giờ đây tôi ko chỉ phải chỉ huy các shtrafnik mà còn cả các bạn tôi, các trung đội trưởng. Vì 1 số lý do tôi lập tức nhớ tới lời viên trung uý già Parshin, đại đội phó hồi còn ở Học viện, nói với đám trung uý mới tốt nghiệp chúng tôi. Tôi còn nhớ rõ từng lời ông nói: "Các bạn phải biết cách yêu cầu mọi người tuân lệnh. Làm việc này 1 cách kiên quyết, đúng đắn và hợp lý. Đó là phẩm chất chính của 1 chỉ huy thực sự. Hãy luôn tỏ ra uy quyền và kiểm soát người khác, nếu 1 viên chỉ huy mất kiểm soát, dù là chỉ trong khoảnh khắc, thì nên được thay thế bởi 1 người dưới quyền." Tôi vẫn ghi nhớ lời ông trong cuộc xung phong tiếp theo và trong suốt 40 năm quân ngũ, thật là 1 lời khuyên sáng suốt.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:43:43 PM

Khi tôi còn chưa kịp nghĩ ngợi thấu đáo mọi việc thì bất thần Katyusha và pháo khai hỏa! Những tiếng nổ bao trùm các tuyến hào Đức với mật độ cực kỳ tập trung khiến tôi tràn ngập trong 1 cơn sóng vui mừng. Tôi nghĩ mình đã thiếu tự chủ trước tai nạn của đại đội trưởng, 1 biểu hiện yếu đuối, vì vậy tôi hơi xấu hổ. Khoảng 15 phút sau trận pháo kích kết thúc bằng 1 loạt Katyusha dữ dội. 1 lần nữa phải nhắc lại tôi đã phấn khích thế nào khi những quả tên lửa bay qua đầu như những ngôi sao chổi rồi rơi xuống vị trí địch nổ tung, làm bốc lên những cột lửa và khói bụi khổng lồ. Chẳng còn nhìn thấy gì trong cơn bão lửa và sắt thép đó mặc dù chúng nổ rất gần, chỉ cách chỗ chúng tôi độ 150m. Ngay sau loạt Katyusha cuối cùng là những loạt đạn vạch đường màu đỏ rạch ngang bầu trời, ai đó phía sau hét: ?oTiến lên!? trước cả khi tôi có thời gian bắn 1 loạt pháo hiệu đỏ. Tôi thậm chí còn chưa nạp đạn vào khẩu súng bắn pháo hiệu! Tự nguyền rủa mình vì sự chậm trễ, tôi nhảy lên khỏi hào và nhìn thấy đại đội phó mới được chỉ định của tôi, trung đội trưởng súng máy Sergeev. Gần như cùng lúc với anh, dù chưa hề có định ước trước, toàn đại đội đều đứng lên khỏi hào. Tôi nhìn thấy mọi thứ rất rõ với tư cách mới lạ là đại đội trưởng, đứng cách hào vài mét để đảm bảo rằng mọi người đều tham gia xung phong. Đáp lại những tiếng hô thúc giục của các trung đội trưởng: ?oVì Tổ quốc! Vì Stalin!? các shtrafnik bất thần đồng loạt hô ngay khi đang xông lên: ?oVì bọn công tố viên xxxxxx!? Hình như họ coi các công tố viên chính là kẻ chịu trách nhiệm về tất cả những nỗi khổ sở của họ!

Tôi nhìn về phía trước và chạy lên nhập vào hàng quân xung phong. Được khoảng 50m thì bất đồ có gì đó nổ tung dưới chân nhiều lính ta, những đám khói bụi tung lên và quân ta ngã xuống hết người này đến người khác. Tôi nhìn thấy rõ chân của xạ thủ súng máy Pushkin nổ tung, 1 bánh xe súng máy bay lên trời và ko thể hiểu điều gì đang xảy ra. Người ta đã nói với chúng tôi rằng ko có bãi mìn, nhưng trông đúng như thể quân ta đang đạp phải mìn! Rồi tôi cũng nhận ra đó là những phát đạn giống như của súng phóng lựu Panzerfaust bắn ra từ thứ vũ khí mới gì đó có độ chính xác cao. Chắc đây là lý do chúng ko cần đặt mìn trước tuyến phòng thủ.

Mọi việc quá bất ngờ khiến tôi mất tự chủ 1 lúc, nhưng ngay sau đó tôi hiểu rõ những quả đạn ko bao giờ bắn 2 lần vào cùng 1 chỗ và chạy tới những nơi đã từng bị bắn trúng. Tôi chạy qua rất nhiều người bị bắn, thấy họ vẫn còn tỉnh và đang cố cầm máu, những dải băng quấn quanh chân họ đẫm máu trông thật đáng sợ. Tôi chạy ra phía đầu hàng quân mà ko kêu lên 1 mệnh lệnh nào hết, đó là điều vô ích. Tôi chạy về phía trước ko phải để lôi kéo người của mình theo mà là để thoát khỏi khu vực nằm dưới tầm đạn địch. Tất cả những người chưa bị thương đều cố lao tới chiến hào Đức, kết liễu những tên Fritz còn sống sót sau trận pháo phủ đầu đang định chống cự. Chúng tôi ko để tên Đức nào sống sót. Với 1 hàng quân thực sự chỉ còn rất mỏng, quân ta xông tiếp vào tuyến hào thứ 2 vì nó ở rất gần. Tôi ko cảm thấy sợ chút nào, chỉ có khao khát chiến thắng. Hình như pháo binh ta ko chỉ bắn cực kỳ chính xác vào tuyến hào đầu của bọn Đức mà cả tuyến 2 khiến cho trận chiến giáp lá cà ở đây diễn ra ngắn ngủi. Vài chỗ trong tuyến hào thứ 2 này thực sự bị lấp đầy bằng xác bọn Nazi. Chúng tôi có thể thấy thấp thoáng bọn Đức đang bỏ chạy ở xa phía trước, George Sergeev và các tay súng máy khác nã vào chúng những loạt đạn chính xác. Tôi nhận thấy đại đội chỉ còn rất ít người, vì vậy tôi dừng quân và hạ lệnh tất cả tập hợp. Khi điểm quân tôi như muốn khóc. Ivan Karasev và trung đội trưởng súng trường chống tăng mất tích trong khi George Sergeev đang đứng dựa vào khẩu súng máy với 1 chân băng bó.

Chỉ còn Fedor Usmanov và tôi là ko hề hấn gì, có lẽ chúng tôi chia sẻ số phận cùng nhau, cả 2 vừa trở về từ bệnh viện sau khi bị thương nặng. Sergeev nói vết thương của anh ta ?ochỉ là trầy da? và ở lại. Chúng tôi chỉ còn 15 người, 1 con số quá nhỏ so với hơn 100 người đã nhảy khỏi hào khi bắt đầu xung phong! Gần 9/10 quân số đã bị loại khỏi vòng chiến, tôi ko biết trong đó có bao nhiêu người chết! Phần lớn thương vong là tại nơi bọn Đức đã dùng thứ vũ khí gì đó mới chống lại quân ta. Tôi thấy các shtrafnik đang huýt sáo gọi đồng đội và ánh mắt họ đầy vẻ căm giận.

Chúng tôi đã thọc sâu được vào tuyến phòng ngự Đức 1,5km và ko thấy có quân địch trước mặt. Tôi quyết định đại đội cần phát huy chiến quả và ra lệnh: ?oTiến lên!?. Tuyến hào thứ 3 còn xa hơn tôi tưởng, sau khi tiến hơn 1km chúng tôi mới thấy nó, chúng tôi vui mừng vì quân địch ở đây khá yếu và chỉ bắn loạn xạ bằng súng cá nhân. Địa hình tại đây có nhiều khe hốc và lùm bụi nhỏ cho phép chúng tôi di chuyển nhanh từng quãng ngắn để tập trung tại tuyến xuất phát xung phong mà tôi chỉ định cạnh 1 cái cây đứng cô độc và 1 bụi cây lớn. Khi tất cả đã đến được tuyến xuất phát thì bọn Đức hoàn toàn mất dấu chúng tôi và ngừng bắn, hoặc có lẽ chúng đang chuẩn bị đẩy lui cuộc tấn công và đơn giản là đang chờ chúng tôi chồm dậy.

?oBất ngờ? là 1 cái gì đó rất hiếm khi dẫn tới 1 kết quả tốt đẹp trong chiến tranh! Tuy nhiên ?obất ngờ? chúng thôi nghe thấy tiếng động cơ của 1 đàn máy bay, những chiếc Shturmovik đang tới. Tôi lập tức nhớ rằng giờ ko phải là buổi sáng và các mục tiêu ko được đánh dấu rõ ràng như trên sa bàn ở học viện. Khẩu súng bắn pháo hiệu của tôi đã được nạp đầy đạn, các chỉ huy cấp dưới bao giờ cũng mang theo 1 túi đầy pháo hiệu, vậy là tôi bắn 1 loạt pháo hiệu về phía chiến hào Đức. Cánh phi công làm việc rất tuyệt, họ hiểu ý ngay và 1 loạt tên lửa phóng tới làm nổ tung tuyến hào Đức, thêm vào đó, cánh phi công chào mừng bọn Đức bằng những loạt đại liên. Khi bọn Đức còn chưa kịp lấy lại tinh thần sau cuộc tấn công của những chú ?ochim cắt Đỏ? là thời điểm tốt nhất để bắt đầu xung phong với toàn bộ phần còn lại của đại đội. Chúng tôi nhanh chóng vượt qua khoảng cách 50 ?" 60m tới tuyến hào Đức, quẳng lựu đạn vào rồi lao theo ngay sau tiếng nổ, kết liễu những kẻ sống sót. Lính súng máy cũng làm việc quá tốt khiến trận đánh giáp lá cà đã ko xảy ra vì chúng tôi đã giết sạch quân địch. Chúng ko cố chống cự, vài tên thậm chí đã ném vũ khí và giơ tay hàng nhưng chúng tôi ko dung tha, giết sạch cả những tên đã bị thương. Chúng tôi ko muốn chúng sống sót để phải giải về tuyến sau. Sự tàn bạo đó là có lý do và sau này được chứng minh là đúng trong những trận đánh tiếp theo. Chúng tôi đã trả giá đắt vì tha cho bọn Đức bị thương trong trận đánh vượt sông Oder, nhưng tôi sẽ kể chuyện này sau.

Nhảy được vào tuyến hào Đức xong, tôi ra lệnh củng cố tuyến hào mới chiếm được này nhằm đẩy lui các cuộc phản công có thể xảy ra. Sau đó tôi nhận thấy có 2 lính thông tin shtrafnik đang kéo dây liên lạc tới, lòng thầm cảm ơn tay chỉ huy thông tin tiểu đoàn, tất nhiên, đó là anh chàng Valery Semykin xuất sắc. Anh ta đã làm tất cả những gì tốt nhất để thiết lập hệ thống liên lạc trong tiểu đoàn. Ngay sau đó tôi báo cáo với tiểu đoàn phó, trung tá Aleksey Filatov. Tiểu đoàn có 2 phó, cả 2 đều là trung tá và đều tên là Filatov, 1 người là Aleksey, người kia là Mikhail, vì vậy chúng tôi thường gọi họ là cặp sinh đôi. Tôi báo cáo vị trí và lực lượng còn lại, ngoài các tay tiểu liên tôi còn 2 đại liên, 1 súng trường chống tăng và 2 trung liên nhưng gần hết sạch đạn. Chúng tôi cũng thu được của bọn Đức 1 số tiểu liên còn đầy đạn và 2 súng máy, số lựu đạn sau khi kiểm đếm cũng còn rất ít, chỉ 2 quả lựu đạn chống tăng và độ chục quả lựu đạn chống bộ binh. Thật khó mà đẩy lui được 1 cuộc phản công của bọn Đức.

Filatov nói chúng tôi đã chiếm được tuyến 2 của 1 khu vực phòng thủ cấp tiểu đoàn địch và chúc mừng tôi vì thắng lợi. Ông cũng khích lệ tôi bằng thông tin tôi sẽ sớm nhận được quân tăng cường, nhưng phải giữ vững được 2 ?" 3h nữa. 1 thông tin tốt khác là đại đội trưởng, đại úy Matvienko ko chết mà chỉ bị thương nhẹ vì sức ép, ông đang ở trạm phẫu tiểu đoàn và ko chịu chuyển đi đâu nữa hết. Tuy nhiên tôi được lệnh tiếp tục làm đại đội trưởng vì Matvienko đã được đề bạt làm tiểu đoàn phó thay thế ông Filatov kia. Ông ta đã rời tiểu đoàn trừng giới để làm chỉ huy cao cấp hơn trong 1 đơn vị bình thường. Tôi được chính thức chỉ định làm đại đội trưởng đại đội tiểu liên. Nhân đây tôi cũng nói thêm là Baturin ko bao giờ nói chuyện với các đại đội trưởng khi đang chiến đấu, lúc đó tôi bao giờ cũng phải nói chuyện với các tiểu đoàn phó hoặc tham mưu trưởng tiểu đoàn.

Vừa kịp kết thúc cuộc đàm thoại thì lính cảnh giới báo có 2 xe tăng và bộ binh địch đang tiến về phía chúng tôi từ phía chiến tuyến Đức. 2 quả lựu đạn chống tăng giờ đây thực sự là của quý, chúng tôi sẽ phải dùng chúng thật hiệu quả! Thật may là chỉ có 2 chiếc tăng. Chúng tôi chỉ phòng thủ 1 khu vực rất nhỏ trên tuyến hào. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng súng bên tay trái, có lẽ 1 đơn vị bạn cũng đang tấn công hoặc phòng thủ nhưng chúng tôi ko có liên hệ nào với họ. Cánh phải hoàn toàn hở. Hở sườn luôn dẫn tới tình thế vô cùng nguy hiểm cho bất kỳ đơn vị nào, với chúng tôi điều đó còn đúng hơn nữa. Vấn đề chính với chúng tôi bây giờ là ko được để cho bọn Đức vòng qua. Khi binh lính nhận ra có khoảng 1 trung đội bộ binh Đức tiến tới cùng 2 xe tăng, họ hiểu ngay điều gì sắp xảy ra dù chưa có mệnh lệnh nào. Tất cả shtrafnik đều có kinh nghiệm chiến đấu ở cấp sĩ quan mặc dù trong trận đánh này họ chỉ là lính trơn. Tôi ra lệnh mang cả 2 quả lựu đạn chống tăng tới rồi lệnh cho 1 shtrafnik to khỏe đứng cạnh để chịu trách nhiệm ném khi cần. Nhóm 2 người sử dụng khẩu súng trường chống tăng có người dẫn đầu chính là Buslaev, người đã hạ xe tăng Đức bằng khẩu súng này trong trận đánh ở cánh trái đầu cầu Narev. Toàn bộ các xạ thủ súng trường chống tăng khác đã hi sinh tại nơi bọn Đức bắn vào chúng tôi bằng thứ vũ khí bí mật mới siêu chính xác, chỉ huy của họ, thiếu úy Karasev cũng hi sinh tại đó.

May mắn thay, sau này tôi mới biết các sĩ quan đều chỉ bị thương và trở về tiểu đoàn sau vài tháng điều trị. Mặc dù tình thế đang hiểm nguy nhưng đầu óc tôi vẫn lấn bấn tìm lời giải cho thiệt hại nặng nề trước tuyến hào Đức đầu tiên. Càng ngày tôi càng thấy tất cả các điểm đều giống như 1 bãi mìn bình thường. Ký ức về trường hợp tệ hại của bản thân vẫn còn tươi mới. Tuy nhiên tôi cố loại bỏ suy nghĩ đó, các công binh chiến đấu đã nói ko hề có mìn! Cho đến tận cuối chiến tranh tôi vẫn còn buồn bực vì ý nghĩ đó và bị tra tấn trong sự nghi ngờ. Tôi có làm gì sai trong thiệt hại nặng nề đó ko? Tôi ko thể cảm thấy bình yên. Nhưng 6 tháng sau đó, đại tá Baturin đã tiết lộ bí mật cho tôi.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:44:21 PM

Chuyện đó xảy ra vào bữa tiệc mừng Chiến thắng của tiểu đoàn, trong Ngày Hòa bình Đầu tiên, sau khi Baturin tỏ ra thoải mái vì nốc khá nhiều vodka. Ông nói riêng với tôi rằng đại đội bị cố tình cho tấn công qua bãi mìn theo lệnh của tướng Batov. Tôi nghĩ, và điều này ko phải ko có lý do, rằng việc này phải có sự đồng ý của Baturin. Baturin cố gắng thanh minh rằng loại mìn gài tại đây ko thể gỡ được nhưng tôi ko tin chút nào, sau này Batov cũng kể trong hồi ký quân ta đã chịu tổn thất rất nặng tại khu vực đó của đầu cầu. Tất nhiên quyết định đó ko chỉ thiếu kinh nghiệm mà phải nói là ngu ngốc, tôi ko tin người ta có thể ngu đến thế, đặc biệt là khi đã có 1 vị trí rất cao, cũng như ko thể tin rằng người ta có thể hèn hạ và thiếu tư cách như vậy. Để giành được chiến thắng Batov đã giải quyết vấn đề ko thể gỡ bãi mìn bằng cách đơn giản là ra lệnh cho các shtrafnik xông qua đó. Chúng tôi bị lùa vào như gia súc, như 1 thứ phế phẩm mặc dù tất cả đều là các sĩ quan quý giá đã kinh qua chiến đấu, lẽ ra họ có thể tham chiến với tư cách là các sĩ quan góp phần tăng cường đáng kể sức mạnh cho 1 đơn vị cỡ Tập đoàn quân 65.

Những suy nghĩ này đã làm tôi xao lãng đôi chút khi chặn đánh cuộc tấn công của quân thù. Rõ ràng là 1 chiếc tăng đang tiến thẳng về phía tôi, chiếc kia hơi chếch 1 chút về bên trái. Tôi giữ lại 1 quả lựu đạn chống tăng cho mình vì từng là người ném lựu đạn mẫu hồi ở học viện, quả kia đưa cho người lính đứng bên trái. Có 1 tuyến giao thông hào rất sâu dẫn từ bên cạnh chỗ tôi đứng về phía chiến tuyến Đức. Tôi lệnh cho nhóm xạ thủ súng trường chống tăng canh cả 2 chiếc tăng và nếu 1 trong 2 quả lựu đạn hạ được xe tăng thì phải tập trung bắn vào tiếp, hạ hẳn nó mà ko được quên chiếc kia. Như đã nói chúng tôi có loại súng trường chống tăng PTRS, tức là súng trường chống tăng Simonov với kẹp đạn 5 viên cho phép bắn liên tục mà ko cần nạp lại đạn sau mỗi phát, nòng súng dài làm tăng độ chính xác và sức xuyên giáp. Tôi có gợi ý cho xạ thủ bắn vào sườn và lưng xe tăng, nơi đó giáp yếu và có bình xăng cùng động cơ, tuy nhiên những lời gợi ý này ko cần thiết, xạ thủ súng trường chống tăng biết rất rõ tất cả những điều này.

Có lẽ bọn Đức vẫn hành động theo đúng chiến thuật tấn công cơ bản. Cách chiến hào quân ta chừng 50 ?" 60m bộ binh Đức từ sau xe tăng xông ra, đó là lúc các tay súng máy của Sergeev khai hỏa. Binh sĩ nổ súng chính xác, tiết kiệm đạn bằng cách bắn tiểu liên từng loạt ngắn hạ gục nhiều tên. Bọn Đức nằm rạp xuống trong khi xe tăng của chúng tăng tốc tiến về phía chúng tôi. Tôi nấp trong đường giao thông hào cách tuyến hào chính khoảng 15 ?" 20m, đó là 1 vị trí rất tốt, chỉ cách đường tiến của con quỷ thép chừng 10m. Có lẽ bọn lính tăng đã nhận ra quân ta trong hào nên chạy chậm lại, quay pháo sang hết bên trái rồi bên phải rà theo đường hào và bắn vào nhiều điểm, càng lúc càng gần tới vị trí thuận lợi cho tôi. Trong khoảnh khắc tôi đã có 1 cú ném chính xác cắt đứt xích chiếc tăng bằng quả lựu đạn. Tên lái tăng có lẽ cảm nhận được chiếc xe đã ko tuân theo sự điều khiển nên cố đánh lái mạnh sang trái, phía bên xích vẫn còn nguyên.

Tôi lại gặp may lần nữa, giống như nhiều lần khác trong suốt cuộc chiến. Với cú xoay, chiếc tăng đã phơi cả sườn phải lẫn lưng ra trước nhóm xạ thủ súng trường chống tăng và họ lập tức nã hàng loạt đạn xuyên giáp và đạn cháy vào lưng chiếc Panther khiến nó bùng cháy! 1 tên lính tăng cố thoát ra cửa nóc tháp pháo nhưng hắn bị 1 trận mưa những loạt tiểu liên quân ta phạt ngang sườn, bản thân tôi cũng bắn nhiều loạt tiểu liên vào hắn. Tên lính tăng Đức chết vắt mình trên cửa nóc, những tên khác trong tổ lái cố gắng mở cửa hậu và cũng rơi vào họng súng quân ta, cùng chịu chung số phận với tên đồng đội. Khi tôi lo lắng quay sang chiếc tăng thứ 2 thì thấy nó cũng đã bị hạ nốt. Thật vui mừng vì cả tay shtrafnik đã ném quả lựu đạn chống tăng thứ 2 và nhóm xạ thủ súng trường chống tăng đều sẽ được nhận Huân chương Chiến tranh Vệ quốc theo đúng những gì được ghi trong quy chế tặng thưởng Huân Huy chương, họ cũng sẽ được phục chức dù ko bị thương. Cùng lúc đó tôi nhận ra là mình cũng sẽ được thưởng Huân chương Chiến tranh Vệ quốc vì hạ được xe tăng! Đó sẽ là dấu chấm hết cho bí mật nhục nhã mà tôi đã giấu gia đình và người yêu về tấm ảnh chụp với Huân chương của người khác.

Cùng lúc đó những trên Fritz sống sót, chỉ có rất ít trong số chúng thoát được như vậy, bò trở lại hào, ko dám đứng lên chạy. Tôi ra lệnh ngừng bắn để tiết kiệm đạn đề phòng bọn Đức mở đợt tấn công khác. Cứ mặc cho chúng bò đi: ?oNhững kẻ sinh ra để bò sẽ ko thể thắng 1 cuộc xung phong!? Đó là nhái lại 1 câu thơ nổi tiếng của Gorky (*). Có lẽ lính của tôi ko nghe hoặc hiểu mệnh lệnh đó ngay vì thỉnh thoảng họ vẫn tiếp tục bắn vào những tên Đức đang bò về, chúng nằm bất động trên chiến địa như thể bị những viên đạn đóng đinh xuống đất. Dây thông tin vẫn hoạt động, tôi nhấc điện thoại báo cáo cuộc phản công đã bị chặn đứng và 2 xe tăng Đức bị hạ. Thay cho câu trả lời, tôi nhận được 1 thông điệp động viên từ tham mưu trưởng tiểu đoàn Kiselev cho biết quân tăng cường đã gửi đi rồi. Họ sẽ làm gì nếu bọn Nazi tấn công lần nữa?

Tôi gọi tay shtrafnik đã ném quả lựu đạn chống tăng thứ 2 và nhóm xạ thủ súng trường chống tăng 2 người lại, may thay tất cả họ còn sống, thậm chí ko hề bị thương. Tôi viết 1 báo cáo về hành động anh hùng trong chiến đấu của họ rồi bảo họ tới ban tham mưu tiểu đoàn vì họ đã chuộc xong tội lỗi bằng sự dũng cảm thực sự trong chiến đấu và xứng đáng được khen thưởng. Tuy nhiên tôi đã ngạc nhiên và vui mừng khi nghe cả 3 người nói họ từ chối dời trận địa, tay xạ thủ súng trường chống tăng khổng lồ thậm chí còn có vẻ bực mình: ?oSau này ai sẽ chăm sóc khẩu súng của tôi?? Những người khác cũng từ chối bỏ đồng đội vì những lý do ấm ớ tương tự.

Tất nhiên tôi sung sướng được nghe những điều đó. Nếu tôi có 1 đại đội đầy đủ hơn trăm người, cho 3 người đi sẽ chỉ làm sức mạnh đại đội giảm 3%. Nhưng sau ngần ấy thương vong, giảm đi 3 người, 3 tay lê như Hồng quân thường gọi thời Nội chiến, có nghĩa là giảm đi 20% sức mạnh đại đội! Chắc cũng phải có tầm 5 người nữa bị thương, giờ nói ra nghe thật khó tin, nhưng lúc đó ko phải ai bị thương cũng nói ra. Tôi đã phải gửi về tuyến sau nhiều người bị thương quá nặng mặc dù họ phản đối vì ko muốn có điều gì ko hay khác xảy ra với họ. Khi nào quân tăng viện tới hay tốt nhất là quân tới thay thế vị trí, tất cả chúng tôi sẽ cùng chia sẻ niềm vui. Chỉ có rất ít shtrafnik chưa từng đổ máu, và thực tế là phần lớn sĩ quan tin rằng các shtrafnik xứng đáng được phục chức và tưởng thưởng vì sự kiên cường và dũng cảm mà họ thể hiện trong các trận đánh.

Tuy nhiên, vào lúc đó thì niềm vui của tôi vẫn còn quá sớm. Trung úy Mirny, Ctrị viên đã chiến đấu cùng chúng tôi ở cánh trái đầu cầu và được mọi người tôn trọng vì lòng dũng cảm, tới cùng với lực lượng tăng cường. Anh ta rất hiểu công tác tư tưởng trong binh sĩ được quyết định bằng thực tế trên chiến trường chứ ko chỉ bằng những bài diễn văn xáo rỗng ở hậu phương. Politruk của chúng tôi có vẻ buồn, anh biết mình mang tới tin xấu trên tờ lệnh của Baturin. Chúng tôi phải giao vị trí cho 1 tiểu đoàn bộ binh và lãnh trách nhiệm bảo vệ cánh phải của họ chứ ko được rút ra!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:44:35 PM

Rõ ràng 1 tiểu đoàn bộ binh với hơn 200 quân sẽ có 1 quãng thời gian dễ dàng khi phòng thủ khu vực này hơn là 1 nhúm 20 shtrafnik vừa phải đánh chiếm vừa phải ngăn chặn các đợt phản công có xe tăng hỗ trợ của bọn Đức. Chúng tôi cảm thấy khó chịu vì phải giao lại vị trí đã phải đổi bằng vô số máu và mạng sống cho 1 đơn vị khác, nhưng đó là số phận của chúng tôi. Lệnh là lệnh. Viên đại úy chỉ huy tiểu đoàn bộ binh lên thay vị trí cho tôi xem cả trên bản đồ lẫn thực địa khu vực mà chúng tôi sẽ phải bảo vệ. Tuy nhiên trong giọng điệu và thái độ của anh ta tôi cảm nhận được suy nghĩ của anh ta về chúng tôi, sự kính trọng của anh ta với kết quả chúng tôi đã đạt được. Từ lời viên đại úy tôi hiểu chúng tôi sẽ ở trong tình trạng phòng ngự 1 thời gian dài, đó cũng chính là lúc tôi cùng các shtrafnik hiểu rằng chỉ huy tập đoàn quân, tướng Batov, sẽ ko giải thoát cho bất kỳ shtrafnik nào trừ phi họ rửa sạch tội lỗi bằng máu hoặc mạng sống. Chúng tôi đã phải phòng ngự ở đó hơn 1 tháng, nhận thêm quân và mất đi nhiều người bạn trong đó có nhiều người theo quan điểm của tôi là hoàn toàn xứng đáng được cho ra khỏi tiểu đoàn trừng giới. Tuy nhiên đó chỉ là quan điểm của tôi trong khi Baturin và Batov có quan điểm khác.

Nhiều nhà nghiên cứu và nhà văn sau chiến tranh cố mô tả các shtrafnik như những kẻ ?ochịu tội chết?, các đại đội và tiểu đoàn trừng giới là những đơn vị ?osinh ra để bị tiêu diệt? trong chiến tranh. Tuy nhiên trong suốt thời kỳ tôi ở Tiểu đoàn Trừng giới Phương diện quân, giai đoạn ở đầu cầu Narev có lẽ là lúc duy nhất có thể chứng minh cho luận điểm chính yếu của các nhà văn hậu chiến đó. Bản thân các shtrafnik cũng có quyền nghĩ như vậy khi ở đầu cầu Narev.

Tôi ko có quyền phán xét về khả năng lãnh đạo cũng như các đặc điểm khác của tướng Batov nhưng các chỉ huy cao cấp như Nguyên soái Rokossovski, Zhukov và Nguyên soái Công binh Kharchenko đều đã chỉ ra các mặt mạnh và yếu của chỉ huy Tập đoàn quân 65, Pavel Ignatovich Batov. Họ chỉ rõ rằng Batov thiếu sự quan tâm thích đáng với công tác trinh sát và tình báo, thiếu chú ý đến 2 bên sườn. Tính tự tin thái quá của ông thường dẫn tới thương vong nặng nề và ko cần thiết. Tất cả những điều này có vẻ hơi lạ, kể cả với tôi vì tướng Batov, 2 lần Anh hùng Liên Xô, có 1 kinh nghiệm chiến trường khổng lồ. Ông từng chiến đấu trong Nội chiến Tây Ban Nha và tham gia Cuộc chiến Mùa đông 1939 ?" 1940. Tuy vậy còn 1 điều lạ hơn nữa là Batov đã trải qua suốt cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại với tư cách chỉ huy Tập đoàn quân 65, chưa bao giờ được thăng chức, Tập đoàn quân của ông cũng ko được nhận các danh hiệu như Cận vệ hay Xung kích. Tôi cho cũng là logic khi cả Baturin và Batov đều ko xứng đáng với danh hiệu Batya, nghĩa là Bố, của các shtrafnik dành tặng như với cựu chỉ huy Osipov, mặc dù cả 2 đều có tên nghe rất giống cái nickname nồng ấm kia.

Trở lại thời điểm đó, tôi ko có thời gian cũng như ko có quyền tranh cãi về mệnh lệnh của các cấp chỉ huy. Trong thời chiến, 1 người lính, 1 sĩ quan thậm chí 1 viên tướng cũng ko có quyền nghi ngờ mệnh lệnh từ cấp trên chứ đừng nói là chống lệnh. Mọi hành động bất tuân thượng lệnh trong thời chiến đều có thể bị xem là tội phản quốc. Có nhiều ví dụ về hành vi chống lệnh, đó chính là 1 số trong các shtrafnik bị tống đến chỗ tôi, và ko ai trong số đó từng được xem là có lý do chính đáng. Đó là lý do tôi ngậm miệng và khuyên Fedor Usmanov ko lan truyền những vần thơ bất mãn mà 1 shtrafnik viết về Baturin và Batov. Dưới đây là những lời cay đắng về viên chỉ huy tập đoàn quân của chúng tôi:

?oVới ông, shtrafnik chỉ là miếng ghẻ chùi chân!
Ông chỉ giải phóng cho những người
Bị thương hoặc bị xe tăng nghiền nát
Số còn lại ông tống vào chỗ chết chắc!?

Trong những ngày khó khăn tháng 10/1944 đó, chúng tôi phải tập trung mọi sự chú ý vào việc tái bố trí các tuyến hào mà bọn Đức bỏ lại, khiến chúng phù hợp với việc phòng thủ hướng ngược lại, tức là chống lại bọn Đức. Điều đó có nghĩa là chúng tôi phải chuyển vị trí các công sự nổi, thiết lập lại lưới lửa súng máy, đào hốc chứa lựu đạn và đạn, đào các tuyến giao thông hào mới và nhiều việc khác. Có hàng đống việc phải làm ngay, đầu tiên chúng tôi đã có đường dây điện thoại, đây lại là nhờ có thượng úy Valery Semykin, anh lại 1 lần nữa ở trong hào cùng với chúng tôi để tự tay làm. Các sĩ quan dưới quyền anh đều ở ban tham mưu phần lớn thời gian trong khi anh lại muốn ở cùng chúng tôi dưới hào!

Tôi đã kể rất nhiều chi tiết thực tế trong đời chiến binh vì nghĩ những kinh nghiệm này có lẽ, xin Chúa đừng để nó xảy ra, chỉ còn hữu dụng với những người nghiên cứu lịch sử các thế hệ sau. Người ta có thể học nhiều điều về cuộc sống tại mặt trận. Đó là lý do tôi sẽ nói những chi tiết thực tế khác. Trong việc củng cố trận địa, chúng tôi phải đào những cái hố, tối thiểu là mỗi tiểu đội 1 hố, cách tuyến hào chính 20 ?" 30 m để làm cầu tiêu. Bao giờ hố đầy thì lấp đất lại và đào hố khác.

Lúc này đã là cuối tháng 10, đêm ngày càng lạnh, thỉnh thoảng còn có băng giá, sương muối màu bạc vẫn còn đóng trên mặt đất và lá cỏ rất lâu sau khi trời sáng. Tại khu vực phòng thủ của tôi chỉ có 1 căn hầm duy nhất, giao liên của tôi đã tìm ra nó và tôi ở đó cùng người phụ trách văn thư của đại đội. Nhân đây tôi cũng nói thêm là văn thư của tôi ko phải shtrafnik mà là lính thường, tên là Malkin, viết rất đẹp và có thể nghĩ ra những câu chuyện hết sức vui vẻ hoặc kinh dị. Cậu ta ko bao giờ tham chiến mà chỉ ngồi trông đống giấy tờ của đại đội. Sau đó tôi mời 1 người bạn vốn là trung đội phó cũ của tôi cùng vào ở trong hầm. Binh lính đào 1 căn hầm khác cho đại đội phó George Sergeev, là các chỉ huy đại đội, tôi và Sergeev ko được ở cùng nhau để ko bị giết cùng lúc nếu bị pháo bắn trúng hầm. Đại đội tôi giờ ko bằng 1 trung đội, mỗi trung đội chỉ có 8 ?" 10 người, vì thế khu vực mà chúng tôi phải phòng thủ có vẻ quá rộng. Tuy nhiên ko lâu sau chúng tôi đã bắt đầu nhận được quân tăng viện. Sau vài ngày người ta đưa tới độ chục lính mới, đại đội giờ đã có quân số tương đương 1 trung đội, thật tốt là nhờ đó tuyến phòng ngự đã được củng cố.

Tuy vậy tôi ngã ngửa khi thấy 1 trong 2 người của nhóm xạ thủ súng trường chống tăng trong số đó, tôi đã đề nghị thăng thưởng và giải thoát cho anh ta khỏi tiểu đoàn trừng giới vì thành tích hạ xe tăng. Đây lại là 1 biểu hiện ?othận trọng? của kombat. Cả Baturin và các sĩ quan NKVD của ông ta đều theo dõi chúng tôi sát sao, họ biết ai là người bắn xe tăng và ai là người nạp đạn vào khẩu súng trường chống tăng, vì vậy họ quyết định chỉ người bắn hạ xe tăng mới có công còn người nạp đạn thì bị từ chối cho phục chức và thăng thưởng. Tay shtrafnik cảm thấy bị xúc phạm và tôi cũng vậy. Tôi cũng thấy xấu hổ vì đã hứa rằng người lính nào mẫn cán và dũng cảm sẽ được thăng thưởng và cho ra khỏi đơn vị trừng giới. Tôi cũng thấy xấu hổ thay cho kombat, người thậm chí ko hề đến gần mặt trận, đã ko tính đến quan điểm của tôi, quan điểm của người đại đội trưởng tại mặt trận, người phải trực tiếp dẫn dắt người của mình với những lời cam kết đó. Vậy là tôi bắt đầu biết cách quan hệ với tân kombat, tức là ko hứa hẹn điều gì tốt đẹp hết vì cả các shtrafnik và tôi đều phải chấp nhận là nó sẽ chỉ dẫn tới chuyện bực mình.

Các trận đánh tái củng cố đầu cầu đã qua. Chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, tăng gần gấp đôi kích thước đầu cầu. Chuẩn bị cho cuộc tấn công mới là công việc hàng ngày ngay từ khi bắt đầu phòng thủ, công việc này hoàn tất khác với hồi chúng tôi phòng thủ ở Belorussia. Valery Semykin mang tới 1 bảng mã mới để liên lạc qua điện thoại, trong đó thay vì các con số thông thường tôi được nhận mật danh là ?oAlexander Nevski?, George là ?oGeorge Saakadze? còn Fedor Usmanov là ?oSalavat Yulaev? (**). Kiểu mật danh này thật ko bình thường nhưng nó mang lại 1 niềm vui nho nhỏ.

Quá trình phòng thủ đầu cầu Narev là phần tiếp theo quãng đời chiến trận của tôi.

(*) Câu thơ của nhà văn, nhà thơ Nga nổi tiếng Maxim Gorky (tên thật là A. M. Peshkov, 1868 ?" 1936) là: ?oNhững kẻ sinh ra để bò sẽ ko thể bay?.

(**) Các chỉ huy nổi tiếng trong lịch sử quân sự Nga, Gruzia và Bashkiria.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:44:54 PM

7
PHÒNG THỦ NAREV



Tôi sẽ cố mô tả vắn tắt những sự kiện tiếp theo tại khu vực phòng thủ của mình trên đầu cầu Narev vì bọn Đức ko có thêm hoạt động nào. Phòng thủ là việc ko có gì mới đối với tôi. Quân của Tập đoàn quân 65 cũng ko có hoạt động gì, có lẽ chỉ huy Tập đoàn quân, tướng P. I. Batov đã thỏa mãn với việc đầu cầu và danh tiếng của ông được phục hồi. Cùng lúc đó chỉ huy Phương diện quân cũng đang phải khôi phục tuyến thông tin liên lạc với các đơn vị hậu cần và chuyển các mệnh lệnh tới cho binh sĩ đã chịu thương vong nặng nề. Người ta sửa chữa tăng thiết giáp và các chiến cụ khác, tích lũy đạn dược các loại để chuẩn bị cho đợt tấn công quy mô lớn tiếp theo, đó sẽ là 1 trong những cuộc tấn công chiến lược quan trọng nhất trong cuộc chiến mà sau này được gọi là Chiến dịch Vistula ?" Oder. Vậy là 1 lần nữa chúng tôi chuyển sang thế phòng ngự. Sau cuộc tấn công thứ 2 với thương vong lên tới 80%, đại đôi tôi chỉ còn chưa bằng 1 trung đội, thậm chí kể cả sau khi nhận quân tăng viện mới tới.

Trong những ngày đầu xây dựng tuyến phòng thủ tại khu vực do đại đội phụ trách, kombat gọi tôi trên điện thoại. Bằng giọng nghiêm khắc ko cho phép bất cứ ý kiến ý cò gì, ông lệnh cho tôi thiết lập 1 CSP, tức là cứ điểm cấp đại đội. Mệnh lệnh quá bất ngờ và ngớ ngẩn này khiến tôi chết điếng mất 1 lúc. Đây là kiểu bố trí phòng thủ cấp đại đội chỉ phù hợp với 1 đại đội có tối thiểu 3 trung đội với quân số gần với chuẩn biên chế. Trong 1 CSP, 2 trung đội sẽ ở tuyến hào đầu còn trung đội thứ 3 sẽ là thê đội 2. Theo cách này các CSP tạo thành trụ cột cho tuyến phòng thủ với chiều sâu lớn hơn nữa của cả tiểu đoàn với 3 đại đội. Trong khi đó chúng tôi thậm chí chưa có nổi 1 đại đội chứ đừng nói tiểu đoàn! Với lực lượng nhỏ bé của mình tôi ko thể thiết lập 1 CSP mà ko làm lực lượng trên tuyến hào đầu trở nên quá yếu, dù sao nó cũng đã quá mỏng rồi. Tôi nói tất cả những điều đó với Baturin, nhắc ông qua phone rằng tôi chỉ có thể thực thi mệnh lệnh nếu có thêm ít nhất 2 trung đội đầy đủ nữa hoặc nhận được đủ quân để thay thế số thương vong. Tôi hiểu rằng câu trả lời đó sẽ làm chỉ huy của mình ko bằng lòng, đó là nói theo cách nhẹ nhàng nhất, nhưng cái tính tôi nó thế.

Đúng như tôi đoán, trung tá trả lời với giọng the thé đầy giận dữ, dọa sẽ rút lại đề cử tôi cho chức đại đội trưởng. Tôi biết rõ rằng trước khi mình được chỉ định làm đại đội trưởng thể nào cũng phải có lệnh được ký chính thức từ cấp Phương diện quân, nhưng kombat cũng có thể hủy bỏ nó dễ dàng. Tuy nhiên khi đó tôi đã quá sôi tiết nên chỉ hỏi lại tôi sẽ phải trao lại quyền chỉ huy đại đội cho ai. Sau 1 quãng im lặng nặng nề kéo dài, Baturin nói với giọng giận dữ: ?oCứ chỉ huy đại đội tiếp đi! Tôi sẽ tính sổ với cậu sau!? Và 1 lần nữa, cứ như có 1 con quỷ trong người tôi, thay vì câu trả lời được mong muốn ?oRõ, thưa đồng chí trung tá!? tôi lại đáp trả thế này: ?oĐến đây, ra chiến hào này này, ông có thể tính sổ với tôi ở đây, ngay tại chỗ!? Baturin chưa từng có mặt tại các chiến hào tiền tiêu, ông ta mất hết bình tĩnh và gần như gào lên: ?oTôi tự biết tôi đang ở đâu và đi đến đâu!? Cuộc đàm thoại kết thúc.

Đại đội trưởng cũ thiếu tá Matvienko, giờ đã là tiểu đoàn phó, sau đó hỏi tôi: ?oSao cậu cứ kiếm thêm rắc rối thế? Đáng lẽ chỉ cần nói ?oVâng? rồi muốn làm gì thì làm!? Thế đấy, tôi phải thú nhận là chưa bao giờ có cái gọi là ?osự từng trải? kiểu đó! Mãi sau này tôi mới biết Baturin mới chỉ qua 1 khóa học chiến thuật ngắn hạn trước khi trở thành sĩ quan Ctrị rồi về tiểu đoàn tôi. Chắc ông ta đã học về CSP tại đó. Sau này, ngay trong lần đầu ông ta định chứng minh kiến thức về chiến thuật của mình, 1 thượng úy trẻ đã bất ngờ bóc mẽ mớ kiến thức về thiết lập phòng ngự của ông. Như tôi đã biết từ sớm, tân kombat nhớ rất tốt những điểm xấu. Trong nhiều tình huống suốt cả cuộc chiến tôi đã cảm nhận được sự soi mói của ông với mình, chính xác là tới tận khi chiến tranh kết thúc.

Trong khi đó, kombat đã được nhận Huân chương Bogdan Khmelnicky hạng nhất, có lẽ là cho ?onhững chiến dịch thành công? để khôi phục 2 cánh đầu cầu. Sau khi ông ta biết được Huân chương Bogdan Khmelnicky hạng 2 và Huân chương Alexander Nevski kém danh giá hơn, ông đã đề cử các huân chương này cho tất cả sĩ quan. Philip Kiselev kể điều này cho tôi và chúng tôi bắt đầu viết đề cử cho các trung đội trưởng. Chúng tôi đề cử George Sergeev Huân chương Alexander Nevski, Fedor Usmanov Huân chương Bogdan Khmelnicky hạng 2. Baturin bắn tin cho tôi rằng tôi cũng sẽ được đề cử Huân chương Alexander Nevski.

Vậy là tôi buộc phải kể cho Philip câu chuyện ngu ngốc về bức ảnh ?ongười sĩ quan với 2 huân chương chiến trận? và nhờ cậu ta nói với kombat cho tôi Huân chương Chiến tranh Vệ quốc, hạng nào cũng được, và tôi đủ điều kiện nhận nó vì đã hạ được xe tăng. Khi Baturin nhận được các đề cử tặng thưởng huân chương, ông đã từ chối ký bản dành cho tôi trong thời gian dài vì nếu làm thế cấp dưới là tôi sẽ nhận được phần thưởng cao hơn ông! Sau này Philip Kiselev kể cho tôi là cả Filatov và Matvienko đều ủng hộ đề cử tặng thưởng huân chương cho tôi, tôi cũng biết Philip đã kể cho Baturin chuyện tôi chụp ảnh với huân chương của người khác lúc ở bệnh viện. Nói ngắn gọn, cả 3 người họ đã phối hợp gây áp lực buộc kombat ký giấy đề cử. Baturin tự tay sửa đề cử Huân chương Chiến tranh Vệ quốc hạng nhất thành hạng 2 và kèm thêm 1 câu chua cay: ?oAnh ta ko thể xin tấm huân chương đó được mà phải kiếm lấy nó.? Cứ theo lời ông ta thì tôi đã ko thắng cuộc đấu tay đôi với chiếc xe tăng Đức ko bằng.

Khi tôi nghe được điều này, tôi hiểu rằng quan hệ công việc và cá nhân với kombat sẽ chỉ ngày càng xấu đi mà thôi. Tuy nhiên, tôi cũng đã nhận được Huân chương Chiến tranh Vệ quốc hạng 2, và ko phải bản thân Baturin mà là tham mưu trưởng, thiếu tá Kiselev trao nó cho tôi. Cuối cùng, sự xấu hổ vì chụp ảnh với huân chương của người khác cũng đã được gỡ bỏ, chuyện này đã đầu độc các mối quan hệ và tra tấn lương tâm tôi trong nhiều tháng. Mặc cho mối quan hệ ngày 1 căng thẳng với kombat, tôi vẫn cảm thấy cực kỳ thỏa mãn. Ngay cả sự thiếu tiện nghi và vô số vấn đề khác của cuộc sống trong chiến hào phòng thủ cũng có vẻ ko còn quá kham khổ.

Tuy nhiên, tình hình tiếp tế đã trở nên hết sức tồi tệ, có lẽ vì các căn cứ hậu cần Phương diện quân chưa di chuyển theo kịp. Khẩu phần được nhận còn lâu mới gọi là đủ mặc dù đang phòng thủ nên chúng tôi ko phải tấn công, hành quân đến kiệt sức, xung phong hay trườn bò. Vậy là lính tráng quay lại với phong tục tiền tuyến là chia tất cả bánh mì, đường và mọi thứ đồ ăn khác có được. 1 người lính được lệnh chia bánh mì và đường thành những phần chênh lệch nhau, sau đó tiểu đội trưởng hay ai đó được chỉ định sẽ quay lưng anh ta lại, lấy mũ bịt mắt trong khi 1 người khác chỉ tay vào từng phần chia mà hỏi: ?oAi sẽ nhận phần này?? Anh chàng bị bịt mắt ko thể nhìn thấy các phần chia sẽ nói tên từng người và thế là đồ ăn được chia cho tất cả theo lời anh ta. Chẳng bao giờ có chuyện cãi lộn hay đánh nhau vì có người nhận được phần hơn vì các chỉ huy trung và đại đội chúng tôi cũng ăn cùng lính ở bếp dã chiến, tôi yêu cầu tất cả sĩ quan đều phải làm như vậy và nó trở thành thói quen rất nhanh. Tuy vậy chúng tôi chỉ chia khẩu phần phụ dành riêng cho sĩ quan giữa các sĩ quan với nhau. Ko có cơ hội kiếm thêm thức ăn từ thiên nhiên vì lúc này đã là cuối thu và sau đó thời tiết chuyển mùa đông rất nhanh. Chúng tôi chẳng kiếm được thứ gì ăn được trong rừng còn dân địa phương thì ko thấy ở đâu quanh đây. Trên tất cả những điều đó, chúng tôi có 1 vấn đề khác mà ko sao quen nổi, nó cực kỳ khó chịu.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:45:04 PM

Do đã chớm đông nên mọi người được phát mũ ấm, ai ko có áo choàng thì được phát áo choàng, các sĩ quan được nhận đồng phục mùa đông. Chúng tôi đặc biệt sung sướng vì được nhận áo trấn thủ da cừu. Cả binh lính và sĩ quan cuối cùng cũng được thay quần áo lót mới. Người ta ko cấp phòng tắm hơi dã chiến dù điều này đã được thực hiện ở Belorussia, vì thế chẳng ai có cơ hội tắm rửa trong thời gian dài. Có lẽ vì thế, hoặc vì quần áo lót và quân phục chưa được khử trùng trước khi phát, hoặc vì những thứ bọn Đức bỏ lại trong hào mà chúng tôi sớm bị tấn công bởi 1 kẻ thù khác: côn trùng. Nói cho ngắn, tất cả quần áo quân ta đều đầy rận.

