CHƯƠNG HAI: VÀI NÉT ĐẶC THÙ CỦA BÀ BLAVATSKY

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

         Trong  chương  một ,  chúng  tôi  có  nói  rằng  bà  HPB  được  lệnh  của  Chân  Sư  phải  rời  Paris  đi  New  York  một  cách  đột  ngột,  do  tin  báo  trước  chỉ  có  một  ngày,  và  khi  đó  bà  chỉ  có  vừa  đủ  tiền  để  mua  vé  tàu.Tôi  còn  nhớ  một  việc  liên  hệ  đến  chuyến  đi  ấy  do  bà  thuật  lại,  việc  ấy  cũng  biểu  lộ  một  nét  đặc  biệt  trong  tính  chất  đa  dạng  của  bà,  ấy  là  tính  hào  sảng  tự  nhiên.

         Bà  đã  mua  một  vé  tàu  hạng  nhất  đi  từ  Havre  đến  New  York,  và  khi  ra  bến,  bà  nhìn  thấy  một  phụ  nữ  nhà  quê   ngồi  bên  vỉa  hè  vừa  ôm  con  vừa  khóc  rất  thảm  thiết.  Bà  bước  đến  gạn  hỏi  thì  được  biết  rằng  đó  là  một  phụ  nữ  Đức  định  xuống  tàu  để  sang  gặp  chồng  ở  bên  Mỹ,  nhưng  bị  một  kẻ  gian  đã  bán  vé  giả  cho  bà  ta  ở  Hambourg.  Thế  là  khi  đến  đây,  bà  ấy  bị  bơ  vơ,  lạc  lõng,  không  tiền  bạc  và  tứ  cố  vô  thân  nơi  đất  khách.  Lẽ  tự  nhiên,  Công  Ty  Hàng  Hải  cũng  không  làm  gì  được.  Động lòng  trắc  ần,  bà  HPB  nói:

          “Chị  hãy  yên  tâm,  để  tôi  xem  có  cách  nào  giúp  chị  được  không?”

             Kế  đó,  bà  vận  dụng  tất  cả  mọi  khả  năng  hùng  biện,  hết  thuyết  phục  rồi  đến  quở  trách  người  đại  diện  Công  Ty,  nhưng  rốt  cuộc  vẫn  không  có  kết  quả.  Sau  cùng,  vì  bà  không  có  đủ  tiền  để  trợ  giúp  người  phụ  nữ  bất  hạnh  ấy  nên  bà  phải  dùng  đến  phương  sách  tối  hậu,  chứ  không  còn  cách  nào  khác.  Bà  liền  đổi  vé “cabin’’  hạng  nhất  của  bà  thành  vé  hạng  chót,  nằm  dưới  hầm  tàu,  và  dùng  số  tiền  sai  biệt  để  mua  vé  hạng  chót  luôn  cho  cả  hai  mẹ  con  người  đàn  bà  kia!

             Nhiều  người  thuộc  loại  “nề  nếp”, “mực  thước,” thường  tỏ  ra  hoang  mang  kinh  ngạc  vì  những  cử  chỉ  ngang  tàng  ngáo  ngổ  và  cả  những  điều  sống  sượng  bất  nhã  nữa  của  bà  HPB,  nhưng  tôi  nghĩ  rằng  một  cử  chỉ  hy  sinh  hào  phóng  như  vậy  cũng  đủ  làm  nghiêng  lệch  đòn  cân,  và  quét  sạch  tất  cả  những  gì  gọi  là  bất  lịch  sự  trong  phép  xã  giao  của  người  đời!  Ai  không  tin,  hãy  thử  xuống  nằm  dưới  hầm  tàu  chở  dân  di  trú  một  lần  thì  biết!

           Trên  đây  có  nói  trong  trường  hợp  nào  nữ  ký  giả  Ballard  đến  gặp  bà  HPB  tại  một  ngôi  nhà  trọ  nghèo  nàn  ở  một  khu  phố  bình  dân  của  thành  phố  New  York  trong  khi  bà  còn  chờ  đợi  tiền  nhà  và  phải  làm  việc  may  thuê  vá  mướn  để  sống  tạm  qua  ngày.  Đó là vào  tháng  7,  năm  1873.  Tháng  mười  năm  ấy,  bà  nhận  được  một  bức  điện  tín  từ  Stavropol ( Nga )  của  cô  em  gái  là  Elise,  cho  biết  tin  phụ  thân  bà  từ  trần  và  có  để  lại  cho  bà  một  phần  gia  tài.  Cô  em  cho  biết  thêm  rằng  một  ngân  phiếu  một  ngàn  Nga  Kim (roubpes)  đã  được  gửi  cho  bà.  Sau  đó  ít  lâu,  bà  nhận  được  tiền  và  dời  chỗ  ở  đến  một  khu  phố  khang  trang  lịch  sự  hơn,  ở  đường  East 16th,  công  trường  Irving,  New  York.  Chính  ở  địa  chỉ  này  mà  tôi  đến  gặp  bà  sau  khi  từ  nông  trại  Eddy  trở  về.  Tuy  nhiên,  số  tiền  ấy  không  ở  với  bà  được  lâu,  vì  như  ông  Sinett  dã  nhận  xét  và  ghi  lại  trong  quyển  sách  của  ông  (về  tiểu  sử  của  bà  HPB)  thì  một  mặt  bà  có  thể  chịu  đựng  một  cách  vô  cùng  nhẫn  nhục  những  cơn  nghèo  túng  và  nghịch  cảnh  khó  khăn,  nhưng  khi  tiền  bạc  vừa  đến  tay  bà,  thì  bà  dường  như  lấy  làm  băn  khoăn  khổ  sở  trừ  khi  bà  đem  vứt  quăng  đi  với  cả  hai  tay  bằng  những  phương  tiện  dại  dột  nhất.

            Đó  là  một  cuộc  chung  vốn  làm  ăn  có  ký  hợp  đồng  để  khai  thác  nông  trại  của  một  người  tên  là  C.G.  trong  một  kỳ  hạn  là  ba  năm.  Trong  bản  hộp  đồng  có  điều  khoản  quy  định  rằng  bà  HPB  sẽ  bỏ  ra  số  tiền  một  ngàn  đô  la  để  chung  vốn,  tất  cả  những  lợi  tức  thu  hoạch  được  về  hoa  màu,  rau  trái,  gà  vịt,  và  nhũng  hoa  lợi  linh  tinh  khác  sẽ  được  chia  đều  và  mọi  phí  tổn  cũng  sẽ  cùng  gánh  chịu  đều  nhau, v..v…

          Điều  mà  người  ta  có  thể  tiên  liệu  trước  đã  xảy  ra:  bà  HPB  đến  ở  tại  nông  trại,  lợi  tức  đâu  chẳng  thấy,  đâm  ra  tranh  chấp,  cãi  lẫy,  rồi  mắc  nợ  và  vướng  vào  một  vụ  kiện  mà  rất  lâu  về  sau  các  bạn  bè  thân  hữu  của  bà  mới  giúp  bà  giải  quyết  xong.  Thế  là  tan  tành  cái  giấc  mộng  về  lợi  tức  của  bà  về  rau  trái,  hoa  màu,  nuôi  bò  sữa,  gà  đẻ  trứng, v..v…Ba  tháng  sau  đó,  tôi  mới  gặp  bà  tại  ngôi  nhà  có  hồn  ma  hiện  hình  ở  tại  Vemont,  Chittenden, và  bánh  xe  nghiệp  quả  của  chúng  tôi  mới  bắt  đầu  chuyển  động.

           Những  bài  phóng  sự  của  tôi  đăng  trên  nhật  báo  Daily  Graphic  đã  hấp  dẫn  đến  Chittenden  một  vị  lương  y  danh  tiếng  của  thành  phố  New  York,  bác  sĩ  Beard.  Khi  trở  về,  y  đã  viết  một  bài  bình  phẩm  ngu  xuẩn  và  khoác  lác  đăng  trên  báo,  nói  rằng  những  chuyện  hồn  ma  hiện  hình  ở  nông  trại  Eddy  chỉ  là  những  trò  giả  mạo,  và  y  đã  bị  bà  HPB “cạo  sát  da”  trong  một  bức  thư  trả  lời  nảy  lửa  gởi  đến  tòa  soạn  báo  Graphic.  Bức  thư  của  bà  là  một  sự  biện  hộ  can  đảm  và  độc  đáo  bênh  vực  cho  những  đồng  tử  Eddy  và  sự  thật  của  những  hiện  tượng  xảy  ra,  làm  cho  bà  đột  nhiên  vang  dậy  tên  tuổi  khắp  các  giới  kể  từ  đó  trở về  sau.  Đây  là  lần  đầu  tiên  mà  quần  chúng  Mỹ  được  nghe  tên  tuổi  bà  liên  quan  dến  những  vấn  đề  huyền  linh,  và  cuộc  tranh  luân  với  một  bác  sĩ  nổi  tiếng  ở  New  York  thời  ấy  là  cái  nguyên  nhân  chính  làm  cho  bà  được  nổi  danh  một  cách  bất  ngờ.

          Hồi  đó,  bà  luôn  luôn  phát  ngôn  với  một  giọng  sôi  nổi,  hào  hùng  và  vui  nhộn  trong  tất  cả  mọi  cuộc  đàm  thoại  và  trên  diễn  đàn  ngôn  luận,  báo  chí;  bà  thu  hút  mọi  người  bằng  cách  nói  chuyện  linh  động  và  ý  nhị;  khinh  bỉ  những  nghi  thức  xã  giao  giả  dối  của  người  đời,  và  gây  sự  ngạc  nhiên  trong  các  giới  bằng  những  quyền  năng  thần  bí  của  bà.  Bà  thường  rút  trong  cái  kho  tang  ký  ức  vô  cùng  dồi  dào  phong  phú  về  những  chuyện  phiêu  lưu  mạo  hiểm  mà  bà  đã  trài  qua  do  kinh  nghiệm  bản  thân,  và  trong  kho  kiến  thức  thâm  sâu  về  khoa  Huyền  Môn,  mà  theo  chỗ  tôi  biết  thì  không  ai  có  thể  bì  kịp  trong  số  các  nhân  vật  xuất  hiện  ở Mỹ  thời  bấy  giờ.  Khi  tôi  đã  kết  thúc  loạt  bài  phóng  sự  đăng  trên  báo  Daily  Graphic  về  các  hiện  tượng  thần  linh  ở  Chittenden,  tôi  bèn  chuẩn  bị  in  ra  thành  sách.  Vào  lúc  này,  bà  HPB  cũng  dời  chỗ  đến  ở  Philadelphia.  Hồi  đó,  khoa  Thần  Linh  Học  đang  trải  qua  một  giai  đoạn  xuống  dốc  do  hậu  quả  của  việc  đồng  tử  Holmes  bị  nhà  bác  học  Dale  Owen  công  khai  tố  giác  là  dối  trá,  bịp  bợm.  Những  cơ  quan  ngôn  luận  của  phong  trào  bị  mất  độc  giả  rất  nhiều,  những  sách  vở  Thần  Linh  Học  sang  giá  nhất  đều  bị  mất  khách  hang  và  nằm  trong  các  nhà  sách  không  ai  mua. Nhà  xuất  bản  quyển  sách  của  tôi  bị  giao  động  tinh  thần  dến  nỗi  tôi  phải  đề  nghị  vối  ông  Dale  Owen  và  bà  đồng  tử  Holmes  mở  một  cuộc  trắc  nghiệm  dài  hạn  dưới  những  điều  kiện  của  tôi  đưa  ra  để  chúng  tôi  thực  hiện  những  cuộc  thử  thách  này  tại  nhà  ông  bà  Holmes.  Sau  đó,  tôi  đến  Havana,  tiểu  bang  New  York,  và  chứng  kiến  những  hiện  tượng  đồng  tử  thật  là  kỳ  diệu  của  bà  Compton.  Tất  cả  những  cuộc  khảo  sát  trên  đây  đều  được  tường  thuật  lại  đầy  đủ  trong  quyển  sách  của  tôi  nhan  đề  “Người  về  từ  cõi  âm”  và  sau  cùng  nó  được  đem  phát  hành.

                                               II

          Trong  khi  bà  HPB  ở  Philadelphia,  tôi  nhận  lời  mời  của  bà  và  đến  đó  ở  nghỉ  vài  ngày  sau  một  thời  gian  làm  việc  mệt  nhọc.  Tôi  định  đi  vắng  nhà  có  vài  ngày  thôi  nên  không  dặn  người  nhà  và  văn  phòng  Luật  chuyển  thơ  từ  cho  tôi,  nhưng  khi  đến  nơi  tôi  mới  biết  bà  không  muốn  để  tôi  về  sớm  như  vậy.  Qua  ngày  hôm  sau,  tôi  đến  Sở  Bưu  Điện,  và  yêu  cầu  họ  đem  thư  tù  của  tôi  nếu  có,  đến  địa  chỉ  của  tôi  đang  ở.  Khi  đó  thì  xảy  ra  một  việc  làm  tôi  ngạc  nhiên,  vì  hồi  đó  tôi  chưa  được  biết  nhiều  về  những  quyền  năng  thần  thông  của  các  Chân  Sư  và  bà  HPB  và  chí  đến  bây  giờ  đối  với  tôi,  nó  vẫn  còn  là  một  kỳ  quan  lạ  lung  dẫu  rằng  tôi  đã  từng  trải  qua  một  thời  kỳ  kinh  nghiệm  lâu  dài  về  các  hiện  tượng  huyền  linh.

         Ngay  chiều  hôm  đó,  người  đem  thơ  đem  đến  cho  tôi  vài  bức  thơ  gởi  từ  ngoại  quốc,  ngoài  bao  thơ  đề  địa  chỉ  của  tôi  ở  New  York,  có  đóng  dấu  các  trạm  bưu  điện  xuất  xứ  nhưng  KHÔNG  CÓ  CON  DẤU  CỦA  SỞ  BƯU  ĐIỆN  THÀNH  PHỐ  NEW  YORK.  Bất  chấp  mọi  luật  lệ  của  quy  tắc  bưu  điện,  những  bức  thư  đó  đã  được  giao  thẳng  đến  tay  tôi  ở  Philadelphia  mà  không  đi  qua  Sở  Bưu  Điện  thành  phố  New  York.  Ở  New  York  không  ai  biết  địa  chỉ  của  tôi  tại  Philadelphia  vì  chính  tôi  cũng  không  biết  khi  tôi  rời  khỏi  nhà  ra  đi.  Khi  mở  các  bao  thơ,  tôi  thấy  trên  các  thơ  đều  có  những  giòng  chữ  viết,  đúng  là  tuồng  chữ  trên  những  bức  thơ  của  các  Chân  Sư  mà  tôi  đã  nhận  được  ở  New  York  trước  đây,  những  giòng  chữ  này  được  viết  hoặc  ở  ngoài  lề,  hoặc  ở  những  khoảng  trống  trong  thơ  của  những  người  giao  dịch  với  tôi.  Những  giòng  chữ  đó  hoặc  bình  phẩm  về  tính  hạnh  hay  ý  đồ  của  các  đương  sự,  hoặc  là  những  lời  khuyên  có  liên  quan  đến  vấn  đề  học  Đạo  của  tôi.  Việc  ấy  mở  màn  cho  toàn  thể  một  loạt  những  hiện  tượng  kỳ  diệu  khác  nữa  trong  khoảng  thời  gian  độ  hai  tuần  mà  tôi  trải  qua  tại  Philadelphia.

           Phân  tích  những  hiện  tượng  thần  thông  của  bà  HPB,  hoặc  có  liên  quan  đến  bà,  chúng  tôi  nhận  thấy  chúng  có  thể  được  chia  làm  nhiều  loại,  mà  khả  năng  tạo  nên  những  iện  tượng  đó  đòi  hỏi  một  sự  hiểu  biết  về  những  điều  sau  đây:

      _  Biết  rõ  những  năng  dụng  rốt  ráo  của  vật  chất,  mãnh  lực  kết  cấu  các  nguyên  tử,  nhất  là  sự  hiểu  biết  về  tiềm  năng  của  chất  TINH  QUANG  hay  TIÊN  THIÊN  KHÍ (Akâsha).

    _  Khả  năng  tác  động  của  các  Tinh  Linh  Ngũ  Hành  khi  đặt  dưới  ý  chí  điều  khiển  của  con  người.

   _   Quyền  năng  sáng  tạo  của  tư  tưởng , có  thể  dùng  thuật  thôi  mien  tạo  ra  những  ảo  giác  mắt  thấy, tai  nghe  và xúc  cảm  những  điều  mà  thật  ra  vốn  không  có.

   _  Khả  năng  phóng  xuất  hình  ảnh  hay  chữ  viết  bằng  sức  mạnh  của  ý  chí.

   _Khả  năng  đọc  tư  tưởng  của  người  khác,  và  thần  nhãn  nhìn  thấy  quá  khứ  vị  lai.

   _  Khả  năng  thần  giao  cách  cảm  tùy  ý  muốn  giữa  mình  với  những  nhân  vật  ngang  hàng  hoặc  cao  hơn  mình  về  trình  độ  phát  triển  tâm  linh.

  _  Khả  năng  đọc  được  Ký  Ức  của  Thiên  Nhiên,  ẩn  tang  trong  chất  Tinh  Quang  hay  Tiên  Thiên  Khí  nơi  đó  chứa  đựng  tất  cả  những  kho  tang  hiểu  biết  của  con  người.

         Hồi  tưởng  lại  những  nhận  xét  của  tôi  trong  hai  chục  năm  qua,  tôi  nghĩ  rằng  tất  cả  những  chuyện  mà  tôi  đã  từng  kể,  hay  sẽ  thuật  lại  trong  quyển  sách  này,  sẽ  thuộc  về  một  trong  những  loại  kể  trên.

         Những  kẻ  hoài  nghi  chắc  sẽ  nói  rằng  sự  phân  loại  như  trên  có  vẻ  độc  đoán  và  những  giả  thuyết  của  tôi  là  hão  huyền.  Họ  sẽ  yêu  cầu  tôi  chứng  minh  sự  thật  về  các  Tinh  Linh  Ngũ  Hành;  về  hiện  tượng  thần  nhãn;  về  sự  chuyển  di  đồ  vật  xuyên  qua  không  gian;  về  sức  mạnh  hấp  dẫn  và  kết  cấu  các  nguyên  tử,v..v… Tôi  chỉ  có  thể  thuật  lại  những  điều  mà  tôi  và  nhiều  người  khác  đã  nhìn  thấy,  và  thách  đố  kẻ  hoài  nghi  tìm  ra  được  trong  cõi  thiên  nhiên  bất  cứ  một  định  luật  nào  ngoài  ra  những  điều  đã  nêu  trên  để  giải  thích  các  sự  kiện  không  thể  chối  cãi.  Còn  nếu  người  ta  cho  rằng  đó  là  phép  lạ,  hay  ma  thuật,  thì  chừng  đó  tôi  sẽ  ngậm  miệng,  vì  điều  đó  chận  đứng  mọi  cuộc  tranh  luận.  Tôi  không  tự  hào  có  thể  giải  thích  tất  cả  những  hiện  tượng  thần  thông  của  bà  HPB,  vì  điều  ấy  đòi  hỏi  một  trình  độ  hiểu  biết  ít  nhất  là  tương  đương  với  bà  là  điều  mà  tôi  không  bao  giờ  có.

                                                          III

          Những  ngày  mà  tôi  trải  qua  ở  Philadelphia  đều  bận  rộn  với  việc  học  Đạo  và  chứng  kiến  những  hiện  tượng  thần  thông  của  bà  HPB.   Ngoài  ra,  tôi  còn  có  một  số  bạn  bè  thân  hữu,  và  bà  đã  làm  những  phép  thuật  huyền  linh  này  trước  mặt  mọi  người.  Trong  số  những  phép  thuật  đó,  tôi  còn  nhớ  có  lần  bà  làm  cho  một  bức  ảnh  trên  tường  thình  lình  biến  mất  khỏi  cái  khung,  và  thay  vào  đó  là  một  bức  chân  dung  hoạt  họa  của  John  King,  trong  khi  một  người  trong  số  quan  khách  đang  nhìn  vào  bức  ảnh.

           Lần  lần,  tôi  được  bà  giảng  giải  cho  nghe  những  lý  thuyết  của  Huyền  Môn  Đông  Phương  về  tinh  thần  và  vật  chất  và  về  những  vong  linh  khuất  mặt  trong  cõi  vô  hình.  Bà  không  bảo  tôi  từ  bỏ  giả  thuyết  Thần  Linh  Học,  mà  chỉ  cho  tôi  thấy  và  nhận  định  rằng  như  một  khoa  học  chân  chính,  khoa  Thần  Linh  Học  thật  sự  chỉ  có  thể  ở  phương  Đông,  và  những  người  tinh  thông  về  khoa  này  chỉ  có  thể  là  những  bậc  đạo  sư  và  đệ  tử  của  các  đạo  phái  Huyền  Môn  Đông  Phương.

           Với  tấm  lòng  thành  thật  khách  quan  đối  với  các  nhà  Thần  Linh  Học,  tôi  phải  nói  rằng  cho  đến  nay,  chưa  có  một  lý  thuyết  khoa  học  nào  được  đưa  ra  về  những  hiện  tượng  đồng  tử  mà  phần  đông  nói  chung  họ  đã  chấp  nhận.  Và  tôi  cũng  không  thấy  có  một  bằng  chứng  cụ  thể  nào  chỉ  rằng  trong  số  những  tín  hữu  Tây  Phương  của  phong  trào  này,  có  ai  đã  từng  khám  phá  một  phương  pháp  nào  để  có  thể  kêu  gọi  các  vong  linh  xuất  hiện  hoặc  tạo  ra  các  hiện  tượng  tùy  ý  muốn.  Không  một  người  đồng  tử  nào  mà  tôi  đã  từng  gặp  hoặc  nghe  nói  đến,  đã  có  một  bí  quyết  hay  chân  ngôn  để  thực  hiện  được  những  việc  đó,  vốn  là  những  điều  rất  thông  thường  và  quen  thuộc  từ  nhiều  thế  hệ  ở  các  xứ  phương  đông.

            Trong  khi  bà  HPB  làm  cho  tôi  và  các  bạn  hữu  tin  rằng  những  hiện  tượng  xảy  ra  hầu  như  mỗi  ngày  đều  là  do  tác  động  của  vong  linh  John  King,  mạo  nhận  là  vong  hồn  một  hải  tặc  lừng  danh  khi  xưa  tên  là  Sir  H. Morgan,  và  bà  chỉ  trợ  giúp  y  với  tư  cách  là  một  người  trung  gian  hay  phụ  tá,  bà  HPB  đã  làm  nhiều  hiện  tượng  chứng  tỏ  là  bà  có  một  bản  lĩnh  cao  cường  về  ngành  Phương  Thuật (Magic ).

            Tôi  xin  kể  một  thí  dụ,  đồng  thời  cũng  nói  thêm  rằng  những  phát  minh  khoa  học  lớn  lao  thường  bắt  nguồn  từ  việc  tình  cờ  nhận  xét  những  sự  việc  rất  đỗi  thông  thường,  chẳng  hạn  như  một  trái  táo  rụng  xuống  đất giúp  Newton  khám  phá  Luật  Hấp  Dẫn (Gravitation ); và  việc  nhìn  thấy  cái  nắp  thiếc  nhảy  dựng  trên  cái  ấm  nước  đang  sôi[6]

            Ngày  nọ,  nhận  thấy  trong  nhà  thiếu  khăn  mặt  để  dùng,  tôi  mua  vài  cái  khăn  lớn  đem  về,  và  cắt  ra  làm  độ  một  chục  chiếc  khăn  nhỏ.   Khi  thấy  bà  HPB  định  lấy  ra  dùng  ngay  mà  không  chịu  viền  các  cạnh  khăn  lại  cẩn  thận,  tôi  mới  phản  đối  lối  sống  thiếu  ngăn  nắp  đó,  và  bà  liền  lấy  kim  chỉ  ra  may.  Bà  chưa  kịp  bắt  đầu  bỗng  nhiên  bà  đá  một  cái  dưới  gậm  bàn  và  nói  với  một  giọng  giận  dữ:

          “Đồ  láo,  đi  ra!”

           Tôi hỏi:

          “Cái  gì  vậy?”

          Bà đáp:

          “Có gì  đâu!  Chỉ  có  một  tinh  linh  nó  kéo  vạt  áo  tôi  và  muốn  có  một  việc  gì  làm!”

           Tôi nói:

         “À, hay quá!  Sẵn đây, bà  hãy  đưa  khăn  cho  nó  may.  Bà  cần  gì  phải  làm  cho  nhọc,  vả  lại  bà  cũng  chẳng  khéo  tay  gì  cho  lắm  về  đường  kim  mũi  chỉ?”

           Bà  cười  và  mắng  tôi  chê  bà  may  dở,  nhưng  cũng  chưa  chịu  làm  theo  sự  thỉnh  cầu  của  kẻ  khuất  mặt  ở  dưới  gậm  bàn,  sẵn  sàng  trợ  giúp  một  tay  nếu  có  dịp.  Sau  cùng,  nghe  lời  thuyết  phục  của  tôi,  bà  bảo  tôi  hãy  để  khăn  mặt  và  kim  chỉ  trong  một  cái  tủ  kiếng  có  khóa,  và  che  màn  lụa  xanh  ở  phía  tường  bên  kia.  Tôi  làm  theo  và  trở  lại  tiếp  tục  ngồi  nói  chuyện  với  bà  về  đề  tài  lý  thú  duy  nhất  và  bất  tận  của  chúng  tôi,  là  vấn  đề  khoa  học  huyền  bí.  Sau  độ  mười  lăm  hay  hai  mươi  phút,  tôi  nghe  một  tiếng  động  nhỏ  giống  như  tiếng  chuột  kêu  ở  dưới  gậm  bàn,  khi  đó  bà  HPB  cho  tôi  biết  rằng  “nó”  đã  viền  xong  mấy  cái  khăn.  Tôi  bèn lại  mở  tủ  và  thấy  mười  hai  cái  khăn  mặt  đã  viền  xong,  tuy  rằng  hơi  vụng  về,  giống  như  của  trẻ  em  mới  tập  may  trong  các  lớp  may  nhi  đồng.  Thế  là  mấy  cái  khăn  mặt  đã  được  viền  bìa  thật  sự  không  thể  nghi  ngờ,  trong  cái  tủ  đã  khóa  kín  mà  bà  HPB  không  hề  bén  mảng đến  gần  trong  suốt  thời  gian  đó.  Lúc  ấy,  vào  độ  bốn  giờ  chiều,  giữa  ánh  sang  ban  ngày.  Chúng  tôi  chỉ  có  hai  người  trong  phòng,  không  có  người  nào  khác  bước  vào  cho  đến  khi  mọi  việc  đã  xong.

           Có  lần  trong  khi  chúng  tôi  đang  ngồi  nói  chuyện  ở  phòng  khách,  bà  HPB  thình  lình  biến  mất.  Tôi  đã  từng  trải  nhiều  kinh  nghiệm  về  các  hiện  tượng  huyền  linh,  nhưng  việc  này  làm  tôi  ngạc  nhiên  và  lo  lắng.  Sau  khi  đi  lục  soát  khắp  trong  nhà  mà  không  thấy  gì,  tôi  trở  lại  phòng  khách  châm  ống  điếu  hút  thuốc,  và  thử  tìm  hiểu  điều  bí  mật  này.  Hồi  đó  là  năm  1875,  tức  là  nhiều  năm  trước  khi  khoa  thôi  miên  được  thí  nghiệm  và  phổ  biến,  cho  nên  tôi  không  hề  biết  rằng  lúc  ấy  tôi  chỉ  là  một  đối  tượng  thụ  cảm,  và  bà  HPB  chỉ  có  làm  che  lấp  thị  giác  của  tôi  để  tôi  không  nhìn  thấy  bà  trong  khi  bà  vẫn  có  mặt  tại  chỗ.

           Một  lúc  sau  bà  xuất  hiện  trở  lại  nơi  phòng  khách,  tôi  mới  hỏi  nãy  giờ  bà  đi  đâu,  thí  bà  cười  và  nói  rằng  vì  bà  có  việc  phải  làm  về  phần  “ vô  vi ”  nên  bà  đã  tàng  hình  trong  chốc  lát.  Nhưng  bà  tàng  hình  bằng  cách  nào  thì  bà  không  nói.  Bà  cũng  làm  phép  thuật  đó  trước  mặt  tôi  và  những  người  khác  nhiều  lần  nữa, trước  và  sau  khi  chúng  tôi  đi  sang  Ấn  Độ,  nhưng  tất  cả  những  lần  đó  đều  xảy  ra  nhiều  năm  trước  khi  tôi  được  biết  gì  về  khoa  thôi  miên,  vốn  là  cái  đáp  số  dễ  dàng  của  thuật  tàng  hình.  Như  tôi  đã  có  lần  giải  thích,  thuật  thôi  miên  của  Đông  Phương  còn  cao  tay  ấn  hơn  nhiều  so  với  Tây  Phương,  vì  trong  trường  hợp  này,  sự  dẫn  dụ  để  che  lấp  giác  quan  của  người  thụ  cảm  được  thực  hiện  bằng  tư  tưởng  trong  âm  thầm,  chứ  không  phải  truyền  lệnh  bằng  giọng  nói  có  âm  thanh.  Người  thụ  cảm  không  được  cảnh  giác  để  chống  lại  sự  dẫn  dụ,  và  sự  việc  xảy  ra  tự  nhiên  trong  khi  y  không  hay  biết  gì  cả.

            Bà  HPB  còn  biểu  diễn  nhiều  hiện  tượng  thần  thông  lạ  lùng  khác  nữa.  Tôi  chỉ  thuật  lại  vài  sự  việc  đáng  kể,  nó  làm  thỏa  mãn  lý  trí  và  óc  phê  bình  của  tôi  về  sự  thật  của  khoa  huyền  thuật  Đông  Phương.  Đó  là  thời  kỳ  mà  tôi  được  biết  bà  HPB  như  một  bạn  đồng  môn,  mối  liên  hệ  giữa  bà  với tôi  được  thiết  lập  trên  một  cương  vị  hoàn  toàn  bình  đẳng  và  mật  thiết.  Nhờ  đó,  tôi  mới  có  thể  nhận  xét  bà  như  một  người  thường,  trước  khi  bà  được  các  bạn  Đạo  suy  tôn  gần  như  thần  thánh,  những  người  này  không  được  biết  gì  về  những  sở  trường,  sở  đoản  và  tính  chất  rất  cận  nhân  tính  của  bà.

            Như  tôi  sẽ  trình  bày  một  cách  trung  thực, cái  hình  ảnh  lý  tưởng  đã  phai  mờ  của  tác  giả  các  bộ  sách  “Vén  Màn  Isis” và “Giáo  Lý  Bí  Truyền” sẽ  là  hình  ảnh  của  một  người  bằng  xương  bằng  thịt;  một  người  phụ  nữ  thật  sự  tuy  rằng  trội  hẳn  về  phần  nam  tính,  sống  bình  thường  như  mọi  người  khi  thức  tỉnh,  nhưng  lại  đi  vào  một  thế  giới  khác  và  giao  tiếp  với  những  nhân  vật  cao  cả  hơn  trong  giấc  ngủ  hay  trong  khi  xử  dụng  nhãn  quang  siêu  phàm;  một  cá  tính  đặc  biệt  ngự  trong  một  xác  thân  phụ  nữ  yếu  đuối,  “trong  đó… một  cơn  giông  tố  luôn  luôn  gầm  thét  hầu  như  bất  cứ  lúc  nào,”  theo  lời  của  một  vị  Chân  Sư  miêu  tả  tình  trạng  tâm  linh  và  khí  chất  của  bà.  Một  khí  chất  thật  bất  thường,  biến  đổi,  đa  hình  đa  dạng,  nóng  nảy,  ồ  ạt  như  giông  bão,  nó  đòi  hỏi  ở  kẻ  đối  tượng  một  sự  nhịn  nhục  và  tự  chủ  đến  mức  độ  anh  hùng  nếu  họ  muốn  sống  chung  và  cộng  tác  với  bà  trên  một  tinh  thần  vô  kỷ  vị  tha.

           Dù  rằng  thế  nào,  người  ta  không  thể  quên  bản  lĩnh  phương  thuật  cao  cường  và  những  phép  thuật  thần  thông  mà  bà  đã  thực  hiện,  những  bằng  chứng  dồn  dập  mà  bà  đã  cho  thấy  về  sự  hiện  diện  của  các  đấng  Chân  Sư  mà  bà  tuyệt  đối  phục  tùng  đến  mức  bà  cảm  thấy  không  xứng  đáng  để  lau  bụi  trên  bàn  chân  của  các  ngài,  và  công  trình  phụng  sự  hiến  dâng  khi  mà  người  phụ  nữ  ngáo  ngổ  và  ngang  tàng  ấy  trở  thành  một  bậc  đạo  sư  phổ  biến  đạo  lý  cho  đời  và  một  nhà  tiền  phong  cầm  đuốc  soi  đường  cho  người  tầm  Đạo.  Tất  cả  những  điều  đó,  và  những  bộ  sách  Đạo  mà  bà  để  lại  cho  hậu  thế,  càng   kết  hợp  để  chứng  minh  tính  chất  vĩ  đại  của  bà  và  làm  cho  tính  khí  ngang  ngạnh  bất  thường  của  bà  được  xóa  nhòa  trong  quên  lãng,  thậm  chí  bởi  những  người  đã  từng  bị  những  điều  ấy  làm  cho  điêu  đứng  khổ  sở  nhiều  nhất  về  phương  diện  tinh  thần.

           Bằng  cách  vạch  rõ  con  đường  Đạo  cho  hậu  thế,  bà  đặt  tất  cả  chúng  ta  dưới  một  gánh  nặng  nghĩa  vụ  đến  mức  người  ta  không  thể  có  cảm  nghĩ  nào  khác  hơn  là  một  sự  biết  ơn  sâu  xa  đối  với  bà.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro