Phần 11

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHẦN 11
Và bây giờ, tôi xin trở lại thời điểm tháng Mười, 1907. Tôi đã mua một chiếc du thuyền và hoàn tất mọi việc chuẩn bị để rời
New York, bắt đầu một chuyến du ngoạn trên các vùng biển phía Nam. Tôi mê câu cá đến mức gàn dở, và lúc đó, từ tận đáy
lòng, tôi quyết tâm sẽ đi câu trên chiếc du thuyền của chính tôi, đến mọi nơi tôi muốn, mọi lúc tôi thích. Mọi thứ đã sẵn sàng. Tôi
cũng đã vớ được một khoản lợi lớn từ chứng khoán, nhưng đến phút cuối cùng, ngô đã kéo tôi trở lại.
Tôi cần nói thêm cho các bạn hiểu rằng trước khi cuộc khủng hoảng tiền tệ đem đến cho tôi những triệu đô-la đầu tiên. Lúc
đó, tôi đang kinh doanh ngũ cốc tại Chicago. Tôi đã bán khống mười triệu giạ lúa mỳ và mười triệu giạ ngô. Tôi đã nghiên cứu thị
trường ngô từ rất lâu và lúc đó, tôi đang đầu cơ giá hạ với mặt hàng ngô và lúa mỳ như đã làm với chứng khoán.
Rồi, cả hai mặt hàng bắt đầu hạ giá. Nhưng, trong khi giá lúa mỳ vẫn tiếp tục hạ, một trong những nhà đầu cơ lớn nhất ở
Chicago - Stratton - đột nhiên nảy ra ý định làm một cuộc đầu cơ ngô. Sau khi tôi kiếm được một món lợi lớn từ chứng khoán và
đã sẵn sàng du hành về phía Nam trên chiếc du thuyền của mình, tôi chợt nhận thấy lúa mỳ đã giúp tôi kiếm một khoản khá,
nhưng Stratton đã làm giá ngô tăng lên, khiến tôi phải chịu một khoản lỗ không nhỏ.
Tôi biết vẫn còn rất nhiều ngô trên cả nước hơn những gì mức giá chỉ ra. Quy luật cung - cầu vẫn hoạt động như bình thường.
Nhưng cầu phần lớn xuất phát từ Stratton trong khi cung lại chưa đủ đáp ứng, bởi lúc đó đang xảy ra hiện tượng tắc nghẽn mạnh
trên các tuyến cung cấp ngô. Tôi nhớ lúc đó tôi đã ước có một câu thần chú đông cứng giúp đóng băng những con đường không
thể qua và giúp những người nông dân chuyển ngô tới thịtrường kịp thời. Dĩ nhiên, làm gì có việc may mắn đến thế.
Vậy đó, tôi đã chờ đợi chuyến du ngoạn câu cá vui vẻ đã được lên kế hoạch và rồi những thua lỗ từ ngô đã giữ tôi lại. Tôi
không thể bỏ đi khi thịtrường đang trong tình trạng đó. Dĩ nhiên, Stratton theo dõi rất sát sao các nhu cầu bán. Ông ta biết ông
ta đã nắm được tôi, tôi cũng biết rõ điều đó như ông ta. Nhưng, như tôi đã nói, tôi đã hi vọng tôi có thể làm thời tiết thay đổi và
giúp đỡ mình. Khi hiểu được chẳng phải thời tiết hay bất kỳ đấng tạo hoá tốt bụng nào quan tâm tới nhu cầu của mình, tôi đã học
được cách tự thân cố gắng giải quyết các khó khăn của mình.
Tôi kết thúc vụ giao dịch lúa mỳ với một khoản lợi khá, nhưng vấn đề bên ngô lại trở nên khó khăn hơn. Giá mà tôi có thể
mua lại mười triệu giạ ngô ở mức giá đó, tôi có lẽ đã nên vui vẻ làm điều đó ngay lập tức, dù tổn thất có lớn đến mức nào đi nữa.
Nhưng, dĩ nhiên, ngay khi tôi bắt đầu mua vào, Strattorn cũng bắt đầu hành động như một kẻ tống tiền, và tôi cảm thấy mùi vị
của việc tự mình nâng giá vì giao dịch của chính mình chẳng khác nào tự cầm dao cứa cổ mình.
Nhưng dù giá ngô mạnh đến đâu, khát khao muốn được đi du lịch câu cá của tôi còn mạnh mẽ hơn, do vậy tôi phải ngay lập
tức tìm ra giải pháp. Tôi phải tìm ra chiến lược rút lui. Tôi phải mua lại được mười triệu giạ ngô đã bán khống và cùng lúc làm
giảm tổn thất đến mức thấp nhất có thể.
Lúc đó, Strattorn cũng đang đồng thời tiến hành một giao dịch trong thịtrường yến mạch và thịtrường đang phản ứng khá
tốt cho ông ta. Tôi đã theo dõi tất cả các thịtrường ngũ cốc thông qua các tin tức về vụ mùa cũng như các tin tức vỉa hè. Tôi
nghe được tin một số nhóm đầu tư có thế lực của nhà Armour không có thiện chí, theo hướng thịtrường, với Strattorn. Dĩ nhiên
là tôi biết Strattorn sẽ không để tôi mua được số ngô tôi cần trừ khi với mức giá của ông ta, nhưng khi tôi nghe được những lời
đồn đại về việc nhà Armour chống lại Strattorn, tôi đột nhiên nhận ra mình có thể tìm kiếm sự giúp đỡ từ những người giao dịch
của Chicago. Cách duy nhất họ có thể giúp tôi là bán cho tôi số ngô mà Strattorn không thể bán. Phần còn lại chỉ là chuyện đơn
giản.
Đầu tiên, tôi đặt lệnh mua vào năm trăm ngàn giạ ngô mỗi khi giá giảm xuống một phần tám xu. Sau khi các lệnh đó được
thực hiện, tôi cũng đặt lệnh ở cả bốn sở để cùng lúc bán ra năm mươi ngàn giạ yến mạch. Tôi đã tính rằng điều này sẽ nhanh
chóng tạo ra một đợt sụt giá mạnh trong thịtrường yến mạch. Với cách những người giao dịch thường nghĩ, họ sẽ thấy việc này có
vẻ như chắc chắn là do nhà Armour đang chĩa mũi súng vào Strattorn. Nhận thấy một cuộc tấn công sắp xảy ra trên thịtrường
yến mạch, họ sẽ theo lô-gic kết luận rằng sắp xảy ra biến động trong thịtrường ngô và họ sẽ bắt đầu bán ra. Nếu vụ đầu cơ ngô đó
nổ ra, khoản lợi thu được sẽ cao không tưởng.
Liều thuốc tôi dành cho tâm lý của những người giao dịch Chicago hoàn toàn chính xác. Khi họ thấy biến động nổ ra trong
thịtrường yến mạch, họ ngay lập tức nhảy sang thịtrường ngô và bán ra với sự nhiệt tình rất cao. Tôi đã mua được sáu triệu giạ
ngô chỉtrong mười phút sau đó. Ngay khi tôi nhận thấy lượng bán ra dừng lại, tôi chỉ còn công việc đơn giản là mua thêm bốn
triệu giạ nữa từ thịtrường. Lẽ đương nhiên là việc này sẽ làm giá tăng lên trở lại, nhưng kết quả cuối cùng cho kế hoạch của tôi là
tôi đã lấy lại đủ mười triệu giạ với giá chỉ bằng nửa giá vào thời điểm tôi bắt đầu. Số tiền tôi bán khống hai trăm ngàn giạ yến mạch
để bắt đầu việc thu mua ngô chỉ làm tôi lỗ khoảng ba ngàn đô-la. Tính ra thì đó đúng là một món mồi câu rẻ. Lợi nhuận tôi thu
được từ lúa mỳ đã bù đắp khá lớn cho thua lỗ từ ngô, tới mức số thua lỗ của tôi trong tất cả các giao dịch ngũ cốc lúc đó chỉ là hai
trăm năm mươi ngàn đô-la. Sau đó, giá ngô tăng lên hai mươi lăm xu một giạ. Strattorn rõ ràng đã có thể định đoạt được tôi. Nếu
tôi quyết định mua lại mười triệu giạ ngô mà không quan tâm đến giá cả, có trời mới biết được tôi sẽ phải trả bao nhiêu.
Một người đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu một việc sẽ có quan điểm thường lệ về việc đó khác với những người mới bắt đầu. Điểm khác nhau đó làm nên sự khác biệt giữa những người chuyên nghiệp và những kẻ nghiệp dư. Đó là cách mà một người xem
xét các việc có thể đem lại hoặc lấy tiền của anh ta trong các thịtrường đầu cơ. Công chúng có những cách nhìn theo kiểu của
những người không chuyên sâu đối với những nỗ lực của anh ta. Cái tôi của họ đã ép buộc họ quá mức và từ đó làm suy nghĩ của
họ trở nên nông cạn hoặc không thấu đáo. Những người chuyên nghiệp thường quan tâm tới việc làm những điều đúng hơn là
kiếm ra tiền. Họ biết lợi nhuận sẽ tự về với họ nếu những việc khác được thu xếp ổn thoả. Một người giao dịch phải tiến hành cuộc
chơi của mình như một tuyển thủ bi-a chuyên nghiệp thường làm. Đó là, tính toán những mục tiêu xa hơn thay vì quan tâm đến
cú đánh trước mắt. Lựa chọn vịtrí thuận lợi phải trở thành một bản năng.
Tôi còn nhớ đã nghe một câu chuyện về Addison Cammack có thể làm minh họa chính xác cho những gì tôi muốn chỉ ra.
Từ những điều tôi nghe được, tôi có ý tin rằng Cammack là một trong những người giao dịch chứng khoán tài giỏi nhất mà phố
Wall từng có. Ông ta không phải một người đầu cơ giá hạ lâu năm như nhiều người vẫn tưởng, nhưng ông ta tìm thấy sự hấp dẫn
lớn hơn trong việc giao dịch tại thịtrường đầu cơ giá hạ, trong việc sử dụng hai nhân tố lớn của con người là hi vọng và sợ hãi.
Người ta cho rằng chính ông đã đưa ra lời cảnh báo:
“Đừng bao giờ bán gốc
(1 ) khi nhựa đang chảy lên cây!” Và những người cùng thời với ông đã cho tôi biết những lần thắng lớn
nhất của ông ta lại là ở thịtrường đầu cơ tăng giá. Vì vậy, sẽ là công bằng nếu nói ông không tiến hành cuộc chơi của mình theo
các định kiến mà theo từng hoàn cảnh. Trong tất cả những lần giao dịch, ông ta đều cho thấy mình là một người giao dịch đầy tài
năng. Có một lần — lúc đó là thời điểm cuối của một đợt đầu cơ tăng giá — Cammack có vẻ như đang đầu cơ hạ giá và J. Arthur
Joseph, một người có tài kể chuyện và viết các bài về tài chính, biết được điều đó. Tuy nhiên, lúc đó, thịtrường không chỉ mạnh
mà vẫn đang tiếp tục tăng, do những kích thích từ những người đầu cơ tăng giá hàng đầu và những bản báo cáo đầy lạc quan từ
báo giới. Thấu hiểu một người giao dịch như Cammack có thể làm gì với những thông tin giá hạ, một hôm, Joseph đã lao đến văn
phòng của Cammack với những thông tin đáng vui mừng.
“Cammack này, tôi có một người bạn tốt làm nhân viên chuyển giao bên sở St. Paul và anh ta vừa nói cho tôi một vài điều
mà tôi nghĩ anh nên biết.”
“Là gì vậy?” Cammack hỏi lại, với vẻ hờ hững.
“Anh đã thay đổi, phải không? Giờ anh đang đầu cơ giá hạ chứ?”. Để chắc chắn, Joseph đã hỏi lại. Nếu Cammack không
quan tâm, ông không định phung phí thông tin quý giá đó.
“Vâng. Vậy thông tin tuyệt vời của anh là gì nào?”
“Hôm nay tôi đã qua sở St. Paul, như tôi vẫn thường đi thu thập tin tức hai — ba lần một tuần, và người bạn tôi ở đó đã nói
với tôi: ‘Ông Già đã bán cổ phiếu’. Anh ta muốn nói đến William Rockefeller. ‘Thật vậy sao, Jimmy?’ tôi hỏi lại, và anh ta đã trả
lời: ‘Đúng vậy, ông ta bán ra một ngàn năm trăm cổ phần mỗi khi giá tăng ba phần tám điểm. Tôi đã tiến hành chuyển giao cổ
phiếu hai, ba hôm nay rồi’. Và vì vậy, tôi không muốn lãng phí thêm thời gian và đến ngay đây để nói cho anh biết”.
Cammack không phải là người dễ dàng trở nên phấn khích, thêm nữa, ông đã quá quen với việc có đủ hạng người lao vào
văn phòng của ông với đủ loại thông tin, những lời đồn đại, bàn tán, mách nước và những lời lừa dối đến mức ông chẳng còn tin
vào bất kỳ thông tin nào. Ông ta gần như chỉ hỏi cho phải phép, “Anh chắc không nghe nhầm chứ, Joseph?”
“Tôi có chắc không à? Tôi chắc chắn đấy. Anh nghĩ tôi bị điếc à? — Joseph trả lời.
“Anh đảm bảo về người bạn của anh chứ?”
“Hoàn toàn đảm bảo!” — Joseph khẳng định - “Tôi quen anh ta nhiều năm rồi. Anh ta chưa từng nói dối tôi. Và lần này cũng
không! Chẳng có lý do nào cả! Tôi biết anh ta hoàn toàn đáng tin cậy và tôi có thể lấy cả cuộc đời mình để đảm bảo cho những
điều anh ta đã nói. Tôi hiểu anh ta như hiểu bất kỳ ai trên thế giới này — ít nhất là hơn rất nhiều cái cách mà anh tỏ ra hiểu về tôi,
sau từng ấy năm”.
“Chắc chắn chứ?”. Và một lần nữa Cammack nhìn lại Joseph. Và ông nói, “Rồi, anh phải biết điều đó chứ”. Ông gọi cho
người môi giới của mình, W.B. Wheeler. Joseph đã tưởng sẽ được nghe ông ta đặt lệnh bán ít nhất năm mươi ngàn cổ phần của St.
Paul. Rockefeller đang phát tán cổ phần của ông ta ở St. Paul, để kiếm lợi từ sức mạnh của thịtrường. Dù đó là cổ phiếu đầu tư
hay cổ phần đầu cơ cũng không quan trọng. Điều quan trọng là người giao dịch cổ phiếu giỏi nhất của cánh Standard Oil quyết
định rút khỏi St. Paul. Nếu một người bình thường nhận được một thông tin như thế từ một nguồn đáng tin cậy, anh ta sẽ làm gì?
Có lẽ không cần phải hỏi.
Nhưng Cammack, ông chủ đầu cơ tài năng nhất vào thời đó, người đang đầu cơ giá hạ, lúc đó lại chỉ nói với người môi giới
của ông ta: “Billy, lên sàn và mua vào một ngàn năm trăm cổ phiếu St. Paul mỗi khi giá tăng ba phần tám”. Khi đó, cổ phiếu đã ở
mức chín mươi.
“Anh không định nói bán ra đấy chứ?” Joseph nóng nảy cắt ngang. Ông không còn là một người mới học việc ở phố Wall,
nhưng ông ta lại nghĩ về thịtrường theo quan điểm của các nhà báo và, thật tình cờ, giống với lối suy nghĩ chung của công chúng. Giá cổ phiếu, theo lẽ thường, giảm xuống khi có thông tin về việc bán ra từ nội bộ. Và không còn người nào tốt hơn ngài William
Rockefeller.
Standard Oil đang rút lui và Cammack lại mua vào!
Không thể như vậy được!
“Không,” Cammack nói, “Tôi muốn nói mua vào.”
“Anh không tin tôi sao?”
“Có chứ.”
“Anh không tin thông tin của tôi sao?”
“Có chứ.”
“Anh không phải đang đầu cơ giá hạ sao?”
“Có chứ.”
“Vậy, sao lại thế?”
“Chính vì vậy mà tôi đang mua vào. Nghe tôi này: anh có những người bạn đáng tin cậy vậy. Vì vậy, khi việc bán ra số lượng
lớn ngừng lại, hãy thông báo ngay cho tôi. Ngay lập tức. Anh hiểu chứ?”
“Được”, Joseph trả lời và bỏ đi, không hoàn toàn chắc chắn ông có thể tìm hiểu được động cơ của Cammack trong việc mua
lại cổ phiếu của Rockefeller. Chính thông tin rằng Cammack đầu cơ giá hạ trên thịtrường làm cho những hành động của ông ta
trở nên khó hiểu. Tuy nhiên, Joseph đã đi gặp người bạn làm nhân viên chuyển giao của mình và nói với anh ta rằng ông muốn
được biết khi Ông Già ngừng bán. Hai lần một ngày, Joseph gọi cho người bạn của mình để kiểm tra.
Một hôm, người bạn nhân viên chuyển giao nói với Joseph:”Ông Già không còn bán nữa”. Joseph cảm ơn anh ta và đến
ngay văn phòng của Cammack với thông tin đó.
Cammack chăm chú lắng nghe, gọi cho Wheeler và hỏi, “Billy, hiện chúng ta có bao nhiêu cổ phiếu của St. Paul?”. Wheeler
kiểm tra lại và thông báo họ có khoảng sáu mươi ngàn cổ phần.
Cammack, người đang đầu cơ giá hạ, đã ngừng bán khống cổ phiếu Grangers và một số loại cổ phiếu khác, thậm chí trước cả
khi ông bắt đầu mua cổ phiếu St. Paul. Và bây giờ ông bắt đầu bán ra hàng loạt. Ông nhanh chóng yêu cầu Wheeler bán toàn bộ
sáu mươi ngàn cổ phần của St. Paul vừa mua, và còn hơn nữa. Ông đã dùng số cổ phần mua được của St. Paul để kéo giá của tất cả
các cổ phiếu niêm yết xuống và kiếm lợi đáng kể từ các hoạt động đầu cơ giá hạ của mình.
Cổ phiếu của St. Paul không ngừng giảm xuống cho đến khi giá chỉ còn bốn mươi tư và Cammack đã kiếm được một món hời
lớn. Ông ta đã sử dụng những quân bài mình có trong tay với một kỹ thuật đáng khâm phục và nhờ đó thu về một khoản lợi đáng
kể. Điểm tôi muốn làm rõ ở đây là thái độ thường lệ của ông ta đối với giao dịch. Ông ta không cần suy ngẫm nhiều về những việc
đã làm. Ông ta nhanh chóng nhìn ra việc gì là quan trọng hơn đối với ông ta hơn là chỉ khoản lợi nhuận từ một loại cổ phiếu. Ông
ta đã nhận ra mình đã may mắn được trao một cơ hội tiến hành những hoạt động đầu cơ giá hạ không chỉ ở thời điểm thích hợp mà
còn với một lực tác động ban đầu thích hợp. Thông tin về cổ phiếu St. Paul khiến ông mua vào thay vì bán ra vì ông đã ngay lập
tức nhận ra điều đó giúp cho ông có được một nguồn “đạn dược” tốt nhất và phong phú cho các chiến dịch đầu cơ giá hạ của
mình.
Xin quay trở lại với trường hợp của tôi. Sau khi tôi hoàn thành các giao dịch trên thịtrường lúa mỳ và ngô, tôi đã lên du
thuyền xuống phương Nam. Tôi du hành trên những vùng biển ở Florida, tận hưởng những khoảnh khắc tuyệt vời. Một khoảng
thời gian lý thú với môn câu cá. Mọi thứ đều thú vị. Tôi không có bất kỳ mối bận tâm nào và tôi cũng không muốn vướng phải
bất kỳ mối bận tâm nào.
Rồi một ngày, tôi đến Palm Beach. Tôi đã gặp rất nhiều những người bạn ở phố Wall cùng những người khác. Bọn họ đang
nói với nhau về một người đầu cơ bông lập dị vào thời điểm đó. Theo một báo cáo từ New York, Percy Thomas đã mất đến
những đồng xu cuối cùng. Đây không phải là một vụ phá sản thương mại; gần như chỉ là tin đồn về một trận Waterloo thứ hai của
một nhà đầu cơ nổi tiếng thế giới trong thịtrường bông.
Tôi đã luôn ngưỡng mộ ông ta. Lần đầu tiên tôi nghe tin về ông ta lại là thông qua báo chí, khi sàn giao dịch chứng khoán
Sheldon & Thomas phải đóng cửa, sau khi Thomas cố gắng đầu cơ bông. Sheldon, người không có được tầm nhìn cũng như lòng
dũng cảm của người đồng sự, đã cảm thấy sợ hãi ngay khi họ tiến gần tới ngưỡng cửa của sự thành công. Ít nhất, đó là những gì được truyền tai nhau ở phố Wall lúc đó. Dù thế nào, thay vì kiếm được một món lợi lớn, họ đã có một trong những thất bại có tác
động mạnh nhất trong nhiều năm. Tôi quên mất là bao nhiêu triệu. Công ty bị đóng cửa và Thomas bắt đầu làm việc một mình.
Ông ta toàn tâm toàn ý cho đầu cơ bông và chẳng bao lâu sau đã giành lại được vịtrí của mình. Ông đã thanh toán toàn bộ nợ
cùng lãi cho các chủ nợ. Mặc dù về mặt luật pháp ông không bị bắt buộc phải trả những khoản nợ đó. Đồng thời vẫn còn lại cho
mình khoảng một triệu đô-la. Sự trở lại của ông trong thịtrường bông là một sự kiện xuất sắc, có thể sánh với cách mà Deacon
S.V. White đã khai thác thịtrường chứng khoán để thanh toán khoản nợ một triệu đô-la chỉtrong một năm. Trí tuệ và sự can
trường của Thomas khiến tôi ngay lập tức cảm thấy ngưỡng mộ ông ta.
Mọi người ở Palm Beach đang bàn tán về cuộc giao dịch thất bại của Thomas trong thịtrường bông tháng Ba. Chắc bạn cũng
hiểu những cuộc nói chuyện kiểu này sẽ tiếp tục và phát triển như thế nào — hàng núi những thông tin sai lệch, những lời đồn
thổi mà bạn phải nghe. Tôi đã từng chứng kiến cách mà tin đồn về tôi phát triển, đến mức chính người bắt đầu tin đồn này cũng
không thể nhận ra nó khi nó quay trở lại với anh ta chỉ chưa đến hai mươi tư giờ sau đó, nó đã phồng ra với hàng loạt các chi tiết
mới và sinh động.
Tin tức về rủi ro mới nhất của Percy Thomas đã hướng tâm trí tôi từ câu cá sang thịtrường bông. Tôi thu thập từng chồng
giấy tờ giao dịch và đọc chúng để xác định tình hình. Khi quay trở lại New York, tôi lao vào nghiên cứu thịtrường. Mọi người đều
đang đầu cơ giá hạ và đang giao dịch bông tháng Bảy. Bạn cũng hiểu con người là thế nào mà. Tôi cho rằng chính những tin tức
như trên đã lan truyền, khiến cho một người làm những việc chỉ bởi những người quanh anh ta đang làm công việc tương tự. Có
thể đó chỉ là một mặt hoặc một vài biến thể của bản năng bầy đàn ở người. Nhưng dù là gì, theo quan điểm của hàng trăm người
giao dịch, việc khôn ngoan và thích hợp nhất lúc này là bán bông tháng Bảy — cũng rất an toàn nữa! Bạn không thể nói đợt bán
lớn này là khinh suất, từ đó quá nhẹ nhàng. Những người giao dịch chỉ đơn giản là nhìn thấy một phía về thịtrường và một khoản
lợi lớn. Họ đương nhiên hi vọng giá bông sẽ sụt mạnh.
Tôi đã thấy được tất cả, và điều làm tôi chú ý là những người đang bán khống sẽ không có nhiều thời gian để bù lại đủ số
lượng. Càng nghiên cứu tình hình tôi càng nhận ra điều này rõ ràng hơn, và cuối cùng tôi quyết định mua vào số bông tháng Bảy.
Tôi đến văn phòng và nhanh chóng mua vào một trăm ngàn kiện. Tôi không gặp khó khăn để thu mua đủ số này từ rất nhiều
người giao dịch. Có thể nói, nếu tôi có treo giải thưởng một triệu đô-la cho ai tìm ra được bất kỳ người giao dịch nào, còn sống
hay đã chết, không bán ra bông tháng Bảy thì cũng không có ai nhận được giải thưởng đó.
Tôi nên nói thêm lúc này là cuối tháng Năm. Tôi tiếp tục mua thêm và họ tiếp tục bán cho tôi cho đến khi tôi thu thập được
toàn bộ các hợp đồng luân chuyển và có trong tay một trăm hai mươi ngàn kiện bông. Vài ngày sau khi tôi mua những kiện hàng
cuối cùng, giá bông bắt đầu tăng. Và một khi đã bắt đầu, thịtrường luôn tiến triển rất tốt — giá bông đã tăng từ bốn mươi lên năm
mươi điểm trong một ngày.
Vào một ngày thứ Bảy - khoảng mười ngày sau khi tôi bắt đầu đợt giao dịch — giá bông bắt đầu tăng lên. Tôi không biết liệu
còn bông tháng Bảy được bán nữa không. Tôi phải xác định được điều này, do đó, tôi đợi đến mười phút cuối trước khi thịtrường
đóng cửa. Tôi biết đó là thời điểm những người giao dịch thường bán ra và họ có thể an toàn khi thịtrường đóng cửa. Do vậy
cùng lúc tôi đặt bốn lệnh mua khác nhau, mỗi lệnh mua năm ngàn kiện. Việc này làm giá bông tăng lên mức hơn ba mươi điểm và
việc mua bán hoàn tất dễ dàng. Thịtrường đóng cửa ở mức cao. Tất cả những gì tôi làm, bạn hãy nhớ, là đã mua hai mươi ngàn
kiện cuối cùng.
Ngày hôm sau đó là Chủ Nhật. Sang thứ Hai, thịtrường Liverpool được cho là sẽ mở cửa ở mức hai mươi điểm để tương
đương với những tiến triển của thịtrường New York. Nhưng thay vì thế, thịtrường này lại tăng lên hơn năm mươi điểm. Điều đó
có nghĩa là thịtrường Liverpool đã phóng đại những tiến triển của New York gấp hai lần. Tôi không có liên quan gì đến lần tăng
giá này của thịtrường. Điều này cho thấy những suy luận của tôi là hợp lý và tôi đã giao dịch theo hướng giá ít trở ngại nhất. Đồng
thời, tôi cũng không quên đi thực tế là mình vẫn còn một lượng lớn hàng cần tiêu thụ. Thịtrường có thể tăng mạnh hoặc từ từ,
nhưng chưa từng có khả năng hấp thụ nhiều hơn một lượng hàng bán ra nhất định.
Dĩ nhiên, những thông tin từ Liverpool làm thịtrường của chúng tôi náo động. Nhưng tôi nhận thấy giá càng tăng cao, lượng
bông tháng Bảy càng hiếm. Tôi chưa bán ra bất kỳ kiện hàng đang có nào. Nói chung, ngày thứ Hai đó không phải là ngày thú vị
và cũng không vui vẻ gì cho những người đầu cơ giá hạ; nhưng trên tất cả, tôi chưa nhận thấy dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng
sụt giá sắp xảy ra; chưa có dấu hiệu bắt đầu của một đợt hỗn loạn. Và tôi vẫn còn một trăm bốn mươi ngàn kiện bông cần tìm đầu
ra.
Vào một buổi sáng thứ Ba, khi tôi đang trên đường đến văn phòng, tôi gặp một người bạn ở cổng vào của toà nhà.
“Bài báo trên tờ World sáng nay quả là đáng chú ý đấy,”, anh ta mỉm cười nói với tôi.
“Bài nào?”, tôi hỏi lại.
“Cái gì? Anh không định nói với tôi là anh chưa đọc đấy chứ?”
“Tôi chưa bao giờ xem tờ World”, tôi trả lời, “Nhưng chuyện gì thế?” “Chà, đó là về anh mà. Bài báo nói rằng anh đang giữ toàn bộ số bông tháng Bảy.”
“Tôi chưa đọc bài báo đó,” Tôi trả lời rồi tạm biệt anh ta. Tôi không biết liệu anh ta có tin tôi không. Có thể anh ta nghĩ tôi
cho rằng sẽ là quá khinh suất nếu thừa nhận việc đó là đúng hay sai.
Đến văn phòng, tôi yêu cầu một bản sao của bài báo đó. Và bài báo đó, với dòng tít lớn, được đăng ngay trên trang nhất:
Larry livingston nắm giữ toàn bộ bông tháng bảy
Dĩ nhiên, tôi ngay lập tức nhận ra bài báo này sẽ có tác động ma qỦy thế nào tới thịtrường. Dù tôi có thận trọng suy nghĩ về
những phương thức và cách thức tiêu thụ một trăm bốn mươi ngàn kiện bông hiện có để có khoản lợi lớn nhất, tôi cũng không thể
tìm ra cách nào tốt hơn cách này. Thậm chí không thể tìm ra được một cách nào cả. Bài báo đó, tại thời điểm đó, đang ở trên tay
của mọi người trên cả nước, trên báo World hay bất kỳ tờ báo nào khác trích dẫn nó. Thậm chí nó có thể còn được chuyển sang
Châu Âu. Tác động của nó đối với giá bông ở Liverpool là rất rõ ràng. Toàn bộ thịtrường trở nên náo động. Với những thông tin
kiểu này, điều đó không có gì đáng nghi ngờ cả.
Tôi đương nhiên biết thịtrường New York sẽ phản ứng như thế nào, và tôi phải làm gì. Thịtrường mở cửa lúc mười giờ. Về
chỉ mười phút sau khi thịtrường mở cửa, tôi không còn giữ bất kỳ kiện bông nào. Tôi đã bán sạch một trăm bốn mươi ngàn kiện
bông tôi có. Tôi bán ra với mức giá đỉnh trong ngày. Những người giao dịch đã tạo ra thịtrường cho tôi. Tất cả những gì tôi làm
được là chứng kiến một cơ hội thượng đế ban tặng để bán đi số bông của tôi. Tôi phải nắm lấy cơ hội đó vì tôi không thể tránh
được nó. Liệu tôi còn có thể làm gì khác được chứ?
Vấn đề mà tôi đã tốn không biết bao công sức suy nghĩ tìm cách giải quyết, cuối cùng lại được giải quyết ổn thỏa bằng một sự
tình cờ. Nếu tờ World không cho đăng bài báo đó, tôi đã không thể giải quyết hết số bông của mình mà không hi sinh một phần
lớn số lợi nhuận trên giấy. Bán ra toàn bộ một trăm bốn mươi ngàn kiện bông tháng Bảy mà không làm giá hạ là một thủ thuật
vượt quá khả năng của tôi. Nhưng bài báo của World đã giúp tôi thực hiện điều đó.
Tôi không thể giải thích với bạn tại sao tờ World lại cho đăng bài báo đó. Tôi chưa bao giờ biết nguyên nhân. Có thể tác giả
của bài báo này được một số người bạn có chân trong thịtrường bông mách nước và anh ta đã nghĩ mình có được một thông tin
sốt dẻo. Tôi chưa từng gặp anh ta hay bất kỳ người nào của tờ World. Tôi không biết bài báo đó được đăng vào buổi sáng mãi
cho đến chín giờ; và nếu không phải bạn tôi làm tôi chú ý đến bài báo đó, có lẽ tôi cũng chẳng bao giờ biết đến nó nữa.
Nếu không có bài báo đó, tôi đã không thể tạo ra một thịtrường đầu ra đủ lớn cho số bông của tôi. Đó là một vấn đề khi giao
dịch với số lượng lớn. Đã đâm lao thì phải theo lao. Bạn không phải lúc nào cũng có thể bán ra khi bạn muốn hoặc khi bạn cho
rằng đã đến thời điểm thích hợp. Bạn phải thoát ra được khi bạn có thể; khi bạn tìm được một thịtrường có khả năng tiêu thụ toàn
bộ số hàng của bạn. Bỏ lỡ cơ hội sẽ khiến bạn mất đi hàng triệu đô-la. Bạn không thể chần chừ. Nếu không, bạn sẽ thua cuộc. Bạn
cũng không nên thử những trò nguy hiểm như nâng giá đối với những người đầu cơ giá hạ bằng cách mua cạnh tranh, bởi có thể
vì thế mà bạn đã làm giảm khả năng hấp thụ của thịtrường. Và tôi muốn cảnh báo các bạn một điều, nắm bắt cơ hội không phải là
việc dễ dàng như bạn nghĩ. Một người phải luôn ở trong trạng thái cảnh giác để khi cơ hội đến tay, anh ta phải nắm bắt luôn.
Dĩ nhiên là không phải ai cũng biết về sự may mắn tình cờ đó của tôi. Ở phố Wall hay ở bất kỳ nơi nào khác, những sự tình cờ
có thể đem lại những khoản tiền lớn cho một người thường được nhìn nhận với nhiều nghi ngờ. Nếu sự tình cờ không đem lại lợi
nhuận, nó không được coi là tình cờ mà là kết quả tất yếu của thái độ tham lam hoặc tự cao của bạn. Nhưng khi nó đem lại cho
bạn một món lợi, người ta lại nói đó là thứ của cướp được và bàn tán về việc tính phi đạo đức gia tăng ra sao, hay chủ nghĩa bảo
thủ hay tính đứng đắn xuống cấp thế nào.
Không phải chỉ những người bán khống ác ý, những người đang phải chịu hậu quả do chính sự khinh suất của họ, buộc tội tôi
dàn dựng lên việc làm táo bạo đó. Tất cả những người khác cũng nghĩ vậy.
Một hoặc hai ngày sau, một trong những ông lớn trong thịtrường bông thế giới đến gặp tôi và nói: “Đó quả là một trong
những vụ giao dịch tài tình nhất anh đã thực hiện được, anh Livingston. Tôi tự hỏi nếu anh đẩy ra thịtrường toàn bộ số anh có,
liệu anh sẽ tổn thất bao nhiêu. Anh cũng biết thịtrường không đủ lớn để thu nhận nhiều hơn năm — sáu mươi ngàn kiện mà không
làm giảm giá, và cách anh định giải quyết phần còn lại mà không làm hao hụt lợi nhuận trên giấy của anh thực sự hấp dẫn tôi.
Tôi đã không nghĩ tới kế hoạch đó của anh. Đó quả thực là một kế hoạch tài tình.”
“Tôi không dính dáng gì đến việc đó,”, tôi đảm bảo với anh ta với một thái độ nghiêm chỉnh nhất có thể.
Nhưng tất cả những gì anh ta trả lời chỉ là: “Thực sự tài tình, anh bạn. Thực sự là rất tài tình! Anh không cần phải khiêm tốn
như vậy!”
Sau lần giao dịch đó, thậm chí một số báo còn gọi tôi là Ông vua bông. Nhưng, như tôi nói, tôi không thực sự được trao
vương miện đó. Có lẽ cũng không cần phải nói với bạn rằng trên đất Mỹ, không ai có đủ tiền để mua được một cột báo trên tờ
World hay có đủ sự thu hút cá nhân để đảm bảo với công chúng về một câu chuyện như vậy. Nhưng lần đó, tôi đã được trao một danh hiệu hoàn toàn không thể xóa bỏ.
Nhưng tôi kể câu chuyện này không phải để phê phán một số người không xứng đáng được trao vương miện hay để nhấn
mạnh vào sự cần thiết của việc nắm bắt cơ hội, dù nó đến lúc nào và bằng cách nào. Mục đích của tôi chỉ là ghi lại những tiếng
tăm từ báo giới đến với tôi sau vụ giao dịch bông tháng Bảy. Nếu không phải nhờ báo chí, tôi đã không thể có cơ hội gặp người
đàn ông xuất chúng đó, Percy Thomas.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#truyen