Tôi gửi yêu cầu cấp phòng tắm hơi nhưng chẳng được ai ở ban chỉ huy tiểu đoàn nghe. Tuy thế chúng tôi lại được nhận 1 số lượng lớn quá mức cần thiết thuốc trừ sâu dạng bột, thứ chất diệt côn trùng phổ biến nhất thời đó. Chúng tôi đơn giản là rắc thứ bột này xuống dưới cổ áo và những chỗ có lông trên cơ thể. Cách này ko được dễ chịu cho lắm nhưng vài ngày sau chúng tôi đã có thể giũ những xác chết "quân thù" ra khỏi ủng và quần áo. Ko may là chúng sinh sản còn nhanh hơn số chết. Thật chẳng vui vẻ gì khi nói về chuyện này, lại còn viết ra nữa, nhưng tôi đã quyết định ko giấu điều gì trong hồi ký của mình!

Rút cục người ta cũng gửi tới 1 phòng khử trùng dã chiến đặt tại 1 thung lũng ko xa chiến hào, tên lóng kiểu lính tráng là máy giết rận. Vì chưa nhận được bộ phân phục thứ 2 để thay đổi nên binh lính phải cởi hết đồ để đưa vào máy và đứng chờ ngay ngoài trời lạnh với độc quần lót mặc trên người! Cánh sĩ quan chúng tôi giao cả những chiếc áo trấn thủ da cừu mà ko biết rằng chúng sẽ bị co rút lại khi bị máy xử lý trong nhiệt độ cao! Tuy vậy chúng tôi ko tiếc lắm vì ai cũng nghĩ những chiếc áo trấn thủ chính là 1 trong những lý do dẫn tới tình trạng rận rệp. Nhìn chung việc này đã giảm đáng kể tình trạng rận tấn công nhưng ko diệt trừ được hoàn toàn. Chúng tôi chỉ thoát khỏi giống côn trùng ký sinh này khi mùa đông tới, may thay năm đó mùa đông tới rất sớm. Đầu tháng 12 chúng tôi rời tiền tuyến rút về tuyến sau nhận quân thay thế. Chỉ tại đây, sau hàng loạt cuộc khử trùng, cạo lông toàn thân, tắm hơi tại cả nhà tắm dã chiến lẫn nhà tắm của dân, cuộc chiến chống côn trùng mới giành thắng lợi hoàn toàn. Tôi phải nói rằng người có đóng góp quyết định vào chiến thắng này là bác sĩ tiểu đoàn, Stepan Petrovich Buzun. Ông có được loại xà phòng K nổi tiếng diệt côn trùng rất hiệu quả, chỉ cần sát 1 lớp lên bề mặt da là xong, cách này được áp dụng trong thời gian dài. Dù sao chúng tôi cũng muốn thoát khỏi kẻ địch này 1 cách nhân đạo! Khi lại nhận được áo trấn thủ da cừu mới và sạch sẽ, chúng tôi đã sung sướng 1 lần nữa, nhưng chuyện này là mãi về sau.

Trở lại lúc chúng tôi vẫn còn ở trong các chiến hào, ngoài bọn rận chúng tôi còn phát ngán với bọn bắn tỉa Đức và những cuộc tấn công thăm dò tuyến phòng thủ thường xuyên xảy ra. Chúng thường bất ngờ pháo kích dữ dội, tiếp theo là 1 cuộc xung phong ngắn của bộ binh đôi khi lên tới cấp đại đội có thiết giáp yểm trợ. Trong 1 đợt tấn công như vậy tôi đã chứng kiến cuộc đấu giữa những khẩu pháo phòng ko bố trí ngay sau tuyến hào của tôi với xe tăng Đức. Những khẩu pháo bắn trực xạ rất chính xác khiến nhiều chiếc tăng bị hạ lập tức, số còn lại rút lui và cuộc tấn công của bọn Đức bị chặn đứng trước cả khi chúng tới gần được chiến hào quân ta. Sau vụ này tôi còn được chứng kiến rất nhiều cuộc đối đầu giữa pháo phòng ko với các mục tiêu mặt đất và chúng khiến tôi lúc nào cũng khâm phục họ. Các cuộc tiến công của bọn Đức có vẻ như chỉ để trinh sát nhằm phát hiện vị trí hoả lực ta và bắt tù binh mang về thẩm vấn.

Địch chẳng thu được kết quả nào tại khu vực trách nhiệm của chúng tôi nhưng tôi nghe đồn tại 1 số khu vực khác cố gắng của chúng đã thành công. Sau này tôi nghĩ việc ko chấp nhận thiết lập 1 CSP thực sự là điều tốt, nếu chỉ 1 phần cái đại đội gần như ko ra đại đội của tôi bố trí ở tuyến 2 thì ko biết ra sao. Chúng tôi có đủ hoả lực ngay trên tuyến đầu và bọn Đức chưa bao giờ đến gần được tầm lựu đạn. Tôi nghĩ bản thân Baturin cũng hiểu điều đó vì ko bao giờ ông ta còn đề cập đến vấn đề thiết lập CSP nữa. Ông ta cũng ko bao giờ kiếm được lúc nào để tính sổ với tôi dù chúng tôi vẫn nhận được quân bổ sung đều đều, giờ tôi đã có gần đủ 2 trung đội. Thượng uý George Vasilievich Razhev được chỉ định làm 1 trung đội trưởng trong đại đội, đó là 1 người vui tính và cởi mở, sau này chúng tôi còn phát hiện anh ta rất yêu rượu và đàn bà. Từ lúc này đại đội có sĩ quan chỉ huy các cấp toàn là thượng uý khiến cho cánh shtrafnik xuất thân Hải quân đặt cho biệt danh Đại đội Thượng uý.

Các trận pháo kích dữ dội thỉnh thoảng làm chúng tôi bị thương vong nặng. Người ta có thể bị giết hoàn toàn ko phải do ngu ngốc hay bất cẩn mà chỉ bởi bị đạn pháo hạng nặng rơi trúng hào hoặc những căn hầm sơ sài. Ko có rừng cây quanh đây khiến chúng tôi ko có gì để xây những căn hầm kiên cố hơn. Mỗi khi bị bắn trúng hầm hào chúng tôi thường phải đi thu nhặt từng mảnh vụn cơ thể đồng đội, trong 1 vụ như vậy trung đội trưởng mới được chỉ định George Razhev đã bị sốc sức ép nặng. Cậu ta ko nghe thấy gì mấy tuần liền nhưng từ chối rời tiền tuyến đi viện và vẫn chỉ huy trung đội mặc dù điếc đặc.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:45:34 PM

Tôi còn nhớ rõ cái chết của 1 shtrafnik tên là Kostya Smertin, cấp bậc trước đây của anh ta là trung hay đại uý gì đó, anh là 1 trong những lính quan sát của đại đội. Hôm đó tôi đang đứng cạnh anh ta trong hào để quan sát vị trí địch bằng ống nhòm. Tôi nghĩ mình đã phát hiện ra vị trí 1 tên bắn tỉa Đức được nguỵ  trang rất tốt và cảnh báo Kostya về nó, dặn ko được ló ra khỏi hào vì chắc tên bắn tỉa đang rình bắn 1 trong 2 người chúng tôi. Dự đoán của tôi được chứng minh là đúng chỉ 1 giây sau, ngay khi ngồi xuống hào thì 1 viên đạn rít qua đầu tôi, vậy là tôi lại gặp may như vẫn thường xảy ra. Tôi ko kịp lệnh cho Smertin ngồi xuống, có lẽ anh ta muốn chớp thời cơ để nhìn xem tên bắn tỉa bắn ra từ đâu. Viên đạn thứ 2 bắn ra ngay sau phát đầu găm đúng giữa trán anh ta, phía trên lông mày 1 chút khiến anh từ từ sụp xuống đáy hào, ko phải ngã vật ra mà là ngồi xuống 1 cách rất nghiêm chỉnh. Đôi mắt anh ta nhìn lên và bắt đầu đảo lia lịa, đôi môi thều thào gì đó tôi ko thể hiểu nổi, gương mặt trở nên tái nhợt. Tôi quấn băng quanh vết thương rất nhỏ đó, máu ko chảy nhiều. Chúng tôi đã được học cách băng đầu và gọi nó là "mũ của Hippocrate". Đôi mắt đảo 1 cách kỳ lạ và những tiếng thều thào chấm dứt sau khoảng 1 phút, sau đó là 1 cơn co giật toàn thân rồi bất thần tất cả các cơ căng cứng lên và anh ta câm bặt. Vậy là anh ta đã chết, tôi vuốt mắt cho anh, người ko được may mắn như tôi.

Tôi cảm thấy rất tiếc cho anh vì 1 số lý do. Có lẽ vì tôi đã ko cảnh báo đủ mức, hoặc vì phút cuối cuộc đời anh đã diễn ra ngay trước mắt tôi. Tôi cũng ko nhớ nổi những lời cuối của anh. Tôi nhớ họ tên anh vì nó giống tên họ thời con gái của bà ngoại tôi, Smertina, nghĩa theo tiếng Nga là "con gái Thần Chết". Khi anh ta về trung đội tôi thậm chí còn thử tìm hiểu về gia đình anh xem chúng tôi có chút quan hệ họ hàng nào ko. Tuy nhiên bà ngoại tôi mang trong mình 1 chút dòng máu Khakassia và có khuôn mặt Châu Á điển hình với đôi mắt nhỏ sẫm màu và gò má cao trong khi chàng trai trẻ này lại là dân Yaroslavl với tướng mạo 1 người Nga thực thụ. Nhìn anh ta tôi tưởng tượng đến 1 hiệp sĩ Nga thời trung cổ. Đến tận bây giờ, tôi vẫn như nhìn rõ đôi mắt xanh của anh đảo rất nhanh, đôi môi trắng bệch cố nói với tôi những lời cuối cùng. Tôi đã nhìn thấy nhiều cái chết trong chiến tranh, nhưng cái chết này thì đặc biệt nhớ.

Liên quan đến chuyện này tôi muốn nói thêm là tiểu đoàn chúng tôi ko có thói quen đội mũ sắt. Câu nói "Cẩn thận là cha an toàn" có lẽ ko phổ biến với chúng tôi. Ai nấy đều nghĩ ko đội mũ sắt trông sẽ "cool" hơn dù biết thứ này lúc nào cũng có sẵn trong kho tiểu đoàn và các sĩ quan hậu cần đã đề nghị cấp cho chúng tôi nhiều lần. Tôi ko hiểu thói khinh thường mũ sắt ở tiểu đoàn tôi bắt nguồn từ đâu, nhưng nó có thật và ai đội mũ sắt sẽ bị xem như dấu hiệu của sự yếu đuối. Giờ tôi nghĩ các sĩ quan cũng góp phần vào thói quen ko thực sự tốt này bằng hành động của chính mình, nó đã tồn tại trong tiểu đoàn từ trước khi tôi tới. Tôi ko nghĩ 1 chiếc mũ sắt có thể cứu mạng Kostya Smertin, viên đạn bắn đúng giữa trán ngay trên chân mày và mũ sắt dù sao cũng ko thể bảo vệ được vị trí này. Dù sao thì sau cái chết của Smertin vẫn chẳng có ai đội mũ sắt cả. Có lẽ đó là điều ngu ngốc, nhưng nó đã xảy ra như vậy đấy.

Mùa đông đang tới và cuộc sống chiến hào của chúng tôi chưa có vẻ gì chấm dứt. Chúng tôi bắt đầu sắp xếp lại chỗ ăn ở theo cách tốt nhất có thể, đào thêm hốc nhưng nhỏ hơn cho chỉ 1 - 2 người vì vẫn còn nhớ rõ cái chết bi thảm của Ivan Yanin. Bằng mọi cách, bao gồm cả việc đột kích đêm vào 1 nhà kho đã bị phá huỷ trên khu phân tuyến dưới những loạt đạn súng máy Đức bắn theo chu kỳ, binh lính đã kiếm được 1 ít gỗ tấm và đôi khi cả 1 súc gỗ. Những thứ kiếm được theo cách rất nhiều rủi ro này cho phép chúng tôi xây dựng vài công sự sơ sài giống như cái tôi đang dùng làm sở chỉ huy đại đội. Những công sự này cho chúng tôi có cơ hội tránh mưa tuyết hay chỉ đơn giản là làm ấm người và hong khô quần áo đôi chút.

Tất nhiên chúng tôi ko thể sưởi ấm bên trong công sự đủ mức, nhưng chúng tôi có đào những cái hốc trên tường với đường thông lên mặt đất để dùng như ống khói. Trong cái lò sưởi sơ sài đó chúng tôi đốt bất cứ thứ gì có thể kiếm được: giấy bọc đạn súng trường, rơm rạ và những mẩu gỗ thu nhặt được vào ban đêm sau khi đã quan sát kỹ khắp khu vực suốt cả ngày. Chúng tôi còn đốt cả những bụi cỏ có thể đốt được mà chúng tôi cắt về trong đêm. 1 thứ khó tưởng tượng cũng được binh lính đem đốt khiến tôi phát sợ là những thỏi thuốc nổ TNT, tất nhiên là ko gắn kíp! Hoá ra TNT tan chảy ra trong lửa và cháy từ từ, tạo ra rất nhiều bồ hóng và chỉ chút ít hơi ấm. Tôi rất sợ sẽ có tai nạn nếu 1 thỏi thuốc nổ bị quăng vào lửa mà vẫn còn kíp, nếu thế thì ... Vì vậy sau khi biết cách sưởi này tôi đã lệnh cho các trung đội trưởng kiểm tra toàn bộ quá trình đốt 1 cách chặt chẽ nhất có thể. Chúa cấm cho bất kỳ thỏi thuốc nổ nào vào lửa nếu vẫn còn giấy dầu bọc ngoài!

Đương nhiên các công sự sơ sài của chúng tôi ko có cửa, lối vào chỉ được che bằng 1 tấm áo mưa lính plash - palatka, nó dày và ko cho ánh sáng lọt qua. Khi "lò sưởi" hoạt động mà muốn viết thư về nhà hay báo cáo, tôi phải dùng cách chiếu sáng nguyên thủy. Lúc này số đèn paraffin chiến lợi phẩm đã dùng hết, vì vậy Valery Semykin mách cho chúng tôi 1 cách chiếu sáng bên trong công sự. Anh ta cho chúng tôi nguyên 1 cuộn cáp điện thoại Đức bọc cao su và giấy dầu. Chúng tôi treo dây cáp lên trần công sự sao cho đầu này cao hơn đầu kia 1 chút rồi châm lửa vào đầu cao, ngọn lửa sẽ cháy từ từ lớp bọc cao su và giấy dầu từ đầu đến cuối sợi cáp. Cần phải kéo đầu trên đúng lúc để lôi thêm dây trong cuộn cáp lên. Nó ko cho nhiều ánh sáng lắm mà mùi rất khó ngửi, lại nhiều bồ hóng. Mỗi buổi sáng ra khỏi hầm trông chúng tôi như 1 lũ quỷ chui từ địa ngục ra và phải rất mất công mới lau sạch được tấm mặt nạ nhọ nồi kinh dị bằng tuyết và xà phòng. 1 cách lựa chọn khác là bôi xà phòng lên mặt rồi dùng dao cạo bồ hóng đi cùng với cả râu ria. Nhìn chung tôi ko nhớ nổi là có bao giờ rửa mặt được đủ sạch ko. Sẽ tốt hơn nếu có tuyết, thứ tuyết mới rơi sạch sẽ chứ chưa bị phủ đầy muội thuốc súng, đó là 1 niềm vui với chúng tôi!

Tôi tổ chức lễ sinh nhật trong chiến hào tại đầu cầu Narev, vậy là đã bước sang tuổi 21. Trong cuộc chiến tôi đã trưởng thành rất nhanh như thể đã trải qua 1 cuộc đời dài. Tất cả chúng tôi ko hề còn suy nghĩ như 1 người cùng tuổi bình thường. Có lẽ người ta đã đúng khi tính 1 năm phục vụ trong tiểu đoàn trừng giới tại tiền tuyến tương đương với 6 năm quân ngũ. Theo cách tính này tôi đã 27 tuổi, thật quá già sọm! Trung đội trưởng mới George Razhev bảo mặc dù còn trẻ nhưng tôi đã nhận được nickname vinh dự nhất là batya, tức là "bố", trong cánh shtrafnik. 1 số người thậm chí còn gọi tôi là shtrafbatya, tức "bố trừng giới", vì sự chăm lo của tôi dành cho binh lính. Tôi phải nói thật đó là để nịnh thôi. Thậm chí George và các sĩ quan khác trong đại đội, mặc dù thực ra tôi là người trẻ tuổi nhất trong số họ, cũng bắt đầu gọi tôi là "bố" trong các tình huống ko chính thức. 1 thời gian sau tôi nghĩ mình cần để cho râu mọc để trông có vẻ già hơn vì 1 shtrafnik lớn tuổi bảo tôi có "tuổi đời trẻ đến ức trơ trẽn". Tôi cũng hơi ngại Baturin biết chuyện nickname này, chẳng chóng thì chầy ông ta cũng biết và sẽ chỉ càng ghét tôi hơn thôi! Tuy nhiên đã ko có hậu quả nào xảy ra vì cái nickname của tôi, thậm chí cả osobist cũng ko có phản ứng gì, có lẽ bản thân osobist cũng ko ưa Baturin!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

06 Tháng Mười, 2010, 09:45:46 PM

Có thông báo về việc lấy ngày 19/11 làm Ngày Pháo binh, gần trùng với ngày sinh nhật tôi, nhằm tưởng nhớ những người pháo thủ anh hùng trong Trận Stalingrad. Trong ngày này chúng tôi được nhận 1 khẩu phần vodka tiền tuyến, vì thế mọi người tổ chức tiệc sinh nhật tôi luôn. Tôi hân hạnh được đón tiếp Ivan Matvienko, đại đội trưởng cũ, tham mưu phó Valery Semykin, tham mưu trưởng Philip Kiselev và Alex Filatov, tất cả đều đến chúc mừng tôi với khẩu phần vodka của họ. Cùng với các đồng đội George Sergeev, George Razhev và cả Fedor Usmanov, chúng tôi tổ chức buổi sinh nhật trong tình bằng hữu tốt đẹp, trong ko khí anh em thực sự của cuộc sống nơi tiền tuyến. Chúng tôi nhắc tới Ivan Yanin và tất cả những người đã ngã xuống trong cuộc chiến dài và tồi tệ này, dù sao cũng đã thấy được hồi kết của nó. Hồi kết cuộc chiến có vẻ đã rất gần, ko giống như năm ngoái.

Ngay sau đó người ta mang tới cho tôi 1 bức thư "của vợ cậu" như tay quân bưu nói, tôi biết đó là thư của Rita. Chỉ 1 số ít bạn bè biết tôi vẫn gọi người con gái tôi yêu, Rita người Leningrad, là vợ. Tôi gặp và yêu cô 1 năm về trước và những bức thư tình dài lê thê của chúng tôi lúc đó vẫn chưa có điểm dừng. Chúng tôi vẫn tiếp tục đánh lừa hệ thống kiểm duyệt quân đội, đầu thư là danh sách "những người bạn" gửi lời chúc mừng sinh nhật tôi, qua đó tôi biết bệnh viện của cô đã phải di chuyển gấp tới Lochuv, 1 thị trấn Ba Lan nhỏ ngay gần chỗ tôi.

Đầu tháng 12 chúng tôi bất ngờ được rút khỏi tiền tuyến, nhanh chóng trao lại vị trí cho 1 đại đội bộ binh đầy đủ quân số và chuẩn bị để rời về tuyến sau. Hoá ra chỉ huy Phương diện quân, Nguyên soái Rokossovski, phát hiện "những tên kẻ cướp của ông" vẫn ở trên tuyến đầu suốt từ tháng 10, ông lệnh cho giải phóng tất cả sĩ quan shtrafnik đã phục vụ đủ thời hạn trong Tiểu đoàn Trừng giới, cả những người đã chứng minh tinh thần dũng cảm và kiên cường nữa. Niềm vui của chúng tôi đúng là vô hạn, đặc biệt là với những người được giải thoát. Giấy chứng nhận phục chức của họ đã có sẵn từ lâu, thật tiếc là Kostya Smertin và nhiều người khác đã ko sống được đến ngày vui này, họ đã chết khi chúng tôi đang phòng thủ đầu cầu Narev. Tôi cũng đã viết giấy giới thiệu cho Kostya từ lâu vì anh ta vừa dũng cảm vừa kiên cường trong 2 tháng thời hạn phục vụ tại tiểu đoàn trừng giới, và thời hạn đó đã kết thúc.

Chúng tôi nhanh chóng đóng gói số tư trang ít ỏi và ngày hôm sau bàn giao các vị trí phòng thủ cho đơn vị bạn. Mọi người tập trung tại sở chỉ huy tiểu đoàn đóng tại 1 căn nhà nhỏ nằm bên rìa 1 ngôi làng đã bị tàn phá gần như hoàn toàn. Tim tôi đập mạnh, đã có quá nhiều chuyện xảy ra trong 6 tuần qua! Tôi báo cáo quân số đại đội cho tiểu đoàn trưởng, giao cho ông ta các giấy chứng nhận được cho ra khỏi tiểu đoàn trừng giới của các shtrafnik. Trong lúc vui vẻ, tôi cũng xin phép rời tiểu đoàn độ 3 - 4 ngày để đi thăm vợ chưa cưới ở bệnh viện. Tôi ko giấu Baturin rằng Rita chưa phải là vợ tôi như tôi vẫn thường nói với mọi người khác trong tiểu đoàn. Tôi cũng thêm rằng trung đội trưởng súng máy George Sergeev sẽ thay khi tôi đi, trong các trận đánh vừa qua anh ta là phó của tôi.

Kombat do dự 1 lúc trước khi có quyết định về lời đề nghị của tôi, và tôi đã nghĩ ông ta sẽ ko cho. Sau đó ông nói cho tôi tên làng mà ban tham mưu tiểu đoàn, các đơn vị hậu cần, hỗ trợ và đại đội tôi sẽ phải tới và lệnh cho tôi có mặt ở đó sau 2 ngày nữa, giao lại đại đội cho thượng uý Usmanov tạm chỉ huy. Đương nhiên trong trường hợp này kombat đã đúng vì George Sergeev thuộc đại đội súng máy chứ ko phải đại đội tôi. Tôi sung sướng vì được cho phép mà ko gặp trở ngại gì và ko bỏ phí 1 giây, tôi xin giấy nghỉ phép rồi chạy ra khỏi nhà với chỉ 1 suy nghĩ trong đầu: "Phải đi thôi!" Thậm chí tôi ko có thời gian nghĩ ra kỳ phép này ngắn đến mức kỳ cục. Điều đó là có lý do!

Đã hơn 1 năm kể từ lần cuối cùng tôi gặp Rita ở Ufa. Sau đó tôi mới biết mình có thể gặp cô ngay tại mặt trận này! Tôi để lại 1 bản chỉ dẫn ngắn cho Fedor Usmanov, anh ta hiểu hoàn toàn, vồ lấy balô, trong đó đã có đồ ăn khô, bánh mì, đường, thịt hộp và các thứ khác, tôi chạy ngay tới con lộ gần nhất để xin đi nhờ xe. Sau khi tìm địa điểm trên bản đồ, tôi nhận ra rằng mình khá may mắn vì có thể tới Lochuv ngay trong ngày, chiếc xe đầu tiên dừng lại cho tôi lên cũng là 1 món quà của thần may mắn, nó đang về tuyến sau và có đi qua Lochuv! May quá đi mất!

Mặc dù chiếc xe thường xuyên dừng lại giữa đường nhưng tôi cũng đã đến được 1 thị trấn nhỏ vài giờ sau. Tôi chạy tới chiếc xe ngựa đầu tiên do 1 chú lính trẻ nhỏ thó cầm cương, quân phục cậu ta vì lý do nào đó ko có quân hàm, và hỏi cậu xem bệnh viện ở đâu. Cả ngày hôm đó tôi đã tưởng tượng ra đủ thứ nhưng đến lúc đó tôi mới biết trí tưởng tượng của mình còn kém xa so với thực tế. Với 1 chút khó khăn tôi nhận ra cậu nhóc chính là Stas, em trai Rita, người đã cùng Rita và mẹ bí mật ra mặt trận. Có vẻ cậu ta cũng nhận ra tôi và hỏi trước: "Anh muốn tìm Rita Makarievskaya phải ko?" Tôi nhảy bổ tới ôm chầm lấy thân hình nhỏ bé còm nhom của cậu, nhảy lên xe và cậu ta chậm chạp đánh xe đưa tôi tới bệnh viện. Tôi chỉ muốn nhảy khỏi xe để chạy bộ tới nơi cậu ta chỉ nhưng rồi chiếc xe đã tới 1 khu nhà. Stas chạy vào 1 trong những ngôi nhà đó nhưng ngay sau đó quay ra, với vẻ rụt rè, cậu bảo tôi Rita ko ra được vì đang bị sếp bệnh viện mắng, và bảo chúng tôi về nhà chờ.

Rita, Stas và mẹ ở trong 1 căn nhà biệt lập. Tôi những muốn nhận lời đề nghị này làm sao nhưng khắp người tôi đầy thứ côn trùng chết tiệt ko chỉ đầu độc cuộc sống ngoài tiền tuyền mà còn đẩy tôi vào tình thế thực sự dở khóc dở cười tại đây, trong ngôi làng này. Chỉ vì lũ rận mà tôi ko dám lên kế hoạch ngủ lại qua đêm mà chỉ muốn gặp người con gái tôi yêu nhất trên đời. Có lẽ vì mong nhớ điên cuồng và thực tế là tôi có biết Ekaterina Nikolaevna, mẹ Rita, từ trước nên tôi quyết định sẽ nói thẳng toẹt vấn đề ra với bà. Dù gì tôi cũng phải chờ Rita, ngay cả phải ngồi ngoài cửa trong 1 ngày rét mướt như hôm nay để được nói chuyện với cô, kể cả là ngoài cửa.

Chúng tôi về tới nhà, Ekaterina Nikolaevna nhìn thấy chúng tôi qua cửa sổ, nhận ra tôi và chạy ra. Có lẽ tôi đã đỏ mặt vì xấu hổ khi nghĩ tới việc sắp phải thú nhận, vì thế bà lập tức hỏi tôi với vẻ lo lắng rằng tôi có bị ốm gì ko. Tôi phải nói thẳng với bà về tình trạng của mình và rằng tôi chỉ xin được ngồi chờ Rita ngoài cửa thôi cũng được. Tuy nhiên bà hiểu mọi chuyện ngay lập tức và có 1 quyết định khác lạ: "Vào đi Alex, đừng có xấu hổ vì chuyện rận rệp. Ko may là chuyện này quá phổ biến ở mặt trận và nhiều thương binh đã đem về bệnh viện cái của này. Chúng ta sẽ làm ngay tất cả những gì cần thiết." Khi tôi bước vào nhà, bà lập tức lệnh cho tôi cởi bỏ quân phục rồi vào phòng Stas cởi nốt đồ lót, mặc tạm 1 tấm áo nhân viên y tế trắng. Tôi có thể nằm nghỉ 1 lúc chờ Rita về trong khi mẹ Rita bắt đầu cho tất cả quần áo của tôi vào nồi luộc trên bếp lò, sau đó còn là kỹ bằng 1 chiếc bàn là nóng đỏ. Tôi nằm trên giường mà ko thể tưởng tượng ra cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra thế nào. Mặc dù đã nhiều đêm thiếu ngủ vì phải viết giấy giải phóng cho các shtrafnik, bàn giao vị trí và nhiều công việc trận mạc khác, tôi vẫn ko thể ngủ trước cuộc gặp gỡ quan trọng nhất cuộc đời mình!

Vài giờ sau Rita chạy vội về. Tôi nhảy khỏi giường trong bộ trang phục kỳ quặc, tấm áo blu bác sĩ rõ ràng là ko vừa cỡ tôi. Hình như mẹ Rita đã nói hết từ trước nên cô ko có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi trong thứ quần áo này. Cô chỉ lao vào tôi và chúng tôi đứng ôm ghì lấy nhau như vậy 1 lúc lâu. Rita đã thay đổi rất nhiều! Mới có hơn 1 năm, nhưng trong chiến tranh nó dài như vô tận! Sau khi tôi rời Ufa cô đã trở nên chín chắn hơn nhiều. Bộ quân phục bạc màu đính cầu vai rất hợp với cô và cô đã lấy lại 1 phần trọng lượng đã mất trong những ngày đói kém vì Leningrad bị vây hãm. Thay vì thắt lưng lính cô đeo 1 thắt lưng sĩ quan, chắc của mẹ cô, 1 cái váy quân phục cotton bạc màu che đôi chân mảnh dẻ. Chúng tôi sướng đến phát điên và nói chuyện gần như suốt đêm, trong khi đó Ekaterina Nikolaevna đun sôi và là quân phục cho tôi ko mệt mỏi. Chúng tôi nhắc lại tất cả những lúc bên nhau kể từ lần đầu gặp gỡ, sau đó kể những chuyện đã xảy ra với mỗi người trong năm qua, cho đến tận buổi tối hạnh phúc đó. Cả Stas và Ekaterina Nikolaevna cũng góp chuyện và điều đó làm chúng tôi thêm gần gũi. Chúng tôi đã mơ đến giây phút này trong nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:42:44 PM

8
LẤY VỢ



Chuyện tình của tôi bắt đầu vào 1 đêm hè ấm áp tại làng Alkino, cách Ufa ko xa. Ban nhạc trung đoàn tôi đang chơi điệu van trong phòng khiêu vũ. Nhảy nhót là thứ cuối cùng tôi nghĩ tới dù đang còn trẻ, mới 19 tuổi và là 1 trung uý vừa mới tốt nghiệp. Đó là vì 2 chiếc răng khôn đang mọc xuyên qua lợi tôi cùng lúc, cơn đau dai dẳng khiến tôi kiệt sức. Lúc đó tôi đang chúi đầu sau 1 cái rào để trốn khỏi phải nhảy như các sĩ quan trẻ giống mình, những người vừa đổi cầu vai lính với những khối vuông thành cầu vai sĩ quan với những ngôi sao. Bạn nhảy của họ là những cô gái hầu hết đều ăn diện trông rất đáng yêu, công nhân 1 trại bò sữa gần đấy. Các sĩ quan trẻ ko chỉ nhảy van rất điệu mà còn có hàng loạt cuộc hẹn hò với các cô gái vắt sữa. Tôi thấy có 1 cô gái tóc vàng mảnh khảnh ngồi lặng lẽ trên ghế dài, trông như sắp khóc, cô ăn mặc rõ ràng là ko phù hợp để đi khiêu vũ. Có thể tôi cảm thấy tội tội hoặc muốn làm điều gì đó cho quên đi cơn đau răng nên tôi bước đến bên cô và bắt đầu cuộc nói chuyện.

Tôi được biết cô tên là Rita, đến từ Leningrad, cô cùng mẹ và em trai được sơ tán từ đó tới Ufa. Cha cô, 1 kỹ sư xây dựng đã chết đói khi thành phố bị vây hãm. Tại Ufa, nơi Lenin từng sống thời trẻ, họ có nhiều họ hàng. Đoàn thanh viên thành phố lo cho những người sơ tán từ Leningrad. Để giúp cô gái mới tới thay đổi khẩu phần chết đói, họ gửi cô tới làm phụ trách 1 trại thiếu niên tiền phong tại Alkino, cạnh chỗ trung đoàn tôi đóng quân. Thay vì 1 bộ váy áo dạ hội đáng yêu, cô chỉ mặc 1 cái quần đi tuyết kỳ cục ko rõ màu gì và 1 chiếc áo blouse quá khổ, chân đi guốc gỗ quai da thay cho giày nhảy. Cô gái khốn khổ đang chực khóc vì thất vọng với bộ quần áo chẳng phù hợp chút nào với những giai điệu của ban nhạc quân đội, có lẽ cô cũng khóc vì thất vọng với bản thân mình nữa. Chúng tôi nói chuyện rất lâu. Cô bình tĩnh lại và cơn đau răng quá quắt của tôi có lẽ cũng giảm bớt đôi chút. Tôi đưa cô về tới tận cổng trại thiếu niên, tại đó 1 phụ nữ chừng 35 - 40 tuổi có vẻ giận dữ bắt đầu mắng cô vì đã để mặc những thiếu niên tiền phong nghịch như quỷ ko người chăm sóc. Tôi buộc phải bào chữa giúp cô và nhờ đó biết sếp của Rita. Có lẽ việc làm của tôi đã giúp được Rita ít nhiều vì bà lớn đã đối xử với cô tử tế hơn sau cuộc nói chuyện. Chúng tôi đồng ý hẹn hò vào ngày mai và tiếp tục nhiều ngày sau đó, tôi bắt đầu cảm thấy ko thể chờ đến mai để được gặp cô.

Trước đây tôi chưa từng ngại mọi loại công việc từ canh gác, làm bếp trở đi, thậm chí còn thực sự thấy thích những công việc tẻ nhạt đó. Tôi thích tỏ ra là người có trách nhiệm trong tiểu đoàn, dù chỉ với tư cách 1 lính canh hay thậm chí 1 anh nuôi. Nhưng từ khi gặp Rita tôi bắt đầu ghét tất cả những công việc dạng này vì nó làm giảm thời gian tôi có thể ở bên người con gái tôi yêu. Ở bên cô lúc nào cũng thú vị. Tôi đã nhanh chóng yêu cô ngay từ cái nhìn đầu tiên, yêu từ đầu đến chân. Nhưng 1 hôm cô ko đến chỗ chúng tôi thường hẹn nhau. Tất cả như sụp đổ. Nhưng tôi vẫn còn nhớ địa chỉ mà 1 lần cô viết bằng cành cây lên cát: "Ufa, phố Tsuryupa". Tôi phải đợi đến lúc có cơ hội. Ở Alkino chúng tôi có 1 câu nói vui: "Có tiền thì vui vẻ ở Ufa, hết tiền thì ra ngồi ở Chishmy." Chishmy là đầu mối đường sắt lớn gần nhất. Rồi tôi cũng có được 1 khoảng thời gian rỗi để đi Ufa tìm Rita. Vốn luôn là 1 anh chàng nhút nhát nhưng khi đó ko hiểu sao tôi có đủ dũng khí! Tôi tự giới thiệu mình với mẹ Rita và các cô dì vì đàn ông họ hàng của cô đã đi lính ngoài mặt trận hết và gây ấn tượng tốt với họ.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:42:52 PM

Tôi trở lại trung đoàn và vài ngày sau bị chuyển ngoài ý muốn từ Ufa tới 1 xưởng cưa bên sông Belaya gần đó để thu mua gỗ cho trung đoàn. Tôi mất 2 tuần ở đó. Trong thời gian này tình cảm của tôi với Rita trở thành tình yêu thực thụ với người con gái mỏng manh tóc vàng mắt xám đến từ thành Leningrad bị vây hãm. Lúc đó cô đã chuyển sang làm công nhân lắp ráp tại nhà máy sản xuất điện thoại Ufa, ngoài ra còn đi học làm y tá tại RSRC - Uỷ ban Chữ Thập Đỏ Nga. Chúng tôi dành phần lớn các buổi tối tại nhà hát Ufa xinh đẹp, các nghệ sĩ ở đây đều được sơ tán tới Ufa từ Moscow và Kiev.

Mẹ cô là bác sĩ quân y đã từng có kinh nghiệm chiến trường từ thời Nội Chiến và Chiến tranh Phần Lan, bà gia nhập 1 quân y viện mới thành lập, Rita cũng vào đó làm y tá. Cậu em trai 15 tuổi của cô, Stas nhỏ thó, cũng đang làm việc trong 1 nhà máy ở đâu đó nên đã có tem phiếu công nhân. Như 1 quý ông thực thụ, tôi cố tìm mọi lý do để mua thứ gì đó chiêu đãi Rita nhưng lúc đó thứ duy nhất có thể kiếm được ở Ufa mà ko cần tem phiếu là kẹo dính và 1 loại đồ uống thường gọi là "bánh mì rán" chẳng gợi lên cảm giác ngon lành tí nào. Mọi thứ tốt đẹp đã ko còn. Chuyến thu mua gỗ của tôi tại Ufa sớm kết thúc, tôi trở lại trung đoàn đóng tại Alkino, sau đó chúng tôi ít được gặp nhau. Ko lâu sau Rita báo cho tôi biết bệnh viện đã đủ người nên cô bị chuyển ra mặt trận 1 thời gian.

Tôi chạy tới gặp đại đội trưởng, thượng uý Nurgaliev, trong mắt chúng tôi ông là 1 sĩ quan kỳ cựu, khoảng 40 tuổi, bình tĩnh và vững vàng. Ông cho phép tôi tới Ufa trong 1 ngày nhưng phải trở lại trình diện ông vào buổi tối. Tôi chỉ vừa kịp thời gian tới nhà Rita gặp cô và gia đình, mọi người đang đóng gói số hành lý cuối cùng. Tôi giúp họ lên tàu, nhưng rồi khi đoàn tàu chuyển bánh tôi buộc phải nói câu "Tạm biệt" rồi quay về trung đoàn. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Rita và mẹ cô, Ekaterina Nikolaevna, mặc quân phục, và đó cũng là lần đầu tiên tôi rũ bỏ được tính rụt rè để hôn lên môi người nữ chiến binh của riêng tôi, lau nước mắt và vội vã ôm lấy cô. Vì đã muộn nên tôi phải chạy sang 1 con tàu đang tới Alkino, nhảy lên ngay khi nó đang chạy và chúng tôi ko còn nhìn thấy nhau nữa.

Tôi ko thể cảm thấy thoải mái trong nhiều ngày sau đó, thêm vào đó, tôi khổ sở với ý nghĩ rằng 1 cô gái 18 tuổi như Rita mà vừa thoát khỏi thành phố bị vây hãm đã lại trên đường ra mặt trận, trong khi đó thì 1 thằng đàn ông trưởng thành gần 20 tuổi là tôi vẫn đang ở hậu phương dù cho nhiều sĩ quan đã ra mặt trận cùng các đại đội bổ sung mà chúng tôi đã huấn luyện xong. Trung đoàn trưởng, thiếu tá frontovik Zhidovich với vết sẹo dài điển hình trên má trái, 1 lần nữa bác bỏ yêu cầu được ra mặt trận của tôi bằng 1 mệnh lệnh ngắn gọn: "10 ngày cấm túc vì tội xin xỏ ko đúng lúc!" Cấm túc có nghĩa là ko được tới Chishmy hay Ufa nữa đồng thời bị trừ 25% lương tháng. Chúng tôi thường đùa rằng số tiền đó sẽ được đưa vào quỹ Quốc phòng. Mặc kệ các nguyên tắc, sáng hôm sau tôi lên gặp trực tiếp trung đoàn trưởng nhưng câu trả lời của ông thậm chí còn ngắn gọn hơn nữa: "Đừng vội! Tất cả chúng ta rồi sẽ ra đó." Tuy vậy số phận cũng mỉm cười với tôi sau cả chục lần đề đạt, người ta đang thành lập 1 nhóm sĩ quan cho trung đoàn sĩ quan dự bị quân khu để gửi ra mặt trận.

... Số phận con người ta đôi khi ko thể đoán trước được! Năm 1960 tôi đang là 1 đại tá dù đóng tại Kostroma thì phải tới quân y viện Yaroslavl để phẫu thuật cắt tuyến giáp. 1 thanh tra quân y tới kiểm tra xem tôi có còn phù hợp với việc phục vụ trong lực lượng dù hay ko. Tại quân y viện tôi đã gặp lại trung đoàn trưởng cũ, đại tá Zhidovich, trong bộ pyjama bệnh viện. Tôi nhận ra ông vì vết sẹo điển hình chạy qua toàn bộ má trái vòng từ thái dương tới tai, nhìn từ bên cạnh trông hơi giống 1 lọn tóc mai. Thật kỳ lạ, ông ko chỉ gọi đúng tên tôi mà còn lập tức nhận ra tôi chính là tay trung uý trẻ cứng đầu đã làm ông phát mệt vì những lời đề nghị được ra mặt trận liên tục. Hoá ra chính ông, cựu chỉ huy của tôi, cũng tình nguyện xin ra mặt trận nốt. Ông chỉ huy 1 trung đoàn bộ binh Cận vệ nhưng bị thương nặng ngay trận đầu, sau đó nằm viện mất nhiều năm rồi trở lại quân ngũ cho đến ngày về hưu tại Yaroslavl.

Tôi ở bệnh viện cho tới khi họ nhận ra tôi ko còn phù hợp với lực lượng đổ bộ đường ko. Chúng tôi đã có những buổi tối tha hồ ngồi ôn lại kỷ niệm về Alkino, kinh nghiệm trận mạc và cuộc sống sau chiến tranh. Ông kể cho tôi về số phận các trung đoàn phó hồi ở trung đoàn dự bị. Thiếu tá Rodin, 1 sĩ quan khoẻ mạnh đẹp trai, đã hy sinh trong lần thứ 2 ra mặt trận. Trung tá Neklyukov, con người lịch lãm với hàng ria con kiến trông như 1 đại diện điển hình của quân đội Nga Sa hoàng thời xưa trong con mắt các trung uý trẻ mới nhận quân hàm chúng tôi, ông đã quá già nên ko ra trận và giải ngũ ngay sau chiến tranh. Chúng tôi đã có nhiều thời gian ôn lại những kỷ niệm đẹp ở bệnh viện Yaroslavl ...

Trở lại năm 1943, sau khi Rita rời Ufa chúng tôi bắt đầu chuyển sang quan hệ qua thư, chính xác là thư tình. Qua những bức thư của cô tôi biết được cô đã tới Tula, bệnh viện cô đặt tại phố Krasnoperekopskaya. Mãi sau này khi tôi đã ở mặt trận Rita mới cho biết bệnh viện của cô đã trở thành 1 bộ phận cơ hữu của Phương diện quân Belorussia. Số phận đã mỉm cười khi để chúng tôi vào cùng 1 Phương diện quân khiến chúng tôi có cơ hội gặp nhau 1 lần nữa, 1 lần cho mãi mãi. Giống như nhiều chàng trai trẻ đang yêu khác, tôi có nguồn cảm hứng mạnh mẽ để sáng tác những bài thơ và đã viết nhiều bức thư cho người yêu toàn bằng thơ.

Thậm chí bây giờ, nhiều năm sau chiến tranh, tôi vẫn tin rằng tình yêu của chúng tôi chính là linh vật giữ cho tôi sống sót. Nó dẫn dắt tôi thoát khỏi những nguy hiểm chết người mà tôi luôn phải đối mặt trong cuộc chiến, thôi thì đủ loại đạn, mìn, xe tăng, bom ... Tôi ko thể ko nói đến 1 "bài kiểm tra" mà Rita đã bắt tôi vượt qua. Hồi hè năm 1944 cô đã viết cho tôi 1 bức thư nói cô đã từng lập gia đình và thậm chí đã có con. Tôi trả lời nếu tất cả đã là quá khứ thì chẳng ảnh hưởng gì đến tình yêu của chúng tôi hết, và con của cô sẽ là con chúng ta. Tôi đã suýt tin vào bức thư đó dù ko hiểu chuyện lấy chồng có con đó xảy ra như thế nào và vào lúc nào. Cô rời Ufa vào tháng 8 và từ đó đến lúc nhận thư chưa được 1năm. Ngay cả khi gặp nhau ở Lochuv câu hỏi đó vẫn còn treo lơ lửng trên đầu tôi dù tôi ko hỏi han hay có ý nghi ngờ tình yêu của cô dành cho tôi, hoặc của tôi dành chô cô. Sáng sớm hôm sau, chưa hề ngủ chút nào, tôi mặc lại bộ quân phục đã được giặt là tinh tươm để bắt đầu chuyến đi tới ngôi làng đã định và để kombat khỏi phải bực mình. Chậm trễ ko phải thói quen của tôi.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:43:23 PM

Tôi mở bản đồ ra nghiên cứu và tìm thấy có 2 ngôi làng nhỏ tại vị trí cần tới, Buda Pritocka và Buda Kuminska, cả 2 đều nằm gần tuyến đường cao tốc nối Warsaw với Brest. Kalushin thì tôi đã biết từ hồi ở bệnh viện còn Rembertuv nằm ở ngoại ô Warsaw, phía đông sông Vistula. Tôi chỉ 2 ngôi làng đó cho Rita, tôi nghĩ mình sẽ ở đó 2 - 3 tuần hoặc lâu hơn. Theo lệnh của chỉ huy Phương diện quân, Nguyên soái Rokossovski, đó là nơi chúng tôi sẽ giải thoát cho các shtrafnik hoàn thành nhiệm vụ tại tiểu đoàn trừng giới. Có thể sau đấy chúng tôi sẽ nhận được quân bổ sung, bố trí họ vào các đơn vị chiến đấu và huấn luyện họ cho các trận đánh mới. Rita nói bệnh viện của cô, tôi nghĩ cũng như các bệnh viện khác, có 1 nhóm nghệ sĩ nghiệp dư, và vì cô là cựu sinh viên trường balê Leningrad nên cô trở thành người đứng đầu nhóm nhảy. Trong giai đoạn chiến sự tạm lắng này bệnh viện ko có nhiều thương binh, vì thế nhóm nghệ sĩ nghiệp dư có thể tổ chức những chuyến "lưu diễn" tới các đơn vị đóng gần đó cũng đang nghỉ ngơi và nhận quân bổ sung. Các chuyến "lưu diễn" này do ban Ctrị Phương diện quân tổ chức, và ai biết được, chúng tôi nghĩ, có thể nhóm nghệ sĩ sẽ làm 1 chuyến lưu diễn ở đâu đó gần chỗ tôi dù trong suốt cuộc chiến tiểu đoàn trừng giới ko bao giờ được các nghệ sĩ viếng thăm. Giả thiết này sau đó đã được chứng minh khi đoàn ca nhạc được xếp lịch tới thăm thị trấn Sedlec, phía đông Kalushin.

Như người ta thường nói trong trường hợp này: "Tôi biết rồi!" Cuối ngày hôm đó tôi đã tới được 2 ngôi làng mà kombat chỉ và gặp Ctrị viên tiểu đoàn mới, thiếu tá Kazakov. Ông được chỉ định thay thế trung tá Rudzinski, người được cựu kombat là đại tá Osipov lấy khỏi tiểu đoàn. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy nhiều Ctrị viên mới tới trong thời gian gần đây ko bao giờ đến các chiến hào tiền tiêu. Khi tôi trình diện kombat, ông chỉ lẩm bẩm mấy tiếng tỏ vẻ hài lòng, thậm chí ko buồn hỏi tôi đã đi đâu và như thế nào trong "kỳ nghỉ", và ra lệnh cho tôi bố trí đại đội tại làng Buda Pritocka. Tôi tới làng, tại đó tôi gặp Fedor Usmanov, George Razhev và trung đội trưởng súng máy trực thuộc đại đội súng máy George Sergeev, lúc này vẫn còn được "phối thuộc" vào đại đội tôi nên cũng đóng trong làng. Đại đội trưởng súng trường chống tăng Pete Zahumennikov, bạn cũ của tôi, và trung đội trưởng cối Michael, hay như tên thường gọi là Musya Goldstein cũng ở trong làng.

Thực tế là tất cả các chiến hữu lại 1 lần nữa ở bên tôi. Giao liên của tôi là cựu đại uý già Nikolai, ko may tôi ko nhớ được họ của ông. Ông tìm được căn nhà của 1 người Ba Lan độc thân tên là Krul, vì 1 số lý do tôi vẫn nhớ tên họ này. Tay Ba Lan rất tự hào với dòng họ của mình, nó ko có nghĩa là thỏ (tiếng Nga là krolik) như lúc đầu tôi tưởng mà có nghĩa là vua - korol. Ngôi nhà trông ko đẹp nhưng có phòng rộng đủ để tổ chức các buổi họp "hội đồng quân sự đại đội" như cách nói của Fedor Usmanov. 2 phòng nhỏ hơn dành cho tôi và giao liên. Pan (địa chủ Ba Lan) Krul vì lý do nào đó sống đời đơn chiếc ko vợ con nhưng lại có cả tá nông dân cả đàn ông lẫn đàn bà làm việc cho mình. Họ ko bị tống sang Đức làm lao động khổ sai như tôi thường thấy ở Belorussia hay Ukraina. Sau đó đến tầm tháng 12/1944 chúng tôi nhận thấy có nhiều thỏ rừng chạy trên ruộng, vậy là tôi quyết định trổ tài thiện xạ để đãi mình cùng bạn bè 1 bữa thịt thỏ.

Từ hồi trung học tôi đã là 1 trong những học sinh đầu tiên hoàn thành các bài tập bắn vượt tiêu chuẩn đạt danh hiệu "Thiện xạ Voroshilov" hạng 2. Khi mới tốt nghiệp trung uý, trong 1 buổi hướng dẫn ban đầu tại trung đội tân binh mà tôi được giao huấn luyện, tôi đã chứng minh cho 1 người lính bắn tồi rằng khẩu súng trường của anh ta ko bị lỗi bằng cách dùng khẩu súng đó bắn trúng 1 cục sứ cách điện dùng cho cột điện tín ở khoảng cách 100m, đứng bắn ko bệ tì. Cục sứ cách điện vỡ tan từng mảnh khiến sợi dây điện treo lủng lẳng trước cặp mắt ngạc nhiên của binh lính. Nói thực là chính tôi cũng shock khi nhìn thấy kết quả phát đạn đó vì hiểu rằng mình đã nêu 1 ví dụ xấu trước lính tráng, đáng ra tôi ko nên làm hỏng đường dây thông tin hoặc làm tổn hại thanh danh của chính mình. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi bắn trượt?

Vậy là vào ngày 14/12/1944, 1 trong những ngày quan trọng nhất đời tôi, vào khoảng 4h chiều, sau bữa trưa vừa dở vừa ít tôi đã dùng khẩu súng ngắn TT của mình thay vì 1 khẩu Nagant để săn thỏ rừng và hạ được 1 con sau vài lần bắn. Tôi trở lại trại lính cùng với chiến tích săn bắn đó và gặp Nikolai đang giúp cởi áo khoác cho 3 nữ binh sĩ trẻ, Rita yêu quý của tôi là 1 trong số đó! Đi cùng Rita là 1 cô gái Tatar mảnh dẻ với thân hình và khuôn mặt Châu Á xinh đẹp tên là Zoya Farvazova và 1 nghệ sĩ chơi harmonica tên là Lusya Pegova. Cả 3 cô gái đều còn trẻ, khuôn mặt ửng đỏ vì lạnh, và đều thích thú được gặp chúng tôi! Tôi đã thông báo với cả tiểu đoàn rằng Rita là vợ tôi, có lẽ đó là lý do ko ai khác ngoài chính bản thân tôi ngạc nhiên vì thấy cô có mặt tại tiểu đoàn. Tôi sung sướng phát điên!

Bạn bè tôi trong tiểu đoàn chạy ào tới và quyết định tổ chức 1 ?ođám cưới tiền tuyến?, như vậy quan hệ hôn nhân ?ophi chính thức? của chúng tôi sẽ được chứng thực bằng 1 lễ cưới. Tôi hơi lo về phản ứng của Rita, nhưng cô nhìn 2 cô kia rồi đồng ý. Nikolai đã lột da con thỏ xong và bắt đầu nấu ragu với rất nhiều hành mỡ. Món ăn thật tuyệt dù chưa ai trong chúng tôi từng được ăn ragu thỏ rừng đúng nghĩa, điều duy nhất chúng tôi biết là 1 câu đùa như thế này: ?oĐể có món ragu thỏ rừng bạn cần ít nhất là 1 con mèo, nhưng thỏ nhà thì ngon hơn.?

Tin tức về đám cưới của tôi lan ra các bạn bè với tốc độ ánh sáng và tất cả đều tập trung tới phòng họp của ?ohội đồng quân sự?. Cả tham mưu trưởng Philip Kiselev cùng 2 tiểu đoàn phó Ivan Matvienko và Aleksey Filatov, người chúng tôi vẫn gọi là Alex dù thực tế ông hơn tôi cả chục tuổi, đều tới dự đám cưới. Có lẽ lý do khiến chúng tôi coi Filatov như bạn cùng trang lứa là vì tính tình cởi mở vui vẻ cùng khuôn mặt trẻ hơn tuổi của ông. Mọi người nhanh chóng tập trung đầy đủ và sẵn sàng nhập tiệc. Vài người mang tới chút đồ ăn dành dụm từ khẩu phần sĩ quan, số khác mang tới thịt lợn muối hoặc hun khói trong khi Valery Semykin ko hiểu bằng cách nào mà lấy được 1 khoanh tướng pho mát Mỹ từ sĩ quan hậu cần Seltzer. Thứ vodka Ba Lan tuyệt hảo Monopolka và thậm chí mấy chai vang ngoại cũng xuất hiện trên bàn. Có lẽ các sĩ quan đã giữ nó cho các trường hợp đặc biệt tỷ dụ như đám cưới tiền tuyến của tôi. Tôi nhìn Rita hết lần này đến lần khác. Trông cô hơi rụt rè nhưng dễ dàng tiếp chuyện với các bạn tôi, rõ ràng cô đã sẵn sàng đóng vai trò 1 cô dâu. Đến lúc này tôi đã đi đến kết luận rằng cuộc hôn nhân trước đây là 1 chương ko hay ho gì trong quá khứ của cô và giờ đây cô đã sẵn sàng trở thành người vợ thực sự của tôi. Có lẽ mẹ cô, Ekaterina Nikolaevna, cũng đã chúc phúc cho lần đi bước nữa quan trọng này của đời cô.

Đám cưới của tôi vừa vui vừa huyên náo. Chúng tôi có 2 tay chơi harmonica, Lusya chơi rất hay còn Musya Goldstein cũng rất tài. Chúng tôi cũng có máy quay đĩa cùng đĩa hát các bài Rio ?" Rita, Ly Champagne sủi bọt và Sóng Amur, những bài hát nhắc tôi nhớ lại phòng khiêu vũ ở Alkino. Phòng của Pan Krul quá nhỏ nhưng chúng tôi vẫn nhảy múa. Đám cưới vô tiền khoáng hậu của chúng tôi ko kéo dài lâu, 2 cô gái Lusya và Zoya hiểu rõ tình thế tế nhị hoặc đã có ăn ý với nhau từ trước nên bắt đầu đứng dậy xin về, nại rằng họ được lệnh phải trở về đoàn ca nhạc trước nửa đêm. Ko 1 lý do hay ho nào có thể giữ họ ở lại, chúng tôi thậm chí còn cố nói rằng họ ko nên đi khi đêm đã quá khuya thế này.

Thật bất ngờ là George Razhev, 1 anh chàng rất đáng yêu, đã phải lòng Zoya Farvazova và cực kỳ choáng váng khi nghe được rằng cô sẽ ko ở lại. 2 cô gái mỏng manh nhưng dũng cảm ko hề ngại đi bộ xuyên rừng ra đường cao tốc để xin đi nhờ xe mặc dù lúc đó chúng tôi ai cũng ngại những hành động khiêu khích của quân Armeja Krajowa Ba Lan, những người đã thất bại tức tưởi trong cuộc nổi dậy Warsaw. George Razhev có vẻ như đã phát điên vì Zoya, anh ta thao thao về lần bị sức ép đạn pháo mới đây, uống ko ngừng như mọi người khác nhưng ko muốn nhìn thấy các cô gái đi mất. George Sergeev, 1 chàng trai kiệm lời và đáng tin cậy, lãnh nhiệm vụ đưa các cô gái ra đường cao tốc, vẫy 1 chiếc xe đang trên đường tới Sedlec, nơi các cô gái cần tới.

... Dù sao vào năm 1984 tôi cũng đã tìm được George Razhev trong số những bạn chiến đấu cũ, anh viết cho tôi ngay trong bức thư đầu tiên như sau: ?oTất nhiên tôi nhớ cậu, thậm chí là rất rõ. Tôi nhớ cái đầu quấn băng của cậu sau trận đánh ở Oder, nhớ cái bao súng ngắn của cậu đeo trễ tới tận đầu gối. Chỉ cậu mới có cái mốt đó trong toàn tiểu đoàn! Tôi nhớ Rita trong buổi tiệc tại căn lán Ba Lan đã làm tất cả chúng ta trở nên gần gũi. Và tất nhiên, tôi cũng nhớ cô gái đã cho tôi ra rìa và bỏ đi.?

Nhiều chuyện đã xảy ra với George Razhev, tất cả đều liên quan tới rượu và đàn bà. Anh ta đúng là 1 gã tay chơi. Nói về chuyện ?obao súng ngắn đeo trễ tới tận đầu gối?, tất cả các sĩ quan ko cứ gì lớp trẻ, đều cố theo 1 mốt nào đó của cánh lính tuyến đầu trong khả năng có thể và sự cho phép của thượng cấp. Theo gợi ý của nhiều shtrafnik cựu Hải quân tôi đã đeo bao súng ngắn theo "kiểu Hải quân" và thực sự tin rằng nó thuận tiện hơn trong chiến đấu. Thậm chí kombat Baturin, người chúng tôi luôn xem như 1 cụ khốt, và người cháu họ ông ta là Ctrị viên trẻ tuổi đẹp trai Kazakov cũng phá vỡ quy tắc mặc quân phục thông thường. Thay vì đội mũ lông mùa đông thì 2 người toàn đội mũ kubanka, kiểu mũ lưỡi trai truyền thống của lính Cossack, với chóp đỏ giống kiểu mũ papakha dành cho cấp tướng. Chúng tôi, những sĩ quan trẻ, nhìn thấy và cũng làm cho mình 1 cái mũ kubanka, đã có sẵn thợ may và các nguyên vật liệu cần thiết. Nó cũng chỉ giống như mốt đi ủng làm từ áo mưa lính plash - palatka trong mùa hè vừa qua ...

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:43:32 PM

Trở lại lúc đó, tiệc cưới của chúng tôi đã kết thúc và các bạn bè nhanh chóng ra về để cho chúng tôi quãng thời gian riêng tư lâu nhất có thể. Trong khi mọi người đang ăn tiệc Nikolai đã chuẩn bị giường cưới vì ông chân thành tin rằng chúng tôi đã thực sự là vợ chồng. Ngược lại tôi cũng chân thành tin rằng mình ko phải người đàn ông đầu tiên trong đời cô, như cô từng viết trong thư cô thậm chí đã có cả con! Nhưng tôi tự nhủ sẽ trở thành người chồng mới, người chồng thực sự của cô. Tôi rất shock khi biết cô đã nói dối cả về chuyện lấy chồng lẫn có con. Tất nhiên tôi ko còn là trai tân, nhưng là 1 sĩ quan tôi đã thề rằng mình sẽ ko làm bất kỳ cô gái nào mất tân cho đến khi nào chiến tranh kết thúc. Nếu có chuyện đó thì nó sẽ chỉ có thể xảy ra sau 1 đám cưới. 1 người có thể bị giết trong chiến tranh khiến cho 1 cô gái trở thành bất hạnh, thậm chí goá bụa. 1 cô gái nên giữ danh dự và sự trong trắng. Đó là quan niệm phổ biến trong các sĩ quan thời đó, mặc dù quan niệm về danh dự phụ nữ này đôi khi bị xem là cổ hủ trong môi trường "mọi rợ", "hoang dã" và "vô giáo dục" như ngoài mặt trận. Tôi vừa bực vừa vô cùng sung sướng vì Rita yêu quý của tôi đã thực sự muốn và thực tế đã trở thành vợ tôi. Ko giống như 1 "PPZh" (vợ hờ sĩ quan), đó ko phải 1 mốt nhưng khá phổ biến trong những năm chiến tranh đầy hiểm nguy, Rita đã trở thành người vợ thực sự, người bạn chiến đấu, người chị em tay trong tay đi cùng tôi suốt cuộc đời, và là mẹ của những đứa con tôi sau này. Chúng tôi đã sống hạnh phúc bên nhau trong chính xác là 52 năm.

... Chuyện xảy ra vào ngày 14/12/1996, cũng vào 1 buổi tối mùa đông như 52 năm trước, tôi đã nói lời vĩnh biệt Rita trước huyệt mộ. Rita của tôi đã trải qua 2 cơn đau tim và ko thể qua khỏi lần thứ 3. Vào năm 1996 chúng tôi đã có 2 con trai, 4 cháu trai và 1 chắt gái xinh xắn. Cái chết cuối cùng đã bắt kịp Rita, y tá chiến trường trong Cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, sau 50 năm kể từ Ngày Chiến thắng. Nó cũng đã đến với nhiều bạn chiến đấu của tôi, lúc đó đã có hơn chục cựu binh tiểu đoàn trong số những người mà tôi tìm lại được qua đời ...

Trở lại năm 1944, chiến thắng vẫn còn ở phía trước và ko ai trên mặt trận biết mình có sống được để thấy ngày đó ko, dù ai cũng mong như vậy. Tháng 12/1944, sông Vistula đóng băng cùng thủ đô Ba Lan Warsaw cũng như toàn bộ vùng đất Ba Lan phía bên kia sông Vistula vẫn còn nằm dưới gót giầy phát xít. Những trận đánh đẫm máu vẫn còn ở phía trước, nơi đó có đường biên giới nước Đức phát xít. Câu khẩu hiệu "Hãy tiêu diệt con quỷ phát xít ngay tại hang ổ của nó" nghe vẫn còn xa vời với chúng tôi. Vượt sông Oder hay Công phá Berlin còn xa vời hơn nữa.

Rita bắt đầu đóng gói đồ đạc để trở lại đoàn văn công nghiệp dư của cô vào sáng ngày 15/12. Cô lo nếu mình ko có mặt, vì cô là người dẫn đầu nhóm múa, sẽ làm ảnh hưởng đến buổi biểu diễn đầu tiên của đoàn dù cô ko biết khi nào nó bắt đầu. Tôi nói với vợ (tôi cực kỳ sung sướng và tự hào khi nói từ này!) rằng hãy hượm đã rồi tới chỗ kombat để giới thiệu cô với Baturin và nhờ ông chứng thực đám cưới của chúng tôi, tức là đóng dấu vào chứng minh thư sĩ quan của tôi và chứng minh thư Hồng quân của cô. Khi chúng tôi đến chỗ kombat, tham mưu trưởng Philip Kiselev bảo tự anh cũng có thể làm việc đó nhưng kombat lúc nào cũng giữ con dấu tiểu đoàn bên mình, ko chịu tin tưởng vào ngay cả tham mưu trưởng. Điều này trái với phong tục nhà binh thông thường. Vì vậy Philip phải đi báo cáo đề nghị của tôi. Sau vài phút 1 cái bụng tròn như quả bóng bằng thịt ló ra từ sau cánh cửa khép hờ, tiếp theo là toàn bộ thân hình Baturin xuất hiện trên ngưỡng cửa. Cả 2 chúng tôi đứng lên chào ông và như tôi thấy, ông chỉ liếc nhìn lại 2 chúng tôi 1 cách thô lỗ, thay vì lời chúc mừng ông ta nói huỵch toẹt: "Tôi ko có phòng đăng ký hôn nhân nào ở đây. 2 anh chị sẽ đăng ký mối quan hệ của mình, nếu nó là đứng đắn, sau chiến tranh." Ông ta bỏ đi luôn và còn ngoái lại nói với tôi rằng: "Và nếu anh còn sống."

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:43:50 PM

Tôi thực sự thấy khó chịu, tất nhiên bạn ko thể phàn nàn hay bật lại các quyết định nghiêm khắc thái quá của thượng cấp ngoài mặt trận cũng như trong môi trường quân đội nói chung. Tuy nhiên sự khiếm nhã có chủ ý, sự thiếu quan tâm tới cấp dưới có thể gây đau đớn hơn cả 1 viên đạn địch. Đòi hỏi hoàn thành tốt nhiệm vụ, thậm chí dù điều đó là tàn nhẫn, là cần thiết trong quân đội, đặc biệt là trên mặt trận, nhưng ko phải là trong trường hợp này! Nó rất giống thói cửa quyền tại các cơ quan hành chính. Tôi đành phải bỏ qua chuyện này, có thể làm gì được cơ chứ, nó sẽ bị coi là bất tuân thượng lệnh tại tiền tuyến. Tuy nhiên đến khi tôi áy náy liếc nhìn sang Rita, tôi đã thực sự ngạc nhiên! Trông cô vẫn hạnh phúc, ánh mắt lấp lánh và nụ cười vẫn nở. Tôi ko thể kiềm chế bản thân nên đã hôn lên đôi môi xinh đẹp của cô, thầm nghĩ cô thật là 1 cô gái mạnh mẽ, ở bên cô mọi thứ với tôi trở nên dễ dàng, thậm chí kể cả trong những tình huống khó khăn nhất đời!

Phil Kiselev, các tiểu đoàn phó Matvienko và Filatov ôm hôn cả 2 chúng tôi và bắt chặt tay. Valeri Semykin lúc này cũng bất thần xuất hiện và nói đại khái như này: "Thôi nào, mấy đứa õng ẹo (tôi nhớ chính xác từ này!) Hãy sống yêu thương chan hoà thật lâu sau Chiến thắng nhé!" rồi ôm hôn cả 2 chúng tôi. Cậu ta còn gọi chúng tôi là "bọn õng ẹo" cả trong những bức thư sau chiến tranh. Cám ơn cậu, người bạn chiến đấu của tôi! Những lời tốt đẹp xuất phát từ trái tim đó đã xoá bỏ ấn tượng xấu vì sự khiếm nhã của Baturin và làm tôi hết muốn bật lại ông ta. Những lời nói đó đã đi theo chúng tôi cả trong quãng đời ngắn ngủi ngoài mặt trận lẫn quãng đời dài sống trong hoà bình sau chiến tranh, nó chỉ chấm dứt sau hơn 50 năm.

Sau sự cố khó chịu với kombat, chúng tôi chạy về căn nhà nơi vừa trở thành phòng cưới của tôi. Chúng tôi lấy balô của Rita, trong đó có tất cả trang phục biểu diễn cần thiết, 1 bộ váy áo kiểu nông dân Ukraina rất đẹp, 1 đôi ủng dài kiểu gopak và 1 bộ trang phục Digan lấp lánh cùng 1 số tư trang khác. Sau đó chúng tôi chạy xuyên rừng ra đường cao tốc để vẫy xe đi nhờ đến Sedlec. Cảm xúc của chúng tôi đã hoà vào làm 1. Rita là 1 người lính và tôi muốn để cô đi càng nhanh càng tốt để thượng cấp khỏi phải phát điên lên vì cô. Nhưng tôi còn muốn ở bên cô thêm vài phút hơn. Có thời gian để làm cả 2 việc đó và vài phút sau Rita đã vẫy khăn tạm biệt tôi từ trên thùng 1 chiếc xe tải trước khi biến mất ở khúc ngoặt con đường.

Tôi trở về nhà Pan Krul và gặp bác giao liên Nikolai, ông đã thu dọn đồ đạc cho tôi cùng cả chiếc máy hát và các đĩa hát. Ông báo cáo chúng tôi đã được chuyển tới ngôi làng cạnh đó, Buda Kuminska, ông cũng nói thêm đó là lệnh của kombat. Tôi ko hiểu ngay được lý do của việc thiên chuyển này, nhưng lệnh bao giờ cũng là lệnh. Thì ra việc đó chỉ để kombat được dễ dàng hơn khi tất cả các đại đội trưởng đều ở cùng 1 chỗ, mặc dù các trung đội trưởng mới ở đâu vẫn ở đó. Có vẻ như lý do là để ông ta đỡ phải thường xuyên gửi các giao liên đi và quản lý các đại đội trưởng chúng tôi được dễ dàng hơn. Về cơ bản đây là 1 quyết định đúng.

Tôi rời khỏi ngôi nhà ko được mến khách cho lắm của Pan Krul mà ko có cảm xúc gì đặc biệt và được phân vào ở trong 1 căn nhà đẹp của 1 bà già Ba Lan, nó đặc biệt ngăn nắp so với 1 ngôi làng thời chiến. Cô con gái lớn Stefa 17 tuổi lau dọn nhà cửa rất kỹ lưỡng và hăng hái. Đó là 1 cô gái vui tươi xinh đẹp với đôi má phính và thân hình quyến rũ. Khi tôi tập trung tất cả các trung đội trưởng của mình lại để thông báo vắn tắt tình hình, tôi để ý thấy George Razhev nhìn cô rất lạ. Trong suốt thời gian tôi ở trong làng, cậu ta tìm đủ mọi lý do để tới và cố bắt chuyện với Stefa mong kiếm được chí ít là 1 buổi đi dạo cùng nhau. Nhưng Stefa là 1 cô gái đoan trang và có để ý đến tôi vì tôi là khách trọ chính và là thượng cấp của tất cả đám sĩ quan. Tôi để ý thấy là dân Ba Lan bao giờ cũng đặc biệt chú ý tới những người có địa vị. Stefa thậm chí còn đan găng tay ấm và chuyển nó cho tôi qua Rita trong 1 lần cô đến thăm tôi.

Tôi đã nhắc đến mối quan hệ đàn ông đàn bà trong chiến tranh nhiều lần, chúng có số phận cũng như hậu quả rất khác nhau, tôi ko có ý định tổng quát hoá. Tôi thấy các cuộc hẹn hò ngoài mặt trận thường ko dẫn tới những tình cảm thực sự sâu sắc mà chỉ đơn thuần là "tiếng gọi của xác thịt". Thật đáng tiếc cho nhiều phụ nữ khi đàn ông ra trận hết và cho đàn ông vì ko có người phụ nữ nào làm bầu bạn trong nhiều năm. Ngay cả trong những câu chuyện tưởng tượng cũng chẳng ai biết được 1 người đàn ông khoẻ mạnh có thể sống sót qua trận đánh tiếp theo ko. Lòng trắc ẩn là thói nhi nữ thường tình, và nó càng mạnh mẽ hơn trong chiến tranh. Vì vậy tôi có thể hiểu được George khi anh ta ko hẹn hò được với cô gái Ba Lan trẻ đẹp Stefa thì lập tức chuyển hướng sang 1 cô gái Nga. Đó là 1 cô "người hồi hương" theo cách chúng tôi vẫn gọi những phụ nữ trở về từ trại tập trung của bọn Đức. Cô tên là Stafa, người gầy còm đói ăn, ít hẫp dẫn và đáng chú ý là đang có mang. Khi biết được cô ta đã sống cùng George 2 ngày, tôi đã yêu cầu George quan hệ an toàn để tránh khả năng lây bệnh cũng như phải cẩn thận vì cô đang có mang thai. Cậu ta đốp lại thế này: "1 người no xôi chán chè thì làm sao hiểu được 1 người đang đói." George lớn hơn tôi 3 tuổi nên tôi ko cố giảng đạo đức cho anh ta trong vấn đề này dù có lý do để làm điều đó. Tôi biết tôi chưa có quyền phán xét chuyện tình cảm, và nói thật ra là tôi cũng có tránh được đâu.

Bà chủ nhà và cô con gái xinh đẹp Stefa chào đón Rita hết sức nồng hậu. Họ thết đãi Rita với 1 sự kính trọng đặc biệt, tôi đoán họ xem cô là Bà Đại Uý Phu Nhân Nga vì thấy họ gọi cô là "Pani Kapitana". Khi Rita đi, tôi 1 lần nữa lại đưa cô ra tận đường cao tốc và 1 chiếc xe đã sớm mang cô đi, giống như lần trước.

Ngay trước khi cuộc tấn công vào Warsaw mà chúng tôi mong mỏi từng ngày bắt đầu, Rita lại đến thăm tôi lần nữa vào tháng 1. Mẹ cô, Ekaterina Nikolaevna, là vị bác sĩ đáng kính và bản thân Rita cũng là 1 y tá tốt và tận tâm tại bệnh viện, cả 2 đều được trưởng khoa phẫu thuật đánh giá cao. Tôi đoán đó chính là lý do khiến cô có thể xin nghỉ phép đi thăm tôi nhiều lần. 1 lý do khác có lẽ là do bệnh viện đang thiếu thương binh trong giai đoạn chiến trận tạm lắng này. Trong bất kỳ trường hợp nào, tôi nghĩ việc cô lập gia đình sẽ được bệnh viện đánh giá nghiêm túc chứ ko như kombat Baturin của tôi. Chỉ 1 thời gian rất ngắn sau chuyến viếng thăm cuối cùng của Rita tới Buda Kuminska, tiểu đoàn tôi đã bước vào trận tấn công nhằm hướng Warsaw.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:44:10 PM

9
CHIẾN DỊCH VISTULA - ODER



"Mày là 1 thằng may mắn, Alex ạh!" Đó là lời ông ngoại Daniel dân Siberi nói với tôi. Tôi nhớ đến câu nói này vào cái hôm từ Lochuv ra đường cao tốc để tới mấy ngôi làng Ba Lan đã được kombat chỉ cho. Bản thân ông ngoại tôi cũng là người may mắn, theo lời ông kể, hồi trẻ ông đã săn gấu bằng giáo 18 lần, và lần nào cũng cực kỳ thành công. Tôi vẫn còn nhớ lần tới thăm ông khi còn nhỏ, làng ông sống tên là Sagdy - Biru nằm giữa rừng taiga, cách Birobidzhan ko xa. Đang đi săn thì ông chạy về nhà đúng lúc tôi đến, ông nhanh chóng đóng ngựa vào cỗ xe trượt tuyết rồi quay trở vào rừng taiga và ngày hôm sau quay về với 1 con hổ bị giết nằm phủ kín cỗ xe, đuôi kéo lê theo con đường tuyết. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy 1 con hổ thực sự, và đã chết. Vì vậy tôi đoán tôi được thừa hưởng sự may mắn từ ông ngoại.

Trời vẫn còn sáng khi tôi tới chỗ mấy ngôi làng Ba Lan và dễ dàng tìm được sở chỉ huy tiểu đoàn, tại đây tôi bắt gặp nhiều gương mặt quen thuộc của các sĩ quan tham mưu và hậu cần cùng thứ mùi thơm ngon của đồ nướng, đúng là đã đến giờ ăn tối. Người đầu tiên tôi gặp là tham mưu trưởng Phil Kiselev, nhờ đó tôi biết kombat Baturin ở đâu để tới báo cáo, sung sướng vì mình có mặt đúng giờ và ko phải chịu trừng phạt vì trình diện muộn. Tôi đã từng kể trong chương trước về nơi tôi và kombat gặp nhau. Tại đây, trong chính những ngôi làng này, cuộc đời trước và sau lễ cưới tiền tuyến của tôi đã diễn ra, cùng với đó là chiến thắng cuối cùng trước lũ rận, điều cũng cực kỳ quan trọng với tất cả chúng tôi. Chúng tôi bận rộn với việc phóng thích các shtrafnik và tổ chức các đơn vị mới. Tôi mất nhiều thời gian để viết cho kombat hoặc sĩ quan Ctrị của ông là thiếu tá Kazakov giấy thiên chuyển shtrafnik, thứ giấy tờ quan trọng nhất đối với họ, và viết lại các giấy thiên chuyển nào bị xem là chưa hoàn hảo hoặc kém thuyết phục.

Tổ chức các đơn vị mới cũng được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Để các sĩ quan đại đội ko quá rảnh, kombat lệnh cho chúng tôi nhận shtrafnik bổ sung vào đồng thời tất cả các đại đội. Chúng tôi buộc phải tổ chức các trung đội dù chúng quá ít người. Sau đó chúng tôi mới lại đưa tất cả vào 1 đại đội dưới sự chỉ huy của người có tư cách nhất trong việc dẫn dắt binh lính trong chiến đấu. Ko chỉ mình tôi cho rằng thiếu sót lớn nhất của quy trình này là các trung đội trưởng sẽ ko biết rõ nhau. Mối quan hệ này là rất quan trọng trong chiến đấu! Nhưng lệnh là lệnh.

Nhiều người trong chúng tôi đoán rằng Baturin đưa ra quy trình kỳ cục này để ngăn các sĩ quan có nhiều thời gian chia sẻ sự bất mãn thái độ của kombat với các binh sĩ. Ông ta đã cho mọi người thấy thái độ của mình trong chiến dịch tấn công ở đầu cầu Narev. Tất nhiên cũng ko thể chấp nhận việc các sĩ quan có quá nhiều thời gian rảnh để xả stress trong giai đoạn chiến sự tạm lắng sau các trận chiến ác liệt kéo dài. Đặc biệt là khi xét đến thực tế nhiều sĩ quan đã xả stress bằng bimber, loại cuốc lủi Ba Lan mà dân sở tại có rất nhiều. Các sĩ quan có thể trao đổi mọi chiến lợi phẩm như đồng hồ, bật lửa, thuốc lá v.v... với dân Ba Lan, vậy là ai nấy đều tích trữ nhiều nhất có thể thứ độc dược bimber này trong người. Trong tiểu đoàn ko có nhiều con nghiện, nhưng than ôi, cũng có nhiều trường hợp ngoại lệ. Thông thường chúng tôi có nhiều thời gian để làm mọi việc, nghỉ ngơi, viết thư, tán gẫu về ý nghĩa cuộc đời đặc biệt bao gồm cả cuộc đời tân kombat. Tất nhiên ko có những đêm ca hát như hồi ở Belorussia, tâm trạng mọi người ko phù hợp với việc hát hỏng khi đang chờ đợi 1 đợt tấn công mới mà có vẻ như nó sẽ ko hề dễ dàng hơn các trận đánh trước đây chút nào.

Trong khi tiểu đoàn vẫn còn đóng ngoài khu vực có chiến sự, tân kombat tổ chức 1 hình thức ăn uống mới cho các sĩ quan. Trước đây tất cả chúng tôi ăn cùng mâm cùng nồi với binh lính, chỉ có khẩu phần phụ thêm dành riêng cho sĩ quan là khác với lính. Từ thời điểm này, tất cả sĩ quan sẽ ăn riêng trong 1 cái gọi là "căng tin" đặt trong 1 căn phòng nhỏ hơn 1 chút. Đồ ăn của chúng tôi cũng được nấu riêng nhưng tôi ko thấy nó khác nhiều với đồ ăn trong bếp dã chiến đại đội, tuy nhiên chúng tôi ko còn ăn bằng bộ dụng cụ ăn nhếch nhác của lính nữa mà được ăn bằng bát đĩa nhôm. Tất nhiên cũng có vài thứ tiến triển, tay sĩ quan tiếp phẩm tháo vát và đầy nghị lực Moses Seltzer thỉnh thoảng cũng đa dạng hoá thực đơn cho chúng tôi băng cách phục vụ thêm sữa tươi.

Thì ra trung tá Baturin của chúng tôi có 1 điểm yếu, đó là sữa. Trong khi chúng tôi chiến đấu trong những trận đánh ác liệt để mở rộng đầu cầu Narev, ông ta đã xoay sở để có được 2 con bò sữa và lúc nào cũng đem theo chúng từ nơi này đến nơi khác. Nhờ vậy thỉnh thoảng chúng tôi nhận được chút cà phê sữa hay trà sữa từ bàn ăn "quý tộc" của ông. Kombat và các tiểu đoàn phó được phục vụ ăn uống từ 1 bếp riêng, và họ cũng ko ăn cùng các sĩ quan còn lại. Tuy nhiên hầu hết các tiểu đoàn phó, ngoại trừ các sĩ quan Ctrị và hậu cần, đều muốn ngồi cùng các sĩ quan thường như chúng tôi. Tôi ko nghĩ kombat thực sự nhạy cảm về đường tiêu hoá, ngoại trừ chuyện sữa, nhưng luôn tỏ ra hoàn toàn xa cách và ko bao giờ ăn cùng chúng tôi. Tuy nhiên chúng tôi đã chấp nhận sự kỳ cục này 1 cách thích hợp, có lẽ việc này thực sự là cần, chúng tôi khó có đủ tầm đánh giá. Cựu kombat Osipov ko bao giờ cố giữ khoảng cách với chúng tôi nhưng điều đó ko làm mất tư cách hay sự phục tùng của chúng tôi trước ông.

Chúng tôi để ý thấy 1 trong các sĩ quan Ctrị là đại uý Vinogradov cũng ăn cùng kombat và sĩ quan Ctrị riêng của ông ta là Kazakov. Nhiệm vụ của anh ta trong tiểu đoàn là sĩ quan tuyên huấn, chúng tôi cũng có cả loại sĩ quan này trong quân đội! Đó là 1 sĩ quan gày còm ốm o và trông hơi lôi thôi, giọng hơi the thé và khi nói thường phác thêm những cử chỉ hơi có vẻ ngớ ngẩn, vừa nói vừa vung tay loạn xạ, thường làm các sĩ quan khác ko ưa hoặc khó chịu. Tất cả những cái đó làm hại cho công việc của anh ta, khiến những lời tuyên truyền của anh ta thường gây hiệu quả hoàn toàn ngược lại. Vinogradov đúng là 1 kẻ mị dân, hoàn toàn vô dụng trong tiểu đoàn, anh ta ko chỉ khiến các sĩ quan tiền tuyến ko ưa mà còn gần như ác cảm đến mức căm ghét. Những lời giảng đạo ngu độn của anh ta trong mọi trường hợp đều làm người ta phát cáu và chỉ muốn làm ngược lại. Thí dụ anh ta thuyết giáo chúng tôi ko chỉ nên bỏ uống khẩu phần vodka Narkom mà cả trà đặc, bỏ thuốc lá và chớ nghĩ tới đàn bà. Các sĩ quan công khai tỏ ra xem thường bài giảng đạo đức đáng chán đó, hay bài "thuyết pháp của Ctrị viên" như cách họ thường gọi. Và để làm cho Vinogradov phát điên, trước mặt anh ta họ công khai uống trà đặc và kawa Ba Lan, vừa uống vừa hút thuốc lá mù mịt trong khi tay thì vấn thuốc mahorka!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:44:21 PM

Chúng tôi luôn lấy làm lạ ko hiểu Baturin kiếm đâu ra thứ sĩ quan này. Có lẽ hắn vốn là 1 trong các thuộc cấp trước đây của ông ta, những kẻ trốn trong hậu phương suốt cuộc chiến, cũng giống như chính Baturin. Vinogradov thậm chí chưa có nổi Huân chương Quân công, loại phần thưởng chiến trận cấp thấp nhất, và tay sĩ quan xa lạ này thường ăn trưa cùng kombat. Chúng tôi nghĩ họ đã từng phục vụ quân đội ở cùng 1 chỗ hoặc đâu đó gần nhau, có thể họ chỉ là những người hết sức bình thường. Thôi thì có thể gạt Vinogradov sang 1 bên, nhưng sự gần gũi của Baturin với hắn ko làm cho ông có được sự kính trọng của cánh sĩ quan chúng tôi.

... Nói chuyện xảy ra sau đó 1 chút, tôi phải kể về "công việc" của Vinogradov ngoài những lời nói xuông, nó chẳng phù hợp chút nào với đạo đức hay những bài giáo huấn của anh ta. Khi đợt phát hành Công trái diễn ra ngay trước khi chiến tranh kết thúc, tôi nhớ là hôm mồng 3 hay mồng 4/5 gì đó, tay sĩ quan tuyên huấn đã làm cả đám sĩ quan phát nản. Hắn đoan chắc với mọi người rằng mỗi người sẽ phải đăng ký mua Công trái với số tiền tối thiểu là 3 tháng lương, coi như đó là "1 hành động cần thiết cho Chiến thắng gần kề". Tất cả chúng tôi đều làm đúng như vậy để đóng góp cho Quỹ Quốc phòng. Đến khi chúng tôi hỏi sĩ quan phụ trách kinh tài tiểu đoàn Kostya Pusik về số tiền Vinogradov đóng thì hoá ra hắn chỉ đăng ký có 1 tháng lương. Đó mới là bộ mặt thật của tay politruk sĩ quan tuyên huấn. Để hoàn tất bức tranh về hắn, ngay trong ngày đầu tiên sau Chiến thắng, "vị thánh đạo đức" của chúng tôi đã là người đầu tiên trong tiểu đoàn bị phát hiện nhiễm bệnh hoa tình. Sau hắn còn nhiều người nữa bị! Thánh thật! Nhưng tất cả những chuyện đó sau này mới xảy ra, tức là sau tháng 1/1945 ...

Như đã nói, chúng tôi đã bắt đầu tổ chức và huấn luyện các đơn vị. Mỗi đại đội gồm nhiều trung đội với cực kỳ ít quân, tôi đã từng nói về mặt mạnh và mặt yếu của quy trình tổ chức này. Đương nhiên tôi đoán ko ai có lý do, ngoại trừ Vinogradov, để hoàn toàn ko uống rượu, đặc biệt là vào lúc chúng tôi thường xuyên có những lý do "hợp lý" để tổ chức tiệc tùng, ai đó được thưởng huân huy chương hay thăng cấp chẳng hạn. Thỉnh thoảng chúng tôi còn tổ chức những lễ sabantui (*) như cách Fedor Usmanov vẫn gọi, đó là cách nói cực kỳ lịch sự để có lý do tiêu thụ khẩu phần rượu cấp phát thảm hại cùng với số quốc lủi Ba Lan bimber khó ngửi. Chúng tôi thỉnh thoảng lại tự chiêu đãi mình bằng lý do này khác. Có rất nhiều nhà máy tinh chế cồn ở Ba Lan, và dân Ba Lan đã có nhiều thương vụ tốt đẹp bằng cách bán cho quân ta thứ rượu cồn tệ hại đó với giá cao ngất. Theo đúng quy luật, chúng tôi uống cả thứ của nợ đó, nó có thể coi như loại rượu "hạ cấp" khi pha thêm nước và do đó chúng tôi đơn giản là uống nó cùng với nước lã. Trong các trường hợp như vậy chúng tôi đổ đầy rượu cồn vào 1 cốc và đặt cạnh 1 cốc đầy nước. Thỉnh thoảng chúng tôi còn đùa bằng cách bí mật đổ đầy cả cốc thứ 2 cũng bằng rượu cồn. Các bạn có thể tưởng tượng tình trạng của 1 người vừa uống thứ "nước lửa" bỏng rát và định hoà loãng nó bằng cách lập tức uống thêm nước lã nhưng lại nhận được cùng cảm giác rát bỏng trong cổ họng. Tuy nhiên kẻ bày ra trò đùa luôn phải có trách nhiệm cầm sẵn 1 cốc nước để cứu giúp nạn nhân đúng lúc.

1 tháng trước, vào ngày 18/12, tôi bước sang tuổi 21. Chỉ huy mới của Phương diện quân là Nguyên soái Zhukov, người vừa thay thế Nguyên soái Rokossovski, đã ký lệnh thăng cấp tôi lên đại uý, tờ lệnh này chắc đã được chuẩn bị trước từ thời người tiền nhiệm của ông. Chúng tôi lập tức tổ chức lễ mừng cầu vai đại uý mới của tôi cũng như nhiều sĩ quan khác vừa được thăng cấp. Chúng tôi cảm thấy rất buồn vì Nguyên soái Rokossovski đã rời khỏi Phương diện quân Belorussia 2, chúng tôi yêu Nguyên soái gần như con yêu cha.

Lúc này quân bổ sung đang tới dần dù số lượng ko lớn. Có lẽ tình hình mặt trận tạm lắng và việc thiếu các chiến dịch lớn ko cho phép các toà án binh "đào tạo" thêm nhiều shtrafnik cho chúng tôi. Tôi nghĩ đây là lần đầu tiên chúng tôi được nhận 1 loại shtrafnik hoàn toàn khác, đó là các cựu sĩ quan đã bị tuyên án từ hồi đầu chiến tranh, thậm chí là trước đó, và từng thụ án trong phần lớn thời gian tại nhà tù hoặc trại cải tạo. Theo chúng tôi thấy, họ ko bị tống ra mặt trận dưới sự áp giải của lính canh như những tù thường phạm bị đưa vào các đại đội trừng giới độc lập dành cho lính. Thay vào đó họ tới chỗ chúng tôi chỉ khi tự họ tình nguyện, tuy vậy vẫn có vài lính canh áp giải. Cả đất nước đã nhận thấy ngày chiến tranh kết thúc đang đến gần, nhiều tù nhân vẫn còn cảm nhận được lòng yêu nước và hiểu rằng Chiến thắng mong đợi đã lâu chắc chắn sẽ tới, và nhờ vậy họ có thể được phóng thích. Nhiều người thậm chí còn hy vọng sẽ được xoá án nhân dịp Chiến thắng.

(*) Sabantui - Lễ hội dân gian của người Bashkyria để mừng vụ mùa bắt đầu. Đây cũng là 1 thành ngữ để chỉ bất kỳ 1 lễ hội vui vẻ nào.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:44:32 PM

Những người ngồi tù ko phải chiến đấu và chết trong chiến tranh như hàng triệu người dân, vì thế họ sẽ có 1 khoảng thời gian khó khăn để tái hoà nhập cộng đồng trong 1 xã hội đã bị chiến tranh thiêu huỷ nhưng đã đánh bại kẻ thù trong 1 cuộc chiến đẫm máu kéo dài 4 năm. Thật khó khăn cho những người tù phải sống suốt cuộc chiến sau song sắt trong khi những người thân ra trận và chết vì Tổ quốc. Hàng triệu người đã hiến dâng mạng sống cho chiến thắng trước chủ nghĩa phát xít, vì thế cũng là logic khi nhiều cựu sĩ quan yêu cầu được đổi quãng thời gian ngồi tù còn lại lấy việc được cho ra trận, dù với tư cách shtrafnik. Chỉ có rất ít người được cho cơ hội này, số còn lại thì ko, họ vẫn liên tục được bổ sung tới cho đến tận khi chiến dịch Berlin bắt đầu.

Về cơ bản việc tổ chức và huấn luyện trong đại đội được tiến hành thường xuyên. Huấn luyện chiến đấu là 1 công việc căng thẳng, bình thường trong quá trình huấn luyện chúng tôi phải đặc biệt chú ý đến những người kém về khả năng bắn súng và hành quân. Trong số các shtrafnik có nhiều cựu sĩ quan hậu cần, ko quân, xe tăng ... thuộc dạng này. Chúng tôi còn phải chú ý hơn nữa đến những cựu sĩ quan tù nhân, họ yếu hơn người bình thường, nhiều người thậm chí ko thể vác súng được lâu dù chỉ là cầm nó trong tay như 1 lính gác. Mỗi trung đội chỉ có 7 - 10 người, vì vậy các trung đội trưởng có cơ hội huấn luyện riêng cho từng shtrafnik. Họ dùng các shtrafnik đã có kinh nghiệm bộ binh làm người kèm cặp. Về cơ bản các học viên đều hiểu câu nói nổi tiếng của Suvorov về "công nghệ dành chiến thắng", câu nói "tập luyện vất vả, chiến đấu dễ dàng" trở thành 1 slogan chính xác đối với trường hợp của họ. 1 số shtrafnik trước đây từng cho rằng mình là "kẻ bỏ đi" thì nay bắt đầu hiểu ra họ sẽ ko bị sử dụng như bia đỡ đạn. Họ biết họ đang được huấn luyện chiến đấu 1 cách bài bản để tiêu diệt quân thù được hiệu quả hơn đồng thời bảo toàn được mạng sống của chính mình. Điều này giúp họ thấu hiểu sự cần thiết phải tập luyện hết sức vất vả, như chúng tôi vẫn nói "tập đến lòi cả ruột ra". Thường chúng tôi ko cần bắt buộc ai tập luyện, tuy nhiên ban tham mưu tiểu đoàn vẫn quản lý chặt quá trình huấn luyện, các tiểu đoàn phó và chỉ huy các bộ phận lúc nào cũng ở cùng các đại đội và trung đội.

Việc huấn luyện là vất vả ko chỉ với các shtrafnik mà cả với chúng tôi, những sĩ quan của họ. Khoảng thời gian này chúng tôi phát hiện được 1 chỗ tốt để làm bãi tập bắn, tại đây chúng tôi bắn đạn thật bằng tất cả các loại súng nhỏ và cho súng trường chống tăng tập bắn vào 1 khẩu pháo tự hành Đức đã bị bắn cháy vứt lại đó. Thậm chí chúng tôi còn bố trí cả 1 khu vực rộng bên cạnh làm trường bắn súng cối, gần 1 cánh rừng. Mỗi khi có cuộc bắn đạn thật, khu vực bắn được canh gác khắp xung quanh để các pháo thủ súng cối câu đạn vào.

Nhìn chung người ta có thể phát ghen tị với tài tháo vát và tính nhẫn nại của các chỉ huy đơn vị và bộ phận trong tiểu đoàn. Động cơ chính tất nhiên ko phải do sự kiểm tra gắt gao của các tham mưu và chỉ huy tiểu đoàn mà bởi mong muốn ko phải dẫn dắt những người lính thiếu huấn luyện trong trận đánh. Đương nhiên đó ko phải lỗi của họ. Các đại đội trưởng cũng rất hăng hái học cưỡi ngựa, ai mà biết được khi nào chúng tôi cần đến nó chứ? Việc này bắt đầu khi 1 sĩ quan tiểu đoàn ko biết kiếm đâu được mấy con ngựa tốt cùng đầy đủ yên cương. Kombat nhiệt tình ủng hộ vụ này như thể ông ta từng phục vụ nhiều năm trong lực lượng kỵ binh. Baturin chọn cho mình 1 con ngựa đực màu hồng rất đẹp và thuần. Tôi được 1 con ngựa đốm xám còn non, rất hiếu động và cứng đầu cứng cổ, nó thường xuyên bị phân tâm, tai luôn ngoe nguẩy và hay nhe hàm răng to tướng ra để tỏ ý bất mãn. Khi tôi nhìn thấy tài cưỡi ngựa của kombat, mặc dù bụng to nhưng ông nhảy phóc lên yên cái 1 và cho ngựa dựng đứng 2 chân trước mặt chúng tôi, tôi đã lần đầu tiên ghen tị với khả năng của ông. Nhờ đó tôi trở nên say mê luyện cưỡi ngựa dù biết mình sẽ ko bao giờ sánh kịp kombat.

Tôi phải nói rằng hoá ra đó là 1 việc khó. Những ngày đầu với những bài tập đầu tiên vừa chán vừa ko có kết quả. Sau 2 đến 3h, tức là quy trình huấn luyện của cả 1 ngày, toàn bộ "khu vực tiếp giáp yên ngựa" trên người tôi đau như dần. Nhưng tôi đã đặt mục tiêu cho mình, vì vậy tất cả những ngày sau đó, dù ko còn chút hứng thú nào tôi vẫn tiếp tục cưỡi ngựa. Do ko hiểu gì về sự khác nhau giữa nước kiệu và nước đại cũng như sự thiếu hụt nhiều kỹ năng khác, đôi khi tôi đã làm cả ngựa lẫn người thực sự kiệt sức. 1 trong các shtrafnik dưới quyền tôi có lẽ từng là kỵ binh đã nhận ra sự thiếu hụt trong kỹ năng cưỡi ngựa cùng tất cả những khó khăn tôi đang gặp phải trong quá trình tập luyện nên đã tình nguyện làm thầy giáo dạy tôi. Anh ta cho ngựa ăn 1 cách thành thạo và dạy tôi nhiều bài học, sau đó con ngựa bắt đầu nghe lời tôi 1 cách bình tĩnh hơn. Đồng thời tôi cũng cảm thấy ổn hơn với cái yên và bàn đạp. 1 thời gian ngắn sau, ngay trước ngày đầu năm mới 1945 Rita đã thu xếp được 1 "kỳ nghỉ" vài ngày để qua thăm tôi và khi cô biết tôi đã có 1 "phương tiện di chuyển cá nhân" của riêng mình, cô xin được cưỡi thử. Mặc dù Rita suốt đời chưa từng ngồi trên lưng ngựa, trước sự kinh ngạc của tôi, cô đã điều khiển con ngựa cứng đầu rất ổn và tỏ ra rất thích cưỡi nó.

Chúng tôi tổ chức tiệc mừng Năm Mới 1945 trên 1 cái bàn chung. Kombat, các tiểu đoàn phó, chỉ huy các bộ phận, sĩ quan đơn vị các cấp, tóm lại là tất cả những người ko phải làm nhiệm vụ đều có mặt. Đó là lần đầu tiên chúng tôi có 1 buổi tiệc tùng lớn đến như vậy, lần duy nhất sau này có 1 buổi tiệc lớn đến thế là vào Ngày Chiến thắng 9/5/1945. Đó là ngày hoà bình đầu tiên sau cuộc chiến đã làm tất cả chúng tôi mệt mỏi nhưng cũng đã trở nên quen thuộc, mặc dù 2 điều này nghe có vẻ trái ngược.

Tuy nhiên lúc này thì Ngày Chiến thắng vẫn còn xa. Trước mặt chúng tôi là trận đánh khó khăn vì Warsaw, con đường chông gai tới biên giới nước Đức phát xít, và tiếp đó là tới Berlin. Ko ai biết được ai sẽ đi được tới tận cùng cuộc chiến và ai sẽ nằm lại trên đất Ba Lan hay Đức. Tôi viết vội mấy bài thơ về các chiến hữu cho lễ mừng Năm Mới và chúng được hoan nghênh nhiệt liệt. Thậm chí Baturin, người cực kỳ thích được tán dương cũng vỗ tay ủng hộ tôi. Thì ra hôm đó còn là ngày sinh nhật Peter Smirnov, người vừa trở về từ quân y viện, Alex Shamshin, người vừa cùng tên vừa cùng tuổi với tôi, và cả tiểu đoàn phó Ivan Matvienko, cả 3 đều sinh gần trùng với ngày đầu năm mới. Đó chính là Lễ Mừng Năm Mới 1945, năm mà tất cả chúng tôi đều biết chắc chắn sẽ là Năm Chiến thắng!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:45:05 PM

Như ta biết sau này, Stavka (Tổng hành dinh - Bộ Tổng tư lệnh) đã lên kế hoạch mở chiến dịch giải phóng Warsaw cùng toàn bộ phần đất Ba Lan vẫn còn nằm dưới ách phát xít vào ngày 20/1. Tuy nhiên trong bức thư của mình, Thủ tướng Anh Winston Churchill đã thúc giục Stalin mở cuộc tấn công từ sông Vistula càng sớm càng tốt nhằm chuyển hướng quân Đức ra khỏi Ardennes, tình thế của quân Đồng Minh Phương Tây tại đó đang rất khó khăn. Stalin đáp ứng lời yêu cầu trợ giúp đó và Stavka đã chuyển ngày bắt đầu Chiến dịch Vistula - Oder lên 12/1. Thực tế là chỉ vài ngày sau Năm Mới, chúng tôi đã bắt đầu cấp tốc tập hợp các trung đội nhỏ nằm rải rác thành 1 đại đội dưới sự chỉ huy của Ivan Beldugov. Đó là 1 sĩ quan thấp đậm tóc vàng, mặt to trán rộng, trông có vẻ cực kỳ điềm tĩnh nhưng cứng rắn và sắc sảo.

Các sĩ quan đầy kinh nhiệm của tiểu đoàn trừng giới đã nhanh chóng tổ chức các trung đội trong đại đội. Họ là đại uý Visily Kachala, thượng uý Alex Shamshin, cùng với đó là viên thượng uý mới tới Alexei Afonin, 1 người khiêm tốn và vui tính trông có vẻ rất trẻ so với chúng tôi nhưng hoá ra lớn hơn tôi và Shamshin 4 tuổi. Alexei có đôi vai rộng, người thấp và chắc nịch, cực kỳ dai sức. Càng gặp khó khăn là anh ta càng tỏ ra cứng rắn đến mức lỳ lợm, binh lính dưới quyền luôn lên tinh thần nếu có 1 người chỉ huy như vậy. Khi tôi biết anh ta rõ hơn thì hoá ra chúng tôi cùng tốt nghiệp Học viện Lục quân Viễn Đông 2 tại Komsomolsk trên sông Amur. Chúng tôi đã leo trèo cùng 1 quả đồi, 1 ngọn núi, ăn tại cùng 1 căng tin và gác cùng 1 ngôi nhà. Tuy nhiên anh ta tốt nghiệp trung uý trước tôi 1 thời gian. Alex biết rõ về Viễn Đông, nhờ vậy chúng tôi trở thành những người bạn gần gũi. Anh đã phục vụ tại vùng Hồ Khasan ngay sau các sự kiện năm 1938 (*), sau đó là trong các đơn vị thuộc Phương diện quân Viễn Đông, và sau khi tốt nghiệp Học viện anh đến với Phương diện quân Trung tâm. Anh bị thương nặng trong trận Kursk và người ta đã đưa anh tới tận Novosibirsk để điều trị, sau 1 thời gian dài trị thương anh tốt nghiệp 1 khoá học chỉ huy đại đội và rốt cuộc được gửi tới Tiểu đoàn 8 Độc lập Trừng giới này làm trung đội trưởng.

Tôi luôn nghĩ mình chính là tay trung uý chưa hề có kinh nghiệm chiến đấu đầu tiên được chỉ định làm đại đội trưởng trừng giới năm 1943. Tôi đoán đó là do sự nhầm lẫn của ai đó, và kombat Osipov đã sửa chữa sai lầm này bằng cách để tôi dẫn dắt trung đội trinh sát. Tuy nhiên Alex lớn tuổi hơn tôi và đã có kinh nghiệm chiến đấu thực tế, từng bị thương và đã hoàn tất khoá đào tạo đại đội trưởng cũng vẫn chỉ được làm trung đội trưởng. Anh ta ko phải trường hợp duy nhất. Bạn tôi Peter Zagumennikov cũng về tiểu đoàn trừng giới làm trung đội trưởng sau khi đã chỉ huy 1 đại đội bộ binh và bị thương. Rõ ràng là người ta cố kiếm những sĩ quan đã được thử lửa và có kinh nghiệm để chỉ huy các sĩ quan bị đưa vào Tiểu đoàn trừng giới, tôi là 1 trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, như người ta thường nói: "Cách suy nghĩ của các tướng lĩnh luôn khó hiểu!"

Chúng tôi chỉ có rất ít thời gian để tập hợp các đơn vị lại với nhau, lúc này tất cả các điểm yếu của việc huấn luyện ko tập trung và chia lẻ đội hình bộc lộ. Sáng sớm ngày 11/1 đại đội hành quân bộ đến đầu cầu Magnushev đã được quân ta đánh chiếm từ mùa hè năm ngoái, nó nằm trên bờ tây sông Vistula, phía nam Warsaw. Đại đội vượt sông bằng 1 chiếc cầu gỗ đã cũ trong đêm, dưới ánh trăng thượng tuần. Băng trên sông trông như thể đã bị 1 lưỡi cày khổng lồ cày qua suốt từ bên này sang bên kia sông, đó là dấu vết của những trận pháo và ko kích. Đại đội các shtrafnik bắt đầu tấn công từ đây hôm 14/1 cùng với những người lính Tập đoàn quân 61, như vậy là chiến dịch tấn công chiến lược Vistula - Oder đã mở màn.

Tôi ko hiểu sao Beldugov ko hề có 1 đại đội phó nào, khác với Matvienko đã từng có Yanin làm phó. Tôi được lệnh đi cùng đại đội với tư cách đại đội trưởng dự bị. Đây là 1 sự thay đổi, 1 cách tổ chức mới của kombat Baturin. Theo cách này tôi ko tham chiến cùng đại đội mà bố trí bên cạnh cùng giao liên và 2 shtrafnik để có thể nắm đại đội trong trường hợp cần thiết. Thật hết sức bất tiện và phi lý, tôi lúc nào cũng cảm thấy mình vô dụng hoặc kém cỏi. Thà tôi bị hạ cấp xuống làm đại đội phó còn hơn ở cùng đại đội mà chẳng có vai trò gì, chẳng đóng góp gì.

Đầu tiên đại đội nhận nhiệm vụ chiếm 1 quả đồi. Tại đây bọn Đức đã đẩy lùi mọi cố gắng tấn công của quân ta bằng 1 hoả lực "bão lửa". Cả Beldugov và tôi đều đi đến kết luận rằng chúng tôi sẽ tận dụng 1 con suối nhỏ với nhiều bụi rậm 2 bên bờ đổ ra sông Pilica. Tôi nhớ cái tên này vì đọc lên nghe hơi giống họ của tôi. Chúng tôi sẽ vòng qua ngọn đồi đen đủi đó để tấn công từ sau lưng. Beldugov trao nhiệm vụ này cho trung đội trưởng Vasily Kachala, anh ta đã vòng qua quả đồi mà bọn Fritz ko hề hay biết và làm chúng kinh ngạc với 1 cuộc tấn công từ sau lưng. Đó là 1 cuộc tấn công với nhân tố chính là sự bất ngờ và điều đó quyết định toàn bộ kết quả. Toàn bộ đơn vị hoặc sẽ bị giết sạch trên sườn đồi phủ băng trống trải, hoặc chiếm được "ngọn đồi chó chết" đó! Trận đánh diễn ra cực nhanh, ngay khi bọn Đức phát hiện và chuyển hoả lực sang bắn về phía sau, Beldugov đã cho toàn đại đội xung phong vỗ mặt. Ngọn đồi bị chiếm, trung đội đầu tiên lên tới đỉnh là trung đội của Alex Afonin. Thương vong vẫn còn rất thấp và quân ta đã có thể tới bờ sông Pilica.

Nhiều năm sau tôi được biết 1 người lính Long kỵ trẻ thuộc Sư đoàn 5 Kỵ binh tên là Konstantin Ksaverievich đã nhận được phần thưởng nhà binh đầu tiên là Huân chương Chữ thập Thánh George (**) vì đã tham gia vào cuộc đột kích táo bạo qua sông Pilica, tên thật của người lính này là Rokossovski. Thật tiếc là lúc đó chúng tôi chưa biết điều này.

(*) Những trận đánh ác liệt đã diễn ra giữa quân đội Soviet và quân Nhật tại vùng Hồ Khasan vào tháng 7 - 8/1938 (giống hệt những trận đánh trên sông Khalhin - Gol), và người Nhật đã thua te tua. Kết quả của 2 cuộc xung đột này là 1 trong những lý do chính giữ cho người Nhật ko tham chiến trong những năm Liên Xô khó khăn nhất. Vì vậy chiến tranh Xô - Nhật đã chỉ bắt đầu vào tháng 8/1945.

(*) Tên thường gọi của Huân chương "Ghi nhận sự xuất sắc trong chiến đấu" của Nga.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:45:38 PM

Sau khi ngọn đồi bị chiếm, toàn bộ các đơn vị thuộc trung đoàn mà đại đội tôi nhận nhiệm vụ trợ chiến đã tham gia vào cuộc tấn công. Ngay sau đó toàn bộ Sư 23 Bộ binh, đơn vị mà đại đội tôi phối thuộc, cũng bắt đầu tấn công về hướng Warsaw. Họ tới ga Wlochy ở ngoại ô phía nam thủ đô Ba Lan vào sáng sớm ngày 16/1. Sau đó đại đội tôi được cho ra nghỉ, các đơn vị bộ binh được xe tăng yểm trợ vẫn tiếp tục cuộc tấn công và giải phóng hoàn toàn Warsaw ngày 17/1. Tất nhiên chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm, chúng tôi đã vượt qua mọi nẻo đường để đến được Warsaw nhưng vinh dự đánh chiếm thành phố lại được trao cho người khác. Tôi đoán có ai đó nghĩ rằng sẽ là sai trái nếu để các shtrafnik giải phóng thủ đô Ba Lan, dù chỉ là 1 phần nhỏ. Điều này cũng giống như ở Rogachev và Brest. Tại đây 1 lần nữa chúng tôi đã ko được phép tiến vào thành phố đẹp nhất châu Âu theo đánh giá của nhiều người, thủ đô đầu tiên của 1 nước phương Tây được giải phóng. Chúng tôi chỉ được xem là phương tiện hỗ trợ cho thành công của các đơn vị khác, điều đó giải thích tất cả.

Chúng tôi chỉ được phép ngắm thành phố xinh đẹp này vào cuối ngày 18/1, đi theo sau đội hình Sư 23/Tập đoàn quân 61. Ấn tượng đầu tiên là thành phố bị tàn phá thảm hại. Đó là kết quả cả do cuộc nổi dậy thất bại của người Ba Lan lẫn do kế hoạch tàn phá 1 cách có hệ thống của người Đức đối với tất cả những công trình xây dựng đẹp nhất. Chúng tôi trông thấy những dòng chữ tiếng Nga viết trên tường hay biển báo dọc đường đại khái là "Đã gỡ mìn" hoặc "Đã kiểm tra, ko có mìn" cùng với tên người công binh chịu trách nhiệm dò mìn. Khi tới phố Marhsalkovskaya chạy thẳng vào trung tâm thành phố, chúng tôi thấy có nhiều nhóm công binh cùng với chó đang tiếp tục công việc nguy hiểm là quét mìn cho thành phố. Lũ chó đánh hơi chất nổ, tôi nghĩ việc này rất khó khăn vì cả thành phố vẫn còn tràn ngập mùi thuốc súng và dynamite. Sau vụ này tôi mới biết ko chỉ có chó cứu thương hay chống tăng (*) mà chúng còn là trợ thủ trung thành của binh chủng công binh vẻ vang.

Tới đây chúng tôi bị 1 trong các đội tuần tra mới được thành lập trong thành phố chặn lại, họ ko cho phép chúng tôi đi ra khỏi bề rộng mặt đường của con phố xinh đẹp này. Sau đó thì con đường bị 1 toà nhà đổ và mấy cỗ xe tăng Đức cháy chắn ngang, phần tiếp theo của thành phố vẫn còn chưa được dò mìn. Chúng tôi rẽ phải ra bờ sông Vistula, tới gần 1 cây cầu gãy chúng tôi thấy 1 toà nhà có thiết kế đặc biệt bị phá huỷ nặng nề, trên mặt tiền còn đọc được hàng chữ Ba Lan "Ngân hàng Phát hành Ba Lan". Chúng tôi ko hiểu "phát hành" có nghĩa gì nhưng biết đây là 1 ngân hàng, vì ko có lính canh và cửa mở nên chúng tôi quyết định bước vào.

Lạy Chúa lòng lành, có vô khối tiền đủ loại nằm ngay trên sàn! Tiền zloty Ba Lan đựng trong những bao to tướng hoặc vung vãi trên sàn, tất cả đều có 1 lỗ xuyên qua, có lẽ bọn Đức muốn số tiền này trở thành ko thể tiêu được. Chúng tôi thấy cả những tấm giấy in tiền mới in 1 mặt và loại tiền Reichsmark dùng tại những vùng quân Đức chiếm đóng. Chúng tôi nghĩ số tiền này sẽ chẳng bao giờ còn dùng được nữa nhưng 1 số người tỏ ra nhiều kinh nghiệm hơn, họ lèn tiền đấy túi và sử dụng nó trong rất nhiều vụ mua bán với dân Ba Lan. Hoá ra rất nhiều người bị tiền ám ảnh, họ đoan chắc rằng thứ giấy in tiền 1 mặt là loại tiền Ba Lan mới. Trong 1 số trường hợp, 1 số "kẻ tháo vát" đã dùng nó mua được ko chỉ đồ ăn mà cả những thứ có giá trị như đồ trang sức. Khi nhìn thấy những người tích trữ tiền có những thương vụ thành công tôi thấy tiếc vì mình quá nhát, tôi đã ko lấy 1 tờ tiền nào dù chỉ để làm kỷ niệm. Tuy nhiên tôi ko ghen tị với những "kẻ may mắn". Ra đến bờ sông, chúng tôi chỉ cười vì đã vứt bỏ hàng triệu bạc và dẫm hàng triệu bạc khác dưới chân. Sau chuyến du hành trên bờ sông, chúng tôi tập trung tại điểm tập kết phía tây Warsaw. Trên mỗi bước đi chúng tôi đều thấy sự tàn phá mà bọn phát xít đã làm để biến những phần chính của thành phố Warsaw thành 1 đống đổ nát. Các sĩ quan và shtrafnik đã tham chiến ở Stalingrad đều so sánh sự đổ nát của 2 thành phố này với nhau.

Ko rõ vì tôi chẳng đóng vai trò gì trong trận đánh vì Warsaw hay vì Baturin tự nhận ra (có thể có ai đó gợi ý) rằng việc chỉ định tôi làm "đại đội trưởng thay thế" là vô lý, vậy là ông ta đã lệnh cho tôi và nhiều sĩ quan khác di chuyển độc lập. Mỗi người được cho biết điểm đến và thời gian phải có mặt. Tôi ko nhớ hết tên các địa điểm mà tôi đã đi qua bằng nhiều cách khác nhau, nhưng căn cứ vào Giấy của Tổng tư lệnh Stalin chứng nhận đã tham gia giải phóng nhiều đô thị Ba Lan khác nhau, con đường tôi đi đã qua các địa điểm Sohachew - Lowich - Skernevice - Tomashuw - Konin - Lencica.

Bọn Fritz vẫn tiếp tục chạy cả vì những đòn đánh dữ dội của quân ta lẫn vì danh tiếng của Nguyên soái Zhukov, nay đã trở thành chỉ huy Phương diện quân của tôi. Bọn Đức cũng sợ cái tên Rokossovski ko kém. Cuộc rút lui của chúng sau khi mất Warsaw giống như 1 cuộc tháo chạy tán loạn, do đó có nhiều toán quân Đức đáng kể rớt lại phía sau quân ta, trốn trong rừng và tiếp tục chống cự. Quân ta đã phải trả giá bằng rất nhiều người để quét sạch bọn này. Tôi và các đồng đội cùng nhiều người khác phần lớn đi bằng cách vẫy xe đi nhờ, thường là xe tải và đôi khi cả xe ngựa của dân Ba Lan. Đám ngựa mà mấy tay sĩ quan chúng tôi mất rất nhiều thời gian chăm sóc vì nhiều lý do đã ko còn được sử dụng, chưa từng có ý tưởng nào của tân kombat tỏ ra vô dụng đến thế. Nhiều lần các xe quân sự ko chịu dừng khi chúng tôi vẫy, vì vậy chúng tôi phải sử dụng 1 biện pháp khác chắc ăn hơn để dừng họ lại, tức là nã 1 phát súng ngắn vào lốp xe. Tất nhiên, "phương thức vẫy xe đi nhờ" này rất nguy hiểm, nếu bắn phải thứ gì đó ko phải lốp xe thì rất có thể chúng tôi sẽ bị đưa ra toà án binh. Tuy nhiều vì 1 số lý do chúng tôi ko ngán toà án binh. 1 lần 1 viên thiếu tá đã nhảy khỏi chiếc xe bị chúng tôi bắt dừng theo kiểu đó, súng lăm lăm trong tay và gào lên doạ tống chúng tôi vào tiểu đoàn trừng giới vì cái trò bậy bạ này. Tôi bèn cho ông ta xem chứng minh thư sĩ quan với chức danh đại uý Tiểu đoàn Trừng giới Độc lập 8, ông ta điếng người, nhưng sau đó chúng tôi làm hoà và ông ta đưa chúng tôi an toàn tới nơi chúng tôi cần.

Tôi thích đứng trên thùng xe tải cho gió thổi vào mặt . Má và môi tê đi vì hơi lạnh gợi nhớ đến vùng Viễn Đông thân thương với những mùa đông tuổi thơ. Hồi học cấp 2 ở Obluch cách nhà 40km tôi cũng thường đi về bằng tàu hoả với cửa mở toang.

Khoảng ngày 20 - 21/1, tôi đã tới thị trấn Kutno. Ban tham mưu tiểu đoàn đã đóng sẵn tại đây cùng các đơn vị hậu cần với xe ngựa và xe tải. Thị trấn trông có vẻ rất ấm cúng, nó hoàn toàn chưa bị chiến tranh đụng tới như những vùng đất của Tổ quốc tôi. Thật ko thể tưởng tượng được là hệ thống điện và cấp thoát nước ở Kutno vẫn hoạt động. Có lẽ bọn Đức định để dành thị trấn này cho 1 việc gì đó hoặc do chúng tháo chạy quá nhanh nên ko kịp tàn phá. Bù lại có rất nhiều biển báo với hàng chữ "Pst!" hoặc "Im miệng!" với hình vẽ ngón trỏ đặt trên môi. Chúng tôi thậm chí còn thấy cả những poster và biển chỉ đường có nội dung tương tự: "Đừng nói gì!", "Kẻ ba hoa sẽ gặp phải bọn gián điệp" v.v...

(*) Quân đội Soviet huấn luyện được 1 số lượng đáng kể chó cho mục đích vận chuyển giấy tờ và đạn dược cũng như sơ tán thương binh khỏi trận địa bằng xe trượt tuyết. 1 số chó cũng được sử dụng có hiệu quả cho mục đích chống tăng.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:45:47 PM

Tôi tình cờ được ở trong 1 căn nhà sạch sẽ ngăn nắp với mái ngói đỏ và tường rào chắc chắn. Căn nhà thuộc sở hữu của 1 bác sĩ thú y địa phương và vợ là 1 phụ nữ trẻ đẹp vốn là bà con họ hàng, cô ta chỉ phòng cho tôi rồi đề nghị tôi đi tắm. Thật sung sướng! Có cả xà phòng thơm và khăn tắm dày có lông! Ko phải thứ khăn tắm quân đội phát vừa nhẹ vừa có lỗ mà tôi vẫn phải dùng để tắm! Cô chủ nhà đặc biệt quan tâm chú ý đến căn phòng được giao cho tôi với giường êm nệm ấm, 1 cái ghế sofa, 1 bàn làm việc rộng có đèn bàn chụp màu xanh lá khiến ko khí trong phòng hết sức ấm cúng.

Tôi hỏi xem các sĩ quan khác trong đại đội đang ở đâu. Vậy là ngoài George Razhev và Fyodor Usmanov, người ta mới gửi tới đại đội tôi thêm thiếu uý Kuznetsov. Anh ta mới tới tiểu đoàn, là người khá điển trai nhưng hơi lùn và gầy. Anh từng có biệt danh "châu chấu" vì vóc người thấp bé, giọng nói cao và yếu, dễ đỏ mặt y như 1 cô gái. Tôi muốn tìm hiểu thêm về anh ta, đặc biệt là khi tôi ko muốn ở 1 mình trong ngôi nhà này với 1 cô chủ nhà quá dễ thương, chồng cô vừa đi đâu đó vì công việc. Cũng cần có quyết định sớm vì tay Don Juan của đại đội George Razhev cũng đề nghị được ở cùng tôi, tôi biết cậu ta đã để ý đến cô chủ xinh đẹp và việc cậu ta ở cùng có thể kết thúc bằng 1 vụ scandal hay quấy rối. Vậy là tôi từ chối đề nghị của Razhev, nại rằng tôi muốn tìm hiểu kỹ hơn về "châu chấu".

Chúng tôi ở lại Kutno vài ngày, tại đó người ta kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về 1 kobeta, tên thường gọi 1 loại phụ nữ trẻ Ba Lan. Đó là 1 cô gái xinh đẹp, thân hình rất hấp dẫn đã sống như vợ chồng với 1 sĩ quan Đức thuộc đội trừng giới Waffen SS. Cô sống với hắn với mong muốn trở thành 1 bà lớn trong thị trấn nhỏ này và thậm chí đã có 1 đứa con với tay sĩ quan Waffen SS. Đứa con trai 2 tuổi tóc đỏ nhưng lác mắt. Nhưng tên sĩ quan Đức đã tháo chạy về phía tây mà ko mang cô đi cùng với đứa con. Tôi đã nhìn thấy đứa bé đó, người ta vẫn gọi nó là "đồ chó" hay "đồ con hoang Fritz" chứ ko gọi tên. Lòng căm thù với bọn Waffen SS, giống "Aryan thượng đẳng", trong chúng tôi là rất mạnh mẽ đối với bất kỳ tên Đức nào, đó là thực tế.

Tôi hiểu hồi đó tôi đã cư xử sai trong 1 số trường hợp, nhưng lòng căm thù đã cắm rễ rất sâu trong suy nghĩ mỗi người, ko thể khác được. Tôi có thể nhắc lại 1 số khẩu hiệu, thí dụ "Bạn ko thể tiêu diệt kẻ thù nếu ko biết cách căm thù chúng bằng cả trái tim" hay "Nếu kẻ địch ko đầu hàng, chúng phải bị tiêu diệt". Tất tật poster, báo chí, phim ảnh, thậm chí cả phát ngôn công khai mạnh mẽ của Ilia Erenburg và nhiều nhà văn nổi tiếng khác cũng đều có mục đích "Giết bọn Đức!" Vì thế chúng tôi đã học được cách căm thù và tiêu diệt chúng. Tất nhiên chúng tôi hiểu chỉ nên giết những kẻ đã đến đất nước tôi, Tổ quốc tôi với gươm và lửa, nhưng 1 cách logic, lòng căm thù của chúng tôi mở rộng với mọi người Đức, mọi thứ liên quan đến nước Đức ngoại trừ những thứ chúng tôi thu lấy làm chiến lợi phẩm hợp pháp. Tuy nhiên nhiều binh lính vẫn ko muốn đổi những chiếc thắt lưng vải bạt lấy thắt lưng Đức có khoá nhôm chỉ vì nó khắc chữ "Gott mit uns!", tức là Chúa ở bên ta.

1 sự kiện khác đã xảy ra ở Kutno là người ta đã tóm được tay shtrafnik Kasperovich ở Belorussia, hắn là kẻ đã đào ngũ ở Narev khi xin được đi sửa đường dây điện thoại hỏng. Vậy là vào tháng 1/1945, vì 1 số lý do hắn lại tới tiểu đoàn tôi. Tôi đoán có lẽ ai đó muốn tổ chức 1 phiên toà án binh đối với hắn và 1 cuộc xử bắn công khai mà hắn đáng được hưởng, đó sẽ là 1 tấm gương cho mọi shtrafnik khác. Tôi nghĩ tất cả chúng tôi, cả sĩ quan chỉ huy và shtrafnik cựu sĩ quan, lúc đó đều đoán thế.

Vì ko thể để kẻ đào ngũ ko có người canh gác, kombat quyết định tống hắn lên gác mái căn nhà ban tham mưu tiểu đoàn đang ở. Lính canh cũng là 1 shtrafnik, anh ta đã bị nghiêm khắc cảnh báo về hình phạt sẽ phải chịu nếu tự mình ra tay xử lý tên đào ngũ, bất kể với lý do gì. Kasperovich tin vào khả năng của mình, hắn bắt đầu chọc tức anh lính canh bằng cách làm ra vẻ định trốn. Hắn phá thủng 1 lỗ trên mái nhà và nhặt ngói ném anh lính. Anh lính nhịn được 1 lúc rồi bắt đầu cố đưa tên đào ngũ vào quy củ, cuối cùng hết chịu nổi, anh ta nã 1 viên đạn vào vai làm hắn bị thương. Người ta phải chuyển tên tù bị thương tới quân y viện dã chiến gần đó và cắt người canh gác, thậm chí ngay cả những năm chiến tranh ác liệt nhất người ta vẫn tin rằng ko thể xét xử hay hành quyết tù nhân đang bị thương hay ốm. Lúc hắn ở quân y viện đã ko có phiên xét xử nào hết, và tôi ko rõ cuối cùng đã có chuyện gì xảy ra với hắn, nhiều sự kiện khác đã cuốn tôi khỏi câu chuyện này.

Giữa tháng 2, kombat giao nhiệm vụ cho tôi tới chỗ các đơn vị hậu cần vẫn còn đóng trong mấy ngôi làng Ba Lan mà chúng tôi đã ở trước chiến dịch tấn công Warsaw. Ko hiểu sao Baturin lại lệnh cho tôi làm việc này, đây là 1 hình thức giải buồn, nó giúp tôi thoát khỏi vị trí kẻ xa lạ trong đại đội của Belgudov. Nhiệm vụ của tôi là đưa tận tay cán bộ các đơn vị hậu cần đang đóng rải rác mệnh lệnh tập hợp tới chỗ ban tham mưu. Sau đó tôi nhận ra 2 con bò sữa vẫn còn đó và tôi giúp đánh về vì thiếu chúng đại tá cảm thấy rất khó ở. Tôi ko rõ ông có bị loét dạ dày hay bệnh tật gì khác ko nhưng tôi hiểu việc đưa 2 chú bò sữa về là 1 phần quan trọng trong nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên kombat ko phải lo về chuyện tôi sẽ đích thân đánh bò dẫn đầu đoàn xe hậu cần, có đủ xe tải để chở tất cả đồ của tiểu đoàn cũng như tư trang của các sĩ quan, kể cả chiếc harmonica của Michael Goldstein và máy quay đĩa cùng đĩa hát của tôi.

Tôi truyền lệnh trực tiếp cho thượng sĩ Fermanyuk, đưa cho anh ta bản đồ chỉ đường tới Kutno. Sau đó tôi quyết định tới thăm Rita ở quân y viện, ko cần sự cho phép của kombat, tự tôi chịu trách nhiệm việc này. Tôi hy vọng tối thiểu là gặp được cô vì quân y viện vẫn đóng tại Lochuv mặc dù chiến tuyến đã tiến xa về phía tây. Tuy nhiên mọi thứ ko diễn ra như tôi mong đợi, Rita lao tới ôm chầm lấy tôi và bất ngờ hỏi có thể đi cùng tôi tới tiểu đoàn trừng giới ko. Có lẽ cô đã bàn với mẹ về việc này và thật ngạc nhiên, Ekaterina Nikolaevna ủng hộ nó. Tôi ko rõ kombat Baturin sẽ phản ứng ra sao nhưng vẫn đồng ý 1 cách nước đôi vì nghĩ lãnh đạo quân y viện sẽ khó mà để Rita đi. Thật quá sức ngạc nhiên, sếp quân y viện, đại uý quân y Nisonov nhận lời ngay lập tức và nồng nhiệt chúc mừng chúng tôi về đám cưới tiền tuyến vừa qua. Gần như ngay lập tức sau đó ông xúc tiến việc thiên chuyển vợ tôi, lệnh cho nhân viên thảo các giấy tờ cần thiết. Như Rita nói, việc để chúng tôi về với nhau thật dễ dàng và ko có gì trở ngại dù thoạt nhìn có vẻ rất rắc rối. Cô đã nói với mẹ và sếp quân y viện rằng sẽ theo chồng tới bất cứ đâu và bằng bất cứ giá nào. Và họ hiểu quyết định của cô!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:45:56 PM

Thế là xong, 1 tấm vé nghỉ mát, thực chất là 1 tờ lệnh "trình diện tại nơi phục vụ mới, đơn vị số 07380". Ngay trong ngày Rita đã đóng gói xong hành lý thành 1 túi lớn để sẵn sàng cho "tuần trăng mật tại tiểu đoàn trừng giới". Cô thầm thì dặn dò vào tai mẹ và cậu em trai, hôn tất cả các bạn gái, vẫy tay với 1 đám đông đầy phấn khích ra tiễn đưa cô gồm các bác sĩ, y tá và cả 1 số thương binh cho đến khi có xe cho chúng tôi đi nhờ. Chúng tôi ra ga và vui mừng biết rằng nhiều đoàn tàu đang chuẩn bị ra tiền tuyến, điều duy nhất phải làm là trèo lên 1 toa hàng trống, và tiến về phía tây, ôm siết lấy nhau để chống lại cái lạnh, ko cần biết điều gì đang chờ đợi ở cuối cuộc hành trình. Tôi liên tục kiểm tra bản đồ để xem tên mỗi nhà ga đi qua có trùng với nơi chúng tôi cần tới ko. Thật may mắn, chúng tôi đã đi đúng hướng, tuy nhiên đoàn tàu ko đến được ga Kutno vì nơi đó chưa được sửa xong, vì vậy chúng tôi tiếp tục hành trình bằng ô tô.

Ban tham mưu tiểu đoàn ko còn đóng tại vị trí cũ, nó đã chuyển đi nơi khác. May sao Fermanyuk cũng tới cùng lúc dẫn theo đoàn xe tải của tiểu đoàn. Chúng tôi nhận tin tức về đường đi của ban tham mưu tiểu đoàn từ sĩ quan quân quản địa phương và tiếp tục chuyến hành trình cùng nhau. Qua bản đồ chúng tôi thấy biên giới nước Đức đã rất gần. Đó là hang ổ của con quái vật đã hành hạ đất nước tôi suốt 3 năm, và giờ là lúc nó phải trả giá cho những tội ác của mình. Mặc dù tất cả đã chờ đợi thời điểm này từ nhiều tháng nhưng nó vẫn gây bất ngờ cho chúng tôi, khi đang đi qua 1 cây cầu đơn sơ bắc ngang 1 dòng sông bình thường chúng tôi nhìn thấy 1 tấm biển lớn: "Nó đây, nước Đức đáng nguyền rủa!" Ngay sau khi vượt cầu, chúng tôi nhìn thấy 1 tấm biển chỉ đường đúng tiêu chuẩn Đức ghi hàng chữ: "Berlin, còn nhiều km". 1 con dê già chết đóng băng đông cứng bị buộc vào tấm biển, 1 chân trước chỉ về hướng Berlin trên có treo 1 tấm bảng gỗ ghi dòng chữ tiếng Nga: "Đến Berlin!!!"

Chúng tôi phóng thêm 1 đoạn thì thấy nhiều cỗ xe đang đứng trước lối vào 1 ngôi làng, rất nhiều quân nhân cũng đang ở đó. Chúng tôi dừng xe xuống đi bộ, tôi cùng Rita và Fermanyuk, để hỏi xem có thể đi xe tiếp được nữa ko. Khi bước lại gần, chúng tôi chết lặng vì 1 cảnh tượng kinh khiếp: 5 - 6 xác phụ nữ trần truồng nằm bên vệ đường, trong đó 1 đứa trẻ vị thành niên và thậm chí 1 cô bé mới độ 6 - 7 tuổi. Có lẽ đó là 1 gia đình, tất cả đều nằm ngửa, xác họ bị ấn xuống đất và là phẳng. Có nhiều vết xích trên mặt đất, có lẽ nhiều cỗ xe tăng đã cán qua họ, hoặc 1 chiếc cán qua nhiều lần. Có vẻ như 1 lính tăng Soviet đã quá căm thù người Đức vì những tội ác họ gây ra với đất nước ta, hoặc anh ta trả thù cho chính những người thân trong gia đình mình đã bị giết. Dù sao những xác chết này đã nằm 1 cách quá ngay ngắn, chắc họ bị bắn trước rồi mới bị đặt ra đường cho xe tăng cán.

Rita quay mặt đi, vùi đầu vào vai tôi, người cô run lên trong tiếng khóc cố kìm nén. Tôi túm lưng cô đẩy trở lại xe tải và cố làm cô bình tĩnh lại nhưng cô chỉ nhắc đi nhắc lại 1 câu trong tiếng thổn thức: "Tại sao? Tại sao lại làm thế? Tại sao?" Tôi nghĩ tay lính lái tăng đúng là 1 con quỷ, đây ko còn là báo thù mà là 1 hành động trả thù phi nhân tính, ko thể bào chữa cho 1 hành động như vậy! Tất nhiên mỗi người chúng tôi đều mất đi nhiều người thân vì chiến tranh, cũng như mỗi đôi ủng Đức đều vấy máu, tất cả đều biết sự tàn ác của bọn SS, những kẻ tra tấn và giết hại phụ nữ, trẻ em, thiêu sống và treo cổ họ. Ko ai có thể quên hay tha thứ cho những tội ác đó dù là sau nhiều thế kỷ nữa, nhưng chúng ta ko phải bọn phát xít, chúng ta ko nên hành động giống như chúng!

Chúng tôi đi qua cái nơi ghê rợn đó, phóng xe xuyên qua 1 cánh đồng đang tan băng. Chúng tôi cứ đi trong im lặng 1 lúc lâu, Rita vẫn tiếp tục thổn thức, tôi suy nghĩ mông lung về cảnh tượng kinh khủng vừa thấy. Đương nhiên chúng tôi căm ghét bọn phát xít ko giới hạn và việc rũ bỏ lòng căm thù đó ra khỏi mỗi trái tim là cực kỳ khó khăn, đặc biệt là khi cuối cùng chúng tôi đã ở trên đất nước của kẻ thù. Nó đây rồi, nước Đức đáng nguyền rủa. Cái biên giới này đã ở trong tiềm thức chúng tôi 1 thời gian dài, nhiều người đã chết trước khi tới được nó trong các trận đánh ở Belorussia và Stalingrad, ở Ukraina và Ba Lan. Những người chết vẫn mong đợi chúng tôi tới được đây. Họ đã nằm lại khắp đầm lầy, rừng rú, dưới đáy sông hay trên những cánh đồng phủ tuyết. Ai biết có bao giờ tìm lại được thân xác họ ko? Họ chẳng bao giờ biết chúng tôi đã tới được "nơi khởi nguồn của lũ quỷ". Chúng tôi nhớ lại tất cả những đồng đội đã ngã xuống ngay thời điểm tiến vào đất địch và muốn nói với họ: "Các bạn cũng đang vượt qua đường biên giới này cùng chúng tôi. Nếu ko có sự cống hiến của các bạn tới tận hơi thở cuối cùng, chúng tôi đã ko thể ở đây." Chúng tôi cũng nhớ tới những lời thề đọc bên mộ các đồng đội: "Báo thù!" Niềm khát khao, quyết tâm vĩnh cửu của chúng tôi, Chiến thắng, đã đến gần, lời thề của chúng tôi đã thành hiện thực. Nhưng chúng tôi ko muốn kiểu báo thù "hoang dã" như vừa nhìn thấy.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:47:19 PM

Thật khó mà kiềm chế 1 đội quân đã chiến đấu gần 4 năm ko có những hành động tàn bạo. Nhưng chúng ta ko chiến đấu chống người dân Đức mà là quân đội Đức, kẻ đã gây chiến và là lũ tội phạm đã giết chết hàng triệu người dân Soviet vô tội, cả người già, phụ nữ và trẻ em! Chúng ta chiến đấu để tiêu diệt chủ nghĩa phát xít và quân đội của nó mà hiện thân là thứ học thuyết "Trật tự mới" (Neue Ordnung) phi nhân tính và đẫm máu của Hitler. Chúng tôi còn nhớ câu nói: "Những tên Hitler đến rồi đi nhưng nước Đức thì còn mãi". Tuy nhiên tôi đoán rằng các trường hợp trả thù "hoang dã" như vừa thấy ko phải ít khiến Stavka - Bộ chỉ huy tối cao buộc phải ban hành 1 mệnh lệnh nghiêm khắc với những hình phạt cứng rắn lên tới mức tử hình để ngăn lòng căm thù với bọn Nazi đổ lên đầu các thường dân Đức hiền hoà. Như chúng tôi thấy lúc đó, mệnh lệnh này đã có tác dụng ngay lập tức, ai cũng có thể nhận ra điều này qua thực tế là nhiều người đã bị tống vào tiểu đoàn trừng giới của tôi vì tội cướp bóc dân thường và nhiều tội khác chống thường dân Đức.

Tiếp tục câu chuyện, tôi phải nói rằng phần lớn các sĩ quan bị trừng phạt này chưa từng giết được tên Đức nào trong chiến đấu nhưng lại tỏ ra rất hung hăng trong cư xử với các thường dân Đức. Sự cám dỗ thực sự nằm ở việc nắm giữ những sinh mạng Đức! Ko như ở mặt trận, nơi ko biết ai giết được ai, hậu phương này là nơi người ta có thể làm bất kỳ điều gì mình muốn mà ko có rủi ro tới tính mạng. Trong những người bị tống vào tiểu đoàn trừng giới vì tội ác chống thường dân có nhiều sĩ quan hậu cần, 1 số thậm chí sau ngày Chiến thắng. Đó là những gì thực sự đã diễn ra.

Chúng tôi tiếp tục hành trình trong im lặng, ai nấy đều chìm trong suy nghĩ. Nhiều ngôi làng bị bỏ trống, cư dân địa phương bỏ trốn theo lời tuyên truyền láo toét của Goebbel hoặc bị buộc phải di tản. Chỉ sau khi có lệnh bảo vệ thường dân và ko còn nơi nào để chạy họ mới treo những mảnh vải trắng lên cửa sổ để xin hàng còn bây giờ, tại đây, trên phần đất Đức phía đông sông Oder này chỉ còn rất ít dân địa phương. Chúng tôi thấy ngày càng nhiều người tị nạn trở về từ các trại giam Đức, kiệt sức và áo quần xác xơ.

Chúng tôi bắt kịp sở chỉ huy tiểu đoàn sau khi đại đội của Beldugov vừa bị ném vào 1 trận đánh chống phản công tại Stargard. 1 lực lượng Đức mạnh định chọc thủng vòng vây tại đó từ hướng Đông Pomerania, chúng đang bị Phương diện quân Belorussia 2 của Nguyên soái Rokossovski bao vây. Quân địch đã thay đổi được cán cân lực lượng theo hướng có lợi cho chúng trong thời gian ngắn. Ngày 17/2 bọn Đức mở 1 chiến dịch phản công dữ dội từ Stargard khiến quân ta trong đó có Tập đoàn quân 61 buộc phải rút lui. Đại đội của Beldugov 1 lần nữa bị ném vào trận đánh ngăn chặn các cuộc xung phong của bọn Đức trong đội hình Sư 23/Tập đoàn quân 61, đơn vị từng chiến đấu trên đường tới Warsaw. Nguyên soái Zhukov ném vào 1 lực lượng tăng cường mạnh đập tan sức kháng cự của bọn Nazi và hội quân với Rokossovski, sau đó quay trở lại tấn công vào ngày 1/3. Cùng lúc đó đại đội trừng giới đã kết liễu số quân địch còn lại ở Stargard, giải phóng thành phố. Tôi đã ko về kịp để tham gia vào các trận đánh đó nhưng theo lời các sĩ quan khác kể lại, đó là 1 trận đánh ác liệt kéo dài nhiều ngày tương tự như các trận đánh tiêu diệt địch trong vòng vây ở Brest. Quân địch tại đây cũng liều lĩnh như ở Brest, chúng ko còn cơ hội nào nhưng thương vong của quân ta cũng cao.

Tôi tới xem thành phố Stargard khoảng hôm 10/3. Đó là 1 thị trấn lớn giống như nhiều thị trấn Đức đã được bọn Nazi biến thành cứ điểm kháng cự. Thị trấn gần như đã bị phá huỷ hoàn toàn. Trước đó tôi đã gặp kombat để báo cáo các đơn vị hậu cần tiểu đoàn đã tới nơi, ko có mất mát gì. Tôi ko nhắc tới mấy chị bò vì muốn chờ cho kombat tự hỏi nhưng kombat ko hỏi gì thêm. Tôi đoán ông ta hiểu "ko mất mát gì" có nghĩa là bò cũng còn nguyên. Tất nhiên tôi tận dụng lúc ông ta đang có tâm trạng tốt để báo cáo rằng vợ mình đã được quân y viện thiên chuyển về tiểu đoàn. Tôi giới thiệu Rita với ông và cô đã báo cáo với đầy đủ nghi thức nhà binh nghiêm túc rằng cô đã được bàn giao về đơn vị ông, đồng thời trao cho kombat các giấy tờ. Tôi lập tức đề nghị kombat, cốt để ông ko có thời gian phản ứng, giao "hạ sĩ Makarievskaya về trạm phẫu tiểu đoàn dưới sự chỉ huy của đại uý quân y Buzun". Có lẽ Baturin ko chờ đợi việc này nên chỉ nhún vai. Sau đó ông lệnh cho tôi chuyển lời tới Stepan Petrovich Buzun, giao ông này chịu trách nhiệm về Rita. Ơn Chúa! Mọi thứ rất tốt đẹp.

Đại đội của Beldugov co lại 1 cách đáng kể sau trận Stargard và như 1 con thú đang liếm láp các vết thương. Họ nhập vào thê đội 2 của Sư 23, theo sau những đơn vị thiết giáp tiến về hướng sông Oder, trực chỉ Stettin. Họ hành quân ngay sau các trung đoàn bộ binh, lúc nào cũng trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu như những gì đã xảy ra ở Stargard. Kombat lại tìm ra 1 việc làm mới cho tôi, đó là lập 1 đại đội nữa từ các shtrafnik đang tới để có thể thay thế hoặc tham gia cùng đại đội đang chiến đấu vào thời điểm cần thiết.

1 phần ban tham mưu tiểu đoàn và các đơn vị hậu bị thay đổi vị trí 2 - 3 ngày 1 lần tuỳ thuộc vào tốc độ tiến lên của mặt trận, trạm phẫu tiểu đoàn cũng thuộc nhóm này. Trong khi đó phần còn lại trong đó có y sĩ Ivan Demenkov đi cùng đại đội của Beldugov. Đó là lý do bác sĩ chính của tiểu đoàn Stepan Petrovich rất hoan hỉ khi có được 1 y tá giàu kinh nghiệm trong trạm phẫu, ông đặc biệt quan tâm đến cô trong nhiệm vụ mới vì nó rất khác với nhiệm vụ tại 1 quân y viện đóng cố định. Tại đây cô phải làm quen với việc băng bó thương binh trên chiến địa.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:47:34 PM

Tiểu đoàn tiếp tục hành quân theo sau các sư đoàn thuộc thê đội 1 Tập đoàn quân 61, đôi khi gần bắt kịp cả các đơn vị tiền tiêu còn thường là ở cách 5 - 6km phía sau. Khoảng ngày 15/3 khi sư đoàn đi đầu dừng lại vì gặp phải sức kháng cự mạnh của địch thì chúng tôi đã đến ngoại ô Altdamm, thị trấn nằm trên bờ đông sông Oder đối diện với Stettin. Tại đây tôi nhận lệnh chuyển quân trong đơn vị mình cho đại đội của Beldugov, đơn vị của tôi ko phải là 1 đại đội đầy đủ mà tốt nhất nên gọi là 1 bán đại đội vì chỉ có 1 trung đội rưỡi. Ở đây cần lưu ý rằng tôi vẫn gọi đại đội theo tên của đại đội trưởng. Tôi ko nhớ số chính thức của đại đội nhưng những con số này ko có ý nghĩa gì vì chỉ có mỗi 1 đại đội này chiến đấu trong suốt giai đoạn đó.

Theo Alexei Afonin, 1 trong các trung đội trưởng của đại đội Beldugov, viết cho tôi trong bức thư năm 2002, bán đại đội của tôi bắt kịp đại đội Beldugov vào lúc rạng sáng tại khu vực ngay sát ngoại ô Altdamm. Tại đó các shtrafnik chuẩn bị tấn công thị trấn. 1 trung đội rưỡi mà tôi vừa mang tới cũng đã được trang bị đầy đủ và nhanh chóng được phân vào các trung đội gần như ko còn người của đại đội chính. Trung đội của Châu chấu - thiếu uý Kuznetsov, được nhập nguyên vẹn trong khi bản thân anh được thay thế Alexander Shamshin đang bị thương. Đây là lần thử lửa đầu tiên của Kuznetsov. Như tôi biết sau đó, đây cũng là cuộc thử lửa đầu tiên của Rita, chắc bác sĩ Buzun đã cử cô ra tiền tuyến. Chính Buzun cũng ra tuyến đầu nốt và thiết lập trạm phẫu ngay tại chỗ, biến các y sĩ và y tá trên thực tế trở thành 1 bộ phận của đại đội.

1 lần nữa tôi lại vô công rồi nghề vì ko nhận được mệnh lệnh gì thêm sau khi đã bàn giao bán đại đội của mình. Theo lẽ tự nhiên trong điều kiện chiến đấu liên tục, và cũng vì Rita đã ở bên tôi nên tôi tự ra 1 quyết định. Tôi làm ra vẻ tình nguyện nhận vị trí chỉ huy dự bị, vai trò tôi đã đóng trong trận đánh chiếm ngoại ô Warsaw. Beldugov sung sướng đồng ý với quyết định của tôi, nhờ vậy tôi được xếp ở ngay cạnh đại đội trưởng và trung đội của Alex Afonin, trong khi trung đội của Kuznetsov bố trí bên phải. Ivan Beldugov thông báo ngắn gọn cho tôi về nhiệm vụ tấn công vào các vị trí Đức, vượt qua chiến tuyến mà các đơn vị bộ binh sư đoàn đang bố trí. 1 lần nữa tôi đã được dẫn đầu xung phong, đập tan sức kháng cự của địch trong 1 trấn chiến đô thị.

Altdamm là 1 thị trấn với 1 con phố lớn duy nhất chạy dọc bờ sông, 2 bên là những căn nhà xây bằng đá. Phần phía đông thị trấn đang ở trước mặt chúng tôi với những căn nhà và sân vườn nằm trên con phố chính. Chúng tôi nhanh chóng chiếm được nó, "chỉ bằng 1 hơi", mặc dù bọn Đức kháng cự mạnh mẽ và quân ta thương vong đáng kể. Ivan Demenkov băng bó thương binh và chuyển họ về "tuyến sau" cách khu vực xung phong chừng 50 - 60m, trong 1 mảnh sân. Rita là trợ lý của anh, cô chạy nhanh và kỹ thuật, thỉnh thoảng trườn bò giữa những người bị thương.

Bên kia phố, bọn Đức bắn loạn xạ vào chúng tôi bằng súng trường và súng máy từ vô số cửa sổ tầng hầm đã được chúng biến thành những lỗ châu mai. Hoả lực tiểu liên và súng máy dữ dội của chúng đã ghim chặt đại đội tôi ở bên này con phố. Beldugov gửi 1 giao liên tới trung đoàn thuộc sư bộ binh mà chúng tôi đang phối thuộc đề nghị gửi tới vài khẩu 45mm chống tăng để bắn trực xạ vào các mục tiêu nhưng vì 1 số lý do các khẩu pháo đã ko bao giờ tới. Có lẽ người ta ko kiếm được khẩu pháo nào ở quanh đây. Cố gắng của chúng tôi nhằm tiêu diệt những ổ súng máy bằng lựu đạn ko đem lại kết quả. Khoảng cách tới các lỗ châu mai quá lớn khiến rất khó ném trúng, mà chúng tôi cũng ko muốn tiêu phí lựu đạn. Nã đạn súng trường chống tăng từ các cửa sổ vào chúng cũng ko đem lại kết quả mong đợi.

Tôi cảm thấy chán nản vì nghĩ đại đội mình ko được giúp đỡ và người của mình ko thể làm gì được trong tình thế này. Tôi cũng ko dám chắc các ngôi nhà bên này phố đã ko còn địch. Điều gì sẽ xảy ra nếu đại đội xung phong qua phố mà bị bọn Đức bắn súng máy từ sau lưng? Tôi cũng như đại đội trưởng Ivan Beldugov đều phải nhanh chóng tìm kiếm 1 lối thoát và cả 2 cùng đi đến kết luận là phải kiểm tra lại các ngôi nhà đã chiếm được trước đã. Beldugov lệnh cho Kuznetsov dẫn 1 phần trung đội đi kiểm tra các căn nhà và việc đó đã ko vô ích, trên tầng 2 và gác mái của 1 số căn, họ đã phát hiện và tiêu diệt cả 1 mạng lưới hoả lực súng máy được bọn Đức bí mật cài lại.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:48:26 PM

Đang lúc đó tôi lại thấy Rita đang bò về phía mình, tôi cảm thấy rất khó ở, chỗ của cô ấy là giữa các thương binh chứ ko phải nơi đạn bay súng nổ như hoả ngục này! Tôi gọi cô, vẫy tay, sau đó là huýt sáo cùng đủ mọi cử chỉ ngu ngốc khác nhưng cô vẫn ko nghe thấy! Tôi muốn cô biết rằng đây là vị trí rất nguy hiểm nhưng cùng lúc cũng thấy thích thú và tự hào vì có người vợ ko hề sợ tuyến đầu! Tôi nghĩ giờ ko còn phải xấu hổ khi xin với Baturin cho Rita về tiểu đoàn trước khi có sự đồng ý của ông.

Cuộc kiểm tra thành công các ngôi nhà bên này con phố khiến chúng tôi thấy rõ việc đánh giá tình hình là cần thiết và phải được tiến hành đúng lúc. Tuy nhiên nó sẽ chỉ có tác dụng với các trận đánh sau này còn bây giờ chúng tôi vẫn phải quyết định xem làm thế nào mà chiếm được những căn nhà bên kia đường. Đúng lúc đang lúng túng vì ko biết làm thế nào, có lẽ vì tôi còn thiếu kinh nghiệm chiến đấu, thì Alex Afonin và shtrafnik Yastrebkov bò đến chỗ tôi. Yastrebkov vừa mới được chuyển vào đây từ bán đại đội của tôi. Họ đề xuất 1 phương án cực kỳ liều lĩnh mà với tôi có vẻ như là 1 ý tưởng hoàn toàn ko thể thực hiện được. Ý tưởng đó là để cho Yastrebkov mang theo toàn bộ số lựu đạn còn lại rồi giả làm "1 tên đào ngũ" chạy thẳng sang bên kia đường. Sau khi đã qua được bên kia, anh ta sẽ nép mình vào tường để bọn Đức ko thể bắn được từ các lỗ châu mai, sau đó quẳng 1 - 2 quả lựu đạn vào mỗi cửa sổ để diệt lưới súng máy đang ghim chặt đại đội tôi xuống đất. Để bọn Đức tin rằng anh đúng là 1 tên đào ngũ, anh sẽ ló hẳn ra cho chúng thấy và hô "Nicht schiessen!" (Đừng bắn! - Maseo) Khi anh ta giơ tay lên trời tất cả chúng tôi sẽ bắn vào anh nhưng nhắm lên hơi cao để chắc chắn là sẽ bắn trượt.

Tôi ko chịu đồng ý ngay, ko phải vì ko tin tay shtrafnik, anh ta đã tình nguyện nhận 1 nhiệm vụ gần như chắc chết và chúng tôi hiểu rõ anh. Chắc anh ta ko thấy có cơ hội nào trong tình thế này. Tôi nhớ hồi anh còn ở trong "bán đại đội" của mình và tin anh là 1 người trung thực, đã có nhiều kinh nghiệm bộ binh trước khi bị tống vào tiểu đoàn trừng giới. Anh từng là đại đội trưởng bộ binh và có 3 huân chương chiến đấu trên ngực áo. Khi tôi thành lập đại đội, anh được cử làm tiểu đội trưởng và đã chứng tỏ khả năng cũng như tài tháo vát nhiều lần.

Tôi đoán trong chiến tranh ko ai là ko sợ phải nhận 1 viên đạn hay 1 mảnh đạn vào người. Tuy nhiên tôi nghĩ trong tình thế này tay shtrafnik, 1 cựu sĩ quan với quan sát tỉnh táo của 1 người chỉ huy đã cảm thấy trách nhiệm cá nhân của mình trong việc giải quyết trận đánh. Chắc chắn anh đã rất quan tâm lo lắng cho chiến thắng của trận đánh đến mức sự an toàn của bản thân trở nên ko còn quan trọng. Tôi nhận thấy 1 số sĩ quan đồng đội cũng có những suy nghĩ kiểu này, ví dụ như Yanin, Semykin, Sergeev và nhiều người nữa, chính tôi thỉnh thoảng cũng suy nghĩ như vậy. Có lẽ Yastrebkov cũng thế.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:48:38 PM

Dù sao tôi cũng ko thể đồng ý với đề xuất vì ko phải là chỉ huy trực tiếp, vì vậy tôi đề nghị Afonin trước hết hãy thông báo ý tưởng với đại đội trưởng. Sau khi được chấp thuận còn phải giải thích chi tiết nhiệm vụ cho các trung đội khác nữa để mọi người đều nắm rõ mưu kế và bắn vào "tên đào ngũ phản bội" y như thật, đồng thời bắn cả vào các lỗ châu mai địch.

Chúng tôi thu thập được 2 túi mặt nạ phòng độc đựng đầy lựu đạn để đưa cho Yastrebkov, anh lèn chúng vào trong balô. Chọn 1 thời điểm tốt, anh bò tới trước, nhảy vọt lên, ném khẩu tiểu liên đi và giơ cao 2 tay cầm 1 mảnh vải trắng, hét to hết mức có thể: "Nicht schiessen! Nicht schiessen!" Vừa chạy vừa nhảy hết bên này sang bên kia, trồi lên hụp xuống, anh đã tới được căn nhà bên kia đường, trong khi đó toàn đại đội nổ súng vào "kẻ đào tẩu". Tất cả chúng tôi đều lo lắng cho người lính dũng cảm! Ko hiểu đó có phải 1 ý tưởng điên rồ ko? Hoặc liệu anh có chết vô ích trước khi đến được mục tiêu ko? Và rồi tất cả đều cực kỳ sung sướng khi thấy anh đã tới được căn nhà bên đường, nép mình vào tường. Vừa kịp lấy hơi, anh đã dán mình vào tường theo đúng nghĩa đen để từ từ tiến tới ô cửa sổ gần nhất, ném liên tiếp vào đó 2 quả lựu đạn, và ngay sau khi chúng nổ anh chạy tới ô cửa sổ tiếp theo. Cứ thế anh di chuyển qua hết cửa sổ này tới cửa sổ khác, tiêu diệt từng ổ súng máy Đức chết chóc.

Ngay sau đó pháo hiệu đỏ lóe sáng báo hiệu cuộc xung phong của đại đội bắt đầu. Trung đội của Afonin chồm dậy đầu tiên, tiếp đó là toàn bộ phần còn lại của đại đội đều xung phong. Các shtrafnik lao qua con phố chó má, làm câm miệng lưới hỏa lực súng máy Đức vẫn còn tiếp tục bắn trả, bao vây các tòa nhà ko cho bọn Đức tẩu thoát. 1 số tên cố trốn trong các nhà kho hoặc chạy xuyên qua vườn ruộng ra sông Oder. Thành công ngoài sức tưởng tượng! Trung đội của Afonin phát hiện 1 ngôi làng nhỏ gần đó, tại đây có 1 trung đội Fritz đang trên đường tới Altdamm cứu đồng bọn đang bị đại đội của Beldugov tiêu diệt. Trung đội trưởng Afonin nhanh chóng nhận rõ tình hình, anh bố trí trung đội để chặn ngang đường. Các shtrafnik trước hết chặn lũ phát xít lại, sau đó buộc chúng đầu hàng. Đó là 1 trường hợp bắt tù binh hiếm thấy của shtrafnik, khoảng 20 tên Đức đã bị bắt sống.

Gần như ngay sau đại đội trừng giới, các đơn vị của trung đoàn thuộc sư 23 đã tấn công trên khu vực của họ và chiếm được thành phố vào giữa trưa. Các đơn vị bộ binh củng cố trận địa phòng ngự trên bờ sông Oder trong khi đại đội trừng giới đã hoàn thành nhiệm vụ được cho ra nghỉ. Altdamm đã được giải phóng! Đó là ngày 20/3.

Thương vong của quân ta là đáng kể. Như Rita nói với tôi sau đó, cô đã phải băng bó và sơ tán nhiều thương binh khỏi chiến địa. Khi tôi hỏi cô chính xác là bao nhiêu cô trả lời: "Em ko biết, em ko đếm." Tôi bèn hỏi thượng uý quân y Ivan Demenkov và được biết Rita đã sơ tán được khoảng 20 thương binh. Tốt đấy, Rita, em đã ko phạm sai lầm nào. Tôi tự hào về em! Sau này Rita kể cô cũng chứng kiến màn kịch "trá hàng" và lo lắng cho người lính shtrafnik quả cảm.

Ban tham mưu tiểu đoàn đến khi đêm xuống. Kombat lệnh cho Beldugov giải thoát các shtrafnik đã tỏ ra xứng đáng được cho ra khỏi tiểu đoàn và bàn giao phần còn lại của đại đội. Vậy là tôi sẽ trở thành sĩ quan tiếp theo dẫn dắt đại đội trong các trận đánh sắp tới. Tôi ko hiểu sao các đại đội trưởng khác ko bao giờ xuất hiện tại các trận đánh, nhưng lệnh là lệnh. Tôi sớm nhận ra sau các trận đánh ở Narev, Baturin đã đặc biệt "ưa thích" tôi. Chúng tôi được chuyển tới ngoại ô Altdamm, tại đây chúng tôi bắt đầu tái tổ chức đại đội, 1 công việc thường lệ.

Tôi đã có chút thời gian rảnh. Tôi chọn 1 căn nhà nhỏ cho riêng mình và ở đó cùng Rita. Afonin, Kuznetsov và tất cả các sĩ quan khác của tiểu đoàn đều ở quanh đó. Ko phải tất cả xác chết của bọn Đức đều đã được đưa đi hết. Lúc này đã là cuối tháng 3, đã có nắng ấm nên chúng tôi ko mặc áo khoác và áo trấn thủ da cừu nữa mà chỉ mặc kubanka nhưng vẫn đội mũ mùa đông chứ ko đội mũ lưỡi trai hay pilotka.

Rita trông đằm thắm, xinh đẹp hơn hẳn, thậm chí còn hơi mũm mĩm, mãi sau này mới biết cô đã có thai. Tôi từng hỏi cô có sợ tuyến đầu ko, cô trả lời:

"Sợ, nhưng em cố ko nghĩ đến nó."

"Em có dám giết 1 tên Đức, 1 người còn sống, tại đây, trên mặt trận ko?"

"Em nghĩ là có, ko biết nữa."

Thế là tôi đưa cho cô khẩu súng ngắn Browning chiến lợi phẩm mà chúng tôi vẫn gọi là súng dành cho quý bà. Tôi đề nghị cô thử bắn vào 1 xác lính Đức nằm chết trong rãnh bên đường, chúng tôi bước tới gần và cô bắn vào cái xác mà gần như ko cần ngắm. Bụng xác chết tóp lại và 1 luồng hơi kinh tởm xì ra, mùi của cái xác này ko được thơm tho cho lắm. Sau đó Rita bảo: "Nếu cần phải làm thì thà em bắn 1 tên địch sống còn hơn. Sẽ ko trượt đâu."

Chúng tôi cũng được chú ý nhờ các hoạt động có hiệu quả trong chiến dịch Vistula - Oder. Đại uý Ivan Ivanovich Beldugov nhận được huân chương chiến đấu danh giá nhất lúc đó là Huân chương Cờ Đỏ. Afonin và Kuznetsov nhận Huân chương Alexander Nevski còn shtrafnik Yastrebkov được Huân chương Danh dự hạng 3. Hơi tiếc vì anh đã ko được nhận Huân chương Dũng cảm như đề xuất của Beldugov, ko hiểu ai đã gợi ý hay bản thân tự nghĩ ra mà Baturin đã chỉ đề xuất tặng 1 huân chương chỉ dành cho lính trơn là Huân chương Danh dự cho Yastrebkov, 1 người đã sắp được phục chức sĩ quan. Nhiều người khác cũng được thăng thưởng, tôi ko nằm trong danh sách cán bộ đơn vị nên đương nhiên ko nhận được gì. Tuy nhiên Rita được nhận Huân chương Xuất sắc trong Chiến đấu từ bác sĩ tiểu đoàn Stepan Buzun khiến cả 2 chúng tôi đều cực kỳ sung sướng.

Vài ngày sau chúng tôi được biết trận tuyến của Phương diện quân Belorussia 1 đang thu hẹp dần để chuẩn bị cho cuộc tấn công quyết định vào Berlin. Chúng tôi sẽ phải di chuyển xa hơn về phía nam. Trong khi tôi đang tổ chức đại đội để chuẩn bị hành quân thì chỉ huy Phương diện quân Belorussia 2, Nguyên soái Rokossovski, bất ngờ đến thăm sở chỉ huy tiểu đoàn. Ông là 1 vị nguyên soái nổi tiếng hay đến thăm binh lính ngay tại mặt trận. Tại đây, ông cũng đến thăm 1 khu vực mà Phương diện quân Belorussia 2 của ông sẽ tiếp quản. Hoặc có lẽ vì ông biết "những tên kẻ cướp của Rokossovski" đang đóng ngay tại đây và muốn đến thăm, đây chính là lý do chúng tôi muốn tin. 1 lần nữa tôi đã ko gặp may, cũng giống như hồi ở Zhlobin, chẳng hiểu sao tôi đã ko có mặt để gặp gỡ vị tướng nổi tiếng. Tuy nhiên Rita đã kể lại những gì đã xảy ra.

Vấn đề là đã có nghiêm lệnh ko được đưa phụ nữ vào tiểu đoàn trừng giới, và nó do chính Rokossovski đưa ra. Ngay khi vị tướng bước ra khỏi xe, 1 người đàn ông cao to đẹp trai, ông đã quát: "Cái gì thế này? Phụ nữ làm gì ở đây? Vợ 1 đại đội trưởng àh? Thế thì có khác gì? Tống cổ cô ta ra khỏi đây ngay!" Trong khi ông quát lác thì trong xe còn 1 người phụ nữ khác! Gương mặt xinh đẹp của cô đã nổi tiếng cả nước qua các bộ phim, và cô ta đang cười. Rita quyết định đối đầu với vị Nguyên soái, cô đã làm mọi thứ để được ở bên tôi trong những lúc khó khăn nhất, cô nói: "Có 1 người phụ nữ nữa ở đây, bên cạnh tôi, thưa đồng chí Nguyên soái." Cô chắp 2 tay trước mặt như đang cầu nguyện và Rokossovski chợt liếc thấy cái bụng đã to thấy rõ của cô, ông phẩy tay và nói: "Thôi được, cô có thể ở lại, trung sĩ ạh."

Sau đó tôi được biết đại đội sẽ tham gia vượt sông Oder tại khu vực phía bắc đầu cầu Kuestrin, nơi Phương diện quân Belorussia 1 vừa chiếm được. Chúng tôi nhanh chóng được chuyển tới đó.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:49:04 PM

10
VƯỢT SÔNG ODER TỚI BERLIN



Sau 1 cuộc hành quân dài đến kiệt sức, chúng tôi đã tập trung tại 1 ngôi làng Đức nhỏ xinh đẹp cách sông Oder vài km. Trong làng hầu hết là những căn nhà đá 2 tầng, ko có dân làng nào ở lại, tất cả đã chạy qua bên kia sông. Ko thấy ngôi làng bị huỷ hoại gì, người Đức bỏ lại tất cả, đồ đạc, giường có đệm êm như phải có tại mỗi ngôi nhà Đức, thậm chí cả dao kéo. Nói tóm lại tiện nghi của chúng tôi là rất thoải mái, thậm chí xa xỉ. Tất cả sĩ quan đại đội ở chung trong 1 căn nhà 3 - 4 phòng. Rita và tôi có 1 phòng, các trung đội trưởng, thượng sĩ và sĩ quan văn thư trong các phòng còn lại.

Cánh hậu cần nhanh chóng thiết lập căng tin sĩ quan theo đúng phong cách của Baturin bên cạnh nhà. Rita và tôi lúc nào cũng phải ngửi mùi thức ăn nồng nặc. Rita trở nên rất kén cá chọn canh và 1 số loại đồ ăn khiến cô phát ốm. Sau cuộc viếng thăm của Nguyên soái Rokossovski, người đã chú ý đến vòng eo ngày 1 lớn của cô, chúng tôi ko còn nghi ngờ gì về việc cô sắp làm mẹ. 1 cảm giác mới chưa từng biết đến lớn dần lên trong tôi. Sau đó thỉ cả tiểu đoàn đều biết Rita sắp có em bé và các sĩ quan đều đưa hết cho cô số cá trích ngon nhất trong khẩu phần mỗi người vì Rita bắt đầu thèm ăn mặn. Bác sĩ tiểu đoàn Stepan Buzun đến thăm chúng tôi 1 lần và lập tức ra lệnh, căn cứ vào tình trạng đang mang thai của Rita, ông cấm cô làm việc trên tuyến đầu mà chỉ được phụ giúp ông tại trạm phẫu tiểu đoàn. Ông thêm rằng sẽ đề nghị tiểu đoàn trưởng phê chuẩn lệnh này.

Sau khi ổn định chỗ ở trong làng và biết được kombat cùng ban tham mưu ở đâu, chúng tôi phát hiện ra có phụ nữ sống trong cùng nhà với kombat. Đầu tiên chúng tôi nghĩ ông ta sống cùng 1 phụ nữ Đức đã ở lại ko chạy. Đó là 1 phụ nữ thấp nhỏ hơi mập nhưng khuôn mặt rất xinh. Sau này chúng tôi mới biết đó là vợ Baturin, ko phải "vợ chiến trường" hay "vợ doanh trại" như trong quân đội thường hay có mà là vợ thực sự. Ko hiểu bằng cách nào mà Baturin đã đưa được vợ từ Nga sang tận đây dù bà ko phải sĩ quan hay quân nhân. Chúng tôi biết có nhiều sĩ quan cao cấp chia sẻ với vợ mọi khó khăn nguy hiểm trên chiến trường. Nhiều người đã thấy nữ nghệ sĩ nổi tiếng Serova trong xe Nguyên soái Rokossovski, lúc đó họ đang hẹn hò nhau. Sau chiến tranh tôi được biết vợ tướng Gorbatov cũng ở cùng ông trong suốt cuộc chiến. Điều kiện sống của tiểu đoàn trưởng khi tiểu đoàn chỉ còn chiến đấu với mỗi 1 đại đội cũng cho phép ông mang vợ theo. Tôi cảm thấy khá dễ thở. Từ lúc này Rita và tôi đã ko còn là đối tượng bị ghen tị duy nhất trong đám sĩ quan, và Baturin cũng đối xử với chúng tôi tử tế hơn hẳn.

Trong lúc này việc xây dựng đội ngũ và huấn luyện chiến đấu tại đại đội vẫn tiếp tục. Tất cả đều hiểu việc vượt con sông lớn cuối cùng nằm giữa chúng tôi với Berlin, thủ đô nước Đức phát xít, sẽ là trận đánh quyết định cuối cùng. Tiểu đoàn vẫn còn đủ nhân lực để tới Berlin. Đó là lý do tôi muốn nói đến mức nhiều nhất về từng chi tiết những người đã cùng tôi đi đến tận cùng cuộc chiến chết chóc này, tất cả những gì còn lại trong trí nhớ già cỗi của tôi.

Như đã nói, trung đội súng máy được phối thuộc vào đại đội tôi dưới sự chỉ huy của George Sergeev, anh được 1 trung đội trưởng khác của đại đội súng máy là thượng uý Sergey Sisenkov hỗ trợ. Tôi đã nói nhiều về George Sergeev và những gì liên quan đến cá nhân anh. Có vẻ như anh luôn tìm ra những vị trí nguy hiểm nhất trong trận đánh và có mặt tại đó để ko 1 tên Đức nào có thể ngờ được. Đó là thứ logic kỳ cục để sống sót trong chiến tranh của anh. Anh ko điên mà dũng cảm. Đó là sự kết hợp giữa tính toán lạnh lùng, sự cương quyết và những kỹ năng chiến thuật. 2 đồng sự của anh trong đại đội súng máy, Sergey Sisenkov và Sergey Piseev, đều là những học trò tốt. Họ cố bắt chước George trong mọi việc và dù ko phải lúc nào cũng thành công, họ vẫn thường xuyên hành động đơn giản theo cách bắt chước người đồng đội. Tôi rất sung sướng vì có được Sergeev, người sĩ quan đáng tin cậy, bên mình.

Trung đội trưởng thứ nhất của tôi lúc đó lại 1 lần nữa là George Vasilievich Razhev. Anh đã trở thành 1 người dễ nổi nóng, mất tự chủ và rất khó giữ bình tĩnh. Tôi cũng nhận thấy anh bắt đầu uống nhiều rượu, điều đó khiến quan hệ giữa chúng tôi trở nên căng thẳng. Cách cư xử của anh buộc tôi phải xem xét lại vấn đề kỷ luật quân đội. Tất nhiên tôi đi đến kết luận rằng kỷ luật, sự tuyệt đối tuân lệnh thượng cấp dù cấp hàm của anh ta là gì, cũng là thực sự cần thiết. Tuy nhiên điều đó ko đồng nghĩa với việc tuân lệnh mù quáng và triệt tiêu sáng kiến cá nhân. Sự phục tùng phải xuất phát từ trong tâm với mong muốn hoàn thành nhiệm vụ 1 cách tốt hơn, nhanh hơn, an toàn hơn, nó ko phải là vì chỉ huy mà vì chiến thắng trước kẻ thù. Chiến thắng ko chỉ đến nhờ sự tuân phục theo kiểu "làm bất kỳ điều gì bạn muốn" mà còn bởi sự chủ động làm những gì cần thiết. Về cơ bản tôi vẫn quản lý được, dù có khó khăn, những sĩ quan bất kham như George Razhev.

Trung đội trưởng thứ 2 của tôi là trung uý mới tới Chaika, hơi mập, đầu to, chiều cao trung bình, trông khá già mặc dù mới chỉ 35 tuổi. Anh ta có mái tóc bạc đến bất thường và trụi ở nhiều chỗ, đôi mắt xanh sắc sảo và lông mày mảnh, giọng nói nhẹ nhàng có vẻ ko hợp với 1 sĩ quan. Giọng anh lúc nào cũng bình thản và chậm rãi trong khi từ ngữ thì rất thuyết phục và đầy sức nặng. Anh ta lập tức được chọn làm bí thư chi bộ đại đội, chi bộ gồm các đảng viên thuộc số cán bộ cơ hữu đại đội, đó là các chỉ huy, các thượng sĩ và sĩ quan văn thư. Ai cũng thấy Chaika có đầu óc sắc sảo và tính cương quyết ẩn sau vẻ ngoài có vẻ rất bình thường.

Thiếu uý Yuri Semenov có khuôn mặt to trông như của trẻ con vì có rất nhiều tàn nhang, như thể ai đó lấy sơn xám chấm lên mũi và má cậu ta vậy. Cậu ta chưa có kinh nghiệm chiến đấu và nhiều khi tỏ ra sợ hãi nhưng tôi chưa từng thấy cậu hoàn toàn mất tự chủ bao giờ.

Đại đội phó, hay còn gọi là đại đội trưởng dự bị theo kiểu của Baturin, là đại uý Nikolai Aleksandrovich Slautin. Anh từng là chỉ huy đại đội 2 bộ binh, đơn vị chưa bao giờ được thành lập, người lùn tịt, tròn quay như 1 cái thùng gang 16kg mặc dù ko ai dám gọi anh là béo. Đại uý gây ấn tượng rằng đúng anh ta làm bằng gang thật, đặc biệt là nắm đấm. Tính khí anh bền bỉ, ít lời và hơi thô lỗ. Trong trường hợp ko đủ từ ngữ anh sẽ tuôn ra những lời tục tĩu hoặc dùng đến nắm đấm nặng cân của mình thay cho lý lẽ. Anh ko đóng vai trò thực tế nào trong đại đội mặc dù lúc nào cũng ở đây. Tôi hiểu anh ta sẽ ko tham gia cuộc vượt sông Oder vì chỉ được bố trí để thay thế tôi trong trường hợp cần thiết. Có 3 khả năng cho trường hợp cần thiết đó là tôi bị thương nặng, bị giết hoặc bị chìm nghỉm xuống sông Oder. Mong ước duy nhất của tôi là anh ta sẽ ko cần phải thay thế tôi!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:49:17 PM

George Yemelyanovich Kuzmin là chỉ huy trung đội súng trường chống tăng phối thuộc vào đại đội tôi. Từ khi anh tới đại đội đã có 3 người tên George, vì vậy nhận nickname là "Đại đội 3 George". Anh hơn tôi đúng 1 tuổi nhưng trông già hơn nhiều vì tính tình cực kỳ nghiêm túc. Tuy vậy anh cũng là người rất biết đùa.

Tôi chưa từng có kinh nghiệm về việc làm thế nào để sử dụng 1 trung đội trang bị nặng như trung đội súng trường chống tăng trong 1 trận đánh vượt qua sông rộng. Mỗi khẩu súng trường chống tăng cần 2 người. Dù sao cũng vẫn còn thời gian để nghiên cứu cách sử dụng họ. Các trung đội phó được chỉ định từ các shtrafnik, như thường lệ họ đều là các cựu sĩ quan cùng ngạch chống tăng, ko may tôi chỉ còn nhớ tên mỗi 1 người trong số đó. Đó là 1 người Gruzia cao lớn, có nụ cười đẹp và kinh nghiệm trận mạc khổng lồ, tên anh ta là Gaguashvili hoặc Gogashvili gì đó. Có 1 chi tiết hài hước là anh ta đã chiến đấu suốt 4 năm chiến tranh chưa hề nghỉ phép, chỉ có 3 lần bị thương phải nằm viện, như anh nói: "Khi Goga nằm viện thì Shvili chiến đấu và khi Shvili nằm viện thì Goga chiến đấu."

Tôi còn nhớ rất rõ 1 shtrafnik khác người thấp đậm, mặt tròn với đôi mắt híp điển hình của người gốc Á, anh ta khoẻ như 1 con bò đực và bình tĩnh như 1 con voi. Tôi cũng nhớ có 1 shtrafnik nữa da sẫm màu, mắt đen, luôn cạo râu cẩn thận khiến khuôn mặt ánh lên màu xanh và mang 1 vẻ tốt bụng điển hình. Anh ta đúng là mẫu người lính hành động và cương quyết, mặc cho vẻ ngoài tốt bụng. Anh ngay lập tức nắm rõ trung đội trong lòng bàn tay và trợ giúp đắc lực cho viên trung đội trưởng còn ít kinh nghiệm là thiếu uý Semenov.

Tôi nhớ có 1 tiểu đội trưởng, 1 cựu đại uý có cái tên thú vị Redki. Anh ta được chỉ định làm tiểu đội trưởng chỉ vì tính tình cực nhộn. Anh lúc nào cũng kể chuyện và đùa cợt về các trận đánh từng tham gia và những chuyến phiêu lưu thời còn là thường dân, ai cũng có thể nhận ra những chỗ phóng đại và bịa đặt trong những câu chuyện đó. Lúc đó tôi ko chú ý đến việc này vì nghĩ tính tình vui nhộn sẽ giúp anh ko ngã lòng trước nghịch cảnh.

Khi đại đội đã tổ chức gần xong, các shtrafnik mới tới đã ko còn làm xáo trộn số lượng mỗi trung đội nữa thì 1 shtrafnik già với cái tên lạ tai Putrya bị đưa tới. Ông quá gầy gò ốm o khiến cho việc gửi ông ra tiền tuyến thật là kỳ cục, trông ông rất già dù tuổi chưa tới 50. Tôi đã có 1 buổi nói chuyện dài với ông và được biết người ta đưa ông về tiểu đoàn sau nhiều năm ở tù. Ông vốn là "Quản đốc kỹ thuật bậc 2", 1 cấp bậc đã bị loại bỏ từ năm 1943, phụ trách 1 kho quân đội lớn gần Moscow. Ông bị kết tội ẩn lậu 1 số xà phòng để ngoài sổ sách, kiểm tra viên đã phát hiện 1 thùng đầy xà phòng mà Putrya đã lấy đi 1 số để đổi lấy bánh mì cho gia đình đông đúc của mình. Theo luật thời chiến, ông bị kết án nhiều năm tù. Lương tâm ông đã cắn rứt suốt chừng ấy năm vì đã trải qua chiến tranh trong xà lim chứ ko phải ngoài mặt trận! Vậy là ông xin vào tiểu đoàn trừng giới. Ông nói thà chết ngoài trận tiền cho đất nước còn hơn sống với cái mác tội phạm, kẻ định làm giàu bằng cách ăn cắp xà phòng dành cho những người lính. Rút cục người ta đã đổi thời hạn ngồi tù còn lại của ông thành 1 thời hạn ngắn trong tiểu đoàn trừng giới.

Trong đại đội tôi trước đây đã có nhiều cựu tội phạm, họ bị chuyển tới từ các nhà tù hoặc trại cải tạo, càng về cuối chiến tranh số này càng nhiều. Tôi định chọn lấy 1 người trong số đó, hắn còn khá trẻ và từng phục vụ tại bếp ăn trại cải tạo, để làm anh nuôi đại đội. Tôi ko ngạc nhiên với đôi tay gần như phủ kín hình xăm cùng thứ ngôn ngữ và bộ dạng cực kỳ gangster của hắn. Hắn thuyết phục tôi rằng trước chiến tranh từng làm đầu bếp tại 1 nhà hàng ở miền nam Nga và có thể nấu 1 bữa tối tươm tất chỉ với đồ ăn lính.

Thế rồi Putrya đến, ông có đôi mắt buồn của 1 người đã chuẩn bị để chết, đôi tay gầy gò như cẳng chân chim khiến tôi nghĩ ông ko thể nâng nổi 1 khẩu trung liên chứ đừng nói đại liên hay súng trường chống tăng. Vậy là tôi quyết định để ông làm anh nuôi thay vì tay shtrafnik xăm trổ kia, điều đó sẽ khiến ông đỡ phải đối mặt với những hiểm nguy. Thêm vào đó, tôi chọn ông còn vì ông ko biết bơi, giống như tôi. Bạn phải nhìn vào đôi mắt ánh lên niềm vui của ông mới hiểu được, 1 hy vọng mới đã nhen nhóm trong nụ cười mà ông cố nén lại. Tôi còn nhớ câu nói cửa miệng mà Putrya thích nhắc lại trong mọi tình huống: "Khẩu phần khô của bạn còn ngon hơn bánh của khối người khác!"

Tay cựu tù xăm trổ đã ko kìm được sự tức giận khi bị tôi chuyển tới trung đội của Chaika. Lần đầu tiên trong quãng thời gian phục vụ tại tiểu đoàn trừng giới tôi đã phải nghe 1 lời đe doạ. Hắn nói: "OK, đại uý, để xem ai sẽ ăn đạn trước." Tôi chưa bao giờ là 1 người quá tự tin, tuy nhiên tôi có thể quyết định hoặc cự tuyệt nếu cần thiết và những lời nói của tay cựu tù chỉ làm tôi thêm tin tưởng vào sự đúng đắn trong quyết định của mình. Khi bạn làm việc gì và chịu trách nhiệm về nó thì đừng do dự, chỉ sau khi hoàn thành nó hẵng phân tích tình thế, tìm cách làm tốt hơn và suy nghĩ về những sai lầm. Tuy nhiên hồi đó tôi ko nghĩ nhiều về sự cố nhỏ này, theo quan điểm của tôi đó ko phải 1 lời đe doạ mà giống 1 mong muốn hơn.

Nhìn chung mọi người trong tiểu đoàn đều nhận thức được sự gian khổ trong nhiệm vụ sắp tới. Họ có vẻ buồn bã và căng thẳng, thậm chí chán nản, về sự thiếu chắc chắn của trận đánh đang đến gần, vào lúc chiến tranh đã gần đi đến hồi kết. Đó là 1 phản ứng tự nhiên. Ai cũng biết điều gì đã xảy ra, nhiều người đã chết nhưng chúng tôi vẫn may mắn còn sống, nhưng ai biết được ngày mai sẽ mang tới điều gì. Cánh chỉ huy chúng tôi cũng hiểu mình cần xung trận bên cạnh binh lính ngay cả trong 1 trận đánh tự sát, và tôi lại còn là người dẫn dắt họ. Tất nhiên, tất cả họ đều nghĩ chính tôi, với kinh nghiệm và khả năng của mình, sẽ là người quyết định cao nhất đối với tương lai của họ. Nhưng cũng ko có gì nghịch lý khi tôi lại có 1 suy nghĩ gần nhưng hoàn toàn ngược lại, đó là mạng sống của tôi phụ thuộc vào việc họ sẽ chiến đấu và thực hiện các mệnh lệnh của tôi như thế nào. Đó chính xác là lý do tại sao tôi rất chú ý đến việc huấn luyện binh sĩ thao tác các loại vũ khí và đảm bảo họ luôn có tình trạng sức khoẻ tốt. Phải thừa nhận rằng tất cả chúng tôi đều có suy nghĩ hết sức lo lắng khi chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng mà chúng tôi gọi là "đòn trừng phạt" dành cho kẻ thù.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:49:47 PM

Tôi ko nhớ nhiều shtrafnik nhưng có nhớ 1 cựu đại uý phi công có cái tên lạ tại Smeshnoi. Anh ta cao, tóc vàng, còn khá trẻ và có khuôn mặt nông dân an phận điển hình. Tôi biết vợ anh cũng đang ở ngoài mặt trận, làm sĩ quan cơ yếu cho 1 bộ tham mưu cao cấp. 2 con anh sống với bà trong 1 thị trấn nhỏ đâu đó bên Nga. Viên đại uý này là 1 frontovik thực sự với 3 Huân chương Cờ Đỏ và từng là phi đội trưởng. Anh ta bị tống vào tiểu đoàn trừng giới vì dẫn phi đội đi lĩnh máy bay mới rồi bay thẳng ra tiền tuyến từ nhà máy, 1 trong các phi công dưới quyền Smeshnoi đã phạm sai lầm làm máy bay mất điều khiển và đâm xuống đất, máy bay bị phá huỷ và phi công hy sinh.

Smeshnoi hết sức cố gắng luyện tập, trong những ngày huấn luyện tập trung kỹ năng bộ binh, anh ta tập xung phong cự ly ngắn và trườn bò cho đến lúc ngã lăn ra đất, "cho đến lúc chân tay gãy rời ra" như cách anh ta nói. Anh là người kiên trì và bền bỉ, chịu khó học hỏi và cố gắng trong mọi việc. Mặc dù được bố trí vào trung đội tiểu liên nhưng anh đã học cách sử dụng súng trường chống tăng và súng máy rất thành thạo. Anh muốn biết mọi thứ cứ như thể anh sẽ cần tất cả các kiến thức và kỹ năng đó trong trận chiến. Thậm chí anh ta học cả cách sử dụng Panzerfaust chiến lợi phẩm, bắn thử vào xác 1 chiếc xe tăng Đức cháy. "Bạn phải học mọi thứ. Ko có kỹ năng thậm chí bạn ko thể đóng nổi 1 chiếc giày!" Anh ta nói vậy. Có vẻ như viên đại uý này làm việc 24h/ngày. Anh ta cũng nói nên trao tất cả khẩu phần ăn cao cấp của phi công cho cánh bộ binh, anh bảo phi công có nhiều điểm khác biệt, nhưng so với 1 người lính bộ binh họ chỉ bị đòi hỏi về mặt thể chất tương đương 10%. Anh mô tả sự khác nhau trong cuộc chiến giữa 1 phi công với 1 bộ binh: "Bạn chỉ việc cất cánh bay tới nơi cần tới rồi làm mọi việc tuỳ theo tình hình. Và chỉ thế thôi! Còn ở đây, trên mặt đất này, bạn phải thực sự đổ rất nhiều mồ hôi cho chỉ riêng việc đến mục tiêu!"

1 lần vợ anh, cũng là 1 đại uý, đến thăm tiểu đoàn 1 cách hoàn toàn bất ngờ. Tôi cố bố trí cho họ 1 khoảng thời gian riêng tư. Sau đó cô ta nói chuyện với tôi bằng giọng mềm mỏng, cố gắng giữ bình tĩnh trước những khó khăn hiện hữu. Cô ko xin tôi tha mạng cho bố của các con cô mà chỉ đề nghị 1 điều là hãy cứu sống anh ta nếu bị thương. Tôi nhớ rõ người phụ nữ khiêm tốn và quảng đại đó, khâm phục cô vì quyết định xa con ra tiền tuyến để được gần gũi với người chồng cô yêu và góp phần vào chiến thắng chung. "Rita thân yêu của ta cũng giống người phụ nữ này", tôi nghĩ vậy.

Chỉ có mỗi đại đội tôi luyện tập vất vả cho các trận đánh sắp tới, các đơn vị khác trong tiểu đoàn ko cần, vì thế các sĩ quan có thời gian làm việc khác. Lúc này đã có nghiêm lệnh cấm cướp bóc thường dân Đức nhưng chúng tôi lại được phép gửi đồ về nhà. Các sĩ quan ko bận rộn với việc chuẩn bị vượt sông đều cố kiếm các thứ đồ hợp pháp gửi về nhà. Cánh sĩ quan trẻ chúng tôi thì ko có thời gian, mà chúng tôi cũng ko cần tất cả những thứ đó. Cánh trẻ có suy nghĩ cực kỳ bất cần, nhiều người chỉ nghĩ đến trận đánh sắp tới. Chúng tôi luôn phải kìm nén suy nghĩ này, thậm chí sau đó, khi chiến tranh đã chấm dứt mà chúng tôi vẫn còn rất hăng hái dù cho có bị thương hay những vất vả tích tụ suốt những năm chiến tranh. Chỉ cần 1 giấc ngủ sâu là chúng tôi lại tràn đầy năng lượng. Chúng tôi chỉ hơi buồn khi nhớ về những cánh rừng Nga, về Đất Mẹ, về những người mẹ, người chị vẫn còn ở đó. Nhưng ngay cả nỗi nhớ nhà cũng bị chìm lấp dưới gánh nặng chính là làm sao để chuẩn bị những gì tốt nhất có thể cho trận đánh sắp tới.

Phần còn lại của tiểu đoàn có nhiều thời gian hơn cho những việc khác, những trò đùa rất phổ biến trong thời chiến chẳng hạn. Tôi đã từng kể mình ko thể hiểu sĩ quan đặc vụ Smersh Gluhov làm gì, nhưng vào mùa xuân năm 1945 đó, anh ta bắt đầu quan tâm mỗi lúc 1 nhiều hơn tới việc săn lùng các đồ lưu niệm Đức. Anh ta tịch thu súng ngắn Đức của các sĩ quan, cả huân huy chương Đức, hộp đựng thuốc lá chạm trổ, thậm chí cả các thanh chocolate Đức. 1 lần có 1 nhóm nhỏ sĩ quan tụ tập ngồi nghỉ hút thuốc, trung đội trưởng quân quản thượng uý Slava Kostik nhận thấy Gluhov đang tới. Vậy là Kostik rút trong túi ra 1 cái hộp tròn rồi làm ra vẻ đang ăn thứ gì đó rất ngon lành. Gluhov bước lại thật và hỏi Kostik đang ăn gì bằng giọng xin xỏ, Kostik giấu cái hộp sau lưng rồi trả lời là anh còn nhiều loại kẹo rất độc đáo nữa nhưng sẽ ko chia cho ai hết. Tất nhiên điều đó chỉ kích thích sự thèm muốn của Gluhov và anh ta bắt đầu nài nỉ Kostik chia cho ít kẹo. Rốt cuộc Kostik làm ra vẻ rất miễn cưỡng mở chiếc hộp, bên trong có nhiều vật gì đó nho nhỏ bọc trong giấy thiếc. Gluhov sung sướng nhót 1 cái, gỡ giấy bọc rồi bỏ tọt vào mồm. Bạn phải nhìn thấy khuôn mặt nhăn nhúm của anh ta khi nhai thứ "chiến lợi phẩm" đó! Anh ta nhổ toẹt nó ra với vẻ ghê tởm, giận dữ hỏi: "Cái quỷ gì thế này?" Mọi người cười lăn lộn trong khi Kostik trả lời tỉnh queo: "Đó là 1 viên thuốc trị lòi dom của Đức, đáng lẽ anh phải dùng nó bằng đường đút đít, sếp ạh!" Tôi ko rõ mối quan hệ giữa 2 người này vì cả 2 chỉ toàn ở ban tham mưu tiểu đoàn, công việc của họ cũng tương tự nhau, có khi họ là bạn thân ko chừng, nhưng sau trò đùa tai quái này Gluhov ko bao giờ đề nghị ai chia kẹo cho nữa, kể cả đó là 1 thanh chocolate Đức đã mở.

Lúc này những ngày huấn luyện chuyên sâu đang trôi qua rất nhanh, đại đội lớn mạnh dần. Chúng tôi đã có khoảng 120 người, tức là gần 40 người/trung đội, chưa kể các trung đội súng trường chống tăng và súng máy phối thuộc. Các toà án binh cũng cực kỳ bận rộn! Chúng tôi thực hành bắn đạn thật, hành quân và các bài tập chiến thuật khác từ sáng tới tối. Ban ngày trời ấm nên chúng tôi bỏ áo khoác chỉ còn mặc áo trấn thủ, tuy vậy vẫn đội mũ kubanka lệch theo mốt thời đó. Cả Baturin và Ctrị viên của ông, thiếu tá Kazakov, cũng chỉ bỏ kubanka nhiều ngày sau Chiến thắng, khi cả 2 được lệnh lên báo cáo tại sở chỉ huy của Nguyên soái Zhukov. Tất nhiên gần như tất cả chúng tôi đều theo mốt này mặc dù các sĩ quan đều có mũ mùa đông đã được phát từ lâu để thay cho mũ calô và mũ lưỡi trai.

1 vụ việc ko rõ ràng đã xảy ra với George Razhev. Baturin bất ngờ thay anh ta bằng trung uý Sergey Piseev, người mà ai cũng biết là 1 tay lắm mồm và ăn nói dễ nghe. Thực ra tôi sung sướng với tin này vì ngày càng xung đột với Razhev, vì nhiều lý do khác nhau. Vậy là đại đội tôi ko còn là "Đại đội 3 George", thay vào đó lại có 3 sĩ quan tên Sergey. Mãi sau này tôi mới biết lý do thực sự của việc Razhev bị thiên chuyển.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:50:05 PM

1 thiếu tá đến từ sư đoàn mà chúng tôi sẽ chiến đấu trong khu vực của họ, tôi nghĩ đó là Sư 234, cũng thuộc Tập đoàn quân 61 của tướng Pavel Alekseevich Belov. Chúng tôi được biết 1 nhóm trinh sát nhỏ của sư đoàn này đã bơi sang bờ đối diện và hoàn thành công việc trinh sát 1 cách hết sức chuẩn mực. Nhóm trinh sát trở về mà ko bị thiệt hại gì và viên chỉ huy, 1 thượng sĩ, được đề nghị tặng thưởng Sao Vàng Anh hùng Liên Xô. Nhiều sĩ quan bắt đầu nói đến chuyện nếu chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ và sống sót thì cũng có cơ hội nhận được phần thưởng quân đội danh giá nhất đó. Lúc đó chúng tôi đã biết trong các trận đánh vượt các con sông lớn như Dnepr và Vistula, nhiều binh lính và sĩ quan đã được tặng thưởng danh hiệu cao quý này.

Người ta bảo sẽ đem ra sông đủ số thuyền chèo tay cần thiết được bọc kỹ bằng hắc ín vào đêm trước cuộc vượt sông. Những chiếc thuyền này do 1 tiểu đoàn công binh chế tạo, họ cũng có trách nhiệm bắc 1 cây cầu ngay sau khi chúng tôi thiết lập được đầu cầu. Đương nhiên tôi lại 1 lần nữa lo lắng vì vẫn chưa biết bơi nhưng sau đó bình tĩnh lại vì thực tế là ko ai lệnh cho tôi phải bơi qua sông Oder. Mùa xuân đã đến, trời ấm, băng trên sông Oder đã tan từ tháng 2 nhưng nước vẫn rất lạnh, khoảng +5 độ C. Các thông tin khác về con sông cũng làm chúng tôi e ngại, độ sâu trung bình của nó là 10m nhưng vào mùa xuân, tức là hiện nay, thì còn sâu hơn. Dù sao với tôi thì 10m hay hơn cũng chẳng khác nhau nhiều. Chiều rộng sông Oder tại khu vực này là khoảng 200m, tốc độ dòng chảy trên 0,5m/giây. Chúng tôi tính toán tốc độ tương đối của thuyền đi trên sông, thậm chí lấy kích thước thật 200m trên mặt đất để đo. Từ kết quả tính toán thời gian vượt sông, chúng tôi tính được dòng chảy sẽ đẩy mình đi lệch bao xa và nhờ vậy chọn được hành trình cho mình. Dòng chảy sẽ chỉ đẩy đi khoảng 100 - 150m! Chúng tôi cũng vui mừng vì biết rằng tại khu vực này con sông chỉ có 1 dòng chảy duy nhất, nó sẽ chỉ phân thành 2 dòng ở cách đây khoảng 5km về phía hạ nguồn.

Đặc điểm và những khó khăn trong nhiệm vụ trở nên rõ ràng hơn khi thời điểm vượt sông tới gần. Tôi nhận thấy đã có trăng non nhưng đêm vẫn còn rất tối. Tôi đoán các chỉ huy sẽ chọn thời điểm trời tối nhất, khoảng giữa 10 và 20/4, để vượt sông. Đó chính xác là những gì đã xảy ra. Ngay sau đó chúng tôi được lệnh sẵn sàng vào ngày mai và đêm 14/4, đại đội hành quân bộ với đầy đủ vũ khí đạn dược tới bờ sông Oder.

1 đại uý, phái viên của sư đoàn, là người dẫn đường cho chúng tôi trong bóng đêm. Anh nghiêm khắc nhắc nhở chúng tôi ko hút thuốc, ko bật đèn, 1 tí cũng ko được. Đó là lần đầu tiên mà ko chỉ trung đội trưởng, cả tiểu đội trưởng cũng được nhận đèn tín hiệu với 2 màu xanh đỏ. Đây cũng là lần đầu tiên tôi thấy mọi tín hiệu trong chiến đấu đều dùng đèn hiệu thay vì pháo sáng như trước. Chúng tôi cũng có pháo sáng nhưng sẽ chỉ sử dụng chúng tại đầu cầu, chỗ đất mà chúng tôi đặt chân được xuống đầu tiên.

Chúng tôi hành quân vội vã, theo sau viên đại uý nhanh nhẹn dáng người mảnh dẻ, những người cuối hàng thậm chí phải chạy mới theo kịp. Ko ai nói gì. Tất cả đều im lặng, suy nghĩ về những gì đang chờ đợi phía trước. Trước khi tới được sát sông Oder, viên đại uý phát tín hiệu "Dừng!" bằng cách nháy đèn đỏ trước 1 khu nhà lớn. Anh ta tập trung các trung đội trưởng lại, cho phép mọi người hút thuốc nếu được các dãy nhà kho che chắn, ko có thì dùng áo mưa plash - palatka hoặc tay áo nguỵ trang mà che. Rồi anh dẫn đám sĩ quan chúng tôi xuống 1 con hào gần đó, tại đây có 1 viên thiếu tá khoác áo choàng, tay chống gậy, anh ta vẫn còn đang trong quá trình hồi phục vết thương, đó là phái viên ban tham mưu sư đoàn. Ngoài ra còn 1 viên thiếu tá nữa, kombat của 1 tiểu đoàn các "tay súng" như cách chúng tôi vẫn gọi các đơn vị bộ binh trang bị súng trường.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:50:16 PM

2 viên thiếu tá giải thích nhiệm vụ, binh sĩ sẽ phải xuống ngay tuyến hào này, bỏ lại vũ khí nặng tại đây. Họ sẽ mang xuồng tới từ hẻm núi gần đó, nhờ chúng mà người của tôi sẽ, như viên thiếu tá chống gậy nói: "Chiếm lĩnh mặt sông Oder". Cứ 4 người 1 xuồng. Khi tôi hỏi tại sao ko mang xuồng ra từ trước, anh ta trả lời: "Bọn Đức sẽ bắn thủng xuồng ngay, chúng bắn sang phía ta rất thường xuyên!" Bọn Đức cũng tự xác nhận điều này bằng 1 cuộc pháo kích ngắn nhưng dữ dội ngay khi đại đội tôi vừa xuống hết tuyến hào. Ơn giời là chúng tôi đã xuống hào vì nếu còn ở sau dãy nhà kho nhất định quân ta sẽ bị thiệt hại nặng. Trong hào ko có ai bị trúng đạn. "Giờ thì bọn Fritz sẽ ngừng bắn trong độ 3h. Các anh phải tận dụng khoảng thời gian này để nhận xuồng," thiếu tá nói.

Người ta điều cho mỗi trung đội 1 người dẫn đường, các trung đội trưởng phân phó đơn vị vào các xuồng. Sẽ mất 2h để mang xuồng tới, giấu sau dãy nhà kho. Tuy nhiên xuồng quá nặng và 1 số cần tới 6 người mới vác nổi, các shtrafnik khoẻ mạnh nhất được giao quay lại vác nốt số xuồng còn lại. Viên thiếu tá kombat nói anh ta dành cho tôi 1 chiếc xuồng đặc biệt có mái chèo, viên thượng sĩ và nhóm trinh sát của anh đã dùng chính chiếc xuồng này trong nhiệm vụ của họ và trở về an toàn, vì vậy đây là chiếc xuồng may mắn!

Sau lưng chúng tôi, bầu trời phía đông đã chuyển sang màu xám. Trong suốt những năm chiến tranh, dù ở Belorussia hay như lúc này là ở Đức, chúng tôi vẫn dùng giờ Moscow, vì vậy tại đây mặt trời mọc chậm hơn Moscow 3h. Phải sau 6h trời mới bắt đầu sáng. Tôi hỏi viên kombat địa phương về việc trinh sát 2 bờ sông. Phía bên này sông có thể nhìn thấy rõ ràng từ bên phía bọn Đức vì bờ sông thấp hơn. Vì vậy quân ta phải bò sát đất khi vượt qua những đoạn giao thông hào đã bị những trận pháo kích trước đây phá huỷ. Cuối cùng chúng tôi cũng đã tới được tuyến hào được đào ngay trên bãi sông, nó ko đều, nhiều đoạn rất nông.

1 cây cầu đường sắt bắc qua sông nằm bên phải chúng tôi, nó ngay lập tức làm tôi chú ý. Căn cứ vào bản đồ, tuyến đường sắt này dẫn tới 1 thành phố khá lớn, tên tôi ko nhớ rõ lắm, hình như là Frankfurt trên sông Oder. Tôi nghĩ có thể dùng 1 trận pháo kích hoặc ko kích vào các vị trí phòng thủ xung quanh cầu của bọn Đức, sau đó chúng tôi có thể xông qua cầu để thiết lập 1 đầu cầu. Nhưng viên kombat đoán được suy nghĩ của tôi và bảo: "Cây cầu này chính là 1 cái bẫy mìn khổng lồ của bọn Đức". Thế là xong, chẳng còn con đường nào khác cho chúng tôi, chúng tôi sẽ phải vượt qua con sông Đức chó chết này bằng xuồng chèo tay!

Tôi nghiên cứu địa hình thật kỹ và bố trí các trung đội trong tuyến hào, đồng thời ra lệnh ko mang trung đội súng trường chống tăng theo. Tôi lệnh cho trung đội này yểm trợ quân ta từ bờ bên này, bắn vào các boongke Đức và các ụ hoả lực khác nếu chúng xuất hiện. Sau khi suy nghĩ 1 lúc, tôi cũng ra lệnh tương tự với trung đội súng máy. Loại súng máy Goryunov và Maxim mà chúng tôi được trang bị đều rất nặng, những chiếc "chiến hạm" của chúng tôi có thể chìm nghỉm dưới sức nặng của khẩu súng và xạ thủ.

Trung đội trưởng súng trường chống tăng George Kuzmin có lẽ đã vui mừng khi nghe lệnh này mặc dù anh ko hề thể hiện điều đó. Ko chỉ mừng cho bản thân, anh ta cũng nên mừng cho cả trung đội vì đó toàn là những người khoẻ mạnh và dũng cảm nhất. Trung đội trưởng súng máy cũng giữ sự im lặng tương tự 1 lúc nhưng sau đó đề nghị tôi để đại đội phó thay vị trí anh ta, còn anh ta sẽ dẫn tối thiểu 2 - 3 khẩu đội súng máy vượt sông. Anh ta ướm hỏi tôi, gần như thì thào: "Anh hoàn toàn chắc chắn vào quyết định đấy chứ?"

Tôi tính toán vị trí tiếp đất trên bờ bên kia và vui mừng được biết nó hoàn toàn phù hợp với tính toán của ban tham mưu sư đoàn. Khu vực mà họ lệnh cho chúng tôi đổ bộ nằm chếch khoảng 150m về phía hạ nguồn so với nơi chúng tôi đang đứng. Tôi lệnh cho 2 trung đội súng máy và súng trường chống tăng di chuyển sang cánh phải tới vị trí đối diện với nơi chúng tôi sẽ thiết lập đầu cầu.

Tới giờ tôi vẫn ko hiểu sao đại đội phó của tôi lại được bố trí ở ban tham mưu tiểu đoàn. Nhưng lúc này anh ta và Sergeev đang ở bờ sông và theo lệnh tôi 2 người sẽ ở lại bờ bên này. Vì vậy tôi chỉ định trung uý Piseev làm đại đội phó trong quá trình vượt sông, chí ít thì anh ta cũng đã có 1 chút kinh nghiệm chiến đấu. Chúng tôi ngồi cả ngày trong tuyến hào thứ 2, đối với các shtrafnik hôm đó gần như 1 ngày nghỉ, họ chỉ có mỗi việc kiểm tra vũ khí trước trận đánh, nhiều người lăn ra ngủ bù cho những đêm ko ngủ trước đó và có thể cả sau này. Cánh chỉ huy chúng tôi thì có nhiều việc hơn, cả ngày chúng tôi tìm hiểu bờ sông phía ta, xác định các vị trí để vác xuồng ra sông, thiết lập hệ thống tín hiệu v.v... Tất cả đều được làm cùng với viên thiếu tá từ ban tham mưu sư đoàn. Đêm nay khá tối, 1 vài nhà máy đang bốc cháy gần đó, bọn Đức vẫn liên tục bắn pháo sáng lên trời.

Đến nửa đêm thì trời hoàn toàn tối đen, sau 1 trận pháo kích khác của bọn Đức, các trung đội trưởng lệnh cho binh lính vác xuồng ra sông, tin tưởng vào tính đúng giờ nổi tiếng của người Đức. Lính các trung đội súng máy và súng trường chống tăng cũng tới dù chưa cần thuyền ngay, họ chỉ muốn giúp cánh bộ binh đỡ phải quay lại hẻm núi lần 2. Chúng tôi cũng cần thêm người để phòng hờ. Khoảng 3h sáng thì các thuyền đã sẵn sàng trên bãi sông bao gồm cả chiếc mà viên thiếu tá dành riêng cho tôi. Đó là 1 chiếc xuồng thực sự nhẹ, làm bằng nhôm, mái chèo cũng bằng nhôm, chính là chiếc mà viên thượng sĩ đã dùng trong nhiệm vụ trinh sát vừa qua. Đây đúng là 1 "chiếc thuyền của những người anh hùng" dù có nhiều lỗ đạn trên mình, chúng đều đã được bịt lại cẩn thận. Chiếc xuồng làm tôi có thêm sự tự tin.

Những chiếc xuồng gỗ thì rất nặng. Có lẽ người ta đã phải đóng chúng rất vội từ gỗ còn tươi, dù sao cũng đào đâu ra gỗ khô tại mặt trận này. Xuồng được trát kín bằng hắc ín, đây quả là 1 thành tựu trong điều kiện chiến trường. Binh lính cẩn thận giấu chúng dưới những hố đất hay lỗ đạn pháo, hoặc sau những gò đụn. Họ chăm lo cho chúng như thể đó là hy vọng cuối cùng cho sự sống sót. Mỗi nhóm tay chèo đều nghiên cứu kỹ lưỡng khu vực của mình, tìm đoạn đường phù hợp nhất cho việc vác xuồng ra sông. 1 số xuồng ko có mái chèo và kể cả có thì cũng ko thuận tiện lắm, vì vậy nhiều người quyết định dùng xẻng đào hào thay cho mái chèo, thứ này thì tất cả đều có.

Tôi nghĩ mọi người chúng tôi đều có cảm giác ghen tức hay đố kị. Lại 1 lần nữa đám bộ binh thường ở lại phía sau trong khi các sĩ quan shtrafnik được nhận vinh dự đi đầu đánh chiếm đầu cầu. Từ đó sư đoàn có thể tiếp tục thẳng tiến tới Berlin, hoàn tất cuộc chiến dài hơi. Gần như chắc chắn là chúng tôi sẽ ko thể tới được bờ bên kia nguyên lành. Nhóm trinh sát của viên thượng sỹ đã vượt sông 1 cách bí mật, ko cần để lộ mình và sau đó cũng lặng lẽ trở về, còn chúng tôi sẽ phải tấn công ồ ạt lên bờ bên kia.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:50:33 PM

Chính xác như vậy, đây ko phải lần đầu tiên! Chúng tôi lại phải trông mong vào vận may! Chí ít thì vài 3 người trong đại đội hơn trăm mạng của tôi cũng sẽ có may mắn qua được bờ bên kia, và đó sẽ ko phải trường hợp duy nhất các shtrafnik ko hoàn thành nhiệm vụ! Ngay cả khi họ chiếm được 1 đầu cầu dù là nhỏ nhất, họ cũng còn phải giữ vững nó cho đến người cuối cùng. Các shtrafnik ko có đường về, ko có gì ngoài mặt sông sau lưng họ, mọi thứ đều ở phía trước. 1 vài người lính đơn lẻ chẳng thể làm gì trong trận chiến, nhưng nếu có tối thiểu 1 trong 3 trung đội của tôi chiếm được 1 chỗ đứng chân thì tôi đã có thể 1 lần nữa nói rằng đó là 1 chiến thắng!

Viên kombat đi cùng chúng tôi gần như cả ngày nhưng tôi ko gặp trung đoàn trưởng mặc dù đầu cầu này được đánh chiếm là để giao cho trung đoàn của ông ta. Ông ta chỉ gửi tới 1 điện đài và 2 điện đài viên, cả 2 đều là lính thường chứ ko phải shtrafnik. Họ được lệnh theo sát tôi để chuyển tải các thông tin về quá trình thực hiện nhiệm vụ. Trong thâm tâm tôi đã định sẵn "thuỷ thủ đoàn" cho "chiếc thuyền của những người anh hùng", đó là giao liên của tôi, 2 điện đài viên và 1 shtrafnik có thể sử dụng điện đài, anh ta và giao liên sẽ chèo thuyền. Tôi muốn họ kiểm soát tốt tốc độ để ko tụt lại sau các trung đội.

Các trung đội trưởng gửi các giao liên tới từ trước. 1 trong số họ báo cáo lực lượng dự bị đã được bố trí 1 chỗ an toàn trong 1 căn hầm kiên cố. Tôi rất ngạc nhiên vì chưa từng ra lệnh gì liên quan đến việc để 1 bộ phận làm dự bị. Tôi hỏi lại anh đang nói về lực lượng dự bị quái nào thế? Thì ra ý anh ta nói tới tiểu đội của tay cựu sĩ quan Hải quân vui tính Redki, tiểu đội này thuộc trung đội mà nay do Piseev chỉ huy sau khi Razhev ra đi. Đây là tiểu đội gồm phần lớn là cựu sĩ quan Hải quân và tôi đặc biệt hy vọng vào đơn vị này. Cánh Hải quân có tiếng là những người lính kiên cường! Tôi lệnh cho tay giao liên dẫn tôi tới hầm và khi tôi bước vào, bật đèn pin, tôi thấy cả đám cựu sĩ quan Hải quân ở trong đó cùng với tay tiểu đội trưởng. Khi tôi hỏi ai đã chỉ định anh làm chỉ huy lực lượng dự bị và đó là thứ dự bị kiểu gì, tay tiểu đội trưởng bắt đầu bốc phét, đại khái là hắn đã báo cáo việc này với Sergey Piseev. Có lẽ lúc này vẻ can đảm và vui tính của hắn đã bay đâu mất, thay vào đó là vẻ e sợ thường gặp khi nói những lời phét lác rành rành. Mọi lời nói láo đều hèn hạ và ko thể chấp nhận hay tha thứ trong thời chiến, nó có thể làm phí phạm rất nhiều máu mà trong nhiều trường hợp là máu của người khác chứ ko phải của bản thân kẻ dối trá.

Khi những người còn lại trong hầm nhận thấy điều gì đang thực sự xảy ra, 1 shtrafnik thường được gọi là moryak (thuỷ thủ) Sapunyak vì có cái tên rất vần với công việc của anh ta, đã bật ra tiếng chửi: "Thằng con hoang! Đồ chó!" Rồi tự tin nói thêm: "Đồng chí đại uý! Loại chó má này trong Hải quân sẽ bị xử bắn tại chỗ. Hãy để chúng tôi tự xử lý hắn." Tôi nhận ra tất cả những người này giờ mới biết mình bị lừa, họ đã bị sử dụng làm bình phong cho sự hèn mạt và phản bội của 1 thằng khốn. Căn hầm xấu xa giờ tràn ngập những tiếng chửi rủa tục tĩu. Tôi lập tức tịch thu vũ khí của Redki, cách chức tiểu đội trưởng và chỉ định anh chàng Sapuniak lúc này vẫn còn đang nộ khí xung thiên thay thế. Sau đó tôi rút súng lục khỏi bao và lệnh cho Redki ra khỏi hầm. Lúc này tôi vẫn còn chưa nghĩ ra sẽ làm gì với hắn hay sẽ viết báo cáo thế nào về trường hợp này, ai sẽ giải hắn về ban tham mưu tiểu đoàn? Tôi muốn có 1 toà án binh để xử lý vụ này.

Ai mà ngờ được chứ! Ngay khi hắn vừa bước ra khỏi hầm thì 1 quả đạn pháo Đức bay tới nổ tung dưới chân hắn, giết chết tại chỗ tên dối trá hèn hạ. "Chúa có mắt!" Tôi nghĩ, và cảm thấy sung sướng vì hắn đã bước ra đầu tiên chứ ko phải tôi hay 1 shtrafnik thuỷ thủ khác. Thứ đến, tôi sung sướng vì ko còn phải lo chuyện sẽ phải làm gì với hắn. Có lẽ những suy nghĩ thế này thật tàn nhẫn, nhưng tôi thừa nhận là đã nghĩ vậy. 1 shtrafnik ra khỏi hầm để xem xét xác chết của Redki thậm chí còn nói: "Con chó đã nhận cái chết xứng đáng với 1 con chó!" Tôi ko trách anh ta. Trong trường hợp này số phận đã tự trừng phạt tên phản bội định chuồn khỏi trận chiến bằng 1 lời nói dối. Trong cái đêm hung hiểm đó chúng tôi vẫn còn chưa biết cái gì đang chờ phía trước.

Sau nửa đêm thì tôi đã hoàn toàn trở lại bình tĩnh sau sự cố kể trên và những vấn đề khác. Sai lầm của tôi là đã ko nhận rõ được chân tướng 1 thuộc cấp. Qua các giao liên, tôi ra lệnh mang xuồng xuống sông. Các shtrafnik nhảy khỏi hào chạy tới chỗ giấu những chiếc xuồng, lợi dụng bóng tối trong 1 đêm ko trăng. Họ nằm im bất động hoặc náu mình dưới những lỗ đạn pháo mỗi khi có 1 quả pháo sáng Đức bắn lên. 1 số chiếc xuồng đã bị trúng mảnh đạn pháo Đức, binh lính cố bịt các lỗ thủng mà họ sờ thấy bằng đủ thứ vật liệu kiếm được, thậm chí là từ 1 mảnh cắt ra từ áo choàng hay áo trấn thủ. Chúng tôi đã có 1 số người chết hoặc bị thương vì pháo kích, đó là lý do tôi đã ra lệnh đào hầm. Đúng như tôi đoán, lệnh chuẩn bị hạ thuỷ xuồng đến trước bình minh rất lâu, khi đó chúng tôi chỉ còn phải "nhổ neo".

Lại có giao liên tới mang theo 1 thông điệp cho biết chúng tôi sẽ bắt đầu vượt sông 5 phút sau khi trận pháo dọn bãi bắt đầu, tín hiệu là đèn xanh. Trận pháo kích bắt đầu vào 5h30 sáng, nó ko kéo dài và sẽ chấm dứt ngay sau khoảng thời gian đủ để chúng tôi vượt sông. Sau đó pháo sẽ chuyển làn bắn vào sâu trong tuyến phòng ngự Đức theo yêu cầu của chúng tôi được thông báo qua radio. Tuy nhiên những điều ko may thì thường nằm ngoài kế hoạch.

Tôi cầu trời cho có sương mù trên sông, dù ít thôi cũng được, để bọn Đức ko nhìn thấy chúng tôi và khai hoả ngay khi bắt đầu vượt sông. Trận pháo phủ đầu diễn ra ngay trước bình minh, từng loạt đạn pháo gầm lên làm tất cả đều sung sướng, ngay sau đó những chiếc xuồng đầu tiên đã xuống nước. Lệnh của tôi là càng chạy nhanh thì bọn Đức càng có ít cơ hội bắn vào quân ta, thật là những lời ngu ngốc và ko cần thiết, xuồng nào cũng chạy cực nhanh. Có sương mù nhưng nó chỉ che phủ 1 phần mặt sông, và cũng chỉ trong 1 khoảng thời gian ngắn. Đêm nay là đêm thứ 3 hay 4 của tuần trăng, 1 mảnh trăng lưỡi liềm chỉ xuất hiện khi bình minh bắt đầu, đó là 1 điềm tốt với chúng tôi.

Pháo và súng máy Đức bắn dữ dội, súng trường chống tăng và súng máy phía sau tôi cũng bắn dữ dội ko kém. Chúng tôi có thể nhìn thấy những viên đạn vạch đường bay sát ngay trên đầu, chúng cũng làm chúng tôi lên tinh thần y như trận pháo phủ đầu vậy. Lúc này tôi chưa biết tại sao chúng tôi ko được yểm hộ đường ko, chỉ mãi sau này khi chiến tranh đã kết thúc tôi mới biết toàn bộ ko quân lúc đó đang phải hỗ trợ cho đòn đánh chính của Phương diện quân tại đầu cầu Kuestrin.

Dòng nước lạnh đen ngòm như sôi lên vì những tiếng nổ, nuốt chửng những chiếc xuồng và người bơi xung quanh chúng. Sau này tôi mới biết 1 số xuồng đã chở quá nặng và bắt đầu chìm chỉ vì trọng lượng của 4 người mang vũ khí ngồi trên, vì vậy các shtrafnik phải bỏ lại vũ khí trên thuyền rồi nhảy xuống bơi bên cạnh, bám vào thuyền để chống lại cơn chuột rút dưới dòng nước lạnh như băng. Tôi ko biết có bao nhiêu người đã sống sót và bơi qua được dòng sông lạnh giá hoặc bao nhiêu người chết chìm khi chưa hề phải nhận 1 viên đạn Đức nào. Những chiến binh dũng cảm đó vẫn tiếp tục bơi dọc bờ sông phía Đức nhưng họ bơi quá chậm và dòng chảy đẩy họ đi xa khỏi đầu cầu. 1 số người bỏ cuộc và để mặc cho dòng nước cuốn trôi, 1 số khác cũng trôi nhưng với mặt úp xuống, họ đã chết đuối.

Tôi chỉ có thể chú ý đến số xuồng vẫn có người bên trên còn thấy được trên mặt sông, trong sương mù và ánh sáng mờ nhạt lúc tảng sáng. Mọi người cuống cuồng chèo bằng mái chèo, xẻng đào hào và cả bằng tay. Nước như sôi lên vì những tiếng nổ, những loạt đạn và nhịp chèo của họ. 1 số người ko còn cả mũ pilotka, ko phải vì nóng mà vì đã dùng nó để bít những lỗ thủng trên xuồng.

Chiếc thuyền nhẹ của tôi chạy nhanh hơn những chiếc khác và thậm chí trước cả khi tới được bờ bên kia, tôi đã ra lệnh cho các điện đài viên phát tín hiệu chuyển làn pháo. Cùng lúc đó tôi nhận ra thuyền mình đang nằm trong ống ngắm của 1 tên Fritz, có lẽ là 1 tay bắn tỉa. Tay điện đài viên thét lên vì trúng đạn vào vai. Tôi cảm thấy cú đập của 1 viên đạn vào mũi xuồng làm bằng nhôm, mảnh của nó bay ra làm trầy cổ tay trái tôi. Binh lính trên các xuồng bắn trả lên bờ, tôi thậm chí còn thấy có 1 khẩu súng máy đang bắn từ 1 trong các xuồng!

2 hoặc 3 xuồng đang cập bờ thì bị pháo Đức bắn trúng ngay trước mắt tôi, cả thuyền lẫn người bay tung lên trời. Ơn Chúa, chiếc thuyền súng máy ko bị trúng đạn. Bọn Đức bắn vào quân ta cả bằng Panzerfaust. Tôi ko biết có bao nhiêu xuồng đã bị bắn chìm ở giữa sông vì chỉ nhìn ra đằng trước. Nhiều xuồng đã cập được vào bờ, binh sĩ xông lên, che ngực và bụng bằng xẻng đào hào lúc này được dùng như 1 tấm khiên nhỏ, vừa chạy vừa nã tiểu liên. Chúng tôi đã chiếm được những mét đầu tiên trên bờ sông phía địch. Nhưng sao chỉ có ít thuyền, ít người thế này! Tất cả chỉ độ 20 người! Khi tôi nhìn lại sau lưng thì ko thấy có thêm xuồng hay người nào trên mặt nước nữa. Điều đó có nghĩa là chỉ có ngần này người vượt được sông. Những người khác ra sao rồi? Ko lẽ họ chết hết? Ko thấy có 1 trung đội trưởng nào trên bãi sông cùng với tôi. Điều gì đã xảy ra với tất cả bọn họ? Với 2 trong số 3 trung đội trưởng thì đây là trận thử lửa đầu tiên, trong khi Sergey Piseev đã trở thành người hỗ trợ đắc lực cho tôi nhờ đã có kinh nghiệm trận mạc. Ai đó có thể đã đọc câu "nước sông nhuộm đỏ vì máu" trong các sách về chiến tranh, tôi cũng có thể tưởng tượng rằng con sông này đã trở thành màu đỏ, hay chí ít là hồng vì máu của gần 100 binh sĩ dưới quyền tôi, nhưng trong ký ức của tôi nó chỉ có 1 màu đen kịt.

Khi nhảy khỏi xuồng lên bờ, tôi hét lên với điện đài viên: "Gửi thông báo là ta đã lên bờ." Anh ta gào lên trả lời: "Tôi ko thể! Radio bị phá huỷ rồi!" Tôi bèn rút súng bắn pháo hiệu ra bắn 1 quả đạn xanh lên trời. Đó là tín hiệu để quân ta biết rằng chúng tôi đã làm được và đang chiến đấu tại đầu cầu. Đó cũng là lúc 1 lần nữa tôi thấy tiếc vì ko thấy ko quân đâu cả dù trời rất trong và mọi thứ có thể nhìn được rõ ràng. Bờ bên kia nhìn rất rõ, cũng có nghĩa là quân ta bên đó nhìn rõ chúng tôi. Quả pháo hiệu cũng là tín hiệu cho súng trường chống tăng và súng máy của đại đội tôi chuyển hướng sang 2 cánh và vào sâu bên trong bờ. Tôi nghĩ đang có 2 - 3 chiếc tăng Đức hiện ra từ hướng đó.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:50:42 PM

Từ lúc này, trên bờ trái các sự kiện diễn ra liên tiếp với tốc độ ánh sáng. 1 quả đạn pháo hoặc Panzerfaust Đức rít lên lao về phía tôi. Đại uý phi công Smeshnoi chạy như bay từ cánh trái sang cánh phải, gào lên gì đó mà tôi ko thể nghe thấy. Tôi cũng để ý thấy cựu sĩ quan Hải quân Sapunyak với quân phục mở phanh để lộ chiếc áo lót thuỷ binh kẻ sọc ngang. Anh ta lao về phía trước khiến ko chỉ các cựu sĩ quan Hải quân mà cả những người khác đã lên được bờ cũng lao theo. Số còn lại thì chạy theo sau phi công Smeshnoi trong đó có tôi. Cả 2 nhóm nhỏ quân ta đều xông lên. Tôi ko nghe được quân ta có hô "Hurrah!" hay những câu chửi tục tĩu ko dù thấy mồm ai cũng ngoác ra. Các shtrafnik đã tiêu diệt được nhóm cảnh giới tiền tiêu Đức trong tuyến hào đầu tiên, phía ta cũng mất 1 số người. 3 - 4 người ngã lăn ra đất ngay trước tuyến hào Đức, chỉ cách độ 2 - 3m. Phi công Smeshnoi có lẽ đã để ý đến 1 tên Đức mang Panzerfaust từ lúc còn ở dười xuồng nên lao thẳng về phía hắn. Tên Đức có lẽ bị shock trước kiểu chạy lao cả người tới của anh, hắn bắn Smeshnoi nhưng trượt, thế là hắn nhảy khỏi hào chạy tháo thân. Nhưng Smeshnoi đã hạ được hắn bằng 1 loạt tiểu liên. Tôi bắn pháo hiệu đỏ đồng thời huýt sáo để phát tín hiệu dừng, cần phải cho quân ta có chút thời gian thở lấy hơi và nạp lại đạn. 3 chiếc tăng Đức mà chúng tôi đã nhìn thấy từ xa vẫn tiếp tục tiến lại.

Tôi đếm được còn 13 người mình trong hào. Chúng tôi vẫn tiếp tục bắn đuổi theo bọn Nazi đang bỏ chạy. Quân số quá ít, nhưng dù sao ta cũng đã kiểm soát được mẩu đất này! Giờ nhiệm vụ của chúng tôi là giữ lấy nó dù lực lượng quá yếu. Tôi có thể thấy nhóm bộ binh Đức sau những chiếc tăng sắp phản công. Ta có thể giữ được ko? Chúng có bao nhiêu tên? Bất thần 1 chiếc tăng Đức khựng lại và xì khói. Thì ra Smeshnoi đã thu lấy khẩu Panzerfaust của tên Đức và dùng nó hạ chiếc tăng. Làm tốt lắm! Việc anh ta học sử dụng thứ vũ khí này đã ko vô ích. Thêm 2 phát Panzerfaust nữa bắn trúng chiếc tăng thứ 2. Phát thứ nhất làm tháp pháo của kẹt cứng, phát sau làm cả chiếc tăng bùng cháy. Quân ta đã nạp lại đạn xong và bắt đầu bắn dữ dội vào những tên bộ binh Đức đang xông tới từ sau những chiếc tăng. Nhiều tên bị giết, số còn lại quay lui.

Lúc này binh lính đều hành động tự phát ko theo sự chỉ huy của tôi hoặc có thể họ hiểu sai 1 cử chỉ nào đó của tôi là tín hiệu tấn công, vậy là tất cả nhảy lên khỏi hào xông lên tiếp. Tôi nhìn thấy Smeshnoi trong số họ. Bọn Đức đang tháo chạy, nhiều tên vứt cả súng nhưng ko tên nào giơ tay hàng. Tôi nghĩ chúng cho rằng việc đầu hàng những tay hung thần Nga này là vô dụng, và chúng đã đúng. Bất ngờ khi người anh hùng phi công của chúng tôi đang chạy qua xác 1 tên Đức thì hắn chồm dậy nã cả băng đạn MP vào lưng Smeshnoi, thì ra hắn đã giả chết hoặc chỉ bị thương. Hắn bắn cho đến khi bị tôi hạ bằng 1 tràng dài tiểu liên.

Tôi chạy tới chỗ viên phi công, lật anh ta lên và thấy anh đã bất động, đôi mắt xanh của anh phản chiếu bầu trời buổi sáng, bầu trời mà anh đã rất yêu và vì nó anh nguyện dâng hiến cả cuộc đời cho lực lượng ko quân. Ngực anh đã bị phá nát, miệng mở to như thể đang hô tiếng hô chiến thắng. Cả 1 loạt đạn đã chấm dứt cuộc đời con người dũng cảm, trái tim anh ngừng đập ngay lập tức. Tôi vuốt mắt cho anh, cảm nhận hơi ấm vẫn còn trên cơ thể anh. Tôi ko thể ở lại bên anh dù rất muốn. Giờ tôi mới hiểu lời đề nghị của 1 số binh lính trong các trận đánh trước đó muốn kết liễu những tên Nazi bị thương. Ko bao giờ được để kẻ địch còn sống.

Nhưng tôi cần phải quyết định ngay nên làm gì. Chúng tôi đã chiếm được tuyến hào thứ 2. Tôi chỉ còn lại có 12 người, thêm tôi nữa là 13, ko tính mấy điện đài viên lúc này vẫn còn ở dưới xuồng trên bờ sông. Tôi 1 lần nữa ra tín hiệu "Dừng!" và quát to những mệnh lệnh bố trí phòng thủ. Tôi quyết định gửi 1 thông điệp cho tay kombat qua các điện đài viên, 1 trong 2 người đó chưa hề bị thương. Ko có radio thì tôi cũng chẳng cần họ làm gì nữa. Tôi cũng ko rõ khi nào người ta mới gửi 1 cái radio mới cho tôi. Tôi quyết định gửi 2 - 3 shtrafnik bị thương nặng theo các điện đài viên quay về. Tôi nhanh chóng viết báo cáo ngắn rằng đã chiếm được tuyến hào thứ 2, đang chốt giữ tại đó với 13 người, và nói thêm: "Chúng tôi cần yểm trợ đường ko." Ko còn 1 trung đội trưởng nào, tôi chỉ định shtrafnik Sapunyak làm phó. Tôi cũng báo cáo đại uý Ko quân Smeshnoi đã hi sinh trong trận đánh "sau khi đã thể hiện lòng dũng cảm vô hạn và chủ nghĩa anh hùng ko gì sánh kịp." Tôi viết rõ chức danh của anh là ĐẠI UÝ KHÔNG QUÂN. Smeshnoi đã trả giá đủ để phục chức, bằng máu của anh! Ko may là tôi ko nhớ tên đầu của anh, hình như Valentin hay Viktor gì đó.

Sau khi quyết định xong, tôi lệnh sơ tán 2 shtrafnik bị thương nặng xuống xuồng để chuyển họ về hậu phương cứu chữa. Họ sẽ ko thể sống sót nếu còn ở đây. Trước khi mang những thương binh ra bờ sông, tôi đang cúi xuống xem xét anh chàng điện đài viên bị thương thì bất ngờ, lại bất ngờ! Ko phải nghe mà là tôi cảm thấy 1 tiếng nổ lớn bên tai phải và tôi lập tức rơi tõm vào 1 vực thẳm ko đáy. Mãi sau đó khi tỉnh lại tôi mới nghĩ chuyện toàn bộ quá khứ của bạn hiện ra như 1 ánh chớp trong khoảnh khắc trước khi chết là nói láo. Chẳng có gì giống thế cả. Thứ duy nhất tôi nghĩ đến lúc đó là mình chết rồi. Thế đấy. Sau này tôi được biết mình trúng 1 viên đạn vào đầu như giấy chứng thương đã ghi: "Bị thương vì đạn xuyên vào thái dương bên phải trong trận đánh tại sông Oder ngày 17/4/1945." Tôi nghĩ 1 tay bắn tỉa Đức đã chơi tôi cú này.

Có lẽ những người đứng quanh tôi thấy tôi vẫn còn sống. Họ khiêng tôi từ dưới nước lên và băng sơ cứu vết thương. Tôi đoán vậy vì cả người ướt sũng khi tỉnh lại. Sau đó họ đặt tôi lên xuồng quay sang bờ bên kia. Thật buồn cười là những người quan sát từ phía bờ bên ta lại giải thích những gì nhìn thấy theo cách khác, họ nói với Rita là tôi "đã chết". George Sergeev cũng bị thương và quan sát trận đánh qua kính tiềm vọng nói: "Tôi nhìn thấy rất rõ. Anh ấy ngã nhào xuống nước. Anh ấy hy sinh rồi." Anh nuôi Putrya của tôi nói với Rita: "Con gái ạh, vậy đấy, chính mắt ta trông thấy. Cậu ấy ngã xuống nước và cái xuồng kéo lê cậu ấy đi."

Thực ra đúng là tôi ngã xuống nước nhưng người của tôi lập tức nhấc tôi lên xuồng. Tôi ko biết gì khi tỉnh lại, chỉ thấy mặt trời ở trên cao và nắng ấm. Mặt trời ấm áp có lẽ là lý do khiến tôi sớm tỉnh lại. Tôi định xem đồng hồ thì nhận ra tay mình đầy máu, tôi đã ko có thời gian băng nó lại lúc ở trên đầu cầu. Chiếc đồng hồ đã hỏng khi 1 viên đạn bắn trúng xuồng tôi lúc đang đổ bộ, nó dừng lại đúng thời điểm đó. Nhờ mặt trời còn đang ở trên cao, tôi nhận ra mình đã rời đầu cầu được 2 tiếng mà chiếc xuồng vẫn còn trôi rất gần bờ trái, nó đã bị dòng nước cuốn đi cách vị trí chúng tôi vượt sông khoảng 5km.

Anh lính điện đài bị thương đang cố chèo bằng 1 tay thay vì mái chèo. Cả 2 mái chèo đã rơi mất ở đâu đó. Điện đài viên thứ 2 đã chết. 1 trong 2 shtrafnik bị thương cũng đã chết, người kia bị thương ở bụng đang cầu xin chúng tôi vứt anh xuống nước hay cho 1 phát đạn vì đằng nào cũng ko thể cứu sống được anh ta, mà anh thì ko muốn chết trong đau đớn. Tôi hiểu rõ anh nhưng cũng nhớ rằng "lúc nào cũng còn hy vọng" và ko thể để mất lý trí dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Tôi cố hết sức khuyên nhủ anh, thậm chí còn nói nhiều hơn vì chúng tôi vẫn còn gần như ở sát bờ bên địch.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:50:53 PM

Lúc này tôi đã định thần lại và có thể nhìn rõ. Kiểm tra bản đồ là vô dụng vì chiếc xuồng đã trôi ra xa khỏi khu vực có trong bản đồ. Tôi đã có thể thấy chỗ con sông tách thành 2 dòng chảy, chúng tôi đang trôi tới gần rìa phải của dòng chảy bên trái sông Oder. Đó là 1 hòn đảo, có lẽ khá nhỏ, nhưng ai đang kiểm soát nó? Ko hiểu nó đã về tay quân ta hay vẫn còn trong tay bọn Đức? Tôi có 1 cái còi Đức gắn vào 1 chiếc compa nhỏ và tay tôi tự động mò tìm nó, dù nó chẳng có tác dụng gì trong trường hợp này.

Tôi cùng với điện đài viên bị thương đã chèo xuồng được vào bờ đảo, chúng tôi thậm chí còn kéo được mũi xuồng lên bãi sông phủ đầy lau lách từ mùa hè trước để nó ko bị dòng nước cuốn đi. Sự căng thẳng làm tôi mệt lả. Tôi lệnh cho anh điện đài viên kéo xuồng lên càng cao càng tốt còn mình thì đi trinh sát, thực ra là bò, để xem con sông Oder và số phận đã mang chúng tôi đến với bạn hay thù. Tôi bảo anh điện đài viên rằng nếu nghe thấy tiếng súng nổ thì có nghĩa là tôi gặp chuyện rủi rồi. Tôi quyết sẽ ko đầu hàng nếu hòn đảo vấn nằm trong tay bọn Đức. Tôi nói trong trường hợp đó tốt nhất anh hãy cho xuồng trôi đi tiếp, rồi chắc chắn anh sẽ gặp được quân ta. Tôi biết điều mình nói đó là hão huyền, nhưng đó là điều tốt nhất tôi có thể làm với anh. Tôi cũng lệnh cho anh canh chừng người shtrafnik bị thương, ko để anh ta nhảy xuống nước hoặc vuốt mắt cho anh ta nếu cần. Người lính trả lời anh ta hiểu mệnh lệnh của tôi.

Tôi khó nhọc bò đi, thỉnh thoảng bị cạnh lau lách cứa rách thịt. Hòn đảo rất ẩm ướt, phủ đầy những bụi lau và có những cây nhỏ trụi lá. Có vẻ như tôi đã bò rất lâu, cả người như bốc cháy vì cơn sốt, nhiều khi tôi quá mệt và phải nằm lăn ra. Chúa mới biết tôi đã bò quãng đường 1 vài trăm mét đó mất bao lâu, và khoảng cách đó lúc này mới xa xôi làm sao. Thế rồi tôi thấy ngay trước mặt 1 công sự nổi lên trên 1 đoạn hào, trên đó có đặt 1 cái mũ sắt Đức. "Thế đấy. Ko may rồi," tôi nghĩ. Dù sao tôi cũng vẫn quyết định bò tới với ý nghĩ: "Mình sẽ ko bỏ cuộc."

Trong khi bò tới đoạn hào, tôi để ý thấy đạn pháo bay qua đảo từ cả 2 phía, điều này làm cho trí não đờ đẫn của tôi có chút hy vọng. Tôi rút khẩu súng ngắn TT ra, lên đạn và tiếp tục bò tới. Đầu tiên tôi định sẽ tự sát nếu gặp bọn Đức trong hào nhưng sau nghĩ lại, tôi quyết định sẽ dành viên đạn đầu tiên cho tên Đức đầu tiên mình gặp, viên thứ 2 mới dành cho tôi vì tôi ko muốn bị bắt. Những năm chiến tranh đã qua khiến tôi hiểu rằng ko thể chấp nhận để bị bắt, nó sẽ chỉ đem lại 1 cách chết chắc chắn kiểu khác mà thôi.

Vậy là chỉ còn cách cái công sự 3m, rồi 2m, rồi 1m, rồi nửa mét. Tôi đã có thể nhìn thấy căng tin Đức ở 1 nhánh hào, nhưng ko nhìn thấy tên Đức nào để cho hắn ăn đạn. Thêm 1 cú chuồi tới nữa và bất thần, 1 chiếc mũ mùa đông gắn sao đỏ của quân ta thò ra khỏi công sự! Ngôi sao màu đỏ chứ ko phải màu kaki như loại chúng tôi thường dùng. Sau đó thì mọi việc diễn ra như trong 1 đoạn phim quay chậm, dưới chiếc mũ tôi thấy khuôn mặt đẹp đẽ vô ngần của 1 người lính Uzbek, hay Kazakh, hay Kalmyk gì đó với gò má cao và đôi mắt híp điển hình của người Châu Á. Có lẽ anh ta cũng phát hoảng khi nhìn thấy khuôn mặt 1 đại uý Soviet đầy máu, tay cầm súng lục đang bò tới từ phía địch. Vừa nhìn thấy tôi là anh ta đã bỏ chạy ngược lại theo đường hào, trong khi đó tôi vẫn bò tới trong 1 cố gắng cuối cùng để lăn xuống hào và 1 lần nữa bất tỉnh nhân sự.

Tôi tỉnh lại thì thấy mình đã được khiêng vào trong 1 căn hầm. 1 sĩ quan cũng là đại uý đang ra lệnh cho y tá băng đầu cho tôi. Tranh thủ khi vẫn còn đang tỉnh, tôi cố nói với anh rằng trước hết hãy tìm chiếc xuồng trên bờ đảo, tại đó đang có 1 sĩ quan bị thương nặng (tôi bảo tay shtrafnik là sĩ quan) và 1 điện đài viên cũng bị thương. "Hãy giúp họ!" Người ta thậm chí còn lau mặt cho tôi rồi mới băng lại cẩn thận. Viên đại uý trấn an tôi và bảo cả 2 người bị thương đã được băng bó và gửi về bờ bên ta trên 1 chiếc thuyền. Người ta hứa sẽ sớm chuyển tôi đi nhưng chưa thể làm ngay vì bọn Đức đang pháo kích khu vực này. Tôi đã hoàn toàn tỉnh lại, tâm trí sáng láng 1 cách kỳ lạ, ko hiểu đó là do hậu quả của cơn mê trước đó hay do người ta đã cho tôi ăn pelmeni! Đến giờ tôi vẫn ko biết rõ đó là ảo giác hay sự thực.

Chiều tối hôm đó, khi mặt trời đã ngả sang bờ tây sông Oder, cơn sốt của tôi đã trở nên ko thể chịu nổi và người ta đưa tôi xuống thuyền. Tôi nhớ có 1 thượng sĩ để ria trên thuyền và anh ta chèo rất mạnh. Thực tế đoạn sông này nằm dưới tầm đạn Đức và 1 viên đạn thậm chí đã làm chân tôi trầy nhẹ, nhưng nó ko làm tôi quan tâm lắm. Tôi ko nhớ người ta đã mang tôi vào 1 trạm phẫu như thế nào, 1 lần nữa tôi lại bất tỉnh và chỉ tỉnh lại khi đã ở trong quân y viện, lúc đó người ta đang băng lại vết thương cho tôi. Tiếp đó tôi lại ngủ suốt và chỉ tỉnh lại hoàn toàn khi Rita tìm thấy tôi trong quân y viện.

Tôi sẽ kể lại câu chuyện này theo những gì Rita kể cho 1 nhà báo.

Rita đang xuống cầu thang căng tin thì nghe được tiếng George Sergeev, anh ta cùng các sĩ quan ở đó ko nhìn thấy cô. Theo cô biết, anh ta đã được bố trí để vượt sông và hôm qua cô đã nói lời tạm biệt anh. "Tôi thấy rõ ràng. Cậu ấy ngã úp mặt xuống nước. Cậu ấy đi rồi, đi rồi. Tôi biết nói sao với cô ấy đây?" Chỉ sau đó Rita mới hiểu tại sao Misha Goldstein, bạn chung của 2 vợ chồng tôi, lại đòi cô đưa khẩu súng ngắn cho anh, đúng hơn là ép cô: "Đưa nó cho tôi, tôi cần tháo hết đạn ra! Cứ đưa đây!"

Rita ko khóc. Cô ko đơn giản là 1 phụ nữ đang nghe về cái chết của chồng mình mà cô là 1 trung sĩ. Cô cố hết sức đi đứng ngay ngắn và bình tĩnh ra khỏi căng tin. Khi bước ra ngoài, cô thấy lực lượng tăng cường đang lên xe tải, trong đó có đại đội trưởng "dự bị", người thay thế cho tôi Nikolai Slautin. Anh ta đang ra trận để thay tôi, đại đội trưởng đã hy sinh. Thế là cô chạy đến xe tải, bám vào thùng xe cầu xin: "Các bạn, các bạn tốt, hãy cho tôi theo, giấu tôi vào đâu đó. Tôi phải nhìn thấy anh ấy lần cuối!" Binh sĩ nhấc cô lên thùng xe, giấu cô giữa những người khác trong khi chiếc xe phóng ra bờ sông Oder dưới làn đạn pháo và cối Đức.

Sông Oder đang rực cháy. Bờ bên kia, nơi mà Rita biết tôi đã sang được cùng 12 người nữa, đó là tất cả những gì còn lại của đại đội, cũng đang bùng cháy dưới hoả lực dữ dội của bọn Đức. Bờ bên này sông cũng đang cháy, khắp nơi đầy mảnh đạn và những quả đạn pháo Đức vẫn đang nổ tung xung quanh.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:51:16 PM

Ngay trên bờ sông Rita gặp Putrya, ông già mà tôi luôn cảm thấy rất tiếc vì bị tống vào tiểu đoàn trừng giới chỉ vì mất mấy bánh xà phòng. Putrya khóc kể: "Con gái ạh, thế đấy. Ta tận mắt nhìn thấy cậu ẫy ngã nhào xuống nước và chiếc xuồng kéo lê cậu ấy đi." Bất ngờ Rita quyết định: "Nếu chiếc xuồng đã kéo lê anh ấy đi thì tại sao sau đó anh ấy còn kêu được? Vẫn còn 1 tia hy vọng!" Cô bắt đầu bò dưới làn đạn pháo từ hố đạn này sang hố đạn khác, hỏi mọi người mà cô gặp xem họ có thấy "1 đại uý to cao đẹp trai ria mép đen" ko? Rita đã ở 2 ngày 2 đêm dưới những hố đạn pháo đó, cô đã có thể ra khỏi đó sớm hơn, nhưng trong nhiều hố đạn cô gặp những tiếng kêu cứu: "Chị ơi, chị ơi, giúp tôi!" Cô lại băng bó những người bị thương rồi mới bò tiếp, hỏi han tiếp để rồi cuối cùng được trả lời: "Cao to đẹp trai ria mép đen hả? Họ đã mang anh ấy tới tiểu đoàn quân y. Ko rõ anh ấy có thoát được ko vì bị thương nặng vào đầu."

Thế là cô đứng dậy, ngay dưới làn đạn, và chạy tới 1 chiếc xe tải đang xếp thương binh lên, 1 lần nữa lại bám vào thành xe. Cô ko dám xin 1 chỗ trên thùng xe vì các thương binh thậm chí còn phải đứng bám vào cửa cabin lái, nhiều người khác còn đang chờ được đưa đi. Đi bộ có thể đồng nghĩa với mất tôi, vì thế cô bám vào thùng xe bằng đôi tay của 1 cựu nữ sinh trường ballet, đôi tay gầy của 1 cô gái đã sống sót qua cuộc phòng thủ Leningrad, cô đã bám như vậy để đi suốt 3km. Bám vào thùng xe bằng tay, cô ko chỉ phải mang trọng lượng bản thân mà còn cả con chúng tôi vượt qua chiến địa, nó đã hoài thai trong mình cô được vài tháng. Đứa bé được sinh ra ngay sau Ngày Chiến thắng, hôm đó chúng tôi đã khắc tên mình lên tường toà nhà Reichstag, Alexander và Margarita Pylcyn.

Cô mất rất nhiều thời gian để tìm tôi trong tiểu đoàn quân y vì chẳng có sĩ quan "đẹp trai với ria mép đen" nào ở đó. Nếu nhìn vào gương, thậm chí cô còn ko nhận ra cả chính mình. Mái tóc cô đã chuyển màu muối tiêu dù chỉ mới 20 tuổi. Tôi bị băng kín mít như 1 xác ướp và cô nhận ra tôi chỉ nhờ vào đôi môi. Lúc đó tôi vẫn còn đang bất tỉnh và ko nhận ra nụ hôn của cô. Rita đã ở gần 2 tuần trong quân y viện, trong ký ức tất cả những ngày đó trộn lẫn vào nhau thành 1 ngày dài vô cùng khó khăn mà cô ko thể nhớ nổi 1 chi tiết hay 1 khuôn mặt nào. Chỉ biết là nhờ những việc cô làm trong 2 tuần khủng khiếp đó mà cô đã được nhận Huân chương Sao Đỏ. Rita chỉ còn nhớ mỗi 1 điều là vào ngày cuối cùng cô đã hiến máu bằng cách truyền trực tiếp, sau đó thì ngất luôn. Tôi tỉnh lại vào tối hôm đó, vì 1 số lý do tôi đoán biết được Rita đang ở bên tôi.

Có lẽ tôi tỉnh lại được là nhờ sự chăm sóc của cô, nhờ cảm nhận được sự đau khổ, quan tâm lo lắng trong từng ánh nhìn của cô đối với tôi. Tất nhiên, tôi ko ngạc nhiên lắm và nghĩ: "Vợ mình còn ở đâu khác được nữa cơ chứ?" Mặc dù lúc đó tôi vẫn chưa biết mình đang ở cách sông Oder bao xa và đã bao lâu. Con sông đã trở thành nấm mồ tập thể cho gần như cả đại đội tôi. Họ đã muốn được sống đến ngày chiến tranh kết thúc biết bao nhiêu, muốn được tẩy rửa vết nhơ và vứt bỏ cái mác shtrafnik biết bao nhiêu, muốn được trở lại làm 1 sĩ quan bình thường vào Ngày Chiến thắng mong đợi đã lâu biết bao nhiêu. Con sông chắn ngang đường tới Berlin này cũng tí nữa trở thành nầm mồ của chính tôi.

Suy nghĩ về nấm mồ tập thể đó bám riết lấy tôi rất lâu. Tất nhiên ko ai muốn nằm lại 1 miền đất xa lạ để sau khi chết những người thân thuộc ko thể đặt hoa lên mộ. Còn tệ hơn nữa là chết chìm dưới con sông sâu thẳm xa lạ này. Tôi đã cố gắng thoát khỏi số phận nghiệt ngã đó và sung sướng làm sao, 1 lần nữa tôi lại gặp may đến mức ko thể tin được. Khi tôi biết được làm thế nào mà Rita tìm tới đây được, tôi cũng vẫn ko ngạc nhiên lắm. Tôi chỉ thêm khâm phục sự thuỷ chung, lòng dũng cảm và cương quyết mà cô 1 lần nữa chứng tỏ trong hoàn cảnh khó khăn. Vài ngày sau tôi đã có thể đứng dậy trong khi Rita vẫn làm việc suốt ngày đêm trong quân y viện, chỉ dành cho tôi 1 khoảng thời gian ngắn.

Tại quân y viện này, tôi đã ngạc nhiên trước ý chí độc nhất vô nhị của 1 thương binh. Cũng như tôi, anh ta bị thương vào đầu. Những thương binh cùng phòng nhận thấy anh ta suốt ngày lấy ngón tay gõ vào thành giường làm bằng gỗ dù vẫn đang bất tỉnh. 1 thương binh khác, có lẽ là 1 liên lạc viên, nhận ra anh ta dùng mã Morse để chuyển đi 1 thông điệp dù vẫn đang bị thương nằm bất động. Ai đó khuyên hãy dùng mã Morse trả lời anh ta rằng đã nhận thông điệp để anh ta giữ im lặng, anh liên lạc viên bèn vỗ vào tay anh để nói thông điệp đã nhận được và người thương binh đang bất tỉnh dừng lại thật. 15 phút sau thì tim anh ngừng đập. Anh đã bị thương vì trúng đạn cối và suốt từ lúc đó tới khi chết, anh đã cố gắng truyền đi thông điệp để hoàn tất trách nhiệm của mình. Anh đã hoàn thành nhiệm vụ và chỉ sau đó mới chịu chết, khó có thể tưởng tượng được sức mạnh ý chí nào đã giữ anh sống cả ngày hôm đó!

Trong năm đầu tiên sau khi chiến tranh kết thúc đã có rất nhiều cuốn sách xuất bản về đề tài chiến tranh. 1 trong số đó tôi đã đọc thấy mô tả chi tiết đúng như trường hợp này khiến tôi phải đi đến kết luận là tác giả đã ở cùng quân y viện với tôi hoặc chí ít là ai đó đã kể lại cho anh ta câu chuyện khó tin này. Tôi nghĩ đây là 1 trường hợp độc nhất vô nhị.

Vài ngày sau tôi bắt đầu nói với Rita về chuyện trở lại tiểu đoàn cùng tôi. Trước hết tôi ko muốn cô bị xem như 1 kẻ đào ngũ vì cô đã chạy khỏi tiểu đoàn đi tìm tôi mà ko báo cáo ai! Thứ 2 tôi muốn cô báo cho ban tham mưu tiểu đoàn biết tôi đang ở đâu, thứ 3 tôi muốn biết điều gì đã xảy ra với mảnh đất mà chúng tôi đã trả giá rất đắt để có được nó, và thứ 4 tôi muốn đề nghị họ đưa tôi về! Tôi muốn trở lại đơn vị trước khi chiếm Berlin! Tôi ko biết Rita đã giải quyết thế nào với tiểu đoàn để được bố trí vào bệnh viện này, nhưng chúng tôi lập tức tới gặp bác sĩ giám đốc quân y viện để xin cho tôi ra viện.

Rita biết ông rất rõ, đó là thiếu tá quân y Borovikov như tôi đã kiểm tra trong giấy chứng thương của tôi. Ông vừa mới trao Huân chương Sao Đỏ cho Rita nên cô hùng dũng lôi tôi tới văn phòng ông. Thật ngạc nhiên, ông đồng ý ngay lập tức và nói ông rất tin tưởng giao tôi cho 1 y tá giỏi như Rita, sau đó viết giấy ra viện cho tôi luôn. Chúng tôi chỉ mất có vài giây chuẩn bị hành lý, bước ra khoảnh sân ngập nắng kiếm 1 cỗ xe ngựa 4 bánh tao nhã có giảm sóc đang đứng chờ với 1 chú ngựa non rất thuần đã đóng sẵn vào xe. Ko bỏ phí 1 giây, chúng tôi nhận bánh mì và đồ hộp cho 2 ngày từ sĩ quan hậu cần rồi lên đường.

Chuyến du hành thật là vừa ý. Tôi ko biết có bao giờ được đi 1 cách vui vẻ thảnh thơi với 1 người đánh xe duyên dáng đến thế này nữa ko! Tôi ngạc nhiên vì Rita có thể điều khiển chú ngựa 1 cách dễ dàng làm sao dù cô chưa từng làm việc này. Trên đường cô cho tôi biết những tin tức mới nhất về tiểu đoàn. Tin quan trọng nhất là đầu cầu vẫn được giữ vững, sau khi tôi bị thương các shtrafnik đã tiếp tục đẩy lùi được 2 - 3 cuộc phản công của bọn Đức. Đến tối công binh đã đặt được cầu phao cho bộ binh và pháo hạng nhẹ và hơn chục tay shtrafnik anh hùng của tôi đã được tiếp viện bởi chính những người đã cho Rita đi nhờ tới bờ sông Oder. Các đơn vị bộ binh đang mở rộng đầu cầu mà đại đội tôi thiết lập được.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:51:43 PM

Trước đó đã có lúc Rita từ quân y viện về tiểu đoàn, mới đầu ko ai tin là tôi còn sống, mọi người đều nghĩ tôi đã hy sinh. 1 số bạn bè còn bí mật nói với Rita rằng ban tham mưu tiểu đoàn đã chuẩn bị sẵn 1 giấy chứng tử và 1 đề nghị truy tặng Sao Vàng Anh  hùng Liên Xô cho tôi. Cảm giác của tôi thật lẫn lộn. Tất nhiên điều đó thật là hay, nhưng tôi vẫn còn sống nên tôi muốn nhận phần thưởng cao quý này khi đang tại ngũ chứ ko phải truy tặng. Tuy nhiên người xứng đáng với danh hiệu cao nhất này hơn tất cả chúng tôi là đại uý shtrafnik Smeshnoi! Kể cả nếu anh ta trở thành shtrafnik duy nhất của Tiểu đoàn Trừng giới Độc lập 8 nhận danh hiệu này thì cũng là 1 biệt lệ tuyệt vời! Tôi nghĩ anh xứng đáng với danh hiệu đó với sự hy sinh anh dũng của mình.

Dù sao thì thực tế điều sung sướng nhất với tôi vẫn là mình còn sống và mẹ tôi sẽ ko phải nhận giấy chứng tử cho đứa con trai cuối cùng còn lại này. Bà chẳng cần tôi được truy tặng 1 phần thưởng nào sất. Vậy là tôi đang rong ruổi trên cỗ xe ngựa êm ái này trong 1 ngày xuân nắng đẹp, cây cối nở hoa 2 bên đường thật rực rỡ! Cảnh vật xung quanh chúng tôi đẹp tới mức đôi lúc chúng tôi quên mất là đã có chiến tranh! Thỉnh thoảng chúng tôi gặp 1 nhóm phụ nữ, đàn ông, thậm chí cả trẻ em vừa mới được giải thoát khỏi các trại lao động khổ sai Đức. Những con người đói khát, kiệt sức nhưng trên môi nở nụ cười rạng rỡ và ánh mắt vui vẻ. Nhiều người vẫy tay với chúng tôi và gào to tiếng cám ơn.

Tới 1 chỗ mà tôi ko rõ là ở đâu thì chúng tôi vượt 1 chiếc cầu phao bắc qua con sông quỷ quyệt Oder, lúc này nó đã yên tĩnh hoàn toàn. Tôi hỏi Rita xem chúng tôi đang đi đâu và làm thế nào mà tìm được tiểu đoàn tôi, cô trả lời cô biết đường vì tham mưu trường Philip Kiselev đã cho cô 1 tấm bản đồ ghi tuyến đường mà tiểu đoàn sẽ đi, tuyến đường này được vạch bằng bút đỏ trên bản đồ, dẫn tới 1 thị trấn Đức nhỏ. Tới đó nếu ko tìm thấy tiểu đoàn chúng tôi sẽ hỏi sĩ quan quân quản địa phương để nhận các chỉ dẫn tiếp theo.

Tôi ko định mô tả chi tiết chuyến du hành này. Chúng tôi rời quân y viện ngày 28/4 và theo tôi nhớ là bắt kịp tiểu đoàn vào ngày 1/5 tại đâu đó gần thị trấn Freienwalde, ngoại ô phía bắc Berlin. Chỉ có 1 chi tiết quan trọng nhất là trong chuyến đi, qua mỗi căn nhà tôi đều thấy gần như mọi cửa sổ đều treo 1 mảnh vải trắng, dấu hiệu đầu hàng. Vài đứa trẻ Đức đã xuất hiện trên phố và người lớn phải kêu chúng vào nhà mỗi khi có xe tải hay xe tăng ta chạy qua.

Thỉnh thoảng chúng tôi gặp 1 hàng dài tù binh Đức mệt mỏi âu sầu với vài lính Soviet áp giải. Dân địa phương nhìn họ bằng con mắt buồn bã. Vì lý do nào đó, tôi ko thấy 1 người Đức nào đưa thức ăn cho tù binh Đức như những phụ nữ Ukraina và Belorussia đã làm với tù binh ta khi họ bị giải về Đức. Có lẽ mỗi quốc gia có quan niệm riêng về lòng nhân đạo.

Chúng tôi đã quyết định nghỉ qua đêm tại 1 thị trấn nhỏ và chọn 1 căn nhà trông có vẻ tử tế nhất vì quân đội ko bố trí tại đây. Ko thể nói rằng những người Đức tỏ ra vui mừng khi gặp chúng tôi nhưng có lẽ chúng tôi là những binh sĩ Soviet đầu tiên ở lại đây. Các thường dân Đức xem việc cho chúng tôi ở lại như 1 trách nhiệm, và họ thực hiện trách nhiệm đó 1 cách chính xác và nghiêm túc như khi làm mọi việc khác trong đời.

Chúng tôi ở trong căn phòng được họ giao cho, trong đó có mọi thứ cần thiết, bàn ghế và 2 chiếc giường đôi trải đệm lông chim dày. Trên 1 chiếc bàn nhỏ màu tối có đặt 1 cái chậu cùng 1 bình kim loại đựng nước để rửa tay. Người Đức thường ngủ trong những chiếc giường trải đệm lông chim dày nhưng với chúng tôi nó quá nóng. Chúng tôi chưa từng ngủ trên loại đệm này và thích trải 1 tấm mền bình thường hơn.

Tôi nhờ bà chủ nhà đun nước pha trà. Bà già Đức mặt lạnh tanh gật đầu tỏ ý hiểu thứ tiếng Đức còn lâu mới được coi là hoàn hảo của tôi. Bà chỉ nói "Jawohl" (Vâng - Maseo) rồi đi. Sau này trong thời gian phục vụ tại Đức tôi nhận thấy Jawohl là 1 trong những từ cửa miệng trong giao tiếp của người Đức. Trong lúc đó chúng tôi dỡ gói đồ ăn, mở 1 hộp dăm bông Mỹ và đặt 1 ít đường lên bàn. Bà chủ nhà bưng lên 2 cốc nước nóng và khi nhìn thấy đường bà hỏi chúng tôi có muốn uống cafe ko. Nhìn ánh mắt thèm khát của bà ta chú mục vào mấy viên đường trắng tinh, chúng tôi hiểu bà mời cafe ko đơn thuần vì lòng mến khách. Tất nhiên chúng tôi thoả thuận với nhau đưa bà 1 nửa số đường mình có, có lẽ bà ta ko ngờ tới sự rộng rãi quá mức này và khuôn mặt lập tức trở nên sống động, bà ta đổi giọng hoàn toàn và liên tục nói: "Danke, Danke schon" (Cám ơn, cám ơn nhiều), thậm chí còn cúi đầu cảm ơn. Sau này tôi mới biết nước Đức đã lâu ko còn đường thực sự, họ phải dùng đường hoá học thứ phẩm thay thế. Sáng hôm sau bà chủ nhà chủ động mang cho chúng tôi 2 cốc cafe nóng khi chúng tôi chuẩn bị ăn sáng. Tuy nhiên đó cũng là thứ cafe thứ phẩm, dù sao hương vị nó cũng khá ngon vì rất giống với thứ cafe tôi thường uống hồi ở Viễn Đông, làm bằng lúa mạch và quả đầu, thứ quả mà mẹ tôi đã dùng để làm bánh nướng trong những năm đói kém. Việc này cũng là bù đắp cho lòng mến khách của bà ta.

Chúng tôi cho ngựa ăn chút yến mạch, cám ơn bà chủ nhà rồi đi. Số yến mạch này chúng tôi tìm thấy trong 1 cái bao để dưới ghế, và Rita bảo chắc Valery Semykin và Moses Seltzer đã lo vụ này. Suốt cả ngày chúng tôi đi qua những hàng tù binh Nazi, nhiều tên trong số đó là tự ra hàng, cả những đám người mới được giải phóng khỏi các trại lao động khổ sai Đức. Xe tăng và pháo tự hành cùng những chiếc xe tải chở đầy lính ta thì đi vượt qua chúng tôi. Vì 1 số lý do ko người lính nào muốn gây chú ý khi gặp 1 nữ trung sĩ trẻ đi với 1 đại uý đầu quấn băng, chẳng ai hô "Báo động ko kích! 1 chiếc "khung ảnh"!" Có lẽ họ đang lo lắng, Berlin vẫn kháng cự, và họ đang tới đó.

Chúng tôi nghỉ đêm thứ 2 trong 1 thị trấn nhỏ ko khác nhiều so với những thị trấn khác. Nếu 1 căn nhà chưa bị chiến tranh phá huỷ, nó cũng gần như chìm ngập giữa khu vườn nở đầy hoa bao quanh. Nhà được xây chủ yếu bằng đá, lợp ngói đỏ. Điều kiện sống của cư dân rất tốt, nhưng họ lại còn muốn tốt hơn nữa nên đã ủng hộ Hitler và chính sách "Tiến về phía Đông" (Drang nach Osten) của hắn. Giờ là lúc họ trả giá cho việc này.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:51:56 PM

Chúng tôi dậy từ sớm và nóng lòng đi tiếp, vì vậy sau bữa sáng chóng vánh chúng tôi lại tiếp tục hành trình và vài giờ sau đã tới thị trấn cuối cùng được đánh dấu trên bản đồ. 1 ông già Đức mà chúng tôi gặp đầu tiên chỉ chỗ ban quân quản địa phương. Thật ngạc nhiên khi hoá ra sĩ quan quân quản thị trấn này là 1 sĩ quan tiểu đoàn tôi, anh bạn cũ Petr Zagumennikov! Tất cả đều vui mừng, Petr thậm chí còn đề nghị uống mừng cuộc gặp gỡ này nhưng vì việc này đã bị bác sĩ nghiêm cấm và Rita cũng cấm tôi uống rượu nên tôi đành từ chối. Chúng tôi ngồi vài giờ với Petr, dùng bữa sáng lần thứ 2. Petr giải thích anh ta chỉ được chỉ định làm sĩ quan quân quản địa phương tạm thời và sẽ sớm có 1 sĩ quan quân quản chuyên nghiệp tới thay thế, khi đó anh sẽ quay lại tiểu đoàn. Anh cầm bản đồ của chúng tôi chỉ ngôi làng mà ban chỉ huy tiểu đoàn trừng giới đang hướng tới.

Chúng tôi nhận lương thực bổ sung và cỏ khô cho "cỗ xe 1 mã lực" rồi tiếp tục hành trình. Đã gần tới nơi nên chúng tôi quyết định ko dừng nghỉ qua đêm để sớm được về với tổ ấm của mình, Tiểu đoàn Trừng giới Độc lập 8. Chúng tôi đi suốt đêm trên đường trong tiếng ngựa gõ móng đều đều. Sáng hôm sau chúng tôi đã tới 1 ngôi làng và nhìn thấy 1 tấm biển trước 1 nhà thờ, nó làm bằng gỗ, đẽo bằng rìu từ 1 tấm biển chỉ đường Đức trên ghi dòng chữ Nga "07380 (số hòm thư đơn vị tôi), gia đình nhà Baturin".

Ko nghi ngờ gì nữa, chúng tôi đã gần về đến nhà! Hôm nay là ngày lễ 1/5! Tuy nhiên trên đường phố ko có ko khí lễ hội, với người Đức hôm nay chỉ là 1 ngày thứ 3 bình thường, đầy lo lắng và căng thẳng vì họ biết rằng Berlin đang ở vào những giờ khắc cuối cùng. Đang có giao tranh ác liệt tại khu vực toà nhà Reichstag, trên mỗi khuôn mặt Đức đều thấy rõ nỗi buồn, nhiều người mặc áo tang, có lẽ là để cho những người thân chết trận. Chắc họ đã biết tin Hitler và Goebbel tự sát, mặc dù chúng tôi còn chưa biết tin này.

Theo biển chỉ đường chúng tôi đã tới ngoại ô phía bắc Berlin, tại đây có nhiều khu nhà nghỉ mát mùa hè. Mọi vườn cây đều xanh tốt, cây cối nở đầy hoa nhưng hương thơm của chúng ko át được mùi súng đạn. Người ta ko chỉ thấy dấu vết của những trận đánh trước đó mà còn ngửi được mùi khói súng theo gió bay tới từ Berlin. Thậm chí còn có thể cảm nhận được thứ mùi hơi ngòn ngọt của thuốc nổ TNT và mùi hôi thối của xác chết phân huỷ, thứ mùi đã ám ảnh chúng tôi rất lâu sau chiến tranh, cả lúc thức lẫn lúc ngủ.

Chúng tôi nghe thấy tiếng nổ đầu nòng của đại bác, như thể đang có 1 trận sấm sét gần đây vậy. Hàng đàn máy bay hướng tới Berlin hết đợt này đến đợt khác, thành phố này đang đến ngày tàn. Như chúng tôi được biết từ sĩ quan quân quản Petr, trận công phá thành phố đã bắt đầu từ 26/4. Đường tới Berlin thật là dài và gian khổ. Những chiến thắng dễ dàng chỉ tạo ra những kẻ thắng cuộc kiêu ngạo. Chúng ta lại 1 lần nữa làm nên chiến thắng với thiệt hại khủng khiếp, sự anh dũng vô song, vắt kiệt sức mình và sẵn sàng hy sinh tất cả. Những người còn lại chúng tôi đã được nhận phần thưởng quý giá nhất: sống sót. Phần thưởng chung cho mọi người là máu của chúng ta đã ko đổ ra vô ích. Ngay từ ngày chiến tranh bắt đầu chúng ta đã có niềm tin ko gì lay chuyển nổi rằng "Chính nghĩa thuộc về chúng ta, kẻ thù sẽ bị tiêu diệt và chiến thắng sẽ thuộc về chúng ta."

Chúng tôi đã tới sở chỉ huy tiểu đoàn trừng giới thân yêu trong tâm trạng lạc quan và suy nghĩ minh triết như vậy. Tâm trí kích động khiến tim tôi đập nhanh và tôi bị 1 cơn nhức đầu bất thường hành hạ. Các sĩ quan tại sở chỉ huy nhìn thấy và họ nhấc bổng cả 2 vợ chồng xuống đất theo đúng nghĩa đen, ôm ghì lấy chúng tôi chặt đến mức tưởng gãy xương, hôn hít và lắc lắc đôi tay. Fillip Kiselev đã nhận ra sự mệt mỏi của chúng tôi, Rita bảo anh rằng chúng tôi đã đi suốt đêm để mong được về tiểu đoàn. Anh nhìn thấy khuôn mặt tái nhợt và mồ hôi lấm tấm trên trán tôi nên lệnh cho mọi người để chúng tôi yên. "Các cậu sẽ nghe tin tức mới sau!" Kiselev đột ngột nói và thêm, "giờ cần vụ của cậu sẽ là "cựu" trung uý Putrya, ông ta đã tình nguyện xin chân này từ mấy hôm trước."

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:52:44 PM

Qua câu nói này tôi hiểu Putrya đã được phục hồi danh dự, mặc dù sau này tôi được biết Baturin ko sẵn lòng ký quyết định giải thoát cho ông với lý do ông chưa hoàn thành đủ thời hạn 1 tháng tại tiểu đoàn trừng giới, đó là mức án được quy đổi từ số thời gian ngồi tù còn lại. Thật đúng là con người nguyên tắc!

Vị cựu trung uý sung sướng đưa tôi xuống tầng hầm 1 căn nhà kiên cố được phân cho chúng tôi. Phòng ốc đã sẵn sàng. Ông đã giặt sạch cả khăn mặt và chuẩn bị mọi thứ cần thiết để chúng tôi tẩy rửa cơ thể sau 1 chuyến hành trình dài. Ngay sau đó, Putrya phục vụ bữa trưa với 2 cốc sữa đầy. Hoá ra ông đã lo lắng chờ đợi chúng tôi về suốt 24h qua.

Sau bữa trưa tôi nhận thấy cơn đau đầu đã giảm bớt, vì vậy tôi quyết định tới báo cáo cho Baturin rằng mình đã về để khỏi vi phạm nghi thức quân đội. Cùng với nhiều sĩ quan khác, Baturin được phân 1 căn hộ trong 1 toà nhà lớn, tuy nhiên căn hộ của ông được trang hoàng đẹp hơn và có nhiều đồ đạc hơn. Có lẽ đây từng là hầm tránh bom cao cấp dành cho các quan chức Nazi địa phương. Có nhiều toà nhà kiêm hầm tránh bom như vậy, có lẽ các quan chức sợ 1 quả đạn pháo bay lạc tới. Sẽ an toàn hơn khi ở trong 1 căn hộ như vậy. Sau này tôi biết việc vào ở trong các căn hộ này là lệnh của kombat.

Kombat nghe bài báo cáo trình diện chính thức của tôi vẫn với vẻ xa cách và lạnh lùng. Ông ko nói 1 lời đánh giá nào về những việc tôi làm trong trận đánh chiếm đầu cầu mà chỉ bảo tôi hãy nghỉ ngơi và tối nay mang vợ tới chỗ ông. Tôi hơi shock trước sự chào đón lạnh lùng đó và quay ra cửa đi thẳng, vẫn ko nghe thấy ông nói thêm lời nào. Việc này cũng giống như lần tôi trở về từ bệnh viện ở Warsaw mùa hè vừa qua, tuy nhiên khi đó chúng tôi chưa hiểu gì về nhau còn bây giờ, chúng tôi đã cùng nhau làm quá nhiều việc ở Narev và nhiều nơi khác. Tôi nghĩ đây chỉ là lối đối xử với cấp dưới của ông, nó ko phù hợp chút nào với suy nghĩ của tôi về 1 "thợ làm Ctrị" hay Ctrị viên, công việc mà Baturin từng làm.

Rita, George Sergeev và George Razhev cùng 1 số sĩ quan khác đang chờ tôi, trong số đó có cả 1 trợ lý của Kiselev là Nikolai Gumenyuk. Anh ta phụ trách việc khen thưởng và đang chờ tôi ngoài cửa, bước lại gần tôi 1 chút như thể muốn nói điều gì đó nhưng lại thôi và bỏ đi ko nói lời nào, có vẻ như anh muốn tìm cách nói chuyện riêng với tôi nhưng ko thể tìm được phút nào.

Tôi ko buồn ngủ chút nào nhưng vẫn cố nghỉ 1 chút và cảm thấy khá hơn. Rita đã sửa soạn xong cho cuộc viếng thăm Baturin tối nay. Cô chuẩn bị cho tôi bộ quân phục diễu binh vốn nằm vô dụng trong đống tư trang của tôi đã lâu, khâu quân hàm vào cổ áo. Sau đó cô là phẳng quân phục của cô, đính vào đó tấm Huân chương Sao Đỏ mới nhận được ở quân y viện và Huy chương Giải phóng Altdamm. Hôm nay là ngày lễ 1/5, Baturin đã nhân dịp này để tổ chức 1 lễ mừng và mời chúng tôi. Nhiều tin đồn lan truyền rất nhanh rằng ko giống như lễ mừng Năm Mới, buổi tiệc này sẽ chỉ gồm những người gần gũi với kombat.

Khi chúng tôi đến ngoài kombat và vợ còn có thêm Ctrị viên Kazakov, các tiểu đoàn phó, gần như toàn thể ban tham mưu tiểu đoàn, George Sergeev và George Razhev, bác sĩ tiểu đoàn và bí thư chi bộ đại đội Chaika. Chaika cũng bị thương trong trận đánh vượt sông Oder nhưng đã cố lên được bờ, anh từ chối đến quân y viện và giống như George Sergeev được bác sĩ tiểu đoàn Stepan Buzun chữa trị. Ngoài ra còn 1 số người nữa mà giờ tôi ko nhớ.

Như việc nó phải thế, kombat là người đầu tiên nâng cốc. Ông nói rất lâu về ý nghĩa của ngày 1/5 rồi mới chuyển đề tài sang trận đánh trên sông Oder vừa qua. Giờ tôi mới biết chỉ còn đúng 4 người ko bị thương trong số các shtrafnik đã cùng tôi thiết lập đầu cầu, trong số đó có Sapunyak, người đã nắm quyền chỉ huy sau khi tôi trúng thương. Thật sung sướng khi nghe điều đó! Baturin nói 4 người này đã được giải thoát mà ko cần "rửa sạch tội lỗi bằng máu" và được gửi trở lại đơn vị hoặc 1 trung đoàn sĩ quan dự bị nào đó. Kèm theo bài diễn thuyết tràng giang đại hải ko phù hợp với bàn tiệc này chút nào, kombat còn nói thêm về chuyện thăng thưởng. Trước nhất là Đại uý Smeshnoi được đề nghị truy tặng Sao Vàng Anh hùng Liên Xô. Tiếp đó là tôi được đề nghị tặng Huân chương Cờ Đỏ và thăng 1 cấp với "1 ngôi sao to thay cho tất cả đống sao trên cầu vai hiện nay của cậu". Kombat cho thấy ông quả thật là con người kỳ lạ và phức tạp.

Đại uý Nikolai Gerenuk kể lại câu chuyện cho tôi nghe theo cách đơn giản hơn. Đầu tiên đề nghị truy tặng Sao Vàng Anh hùng Liên Xô được chuẩn bị cho tôi nhưng sau Baturin được Rita cho biết tôi vẫn còn sống và sẽ trở về từ quân y viện. Vậy là ông lập tức ra lệnh đổi đề nghị tặng thưởng "theo nguyện vọng của đại đội trưởng" sang Smeshnoi. Tôi nghĩ có lẽ kombat cho rằng với tiểu đoàn trừng giới chỉ nên truy tặng phần thưởng quân đội cao quý nhất này, hoặc cũng vẫn như trước đây ông ko muốn ai trong tiểu đoàn được phần thưởng cao hơn ông. Lúc này ông đã có Huân chương Cờ Đỏ, tôi đoán ông cũng sẽ có thêm 1 tấm nữa cho trận Oder.

1 sự cố bất ngờ xảy ra trong buổi tiệc đêm đó. Sau bài diễn văn mọi người bắt đầu uống mừng sự trở lại của tôi và nói họ đã nhớ tôi đến thế nào, Rita tìm kiếm tôi ra sao và tình yêu của chúng tôi mới vĩ đại làm sao. Đúng lúc đó 1 người bạn tôi đứng dậy nói với 2 sĩ quan đang nói chuyện với nhau: "Các anh thậm chí còn ko đáng được nhắc tên ở đây!" Theo lời anh thì 2 sĩ quan này đã thoả thuận với nhau xem ai được quyền "an ủi" Rita trước. Như Rita kể lại sau này, tôi đã tái mặt và bất tỉnh ngay tại chỗ, mọi người phải đỡ. Thực ra lúc đó tôi ngất vì 1 cơn đau đầu dữ dội đột ngột. Tôi đã uống 1 chút mặc dù việc này bị bác sĩ nghiêm cấm. Tôi ko uống vodka hay rượu mạnh nhưng có làm tí cognac Pháp để mừng việc mình "hồi sinh", thứ rượu này có rất nhiều trong đống chiến lợi phẩm.

Người khơi mào vụ scandal vẫn là George Razhev, anh ngày 1 trở nên nóng tính và ưa đánh lộn. Anh đã uống rất nhiều thậm chí trước cả buổi tiệc này của Baturin. Trí tưởng tượng bệnh hoạn của anh được hâm nóng bằng rượu đã bóp méo 1 câu nói thành 1 hình ảnh truỵ lạc gây hiểu lầm cho chính anh. 2 tay sĩ quan kia cuống quýt giải thích họ cũng rất buồn vì cái chết của tôi và thoả thuận sẽ an ủi người goá phụ trẻ đang mang thai thế nào thôi. Tính cho đến những ngày chiến tranh kết thúc đó George đã gây vô số vụ scandal với cả sĩ quan chiến trường lẫn sĩ quan tham mưu. Tất cả các vụ đó đều bắt đầu khi George đang say. Ngay hôm sau anh ta bị thiên chuyển khỏi tiểu đoàn.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:53:10 PM

Tuy nhiên việc thiên chuyển Razhev đã được kombat ra quyết định từ trước, người bất ngờ được thay thế anh là Sergey Piseev. Việc này được giải thích bằng 1 bức thư của cha Razhev, 1 đại tá giữ chức vụ cao trong Tập đoàn quân Xung kích 5 lúc này đang tiến công ở phía nam chúng tôi theo hướng từ đầu cầu Kuestrin. "Ông bố tốt bụng" chắc đã được con trai cho biết tiểu đoàn trừng giới đang chuẩn bị vượt sông Oder, vì vậy ông gửi 1 bức thư đề nghị chỉ huy Tiểu đoàn 8 Trừng giới Độc lập ko để con mình tham chiến trong trận đánh cuối cùng này, cậu ta đã từng bị thương, bị sức ép đạn pháo, ko đáng để cậu ta bị giết vào đúng lúc chiến tranh kết thúc. Tất nhiên ai cũng hiểu suy nghĩ của người cha, mọi bậc sinh thành đều muốn bảo vệ con mình. Ông biết Razhev có thể được thay thế vì chúng tôi có đủ sĩ quan cho 4 đại đội nhưng chỉ có 1 đại đội tham chiến.

Vụ scandal cuối cùng này của Razhev đã vượt quá khả năng chịu đựng của 1 người vốn trầm tĩnh như Baturin và George bị chuyển khỏi tiểu đoàn về đơn vị của cha mình ngay sáng hôm sau. Anh ta đi mà ko nói lời tạm biệt với bất kỳ ai, tôi nghĩ anh quá xấu hổ. Nhiều năm sau chiến tranh khi tôi tìm kiếm những bạn chiến đấu cũ trong Tiểu đoàn Trừng giới, tôi đã tìm thấy anh ở Penza, chúng tôi duy trì quan hệ thư từ với nhau cho tới khi anh mất. Quãng đời sống cùng nhau trên mặt trận, mọi hiểm nguy mà chúng tôi đã trải qua cùng nhau mạnh hơn những ký ức tồi tệ về các vụ scandal như vụ anh ta đã gây ra trong lễ mừng ngày 1/5/1945 ở Berlin. Sau đó 1 thời gian tôi ko nhận thêm được bức thư nào của anh, thêm vài năm nữa tôi nhận 1 bức công thư từ cục quân nhu Penza trả lời câu hỏi của tôi: "Đại uý George Razhev (đã nghỉ hưu) mất ngày 14/5/1993, an táng tại Nghĩa trang Danh dự Penza". Có lẽ anh đã chỉ "suy sụp" khi ở tiểu đoàn trừng giới còn sống suốt quãng đời còn lại 1 cách tử tế.

Trong suốt thời gian đó sở chỉ huy tiểu đoàn đã nhiều lần di chuyển tới các vị trí khác nhau xung quanh Berlin. Những đơn vị nhỏ bé còn lại ko phải nhận thêm nhiệm vụ nào nữa dù chúng tôi vẫn nhận thêm shtrafnik bổ sung. Chiến tranh đã đến hồi kết nhưng các toà án binh vẫn hoạt động, có lẽ họ đang vội vã hoàn thành nốt kế hoạch đề ra.

Chúng tôi đã có 1 buổi chia tay cảm động với ông già tốt bụng Putrya, ông rời đơn vị với nước mắt trên mi và nỗi buồn thực sự trong mắt. Ông sẽ về ban nhân sự Phương diện quân hoặc 1 trung đoàn sĩ quan dự bị nào đó. Ông rời tiểu đoàn trừng giới với tư cách trung uý, tôi thậm chí đã biếu ông quân hàm của tôi, đã gỡ bớt đi số ngôi sao tương ứng (!). Ông được phục viên ngay sau ngày Chiến thắng và tôi sung sướng vì đã góp phần cứu đời ông, chắc chắn ông ko thể sống sót trong trận vượt sông Oder.

Cần vụ đầu tiên của tôi đã hy sinh tại đầu cầu Oder, sau đó Putrya thay thế và nay ông đã rời tiểu đoàn. Theo lệnh của kombat tất cả các sĩ quan đều sẽ có cần vụ tuyển từ các shtrafnik, tôi nhận 1 đại uý pháo binh tên là Sergey làm cần vụ cho mình. Tôi ko nhớ chính xác họ anh, hình như là Kostryukov, dân Moscow, tóc vàng, chiều cao trung bình, vẻ mặt lịch sự, sinh trưởng trong 1 gia đình có học. Anh ta chơi piano rất giỏi và đã được học hành tốt về âm nhạc và văn chương. Tôi ko nhớ rõ anh ta đã làm gì sai quấy ngay trước ngày chiến tranh kết thúc để đến nỗi bị tống vào tiểu đoàn tôi.

Vậy là những người mới tới đã ko phải tham chiến dù chúng tôi vẫn huấn luyện họ 6 - 7h mỗi ngày. Số phận của họ thật tốt, gần như ngay sau Ngày Chiến thắng họ được xá miễn. Sergey cho tôi địa chỉ nhà ở Moscow, trong lần nghỉ phép đầu tiên cuối năm 1946, trên đường về Viễn Đông, Rita và tôi đã lần đầu tiên ghé qua Moscow và tới thăm anh ở phố Kropotkinskaya. Tại đó có Cung Soviet đang xây dở và Nhà thờ Chúa Cứu thế. Sergey ko có nhà, dù từng phải vào tiểu đoàn trừng giới nhưng anh vẫn tiếp tục phục vụ trong quân đội ở đâu đó ko xa Moscow. Dù chỉ gặp những người thân của anh nhưng mọi người cũng thật vui vẻ và cảm động, họ đều đã biết chúng tôi qua những câu chuyện của anh.

Berlin thất thủ ngày 2/5, trước Ngày Chiến thắng đúng 1 tuần như chúng tôi biết sau này. Hôm 4/5 Baturin và Kazakov bằng cách nào đó đã kiếm được giấy phép cho tất cả chúng tôi vào Berlin thăm toà nhà Reichstag. Lại 1 lần nữa, giống như ở Rogachev, Brest hay Warsaw, chúng tôi đã ko được tham gia trận tấn công thành phố dù đã góp sức vào cuộc tiến công đó bằng rất nhiều mạng sống. Giống như ở Warsaw, chúng tôi đi vào Berlin chỉ như những du khách.

Phải mất rất nhiều thời gian mới tới được toà nhà Reichstag, trong nhiều trường hợp các con phố bị chặn bởi những toà nhà đổ hay xác tăng pháo. Ko hiểu sao tham mưu trưởng Philip Kiselev lại ngồi cùng xe với Baturin và bằng cách nào đó đã tìm được đường đi giữa thành phố xa lạ bị phá huỷ này. Berlin, thủ đô của Đế chế thứ 3, gây 1 ấn tượng u ám với tất cả chúng tôi ko chỉ bởi sự tàn phá của chiến tranh mà còn bởi hầu hết phố xá đều thẳng tắp đến mức nhàm chán, toàn bộ quy hoạch thành phố đều chính xác từng ly từng tí đến phát rầu.

Những dãy nhà hiện ra trước mắt chúng tôi với vẻ đáng ngờ, các cửa sổ hầu hết đều đã mất kính, 1 số có treo 1 mảnh vải trắng trông như những lá cờ tang, đó là dấu hiệu đầu hàng. Phía sau những cửa sổ còn giữ được kính hay được che tạm bằng thứ gì đó khác cuộc sống vẫn tiếp diễn. Nhiều cánh cửa đã mất cùng với cả mảng tường xung quanh khiến căn nhà trông như hàm răng móm của 1 cụ già. Những phần tường còn lại đều xám xịt bẩn thỉu. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng thấy có người đang nhìn qua cửa sổ hay xuất hiện trên phố, trông họ cũng mệt mỏi và xám xịt. Phần lớn họ là phụ nữ, người già hay những đứa trẻ hiếu kỳ, giống như tại khắp các quốc gia khác.

Thỉnh thoảng chúng tôi đi qua 1 đám Volkssturm hay Hitlerjugend vị thành niên, tất cả trông đều thảm hại, chúng đang được áp giải tới điểm tập trung tù binh. Chúng đã hy vọng bảo vệ được Đế chế của chúng khi nó đã ở bên bờ vực sụp đổ, nhiều kẻ đã bỏ mạng chỉ vì ý tưởng điên loạn của tên Fuehrer rồ dại. Nhiều tên khác cố trốn trong các toà nhà, thay quân phục bằng đồ dân sự để hoà lẫn vào đám đông dân chúng.

Tôi còn nhớ chúng tôi vào thành phố theo đường qua sông Spree và bị tắc đường trước 1 cây cầu gãy. Những khung cầu thép vẫn còn nằm dưới nước và nhờ đó chúng tôi qua được sông, tới thẳng quảng trường trước toà nhà Reichstag. Chúng tôi đi thẳng tới toà nhà, còn cách 1 quãng đã ngửi thấy mùi khói bốc ra từ những đám cháy vẫn còn âm ỉ. Khói vẫn còn đang bốc ra từ vài cửa sổ trên toà nhà khổng lồ đen xạm. Trông nó chẳng có vẻ lộng lẫy chút nào! 1 lá cờ đỏ, cờ Soviet của ta, đang tung bay trên khung thép của mái vòm vốn được ốp kính! Đó ko chỉ là 1 lá cờ bình thường, đó là Ngọn cờ Chiến thắng!

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:53:20 PM

Cầu thang lớn và những hàng cột trước mặt tiền đầy vết đạn. 1 trung uý trẻ bước ra gặp nhóm sĩ quan chúng tôi, Baturin nói gì đó với anh ta. Ông bảo chúng tôi chờ rồi vào trong với viên trung uý. Ngay sau đó viên trung uý quay ra bảo chúng tôi được phép vào. Chỉ có vài binh sĩ tại tiền sảnh khi chúng tôi vào, kombat đang đứng cùng 1 viên đại tá vừa lùn vừa gầy, khác hẳn vóc người mập mạp của Baturin. Viên đại tá gầy nhẳng đang kể chuyện gì đó cho Baturin kèm với những cử chỉ sống động.

... Như sau này tôi được biết viên đại tá đó là chỉ huy trung đoàn đã tấn công toà nhà Reichstag và sau đó được chỉ định luôn làm sĩ quan quân quản toà nhà. Số phận đã đưa tôi gặp lại ông 30 năm sau, khi đó tôi là trưởng khoa ROTC Học viện Cầu đường Kharkov đang hướng dẫn học viên tại Cherkassy, Ukraina. Trước khi các học viên tuyên thệ, tôi được giới thiệu tới chào Anh hùng Liên Xô, đại tá Fedor Matveevich Zinchenko. Cả khuôn mặt và bộ dạng ông trông rất quen, và khi ông tự giới thiệu là chỉ huy trung đoàn đánh chiếm toà nhà Reichstag, tôi lập tức nhận ra ông chính là vị sĩ quan quân quản đầu tiên của toà nhà này ...

Trở lại năm 1945, khi chúng tôi bước vào toà nhà Reichstag, mọi tường, cột và các cấu trúc khác đều bị tàn phá nặng nề và ám đầy khói, mọi bề mặt đều phủ đầy chữ ký của các binh sĩ Soviet. Hôm đó mới là 2 ngày sau khi toà nhà này thất thủ nhưng các bức tường đã phủ đầy các thông điệp dài ngắn đủ kiểu mà vì hết chỗ người ta phải viết cả ở độ cao đến khó tin. Các dòng chữ được viết bằng phần, gạch hoặc than.

Petr Zahumennikov, người đã trở lại từ quân y viện, giúp tôi đặt 1 tảng bê tông cạnh tường để tôi trèo lên, Rita và Petr đỡ 2 bên để tôi khỏi ngã. Với 1 mẩu gỗ cháy dở, 2 vợ chồng tôi ghi chữ Viễn Đông - Leningrad - Berlin lên rồi ký tên. Rita khi đó vẫn ghi họ mình là Makarievskaya, cô ko còn cơ hội nào để sửa lại chữ ký trên tường toà nhà Reichstag nữa.

Chúng tôi bỏ túi vài mảnh vữa và gạch đá làm kỷ niệm, để cho bản thân và cho cả những người ko tới đây được, cả con cháu sau này nữa. Tiếc là tôi đã ko giữ được chúng, cũng giống như cái thìa cong gập vì đạn trước đây. Thậm chí cả viên đạn xuyên vào mông tôi được lấy ra sau chiến tranh tôi cũng ko còn, nó được phẫu thuật lấy ra tại Brest 1 năm sau khi xuyên vào.

Vì 1 số lý do, hồ đó chúng tôi ko muốn lưu giữ bất cứ kỷ vật gì liên quan đến cuộc chiến ghê rợn này. Chiến thanh với chúng tôi như 1 vết thương, cả thể xác lẫn tinh thần, ký ức về chiến tranh đã quá đủ cho suốt phần đời còn lại.

Chúng tôi chờ đợi sự kiện nước Đức đầu hàng hết ngày này qua ngày khác. Tôi phải nhắc lại 1 bài thơ tôi viết từ năm 1944 trong đó có đoạn: "Tiếng reo mừng Chiến thắng sẽ vang lên như sấm tháng 5!" Vậy mà mùa xuân đã sắp hết, tháng 5 đã bắt đầu nhưng Chiến thắng chưa tới. Tham mưu phó Valery Semykin đặt đường điện thoại cho Baturin, các tiểu đoàn phó, Kiselev, Rita và tôi cùng 1 số sĩ quan khác. Các điện đài viên được lệnh sẽ thông báo chúng tôi ngay khi có tin Chiến thắng.

Thời khắc đó đã đến vào đêm 8/5! Ít phút sau nửa đêm 1 điện đài viên lao vào phòng tôi gào lên: "Chiến thắng, chúng đầu hàng rồi! Hurrah!" Lễ mừng Chiến thắng bắt đầu còn trước cả khi chúng tôi kịp mặc quần áo. Mọi người đều nã súng lục, súng tiểu liên, súng máy lên trời. Tôi thậm chí còn nghe thấy cả những tiếng "bang" rất to của súng trường chống tăng. Thứ duy nhất chúng tôi ko dùng để bắn chỉ thiên khi đó là súng cối. Hàng trăm ánh chớp đủ màu sắc, kích cỡ phóng lên trời cùng với khói mù mịt. Đạn vạch đường bắn đầy trời từ mọi hướng. Ko cần phải tiết kiệm đạn nữa! Ai nấy đều ôm chầm lấy nhau hôn hít, nhiều người khóc, chẳng ai cần xấu hổ vì những giọt nước mắt hạnh phúc.

Chúng tôi thậm chí còn nghe thấy cả tiếng đại bác bắn từ ngôi làng bên cạnh, nơi có 1 đơn vị pháo binh đang đóng. Chắc họ bắn đạn ko đầu chứ nếu là đạn thật thì ko hiểu nó sẽ rơi xuống đâu? Tôi nhớ đã tự hỏi mình rằng ko hiểu tất cả số đạn đang được bắn lên trời này sẽ rơi xuống đâu? Mặc dù đây là đất Đức nhưng là khu dân cư sống dày đặc. Lấy gì đảm bảo 1 viên đạn ko rơi trở lại trúng người đã bắn nó ra hay 1 thường dân Đức hiền hoà? Đương nhiên tôi ko muốn ai bị giết vì màn pháo hoa trong cái đêm ko ngủ mừng hoà bình đó.

Đến sáng sớm thì chúng tôi đã bắn sạch đạn và tập trung tại sở chỉ huy, Baturin và Kazakov bước ra trước đám sĩ quan và kombat tuyên bố đúng giữa trưa giờ Moscow, tiệc mừng chiến thắng sẽ được tổ chức cho toàn tiểu đoàn. Ông cũng yêu cầu chuẩn bị bàn riêng cho cho các shtrafnik.

Mọi người đều diễn thuyết, có cái dài, có cái ngắn nhưng tất cả đều nói về niềm vui Chiến thắng và nỗi đau mất mát cùng hy vọng hoà bình hạnh phúc trong tương lai. Mọi bài diễn thuyết đều kết thúc bằng 1 lần nâng cốc và sau đó là uống 100%. Có lẽ đó là lý do chúng tôi ko để cốc uống trà trên bàn mà thay vào đó là chén hạt mít chỉ dùng trong thời bình. Ko hiểu người ta kiếm đâu ra thứ chén này? Tuy nhiên vẫn có nhiều sĩ quan thực sự xỉn. Có lẽ Baturin cũng vui vẻ quá mức và bất ngờ gọi tôi ra nói riêng về chuyện tôi đã bị nghi ngờ trong 1 thời gian dài như thế nào.

Thì ra tướng Batov quả thực đã lệnh cho đại đội tôi tấn công qua bãi mìn. Mặc dù tôi đã có câu trả lời chắc chắn với mối nghi ngờ này nhưng nó vẫn tra tấn suy nghĩ của tôi. Ko hiểu tướng quân có ra lệnh này theo đề nghị của Baturin ko? Tin này làm tôi bị shock, tôi lại đau đầu kinh khủng và ngất xỉu. Cả lần này tôi cũng nghĩ mình ngất vì đã uống quá nhiều dù bị Rita theo dõi nghiêm ngặt để ko ai rót vodka vào cốc của tôi. Cô chỉ rót cho tôi ít vang nhẹ vốn được bác sĩ Stepan Buzun đưa cho cô để đặc biệt dành riêng cho tôi. Có vẻ như nhiều người chưa uống nhiều lắm, những bài diễn văn của họ vẫn nhạy bén và tràn đầy hy vọng.

Chúng tôi đã mơ ước về cuộc sống hoà bình sau chiến tranh thậm chí từ rất lâu trước ngày Chiến thắng. Chúng tôi đã vẽ nên những bức tranh lạc quan nhất về tương lai. Tôi nghĩ điểm chính trong mọi suy nghĩ đó là được trở về nhà, tất nhiên là với những người vẫn còn nhà mà về. Giờ đây, rất nhiều năm sau cái ngày Chiến thắng đầy nắng đó, tôi nhìn lại quãng đời sau chiến tranh. Chúng tôi đã làm việc vất vả, có đủ con, cháu và cả chắt. Vậy mà buồn làm sao Tổ quốc vĩ đại của chúng tôi đã bị huỷ hoại và tan vỡ làm nhiều mảnh năm 1991, chẳng phải do cuộc xâm lăng nào! Tổ quốc vinh quang mà vì nó biết bao người đã hiến dâng mạng sống trong WW2!

Dù sao thì cuộc chiến tranh tang tóc, ghê rợn và kéo dài nhất đó đã qua. Cái gì tiếp theo? Số phận chúng tôi sẽ ra sao? Ko phải tất cả sẽ được về nhà, vẫn còn cần quân đội. Nhiều sĩ quan, mà với tiểu đoàn trừng giới là hầu hết sĩ quan còn lại, vẫn phải tiếp tục phục vụ quân đội. Tham mưu các cấp đều đã nhận được lệnh và bố trí sĩ quan. 1 số được giải ngũ, số còn lại vẫn tiếp tục phục vụ, 1 số trong đó sẽ còn phải chiến đấu và chiến thắng nước Nhật!

Sau này tôi biết được kombat Baturin đã đánh giá xác đáng về chất lượng chỉ huy chiến đấu của tôi trong bản giới thiệu cho đơn vị mới, tuy nhiên ông viết thêm rằng tôi "ko có quan hệ tốt với binh sĩ". Có lẽ ý ông là tôi đã dành 1 phần quỹ thời gian cho vợ! Mặc dù chính tôi mới là người có được nickname âu yếm "bố" trong đám shtrafnik nhưng ông ta vẫn thêm 1 câu kết như vậy. Ngoài ra trong bản giới thiệu của ông có đoạn như sau:

"Là 1 sĩ quan dũng cảm và cương quyết, đọc trận đánh tốt, chịu được gian khổ, sức khoẻ tốt. Có khả năng tổ chức phối hợp giữa các đơn vị nhỏ và các đơn vị phối thuộc, kiên cường cả về thể chất lẫn tinh thần, chăm chỉ học tập nâng cao kiến thức. Đề nghị giữ lại quân đội với chức vụ tiểu đoàn trưởng bộ binh."

Vậy là tương lai của tôi đã được quyết định cho dù Baturin chẳng bận tâm đến việc nghe nguyện vọng của bản thân tôi. Tôi ko bực vì chuyện này vì đề nghị giữ tôi lại quân đội phù hợp với mong muốn của tôi. Dù sao khi còn là 1 Hồng quân trẻ được gửi vào Học viện, tôi đã từng tự nhủ: "Tốt thôi! Mình sẽ phục vụ quân đội 1 cách "nồi đồng cối đá", tức là càng lâu càng tốt!" Vậy là tôi đã phục vụ quân đội 40 năm, từ 1941 đến 1981, 1 cách trung thành và ngay thẳng.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:53:39 PM

11
CHIẾN THẮNG!


Ngày hoà binh đầu tiên, dù ai nấy đều hạnh phúc, vẫn phủ bóng đen trong suy nghĩ của tôi với việc Baturin thừa nhận đã cố tình đưa đại đội tôi vào bãi mìn. Tôi cảm thấy suy sụp vì thương xót cho những người đã hy sinh tại đó. Giờ họ đang nằm cùng nhau trong nấm mồ tập thể trên mảnh đất ngoại quốc xa lạ, dưới 1 bầu trời xám xịt xa lạ, việc họ chiến đấu chống kẻ thù sẽ chỉ còn tồn tại trong ký ức vĩnh cửu và niềm tiếc thương vô hạn của chúng tôi, những đồng đội và người thân. Vâng, tất cả chúng tôi đều biết lệnh đã ban ra thì phải theo ko được ý kiến gì hết, đặc biệt là trong thời chiến. Tuy nhiên chúng tôi cũng hiểu chính xác rằng 1 mệnh lệnh cần được đưa ra 1 cách hợp lý, có tính toán và trên hết là phải có tình người, kể cả trong chiến tranh.

Dân Đức đã dần làm quen với thực tại mới. Họ chấp nhận thực tế rằng "Đế chế ngàn năm" đã sụp đổ và ko bao giờ khôi phục nổi. Chúng tôi cũng bắt đầu chú ý tới phong tục tập quán của họ, 1 số trong đó hoàn toàn trái ngược với cách hiểu của chúng tôi về văn hoá và đạo đức. Ví dụ, mặc dù đã quen với tất cả những bất tiện của cuộc sống tiền tuyến, chúng tôi vẫn cho rằng tè trước mặt người khác là ko tốt, dù là vào 1 gốc cây hay tô hô. Vậy mà thật kỳ quặc, chúng tôi đã thấy cả đàn ông lẫn đàn bà Đức làm vậy.

1 trường hợp khác, ông chủ căn hộ chúng tôi ở biết rằng vợ tôi đang mang bầu. 1 đêm ông ta gõ cửa phòng chúng tôi và sau khi tôi nói "Ja, bitte!" (Vâng, xin mời vào), ông ta bước vào cùng 2 cô con gái vị thành niên. Ông ta bảo "Bà Thiếu tá" đang mệt và cần được ngủ, vì vậy tôi nên qua đêm với 1 trong 2 cô con gái ông. Có lẽ đó chỉ là 1 trò khiêu khích, nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy bị xúc phạm và chuyển đi ngay sáng hôm sau.

Về cơ bản người Đức khiến chúng tôi ngạc nhiên vì sự vô đạo đức và ko biết xấu hổ là gì của họ. 1 ngày nắng ấm có mấy người bạn tôi tới, họ vừa có 1 chuyến thăm thú khu vực xung quanh Leipzig và rủ chúng tôi ra hồ bơi và tắm nắng. Khi tới nơi chúng tôi thấy cái hồ rất đẹp và định dọn tới ở. Có rất nhiều người tốt sống ở đây, đặc biệt là có nhiều thanh niên Đức. Chúng tôi thấy có nhiều căn lều nhỏ dựng đây đó và đoán nó dùng để tránh nắng hay thay đồ bơi. Nhưng rồi chúng tôi nhận ra có những cái chân thò ra khỏi nhiều căn lều và căn cứ vào vị trí cũng như nhịp chuyển động của chúng, chúng tôi hiểu chính xác đó là 1 cặp đôi Đức và họ đang làm gì, gần như hoàn toàn công khai. Chúng tôi cảm thấy kinh tởm và rời hồ ngay lập tức, chuyện đó là vào khoảng 1 năm sau Ngày Chiến thắng.

1 số sĩ quan ta sống ở ngoại ô Berlin tháng 5/1945 cũng ko tỏ ra tốt đẹp cho lắm. Ví dụ 1 lần chúng tôi được chuyển tới 1 căn hộ mới, chủ nhân của nó là 1 nhà quay phim của xưởng phim Defa nổi tiếng nước Đức, khi tới nơi chúng tôi nghe thấy có tiếng chó sủa rất to ở tiền sảnh. Chúng tôi biết trong nhà ko có chó và rất ngạc nhiên. Khi bước vào trong, chúng tôi thấy Nick Slautin, lúc này đã là thiếu tá, đang đứng trước mặt toàn thể gia đình chủ nhà cùng các đầy tớ trong tình trạng say xỉn và sủa như chó. Tôi lay anh ta, đá vào chân và trước khi tôi kịp hỏi anh đang làm cái trò gì thế, tự anh ta đã giải thích rằng anh ta đang chứng minh cho đám người Đức này Goebbel là loại "chó" nào.

Thường dân Đức nói chuyện với chúng tôi với vẻ dè dặt và tỏ ra lo lắng, tôi ko thể nói rõ được nhưng có thể kể tóm tắt 1 bộ phim, ví dụ tốt nhất về chính sách tuyên truyền của Goebbel. Ctrị viên Kazakov đã kiếm được 1 bản copy bộ phim này, 1 cuốn phim ghê tởm được làm theo đúng ý tưởng của Bộ Truyền thông Đức. Vấn đề là sự dối trá càng quá quắt thì lại càng có nhiều người tin. Dù đã rất lâu rồi nhưng lương tâm và đạo đức vẫn ko cho phép tôi kể chi tiết những gì đã thấy trong phim, nó là 1 bộ phim màu.

Trước hết, tất cả binh sĩ Soviet trong phim đều có 1 ngôi sao đỏ to tướng trên mũ và 2 sừng trên thái dương. Họ hiện lên trên phim như những tên đồ tể giết hại thường dân Đức bằng lưỡi lê hoặc bằng cách đập đầu vào cạnh tường, nhiều thứ khác còn kinh khủng hơn nữa. Mọi thứ trong phim được làm y như thật. Cuốn phim kinh dị kéo dài 20 phút này là 1 lời giải thích rõ ràng cho việc dân Đức sợ hãi bỏ chạy qua sông Oder đi càng xa càng tốt.

Ngay sau Ngày Chiến thắng, 1 nhóm sĩ quan Nga tổ chức ăn mừng việc gì đó, 1 người đã hỏi xin bà chủ nhà 1 cái đĩa nhỏ. Từ đó được đọc bằng thứ tiếng Đức "tan nát" của anh ta nghe giống như là 1 đĩa trẻ con. Bà chủ nhà rú lên lao về phía đứa bé vì nghĩ tay sĩ quan đang muốn xin đứa bé đặt trên đĩa. Ko may là chẳng có gì thú vị trong chuyện này. Chắc người phụ nữ đã đã xem cuốn phim tệ hại đó hoặc ai đó kể cho chị ta. Nó khiến chúng tôi phải tỏ ra hết sức lịch sự và khoan dung nhằm xoá bỏ ấn tượng mà bộ máy tuyên truyền Nazi ghê tởm đã tạo ra trong suy nghĩ người dân Đức.

Trở lại đêm 1/5, sau khi ngất xỉu trong bữa tiệc của Baturin tôi đã bị sốt suốt 3 ngày. Hôm đi thăm toà nhà Reichstag tôi đã đỡ nhưng đến hôm 9/5 tôi lại sốt, mặc dù ko ngất nữa nhưng tôi vẫn mê man suốt cả ngày. 2 - 3 hôm sau mọi thứ mới trở lại bình thường. Cơn sốt đã tra tấn tôi suốt mấy ngày đó dù tôi ko uống 1 giọt rượu mạnh nào. Sau đó những cơn sốt cứ quay lại sau mỗi 7 - 9 ngày. Rita kể lại khi đi tìm tôi trong quân y viện, có bác sĩ đã nói: "Bị thương vào đầu àh, vậy thì anh ta sẽ sốt, thường là do nhiễm trùng. Tốt hơn cô nên tìm anh ta trong nhà xác ..." Bác sĩ tiểu đoàn tôi cũng ko hiểu nổi điều gì đang xảy ra.

Tôi cố ko làm gì kích thích để cơn sốt trở lại và nghĩ nó ko phụ thuộc vào rượu. Thậm chí khi chúng tôi, những người đã tham gia trận đánh vượt sông Oder, nhận huân chương nhờ trận này, tôi cũng ko uống ngụm rượu nào trong bữa ăn mừng. Các trung đội trưởng đều nhận Huân chương Alexander Nevski hoặc Bogdan Khmelnicky (*), tôi và Nikolai Slautin, người thay thế tôi trong trận đánh, được nhận Huân chương Cờ Đỏ Chiến đấu (**). Ai nấy đều muốn những tấm huân chương sáng bóng lên, vì thế họ định bọc phần oxite màu đen trên đó bằng thuỷ ngân lấy từ 1 chiếc nhiệt kế bị đập vỡ cho mục đích này. Tuy nhiên Huân chương Cờ Đỏ chỉ có 2 chỗ màu đen, đó là cái liềm và cái búa, còn toàn bộ nền là men trắng, những chỗ còn lại mạ vàng. Những người nhận các loại huân chương khác cũng muốn tấm huân chương của mình trông đẹp hơn. Nhưng thuỷ ngân khi tiếp xúc với lớp mạ vàng đã lập tức biến lớp mạ này thành màu bạc lờ nhờ, vậy là tôi có 1 tấm huân chương mạ bạc thay vì vàng.

Tôi đã phải bọc phần mạ bạc này bằng sơn màu đồng với ý định làm cho nó trông giống với màu nguyên thuỷ. Chỉ đến khi đi học tại Học viện Quân Sự Leningrad mới có người chỉ cho tôi viết thư gửi Soviet Tối cao Liên Xô đề nghị đổi cái cũ hỏng lấy 1 tấm huân chương mới. Nói thật là tôi ko mong sẽ được như ý, nhưng 1 tuần sau tôi đã nhận được 1 bức Công thư do Chủ tịch Soviet Tối cao Liên Xô Nikolai Mikhailovich Shvernik ký. Bức thư giới thiệu tôi mang huân chương tới Sở Đúc tiền Leninrad đồng thời lệnh cho Giám đốc Sở sửa nó, "số quý kim tiêu tốn vào việc này sẽ được lấy từ kho dự trữ của Soviet Tối cao". Tôi giao tấm huấn chương và 5 ngày sau nhận lại nó, trông nó hoàn toàn mới, thậm chí cả phần mạ vàng và phần búa liềm màu đen. Tôi thậm chí đã ko dám chắc nó là tấm huân chương của mình, nhưng khi nhìn hàng số dập trên mặt trái, tôi vẫn thấy vết trầy rất dễ thấy của tấm huân chương cũ còn nguyên. Đó là tấm huân chương "yêu quý" của tôi có được trong trận Oder, đến giờ nó vẫn lấp lánh với đầy đủ lớp mạ trên quân phục tôi.

Bác sĩ tiểu đoàn Buzun thông báo cho kombat rằng cần cho tôi đi viện gấp vì 1 căn bệnh chưa rõ. Họ đưa tôi tới thị trấn Neu - Ruppin, có 1 bệnh viện tại đó. Sau vài ngày mà chẳng có thêm cơn sốt nào, họ cho ra viện với chẩn đoán viêm nhiễm sau hôn mê, như họ giải thích thế nghĩa là viêm nhiễm trên vỏ não là kết quả của sự chấn động sau khi tôi bị thương. Như thực tế chứng minh, đó vẫn ko phải lý do chính dẫn tới những cơn sốt kỳ quái này! Tới tháng 6, những cơn sốt tồi tệ của căn bệnh chưa được biết tới đã khiến cơ thể tôi suy nhược thấy rõ. Tiểu đoàn bắt đầu giải thoát cho các shtrafnik đã được lệnh xá miễn nhân dịp Đại Thắng, thậm chí cả những người chưa hề tham chiến.

Tôi báo cáo kombat xin được đưa vợ về Leningrad, nơi cô từng sống trước chiến tranh, hoặc về Rembertuv ở Warsaw, nơi quân y viện cũ của cô từng đóng và mẹ cô, 1 thượng uý quân y, vẫn còn đang phục vụ tại đó. Đường sắt đã hoạt động và tàu tốc hành Moscow - Berlin chạy rất đúng giờ. Kombat chấp nhận đề nghị này, có lẽ để đỡ phải mang gánh nặng trách nhiệm với căn bệnh kỳ quái của tôi. Các giấy tờ cần thiết được làm nhanh chóng và ngày hôm sau kombat giao chiếc jeep Willy của ông cho tham mưu trưởng Kiselev chở tôi ra ga Silesian, Berlin. Valery Semykin và Vasily Tsigichko xin ra tiễn nhưng kombat ko chịu để quá nhiều người lên chiếc jeep của ông.

(*) Các loại huân chương dành cho sĩ quan trong chiến tranh này được đặt theo tên các tướng lĩnh Nga và Ukraina tài ba. Alexander Nevski được xem như thần hộ mệnh của quân đội Nga, đã đánh bại quân Thập tự chinh Thuỵ Điển trên sông Neva năm 1240 và quân Hiệp sĩ Teutonic trên mặt hồ Peipus đóng băng năm 1242. Bogdan Khmelnicky lãnh đạo quân Ukraina trong cuộc chiến tranh dành độc lập trước người Ba Lan và đã nhiều lần đánh bại quân Ba Lan.

(**) Cách gọi tên Huân chương Cờ Đỏ thường dùng để phân biệt với Huân chương Cờ Đỏ Lao động (có từ năm 1928) trao cho các thành tích đặc biệt về công nghiệp, khoa học, quản lý Nhà nước hoặc đời sống xã hội.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:54:05 PM

Lại 1 lần nữa chúng tôi phóng xe qua Berlin, thành phố ko có nhiều thay đổi kể từ tháng 5/1945 ngoại trừ việc những đống đổ nát trên phố xá đã được dọn sạch, ko còn cờ trắng trên cửa sổ và đã có nhiều người đi trên đường hơn. Chúng tôi thường xuyên bắt gặp những bếp dã chiến quân ta đang cung cấp đồ ăn cho người già và trẻ em. "Vậy đấy," tôi nghĩ, "Hồng quân đâu có "nướng" trẻ em Đức mà là cho chúng ăn. Dân chúng đang đói, họ kêu gào chen lấn xung quanh những bếp dã chiến".

Philip tìm đường giữa thành phố khổng lồ này 1 cách dễ dàng ko thể tưởng, anh quyết định lái xe qua Cổng Brandenburg theo đại lộ Unter Den Linden nổi tiếng. Chúng tôi nhanh chóng tới ga và đến gặp ban quân quản. Tất cả vé tàu đã bán hết, chỉ còn vé đặt sẵn. Đây là số vé do ban tham mưu của Nguyên soái Zhukov đặt, nếu họ ko cần nữa thì mới được bán 1h trước khi tàu chạy, đã có rất nhiều sĩ quan trẻ đứng trước quầy vé, 1 cáo thị dán trước cửa sổ quầy cho biết các sĩ quan cấp tướng và người sở hữu Sao Vàng Anh hùng Liên Xô sẽ được phục vụ trước (*), tiếp đó là các sĩ quan cao cấp. Ko thấy vị anh hùng hay viên tướng nào quanh đó nên chúng tôi bước luôn lên hàng đầu! Mong sao sẽ có tối thiểu 2 vé thừa! Tuy nhiên vài phút trước khi cửa quầy mở, 1 thượng sĩ pháo binh với Sao Vàng và 2 hàng huân chương trên ngực xuất hiện. Tim tôi chìm xuống tận dạ dày, điều gì sẽ đến nếu chúng tôi ko mua được vé? Tuy nhiên mọi thứ đều tốt đẹp. Viên thượng sĩ mua được vé đầu tiên, sau đó là chúng tôi và thêm 2 - 3 sĩ quan nữa. Thật là sung sướng! Đoàn tàu đã chờ sẵn trong ga, mọi người đã lên gần hết. Vài người nhanh chóng đỡ chúng tôi lên tàu và chúng tôi tạm biệt họ, cũng có thể là vĩnh biệt. Vậy là chuyến hành trình bắt đầu.

Đoàn tàu nhanh chóng tăng tốc trong khi chúng tôi vẫn còn đứng trên hành lang. 1 cửa sổ mở toang vẫn ko làm át đi mùi Đất Mẹ trong ko khí, chúng tôi gần như đã đứng trên đất nước mình. Viên thượng sĩ với Sao Vàng Anh hùng đứng bên cửa sổ cạnh đó. Bất đồ tôi nhận thấy khi ko còn ai khác trong khoang, ko còn ai theo dõi nữa thì anh ta tháo luôn Sao Vàng và mấy hàng huân huy chương trên áo ra, ném tất cả qua cửa sổ! Nhận thấy vẻ sửng sốt và bối rối của tôi, anh ta bước lại và kể toẹt câu chuyện của anh ra: "Thậm chí cả anh, 1 đại uý cũng có thể ko kiếm được vé lên tàu, rất nhiều sĩ quan khác cũng đang phải ở lại vì ko có vé, vậy 1 thượng sĩ nhỏ nhoi như tôi làm sao mà kiếm được 1 vé trong khi vợ tôi ở Moscow đang sắp sinh. Tôi là 1 thợ rèn của pháo binh, vì thế tôi đã làm rởm ngôi Sao Vàng này và cả dãy huân huy chương, trong đó có cả 1 chiếc theo mẫu Huân chương Lenin (**). Thật may là ko ai hỏi giấy chứng nhận những danh hiệu đó ở quầy vé. Thế là tôi đã ở đây, trên chuyến tàu về thẳng nhà. Giờ tôi chẳng lo người ta kiểm tra giấy tờ gì nữa. Tự tôi có thể thoả thuận với lương tâm về trò bịp bợm này." Tôi có thể hiểu sự táo tợn và cương quyết của anh, thậm chí còn hiểu rất rõ nữa là khác vì chính tôi cũng đang đưa vợ đi đẻ.

Những đợt vận chuyển quy mô lớn đã bắt đầu, binh lính được tàu hoả đưa tới Viễn Đông để hoàn tất cuộc chiến chống Nhật hoặc phục viên về Moscow và các thành phố khác. Nhiều người hẳn còn nhớ những sự kiện này qua tài liệu và phim ảnh, ví dụ như phim "Ga Belorussia" (***), chúng tôi thì đã tận mắt chứng kiến tất cả những chuyện đó. Chúng tôi đã thấy rất nhiều người đi lậu, thậm chí họ ngồi cả trên nóc toa tàu Berlin - Moscow, họ ko muốn bỏ tiền mua vé và đợi chuyến sau vì đang vội về nhà sau quá nhiều năm xa cách. Ai cũng nhận thấy hệ thống đường sắt Đức rất tốt, nhiều điểm giao cắt được thay bằng cầu vượt, đường ô tô nằm trên đường sắt. Những cây cầu vượt này gây nguy nhiểm cho những người ngồi trên nóc toa, 1 tai nạn như vậy cũng đã xảy ra trên chuyến tàu của tôi. 1 người lính ở ngay trên nóc toa của tôi vì cũng muốn về nhà sớm, có lẽ anh ta đã ko chú ý đoàn tàu đang tới gần 1 cây cầu vượt và đã đứng hoặc đi bộ trên nóc toa. Đầu anh ta đập vào cầu và thân thể bay ra khỏi đoàn tàu, chết ngay. Có lẽ trưởng tàu đã phát hiện thấy và đoàn tàu dừng lại. Tuy vậy sau đó đoàn tàu vẫn đi tiếp với 1 vết máu chạy dài bên sườn. Thật là 1 cảm giác cực kỳ khó chịu khi thấy người lính đã sống sót qua chiến tranh mà lại ko thể sống sót trở về nhà, cảm giác này khiến chúng tôi buồn mất 1 lúc lâu.

Chúng tôi sớm vượt qua sông Oder và sau đó là biên giới nước Đức. Sự tương phản giữa thường dân nước Đức bại trận và nước Ba Lan mới được giải phóng thật rõ ràng! Tại mỗi ga mà đoàn tàu dừng lại dù chỉ trong vài phút, cả đám người bán hàng lập tức vây kín nó theo đúng nghĩa đen. Họ bán đủ thứ từ đồ ăn thức uống đến đồng hồ, bật lửa, giày và các loại quân phục Đức. Trong giàn hợp xướng những lời rao có thể nghe thấy "mleko zimne, kawa goronza" tức là sữa lạnh và cafe nóng; "zapalki, bibulki" là bật lửa và giấy cuốn thuốc lá. Cũng nghe thấy cả "bimber" và "Monopolka" nhưng hiếm hơn. Dân Ba Lan gạ mua bán mọi thứ, hình như toàn thể dân chúng sống quanh các ga, làng mạc và thị trấn đều trở thành con buôn, thật khó nói nhóm nào đông hơn, trẻ con, trẻ vị thành niên, đàn ông hay đàn bà, tất cả đều bị cuốn vào cơn lốc thử thời vận và săn tìm lợi nhuận. Họ sử dụng tất cả các loại tiền, zloty Ba Lan, mark Đức hoặc Reichsmark, rouble Liên Xô. Tình trạng vẫn tiếp tục cho tới tận Warsaw.

Chúng tôi nhận thấy tại Warsaw đoàn tàu sẽ chỉ dừng lại ga Rembertuv 1 - 2 phút. Chúng tôi cũng ko cần nhiều thời gian để xuống tàu vì chẳng có nhiều hành lý, Rita chỉ có vài bộ váy bầu. Đoàn tàu vượt sông Vistula, trông nó thật đẹp và yên bình, trên cây cầu đã được sửa lại, qua Praga, ngoại ô Warsaw nằm trên bờ trái sông Vistula và vài phút sau đã tới Rembertuv, điểm cuối chuyến hành trình của chúng tôi.

(*) Các anh hùng Liên Xô và người được tặng thưởng Huân chương Danh dự (cả 3 hạng) có nhiều đặc quyền trong xã hội Nga, trong đó có quyền ko cần xếp hàng tại bất kỳ cửa hàng hay cơ quan nào.

(**) Huân chương Lenin là huân chương quân đội cao quý nhất của Liên Xô, được trao tặng cùng với Sao Vàng Anh hùng Liên Xô.

(***) Các đoàn tàu chở đoàn quân chiến thắng trở về ga Belorussia tại Moscow.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:54:21 PM

Đó là 1 ngày nắng đẹp giữa tháng 6. Chúng tôi hỏi sĩ quan quân quản tại ga vị trí quân y viện và anh ta thậm chí đã lệnh cho 1 xe tuần cảnh chở chúng tôi đi, vì vậy chúng tôi ko cần tìm địa điểm. Trước khi chiếc xe tiến vào toà nhà lớn của quân y viện người ta đã nhận ra chúng tôi và cả 1 đám bạn gái của Rita chạy ra đón. Tôi lập tức nhận ra Lusya Pegova và Zoya Farvazova, những người đã dự đám cưới tiền tuyến. Bác sĩ mổ Mira Gurevich cũng ở đó cùng 1 số cô gái nữa nhưng ko thấy Ekaterina Nikolaevna đâu. Đám chị em vui nhộn đó tình nguyện tổ chức 1 meshkanne cho chúng tôi theo cách nói của dân Ba Lan, tức là 1 buổi gặp mặt thân mật, mọi người đều rơm rớm nước mắt.

Có lẽ mẹ Rita đã biết chúng tôi đang đến qua thư, vì thế đã có sẵn 1 phòng bày biện rất đẹp dành sẵn cho chúng tôi tại ngôi nhà Ekaterina Nikolaevna đang ở. Stas, em trai Rita đã ko còn ở đây, cậu ta tròn 18 tuổi hồi tháng 5 và đã đi nghĩa vụ quân sự tại 1 cơ sở huấn luyện tân binh dã chiến đâu đó bên Đức, cậu đã chuyển từ đánh xe ngựa sang xe tải vì đã học lái xe trong thời gian rảnh hồi còn ở quân y viện. Trong những ngày chiến tranh cuối cùng, cậu đã chiến đấu ở đâu đó trên mặt trận gần Elbe vài ngày trước khi hội quân với lực lượng Đồng Minh tại đó, với tư cách lái xe hoả tiễn Katyusha. Cậu đã lái cỗ xe tới vị trí bắn và khi nó khai hoả, như sau này cậu kể, cậu đã sợ thực sự, tuy nhiên chính loạt đạn đó đã khiến cậu có quyền được xem là đã tham chiến trong WW2!

Cả nhà quyết định Rita sẽ ở lại quân y viện cho đến khi nào mẹ cô còn phục vụ tại đó. Đủ ngày đủ tháng cô sẽ sinh nở tại đây luôn, dưới sự hỗ trợ của các bác sĩ quen biết và đích thân bà ngoại tương lai. Tôi lại lên cơn sốt 3 ngày sau khi tới Ba Lan và cũng bị đưa vào quân y viện này luôn nhưng chẳng bác sĩ nào biết được đó là bệnh gì. Lại 1 lần nữa, sau 2 - 3 ngày mê man nhiệt độ của tôi đã trở lại bình thường. Tôi cảm thấy kiệt sức, các cơn sốt càng lúc càng làm tôi thấy khó khăn hơn.

Có 1 bệnh viện nữa, ko phải ngoại khoa như bệnh viện này, mà là nội khoa đóng trong 1 thị trấn cách Rembertuv ko xa. Tôi nhớ thị trấn đó tên là Vesela Gura. Họ giới thiệu cho tôi 1 chuyên gia từ bệnh viện đó là Pilipenko, 1 trung tá già tóc muối nhiều hơn tiêu với hàng ria rậm. Ông khám tôi rất kỹ và làm mọi xét nghiệm máu cần thiết rồi mang mẫu bệnh phẩm đi. Sau vài ngày vị bác sĩ quay lại với kết luận: "Bệnh nhân đã nhiễm bệnh sốt rét nhiệt đới!" Thật là 1 tin động trời, ko hiểu tôi đã nhiễm căn bệnh này từ nơi nào trên quả đất này khi mà nơi xa nhất về phía nam tôi từng đặt chân tới là Ufa? Quá trình truy tìm nguyên nhân đã xong, ơn Chúa, người ta đã biết tên bệnh và bắt đầu điều trị tích cực.

Tôi phải chuyển tới quân y viện nội khoa nơi người ta bắt đầu điều trị chuyên sâu với những mũi tiêm chống sốt rét và chống bệnh thiếu máu là kết quả của bệnh sốt rét. Binh sĩ bị đủ mọi thứ bệnh đều được mang tới đây. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ 1 lần người ta đang mang cả 1 đám cả sĩ quan lẫn binh lính bị ngộ độc rượu tới. Hậu quả thật thảm thương. Nhiều người bị mù hẳn, số khác chết. Đó là khoảng 1 - 2 tháng sau chiến tranh. Thật cay đắng với những người sẽ phải sống trong mù loà cũng như người thân của những người chết, tất cả chỉ vì họ ko thể từ chối sự cám dỗ khi muốn uống 1 thứ gì đó mạnh hơn.

Khi thể trạng cho phép, tức là giữa các cơn sốt của căn bệnh ngoại lai mà may là còn chữa được này, tôi lại tới thăm Rita lúc này đang chuẩn bị làm mẹ. Thể trạng tôi tốt dần lên từng tí một, các cơn sốt nhẹ dần và ít dần đi. Tôi được biết các nhân viên quân y viện của Rita đều rất tốt, cô lại tiếp tục làm việc tại bệnh viện và nhận tem phiếu lương thực ở đây, hồi đó việc này rất quan trọng.

1 học viện quân đội Ba Lan đóng cạnh quân y viện, ban nhạc quân y viện cũng tham gia vào đó. Có lẽ theo phong tục của Woisko Polsko (Quân đội Ba Lan - Maseo) họ còn bắt buộc phải học cả khiêu vũ cổ điển và thường tổ chức các đêm vũ hội. Rita thỉnh thoảng lại xin tôi đưa cô tới đó, tất nhiên tôi lo cho cô và ko chịu nhưng thật kỳ lạ, mẹ cô lúc nào cũng đứng về phía cô và thế là tôi buộc phải đồng ý. Trong 1 đêm khiêu vũ như vậy, 1 sĩ quan Ba Lan khá già đã mời Rita nhảy điệu nhảy rất phổ biến mazurka. Ông ta quì 1 chân trước cô và đặt lưỡi kiếm trước mặt, bạn nhảy sẽ phải nhảy hoặc bước qua lưỡi kiếm đó. Bạn phải thấy khuôn mặt sung sướng của Rita khi hoàn thành bước nhảy đó 1 cách cực kỳ tao nhã mới hiểu. Ông bạn nhảy cúi rạp xuống chào cô khi điệu nhảy kết thúc, hôn tay và nói lâu lắm rồi mới được nhảy với 1 bạn nhảy giỏi đến thế. Rita cực kỳ hạnh phúc và tự hào, đỏ cả mặt, nhưng khi về đến nhà cô nhận thấy quá trình sinh nở đã bắt đầu mặc dù như vậy là quá sớm so với tính toán của chúng tôi.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:54:33 PM

Đêm đó Rita đã sinh hạ đứa con trai đầu lòng tại quân y viện Rembertuv. Chúng tôi đã phải chạy bộ tới viện xuyên qua cả thị trấn. Mẹ cô, Ekaterina Nikolaevna là bác sĩ phụ trách việc đỡ đẻ, bác sĩ phụ đỡ đẻ là Mira Gurevich. Bé chỉ nặng hơn 1kg chút. Tất nhiên việc sinh sớm ko phải hậu quả của điệu nhảy marzuka mà là cả 1 quá trình Rita và "ông nhóc" trong bụng đã phải trải qua trong chiến tranh, đặc biệt là trên mặt trận. Chiến tranh rõ ràng ko phải 1 bà đỡ tốt.

Đầu tiên chúng tôi muốn đặt tên con là Arkadi để nhớ tới kombat Osipov, vị chỉ huy đầu tiên của tôi trên chiến trường và là vị chỉ huy được yêu quí nhất. Tuy nhiên sáng hôm sau Rita nước mắt lưng tròng nói với tôi đêm qua cô đã mơ thấy cha. Ông đã chết đói khi Leningrad bị vây hãm, vì thế cô muốn đặt tên đứa con trai đầu lòng là Sergey để tưởng nhớ cha mình. Tốt thôi, tôi chẳng có lý do gì để phản đối. Con trai chúng tôi cũng dần có được cân nặng và chiều cao bình thường. Trong khi đó, ngay sau khi tôi có con, người ta đã quyết định phẫu thuật lấy viên đạn vẫn nằm trong người tôi suốt 1 năm qua ra, từ hồi tôi bị thương ở Brest. Ca phẫu thuật thành công dù viên đạn đã bắn trúng 1 vị trí cực kỳ bất tiện là mông tôi, khiến tôi ko thể ngồi hay nằm ngửa. Họ đã lấy viên đạn ra khá dễ dàng, chỉ cần gây tê cục bộ, tuy nhiên cơ thể tôi đã yếu nhiều do hậu quả của bệnh sốt rét dai dẳng và phản ứng lại 1 cách khó lường. Khi vừa bước ra sân quân y viện, tôi gần như ngất xỉu, thái dương và mặt vã mồ hôi lạnh và tôi chỉ vừa đủ sức để đứng vững. Thật may là có cái ghế dài cạnh cửa và tôi ngồi xuống đó, các nhân viên bệnh viện đi qua cho tôi ngửi "nước đái quỷ" và vài viên thuốc, nhờ đó tôi mới trở lại bình thường.

Căn bệnh sốt rét dần khỏi, các cơn sốt hiếm dần và ko nặng, ko làm tôi mê man nữa, tôi đã có thể và cần phải trở về tiểu đoàn. Tôi còn có 1 nhiệm vụ là phải khai sinh cho con và làm giấy hôn thú cho cuộc hôn nhân của mình. Tôi tới ban quân quản Warsaw với hy vọng sẽ nhanh chóng hoàn thành các thủ tục giấy tờ đó nhưng họ giải thích cho tôi rằng Lãnh sự quán Soviet đã được mở tại Warsaw và tôi cần chứng thực mọi vấn đề dân sự tại đó.

Tôi tìm thấy cơ quan này và nhận ra phải có mặt đủ 2 vợ chồng người ta mới cấp hôn thú, và muốn làm khai sinh cho con thì phải mang theo giấy chứng sinh. Vài ngày sau tôi quay lại Lãnh sự quán trong bộ quân phục oách nhất, huân huy chương lấp lánh đầy ngực trên chiếc xe của giám đốc quân y viện. Thủ tục đăng ký kết hôn lập tức trở nên đơn giản và nhanh chóng ko ngờ. Chẳng cần nhẫn, chẳng cần bản nhạc "Wedding March!" của Mendelssohn, tôi vẫn được đóng dấu "đã kết hôn" vào các giấy tờ cùng giấy chứng nhận kết hôn cho 2 vợ chồng và giấy khai sinh cho con. Tấm giấy khai sinh được ghi nơi sinh là "Warsaw, Ba Lan".

Đó là giữa tháng 9/1945. Tôi biết khi chiến tranh kết thúc, các Tiểu đoàn Trừng giới sẽ ngừng tồn tại nên quay về Berlin gấp. Tôi ko tìm thấy tiểu đoàn tại đó vì nó đã bị giải tán. Tôi đi sang Postdam tới sở chỉ huy GSOTG - Quân Soviet đồn trú tại Đức, vào ban nhân sự và được đại tá Kirov giải thích về trường hợp của mình cũng như đọc bản giới thiệu tôi cho đơn vị mới mà cựu kombat đã viết: "Thiếu tá Pylcyn là 1 sĩ quan đầy triển vọng, thích hợp để giữ lại lực lượng vũ trang". Tay thiếu tá này khi đó mới chưa đầy 22 tuổi.

Đại tá Kirov bới tìm đống giấy tờ, nhún vai rồi bảo tôi vì lý do nào đó tôi ko được đề cử huân huy chương nào nhân dịp kết thúc chiến tranh. Tôi nhận thấy mình chỉ được thêm Huy chương Vượt sông Oder và Huy chương Đã tham chiến trận Berlin. Đại tá nói thêm huân chương chỉ được trao cho các sĩ quan đã phục vụ tiểu đoàn trên 12 tháng tính đến Ngày Chiến Thắng và có mặt khi tiểu đoàn giải tán. Lúc này tôi đã có 4 huân chương và 1 Huy chương Dũng cảm nên ko thấy tiếc lắm, chỉ nghĩ rằng câu nói "xa mặt, cách lòng" sao mà đúng thật. Baturin đã nhân dịp này báo thù thói cứng đầu của tôi.

Tại ban tham mưu tôi gặp Vasily Nazykov, anh ta từng là thượng sĩ phụ trách hồ sơ nhân sự tiểu đoàn và nay đã lên trung uý, phục vụ tại ban tham mưu GSOTG. Anh ta xác nhận suy đoán của tôi, cho tôi biết khi thiếu tá Matvienko, cựu đại đội trưởng của tôi, nêu đề cử tặng huân chương cho tôi, Baturin đã gạt đề cử đó sang 1 bên, nói rằng tôi đã có những huân chương rất cao quý rồi. Khi các cựu sĩ quan tiểu đoàn trừng giới tập trung nhân kỷ niệm 45 năm Ngày Chiến thắng, tướng Kiselev, vốn là tham mưu trưởng tiểu đoàn Philip của chúng tôi, đã kể lại chuyện Ctrị viên Kazakov. Khi Kazakov nhận Huân chương Chiến tranh Vệ quốc theo đề cử của kombat, anh ta đã tới ban Ctrị Phương diện quân làm phiền họ với yêu cầu thưởng thêm 1 Huân chương Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, thật đúng là 1 sự xúc phạm tất cả những người khác trong tiểu đoàn. Anh ta chẳng quan tâm đến chuyện đó, ngay sáng hôm sau anh ta rời tiểu đoàn tới đơn vị mới mà ko từ biệt ai.

Quay lại lúc đó, đại tá Kirov nói với tôi ở Postdam: "Chẳng có chỗ nào để bổ nhiệm anh làm tiểu đoàn trưởng bộ binh vì rất có thể tiểu đoàn đó sẽ được giải tán ngay ngày mai. Cũng đã quá muộn để đưa anh tới Viễn Đông tham chiến chống Nhật. Tôi nghĩ với anh chiến tranh ở châu Âu này cũng đã là quá đủ." Đại tá đề xuất tôi nhận nhiệm vụ tiểu đoàn phó 1 tiểu đoàn quân cảnh độc lập trực thuộc ban quân quản Leipzig, 1 trong những thành phố lớn nhất có khu vực quân Soviet chiếm đóng tại Đức. Như tôi biết sau này, trước khi chính phủ Đức được tổ chức với đầy đủ chức năng, toàn bộ việc quản lý hành chính tại Đức nằm trong tay Ban Quân quản Soviet tại Đức (SMAG) nằm ngay trong ban tham mưu GSOTG và có chi nhánh tại 1 ban có trách nhiệm quản lý đất đai liên bang tại Saxony.

Tiêu đề: 

Re: Penalty Strike - Hồi ký của 1 đại đội trưởng trừng giới Hồng quân 1943 - 19

Gửi bởi: 

Paul the Octopus

 trong 

15 Tháng Mười, 2010, 12:54:41 PM

1 thời gian sau, tôi nhận thấy hầu hết bạn chiến đấu cũ đều nhận công việc sĩ quan quân quản 1 thị trấn hoặc 1 làng hay 1 nhà ga. Công việc của họ là quản lý về mặt Ctrị, hành chính và kinh tế địa phương, nói đúng ra là họ phải làm việc như 1 quan chức địa phương. Tôi ko có gì phản đối việc được bố trí về tiểu đoàn quân cảnh, thậm chí còn thấy thoải mái vì nó là 1 tiểu đoàn độc lập giống như Tiểu đoàn Trừng giới trước kia. Điều đó có nghĩa là tiểu đoàn sẽ có quyền hoạt động như 1 trung đoàn trong khi tôi với tư cách tiểu đoàn phó có quyền hành như 1 tiểu đoàn trưởng ngoài mặt trận, điều đó hoàn toàn phù hợp với mong muốn của tôi. Tôi tới Leipzig ngay hôm sau và đã phục vụ vài năm tại đó.

Tiểu đoàn Quân cảnh Độc lập có trách nhiệm canh gác các cơ sở quân sự và công nghiệp cũ cùng các trạm điện tại Leipzig. Tiểu đoàn cũng phải canh gác các trụ sở quân quản, tuần tiễu đường bộ và đường xe lửa trong thành phố. Tham gia với các đơn vị quân đội bình thường khác trong việc truy tầm nhưng tên Waffen SS, SD (*) và Wehrmacht vẫn còn lẩn lút trong rừng. Tôi có thể kể 1 trường hợp điển hình khi bắt được mấy tên Đức và phát hiện ra cả 1 kho vũ khí bí mật, phải mất 20 chuyến xe tải Studebaker mới chở hết số vũ khí đó ra khỏi kho. Sau khoảng 1 năm phục vụ tại tiểu đoàn quân cảnh, tôi được thăng chức làm sĩ quan chính quy cao cấp về các hoạt động phối hợp tại ban quân quản thành phố.

Tôi phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước chỉ huy quân quản thành phố, đại tá Borisov. Tôi ko biết tin đồn này có đúng ko, nhưng chúng tôi thường nghe kể rằng cựu chính uỷ quân đội hạng nhất này từng bị giáng chức xuống làm hạ sĩ quan sau sự cố ở Kerch. Tuy nhiên sau đó ông vẫn leo lên được đến đại tá. Ông là người cực kỳ chu đáo và tốt bụng, được tất cả các thuộc cấp kính trọng. Mùa hè năm 1947 ông bị triệu hồi về Moscow gấp, tại đó ông bị đưa ra toà vì lý do nào đó và phải vào trại cải tạo ở Siberia trong 1 thời gian dài. Có lẽ đó vẫn là hậu quả tiếp theo của vụ Kerch. Việc trừng phạt và trấn áp 1 cách máy móc vẫn còn. 6 tháng sau, đầu năm 1948 khi tôi đang phục vụ tại Thành Đội Moscow thì tìm gặp được gia đình Borisov, vợ ông vẫn còn nhớ tôi khi ở Leipzig. Mọi người kể ông bị cách tuột mọi cấp hàm và hiện làm văn thư cho ban quản lý trại cải tạo. Tôi ko biết phần đời còn lại của vị cựu chính uỷ, cựu đại tá, cựu chỉ huy quân quản 1 trong những thành phố lớn nhất nước Đức sau này ra sao.

Tôi được phân 1 căn hộ mới gần trụ sở ban quân quản tại số 24 phố Montbestrasse, đây vốn là 1 lâu đài của 1 nhà buôn Đức giàu có đã chạy sang phía tây. Tôi cũng được cấp 1 ô tô loại Opel Super 6 và 1 người lái xe. 1 trong các nhiệm vụ mới của tôi là đưa đón các vị khách quan trọng tới Leipzig, nhờ đó tôi được gặp những người nổi tiếng hồi đó như Nguyên soái Thiết giáp Pavel Alekseevich Rotmistrov, Nguyên soái Semen Mikhailovich Budenny và "Nguyên soái Chiến thắng" George Konstantinovich Zhukov.

Tôi gặp Zhukov lần đầu khi ông tới Leipzig săn hươu, khi đó tôi vẫn còn là tiểu đoàn phó quân cảnh. Tôi được lệnh canh gác khu rừng nơi xe của Zhukov và các sĩ quan hộ tống đỗ. Tôi được thấy ông ở khoảng cách 10 - 15m, ông ko to lớn như tôi tưởng, thậm chí là hơi thấp nhưng khoẻ mạnh và rất nhanh nhẹn. Ông ko mặc quân phục Nguyên soái mà mặc jacket da và quần bình thường, đi ủng lính, nếu trí nhớ của tôi còn tốt, ông đội 1 kiểu mũ da lưỡi trai khá đặc biệt.

Chúng tôi ko nhìn thấy hươu nhưng biết nó ở gần đấy vì nghe thấy nhiều tiếng súng. Sau đó đám thợ săn tập trung lại chỗ để xe mang theo 2 con hươu chết. 1 trong số thợ săn là kombat khi đó của tôi, thiếu tá Milstein tới báo cáo với Nguyên soái lúc này trông có vẻ ko vui. Mặt Nguyên soái đỏ gay, ông nhìn chằm chằm viên thiếu tá và gào rất to khiến tất cả chúng tôi đều nghe thấy, đó là 1 câu chửi tục và 1 câu mà tôi còn nhớ rõ: "Tôi tới đây để săn hươu chứ ko phải để ăn thịt nó!" Sau này kombat kể cho tôi nghe rằng phát đạn của Zhukov đã ko thành công cho lắm, ông bắn vào con hươu đang chạy đúng lúc nó lấp sau thân cây, sau đó con hươu chạy mất, trong khi các sĩ quan chỉ đi để phụ cho ông đã bắn được 2 con. Kombat Leonid Milstein đã lãnh nhiệm vụ xin với Nguyên soái được tặng ông 1 con, rõ ràng nhiệm vụ đó đã ko hoàn thành!

Chỉ huy GSOTG là Nguyên soái Zhukov, ko lâu sau đó thay bằng Nguyên soái Vasily Sokolovski, ông này vừa mới được thăng cấp lên Nguyên soái, trước đây ông là tham mưu trưởng của Zhukov. Việc thiên chuyển Nguyên soái Zhukov bất ngờ và việc chỉ định Sokolovski thay thế đã làm nảy sinh nhiều tin đồn. Các tin đồn đó nhanh chóng biến mất khi Zhukov được nhận Sao Vàng Anh hùng Liên Xô lần thứ 3, tuy nhiên nó vẫn kịp lây lan như 1 tiếng sét giữa trời quang! Chúng tôi đã được nghe vài câu chuyện mơ hồ về quan điểm "sai trái" với các Đồng Minh phương tây. Tuy nhiên ngay sau đó tôi đã được gặp Nguyên soái Solokovski và ông khiến chúng tôi tin rằng đó là 1 người thay thế tốt cho Zhukov. Tôi cũng đã gặp Chánh Công tố Liên Xô Andrei Vyshinski khi ông đang trên đường tới phiên toà Nuremberg xét xử những tên tội phạm Nazi đầu sỏ. Tôi từng nghe nhiều câu chuyện về ông từ tay cựu phi công shtrafnik trước đây chiến đấu trong sư đoàn ko quân do đại tá Vasily Stalin chỉ huy.

Gần 1 tháng sau khi đại tá Borisov bị triệu hồi, tôi bị điều về 1 ban quân quản cấp 2 tại 1 thị trấn nhỏ tên là Debeln theo lệnh của lãnh đạo thành phố Leipzig. Hầu hết sĩ quan quân quản các quận huyện trong thành phố cũng bị thiên chuyển. Tôi ko biết điều đó có liên quan đến số phận của Borisov ko nhưng nghĩ lý do chính của sự thay đổi này liên quan đến tân chỉ huy quân quản, đại tá Litvin. Sự căng thẳng lập tức xuất hiện trong quan hệ giữa chúng tôi. 1 lần tôi được mời tới dự buổi meeting giữa các sĩ quan quân quản và kombat, người tôi sẽ thay thế sau khi ông ra đi. Tôi ko nhớ rõ tại sao nhưng đã ko kịp thay quần chẽn và ủng quân phục mà vẫn mặc nguyên như thế tới dự meeting, thậm chí còn ngu tới mức lên ngồi ngay hàng đầu. Đại tá Litvin tới tham gia meeting, ngồi ghế chủ toạ, trước mặt là 1 cái bàn lớn phủ len đỏ, sau lưng là tấm ảnh Stalin. Litvin nhận thấy tôi mặc quân phục ko đúng và bắt đầu nhiếc móc. Ông bảo tôi ko phải sĩ quan vì đi ủng lính và chỉ những thằng ngu mới mặc quần chẽn, đại khái thế. Tôi khoái trá nhìn và nghĩ ko hiểu ông ta làm thế nào để kết thúc bài khiển trách nếu liếc lên tấm ảnh Stalin, trong ảnh Stalin cũng mặc quân phục với quần chẽn trùm cả ra ngoài ủng lính, mặc dầu trong phần lớn trường hợp tôi thấy trong ảnh Stalin đi ủng dài. Vậy là tôi bắt đầu nhìn chăm chú, ko phải vào thượng cấp mà vào tấm ảnh Tổng Tư lệnh. Rút cục thì đại tá cũng chú ý tới hướng nhìn của tôi và bất thần dừng bài thuyết giáo, sau đó giận dữ ra lệnh cho tôi: "Ngồi xuống!"

Ông ta ghét tôi từ sau vụ đó. Thậm chí khi tôi được Chính phủ Ba Lan đề nghị tặng thưởng huân chương vì đã tham gia giải phóng Warsaw và nhiều thành phố Ba Lan khác, đích thân Litvin đã gạch tên tôi khỏi danh sách. Đó là cách ông ta trả thù tôi, tôi ko được nhận Huân chương Virtuti Militari dù rất nhiều bạn bè được nhận.

1 thời gian dài sau khi chuyển tới Debeln tôi ko có việc gì làm. Em trai Rita, Stanislav làm lái xe cho trung đoàn trưởng Katyusha tại 1 thị trấn gần đó, vì thế chúng tôi thường tổ chức bữa tối tại chỗ tôi hoặc chỗ trung đoàn trưởng, thiếu tá Gilenkov, người đã trở thành bạn tốt của tôi. Đầu tháng 12/1947 có lệnh chuyển tôi về Moscow và ko lâu sau chuyến tàu thân thuộc Berlin - Moscow đã đưa chúng tôi về phía đông, trở về mảnh đất Liên Xô yêu thương.

(*) SD - Sicherheitsdienst - Quân cảnh SS


HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro