hồi ức

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

    Ở khẩu đội bên kia, anh Tam (quê Cẩm Xuyên), anh Nguyễn Văn Tài (quê Thanh Lộc) anh Nhâm (quê Song Lộc) đều hy sinh vì quả bom ấy. Thương tâm nhất là Tài và Nhâm cả hai đều chết không toàn thây. Tài bị một mảnh bom cắt phạt mất hẳn phần mặt phía trước, chỉ còn từ mang tai trở ra sau. Nhâm thì bị bom hất tung lên rồi ném ra giữa ruộng, ngực và bụng anh bị phá nát. Tối đến, mới dám ra đưa anh đi chôn cất (ban ngày sợ bị lộ). Bốn người, trong đó có Đính, đưa anh vào khu vườn gần đấy để liệm rồi mai táng. Cả tôi và Đính đều khóc cho hai người đồng hương Can Lộc xấu số, rồi bảo nhau: "Nếu ngày hoà bình còn sống, sẽ đắp lại mộ phần cho hai đứa và vẽ sơ đồ để sau này chỉ cho gia đình họ". Nhưng ước vọng ấy không thực hiện được. Bởi sau giải phóng, tình hình phức tạp. Chúng tôi phải chuyển quân liên tục, không có thời gian nghỉ. Cuối 1975, khi chúng tôi trở lại thì mộ của hai người đã được đưa vào nghĩa trang Đức Hoà nhưng lại biến thành mộ liệt sỹ vô danh. Mặc dù hôm ấy, tự tay tôi viết tên tuổi, địa chỉ quê quán... rồi cho vào chai thuỷ tinh nút chặt, bọc nilon bên ngoài, vậy mà khi cất bốc, những người quy tập thiếu cẩn trọng, đã làm mất địa chỉ và tên tuổi của họ.

    Hôm ấy, hai trung đội cối chúng tôi hy sinh và bị thương 13 người (8 người hy sinh). Mặc dù bị thương nhưng tôi vẫn không đi viện vì lúc này, đơn vị không còn người nữa. Tôi từ biệt Chung. Cậu ta đi viện ngay đêm ấy và kể từ đó chúng tôi không hề gặp nhau nữa. Như vậy là tròn một năm, sau ngày nhập ngũ, đúng ngày 18/5/1972, tôi bị thương lần thứ hai.

    Khoảng 10 giờ đêm, chúng tôi được lệnh di chuyển sang khu vườn bên cạnh nhà má Tám, để đào công sự chuẩn bị tác chiến ngày mai. Mặc dù đau, không đào được nhưng tôi vẫn ngồi với anh em để giúp họ một vài việc lặt vặt. Tôi chẳng nghe được họ nói gì vì hai tai điếc đặc. Anh Nguyễn Văn Điệp  (quê Nam Đàn), đại đội trưởng chúng tôi bị thương nhẹ, vẫn đến động viên anh em cố gắng đào xong sớm công sự để có thời gian nghỉ lấy sức cho trận đánh ngày mai.

    Đêm. Tiếng pháo cầm canh vẫn bắn đến từ nhiều hướng. Lửa từ những ngôi làng vẫn leo lét cháy. Pha lẫn trong gió khô khốc là mùi khét của xác trâu bò và người bị chết cháy do bom xăng sáng nay.

    Sáng 19/5. Địch nống ra càn sớm, các đại đội bộ binh của tiểu đoàn chạm súng với địch. Chúng lui ra, gọi pháo và bom. Chúng tôi lại gồng mình lên đội bom, pháo suốt một ngày ròng rã. Biết rõ sự lợi hại của hoả lực cối 82, chúng tìm cách tiêu diệt. Địch cho một trung đội bí mật thọc sâu, thăm dò để đánh vào đại đội hoả lực của chúng tôi.

Tình huống khá bất ngờ và nan giải vì vòng ngoài là bộ binh ta nằm xen giữa các ấp. Không hiểu sao, tụi này lọt qua được hòng bất ngờ tập kích chúng tôi. Vì là đơn vị hoả lực nên súng bộ binh trang bị rất ít. Khi phát hiện địch vào sát ngay đội hình, mọi người bình tĩnh chờ đợi. Khi những chiếc giày đầu tiên đặt lên sát bờ công sự, chúng tôi nổ súng. Nhiều thằng đổ vật xuống ngay miệng hầm. Chúng tôi chỉ việc thò tay ra lấy súng của chúng. Ak từng loạt ngắn, găm vào đội hình địch. B40 bảo vệ cối cứ nhằm vào chỗ nào co cụm, siết cò. Bị bất ngờ, những tên sống sót chạy giạt ra, đụng phải bộ binh ta. Giữa hai làn đạn, chúng cố sống, cố chết vừa bắn vừa chạy tháo thân. Cối 82 bắn ứng dụng đuổi theo (bắn ứng dụng là cách bắn không cần bàn đế, không cần chân, chỉ thả mạnh nòng cối xuống đất rồi dùng tay trái giữ lấy, đồng thời ước lượng cự ly, tay kia thả đạn vào nòng). Xác địch nằm rải rác trên mặt ruộng. ý đồ không thực hiện được, chúng tiếp tục gọi bom, pháo tới tấp dội xuống. Khoảng 10 giờ 30, đại đội trưởng Điệp lại bị thương. Lần này, anh bị nặng. Mảnh pháo găm vào mạng sườn phải, mất nhiều máu. Phía trước, bộ binh ta vẫn giao chiến với địch. Cối chúng tôi lại được lệnh phát hoả. Tôi thả liên tục gần chục trái đạn vào nòng bắn ra hướng tiền duyên cách đó 300 mét. Địch tháo chạy tan tác. Chúng rất sợ đạn cối 82 của ta. Bởi sức sát thương của loại đạn này là nỗi khiếp sợ và kinh hoàng của chúng.

    Nhưng thật tệ hại! Không ngờ những trái đạn tôi vừa thả vào nòng cối lúc nãy lại được bọn pháo binh nguỵ ở chi khu Đức Hoà đo được qua tiếng đề-pa. Chúng tính toán cự ly rất chính xác. Một trận mưa pháo dội xuống đầu chúng tôi. Pháo bắn "chụm chân chó", quả này cách quả kia chừng 3 đến 5 mét. May thay, trong vườn nhà má Tám có một cái hầm lớn (trảng xê) xuyên dưới gốc bụi tre, dùng để trú ẩn. Chiến sự nổ ra, dân đã sơ tán hết. Chúng tôi chui hết xuống đấy, tránh pháo. Nếu không, sẽ chẳng còn ai sống sót. Một trong hai khẩu cối bị một trái 155 li rơi trúng, bay mất. Đó là bài học kinh nghiệm xương máu đầu tiên khi bắn đạn cối. Sau này, lợi dụng lúc súng nổ đồng loạt, chúng tôi mới thả đạn vào nòng. (Tiếng nổ loạn xạ đó sẽ làm cho bọn pháo binh nguỵ bị nhiễu âm thanh, không thể đo được tiếng đề pa cối của chúng tôi).Đêm ấy, sau khi giải quyết xong công tác thương binh, tử sỹ, chúng tôi buộc phải rời An Thuận, rút về Gò Nổi để bổ sung quân. Đêm sau, chúng tôi được lệnh chuyển đội hình xuống địa bàn xã Tân Phú, cách đó chừng 5 - 6 kilômét. Nơi đây, những ngày tiếp theo, tôi và đồng đội đã có những trận huyết chiến với sư 5 và sư 25 cùng một số đơn vị thuộc sư đoàn dù "Thiên thần mũ đỏ" của quân nguỵ Sài Gòn.

    Ngày 22-5, chúng tôi được lệnh chốt chặn quân địch nống ra càn quét. Vì đêm trước, chi khu Đức Hoà bị đặc công của trung đoàn (đại đội 25) cùng với đơn vị bạn tập kích. Tiểu đoàn 9 được bố trí theo đội hình cánh cung. Cối chúng tôi vẫn ở phía sau để chi viện. Nói là chi viện nhưng lúc này đạn cối chẳng còn bao nhiêu. Bảy giờ sáng, những trận mưa pháo từ Đức Hoà, Hậu Nghĩa, Hiệp Hoà mở màn cho trận càn giải toả của địch. Đã có một số đồng chí thương vong do pháo. Trên đầu, L19 vè vè nghe rợn rợn. Chúng dò dẫm, sợ sệt. Rút kinh nghiệm những trận đánh trước, chúng tôi để cho địch vào sát công sự mới nổ súng. Thứ nhất là chắc ăn. Thứ hai là để giữ xác và những tên bị thương tại trận không cho pháo địch bắn vào (còn xác và bọn bị thương thì pháo sẽ chuyển làn ra xa) ta đỡ thương vong. Địch chết rất nhiều. Có những tên bị bắn đổ sấp lên mặt công sự. Bọn còn lại rú lên, tháo chạy thục mạng. Bị thất bại bất ngờ và cay cú, chúng lại gọi hoả lực chi viện. Từng đàn "cá lẹp" và "cán gáo" (hai loại trực thăng chiến đấu, cơ động lợi hại của Mỹ) bay đến cùng 2 giàn lớn rốckét bên dưới hông và đạn 20 li bắn như mưa lên đầu chúng tôi. Dứt trực thăng, các phi vụ bom từ A37 do L19 chỉ điểm, và trọng pháo lại thi nhau trút xuống. Trận địa lại chìm trong lửa pháo và bom. Nhưng độc ác hơn, lần này chúng sử dụng bom xăng. Loại xăng đặc. Sau tiếng rít xé tai của máy bay phản lực bổ nhào, nghe "ục, ục" mấy tiếng là lửa bắn ra theo xăng đặc dẻo quánh. Lửa trùm lên công sự của anh em bộ binh C2 (đại đội 2). Nóng và ngột quá do thiếu ô xy, nhiều đồng chí phải nhào lên khỏi công sự. Nhưng không thoát. Bên trên, lửa đã bao phủ cả một vùng rộng lớn. Họ lăn lộn trong lửa như những bó đuốc sống. Trực thăng liền xả đạn vào họ. Nhìn họ chết cháy, chúng tôi đau đớn, trào nước mắt mà không có cách gì cứu giúp được vì trên đầu thì trực thăng quần đảo; trước mặt là bộ binh địch sẵn sàng nhả đạn. Hồi ấy đại đội 2 có anh Đặng Văn Luyện, sau này đổi tên thành Đặng Thái Luyện (quê Trung Lộc) cũng bị thương trận này. Luyện, nay là Giám đốc Công ty Du lịch Long Phú - Đảo Khỉ ở Nha Trang, Khánh Hoà. Vừa qua, chuẩn bị kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền Nam, Đài Phát thanh - truyền hình Hà Tĩnh đã làm một phóng sự về anh. Đó là một giám đốc năng động, sáng tạo. Hà Tĩnh tự hào vì có những người con ngoan cường trong chiến đấu, lại giỏi giang trong quản lý kinh tế thời "mở cửa".

    ... Pháo và bom tiếp tục dội xuống. Bây giờ thì pháo đã chuyển làn đúng vào trận địa cối chúng tôi. Anh Khang (Nam Đàn), khẩu đội trưởng hy sinh ngay trong loạt đạn đầu. Lê Văn Dung ở khẩu đội 2 (cũng quê Nam Đàn) hát hay, sáo giỏi (anh hay thổi bài "Anh vẫn hành quân" giống tiếng sáo Đinh Thìn) to cao, đẹp trai, da trắng và thường bẽn lẽn như con gái, bị một mảnh pháo găm đúng vào tim. Tôi và Đính kịp bò đến xốc Dung dậy thì anh đã tắt thở trên tay tôi, không nói được câu nào. Máu trào ra đẫm cả ngực áo. Anh Nguyễn Văn Sở (Nam Đàn), nhập ngũ tháng 8/1970, người thấp đậm, sinh viên khoa Văn năm thứ II, Đại học Sư phạm Vinh cũng hy sinh ở loạt pháo thứ 3. Một khẩu cối nữa lại bị pháo địch bắn trúng, hỏng nặng và bay đi. Trận địa chỉ còn duy nhất một khẩu. Lúc này tình thế hết sức gay go, ác liệt. Cơ số đạn còn rất ít. Phải bắn cầm chừng. Chờ lúc nào súng bộ binh nổ rộ thì bắn vài quả để doạ địch chứ không thể có khả năng phản kích, tiêu diệt chúng.

    Tuy ác liệt thế, nhưng trận chống càn nào cũng có những tình huống rất lạ và buồn cười. Cứ khoảng 11 giờ trưa trở đi, cả ta và địch đều có những thời khắc im lặng đến nghẹt thở. Không một tiếng pháo. Không có tiếng máy bay. Không một tiếng súng. Hình như cả hai đều muốn có những giây phút yên tĩnh để nghỉ ngơi, thư giãn. Bởi vì tất cả đều mệt mỏi, căng thẳng. Bọn địch nằm ngoài đồng trống trong cái nắng cháy da người. Chúng phải đội lên đầu những túm rạ. Có nhiều thằng úp mặt lên bờ ruộng để ngủ. Phía ta, có một vài người hiếu thắng, cứ lấy phần tử chính xác rồi bất ngờ đưa một viên AK vào chiếc mũ sắt. Viên đạn xuyên thủng mũ rồi cắm vào hộp sọ thằng lính, khiến nó bật ngửa ra chết ngay tức khắc. Vậy là tiếng súng lại rộ lên. Cả hai bên lại tiếp tục xả đạn vào nhau. Sau này, rút kinh nghiệm, chúng dùng đầu súng AR15 lồng vào mũ sắt đưa lên. Lính ta ngắm bắn, chiếc mũ sắt xoay tròn trên đầu súng. Chúng làm vậy nhằm phát hiện ra chỗ của đồng chí điểm xạ AK để dùng hoả lực tiêu diệt. Tôi nhớ, trận ấy có đồng chí Nguyễn Văn Chuân, quê ở xã Cộng Hoà, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Hưng, người thấp nhỏ, nhanh nhẹn, bắn hoả lực B40. Hôm đó Chuân chiến đấu rất dũng cảm. Bắn nhiều trái B40, tiêu diệt rất nhiều địch. Sau khi địch phản kích, đồng chí bắn AK ngồi cùng công sự với Chuân không may hy sinh. Chuân không còn người bảo vệ nữa nên rút về tuyến sau. Anh men theo một bờ ruộng, bò nhấp nhổm, bị địch phát hiện được. Một tên lính bắn M79 đã ngắm vào Chuân nổ súng. Trái M79 rơi trúng khẩu B40, nổ ngay trên vai Chuân. Chuân hy sinh tại chỗ.

    Tiểu đoàn phải cầm cự đến 3 giờ chiều, địch mới chịu rút quân, sau khi nã pháo để yểm trợ. Tiểu đoàn 9 tổn thất nặng nề về người và vũ khí. Pháo địch vẫn bắn tới nhưng thưa hơn. Tối đến, chúng tôi nhanh chóng chôn cất tử sỹ và chuẩn bị bàn giao thương binh cho du kích và giao liên địa phương để chuyển lên cứ. May thay, trong trận ấy và cả những trận sau này, tôi, Đính và anh Tiến (quê Nam Đàn) đều không ai hy sinh cả. Chỉ có mấy lần bị thương.

    Ngay đêm ấy, chúng tôi được lệnh rời khỏi Tân Phú. Các đại đội bộ binh 1, 2 và 3 phía trước thương vong rất nhiều. Chúng tôi rút ra bưng ém lại, chờ bổ sung quân để tiếp tục vào trận mới.

     Ra cứ, tôi mới có dịp soi lại mặt mình qua mặt nước hố bom. Chỉ mới hơn một tuần đánh nhau mà không nhận ra mình nữa. Hai mắt thụt sâu, thâm quầng. Má hõm xuống, râu mọc dài ra. Mặt nám đen vì khói bom, đạn. ở bưng, địch lại cho trực thăng bay thăm dò, đánh hơi lực lượng chúng tôi. Anh em khi rút ra bưng, do quá mệt mỏi, đã mất cảnh giác lúc tắm giặt cũng như nghỉ để lộ mục tiêu, nên bị chúng gọi pháo bắn và ném lựu đạn từ trực thăng xuống, thêm nhiều đồng chí hy sinh và bị thương.

    Tôi nhớ một kỷ niệm. Sau khi rút ra bưng, hôm sau, khoảng 8 giờ sáng, mấy anh em đang ngồi dưới một vòm cây thấp và kín lấy bài ra để đánh. Bỗng một chiếc UTiTi (loại trực thăng trinh sát nhỏ, cơ động) bay sát ngọn cây, lao đến. Chúng tôi liếc nhìn thấy mặt một thằng Mỹ đỏ gay, ngồi ngay cạnh cửa trái chiếc trực thăng. Phát hiện thấy chúng tôi, nó lập tức nghiêng cánh đảo lại và ném một trái lựu đạn xuống ngay chỗ chúng tôi đang ngồi. Lựu đạn nổ. Lửa lân tinh bắn ra khắp nơi. Mấy người, trong đó có Nguyễn Văn Động (Kinh Môn, Hải Hưng) bị lửa lân tinh bắn vào mặt. Chúng tôi nhào xuống hầm. Nước dâng lên tới cằm. Không hiểu sao riêng tôi không bị dính lân tinh. Tôi dùng bùn đắp lên mặt cho Động nhưng khói vẫn cứ bốc lên. Động kêu rát vì lửa lân tinh không tắt bởi bùn và nước. Làm cách nào cũng không dập được lửa trên mặt Động. Trên gò má Động, vệt cháy do lân tinh cứ loang rộng ra, bốc khói khét lẹt. Tôi chợt nghĩ đến bài học hồi huấn luyện tân binh. Nếu bị lửa lân tinh thì chỉ có thể dập bằng cacbonic. Hồi đó trước khi đi B, chúng tôi đều được trang bị mỗi người trên chục ống cacbonic lỏng. Nhưng vì đánh nhau nên đã mất hết. Tôi bèn bảo mọi người đái vào khăn rồi đắp lên chỗ đang cháy. Quả nhiên, một lúc sau khi đắp nước tiểu, lửa đã được dập tắt. Rất may, hôm đó chúng ném lựu đạn lân tinh. Nếu lựu đạn mảnh thì chắc chắn chúng tôi sẽ thương vong. Mấy khẩu AK dựng gần đấy, bén lửa, bốc khói, âm ỉ cháy. Khi chúng tôi lên khỏi hầm mới phát hiện được và tìm cách dập tắt. Có khẩu, phần báng cháy mất khá nhiều. Thật hú vía!Đêm hôm sau, chúng tôi được bổ sung thêm quân. Quân bổ sung lúc này rất nhỏ giọt. Chúng tôi nhận tân binh từ Ba Thu xuống. Họ là những cậu lính trẻ măng 17,18 tuổi của các tỉnh từ Hà Nam Ninh trở ra. Mỗi đaị đội giỏi lắm cũng chỉ được 6-7 đồng chí. Do ban đêm nên chỉ nghe được giọng nói và biết tên vậy thôi chứ không nhìn rõ mặt. Sau đó, nhận lệnh rồi vào vị trí chiếm lĩnh trận địa để chuẩn bị công sự chiến đấu ngày mai. Nhiều đồng chí 7- 8 giờ sáng hôm sau đã hy sinh ngay ở loạt đạn đầu. Đến nỗi, chúng tôi không hề biết mặt mũi họ như thế nào nữa! Chỉ lập danh sách hy sinh rồi gửi lên cấp trên để báo cáo mà thôi...(Bổ sung đợt ấy có Bùi Mạnh Sinh, quê ở khu Vạn Hương thị xã Đồ Sơn, Hải Phòng. Sau giải phóng Sinh vẫn còn, nhưng năm 1979 đã hy sinh ở biên giới Tây nam. Hài cốt đã được quy tập về nghĩa trang thị xã Đồ Sơn. Năm 2004, trong một chuyến công tác tại Hải Phòng, tôi đã đến viếng và thắp hương cho anh tại nghĩa trang này. Tôi vẫn giữ được bức di ảnh của Sinh hồi năm 1972 lúc mới về đơn vị. Tôi đã gửi tặng lại cho gia đình anh...).

    Chúng tôi được lệnh trở lại Tân Phú để tiếp tục chống càn.

    Lần này, đơn vị chiếm lĩnh trận địa ở hướng tây nam.

    Công sự chiến đấu của chúng tôi hình chữ Z. Một người cửa trước, một người cửa sau. Khi pháo binh hoặc không quân địch phản kích thì chui xuống công sự. Nếu địch lọt vào như hôm ở vườn nhà má Tám thì tổ chức tác chiến ngay. Dưới hầm, có sẵn một can nước 5 lít để uống cả ngày. Cơm trưa, anh nuôi nắm từ sáng mang theo khi vào trận (bấy giờ không có lương khô).

    Tám giờ sáng, cái công thức bom pháo bắt đầu được lặp lại. Chúng tôi ngồi chịu trận như thế cả tiếng đồng hồ. Ai may mắn thì thoát, không may thì hy sinh hoặc bị thương. Nhiều trái pháo nổ cách công sự vài ba mét làm rung chuyển cả hầm. Tiếng rít, tiếng nổ chát chúa, lộng óc. Sau trận mưa bom pháo ấy, bộ binh địch lại mò vào. Ta nổ súng, đánh bật ra. Chúng lại tiếp tục bom, pháo và trực thăng phóng hoả tiễn. Cứ như vậy chúng tôi gồng mình lên đội bom pháo cả ngày hôm đó. Hình như kẻ địch không có chủ trương chiếm lại đất mà chủ yếu thăm dò, phát hiện lực lượng ta rồi dùng hoả lực huỷ diệt. Hôm ấy đồng chí Thiên, cán bộ tiểu đoàn 9 hy sinh.

    Những trận mưa đầu mùa năm 1972 đã bắt đầu trút xuống. Chúng tôi phải lặn ngụp trong công sự nước lên tới cằm. Pháo bắn gần, có công sự bị sập. Anh em bị thương không có chỗ trú ẩn. Do vậy, đa phần số này đều hy sinh sau đó không lâu vì bị nhiễm trùng. Chúng tôi không đủ sức cầm cự nữa. Nhưng lệnh của trung đoàn là phải bám trụ để chia lửa cho các chiến trường khác, nhất là ở Quảng Trị. Nơi chúng tôi tác chiến, cách Sài Gòn khoảng 25 dặm bay, nên dù thế nào địch cũng quyết không để ta đứng chân ở đó được. Bằng mọi giá, chúng phải đẩy bật ta ra khỏi địa bàn. Nên việc ưu tiên bom pháo cho chiến trường này là một bức thiết của Mỹ- nguỵ. Sau này, chúng tôi mới hiểu ý đồ chiến thuật của cấp trên là "tất cả cho chiến dịch" nên dù phải hy sinh đến người cuối cùng cũng phải bám trụ.

    Đơn vị không thể đủ sức đứng vững ở địa bàn này thêm một ngày nào nữa, vì tương quan lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch. Tần suất và cường độ bom đạn nằm ngoài sức tưởng tượng. Chiến sự ngày một ác liệt hơn. Đúng như tên gọi "Mùa hè đỏ lửa". Vả lại, mùa mưa đã bắt đầu đến. Phải bảo toàn lực lượng còn lại. Trung đoàn lệnh rút quân lên Ba Thu, chuyển hướng mặt trận sang Phum Sâu, Công Pông Rồ, Long Khốt, Mộc Hoá tỉnh Kiến Tường. (Mộc Hoá ngày nay là một cửa khẩu quốc tế quan trọng giữa ta và Campuchia ). Như vậy, sau gần ba tuần giao chiến với các sư đoàn quân nguỵ như sư 5, sư 25 "Tia chớp nhiệt đới", các tiểu đoàn bảo an, địa phương quân của chi khu Đức Hoà cùng đại đội thám sát 773 ác ôn và thiện chiến của tiểu khu Hậu Nghĩa với tổn thất rất nặng nề từ cả hai phía, chúng tôi được lệnh rời khỏi mặt trận để bảo toàn lực lượng còn lại...

    Chúng tôi trở lại Ba Thu.

    Ở Ba Thu, bất ngờ, tôi được điều đi học một lớp y tá ngắn hạn do quân y trung đoàn mở. Tôi rời đơn vị khi tiếng súng mặt trận đang rền vang. Mấy ngày sau khi tôi đi, trung đoàn lại tiếp tục chuyển hướng xuống Kiến Tường, sau khi đã bổ sung thêm quân.

    Tôi còn nhớ, lúc bấy giờ anh Thứ (quê Hương Trạch, Hương Khê) quân y sỹ phụ trách lớp học. Nghe đâu sau giải phóng, anh vẫn sống, trở về hiện đang sinh sống ở quê. Lớp học ấy, tôi còn nhớ mấy anh em: anh Đào Toàn (Sơn Bằng, Hương Sơn, Hà Tĩnh) nay là hiệu trưởng trường THCS thị trấn Phố Châu (Hương Sơn); anh Trần Văn Toàn (Sơn Trung, Hương Sơn, Hà Tĩnh), sau giải phóng, học Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, nhưng sau đó không hiểu sao lại trở về địa phương. Vợ không may chết do tai nạn chập điện. Hiện Toàn đang sinh sống cùng 4 đứa con và hai bố mẹ già trên 80 tuổi ở quê, hoàn cảnh hết sức khó khăn. Anh Thư, (quê Kỳ Anh, Hà Tĩnh) sau hoà bình trở về, rồi xin vào cơ quan thương nghiệp, hiện đã nghỉ hưu. Anh  Kháng ở Thuận Lộc (thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh) cùng tham gia phụ trách lớp học. Hết chiến tranh, phục viên trở về công tác ở trạm y tế xã Thuận Lộc, nay đã nghỉ. Riêng anh Lê Văn Chung, quê ở Thanh Lộc, can Lộc,  sau này hy sinh do bị địch phục kích ở bưng Đức Huệ vào ngày 16 tháng 4 năm 1973. Tôi sẽ kể chi tiết về sự hy sinh của anh và 12 đồng chí khác trong trận phục kích ấy.

    Thời gian gấp rút, chúng tôi phải tập trung học tập, thực hành để nắm vững chuyên môn cơ bản của một khoá y tá ngắn hạn. Tuy vậy, riêng tôi lại có nhiều kỷ niệm để đời. Tôi nói rất sõi tiếng Khơme là nhờ vào thời gian này. Tiếng Khơme tôi nói được cả thổ âm và thổ ngữ đến mức dân Campuchia tưởng tôi là người Miên thật. (Tôi vốn có khả năng bắt chước giọng nói. Sau này sống với dân Nam Bộ, nói giọng Nam Bộ, đặc biệt là ca "Sáu câu" (vọng cổ) không khác gì họ. Đã có nhiều cô gái Nam Bộ từng "cá" (thách) tôi: "Nếu anh Hai Sơn ca được "sáu câu" thì em nhận làm chồng liền hà!" Tôi quyết tâm tập ca và sau đó tôi ca vọng cổ khá mùi mẫn). Bấy giờ, có một cô gái người tỉnh Prâyveng tên là Xan Thon, rất quý mến tôi rồi đem lòng yêu tôi!? (Tôi vốn mảnh mai, trông thư sinh và lại nói giỏi tiếng Khơme, có lẽ đó là điều quan trọng nhất để tôi lọt vào "tầm ngắm" của cô gái?!). Đó là một cô bé người Miên, gốc Việt. Bố cô là người Việt. ở tuổi 18, Xan Thon có nước da trắng mịn và xinh đẹp. Hai lúm đồng tiền là điểm nhấn gợi cảm trên gương mặt trái xoan có phần bầu bĩnh của cô ấy. Đôi mắt ướt và sáng lay láy dưới làn mi dài, cong vút. Đôi "cửa sổ tâm hồn" ấy như hút hồn tôi. Tôi hết sức bối rối trước mối tình này. Thực lòng, tôi rất quý mến Xan Thon. Nhưng ngặt nỗi vì kỷ luật quân đội và đặc biệt là quan hệ quốc tế giữa ta và bạn lúc ấy, nên đành phải dằn lòng. Hơn nữa, cuộc chiến thường trực, nơi đồng đội tôi đang chiến đấu và đổ máu từng ngày, từng giờ thì làm sao tôi có thể yên lòng với tình yêu lãng mạn ấy được. Nhiều lần, tôi tìm cách từ chối và lẩn tránh. Nhưng càng lẩn tránh, Xan Thon càng thể hiện tình cảm mãnh liệt hơn...Tôi đành phải nói hết những suy nghĩ của mình với em. Cô bé hờn dỗi, khóc ròng mấy ngày đêm rồi cuối cùng doạ tôi đòi chết. Hoảng quá, tôi phải nói thật với gia đình và chỉ huy đơn vị nơi tôi đang học về thực tế ấy. Rằng, tôi không thể và không có lý do gì để gắn bó với Xan Thon được. Hoàn cảnh chiến tranh, ngôn ngữ bất đồng, quốc tịch và phong tục khác lạ... Tôi mong thời gian qua mau, để sớm trở lại đơn vị, hy vọng chạy trốn mối tình ấy. Ngày tôi đi, cô bé ốm liệt giường. Giờ đây, sau hơn 33 năm nghĩ lại, cảm thấy buồn cười và dại dột. Với tôi, mối tình ấy chỉ thoáng qua, nhưng vô tư và trong sáng như pha lê.Hơn hai tháng khẩn trương, với một lớp học trên 20 người, chúng tôi đã dự thi tốt nghiệp để "ra trường". Tôi cầm trong tay cái giấy chứng nhận "Loại Giỏi". Cả lớp tổ chức liên hoan chia tay để về các đơn vị trong trung đoàn. Trung đoàn bộ cấp cho lớp học một con heo khoảng trên 30 kg để giết thịt. Chính hôm ấy, lần đầu tiên trong đời, tôi cầm dao chọc tiết. Buổi liên hoan tuy đơn sơ nhưng thắm tình quân dân và đồng đội. Hôm ấy, chúng tôi được phép uống rượu. Thứ rượu được nấu bằng loại nếp tím của Campuchia, do dân ở đấy mang tặng. Chỉ uống một lần nào ai có thể dễ quên? Chỉ hơn hai tháng trời cùng nhau học tập, rèn luyện trong điều kiện khó khăn gian khổ, vậy mà đã để lại trong mỗi chúng tôi biết bao kỷ niệm vui buồn. Đêm đã khuya nhưng mọi người chẳng nỡ rời nhau. Ai cũng muốn nán lại bên nhau thêm chút nữa vì chỉ ngày mai đây thôi, chúng tôi sẽ phải xa nhau để đi chiến đấu.

    Sáng hôm sau, chúng tôi chia tay nhau để trở lại chiến trường, bổ sung về các đơn vị mới. Tôi vĩnh viễn xa cô gái Khơ me xinh đẹp, dịu dàng kia từ đấy. Không rõ sau đó, số phận đưa em đến đâu? Cũng có thể hiện giờ, em đang sống hạnh phúc bên chồng, con hay đã trở thành nạn nhân của chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xa Ri những năm 78 - 80? Hỡi ôi,"vật đổi, sao dời" ai mà biết được! Tôi chắp tay nguyện cầu cho em được vẹn toàn trong khả năng thứ nhất.

    ...Tôi không còn được trở lại đơn vị cũ C4-D9 (Đại đội 4, Tiểu đoàn 9) nữa. Trung đoàn điều tôi bổ sung cho tiểu đoàn bộ D8. Lúc này, đơn vị đang giao chiến ở Phum Sâu, Tà Lọt. Chiến sự rất ác liệt. Anh Phan Long, quê Trung Lộc, can Lộc hy sinh ở trận này (trong một ngôi chùa Miên do bị máy bay oanh tạc). Cùng thời gian ấy, tôi gặp Nguyễn Đình ý, cùng quê Khánh Lộc, Can Lộc (xã Khánh Lộc chúng tôi lần ấy nhập ngũ có 7 người: Bùi Trọng Phách, Trần Hữu Chiến, Nguyễn Văn Bình, Vương Khả Hồng và Trần Sỹ Thọ, Nguyễn Đình ý và tôi. Nhưng Bình và Thọ được cử đi học y tá ở ngoài Bắc rồi sau đó bổ sung vào đơn vị khác. Hồng đi học lái xe vận tải quân sự. Tôi, Phách, Chiến và ý bổ sung vào trung đoàn 271 rồi đi chiến trường B2. Chiến được điều bổ sung về đại đội 20 (thông tin). ý về đại đội 18 (12,7 li). Tôi về hoả lực (C4, D9). Phách về đại đội 17 (ĐKZ). Riêng ý, sau mấy trận đánh ác liệt quá, nản lòng, bỏ ngũ trốn lên Campuchia đi lang thang cùng một số anh em bỏ ngũ khác từ các đơn vị trong trung đoàn. Tôi tình cờ gặp ý trong một đêm hành quân trên đất bạn. Bằng tất cả tình cảm chân thành và trách nhiệm của một người đồng hương, đồng chí, tôi nói hết những suy nghĩ của mình với ý: "Thôi, cậu hãy trở về đơn vị đi, đừng trốn chạy như vậy nữa. Hậu phương sẽ rất đau lòng và nhục nhã một khi ở chiến trường có người thân bỏ ngũ". Tôi nhấn mạnh: "Đã vào đây rồi, hy sinh là điều khó tránh khỏi. Cậu nên suy nghĩ kỹ và trở về đơn vị, nếu có chết cũng chết cho đàng hoàng. Trốn chạy như vậy, nhục nhã lắm. Chính mình cũng cảm thấy hổ thẹn thay cho cậu. Hãy cố gắng trở về trở về đơn vị đi!" ý cúi đầu, chẳng nói gì. Hai đứa chỉ gặp nhau được chừng 15 phút rồi vội vã chia tay. Không ngờ, đó cũng là lần cuối cùng tôi gặp ý. Trước đó, chi bộ 18 đã khai trừ vắng mặt cậu ta ra khỏi Đảng. Không rõ do lời khuyên của tôi hay một lý do nào khác mà một thời gian sau, ý trở lại đơn vị, rồi chiến đấu rất dũng cảm, lập công xuất sắc. Được đề bạt làm B trưởng (trung đội trưởng). Được tái kết nạp Đảng. Ngày 14 tháng 7 năm 1974, trong trận chiến đấu ở Bù Bông (Bình Phước) ý đã anh dũng hy sinh. Bây giờ, gần như năm nào, đến ngày Thương binh liệt sỹ (27/7) tôi cũng về thắp hương cho ý ở nhà thờ liệt sỹ của xã hoặc tư gia anh trai là Nguyễn Đình Tình, nơi đang thờ tự cậu ta. Gần đây, một đồng đội cũ, khi thăm lại chiến trường xưa đã tìm thấy mộ ý ở nghĩa trang Bình Phước và đã báo tin cho gia đình anh.

    Tại đây, tôi cũng tình cờ gặp Bùi Trọng Phách (cùng quê Khánh Lộc). Phách bị thương nặng do mảnh đạn ĐKZ từ xe tăng của địch trong chiến dịch giải phóng Thiện Ngôn, Sa Mát (Tây Ninh) hồi tháng 3 năm 1972. Một mắt bị hỏng, đang điều trị ở trạm phẫu trung đoàn. Một thời gian sau, ổn định vết thương, anh được trở ra miền Bắc an dưỡng. Sau đó được phục viên. Nay là thương binh hạng 1/4, đang sinh sống ở quê. Tuy hoàn cảnh khó khăn nhưng 5 người con của Phách đều học hành đến nơi đến chốn, và đều đã có việc làm.

    ...Tôi ở D bộ một thời gian ngắn với anh Điểm (quê Hải Hưng), y sỹ tiểu đoàn. Anh vốn được đào tạo cơ bản từ miền Bắc. Tôi được anh ân cần chỉ bảo. Bởi anh là một người rất tận tuỵ với công việc và hết mực thương yêu tôi. Anh coi tôi như đứa em và chỉ vẽ cho tôi nhiều điều, nhất là ở lĩnh vực chuyên môn. Một lần, một gia đình người Miên rất giàu, ở thị trấn Sóc Nốc, có một bé gái khoảng 7 tuổi, không may bị căn bệnh gì không rõ, cơ thể cứ gầy teo đi và suy sụp. Họ nhờ chúng tôi khám. Anh Điểm cho biết, cháu bị một căn bệnh, dẫn đến suy dinh dưỡng nặng, cần truyền dịch. Anh giao cho tôi "bắt ven" để truyền nhưng thật khó có thể tìm ra tĩnh mạch để đưa thuốc vào. Anh hướng dẫn tôi lấy tĩnh mạch ở cổ chân cháu. Dưới sự chỉ vẽ và giám sát của anh, tôi dùng dao mổ, rạch thịt ở phía trên mắt cá chân sau khi đã rửa sạch bằng nước sôi để nguội và vô trùng bằng cồn 90 độ. Tôi dùng nĩa gắp tĩnh mạch ra bên ngoài sau đó mới luồn kim tiêm vào và cố định lại để truyền. Thành công. Anh khen tôi. Sau nhiều lần truyền như vậy, cháu bé đã khá hơn, sức khoẻ có chiều hướng tiến triển tốt. Nhưng, chúng tôi không có nhiều thời gian ở lại đây. Ngày ra đi, anh Điểm và tôi hướng dẫn cụ thể về cách điều trị cho cháu bé. Họ cảm ơn lắm. Buổi chia tay, gia đình tặng anh em tôi nhiều quà và tiền. Riêng tôi, được bố của cháu bé gọi riêng ra, bí mật dúi vào tay sợi dây chuyền vàng lớn, loại 24 ca ra rồi nói: "Khờ nhum o cun Lục thum đốc tờ chờ rờn, chờ rờn" (Tôi cảm ơn Ông lớn bác sỹ nhiều lắm, nhiều lắm). Chúng tôi chỉ nhận quà thôi: "O cun boòng chờ rờn" (cảm ơn anh nhiều). Tôi nói với anh Điểm việc này rồi công khai trả lại sợi dây chuyền ấy vì hai lẽ: Thứ nhất, sợ ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế trong sáng và hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ" trong con mắt của người dân Campuchia. Thứ hai (có vẻ siêu hình) nghe đâu có vàng trong người sẽ không may mắn. Tôi phải thuyết phục mãi anh ta mới chịu nhận lại.

    Tôi tham gia trận đánh ở Công Pông Rồ (gần Mộc Hoá, Kiến Tường). Hôm ấy, sư đoàn 7 quân nguỵ Sài Gòn cùng các tiểu đoàn bảo an phối hợp với quân nguỵ Lon Nol, mở đợt phản kích chiếm lại khu vực Mỏ Vẹt. Trên 100 xe tăng và xe bọc thép M113 rầm rộ tiến sang đất Campuchia. Trung đoàn đã lên phương án tác chiến, dự kiến mọi tình huống khả dĩ xảy ra. Nhưng chúng đã không đi đúng ý đồ chiến thuật của ta mà xộc ngay vào trung đoàn bộ. Một tình huống nằm ngoài dự kiến. Chiến xa địch lổm ngổm như cua giữa cánh đồng trống trải hàng mấy dặm vuông. Phía sau là bộ binh theo sát. Trên đầu, trực thăng quần đảo. Trung đoàn lệnh cho các tiểu đoàn phải bằng mọi giá đẩy lùi xe tăng địch ra khỏi vị trí. Địa hình trống trải và rộng nên hoả lực ta phát huy được xung lực tối đa. Đồng thời, có sự phối hợp của đơn vị bạn sử dụng B72 (một loại vũ khí chống tăng mới, bắn tầm xa) nên xe tăng, xe bọc thép của địch bị cháy mười mấy chiếc. Đây là địa phận giáp giới Campuchia nên việc tiếp vận thuận lợi hơn. Do vậy, ta có đủ tiềm năng hoả lực để đối phó với địch. Bất ngờ, bị thiêu cháy nhiều xe tăng, địch vội rút lui về hướng Kiến Tường, gọi phi pháo đánh vào các vùng nghi ngờ có lực lượng ta. Trước đó đã có một số trận giao chiến giữa ta và địch. Lần này chúng tổ chức một cuộc hành quân lớn có sự phối hợp với nguỵ Lon Nol hòng tiêu diệt lực lượng ta. Cuộc hành quân thất bại, kế hoạch của chúng bị phá sản. Đó là những ngày cuối tháng 7 năm 1972...

    Sau chiến dịch Công Pông Rồ, trung đoàn vẫn ở lại đất Miên để củng cố lực lượng vì bây giờ đã là mùa mưa. Tuy vậy, một số đại đội trong các tiểu đoàn được lệnh vượt bưng Đức Huệ trở lại Đức Hoà để đứng chân, bám địch. Ban ngày đánh nhỏ, lẻ, tập kích đồn bốt hoặc đánh tàu trên sông Vàm Cỏ Đông. Ban đêm, vào ấp chiến lược để tuyên truyền, giác ngộ, vận động quần chúng. Chuẩn bị lương thực, thực phẩm cất giấu ở cứ ngoài bưng để chờ ngày đại quân xuống chiến dịch.

    Tôi được điều về làm y tá ở C2-D8 (Đại đội 2 - Tiểu đoàn từ tiểu đoàn bộ đúng vào thời điểm ấy.

     Lúc này, anh Cầu (người tôi đã kể về việc bị kỷ luật do sự cố ĐKZ ở Quảng Bình hồi tháng 10/1971) được điều về làm chính trị viên đại đội. Anh Nguyễn Tiến Đắc (Gia Lương, Hà Bắc) làm đại đội trưởng. Anh Đắc và anh Cầu là những người người giới thiệu kết nạp Đảng cho tôi vào tháng 7 - 1973 sau này. Anh Đắc nay là trung tá, đã nghỉ hưu tại  thành phố Hồ Chí Minh.

    Bổ sung về D8 với tôi đợt ấy có Vũ Duy Tòng (Diễn Hoàng, Diễn Châu) Đào Xuân Nhuận (Đức Tùng, Đức Thọ), Nguyễn Viết Kỷ (Thượng Lộc, Can Lộc) Nguyễn Văn Tý (Tăng Thành, Yên Thành). Là đồng hương Nghệ Tĩnh nên chúng tôi nhanh chóng kết thân với nhau. Đặc biệt, từ đó đến khi trung đoàn được lệnh chuyển hướng ra mặt trận Bù Bông, Quảng Đức (Bình Phước) chúng tôi, tất cả mấy anh em đều được điều về tiểu đoàn 7, để bàn giao cho Tỉnh đội Long An vào tháng (8-1973). Có rất nhiều những kỷ niệm chiến đấu và sinh hoạt giữa chúng tôi đã trở thành máu thịt. Đặc biệt là tôi, Tòng, Kỷ và Nhuận.

    Vũ Duy Tòng, nhập ngũ tháng 8-1970. Trước khi về D8, Tòng thuộc đại đội 23 vận tải của trung đoàn. Chúng tôi thân nhau ngay vì Tòng là người có tâm hồn và năng khiếu thơ văn. Đặc biệt là thơ. Tính tình nhẹ nhàng và lãng mạn. (Những ngày đầu, sau giải phóng, chúng tôi di chuyển chiến thuật nhiều nơi. Có rất nhiều cô gái ở thị xã Tân An, Bến Lức, Thủ Thừa, Cần Đước, Cần Giuộc... đem lòng yêu Tòng nhưng Tòng đều từ chối). Chúng tôi kể cho nhau nghe những kỷ niệm của tuổi học trò, tình yêu, uớc mơ hoài bão... Hai đứa chúng tôi như một cặp tình nhân. Đi đâu cũng có nhau. Lúc chiến đấu vẫn thường chung một công sự. Tòng được giao giữ hoả lực B40. Chúng tôi tham gia nhiều trận đánh ác liệt từ đấy cho đến hết Chiến dịch Hồ Chí Minh. Hiện nay Tòng là giáo viên dạy Văn trường THPT Diễn Châu II, Nghệ An. Anh là một giáo viên giỏi. Tôi sẽ kể lại những kỷ niệm máu thịt giữa hai chúng tôi sau này...

    Nguyễn Viết Kỷ, quê Thượng Lộc, Can Lộc, nhập ngũ một ngày với tôi, tính tình trầm lặng, ít nói, da bánh mật, bẽn lẽn như con gái. Xạ thủ cối 61 li. Kỷ vào Đảng trước tôi.

    Đào Xuân Nhuận, quê Đức Tùng, Đức Thọ, sôi nổi, vui vẻ, có khiếu nói chuyện khôi hài và giọng điệu "Ruồi Trâu", phớt đời, lắm lúc hơi lỗ mãng trong phát ngôn. Nhuận là xạ thủ trung liên. Tôi và Nhuận cùng tham gia nhiều trận đánh đã trở thành ký ức. Tôi nhắc lại một trong nhiều kỷ niệm giữa hai chúng tôi. Lần ấy sau khi xuống Mỹ Thạnh Đông, trung đội tôi được lệnh phục kích chặn đánh tàu địch trên sông Vàm Cỏ Đông từ bờ tây. Nằm phục chờ đã gần một tuần rồi mà tàu địch vẫn chưa đến...  Có tiếng làm y tá nhưng thực chất tôi vẫn là một tay súng chiến đấu. Luôn thường trực một khẩu AK cùng bốn băng đạn. Tôi và Nhuận được phân công chốt ở một công sự sát mép sông. Chờ mãi mà tàu địch vẫn chưa xuất hiện, đâm ra chủ quan...

    Hôm ấy, ngày 20/8/1972. Khoảng 9 giờ sáng, khi chúng tôi đang ngồi kháo chuyện rì rầm ở phía sau, cách công sự chiến đấu khoảng 40 mét. Bỗng anh Báo (Cẩm Xuyên), trung đội trưởng bò đến, nói trong hơi thở gấp: "Tàu... Tàu...". Chúng tôi liếc nhanh ra hướng bờ sông, nơi có công sự được che khuất bởi nhiều cây trâm bầu. Tuy vậy, vẫn thấy rõ mạn hông phải của chiếc tàu "mặt dựng" (há mồm) màu xám, án ngữ ngay sát công sự (cách chừng 10 mét). Tôi và Nhuận bò nhanh theo mép nước của một con rạch, rồi trườn được vào hầm. Nước trong hầm dâng lên tới vai. Vừa lúc ấy, B40, B41 của các công sự bên cạnh đồng loạt nổ. Các loại súng AK và trung liên RPĐ kéo từng loạt dài. Tàu địch vội tăng ga bỏ chạy và bắn như đổ đạn về phía chúng tôi. Chúng tôi bắn đuổi theo, nhưng chúng đã kịp chạy thoát. Hai trong ba chiếc bị thương nhưng không chìm. Nhuận không kịp bắn được phát nào vì trung liên lúc ấy vướng quá, không đưa được lên khỏi miệng công sự để bắn. Tôi kéo mấy loạt AK đuổi theo tàu địch. Mấy chiếc bo bo (loại ca nô nhỏ đi kèm bảo vệ tàu "mặt dựng") tăng tốc rồi chĩa 12,7 li về phía chúng tôi bắn không tiếc đạn để chi viện cho tàu lớn chạy thoát. Sau lần ấy, họp rút kinh nghiệm trận đánh có nói đến việc Nhuận không nổ súng để "chia lửa" cùng đồng đội (bị quy kết về tư tưởng sợ địch). Tôi không thể bảo vệ được Nhuận vì đầu súng trung liên của cậu ta vẫn còn bịt vải. Trong cuộc họp, trước sau tôi chỉ nêu vấn đề là do chủ quan nên hoàn toàn bị động. Lúc tàu đến sát ngay công sự, súng mắc kẹt dưới hầm không đưa lên được. Đưa lên sẽ bị lộ.

    Hôm ấy, lợi dụng nước ròng, địch tắt máy, thả tàu trôi theo dòng. Chúng tôi chủ quan nên bị động. Nếu không mất cảnh giác, ba chiếc tàu đó đã bị nhận chìm trên sông Vàm Cỏ Đông rồi!

    Nhuận bị kỷ luật lưu Đảng. Sau đó cậu ta cũng bỏ mặc luôn, không sinh hoạt nữa. Tuy vậy, tôi và Nhuận vẫn gắn bó với nhau và đi suốt các mùa chiến dịch. Chúng tôi còn có nhiều trận đánh khác, với nhiều chi tiết thật li kỳ. Đó là vào giai đoạn sau Hiệp định Paris từ tháng 1/1973 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 30/4/1975. Nay Nhuận vừa là thương binh, vừa là bệnh binh, đang sinh sống ở Tùng ảnh, Đức Thọ. Vợ là văn thư tại trường Trung học phổ thông Minh Khai. Hai con, một đã ra trường, dạy ở Trung học phổ thông Nguyễn Du (Nghi Xuân), một đang học đại học.

    Sau trận đánh tàu không thành ấy, trung đội rút xuống bưng Tân Phú. Nơi đây, lại tiếp tục diễn ra các trận đánh nhỏ lẻ, tập kích, pháo kích quấy rối địch vào ấp chiến lược để dân vận và binh vận. Phải nói rằng sau chiến dịch mùa hè năm ấy, chúng tôi mới hiểu được tấm lòng kiên trinh vì cách mạng của người dân Long An. Họ chấp nhận sự hy sinh "Một tấc không đi, một li không rời". Tất cả cho cách mạng. Đã có nhiều đồng đội tôi, trong những năm gần đây có dịp trở lại thăm mảnh đất này - nơi mà chúng tôi cùng họ đã từng đổ biết bao máu xương mới giành lại được vậy mà cuộc sống của họ vẫn còn nhiều vất vả, thiếu thốn.

    Ngày 5/8/1972.

    Tiểu đoàn 8 bất ngờ chỉ thị đại đội 2 chúng tôi xuống "đứng chân" tại địa bàn xã Hoà Khánh. Nơi đây, cách tiểu khu (thị xã) Hậu Nghiã chừng 4-5 kilômét đường thẳng về phía Tây nam và sát quốc lộ 4. Bên kia là Tân Trụ, một huyện miền hạ của Long An. Xuôi một quãng nữa là thị xã Tân An rồi đến Mỹ Tho. Đây là vùng chiến lược cực kỳ quan trọng của Mỹ nguỵ (thuộc vùng 4 chiến thuật), nên bằng mọị giá chúng phải cố giữ bằng được. Vì chỉ cần một ngày thôi, lộ (đường) 4 bị cắt đứt thì đồng nghĩa với việc Sài Gòn bị cô lập, không có nguồn hậu cần cung cấp. Một quyết định chiến thuật táo bạo và có phần liều lĩnh của trung đoàn. Hoà Khánh vốn là vùng đất mà Mỹ nguỵ tổ chức "bình định" rất gắt gao. Đây là nơi sát nách tiểu khu, nên việc bố phòng hết sức cẩn mật. Các "ấp chiến lược" đều có đồn bốt khá dày đặc với lực lượng bảo an, dân vệ, địa phương quân đồn trú. Đặc biệt là đại đội thám sát 773, "con cưng" của tỉnh trưởng tỉnh Hậu Nghĩa.

    Chúng tôi vượt bưng Tân Phú xuống Hoà Khánh rồi bí mật tiến vào chiếm lĩnh trận địa ở mấy khu vườn hoang. Đêm hạ tuần nên trăng muộn. Nghe động chúng tôi vào, dân táo tác gồng gánh, xe trâu, xe bò lộc cộc chở đồ đạc di tản về phía thị xã. Vì vậy mà chúng tôi bị lộ khá sớm. Tôi còn nhớ, đêm ấy, cậu Đũng, liên lạc đại đội (quê Nam Định) nguời to đậm, hay cười, má lúm đồng tiền cùng với tôi đào chung một công sự chiến đấu. Cách công sự chỉ huy đại đội khoảng 30 mét, có một bờ đất nhỏ dẫn ra phía ruộng lúa đang chín. Ban đầu tôi và Đũng đào công sự ở giữa bờ đất ấy theo chỉ dẫncủa trung đội. Đào gần xong thì trăng lên. Tôi để Đũng tiếp tục đào, còn mình thì lợi dụng ánh trăng, đi quan sát kỹ một vòng ở các công sự bạn. Tòng và Nhuận (B40 và trung liên) ở bên trái. Kỷ và Tý (cối 61 li) ở phía sau tôi chừng 50 mét. Thấy chỗ công sự đang đào xa mép ruộng khoảng 15 mét, tôi phân tích cho Đũng thấy được sự bất lợi, nếu đặt công sự ở đó. Vì sau khi nổ súng, địch có thể bò vào, bám mép bờ ruộng để khống chế chúng tôi rồi dùng hoả lực tiêu diệt. Mặc dù đào đã gần xong nhưng thấy tôi phân tích có lý, Đũng đồng ý ngay và chuyển ra gần mép ruộng, đào lại. Đến hơn 5 giờ sáng thì cũng xong, nhưng không thật yên tâm vì chỗ này rất hiếm các vật liệu để lát mặt công sự. Chỉ chặt được một số cây nhỏ mà thôi. Chúng tôi nguỵ trang lại thật kỹ rồi tranh thủ ăn cơm sớm và tạt qua các hầm khác cho biết vị trí của nhau để khi tác chiến có thể chi viện hoặc băng bó, cấp cứu khi bị thương.

    7 giờ 30 sáng. Sự chờ đợi làm cho thần kinh chúng tôi cực kỳ căng thẳng. Cảm giác như một mũi tên đang nằm trên cánh cung đã giương căng chỉ chờ buông tay là lao vút đi như đầu đạn rời nòng. Trên trời đã có tiếng L19 vè vè, tiếp theo là tiếng phành phạch của trực thăng "cán gáo" từ hướng Hậu Nghĩa. Kinh nghiệm cho hay: Đây là dấu hiệu của một trận sống mái, không cân sức giữa ta và địch. Chúng tôi bảo nhau: trận này sẽ gay go ác liệt đây. Bởi lực lượng chúng tôi quá mỏng, trong khi kẻ địch đông gấp chúng tôi hàng chục lần cộng với hoả lực siêu mạnh: 4-5 trận địa pháo với hàng chục khẩu trọng pháo từ 105 đến 155 li cùng với cối 106,7 ly, bắn như đổ đạn khi chiến sự nổ ra. Máy bay và trực thăng vũ trang sẽ không tiếc bom và rốckét để xả lên đầu chúng tôi dưới sự chỉ điểm của L19.

    Tám giờ. Trinh sát cho biết: có 8 chiếc GMC trong chuyến đầu tiên, chở đầy lính từ tiểu khu Hậu Nghĩa theo lộ 8 hướng về phía chúng tôi. Bọn địch sau khi nhảy xuống xe liền dùng máy thông tin PRC 25 gọi pháo bắn cấp tập vào trận địa. Trong những loạt đầu, đạn rơi ra phía sau, cách chúng tôi chừng vài, ba trăm mét. Máy bay trực thăng chỉnh pháo rút tầm lại. Lần này, pháo đã giập ngay lên đầu chúng tôi. Tiếng rít và tiếng nổ chói tai. Đại đội đã có mấy người bị thương. Sau chừng 30 phút dội pháo, bộ binh địch bắt đầu mò vào. Chúng bắn như tưới đạn vào đội hình chúng tôi. Chờ cho địch vào gần, súng ở các công sự đồng loạt nổ. Nhiều tên chết ngay tại chỗ. Số còn lại chạy dạt ra. Tiếng tên chỉ huy hò hét thúc bọn lính xông vào nghe rất rõ "Đ. mẹ! Nhào dzô đi tụi bây!". Nhưng đám lính không đứa nào dám vào mà lùi ra xa rồi gọi pháo từ Hậu Nghĩa và Hiệp Hoà nã vào trận địa. Công sự chúng tôi rung chuyển dưới sức nổ của đại bác 155 li. Nhiều công sự bị sập. Anh Trần Văn Lệ (Hương Sơn, Hà Tĩnh) mới được đề bạt làm trung đội phó ở trận đánh trước, bị thương nặng. Anh Cầu (chính trị viên đại đội) lệnh cho tôi băng bó. Mặc cho pháo nổ chát chúa xung quanh và trên đầu, trực thăng vẫn quần thảo, bắn 20 li và rốckét xối xả, nhưng tôi lợi dụng địa hình, tìm mọi cách tiếp cận để băng cho Lệ. Lệ nằm ngửa, máu trào ra ướt đẫm cả ngực áo rồi chảy xuống lưng. Tôi nằm dọc theo thân cậu ta, vòng tay qua ngực để băng. Nhưng vì vết thương quá nặng, Lệ đã hy sinh trên tay tôi…

    Càng về trưa, hoả lực địch càng dồn dập, bộ binh địch hò hét xung phong nhưng chúng chỉ "đánh giặc mồm" mà thôi, không dám liều lĩnh xông vào. Như đã nói ở trên, lực lượng chúng tôi quá mỏng, lại thương vong nhiều quá, không đủ tay súng ở những nơi trọng yếu nữa nên kẻ địch có thể chọc thủng phòng tuyến bất cứ lúc nào nếu chúng có được tinh thần dũng cảm của chúng tôi.

    Tôi để Lệ nằm đó rồi bò về công sự với Đũng. Đũng ôm lấy tôi, xúc động: "Tao chắc trăm phần trăm là mày chết rồi! Làm sao lại có thể còn về được đến đây?!". Tôi cũng không hiểu vì sao mình vẫn còn sống sót được dưới làn mưa đạn ấy?!

     Lúc này khoảng 10 giờ 30. Có tiếng máy bay. Tôi nghĩ nhanh: "Thế là ăn bom rồi!" Tôi thò đầu ra khỏi hầm nhìn lên. Bốn chiếc A37 rầm rộ lao tới đảo mấy vòng rồi bổ nhào theo trái khói chỉ điểm của chiếc trinh sát L19 vẫn dõi theo chúng tôi từ sáng sớm. Tiếng bom rít, xé không khí như xé lụa. Tiếp theo là những quầng lửa màu da cam và cột khói hình nấm trùm lên cùng tiếng nổ lộng óc. Đất rung chuyển dưới chân và trên đầu chúng tôi. Bùn, đất, cây cối bị hất tung lên rồi rơi xuống che lấp cả miệng hầm. Tôi có cảm giác như hầm mình đang sập. Loạt thứ hai, rồi thứ ba. Bốn chiếc thi nhau bổ ... Bốn chiếc thi nhau bổ nhào dội hết cơ số bom mang theo. Sau đó, chúng mở rộng cua, lượn thêm mấy vòng nữa rồi chuồn thẳng. Khu vườn bây giờ chỉ còn lại là những hố bom. Khói lửa trùm lên mù mịt. Nhiều đồng chí nữa lại hy sinh. Tôi nhớ, cậu Trọng, quê Yên Thành, Nghệ An làm quản lý đại đội cũng hy sinh vì mấy loạt bom ấy. Chắc bọn địch nghĩ rằng với mức độ bom đạn khủng khiếp như vậy, chúng tôi sẽ chẳng một ai có thể sống sót. Chúng lại mở đợt tấn công thứ 3. Đội hình chúng tôi đã mỏng nay càng mỏng thêm. Nhiều công sự bị bom vùi, anh em tự mình bới đất chui ra rồi tiếp tục chiến đấu. Băng quấn đầy mình vẫn kiên cường đánh trả. Cả một vùng lúa đang chín, giờ đây đã bị san phẳng bởi chi chít hố pháo, hố bom. Kẻ địch quyết tâm tiêu diệt và bắt sống chúng tôi. Vẫn thứ "giáo án" chiến thuật cũ rích là xả súng không tiếc đạn rồi mò vào. Bùn đất, cây cối ngổn ngang của trận bom lúc nãy là sự nguỵ trang che mắt và hết sức bất ngờ mà bọn này không tính đến. Chúng vào sát công sự rồi mà vẫn không phát hiện ra chúng tôi. Khi chợt nhìn thấy họng súng chĩa vào ngực thì há hốc mồm ra, rồi đổ vật xuống trong cái chết kinh hoàng bởi loạt AK găm thẳng, xé nát lồng ngực chúng. Bị bất ngờ do chủ quan, chúng tháo chạy thục mạng trở ra sau khi đã để lại nhiều xác chết và những tên bị thương. Pháo địch lại cấp tập, trận địa cối 106,7 li của địch từ Hậu Nghĩa giờ mới dõng dạc lên tiếng. Những trái cối khổng lồ lao xuống trận địa chúng tôi như những đợt bom chùm. Tiếng rít đặc thù của nó không có ngôn ngữ để diễn tả. Thật kinh khủng. Ai đã một lần trong đời ngồi chịu trận vì loại "bom mặt đất" ấy, sẽ không bao giờ quên được tiếng rít, tiếng nổ xé tai và sức sát thương kinh hoàng của nó.

   Địch cay cú vì một lực lượng quân lính và hoả lực hùng hậu như vậy mà không thể thắng nổi một lực lượng và vũ khí nhỏ hơn chúng nhiều lần. Chúng tập trung trong nỗ lực lần cuối, hòng tiêu diệt chúng tôi. Tất cả các loại pháo, cối, đạn M72, M79, đạn bắn thẳng, rốckét từ trực thăng...lại thi nhau đổ vào trận địa. Có thể nói chưa có trận đánh nào từ trước đến đó mà một khối lượng súng đạn, bom pháo, lại được huy động lớn đến như vậy! Và cũng kỳ lạ thay! Chúng tôi vẫn trụ bám kiên cường đến như vậy!

   14 giờ 30 đột nhiên tiếng súng im bặt.

    Quả nhiên, lợi dụng khi trọng pháo liên tiếp dội vào, bộ binh địch rút lui ra xa. Chúng tôi, những người còn lại, thở phào. Thế là mình còn sống. Mặt mũi ai nấy sạm đen vì khói đạn và bùn đất. Chỉ riêng đại đội tôi hy sinh 11 người, rất nhiều đồng chí khác bị thương. Có thể nói, cơ bản, chúng tôi đã thắng. Thắng vì đã đúng với ý đồ chiến thuật của cấp trên. Một lực lượng nhỏ xọc vào sát nách địch để kéo lực lượng của chúng, tạo điều kiện cho các đơn vị bạn rút được an toàn vì địch đang có kế hoạch chuẩn bị một lực lượng lớn để bao vây, đánh úp trung đoàn tôi. Nhưng cái giá phải trả không rẻ một chút nào. Có thể hiểu rằng chúng tôi là lực lượng “cảm tử” của trung đoàn. Theo yêu cầu chỉ đạo chiến thuật, chỉ cần chúng tôi đứng vững được một ngày coi như đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Sau trận ấy, chúng tôi được cấp trên đề nghị Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải Phóng.

   Đêm ấy, sau khi giải quyết xong công tác thương binh, tử sỹ, tôi quay trở lại công sự đào dở với Đũng hồi đêm qua. Tôi bàng hoàng vì trước mắt mình cái công sự đào dở ấy được thay bằng một hố pháo 155 li lớn xoá sạch mọi dấu vết. Nếu không thay đổi vị trí thì hôm đó xương thịt của tôi và Đũng đã tan vào bùn đất Hoà Khánh rồi.

  Chúng tôi rời vùng tử địa Hoà Khánh để trở về bưng An Thuỷ. Tôi còn nhớ, Tòng và Kỷ bị lạc đơn vị. Khoảng 8 giờ tối, dò vào ấp chiến lược, họ tóm được một con vịt Xiêm (ngan) của dân đã bỏ chạy đêm qua. Sau khi làm thịt, luộc ăn xong, lấy góc phương vị rồi cắt đường về bưng An Thuận giữa đồn bốt giăng giăng của địch. Rất may là không bị phục kích hoặc vướng mìn clâymo do chúng gài lại. Bây giờ mỗi khi có dịp gặp nhau, ôn lại kỷ niệm chiến trường, nhớ lại những tình huống ấy, ai nấy đều nổi da gà.

   Trở lại bưng An Thuỷ, rồi di chuyển xuống bưng Tân Phú. Nhiệm vụ lúc này của chúng tôi là ban ngày phục kích tàu địch, ban đêm, tập kích bằng cối 82 vào bốt hoặc vào ấp chiến lược để móc nối cơ sở, lấy gạo, thực phẩm, thuốc men hoặc làm công tác dân, binh vận...

   Ở An Thuận, có nhiều cơ sở kiên trung, một lòng theo Đảng, theo cách mạng như gia đình chị Sáu Tiệm, gia đình út Ư, út Mắc, Lệ Thuỷ,v.v... Riêng tôi, thực sự có cảm tình với Lệ Thuỷ (nếu không nói là yêu). Đó là một cô gái đôn hậu, mà xinh đẹp, hết lòng vì mọi người (và hình như cô ta cũng yêu mến riêng tôi). Còn nhớ, ngày chúng tôi tác chiến chống càn ở đấy, ban ngày cô phải theo gia đình di tản. Khoảng 5 giờ chiều, khi bọn lính đã rút hết, mặc dù pháo vẫn còn bắn đến, vậy mà cô vẫn liều lĩnh đội pháo về với chúng tôi. Trên tay, lần nào cũng một làn đủ bánh ngọt, trái cây, xà bông, kem đánh răng, khăn mặt... Khi pháo bắn, thì cùng chui xuống công sự với chúng tôi. Hầm chật nên không tránh khỏi sự đụng chạm. Nhiều khi tôi thấy ngượng vì chúng tôi đánh nhau cả ngày, mồ hôi, bùn đất, khói đạn quyện lại thành một thứ mùi rất khó chịu. Trong khi, từ thân thể con gái tuổi 18 phổng phao, một mùi thơm dìu dịu quyến rũ toả ra làm ngây ngất chúng tôi. Tôi đành phải nói thật ý nghĩ của mình. Thuỷ hờn dỗi: "Sao anh nói vzậy. Sự hy sinh xương máu của mấy anh là đáng kể mà còn không tiếc thì sự giúp đỡ và chịu đựng chút xíu của em thì ăn nhằm gì! Anh nói nữa, làm em buồn đó nghen! Lần sau không được nói vậy nữa nghe hôn? ". Rồi gần như suốt cả đêm, cô lo giặt giũ, sửa soạn, gần sáng lo nấu cơm cho chúng tôi. Xong, lại vội vàng di tản, tránh càn...

   ... Xin được "bật mí": Không phải ngẫu nhiên sau này, khi vợ chồng tôi có con gái đầu lòng, tôi đặt tên cháu là Lệ Thuỷ! Nguyên nhân sâu xa của cái tên Lệ Thuỷ - con tôi - là vậy đó. Hình ảnh Lệ Thuỷ của ấp An Thuận năm nào vẫn vẹn nguyên và để lại trong tôi cả khung trời kỷ niệm. Lệ Thuỷ ơi! Anh xin em, cho phép anh được đặt tên con gái mình bằng chính cái tên mà anh yêu, anh quý năm nào: Lệ Thuỷ... Chắc em sẽ bằng lòng và vui phải không? Anh vẫn tin như vậy...

    ... Giờ đây, sau 33 năm, kể từ ngày ấy, chiến tranh đang dần đi vào cổ tích. Hẳn giờ này, em đang sống trong một gia đình hạnh phúc? Và anh nghĩ, có thể em đã lên thiên chức làm nội, làm ngoại rồi. Nhưng, trong miền ký ức của riêng anh cũng như các anh lính miền Bắc năm nào vào Nam đánh giặc để giải phóng quê em, thì em vẫn là một Lệ Thuỷ hồn hậu, thuỷ chung, trong trắng mà mãnh liệt của mảnh đất "Long An trung dũng, kiên cường, toàn dân đánh giặc". Thuỷ ơi! Trong niềm vui của cuộc sống hoà bình hôm nay, có lúc nào em chợt nghĩ về những tháng ngày gian khổ, ác liệt của quá khứ chiến tranh, nơi chúng mình đã có những kỷ niệm của một thời máu lửa?... ... ở An Thuận một thời gian, ba chúng tôi, trong đó có Kỷ và anh Cường, chính trị viên phó đại đội (quê Diễn Châu, sau này trong chiến dịch bảo vệ Hiệp định Pari năm 1973, anh Cường đã hy sinh. Hôm đó, Kỷ, Tý và Cường chung một công sự. Trái pháo nổ gần. Một mảnh pháo găm vào ngực anh) cùng với ba đồng chí du kích địa phương do ông Năm Châu, một cán bộ và là một đảng viên kiên trung, nhận lệnh vào một ấp chiến lược ở cuối Lộc Giang, nằm sâu trong lòng địch có nhiệm vụ tiêu diệt tên xã trưởng ác ôn khét tiếng vốn có nhiều nợ máu với nhân dân và cách mạng. Đêm ấy, trời tối như bưng, nhưng nhờ ánh sáng điện của tiểu khu Hậu Nghĩa và của cả Sài Gòn, chúng tôi men theo các bìa ấp và những khoảnh ruộng nằm giữa các bốt bảo an, dân vệ, luồn sâu vào hậu địch. Từ chỗ chúng tôi xuất phát đến khi vào được tới ấp mất gần 8 tiếng đồng hồ. Chúng tôi len lỏi giữa đồn bốt giăng giăng, luồn sâu vào ấp. Gần hai giờ sáng, mới tới nơi quy định vì phải vừa đi vừa thăm dò, bám địch (ở đây, chúng hay phục kích và gài mìn ban đêm). Đồng chí du kích có tên là Sáu Luật, nhanh nhẹn, người ấp này, thông thuộc địa hình nên dẫn chúng tôi đến nơi tập kết an toàn, tránh được sự phục kích và mìn của địch. Sáu và ông Năm bắt liên lạc với cơ sở cách mạng của ta ở đó, nói rõ nhiệm vụ và ý đồ tiêu diệt tên ác ôn đồng thời đề nghị bố trí chỗ trú ẩn an toàn cho chúng tôi. Cơ sở đưa chúng tôi đến một một nơi bí mật ở cuối ấp. Nơi đó, trước đây đã đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ. Sau năm 1968, cơ sở bị lộ, các cán bộ nằm vùng, một số bị địch bắt, một số hy sinh. Hiện vẫn còn một căn hầm bí mật (BEM) nhưng lâu ngày không sử dụng nên rất có thể có rắn rết, côn trùng. Nhưng vì trời gần sáng, chúng tôi đánh liều chui xuống. Không có rắn, rết nhưng ve thì nhiều. Loại này sau khi châm vào người thì để lại nọc ở đó. Chạm vào y như bị kim châm. Ngày hôm ấy, chúng tôi nằm dưới hầm ngủ, chỉ thay nhau để lại một đồng chí cảnh giới. Hầm chúng tôi nằm ngay dưới một đám cây mắc cỡ lâu năm, cao gần một mét (miền Bắc gọi là cây trinh nữ hay xấu hổ). Khi đi qua, cây rũ xuống nhưng chỉ cần vài chục phút sau nó trở lại nguyên dạng. Do vậy rất bất ngờ. Sát đó có một cái giếng hoang từ lâu không ai dùng. Trưa nắng, khát nước, tôi trườn dưới cây mắc cỡ để ra múc nước uống. Tôi buộc hăng-gô vào sợi dây dù rồi thả xuống, kéo nước lên. Hăng-gô chạm vào đá nghe loảng xoảng. Mỗi lần múc, chỉ đủ cho một người uống. Nước trong vắt và ngọt lịm. Sau này chúng tôi mới bàng hoàng vì biết sự thật về cái giếng ấy. Năm 1965, du kích bắt được mấy tên ác ôn, giết xong, vứt xác xuống, ném đá đè lên. Tôi chợt hiểu vì sao ở đồng bằng mà lòng giếng lại có nhiều đá như vậy ?! Móc họng thế nào cũng không ra được nữa vì đã mấy ngày sau khi tên ác ôn bị tiêu diệt, mới biết (cơ sở cách mạng ở đó biết rất rõ cái giếng ấy nhưng họ không ngờ chúng tôi lại dùng nước ở đấy. Hơn nữa, nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này là làm sao sớm diệt được tên ác ôn nên không ai để ý). Đến bây giờ mỗi lần nghĩ đến, tôi vẫn cứ kinh kinh, lờm lợm.

    Thằng ác ôn có tên là Đởm (Sáu Đởm). Được biết, hắn có hai vợ. Một cô vợ bé, ở đâu trên Hậu Nghĩa. Thỉnh thoảng hắn lên trên đó. Còn chủ yếu là ở lại địa bàn này. Nhưng thằng này tinh quái lắm. Ban đêm, hắn chuyển chỗ ngủ tới hai, ba lần. Vì hắn biết rõ tội ác của mình và bản án tử hình mà cách mạng sẽ dành cho hắn nhưng chưa có dịp thực hiện nên càng điên cuồng như con thú dữ bị thương.

   Cơ sở cho biết, Đởm đến nơi làm việc không có một quy luật nào cả. Nơi làm việc của hắn là một nhà dân ở đầu ấp chiến lược. Nhà thường đi làm vắng. Có thể sáng đến rất sớm hoặc đang trưa, hắn đến. Có khi ba hoặc bốn giờ chiều cũng nên. Thậm chí làm việc xong, hắn ăn tại chỗ rồi nghỉ lại. Đêm, di chuyển đến nơi khác để ngủ. Gần chỗ hắn làm việc, có bốt bảo an với một trung đội lính canh gác, bảo vệ. Đó là chỗ dựa cho thằng này.

   Không hiểu sao, đã ba ngày nay, hắn không đến. Chúng tôi nằm phục kích giữa ruộng lúa đang chín, cạnh con đường hắn thường đi. Trời nắng như thiêu, cháy sém cả da mặt mà không dám động cựa vì sợ dân phát hiện ra sẽ bị lộ. Chờ đến lúc nhìn không rõ mặt người mới dám từ từ ngồi lên rồi đợi cho tối hẳn mới trở về nơi trú ẩn. Không lẽ cơ sở đã để lộ rồi chăng? Chúng tôi hoang mang. Kiểm tra lại, thấy không có gì bất cẩn cả. Vẫn giữ được bí mật tuyệt đối.

   Ngày thứ tư, chúng tôi thay đổi vị trí mai phục. Chuyển đến gần chỗ hắn làm việc, nhằm tạo yếu tố bất ngờ. Chúng tôi mật phục từ bốn giờ sáng. Tất nhiên, vẫn giữa ruộng lúa đang chín. Tám giờ, bỗng có tiếng xe gắn máy đi tới, mọi người bí mật quan sát. "Đúng hắn rồi!" - Sáu Luật nói. Mọi người nhìn nhau, gật đầu, thực hiện phương án một.

   Đởm ngồi trên xe, bên hông là khẩu Côn 12. Ngoài ra, một khẩu AR15 treo hờ trước ngực trong tư thế thuận tiện nhất để sẵn sàng nổ súng bất cứ lúc nào.

   Xe chạy qua, lợi dụng ở phía sau lưng nó, tôi và Sáu trườn nhanh vào, tiếp cận vào góc khuất của ngôi nhà, trong khi tên ác ôn đang dựng xe và tháo khẩu súng trước ngực, chuẩn bị bước vào. Kỷ và anh Cường bí mật vòng nhanh ra cửa sau, chốt chặn. Vào nhà, hắn dựng súng vào mép bàn, đang lúi húi tháo xà cột ra khỏi vai. Chỉ chờ có thế, Sáu Luật nhảy đến gí AK vào mặt hắn quát: "Sáu Đởm! Mày là tên ác ôn có nhiều nợ máu đối với nhân dân và cách mạng. Hôm nay, thừa lệnh Chính phủ Cách mạng lâm thời, chúng tao thực thi bản án tử hình dành cho mày". Thằng ác ôn trợn tròn mắt, há hốc mồm, chưa kịp phản ứng gì thì Sáu đã siết cò. Hai loạt đạn bắn găm vào đầu và ngực hắn, máu vọt vào mặt và áo quần chúng tôi. Tôi bồi ngay một loạt nữa, thằng giặc bật ngửa ra phía sau, đổ vắt trên thành ghế, ngực lỗ chỗ. Tôi rút vội trong túi áo mình tờ giấy ghi bản án tử hình đã được ký sẵn, dành cho tên ác ôn, đặt lên ngực hắn rồi nhặt vội khẩu AR15 trong khi Sáu Luật tháo khẩu Côn 12 và xách theo túi tài liệu. Cùng lúc, hai đồng đội phía cửa sau, đồng loạt nổ nhiều loạt AK hướng về phía bốt bảo an. Tất cả chỉ diễn ra trong khoảnh khắc. Chúng tôi chạy thành hai hướng, như ma đuổi, vòng vèo, luồn lách để nghi binh địch và tránh con mắt tò mò của dân. Cuối cùng, tất cả cũng về đến hầm bí mật, chui xuống. Ai nấy, thở muốn đứt hơi.

   Không chỉ nợ máu với cách mạng và nhân dân, Đởm còn rất hách dịch với đám lính bảo an ở đây nên tụi này không ưa gì hắn. Đó là một lợi thế cho chúng tôi. Đến khoảng 11 giờ trưa, nghe có tiếng súng nổ gần. Tất cả chuẩn bị chiến đấu. Nhưng, bọn lính chỉ bắn chỉ thiên vu vơ cho có tiếng súng vì sợ cấp trên khiển trách, rồi rút về bốt. Chúng không dám liều lĩnh sục sạo, vì đứa nào cũng sợ chết.

   Chúng tôi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Tiêu diệt được tên ác ôn khét tiếng mà lâu nay nó thực sự là một cái gai nhức nhối cho nhân dân và phong trào vùng này. Đặc biệt là cho những gia đình cách mạng. Ngoài ra, còn lấy được tài liệu quan trọng và thu vũ khí mà không hề tốn một giọt máu. Cái chết của Sáu Đởm thực sự có hiệu quả. Đó là sự răn đe, cảnh cáo mạnh đối với những thằng ác ôn khác.

    Tối hôm đó, trước khi rút về cứ, chúng tôi được bà con khao thưởng thịt heo và tặng cho nhiều quà (nghe tin thằng Đởm chết, họ mổ heo ăn mừng nhưng bên ngoài không dám nói ra). Chúng tôi từ chối, bởi sau chiến thắng nếu chủ quan sẽ rất dễ phải trả giá. Ông Năm Châu thay mặt cách mạng và tổ công tác, cảm ơn bà con cô bác đã cưu mang, chở che để chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ.

    Chúng tôi giã từ mọi người để lên đường ra cứ lúc 20 giờ 30 phút tối hôm đó.

    Vẫn là Sáu Luật dẫn đường, nhưng lần này, cậu ta không trở lại đường cũ mà cắt một lối khác khá bất ngờ, sát nách bốt địch. Đúng như dự định của chúng tôi, bọn địch đã gài mìn và phục kích ở đoạn đường mà theo dự đoán của chúng là chúng tôi sẽ đi qua. Chúng cho rằng, chúng tôi sẽ về muộn vì đang mải say sưa với chiến thắng. Chúng hoàn toàn không ngờ!

    Tổ công tác chúng tôi về tới cứ ở bưng An Thuỷ khi đằng đông đã có ánh bình minh.

    Sau trận ấy, chúng tôi chia tay với ông Năm Châu, Sáu Luật và anh chị em du kích cùng với mảnh đất An Thuận đầy ắp kỷ niệm. Họ ở lại bám dân, tiếp tục làm nhiệm vụ. Còn chúng tôi rút lên Campuchia, củng cố lực lượng, chuẩn bị đánh trận Công Pông Tra Béc lịch sử. Không ngờ, đó cũng là lần cuối cùng chúng tôi gặp họ. Từ bấy đến nay, không rõ ông Năm cùng các đồng chí du kích và giao liên An Thuận một thời gian khổ, hy sinh, sát cánh cùng chúng tôi chiến đấu và công tác hiện ra sao? 33 năm đã trôi qua, bão táp thời gian có thể làm đổi thay mọi điều!?...

    Riêng Sáu Luật, đã anh dũng hy sinh trong một trận phục kích của địch sau đó không lâu, khi anh vào lại ấp chiến lược trong một chuyến công tác. Tôi cúi đầu, ngậm ngùi, đau xót trước cái tin đột ngột ấy. Đó là một chiến sỹ trinh sát du kích mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Một người đồng chí thuỷ chung, tận tuỵ…

    Năm đó Luật mới 17 tuổi...Cuối tháng chín, năm 1972, chúng tôi nhận nhiệm vụ giải phóng căn cứ Công Pông Tra Béc giúp bạn. Căn cứ này vốn trước đây, nhiều lần cả ta và bạn hiệp đồng tác chiến để giải phóng, nhưng chưa lần nào dứt điểm vì nó là một căn cứ có vị trí gần như một ốc đảo. Xung quanh là đồng bưng và đầm lầy, chỉ có con đường độc đạo chạy qua, được bọn Lon Nol cố thủ vững chắc. Quyết tâm của trung đoàn 271 là bằng mọi cách phải nhổ bằng được căn cứ này. Trước đó cả mấy tháng, trinh sát của đại đội 25 (đặc công) và các tiểu đoàn đã vượt bưng vào bí mật điều nghiên khá kỹ lưỡng, rồi vẽ sơ đồ và lên phương án tác chiến tỉ mỉ. Ban tham mưu và tác chiến trung đoàn thống nhất duyệt phương án đánh địch lần cuối, đồng thời hạ quyết tâm giải phóng Công Pông Tra béc.

    Đêm 31 tháng 9 năm 1972.

   Các đơn vị bí mật tiếp cận mục tiêu theo phương án đã định. Đại đội 25 (đặc công) và tiểu đoàn 9 sẽ đánh vào hướng chủ yếu. Tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 8 dự bị, sẵn sàng chi viện cho đơn vị bạn lúc cần thiết. Đến giờ G (13 giờ 30 ), các đơn vị đã ém gọn theo các vị trí định sẵn chỉ chờ hiệu lệnh là đồng loạt công kích giải phóng căn cứ này. Đại đội 25 chịu trách nhiệm phát hoả trận đánh.

   13 giờ 30 phút ngày 01 tháng 10 năm 1972, những tiếng nổ dậy đất của mìn ĐH10 (loại mìn định hướng, 10 kg) do đặc công bò vào đặt dưới các chân rào bùng nhùng, cũi lợn, mái nhà... thổi bay tất cả các loại hàng rào ấy, khai thông một lối lớn vào căn cứ để cùng bộ binh lọt vào tung thâm, tiêu diệt các lô cốt đầu cầu, cùng những ổ đề kháng và hoả lực mạnh của địch.

    Anh Nguyễn Đình Diệu, quê Sơn Tiến, Hương Sơn, cũng là lính đặc công đại đội 25 ngày ấy, nay là Đại tá, Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tĩnh cũng tham gia một mũi thọc sâu đánh vào tung thâm. Bây giờ, thỉnh thoảng anh em chúng tôi ngồi ôn lại kỷ niệm về trận đánh lịch sử năm ấy...

    Bộ binh của tiểu đoàn 9 tràn lên, đánh chiếm căn cứ. Trong vòng chưa đầy 40 phút, chúng tôi đã giải quyết xong trận đánh. Dưới ánh hoả châu, bộ đội ta bắt tù binh, thu vũ khí rồi chất thành mấy đống lớn, dùng bạt che lại để chuẩn bị sáng mai chuyển đi. Thắng lợi đến nhanh hơn cả dự định. Thương vong không đáng kể. Mọi người đang hân hoan với chiến thắng...

    Bỗng đại liên, 12,7 li, M79, M72, súng bộ binh, rồi cối 81 li dồn dập trút đạn về phía chúng tôi. Bất ngờ nên nhiều anh em hy sinh tại chỗ. Được thể, bọn địch xung phong, tấn công dồn dập. Chúng tôi trở tay không kịp vì không có phương án dự phòng. Trời đã tảng sáng. Đại liên địch bắn như mưa vào chúng tôi. Cối 81 li nổ chát chúa. Nhiều người gục xuống. Trời sáng dần. Đây là lợi thế của địch vì chúng nắm hoàn toàn thế chủ động và quan sát rất rõ. Cũng còn may là ở chiến trường Campuchia nên địch không có trực thăng như chiến trường miền Nam của quân nguỵ Sài Gòn. Nếu không, chúng tôi sẽ chẳng còn một ai sống sót. Hoặc, nếu ai may mắn thoát chết, sẽ bị trực thăng đổ chụp bắt làm tù binh hết. Tiểu đoàn 9 thương vong nặng nề nhất, gần như mất hẳn sức chiến đấu. Số chết, số bị thương nằm la liệt trên cánh đồng Công Pông Tra Béc. Số còn lại cố thoát ra khỏi làn mưa đạn của các loại hoả lực, hy vọng vượt qua quốc lộ I phía trước mặt (đường nối từ Gò Dầu lên Phnôm Pênh). Nếu qua được bên kia đường sẽ có cơ thoát chết. Đoạn đường này cao hơn mặt ruộng khoảng 1,5 mét. Nó chắn hết các loại đạn bắn thẳng. Biết ta cố sức vượt qua đường, bọn địch tập trung đại liên và 12,7 li rà sát mặt đường. Đạn cày trên mặt đường toé lửa như trong lò gang. Nhiều đồng chí hy sinh ngay tại chỗ. Chúng tôi ở trong thế bị dồn đến chân tường. Trước mặt, trên đường thì đạn thẳng. Sau lưng là các loại hoả lực khác như M79, M72, cối 81... Tôi không giải thích nổi là làm sao mình cùng một số rất ít anh em, cơ may nào mà vượt qua được bên kia đường trong làn hoả lực khủng khiếp ấy. Tôi cũng không hiểu sao anh Diệu và một số anh em đặc công hôm ấy, cũng may mắn thoát được sang bên kia đường?!...

    Thất bại nào cũng có nguyên cớ của nó!

    Đó là... quá trình điều nghiên, cánh trinh sát đặc công không phát hiện ra được tuyến hầm ngầm phòng thủ của địch. Tình báo của ta và bạn đều không nắm được sự bố phòng bí mật ấy. Do vậy, không dự kiến hết tình huống, nên đã dẫn đến kết cục thất bại thảm hại và cay đắng đó. Nếu trước đây, tiểu đoàn 7 gần như bị xoá sổ bởi B52 ở rừng Tây Ninh thì giờ đây, tiểu đoàn 9 đã bị lính Lon Nol cho "phơi áo" gần hết trên đất Campuchia. Các tiểu đoàn 7, 8 và các đơn vị trực thuộc cũng bị thương vong, tổn thất rất nặng nề. Chúng tôi thua bọn lính Lon Nol, một đội quân có trình độ tác chiến vào loại tồi. Quả là cay đắng và nhục nhã!

      Tôi nói "trận đánh lịch sử" bởi nó mang ý nghĩa như vậy!

      Giờ đây, sau 33 năm, chiến tranh đã lùi xa, thời gian đang xoa dịu dần nỗi đau mất mát, chúng tôi mới có dịp nói về sự thật lịch sử của trận Công Pông Tra Béc năm nào. Máu xương của đồng đội tôi đã đổ xuống không biết bao nhiêu trên đất nước Chùa Tháp xa xôi này? Máu vẫn cứ tiếp tục đổ cho đến khi chúng tôi có lệnh rời đất Campuchia để trở về miền Nam, chiến đấu bảo vệ Hiệp định Pari năm 1973.

     Gần đây, qua con số thống kê đang lưu giữ ở quân lực trung đoàn, tôi mới được biết trong chống Mỹ, các trận chiến đấu cũng như hành quân trên Trường Sơn, trung đoàn chúng tôi đã có trên 1300 người hy sinh. Trong đó, chỉ mới quy tập được 543 bộ hài cốt vào 13 nghĩa trang. Số còn lại còn nằm rải rác đây đó trên các chiến trường từ Lào đến Campuchia cùng các vùng bưng biền Nam Bộ như Long An, Tây Ninh, Kiến Tường, Mỹ Tho và Đồng Tháp cho đến Bù Đăng, Quảng Đức, Bình Phước, Lâm Đồng...(số liệu do đồng chí Nguyễn Đình Xưng, nguyên đại đội trưởng đại đội 22 của trung đoàn cung cấp. Nay anh phụ trách công tác chính sách thương binh xã hội phường Đại Nài, thị xã Hà Tĩnh).

     Trận Công Pông Tra Béc, ghi thêm một trong những bài học đắt giá cho trung đoàn 271 chúng tôi. Tôi lại nhớ đến câu nói muôn thuở: "Hiện thực của chiến tranh luôn nằm ngoài quy luật thông thường!"

     Công Pông Tra Béc thất bại, nhưng có một câu chuyện về tình đồng đội cưu mang nhau trong chiến đấu và hoạn nạn ở trận đánh này thì đã trở thành một huyền thoại, một bài ca bất tử về tình người và lòng dũng cảm; viết thêm truyền thống tốt đẹp vào trang sử quân đội ta. Khi chúng tôi rút khỏi Công Pông Tra Béc, rất nhiều đồng chí của ta bị thương, nằm lại trận địa, không có cách gì cứu được. Họ bị địch bắt rồi giết. Riêng có hai đồng chí ở tiểu đoàn 9 bị thương, kẹt lại trong lòng địch. Họ cố gắng dìu nhau lết bò ngược chiều, rồi lánh được trong sự lùng sục ráo riết của địch. Sau khi tìm được vị trí kín đáo, và tương đối an toàn, họ tìm kiếm cái ăn và tần tảo nuôi nhau. Người bị thương vào mắt thì cố bò đi tìm cái gì đó ăn được để nuôi người bị thương vào chân, nằm tại chỗ. Người bị thương vào chân thì ban ngày không ngủ, cảnh giới cho người bị thương vào mắt, nghỉ lấy sức...

     Họ trốn chui như vậy mấy tháng trời trong lòng địch. Ban ngày, ẩn nấp thật kín. Ban đêm, chờ đến khuya mới dò ra rồi lẻn vào nhà dân Miên, tìm cái gì có thể ăn được như cơm nguội hoặc lấy bớt trứng gà trên ổ… Thậm chí phải ăn cả cám nấu cho heo. Vì nằm ngay trong lòng địch nên bọn chúng hoàn toàn không nghi ngờ. Vết thương thì tìm lá rịt lại; lấy muối cho vào nước lã rồi rửa sát trùng. Điều kì lạ nhất là vết thương của họ tiến triển rất khả quan qua thời gian. Cuối cùng cũng kín miệng rồi liền sẹo. Có thể nói, đây một điều khó tin nhưng lại là sự thật như nó vốn tồn tại. Trong điều kiện bình thường, cũng khó giữ được vô trùng, huống gì trong môi trường hết sức đặc biệt ấy. Phải chăng, sức mạnh của tình người, tình đồng đội đã làm nên điều kỳ diệu?! (Chỉ tiếc rằng tôi không còn nhớ được tên của hai đồng chí đó nữa vì họ ở tiểu đoàn khác, hơn nữa đã quá lâu rồi). Sau đó mấy tháng, trong một chiến dịch khác, Công Pông Tra Béc được giải phóng, hai đồng chí thương binh ấy được cứu ra. Bấy giờ, họ như những người rừng, tóc dài như tóc phụ nữ và cơ thể gầy như vượn. Họ được đưa đi điều dưỡng và sau đó được trở về hậu phương miền Bắc.

    Trận đánh đã để lại một dấu ấn về sự thất bại không phai mờ trong tâm khảm chúng tôi. Có thể nói đó là một "Oateclô" của trung đoàn 271 trong kháng chiến chống Mỹ ở thế kỷ XX. Sau này, mỗi khi nhắc đến trận Công Pông Tra Béc, ai nấy vẫn ngậm ngùi, đau đớn nhớ đến câu ca mô phỏng:

Lực lượng của trung đoàn sau trận ấy còn rất mỏng. Đơn vị được nhận tân binh của các tỉnh từ Thanh Hoá, Hà Nam Ninh, Hải Hưng, Hải Phòng, Bắc Thái, Quảng Ninh, Thái Bình... bổ sung. Sau đó, nhận nhiệm vụ mới trở lại Long An để chuẩn bị chiến dịch đánh địch lấn chiếm, bảo vệ Hiệp định Pari (27/01/1973).

    Ở đất bạn, đêm đêm nhìn về ngọn núi Bà Đen ở Tây Ninh mà lòng bùi ngùi tưởng nhớ những đồng đội đã ngã xuống. Chỉ mai kia thôi, chúng tôi lại rời mảnh đất này để trở lại miền Nam nhận nhiệm vụ mới. Sẽ vĩnh viễn xa những người đã nằm xuống nơi đây. Chúng tôi, ai nấy đều nhớ tiếc những đồng đội thân yêu đã hy sinh trên mảnh đất Cam Bốt xa lạ này.

     Hai tuần sau, trung đoàn nhận nhiệm vụ quay về Long An.

     Ba Thu lại là nơi tập kết, để từ đó, chúng tôi vượt bưng Đức Huệ trở lại Gò Nổi.

     Đứng chân ở Gò Nổi, nhiệm vụ của chúng tôi là tiếp tục vào ấp, tập kích bằng cối 82, đánh nhỏ, lẻ tiêu hao và quấy rối địch. Chống càn và phục kích đánh tàu trên sông. Sau đó không lâu, chúng tôi được lệnh hành quân xuống bưng Hoà Khánh để làm nhiệm vụ mới.

     Đêm 20/12/1972, chúng tôi vào một ấp thuộc xã Hoà Khánh để móc nối với cơ sở cách mạng, lấy gạo, thực phẩm và nắm tình hình địch. Cùng đi, có mấy đồng chí du kích và giao liên dẫn đường để liên lạc với cơ sở. Chúng tôi vào ấp trót lọt. Nhiệm vụ của chúng tôi là tiếp xúc với nhân dân để giải thích tuyên truyền chính sách của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam rồi sau đó nhận gạo, thực phẩm, thuốc men từ các gia đình cơ sở của ta. Nhớ lại hôm ấy, tôi đã vác B40 vào nhà một trong những gia đình có con là sỹ quan nguỵ. Bởi gia đình này nhiều lần có ý hù doạ rằng sẽ báo với "Quốc gia" (chính quyền nguỵ) về việc các gia đình cách mạng mua giấu gạo, thực phẩm, thuốc men để tiếp tế cho "Việt Cộng". Tôi nghiêm sắc mặt một cách hệ trọng: "Nói để mấy người hay, tôi không hề có ý hù (doạ) ai. Nhưng nếu một trong những gia đình nơi đây đã giúp đỡ cho bộ đội Giải phóng mà có mệnh hệ gì thì đừng oán trách tôi không báo trước. Tất cả 5 trái B40 này sẽ là "quà tặng" dành riêng cho gia đình đó! Tôi nói là làm! Liệu mà giữ mồm, giữ miệng. Cách mạng chưa hỏi tội đứa con của mấy người đi lính cho Mỹ - nguỵ thì thôi. Lại còn... Việc đâu để đó. Không được bép xép. Nếu không...". Tôi nói dở chừng rồi đặt khẩu B40 cùng năm quả đạn ở giữa nhà. Mặt ai nấy cắt không còn giọt máu. Ai cũng vâng dạ rối rít. Hứa chẳng dám làm điều gì có hại cho Cách mạng. Tôi xách súng, đạn quay ra, bụng cười thầm...

    Một giờ 30 sáng, chúng tôi rời ấp để ra bưng. Đang đi, bỗng đồng chí du kích giao liên dẫn đường quay lại, ra hiệu cho mọi người ngồi xuống, giãn thưa đội hình và im lặng. Tôi cùng hai người khác bám lên theo anh. Màn đêm nhờ nhờ, không nhìn rõ nhau. Một mùi khét của thuốc đạn lẫn mùi tanh của xác chết xộc vào mũi. Tôi cảnh giác, lom khom bò trên mặt ruộng. Đang bò, tay bỗng chạm phải một vật cứng khum khum hình viên gạch, lạnh ngắt. Mìn clâymo! Tôi rùng mình, dựng tóc gáy, mồ hôi vã ra. Quay nhanh lại phía sau, tôi rít trong cổ họng:

     - Tất cả nằm im! Mìn clâymo!

     Phản xạ chiến trường đã trở thành một kỹ xảo của người lính. Mọi người ai ở đâu đều nằm im, bất động. Vì nếu không, ai đó chỉ cần lỡ thêm một bước nữa thôi, hai sợi dây đồng trần mỏng mảnh sẽ chập vào nhau. Thế là hết. Cả bãi mìn sẽ đồng loạt "lên tiếng" thanh toán chúng tôi...

    Tôi sờ tay vào phía trên trái mìn, nơi có hai kíp nổ ở hai bên. Cẩn thận, xoay tay vặn kíp ra, nhưng chặt quá. Có lẽ chúng dùng kìm vặn nên tôi không thể mở được. Đã nhiều lần gặp phải tình huống này, nên tôi bình tĩnh trở lại, dùng mũi dao găm, tách đôi sợi dây mìn. Sau đó, cẩn thận cắt từng sợi một. Mồ hôi trên mặt chảy thành dòng. Vì chỉ bất cẩn một chút, để mũi dao chạm vào cả hai dây cùng một lúc thì lập tức mìn sẽ nổ. Xong! Tôi thở phào. Thế là ổn. Kinh nghiệm cho hay, tụi nguỵ khi gài loại mìn này thường mắc nối tiếp. Một quả nổ là cả bãi mìn đồng loạt nổ. Chúng tôi đã vô hiệu hoá bãi mìn. Các đồng chí còn lại gỡ thêm được 7 quả. Tôi chợt hình dung: nếu toàn bộ số mìn ấy nổ, tất cả chúng tôi sẽ chẳng còn một ai. Gần 3000 viên bi (mỗi quả clâymo có khoảng 370 viên bi) đồng loạt bắn vào đội hình đang đi, sẽ không một ai thoát chết. Gỡ xong mìn, chúng tôi đến bên 3 cái xác của anh em du kích Hoà Khánh. Có một phụ nữ. Mọi người cẩn thận buộc dây dù vào người họ rồi kéo dịch ra khỏi chỗ nằm, đề phòng địch gài lựu đạn dưới xác. Nhưng lần này thì không. Chắc chúng nghĩ: chúng tôi sẽ không thể thoát khỏi bãi mìn ấy. Một trong ba đồng chí bị chúng đánh lựu đạn đến nát cơ thể, gần như đứt làm đôi, chỉ còn khúc xương sống dính da. Bốn người mang đồng chí ấy; một số đồng chí khác khiêng hai đồng chí còn lại ra cứ để bàn giao cho du kích Hoà Khánh mai táng. Tôi nhớ, sau khi bàn giao thi thể các đồng chí hy sinh cho du kích địa phương, chúng tôi ai nấy đều cảm thấy đói cồn cào. Mùa khô nên không có nước rửa tay, chúng tôi huơ tay trên ngọn cỏ dính sương đêm cho đi bớt máu rồi lau tạm vào thân áo, sau đó bẻ cơm nắm, ăn. Mùi máu đồng đội vẫn còn phảng phất nơi bàn tay.

    Nguyên do trận ấy, trước đó lúc chập tối, có mấy đồng chí du kích địa phương đã bí mật bám địch để tiếp cận vào ấp, đến đây thì đụng bọn địch phục kích. Do lực lượng nhỏ quá nên không thể phản kích lấy tử sỹ, đành phải rút. Bọn chúng đoán thế nào cũng sẽ có người quay lại lấy tử sỹ nên đã gài chăng mìn đón lõng. Lần này, nếu chúng nằm lại phục kích thì chắc chắn chúng tôi sẽ hy sinh nhiều. Chúng tôi hoàn toàn bị bất ngờ trước tình huống này...

    Ở lại Hoà Khánh thêm mấy ngày nữa, lần này chúng tôi có dịp thưởng thức món đặc sản tại vùng đất Trung Nam Bộ. Trên những bờ kinh (kênh), chim nhiều vô số. Chúng tôi ăn trứng và thịt chim non thoả thích. Nơi đây, sau giải phóng có thể đã thành vườn chim quốc gia rồi. Thời ấy, ban đêm, mỗi khi soi đèn "cổ ngoéo" của Mỹ, trèo lên cây là có thể tóm lấy chim trong tổ hoặc đậu trên cành. Chim dạn lắm...!

     Mấy ngày sau đó, chúng tôi quay lại Tân Phú.

     Lúc này đã gần đến Tết Nguyên đán Quý Sửu (1973). Tất cả đơn vị được quán triệt về tình hình Hội nghị Pari để thấy được thế và lực của ta và địch trên chiến trường. Đặc biệt là thảm bại của Mỹ sau 12 ngày đêm dùng "pháo đài bay B52" rải thảm Hà Nội và Hải Phòng; khả năng Mỹ sẽ phải kí kết Hiệp định ngừng bắn. Tất cả chúng tôi ai cũng phấn chấn và tin tưởng. Hôm sau, nằm ở cứ khoảng hơn 10 giờ đêm, tôi vặn nhỏ cái radio bán dẫn, lần theo sóng của đài Tiếng nói Việt Nam, giọng thơ trầm ấm của một nam nghệ sỹ vang lên với bài thơ  “Gửi Hà Nội” của Nam Hà. Tôi lắng nghe mà rưng rưng, mà tự hào xúc động xen lẫn hờn căm trước tội ác dã man của bọn Mỹ xâm lược, đã dùng máy bay chiến lược B52 huỷ diệt thủ đô Hà Nội- trái tim của cả nước. Chỉ một lần nghe qua sóng của Đài tiếng nói Việt Nam mà bài thơ tôi nhớ đến bây giờ:

Đêm hành quân mải miết

Chiến sỹ bỗng thấy tim mình ngừng đập

Những trái bom của quân thù xâm lược

Ném xuống rồi! Hà nội đó, trái tim ơi!

Tiếng thét vang vang lay chuyển đất trời

Hãy nghe đây hỡi chúng may, quân cướp nước

Trái tim ta đau và căm thù đã bầm gan tím ruột!

Chiến sỹ lại đi hăm hở dưới trời mây

Câu thơ xưa đã vọng lại rồi đây

Nghe tha thiết mỗi đường đi, nước bước

“Từ thuở mang gươm đi mở nước

Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long…”

Hà Nội ơi! Có biêt suốt đêm ngày?

Chiến sỹ lắng nghe từng lời dục giã

Tiếng Tổ Quốc! Tiếng ngày xưa, tiếng mai sau và tất cả

Tiếng mẹ hiền dìu dặt giữa trời quê

Tiếng nước non năm tháng đi về!

Tôi chưa một lần ra thăm Hà Nội

Nhưng tôi sinh một ngày. Và Hà Nội…

Ngập Ba Đình nắng đỏ rực cờ bay

Tóc Bác Hồ đẹp tựa áng mây.

Nghe mẹ nói, mẹ cười

Mẹ hướng tôi nhìn ra phía Bắc

Mẹ nuôi tôi và bây giờ tôi đi giết giặc…

Tôi chưa một lần ra thăm quê Cha

Nhưng câu thơ xưa đã thành máu chan hoà

Yêu Hà Nội như yêu mẹ hiền nắng mưa tần tảo

Tôi biết sông Hồng thêu sóng đỏ dài trên áo

Biết Hồ Gươm như một lẵng hoa

Đêm mơ dài rồng lượn nguy nga

Trời Hà Nội trên đầu tôi tôi gặp

Đất Hà Nội dưới chân tôi tôi biết

Và người tôi đây cũng của Hà Nội đó trái tim ơi…

….

Tôi chưa một lần ra thăm quê Cha

Nhưng lòng vẫn mơ ngày về Hà Nội

Đem nắm đất đã ngập đầy lửa khói

Đặt bên Tháp Rùa trầm mặc uy nghiêm

Đất này đây là của Tổ quốc phía trời Nam…à việc gì đến đã đến. Ngày 27 tháng Giêng năm 1973, Hiệp định Paris được chính thức ký kết. Hai bên ngừng bắn tại chỗ.

Phải thừa nhận một thực tế là bộ đội ta không những chiến đấu ngoan cường mà còn rất nhạy bén về chính trị. Tuy vậy, đây đó, vẫn có những đơn vị và cá nhân do chủ quan và ảo tưởng nên đã phải trả giá.

Trung đoàn được lệnh của cấp trên là phải đứng chân bằng được ở các vị trí đã quy định. Bởi vì từ sáng 27 tháng Giêng trở đi, máy bay của Phái đoàn Liên hiệp quân sự bốn bên sẽ bay thị sát, vẽ bản đồ để công nhận các vùng kiểm soát của hai phía. Theo tinh thần của Hiệp định Paris thì sau 27 tháng 1 năm 1973, ở miền Nam Việt Nam sẽ song song tồn tại hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.

Đêm 26/1/1973, đơn vị chúng tôi nhận lệnh đứng chân giành dân, giữ đất ở Tân Phú, Đức Hoà (địa bàn vốn trước đây đã tác chiến quen thuộc). Do ảo tưởng và chủ quan, tin vào việc nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định của quân đội và chính quyền Sài Gòn nên chúng tôi không chuẩn bị phương án tác chiến. Thậm chí, công sự cũng không đào. Cả đêm hôm ấy, ai cũng háo hức chờ cho đến sáng để xem không khí hoà bình như thế nào? Chúng tôi ai nấy, có bộ quần áo nào còn mới là mặc vào để ngày mai có thể gặp gỡ với nhân dân, thậm chí là cả lính nguỵ nữa.

 7 giờ sáng ngày 27/1/1973, tất cả chúng tôi đều chỉnh tề quần áo, đi lại thoải mái trong ấp. Trên đầu, cờ Giải phóng (nửa đỏ nửa xanh) tung bay. ấp bên kia là cờ ba sọc của nguỵ quyền Sài Gòn. Thấp thoáng đã thấy một số tên lính thập thò mé bìa ấp. ở bên này, chúng tôi chỉ trỏ... Bỗng hàng loạt đạn cực nhanh AR15 và M79 tới tấp quạt sang phía chúng tôi. Đã có mấy đồng chí trúng đạn bị thương. Tất cả chạy nháo nhác. Lúc này, không có công sự để chiến đấu và ẩn nấp. Pháo từ các căn cứ tiểu khu Hậu Nghĩa, Đức Hoà... dập đến. Ban đầu còn ra xa. Sau vài loạt, đạn đã rơi vào chỗ chúng tôi trú quân. Trực thăng bắt đầu phành phạch bay tới chỉnh pháo và bắn vào những nơi có bóng cờ của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Chúng tôi được lệnh nhanh chóng hạ cờ để khỏi lộ mục tiêu. Địch bắt đầu tấn công bằng bộ binh. Tuy nhiên, chúng cũng dè chừng, không dám tiến sang mà chỉ bắn như vãi đạn về phía chúng tôi. Cũng may, trong vườn có hai cái hầm (trảng xê) lớn của dân đào xuyên dưới gốc bụi tre đã lâu để tránh pháo nên mọi người chui cả xuống đấy. Một điều may mắn hơn là lúc này, chiến sự nổ ra gần như khắp cả miền Nam, do vậy, máy bay địch tập trung chi viện cho những chiến trường trọng yếu hơn. Nếu không, chúng tôi sẽ chết chùm vì bom rồi. Càng về trưa, chiến sự càng ác liệt. Bộ binh địch tuy không vào nhưng cường độ pháo và rốckét thì mỗi lúc một gia tăng. Lại có thêm mấy đồng chí hy sinh và bị thương vì pháo và đạn 20 ly từ trực thăng.

Tiểu đoàn ra lệnh: "Bằng giá nào cũng phải giữ cho bằng được địa bàn đã đứng chân. Nếu để mất, chúng ta sẽ phí phạm xương máu đồng đội và đồng nghĩa với việc thu hẹp vùng giải phóng". Bởi vì, thế của ta và địch lúc này là thế "da báo", đan cài nhau. Vùng giải phóng bị thu hẹp có nghĩa là vành đai của chúng được mở rộng. Sẽ bất lợi cho ta!

Chúng tôi lại phạm một sai lầm trong nhận thức và chủ quan trong tư tưởng chỉ đạo. Đã đánh giá sai bản chất xảo quyệt của kẻ địch nên phải trả giá.

Ngay đêm ấy, cấp trên ra lệnh chỉnh đốn tư tưởng, rút kinh nghiệm. Đây là bài học xương máu về sự chủ quan, ảo tưởng. Đối với kẻ địch, ta chỉ có thể nói với chúng bằng súng đạn mà thôi! Đêm đó, chúng tôi chuyển vị trí chống càn sang ấp bên cạnh, sau khi đã chôn cất tử sỹ và khiêng cáng thương binh ra bưng để du kích địa phương chuyển lên cứ của trung đoàn.

Liên tiếp trong những ngày sau đó, chúng tôi phải chống càn, đánh bật các đợt phản kích lấn chiếm của địch. Thế trận giằng co và ngày một ác liệt. Chúng tôi thương vong khá nhiều. Cấp trên phải điều động một số đồng chí ở các đại đội trực thuộc như vận tải, trinh sát, quân y...bổ sung cho các đại đội bộ binh để có thêm lực lượng đánh địch. Lúc này không có quân từ miền Bắc bổ sung. Tôi chính thức thôi, không làm y tá nữa mà chuyển về chiến đấu trong chiến dịch này. Một số đồng chí trinh sát ở D bộ (Tiểu đoàn bộ) cũng được điều xuống trực tiếp chiến đấu ở các đại đội bộ binh.

Hôm ấy, tôi và Nguyễn Văn Hồng (liên lạc đại đội), quê ở thị trấn Triệu Sơn, Thanh Hoá được bố trí chốt một công sự . Khoảng hơn 8 giờ sáng, sau những đợt pháo kích dữ dội, địch cho máy bay dội bom. Lần này, chúng thay đổi chiến thuật là dội bom trước khi cho bộ binh tràn vào. Sau trái khói điểm từ một chiếc OV10 bắn xuống mấy chiếc A37 bổ nhào. Tôi đứng trong công sự ngước nhìn lên, thấy những trái bom tròn như quả bóng, đen trùi trũi, lao xuống. Tôi ngồi thụp ngay xuống hét to: "Bom rơi ngay chỗ chúng ta!" Liền đó, chỉ nghe huỵch huỵch mấy tiếng (bom nổ quá gần không nghe được tiếng), hơi bom quạt thốc vào hầm như cơn lốc. Công sự chúng tôi rung lắc dữ dội. Đất rơi xuống rào rào, thình thịch. Tôi vừa thụt đầu vào dưới nắp hầm, chợt hú…t... phịch! Một mảng lớn quăn queo của cái đuôi bom, cắm ngay vào chỗ tôi vừa mới rút đầu vào. Hú vía! Nếu chậm một giây thôi, cái đầu tôi đã nát bét (kinh nghiệm cho hay là lúc nào thấy bom lao xuống tròn như quả bóng thì đó chính là bom rơi đúng ngay vị trí của mình. Nếu thấy hình bom dài thì bom sẽ rơi xa). Một trong những trái bom ấy rơi trúng ngay ngôi nhà mà trong đó có mấy đồng chí anh nuôi của đại đội đang trú ẩn cùng với toàn bộ soong, nồi, thực phẩm, ba lô, đồ đạc của mọi người. Khói tan, nơi ấy chỉ còn một hố bom lớn, sâu hoắm. Tối hôm ấy, sau trận đánh, chúng tôi đã cố gắng tìm kiếm nhưng không thể nào tìm thấy di hài của các đồng đã chí hy sinh vì trái bom ấy. Họ đã biến thành tro bụi!

Sau các đợt không kích và và pháo kích dữ dội, bộ binh địch bắt đầu tràn vào. Chúng tôi, những tay súng còn lại, tập trung hoả lực bắn vào những chỗ co cụm và tiêu diệt những tên gần nhất. Những tên sống sót rú lên, chạy bật trở ra. Lại bom, pháo. Kẻ địch không ngờ mật độ bom pháo dày dặc như vậy mà chúng tôi vẫn sống sót được... Ngày hôm đó, chúng chỉ dùng bộ binh phản kích duy nhất một lần. Chủ yếu chỉ dùng hoả lực để khống chế, hòng tiêu diệt chúng tôi.

Giao tranh ngày càng ác liệt. Địch quyết tâm đánh bật chúng tôi ra khỏi địa bàn đứng chân. Chúng tôi quyết tâm bám trụ đến cùng. Nhiều đồng chí ở trung đội trinh sát D8 là những người đang học đại học năm thứ nhất, thứ hai, khoẻ mạnh, đẹp trai, thông minh. Vậy mà sau chiến dịch này, các anh lần lượt hy sinh hầu hết. Trong những ngày cuối của chiến dịch bảo vệ Hiệp định Paris chỉ còn lại anh Nguyễn Thuấn (quê Đồng Lộc, nhà anh gần Ngã Ba Đồng Lộc) nguyên là lính đặc công (đại đội 25) sau đó bổ sung về trinh sát D8. Hết chiến tranh, Thuấn xuất ngũ về địa phương; nay là thương binh 3/4 và đang sinh sống ở quê.

Ngày 01 tháng 2 năm 1973, đại đội 2 - D8 chúng tôi di chuyển chiến thuật đến Tân Phú. Trận đánh hôm ấy, tôi và Nguyễn Xuân Â. (tên viết tắt) quê Xuân Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh ngồi chung một công sự. Ngoài khẩu B40 ra, trận này, tôi giữ thêm khẩu AK của một đồng chí bị thương đi viện. Tối hôm trước, trung đội bố trí chỗ đào công sự sát bờ tre gần góc của một khu vườn. Theo kinh nghiệm chiến đấu, tôi bảo Â: "Cậu nghe tớ, ta đào công sự dịch lên phía trước cách bờ tre chừng 15 mét dưới mấy luống khổ qua (mướp đắng) kia. Nơi này, có phần nguy hiểm nhưng sẽ rất bất ngờ đối với bọn địch. Còn mình lại được an toàn hơn trước bom, pháo và trực thăng vì các loại này thường bắn từ bờ tre trở vào. Khi bộ binh địch vào, chờ cho chúng đến sát công sự mới nổ súng và giữ xác lại thì sẽ không việc gì." Â. nghe tôi. Chúng tôi đào công sự chiến đấu vào dưới rãnh của luống khổ qua rồi nguỵ trang cẩn thận.

Bảy giờ sáng, địch gọi đại bác từ các căn cứ Đức Hoà, Hậu Nghĩa, Hiệp Hoà nã cấp tập vào trận địa chúng tôi. Lửa khói mù mịt. Các bờ tre bị pháo cày nát, đã có một số công sự trúng đạn, anh em đã hy sinh. Trực thăng quần đảo sát ngọn tre, quạt tung những gì có trên mặt đất, nhằm phát hiện công sự của chúng tôi. Phía tiền duyên, địch đã bắt đầu dàn thế trận. Dứt pháo, chúng nổ súng tấn công ngay vào đại đội 1. Các đồng chí bên đó dũng cảm bắn trả quyết liệt. Bọn địch, lớp chết, lớp bị thương, số còn lại vội tháo chạy trở ra, tiếp tục gọi pháo chi viện. L19 vè vè rồi bất chợt phóng trái khói chỉ điểm. A37 liền lao xuống ném bom. Phía đại đội 1, khói lửa từ những ngôi nhà bốc lên mù mịt. Trước mặt tôi và Â. lúc này có khoảng 8-9 tên, mũ sắt sùm sụp đang bí mật tiếp cận vào sát mấy luống mướp đắng. Tôi ra hiệu cho Â. chờ thời cơ thuận lợi nhất mới nổ súng. Nếu đơn độc chỉ một công sự bắn thì sẽ bị lộ và nhất định sẽ bị khống chế, tiêu diệt. Bọn địch sẽ dùng M72 (một loại hoả tiễn vác vai) sẽ đánh bật công sự chúng tôi ngay. Phía đại đội 1, sau phi vụ bom ấy, bọn lính tràn lên bắn dữ dội và ném lựu đạn vào các công sự phía trước. Tôi đánh mắt sang đó thấy mấy tên lính lôi dưới hai công sự của anh em mình lên bốn đồng chí. Có hai người đã hy sinh. Hai đồng chí bị thương nặng. Chúng bắn luôn. Tốp lính trước mặt tôi chẳng để ý gì chỗ luống mướp đắng, chỗ chúng tôi ngồi. Chúng đang dán mắt về phía đại đội 1 mà không ngờ được chúng tôi ở ngay cạnh chúng. Chờ tiếng súng nổ rộ, tôi ra hiệu cho Â. Cả hai đồng loạt xả đạn. Tôi thấy có những thằng ôm súng nhảy dựng lên rồi mới đổ sấp xuống giống như cảnh đóng phim.

Không thấy tên nào chạy trở ra, chúng đã chết hết. ở cự ly 4-5 mét với hai khẩu AK đồng loạt nổ, chúng không thể nào thoát được!

Tuy nhiên, hình như bọn lính ở bên ngoài phát hiện thấy chúng tôi nên tập trung hoả lực dồn dập bắn vào mấy luống mướp đắng nơi tôi và Â. Cả hai ngồi thụp xuống. Giàn mướp đắng đổ sụp, che hẳn công sự, tạo thành một kiểu nguỵ trang tự nhiên. Nhờ đó, chúng tôi không bị phát hiện. Tôi nói với Â: "Nếu bây giờ, M79 hoặc cối rơi trúng miệng hầm thì cả hai cùng chết . Không thì yên tâm". Â. hoang mang, cậu ta bảo tôi: "Rút thôi Sơn ơi!". Tôi trừng mắt: "Mày có điên không?" Â. rên rỉ: "Nằm đây thì chết". Tôi bảo: "Chẳng thà chết ở đây. Nếu chúng vào thì cả hai cùng ném lựu đạn rồi xông lên bắn rồi cùng nhau hy sinh. Nếu địch không phát hiện ra thì sẽ sống!". Cậu ta không nghe, cứ nằng nặc đòi "tróc" (rời bỏ) công sự, chạy, trong khi phía trước mặt khoảng 50 mét là bộ binh địch nằm dày đặc; trên đầu trực thăng bay sát ngọn tre, sẵn sàng nhả đạn vào bất cứ chỗ nào; phía sau, pháo bắn cấp tập. Tôi nhìn xoáy vào mặt Â. nói: "Mày chỉ cần rục rịch trườn lên khỏi công sự là tao bắn ngay chứ không đợi để trực thăng hay bộ binh địch xử mày". Â. im lặng. Tôi mãi dõi mắt quan sát địch phía trước. Chúng lại tổ chức tấn công vào phía đại đội 1. Tình thế cực kỳ gay go, ác liệt. Bộ đội ta phía ấy chống trả quyết liệt nhưng vì bộ binh địch quá đông và hoả lực rất mạnh nên chúng đã lần lượt đánh chiếm thêm một số công sự nữa. Cũng may lúc ấy, từ phía sau, cối 82 ly của ta bắn lên trước mặt đại đội 1, chỗ bọn lính đang co cụm. Chúng vội vã giạt ra rồi tháo lui cùng những tên chết và bị thương. Khoảng 14 giờ 30, bất ngờ, địch gọi pháo giã cấp tập vào trận địa. Đồng thời, các loại súng bộ binh của chúng cũng đồng loạt xả đạn vào chúng tôi trong màn khói đỏ phân tuyến (lúc đánh nhau, bọn địch ném trái khói đỏ phân chia ranh giới giữa ta và chúng để trinh sát L19 và trực thăng chỉnh bom pháo, tránh bắn lên đầu chúng). Qua màn khói đỏ ấy, tôi thấy bọn địch tháo chạy rất nhanh ra khỏi vị trí của chúng và rút dần về phía tiểu khu Hậu Nghĩa. Trên đầu chỉ còn trực thăng quần đảo nhưng chúng đã bốc lên cao. Tôi chui xuống. Â. vẫn ngồi đấy với gương mặt đầy căng thẳng, và sự im lặng đáng sợ. Một ý nghĩ loé lên trong đầu tôi: "Trời! Lúc nãy, mình doạ bắn hắn, lợi dụng lúc mình bận quan sát địch không để ý, mà hắn liều lĩnh, xử mình trước rồi "tróc" công sự, thì cả hai cùng chết oan uổng!" Tôi chợt rùng mình! Nhưng không dám nói với cậu ta ý nghĩ ấy. Cũng may, bọn địch rút sớm, nếu không, tình huống ấy rất có thể xẩy ra. Tôi bảo Â: "Tụi lính rút rồi! Vậy là thoát. Nếu mày không nghe tao thì bây giờ làm sao còn cả hai thằng". Hai tay Â. nắm chặt lấy tay tôi: "Cảm ơn mày! Nếu không có mày, chắc tao đã chết rồi". Sau trận ấy, tôi kể lại cho mọi người nghe, ai cũng bảo: "Cậu nói đúng, lúc hoảng loạn, rất có thể nó làm liều để thoát một mình!?".

    Cuối năm 1976, Â. phục viên. Một thời gian sau khi về địa phương, làm công an xã. Nghe nói cậu ta "oách" và được việc lắm nhưng hay làm khó dễ dân. Có một lần gặp Â. (những năm 80), tôi nửa đùa, nửa thật: "Nghe nói mày hay làm khó dễ dân lắm phải không? Đừng làm bộ. Ngày xưa chiến đấu ở chiến trường mà "to mồm" được như hôm nay thì chúng tao được nhờ". Hắn chỉ gãi đầu cười. Đã lâu, tôi không gặp Â. nghe nói cậu ta đưa gia đình vào Tây Nguyên, định cư trong đó rồi...

   Tôi còn nhớ, phía sau ấp, chỗ chúng tôi đứng chân chống càn, có một cái ruộng lớn và sâu, vừa trồng lúa vừa nuôi cá tự nhiên. Ngày hôm đó, nhiều trái pháo rớt vào ruộng nên cá chết hết. Cá nhiều đến nỗi, chỉ cần thò tay xuống là chạm phải một lớp cá chết đè lên nhau chừng 20 cm trên mặt bùn. Tôi nhặt đầy 2 bao tải, toàn cá lóc, cá sặt, cá trê...Nhưng, vì đại đội hy sinh mất 4 đồng chí và 5 đồng chí khác bị thương nên chúng tôi phải đổ bớt đi cho nhẹ. Tuy nhiên vẫn phải cố gắng mang theo để đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt vì thực phẩm đã cạn.    Tôi được giao giữ hoả lực B40 ngay sau một thời gian bổ sung về D8 (Tiểu đoàn . Khẩu B40 mà tôi đang giữ đã qua tay nhiều đồng chí, họ đã lập được nhiều chiến công xuất sắc; đã từng bắn cháy nhiều xe tăng, tàu chiến, phá huỷ nhiều lô cốt và tiêu diệt nhiều bộ binh địch. Nhưng hầu hết các chủ nhân của nó trước đó đã hy sinh hoặc bị thương. Tôi biết, giữ loại hoả lực này là hết sức nguy hiểm. Chỉ cần bắn một trái là lộ mục tiêu ngay. Bởi khi bắn, khói trắng trùm lên cả một vùng. Bọn địch khiếp sợ B40 nên khi tác chiến, chúng tìm mọi cách tiêu diệt bằng được loại hoả lực lợi hại này. Lúc này, tôi đang được chi bộ tiếp tục thử thách để chuẩn bị kết nạp Đảng. Tôi được công nhận đối tượng Đảng từ tháng 5 năm 1972 và đã làm hồ sơ, nhưng vì bị thương, đi viện… Sau đó lại chuyển sang đơn vị khác nên gián đoạn, do vậy vẫn chưa có cơ hội kết nạp. Tôi vui vẻ nhận vũ khí, mặc dù bấy giờ tôi rất nhỏ con, sức vóc yếu hơn rất nhiều so với các đồng chí khác.

    Những ngày tiếp theo, chúng tôi liên tục chịu đựng các đợt càn quét lấn chiếm của Sư đoàn 25 nguỵ với nhiều tổn thất và thương vong khá nặng nề.

    Tôi có một kỷ niệm đau buồn trong chiến dịch này. Đó là sự hy sinh của đồng chí Lê Văn Tuỳ, quê ở Cổ Đạm, Nghi Xuân, Hà Tĩnh (hồi đó cậu ta nói với tôi là ở Xuân Hoa). Hôm đó là ngày mùng 3 tháng 2 năm 1973, địch lại tổ chức phản kích. Ta đánh bật trở ra, chúng lại điệp khúc cái công thức cũ rích là gọi máy bay dội bom và nã pháo dữ dội vào trận địa chúng tôi. Gần trưa, chiến sự bỗng im ắng. Trận ấy,tôi và Tuỳ chung một công sự. Tôi giữ B40 nên đứng cửa sau, Tuỳ AK, đứng cửa trước. Nghe im lặng, Tuỳ nhô đầu lên quan sát địch trước mặt mà không hề để ý phía trước bên phải. Bỗng "đòm...!", một tiếng súng mồ côi khô khốc vang lên từ phía ngôi nhà  ấy, cách chúng tôi chừng 50 mét. Tôi chợt nghe Tuỳ "hự" một tiếng nhỏ, rồi ngồi thụp xuống trong hầm. Tôi hỏi: "Gì vậy Tuỳ?". Không có tiếng đáp. Tôi khom lưng nhìn xuống. Trời! Một dòng máu chảy tràn trên mặt Tuỳ. Tôi lao đến. Tuỳ đã tắt thở! Thì ra, mải quan sát địch phía trước, không để ý, một tên lính đã bí mật bò vào nhà, kê súng lên cửa sổ ngắm vào mặt Tuỳ, bóp cò. Viên đạn AR15 xuyên từ hõm mũi ra sau gáy. Cậu ta chết tức khắc, không nói với tôi được câu nào. Tôi kéo người đặt Tuỳ nằm cho thẳng dưới hầm, vuốt mắt rồi bắt hai tay lên bụng. Lần này, chỉ có tôi và Tuỳ nên tôi để anh nằm thẳng được chứ không như hồi tháng 5/1972, lúc anh Chương hy sinh phải để ngồi dựa vào thành hầm. Tôi biết, ngày nhập ngũ, Tuỳ đã có một đứa con trai vì có lần cậu ta kể với tôi. Cậu con trai của Tuỳ năm nay chắc đã 35 hay 36 tuổi rồi!? Đêm đó, mọi người phải dỡ nóc hầm mới đưa được Tuỳ lên vì Tuỳ đã cứng như khúc gỗ. Trước khi mai táng, chúng tôi dốc ba lô ra. Tuỳ còn 2 lạng mỳ chính mang vào từ hồi ở Bố Trạch, Quảng Bình. Chúng tôi ghi địa chỉ, ngày giờ hy sinh vào giấy rồi bỏ vào lọ thuỷ tinh, nút chặt lại buộc nilon bên ngoài, giắt vào túi áo, cùng với mỳ chính, dao găm, bi đông, túi thuốc cá nhân... Tất cả được chôn theo. Không rõ giờ đây, hài cốt Tuỳ đã được đưa vào nghĩa trang hay chưa? Đã 33 năm có lẻ!...

 Cán bộ tiểu đoàn lần lượt hy sinh gần hết. Cán bộ đại đội thay thế. Tương quan lực lượng giữa ta và địch ngày càng chênh lệch. Danh sách thương vong ngày một dày thêm. Theo lệnh cấp trên, chúng tôi vẫn buộc phải bám trụ, giữ đất, giành dân. Tuy nhiên, đất thì bom cày đạn xới hoang tàn. Còn dân thì chạy hết vào các vùng địch chiếm đóng. Đối với chúng tôi, Tân Phú trở thành một bãi chiến trường xơ xác đạn bom với những tổn thất nặng nề không thể bù đắp. Hình ảnh ấy mãi in sâu trong ký ức của mỗi người lính C2, D8, E 271 chúng tôi.

    Trận đánh cuối cùng của chiến dịch bảo vệ Hiệp định Pari trong đợt 1 vào ngày 20 tháng 2 năm 1973. Như vậy là gần một tháng trời bám trụ, chúng tôi dốc toàn lực để đánh trận cuối cùng. Ngày hôm đó cũng như mọi hôm, địch lại nống ra thăm dò rồi dùng bom pháo, trực thăng khống chế, hòng tiêu diệt chúng tôi. Liên tiếp những trận phản kích của địch mỗi khi chúng bị đánh bật ra là liên tiếp các phi vụ oanh tạc của chiến đấu cơ AD6 và A37, F5… cùng những trận mưa pháo và cối 81 ly của địch. Tôi đã có nhiều kinh nghiệm bắn hoả lực B40. Trước khi bắn, lợi dụng địa hình rồi vận động ra khỏi công sự, chọn vị trí bắn thích hợp, nhắm vào chỗ co cụm của địch, nổ súng rồi nhanh chóng ôm B40 lăn mấy vòng, trườn nhanh trở về công sự để tránh hoả lực địch phản kích. Nhờ vậy, tôi tránh được thương vong. Đại đội tôi hy sinh thêm 6 người trong đó có anh Trọng (quản lý đại đội), quê Nam Đàn. Trung đội trinh sát D8 phối thuộc với chúng tôi hy sinh chỉ còn lại 3 người. Tối hôm đó, chúng tôi cáng thương binh ra bưng. Trinh sát dẫn đường, lại đụng phải ổ phục kích của địch. Ba đồng chí trinh sát còn lại hy sinh luôn. Mấy đồng chí bị thương nằm trên cáng cũng chung số phận. Số còn lại phải mở đường máu để ra cứ.

    Trở ra bưng Tân Phú, sau đó đơn vị rút về Hội Đồng Sầm thuộc Mỹ Thạnh Đông bên kia sông Vàm Cỏ. Nơi đây là căn cứ mà chúng tôi ở lại để củng cố và chiến đấu trong một thời gian khá dài...

    Có thể nói, chiến dịch bảo vệ Hiệp định Pari hết sức ác liệt và gian khổ không kém gì chiến dịch "Nguyễn Huệ", “Mùa hè đỏ lửa” năm 1972. Quy mô, tần suất và cường độ bom đạn cùng các trận càn còn lớn hơn năm Bảy hai. Quân số thương vong cũng không hề nhỏ. Tôi và một số ít các đồng chí khác thoát chết trong các chiến dịch trên là điều nằm ngoài sự hình dung.

    Cục diện chiến trường sau Hiệp định Paris có nhiều thay đổi. Tuy ở địa bàn chúng tôi ác liệt như vậy nhưng một số chiến trường khác, ta mạnh hơn nên buộc địch chấp hành các điều khoản của Hiệp định khá nghiêm chỉnh. Đặc biệt ở quân khu 8, 9, lúc bấy giờ, theo chủ trương và sáng kiến của tướng tư lệnh Lê Đức Anh (sau này là Chủ tịch nước), ta chủ động tấn công, tranh thủ giành dân, chiếm đất, mở rộng vùng giải phóng làm cho kẻ địch rơi vào thế bị động. Chúng tố cáo ta phá hoại Hiệp định. Tuy nhiên, khi phái đoàn Liên hợp quân sự Bốn bên đến thị sát thì ta đã cắm cờ ở những vùng đó; đặt chính quyền Sài Gòn trước việc đã rồi...

    Chúng tôi trở lại Ba Thu rồi hành quân về gần sóc “Chêếch” và ở lại đây trong một thời gian khá dài để nhận thêm quân bổ sung, củng cố và huấn luyện, chuẩn bị chiến dịch mới. Thời gian này, tôi có nhiều kỷ niệm khó quên. Chúng tôi đóng quân trong phum (làng) có ngôi chùa Miên rất lớn. Ngôi chùa toạ lạc trên khuôn viên rộng rãi, thoáng đãng. Có một cái giếng trong vắt và mát lắm. Hàng ngày, chúng tôi thường ra giếng tắm. Cứ mỗi lần, sãi ở ngôi chùa ra tắm, tôi cũng ra tắm với họ (ở Campuchia, độ tuổi từ 10,12 trở lên là đã "xuống tóc" (cạo trọc đầu) để đi ở chùa rồi. Bên đó đi chùa như ta đi nghĩa vụ quân sự vậy. Tôi nhờ mấy chú sãi kỳ lưng, múc nước, rồi dội cho mình gội đầu. Tôi hoàn toàn không ngờ hành động của mình đã vô tình vi phạm chính sách quốc tế. Bên đó, sãi được mọi giới trong xã hội tôn trọng lắm. Ông bà già sáu, bảy mươi tuổi cũng phải quỳ phủ phục xuống chắp tay vái chú sãi 10,12 tuổi mỗi khi họ đi cầu thực. Trong chùa, cây cổ thụ rất nhiều, toả bóng mát quanh năm. Các loại chim cu, sáo, chèo bẻo... làm tổ ở đấy nhiều lắm. Tôi vốn bắn AK rất "tin" (chính xác). Cu hoặc sáo đậu chót vót trên các đỉnh tháp của ngôi chùa, chỉ cần nâng súng lên vai, không cần điểm tựa, đưa vào khe ngắm, siết cò là chim lăn lông lốc xuống. Không mấy con thoát chết khi đã lọt vào khe ngắm AK của tôi. Tôi đã bắn hết khá nhiều chim của ngôi chùa này. Cho đến một hôm, ban chỉ huy đại đội cho biết: "Lục thum" (ông lớn, sãi trưởng) trong chùa phản ánh: "Công tóp Việt Nam" (Bộ đội Việt Nam) bắn chim của chùa và hạ nhục sãi trong chùa(!?)” (bắt kỳ lưng, dội nước gội đầu...) Anh Cầu, chính trị viên đại đội cho gọi tôi lên phê bình, rồi bắt viết bản tự kiểm điểm. Trong cuộc họp, đại đội đưa tôi ra kiểm điểm, nhắc nhở. Sau đó cùng anh đến chùa, công khai xin lỗi sư sãi. Lần ấy, lẽ ra, sau các chiến dịch chiến đấu từ mùa hè 1972 đến đó, chi bộ sẽ tổ chức kết nạp tôi vào Đảng. Nhưng vì vướng phải khuyết điểm ấy nên lại tạm đình hoãn, để… thử thách thêm. Kỷ niệm ấy là bài học đủ để tôi ghi nhớ suốt đời. Sau này, khi tìm hiểu về phong tục và tôn giáo Campuchia, tôi mới biết mình đã phạm một sai lầm lớn. Rất may, là các vị sãi ở chùa này cũng rất độ lượng. Họ thông cảm cho chúng tôi. Vì thực tế, họ đã hiểu rõ bản chất của bộ đội Việt Nam. Nếu không, tôi và đơn vị chắc chắn phải chịu kỷ luật nặng. Tôi đã vô tình xúc phạm điều thiêng liêng và tối kỵ của họ. Vi phạm chính sách quốc tế và tôn giáo nước bạn. Tôi chợt nghĩ, nếu họ kiện, không biết hậu quả dành cho tôi sẽ đến mức nào?!

 Một bài học lớn cho tôi và tất cả mọi người. Câu tục ngữ: "Ai nên khôn mà chẳng dại một đôi lần" với tôi, lúc này mới sâu sắc và thấm thía làm sao!

    ... Chúng tôi được nhận thêm quân bổ sung và học tập chính trị, củng cố tư tưởng và quyết tâm để chuẩn bị tiếp tục xuống chiến trường vào trận mới. Chính nơi đây, chúng tôi lại ghi thêm một kỷ niệm đau buồn, một tổn thất to lớn của Trung đoàn.

    Hôm ấy là ngày 16 tháng 4 năm 1973, mười bốn đồng chí ở các tiểu đoàn và đơn vị trực thuộc, có nhiều thành tích xuất sắc trong chiến đấu, được cử đi dự Đại hội chiến sỹ thi đua của Trung đoàn ở đất bạn (Campuchia). Trên đường về đơn vị, họ đi ngang qua đại đội chúng tôi. Lúc ấy đã gần 12 giờ trưa. Chúng tôi vừa ăn xong. Trời nắng gắt, họ ghé vào xin nước uống. Tôi nhận ra ngay Hà Duy Hưng (Tiến Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh), vốn học cùng lớp 9, ngồi chung bàn và nhập ngũ cùng ngày với tôi. Vào chiến trường, cậu ta chiến đấu rất dũng cảm. Đã được kết nạp Đảng và đề bạt làm trung đội trưởng. Tôi ôm chầm lấy Hưng rồi mời tất cả mọi người vào nghỉ, uống nước. Tôi hỏi: "Các anh đã cơm, nước gì chưa?" Họ bảo: "Chưa!". Chúng tôi mời họ nghỉ lại, ăn cơm, chiều đi tiếp. Vả lại đi sớm quá, dễ gặp địch phục kích hoặc bị trực thăng đổ chụp. Anh nuôi nhanh chóng đổ gạo vào nồi, nhóm bếp, thổi cơm. Thức ăn đã có sẵn. Một lúc sau, cơm chín, mọi người ăn uống và nói chuyện vui vẻ. Tôi rất mến Hưng vì cậu ta đẹp trai, học giỏi, tính cách có phần ga lăng, chữ viết đứng và đẹp như chữ viết giấy khen, nét chữ rất láu. (Hưng là con của thầy giáo Hà Duy Mân, cán bộ phòng Giáo dục Can Lộc hồi đó. Tôi bắt chước tuồng chữ của Hưng nên bây giờ chữ viết của tôi cũng na ná như chữ của Hưng). Khoảng 13 giờ 30 phút, các đồng chí ấy rục rịch đòi đi. Họ bảo phải gấp rút xuống chiến trường vì chiến dịch sắp mở. Trong số 14 người ấy ngoài Hưng ra còn có Lê Văn Chung (Thanh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh) cũng nhập ngũ với tôi, làm y tá, được trung đoàn gửi kèm xuống, mang nhiều cơ số thuốc, bổ sung cho đơn vị chiến đấu; Một đồng chí thông tin mang máy vô tuyến 2W cũng được gửi theo. Còn lại là các đồng chí Chiến sỹ thi đua của các tiểu đoàn chiến đấu 7,9 và các đại đội trực thuộc, sau khi bế mạc hội nghị, trở về đơn vị của mình. Chúng tôi can ngăn nhưng họ không nghe và cương quyết ra đi...

    16 giờ 30. Bỗng có mấy tiếng nổ lớn của mìn clây mo rồi tiếng súng AR15, tiếng lựu đạn, phóng lựu M79 dồn dập khoảng hơn 20 phút, từ hướng bưng Đức Huệ dội lại. Linh cảm mách bảo chúng tôi: Các đồng chí ấy bị địch phục kích rồi! Không một tiếng súng AK đáp trả. Chúng tôi nhìn nhau và đều hiểu: "Thế là hết!".

    Tối hôm đó, điện của Trung đoàn báo tin, cơ sở cách mạng của ta cho hay: Đại đội thám sát 773 của tiểu khu Hậu Nghĩa đã phục kích bằng mìn rồi dùng súng bắn chết 13 trên tổng số 14 đồng chí. Duy nhất, chỉ một đồng chí thông tin may mắn thoát được. Bỏ máy lại (mọi người cũng không hiểu vì sao cậu ta lại thoát chết!). Cũng tối hôm đó, đài Phát thanh Sài Gòn (nguỵ) loan tin "Quân lực Việt Nam cộng hoà đã hạ sát một trung đội ác ôn Việt cộng, thu nhiều chiến cụ cùng chiến lợi phẩm" (qua giấy tờ, huân, huy chương và quà tặng nên chúng biết rất rõ) đồng thời quyết định khao thưởng cho đại đội thám sát ác ôn 773 này.

 Nỗi đau tắc nghẹn. Trung đoàn mất 13 đồng chí có nhiều chiến tích trong các chiến dịch. Đó là nguồn cán bộ cốt cán có năng lực trong tương lai. Một tổn thất to lớn đối với trung đoàn. Còn tôi, có nỗi đau riêng. Tôi mất đi hai ngươi đồng hương thân thiết. Nhất là Hà Duy Hưng người bạn học, ngồi cùng bàn, cùng lớp…

Cho đến bây giờ, di cốt các liệt sỹ đó, đã có ai tìm được và đưa vào nghĩa trang nào chưa? Tôi cũng không được rõ. Tôi đã mấy lần đến nhà ông Hà Duy Mân, ông cụ thân sinh Hà Duy Hưng, đã gần tám mươi, tóc bạc như cước. Ông đón tôi và cho biết vẫn chưa tìm thấy mộ Hưng. Tấm lưng trần của người cha mỏi mòn, khắc khoải trông đợi tin con, giờ đã còng rạp hẳn xuống. Đã hai lần, tôi viết thư cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Long An và Huyện đội Đức Hoà, Đức Huệ nhờ họ tìm tung tích của các liệt sỹ hy sinh trong trận ấy, nhưng đến nay vẫn biệt vô âm tín...

 ... Chúng tôi trở lại Hội Đồng Sầm, sau đó về Gò Nổi. Nhiệm vụ lúc này là không tổ chức đánh lớn như hồi 1972 hay đợt bảo vệ Hiệp định Paris vừa qua....Đánh tàu, tập kích hoặc vào ấp chiến lược để làm binh vận, tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho nhân dân. Cũng có khi phải tổ chức chống càn, vì bọn địch thường càn ra bưng để thăm dò nhằm tiêu diệt lực lượng ta.

    Sau chiến dịch bảo vệ Hiệp định Pari, khi chúng tôi rút đi rồi, bọn địch ở đây ngoan cố lấn chiếm, đóng thêm mấy cái bốt nữa. Gò nổi, An Ninh có bốt An Sơn, bốt Rạch Gần. Tân phú có bốt Rạch Nhum bên bờ sông Vàm Cỏ. v.v... Mục đích đóng các bốt đó là để ngăn chặn ta từ xa. Chúng tôi được giao nhiệm vụ phải nhổ cho bằng được chúng. Nhưng chưa có thời cơ. Bởi vậy, thường phải vác cối 81li đi tập kích vào bốt hoặc phục kích đánh nhỏ lẻ khi bọn địch nống ra thăm dò. Cách đánh của chúng tôi là ba đến bốn người, sáng sớm, vào sát đồn, bí mật theo dõi địch, chờ cho chúng kéo ra rồi vừa bám vừa rút dần. Đến một địa hình nào thích hợp, nhắm vào tốp đi đầu bắn một vài trái B40 cùng mấy loạt AK vào đội hình địch, tiêu diệt một số tên rồi tháo chạy về cứ. Làm như vậy, kẻ địch hoang mang, không dám càn ra.

    Sau một quá trình điều nghiên, tiểu đoàn quyết định giao cho chúng tôi tập kích bằng hoả lực vào bốt Rạch Nhum.

    Hôm ấy, tôi và Nguyễn Hữu Dĩnh (Sơn Thịnh, Hương Sơn) bắn B41.Vũ Duy Tòng (Diễn Châu) B40, Chu Văn Lương (Quỳnh Lưu) và Đào Xuân Nhuận (Đức Thọ) bắn trung liên. Phạm Khắc Đính, Nguyễn Viết Kỷ (Can Lộc) và  Nguyễn Văn Tý (Yên Thành) cối 60 ly.

    Đường tiềm nhập vào bốt phải vượt qua một quãng bưng chừng 300 mét trống trải. Nước sâu đến bụng. Liều phóng B41, B40 phải dùng ni lon gói chặt, buộc kín khỏi ngấm nước. Mọi người đội cỏ lên đầu để nguỵ trang. Súng và đạn phải dìm xuống nước rồi kéo theo người. Chúng tôi tổ chức tập kích ban ngày để tạo yếu tố bất ngờ. 13 giờ, tất cả lấy lại đồng hồ và xuất phát, hẹn đúng16 giờ nổ súng. Chúng tôi chia thành ba mũi để tránh bị lộ mục tiêu. Đồng bưng trống trải. Tên lính gác trên chòi mải nhìn ra hướng bờ sông mà không để ý gì phía chúng tôi. Chúng hoàn toàn không ngờ bị tập kích từ phía sau. Chúng tôi nhích từng tấc một. Chỉ khoảng trên 300 mét mà phải vận động mất gần ba tiếng đồng hồ mới vào được đến chân hàng rào thứ nhất. Da bị ngâm nước lâu nên dợt ra. Tôi lợi dụng một gốc cây tràm nép vào. Phía tay phải tôi, Dĩnh và Tòng cũng đã vào đến chân hàng rào. Chúng tôi liếc nhìn đồng hồ. Còn 10 phút nữa sẽ đến giờ nổ súng. Cẩn thận, mọi người gỡ liều phóng ra khỏi bao nilon rồi lắp hết vào đuôi đạn, đặt sẵn bên cạnh để khi nổ súng là bắn hết. Khoảng cách từ chỗ chúng tôi bắn đến chỗ bọn lính chừng 80 mét.

Lúc này, nhìn vào trong sân đồn, gần đống bao cát, bọn lính, một số đang ăn uống gì đó, một số khác đang đánh bài, sát phạt nhau. Có mấy thằng đang ngồi trên bao cát, nghêu ngao ca vọng cổ...

   Chúng tôi liếc nhìn đồng hồ rồi nhìn nhau, khẽ gật đầu. Chiếc kim nhích từng nấc một. Còn mấy giây... Tôi nhấc B41 lên vai, đứng thẳng dậy dựa vào cây tràm, hướng vào sân đồn, nơi bọn lính nhốn nháo, há miệng, bóp cò (há miệng để tránh sức ép của đạn). Một tiếng nổ chói tai. Quả đạn xé không khí lao đi, cắm phập vào giữa sân. ánh chớp màu da cam và khói trùm lên. Nhiều tiếng nổ tương tự phát ra từ chỗ Dĩnh và Tòng. Tên lính gác lộn nhào từ trên mi-đo (chòi gác) xuống, trông rất rõ. Chúng tôi bắn liên tiếp vào mấy cái lô cốt đến lúc hết cơ số đạn. Tôi và Dĩnh bắn B41, mỗi người 4 quả, Tòng B40, 6 quả. Phía sau, Nhuận, Lương bắn hết 2 "nồi" (băng) trung liên, khoảng 600 viên. Đính, Kỷ và Tý cấp tập gần ba chục trái cối 60 ly vào đồn, dìm đầu bọn sống sót để chi viện cho chúng tôi quay trở về công sự. Vì vướng cỏ và bưng nước sâu quá, nên vừa bơi vừa lội. Còn khoảng gần 100 mét nữa là về đến nơi thì pháo chụp từ Hiệp Hoà bắn đến. Từng quầng lửa loé sáng trên không và tiếng nổ chát chúa. Mảnh găm xuống như mưa. Rất may là không một ai hy sinh hay bị thương gì cả. Nhưng đáng mừng hơn là vừa về đến công sự, kịp kéo lá nguỵ trang lại thì trực thăng phành phạch lao tới. Nếu chậm chút nữa thì chúng tôi chẳng còn một ai. Trực thăng sẽ bắn chết hết. Ai nấy tưởng chừng như đứt hơi vì mệt. chiếc "cán gáo" quần thảo một lúc, xả đạn 20 ly vào những chỗ nghi ngờ rồi chuồn thẳng về phía Hậu Nghĩa.

    Khi trận đánh xảy ra, có một tình huống hết sức buồn cười, mà sau đó chúng tôi mới biết. Số là, trước khi nổ súng, ở bên kia sông, anh Đinh Văn Luận, đại đội phó (quê Thanh Xuân, Thanh Chương, nay là trung tá, về hưu tại khối 12 phường Hà Huy Tập, thành phố Vinh, Nghệ An) đã trèo lên một cây cao để quan sát. Khi thấy chúng tôi bắn trúng vào chỗ bọn lính đang ngồi và mấy cái lô cốt, Luận khoái quá, quên mất mình đang ở trên cây, nên thả tay ra để hoan hô. Anh rơi từ độ cao chừng 10 mét xuống. Nhưng rất may, ở bên dưới là sình lầy, nên không việc gì. Luận bị giắt sâu xuống bùn, ngoi mãi mới lên được. Địch bị tiêu diệt gần hết. Số bị thương và sống sót hoảng loạn. Ta phá huỷ hai lô cốt và bắn sập chòi gác. Tối hôm ấy, bọn tàn quân vội vã tháo chạy bằng đường sông khỏi cái bót mới lấn chiếm.

    Hồi đó, tôi bị chứng "mề đay" hành đến khổ sở. Lúc còn ở nhà, tôi được bà ngoại chữa cho bằng nhiều loại thuốc Nam nhưng chưa khỏi. Khi vào chiến trường, do lội bưng, ngấm nước nhiều nên bị lặm, đau bụng liên tục. Lần ấy sau khi nhổ xong bốt, cơ sở cách mạng của ta ở Tân Phú ra thăm và tặng quà chúng tôi. Chú Ba và má Sáu là những người thương tôi nhất vì trong mắt họ, tôi là người nhỏ dẻ và dễ thương, lại luôn bị chứng "mề đay" làm khổ. Chú Ba chỉ vào tôi bảo: "Thằng Hai Sơn nhỏ con, ốm nhách và bịnh như vầy, tụi bây giao B41 cho nó, làm sao nó bắn?". Tôi chỉ cười. Quả thật, bắn B41 rất hại sức khoẻ. Tiếng nổ tuy không chói tai như B40 nhưng rất lớn. Chỉ cần bắn một trái là máu tai đã chảy ra rồi. Trong khi B40 phải ba trái mới chảy máu tai. Biết tôi bị chứng "mề đay", chú hứa: "Thôi được, để hôm nào tao chữa cho". Nói vậy nhưng hôm sau, thấy chú mang ra một "xị" (250 ml) rượu đế cùng một vật gì đen đen như hạt đỗ. Chú bảo: "Mày nuốt đi cùng với xị rượu này, sẽ khỏi ngay!". "Gì vậy, chú?"- Tôi hỏi. "Thì mày cứ làm như tao biểu!" - chú nói. Tôi nhắm mắt, đưa vật lạ ấy vào miệng, hớp một ngụm rượu rồi nuốt nhanh vào bụng. "Uống thêm ngụm nữa"- chú giục. Tôi làm theo lệnh chú. "Vậy là ổn rồi đó nghen!". Chú cho biết: "Đó là cái mật rắn hổ mang". Má Sáu kể: "Ngay sau khi ở bưng trở về, cả buổi chiều hôm đó, ổng tất bật đi tìm hang rắn, cuối cùng đào được con rắn đó. Thịt thì buổi tối ổng nhậu, còn mật thì sáng nay, mang ra cho mày". Điều chú nói không sai, từ đó đến nay đã 32 năm, tôi không hề bị chứng "mề đay" làm khổ nữa. Quả là thần dược!

    Trong tiểu đội, tôi và Nguyễn Viết Kỷ được má Sáu yêu quý nhất. Nhà má nghèo nhưng má thương tụi tôi lắm. Má có người con gái út (út Lan) năm đó mới chừng 17 tuổi (chúng tôi thường gọi cô út). Má biểu: "Nó ưng thằng nào thì ngày thống nhứt, tao cho không hà!". Tôi chỉ cười, nhưng Kỷ thì có vẻ quyến luyến cô nàng lắm. Thật ra thì cô gái  dễ thương. Khi ra bưng với má, thấy chúng tôi làm thịt cá rô không đánh vẩy, cô bé cười ngất, giành lấy dao và cá rồi thoăn thoắt làm, trông rất điệu nghệ, không lóng ngóng như chúng tôi. Cô bé rất mến tôi và Kỷ. Thỉnh thoảng liếc mắt, tôi thấy em lén nhìn tôi. Tôi ý tứ, rồi gán ghép cho Kỷ luôn. Kỷ khoái lắm. (Bởi hai chúng tôi làm sao có thể cùng yêu một người. Nghe ra có vẻ như là tôi... cao thượng lắm? Thực lòng tôi cũng xao động trước nhan sắc và tình cảm của em dành cho mình, nhưng biết làm sao được trong khi tôi và Kỷ lại hết sức thân nhau, không thể cùng yêu một người)...

    Hồi đó ở bưng, nước phèn nên quần áo mau hỏng. Quân trang chưa được cấp phát, chúng tôi chỉ dựa vào dân. Má Sáu nghèo nên không thể cho hết anh em trong đơn vị. Lâu lâu ra, má và em thường mua cất riêng, rồi lén đưa cho tôi và Kỷ, khi thì cái quần cộc khi thì cái áo vải "pô lin phăng" (pô pơ lin pha nilon) màu lá. Lúc này, đối với chúng tôi, đó là thứ "xa xỉ phẩm ". Những hình ảnh ấy, những ân tình sâu nặng ấy đã hơn 30 năm qua rồi, tôi vẫn khắc sâu trong dạ, luôn tự hứa và thầm nhắc với mình: Phải sống sao cho xứng đáng với tình cảm và tấm lòng trung trinh của người dân cách mạng Long An "Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc".

    Ở bưng Tân Phú, chúng tôi phải ém quân trên những bờ kinh, hai bên nước mấp mé bờ. Không thể đào công sự trú ẩn. Đêm đêm, pháo địch bắn ra bưng tràm, chúng tôi không thể mắc võng nằm được. Mà phải lội xuống bưng, be bờ, tát nước, vét bùn, sau đó rải cỏ vào rồi dùng tăng nilon lót lên để có thể ngủ. Nhiều người, đêm không may vỡ bờ be, nước tràn ngập chỗ ngủ gây sặc nước, thân thể ướt sũng như chuột lột. Nếu giăng võng nằm, pháo bắn, ngủ quên sẽ chết vì đạn pháo. Đã có nhiều đồng chí hy sinh khi đang ngủ. Đêm đạn pháo nổ, sáng mai đã chết cứng trên võng vì mảnh găm vào.Thời điểm ấy chúng tôi khát ngủ vì mất ngủ triền miên hàng tháng trời cho những chiến dịch. Một khát khao hết sức bình dị lúc ấy là ước gì có được một chỗ đất tương đối khô ráo, không có sự đe doạ của bom, pháo để trải tấm tăng nilon ra rồi vùi vào ngủ một giấc đến mấy ngày đêm liền. Vậy mà không thể có cách gì thực hiện được cái ước mơ nhỏ nhoi mà cháy bỏng ấy. Bởi mật độ bom pháo dày đặc, trực thăng quần đảo, săm soi liên miên. Rồi các trận đánh cứ nối tiếp nhau liên tục. Tôi còn nhớ cái đêm định mệnh ấy, ở bưng Tân Phú đồng chí Nguyễn Văn Ước (Diễn Châu, Nghệ An), đại đội trưởng đại đội 16 trực thuộc (cối 82 ly) đang ngủ, một trái pháo 105 ly của địch “đánh đáo” ngay chỗ nằm. Sáng ra, chúng tôi chỉ nhặt được không đầy một túi nhỏ thịt xương. Những tổn thất như thế làm cho lực lượng chúng tôi ngày một mỏng hơn...

    Sau trận đánh nhổ bốt Rạch Nhum nói trên, chi bộ thấy thời gian thử thách cùng những thành tích chiến đấu và lập trường tư tưởng của tôi không có vấn đề gì phải băn khoăn nữa, nên đã họp bất thường ra quyết nghị kết nạp tôi vào Đảng.

    Ngày mùng 1 tháng 7 năm 1973, tôi chính thức được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam. Lúc bấy giờ ở chiến trường nên lấy tên là Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam. Như vậy là sau gần hai năm phấn đấu bền bỉ, không mệt mỏi với những tháng ngày gian khổ vượt Trường Sơn và trực tiếp chiến đấu ở những chiến dịch ác liệt nhất: Mùa hè 1972 và bảo vệ Hiệp định Paris cộng với lòng kiên định và tin tưởng vào thắng lợi của Cách mạng, cuối cùng Chi bộ C2, D8, E271 (Đại đội 2, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 271) đã chuẩn y kết nạp tôi vào Đảng. Tôi nhớ mãi giây phút đồng chí Chính trị viên Nguyễn Văn Cầu, Bí thư chi bộ, đọc quyết định kết nạp và tôi giơ cao nắm tay thề dưới Đảng kỳ năm ấy. Giờ phút thiêng liêng đó như một sự ghi nhận của Đảng đối với cá nhân tôi về tinh thần yêu nước; sự trung thành với cách mạng; lòng thuỷ chung, tận tuỵ với đồng đội và sự cống hiến xương máu cho chiến thắng. Với Đảng, tôi gắng vẹn toàn chữ  Trung. Với dân tôi lo tròn chữ Hiếu. Với đồng đội, tôi tự hào đã thực hiện trọn vẹn lời thề thứ bảy của Quân đội nhân dân Việt Nam: "Trong tình thương yêu giai cấp, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng đội... lúc thường cũng như trong chiến đấu…". Tôi luôn tự hứa và thầm nhắc với mình, cần phải cố gắng hơn nữa. Không làm điều gì để phương hại đến uy tín và danh dự của người Đảng viên Cộng sản và tủi hổ vong linh những bạn bè, đồng đội đã hy sinh...ến thời điểm này (3/2005) chỉ còn hơn ba tháng nữa là tôi tròn 32 tuổi Đảng. Trong suốt 32 năm ấy, tôi tự hào thấy mình chưa bao giờ làm điều gì trái với những lời thề trong buổi lễ kết nạp ở chiến trường tuy đơn sơ mà hết sức trang trọng và thiêng liêng lúc14 giờ ngày 01/7/1973.

    Có thể nói, đó là một dấu ấn sâu đậm và bước ngoặt trong đời sống chính trị của cá nhân tôi...

    ... Chúng tôi nhận nhiệm vụ trở lại Gò Nổi để đứng chân tiếp tục đánh địch lấn chiếm. Nơi đây, chúng vừa mới đóng thêm bốt An Sơn trên lộ 8 cách đồn Lớn (Lộc Giang) chừng hơn một kilômét. Lại thêm một nhiệm vụ nặng nề và khó khăn đối với chúng tôi. Cấp trên yêu cầu buộc phải nhổ cái gai này.

    Chúng tôi cùng trinh sát đặc công, mất nhiều thời gian, ban đêm bò vào điều nghiên, thăm dò, nhằm tìm ra phương án tác chiến khả thi nhất để nhổ bốt An Sơn.

    Công việc điều nghiên phải được tiến hành vào những đêm tối trời. Vì trăng sáng, địch dễ phát hiện được. Mỗi tháng chỉ có hai dịp, thượng và hạ tuần. Sau gần hai tháng điều nghiên vất vả, chúng tôi đã nắm được cơ bản toàn bộ sự bố phòng của chúng. Xong xuôi, tổ chức lên sa bàn cụ thể và hoạch định phương án tác chiến tỷ mỉ.

    Chúng tôi nhổ bốt An Sơn vào một đêm cuối tháng 10 năm 1973. Hai mũi đột kích vào hai hướng. Tôi vào hướng đông với mũi trưởng là anh Báo (Cẩm Xuyên). Hướng đông nam mũi trưởng là anh Lưu Xuân Tiết (Hoàng Quế, Đông Triều, Quảng Ninh). Mìn ĐH10 được đặt ở những vị trí quy định như trên sa bàn. Chúng tôi người trước, người sau thành một dây. Vừa bò vừa phải dò mìn đồng thời cõng trên lưng trái mìn định hướng 10 kg, mồ hôi vã ra như tắm. Định vị xong mìn, chúng tôi bò giật lùi và cẩn thận dòng dây điện ra theo...

    ... Giờ G đã điểm. Từ hai hướng, mìn ĐH10 đồng loạt nổ dậy đất, mấy dãy hàng rào "bùng nhùng", "cũi lợn" bị thổi tung, khai thông một lối lớn. Chúng tôi xông lên. Hoả lực B40, B41, trung liên kiềm chế các các lô cốt đầu cầu. Mọi người dùng thủ pháo tung xuống những chỗ nào có tiếng la hét. Trận đánh kết thúc nhanh chóng. Bốt An Sơn bị diệt gọn. Một đại đội địch bị xoá sổ. Ta hy sinh hai đồng chí. Tôi nhớ một tình huống. Anh Trần Đức Khâm (Sơn Tân, Hương Sơn, hiện là cán bộ Viện kiểm sát Hương Sơn, Hà Tĩnh), khi trận đánh giải quyết gần xong, bỗng nghe có tiếng nói dưới hầm, Khâm nghi ngờ có bọn lính ẩn nấp ở đấy. Thay vì đánh thủ pháo xuống, sẵn AK (báng gập), anh quạt luôn một loạt xuống đó. Không ngờ, phía bên kia một tên lính còn sống sót trông thấy, liền ném một quả lựu đạn gần chỗ phát ra ánh sáng đầu nòng. Khâm không chết, nhưng bị thương. Một mảnh gang găm vào cánh tay. Phải đi viện. Đó cũng là một bài học kinh nghiệm trong tác chiến công đồn ban đêm cho chúng tôi sau này...

    ...Cuối năm 1973, bất ngờ, trung đoàn 271 nhận lệnh: Để lại một tiểu đoàn bổ sung cho bộ đội chủ lực địa phương Long An (thuộc tỉnh đội Long An). Các đại đội trực thuộc và hai tiểu đoàn còn lại, nhanh chóng hành quân ra chiến trường Quảng Đức, Bù Đăng (Bình Phước) nhận nhiệm vụ mới.

    Một cuộc chuyển quân và xáo trộn về quân số, dẫn đến sự xáo trộn về tư tưởng và tâm lý. Lúc bấy giờ, có nhiều tin đồn là Trung đoàn được điều ra Bắc để rút kinh nghiệm đánh địch đồng bằng. Chúng tôi, ai nấy đều muốn đi theo đội hình Trung đoàn. Không ai muốn ở lại chiến trường Long An. Nhưng, như một định mệnh, trung đoàn quyết định để tiểu đoàn 7 ở lại, đồng thời cử các đồng chí Lê Văn Hàn (Yên Định, Thanh Hoá), tiểu đoàn trưởng; Nguyễn Sỹ Nghi (Đức Thọ, Hà Tĩnh), Chính trị viên tiểu đoàn; Nguyễn Văn Hảo (Tiền Hải, Thái Bình), tiểu đoàn phó; Nguyễn Huy Cơ (Nam Hà), chính trị viên phó tiểu đoàn. Rất nhiều người đã bỏ đơn vị, chạy theo Trung đoàn vì cứ tưởng sẽ được ra Bắc. Các đồng chí Hàn, Nghi,  Cơ, Hảo sau giải phóng đều không ai hy sinh cả. (Đồng chí Nguyễn Sỹ Nghi, Chính trị viên tiểu đoàn 7. Hiện nay nghỉ hưu tại phường Hưng Bình, thành phố Vinh, Nghệ An).

    Tôi cũng nằm trong số anh em được điều động từ các tiểu đoàn 8, 9 và các đại đội trực thuộc bổ sung cho tiểu đoàn 7. Có thể nói, đây là một tình huống đầy khó khăn, thử thách về lập trường tư tưởng đối với những người ở lại như chúng tôi. Như vậy là tính đến thời điểm này, tôi đã có mặt và chiến đấu trong đội hình của hai tiểu đoàn 9 và 8 từ tháng 3/1972; giờ đây tôi được điều về từ tiểu đoàn 8 để bổ sung cho tiểu đoàn 7, làm bộ đội chủ lực địa phương Long An. Thực tình, lúc ấy, tôi cũng dao động, muốn đi theo Trung đoàn chứ nào muốn ở lại Long An! Tuy vậy, vì yêu cầu nhiệm vụ, chúng tôi phải chấp hành.

 Trung đoàn hành quân ra Quảng Đức. Còn chúng tôi sau đó lại vượt bưng Đức Huệ, trở lại Đức Hoà, Long An.

    Lần ấy, tôi và Vũ Duy Tòng không may bị ốm. Đơn vị hành quân xuống Gò Nổi, hai chúng tôi ở lại cứ thuộc bưng Đức Huệ. Bấy giờ đã gần Tết Nguyên đán Giáp Dần (1974). ở đấy có hai vợ chồng của một người trốn lính (không đi quân dịch cho chế độ nguỵ Sài Gòn). Bà vợ hết sức khó tính. Tuy nhiên có hai đứa cháu gái, từ chỗ sợ sệt rồi tò mò muốn xem "Việt Cộng" ra sao, đến lúc họ gần gũi và mến chúng tôi lúc nào không hay. Một cô chừng 18 tuổi ở Đức Huệ, một cô chừng 20 tuổi nghe đâu ở trên Sài Gòn, thỉnh thoảng lại ra thăm và tiếp tế cho ông chú hay cậu gì đó trốn lính. Từ khi có hai chúng tôi, các cô ra thăm ông ta thường xuyên hơn. Nhưng có lẽ đó là cái cớ để được gặp và nói chuyện với chúng tôi. Tôi và Tòng vốn thân nhau ngay từ khi mới về tiểu đoàn 7. Bởi Tòng cũng khá giống tôi về hoàn cảnh. Cả hai đang học dở cấp III thì nhập ngũ, rồi đi B (đi chiến đấu ở chiến trường miền Nam - chiến trường B). Chúng tôi yêu thích thơ văn và hay lãng mạn hoá cuộc sống gian khổ, ác liệt ở chiến trường. Lần này, tôi và cậu ta ở lại. Hầu như khoảng vài ngày thì hai cô lại ra một lần. Mỗi lần ra thì ở lại mấy hôm mới về. Hai cô gái ấy là cầu nối giữa chúng tôi với bà vợ khó tính của người trốn lính ấy. Từ chỗ là một người gần như “không thể đội trời chung” như vậy, bà ta dần dần bắt chuyện với chúng tôi. Một thời gian ngắn sau thì "bình thường hoá" quan hệ và rất gần gũi chúng tôi. Đặc biệt hai cô gái thì gần như đã "say" chúng tôi thật rồi. Họ thổ lộ: "Tiếp xúc với mấy anh "Giải phóng", tụi em thấy thật dễ thương, thật dễ gần chứ hổng phải như tụi lính "Quốc gia" (nguỵ). Mấy anh coi hiền khô hà!". Tôi và Tòng thường nhận được những món quà nho nhỏ, mỗi lần các cô ra bưng “thăm chú”.

   Một buổi tối, vào khoảng 20 giờ, chúng tôi đang ngồi uống trà và kháo chuyện với nhau trong lán dưới ánh đèn cầy (nến), bỗng đạn pháo từ Đức Huệ rít xẹt qua đầu rồi nổ cách chỗ chúng tôi chừng vài ba trăm mét. Hoảng quá, hai cô ôm chặt lấy tôi và Tòng. Tôi bảo họ: "Hãy bình tĩnh, tụi tôi dẫn xuống hầm". Tôi và Tòng dẫn hai cô gái chạy ra công sự tránh pháo cách đó chừng 5 mét, chui xuống. Xuống hầm rồi, lòng hầm tối om. Và không những họ không buông chúng tôi ra mà còn ôm chặt hơn hơn. Tôi mắc cỡ (xấu hổ), gỡ tay cô gái ra nhưng cô ta càng riết chặt hơn. Tôi đang lúng túng, chưa biết xử trí thế nào thì bất ngờ, cô gái kéo đầu tôi ghì sát vào ngực mình rồi cúi xuống đặt vào môi tôi nụ hôn… Một mùi hương từ thân thể con gái quyện với dầu gội đầu ngan ngát toả ra... Một tình huống hết sức bất ngờ! Tôi hoảng quá, đẩy cô gái ra. Nhưng càng đẩy, cô ta càng ôm chặt hơn. Hình như Tòng cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Bởi tôi lờ mờ nhận ra điều ấy... Lần đầu tiên trong đời, tôi "bị" một cô gái "tặng" hôn như thế! Tôi vội nói lảng: "Thôi Tòng ơi, lên thôi! Hết pháo rồi!". Tôi gỡ tay cô gái ra rồi trườn nhanh lên khỏi công sự. Mọi người lục tục lên theo. Chúng tôi chia tay. Hai cô gái về lán của ông chú còn chúng tôi trở lại lán của mình. Đêm ấy, tôi và Tòng thao thức, kể cho nhau nghe những gì đã xẩy ra. Thì ra Tòng cũng "bị" y như tôi. Một sự trùng hợp thật "ngẫu nhiên". Sáng hôm sau, hai em đến chào chúng tôi để về sớm. Gương mặt rạng rỡ của hai cô gái không hề tỏ ra một chút bối rối nào, và còn hẹn: "Vài bữa nữa, tụi em lại lên thăm mấy anh". Không ngờ, đó cũng là lần cuối cùng chúng tôi gặp hai cô gái "vô tư" và "liều lĩnh" ấy.

   Mấy ngày sau, bất ngờ chúng tôi nhận đựơc lệnh phải khẩn trương trở lại đơn vị để chuẩn bị vào chiến dịch. Thực lòng, từ lúc nhận lệnh, tôi và Tòng nôn nao mong gặp lại hai cô gái ấy để nói lời tạm biệt sau chót. Nhưng chờ mãi đến 4 giờ chiều, cũng chẳng thấy các cô đâu? Đã đến giờ hành quân, chúng tôi chỉ biết gửi lại lời nhắn cho ông chú "trốn lính" rằng: "Chúng tôi cảm ơn hai cô đã "giúp đỡ" chúng tôi rất nhiều. Hẹn ngày tái ngộ..."

   Đã trên 30 năm có dư, kể từ ngày tôi và Vũ Duy Tòng chia tay hai cô gái kia vào một buổi sáng cuối năm 1973. Bấy giờ, sắp đến Tết Nguyên đán Giáp Dần...

...Giờ đây, thời gian chắc đã đưa hai cô gái ngày ấy lên thiên chức mới. Không biết có lúc nào đó trong cuộc đời mình, họ lại được gặp lại nhau để nhớ về kỷ niệm "ngọt ngào" trong một đêm bị pháo kích ở cứ Hội Đồng Sầm, Đức Huệ năm nào với hai anh giải phóng miền Bắc, mà trước đó trong con mắt họ là hai "Việt Cộng" đáng sợ!  ôi và Vũ Duy Tòng trở lại đơn vị vào dịp gần Tết. Đơn vị tổ chức đón Tết tại cứ. Đài Phát thanh Giải phóng đưa tin cả ta và nguỵ đều ngừng bắn tại chỗ trong mấy ngày này. Nếu như năm 1973, chúng tôi không có Tết, mà chỉ ăn Tết bằng những trận giao tranh dữ dội bảo vệ Hiệp định Paris, đánh địch lấn chiếm thì Tết này, đơn vị tổ chức cho chúng tôi ăn Tết trước khi vào chiến dịch. Các ba, các má, các chị và cơ sở cách mạng uý lạo cho nhiều quà. Có đủ cả bánh tét, bánh ú, thịt mỡ, dưa hành, thuốc lá, hạt dưa, kẹo... Nói chung là khang trang cho một cái Tết ở chiến trường.

   Sau Tết, có tin tình báo, địch sẽ tổ chức một trận càn lớn ra bưng để thăm dò vì chúng đánh hơi được lực lượng ta đang chuyển quân xuống chiến trường. Chúng tôi nhận lệnh phục kích chặn đánh một đoàn tàu chở ba đại đội địch đi càn.

   Trung đội 2 chúng tôi do anh Nguyễn Văn Báo, trung đội trưởng, chỉ huy, phục kích chặn đánh đoàn tàu này. Chúng tôi mai phục đã mấy ngày mà tàu vẫn chưa đến. Tranh thủ thời gian, anh em thả lưới và lợp (giống như lờ ngoài Bắc nhưng lớn hơn rất nhiều) ven bờ để cải thiện. Cá, tôm ở sông Vàm Cỏ Đông nhiều vô kể, vì nước sông khi lớn, khi ròng, lắm phù du, sẵn thức ăn. Chỉ cần thả mấy khúc mỳ (sắn) vào lợp rồi buộc dây cho xuống mép bờ sông, qua chừng hai đêm vớt lên, trong lợp ít nhất cũng có cả chục con tôm càng xanh to như vỏ đạn 20 ly. Còn lưới thì sau một đêm thả, gần như mắt nào cũng có cá dính. Nhiều nhất là cá Lòng tong (thịt ngon nhưng rất nhiều xương). ở đây, không bao giờ thiếu thực phẩm tươi. Ai đã từng đến và chiến đấu ở mảnh đất này cũng chí ít một lần được thưởng thức cơm gạo Nàng Thơm ăn với cá bống kèo kho, một đặc sản duy nhất mà chỉ ở miền hạ Long An mới có được. Chỉ cần một lần thôi là đủ để nhớ cả đời. Có thể nói nó vừa là đặc sản nhưng đồng thời đã trở thành nét văn hoá ẩm thực của người dân vùng quê này từ bao đời. Nét văn hoá ấy đã đi vào lời ca điệu nhạc của cải lương tài tử:

   "...ơi miền Hạ trải màu xanh bát ngát,

  Anh quý gạo Nàng Thơm con cá bống kèo.

  Nhưng... xích xe tăng đã cày nát lên những xóm nghèo"...

     Đúng như lời ca vọng cổ. Cái vẻ đẹp mang nét văn hoá đậm chất dân gian Nam Bộ ấy đã và đang ngày đem rên xiết dưới sức tàn phá, huỷ diệt của bom đạn và chất độc dioxin của Mỹ. Chiến sự nơi đây vô cùng ác liệt, địch càn quét, đổ chụp, pháo bầy, trực thăng quần đảo liên miên...

    Sự chờ đợi đã đến.!Hôm đó là ngày12 tháng 3 năm 1974.

    Vào khoảng 8 giờ sáng, ba chiếc tàu "mặt dựng" (há mồm) chở 3 đại đội địch do tên thiếu tá Nghĩa, tiểu đoàn trưởng, khét tiếng ác ôn, chỉ huy. Khi đoàn tàu đi ngang qua quãng sông nơi chúng tôi phục kích, bất ngờ, chúng dồn hết các loại hoả lực bắn như mưa vào trận địa mai phục (chúng chỉ nghi ngờ mà thôi). Đồng chí Báo ra lệnh: "Tất cả chui xuống công sự để tránh đạn và chú ý quan sát động thái bọn địch. Nếu chúng có ý định đổ quân thì thực hiện phương án đã định!".

    Tuy nhiên, sau một lúc bắn như đổ đạn vào bờ sông, nơi có công sự của chúng tôi, không thấy phản ứng gì, chúng nổ máy cho tàu chạy ngược lên phía trên cách chừng 2 km rồi dừng lại. Chúng tôi, ai cũng ngỡ địch sẽ đổ quân càn quét trên đó.

     Không ngờ, khoảng hơn một giờ sau, từ xa, chúng tôi phát hiện đoàn tàu 3 chiếc lúc nãy từ từ trôi xuống (chúng lợi dụng nước ròng, tắt máy, thả trôi). Đến ngang trận địa, bất ngờ, nổ máy quay ngang tàu 90 độ, rồi sập cái lưỡi tàu phía trước, từ từ chạy vào bờ. Trên boong, bọn lính tay lăm lăm súng. Thằng Nghĩa cởi trần đứng chống nạnh, tay đeo đồng hồ "Thuỷ quân lục chiến", da đỏ như gà chọi, hò hét bọn lính chuẩn bị đổ bộ. Chờ cho ba chiếc tàu xáp vào cách bờ chừng 30 mét, chúng tôi đồng loạt phát hoả. B40, B41, trung liên, AK bắn dữ dội vào tàu địch. B40 và B41 cứ nhằm bụng tàu, tống đạn vào. Đạn nổ âm trong khoang làm bọn địch trong đó chết rụi hết. Trung liên và AK rà sát mặt boong. Bọn địch bị bắn, rớt xuống sông như sung rụng. Không một tiếng súng chống trả. Khi tàu đang tiến vào, bất ngờ bị B41 tống vào bụng, nó khựng lại một giây rồi theo quán tính lao vào bờ. Trên boong không còn một tên nào sống sót. Chúng tôi cũng thôi bắn. Lúc này nước đã ùa vào khoang. Tàu đang chìm dần. Khói lửa mù mịt một quãng sông. Có chiếc đã áp sát bờ công sự của chúng tôi. Trong số 11 quả đạn B40 tôi bắn, bị lép mất 2 quả. Còn 9 quả, tôi tống hết vào bụng của hai chiếc tàu gần nhất. Máu tai và máu mũi tôi chảy thành dòng. Lịch sử bắn B40 của tôi trong tác chiến đã đạt đến kỷ lục! Hai tai tôi ù đặc mất khoảng gần hai tuần lễ. Mắt hoa đom đóm. Tôi cũng không giải thích nổi tại sao mình lại có thể bắn một lúc được nhiều đạn như vậy!? Bây giờ thì tôi đã hiểu được vì sao chị Ngô Thị Tuyển (Hàm Rồng,Thanh Hoá), ngày trước, khi trọng lượng cơ thể của mình chưa đầy 50 cân mà một lúc vác hai hòm đạn pháo gần 100 kg chạy lên đồi, tiếp cho bộ đội phòng không!

    Hậu quả của trận bị thương ngày 18/5/1972 cộng với quá trình bắn B40, B41 quá nhiều, nên từ đó đến nay, tai tôi luôn luôn như có con ve nằm kêu suốt ngày đêm trong đó. Giờ đây, khi tuổi đã cao, sức khoẻ giảm sút, vết thương cũ tái phát, hành hạ, cơ thể đau nhức; tai tôi lắm lúc ù đặc, nghễnh ngãng, chẳng nghe thấy gì.

    Cả ba đại đội địch đi càn, bị nhận chìm trên sông Vàm Cỏ Đông. Chỉ còn duy nhất một tên sống sót (theo cơ sở ta cho biết) chạy lên Toà thánh Tây Ninh trốn biệt. Chúng tôi được lệnh rút khỏi trận địa. Tôi chỉ còn khẩu B40 không đạn nhẹ tênh, chạy một mạch về cứ, tắm giặt rồi mắc võng nằm, lúc ấy pháo từ Hiệp Hoà mới giã xuống trận địa. Ba mươi phút sau, hai chiếc A37 bay tới dội mấy loạt bom. Chúng tôi ở cứ, cách đó hơn 1 km, trèo lên cây nhìn rồi vỗ tay reo!

    Đài Phát thanh Giải Phóng, một ngày sau đó, đưa tin: "Ngày 12 tháng 3 năm 1974, Quân Giải phóng trung Nam Bộ đã bắn chìm 3 tàu càn trên sông Vàm Cỏ Đông tiêu diệt 3 đại đội địch, với hơn 180 tên, trong đó, có tên tiểu đoàn trưởng ác ôn" (tức thằng Nghĩa).   Con sông Vàm Cỏ biết bao lần đã ghi dấu chiến tích của chúng tôi và đồng đội trong mỗi trận đánh, nhưng có lẽ lần này là chiến công chói lọi nhất. Dòng sông ấy là đề tàisáng tác bất tận cho các văn nghệ sỹ và nhạc sỹ trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai..

    Nhạc sỹ Trương Quang Lục đã rất thành công khi viết giai điệu chắp cánh cho lời thơ của Hoài Vũ để có bài hát nổi tiếng "Vàm Cỏ Đông". Với âm hưởng và ca từ giàu tính sử thi, đậm chất dân ca Nam Bộ mà mỗi khi cất lên, chúng tôi tự hào như thấy có hình bóng của mình trong đó:

"ơi, Vàm Cỏ Đông, hỡi dòng sông! Nước xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng. Đuổi Pháp đi rồi, nay đuổi Mỹ xâm lăng... Có anh du kích dũng cảm kiên cường. Lẫn ánh trăng mờ băng lửa đạn qua sông. Giặc đi đời giặc, sông càng xanh trong!"...

    ...Trung đội tôi được thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất. Còn tôi và các đồng chí khác cũng vinh dự được nhận Huân chương Chiến công Giải phóng các hạng Nhì và Ba.

Có thể nói, trong lịch sử đánh tàu của đơn vị tôi, thì trận ấy đã ghi một chiến công chói lọi. Thắng lợi nằm ngoài sự mong đợi. Chúng tôi không phí một giọt máu nào.

     Mấy ngày sau, chúng tôi trở lại Gò Nổi đứng chân để nhận nhiệm vụ đánh bốt Rạch Gần (An Ninh, Đức Hoà). Đây là bốt do bọn địch mới lấn chiếm sau Hiệp định Paris nhằm phong toả tuyến hành lang vào ấp chiến lược và ngăn chặn việc chuyển quân của ta từ Campuchia xuống theo đường giao liên trong bưng Đức Huệ. Cấp trên giao nhiệm vụ, bằng mọi giá phải nhổ bằng được bốt này. Sau một thời gian dài điều nghiên, đêm 29/3/1974, chúng tôi hạ quyết tâm đánh bốt. Đó là một đêm tối trời. Hai mũi theo phương án đã định bò vào. Mũi 1 do đồng chí Nguyễn Văn Tám (quê Hải Phòng) quyền đại đội phó, làm mũi trưởng. Mũi 2 do Trương Thiên Lý (Thạch Sơn, Thạch Hà, Hà Tĩnh) là lính đặc công của đại đội 25, làm mũi trưởng (Lý hiện thường trú tại phường Nam Hà, thị xã Hà Tĩnh). Hợp đồng đến giờ G (1 giờ sáng) nổ súng. Nhưng khi đang cắt hàng rào thì mũi 1 bất ngờ đụng phải mìn sáng. Bị lộ, bọn địch trong lô cốt và các công sự xả đạn về phía đó. Mũi 2 của Trương Thiên Lý chuyển thành mũi chính, tổ chức đánh cường tập ngay lập tức. Nhưng do lộ quá sớm nên kế hoạch không thành. Mũi 1 có 3 đồng chí hy sinh và một số bị thương tại cửa mở. Tiểu đoàn ra lệnh phải tổ chức tấn công để lấy thương binh tử sỹ ra. Sau mấy đợt phản kích, vẫn không giải quyết xong trận đánh. Không những không lấy được anh em ra mà số thương vong tăng thêm 7 người. Trời đã gần sáng, ta buộc phải rút và đành để thương binh tử sỹ nằm lại. Chúng tôi nhanh chóng lui ra bờ sông rồi xuống xuồng do du kích đón sẵn, trở về bên kia. Tôi kịp lên chuyến xuồng sau cùng trước khi trời sáng. Sau chuyến ấy, xuồng không qua được nữa vì mặt trời đã ló lên phía chân trời. Đồng thời đã nghe tiếng trực thăng phành phạch từ hướng Hậu Nghĩa. Rất nhiều đồng chí sang không kịp, bị kẹt lại bờ bên kia. Các đồng chí ấy, số thì "chém vè" (trốn) dưới bưng. Một số dũng cảm vượt sông để trở về bên này. Nhưng thật đáng tiếc, sông Vàm Cỏ Đông ở quãng này rộng chừng 300 mét nên nhiều đồng chí do đuối sức vì đói và đánh nhau suốt đêm qua, lại mang cả súng, nên ra giữa sông thì chìm. Một số khác đội lục bình (bèo Nhật Bản) trên đầu để bơi, bị trực thăng phát hiện, bắn chìm luôn. Chính trị viên đại đội tôi - đồng chí Tống Minh Sướng (Hà Bắc), may mắn thoát chết, bơi được sang bờ bên này, cố lết về đến chỗ trú quân ở cứ. Một hình ảnh hết sức xúc động: Khi anh về đến nơi, chúng tôi vừa ăn trưa xong. Cơm hết sạch. Anh phải dùng một cái gai, lẩy vào từng hột cơm còn sót lại trong rá để cầm hơi trong khi chờ chúng tôi nấu cơm. Cơm sôi một lúc, tôi múc vội một bát nước, bón cho anh, lát sau anh tỉnh dần...

    Bên kia sông, tiếng súng địch vẫn dội lại, vì lúc này chúng đã kiểm soát trận địa. Trực thăng tiếp tục quần thảo, xăm tỉa vào những nơi nghi có "Việt Cộng". Trận đánh không thành nhưng tấm gương hy sinh của đồng chí Nguyễn Văn Định (Sơn Bình, Hương Sơn, Hà Tĩnh) thì đã trở thành bài ca bất tử về lòng dũng cảm vô song và ý chí tiến công địch đến hơi thở cuối cùng của người chiến sỹ Quân giải phóng miền Nam.

     Đêm ấy, trong đội hình tiến công, Định mang thủ pháo đầy mình để làm nhiệm vụ đánh lô cốt đầu cầu. Nhưng khi vào cửa mở, bị lộ. Địch tập trung hoả lực bắn dữ dội vào đó. Anh bị thương gãy đùi. Chúng tôi mấy lần tổ chức phản kích để lấy tử sỹ và thương binh nhưng không thể được. Lại hy sinh thêm nhiều đồng chí nữa. Đành phải để lại. Sáng sớm, bọn địch nống ra giải toả. Chờ chúng đến gần, anh giơ tay vẫy. Chúng tưởng anh xin hàng, liền nhào đến rất đông. Mười mấy thằng xúm lại vây quanh Định. Chỉ chờ có thế. Trong chớp mắt, Định điểm hoả. Một tiếng nổ dậy đất. Toàn bộ khối thủ pháo dưới cơ thể anh bị kích nổ. Mười mấy thằng nguỵ xung quanh anh tan xác. Còn anh, thân thể đã biến thành tro bụi dưới sức nổ của hơn 8kg TNT. Bọn địch sống sót kinh hoàng, khiếp đảm và kính phục anh. Mẩu chuyện tôi viết về Định, người đồng chí kiên cường, quả cảm của chúng tôi là dựa theo lời kể của cơ sở ta do bọn địch có mặt hôm đó kể lại về cái chết quả cảm của một "Việt Cộng" trong trận Rạch Gần.

    Đơn vị tổ chức học tập gương chiến đấu dũng cảm của Định, đồng thời quyết tâm trả thù cho anh và các đồng chí khác hy sinh trong trận đánh hôm đó.

    Trận công đồn năm ấy lùi vào quá khứ đã gần 1/3 thế kỷ. Nhưng kỷ niệm về nó thì vẫn vẹn nguyên và thường trực trong ký ức của mỗi chúng tôi. Nó luôn nhắc chúng tôi phải sống thế nào cho khỏi tủi hổ vong linh của Định cũng như biết bao đồng đội khác đã anh dũng hy sinh không tiếc máu xương mình cho độc lập tự do của đất nước này.

     Chúng tôi đã đề nghị lên cấp trên xét truy tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" cho Định. Nhưng rồi các chiến dịch và những trận đánh ác liệt và thần tốc cứ nối tiếp nhau, cuốn đi như cơn lốc cho đến ngày 30/4/1975. Đến bây giờ, sau 31 năm kể từ ngày đi vào cõi bất tử, Định vẫn chưa có được danh hiệu cao quý đó để xứng đáng với tầm vóc hy sinh to lớn của Anh.

    Sau trận ấy, chúng tôi họp củng cố rút kinh nghiệm, học tập gương chiến đấu, hy sinh quả cảm của Định, phát động lòng căm thù địch, quyết tâm trả thù cho Định và các đồng chí đã hy sinh đồng thời chuẩn bị cho các trận đánh nối tiếp.   Ngày 9 tháng 5 năm1974, vào một buổi chiều đầu mùa mưa. Khoảng 16 giờ chúng tôi nhận lệnh xuống kinh xáng Trà Cú vùng đông nam Đức Huệ điều nghiên địa hình để đưa quân xuống, chuẩn bị mở trận đánh mới ở địa bàn này.

     Đoàn chúng tôi gồm lính của các đại đội 1,2,3,4 và trinh sát tiểu đoàn do đồng chí Nguyễn Văn Hảo, tiểu đoàn phó, chỉ huy. Đại đội tôi có anh Đinh Văn Luận, đại đội phó (Thanh Xuân, Thanh Chương), Lê Văn Nhâm (Phúc Lộc, Can Lộc) Hồ Hữu Danh (Sơn Hàm, Hương Sơn, đã mất năm 2001 do nhồi máu cơ tim) Nguyễn Văn Quý (Tân Kỳ - Nghệ An) và tôi. Tiểu đoàn lúc ấy, có anh Thạch (Hưng Nguyên - Nghệ An) y tá tiểu đoàn, Nguyễn Văn Đông (Trà Vinh), thiếu uý, trợ lý tác chiến tiểu đoàn, và một số đồng chí khác, tôi không nhớ hết. Tất cả khoảng trên 20 người. Chúng tôi lầm lũi đi trong mưa lất phất và không gian ảm đạm khác thường.

    Hơn một tiếng đồng hồ sau thì hết mưa. Chúng tôi tiếp tục nhắm hướng kinh xáng đi tới, sau khi đã nghỉ giải lao. Khoảng 10 giờ đêm, chúng tôi vượt qua cây cầu Sắt. Nơi đây, bọn địch thường xuyên phục kích. Bộ đội và du kích nhiều lần đụng địch chỗ này. Mọi người hết sức cảnh giác, bám lên từng bước rồi cuối cùng cũng vượt qua được cây cầu ấy. Càng về khuya, càng khát vì bi đông mọi người đã cạn. Mùa khô nên cả chặng hành quân không một hố bom nào có nước. Ai nấy đều mong đến chỗ có nước để được uống thoả thích. Mười hai giờ, chúng tôi đến một vị trí mà theo Đông, thì nơi đây có mấy hố bom lớn về mùa khô vẫn không cạn. Địa hình nơi này Đông rất quen thuộc. Chúng tôi được lệnh tạm nghỉ để tìm nước. Đông nhanh chóng dẫn mấy người chạy đi tìm mấy hố bom đó, trong khi chúng tôi đặt ba lô ngồi nghỉ để chờ. Mọi người giãn ra để cảnh giác pháo "đĩ" ban đêm có thể bất ngờ lao tới. Chừng 10 phút. Bỗng một ánh chớp và tiếng nổ chói tai vang lên từ hướng anh Đông và mấy người vừa chạy tới. Chúng tôi biết ngay, họ đã “dính” mìn clâymo. Mấy người lao đến nơi có tiếng nổ, dìu được Đông ra tới gần chỗ chúng tôi. Vừa đến giữa ruộng, bỗng tiếng súng AR15 và M79 bắn vào nơi phát ra tiếng nổ ban nãy. Mọi người đành để Đông nằm lại giữa ruộng và giãn ra xung quanh. Đông rên lớn vì đau quá do bị thương nặng và sợ bị bỏ rơi. Lúc này, địch bắt đầu nhả đạn dữ dội vào hướng chúng tôi. Mọi người, trong đó có tiểu đoàn phó Hảo cùng anh em còn lại lùi ra phía sau. Địch tập trung hoả lực bắn mạnh ra sau, rồi gọi cối, pháo bắn theo hướng rút của họ. Còn lại ở trận địa là anh Luận, Nhâm, Danh, Thạch - y tá tiểu đoàn và tôi. Tôi nói với Luận: "Bây giờ anh là chỉ huy cao nhất ở đây, anh phải lệnh cho anh em vào cứu Đông chứ không thể bỏ anh ấy lại". Luận đang chần chừ. Tôi lên cò súng, bảo: "Thôi, anh giữ B40 giúp để tôi vào đưa Đông ra. Nếu địch phát hiện ra và bắn, thì giá nào anh cũng phải bắn trả B40 để yểm hộ tôi. Nếu anh không bắn, tôi mà thoát chết ra là tôi bắn anh đó!" Luận: "ừ , ừ... Mày vào đi, tao yểm hộ cho". Tôi quay sang Thạch: "Thôi, tớ và cậu vào đưa Đông ra!". Trước sự cương quyết của tôi, Thạch vững dạ hơn rồi cùng tôi chạy lom khom vào chỗ Đông nằm. Thấy chúng tôi đến, Đông thều thào: "Ai đó?". "Sơn và Thạch đây! Anh yên tâm chúng tôi đưa anh ra!", tôi nói. Đông mừng lắm: "Ôi! Cảm ơn Sơn và Thạch nghen! Cảm ơn các đồng chí!". Tôi ghé sát tai Đông nói nhỏ: "Chúng tôi dù chết cũng không bao giờ bỏ đồng đội bị thương cả. Anh cố gắng nhé! Đừng rên. Nếu rên, bọn địch nghe thấy chúng ta sẽ không thoát đâu!". Đông nén đau, im lặng...

    Tôi và Thạch cố gắng kẻ nách, người chân đỡ Đông lên. Nhưng Đông rất nặng (Đông vốn cao to), hơn nữa, do bị thương nặng nên khi chúng tôi nhấc lên, anh cứ oặt người xuống vì đau. Loay hoay một lúc vẫn không đưa Đông đi được. Tôi bảo Thạch: "Thôi, cậu bỏ ra". Tôi luồn một tay dưới cổ và một tay dưới khoeo chân Đông gắng sức lấy đà nhấc nổi lên rồi lom khom chạy ra chỗ Luận và mấy người đang chờ sau một bờ đất. Thạch xách AK bám kịp tôi. Thạch vốn rất cao to, khoảng 65- 68 kg, trong khi tôi nhỏ dẻ và yếu hơn Thạch nhiều. Không hiểu sao lúc ấy, tôi bế nổi Đông chạy ra được như vậy? Thật kỳ lạ!

    Vừa đặt Đông nằm xuống thì địch tung pháo sáng lên. Tiếp theo là các loại súng thi nhau đổ đạn về phía chúng tôi. Nhưng chúng không dám xung phong. Gần đó có một hố bom, mọi người cùng dìu Đông xuống rồi lợi dụng ánh hoả châu băng bó lại cho anh. Đông dính mìn clâymo. Phần trước cơ thể bị bi găm lỗ chỗ. Anh bị thủng bàng quang và nhiều nơi khác. Máu bê bết khắp thân thể. Đạn địch dần dần chuyển làn, nổ phía sau nơi chúng nghi anh em mình chạy ra đó. Chờ dứt tiếng súng bộ binh, tôi nói với Luận: "Bây giờ, anh cho người đi chặt tre để cáng Đông". Luận cử Nhâm. Nhâm chần chừ, không dám đi. Tôi bực quá, mắng Nhâm (mặc dù tôi với Nhâm là đồng hương cùng huyện, nhập ngũ một ngày). Nhâm đành mang dao găm và súng đi. Khoảng 20 phút sau, cậu ta quay về tay không. Nhâm vào chặt tre, sợ đụng phải địch nằm trong đó nên quay lại. Chúng tôi lại mắng vào mặt cậu ta rồi bắt phải quay lại chặt bằng được tre để cáng Đông. Chừng 40 phút sau, mới thấy Nhâm lò dò kéo ra được một ngọn tre khô. Chúng tôi hỏi: "Sao lâu thế?" Nhâm hổn hển: "Không dám chặt ...vì sợ địch nghe thấy nên dùng dao gọt theo thân tre cho… đứt rồi kéo ra". Róc vội gai tre, chúng tôi nhanh chóng buộc võng rồi thay nhau cáng Đông. Một người đi trước dẫn đường, bốn người còn lại thay nhau, hai người cáng, hai người đi sau mang hết đồ đạc cho họ. Tất cả quay lại theo đường cũ. Gần đến cầu Sắt, chúng tôi giật mình vì nghe thoang thoảng trong gió mùi thuốc lá "Ru Bi". Tất cả im lặng, khẽ đặt Đông nằm xuống. Tôi và Nhâm bám lên, chúng tôi trườn rất nhẹ đến gần sát mọi người rồi mà vẫn không ai hay biết gì cả. Tôi nhìn qua ánh sáng của điếu thuốc lá, thấy trên khuôn mặt là vành mũ tai bèo. Tôi bấm Nhâm: "Anh em mình!". Tôi gọi trong khi khoá cò B40 đã mở: "Có phải anh em mình đó không?" Họ nhận ra tiếng tôi rồi đồng thanh trả lời "Phải! Phải!". Tất cả ùa lại chỗ tôi và Nhâm. Mọi người ríu rít hỏi tình hình như thế nào? Tôi nói sơ qua, rồi bảo họ thay cáng cho anh em vì đã quá mệt, đồng thời khẩn trương về cứ vì trời sắp sáng. Thì ra sau khi bọn địch nổ súng, tất cả rút lui, về đến đây thì gặp nhau rồi ngồi ngóng chúng tôi. Họ cho rằng, chúng tôi đã chết trong đó rồi. Gần đến cứ, cách chừng 3 km, lúc này, Đông rên rất dữ và giãy đạp mạnh làm anh em khiêng suýt ngã. Bỗng, anh bật mạnh rồi rơi xuống đất, nằm thẳng đừ, mắt trợn ngược. Anh giật giật mấy cái nữa rồi tắt thở. Đông hy sinh lúc gần 5 giờ sáng ngày hôm đó. Chúng tôi vuốt mắt cho anh rồi tiếp tục bế lên võng, khiêng về cứ.

    Về đến Hội Đồng Sầm lúc 6 giờ sáng. Chúng tôi báo cáo sơ qua tình hình với tiểu đoàn rồi làm thủ tục an táng Đông trên một gò đất cao của cứ. Tất cả cúi đầu mặc niệm anh - người đồng chí thân thiết đã ra đi... Xót thương Đông quá! Anh mới đi học ở một trường quân sự tại Liên Xô về, vừa bổ sung vào tiểu đoàn 7 được mấy tháng nay. Cách đó gần một tháng, gia đình dưới Trà Vinh gửi lên cho anh một gói quà, trong đó có chiếc đồng hồ SEIKO5 màu trắng. Anh luôn đeo nó trên tay và xem như kỷ vật vô giá. Chúng tôi đem những tư trang quý của anh gói lại cẩn thận rồi chuyển lên cấp trên để gửi về gia đình Anh...

   Hôm ấy, sau khi chôn cất Đông xong, quá mệt mỏi và buồn ngủ, tôi đặt mình xuống làm luôn một giấc đến hơn 11 giờ trưa, mọi người mới gọi tôi dậy ăn cơm để chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới...

   Số là, đêm hôm đó, sau khi vướng mìn, bị chúng bắn, mọi người phân tán. Cậu Lam, anh nuôi (quê Nam Hà) chạy thế nào mất phương hướng, lọt vào chỗ địch phục kích, bị chúng bắt sống. Theo tin tình báo, Lam không chịu nổi đòn tra nên đã khai ra chỗ đóng quân và trận địa phục kích đánh tàu của ta. Biết vậy nên một mặt, tiểu đoàn lo chuẩn bị phương án chống càn, mặt khác lệnh cho đại đội 3, cử người đi gọi trung đội đang phục kích đánh tàu ở trận địa gần Gò Nổi. Chỉ huy đại đội lại giao nhiệm vụ đó cho tôi.

    Tôi phải cắt bưng đến trận địa để gọi trung đội phục kích đánh tàu nói trên khẩn trương ngay trong đêm phải rút khỏi vị trí. Nếu không, ngày mai, địch sẽ đổ quân đánh úp họ. Bốn giờ chiều, tôi bắt đầu xuất phát. Từ chỗ tôi đến vị trí trung đội ấy khoảng 10 km đường bưng, sình lầy. Tôi phải cắt bưng, men theo bờ sông và vượt qua 6 con rạch (mỗi rạch rộng chừng 15 đến 20 mét). Tôi rẽ cỏ bàng cao đến ngang đầu, vượt qua tất cả. Không hiểu sao, lúc ấy tôi lại khoẻ đến như vậy? Gần 11 giờ đêm mới đến nơi. Tôi lay các đầu võng, anh em đều ngủ say. Tôi nói với Lưu Xuân Tiết ,Trung đội trưởng, quê xã Hoàng Quế, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh: "Lệnh của tiểu đoàn, cho anh em khẩn trương ngay lập tức rút khỏi vị trí phục kích. Ngày mai địch sẽ càn vào. Lý do, một đồng chí của ta bị địch bắt, tra tấn, đã khai báo hết. Các đồng chí chỉ mang theo súng và cơ số đạn chiến đấu, còn lại chôn giấu hết". Mọi người hối hả, khẩn trương vào việc. Khoảng 30 phút sau, tất cả xong xuôi và đã sẵn sàng hành quân. Tôi lại đi trước dẫn đường. Vì đã thông báo cụ thể đường đi nên mọi người chuẩn bị chu đáo, sẵn sàng vượt bưng và 6 con rạch ấy. Rất may là vùng này không có cá sấu và không gặp rắn độc. Nếu không, tôi đã làm mồi cho chúng rồi.

    Chúng tôi trở lại đúng lối mòn tôi vừa đi lúc nãy và kịp trở về đến nơi lúc gần 5 giờ sáng. Mọi người không kịp nghỉ. Tất cả lao vào chuẩn bị công sự để chống càn…

    Bảy giờ sáng, đã nghe tiếng tàu càn rì rì ở ngoài sông Vàm Cỏ. Bất thần,12,7 ly trên tàu bắn như mưa vào hướng chúng tôi. Tôi nhớ lúc ấy, cậu Sơn quê Nghi Xuân (Hà Tĩnh) đang đứng trên chiếc ghe, một viên 12,7 ly bắn bay mất xương hàm dưới. Sơn bị thương nặng, được băng bó kịp thời rồi nhanh chóng chuyển ra tuyến sau. Không rõ sau đó, cậu ta có mệnh hệ gì không? Tôi cũng không biết nữa…

    Đúng như dự kiến, tàu địch bắn loạn xạ một lúc rồi chạy thẳng một mạch lên phía Gò Nổi, nơi có trung đội đánh tàu đang phục kích, tổ chức càn quét trên đó. Nhưng trung đội đó đã rút từ đêm qua rồi.

    Mặc dù chủ động và có sự chi viện tối đa của các loại hoả lực nhưng bọn địch vẫn rất sợ, không dám liều lĩnh càn vào. Chúng tôi cũng căng thẳng đợi địch suốt cả ngày hôm đó.

    Có thể nói, trong quãng đời quân ngũ của tôi, chưa có lúc nào tần suất công việc lại được huy động đến mức tối đa như vậy và cơ thể cũng mệt mỏi, rã rời đến như vậy! Tuy vậy cái mệt cũng nhanh chóng qua đi. Có lẽ một phần do bom đạn; phần nữa, do tuổi trẻ hăng hái nên sức khoẻ phục hồi khá nhanh.

    Ở Hội Đồng Sầm có rất nhiều tre, sau vài trận mưa đầu mùa, măng mọc lên như nấm. Chúng tôi ăn măng thoả thích. Ngày nào cũng măng. Hết luộc đến xào. Hết măng đến rau càng cua. Hai thứ ấy là thực phẩm chính của chúng tôi. Chúng tôi nằm chờ địch ở đây khá lâu. Nơi này có một cây giống như cây đa rất lớn, đã chết khô. Chúng tôi thường gọi là cứ  "Cây Khô". Hôm ấy, đơn vị chúng tôi vẫn phục kích như thường lệ. Vẫn gài mìn ĐH10 rồi bí mật dòng dây điện vào công sự chờ, lúc nào địch vào là bấm mìn rồi tập trung hoả lực tiêu diệt. Khoảng 11 giờ, tình hình vẫn yên ắng. Tất cả chúng tôi cho rằng đã hết giờ cao điểm (8 đến 11 giờ) nên tập trung vào sau bụi tre, nơi có công sự chiến đấu và trú ẩn, chia bài ra đánh. Đang mải say sưa, cãi nhau vì đánh bài, bỗng một loạt AK nổ. Tiếp theo là đạn AR15, phóng lựu M97 nhằm vào hướng chúng tôi nổ loạn xạ cả lên. Tôi chụp vội B40 và mấy quả đạn nhào ra thì thấy mấy thằng lính từ phía sau bụi tre chỗ chúng tôi ngồi, chạy bật trở ra. Tôi không kịp bắn nữa, cùng Vũ Duy Tòng chạy dạt ra bưng vì lúc ấy cứ nghĩ chúng đã chiếm được mấy công sự gần đó rồi. Phát hiện thấy chúng tôi chạy, các loại đạn thi nhau đuổi theo. Cỏ bưng lút ngang đầu, tôi bảo Tòng chạy khom xuống. Tòng nghe theo. Một lúc, không thấy chúng bắn nữa. Chắc chúng nghĩ chúng tôi đã chết. Thì ra, lúc mọi người chủ quan không cảnh giới, địch mò vào. Chúng đã cắt dây điện để vô hiệu hoá mìn ĐH10 rồi áp sát bờ tre. Thiếu tý chút nữa thì cả bọn chúng tôi “ăn” lựu đạn của bọn này (vì tre kín quá, chúng chưa tìm được cách để ném lựu đạn tiêu diệt chúng tôi). Rất may, hôm đó, chúng tôi như được trời cứu. Số là, lúc ấy Tòng đang ngồi trên bờ, bỗng thấy một đôi cá lóc (cá chuối, cá tràu) lớn như bắp đùi lượn lờ dưới kinh, tìm chỗ đẻ (dân Nam Bộ gọi là cá bông (hoa) vì sống lâu ngày nên trên mình nó mốc meo như có hoa. Tiếc rẻ, Tòng làm luôn một loạt AK. Hai con cá chết nhưng chúng tôi đã được cứu. Súng nổ, địch tưởng ta biết chúng mò vào nên nổ súng. Chúng tháo chạy trở ra rồi quay lại bắn chúng tôi. Chính Tòng cũng không biết địch vào. Hai con cá ấy trở thành “vật hy sinh” để cứu mạng mấy cha "Việt Cộng" chủ quan. Đó là một kỷ niệm không quên giữa tôi và Vũ Duy Tòng tại cứ "Cây Khô", Hội Đồng Sầm, Đức Huệ , Long An năm 1974...    Chúng tôi trở lại cứ Tân Phú một thời gian không lâu sau đó.

    Đêm 27 tháng 5, một đêm tối trời, chúng tôi gần một trung đội gồm cả bộ đội và du kích xã Tân Phú vào ấp để lấy gạo và làm công tác dân vận. Trong đội hình hành quân đêm ấy có Phạm Khắc Đính. Đính đi trước tôi chừng 25 mét. Vào đến giữa ấp, chúng tôi ai cũng nghĩ: thế là an toàn rồi. Vì thông thường, bọn địch chỉ phục kích ở bìa ấp mà thôi, ít khi chúng phục kích giữa ấp.

    Đang đi... Bỗng nhiều ánh chớp láo mắt và tiếng nổ chát chúa phía trước đội hình. Mảnh bay rào rào. Có tiếng la của bộ đội và du kích bị thương. Chúng đánh toàn lựu đạn mà không hề bắn một phát súng nào. Tôi nghe rõ tiếng Đính: "Sơn ơi, tao bị thương rồi!". Tiếp theo lại tiếng lựu đạn nổ gần chỗ Đính. Địch ném tiếp vào chỗ có tiếng la. Chờ dứt tiếng nổ, tôi vội nhào lại, dùng tay bịt mồm cậu ta lại, rồi rít qua kẽ răng: "Im mồm! Tao đưa ra! Mày la nữa, nó bồi tiếp lựu đạn, chết cả lũ!". Đính im bặt. Tôi ghé sát tai Đính nói nhỏ: "Bị thương ở đâu thì lấy tay bịt chặt vết thương lại!". Tôi xốc nách Đính, bảo nằm lên lưng mình, tay phải xách B40 và giá đạn ba trái của tôi cùng AK của Đính, rồi quàng tay trái giữ Đính trên lưng, chạy ra. Máu Đính rơi trên vai tôi nóng hổi. Được khoảng 50 mét, chúng tôi gặp ngay một cái hố. Cả hai nhào xuống. Vừa lúc ấy, bọn địch tung pháo sáng lên, rồi xả súng bắn vào những người đang chạy dạt ra phía sau. Tôi bảo Đính: "Yên trí! Nếu M79 hoặc lựu đạn rơi vào hố thì cả hai cùng chết. Đạn thẳng thì yên tâm". Lợi dụng ánh hoả châu, tôi băng cho Đính. Cậu ta bị một mảnh lựu đạn găm vào gò má bên trái, máu tuôn ra đầy mặt. Tôi bảo Đính bỏ tay ra (từ nãy đến giờ, Đính dùng ngón tay bịt chặt vết thương). Máu chảy tràn lên mặt. Tôi lấy băng buộc chặt vết thương, cầm máu cho Đính trong khi đạn vẫn chíu... chíu... trên đầu. Bây giờ, tôi mới có thì giờ quan sát. Chúng tôi đang đứng giữa một cái hố khoảng 6 mét vuông đầy gai tre, cao đến ngực. Dân chặt tre xong, quẳng gai xuống gần đầy một hố. Cơ thể chúng tôi bị gai đâm nát bét hết mà không hề thấy đau. Tiếng cối 81 ly và pháo địch giã theo phía anh em mình vừa chạy ra sau. Tôi cầm AK của Đính, cảnh giác đề phòng bọn địch có thể liều lĩnh xông tới. Nhưng chúng không dám. Chờ cho cối và pháo chuyển làn, tôi đẩy súng và đạn lên bờ, sau đó ngồi xuống bảo Đính đứng lên vai mình rồi nâng dậy để cậu ta leo lên bờ (hố sâu ngập đầu chúng tôi). Tôi trèo lên sau, bảo Đính: "Thôi an toàn rồi, bây giờ cậu bá vai tớ, tớ dìu đi, chứ không thể cõng được nữa! Mệt quá rồi!". Đính nghe theo, cậu ta quàng chéo AK vào vai rồi cà nhắc bước theo tôi. Men theo hướng đường cũ, quay lại. Đến một nhà dân, chúng tôi vào gõ cửa nhưng không ai dám ra, vì sợ. Tôi biết lúc này họ đang ở dưới hầm (trảng xê) trong nhà. Chúng tôi gặp mấy anh em vừa chạy đến, họ cho biết đã có mấy đồng chí hy sinh nhưng không lấy xác ra được. Trận ấy bọn địch xảo quyệt, ném toàn lựu đạn mà không hề bắn viên đạn nào nên ta không xác định được vị trí để phản kích. Đến lúc chúng tung pháo sáng lên, phát hiện ra anh em mình thì đồng loạt nổ súng. Lúc ấy, chúng tôi bị động hoàn toàn, đành phải rút lui...

    Sau ngày hoà bình trở về, tôi và Đính kể lại trận đánh này cho ông bà Cư (ông bà cụ thân sinh Đính) nghe, họ xúc động: "Gia đình ơn con để đâu cho hết, nếu không có con cõng ra thì giờ đây đâu còn thằng Đính. Con là người đã sinh ra nó lần thứ hai cho bố mẹ đó!". Từ đấy, ông bà và gia đình coi tôi như con đẻ.

Bây giờ thì Phạm Khắc Đính không còn nữa! Tai nạn giao thông đã cướp đi mạng sống của Đính. Trớ trêu thay! Chiến trường gian khổ, bom đạn ác liệt như vậy mà không hy sinh, nay trở về trong thời bình, Đính lại chết trong oan ức, tức tưởi. Ngày Đính mất, tôi đến thắp hương khấn, rồi khóc và nói những điều này trước mộ cậu ta...

    Trận ấy, chúng tôi hy sinh và bị thương 9 đồng chí. Có 3 đồng chí du kích hy sinh, trong đó có Hồng (tên thật là Mò) và Trớ. Bình sinh, Hồng thường tâm sự với tôi. Hồng cho biết gia đình có 5 người con (Lần, Mò, Trong, Giỏ, Trắng). Hồng là con thứ hai. Chúng tôi thường gọi là Ba Hồng. Nghe Hồng kể nhà Hồng ở gần Lộc Giang. Trước đó, Hồng và tôi đã tham gia trận đánh phục kích trên Gò Nổi, gần đồn Lớn. Chúng tôi ngồi chung công sự. Hồng rất dũng cảm. Anh phụ trách mìn ĐH10. Chờ bọn địch vào gần mới điểm hoả, xé nát đội hình địch. Số còn lại tạt ngược vào chỗ chúng tôi, Hồng và tôi dùng AK và B40 tiêu diệt những tên chạy vào gần công sự. Nhớ nhất là hình ảnh lúc chờ địch vào, mặt Hồng đỏ gay, mồ hôi chảy thành dòng trên má. Khi nổ súng, tự nhiên mặt tái xám lại.

    Hồng hy sinh ở tuổi 19.

    Theo nguyện vọng của gia đình, chúng tôi bí mật chuyển thi hài anh về để gia đình an táng tại quê nhà.

Khác với Hồng, Trớ lại là con út của một gia đình cách mạng cũng ở Đức Hoà. Trớ kể, gia đình cậu có 7 anh chị em (Đang, Ngồi, ỉa, Cứt, Chảy, Trấn, Trớ). Trước đó hai người anh ruột đi giải phóng cũng đã hy sinh. Bây giờ đến Trớ. Tôi còn nhớ như in, Hồ Hữu Danh (quê Sơn Hàm, Hương Sơn, Hà Tĩnh) lúc nào gặp Trớ cũng trêu đùa về 7 cái tên gọi ngộ nghĩnh của gia đình cậu ta.

    Như vậy, đến thời điểm đó, gia đình Trớ đã có ba người con hy sinh vì Tổ quốc. Một tổn thất quá lớn đối với một gia đình!

    Có thể nói, giai đoạn từ sau Hiệp định Pari đến đó, liên tục chúng tôi phải đảm nhận nhiều nhiệm vụ khác nhau. Đây là thời kỳ vô cùng căng thẳng và ác liệt. Tổng số quân thương vong cũng rất lớn, tuy cục bộ từng trận thì không nhiều. Quân số không những không được bổ sung mà ngược lại còn bị tiêu hao qua các trận đánh. Duy nhất, tiểu đoàn chúng tôi chỉ được bổ sung một đợt quân gồm những đồng chí được phía nguỵ quyền Sài Gòn trao trả sau Hiệp định Paris mà ta gọi là lực lượng "Chiến thắng". Đại đội tôi được bổ sung gồm anh Năm (quê Thái Bình), anh Hà, anh Đức (quê Bắc Thái) cùng một số anh em khác nữa... Họ là những người không may bị Mỹ nguỵ bắt làm tù binh trong các trận chiến đấu ở những năm trước đây. Sau Hiệp định Paris, lần lượt được trao trả tại Lộc Ninh (Bình Long) hoặc một số địa điểm khác tại Tây Ninh hoặc Long An do hai bên quy định. Trong số đó, Đức được bổ nhiệm làm B phó (trung đội phó). Sau này (1974), anh hy sinh ở trận Gò Nổi.

    Chúng tôi đã từng tham gia bảo vệ cho các đợt trao trả tù binh như vậy của hai phía từ sau Hiệp định Pari tại khu giải phóng thuộc bưng Đức Huệ. Tuy nhiên, ít khi phía chính quyền Sài Gòn chấp hành nghiêm chỉnh quy định. Ngược lại, chúng luôn lật lọng và tìm cách phá hoại. Khi thì chúng không đến đúng hẹn, khi thì dùng phi pháo tấn công vào nơi quy định trao trả rồi đổ quân hòng đánh úp chúng ta. Chúng tôi đã nhiều lần chạm trán với bọn này nên hết sức cảnh giác và đương nhiên là chúng bị giáng trả quyết liệt.

    Gần hai tuần sau đó, chúng tôi lại được lệnh vào lại Tân Phú. Cũng như lần trước, đơn vị phối hợp với du kích cùng vào ấp để lấy gạo và làm công tác tuyên truyền. Đêm ấy, sau khi vào đến bìa ấp, trung đội chúng tôi chia ra hai mũi. Một mũi theo đường thẳng vào ấp, còn chúng tôi, rẽ vòng sang trái và hẹn gặp nhau tại một địa điểm đã định trước. Cánh chúng tôi vừa đi được khoảng 300 mét thì bỗng phía bên kia loé lên mấy ánh chớp liền đó là những tiếng nổ lớn của mìn clâymo. Tiếp theo là AR15, M79 cùng tiếng lựu đạn. Chúng tôi biết là các đồng chí bên đó bị địch phục kích rồi. Nhanh chóng, mọi người vận động nhanh rồi vòng lên đón đầu, phục chờ chúng quay về. Sau khi bắn chết mấy đồng chí của ta, chúng ném xác xuống giếng của dân rồi đốt mấy đống rơm gần đấy. Cách đó không xa, sau ánh lửa, chúng tôi thấy khá rõ bọn địch đi lại lộn xộn. Chúng không ngờ còn có một bộ phận chúng tôi ở bên này. Chúng tôi triển khai đội hình mai phục chúng ở con đường mà thường ngày, xe trâu qua lại đã thành rãnh. Hai bên, dứa dại mọc ngang tầm đầu. Chừng 10 phút sau, chúng bắn rộ lên theo hướng ra bưng, rồi im lặng, nhanh chóng rút khỏi chỗ đó. Bọn địch đi ngang qua trước mặt chúng tôi chừng 40-50 mét theo mấy bờ ruộng dân đã gặt xong từ lâu. Trời tối nên chúng tôi không nhìn thấy nhưng nghe chúng nói chuyện với nhau những gì không rõ. Mặc dù chủ động nhưng do địa hình mới lạ lại bị dứa che mất tầm nhìn nên đến lúc địch đi ngang qua trước mặt, chúng tôi vẫn chưa triển khai xong đội hình, lại còn vô ý gây ra tiếng động nên bị chúng nổ súng bắn trước. Từ chủ động trở thành bị động, chúng tôi bắn trả được mấy loạt rồi rút theo đường cũ. Bọn địch vừa bắn vừa lùi ra xa và gọi pháo từ Hậu Nghĩa nã theo hướng chúng tôi. Tuy không ai bị thương nhưng cũng bị một phen chạy bở hơi tai. éến 11giờ đêm, chúng tôi mới quay lại được nơi các đồng chí ta bị địch phục kích. Tất cả có 6 người hy sinh (có một nữ du kích) bị chúng ném hết xuống giếng. Chúng tôi phải dòng dây rồi thả người xuống để đưa thi thể họ lên. Một giếng nước, máu của các đồng chí chúng ta nhuộm đỏ lòm.

    Chúng tôi nhanh chóng chuyển các đồng chí hy sinh ra rìa bưng rồi giao cho du kích Tân Phú lo khâm liệm, mai táng trước khi trời sáng.

    Có thể nói, đối với chúng tôi, đây là một trận thất bại không đáng có. Bọn địch hôm đó không ai khác là đại đội thám sát ác ôn 773 của tiểu khu Hậu Nghĩa. Chúng đã từng phục kích, bắn chết 13 đồng chí Chiến sỹ thi đua của Trung đoàn hồi tháng 6 năm 1973 tại bưng Đức Huệ. Sau trận này, chúng tôi tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm một cách thẳng thắn. Xem thất bại này là một nỗi đau và vết nhục trong lịch sử tác chiến sau Hiệp định Paris của tiểu đoàn. Hôm đó, chỉ cần tỉnh táo một chút, chúng tôi đã tiêu diệt gọn đại đội thám sát 773 khét tiếng ác ôn này để trả thù cho đồng đội rồi.   húng tôi lại quay về Gò Nổi. Nhiệm vụ chủ yếu lúc này vẫn là bám, nắm theo dõi tình hình địch ở các đồn bốt mới lấn chiếm. Đồng thời, lúc cần thiết thì tổ chức đánh nhỏ, lẻ nhằm tiêu hao lực lượng và ngăn chặn không cho chúng tiếp tục đóng thêm các đồn bốt khác.

    Hôm ấy, tôi, Nguyễn Hữu Dĩnh (quê Sơn Thịnh, Hương Sơn), cùng Chu Văn Lương (quê Quỳnh Lưu), nhận nhiệm vụ bám địch ở đồn Lớn (Lộc Giang). Cách đồn chừng 600-700 mét có một cây mức (lồng mức), tán lá rất dày và xanh. Chúng tôi thường trèo lên đó để quan sát địch từ ngay trong sân. Địch ra đến đâu, chúng tôi bám theo rồi rút đến đó. Đến chỗ thích hợp, bất thần nổ súng vào đội hình địch, tiêu diệt một số tên rồi rút lui.

    Tôi trèo lên cây lồng mức từ sáng sớm. Khoảng 7 giờ, đã thấy bọn lính đi lại lố nhố trong sân đồn khá đông, tôi nghĩ: "Hôm nay chắc chúng càn ra". Đang mải nghĩ phương án chặn đánh bọn này nếu chúng nống ra, bỗng có tiếng đề pa (tiếng nổ đầu nòng) rất tròn của cối 81 ly. Nhưng tôi đoán có lẽ chúng bắn đâu đó. Bỗng, rít... xoẹt... ầm...! Một tiếng nổ lớn cách gốc cây lồng mức chừng 3- 4 mét, gần dưới chỗ tôi ngồi. Khói trắng cuộn bốc lên che kín tán lá. Tôi biết ngay là trái cối điểm (chỉ điểm mục tiêu). Lợi dụng khói, tôi nhảy đại ngay từ trên ngọn cây chừng 4 mét xuống đất, chụp vội khẩu B40 dựng ở gốc cây, miệng hét: "Lương, Dĩnh đâu? Chạy!". Cả ba chúng tôi cắm đầu chạy như ma đuổi khỏi chỗ trái khói vừa nổ. Kinh nghiệm cho hay, nếu không nhanh chóng rời ngay khỏi đám khói đó thì chỉ một hai phút sau, cối sẽ cấp tập vào ngay. Đúng như chúng tôi dự đoán, chạy được chừng 300 mét thì cối từ đồn Lớn liên tục dội xuống chỗ khói vừa bốc lên. Hú vía! Tôi nói với Lương và Dĩnh: "Nếu quả đạn ấy mà là cối mảnh thì giờ đây chắc chúng mình đã nằm lại dưới gốc cây lồng mức cả rồi!" Cả ba cùng cười ngặt nghẽo rồi rút về cứ. Hôm đó, bọn địch nống ra Gò Nổi thăm dò, nhưng chúng sợ, không dám liều lĩnh mò vào. Có lẽ, qua ống nhòm, địch phát hiện ra tôi ngồi trên ngọn cây. Có lẽ khi ngồi trên đó, ngọn cây rung lắc nhiều quá, làm chúng chú ý.

    Mấy hôm sau, trung đội lại tổ chức vào Lộc Giang thực thi nhiệm vụ dân vận và móc nối với cơ sở để lấy gạo, thực phẩm và thuốc men. Hôm ấy, tôi bị mệt do vừa đi công tác về nên trung đội không bố trí vào ấp. Khoảng 4 giờ chiều, trời mưa, anh em tranh thủ bám địch để đi sớm hơn dự định. Lưu Xuân Tiết (quê Hoàng Quế, Đông Triều, Quảng Ninh - B trưởng) hôm ấy cũng bị cảm không vào ấp cùng anh em được, nên đã cử Nguyễn Văn Từ, B phó, quê Quảng Xương, Thanh Hóa, đi thay.

    Bây giờ, ở cứ chỉ còn tôi và Tiết. Về chiều, mưa càng nặng hạt. Chúng tôi bụng ai cũng cồn cào vì đói mà gạo thì đã gần hết. Tôi nghĩ, trong khi anh em đi công tác, họ cũng đang đói, mình ở nhà nấu cơm ăn một mình, không nỡ. Tôi bàn với Tiết: "Thôi, ông đang mệt, ở nhà, tôi đi nhổ sắn về, anh em mình luộc đánh chén cho đỡ đói." (ở Gò Nổi, dân cách mạng họ trồng mỳ (sắn) không nhằm mục đích thu hoạch mà chủ yếu lấy cớ đi làm, để liên lạc, cung cấp tin tức cho cách mạng. Mặt khác lo lương thực tại chỗ cho bộ đội, du kích phòng khi không có tiếp tế).

    Cởi bỏ hết đồ dài, trên mình chỉ độc một chiếc quần đùi, quàng thắt lưng với một quả "da láng" MK8 (lựu đạn mỏ vịt của Mỹ), một dao găm và một sợi dây dù (dây võng), tôi len lỏi giữa nhừng lùm cây lúp xúp để đến được nương mỳ. Cách chỗ tôi nhổ mỳ chừng 500 mét, có một cái bốt mới đóng trái phép, bốt Lộ 8. Tôi trông khá rõ thằng lính gác ngồi trên mi- đo (chòi gác). Còn nó, không để ý chỗ tôi. Hơn nữa do trời mưa, tôi lại luồn lách, lom khom đi giữa đi giữa những luống mỳ nên có chú ý cũng không thể thấy được. Tôi đã nhổ được một ôm khá to rồi. Đang định ra về, chợt nhìn sang bên cạnh, thấy một luống, cây rất tốt, nghĩ bụng: "Có lẽ củ to và nhiều lắm đây!" Vội bước lên một lùm cỏ xanh rờn để qua bên đó nhổ thêm vài gốc nữa. Ôi! Tôi bỗng thấy hun hút... hun hút... như đang rơi vào khoảng không. ùm...! Rồi chìm nghỉm xuống dưới mặt nước, sau đó tôi trồi lên. Tôi biết mình đã bị rơi xuống một cái giếng bỏ hoang lâu ngày. Ngước mặt nhìn lên miệng giếng, tôi thấy cỏ đã phủ kín và nước mưa nhỏ long tong trên mặt. Tôi nghĩ nhanh: "Thế là hết! Mình sẽ vĩnh viễn gửi lại bộ xương nơi lòng giếng này!". Tôi gắng sức hét lên một tiếng thật to thử xem có ai có thể nghe được không? Nhưng tiếng hét của tôi không thể lọt ra khỏi lòng giếng. Lúc này, tôi thức sự hoảng loạn. Có lẽ, trong quãng đời quân ngũ, chưa bao giờ tôi lại bị cú "sốc" tinh thần lớn như vậy. Kể cả những lúc bom đạn ác liệt và đối mặt với cái chết đến trong khoảnh khắc, tôi vẫn không nao lòng. Bởi lúc ấy, có đồng đội bên cạnh. Còn giờ đây, tôi thực sự đơn lẻ. Chẳng có ai ở gần tôi. Nỗi trống vắng xâm lấn tâm hồn và làm cho tôi hoảng sợ thực sự...Tuy nhiên, trạng thái tâm lý ấy cũng nhanh chóng qua đi, nhường lại là sự tỉnh táo. Một phản xạ tất yếu của người lính từng hứng chịu mưa bom bão đạn như tôi và trước sự lựa chọn giữa cái chết với sự sống, tôi nghĩ nhanh: "Mình không thể chết đói, chết rét dưới lòng giếng này được! Nếu không còn phương án nào khả dĩ thì mình sẽ rút chốt lựu đạn để kết thúc cuộc đời, trước khi cái chết mòn kéo đến!". Tôi nổi trong lòng giếng như con ếch và tiếp tục nghĩ cách thoát ra. Bất chợt một tia hy vọng loé lên trong đầu. Tôi nghĩ nhanh: "Người dân ở đây, khi đào giếng thường đào bậc so le hai bên thành giếng để tiện lên xuống" (đất ở Gò Nổi có kết cấu khá vững chắc, rất nhanh phong hoá). Tôi sờ tay vào thành giếng. Đúng như dự đoán. Hai bên đều có bậc. Nhưng lâu ngày nên bậc bị mòn và rêu bám trơn tuột. Tôi chợt nghĩ: "Mình sẽ dùng dao găm đào bậc để lên. Vậy là không chết nữa rồi!". Tôi thầm reo lên và thấy tinh thần phấn chấn vô cùng. Nó như động lực, tiếp thêm sức mạnh cho tôi. Lấy hơi, tôi hụp lặn xuống mò dao găm dưới đáy giếng. Tôi rùng mình khi chạm phải một cái cọc sắt khoảng phi 12 ở giữa lòng giếng.....hưng may mắn thay, do lâu ngày nên nó đã rỉ ngang mặt đất rồi đổ gập về một phía. Nếu không, tôi đã bị xâu như con ếch từ đít lên đầu bởi thanh sắt ấy rồi! Tôi dùng dao găm, đào khoét theo bậc, hết bên này đến bên kia, gạt hết rong rêu rồi bám theo đó, leo lên. Cứ đào xong một bậc bên này, tôi lại cho bàn chân vào rồi dùng hai khuỷu tay khuỳnh ra hai bên để tạo lực và điểm tựa nhích dần lên để đào bậc bên kia. Rất may là lòng giếng hẹp. Nếu rộng quá độ dài của hai cánh tay thì chắc chắn tôi sẽ không có cách nào lên được. Tôi không biết mình đã đào bao nhiêu bậc. Mãi thật lâu, mới lên đến gần mép giếng. Đu người, nắm lấy búi cỏ, tôi kéo mạnh lên rồi bám lấy một búi khác, trườn nhanh lên thành giếng. Thế là thoát chết! Tôi thở phào. Lúc này, đã thấm mệt. Tay cầm dao găm, một mạch chạy về theo lối cũ và cố tránh những nơi cỏ mọc xanh tốt. Đúng là "kinh cung chi điểu". Con chim bị bắn chết hụt, nhìn thấy cành cây cong tưởng đó là cánh cung. Còn tôi cứ thấy những lùm cỏ xanh là tránh, sợ đó lại là miệng giếng. Cái giếng nơi tôi rơi xuống sâu đến trên13 mét. Chứa khoảng gần 2 mét nước. Nếu giếng không có nước, chắc chắn tôi chỉ còn là một đống thịt xương lẫn lộn!

    Thấy tôi đi đã quá lâu, mãi đến gần 7 giờ tối mới lục tục chạy về, Tiết hỏi ngay: "Sao lâu thế? Chờ sốt cả ruột! Tớ tưởng cậu bị địch bắt rồi!". Tôi thuật lại cho Tiết nghe, vẻ mặt cậu ta xúc động thật sự, rồi an ủi tôi: "Không chết là may rồi. Nếu không lên được thì bọn tớ cũng chẳng biết đâu mà lần, đành phải báo mất tích thôi!". Tôi bảo: "Thôi, cậu đi cùng mình, ra lấy sắn và các thứ về đi!". Tiết không ngần ngại, rút trong ba lô ra thêm sợi dây dù rồi với tay xách khẩu AK theo tôi, trở lại chỗ cái giếng. Chúng tôi chạy một mạch đến nơi. Lúc này trời đã tối hẳn. Tiết đứng giạng chân trên bờ, cầm sợi dây dòng xuống để tôi bám vào đấy thả mình xuống lòng giếng. Được hai phần ba, tôi tuột tay rơi xuống. Tôi lặn mò bó sắn và lựu đạn rồi bảo Tiết kéo lên. Tiết vốn to con (khoảng 70 kg) nên việc kéo tôi lên không khó khăn gì. Lên được hai phần ba giếng, tôi lại tuột tay rơi xuống lần nữa. Trầy trật mãi, một lúc sau, cộng với sức kéo của Tiết tôi mới bám được bờ. Sau này tôi mới tự hỏi tại sao mình lại ngớ ngẩn và đãng trí thế! Việc gì lại phải xuống giếng thêm một lần nữa trong khi chỉ có một trái lựu đạn và một bó sắn (!?) Nếu lần này xuống mà gặp điều rủi ro thì sao?!...

    Chúng tôi về đến “cứ”. Trời vẫn mưa. Không có củi khô, tôi chẻ một cây sào phơi quần áo để làm củi rồi cùng Tiết nấu sắn ngay trên giường ngủ dưới tán tăng nilon. Tôi tháo lưỡi xẻng kê lên để khỏi cháy giường.

    Hai chúng tôi ăn hết một xoong sắn lớn. Sau đó nằm nói chuyện chờ đến lúc anh em từ ấp chiến lược về. Tuy vậy, cái giá phải trả cho bữa sắn ấy là quá đắt. Với tôi, đó lại là một kỷ niệm nhớ đời.

    Câu chuyện sau đó đã trở thành một giai thoại trong đơn vị. Mãi đến bây giờ mỗi khi gặp lại đồng đội cũ, họ đều nhắc đến tình huống hy hữu đó.

    Cũng như lần vớt gạo trên sông Xê Rê Pốc ở Trường Sơn, tôi nghĩ, có lẽ tổ tiên đã dõi theo từng bước để phù hộ độ trì cho tôi dưới trời lửa đạn hay trong những phút giây hiểm nghèo nhất tưởng chừng không thể nào vượt qua nổi...  ...Càng ngày, bọn địch có vẻ như càng nhận thấy sự hiện diện của một lực lượng quân sự bí mật nào đó ở khu vực Gò Nổi đang ngày đêm uy hiếp chúng mà chúng cần tìm hiểu. Bọn chỉ huy đốc thúc lính tăng cường nống ra thăm dò để phát hiện. Do vậy nhiệm vụ bám, nắm địch của chúng tôi ngày một nặng nề hơn.

    Chiều ngày12 tháng7 năm 1974, từ cứ "Trốn Lính" cách Gò Nổi chừng 1,5 km đường xuồng (gọi là cứ "Trốn Lính" vì cứ này có rất nhiều người đến tuổi quân dịch, không chịu đi lính cho nguỵ quyền Sài Gòn mà cũng không dám tham gia làm cách mạng đã trốn ra đây, được gia đình chu cấp, chờ ngày giải phóng để trở về), tôi cùng Ngô Quang Phô (quê Quảng Trạch, Quảng Bình), Nguyễn Văn Lưu (quê Nam Đàn, Nghệ An), Lưu có tật hay nháy mắt kép, sau này khi bám địch ở Gò Nổi đã vô ý dẫm phải quả B40 do ta gài để chặn địch, cắt đứt đùi phải, mất nhiều máu, hy sinh ngay sau đó), Kiều Gia Lâm (quê Xuân Hải, Nghi Xuân, Hà Tĩnh) và Lưu Xuân Tiết, bám lên Gò Nổi. Đến 16 giờ, chúng tôi mới lên được tới chỗ bọn địch. Tuy nhiên, trước đó chừng 20 phút, chúng đã rút. Tôi bàn với Tiết và Phô phải gài mìn lại phòng ngày mai chúng lại tiếp tục ra. Tôi dùng dao găm đào lỗ chôn mấy quả "Cá mòi" (loại mìn tự tạo, dùng vỏ hộp cá mòi, nhồi TNT, tra kíp vào làm mìn giẫm nổ).

    Đúng như dự đoán, sáng hôm sau, mới khoảng 8 giờ, đã nghe mấy loạt AR15 đì đẹt trên Gò Nổi. Chúng tôi được lệnh phải đi bám địch. Cả năm anh em lại lên xuồng. Tôi vừa ngồi trên xuồng vừa lau súng. Đi ngang qua chỗ cứ "Trốn lính", mấy người, trong đó có cả du kích, đang ăn sáng. Thấy tôi lau B40, một cô du kích bảo: "Mấy anh đi bám địch mà lau súng là dễ đụng tụi nó lắm đó nghen!". Tôi chỉ cười mà không tin. Tất nhiên vì đi trễ, nên cũng hết sức cảnh giác. Khoảng gần 10 giờ, xuồng mới cập bến. Neo xuồng xong, mọi người lần lượt bám lên. Phô, Tiết, Lưu đi mũi 1. Tôi và Kiều Gia Lâm, mũi 2 vòng bên trái. Thấy rất nhiều dấu giày của bọn lính, tôi nháy Lâm cảnh giác rồi bám dần lên đến chỗ ngã ba đường mòn mà chiều hôm qua tôi đã chôn rải rác 3 trái "cá mòi" kia. Đến đây, dấu giày chi chít. Tôi chỉ cho Lâm thấy mấy cái đầu lọc thuốc lá "Ru Bi" bọn nguỵ vừa hút xong, vứt xuống đấy. Đồng thời, tay chỉ vào chỗ có mấy trái mìn, nói nhỏ với Lâm: "Đây, chúng nó vừa giẫm nát chỗ này mà sao không giẫm phải "râu tôm" của trái mìn tớ gài nhỉ?!" Vừa dứt lời, chợt thoáng thấy một thằng lính bận đồ rằn ri, nằm dưới bụi tre gai lúp xúp cách tôi chừng 2 mét bật dậy, run lẩy bẩy, chụp súng kéo cò. Đạn bay xèo xèo qua mặt, qua đầu tôi và Lâm. Thật kỳ lạ, cả hai không hề “dính” một viên nào. Thì ra, thằng lính nằm phục kích chúng tôi, ngủ quên… Khi tôi thì thầm với Lâm, nó giật mình, chụp súng kéo đại cả băng 20 viên cực nhanh. Tôi quay đầu chạy chừng 5 mét rồi quay lại giáng một trái B40 vào ngay gốc bụi tre. Nhưng thằng lính đã nhanh chân hơn. Trước đó, nó đã nhảy khỏi chỗ ấy rồi chạy biến. Sỡ dĩ tôi không bắn ngay được vì khoảng cách giữa tôi và tên lính quá gần, B40 không thể phát huy được hoả lực. Tôi phải lùi lại khoảng 5 mét mới đủ tầm bắn (B40 bắn cự ly trong 3 mét, đạn sẽ không nổ vì chưa đủ thời gian cho viên bi trong rãnh an toàn xoay hết vòng của nó để rơi vào vị trí mất an toàn). Bây giờ thì các loại súng thi nhau nổ. Tôi chạy trong mưa đạn. Xung quanh, M79, AR15, đại liên bắn như mưa rào. Nhưng thật kỳ diệu, tôi không hề dính phải một mảnh hay một viên đạn nào cả. Còn Lâm, hoảng quá, rẽ phải, chạy ra phía đồng trống. Bọn địch phát hiện được liền chuyển hướng bắn theo. Tôi nghĩ, chắc Lâm không thể thoát khỏi làn đạn ấy. Tôi xách B40 cắm cổ chạy một mạch xuống đến chỗ giấu xuồng. Cùng lúc ấy, Tiết, Phô, Lưu cũng chạy về đến nơi. Chúng tôi nhanh chóng nhảy lên xuồng, bơi một mạch theo con rạch cũ. Bấy giờ mọi người mới hỏi: "Lâm đâu?!" Tôi kể lại. Ai cũng nghĩ Lâm đã hy sinh. Trên bờ địch vẫn bắn đuổi theo không tiếc đạn. Nhưng chúng tôi đã ra khỏi khu vực nguy hiểm rồi. Được một lúc, đang bơi, đột ngột thấy Lâm xuất hiện bên bờ rạch, mặt tái xám vì mệt, người ướt như chuột lột. Tất cả đều reo lên "Kìa! Thằng Lâm vẫn sống". Chúng tôi dừng xuồng, đón Lâm. Cậu ta lên xuồng, định thần rồi kể: "Khi tớ chạy ra hướng đồng trống, bọn địch phát hiện được liền bắn đuổi theo và hò la bắt sống...". Lâm cắm cổ chạy xuống đến triền bưng rồi chui vào cỏ trườn đi, sau đó mới định hướng, cắt bưng về vừa lúc chúng tôi đến và gặp tại bờ rạch (sau này, năm 1980, tôi gặp lại Lâm tại Vinh, cậu ta làm công nhân xây dựng).

    Chúng tôi cũng không hề biết rằng, trước đó đã có một tiểu đội du kích đi trước bám địch. Họ cũng không ngờ có mấy tên lính đang mải quan sát chúng tôi từ trên ngọn cây. Khi nghe tiếng súng AR15, mấy thằng này liền chửi: "Đ... mẹ! Đồ ngu! Biểu chờ tụi nó vzô để bắt sống, sao lại bắn sớm quá vzậy?". Các đồng chí du kích liền xả súng lên ngọn cây, mấy thằng đó trúng đạn rơi xuống. Họ lập tức quay trở lại rồi lên xuồng, nhanh chóng bơi ra theo hướng chúng tôi. Chúng tôi cùng gặp nhau ở cứ "Trốn lính".

    Tôi nói đùa với mấy anh em cùng đi: "Phải cảm ơn thằng lính đã ngủ quên dưới bụi tre. Nếu không thì một trong hai tình huống đã xẩy ra: hoặc bị bắt sống hoặc đã "nằm lại" trên Gò Nổi rồi".

    Lần ấy, sau khi trở về hậu cứ, tôi trực tiếp đề xuất ý kiến lên tiểu đoàn bộ. Nội dung là phê phán thói quan liêu, duy ý chí của cán bộ tiểu đoàn, suýt nữa đã đưa chúng tôi đến cái chết vô ích. Lẽ ra hôm đó, nếu cần bám địch thì tiểu đoàn phải có kế hoạch để chúng tôi chủ động đi sớm khi địch chưa nống ra. Đằng này, để chúng ra chiếm địa bàn trước rồi mới lệnh chúng tôi đi. Quả là một sự kém cỏi và chủ quan trong chỉ đạo tác chiến. Nhất lại là những cán bộ đã có thâm niên chiến trường như các vị ấy. Hôm ấy, chúng tôi thoát chết là điều nằm ngoài sự tưởng tượng.

    Hôm sau, cũng tại cứ "Trốn lính" này, tôi lại có một kỷ niệm khác. Vì hôm trước, khi vội vàng lên xuồng để rút nhanh ra khỏi tầm hoả lực của địch ở Gò Nổi, tôi đã nhúng toàn bộ bó liều phóng B40 xuống nước. Sáng hôm ấy, sau khi dập hết lửa ngọn, tôi cẩn thận để bó liều phóng trên bếp than cho nhanh khô. Không ngờ, chỉ ít phút sau, một đốm tàn lửa nào đó đã bắt vào liều phóng. Một tiếng x...ẹt...! Rồi trong chớp mắt, khói trùm kín cả vườn vú sữa nơi chúng tôi trú quân. Khói trắng dày đặc đến mức chỉ đứng cách nhau vài bước chân mà không thể nhìn thấy được nhau. Khói cuộn lên như có một bàn tay khổng lồ nào đó ném xuống vườn vú sữa một núi bông trắng xoá. Tất cả chúng tôi kinh hoảng vì sự việc diễn ra quá đột ngột, ngoài tầm kiểm soát. Kinh hoảng hơn là nhất định phen này sẽ không thể thoát bởi pháo, trực thăng và bom. Vì ở đây chỉ cần một sơ suất nhỏ, để lọt một tia khói hay tiếng động là lập tức pháo bầy đến ngay. Lệnh của tiểu đoàn phải chuẩn bị chiến đấu. Nơi chúng tôi trú quân thật bất lợi. Trước mặt là con rạch dẫn lên Gò Nổi. Phía bên trái là cánh đồng bưng trống trải. Sau lưng và bên phải cũng là đồng bưng. Cách chừng 200 mét là sông Vàm Cỏ Đông. Tàu địch thường xuyên tuần tiễu. Chúng tôi ở vào cái thế "cá nằm trên thớt". Không còn cách nào khác là ai nấy đều nín thở chờ đợi... Không khí căng thẳng như lúc chờ địch vào. Năm phút... Mười phút... Rồi ba mươi phút... không gian im lặng như nén đặc lại. Không hề nghe một tiếng đại bác hay tiếng trực thăng. Kỳ lạ quá! Chúng tôi nhìn nhau, chẳng ai tin vào tai mình nữa. Thời gian cứ dần trôi, mọi người cứ thấp thỏm, nơm nớp. Một giờ... Rồi hai giờ... trôi qua. Vẫn im lặng. Một sự im lặng đáng sợ! Cuối cùng, buổi sáng cũng đi qua mà không hề có động tĩnh gì. Rồi cả buổi chiều hôm đó cũng trôi qua trong im lặng. Tất cả chúng tôi thở phào. Thế là ổn! Không ai có thể cắt nghĩa được hiện tượng có một không hai này.

    Chiều hôm đó rồi cả ngày hôm sau và mấy ngày sau nữa cũng không có hiện tượng gì xảy ra. Lần ấy, nếu như mọi khi, chúng tôi sẽ no đòn vì bom, pháo. Và không biết hậu quả sẽ như thế nào. Đây cũng lại là một tình huống hy hữu, nằm ngoài quy luật của chiến sự vùng này.

   Tôi bị đại đội khiển trách vì tính bất cẩn. Đó là bài học về sự cẩn trọng cho tất cả chúng tôi khi ở chiến trường.

     Tại cứ này, tôi còn một kỷ niệm đáng nhớ khác. Hồi ấy, rất hiếm báo chí, sách vở, vì trong điều kiện chiến đấu. Chúng tôi "khát" báo lắm. Hôm ấy, tôi được một đồng chí du kích trao cho một tờ báo "Quân Giải Phóng", trong đó in trọn vẹn bài thơ "Nước non ngàn dặm" của Tố Hữu. Tôi đọc liền một mạch và duy nhất chỉ một lần với bài thơ dài như vậy mà đến bây giờ, tôi vẫn thuộc làu bài thơ này không sót một từ hay một câu nào. Tờ báo được chuyền tay nhau đọc đến nhàu nát. Anh Vũ Duy Tòng cũng đọc và thuộc ngay bài thơ. Sau này khi trở thành thầy giáo dạy Văn trường trung học phổ thông, đến phần thơ ca chống Mỹ, tôi thường kể lại kỷ niệm này cho các em học sinh nghe. Những ánh mắt, những gương mặt hiện lên vẻ xúc động pha lẫn tự hào. Và ngay bài thơ "Nước non ngàn dặm" cũng có nhiều đoạn nhiều câu, khi làm dẫn chứng, cứ liệu cho giờ giảng cũng hết sức sát đúng, sinh động, gần gũi và có sức lay thức tâm hồn các em. Có thể nói, những năm tháng binh lửa ấy là nguồn cảm xúc và là vốn tư liệu sống dồi dào mà các thế hệ đồng nghiệp của chúng tôi, những người không kinh qua chiến tranh, dễ gì có được trong giờ giảng!...

    ...Tình hình ngày một căng thẳng hơn. Chúng tôi nhận được tin tình báo cho hay, địch đang rắp tâm điều một lực lượng, càn ra Gò Nổi. Chúng tôi chủ động chuẩn bị trận địa và phương án chờ đánh địch đồng thời dự kiến các tình huống có thể xảy ra.

    Ngày 30/7/1974, địch tập trung hai tiểu đoàn bảo an cùng các đơn vị địa phương quân khác, càn ra Gò Nổi. Từ sáng sớm, chúng đã gọi pháo từ Hậu Nghĩa, Đức Hoà, bắn dọn đường. Những trận mưa pháo dội lên trận địa chúng tôi, khói lửa mù mịt. Gò Nổi cây cối vốn khá rậm rạp, vậy mà sau mấy đợt pháo kích, địa hình trống hoác, cây đổ ngổn ngang. Chúng tôi biết rằng đây sẽ là một trận càn lớn vì địch đã đánh hơi được lực lượng chúng tôi. Trận này, chúng quyết đánh bật chúng tôi ra khỏi Gò Nổi. Hôm ấy, tôi và Trần Quốc Em (quê ích Hậu, Can lộc) cùng chung công sự. Em bắn trung liên RPĐ. Cậu ta là học sinh trường Cấp III Nguyễn Văn Trỗi, nay là trường THPT Nguyễn Văn Trỗi (quê Can Lộc). Em học xong lớp 10 rồi gia nhập quân đội. Ngày còn đi học, Em học rất giỏi nhưng chưa kịp thực hiện ước mơ vào đại học thì có lệnh gọi nhập ngũ. Cậu ta vẫn thường tâm sự với tôi về những khát vọng của mình. Trần Quốc Em có dáng người thấp đậm, da ngăm đen, tóc dựng đứng, mặt lúc nào cũng đầy mụn trứng cá. Mắt một mí, ti hí trông buồn cười lắm. Đặc biệt, hội họp, cậu ta siêng phát biểu và hay lí sự. Đó là một đặc điểm làm cho mọi người dễ nhớ. Trần Quốc Em hy sinh trong trận đánh sau đó. Bị thương cụt đùi phải mà vẫn tỉnh táo lắm. Lúc xuồng chở đi, Em nghẹn ngào trong nước mắt: "Tao... chắc không... sống nổi ... Sơn ạ". Tôi vội quay mặt đi để giấu dòng nước mắt của mình trước người đồng hương bị thương nặng đang trong giờ hấp hối. Tôi động viên Em: "Không sao đâu mà! Cậu cứ yên tâm mà đi viện, nhất định sẽ qua khỏi!". Nói vậy nhưng tôi linh cảm rằng Em không thể nào qua nổi vì vết thương quá nặng. Quả nhiên, đó cũng là lần cuối cùng tôi được gặp Em. Đến trạm phẫu trung đoàn, Trần Quốc Em trút hơi thở cuối cùng và vĩnh viễn nằm lại mảnh đất Long An.

    Còn hôm đó, khoảng 9 giờ, sau khi pháo kích dữ dội và trực thăng quần đảo, bắn rốckét và 20 ly xối xả xuống trận địa chúng tôi, bọn bộ binh mới mò vào. Các công sự tiền duyên nổ súng mãnh liệt tiêu diệt một bộ phận bọn lính gần nhất. Số còn lại chạy dạt ra. Trước công sự của Nguyễn Viết Kỷ (quê Thượng Lộc) và Nguyễn Văn Mậu (quê Minh Lộc), có mấy tên lính chết. Kỷ trườn ra lấy được một khẩu AR15. Khoảng 13 giờ, địch mở đợt phản kích để lấy xác. Một trái M79 rơi nổ trên nóc công sự, làm Mậu bị thương nặng vào đầu (Mậu nay là thương binh hạng 1/4 đặc biệt, đang sinh sống tại thị xã Hồng Lĩnh). Như vậy là công sự của Kỷ thiếu đi một tay súng. Trung đội trưởng Lưu Xuân Tiết truyền lệnh của đại đội, yêu cầu tôi thay Mậu. Công sự còn lại một mình Em. Tôi nói với Em: "Cậu ở lại, nếu địch phản kích thì phải phát huy hết hoả lực trung liên để chi viện cho bọn mình đấy". Nói xong, tôi ôm B40 trườn đến công sự nơi Mậu bị thương để thay thế Mậu và tăng cường cho Kỷ, trong khi trên đầu trực thăng quần đảo và pháo địch vẫn dồn dập bắn tới. Tôi đặt Mậu nằm xuống hầm, băng bó lại vết thương cho cậu ta rồi chuẩn bị đánh trả đợt phản kích mới. Từ nãy, tiếng L19 đã vè vè. Bỗng, ục... một tiếng, khói trắng trùm lên trận địa. Chúng tôi biết sắp có bom. Trên đầu đã nghe tiếng rít của A37, liền sau đó là liên tiếp những loạt bom giáng xuống trận địa, nhưng bom rơi ở cánh phải chúng tôi. Đã có mấy đồng chí ở trung đội 2 hy sinh vì loạt bom ấy. Đồng chí Nguyễn Văn Đức, quê Vĩnh Phú, nhập ngũ 1968 vừa từ đoàn quân "Chiến Thắng" do địch trao trả, bổ sung về đơn vị tôi làm trung đội phó, hy sinh ngay trong loạt bom đầu tiên. Đồng chí Thiện (quê Diễn Châu), trinh sát tiểu đoàn vừa được điều về cũng hy sinh. Lúc này bọn địch đã lùi ra xa và tiếp tục gọi pháo dội đến. Pháo bắn chụm làm tốc mất nóc công sự của một số đồng chí. Đồng chí Báo, trung đội trưởng, sau đó cũng bị thương. Tôi chia tay anh từ sau trận đánh ấy cho đến bây giờ, chưa một lần gặp lại. Hiện nay, Báo là trung tá, đang nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh.

    Từ đó đến chiều, địch chỉ mở một đợt phản kích nữa Nhưng chúng lại bị đánh bật ra. Sau đó thì chúng rút hẳn mang theo rất nhiều xác chết và bọn bị thương...    êm ấy, sau khi chôn cất tử sỹ, chúng tôi xuống xuồng rút qua bên kia sông. Đó cũng là trận đánh cuối cùng ở Gò Nổi, để rồi sau đó, chúng tôi cuốn theo chiến dịch cho đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Từ sau giải phóng đến nay, tôi chưa một lần trở lại mảnh đất nhiều kỷ niệm ấy. Với Gò Nổi, tôi và nhiều đồng đội như vẫn còn mắc một món nợ lớn. Đó là nơi ghi dấu nhiều kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời cầm súng của chúng tôi. Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên từng cảm thức:

"Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn"

    Mảnh đất ấy đã trở thành "một phần tất yếu trong cuộc sống" của tôi!...

    Trở lại Hội Đồng Sầm để củng cố lại đội hình và sức khoẻ. Mấy ngày sau đó, chúng tôi được lệnh hành quân xuống Bến Lức để tổ chức các trận đánh giải toả hành lang sông Vàm Cỏ Đông nhằm chuẩn bị cho chiến dịch mùa xuân 1975.

    Với tôi và nhiều chiến hữu, Gò Nổi đọng lại biết bao kỉ niệm thân thương, vui buồn lẫn lộn, kể cả những kỷ niệm mà tình tiết của nó nghe như huyền thoại. Tôi nhắc lại kỷ niệm này: Hồi ấy, ở Gò Nổi, trong đội hình đóng quân của đơn vị, tôi đã tìm được một nơi trú ẩn mà tôi cho là lý tưởng trong điều kiện bom pháo dày đặc như vậy. Mỗi lần trở lại sau chuyến công tác hoặc chốt lại lâu ngày, tôi đều đến đó. Chỗ tôi nằm là giữa hai cây duối cổ thụ. Qua năm tháng và đạn bom, trên mình nó đã đầy thương tích. Nơi này chỉ trừ trường hợp bom hay pháo rơi trúng thì tôi mới chết, nếu không thì đó là nơi che chắn an toàn nhất. Giữa hai gốc duối là là một đám cỏ xanh tốt, nõn nà. Tôi thường trải tấm tăng nilon lên đó rồi vùi vào giấc ngủ ngon lành sau mỗi lần hành quân đến hay sau mỗi đêm công tác vào ấp chiến lược về. Có những thời điểm chúng tôi ở lại Gò Nổi gần 3 tháng. Ngày cũng như đêm, tôi vẫn nằm trên đám cỏ ấy. Cho đến một hôm, trong một lần phối hợp tác chiến, một đồng chí du kích địa phương cho tôi hay là giữa hai gốc duối đó, năm 1972, họ mai táng một nữ du kích hy sinh. Vì sợ bọn lính nguỵ càn ra phát hiện được, chúng dùng chất nổ quật xác lên, nên sau khi hạ huyệt, họ lấp đất rồi khoả bằng lại. Lâu ngày cỏ mọc xanh tốt. Thật không ngờ, suốt một thời gian dài, tôi lại nằm ngay trên mình đồng chí du kích ấy. Tự nhiên, tôi thấy gai gai, rồi chợt hiểu vì sao giữa hai cây duối đó lại có một bãi cỏ xanh tốt đến lạ kỳ như  thế! Nhưng kỳ lạ hơn là suốt quãng thời gian dài như vậy mà tôi không hề thấy chiêm bao hay báo mộng bất cứ một điều gì! Ngay chiều hôm đó, tôi vội chuyển vị trí nằm của mình. Đêm hôm sau, khi vào ấp chiến lược, tôi đến thẳng quán Sáu Tiệm - một cơ sở cách mạng ở ấp An Thuận - mua một nắm nhang lớn rồi sáng sớm hôm sau đến bên mộ cô gái- người liệt sỹ vô danh đó, thắp nén nhang tạ tội. Tôi cúi đầu lầm rầm khấn: "Xin đồng chí hãy tha thứ cho tôi. Thời gian qua, vô tình tôi đã làm một làm một điều lẽ ra là không thể. Đó là việc nằm ngoài ý muốn chủ quan của tôi vì tôi hoàn toàn không ngờ. Xin đồng chí sống khôn, thác thiêng, độ lượng bỏ quá cho tôi. Tất cả cũng vì nhiệm vụ đánh giặc, giải phóng đất nước. Xin đồng chí hãy phù hộ độ trì cho anh em chúng tôi, tai qua nạn khỏi. Tổ quốc và nhân dân đời đời biết ơn các đồng chí, những người con ưu tú đã hy sinh cả tuổi thanh xuân vì độc lập tự do của dân tộc!". Vừa dứt lời, một cơn gió thoảng qua, bó trầm tự nhiên bùng cháy. Bấy giờ tôi cũng không để ý, nhưng sau đó, kể lại chuyện này, mọi người ai cũng bảo lời khấn của tôi đã ứng nên bó nhang mới cháy thành lửa ngọn như vậy. Tôi chợt thấy vừa an lòng lại vừa lo. Có lẽ, cô gái dưới mộ kia - người đồng chí của chúng tôi - đã phù hộ độ trì cho tôi tránh khỏi mưa bom bão đạn nơi Gò Nổi ác liệt này.

    Trận Bình Đức (Bến Lức) diễn ra sau đó không lâu. Đó là những ngày cuối năm 1974. Lúc này chúng tôi nhận nhiệm vụ đánh địch để chia lửa cho các chiến trường đồng thời tiêu hao, tiêu diệt một lực lượng của chúng; nhằm bức hàng, bức rút những đồn bốt lấn chiếm trái phép. Đặc biệt là những căn cứ dọc hành lang sông Vàm Cỏ Đông để chuẩn bị lộ trình cho đại quân ta xuống chiến trường trong chiến dịch mùa Xuân 1975 sau này.

    Hôm đó, chúng tôi được lệnh mai phục để chặn đánh bọn địch càn ra. Tôi cùng Vũ Duy Tòng chung một công sự. Trận địa phục kích của chúng tôi nằm ngay trong những ruộng khóm (dứa) đang vào mùa thu hoạch. Nơi ấy rất ít các loại cây gỗ để chúng tôi có thể chặt lát công sự. Tôi và Tòng chỉ đốn được một số cây bình bát lèo tèo như que gậy, không đủ lực chịu đựng để đổ đất lên. Do vậy, công sự hết sức sơ sài. Tôi bảo Tòng: "Thôi, tất cả phó mặc cho số phận."...

    Nằm phục đã hai ngày mà địch không ra. Cứ gần trưa và cuối buổi chiều, hai đứa chúng tôi thay nhau trườn ra bẻ khóm chín rồi lại trườn về công sự ngồi ăn. Mùi khóm thơm ngào ngạt. Vì thèm, nên chúng tôi ăn nhiều quá, chảy cả máu lưỡi. Chúng tôi nghĩ cách là vắt lấy nước, cho vào bi đông rồi uống.

     Ngày hôm sau, khoảng 8 giờ, từ xa, chợt chúng tôi phát hiện ra hai người đi vào trận địa phục kích. Họ gồm một nam, một nữ. Càng vào gần, chúng tôi nhìn kỹ thì đó là một người đàn ông và một cô gái. Chờ cho bọn họ lọt vào trận địa phục kích, đồng chí Vũ Văn Thường (quê Diễn Hải, Diễn Châu, Nghệ An) ra chặn đường rồi mời vào xét hỏi. Họ khai là ba con đi làm đồng (vì ruộng gần đấy, ông già chỉ tay về phía đám ruộng) không biết bộ đội giải phóng về đây nên đã đi lạc vào. Họ xin được tha cho về, nhưng để đảm bảo bí mật cho trận phục kích, chúng tôi không thể để họ về được. Rất may, suốt cả ngày hôm đó địch vẫn chưa ra. Nếu chúng càn ra thì chắc cha con ông già cũng sẽ hứng chịu bom đạn như chúng tôi. Chiều tối hôm đó, sau khi thả họ, chúng tôi khẩn trương chuyển trận địa phục kích đến một địa điểm khác. Nhưng điều ít ai ngờ nhất là sau ngày giải phóng, khi chúng tôi chuyển quân đến ấp 3, xã Nhị Bình (Thủ Thừa, Long An), Thường, An và hai người khác tình cờ được bố trí ở ngay trong nhà hai bố con ông già bị bắt lần trước. Nhưng, vẫn chưa hết những điều ngạc nhiên là sau đó, chính cô gái bị Thường bắt giữ trong trận ấy lại đem lòng yêu Thường và đã được Thường "đáp trả" bằng tình yêu say đắm và mãnh liệt của mình. Một thời gian sau, được gia đình cho phép, họ xây dựng hạnh phúc với nhau. Hai "tù binh" dạo nọ, giờ đây một người là "phu nhân" yêu dấu, một người là "nhạc phụ" khả kính của Thường. Bây giờ thì Thường đã trở thành dân Nhị Bình rồi. Vì cưới nhau xong, cậu ta không về Bắc nữa mà ở rể luôn tại gia đình bên vợ. Nghe đâu, sau đó đời sống của Thường khá vất vả. Không rõ, hiện nay, hoàn cảnh ra sao? Đã 30 năm chưa một lần  gặp lại.

    Lại một điều nữa nằm ngoài quy luật thông thường đã xảy ra!

    ... Đại đội di chuyển trận địa phục kích đến một nơi khác. Chúng tôi không phải chờ đợi lâu. Ngày hôm sau, địch cho một tiểu đoàn nống ra càn quét. Đại đội một chặn đánh địch ngay trên đường chúng hành quân. Hôm ấy có mấy đồng chí phóng viên mặt trận B2 cùng tham gia trận đánh để quay cho bằng được tại trận những thước phim tư liệu phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của cấp trên. Rất may cho họ, lần này bọn địch đi đúng ý đồ chiến thuật của ta. Tổ quay phim gồm hai phóng viên nằm gần công sự với hai đồng chí của đại đội một. Khi một tốp 7 tên đi đầu hướng vào trước công sự của hai đồng chí đó, cách chừng 30 mét, ống kính quay phim quay xè xè rất nhỏ, thu lại hình ảnh của những tên này. Tới đó, chúng đột ngột dừng lại rồi giở bản đồ ra để tìm đường. Một tên đeo Côn 12, chống gậy, một tên khác mang máy thông tin vô tuyến điện PRC25. Tên chống gậy chắc chắn là chỉ huy. Nó dùng tay chỉ trỏ rồi nói gì với bọn lính đang dồn lên. Đột nhiên, nó chỉ thẳng vào chỗ chiếc máy quay phim đang xè xè quay, rồi nói gì đó, vẻ hoảng hốt. Cả bọn nhìn theo tay của thằng sỹ quan (chắc nó đã phát hiện ra cái gì đó). Chỉ chờ có thế, ánh chớp màu da cam do trái B40 của đồng chí bên cạnh đã nổ trùm lên tốp lính. ở đó không còn dấu vết gì, chỉ còn lại là một cột khói hình nấm bay lên. Tiếng nổ là hiệu lệnh của trận đánh. Tất cả các loại súng ở các cánh thi nhau trút đạn vào đám tàn quân tháo chạy thục mạng về hướng Bến Lức trong khi chúng tôi đồng loạt xung phong truy kích địch. Nhóm phóng viên mặt trận cũng lao lên ghi lại những hình ảnh sống động nhất của trận đánh này. Chúng tôi hoàn toàn làm chủ thế trận. Gần như không có tiếng súng đáp trả. Trận đánh diễn ra chóng vánh. Địch bị tiêu diệt gần hết, chúng tôi bắt sống 13 tù binh; thu 9 máy thông tin PRC 25 và phải dùng đến 3 chiếc xuồng mới chở hết số súng thu được.

    Thất bại nặng nề, bọn tàn quân tháo chạy về hướng Bến Lức rồi gọi pháo bắn ra bưng, nơi trận đánh vừa xảy ra. Đồng thời gọi trực thăng quần đảo và phóng hoả tiễn xuống trận địa. Chúng tôi chui xuống công sự tránh đạn. Tiểu đoàn ra lệnh không được nổ súng bắn trực thăng vì dễ gây lộ mục tiêu trận địa. Thấy ta im lặng và không có phản ứng gì, bọn "Cán gáo" chủ quan, liều lĩnh sà thấp xuống để phát hiện mục tiêu và bắn 20 ly vào những chỗ nghi ngờ. Đồng chí Viện (Quỳnh Lưu ở C3, D7, người gầy như que củi) thấy "ngon lành" quá liền chĩa nòng AK ra khỏi miệng hầm điểm xạ một loạt ba viên. Cả ba viên đạn găm vào sườn chiếc trực thăng"Cán gáo" khi đang sà xuống phóng rốckét. Lửa nhanh chóng bật ra từ hông nó. Và theo đà, đâm sầm xuống bưng, cách công sự tôi chừng 200 mét. Tôi trông rất rõ 3 tên nhào ra rồi chạy thục mạng trong khi hai chiếc còn lại bắn như rắc đạn xung quanh chiếc "Cán gáo" đang cháy với bán kính khoảng hai, ba trăm mét, nhằm bảo vệ cho ba thằng kia. Một trong hai chiếc còn lại liều mạng đáp xuống vớt ba thằng vừa chạy ra rồi vội cất lên, bay nhanh về cái bốt cách đó chừng 3 km. Chiếc trực thăng đó cũng vừa bị dính đạn do ta bắn lên. Tuy nhiên, nó đã chạy thoát. Một cột lửa và khói khổng lồ bốc lên cao cùng với tiếng nổ loạn xạ của các loại đạn, lựu đạn, rốckét trong chiếc "cán gáo" bị bắn cháy. Khoảng hơn hai giờ sau, đám cháy mới lụi dần. Nghe nói bọn lính nguỵ trên cầu Bến Lức khi thấy trực thăng cháy liền vỗ tay hoan hô. Thật khó hiểu (?!)

    Trận ấy, Viện được đề nghị tặng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhì. Sau giải phóng, năm 1976 cậu ta trở lại trường đại học Bách khoa Hà Nội. Năm 1980, tình cờ tôi gặp Viện tại trường Đại học Sư phạm Vinh khi trên đường vào thành phố Hồ Chí Minh nhận công tác. Vì rất vội nên chúng tôi chỉ tâm sự với nhau được mấy phút rồi đành phải chia tay để Viện ra ga cho kịp chuyến tàu. Hai mươi lăm năm, kể từ ngày ấy đến bây giờ, tôi chưa một lần gặp lại Viện. Chắc là anh đã định cư tại thành phố Hồ Chí Minh.

    Đầu tháng 1 năm 1975, Trung đoàn 271 cùng quân đoàn 4 và các đơn vị bạn thực hiện nhiệm vụ chiến lược của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương tổ chức một lực lượng quân sự đủ mạnh nhằm tiến công giải phóng thị xã Phước Long và tỉnh Phước Long để thăm dò phản ứng của Mỹ- nguỵ. Trước đó, tại địa bàn Long An, Tiểu đoàn 7 chúng tôi cũng được học tập chính trị và nghị quyết của cấp trên về tình hình và nhiệm vụ chiến lược mới. Được quán triệt tinh thần nghị quyết của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương: "Quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Tuy nhiên nếu thời cơ đến sớm thì sẽ chớp lấy và huy động tổng lực nhằm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975".

    Tôi bỗng nhớ đến hai câu thơ của một thi sỹ diễn tả cái cảm xúc đau đáu, khắc khoải khi nghĩ về đất nước trong đằng đẵng chiến tranh:

"Đất nước ba mươi năm cầm súng

Mà vầng trăng còn xẻ làm đôi..."

     Những vần thơ ấy vừa là sự ám ảnh vừa như nỗi niềm và động lực thúc giục chúng tôi xốc tới để góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đây là thời cơ không có sự lặp lại! Lịch sử dân tộc đang chuyển mình sang một bước ngoặt mới! Một ngày bằng mấy mươi năm!

     Phước Long là tỉnh thứ hai sau Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng. Mất Phước Long, Tổng thống nguỵ quyền Nguyễn Văn Thiệu hô hào: "Tràn ngập lãnh thổ", "Tái chiếm"... Nhưng những nỗ lực quân sự và ngoại giao của chúng đều bị vô hiệu hoá. Thiệu đành cay đắng chấp nhận mất Phước Long và kêu gọi để tang cho tỉnh này ba ngày. Đồng thời, một mặt làm mình làm mẩy với chủ Mỹ, mặt khác yêu cầu Mỹ đưa quân trở lại miền Nam và tái oanh kích miền Bắc. Quả là "chó cùng dứt giậu". Tuy nhiên thế và thời lúc ấy không cho phép Mỹ thực hiện được ý đồ đen tối đó nữa. Mỹ hoàn toàn không có phản ứng quân sự sau khi Phước Long thất thủ.

    Còn ta, xem đó là một bước ngoặt của cuộc chiến tranh giải phóng. Chiến thắng Phước Long đã mở ra một thời cơ mới, một cục diện mới, đẩy thế và lực của cuộc chiến tranh nhân dân phát triển về chất lên một bước mới. Sau chiến thắng Phước Long, lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh và xây dựng lực lượng quân đội, chúng ta đã nhanh chóng thành lập những quân đoàn để tạo những “quả đấm thép” quyết định trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến lược: "Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhât đất nước!"   Như vậy, nhiệm vụ của chúng tôi lúc này được cấp trên giao là tiếp tục đứng chân trên địa bàn thuộc các huyện Đức Hoà, Đức Huệ, Bến Lức và Thủ Thừa, tiếp tục tiến công giải phóng toàn bộ hệ thống đồn bốt dọc sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây để khai thông hành lang nhằm tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực và các phương tiện vũ khí, khí tài kể cả vũ khí hạng nặng như chiến xa T54, pháo tự hành... mở hướng tiến công Sài Gòn từ hướng Tây nam và Tây bắc. Có thể nói lịch sử sẽ không có sự lặp lại. Hai mươi mốt năm dồn lại cho trận đánh cuối cùng! Trong những ngày này, chúng tôi như đang sống trong không khí hội quân. Cả nước ra trận. Mặc dù chiến sự vẫn diễn ra càng lúc càng ác liệt. Đêm đêm tiếng hú của những giàn H12, ĐKB (một loại hoả tiễn được cải tiến, đặt trên máng đẩy, có sức công phá rất mạnh), cùng với những tiếng nổ kinh hoàng của nó trong các căn cứ địch, được xem là tiếng chuông cáo chung cho chế độ nguỵ quyền Sài Gòn thối nát, đang điểm!

    Những thắng lợi quân sự trên khắp các chiến trường, đặc biệt chiến thắng của chiến dịch Buôn Ma Thuột (từ 4/3 đến 3/4-1975) là trận mở màn then chốt, chiến lược đã tạo một phản ứng dây chuyền về sự đổ sụp nhanh chóng và không gì cưỡng nổi của chế độ nguỵ quyền Sài Gòn thối nát, đồng thời là hồi kèn xung trận thôi thúc chúng tôi quyết tâm chiến đấu, góp phần đẩy nhanh mục tiêu giải phóng đất nước đến đích cuối cùng.

    Bị thảm bại ở Tây Nguyên, các sư đoàn quân nguỵ đặc biệt là sư đoàn 22, 23 cùng một số sắc lính như thuỷ quân lục chiến, biệt động quân... tháo chạy về vùng ven hòng lập một tuyến phòng thủ từ xa, bảo vệ Sài Gòn. Bởi vậy, nhiệm vụ chiến trường lúc này trong đó có đơn vị chúng tôi là phải chặn đánh chúng để bảo vệ và giữ vững tuyến hành lang mới được khai thông, tạo điều kiện để đại quân ta mở hướng đột kích tiến đánh Sài Gòn. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề đối với một lực lượng nhỏ bé, trang bị vũ khí thiếu thốn như chúng tôi. Nhưng với ý chí tất cả cho chiến thắng, tất cả để giải phóng miền Nam, nên nó đã biến thành sức mạnh vật chất. Ai cũng quyết tâm chiến đấu và quyết thắng.

    Ngày 19/4/1975, tiểu đoàn 7 nhận nhiệm vụ chặn đánh bọn địch nống ra giải toả hành lang sông Vàm Cỏ Đông. Con sông này, trước đây cũng như trong Chiến dịch Hồ Chí Minh có vai trò chiến lược cực kỳ quan trọng. Đó là con đường thuỷ huyết mạch để bộ đội ta tập kết vũ khí (kể cả vũ khí hạng nặng như xe tăng và pháo) cùng lực lượng các quân, binh chủng để tiến đánh Sài Gòn từ hướng Tây Nam (Đoàn 232, tương đương quân đoàn). Trước đó, một đơn vị bạn đã đánh chiếm căn cứ Lương Hoà nằm án ngữ bên bờ sông. Mất Lương Hoà đồng nghĩa với việc bỏ ngỏ hành lang này để cho ta mặc sức đưa người và khí tài xuống tập kết chuẩn bị cho chiến dịch. Bởi vậy, chúng tìm cách "tái chiếm". Địch huy động 2 tiểu đoàn "Thuỷ quân lục chiến" cùng 4 tiểu đoàn "Bảo an" càn ra, thăm dò để ngăn chặn ta. Đây là địa bàn chiến lược quan trọng cách Sài Gòn chừng 25 dặm bay từ hướng Tây nam. Nên dù giá nào chúng cũng quyết giữ bằng được.

     Lực lực lượng chúng tôi duy nhất chỉ có một tiểu đoàn bộ binh.Tiếng là một tiểu đoàn nhưng thực tế mỗi đại đội chúng tôi chỉ có 25 đến dưới 30 tay súng mà thôi. Cấp trên tăng cường thêm 1 khẩu 12,7 ly; 2 khẩu ĐKZ 82; 2 khẩu cối 82 ly, còn lại là hoả lực B40, B41, trung liên, AK. Trong khi đó, bọn địch có 6 tiểu đoàn tăng cường. Nếu tính theo biên chế thì địch sẽ đông gấp 12 lần chúng tôi về mặt quân số. (Mỗi đại đội của chúng trên 60 tên), được yểm trợ bởi pháo binh từ Hậu Nghĩa, Bến Lức, Hiệp Hoà, trực thăng và máy bay ném bom.       Tám giờ, địch đổ quân bằng tàu chiến (“mặt dựng”). Hai tiểu đoàn “Thuỷ quân lục chiến” đi đầu, tiếp theo là bốn tiểu đoàn “Bảo an”. Chúng cắt bưng đi về hướng trận địa chúng tôi. Mũ sắt loang loáng dưới nắng sớm.

     Đơn vị chúng tôi bố trí đội hình giật cấp. Phía trước bên phải là đại đội 2 tiếp theo là đại đội 3, lùi xuống bên trái là đại đội 1. Hoả lực cối 82, ĐKZ 82 nằm ra phía sau. Khẩu 12,7 ly đặt trên bờ kinh (kênh) phía bên phải đại đội tôi nhằm phát huy tối đa hoả lực khi lâm trận.

     Chín giờ. Chờ cho tốp địch đầu tiên cắt qua trước mặt đội hình phục kích của đại đội 2, B40, B41 phát hoả, tiếp theo là khẩu 12,7 ly nhả đạn như mưa cắt ngang đội hình hành quân của 2 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến. AK, trung liên, cối và ĐKZ 82 cùng các loại hoả lực ở các đại đội đồng loạt trút vào đầu địch. Sức căng của đạn 12,7 ly với tầm bắn 6 km đã cắt phạt cỏ bưng, xé nát đội hình chúng. Tôi và Đào Xuân Nhuận chung một công sự. Tôi nhảy khỏi công sự bắn liền 2 trái B40 vào đội hình co cụm của địch ở phía trước chừng 30 mét. Rồi băng lên xoay tay lắp quả đạn thứ 3 vào nòng, chuẩn bị bắn. Liếc mắt, thấy Nhuận ôm trung liên chạy sát ngay sau lưng, tôi hét: "Nhuận, tránh!". Cậu ta nhoài người né sang một bên. Tôi nhằm vào chỗ có tiếng la nhiều nhất, siết cò. Một quầng lửa màu da cam trùm lên chỗ đó. Tiếng la hét im bặt. Tôi tiếp tục lao lên, đẩy quả đạn thứ tư vào nòng. Trước mặt lúc này là một con kinh nhỏ rộng chừng 2 mét, nhưng bờ phía tôi thấp hơn nên khi nhảy, bị rơi xuống. Nhuận nhảy theo cũng vậy (trung liên cồng kềnh và nặng). Đánh mắt sang trái, cách chừng 25 mét, thấy lố nhố dưới mương rất đông những chiếc mũ sắt và áo rằn ri. Những họng AR15 đen ngòm chĩa thẳng về phía tôi nhưng tuyệt nhiên không có tiếng nổ hay tiếng rít của đạn. Chúng không dám bắn!? Không phải! Tôi chợt hiểu: AR15 vốn là loại súng bộ binh có tính năng ưu việt, gọn nhẹ, cơ động, phát huy hoả lực tốt, nhưng chỉ thích hợp với địa hình khô ráo. Do nhúng nước bùn nên bị kẹt đạn. Nếu không tôi và Nhuận đã bị hàng chục viên găm vào người và nhận chìm xuống kinh rồi. Tôi nép nhanh vào bờ, quay đầu đạn B40 chĩa vào bọn lính đứng dưới kinh siết cò. Một tiếng nổ và một cột nước vọt cao trùm lên bọn lính. Tôi không kịp nhìn nữa, vội nắm cành bình bát kéo mình lên khỏi lòng kinh. Nhuận leo lên theo. Tôi chạy lên phía trước, dưới chân có khá nhiều xác rằn ri gục chết do trúng đạn AK và B40. Nhụân ôm trung liên lao lên, quạt vào bọn lính đang chạy dạt ra hướng bờ sông Vàm Cỏ. Vượt lên khoảng 20 mét nữa, bất chợt chúng tôi thấy một thằng nằm sấp. Hai tay hắn nắm chặt lấy hai búi cỏ bàng, máu chảy đỏ cả một vùng nước bưng xăm xắp xung quanh chỗ nằm. Nhuận tiếp tục quạt trung liên vào bọn lính phía trước. Còn tôi, dừng lại cảnh giác, rồi cúi xuống nắm một cánh tay tên bị thương, kéo lật ngửa. Hắn dính một viên AK hay trung liên gì đó. Viên đạn xuyên từ sau bả vai phải rồi trổ ra trước ngực chếch lên gần chỗ xương đòn. Bọt máu sủi ra. Hắn bị thủng phổi. Mất nhiều máu. Mặt tái mét.

   Hắn luôn mồm xin tôi tha chết. Tôi hỏi:

   - Tên gì?

   - Dạ... em là... Hoành... Nguyễn ... Văn Hoành...

   - Đơn vị nào?

   - Dạ... Thuỷ quân... lục chiến.

   - Chức vụ?

   - Chuẩn uý... Đại đội phó...đại đội 3... tiểu đoàn 3... - Hắn thều thào.

   Tôi nhìn  trên ve áo hắn. Thằng này khai thật - tôi nghĩ.

   - Súng đâu?

   - Em... Bị thương, chạy... Rơi đâu mất...

    Quả thật, lúc này, ngoài chiếc ba lô nằm bên cạnh, trên người hắn chẳng còn gì. Tôi chợt thấy ái ngại cho hắn. Nếu bị thương nhẹ, tôi đã trói để giải về. Đằng này, hắn đã bị thương quá nặng. Bắn thì không nỡ, vì dù sao hắn cũng là "kẻ ngã ngựa", hoàn toàn mất khả năng tự vệ. Hơn nữa, chúng tôi đang làm chủ trận đánh. Vả lại, tại thời điểm đó, đơn vị chưa hề có ai bị thương vong gì cả. Nếu bắt, làm sao có thể cõng hắn được trong khi đồng bưng ngập nước. Tôi chợt nghĩ: "Mình sẽ khai thác một số thông tin cần thiết rồi phóng thích cho hắn để tương kế, tựu kế làm binh vận. Bọn "Thuỷ quân lục chiến" vốn rất cuồng tín và liều lĩnh. Biết đâu, khi thằng này được tha, chúng sẽ bớt hung hãn hơn. Điều ấy, sẽ có lợi cho trận đánh".

    Tôi hỏi:

    - Băng của mày đâu?

    - Em... Không... biết nữa! - Hắn đáp ngắt quãng.

    Tôi hiểu, khi bị thương, hắn tháo bỏ thắt lưng cho nhẹ để cố chạy. Đến đây, mất nhiều máu quá, kiệt sức, hắn gục xuống. Tôi giật vội 2 cuộn băng cá nhân của mình bên thắt lưng, xé ra, nối lại rồi thò tay định cởi cúc áo để băng, nhưng chật quá. Vậy là tôi cứ để nguyên cả áo, luồn qua nách, băng đại cho hắn.Vừa băng, tôi vừa hỏi:

    - Quê mày ở đâu?

Hắn đáp:

     - Dạ... Gần ngã ... ba ... Kiến Hoà... - Bây giờ, hắn đã biết là tôi không giết hắn, ngược lại, hắn đang được cứu.

    - Tỉnh nào? - Tôi hỏi.

    - Dạ... tỉnh... Kiến Hoà - hắn ngoan ngoãn trả lời.

    Lúc ấy, tôi không hiểu Kiến Hoà là tỉnh nào. Sau này hỏi mọi người, mới biết đó là Bến Tre.

    Băng xong, tôi tháo vội ba lô của hắn, kéo toàn bộ tư trang ra, để đầu hắn gối lên ba lô rồi đắp lên mặt và ngực một cái áo rằn ri. Lúc này, trời nắng gắt, nước bưng nóng như nước sôi. Tôi bảo hắn:

- Mày nằm yên đó! - Hoành nằm im lặng.

    Tôi lấy toàn bộ giấy tờ, phù hiệu, số hiệu sỹ quan cùng một cuốn nhật ký và ảnh (có rất nhiều ảnh khoả thân của phụ nữ cùng những cảnh làm tình của Hoành với các cô gái) đựng trong một cái túi. Đáng tiếc là toàn bộ kỷ vật chiến trường, trong đó có hai cuốn nhật ký của tôi có tên “Dọc đường Chiến tranh” được bắt đầu viết từ ngày11/11/1971 cùng hồ sơ của Hoành bị mất sạch do một trái pháo 105 li rơi trúng “bồng” - một kiểu ba lô cải tiến, vào ngày 26/4/1975.    

Trong khi tôi băng bó cho Hoành, Nhuận tiếp tục ôm trung liên quạt mạnh vào bọn địch phía trước mặt. Lát sau, Nhuận quay lại nói nhanh: "Rút thôi Sơn ơi! Địch đang tổ chức phản kích!". Tôi nhìn Hoành lần cuối rồi quay lại, cúi xách vội khẩu AR15 bên cạnh xác một tên lính bị bắn nát ngực cạnh đó. Chợt thấy một cái túi vải dù, tôi tò mò, xách lên thấy nặng, đoán là lựu đạn nên thả xuống. Nghe lộp cộp, tôi nghi ngờ, vội mở ra. Ôi, thịt hộp! Có khoảng trên hai chục hộp dò 3 khoanh (loại này rất ngon nhưng mặn). Xách vội lên, tôi chạy một mạch về công sự tránh pháo. Lúc này, pháo từ Hậu Nghĩa, Đức Hoà, Bến Lức đã bắt đầu dội xuống trận địa chúng tôi để bọn "Thuỷ quân lục chiến" liều lĩnh mò vào lấy xác đồng bọn. Bị thua đau, tên Tư lệnh sư đoàn "Thuỷ quân lục chiến" đáp trực thăng đến trực tiếp thị sát và chỉ huy bọn lính. Một trái đạn B41 của đồng chí nào đó bắn đến, nổ trên không, gần chỗ chiếc trực thăng đang bay (B41 có tầm bắn 500 mét, khi hết tầm, nếu không gặp vật cản gì, sẽ tự động phát nổ), nó vội vã chuồn mất. Từ đó đến chiều, chúng tôi vừa ngồi hứng pháo vừa ăn thịt hộp và uống nước bưng. Có vài công sự bị sập, một số đồng chí bị thương do sập hầm, vì đất đồng bưng nhão nhoét.

    Riêng Hoành, sau đó, được đồng bọn đưa ra, rồi chở bằng trực thăng về ngay bệnh viện Cộng Hoà, cứu sống (bệnh viện dành riêng cho quân đội nguỵ, do mụ Sáu Thiệu vợ Tổng thống nguỵ quyền Nguyễn Văn Thiệu, quản lý).

     Bị thất bại nặng, ngay chiều hôm đó, chúng tràn vào nhà máy đường Hiệp Hoà, đập phá nhà máy này rồi lấy mỗi đứa một ba lô đường kính. Viên Giám đốc người Pháp bỏ chạy lên Sài Gòn.

     Hôm sau, chúng tôi được cơ sở báo tin bọn lính kháo nhau rằng: "Ông Hoành thật lớn phước (phúc lớn), bị thương nặng nhưng đã được một ông "Việt Cộng" nào đó ổng băng bó cho, rồi tha mạng...".

    Trận ấy, địch bị tiêu diệt trên 100 tên, 8 tên bị bắt làm tù binh (chưa kể tên Hoành); ta thu nhiều vũ khí. Đơn vị duy nhất chỉ một đồng chí không may hy sinh do cối 82 của ta "đấm lưng" (đất mềm, lún bàn đế nên bị rút tầm) và mấy đồng chí bị thương do pháo địch. Riêng Lưu Xuân Tiết, trung đội trưởng (người đã kéo tôi từ dưới giếng lên ở Gò Nổi) bị một viên đạn găm vào làm gãy đùi phải. Nay Tiết là thương binh nặng đang sinh sống tại xã Hoàng Quế, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh...

     ...Trận đánh lùi vào quá khứ đã 30 năm, nhưng kỷ niệm về nó thì vẫn vẹn nguyên trong tâm trí tôi như mới ngày hôm qua. Không rõ số phận viên sỹ quan nguỵ có tên là Hoành, sau ngày ấy đến giờ ra sao?...

Tôi cầu chúc cho anh ta được bình yên, hạnh phúc trong mái ấm gia đình, và có thời gian suy ngẫm về những tháng ngày cầm súng đánh thuê cho Mỹ- nguỵ...

     ... Ngày 24 tháng Tư. Chúng tôi được lệnh phục kích chặn đánh tàn quân của sư 23 nguỵ, tháo chạy từ  Tây Nguyên về đây đã bị bọn chỉ huy thúc ép hành quân nhằm giải toả căn cứ Lương Hoà, đang bị ta bao vây. Căn cứ này án ngữ với mục đích ngăn chặn hướng tiến công của một đơn vị chủ lực thuộc Đoàn 232 đang tiến về Sài Gòn.

     Nơi chúng phục kích gần những khu ruộng mía của dân thuộc địa bàn xã An Thạnh, huyện Bến Lức. Cả ngày hôm ấy và mấy ngày sau, địch vẫn sợ, không dám ra giải toả. Chúng tôi vẫn kiên trì và quyết tâm mai phục để hốt gọn chúng.

     Đêm. Khoảng 12 giờ, khi chúng tôi còn chập chờn trong giấc ngủ, bỗng tiếng rít xé không khí của đại bác 105 ly bắn đến từ Bến Lức. Liền đó là những tiếng nổ chói tai vang lên. Khói trùm lên khu rừng tràm lúp xúp. Mảnh pháo bay vèo vèo, chặt phạt những cây tràm quanh chúng tôi. Tôi và Nguyễn Văn An (quê Quỳnh Thạch, Quỳnh Lưu) nằm chung một công sự. Dứt tiếng nổ, tôi chợt nghe tiếng rên nho nhỏ, liền bảo với An: "An ơi, lên xem thử có ai bị thương không? Sao tớ nghe có tiếng rên!?" An chần chừ không dám ra khỏi công sự. Tôi vội lao lên trong khói đạn mù mịt, rồi chạy ngay đến nơi có tiếng rên. Thì ra, đó là chỗ ngủ của Đồng (quê Diễn Kỷ, Diễn Châu) và Thuất (quê Bắc Thái). Hai người là nuôi quân đại đội. Một trái pháo nổ cách chỗ nằm chừng 1,5 mét. Xoong nồi văng tứ tung. Tăng, màn đổ sụp xuống che lấp họ (nếu nằm dưới công sự như chúng tôi thì chắc họ không chết). Nghe tiếng rên... tôi vội kéo đám tăng màn đẫm máu ra, rồi bước vào. Bàn chân tôi ngập trong máu nóng hổi của hai người (vì họ lót tăng nilon xuống dưới chỗ nằm nên máu đọng lại). Trời tối, không nhìn thấy gì. Chỉ có mùi tanh của máu quyện với mùi thuốc đạn khét lẹt. Tôi cúi xuống lay gọi thì một người đã hy sinh. Người kia vẫn còn rên, nhưng tiếng rên nhỏ dần. Tôi sờ nắn khắp thân thể rồi sờ lên đầu, chợt chạm phải một vật gì rất sắc, ngỡ đó là mảnh pháo găm vào nên cố sức rút ra nhưng không thể được. Tôi đành để hai người nằm đó, rồi chạy ngay đến công sự của Ban chỉ huy đại đội, ở phía sau cách chừng 50 mét, gọi anh Tống Minh Sướng, chính trị viên, quê Hà Bắc và anh Nguyễn Văn Lợi đại đội trưởng, quê Quảng Ninh cùng cậu Hệ, y tá quê Tuyên Hoá, Quảng Bình dậy. Tất cả vội chạy đến nơi hai đồng chí bị trúng pháo. Họ soi đèn pin vào chỗ hai người. Đồng đã chết từ lúc nào, còn Thuất đang rên nho nhỏ. Tôi bảo Hệ rọi đèn vào đầu Thuất. Đầu cậu ta vỡ toác, một mảnh xương lòi trắng hếu mà ban nãy tôi tưởng là mảnh pháo nên đã cố sức rút ra mà không được. Máu và óc lẫn bết vào tóc. Tất cả im lặng! Không còn cách gì có thể cứu Thuất được nữa! Tiếng rên nhỏ dần rồi tắt hẳn. Thuất đã trút hơi thở cuối cùng. Tôi vuốt mắt cho Thuất rồi cùng mọi người bế họ ra khỏi vũng máu.  Sáng hôm ấy trời đẹp, tổ “viết sử” đã tới nghĩa trang viếng mộ Thùy Dương. Ba Mẫn lặng lẽ đặt lên đó bó hoa và thắp mấy nén nhang. Họ ngồi lặng im rất lâu trước mộ người đã khuất, nuối tiếc, đau thương.

   Tuy câu chuyện bữa nay họ nói với nhau đều xoay quanh người con gái vừa mất đó. Sự ra đi của cô đã tạo điều kiện để công việc của họ được hoàn thành một cách nhanh chóng hơn. Mặc dù X.15 đã khai khá đầy đủ, riêng còn những điều bí mật về Thùy Dương hắn làm sao hiểu được. Hắn cũng không thể biết được là thiếu tá Huỳnh Bá cũng sắp trở về. Ông ấy không vượt biển, không tự sát… Ông chỉ ra Hà Nội tìm hồ sơ gốc để minh oan. Rồi cả cô Nguyên Nguyên nữa, cô ta cũng đã trở về thành phố thơ mộng này để sống giữa tình thương của bà con cô bác. Và như vậy chắc chắn lần đối thoại tiếp giữa Ba Mẫn và X.15 sẽ rất hấp dẫn và lý thú. Tên gián điệp nằm vùng già dặn này sẽ còn nhận được những bài học cay đắng và nhục nhã hơn nhiều.    

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lichsu