(1-70)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Sơn Hà Bất Dạ Thiên

Tác giả: Mạc Thần Hoan

Ebook tạo bởi: EbookTruyen.Net

Giới thiu:

Thể loại: Thiên chi kiêu tử, chủng điền, sảng văn, triều đình Văn án:

Vượt thời gian về thế giới cổ đại, thoạt tiên Chu Tử Thư chỉ có ý định làm ăn nhỏ lẻ, vừa đủ nuôi gia đình, vừa đủ sống vui thú đến già.

Thế nhưng cẩn tiểu thận vi1 chỉ giúp con người ta lo cho bản thân được yên ổn, không thể giúp con người ta làm chủ số phận, không thể cứu vớt muôn dân trăm họ.

Nếu muốn xây nghiệp lớn, muốn lo cơm áo cho vô vàn người, thì nhất định phải làm quan. Phải làm quan lớn!

Chu Tử Thư: I have a dream... Cung Tuấn: Hở?

Chu Tử Thư: Em có một giấc mơ, trong mơ có một tòa thành không bao giờ ngủ, tên là Sơn Hà Bất Dạ Thiên2.

Tôi muốn dựng xây non sông bốn bể thanh bình, dẫu nghìn năm trôi qua, trời xanh vẫn còn lưu tiếng hát.

[1] cẩn tiểu thận vi tức là cẩn thận trong từng việc nhỏ, không mạo hiểm.

[2] Bất dạ thiên ám chỉ sự phồn hoa của thành thị, ngày đêm sáng đèn sôiđộng.

------oOo------

Chương 1

Nguồn: EbookTruyen.Net

Vượt thời gian về thế giới cổ đại, Chu Tử Thư vốn định mở tiệm buôn bán nhỏ lẻ, làm một phú ông be bé an nhàn. Ấy thế mà trước cảnh dân chúng lầm than cơ cực, hoàng đế ích kỉ giả dối, ân sư ra đi để lại bao tiếc nuối, cậu chợt nhận ra mình đang ở trong một thời đại đầy rẫy bất công và lạc hậu. Cậu quyết tâm vận dụng mưu lược, những mong giúp bốn bể được thái bình. Đặt chân vào chốn quan trường, cẩn trọng từng lời ăn tiếng nói, Chu Tử Thư và Cung Tuấn sánh vai nhau bước trên con đường đầy gian truân. Muốn giàu sang, phải làm đường, mở lối (*), khát khao của tôi là mang phồn vinh thịnh vượng đến với non sông này!

(*thành ngữ Trung Quốc)

Anh nghĩ rồi, nhà chúng mình không có tiền đâu em.

Đầu tháng sáu, nắng chói chang.

Cải ra hoa vàng rực như màu nắng, trải khắp ruộng đồng. Từ đằng xa trông lại cứ ngỡ biển vàng mênh mông dập dờn trong gió. Ở cổng tây thôn Triệu gia, sát bên ruộng cải dầu là một học đường rộng hai tiến.

Hồi xưa, thôn Triệu gia vốn có một cái tên khác. Nhưng nhiều năm về trước, trong thôn bỗng nảy đâu ra một ông quan cử nhân, và thế là để được hưởng sái tài văn chương Văn Khúc tinh quân ban phát, trưởng thôn bấy giờ bèn hô hào sửa tên thôn theo họ của vị cử nhân nọ. Kể từ ấy, thôn này mới đổi thành thôn Triệu gia.

Hiện tại, không khí bên ngoài học đường hết sức hân hoan náo nhiệt.

Hai người đàn ông trung niên lực lưỡng mặc áo ngắn khệ nệ khiêng một rương gỗ đi vào học đường. Bầu không khí bên trong học đường trang nghiêm hơn hẳn, ngồi ở vị trí cao nhất là phu tử họ Tằng, đứng bên trái ông là một thiếu niên tuấn tú.

Hai người vừa khiêng rương gỗ vào trong học đường thì một người phụ nữ dắt đứa bé trai chừng tám tuổi cũng bước vào theo.

Người phụ nữ ấy rón rén ngẩng đầu, liếc nhìn Tằng phu tử một cái rồi lia mắt đi chỗ khác. Lúc ánh mắt lướt qua cậu thiếu niên khôi ngô bên cạnh ông, người phụ nữ không nén nổi ngạc nhiên, suýt thì buột miệng "Ô" lên một tiếng. Đúng lúc ấy, Tằng phu tử cũng cất tiếng hô: "Quỳ lạy Thánh nhân."

Người phụ nữ cuống quýt: "Nào con, quỳ xuống lạy Thánh nhân mau lên."

Chú bé con nào đã biết Thánh nhân Tiên nhân là gì, thấy mẹ bảo quỳ thì cũng ngơ ngơ ngác ngác quỳ xuống. Chú cứ y theo lời Tằng phu tử và mẹ mình, ngoan ngoãn dập đầu lạy ba lạy trước bài vị Khổng Tử, sau đó quay về phía Tằng phu tử lạy thêm ba lần.

Tằng phu tử gật gù, giơ tay lên. Chu Tử Thư lập tức bước lên phía trước, đỡ lấy chiếc bút son từ tay người nhà chú bé, đưa cho Tằng phu tử. Phu tử họ Tằng tay phải cầm bút son, tay trái nhấc quyển Luận ngữ. Đoạn ông dùng bút son khoanh một dấu ở câu đầu tiên trong sách, hắng giọng: "Khổng Tử dạy: học đi đôi với hành, chẳng vui lắm sao?"

Người mẹ vốn chẳng hiểu câu nói này, nhưng trước khi đến học đường cô ta đã nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần cho cậu con trai. Chú bé vừa nghe thế, liền đọc theo được ngay.

Tằng phu tử vuốt chòm râu mép dài nghêu: "Trẻ nhỏ dễ dạy."

Mọi người cùng thở phào nhẹ nhõm. Chu Tử Thư nhận lấy bút son và cuốn sách từ tay Tằng phu tử.

Vậy là coi như xong lễ "Khai bút trừ u mê" hôm nay.

Thôn Triệu gia có hơn bảy mươi hộ, trong mười dặm tám thôn vùng này cũng coi là một thôn lớn. Tháng này trong thôn có hai đứa trẻ bắt đầu đi học. Trước khi nhập học, những đứa trẻ này đều phải được Tằng phu tử tự tay làm lễ xóa bỏ u mê, ngu dốt. Cứ mỗi dịp như vậy, Tằng phu tử sẽ mời một học trò theo mình thực hiện nghi lễ trừ u mê. Đối với bọn học trò, được chọn chính là một vinh hạnh.

Trước đây người được chọn thường là đứa cháu trai có họ hàng xa với ông ta, nhưng hai lần gần đây nhất không hiểu tại sao Chu Tử Thư lại luôn được trao vinh dự ấy.

Người phụ nữ kia dắt con mình đứng dậy, nhìn Chu Tử Thư đầy khó hiểu. Cô ta toan nói gì đó, nhưng anh trai cô ta đã chen vào.

Người anh trai chính là một trong hai người khiêng rương gỗ, anh ta chất vấn ngay: "Tằng tiên sinh, sao ngài cứ mời thằng ranh họ Đường này làm lễ trừ u mê vậy? Thằng nhóc này không đi học ở học đường, về sau cũng không thành người đọc sách được. Chúng tôi đều kính trọng ngài nên mới mời ngài làm lễ trừ u mê, ngài sao có thể..." Sao có thể mời thằng nhãi ranh chưa đọc nổi cuốn sách nào cùng làm lễ được!

Ở thôn Triệu gia, phu tử họ Tằng là tú tài duy nhất. Là người có công danh, ông ta gặp quan huyện cũng không phải quỳ. Người đàn ông kia không dám nói cả câu, nhưng sự khinh rẻ lộ rõ trong giọng điệu hằn học.

Tằng phu tử nói: "Hiện giờ ở thôn Triệu gia có phải chỉ có mình lão phu là tú tài không?"

Người đàn ông đáp: "Dĩ nhiên."

Tằng phu tử hừ một tiếng: "Cách đây một năm thì đâu phải thế. Vậy ta hỏi anh, tuy hiện nay Chu Tử Thư không theo học ở chỗ ta, nhưng cha của thằng bé có phải tú tài không?" Người đàn ông lúng túng: "Cái này..."

"Lúc Đường tú tài còn tại thế, các người ai ai cũng nịnh bợ anh ta, van nài anh ta giúp con các người trừ ngu diệt dốt. Giờ đây, nhân tài mới mất được một năm, các người đã phủi sạch chuyện ngày xưa. Ta mời con trai của Đường tú tài giúp con các người trừ u mê, các người còn làm mình làm mẩy sao?"

Người đàn ông kia câm như hến, liếc nhìn Chu Tử Thư đầy xấu hổ.

Ấy thế mà Chu Tử Thư vẫn ung dung, ánh mắt không chút vẩn đục, nét cười nhẹ nhè Cungtrên môi, tựa hồ như không hề bị ảnh hưởng.

Lễ trừ u mê kết thúc, gia đình đứa trẻ liền gửi Tằng phu tử và Chu Tử Thư hai bao lì xì. Tặng lì xì xong lại biếu một hộp lương cao, một gói điềm tống với ý nghĩa "Cao tống", tức đỗ đạt cao.

Lương là mát, cao là bánh. Lương cao là một món làm từ gạo nếp, ăn lạnh. Điềm tống thì chính là món bánh gio (bánh tro/bánh ú) nhân ngọt. "Cao tống" đọc gần giống với "cao trung" là đỗ đạt cao.

Chờ gia đình người ta đi rồi, Chu Tử Thư bèn nói: "Tiên sinh giúp đỡ con được lúc này, chứ đâu thể lo cho con cả đời."

Tằng phu tử bốc một miếng lương cao, vừa ăn vừa nói: "Mi cũng biết thế cơ à? Giá mà mi biết thương lão già sắp xuống lỗ như ta đây thì đã khẩn trương về nhà dùi mài kinh sử, sớm ngày vinh quy bái tổ rồi!"

Chu Tử Thư nhún vai: "Tiểu tử nhà tranh vách đất, không lo nổi thúc tu." Thúc tu chính là tiền học phí.

Tằng phu tử cả giận: "Lão phu đòi mi nộp thúc tu bao giờ?" Dứt lời, ông bốc bánh ném vào người Chu Tử Thư.

Cậu trai trẻ cười phá lên, né miếng bánh, vớ bao lì xì rồi dông thẳng. Chạy nửa đường chợt nhớ ra là quên cái gì, cậu vội quay ngược lại xách theo hai gói bánh gio và lương cao người ta biếu.

Tằng phu tử tức lồi cả mắt.

Chu Tử Thư tỉnh bơ: "A Hoàng nó thích ăn."

"Mi xéo ngay cho ta!"

"Ha ha ha ha."

Rời khỏi học đường, đi giữa ruộng hoa cải, Chu Tử Thư mở hộp lấy một miếng lương cao ra nếm thử.

"Ừm... có táo đỏ, gạo nếp, táo thơm quá, như kem táo ý nhỉ?" Nói xong, cậu lắc đầu cười: "Còn lâu mới bằng kem được!" Miệng thì nói vậy, đi được mấy bước, cậu đã lại bốc thêm một miếng bỏ tọt vào mồm.

Đi hết ruộng cải dầu, Chu Tử Thư quay đầu lại nhìn về phía học đường.

Trời xanh mây trắng, cúc vàng xóm thôn.

"Đã hai tháng rồi..."

Đúng vậy, từ khi Chu Tử Thư xuyên thời gian đến thôn Triệu gia, nhập vào thân xác "Chu Tử Thư" này, đã tròn hai tháng.

Tên thật của cậu cũng là Chu Tử Thư.

Hai tháng trước, cậu vẫn là nghiên cứu sinh của trường đại học top 2 toàn quốc, tham gia nghiên cứu thống kê sản lượng tiêu thụ năng lượng tái tạo với giáo sư hướng dẫn hàng đầu.

Nghiên cứu lần này gần như vắt kiệt sức các nghiên cứu sinh trong viện. Chu Tử Thư thức trắng ba ngày ba đêm, trầy trật mãi mới tính toán xong số liệu quan trọng nhất. Nào ngờ vừa chợp mắt, tỉnh lại đã đến nơi này.

Lúc ấy chân ướt chân ráo về thời cổ đại, Chu Tử Thư còn chưa tỉnh giấc chiêm bao, vẫn lang thang trong đống số liệu nghiên cứu, thế mà đón chào cậu chính là vấn đề sống còn vô cùng cấp bách: Không có cơm ăn.

Nhớ lại chuyện đau lòng từ hai tháng trước, Chu Tử Thư khóc không thành tiếng. Cậu xách lương cao và bánh gio đi tới quán trà thảo dược3 đầu thôn. Vừa tới nơi đã nghe tiếng con gái lanh lảnh vang lên: "Chu Tử Thư! Anh lượn đi chơi đâu thế hả?"

[3] 凉茶 (lương trà) có tác dụng giải nhiệt

Bóng áo vải bố xám xịt vụt qua, nghênh ngang chặn trước mặt Chu Tử Thư.

Đứng trước mặt Chu Tử Thư là một cô bé gầy nhom, đen nhẻm, thoạt trông tầm tám, chín tuổi, nhưng chỉ cao đến eo Chu Tử Thư mười ba tuổi. Cô nhóc kiễng chân lên, trừng trộ Chu Tử Thư. Trên trán trên người cô bé mướt mồ hôi. "Cả sáng không thấy anh đâu! Bao nhiêu nước hoa quả em phải bán hết một mình đó!"

Chu Tử Thư huơ huơ hai gói bánh lên: "Thấy gì đây không? Anh đi đến chỗ Tằng phu tử mà."

Mắt cô nhóc sáng ngời: "Em đói!"

"Cho em ăn tất."

Đường Hoàng bốc một miếng lương cao, ăn ngấu nghiến. "Bánh gio để đó, về nhà em hấp lên cho anh ăn." – Chu Tử Thư nói. "Em cứ ăn hết đi. Sáng hôm nay bán nước quả được bao nhiêu tiền?"

Cô nhóc đang hồ hởi ăn bánh, nghe thấy câu này liền đanh mặt, lườm Chu Tử Thư: "Anh hỏi làm gì? Em nói cho anh biết, tiền hàng em cấm anh đụng một xu, để đó đóng học phí. Anh phải đi học lại đấy!"

Chu Tử Thư không đáp, cậu nhìn con bé mồ hôi mồ kê nhễ nhại, chau mày:

"Sao em không uống nước hoa quả cho đỡ nóng?"

"Không uống, nước để bán lấy tiền!"

Chu Tử Thư rót một cốc nước trái cây cho A Hoàng. Thoạt tiên con bé còn vùng vằng, mãi sau mới chịu nhận. Nó cẩn thận húp một ngụm, khoan khoái híp cả mắt.

Cô chủ quán trà thảo dược mỉm cười nói: "Chu Tử Thư đến đó hả? Cháu yên tâm, A Hoàng nhà cháu đã bán được rất nhiều nước hoa quả từ sáng sớm rồi. Có mấy thằng côn đồ thấy cháu không ở đây bèn đến gây sự với A Hoàng, cô còn chưa ra oai, A Hoàng nhà cháu đã dọa chúng nó chạy mất dép. Con bé gầy một mẩu mà trông hàng ghê gớm phải biết!"

Chu Tử Thư nghe hai chữ "côn đồ" thì giận tái mặt. Cậu nhếch mép, nụ cười lạnh đến mức giữa ngày hè cũng khiến người ta nổi da gà.

"Chúng nó còn dám vác mặt đến hả?"

Vừa dứt lời, lũ côn đồ đã lục tục kéo tới đầu thôn. Chúng nó đang kéo bè đi bắt nạt Đường Hoàng, nhưng vừa nhác thấy Chu Tử Thư, cả lũ đứng đực ra như trời trồng. Tên cầm đầu chửi tục một câu, ngồi phệt xuống tảng đá, ngó Chu Tử Thư lom lom.

Chu Tử Thư chỉ cười.

Tên côn đồ nghiến răng, không dám nhúc nhích.

Tình cảnh lúc này trông hết sức tức cười. Một toán mười bảy, mười tám tên đầu bò đầu bướu đứng trước một thiếu niên mười hai, mười ba tuổi, nhưng không thằng nào dám ho he lấy một câu. Đúng là chuyện không tưởng! Tuy nhiên, nếu được chứng kiến cảnh đám côn đồ này bị chàng thiếu niên xách dao phay rượt từ cổng Đông thôn sang cổng Tây thôn cách đây hai tháng, chắc bạn sẽ không thấy có gì lạ lùng.

Toán côn đồ có chết cũng không quên hôm ấy Chu Tử Thư hung hãn đến nhường nào. Thằng ranh gầy giơ xương sườn xương ống, nhưng hai con mắt nó đỏ lừ hệt mắt quỷ. Tay lăm lăm con dao phay, nó lùa sau đít đám vô lại như một hung thần. Cả bọn chạy trối chết đến tận bờ sông, nhảy xuống trốn đi miết, lúc bấy giờ Chu Tử Thư mới không đuổi theo nữa.

Đường tú tài mất đã tròn một năm, nhà họ Đường chỉ còn lại hai anh em cù bơ cù bất. Lũ côn đồ trong thôn từ trước vẫn bắt nạt hai đứa như cơm bữa, vốn chẳng phải chuyện gì to tát. Chẳng hiểu sao, sau một trận ốm thập tử nhất sinh cách đây hai tháng, Chu Tử Thư khỏi bệnh xong thì như hóa thành người khác.

Cậu chẳng còn khúm núm, nhát gan sợ sệt giống trước đây. Hết hăm dọa lũ côn đồ chạy mất guốc, cậu lại chiếm được lòng mến yêu của Tằng phu tử. Tài nhất là cậu chế biến được thứ trái cây chua loét không ai thèm trước cổng nhà thành một loại "nước táo" kì lạ. Loại nước quả mới đó chua chua ngọt ngọt, uống giải khát mùa hè không gì bằng, người trong thôn ai cũng thích mua về uống.

Vợ chồng chủ quán trà thảo dược thương hai đứa trẻ mồ côi, bèn cho chúng bày sạp bán nước quả ở trước quán nhà mình. Hai đứa trẻ con cũng không pha được nhiều nước quả lắm, không ảnh hưởng chuyện bán buôn nhà họ. Trái lại, hai vợ chồng thường nhân tiện giúp đỡ hai anh em.

Cô bé em ăn xong lương cao rồi liền hỏi: "Chu Tử Thư, sáng nay anh mang nước hoa quả cho trưởng thôn đúng không?"

"Ừ, sao thế?"

"Cái cốc nước đó anh lấy có hai đồng!" Lỗ ơi là lỗ!

Có người tới mua nước táo, Chu Tử Thư rót cho người ta một cốc xong liền quay lại bảo: "Em chả hiểu gì cả. Đường Hoàng ơi, cái đó người ta gọi là quảng cáo."

A Hoàng nhảy dựng lên: "Quảng cáo cái gì mà quảng cáo? Em thấy anh là Tán tài đồng tử4 theo hầu Quan Thế Âm Bồ Tát thì có. Mà này, sao em thấy dạo này anh lạ lắm, hồi trước anh toàn gọi em là A Hoàng chứ có gọi em là Đường Hoàng bao giờ đâu?"

[4] Tên gọi khác của Thiện tài đồng tử. Tán tài = rải tiền.

Chu Tử Thư vênh mặt ra vẻ biết tuốt: "Đúng là đồ con nít con nôi, cái này là cả một nghệ thuật đấy!"

Trời về chiều càng oi bức, quán trà thảo dược càng tấp nập hơn.

Trà thảo dược rẻ, nước quả đắt, nhưng uống nước quả vừa giải nhiệt tốt vừa ngon hơn. Chỉ cần thỉnh thoảng có người mua nước trái cây là đủ tiền cơm cho hai anh em. Tầm chạng vạng tối, nước trái cây cũng sắp bán hết, Chu Tử Thư bắt đầu đứng lên dọn quầy.

Xa xa, từ cổng thôn, một cỗ xe ngựa lắc lư lăn bánh trên con đường nhỏ, tiếng càng xe cọt cà cọt kẹt.

Thôn Triệu gia nằm gần chỗ giao giữa các thôn, bình thường cũng hay có người lạ đi ngang qua, nhưng xe ngựa hiếm khi đi qua đây, giỏi lắm cả tháng mới thấy một chuyến. A Hoàng tò mò tiến lại gần nhìn, Chu Tử Thư cũng dõi mắt quan sát theo.

Có lẽ trời nóng quá, cỗ xe kia đi tới quán trà thảo dược liền đỗ lại.

Mành xe xốc lên, một người thanh niên mặc áo vải xanh vạt dài bước xuống xe trước tiên. Vừa xuống xe, anh ta liền quay lại đón người phía sau. Người chậm rãi xuống khỏi xe sau thanh niên là một ông cụ già. Ông cụ này tuy tuổi cao, tóc hoa râm, nhưng đôi mắt sáng quắc, lưng thẳng tắp, dáng dấp vô cùng uy nghiêm.

Vốn quanh quẩn chốn ao làng, người dân trong thôn chỉ cảm thấy ông cụ này ắt hẳn là người bề trên, không ai dám nhìn thẳng. Kiếp trước, Chu Tử Thư đã từng được tiếp xúc quan chức nhà nước cấp cao, cậu nhanh chóng nhận ra khí chất của người có địa vị ở ông lão. Chu Tử Thư nghiêm mặt, thận trọng quan sát ông ta.

Cậu bảo em gái: "Mình dọn hàng sớm thôi."

A Hoàng quýnh lên: "Hả? Đã bán hết nước trái cây đâu?"

"Mang về nhà uống."

"..."

"Chu Tử Thư! Anh cứ xa xỉ như vậy, của cải nhà chúng ta sớm muộn cũng bị anh đốt sạch!"

Chu Tử Thư nhủ thầm trong bụng: Tiền nong trong cái nhà này đâu đến lượt cậu đốt, gom góp lại còn chẳng đủ mua ba lạng dầu thắp đèn!

||

7/8/2021: Các bạn có thể bình luận ẩn danh ở nhà mình nhé, không cần tài khoản hay điền email đâu. Mình chỉnh vậy vì biết một số bạn không quen dùng WordPress hoặc không thích dùng acc chính khi đọc truyện.

Lời tác giả:

Chu Tử Thư: Anh nghĩ rồi, chúng mình cũng không có tiền đâu em.

Đường Hoàng: Anh đừng nghĩ vớ vẩn! Chú thích

Trong Nho giáo khi xưa học trò đến gặp thầy lần đầu thì phải tặng lễ coi như là học phí.

------oOo------

Chương 2

Nguồn: EbookTruyen.Net

"Tri thư, đạt lý"

Ông cụ và người thanh niên kia vào trong quán trà thảo dược ngồi nghỉ, gọi hai ly trà.

Chu Tử Thư dọn sạp xong, đang chuẩn bị về nhà thì bỗng thấy một tên lưu manh đi vào quán trà. Tên này là loại ăn cắp có nghề, gã giấu tay phải sau lưng, bước chân thoăn thoắt áp sát hai người lạ mặt.

"Quý khách có uống nước trái cây không ạ?" Tên trộm bị bất ngờ, phải lùi lại ngay.

Chu Tử Thư cầm hai cốc nước trái cây đặt trước mặt ông cụ già và người thanh niên. Ánh mắt cậu từ tốn liếc về phía tên ăn cắp.

Kẻ cắp phen này gặp bà già, đành nghiến răng bỏ đi.

Cụ già cười: "Cảm tạ tiểu huynh đệ, nước trái cây này bao nhiêu tiền? Chúng ta muốn uống thử."

Nét mặt ông cụ rất bình thản, đôi mắt thâm thúy như nhìn thấu sự đời.

Một dòng suy nghĩ vụt qua, Chu Tử Thư hỏi: "Ngài đã phát hiện ra từ đầu rồi ư?"

Thanh niên áo xanh bèn nói: "Xì, hạng đầu trộm đuôi cướp ấy có giỏi cứ thử trộm của chúng ta xem."

Chu Tử Thư nhìn gan bàn tay chàng trai này toàn vết chai, hiển nhiên là người học võ.

"Kẻ hèn này múa rìu qua mắt thợ rồi." Chu Tử Thư ngượng ngùng nói.

Ông cụ đánh giá Chu Tử Thư một lát, rồi nói với người thanh niên đi cùng: "Nước quả này màu hơi lạ nhưng vị bình thường, uống giải khát được."

Người thanh niên lập tức hiểu ý, móc ra một túi tiền nặng trịch, đếm vài đồng đưa cho Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư thoạt tiên không chịu nhận tiền, nhưng người thanh niên cứ dúi cho cậu. Không lâu sau, ông cụ già và người thanh niên đều lên xe ngựa, xe lại lăn bánh rời khỏi quán trà. A Hoàng thấy người đã đi, vội vàng chạy tới lấy hết tiền trong tay Chu Tử Thư, cẩn thận nhét vào cái bao đựng tiền vá víu của mình.

"Tiền dâng đến tận miệng anh còn không thèm lấy. Chu Tử Thư, anh đúng là đồ đại ngốc!"

"Hắn chỉ đưa có bốn đồng thôi."

A Hoàng la lên: "Trời nóng quá đầu anh bốc cháy luôn rồi hả? Nước trái cây nhà chúng ta hai đồng một cốc, hai cốc chẳng bốn đồng thì bao nhiêu?" Chu Tử Thư thu lại ánh mắt dõi theo cỗ xe, ngao ngán dòm cô em gái.

"Chỉ mong ngóng đền ơn thì không thể trở thành người vĩ đại."

Đường Hoàng: "Hả?"

Chu Tử Thư: "Không thể tin nổi tên em lại là Đường Hoàng!"

"Tên em là Đường Hoàng thì sao? Anh là đồ ngốc với em là Đường Hoàng thì có liên quan gì tới nhau hả?"

Chu Tử Thư không đáp nữa, cậu chỉ lẩm bẩm một câu "Ngốc quá đi mất", rồi quay đầu đi thẳng. Cô nhóc tròn mắt, vội vàng đuổi theo, lớn tiếng nhì nhèo Chu Tử Thư giải thích cho rõ ràng.

Hai anh em mỗi người đeo một cái sọt trúc, đi bên nhau trên bờ ruộng. Mặt trời xuống núi như quả quýt hồng rực, chẳng mấy chốc trời đã tối đen.

"Sự tung hô chưa bao giờ là mục tiêu của những người vĩ đại." – trích khổ 8, chương 9, tiểu thuyết thơ Don Juan1.

[1] Đường Hoàng là phiên âm của Don Juan trong tiếng Hán.

Không cần hỏi cũng biết phải trả bốn đồng, hiển nhiên ông cụ và thanh niên tiến vào quán trà đã chú ý tới hai anh em nhà họ, biết nước trái cây giá bao nhiêu. Dẫu thấy hai anh em áo quần mộc mạc, gia cảnh túng thiếu, họ không hề tỏ ra thương hại mà chỉ đưa đúng bốn đồng. Hành động nhỏ thể hiện sự tôn trọng ấy quả là tác phong của người quân tử lòng không gợn đục.

Chu Tử Thư ngửa mặt lên trời thở dài. Tôn với chả trọng, thà các ngài lấy tiền đè chết chúng tôi luôn đi cho rồi!

Chu Tử Thư buồn bực đến tận lúc về nhà, may mà có tin tốt lành đang chờ cậu.

Trưởng thôn dắt theo một người đàn ông đợi ở cửa nhà đã lâu. Đường Hoàng ôm chặt cái sọt nhỏ của mình theo bản năng, bên trong sọt còn đựng mấy cốc nước trái cây. Trái lại, Chu Tử Thư tươi tỉnh tiến lên tay bắt mặt mừng: "Bác trưởng thôn!"

Trưởng thôn cười bảo: "Tiểu Thư Lang, giờ này mới về hả?"

Thôn dân hay gọi Đường tú tài là Đường lang nên Chu Tử Thư thỉnh thoảng cũng được gọi là Tiểu Thư Lang.

Lúc mới nghe người ta gọi mình thế, Chu Tử Thư còn thấy gai người, về sau quen rồi mới thôi. Cậu hỏi: "Bác trưởng thôn tìm cháu có việc gì thế ạ?"

Trưởng thôn đáp: "Tháng sau, hội chùa huyện Ngô sẽ được tổ chức ở thôn Triệu gia chúng ta. Nước trái cây của cháu rất ngon, giải nhiệt giải khát tốt. Bác đã thương lượng với người các thôn khác, bọn bác muốn đặt mua của cháu hai mươi cân nước hoa quả, đến ngày hội chùa sẽ mời dân cư những thôn lân cận nếm thử. Cháu có thể làm đủ để bán cho chúng ta được không? Đương nhiên, chuyện tiền nong sẽ không để cháu thiệt, bọn bác sẽ trả cháu hai xâu tiền."

Đường Hoàng trợn tròn mắt, không tin vào tai mình nữa.

Chu Tử Thư chẳng có vẻ gì là bất ngờ, cậu nhận lời với trưởng thôn, hứa hẹn trước dịp hội chùa sẽ chuẩn bị đủ nước hoa quả.

Chờ trưởng thôn đi rồi, A Hoàng sung sướng mãi không thôi: "Chu Tử Thư, hai xâu tiền là ba trăm hai mươi đồng đó, nửa năm tới chúng ta không cần phải bán nước trái cây rồi!"

"Em đã hiểu tại sao anh tặng nước ép quả cây cho trưởng thôn suốt tám ngày chưa?"

Đường Hoàng ngơ ngác: "Hở?"

Chu Tử Thư: "Khiến cho thật nhiều người biết đến tiếng tăm của mình, chính là quảng cáo. Rượu ủ trong hầm sâu thì lấy đâu ra người thưởng thức? Đi, hấp cho anh cái bánh gio, anh nói cho mà biết." Đường Hoàng đứng phỗng ra.

Chu Tử Thư bước được mấy bước lại quay đầu nhìn cô em nhà mình, chỉ thấy cô nhóc đăm chiêu hồi lâu, chợt reo lên: "Em hiểu rồi!"

Chu Tử Thư: "?"

Hiểu cái gì mà hiểu chứ!

Tuy rằng có đơn hàng tháng sau, hằng ngày không còn phải gùi sọt nước ép tới quán trà bán nữa, hai anh em lại không ngơi chân ngơi tay lúc nào. Cả hai tay năm tay mười chế biến nước trái cây. Sau vài hôm, Chu Tử Thư lấy vải bố bọc kín mấy cái chum sành đựng nước quả. Kiểm tra kĩ không còn chỗ nào không khí lọt vào được, cậu bèn lấy mấy ống tre đựng nước quả, đi ra khỏi nhà.

Cậu đi miết sang học đường bên cổng thôn phía Tây. Chưa vào tới nhà đã nghe vang tiếng lũ trẻ đọc sách.

Đám nhi đồng lắc lư đầu theo nhịp, dõng dạc đọc thuộc lòng sách Luận Ngữ. Chẳng cần biết có hiểu chữ nào hay không, cứ đọc cho thuộc rồi tính.

Chu Tử Thư ngó vào cửa sổ, không thấy Tằng phu tử liền đoán là tiên sinh đang nghỉ ngơi ở nhà trong. Cậu quen lối đi vòng vào gian nhà phía sau, gõ cửa cộc cộc. Tiếng nói chuyện bên trong ngưng lại, Tằng phu tử hỏi vọng ra: "Ai thế?"

"Là con đây thưa tiên sinh."

Sau một thoáng im lặng, trong gian nhà truyền ra tiếng nói nhỏ: "Cậu này là học trò của lão phu."

Lát sau, tiếng Tằng phu tử lại vang lên: "Con vào đi."

Chu Tử Thư đẩy cửa bước vào, chỉ thấy trong nhà khá tù mù. Ở cao đường, Tằng phu tử ngồi phía bên phải, bên trái là một người không rõ mặt. Chu Tử Thư đi vào nhà xong liền ngước lên nhìn.

Không ngờ người đó chính là ông cụ trong quán trà hôm qua!

Ông cụ kia cũng nhận ra Chu Tử Thư, hai người đều ngạc nhiên không thốt nên lời.

Chu Tử Thư đặt ống tre lên bàn: "Con mang nước trái cây đến cho tiên sinh đây ạ, hôm nay trời nóng, tiên sinh uống nước quả cho thanh nhiệt." Dứt lời, cậu liền đi về phía lối ra ngay.

Song Tằng phu tử lên tiếng cản cậu ngay: "Thằng nhóc kia, bao giờ con mới định đi học lại hả?"

Chuyện này thật chẳng ai ngờ.

Chu Tử Thư vốn nghĩ Tằng phu tử đang tiếp khách quý, mình đi vào đã là quấy rầy ông rồi nên mới không nhiều lời, đưa đồ rồi đi ngay. Nào ngờ phu tử lại chọn đúng lúc này để khuyên can cậu tiếp tục học hành. Nhất thời, cậu rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan, không biết nên đi hay nên ở. Vị khách quý ung dung quan sát, dường như đã ngầm hiểu điều gì.

Tằng phu tử nói: "Để tiên sinh phải chê cười rồi. Thằng bé này tên là Chu Tử Thư, năm nay mười ba tuổi, cho tới năm ngoái vẫn theo học ở chỗ ta. Phụ thân nó mới mất cách đây một năm vì bệnh tật, người đó cũng là một tú tài. Sau khi cha qua đời, nhà họ Đường chỉ còn thằng nhóc này và em gái sống nương tựa lẫn nhau nên cậu ta đã bỏ học. Lão phu lấy làm tiếc lắm, vì nó vốn là đứa trẻ thông minh, Luận ngữ, Trung dung đều thông hiểu, không được đi học thì thật uổng phí biết bao!" Chu Tử Thư nghe Tằng phu tử nói mà hốt hoảng.

Luận ngữ, Trung dung, đều thông hiểu?

Tôi không hiểu, tôi không biết gì hết nhé, ngài chớ có ăn ốc nói mò!

Ba hoa quá lố cũng đừng lôi người ta vào chứ!

Ban đầu ông cụ khách quý kia cũng không chú ý tới Chu Tử Thư lắm, nhưng nghe Tằng phu tử nói vậy, ông ta không giấu nổi sự khinh thường trong ánh mắt: "Mười ba tuổi đã tinh thông Luận ngữ, Trung dung kia à?"

Chu Tử Thư trong lòng chỉ muốn bảo "Ngài làm ơn đừng nghe Tằng phu tử nói quàng xiên", nhưng Tằng phu tử đã nháy mắt lia lịa với cậu ra hiệu: Nhóc con à đây là cơ hội ngàn năm có một cho mi đó, đừng có trách ta không giúp mi nha.

Chu Tử Thư đành khiêm tốn đáp: "Khi xưa, Triệu Tắc Bình đọc nửa bộ Luận ngữ mà trị được thiên hạ. Chỉ riêng bộ sách này thôi đã đủ để thế nhân nghiền ngẫm cả đời. Tiểu tử bất tài, không dám nhận là tinh thông, chỉ dám nhận là thuộc nằm lòng thôi ạ."

Người khách cười: "Thuộc nằm lòng cơ đấy?"

Chu Tử Thư vươn thẳng lưng, nghiêm chỉnh đáp: "Vâng."

"Vậy tạm thời ngươi hãy đọc ngược thiên 'Thuật nhi' trong Luận Ngữ đi."

Chu Tử Thư đọc ngay: "An nhi cung, mãnh bất nhi uy, lệ nhi ôn tử, bát thập tam4"

[4] Tử ôn nhi lệ, uy nhi bất mãnh, cung nhi an: Khổng tử ôn hòa mà nghiêm túc, uy nghi nhưng không thô bạo, cung kính mà an nhàn. "Bát thập tam" là đọc ngược của "tam thập bát (bài thứ 38 trong chương)"

Trong học đường, lũ nhi đồng đã đọc xong bài khóa từ lâu. Bọn trẻ mới bảy, tám tuổi, đứa nào cũng tò mò, bèn bu lại bên cạnh gian nhà trong nhìn lén. Không đứa nào dám gõ cửa cả, chỉ dán mắt vào cửa sổ coi động tĩnh bên trong.

Trong phòng, Chu Tử Thư càng đọc càng thuận miệng, càng đọc càng hăng say.

Thuật Nhi trong Luận ngữ có tổng cộng ba mươi tám câu. Cậu đọc trôi chảy say sưa, e rằng thư sinh đèn sách hai mươi năm cũng không thể đọc thuộc làu mà lại diễn cảm thế. Rõ ràng là đọc ngược, nhưng cậu không hề thực hiện qua loa, từng câu từng chữ đọc lên sang sảng, như thể bản đọc ngược này mới chính là Luận ngữ vậy.

"... Tác bất nhi thuật, viết Tử, Nhất5."

[5] Tử viết: Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ, thiết tỉ ư ngã lão Bành -> Khổng tử nói: Ta chỉ thuật lại chứ không sáng tác, ta yêu và tin văn hoá cổ, trộm ví mình như lão Bành.

Cậu đọc liền một hơi đã hết, trong ngoài học đường đều im phăng phắc.

Một chú bé đứng bên ngoài gãi đầu gãi tai: "Tiên sinh đâu có dạy mình thế nhỉ?"

Thanh niên đi theo ông cụ kia cũng nhủ thầm: "Tiểu tử này ngạo mạn ra phết."

Đọc xong bài, Chu Tử Thư tỏ ra hết sức khiêm nhường mà khom người cúi chào. Khí phách dâng trào, phong thái trác tuyệt vừa hiển lộ lúc đọc bài đã thu vào hết, tựa như hai người khác nhau.

Qua một lúc, ông cụ kia hỏi: "Tại sao ngươi lại nghỉ học?"

Ông ta hoàn toàn không màng đến chuyện Chu Tử Thư có đóng nổi thúc tu hay không. Tằng phu tử đã thể hiện rõ ý muốn Chu Tử Thư đi học lại, còn dám đem chuyện này ra nói trước mặt ông để thúc ép Chu Tử Thư, nhân tiện tiến cử thằng bé, hẳn là không có chuyện từ chối dạy vì thiếu học phí.

Ruột gan Tằng phu tử xoắn cả lên, ông ta ra sức nháy mắt với đệ tử ruột của mình.

Chu Tử Thư thầm thở dài.

Cậu có thể đọc ngược Luận ngữ cũng là nhờ năng lực phát sinh sau khi xuyên thời gian. Nhờ năng lực đó, bất cứ sách vở gì cậu chỉ cần đọc một lần, xem một lần là có thể nhớ hết.

Nhưng việc đi học thì...

Chu Tử Thư từ tốn nói: "Mạn phép hỏi tiên sinh, thư sinh trong thiên hạ học để làm gì ạ?"

Câu hỏi này dễ như ăn kẹo, lũ nhi đồng ngoài cửa chưa gì đã nhao nhao lên:

"Để đi thi đỗ đạt chứ còn gì!"

"Để làm quan mới đúng!"

"Để kiếm thật nhiều tiên nuôi cha mẹ!"

Tằng phu tử đổ quạu, phất tay áo quát lên: "Đúng là gỗ mục không thể chạm khắc!" Ông vội vàng lao ra đuổi lũ trẻ nghịch ngợm đi.

Học để làm gì?

Đặt trong bối cảnh hiện đại, chín mươi phần trăm mọi người sẽ trả lời rằng đi học để có một công việc tốt, có cuộc sống tốt. Đây là lí lẽ chính đáng không ai phản bác được.

Đáp án này không chỉ lũ trẻ kia nói được, mà ngay cả Tằng phu tử cũng có thể đem ra khuyên nhủ học trò. Nhưng Chu Tử Thư biết ông cụ bí ẩn kia sẽ không trả lời như vậy.

Ông cụ ngẫm nghĩ hồi lâu không đáp, hỏi ngược lại cậu: "Thế theo ý ngươi, đi học để làm gì?"

Chu Tử Thư mỉm cười: Tôi là tôi muốn ông hỏi tôi câu này đây!

"Người đi học trong thiên hạ cần tri thư trước, đạt lý sau. Đem đến học thức và giúp con người hiểu lễ nghĩa mới là ý nghĩa sâu xa của sách vở."

Ông cụ lặng yên nhìn Chu Tử Thư, ánh mắt sâu thẳm như đã trải mấy hồi bể dâu. Ông không phản bác lại ý của Chu Tử Thư: "Ồ, ra là để tri thư đạt lý."

"Vâng. Có học thức, hiểu lễ nghĩa. Tử Cống từng nói: "Thầy Khổng có đức tính ôn hòa, hiền dịu, cung kính, tiết kiệm nên được kính nể." Người đọc sách phải biết noi gương đức thánh Khổng, tức là phải đọc điển tích để hiểu lễ nghĩa, rồi dùng lễ nghĩa đối nhân xử thế. Tiểu tử bất tài, dám hỏi một câu... Nếu đã hiểu lễ nghĩa rồi, vậy còn cần đọc sách để làm gì?"

Thanh niên áo xanh nghe thế sẵng giọng: "Oai môn tà lý, ăn nói xằng xiên!"

Chu Tử Thư không chút bối rối, chắp tay cúi người: "Tiên sinh hỏi tiểu tử về mục đích của việc học, nên tiểu tử mới đành nêu thiển ý của bản thân, cũng tự biết chỉ là những lời thô tục không xứng với chốn thanh cao." Ngụ ý chính là tiên sinh nhà anh hỏi nên ta mới dám đáp ấy chứ.

Thanh niên áo xanh toan nói thêm nhưng bị ông cụ cắt lời:

"Ngu Chi!"

Người thanh niên cúi gằm mặt, ỉu xìu không dám nói nữa.

Ông cụ nhìn Chu Tử Thư bằng ánh mắt sáng như đuốc, thần thái thay đổi hẳn. Ánh nhìn chứa sự uy nghiêm của người bề trên khiến Chu Tử Thư nổi da gà, cậu lờ mờ đoán rằng người này hẳn là một vị quan, thậm chí là quan lớn. Trán đổ mồ hôi, nhưng cậu cố gắng giữ bình tĩnh, không hề tỏ ra lúng túng.

Hồi lâu, cụ già mới hỏi: "Ngươi có họ hàng gì với Đường cử nhân ở thành Tây phủ Cô Tô không?"

Chu Tử Thư sững người, chậm rãi đáp: "Hình như cũng là họ hàng xa ạ."

"Mỗi ngày ngươi đều đều bán nước hoa quả ở quán trà thảo dược kia, không vì kiếm đủ tiền thúc tu để đi học lại thì là vì lẽ gì?"

Tằng phu tử trước giờ cũng không để ý lắm chuyện này, nghe ông cụ kia nói vậy ông ta mới sực nhận ra: "Đúng! Thằng nhóc này, mỗi ngày người bán được bao nhiêu nước quả, lời lãi không ít, ngươi không dùng tiền đó để đi học... Vậy tóm lại ngươi có ý định gì?" Chu Tử Thư cười gượng gạo.

Gừng càng già càng cay. Tằng phu tử chưa đủ cay thì có người cay hơn lão.

Chu Tử Thư không đáp, ông cụ già cũng không ép. Ông ta đứng lên bảo: "Xin cáo từ trước."

Trước khi đi, ông sai thanh niên áo xanh lấy một tờ danh thiếp đưa cho Chu Tử Thư. Chàng thanh niên kia có vẻ ngần ngừ không phục, nhưng vẫn nghiêm chỉnh đưa cho Chu Tử Thư.

Danh thiếp làm bằng giấy lụa trắng mạ vàng, đề ba chữ "Lương Bác Văn" thật to, nét bút uốn lượn như rồng bay phượng múa. Mặt sau danh thiếp viết địa chỉ theo lối trâm hoa tiểu Khải8: Lương phủ, hẻm Đường Đức, phủ Cô Tô.

[8] Chữ Khải là mẫu chữ chuẩn mực và thông dụng, "trâm hoa tiểu Khải" là lối viết chữ Khải nhỏ, đường nét mềm mại thanh thoát, rất được nữ giới thời xưa yêu thích.

Chu Tử Thư ngắm tờ danh thiếp rồi thản nhiên cất vào trong áo, vừa cất xong liền ăn ngay một cái bợp tai.

Chu Tử Thư ngơ ngác ngẩng đầu nhìn Tằng phu tử: "... Tiên sinh?"

Tằng phu tử tức ói máu: "Đồ ngốc này, ngươi có biết người ta là ai không?"

Chu Tử Thư đáp tỉnh bơ: "Biết, là khách quý chứ gì." Khéo là khách cực quý ấy chứ.

Tằng phu tử suýt thì bợp cho cậu ta thêm một cái nữa, lần này không bợp vào đầu, phải bớp vào cái mặt xinh xẻo của thằng nhóc họ Đường này mới được!

"Lương Tụng – Lương Bác Văn, Phủ doãn phủ Cô Tô. Ngài ấy chính là một trong Tứ Nho thiên hạ đấy."

||Chú thích

Chap này có 2 lỗi (không rõ là vô tình hay cố ý) của tác giả. Một là câu thơ trong truyện thơ Don Juan của Byron; tác giả viết là khổ 6 chương 9, nhưng thực ra câu này ở khổ 8 chương 9. Mình đã sửa lại. Đọc thêm về Don Juan ở .

Lỗi thứ 2 là số câu trong thiên (chương) thứ 7 của Luận ngữ. Có 38 câu nhưng tác giả viết là 37, cũng cho nhân vật đọc là "thất thập tam". Mình sửa lại thành bát thập tam và 38 câu.

Triệu Phổ, tự Tắc Bình là khai quốc công thần của nhà Bắc Tống. Ông là người nhiều mưu lược nhưng học vấn không bằng các văn thần khác, nên rất cần cù đọc sách. Về sau mọi người phát hiện ông chỉ đọc một quyển sách là Luận ngữ, nên từ đó có câu "Bán bộ Luận ngữ trị thiên hạ" – tức là nửa quyển Luận ngữ đủ để trị thiên hạ.

Sách Luận ngữ có 20 thiên. "Thuật nhi" là thiên thứ 7.

Gốc: Hủ mộc bất khả điêu dã – trích câu thứ 10, thiên thứ 5 sách Luận ngữ. Khổng Tử lấy câu này để phê phán Tể Dư, một người học trò có thói đao to búa lớn nhưng lười biếng, hay ngủ ngày. Ông cho rằng người như vậy không thể làm nên nghiệp lớn.

Tử Cống tự của Đoan Mộc Tứ, một trong 10 học trò của Khổng Tử.

------oOo------

Chương 3

Nguồn: EbookTruyen.Net

Ai bảo rằng anh không đi học nữa?

Giải quyết xong vấn đề ăn mặc sau khi xuyên thời gian, Chu Tử Thư liền phát hiện triều đại này tuy cũng tên là Tống, nhưng chẳng hề tồn tại trong lịch sử Trung Quốc. Triều đại này có nền văn học hưng thịnh sánh ngang Đường, Tống, nền quân sự hùng mạnh không kém gì Nguyên, Minh, về ngoại giao không cần phải nhún nhường trước các thế lực lân bang như Nam Tống. Tóm lại, đây chính là một triều đại dân giàu nước mạnh điển hình.

Nhưng hiểu biết của cậu cũng chỉ tới vậy thôi, cái tên Tằng phu tử nhắc đến hoàn toàn lạ lẫm đối với cậu. Chu Tử Thư trong lòng tuy hoang mang, nhưng cậu cố gắng không để lộ ra mặt.

Tằng phu tử cũng ý thức được một thiếu niên mười ba tuổi khó có thể biết Lương Bác Văn là ai, thở dài thườn thượt: "Cơ hội tốt như vậy mà mi lại lãng phí."

Chu Tử Thư không cho là phải. Ông cụ kia đã cho cậu danh thiếp, chứng tỏ ông ta có để ý đến cậu.

Bèn nói: "Tiên sinh, sao người có địa vị như ngài ấy lại ghé thôn Triệu gia?"

Tằng phu tử đáp: "Lương đại nho nhậm chức Phủ doãn Cô Tô từ năm ngoái, nghe đâu dạo gần đây ngài ấy đang sưu tầm thư tịch về phong thổ Giang Nam. Lão phu tuy chỉ là tú tài nghèo nơi thôn dã, nhưng trong nhà vẫn có vài pho sách tổ tiên truyền thừa. Đêm qua Lương đại nho đã cho người đến sao chép lại chỗ sách đó." Thì ra là đến mượn sách.

Một phủ doãn vì mượn sách mà chẳng quản đường xá xa xôi tới tận thôn Triệu gia, có thể thấy Lương đại nho vô cùng coi trọng sách vở.

Tằng phu tử vẫn chưa từ bỏ ý định khuyên nhủ Chu Tử Thư: "Ngài ấy nói đúng lắm, con đừng cho là ta không biết, ngày nào trà hoa quả của con cũng bán chạy, tiền lời không ít. Số tiền đó đủ cho con theo học ở chỗ ta từ năm ngoái rồi! Kiếm được tiền lại không chịu đi học, rốt cuộc là con định làm gì hả đồ ngốc?"

Chu Tử Thư chắp tay: "Tiên sinh đừng ép con nữa, con đã có dự định riêng rồi."

"Vậy là bỏ học luôn hả?" Chu Tử Thư cười trừ.

Tằng phu tử nghiêm mặt nhìn Chu Tử Thư hồi lâu, khoát tay.

"Thôi mi hãy phắn đi, hôm nay lão phu khó ở."

Chu Tử Thư không ngại ông đổ quạu, cười trêu: "Vậy phải làm sao thì tiên sinh mới hết khó ở đây?"

Tằng phu tử mở ống tre, nhấp một hớp: "Mỗi ngày một cốc nước quả!"

(Bản edit chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com; hãy theo dõi trên ứng dụng WordPress hoặc vào đúng trang để có trải nghiệm đọc truyện tốt nhất.)

Phủ Cô Tô có tổng cộng năm huyện, thôn Triệu gia thuộc huyện Ngô. Thôn giáp với huyện lị nên hội chùa một năm hai lần sẽ có một lần tổ chức ở thôn.

Là đầu mối thông thương quan trọng của tám thôn trong phạm vi mười dặm, thôn Triệu gia trở nên vô cùng giàu có. Chu Tử Thư và Đường Hoàng chăm chỉ chuẩn bị suốt nửa tháng, cuối cùng cũng xong hai mươi cân nước quả trước dịp hội chùa ba ngày. Thoạt tiên, Đường Hoàng lo nước quả để lâu sẽ bị hỏng, đến ngày hội chùa không còn ngon, mất ăn mất ngủ hai ngày. Trái lại, Chu Tử Thư thì cứ bình chân như vại.

"Nước hoa quả lên men rồi giữ được lâu lắm, không sợ."

Đường Hoàng nghệt ra: "Hả?"

Chu Tử Thư ung dung: "Anh trai em có phép thuật, trước khi hội chùa kết thúc, nước hoa quả sẽ không hỏng đâu."

Đường Hoàng câm nín: "..." Anh trai mình chắc khùng rồi.

Ấy thế mà tận nửa tháng sau, nước quả vẫn không hỏng thật. Đường Hoàng mừng rỡ, cô bé đã thấy bóng dáng hai xâu tiền bự lấp lánh đâu đây rồi. Chu Tử Thư không ngừng nghỉ, vẫn tiếp tục làm thêm nước quả.

Đường Hoàng lấy làm lạ: "Anh, mình làm đủ hai mươi cân rồi mà."

Chu Tử Thư nói: "Còn ba ngày nữa mới đến hội chùa."

"Nhưng chúng mình làm xong hai mươi cân rồi."

Chu Tử Thư đặt dụng cụ xuống, nhìn cô em gái mắt tròn xoe, hỏi: "Trưởng thôn đặt hàng hai mươi cân, em làm cho ổng hai mươi cân, em nhận được gì?"

Đường Hoàng đáp: "Hai xâu tiền lớn!"

"Thế trưởng thôn đặt hai mươi cân, em cho ổng hai mốt cân thì sao?"

Đường Hoàng định nói "Thế thì mình lỗ một cân," nhưng Chu Tử Thư đã cắt lời cô bé: "Nghĩ kĩ vào. Mấy cái cây trước cổng nhà mình vẫn còn nhiều quả, làm thêm một cân tuy là thêm việc, nhưng không tốn kém là bao."

A Hoàng nghĩ mãi cũng không ra đáp án, dù sao cô bé cũng chỉ mới có chín tuổi mà thôi.

Hôm sau trưởng thôn cho người tới lấy nước quả, Chu Tử Thư giao hai mốt cân nước, trưởng thôn ngạc nhiên lắm: "Tiểu Thư Lang, bác chỉ mua của con có hai mươi cân thôi mà."

Chu Tử Thư xởi lởi nói: "Hội chùa là dịp vui lớn của huyện mình, cháu và A Hoàng từ bé đã thích đi hội chùa rồi, hai anh em hồ hởi quên cả thì giờ nên làm nhiều hơn dự kiến. Bác trưởng thôn đừng lo, bác cháu mình bàn thế nào thì vẫn y như vậy, cháu lấy hai xâu tiền thôi ạ."

Trưởng thôn cười bảo: "Được, cháu cầm tiền này."

Trưởng thôn dẫn bốn thanh niên khỏe khoắn tới nhà Chu Tử Thư khiêng nước quả về. Chưa ra khỏi cửa, một anh đã tấm tắc khen: "Tiểu Thư Lang ngoan ghê, không ngờ Đường tú tài mọt sách, cổ hủ lại có thằng con lanh lợi như vậy. Các chú xem, trưởng thôn cũng phải ngạc nhiên kìa." Tiền trao, cháo múc, chẳng mấy chốc mà xong xuôi.

Ngay xế chiều hôm đó đã có người tới nhà Chu Tử Thư đặt hàng nước quả, nói là trưởng thôn giới thiệu nước hoa quả nhà Tiểu Thư Lang là số một huyện Ngô. Nhà họ làm cỗ, nếu có nước hoa quả Tiểu Thư Lang pha chế thì tha hồ nở mày nở mặt với quan khách.

Nhìn Chu Tử Thư bình thản thu tiền đặt cọc của người ta, miệng A Hoàng há to đến nỗi nhét quả trứng gà vào cũng vừa.

Chu Tử Thư nhìn em gái mà lo lắng xem có nên sang nhà hàng xóm xin trứng không, cô nhóc đã vỗ tay đen đét: "Em hiểu rồi!"

Chu Tử Thư cạn lời: "...." Hiểu cái con khỉ gì không biết.

"Những thứ em không hiểu còn nhiều lắm."

A Hoàng mặc kệ Chu Tử Thư, nhanh nhẹn giật lấy tiền đặt cọc trong tay Chu Tử Thư: "Để em cất đi cho anh, không anh lại phung phí!" Chu Tử Thư dở khóc dở cười.

Sông nước Giang Nam, địa linh nhân kiệt.

Trong năm huyện thuộc phủ Cô Tô, ngoại trừ phủ thành ra thì huyện Ngô là giàu có nhất, mạch thư hương cũng vô cùng dồi dào. Nghe kể từ trước đến nay có một trăm ba mươi mốt Trạng nguyên thì hai mươi ba người xuất thân từ phủ Cô Tô, trong đó huyện Ngô chiếm năm người. Hội chùa hai lần một năm ở huyện Ngô cũng không chỉ có người dân địa phương tham gia, mà người ở bốn huyện khác và người ở phủ thành cũng ghé đến, thành thử quy mô hội chùa vô cùng hoành tráng.

Ba ngày hội chùa diễn ra, trưởng thôn dành riêng một sạp ở cổng chào để bày nước quả nhà Chu Tử Thư. Trưởng thôn còn mời hai anh em giúp phân phát nước hoa quả, hai huynh muội gật đầu ngay. Chu Tử Thư thì muốn nhân dịp này xem hội chùa thời cổ có gì hay ho, còn Đường Hoàng thì đã mê mải từ lâu rồi.

Quả nhiên, A Hoàng trông sạp chưa nóng ghế đã tót đi chơi hội.

Tháng bảy oi ả, nước quả được chào đón vô cùng. Người thôn khác cầm tiền tới, tưởng phải mua, đến lúc biết nước quả miễn phí thì càng thêm trầm trồ trước sự giàu có, hào phóng của thôn Triệu gia và huyện Ngô.

Chu Tử Thư phát nước quả tới lúc chạng vạng mới thấy em gái nhỏ phụng phịu quay về.

Chu Tử Thư trêu: "Cô chủ nhỏ đi chơi hội xong rồi có rảnh ghé thăm gian hàng của cô không nào?" Cô bé chẳng buồn đáp.

Chu Tử Thư cau mày: "Sao thế?"

A Hoàng cúi gằm mặt, tay vò mép áo, không nói không rằng.

Chu Tử Thư bỏ đồ xuống, ngồi xổm nhìn em gái từ đầu đến chân: "Không bị thương chỗ nào, cũng không đánh nhau với ai, thế là làm sao nè?"

"Thầy Tằng bảo anh không đi học nữa." Chu Tử Thư lặng im.

Cô nhóc ngẩng mặt lên nhìn anh, nước mắt chan mưa, nào có còn dáng vẻ phùng mang trợn mắt lúc hăm dọa bọn lưu manh: "Chu Tử Thư, anh không thể nghỉ học được. Chúng mình kiếm được nhiều tiền lắm, đủ tiền cho anh đi học mà. Anh kiếm được tiền lại không đến lớp, lẽ nào...lẽ nào anh định để dành làm sính lễ cưới vợ cho anh, làm của hồi môn cho em? Em không cần của hồi môn đâu, anh lấy tiền đó đi học đi."

Chu Tử Thư phì cười: "Em nói linh tinh cái gì thế, ai bảo em vậy?"

"Mọi người ai cũng bảo vậy."

Chu Tử Thư chẳng buồn hỏi "mọi người" là ai. Những kẻ ưa ngồi lê đôi mách đời nào mà chẳng có.

"Anh thèm mà đụng đến của hồi môn của em."

"Vậy sao anh không chịu học?"

"Ai bảo em là anh không học?"

A Hoàng tròn mắt: "Hả?"

"Anh chỉ tạm thời không đến trường mà thôi. Đường Hoàng, em muốn anh học hành bài vở với lí do gì?"

Cô nhóc đăm chiêu hồi lâu, đáp: "Đi thi đỗ đạt có công danh."

"Có công danh để làm gì?"

"Có thì tốt hơn là không có!"

Chu Tử Thư: "Anh đã bao giờ nói là anh không đi thi chưa?"

Đường Hoàng ngớ người ra: "Nhưng anh không đến lớp."

"Giờ thì chưa, nhưng rồi anh sẽ đi học. Dù gì anh cũng phải thi đậu tú tài."

Đường Hoàng nín khóc cười toe. Nhưng cô nhóc nhanh trí phát hiện ra lỗ hổng ngay: "Anh chỉ thi tú tài thôi à?"

"Đúng, chỉ thi tú tài thôi."

"Tại sao?" Cỡ anh trai mình phải thi đậu cử nhân ấy chứ? Anh trai mình còn giỏi hơn ông quan huyện nữa là!

Chu Tử Thư điềm nhiên đáp: "Thà yên cái phận tú tài, còn hơn vinh hiển hai đời Hàn Lâm"

Đường Hoàng lại nghệt ra.

"Đậu tú tài là sống ngon lành rồi. Nhóc con biết cái gì, bán nước quả đi."

Đường Hoàng tức điên lên: "Chu Tử Thư!!!"

Chu Tử Thư cũng không tránh, để yên cho cô em gái trút những nắm đấm bé xíu lên người mình.

Trăm đời tú tài ăn đứt hai đời Hàn Lâm. Chỉ mong làm một thế gia nho nhỏ, vừa cày cấy vừa tu chí học hành, sống khỏe sống thọ. So bề vinh hiển thì kém nhà trâm anh thế phiệt, nhưng vẻ vang gấp mấy lần nhà bình dân. Chu Tử Thư trông hàng, phơi nắng, cảm thấy cuộc sống thật là thư thả.

Quanh đi quẩn lại đã hết ngày, việc buôn bán đã xong xuôi, Chu Tử Thư bắt đầu dọn hàng. Chợt, cậu thoáng thấy một bóng người cao lớn, cường tráng tiến tới chỗ mình. Chu Tử Thư cảnh giác ngẩng đầu lên; người đàn ông cường tráng, ăn mặc lam lũ đó đã bước tới sạp hàng của cậu.

Người đàn ông này dáng vẻ khôi ngô, tướng mạo cương nghị, làn da rám nắng. Anh mặc áo sợi gai nhàu nhĩ, rách rưới, chân đi đôi giày cỏ nát bươm, hai ngón chân cái thòi cả ra. Anh ta tỏ vẻ ngần ngừ trước sạp, hồi lâu mới hỏi: "Tôi nghe người ta bảo, ở sạp này có thể uống nước miễn phí."

Chu Tử Thư đánh mắt về phía Đường Hoàng. Bộ dạng người đàn ông khiến cô bé hơi sợ sệt, nhưng cô nhóc vẫn rót cho anh ta một cốc nước quả.

"Của anh đây, uống xong nhớ trả ống tre, chúng tôi rửa đi dùng lại."

"Cho tôi hai cốc với..."

Đường Hoàng ngạc nhiên: "Hai cốc?"

Người đàn ông chỉ về phía xa. Đầu thôn, một bà lão lưng gù, gầy còm đang ngồi rũ dưới bóng cây dâu lớn.

Đường Hoàng hẵng còn ngơ ngác, Chu Tử Thư đã rót thêm một cốc nước quả, đưa cho anh ta.

"Đa ta tiểu huynh đệ!"

Người đàn ông nhận lấy cốc nước, rảo bước về phía cây dâu. Anh ta giúp bà lão uống nước trước. Bà cụ như đã khát lâu ngày, mấy hớp nước quả mát lịm khiến bà tỉnh cả người. Người đàn ông không chút do dự nhường cốc nước thứ hai cho bà cụ, bản thân không uống một giọt nào. Đút nước cho bà lão xong, anh ta mang cốc tre về trả sạp.

Chu Tử Thư ngăn anh lại: "Đừng đi vội, cho anh thêm một cốc này."

Người đàn ông sững sờ, nhìn cốc nước Chu Tử Thư đưa cho mà không thốt nên lời.

Chu Tử Thư cười bảo: "Phải chăm sóc bản thân trước thì mới có sức chăm lo người khác."

Người đàn ông cảm kích khôn cùng, bưng cốc nước uống ừng ực đến cạn.

Hai anh em dọn sạp về nhà.

Ngày thứ hai, hội chùa vẫn lũ lượt người qua kẻ lại. Nước quả của Chu Tử Thư được người ta khen ngợi hết lời, chỉ trong hai hôm cậu đã nhận không ít đơn hàng lớn.

Đường Hoàng xòe tay đếm, tính toán đơn hàng nhận được trong hai ngày vừa qua. "Một xâu tiền, hai xâu tiền... Chu Tử Thư, chúng mình kiếm được ít nhất mười xâu tiền đó. Em chưa bao giờ thấy nhiều tiền thế này anh ơi!"

"Là mười xâu bảy mươi đồng."

Đường Hoàng nhảy cẫng lên: "Nhiều tiền quá nhiều tiền quá đi thôi!"

"Cũng tương đối, đủ để chúng mình đi khỏi đây đấy."

Đường Hoàng mải mê đếm tiền, chợt ngẩn ra, ngẩng đầu hỏi: "Đi khỏi đây là sao anh?"

"Đến phủ Cô Tô được không, cô chủ nhỏ?"

Đường Hoàng liếm liếm môi: "Còn lâu, còn lâu mới đủ tiền."

Chu Tử Thư cụp ngón tay gõ lên trán cô bé: "Chẳng mấy chốc mà đủ."

Đường Hoàng bụm trán, nhảy dựng lên: "Chu Tử Thư! Rốt cuộc anh có ý định gì, đừng úp úp mở mở với em nữa!"

Chu Tử Thư cười ha hả, uốn éo người né một tràng những nắm đấm và cú đá cáu kỉnh của cô bé.

Việc buôn bán thuận lợi, hai anh em nhận không ít đơn đặt hàng, một tháng tới không lo thiếu công ăn việc làm. Ba ngày hội chùa cũng đến lúc vãn, lượng người trong thôn dần dần thưa bớt. Đường Hoàng đang rót nước cho một vị khách thôn khác. Nào ngờ cốc nước đưa giữa chừng bỗng bị người ta xô phải, nước trái cây màu nâu tóe lên quần áo của người đó. Cô nhóc giật thót, lúng túng không biết phải làm sao.

"Ranh con, mày làm bẩn hết quần áo của tao rồi. Mày phải bồi thường cho tao!"

Đường Hoàng nhìn kĩ tên này, lập tức phát hiện ra gã chính là tên côn đồ bị Chu Tử Thư cầm dao phay đuổi chạy dọc sông lần trước.

Cô bé ưỡn ngực, sẵng giọng nói: "Điêu toa! Ông cố tình hất tay tôi, chú này cũng thấy mà!"

Người khách cầm cốc nước quả chưa kịp lên tiếng, đã bị tên côn đồ trợn mắt hầm hầm hăm dọa. Anh ta giật bắn mình, chuồn nhanh như chảo chớp.

Thoắt cái đã có năm sáu tên côn đồ xộc tới.

Chu Tử Thư phát hiện có biến thì chạy sang, trông cảnh này liền biết ngay đối phương có chuẩn bị mới tới gây sự.

Quân tử báo thù mười năm không muộn, không ngờ bọn ác ôn cũng chờ được ba tháng để báo thù. Cậu sầm mặt kéo Đường Hoàng ra sau lưng, hỏi: "Chúng mày muốn làm gì?"

Gã kia nhổ toẹt một bãi xuống đất, cộc cằn nói: "Làm gì hử? Bôi bẩn quần áo của bố còn lí sự à? Anh em, nện chúng nó!"

Sáu gã côn đồ xắn tay áo, ào tới xốc những băng ghế dài lên để đánh nhau. Chu Tử Thư nghiến răng, hai tay nhấc một băng ghế lên để tự vệ. Tay không tấc sắt, cậu đành có cái gì thì dùng tạm cái đó. Dù tình huống xấu nhất là cả hai bên đổ máu, cũng phải tạo cơ hội cho Đường Hoàng chạy thoát.

Băng ghế trong tay tên cầm đầu vụt thẳng về phía sạp nước quả đánh rầm một tiếng. Lạ chưa, quầy hàng vẫn còn nguyên! Băng ghế dài ấy thế mà nện vào một thân thể rắn như sắt thép, gãy vụn thành từng mảnh.

Chu Tử Thư sững sờ nhìn người đã kịp thời chắn trước mặt mình và em gái.

Người đàn ông với nước da ngăm đã dùng chính hai cánh tay của mình để chắn đòn đánh từ chiếc ghế vừa rồi. Tay hằn vết đỏ nhưng anh ta thản nhiên như không, chỉ từ từ hạ tay xuống, giương đôi mâu sáng quắc nhìn thẳng vào bọn hung đồ.

Lũ côn đồ bị ánh mắt đấy làm cho kinh hồn táng đởm, nhưng có một đứa vẫn chưa biết sợ, hô lên: "Chỉ có một mình nó, chúng mày sợ đếch gì, đánh đi!"

Thế là lũ côn đồ lại ào lên.

||

Lời tác giả:

Chương này có trích một câu trong tác phẩm "Tam Tùng Đường tự tự" của Phùng Hữu Lan.

Nguyên văn: "不希望子子孙孙出翰林, 只希望子孙代代出一个秀才, 能耕读传家, 虽然没有官宦之家之显赫,却比普通百姓之家更风光."

(Dịch nghĩa: Không mong mai sau con cháu làm đến chức Hàn Lâm, chỉ mong đời đời đậu tú tài, cha truyền con nối. Vừa cày cấy vừa đi học, tuy không hiển hách như nhà quan lại, nhưng rạng rỡ hơn hẳn các nhà bình dân.)

Thời phong kiến, nếu như không có lý tưởng, khát vọng quá lớn, đỗ tú tài là sướng rồi, đỗ cử nhân cũng rất chill, chỉ có làm quan là mệt...

Đương nhiên, tiểu thụ của chúng ta nhất định sẽ dấn thân vào hoạn lộ! Cánh cửa thoát hiểm của cậu ta tui đã khóa, chìa khóa cũng nuốt luôn rồi khưa khưa khưa.

Viết đến đoạn cuối chương tui cũng nghĩ ngợi không biết có ai coi anh giai kia là tiểu công hơm... Xì poi một tí nhé, tiểu công truyện này là một nam thần nhà mặt phố bố làm to, nam thần quốc dân luôn các bạn ạ.

Chú thích

Phùng Hữu Lan là triết gia kiêm nhà nghiên cứu triết học trứ danh của Trung Quốc thế kỉ 20. Gia đình ông là thế gia vọng tộc, cha ông đỗ tiến sĩ và từng giữ chức tri huyện. Mẹ ông, bà Ngô Thanh Chi là người có học vấn uyên bác, đã dạy dỗ ông nên người và có ảnh hưởng rất lớn tới ông. (Theo )

Ngoài ra trong truyện và trích dẫn có dùng từ "Hàn Lâm" (Hàn Lâm học sĩ), từ này dùng để chỉ chức quan trong Hàn Lâm viện, nơi tập hợp các vị quan văn hay chữ tốt, học vấn uyên thâm, chuyên soạn văn kiện cho triều đình.

Cốc tre

------oOo------

Chương 4

Nguồn: EbookTruyen.Net

Chu Tử Thư, người thôn Đường gia, huyện Ngô, phủ Cô Tô

Toán côn đồ đồng loạt nhào tới, một tên ghìm ngang hông người đàn ông kia, một tên khác nhanh chóng quật băng ghế lên người anh ta.

Chu Tử Thư không thể để người đàn ông lạ mặt này bị kẻ xấu úp sọt. Cậu lập tức đẩy em gái ra xa, nhấc băng ghế tới tham chiến. Lũ hung đồ hay tuy đông nhưng là một lũ ô hợp, nào biết đánh đấm cho ra hồn. Dẫu có hai người hợp sức, bọn chúng cũng chẳng thể quật ngã anh ta. Anh đứng vững như bàn thạch, đấm cho mỗi đứa một quả rơi răng.

Nắm đấm của anh ta nhanh và dữ dội như cuồng phong bão táp. Chu Tử Thư vóc người nhỏ con, thư sinh, bèn tập trung quấy rối địch để hỗ trợ người đàn ông dũng cảm kia.

Từ trước tới nay, lũ côn đồ này vẫn ỷ đông mà tác oai tác quái suốt trong thôn, không ai dám chống đối ra mặt. Ấy thế mà mặc cho chúng đấm đá túi bụi, đại hán kia đều đỡ được hết. Anh liên tiếp giáng đòn phản công dưới sự hỗ trợ của Chu Tử Thư. Kẻ cầm đầu của lũ ác ôn bị đánh đến nỗi xây xẩm mặt mày, loạng choạng rút lui khỏi vòng chiến.

"Làm cái gì mà bu đông bu đỏ ở đây thế!" Có tiếng người quát lớn từ đằng xa. Dân chúng vây xem lục tục tránh ra nhường lối, thì ra là trưởng thôn dẫn người tới.

Lũ lưu manh thấy tình thế bất lợi, căm tức nhổ cả nước bọt lẫn máu về phía Chu Tử Thư, rồi cúp đuôi chạy sạch.

Trưởng thôn cũng chẳng có cách nào trị tận gốc toán côn đồ này. Những kẻ này không con không cái, mồ côi cha mẹ, tứ cố vô thân. Chúng chẳng sợ trời cũng không sợ đất, phạm tội mà bị bắt thì nhơn nhơn giơ đầu ra cho người ta chém. Trưởng thôn hỏi han dăm ba câu, biết hai anh em họ Đường không có việc gì, bèn bảo hai người thu dọn sớm về nghỉ ngơi.

Bà con lối xóm cũng xúm vào giúp dọn chiếc bàn bị đập vỡ.

Chu Tử Thư xoa xoa tay, ban nãy đánh nhau loạn cào cào, tay cậu bị một tên côn đồ đập trúng, đỏ tấy cả lên. A Hoàng cuống quýt chạy tới, thấy vết thương của anh thì vừa lo vừa giận.

"Lũ khốn nạn!"

Chu Tử Thư nhìn về phía người đàn ông cao lớn. Có một bà lão tất tả chạy tới xem thương thế của anh ta.

Hoá ra người đàn ông hào hiệp này chính là người hôm qua đến xin nước hoa quả ở sạp của Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư da mịn thịt mềm, bị đánh một cái là sưng lên ngay. Đại hán kia to khoẻ, cơ bắp cuồn cuộn, về lí thuyết thì chịu đòn tốt hơn cậu, nhưng anh ta cũng bị lũ ác ôn đánh cho thâm tím mình mẩy. Suốt cả trận hỗn chiến anh không hề lên tiếng, thành ra bây giờ Chu Tử Thư mới phát hiện cánh tay anh ta bị thương chảy cả máu, không biết là bị chém bởi vật sắc từ bao giờ. Đường Hoàng xoắn xuýt: "Bị thương nặng quá, phải làm sao bây giờ?"

Chu Tử Thư nói: "Em gom đồ đạc đi, chúng mình sang chỗ Lưu đại phu ở phía Đông thôn khám."

Nghe vậy, người đàn ông kia vội xua tay: "Không cần phiền phức vậy đâu, tiểu huynh đệ à, chỉ là vết thương vặt thôi. Lũ côn đồ đáng bầm thây kia chỉ có vài miếng đòn chợ búa, trông thì ghê gớm nhưng chẳng hại nhiều."

A Hoàng quýnh lên: "Không hại mà chảy máu rồi kìa!"

Người đàn ông còn muốn nói thêm, nhưng Chu Tử Thư kiên quyết dẫn anh ta tới chỗ đại phu. Đại phu kê đơn thuốc xong, người đàn ông kia nhìn Chu Tử Thư trả tiền mà áy náy mãi. Anh ta và bà lão đứng giữa đường làng, lúng ta lúng túng. Chu Tử Thư trông dáng vẻ lam lũ của bọn họ, bèn hỏi: "Chẳng hay vị đại ca này xưng hô thế nào? Nghe giọng anh, phải chăng là người miền Bắc?"

Người đàn ông nói: "Phải, chúng tôi tới từ Sơn Tây."

"Thế cớ sao mà hai người ra nông nỗi này?"

Vẻ cay đắng hiện lên trên khuôn mặt, anh ta thở dài chua chát: "Không giấu gì tiểu huynh đệ, tôi vốn là hộ vệ của một nhà cử nhân, tuy không giàu có nhưng cũng gọi là dư dả. Ngờ đâu tháng trước, Sơn Tây có trận lũ lớn, nước sông Hoàng Hà dâng cao, chẳng cứ nhà tôi mà nhà ông cử kia già trẻ lớn bé đều chôn vùi trong con nước cả. Tôi chỉ có thể dẫn mẹ già vượt suối băng đèo, đến phủ Cô Tô tìm người bà con nương tựa. Nào hay người đó đã đi biền biệt từ năm ngoái đến nay, nên chúng tôi mới lâm vào cảnh vất vưởng thế này."

Đường Hoàng núp sau lưng Chu Tử Thư bèn thò đầu ra: "Thì ra chú là hộ vệ, thảo nào lợi hại thế, đánh bọn lưu manh kia tơi tả."

Chu Tử Thư ấn đầu em gái xuống: "Thì ra là thế, nhưng đại ca còn trẻ, thân thủ lại tốt, có lí nào lại không tìm được kế mưu sinh?"

Đại hán thở dài: "Nếu chỉ có mình tôi thì đến đâu cũng không lo thiếu ăn thiếu mặc, đi làm hộ vệ là đủ sống rồi. Song tôi còn mẹ già đây phải chăm nuôi. Dạo trước ở phủ Cô Tô tôi cũng tìm được một nhà, đông gia1 nhà đó rất ưng tôi, nhưng khi biết phải nuôi cả mẹ tôi, họ liền không nhận tôi nữa. Tiểu huynh đệ không biết đấy thôi, Giang Nam Cô Tô tuy giàu có, nhưng những người như tôi từ tứ xứ đổ về nhiều vô kể. Người khác không đèo bòng thêm ai, đương nhiên chủ nhà sẽ ưng họ hơn rồi."

[1] Cách gọi ông chủ gia đình. Liên tưởng đến "Đông cung" – cách gọi Thái tử Chu Tử Thư cũng không lấy làm lạ. Cùng là bao ăn bao ở, hàng tháng còn phải trả lương, ai cũng sẽ chọn người không có gánh nặng lo toan.

Nhưng nghe thấy anh ta nói thế, mắt Chu Tử Thư sáng lên: "Anh đã tới phủ Cô Tô rồi ạ?

"Phải. Người bà con kia của tôi là người Cô Tô đó. Tôi chờ ở phủ Cô Tô hơn nửa tháng, chật vật quá nên mới đành đưa mẹ tới thôn này thử vận may."

Chu Tử Thư nói: "Đại ca này, tôi thấy chúng ta có duyên đấy. Tôi tin anh là người tốt." Kiên trì đưa mẹ già vượt qua ngàn dặm đường, không rời không bỏ, chăm sóc cẩn thận từng li từng tí – một người con hiếu thảo nhường ấy khó có thể là người xấu được. "Tôi và em gái năm ngoái cũng mất người thân, hai anh em sống nương tựa nhau. Nếu anh không chê, xin hãy tới nhà tôi mà ở."

Đại hán cả kinh: "Không được đâu, ơn nghĩa đấy tôi không thể vô duyên vô cơ mà nhận được."

Chu Tử Thư vẫn kiên trì, nói: "Anh đã cứu mạng anh em chúng tôi mà."

Đại hán luôn mồm từ chối, nhưng chẳng thể lay chuyển được Chu Tử Thư. Anh ta đành phải theo cậu về nhà.

Đường Hoàng còn nhỏ tuổi, tuy trong nhà thì ghê gớm, nhưng ra đường thì nghe lời Chu Tử Thư răm rắp. Bốn người về nhà, đại hán và mẹ anh luôn chân luôn tay giúp đỡ việc cơm nước, lau chùi. Chỉ dăm hôm, bốn người đã gắn bó như ruột thịt.

Người đàn ông này họ Diêu, tên đầy đủ là Diêu Thành. Anh là con thứ ba trong nhà nên mọi người còn gọi là Diêu Tam.

Diêu Tam nhất quyết gọi Chu Tử Thư là tiểu đông gia, coi mình là người làm thuê. Chu Tử Thư không thuyết phục được anh, đành phải chiều theo ý.

Một tháng sau đó, bốn người tất bật ủ nước hoa quả. Trong dịp hội chùa hai anh em đã nhận không ít đơn đặt hàng, giờ có Diêu Tam và Diêu đại nương giúp một tay, hơn một trăm cân nước hoa quả đã ủ xong hết. Giữa chừng còn nhận thêm mấy đơn hàng ngoài dự kiến, để sang tháng tám thì bắt đầu làm. Đường Hoàng đếm đi đếm lại mười sáu xâu tiền mới nhận, đêm nào cũng đòi ôm đi ngủ.

Buổi tối cơm nước xong xuôi, Chu Tử Thư ngồi ở sân phơi ngoài nhà, nhẩm tính số tiền kiếm được suốt nửa năm nay từ khi xuyên thời gian. "...Cộng thêm tám mươi đồng sáng nay, là hai mươi ba xâu tiền."

Diêu Tam chạy tới: "Tiểu đông gia, chăn đệm trong phòng đã dọn sẵn. Trời tối rồi, cậu mau đi nghỉ đi."

Chu Tử Thư ngẩng lên nhìn bầu trời: "Đêm nay Tuấng sáng đấy, anh gọi

Đường Hoàng và Diêu đại nương ra đây đi, chúng ta ngắm Tuấng một lúc,

tôi cũng có chuyện muốn nói."

Diêu Tam ù ù cạc cạc đi gọi hai người kia, bốn người chia nhau ngồi ghế gỗ trong sân phơi.

Diêu Tam nói: "Tiểu đông gia, cậu có chuyện gì quan trọng cần dặn dò chúng tôi?"

Chu Tử Thư gật đầu, nhìn Đường Hoàng bảo: "Tiền em cất cả, nói cho anh hay, nhà chúng ta bây giờ có bao nhiêu tiền."

Đường Hoàng hoảng hốt nắm chặt tay: "Anh, anh định làm gì? Em không cho anh đụng đến tiền của em đâu!"

Chu Tử Thư phì cười: "Cô chủ nhỏ ơi, tiền của em bao giờ? Đó là tiền của cả nhà ta. Đừng quậy nữa, anh hỏi em, có đúng là có hai mươi ba xâu tiền không?"

Cô nhóc bất đắc dĩ phải gật đầu, lầu bầu nói một tràng con số.

Chu Tử Thư: "Không nghe rõ."

"Hai mươi ba xâu bốn mươi mốt đồng! Diêu đại nương, anh ý bắt nạt con."

"Được rồi, đừng có vờ ăn vạ." Số lượng không khác mấy so với tính toán của Chu Tử Thư. Cậu nói: "Chuyện là thế này, từ trước đến nay tôi vốn không có ý định ở lại thôn Triệu gia lâu dài. Thú thực, chỉ dăm bữa nữa thôi tôi và Đường Hoàng sẽ đi phủ Cô Tô, về sau có lẽ cũng không quay lại."

Diêu Tam sững sờ: "Chuyện này..."

Chu Tử Thư nói tiếp: "Diêu đại ca, tôi chưa bao giờ coi anh là người hầu kẻ hạ. Ván đã đóng thuyền, chúng tôi nhất định sẽ đi khỏi đây. Căn nhà này chúng tôi sẽ bán. Nếu anh và bác gái bằng lòng, hai người có thể đi với chúng tôi đến phủ Cô Tô. Nếu không thì ở gian sau có một chái nhà nhỏ, tôi sẽ không bán, coi như là tặng cho hai người."

Diêu đại nương nói: "Như vậy sao được!"

Chu Tử Thư nói: "Diêu đại ca chưa có chỗ dựa để lập nghiệp ở thôn Triệu gia, bác đừng từ chối cháu."

Mẹ con hai người nhìn nhau không biết nói sao cho phải.

Diêu Tam ngẫm nghĩ một hồi, đành bảo: "Tiểu đông gia, cậu cho tôi một đêm để suy nghĩ cho kĩ nhé."

Sáng sớm hôm sau, Diêu Tam nói với Chu Tử Thư: "Tiểu đông gia, mẹ con tôi xin theo cậu đi Cô Tô. Tôi và mẹ tôi vốn không có nhà cửa, nhờ anh em cậu mà có chỗ an thân. Vả lại, anh em cậu còn nhỏ tuổi, đường đi Cô Tô sẽ nhiều vất vả."

Chu Tử Thư đáp lời: "Nếu anh lo anh em chúng tôi còn nhỏ, sợ trên đường xảy ra chuyện nên mới đi cùng thì thôi Diêu đại ca ạ."

Diêu đại nương từ trong nhà đi ra, bảo: "Cái thằng con tôi đúng là quê mùa thô kệch, vụng ăn vụng nói mà. Tiểu đông gia, cậu đừng nghe nó nói vớ vẩn. Mắt đại nương tuy đã mờ, nhưng vẫn nhận ra tiểu đông gia là người có tiền đồ rộng mở. Thằng ba đi theo cậu mới có ngày sau. Chúng tôi sẵn lòng đi theo tiểu đông gia."

Sự việc đến đó coi như định đoạt xong.

Kỳ thật có Diêu Tam đi cùng, Chu Tử Thư cũng nhẹ bẫng gánh lo. Anh ta nói không sai, hai đứa trẻ con tới một nơi xa lạ rất nguy hiểm. Tuy Chu Tử Thư có đầu óc của một nghiên cứu sinh danh giá hai mấy tuổi, nhưng ở thời đại này cậu vẫn chỉ là một đứa nhóc vắt mũi chưa sạch mà thôi. Nếu giữa đường gặp người xấu thật thì mười cậu cũng không bằng một Diêu Tam.

Thời gian xuất phát của chuyến đi được dời lại mười ngày sau, Chu Tử Thư và Diêu Tam bắt đầu sửa soạn hành lý.

Đầu tiên họ tìm người mua nhà rồi bán căn nhà của gia đình họ Đường đi. Còn một mẫu ruộng Đường tú tài để lại, họ cũng bán nốt cho hai vợ chồng chủ quán trà thảo dược. Thửa ruộng đó trước đây vẫn cho hai vợ chồng này thuê để cày cấy vì Đường tú tài không làm ruộng, giờ bán lại cho người ta cũng rất tiện.

Chuẩn bị đủ hành trang, thuê một chiếc xe lừa, Chu Tử Thư còn trong tay ba mươi xâu tiền.

Nghe nói anh em nhà họ Đường sẽ đi khỏi thôn Triệu gia, xóm làng đều đến tiễn.

Đường tú tài là tú tài hiếm có trong thôn, mặc dù ông ta cổ hủ lại không ưa thăm viếng xóm giềng, nhưng cũng không bị ai xa lánh, ghét bỏ cả. Chu Tử Thư và Đường Hoàng thì đều lễ phép, đáng yêu, từ khi bán nước hoa quả vẫn qua lại thường xuyên với người trong thôn, ai ai cũng yêu quý hai anh em.

Cô chủ quán trà thảo dược dúi một túi bánh màn thầu cho Chu Tử Thư: "Tiểu Thư Lang, đi đường đừng để đói nhé."

Bác gái hàng xóm cũng cho một túi quần áo: "Đây là quần áo cũ của con bác. Tiểu Thư Lang, cháu đừng chê, bác nghe người ta bảo ở Cô Tô cái gì cũng đắt đỏ."

"Tiểu Thư Lang, sao cậu lại muốn đi vậy?"

"Tiểu Thư Lang, hai anh em cậu đi rồi, về sau chúng tôi không có nước hoa quả để uống nữa sao?"

Chu Tử Thư ái ngại gật đầu lia lịa: "Dạ, Tiểu Thư Lang phải đi rồi."

"Vâng, Tiểu Thư Lang có thời gian nhất định sẽ về thăm thôn xóm."

"Tiểu Thư Lang nhất định sẽ không tiêu tiền lung tung."

Hầy, cứ để cậu làm đứa con khờ dại của xóm làng hôm nay đi.

Diêu Tam và Diêu Đại nương gom hết quà của thôn dân, chất lên xe lừa.

Chẳng mấy chốc, Chu Tử Thư đã đến trước mặt Tằng phu tử. Ông thầy già tóc hoa râm khom lưng nhìn Chu Tử Thư, cậu mới chỉ cao đến ngang ngực ông. Hừ một tiếng, ông vứt cho Chu Tử Thư một chiếc bọc, bảo: "Học hành tấn tới!" Dứt lời, ông quay gót đi thẳng.

Chu Tử Thư chăm chú dõi theo bóng lưng Tằng phu tử dần xa.

Trưởng thôn dặn dò: "Tiểu Thư Lang, đi Cô Tô học chớ quên thôn Triệu gia chúng ta nhé."

Rất nhiều người trong thôn đều nghĩ anh em nhà họ Đường dọn nhà đi Cô Tô để học.

Đường Hoàng vênh mặt nói: "Anh cháu nhất định sẽ đỗ đạt làm quan!"

"Thi đến tận cử nhân2 cơ à?"

[2] Cấp bậc thấp nhất để được bổ nhiệm làm quan

Cô nhóc sĩ diện chết đi được, làm sao có thể nói anh trai mình không ôm chí lớn, chỉ muốn thi tú tài rồi thôi. Cô bé ấp a ấp úng: "Đó là đương nhiên, bác trưởng thôn, lúc đó bác nhớ đổi tên thôn Triệu gia thành tên anh cháu nha."

Thôn Triệu gia trước kia có tên khác, vì có ông cử họ Triệu nên mới đổi tên thành thôn Triệu gia.

Trưởng thôn chỉ coi lời cô bé là nói đùa: "Được, nếu Tiểu Thư Lang thi đậu cử nhân, về sau thôn Triệu gia chúng ta sẽ đổi tên thành thôn Đường gia, được không? Mọi người có ai phản đối không?"

"Chúng tôi đều nghe trưởng thôn cả."

Nhìn đoàn người xóm thôn, Chu Tử Thư cười nói: "Mọi người đừng tiễn nữa, Tiểu Thư Lang đi thật đây."

Trên con đường quê bé tẻo teo, chiếc xe lừa cọt kẹt lăn bánh. Dáng hình những người dân quê nhỏ dần nhỏ dần thành những chấm đen xiu xíu. Chẳng bao lâu, thôn Triệu gia cũng mất hút. Đường Hoàng bịn rịn lưu luyến vô cùng, rơm rơm nước mắt.

Chu Tử Thư ngồi trên xe lừa, mở chiếc bọc Tằng phu tử đưa cho. Bên trong là một nghiên mực mới coóng, và một bộ sách Tứ thư. Luận ngữ, Trung dung, Đại học, Mạnh tử. Mở sách ra, những dòng ghi chú trải đầy trang sách. Sách đã cũ, có dấu vết lật đi lật lại, chứng tỏ chủ nhân đã đọc rất nhiều lần.

Phải đọc mấy chục năm, mới có thể ghi lại nhiều cảm ngộ và suy ngẫm như vậy?

Chu Tử Thư gói ghém cẩn thận, thở dài: "Rốt cuộc vẫn phải theo con đường đọc sách thôi."

Huyện Ngô cách phủ Cô Tô hơi xa, bốn người nghỉ trong rừng núi một đêm, sáng sớm hôm sau thì xuất phát đi Cô Tô.

Trên có thiên đàng, dưới có Tô Hàng.

『Cô Tô』

Khắc trên cổng thành là hai con chữ đen to bự, nét chữ phóng túng như ngựa hoang, rung động đất trời.

Đây là một tòa thành lớn, nguy nga tráng lệ. Cổng thành cao ba trượng hai xích, tường thành xây bằng gạch xanh trải dài tít tắp về hai phía, ngút tầm mắt không thấy điểm dừng. Bên trong cổng tò vò uy nghi, ngựa xe như nước, áo quần như nêm, xôn xao nhộn nhịp. Trên tường thành, vệ binh mặc giáp trụ canh gác, dưới tường thành người đi như trẩy hội. Chưa vào trong thành đã nghe thấy những âm thanh ồn ào huyên náo của một thành thị phồn hoa.

Tiếng rao hàng í ới, tiếng nhạc ngựa đinh đang.

Từ ngoài cổng thành, Đường Hoàng nhìn cảnh tượng bên trong mà ngây ngẩn. Xuyên thời gian đã nửa năm, lần đầu tiên tận mắt nhìn thấy một thành thị lớn của thời xưa, ngay cả Chu Tử Thư cũng thấy choáng ngợp.

Phải mất một lúc lâu, Đường Hoàng mới kéo tay áo anh trai: "Chu Tử Thư, đây chính là, đây chính là nơi từ giờ chúng ta ở phải không?"

Chu Tử Thư xốc lại tinh thần, đáp lời em: "Phải, đây chính là nơi chúng ta ở kể từ hôm nay."

Chu Tử Thư, người thôn Đường gia, huyện Ngô, phủ Cô Tô.

Năm nay mới mười ba tuổi.

||Chú thích

3 trượng 2 xích là khoảng 10.6 mét. Trượng () và xích () đều là hai đơn vị đo lường cổ của Trung Quốc.

------oOo------

Chương 5

Nguồn: EbookTruyen.Net

Sao băng

Chu Tử Thư đến phủ Cô Tô vào sáng sớm.

Thời điểm này ở thôn Triệu gia, người dân đều đã ra đồng làm việc, trên đường vắng tênh. Trong khi đó, ở phủ thành bây giờ đã là lúc đường xá nườm nượp người mua kẻ bán. Từ tinh mơ, các tiểu thương đã mở hàng bày đầy ven đường. Những đoàn người khiêng vác, kẻ bốc dỡ hàng hòa kéo dài từ đầu này đến đầu kia con đường cái rộng lớn.

Chốc chốc lại có một cỗ xe ngựa vút qua bên cạnh hai anh em.

"Anh ơi, ở đây nhiều xe quá đi mất!"

Thứ ở thôn Triệu gia cả tháng chưa chắc đã gặp một lần như xe ngựa, ở phủ Cô Tô nhiều không kể xiết.

Chu Tử Thư cười: "Già Lưu thăm Đại Quan Viên chắc cũng y chang em bây giờ."

"Già Lưu là ai, Đại Quan Viên là chỗ nào? Anh đang nói cái gì đấy?"

"Khen em xinh ý mà."

Đường Hoàng: "..." Nhóc còn lâu mới tin!

Kể cả trong thời đại này thì tìm chỗ ở cũng không phải chuyện đơn giản. Diêu Tam đã từng ở đây một tháng, ít nhiều đã quen với đường đi lối lại ở phủ Cô Tô. Anh bèn dẫn Chu Tử Thư tới chỗ một nha hành chuyên về nhà đất.

Nha hành thời cổ đại cũng giống như sàn giao dịch bất động sản thời hiện đại, còn chuyên viên môi giới thì gọi là nha lang. Ở Đại Tống, việc mua bán nhà đất không thông qua nha hành bị coi là phạm pháp.

Chọn lựa một thôi một hồi, Chu Tử Thư và Đường Hoàng chấm một căn nhà mái ngói ba mặt kín một mặt mở. Căn nhà ọp ẹp gồm một gian bếp, một gian nhà chính, và một gian nhà phụ nhỏ hẹp xây ghẹ vào nhà chính. Mái ngói nhiều chỗ đã dột hỏng, tường nhà tróc sơn thủng lỗ chỗ, thế mà tiền thuê một tháng cũng bị nha lang hét những ba xâu.

Chuyện cò kè bớt một thêm hai Chu Tử Thư mù tịt, may mà có Diêu đại nương biết mặc cả, cuối cùng chốt giá hai xâu tiền một tháng, đặt cọc trước nửa năm.

Vèo cái đã bay nửa gia tài, cú sốc này là quá lớn đối với thần giữ của Đường Hoàng, khiến cô nhóc một mực giữ rịt túi tiền không chịu buông.

Vì chỉ có hai phòng ngủ, Chu Tử Thư sắp xếp để mình và Diêu Tam ngủ chung một phòng, Đường Hoàng thì ngủ chung với Diêu đại nương. Diêu đại nương cuống quýt gạt đi: "Không được đâu! Chúng tôi sao dám ngủ chung phòng với cô cậu. Tôi và thằng ba ở gian phụ là được rồi."

Chu Tử Thư nói: "Trẻ con lên sáu phải dạy cho biết phân biệt nam nữ và phương hướng, lên bảy tuổi thì nam nữ phải ngồi riêng, ăn riêng. Nhà cũ tuy là nhà tranh vách đất nhưng được cái nhiều buồng, có chỗ cho mọi người ở riêng. Bây giờ chỉ có hai gian phòng, A Hoàng đã chín tuổi, cháu không thể ngủ cùng phòng với con bé."

Diêu đại nương nói: "Nếu vậy, cậu để tôi và thằng ba trải chăn đệm ngủ dưới đất trong phòng bếp là được."

Đường Hoàng vội năn nỉ: "Như thế sao được? Diêu đại nương ơi, bà ngủ cùng phòng với con đi mà."

Diêu Tam đành giảng hòa: "Mẹ à, thôi thì mình hãy nghe theo sắp xếp của tiểu đông gia đi."

Chia phòng xong, thu xếp nhà cửa ổn thỏa, quen dọn sạch sẽ, Diêu Tam nói với Chu Tử Thư: "Tiểu đông gia, giờ tôi sẽ đi xem trong thành có ai tìm người làm thuê không. Có công việc, tiền ăn ở sẽ đỡ lo phần nào."

Chu Tử Thư hỏi: "Anh định làm việc gì?"

"Thì lại làm hộ vệ cho người ta thôi. Cậu chủ chớ cười tôi nhé, tôi đây vốn chân quê, chỉ được cái sức vóc, đành bám lấy cái nghề này. Hồi trước họ không thuê tôi vì có mẹ già. Giờ nhờ tiểu đông gia mà chúng tôi có nơi ở, tôi dư sức tìm được một chân hộ vệ."

"Diêu đại ca à, anh đừng vội tìm việc, tôi có chút chuyện cho anh làm đây."

Diêu Tam ngạc nhiên: "Việc gì thế ạ? Xin cậu cứ sai bảo."

Chu Tử Thư ngẫm nghĩ, hỏi: "Anh có biết nơi nào ở Cô Tô đông người nhất không?"

"À, chỗ đó chắc chắn là Toái Cẩm nhai ở trước quán Thiên Khánh3 ."

Toái Cẩm nhai, quán Thiên Khánh, phủ Cô Tô. Quán Thiên Khánh còn có tên khác là quán Huyền Diệu. Theo tích dân gian thì quán được xây từ thời Tây Tấn theo lệnh Tấn Võ Đế Tư Mã Viêm. Khắp cả thành Cô Tô, nơi nhiều nhang đèn nhất không phải chùa Hàn Sơn ngoài thành, cũng không phải chùa Tây Viên trong thành, mà chính là quán Huyền Diệu. Trước quán là một con phố dài, còn được biết đến là "phố trước quán Thiên Khánh", nhưng người dân Cô Tô thì quen gọi là Toái Cẩm nhai3.

[3] Quán (hay đạo quán) là đền thờ của đạo Lão. Nhai cũng có nghĩa là phố.

Bà cụ Diêu dẫn Đường Hoàng đi mua đồ gia dụng, nhân tiện cho cô nhóc đi dạo chơi phố phường luôn. Chu Tử Thư thì theo Diêu Tam đến Toái Cẩm nhai.

Diêu Tam dẫn Chu Tử Thư đến một khu gồm toàn các ngõ ngách tấp nập phồn hoa nhất Toái Cẩm nhai. Nào là tiệm may bán đủ các loại lăng la tơ lụa, nào là cửa hàng gạo, cửa hàng ngũ cốc, cửa hàng rượu, rồi cơ man các loại hàng quán, thượng vàng hạ cám cái gì cũng có. Giữa trưa, hai người ăn trưa ở một sạp hoành thánh. Vừa ăn Diêu Tam vừa nói theo lời Chu Tử Thư dặn dò từ trước: "Ông chủ này, hoành thánh nhà bác ngon hết sảy, chắc là nức tiếng thành Cô Tô bao đời nay nhỉ?!"

Chủ quán hoành thánh cười ha hả: "Chú cứ khéo khen, hoành thánh nhà tôi là số một Toái Cẩm nhai đấy! Từ thời cha tôi làm đến nay đã hơn hai mươi năm."

Chu Tử Thư trầm trồ: "Ồ, vậy tay nghề bác đích thực là gia truyền rồi!"

"Còn phải nói! Cậu cứ đi hỏi xung quanh xem hoành thánh nhà ai ngon nhất Toái Cẩm nhai, mười người thì chín người sẽ chỉ nhà tôi ngay."

Diêu Tam lại đế vào: "Chậc, bác bày quán chỗ này chắc mỗi năm phải nộp không ít tiền bảo kê nhỉ?" Anh xoe xoe mấy ngón tay: "Em hỏi nhỏ cái, thế bác phải nộp cho chúng nó bao nhiêu?"

Ông chủ quán lắc đầu: "Vớ vẩn. Từ khi Lương đại nho tới Cô Tô nhậm chức phủ doãn, ai cũng biết ngài thương dân như con. Bọn côn đồ đường chợ bây giờ không dám tùy tiện ức hiếp chúng tôi nữa, chỉ cần chúng tôi nộp phí cho quan phủ, sẽ có lính nhà quan bảo vệ chúng tôi ngay." Ông chép miệng: "Tôi thách cái bọn chết dẫm đấy dám tác oai tác quái ở thành Cô Tô đấy! Mấy chú chắc là người nơi khác đến phỏng? Phủ Cô Tô chúng tôi không giống nơi khác đâu."

Chu Tử Thư nói: "Vâng, chúng tôi từ huyện Ngô đến."

"Hèn gì. Phủ Cô Tô chúng tôi tuyệt vời lắm!"

Ăn hoành thánh xong, hai người Chu Tử Thư trả tiền rồi đi. Diêu Tam nhẩm tính, bảo: "Tiểu Đông gia, tiền phí quan phủ quy định cũng không nhiều, ngặt nỗi chúng ta chỉ còn mười lăm xâu tiền thôi. Mua đồ gia dụng xong, cũng không biết còn dư lại bao nhiêu. Ở thành Cô Tô không nhiều cây ăn quả, chúng ta muốn làm nước quả thì phải mua hoa quả của người ta, số tiền này không hề nhỏ đâu."

"Ai bảo anh chúng ta sẽ làm nước hoa quả?"

Diêu Tam ngạc nhiên: "Vậy thì chúng ta định làm gì?"

Hai người đứng giữa phố phường Toái Cẩm sầm uất, Chu Tử Thư nói: "Diêu đại ca, anh có nhận ra phủ Cô Tô khác với thôn Triệu gia ở chỗ nào không?"

Diêu Tam nhìn quanh quất, nói: "Dân cư ở đây đông đúc hơn thôn Triệu gia, người bán hàng cũng nhiều hơn ở thôn Triệu gia."

"Ở Cô Tô có rượu sen ướp hương quế, có rượu Trúc Diệp Thanh xứ Kim Lăng. Chỉ riêng hai loại rượu này, loanh quanh Toái Cẩm nhai đã có đến bảy tám nhà bán rồi. Thôn Triệu gia chẳng ai bán rượu, chỉ có rượu gạo nhà nào uống nhà nấy ủ, khá khẩm hơn thì có trà thảo dược, mà dân quê cũng không uống những thứ xa xỉ hơn để làm gì. Lúc trước chúng ta bán nước hoa quả ở thôn Triệu gia thì được, chứ ở Cô Tô mà kinh doanh như vậy, chưa được một tháng đã bị hàng quán xung quanh đè cho sập tiệm, đá đít về thôn Triệu gia."

"Vậy phải tính sao bây giờ?"

Chu Tử Thư và Diêu tam cùng nhau thả bộ trên Toái Cẩm nhai. Chu Tử Thư ngắm nghía hàng quán hai bên đường, chợt mắt cậu sáng lên: "Diêu đại ca, anh là người phương Bắc, thế anh có biết làm bánh chiên không?"

Chiều muộn, hai người trở về nhà. Chu Tử Thư dặn dò Diêu Tam ngày mai đi mua bột kiều mạch, bột nếp cẩm, bột đậu xanh và bột mì nữa. Cậu cũng đưa tiền cho Diêu đại nương đi vòng quanh Toái Cẩm nhai, ăn thử uống thử xem khẩu vị người Cô Tô ra làm sao.

Đường Hoàng hào hứng xung phong: "Cho em đi cùng Diêu đại nương nhé!"

Cầm tiền ra đường ăn vặt, chuyện sung sướng nhường này có ai mà không ham cơ chứ!

Chu Tử Thư dập tắt hi vọng của cô nhóc: "Em đi với anh."

Đường Hoàng: "Hả?"

"Mình đi thăm họ hàng."

Lúc đầu Đường Hoàng không hiểu ý Chu Tử Thư, vô thức nói: "Mình làm gì có thân thích ở phủ Cô Tô?" Lát sau não cô bé mới vận hành kịp, hốt hoảng: "Anh, anh muốn đi thăm họ thật à? Nhưng mà lúc cha còn sống, cha bảo chết đói cũng không đi mà! Sao anh lại đòi đi?"

Chu Tử Thư nhìn cô bé: "Thế nên cha mình mới chết đói đấy. Cô chủ nhỏ ơi, em cũng muốn chết đói sao?"

Đường Hoàng: "..."

Hồi lâu, cô bé mới lẩm bẩm: "Mình làm sao mà chết đói được."

Chu Tử Thư xoa đầu em gái: "Vốn không thù không oán, có lí gì lại không được đi thăm họ hàng?"

Hai mẹ con họ Diêu cũng rất đỗi ngạc nhiên. Trước khi tới Cô Tô, họ chưa từng nghe Chu Tử Thư nhắc đến việc hai anh em còn có người thân ở phủ Cô Tô bao giờ. Trên thực tế, ngay cả Đường Hoàng cũng suýt quên mình có những người họ hàng như vậy.

Thì ra, cha của hai anh em Chu Tử Thư và Đường Hoàng, vị tú tài họ Đường xấu số kia, vốn là người gốc Cô Tô.

Hai tháng trước, Lương đại nho có hỏi Chu Tử Thư rằng cậu có họ hàng gì với Đường cử nhân ở khu Tây thành Cô Tô không. Khi đó Chu Tử Thư chỉ bảo là bà con xa. Song, cha của Chu Tử Thư và Đường cử nhân thực chất là hai anh em cùng cha khác mẹ, một người là con vợ cả, người kia là con vợ lẽ.

Mẹ của Đường tú tài mất sớm, từ nhỏ ông đã được mẹ cả nuôi, được coi như con của bà. Nhà họ Đường là dòng thư hương, gia cảnh tương đối sung túc, tuy không đến mức đại phú đại quý nhưng cũng được người ta nể vì. Đường tú tài gắn bó với mẹ cả nên không chịu thua thiệt chút nào, từ nhỏ đã được học hành đến nơi đến chốn.

Từ thuở ấu thơ, Đường tú tài đã bộc lộ trí thông minh hơn người. Mẹ mất sớm, lại luôn cho rằng bản thân là con thứ nên tương lai không mấy xán lạn, Đường tú tài trở nên hiếu thắng về mọi mặt. May mắn thay nhờ kiên trì dùi mài kinh sử, mới mười bốn tuổi ông đã thi đậu tú tài, cũng coi như nở mày nở mặt với tổ tông. Đường gia vô cùng kì vọng vào ông ta, tin rằng đứa con này ít nhất cũng thi đậu cử nhân. Nào ngờ sau đó, Đường tú tài thi bốn lần, lần nào cũng trượt, sự nghiệp suy tàn chẳng khác gì Thương Trọng Vĩnh6 năm xưa.

[6] Nhân vật chính trong tác phẩm cùng tên của CungAn Thạch ( Tống). TTV là thần đồng làm thơ nhưng không được đi học mà bị bắt bán thơ kiếm tiền. Khi cậu không sáng tác được thơ hay nữa, bố cậu ta tuyên bố con mình đã hết tài, chỉ còn là người thường. Dùng ví tài năng bị thui chột

Đến lần thi thứ tư, người anh lớn con bà cả bỗng đỗ tú tài ở tuổi ba mươi, dù thuở bé không thông minh bằng người em. Qua kì thì năm sau, ông ta lại tiếp tục đỗ cử nhân.

Cú sốc ấy khiến Đường tú tài uất đến nỗi bệnh liệt giường. Khỏi bệnh rồi, ông dắt cả nhà lớn bé về quê vợ ở thôn Triệu gia, thề rằng không thi đậu cử nhân thì không trở về nhà họ Đường.

Chưa được hai năm, mẹ Chu Tử Thư qua đời. Vài năm sau, Đường tú tài chưa kịp công thành danh toại cũng mất vì bệnh tật.

Chu Tử Thư và Đường Hoàng từ bé đã nghe Đường tú tài than thân trách phận, oán thán ông trời có mắt như mù. Giỏi giang như mình thì trượt vẫn hoàn trượt, dốt nát như thằng anh thì đỗ cử nhân. Thế nên, từ nhỏ hai anh em đã ghét Đường gia. Về sau Chu Tử Thư nhập vào thân xác này thì không giữ quan điểm yêu ghét đó nữa. Dựa vào trí nhớ sót lại, cậu thấy Đường tú tài tuy hay oán trách nhà họ Đường, nhưng cũng chỉ ghen tị với người anh trai kia chứ không ghét bỏ những người khác.

Làm con không thể trách cha, chuyện năm đó cụ thể ra sao, chỉ có người trong cuộc biết. Đường tú tài cũng đã qua đời rồi.

Chu Tử Thư nhủ thầm: "Cha ơi, con tự coi mình như con của cha, từ nay về sau con sẽ lo cho em được ăn mặc đủ đầy ấm no, không để cha phải ngậm đắng nuốt cay dưới suối vàng." Ngẫm nghĩ một hồi lại bổ sung thêm: "Vì thế, ngày mai bọn con đến nhà họ Đường, cha ở trên trời có thiêng thì đừng giận nhé."

Nói thầm trong lòng xong, Chu Tử Thư ngẩng mặt nhìn trời: "Không có sét đánh, coi như cha đồng ý rồi nhé!"

Lúc đó, Đường Hoàng ôm cái gối đi ngang qua trên sân. Cô nhóc nghe Chu Tử Thư nói vậy thì nhìn anh trai như sinh vật lạ, rồi ngẩng đầu lên nhìn trời.

Trời quang mây tạnh thế này thì lấy đâu ra sấm sét, chắc anh mình loạn trí rồi!

Hẵng còn đang ngắm nghía vòm trời đêm cao vút, đột nhiên, Đường Hoàng thấy một vì sao sà xuống, rơi thẳng về hướng Bắc. Cô nhóc chưa từng thấy sự lạ này bao giờ, hoảng hốt vứt chiếc gối, ôm chặt lấy tay Chu Tử Thư: "Anh ơi, đó là cái gì thế, đó là cái gì thế? Anh có thấy không? Sao... sao trời rụng xuống kia!"

Chu Tử Thư đương nhiên là có thấy. Cậu vừa mới "tâm sự" với Đường tú tài quá cố xong thì sao băng xuất hiện, Chu Tử Thư làm sao mà không giật mình? Song, cậu nhủ thầm: Vậy cũng chưa chắc là Đường tú tài đang trách cứ mình ha?

Phút lo âu thoáng qua, cậu nhẩm đọc một lượt thuyết "Tám điều vinh, tám điều nhục7", tự nhắc mình phải xem xét mọi thứ từ góc nhìn khoa học. Cậu là người theo chủ nghĩa duy vật, không tin những điều mê tín dị đoan.

[7] Do Hồ Cẩm Đào đề ra. Một trong số đó là "Lấy đề cao khoa học làm vinh, ngu dốt làmnhục."

"Cái đó là sao băng đấy!"

Đường Hoàng sửng sốt: "Sao băng?"

"Sao băng là một hiện tượng thiên văn, nơi chúng mình ở là Trái đất...Ầy, giải thích vậy em cũng không hiểu được. Dù sao thì, em cứ hiểu rằng, sao băng là hiện tượng rất bình thường, xuất hiện khi có một vì sao đi ngang qua chúng ta mà tình cờ chúng ta lại nhìn thấy. Có một vài vì sao mà cứ cách một khoảng thời gian nhất định chúng ta sẽ bắt gặp, ví dụ như một ngôi sao tên Hắc Lôi8 chẳng hạn, nó là một ngôi sao chổi. Cứ bảy mươi sáu năm, chúng ta sẽ gặp nó một lần."

[8] Sao chổi Harley

Đường Hoàng nghe cái hiểu cái không, Diêu Tam thì thán phục: "Tiểu đông gia đọc sách nhiều, hiểu biết rộng quá!"

Diêu đại nương cũng gật gù: "Dĩ nhiên rồi, người có học và chúng ta khác nhau như thế đó."

Muốn giảng giải cặn kẽ về sao băng cho Đường Hoàng là quá khó, nên Chu Tử Thư chỉ giản lược đôi câu rồi về phòng ngủ.

Cùng lúc đó, ở Thịnh Kinh, kinh đô của Đại Tống.

Hoàng cung tráng lệ, nội đình sâm nghiêm.

Trong màn đêm đen đặc, một tốp cảnh vệ võ trang đầy đủ, nai nịt gọn gàng đang đi tuần. Trong tay họ là những thanh giáo dài sáng lóa. Tiếng bước chân đều tăm tắp dội lên từ mặt đường lát đá. Sự yên tĩnh bao trùm lên toàn bộ đại nội, ngoại trừ lớp lớp cảnh vệ đi tuần ra, chỉ có duy nhất một tòa cung điện nguy nga vẫn còn le lói ánh sáng.

Bỗng có trận gió lớn ào qua, những tia sáng leo lét tắt phụt, bóng tối ập đến.

Có tiếng người hoảng hốt hét lên trong điện.

"Bay đâu! Chúng bay đâu! Ra đây ngay! Đốt đèn trường sinh lên cho trẫm!"

Lập tức, có hai tiểu đồng mặc đạo bào lom khom chạy vào trong điện, hớt hải đi vòng quanh những chân đèn cao vút bằng đồng để thắp lại. Phải đứng sát những ngọn đèn này mới thấy, hóa ra đèn dầu không bị tắt hoàn toàn, chỉ bị gió át đi còn một đốm lửa nhỏ.

Lũ tiểu đồng mặt mày tái me tái mét, chân run lẩy bẩy, lập cập thắp sáng lại chín ngọn đèn trường sinh.

Phía dưới tầng tầng lớp lớp phù điêu vàng ròng dát kín những thanh xà đỡ mái điện là một ông già có chòm râu dài mặc đạo bào trắng tuyền. Sự trở lại của ánh đèn trong phút chốc khiến ông ta thở phào nhẹ nhõm. Ông ta lo lắng bước tới xem xét những ngọn đèn trường sinh, chín ngọn lửa phản chiếu sự si mê trong đôi mắt hau háu.

"Trận gió ban nãy là sao?"

Hai tiểu đồng quỳ phịch xuống, hô lên: "Xin bệ hạ tha mạng!"

Lúc này khuôn mặt ông già kia đã lộ rõ. Kì lạ thay, nước da ông ta hẵng còn trắng trẻo mịn màng, đôi mắt thanh mảnh, cặp mày sắc sảo. Ông già lặng im, nhưng ánh mắt ông ta như hai lưỡi dao rà lên người lũ tiểu đồng. Sự im lặng ngột ngạt ấy chỉ bị cắt ngang bởi tiếng tâu bẩm ngoài điện: "Tâu bệ hạ,

Giám chính Khâm Thiên giám xin được bẩm báo."

Hoàng đế Đại Tống Triệu Phụ thu ánh mắt: "Cho vào."

Giám chính Khâm Thiên giám Lý Tiêu Nhân rảo bước vào trong đại điện, mặt cúi gằm, không dám liếc ngang liếc dọc lấy một lần. Song, y vẫn thoáng thấy hai tiểu đồng đang quỳ trên sàn, trong lòng thầm rủa. Ngay khi nghe tin đèn trường sinh lụi tắt, y đã tất tả chạy tới đây, nào ngờ vẫn chậm một bước. Hai tên tiểu đồng này đều là đệ tử tâm đắc của y, vốn chắc mẩm phen này được hầu Hoàng đế trông coi đèn trường sinh là việc nhẹ lương cao, nào ngờ lại chuốc phải tai họa bực này.

Lý Tiêu Nhân mặc quan bào Thái cực Bát quái, trên đầu cài một sợi lông chim trĩ, quỳ rạp xuống lạy vua: "Tâu bệ hạ, có một ngôi sao băng lớn như quả đào, bay ra khỏi cung Tử Vi, xông vào Thái Vi, vút qua đầu Đế tinh ở phía Đông Nam, lại vượt qua cả hai mươi hai vì sao trong Thiên Thị viên. Đây là điềm trời giáng tai ương, e là nguy hại cho xã tắc trăm năm của Đại Tống ta9!"

[9] Tử Vi viên, Thái Vi viên, Thiên Thị viên là ba nhóm sao cổ trong thiên văn học Trung Quốc, lần lượt đại diện cho Hoàng cung, triều đình, chợ và các nước chư hầu.

Triệu Phụ cả kinh, ông ta sấn tới hai bước, ra lệnh: "Nói kĩ xem nào."

Lý Tiêu Nhân nhanh nhảu thuật lại cặn kẽ về sao băng, đoạn nói thêm: "Bệ hạ, sao băng dừng ở phía trên Đế tinh rồi dần dần biến mất, dễ là có bất trắc ạ."

"Vì sao?"

Sao với chả giăng, y biết thế quái nào được? Ngôi sao băng này tự dưng vụt đến từ phía nam, mất hút ở phương bắc. Chẳng lẽ lại phán rằng phía nam ắt có biến? Các thế lực phản loạn nổi dậy nhũng nhiễu triều đình?

Chợt Lý Tiêu Nhân lanh trí nhớ tới một người, bèn bịa đặt trắng trợn: "Sao băng này xuyên qua hai mươi hai vì tinh tú trong Thiên Vi viên, nhưng không đi vào khu vực Tử Vi viên mà lặn đi mất, ám chỉ mối họa này đã ẩn nấp nhiều năm. Thần quan sát tinh tượng đêm nay, thấy Đế tinh trong Tử Vi viên sáng như mặt trời, thế vua hưng thịnh, suốt hai mươi năm qua chưa từng suy suyển. Theo ngu ý của thần, mầm họa này hẳn là trước đây đã từng bị bệ hạ chế ngự, chịu nhẫn nhục nhiều năm, song gần đây lại rục rịch ý đồ trỗi dậy ạ."

Triệu Phụ nheo mắt: "Từng bị trẫm chế ngự, chịu nhẫn nhục nhiều năm nay...giờ lại muốn trỗi dậy?"

Lý Tiêu Nhân đánh liều đế thêm một câu: "Bệ hạ, nhổ cỏ phải nhổ tận gốc."

Triệu Phụ lẳng lặng nhìn Lý Tiêu Nhân. Gần vua như gần cọp, Lý Tiêu Nhân nín thở, y giờ đây như cá nằm trên thớt, một hơi cũng không dám thở mạnh.

"Ái khanh à, hình như, kẻ kia ở trong tù cũng phải hai mươi tư năm rồi nhỉ?"

Lý Tiêu Nhân cúi rạp đầu xuống sàn, tâu: "Thần ngu dốt, không rõ ý bệ hạ."

Triệu Phụ khinh bỉ, mất kiên nhẫn đuổi y đi: "Trẫm đã biết, lui đi."

"Thần xin cáo lui."

Lý Tiêu Nhân lồm cồm bò dậy. Hai chân y hẵng còn run bấy, Triệu Phụ đã buông một câu nhẹ tênh: "Hai đứa này, lôi ra chém."

Hai đứa tiểu đồng rú lên: "Bệ hạ tha mạng, xin bệ hạ tha mạng!" Lý Tiêu Nhân lạnh toát cả người, căng thẳng rời khỏi cung vua.

Ra khỏi tẩm cung của thiên tử rồi, y mới dám lau mồ hôi rịn trên trán. Vờ như không nghe thấy hai tiếng hét thảm thiết vọng lên từ phía sau điện, Lý Tiêu Nhân bình tĩnh rời khỏi hoàng cung.

Phủ Cô Tô, Giang Nam.

Từ khi biết phải về nhà họ Đường một chuyến, Đường Hoàng vừa hào hứng vừa thấp thỏm lo âu. Cô nhóc mặc bộ váy áo mới toanh vừa được Diêu đại nương dẫn đi mua hôm qua, khiến Chu Tử Thư nhìn chòng chọc.

Đường Hoàng ngượng nghịu: "Anh nhìn cái gì mà nhìn?"

Chu Tử Thư muôn đời không bỏ được thói trêu em: "Thì nhìn em gái anh lúc không mặc áo gai thì cũng ra dáng tiểu gia bích ngọc10 phết! Trước cứ tưởng là ăn lông ở lỗ trên miền núi cơ."

"..."

"Đường, Thận!!!"

[10] Chỉ con gái xinh xắn xuất thân từ gia đình thường dân. VN có câu gần giống vậy là "bần gia bích ngọc"

Hai huynh muội sẳm sửa xong xuôi, chuẩn bị đi đến nhà Đường cử nhân ở khu Tây thành Cô Tô. Gần ra đến cửa, Chu Tử Thư sực nhớ ra: "Ấy, suýt tí nữa thì quên cái kia."

Lát sau, cậu đã cầm theo món đồ đó từ trong nhà đi ra. Đường Hoàng không kịp nhìn kĩ, chỉ thấy loáng thoáng là một tấm thiếp.

Hai anh em rời nhà, nhằm hướng khu Tây mà đi.

||

Chương này tưởng ngắn xong hóa ra ngồi tra cứu với sửa chữa lòi cả mắt...

8/5/2021: Sửa "am Thiên Khánh" thành "quán Thiên Khánh". Cô Dú có nhắc từ trước nhưng lười nên không sửa. Hôm nay đọc một hồi thấy "am" và "quán" như Sao Hỏa với Địa Cầu nên đành sửa vậy, không thì sai quá. Trong các tài liệu mình đọc thì cả 2 cách gọi X quán hoặc quán X đều được sử dụng, mình chọn cách thứ 2. Toái Cẩm nhai đúng ra cũng nên sửa thành phố Toái Cẩm, nhưng vì lỗi sai không nghiêm trọng bằng + lười soát những chương sai nên thôi =))

Tham khảo: , ,

Chú thích

"Già Lưu thăm Đại Quan Viên" là phép ẩn dụ xuất phát từ tác phẩm Hồng Lâu Mộng, dùng để mô tả sự trầm trồ của một người chân quê, chất phác khi tiếp xúc với khung cảnh xa hoa mới mẻ.

Trích Kinh Lễ, cuốn sách ghi chép các lễ nghi thời xưa, một trong Ngũ kinh

Rượu sen ướp hương quế (Mộc tê hà hoa tửu) là một loại rượu ngon được nhắc đến trong tác phẩm Kim Bình Mai. Rượu Trúc Diệp Thanh là một loại rượu ủ với lá trúc rất nổi tiếng.

Bánh chiên là bánh crepe Trung Quốc.

------oOo------

Chương 6

Nguồn: EbookTruyen.Net

Ông anh trai thông minh xuất chúng của em!

Trước khi tới nhà người thân, Chu Tử Thư đã bảo Diêu Tam đi hỏi thăm về gia đình Đường cử nhân.

Nhà họ Đường ở phủ Cô Tô là một gia tộc lớn. Hai mươi năm trước, Đường cử nhân đã cưới con gái một nhà thư hương thế gia khác ở Cô Tô, cũng chính là Đường phu nhân hiện tại. Hai vợ chồng tình cảm thuận hoà, sinh được một trai một gái. Đường cử nhân nạp thêm một người thiếp, sinh ra người con trai thứ bằng tuổi Chu Tử Thư.

Hai năm trước mẹ Đường cử nhân đã qua đời, trong nhà có sai người tới thôn Triệu gia mời Đường tú tài về thủ linh cữu, song Đường tú tài từ chối thẳng thừng. Từ đó về sau, Đường gia không bước một ngón chân vào thôn Triệu gia, hai nhà cắt đứt liên lạc.

Đối với việc thăm người nhà này, Đường Hoàng vừa phấn khích vừa hồi hộp. Tới nơi, nhìn cánh cổng bề thế, phô bày hết vẻ phú quý của nhà người ta, cô nhóc bỗng rụt hết cả lại: "Anh à, hay là chúng mình về đi."

Chu Tử Thư nói: "Quà biếu đã mua hết rồi, chẳng nhẽ đem trả? Theo anh vào, mau."

Đường Hoàng cắn môi: "Anh đi một mình không được à? Hơn nữa, tự chúng mình xoay xở cũng đủ ăn đủ sống, tại sao lại cứ phải đi kiếm người ta?"

"Em còn mang họ Đường, cũng chẳng có mâu thuẫn gì với người ta cả. Kết mối thân hơn gây mối thù, em có hiểu không?"

Đường Hoàng bĩu môi đi theo anh trai, đến trước cổng chính nhà họ Đường.

Chu Tử Thư bước tới gõ cổng. Phía sau cánh cổng loáng thoáng tiếng bước chân, rồi một cánh cửa nhỏ mở ra từ mé bên cổng chính. Một gia nô trông có vẻ như là gác cổng bước ra, nhìn hai anh em, hỏi: "Tiểu huynh đệ có

việc gì thế? Đây là nhà của Đường cử nhân thành Cô Tô, hai người có danh thiếp không?"

Đường cử nhân là nho sĩ, nhà họ Đường là dòng dõi thư hương, khách ghé thăm có thể gửi danh thiếp qua trước một ngày để báo cho chủ nhà biết. Hoặc, có thể chờ đến lúc thăm nhà thì đưa danh thiếp, giống như Lương đại nho đưa danh thiếp của mình cho Chu Tử Thư vậy.

Chu Tử Thư cười nói: "Không có đâu. Tôi họ Đường, tên là Chu Tử Thư.

Còn đây là em gái tôi, tên Đường Hoàng. Chúng tôi tới từ thôn Triệu gia.

Phiền anh báo giúp một tiếng."

Chu Tử Thư vừa dứt lời, thái độ tay gác cổng quay ngoắt.

Hôm nay đi thăm họ hàng, Chu Tử Thư và Đường Hoàng đều mặc quần áo mới, tuy không phải gấm vóc lụa là, nhưng trông rất sạch sẽ chỉn chu. Hơn nữa, anh thì khôi ngô tuấn tú, em thì xinh xắn đáng yêu, khiến tay gác cổng thoạt tiên vô cùng có thiện cảm. Tuy nhiên, vừa hay hai anh em đến từ thôn Triệu gia xong, tay này giở mặt trịch thượng ngay. Gã ta hứ một tiếng: "Chờ đấy." Rồi lủi vào trong nhà, đóng cửa cái rầm, mặc kệ Chu Tử Thư và Đường Hoàng đứng chờ ngoài cửa.

Đường Hoàng chưa bao giờ bị đối xử thô lỗ như vậy. Dân cư thôn Triệu gia ai nấy đều thật thà, chất phác, thắm thiết tình làng nghĩa xóm, nên thái độ kể cả của tên gác cổng khiến cô bé ấm ức vô cùng. Trái lại, Chu Tử Thư chỉ cười thâm thúy, không lên tiếng.

Hồi lâu, một người trông có vẻ là quản gia đẩy cổng nhỏ đi ra, dẫn hai huynh muội vào nhà.

Đường gia đúng là một lâm viên xứ Giang Nam tiêu chuẩn, vừa vào cổng đã thấy một tấm bình phong đá núi Thái Sơn to lớn, trên đề tám đại tự "Bác học đốc chí, thiết vấn cận tư1", trích "Tử Trương" trong sách Luận ngữ. Quản gia dẫn Chu Tử Thư vào hành lang Tây, đi qua nhĩ thất phía Tây, qua mấy khúc ngoặt mới đến một khu biệt viện hẻo lánh. Thu xếp cho hai huynh muội xong, quản gia bỏ đi.

[1] Nguyên văn: "Bác học nhi đốc chí, thiết vấn nhi cận tư, nhân tại kỳ trung hỹ." Dịch nghĩa: Học rộng mà dốc lòng giữ ý chí, hỏi han những điều cần kíp mà suy nghĩ những điều gần gũi, đức nhân ở tại trong đó vậy. (TTBG)

Có người châm trà cho hai anh em, Đường Hoàng nhấp thử, chun mũi: "Eo ơi, nguội ngắt."

Chu Tử Thư không uống trà, cậu chỉ đặt quà biếu lên bàn, nhắm mắt trầm tư không biết là đang nghĩ gì.

Lại qua một lúc, đình viện ngoài phòng vang lên tiếng bước chân. Chu Tử Thư mở mắt nhìn, một người đàn ông tuổi trung tuần đội mũ nhà Nho, mặc trường bào viên lĩnh tơ tằm màu vàng đi tới. Dáng hình ông ta hơi mập mạp, bước đi ào ào tùy tiện. Vào đến cửa, thấy hai anh em Đường Hoàng, Chu Tử Thư, ông ta khựng lại đôi chút rồi mới đi hẳn vào trong.

Đường cử nhân ngồi vào ghế chủ, người hầu dâng trà ngay. Ông nhấp một hớp, nhìn hai anh em, hỏi: "Từ thôn Triệu gia đến hả?"

Chu Tử Thư lễ độ đáp: "Vâng ạ. Thưa đại bá phụ, cháu là Chu Tử Thư, còn đây là em gái cháu, Đường Hoàng."

Đường cử nhân nhìn Chu Tử Thư bằng ánh mắt rất kì quặc, dường như chuyện cũ gợn lên trong trí nhớ ông. Ông ta hờ hững bảo: "Hóa ra là con của thứ đệ ta. Sao, tới Cô Tô có việc gì?"

Chu Tử Thư đang định đáp, chợt thấy quản gia vội vã đi vào phòng, thì thầm bên tai Đường cử nhân mấy câu. Đường cử nhân đứng phắt dậy, nói: "Trong nhà xảy ra chút chuyện, ta đi xử lí đã. Các ngươi đợi một lúc. Quản gia, lấy cho chúng nó ít bánh trái." Ông ta vội vã bỏ đi, không để cho hai anh em kịp nói gì.

Một lát sau, quản gia đã đã mang đồ ngọt lên. Bánh trái khá vừa miệng, không tệ hại như hai chén trà nguội ngắt ban nãy.

Đường Hoàng ăn một hồi, hỏi: "Anh à, cũng lâu rồi, sao Đường cử nhân chưa quay lại?"

"Em nghĩ ông ấy sẽ quay lại thật à?"

"Ể?"

Chu Tử Thư nhìn một bàn trà bánh đìu hiu, đứng lên khỏi ghế: "Em ăn no chưa?"

Đường Hoàng: "Trước lúc ăn cũng không đói."

"Ừ, thế mình về thôi."

Trước lúc vào đây Đường Hoàng cứ luôn mồm đòi đi về, nhưng lúc này thấy Chu Tử Thư bảo đi về thật, cô bé lại ngơ ngác: "Ơ em tưởng anh muốn gặp mặt họ hàng? Chu Tử Thư, chúng mình cứ đi về thế, coi như tốn công cả buổi à?"

"Thì mình đã gặp rồi đấy thôi?"

"Thế mà cũng gọi là gặp? Chúng mình đã nói được câu nào với Đường cử nhân đâu?" Cô bé ngập ngừng đôi chút, tuy còn nhỏ tuổi nhưng Đường Hoàng đã rất nhạy cảm: "Mặc dù ông ấy không muốn nói chuyện với chúng mình."

"Mình đến thăm hỏi đúng phép tắc, thế là được. Người ta đã không muốn tiếp mình, mình cũng biết ý người ta, bao giờ có dịp gặp lại thì tính, mình còn việc quan trọng hơn. Em nghĩ chúng mình đến đây để làm gì? Để thăm hỏi họ hàng thật sao?"

"Nếu không phải để chào hỏi họ hàng thì mình đến làm gì?" Đường Hoàng chạy chậm chậm theo đuôi Chu Tử Thư, đi ra khỏi khu biệt viện.

Hai tay Chu Tử Thư trống trơn, cậu đã để quả biếu ở lại trong phòng. Cậu hờ hững nói: "Tách nhà."

Chỉ độ một tuần trà, tin hai anh em rời khỏi Đường phủ đã truyền tới nhà chính. Lúc này, Đường cử nhân đang ngồi chễm chệ xơi cơm chứ chả có công chuyện nào sất. Nghe quản gia báo tin Chu Tử Thư, Đường Hoàng đã đi, Đường cử nhân hừ một tiếng, sai nha hoàn múc canh cho mình.

"Lũ vòi tiền thì cứ tống đi cho rảnh nợ!"

Đường phu nhân đón bát canh nha hoàn dâng lên, đưa cho chồng: "Chu Tử Thư, Đường Hoàng? Là con thứ đệ của ông hả? Không phải chúng nó ở thôn Triệu gia sao? Đến Cô Tô từ bao giờ, sao ông không nói với tôi một tiếng?"

Đường cử nhân húp hết bát canh, bảo: "Nói với bà làm gì? Chỉ là hai đứa ranh nghèo kiết đi vòi tiền bà con. Cha chúng nó lúc còn sống được mẹ tôi đối xử tốt biết bao, chưa từng bạc đãi, kể cả lúc nó bỏ đến thôn Triệu gia, ngày lễ ngày tết mẹ đều sai người tặng quà, thương như con đẻ. Thế mà lúc mẹ qua đời, nó chẳng thèm liếc một cái, đúng là cái đồ ăn cháo đá bát! Cái ngữ ấy thì cũng chỉ đẻ ra một bầy vô ơn thôi. Cháu chắt kiểu này, vừa đến Cô Tô đã đi tìm nhà mình, chẳng đến ăn xin thì gì?"

Đường phu nhân chau mày: "Ông đừng nói thế phải tội các cháu. Việc cha tụi nó làm không liên quan tới chúng nó. Tôi nhớ cháu mình năm nay chắc cũng mới mười hai, mười ba tuổi thôi." Bà vẫy tay gọi quản gia tới: "Ngươi kể cho ta nghe một lượt xem, hôm nay hai đứa trẻ kia đến nhà mình như thế nào."

Quản gia bèn kể tỉ mỉ cử chỉ hành động của huynh muội Đường gia.

Đường phu nhân gật gù: "Theo lời ngươi nói, hai đứa nó có mang quà biếu tới? Thế là có lòng đấy."

Quản gia nói: "Cũng toàn những món rẻ tiền thôi ạ."

Đường cử nhân sửng sốt: "Hóa ra chúng nó không đòi tiền à?"

Đường phu nhân lườm nguýt chồng, hỏi quản gia: "Ngươi vừa nói, lúc đi, Chu Tử Thư bảo nó còn phải tới bái phỏng một người, vì vậy nên không thể chờ thêm đúng không?"

"Dạ đúng ạ."

Đường phu nhân suy nghĩ đôi chút, rồi gọi nha hoàn thân tín của mình đến dặn dò: "Con vào kho lấy hai mươi lượng bạc, rồi đuổi theo hai anh em nó, nhất định phải theo kịp. Tìm thấy hai đứa nó rồi thì đừng đánh động vội, cứ bám theo sau xem có thật là chúng nó đi bái phỏng người khác không. Chờ đến lúc hai đứa nó đi về thì con tới nhà chúng, rồi hẵng cho tiền."

Đường cử nhân giật nảy: "Bà làm cái quái gì thế?"

Đường phu nhân: "Tôi làm sao? Chúng nó là cháu ông, mới có mười hai, mười ba tuổi. Hai đứa trẻ con dắt díu nhau đến phủ Cô Tô, Đường gia chẳng những không chiếu cố mà còn tống cổ ra khỏi nhà. Ông nghĩ xem nếu chuyện này mà đồn ra ngoài thì có nhơ nhuốc cái thanh danh Đường cử nhân của ông không, rồi thiên hạ người ta có phỉ nhổ cả họ Đường nhà ông không?"

"Ờ, ờm...Ấy chẳng phải là do...thái độ của cha chúng nó trước đây à? Phủ

Cô Tô này có ai mà không biết?"

"Thế hồi bé chắc ông chưa từng bắt nạt cha chúng bao giờ chắc?"

"Rốt cuộc bà về phe nào hả!?"

Đường phu nhân: "Quyết định vậy nhé, cứ coi như là tiền bác gái cho các cháu ăn quà. Con hãy đi đi."

Nha hoàn vâng lời đi ngay. Đường cử nhân coi thường ra mặt, Đường phu nhân lại ra chiều đăm chiêu. Bà hỏi: "Hai đứa trẻ vừa tới phủ Cô Tô, lấy đâu là người quen mà đến thăm nhỉ? Người thân của chúng nó ở phủ này, chẳng phải chỉ có mỗi nhà mình ư?" Đường cử nhân: "Bà quản lắm thế làm gì!"

Đường phu nhân bặm môi, không thèm nói nữa.

Quay lại chuyện hai anh em. Vừa ra khỏi Đường phủ, Đường Hoàng đã bám nhằng nhẵng lấy Chu Tử Thư đòi cậu giải thích.

"Tóm lại chuyện tách nhà là sao, anh nói đi!"

Nghe cô bé nhì nhèo ong cả đầu, Chu Tử Thư bèn dừng bước, nghiêm túc nhìn em gái, chân thành bảo: "Đôi khi anh cũng tò mò lắm, rốt cuộc anh là người cổ đại hay em mới chính là người cổ đại."

"Hả?"

Chu Tử Thư: "Coi như chưa nói gì nhé."

Hai huynh muội lại đi, Đường Hoàng lại léo nhéo: "Chu Tử Thư, anh nói cho em biết, tại sao lại phải tách nhà?"

Chu Tử Thư: "Gọi 'anh' đê."

"Anh!"

"Xin anh đê."

"Anh, em khẩn khoản xin anh, anh là người anh trai tốt nhất thế gian này!"

Chu Tử Thư rợn tóc gáy, đành nói: "Hồi bé cha nói với em về nhà họ Đường thế nào, em còn nhớ không?"

Đường Hoàng ngẫm nghĩ, đáp: "Cha bảo anh cả của cha không có chí lớn, ngu dốt không ai bằng, chẳng hiểu chó ngáp phải ruồi thế nào mà đỗ cử nhân, ông trời thật bất công. Anh à, em nghĩ cha nói đúng đấy. Em chẳng thấy ông Đường cử nhân đó giống người có học tí teo nào, bụng ổng phình ra như vầy nè." Cô nhóc khum tay vòng một vòng quanh bụng mô tả.

"Đâu đến nỗi béo như em tả. Đúng, hồi xưa cha nói vậy, nhưng em đã nghe cha nói xấu lão phu nhân lần nào chưa?"

Đường Hoàng nghĩ ngợi: "Chưa."

"Mà theo tính cha thì..."

Chu Tử Thư nhủ thầm trong lòng: Sáng dậy mở mắt câu đầu tiên là chửi Đường cử nhân nè, buổi trưa ăn cơm lại xỉa xói thêm một câu nữa, buổi tối trước khi đi ngủ cũng phải làm một bài vè nói kháy mới thỏa lòng.

"E hèm, cứ theo tính cha thì nếu không thể nói xấu lão phu nhân chữ nào, chứng tỏ lão phu nhân đối xử với cha rất tốt, cha không có gì để chê bai."

Đường Hoàng: "Thật vậy sao?"

Chu Tử Thư: "Thật đó. Nhà họ Đường ở phủ Cô Tô cũng có tiếng tăm, đến phủ doãn Cô Tô là Lương đại nho còn biết đến Đường cử nhân cơ mà. Đường gia nổi tiếng như thế, em nghĩ xem liệu cả phủ Cô Tô có biết chuyện cha mình không về túc trực bên lĩnh cữu lão phu nhân không?"

Đường Hoàng vỗ tay: "Đương nhiên là biết!"

"Nói nhẹ thì là bất hiếu, nặng lời thì là bất nhân bất nghĩa. Việc này cha sai rành rành, không có gì để bào chữa. Giờ cha mất rồi, người khác không chỉ trích cha được nữa, vậy thì họ sẽ chỉ trích ai?"

"... Chỉ trích chúng mình?"

Chu Tử Thư cười: "Cây non dễ uốn. Sở dĩ hôm nay chúng mình đến nhà họ Đường là để tỏ thái độ. Nếu Đường gia không muốn hòa giải gút mắc này thì từ nay về sau mình sẽ tách khỏi nhà họ, không dính dáng đến nhau nữa. Nếu không, về sau Đường cử nhân sa cơ lỡ vận, hai anh em mình không giúp người ta sẽ bị gọi là ăn cháo đá bát. Còn chúng mình gặp chuyện không may mà Đường cử nhân không giúp, ông ta sẽ lí luận rằng vì cha chúng mình bất nhân trước, nên ông ta mới bất nghĩa theo. Nói ngược nói xuôi ông ta đều có lý, em bảo có thiệt cho anh em mình không?" Rõ là chó cắn áo rách!

Hai mắt Đường Hoàng long lanh: "Chu Tử Thư, anh thật thông minh!"

"Gọi 'anh' cái nào."

Cô nhóc lập tức cất tiếng ngọt như mía lùi: "Anh!"

(Bản edit chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com; hãy theo dõi trên ứng dụng WordPress hoặc vào đúng trang để có trải nghiệm đọc truyện tốt nhất.) Đi tới hẻm Đồng Đức, sau khi hỏi thăm hai nhà thì Chu Tử Thư nhanh chóng tìm được Lương phủ.

Lương phủ không giống với Đường phủ. Tuy cả hai đều là thế gia vọng tộc ở Cô Tô, nhưng trước cổng Đường phủ chỉ đặt hai pho tượng hình chiếc bình tròn, còn trước cổng Lương phủ là hai con sư tử đá oai phong lẫm liệt. Ở Đại Tống, sư tử đá không phải thứ nhà nào cũng được đặt. Mỗi bên cổng chính Lương phủ có một người lính cầm giáo dài canh gác. Chu Tử Thư bước đến trước cổng, một người lính liền đi xuống bậc thềm nhìn ngó cậu thật kĩ.

Lính gác ở đây không vênh váo như kiêu binh4, cũng không thô thiển tục tằn. Anh lính gác hỏi Chu Tử Thư: "Cậu từ đâu tới? Đây là dinh thự của quan phủ doãn Cô Tô, Lương đại nhân. Cậu có bái thiếp không?"

[4] Kiêu binh là binh sĩ cậy mình có công nên càn rỡ.

||

Lời tác giả: Trong truyện có rất nhiều người thông minh khôn khéo, sau này Tiểu Thư Lang sẽ gặp hết. Đại bá mẫu chính là người thứ nhất đó, mọi người đoán xem anh em Chu Tử Thư có tách khỏi nhà thuận lợi không nèo?

Chương trước có một em gái đoán tiểu công bị giam 24 năm.... ahihi sao có thể như vậy được, tiểu công của mị là nam thần quốc dân, mà nam thần thì đâu thể bị giam trong tù!

Chú thích

Nhĩ thất: gian nhà xây áp vào hai bên gian chính, giống như cái tai nên gọi là 'nhĩ thất', thường dùng làm nhà kho.

Vốn câu này là "giẫm phân chó gặp may". Thời xưa phân vẫn được dùng làm chất đốt, bán được tiền nên người giẫm phải phân/gặp nhiều phân trên đường là may mắn.

Trong chương này có đoạn mô tả bước chân của Đường cử nhân. Bước chân có sức nặng hay không, khoan thai hay vội vã, v...v... đều thể hiện tính cách con người. Qua chương này có thể thấy Đường cử nhân là người có phần xốc nổi, ít tâm cơ, chắc ngoài học ra không biết việc gì khác. Còn cao thủ một tay quán xuyến nhà cửa đối nội đối ngoại trăm phần trăm là phu nhân rồi ^^

Ngoài ra chương này cũng có đề cập nhiều yếu tố văn hóa. Mọi người cùng xem thử nhé!

Đầu tiên là kiến trúc vườn Giang Nam vô cùng đặc sắc. Nằm giữa đô thị sầm uất nhưng những khu vườn này khiến người xem như lạc vào xứ sở thần tiên với những hành lang quanh co, uốn khúc, khiến khách tham quan liên tục thay đổi điểm nhìn để tạo ra vô vàn phong cảnh mới. Cây cối, đình viện, giả sơn, hồ nước,... đều được đưa vào sắp xếp tuân theo những nguyên tắc trong nghệ thuật làm vườn.

Một góc Khu vườn Người đánh cá ở Tô Châu. Nguồn:

Chắc hẳn mọi người đều biết núi Thái Sơn là một biểu tượng rất nổi tiếng trong văn hóa Trung Hoa rồi nhỉ? Đá lấy từ khu vực núi này được đánh giá cao không chỉ vì hoa văn độc đáo mà còn vì chúng biểu tượng cho ngọn núi Thái Sơn vững chãi, linh thiêng và bất tử. Ngoài ra tấm bình phong được nhắc đến trong chương cũng là một phần quan trọng trong kiến trúc Á Đông, với chức năng chính là ngăn cách không gian trong và ngoài, làm ranh giới giữa ngôi nhà riêng tư (nội) và không gian công cộng (ngoại).

Đá Thái Sơn. Nguồn ảnh:

Còn đây là một dạng cổng với sư tử đá. Tuy đây là cổng đền nhưng cũng có thể liên tưởng đến cổng Lương phủ.

Mặt trước chùa Giới Đài. Nguồn ảnh:

Đường cử nhân mặc một loại áo khá phổ biến cả với giới quý tộc và thường dân: Trường bào viên lĩnh

Minh họa trường bào viên lĩnh đời Tống

Còn chiếc mũ nhà Nho thì có lẽ là chiếc mũ trong tranh dưới đây

Chân dung Tô Thức (Tô Đông Pha) – Tranh Triệu Mạnh Phủ. Nguồn ảnh:

------oOo------

Chương 7

Nguồn: EbookTruyen.Net

Tiểu Thư Lang vô liêm sỉ

Lính gác cổng nhìn danh thiếp Chu Tử Thư đưa, cung kính mời hai huynh muội vào cửa.

Chu Tử Thư và Đường Hoàng chờ trong phòng khách một lát, đã thấy một ông cụ cao gầy đi vào phòng. Cụ ông diện mạo quắc thước, mặc áo sam màu xám. Ông nhìn Chu Tử Thư, nhìn Đường Hoàng, rồi tiến lại gần trả danh thiếp cho Chu Tử Thư, hỏi: "Chẳng hay tiểu công tử tên họ là gì? Tôi là quản gia Lương phủ. Thật tiếc quá, hai vị ghé thăm đúng lúc đại nhân đang đi Kim Lăng, e là phải hơn một tuần nữa mới về."

Lương đại nho đi Kim lăng rồi ư?

Chu Tử Thư không ngờ hôm nay đi bái phỏng hai người thì một người không muốn tiếp mình, một người thì đi vắng. Cậu bèn nói: "Tôi họ Đường, người thôn Triệu gia ở huyện Ngô. Hồi còn dưới thôn tôi đã có duyên gặp Lương đại nhân một lần."

Quản gia nói: "Hai tháng trước quả thực là đại nhân có tới thôn Triệu gia, chẳng hay Đường tiểu công tử có việc gì gấp cần gặp đại nhân không?"

Chu Tử Thư lắc đầu: "Không, chỉ là tôi vừa mới chuyển nhà tới phủ Cô Tô. Lúc gặp gỡ, đại nhân có dặn về sau hãy đến tìm ngài. Tôi luôn nhớ lời dặn đó, nên đến Cô Tô đã tìm tới ngay."

Quản gia bảo: "Nếu không có việc gấp, vậy chờ đại nhân đi Kim Lăng về, tôi sẽ phái người tới báo cho công tử. Tiểu công tử có thể để lại địa chỉ không?"

Chu Tử Thư nói địa chỉ nhà mình cho quản gia biết. Quản gia đích thân tiễn hai anh em ra tận cửa.

Trên đường về nhà, Đường Hoàng nhỏ giọng: "Anh ơi, sao anh quen được ông tai to mặt lớn này thế? Lương đại nhân có thật là phủ doãn Cô Tô không hả anh? Cổng nhà ngài ấy có cả lính canh luôn!"

"Em biết nhiều ghê nhỉ."

"Chuyện! Em không biết ông huyện lệnh huyện Ngô là ai, nhưng phủ Cô Tô của chúng mình có ai mà không biết Lương đại nho chứ!"

Chu Tử Thư vô cùng muốn nói: Hai tháng trước anh nhóc cũng đâu có quen biết Lương đại nho, còn "anh" đây thì càng cóc biết ông huyện lệnh là ông nào.

Đường Hoàng lại thao thao bất tuyệt: "Lúc Lương đại nho tới nhậm chức phủ doãn Cô Tô, cha mừng lắm, còn khen với chúng mình mấy lần liền. Kẻ sĩ trong thiên hạ có ai mà không ngưỡng mộ bốn vị đại nho! Nhưng mà em nhớ cha bảo Lương đại nho bị cách chức nên mới đến phủ Cô Tô. Anh ơi, 'cách chức' nghĩa là gì thế?"

Chu Tử Thư nhíu mày, chuyện quan trường cậu không rành chút nào, chủ nhân cũ của thân thể này không quan tâm tới vấn đề đó nên ký ức rất nhạt nhòa. Hơn nữa, Đường tú tài chỉ là một tú tài nghèo chốn thôn quê, hiểu biết hạn chế, những điều ông nói ra đều rất chung chung.

Chu Tử Thư nói: "Sao em nhớ rõ thế, cha từng nói như thế hả? Anh không nhớ luôn."

Đường Hoàng hếch cằm: "Bởi vì cha nói, dẫu Lương đại nho bị cách chức mới tới đây, nhưng cuộc sống của ngài ấy vẫn giàu sang chẳng khác nào thần tiên vậy, cha hâm mộ lắm. Anh ơi, em cũng muốn được sống như thần tiên."

Chu Tử Thư: "..."

Có cái quái gì trong đầu hai cha con nhà này vậy?

Về tới nhà, Chu Tử Thư vừa vào cửa đã ngửi thấy mùi khét lẹt. Cậu vội vã chạy vào bếp, liền thấy Diêu đại nương đang vật lộn với một thứ gì đó trong cái chảo sắt to đùng, nhưng cái cục đấy đen thùi lùi và mùi thì cháy khét nồng nặc hết cả nhà. Diệu đại nương ho sặc sụa, may mà Diêu Tam về nhà kịp, anh ta vội vàng đổ sạch đống cháy đen sì trong chảo đi.

Diêu Tam: "Mẹ, mẹ làm gì mà cháy kinh thế?"

Tay nghề nấu nướng của Diêu đại nương rất khá, từ khi hai mẹ con tới Đường gia, bà vẫn lo cơm nước cho cả nhà. Đây là lần đầu tiên Diêu đại nương làm cháy thức ăn.

Diêu đại nương nói: "Mẹ về nhà thấy các con vẫn đi vắng, liền nhớ tiểu đông gia có nói muốn lấy bột mì làm thành tương. Thế là mẹ bèn lấy thử một ít bột mì làm thử, nào ngờ hỏng hết cả."

Diêu Tam lấy làm lạ: "Tiểu đông gia, tôi chưa bao giờ nghe chuyện bột mì cũng có thể làm tương đâu."

Cung Tuấn không ngờ lần đầu tiên Diêu đại nương làm cháy thức ăn là để nấu tương ngọt!

Cậu dở khóc dở cười bảo: "Diêu đại nương, sao bác lại vội vàng thế, không chờ cháu về. Để cháu làm thử cho, bác đứng xem nhé. Thực ra món tương ngọt này cháu mới thấy người ta làm thôi chứ chưa tự tay làm lần nào, chắc phải thử nghiệm vài lần đó!"

"Được lắm!"

Diêu đại nương dọn dẹp sạch sẽ nhà bếp rồi hấp mấy cái bánh bao. Cả nhà ăn no xong bèn phấn khởi kéo nhau xuống bếp xem Chu Tử Thư nấu tương ngọt.

Chu Tử Thư thay áo vải thô, xắn hai tay áo lên. Cậu nhìn chiếc chảo sắt đen nhánh, hít sâu, thở đều, rồi quay sang trộn bột mì trước.

So với các loại gia vị cần dùng thì bột mì trắng ở thời đại này có giá cao hơn hẳn. Lần đầu thí nghiệm chưa chắc đã làm ra tương ngọt, Chu Tử Thư chỉ lấy đúng ba thìa bột mì. Cậu cho bột vào trong bát, thêm nước khuấy đều, rồi trộn thêm một chút xì dầu và bốn thìa đường trắng.

Khuấy kĩ hỗn hợp đến khi sánh đều, cho một ít dầu hạt cải vào chảo. Chảo nóng, Chu Tử Thư đổ bát bột trộn vào trong chảo.

Vừa mới đổ bột vào được một lát, bột đã dính hết vào đáy chảo làm Chu Tử Thư không quấy được. Hỗn hợp bột quánh đặc bị cháy ngay, không ngạc nhiên, mùi khét ngập cả căn bếp.

Bốn người kho sù sụ chạy ra khỏi bếp. Đường Hoàng léo nhéo: "Anh à, anh nấu còn chẳng bằng Diêu đại nương, bà nấu mãi mới cháy, còn anh nấu chưa gì đã cháy rồi!"

Chu Tử Thư bị bóc mẽ, nhặng lên: "Có thôi đi không?"

Rửa chảo rồi thử nghiệm lần hai. Không có gì bất ngờ cả, Chu Tử Thư lại thất bại.

Kiếp trước, Chu Tử Thư chẳng mấy khi nấu cơm, nhưng ông trời run rủi cho cậu ở chung phòng với một "Masterchef" chính hiệu hồi làm nghiên cứu sinh. Tương ngọt, bơ lạc, bánh cuốn hành, bánh bao, bánh quẩy, món nào cũng có. Chỉ cần hôm trước chép miệng bảo "Thèm pizza quá!", sáng ngày hôm sau lập tức anh bạn "Masterchef" sẽ cho ra lò một khay pizza nóng hổi, trăm phần trăm bếp nhà làm.

Chu Tử Thư đã từng xem anh bạn cùng phòng nấu tương ngọt, nhưng lúc "lăn vào bếp" mới phát hiện là khó hơn mình tưởng.

Chu Tử Thư nhìn hỗn hợp bột trong bát, lại liếc sang dầu ăn màu nâu sẫm...Chợt một ý tưởng lóe lên. Cậu lại đổ hỗn hợp bột vào trong chảo, quấy đều. Ba "quan sát viên" đều cho rằng lần này Chu Tử Thư lại làm cháy thôi, nhưng bất ngờ là cậu vừa đảo bột vừa từ từ đổ dầu ăn vào lòng chảo.

Tiếng xèo xèo của dầu sôi vang lên trong căn bếp, hỗn hợp bột dần dần sánh mịn lại thành tương màu nâu, một mùi thơm lạ kì tỏa lên từ chiếc chảo.

Mùi thơm khiến Đường Hoàng liếm mép: "Anh ơi, mùi gì mà thơm thế?"

Diêu đại nương nói: "Tiểu đông gia, đừng cho nhiều dầu thế. Hôm nay cậu bảo tôi đi ăn thử ngoài đường, tôi ăn khá nhiều món thì thấy khẩu vị của người Cô Tô nhạt lắm, không ăn nhiều dầu mỡ. Cậu cho nhiều dầu thế, họ không thích ăn đâu."

Chu Tử Thư nếm thử thành quả tương ngọt, nêm thêm một thìa đường. Mùi hương đậm đà ngập tràn căn bếp nhỏ, Đường Hoàng và Diêu Tam đều nghển cổ hít hà, nóng lòng muốn nếm thử xem thành phẩm ra sao. Chu Tử Thư vừa đổ tương ra bát, Đường Hoàng đã lanh chanh nhảy tới.

"Em nếm trước!"

Đường Hoàng nhúng đũa vào bát tương, thứ tương này nâu nâu, sền sệt, nhấc đũa lên là dính trên đũa. Cô bé liếm hết tương trên đũa, khen nức nở: "Ngọt quá, thơm quá! Tương này còn ngon hơn cái tương thơm thơm nhà trưởng thôn làm!" Nói xong, cô bé lại ăn thêm nữa.

Chu Tử Thư lại mời Diêu Tam và Diêu đại nương nếm thử.

Diêu Tam: "Ngon quá đi!"

Diêu đại nương có vẻ đăm chiêu: "Vị thì được đấy, nhưng tiểu đông gia à, tôi thấy chưa hợp miệng lắm. Cậu cho nhiều dầu quá nên hơi ngấy. Người Cô Tô thích ăn nhạt, ngọt thì họ cũng ưa đấy, nhưng món này ngọt quá."

Chu Tử Thư hỏi: "Diêu đại nương, bác thấy người ở đây không thích ăn dầu mỡ thật ạ?"

"Quả đúng vậy, tôi đi ăn mấy hàng liền, thấy họ cho ít dầu mỡ lắm."

Chu Tử Thư: "Cũng chưa chắc là họ không thích ăn dầu, mà có thể là chưa tìm ra món nào ngon hơn khi có dầu, ăn mà không bị ngấy."

"Ồ?"

Chu Tử Thư: "Bác có để ý, có một số món phải có nhiều dầu thì ăn mới ngon không?"

Diêu đại nương nghĩ ngợi, nói: "Thịt viên chiên ngập dầu ăn ngon đấy, nhưng không ăn được nhiều, sẽ ngấy."

Đường Hoàng giơ tay: "Em thích ăn bánh quẩy nhất, hôm qua Diêu đại nương dẫn em đi ăn sáng, em thấy người Cô Tô cũng thích ăn bánh quẩy chiên lắm!"

Chu Tử Thư gật đầu: "Đúng, mọi người đều thích ăn mấy món nhiều calo, càng nhiều calo càng ngon miệng."

"Nhiều calo là gì hả anh?"

Chu Tử Thư giải thích: "Là dễ khiến cho em béo lên ý."

Đường Hoàng la lên: "Vậy em không được ăn nhiều bánh quẩy rồi!"

Diêu đại nương khá băn khoăn: "Tiểu đông gia nói vậy tôi không hiểu, nhưng người phủ Cô Tô chắc chắn sẽ không thích món này đâu."

Chu Tử Thư mỉm cười: "Diêu đại nương, bác không thích ăn món này là vì bác lớn tuổi rồi, khẩu vị thanh đạm hơn người trẻ. Chi bằng mấy hôm nữa mình mở một quán hàng, thử luôn xem phản ứng của mọi người thế nào."

Cùng lúc đó, Chu Tử Thư không hề biết, khi cậu đi ra khỏi Lương phủ, một bóng người vẫn bám theo đã vội vàng trở về nhà Đường cử nhân. "Ý con là, người Chu Tử Thư viếng thăm rất có thể là Lương đại nhân?"

Nha hoàn gật đầu, thưa: "Con quan sát kĩ càng rồi thưa phu nhân. Sáng nay Lương đại nhân đã rời Cô Tô, việc này lão gia có nhắc đến. Chu Tử Thư đưa danh thiếp, được lính gác nghênh đón vào Lương phủ, chỉ một lúc sau, Lương quản gia đích thân tiễn cậu ta về. Con thấy sự tình không đơn giản, nên về bẩm với phu nhân trước chứ không đưa ngay hai mươi lượng bạc cho anh em nhà kia."

Đường phu nhân vốn đang chải đầu chuẩn bị đi nghỉ, nhưng nghe nha hoàn bẩm báo xong, bà trầm ngâm đặt chiếc lược xuống.

Người hầu gái này là nha hoàn hồi môn của phu nhân, từ bé đã theo hầu bà. Tuy trẻ tuổi nhưng cô xử sự rất khôn khéo, nên bà mới giao cho làm việc này. Việc cô thuật lại có lẽ không sai sót mấy, chắc chắn người mà anh em họ Đường muốn đến chào hỏi là Lương đại nhân.

"Phu nhân?"

Đường phu nhân bảo: "Vậy con vào kho lấy thêm mười lượng bạc nữa, đến tiệm may Linh Lung chọn vài bộ quần áo hợp lứa tuổi tặng hai đứa nó. Rồi con mua thêm một ít đồ dùng hằng ngày, giấy mực, bút nghiên, và mấy quyển sách. Chúng ta không đưa tiền nữa, chỉ tặng đồ thôi. Con không cần chọn những món quá đắt tiền, nhưng phải sắm đầy đủ vào, và chất lượng phải tốt."

Nha hoàn gật đầu: "Vâng thưa phu nhân. Tặng đồ xong, phu nhân có muốn con nói thêm gì không ạ?"

"Đừng nói thêm gì cả. Vốn là ruột thịt, không cần vồn vã làm thân chỉ vì bọn trẻ có thể quen biết Lương đại nhân. Nhà chúng ta chưa đến mức phải bợ đỡ người khác như vậy."

"Dạ." Nha hoàn thưa rồi quay đầu định đi.

Đường phu nhân nhắc nhở: "Khoan đã. Con nhớ lấy, bất luận thế nào, hai đứa trẻ đó cũng là thiếu gia và tiểu thư nhà họ Đường." Người hầu gái ngẫm nghĩ, gật đầu thưa vâng.

Bên nhà kia, Diêu Tam đang rán bánh chiên thì bỗng nghe tiếng gõ cửa.

Đường Hoàng: "Để em đi mở cửa."

Cô bé mở cửa ra, liền thấy khách ghé thăm là một cô gái chừng hai mươi tuổi. Đương Hoàng ngây ngẩn, chưa kịp nói gì thì cô ta đã cúi đầu thưa: "Chào tiểu thư."

"Ô, tôi không phải tiểu thư gì đâu. Anh ơi, có người tìm nhà mình này, em không biết có phải nhầm nhà không."

Chu Tử Thư đi tới, nha hoàn lại cung kính: "Chào thiếu gia."

Chu Tử Thư cũng ngạc nhiên lắm, theo bản năng cậu cũng nghĩ cô ta tìm nhầm nhà.

Nha hoàn lễ phép nói: "Tôi là nha hoàn thân cận của Đường phu nhân. Hồi nãy hai vị đi gấp quá, lão gia bận việc không tiếp đãi được, mãi đến lúc hai vị đi phu nhân cũng mới biết tin, nên phu nhân sai tôi tới tặng thiếu gia và tiểu thư mấy bộ quần áo hè và thu, ngoài ra còn có sách và bút, mực. Hai vị vừa chuyển tới phủ Cô Tô, phu nhân lo có nhiều thứ chưa kịp sắm đủ." Cô nói xong liền có mấy người cửu vạn khiêng hai chiếc rương vào trong sân.

Chu Tử Thư nhìn hai chiếc rương, khéo léo từ chối: "Cảm ơn ý tốt của Đường phu nhân. Chỉ có điều đồ đạc chúng tôi đã mua đủ cả rồi, e là phải phiền chị mang về thôi."

"Bẩm thiếu gia, như vậy không được ạ. Việc này nếu làm sai lời dặn, phu nhân sẽ quở trách tôi mất."

Chu Tử Thư từ chối thêm vài lần, nhưng người hầu gái còn kiên trì hơn cậu.

Cuối cùng cô hầu gái cũng ra về, Chu Tử Thư nhìn hai cái rương trong sân, cười bất đắc dĩ.

Đường Hoàng và Diêu đại nương xúm vào mở rương ra xem, quả thật là bên trong chỉ có đồ dùng hằng ngày, áo quần và giấy mực. Không có đồ gì quý giá, quần áo cũng là những món Chu Tử Thư, Đường Hoàng có thể mặc. Tuy chất vải không phải tơ lụa quý, nhưng kiểu dáng lại khá đẹp, chứng tỏ những món đồ này được chọn lựa rất tỉ mỉ.

Diêu đại nương nói: "Tiểu đông gia, người thân của cậu tử tế quá, những món đồ này nếu chỉ dùng tiền thì chẳng thể mua được, phải dụng tâm lắm đấy!"

Chu Tử Thư nói: "Mới một buổi, họ đã biết chúng ta ở chỗ nào rồi."

Đường Hoàng: "Hả?"

Chu Tử Thư kiểm tra đồ trong rương, nghĩ một chút, nói: "Nhưng xem ra Đường phu nhân không có ác ý."

Thôi thì được đến đâu hay đến đấy.

Mấy ngày sau, Chu Tử Thư suy đi tính lại rất nhiều lần, thậm chí còn nghĩ đến khả năng Đường phu nhân đoán ra anh em họ muốn ra ở riêng nên cố ý lấy lòng, song cuối cùng cậu vẫn loại bỏ khả năng này.

Đường tú tài là con dòng thứ, dựa theo luật lệ của triều đình, ông ra ở riêng cũng không được chia bao nhiêu phần gia sản. Nhà Đường cử nhân không đến mức vì chút tiền còm đấy mà mưu tính với hai đứa trẻ con. Hơn nữa, Chu Tử Thư muốn ra riêng, cắt đứt quan hệ giữa hai nhà, vốn cũng không phải vì tiền.

"Lẽ nào bọn họ biết mình xin gặp Lương đại nho, nên muốn lôi kéo quan hệ?"

Nhưng đợi mấy hôm sau khi đồ được đưa đến cũng không thấy bóng dáng Đường cử nhân, Đường phu nhân, hay thậm chí là người hầu gái.

Chu Tử Thư: "Chẳng nhẽ mình lấy lòng tiểu nhân đo dạ quân tử, suy nghĩ quá nhiều rồi chăng?"

Bèn gạt chuyện này ra khỏi đầu. Chiều hôm đó Diêu Tam về nhà, mang theo giấy phép mở sạp hàng ở phường buôn.

Diêu Tam phấn khởi: "Cuối cùng cũng mở sạp được rồi!"

Diêu Tam mấy hôm nay đã đóng xong một xe bán đồ ăn sáng. Chiếc xe của anh không "xịn sò" như phiên bản hiện đại, chỉ là một chiếc xe gỗ có thể đẩy bằng tay. Họ mua bếp lò, than, làm một thùng bột từ đủ loại ngũ cốc khác nhau, chuẩn bị ngày mai mở hàng.

A Hoàng và mẹ con Diêu gia đều hào hứng vô cùng, còn Chu Tử Thư thì cứ suy nghĩ miên man. Chiều hôm đó cậu đi vòng quanh Toái Cẩm nhai một lượt, tối đến dặn Diêu Tam: "Diêu đại ca, ngày mai anh đi ra đồi Hổ ngoài thành, thuê khoảng mười mấy mười cả nam lẫn nữ, già lẫn trẻ. Thời gian thuê là nửa canh giờ, giá cả tự anh thỏa thuận."

"Vậy không khó, phủ Cô Tô đông dân, dễ tìm người nhàn rỗi. Nhưng mình thuê người để làm gì hả tiểu đông gia?"

"Bánh chiên chúng ta làm có ngon không?"

Diêu Tam nuốt nước bọt, hồi tưởng lại mùi vị: "Ngon lắm! Tiểu đông gia à, tôi không ngờ bánh chiên phết tương ngọt lại ngon như thế. Nhưng thế thì sao ạ?"

Chu Tử Thư nói: "Tiền của chúng ta ít nên không có thì giờ đợi mọi người phát hiện ra là bánh nhà mình ngon, nên chúng ta phải kiếm tiền càng nhanh càng tốt. Chỉ mình anh biết bánh nhà mình ngon thì không đủ, phải nhiều người biết mới có lợi."

"Vậy thì có liên quan gì đến việc thuê người?"

Chu Tử Thư tỉnh bơ, nói như đinh đóng cột: "Thuê người, tâng bốc lên!"

Sáng sớm hôm sau, trên phố Toái cẩm, rất nhiều chủ sạp quà sáng phát hiện hôm nay có một sạp hàng mới.

Người đẩy xe là một người đàn ông vạm vỡ tuổi băm, người thu tiền là một bà cụ, người chế biến món ăn sáng là một cậu thiếu niên chừng mười ba, mười bốn tuổi.

Lúc đầu trước sạp hàng này không có ai cả, nhưng tự dưng lại có bảy tám người đến. Họ chẳng buồn ngó đến mấy hàng xung quay mà tự động xếp thành một hàng dài trước sạp của cậu thiếu niên kia.

"Tôi nghe nói bánh chiên ở hàng này ăn ngon lắm."

"Đúng rồi, hôm qua tôi ăn một cái thôi mà suốt cả đêm vẫn còn thèm."

Các chủ sạp kế bên: "..."

Bốc phét! Rõ ràng là sạp này vừa mới dựng sáng sớm hôm nay, tính đến lúc này còn chưa đầy một canh giờ!

Nhưng người qua đường ai mà biết sạp hàng này vừa khai trương hôm nay.

Thấy người xếp hàng đông, khen ngon, rất nhiều người đi ngang qua bèn dừng lại nối vào hàng.

Một người hỏi: "Ê ông anh, cái bánh chiên ngũ cốc này là cái gì? Tôi chưa nghe ai ở Cô Tô nhắc đến cả."

Không đợi có người trả lời, một người đàn ông đứng tuổi ở đằng trước đã hồ hởi khen: "Bánh chiên này ngon lắm chú em ơi! Hai hôm trước tôi có mua cho vợ tôi một cái, vợ tôi ăn thử xong cứ khen nức nở suốt. Nhưng ông chủ mỗi ngày chỉ làm đúng một trăm cái thôi, bán hết là không làm thêm nữa. Mãi hôm nay tôi mới mua được thêm đấy."

"Thật ư? Chỉ bán một trăm cái?"

"Đúng rồi! Chú em à, tôi mua xong rồi, chú cứ từ từ xếp hàng nhé, đừng vội."

"Được, cảm ơn ông anh. Tôi chắc chắn sẽ mua về ăn thử."

Chu Tử Thư cứ chiên xong một cái bánh là tiếng rao của Diêu Tam vang dội khắp nửa Toái Cẩm nhai: "Bánh nóng hổi vừa thổi vừa ăn đây!" Cứ thế, Diêu đại nương đếm tiền liên tục, làm Đường Hoàng trố cả mắt.

"Diêu... Diêu đại nương, bà véo con một cái đi. Hôm nay mình mới mở hàng, còn chưa đầy một canh giờ, sao đã có nhiều người xếp hàng mua bánh chiên nhà mình thế? Con có nằm mơ không..."

Chu Tử Thư rán bánh luôn tay, nghe thế thì nhếch mép cười phì, vênh mặt nghĩ bụng: Thế mà đã tính là đông!

Cậu dùng cả hai chiêu "marketing bỏ đói" và "marketing xếp hàng2" đã thành công rực rỡ ở cả ngàn năm sau, thu hút được mười mấy khách hàng chẳng phải chuyện dễ như bỡn sao?

Chủ hàng kế bên: "...."

Sao lại có hạng người vô liêm sỉ thế cơ chứ!!!

[2] Marketing bỏ đói: Giới hạn lượng hàng bán ra để tạo cảm giác khan hiếm, khiến khách hàng càng muốn mua.

Marketing xếp hàng: Dùng đoàn người xếp hàng để kích thích trí tò mò và khuyến khích người qua đường xếp hàng, từ đó bán được thêm hàng.

||

Lời tác giả:

PR: Bánh chiên nhà này ngon hết sảy, ngày nào tôi cũng ăn!

Chu Tử Thư: Tôi chiếm được lòng tin của khách hàng bằng thực lực!

Các chủ quán làng giềng: "Láo toét!!!"

Có một bạn nhỏ hỏi mị xuất thân tiểu công ra làm sao, ờmm, thú thực thì, mị nghĩ, nam thần công của chúng ta họ Vương...Đây là chính là spoiler siêu to khổng lồ rồi! Các chụy em nghĩ đến cái gì nè ~~~~

Chú thích

Đồi Hổ, một danh thắng ở khu ngoại thành Tô Châu.

Trích từ Càn Long Nam Tuần Đồ cuốn thứ 6 – Họa sĩ: Từ Dương

Hướng dẫn làm tương giống Chu Tử Thư nè. Cho bột vào quấy rồi thêm dầu.

------oOo------

Chương 8

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thưởng cúc

Gần Tết Trùng Cửu, thời tiết đột nhiên nóng lên.

[1] 9/9 ÂL.

Nha hoàn mở một chiếc ô lá sen bồi giấy vàng, đón Đường phu nhân từ xe ngựa xuống. Đôi chủ tớ cùng nhau vào cửa hàng châu báu. Cửa hàng này là cơ nghiệp tổ tiên Đường gia truyền lại, nằm ở lối vào phía Đông của Toái Cẩm nhai. Qua cầu Thố Phường, đi khoảng hơn mười mét về phía Tây có một con hẻm tên là Thâm Viện, được đặt tên dựa trên mấy câu từ "Đình viện sâu sâu sâu biết mấy? Dương liễu chồng khói. Trướng rèm đếm không xuể". Ngay đầu hẻm là cửa hàng châu báu này.

Trong hẻm Thâm Viện có bảy tám cửa hàng nào là châu báu, nào là váy áo phấn son, bày bán suốt một dọc hẻm nhỏ.

Đường phu nhân không đến mua châu ngọc. Sắp đến Tết Trùng Cửu, bà tới cửa hàng để kiểm tra sổ sách. Công việc tốn khoảng một canh giờ, bà chốt sổ mùa hè với các quản lý của cửa hàng xong hẵng còn khá sớm, chưa đến buổi trưa.

Hai người rời khỏi cửa hàng, người hầu gái giương ô lên, nói: "Phu nhân, mình về thôi ạ."

Đường phu nhân gật đầu. Ra cửa, bà nhìn dòng người tấp nhập giữa phố phường Toái Cẩm nhai. Sắp đến Tết Trùng Cửu, rất nhiều cô gái trẻ gài hoa bên tóc mai. Đường phu nhân bỗng nổi hứng đi dạo phố, bèn bảo nha hoàn: "Lâu rồi không đến Toái Cẩm nhai, chúng ta hãy đi ngắm nghía xung quanh một chút."

Nha hoàn gật đầu thưa vâng.

Dân phong Đại Tống khá cởi mở, các cô gái ăn mặc không diêm dúa cầu kì nhưng vẫn xinh tươi phơi phới. Trên phố Toái Cẩm có khá nhiều thiếu nữ đi lại ngược xuôi, Đường phu nhân ở đầu Đông cầu Thố Phường ngắm nghía, chợt thấy xa xa có một nơi người đông nghịt, không rõ là có chuyện gì.

"Đằng kia có gì thế?"

Nha hoàn nhìn ngó, thưa: "Hình như là sạp bán quà sáng ạ. Giờ cũng sắp đến trưa, chắc bọn họ chuẩn bị dọn hàng rồi."

Đường phu nhân nói: "Chỗ đó đông người quá, ta chưa bao giờ thấy nhiều người tụ tập như vậy."

Nha hoàn đến tận nơi xem xét, lúc thấy rõ sự tình thì sửng sốt, quay về bẩm báo: "Thưa phu nhân, con nhìn thấy thiếu gia."

Đường phu nhân ngạc nhiên: "Thiếu gia ư? Thiếu gia nhà nào?"

Nha hoàn: "Là Đường thiếu gia, Chu Tử Thư từ thôn Triệu gia ạ. Tiểu thư cũng ở đó nữa."

"Hai đứa chúng nó ăn sáng ở đó hả?"

Nha hoàn ấp úng: "Hình như... hình như họ là người mở sạp!"

"Bánh nóng hổi vừa thổi vừa ăn đây!" Tiếng rao vang rền giữa đám đông, kèm theo hương thơm ngào ngạt.

Đứng sau xe hàng nhỏ bằng gỗ, một thiếu niên dáng người cao ráo, gầy gò đang vung vẩy chiếc muôi lớn. Chiếc muôi lướt trên bề mặt chảo sắt, cậu chàng đều tay rót xuống thứ bột sệt. Thêm một cái lắc tay, bột thừa trong muôi lại rót về thùng bột. Chiếc muôi sắt lớn dàn đều hỗn hợp bột ngũ cốc thành một lớp bánh hình tròn. Lửa than bập bùng dưới mặt chảo, bột bánh được chiên nóng phồng lên những bóng khí nhỏ. Chiếc muôi lớn sẽ ấn xuống những bóng khí đó làm chúng nổ lép bép, dậy lên mùi thơm ngọt bùi của bột mì.

Quết một muôi tương ngọt, rải một lớp dưa muối, rau tề thái muối, rau thơm, hành thơm. Chu Tử Thư mở nắp cái lọ gốm nhỏ, múc sốt thịt băm từ bên trong. Sốt thịt này được Diêu đại nương chế biến từ tối hôm qua, trong sốt trộn xì dầu, tương ớt và dầu vừng. Khi bánh rán đến độ "xèo xèo" là lúc phủ sốt thịt lên, hương thịt băm quyện với mùi tương đậm đà sẽ thơm lừng cả con phố.

Chu Tử Thư nhanh tay dùng xẻng sắt nhỏ vén bốn góc miếng bánh, cuộn lại mấy vòng thành cuộn dài, thế là hoàn thành chiếc bánh chiên. Diêu Tam lại cất tiếng rao: "Bánh nóng hổi vừa thổi vừa ăn đây!"

Chu Tử Thư đưa bánh cho khách, cười nói: "Cẩn thận nóng."

"Cảm ơn Đường tiểu lão bản."

Thủ thuật marketing xếp hàng Chu Tử Thư chỉ lặp lại trong hai ngày. Khi sạp quà sáng bánh chiên ngũ cốc đã có chút tiếng ở Toái Cẩm nhai rồi thì cậu không thuê người xếp hàng nữa. Tuy nhiên, cậu vẫn duy trì chiến thuật "đói bụng", nhưng số lượng giới hạn đã tăng từ một trăm lên hai trăm chiếc bánh mỗi ngày.

Mỗi sáng sớm, Diêu Tam và Diêu đại nương sẽ đẩy xe đi bán bánh trước. Diêu Tam đã học được tay nghề rán bánh của Chu Tử Thư, mẻ bánh một trăm chiếc đầu tiên trong ngày sẽ do anh đảm nhiệm. Sau đó khi Chu Tử Thư và Đường Hoàng ngủ dậy, Chu Tử Thư sẽ đến Toái Cẩm nhai bán tiếp một trăm cái sau.

Hai trăm suất bánh một ngày đã là số lượng tối đa bọn họ có thể bán được, muốn bán nhiều hơn cũng không có sức mà kham.

Bán hết hai trăm suất, Chu Tử Thư nắn bóp hai cổ tay mỏi nhừ. Diêu Tam và Diêu đại nương bắt đầu dọn dẹp. Có bóng người đi đến trước sạp, Chu Tử Thư không buồn ngẩng lên, vừa luôn tay thu gom đồ đạc vừa nói: "Hết hàng rồi, mai đến sớm nhé."

Số người đến mua bánh chiên hàng ngày rất đông, hai trăm suất chẳng bõ bèn gì so với nhu cầu nên Chu Tử Thư cho rằng đây chỉ là một thực khách xếp hàng muộn.

Không ngờ giây lát sau, người nọ cất tiếng hỏi: "Xin hỏi...cháu có phải Chu Tử Thư ở thôn Triệu gia không?"

Chu Tử Thư ngẩng đầu lên ngay. Cậu thấy một người phụ nữ đứng tuổi phục sức gấm lụa đang chăm chú nhìn mình, trên cổ tay bà đeo chiếc vòng phỉ thúy xanh biếc, đôi khuyên tai thậm chí còn là phỉ thúy thượng hạng với sắc xanh đế vương3, trông đã toát lên vẻ giàu sang. Chu Tử Thư thoạt tiên không nhận ra bà là ai, đến khi nhìn thấy nha hoàn theo hầu sau lưng, cậu mới nghĩ ra: "Đường phu nhân?"

[3] Xanh đế Cunglà màu hiếm và quý nhất trong các loại phỉ thúy.

Đường phu nhân cười nói: "Ta là đại bá mẫu của cháu đây, cháu gọi bá mẫu là được rồi."

Chu Tử Thư nói: "Đại bá mẫu hôm nay đến Toái Cẩm nhai có việc ạ?"

Từ lần được tặng rương đồ đến nay, người hai nhà không chạm mặt nhau lần nào nữa. Chu Tử Thư không đoán được mục đích tặng quà của Đường phu nhân nên cậu không hành động bộp chộp, cũng không quay lại Đường phủ bàn chuyện tách nhà ở riêng. Đường phu nhân cũng không xuất hiện lại.

Hôm nay phu nhân tới đây, Chu Tử Thư không nghĩ rằng bà cố ý tìm gặp mình. Nếu muốn thật, bà đã đến tận nhà cậu rồi chứ chẳng đứng giữa đường thế này.

Đường phu nhân nhìn dáng vẻ gầy gò của Chu Tử Thư, đôi mày khẽ chau.

Chu Tử Thư mười ba tuổi, hẵng còn là tuổi tóc để chỏm. Đường phu nhân chưa từng gặp Chu Tử Thư, nhưng so với đứa con trai cùng tuổi do người thiếp của Đường cử nhân sinh ra thì Chu Tử Thư quá là ốm yếu, cảm tưởng một trận gió cũng có thể thổi bay.

Chu Tử Thư nếu biết đọc suy nghĩ, nhất định sẽ kêu oan quá: Từ khi xuyên không đến giờ cậu đã cải thiện bữa ăn cho hai anh em bao nhiêu rồi đấy. Trong nhà dư giả, làm gì có chuyện ăn uống tằn tiện bao giờ? Nhất là gần đây chuyển đến phủ Cô Tô, hai anh em tha hồ đánh chén phủ phê. Chu Tử Thư xuyên vào trúng thôn Triệu gia hẻo lánh chỉ có rau dưa đạm bạc, nỗ lực lắm mới tới được Cô Tô, đương nhiên phải hưởng thụ hết mình.

Ai ngờ, người ta ăn thì tăng bề ngang, cậu ăn thì tăng hết vào chiều dọc, tự dưng cao vống lên cả một cái đầu.

Thành thử, đến Diêu đại nương cũng phải xuýt xoa: "Tiểu đông gia cao quá, chưa gì đã lớn tướng rồi!"

Thời xưa khi chế độ dinh dưỡng còn hạn chế, mười bảy mười tám tuổi dậy thì mới là chuyện bình thường, thậm chí mọi người còn không thích phát triển sớm. Chu Tử Thư mười ba tuổi đã bắt đầu trổ mã, chẳng phải là dậy thì quá sớm sao?

Cao lên hẳn một cái đầu mà thịt trên người không tăng theo kịp thì trông gầy là phải.

Đường phu nhân hỏi: "Các cháu mỗi ngày đều bán quà sáng ở Toái Cẩm nhai đó hả?"

Đường Hoàng lần đầu tiên gặp trưởng bối tử tế như thế này, hiếu kì núp sau lưng Chu Tử Thư nhìn trộm Đường phu nhân. Đường phu nhân không phải trang tuyệt sắc giai nhân, nhưng tướng mạo bà đoan chính, cử chỉ dịu dàng, bộc lộ rõ cốt cách của một tiểu thư khuê các sinh ra và lớn lên trong gia đình thư hương. Đường Hoàng trả lời bà: "Vâng, mỗi ngày chúng cháu đều bán bánh chiên. Diêu đại ca và Diêu đại nương tới trước, cháu và anh ngủ dậy thì ra đây giúp một tay."

Đường phu nhân nhớ lại hàng người đông đúc khi nãy, khen: "Sạp các cháu cũng đắt khách ghê!" Bà không nhiều lời, chỉ cười với Chu Tử Thư: "Bá mẫu nhớ lần cuối gặp cháu là chín năm trước, hồi đó cháu mới bé bằng ngần này." Phu nhân lấy tay áng chiều cao của Chu Tử Thư, "Giờ gặp lại cháu đã thành thiếu niên. Thế cháu đã đi học chưa?"

Chu Tử Thư thong thả đáp: "Lúc cha còn sống, cháu có đi học ở trường trong thôn ạ."

"Đường gia nhà mình có lớp học riêng, hai anh của cháu đều theo học ở đó, ngoài ra còn có các anh họ em họ, cùng với trẻ con vài nhà xung quanh. Nếu cháu muốn có thể đi học cùng với các anh. Bọn chúng nó đi học quen quá rồi cũng thấy nhàm, mấy bữa trước nghe nói có em trai từ thôn Triệu gia mới đến Cô Tô, cứ mè nheo đòi cháu đến học cùng. Nếu cháu đến học, ba đứa có thể bầu bạn với nhau luôn."

Nha hoàn nhìn xuống đất, nghĩ bụng: Hai tiểu thiếu gia còn chẳng biết Chu Tử Thư là ai kia mà!

Chu Tử Thư cười nói: "Đa tạ ý tốt của bá mẫu, để dịp nào thuận tiện cháu sẽ đến Đường phủ thăm bá mẫu ạ."

Đường phu nhân gật đầu cười: "Được, ta chờ cháu."

Đường phu nhân và nha hoàn ra về. Chu Tử Thư nhìn theo đăm chiêu.

Đường Hoàng thở phào: "Đại bá mẫu thật là tốt bụng, nói chuyện cũng dịu dàng nữa. Em còn tưởng bà ấy sẽ coi thường chúng mình giống Đường cử nhân, không thèm đếm xỉa đến bọn mình. Anh, đại bá mẫu nói muốn cho anh đi học, anh có đi không kìa?" Cô bé mở to mắt, nhìn Chu Tử Thư đầy mong mỏi. "Nếu anh đến đó, có thể học chung với hai anh nhà Đường cử nhân đấy, họ cũng muốn anh đến học cùng đó!"

"Muốn anh đến ư?" Chu Tử Thư suýt nữa thì cười phá lên.

Đường Hoàng: "?"

"Đại bá mẫu là người tế nhị nên nói khách sáo thế thôi. Được rồi, chuyện học hành anh tự có tính toán, về nhà nào."

Bốn người vừa về tới nhà đã thấy có người chờ ở cổng.

Chu Tử Thư thấy người ta thì vội vàng đến chào hỏi.

Lương quản gia khom người chào, đưa một tấm thiệp cho Chu Tử Thư: "Đường tiểu công tử, đại nhân nhà ta đã trở về từ Kim Lăng. Đây là thiệp mời, đại nhân nhắn công tử đến lúc ghi trong thiệp thì ghé phủ hàn huyên với ngài." Dứt lời, ông ta nhanh chóng ra về.

Chu Tử Thư mở thiệp mời ra xem.

Ngạc nhiên thay, tấm thiệp thêu chỉ vàng chỉ đề một bài thơ bốn câu viết bằng chữ Khải trâm hoa. Chu Tử Thư đọc lên:

"Thiên tình nhật nguyệt định

Quả hương nghênh phong tiến

Nhập thất ngưỡng chí cực

Bả tửu đông song cúc."

Đây là câu đố dạng thơ à?4

[4] Chém: Trời cho ngày đẹp mây lành, gió đưa hương quả ngọt lành mê tơi. Mến mời, bạn có ghé chơi? Cúc vàng song cửa, ta thời nâng li Chu Tử Thư nhíu mày, cẩn thận suy nghĩ.

Nghĩ một hồi nghĩ đến tận trưa.

Diêu đại nương bưng mâm cơm từ bếp ra, bốn người ngồi ngoài sân ăn trưa. Chu Tử Thư tay trái cầm thiệp mời, tay phải cầm đũa, vừa gắp một miếng rau lên đã lại nhìn đăm đăm vào tấm thiệp, đặt đũa xuống. Hai ba lần như thế, Đường Hoàng sốt ruột bảo: "Kìa anh, anh xem cái gì mà say sưa thế? Ăn cơm đi đã."

Chu Tử Thư ngẩng đầu nhìn em gái, ánh mắt cậu chợt dừng ở bông hoa vàng cô bé gài bên thái dương.

Bị nhìn chằm chằm một lúc lâu, cô bé đỏ bừng mặt, giựt bông cúc xuống: "Thôi đi! Em thấy mọi người đều cài hoa nên mới cài theo. Ôi, đừng nhìn nữa, đồ xấu bụng!" Yêu cái đẹp là bản tính của con người, Đường Hoàng cho là Chu Tử Thư muốn chọc ghẹo mình vì làm đỏm, ngượng đến phát cáu luôn.

Chu Tử Thư giật mình hỏi: "Hoa cúc à? Diêu đại ca này, sắp đến Tết Trùng Cửu rồi phải không?"

Diêu Tam đáp: "Đúng vậy, ba hôm nữa là đến Trùng Cửu rồi, tiểu đông gia không biết à?"

Lịch thời xưa Chu Tử Thư chẳng bao giờ nắm chắc, từ khi đến Cô Tô lại miệt mài lo kiếm tiền nữa, có chú tâm tới ngày tháng bao giờ.

Cậu cười nói: "Đãi đáo trùng cửu nhật, hoàn lai tựu cúc hoa." [5]

[5] Hẹn nhau đến ngày Trùng Cửu Sẽ trở lại nơi này để ngắm hoa cúc. trích bài thơ "Qua nhà bạn cũ" của thi sĩ Mạnh Hạo Nhiên thời Đường Ba ngày sau, Tết Trùng Cửu, buổi trưa.

Lương quản gia mở cửa, nghênh đón Chu Tử Thư vào Lương phủ. Ông cười nói: "Đường tiểu công tử, đại nhân vừa tự hỏi liệu công tử có biết phải đến hôm nay không, không ngờ công tử đã tới đây rồi."

Xuyên qua hai cánh cửa hông, băng qua một hành lang lộng gió, ở ngôi đình có mái cong vút bên cạnh hồ sen, Lương đại nho ngồi quay lưng về phía Chu Tử Thư, tự châm trà, phóng tầm mắt thưởng thức cảnh hồ sen động lòng người. Chu Tử Thư tới gần mới thấy, hoa trong hồ đã tàn từ lâu, chỉ còn lại đôi ba cành khô lá úa, nhưng Lương đại nho vẫn ngắm nhìn say sưa, vừa nhâm nhi trà, vừa thưởng thức hoa.

Chu Tử Thư chắp tay thi lễ: "Tiên sinh, tiểu tử đến bái phỏng."

Cậu gọi "tiên sinh" chứ không gọi "đại nhân", tức là tự đặt mình vào vị trí vãn bối trước một người trưởng bối, coi mình như một nho sinh đang ngước nhìn bậc đại nho được cả thiên hạ tôn sùng thay vì một thường dân cúi đầu trước mệnh quan triều đình.

Lương đại nho mỉm cười, ông ngẩng lên nhìn Chu Tử Thư. Đôi mắt thâm thúy, ôn hòa của ông lướt qua rồi dừng lại trên đỉnh đầu cậu. Lương Tụng nói: "Mấy tháng không gặp, cao lên nhiều quá. Ngồi đi." Chu Tử Thư cung kính ngồi xuống.

Cậu hỏi: "Tiên sinh đang ngắm hoa ạ?"

Lương Tụng đáp: "Ồ? Ngươi nhìn quanh viện mà xem, có còn đóa hoa nào đâu."

"Tiên sinh nói, "nhập thất ngưỡng chí cực, bả tửu đông song cúc", chẳng phải là muốn tiểu tử đến ngắm hoa cúc cùng vào dịp Tết Trùng Cửu sao?"

||

Lời tác giả:

Tiểu công thần bí họ Cung– chi lan ngọc thụ – nam thần quốc dân chưa debut: Có người bảo...ta là CungTư Thông? (Phú nhị đại nổi tiếng Trung Quốc. Tài sản gia đình lên đến hàng tỷ USD)

Tiểu Thư Lang: Đúng, bọn họ còn bảo huynh tên là CungCảnh Trạch cơ há há há há! (một thiếu niên ngỗ nghịch bị đưa lên miền núi sống khổ sở để cải tạo trong một show truyền hình. Cậu này đã thay đổi 180 độ và trở nên nổi tiếng.)

Tác giả ngok nghek: Ngừi ta không phải như thế mà, các thím đừng có trêu ngừi ta nữa QAQ

Minh họa

Bánh chiên

Rau tề thái

Phỉ thúy xanh đế vương

Chú thích

Còn gọi là Trùng Dương vì 9 là số dương. Một số phong tục trong ngày lễ này là lên núi cao, cắm cành thù du, uống rượu hoa cúc, ngắm hoa cúc.

Trích bài từ Điệp luyến hoa kỳ 1, tác giả Âu Dương Tu.

------oOo------

Chương 9

Nguồn: EbookTruyen.Net

Hoa cúc và đá – Họa sĩ: Chen Hongshou (1598-1652)

CungTử Phong

"Nhập thất ngưỡng chí cực, bả tửu đông song cúc. Có câu nào bảo ngươi tới thưởng cúc à?"

Chu Tử Thư hỏi ngược lại: "Lẽ nào tiên sinh không có ý đó?"

Lương Tụng nhìn thẳng vào mắt Chu Tử Thư. Lát sau, ông nở nụ cười: "Đúng. Ngu Chi, mang bức 'Đông song cúc1' ra đây cho chúng ta thưởng thức."

[1] Hoa cúc dưới cửa sổ phía Đông.

Đằng xa, chàng trai áo xanh đã từng tháp tùng Lương đại nho đến thôn Triệu gia lần trước cung kính gật đầu, đi đến thư phòng lấy một quyển tranh. Anh ta đứng ở bên ao sen đã tàn, cẩn thận mở quyển tranh ra.

Cuộn tranh bằng giấy Tuyên Thành trắng ngà, nét mực uyển chuyển họa nên một khóm cúc đương bung hoa, trong tĩnh có động. Từng đường bút trong bức tranh đều vô cùng điêu luyện. Bông cúc thành hình từ những nét mực loang trên giấy, có chỗ nhạt như nhành liễu phớt qua mặt hồ, có chỗ lại đậm như rêu phong điểm trên đá. Bố cục bức tranh đặt điểm nhấn vào khóm cúc đặt dưới bệ cửa sổ, toàn bộ phần trên của khung tranh để trắng, phía góc trái đề một bài thơ ngắn.

Hoa nở chẳng cùng trăm giống khác, Rào thưa riêng đứng, thú dường bao. Đầu cành thà chịu ôm hương chết, Chẳng rụng vào trong gió bắc nào!

Thơ viết theo lối trâm hoa tiểu Khải, nét chữ rất mảnh và tinh tế, Chu Tử Thư bất giác ngắm nghía đến nhập thần. Bút pháp của người này có khí khái mà không kém phần lả lướt, tuy dùng kiểu chữ Khải nhỏ rất mực tao nhã đấy, nhưng từng con chữ ẩn chứa bút lực sung mãn phi thường.

Chu Tử Thư đưa mắt tới phần lạc khoản của bức họa.

Trên bức tranh in dấu lạc khoản đỏ thẫm của tận hai người. Lạc khoản của người thứ nhất đề "Điêu Trùng trai chủ", lạc khoản của người thứ hai đề "CungTử Phong."

Ánh mắt Chu Tử Thư tần ngần ở cái tên "CungTử Phong" mãi.

Chu Tử Thư trở về thời đại cũ ngót nghét nửa năm, phần lớn thời gian đều ngụ ở thôn Triệu gia, cơ hội được tiếp xúc với thư họa chẳng có, càng không có chuyện được luận đàm về những tác phẩm thư họa của danh gia. May mắn thay, kiếp trước lúc học tiến sĩ, cố vấn của cậu là một người vô cùng đam mê thư họa. Chuyên ngành khoa học kĩ thuật không hề khiến thú vui sưu tầm thư họa văn nhân của ông giảm sút, thành thử Chu Tử Thư cũng được mở mang tầm mắt chút đỉnh.

Bình thường trên con dấu của văn nhân đều khắc tên hiệu của mình, ví dụ như Lý Bạch thì khắc "Thanh Liên cư sĩ", Tô Thức thì khắc "Đông Pha cư sĩ". Người nào để tên thật thì hoặc là tuổi còn nhỏ, hoặc là mới chập chững vào nghề, tư lịch không sâu nên chưa đáng đặt biệt hiệu. Hoặc, đó có thể là người tiếng tăm lẫy lừng, thế nhân ai cũng biết tới.

Chẳng có lẽ, tác giả của tác phẩm này chỉ là một tay nghiệp dư?

Chu Tử Thư nghĩ Tần nghĩ Sở một hồi, nhưng tuyệt nhiên không đem thắc mắc trong lòng nói ra. Cậu thưa với Lương đại nho: "Tiên sinh, tiểu tử ngu dốt, mong ngài thứ cho tội ăn nói huênh hoang hồi nãy. Con tự thấy mình chưa đủ hiểu biết để thưởng thức bức tranh này ạ."

Lương Tụng cười: "Ngươi cũng thật thà đấy."

Chu Tử Thư xuất thân bần hàn, tuổi lại nhỏ, nếu cố tình bảo mình hiểu thì người khác sẽ biết là nói dối.

Chu Tử Thư khéo léo đổi trọng tâm đề tài: "Song, học trò trộm nghĩ, bức tranh này vẽ đẹp lắm, bài thơ này rất hay, chữ viết cũng đẹp nữa ạ."

Lương Tụng buồn cười: "Tranh đẹp, chữ đẹp sao? Ngươi khen cũng đơn giản nhỉ. Vậy thử nói ta nghe xem, phần tranh đẹp hơn, hay phần chữ đẹp hơn?"

Chu Tử Thư sửng sốt, thì ra tranh vẽ và chữ viết không phải do một người thực hiện?

Tuy bất ngờ này không làm cậu lúng túng, nhưng trong lòng Chu Tử Thư đã suy xét tới lui. Thực sự cậu cũng không đến mức xem tranh mà không thể bình luận được đôi ba câu, dẫu sao kiếp trước cũng đã nhiều lần chém gió cùng giáo sư cố vấn. Ngặt nỗi, Chu Tử Thư đến từ Triệu gia thôn không thể biết nhiều như vậy được, dù cậu đoán bức họa này hẳn là do bằng hữu của Lương đại nho thực hiện.

Mím môi một lát, Chu Tử Thư cẩn thận nói rằng: "Cả hai đều rất tuyệt ạ, dù là tranh hay chữ thì tiểu tử cũng không học theo nổi."

Cậu tự hạ thấp mình chắc là qua cửa ha?

Lương Tụng cười phá lên: "Chữ trên tranh này là do Tử Phong viết. Thằng nhóc này từ bé đã thông tuệ, thiên phú không người nào bì nổi. Ai ai cũng biết nó thi họa song tuyệt, ngươi muốn vượt qua nó thì khó lắm. Nhưng tranh thì chưa chắc đâu. Bức tranh này vốn do Vu lão đầu vẽ. Họa kỹ của lão chán không thể tả, bao nhiêu năm rồi không tiến bộ, có khi ngươi bắt kịp được lão cũng nên!"

Chu Tử Thư nghe câu trước thì gật đầu dạ vâng, nghe câu sau thì lắc đầu quầy quậy: "Tiên sinh lại chế giễu tiểu tử rồi."

Đối đáp một chặp, bầu không khí trong đình cũng cởi mở hơn nhiều.

Hai người uống rượu với đồ nhắm. Chu Tử Thư cư xử rất phải phép, không hèn mọn, chẳng kênh kiệu, cũng không xun xoe bợ đỡ hay dè dặt thấp thỏm trước người trên, khiến Lương đại nho hết sức đẹp lòng. Sang ấm trà thứ hai, Lương Tụng bỗng đặt chung trà lên bàn. Sau cái tiếng "cạch" khe khẽ đó, ông mỉm cười: "Ba tháng trước, ngươi có hỏi ta, kẻ sĩ vì sao mà phải đọc sách đúng không?"

Chu Tử Thư vừa nghe liền biết đã vào chủ đề chính, lập tức buông đũa.

"Vâng, tiểu tử bất tài, lúc đó quả đúng là đã cả gan hỏi tiên sinh câu này."

Lương Tụng nói: "Thoạt tiên ngươi nói, người học trò đọc sách là để tri thư đạt lý. Phải không?"

"Dạ phải."

"Ngươi nói cũng không sai. Đọc sách để tri thư đạt lý, để làm sáng tỏ cái đúng, phản bác cái sai. Lúc trước ta chưa nói cho ngươi đáp án, hôm nay chúng ta lại gặp gỡ, Chu Tử Thư, ta hỏi ngươi, đáp án của ngươi có còn như cũ chăng?"

Chu Tử Thư hơi do dự, cậu không biết Lương đại nho có ý gì, đành đáp: "Thưa, vẫn vậy ạ."

Lương Tụng khẽ cười, thở dài nói: "Ly bất tuất kỳ vĩ, nhi ưu tông chu chi vẫn, vi tương kỳ yên."

Chu Tử Thư ngẩng đầu, buột miệng: "Dạ?"

Lương đại nho nhìn thiếu niên xinh xẻo như tạc trước mặt mình, ánh mắt thâm thúy có ý tán thưởng, song lại ẩn giấu chút nuối tiếc vì chưa thể khai quật được tài năng.

"Đây là đáp án của ta cho ngươi."

Mãi đến lúc rời khỏi Lương phủ, Chu Tử Thư cũng không hiểu ý câu nói kia của Lương đại nho. Thậm chí, cậu còn chẳng biết lời này có nghĩa gì.

Chu Tử Thư vốn định trả thiệp mời lại cho quản gia Lương phủ vì theo lệ, sau khi ghé thăm, khách phải trả thiệp mời cho chủ nhân. Ấy thế mà quản gia lại nói: "Đường tiểu công tử, thiệp mời này cậu hãy giữ lấy."

Chu Tử Thư kinh ngạc: "Sao lại thế ạ?"

"Đích thân đại nhân dặn dò vậy."

...Lương đại nho dặn dò như vậy ư?

Đây là lần đầu tiên Chu Tử Thư gặp phải một vấn đề hóc búa như vậy, cậu cứ nghĩ ngợi mãi đến tận lúc về nhà.

(Bản edit chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com; hãy vào đúng trang để có trải nghiệm đọc truyện tốt nhất hoặc theo dõi trên ứng dụng WordPress.)

Về tới nhà, bốn người Đường gia bắt đầu ngày tết thưởng cúc. Nhà ít người, chỉ có đúng bốn nhân khẩu, nhưng phong tục tết Trùng Cửu không vì thế mà bỏ qua. Trong phủ thành Cô Tô không có núi, nhưng ngoài thành có một con dốc nhỏ, đi xa hơn chút nữa còn có núi Thiên Bình, núi Tây, núi Đông.

Chu Tử Thư không quá câu nệ, cậu chỉ leo lên một mỏm đất trên con dốc ngoài thành, cắm một cành thù du theo đúng phong tục là xong.

Đêm xuống, Đường Hoàng hồ hởi bê một chậu hoa cúc vào trong sân để một nhà bốn người vừa ngắm hoa vừa ăn tối.

Chu Tử Thư trêu: "Tiểu cô nương này tuổi nhỏ mà bệnh hình thức nặng ghê!"

Đường Hoàng thắc mắc: "Bệnh hình thức là gì cơ?"

Chu Tử Thư: "Anh có nói em cũng không hiểu đâu."

Đường Hoàng: "Còn lâu, rõ ràng em có hiểu nhé. Anh toàn nói nhăng nói cuội thôi."

Chu Tử Thư cười phá lên.

Thấm thoắt đã bốn, năm ngày trôi qua, Chu Tử Thư vẫn thường xuyên lấy tấm thiếp mời của Lương đại nho ra để suy ngẫm.

Ngày Trùng Cửu, cậu hiểu Lương đại nho đưa thiếp mời cho mình là có ẩn ý.

Thoạt tiên Chu Tử Thư suy đoán Lương đại nho hẹn mình tới dùng bữa, bởi trên thiệp mời Lương đại nho có ý mời mình tới ngắm hoa cúc. Sở dĩ cậu đoán là buổi trưa chứ không phải buổi tối vì Lương đại nho là phủ doãn Cô Tô, buổi tối hẳn sẽ phải chủ trì buổi yến mừng tết Trùng Cửu, chiêu đãi thế gia đại tộc, phú hào hương thân ở Cô Tô chứ không rảnh rỗi.

Diễn biến sau đó đã chứng minh cậu đoán đúng, nhưng...

"Rốt cuộc còn cái gì mình chưa phát hiện ra nhỉ?"

Không chỉ suy ngẫm, Chu Tử Thư còn xem hết lại một lượt Tứ thư, Ngũ kinh. Đáng tiếc, trong Tứ thư và Ngũ kinh đều không có câu "Ly bất tuất kì vĩ" mà Lương đại nho nói. Chu Tử Thư đành bỏ qua, chờ có dịp sẽ tra cứu thêm các sách khác.

Cửa hàng bánh chiên càng ngày càng đắt khách, giúp Đường Hoàng âm thầm gom góp được một gia tài nhỏ. Sang thu, tiết trời lạnh dần, còn gì khoan khoái bằng xơi một chiếc bánh chiên nóng hổi vào buổi sáng. Người mua bánh chiên vì thế cũng đông lên nhiều.

Vốn Chu Tử Thư định mỗi ngày chỉ bán hai trăm bánh, nhưng Diêu Tam và Diêu đại nương một mực không chịu.

Diêu Tam khuyên: "Tiểu đông gia, cậu đừng bận tâm nữa. Cậu còn phải lo việc đèn sách, sáng tôi sẽ dậy sớm hơn, hàng ngày làm thêm bao nhiêu được thì làm bấy nhiêu."

Bây giờ quầy bánh chiên ngũ cốc của Chu Tử Thư ở Toái Cẩm nhai đã có tiếng tăm, không cần duy trì chiến lược "đói hàng" nữa mà vẫn có rất đông khách nghe danh mà đến. Diêu Tam thấy Chu Tử Thư mấy bữa nay cứ loanh quanh với Tứ thư, Ngũ kinh lại ngỡ cậu muốn đi học tiếp mà vướng bận chuyện cửa hàng bánh chiên.

Chu Tử Thư cũng không cản Diêu Tam cáng đáng thêm việc, cậu chưa đi học lại, nhưng quả thật có việc khác định làm.

"Diêu đại ca này, anh đi mua giúp tôi một ít vôi sống và men nở đi."

Men nở thường được dùng để làm nở, làm phồng thực phẩm, thành phần khá giống với baking soda của thời hiện đại. Để làm ra bánh chiên thì không cần men, nhưng bánh bao và bánh màn thầu thì cần. Diêu Tam tưởng Chu Tử Thư muốn bán bánh bao, bèn hỏi: "Tiểu Đông gia, chúng ta định bán cả bánh bao ư?"

Chu Tử Thư biết Diêu Tam hiểu lầm, nhưng cậu không tiện giải thích, chỉ nói: "Anh cứ mua về đi đã."

Qua một chốc, Diêu Tam đã vác về hai cái bao to.

Đường gia có hai chiếc chảo sắt lớn. Chảo sắt thời cổ và chảo sắt ở nông thôn thời hiện đại không khác gì nhau. Ngoài các tửu lâu ra, hầu hết các nhà đều gắn chảo lớn cố định với lò bếp. Đường gia có hai chảo, bình thường Diêu đại nương vẫn nấu cơm, xào rau bằng hai chiếc chảo này.

Chu Tử Thư ngắm nghía hai cái chảo một hồi, nói: "Diêu đại ca, anh đi mua thêm một cái chảo nữa đi."

Diêu Tam mua chảo mới về, Chu Tử Thư bèn đổ vôi sống vào, rồi rót thêm ít nước.

Vôi sống dính nước một cái là sôi xèo xèo lên ngay.

Đường Hoàng và Diêu đại nương nghe tiếng động lạ thì tò mò sang xem. Đường Hoàng không giấu nổi ngạc nhiên: "Anh, anh đang làm gì thế?"

Chu Tử Thư vẫn chăm chú vào chiếc chảo: "Chế tạo một thứ cực kì hay ho."

Vôi sống phản ứng mãnh liệt với nước, trong chốc lát giữa chảo đã xuất hiện dung dịch đùng đục màu trắng sữa. Chu Tử Thư bỏ men nở vào rồi khuấy bằng que sắt, tập trung quan sát phản ứng trong chảo.

Ba "quan sát viên" lại ù ù cạc cạc nhìn Chu Tử Thư thực hiện thí nghiệm mà có lẽ mọi học sinh cấp ba của thời hiện đại đều nhận ra.

Đúng thế, cậu đang tạo ra NaOH, còn có tên thông dụng là xút.

Trong quá trình vôi tôi phản ứng với men bánh thì xuất hiện chất rắn màu trắng kết tủa và lắng xuống đáy chảo, còn phía trên là chất lỏng không màu.

Chu Tử Thư kiên nhẫn đợi dung dịch trong chảo phản ứng hết. Sau đó, cậu cẩn thận nắm quai chảo, từ từ đổ chất lỏng vào một chiếc vại sứ.

Điều kiện có hạn, Chu Tử Thư chẳng có cách nào điều chế ra NaOH có độ tinh khiết cao, đành có gì xài nấy.

Sau đó cậu lấy bình dầu hạt cải ở trong bếp ra, đổ vào chiếc chảo lúc này đã được rửa sạch và lau khô. Đến khi mức dầu cao chừng một ngón tay và phần đáy chảo ngập dầu hoàn toàn, cậu bắc chảo lên bếp than, châm lửa đun. Chảo dầu dần nóng lên, khi đạt đến độ âm ấm, Chu Tử Thư bèn từ từ đổ chất lỏng kì lạ trong vại sứ vào chảo dầu.

Diêu Tam hỏi thầm: "Tiểu đông gia đang làm gì thế?"

Câu này đương nhiên hai bà cháu Diêu đại nương và Đường Hoàng chẳng thế nào trả lời, đâm ra ba người cứ có cảm giác ngờ ngợ là Chu Tử Thư bị ma nhập. Họ đều không hiểu thứ nước kì lạ trong vại sứ là gì mà khi vào chảo lại sinh ra một chất lỏng lạ lùng khác. Tò mò là thế, nhưng ba người đều một lòng tin tưởng Chu Tử Thư, chỉ chăm chú quan sát chứ không quấy rầy cậu.

Chu Tử Thư đổ được nửa vại sứ thì đặt xuống đất, dặn dò: "Bất kể có việc gì cũng không được đụng vào cái vại này nhé!"

Diêu Tam gật đầu: "Tôi nhất định sẽ không động vào đâu."

Dặn xong, Chu Tử Thư bắt đầu khuấy chảo dầu trộn với NaOH một cách từ tốn. Cậu vừa chú ý canh lửa giữ nóng chảo, vừa khuấy dung dịch đều đặn. Khoảng mười lăm phút sau, cậu ngừng khuấy, bây giờ là lúc đợi thí nghiệm hoàn thành.

Trong lúc đợi, Chu Tử Thư hỏi Diêu Tam: "Diêu đại ca, nếu tôi muốn chế tạo một cái bình sắt thì phải kiếm ai ở Cô Tô nhỉ?"

Diêu Tam nói: "Tiểu đông gia muốn bình sắt kiểu gì, cậu vẽ cho tôi xem, tôi ra đầu phố hỏi thợ rèn Vương."

"Anh chờ chút."

Chu Tử Thư về phòng lấy giấy bút. Cậu ngẫm nghĩ đôi chút, rồi đặt bút vẽ.

Diêu Tam cầm bức tranh lên hình.

Bản vẽ của thứ đồ này mới kì lạ làm sao, trông dáng vẻ như một chiếc bình, bên trong có vẻ rỗng ruột, lại còn có những đường cong kì lạ. Diêu Tam ngắm nghía một hồi, hỏi: "Tiểu đông gia, cậu vẽ thứ gì đây, tôi không nhận ra được."

Chu Tử Thư: "Ừ nhỉ, đây là bản vẽ phối cảnh, anh không hiểu được, mà thợ rèn Cungchắc cũng không hiểu. Thôi bỏ đi, chờ tôi chế tạo xong cái này, tôi sẽ cùng anh đến nhà bác ta hỏi chuyện vậy."

"Vâng."

Đường Hoàng rất tò mò, ông anh trai nhà mình đang nấu cái gì thế nhỉ? Cô nhóc hỏi: "Chu Tử Thư, anh đang nấu món gì đấy, ăn có ngon không thế? Sao em thấy anh cho cả men bánh cả dầu ăn vào mà chẳng có mùi thơm gì cả. Món mới này ăn có ngon như bánh chiên ngũ cốc không?"

Chu Tử Thư nghe thế liền bảo: "Ăn có ngon không á? Cái này không ăn được."

"Hả, không ăn được á? Nếu thế sao anh lại nấu trong chảo?"

"Cái này không ăn được, nhưng nhờ nó em sẽ mua được rất rất nhiều bánh chiên ngũ cốc đấy!"

Lúc này, dung dịch trong chảo đặc dần. Dầu ăn màu vàng đậm từ thể lỏng đã đông lại thành thể rắn. Mắt sáng ngời, Chu Tử Thư nhanh tay nạy chất rắn mới hình thành này ra khỏi chảo.

Cậu cho hết chất rắn màu vàng vào một chiếc hũ, gọi Diêu Tam ra: "Diêu đại ca, anh thử nhúng tay vào dầu ăn đi."

Diêu Tam ngơ ngác: "Dạ?"

"Anh cứ nhúng vào đi xem nào."

Diêu Tam ù ù cạc cạc làm theo, lúc rút tay ra khỏi hũ dầu, hai bàn tay dính dầu láng bóng.

Chu Tử Thư móc một cục màu vàng từ trong hũ ra: "Bây giờ anh rửa tay với cái này."

Diêu Tam bán tín bán nghi cầm cái cục màu vàng kia rửa tay, nghĩ bụng thứ này làm từ dầu ăn thì hẳn là càng rửa sẽ càng nhờn. Nào ngờ, hai bàn tay dính nhờn được rửa sạch bong, chẳng còn sót lại tí dầu ăn nào cả.

Diêu Tam ngạc nhiên: "Ôi, cái này là cái gì thế, rửa sạch hơn cả di tử4 luôn!"

[4] Chất tẩy rửa làm từ tụy lợn trộn với bột đậu nành. "Di tử" nghĩa là "tụy".

Chu Tử Thư cười khì: "Cái này ấy hả? Xà phòng đấy! Hữu dụng lắm!"

Đường Hoàng và hai mẹ con họ Diêu rất đỗi kinh ngạc, thi nhau thử nhúng tay vào dầu rồi lấy xà phòng rửa. Một mình Chu Tử Thư đi ra khỏi căn bếp, ngước lên trời, thở dài.

"Không ngờ rằng Chu Tử Thư này xuyên thời gian nửa năm, cuối cùng vẫn phải đi vào lối mòn!"

Xà phòng – vật phẩm không thể thiếu của người xuyên thời gian, ngày hôm nay đã được chế tạo thành công bởi Chu Tử Thư.

Cậu phì cười, dù không phải vật phẩm thiết yếu của người xuyên thời gian, cậu cũng muốn chế tạo!

"Được rồi Diêu đại ca, đừng rửa tay nữa. Cả nhà ra ngoài nào, khóa nhà bếp lại. Hai bà cháu nhớ lời dặn của tôi, trước khi tôi về thì đừng vào bếp, cũng đừng động vào thứ gì trong bếp cả, nhất là cái vại sứ đấy!" Chu Tử Thư dặn dò kĩ càng rồi nói: "Diêu đại ca, anh em ta đi gặp thợ rèn Cungnào."

"Được!"

||

Anh Cunghàng xóm: "Hôm nay tui được lên sàn đó hở?"

Tác giả ngok nghek (làm mặt bí ẩn): Mọi người đoán xem, có được hơm?

(Manh: Làm xong chương này héo cả người TvT Nguồn gốc cái tên "Anh Cunghàng xóm" thì tầm bốn chục chương nữa sẽ có lời giải đáp nhé )

Minh họa

Cây thù du

Một bài thơ viết bằng thể chữ Khải của Tai Jing Nong (1903-1990)

Chú thích

Bài thơ "Họa cúc" (Vẽ hoa cúc) của Trịnh Tư Tiếu thời Nam Tống. Dịch giả: Trần Trọng San

Trích Tả truyện, đoạn kể về năm thứ 24 thời Lỗ Chiêu Công.

Dịch nghĩa: Người góa phụ chẳng băn khoăn đến đường tơ mình dệt, nhưng lại lo lắng cho sự sụp đổ của nhà Chu, (bà ta lo) không biết điều gì sẽ xảy đến với mình. (dịch từ bản dịch tiếng Anh của Đại học Virginia tại )

------oOo------

Chương 10

Nguồn: EbookTruyen.Net

Tinh dầu

Chu Tử Thư và Diêu Tam cùng đến lò rèn của thợ rèn Vương.

"Choang...choang..." – những tiếng quai búa đều đặn vang lên từ trong cửa hàng. Thợ rèn Cungđể trần hai cánh tay, nện từng nhát búa lên miếng sắt trên đe. Thấy Chu Tử Thư và Diêu Tam tới, ông hồ hởi: "Tiểu Thư Lang và Diêu Tam đấy à? Sao hôm nay lại có thời gian rảnh sang đây chơi thế?"

Chu Tử Thư đáp: "Bác Vương, cháu sang nhờ bác xem giúp dụng cụ này xem có rèn ra được không ạ."

"Ờ, đưa bác xem nào."

Chu Tử Thư giở bản phác thảo "Bình chưng cất tinh dầu" mình vẽ hồi nãy ra cho ông.

Hiển nhiên, sau khi chế tạo xong xà phòng theo phương pháp thô sơ của thời cổ đại, sản phẩm kế tiếp Chu Tử Thư muốn chế tạo chính là tinh dầu.

Thợ rèn Cungcả đời theo nghề rèn đúc, đã từng thấy biết bao nhiêu bản thiết kế vũ khí và các loại đồ trang trí khác nhau. Đương nhiên, ông có con mắt hơn hẳn Diêu Tam trong việc đọc bản vẽ. Mặc dù ban đầu, cách vẽ phối cảnh Chu Tử Thư dùng để mô tả chiếc bình chưng cất đơn giản này khiến ông hơi bối rối, nhưng sau khi nghiên cứu một lát, ông chỉ ngay vào một bộ phận được vẽ bởi hai đường cong trên bản thiết kế, hỏi: "Đây là cái gì?"

"Bộ phận này là ống ngưng tụ. Bác Vương, cháu miêu tả để bác thử hình dung nhé. Cháu muốn rèn một cái bình lớn. Ở đáy bình bác làm cho cháu một cái rây để ngăn cách nước sôi với khoang chứa các loại cỏ, hoa ở trên.

Toàn bộ bình về cơ bản là kín, khí nóng bốc lên sẽ đi qua hai cái ống này. Khoảng trống bao quanh hai ống này mình sẽ xối nước lạnh."

Thợ rèn Cungsuy nghĩ một lát, nói: "Tiểu Thư Lang, dụng cụ này bác chế tạo được, nhưng mà sẽ mất công ra phết đấy."

Chu Tử Thư vốn không hi vọng nhiều, nghe thế thì mừng rỡ: "Thế cần bao lâu thì xong hả bác?"

"Cỡ nửa tháng. Cháu muốn nhanh hơn thì phải thêm tiền công. Bác không nói thách đâu, bác đang có mấy đơn người ta đặt hàng từ trước. Cháu cần gấp thì bác tính năm xâu tiền, sau ba ngày là có."

"Được ạ!"

Thợ rèn Cungkhông nói ngoa, ba hôm sau, ông đã khuân đến nhà Chu Tử Thư một cục sắt to tổ chảng kiểu dáng thô sơ, vừa nặng vừa đen sì sì.

Theo tiêu chuẩn thì bình chưng cất phải đảm bảo yêu cầu nghiêm ngặt về độ kín khí, nhưng do điều kiện có hạn, Chu Tử Thư không đòi hỏi quá cao. Cậu đã nhờ Diêu đại nương và Đường Hoàng ra ngoài thành hái một ít hoa cúc, hoa hồng và hoa quế về, bứt cánh hoa để vào trong chậu. Hai chiếc chậu lớn làm cả khoảnh sân ngào ngạt hương hoa.

Có bình chưng chất, Chu Tử Thư bắt đầu công cuộc tạo ra tinh dầu.

Tinh dầu nghe thì có vẻ ghê gớm nhưng kì thực lại dễ làm. Ở thời hiện đại, chỉ cần mua một bình chưng cất nhỏ là có thể tự làm tinh dầu tại gia. Chu Tử Thư ngắm nghía "cục than bự" nhà mình, nghĩ bụng: Đằng ấy hơi thô sơ tí thôi nhưng cũng là bình chưng cất thứ thiệt đó, đừng làm tớ mất mặt nha.

Tinh dầu có được chế tạo thành công hay không phải xem chiếc bình chưng cất "thời đồ Đá" này có hoạt động không đã.

Trong ba loại cánh hoa, Chu Tử Thư lựa ra hoa quế có mùi hương nồng nhất. Cậu nhồi một đống cánh hoa vào trong bình. Bình chưng cất chia làm ba bộ phận, nằm dưới cùng là khoang chứa nước, trên mặt nước là rây lọc, trên rây lọc là ngăn chứa cánh hoa.

Chu Tử Thư đặt bình chưng cất lên lò đun nóng, khi nước trong lò sôi sục lên, hơi nước quyện hương hoa sẽ bốc lên đỉnh bình. Đỉnh bình được đúc kín, chỉ có hai ống sắt nhỏ thông ra ngoài.

Hai ống sắt này đều được uốn tròn để giảm diện tích, chứ nếu duỗi thẳng ra thì mỗi ống phải dài ít nhất hai mét.

Thợ rèn Cungkhá tò mò Chu Tử Thư đặt hàng dụng cụ kì lạ đó để làm gì, bèn ở lại trong sân xem cậu hí hoáy. Ông bảo ba người Diêu Tam: "Cái dụng cụ này ngộ ghê! Tiểu Thư Lang chế tạo nó để làm gì thế? Đã tạo ống ngoằn ngoèo ngoài bình, lại còn uốn thành mấy vòng, rồi ngâm hai cái ống vào trong nước nữa."

Diêu Tam cũng mù mờ không khác gì ông: "Tiểu đông gia làm gì, chúng tôi chẳng bao giờ hiểu nổi. Chuyện của người đọc sách ấy mà."

Thợ rèn Cungvẫn thắc mắc: "Cái thứ trong ống lại không tiếp xúc với nước, thế phỏng có ích gì?"

Chu Tử Thư nói: "Có ích lắm đấy, bác cứ chờ mà xem."

Hơi nước đi theo hai ống sắt, ngưng tụ thành từng giọt nhỏ xuống. Chu Tử Thư liên tục đổ thêm nước vào khoang làm mát chứa các ống sắt này. Hơi nước chậm chạp di chuyển trong đường ống ngoằn ngoèo khiến người ta sốt hết cả ruột, rồi từ từ nhỏ giọt đằng miệng ống. Chu Tử Thư nhanh nhẹn hứng lấy. Cậu nín thở, hồi hộp chờ đợi tinh dầu nhỏ xuống từ ống dẫn. Chờ mòn mỏi đến khi nước trong bình chưng cất đã bay hơi hết sạch mới hứng được non nửa chén tinh dầu.

Tinh dầu màu vàng đậm sóng sánh, tỏa hương nồng nàn.

Trong các loài hoa nở vào mùa này, hoa quế là loài hoa thơm hơn cả. Đường Hoàng hít căng mũi, thích thú hỏi: "Anh ơi, thứ anh muốn làm là đây hả? Thơm quá, dễ chịu quá!"

Ấy thế mà Chu Tử Thư chưa hài lòng chút nào.

Cậu cho nhiều hoa quế đến vậy mà chỉ chiết xuất được có một tí tinh dầu.

Tinh dầu là chất thơm được chiết xuất từ rễ, cành, lá, quả của cây, có thể coi là hương liệu cơ bản nhất. Ở thời hiện đại, chẳng có nhà máy nào xa xỉ đến mức sản xuất tinh dầu từ cánh hoa, nhụy hoa cả, vì như thế thì lãng phí quá. Do thiết bị thô sơ, Chu Tử Thư mới phải xa xỉ dùng mỗi cánh hoa làm nguyên liệu, nhưng không ngờ cũng chỉ chiết xuất ra được một tẹo tinh dầu mà thôi.

Chi phí sản xuất đắt đỏ thế này, muốn sản xuất tinh dầu với số lượng lớn là vấn đề vô cùng nan giải.

Chợt, thợ rèn Cungồ lên: "Bác hiểu rồi. Tiểu Thư Lang, hóa ra là cháu tôi sắt!"

Chu Tử Thư sửng sốt: "Bác Vương, bác bảo sao cơ, tôi sắt ấy ạ?"

"Cháu muốn chưng cất mùi hương, cũng giống như làm nguội kim loại nóng chảy đúng không? Hầy, bác nói hơi rối rắm, nhưng cái cháu đang làm rất giống với công đoạn tôi kim loại trong nghề rèn của các bác. Khi rèn mình cũng phải nung sắt lên thật nóng rồi dội nước vào cho nguội đi, sau đó lại làm nóng lên rồi gia công tiếp. Giờ cháu làm như thế này chưa được, chỉ dội nước lạnh thì hiệu quả thấp lắm, dụng cụ của cháu nhất định phải cải tiến thêm. Mình không được để nhiệt độ hạ xuống mau quá, phải giữ khí ở nhiệt độ cao một lúc, sau đó mới dẫn vào nước lạnh để giảm nhiệt từ từ!"

Chu Tử Thư suy nghĩ một lát, khẩn trương phác thảo một thiết kế mới trong đầu: "Bác nói chí phải!"

Thợ rèn Cunglại vác cục sắt về nhà, hí hoáy sửa sang mất ba bốn hôm, rồi lại mang sang nhà Chu Tử Thư.

Lần này, Chu Tử Thư chiết xuất được hẳn một chén tinh dầu.

"Nhiêu đây là đủ rồi!"

Chu Tử Thư nấu một chảo xà phòng, đổ tinh dầu vào, khuấy đều rồi đợi xà phòng đông lại.

Sau khi hoàn thành, Chu Tử Thư ép xà phòng ướp tinh dầu thành bánh, hoàn thiện thành phẩm xà phòng thơm.

Hôm sau, Chu Tử Thư và Diêu Tam mang hai bánh xà phòng thường và hai bánh xà phòng thơm đến Đường phủ.

Trên đường đi, Diêu Tam băn khoăn: "Tiểu đông gia, cậu làm ra xà phòng đã được nửa tháng rồi, sao giờ vẫn chưa bán? Lẽ nào cậu không có ý định kinh doanh mặt hàng này?"

Chu Tử Thư cười đáp: "Diêu đại ca, nhà ta tới phủ Cô Tô cũng đã hai tháng rồi, anh có tính xem việc buôn bán lời lãi ra sao không?"

Diêu Tam quýnh lên: "Tiểu đông gia đừng nói thế, đó là tiền của cậu và A Hoàng, nào có liên quan đến tôi."

"Anh chớ lo, tôi không nói anh tham tiền bạc, phẩm hạnh của Diêu đại ca chưa bao giờ khiến tôi phải đắn đo. A Hoàng còn bé, nhưng rất may mà có anh và Diêu đại nương để mắt nó trong thời gian mọi người đi bán bánh gần đây. Trông nom một cô nhóc chín tuổi như con bé đúng là vất vả."

Diêu Tam thở phào nhẹ nhõm, lúc này mới nói: "Việc buôn bán lãi kha khá đấy ạ."

"Có đủ để mua đứt một cửa hàng ở Toái Cẩm nhai không?"

"Dĩ nhiên là không, mua vậy tốn nhiều tiền lắm!"

"Thế có đủ mua một xưởng ở Cô Tô, sản xuất xà phòng, tinh dầu số lượng lớn không?"

"Cũng chẳng đủ đâu."

Phủ Cô Tô và thôn Triệu gia khác nhau một trời một vực. Ở thôn Triệu gia, một lượng bạc đủ nuôi một nhà ba miệng ăn phủ phê cả năm trời, trong khi ở Cô Tô, một lượng bạc chỉ đủ đút kẽ răng, giỏi lắm thì nuôi được một miệng.

Từ khi Chu Tử Thư chuyển đến phủ Cô Tô, bánh chiên ngũ cốc dẫu đắt như tôm tươi thì thu nhập mang lại cũng chỉ ở mức thường thường bậc trung, còn khuya mới được xếp vào hàng ngũ khá giả.

"Không mua xưởng được, thì xà phòng và tinh dầu mình chỉ có thể sản xuất tại nhà. Diêu đại ca, giả sử bây giờ mình không bán bánh buổi sáng nữa, thì anh, tôi, A Hoàng, Diêu đại nương, bốn người cộng lại, mỗi ngày chỉ làm được tối đa năm mươi bánh xà phòng, một hai bình tinh dầu. Đó chưa phải là vấn đề, vấn đề nằm ở chỗ, chúng ta phải đi đâu để bán những sản phẩm này?"

Chu Tử Thư hỏi Diêu Tam xong, lại nói tiếp: "Xà phòng khác với bánh chiên. Bánh chiên ăn xong là hết, giá rẻ, ai cũng có thể mua. Xà phòng mua một lần dùng được lâu, tinh dầu thì càng miễn bàn, anh cũng biết phải bỏ vốn rất nhiều, bán ra cũng phải bán giá cao, không phải mặt hàng mà bày ra sạp là có người mua. Nếu mình buôn bán vậy, chỉ dăm tháng thôi là cả nhà ta hít gió tây bắc trừ bữa."

Diêu Tam hổ thẹn vô cùng: "Tôi chỉ là chân hộ vệ trông nhà, không hiểu những thứ sâu xa phức tạp, để tiểu đông gia chê cười rồi."

Chu Tử Thư không vì đó mà coi thường Diêu Tam. Cậu dừng bước, bảo: "Chúng ta đến nơi rồi."

Đây là lần đầu tiên Diêu Tam đến Đường phủ.

Có lẽ sau sự cố lần trước Đường phu nhân đã dạy dỗ lại tôi tớ trong phủ, nên lần này quản gia Đường phủ dẫn hai người vào trong ngay chứ không trễ nải nữa. Gã ta dẫn Chu Tử Thư tới phòng khách phụ, sai nha hoàn dâng trà nóng và hai đĩa điểm tâm. Trong chốc lát, Đường phu nhân đã có mặt.

Chu Tử Thư tưởng mình sẽ gặp Đường cử nhân, nào ngờ người xuất hiện lại là Đường phu nhân. Cậu tính toán trong chớp nhoáng, nghĩ bụng thế này càng tốt, bèn đứng lên thưa: "Đại bá mẫu, thấm thoắt đã bao ngày, hôm nay cháu trai xin phép tới quấy quả bá mẫu. Đây là hộ vệ nhà cháu, Diêu Tam – Diêu đại ca. Diêu đại ca, đây là đại bá mẫu của tôi, Đường phu nhân." "Kính chào phu nhân." Diêu Tam chắp tay chào hỏi.

Đường phu nhân hòa nhã nói: "Ngồi xuống cả đi." Vừa vào phòng khách, Đường phu nhân đã để ý thấy hai chiếc hộp nhỏ Chu Tử Thư bê trên tay.

Song, bà chỉ làm bộ như vô tình liếc thấy, rồi tập trung nói chuyện với Chu Tử Thư: "Lần trước bác cháu mình gặp nhau là ở Toái Cẩm nhai. Hôm nay gặp cháu bác mới sực nhận ra cũng đã một tháng, cháu hình như lại gầy đi rồi đấy."

Chu Tử Thư đáp: "Vâng, bác cháu mình gặp nhau từ trước dịp tết Trùng Cửu."

Đường phu nhân cho rằng Chu Tử Thư đến biếu quà vì muốn theo học ở lớp học riêng của Đường gia. Bà bèn chủ động bắc cầu cho Chu Tử Thư: "Hai anh cháu mấy bữa nay lại nhắc đến cháu, chúng nó mong gặp cháu lắm, nhưng sợ đường đột quá thì khiến cháu không thoải mái."

Kiếp trước, Chu Tử Thư là trai bách khoa "thuần chủng", có phẩm chất trời phú là miễn dịch với các mối quan hệ xã hội vòng vo của loài người. Nhưng cậu cày ải ba năm thạc sĩ, ba năm tiến sĩ, dẫu đần đến mấy cũng được môi trường đại học trui rèn ít nhiều. Tuy chẳng dám nhận là miệng lưỡi trơn tru, nhưng cũng nghe ra được ý tứ của Đường phu nhân.

Chu Tử Thư cười nói: "Cháu cũng mong gặp hai anh nhà lắm ạ."

Đường phu nhân đang định lái sang chuyện đi học của Chu Tử Thư thì Chu Tử Thư đã tiếp lời ngay: "Đại bá mẫu, hôm nay quấy quả bá mẫu cũng vì lúc cháu chân ướt chân ráo tới Cô Tô, đại bá mẫu đã giúp cho ngay hai rương đồ đạc. Ơn nghĩa ấy cháu ghi lòng tạc dạ. Vừa khéo nhà cháu làm được mấy món, cháu liền mang sang đây cho đại bá mẫu xem thử."

"Ồ, những thứ này nhà cháu tự làm ư?"

Chu Tử Thư đáp: "Vâng, cháu tự tay làm đấy ạ."

Đường phu nhân ngạc nhiên: "Cháu còn biết nấu ăn nữa à?" Đường phu nhân nói câu này chẳng hề có ý coi thường.

Trong sách Mạnh Tử, thiên thứ nhất – Lương Huệ Vương, phần thượng, có câu: "Quân tử xa nhà bếp." Sau ngàn năm, câu nói này bị người đời sau hiểu sai thành "người quân tử có phẩm đức cao thượng sẽ không vào bếp, cũng không biết nấu ăn." Trên thực tế, nguyên văn câu này là "Quân tử chi vu cầm thú dã, kiến kỳ sinh, bất nhẫn kiến kỳ tử; văn kỳ thanh, bất nhẫn thực kỳ nhục. Thị dĩ quân tử viễn bào trù dã."

Tức là, người quân tử đối diện với chim trời cá nước, chẳng nỡ nhìn chúng lìa đời; nghe được tiếng chim muông, không đành lòng ăn thịt chúng. Thế nên quân tử luôn luôn lánh xa bếp núc.

Nói cách khách, quân tử không vào bếp, không phải do việc nấu nướng là việc thấp hèn không xứng với quân tử, mà vì quân tử có trái tim nhân từ.

Người xưa không suy ra lắm nghĩa bóng từ câu nói này đến vậy, thậm chí không đánh giá cao cái gọi là "quân tử xa nhà bếp."

Huống chi, con người ai cũng phải ăn, đến Đức thánh Khổng còn có tích "ba tháng không biết mùi thịt", nói rằng "Không ngờ nhạc được sáng tác đến mức tuyệt vời như thế!"2 Thử hỏi Mạnh tử làm sao có thể nói quân tử không được phép vào bếp?

[2] Luận ngữ: Đức Khổng tử kiêng thịt, giữ lòng thanh khiết để cảm nhận được cái hay của nhạc Thiều, khúc nhạc do vua Thuấn sáng tác.

Dĩ nhiên, Chu Tử Thư giải thích ngay: "Đây không phải thức ăn đâu."

Đường phu nhân hỏi: "Thế nó là vật gì?"

"Đại bá mẫu cứ mở ra xem là biết ngay thôi."

Hai bác cháu hàn huyên một hồi, Chu Tử Thư bảo Diêu Tam đưa một hộp cho Đường phu nhân, sau đó hai người rời Đường phủ, đi sang Lương phủ.

Chính xác, hôm nay Chu Tử Thư mang theo hai chiếc hộp, trong mỗi hộp là một bánh xà phòng thường, một bánh xà phòng thơm, tặng riêng cho Đường phu nhân và Lương đại nho.

Chu Tử Thư về rồi, Đường phu nhân bèn sai quản gia mở hộp.

Hộp đựng không đắt tiền, nhưng bề ngoài trông mới mẻ, chế tác cũng rất khéo tay. Phu nhân vừa cầm lên đã biết dù chỉ là một chiếc hộp thôi cũng được Chu Tử Thư chọn lựa tỉ mỉ.

"Cháu ta tuy còn nhỏ, mặt mũi khôi ngô trong sáng, nhưng tâm tính chẳng hề ngây thơ."

Quản gia hỏi: "Thưa phu nhân, chẳng hay thiếu gia biếu gì đấy ạ?"

Đường phu nhân mở nắp hộp, liền thấy ở tầng thứ nhất là một vật màu vàng nhạt, vật này trơn tuột, sờ lên nhờn như mỡ. Bà mở tầng hộp thứ hai, cũng thấy một vật màu vàng như vậy, chạm vào thì nhờn tay, nhưng thoang thoảng hương hoa quế ngọt bùi.

Có một chuyện Chu Tử Thư không biết là trước cửa khuê phòng của

Đường phu nhân ở nhà mẹ đẻ có trồng một cây hoa quế. Nghe mùi hoa, Đường phu nhân trong lòng lâng lâng, tưởng chừng như được trở về nơi sinh ra và lớn lên của mình vậy.

Hai món đồ lạ kì khiến Đường phu nhân tò mò lắm. Bà xem trong hộp thì tìm được một bức thư tay của Chu Tử Thư.

Đường phu nhân cười: "Chữ viết hóa ra cũng thường thôi. Đứa cháu này, trông thì có vẻ thông minh sáng láng3, nhưng thi huyện chưa chắc đã qua nổi." Bà nào hay, Chu Tử Thư kiếp trước đâu có viết bút lông bao giờ, bản lĩnh viết chữ hiện tại còn phải cảm ơn chủ nhân ban đầu của thân thể này đã tập viết đại tự suốt hai năm.

Đường phu nhân mở thư ra, càng đọc mắt càng sáng lên.

"Hải Đường, con xuống bếp lấy một bát dầu và một chậu nước lên cho ta."

Nha hoàn gật đầu vâng lệnh, nhanh chóng dâng lên một bát dầu ăn và một chậu nước. "Con thử bôi dầu lên tay đi." Bà nói xong lại thấy không thỏa đáng lắm, "Thôi thôi, để ta tự làm." Đoạn, Đường phu nhân tự mình bôi đầy dầu lên tay. Sau đó, bà chà tay bằng bánh xà phòng màu vàng, rồi nhúng vào chậu nước tráng sạch.

Kết quả khiến Đường phu nhân sửng sốt: "Ô, rửa sạch ghê nhỉ?" Tiếp theo, bà lại thử bánh "xà phòng thơm" còn lại.

"Kì diệu, quả là một vật kì diệu!"

Quản gia hiếu kì hỏi: "Phu nhân, thứ này là gì thế ạ?"

Đường phu nhân nói: "Ngươi cũng thử đi, dùng hai cục này rửa dầu ăn."

Quản gia vâng lời, rửa tay một hồi. Rửa xong, gã cũng kinh ngạc thốt lên: "Thứ này là gì vậy trời, còn tốt hơn cả di tử!"

Đường phu nhân nói: "Thư của cháu ta viết, cục thứ nhất có mùi là lạ kia gọi là xà phòng, còn cục thứ hai có mùi hoa quế thì gọi là xà phòng thơm." Vừa dứt lời, Đường phu nhân hít mấy hơi, mắt bà sáng lên, đưa lá thư của Chu Tử Thư đến gần mũi để ngửi thử.

Thoạt tiên khi đọc thư, Đường phu nhân không để ý tới mùi giấy viết thư. Lá thư để xa chỉ nghe mùi thoang thoảng, nhưng để gần thì không còn nhạt nhòa nữa. Hương hoa quế đậm đà dâng tràn, len lỏi vào khoang mũi.

Đường phu nhân ngẩn ra một thoáng, bà ngắm nghía phong thư hồi lâu, chợt thốt lên: "Lẽ nào loại hương này có thể tẩm lên bất kì đồ vật gì ư?"

||

Chú thích

Chỗ này Chu Tử Thư dùng cụm từ "丫头片子" (nha đầu phiến tử) để chỉ Đường Hoàng. Đây là cách nói của người miền Bắc Trung Quốc để mắng (có thể là mắng yêu) bé gái. "Nha đầu" chỉ kiểu tóc búi như hai trái đào hai bên, còn "phiến tử" thì có nhiều cách giải thích. Một trong số đó là thời kì trước giải phóng, ở miền quê nghèo, bé trai đến 10 tuổi vẫn mặc quần thủng đáy, còn bé gái thì phải có miếng vải để che bộ phận sinh dục. Phỏng dịch theo . Bạn nào biết cách dịch hay hơn thì chia sẻ với mình nhé.

[2] Tham khảo trang 163, sách Tứ thư bình giải do Lý Minh Tuấn biên soạn, Nguyễn MinhTiến hiệu đính, NXB Tôn Giáo, 2010.

[3] Chỗ "thông minh sáng láng" trong nguyên văn phu nhân dùng thành ngữ "băng tuyếtthông minh" xuất xứ từ hai câu thơ "Băng tuyết tịnh thông minh/Lôi đình tẩu tinh nhuệ" của Đỗ Phủ.

"Đại tự" là chữ khổ lớn trong thư pháp. Hình minh họa bình chưng cất

------oOo------

Chương 11

Nguồn: EbookTruyen.Net

Song cửu, tức là trùng dương

Chu Tử Thư và Diêu Tam đến Lương phủ, đáng tiếc chủ nhân lại đi vắng mất.

Từ sáng, Lương đại nho đã đi dự hội thơ ở ngoại ô, đến trưa vẫn chưa về. Chu Tử Thư bèn gửi lễ vật cho quản gia rồi cùng Diêu Tam về nhà. Vừa chân trước chân sau vào cửa, hai người đã gặp một vị khách không mời mà đến. Trong khi Diêu Tam hết sức ngạc nhiên, Chu Tử Thư lại bình thản như thể đã lường trước được sự xuất hiện của người này.

Chu Tử Thư nói: "Đại bá mẫu sang chơi đấy ạ?" Người đến thăm quả nhiên là Đường phu nhân.

Đường phu nhân không đi một mình mà dẫn theo nha hoàn thân cận và quản gia nhà họ Đường. Phu nhân liếc mắt ra hiệu, nha hoàn lập tức đem chiếc hộp Chu Tử Thư tặng ban nãy tới.

Đường phu nhân tươi cười: "Người một nhà cả, đại bá mẫu hỏi thẳng nhé. Lúc nãy cháu nói hai thứ này do cháu tự làm, có thật vậy chăng? Nếu quả thật như vậy, giá thành của vật phẩm này có đắt không, làm xà phòng với xà phòng thơm có chênh lệch nhiều không? Cả giấy thơm để viết thư nữa, cháu xông hương đúng không?

Chu Tử Thư mỉm cười: "Mời đại bá mẫu theo cháu, dụng cụ chế tạo ở hết trong sân thôi. Để cháu làm thử cho bá mẫu xem, bá mẫu sẽ biết ngay."

Mọi người cùng vào trong sân, Chu Tử Thư bắt tay chế tạo luôn một chậu xà phòng thường, một chậu xà phòng thơm, kèm theo một bình tinh dầu nhỏ cho Đường phu nhân xem.

Đường phu nhân sai quản gia thử sản phẩm, thấy công dụng hệt như hai món Chu Tử Thư tặng hồi nãy.

Trong lòng Đường phu nhân đã có tính toán, cái nhìn đối với Chu Tử Thư thay đổi hẳn. Bà suy tư một thoáng, đoạn nghiêm túc bảo: "Cháu này, sản phẩm này của cháu có thể kiếm ra nhiều tiền đấy."

Tiểu thuyết nào cũng viết, nhân vật nào xuyên thời gian kiểu gì cũng chế tạo ra xà phòng. Ghê gớm hơn, nhân vật còn chế tạo ra thủy tinh, thậm chí điều chế ra cả kháng sinh penicilin nữa. Chu Tử Thư thấy bàn tay vàng của mình không thần thánh đến mức ấy, đừng nói đến penicilin, ngay cả kẹo Mylikes cậu còn chẳng làm ra nổi. Dù sao lúc này cây cacao tươi tốt vẫn ở tận xứ Nam Phi, Columbus còn chưa khám phá ra châu lục mới.

Tuy nhiên các tiểu thuyết có tình tiết này đều không giải thích, những người vượt thời gian chế tạo ra xà phòng, thủy tinh là vì những thứ này không khó sản xuất, lại có tiềm năng kinh doanh lớn.

Đường phu nhân sai quản gia tính toán, ước lượng giá thành của mỗi chậu xà phòng và xà phòng thơm, cũng tính luôn giá thành chế tạo tinh dầu.

Quản gia tính toán xong trình lên, phu nhân cau mày: "Tinh dầu rất thơm, cũng có thể ướp vào xà phòng để tạo hương, nhưng giá thành cao quá. Để có được một bình nhỏ phải tốn năm, sáu cân cánh hoa. Dùng tinh dầu làm xà phòng thơm thì tạm được, nhưng bán lẻ thì bất khả thi."

Chu Tử Thư nói: "Đại bá mẫu nghĩ tinh dầu chỉ dùng để ướp hương cho những đồ dùng khác thôi ư?"

"Chẳng lẽ không phải?"

Chu Tử Thư mỉm cười: "Nó còn là bí bảo duy trì nhan sắc đấy ạ."

Ở thời hiện đại, tinh dầu vẫn thường được phái nữ sử dụng để làm đẹp. Tinh dầu Chu Tử Thư làm thủ công hiển nhiên không so sánh được với tinh dầu sản xuất theo dây chuyền ở các nhà máy sau này, nhưng chắc chắn không gây hại đến khuôn mặt, ít nhiều cũng có hiệu quả cải thiện nhan sắc. Song hiệu quả đến đâu thì cậu chưa thể ước lượng được.

Chu Tử Thư suy nghĩ một lát, nói: "Đại bá mẫu đã từng nghe danh một loại trân châu tên là 'Giao Nhân Lệ*' chưa ạ"

(*) nước mắt người cá

Đường phu nhân kinh ngạc: "Giao Nhân Lệ ư, đó là cái gì vậy?"

Chu Tử Thư giải thích: "Cháu bắt gặp cái tên này trong một cuốn sách cổ. Trong sách chép, Giao Nhân Lệ không phải loại ngọc đặc biệt, không quý hiếm hơn so với ngọc trai thường là bao, càng chẳng sánh nổi với Đông châu ngàn dặm mới có một viên. Thuở xưa, có một nhà buôn giàu có sở hữu rất nhiều Giao Nhân Lệ. Gã chẳng biết bán thế nào, thiếu điều phải đập sạch đi. Thế rồi gã nghĩ ra một kế, đổi tên những viên ngọc đó thành Giao Nhân Lệ, rồi phao tin rằng ai muốn thể hiện tình yêu sắt son của mình với một cô gái, nhất định phải trao cho nàng một viên Giao Nhân Lệ duy nhất trong đời.

Nghe đến đó, mắt Đường phu nhân sáng lên, quản gia cũng nhanh chóng hiểu được mánh khóe trong câu chuyện.

"Sau đó thì chuyện gì xảy ra với những viên Giao Nhân Lệ kia?"

"Đương nhiên là bán sạch bách!"

Nếu có một người hiện đại khác cũng ở đây, nghe Chu Tử Thư nói vậy, người ta chắc chắn sẽ nhìn cậu bằng nửa con mắt.

Giao Nhân Lệ đã là cái gì? Đây còn có chuyện nàng tiên cá nhỏ và tên hoàng tử ăn cháo đá bát nữa này!

Rõ ràng là chiêu trò kích cầu kim cương mà!

Chính vậy thưa quý vị, đây chính là chiêu trò tạo nên cơn sốt kim cương gây chấn động toàn cầu xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Kim cương vốn không phải quý hiếm nhất trong các loại đá quý, chí ít là không đến mức như người ta thổi phồng nó lên. Nhưng đầu thế kỷ 20, một nhà buôn kim cương người Mỹ đã tâng bốc thứ đá quý này thành biểu tượng của tình yêu vĩnh hằng, từ đó nâng tầm kim cương lên thành loại đá quý xa xỉ tột bậc.

Chu Tử Thư cười nói: "Đại bá mẫu, không phải tinh dầu không có chỗ bán, chẳng qua phải xem...mình bán thế nào..."

Đường phu nhân nói: "Cháu..." Bà chần chừ đôi chút, rồi nghiêm túc bảo: "Chu Tử Thư, lí do đại bá mẫu tới đây hẳn cháu cũng đoán được. Giá thành xà phòng không đắt, nếu cháu cố gắng thì cũng gồng gánh được. Còn nếu cháu muốn một mình chế tạo tinh dầu thì khó như bắc thang lên trời vậy. Vả lại, các cháu mới tới đây, hẵng còn bỡ ngỡ với chuyện kinh thương ở phủ. Không giấu gì cháu, ở Toái Cẩm nhai, Đường phủ sở hữu ba cửa hàng, trong đó có một cửa hàng đá quý và hai cửa hàng phấn son."

Chu Tử Thư nói: "Đại bá mẫu, cháu đem xà phòng và xà phòng thơm đến cho bá mẫu xem, vốn cũng có ý này."

Đường phu nhân thở phào nhẹ nhõm: "Thế cháu tính toán ra sao?"

Chu Tử Thư thẳng thắn: "Là người trong nhà nên cháu cũng xin nói thẳng, lãi chia đôi, vốn bác bỏ."

Cậu nói mỗi câu này thôi mà khiến quản gia Đường phủ và nha hoàn ngứa ngáy cả người.

Ý của Chu Tử Thư rất rõ, cậu sẽ không bỏ ra một đồng vốn nào, toàn bộ do

Đường phu nhân gánh hết, nhưng sau đó tiền lãi phải chia cho cậu một nửa. Theo lẽ thường, dù cậu có tự sáng chế ra xà phòng và xà phòng thơm, cũng không thể nào ăn dày như vậy được.

Đường phu nhân cũng hơi do dự.

Hồi lâu, bà mới hỏi: "Chuyện Giao Nhân Lệ, cháu có còn nữa không?" Chu Tử Thư nghiêm túc nhìn bà.

Tuy có một đứa con bằng tuổi Chu Tử Thư nhưng Đường phu nhân mới chỉ ba mươi có lẻ, vẻ kiêu sa, nét duyên ngầm thời con gái chẳng mấy nhạt phai. Ở thời hiện đại, bà chỉ hơn anh tiến sĩ Chu Tử Thư vài tuổi. Việc gia tộc phong kiến cổ đại có thể dạy dỗ nên một tiểu thư đài các thông tuệ như thế khiến cái nhìn của Chu Tử Thư đối với thời đại này càng sâu sắc hơn, tuyệt đối không dám coi khinh bất kì cổ nhân nào cả.

"Những mẩu chuyện về Giao Nhân Lệ đương nhiên vẫn còn, về sau cũng có thể kể thêm."

"Tốt lắm!"

Đường phu nhân đã ra tay là không ngần ngại. Ngay sau khi đồng ý bỏ vốn, bà sai quản gia ở lại bàn bạc với Chu Tử Thư về phương pháp chế tạo xà phòng thường, xà phòng thơm và việc đưa mặt hàng này vào tiệm son phấn của Đường gia. Ban đầu phu nhân còn có ý định điều mấy quản lí lớn ở cửa hàng của Đường gia giúp Chu Tử Thư dựng xưởng làm xà phòng, chẳng ngờ Chu Tử Thư cương quyết từ chối đề nghị này.

Khi khởi nghiệp, nhà đầu tư và doanh nghiệp bắt buộc phải độc lập với nhau, nếu nhập nhằng ngay từ đầu thì hậu họa khôn lường.

Việc đầu tiên Chu Tử Thư định làm là tìm một kế toán để quản lí thu chi.

Diêu Tam nghĩ một lát, bảo: "Tiểu đông gia, mấy hôm trước Lâm tú tài ở hẻm Linh Lung mới nghỉ làm ở tiệm cầm đồ Tiễn Ký, đang cần tìm công việc kế toán. Tuy ông ta đã già, tuổi ngoài năm mươi, nhưng chắc chắn là đáng tin cậy."

"Tuổi tác không thành vấn đề, anh đi dẫn ông ấy đến đây xem sao." Diêu Tam liền chạy qua hẻm Linh Lung tìm Lâm tú tài ngay.

Lâm tú tài tóc đã hoa râm, nghe nói ba năm trước mới đỗ tú tài. Việc đỗ đạt đáng lẽ là một việc vui, nhưng tiếc rằng ông ta già rồi, danh hiệu cử nhân quá xa vời, mà đến cống sinh1 ông cũng không thi nổi. Thân tú tài ở phủ Cô Tô làm sao danh giá được như ở thôn Triệu gia, thành thử Lâm tú tài sống giật gấu vá vai quanh năm suốt tháng. Trước giờ ông vẫn làm kế toán ở tiệm cầm đồ Tiễn Ký, không may do tuổi cao sức yếu, tiệm này tuyển được kế toán tốt hơn bèn đuổi ông ta đi.

[1] Cống sinh: Những học trò giỏi nhất ở phủ, châu, huyện, có thể được tiến cử đi học ở Quốc Tử Giám và trực tiếp tham gia kì thi Hương.

Sau khi xem xét kĩ lưỡng một hồi, Chu Tử Thư hỏi: "Bác đã đọc những sách gì rồi ạ?"

"Tứ thư, Ngũ kinh đều đã đọc, ngoài ra tôi cũng học thuật số, từng đọc Tả truyện, Chu Dịch nữa."

Chu Tử Thư ra cho vài đề toán đơn giản, Lâm tú tài điềm tĩnh gảy bàn tính, chậm mà chắc, tính không sai câu nào.

"Hay quá, bác đúng là người cháu cần tìm. Bác Lâm, bác có muốn làm kế toán ở chỗ cháu không?" "Có chứ, hay quá cháu ạ!"

(Bản edit chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com; hãy vào đúng trang để có trải nghiệm đọc truyện tốt nhất hoặc theo dõi trên ứng dụng WordPress.)

Những ngày sau đó, Chu Tử Thư và Diêu Tam bắt đầu tìm kiếm nơi đặt xưởng phù hợp ở phủ Cô Tô.

Vấn đề đầu ra cho xà phòng và tinh dầu không có gì đáng ngại. Cửa hàng của Đường gia ở Toái Cẩm nhai đều bán những mặt hàng dành riêng cho nữ giới, chẳng sợ không tìm được thị trường. Đây cũng chính là lí do Chu Tử Thư cố ý bái phỏng, tặng quà cho Đường phu nhân. Ngay từ đầu cậu đã điều tra rõ Đường gia mở cửa hàng nào, buôn bán cái gì rồi.

Mất bốn, năm ngày tìm kiếm, cuối cùng Diêu Tam và ông Lâm cũng chọn được nhà xưởng thích hợp.

Diêu Tam nói: "Xưởng tôi tìm được nằm ở khu Tây, trước đây là xưởng rượu. Chủ xưởng nóng lòng sản xuất lại nên giá thuê thấp thôi, còn bảo mình thuê những người làm công sẵn ở đấy luôn cũng được, họ rất thạo nghề nấu rượu."

Lâm tú tài thì bảo: "Chỗ tôi tìm được cũng ở khu Tây, vốn là xưởng nhuộm.

Giá thuê cao hơn so với chỗ Diêu Tam đấy, nhưng chủ xưởng là người gốc Cô Tô, đáng tin cậy. So với xưởng Diêu Tam tìm được thì xưởng này rộng hơn một gian nhà.

Chu Tử Thư cân nhắc thiệt hơn, rồi ba người cùng nhau đến tận nơi khảo sát.

Đi thăm xưởng xong, cậu quyết định: "Mình chọn nhà nhuộm đi, mặt bằng rộng, về sau cần sản xuất thêm những cái khác cũng tiện.

Diêu Tam tán thành ngay. Biết tính mình vốn cục mịch, anh dẫn mẹ mình tới tận nơi gặp chủ xưởng nhuộm thương lượng mặc cả. Nghe Chu Tử Thư nói thế, Lâm tú tài hỏi: "Tiểu đông gia, sau này cậu định bán thêm cái gì? Không bán xà phòng và tinh dầu nữa à?"

Chu Tử Thư nói: "Đương nhiên vẫn bán, nhưng bán thêm cái gì thì để sau rồi tính."

Kế toán Lâm nghe thế bèn thôi không hỏi nữa.

Dù sao cũng không phải người nhà, Chu Tử Thư vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng ông kế toán mới này.

Được tầm nửa tháng thì Chu Tử Thư mua được xưởng nhuộm. Nhân dịp đó Chu Tử Thư lại ghé Lương phủ một chuyến, lần này thì gặp được Lương đại nho. Lương đại nho bảo cậu ở lại dùng bữa, lúc ăn, ông nói: "Xà phòng dùng thích lắm, con còn nữa không, ta gửi cho mấy ông bạn già một ít."

Chu Tử Thư cả mừng, lúc tặng quà đương nhiên cậu cũng muốn dựa vào uy tín của Lương đại nho quảng cáo miễn phí cho xà phòng của mình rồi. "Dĩ nhiên là có rồi ạ, sớm mai con sẽ mang sang cho tiên sinh."

Lúc cậu chuẩn bị về, Lương đại nho hỏi: "Nửa năm trước, ta và con gặp nhau ở thôn Triệu gia. Lúc đó con đọc ngược cả thiên Thuật nhi trong Luận ngữ. Tằng phu tử bảo con là thần đồng, làu thông Luận ngữ, Trung dung. Giờ đã nửa năm trôi qua, con đọc thêm được sách gì rồi?"

Chu Tử Thư nào dám thú thực là nửa năm nay chỉ chí thú làm ăn chứ chẳng có chữ nào vào đầu. Cậu nghĩ rồi nói: "Nếu chỉ tính phần nổi, không xét đến ý nghĩa sâu xa, thì tiểu tử đã đọc hết Đại học, Mạnh tử và Ngũ kinh rồi ạ."

Lương đại nho cười phá lên: "Tiểu tử này liều thật! Dám nói Tứ thư Ngũ kinh đã nằm lòng, chỉ sợ lão tú tài sáu chục tuổi cũng không dám mạnh miệng như ngươi!"

Chu Tử Thư chớp chớp mắt, nhuần nhuyễn đóng vai ngây thơ nhờ vỏ bọc thiếu niên mười ba tuổi: "Tiên sinh chỉ hỏi là đã đọc gì, tiểu tử cũng không nói rằng đã hiểu hết, chỉ là đọc hết rồi thôi ạ."

"Tiện thể thuộc lòng luôn?" Chu Tử Thư gật đầu.

Lương đại nho lắc đầu: "Thằng bé này thật ngoan cố!" Ngụ ý, ông tin Chu Tử Thư có bản lĩnh thuộc lòng, nhưng không tin nửa năm vừa qua cậu có đọc sách.

Giả sử bây giờ Lương đại nho bảo Chu Tử Thư đọc ngược Tứ thư, Ngũ kinh thì cậu chẳng lo lắm. Hôm Trùng Cửu, Lương đại nho nói câu "Ly bất tuất kì vĩ", làm Chu Tử Thư về soát lại toàn bộ Tứ thư Ngũ kinh một lượt.

May nhờ có năng lực nhìn một lần là nhớ, cậu đọc ngược đọc xuôi Tứ thư Ngũ kinh không thành vấn đề.

Nhưng từ sau bữa đó, Chu Tử Thư chưa sờ vào sách vở lần nào.

Rời khỏi Lương phủ, Chu Tử Thư về nhà. Cậu mở cuốn kinh Xuân Thu, lấy tấm thiếp mời ra, chăm chú nhìn kĩ từng chữ trên tấm thiệp, nhẩm đọc: "Thiên tình nhật nguyệt định, quả hương nghênh phong tiến. Nhập thất ngưỡng chí cực, bả tửu đông song cúc...Hừm, bả tửu đông song cúc..."

Chu Tử Thư xem xét hồi lâu, rốt cuộc vẫn chẳng thấy được điều gì bất thường trong tấm thiệp cả.

Đúng lúc đó, kế toán Lâm đi vào phòng, thấy Chu Tử Thư đang xem thứ gì đó thì hỏi: "Tiểu đông gia đang đọc gì thế?"

Chu Tử Thư đặt tấm thiệp xuống, ngẩng lên bảo: "Là thiếp mời Lương đại nhân cho cháu."

Kế toán Lâm mắt sáng bừng, xúc động nghẹn ngào. Ông tiến lại gần, nói:

"Tôi đã nghe A Hoàng cô nương và Diêu Tam nói rằng tiểu đông gia quen Lương đại nhân, không ngờ thực là như vậy. Tiểu đông gia, thiếp mời này phải chăng cũng do Lương đại nho đích thân đề bút?"

"Cái này thì cháu không chắc." "Tôi có thể mượn xem không?"

Chu Tử Thư đưa tấm thiệp cho ông.

Kế toán Lâm hồi hộp nhận lấy tấm thiệp, nâng niu, thành kính như thể nhìn thấy thánh vật. Ông xem kĩ thiệp, đọc bài thơ: "Thiên tình nhật nguyệt định, quả hương nghênh phong tiến. Nhập thất ngưỡng chí cực, bả tửu đông song cúc. Ồ, bài thơ này lạ ghê?"

Chu Tử Thư sửng sốt: "Lạ chỗ nào thế ạ?"

"Để giải thích ngay thì hơi khó, tiểu đông gia chờ chút, để tôi đọc kĩ xem sao."

Nửa canh giờ sau, kế toán Lâm cười bảo: "Hóa ra là thơ giấu chữ."

"Giấu chữ ư?"

"Phải. Tiểu đông gia hẳn là đã nhận ra, thiệp này mời tiểu đông gia tới chơi phủ vào ngày Trùng Cửu. Bả tửu đông song cúc, là mời cậu thưởng cúc nhân ngày Trùng Cửu. Tuy nhiên, đây chỉ là tầng nghĩa thứ nhất thôi." Chu Tử Thư càng sửng sốt hơn: "Mới là tầng thứ nhất thôi?"

Kế toán Lâm đáp: "Không sai. Chúng ta thử đọc câu đầu tiên: Thiên tình nhật nguyệt định. Ý trên mặt chữ là tiết trời sáng sủa, hẹn gặp gỡ cậu. Thực chất, 'thiên tình' là dương, 'nhật nguyệt' giao nhau là hào. Hào dương, xuất xứ từ Dịch truyện, cũng gọi là hào lẻ, đây là quẻ thứ chín. Lại đọc câu thứ ba: Nhập thất ngưỡng chí cực. Ý ngoài là sau khi vào phủ thì cùng ngẩng mặt lên. Song, chí hay cực thì cũng đều quy về cửu."

[2] Hào lẻ (hào dương), hào chẵn (hào âm) là đơn vị cơ bản để tính quẻ Bát quái trong Kinh Dịch

Kế toán Lâm cầm thiếp mời, tỉ mỉ nghiên cứu. Chu Tử Thư lại như vừa thức tỉnh, ngây người ra.

Ông lại tiếp lời: "Hào dương là cửu, chí cực cũng là cửu. Dương là cửu, cửu là dương, song cửu tức là Trùng Dương. Cái lạ chính là ở đây, Lương đại nho tại sao phải viết một bài thơ giấu chữ như thế này? Ngài đã viết "bả tửu đông song cúc", sao còn giấu hai chữ Trùng Dương trong thơ làm gì?"

Chu Tử Thư ngây người, hồi lâu không nói nên lời. Đột nhiên, câu hỏi kế toán Lâm: "Lâm tiên sinh, có câu này tiểu tử xem hết Tứ thư Ngũ kinh mà không hề tìm thấy. Không biết bác có biết không ạ?"

Kế toán Lâm hỏi: "Câu đó như thế nào?"

Chu Tử Thư đáp: "Ly bất tuất kì vĩ, ưu tông Chu chi duẫn, vi tương cập yên."

"Ha ha, câu tiểu đông gia nói, là 'Người góa phụ chẳng băn khoăn đến đường tơ mình dệt, nhưng lại lo lắng cho sự sụp đổ của nhà Chu, không biết điều gì sẽ xảy đến với mình' đúng không? Câu này viết trong Tả truyện, năm Chiêu công thứ hai mươi tư. Tả truyện không thuộc Tứ thư, Ngũ kinh, tiểu đông gia chưa từng bắt gặp cũng là bình thường."

||

Chú thích

Câu này đọc nhiều lần mình vẫn thấy lời văn chưa rõ ràng lắm. Update 8/2/21: Rất có thể chỗ này Mạc Thần Hoan viết nhầm là quẻ thứ 9. Có thể Mạc muốn nói đến hào Thượng Cửu trong quẻ Càn (toàn bộ quẻ này là hào dương) – Kháng long hữu hối, với ý răn Chu Tử Thư là kiêu ngạo quá sẽ hỏng việc. Mọi người cứ bỏ qua đoạn này thôi nhé xD

Dịch Truyện (tên ban đầu là Thập dực) được nhắc đến trong chương này là tác phẩm của Khổng Tử viết để chú giải sách Kinh Dịch – nền tảng bói toán và triết học quan trọng của Trung Hoa.

Kinh Xuân Thu là cuốn biên niên sử về nước Lỗ từ 722 TCN tới năm 481 TCN. Thời kì Xuân Thu là thời kì các nước chư hầu nổi lên sau khi nhà Chu suy yếu, nó được tiếp nối bởi thời Chiến quốc và sau đó là sự thống nhất Trung Quốc của nhà Tần. Tác phẩm kinh Xuân Thu được viết rất ngắn gọn, súc tích, nên để hiểu nó thì người ta phải dựa vào các tác phẩm truyện sau này, trong đó có Tả truyện (được cho là viết vào thời Chiến quốc).

------oOo------

Chương 12

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thiên hạ có mười đấu văn chương, mình nó tám đấu

Gió lùa từng cơn cắt da cắt thịt. Trước cổng phủ, hai cảnh vệ mặc giáp, cầm giáo, nghiêm trang đứng gác.

Bất chợt, từ góc đường có một người dáng dấp mảnh dẻ bước xăm xăm tới cổng. Người lính gác bên trái định quát hỏi là ai, nhưng thấy rõ mặt người anh ta cười xoà: "Đường tiểu công tử, buổi trưa vừa ghé qua chơi, sao giờ lại tới nữa thế?"

Những người cảnh vệ này đều là lính già trở về từ chiến trường, nghe nói ai cũng bị thương trong lúc tham chiến. Họ toàn là người ở Cô Tô, giải ngũ rồi không có công ăn việc làm, liền được Lương đại nho chiêu mộ về làm thủ vệ. Lính già cậy có công thường sinh thói kiêu căng càn rỡ. Nhưng kể từ làm việc ở Lương phủ, được cảm hóa bởi khí độ văn nhân của Lương đại nho, chỉ sau vài năm mưa dầm thấm lâu, những người lính này đều đứng đắn hẳn lên, cư xử với ai cũng lễ độ.

Chu Tử Thư nói: "Đại ca ơi, phiền anh báo giúp một tiếng cho tôi gặp Lương đại nhân với."

"Cậu chờ chút nhé."

Một lúc sau, quản gia dẫn Chu Tử Thư tới thư phòng Lương phủ.

Lương Tụng đang vẽ dở một bức tranh, ông vẽ một cây phong lan bám rễ trên vách núi cheo leo dựng đứng, đương đầu với gió lạnh. Người thanh niên mặc trường sam màu xanh mài mực cho ông. Anh này tên là Từ Tuệ, tự Ngu Chi, là cháu họ của Lương đại nho.

Thấy Chu Tử Thư tới, Lương đại nho chỉ ngẩng lên nhìn cậu một cái rồi lại cúi xuống vẽ tiếp. Ông cầm cây bút lông dê mảnh, vừa lia bút trên giấy vừa hỏi: "Sao mới đi được một canh giờ đã quay lại rồi? Quên gì thì để Ngu Chi tìm với con."

Chu Tử Thư bước ba bước lại gần, lấy từ trong tay áo ra một vật.

"Tiên sinh."

Lương Tụng ngẩng lên nhìn, thấy vật đó thì có chút ngạc nhiên.

Hồi lâu, Lương Tụng cười: "Ngu Chi, con ra ngoài trước đi." Từ Tuệ vái ông rồi rời khỏi thư phòng.

Chu Tử Thư nâng tấm thiệp trên hai bàn tay, cúi người hành lễ.

Lương Tụng nói: "Ngu Chi đi rồi, con qua đây mài mực cho ta."

Chu Tử Thư đi tới, cậu đưa thiếp mời cho Lương Tụng, ông đặt nó ở góc bàn rồi vẽ tiếp. Chu Tử Thư vén tay áo, cầm thỏi mực mài lên nghiên. Dưới ngòi bút lông dê, nhành hoa lan trên ghềnh đá dần dần hiện ra – cao thượng, trang nhã. Thư phòng lặng thinh không tiếng động.

Vẽ xong một đóa hoa lan, Lương Tụng mới hỏi: "Con đến có việc gì?"

Chu Tử Thư vừa mài mực vừa thưa: "Con vội tới đây để nhận lỗi với tiên sinh ạ."

"À, nhận lỗi hả? Con làm sai điều gì chăng?"

Chu Tử Thư ngẫm nghĩ cẩn thận rồi mới đáp: "Tiểu tử có thể không làm sai điều gì, nhưng chưa chắc đã làm đúng."

"Vậy con nói xem, con đúng ở đâu, sai ở đâu nào."

"Ba ngày trước tết Trùng Cửu, tiên sinh gửi thiệp cho tiểu tử, mời đến phủ ôn chuyện cùng tiên sinh. Khi ấy, tiểu tử làm đúng được một việc là đoán ra thời điểm hẹn – tức buổi trưa ngày Trùng Cửu, sang hầu tiên sinh thưởng cúc trong đình. Nhưng từ hôm đó tới nay, tiểu tử vẫn luôn sai một việc."

"Việc gì thế?"

"Cuồng vọng tự đại, đắc ý vong hình1."

[1] Đắc ý vong hình: quá đắc chí đến nỗi không giữ được thái độ đúng mực.

Lương Tụng gác bút, cười: "Lão phu đã trách con tiếng nào đâu. Tiểu nhi lang này, con nghiêm khắc với bản thân quá đấy."

Chu Tử Thư cũng buông thỏi mực: "Tiên sinh không quở trách mới khiến con càng nghĩ càng thấy muôn phần hổ thẹn. Tiểu tử bất tài, thế mà dám cuồng ngôn là đọc gì cũng chỉ một lần là nhớ, đòi đọc ngược cả Tứ thư, Ngũ kinh, khiến tiên sinh hai lần nhắc khéo rằng, lão tú tài đọc sách năm, sáu mươi năm cũng không dám huênh hoang như vậy. Câu đố chữ ẩn trong thiệp, con chưa từng tự giải mã được. Giờ con đã hiểu, tiên sinh nhắc đến chuyện thưởng cúc là có lòng chân thành mến con, lại đem hai chữ 'trùng dương' giấu trong thơ là muốn dặn dò rằng, con còn trẻ người non dạ, phải biết trên đời núi cao còn có núi cao hơn, không được càn rỡ."

Lương Tụng chăm chú nhìn Chu Tử Thư hồi lâu, thủng thẳng bảo: "Những điều lão phu muốn nói, con đã nói hết. Những điều lão phu không muốn nói, con cũng nói sạch. Tiểu Thư Lang à, con khiến lão phu chẳng còn lời nào để nói nữa rồi."

Ngoài miệng thì bảo vậy, nhưng Lương đại nho lại vuốt chòm râu dài, gương mặt ánh lên vẻ mừng rỡ.

Chu Tử Thư thấy Lương đại nho không giận thì thở phào trong lòng. Cậu nói tiếp: "Trước khi đến đây, tiểu tử đã được nghe về một câu chuyện xưa."

"Ồ, là chuyện gì thế?"

Chu Tử Thư chần chừ giây lát, đánh bạo nói: "Năm Khai Bình thứ ba, đại quân nhà Liêu xâm lược, tiến đến sát thành Ngũ Nguyên, khí thế hùng hổ." Chu Tử Thư dứt câu, Lương đại nho đã biến sắc, môi ông mấp máy nhưng chẳng thốt nên lời. Chu Tử Thư tiếp tục: "Người Liêu bất ngờ tấn công, binh mã trong thành Ngũ Nguyên hoàn toàn không đủ để chống đỡ. Năm ấy phải năm trời làm hạn, lương thảo trong thành hết sức khan hiếm. Viện binh của triều đình còn cách mười ngày đường mà quân Liêu đã vây chặt thành Ngũ Nguyên."

"Không phải mười ngày đâu, mất nửa tháng quân tiếp viện mới tới."

Chu Tử Thư sững người trong giây lát: "Vâng, sau nửa tháng viện binh mới tới được. Thủ thành Ngũ Nguyên thấy quân dân bị vây khốn ròng rã trong thành, lương mỗi ngày một cạn, bèn xuất mười vạn ngân lượng cho Đô chỉ huy sứ lúc bấy giờ, nhờ cậy ông ta lén ra khỏi thành gom góp lương thảo."

Năm Khai Bình thứ ba, tức là hai mươi mốt năm về trước, khi tân đế mới lên ngôi, trong nước nội loạn liên miên, khiến quốc lực tổn hao nặng nề. Suốt mười năm sau, quân Liêu liên tục quấy rối biên cương lãnh thổ, khiến cho dân chúng lầm than vô cùng.

Thành Ngũ Nguyên vốn không giáp với đất của người Liêu nên chỉ cắt ba ngàn quân giữ thành. Chẳng có ai ngờ người Liêu thừa cơ Đại Tống gặp hạn hán đem quân xâm lược, chỉ mấy ngày đêm đã chiếm thành U Châu, đại quân áp sát đến tận chân thành Ngũ Nguyên. Tướng thủ thành bấy giờ là Trịnh Nguyên Bình, xuất thân bình dân, là một mãng phu chiến tướng lập nghiệp từ hai bàn tay trắng.

Người Liêu vây thành, Trịnh Nguyên Bình thủ thành được ba ngày thì lương cạn. Ông bèn cho vời Đô chỉ huy sứ Lương Tụng, quỳ xuống đất cậy nhờ Lương Tụng đem mười vạn bạc trắng đi Tây Hạ, đổi lấy lương thực về cứu dân quân.

Khi ấy, Trịnh Nguyên Bình đã nói: "Ta với Ngũ Nguyên, đồng sinh cộng tử."

Nhân lúc buổi đêm, Lương Tụng lẻn ra khỏi vòng vây địch, chạy một mạch tới Tây Hạ. Từ Tây Hạ đến Ngũ Nguyên vốn có một tuyến đường thủy, nếu vận lương trên tuyến đường này thì có cơ hội tránh được quân trinh thám của Liêu. Trở ngại lớn nhất là việc Tây Hạ có quan hệ đồng minh với cả Liêu và Tống, khế ước rành rành giấy trắng mực đen. Lương Tụng tìm được một nhà buôn người Tây Hạ, kẻ này thấy mười vạn bạc trắng thì thèm rỏ dãi, song e sợ đảo lộn chiến cục nên cứ lần lữa mãi.

Lương Tụng lúc đó mới hơn ba mươi tuổi, là tài tử tiếng tăm lẫy lừng Đại Tống. Nghĩ đến cảnh mỗi ngày trôi qua, lương thảo trong thành cạn kiệt dần mà vòng vây quân Liêu càng siết chặt, Lương Tụng quỳ xuống không ngần ngại, dập đầu lia lịa đến bật cả máu, khẩn nài thương gia Tây Hạ cho hai thuyền chở đầy lương thảo gửi đến thành Ngũ Nguyên.

Nhưng than ôi, khi Lương Tụng vận lương về tới nơi, thành Ngũ Nguyên đã bị phá! Đầu Trịnh Nguyên Bình bị quân Liêu chặt, đem bêu trên tường thành.

Chu Tử Thư kể tiếp: "Khi ấy, tiên sinh thấy mình đã phụ phó thác của Trịnh tướng quân, liền rút bảo kiếm toan lấy cái chết đền tội, may mà có tùy tùng cản lại mới cứu được."

Kí ức về những con người và sự việc của hai mươi năm trước ùa về trong đầu Lương Tụng, ông thở dài thườn thượt: "Thấm thoắt đã hai chục năm trôi qua. Đến năm Khai Bình thứ mười, ở Sóc Châu, quân Tống mới đại phá quân Liêu. Sao hôm nay con lại nhắc tới chuyện này?"

Chu Tử Thư xuống khỏi chỗ bàn học, kính cẩn vái dài, thưa: "Tiểu tử xuất thân thôn dã, từ nhỏ chỉ quanh quẩn với con nhái con sâu chứ chưa biết thế nào là thiên hạ. Hôm nay được nghe một vị tú tài già thuật lại chuyện này, tiểu tử mới thấm thía câu 'người góa phụ chẳng băn khoăn đến đường tơ mình dệt, nhưng lại lo lắng cho sự sụp đổ của nhà Chu, không biết điều gì sẽ xảy đến với mình' mà tiên sinh nói."

Lương Tụng nhìn cậu, bảo: "Vậy con thử diễn giải hàm nghĩa của câu đó xem."

Chu Tử Thư ngẩng đầu, ánh mắt sáng rực như sao trời, cậu dõng dạc nói: "Thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách!"

Lương Tụng giật mình như đề hồ quán đỉnh2, lặng người hồi lâu.

[2] Từ ngữ trong Phật học, ám chỉ sự khai thông tư tưởng.

Mãi sau ông mới lẩm bẩm "thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách" rồi bất chợt cười sang sảng: "Chí phải, thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách! Con nói hay lắm. Con có biết vì sao lão phu lại đưa con tấm thiệp mời này không? Hay phải nói, ngay từ ban đầu, ở thôn Triệu gia, tại sao ta lại cho con danh thiếp của mình?" Chu Tử Thư giật mình.

Vốn không mấy băn khoăn về vấn đề này, giờ nghiền ngẫm lại, cậu bỗng thấy mình chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng, ngu muội vô tri.

Từ lúc vượt thời gian đến giờ, cậu vẫn tự cho bản thân mình ở trên cao tít tắp, là một người đi trước cả nghìn năm, học rộng hiểu nhiều gấp vạn lần so với người cổ đại. Bất luận là Tằng phu tử hay Lương đại nho, cậu chưa hề kính trọng họ đúng mực. Cậu như ngọn thác từ trên cao trút xuống, chẳng buồn để một ai vào mắt mình. Hôm nay ngộ ra cái sai của bản thân, Chu Tử Thư bỗng thấy xấu hổ không để đâu cho hết.

Mang tâm trạng day dứt khôn cùng, Chu Tử Thư thành khẩn thưa: "Tiểu tử không biết ạ."

Chẳng ngờ, Lương Tụng nói: "Bởi vì, con cực kì giống ta!"

"Ơ?"

"Thần đồng có trí nhớ siêu phàm, đọc một lần không quên, lão phu đã từng gặp. Thiên hạ có mười đấu văn chương thì mình nó chiếm tám đấu. Nó nói với lão phu rằng, mười hai tuổi đỗ tú tài, mười sáu tuổi đỗ cử nhân, hai mươi mốt tuổi giành ngôi Trạng nguyên. Chu Tử Thư, con có dám quả quyết rằng mình đứng nổi trong hàng Tiến sĩ vào năm hai mươi mốt tuổi không?"

Nếu là khi trước, Chu Tử Thư dám nói thế lắm chứ. Nhưng sau hôm nay, cậu không còn dám kiêu căng. Cậu biết ở thời cổ đại này, thi đỗ Tiến sĩ khó như lên trời.

Ba năm một khoa thi lớn, mỗi khoa thi chỉ chấm đậu ba trăm tiến sĩ, bình quân mỗi năm chỉ vỏn vẹn một trăm người đỗ.

Một trăm người đó được tinh tuyển trong phạm vi toàn Đại Tống chứ chẳng phải ở một phủ thành hay một châu! Sau này, Thanh Hoa, Bắc Đại mỗi năm có khoảng mười nghìn người trúng tuyển, nhưng mỗi khoa thi cổ đại chỉ lấy đúng một trăm người mỗi năm. Thư sinh khắp thiên hạ ai ai cũng là bạn học, bạn thi của mình.

Chu Tử Thư đáp: "Tiểu tử không dám."

Lương Tụng thấy dáng vẻ khiêm tốn, hối lỗi của Chu Tử Thư thì hài lòng gấp bội. Ông thở dài: "Chao ôi, con quả thực là giống lão phu lắm. Chu Tử Thư à, hai mươi tư năm trước lão phu cũng hệt như con, cảm giác mình xòe một bàn tay là nắm trọn được cả thiên hạ. Nhưng con phải nhớ lấy, trên đời này luôn có việc mình không làm được, luôn có người mình không cứu nổi. Con đã từng thấy thành U châu xương trắng vạn dặm, máu chảy thành sông chưa?"

Chu Tử Thư thành khẩn thưa: "Tiên sinh, con đã quá tự cao tự đại rồi ạ."

"Biết lỗi là tốt rồi, lại đây. Tiểu Thư Lang ơi, sao ta cứ thấy dáng vẻ tự tin kiêu ngạo lúc trước hợp với con thế nhỉ? Cái câu ban nãy con nói nghe khá đấy, thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách!"

Da mặt Chu Tử Thư có dày hơn nữa thì lúc này cũng phải ngượng chín người. Nếu cậu dám múa rìu qua mắt thợ nữa, tiên sinh đã đuổi cổ từ lâu rồi.

Lương Tụng hỏi: "Bao giờ con định tiếp tục ôn luyện?"

"Dạ, chuyện này..."

"Thi huyện sang năm sợ là con không dự kịp, chỉ còn ba tháng, con đã học thể văn bát cổ3 chưa?"

[3] Thể văn dùng trong thi cử, có nguồn gốc từ thời Tống Chu Tử Thư ỉu xìu: "Chưa ạ..."

Lương Tụng: "Cuối tháng này, con đến trường phủ đi học đi."

Chu Tử Thư kinh ngạc hỏi: "Tiên sinh, trường của phủ không phải chỉ dành riêng cho các tú tài theo học thôi ạ?"

"Đệ tử của ta cũng đến học được."

Chu Tử Thư hớn hở: "Thật thế hả tiên sinh?"

Lương Tụng cười mắng: "Thằng nhóc lươn lẹo này, từ tết Trùng Cửu đến giờ, mi năm lần bảy lượt tới bái phỏng ta, không phải để bái ta làm thầy à?"

Chu Tử Thư giả đò ngây thơ: "Tiểu tử chẳng qua chỉ muốn thăm tiên sinh thôi mà."

"Được rồi, về đi."

Tiễn Chu Tử Thư về, Lương đại nho nhìn bóng lưng gầy gò của cậu, càng nghĩ khoái chí, càng nghĩ càng hả hê. Ông cuốn quyển tranh hoa lan lại, lấy giấy mực ra viết thư. Viết một mạch xong, ông nghĩ ngợi, lại đặt bút thêm một câu.

"...Lão già ranh kia, mười tám năm trước lão có được đứa trò giỏi, năm lần bảy lượt đem chuyện đó ra huênh hoang trước mặt ta, lão khoe cũng tròn mười tám năm rồi đấy! Để ta nói cho lão biết, hôm nay ta cũng mới nhận một học trò có tài đọc đâu nhớ đấy như Tử Phong nhé! Đã thế, nó chỉ mới mười ba tuổi mà đã nói với ta rằng:

'Thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách!'

Lúc Tử Phong mười ba tuổi có nói được câu này không?"

Lương Tụng viết mỗi bức thư mà múa bút vẩy mực đến là đắc ý. Thư viết xong, ông gọi đứa cháu họ: "Quyển tranh hoa lan và phong thư này con hãy gửi đến Thịnh Kinh cho lão già ranh kia nhé."

"Vâng ạ."

(Bản edit phi lợi nhuận chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com; hãy mua chương cho tác giả trên Tấn Giang nếu có thể)

Mãi đến tận khi ra khỏi cổng chính Lương phủ, Chu Tử Thư vẫn trong trạng thái lâng lâng vui sướng.

Lương đại nho nói không sai, ngay từ đầu, Chu Tử Thư không tự dưng mà tới tìm ông, cậu có tư tâm muốn bái Lương Tụng làm thầy.

Lương đại nho cũng không phải người không nhận đồ đệ. Nghe kể rằng trước năm Khai Bình thứ mười, khi ông còn giữ chức Đô chỉ huy sứ, và hồi tiên đế còn tại vị, Lương Tụng đã từng có một vài học trò. Chỉ tiếc rằng phần lớn đệ tử của ông đều bỏ mạng trên chiến trường, còn một đệ tử khác thì mất vì bệnh tật cách đây vài năm. Cũng có thể do ông có tuổi rồi nên không nhận học trò nữa.

Về lí mà nói, Chu Tử Thư chưa đủ tư cách khiến ông phải phá lệ, nhưng Chu Tử Thư đặt niềm tin ở việc Lương Bác Văn tự tay đưa danh thiếp cho mình.

Dẫu sau này không dấn thân vào chốn quan trường, cái tiếng "đệ tử của Lương Bác Văn" sẽ giúp cậu bớt đi nhiều mối lo.

Song, sau hôm nay, Chu Tử Thư thực lòng thực dạ muốn bái Lương Tụng làm thầy.

Cậu không có khí tiết như ông, nhưng cậu tôn sùng cốt cách con người ông.

Thiên hạ này có thể bớt đi một Chu Tử Thư, nhưng không thể thiếu người như Lương Tụng được.

Gần về đến nhà, từ xa Chu Tử Thư đã thấy em gái đứng chờ ngoài cửa. Thấy bóng cậu, Đường Hoàng hớt hải chạy ra tận nơi.

Chu Tử Thư hẵng còn đắc ý về chuyện hôm nay, cười bảo: "A Hoàng, em đoán xem anh vừa làm gì nè!"

Đường Hoàng giậm chân phành phạch: "Chu Tử Thư thối, anh mần chi em cũng mặc4, ở nhà sinh chuyện rồi, anh có nhanh cái chân lên không!"

[4] Trong câu "anh mần chi em cũng mặc" (我管你干甚去) Đường Hoàng dùng từ 干甚

(làm cái gì) là phương ngữ dùng ở vùng Tứ Xuyên, Sơn Tây, Nội Mông. Bạn nào biết cách chuyển ngữ hay hơn thì chia sẻ với mình nhé!

||

------oOo------

Chương 13

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thầy ơi cứu con!

Chu Tử Thư vội vã cùng Đường Hoàng vào trong nhà.

Vừa bước tới cửa, một cục đen thùi lùi lao vút về phía hai anh em. Chu Tử Thư lôi em gái ra sau lưng, hất cẳng đá bay vật lạ. Cái hũ sành văng xuống đất bể toác. Chu Tử Thư giận lắm, cậu nhìn xung quanh, khoảnh sân nhỏ nhà mình đã bị lũ người lạ mặt phá tanh bành.

Thấy cậu về, Diêu Tam vội vàng chạy tới: "Ôi tiểu đông gia, giờ biết làm sao đây? Người ngoài tới phá thì tôi còn nói điều phải quấy, nói không nổi thì thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Nhưng cậu ta nói mình là đại công tử nhà Đường cử nhân, còn dắt theo hai thằng đầy tớ đập phá suốt nửa canh giờ rồi. Tôi nói thế nào cậu ta cũng mặc, khăng khăng đòi dỡ cả nhà mình lên."

Chu Tử Thư liếc mắt đã thấy kẻ đầu sỏ ở góc sân, một thiếu niên to con khoẻ khoắn.

Thằng ôn này dáng người rắn rỏi, áo lụa quần là, đầu đội ngọc quan đồi mồi, mặt mũi sáng sủa, mỗi tội hơi phát tướng, trông là biết con nhà giàu. Nó nghe có tiếng người liền vênh váo nhìn sang, lập tức va phải ánh mắt

Chu Tử Thư. Thằng nọ thoáng giật mình, rồi sẵng giọng ngay: "Mày là

Chu Tử Thư hả?"

Chu Tử Thư nén giận, cười nhạt: "Cho hỏi anh tên gì?"

"Hứ, tên tao mà mày còn phải hỏi? Tao họ Đường, tên Vân, đại công tử nhà họ Đường khu Tây thành Cô Tô."

Tay này đích thị là cậu ấm ruột của Đường cử nhân và Đường phu nhân, theo vai vế thì là anh họ của Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư ngoài cười mà trong không cười: "Cho hỏi anh Đường Vân sang đây có việc gì không?"

Đường Vân đánh mắt ra hiệu cho hai gã tuỳ tùng cao to, hai tay này lập tức thôi đập phá. Cả ba hùng hổ sấn tới, Đường Vân hống hách: "Có việc gì không hả? Đương nhiên là có rồi! Thằng nhãi nhép nhà quê này, mày bỏ bùa mê thuốc lú gì để mẹ tao cứ khăng khăng rót tiền cho mày buôn cái xà phòng vớ va vớ vẩn kia? Tao nhổ vào nhé! Xà phòng là cái cóc khô gì? Mày là phường bịp bợp ở đâu? Giở trò gì làm mẹ tao lú lẫn, hả?"

Đường Vân năm nay mười lăm tuổi, lớn hơn so với Chu Tử Thư hai tuổi, cao hơn nửa cái đầu, vóc người nó bự cồ, trông to con phải gấp đôi Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư trông nó gân gổ như vậy thì phì cười.

Tưởng gì, hoá ra Đường Vân vì việc này mà đến. Đường Vân bị cười nhạo, quê quá, gắt lên: "Mày cười cái gì mà cười?"

"Sao tôi phải nói cho anh biết? Anh thử đoán xem?"

Nói rồi Chu Tử Thư lờ phắt Đường Vân, đi vào giữa sân nhà mình.

Đường Vân phá hoại kha khá đồ đạc, làm đổ tung toé vại sành đựng cánh hoa, vại dưa Diêu đại nương muối từ tháng trước, lẫn bình rượu nếp Diêu Tam mua cách đây hai hôm. Tuy vậy, đồ đạc trong phòng thì không sứt mẻ gì, hẳn là chỉ lo phá phách ngoài sân. May là mấy hôm trước Chu Tử Thư mua xong xưởng ở ngoại ô đã chuyển hết dụng cụ nấu xà phòng và tinh dầu sang, bằng không hôm nay ắt tan nát hết dưới tay Đường Vân.

Thấy Chu Tử Thư thong thả đi lại trong sân, lơ đẹp mình, Đường Vân cáu um: "Thằng bịp bợm kia, hôm nay mà mày không chịu thú tội, giải thích hẳn hoi với mẹ tao ba cái mánh khóe lươn lẹo của mày, thì đừng hòng bước chân ra khỏi cái nhà này!"

Chu Tử Thư tỉnh bơ: "Thế anh định làm gì?"

Đường Vân ra lệnh: "Hai đứa bay, đi ra chặn cửa."

Hai tên tuỳ tung vai u thịt bắp lập tức đứng án ngữ trước cổng nhà.

Diêu Tam máu nóng phừng phừng: "Chúng mày quá quắt lắm rồi đấy!" Dứt lời, anh toan nhảy bổ vào choảng nhau với bọn kia.

Chu Tử Thư cản anh ta ngay, nói với Đường Vân: "Tôi có tội gì mà thú? Đường đại thiếu gia, anh đập phá nhà cửa của tôi, lại còn bắt tôi phải xin lỗi? Hoá ra cái phủ Cô Tô này do nhà anh mở, thiên hạ Đại Tống này là của họ Đường nhà anh phải không?"

Đường Vân tái mặt: "Thằng thầy bùa giả hiệu kia, sao mày liều mồm thế? Cấm mày bôi nhọ tao!"

Chu Tử Thư dám nói lời phản nghịch như thế, chẳng qua là vì chắc mẩm không ai có mặt ở đây dám hở chuyện này ra. Một người lỡ mồm là cái đám phải vạ bay đầu.

Cậu nói: "Diêu đại ca, anh ước lượng cho cậu Đường đây nghe xem đồ đạc anh ta phá hỏng trị giá khoảng bao nhiêu tiền?"

Diêu Tam theo dõi sát sao vụ phá hoại này, sớm đã tính toán đâu ra đấy. Anh nói ngay: "Bốn mươi xâu tiền, ít nhất là bốn mươi!"

Đường Vân khinh khỉnh ra mặt: "Có bốn mươi xâu bọ! Chẳng bằng tiền quà vặt một ngày của tao."

Chu Tử Thư: "Thế cơ đấy? Diêu đại ca, vậy tiền đền bù anh cứ tính hết cho cậu cả Đường nhé."

Đường Vân trợn mắt ngó Chu Tử Thư, ngớ người ra không biết phải làm gì tiếp. Đây là lần đầu tiên nó gặp Chu Tử Thư bằng xương bằng thịt, nhưng nó không ngờ thằng nhãi này khác hẳn với tưởng tượng của mình. Chuyện hợp tác buôn bán xà phòng với Chu Tử Thư, Đường phu nhân không giấu giếm cả nhà chút nào. Mặc cho Đường cử nhân phản đối kịch liệt, phu nhân vẫn nhất quyết làm theo ý mình. Đường cử nhân bó tay không can ngăn nổi vợ.

Hôm nay, Đường Vân mới tan học ở nhà học tư của Đường gia về thì hay tin đó. Khỏi phải nói việc một thằng oắt hai lúa làm mẹ mình mê muội khiến nó tức tối như thế nào. Thế là nó đùng đùng dẫn hai hộ vệ đến "hỏi thăm". Ai ngờ đập bể bao nhiêu đồ đạc như thế mà Chu Tử Thư chẳng mảy may tức giận, còn tỉnh queo đòi tiền bồi thường.

Sao thằng Chu Tử Thư này không có tí sĩ diện nào thế nhỉ? Nó phá tanh bành cả lên mà Chu Tử Thư vẫn bình chân như vại, đâm ra nó lại thành đứa mặt trâng mày tráo ở đây.

Đường Vân đang định mở mồm thì bỗng ngoài sân có tiếng bước chân dồn dập. Nó ngó thử xem là ai, liền thấy ngay Đường phu nhân dẫn theo nha hoàn và quản gia xông tới.

Đường Vân nghệt ra: "Mẫu thân..."

Đường phu nhân sải bước đến trước mặt Đường Vân, vung tay lên tát thật mạnh. Chỉ còn một tí nữa thôi là chạm mặt thằng bé thì bà dừng lại, dúi ngón tay lên trán nó, mắng: "Cái thằng hỗn xược này, mày có về nhà với mẹ không thì bảo? Hai thằng kia dám đi theo cậu làm xằng làm bậy, về nhà ta sẽ xử lí chúng mày. Giờ thì dẫn cậu về ngay cho ta!"

Ngoài miệng thì quở trách, nhưng ánh mắt bà sốt sắng săm soi từ đầu đến chân thằng con. Thấy Đường Vân không bị sứt mẻ miếng nào, Đường phu nhân mới thở phào nhẹ nhõm.

Đường phu nhân nhìn cái sân lanh tanh bành, áy náy bảo: "Tuấn nhi, lỗi tại bác không để mắt đến anh họ con, để cháu chịu thiệt thòi rồi."

Chu Tử Thư đáp: "Không việc gì đâu ạ, bọn cháu không ai bị thương cả, mỗi tội đồ đạc trong nhà bị hỏng hóc hết thôi."

"Để đại bá mẫu mua đền cho cháu nhé. Thằng ôn này được chiều chuộng từ bé đâm sinh hư, cháu đừng chấp nó. Bác đảm bảo không có lần sau đâu."

Chu Tử Thư xua đi bảo không sao, Đường phu nhân càng tỏ ra áy náy, nói xin lỗi mãi. Thấy hai tên nô bộc định áp tải mình về nhà, Đường Vân gân cổ lên: "Ơ kìa mẹ! Sao mẹ lại bênh thằng oắt này? Nó chẳng qua chỉ là một thằng chân đất mắt toét! Rốt cuộc nó bỏ cái bùa gì mà lừa được mẹ chứ! Mẹ tin nó nhưng con không tin đâu!"

Ngay khi Chu Tử Thư biết Đường Vân là tác giả của vụ dằn mặt này thì cậu đã sai Đường Hoàng chạy tới Đường phủ báo tin, lúc ấy mới rước được Đường phu nhân đến. Con bé theo phu nhân về nhà mình, thấy Đường Vân nhiếc móc anh mình như vậy làm sao mà để yên được: "Anh mới là đồ hai lúa ý! Anh tôi giỏi gấp vạn lần anh! Mai này anh tôi đi thi sẽ đỗ tú tài, đỗ cử nhân, làm quan lớn!"

Đường Vân bĩu môi: "Ranh con hỉ mũi chưa sạch, ếch ngồi đáy giếng!"

Đường Hoàng: "Anh..."

"Anh bảo ai ếch ngồi đáy giếng cơ?"

Đường Vân không ngờ Chu Tử Thư sẽ hỏi vặn lại thế. Nhưng nó chỉ ngạc nhiên tí ti thôi rồi lên giọng chế giễu ngay: "Hai đứa mày là con dòng lẽ, đến cái cổng trường khéo còn chả biết ở chỗ nào. Ếch ngồi đáy giếng, vắt mũi chưa sạch, chẳng nói hai anh em mày thì nói ai?"

Đường phu nhân quát lên: "Im mồm, cút về nhà cho mẹ!"

Chu Tử Thư cười: "Không phải anh sợ trình độ của mình còn kém hơn cái đứa hỉ mũi chưa sạch đấy chứ?"

Đường Vân: "Nực cười, tao mà lại thua mày? Năm ngoài tao vừa thi huyện xong, đã có chứng nhận là đồng sinh rồi." [1]

[1] Thời Minh, sĩ tử vượt qua kì thi cấp huyện và cấp phủ nhưng chưa đủ đỗ tú tài thì gọi là đồng sinh.

"Đồng sinh thì có gì ghê gớm, anh cũng chẳng đỗ tú tài."

Đường phu nhân lựa lời khuyên can: "Tuấn nhi, cháu đừng để bụng thằng oắt này. Để về nhà đại bá mẫu dạy dỗ nó."

Chu Tử Thư nói: "Đại bá mẫu, cháu không so đo với anh, chẳng qua cháu thấy đồng sinh cũng xoàng thôi, tính cháu vốn ăn ngay nói thật ạ."

Đường Vân nhảy dựng lên: "Mẹ! Mẹ thấy không? Thằng này làm phách quá thể!"

Đường Hoàng cự lại ngay: "Hứ, chính anh mới là đồ phách lối."

Chu Tử Thư thản nhiên hỏi: "Thi đồng sinh khó thế cơ à?"

Nghe cậu nói thế, ai cũng sửng sốt. Đường Vân vẫn không hiểu Chu Tử Thư có ý gì.

Ngay sau đó, Chu Tử Thư liền thủng thẳng bảo: "Tháng hai năm sau thi huyện, chi bằng tôi đi thi thử một lần xem có đỗ đồng sinh không nhỉ?" Đường phu nhân giật thót: "Tuấn nhi, anh họ cháu lỡ lời đấy."

Đường Vân: "Mẹ này, cứ để cho nó thi. Còn khướt nó mới đậu nổi!"

Chu Tử Thư: "Ơ, thế nhỡ tôi thi đỗ thì sao?"

Đường phu nhân chỉ muốn dừng câu chuyện ngay tại đây, nhưng thằng con trời đánh của bà đã chõ mỏ vào: "Thế thì cả đời này tao làm trâu làm ngựa cho mày, gọi mày là đại ca luôn Chu Tử Thư ơi!"

Chu Tử Thư lẩm bà lẩm bẩm: "Ai thèm làm đại ca mày chứ, lỗ chổng vó!", đoạn nói: "Thế là quyết nhé. Đường ca này, năm ngoái anh chưa vượt qua được kì thi cấp phủ, sang năm chúng mình cùng đi thi, chớ để tôi lên tú tài, còn anh vẫn là đồng sinh đấy."

Đường Vân: "Ờ, để tao chống mắt lên xem mày lấy tư cách gì mà khoác lác."

Chu Tử Thư cười tít, nhả ra một câu như sấm giữa trời quang: "Tư cách ấy hả? Nếu như tôi nói, từ mai tôi sẽ theo học ở trường phủ Cô Tô, sư phụ của tôi là một trong thiên hạ tứ nho, Lương Bác Văn, thì sao?"

Khoảnh sân thoắt cái im phăng phắc, nhưng chẳng ai hé răng nói nổi một lời.

Mãi đến lúc Đường phu nhân lôi cổ Đường Vân về, Đường Hoàng và Diêu Tam mới phản ứng.

Đường Hoàng nhảy cỡn lên, liến thoắng: "Anh ơi, Lương đại nho nhận anh làm đồ đệ thật sao?"

Diêu Tam: "Tiểu đông gia, chuyện này là thật sao?"

Chu Tử Thư: "Tôi lừa mọi người làm gì chứ. Quả thật ngày mai tôi sẽ đến học viện Tử Dương báo danh. Học viện Tử Dương là trường học của phủ Cô Tô, tôi không phải tú tài, nếu không có thầy bảo lãnh thì sao tôi nhập học được?"

"Thật hết sảy! Anh có thấy lúc Đường Vân thộn cả mặt ra không? Cả đời này chắc em không quên được mất."

Cả nhà vui mừng khôn xiết, Diêu Tam nhổ toẹt: "Phì, thằng Đường Vân đó đúng là được chiều lắm sinh hư, mắt cao hơn đầu. Tiểu đông gia, cậu không thấy điệu bộ phách lối ngang ngược của nó trước khi Đường phu nhân tới đâu, tôi nhìn chỉ muốn dần cho thằng ôn đấy một trận nhừ tử."

"Anh nghĩ tôi không muốn chắc?"

"Ơ? Tiểu đông gia, tôi chưa bao giờ thấy cậu nổi giận cả."

Chu Tử Thư nhìn sân đầy mảnh sành vỡ: "Chắc trong lòng anh, tôi lành như cục đất nhỉ? Nhưng con giun xéo lắm cũng phải oằn thôi anh. Chỉ có điều, Diêu đại ca ạ, nếu tôi đánh nó, trong lòng Đường phu nhân sẽ có khúc mắc."

Diêu Tam: "Không đâu, Đường phu nhân là người công tâm, việc này rõ mười mươi là do Đường Vân tự dưng gây sự."

"Đúng, đại bá mẫu tôi là người công tâm, bà ấy biết hôm nay chúng ta bị oan ức. Nhưng làm cha mẹ ai mà chẳng xót con, huống hồ là đứa con trai ruột duy nhất. Chính vì bà ấy là người thấu tình đạt lí, nên ấm ức chúng ta phải chịu hôm nay, bà ấy sẽ đền bù gấp bội sau này. Đánh Đường Vân, quan hệ của chúng ta và Đường phu nhân sẽ rạn nứt. Không đánh nó, mặc cho nó tác oai tác quái trước mặt mẹ mình, mới khiến bà ấy cảm thấy áy náy, hổ thẹn."

Diêu Tam: "Tiểu đông gia không hổ là người có học, cậu nói chí phải."

Đường Hoàng: "Anh ơi, anh định ba tháng nữa thi huyện thật đấy à?"

Chu Tử Thư: "..."

"Anh ơi?"

"..."

"Chu Tử Thư?"

Chu Tử Thư ngửa mặt nhìn trời, nỗi khổ này biết tỏ bày cùng ai: "Tự mình mạnh miệng cho sướng, giờ khóc tiếng Miên cũng phải cố cho được!"

(Bản edit phi lợi nhuận chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com; hãy mua chương cho tác giả trên Tấn Giang nếu có thể)

Sang ngày hôm sau, Đường phu nhân sai người khiêng hai rương đồ tới nhà

Chu Tử Thư, đồng thời dặn quản gia chuyển lời cho cậu: "Tiểu thiếu gia, phu nhân sai tôi nói với cậu rằng, cậu Đường Vân đúng là hay được chiều nên sinh thói ngạo mạn, nhưng cậu ấy không phải người vô lối, không màng phải trái đúng sai đã đi đập phá lung tung. Việc này phu nhân sẽ làm cho ra nhẽ và nhất định sẽ giải thích rõ ràng với cậu. Về phần tinh dầu thì hôm nay cửa hàng đã bắt đầu thu xếp rồi, phu nhân muốn hỏi cậu khoảng bao giờ sẽ xong lô hàng đầu tiên ạ."

Chu Tử Thư: "Nửa tháng nữa là xuất được hàng."

"Vâng."

Tiễn quản gia về, Chu Tử Thư chẳng buồn kiếm cái gì bỏ bụng, vội vã lấy một băng vải dài buộc quanh trán rồi chạy tới Lương phủ. Lúc này Lương Tụng đang ăn sáng, chợt thấy quản gia báo Chu Tử Thư đến thăm, Lương Tụng ngạc nhiên: "Sớm tinh mơ thế này nó qua đây làm gì nhỉ? Không phải đến trường phủ báo danh à?"

Ông chưa nói dứt câu, đã thấy Chu Tử Thư đầu buộc khăn vải, "nước mắt lưng tròng" tất tả chạy vào. "Thầy ơi, cứu học trò với!"

Lương Tụng: "Hả?"

Chu Tử Thư mếu máo, làm bộ quẹt nước mắt như thật: "Thầy ơi, thầy nói xem ba tháng nữa, với trí thông minh của học trò, liệu có qua nổi kì thi huyện không ạ?" Lương Tụng: "..."

"Thầy!"

Lương Tụng chỉ muốn đá phốc một cái vào đít Chu Tử Thư. Ông vừa cười vừa mắng: "Thằng nhóc cà chớn này, đã xin xỏ người khác thì thôi, còn phải tâng bốc bản thân lên nữa. Trí thông minh của con hả? Văn bát cổ mù tịt, chữ nghĩa khéo tay lắm cũng không viết nổi thể Quán Các, con nhìn lại mình xem, mặt mũi khôi ngô tuấn tú xiết bao, mà chữ thì như gà bới!"

Chu Tử Thư: "....Kìa thầy, chữ con đâu xấu đến nỗi ấy."

Lương Tụng cáu kỉnh: "Nói ta nghe, xảy ra chuyện gì hả?"

Chu Tử Thư: "Hu hu phen này chỉ thầy mới cứu nổi con thôi!"

[2] Quán Các: Khoa cử thời Minh yêu cầu các thí sinh phải viết thể chữ Khải thật ngay ngắn, chữ viết xấu thì bài hay đến mấy cũng bị đánh trượt. Do đó, sĩ tử thời Minh đều cố gắng viết chữ cho thật vuông vức, thẳng thớm, hình thành nên kiểu chữ Quán Các. Lối viết này bị phê phán là quá cứng nhắc và làm mất đi tính đặc sắc của nghệ thuật thư pháp. Phỏng dịch theo Nguồn ảnh:

||Chú thích

Thi cử thời Minh ở cấp địa phương chia làm 3 kì thi: huyện –> phủ –> viện. Theo Baidu thì thí sinh phải vượt qua (đỗ) hai kì thi huyện và phủ mới được coi là đồng sinh. Các đồng sinh này sẽ được tham gia kì thi viện và những người xuất sắc nhất sẽ trở thành tú tài. Trong truyện có vẻ hơi khác một chút khi Đường Vân đỗ kì thi huyện đã là đồng sinh rồi, còn Chu Tử Thư thách là thi phủ sẽ đỗ tú tài. Trong các chương tiếp theo sẽ nhắc lại hệ thống này.

------oOo------

Chương 14

Nguồn: EbookTruyen.Net

Học viện Tử Dương

Chu Tử Thư bèn trình bày đầu đuôi dự định năm sau thi huyện cho thầy.

Lương Tụng nheo mắt nhìn cậu: "Con không giấu ta cái gì đấy chứ?"

Chu Tử Thư nghiêm trang đáp: "Không ạ." "Thế làm sao cứ nhất định phải thi năm sau?" Chu Tử Thư im như thóc.

"Thằng nhóc lươn khươn này, không nói thật thì lão phu thây kệ mi đấy. Để xem với cái đống chữ gà bới của nhà mi, mi đỗ thế nào được kì thi huyện!"

Chu Tử Thư nghĩ thầm, còn mấy tháng nữa, cùng lắm thì mỗi ngày luyện chữ đọc sách ở nhà. Kiếp trước, anh đây cũng có tấm bằng tiến sĩ ở trường đại học top 2 toàn quốc (mặc dù là ngành công nghệ), chưa kể còn có bàn tay vàng đọc một lần là nhớ. Thi huyện chứ gì? Chuyện muỗi!

...Chắc là "muỗi" thôi nhỉ?

Lương Tụng: "Sao?"

Thấy thầy không có vẻ gì là chịu nhượng bộ, Chu Tử Thư nghĩ ngợi một hồi, cực chẳng đã đành đem chuyện mình ba hoa với người ta ra kể.

Lương Tụng cười phá lên: "Ôi giời ơi ta còn tưởng làm sao, hóa ra là con với thằng anh họ không vừa mắt nhau. Con thông minh đến mấy đi chăng nữa thì vẫn là đứa nhóc mười ba tuổi, thỉnh thoảng trẻ con một tí sao phải xấu hổ? May mà con chỉ thách nó thi huyện, chứ con mà thách thi Hương thì Văn Khúc1 tái thế cũng phải bó tay xin hàng."

[1] Vị thần trong Đạo giáo chủ quản đường công danh của sĩ nhân.

Chu Tử Thư: "Tiểu tử đâu dại đến mức ấy ạ."

Lương Tụng lườm cậu: "Nhưng mà ngông cuồng thì cậu chẳng nhường ai, nhỉ?"

Chu Tử Thư cười hề hề giả ngu.

Cậu nào biết, Lương Tụng khăng khăng hỏi rõ nguyên nhân không phải vì ông tò mò, mà ông lo Chu Tử Thư bị người khác dụ dỗ thi sớm. Chu Tử Thư còn bé mà tư chất hơn người, nếu có ai biết cậu là đồ đệ của Lương Bác Văn rồi sinh lòng đố kị, rất có thể sẽ tìm cách khích tướng, xúi cậu thi huyện khi chưa chuẩn bị kĩ càng. Chẳng may cậu thi trượt, ắt sẽ mất hết tự tin, kết cục không khác gì Thương Trọng Vĩnh2.

[2] Ví tài năng bị thui chột. Xem chú thích chương 5.

Lương Tụng: "Trước đây con có bảo, Tứ thư Ngũ kinh đã thuộc làu rồi nhỉ?"

"Vâng ạ."

"Với bản lĩnh của con, thi huyện không phải là khó. Nếu đã vậy, hôm nay con đến trường phủ ghi danh luôn đi. Quản gia Lương, ông dẫn nó đi, nói một tiếng với Dư Bá Nham là được."

Quản gia đáp: "Rõ ạ."

Chu Tử Thư đến từ sớm, chưa ăn sáng ở nhà. Lương Tụng bèn bảo cậu ăn một bát cháo cho ấm bụng. Lót dạ xong, Chu Tử Thư theo quản gia đến học viện Tử Dương. Trước khi đi, Lương Tụng còn gọi lại: "Gượm đã, để ta viết lá thư cho mà cầm theo." Ông biên nhanh một phong thư rồi giao cho quản gia.

Học viện Tử Dương ở khu nam trong thành. Lúc Chu Tử Thư và quản gia đến trường thì học sinh đã vào lớp cả.

Cổng học viện là cổng đơn, xây dựng theo kiến trúc trùng thiềm hiết sơn3. Trước cổng treo tấm biển nền đen, chữ trắng, đề "Học viện Tử Dương". Hai câu đối đôi bên cổng học viện Tử Dương do đích thân Lương Bác Văn đề năm ngoái. Phía bên phải cổng treo vế trước, "Tiên nhân thừa lộ bàn", bên trái treo vế sau, "Đàm tiếu hàn mặc hương4."

[3] Mái hai tầng với các góc mái xòe ra. [4] Hai câu đối trích từ bài thơ "Tiễn Lục Vụ Quan".

Vào trong viện là nghe thấy tiếng học trò đọc sách.

Người xưa khi đọc sách thường chú trọng đọc thành tiếng, cốt để thuộc nằm lòng. Ngoài Chu Tử Thư là trường hợp cá biệt nhập học nhờ quan hệ, cùng với con em nhà có điều kiện dùng tiền mua học tịch, còn lại những học trò có thể theo học ở trường phủ tối thiểu phải đỗ tú tài. Các sĩ tử đỗ kì thi huyện sẽ trở thành đồng sinh, đỗ kì thi phủ thì được chứng nhận là tú tài. Đậu tú tài rồi mới có tư cách ghi danh vào trường phủ.

Nhưng dù có là tú tài đi chăng nữa thì ở trường phủ, tất cả đều là học trò.

Chu Tử Thư đi theo quản gia, vòng qua gian thờ Đức Thánh Khổng và giảng đường, liền gặp sơn trưởng5 của học viện Tử Dương là Dư Bá Nham.

[5] Chức danh từ thời Tống, có thể hiểu là hiệu trưởng trong bối cảnh truyện

Dư Kinh, tự là Bá Nham, là tiến sĩ khoa thi năm Khai Bình thứ tư. Khi ông đỗ tiến sĩ đã hơn năm chục tuổi, ba năm trước ông cáo quan về quê rồi đảm nhiệm vị trí sơn trưởng tại học viện Tử Dương.

Quản gia thấy Dư Bá Nham liền vái chào. Chu Tử Thư cũng hành lễ theo.

Dư Bá Nham nhận thư, trong lúc đọc có liếc lên nhìn Chu Tử Thư. Ông cẩn thận đọc kĩ thư một lần nữa rồi nói: "Ý của Lương đại nhân ta đã rõ, mỗi tội lễ khai giảng qua mất rồi, tính đến lúc thi huyện cũng chỉ còn bốn tháng.

Thế này vậy, con là Chu Tử Thư đúng không?"

"Vâng, chính là học trò ạ."

"Giờ con cứ tạm dự thính đã, hằng ngày tới lớp nghe giảng cùng chúng bạn."

(Bản edit phi lợi nhuận chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com; hãy mua chương cho tác giả trên Tấn Giang nếu có thể)

Việc nhập học còn dễ dàng hơn so với Chu Tử Thư hình dung. Hôm sau, cậu cắp hộp sách đến trường phủ đi học buổi đầu tiên. Xem ra, cổ nhân không quá để tâm chuyện có học sinh nhập học ngang xương hoặc chuyển trường. Lúc phu tử vào giảng đường chỉ liếc Chu Tử Thư một cái rồi kệ, bắt đầu giảng bài luôn, hoàn toàn bỏ qua khâu "giới thiệu bạn mới đến."

Không chỉ có các phu tử mà những học sinh khác cũng không quá sốt sắng với sự xuất hiện của Chu Tử Thư. Lúc đầu mọi người khá ngạc nhiên sao tự dưng lại tòi ra một gương mặt lạ hoắc. Hết lớp thứ nhất, đám học sinh liền tụm lại, lẳng lặng quan sát Chu Tử Thư từ xa.

Mãi mới có một cậu chàng mũm mĩm, phương phi bị mọi người ủn tới hỏi thăm. Chú béo đội ngọc quan, eo thắt một miếng ngọc bội Hòa Điền trắng. Chú ta bước tới trước án thư của Chu Tử Thư, chào: "Tớ là Tôn Nhạc, đằng ấy tên gì?"

Thấy đối phương chỉ hỏi thế, Chu Tử Thư đáp: "Chu Tử Thư." Dường như nghĩ tới điều gì, cậu lại hỏi: "Chữ 'Việt' nào thế? 'Việt' trong 'Gái Việt hái sen' à?" [6]

Tôn Nhạc xua tay: "Không phải, là "Nhạc" trong 'tứ hải ngũ nhạc' kia." [7]

[6] Trích Điệp luyến hoa kì 4 (Âu Dương Tu – Bắc Tống) [7] Nhạc ở đây nghĩa là núi. Chu Tử Thư nghĩ thầm: Ồ hóa ra không phải là Tôn Việt.

Tôn Nhạc nào biết trong đầu Chu Tử Thư đã liên tưởng cậu chàng với một diễn viên tấu nói nổi tiếng thời hiện đại. Cậu ta bảo: "Trông đằng ấy lạ ghê, chưa thấy mặt bao giờ. Thế cậu là tú tài ở đâu? Mới đến phủ Cô Tô hử? Trông cậu cao đấy mà gầy nhom gầy nhách thế này, đã mười lăm chưa?

Chu Tử Thư: "Tớ năm nay mười ba tuổi, không phải tú tài."

"Ồ, cậu cũng không phải tú tài à?"

Lũ học trò túm tụm đằng xa nghe Chu Tử Thư nói thế thì thở phào nhẹ nhõm, địch ý vơi hẳn đi.

Trái lại, Tôn Nhạc tỏ ra hết sức phấn khởi. Cậu chàng ngồi phệt mông xuống bên cạnh Chu Tử Thư, nói: "Vậy là cậu giống tớ, cũng nhờ gia đình quyên tiền để đi học ở học viên Tử Dương ha? Cậu đừng sợ gì hết, chúng mình thế là cùng hội cùng thuyền rồi."

Chu Tử Thư không muốn phân bua rằng mình đi cửa sau vào trường chứ chẳng có khoản quyên góp nào ở đây sất. Chuyện cậu là đồ đệ của Lương đại nho không cần thiết phải rêu rao khắp chốn. Cậu dở khóc dở cười: "Tớ không sợ, nhưng tại sao chúng mình lại cùng hội cùng thuyền?"

Tôn Nhạc: "Cậu có thấy mọi người trong lớp mình không? Họ đều là tú tài cả đấy. Trong giảng đường hôm nay chỉ có tớ với cậu là không phải tú tài thôi. Bọn họ khổ công dùi mài kinh sử suốt mười năm, gian khổ lắm mới thi đậu tú tài, nhưng còn phải thi viện mới trở thành lẫm sinh, vất vả lắm[8]! Không đỗ kì thi viện, muốn thi Hương khó như lên trời. Họ tưởng cậu là tú tài ở vùng sâu vùng xa nào đấy, mới đến Cô Tô nên nhập học giữa chừng, sau này sẽ thi viện cùng với họ. Chỉ tiêu thi viện mỗi huyện chỉ có hai mươi người, cậu còn trẻ thế này đã thi đậu tú tài, nhất định là rất giỏi, sẽ thành đối thủ đáng gờm của bọn họ."

[8] Lẫm sinh là học trò được triều đình cấp lương nuôi ăn học.

Nói nghe cũng có lí ra phết.

Tôn Nhạc vỗ ngực: "Đừng sợ, từ giờ tớ sẽ bảo kê cho cậu."

Chợt Chu Tử Thư thấy phảng phất mùi hương gì đó, cậu hít hít, ghé mũi lại gần người chú béo, hào hứng hẳn: "Mùi hoa quế hả?"

Tôn Nhạc cười nói: "Mũi cậu thính đáo để! Đúng rồi, đây là dầu thơm mẹ tớ mang về từ Trân Bảo Các mấy hôm trước đó, tên là Hoàng Kim Lũ thì phải. Hiện giờ toàn phủ Cô Tô chẳng có mà mua đâu, hôm nay cậu hên lắm mới được ngửi thử đấy! Nếu cậu thích, mai tớ đổi mùi khác rồi cho cậu ngửi nhé."

"...Cậu cho tớ ngửi á?"

Tôn Nhạc cảnh giác: "Sao? Dầu này đắt lắm, chẳng nhẽ cậu còn muốn tớ tặng cậu hẳn một lọ?"

Chu Tử Thư cười rinh rích, thế là hai người từ lạ thành quen.

Chẳng mấy chốc lại có tiết học, mọi người ai về chỗ nấy.

Cùng lúc đó, trước cửa hàng Trân Bảo Các của Đường gia ở Toái Cẩm nhai, Đường phu nhân trong bộ y phục gấm bước xuống xe ngựa rồi đi vào cửa hàng. Vừa vào đến nơi, bà đã gặp ngay người quen. Người đó hồ hởi chào: "Đường phu nhân, lâu lắm mới thấy mặt. Không nghĩ hôm nay mình lại gặp nhau đâu đấy."

Đường phu nhân cười: "Cungphu nhân có thì giờ ghé chơi Trân Bảo Các nhà em hôm nay, thế đã ưng món nào chưa?"

Nha hoàn theo hầu Cungphu nhân nói: "Bẩm Đường phu nhân, phu nhân nhà chúng con chọn được khá nhiều thứ rồi ạ."

Đường phu nhân nói với quản lí: "Lấy cho Cungphu nhân một lọ Hoàng Kim Lũ đi." Bà quay lại hỏi: "Cungphu nhân thích hương gì?"

Cungphu nhân chưa đáp, quản lí đã thưa: "Hai lần trước Cungphu nhân đều chọn Hoàng Kim Lũ hương hoa hồng."

Đường phu nhân nháy mắt, quản lí lập tức lấy một lọ tinh dầu hoa hồng bỏ vào hộp cho Cungphu nhân, gói lại bằng vải gấm rồi đưa cho nha hoàn cầm.

Cungphu nhân nói: "Quà tặng của em thơm và bền mùi lắm, thế mà chẳng chịu bán! Em cứ định tặng mãi vậy hả?"

Đường phu nhân tỏ vẻ bất đắc dĩ: "Chị không biết đây thôi, dầu thơm Hoàng Kim Lũ này rất khó điều chế, đến giờ mới chỉ được có mỗi một mẻ. Chính thế nên em chỉ dám đem ra tặng và mời các chị dùng thử xem sao. Giá thành Hoàng Kim Lũ cực kì cao, khách hàng bình thường không thể mua nổi. Một bình như thế này có giá ngang một thước gấm Tô Châu đấy."

Cungphu nhân sửng sốt: "Đắt thế cơ à?"

"Em nói dối chị làm gì. Cả phủ Cô Tô này chỉ có chị, Tôn phu nhân, Triệu phu nhân khu Tây, Lý phu nhân khu Đông, với phu nhân nhà huyện trưởng là em tặng thôi. Những thứ hiếm quý ở Cô Tô đương nhiên phải tới tay các chị đầu tiên."

Cungphu nhân dẫn nha hoàn ra về, Đường phu nhân hỏi quản lí: "Nửa tháng vừa qua cửa hàng mình đã tặng Hoàng Kim Lũ cho những ai rồi?" Quản lí đọc ra một danh sách.

Nha hoàn nói: "Phu nhân, thế đâu phải có mỗi năm người Cungphu nhân ạ?"

"Đừng lo, Cungphu nhân chơi thân với bốn phu nhân kia lắm. Năm người ấy chỉ qua lại với nhau, ít khi ngó ngàng đến các phu nhân khác trong phủ nên không kể cho người khác đâu. Hơn nữa, cho dù họ có biết người khác cũng dùng Hoàng Kim Lũ, chỉ cần bảo là sau hôm nay mình mới tặng người ta là được."

Quản lí nói: "Bẩm phu nhân, cửa hàng mình bao giờ thì bắt đầu bán Hoàng Kim Lũ? Cứ tặng không cho khách quý thế cũng không phải kế dài lâu."

Đường phu nhân yêu cầu quản lí báo cáo tỉ mỉ tình hình tặng tinh dầu cũng như đánh giá của các vị khách quý. Nghe xong, bà kết luận: "Hẵng cứ thong thả."

Mùng một tháng chạp, Chu Tử Thư ghé xưởng kiểm tra lô hàng đầu tiên.

Lần này cậu sẽ đưa xà phòng thơm và tinh dầu ra thị trường. Xà phòng thường cũng đã sản xuất được một lô rồi, nhưng tạm thời chưa động đến.

Diêu Tam: "Tiểu đông gia, sao cậu không bày bán cả xà phòng thường luôn thể? Giá tinh dầu cao ngất ngưởng, khách phổ thông đã không mua nổi rồi. Xà phòng thơm tuy rẻ hơn, nhưng cũng không bằng xà phòng thường, vừa rẻ lại vừa tốt."

Chu Tử Thư: "Chẳng đi đâu mà vội cả. Anh có biết hiệu ứng người nổi tiếng không?"

Diêu Tam tò mò: "Hiệu ứng người nổi tiếng ấy ạ?"

Chu Tử Thư nghĩ ngợi một lát mới ra cách giải thích hiệu ứng người nổi tiếng theo kiểu cổ đại: "Giả sử bây giờ tôi bật mí cho anh rằng, mỗi khi viết, Lương đại nho chỉ dùng mực Huy Châu, đây là loại mực mà ông ấy mê nhất trên đời; nếu anh là người theo nghiệp đèn sách, liệu anh có muốn dùng mực Huy Châu giống ông ấy hay không?"

"Dĩ nhiên là muốn rồi!"

"Nhưng mực Huy Châu rất đắt, bình dân lấy đâu ra tiền mua, chỉ có thể ao ước thèm thuồng thôi. Một thời gian sau, tôi lại bật mí cho anh, không mua được mực Huy Châu cũng không sao, vì Lương đại nho còn thích dùng bút lông dê của Đường gia cơ, cái này thì anh mua xả láng. Lúc ấy, liệu anh có mua bút không?"

"Bút lông dê Đường gia hở? Tiểu đông gia, nhà mình đâu có sản xuất bút lông dê?"

"Hầy, đấy là ví dụ thế thôi, anh trả lời câu hỏi đi."

"Thế thì càng muốn mua!"

Chu Tử Thư nói: "Đấy nhé, anh nghĩ mà xem. Lương đại nho là kiểu mẫu của toàn thể trí thức phủ Cô Tô, vậy ai là kiểu mẫu của toàn thể nữ giới ở Cô Tô nào?" Biết Diêu Tam không trả lời được câu này, Chu Tử Thư giải đáp luôn: "Kiểu mẫu của họ chính là các cô nương, phu nhân nhà quyền quý."

Diêu Tam hoang mang gật đầu.

Chu Tử Thư đã phân tích hết cỡ rồi, đành bảo: "Anh cứ chờ xem rồi sẽ thấy."

Mùng bốn tháng Chạp, Trân Bảo Các của nhà họ Đường nghỉ bán để nâng cấp cửa hàng, khiến các khách quen của cửa hàng chán ơi là chán. Tuy đóng cửa, nhưng Đường gia làm ăn rất chuyên nghiệp, cắt cử một người hầu đứng canh cổng. Thấy mấy phu nhân và tiểu thư ghé cửa hàng ai nấy đều buồn bực, thằng hầu bèn chạy đến mời chào ngay: "Mùng sáu tiệm sẽ mở hàng lại ạ."

Một đứa hầu gái hỏi: "Nhà các anh làm gì mà phải đóng cửa tiệm thế?"

Thằng hầu đáp: "Tôi chẳng biết đâu, thấy quản lí bảo chuẩn bị bày bán một mặt hàng vô cùng hiếm lạ, đặc sắc, mời các vị mùng sáu lại ghé mua."

Cungphu nhân ngạc nhiên: "Phải chăng là Hoàng Kim Lũ quý giá đấy ư?"

"Tôi không rõ."

Cungphu nhân nghĩ ngợi một hồi, thầm nhủ: Mùng sáu nhất định phải đến xem sao.

Mùng sáu tháng Chạp, phủ Cô Tô có bao nhiêu nhà thượng lưu thì có bấy nhiêu phu nhân, tiểu thư không hẹn mà đến Trân Bảo Các. Họ thấy nhau thì ngạc nhiên lắm, rồi kéo nhau vào cả trong cửa hàng. Trân Bảo Các mới mở lại chẳng khác biệt mấy so với mọi khi, cũng xêm xêm như các cửa hàng phấn son danh tiếng khác trong phủ. Xa hoa, sang trọng, nhưng cũng chỉ đến thế là cùng.

Mỗi tội hôm nay cửa hàng đông nghẹt các phu nhân giàu có.

Cungphu nhân tò mò đi vào cửa hàng. Tức thì, sự chú ý của bà bị thu hút bởi một vật rất thú vị bày bên cửa sổ.

||Chú thích

Trùng thiềm hiết sơn: Trùng thiềm là hai mái trồng lên nhau. Còn Hiết Sơn thì các bạn xem trong ảnh sẽ thấy phần phía trên của mái nhà chính là kiểu Hiết Sơn (rìa xòe ra và có thêm 2 mặt mái ở hai bên.) Đọc thêm ở: . Nguồn ảnh:

Hai câu này nằm trong bài thơ ngũ ngôn "Tiễn Lục Vụ Quan" của nhà thơ Lý Thạch thời Nam Tống. Lục Du (tự Vụ Quan) là một vị quan và tác giả nổi tiếng thời Nam Tống. Hai câu đối trong chương này nằm ở hai câu thơ sau:

Thanh miếu hô liễn khí, tiên nhân thừa lộ bàn.

Đàm tiếu hàn mặc hương, phương bội tạp chỉ lan

Bài thơ này không có bản dịch tiếng Việt và trình độ của mình không đủ để dịch chính xác, nên sẽ chỉ giải thích hình ảnh trong câu đối thôi.

Tiên nhân thừa lộ bàn – Tiên bưng mâm hứng sương. Tương truyền hình ành này xuất phát từ một bức tượng được dựng lên để Hán Vũ Đế "gần" với tiên giới hơn. Sương hứng trong mâm sẽ được luyện thành thuốc trường sinh.

Nguồn ảnh:

Đàm tiếu hàn mặc hương – Chuyện trò về những áng văn hay, những bức tranh đẹp, v... v... Hàn (bút) mặc(mực) ám chỉ văn chương, nghệ thuật (bạn nào nhớ Hàn Mặc Tử không? :))

Theo lí giải của mình thì Lương Tụng muốn tôn vinh sự cao quý của học viện, nơi hình thành nên văn hóa và cốt cách của các học trò.

------oOo------

Chương 15

Nguồn: EbookTruyen.Net

Mạch nhiên hồi thủ, na nhân khước tại đăng hỏa lan san xứ

Góc Đông Nam của Trân Bảo Các nhìn ra một con sông nhỏ, sóng nước vỗ dạt dào theo từng nhịp uốn quanh. Song cửa chạm trổ rộng mở cho nắng ùa vào, rọi sáng bừng một giá đỡ chân cao đẽo từ gỗ lim.

Gỗ lim là thứ gỗ quý, là của báu cả trong mắt những người giàu có như Cungphu nhân, ấy thế mà cái giá gỗ lim này lại được bày ngay trong tiệm. Trên mặt giá phủ gấm Tô châu, chồng thêm cả một tấm lót thượng hạng mà từng đường kim mũi chỉ được thêu bởi tú nương tài hoa bậc nhất xứ Cô Tô. Chính giữa tấm khăn lót bày một chén ngọc sáng long lanh.

Trong chén ngọc đầy ắp tinh dầu ngát hương khiến người say đắm.

Xung quanh chiếc chén trang trí ngọc ngà và cánh hoa. Ai bắt gặp giá trưng bày ở góc phòng cũng phải tấm tắc khen là báu vật. Các cô nương trong cửa hàng đều cẩn thận tản ra xa khỏi giá gỗ lim, sợ nhỡ tay quệt vỡ. Rất nhiều người không biết thứ này là gì, thi nhau hỏi nhân viên trong tiệm.

"Sản phẩm này tên là Hoàng Kim Lũ, có tác dụng giống hương huân, nhưng tiện lợi hơn nhiều. Chỉ cần chấm một giọt lên quần áo, trang sức, là tỏa hương thơm suốt một ngày một đêm."

Quản lí vỗ tay, lập tức có hai nhân viên từ sau quầy đi ra, mỗi người đỡ một đầu cuốn thư pháp, từ từ mở ra.

Cungphu nhân đọc chữ trên cuốn thư pháp lên: "Nga nhi, tuyết liễu, hoàng kim lũ. Giọng cười lảnh lót quyện làn hương. Tìm người trong đám đông ngàn bận... Câu 'Tìm người trong đám đông ngàn bận' mới hay làm sao! Ơ, lạc khoản này là của Lương Bác Văn – Lương đại nhân đây mà!"

"Trời ơi là chữ của Lương đại nhân sao?"

"Đây là sáng tác mới của Lương đại nhân à? Ủa, không phải đâu, hình như bài từ này là của một người tên Tân Khí Tật đấy. Nga nhi, tuyết liễu, hoàng kim lũ1, ý chỉ dầu thơm Hoàng Kim Lũ này ư?"

Ba loại trang sức phụ nữ thường đeo vào tết Nguyên tiêu thời Tống.

Quản lí sai hai nhân viên treo cuốn thư pháp lên mặt tường chính giữa trong đại sảnh. Trong khi đó, cánh phụ nữ thượng lưu ở Cô Tô đã phát sốt lên vì Hoàng Kim Lũ.

Tìm người trong đám đông ngàn bận

Bất thần ngoảnh lại

Thấp thoáng dáng ai

Nơi ánh lửa đèn tàn

Các cô nương nhẩm đọc đoạn từ này, ai nấy đều đỏ mặt. Những người mua được Hoàng Kim Lũ đều xuất thân từ gia đình giàu sang, có điều kiện mời gia sư đến dạy học cho con gái. Mà khi đọc lên, bài từ này thì đủ sức làm xiêu lòng cả những người không học Tứ thư, chỉ biết chữ.

Chỉ trong chốc lát, Hoàng Kim Lũ với cái giá cắt cổ đã được các cô các chị tranh nhau mua.

Quản lí hết sức nghi ngờ: "Lẽ nào mình định giá sai rồi nhỉ, Hoàng Kim Lũ này vẫn rẻ quá à?"

Hiển nhiên ông ta không tính sai.

Bài từ kiệt xuất này vốn là tuyệt tác thiên cổ, thư pháp lại được viết bởi chính Lương Bác Văn. Nếu Hoàng Kim Lũ không bán chạy như tôm tươi thì thật uổng công Chu Tử Thư xây dựng cả chiến dịch marketing này. Huống hồ, cậu còn đích thân đến Trân Bảo Các để thiết kế và trang trí khu vực trưng bày tinh dầu.

Trong Trân Bảo Các, các phu nhân, tiểu thư giàu có nhất đã sẵn sàng chi trả bất cứ giá nào cho Hoàng Kim Lũ. Ai gia thế kém hơn một chút thì hẵng còn ngắm nghía đắn đo. Nhưng chỉ phút chốc thôi, họ đã phát hiện ra bên cạnh giá bày tinh dầu còn có một vật màu hồng nhạt, dạng đặc như cao.

"Ơ, đây là cái gì thế? Trông nhẵn mà bóng như mỡ ý nhỉ? Bày trên gấm Tô châu hẳn chất lượng cũng cỡ như Hoàng Kim Lũ ha?"

Quản lí lập tức chạy tới, đon đả mời chào: "Phu nhân, mặt hàng này gọi là xà phòng thơm..."

Trân Bảo Các vừa mở cửa lại đã đông nghẹt khách, người ra người vào lũ lượt.

Các tiểu thư, phu nhân đài các tuy biết chữ, song không nghiên cứu quá sâu về thơ từ. Họ mê mẩn nét lãng mạn trong cái "ngoảnh lại" "bất thần" mà chẳng phát hiện ra chỉ có một nửa bài từ được ghi lại.

(Bản edit phi lợi nhuận chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com; hãy mua chương cho tác giả trên Tấn Giang nếu có thể) Thành Cô Tô, hẻm Đồng Đức, Lương phủ.

Chu Tử Thư bưng một hộp xà phòng thơm, tinh dầu, kèm túi đựng sách vở, mặt mũi bơ phờ bước qua cổng chính Lương phủ.

Lương Tụng đã đợi từ lâu.

Chu Tử Thư đưa xà phòng thơm và tinh dầu cho quản gia.

Lương Tụng: "Hôm nay cửa hàng son phấn nhà Đường cử nhân khai trương hả?"

Chu Tử Thư gật đầu: "Đúng rồi ạ. Tiên sinh, tiểu tử mới nghe Diêu Tam kể, dân chúng cả phủ đều có mặt. Bọn họ đến ngắm chữ của thầy, ai nấy cũng phải trầm trồ, hết người này đến người nọ kháo nhau, không thể nào quên được."

Lương Tụng lườm cậu: "Nếu không phải mi mặc cả với lão phu, không viết thì nhất quyết không đọc phần còn lại của bài từ, lão phu còn lâu mới thèm nhấc bút nhé."

Chu Tử Thư lại chớp mắt giả bộ ngây thơ.

Quả đúng vậy, Lương Tụng là một trong Tứ nho thiên hạ, nức tiếng tài hoa. Người bình thường đừng mơ đến chuyện ông tặng cho mấy chữ, muốn xin ông chỉ điểm đôi câu đã khó như lên trời rồi. Đại Tống không khinh rẻ thương nhân, kẻ sĩ có thể buôn bán, thương nhân cũng được tham gia khoa cử chứ không cấm đoán như thế giới cũ của Chu Tử Thư. Dẫu vậy, việc Lương Bác Văn tặng chữ cho một cửa hàng son phấn vẫn là chuyện bất khả thi.

Lúc Chu Tử Thư mặt dày xin xỏ ông, Lương Tụng suýt chút nữa sút bay "thằng cu đẻ muộn" này (đứa đồ đệ duy nhất về già ông mới nhận) ra khỏi cửa thư phòng, tốt nhất là sút thẳng xuống cái ao ngoài sân cho rồi.

"Con đừng có được voi đòi tiên!"

Nhưng Chu Tử Thư mặt dày quen rồi, kiếp trước cứ mỗi lần nộp luận văn trễ bị thầy hướng dẫn mắng, cậu đều có cách nói ngọt cho qua. Cậu lấy bài từ của Tân Khí Tật ra, quả nhiên, Lương Tụng vừa đọc là mắt sáng bừng.

"Sáng tác của con đấy ư?" Vừa nói dứt câu ông lại gạt đi: "Quên đi, lươn khươn như con, còn lâu mới sáng tác nổi bài từ xuất chúng nhường này."

Vừa mới quyết định sẽ khiêm nhường không nhận vơ là tác phẩm của mình, tên "đạo văn" Chu Tử Thư chỉ biết câm nín: "..."

Lương Tụng cẩn thận đọc bài từ, nói: "Đây mới chỉ là nửa bài, còn nửa bài nữa đâu? Con tìm đâu được bài từ này thế?"

Chu Tử Thư đã bịa sẵn đâu ra đấy, cậu kể rằng hồi trước có một văn nhân nghèo đi chu du thiên hạ, tình cờ ghé thôn Triệu gia, uống nước trái cây nhà cậu, rồi tặng bài từ này thay tiền trà nước.

Lương Tụng: "Bất thần ngoảnh lại, nơi ánh lửa đèn tàn....Phải là bậc đại nho từng trải sự đời mới viết nổi câu chữ bậc nầy. Đáng tiếc, không biết Tân Khí Tật là vị đồng nghiệp nào mà thấu sự đời đến thế, lại chẳng thành danh ở đời, ta chưa từng nghe tên."

Vì phần còn khuyết của bài từ, Lương Tụng đành viết chữ cho Chu Tử Thư trưng bày ở Trân Bảo Các.

Chu Tử Thư sang Lương phủ lúc đang vội, chẳng có thời gian tạt qua Trân Bảo Các, nhưng cậu không hề lo lắng về triển vọng tiêu thụ của tinh dầu và xà phòng thơm. Cậu mở hòm sách lấy hai bài chế nghệ2 mới viết hôm qua, đưa cho Lương Tụng kiểm tra.

Văn bát cổ không dễ viết như hậu thế lầm tưởng. Một bài văn bát cổ có kết cấu gồm tám phần: Phá đề, thừa đề, khởi giảng, nhập thủ, khởi cổ, trung cổ, hậu cổ, và thúc cổ.

[2] Chế nghệ là cách gọi khác của văn bát cổ. 4 đoạn đầu lí giải đề, 4 đoạn sau nghị luận dựa trên phần lí giải

Đề mục của văn bát cổ giới hạn trong Tứ thư, Ngũ kinh, về lý thuyết thì chỉ cần học thuộc hai bộ sách này là có thể phá đề dễ dàng rồi. Nhưng dễ thế thì đã không nói làm gì. Đề mục văn bát cổ thường được ra theo thể thức đề cắt-nối cực kì đánh đố, đó là lấy hai câu chẳng liên quan đến nhau tí nào ghép lại thành đề mục.

Thời xưa có một huyện lệnh đã ra một đề cắt-nối hết sức sáng tạo trong kì thi Đồng sinh, khiến thí sinh toát mồ hôi hột. Ông ra đề là "Di Tử chi thê dữ Tử Lộ." Nguyên văn câu này lấy trong sách Mạnh Tử: "Di tử chi thê dữ Tử Lộ chi thê, huynh đệ dã3." Chỉ bớt đúng năm chữ mà các sĩ tử phải choáng váng.

Vợ của Di Tử và vợ của Tử Lộ, là chị em với nhau.

Vợ của Di Tử và Tử Lộ...

Viết kiểu này chẳng hóa bảo hai người ấy ngoại tình với nhau, đáng nhốt lồng heo thả trôi sông à?

Chu Tử Thư vốn chỉ định thi chơi chơi thôi. Phủ Cô Tô là nơi nhân tài tụ hội, mỗi lần thi Đình có rất nhiều người tài quê Cô Tô đỗ tiến sĩ, không thể ra kiểu đề cắt-nối kì quái như một huyện hẻo lánh vùng sâu vùng xa được. Thi ở Cô Tô cũng như thi đại học ở một tỉnh lớn, nếu ra đề đánh đố thí sinh, về sau nhỡ trong số thí sinh có người lên làm quan lớn, chưa biết chừng sẽ quay lại trả đũa người ra đề năm xưa.

Đã biết trước là đề không đánh đố, Chu Tử Thư lại có trí nhớ siêu phàm, thi huyện chắc chắn không có gì đáng ngại. Còn ba tháng nữa là đến kì thi, cậu sẽ ôn tập cẩn thận, nhưng không học sống học chết để làm gì.

Lương Tụng còn lạ gì tâm tư "thích hưởng thụ" của đồ đệ, nhưng ông chẳng nói chẳng rằng, chỉ dẫn cậu đến trường thi của kì thi huyện năm sau.

Cuộc thi sẽ được tổ chức trên mặt sân mười trượng vuông, ở phía sau phủ nha4 thành Cô Tô.

[4] Tương đương ủy ban nhân dân bây giờ

Chu Tử Thư đi một vòng quanh trường thi, không thấy có gì bất thường cả.

Lương Tụng nói: "Mỗi huyện trong phủ Cô Tô đều có trường thi riêng, bây giờ con ở phủ thành thì năm tới thi ở đây luôn. Năm ngoái có một trăm năm mươi người đăng kí thi huyện, chắc con cũng hình dung ra được nhỉ."

Chu Tử Thư giật mình, thốt lên: "Đông thế ạ!"

Trường thi này chỉ rộng khoảng ba mươi mét, dài ba mươi mét, thế mà chứa hơn một trăm thí sinh?

Lương Tụng nhìn cậu, thủng thẳng nói: "Đông à? Nếu ta bảo con rằng, một trăm năm mươi người này phải đến trường thi từ lúc trời tờ mờ sáng, mãi đến lúc xế chiều mới được ra về thì con nghĩ sao? Trường thi cũng không có nhà xí, đại tiểu tiện đều phải giải quyết trong lều thi. Hừ, nhóc lươn lẹo mi liếc liếc cái gì, tính nộp bài sớm phỏng?"

Lúc này Chu Tử Thư đã xanh hết cả mặt. Bốn chữ "không có nhà xí" là đủ để cậu nâng mức báo động cho kì thi này rồi.

"Nộp bài sớm cũng được thôi, nhưng sau khi con nộp bài, bài thi của con sẽ bị người ta quẳng đi ngay. Dù con viết tốt mấy, có tài Trạng Nguyên đi chăng nữa, người ta cũng chẳng thèm chấm đỗ."

Chu Tử Thư: "Thế...ăn uống ở chỗ nào ạ?"

Lương Tụng kinh ngạc: "Ăn á?" Đoạn, ông bình tĩnh bảo: "Lão phu nghe nói, năm ngoái có hơn mười học sinh hôn mê bất tỉnh, không thể hoàn thành cuộc khi."

"Đói quá xỉu luôn ấy ạ?"

"Thối. Thối quá không chịu được nên lăn ra ngất xỉu."

Chu Tử Thư: "..."

Thôi thôi, ai thích thì người ấy đi mà thi!

Thử nghĩ mà xem, một cái sân cỡ này, thời hiện đại là vừa đẹp để các cô các dì tập khiêu vũ, nhưng ở đây phải nhồi nhét hơn một trăm thí sinh. Từ sáng sớm đến chiều tối, từ ăn uống đến phóng uế đều giới hạn trong khuôn khổ này. Cứ cho là bụng sắt dạ thép, một ngày ít nhất cũng phải đi vệ sinh ba lượt. Nói gì đi chăng nữa, cũng phải ngày ba bữa cơm.

Hình dung đến bữa, anh đang cố gắng nhồi vào bụng chiếc bánh nướng khô quắt khô queo khó ăn gần chết. Tự dưng, thí sinh lều bên lại lấy bô ra...rặn. Khoảng cách còn gần hơn khoảng cách giữa các bồn cầu trong toa-lét ở thời hiện đại!

Trải nghiệm sống động đấy có thể miêu tả được ư?

Tưởng tượng một hồi mà Chu Tử Thư đã thấy hồn lìa khỏi xác, sởn hết cả gai ốc.

Chợt Lương Tụng nói: "Kì thi Đồng sinh chia làm ba trường, thi huyện, thi phủ và thi viện. Lão phu vừa nhớ ra, nếu góp mặt trong mười hạng đầu của một trường thi, thì trường thi tiếp theo sẽ được đặc cách vào trong sảnh ngồi thi. Ngồi trong phòng thì khá hơn là ngồi ngoài sân đấy." Ông vừa nói vừa chỉ về sảnh chính của phủ nha.

Hai mắt Chu Tử Thư sáng ngời.

Lương Tụng cười nói: "Thi được hạng mấy, Tiểu Thư Lang, phải xem bản lĩnh của con rồi."

||

Manh: Mông thằng bé gợi đòn hay sao mà thầy Lương cứ muốn đá đít nó hoài vậy...

Chú thích

Kì thi Đồng sinh: Nguyên văn tác giả dùng từ 童试 (Đồng thí), đây là cách gọi tắt của kì thi này. Mình chuyển ngữ thành tên đầy đủ cho dễ hiểu và thống nhất với cách gọi các kì thi khác. Ngoài ra chữ "trường"/"tràng" hiểu là một lần hoặc một kì.

Nga nhi, tuyết liễu, hoàng kim lũ đều là các trang sức cài tóc phụ nữ thời Tống dùng trong tết Nguyên tiêu. Nga nhi kết lụa và vàng thành hình con ngài, tuyết liễu cũng là nhành hoa lụa, còn hoàng kim lũ là tua rua chỉ vàng. Cả bài từ mô tả đêm hội Nguyên Tiêu rực rỡ, nhưng mọi vẻ đẹp đều không sánh được với niềm sung sướng khi tình cờ gặp người mình thương vào cuối đêm hội. Theo mình thì có thể hiểu hoặc đó là người nhân vật chính thầm thương từ lâu, hoặc là nhất kiến chung tình ^^

Bài từ sáng tác vào những năm đầu của triều Nam Tống, khi nhà Tống bị mất nước nhưng triều đình chủ hòa và muốn an phận ở miền Nam, khiến người yêu nước như Tân Khí Tật cảm thấy phẫn nộ, nuối tiếc thời hưng thịnh trước đây (lí giải cho lời nhận xét của Lương Tụng). (Lược dịch từ )

Đọc đầy đủ bài từ Thanh Ngọc Án của Tân Khí Tật ở và cùng lắng nghe một bản phổ nhạc dưới đây nhé!

Vợ của Di Tử và vợ của Tử Lộ: Câu này trong sách Mạnh Tử. Bản dịch tham khảo . Theo , "huynh đệ" cũng dùng để chỉ chị em. Theo mình tìm hiểu và lí giải thì ngoài nét nghĩa "anh em", "huynh đệ" còn nhấn mạnh vào nét nghĩa "ruột thịt". Đoạn sau câu này nhắc đến việc Di Tử nói chuyện với Tử Lộ về Khổng Tử nên lí giải "chị em ruột" rất hợp logic. Vì hai người là anh em đồng hao nên dễ dàng tâm sự với nhau.

Di Tử (Di Tử Hà) là sủng thần của Vệ Linh Công vì đẹp trai. Lúc ông còn đẹp thì phạm pháp Vệ Linh Công cũng không trách tội, còn khen là có hiếu, nhưng lúc già xấu rồi thì Vệ Linh Công ghét, lôi chuyện cũ đó ra chê. Tử Lộ (Trọng Do) là một trong những học trò nổi tiếng nhất của Khổng Tử.

------oOo------

Chương 16

Nguồn: EbookTruyen.Net

Năm mới

Người thời xưa tham gia khoa cử phải kinh qua bốn cửa ải: thi Đồng sinh, thi Hương, thi Hội và thi Đình.

Trong đó thi Đồng sinh gồm thi huyện, thi phủ, và thi viện. Chu Tử Thư ba tháng nữa sẽ đối mặt với kì thi huyện.

Thi huyện cũng chia ra làm năm trường. Trường thi đầu tiên là quan trọng nhất, còn được gọi là "chính tràng", phải viết hai bài chế nghệ và một bài thơ thí thiếp ngũ ngôn lục vận. Kể từ ngày cá cược với Đường Vân về chuyện thi huyện, Chu Tử Thư mỗi ngày đều viết hai bài bát cổ văn và làm một bài thơ thí thiếp1.

[1] Về trường/tràng mình đã chú thích chương trước. Ngũ ngôn lục vận là thơ Đường với năm cặp câu, sáu vần chân (vần gieo ở chữ cuối câu thứ 2 trong một cặp). Thơ thí thiếp là thơ làm theo đề cho sẵn.

Cách thi viết thời cổ còn khó hơn viết luận văn ở thời kì hiện đại. Chế nghệ rất khắt khe về tính ứng đối và kết cấu bài văn. Làm thơ thí thiếp thì càng gò bó hơn. Từ số lượng từ trong một câu đến luật bằng trắc hay việc gieo vần chân đều phải chính xác, không được sai một chữ.

Lương Tụng đọc hai bài chế nghệ, vê vê râu mép, cười: "Đầu voi đuôi chuột!"

Chu Tử Thư: "...."

"Tiên sinh, so với nửa tháng trước đã tiến bộ lắm rồi mà!"

"Con không đặt mục tiêu cao một tí được à? Ta hỏi con, kì thi huyện chỉ còn cách ba tháng, chỉ đỗ đồng sinh một cách tạm bợ con có cam tâm không? Đến lúc thi phủ tiếp tục ngồi chen chúc ngoài sân nhé?"

Chu Tử Thư nghe vậy thì ớn cả người: "Không ạ!" Nỗi khổ nhường ấy chịu một lần trong đời là đủ rồi, còn lâu mới có lần thứ hai!

Lương Tụng nói: "Vậy mình xem đề số một nào, 'thứ khí hạo nhiên ấy.' Câu này lấy từ chương Công Tôn Sửu trong sách Mạnh Tử chắc con đã biết, con xem xem mình phá đề thế nào?" Không đợi Chu Tử Thư trả lời, Lương Tụng đã đọc lên: "Con phá đề là... Thứ khí hạo nhiên ấy, là anh hoa chính khí khắp trời, khoác hình vật chất khắp nơi vẫy vùng2."

[2] Đề gốc là "kỳ vi khí dã", tức "cái khí (hạo nhiên" ấy". Đây là vế mở đầu câu trả lờicủa Mạnh Tử khi được người học trò Công Tôn Sửu hỏi "khí hạo nhiên là gì". Đoạn sau Chu Tử Thư viết "thiên địa hữu chính khí, tạp nhiên phú lưu hình", ý là chính khí có sẵn trong trời đất, giao hòa với nhau tạo ra muôn vật. Mình sử dụng bản dịch của Nguyễn Văn Thọ.

Chu Tử Thư: "Lẽ nào con phá đề thế chưa hay?"

Lương Tụng cười: "Hay, hay lắm chứ! Nhưng sau đó con viết tiếp cái gì? Viết bài chế nghệ, con có thể mượn quan điểm của người khác để phá đề và thừa đề. Cái đó không sao, mười thí sinh thì chín người sẽ làm thế. Nhưng nếu làm thế, văn của con phải truyền tải được tối thiểu ba phần mười cái thần của người nói câu đó. Ta hỏi, với thái độ được chăng hay chớ như hiện giờ, sau câu mở bài có thể coi là thiên cổ tuyệt cú như 'anh hoa chính khí khắp trời, khoác hình vật chất khắp nơi vẫy vùng', con đã viết nổi một áng văn với bút lực dồi dào như phần mở đầu chưa?" Chu Tử Thư im thin thít, không đáp được.

Cậu cũng không thể nói toạc móng heo ra là, chẳng dám mơ ý văn tuôn trào, một vạn cậu cộng lại cũng chỉ xách dép cho đại thần Văn Thiên Tường, viết làm sao nổi bài văn xứng với Chính khí ca3?

[3] Bài thơ nói về sinh khí của trời đất tạo nên trật tự trên thế giới và sức mạnh chínhnghĩa của con người, sáng tác khi nhà thơ bị giam cầm.

Lương Tụng: "Con phá đề vô cùng sáng tạo, giám khảo nào đọc cũng sẽ thấy hào hứng. Phần sau con viết cũng có thể coi chỉn chu cân đối. Xét như bình thường thì cũng có thể đạt đến hạng ba. Nhưng ghép với câu phá đề xuất chúng của con, thì sẽ thành đầu voi đuôi chuột. Chế nghệ quan trọng là đầu đuôi hô ứng, văn chương quán thông4..."

[4] trôi chảy, thống nhất

Chu Tử Thư khiêm tốn lắng nghe lời chỉ bảo.

Khi cậu mới tập viết chế nghệ, Lương Tụng phê bình câu cú chưa chuẩn, bằng trắc còn sai. Sau mười ngày luyện tập, Lương Tụng mới bắt đầu truyền đạt cho cậu các quy cách viết chế nghệ. Đến hiện tại, Chu Tử Thư đã tiến bộ vượt bậc rồi, theo đánh giá của Lương Tụng, cậu có thể đỗ kì thi huyện. Song, nếu muốn đạt hạng nhất thì phải cải thiện phần phá đề nhiều hơn. Vậy nên mới có chuyện hôm nay Chu Tử Thư mượn câu thơ trong "Chính khí ca" để phá đề.

Tiểu thuyết mạng chuyên môn kể nhân vật chính quay về thời cổ đại, đại phát thần uy, tùy tiện sao chép thơ từ ca phú của cổ nhân là nổi như cồn trong văn đàn. Đừng nói đến thi huyện, thi Đình cũng chỉ là cái mắt muỗi với nhân vật chính.

Xui xẻo sao, đến lượt Chu Tử Thư, cậu chỉ biết nuốt nước mắt vào tim.

Tiểu thuyết toàn phét lác!

Đạo thơ mà đòi thành tài tử phong lưu, không cần phải thi thố ấy à?

Thực ra mà nói thì, khoa cử có thi làm thơ, nhưng sáng tác thơ cũng phải dựa theo đề bài, tức "viết văn bằng thơ", giống như văn bát cổ, phải có đủ phá đề thừa đề...đến thúc cổ! Còn văn bát cổ càng khỏi phải bàn. Chu Tử Thư sống hơn hai chục năm, học lên đến tiến sĩ, cả đời chưa đọc được mẩu văn bát cổ nào thì lấy đâu ra vốn mà đạo? Huống hồ làm gì có chuyện giám khảo cho đề y chang vậy được?

Chu Tử Thư vừa chăm chú tiếp thu những điều Lương Tụng giảng giải, vừa lấy bút nhỏ ra ghi chép lời thầy.

Lương Tụng thấy vậy ngưng giảng, hỏi: "Con viết gì thế?"

Tiểu Thư Lang thành thật trả lời: "Tiên sinh, tiểu tử tuy đọc một lần không quên, nhưng ngài giảng rất nhanh, con sợ bỏ sót, nên phải chép lại để nhớ cho kĩ ạ." Kĩ năng ghi chép là kĩ năng không thể thiếu của học sinh hiện đại.

Lương Tụng ngẩn người một lát. Đoạn, ông vừa cười vừa an ủi: "Hầy, con à, chốc nữa viết lại hai bài nhé!" Chu Tử Thư sụp đổ.

Nhưng không lâu sau đó, cậu tự dưng lại được thoát khỏi bể khổ. Từ Tuệ vội vã đi vào thư phòng, đưa một phong thư cho Lương Tụng. Lương Tụng mở thư ra đọc xong, sắc mặt vô cùng xấu. Ông bảo Chu Tử Thư: "Con về sớm đi, mai không cần đến."

Chu Tử Thư bụng đầy thắc mắc, nhưng không tọc mạch mà chỉ hỏi: "Bao giờ mình học tiếp ạ?"

Lương Tụng trầm ngâm rồi bảo: "Đến lúc ấy vi sư sẽ sai quản gia báo cho con trước một ngày."

Chu Tử Thư vâng lời ra về.

Cậu không ngờ, lần đó hai thầy trò từ biệt kéo dài đến tận đầu năm sau.

(Bản edit chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com; hãy vào đúng trang để có trải nghiệm đọc truyện tốt nhất hoặc theo dõi trên ứng dụng WordPress.)

Mùng một tháng Giêng, khi trời còn tờ mờ sáng, Chu Tử Thư đã ra khỏi giường đón năm mới cùng Đường Hoàng, Diêu Tam và Diêu đại nương.

"Chúc mừng năm mới!"

"Chúc mừng năm mới!"

Chu Tử Thư và Đường Hoàng đều còn nhỏ, đáng lẽ hai anh em phải cúng giao thừa, nhưng Diêu đại nương bảo hai đứa đi ngủ sớm, còn bà thì thức đến nửa đêm. Hôm sau, bốn người cùng dán câu đối xuân, bái thiên địa và các thần linh. Chu Tử Thư và Đường Hoàng đều vái lạy trước bài vị Đường tú tài và mẫu thân.

Buổi chiều, kế toán Lâm đến hạch toán các khoản thu chi.

"Tiểu đông gia, chúc mừng năm mới!"

"Sao bác vội thế, nghỉ thêm hai hôm nữa cũng được mà."

"Cuối năm tôi kiểm tra các khoản thu chi ở Trân Bảo Các, thấy xà phòng thơm và tinh dầu lãi to nên không nhịn được, sang báo tin sớm cho tiểu đông gia mừng."

Kế toán Lâm tuy lớn tuổi nhưng tính sổ sách đâu ra đấy. Đường phu nhân cũng không giấu giếm sổ thu chi, kế toán Lâm lấy được sổ từng quý ở Trân Bảo Các, bèn dành một ngày một đêm tính toán tỉ mỉ, tổng kết lại lợi nhuận năm cũ.

"Xà phòng thơm bán chạy nhất, lời nhiều. Tinh dầu cũng bán chạy, nhưng vì đắt nên rất ít người mua." Kế toán Lâm nói: "Đường phu nhân bảo, hôm nay sẽ sai người mang tiền lãi năm vừa qua đến cho cậu."

Ông vừa nói dứt lời, người của Đường phủ đã đến, chính là Đường quản gia và Hải Đường – nha hoàn thân cận của Đường phu nhân. Hai người chúc Tết Chu Tử Thư, Đường Hoàng, tặng quà Tết, và đưa tiền lãi năm vừa qua cho Chu Tử Thư.

Quản gia thưa: "Tiểu thiếu gia, phu nhân đã tìm được manh mối chuyện xảy ra cách đây một tháng. Phu nhân nói, đợi khi nào yết bảng kì thi huyện, phu nhân nhất định sẽ bắt tận tay, day tận trán kẻ có tội. Hôm nay là Tết, trong nhà đông người nên phu nhân không qua đây được. Phu nhân hỏi tối nay thiếu gia và tiểu thư có muốn sang nhà ăn cơm không ạ?"

Chu Tử Thư đã vứt chuyện này ra sau đầu từ lâu, ngẫm một lát mới hiểu là đang nói đến vụ gây sự của Đường Vân. Hẳn Đường phu nhân nghĩ có người xui khiến con mình. Cậu đáp: "Thôi, bọn ta đã chuẩn bị cơm rồi." Quản gia không dài dòng nữa, cùng Hải Đường ra về luôn.

Không khí ăn mừng năm mới ở Cô Tô hết sức náo nhiệt, mãi đến tận mười sáu tháng Giêng vẫn có người gõ cửa chúc Tết.

Chu Tử Thư có tiền trong tay lại nghĩ ngợi xem có nên đầu tư tiếp cái gì không. Nhưng khi đi khảo sát thực tế, cậu mới nhận ra phủ Cô Tô giàu thật đấy, nhưng vì quá sung túc nên thành ra chẳng thiếu thứ gì! Cậu bán được xà phòng thơm và tinh dầu vì đây là những mặt hàng xa xỉ. Chí ít thì tinh dầu là xa xỉ phẩm, còn xà phòng thơm là mặt hàng cao cấp. Trong bụng cậu biết, nếu không có tài lực hùng hậu của Đường gia chống lưng, cậu không thể kinh doanh xà phòng thơm và tinh dầu dễ dàng như vậy được.

Mười bảy tháng Giêng, khách đến chúc Tết nhà Đường cử nhân đã vơi hẳn, Chu Tử Thư bèn dẫn Đường Hoàng sang chúc Tết. Đường phu nhân đích thân tiếp đãi hai huynh muội. Phu nhân không hỏi Chu Tử Thư định chia hoa hồng hai mặt hàng xà phòng thơm và tinh dầu như thế nào, chỉ nói: "Bác định trong năm nay sẽ đưa xà phòng lên kệ, cháu trai này, cháu thấy có được không?"

Chu Tử Thư đáp: "Cháu cũng nghĩ như đại bá mẫu. Đã đến lúc rồi, chần chừ thì lỡ thời cơ mất."

Đường phu nhân hài lòng lắm: "Được, để bá mẫu thu xếp. Mong là việc buôn bán sẽ thành công như cháu nói."

Tinh dầu là mặt hàng xa xỉ, người thường không mua nổi. Xà phòng thơm là mặt hàng cao cấp, khách hàng tuy đông hơn nhưng vẫn có hạn.

Từ đầu đến cuối, con át chủ bài đích thực của Chu Tử Thư chính là xà phòng.

Cậu đến thăm xưởng ở ngoại ô, thợ thuyền đã về ăn Tết hết. Cậu và Diêu Tam cùng nhau làm một chậu xà phòng. Chu Tử Thư tính toán lại chi phí sản xuất xà phòng, mời chủ xưởng đến hạch toán thêm một lượt để chắc chắn là giá xà phòng đã được tối thiểu hóa.

Diêu Tam nói: "Tiểu đông gia, giá xà phòng thế này rẻ quá. Mình định giá thấp thế này có lỗ không? Hay là nâng giá lên một chút."

Chu Tử Thư chưa kịp giải thích, Đường Hoàng đã cười khanh khách bảo: "Diêu đại ca, giá đấy mà là rẻ á? Đắt hơn di tử những hai đồng rồi đấy!"

Diêu Tam sửng sốt: "Ơ, tôi nói xà phòng mà, sao A Hoàng lại so sánh với di tử?"

Đường Hoàng lắc đầu, chép miệng ra vẻ "nước đổ lá khoai" hệt như Chu Tử Thư cách đây nửa năm: "Diêu đại ca cũng đã sử dụng xà phòng rồi, công dụng của xà phòng cũng giống di tử phải không?

"Phải. Nhưng xà phòng của chúng ta sạch hơn di tử nhiều, giặt rửa cũng hiệu quả hơn hẳn!"

"Anh nói có lý, nhưng chung quy thì xà phòng và di tử vẫn rất giống nhau. Nhà mình làm xà phòng không phải để bán cho thiểu số mà để bán cho đa số, lãi ít nhưng bù lại số lượng tiêu thụ rất nhiều. Nếu mình bán quá đắt so với di tử, người Cô Tô họ đâu có khờ mà đi mua của mình, họ mua di tử chứ."

Diêu Tam ngẫm nghĩ một lúc, bỗng nhiên tỉnh ngộ ra: "Thì ra là thế!"

Đường Hoàng bắt chước mấy tay hủ nho, rung đùi đắc ý: "Trẻ nhỏ thật dễ dạy."

Chu Tử Thư dở khóc dở cười, búng trán con bé: "Trẻ nhỏ dễ dạy cái quái gì! Em học từ đâu ra?"

"Kế toán Lâm nói thế đấy, trẻ nhỏ thật dễ dạy. Chu Tử Thư, anh đừng có bắt nạt em!"

Chu Tử Thư không cợt nhả nữa: "Anh có hỏi em ai nói 'trẻ nhỏ dễ dạy' đâu, anh hỏi em là ai nói cho em biết nhà mình làm xà phòng để bán cho số đông, lãi ít, lượng nhiều?"

Đường Hoàng đảo mắt một vòng: "Em đoán!"

"Em đoán cái con khỉ!" Chu Tử Thư túm cổ áo cô nhóc lại: "Cấm chạy, nói đàng hoàng với anh, em nghe những điều đó từ đâu?"

Đường Hoàng bụm mặt la lên: "Bớ làng nước ơi, anh ta lại bắt nạt tôi! Đồ bắt nạt trẻ con! Chu Tử Thư là đồ vô nhân tính!"

Chu Tử Thư: "..."

Thể loại em ruột quái quỷ gì thế này!

Tháng Giêng đã trôi qua được hơn nửa mà Lương Tụng vẫn chưa về phủ Cô Tô. Học viện Tử Dương đã vào học lại.

Ngày khai giảng, Đường Hoàng và Diêu đại nương chuẩn bị cho Chu Tử Thư một hộp thức ăn. Chu Tử Thư nghịch ngợm búng trán Đường Hoàng, nhưng con bé nhanh chân né được.

Đường Hoàng giãy lên: "Chu Tử Thư lại bắt nạt em, đồ xấu tính!"

Chu Tử Thư cười khẩy: "Chờ tối anh về, liệu hồn khai ra mỗi ngày em đến Trân Bảo Các làm cái gì nhé!" Con bé lè lưỡi làm mặt khỉ.

Diêu đại nương cầm một chiếc áo bông dày từ trong nhà ra: "Tiểu đông gia mặc thêm áo vào. Hết Tết rồi mà tự dưng trời lạnh quá. Tôi nghe phía Nam đổ trận tuyết lớn, nước đóng băng hết, người ta phải chặn cả đường." Chu Tử Thư cũng thấy lạnh, bèn khoác thêm áo bông.

Diêu Tam đi từ trong nhà ra: "Đúng là lạ thật, tuyết lớn cỡ đấy ở Sơn Tây chúng tôi là chuyện thường, không ngờ Giang Nam cũng có tuyết to thế." Cảm thán xong, anh ta bảo: "Đi thôi tiểu đông gia, tôi đưa cậu đến học viện."

Dịp Tết này, Diêu đại nương tranh thủ lúc Chu Tử Thư được nghỉ ở nhà, ra sức bồi bổ thằng bé, nhồi như nhồi vịt, cuối cùng cũng khiến Chu Tử Thư tăng thêm được ít thịt, nhưng cậu vẫn khá gầy. Hôm nay Chu Tử Thư mặc hai lớp áo bông dầy, trông hơi cồng kềnh, song nhìn từ sau lưng cũng ra vẻ một tiểu thiếu gia quý phái. Ấy thế mà lúc đến học viện Tử Dương, gặp Tôn Nhạc, Chu Tử Thư bỗng bật cười rinh rích.

Chú béo Tôn hôm nay tròn vo như quả bóng, thấy Chu Tử Thư thì hắt xì ầm cả lên.

Chu Tử Thư: "Này, có bị cảm cũng chớ lây cho tớ đấy. Đã cảm còn đến trường, không sợ Dư sơn trưởng đuổi về à?" [2]

Tôn Nhạc mặt méo xẹo: "Cảm á? Tớ còn ước bị cảm luôn đây, đỡ phải đi học."

Lên lớp, Chu Tử Thư mới phát hiện hôm nay vắng gần một nửa lớp.

Chu Tử Thư thắc mắc: "Sao vắng thế này?"

Tôn Nhạc xoa lấy xoa để hai bàn tay đỏ cả lên vì lạnh: "Còn sao Tuấng gì nữa, bị cảm hết chứ còn gì."

Chu Tử Thư cười: "Cậu mặc còn ấm hơn tớ, sao lại cóng tay thế? Tớ tưởng người béo không sợ lạnh?"

Tôn Nhạc lườm cháy mắt: "Ai bảo cậu thế? Linh ta linh tinh! Béo thì không được phép sợ lạnh à? Chính cậu mới là đồ kì quặc ý, cậu chưa thấy những người ở ngoài thành đâu. Bọn họ phải gọi là gầy xơ gầy xác, e chả mấy mà chết rét hết!"

Chu Tử Thư giật mình: "Người ngoài thành nào cơ?"

Tôn Nhạc chà tay, có vẻ như vừa nhớ ra gì đó, thì thầm với Chu Tử Thư: "Còn ai vào đây nữa, dân chạy nạn từ phía Nam đấy. Hôm qua tớ với mẹ ra trạm phát cháo ngoài thành, ngoài đó đông lắm...Thật luôn, cơ man là người, không nhìn rõ nổi ai với ai, nối đuôi nhau đến vô tận. Dưới trời tuyết nặng hạt là cả một biển người."

||

Chú thích

[1] "Kỳ vi khí dã" nôm na là "thứ khí ấy", viết trong sách Mạnh Tử. Trong chương "CôngTôn Sửu" được nhắc đến ở đây, thầy Mạnh Tử bàn về tầm quan trọng của khí đối với con người.

Đọc đầy đủ bài thơ "Chính khí ca" tại

[2] Trong raw là Trịnh sơn trưởng nhưng ban đầu nhân vật này được giới thiệu là Dư BáNham nên mình nghĩ có thể tác giả viết nhầm tên. Về sau cũng có chap bị nhầm tên kiểu này nên mình quay lại sửa luôn :))

------oOo------

Chương 17

Nguồn: EbookTruyen.Net

Người tiên phong (*)

Trong chương này tác giả có dùng tục ngữ "người đầu tiên dám ăn cua" (trong bản edit là "người tiên phong") dùng để chỉ người dũng cảm làm việc không ai dám làm. Nguồn gốc của tục ngữ xuất phát từ việc con cua có vỏ cứng, lại biết cắp nên kể cả khi dân làng tìm ra cách giết cua rồi vẫn không dám ăn. Một người đàn ông đã can đảm ăn trước và nói cho dân làng biết là cua rất ngon, từ đó ra đời câu tục ngữ. Cuối tháng Giêng, trời bất ngờ trở rét.

Thời tiết phương Nam hiếm khi lạnh thế này. Gió rét quần thảo khắp nơi, mang theo cái lạnh cắt da cắt thịt. Không khí lạnh khiến bầu trời âm u xám xịt như mặt người chết. Vài hôm sau thì trời đổ tuyết. Tuyết lất phất rơi trên nền đường, thoắt cái đã tan đi dưới bước chân người qua lại.

Chu Tử Thư và Diêu Tam mới ra khỏi cổng thì tuyết rơi. Diêu đại nương lấy ô cho hai người.

Diêu Tam: "Tiểu đông gia, tôi nghe nói người tị nạn đổ dồn về khu Tây chắn hết cổng thành. Có lẽ chúng ta nên đi từ cổng Bắc thì hơn."

Chu Tử Thư nói: "Ừ, vừa hay thầy cũng về từ hướng Bắc."

Đúng vậy, hôm nay Chu Tử Thư ra khỏi thành để đón Lương Tụng.

Đã tròn một tháng kể từ khi Lương Bác Văn rời khỏi Cô Tô vào tháng Chạp. Lương Bác Văn không về nhà lần nào, ngay cả dịp năm mới ông cũng đón Tết ở phương xa. Mãi đến hôm qua, quản gia Lương phủ mới báo cho Chu Tử Thư rằng tiên sinh sẽ về vào hôm nay. Chu Tử Thư đã lâu không gặp ông, trùng hợp sao hôm nay trời quá lạnh, học viện Tử Dương cho nghỉ, cậu bèn chủ động đi đón thầy.

Chu Tử Thư khoác hai lớp áo bông dày, cầm ô đứng đợi trong giá rét, người ngợm tê cóng.

Đợi nửa canh giờ mới thấy bóng xe ngựa của Lương Tụng từ đằng xa. Chu Tử Thư và Diêu Tam đi tới gần, Lương Tụng kéo mành xe lên, hết sức ngạc nhiên: "Sao con lại ra đây?"

Chu Tử Thư đáp: "Con tới đón tiên sinh. Tiên sinh đi suốt một tháng mới về, học trò dĩ nhiên phải nghênh đón rồi."

Lương Tụng giục: "Vào trong mau."

Chu Tử Thư khom người chui vào xe. Bên trong xe ấm sực, Lương Tụng dúi lò sưởi cầm tay cho cậu. Chu Tử Thư ấp tay vào lò hồi lâu mới hết cóng. "Sao lần này tiên sinh đi lâu thế, suốt cả tháng trời không về phủ."

Lương Tụng đáp: "Có việc riêng cần bàn bạc. Sao hôm nay con không đến học viện?"

"Thời tiết xấu quá, học viện nghỉ ạ."

Lương Tụng trầm tư: "Thầy trở về cũng vì lí do này." Nói đoạn, ông vén mành xe: "Đến cổng Tây xem tình hình ra sao."

Xe ngựa không vào phủ thành nữa mà chuyển hướng đi sang cổng Tây.

Cổng thành còn chưa thấy đâu mà Chu Tử Thư đã bắt gặp dân tị nạn suốt cả dọc đường. Họ đi trên con đường chính dẫn vào thành, nhưng tuyết phủ khắp nơi đã khiến mặt đường trở nên lầy lội. Bình thường dưới thời tiết khắc nghiệt thế này sẽ không có ai đi lại qua đây, nhưng dân tị nạn ở đây đông vô kể. Họ mặc những bộ quần áo rách rưới, chằng đụp, da dẻ nứt nẻ và bầm tím vì bệnh cước, lếch thếch lê bước trên con đường dẫn về cổng Tây thành Cô Tô.

Chu Tử Thư hé mành cửa sổ xe nhìn một lát, rồi không đành lòng mà hạ mành xuống.

Lương Tụng vẫn lẳng lặng quan sát người dân chạy nạn, ông nói: "Nghe nói những người này đều di tản từ Trừ châu và Vụ châu. Năm nay tuyết khủng khiếp quá, bốn tỉnh miền Nam đều báo nguy khẩn cấp. Triều đình đã phát tiền cứu trợ thiên tai rồi, nhưng chẳng khác nào muối bỏ bể."

Xe ngựa đi thêm một lúc thì đến các trạm phát cháo từ thiện.

Lương Tụng không ở Cô Tô nhưng mọi việc trong phủ vẫn có người điều hành. Ba ngày trước quan phủ đã dựng trạm phát cháo ở ngoài thành để tiếp tế cho nạn dân hằng ngày. Ngoài ra, các gia đình phú thương đều hào hiệp mở hầu bao, dựng trạm phát chẩn của riêng họ. Trong số đó có cả trạm của Đường phu nhân.

Nhưng ngần ấy sự hỗ trợ vẫn là chưa đủ.

Trời rét đậm mà người dân tị nạn chẳng có manh áo che thân. Quỹ cháo cho các trạm từ thiện mỗi ngày một vơi mà người tị nạn từ bốn phương tám hướng đổ về Cô Tô càng lúc càng nhiều.

Chu Tử Thư hỏi: "Tiên sinh đã có biện pháp gì chưa ạ?"

Lương Tụng: "Biện pháp gì bây giờ hả con? Phủ Cô Tô tuy sung túc nhưng không thể cứu tế nổi nhiều nạn dân như thế. Giá rét cũng không kéo dài lâu thêm, chỉ còn một tháng nữa là sang xuân, tình hình sẽ khả quan hơn nhiều. Ráng cầm cự được hết tháng này sẽ ổn. Có câu tuyết rơi là điềm báo mùa màng bội thu, tiếc rằng tuyết lớn quá, tàn phá cả đất đai. Điều đáng lo là kể cả khi những nạn dân này hồi hương, vụ mùa năm sau chưa chắc đã thuận lợi. Nếu cứ thế, triều đình sẽ nợ đầm đìa, ngân quỹ thâm hụt càng nghiêm trọng."

Chu Tử Thư: "Phải cầm cự những một tháng ư? Tiên sinh, con sợ họ sẽ chết trong giá lạnh ngoài thành mất."

Lương Tụng sao lại không biết, sau một tháng nữa, chỉ cần một nửa số nạn dân còn sống sót là tốt lắm rồi. Họ không chết vì đói mà sẽ chết vì rét. Dẫu cho quan phủ có dựng thêm lều bạt, cho họ chỗ sưởi ấm, thì nhân lực và vật lực của phủ Cô Tô cũng không thể đáp ứng nổi số người tị nạn ùn ùn kéo đến. Chỉ e sống qua mùa đông này trở về quê cũ, sang năm lại phải đối mặt với nạn đói mà thôi.

Lương Tụng thờ dài nặng nhọc.

"Thiên tai tàn nhẫn hơn nhân họa. Đi thôi, xuống xe xem thế nào." Hai thầy trò cùng nhau xuống xe.

Con số nạn dân khổng lồ hơn nhiều so với ước lượng của Chu Tử Thư. Họ nép sát vào chân thành, cố gắng dùng mọi phương tiện để che chắn cơ thể, không phải vì sợ hở hang mà để giữ mạng. Thế nên dù có là rễ cỏ, vỏ cây hay bùn đất, họ cũng vơ bằng hết mà đắp lên người.

Tuy thời tiết lạnh khiến nguy cơ bùng phát dịch bệnh là rất thấp, nhưng bản thân cái lạnh đã là vấn đề nan giải rồi.

Một người hôm trước đến lĩnh cháo từ thiện, hôm sau chưa chắc còn sống sót, thành ra việc phát chẩn vẫn chỉ trị ngọn chứ không trị tận gốc vấn đề.

Theo sau Lương Tụng, chứng kiến cảnh tượng thê lương tang tóc, Chu Tử Thư thấy trái tim như bị bóp nghẹt.

Ở thời hiện đại, tuy không thuộc tầng lớp khá giả nhưng gia đình cậu không thiếu thốn gì, từ bé đã đủ ăn đủ mặc. Trong đời cậu chưa bao giờ nghe thấy nhiều tiếng khóc than ai oán đến vậy, cũng chưa từng tận mắt thấy nhiều người gầy guộc, xác xơ như ở đây. Dù vượt thời gian, nơi cậu đặt chân cũng là phủ Cô Tô đông đúc, giàu có, làm gì có cảnh tượng địa ngục trần gian thế này.

Và dẫu có lắm tiền nhiều của đến mấy, phủ Cô Tô cũng chẳng thể nuôi không hàng ngàn, hàng vạn người. Kể cả khi các thương nhân dốc hết của nả ra cứu giúp, đến một lúc nào đó họ cũng phải bó tay.

Lương Tụng nói: "Ta đi thôi con." Được một lúc, ông chợt phát hiện người học trò của mình không hề nhúc nhích. "Chu Tử Thư?"

Cậu thiếu niên tuấn tú quay sang nhìn ông với vẻ đăm chiêu. Giây lát sau, Chu Tử Thư nói: "Tiên sinh, con có một ý tưởng, không biết có thể thành công không. Tuy nhiên, con nghĩ cách này có thể cứu được rất nhiều người tị nạn, với điều kiện là tiên sinh hỗ trợ con."

Lương Tụng: "Con cứ nói."

Chu Tử Thư nghiêm túc nói: "Con định thuê họ làm nhân công!"

(Bản edit phi lợi nhuận chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com; hãy mua chương cho tác giả trên Tấn Giang nếu có thể)

Ở Trân Bảo Các của Đường gia, xà phòng thơm và tinh dầu đều là các mặt hàng bán chạy, dù chưa mở bán xà phòng, nhưng Chu Tử Thư đã giắt túi được kha khá hoa hồng. Vừa qua, cậu đã dành mấy ngày để khảo sát các phố buôn sầm uất nhất ở phủ Cô Tô, nhưng chưa tìm ra được mặt hàng thích hợp để kinh doanh.

Ở thời kì này, hai ngành đem lại nhiều lợi nhuận nhất là muối và rượu đều bị triều đình quản lí nghiêm ngặt. Vậy cậu nên làm gì đây?

Chu Tử Thư nói: "Hậu cần!"

Diêu Tam tròn mắt, hỏi: "Tiểu đông gia, hậu cần là gì? Nghe lạ quá."

Chu Tử Thư: "Diêu đại ca, tôi hỏi anh, tửu lâu số một phủ Cô Tô là nhà nào?"

"Đương nhiên là lầu Thiên Thu ở Toái Cẩm Nhai rồi."

"Đúng. Lầu Thiên Thu là tửu lâu đệ nhất phủ Cô Tô. Anh nên biết rằng người ta có thể đặt lầu Thiên Thu nấu nướng ngay tại nhà. Tháng trước, nhà Tôn Nhạc, bạn cùng trường của tôi, đã mời bếp trưởng lầu Thiên Thu đến tận nhà họ làm một bữa thịnh soạn nhân buổi dạ yến mừng năm mới."

Diêu Tam: "Lại còn có chuyện đấy cơ à?"

Chu Tử Thư: "Đương nhiên là có chứ. Người dân Cô Tô rất dư dả, anh nghĩ xem tại sao Cô Tô sung túc hơn cả Kim Lăng? Người giàu nhất Giang Nam với người giàu nhất Kim Lăng không khác nhau, nhưng Cô Tô sung túc hơn Kim Lăng là vì ở đây, ai ai cũng có cuộc sống đầy đủ! Tài sản ở Cô Tô không dồn cả vào một cá nhân hay một vài cá nhân. Mặc dù phú thương ở Cô Tô có thể không nhiều như ở Kim Lăng, không giàu có như phú thương Kim Lăng, nhưng phần lớn người dân Cô Tô đều có cuộc sống yên bình, ấm no, dư dật. Cho nên với dân Cô Tô mà nói..."

Diêu Tam: "Với dân Cô Tô nói thì sao ạ?"

Chu Tử Thư mỉm cười: "Đối với họ mà nói, mời bếp trưởng lầu Thiên Thu đến nhà họ nấu ăn thì quá đắt đỏ, bọn họ không có ngần ấy tiền. Nhưng để thuê người để chạy việc vặt, chuyển thư, chuyển hàng gấp, thì khoản tiền nhỏ đấy, người Cô Tô ai cũng bỏ ra được!"

Đúng vậy, Chu Tử Thư muốn trở thành người tiên phong trong lĩnh vực này ở phủ Cô Tô!

Từ ban đầu suy nghĩ của cậu đã bị bó buộc vào lối mòn: Phủ Cô Tô không gì không có! Nhờ có kênh đào khổng lồ Đại Vận Hà, thương nhân từ bốn phương tám hướng tụ họp cả về đây. Ngọc ngà châu báu, gấm vóc lụa là, trân tu mĩ thực... Những gì con người có thể nghĩ ra được đều có thể trở thành hiện thực ở Cô Tô. So với việc phải bon chen trong những ngành nghề có sẵn, tại sao ta không làm việc đơn giản hơn là phục vụ các ngành đó?

Chu Tử Thư: "Diêu đại ca, anh đến khu Tây mua một ngôi nhà, không cần phải khang trang, nhưng càng to càng tốt, ít nhất là có sức chứa khoảng một trăm người. Sau đó, anh ra ngoài thành chọn lấy năm mươi người dân tị nạn, anh cứ tự quyết, trông đàng hoàng, trung thực là được, nam nữ không quan trọng."

Diêu Tam tin tưởng Chu Tử Thư vô điều kiện: "Có ngay!" Chu Tử Thư mau chóng đi sang Lương phủ.

Cậu đã chia sẻ ý tưởng phát triển hậu cần cho Lương Tụng từ trước. Lương Tụng suy đi tính lại đã lâu, thấy Chu Tử Thư đến gặp, bèn đi thẳng vào vấn đề: "Con hẳn đã tính được là việc làm này không mang lại lợi nhuận gì, công sức phải bỏ ra là vô cùng lớn, cơ hội thu hồi vốn gần như bằng không."

Chu Tử Thư cười nói: "Tiên sinh, thầy đâu phải không biết xà phòng thơm và Hoàng Kim Lũ, hai mặt hàng đình đám nhất phủ Cô Tô, đang được độc quyền bởi Đường gia. Dù kế hoạch này lỗ vốn, tiểu tử cũng không chết đói ngoài đường." Huống hồ "kép chính" xà phòng hẵng còn chưa lên sân khấu.

Lương Tụng: "Thôi thôi, con đã quyết chí thì cứ làm đi. Giúp người cái cần câu thì hơn là con cá, người dân chạy nạn trở về cũng khó lòng xây dựng lại cuộc sống, nếu chúng ta thu xếp được cho họ ở phủ Cô Tô cũng là điều đáng làm. Con cần gì, cứ nói với quản gia."

"Không cần phiền thế đâu ạ, tiểu tử chỉ cần mười bộ khoái nhanh trí, và thêm một lời của tiên sinh."

"Ồ, con cần ta ra lệnh gì?"

"Người dân tị nạn nếu vi phạm pháp luật ở phủ Cô Tô, không cần biết là tội lớn hay tội nhỏ, đều phải bị trục xuất khỏi phủ, nghiêm cấm bất cứ trạm phát chẩn nào cung cấp thức ăn cho các đối tượng đó!"

Diêu Tam đã bố trí được một nhóm dân tị nạn đến ngôi nhà trống rộng rãi vừa mới mua. Những người dân này phần lớn là thanh niên trai tráng nhưng đã bị suy nhược ít nhiều. Diêu Tam không biết Chu Tử Thư có ý đồ gì, nhưng anh nghĩ đông gia đã cần nhân công thì nên chọn người càng khỏe mạnh càng tốt. Vì thế, anh chỉ lựa những người có sức vóc để dẫn về.

Chu Tử Thư đến nhà chào hỏi năm mươi người đó, phát thức ăn, nước nóng và áo quần cho bọn họ.

Những người dân cùng khổ này sững sờ không tin nổi vào mắt mình, đồng loạt tung hô Chu Tử Thư là Bồ Tát sống tái thế. Bọn họ ăn ngốn ngấu, tắm giặt sạch sẽ bằng nước nóng, thay quần áo tinh tươm, bấy giờ trông mới ra hình người. Chu Tử Thư cũng không bắt họ phải làm việc luôn mà bảo Diêu Tam dẫn họ đi làm quen đường lối ở phủ Cô Tô.

Ba ngày sau, nhóm dân tị nạn đã quen thuộc với phố xá trong phủ.

Chu Tử Thư bèn hướng dẫn Diêu Tam dán thông báo ở những khu phố đông người qua lại nhất Cô Tô, còn kế toán Lâm thì đi dán thông báo ở những khu vực tập trung các hộ dân cư trong thành. Chẳng mấy lâu, đã có rất nhiều người thấy thông báo, ai biết chữ thì đọc to lên cho người khác nghe.

"Hậu cần Đường thị...Ể, hậu cần là cái gì thế?"

Người này đọc nhẩm thông báo xong, có người hỏi ngay: "Kìa ông anh, người ta thông báo chi vậy?"

"Thông báo này viết, từ ngày hai tám tháng Giêng, tức là mai, Hậu cần Đường thị sẽ giao hàng miễn phí cả ngày. Những người mặc áo vải ngắn màu đỏ trên đường đều là nhân viên của Hậu cần Đường thị, chỉ cần gọi họ là họ sẽ đến. Mình có thể nhờ họ chuyển giao đồ đạc, mua đồ hộ, ngoài ra còn có thể nhờ đưa thư. Chỉ cần trong phạm vi phủ Cô Tô, họ sẽ làm thay mình tất."

"Lại còn thế nữa cơ à?"

"Đúng thế, quả là sự lạ."

Trong nhà Chu Tử Thư, kế toán Lâm ngồi tính các khoản thu chi mấy ngày gần đây, mặt ủ mày chau: "Tiểu đông gia, để nuôi ăn năm mươi người tị nạn, chúng ta đã tốn một đống tiền. Giờ cậu tổ chức hậu cần lại nhận giao hàng miễn phí, vậy thì làm sao thu hồi vốn được?"

Diêu Tam: "Tôi tin tiểu đông gia sẽ làm được."

Song, Chu Tử Thư nói: "Thực sự tôi cũng không tự tin lắm."

"Ơ? Chẳng lẽ, ngày mai không có ai giao việc cho nhân viên của chúng ta sao?"

Chu Tử Thư: "Anh nói là mai hả?"

Diêu Tam: "Vâng, ngày mai ấy."

"Ngày mai khẳng định là không có."

"..."

Diêu Tam luống cuống: "Tiểu đông gia, thế thì..."

Chu Tử Thư nheo mắt, cười: "Ngay mai chắc chắn không có, nhưng sau này có hay không, phải chờ xem người dân Cô Tô rốt cuộc dư dả đến mức nào, đời sống ổn định ra sao. Đã kinh doanh thì không thể không mạo hiểm, vì chẳng có việc làm ăn nào an toàn tuyệt đối, không thua lỗ cả. Nhưng riêng việc này, đã có mấy vị tiền bối họ Thuận, họ Viên, và họ Thân bật mí với tôi rằng...kiểu gì cũng thành công!"

||Chú thích

Note: App WordPress mới update không hiện các bài có mật khẩu lên feed nữa nên tớ gỡ pass để mọi người đọc cho dễ vậy. Có 1 vài chương đặt pass tớ sẽ báo trước nhé, cũng dễ thôi.

Đại Vận Hà: Kênh đào cổ lớn nhất Trung Quốc nối liền từ Bắc Kinh đến Hàng Châu. Đây là tuyến đường vận chuyển lương thực, hàng hóa quan trọng từ Nam ra Bắc. (Ảnh: )

Thuận, Viên, Thân ám chỉ Thuận Phong (SF Express), Viên Thông (YTO Express) và Thân Thông (STO Express) là 3 công ty chuyển phát nhanh ở Trung Quốc.

------oOo------

Chương 18

Nguồn: EbookTruyen.Net

Trao chữ tín, nhận niềm tin

Ngày hôm sau, Diêu Tam mặt buồn rười rượi đến báo tin cho Chu Tử Thư. "Tiểu đông gia, đúng như cậu dự đoán, quả nhiên không ai nhờ chúng ta gửi đồ truyền tin cả. Cũng có người tò mò hỏi thăm, nhưng chỉ hỏi dăm ba câu rồi lại đi."

Chu Tử Thư đang luyện chữ.

Mỗi ngày viết hai bài văn bát cổ, làm một bài thơ thí thiếp, đây là công việc hàng ngày của cậu. Ngoài ra, cậu còn phải luyện viết năm mươi chữ khổ đại tự, viết sao cho thật chỉnh tề, tinh tế, ngay ngắn gọn gàng. Viết đủ số, Chu Tử Thư cẩn thận thổi khô mực rồi trải tấm giấy Tuyên sang một bên, đoạn bảo: "Có người hỏi cơ à?"

Diêu Tam: "..."

Lẽ nào tiểu đông gia bị lừa sút vào đầu rồi chăng?

"Chẳng lẽ không nên như vậy sao ạ?"

"Cũng phải, ai mà chả có tính tò mò, tôi rất thông cảm. Hỏi có một câu thôi, sứt miếng thịt nào đâu"

"..."

Diêu Tam: "Tiểu đông gia, giờ mình tính sao đây!?

Chu Tử Thư lại cúi đầu viết chữ: "Không vội, hôm nay anh qua nhà bên kia, bảo mọi người ngày mai cứ tiếp tục. Nhưng từ giờ gửi đồ sẽ tính một đồng một lần, không miễn phí nữa. Được rồi, hàng ngày anh vẫn dặn họ phải tuân theo quy củ chứ? Cứ như tôi nói, phải răn dạy nhiều lần, tất cả đều phải thuộc luật."

Diêu Tam: "Tôi đã thực hiện, cậu cứ yên trí. Giờ tôi sang đại viện bên đó."

Diêu Tam và kế toán Lâm chẳng mấy coi trọng việc hậu cần này. Họ chưa thấy công việc nào như vậy cả.

Các gia đình giàu có muốn làm gì đã có nô bộc để sai khiến. Phủ Cô Tô cũng có mấy tiêu cục nổi danh vùng Giang Nam, nếu cần gửi đồ đạc đều có thể thông qua tiêu cục. Nhưng theo ý Chu Tử Thư thì cậu có vẻ không định kinh doanh loại hình vận chuyển đồ đạc đường dài mà chỉ giới hạn trong khu vực phủ Cô Tô thôi.

Làm vậy có thể thành công thật sao?

Viết xong đại tự, Chu Tử Thư đi thẳng sang Lương phủ. Tay cầm bài văn bát cổ và đại tự, cậu vừa gặp thầy đã nhì nhèo ngay: "Tiên sinh ơi cứu con với!"

Lương Tụng: "..."

Nghe xong đầu đuôi câu chuyện, Lương Tụng cười, mắng: "Lúc đầu ta đã hỏi con là thiếu cái gì, cần cái gì, cứ việc nói, quản gia sẽ chuẩn bị cho con. Xong con bảo, chỉ cần mười người bộ khoái nhanh trí, rành rẽ việc trong thành, cùng với một lời hứa của thầy. Cớ làm sao hôm nay còn đến mời ta mở hàng hút khách cho hậu cần Đường thị hử?"

Chu Tử Thư lí sự: "Kìa tiên sinh, có gì mà không được? Tiểu tử là đệ tử của tiên sinh kia mà, đệ tử ruột là đằng khác. Tiên sinh chỉ có mình con là đồ đệ, đây là lần đầu tiên con khởi nghiệp, thầy chiếu cố đến con chẳng phải là quá hợp lí hợp tình sao? Nếu con mở tửu lầu, đương nhiên con sẽ mời tiên sinh thưởng thức đầu tiên, tiên sinh nhất định cũng sẽ đến khai trương mà."

Lương Tụng: "Nhóc con ranh mãnh, gì con cũng nói được tuốt nhỉ, còn chừa cho ông già này câu nào không?"

"Tiên sinh chỉ cần sai người hầu, ngày mai ra đường vẫy một nhân viên của Hậu cần Đường thị, nhờ người đó gửi đồ hộ, tốt nhất là cầm cái món đấy đi một vòng quanh phủ Cô Tô, thế là cách quảng bá tốt nhất đấy ạ."

"Ờ, ta nên bảo nó phải làm thế nào cho càng nhiều người thấy càng tốt phải không? Được thì cắm cho nó một cái cờ to, đề ba chữ Lương Bác Văn, đem đi diễu khắp phố phường thì càng đúng ý con nhỉ?"

"Hí hí, tiên sinh hiểu con quá đi chứ lại!"

"Mời ngài phắn !"

"Con phắn ngay đây! Tiên sinh nhớ mai giao việc cho nhân viên của Hậu cần Đường thị nhé!"

"Mời ngài phắn" là câu nói xuất xứ từ chương "Liệt Ngự Khấu", sách Trang Tử, hiểu là: Đồ khốn nhà mi cút đi cho khuất mắt ta!"

Lương Tụng cáu lắm mà phải phì cười: "Quay lại mau! Đại tự và bài văn của con hôm nay ta còn chưa kiểm tra đâu."

Chu Tử Thư tiu nghỉu quay lại, nghe thầy chữa bài tập về nhà.

Lương Tụng tuy cằn nhằn vậy, nhưng sáng sớm hôm sau ông vẫn sai người hầu bê một cái tráp đựng sách, đặt hàng nhân viên của Hậu cần Đường thị giao đến nha môn phủ doãn. Từ Lương phủ đến nha môn phủ doãn phải đi qua nửa thành Cô Tô, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của Chu Tử Thư.

Dọc đường có người thấy nhân viên của Hậu cần Đường thị bê sách, đều tò mò hỏi: "Anh là nhân viên của Hậu cần Đường thị à? Cái này là cái gì? Anh giao nó đi đâu thế?"

Về nguyên tắc, nhân viên của Hậu cần Đường thị không được tiết lộ tên khách hàng, đây là lệnh cấm của Chu Tử Thư. Song, lần này nhân viên đã được Chu Tử Thư phím trước từ hôm qua, nhất định phải tiết lộ danh tính của chủ kiện hàng.

"Tôi đến phủ nha, Lương đại nhân đặt giao thứ này đấy."

Rêu rao khắp chốn cả buổi sáng, người nhân viên đó mới đến nha môn phủ doãn. Khi anh ta đến nơi, cả nửa phủ Cô Tô đã xôn xao chuyện anh ta giao đồ hộ Lương đại nhân.

Đến trưa, Đường phu nhân nhà ông cử họ Đường khu Tây cũng vẫy nhân viên Đường thị vào để đặt giao hàng.

Thế là tự dưng, số người tò mò về Hậu cần Đường thị càng ngày càng tăng.

Đến tối, cuối cùng cũng có một tú tài ở khu Đông nhờ nhân viên Hậu cần Đường thị gửi thư hộ: "Giờ tôi phải đi có việc, không đưa thư được, cũng chẳng nhờ vả được ai. Gửi thư sang hẻm Trách Môn anh tính bao nhiêu tiền?"

"Một đồng thôi. Xa hay gần đều đồng giá ấy."

"Thế cũng rẻ nhỉ? Anh nhất định phải giao thư tận nơi nhé, nếu không tôi khiếu nại với ông chủ các anh đấy!"

"Cứ yên tâm!"

Sang hôm sau, Hậu cần Đường thị đã hoàn thành đơn hàng đầu tiên kể từ khi khai trương. Anh tú tài nọ cũng bí quá, lại nghe đồn Lương đại nho cũng sử dụng dịch vụ của Hậu cần Đường thị, bèn đánh liều thuê người ta. Sau đó, thư của anh ta quả thực là được gửi đến đúng địa chỉ, nhân viên đưa thư cũng rất nhanh nhẹn, không hề la cà trên đường.

Quả nhiên ở Cô Tô, thậm chí là khắp Đại Tống, ba chữ Lương Bác Văn đã được gắn liền với chữ "tín".

Dần dần, Hậu cần Đường thị ở phủ Cô Tô cũng có nhiều đơn hàng hơn.

Khách hàng không phải là những hộ giàu, mà là bách tính phổ thông trong phủ.

Sau khi có đơn hàng đầu tiên, Chu Tử Thư đã sai người dán thông báo khắp đường phố, phổ biến các quy định của Hậu cần Đường thị. Thứ nhất, tuyệt đối không tiết lộ tên khách hàng và chi tiết về kiện hàng; thứ hai, hàng được chuyển phát trong thời gian ngắn nhất, không rề rà trên đường. Thứ ba, nếu kiện hàng bị hư hao hoặc thất lạc, bồi thường gấp mười.

Phủ Cô Tô là thành trì lớn nhất vùng Giang Nam, nhân khẩu toàn khu vực lên đến một trăm vạn, riêng phủ thành đã có mười vạn dân rồi.

Ban đầu, người dân chỉ nhờ nhân viên hậu cần chuyển giao những món đồ nhỏ, về sau thấy gửi chuyển phát rất an toàn, không xảy ra sự cố gì, họ bắt đầu nhờ chuyển phát những món đồ có giá trị hơn. Có thể là do trời lạnh, hoặc vì mọi người quá bận rộn, việc làm ăn của Hậu cần Đường thị không bị ế ẩm, cũng không gặp gì bất lợi cả. Việc chuyên phát diễn ra đều đặn hàng ngày, khiến dân chúng dần dần không thấy dịch vụ này có gì lạ lùng nữa.

Trái lại, kế toán Lâm lo sốt vó: "Lỗ liên tục thế này, làm sao mà hồi vốn đây? Tiểu đông gia, lúc đầu cậu bảo dân Cô Tô giàu lắm cơ mà, còn bảo đã có tiền bối kinh doanh cái này rồi. Mười ngày nay chắc cậu cũng biết chúng ta mất bao nhiêu tiền chứ? Thu không đủ bù chi, riêng tiền nuôi nhân viên đã hết hai mươi lượng, chưa kể tiền mua căn đại viện kia! Cậu còn hứa sẽ nuôi bọn họ ăn uống đầy đủ, không bạc đãi người ta nữa!"

Chu Tử Thư vẫn đang luyện chữ, thủng thẳng bảo: "Không đi đâu mà vội, mười ngày nay tiền lời kiếm được từ tinh dầu và xà phòng thơm thừa đủ để chi hai mươi lượng đấy."

"Nhưng chúng ta đang rót tiền vào một cái động không đáy!" Chu Tử Thư dừng bút, nhìn chữ mình viết trên tờ giấy.

"Dân vô tín bất lập2."

Trích từ sách Luận ngữ, chương "Nhan Uyên."

[2] Dân mất lòng tin thì không thành công được

Chu Tử Thư: "Có những việc cháu không mong sẽ phát sinh, nhưng không thể tránh khỏi, lại còn nhất định phải xảy ra. Trong họa có phúc, trong phúc có họa. Chúng ta cứ nên chờ đợi thôi!"

(Bản edit phi lợi nhuận chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com; hãy mua chương cho tác giả trên Tấn Giang nếu có thể)

Ba ngày sau, một gã đồ tể hùng hổ làm ầm đến tận cửa, thấy Chu Tử Thư liền chửi ầm lên: "Thằng nhãi ranh này là ông chủ của Hậu cần Đường thị hả? Á à, mày cũng gớm đấy, dám bày trò đánh lận con đen! Hôm nay mấy thằng nhân viên nhà mày nhận đồ của tao, đã ba canh giờ rồi mà hàng vẫn chưa đến nơi. Hậu cần Đường thị chúng mày là lũ lừa đảo, hôm nay tao phải đập nát biển hiệu nhà chúng mày!"

Chu Tử Thư không hề nao núng: "Trước hết, anh phải nói anh gọi nhân viên của tôi giao hàng từ chỗ nào đã."

Thấy Chu Tử Thư ứng xử bình tĩnh như thể đã chuẩn bị chu toàn cho mọi tình huống, tác phong hao hao người đọc sách, gã đồ tể sợ cậu là người có công danh, không dám hành xử kiểu chợ búa nữa, nói: "Thôi thì chạy trời không khỏi nắng. Nói cho cậu biết cũng chẳng sao. Hôm nay giờ Tỵ ba khắc, từ quầy thịt lợn của tôi ở khu Nam, phường Linh Lung, tôi có gọi nhân viên của cậu để nhờ giao cái mũ cưới vừa mới làm xong cho con gái tôi."

Chu Tử Thư bảo Diêu Tam: "Đến phường Linh Lung, tìm bộ khoái Lưu." Diêu Tam gật đầu vâng lệnh.

Gã đồ tể nghe hai người nói chuyện với nhau mà ù ù cạc cạc. Không lâu sau, một bộ khoái trẻ tuổi áp tải một người đàn ông lôi thôi lếch thếch về đại viện. Gã đồ tể thấy tay này thì cáu điên lên: "Chính là nó, thằng trộm này ăn cắp đồ của tôi chứ không giao hàng!"

Bộ khoái Lưu cười ha hả, đạp vào sau gối tay nhân viên, khiến hắn quỳ mọp xuống sân.

Lưu Thất nói: "Đường tiểu công tử, tôi bắt tội phạm về cho cậu đây. Quả đúng là thằng này có ý định tuồn bộ trang sức bạc này ra khỏi thành, nhưng nó đâu có biết tôi có tai mắt theo dõi tất cả nhân viên áo đỏ trong thành, chưa ra khỏi phường Linh Lung đã bị thuộc hạ của tôi bắt lại rồi. Hừ, loại ăn cắp này theo luật của Đại Tống thì đáng đi tù, nhưng tôi cứ giải đến đây cho cậu trước, cậu định xử lí thế nào?"

Chu Tử Thư: "Cảm ơn bộ khoái Lưu. Diêu đại ca, anh đem chiếc mũ cưới kia lại đây, áng xem trị giá bao nhiêu tiền."

Diêu Tam mang chiếc mũ bạc tới, kế toán Lâm ngắm nghía một hồi, nói: "Không phải bạc ròng, nhưng cũng bán được khoảng mười lượng. Thời gian ăn cắp tuy rất ngắn, nhưng đã bị va đập ít nhiều, còn hơi bẩn, mà rửa sạch thì không sao. Mang ra tiệm kim hoàn đặt làm một bộ y hệt chắc hết tầm tám lượng."

Chu Tử Thư nói với Diêu Tam: "Diêu đại ca, anh lấy một trăm lượng bạc trả cho anh này."

Cậu vừa dứt lời, mọi người há hốc miệng.

Chu Tử Thư: "Quy tắc của Hậu cần Đường thị, nếu kiện hàng hư hao hoặc thất lạc, bồi thường gấp mười."

Kế toán Lâm: "Tiểu đông gia, kiện hàng này đã được tìm thấy rồi cơ mà!"

Chu Tử Thư: "Nhưng chiếc mũ cưới này đã bị bẩn mất rồi."

Kế toán Lâm: "Rửa sạch đi là lại như mới, chỉ bị bẩn bên ngoài thôi!"

Chu Tử Thư: "Diêu đại ca, anh lấy một trăm lượng bạc bồi thường cho vị khách này. Hậu cần Đường thị của tôi làm ăn trung thực; không giữ chữ tín thì làm sao nhận được niềm tin?"

Gã đồ tể tự dưng lại nhận được một trăm lượng bạc, cầm bộ trang sức bạc ngớ người nhìn Chu Tử Thư. Mừng rỡ đủ rồi, gã nói oang oang: "Ông chủ Đường đích thực là người ngay không nói hai lời, dịch vụ hậu cần này của cậu nhất định sẽ phát triển dài lâu!"

Chỉ trong vòng một buổi chiều, câu chuyện mất một đền mười trị giá một trăm lượng bạc của Chu Tử Thư đã lan truyền khắp hang cùng ngõ hẻm phủ Cô Tô. Quán trà, tửu lâu, các khu phố xá, đâu đâu cũng thấy bàn tán, nổi đình nổi đám hơn cả chuyện "Lương Bác Văn gửi đồ bằng Hậu cần Đường thị".

"Có thật là ông chủ Đường thẳng tay chi một trăm lượng bạc không?" "Thật trăm phần trăm chứ lị! Một trăm lượng bạc trắng bóng, đồ tể Trương cười đến vẹo cả mồm!"

Sau khi xảy ra sự cố, dân chúng Cô Tô còn chưa hóng hớt đủ, toàn bộ nhân viên của Hậu cần Đường thị đã bị điều hết về. Có người nhanh mắt phát hiện sự việc này, bèn kéo một nhân viên lại hỏi: "Có chuyện gì thế? Sao các anh lại đi về hết thế này?"

Cậu nhân viên kia nói: "Tôi cũng không biết nữa, ông chủ bảo ngừng kinh doanh để chấn chỉnh, có lẽ là do vụ trộm cắp ban sáng đấy."

Tâm điểm buôn dưa của người dân Cô Tô thoắt cái lại sốt xình xịch.

Hôm sau, Chu Tử Thư cho người đi dán thông báo khắp nơi, dân chúng vội vàng vây quanh.

"Hậu cần Đường thị ba ngày nữa sẽ mở cửa lại... Lí do là, xảy ra sự cố, cần phải chỉnh đốn lại các nhân viên thiếu trung thực."

"Tôi nghe đồn tay nhân viên kia bị giải đến nha môn, vụt cho mười hèo rồi trục xuất khỏi phủ Cô Tô. Lương đại nhân tự mình hạ lệnh, cấm bất kì trạm phát cháo nào bố thí cho gã ta, thế là coi như xong đời đấy!"

"Ê, còn có đoạn này nữa là sao? Hậu cần Đường thị sẽ dựng trạm ở một số khu vực trong thành để ghi chép lại hàng hóa mà nhân viên giao. Mỗi lần chuyển phát sẽ phải ghi rõ vào hóa đơn hình dạng món hàng và địa điểm cần chuyển đến. Hậu cần Đường thị và khách hàng mỗi người giữ một bản hóa đơn?"

"Nếu không muốn mô tả hình dạng đồ vật, có thể để đồ vào trong hộp đựng của Hậu cần Đường thị, dán giấy niêm phong."

"Chà chà, Hậu cần Đường thị lại định làm điều bất ngờ gì nữa đây?"

||Chú thích

Câu gốc là "tử hành hĩ" – tớ hiểu là "ngài đi giùm cho/biến giùm cho", chưa kiếm được bản dịch nào để tham khảo TvT. Lương Tụng về sau rất hay mắng yêu Chu Tử Thư bằng câu này nên tớ edit vầy.

------oOo------

Chương 19

Nguồn: EbookTruyen.Net

Xà phòng

Phủ Cô Tô có hăm ba phường, mười sáu phố, chằng chịt dọc ngang. Hai mươi ba phường là nơi cư trú của hơn mười vạn hộ gia đình. Phần lớn các phường được quy hoạch men theo bờ con hào bảo vệ thành. Đan xen giữa các phường là hơn ba trăm nhánh sông nhỏ, tạo nên địa hình đặc trưng của vùng Giang Nam sông nước. Mười sáu con phố hầu hết là khu vực chuyển giao từ phường nọ sang phường kia.

Đại Tống không quản lí nghiêm ngặt phố phường như các triều đại trước. Ở trong phường cũng có thể mở hàng quán, nhưng cần phải có giấy phép của nha môn và phải nộp thuế cao hơn.

Chu Tử Thư muốn có giấy phép của nha môn thì chỉ cần đến mè nheo thầy hai câu là tiết kiệm được ối thì giờ xếp hàng. Còn về đống thuế chưa nộp, kế toán Lâm sắp bứt trụi cả đầu rồi, nhưng ông khuyên mãi Chu Tử Thư vẫn không chịu đổi ý.

"Tiểu đông gia, cứ thế này mình sẽ mất cả chì lẫn chài đấy!"

"Không vội, cứ từ từ rồi đâu sẽ có đó."

Trong một đêm, Hậu cần Đường thị mở trạm ở khắp hai mươi ba phường và mười sáu phố. Trạm khá đơn sơ, chỉ kê một chiếc bàn gỗ và một cái giá, với một cây gậy gỗ treo lá cờ đỏ đề bốn đại tự màu đen: Hậu cần Đường thị. Mỗi sạp có một ông cụ dáng dấp thư sinh ngồi trực, trông rất đáng tin cậy.

Mười ngày nay, bách tính Cô Tô đã quen với công việc chuyển phát đồ của các nhân viên hậu cần. Sau ba ngày chờ đợi, Hậu cần Đường thị cũng quay lại phục vụ người dân. Trong hẻm Trách Môn, có anh thư sinh nọ gọi một nhân viên chuyển phát lại: "Anh giúp tôi chuyển hai cuốn sách này đến Toái Cẩm Nhai nhé?"

Người nhân viên đáp: "Được thôi, phiền tiên sinh ra trạm viết giúp tôi cái đơn, ghi rõ cần giao hàng gì."

Anh thư sinh ngạc nhiên: "Đơn? Ý anh là sao?"

"Tiên sinh không thấy thông báo của Hậu cần Đường thị mấy hôm trước sao? Từ giờ, nếu anh đặt chuyển phát thì phải viết rõ địa chỉ nhận hàng và tên mặt hàng. Tiên sinh đừng lo, ở hẻm Trách Môn có một trạm dành riêng cho việc điền đơn. Chỉ cách đây mười mét thôi, để tôi dẫn anh đi." Ở khắp phủ Cô Tô đều diễn ra sự việc tương tự.

Lúc đầu, người dân cảm thấy Hậu cần Đường thị là quá phiền phức và mất thời gian. Nhưng chỉ một vài hôm sau họ đã nhận ra rằng có hóa đơn trong tay, nếu như hàng bị thất lạc thì sẽ có bằng chứng để khiếu nại Hậu cần Đường thị. Sự xuất hiện của tờ hóa đơn khiến họ an tâm hơn nhiều, tùy phiền hơn đôi chút, nhưng độ tin cậy của dịch vụ cao hơn hẳn, khiến ai nấy đều bớt lo ngại.

Hậu cần Đường thị càng ngày càng nhiều mối làm ăn hơn, những người thích sử dụng dịch vụ cũng trở thành khách hàng thường xuyên, dần dà quen mặt các nhân viên hết.

Hôm đó trên Toái Cẩm Nhai, chủ một cửa hàng may nhờ nhân viên Hậu cần Đường thị giao quần áo đặt may cho khách của ông ta. Hai người đã biết nhau, người nhân viên bèn nói: "Ông chủ Cungà, cuối tháng này dịch vụ chuyển phát của chúng tôi sẽ tăng giá đó. Ông là khách quen, thường ngày vẫn tạo điều kiện cho công việc của tôi, nên tôi báo sớm cho ông hay."

Ông chủ Cungngạc nhiên lắm, ngẩn mặt hỏi: "Tăng giá hả? Có tăng nhiều không?"

"Ông cứ yên tâm, tiểu đông gia của chúng tôi bảo sẽ không tăng nhiều đâu. Tôi nghe đồn là chỉ tăng thêm một đồng thôi. Hậu cần Đường thị hướng đến bình dân, cũng nhằm hỗ trợ những nạn dân chúng tôi được có nơi ăn chốn ở. Tiểu đông gia chỉ mong giúp đỡ những người cùng khổ chúng tôi được ăn no mặc ấm, có cơ hội sống sót, lợi nhuận là phụ, cứu dân mới là mục đích chính."

"Đúng lắm, ông chủ các cậu hình như là họ hàng của Đường cử nhân khu Tây, nghe đồn còn là học trò của Lương đại nhân nữa. Tôi tín nhiệm Hậu cần Đường thị các cậu cũng vì nghĩ ông chủ các cậu là người đàng hoàng. Tăng thêm một đồng không đáng là bao, chúng tôi vẫn lời chán!"

Người nhân viên nói thêm dăm ba câu, rồi tươi cười từ biệt ông chủ Vương.

Ông chủ Cungcũng thấy hai đồng một lần gửi đồ cũng chẳng đắt, thậm chí còn quá rẻ là đằng khác.

Phần lớn khách hàng của Hậu cần Đường thị ở phủ Cô Tô, ngoài dân thường ra thì là các hộ kinh doanh nhỏ lẻ như bọn họ. Ông chủ Cungtuy mở nhà may ở Toái Cẩm Nhai, nghe thì có vẻ hoành tráng, nhưng trong tiệm chỉ có một nhân viên mà thôi. Nếu khách cần giao hàng thì không có ai làm cả, nên ông chủ Cungbình thường đều gửi hàng bằng Hậu cần Đường thị.

Tiền chi trả cho dịch vụ chuyển phát mỗi ngày rẻ hơn thuê thêm một nhân viên nhiều.

Nhưng ông không biết, người nhân viên chuyển phát kia không tự nhiên mà làm thân với mình.

Cách đây ba ngày, Chu Tử Thư đã đích thân đến đại viện – hiện tại đã trở thành khu ở tập thể và nơi tập huấn của các nhân viên Hậu cần Đường thị.

Chu Tử Thư: "Tháng sau, tôi sẽ tuyển thêm năm mươi người nữa, như vậy ở phủ Cô Tô sẽ có tổng cộng một trăm nhân viên của chúng ta. Tuyết sẽ sớm ngừng, rất nhiều người trong số các vị sẽ muốn trở về quê hương, tôi tôn trọng ý muốn đấy. Chúng ta tuy bèo nước gặp nhau, nhưng nếu mọi người đi về thì hãy gặp kế toán Lâm nhận một khoản tiền làm lộ phí đi đường."

Có người lớn tiếng nói ngay: "Chúng tôi về cũng không có kế sinh nhai, tôi xin được ở lại phủ Cô Tô, làm việc cho tiểu đông gia."

Chu Tử Thư nói: "Được, mọi người đi hay ở tôi không cản. Nhưng tôi nói rõ trước, cuối tháng tôi sẽ tăng giá chuyển phát, và chia lợi nhuận cho mọi người."

Các nhân viên xôn xao.

Chu Tử Thư: "Kể từ cuối tháng này, giá cơ bản của mỗi chuyến hàng sẽ tăng lên thành hai đồng một lần, sau đó tùy vào khoảng cách, khối lượng và kích thước hàng hóa mà cộng thêm chi phí gửi hàng, cụ thế ra sao kế toán Lâm sẽ giải thích cho mọi người hiểu. Sau khi ra thông báo này, chắc chắn sẽ có nhiều khách hàng không sử dụng dịch vụ của chúng ta nữa. Tuy nhiên, mọi người sẽ nhận được hoa hồng từ việc giao hàng. Kể từ cuối tháng này, trừ tiền ăn ở đã miễn phí ra, tôi sẽ trích một phần doanh thu cho từng người dựa trên số đơn hàng của mỗi cá nhân."

Kế toán Lâm giải thích thêm: "Nói cách khác, giả sử một người giao được năm đơn hàng, mỗi đơn trị giá hai đồng, thì được thưởng một đồng, giao được càng nhiều hàng thì thưởng càng cao."

Đến đây coi như đã rõ, người nhân viên kia không vì tình cảm thân thiết với ông chủ Cungmà báo cho ông ta chuyện tăng giá.

Anh ta chỉ muốn lấy lòng ông chủ Vương, xây dựng quan hệ để sau này có nguồn đơn hàng dồi dào mà chạy thôi!

Việc làm ăn nhìn chung khá thuận lợi, trừ việc kế toán Lâm mỗi ngày đều than thở với Chu Tử Thư là hôm nay lỗ ít hay lỗ nhiều.

Cuối tháng Giêng, dịch vụ hậu cần đã vận hành được gần một tháng.

Chu Tử Thư: "Không lỗ nhiều chứ?"

Kế toán Lâm chán chường: "Thế thì phải trừ cái khoản đông gia mua căn nhà kia, với thuế đóng cho phủ nha hàng tháng. Nếu chỉ tính tiền ăn ở của các nhân viên và tiền thuê người ghi đơn thì không lỗ, nhưng cũng chẳng lãi!"

Chu Tử Thư trầm trồ: "Chỉ chưa đến một tháng mà doanh thu đã ngang với chi phí biến đổi rồi! Dân Cô Tô giàu hơn cháu tưởng đấy! Giàu phát khiếp lên được."

Kế toán Lâm: "Hở?"

Chu Tử Thư xoa cằm: "Dân Cô Tô lắm tiền quá, không được, cháu phải nghĩ thêm cách, để họ tiếp tục xòe tiền ra cho mình."

Kế toán Lâm ngơ ngơ ngác ngác, chợt nhớ đến câu Diêu Tam vẫn hay nói với mình.

"Tiểu đông gia nhà chúng ta ấy à, thỉnh thoảng... hơi có vấn đề về... đầu óc."

Đúng thật là bị dở hơi rồi!

Người ngoài có thể không biết, nhưng kế toán Lâm biết tỏng Chu Tử Thư hiện tại có bao nhiêu tiền.

Tuy không xuất thân nhà phú hào, nhưng mới bấy nhiêu tuổi, Chu Tử Thư đã lập nghiệp từ hai bàn tay trắng. Khắp phủ Cô Tô chỉ có duy nhất một thiếu niên như cậu thôi!

Chu Tử Thư: "Bao giờ thì bắt đầu bán xà phòng nhỉ?"

Kế toán Lâm không nghĩ vẩn vơ nữa, đáp: "Theo lời quản lí cửa hàng thì năm ngày nữa. Hôm đó Đường phu nhân sẽ mời các danh môn phu nhân đến Trân Bảo Các dự, phu nhân bảo là phải làm một lễ mở hàng hoành tráng dành riêng cho xà phòng."

Chu Tử Thư ngạc nhiên lắm, dở khóc dở cười: "Đại bá mẫu của cháu cũng thật cao tay, cháu nói một hai ba, bác ấy đã làm đến bốn năm sáu rồi. Lễ mở hàng cơ đấy? Cháu chưa nghĩ nổi đến đó."

Người giỏi giang như Đường phu nhân, ở thời hiện đại hẳn đã là giám đốc bán hàng của một doanh nghiệp lớn rồi!

(Bản edit phi lợi nhuận chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com; hãy mua chương cho tác giả trên Tấn Giang nếu có thể.)

Năm ngày sau, Chu Tử Thư đến Trân Bảo Các, góp mặt còn có mấy phu nhân, công tử ăn mặc sang trọng.

Tôn Nhạc đi theo mẹ là Tôn phu nhân đến chơi, gặp Chu Tử Thư ở đây thì ngạc nhiên lắm, chạy lại ôm vai bá cổ ngay: "Hóa ra Đường phu nhân là họ hàng của cậu à? Tớ nghe các bạn trong học viện đồn suốt, không ngờ là thật. Cậu ghê thiệt nha, hồi mới quen, lúc tớ khoe khoang Hoàng Kim Lũ dùng thích thế nào, sao cậu không bảo cậu là cháu Đường phu nhân? Cậu là người nhà họ Đường, sao mà không có Hoàng Kim Lũ được?"

Chu Tử Thư tỉnh queo: "Thì tớ có bảo tớ không quen Đường phu nhân đâu?"

Tôn Nhạc: "Ờ, đúng."

"Cậu cũng chẳng bao giờ hỏi xem tớ có họ hàng với Đường phu nhân không."

"... Cũng phải."

"Vậy cậu bảo tớ phải nói sao, tớ họ Đường mà."

Tôn Nhạc: "..."

Lát sau chú béo mới ngộ ra, túm lấy Chu Tử Thư liến thoắng: "Á à Chu Tử Thư cậu dám lừa tớ, cậu họ Đường thì sao, họ Đường thì cứ phải là cháu trai Đường phu nhân à? Thế nếu cậu họ Lương, chẳng hóa cậu là con đẻ của Lương đại nhân – Lương Bác Văn hay sao?"

Chu Tử Thư nhủ thầm: Tớ không phải con đẻ của Lương Bác Văn, tớ là đệ tử ruột của ổng.

Tôn Nhạc chỉ chí chóe với Chu Tử Thư mấy câu chứ không giận thật, hai đứa dính lấy nhau chờ xem lễ mở hàng. Chẳng ngờ sau khi một cái giá cao phủ vải đỏ được di chuyển vào sảnh chính của Trân Bảo Các, Đường phu nhân nhìn quanh quất một hồi, vẫy Chu Tử Thư lại. Chu Tử Thư không rõ có việc gì, bèn đi qua chỗ bà. Tôn Nhạc lại linh cảm có điều úp mở gì đó, lầm bầm: "Cái thằng Chu Tử Thư này còn giấu mình cái gì nữa không biết?"

Đường phu nhân nói: "Tuấn nhi, hôm nay bác cháu ta cũng giới thiệu xà phòng với mọi người nhé."

Chu Tử Thư quá đỗi ngạc nhiên, nhưng nhanh chóng bình tĩnh lại. Thì ra Đường phu nhân có ý định thừa nhận cậu là người của Đường gia với toàn phủ Cô Tô, khiến Đường gia trở thành chỗ dựa vững chắc của cậu. Đồng thời thông báo cho toàn phủ Cô Tô biết, địa vị của Chu Tử Thư ở nhà họ Đường là rất quan trọng.

Chu Tử Thư và Đường phu nhân cùng nhau nhấc vải đỏ lên, tất cả quan khách đều tưởng sẽ thấy một sản phẩm hiếm lạ như Hoàng Kim Lũ, ai ngờ vật này y chang như xà phòng thơm, thậm chí còn chẳng có hương thơm tuyệt hảo nữa.

Đường phu nhân giới thiệu: "Sản phẩm này tên là xà phòng, có công dụng hoàn toàn giống với xà phòng thơm, giá chỉ năm đồng, với nhu cầu phổ thông thì một bánh xà phòng có thể dùng trong khoảng nửa tháng." Thế mà chỉ có giá năm đồng!

Các quan khách bây giờ mới vỡ lẽ vì sao Đường phu nhân cố tình chuẩn bị hẳn một lễ mở bán. Về mặt tiếng tăm và hình ảnh, Hoàng Kim Lũ chắc chắn là bảo vật trấn điếm của Trân Bảo Các nhà họ Đường. Nhưng về doanh thu, chính những bánh xà phòng này mới là con át chủ bài thực sự của Trân Bảo Các!

Đường gia Trân Bảo Các lần này đã vượt xa kì vọng của tất cả mọi người ở Cô Tô rồi!

||

Đồng bào chú ý chương sau có pass: Yuzuru Hanyu là vận động viên của bộ môn nào. Viết chữ thường bằng tiếng Anh, có dấu cách giữa 2 từ.

Chú thích

Trong truyện tác giả thường xuyên dùng đơn vị "mét", nhưng vì đây là thế giới giả tưởng nên mình sẽ edit đúng là "mét", kể cả với thoại của người Đại Tống. QT dịch là "thước" làm mình bị hoang mang tưởng là "thước" cổ, nhưng không phải. "Thước" ta gần với đơn vị "xích" trong hệ đo lường cổ của Trung Quốc hơn (hay còn gọi là "thước" cổ Trung Quốc đó).

Thực ra đoạn này tác giả không dùng từ chi phí biến đổi mà viết là "thu bằng chi". Mình sử dụng từ "chi phí biến đổi" cho chính xác về mặt kinh tế. Trong kinh tế, khi doanh thu vẫn đủ để chi trả chi phí biến đổi (lương cho nhân viên, tiền nguyên liệu, v.v..) thì doanh nghiệp vẫn có thể vận hành (nếu không đủ thì phải đóng cửa để cắt lỗ). Như vậy phù hợp với cách tính toán của kế toán Lâm: ông đã trừ đi chi phí cố định là tiền mua nhà và tiền thuế cố định hàng tháng rồi mới so sánh doanh thu với chi phí nuôi nhân viên.

[2] Ngoài lề: Đọc phần đầu có thể liên tưởng đến sự khác biệt giữa quản lí và quy hoạch đô thị thời Tống và thời Đường. Kinh đô Trường An, đô thị tiêu biểu thời Đường, được chia thành các phường rất vuông vức. Thời gian hoạt động của người dân bị giới hạn bởi giờ giới nghiêm. Không ai được ra đường buổi tối trừ một số đối tượng đặc biệt. Trái lại, nhà Tống khuyến khích buôn bán, hoạt động cả vào ban đêm. Kinh thành Biện Kinh (Khai Phong) thời Tống có mật độ dân số rất cao, có nhiều nhánh sông, cầu trong thành phố.

------oOo------

Chương 20

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thi huyện

Trong chương này có nhiều trích đoạn văn, thơ cổ. Mình có sử dụng một số bản dịch từ các dịch giả khác, còn lại thì cố gắng chuyển ngữ dễ hiểu nhất có thể. Mọi người đọc cho vui thôi, chứ mình sợ không được chính xác lắm :(

Tôn Nhạc bám theo Chu Tử Thư trách móc suốt ba ngày, cậu phải hứa với chú béo là sẽ mời cậu ta ăn bánh bao thịt heo ở cổng học viện Tử Dương, chú béo mới bớt giận.

Tôn Nhạc: "Hừ, còn lâu tớ mới tin cậu chỉ là thiếu gia nhà họ Đường. Trân Bảo Các kiểu gì chả có phần của cậu!"

Tôn Nhạc không ngốc, phủ Cô Tô có hàng đống con nhà giàu, song những đứa vào được học viện Tử Dương đều phải đạt tiêu chuẩn của Dư sơn trưởng, tức là có chân tài thực học. Hôm trước Chu Tử Thư kéo vải đỏ khai trương cùng với Đường phu nhân ngay trước mặt chú béo, làm sao chú ta không đoán ra thân phận của Chu Tử Thư cho được?

Nghĩ chán chê, nhóc béo vẫn chưa nguôi giận: "Cậu phải mời tớ ba bữa cơ!"

Chu Tử Thư: "Cậu còn có tiền đồ không hả?" Cả hai phá lên cười giòn giã.

Ăn bánh bao xong, hai người bạn nói chuyện về kì thi huyện diễn ra vào năm ngày sau.

Tôn Nhạc hỏi: "Năm ngày nữa là thi huyện rồi đấy, cậu có tự tin không?"

Chu Tử Thư nghĩ thầm: Vấn đề đâu phải tự tin hay không tự tin, vấn đề là nhất định phải đỗ.

"Chắc là ổn thôi," Chu Tử Thư hỏi ngược lại: "Thế còn cậu?"

Tôn Nhạc thở dài thườn thượt: "Tớ bắt đầu đến trường phủ học từ năm ngoái, giờ đã một năm rưỡi rồi. Trước đó còn học gia sư bảy năm, tổng cộng là tám năm. Năm nay cậu chưa đến mười bốn, còn tớ thì đã mười lăm. Cậu cũng biết đấy, anh họ tớ đỗ tú tài đúng năm mười lăm tuổi."

Chu Tử Thư an ủi: "Không so sánh thì sẽ không tổn thương, tớ hiểu."

Tôn Nhạc trợn mắt: "Cậu mà đòi hiểu? Cậu hiểu cái con khỉ ý! Chu Tử Thư ơi là Chu Tử Thư, tớ cứ tưởng chúng mình cùng hội cùng thuyền, cùng tiến cùng lùi. Ai ngờ, chưa chi cậu đã sắp sửa đỗ tú tài đến nơi!"

"Ơ hay, đã thi thố gì đâu?"

Tôn Nhạc: "Cậu đỗ là cái chắc rồi còn gì! Ôi, sao ông trời nỡ đày đọa tớ làm bạn đèn sách của cậu cơ chứ? Trượt thì thôi, cậu mà đỗ, mẹ tớ sẽ cằn nhằn chết tớ mất! Đi học thì lâu hơn cậu mà thành tích thì kém xa! Đường đại ca ơi, Đường ca của đệ, huynh có thể thương tình mà tha cho tiểu đệ lần này không?"

Chu Tử Thư tưng tửng: "Từ nhỏ đến lớn, lũ nít con bị anh Đường của chú làm cho tức nổ đom đóm mắt không chỉ có mình chú đâu, ráng mà học cho giỏi đi, chú béo."

"Hả?"

"Không có gì. Ăn bánh bao nữa không?"

"Ăn!"

Chu Tử Thư quả thực không có nhiều lựa chọn cho kì thi huyện lần này.

Năm ngày trước khi thi huyện, học viện Tử Dương cho nghỉ để các học sinh về nhà tự ôn luyện. Học sinh ở trường phủ chủ yếu là những người đã có công danh, đỗ tú tài, nhưng cũng có những người như Chu Tử Thư, Tôn Nhạc, chưa tham gia kì thi huyện lần nào.

Chu Tử Thư vốn định làm ổ ở nhà ôn bài, đọc hết lại sách vở trong năm ngày, ôn cố tri tân1. Ai ngờ sáng sớm ngày đầu tiên, một cỗ xe ngựa đã đỗ xịch trước nhà cậu.

[1] Ôn lại những cái cũ mà ngộ ra điều mới mẻ

Chu Tử Thư ra cửa đón khách thì gặp ngay Lương Tụng vừa xuống xe.

Ông bảo: "Ngu Chi bận đi Kim Lăng rồi, lâu nay ta vẫn muốn thăm huyện Sa Châu một chuyến, con đi cùng ta nhé?"

Chu Tử Thư ngớ người: "Tiên sinh, năm ngày nữa tiểu tử phải thi huyện mà."

Lương Tụng: "Con không thi nổi à?"

"Không phải ạ."

"Thế thì sao?"

"..."

Nhưng con phải đỗ trong mười hạng đầu thầy ơi!

Chu Tử Thư không có cách nào nói ra câu đấy cả, Lương Tụng nhìn bộ dạng muốn nói lắm mà phải cố nhịn của cậu, cảm thấy thằng bé này vẫn còn trẻ dại, non nớt quá chừng. Lương Tụng cười: "Đi thôi. Thi huyện mà còn không nổi thì từ nay về sau khỏi phải xưng là đệ tử của thầy nhé." Chu Tử Thư vâng lời, thu thập hành trang theo Lương Tụng rời phủ.

Xe ngựa ra khỏi phủ Cô Tô, đi về hướng Bắc. Thời tiết đã ấm hơn, nhưng vẫn còn se lạnh. Bên trong xe ngựa có một lò sưởi cầm tay rất tinh xảo, Chu Tử Thư vẫn nhớ đấy là chiếc lò sưởi mà tháng trước, lúc cậu ra cổng thành đón tiên sinh, tiên sinh đã đưa cho cậu sưởi tay.

Thầy trò hai người ngồi trong xe cũng không tán gẫu, mỗi người cầm một quyển sách tự đọc. Thỉnh thoảng Lương Tụng sẽ đặt câu hỏi để Chu Tử Thư trả lời. Chu Tử Thư đáp xong, ông sẽ chỉ ra những chỗ thiếu sót.

Chạng vạng, hai thầy trò tới huyện Sa Châu.

Huyện Sa Châu nằm ở tận cùng biên giới phía bắc của phủ Cô Tô. Phủ Cô Tô chỉ tuyết ba ngày đã ngưng, huyện Sa Châu hẵng còn mênh mông trắng xóa. Đồng ruộng bát ngát phủ kín một sắc trắng tinh khôi, dõi mắt trông chỉ thấy tuyết trải dài tít tắp đến tận chân trời, xa xa lú nhú vài thôn xóm điểm tô cho khung cảnh. Người xà ích đánh xe tiến vào một nông trang ở khu vực dân cư đó.

Xe ngựa dừng trước một căn nhà nhỏ, hai thầy trò chưa xuống xe, chủ nhà đã mở cửa tiếp đón.

Chủ nhà này là một ông lão tóc hoa râm, lưng còng. Ông cụ chống gậy đi tới xe, khom người vái chào Lương Tụng: "Lương đại nho."

Lương Tụng xuống xe, đáp lễ: "Triệu cử nhân."

Chu Tử Thư sững người, cậu không ngờ ông cụ mặt mũi nhăn nhúm, gia cảnh bần hàn này lại là một cử nhân.

Triệu cử nhân mời hai thầy trò vào làm khách, dành riêng một buồng cho cả hai.

Lương Tụng: "Thầy tới mượn ông này hai cuốn sách, tiện thể thị sát tình hình huyện Sa Châu. Ngày mốt thầy trò mình về. Vi sư mắt kém, đọc viết chậm chạp, Ngu Chi lại đi vắng, con thay nó sao chép hai cuốn sách để thầy mang về nhé."

Chu Tử Thư cười tủm tỉm: "Vâng."

Té ra là dắt cậu theo làm lao công!

Triệu cử nhân đưa cho Chu Tử Thư hai cuốn sách ghi chép về phong tục và dân cư ở huyện Sa Châu. Chu Tử Thư cẩn thận chép lại bằng bút pháp trâm hoa. Cậu viết chậm, nhất là kiểu chữ nhỏ thế này thì khá gượng tay, thành thử mới chép được vài tờ đã thấy mỏi. Chu Tử Thư nắn nắn tay cho đỡ cứng rồi lại tiếp tục chép.

Lương Bác Văn là đại Nho đương thời nhưng lại thích vô vàn kiểu sách khác nhau.

Chu Tử Thư từng vào thư phòng của thầy, ở đó phải chứa đến mấy nghìn cuốn sách. Từ thiên văn, địa lý đến thi từ, ca phú, chuyện lạ truyền kì, tạp học Ngo gia, cái gì cần có thì đều có cả. Lương Bác Văn trước giờ không câu nệ thể loại sách, thế nên ông học rộng hiểu nhiều, bác cổ thông kim.

Chu Tử Thư chép sang cuốn thứ hai thì trời sẩm tối.

"Nét móc của con phải kiềm bớt nội phong3 lại."

[2] Phong vừa có nghĩa là sắc nhọn vừa có nghĩa là tài năng.

Chu Tử Thư giật mình, suýt tí nữa thì viết sai, tiếc là vẫn dây một vết mực nhỏ lên trang sách. Cậu ngẩng đầu: "Tiên sinh?"

Lương Tụng không biết đã đứng bên cạnh cậu từ khi nào, nương theo ánh nến lẳng lặng quan sát cậu viết.

Chu Tử Thư không thích đọc sách vào ban đêm, không bao giờ chong đèn đọc sách. Đường Hoàng có lần lôi việc này ra chọc ghẹo, chê ông anh thiếu chăm chỉ thế này, không muốn tiến bộ thế nọ. Nhưng Chu Tử Thư hùng hồn biện minh: "Đèn mờ thế này mà bắt đọc sách, em muốn anh trai còn trẻ mà đã cận thị à?"

A Hoàng không hiểu cận thị là gì, nhưng cô bé nhận ra sự cương quyết của Chu Tử Thư.

Ánh nền ấm áp lung linh, Lương Tụng đứng bên cạnh bàn, Chu Tử Thư ngồi chép sách.

Lương Tụng: "Chép tiếp nào."

"Vâng."

Chu Tử Thư càng cẩn thận hơn, viết rất tập trung. Viết được phân nửa, Lương Tụng nói: "Cho con tập viết đại tự mỗi ngày quả nhiên là có tác dụng, mội tội chữ con vẫn cứ lộ phong."

"Nét chữ sắc sảo thì không tốt hả thầy?"

"Để lộ tài hoa nhiều quá tất nhiên là không tốt rồi. Chữ của con thật ra chỉ hơi bén một chút thôi, chẳng những không đáng ngại mà còn rất có khí khái. Bút lực cỡ này mà xem là quá dữ dội thì chẳng hóa, các đại thư gia chữ Hành, chữ Thảo trong thiên hạ toàn người ghê gớm, hống hách không coi ai ra gì ư? Nhưng Chu Tử Thư à, con chớ quên, mình vẫn chỉ là một thư sinh áo vải chưa có thành tựu gì. Khi đi thi, con nhất định phải viết bằng thể Quán Các."

Lương Tụng cầm tay Chu Tử Thư, nắn nót từng chữ. Phút chốc, những con chữ đen nhánh thanh thoát đã phủ đầy trang giấy.

Tựa như một người cha cầm tay con trai dạy viết, ông kiên nhẫn dặn dò: "Ngay ngắn mượt mà, duyên dáng hoa mỹ. Nét sổ không lộ cách, nét móc không lộ phong3. Từng từ từng chữ phải hết sức chỉn chu. Con mà không viết thể Quán Các thật giỏi, thì dù có là Văn Khúc tái thế cũng không thể được truyền lô4 ở cung vua đâu.

[3] "Cách": cá tính; "phong: tài năng; [4] xướng danh các thí sinh đỗ kì thi Đình, được tổ chức ở hoàng cung.

Bầu không khí hài hòa và tĩnh lặng đến lạ thường. Hồi lâu, Chu Tử Thư mới cất tiếng: "Tiên sinh, con chưa từng nói mình muốn được truyền lô ở cung điện."

Lương Tụng cười mắng: "Thằng lỏi này, đấy là ngụ ý thế5, con tưởng cứ thích là được truyền lô ở cung vua à? Khéo thi cử nhân còn hỏng ấy chứ!"

Chu Tử Thư thật thà hỏi: "Chẳng may mà con rớt, tiếng tăm của tiên sinh chắc hỏng bét mất nhỉ? Con sẽ là đệ tử duy nhất của tiên sinh trượt cử nhân ha?"

"Ngài phắn đi!"

"Ơ?"

Chu Tử Thư được Lương Tụng cầm tay luyện viết hai trang giấy, sau đó ông để cậu tự tập viết một trang.

"Được rồi, ngủ thôi con, mai viết tiếp."

Chu Tử Thư: "Con viết thêm chút nữa đã."

Lương Tụng: "Đi ngủ đi. Mai phải dậy sớm, thầy trò mình đi thị sát huyện Sa Châu một chuyến."

Chu Tử Thư đành nghe lời thầy.

Ở nhà Triệu cử nhân nghỉ ngơi một đêm, thầy trò hai người lên xe ngựa đến Hương Sơn ở phía bắc huyện Sa Châu. Xe tới chân núi, hai thầy trò xuống xe, leo lên núi bằng con đường nhỏ. Hương Sơn là gò núi cao nhất huyện Sa Châu, độ cao hơn một trăm thước. Thực vật trong núi có cây thủy tùng, thông đuôi ngựa, cảnh sắc có thể tả là: lấp ló rừng xanh khe suối chảy, văng vẳng tuyết bạc tiếng chim reo.

Chu Tử Thư tuổi nhỏ nhưng khỏe khoắn, dẻo dai, vai đeo bọc hành lí mà leo núi không biết mệt. Lương tiên sinh lớn tuổi, đi tới suối Đào Hoa đã thở phì phò, đành nghỉ chân mà ngâm một khúc "Thính Tùng". Phóng tầm mắt ra khắp núi, tuyết bạc phủ kín trên những tán tùng xanh, tuyết khá mỏng, dẫm xuống chỉ ngập đến gần mắt cá chân.

Lương Tụng quyết định dừng hành trình: "Vi sư đi không nổi nữa. Đường

Thận à, con leo lên đỉnh núi một mình đi."

Chu Tử Thư sửng sốt: "Tiên sinh?"

"Thầy già rồi, cách đỉnh chỉ còn một quãng nữa thôi, con tự lên nhé."

Chu Tử Thư vốn không định leo núi, cậu đi theo chỉ để hầu Lương Tụng vãn cảnh. Nay Lương Tụng đã dừng chân, cậu còn mò lên đỉnh núi làm gì. Nhưng Lương Tụng cứ khăng khăng rằng đã tới tận đây, thầy lực bất tòng tâm đã đành, Chu Tử Thư nhất định phải lên đỉnh núi, thử ngắm nhìn phong cảnh đất Ngô5.

[5] Chỉ vùng Giang Nam

Chu Tử Thư đành một mình leo lên chóp núi.

"Lấy đâu ra phong cảnh mà tiên sinh bảo chứ!" Chu Tử Thư dở khóc dở cười.

Kì thực, Hương Sơn chẳng qua chỉ là một ngọn núi bé tẻo teo ở huyện Sa

Châu, phủ Cô Tô. Chu Tử Thư kiếp trước đã từng leo lên đỉnh Thái Sơn đứng đầu Ngũ Nhạc, chinh phục cả Hoa Sơn khúc khuỷu cheo leo. So Hương Sơn với hai ông lớn kia, rõ chỉ bằng cái mắt muỗi.

Xuống núi, Lương Tụng hỏi: "Phong cảnh trên núi đẹp không con?"

Chu Tử Thư suy nghĩ một chút mới đáp: "Trên núi cao không khí rất lành, trời trong vạn dặm không gợn mây. Đứng ở đỉnh tuy không thấy phủ Cô Tô, nhưng ngắm rõ được huyện Sa Châu, phong cảnh rất mỹ lệ."

"Thế đứng trên đỉnh núi con có thấy đẹp bằng trong lòng núi không? Khí trời trên đó tuy trong lành hơn, nhưng cảnh sắc hẳn là kém phần sống động nhỉ?

Chu Tử Thư đang định đáp, chợt giật mình, cậu ngước nhìn Lương Tụng không chớp mắt.

"Tiên sinh... dẫn tiểu tử đi đến đây, không phải để thư giãn đầu óc ạ?"

Lương Tụng hỏi ngược lại: "Ta có nói là để thư giãn đầu óc lúc nào à?"

Chu Tử Thư mỉm cười, nói: "Ra vậy! Tiên sinh để tiểu tử chép sách để kiểm tra trình độ thư pháp của con, xem con viết chữ Quán Các thế nào. Song học trò vẫn chưa hiểu vì sao tiên sinh dẫn con đi leo núi."

Lương Tụng: "Mấy hôm tới thi huyện, con có lo không?"

"Chẳng dám dối thầy, con không lo lắm."

"Con ấy, tự tin nhưng cũng thành thật. Chu Tử Thư này, con tới Cô Tô đã hơn nửa năm, bái ta làm thầy cỡ bốn tháng rồi. Trong bốn tháng đó, con đã viết hơn hai trăm bài chế nghệ. Thế con có rút ra điều gì tâm đắc không?"

Chu Tử Thư suy nghĩ tỉ mỉ rồi mới hỏi: "Ý tiên sinh là con viết chưa tốt ạ?"

"Không, con viết khá lắm."

"Tiên sinh?"

"Thế con có biết ưu điểm, khuyết điểm của mình là gì không?' Chu Tử Thư không biết phải đáp sao.

Lương Tụng: "Khuyết điểm của con là hành văn bình thường, thỉnh thoảng sẽ phạm lỗi nhỏ về bằng trắc. Nhưng ưu điểm là ý văn phóng khoáng, không câu nệ."

Chu Tử Thư bừng tỉnh đại ngộ.

Bốn tháng vừa qua, Lương Tụng cho cậu viết hơn hai trăm bài văn bát cổ. Ông dạy Chu Tử Thư thế nào là phá đề, thế là nào trung cổ. Văn bát cổ có quy chế nghiêm ngặt, tỉ mỉ cả những cái vụn vặt, trong từng câu văn đôi khi cũng phải cân chỉnh về bằng trắc. Lương Tụng làm thầy cực kì nghiêm khắc, không cho Chu Tử Thư phạm bất cứ sai lầm nào.

Nhưng ông không bao giờ dạy cậu rằng một bài văn bát cổ phải có nội dung như thế nào!

Ông hướng dẫn cậu quy cách làm văn, chỉnh câu chữ cậu viết sao cho tinh tế, nhắc nhở cậu phải chú trọng hình thức và khuôn mẫu khi trình bày văn bát cổ.

Trái lại, ông tuyệt nhiên không uốn nắn bất kì tư tưởng nào của Chu Tử Thư.

"Tuấn nhi, lần nào con phá đề cũng có kiến giải đặc sắc. Suy nghĩ của con rất khác người, ví dụ như câu 'anh hoa chính khí khắp trời, khoác hình vật chất khắp nơi vẫy vùng' thể hiện rõ khí phách ngời ngời! Con có tầm nhìn rộng hơn nhiều người, xa hơn nhiều người, thậm chí còn tự do phóng khoáng hơn cả vi sư. Thế nên, vi sư mong con nhớ, núi trong thiên hạ có hàng vạn ngọn, muôn màu muôn vẻ, đừng mãi giam mình ở một ngọn núi, nghe con? Hãy trèo lên đỉnh núi, phóng tầm mắt mà chiêm ngưỡng cảnh tượng bao la lộng lẫy."

Chu Tử Thư yên lặng nhìn Lương Tụng, xúc động thốt lên: "Lời răn dạy của tiên sinh, học trò xin ghi lòng tạc dạ."

Lương Tụng cười: "Ta về thôi."

Dọc đường, Chu Tử Thư nghĩ suy mãi về những điều Lương Tụng nói, bất giác càng tự tin với kì thi huyện hơn.

Trong suốt bốn tháng, Lương Tụng luôn chỉ ra những thiếu sót trong các bài chế nghệ và thơ thí thiếp của cậu. Nhưng hôm nay rốt cuộc cậu đã hiểu, thầy sở dĩ chỉ phê bình về hình thức mà không phê bình nội dung, là vì muốn cậu cải thiện cách viết để bộc lộ trọn vẹn được tư tưởng của mình.

So với cổ nhân, ưu điểm của Chu Tử Thư rốt cuộc nằm ở đâu? Cậu thắng ở chỗ, tư tưởng và linh hồn của cậu có chất tự do mà thời đại này không có! Cậu không bị kìm kẹp bởi những khuôn mẫu cũ, bởi đôi mắt cậu đã từng chứng kiến tương lai mà con người thời này chưa hề trông thấy. Đây là ưu thế lớn nhất của cậu, cũng có thể là một trong những lí do khiến Lương Tụng thu nhận cậu làm đồ đệ.

Đương mải mê suy nghĩ về kì thi huyện, chợt Chu Tử Thư nghĩ tới một điều.

"Tiên sinh, thực ra hôm nay thầy không muốn lên Hương Sơn đúng không ạ?"

Lương Tụng sửng sốt, hỏi: "Sao con nghĩ thế?"

Chu Tử Thư: "Tiên sinh chỉ muốn con một mình trèo lên đỉnh núi ngắm cảnh thôi phải không?"

Lương Tụng: "Ha ha, thằng nhóc này, con nghĩ nhiều quá. Vi sư già rồi, quả thực leo không nổi. Núi cao ta trông, đường rộng ta đi, tuy đích chưa đến, nhưng lòng hướng về!"

Thầy và trò lại về nhà Triệu cử nhân tá túc một đêm, Chu Tử Thư chép hết sách, đến một ngày trước kì thi huyện, hai người mới về phủ Cô Tô.

(Bản edit phi lợi nhuận chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com. Hãy mua chương trên Tấn Giang nếu bạn có thể)

Hôm kì thi diễn ra, từ khi mặt trời chưa ló rạng, hàng đàn học sinh đã tề tựu ngoài các trường thi ở năm huyện trực thuộc phủ Cô Tô.

Trên vòm trời chi chít ánh sao, hai bên cổng trường thi có sai nha phủ Cô

Tô canh gác, huyện lệnh sở tại cũng đến tận nơi. Cô Tô có Phủ doãn Lương Bác Văn, song vì huyện Ngô gần kề cũng tổ chức thi cùng thời điểm nên kì thi ở Cô Tô được gộp vào với kì thi huyện. Huyện lệnh huyện Ngô Cổ Lượng Sinh mặc quan bào, đội mũ ô sa, cầm hốt bạch ngọc, có mặt ở trường thi từ sớm.

Chỗ ngồi của Cổ Lượng Sinh được đặt ở giữa cổng chính trường thi. Lúc này, cổng chính và hai cổng phụ mới được mở ra. Trước cổng chính kê một bộ bàn ghế cho Cổ Lượng Sinh ngồi. Hai bên cổng phụ có sai nha đứng gác.

Đến giờ, Cổ Lượng Sinh cất cao giọng hô: "Thí sinh vào trường."

Huyện thừa vâng lệnh, tiến lên một bước, đọc to tên thí sinh. Cứ năm thí sinh một lượt gọi, các thí sinh này hô đáp rồi ra xếp thành hàng, kiểm tra và xác nhận những người khác là người mình biết. Huyện thừa lại hô lên: "Ai là người bảo lãnh?" Lúc này có một tú tài, người đã có công danh, đọc to tên mình rồi chứng nhận từng người kia tên là gì, quê quán ở huyện nào.

Đây được gọi là là thể chế bảo lãnh năm người của khoa cử thời cổ đại.

Trước khi kì thi diễn ra, mọi người phải gộp thành một nhóm năm thí sinh, bảo lãnh lẫn cho nhau. Năm người này phải tìm thêm một tú tài nữa, nhờ tú tài này bảo lãnh cho cả nhóm, bao gồm: xác nhận thí sinh đúng với danh tính đã đăng kí, xuất thân minh bạch, ông cha ba đời không có tội nhân. Nếu một trong năm người này hoặc tú tài bảo lãnh gian dối, cả năm người sẽ bị hủy tư cách thi, xóa mọi công danh và bị tống giam để điều tra. Tiếng huyện thừa sang sảng: "Tôn Nhạc, Lý Tiến,... Chu Tử Thư!"

Chu Tử Thư tiến lên, cậu và bốn người còn lại, bao gồm Tôn Nhạc, xác nhận chéo cho nhau. Tú tài bảo lãnh cho bọn họ cũng lên làm chứng, cả nhóm qua vòng kiểm tra.

Huyện thừa kiểm tra các nhóm thí sinh và người bảo lãnh xong thì đến lượt quan chủ bạ huyện Ngô làm nhiệm vụ. Ông này phụ trách gọi tên hai thí sinh một lượt, để họ đi vào trường thi từ hai bên cổng phụ.

Phủ Cô Tô là nơi giàu có, đông đúc, cũng là tâm điểm các kì khoa cử nên nhân tài, học sinh vô cùng đông đảo. Mỗi thí sinh xách một hộp sách quai dài đi đến trước cổng phụ, để sai nha kiểm tra diện mạo. Sai nha đối chiếu đúng với mô tả mới cho phép thí sinh vào trường thi.

"Chu Tử Thư, phủ Cô Tô!"

Chu Tử Thư đi đến cổng phụ bên trái, một sai nha mở hộp sách của cậu ra, kiểm tra kĩ bên trong không có gì bất thường. Sai nha lại mở sổ mô tả ngoại hình, đối chiếu với gương mặt của cậu.

Trên sổ mô tả ngoại hình viết: Chu Tử Thư, cao, hơi gầy, không có râu, không có nốt ruồi, trắng trẻo sáng sủa.

"Qua!"

Kiểm tra xong, Chu Tử Thư cắp hộp sách đi vào trường thi.

Sau khi tất cả các thí sinh nhập trường và tập kết ở khu đất trống phía trước sân thi, huyện lệnh huyện Ngô Cổ Lượng Sinh mới đi vào và ra lệnh đóng cổng. Ba cánh cổng trường lập tức được đóng lại. Chờ Cổ Lượng Sinh rà soát xong xuôi, các thí sinh lần lượt theo số thứ tự của mình vào ngồi thi.

Trường thi có tổng cộng một trăm hai mươi chỗ ngồi, xếp thành mười hàng và mười hai dãy, tương ứng với Thiên Can và Địa Chi. Chu Tử Thư ngồi ở vị trí Đinh Mùi, tức hàng bốn, dãy tám.

Trường thi năm nay khác nhiều so với lúc Lương Tụng dẫn Chu Tử Thư đến xem năm ngoái. Trong trường thi, ngoại trừ một trăm hai mươi bàn cho thí sinh ngồi thì còn có mái che để phòng mưa nắng làm hỏng quyển. Song, dù nha môn chuẩn bị tốt đến mấy, khi một trăm hai mươi con người lấp kín khảo bằng7 rồi thì không khí vẫn khá bí bách và ngột ngạt vì mùi người.

[7] Khảo bằng – một cách gọi của trường thi đồng sinh. Bằng là cái lán.

Chu Tử Thư thở dài, được thế này là tốt lắm rồi.

Phủ Cô Tô là trọng điểm thi cử nên kì thi này được quan phủ chú trọng vô cùng. Họ không chỉ cung cấp cho thí sinh hơn một trăm bộ bàn ghế mà còn dựng cả mái nhà để che nắng che mưa. Nếu đổi sang một điểm thi hẻo lánh khác thì đừng mơ đến mái nhà, ngay cả bàn thi thí sinh cũng phải tự chuẩn bị trước mà bê vào trường thi. Có thí sinh gia cảnh túng quẫn quá không có nổi cái bàn, phải đến quán cơm, quán trà mượn bàn của người ta để đi thi. Sau khi các thí sinh vào hết vị trí, sai nha bắt đầu phát quyển thi và giấy thi.

Một tiếng thanh la trong trẻo vang lên báo hiệu, Chu Tử Thư mở quyển, đọc đề mục.

Đề mục số một: "Quốc gia tương hưng tất hữu trinh tường." Chu Tử Thư quá đỗi ngạc nhiên.

Sao đề đơn giản thế nhỉ?

Kì thi huyện là vòng kiểm tra ở mức địa phương trong khoa cử toàn quốc. Trong kì thi này, huyện lệnh là người duy nhất được quyền ra đề thi. Nhiều huyện lệnh thích nhân cơ hội này khoe mẽ mình bác học ra sao, bèn đặt những đề thi rất quái dị, tỷ như đề chắp-nối đã từng được đề cập đến. Chu Tử Thư suy nghĩ giây lát thì cũng hiểu lí do vì sao đề không lắt léo. Huyện lệnh huyện Ngô Cổ Lượng Sinh là một viên quan tuổi vừa hai sáu, mới nhậm chức ở huyện Ngô năm ngoái. Ở Cô Tô anh này chưa có căn cơ mấy, cũng không phải dạng huyện lệnh già cả lạc hậu, tất nhiên không có lí do gì để mà đánh đố thí sinh.

Câu "Quốc gia tương hưng tất hữu trinh tường." xuất xứ từ sách Trung

Dung, chương hai mươi tư. Đầy đủ cả câu là "Quốc gia tương hưng, tất hữu trinh tường; quốc gia tương vong, tất hữu yêu nghiệt." Ý là khi nước nhà sắp đến lúc phồn vinh thì sẽ có điềm may xuất hiện, còn khi nước nhà sắp tới hồi suy bại thì sẽ có yêu ma tác oai tác quái.

Cách ra đề không cắc cớ, ý tứ rất rõ ràng.

Với đề bài đơn giản như thế này, thí sinh khó mà lạc đề, song, để bài thi của mình vượt trội hơn so với chúng bạn thì đúng là một thách thức.

Thầy đã từng nói, ưu điểm lớn nhất của cậu là có tầm nhìn xa trông rộng và tư duy khai phóng khác hẳn người nơi đây.

Suy ngẫm hồi lâu, Chu Tử Thư mở mắt, viết câu đầu tiên lên giấy nháp.

"Thái bình thịnh vượng của con người thường ứng với khi trời yên ả. Trời và người tác động qua lại, liên hệ mật thiết với nhau. Nhưng nếu vì thế mà cho rằng sự hưng suy đều ở trời, để rồi bỏ qua điềm báo từ chính những biến động giữa con người, ta đây không đời nào tin!"

Viết xong, Chu Tử Thư đọc kĩ lại câu mở bài. Cậu phá đề như thế này là rất mạo hiểm, sai một câu là đi đứt cả bài. Song, cậu thực sự rất tâm đắc câu: Ta đây không đời nào tin!

Phá đề xong, ý văn trong lòng đã sẵn, Chu Tử Thư hạ bút như thần, thoắt cái đã viết xong phần nhập thủ, rồi lần lượt tới khởi cổ, trung cổ, hậu cổ, thúc cổ, văn chương tuôn trào lai láng.

Viết xong cậu tỉ mỉ kiểm tra bài cho chắc, thấy không sai chữ nào rồi mới chép vào giấy thi. Lúc viết nháp thì viết ngoáy được, còn đã vào bài thi chính thức thì không được phép có một vết nhơ. Lỗi gạch xóa ở thời hiện đại giỏi lắm là bị trừ điểm trình bày, nhưng ở thời này thì nó có thể khiến một bài văn ưu tú bị đánh trượt ngay lập tức.

Chép nguyên bài văn lại bằng thể chữ Quán Các xong, Chu Tử Thư đã mướt mồ hôi.

Cậu đọc tiếp đề mục số hai. Đề mục hai cũng chẳng khó, cho câu "Quân thú ư Ngô" trong sách Luận Ngữ, chương Thuật Nhi. Nguyên văn là "Ngô văn quân tử bất đảng, quân tử diệc đảng hồ? Quân thú ư Ngô vi đồng tính, vị chi Ngô Mạnh Tử. Quân nhi tri lễ, thục bất tri lễ?"

Đây là đoạn quan tư bại nước Trần phê bình Khổng Tử.

Chuyện kể rằng, quan tư bại nước Trần hỏi Khổng Tử, Lỗ Chiêu Công có phải là người biết lễ tiết không. Khổng Tử đáp "Phải". Khi Khổng Tử đi rồi, ông quan ấy mới nói với Vu Mã Kỳ rằng, tôi nghe nói người quân tử (Khổng Tử) không a dua, cớ sao nay quân tử cũng a dua vậy? Lỗ Chiêu Công cưới người nước Ngô, người đàn bà này cùng họ Cơ với ông, song ông ta bắt người đó đổi tên thành Ngô Mạnh Tử. Lỗ Chiêu Công như thế mà coi là hiểu lễ tiết ư?

Với đề này, Chu Tử Thư không mạo hiểm nữa, tư duy trong khuôn khổ, lấy câu "Vua Lỗ cưới người cùng họ là phạm vào điều cấm kị, hoàn toàn không biết thế nào là lễ" để phá đề, nhanh chóng viết xong một bài chế nghệ đúng quy chuẩn.

Viết xong bài văn bát cổ thứ hai thì vừa hay đến trưa, có thí sinh bắt đầu lấy lương khô ra ăn.

Chu Tử Thư chỉn chu chép lại bài văn trên giấy nháp vào giấy thi. Cậu cố gắng tranh thủ khi còn sung sức, không khí trường thi vẫn còn ổn định để giải càng nhiều đề càng tốt. Bằng không nhỡ có thí sinh xảy ra sự cố, rất dễ làm không kịp bài.

Chép xong đề thứ hai, Chu Tử Thư lấy bánh khô trong hộp sách thi ra ăn.

Cậu mới ăn được nửa cái bánh, một mùi thối hoăng hắc đã xộc lên tận mũi.

Chu Tử Thư: "..."

Tên khốn nào đánh rắm thối inh trời thế này!!!

Mất hết cả khẩu vị, Chu Tử Thư đành mở đề thơ thí thiếp ra xem.

Thời trước, bài thi viết thơ chỉ yêu cầu thí sinh viết một bài thơ ngũ ngôn lục vận dựa trên đề mục. Đến triều đại này, tiên đế tuy giữ lối cũ, nhưng nhấn mạnh vào tư duy văn bát cổ. Nói đơn giản là trong phần thi này, anh có thể chỉ viết thơ, nội dung tự anh chọn. Nhưng nếu anh muốn đạt thứ hạng cao, bài thơ của anh bắt buộc phải lập luận theo cấu trúc tám đoạn.

Cả hai phần thi chế nghệ và thơ thí thiếp đều xếp hạng thí sinh theo thứ tự Giáp, Ất, Bính, Đinh từ cao xuống thấp. Bài thi viết thơ phải viết theo lối bát cổ thì mới mong đạt hạng Giáp, bằng không có là thi tiên tái thế cũng chỉ đến hạng Ất là hết cỡ.

Cổ Lượng Sinh ra đề thơ thí thiếp là "Kì Kí trường minh."

Kì Kí10 chính là tên gọi khác của Thiên lý mã.

[10] Ghép từ tên 2 loại ngựa có thể đi ngàn dặm là Kì và Kí

Chu Tử Thư lập tức liên tưởng ngay đến bài văn cổ 'Mã thuyết'! Áng văn tuyệt trần 'Mã thuyết' do Hàn Dũ sáng tác hoàn toàn không tồn tại ở thời đại này!

"Trên đời có Bá Lạc trước rồi mới có thiên lý mã. Thiên lý mã có nhiều, nhưng người như Bá Lạc thì hiếm.

Có đúng là trong thiên hạ không có Thiên lí mã chăng? Đó chỉ là không nhận biết được Thiên lí mã mà thôi."

Chu Tử Thư đã có sẵn ý tưởng, bèn viết vào nháp: "Kỳ Ký mừng tri kỷ, tiếng hí vang lạ thường..."

Viết xong bài, cậu tính toán lại số câu chữ và thanh bằng trắc, sửa lại đôi chỗ, rồi chép thơ vào bài thi.

Làm xong hết mọi việc, Chu Tử Thư ngẩng lên đã thấy mặt trời ngả về Tây. Lúc này, thời gian tối thiểu để nộp quyển đã qua. Có sáu thí sinh đã đứng dậy nộp quyển từ sớm rồi ra ngồi ở khu vực đợi. Khi đủ mười người thì cổng trường thi sẽ mở, mười người nộp bài sớm này rất được coi trọng, gọi là "Nhóm dẫn đầu". Khi họ ra khỏi sân thi sẽ có pháo nổ và chiêng trống tấu lên để tung hô.

Chu Tử Thư kiểm tra kĩ quyển của mình thêm lượt nữa, chắc chắn không còn lỗi sai nào, mới đem nộp lên cho Cổ Lượng Sinh.

Cổ Lượng Sinh liếc Chu Tử Thư một cái, nhận bài rồi đặt lên án thư. Đoạn, anh ta liếc mắt soi thử quyển bài của Chu Tử Thư. Bài đầu tiên đập vào mắt chính là bài thơ thí thiếp "Phú đắc Kỳ Kí trường minh." Cổ Lượng Sinh liếc đến đâu mắt sáng ngời đến đấy, gật gù liên tục. Sau đó, anh ta liếc sang bài văn bát cổ thứ nhì, "Quân thú ư Ngô", vẫn ra chiều vẫn tán thưởng như trước.

Thế nhưng khi đọc bài thứ nhất "Quốc gia tương hưng tất hữu trinh tường," Cổ Lượng Sinh bỗng giật nảy. Anh ta đơ ra như bị sét đánh, đặt hẳn bài thi trước mặt, nghiêm túc đọc bài văn chế nghệ này.

Tất cả hành động của anh ta đều lọt vào mắt các thí sinh đã nộp bài khiến ai nấy sửng sốt, đoán già đoán non xem Cổ huyện lệnh phản ứng như vậy là vì bài thi đó xuất chúng quá hay là dở kinh người. Trong nhóm bảy người nộp bài sớm, chỉ có mình Chu Tử Thư là chẳng thèm để mắt tới hành động của Cổ Lượng Sinh, bởi...

Cậu sắp ngất vì "ung thư" mũi rồi!

Chu Tử Thư nằm bò lên bàn, quấn ống tay áo bịt mũi bịt miệng, đầu váng mắt hoa, chỉ trực lịm đi.

Thối đến mức này không phải do mùi rắm, mà tại hai thí sinh bên trái và bên phải cậu vừa cùng nhau..."xả thải", còn "xả" thẳng vào hai cái hũ mang theo.

Kể cả hũ có nắp đậy thì ngồi sát sàn sạt với nhau thế này, làm sao mà không hôi rình lên cho được.

Chu Tử Thư ngất ngây trong làn hương "nồng nàn". Gương mặt "trắng trẻo sáng sủa" đen sạm như đít nồi. Cậu ra sức khấn cho ba người nữa nộp bài quách đi rồi tất cả cùng rút khỏi trường thi cho lành!

Phải sau một khắc nữa, chắc là chịu hết nổi hơi thối kinh khủng trong trường thi, có thêm ba người lục tục lên nộp quyển. Huyện thừa xướng tên mười người, chuẩn bị dẫn họ rời khỏi trường thi. Đến lúc ông ta đọc "Chu Tử Thư phủ Cô Tô", Cổ Lượng Sinh đột nhiên hỏi: "Ai là Chu Tử Thư?"

Đang khốn khổ bịt mũi, chợt nghe thấy tên mình, Chu Tử Thư giật thót một cái. Phát hiện ra người gọi là Cổ Lượng Sinh, cậu liền bỏ thõng tay áo, đoan chính vái chào anh ta: "Tâu đại nhân, học trò chính là Chu Tử Thư phủ Cô Tô ạ."

Cổ Lượng Sinh nhìn Chu Tử Thư, thấy cậu chỉ là một chàng thiếu niên thì quá đỗi ngạc nhiên. Anh ta ngẩn người một lát rồi bảo: "Ừ, cho ngươi lui."

Chu Tử Thư không hiểu mô tê gì, nối đuôi các thí sinh khác ra khỏi trường thi.

Vừa ra ngoài, Đường Hoàng và Diêu Tam đã ùa ra đón. Thấy người nhà, Chu Tử Thư không trụ nổi nữa, ngã lăn quay cu đơ, may mà có Diêu Tam đỡ lấy. Cổ áo cậu ám mùi thum thủm, mãi mà không bay hơi. Cả ngày nay Chu Tử Thư chỉ ăn đúng một miếng bánh, không uống lấy một ngụm nước, toàn tâm toàn sức viết hai bài văn bát cổ chế nghệ và một bài thơ thí thiếp bát cổ.

Vẫn nghe người xưa đi thi như đi vào cửa quỷ, giờ Chu Tử Thư rốt cuộc đã thấm thía.

Diêu Tam lay cậu: "Tiểu đông gia, cậu không sao chứ?"

Chu Tử Thư thoi thóp: "Không, không sao đâu... Diêu Tam, để tôi về ngủ một giấc, bao giờ công bố kết quả thi huyện, anh hẵng báo cho tôi là tôi có lọt vào mười hạng đầu không nhé."

Diêu Tam giật mình: "Tiểu đông gia nói gì thế, đây mới là buổi thi thứ nhất của kì thi huyện thôi mà, cậu còn phải thi bốn buổi nữa cơ!"

Chu Tử Thư như xác chết bật dậy, hốt hoảng: "Còn bốn buổi nữa á?!"

"Vâng."

Chân giãy giãy, mắt sập xuống, Chu Tử Thư bất tỉnh nhân sự.

Diêu Tam nói không sai, ở phủ Cô Tô, người không đọc sách cũng biết mỗi khoa thi không phải cứ một ngày là xong, thường phải thi năm ngày liền, rồi bảy ngày sau sẽ yết bảng. Tuy ngày thi đầu tiên là quan trọng nhất vì nó mang tính quyết định với thứ hạng thành tích, nhưng nếu thiếu bốn phần thi sau thì thành tích cũng bị hủy mà thôi.

Về cơ bản chỉ cần ngày đầu thi tốt, bốn ngày sau không phạm điều cấm kị nào thì thứ hạng coi như xác định.

Sau ngày thi thứ nhất của kì thi huyện phủ Cô Tô, Chu Tử Thư được Diêu Tam rước ngay tới tiệm thuốc Bắc gần đó. Đường Hoàng sốt sắng nhờ đại phu xem bệnh cho anh trai. Trong lúc Chu Tử Thư hẵng còn mê man, Cổ Lượng Sinh và huyện thừa đã tập hợp bài thi mang về phủ nha. Trong phủ nha, các đề học và học chính13 của phủ Cô Tô và huyện Ngô đã tề tựu đông đủ để chờ chấm bài thi.

[13] các chức quan coi việc thi cử, học hành ở địa phương.

Ba đợt thi đồng sinh đều là kì thi nhỏ, không cần rọc phách. Cổ Lượng Sinh vừa vào phòng thi liền cẩn thận đặt một bài thi lên án thư, hỏi: "Các vị đồng liêu, quyển này đáng xếp hạng thủ khoa kì thi năm nay, chư vị có phản đối không?"

Anh vừa nói dứt lời, mọi người đều ồ lên, các học chính ai nấy đều đứng cả lên muốn nhòm thử một cái.

"Thái bình thịnh vượng của con người thường ứng với khi trời yên ả. Trời và người tác động qua lại, liên hệ mật thiết với nhau. Nhưng nếu vì thế mà cho rằng sự hưng suy đều ở trời, để rồi bỏ qua điềm báo từ chính những biến động giữa con người, ta đây không đời nào tin!

Xưa, sách Trung Dung bàn đến khả năng tiên đoán khi đạt cảnh giới tối cao của sự thành tâm, đã viết quốc gia đến hồi hưng thịnh, tất sẽ nảy sinh điềm lành..."

Các học chính đọc xong bài chế nghệ đầu tiên, ngây người, mãi không ai nói được câu nào.

"Ta đây không đời nào tin?"

"Khá khen cho câu 'ta đây không đời nào tin'! Cách tiếp cận mới mẻ độc đáo, văn phong mạnh mẽ sắc sảo, có khí thế như mài gươm ra trận!"

Một học chính khác nói: "'Ta đây không đời nào tin' à, thí sinh này...tên Chu Tử Thư đúng không, cái cậu Chu Tử Thư này rõ là đao to búa lớn, ngạo mạn quá thể!" Ông ta lại đọc tiếp: "Bài 'Quân thú ư Ngô' thực ra viết khá quy củ, không có lỗi gì, ít nhất phải xếp hạng Ất. Bài 'Phú đắc Kì Kí trường minh'14 cuối cùng này, tuy có ý bát cổ chế nghệ, nhưng ý thì tốt mà hình thức thì chưa tới. Mọi người đọc hai câu này..."

[14] Tức "Bài phú dựa trên đề Kì Kí trường minh". "Phú đắc" là lối ra đề lấy một câu trong kinh sử, thi ca cổ nhân làm đề. Các giám khảo cùng nhìn vào chỗ ngón tay ông ta chỉ.

Một học chính nói: "Hai câu này sai bằng trắc rồi."

Cổ Lượng Sinh nói: "Thế hả, ta không để ý đấy."

Cổ Lượng Sinh không ngờ một kì tài như Chu Tử Thư lại mắc sai lầm vớ vẩn thế. Anh ta nào biết, chuyện này không trách Chu Tử Thư được, bởi ở thời hiện đại hai câu này vốn không hề sai về bằng trắc. Tiếc rằng, chữ nghĩa thời cổ và thời hiện đại có cơ man điểm khác biệt, Chu Tử Thư dẫu tỉ mỉ đến mấy, đến lúc thối váng đầu thì kiểu gì cũng nhầm lẫn thôi.

Một học chính khác bênh vực: "Thực ra cũng không sai lắm. Chữ này có nhiều cách phát âm, trong sách Sơn Hải Kinh cũng có âm 'hương' này."

"Sơn Hải Kinh là sách về quỷ núi yêu rừng nên mới dùng âm 'hương' ấy.

Tôi xem văn chương thí sinh này thấy bài đầu tiên khí thế gay gắt, câu từ quá bén nhọn, bài thứ hai thì không có gì để chê, tuyệt tác! Thơ thí thiếp có ý bát cổ đấy, nhưng thiếu cái thần của bát cổ, cộng thêm một lỗi nho nhỏ. Nếu chọn bài cậu này làm thủ khoa thì chẳng thà các vị xem thử bài thi này."

Mọi người lại ngó sang.

Học chính kia giới thiệu: "Thí sinh này làm hai phần chế nghệ rất bài bản, lập luận đúng đắn. Phần thơ thí thiếp thứ ba thì tuyệt diệu! 'Ngựa hay thì có đấy, người hiểu ngựa hiếm thay... Ai tường nòi giăng sáng, chớ hỏi chặng mây bay. Nay vĩnh biệt xe muối, ruổi ngàn dặm theo người'. Hình ảnh đẹp, ý tứ hay, quả là áng thơ xuất sắc!"

Cổ Lượng Sinh đọc bài của thí sinh kia, gật gù: "Không sai, bài thơ thí thiếp này xứng đáng xếp đầu buổi thi hôm nay."

Trong một buổi tối, các giám khảo đã đọc hết các bài thi trong ngày.

Cổ Lượng Sinh day mắt, nói: "Chư vị đồng liêu, buổi thi hôm nay, hạng nhất của mỗi phần thi thuộc về ai, hẳn là mọi người đều có kết luận của riêng mình. Theo ý bản quan, hạng Giáp của bài chế nghệ số hai – 'Quân thú ư Ngô' thuộc về Chu Tử Thư, phủ Cô Tô. Bài thơ thí thiếp 'Phú đắc Kỳ Ký trường minh', hạng Giáp thuộc về Dương Tri Phàm, huyện Ngô. Về bài chế nghệ số một 'Quốc gia tương hưng, tất hữu trinh tường', hạng Giáp nên thuộc về Chu Tử Thư phủ Cô Tô!"

Học chính nói: "Thí sinh Chu Tử Thư viết văn tùy tiện quá, xếp hạng như vậy có thỏa đáng không?"

Cổ Lượng Sinh trầm ngâm chốc lát: "Vậy ý ông thế nào?" Trời tờ mờ sáng, trong phủ nha đèn đuốc vẫn sáng trưng.

Việc này dĩ nhiên chẳng liên quan gì đến Chu Tử Thư cả. Lúc ấy, cậu hẵng còn mơ mơ màng màng cắp hộp sách, được Diêu Tam và Đường Hoàng kéo đến tận cổng trường.

Chàng thiếu niên tuấn tú nhìn cổng trường thi chưa mở, lại ngó nghiêng đoàn thí sinh đông đảo xung quanh.

Chu Tử Thư bỗng dưng muốn khóc thét.

Đường Hoàng lo lắng: "Kì lạ thật, anh ơi, đại phu bảo anh không bệnh tật gì, chỉ bị đói thôi, ăn vào là khỏe. Sao hôm nay anh trông vẫn yếu vậy?" Chu Tử Thư thều thào: "Em thì biết cái gì. Bóng ma tâm lý còn đau đớn gấp trăm lần vết thương thể xác!"

Chu Tử Thư sẽ mãi mãi bị ám ảnh bởi giây phút đang nuốt miếng bánh nướng khô cong thì thí sinh bàn bên đột nhiên tụt quần, ngồi thụp xuống "thả bom" ngay tại chỗ.

Cả! Đời! Không! Quên!

Diêu Tam cũng nghe kể là thi cử vất vả ra sao, bèn an ủi: "Tiểu đông gia, ráng chịu đựng, chỉ còn bốn buổi nữa là xong rồi!"

Chu Tử Thư: "..."

Anh đúng là chỉ giỏi chọc vào chỗ đau của người ta, bốn buổi! Còn những bốn buổi!

Chu Tử Thư tự dối lòng, động viên bản thân: "Đúng rồi, còn bốn buổi. Chỉ cần lọt vào mười hạng đầu, tôi sẽ chiến thắng!"

Ánh mắt Chu Tử Thư đầy ắp khát khao, tràn trề hi vọng.

Bốn ngày sau, cậu loạng choạng bước ra khỏi trường thi, lần thứ hai quay đơ ra đấy, Diêu Tam lại phải đỡ. Trước khi ngất, Chu Tử Thư còn cố rặn ra một câu: "Đời này, Chu Tử Thư đây nhất định phải phát minh ra bồn cậu tự hoại! Kiếp này, nhất định!!!"

Năm ngay thi huyện kết thúc, Chu Tử Thư nằm thẳng cẳng tròn một ngày một đêm mới hoàn hồn. Cậu về cơ bản vẫn may mắn chán, người ngợm khỏe mạnh, Diêu Tam và Diêu đại nương chuẩn bị cho cũng không thiếu thứ gì. Trong trường thi có thí sinh nhà nghèo, sức yếu, thi được một buổi đã ngã bệnh liệt giường, thế là lỡ cả kì thi huyện.

Chu Tử Thư lại sức rồi thì đến bái phỏng Lương Tụng, thuật lại cho thầy rằng mình thi cử ra làm sao. Song, cậu không kể mình đáp đề thế nào, vì Lương Tụng nói: "Bài thi của thủ khoa và các bài đạt hạng Giáp ở ba phần thi sẽ được công khai cho toàn thể dân chúng."

Chu Tử Thư: "..."

Được, con nhất định sẽ đạt hạng Giáp, thầy cứ đợi nhé.

Sau đó, Chu Tử Thư dành ra hai ngày để tống khứ trải nghiệm thi cử kinh hoàng ra khỏi đầu. Đến sáng sớm ngày thứ ba thì có mấy vị khách không mời ghé chơi.

Đường phu nhân vừa mới vào trong sân, đã mắng con trai: "Đường Vân, hôm nay con còn dám nói Tuấn nhi có lỗi với nhà mình không? Con đã biết hối cải chưa? Con giải thích ngay cho đệ ấy đầu đuôi mọi chuyện, rằng tại sao con đổ oan cho đệ ấy và làm loạn nhà người ta lên!"

||

Manh: Mọi người đọc kĩ cuộc nói chuyện giữa Lương Tụng và Chu Tử Thư nhé. Sau này sẽ thấy ý nghĩa.

Các chú thích có tham khảo tác phẩm Lối xưa, xe ngựaKhoa cử Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Chân Quỳnh. Đây là một tác phẩm rất hay, bổ ích về khoa cử Việt Nam thời xưa. Nay chia sẻ để các bạn cùng biết đến.

Chú thích

Hộp sách quai dài: Chia làm nhiều ngăn để đựng bút, nghiên, thực phẩm, và nhiều thứ lặt vặt khác để thí sinh ở trong trường thi cả ngày (thậm chí là nhiều ngày.

Nguồn ảnh: Kknews.cc

Một số chức quan nhắc đến trong chương:

Quan tư bại: phụ trách hình án, dạng như bộ trưởng bộ tư pháp.

Huyện lệnh: đứng đầu một huyện.

Huyện thừa: dưới huyện lệnh

Quan chủ bạ: phụ trách sổ sách

Sai nha: lính lệ phục vụ chính quyền phủ, huyện.

Trích Sử kí Tư Mã Thiên phần Khổng Tử thế gia. Câu này bắt nguồn từ Kinh Thi, nói về chí hướng lớn. Dịch giả: Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê

Câu phá đề của Chu Tử Thư được lấy từ bài thi của Dương Vạn Lý (một vị quan thời Nam Tống) cho đề bài tương tự. Không tìm được bản dịch tiếng Việt.

Nguyên văn: 人有开泰之期,则天有休征之应。天人感应,机甚不爽。谓天休滋至,而非人事之兆,吾不信也

Hán Việt: Nhân hữu khai thái chi kỳ, tắc thiên hữu hưu chinh chi ứng. Thiên nhân cảm ứng, ky thậm bất sảng, vị thiên hưu tư chí, nhi phi nhân sự chi triệu, ngô bất tín dã

Trích đoạn trong Luận ngữ tham khảo bản dịch của Lý Minh Tuấn (Tứ Thư bình giải. NXB Tôn Giáo) và bản dịch tiếng Anh tại

Tham khảo bản dịch của dịch giả Huỳnh Chương Hưng tại:

Đại ý đề thơ thử thiếp là người có đôi mắt tinh tường, biết nhìn ngựa sẽ giúp con ngựa bộc lộ hết phẩm chất của nó. Liên hệ với việc dùng người, người lãnh đạo phải biết dùng người thì mới phát huy được hết tiềm năng của nhân tài và khiến họ ra sức hỗ trợ mình nên Chu Tử Thư mới liên tưởng đến bài văn Mã Thuyết.

Đây là câu mở đầu bài "Phú đắc Kỳ Ký trường minh" của Trần Khứ Tật thời Đường.

Đây là bài "Phú đắc Kỳ Ký trường minh" của Chương Hiếu Tiêu đời Đường. "Tuấng sáng" thì bắt nguồn từ một văn bản cổ tả ngựa hay. (Câu văn: 天骥之骏, 逸态超越. 禀气灵渊, 受精皎月). Mình đoán "mây bay" cũng thế, cơ mà không hiểu nên thôi bỏ qua nhé :P

------oOo------

Chương 21

Nguồn: EbookTruyen.Net

có pass nên để link đây nhỡ bạn nào không thấy báo post mới trên reader nhé.

Án thủ

Bữa nay Đường Vân vẫn diện bộ áo gấm quý phái, nhưng mặt nó ỉu xìu như bánh đa ngâm nước, cứ ngập ngừng muốn nói rồi lại thôi. Đến nước này thì nó chỉ biết im đi cho lành, chứ nói năng còn ích gì đâu?

Thấy nó như vậy, Đường phu nhân than: "Không nên thân!" Bà sai quản gia nhà họ Đường dẫn một thằng con trai khác vào. Thằng này là một thiếu niên chừng mười bốn mười lăm tuổi, cũng diện áo gấm. Lạ nỗi, điệu bộ nó cứ rụt rà rụt rè, ánh mắt lấm la lấm lét, thỉnh thoảng lại liếc trộm Đường phu nhân. Bị phu nhân lườm cho một cái, nó run bắn người, suýt thì ngã ngồi ra đất.

Đường phu nhân nói: "Tuấn nhi, đây là con thứ của đại bá cháu, cũng là anh họ hai của cháu."

Ồ, giờ Chu Tử Thư đã hiểu tại sao ba tháng trước Đường Vân bỗng dưng nổi sùng đến đây đập phá.

Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh, nhà nào chẳng có chuyện khó nói. Khắp phủ Cô Tô ai cũng biết Đường phu nhân là người phụ nữ hiền huệ, tri thư đạt lễ, hồi trẻ còn là người đẹp nức tiếng vùng Giang Nam, hiềm nỗi gia đạo sa sút, tuy xuất thân thư hương thế gia nhưng sinh ra trong cảnh túng bần. May sao Đường phu nhân rất có phúc, sau khi gả vào nhà họ Đường, bà sinh cho dòng họ một trai một gái, mà chồng bà cũng không kém cỏi, đã thi đỗ cử nhân.

Đường phu nhân biết cách trị gia, quán xuyến từ việc nội trợ đến bán buôn đâu ra đó. Nhưng phu nhân chẳng có ba đầu sáu tay, lần này gặp họa từ trong nhà. Đường Vân bị em thứ khích tướng, hiểu lầm Chu Tử Thư, nên để xảy ra chuyện náo loạn ba tháng trước.

Chu Tử Thư biết Đường cử nhân có một đứa con do vợ lẽ sinh, bằng tuổi với mình. Thằng nhóc này trông mặt mũi thật thà, còn béo tốt hơn mình, nhưng chẳng ai ngờ nó lại ngấm ngầm mưu chuyện xấu.

Trước khi đến đây thằng bé đã bị Đường phu nhân nghiêm khắc răn dạy, thành thử nó rúm ra rúm ró, không dám ho he tiếng nào.

Sau khi Đường phu nhân giải thích một thôi một hồi, Đường Vân mới nghiến răng, hạ quyết tâm xin lỗi Chu Tử Thư: "Lúc trước là do anh ngờ nghệch, nghe lời xúc xiểm của người ta mà hiểu lầm cậu. Đường... Đường đệ, chúng ta là huynh đệ chung dòng máu, mong đệ hãy tha thứ cho huynh."

Chu Tử Thư cười: "Ba tháng trước tôi đã tha thứ cho anh rồi. Những cái anh phá hỏng, đại bá mẫu đã bồi thường từ lâu."

Chu Tử Thư rộng lượng không tính toán, nhưng điều đó chẳng khiến Đường Vân nhẹ nhõm gì cho cam.

Nó làm sao mà ngờ được, ý tưởng tào lao của Chu Tử Thư lãi mẹ đẻ lãi con, kiếm về hàng đống tiền cho Trân Bảo Các. Gần đây, Chu Tử Thư còn bày ra trò hậu cần gì đó rất lạ lùng. Vụ kinh doanh này lúc đầu ai cũng thấy vớ vẩn, ngay cả Đường phu nhân cũng coi nhẹ, nghĩ Chu Tử Thư rảnh rỗi thì thử nghiệm linh tinh, lỗ lãi không quan trọng. Ai ngờ dịch vụ hậu cần lại thành công ngoài mong đợi!

Đường cử nhân cũng choáng váng, lúc cả nhà quây quần ăn cơm ông bảo: "Thằng em thứ của tôi là loại đầu cứng như gỗ cây du, không biết co duỗi, sao lại đẻ ra thằng con như vậy nhỉ, khác nhau một trời một vực."

Ý tưởng bán xà phòng của Chu Tử Thư thu lại bao nhiêu lợi nhuận cho Đường gia, Đường Vân rõ rành rành. Chu Tử Thư làm hậu cần tuy không có lãi, nhưng tiếng tăm của cậu vang dội khắp Cô Tô. Thành ra Đường phu nhân cũng ngờ rằng dịch vụ hậu cần này vẫn chưa bung hết thực lực, không thể dự đoán sau này còn phát triển đến mức nào.

Điều đáng nể hơn không thể không nói đến: thầy của Chu Tử Thư quả thật là Lương Bác Văn!

Đây là lần đầu tiên Đường Vân phải nhìn thằng em này bằng ánh mắt kiêng nể. Trông mặt mũi Chu Tử Thư rõ xinh xẻo, sáng sủa, chẳng giống một nhân vật đáng gờm chút nào cả.

Chu Tử Thư thực sự lợi hại thế sao?

Đường phu nhân nói: "Tuấn nhi, anh cả cháu được bá mẫu dung túng quá nên hư hỏng, sau này bác sẽ quản lí nó nghiêm khắc, không để nó tái phạm lỗi lầm ngu ngốc thế này nữa."

Chu Tử Thư: "Đại bá mẫu quá lời rồi."

Đằng nào cũng chẳng chung nhà với nhau, cậu quản Đường Vân làm gì?

Đường phu nhân rất để tâm đến kì thi huyện mới kết thúc hai ngày trước của Chu Tử Thư, sai nha hoàn mang thuốc bổ ra tặng: "Đi thi hao tổn sức khỏe lắm con ạ, anh cả con năm ngoái thi huyện rồi thi phủ xong, về nhà ốm bê bết một trận đấy."

Diêu đại nương bèn nhận thuốc bổ cho Chu Tử Thư.

Đường Hoàng chợt lên tiếng: "Nếu là do người khác xúi bẩy," thằng con thứ nghe mà run như cầy sấy, cô nhóc nói tiếp: "Đại bá mẫu, giao kèo giữa Đường Vân... khụ, anh họ cả và anh trai cháu còn tính không ạ?" Đường phu nhân hết sức bất ngờ, giờ bà mới nhớ ra vụ này.

Đường Vân cũng ngơ ngác, nhưng nó còn hăng tiết vịt lắm: "Đương nhiên là vẫn tính chứ, Đường Vân này đâu phải hạng tiểu nhân nói lời không giữ lấy lời! Nhưng ai bảo nhất định tao sẽ thua? Thi huyện chưa công bố kết quả, nhóc làm sao mà biết Chu Tử Thư có đỗ hay không? Muốn tao gọi nó là anh á, đỗ đồng sinh đi rồi hẵng nói!"

Đường phu nhân thở dài ngao ngán, xách cổ thằng con óc bã đậu về nhà.

Nhà kia đi rồi, Chu Tử Thư bắt đầu lườm em gái. Chỉ thấy Đường Hoàng cười hì hì túm tay anh, nói: "Anh thấy em có thông minh không? Anh trông Đường Vân ấy, chẳng qua là bị đại bá mẫu ép đến xin lỗi, chứ ảnh có phục tí nào đâu! Ôi, em muốn ba hôm nữa quá được thấy cái mặt ảnh lúc gọi anh là 'ca ca' quá đi!"

Chu Tử Thư: "Vì thế nên em cố tình khích tướng nó hả?"

Đường Hoàng buông tay ra: "Đâu."

"Nhóc quỷ, ranh ma gớm!"

Đường Hoàng chạy vụt đi: "Còn lâu nhé, Chu Tử Thư điêu toa!" Chu Tử Thư cười ngất.

Mồm miệng đáo để là thế, nhưng ở nhà họ Đường, người hay lo lắng đến mất ăn mất ngủ chính là Đường Hoàng.

Với ba trường thi đồng sinh thì cứ bảy ngày sau khi thi sẽ yết bảng. Ngày nào cũng thế, từ sáng tinh mơ Đường Hoàng đã dậy, đi cùng Diêu đại nương ra miếu thổ địa lễ bái. Cô bé quỳ trên đệm cói, liên tục khấn "xin cho anh con thi đỗ". Cứ thế, đến trước hôm yết bảng, ngay cả Chu Tử Thư cũng hồi hộp lây.

Kế toán Lâm hỏi: "Tiểu đông gia lo lắng hả? Nhớ khi xưa, cứ mỗi lần chuẩn bị yết bảng, tôi nóng ruột đến nỗi trằn trọc cả đêm, không sao chợp mắt. Nhưng tiểu đông gia không giống tôi, cậu thông tuệ lắm, nhất định đỗ kì thi huyện này thôi."

Chu Tử Thư: "Bác không hiểu đâu ạ." Kế toán Lâm: "Không hiểu gì cơ?

Chu Tử Thư thở dài đánh thượt.

Cậu không lo thi hỏng, cái cậu sợ là trượt khỏi mười hạng đầu cơ!

Ngày yết bảng đã tới! Từ tinh mơ, Đường Hoàng lôi xềnh xệch Chu Tử Thư đến cổng trường phủ. Trời còn nhá nhem nhưng đã có hàng đống người túm tụm trước cổng học viện Tử Dương. Có những đứa nhóc chỉ trạc tuổi Chu Tử Thư, cũng có những cụ già hơn bảy mươi tuổi, tóc bạc lưng còng. Các sĩ tử ở đây ai cũng nghển cổ, hồi hộp hướng về cánh cổng học viện đợi chờ.

Giờ Mẹo đã tới, cổng chính trường phủ từ từ mở ra. Hai sai nha và một học chính bước ra từ trong trường. Hai sai nha nâng bảng vàng trên tay, rẽ đám đông, cùng nhau dán bảng vàng lên tường. Cuộn giấy đỏ khổng lồ được trải ra trước mắt đám đông trong tiếng hít thở căng thẳng... rồi những tiếng khóc, tiếng thét chợt vỡ òa. Người hân hoan mừng rỡ, kẻ nghẹn ngào đắng cay.

Đường Hoàng túm chặt lấy tay Diêu Tam, lo đến nín thở.

Chu Tử Thư cũng chả khá hơn là bao, cậu rướn cổ, nhìn một lượt từ cái tên cuối cùng đến cái tên thứ mười một.

"Không có tên tôi!"

Thế là vơi nửa bầu lo lắng, vẫn còn nửa nữa. Cậu lại đọc tiếp lên trên, lúc thấy tên mình thì ngay đơ tắp lự.

Đường Hoàng thảng thốt gọi: "Anh ơi?!"

Diêu Tam: "Tiểu đông gia?"

Chu Tử Thư lâng lâng như trên mây, nhìn cái tên đứng hàng thứ nhất trên bảng vàng, hỏi: "Tôi là Chu Tử Thư phủ Cô Tô hả?"

Cùng lúc đó, có một thằng hầu ba chân bốn cẳng chạy về khu tây thành Cô Tô, cuống quýt đập cửa. Đường Vân đang thiu thiu ngủ, nghe tiếng đập cửa phành phành thì giật mình tỉnh giấc, đùng đùng quát lên: "Đi vào!" Thằng hầu sợ vãi ra quần, vội đẩy cửa vào. Ban nãy nó chạy như ma đuổi, hẵng còn thở phì phò, nói không ra hơi:

"Đại thiếu, thiếu gia..."

Đường Vân sốt hết cả ruột: "Nhanh cái mồm lên, dám quấy rầy giấc mơ đẹp của tao, hôm nay phạt mày nhịn ăn."

Thằng hầu kêu trời trong bụng, cuối cùng vẫn đành phải nói rõ: "Đại thiếu gia, Chu Tử Thư đỗ rồi!"

Đường Vân choáng váng. Lát sau, nó mới lẩm bẩm: "Thằng đó tự tin như vậy, đỗ cũng phải. Thi huyện không khó lắm, mẹ đã bảo rồi, mình đỗ được thì nó cũng đỗ được. Nó đỗ, mình phải gọi nó là anh. Nó không đỗ, mình cũng chẳng được lợi lộc gì. Mà thôi, tóm lại cái tội ở mình, bị thằng khác dắt mũi. Mẹ nói đúng lắm, dại một lần rồi mới biết khôn, Đường Vân này nhận thua cũng không sao, gọi nó một tiếng 'anh' là được!"

Thằng hầu lại sổ ra: "Đại thiếu gia, cậu ta chẳng những đỗ, còn đỗ đầu nữa cơ!"

Đường Vân ngẩng phắt lên, ngỡ là mình nghe nhầm: "Mày nói sao?"

"Án thủ kì thi huyện năm nay là Chu Tử Thư phủ Cô Tô!"

Đường Vân: "..."

Bá ngọ mày thằng Chu Tử Thư!

Đỗ thi huyện, Đường Vân còn tự an ủi được rằng thôi thì mình sai trước. Nhưng chớ trêu Chu Tử Thư lại đỗ án thủ thì bảo Đường Vân ăn ngon ngủ yên thế nào được. Nó vật vã đau khổ suốt một ngày đêm mới dám vác mặt đến nhà Chu Tử Thư.

Đường Vân ngắc ngứ nói: "Đường Vân tao nói lời giữ lời, Chu Tử Thư, tao gọi mày một tiếng "anh", lúc trước tao sai rồi."

Chu Tử Thư: "Ờ, gọi thử đi tôi nghe!"

Đường Vân: "..."

"Anh!"

Chu Tử Thư cười đểu: "Đường đại thiếu gia đi thong thả."

Đường Vân nhục không để đâu cho hết, khóc tức tưởi bỏ về nhà.

Mặt trời ngả về Tây, tiếp đón các bạn cùng trường ghé nhà chúc mừng xong, Chu Tử Thư đi sang Lương phủ. Cậu vừa tới cửa, quản gia đã chào mừng: "Chúc mừng Đường án thủ."

Đến thư phòng, Lương Tụng liếc cậu một cái: "Đường án thủ đến đó hả?"

Chu Tử Thư vốn mở cờ trong bụng, của đáng tội, ai đạt hạng nhất mà chẳng đắc ý trong lòng, song trông nét mặt Lương Tụng, nghe giọng điệu của ông, Chu Tử Thư chợt cảm thấy có điều không ổn. Cậu ngoan ngoãn đi đến bên thầy, thưa: "Tiên sinh, tiểu tử vừa đến chưa kịp thông báo, chỉ muốn báo tin vui cho thầy là con đã đỗ kì thi huyện, cũng coi như có chút công danh ạ."

Lương Tụng đặt một tờ bài lên án thư, nói: "Ta đây không đời nào tin?"

Chu Tử Thư sửng sốt, lanh lẹ đáp: "Tiên sinh đã thấy bài chế nghệ con viết rồi ạ?"

"Nào chỉ có thấy, con ra đây mà xem."

Chu Tử Thư bấy giờ mới phát hiện, tờ giấy trên bàn Lương Tụng là bản sao của hai bài chế nghệ và bài thơ thí thiếp cậu đã viết.

"Tiên sinh, con được hạng Giáp hai bài, hạng Ất một bài. Cả hai bài chế nghệ đều được hạng Giáp."

"Bài 'Quân thú ư Ngô' viết đâu ra đấy, lần này trong các thí sinh phủ Cô Tô và huyện Ngô, không ai viết quá mức xuất sắc. Bài của con rất hay, đạt hạng Giáp thỏa đáng lắm." Lương Tụng nói: "Nhưng bài 'Quốc gia tương hưng tất hữu trinh tường' thì... Hừm, Chu Tử Thư, con có biết con phạm lỗi gì không?"

Chu Tử Thư bối rối vô cùng. Cậu vội vàng đến báo tin mừng cho tiên sinh, sao tiên sinh lại mắng cậu? Cậu đã đỗ đầu cơ mà!

"Học trò không biết ạ."

"Quốc gia tương hưng tất hữu trinh tường, những lời này xuất phát từ sách Trung Dung. Sách Trung Dung do Khổng Tử viết, vậy mà con dám tuyên bố, 'ta đây không đời nào tin'?"

Chu Tử Thư bỗng minh bạch, thì ra Lương Tụng đang trách cậu cuồng ngôn, dám nói "ta đây không đời nào tin".

Chu Tử Thư phân bua: "Tiên sinh, đâu phải tiểu tử không tin thật, tiên sinh đọc tiếp phần sau mà xem, tiểu tử đã lập luận lí giải quan hệ giữa điềm lành và sự hưng vong của nước nhà, cũng chứng minh khi nào thì nên tin, khi nào thì không tin mà."

Lương Tụng: "Phải, con đã viết thế, nhưng thế thì sao? Lần này thi huyện, quan chủ khảo là huyện lệnh huyện Ngô – Cổ Lượng Sinh. Cậu ta là thư sinh trẻ tuổi, chẳng những xếp con đứng hạng Giáp, còn ra sức đề cử bài văn này của con với các học chính suốt mấy ngày liền, nói rằng đây là áng văn kiệt xuất. Nhưng con ơi, sở dĩ có chuyện đó cũng vì cậu ta trẻ tuổi, đầu óc linh hoạt, không câu nệ khuôn mẫu. Nếu đổi sang một huyện lệnh cổ hủ làm chủ khảo, chỉ cần một câu 'ta đây không đời nào tin' này thôi là đủ để người ta không cần xem phần dưới con viết thế nào rồi. Người ta sẽ khép con vào tội bất kính với Thánh nhân và trừng phạt con. Chẳng những riêng một kì thi huyện, con có thể bị cấm thi cử vĩnh viễn!" Lời thầy nói như sét đánh ngang tai, Chu Tử Thư chết trân.

Thư phòng lặng ngắt.

Hồi lâu, Chu Tử Thư cúi đầu, hối hận: "Học trò biết lỗi rồi ạ." Giọng cậu trĩu nặng, nhưng ở đáy lòng vẫn có chút không phục.

"Hẳn là con nghĩ, đây là cắt câu lấy nghĩa đúng không? Rõ ràng ý của con không phải như vậy, bài văn của con cũng có nội dung như vậy." Chu Tử Thư không nói gì hết.

Lương Tụng nhìn cậu, lắc đầu bất đắc dĩ. Ông bước tới, đặt tay lên vai kéo cậu trò nhỏ độc nhất của mình lại gần. Chu Tử Thư ngẩng đầu, bắt gặp ánh mắt phẳng lặng như nước của Lương Tụng nhìn cậu. Người có tuổi, đôi mắt sẽ trở nên đục hơn. Chu Tử Thư biết, đó là trầm tích của tháng năm, ánh mắt của bậc lão giả sẽ không còn trong trẻo như ánh mắt chàng thiếu niên, mọi người đều như vậy.

Vậy mà lúc này đây, khi nhìn vào đôi mắt đục đi sau bao thăng trầm của Lương Tụng, Chu Tử Thư lại có cảm giác đó không chỉ là biến đổi về mặt sinh lý. Trong đôi mắt thầy có gió sương gian khổ, trĩu nặng một bầu tâm sự không tên. Cậu không hiểu được hết lòng thầy, nhưng cậu nhận ra mỗi câu nói của ông cụ đều vì tốt cho cậu.

Lương Tụng dồn ánh nhìn vào người học trò cuối cùng, người học trò duy nhất trên đoạn đường đời sau rốt của ông: "Nhân tâm, khó lường. Khi con đắc thế, dù có xách đao ra giữa chợ, hống hách ngang tàng, cũng không ai dám làm gì con. Nhưng khi con thất thế, từng lời nói cử chỉ đều thành cái cớ cho người ta hạch tội. Con phải nhớ, đừng dễ dàng tin bất cứ kẻ nào. Từ quân tử thành tiểu nhân, chỉ trong một ý niệm mà thôi. Nhưng trước lúc đó, Chu Tử Thư à, nếu con muốn khẳng định bản thân trong sạch, con không được để kẻ khác bắt được điểm yếu."

"Vi sư biết, dẫu hôm nay Cổ Lượng Sinh không phải chủ khảo, con cũng có khả năng đỗ thủ khoa. Bài văn này của con tuyệt diệu lắm, nó là bài văn hay nhất con từng viết suốt mấy tháng nay. Nhưng sau này nếu có kẻ muốn dèm pha con, câu 'ta đây không đời nào tin' này sẽ là đòn chí tử. Người ta đã muốn hại con, thì có sá gì việc cắt câu lấy nghĩa, dối trên gạt dưới đâu con? Quan trường là thế đấy."

"Vi sư biết, con không hề thích thi cử."

Chu Tử Thư giật mình, thanh minh: "Tiên sinh, con chưa từng nghĩ thế ạ." Lương Tụng: "Thư phòng này chỉ có hai thầy trò mình, có gì mà không dám nói? Chẳng cứ riêng con, thiên hạ này đầy người ghét thi cử nhưng vẫn đọc sách, con đã là gì?" Chu Tử Thư ngừng lời.

Khoa cử, khảo thí, thảm họa bát cổ, về sau bị hậu thế phê bình là cặn bã của nền phong kiến, không đáng tiếp thu. Chu Tử Thư quả thật không thích, mà chẳng cứ cậu, thời hiện đại có mấy ai thích thi cử đâu? Thế nhưng cậu là người chuyển kiếp tới đây, cậu chỉ có thể đi thi mà thôi.

Lương Tụng nói: "Thế nhưng, khoa cử, là lối tắt duy nhất cho sĩ tử trong thiên hạ. Vi sư không mong con đỗ Trạng làm gì. Học trò đỗ Trạng Nguyên ta từng có một đứa rồi, đúng ngày mười chín Tết nó hi sinh trên tường thành Trác Châu, chết dưới trận mưa tên của người Liêu. Tuấn nhi, thiên tư con thông tuệ, nhưng lòng con không mang chí thâu tóm thiên hạ. Đây không phải là chuyện xấu. Nhưng khoa khảo cũng là quan trường. Chỉ cần con còn đi thi, còn dính dáng tới quan trường, vi sư xin con hãy giữ lấy đạo Trung Dung. Cho dù không giật hạng đầu, nhưng giữ được tánh mạng, sống sót đến cùng mới là điều quan trọng nhất."

Chu Tử Thư thấm thía lời thầy dạy. Dù sao cậu vốn chẳng phải người cổ đại, chuyển kiếp tới đây chưa đầy một năm. Hôm đó, khi đặt bút viết bài chế nghệ bát cổ "ta đây không đời nào tin", cậu chỉ nghĩ rằng giám khảo sẽ thấy mình viết sai, không chấp nhận quan điểm của mình, tương tự như bài văn lạc đề ở thời hiện đại thôi. Cậu không nghĩ rằng có người có thể lợi dụng điều đó để ngáng chân, bôi nhọ mình.

Quan trường như chiến trường, thậm chí còn khát máu, vô nhân tính hơn cả chiến trường.

Chu Tử Thư: "Học trò đã hiểu. Từ giờ trước khi đặt bút hay cất lời, nhất định sẽ nghĩ kĩ rồi mới làm ạ."

Lương Tụng: "Bài văn này của con ta sẽ ém lại, thi phủ hai tháng nữa, con có chắc chắn không?"

Chu Tử Thư: "... Có... ạ?"

"Gì cơ?"

"Có ạ!"

Lương Tụng nở nụ cười.

Hai thầy trò chụm đầu trong thư phòng phân tích bài thi của Chu Tử Thư. Lương Tụng chỉ ra những chỗ có thể cải thiện. Trời tối, Chu Tử Thư ăn cơm ở Lương phủ luôn. Lúc ra về, chưa đến cổng chính cậu đã đụng phải một người.

Hai người thấy nhau đều ngạc nhiên.

Chu Tử Thư chắp tay thi lễ: "Từ biểu ca, lâu rồi mới gặp." Người đó chính là Từ Tuệ, Từ Ngu Chi.

Chu Tử Thư gặp Từ Tuệ lần đầu ở quán trà đầu thôn Triệu gia, lần thứ hai là ở nhà Tằng phu tử. Mấy hôm đó đều không có ấn tượng tốt. Thấm thoắt từ ngày ấy đã hơn nửa năm, Từ Tuệ lặng lẽ nhìn Chu Tử Thư, cũng chắp tay thi lễ: "Mãi mới có dịp gặp lại, chúc mừng tân án thủ."

"Từ biểu ca khách sáo quá."

"Em là học trò của đại nhân, cứ gọi anh là Ngu Chi thôi."

"Vâng, anh Ngu Chi."

Vì gặp gỡ thường xuyên nên quan hệ giữa hai người đã dịu đi nhiều. Chu Tử Thư hỏi: "Lúc anh Ngu Chi đi gấp quá, mãi hôm nay em mới thấy anh. Dạo này anh bận lắm ạ?"

Từ Tuệ gật đầu: "Anh mới từ Kim Lăng về, làm mấy việc hộ đại nhân." Nói xong, anh ta nghĩ một lát, rút từ trong tay báo một cây bút lông thỏ ra: "Bút của Vô Tâm thư trai ở phủ Kim Lăng đấy, mấy hôm trước anh đi qua đó tình cờ mua được, tặng em làm quà mừng đỗ án thủ nhé."

Chu Tử Thư nhận lấy: "Em cảm ơn anh Ngu Chi." Sau đó, hai người từ biệt nhau.

Chu Tử Thư về tới nhà, Diêu đại nương đã trổ tài nấu một bàn tú hụ thức ăn ngon, mời luôn kế toán Lâm sang chung vui với cả nhà.

Đường Hoàng và Diêu Tam phấn khởi banh nóc, cứ như thể chính mình đỗ án thủ vậy.

Chu Tử Thư sau khi nghe Lương Tụng chỉ điểm thì điềm tĩnh hơn hẳn. Cậu nói: "Chẳng qua là án thủ huyện thôi, anh trai em còn chưa đỗ tú tài đây

này. Chờ anh đỗ tú tài rồi em ăn mừng cũng không muộn."

Đường Hoàng: "Úi xời! Anh em một khi đã quay đầu về bờ, học hành nghiêm chỉnh thì lợi hại nhất trần đời! Diêu đại ca ơi, chiều nay anh đi vắng, không được thấy Đường Vân sang đây xin lỗi rồi. Mặt anh ta lúc ấy trông như vừa húp trọn cả bãi phân ý! Lúc đi về trông hoang mang ghê lắm, chắc không hiểu anh trai em thi đỗ án thủ kiểu gì. Hả dạ quá đi mất thôi!"

Diêu Tam đế vào: "Tiểu đông gia thi đỗ án thủ thì có gì mà lạ, tôi thấy tiểu đông gia thi đỗ cử nhân cũng là chuyện bình thường!"

Chu Tử Thư nghĩ thầm: Tui cũng nghĩ vậy đó, nhưng làm người thì phải khiêm tốn, khiêm tốn.

Cậu đằng hắng cắt ngang: "Dùng bữa nào, dùng bữa nào."

Học viện Tử Dương dù sao cũng là trường phủ Cô Tô, bốn học sinh tham gia thi huyện lần này, chỉ có một người thi trượt. Chú béo Tôn cũng đỗ, nhưng chẳng vì thế mà bình tĩnh được chút nào, cứ xoắn xuýt tít mù lên cả lên. Sáng sớm vừa đến học viện, chú ta đã túm ngay lấy Chu Tử Thư: "Á à Chu Tử Thư, té ra cậu là đồ đệ của Lương đại nhân. Lương đại nhân có truyền thụ cho cậu bí kíp thi cử gì không? Anh em như thể tay chân, cậu có cái gì tốt cấm được quên tớ đấy!"

Chu Tử Thư cười mắng: "Tớ mà có bí kíp thì còn đi học làm khỉ gì? Nằm phèo ở nhà mà ngủ, bao giờ thi rút bí kíp ra làm bài có phải đỡ rách việc không?"

Tôn Nhạc tiu nghỉu: "Còn có hai tháng nữa thi phủ rồi, nếu tớ không đỗ tú tài thì phải làm sao?"

Chu Tử Thư ngoắc tay: "Lại đây anh mách chú bí kíp nè." Tôn Nhạc mừng húm, vội vàng châu đầu ghé tai nghe.

"Không đỗ nổi thì cứ tụt quần áo, bẻ cành táo gai cầm đến trước mặt mẹ chú ấy. Xưa có Liêm Pha chịu đòn nhận tội, nay có Tôn Nhạc lạy mẹ xin tha, Tôn phu nhân kiểu gì chả mềm lòng!"

"..."

"Muốn ăn đập lắm hả Chu Tử Thư?"

"Há há há há."

Chí chóe một hồi, hai đứa lại rúc rích như thường với nhau, cùng mò ra ngoài cổng học viện ăn bánh bao nhân thịt.

Thấm thoắt đã hai tháng lại trôi qua. Tháng tư đem mùa xuân tới, cũng giục giã các thí sinh vượt qua kì thi huyện tiếp tục thử sức ở kì thi phủ. Tham dự kì thi lần này không chỉ có các thi sinh mới đỗ mà còn quy tụ cả các thí sinh từ những năm trước, đỗ thi huyện mà chưa đỗ thi phủ. Trong đám thí sinh, Chu Tử Thư bắt gặp Đường Vân, hai đứa cứ giương mắt nhìn nhau từ xa, cuối cùng Đường Vân đành buồn bực chắp tay chào Chu Tử Thư.

Vào trường thi, trong ánh mắt hâm mộ của chú béo Tôn và Đường Vân, Chu Tử Thư cùng mười người đứng đầu kì thi huyện đi vào phòng thi riêng.

Chu Tử Thư cầm quyển bài thi, sướng run người, hít hà một hơi.

Chà chà, không khí mới trong lành làm sao.

Thế này mới gọi là thi chứ, lần này lại đỗ tốp mười nào!

Cậu mở quyển, vẫn là hai bài văn chế nghệ và một bài thơ thí thiếp.

Đề thứ nhất là "Quân tử hiền kỳ hiền nhi thân kỳ thân", trích từ Đại Học, chương ba phần "Truyện". Nguyên văn là "Quân tử hiền kỳ hiền nhi thân kỳ thân, tiểu nhân thân kỳ thân nhi lợi kỳ lợi, thử dĩ một thế bất vong dã." Ý là đấng quân chủ hiền năng thì phẩm đức cao thượng, thương yêu dân chúng và người thân. Quân chủ đời sau cảm thụ được lòng nhân của đời trước, sẽ noi theo, phát huy lòng nhân đức của vua đời trước. Nhờ vậy mà bách tích được hưởng ân huệ dài lâu, ích nước lợi nhà.

Những câu này đều ngụ ý khi người trước làm đúng, người sau noi theo thì quốc thái dân an.

Lương Tụng yêu cầu Chu Tử Thư phải cẩn trọng từ lời nói đến hành động, đều không phải để hạn chế trí tưởng tượng phong phú của cậu, bó hẹp tư duy, mà muốn cậu suy nghĩ chu toàn, thấu đáo. Chu Tử Thư ngẫm nghĩ một hồi, trong đầu có vô số phương án phá đề. Cuối cùng cậu đặt bút viết: "Người trước có công gầy dựng, người sau mới được hưởng yên vui. Người quân tử mến hiền yêu thân tựa như ngọn tháp chín tầng không gì phá nổi." Phá đề xong, cậu lưu loát viết cả bài văn.

Đề thứ hai có phần khó hơn, là kiểu đề chắp-nối, đề mục là là "Đến việc trị quốc, lợi dụng địa vị thân cận với vua." Câu trước lấy từ chương "Lương Huệ Vương" trong sách Mạnh Tử, câu sau lại lấy từ sách Chu Dịch, quẻ "Quan". Chu Tử Thư phải suy nghĩ hồi lâu mới đặt bút viết được.

Viết xong hai bài chế nghệ và thơ thí thiếp, Chu Tử Thư nhìn một lượt chín thí sinh còn lại trong phòng. Cậu hít sâu, thở phù một cái sảng khoái.

Khoan khoái quá đi mất thôi!

Kiểm tra kĩ từng câu chữ trong bài thi, Chu Tử Thư đứng lên nộp quyển, chờ mười người nữa nộp bài xong rồi cùng nhau ra khỏi trường thi.

Đường Hoàng và Diêu Tam thấy cậu đi ra, lập tức chạy tới đón. Cô bé dè dặt hỏi: "Anh ơi, anh thi có được không?"

Chu Tử Thư nhướn mày: "Anh của em đương nhiên là thi tốt rồi, anh nhất định phải vào mười hạng đầu!"

Chỉ được thế, Đường Hoàng hớn ha hớn hở.

Chu Tử Thư tự biết mình thể hiện không tệ, so với lần trước không khác mấy. Lần này được thi với tiêu chuẩn hạng nhất, tuy ngồi làm bài cả ngày, nhưng không còn bị "vũ khí sinh học" tra tấn nữa. Chu Tử Thư thần thanh khí sảng, ăn no ngủ kĩ, chuẩn bị cho ngày thi thứ hai. Cậu chẳng hề biết, ngay sau khi ngày thi phủ đầu tiên kết thúc, trong huyện nha của huyện Ngô, Cổ Lượng Sinh đã lựa quyển của cậu ra từ chồng bài thi.

"Người trước có công gầy dựng, người sau mới được hưởng yên vui. Người quân tử mến hiền yêu thân tựa như ngọn tháp chín tầng không gì phá nổi..."

Cổ Lượng Sinh và các học chính, đề học cùng vây quanh đánh giá bài thi của Chu Tử Thư.

Sau khi xem xong hai bài chế nghệ và một bài thơ thí thiếp, Cổ Lượng Sinh kết luận: "Nói có sách, mách có chứng, ý tưởng độc đáo, văn chương tưởng chừng ôn hòa, nhưng càng đọc càng sắc sảo, thấm thía, quả là một tác phẩm xuất sắc. Thơ thí thiếp viết cũng rất tuyệt. Bài thơ thí thiếp của Chu Tử Thư hôm nay chỉn chu từ đầu tới cuối, tuy văn thái hơi kém hơn so với bài thi huyện."

Học chính phán một câu: "Ưu tú có thừa, không ngoài dự đoán của chúng ta từ kì huyện khảo."

Cổ Lượng Sinh gật đầu tán thành.

Chờ chấm bài xong, các giám khảo cùng nhau gom các quyển xuất sắc nhất lại. Cổ Lượng Sinh nhận xét: "Hạng Giáp của phần thi chế nghệ lần này, một là của Chu Tử Thư phủ Cô Tô, một là cho Dương Tri Phàm huyện Ngô. Phần thơ thí thiếp thì Lưu Vĩnh huyện Ngô viết tốt nhất, xứng đáng hạng Giáp. Về phần án thủ..."

Thi phủ cũng coi trọng nhất là trường thi đầu tiên, bốn trường sau chỉ thi lấy lệ, thành tích của thí sinh được định đoạt ở ngay ngày thi đầu này.

Cổ Lượng Sinh nhìn ba bài thi, trầm tư hồi lâu, nói: "Ba thí sinh mỗi người một vẻ, trình độ ngang ngửa nhau. Thế nên, nếu giật giải tiểu tam nguyên kì thi Đồng sinh năm nay, Chu Tử Thư sẽ viết nên một giai thoại cho kì thi lần này đấy."

Cổ Lượng Sinh vung bút, viết năm chữ "Chu Tử Thư phủ Cô Tô".

Lúc này Chu Tử Thư vẫn không biết mình vừa thi xong một ngày đã ẵm ngôi án thủ.

Chu Tử Thư nghiêm chỉnh dự thi đủ bốn ngày. Đến hôm yết bảng là bảy ngày sau, cậu vẫn chỉ ngóng tên mình trong mười hạng đầu, ai ngờ nhìn tận nơi mới biết mình đã đỗ án thủ.

Án thủ thi huyện làm sao mà sánh được với án thủ thi phủ – kì thi tú tài. Cậu chính là thủ khoa trong số các tú tài đó!

Chu Tử Thư kinh ngạc không thôi, Đường Hoàng thì túm lấy cậu nhảy như con choi choi. Chu Tử Thư lẩm bẩm tự hỏi: "Lẽ nào mình chính là thiên tài ngàn năm có một? Kiếp trước mình giỏi nhất là toán lý hóa, ngữ văn chỉ làng nhàng, thế mà giờ đèn sách mỗi một năm đã đỗ án thủ?" Cậu tự động bỏ qua bàn tay vàng đọc một lần là nhớ của mình.

Diêu Tam và Đường Hoàng thì quan tâm gì đến toán lý hóa, trong lòng hai người lúc này đang hò reo...

"Anh trai mình quả nhiên là lợi hại nhất!"

"Tiểu đông gia quả nhiên giật giải án thủ!"

Đến Chu Tử Thư cũng bắt đầu hoài nghi mình là thiên tài toàn năng náu mình nơi trần thế.

"Ây chà, trời sinh ta giỏi ắt hữu dụng, ngàn vàng tiêu sạch lại đầy thôi4. Tôi đã thành nhân tài, giờ là lúc kiếm ngàn vàng đấy. Kế toán Lâm, bác cháu mình bàn chuyện tăng giá dịch vụ hậu cần nào!"

[4] Trích bài thơ Thương tiến tửu (Mời uống rượu) của Lý Bạch.

Lần này thi phủ, ba học trò của học viện Tử Dương tham gia đều đỗ hết.

Tôn Nhạc vốn không ôm hi vọng gì nhiều nên lúc thấy tên mình ở đáy danh sách đỗ thì chú béo nhảy cẫng lên, hò reo đòi khao đãi tất cả mọi người.

"Trưa mai ở lầu Thiên Thu! Mời các bạn học cùng đến ăn mừng!"

Chu Tử Thư bật ngón cái: "Anh nể chú rồi đấy!"

Tôn Nhạc cười hả hê: "Đường án thủ, chú nói gì thế. Hôm nay anh mừng quá xá luôn, anh đây thế mà lại đỗ tú tài, Tôn Nhạc anh đây thế mà cũng đỗ tú tài ở tuổi mười lăm! Quả nhiên, anh đây chính là thiên tài há há!" Chu Tử Thư nghĩ thầm sao câu này quen thế chứ lị!

Chu Tử Thư hỏi: "Ngày mai cậu mời cả trường đến ăn ở lầu Thiên Thu à?"

"Chứ gì nữa, cậu cũng đến đi, tạo tí quan hệ với mấy đứa trường mình. Cậu phải nghe tớ, bây giờ nhiều đứa gai mắt cậu lắm đấy. Nếu muốn hai tháng tới được yên ổn ở học viện Tử Dương, trưa mai nhất định phải có mặt." Chu Tử Thư bật cười: "Sao mà đến nỗi, chả nhẽ tớ thể hiện dữ quá à?"

Tôn Nhạc trừng mắt: "Cậu thể hiện dữ quá hả? Cậu có biết, cậu đỗ án thủ hai lần liền đồng nghĩa với cái gì không?"

"Cái gì?"

"Tức là thi viện hai tháng sau, cậu rất có thể sẽ đỗ án thủ tiếp!"

"Cậu tin tưởng tớ đến thế sao?"

"Hầy, tin cái con khỉ ý. Thi viện đâu có giống thi huyện với thi phủ. Lúc đó ít nhất nửa cái học viện Tử Dương này tham gia thi nè. Cậu cũng giỏi đấy, nhưng làm sao đã đọc nhiều bằng các thư sinh lớn tuổi. Có điều cậu đã đỗ án thủ hai lần, chỉ cần cậu không xuống phong độ, và kì thi tới không có con ngựa ô nào, thì Cổ huyện lệnh nhất định sẽ chấm cậu đỗ đầu, khiến cậu trở thành tiểu tam nguyên Đồng thí."

"Thế mà cũng được à?" Chu Tử Thư không ngờ, khoa cử cổ đại cũng có kiểu quy tắc ngầm này.

Tôn Nhạc cảm khái: "Tớ thế này là thỏa mãn rồi, giờ đỗ tú tài, ít nhất năm năm nữa mẹ sẽ không càm ràm gì cả. Thi viện tớ không chắc lắm, cứ thử một lần xem sao thôi. Tớ không bằng cậu, cậu phải cố gắng đấy nhé, Đường tiểu tam nguyên!"

Chu Tử Thư kì thực không hào hứng với cái danh án thủ đến thế, cậu không nghiện sưu tầm, đỗ án thủ hai lần liên tiếp là ngoài dự liệu của cậu. Cả ba trường thi của kì thi Đồng sinh, thậm chí là trường thi cuối: thi viện, cậu không quan trọng hóa cái nào cả. Đến lúc này thì dù có từng đỗ án thủ, dẫu lần tới thi Hương sẽ được ngồi trong nhà ở khảo bằng, tất cả đều là thí sinh dự thi bình đẳng như nhau cả.

Đã thế lại không có điểm thưởng, đỗ cao để làm gì? Đỗ là tốt rồi!

Ngày hôm sau, Chu Tử Thư đến lầu Thiên Thu. Tuy Tôn Nhạc gửi lời mời đến tất cả các học sinh trong trường, nhưng hiển nhiên không phải ai cũng tới.

Ở học viện Tử Dương phần lớn là con nhà thường thường bậc trung hoặc con nhà nghèo, nhóm còn lại là con nhà khá giả. Hiện giờ, các cậu ấm chơi thân với Tôn Nhạc đều đến góp vui, còn các bạn bè xuất thân hàn môn thì chỉ gọn vào hai bàn, cách xa với những người còn lại, cũng chẳng chuyện trò cùng nhau.

Cơm no rượu say, thư sinh ở trường phủ cũng như người thường, bắt đầu thỏa sức tán phét.

Một tú tài con nhà giàu phát biểu: "Chu Tử Thư, không ngờ cậu đỗ án thủ liên tiếp hai lần, chúc mừng, chúc mừng nhé! Phủ Cô Tô không thể giống những chốn hoang vu khuất nẻo được. Có biết bao nhiêu nhà dòng dõi thư hương lâu đời, thế mà Trạng nguyên lại toàn con nhà nghèo. Học viện Tử Dương đã có án thủ Đồng thí xuất thân hàn môn những ba lần liền rồi. Kì thi viện hai tháng sau, cậu nhất định phải lấy lại thể diện cho tụi mình nhé."

Chu Tử Thư bật cười: "Điều đó tớ không quyết định được, nhưng tớ tin tất cả các bạn trường ta ở đây sẽ cố gắng hết mình trong kì thi viện. Đến lúc đó chỉ có thể nói là, dốc hết sức lực, mệnh ở ý trời."

"Hay cho câu dốc hết sức lực, mệnh ở ý trời!" Cậu ấm nhà họ Cungphía Đông thành hoan hô, "Chu Tử Thư, nghe nói cậu là đệ tử của Lương đại nhân – Lương Bác Văn hả?"

Việc này chẳng biết đã lan truyền khắp phủ Cô Tô từ bao giờ, Chu Tử Thư nghĩ rằng bản thân mình không hề cố ý rêu rao, chẳng hiểu sao ai cũng biết.

Lời này mà đến tai Lương Tụng, chắc ông lại đá đít đứa trò hư này ra khỏi thư phòng mất.

Nhưng mà Chu Tử Thư cũng chẳng thích mỗi lần đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa lại phải đến nhờ vả Lương Tụng ra mặt. Nếu cứ thế thì đến người mù cũng nhìn thấy cậu và Lương Tụng chẳng phải người dưng nước lã!

Chu Tử Thư: "Đúng vậy, tớ là học trò của tiên sinh."

Cungtú tài chắp tay: "Thật đáng ngưỡng mộ!"

Mộ người khác nói: "Anh họ tớ làm quan nhỏ ở phủ nha có kể rằng, mấy tháng gần đây Lương đại nhân thường không ở phủ Cô Tô mà hay sang Kim Lăng làm việc. Không biết đại nhân bận gì, chẳng lẽ có sự vụ gì khiến Lương đại nhân phải rời phủ Cô Tô của chúng ta hay sao?"

Người thường mà leo đến chức phủ doãn phủ Cô Tô thì là việc vui động trời. Nhưng với tầm cỡ và tiếng tăm của Lương Tụng, đáng lẽ ông phải làm quan to ở Thịnh Kinh mới đúng. Việc ông bị điều xuống phủ Cô Tô rõ ràng là giết gà dùng dao mổ trâu.

Chu Tử Thư không muốn tiết lộ tâm tư của thầy, cũng chưa từng bàn luận chuyện này với Lương Tụng nên chỉ giữ im lặng, cúi đầu ăn cơm.

Cungtú tài nói: "Kìa, cậu đừng đoán linh tinh. Phủ Cô Tô là nơi chôn rau cắt rốn của Lương đại nhân, sao đại nhân có thể tùy ý bỏ được. Tớ nghe nói, Lương đại nho đi Kim Lăng không phải vì việc gì lạ cả, mà chính là vì Chung tiên sinh, vị đại nho bị giam trong ngục suốt hai mươi lăm năm!"

Văn hóa Đại Tống cởi mở, rất ưu ái người đọc sách. Vua Thái Tổ khi xưa đã đặt ra một pháp lệnh đặc biệt: Cấm giết người đọc sách!

Cungtú tài đàm luận chuyện thời sự quốc gia, nhưng không ai cản cậu ta cả, thậm chí còn nhao nhao bàn tán.

"Không ngờ Chung tiên sinh đã bị giam hai mươi lăm năm rồi. Năm ấy tôi mới chỉ có năm tuổi, nay tôi đã qua tuổi nhi lập rồi, quả nhiên là bãi bể nương dâu." [5]

[5] Nhi lập chỉ tuổi 30, bắt đầu cứng cáp, tự lập được.

"Hai mươi lăm năm sương gió, Lương tiên sinh vẫn không quên tình bạn năm xưa. Người trọng tình trọng nghĩa như vậy, không hổ là tấm gương cho bọn hậu bối chúng ta."

Từ khi nhập hồn vào thời đại này, những người Chu Tử Thư tiếp xúc nhiều chỉ có Đường Hoàng, Diêu Tam, Đường phu nhân và Lương Tụng. Lương Tụng thường không thảo luận chuyện chính sự với cậu, khi hai thầy trò ở riêng với nhau thì ông chỉ là một thầy giáo bình thường, truyền thụ tri thức cho Chu Tử Thư. Những người khác càng không thể kể chuyện chính sự cho Chu Tử Thư được.

Chu Tử Thư lặng lẽ ăn cơm nhưng vẫn dỏng tai lắng nghe các tú tài kia nói. Tiếc rằng bọn họ tuy là con nhà khá giả nhưng cũng chẳng hiểu rõ về chính trị, thảo luận vài câu đã đá sang chuyện thi viện hai tháng sau rồi.

Về đến nhà, Chu Tử Thư tìm kế toán Lâm, hỏi: "Lương tiên sinh gần đây thường bận rộn bên Kim Lăng, thân là học trò của thầy mà cháu chẳng hay biết gì cả, thật thất trách. Kế toán Lâm, có một người cháu muốn hỏi xem bác đã từng nghe đến chưa ạ." "Người nào thế cháu?"

"Đại nho Chung tiên sinh."

Kế toán Lâm trợn mắt, hốt hoảng: "Tiểu đông gia, cẩn thận lời nói!"

Chu Tử Thư thấy có điều bất thường, truy hỏi: "Chung tiên sinh là ai thế ạ?"

Kế toán Lâm thở dài: "Thật ra nhắc đến cũng không sao, Đại Tống không cấm cản thư sinh phát ngôn. Chung tiên sinh tên thật là Chung Nguy, tự Thái Sinh. Thời tiên đế còn tại vị, ngài giữ chức Tả tướng Chính sự đường, người đời xưng là Chung tướng công." Chu Tử Thư cả kinh.

Quan chế Đại Tống noi theo tiền triều, chia làm tam tỉnh và lục bộ. Trong đó, Trung Thư tỉnh còn được gọi là Chính Sự Đường chính là tâm phúc của hoàng đế. Đại Tống lấy bên tả làm trọng, thế nên Tả tướng của Chính Sự Đường xứng đáng là vị trí dưới một người trên vạn người.

Kế toán Lâm nói tiếp: "Khi còn tại vị, Chung tướng công bình giặc Bắc, định rợ Nam, là công thần của Đại Tống. Chỉ tiếc trong trận chính biến trước cổng hoàng cung hai mươi lăm năm trước, Chung tướng công đã hồ đồ phò trợ thái tử xông vào cung cấm, có ý đồ soán ngôi. Thái tử bị Thánh thượng hiện giờ bắn chết ngoài cửa cung, Chung tướng công cũng bị bắt sống, nhốt vào thiên lao."

Chu Tử Thư lập tức hỏi: "Thế ngài ấy với Lương tiên sinh có quan hệ ra sao?"

"Tiểu đông gia chỉ biết Lương đại nhân là một trong thiên hạ tứ nho, nhưng chắc cậu không biết ba vị kia là ai. Ba vị kia lần lượt là Chung tướng công, Phó tướng công và Trần tướng công. Mà Chung tướng công có thể coi là đứng đầu tứ nho! Chà, trong bốn người này, chuyện của Trần tướng công tôi không biết. Nhưng thiên hạ đều hay, Lương đại nhân, cũng chính là thầy của tiểu đông gia ấy, là bạn tri kỉ với Chung tướng công. Nếu thật như lời tiểu đông gia nói, Lương đại nhân gần đây thường xuyên ghé phủ Kim Lăng vì việc của Chung tướng công, chỉ e là đi dễ về khó, lành ít dữ nhiều." Chu Tử Thư suy tư hồi lâu, hỏi: "Vì sao thái tử lại phải soán ngôi?"

Kế toán Lâm cả kinh: "Tiểu đông gia, tuy Đại Tống hậu đãi thư sinh, không giết người có học, cũng cho phép chúng ta luận bài chuyện triều chính, nhưng chuyện nhà đế vương, cậu vẫn chớ nên nhắc đến thì hơn."

Chu Tử Thư nói: "Bác cũng biết cháu chỉ quan tâm đến tiên sinh, hai bác cháu mình nói kín với nhau thôi ấy mà."

"Thế thì được."

Chu Tử Thư: "Thái tử nếu đã là người kế vị thì chuyện ép vua nhường ngôi thật phi lý. Chẳng lẽ, tiên đế sống thọ quá hay sao?"

Kế toán Lâm: "Lúc tiên đế năm mươi sáu tuổi thì băng hà."

Chu Tử Thư nhíu mày: "Không già, cũng chẳng trẻ." Nhưng chẳng đến mức phải tiếm ngôi nhỉ?

Kế toán Lâm: "Tiểu đông gia, tôi chỉ là một tú tài hạng xoàng, nghe người ta bàn tán ở quán trà mới biết được chút ít. Nếu cậu thật sự muốn tìm hiểu chuyện này, hỏi Lương đại nhân chẳng hơn sao?"

Chu Tử Thư nói: "Tiên sinh gần đây bề bộn ưu phiền, từ khi cháu đỗ án thủ huyện, thầy trò mới gặp nhau hai lần. Cháu không muốn làm phiền thầy." Kế toán Lâm đi rồi, Chu Tử Thư rút một tờ giấy Tuyên Thành, viết vài con tính.

Dựa theo lời kể của Kế toán Lâm, tiên đế băng hà năm năm mươi sáu tuổi, cứ tính du di thì Thái tử tối đa cũng chỉ bốn mươi tuổi. Nếu tiên đế không có ý định phế Thái tử, Thái tử sẽ không mạo hiểm cướp ngôi.

Trừ khi chuyện soán ngôi là giả, có ẩn tình bên trong.

Chu Tử Thư không biết chân tướng sự việc năm ấy, nhưng cậu tin tưởng Lương tiên sinh. Nếu Lương tiên sinh đã hết lòng vì Chung tướng công, nhiều lần đi Kim Lăng, lựa chọn tin tưởng Chung tướng công, thì Chu Tử Thư cũng chọn tin rằng Chung tướng công không ép vua thoái vị.

Tuy vậy, bất luận có bí mật gì ẩn giấu sau chuyện này, hậu thế có truyền tai nhau điều gì đi chăng nữa, thì muốn biết chân tướng một sự việc, nên luận xem ai là người có lợi nhất trong việc đó. Biến cố trước cổng cung, Thái tử mất mạng, hiển nhiên người có lợi nhất là Thánh thượng hiện giờ. Chung tướng công bị nhốt vào thiên lao, Lương tiên sinh muốn cứu ông ta, chắc chắn là đang chống đối đương kim Thánh thượng – Triệu Phụ.

Triệu Phụ có lẽ nào lại để yên?

Lương tiên sinh không thể thành công được.

Chu Tử Thư thở dài, thắng làm vua, thua làm giặc, chỉ mong Lương tiên sinh sớm giác ngộ chân lí này, đừng để bản thân bị cuốn vào vòng xoáy.

||

Chú thích

Lương Tụng có nhắc Chu Tử Thư giữ đạo Trung Dung. Hiểu đơn giản là luôn giữ bản thân ở mức độ trung hòa, không thái quá.

Kinh Thi viết: Người quân tử ca ngợi các thánh Cungđời trước tôn trọng những người hiền, yêu mến người thân của mình; kẻ tiểu nhân cũng [nhờ công đức các thánh Cungđời trước] được vui hưởng niềm vui, được thụ hưởng điều lợi, vì thế người ta đời đời không quên.

Bản dịch từ: Cổ Hán Văn

Tham khảo bản dịch sách Mạnh Tử trên Chinese Text Project và sách Kinh Dịch-Đạo của người quân tử của Nguyễn Hiến Lê.

Câu 1: Đại ý câu trong sách Mạnh Tử là khi bàn đến việc trị nước, không thể ra lệnh cho một người có hiểu biết về cách quản lí đất nước là "hãy vứt bỏ những gì anh đã học và nghe theo tôi" được.

Câu 2: Câu trong quẻ Quan là "Xem cái quang vinh của nước mà lợi dụng địa vị thân cận với vua". Tức là dựa vào việc thân cận với nhà vua, học tập sự sáng suốt của vua mà trổ tài giúp nước.

------oOo------

Chương 22

Nguồn: EbookTruyen.Net

Én lầu CungTạ thuở nào, bây giờ lưu lạc bay vào nhà dân

Đường gia bỗng dưng có án thủ tú tài, hoàn toàn không phải chuyện nhỏ, tức khắc đã đến tai Đường cử nhân.

Đường cử nhân mời Chu Tử Thư đến nhà họ Đường dự tiệc. Ông mở hẳn một bữa tiệc hoành tráng với ba chục mâm cỗ, linh đình suốt ba ngày ba đêm, đãi toàn thể bà con láng giềng ở Cô Tô để hoan hô tân án thủ. Chu Tử Thư không từ chối lời mời này. Quan hệ giữa cậu với Đường gia tuy không thân thiết như người một nhà, nhưng đã hợp tác với nhau rồi thì hai mà như một.

Đêm tiệc thứ nhất kết thúc, nha hoàn Hải Đường mời Chu Tử Thư đến thiên viện của Đường phủ, Đường phu nhân đã đợi cậu từ lâu.

Thấy cậu đến, phu nhân cười nói: "Nhớ lúc bác cháu mình mới gặp nhau, bác không ngờ cháu tài giỏi đến vậy, đỗ đầu cả huyện Ngô lẫn phủ Cô Tô."

Chu Tử Thư chắp tay khiêm tốn: "Đại bá mẫu quá khen rồi, chỉ là án thủ tú tài thôi ạ."

Đường phu nhân: "Cháu khiêm tốn quá, anh họ cháu hơn cháu mấy tuổi mà lần này chẳng đậu nổi tú tài. Ôi, bác buồn nẫu cả ruột. Được rồi, hôm nay không nói về cái thằng ngốc đó nữa, không cháu lại mất vui. Tuấn nhi này, mấy hôm trước đại chưởng quỹ Phương của Cẩm Tú Các bên Kim Lăng tới phủ Cô Tô, muốn đặt hàng từ Trân Bảo Các của chúng ta."

Chu Tử Thư mắt sáng ngời: "Họ đặt xà phòng ạ?"

Đường phu nhân lắc đầu: "Xà phòng, xà phòng thơm và tinh dầu, đại chưởng quỹ Phương lấy tất!" Chu Tử Thư: "Duyệt!"

Đường phu nhân: "Duyệt!"

Hai bác cháu nhìn nhau cười.

Xà phòng đã lên kệ được ba tháng, đúng như Chu Tử Thư nói, đây là con át chủ bài của cậu.

Công dụng giống y như xà phòng thơm, kiểu dáng không khác biệt, lại rẻ hơn bao nhiêu. Người cổ đại không phải là không có mặt hàng thay thế, chính là di tử, được nghiền từ tụy heo rồi thêm đường cát và tro than. Nguyên liệu chính là tụy heo nên sản phẩm vẫn ám mùi tanh, màu sắc thì xám đen, sờ vào dinh dính. Trước khi có xà phòng, di tử vẫn là chất tẩy rửa để giặt quần áo của dân Cô Tô, nhưng từ khi có xà phòng, vừa bền hơn, vừa sạch sẽ đẹp đẽ hơn, người dân Cô Tô vô cùng yêu thích mặt hàng này. Có thể nói là hiện giờ dân Cô Tô thiếu trà thiếu rượu thì được, nhưng nhất định trong nhà phải có muối và xà phòng.

Phủ Cô Tô và phủ Kim Lăng gần nhau, Chu Tử Thư đã dự đoán được sẽ nhanh chóng có người phát hiện ra xà phòng, nhưng không ngờ là nhanh đến thế.

Xà phòng là mặt hàng dễ làm, dễ bán thì đi một nhẽ, nhưng cả xà phòng thơm và tinh dầu cũng được để ý thì Chu Tử Thư hơi ngạc nhiên.

Đường phu nhân nói: "Chắc cháu không biết Cẩm Tú Các buôn bán gì đâu nhỉ? Cẩm Tú Các là cửa hàng son phấn lớn nhất phủ Kim Lăng. Ở Kim Lăng ấy, tửu lâu lớn nhất chính là lầu Cẩm Tú, phường thêu lớn nhất là Cẩm Tú phường, quán rượu to nhất chính là tửu phường Cẩm Tú. Ông chủ của Cẩm Tú Các là nhà họ Trịnh xứ Kim Lăng, cũng là cự phú số một Giang Nam đấy."

Chu Tử Thư ồ lên: "Thì ra là thế."

Lái buôn bình thường tới phủ Cô Tô, thấy hàng hóa trong Trân Bảo Các, nhất định rất thích xà phòng. Xà phòng thơm và tinh dầu tuy cũng bán tốt, nhưng so với xà phòng thì đầu ra nhỏ hơn hẳn. Chỉ có ông lớn mới dám độc quyền xà phòng thơm và tinh dầu. Thế nhưng chỗ chống lưng của Cẩm Tú Các là nhà họ Trịnh, gia tộc giàu có nhất phủ Kim Lăng, giàu có nhất toàn vùng Giang Nam!

Phải tầm cỡ như Trịnh gia mới có gan thầu cả xà phòng thơm lẫn tinh dầu, mua về bán lại.

Đường phu nhân: "Có một điều hôm nay bác hơi do dự, Tuấn nhi, chúng ta nên hợp tác với Cẩm Tú Các thế nào đây? Việc kinh doanh một nửa vẫn là của cháu, ý cháu thế nào, nói bác nghe xem?"

Chu Tử Thư: "Đại bá mẫu hẳn đã có ý tưởng rồi chứ ạ."

Đường phu nhân mỉm cười: "Đúng là không gạt cháu được. Tuấn nhi, Đường gia chúng ta ở phủ Cô Tô có chút thế lực, nhưng ở Kim Lăng thì chẳng khác nào bịt mắt đi đêm. Phủ Kim Lăng là địa bàn của Trịnh gia, không hợp tác với họ, chúng ta không có cách nào buôn bán ở Kim Lăng hết cả, dù cố làm thì cũng khó mà thu hồi vốn. Vì lí do đó nên bác mới muốn hợp tác cùng họ. Nhưng sản xuất hàng thế nào thì bác vẫn phân vân hai phương án. Một là chúng ta sản xuất ở Cô Tô, rồi vận chuyển đến Kim

Lăng thông qua Đại Vận Hà. Hai là chúng ta mở xưởng sản xuất ở ngay Kim Lăng."

Chu Tử Thư nói: "Phương án hai là một vốn bốn lời đấy ạ. Giai đoạn đầu phải đầu tư hơi nhiều thôi, nhưng về sau thì thu lợi trực tiếp. Phương án thứ nhất thì mỗi lần vận chuyển lại bị đội chi phí lên, tốn kém hơn nhiều so với biện pháp thứ hai ạ."

Đường phu nhân: "Nhưng mà..."

Chu Tử Thư: "Nhưng mà phương án hai đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ đặt xưởng ở tận phủ Kim Lăng xa xôi. Theo lời đại bá mẫu nói, phủ Kim Lăng chính là sân nhà của Trịnh gia, nếu mở xưởng ở bên đó, có chuyện gì xảy ra cũng chẳng ai biết. Đại bá mẫu chọn phương án nào ạ?"

"Phương án thứ nhất."

"Cháu cũng thấy như vậy là hợp lí."

Chu Tử Thư vẫn biết ở phía Tây thành Cô Tô giáp với Đại Vận Hà, được xây dựng từ các triều đại trước. Kênh đào này bắt đầu ở Thịnh Kinh, kết thúc ở Tiền Đường. Hàng hóa từ Nam ra Bắc, phần lớn đều được vận chuyển trên con kênh Đại Vận Hà, nhưng cậu chưa từng được chứng kiến công trình thủy lợi vĩ đại này.

Sau khi thỏa thuận thành công vụ làm ăn này với Cẩm Tú Các, Chu Tử Thư và Diêu Tam cùng nhau đi ra bờ Đại Vận Hà.

Kênh đào rộng mênh mông, trên mặt sông có đến hàng nghìn cánh buồm chen chúc, dòng thuyền, dòng người di chuyển ồ ạt như thủy triều. Ngay bến cảng đã có hơn mười con thuyền khổng lồ đang bốc dỡ hàng hóa. Lá trà và tơ lụa Cô Tô là đệ nhất thiên hạ. Mỗi ngày từ bến cảng này vận chuyển lượng tơ lụa và lá trà trị giá hàng vạn lạng bạc đi khắp vùng miền Đại Tống.

Diêu Tam nói: "Làng quê tôi cũng tiếp giáp với một nhánh con của Đại Vận Hà, nhưng so với mạch chính ở phủ Cô Tô thì kém lắm, mỗi ngày tối đa chỉ có mười thuyền cập bến thôi. Thỉnh thoảng tôi cũng lân la ra bến trò chuyện với thủy thủ, nghe họ kể truyện trời Nam đất Bắc."

Chu Tử Thư: "Diêu đại ca, anh còn am hiểu vận chuyển đường thủy nữa à?"

Diêu Tam gãi đầu gãi tai: "Tiểu đông gia đánh giá tôi cao quá, tôi có biết gì đâu. Chỉ là nghe thủy thủ kể lại, khi giao hàng bọn họ có một quy tắc, gọi là nguyên tắc Sa Bang, hoặc quy tắc Sa Thuyền. Giả sử, ở phủ Cô Tô, nhà họ Đường, nhà họ Cungvà nhà họ Tôn đều muốn vận hàng đến Thịnh Kinh, đường xá xa xôi, trên đường rất có thể sẽ gặp bão táp, giặc cướp. Ba nhà sẽ hợp tác chế tạo ba chiếc thuyền, mỗi thuyền chất một phần ba hàng hóa, cuối cùng bất luận là thuyền nhà ai đến Thịnh Kinh, cả ba nhà sẽ chia đều hàng hóa trên thuyền. Tổn thất từ các thuyền chìm cũng là ba nhà cùng chịu."

Chu Tử Thư cảm thán: "Người xưa khôn ngoan quá!"

Mười ngày sau, Chu Tử Thư và Đường phu nhân thỏa thuận xong chuyện giao hàng đến Kim Lăng. Cậu về đến nhà thì Diêu đại nương đang nấu cơm.

"Tiểu đông gia đã về đấy à? Khéo quá, Kế toán Lâm đến được nửa canh giờ rồi đấy. Không phải cậu bảo sáng nay có việc muốn nói với ông ấy sao, ông ấy chờ cậu lâu lắm rồi đấy."

Chu Tử Thư: "Bác ấy tới sao? Bác ấy đang ngồi đâu thế ạ?"

Diêu đại nương từ trong bếp đi ra, ngó nghiêng xung quanh: "Hay là vào phòng A Hoàng nhỉ?"

Chu Tử Thư nhíu mày.

Kế toán Lâm là đàn ông, vào phòng A Hoàng làm gì? Chu Tử Thư đi tới trước cửa phòng Đường Hoàng, phát hiện ban ngày ban mặt mà phòng con bé đóng kín mít. Chu Tử Thư không nóng nảy, đứng ghé vào cửa sổ nghe ngóng bên trong. Tiếng nói chuyện trong phòng khe khẽ, cậu chỉ nghe được đôi câu "đừng đọc cái này", với "bác viết lại cho cháu xem nào".

Chu Tử Thư lấy làm lạ, không gõ cửa mà đẩy thẳng cửa ra.

Đường Hoàng giật mình la oai oái, cuống quýt vơ hết đồ trên bàn giấu ra sau lưng. Kế toán Lâm cũng hốt hoảng, đứng lên không được mà ngồi xuống chẳng xong. Ông dè dặt đi tới trước mặt Chu Tử Thư, hỏi: "Tiểu đông gia, cậu về từ khi nào thế, tôi không biết đấy."

Đường Hoàng: "Anh! Sao anh vào phòng mà không gõ cửa? Chính anh dạy em rằng người lịch sự trước khi vào phòng phải gõ cửa còn gì!"

Chu Tử Thư nhướng mày: "Nếu anh gõ cửa thì chắc là khỏi cần biết hai người bọn em lén lút làm cái gì trong lúc anh đi vắng hả? Đường Hoàng, em giấu cái gì sau lưng, lấy ra."

Cô bé con khư khư giấu mấy thứ đồ sau lưng, môi mím chặt, mặt tái mét, lùi sát vào tường.

Chu Tử Thư rất nghi ngờ, bước tới bảo: "Đưa cho anh."

"Em không đưa!"

Chu Tử Thư không ép con bé, quay ra hỏi: "Kế toán Lâm, hai bác cháu làm gì trong phòng mà không nói được?"

Kế toán Lâm do dự đôi chút, đành bảo: "A Hoàng, cháu đưa cho tiểu đông gia đi."

Đường Hoàng tủi thân, rơm rớm nước mắt, miễn cưỡng lấy những thứ giấu sau lưng ra cho anh xem. Chu Tử Thư chăm chú nhìn, phát hiện đúng là một quyển "Thiên gia thi" và một tờ giấy Tuyên, trên giấy cũng không có gì nhiều nhặn lắm, mới được vài con chữ nguệch ngoạc. Xem xong là Chu Tử Thư biết tỏng: "Em nhờ kế toán Lâm lén dạy em đọc sách hả?"

Kế toán Lâm vội đỡ lời: "Tiểu đông gia đừng trách tiểu thư A Hoàng, chỉ dạy nhận mặt chữ thôi ạ, lỗi tại tôi cả."

Chu Tử Thư: "Bác dạy em ấy đọc sách thôi, có gì mà phải giấu giấu giếm giếm, đóng cửa kéo rèm?"

Đường Hoàng với Kế toán Lâm ngớ cả người.

"Tiểu đông gia?"

Đường Hoàng tròn mắt, một giọt nước mắt ứa ra, lăn dài trên má em. Cô bé nghẹn ngào hỏi: "Anh ơi, em đọc sách, anh không giận ạ?"

Chu Tử Thư thản nhiên như không: "Em đọc sách thì sao anh phải cáu? Nhưng đúng là có chuyện đáng bực thật." Chu Tử Thư nhìn chữ trên tờ giấy, hỏi: "Kế toán Lâm, bác gia sư cho con bé đọc sách viết chữ được bao lâu rồi?"

"Hơn ba tháng."

"Hơn ba tháng? Thế là trước khi cháu thi huyện thì bắt đầu dạy. Đường Hoàng, em thử nhìn xem em viết chữ kiểu gì đây? Lương tiên sinh đã từng chê, mặt mũi anh rõ đẹp trai, nhưng chữ thì như gà bới. Nửa năm trước, chữ của anh còn xấu hơn cả chữ em. Nhưng sau nửa năm, chữ anh đã được tiên sinh khen nức nở, còn hai lần đỗ án thủ kia!"

Đường Hoàng ngơ ngác mãi mới phản ứng kịp: "Anh ơi, anh đang tự khen mình đẹp trai đấy à?"

Chu Tử Thư: "Anh không nói thế nhé!"

Đường Hoàng: "Anh có!"

"Ờ, thì anh cũng đâu có nói sai. Em nhìn chữ em mà xem, luyện chữ ba tháng mà viết lách thế này hử?!"

Đường Hoàng ấm ức ơi là ấm ức: "Em có dám luyện chữ đâu, toàn phải chờ lúc anh, Diêu đại nương với Diêu đại ca không có nhà để lén tập viết, viết được thế là giỏi lắm rồi."

Chu Tử Thư: "Không lí do lí trấu nhé! Đã thế anh cho em thêm ba tháng nữa, để xem em viết được đến đâu!"

"Anh ơi... anh đồng ý cho em học đọc, học viết thật ạ?" Cô bé dè dặt hỏi, thấp thỏm khi anh trai bỗng dưng tử tế đến lạ.

"Sao anh phải phản đối chứ?"

"Lúc cha còn sống luôn bảo con gái không có tài mới là đức, cấm em với mẹ dính dáng tới sách vở, cũng cấm em và mẹ bước vào thư phòng của cha..."

Chu Tử Thư lúc này mới sực nhớ ra hình như Đường tú tài từng nói như thế, chỉ là cậu không ngờ việc này ảnh hưởng đến Đường Hoàng sâu sắc như vậy.

Chu Tử Thư áy náy lắm, vội an ủi cô bé: "Lỗi tại anh sơ ý. Em muốn làm gì, anh tuyệt đối không cấm cản. Đương nhiên, trừ việc giết người phóng hỏa ra, nếu em dám làm thì quân pháp bất vị thân! Chỉ là đọc sách thôi mà, sao em lại không được học đọc chứ? Kế toán Lâm, đằng nào hôm nay bác cũng đến nhà cháu rồi, không biết bác có bằng lòng nhận Đường Hoàng làm học trò, làm gia sư cho nhà cháu không?"

Đường Hoàng mừng quýnh: "Anh!"

Kế toán Lâm cười nói: "Tiểu đông gia đã có lời, tôi nào dám từ chối."

"Anh đúng là anh trai tốt nhất trần đời!"

Chu Tử Thư được em gái nịnh nọt tung hô suốt cả ngày. Đường Hoàng như thể muốn xông ra giữa Toái Cẩm nhai loan báo cho tất cả mọi người biết rằng anh trai nhà mình tử tế cỡ nào. Đến bữa cơm tối, kế toán Lâm được mời lại dùng cơm với cả nhà. Ông nói: "Tiểu đông gia và A Hoàng trông hơi giống nhau nhỉ."

Diêu Tam: "Đúng đó, dù sao cũng là anh em ruột, đôi mắt hai người khá giống nhau."

Chu Tử Thư hơi ngạc nhiên, nhưng cậu chưa kịp nói, Đường Hoàng đã mau miệng: "Mắt của cháu với mắt anh có giống nhau đâu, mắt cháu to hơn nhiều."

Chu Tử Thư: "Ờ, nói khoác không biết ngượng, em có trợn lồi mắt ra cũng chỉ bằng mắt anh lúc bình thường thôi." Cả nhà cười phá lên.

(Bản edit phi lợi nhuận chỉ được up tại makyo0117.wordpress.com; hãy mua chương cho tác giả trên Tấn Giang nếu có thể.)

Ba ngày sau, Chu Tử Thư và kế toán Lâm lên thuyền hàng của Đường gia đi Kim Lăng.

Suốt một năm kể từ khi đến đây, đây là lần đầu tiên Chu Tử Thư rời khỏi Cô Tô. Thoạt tiên cậu hăng hái lắm, đứng mũi thuyền ngắm nghía phong cảnh. Nhưng ngắm mãi cũng chán, cậu bèn vào trong buồng nhỏ trên tàu chờ. Chạng vạng thì cả đoàn tới Kim Lăng. Chu Tử Thư không đến Cẩm Tú Các cùng đại chưởng quỹ của Trân Bảo Các mà đi dạo quanh phủ Kim Lăng với kế toán Lâm.

Cố đô trăm năm, Tần Hoài mười dặm. Gió xuân phe phẩy má đào, Kim Lăng nhi nữ anh hào một phương.

Hai bác cháu đi dạo khắp những con phố xa hoa náo nhiệt nhất ở Kim Lăng, rồi ghé thăm Giang Nam cống viện.

Kế toán Lâm nói: "Đây chính là trường thi của tiểu đông gia sau này đấy. Nếu cậu thi đỗ..." Ông ngừng lời, "Úi chà, tôi nói gì thế này, sai quá, phỉ phui cái mồm. Tiểu đông gia đương nhiên là sẽ đỗ cử nhân rồi. Sau khi đỗ cử nhân, cậu có thể tới cống viện để học tập, không đến cũng được, nhưng ít nhất nên ghi tên vào học tịch."

Cống viện Giang Nam là cấm địa của quan phủ, ngoại trừ những lúc tổ chức khoa thi, còn lại chỉ có các cử nhân theo học ở đây mới được ra vào.

Chu Tử Thư ngắm nghía, thấy nơi này và học viện Tử Dương cũng không khác nhau là mấy.

Hai bác cháu ghé qua miếu Phu Tử, hẻm Ô Y tham quan một lượt.

Chu Tử Thư cảm khái:

Bên cầu, cỏ dại hoa đồng,

Ô Y ngõ cũ nằm trong nắng chiều. Én lầu CungTạ thuở nào,

Bây giờ lưu lạc bay vào nhà dân*

Ra là hẻm Ô Y này đây!"

[*] Bài Hẻm Ô Y của nhà thơ Lưu Tích Vũ. Dịch giả: Nhà thơ Ngô Văn Phú Kế toán Lâm ngạc nhiên: "Tiểu đông gia nói gì thế?"

Chu Tử Thư lờ đi: "Không có gì đâu ạ, thơ cháu tình cờ nghe được, tiện mồm ngâm nga ý mà."

Kế toán Lâm nói: "Không biết Tiểu đông gia nghe thơ này từ đâu, nhưng đừng đọc lung tung nhé. 'Én lầu CungTạ thuở nào, bây giờ lưu lạc bay vào nhà dân.' Nhà họ Tạ thì thôi, giờ sa sút nhiều rồi, khó mà khôi phục được sự thịnh vượng năm xưa. Nhưng Lang Gia Cungthị là thế gia đại tộc chính hiệu đấy! Nhà họ dòng dõi trâm anh, cơ man là của ăn của để. Lỡ có ai nghe thấy cậu rủa hai nhà Vương, Tạ lụn bại thì gay go to!"

"... Hơ?"

Kế toán Lâm nói: "Tiểu đông gia chớ có đọc nữa nhé."

Chu Tử Thư gật đầu lia lịa: "Vâng vâng vâng, cháu không đọc nữa." Té ra là ở thế giới này, hai nhà Vương, Tạ vẫn chưa phá sản!

Hai bác cháu dạo chơi chán chê suốt một canh giờ, đến lúc ngọc thiềm5 lơ lửng trên bầu trời thì ngày đã sang đêm. Chu Tử Thư định tìm một chỗ nghỉ ngơi thì Kế toán Lâm ngập ngừng nói: "Chỗ này khá gần sông Tần Hoài nhỉ."

[5] Ngọc thiềm là con cóc ngọc. Theo truyền thuyết Trung Hoa thì trên cung Tuấng có con cóc ba chân nên "ngọc thiềm" cũng là cách gọi mặt Tuấng. Mình rất thích cách gọi này nên không muốn edit khác đi ^^

Chu Tử Thư ngơ ngác: "Dạ?"

"Tiểu đông gia... bữa nay đích thân tới Kim Lăng, phải chăng là muốn thưởng thức đặc sản Kim Lăng, thương nữ trên sông Tần Hoài?" Chu Tử Thư đần mặt ra, mãi mới hiểu "thương nữ" là ý gì.

Ô hay, trong mắt người khác cậu háo sắc thế à?

Chu Tử Thư đằng hắng, nhắc nhở kế toán Lâm: "Kế toán Lâm, cháu mới mười bốn tuổi thôi ạ."

"Nhớ năm mười bốn tuổi, tôi đã đính hôn với phu nhân từ lâu rồi."

"..."

Thế này thì nói chuyện kiểu quái nào được!

Chu Tử Thư đương nhiên không muốn ghé thăm sông Tần Hoài, trên thực tế cậu đến Kim Lăng chủ yếu là để khảo sát thị trường. Tình hình sinh hoạt của bách tính phủ Kim Lăng, người buôn kẻ bán ở Kim Lăng, đều là các đối tượng cậu muốn quan sát. Đồng thời cậu cũng định ngày mai sẽ đến Cẩm Tú Các một chuyến. Phủ Kim Lăng quả thực là giàu có, nhưng muốn bán tinh dầu và xà phòng thơm thật hiệu quả thì không phải cứ đập tiền vào là được.

Chu Tử Thư dự định đến Cẩm Tú Các, giúp đại chưởng quỹ Phương thiết kế khu vực bày bán tinh dầu và xà phòng thơm, giống như cách cậu đã làm ở phủ Cô Tô vậy.

Nhưng mà đến tận đây rồi...

Chu Tử Thư nói: "Bác muốn xem thử chút không ạ?"

"Nào ta đi." Mặt kế toán Lâm rõ mồn một vẻ ông biết tỏng là cậu muốn đi rồi.

Chu Tử Thư: "..."

Giờ quay về có kịp không vậy?

Đỗ Mục từng viết một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt:

Khói trùm nước lạnh, Tuấng lồng cát Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia.

Cô gái không hay buồn nước mất,

Bên sông còn hát Hậu Đình Hoa**

[**] Bạc Tần Hoài. Dịch giả: Trần Trọng San

Đại Tống quốc thái dân an, các thương nữ hiện giờ đương nhiên không hát bài ca vong quốc mà hát khúc ca thái bình. Trong màn đêm trên sông Tần Hoài, thuyền hoa dập dìu trên làn nước gợn sóng, ánh đèn lung linh, tiếng mái chèo khua lãng đãng. Chu Tử Thư không lên thuyền hoa, chỉ đi dạo dọc theo bờ sông, chiêm ngưỡng cảnh tượng thịnh thế.

Tiếng tì bà của các thu nương, tiếng đàn cầm, réo rắt lẫn trong tiếng nước ì oạp của dòng Tần Hoài.

Chu Tử Thư chợt thốt lên: "Khói trùm nước lạnh, Tuấng lồng cát! Hay quá, chính là Kim Lăng này đây!" Kế toán Lâm chẳng hiểu gì cả.

Ngày hôm sau, Chu Tử Thư đến Cẩm Tú Các. Đại chưởng quỹ Phương đã biết trước là cậu sẽ tới, ra tận cửa đón. Chu Tử Thư miêu tả tổng quát ý tưởng thiết kế cho mặt tiền cửa hàng. Đại chưởng quỹ Phương ngạc nhiên lắm, nhắc lại: "Yên lung hàn thủy...nguyệt lung sa?"

"Phải."

"Câu này là Đường công tử sáng tác ư?"

"Không phải, tôi nghe được từ người khác đấy."

"Câu này đúng là thiên cổ giai cú, đáng lưu truyền nghìn năm. Đường công tử cứ yên trí đi, tôi sẽ cho người chuẩn nước và cát trắng y lời cậu, cậu chỉ phải lo bài trí lại cửa hàng thôi. Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa. Chỉ cần câu thơ này thôi, tôi đảm bảo tinh dầu sẽ thắng lớn ở Kim Lăng."

Nửa tháng sau, xà phòng, xà phòng thơm và tinh dầu đã được bày bán hết ở phủ Kim Lăng.

Lần này Cẩm Tú Các không bắt chước Trân Bảo Các, ém xà phòng bán sau. Lí do là phủ Kim Lăng gần phủ Cô Tô, người dân Kim Lăng đã nghe đến xà phòng rồi, thậm chí còn mua xà phòng từ Cô Tô nữa. Cẩm Tú Các tung cả ba mặt hàng cùng một lúc, đồng thời dựa vào quan hệ của nhà họ Trịnh, nhờ một người trong Lang Gia Cungthị đề chữ để trưng bày trong cửa hàng Cẩm Tú Các.

Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa』 Lạc khoản: CungTử Phong.

Đại chưởng quỹ Phương cầm bức thư pháp lên, giật nảy mình: "Đông gia, sao ngài mời được Cungtướng công viết tặng vậy?"

Ông chủ Cẩm Tú Các, gia chủ họ Trịnh – Trịnh Hạo cũng cảm thấy kì quặc:

"Vốn ta định nhờ Cungnhị công tử viết tặng ấy chứ! Với quan hệ họ Trịnh nhà ta với họ Cungbọn họ thì chỉ là chuyện nhỏ. Tình cờ thế nào đúng dịp Cungđại công tử về thăm nhà, chẳng biết câu thơ này truyền đến tai anh ta lúc nào, anh ta bảo hay quá, trước khi về Thịnh Kinh đã viết bảy chữ này, đưa cho nhị công tử."

Đại chưởng quỹ Phương nói: "Tuyệt vời, quá tuyệt vời! Đông gia, chúng ta tuy không có thư pháp do Lương đại nho tự tay tặng cho 'Hoàng Kim Lũ', nhưng bức thư pháp này của Cungtướng công, ở Kim Lăng, cũng sánh ngang với chữ của Lương đại nho vậy!"

Chẳng cứ ở phủ Kim Lăng đâu, đại chưởng quỹ Phương nghĩ bụng: Kể cả treo ở Thịnh Kinh, bức thư pháp này cũng xứng đáng là biển hiệu vàng ấy chứ!

Việc này Chu Tử Thư đương nhiên không biết tí ti gì. Cậu chỉ phụ trách việc chỉnh sửa mặt tiền cửa hàng, chẳng hay đại chưởng quỹ Phương, không hổ là thương nhân, khôn như rận, ngay cả chiêu trò marketing nhờ Lương Tụng tặng chữ ở Trân Bảo Các của cậu cũng bắt chước được. Kết quả còn không thua kém gì.

Trở lại phủ Cô Tô rồi, thời gian đến lúc thi viện chỉ còn hơn một tháng, Chu Tử Thư bắt đầu hăng hái ôn tập.

Hậu thế thường nói đề tên bảng vàng, ai cũng biết đến Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa, nhưng không rõ lắm về cử nhân, tú tài và các cuộc thi bậc thấp hơn, cũng không hiểu sự phức tạp của ba trường thi đồng sinh. Trường thứ nhất là thi huyện, đỗ trường này mới là đồng sinh; trường thứ hai là thi phủ, đỗ trường này mới lên tú tài.

Nhưng không phải cứ đỗ tú tài sẽ có cơ hội thi lên cử nhân, bằng không Giang Nam Cống viện chỉ có bằng đấy phòng, ai ai cũng đi thi thì có mà vỡ trận. Tú tài muốn thi lên cử nhân, ngoại trừ một số trường hợp đặc cách, còn không tất cả đều phải thi viện, đỗ thi viện mới được thi Hương, tức là thi lên cử nhân.

Chu Tử Thư vẫn chăm chỉ viết hai bài chế nghệ, một bài thí thiếp mỗi ngày. Nếu như Lương Tụng ở phủ Cô Tô, hàng ngày cậu sẽ đem bài sang cho tiên sinh chấm. Nếu Lương Tụng không ở Cô Tô, cậu sẽ để bài lại, chờ Lương Tụng về.

Cứ như vậy đến một ngày trước khi thi viện, vì hôm sau phải dậy sớm đến trường thi, Chu Tử Thư đi ngủ từ giờ Dậu. Giờ Tuất ba khắc, chợt có người đập cửa. Diêu Tam giật mình tỉnh giấc, ra mở cổng, thấy một người áo quần bụi bặm, mặt mũi phờ phạc vì bôn ba đường dài đứng trước cửa. Anh ta mặc một chiếc áo choàng, giấu mặt, nhỏ giọng hỏi: "Có phải nhà Chu Tử Thư không?"

Diêu Tam cảnh giác: "Đúng rồi, anh là ai, từ đâu tới?"

Chu Tử Thư bị đánh thức, không kịp mặc quần áo đã ra khỏi phòng.

Người bí ẩn kia nói: "Tôi là Từ Tuệ, cháu họ của Lương đại nhân. Anh nói với Chu Tử Thư, cậu ấy sẽ biết."

"Anh Ngu Chi?"

Từ Tuệ ngẩng đầu, thấy Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư: "Anh vào nhà đã, có gì rồi mình nói bên trong."

Từ Tuệ vào trong phòng, nét mặt căng thẳng, mãi không có ý định mở lời.

Chu Tử Thư hiểu ý anh ta, nói: "Diêu đại ca, anh cứ ra ngoài đi. Đây là Từ Ngu Chi, cháu họ của tiên sinh, hẳn là tiên sinh có việc tìm tôi." Diêu Tam gật đầu, rời khỏi phòng.

Chu Tử Thư hỏi: "Lẽ nào Lương tiên sinh xảy ra chuyện?"

Từ Tuệ lắc đầu: "Không. Đại nhân hẵng còn bên Kim Lăng, sợ là mấy ngày nữa mới về được."

"?"

Từ Tuệ do dự giây lát, nói: "Đại nhân chưa về, nhưng có việc này, anh không đợi được. Chu Tử Thư, e rằng em không biết, nửa năm nay đại nhân vẫn đi đi về về bên Kim Lăng, là để cứu một cố nhân. Người bạn cũ của đại nhân bị giam trong thiên lao hai mươi lăm năm rồi, nửa năm trước, không hiểu vì sao, đại nhân nhận được tin, hình như có người muốn mưu hại người bạn đấy."

Chu Tử Thư nghĩ thầm, chẳng phải ấy là Chung Nguy, Chung đại nho hay sao.

Cậu làm bộ như chưa biết gì: "Ai lại muốn hại bạn tốt của tiên sinh vậy?"

"Anh cũng không rõ. Thế nhưng sáng sớm hôm nay, có một người từ Thịnh Kinh về phủ Cô Tô gấp để chịu tang người thân. Hắn ta chỉ ở lại đúng hai ngày, anh không kịp báo cho đại nhân, e là đại nhân cũng không có biện pháp ứng phó kịp." Ngập ngừng giây lát, Từ Tuệ nói: "Chu Tử Thư, anh phải nói trước với em, người này có dính dáng đến Thánh thượng. Thiên hạ đều biết, thánh thượng si mê tu tiên, độc sủng yêu đạo Lý Tiêu Nhân. Anh tìm hiểu được rằng, người về phủ Cô Tô chính là tục gia đệ tử của Lý Tiêu Nhân. Nếu muốn nghe được tin tức từ Thịnh Kinh, thăm dò thánh ý, người đó chính là phương tiện tốt nhất."

Chu Tử Thư cau mày: "Anh muốn em giúp anh tìm hiểu tin tức?"

Từ Tuệ thở dài: "Anh cùng đường rồi em ạ. Đại nhân là người thanh bần, đừng thấy ngài là phủ doãn phủ Cô Tô, thế lực và quan hệ của ngài ở đây e là kém xa nhà họ Đường của em. Sở dĩ anh chỉ có thể tới nhờ em giúp, là muốn em nhờ Đường cử nhân thử xem."

Chu Tử Thư trầm ngâm giây lát: "Gấp lắm hả anh?"

"Chiều tối mai là người ấy đi rồi!"

"Được, vậy anh đi theo em."

Chu Tử Thư đổi quần áo, dẫn Từ Tuệ ra cửa. Từ Tuệ tưởng cậu dẫn mình đến Đường phủ, ai ngờ Chu Tử Thư và Diêu Tam đi tuốt luốt tận đâu, đương nhiên là không đến Đường phủ, mà sang một đại viện.

Diêu Tam đập cửa, một người đàn ông trung niên lực lưỡng, dáng vẻ nhanh nhẹn đi ra, thấy họ liền chào: "Tiểu đông gia, Diêu huynh đệ."

Chu Tử Thư: "Lưu đại ca, tôi nhớ không nhầm, việc hậu cần ở khu hẻm

Đồng Đức là do anh quản lí phải không?"

Lưu Hào Tử nói: "Phải. Tiểu đông gia có việc gì sai bảo?"

Việc làm ăn của Hậu cầu Đường thị từ lâu đã đi vào quỹ đạo. Ba tháng trước, Chu Tử Thư cố ý đề bạt một số nhân viên tháo vát lên làm quản lí, để họ phụ trách việc hậu cần ở một phường hoặc một phố. Lưu Hào Tử chính là một trong số đó.

Chu Tử Thư: "Nếu tôi muốn nhờ anh tìm hiểu về một nhà này thì anh có làm được không? Gia đình đó ở hẻm Đồng Đức."

"Ba ngày nữa tôi sẽ có tin tức cho tiểu đông gia, hôm ấy người đó mặc nội sam màu gì?"

"Nếu chỉ có một ngày thì sao?"

Lưu Hào Tử sửng sốt: "Thế thì tôi sẽ cố hết sức."

"Ừ, vậy ngày mai anh cứ nghe vị tiên sinh này chỉ dẫn, anh ta bảo gì thì anh làm nấy." Chu Tử Thư giới thiệu Từ Tuệ cho Lưu Hào Tử.

Lưu Hào Tử vâng vâng dạ dạ.

Từ Tuệ cảm kích vô cùng, chắp tay bái Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư và Diêu Tam cùng nhau ra về.

Đúng vậy, ngay từ đầu, Chu Tử Thư quyết định làm hậu cần chính là để tạo cơ sở thông tin ngầm cho mình ở phủ Cô Tô. Kiếp trước cậu có đọc một cuốn sách về dòng họ Rothschild nổi danh. Vào thế kỉ thứ 19, dựa vào mạng lưới tin tức khổng lồ, nhà Rothschild là những người đầu tiên nắm được tin về kết cục của trận chiến Waterloo. Tận dụng thời gian trước khi tin tức lan ra, nhà Rothschild đã kiếm được một khoản lời khổng lồ, từ đó trở thành một trong những dòng họ giàu có nhất thế giới.

Tin tức, chính là công cụ kiếm tiền vô địch thiên hạ.

Sáng sớm hôm sau, Chu Tử Thư cắp hộp sách tai dài vào trường thi. Cậu ngồi ngay ngắn trước án thư, thần sắc bình tĩnh, tựa như đêm qua không có ai ghé đến làm phiền, kể chuyện chính biến trong triều đình hơn hai mươi năm trước. Chu Tử Thư khí định thần nhàn mở bài thi, Cổ Lượng Sinh ngồi ngay trước mặt, nhìn cậu bằng ánh mắt kì vọng.

Cái danh tiểu tam nguyên Đồng thí vừa là vinh quang cho Chu Tử Thư, vừa là tiếng thơm cho Cổ Lượng Sinh. Ngay năm đầu tiên nhậm chức huyện lệnh ở Cô Tô đã có một tiểu tam nguyên, ấy chắc chắn là điềm lành. Để Chu Tử Thư không viết lạc đề, thi viện lần này anh ta cố ý ra ba đề mục rất đơn giản.

Chu Tử Thư à, nhóc chắc hẳn sẽ không phạm sai lầm nhỉ?

Chu Tử Thư mở quyển, đọc đề mục, ngơ ngẩn.

Đề thứ nhất: "Học phải đi đôi với hành7."

Chu Tử Thư ngơ ngẩn một lát, bất giác mở đề thứ hai.

Đề số hai: "Biết thì nói là biết7."

[7] Đều thuộc Luận ngữ

Chu Tử Thư: "...."

Được lắm, khỏi cần đọc đề số ba cũng biết là đề mục rất quen thuộc, tuyệt đối không thể viết lạc đề!

Chu Tử Thư lén lút ngẩng đầu, chạm mắt với Cổ Lượng Sinh.

Cổ Lượng Sinh nhìn cậu tha thiết: Viết tốt nhé, chỉ cần không viết sai, nhóc sẽ là án thủ ngay!

Chu Tử Thư: "..."

Quy tắc ngầm ở trường thi cổ đại đúng là hại người! Cậu rõ ràng không muốn làm án thủ, tại sao lại có người cứ dúi cho cậu làm án thủ thế nhỉ?

Hầy, đành miễn cưỡng nhận vậy.

Chu Tử Thư cúi đầu bắt đầu viết, tự vả miệng một cái rồi lại nhếch mép cười.

Hà hà...

Há há há há!

Trường thi đầu tiên kết thúc, Chu Tử Thư nộp quyển, Cổ Lượng Sinh không kịp chờ, vội vàng mở bài thi của cậu ra đọc. Anh ta tỉ mỉ đọc một lượt hai bài chế nghệ và một bài thơ thí thiếp, gật gù suốt.

Chu Tử Thư cũng thở phào nhẹ nhõm, nếu không có gì bất ngờ xảy ra, lần thi viện này chắc cậu lại đậu án thủ.

"Mình quả nhiên là thiên tài!" Chu Tử Thư nghĩ thầm.

Buổi tối về đến nhà, Chu Tử Thư cũng không giấu niềm vui, cậu nói thẳng với Diêu Tam: "Rủ cả nhà kế toán Lâm sang đây, chúng ta ăn mừng."

Diêu Tam: "Chúc mừng gì thế?"

Chu Tử Thư cười: "Mừng tôi đỗ thi viện."

Diêu Tam hoàn toàn không ngờ mới thi xong ngày đầu tiên, còn bốn buổi nữa, Chu Tử Thư đã chắc như đinh đóng cột là mình đỗ thi viện rồi. Anh vô cùng tin tưởng Chu Tử Thư, hớn hở mời cả nhà kế toán Lâm sang ăn cơm.

Kế toán Lâm từng có kinh nghiệm, ông vê râu mép, nói: "Xem ra tiểu đông gia rất tự tin, hẳn là hôm nay làm bài tốt lắm." Chu Tử Thư cười không nói gì.

Diêu đại nương nấu một bàn ê hề thức ăn, mọi người cùng ăn mừng. Diêu Tam và kế toán Lâm cạn chén. Lúc kế toán Lâm đã ngà ngà say, ông liền bảo Đường Hoàng đọc ba bài thơ mới học lên. Cô bé chẳng hề xấu hổ, ưỡn ngực ngâm liền tù tì ba bài thơ.

Đêm khuya, Chu Tử Thư rời bàn tiệc, lặng lẽ ra mở cổng.

Ngoài cổng là Lưu Hào Tử, hai người im lặng nhìn nhau.

Chu Tử Thư hỏi: "Tin mà Từ Ngu Chi nhờ anh tìm kiếm, anh đã lần ra được chưa?"

Lưu Hào Tử nói: "Tiểu nhân tìm hiểu rất nhiều rồi, nhưng vẫn không biết đã đúng là người ngài ấy cần tìm chưa. Song Từ đại nhân bảo không sao, nói là đã nắm được thông tin cần thiết rồi ạ." "Anh đã nói gì với anh ấy, kể tôi nghe xem."

Lưu Hào Tử kể lại tin tức mình dò la được cho Chu Tử Thư nghe.

"... Gã đạo sĩ họ Hoa đó là một đạo sĩ, nhưng cưới đến ba vợ, nhà cũng thuộc hạng sang ở hẻm Đồng Đức. Hôm qua gã ta về nhà có nói với phu nhân rằng, phải tìm cách bỏ Thịnh Kinh mà về Cô Tô thôi. Lí do là từ đêm có sao chổi rơi nửa năm về trước, hai người sư huynh của gã vào cung hầu hạ đã mất tích luôn."

Chu Tử Thư: "Đêm có sao chổi... Ồ, là đêm đó ư?"

Lưu Hào Tử hỏi: "Tiểu đông gia còn việc gì nữa ạ?"

"Không có gì. Anh về đi, nhớ rằng chuyện hôm nay tôi nhờ anh phải giữ kín, không được nói cho ai."

"Dạ."

Đóng cổng nhà, Chu Tử Thư ngẫm thấy vẫn chưa ổn, bèn gọi Diêu Tam:

"Anh lấy năm mươi lạng bạc đưa cho Lưu Hào Tử, bảo anh ta rời khỏi phủ Cô Tô ngay tức khắc, đừng quay về nữa."

Diêu Tam phỏng đoán có liên quan đến sự việc tối qua, gật đầu đồng ý, gom bạc rồi ra khỏi nhà.

Mười ngày sau, yết bảng thi viện.

Tôn Nhạc và Chu Tử Thư cùng nhau đến trước cổng học viện, có hơn nửa các bạn học ở học viện Tử Dương cũng đến đây đợi kết quả.

Trời tờ mờ sáng, trên trời lãng đãng vài ánh sao. Chu Tử Thư hơi ngái ngủ, ngáp mấy lần liền, Tôn Nhạc hết sức hồi hộp, cứ dán mắt nhìn về phía cổng chính học viện.

Chu Tử Thư: "Nhắm qua nổi không?"

Tôn Nhạc: "Không chắc, nhưng hên xui. Lần này đề dễ thế, viết xuất sắc thì khó, nhưng không viết hỏng được. Cậu nghĩ mấy ông tú tài già ở trường mà xem, văn thái của họ tuy hơn tớ, nhưng cho đề 'học nhi thời tập chi', chưa chắc đã viết tốt hơn tớ đâu. Nội dung đấy thì tớ viết ngon ơ!"

Chu Tử Thư mỉm cười, ung dung nói: "Chúc cậu đứng nhất từ dưới đếm lên nhé!"

Tôn Nhạc chẳng bực tức chút nào: "Hạng nhất từ dưới đếm lên thì quá tốt ấy chứ. Bét bảng cũng là đỗ, đỗ là thành cống sinh rồi, có thể ghi danh ở cống viện Giang Nam, năm sau có cơ hội thi Hương!"

"Chả có tí tiền đồ nào cả!"

Chu Tử Thư chọc ghẹo thế thôi, nhưng trong lòng rất mong Tôn Nhạc thi đỗ. Chú béo tưởng chừng là người xuề xòa, nhưng học hành rất nghiêm chỉnh. Mỗi ngày chú ta đều cần mẫn hoàn thành hết bài tập thầy giáo giao, không bỏ sót gì cả. Trong đám con em nhà giàu ở học viện Tử Dương, chú ta là người dụng công học hành nhất. Ngay cả Chu Tử Thư cũng thấy hơi thẹn... dù sao cậu thường phân tâm lo việc kinh doanh của Trân Bảo Các và Hậu cần Đường thị nữa.

Đỗ đầu hay đỗ vớt thi viện thì cũng không khác gì nhau, đều là cống sinh, đều có thể tham gia thi Hương. Nếu không phải đã là án thủ hai lần, Chu Tử Thư cũng chẳng đếm xỉa cái danh án thủ thứ ba. Án thủ có vắt ra được tiền không? Năm nào chả có ba người đỗ!

Cuối cùng, đến giờ Dần, hai sai nha và một học chính bưng bảng vàng tới trước cổng học viện.

Bảng vàng từ từ mở ra, có người khóc thét, có người sướng phát điên. Cảnh tượng rộn rã này trên đất Hoa Hạ đã xuất hiện và tiếp diễn suốt nghìn năm, chưa từng gián đoạn. Chế độ khoa cử tuy có chỗ cổ hủ quá quắt, cách thức thi chế nghệ bát cổ bóp nghẹt tư tưởng của thí sinh, trói buộc họ với Tứ thư Ngũ Kinh, nhưng đây là chế độ công bằng nhất cổ nhân có thể nghĩ ra rồi!

Dù phú quý hay bần hàn, mọi người đều có thể tham gia thi cử.

Đây là con đường đổi đời tốt nhất, mở ra cơ hội làm quan cho dân thường. Dẫu nó bào mòn tuổi xuân, nhưng không ai muốn bỏ lỡ cả.

Chốc lát thôi đã có người báo tin mừng cho Chu Tử Thư.

"Chúc mừng, Đường tiểu tam nguyên!"

"Chu Tử Thư, chúc mừng, chúc mừng!"

"Đường tiểu tam nguyên, phải khao một bữa ở lầu Thiên Thu đấy nhé!" Chu Tử Thư chắp tay cười: "Cảm ơn các bạn học rất nhiều, xin hẹn mọi người trưa mai ở lầu Thiên Thu."

Một lát sau, Chu Tử Thư mới phát hiện là không thấy chú béo Tôn đâu. Cậu tìm mãi mới thấy Tôn Nhạc trong đám đông.

"Thế nào, có đỗ không Tôn Nhạc?"

Chú béo từ từ quay mặt ra, Chu Tử Thư hết sức ngạc nhiên khi phát hiện ra chú ta nước mắt nước mũi tèm lem. Tôn Nhạc kích động quá, ôm chầm lấy Chu Tử Thư, tấm thân mỡ màng suýt chút nữa thì xô Chu Tử Thư ngã dập mặt: "Đứng nhất từ dưới lên, đứng thứ nhất từ dưới lên!" Chu Tử Thư, cái miệng cậu đúng là miệng vàng lời ngọc mà. Lần sau nhất định cậu phải bảo tớ đỗ Cử nhân nhé, đỗ bét bảng là được rồi! Ôi làng nước ơi, mai cậu muốn mời mọi người ăn ở lầu Thiên Thu hả? Tớ không cho đâu! Các bạn học, trưa mai Tôn Nhạc này sẽ thết đãi các bạn ở lầu Thiên Thu, đích thân tôi sẽ đãi các bạn!"

Chu Tử Thư dở khóc dở cười.

Có kết quả thi viện xong, Chu Tử Thư nói chuyện với các bạn học một lúc rồi về nhà. Ở nhà đã có một vị khách bất ngờ.

Chu Tử Thư hết sức ngạc nhiên, vội vàng đi tới: "Sao tiên sinh lại sang chơi thế ạ?"

Lương Tụng ngồi trên chiếc ghế gỗ giữa sân, cười hỏi: "Đây là em gái con hả?"

Chu Tử Thư liếc Đường Hoàng: "Vâng ạ, em con tên là Đường Hoàng, năm nay mười tuổi."

"Đường Hoàng, là chữ 'hoàng' nào thế?"

Cô bé nhanh nhảu: "Hoàng của màu 'vàng' ạ."

Chu Tử Thư: "Là 'hoàng' trong ngọc 'Hoàng'. Sách Chu Dịch, thiên Đại

Tông Bá có nói, lấy ngọc Hoàng đen, lễ phương Bắc. Thưa tiên sinh, là chữ 'hoàng' này cơ ạ."

Đường Hoàng há hốc miệng nhìn anh trai.

Lương Tụng thấy phản ứng của hai huynh muội, vuốt râu nói: "Hoàng là mỹ ngọc, tên này hay lắm."

Đường Hoàng ngẩn người ra hồi lâu, chợt phấn khích chạy tọt vào trong bếp, vừa chạy vừa la lên: "Diêu đại nương ơi con có tên rồi. Đường Hoàng, không phải là 'hoàng' trong màu vàng, là ngọc 'Hoàng'! Lương đại nho còn khen tên hay..."

Chu Tử Thư chỉ biết ôm mặt, có mỗi cái tên thôi mà cô nhóc nhặng hết cả lên, xấu hổ trước tiên sinh quá!

Lương Tụng đứng lên, gọi: "Đường tiểu tam nguyên?"

"A, tiên sinh đã biết tin rồi."

"Ừ, biết trước con từ đêm qua đấy. Nào, Đường tiểu tam nguyên, thầy trò mình đi dạo một lúc."

"Vâng ạ."

Hai người ra khỏi cửa, đi dọc con phố.

Chu Tử Thư thuê nhà ở cạnh một con sông nhỏ, ở thành Cô Tô chỗ nào cũng có những nhánh sông. Thầy trò hai người cứ men theo bờ sông tản bộ.

Lương Tụng hỏi: "Mấy hôm trước Ngu Chi tìm con hả?"

Chu Tử Thư chần chừ giây lát, thú thật: "Thưa vâng."

||

Chú thích

"Ô Y" có hai cách hiểu là "áo đen" hoặc "chim én". Đọc thêm ở blog .

Sông Tiền Đường ở Hàng Châu.

Thiên gia thi là tuyển tập nghìn bài thơ thời Đường, Tống

Nguyên văn dùng từ "tây tịch" (ghế tây) ý chỉ gia sư hoặc khách. Ngày xưa bao giờ chủ cùng ngồi hướng đông, khách ngồi hướng tây (có từ Đông gia chắc các bạn vẫn nhớ).

Lang Gia Cungthị là dòng họ danh tiếng có thật trong lịch sử, bắt nguồn từ quận Lang Gia ở tỉnh Sơn Đông. Tuy nhiên, để tránh hiểu lầm thì mình xin nhắc là hình ảnh họ Cungtrong truyện không liên quan mấy đến họ Cungtrong lịch sử.

Thu nương là một cách gọi ca kĩ.

Hoàng là miếng ngọc đeo ở thắt lưng. Lễ phương Bắc bằng Hoàng đen là vì màu đen đại diện cho thần Huyền Vũ phương Bắc. (Nguồn ảnh: ) [9] Miếu Phu tử – miếu thờ Khổng Tử nổi tiếng ở Nam Kinh

Ngọc Hoàng

Miếu Phu Tử

------oOo------

Chương 23

Nguồn: EbookTruyen.Net

Hậu sinh khả úy

Chuyện Từ Tuệ, Chu Tử Thư không thể nào gạt tiên sinh được. Lương Tụng hỏi, cậu chần chừ một lát rồi kể hết.

Chu Tử Thư nói: "Anh Ngu Chi bảo thực ra anh ấy không muốn phiền con, chẳng qua lúc ấy thầy đang ở Kim Lăng, việc thì gấp gáp, anh ấy chỉ thử tìm con xem sao thôi ạ."

Lương Tụng: "Thầy thực sự không muốn nó tìm con chút nào." Chu Tử Thư sửng sốt, nghiêng đầu nhìn Lương Tụng.

Lương Tụng: "Tuấn nhi, nếu nó đã nói cho con biết đạo sĩ Hoa kia là ai, hẳn cũng đã nói tại sao phải thám thính tin tức từ chỗ gã, đồng nghĩa với việc con cũng biết việc này dính dáng đến cái gì rồi."

Chu Tử Thư nhủ thầm, chẳng phải là chuyện chính biến trong cung hơn hai mươi năm trước sao? Cậu không trả lời, chỉ cúi mặt làm thinh. Song dù không nói ra, Lương Tụng cũng biết trong lòng cậu đã tỏ tường.

Lương Tụng thở dài.

Người học trò này của ông nhỏ tuổi nhưng xử sự khôn khéo, rất biết cách đối nhân xử thế. Từ Tuệ kể chuyện bí mật cho Chu Tử Thư, Chu Tử Thư tất sẽ kín đáo điều tra rõ chân tướng và tìm hiểu rõ mấy tháng nay anh ta làm gì hộ thầy. Dù Chu Tử Thư không nói, ông cũng biết rằng cậu đã nắm được tình hình.

Bằng một giọng chân thành và trìu mến, ông bảo: "Vi sư biết, con không quá tha thiết với việc làm quan."

Chu Tử Thư: "Cũng không hẳn ạ..." Quan trường như dòng sông dữ đầy đá ngầm, mấy ai dám khẳng định mình có thể vững tay chèo vượt qua. Mục tiêu của Chu Tử Thư là đỗ cử nhân rồi làm một hương thân giàu có, an cư tại vùng sông nước Giang Nam địa linh nhân kiệt, ngày ngày ăn no ngủ kĩ, cùng em gái hưởng thụ cuộc sống yên bình.

"Được rồi, vi sư làm sao mà không biết trong lòng con tính toán gì."

"...Tiên sinh hiểu con quá ạ."

"Con nghĩ được như vậy kể cũng tốt. Con từng nói, thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách. Có chí khí là rất hay, tuy nhiên vi sư không bao giờ ép con phải giữ khư khư lấy lí tưởng đó. Hiện giờ Đại Tống có vẻ yên ổn, nhưng người Liêu ở phương Bắc vẫn luôn nhòm ngó nước ta. Nếu con có thể sống bình an hạnh phúc cả đời thì đó cũng là điều vi sư hằng mong mỏi."

Hai thầy trò đi đến đầu hẻm, Lương Tụng ngừng bước, nghiêm giọng: "Kể từ hôm nay, chuyện Ngu Chi nhờ vả không liên quan gì tới con hết. Con chớ có nhúng tay vào thêm." Chu Tử Thư sững người.

Lương Tụng cười: "Đường tiểu tam nguyên à, con về đi. Công văn phủ Cô Tô chất cao như núi rồi, vi sư phải về phê duyệt đây!"

Quản gia Lương phủ đã chờ sẵn ở đầu hẻm, Lương Tụng leo lên xe ngựa.

Xe chưa lăn bánh, Chu Tử Thư đã vội chạy theo, gọi: "Tiên sinh!" Lương Tụng kéo mành xe, chỉ thấy dưới gốc dương liễu, cậu thiếu niên tuấn tú tha thiết nói: "Tiên sinh nói rằng, tiên sinh mong cho con được cả đời an vui thuận lợi. Con cũng muốn nói với tiên sinh điều tương tự, con mong tiên sinh suốt đời yên vui, tuổi già thanh thản."

Lương Tụng nhìn Chu Tử Thư chăm chú hồi lâu, nói: "Được!"

Chu Tử Thư đứng ở đầu con hẻm nhìn theo Lương Tụng rời xa.

"Hầy, chẳng biết tiên sinh có nghe vào tai không nữa."

Trong lòng Chu Tử Thư rất buồn. Cậu là một người hiện đại, tuy đã thuộc làu Tứ thư Ngũ kinh và câu "Quân quân thần thần, phụ phụ tử tử" của

Khổng Tử, nhưng rốt cuộc cũng chỉ thuộc lòng thôi chứ chẳng làm nên cơm cháo gì. Nhớ kiếp trước, vào những năm cuối triều Nam Tống, tể tướng Lục Tú Phu đã ôm ấu chúa nhảy xuống biển hi sinh vì nước, mười vạn thần dân cũng khảng khái chịu chết theo. Nghe câu chuyện "Trung Hoa mất từ trận Nhai Sơn1" này, cậu vô cùng khâm phục các nghĩa sĩ, nhưng không thể nào đồng cảm được với họ và cũng không bao giờ muốn bắt chước theo.

[1] Trận hải chiến Nhai Sơn là thời điểm quân Nguyên chấm dứt hoàn toàn triều đại của người Hán ở Trung Quốc nên văn minh Hoa Hạ bị coi là đã chết. (Vốn người Mông Cổ và các tộc người khác bị người Hán coi là mọi rợ).

Cho dù trong cuộc chính biến ngoài cổng cung hai mươi lăm năm về trước, Thái tử và Chung đại nho bị hãm hại chứ không hề có ý đồ đoạt ngôi, nhưng Đại Tống ngày nay đang tận hưởng thái bình thịnh thế. Thánh thượng đương thời có thể không phải là hoàng đế tốt, song ông cũng chẳng phải hôn quân. Ngay cả khi mê muội vì tu tiên, ông vẫn không hề tin dùng bè lũ gian nịnh, đất nước này vẫn có hi vọng.

"Rốt cuộc tiên sinh định làm gì đây?" Chu Tử Thư ngửa mặt lên trời thở dài.

Về tới nhà, đang sầu não, Chu Tử Thư lại phát hiện có mấy người khách trong sân.

Chu Tử Thư khá bất ngờ khi thấy Đường cử nhân ở nhà mình, hơn nữa lần này không chỉ có mình ông ta ghé thăm mà còn có Đường phu nhân, quản gia và cả Đường Vân nữa.

Dàn quân hùng hậu thế này, không hiểu là bọn họ có ý gì đây. Chu Tử Thư tiến lại gần chào hỏi: "Đại bá phụ, đại bá mẫu, anh họ." Đường cử nhân tỏ ra khá gượng gạo.

Năm ngoái khi Chu Tử Thư mới tới phủ Cô Tô, Đường cử nhân đã rất hờ hững với anh em Chu Tử Thư vì còn giận Đường tú tài. Tuy rằng ông đã tổ chức tiệc mừng ba ngày ba đêm sau khi Chu Tử Thư đỗ án thủ toàn phủ, nhưng ông vẫn thấy khá lúng túng khi gặp Chu Tử Thư hôm nay.

Thấy chồng có vẻ khó xử, Đường phu nhân bèn mở lời: "Tuấn nhi, cả nhà bác đến chúc mừng cháu đỗ đầu kì thi viện, đoạt danh hiệu tiểu tam nguyên đồng sinh!"

Có mỗi thế thôi à?

Nếu chỉ vì chúc mừng cậu đỗ tiểu tam nguyên thì cần gì rủ đông người đến đây như thế, chắc là còn ý khác đây. Chu Tử Thư dự đoán vài khả năng, đoạn cười bảo: "Cảm ơn đại bá mẫu."

Đường cử nhân tìm được cơ hội bèn nối lời: "Tuấn nhi, bác không ngờ cháu tài giỏi đến vậy. Cháu chính là tiểu tam nguyên đồng sinh đầu tiên của nhà họ Đường chúng ta đấy."

"Đại bá phụ quá lời rồi ạ, đó chỉ là kì thi đồng sinh thôi, cháu còn chưa thi Hương nữa mà."

Đến đây thì Đường cử nhân lại bí, không biết phải nói năng thế nào.

Đường phu nhân thấy thế thở dài: "Tuấn nhi, cháu đừng khiêm tốn vậy, để bác giải thích cho cháu nghe. Hôm nay, bác với đại bá phụ và anh họ cháu đến đây vì muốn đưa cháu về từ đường nhà ta tế tổ. Bác biết trước đây cha cháu đã từng thề cả đời không về Đường gia nữa, nhưng suy cho cùng chúng ta vẫn là người một nhà. Cháu đỗ tiểu tam nguyên là chuyện vui lớn, sáng nay mọi người trong họ nghe tin đều muốn chúc mừng cháu."

Chu Tử Thư: "Thì ra là việc này."

Văn sĩ thời cổ đại đi thi, nếu nhà nghèo thì rất đơn giản, chẳng có quy củ gì, còn sĩ tử dòng thư hương khi đỗ đạt công danh đều phải vào từ đường tế tổ, báo cáo thành tích với tổ tiên. Nhà họ Đường là một gia tộc lớn, con cháu đỗ tú tài thường không cần tế tổ. Cả người cha tú tài của Chu Tử Thư và Đường cử nhân đều không thực hiện nghi lễ này khi đỗ tú tài. Phải đến khi đỗ cử nhân, Đường cử nhân mới vào từ đường tế tổ.

Bây giờ tuy mới là tú tài nhưng Chu Tử Thư đỗ hẳn tiểu tam nguyên nên cũng đáng làm lễ ở từ đường lắm.

Đường cử nhân nói: "Cháu trai này, hồi trước bác làm vậy là chưa đúng. Ôi, như lời đại bá mẫu của cháu nói, bác là bậc cha chú, không nên vì chuyện đời trước mà oán trách đời sau. Giờ cháu đỗ tiểu tam nguyên đồng thí, Đường gia mong cháu có thể về dâng hương trong từ đường, cháu có bằng lòng không?"

Chu Tử Thư suy tư trong chốc lát, nói: "Việc đại bá phụ luôn canh cánh trong lòng, phải chăng là việc khi lão phu nhân qua đời cha cháu đã không về Cô Tô chịu tang ạ?"

Đường cử nhân: "Nếu cháu đã biết thì không cần nhắc lại. Chuyện cũng qua rồi."

Phụ thân của Đường cử nhân có hai người con trai là Đường cử nhân và Đường tú tài. Đường cử nhân tự thấy mẹ mình đối đãi với Đường tú tài rất tử tế, dù cho ông và Đường tú tài có mâu thuẫn đi chăng nữa, việc Đường tú tài thờ ơ khi bà mất thật đáng trách thay! Chuyện đó như chiếc dằm trong lòng ông, hôm nay cảm thấy hổ thẹn chẳng qua là bởi ông nhận ra mình không nên giận lây sang hai anh em Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư nói: "Việc cúng tổ tiên cháu nhất định sẽ làm ạ. Chỉ có điều, cháu muốn nhờ đại bá phụ và đại bá mẫu một việc."

Đường cử nhân hỏi: "Việc gì thế cháu?"

Chu Tử Thư: "Xin hai bác cho phép cháu và em thay mặt cha dâng một nén nhang cho lão phu nhân."

Đường cử nhân hết sức ngỡ ngàng.

Ngày hôm sau, Chu Tử Thư và Đường Hoàng cùng nhau đến thăm phần mộ tổ tiên của nhà họ Đường và thắp hương cho lão phu nhân. Chu Tử Thư nhẹ nhõm hẳn, cậu cảm thấy từ giờ mình sẽ không nợ nhà họ Đường điều gì nữa.

Đường cử nhân nói: "Cháu à, lúc trước bá phụ đã sai rồi."

Chu Tử Thư: "Đại bá phụ đừng áy náy quá."

Chu Tử Thư đỗ tiểu tam nguyên kì thi đồng sinh, người nhà họ Đường từ năm huyện Cô Tô đều tới chúc mừng. Việc cúng lễ ở từ đường đã có Đường cử nhân lo liệu chu toàn. Trước bài vị ông cha, Đường cử nhân thay mặt con cháu là Chu Tử Thư báo cáo thành tích với trời đất và tổ tiên. Người trong họ chúc mừng tới tấp, Đường cử nhân lại thay Chu Tử Thư bày yến tiệc chiêu đãi cả phủ Cô Tô suốt ba ngày ba đêm.

Sau khi những việc này kết thúc, Chu Tử Thư cuối cùng cũng được về nhà. Cậu nằm lăn trên giường: "Giả sử thi Hương lại đỗ Giải nguyên thì chỉ tổ cúng bái đến mệt!"

Đường Hoàng vừa vào nhà thì nghe câu đấy, cô nhóc hớn hở: "Anh nhắm đỗ Giải nguyên luôn ư?"

Chu Tử Thư: "Vớ vẩn, em đừng có xào nấu lại lời anh nói."

"Nếu là ai khác thì em chả tin đâu, nhưng anh thì em tin đỗ chắc!"

Chu Tử Thư dở khóc dở cười: Con nhóc này đúng là nghé tơ không sợ hổ, điếc không sợ súng! Đỗ Giải nguyên nghe tưởng dễ, nhưng thật ra khó gấp mấy lần đỗ đầu toàn tỉnh ở thời hiện đại. Chưa kể độ cạnh tranh ở trường thi Hương của Chu Tử Thư gay gắt ngang ngửa với kì thi đại học ác mộng tỉnh Giang Tô! Đỗ Giải nguyên chẳng khác nào đỗ thủ khoa Giang Tô hết, lại còn là thủ khoa ba năm mới có một người! Chu Tử Thư: "Mà nè, gọi anh có việc gì?"

Đường Hoàng nhớ ra, bảo: "Mấy ngày rồi anh em mình đều ăn tiệc ở nhà đại bá phụ chứ không ăn cơm nhà. Mãi hôm nay mới về, Diêu đại nương bảo em hỏi anh tối nay ăn gì. Vừa rồi Đường cử nhân tổ chức ăn mừng cho anh, còn hôm nay đến lượt nhà mình chúc mừng anh đó."

Chu Tử Thư thấy ấm lòng xiết bao: "Ừ, em bảo Diêu Tam mời cả nhà kế toán Lâm sang ăn chung cho vui nhé. Tiện thể ghé qua Lương phủ xem tiên sinh có rảnh không."

"Vâng. Thế mình ăn gì đây?"

Chu Tử Thư nghĩ Tần nghĩ Sở một hồi, chợt reo lên: "Ăn lẩu đê!"

Không lâu sau Diêu Tam đã rủ cả nhà kế toán Lâm sang. Công việc trong phủ bận rộn, Lương tiên sinh chưa giải quyết xong nên không đến được. Tuy vậy, ông nhờ Diêu Tam đem một bảng chữ mẫu về tặng Chu Tử Thư, nhắn rằng: "Hôm trước thầy vội quá, mà suốt từ bấy đến giờ cứ bận chuẩn bị bảng chữ mẫu nên chưa chúc mừng con đỗ tiểu tam nguyên đồng sinh. Thầy tặng con bảng chữ mẫu này, mong con chăm chỉ luyện chữ, thi Hương lại đoạt khôi nguyên nhé."

Chu Tử Thư: "..."

Đường Hoàng ngạc nhiên hỏi: "Ơ kìa anh, em tưởng anh bảo đến Lương đại nhân cũng phải khen chữ anh đẹp lắm cơ mà?"

Chu Tử Thư giấu bảng chữ mẫu ra sau lưng, bao biện: "Tiên sinh dặn anh luyện chữ thêm không có nghĩa là anh viết xấu, em cũng biết rồi đấy, học không bao giờ là đủ cả! Học, học nữa, học mãi, tiên sinh muốn anh luyện chữ thêm tức là muốn anh đã giỏi phải cố giỏi hơn nữa!"

Đường Hoàng: "Chắc là em tin."

Chu Tử Thư: "..."

Bộ đứa em gái này nhặt từ ngoài đường về hay sao?

Chu Tử Thư chưa kịp nói gì, Đường Hoàng đã chạy ù vào bếp: "Diêu đại nương, Lương tiên sinh nói là chữ anh con xấu như gà bới, còn cho anh một bảng chữ mẫu để luyện cơ!"

Chu Tử Thư: "..." Việc xấu trong nhà không được vạch áo cho người xem lưng có hiểu không!

Đến tối, hai anh em Chu Tử Thư, mẹ con Diêu gia và cả nhà kế toán Lâm cùng ngồi tụ tập ngoài sân. Trong sân có một cây dâu lớn, Diêu đại nương kê bàn ở dưới gốc cây. Đêm hè ngồi ăn cơm dưới tán cây, ánh Tuấng sáng vằng vặc, cảm giác thật là khoan khoái.

Diêu đại nương: "Tiểu đông gia, như cậu dặn, tôi đã chuẩn bị lò than với nồi và rửa sạch rau rồi. Riêng thịt lợn và thịt dê cậu dặn thái lát, tôi không biết thế nào mới đúng ý cậu, nên cứ lạng mỏng nhất có thể, cậu xem như vậy đã được chưa?"

Chu Tử Thư ngó thử, thịt lợn và thịt dê đều thái rất mỏng, tuy không mỏng tang như thời hiện đại, nhưng thế này là ăn được rồi.

Thời cổ đại, thịt bò bị cấm ăn, trừ khi được triều đình cho phép. Bất kể ai lén ăn thịt bò đều bị tống giam và xử phạt hết vì trâu bò là phương tiện sản xuất quan trọng. Trâu bò có thể kéo cày, mỗi một con bò đều là tài sản quý báu. Người dân không ai lại đi mổ bò nhà mình cả vì như thế là tự triệt đường sống. Quan phủ cũng không cho phép tự tiện giết bò cày kéo.

Chu Tử Thư khá tiếc nuối vì cậu mê thịt bò cuốn lắm, nhưng cuốn thịt dê cũng khá ngon, còn thịt heo thì không được ngon bằng.

"Diêu đại nương, nước xương cháu nhờ bác ninh đã được chưa ạ?"

"Được rồi, ninh cả chiều đấy, thơm lắm!"

Chu Tử Thư: "Hay quá, vậy cứ đặt nồi nước xương trên lò than là chúng ta ăn lẩu được rồi."

Diêu Tam hỏi: "Lẩu á? Ý tiểu đông gia là bát hà cung hả?"

Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Bát hà cung ư?"

"Đúng rồi. Ơ, thế hóa ra tiểu đông gia không muốn ăn bát hà cung à?" Chu Tử Thư đần mặt ra.

Nghe Diêu Tam giải thích xong Chu Tử Thư mới vỡ lẽ, hóa ra thời cổ đại đã có lẩu từ lâu rồi! Chẳng qua người ta không gọi là lẩu mà gọi là bát hà cung.

Diêu Tam: "Tôi nghe cậu nói cần lò than thì đã nghĩ bụng có phải tiểu đông gia muốn ăn bát hà cung hay không. Thấy cậu bảo mẹ tôi rửa rau, tôi chắc mẩm là cậu muốn ăn bát hà cung rồi. Còn lẩu là cái gì thì tôi chưa nghe tên bao giờ."

Kế toán Lâm vê chòm ria: "Tôi biết tiểu đông gia đang nói gì rồi. Mọi người thấy ở đây có bếp lò này, có nồi nấu này. Có bếp lửa (hỏa) có nồi (oa), thì chẳng là 'nồi lẩu' (hỏa oa) còn gì?"

Diêu Tam: "Đúng là nồi lẩu thật! Hai chữ "nồi lẩu" này còn rất gợi hình nữa."

(Chữ lẩu trong tiếng Việt bắt nguồn từ chữ "lô" là "bếp lò" nên mình chém :P)

Vừa đúng lúc Diêu đại nương bưng rau lên, mọi người quây quần thành một vòng tròn, cùng nhau sà vào nhúng lẩu ăn.

Chu Tử Thư cứ tưởng được phen đãi cả nhà món ăn thời hiện đại. Ai dè Diêu đại nương còn sành sỏi hơn cậu nhiều, bà pha cho mỗi người một bát nước chấm rất ngon, có đủ tỏi, hành, nước tương, tha hồ chấm rau thịt.

Sĩ diện của Chu Tử Thư đã sụp đổ hoàn toàn. Lúc này Diêu đại nương nói: "Không ngờ dùng nước ninh xương làm bát hà cung lại ngon thế này. Tôi với Tam nhi cũng từng ăn bát hà cung ở Sơn Tây rồi, nhưng bát hà cung của chúng tôi chần thức ăn bằng nước trong rồi chấm tương, không ngon ngọt như bát hà cung với nước xương thế này."

Chu Tử Thư hỏi: "Chỉ dùng nước thường để chần thức ăn thôi ấy ạ?"

"Ừ. Đúng thật là chưa từng nghĩ có thể dùng nước khác để nấu."

Mắt Chu Tử Thư lại sáng ngời như đèn pha. Ăn lẩu xong, cậu gọi kế toán Lâm vào phòng, bảo: "Cháu tính mở một tửu lâu chỉ bán lẩu, kế toán Lâm, bác thấy có ổn không?"

Kế toán Lâm sửng sốt: "Ý tưởng này... cũng không phải là không khả thi, chỉ là trước đây chưa ai thực hiện."

Chu Tử Thư đi mấy vòng trong phòng, dừng lại nói: "Món lẩu vừa nãy, bác thấy ăn có ngon không?"

"Ngon lắm! Vị ngọt từ nước xương ngấm vào đồ nhúng, phải nói là tuyệt trần!"

"Thế thì triển khai thôi!"

Hôm sau, Chu Tử Thư lại nhờ Diêu đại nương chuẩn bị bếp lò và nồi lẩu. Diêu đại nương tưởng cậu lại muốn ăn bát hà cung, nhưng Chu Tử Thư nhờ bà rửa rau và thái thịt dê xong rồi không để bà chế biến tiếp. Cậu tự tay thả rau và thịt dê vào nồi, kiên nhẫn ước lượng thời gian để những món này chín.

"Có vẻ hơi lâu rồi."

Lò than chính là phát minh của những người mê thưởng thức trà từ triều đại trước, chuyên dùng để pha trà. Đã pha trà thì cần phải khoan thai và cẩn thận, nên ở đáy lò có ba lỗ để thông khí cho than cháy, đồng thời cũng giữ cho lửa không bị bùng lên. Dùng lò than ăn lẩu trong thời gian ngắn thì không vấn đề gì, nhưng về lâu về dài thực khách sẽ mất kiên nhẫn, việc làm ăn cũng không phất lên được.

Chu Tử Thư nhốt mình trong phòng suy ngẫm thật lâu, đem kinh nghiệm ăn lẩu kiếp trước của mình ra ôn lại hết một lần, liền bật ra sáng kiến: "Lẩu Bắc Kinh xưa!"

Món lẩu nổi tiếng nhất thời hiện đại chính là lẩu Tứ Xuyên, cay cay sướng miệng. Ngoài lẩu Tứ Xuyên ra còn có lẩu Quảng, lẩu Bắc Kinh xưa, và rất nhiều loại nữa. Lẩu Tứ Xuyên và Lẩu Quảng tuy một loại thiên cay, một loại thiên thanh, nhưng đều ăn trên bếp ga hoặc bếp điện từ. Bát hà cung thời này cũng thế, nhưng thay vì bếp từ thì người ta dùng lò than.

Song lẩu Bắc Kinh xưa thì khác.

Lẩu Bắc Kinh xưa không dùng bếp từ, chỉ cần lửa than để nấu chín thực phẩm! Nồi lẩu Bắc Kinh xưa là một loại nồi đồng đặc biệt, có phần đế cao, giữa nồi là một ống trụ rỗng, bên trong đổ than. Phần máng trũng xuống xung quanh ống trụ dùng để nhúng lẩu. Với loại nồi này thì nước lẩu sẽ sôi rất nhanh, còn nhanh hơn cả dùng bếp từ nữa.

Kỳ thực trước khi có bếp từ và bếp ga, mọi người vẫn dùng loại nồi này để nấu lẩu. Nhưng về sau thì chỉ còn lẩu Bắc Kinh xưa vẫn chuộng loại nồi đặc biệt này thôi.

Vẽ ra nồi lẩu này không khó, chế tạo cũng dễ hơn bình chưng cất tinh dầu nhiều. Chu Tử Thư vẽ bản vẽ xong thì giao cho thợ rèn Cungđầu phố. Cậu bảo: "Cháu muốn làm một nồi đồng, một nồi sắt, bác áng xem bao lâu thì xong?"

Thợ rèn Cungngắm nghía đôi chút: "Nồi này hơi lạ nhỉ, nhưng dễ làm lắm. Ba hôm nữa là có ngay."

Có hai chiếc nồi mới rồi, Chu Tử Thư nhờ Diêu đại nương nấu một nồi nước cốt. Cậu cẩn thận rót nước dùng vào nồi, lại thả ba cục than cháy đỏ vào trong chiếc ống cao vút. Chờ nước xương sôi sục lên, Chu Tử Thư thả vào mỗi nồi một gắp rau tươi.

Độ nửa chung trà* thì rau trong nồi đồng đã chín. Một lát sau, rau trong nồi sắt mới chín.

(*) cỡ bảy phút rưỡi

Chu Tử Thư: "Tạm ổn, thời gian chín không quá lâu, dùng nồi sắt cũng được.

Nhiệt dung riêng của đồng nhỏ hơn sắt nên với cùng một nguồn nhiệt than, đồng sẽ nóng lên nhanh hơn sắt, thời gian nấu chín thực phẩm sẽ ngắn hơn. Tuy nhiên, đồng đắt hơn sắt. Dưới triều đại trước, sắt từng quý hơn đồng, nhưng ở triều đại hiện giờ, sắt đã trở nên phổ biến hơn rất nhiều. Giải quyết được vấn đề nồi niêu, giờ chỉ còn thử thách về nguyên liệu.

Thời hiện đại, ăn lẩu quan trọng nhất ba yếu tố, một là nước cốt lẩu, hai là nước chấm, ba là đồ nhúng phải tươi ngon, chất lượng hảo hạng. Hai yếu tố đầu Chu Tử Thư không lo lắm, cậu đã được thưởng thức tinh hoa ẩm thực của con người Hoa Hạ mấy nghìn năm sau, điều chế ra nước cốt lẩu và nước chấm ngon chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Còn thực phẩm tươi ngon thì...Chu Tử Thư suy nghĩ một lát, mỉm cười.

Cậu cũng chẳng lo!

Hậu cần Đường thị sẽ giải quyết vấn đề ấy ngon ơ!

Khắp phủ Cô Tô, chắc chắn không có tửu lâu nào dám đảm bảo vận chuyển được nguyên liệu tươi từ khu Tây thành sang khu Đông thành trong vòng nửa canh giờ. Nhưng Hậu cần Đường thị thì hoàn toàn có thể xử lí được việc đó!

Chu Tử Thư nhờ kế toán Lâm mời ba đầu bếp đến từ ba vùng miền khác nhau, có tay nghề và khẩu vị hoàn toàn khác nhau tới. Ba đầu bếp này và Chu Tử Thư cùng nhau nghiên cứu nửa tháng, chốt được bốn loại nước cốt lẩu và mười hai loại nước chấm khác nhau phù hợp với nhiều khẩu vị.

Mọi sự đã đâu vào đấy, chỉ thiếu một ngọn gió Đông.

Chu Tử Thư gọi Diêu Tam, hai người cùng nhau đến nơi ở của nhân viên Hậu cần Đường thị. Hiện tại, Hậu cần Đường thị đã có hơn một trăm năm mươi nhân viên. Ở mỗi phường, Chu Tử Thư lại cắt đặt một chủ quản để điều phối công việc trong khu vực đó. Ngoài ra, cậu cũng thiết lập chế độ quản lí chéo rất nghiêm ngặt giữa các nhân viên.

Nếu có vấn đề xảy ra ở cấp nhân viên thì cả nhân viên và chủ quản đều phải chịu trách nhiệm. Chế độ giám sát từ trên xuống dưới này đã nâng cao tính an toàn cho dịch vụ vận chuyển hàng hóa của Hậu cần Đường thị. Mỗi tháng Hậu cần Đường thị không kiếm được cho Chu Tử Thư bao nhiêu tiền, các hoạt động hầu như không sinh lời mấy, thậm chí Chu Tử Thư còn hào phóng nâng tiền công cho nhân viên. Nhưng, Chu Tử Thư vẫn duy trì kinh doanh, bởi mục đích ban đầu của cậu không chỉ là làm hậu cần.

Chu Tử Thư triệu tập các chủ quản lại, nói: "Tháng sau, tôi sẽ mở một tửu lâu ở Toái Cẩm Nhai. Chia sẻ với mọi người, tửu lâu này không hề giống với những tửu lâu khác, thế nên tôi luôn cần thức ăn tươi ngon nhất. Nước phù sa không chảy ruộng ngoài, công việc này xin nhờ cả vào mọi người. Ngoài ra, tôi muốn từ mai, các chủ quản hãy dặn nhân viên của mình trong phủ Cô Tô làm giúp tôi một việc."

Các chủ quản hỏi: "Tiểu đông gia, việc vận chuyển thực phẩm tươi không có gì khó, chẳng hay ngài còn muốn chúng tôi làm gì nữa ạ?"

Chu Tử Thư cười: "Quảng cáo đó, chỉ cần quảng cáo thôi. Toàn bộ nhân viên của Hậu cần Đường thị trong phủ Cô Tô hãy quảng cáo cho tửu lâu chúng ta sắp mở!"

Hơn một trăm nhân viên rải khắp các phường và nhai lớn trong thành Cô Tô, tất cả đều có mạng lưới quan hệ thân thiết với các chủ tiệm, các khách hàng khác nhau. Số nhân viên này không chỉ là tai mắt ngầm của Chu Tử Thư ở phủ Cô Tô, mà còn là các nhân viên quảng cáo xuất sắc!

Việc Chu Tử Thư định mở nhà hàng lẩu đến tai Đường phu nhân, bà khá ngạc nhiên, gọi Chu Tử Thư sang hỏi: "Cháu định mở tửu lâu thật đấy hả?"

Chu Tử Thư: "Đại bá mẫu cũng biết ạ?"

Đường phu nhân nói: "Sao mà không biết được? Tuy nhà họ Đường mình có nô bộc không cần thuê Hậu cần Đường thị, nhưng nhân viên của cháu đi khắp phường trên xóm dưới kháo nhau chuyện cháu sắp mở tửu lâu bán bát hà cung rồi. Bác chưa từng nghĩ tới ý tưởng này. Mở tửu lâu mà chỉ bán đúng một món là bát hà cung, theo bác biết, cháu là người đầu tiên đấy. Kinh doanh bát hà cung cũng không khó, chủ yếu là thực phẩm phải thật tươi kể cả với số lượng lớn. Nói tới đây, Đường phu nhân cũng giật mình, bảo: "Thế mà bác quên đấy, Hậu cần Đường thị của Tuấn nhi chính là phương tiện vận chuyển nguyên liệu sẵn có đấy còn gì!"

Mới hết một ngày, hôm sau Chu Tử Thư đến Lương phủ nộp bài tập cho thầy, thì Lương Tụng cũng đã hay tin.

"Nghe nói con chuẩn bị mở một tửu lâu chuyên bán bát hà cung hả?"

Giờ thì đến Chu Tử Thư cũng thấy choáng với hiệu suất của nhân viên nhà mình.

"Đúng rồi ạ thưa tiên sinh."

Trong thời đại này, địa vị thương nhân không cao bằng sĩ tử, nhưng không hề thấp như trong trí nhớ của Chu Tử Thư. Quan lại xuất thân nhà buôn không nhiều lắm, nhưng không phải không có. Phần lớn thời gian của họ đều dành cho việc công vụ, còn việc buôn bán thì do người nhà quán xuyến. Chu Tử Thư hiện giờ mới chỉ là tú tài, thậm chí chưa đỗ cử nhân, cậu mở tửu lâu cũng không khiến ai dị nghị cả.

Lương Tụng cũng nói: "Từ khi tới Cô Tô đến giờ, ta chưa ăn bát hà cung lần nào, con nhắc đến làm ta lại hơi thèm đấy."

Chu Tử Thư: "Hay là hôm nay tiên sinh đến nhà con đi, nhà có con nồi đồng chuyên dụng, ăn bát hà cung bằng nồi ấy thì tuyệt vời!"

Lương Tụng: "Được, thế thì sang nhà con."

Ngoài tửu lâu lớn nhất phủ Cô Tô là lầu Thiên Thu, trên Toái Cẩm Nhai có rất nhiều tửu lâu khác. Chu Tử Thư cho nhân viên đi quảng bá rầm rộ thế không thể tránh khỏi việc gây sự chú ý với các nhà này. Khéo làm sao, tòa lầu kế toán Lâm mua lại ở góc xéo đối diện với lầu Thiên Thu, cách nhau chưa đến năm mươi mét.

Trưa hôm đó, thực khách vẫn nườm nượp trong lầu Thiên Thu như mọi bận. Quản lý Diêu của lầu Thiên Thu nhìn tòa lầu đang được sửa sang ở phía đối diện, lần tràng hạt trong tay. Lát sau, ông gọi một tiểu nhị nhà mình lên: "Tửu lầu mới kia tên gì, mi đã nghe ngóng được chưa?"

Tiểu nhị lắc đầu: "Chưa ạ. Quản lí này, Đường tiểu tam nguyên cũng lạ ghê, một thư sinh đàng hoàng như cậu ấy, vừa mới đỗ tiểu tam nguyên đồng thí, sao lại không lo học tiếp? Thi Hương ba năm mới có một lần mà năm sau thi rồi! Chỉ còn một năm, cậu ấy không chuẩn bị thi Hương mà lại đi mở tửu lầu, thật là kì quặc!"

"Cậu bé này mới có mười bốn tuổi, là tiểu tam nguyên đồng sinh trẻ tuổi nhất phủ Cô Tô từ trước tới nay. Dù năm sau cậu ấy không đỗ cử nhân thì sao, mới có mười lăm tuổi thôi. Đợi cậu ta trui rèn thêm ba năm, mười tám tuổi đỗ cử nhân, cũng thành giai thoại rồi!" Quản lí Diêu ngẫm nghĩ, bảo: "Tửu lầu đó chỉ bán bát hà cung, không quá ảnh hưởng đến việc làm ăn của nhà ta."

Tiểu nhị nói: "Lầu Thiên Thu nhà mình là cửa hiệu gia truyền, tiếng tăm bao đời nay ở Cô Tô, cậu ta có gan giành khách nhà mình ư? Quản lí, nếu thế thì cậu ta dây vào nhầm người rồi!"

Quản lí Diêu cười lạnh ngắt: "Đúng là đồ óc bã đậu! Biến, biến đi làm việc mau!"

Ông ta nhìn đám thợ tất bật vào ra ở tửu lầu đối diện, tiếng lần tràng hạt trên tay lách cách không ngừng. Cái ông nhìn thấy ắt phải nhiều hơn những thứ một tiểu nhị nhỏ nhoi có thể thấy. Chu Tử Thư cho nhân viên quảng cáo, cố tình loan tin rằng tửu lầu chỉ bán bát hà cung, thứ nhất là để bách tính phủ Cô Tô đều biết tửu lầu bọn họ kinh doanh cái gì, thứ hai, là để vỗ yên các tửu lầu gia truyền, lâu đời ở Cô Tô.

Chu Tử Thư chỉ có một thân một mình, tới Cô Tô chưa tròn năm, đã làm nên những việc khiến kẻ sửng sốt.

Người thường không biết, nhưng quản lí Diêu đã được ông chủ tiết lộ rằng xà phòng, xà phòng thơm, tinh dầu của Trân Bảo Các nhà họ Đường đều là tác phẩm của cậu Đường tiểu tam nguyên này. Hơn nữa, dịch vụ hậu cần không lợi nhuận của cậu ta, tuy không thu lời, nhưng cậu ta có thể xoay xở để không lỗ vốn đã khiến rất nhiều thương nhân từng coi thường dịch vụ hậu cần phải choáng váng.

Cũng phải tới mấy ngày nay, quản lí Diêu mới ngẫm ra, mục tiêu của Chu Tử Thư đâu chỉ là kinh doanh hậu cần, cái cậu nhắm tới là cả phủ Cô Tô!

Cách đây một năm, ai dám tin là có người chỉ mất một ngày đã có thể khiến mười vạn bách tính trong phủ biết nhà anh ta mở tửu lầu? Một đồn mười, mười đồn trăm là đây chứ đâu. Mánh khóe này của Chu Tử Thư chẳng những hết sức diệu kì mà còn được ngụy trang rất kĩ nữa.

Quản lí Diêu thốt lên: "Hậu sinh khả úy!"

||

Manh: Các bạn hãy tưởng tượng buổi tối trời se lạnh mình gõ chap này thèm lẩu quằn quại huhu. Mấy chap vừa rồi định để tồn kho post hằng tuần mà mình lên cơn lười muốn update mục lục với link dẫn chap luôn thể nên post hết luôn :))

Chú thích

Bát hà cung là món lẩu thịt thỏ truyền thống của Hà Nam, Trung Quốc. Được mô tả là sau khi trần thì miếng thịt có màu đỏ tía như mây chiều (hà) nên có cái tên "Bát hà cung".

Nồi lẩu mà Chu Tử Thư nhắc đến là chiếc nồi này. Nồi lẩu

Phong lô: lò than pha trà

------oOo------

Chương 24

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thành viên Tùng Thanh đảng

Mùng một tháng Mười, tiết Hàn Y, thời điểm tặng áo rét cho người nghèo, tặng đậu đỏ cho người thương.

Phủ Cô Tô không coi trọng tiết Hàn Y bằng phủ Kim Lăng. Đây không phải là dịp được người dân Cô Tô quan tâm mấy, vì tuy trời bắt đầu trở rét ở tầm tiết Hàn Y thì cũng chỉ phải mặc thêm ít quần áo mùa thu thôi. Ấy vậy mà hôm nay trên Toái Cẩm Nhai lại đông vui như trẩy hội, hóa ra ngay gần lầu Thiên Thu, chẳng biết tự bao giờ đã mọc lên một tòa tửu lầu lộng lẫy, sang trọng.

Phố Toái Cẩm dài tít tắp, tiếng nói cười rôm rả. Trước cửa lầu Thiên Thu, quản lí Diêu đứng nhìn sang phía đối diện.

Tiểu đông gia của Hậu cần Đường thị – Đường tiểu tam nguyên – có bản lĩnh thế nào, giới thương nhân trong phủ Cô Tô đã rõ. Dịch vụ hậu cần kì quặc của cậu ta tạm không nói đến, quản lí Diêu biết, Hoàng Kim Lũ của Trân Bảo Các nhà họ Đường có thể bán chạy như vậy, trở thành báu vật của các tiểu thư, phu nhân Cô Tô, cũng là do một tay Chu Tử Thư!

Nhưng kì lạ làm sao, hôm nay Chu Tử Thư khai trương tửu lầu lại khá là khiêm tốn, chỉ mời đội múa lân biểu diễn trước cửa và đốt pháo mừng.

"Cậu Chu Tử Thư này lại đang làm gì đây?" Quản lí Diêu săm soi hồi lâu mà không có manh mối.

Hậu cần Đường thị đã tuyên truyền về lễ khai trương của tửu lâu từ một tháng trước. Hôm nay tửu lâu Đường gia đã chật ních khách khứa từ sớm, tân khách tập nập ra vào. Quản lí Diêu bèn sai một đứa tiểu nhị: "Ngươi sang bên tửu lâu của Đường tiểu tam nguyên dò la xem rốt cuộc cậu ta đang làm cái trò gì."

Tiểu nhị nói: "Thưa quản lí, nhà họ chuyên bán bát hà cung, tôi sang đó cũng nên đặt một nồi bát hà cung chứ ạ?"

Quản lí Diêu hừ một tiếng: "Bảo đi thì đi đi, ai để mi thiệt đâu."

"Dạ vâng."

Tiểu nhị được quản lí Diêu sai bảo là đứa đầy tớ khôn ngoan nhất lầu Thiên Thu, tên là Trương Miếu Nhi. Trương Miếu Nhi nhận việc xong cũng không chạy sang tửu lầu kia ngay, mà lẳng lặng đi thay quần áo trước. Sau đó, anh ta mới rời lầu Thiên Thu qua bên đường, ngẩng đầu nhìn bảng hiệu.

"Lầu Tế Hà?" Trương Miếu Nhi tuy biết đọc nhưng cũng chỉ nhận mặt được những con chữ khổ lớn trên bảng hiệu chứ không hiểu ý nghĩa sâu xa.

Một thư sinh đi ngang qua cạnh anh ta, nhìn tấm biển thốt lên: "Tay ngà thanh mảnh vành Tuấng thẹn, nâng niu chén rượu lóng lánh vàng! Cái tên Lầu Tế Hà này mới hay làm sao, nhất định ta phải xem trong lầu có chén rượu sóng sánh ánh vàng không mới được!"

Trương Miếu Nhi lẩm bẩm: "Thư sinh đúng là bọn sính chữ!" Đoạn đi vào theo người này.

Trương Miếu Nhi chân trước vào cổng, đã có một tiểu nhị vội vàng chạy tới. "Quý khách, lầu Tế Hà của chúng tôi hôm nay kín khách rồi ạ."

Trương Miếu Nhi: "Ồ, thế ta phải về hả?"

Tiểu nhị: "Xin chớ đi vội. Mời quý khách qua bên kia, nếu ngài đồng ý thì cứ ngồi chờ một lát. Có người ăn xong tôi sẽ báo cho ngài." Trương Miếu Nhi ngỡ ngàng: Còn có cả trò này nữa à?

Là tửu lầu tốt nhất và đắt nhất Cô Tô, lầu Thiên Thu cũng thường xuyên gặp tình huống kín khách. Khách đến lầu Thiên Thu thường phải đặt bàn trước, nhưng lầu Thiên Thu chưa bao giờ nói với khách rằng "mời ngài ngồi chờ một lát" cả. Họ vốn chẳng sợ thiếu khách bao giờ, thực khách cũng không chờ lâu được. Lẽ nào thời gian khách ăn bát hà cung ngắn hơn so với khi dùng bữa ở các tửu lâu thông thường?

Trương Miếu Nhi bán tín bán nghi đi theo tiểu nhị kia, tới một căn phòng nhỏ dành cho khách ở phía đằng sau. Tiểu nhị ân cần chu đáo quá khiến Trương Miếu Nhi hơi hoảng, tưởng người ta phát hiện ra mình là do thám của lầu Thiên Thu rồi. Trương Miếu Nhi vào phòng liền ngạc nhiên phát hiện đã có bảy tám người chờ ở đây rồi. Trong số đó, anh ta nhận ra ngay tiểu nhị của hai tửu lầu khác.

Ba người lúng túng nhìn nhau, nhưng không ai nói gì cả.

Trương Miếu Nhi kinh ngạc không thôi, sau khi an vị, bỗng nghe "coong" – một tiếng chiêng phát ra từ đài cao trong phòng. Trên đài, một người kể truyện già nua, gầy tong teo vỗ kinh đường mộc xuống bàn, tiếng đàn nhị tấu lên. Người kể chuyện nói: "Lại nói đến những năm cuối triều trước, quần hùng tranh hươu1, chiến sự loạn lạc. Ở phủ Kim Lăng có làng chài nọ, vào một hôm bầu trời ráng đỏ, mây lành hiện giữa trời xanh, có tiếng khóc oa oa báo hiệu một đứa trẻ sơ sinh chào đời!

[1] Ý chỉ tranh đoạt quyền lực bất phân thắng bại.

Kinh đường mộc lại vỗ xuống bàn, Trương Miếu Nhi giật mình, vô thức lắng nghe câu chuyện của người kể chuyện.

Truyện của ông này hoàn toàn khác với những câu chuyện hay được kể ở các quán trà.

Truyện kể rằng những năm cuối triều đại ấy, phủ Kim Lăng bỗng xuất hiện một thần đồng. Thần đồng này ba tuổi đã nhớ được trăm chữ, năm tuổi biết đọc thơ. Tám tuổi thì xuất khẩu thành thơ, mười tuổi đỗ tiểu tam nguyên đồng thí Kim Lăng, mười hai tuổi đoạt Giải Nguyên, còn tài giỏi hơn cả Chu Tử Thư. Nào ngờ khi ấy, thần đồng bị kẻ khác đố kị, hạ độc ám hại khiến chẳng những tàn phế hai tay mà còn bị câm.

Trương Miếu Nhi nghe đến đấy thì căm phẫn sục sôi, bởi dù kẻ tiểu nhân đã bị giải lên quan phủ, nhưng thần đồng đã trở thành phế nhân, phải chịu sự chèn ép của bao người. Những kẻ từng nịnh bợ giờ đây đều không ngại ngần dè bỉu, dèm pha. Cha của thần đồng cũng mắc bạo bệnh qua đời, để lại cậu ta bơ vơ, vừa câm vừa phế. Tuy thế, hàng ngày cậu vẫn chăm chỉ đọc thi thư, không bao giờ từ bỏ.

Một ngày nọ, thần đồng bị mẹ kế ủn ngã xuống sông, thấy cậu sắp chết đuối, một ông cụ đi ngang qua đã vớt cậu lên, còn chữa trị cho hai tay đã bị liệt của cậu.

"Ta chỉ là một y sĩ lang thang mà thôi, bệnh câm của cậu ta không trị được. Tương phùng là cái duyên, cậu hãy tự lo cho bản thân!"

Thần đồng lấy đôi bàn tay vừa mới lành, nhịn đau viết lên đất: "Tôi bị câm cũng không sao, đôi tay này sẽ thay tôi nói. Nếu có ngày tôi trở thành vua, xin được xây trăm tòa miếu ghi ơn ân nhân, nhang đèn nghìn năm không dứt!"

Trương Miếu Nhi reo lên: "Nói hay quá!"

Anh ta hò reo khiến mấy vị khách trong phòng cũng nhao nhao: "Đúng lắm! Câm thì đã làm sao, bọn xu nịnh hèn hạ hãy chống mắt lên mà nhìn!"

Trương Miếu Nhi nghe truyện say sưa, lúc sau tiểu nhị tiếp đón hồi nãy tới gọi: "Quý khách, tới lượt ngài rồi."

Trương Miếu Nhi ngớ người ra: "Hả?"

"Mời ngài lên lầu ngồi, có thể ăn được rồi ạ."

"..."

Trương Miếu Nhi lưu luyến rời khỏi phòng chờ, anh ta đặt một nồi bát hà cung rẻ nhất. Khi đồ lên, anh ta ngạc nhiên phát hiện ra món ăn này hoàn toàn khác với món mình đã từng ăn. Nước cốt đậm đà kết hợp hài hòa với rau xanh tươi rói. Thịt dê thái lát trụng sơ trong nồi, chấm với nước chấm đặc biệt của Lầu Tế Hà.

"Diệu kì! Bát hà cung hóa ra cũng có thể ăn thế này đây!"

Trương Miếu Nhi ăn luôn mồm, vứt luôn chuyện kể ban nãy ra sau đầu. Ăn bát hà cung hơi khát nước, anh ta cầm cốc lên, chợt phát hiện đã hết trà. Anh định lấy ấm trà để tự rót, một tiểu nhị mau mắn chạy tới nhấc ấm lên rót trà phục vụ.

"Quý khách, trà hơi nguội rồi, để tôi đổi cho quý khách một ấm khác."

"Hả... Ơ, được..."

Khi Trương Miếu Nhi gắp miếng rau cuối cùng trong khay rau, liền có tiểu nhị dọn khay rau đó đi. Ăn lẩu khá nóng, Trương Miếu Nhi cởi áo khoác, lập tức có tiểu nhị treo áo lên cho anh ta.

Trương Miếu Nhi đánh chén thỏa thuê sung sướng, trần đời chưa bao giờ anh ta ăn bát hà cung ngon đến vậy, đồ ăn ở đây chẳng kém cạnh gì với lầu Thiên Thu cả!

Ăn hết nồi lẩu, Trương Miếu Nhi hẵng còn thèm thuồng, đã có tiểu nhị bưng khăn ẩm đến thưa: "Mời quý khách lau tay ạ."

Trương Miếu Nhi giật mình, bỗng cảm thấy mình như bậc bề trên vậy. Tới tận khi quay về lầu Thiên Thu, anh ta vẫn váng vất, tưởng như vừa đạp mây bay, chân không chạm đất.

Quản lí Diêu hỏi: "Rốt cuộc Đường tiểu tam nguyên đang làm gì hả?"

Trương Miếu Nhi chẳng biết trình bày sao: "Chuyện này..."

"Hử? Lầu Tế Hà có gì lạ sao?"

Trương Miếu Nhi nhớ đến câu chuyện chưa nghe hết, nhớ lại nồi bát hà cung ngon lành tuyệt hảo, nhớ sự phục vụ tận tình chu đáo mà lòng lâng lâng như thể chưa rượu đã say. "Lầu Tế Hà đó không bình thường chút nào đâu. Quản lí, ngày mai tôi xin đi thăm dò thêm một lần nữa, hẳn có thể hiểu rõ thực hư ạ!"

Quản lí Diêu nhướng mày: "Ờ."

Ngày khai trương đầu tiên, Lầu Tế Hà mở cửa từ giờ Tỵ đến giờ Thân. Trời tối rồi mà đèn đuốc vẫn sáng trưng.

Có người chẳng hiểu sao có nhiều khách khứa đồng ý đi vào chờ ăn thế, thậm chí là chờ nửa canh giờ để ăn một nồi bát hà cung. Đến khi Quản lí Diêu phát hiện ra có gì đó sai sai, thì Trương Miếu Nhi đã mất tăm mất tích, coi như bỏ việc rồi. Quản lí Diêu không tìm được anh ta, chỉ đành giận bản thân tin lầm người. Trương Miếu Nhi cũng muốn xin vào Lầu Tế Hà làm việc, nhưng làm tiểu nhị ở lầu Tế Hà đâu có dễ, chẳng phải ai cũng xin vào được.

Lầu Tế Hà buôn may bán đắt, tuy nói là không cạnh tranh với các tửu lầu khác, nhưng nếu có thể ăn ở lầu Tế Hà thì các khách hàng đều chọn đến đây cả. Thậm chí họ bằng lòng chờ ở phòng khách, nghe người kể chuyện thuật lại câu chuyện thần đồng đoạt thiên hạ.

Cuối tháng Mười, lúc Chu Tử Thư đang luyện chữ, kế toán Lâm đến báo tin vui.

"... Việc buôn bán thuận lợi lắm!" Trình sổ thu chi lên, kế toán Lâm nói: "Tiểu đông gia, lúc đầu tôi cứ không hiểu sao cậu phải phục vụ các khách hàng đến trễ. Giờ mới biết cậu thật cao tay! Rất nhiều khách đến không phải để ăn bát hà cung, mà tới để nghe kể chuyện! Đến nghe chuyện, tiện thể ăn bát hà cung, thật là tuyệt vời! Sao cậu không cho người kể chuyện ngồi ngay giữa tửu lâu ấy, như vậy khách có thể vừa ăn vừa nghe truyện."

Chu Tử Thư ngừng bút: "Để họ vừa ăn vừa nghe truyện á? Ầy, thế thì họ sẽ ngồi ăn mãi, không chịu đi!"

Kế toán Lâm ngộ ra: "Tôi ngốc quá. Tiểu đông gia, cũng nhờ cậu viết truyện hay quá, nghe xúc động biết bao." Kế toán Lâm ngượng ngập nói: "Không dám giấu cậu, tôi cũng đến nghe hai hôm, chỉ hận không được nhảy vào trong truyện, giúp thần đồng nhỏ tuổi tiêu diệt hết bọn ác nhân!"

"Cháu chỉ viết đại cốt truyện thôi, nhờ ông Lâm tìm được hai người kể chuyện diệu bút sinh hoa2, biến cốt truyện đơn sơ của cháu thành lời văn tuyệt diệu đấy chứ!"

[2] ví người có tài sáng tác tuyệt diệu.

Kế toán Lâm: "Tiểu đông gia đừng khiêm tốn. Mỗi tội truyện đã kết thúc rồi, tiểu đông gia có câu chuyện nào mới không?"

Chu Tử Thư sửng sốt: "Đã kể xong hết rồi ạ?"

"Vâng."

"Nhanh thế chứ lại... Hầy, cháu cũng không có câu chuyện nào khác." Chu Tử Thư kiếp trước là trai bách khoa chính hiệu, với vốn văn học ít ỏi là vài cuốn tiểu thuyết mạng, cậu đã tiêu tốn hàng đống nơ-ron thần kinh để phịa ra một câu chuyện sảng văn cổ đại rồi, còn mệt não hơn cả thi cử. Cậu nghĩ ngợi rồi bảo: "Phủ Cô Tô thiếu gì chứ chẳng thiếu nhân tài. Thế này đi, Kế toán Lâm, chúng ta hãy tổ chức một hội thi viết, mời toàn bộ thư sinh trong phủ Cô Tô gửi truyện cho lầu Tế Hà của chúng ta!"

Kế toán Lâm đã quen với những ý tưởng độc đáo của Chu Tử Thư, nhưng nghe đến hội thi viết thì vẫn rất ngỡ ngàng. Ông hỏi Chu Tử Thư nên tổ chức thế nào, Chu Tử Thư bèn giải thích cặn kẽ cho ông. Kế toán Lâm vui vẻ nói: "Tiểu đông gia yên tâm, cứ để tôi lo liệu."

Vào đông, lượng khách của Lầu Tế Hà càng đông đảo.

Đầu tháng Chạp, Chu Tử Thư sang phủ Kim Lăng để đăng kí thi Hương tới ở cống viện Giang Nam.

Thi Hương cũng được gọi là kì thi mùa thu, ba năm tổ chức một lần vào tháng Tám. Còn hơn nửa năm chuẩn bị, Chu Tử Thư tự biết khó có khả năng đỗ Giải Nguyên, nhưng cậu quyết định cứ tham gia thi, nếu không lại phải chờ thêm ba năm nữa. Với trình độ hiện giờ của cậu thì tám phần mười là đỗ cử nhân. Sang năm mà thi đỗ, cậu dự định sẽ không thi lên nữa.

Việc này Chu Tử Thư giữ kín với tất cả mọi người, nhưng cậu cảm giác Lương Tụng đã nhìn thấu tâm tư kín đáo này của cậu. Tuy vậy, ông không hề lơi lỏng việc dạy dỗ cậu, lúc nào cũng nghiêm khắc, khiến Chu Tử Thư khổ mà không dám kêu ca.

Chu Tử Thư than vãn: "Thầy ơi, mỗi ngày phải viết hai bài chế nghệ, một bài thử thiếp, cả phủ Cô Tô này chắc chỉ có vài đứa học trò siêng năng khắc khổ đến thế thôi!"

Lương Tụng hừ một tiếng: "Hồi trẻ thầy đi học, mỗi ngày viết ba bài chế nghệ, không nghỉ hôm nào cả. Thêm vào đó thầy tự chọn một cuốn trong Tứ thư Ngũ kinh và các tác phẩm kinh điển của Nho gia, một ngày chép một bản."

Chu Tử Thư: "..."

"Thầy có còn là người không vậy..."

"Hả?"

"Không có gì không có gì, con không nói gì đâu ạ."

Lương Tụng cuộn quyển sách gõ cái "bốp" lên đầu Chu Tử Thư: "Mai đi cống viện Giang Nam ghi danh hả?"

"Vâng ạ."

"Chế nghệ với thơ của ngày mai không phải viết."

Chu Tử Thư sướng rơn, còn tin tức nào tốt bằng tin này không? Nghe tin quán lẩu lời một cục tiền cũng không mát lòng mát dạ như vậy! Đi thuyền theo Đại Vận Hà đến phủ Kim Lăng chỉ mất nửa ngày.

Chu Tử Thư xuống thuyền, cùng Diêu Tam đến cống viện Giang Nam. Cậu gửi học tịch của mình ở cống viện, lấy một tấm thẻ tên về. Có thẻ này, tháng bảy năm sau cậu sẽ được đến cống viện Giang Nam ghi danh vào kì thi Hương rồi dự thi vào tháng tám.

Đã tới phủ Kim Lăng rồi thì Chu Tử Thư không thể bỏ qua Cẩm Tú Các được. Cậu tới hơi không đúng lúc, đại chưởng quỹ Phương của Cẩm Tú Các đi vắng mất, các nhân viên trong cửa hàng cũng không quen Chu Tử Thư. Chu Tử Thư đợi được một khắc ở Cẩm Tú Các thì để ý thấy sản phẩm bán chạy nhất vẫn là xà phòng. Thế nhưng, bán chạy thứ nhì lại không phải xà phòng thơm, mà là Hoàng Kim Lũ!

"Lạ lùng ghê, lẽ nào dân Kim Lăng giàu thế nhỉ?"

Một nhân viên nghe thấy thế liền cười: "Quý khách là người vùng khác ạ?"

Diêu Tam nói: "Chúng ta đến từ Cô Tô."

"Ồ, vậy hẳn hai vị đã biết đến Hoàng Kim Lũ? Phải rồi, Hoàng Kim Lũ ở Cô Tô hẳn là bán không chạy như bên phủ Kim Lăng chúng tôi nhỉ. Chắc các ngài đã nghe, Hoàng Kim Lũ ở Cô Tô được Lương đại nho tặng chữ, ngài viết rằng "Nga nhi tuyết liễu hoàng kim lũ, mạch nhiên hồi thủ, na nhân khước tại đăng hỏa lan san xứ." Ở Kim Lăng, Hoàng Kim Lũ cũng được tặng chữ đó. Ngài xem, "Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa", chính là mô tả Hoàng Kim Lũ giống như nước sông pha cát trắng, tắm trong ánh Tuấng vậy."

Chu Tử Thư nhìn theo tay nhân viên chỉ, liền thấy một bức hoành phi giữa Cẩm Tú Các, đề bảy chữ:

Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa!

Mạch viết lưu loát, phong thái tuyệt vời! Một lần hạ bút mà tưởng chừng như ngàn dặm mây tuôn, diệu kì đến mức lòng người rung động.

Chu Tử Thư nhìn lạc khoản bỗng giật mình: "Là người đó ư?"

Nhân viên hỏi: "Quý khách biết Cungtướng công ạ?"

Chu Tử Thư lắc đầu: "Không quen, chỉ là ta từng may mắn được chiêm ngưỡng một tuyệt tác của người ấy." Lần đầu tiên Chu Tử Thư đến bái phỏng Lương Tụng đã được thưởng thức bức "Đông Song Cúc", người đề thơ lên bức tranh ấy chính là CungTử Phong.

Nhân viên xuýt xoa: "Quý khách đúng là có phúc! Hoàng Kim Lũ được chính Cungtướng công tặng chữ, mà các phu nhân và tiểu thư ở Kim Lăng hâm mộ Cungtướng công vô cùng, họ không thể nào từ chối Hoàng Kim Lũ đâu. Chính nhờ vậy Hoàng Kim Lũ mới bán chạy hơn xà phòng thơm đấy ạ!"

Đến tối, Chu Tử Thư và Diêu Tam trở về Cô Tô.

Hôm sau, Chu Tử Thư gọi kế toán Lâm tới, hỏi tình hình bán xà phòng thơm và tinh dầu. Kế toán Lâm tường thuật chi tiết cho cậu nghe.

Chu Tử Thư nói: "Phủ Kim Lăng đúng là kì quặc! Tinh dầu bán chạy hơn xà phòng thơm thì một là đầu óc dân Kim Lăng có vấn đề, hai là họ giàu hết phần thiên hạ. Xem ra phải tìm cơ hội để nhờ vả dân Kim Lăng cứu lấy kẻ nghèo rớt mồng tơi là mình thôi!"

Chu Tử Thư cũng chỉ giỡn vậy thôi, hiện tại cậu làm ăn ở Cô Tô rất thoải mái, nếu không cần thiết, cậu không có ý định chuyển sang Kim Lăng làm gì cả.

Năm mới cận kề, ngày mười tám tháng Chạp, học viện Tử Dương học buổi cuối trước kì nghỉ.

Chu Tử Thư tới học viện từ sớm, liền thấy chú béo Tôn chạy đến từ đằng xa. Chú ta mặc áo bông dày cui, đội mũ lông cáo, hai tay ôm bình nước giữ nhiệt, nom hệt như một quả bóng bự tròn.

Chu Tử Thư cười hà hà: "Trông cậu vẫn y chang năm ngoái nhỉ."

Tôn Nhạc ngẩn ra một hồi mới phản ứng kịp: "Đồ dẻo mỏ Chu Tử Thư, giờ này năm ngoái cậu bảo, béo không sợ lạnh, chê tớ mặc lắm cơ mà. Sao, cậu thì mặc ít hả? Có giỏi thì cởi áo bông ra coi!"

Chu Tử Thư: "Đây ứ thèm trúng chiêu khích tướng của cậu nhé!" Tôn Nhạc hừ một tiếng.

Không lâu sau, các học sinh khác kéo nhau đến lớp. Thầy giáo chưa tới, bọn học trò liên buôn chuyện rôm rả với nhau.

"Giờ này năm ngoái, dân tị nạn bu kín cổng Tây thành, làm tớ sợ chết khiếp. May mà năm nay tốt lành, mưa thuận gió hòa, mong là năm sau vẫn như vậy!"

"Sang năm là thi Hương ba năm một lần đấy, hi vọng là lần thi lại này tớ sẽ đỗ."

"Lần trước cậu thi trượt hả?"

"Ừ. Thấy bảo năm sau giám khảo khi Hương ở cống viện Giang Nam nơi chúng ta thi rất có thể là La đại học sĩ. Đáng lẽ hai năm trước ông ấy phải là chủ khảo thi Hương, nhưng tự dưng lúc đó ông ấy đổ bệnh bất thường, thánh thượng cho phép ông ấy làm giám khảo bù vào kì thi sau." "Thế tớ phải nghe ngóng xem đại học sĩ La thích cái gì mới được."

Kì thi tổ chức ở cống viện Giang Nam và Thịnh Kinh là hai kì thi được triều đình chú ý nhất. Ngay cả thi Hương cũng phải cử Đại học sĩ tam phẩm làm giám khảo, vừa ra đề mục, vừa coi thi.

Tôn Nhạc vểnh tai nghe ngóng, thì thầm bảo: "Tớ cũng phải đi thăm dò xem La đại học sĩ thích cái gì mới được. Chưa nghe đến ông này bao giờ cả, chả biết là thích Xuân Thu hay Chu Dịch đây, tớ phải chuẩn bị kĩ."

Chu Tử Thư: "Tớ cũng chưa nghe tên ông ấy bao giờ."

Một tú tài già cười bảo: "Biết La đại học sĩ thích gì nào có khó? Minh nguyệt tùng gian chiếu, thanh tuyền thạch thượng lưu. Ông ta chính là thành viên cốt cán trong Tùng Thanh đảng!"

||Chú thích

Kì thi mùa thu tên gốc là Thu Vi. Trường thi được gọi là "vi" 闱. Tương tự Xuân Vi là kì thi mùa xuân, tức kì thi Hội.

Dịch nghĩa: Tuấng sáng chiếu qua đám cây tùng. Suối nước xanh chảy trên tảng đá. Hai câu thơ trong bài Sơn cư thu minh của CungDuy đời Đường, nhà thơ được mệnh danh là Thi Phật.

Đảng hiểu là một nhóm hay một bè phái, bè đảng trong triều đình.

------oOo------

Chương 25

Nguồn: EbookTruyen.Net

Chu Tử Thư, Đường Cảnh Tắc

Bóng Tuấng tỏ ngọn thông gò, suối trong trên đá ồ ồ chảy đi

Sao vua nếu chiếu mệnh này, Đích Lô tung vó nguyện vì quân vương.

Lão tú tài năm nay đã ngoài năm mươi tuổi, ông đỗ cống sinh từ hơn hai mươi năm trước nên được theo học ở học viện Tử Dương. Chỉ tiếc cứ mỗi kì thi Hương trôi qua là một lần thất bại, song so với đám học trò trong viện, ông là người am hiểu thế cục triều đình hơn cả. Thấy ông lên tiếng, mọi người liền bu lại nghe.

Người tú tài già giảng giải: "La đại học sĩ chính là một trong những tài tử chủ chốt của đảng Tùng Thanh. Khi tiên đế còn tại vị, các thành viên Tùng Thành đảng vẫn nắm quyền trong triều. Tuy về sau thủ lĩnh của Tùng Thanh đảng là Chung đại nho sa cơ thất thế, non nửa đảng bị bắt giam, nhưng thiên hạ ai cũng biết, các thành viên đảng Tùng Thanh đều là hiền thần – dốc lòng vì muôn dân, tạo phúc cho bá tánh! Bởi lẽ đó, dẫu Chung đại nho mưu nghịch phạm thượng, thánh thượng cũng không xử tử ngài mà chỉ giam cầm suốt hai mươi lăm năm. Ngoài Chung đại nho ra, còn có những phần tử không dính dáng đến chuyện soán nghịch nhưng chịu phạt lây, trong đó có La đại học sĩ."

Một tú tài trẻ tuổi nói: "Tôi chưa từng nghe danh bất cứ ai trong Tùng Thanh đảng hết."

Người tài già liếc cậu ta: "Cậu mà biết thì mới lạ đó! Chung đại nho bị hạ ngục đã hai mươi lăm năm, đảng Tùng Thanh tan đàn xẻ nghé từ lâu rồi. Các bậc nho sĩ lớn trong đảng, người thì qua đời, người thì rơi rụng. E là cậu chẳng hay, ngay cả phủ doãn phủ Cô Tô của chúng ta, Lương Tụng – Lương đại nhân, trước đây cũng thuộc Tùng Thanh đảng!"

"Hóa ra là vậy!"

Chu Tử Thư trố mắt, trong lòng cũng phải thốt lên: Hóa ra là vậy!

Từ lúc người tú tài già nhắc đến Chung đại nho, ngực Chu Tử Thư đã căng như dây đàn, cậu vẫn ngờ rằng Lương Tụng từng góp mặt trong đảng Tùng Thanh. Quả nhiên, Lương Tụng có dính líu thật. Thậm chí, với địa vị của ông, e rằng còn rất có uy danh trong đảng nữa.

Người tú tài già lại tiếp tục phân tích: "Hiện giờ thánh thượng vẫn khoan dung lắm, chưa xử phạt những người thuộc Tùng Thanh đảng. Những việc khác ta không rõ, nhưng phần lớn thành viên Tùng Thanh đảng thích đọc Xuân Thu, giỏi về Tả truyện. Lương đại nhân của chúng ta chính là người như thế, không biết La đại học sĩ có giống vậy không.

Mọi người lại lái sang chuyện năm sau thi Hương.

Tôn Nhạc nghe người tú tài già nói xong, bèn nhớ kĩ trong lòng: "Xuân Thu à, hay lắm, một năm tới tớ phải nghiền ngẫm Xuân Thu thật kĩ càng, biết đâu trời cho cơ hội, tớ lại đỗ thi Hương!" Chu Tử Thư tự dưng cười nhạt: "Chắc gì."

Tôn Nhạc ngẩn ra, bực bội nói: "Chu Tử Thư, sao cậu dám bảo chắc gì tớ đã đỗ?"

Chu Tử Thư chợt bứt ra khỏi dòng suy nghĩ, phát hiện mình vừa lỡ lời khiến Tôn Nhạc hiểu lầm. Cậu vội vàng giải thích: "Không phải tớ bảo cậu chưa chắc đã đỗ, vừa nãy tớ mải suy nghĩ những gì ông tú tài nói nên không nghe thấy cậu bảo gì. Câu "chắc gì" của tớ là phản bác lời ông ấy, không phải nói cậu đâu."

Tôn Nhạc: "Khác gì nhau chứ! Cậu nghĩ ông ấy nói sai ư? La đại học sĩ lẽ nào không thích Xuân Thu?"

Chu Tử Thư: "Tớ biết sao được, bằng không để mai tớ hỏi Lương tiên sinh hộ cậu?"

Tôn Nhạc mắt sáng bừng: "Chu Tử Thư ơi cậu chính là Kim Đồng tử trời cao phái xuống cứu vớt tớ, trợ giúp tớ thi đỗ cử nhân đó mà!"

Chu Tử Thư cười hì hì, thấy Tôn Nhạc không nói gì nữa, cậu lại chìm vào suy tư.

Người tú tài già nói, thánh thượng khoan dung, không trách cứ các thành viên Tùng Thanh đảng. Điều này chưa chắc đúng! Nếu không có ý khiển trách, tại sao phải giam Chung đại nho suốt hai mươi lăm năm? Cớ gì lại điều Lương Tụng đến phủ Cô Tô làm phủ doãn? Ngay cả La đại học sĩ, nghe danh có vẻ oai đấy, nhưng thực ra chỉ là một học sĩ nhàn tản ở Hàn Lâm viện mà thôi.

Khoan dung ư?

Chắc gì!

Hết buổi học, Chu Tử Thư đi đến Lương phủ, nộp hai bài chế nghệ và thơ thí thiếp đã viết xong hôm nay.

Lương Tụng bình luận xong rồi bảo Chu Tử Thư sửa luôn vài câu tại chỗ. Chu Tử Thư tranh thủ hỏi: "Tiên sinh ơi, con nghe nói năm sau giám khảo kì thi Giang Nam là La Chân – La đại học sĩ."

Lương Tụng ngẩn người: "Là ông ta ư?"

Chu Tử Thư: "Nghe đồn thế thôi ạ, giám khảo thi Hương năm tới vẫn chưa được công bố chính thức."

Lương Tụng nói: "Đã hai mươi năm rồi ta chưa liên lạc với La Trường Cát, lâu quá, có khi năm sau lại được gặp nhau ở cống viện Giang Nam chưa biết chừng." Đoạn ông nói: "Năm sau con thi Hương, thì bây giờ có thể đọc thêm Công Dương truyện."

Chu Tử Thư liến láu: "La đại học sĩ thích Công Dương truyện ạ?"

Lương Tụng búng nhẹ một cái lên trán cậu, cười mắng: "Lỏi con, biết thừa rồi còn bắt thầy phải nói ra hả? Muốn ăn đòn ư?" Chu Tử Thư lại chớp mắt giả ngơ.

Cậu đem việc La đại học sĩ thích Công Dương truyện kể cho Tôn Nhạc, chú béo Tôn hoan hỉ tột độ, nhất quyết đòi đãi Chu Tử Thư ăn bát hà cung ở lầu Tế Hà đang nổi như cồn tại Cô Tô. Vừa mời mọc xong, chú ta ngớ người ra, lẩm bẩm: "Tớ bị hâm rồi, lầu Tế Hà chẳng phải do Đường tiểu tam nguyên cậu mở hay sao. Chu Tử Thư cậu gớm ghê quá đấy, mới đến Cô Tô có một năm rưỡi đã trở thành người nổi tiếng rồi, cha mẹ tớ cũng phải nhắc tới cậu."

Chu Tử Thư: "Thế có đến lầu Tế Hà ăn không nào?"

"Có chứ, sao lại không? Đường tiểu đông gia ơi, cho ăn chùa một bữa đi chứ nhỉ?"

Chu Tử Thư: "Xí, nằm mơ bắt con tưởng bở! Tôn Nhạc à, cậu bao!" Tôn Nhạc dè bỉu: "Đồ tú tài chỉ biết đến tiền!" Rồi cười toe toét.

Tôn Nhạc đã ghé lầu Tế Hà mấy lần rồi, chú ta cùng Chu Tử Thư đi vào trong tửu lầu, lên thẳng nhã tọa trên tầng hai. Nhân viên tửu lầu thấy Chu Tử Thư thì phục vụ càng nhiệt tình. Tôn Nhạc gọi món khoái khẩu nhất của mình là lẩu cốt gà, cộng với tám suất thịt dê lát mỏng nổi tiếng của lầu Tế Hà nữa. Hai người đánh chén toát mồ hôi, no nê thỏa mãn.

Trước khi ra về, Tôn Nhạc chợt bắt gặp bố cáo dán bên ngoài lầu Tế Hà.

"Ơ, hội thi viết hả? Tuyển chọn, hừm... tuyển chọn truyện sáng tác, yêu cầu làm đúng hướng dẫn. Chu Tử Thư, lầu Tế Hà nhà cậu tính làm gì đây?"

Chu Tử Thư liếc mắt: "Như cậu nói đấy, tuyển chọn truyện." Tôn Nhạc đọc kĩ yêu cầu viết bài.

"Hội thi văn Chén Tế Hà, bắt đầu từ ngày mười lăm tháng Chạp sẽ nhận các loại tiểu thuyết truyền kì chí quái*, hạn đến ngày hai tám tháng Chạp. Phàm là người dân Cô Tô đều có thể nộp bài dự thi, yêu cầu độ dài tối đa năm nghìn chữ, nội dung không giới hạn. Người đoạt giải nhất hội thi văn sẽ được nhận một chiếc chén dạ quang chế tạo riêng bởi lầu Tế Hà..."

(*) Chí quái là thể loại truyện kể về thần tiên, ma quỷ

Đọc quy chế thi xong, Tôn Nhạc thở dài: "Cừ thật, cậu định dốc cạn vốn liếng đấy hả Chu Tử Thư? Giờ phát tài rồi nên sinh lòng thiện, hết muốn làm Kim Đồng tử nên đổi sang làm Thiện tài Đồng tử, đỡ đần thư sinh hàn môn phủ Cô Tô à?"

Chu Tử Thư: "Tớ đã bao giờ không phải Thiện tài Đồng tử đâu? Hậu cần Đường thị còn sờ sờ ra đấy, Tôn béo, cậu mở to mắt ra mà nhìn."

"Điêu, tớ thấy điêu lắm, làm gì có chuyện cậu nghiêm chỉnh làm từ thiện thế."

"Tớ làm việc thiện thật mà."

Tôn Nhạc nghĩ mãi mà không thông, Chu Tử Thư chỉ cười khoái chí.

Nửa tháng sau, Tôn Nhạc rốt cuộc đã biết Chu Tử Thư ủ mưu gì.

Hội thi viết của lầu Tế Hà được nhân viên Hậu cần Đường thị tuyên truyền khắp nơi, khiến cả phủ Cô Tô dậy sóng. Hiện giờ tiểu thuyết không phổ biến, nhiều thư sinh viết tiểu thuyết chẳng qua là vì không đỗ đạt công danh nổi, chỉ đành viết văn gửi cho thư cục*, kiếm chút tiền nhuận bút còm cõi sống tạm bợ qua ngày.

(*) Thư cục giống như nhà in/nhà xuất bản

Hội thi viết do Chu Tử Thư tổ chức treo giải nhất là một chén dạ quang quý hiếm, có trị giá một trăm lạng bạc lận!

Thư sinh phủ Cô Tô ai nấy đều sôi sục.

Tiểu thuyết chí quái thôi mà, ai chẳng viết được?

Thế là mọi người đua nhau viết, chỉ có năm ngày ngắn ngủi, kế toán Lâm đã nhận được bảy mươi bản thảo, ông xuýt xoa: "Tiểu đông gia treo thưởng hậu hĩnh quá, nếu không phải già rồi viết không nổi, tôi cũng muốn nộp một bài!"

Đệ tử nhà nghèo dự thi vì phần thưởng, thư sinh nhà giàu đương nhiên cũng tham gia. Nguyên nhân là vì có một cậu ấm tú tài huênh hoang giữa hội thơ nào đó: "Hội thi văn lầu Tế Hà kể cũng thú vị đấy, trước giờ ở Cô Tô chưa ai tổ chức cái này, chỉ tuyển chọn tiểu thuyết chí quái. Có mỗi cái chén dạ quang thôi mà bọn khố rách áo ôm thi nhau viết. Vớ đại một thằng em họ dòng thứ ở lớp học nhà tao, viết mười hôm là được năm bài!"

Một cậu ấm khác nói: "Hừ, cái ngữ thư sinh nghèo rách chúng nó thì có được mấy chữ trong đầu? Nếu không phải chúng ta chẳng đếm xỉa đến một cái chén dạ quang, e là mười hạng đầu trong hội thi bọn ta chiếm hết cả!

Cả lũ cười phá lên.

Có kẻ đề xuất: "Hay là chúng ta thử xem, cho bọn khố rách áo ôm kia biết mặt!"

"Chơi luôn! Nếu tao được cái chén dạ quang đó cũng chẳng thèm đâu, quẳng cho thằng em họ tao chơi là được há há há há."

Bất luận là vì lí do gì thì sau khi hội thi kết thúc, kế toán Lâm cũng thu được hai trăm năm mươi mốt bài thi. Từ truyện thần thoại yêu ma quỷ quái đến thư sinh kiều nương, thể loại nào cũng có. Đã thế lại còn muôn màu muôn vẻ!

Hội đồng tuyển chọn gồm có Chu Tử Thư, kế toán Lâm, cùng với một số tú tài khác trong Hậu cần Đường thị. Lúc Chu Tử Thư đang lọc bài thì bắt gặp một bản dâm thư, nhất thời ngớ người ra. Đến lúc định thần lại, cậu lén lút rút bài thi đó ra khỏi tập văn, tối đến mới giở ra đọc trong phòng ngủ.

"Tình nồng ánh mắt, siết chặt cái ôm. Đau đau đau. . .Thỏa thích quyện lấy nhau, quấn quýt không kẽ hở."

(Trích từ bài thơ của Tống Huy Tông tả cảnh giao hoan. Đoạn trên là hai người ôm nhau chặt quá, cô gái kêu đau. Nàng bảo tình lang hãy nhẹ thôi, rồi hai người đua công thức 1.) Chu Tử Thư mặt đỏ tía tai.

Đệt! Dâm thư cổ nhân viết đúng kiểu muốn nói mà cứ ngập ngừng, cớ sao mình lại thấy gợi cảm hơn cả văn hiện đại nhỉ?

Hết năm nay là Chu Tử Thư mười lăm tuổi, thời cổ đại ngần ấy tuổi là lấy vợ được rồi. Cậu đọc dâm thư trước khi đi ngủ, cứ tưởng sẽ nằm mơ cái gì đó nhạy cảm. Ai ngờ suốt đêm chả mộng mị gì, ngủ ngon lành cành đào đến sáng.

Sớm hôm sau thức dậy, Chu Tử Thư nhìn bản dâm thư, thở dài: "Quả nhiên, mình quá chính trực!"

Cậu liền đốt trụi cuốn dâm thư.

Sau khi lọc bài xong, Chu Tử Thư và nhóm kế toán Lâm lựa được ba mươi tác phẩm xuất sắc hơn cả.

Chẳng ai tưởng tượng nổi, bọn họ lại đưa những tác phẩm này đến thư cục Cô Tô, cho đăng lên thư báo hằng ngày!

Thấy tác phẩm của mình lên mặt báo, các thư sinh có bài đều choáng váng, vội vàng đến lầu Tế Hà xem bố cáo.

"Đối với tất cả tác phẩm dự thi, lầu Tế Hà được toàn quyền xử lí."

Các thư sinh: "..."

Đường tiểu tam nguyên cũng cơ hội quá!

Nếu sống thêm vài nghìn năm nữa, nhất định các thư sinh này có thể dùng một cụm từ thích hợp hơn để mô tả Chu Tử Thư: "Tư bản vạn ác!" Hiện tại thì bọn họ chỉ có thể bó tay thở dài. Tuy vậy, họ nhanh chóng nhận ra Chu Tử Thư không cướp bản thảo của họ nhằm mục đích bán cho thư cục kiếm tiền.

"Cũng phải. Bán bản thảo cho thư báo có được mấy đồng đâu, Đường tiểu tam nguyên bỏ ra hẳn một chiếc chén dạ quang cơ mà."

Thư báo mỗi ngày đăng mười câu chuyện, sau ba ngày đã đăng hết các bài thi.

Đến ngày thứ tư, thư báo đăng thông báo của hội thi viết. Các thư sinh tham gia dự thi đọc xong đều cười phá lên.

"Hóa ra hội thi viết còn có kiểu này nữa!"

Tất cả dân chúng Cô Tô mua báo ba ngày vừa qua đều là giám khảo cho hội thi viết lần này. Độc giả thích bài nào chỉ cần cắt bài đó ra, rồi cắt phần ghi ngày của ba tờ báo. Dán hai cái đó lại với nhau rồi nộp cho thư cục là coi như bỏ phiếu.

Bách tính Cô Tô đã bao giờ thấy chuyện lạ như vậy. Bọn họ là dân thường, ít học, chỉ những nhà có người hay chữ mới mua báo thôi. Khá nhiều thư sinh không đóng góp bài viết, chỉ nghe đồn có hội thi viết nên mua báo xem thử.

Người khác nộp bài cho mình bình chọn.

Cảm giác hệt như thành giám khảo vậy!

Trước giờ vẫn là người ta chấm điểm, mình là thí sinh. Giờ lại có thể tự làm giám khảo một lần trong đời ư?

Thế là thư báo của mấy hôm vừa qua được tẩu tán một cách chóng vánh. Thư cục Cô Tô nhận vô số phiếu bầu, lầu Tế Hà lại một lần nữa trở thành tâm điểm trà dư tửu hậu của dân chúng Cô Tô, việc buôn bán cũng càng phát đạt.

Một cái chén dạ quang trăm lạng bạc mà mua được cả chiến dịch quảng cáo rùm beng phủ Cô Tô.

Ngay cả Lương Tụng cũng biết vụ này, cười nói: "Lỏi con, hóa ra không muốn đi học là có nguyên nhân cả, mưu mô ghê nhỉ."

Chu Tử Thư phụng phịu: "Ai bảo con không muốn đi học, mỗi ngày viết ngần ấy bài, tiên sinh còn chê con ghét học!"

Lương Tụng: "Con có giỏi thì nghỉ viết đi?"

"Thầy nói oan cho con, con ấm ức, sao thầy không cho con phản bác?"

"Chu Tử Thư."

"Tiên sinh."

"Mời ngài phắn!"

"Phắn ngay ạ!"

Thế là năm thứ hai ở Cô Tô của Chu Tử Thư khép lại với hội thi văn Chén Tế Hà.

Mười lăm tháng Giêng là tết Nguyên Tiêu, phủ Cô Tô đèn hoa giăng kín.

Buổi hội chùa, trên dòng sông, nơi nào cũng lung linh ánh hoa đăng. Chu Tử Thư dắt Đường Hoàng đi hội chùa chơi đố đèn. Cô bé đã học chữ được một năm rồi, tuy nói rằng kế toán Lâm chỉ dạy vỡ lòng cho em, nhưng Đường Hoàng học rất nhanh, hôm nay chơi đố đèn, cô bé giải được rất nhiều câu đố.

Chung cuộc hội thi viết Chén Tế Hà, người thắng cuộc bất ngờ lại là một thư sinh nhà nghèo. Anh ta viết một câu chuyện thư sinh và kiều nương kinh điển, trong năm hạng đầu chỉ có mình anh này là con nhà nghèo. Về lí mà nói thì thể loại truyện thư sinh kiều nương* tràn lan khắp nơi, bách tính Cô Tô đọc phát nhàm rồi nên ít người bỏ phiếu cho thể loại này. Nhưng đến Chu Tử Thư cũng không tưởng tượng được, thí sinh này viết truyện về tra nam tiện nữ!

(*) truyện thư sinh kiều nương là kiểu thư sinh nghèo được cô gái xinh đẹp hiền hậu giúp đỡ thi đỗ

Chỉ với năm ngàn chữ, anh này đã mô tả sống động một tên thư sinh đẹp mã nhưng khốn nạn tận cùng và một tiểu thư nhà giàu nhưng hèn mọn hết sức, vừa cẩu huyết vừa ngược quằn ngược quại, ngược đến mức độc giả sung sướng vỗ tay. Cuối cùng, tiểu thuyết này trở thành chú ngựa ô giành nhiều phiếu bầu nhất!

Chu Tử Thư mua một chiếc hoa đăng, đang lấy tiền ra trả thì nghe có người bên cạnh nói: "Thằng thư sinh họ Trương đấy chỉ được cái mã thôi, hồi nó nghèo rớt mùng tơi, nếu không có Lâm Tiểu Tiểu cho nó lộ phí lên kinh dự thi, làm sao mà nó đỗ Trạng Nguyên được? Thế mà nó bội bạc Lâm Tiểu Tiểu ra nông nỗi ấy, đúng là vô nhân tính!"

"Chí phải! Cuối cùng Lâm Tiểu Tiểu bị bệnh nan y, thư sinh họ Trương quỳ bên giường khóc tức tưởi, cái kết này tôi vô cùng tâm đắc!"

Đúng là suốt trăm ngàn năm, khẩu vị của độc giả chẳng hề thay đổi!

"Chuyện thư sinh Trương với Lâm Tiểu Tiểu thế mà cũng gọi là hay. Em chả cảm nhận được tẹo nào."

Nghe vậy, Chu Tử Thư cúi xuống, ngạc nhiên hỏi Đường Hoàng: "A Hoàng, em đọc truyện đó rồi hả?"

Đường Hoàng bỗng chột dạ, nhưng vẫn đáp cứng: "Bài đăng trên thư báo mà, sao em không được đọc chứ!"

Chu Tử Thư không nói gì, chỉ tủm tỉm nhìn cô bé. Đi ngang qua một sạp bán đèn con thỏ, Chu Tử Thư cẩn thận chọn lựa, lấy một chiếc đèn thỏ tai hồng rất tinh xảo. Cậu trả tiền rồi đưa cho Đường Hoàng. Cô bé tưởng anh trai tặng quà, chiếc đèn con thỏ này là chiếc đẹp nhất trong sạp.

Bất ngờ, Chu Tử Thư nói: "Chén dạ quang chắc là em không đoạt được, còn xa mới tới. Đèn thỏ này coi như giải khuyến khích nè."

Đường Hoàng sửng sốt, em ngẩng đầu lên, ngơ ngác nhìn Chu Tử Thư.

Hồi lâu sau, cô bé mới nói: "Anh ơi, sao anh biết, em cũng viết bài ạ?"

Chu Tử Thư cười ha ha, búng trán em: "Cái chữ xấu hoắc như gà bới của em, làm sao mà anh không nhận ra được?"

"..."

"Chu Tử Thư!!!"

"... Khóc rồi à?"

"Đâu nhỉ, Đường Hoàng, em khóc à?"

Chu Tử Thư bỗng luống ca luống cuống, cậu ngồi xổm xuống, dỗ dành đủ kiểu, nhưng Đường Hoàng mặc kệ. Đứng cách đó không xa, Diêu Tam và Diêu đại nương đã thấy, hai mẹ con cười: "Chưa lúc nào thấy tiểu đông gia hoảng hốt như vậy, cậu ấy đúng là thương A Hoàng ghê." Mười sáu tháng Giêng, học viện Tử Dương mở cửa lại.

Sáng sớm, Chu Tử Thư ngủ dậy nhưng không đến trường luôn, cậu mang quà sang chúc Tết bên Lương phủ.

Hai ngày trước, tiên sinh mới từ Kim Lăng về, Chu Tử Thư không quấy rầy ông. Hôm qua là lễ hoa đăng, tiên sinh lại bận xử lí hết việc nọ đến việc kia trong phủ Cô Tô, Chu Tử Thư cũng không ghé. Hôm nay cậu mới thăm Lương phủ, mang theo một ít tinh dầu, xà phòng thơm, cộng thêm một bộ bút nghiên Đường phu nhân đưa cho, nghe bảo là đem về từ tận Thịnh Kinh.

Chu Tử Thư vào cổng, quản gia Lương phủ không có đây, chỉ có người gác cổng đã quen mặt cậu, cho cậu vào thẳng.

Lương Tụng vốn là người gốc Cô Tô, lâm viên này không phải quan trạch của phủ doãn Cô Tô mà là nhà cổ của Lương gia ở phủ. Vào cổng rồi đi về hướng bên trái, bước qua một cổng đá Thái Sơn sẽ bắt gặp hồ nước xanh biếc như ngọc. Quanh hồ trồng mười chín gốc sơn trà, lá sen trong hồ đã héo úa. May sao đêm qua có trận tuyết lớn, tuyết ánh bạc bọc lấy đá hộc trang trí thành hồ, điểm trên cành sơn trà không hoa, khiến người ta có cảm giác như hoa tuyết trổ bông trên cành vậy.

Chu Tử Thư vòng qua hồ nước đến sân trước thư phòng của Lương Tụng, suýt tí nữa thì trượt chân ngã chổng vó. Cậu ngẩng lên vừa đúng lúc quản gia đi từ thư phòng ra. Chu Tử Thư gọi ông một tiếng, quản gia ngạc nhiên lắm, có vẻ ông không ngờ cậu lại đến đây. Thấy hộp quà trên tay Chu Tử Thư, quản gia khom người thưa: "Đường tiểu công tử, đại nhân đang ở trong phòng. Cậu tới bất ngờ quá, để tôi thưa với ngài một tiếng đã." Đến thăm mà không báo trước thường bị coi là vô lễ.

Chu Tử Thư gật đầu, quản gia đi vào thông báo, lát sau liền mời Chu Tử Thư vào.

Sương tiền lãnh, tuyết hậu hàn3.

[3] Thấy sương thì lạnh trước, thấy tuyết thì lạnh sau. Sương hiểu là sương muối/sươnggiá. Sương muối hình thành ở dưới đất nên không khí mặt đất rất lạnh mới hình thành sương. Tuyết hình thành ở trên cao nên nhiệt độ mặt đất tương đối thấp vẫn có tuyết. Khi tuyết tan mới hấp thụ nhiệt, khiến nhiệt độ mặt đất lạnh đi.

Ngoài trời lạnh đến mức hai tay Chu Tử Thư tím tái, bèn đi vào thư phòng. Giữa phòng đặt một lò sưởi chạm rỗng, trong có chậu than chỉ bạc đang cháy dở. Lương Tụng thấy Chu Tử Thư rét run lẩy bẩy thì nở nụ cười, đem lò sưởi tay đang cầm đưa cho cậu, nói: "Hôm nay phải đến trường mà, sao con lại sang đây?"

Chu Tử Thư nhận lò sưởi, Lương Tụng vẫy cậu lại ngồi, cậu ngoan ngoãn ngồi vào ghế trên4.

[4] Ghế thường dành cho chủ nhà.

Lương Tụng rót cho cậu một chén trà: "Uống li trà nóng đi con."

Chu Tử Thư uống một hớp lớn, ngực ấm sực lên. Tay cậu ôm lò sưởi cũng ấm nóng. Cậu phụng phịu: "Con đến thăm tiên sinh chứ còn gì. Tiên sinh là phủ doãn Cô Tô, giao thừa thì đi Kim Lăng có việc, mãi tận tết Nguyên Tiêu mới về. Về rồi còn bận tổ chức hội chùa hoa đăng. Chẳng nhẽ con không được nhớ tiên sinh ư? Tiên sinh rảnh một cái là con tới liền, thế mà tiên sinh thì chẳng buồn hoan nghênh con."

Lương Tụng hiền từ nhìn cậu, than thở: "Thằng nhóc này, ta nghe mọi người kể, Đường tiểu đông gia của Trân Bảo Các và Tế Hà lâu oai phong lẫm liệt biết bao. Sao lần nào tới chỗ ta cũng bắt chước trẻ con hờn dỗi thế?"

Chu Tử Thư nghĩ thầm: Vì có thế thì thầy mới chịu con chứ!

Chu Tử Thư: "Con mới có mười lăm tuổi, là trẻ con thứ thiệt còn gì."

Lương Tụng gật đầu: "Đúng quá, thấm thoắt đã mười lăm, đến tuổi cưới vợ sinh con rồi nhỉ?"

Chu Tử Thư: "..."

"Tiên sinh lại trêu con!"

Lương Tụng cười khà khà.

Cười xong, không hiểu sao ông lại nghiêm mặt: "Mười lăm tuổi, năm nay con phải thi Hương rồi. Thi Hương mà đỗ, đến kì thi Hội năm sau là con phải lên Thịnh Kinh. Mười lăm tuổi, đã là trang quân tử phóng khoáng rồi đấy."

Chu Tử Thư: "Phóng khoáng thì đúng, quân tử thì... Con làm không nổi đâu."

"Mời ngài phắn!"

"Ngay và luôn ạ!"

Lương Tụng nói: "Quay lại!" Chu Tử Thư lại quay về.

Lần này sắc mặt Lương Tụng nghiêm túc hơn nhiều. Chu Tử Thư cũng thẳng lưng, không dám cợt nhả nữa.

Lương Tụng nói: "Con đã mười lăm rồi, những thứ vi sư có thể dạy con chẳng còn nhiều nữa. Trên con đường học vấn, thầy chẳng qua chỉ là khách dẫn đường cho con thôi. Làm thế nào để đào sâu thêm, chung quy vẫn phải dựa sức mình. Nếu con chỉ mong thi đỗ cử nhân thì học đến đây là đủ. Từ ngày hai thầy trò mình gặp nhau ở thôn Triệu gia, cũng đã qua hai mùa xuân – đông rồi nhỉ."

Chu Tử Thư lấy làm lạ: "Sao tự dưng tiên sinh lại nói chuyện này."

"Người quân tử không trang trọng thì không có uy, sự học sẽ không vững vàng5. Thầy đặt cho con một cái tên tự nhé?"

[5] Khổng Tử. Lý Minh Tuấn dịch.

"Đặt tự ấy ạ?" Chu Tử Thư sửng sốt.

Đàn ông cổ đại đến lễ đội mũ tuổi hai mươi mới lấy tên tự, sao bỗng dưng tiên sinh lại muốn đặt tự cho cậu?

Lương Tụng nhìn cậu: "Ngạc nhiên lắm sao? Con xưa nay không nghiêm chỉnh tí nào, đặt cho con cái tên tự để con đi học cho giỏi, làm người cho ngay ngắn, biết chưa?"

Chu Tử Thư: "..."

"Con thấy con không làm người ngay ngắn nổi đâu..."

"Lẩm bẩm gì thế?"

Chu Tử Thư: "Đâu! Đâu có ạ!"

Nói đến chuyện đặt tự, Lương Tụng cẩn thận suy nghĩ, bảo: "Tên con là Chu Tử Thư, cẩn ngôn thận hành*, gọi là Cẩn Ngôn có được không?"

(*) cẩn thận trong lời nói và hành động.

"Đường Cẩn Ngôn?" Chu Tử Thư đọc lên hai lần, "Con thấy ổn." Lương Tụng hừ một tiếng: "Có mà gọi bừa cái gì con cũng thấy ổn ý." Chu Tử Thư cười hì hì.

Với thể diện và học vấn của Lương Tụng thì lấy đâu ra chuyện chọn bừa tên tự cho cậu. Hơn nữa, nhất định ông sẽ chọn một cái tên hay, cậu có gì mà phải lo lắng.

"Thế gọi là Cảnh Tắc đi."

Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Cảnh Tắc, nghĩa là gì ạ?"

Lương Tụng: "Con trước giờ đã cẩn ngôn thận hành rồi, chẳng mấy khi mắc lỗi, riêng điểm này vi sư chưa phải lo bao giờ cả. Về hai chữ Cảnh Tắc... Con tự suy ngẫm nhé."

Chu Tử Thư lại dỗi: "Đời thuở nhà ai, đặt tự mà không giải thích ý nghĩa, sao người lại làm vậy hả tiên sinh?"

"Bản thân học vấn không tinh, nghe không hiểu, còn đổ tại thầy?"

"Tiên sinh lại bắt nạt con rồi!"

Lương Tụng cười mắng: "Mời ngài phắn!"

Chu Tử Thư hứ một tiếng, quay lưng bỏ đi, cậu quả thực là muốn đến học viện.

Đi tới cửa phòng, Lương Tụng hỏi: "Được rồi, hôm nay ai đứng lớp ở học viện Tử Dương thế?"

Chu Tử Thư ngoái đầu lại đáp: "Hình như là thầy Tiền – Tiền Tư Niên ạ."

Lương Tụng: "Thầy Tiền chuyên về Xuân Thu, con nhớ chú ý lắng nghe nhé."

Chu Tử Thư: "Cả phủ Cô Tô, rành Xuân Thu nhất chẳng phải tiên sinh nhà con sao?"

Lương Tụng cười: "Trùm nịnh bợ!"

Chu Tử Thư cười ha hả, nghĩ thầm: Chẳng phải thầy cũng thích con nịnh lắm còn gì?

Ở Lương phủ được uống một chén trà nóng, ôm lò sưởi, Chu Tử Thư không thấy lạnh nữa. Dọc đường cậu cứ nghĩ miên man: "Cảnh Tắc rốt cuộc có ý nghĩa gì nhỉ? Tiên sinh không tùy tiện đặt tự cho mình đâu, thầy đặt tên vậy, hẳn là có nguyên do. Cảnh Tắc, Cảnh Tắc... là ý gì nhỉ?"

Tới học viện Tử Dương, Tôn Nhạc đang cầm cuốn Công Dương truyện, tụng tới tụng lui cho thuộc.

Chu Tử Thư ngồi xuống bên cạnh chú ta: "Người ta nói nước đến trôn mới nhảy, Tôn béo ơi, sao cậu nhảy sớm thế, còn những tám tháng nữa cơ mà!"

Tôn Nhạc giận dữ: "Tớ làm sao mà bắt chước cậu được hả Đường tiểu tam nguyên? Nếu năm sau tớ muốn đỗ cử nhân, phải nỗ lực hết sức. Khó khăn lắm mới biết trước chủ khảo là ai, đương nhiên phải hốt thuốc đúng bệnh rồi. Tám chín phần mười là đề mục của La đại học sĩ lấy từ Công Dương truyện."

"Tôn Nhạc, sao cậu vẫn còn nhắc đến La đại học sĩ hả?"

Chu Tử Thư và Tôn Nhạc cùng ngẩng lên, người vừa nói là một tú tài nhà thư hương. Cậu ta ngoái đầu lại, uể oải: "Năm ngoái chúng ta đều nói, chủ khảo thi Hương năm nay là La đại học sĩ. Không phải tin giả đâu, đúng ra là ông ấy đấy. Nhưng giờ cậu đọc Công Dương truyện cũng vô ích thôi Tôn Nhạc, La đại học sĩ chẳng thể làm quan chủ khảo cho chúng mình nữa rồi."

Tôn Nhạc: "Hả? Sao lại không thể? Cậu vừa bảo là ông ấy, xong lại nói không phải ông ấy, tóm lại là sao?"

Tú tài kia nói: "Cậu còn không biết ư? La đại học sĩ tự vẫn hôm qua rồi! Nghe nói ông ấy tự vẫn* trong thư phòng từ lúc hửng sáng, đến giờ Mẹo mọi người mới phát hiện." (*) tự sát bằng cách cắt cổ

Tôn Nhạc trợn mắt: "Không thể nào!"

Chu Tử Thư: "Tự vẫn? Tại sao La đại học sĩ lại tự vẫn?"

Tú tài kia thở dài: "Còn vì sao nữa? Đêm khuya hôm trước, nghe nói, Chung đại nho mất trong tù! La đại học sĩ là học trò của Chung đại nho, cũng là một trong những người ủng hộ trung thành nhất. Nhưng chẳng ai ngờ ông ấy lại quyên sinh theo."

Tôn Nhạc vứt toẹt cuốn Công Dương truyện lên bàn, tức tối nói: "Tớ đọc Công Dương truyện suốt hai tháng đến mức thuộc lòng rồi. Giờ thì hay chưa, đổ sông đổ bể hết! Hầy Chu Tử Thư, cậu thấy tớ có khổ không cơ chứ! Kìa? Chu Tử Thư, cậu làm sao thế, sao không nói gì cả? Chu Tử Thư? Ôi trời ơi, Chu Tử Thư!"

Thầy giáo Tiền vừa bước chân vào học đường thì Chu Tử Thư cũng xông ra khỏi phòng học, xô cả vào ông ta làm sách vở rơi đầy đất.

Thầy giáo Tiền mặt nặng mày nhẹ: "Đó là Chu Tử Thư phải không? Sao, ghét học quá nên trốn ngay trước mặt lão phu hử?"

Tôn Nhạc cũng không biết Chu Tử Thư bị làm sao, chỉ đành nói đỡ cho bạn: "Nhà cậu ấy có việc đột xuất ạ."

Thầy giáo Tiền hậm hực, hừ một cái, bắt đầu giảng bài.

Gió rét lạnh thấu xương, Chu Tử Thư mặc áo bông dày mấy lớp, chạy như bay. Cậu mải miết chạy ra khỏi học viện Tử Dương, chạy về hướng Đông, chạy theo vết chân chính mình để lại từ buổi sáng, chạy tuốt về tận Lương phủ. Người gác cổng nói để anh ta gọi quản gia ra, nhưng Chu Tử Thư nhìn anh ta chằm chằm, không nói không rằng xô anh sang một bên, xộc thẳng vào phủ.

Người gác cổng không hiểu ra làm sao, vội vã đi gọi quản gia.

Qua cổng đá Thái Sơn, dọc theo hành lang đình nghỉ bao quanh hồ tuyết, đi thêm mười bước, đến khoảnh sân trước thư phòng. Cánh cửa thư phòng đóng kín mít, Chu Tử Thư toan bước tới, quản gia đã hớt hải chạy lại: "Đường tiểu công tử, có chuyện gì thế?"

Chu Tử Thư không trả lời ông, cậu cắm đầu lao thẳng đến trước thư phòng, dồn sức đẩy tung hai cánh cửa.

Vầng mặt trời ló rạng sau trận tuyết, tuyết trắng hắt ánh nắng vàng ươm vào trong căn phòng. Trong thư phòng không một ngọn đèn, lại sáng trưng vì ánh tuyết phản chiếu. Trên xà nhà vắt một dải lĩnh trắng dài ba xích; trong chậu than, than chỉ bạc cháy âm ỉ; trên mặt bàn, bút nghiên Chu Tử Thư mang đến nằm lặng lẽ. Hôm nay Lương Tụng mặc một bộ áo dài với ống tay rộng, tay áo buông thõng, nhè nhẹ đung đưa, phủ lên nghiên mực Huy Châu Chu Tử Thư tặng.

Quản gia phách lạc hồn xiêu, ngã dúi dụi trong lúc lao ra cửa: "Người đâu tới đây mau, người đâu!"

Chu Tử Thư vuốt ve cánh cửa thư phòng chạm hoa lá, ngẩng đầu nhìn Lương Tụng. Bất giác, cậu bủn rủn chân tay, ngã quỵ lên nền đất.

Trong chậu than, một cục than chỉ bạc đã cháy rụi. Lách tách... tiếng nứt vang lên trong thư phòng trống trải, rõ đến lạ thường.

Tuyết đã ngừng rơi, nhưng người càng buốt lạnh.

||

Manh: Phải cố đẩy post đến chương này tại không biết là nhịn được bao lâu nữa để chia sẻ với mọi người. Lúc edit chương này (và một chương nữa) mình buồn và thương hai thầy trò lắm.

Cuộc đời Lương Tụng quá nhiều cay đắng. Thảm sát thành Ngũ Nguyên, vợ con mất sớm, các học trò từng người một hi sinh, người đồng nghiệp – tri âm Chung Thái Sinh bị tù đày hai mươi lăm năm và không thoát được cái chết bởi tranh đoạt quyền lực hoàng gia. Bản thân Lương Tụng cũng chấp nhận cái chết để bảo vệ lẽ phải mà mình tin tưởng và để sống trọn nghĩa tình với người bạn là Chung đại nho.

Chu Tử Thư xuất hiện như khúc biến tấu trong những năm tháng lặng lẽ cuối đời của Lương Bác Văn. Không chỉ là người thầy dạy dỗ, ông dành trọn cho Chu Tử Thư tình cảm và sự che chở của người cha. Chữ viết chưa thạo ông cầm tay dạy viết, trời rét ông nhường lò sưởi nhỏ, mỗi lúc học muộn ông cho ăn cơm luôn ở phủ, sáng qua nhà sớm ông cũng bảo ăn bát cháo rồi mới cho đến trường. Làm người thầy – người cha, Lương Tụng nghiêm khắc nhưng không bắt ép, hiền từ nhưng cũng rất vui tính. Quan trọng nhất, ông thấu hiểu Chu Tử Thư. Mỗi lần Chu Tử Thư nghịch ngợm hay mè nheo "mượn" danh thầy để buôn bán, ông nào là muốn "đá đít", nào là mắng "lỏi con", "ngài phắn đi". Nhưng sau câu mắng luôn là nụ cười, sau lời quở trách yêu là sự dung túng. Lần duy nhất ông nặng lời với Chu Tử Thư cũng là vì cậu mắc sai lầm quá nguy hiểm, song trách cứ chỉ càng bộc lộ sự quan tâm của ông đến tương lai của cậu trò nhỏ. Kể từ chương 20 sợi dây cha-con giữa Lương Tụng và Chu Tử Thư càng thắt chặt hơn, nhưng đó cũng là lúc dự cảm về sự chia li xuất hiện. Ông thúc giục Chu Tử Thư leo lên đỉnh núi, còn mình mãi mãi dừng lại ở lưng chừng. Bài học trên núi cũng giống như hai ngả đường của người làm quan ông vạch ra cho Chu Tử Thư: chỗ nước trong (đỉnh núi) là chỗ cô đơn, vắng vẻ, chỗ nước đục (rừng sâu) thì cám dỗ, gọi mời. Song ông chẳng khuyên Chu Tử Thư đứng mãi trên đỉnh núi hay tha thẩn chốn rừng sâu, mà dặn cậu hãy đi thật nhiều, đi thật xa, đi để biết cuộc đời không chỉ giới hạn ở một ngọn núi. Còn bản thân ông lúc đó có lẽ đã lường trước cái kết của cuộc đời mình rồi. Những chuyến đi Kim Lăng ngày một dày đặc và dài hơn, những phút giây dành cho Chu Tử Thư ngày một ngắn, những thứ phải toan tính, lo liệu trước cho tương lai của đứa "con" chưa cứng cáp ngày một nhiều, ngày một đòi hỏi người "cha" phải chạy đua với thời gian.

Cuộc nói chuyện giữa hai thầy trò vào sáng mười sáu tháng Giêng đến thật bất chợt. Lúc đó, Lương Tụng đã sắp đặt xong cái chết của mình. Thế rồi ông trời run rủi cho ông một cơ hội được nói lời chia tay với cậu học trò nhỏ. Chu Tử Thư của sáng mười sáu hôm ấy càng hồn nhiên, lém lỉnh, càng dựa dẫm vào thầy nhiều hơn bao giờ hết. Cậu nói rằng con nhớ tiên sinh, tiên sinh nhà con giỏi Xuân Thu nhất, trước mặt người ngoài con là tiểu đông gia oai phong, nhưng trước mặt tiên sinh con vẫn là một đứa trẻ. Dường như có thầy ở bên, Chu Tử Thư có thể ngây thơ, có thể chẳng cần lo lắng điều chi cả. Chu Tử Thư tin yêu và dựa dẫm vào Lương Tụng nhiều như vậy, Lương Tụng nỡ lòng nào ra đi chứ? Trái tim ông có day dứt chăng? Có hối hận chăng? Ngay lúc ấy Chu Tử Thư có lẽ không hiểu nổi tại sao thầy lại làm thế, giống như cậu không thể hiểu tại sao mười vạn người Tống lại chọn nhảy xuống biển tuẫn quốc ở trận Nhai Sơn, tại sao con người phải liều chết vì một lí tưởng. Nhưng cuộc sống là tre già măng mọc, Chu Tử Thư còn cả cuộc đời phía trước để khám phá. Trên con đường đó, cậu sẽ mang theo hành trang là cái tên thầy đặt, sự chở che của thầy, tình yêu thương vô ngần, và nguyện ước của thầy cho con khôn lớn, nên người, hạnh phúc.

Mình viết hơi dài một xíu nên cảm ơn những bạn nào bỏ thời gian để đọc :)

||

Câu thơ đầu trích trong bài Sơn cư thu minh như đã chú thích chương trước, nhưng mình sử dụng bản dịch của Trần Trọng Kim.

Câu sau không thuộc bài Sơn cư thu minh. Không tra được nghĩa nên đành chém bừa. Gốc:

他日宸星若照我, 策马的卢为君行 Mình chỉ biết trong Tam Quốc ngựa Đích Lô có

tướng sát chủ, tuy cứu Lưu Bị (vua nước Thục) một lần nhưng về sau mưu sĩ Bàng Thống của Lưu Bị cưỡi nó thì tử trận. Dựa vào bối cảnh có Tùng Thanh đảng thì tạm đoán ý câu này là nếu may mắn có cơ hội phò tá bậc hiền Cungthì sẵn sàng liều chết.

Gốc: 山茶. Hoa sơn trà thường có hai màu trắng, đỏ, nở vào khoảng cuối đông, đầu xuân. Cây này du nhập sang châu Âu được gọi là camellia, ở Nhật thì có tên là tsubaki, ở Việt Nam có cả tên gọi sơn trà và trà my.

Nguồn ảnh:

------oOo------

Chương 26

Nguồn: EbookTruyen.Net

Nhớ đến tiên sinh, kìm lòng không đặng.

Dải lĩnh trắng dài treo cao nơi linh đường. Tuy hiện giờ là thời điểm rét nhất mùa đông, lại vừa có tuyết rơi nên càng rét, nhưng trong linh đường không quá lạnh lẽo. Tiếng khóc than rầm trời. Chu Tử Thư đội mũ rơm, mặc áo sô gai đặt chân vào linh đường tại Lương phủ. Trước mặt cậu, nha hoàn đầy tớ trong phủ khóc tang thê thiết.

Lương Tụng cưới vợ từ khi còn trẻ, vợ chồng ông đã từng có một đứa con trai. Tiếc rằng Lương phu nhân qua đời sớm, đứa con độc đinh của ông cũng mất vì bệnh tật mười năm trước, kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh.

Từ Tuệ là cháu họ của Lương Tụng, người thân gần gũi nhất với ông còn sót lại.

Từ Tuệ đội mũ rơm, quỳ bên quan tài, thả vàng mã vào ngọn lửa trong chậu sành. Những họ hàng khác trong nhà họ Lương ở phủ Cô Tô cũng tới đưa tang. Trước đây, Chu Tử Thư chưa từng thấy tiên sinh gặp gỡ họ hàng bao giờ, nhưng hôm nay tất cả mọi người tề tựu đông đủ, tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng.

Chu Tử Thư quỳ xuống, dập đầu lạy tiên sinh ba lạy, hóa một nắm tiền giấy.

Từ Tuệ ngước mắt nhìn cậu, Chu Tử Thư nói: "Em với anh cùng tiễn tiên sinh."

Từ Tuệ không nói nên lời, gật đầu.

Quan tài được quàn ở Lương phủ bảy ngày. Sáng sớm ngày thứ tám, mọi người đưa linh cữu về nơi an táng. Từ Tuệ đi đầu, nâng bài vị của Lương Tụng. Đi sau là bà con phương xa của nhà họ Lương. Chu Tử Thư tuy là học trò của tiên sinh nhưng không phải ruột thịt, nên cậu đi bên cạnh quan tài.

Chu Tử Thư nhẹ nhàng đỡ lấy đế áo quan, như thể đang khiêng nó đi vậy.

Bồn âm dương được đập trước bia mộ1. Mọi người lần lượt dập đầu. Chu Tử Thư nói lời từ biệt với Từ Tuệ, hai người chia tay.

[1] Sau khi đập bồn âm dương thì quan tài mới hạ huyệt. Thường con trưởng của người qua đời (tức người thừa kế phần lớn tài sản) là người đập bồn.

Chu Tử Thư về đến nhà, đang định cởi mũ rơm và áo tang, bỗng thấy Đường Hoàng dè dặt núp sau cánh cửa, lặng lẽ quan sát cậu. Chu Tử Thư thấy thế, ngoắc em lại hỏi: "Làm gì mà thập thà thập thò thế? Anh còn phải thay quần áo, em định đứng ngắm à?"

Đường Hoàng: "Anh, anh đừng có linh tinh. Em không thèm nhìn anh thay quần áo đâu. Anh à, anh... Anh đừng buồn nhé."

Chu Tử Thư trầm mặc chốc lát: "Anh buồn lắm chứ. Tiên sinh đối đãi với anh tốt vô cùng, anh chẳng bao giờ nghĩ rằng ông lại ra đi như thế."

"Mấy hôm trước, buổi tối em còn thấy anh lén chùi nước mắt vào chăn."

Chu Tử Thư: "Lẩm bẩm cái gì thế?"

"Không có gì đâu, anh ơi, nếu anh khó chịu thì nói với em nhé."

Đã nhiều hôm, nụ cười mới lại nở trên môi Chu Tử Thư: "Mới có tí tuổi đầu thì biết cái gì. Thôi, có tấm lòng là quý rồi."

Lương Tụng đã đi xa, nhưng cuộc sống vẫn tiếp diễn.

Để túc trực bên linh cữu thầy, Chu Tử Thư đã xin nghỉ mười ngày ở học viện. Tang lễ kết thúc, cậu lại quay về đi học. Tôn Nhạc thấy cậu thì định gọi xong lại thôi. Chú béo Tôn ngập ngà ngập ngừng bước tới, nói: "Chu Tử Thư, nếu cậu buồn thì đừng cố nhịn trong lòng. Năm ngoái cụ tớ mất, bà là người hiểu tớ nhất trên đời, tớ đau lòng mất nửa năm mới nguôi ngoai."

Chu Tử Thư liếc chú ta: "Tớ biết cậu có lòng tốt với tớ rồi. Yên tâm, đã mấy hôm rồi, tớ cũng nên trở lại bình thường thôi." Tôn Nhạc gật đầu.

Chu Tử Thư nghỉ học để thủ linh và cùng Từ Tuệ đi đưa ma. Là học trò, cậu đã tận tình tận nghĩa. Nỗi đau của Chu Tử Thư, Tôn Nhạc luôn để mắt đến. Hôm nay chú ta nhận ra, tuy Chu Tử Thư vẫn chưa hoàn toàn nguôi ngoai, nhưng cậu đã bắt đầu chấp nhận sự thật.

Tôn Nhạc: "Cậu nói xem, nhiều đại nho chết theo Chung đại nho như thế, rốt cuộc có đáng giá không?"

Đôi mắt Chu Tử Thư ánh lên sự quả quyết: "Đáng lắm chứ!"

"Hả? Đáng chỗ nào cơ, tớ chẳng thấy. Tình cảm sâu đậm giữa mấy đại nho, văn nhân ấy tớ chịu không hiểu nổi. Tớ á, còn muốn sống thêm vài chục năm nữa, ăn thêm nhiều món ngon nữa. Nếu đỗ cử nhân, tớ sẽ sống sướng như tiên, phần đời còn lại thế là coi như mĩ mãn. Ôi chao, Chu Tử Thư, sao cậu không nói gì cả? Sao cậu đọc Lễ Ký thế? Hay là cậu có cách biết quan chủ khảo thi Hương năm nay thích Lễ Ký rồi hả?"

Chu Tử Thư nói: "Tập trung đọc sách của cậu đi! Lúc nãy còn bảo an ủi tớ, sao bây giờ lải nhải phiền thế, đúng là đồ nắng mưa thất thường!"

Tôn Nhạc: "..."

"Có mà cậu nắng mưa thất thường ý."

Thầy giáo Tiễn bước vào lớp học, bắt đầu giảng bài. Tâm trí của Chu Tử Thư từ từ bay đi.

Suốt bảy ngày quỳ gối canh giữ bên quan tài tiên sinh trong linh đường, không có lúc nào Chu Tử Thư không nghĩ về lí do tiên sinh tuẫn táng theo Chung đại nho cả.

Khí tiết của cổ nhân là thứ Chu Tử Thư không thể giải thích được. Nếu chỉ La đại học sĩ và Lương Tụng chết theo Chung đại nho, Chu Tử Thư có thể lí giải rằng họ cùng chết vì chí hướng của bản thân, vì một lí tưởng cao thượng mà cậu không hiểu rõ.

Thế nhưng, ngày ấy, Đại Tống mất bảy đại nho!

Đảng Tùng Thanh sau một đêm gần như bị xóa sổ.

Đảng phái này hai mươi sáu năm trước sau chính biến đã chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa. Hôm nay, những đại nho còn sót lại mà người dân trong thiên hạ biết tên đều không ngần ngại đưa tim lên lưỡi dao, lấy cái chết tỏ chí.

Đúng, chỉ có thể lí giải rằng họ lấy cái chết để tỏ chí không sờn.

Thứ "chí" ấy là gì, Chu Tử Thư suy nghĩ tròn bảy ngày, rốt cuộc đã giác ngộ.

Hai mươi sáu năm trước, Thái phó Thái tử là Chung Thái Sinh phụ trợ Thái tử dẫn tư binh xông vào hoàng cung, mưu đồ bức vua thoái vị. Thái tử bị thánh thượng đương thời, lúc đó là nhị hoàng tử, bắn chết trước cổng cung. Chung Thái Sinh bị giam vào thiên lao. Từ đó về sau, Tùng Thanh đảng như mặt trời ban trưa tức thì bị coi là nghịch tặc, môn nhân tan rã hết.

Sử sách xưa nay luôn viết theo lời người thắng cuộc.

Chung Thái Sinh là phản đảng nghịch tặc, Thái tử là nghịch tử bất hiếu, sự thật này đã được ghim vào những trang sử đẫm máu, lưu truyền mãi không tài nào thay đổi. Chính vì thế, bảy đại nho kia đành dùng chính mạng sống của mình tỏ chí. Dẫu hi vọng có nhỏ nhoi đến mấy, họ cũng muốn nói với hậu thế sự thật rằng Thái tử và Chung Thái Sinh vô tội!

Nghĩ đến đây, nỗi hận trào dâng trong lòng Chu Tử Thư như cơn sóng. Chợt cậu nở nụ cười. Cậu nhớ tới một việc.

"Tiên sinh, điều đáng buồn nhất là thầy không biết, có sáu đồng liêu khác cũng lựa chọn giống thầy!"

Hôm ấy Chu Tử Thư rời khỏi Lương phủ, Lương Tụng còn dặn dò cậu đọc Xuân Thu nhiều vào, bởi La đại học sĩ thích kinh Xuân Thu. Ông hoàn toàn không biết La Chân đã đi theo Chung Thái Sinh trước ông một bước rồi. Ông cũng không biết, ở năm nơi khác trên lãnh thổ Đại Tống, có năm người cũng từng là bạn bè với ông, đều lựa chọn bước trên con đường không lối thoát.

Vậy có đáng không?

Chu Tử Thư thấy không đáng.

Nhưng Lương Tụng thấy đáng, La Chân thấy đáng.

Năm thành viên khác của Tùng Thanh đảng thấy đáng!

Thế là được rồi.

Mười sáu tháng Giếng, phủ doãn Cô Tô – Lương Tụng thắt cổ tự sát. Bách tính Cô Tô xót thương vô hạn, không ai bảo ai, tất cả cùng để tang ông. Hai tháng sau, kì thi Huyện mới lại bắt đầu. Khi ngày thi cuối cùng khép lại, phủ Cô Tô đã khôi phục dáng vẻ xưa.

Với học sinh trong học viện Tử Dương mà nói, họ đau lòng vì sự ra đi của các đại nho, nhưng càng khốn đốn hơn vì không biết quan chủ khảo thi Hương năm nay là nữa.

Tôn Nhạc vỗ án tru tréo: "Tại sao La đại học sĩ lại tự vẫn chứ?"

Chu Tử Thư: "Thời gian tru tréo của câu đủ để đọc mấy lượt sách rồi đấy. Khéo đọc trúng đề thi Hương năm nay rồi cũng nên."

Tôn Nhạc: "Nói dễ như bỡn ý nhỉ. Đọc trúng thì sao, Tứ thư Ngũ kinh tớ thuộc làu làu đấy, nhưng đề kì trước có đụng chạm tí gì đâu? Đọc mà không viết được thì đọc làm gì?"

Hai người chí chóe với nhau một hồi, chợt một tú tài lớp khác đứng ngoài cửa réo tên Chu Tử Thư: "Chu Tử Thư, có người tìm cậu kìa, trông có vẻ gấp lắm."

Chu Tử Thư đi ra ngoài học viện thì thấy Diêu Tam đang đứng chờ cậu, trán đẫm mồ hôi.

Thấy Chu Tử Thư, Diêu Tam cuống quýt: "Tiểu đông gia, không xong rồi, lầu Tế Hà gặp chuyện!"

Sắc mặt Chu Tử Thư lạnh toát.

Hai người vội vã chạy tới lầu Tế Hà. Từ xa đã thấy người ta bu đông bu đỏ một góc Toái Cẩm Nhai. Mọi người xúm xít quanh cửa lầu, có vẻ là đang hóng hớt. Không biết ai hét lên "Đường tiểu đông gia lầu Tế Hà đến kìa", khiến tất cả mọi người dạt ra nhường lối. Chu Tử Thư tiến tới nơi thì thấy một gã đàn ông trung tuổi đang nằm vật trên cáng, ôm bụng lăn lộn thét gào.

Đứng cạnh gã là một mụ béo đẫy đà, nhác thấy Chu Tử Thư là nhảy bổ vào đánh.

Diêu Tam gạt mụ ra: "Mụ làm cái trò gì thế?"

Mụ ta quang quác cái mỏ: "Tao làm gì ấy hả? Các ông các bà đến mà xem, lầu Tế Hà của Đường tiểu tam nguyên toàn bán thức ăn thiu thối, định giết người đây mà! Hôm qua chồng tôi đến đây ăn một bữa, lúc ăn đã thấy có vị lạ như bị ôi, về thì thổ ra cả đêm, hôm nay vẫn chưa khỏi. Chồng tôi mửa sắp chết đến nơi rồi! Chu Tử Thư, mày mà không ăn nói cho rõ ràng, tao sẽ đập toang cả lầu Tế Hà nhà mày nhé!"

Chu Tử Thư cười phá lên: "Già mồm nó vừa vừa thôi! Bằng chứng đâu mà mụ dám nói chồng mụ ăn ở lầu Tế Hà xong bị đau bụng? Vừa ăn cướp vừa la làng phỏng?

Diêu Tam: "Tiểu đông gia, vừa ăn cướp vừa la làng là sao?"

Chu Tử Thư sôi me lắm rồi nhưng vẫn cười mỉa mai: "Chuyện là có một người cầm món đồ sứ đi trên đường va vào người tôi. Gã ta cố tình thả tay ra, món đồ rơi vỡ tung tóe. Thế mà gã lại đổ vấy cho tôi làm bể đồ của gã, anh nói xem có tài không cơ chứ lại!"

Quần chúng vây quanh đều cười phá lên: "Ha ha ha ha, vừa ăn cắp vừa la làng, so sánh này thật là thú vị!"

Mụ vợ sồn sồn kia cáu điên: "Á à, chúng mày định chối phỏng? Bọn mọt sách chúng mày mồm mép điêu ngoa, tao không nói lại mày được. Nhưng hôm qua chồng tao đến lầu Tế Hà ăn có gặp đồ tể Lý khu Đông, lại còn chào hỏi người ta nữa. Tao sẽ gọi lão đến đây để lão làm chứng, chồng tao ăn đồ ăn nhà mày xong thì đau bụng!"

Chẳng bao lâu, mụ đã dẫn ngay đồ tể Lý đến.

Đồ tể Lý chứng thực: "Đúng rồi, hôm qua lúc tôi đến ăn ở lầu Tế Hà thì đã gặp Triệu Tứ."

Mụ kia đắc thắng: "Mày còn cãi nữa không?"

Chu Tử Thư càng nghe càng ghét, chỉ nhìn chằm chằm mụ sồn sồn kia và gã đồ tể Lý. Diêu Tam nói: "Ai mà biết mấy ông bà có thông đồng với nhau đi ăn vạ không?"

Chu Tử Thư xua tay: "Đừng nói thế. Hôm qua đúng là bọn họ đã ăn uống ở lầu Tế Hà."

Mụ kia hí hửng: "Mày chịu nhận rồi hả? Hay lắm, có cần tao mời Lưu đại phu ở hẻm Đồng Lý sang chứng thực rằng, chồng tao ăn ở chỗ mày xong thì nôn mửa từ chiều qua đến giờ chưa khỏi không?"

Chu Tử Thư: "Mụ mời ông ấy đến đi."

Mụ kia nhanh nhẹn gọi Lưu đại phu đến. Lưu đại phu làm chứng: "Đúng rồi, hôm qua Triệu Tứ được vợ đưa đến y quán nhà tôi, đích thân tôi thăm bệnh cho anh ta."

Mọi người ồ à hết cả lên.

"Lầu Tế Hà bán thức ăn ôi thiu thật à?"

"Sợ quá, không ngờ tiệm lớn như lầu Tế Hà mà làm ăn thất đức vậy!"

Chu Tử Thư hỏi: "Lưu đại phu, ông chẩn đoán anh này mắc bệnh gì ạ?"

"Ngộ độc, chắc là ăn phải cái gì gây đau bụng. Tôi đã kê cho anh ta mấy thang thuốc, cứ uống đúng hạn thì hai ngày là đỡ. Cụ thể nữa thì tôi không rõ, có vô số nguyên nhân gây đau bụng nôn mửa, ai mà biết anh ta ăn phải cái gì."

Chu Tử Thư: "Thế mà tôi lại biết đấy." Quần chúng sửng sốt.

Chu Tử Thư: "Diêu Tam, anh lấy hóa đơn ra đây."

Diêu Tam: "Có ngay!"

Diêu Tam chạy vào lầu Tế Hà, lấy một xấp giấy dày từ chỗ quản lí. "Tiểu đông gia, toàn bộ thức ăn khách đã gọi vào trưa hôm qua đều ghi lại ở đây." Mụ kia hốt hoảng, cả Triệu Tứ đang lăn lộn dưới đất cũng ngớ người.

Ai mà ngờ lầu Tế Hà làm ăn không giống người thường. Đừng nói là cả phủ Cô Tô này, thậm chí khắp cả Đại Tống, lấy đâu ra tửu lầu nào ghi lại từng món khách hàng đã đụng đũa cơ chứ?

Chu Tử Thư lật đống giấy, rút ra một tờ: "Ngày mười chín tháng hai, giờ ngọ ba khắc, da đen, dáng thấp lùn, má trái có bớt nâu. Phải lão không, Triệu Tứ?"

Mọi người vây xem xì xào: "Đúng rồi, Triệu Tứ có vết bớt nâu trên má trái kia kìa."

Chu Tử Thư: "Rồi, nếu đúng là lão, chứng tỏ lão có đến lầu Tế Hà dùng bữa."

Mụ vợ nói như băm như bổ: "Thế mày còn chối gì nữa?"

Chu Tử Thư: "Mụ chờ ta nói xong đã. Trưa hôm qua lão ăn một khay thịt dê lát mỏng, một khay măng, một khay cải ngồng... một khay giá đỗ. Lão nói xem, cái món mà lão ngờ rằng gây đau bụng là món nào?"

Triệu Tứ: "Tao nhớ thế quái nào được, tóm lại là đồ nhà mày làm tao bị đau bụng."

"Hừ, vợ lão vừa bảo lão vừa đụng đũa đã thấy mùi vị có vấn đề, sao hôm nay đã quên tịt rồi?"

Triệu Tứ giật mình, vội lấp liếm: "Giá, là cái khay giá cuối cùng ấy! Lúc khay giá đấy được bưng lên tao đã thấy không ổn rồi, giá bị thối hết, nhưng tao nghĩ bụng lầu Tế Hà là tửu lầu to như thế, sao có thể bán thức ăn hỏng được, nên vẫn cứ ăn."

Mụ vợ hùa theo: "Mọi người nghe rõ rồi đúng không, người ngu đến mấy cũng biết không được ăn giá thối. Ông xã nhà tôi nếu không ăn thì đã không bị nôn mửa thế này!"

Giá đỗ cũng chính là mầm đậu. Ai cũng biết không được ăn giá thối, bởi ăn sẽ trúng độc ngay.

Chu Tử Thư: "Diêu Tam, anh tra rõ cho tôi, lúc Triệu Tứ ăn ở tửu lầu nhà ta thì còn những ai khác cũng gọi giá. Anh hãy dẫn tất cả bọn họ đến đây, để tôi xem giờ họ ra sao rồi, có phải đều ngộ độc hết không!"

Diêu Tam lập tức tìm được trong chồng hóa đơn hai người nữa, hai người này đều ngồi gần với bàn của Triệu Tứ và đều gọi giá. Một người tình cờ bán hàng ở ngay cạnh đó, anh ta được Diêu Tam gọi sang thì ngạc nhiên lắm: "Tôi đúng là có ăn giá, nhưng khay giá của tôi không bị hư."

Chu Tử Thư: "Triệu Tứ, lẽ nào lầu Tế Hà của ta rắp tâm hại một mình lão, phục vụ riêng lão một khay giá hỏng?"

Triệu Tứ bò lồm cồm dậy, gân cổ: "Ai mà biết có phải chỉ mỗi khay giá đó bị thối không, mày đừng có chối vòng quanh!"

Chu Tử Thư cười phá lên: "Được, lão nói cái khác có khi ta chẳng tài nào chứng minh được, nhưng ai bảo lão cứ phải vin vào cái cớ ngộ độc giá. Diêu Tam, anh xuống nhà bếp bắt một con gà lên đây. Thưa các vị hương thân phụ lão, nhà ai có giá thối, Chu Tử Thư đây xin mua với giá mười lạng bạc trắng."

"Nhà tôi có!"

Gà và giá thối đều đã có, Chu Tử Thư thẳng thừng đút cả khay giá cho con gà.

Trước mặt bao người, con gà bắt đầu nôn ọc ra.

Triệu Tứ đắc ý: "Thấy chưa, hôm qua tao cũng bị y như vậy, đến hôm nay thỉnh thoảng vẫn nôn mửa!"

Chu Tử Thư: "Nói láo không biết ngượng mồm! Triệu Tứ, lão biết con gà này còn sống được bao lâu chứ?"

"Hả?"

"Chu Tử Thư này cá với lão, kể từ hôm nay, nếu con gà này sống quá một tháng, ta bồi thường cho lão một trăm lạng bạc. Nếu nó sống không nổi một tháng mà Triệu Tứ lão sống nổi, thì lão phải đứng trước lầu Tế Hà rửa oan cho tửu lầu nhà ta, dập đầu một trăm cái. Lão có dám cược không?" Giá đỗ là mầm của hạt đậu.

Giá đỗ bị thối sẽ sản sinh ra Aflatoxin, một loại độc tố từ nấm. Độc này có cả trong lạc mốc hay đậu tương mốc, còn nguy hiểm cho con người hơn cả thạch tín.

Chu Tử Thư không tin có ai ăn hết một khay giá hỏng mà vẫn sống phây phây!

Sắc mặt Chu Tử Thư lạnh buốt, dọa cho Triệu Tứ sợ toát mồ hôi. Gã rất muốn cược với Chu Tử Thư, nhưng sự tự tin của cậu khiến gã không có gan nói có. Cứ mở mồm rồi lại ngập ngừng, Triệu Tứ không nhả ra được chữ nào cả. Mụ vợ cay cú của lão cũng bị Chu Tử Thư làm cho choáng váng, nhưng mụ ta vẫn cố già mồm: "Ai... ai mà thèm cá cược với mày! Nhỡ chồng tao nhớ nhầm thì sao? Đúng rồi, chồng tao không ăn phải giá thối, mà là măng, chắc chắn khay măng bị hỏng!"

Chu Tử Thư: "Lúc thì bảo là giá, lúc thì bảo là măng. Được thôi, Diêu Tam, anh lại tìm cho tôi những người ăn măng cùng lúc với Triệu Tứ trong ngày hôm qua. Triệu Tứ, ta với lão cùng lên công đường cho Cổ huyện lệnh thẩm vấn! Đầu tiên lão phỉ báng ta, nói rằng ăn thức ăn ở lầu Tế Hà làm lão bị đau bụng. Chu Tử Thư này đường đường là tú tài, là người đỗ đạt công danh, thường dân như lão lên công đường với ta, nếu ăn nói bừa bãi hàm hồ, thì lão cứ liệu hồn xơi mười đại bản!" Triệu Tứ sợ vỡ mật, ngã bệt xuống.

Chu Tử Thư: "Diêu đại ca, anh hãy xốc lão lên, chúng ta đi tìm Cổ huyện lệnh."

Mọi người xúm xít xung quanh tới giờ đều rõ Triệu Tứ và vợ nói thật hay ăn vạ.

"Đi, đến gặp Cổ huyện lệnh!"

"Tất cả đi nào, chúng tôi muốn xem Cổ huyện lệnh phân xử!"

Triệu Tứ và vợ thấy hỏng việc rồi thì ba chân bốn cẳng tháo chạy. Triệu Tứ còn yếu, bị mọi người bắt lại được. Thấy Chu Tử Thư sắp lôi cổ mình đến huyện nha tới nơi rồi, gã vội la lên: "Quản lí Cunglầu Như Ý là người thuê tôi, chính quản lí Cunglầu Như Ý đã thuê tôi. Đường tiểu đông gia, xin cậu tha cho tôi, cái thân này ăn mười đại bản thì sống dở chết dở mất!"

Lầu Như Ý ở ngay trên Toái Cẩm Nhai, chỉ cách lầu Tế Hà chừng nửa con phố. Quản lí Cungcũng đứng lẫn trong đám hóng hớt, đến đoạn Chu Tử Thư đòi đưa Triệu Tứ lên huyện nha, lão đã quay lưng định rón rén chuồn êm rồi. Nào ngờ Triệu Tứ nói toạc móng heo ra, lão tái mặt, quay phắt lại quát: "Đồ vô lại, sao mày dám vu vạ cho tao!"

"Quản lí Vương, ông đừng có qua cầu rút ván! Chính ông bảo tôi nghĩ cách bôi nhọ, phá hoại lầu Tế Hà kia mà!"

"Mày mày mày... Mày ngậm máu phun người!"

Chu Tử Thư: "Quản lí Vương, muốn biết lão ta có ngậm máu phun người không, tất cả chúng ta cùng gặp Cổ huyện lệnh, nghe ngài ấy phán xử là rõ!"

Quản lí Cungtrố mắt, đứng ngây ra như phỗng.

Vụ việc khôi hài đến đây là kết thúc. Triệu Tứ lãnh mười đại bản, quản lí Cungchết cũng không chịu nhận tội sai sử Triệu Tứ, một mực chối bay chối biến. Cổ huyện lệnh cũng không thể bắt giam lão được. Cơ mà, lão vừa vác mặt về lầu Như Ý đã bị ông chủ tống cổ thẳng thừng: "Đồ ăn hại đái nát!"

Quản lí Cungỉu xìu xìu, ôm bọc quần áo chạy mất hút.

Trận náo loạn này làm khổ Chu Tử Thư liền hai ngày. Ông chủ lầu Như Ý đem quà cáp đến tận cửa, bày tỏ rằng bồi thường xong thì xin xí xóa.

Diêu Tam nhìn lễ vật trên bàn, nói: "Tiểu đông gia, viên ngoại Ngô này tử tế đấy, bồi thường khá phết. Rõ ràng quản lí Cunglà kẻ bày mưu, thế mà gã cứ khăng khăng không nhận, đúng là hèn."

"Quản lí Cunglà chủ mưu thật sao?"

Diêu Tam: "Sao ạ?"

Trong một nhã tọa trên tầng hai của lầu Tế Hà, Chu Tử Thư đứng tựa vào bệ cửa sổ, bình thản nhìn đống quà tặng trên bàn. Nào là xà phòng thơm, nào là Hoàng Kim lũ, ồ, toàn là đồ của Trân Bảo Các!

"Diêu đại ca, anh cho rằng vụ này chỉ có mình quản lí Cungnhúng tay vào ư? Chính Ngô viên ngoại mới là chủ mưu đích thực sau màn đó!"

"Hả? Chết tiệt, thế mà chúng ta lại nhận quà của lão. Tôi phải đem trả lại hết mới được!" "Không cần đâu."

"Tiểu đông gia?"

Chu Tử Thư xoay người lại, phóng tầm mắt ngắm Toái Cẩm Nhai nhộn nhịp. Mặt trời đã ngả về Tây, quán xá dọc đường Toái Cẩm Nhai đều đã lên đèn. Dân cư trên con phố dài tít tắp này sẽ không bao giờ vì một người qua đời mà thay đổi. Cả phủ Cô Tô này, chẳng kể là chết một Lương Tụng, có khi ngay cả Hoàng đế chết ngắc, họ vẫn sống tiếp như ngày thường.

"Hai năm trôi qua, tôi làm xà phòng, làm xà phòng thơm, chế tạo Hoàng Kim Lũ. Rồi tôi lại kinh doanh hậu cần, kinh doanh bát hà cung. Phủ Cô Tô này có biết bao người trông sản nghiệp của tôi mà đỏ con mắt, nhưng mấy ai dám đụng đến tôi? Xà phòng thì đã có nhà họ Đường bảo vệ, vì nó thuộc về Trân Bảo Các. Nhưng Hậu cần Đường thị và lầu Tế Hà, đều là của riêng tôi."

"Tiên sinh còn sống, chúng không dám kiếm chuyện với tôi."

"Tiên sinh mất rồi, chúng như đàn sói khát mồi, bổ vào cắn xé."

"Thì ra, những lúc tôi không để ý, tiên sinh đã che chở tôi nhiều đến vậy."

Diêu Tam xót xa nhìn bóng lưng Chu Tử Thư: "Tiểu đông gia..."

Dưới ánh chiều tà, tấm lưng gầy guộc của Chu Tử Thư càng bé nhỏ hơn bao giờ hết. Cậu không quay mặt lại, giọng cậu nghẹn ngào: "Diêu đại ca, đến tận hôm nay, tôi mới nhận ra tiên sinh đã đi thật rồi."

"Tiểu đông gia?"

"Tiên sinh, đã đi thật rồi..."

Chu Tử Thư khóc nấc lên. Vào giây phút này, dẫu mang trong mình linh hồn hơn hai mươi tuổi, Chu Tử Thư vẫn cảm thấy có thứ gì đó khoét vào tim mình sâu hoắm. Cái lỗ trống toang hoác ấy câm lặng và chết chóc quá mức chịu đựng của cậu. Cậu khóc nức nở, khóc trong tuyệt vọng, khóc vì biết rõ không còn cách nào vãn hồi tất cả, ngay cả cậu cũng không có cách nào quay ngược thời gian.

Bất giác, Chu Tử Thư phát hiện ra, suốt hai năm qua, người đối xử với cậu tử tế nhất, chân thành nhất, thương yêu nhất vẫn luôn là người ấy.

Người thật sự đã ra đi mãi mãi rồi.

Đêm xuống, Chu Tử Thư mặc áo lông, về nhà cùng Diêu Tam.

Vừa vào nhà, cậu đã gặp một vị khách mình không ngờ tới nhất.

Chu Tử Thư ngẩn người, tiến lại gần: "Anh Ngu Chi."

Từ Tuệ nhìn đôi mắt đỏ hoe của Chu Tử Thư, vô thức hỏi: "Em khóc à?"

Suốt bảy ngày thủ linh cho Lương Tụng, Chu Tử Thư là người khóc ít nhất.

Từ Tuệ còn tưởng tính tình cậu khép kín, hoặc cảm tình của cậu với Lương Tụng chưa đủ đậm sâu. Dù gì hai người cũng chỉ có tình thầy trò vẻn vẹn hai năm mà thôi.

Chu Tử Thư không giấu giếm: "Em nhớ tới tiên sinh, kìm lòng không đặng."

Từ Tuệ lặng đi trong chốc lát.

Chu Tử Thư nói: "Em cứ tưởng anh đã rời thành rồi đấy. Không phải anh sẽ nhậm chức quan huyện ở nơi khác sao? Sao giờ vẫn chưa đi thế?"

Từ Tuệ đáp: "Đúng ra là anh đi từ hôm qua đấy, nhưng lúc thu dọn di vật của đại nhân thì phát hiện ra một cuốn sách. Cuốn sách này anh chưa thấy bao giờ, nhưng hẳn là liên quan đến việc sưu tầm và ghi chép của đại nhân về phong tục và dân cư ở Cô Tô. Chỉ có một lần anh không đi cùng đại nhân, hôm đó ngài đi với em. Hẳn em biết sách này của ai chứ?"

Chu Tử Thư nhận sách, nói: "Đúng là trước khi em thi huyện đã theo tiên sinh đến huyện Sa Châu mượn sách. Em đã chép lại cuốn này rồi, không ngờ tiên sinh lại mượn hẳn về."

Từ Tuệ: "Thế thì anh phải đem trả thôi. Em biết đường đến đấy chứ?" Chu Tử Thư mô tả khái quát cho Từ Tuệ.

Từ Tuệ nhíu mày: "Anh chưa tới huyện Sa Châu bao giờ, em tả thế anh cũng không hình dung được. Chu Tử Thư này, mấy hôm tới em có bận không, nếu mai em rảnh, hay là đến huyện Sa Châu với anh một chuyến nhé? Chúng mình cũng trả cuốn sách lại cho chủ nhân của nó."

Chu Tử Thư: "Được ạ."

||Chú thích

Gốc dùng "phong thổ nhân tình chí". Thể "chí" là thể văn ghi chép, giống như Dư địa chí hay Hoàng Lê Nhất Thống chí.

------oOo------

Chương 27

Nguồn: EbookTruyen.Net

Cung Tuấn, CungTử Phong

Ngày hôm sau, Chu Tử Thư và Từ Tuệ cùng nhau đi về hướng Bắc, tới huyện Sa Châu. Hỏi loanh quanh một hồi cũng tìm được nhà Triệu cử nhân.

Từ Tuệ cầm sách định gõ cửa, đã nghe thấy trong nhà có tiếng khóc thảm thiết. Chu Tử Thư ý nhị liếc Từ Tuệ. Từ Tuệ gõ cửa, một người phụ nữ mặc áo sô gai trắng ra mở cửa. Thấy hai anh em, người phụ nữ khá hoang mang, chợt bà phát hiện nội sam của Chu Tử Thư và Từ Tuệ đều là áo tang trắng, hiển nhiên là đang để tang cho ai đó.

Bà ta hỏi: "Không biết nhị vị công tử đến tìm ai ạ?"

Chu Tử Thư nói: "Chúng tôi tìm Triệu cử nhân. Dịp này năm ngoái, tôi và Lương tiên sinh – Lương Bác Văn có đến huyện Sa Châu mượn một cuốn sách. Đó chính là cuốn này."

Từ Tuệ lịch sự trả sách bằng cả hai tay.

Một người đàn ông trung niên bước tới sau lưng người phụ nữ, cả hai ông bà đều nước mắt hoen mi. Ông ta nhận sách, nói với Chu Tử Thư: "Tôi vẫn nhớ. Cậu là học trò của Lương đại nhân, nghe nói năm ngoái đỗ tiểu tam nguyên đồng sinh. Chỉ tiếc rằng hai cậu đến trễ, cha tôi đã mất mấy hôm rồi. Cảm ơn các cậu đã trả sách."

Trong nhà quàn một cỗ áo quan, người đàn ông và người phụ nữ đang thủ linh và khóc tang.

Chu Tử Thư nói: "Liệu chúng tôi có thể thắp một nén hương cho Triệu cử nhân được không ạ?"

"Mời hai cậu."

Chu Tử Thư và Từ Tuệ vào phòng, mỗi người thắp một nén nhang cho cử nhân họ Triệu.

Từ Tuệ hỏi: "Chẳng hay Triệu cử nhân đi thế nào ạ?"

Anh vừa hỏi xong, cả người đàn ông lẫn người đàn bà nọ đều bụm mặt òa khóc. Người con trai nói: "Cha tôi cách đây mấy hôm đã tự ải rồi bỏ mình! Từ lúc Lương đại nhân, La đại nhân qua đời, tôi đã lường trước được. Bao nhiêu đại nho cùng ra đi, trong khi cha tôi đã mất chí sống từ hai mươi năm trước rồi. Thế mà đề phòng bao nhiêu cũng không nổi, đêm hôm ấy, cha tôi bí mật lấy dây thừng, thắt cổ mà ra đi!" Chu Tử Thư và Từ Tuệ choáng váng.

Nghe người đàn ông này giải thích, hai người mới vỡ lẽ, hóa ra Triệu cử nhân cũng tạm coi là một phần tử của Tùng Thanh đảng.

Hai mươi sáu năm trước, Tùng Thanh đảng chưa có tên gọi ấy, cũng chưa kết thành đảng phái, chỉ là một nhóm những học giả trẻ tuổi được thư sinh trong thiên hạ hâm mộ. Ai mà không muốn được gia nhập Tùng Thanh đảng, bày tỏ lòng tôn sùng của bản thân với các đại nho trong thiên hạ? Triệu cử nhân may mắn được tham gia hội văn Tùng Thanh một lần, đó cũng là lần ông có duyên gặp mặt Lương đại nho.

Sau khi Chung đại nho bị giam vào thiên lao, con đường làm quan của Triệu cử nhân cũng không được như ý. Ông bị người ta hãm hại nhiều lần, cuối cùng rơi vào cảnh thất thế, chỉ có thể về quê làm ruộng.

Chu Tử Thư giờ mới hiểu tại sao Triệu cử nhân tuy là cử nhân mà gia cảnh lại khốn đốn thế. Lần đầu cậu gặp Triệu cử nhân đã thấy lạ kì, không ngờ chân tướng là như vậy.

"Thiên hạ ai cũng biết, Chung đại nho qua đời, bảy vị đại nho khác đã chết theo ngài ấy. Nhưng thiên hạ có ai hay, cha tôi cũng tuẫn tiết theo các ngài chứ?" Người con trai đau đớn tột độ, dập đầu xuống đất, "Cha ơi, sao cha hồ đồ thế, sao cha nỡ bỏ con và Huệ nương để đi một mình! Con trai vẫn chưa làm tròn bổn phận dưỡng lão cho cha mà!"

Chu Tử Thư và Từ Tuệ không biết nói gì hơn, hai người rời khỏi Triệu gia.

Từ Tuệ than: "Chẳng biết thiên hạ còn bao nhiêu người, ở những nơi không ai biết, lẳng lặng tìm đến dải lụa bạch. Khí tiết sĩ tử như bầu máu nóng, vui buồn lẫn lộn."

Chu Tử Thư mấp máy môi, nhưng rốt cuộc không nói gì được. Cậu siết chặt nắm tay.

Tiên sinh, thứ mà thầy coi là đáng giá, liệu có đáng giá thật không?

Hai người lên xe rời khỏi huyện Sa Châu, Chu Tử Thư nhìn thấy núi Hương Sơn ở đằng xa. Còn nhớ một năm trước cậu và Lương Tụng đến huyện Sa Châu, thầy trò hai người cùng nhau lên núi. Chu Tử Thư nói: "Dừng ở đây được không? Ngu Chi, em muốn leo lên ngọn núi kia. Năm ngoái tiên sinh và em đến đây, đã cùng nhau leo lên núi."

Từ Tuệ nói: "Được, chỉ có điều anh có việc bận, không chờ em được."

"Không sao, em có thể tự quay về thành Cô Tô." Từ Tuệ gật đầu.

Chu Tử Thư xuống xe ngựa, một mình đi đến Hương Sơn.

Đi qua suối Hoa Đào, qua đường mòn Thải Hương, Chu Tử Thư vịn lên những mỏm đá, trèo lên tận đỉnh núi. Đứng trên đỉnh núi, phóng tầm mắt có thể trông thấy phong cảnh non nửa phủ Cô Tô. Xa xa có khói bếp nhà dân, gần bên là biển tùng xào xạc. Ngút ngàn mây trùng điệp, vang lừng tiếng trăm chim.

Chu Tử Thư cứ lặng lẽ đứng trên đỉnh núi thật lâu.

Lâu thật lâu sau, cậu hét vang: "Núi cao ta trông, đường rộng ta đi. Tuy đích chưa đến, nhưng lòng hướng về!"

"Cảnh, là lớn lao."

"Tắc, là rèn giũa."

"Tiên sinh, thầy biết con xưa nay luôn cẩn ngôn thận hành, cẩn tiểu thận vi. Tuy dám mạnh miệng bàn về chí lớn, song lòng con không ấp ủ hoài bão vĩ đại gì. Mưu cầu cái nhỏ, không ham cái to."

"Cảnh Tắc, Cảnh Tắc!"

Môi Chu Tử Thư mấp máy, nhưng không cách nào diễn tả suy nghĩ thành lời.

Ngay từ thuở ban đầu, Lương Tụng đã muốn dạy cậu rằng, làm người có thể chọn ngao du khắp thế gian đây đó, cũng có thể chọn sống thanh thản cả đời, nhưng từng phút từng giây...

Cảnh Tắc, con vĩnh viễn đừng quên lời mình từng nói, thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách!

Trước đây cậu mượn câu này của Cố Viêm Vũ, dùng kế để bái Lương Tụng làm thầy, nhưng chưa bao giờ cậu thực hiện lời tuyên bố ấy. Thiên hạ này, có Lương Tụng, La Chân, lưng đeo tiếng oan thiên cổ mà chẳng có sức xoay đất chuyển trời, đành phải lấy cái chết tỏ chí; thiên hạ này, còn có Triệu cử nhân ra đi thầm lặng ở nơi hẻo lánh hoang vu, vĩnh viễn không được ghi vào sử sách, nhưng chẳng vì thế mà đem lòng oán hận!

Chu Tử Thư lặng ngắm phủ Cô Tô dưới chân núi, nói: "Thầy ơi, xin thầy yên trí. Lời hứa của con với thầy, con nhất định sẽ thực hiện được." Dứt lời, cậu xuống núi, đến đêm thì trở về phủ Cô Tô.

Lúc Chu Tử Thư về tới nhà thì Đường Hoàng và Diêu Tam đã sốt ruột đến nỗi chuẩn bị xông ra đường tìm cậu rồi.

Thấy anh về, Đường Hoàng nhào đến túm tay: "Em lo chết đi được! Anh à, anh đi tuốt tận đâu thế? Từ đại nhân nói anh leo núi ở huyện Sa Châu rồi tự về nhà. Khuya trầy khuya trật rồi, em tưởng anh không tính về luôn."

Diêu Tam nói: "Tiểu đông gia, trong bếp còn thức ăn phần cậu đấy, để tôi hâm nóng lại cho cậu nhé."

Chu Tử Thư: "Được ạ."

Ăn cơm xong, Diêu Tam đã đun sẵn nước nóng. Đường Hoàng thì về phòng luyện chữ, đây là bài tập kế toán Lâm giao cho con bé. Chu Tử Thư tắm xong, đang suy ngẫm xem phải làm thế nào để thực hiện hoài bão "thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách" mà mình đã hứa với tiên sinh thì bỗng nghe tiếng ai gõ cửa. Chu Tử Thư ra mở cửa, thì ra là Từ Tuệ ghé thăm.

Từ Tuệ trông khá phong trần mệt mỏi, anh mặc sẵn áo bông dày ấm, dường như sắp đi xa.

Chu Tử Thư hỏi: "Anh Ngu Chi phải rời Cô Tô đi nhậm chức mới rồi ạ?"

"Ừ. Trước khi đi có chút việc này, anh nghĩ ngợi mãi, cuối cùng quyết định là nên nói với em luôn."

Chu Tử Thư: "Việc liên quan đến tiên sinh hả anh?"

Từ Tuệ đáp: "Đúng rồi em. Trước khi lâm chung, đại nhân để lại cho anh một phong thư, dặn dò hết mọi chuyện hậu sự. Chức huyện lệnh của anh cũng do đại nhân lo liệu từ sớm. Vốn sáng sớm hôm ấy, quản gia báo tin Chung đại nhân mất trong ngục, đại nhân đã có tử chí rồi. Vừa hay lúc ấy em đến, ngài gặp em xong coi như đã hoàn thành tâm nguyện cuối cùng, nên lúc ra đi không tiếc nuối gì nữa cả."

Chu Tử Thư: "Lẽ nào tiên sinh còn có lời muốn nói với em?"

Từ Tuệ do dự giây lát, rút từ tay áo ra một phong thư. "Thư này vốn không nên đưa em ngay bây giờ. Đại nhân dặn, chờ khi nào em đỗ cử nhân thì anh hẵng trao thư cho em. Nhưng anh không đợi được. Giờ anh đi xa nhậm chức, không biết bao giờ mới có ngày gặp lại em. Nếu năm nay em không đỗ, chẳng lẽ anh lại đợi ba năm nữa rồi mới giao thư ư? Nhỡ ba năm ấy có chuyện gì bất trắc xảy ra, anh không có cách nào đảm bảo được. Thế nên anh đành làm trái lời đại nhân dặn, gửi em bức thư này luôn." Chu Tử Thư nhận thư bằng cả hai tay.

Từ Tuệ: "Thật áy náy quá, anh chỉ có thể làm được đến đây. Giờ phải đi gấp đến nơi làm việc mới."

Chu Tử Thư: "Chuyến này đi núi dài sông rộng, chẳng biết đời này có cơ hội tái kiến không, anh Ngu Chi lên đường cẩn thận."

"Đa tạ, không cần tiễn anh đâu."

Chu Tử Thư trở về phòng, đặt phong thư lên bàn. Đây là bức thư Lương Tụng để dành đến khi cậu thành cử nhân, giờ cậu vẫn chỉ là tú tài, rốt cuộc có nên mở hay không đây? Từ Ngu Chi chọn cái dễ, để cái khó cho cậu, thành ra cậu lại phải nhức đầu rồi.

Chu Tử Thư đắn đo một hồi, quyết định: "Mở!"

Thư bóc ra, trên nền giấy Tuyên trắng muốt phủ kín những dòng chữ trâm hoa tiểu Khải đẹp đẽ.

"Cảnh Tắc, khi con thấy thư này, thầy đã rời nhân thế được nửa năm. Ta và con có duyên thầy trò, thế mà vi sư lại bỏ con để đi trước, thật thất trách biết bao. Hôm nay con đỗ cử nhân, vi sư không thể tận mắt chứng kiến, ấy là nỗi ân hận lớn nhất đời thầy. Vi sư biết con vẫn mong yên ổn qua ngày, như thế không có gì là không tốt cả. Khi thầy đi rồi, chẳng may Đường gia có biến, không thể đỡ đần con, con hãy đến Thịnh Kinh tìm người này.

Ông ấy tên là Phó Vị, tự Hi Như, hiệu là Điêu Trùng trai chủ. Bức tranh thầy trò mình bình phẩm ngày song cửu trùng dương chính là tranh của ông ấy.

Phó Hi Như là bạn lâu năm của thầy, con mang lá thư này đi gặp ông ấy, ông ấy sẽ chiếu cố con đến tận mai sau."

"Thầy ơi!" Chu Tử Thư đọc đến đấy thì nghẹn ngào. Cậu không ngờ tuy tiên sinh đã ra đi, nhưng ông chưa từng quên người học trò là cậu. Thầy đã thu xếp sẵn từng bước đường lui cho cậu rồi!

Phong thư vẫn còn trang thứ hai, Chu Tử Thư lật sang trang đó, thấy rõ nội dung thì run rẩy.

"Nếu con có ý định bước chân vào hoạn lộ, thì vi sư là tàn dư của Tùng Thanh đảng, vốn không nâng đỡ được cho con. Thậm chí, cái tiếng là học trò Lương Bác Văn có thể hại tới tính mạng con. Trong trường hợp con quyết chí làm quan, khi tới Thịnh Kinh, hãy lấy chiếc lá bạc thầy để trong phong thư đưa cho Phó Hi Như rồi bái ông ấy làm thầy, từ nay về sau không được nhắc đến tên thầy nữa.

Con chớ chủ quan mà không vâng lời thầy. Phó Hi Như tuy không đứng đầu Tứ nho thiên hạ, nhưng nếu con là đồ đệ của ông ấy, quan lộ tương lai của con sẽ rộng mở vô cùng.

Ngoài ra con phải nhớ kĩ, nhận Phó Hi Như làm thầy không phải là việc quan trọng nhất. Sở dĩ thầy bảo con làm đồ đệ của ông ta, là bởi Phó Hi Như có một học trò tên Cung Tuấn, tự Tử Phong. Trong bốn mươi năm làm quan của thầy, chỉ có người này là giỏi làm quan nhất, giỏi lãnh đạo nhất, phù hợp với con đường làm quan nhất, chưa kể còn có chỗ dựa vững chắc là Lang Gia Cungthị. Nếu con bái Phó Hi Như làm thầy, con sẽ thành sư đệ của CungTử Phong, đây là lối tắt duy nhất để con tiếp cận nó.

CungTử Phong là người sâu không lường được, lấy lòng tin của nó không hề dễ dàng, nhưng mưa dầm thấm lâu ắt có cơ hội.

Nếu con có thể cùng chung chiến hào với nó, vi sư trên trời có linh cũng được an tâm yên nghỉ.

Thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách.

Mong năm sau con ra mộ thắp hương cho ta sẽ mang theo nước trái cây con từng ủ, chua ngọt ngon miệng, có thể gợi lại hơi ấm nhân gian."

||

Đọc thư của Lương Tụng mà xúc động vô cùng. Thầy đã sắp sẵn từng bước đi cho Chu Tử Thư để cậu không phải chịu thiệt thòi, tiện thể sắp sẵn cả việc chung thân đại sự cho thằng bé luôn.

Mọi người có thể đọc thêm về câu "thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách" ở đây:

------oOo------

Chương 28

Nguồn: EbookTruyen.Net

Gặp mặt

Chương này có đề cập đến Trung Thư tỉnh. Đây là cơ quan soạn thảo và ban hành các chính sách, pháp lệnh giúp vua nên có quyền lực lớn.

Qua mấy ngày, Chu Tử Thư nhờ Diêu Tam gọi cả nhà lại.

Mọi người cùng tập trung trong phòng, hiếm khi nào có dịp nghiêm túc đến vậy. Kế toán Lâm cho rằng Chu Tử Thư cần giải quyết phiền phức mấy hôm trước của lầu Tế Hà, bèn nói: "Tiểu đông gia, mặc chúng ta đã xử lí vụ việc hôm trước của lầu Tế Hà để làm gương, nhưng gần đây các tửu lầu khác trong phủ cũng ngấm ngầm ngáng trở. May mắn là hoạt động hậu cần tiến triển hết sức thuận lợi. Chúng ta kinh doanh hơn một năm nay, giờ đã có chỗ đứng ở phủ Cô Tô rồi, người khác muốn nhảy vào lĩnh vực này chắc chắn sẽ vất vả."

Chu Tử Thư nói: "Chuyện này cháu không lo đâu. Lầu Tế Hà buôn bán tốt thật nhưng chúng ta chỉ chuyên về bán bát hà cung, không cản trở nhiều đến việc làm ăn của các tửu lầu khác. Về mảng hậu cần, ai muốn cạnh tranh với chúng ta ít nhất phải mất một năm rưỡi chuẩn bị. Hôm nay cháu gọi cả nhà ra đây thực ra để bàn chuyện khác."

Diêu Tam: "Tiểu đông gia, có chuyện gì, xin cậu cứ nói."

"Tôi đã quyết định, tháng sau tôi sẽ đi Thịnh Kinh." Cả nhà há hốc miệng.

Đường Hoàng trợn trừng mắt: "Anh, anh định đi Thịnh Kinh thật á? Sao tự dưng anh lại có ý định này?"

Chu Tử Thư nói thực lòng: "Sau khi tiên sinh đi, mấy hôm trước anh nhận được một phong thơ viết rằng tiên sinh đã chọn thầy mới cho anh rồi. Thầy ấy ở Thịnh Kinh, tên là Phó Vị. Tháng tám anh sẽ thi cử nhân, vì chưa ghi danh nên thi ở cống viện Giang Nam hay trên Thịnh Kinh cũng như nhau cả. Nếu lần này đỗ cử nhân thì tháng hai năm sau cũng phải lên Thịnh Kinh thi tiếp. Vậy nên anh quyết định đi sớm, thi cử nhân ở Thịnh Kinh luôn." Kế toán Lâm cả kinh: "Phó Vị? Phải chẳng là Phó đại nho – Phó Hi Như?"

"Đúng là ngài ấy."

Đường Hoàng: "Kế toán Lâm, bác biết ngài ấy là ai ạ?"

Kế toán Lâm cảm thán: "Đâu chỉ là biết tên chứ. Tôi từng kể cho tiểu đông gia, hơn hai mươi năm trước, tứ nho thiên hạ ngày ấy lần lượt là Chung tướng công, Lương tướng công, Phó tướng công và Trần tướng công. Phó tướng công ấy chính là Đại học sĩ Phó Hi Như. Trước đây ngài Phó Hi Như vốn là Hữu tướng của Trung Thư tỉnh, nhưng do tuổi tác, mấy năm trước ngài đã từ quan hồi hương. Thánh thượng tiếc tài nên để ngài giữ một chức tượng trưng trong Hàn Lâm Viện, trên danh nghĩa là quản lí Hàn Lâm Viện, nhưng thực tế hàng ngày chỉ trồng hoa nuôi chim, hết sức thư nhàn tự tại." Diêu Tam: "Làm quan lớn cũng có thể trồng hoa nuôi chim mỗi ngày ư?"

Kế toán Lâm nói: "Được thánh thượng ân sủng thì có gì mà không được."

Diêu Tam: "Nếu thế thì tôi cũng muốn làm quan."

Diêu đại nương: "Con có thi nổi không mà đòi?"

Kế toán Lâm nói: "Tiểu đông gia đi một mình lên Thịnh Kinh bái sư sẽ vất vả lắm đấy. Ở nơi đất khách quê người, lấy ai chăm sóc cậu đây?"

Chuyện này Chu Tử Thư đã tính toán cả rồi, cậu nói: "Cháu đã bố trí hết việc ở phủ Cô Tô rồi, đến đầu tháng ba thì đi. Lúc đó Diêu đại ca sẽ đi cùng cháu lên Thịnh Kinh luôn, khi nào thu xếp ổn thỏa rồi, cháu lại để anh ấy về."

Diêu Tam: "Vâng, cứ để tôi đi theo tiểu đông gia."

Kế toán Lâm gật đầu: "Vậy thì tốt rồi. Chuyện ở Cô Tô xin tiểu đông gia chớ bận lòng, tôi và Diêu Tam sẽ quản lí chu toàn. Nếu có việc lớn thì nhờ nhà họ Đường giúp đỡ, nhất định không để cậu phải lo lắng."

Việc Chu Tử Thư đi Thịnh Kinh đến đây coi như đã quyết xong.

Sớm hôm sau Diêu đại nương bắt đầu chuẩn bị hành trang cho Đường

Thận. Vừa luôn tay luôn chân bà vừa lẩm bẩm: "Thịnh Kinh lạnh hơn Cô Tô đấy, nghe người ta bảo, tháng tư vẫn còn tuyết cơ," bà gấp từng chiếc áo bông dày vào trong rương hòm cho Chu Tử Thư. Diêu Tam cũng bận bịu không kém, rà soát kĩ càng việc vận hành của Hậu cần Đường thị và lầu Tế Hà. Chu Tử Thư và kế toán Lâm thì đối chiếu toàn bộ số sách một lần nữa, để riêng ra một khoản vốn quay vòng.

Còn mỗi mình Đường Hoàng là mặt ủ mày chau suốt hai ngày liền.

Đùng một cái Chu Tử Thư thông báo đi Thịnh Kinh, chẳng để cho ai thì giờ suy nghĩ cả.

Đến tối, cả nhà cơm nước xong xuôi, Đường Hoàng ngồi trong phòng tập viết đại tự kế toán Lâm giao cho. Chu Tử Thư đi vào phòng, ngó một chốc, hỏi: "Đã bắt đầu chép Kinh Thi rồi đấy hả?"

Cô nhóc bĩu môi, không thèm nhìn Chu Tử Thư, rầu rĩ "Ờ" một tiếng.

Chu Tử Thư buồn cười lắm, dù là con trai, cậu vẫn biết tỏng tâm sự của cô nhóc.

Chu Tử Thư: "Bảng chữ này đẹp đấy, nhưng không hợp cho người mới học chữ đâu. Trước khi đi, anh sẽ viết mẫu cuốn Kinh Thi để em tập chép theo chữ anh. Chờ bao giờ em lên Thịnh Kinh, anh sẽ kiểm tra chữ em đấy."

Đường Hoàng vốn chẳng buồn để ý đến anh trai, phải mất một lúc con bé mới giật mình, ngẩng lên hỏi: "Lúc em lên Thịnh Kinh ấy hở?"

Chu Tử Thư đáp tỉnh queo: "Ừ, lúc em chuyển đến Thịnh Kinh ấy."

"Em cũng được lên kinh thành ư?"

"Có gì mà không được?"

Đường Hoàng mừng húm, nhưng cô bé thắc mắc ngay: "Anh ơi, anh bảo chờ đến khi em lên Thịnh Kinh...tức là em không được đi cùng anh sao? Thế bao giờ em mới được đi?"

"Giờ em lên đó làm gì? Cuộc sống ở đó khác đây nhiều, cứ để anh đi tiền trạm trước đã. Anh phải vào kinh đi thi, em lên đó chẳng những không có việc gì để làm, mà anh còn phải bớt thời gian chăm sóc em nữa."

"Em có thể nấu cơm, giặt quần áo cho anh mà!"

"Những việc đó để nha hoàn làm là được, vả lại...A Hoàng ơi, em mà đòi giặt quần áo với thổi cơm cho anh hả? Tự em có tin nổi lời em nói không?"

Đường Hoàng cười hì hì: "Em cũng chả tin đâu."

Biết Chu Tử Thư không bỏ rơi mình, Đường Hoàng vui vẻ hơn nhiều, nói: "Anh ơi, hôm trước anh bảo anh muốn thi Hội, đỗ Tiến sĩ...nhưng em nhớ có lần anh nói, anh không muốn thi lên Tiến sĩ, chỉ muốn làm cử nhân thôi mà?"

Chu Tử Thư nhíu mày: "Anh nói thế thật à?"

"Anh có nói vậy mà!"

"Nói bừa một câu mà cũng không cho đổi ý phỏng?"

"..."

Đúng là ông anh thối tha xấu tính nhất thiên hạ!

Thấy cô nhóc không thèm nhìn mặt mình nữa, Chu Tử Thư cười nói:

"Trước khi đi, Lương tiên sinh có đặt tên tự cho anh là Cảnh Tắc."

Việc này Đường Hoàng có biết: "Ồ, thế thì sao hả anh?"

"Cảnh Tắc, Cảnh Tắc. A Hoàng à, có cái tên này, anh không thể phụ kì vọng của thầy được."

Đường Hoàng không hiểu gì hết, hồi lâu sau, con bé mới lẩm bẩm: "Thế cứ phải đi ngay bây giờ ạ? Thi cử nhân xong, anh đi cũng được mà."

Chu Tử Thư mỉm cười, vuốt tóc em gái: "Có nhiều việc anh phải làm lắm, không thể lãng phí thì giờ. Vả lại, anh trai em cũng có ý đồ cả đấy."

"Ý đồ gì cả anh?"

"Bao giờ em đến Thịnh Kinh thì anh nói cho mà biết!"

Đường Hoàng: "..."

"Anh bỏ cái kiểu nhử mồi đấy đi nhé. Chu Tử Thư anh cứ chờ đấy, bao giờ lên Thịnh Kinh em sẽ đánh cho anh một trận tơi bời!"

"Ha ha ha ha."

Sắm sửa hành trang xong, Chu Tử Thư sang Đường phủ, thưa chuyện đi Thịnh Kinh với Đường cử nhân và Đường phu nhân.

Đường cử nhân ngỡ ngàng hỏi: "Cháu định bái Phó Hi Như làm thầy sao?"

Đường phu nhân lo lắng: "Sao con đi vội thế, chẳng để mọi người có thời gian chuẩn bị gì cả. Con còn thiếu cái gì, nói cho hai bác biết. Có muốn dẫn theo mấy đứa hầu lên Thịnh Kinh không? Một thân một mình thì ăn ở thế nào chứ!"

Chu Tử Thư thong thả đáp: "Thầy Phó Hi Như là người Lương tiên sinh đã gửi gắm con trước lúc lâm chung. Đại bá mẫu cứ yên tâm, con chuẩn bị đầy đủ rồi, huống hồ còn có Diêu Tam đi cùng con nữa."

"Diêu Tam có sức vóc, nhưng cánh đàn ông thì qua quýt, lôi thôi bỏ xừ.

Hay con cứ chọn hai đứa hầu gái trong phủ mà dẫn theo đi."

"Không cần đâu bá mẫu ơi."

Cáo biệt Đường cử nhân và Đường phu nhân xong, Chu Tử Thư sang học viện Tử Dương nộp đơn xin thôi học.

Dư sơn trưởng nhận thư xin nghỉ của Chu Tử Thư thì khá ngạc nhiên, hỏi: "Trò muốn chuyển đến cống viện Giang Nam học hả?"

Tất cả các cử nhân vùng Giang Nam sau khi thi đỗ đều có thể theo học ở cống viện Giang Nam. Dù hiện tại Chu Tử Thư ghi danh ở học viện Tử Dương, nhưng thực chất cậu cũng là học sinh của cống viện Giang Nam.

Cậu đã nộp học tịch vào cống viện, tháng tám cũng nên đến đó thi Hương.

Chu Tử Thư lắc đầu: "Thưa sơn trưởng, con sẽ lên Thịnh Kinh để thi ạ."

Dư sơn trưởng: "Đi xa thế làm gì hả con? Học tịch của con vẫn ở cống viện Giang Nam, nếu không chuyển học tịch thì dù con lên Thịnh Kinh cũng chỉ được thi ở Giang Nam thôi đấy."

Chu Tử Thư bèn đem chuyện Lương Tụng gửi gắm mình cho thầy mới ra kể. Dư sơn trưởng ngạc nhiên lắm, hồi lâu mới thở dài: "Lương đại nhân dụng tâm lương khổ! Phó đại nhân là Thừa Chỉ của viện Hàn Lâm, việc điều chuyển học tịch của con chẳng khó khăn gì với ngài ấy."

Dư sơn trưởng phê chuẩn đơn xin thôi học của cậu, Chu Tử Thư vào học xá thu dọn đồ đạc. Dọn dẹp xong, cậu chuẩn bị đi thì bắt gặp Tôn Nhạc đứng ngay cửa, trông ánh mắt sốt ruột lắm. "Chu Tử Thư, cậu định bỏ học à?"

Chu Tử Thư: "..."

Cậu dở khóc dở cười bảo: "Câu nghe tin vịt đâu ra thế, tớ nói tớ bỏ học bao giờ?"

Tôn Nhạc cuống quýt chạy tới: "Nghe thầy Tiền chứ còn ai vào đây. Ổng bảo cậu nghỉ hẳn, không đi học ở học viện Tử Dương nữa."

"Đúng là tớ sẽ nghỉ ở đây, nhưng ấy là để chuyển lên Thịnh Kinh học tiếp. Cậu đừng có nghe người ta thổi phồng lên."

"Thì ra là thế..." Mãi một lúc lâu sau, chú béo Tôn mới tá hỏa: "Cái gì, cậu định chuyển đến Thịnh Kinh á?"

Chu Tử Thư: "..."

Tốc độ phản xạ này đến rùa cũng phải gọi bằng cụ!

Chu Tử Thư sắp đi xa, Tôn Nhạc buồn thối ruột, bèn lôi cậu đến lầu Tế Hà ăn bát hà cung để chia tay.

Chu Tử Thư đến chịu: "Chia tay kiểu gì mà lại đến tửu lầu bạn mở, ăn chùa uống chùa hả? Thế mà cũng gọi là chia tay?"

Tôn Nhạc gắp thịt dê thả vào nồi, nhúng qua nhúng lại rồi xơi tọt vào bụng.

Chú ta nheo mắt thỏa mãn: "Có gì mà không phải chứ? Chu Tử Thư, cậu đi Thịnh Kinh gấp thế làm gì? Phía thầy Phó Hi Như đã đánh tiếng trước rồi, thi cử nhân xong đến bái sư cũng không muộn mà. Thầy ấy ở nguyên một chỗ chứ có chạy đi mất đâu mà sợ?"

"Lương tiên sinh đã âm thầm lo liệu chu đáo đến mức ấy, tớ không thể nào phụ lòng thầy được!"

Tôn Nhạc lầu bầu: "Tớ thấy cậu chán ngấy Cô Tô rồi nên muốn lên thăm thú Thịnh Kinh phồn hoa đô hội thì có."

Chu Tử Thư kệ không đáp, chỉ gắp thức ăn ra khỏi nồi: "Chín rồi này, ăn đi!"

"Rồi rồi!"

Nửa tháng sau, Chu Tử Thư sắm sửa đủ hành trang, cùng Diêu Tam lên thuyền thẳng tiến Thịnh Kinh.

Dòng Vận Hà sóng xanh như ngọc, mây tím biếc tô điểm trời cam. Mặt trời ngả về Tây, Đường Hoàng và kế toán Lâm đứng ở bến tàu Đại Vận Hà vẫy chào từ biệt Chu Tử Thư. Thuyền đi được một khắc, cảng Vận Hà ở phủ Cô Tô đã biến thành một chấm đen nhỏ, cũng không còn thấy bóng dáng cô em gái khóc thút thít tiễn anh nữa.

Chu Tử Thư thở dài, dằn cảm xúc lưu luyến trong lòng.

Thêm một khắc nữa, phủ Cô Tô đã khuất bóng phía chân mây. Chợt, giữa thinh không vang lên một hồi chuông. Hồi chuông ấy vượt muôn trùng xa cách, ngân nga giữa trời nước mênh mông của Đại Vận Hà.

Ôi, tiếng chuông chiều chùa Hàn Sơn!

"Thuyền ai đậu bến Cô Tô, nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn1. Thì ra là vậy!"

Ra đi chưa đến nửa canh giờ, Chu Tử Thư đã cảm thấy nhớ nhà rồi.

Thật thế, sau hai năm, Chu Tử Thư đã coi nơi đây là nhà mình. Ban đầu cậu còn phủ nhận, nhưng dần dà cậu đã trở thành một người dân của xứ Cô Tô, một người dân nước Đại Tống, một con người của thời đại này. Đã có lúc cậu chỉ muốn được làm một hương thân giàu có, chẳng ham muốn công danh, chỉ cầu mong an lạc.

Nhưng khả năng của cậu chỉ đến thế thôi ư?

Không hề. Tiềm năng của cậu là vô cùng lớn, nhưng bản thân cậu lại ôm tư tưởng an phận thủ thường. Phải đến khi tiên sinh mất, La đại học sĩ, Triệu cử nhân qua đời, Chu Tử Thư mới được cảnh tỉnh. Cậu đã giật mình thức dậy từ giấc mộng trù phú yên vui của vùng sông nước Giang Nam.

Phủ Cô Tô giàu có đông đúc, ai nấy không muộn phiền, nhưng nhìn rộng ra, phủ Cô Tô không đại diện cho toàn cõi Đại Tống, không đại diện cho cả thời đại này!

Dọc đường đi, Chu Tử Thư chăm chú quan sát hai bờ Đại Vận Hà. Cậu thấy giữa lúc tuyết phủ trắng trời, những người cu li khoác manh áo cộc vẫn bươn bả giữa các thuyền hàng cập bến, nhặt nhạnh từng đồng tiền công từ mỗi chuyến bốc dỡ hàng. Cậu thấy những bến tàu nhem nhuốc xập xệ không đỗ lại nổi, trái ngược hẳn với bến thuyền rộng rãi, sạch sẽ ở Cô Tô!

Đây mới là diện mạo thật của nước Đại Tống và thời đại này.

Ngày lại qua ngày, chẳng mấy chốc đã sắp tới Thịnh Kinh. Chu Tử Thư ngồi trong khoang thuyền viết chữ. Cậu viết đại tự theo lối chữ Khải, trước tiên viết chữ "Mưu". Diêu Tam không biết chữ, Chu Tử Thư viết xong năm mươi tờ chữ "Mưu", lại viết năm mươi tờ chữ "Tĩnh", rồi nhờ anh ta đem chỗ giấy đó thả xuống lòng sông hoặc đốt đi.

"Tiểu đông gia, cậu viết gì thế ạ?"

"Viết cho cái thế tiến thoái lưỡng nan trong lòng."

Chữ "mưu" ấy là đạo làm quan, là con đường cậu nhất định phải bước lên trong tương lai.

Còn chữ "tĩnh", là tháng ngày bình yên sắp khép lại trong đời cậu.

Từ khi quyết định lên phương Bắc bái Phó Hi Như làm thầy, Chu Tử Thư biết mình không còn đường lui nữa.

Cậu giữ kín với Đường Hoàng về lí do không chờ đỗ cử nhân xong mới lên kinh đô, dù đây là dự tính ban đầu của Lương Tụng dành cho cậu. Bởi lẽ, thời khắc cậu quyết chí làm quan cũng là lúc cậu phải chặt đứt mối dây liên hệ với tiên sinh.

Thánh thượng kiêng kị và gai mắt đảng Tùng Thanh đến cỡ nào, Chu Tử Thư ý thức rất rõ. Ông ta bí mật xử tử Chung Thái Sinh vốn đã bị cầm tù trong thiên lao suốt hai mươi sáu năm, có phải vì nhân từ, độ lượng chăng? Không hề! Ông ta làm thế vì biết rõ Chung Thái Sinh không thể chết một cách vô duyên vô cớ được. Dù ông ta có nổi sát tâm, cũng phải kết liễu Chung Thái Sinh cho thật khéo léo, hoàn mỹ. Nếu không, ngòi bút của văn nhân thiên hạ sẽ dìm chết ông ta.

Lương Tụng bị cách chức đuổi về Cô Tô, La đại học sĩ suốt đời không được trọng dụng.

Đương kim Thánh thượng vừa lên ngôi, Tam Tỉnh sạch bóng Tùng Thanh đảng. Án tử mà Tống đế Triệu Phụ giáng xuống đảng Tùng Thanh không dung thứ bất cứ ai!

Muốn chen chân vào chốn quan trường, muốn có chức quyền, muốn tạo nên sự thay đổi, Chu Tử Thư dứt khoát không được dính líu gì đến đảng Tùng Thanh. Hiện giờ cậu là tú tài thì không cần sợ, bởi Lương Tụng là Phủ doãn Cô Tô, dù Chu Tử Thư bái ông làm thầy cũng có thể coi là ân sư dạy vỡ lòng, quan hệ không thân cận.

Nhưng đến khi cậu đỗ cử nhân mà người thầy trên danh nghĩa vẫn là Lương Tụng thì rất có khả năng khơi dậy lòng nghi kị của Triệu Phụ.

Chu Tử Thư không dám mạo hiểm xem Triệu Phụ có phải là một hoàng đế đa nghi không, nên cậu nhất định phải bái Phó Hi Như làm thầy trước khi trở thành cử nhân. Bao giờ cậu điều tra rõ được chân tướng, có thể tự mình lật lại bản án trong sử sách cho các trung thần hi sinh tính mạng tỏ ý chí, cậu mới có thể tuyên bố với người đời, mới có tư cách thưa với Lương Tụng rằng: "Học trò thành công rồi."

Tâm tư sâu kín ấy, cậu chưa hề chia sẻ cùng ai.

Thuyền chở khách tiến dần vào cầu cảng Thịnh Kinh. Chu Tử Thư chưa ra ngoài khoang đã nghe thấy tiếng người ngựa náo động của chốn kinh kì phồn hoa đô hội. Diêu Tam vác rương đồ trên lưng, theo Chu Tử Thư ra khỏi khoang thuyền. Ra tới cửa khoang, cảnh tượng trước mắt khiến Diêu Tam ngây ngẩn. Thật lâu sau anh ta mới giật mình thốt lên: "Thịnh Kinh là đây ư?"

Chu Tử Thư dẫu từng quen với cảnh tượng đô thị nhộn nhịp ở tương lai cũng phải ngỡ ngàng thán phục: "Đúng là Thịnh Kinh đó!"

Bạch Ngọc Kinh ở trên trời,

Năm thành sánh với mười hai tòa lầu

Đình đài cung điện muôn mầu,

Ngựa xe từ khắp năm châu đổ về.

Xuống thuyền, Diêu Tam vẫy một chiếc xe lừa đưa hai chủ tớ đến nha hành.

Đường phố Thịnh Kinh rộng mênh mông. Con đường dẫn từ cảng sông vào đến khu thành thị đủ rộng cho tám chiếc xe ngựa chạy song song. Tuy mới là tháng ba, Thịnh Kinh vẫn chưa sang xuân, nhưng đường phố đã đông đúc nhộn nhịp, tiếng hò hét chào hàng tới tấp, ồn ã không ngừng nghỉ. Nhà thấp thì hai tầng, nhà cao thì ba tầng. Diêu Tam vén rèm xe nhìn ngó, thấy một tòa lầu cao những bốn tầng liền ồ lên kinh ngạc.

Xà ích cười nói: "Hai vị khách quan nghe giọng không giống người Thịnh Kinh, mới từ miền Nam lên hả?"

"Chúng tôi đến từ phủ Cô Tô." Diêu Tam nói, "Không ngờ ở đây có nhà cao bốn tầng lận!"

Xà ích vênh mặt: "Đấy là tửu lầu lớn nhất Thịnh Kinh chúng tôi đấy, tên là Thiên Lý lâu."

Chu Tử Thư nghĩ tới ngay một câu thơ: "Thiên Lý lâu à? Phải chăng tên ấy lấy từ câu 'dục cùng thiên lý mục, canh thượng nhất tằng lâu3'?"

[3] Muốn phóng mắt nhìn xa hết ngàn dặm, hãy lên thêm một tầng lầu nữa.

Xà ích nói: "Đúng rồi, thì ra tiểu công tử đây là người đọc sách."

Xà ích đánh xe đưa hai người tới Nha hành. Thịnh Kinh tuy xa hoa đắt đỏ, nhưng Chu Tử Thư chẳng thiếu tiền. Có tiền thì việc gì cũng trôi chảy, không giống như hồi mới đến Cô Tô nghèo kiết xác. Chu Tử Thư nhờ nha lang chọn được một tòa viện rộng rãi, địa điểm thuận tiện, tiền thuê mỗi tháng hết năm lạng bạc.

Diêu Tam xót tiền ghê gớm: "Nhà cửa gì mà những năm lạng bạc một tháng!"

Chu Tử Thư lại nghĩ: "Diêu đại ca này, hay là chúng ta mua đứt một căn luôn nhỉ?"

Diêu Tam trợn mắt: "Tiểu đông gia, nha lang bảo giá một căn là bốn trăm lạng bạc trắng đấy!"

Chu Tử Thư tính toán: "Cũng đúng, nếu thi Đình tôi đỗ một trong ba hạng đầu thì sẽ có ngự trạch vua ban. Khỏi cần mua nhà gấp làm chi cả."

Diêu Tam: "..."

Sao anh cứ có cảm giác tiểu đông gia nói chuyện như người trời thế nhỉ?

À không, tiểu đông gia nhất định sẽ trở thành một trong ba người đỗ đầu!

... Nhất định phải đỗ!

Diêu Tam chạy đôn chạy đáo, vừa dọn dẹp sạch sẽ phòng ốc, vừa mua bán sắm sửa đồ đạc trong nhà.

Chạng vạng tối, Chu Tử Thư rửa mặt chải đầu, ăn vận đàng hoàng, cầm danh thiếp và thư của Lương Tụng đến Phó phủ. Danh tiếng của Phó Hi Như ở Thịnh Kinh vô cùng hiển hách, Chu Tử Thư chỉ hỏi thăm vài người là tìm được phủ của ông. Song cậu không vội xin vào gặp ngay, chỉ gửi danh thiếp và đưa kèm phong thư đích thân Lương Tụng viết.

"Tại hạ là Chu Tử Thư – Đường Cảnh Tắc đến từ phủ Cô Tô. Xin phép ngày mai quay lại thăm Phó đại nho."

Người gác cổng nhận danh thiếp, Chu Tử Thư ra về.

Sang hôm sau, Chu Tử Thư dậy sửa soạn từ sớm. Không có Diêu đại nương búi tóc cho, cậu dùng dây gấm buộc túm mái tóc dài thành đuôi ngựa. Sau đấy, Chu Tử Thư lấy từ rương một bộ áo bào gấm Tô Châu may sẵn, các món điểm tâm đặc sản Cô Tô, kèm theo một hộp đựng xà phòng, xà phòng thơm cùng với tinh dầu. Mang theo lễ vật, Chu Tử Thư và Diêu Tam đến thăm Phó phủ.

Người gác cổng đã biết cậu sẽ đến nên tiếp đón ngay từ cửa: "Mời Đường công tử vào, đại nhân chờ cậu đã lâu."

Chu Tử Thư lễ phép khom người: "Hóa ra đã để đại nhân phải đợi, xin thứ lỗi cho ta đến muộn."

Thấy Chu Tử Thư ăn vận đẹp đẽ, nho nhã lễ độ, rất có phong phạm của công tử thế gia, người gác cổng sinh hảo cảm, bèn nói với cậu: "Đường công tử chớ lo lắng, đại nhân có thói quen dậy sớm từ giờ Dần, cho chim ăn rồi tưới hoa. Hiện giờ ngài đang đọc sách trong thư phòng đấy ạ."

Người gác cổng dẫn Chu Tử Thư tới tận thư phòng, gõ cửa hộ cậu. Anh ta chưa kịp bẩm báo với chủ nhân thì đã nghe trong phòng có tiếng cằn nhằn.

"Thằng nhóc này giỏi gớm nhỉ, ta sai mi tìm sách, mi lại lười biếng nằm ườn thây, có đáng ăn đòn không cơ chứ hả?"

Đáp lại là giọng điệu đầy oan ức của một thiếu niên: "Rõ ràng ban nãy tiên sinh đang ngủ mà. Lúc ngài ngủ con đi tìm sách, con đem sách đến rồi ngài vẫn ngủ, con nhìn ngài ngủ nên mới buồn ngủ theo, sao ngài lại đổ tội cho con chứ!"

"Ta buồn ngủ thì ta ngủ chứ, ngày nào ta cũng dậy từ giờ Dần còn gì!"

"Dậy chơi với chim rồi lại ngắm hoa mà cũng kể..."

"Mi lẩm bẩm cái gì thế hả?"

"Đâu ạ đâu ạ."

Người gác cổng lại gõ cửa thêm lần nữa, hai người trong nhà nghe thế hẳn là cuống cả lên, trong phòng lịch kịch rổn rảng tiếng đồ đạc di chuyển. Mãi lâu sau mới có tiếng ông cụ cất lên: "Ôn Thư, con đi ra xem ai tới thế."

Cửa thư phòng thoáng cái liền hé mở, thò đầu ra khỏi cửa là một chú thư đồng loắt choắt, trắng trẻo, chừng mười một, mười hai tuổi. Chú nhóc hỏi: "Chú Trương vào đây có việc gì thế ạ?" Thình lình, nó phát hiện sau lưng người gác cổng là Chu Tử Thư. Thằng bé trố mắt, đóng sập cửa lại quay vào hô: "Hỏng bét rồi tiên sinh ơi, Chu Tử Thư phủ Cô Tô đến rồi kìa!"

"Hả? Sao nó đến sớm thế?"

Căn phòng lại loạn lên một hồi lịch xịch loảng xoảng nữa. Sau đó, Ôn Thư đồng tử mới ra mở cửa lần hai.

Chú thư đồng ngoan ngoãn, lễ phép thưa: "Đường công tử, tiên sinh chờ cậu đã lâu rồi ạ."

Chu Tử Thư: "..."

Ờ, mi nói cái quái gì mà chả đúng!

Chu Tử Thư mỉm cười, dặn dò Diêu Tam: "Anh đứng chờ ngoài này nhé." Nói xong bèn bước vào cửa.

Thư phòng của Phó Hi Như ở trong một khu nhà hướng mặt về phía Nam, có hai cổng dẫn vào. Vừa vào thư phòng, Chu Tử Thư đã ngửi thấy mùi thơm nhàn nhạt của mực viết. Hai bên cửa chính treo bốn chiếc lồng chim. Bốn chú chim màu sắc sặc sỡ, chân đeo xích mảnh bằng vàng, thấy Chu Tử Thư đến liền hót líu la líu lo. Giữa thư phòng là một lư hương chạm rỗng, bên trái là một bức bình phong bằng đá Thái Sơn, bên phải là một giá sách khổng lồ.

Chu Tử Thư mới đi đến giữa thư phòng thì bỗng nghe tiếng dế gáy lích rích. Cậu quay đầu lại nhìn, hóa ra trên giá sách có một ô vuông đặt hồ lô đựng dế!

Chu Tử Thư chỉ sao nhãng tí xíu thôi rồi lại bước tiếp. Trước mặt cậu, một ông cụ tóc hoa râm an tọa trên chiếc giường la hán. Ông cụ lén lút theo dõi Chu Tử Thư nãy giờ, Chu Tử Thư vừa nhìn đến ông, ông vội vàng liếc ngay đi chỗ khác, giả bộ hờ hững: "Cậu là đứa học trò đã nói câu 'thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách' mà Lương Bác Văn từng kể cho ta đấy hả?" Chuyện này mà thầy cũng kể với Phó Hi Như sao?

Chu Tử Thư gật đầu thưa: "Học trò chính là Chu Tử Thư – Đường Cảnh Tắc, người Cô Tô, xin được bái kiến Phó tiên sinh ạ."

Trên tay Phó Hi Như cầm cuốn sách làm bộ như đang đọc, nhưng ông không để ý là mình cầm ngược sách từ đời nào. "Lương Bác Văn ra đi đường đột quá, cậu cũng biết, gần đây mấy người bạn già cứ nối đuôi nhau ra đi, ta chẳng có cách nào đi viếng từng người cả. Ể? Cậu xách theo cái gì thế?"

"Học trò mang đặc sản Cô Tô đến ạ." Nói đoạn, cậu bày điểm tâm và xà phòng ra cho ông xem.

Phó Vị trông thì có vẻ hơi "xoàng", nhưng ông lại bỏ qua hết các món điểm tâm đặc sản mà chú ý ngay đến tinh dầu được đóng gói sang trọng. "Cái này hình như ta đã thấy đâu đó rồi thì phải."

Ôn Thư đồng tử nhắc ông: "Lúc Cungtướng công đi Kim Lăng về có mang theo một lọ."

Phó Vị vỗ tay: "Chuẩn, chuẩn! Tử Phong có tặng ta một lọ, hình như tên là Hoàng Kim Lũ nhỉ? Hoàng Kim Lũ với câu thơ: khói trùm nước lạnh, Tuấng lồng cát."

Chu Tử Thư cười nói: "Đúng ra là Hoàng Kim Lũ trong câu 'Nga nhi tuyết liễu hoàng kim lũ' ạ."

"'Nga nhi, tuyết liễu, hoàng kim lũ' ư? Thật diễm lệ, rực rỡ biết bao. Tuyệt vời, cái tên này vừa hợp lí lại vừa rất hay!"

Dăm câu trò chuyện nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giữa hai người.

Phó Vị ngồi thẳng người lên, hỏi: "Con từ Cô Tô lên đây được mấy hôm rồi, đã quen với lề lối ở Thịnh Kinh chưa?"

Chu Tử Thư đáp: "Học trò vừa mới đến Thịnh Kinh hôm qua. Ở đây một hôm, cũng thấy bớt lạ lẫm rồi ạ." Phó Vị vểnh tai lên.

Gì chứ? Hôm qua vừa đến đây, hôm nay đã tới thăm ông rồi à?

Phó Vị hỏi: "Nghe nói con mới mười lăm tuổi đã đỗ tiểu tam nguyên đồng thí phủ Cô Tô nhỉ?"

Chu Tử Thư đáp: "Quả thực là vậy, để tiên sinh chê cười rồi."

Phó Vị: "Hình như con còn đọc ngược được Luận ngữ phải không?"

Chu Tử Thư: "..."

Phó Vị: "À ta còn nghe, con đã thuộc làu cả Tứ thư Ngũ kinh nữa nhỉ?"

Chu Tử Thư: "... Vâng. Chỉ là chút tài mọn, điêu trùng tiểu kĩ mà thôi."

Phó Vị cười phá lên: "Ta là Điêu Trùng Trai Chủ, con thì có điêu trùng tiểu kĩ. Sao lại trùng hợp và hay ho thế cơ chứ! Kìa, Cảnh Tắc đến chơi, nhóc tiểu đồng mi cứ đứng đó là sao, mau dâng trà nóng lên cho Cảnh Tắc."

Ôn Thư đồng tử lập tức rót một chén trà nóng cho Chu Tử Thư. Chu Tử Thư cảm ơn, đang định nhấp môi thì Phó Vị nói: "Trà ấy, con không định mời ta sao?"

Chu Tử Thư dừng động tác, ngẩng lên nhìn Phó Vị.

Phó Vị ngồi ở ghế chủ, vừa mỉm cười vừa nhìn cậu bằng ánh mắt chờ đợi.

Chu Tử Thư lập tức đứng dậy, hai tay bưng chén trà lên. Ôn Thư đồng tử nhanh tay nhanh mắt, vớ một tấm đệm cói kê xuống sàn. Chu Tử Thư quỳ trên đệm cói, dâng chén trà lên cao bằng cả hai tay, thưa: "Mời tiên sinh dùng trà!"

Phó Vị nhận chén trà, uống một ngụm rồi khen: "Tuyệt!" Thế là lễ bái sư xem như hoàn thành.

Thành thầy trò rồi, Phó Vị càng xuề xòa hơn. Ông cảm khái: "Cảnh Tắc, chắc con không biết, suốt năm ngoái Lương Bác Văn viết cho ta cả đống thư, kể rằng lão thu được một đồ đệ giỏi biết bao! Ta kiếm được đứa học trò đọc một lần là nhớ, lão cũng kiếm được một học trò biết đọc ngược sách, không chịu kém cạnh ta tí nào. Mà nói đi nói lại, con có thể đọc ngược sách Luận ngữ phải không nhỉ?"

Chu Tử Thư cười khổ: "Dạ, đúng ạ."

"Giỏi thế cơ chứ lị, con đọc thử một thiên cho ta nghe coi." Chu Tử Thư: "..."

Đầu năm nay các đại nho đều không đáng tin cậy chút nào!

Trong lòng nghĩ vậy nhưng Chu Tử Thư vẫn đàng hoàng đọc ngược một thiên Luận ngữ. Phó Vị tấm tắc khen hay, chuyện trò lân la, thấm thoắt đã hết một canh giờ. Ôn Thư đồng tử nhắc nhở: "Tiên sinh, đến giờ tưới cây rồi đấy ạ."

Phó Vị gật đầu, quay ra bảo với Chu Tử Thư: "Ta phải đi xem sách đây."

Chu Tử Thư: "..."

Phó Vị nói: "Con mới tới Thịnh Kinh, cần gì, cứ đến tìm vi sư. Phải việc gì vi sư không giúp được, sẽ có sư huynh con giải quyết tuốt. Hôm nay cứ về đã nhé, có việc lại tới gặp vi sư. Cái khác vi sư không có, nhưng thời gian thì vô biên."

"Học trò xin vâng ạ."

Chu Tử Thư đang định ra về thì bỗng Phó Vị nói: "Ôi chao khoan đã, Cảnh Tắc, con có rảnh không, nán lại xíu, tìm hộ vi sư quyển sách này được thì tốt ghê."

Đang muốn xây dựng quan hệ với Phó Vị, Chu Tử Thư đời nào lại chối từ. "Tiên sinh muốn tìm sách gì thế ạ?"

Phó Vị thở dài: "Cuốn ấy tên Duy Kinh trai thoại, là một cuốn tạp thư ấy mà. Ta nhớ là để ở trên giá sách, thế mà chả hiểu sao tìm mãi không thấy đâu. Lúc ta tưới hoa thích nhất... E hèm, lúc ta xem sách thích nhất là nghe đồng tử đọc cuốn ấy lên, chả hiểu sao tìm mãi chẳng được. Ôn Thư, có phải con vứt sách lung tung không?"

Ôn Thư đồng tử la oai oái: "Tiên sinh, cuốn đó tự ngài cất mà, sao lại trách con?"

Ba thầy trò tìm một hồi mà chẳng thấy tăm hơi. Phó Vị hừ một tiếng: "Đi gọi Phủ Cầm đồng tử tới đây đi."

Chu Tử Thư và Ôn Thư đồng tử ra khỏi thư phòng.

Hai người ra đến cổng thì Diêu Tam tới, Ôn Thư đồng tử thở vắn than dài: "Đường tiểu công tử không biết đấy thôi, tính tình tiên sinh của chúng ta kì cục lắm. Ngài gọi tôi là Ôn Thư đồng tử, nhưng thật ra tôi thạo nhất là đánh đàn. Phó phủ chúng ta còn có một đứa Phủ Cầm đồng tử nữa, nghề của nó là xem sách, đọc sách với tìm sách cơ. Ấy thế mà ngày nào tôi cũng phải đọc sách, đêm nào nó cũng phải đóng vai bậc thầy cầm đạo. Nhưng mà tiếng đàn của nó thì... Cậu cứ nghe là biết, đúng là tra tấn lỗ tai. Thôi thôi không dông dài nữa, tôi đi kiếm Phủ Cầm đây, tạm biệt Đường tiểu công tử nhé."

Ôn Thư chạy biến đi như một làn khói. Diêu Tam tròn mắt nhìn theo: "Đó là thư đồng của Phó đại nho à? Có vẻ... lạ nhỉ?"

Chu Tử Thư phì cười: "Anh cứ nói thẳng ra là lập dị đi." Diêu Tam gãi đầu gãi tai, hai người cùng nhau tìm đường ra về.

Từ cổng tò vò của thư phòng đi ra là đến hoa viên.

Kiến trúc nhà ở Thịnh Kinh khác với kiến trúc Cô Tô chuộng cảnh hoa sen hồ nước. Khu vườn Phó phủ trồng vô số loại hoa thơm cỏ lạ, còn có các loại giả sơn, kì thạch, trông thật mới mẻ và thú vị biết bao.

Chu Tử Thư và Diêu Tam đi lòng vòng một hồi rồi lạc đường luôn.

Diêu Tam: "Tiểu đông gia, chi bằng tôi đi tìm người hỏi đường nhé?" Chu Tử Thư đang định trả lời thì bỗng nghe có tiếng đàn cầm du dương cất lên. Chu Tử Thư và Diêu Tam lần theo tiếng đàn, vòng qua một tòa núi giả hình thù kì dị, đi qua một cổng đá, liền thấy một ngôi đình toát giác với mái vòm kép4. Bao quanh đình là một hồ nước nhỏ, trong hồ có mấy chú cá chép hoa tung tăng. Ngôi đình như lơ lửng giữa mặt hồ, muốn vào chỉ có thể đi qua một hành lang bằng gỗ.

[4] Toát giác = góc mái chụm vào, cong vểnh lên.

Trong đình, có một chàng trai trẻ khoác áo gấm trắng đang chơi đàn.

Nhìn từ xa không rõ diện mạo chàng, chỉ nghe tiếng đàn xảo diệu tuyệt luân, huyền ảo như tay tiên lướt phím đàn ngọc, trong trẻo như ánh Tuấng vời vợi giữa thinh không.

Diêu Tam tuy không hiểu về nhạc nhưng vẫn mê mẩn lắng nghe. Nhạc cổ điển hiện đại Chu Tử Thư đã nghe nhiều, nhưng làn điệu trầm bổng, ngân nga của đàn cầm mang đến cảm giác uyển chuyển và êm ái hoàn toàn khác. Dẫu vậy, tiếng đàn ấy chưa hoàn toàn mê hoặc được Chu Tử Thư, vì ánh mắt cậu đã bị thu hút bởi bóng dáng chàng trai trong đình mất rồi. Bất giác, Chu Tử Thư bước lên hành lang gỗ, đi về phía ngôi đình.

Cậu vào tới nơi cũng là lúc tiếng đàn chợt ngưng.

Chàng trai trẻ trong đình có diện mạo đẹp tựa ngọc quý, ánh mắt chàng trong sáng vô ngần. Về thời cổ đại lâu đến thế, đây là lần đầu tiên Chu Tử Thư gặp một chàng trai hoàn mỹ đến nhường này. Gương mặt chàng đẹp đẽ mà không hề nữ tính, khí chất thanh cao hệt như tiên giáng trần! Chàng ngẩng đầu, lẳng lặng nhìn Chu Tử Thư, những ngón tay nhấn lên dây cầm nhẹ rung. Mái tóc đen dài được búi lên bằng ngọc quan, chàng mặc bạch y và khoác áo bào gấm trông rất đơn giản, nhưng tay áo của chàng thêu kín hoa văn chỉ bạc tinh tế, mỗi đường kim đều thể hiện tay nghề tuyệt đỉnh của tú nương hàng đầu.

Hai người đối diện nhau trong phút giây ngắn ngủi.

Chu Tử Thư chợt cười hỏi: "Là Phủ Cầm đồng tử đó phải không?"

Chàng trai trẻ tuổi đánh đàn lặng im không đáp, chỉ mỉm cười chứ không phủ nhận.

Chu Tử Thư: "Tiên sinh tìm anh nãy giờ kìa. Ngài có cuốn sách tên là Duy

Kinh trai thoại mà tìm mãi không thấy đâu, nên gọi anh sang tìm hộ đó." Ánh mắt chàng trai lấp lánh, cuối cùng chàng cũng đáp lời Chu Tử Thư. Giọng nói ấy mới êm dịu làm sao, còn pha lẫn ý cười vui vẻ: "Ta biết rồi." Chu Tử Thư: "Vậy thì tốt, ta đi đây." Nói xong, cậu quay bước ra về.

Chu Tử Thư đi thẳng lên hành lang gỗ, rời khỏi ngôi đình nhỏ, không ngoái đầu lại một lần nào. Tuy thế, cậu vẫn cảm nhận thấy sau lưng mình một ánh mắt nóng hổi liên tục dõi theo, người ấy xem chừng rất ung dung tự tại, cứ nhìn theo cậu mãi đến khi cậu ra khỏi hoa viên nhỏ kín đáo.

Chờ đến khi hai người ra ngoài Phó phủ rồi, Diêu Tam mới thắc mắc: "Tiểu đông gia, người ấy là Phủ Cầm đồng tử của Phó đại nho thật à? Tôi thấy chẳng giống tẹo nào luôn. Cậu Phủ Cầm đồng tử ấy ăn diện quá, áo quần sang trọng gấp mấy lần Ôn Thư đồng tử. Hơn nữa, anh ta gẩy đàn cũng không dở, tuy Diêu Tam này chẳng rành âm luật, nhưng vẫn thấy êm tai lắm!"

Đến giờ Chu Tử Thư mới dám thở hắt ra một hơi, thân thể căng cứng cuối cùng cũng thả lỏng.

"Dĩ nhiên người ấy không phải Phủ Cầm đồng tử rồi."

Diêu Tam: "Hả?"

Chu Tử Thư nheo mắt, gằn từng chữ: "Anh ta là sư huynh duy nhất của tôi chứ còn ai vào đây nữa, Cung Tuấn – CungTử Phong."

||

Tác giả nói nhảm: Lão Cunghàng xóm cuối cùng cũng debut rồi hehehehe

Chú thích

[1] Câu thơ trong bài "Phong Kiều Dạ Bạc" của Trương Kế. Bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh

"Thiên thượng Bạch Ngọc Kinh, ngũ thành thập nhị lâu" là hai câu đầu trong bài thơ "Tảo phát Bạch Đế Thành" của Lí Bạch. Bạch Ngọc Kinh là tòa lâu đài ở trung tâm vũ trụ trong Đạo giáo. Hai câu tiếp theo trong truyện là tác giả viết, mình edit thế cho đỡ bị đứt đoạn thôi chứ không thuộc cùng một bài thơ nhé.

[3] Hai câu thơ trong bài "Lên lầu Quán Tước" của CungChi Hoán thời Đường.

------oOo------

Chương 29

Nguồn: EbookTruyen.Net

Tiểu sư đệ của ta thật là xinh trai!

Tiếng đàn xuyên qua tầng tầng cây cối sum suê, ngân nga mãi trong khu vườn. Có tiếng người từ xa vọng lại, thì ra là Phó Vị đang vờ nghiêm giọng mắng: "Sáng bảnh mắt rồi còn làm biếng. Giỏi thật, nghĩ lão đây già rồi không trị được tên tiểu đồng mi phỏng? Trả lời mau, mi trốn đi đâu ngủ hả?"

Đáp lời ông là giọng nói thanh thoát của một thiếu niên: "Tiên sinh trách oan con quá, con nào dám lười biếng, con đi tìm cầm phổ cho Cungtướng công mà!"

"Giỏi thật, dám lấy cả Tử Phong ra để chống chế cơ đấy? Để ta hỏi nó xem có đúng không nhé!"

Phó Vị và hai đứa Ôn Thư, Phủ Cầm đồng tử cùng nhau đi vào vườn.

Hai chú tiểu đồng trông chỉ cỡ mười một, mười hai tuổi. Cả hai đều nhỏ nhắn, đứng bên cạnh Phó Vị trông loắt cha loắt choắt. Thấy Cung Tuấn ngồi chơi đàn trong đình, Phó Vị liền lên cầu thang gỗ vào đình. Hai chú tiểu đồng thì đứng ngoài, không vào theo.

Phó Vị hỏi ngay: "Tử Phong, con sai Phủ Cầm đi tìm cầm phổ cho con đấy à?"

Cung Tuấn đã ngưng đánh đàn từ lúc thấy thầy đến từ xa, đứng lên nhường chỗ cho Phó Vị ngồi. Nghe thầy hỏi, Cung Tuấn liếc mắt nhìn Phủ Cầm đồng tử phía ngoài đình. Chú tiểu đồng chớp đôi mắt tròn xoe nhìn chàng đầy căng thẳng, sắp sửa òa khóc đến nơi rồi. Cung Tuấn mỉm cười: "Hình như thế."

Phó Vị: "...."

Giây lát sau: "Thật không?"

"Thật ạ."

"..."

"Hay lắm! CungTử Phong, con thà bênh tiểu đồng chứ không về phe thầy. Sao cái số tôi khổ thế không biết!"

Cung Tuấn không đáp, chỉ nói vọng ra ngoài đình cho hai đứa tiểu đồng nghe: "Châm một chén Bích Loa Xuân cho tiên sinh, lấy trà mấy hôm trước ta vừa mang từ Giang Nam về ấy."

"Vâng ạ!"

Hai đứa tiểu đồng thừa cơ lỉnh nhanh như cá trạch. Phó Vị tức xì khói. Ông trỏ tay về phía Cung Tuấn định mắng "Nghiệt đồ ăn cây táo rào cây sung", nhưng mới mắng đến chữ "Nghiệt", Cung Tuấn đã quay lại nhìn ông, ánh mắt hết sức bình thản. Cơn giận của Phó Vị xẹp xuống ngay, ông cười hề hề: "Tử Phong à, hộp trà Bích Loa Xuân con mang từ Giang Nam về ngon đáo để, thơm ơi là thơm!"

Cung Tuấn: "Hôm nay thầy đã tưới hoa và cho chim ăn chưa?"

Phó Vị: "Nào đã xong. Vẫn chưa tìm được cuốn Duy Kinh trai thoại.

Nhưng mà khoan đã, con đến từ lúc nào, sao không báo cho ta một tiếng.

Lại còn sai Phủ Cầm...Ơ kìa, chiếc đàn này...Đây chẳng phải là đàn cầm Hàn Ngọc ta mất nửa năm tìm khắp Giang Nam, tốn một đống tiền mới giành được cách đây mấy hôm ư?"

Cung Tuấn: "Quả là một cây đàn tốt."

Phó Vị: "..."

Phó Vị: "Tử Phong..."

Cung Tuấn nhìn ông: "Dạ?"

Phó Vị: "Con con con...Ôi, cái số ta khổ thế chứ lại!"

Phó Vị tủi thân ghê gớm. Nếu Chu Tử Thư còn ở đây mà nhìn ông lúc này, hẳn là sẽ ngạc nhiên đến rớt cằm. Phó Vị ngồi giữa đình, xót xa vuốt ve cây đàn Hàn Ngọc bảo bối; Cung Tuấn trong bộ bào trắng tuyền đang đứng bên hồ, tay cầm một nắm mồi, nhẩn nha vãi xuống cho bầy cá. Một người chẳng giống thầy, người kia chẳng giống trò. Đến khi hai đồng tử pha trà Bích Loa Xuân bưng tới, Phó Vị lại thở vắn than dài.

"Ôn Thư, Phủ Cầm, chúng mi coi CungTử Phong nó có..." Nó có còn tính người không hả? Phó Vị đời nào dám mắng câu ấy, đành nói lái đi: "Nó có còn xứng đáng là đệ tử ruột của ta không? Cây đàn này ta vừa mới giành được, thế mà nó thản nhiên lấy ra đàn như không. Ủa khoan, cây đàn này cất trong kho kia mà, làm sao mà CungTử Phong lấy được?" Phủ Cầm và Ôn Thư cùng nhau ngẩng mặt ngắm trời.

Phó Vị: "..."

Hết học trò ăn cây táo rào cây sung, đến lượt thư đồng ăn cây sung rào cây táo!

Số ông khổ quá mà!

Uống trà được một lát thì thư đồng của Cung Tuấn đi vào trong vườn, dâng một cuốn cầm phổ lên cho chàng. Cung Tuấn nói: "Tiên sinh muốn uống trà tiếp hay muốn nghe con chơi đàn đây?"

Thiên hạ có ai mà không biết, CungTử Phong xứ Lang Gia nổi tiếng cầm kỳ thi họa, chẳng những thông thạo hết mọi ngón nghề mà lĩnh vực nào chàng cũng giỏi giang xuất chúng. Phó Vị hẵng còn dỗi Cung Tuấn lắm, nghe chàng nói thế thì hừ một tiếng: "Con gẩy đàn có hay hơn ta không mà đòi?"

Phủ Cầm đồng tử nghĩ thầm: Ai đàn hay hơn, chẳng lẽ ngài còn không biết?

Cung Tuấn: "Hôm qua con mới tìm được khúc Quảng Lăng tán. Hôm nay qua đây vốn là để lấy Hàn Ngọc cầm đàn lên cho sư phụ nghe."

Phó Vị đứng phắt dậy: "Toàn bộ khúc Quảng Lăng đã thất lạc hơn ba mươi năm ấy hả?"

"Vâng."

"Há há há, hóa ra con lấy đàn Hàn Ngọc vì cớ ấy. Tử Phong ơi, con đúng là đệ tử ruột của thầy!"

Trong đình, Cung Tuấn chơi đàn, Phó Vị nhắm mắt thưởng thức. Ngoài đình, Ôn Thư đồng tử giỏi đàn lắng nghe say sưa, Phủ Cầm đồng tử không thạo đàn thì vắt óc xem có học lỏm được ngón đàn nào không, nhưng càng nghe càng chẳng vào đầu tí nào. Cung Tuấn đàn xong khúc nhạc, chú ta hít sâu một hơi, cuối cùng chỉ nặn được ra ba chữ: "Êm tai quá!"

Thiên phú quả nhiên là thứ khiến người ta phải bất lực.

Phó Vị phấn chấn ra mặt. Cung Tuấn thả nốt chỗ mồi cá xuống hồ rồi sửa soạn về bộ Hộ làm việc tiếp. Chẳng hiểu sao Phó Vị hoàn toàn không thắc mắc lí do Cung Tuấn bỏ việc ở bộ Hộ chỉ để đến chơi đàn cho ông nghe dù hôm nay không phải ngày nghỉ. Lúc chàng chuẩn bị đi, ông bảo tiểu đồng lấy một hộp bánh ngọt đưa cho Cung Tuấn, nói rằng: "Đặc sản Cô Tô tiểu sư đệ mới của con mang đến đấy."

Cung Tuấn dừng bước: "Là Chu Tử Thư phủ Cô Tô, học trò của Lương đại nhân ạ? "Chính nó."

"Em ấy là người khá thú vị."

Cung Tuấn đi rồi, Phó Vị vẫn ngẩn ra. Ông hỏi thư đồng: "Thú vị là cái kiểu nhận xét gì? Tử Phong gặp Chu Tử Thư hồi nào chứ?"

Hai đứa tiểu đồng im lặng nhìn trời: Ngài hỏi chúng con, chúng con biết hỏi ai bây giờ?

Chu Tử Thư đương nhiên không biết sau khi cậu đi, một hộp quà bánh Cô

Tô của cậu đã được Phó Vị đưa cho Cung Tuấn. Cậu và Diêu Tam ra khỏi Phó phủ. Diêu Tam nhớ lại khúc đàn được nghe ban nãy, thắc mắc: "Tiểu đông gia, đầu óc tôi chậm chạp nên vẫn không hiểu vì sao cậu đã biết người ấy là sư huynh của cậu chứ không phải Phủ Cầm đồng tử, nhưng vẫn cố ý gọi anh ta là Phủ Cầm đồng tử?"

Chu Tử Thư: "Diêu đại ca, nếu tôi nói thẳng danh tính của anh ta, anh nghĩ sau đấy sẽ thế nào?"

"Hả? Còn thế nào nữa ạ? Tiểu đông gia đã bái Phó đại nho làm thầy, cậu và Cungtướng công là sư huynh đệ đồng môn. Hôm nay vô tình gặp nhau, có thể xảy ra chuyện gì chứ?"

"Đúng, đúng là chẳng có gì bất thường cả." Diêu Tam càng chẳng hiểu gì.

Chu Tử Thư: "Sư huynh của tôi không phải người đơn giản. Để lại ấn tượng sâu sắc cho anh ta là việc có lợi." Diêu Tam gãi đầu: "Cậu nói đúng ạ."

Chu Tử Thư nhếch mép, chưa chắc lần này cậu đã đúng.

Trong thư Lương Tụng để lại có nhắc Chu Tử Thư rằng ông để Chu Tử Thư bái Phó Hi Như làm thầy không phải chỉ vì tiếng tăm của Phó Hi Như, mà quan trọng hơn là vì CungTử Phong. Tuy Phó Vị từng là Hữu tướng Trung Thư tỉnh, là người có vai vế trong triều đình hiện nay, nhưng do tuổi cao, ông đã lui vào hậu trường từ lâu, chỉ giữ chức Thừa chỉ viện Hàn Lâm, cả ngày lo hoa cỏ chim chóc.

Chu Tử Thư muốn trèo cao, đi xa là việc khó như lên trời. Cậu không có xuất thân như Cung Tuấn, từ bé đã là đại công tử nhà họ Cungở Lang Gia, có thế gia đại tộc làm chỗ dựa. Thịnh Kinh là một bàn cờ khổng lồ mà cậu chỉ là người ngoài cuộc. Muốn làm quân cờ cũng chưa đủ tư cách nữa là người cầm quân.

Lương Tụng mong cậu có thể cùng tiến cùng thoái với CungTử Phong, nhưng cậu càng mong mình có thể túm chặt lấy CungTử Phong, xây dựng quan hệ thân thiết, sau đó lợi dụng anh ta lót đường cho mình.

Cung Tuấn là quyền thần duy nhất trong triều mà cậu có thể tiếp xúc, là đối tượng thích hợp nhất để cậu mượn sức.

"Mong rằng ấn tượng hôm nay để lại cho anh ta không phải ấn tượng xấu." Chu Tử Thư nhủ thầm. Cậu cũng đã nghĩ đến khả năng Cung Tuấn nhìn thấu ý đồ của mình ngay từ đầu, nhưng cậu không lo ngại. Nếu CungTử Phong là người hẹp hòi, đa nghi, thì mong muốn thăng tiến của cậu sẽ vô cùng khó thực hiện, nên từ bỏ sớm thì tốt hơn.

Đến tối, Chu Tử Thư suy nghĩ cặn kẽ, cuối cùng kết luận: "Anh ta biết mình là ai rồi."

Chu Tử Thư bỗng cảm thấy hối hận, đúng ra cậu không nên tùy tiện tiếp xúc với CungTử Phong, nhưng giờ thì chẳng còn đường lùi nữa rồi. Cậu nghĩ miên man suốt cả đêm, sáng sớm hôm sau thì một mình đến Quốc Tử Giám. Cậu nộp danh thiếp, trình diện trước quan Bác sĩ phụ trách học tịch ở trường. Sau khi được vị quan ấy phê chuẩn, cậu mới đi sang Phó phủ.

Phó Vị thấy cậu đến thì khá ngạc nhiên: "Sao qua đây vậy con? Gặp phải việc gì khó ở Thịnh Kinh à?"

Chu Tử Thư gật đầu thưa: "Vâng ạ. Tiên sinh ơi, học trò vừa tới Thịnh

Kinh, học tịch cũ vẫn đăng kí ở cống viện Giang Nam. Hôm nay đã là tháng ba, đến tháng tám con phải thi Hương rồi. Ở Thịnh Kinh con còn bỡ ngỡ, không có ai để nhờ vả, mong tiên sinh giúp con chuyển học tịch từ cống viện Giang Nam đến Quốc Tử Giám."

Phó Vị nói: "Thì ra là chuyện này. Hôm qua ta quên khuấy mất nên không bảo con. Việc này dễ thôi. Con là cống sinh đỗ tiểu tam nguyên, không khó để ghi danh vào học ở Quốc Tử Giám, chỉ cần một phong thư tiến cử của ta là được. Nhưng chuyển học tịch từ cống viện Giang Nam lên đây thì hơi rầy rà đấy."

"Khó lắm hở thầy?"

"Không khó, nhưng mất thời gian, ta sợ trễ nải việc học của con."

Phó Vị tuy giữ chức Thừa chỉ, là người cai quản cả viện Hàn Lâm, nhưng trên dưới Thịnh Kinh đều biết cái ghế này chỉ để làm cảnh thôi, ông chưa bao giờ đến Hàn Lâm viện làm việc cả, chỉ ở nhà uống trà ngắm hoa. Nếu muốn giúp Chu Tử Thư, Phó Vị sẽ phải đích thân đến Quốc Tử Giám, nếu không cứ theo quy củ bình thường thì ít nhất phải mất nửa tháng mới chuyển được học tịch của Chu Tử Thư từ Giang Nam đến Thịnh Kinh.

Bỗng, Phó Vị sực nhớ đứa trò cưng của mình hôm qua vừa mới khen Chu Tử Thư "thú vị", ông liền nảy ra một ý, trong bụng hí hửng ngay.

Đã có trò ngoan thì thầy ngại gì mà không ngồi chơi xơi nước!

Phó Vị điềm đạm nói: "Thế này đi, để thầy sai Ôn Thư dẫn con đi tìm sư huynh con nhé. Việc đi cửa sau thế này chỉ là muỗi với sư huynh con thôi, chuyện thường ngày ở huyện ý mà."

Chu Tử Thư mừng quýnh, cậu không ngờ đến nhờ Phó Vị mà lại có cơ hội gặp lại Cung Tuấn.

Chu Tử Thư: "Là Cung Tuấn sư huynh phải không ạ?"

"Con cứ gọi nó là Tử Phong. Ôn Thư, Tử Phong giờ vẫn đang ở bộ Hộ, con dẫn Cảnh Tắc đến tìm nó, bảo nó chuyển ngay học tịch của Cảnh Tắc lên kinh trong hôm nay."

"Vâng."

Chu Tử Thư theo Ôn Thư đi tới bộ Hộ.

Trước cánh cổng chính oai nghiêm của bộ Hộ có hai vệ binh mặc giáp, cầm giáo canh gác. Tiểu đồng Ôn Thư thản nhiên tới gần, lính canh hẳn là nhận ra chú ta, không ngăn cản. Chú nhóc thì thầm to nhỏ với anh lính canh một hồi, chán nản quay về nói với Chu Tử Thư: "Đường tiểu công tử, người ta bảo với tôi rằng Cungtướng công không có ở bộ Hộ mới chán! Không biết ngài ấy đi đâu rồi, cậu có muốn sang phủ Thượng thư tìm ngài ấy với tôi không?"

Chu Tử Thư nghĩ một lát, đáp: "Được."

Hai người chuyển hướng sang phủ Thượng thư. Tới cổng phủ, cả hai liền thấy một cỗ kiệu đang được khiêng vào phủ, góc kiệu treo đèn lồng có dấu của quan Thượng thư. Mắt tiểu đồng Ôn Thư sáng bừng, cậu ta hô to: "Cungtướng công!"

Từ trong kiệu vang lên một giọng nói du dương: "Dừng kiệu."

Màn kiệu được nhẹ nhàng đẩy ra bởi một chiếc quạt trắng có khung bằng ngọc, mặt quạt trang trí thư pháp. Cung Tuấn nghiêng đầu nhìn về phía Ôn Thư đồng tử, chợt chàng liếc mắt sang bên cạnh cậu ta, bắt gặp ngay Chu Tử Thư.

Thiếu niên miền Giang Nam sông nước, ngay từ tướng mạo đã khác một trời một vực với thiếu niên chốn kinh thành rồi. Giữa phố phường huyên náo, dáng đứng của cậu thiếu niên ấy thẳng tắp, hệt như một đóa sen thơm kiêu ngạo nhưng cũng mềm dẻo lạ thường, khiến người ta không tài nào dứt mắt.

Cung Tuấn chợt nghĩ, thiếu niên Kim Lăng và thiếu niên Cô Tô có vẻ cũng khác nhau nhiều. Chí ít mấy đứa em nhà chàng không có vẻ ngoài xinh xẻo, trong sáng như tiểu sư đệ, cũng không tâm cơ bằng tiểu sư đệ. Nhưng thế mới thú chứ nhỉ!

Cung Tuấn xuống kiệu, làm bộ như chưa gặp Chu Tử Thư bao giờ, hỏi Ôn Thư: "Tiên sinh tìm ta có việc gì?"

Ôn Thư đồng tử thưa: "Tiên sinh dặn, Đường tiểu công tử cần chuyển học tịch từ cống viện Giang Nam đến Quốc Tử Giám, tiên sinh nhờ ngài giúp một tay, tốt nhất là hoàn thành trong hôm nay ạ."

Cung Tuấn nhíu mày: "Hôm nay à?" Chàng liếc về phía Tây bầu trời:

"Quốc Tử Giám sắp nghỉ rồi."

Chu Tử Thư chợt cất tiếng: "Để mai cũng được ạ."

Cung Tuấn nhìn cậu không rời mắt một lát, đoạn nói: "Xử lí luôn hôm nay đi. Ôn Thư, ngươi về trước nhé. Ta và tiểu sư đệ đi với nhau là được rồi."

Ôn Thư đồng tử cảm thấy mình đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Giao Chu Tử Thư cho Cungtướng công, chú nhóc rất yên tâm.

Cung Tuấn lẳng lặng nhìn Chu Tử Thư, chàng không nói gì, chỉ nhìn cậu thôi.

Chu Tử Thư than thầm, đoạn nói: "Hôm qua chưa biết mặt sư huynh nên đã tưởng sư huynh là thư đồng. Lỗi tại đệ nhìn nhầm ạ."

Cung Tuấn: "Nhìn nhầm ấy hả?"

Chu Tử Thư không nghe rõ, ngẩng lên hỏi Cung Tuấn: "Gì ạ?"

Cung Tuấn mỉm cười, vén mành kiệu lên bằng chiếc quạt trắng, nói: "Quốc Tử Giám hơi xa, ngồi kiệu qua đó thì hơn. Tiểu sư đệ, cùng lên kiệu nào."

||

Chương sau có pass. Mật khẩu như cũ nhé.

Trong chương này có nói đến ngày nghỉ của các quan gọi là ngày "hưu mộc" (hưu là nghỉ, mộc là tắm). Cứ mỗi mười ngày đi làm có một ngày "hưu mộc". Mình để là "ngày nghỉ" cho dễ hiểu. Lời tác giả:

Anh Cunghàng xóm: Ngắm nghía sư đệ một hồi, thấy giống hệt một đóa sen trắng xinh xinh, nhìn yêu quá là yêu.

Tiểu Thư Lang: ...Luôn cảm thấy "lợi dụng CungTử Phong thăng chức" rất có thể là quyết định sai lầm nhất cuộc đời này!

------oOo------

Chương 30

Nguồn: EbookTruyen.Net

Ông sư huynh này của mình, rốt cuộc là kiểu người gì đây

Chu Tử Thư hơi ngại ngùng, cậu ngước mắt nhìn Cung Tuấn, tự dưng không biết phải phản ứng sao cho hợp lí.

Cung Tuấn cười: "Tiểu sư đệ, đi thôi?"

Chu Tử Thư cảm thấy thật mông lung: "...Vâng."

Hai người lên kiệu, Cung Tuấn nói: "Đến Quốc Tử Giám." Phu kiệu nâng kiệu lên, khởi hành về phía Quốc Tử Giám.

Chế độ dành cho quan lại của Đại Tống cũng vẫn như trước, rất khắt khe với chi phí ăn mặc của các quan. Quan nào không đủ phẩm cấp thì không được phép treo đèn hoặc sử dụng kiệu, liễn vượt cấp1. Kiệu và liễn của quan Thượng thư nhị phẩm rất rộng rãi, đủ cho ai người ngồi kế nhau mà không chật.

[1] Kiệu thì được khiêng, còn liễn thì được kéo.

Thịnh Kinh ngựa xe tấp nập, người ngợm ồn ào, nhưng cái ồn ã của thành thị đã bị ngăn cách ở bên ngoài cỗ kiệu. Bên trong, Chu Tử Thư ngồi hết sức ngay ngắn.

Trong kiệu im phăng phắc, không ai mở miệng nói câu nào.

Kiệu đi ngang qua một con phố nhiều hàng ăn, liền nghe tiếng rao í ới của người bán hàng rong. Cung Tuấn mở mắt, hỏi: "Ăn tối chưa?" Chu Tử Thư ngạc nhiên, nghiêng đầu nhìn chàng.

Dù kiệu lớn đến mấy thì hai người ngồi cũng sẽ hơi gần nhau. Chu Tử Thư liếc mắt ra chỗ khác, tĩnh tâm lại rồi đáp: "Chưa ạ." Cung Tuấn ra lệnh cho kiệu phu: "Đi Thái Kỳ trai."

Kiệu phu tuân lệnh: "Vâng."

Chu Tử Thư ngơ ngác, cậu đến Thịnh Kinh mới được có mấy hôm, chẳng biết Thái Kỳ trai là chỗ nào cả. Tuy vậy, xem ra đi Thái Kỳ trai cũng tiện đường, kiệu phu không đổi hướng, chỉ khiêng thẳng về phía trước, độ một khắc thì dừng lại. Khoảng một chung trà sau, kiệu phu dâng lên một gói điểm tâm ngọt, cầm trên tay vẫn còn ấm nóng. Chu Tử Thư mở gói ra, thì ra là bánh nếp viên, vừa dẻo thơm lại vừa trắng trẻo.

Chu Tử Thư nhận ra ý của Cung Tuấn, nhưng cậu trông Cung Tuấn không có vẻ định ăn bánh cả. Chu Tử Thư lấy làm lạ, bèn đóng túi bánh nếp viên lại, nói: "Sư huynh, đệ không nên ăn trong kiệu của huynh."

Cung Tuấn nhìn cậu: "Ta không ngại."

Chu Tử Thư nghiêm túc nói: "Người quân tử không nói chuyện lúc ăn, không nói chuyện lúc ngủ. Ăn mà không có bàn ghế, phòng ốc, cũng là bất lễ."

Cung Tuấn có vẻ bất ngờ, chàng nhìn Chu Tử Thư một lát rồi cười: "Tiểu sư đệ thú vị thật đấy. Vậy xử lí xong học tịch của đệ rồi mang về ăn nhé. Bánh ngọt của Thái Kỳ trai cũng khá nổi tiếng ở Thịnh Kinh, nếu đệ thích, sau này cứ nếm thử các món khác, có nhiều chi nhánh trong thành lắm."

"Nếu sư huynh đã nói vậy, nhất định đệ sẽ ăn thử."

Chẳng bao lâu cỗ kiệu đã tới Quốc Tử Giám. Chu Tử Thư xuống kiệu theo Cung Tuấn.

Cung Tuấn vẫn mặc nguyên quan phục thuần màu đỏ, chàng vừa đến Quốc Tử Giám đã được lính gác cung kính đón vào, sau đó quan Tế tửu được mời đến. Quan Tế tửu là một ông già tóc hoa râm, bụng phệ. Ông ta thấy Cung Tuấn thì hết sức bất ngờ, tiến tới hành lễ với chàng: "Cungđại nhân."

Cung Tuấn đáp lễ: "Lâm đại nhân."

"Lâu rồi mới có dịp Cungđại nhân ghé thăm Quốc Tử Giám, chẳng hay hôm nay ngài có chuyện gì? Thượng thư đại nhân tới vừa khéo, hạ quan mới đang chuẩn bị đi về, nếu trễ chút nữa, e là chỉ còn mấy trăm học trò trong Quốc Tử Giám có thể nghênh tiếp đại nhân thôi."

Cung Tuấn cười nói: "Quả thực là có việc muốn nhờ." Chàng nghiêng mình, nói: "Vị này chính là sư đệ của ta, tên là Chu Tử Thư, tự là Cảnh Tắc, đến từ phủ Cô Tô. Năm ngoái đệ ấy đã đỗ tiểu tam nguyên đồng sinh ở Cô Tô, giờ đệ ấy có mong muốn học tập ở Thịnh Kinh, dự thi Hương vào tháng tám. Quốc Tử Giám có thể điều chuyển học tịch của đệ ấy lên đây và nhận đệ ấy vào học không?"

Lâm Tế tửu đáp: "Đương nhiên là được, nhưng các cống sinh vào học ở Quốc Tử Giám đều cần thư tiến cử."

Chu Tử Thư chợt nhớ ra rằng Phó Vị có bảo là sẽ viết thư cho cậu, nhưng khi cậu rời Phó phủ thì ông đã quên mất, không đưa thư cho cậu. Chu Tử Thư đang định nói "Thư tiến cử xin để mai đem tới" thì Cung Tuấn đã lên tiếng trước: "Để ta viết thư cho đệ ấy."

Lâm Tế tửu nói: "Cungđại nhân đích thân tiến cử thì quá ổn rồi."

Ba người cùng nhau vào một thư phòng, Lâm Tế tửu mang giấy và bút nghiên đến. Cung Tuấn xốc nhẹ tay áo lên, cầm thỏi mực, đổ chút nước vào nghiên rồi mài mực. Đoạn, chàng lấy một cây bút lông dê mảnh từ giá bút, chấm mực, đặt bút viết thư.

Lâm Tế tửu khen: "Chữ của Cungđại nhân phong thần tuấn lãng, cốt thanh kỳ chính. Nửa năm trước đã vinh hạnh được chiêm ngưỡng một lần, hôm nay phong độ của ngài chẳng hề suy suyển!"

Cung Tuấn: "Lâm đại nhân quá khen."

"Hạ quan nói thực lòng thực dạ."

Lâm Tế tửu nịnh mà mặt không đổi sắc, Cung Tuấn cũng chẳng buồn phản ứng, như thể lẽ dĩ nhiên!

Chu Tử Thư đứng quan sát liền muốn học theo, bèn lẳng lặng đến bên mài mực.

Cung Tuấn viết xong hai hàng chữ thì phải chấm mực tiếp, lúc ấy mới chú ý Chu Tử Thư đang mài mực cho mình. Chàng liếc nhìn Chu Tử Thư, Chu Tử Thư đang chăm chú theo dõi chàng viết chữ. Cung Tuấn dời ánh mắt, chấm mực viết tiếp. Chỉ trong chốc lát, chàng đã viết xong một bức thư tiến cử, thổi ráo mực rồi giao cho Lâm Tế tửu.

Lâm Tế tử nói: "Thế này là được rồi. Về phần học tịch, hạ quan đã rõ, nhưng giờ Quốc Tử Giám nghỉ mất rồi, để mai hạ quan sẽ cho chuyển học tịch của Đường công tử."

Chẳng ngờ Cung Tuấn nói: "Chuyển học tịch từ phủ Kim Lăng lên đây, quanh đi quẩn lại cũng phải mất một tháng đấy."

Lâm Tế tửu ngẩn ra, nghĩ ngợi một lát rồi hỏi: "Ý của Cungđại nhân là..."

Cung Tuấn nhẩn nha ngắm nghía cây quạt trắng, vuốt ve khung quạt bằng ngọc: "Cống viện Giang Nam cũng chẳng phải nơi hung hiểm gì cho cam, trông coi không quá nghiêm ngặt, hằng năm thỉnh thoảng cũng làm mất một vài học tịch tú tài, chỉ cần bổ sung đầy đủ là được. Đôi khi tưởng là làm mất, nhưng rốt cuộc cũng tìm lại được, không ảnh hưởng gì mấy đến cống sinh. Quốc Tử Giám là thánh địa đào tạo rường cột Đại Tống, phải chuyên tâm vào việc học hành bài vở của các học trò, nếu lãng phí nhân lực vật lực vào chuyện học tịch thì đúng là thiếu sót lớn của thể chế quan lại triều ta đấy."

Lâm Tế tửu thông suốt ngay tức thì: "Ngày mai học tịch của Đường công tử sẽ tới ngay Quốc Tử Giám ạ."

Cung Tuấn cười: "Ta và sư đệ về trước, Lâm đại nhân không cần tiễn."

Lâm Tế tửu: "Cungđại nhân đi thong thả!"

Cung Tuấn và Chu Tử Thư cùng nhau ra khỏi Quốc Tử Giám.

Cung Tuấn hỏi: "Đến Thịnh Kinh bao lâu rồi, đã có chỗ ăn ở chưa?"

Chu Tử Thư vẫn chưa tỉnh lại từ cuộc trò chuyện ban nãy, phải mất một lúc cậu mới định thần, đáp: "Rồi ạ, đệ ở bên cạnh Quốc Tử Giám."

Cung Tuấn nhíu mày: "Để tiện đi học ở Quốc Tử Giám hàng ngày hả?"

"Vâng."

Cung Tuấn: "Nếu thế, ta tiễn đệ một đoạn."

Hai người lại lên kiệu, Cung Tuấn cho kiệu đưa Chu Tử Thư về tận đầu hẻm. Chu Tử Thư xuống kiệu, Cung Tuấn liền lấy quạt trắng hé mành kiệu ra, nói: "Xuân nhật trì trì, hủy mộc thê thê." (Ngày xuân trễ tràng, um tùm cây cỏ)

Chu Tử Thư chẳng hiểu mô tê gì, nhưng bộ não đọc một lần là nhớ của cậu phản ứng trước cả chủ nhân: "Thương canh giai gia, thái phiền kỳ kỳ?" (Chim thương ríu rít, thong thả thái rau) "Thái phiến kỳ kỳ" là một câu thơ từ Kinh Thi.

Thái Kỳ trai được đặt tên theo câu thơ này.

Cung Tuấn mỉm cười nói: "Sư đệ chớ để đói bụng nhé."

Chu Tử Thư: "..."

Thì ra là nhắc cậu đừng quên túi bánh nếp viên!

Chu Tử Thư cầm túi bánh nếp: "Vâng."

Mành kiệu buông xuống, giọng nói êm ái của Cung Tuấn vang lên từ trong kiệu: "Về phủ Thượng thư."

Chỉ một lúc sau, cỗ kiệu đã khuất bóng ở đầu hẻm.

Chu Tử Thư ôm gói bánh nếp viên, nhìn theo hai chiếc đèn quan Thượng thư biến mất ở đầu đường, thở dài. Cung Tuấn đi rồi, Chu Tử Thư hơi đâu mà quan tâm "ăn phải có bàn ghế, phòng ốc" nữa, cậu vừa về nhà vừa bóc gói bánh ra xơi.

"Uầy, ngon thế." Nhoắng cái cậu đã xơi hết hai cái bánh.

Ăn no rồi, Chu Tử Thư hồi tưởng lại sự việc trong Quốc Tử Giám hôm nay, cảm khái: "Đường Cảnh Tắc, đây chính là quan trường đấy!" Khi cậu về nhà, Diêu Tam đã đun sẵn nước tắm cho cậu, Chu Tử Thư bèn đi tắm luôn.

Về thời cổ đại rồi, Chu Tử Thư vẫn mê tắm như xưa. Hồi ở thôn Triệu gia nghèo nàn, ăn uống còn thiếu thốn nữa là tắm rửa. Đến Cô Tô, điều kiện sinh hoạt khá lên, Chu Tử Thư quay về với sở thích cũ ngay. Khoát tay lên mép thùng tắm, cậu nhắm mắt thư giãn.

Bỗng, Chu Tử Thư mở bừng mắt, giật mình tự hỏi: "Anh ta biết tên mình là Cảnh Tắc từ lúc nào?" Một lúc sau, "Không đúng, sao anh ta biết cả việc mình đỗ tiểu tam nguyên đồng sinh phủ Cô Tô? Vì Lương tiên sinh viết thư nói cho anh ta và Phó tiên sinh, hay tự anh ta đã điều tra mình từ sớm nên biết nhiều thế?"

Chu Tử Thư: "..."

"Ông sư huynh này của mình, rốt cuộc là kiểu người gì đây!"

Than thở xong, Chu Tử Thư quyết định rằng từ giờ đối mặt với CungTử Phong phái chú tâm gấp mười lần, cẩn thận hơn nữa.

Sang ngày hôm sau, Chu Tử Thư đến Quốc Tử Giám thì phát hiện mình đã trở thành học sinh Quốc Tử Giám, học tịch cũng được "điều" đến Quốc Tử Giám rồi. Ba ngày trước là thọ đản tám mươi tuổi của Thái hậu, toàn bộ

Quốc Tử Giám nghỉ nửa tháng, học trò không ai phải đi học cả. Chu Tử Thư lĩnh tiền đèn sách tháng này của mình, nhận đồng phục học sinh rồi về nhà.

Đến Thịnh Kinh được ba ngày thì không ngày nào Chu Tử Thư với Diêu Tam không bận rộn. Hôm nay có thời gian rỗi rãi, hai người bèn dạo chơi trong kinh thành khổng lồ này.

Thịnh Kinh không hổ là kinh đô của Đại Tống.

Phủ Cô Tô có ưu thế địa lí, nằm ngay sát Đại Vận Hà, là đầu mối thông thương của toàn vùng Giang Nam nên mới giàu có và đông đúc đến vậy. Còn Thịnh Kinh thì khác. Ở Cô Tô rất hiếm khi thấy người Hồ, người Liêu, nhưng ở Thịnh Kinh thì những tộc người này có mặt ở khắp nơi. Họ không khác với người dân Thịnh Kinh lắm, tuy có trang phục riêng, nhưng họ cũng học theo thói quen ăn cơm, uống trà của người Thịnh Kinh.

Hồi ở phủ Cô Tô, Diêu Tam từng bảo với kế toán Lâm là: "Thịnh Kinh cũng tốt đấy, song phủ Cô Tô của chúng ta chẳng kém cạnh đâu." Đến khi được trải nghiệm kinh đô, Diêu Tam nản chí bảo với Chu Tử Thư: "Tiểu đông gia, tôi cứ tưởng việc kinh doanh nhà ta ở phủ Cô Tô đã khá hoành tráng rồi, đến Thịnh Kinh hẳn cũng làm được, nhưng hôm nay đi thăm thú nơi đây mới biết Thịnh Kinh khổng lồ quá, e là chúng ta không làm ăn nổi."

Chu Tử Thư: "Anh nói cũng không sai đâu."

Diêu Tam: "Lẽ nào có cách xoay xở ư?"

Xà phòng, xà phòng thơm, tinh dầu, những thứ nhu yếu phẩm và xa xỉ phẩm này ở Thịnh Kinh đều có thị trường, nhưng ở Thịnh Kinh không có nhà họ Đường, cũng không có Lương Tụng chống lưng cho Chu Tử Thư. Lật một bảng hiệu ở Thịnh Kinh cũng có thể lòi ra năm ông quan. Những cái Chu Tử Thư nghĩ ra hoàn toàn có thể bán được, thậm chí là bán chạy, nhưng chỉ cần cậu thành công sẽ có người ngứa mắt, khiến cậu khó lòng buôn bán thuận lợi.

Nhờ Phó Vị và Cung Tuấn cũng là một biện pháp hay, nhưng quan hệ của Chu Tử Thư với họ là thầy trò và sư huynh đệ. Tục ngữ có câu yêu nhau rào giậu cho kín, Chu Tử Thư với hai thầy trò họ không thân cũng chẳng quen, lợi nhuận từ việc kinh doanh xà phòng lại quá khổng lồ, nếu không có sự hợp tác qua lại giữa đôi bên thì không thể làm được.

Dịch vụ hậu cần thì càng bất khải thi.

Phủ Cô Tô có hơn mười vạn nhân khẩu, còn Thịnh Kinh thì sao? Có đến hơn trăm vạn!

Tiền vốn để làm hậu cần ở kinh thành là thứ mà hiện giờ Chu Tử Thư chưa có được.

Nhưng...

"Diêu đại ca, tôi thấy kinh doanh bát hà cung cũng khả thi đấy!"

Diêu Tam hết hồn, nói: "Tiểu đông gia, lầu Tế Hà của chúng ta thành công ở phủ Cô Tô là nhờ có các nhân viên của Hậu cần Đường thị, hằng ngày cung cấp nguyên liệu tươi cho lầu Tế Hà. Thịnh Kinh lấy đâu ra nhân viên hậu cần chứ?"

"Nhưng phía bắc Thịnh Kinh lại giáp với nước Liêu."

"Hả?"

Chu Tử Thư nhếch mép cười: "Không phải dân Giang Nam, mà chính dân

Thịnh Kinh mới thích mê cái món thịt dê nhúng lẩu kia!"

Đến Thịnh Kinh là có thể làm lẩu dê Bắc Kinh xưa chính gốc rồi!

Ở Thịnh Kinh không có phương tiện vận chuyển rau thịt tươi nhanh như ở Cô Tô, nhưng thịt dê, thịt heo ở Thịnh Kinh có nguồn cung rất dồi dào từ thảo nguyên rộng lớn của nước Liêu ở phía Bắc. Gió lay được cỏ chứ chẳng lay nổi dê bò, kể cả thịt bò phủ Cô Tô cấm ăn, Thịnh Kinh cũng ăn được!

Chu Tử Thư nói: "Diêu đại ca, mai chúng ta đến nha hành mua mấy người đầy tớ về. Sau đó, thuê một căn nhà nữa cho họ ở. Ngoài ra, bao giờ anh về Cô Tô thì dặn quản lí Lục của lầu Tế Hà lên Thịnh Kinh gặp tôi."

"Vâng. Tiểu đông gia, cậu muốn mở lầu Tế Hà ở đây ư?"

Chu Tử Thư: "Phải!"

Mắt Diêu Tam sáng ngời: "Thế tôi sẽ đi cùng quản lí Lục, lên Thịnh Kinh hỗ trợ cậu."

Chu Tử Thư nói: "Anh không cần lên đây đâu."

"Dạ?"

"Tôi đâu có nói rằng mình sẽ mở lầu Tế Hà ngay nhỉ? Năm tháng nữa tôi thi Hương rồi. Diêu đại ca, tôi phải đỗ đạt công danh cái đã. Cỡ Giải Nguyên thì chẳng dám mong, nhưng thứ hạng phải cao, không thì mất mặt Phó tiên sinh và Cungsư huynh chết!"

Ba ngày sau, Diêu Tam lên thuyền xuôi Nam, trở về phủ Cô Tô.

Quốc Tử Giám chưa mở lại, Chu Tử Thư ở nhà một mình, buộc tóc lên xà, hăng say đèn sách.

Chức Thừa chỉ Hàn Lâm viện của Phó Vị chính là để cho thiên hạ biết rằng ông là một trong bốn Nho sĩ đứng đầu cả nước, là một bậc đại Nho. Nhưng mấy năm trở lại đây ông lười quen rồi, kể từ khi Cung Tuấn đỗ Trạng nguyên tám năm trước, ông đã không can thiệp vào việc học của Cung Tuấn nữa, thế nên càng già càng thiếu kinh nghiệm giảng dạy. Thong dong với cỏ cây chim chóc suốt nửa tháng, Phó Vị chợt thắc mắc: "Ủa, sao chẳng bao giờ thấy học trò mới của mình ghé qua đây nhỉ?"

Ôn Thư đồng tử nhắc nhở: "Tiên sinh, tính ngày tháng thì Đường tiểu công tử hẳn đã đến Quốc Tử Giám học rồi ạ."

Nghe vậy, Phó Vị hiếm hoi mới cảm thấy áy náy một lần: "Hầy, ta già cả rồi, nhận học trò cũng không có sức dạy dỗ, phải để nó đến Quốc Tử Giám học với đám cống sinh kia."

Tiểu đồng Ông Thư lẩm bẩm: "Hồi trước dạy Cungtướng công có thấy ngài để ý đâu, tất cả là nhờ Cungtướng công thiên tư thông tuệ, tự học thành tài ấy chứ!"

Phó Vị: "Nhóc tiểu đồng thì thào gì đó?"

"Không có gì không có gì ạ."

Phó Vị mân mê hàng ria lấm tấm điểm bạc: "Còn bốn tháng nữa là thằng bé thi Hương rồi, cứ để thế cũng không ổn. Thế này đi, con bảo nó mai đến đây gặp ta. Ngày mai cũng là ngày nghỉ của bộ Hộ, con gọi luôn cả Tử Phong tới, ta có việc giao cho nó."

||

Lời tác giả:

Tiểu Thư Lang: Tui với sư huynh hổng ♂ thân ♂ hổng ♂ quen, sao có thể nhờ anh ta giúp bán xà phòng được!

Anh Cunghàng xóm: Sư đệ, huynh thấy bánh xà phòng nho nhỏ này, hình như còn có công dụng khác.

Manh: Mọi người biết chuyện cúi xuống nhặt xà phòng trong nhà tắm công cộng rồi đấy :D

Chú thích

Bánh nếp viên: Bánh Cung Tuấn mua cho Chu Tử Thư là bánh Aiwowo, món bánh có nguồn gốc từ người Hồ, là đặc sản ở Bắc Kinh. Nhân bánh là các loại hạt. Mình edit là bánh nếp viên cho mọi người dễ hình dung nhé.

Ảnh:

Gốc: Cung Tuấn khen Chu Tử Thư là 妙人. Cụm này có thể chỉ người đẹp, hoặc thông minh, hài hước nữa.

Tế tửu là chức quan trông coi Quốc Tử Giám.

Rau ở đây là rau phiền hay còn gọi là rau bạch hào. Theo Kinh Thi, việc hái rau phiền là để phục vụ tế lễ. Hai câu của Cung Tuấn với Chu Tử Thư ghép lại tả cảnh mùa xuân đến muộn nên mọi người đều mong đợi, khi xuân đến rồi vạn vật dồi dào sức sống, con người cũng vui vẻ lao động.

Như đã chú thích ở đoạn đầu, sau khi đỗ kì thi Viện, trở thành lẫm sinh thì học trò được triều đình chu cấp tiền để học tới lúc thành danh.

Câu gốc là 亲兄弟明算账 – Anh em ruột thịt phải rõ ràng sổ sách. Càng thân, càng quý thì càng phải rạch ròi chuyện tiền nong, không thì sứt mẻ hết tình cảm.

Buộc tóc lên xà để ngủ gật thì tóc bị giật đau mà tỉnh dậy. Đây là thành ngữ ám chỉ việc học hành thâu đêm suốt sáng thôi chứ không nhất thiết là buộc thật.

------oOo------

Chương 31

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thiếu niên tuấn tú tuổi mười lăm

Sáng sớm Chu Tử Thư ghé thăm Phó phủ, bất ngờ phát hiện tiểu đồng Ôn Thư đã chờ cậu từ sớm.

Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Sao dậy sớm thế?"

Ôn Thư đồng tử nói liến thoắng: "Đường tiểu công tử, cậu cũng biết, tiên sinh nhà chúng tôi có tuổi rồi, hằng ngày chẳng có việc gì khác để làm, ngủ sớm, đương nhiên sẽ dậy sớm. Ngài vừa thưởng thức một chậu hoa hồng xong, hoa của Diêu đại nhân dâng tặng đấy ạ. Giờ thì ngài đang dùng bữa sáng trong phòng khách."

Chu Tử Thư tới phòng khách, Phó Vị hồ hởi ra lệnh: "Tiểu đồng tử, lấy cho

Cảnh Tắc một bộ chén đũa nào. Cảnh Tắc, con ăn sáng chưa?"

Chu Tử Thư: "Con ăn rồi ạ."

Phó Vị: "No chưa?"

Chu Tử Thư: "???"

"Chưa ạ."

Phó Vị phất tay áo: "Thế đem một bộ chén đũa lại đây. Ngồi đi, Cảnh Tắc."

Chu Tử Thư: "..."

Phó Vị và Chu Tử Thư cùng nhau ngồi tại chiếc bàn tròn dùng bữa sáng. Bữa sáng ở Thịnh Kinh khác với bữa sáng Cô Tô, bao gồm cháo loãng, kèm với chút bánh ngọt và bánh du thực. Chu Tử Thư tùy ý ăn chút chút, hai thầy trò dùng bữa xong thì Cung Tuấn đến. Chu Tử Thư không ngờ hôm nay Phó Vị rủ cả anh ta. Thấy trò cưng xuất hiện, Phó Vị nói: "Tử Phong, con đến muộn ghê, chúng ta ăn xong mất rồi."

Khác với bộ quan phục tinh tươm màu đỏ thuần lần trước, hôm nay Cung Tuấn mặc trường sam bằng gấm. Tôi tớ dọn sạch chén đĩa và đồ ăn thừa trên bàn; thầy trò ba người cùng đi đến thư phòng. Lư hương chạm rỗng trong thư phòng chưa đốt hương, Cung Tuấn tự mình lấy hộp trầm trong ngăn kéo, nhẹ nhàng mở nắp lư đặt miếng trầm vào, đốt lên.

Chỉ trong chốc lát, thư phòng đã thoang thoảng hương trầm. Phó Vị ngồi ghế trên, Cung Tuấn và Chu Tử Thư một tả một hữu, ngồi ghế dưới. Chu Tử Thư nhìn Cung Tuấn ngồi phía đối diện, nói: "Cungsư huynh."

Cung Tuấn: "Gọi Tử Phong là được rồi. Bánh ngọt Thái Kỳ trai có ngon không?"

Chu Tử Thư: "Quả đúng là món ngon, mấy hôm trước đệ đã mua cho người hầu mang về nhà làm quà."

Phó Vị nhìn hai người bọn họ: "Ơ kìa, hai đứa có chuyện gì mà ta không biết thế?"

Chu Tử Thư đang định giải thích, Cung Tuấn đã nói: "Tiên sinh gọi chúng con tới đây có việc gì?"

Phó Vị nhớ tới việc chính, bèn ngồi thẳng thắn người lên. Ông bảo với Chu Tử Thư: "Cảnh Tắc, còn hơn bốn tháng nữa là đến kì thi Hương của con rồi. Con có tự tin không?"

Khắp Đại Tống có hai nơi thi khó nhất là Cống viện Giang Nam và Quốc Tử Giám ở Thịnh Kinh. Như Chu Tử Thư phải gọi là vừa rời hang sói thì đi vào miệng cọp. Hơn nữa, kì thi Hương cũng chính là kì thi khốc liệt nhất trong ba khoa thi lớn. Mỗi năm Thịnh Kinh có đến hàng vạn tú tài ứng thi, nhưng mỗi khoa chỉ lấy đúng một trăm người, tỉ lệ chọi quá khủng khiếp.

Mặc dù vậy, với bàn tay vàng là trí nhớ siêu đẳng, kèm theo nhận thức và tư tưởng độc đáo của bản thân với văn bát cổ, Chu Tử Thư chắc đến chín phần mười là mình có thể đỗ cử nhân. Nhưng kể cả thế, để đạt thứ hạng cao vẫn là việc rất khó khăn, cậu không dám cam đoan.

Chu Tử Thư: "Học trò đương nhiên sẽ cố hết sức ạ."

Phó Vị nghe thế thì nghĩ bụng, thôi xong, kiểu này là Chu Tử Thư chẳng chắc chắn tí nào rồi. Cung Tuấn trái lại không bày tỏ ý kiến, chỉ nhấc chung trà lên, dùng nắp gạt lá trà trên bề mặt cho hương bớt nồng, rồi nhẹ nhàng uống một hớp.

Phó Vị và Lương Tụng đều được vinh danh trong nhóm Tứ nho thiên hạ. Trong khi trước đây Lương Tụng nhận khá nhiều học trò, thì Phó Vị hướng đến sự xuất sắc tuyệt đối2 – không nhận thì thôi, đã nhận là nhận ngay CungTử Phong. Trước mười hai tuổi, Cung Tuấn vẫn thường xuyên theo học Phó Vị. Qua tuổi mười hai, đến năm mười bốn tuổi Cung Tuấn đoạt tiểu tam nguyên đồng thí. Hai năm sau, chàng thi Hương đỗ Giải Nguyên. Năm sau đấy, chàng đỗ tiếp Trạng Nguyên.

[2] Gốc: Tinh ích cầu tinh (đã giỏi còn muốn giỏi hơn)

Chàng chính là Trạng Nguyên Tam nguyên đầu tiên của cả triều đại.

Lương Tụng xứng đáng là tấm gương của mọi người thầy, học trò trải khắp thiên hạ. Còn Phó Vị...thì rõ là chẳng có tí kinh nghiệm dạy dỗ ai.

Trước đây Cung Tuấn không khiến ông bận tâm, nhưng giờ ông lại nghĩ ngợi: Chu Tử Thư sinh ra ở chốn thôn quê, điều kiện học không thể sánh bằng với Lang Gia Cungthị, ngay từ nền tảng đã kém hơn Tử Phong rồi. Thằng bé đỗ tiểu tam nguyên đồng thí ấy là nhờ thiên tư thông minh, nhưng muốn đỗ Giải Nguyên hay thậm chí là Trạng Nguyên trong vài năm ngắn ngủi thì khó như lên trời. Nếu để ba năm nữa hẵng đi thi, Chu Tử Thư hẳn là có thể đạt thứ hạng tốt. Còn bây giờ cậu mới có mười lăm tuổi, bắt cậu thi đỗ Trạng Nguyên giống như Cung Tuấn thì quá khiên cưỡng.

Phó Vị thở dài, hỏi: "Ở Quốc Tử Giám sao rồi con?"

Chu Tử Thư: "Các thầy giáo, Bác sĩ trong trường đều chiếu cố con. Được vậy cũng phải cảm tạ bức thư tiến cử của Tử Phong sư huynh ạ."

Nghe bốn chữ "Tử Phong sư huynh", động tác gạt lá trà của Cung Tuấn có hơi chững lại, chàng nhìn Chu Tử Thư nói: "Tiểu sư đệ không cần đa lễ."

Phó Vị hỏi Cung Tuấn: "Gần đây bộ Hộ bận không?"

Cung Tuấn mỉm cười: "Trời yên biển lặng, biên cảnh không có chiến loạn, trăm quan làm việc đúng chức trách, không có tin đồn tham ô. Vả lại giờ không phải dịp cuối năm, tiên sinh hẳn đang mong con đáp rằng rất thư thả nhỉ. Mỗi tội, bộ Hộ thì nhàn, nhưng con thì hơi bận đấy."

Phó Vị: "Con bận cái gì mà ghê thế?"

Cung Tuấn: "Chơi với chim, chăm sóc hoa, tiên sinh bận gì thì con bận nấy."

Phó Vị: "..."

Ông nháy mắt ra hiệu với Cung Tuấn: Tiểu sư đệ mới của mi còn lù lù ở đây nè, chừa cho vi sư chút thể diện đi.

Cung Tuấn nhẩn nha thưởng trà, chẳng nói chẳng rằng.

Chu Tử Thư nhìn thầy trò hai người chiến đấu trong im lặng với nhau, manh nha nhận ra ẩn ý. Chẳng lẽ là, Phó Vị muốn để Cung Tuấn dạy cậu học ư?

Tục ngữ có câu huynh trưởng như cha, việc sư huynh dạy thay thầy xưa nay không hiếm. Nhưng Chu Tử Thư thấy Cung Tuấn không có ý muốn dạy, vả lại bản thân cậu cũng không muốn cố đấm ăn xôi. Giờ cậu có chút e dè với CungTử Phong, nếu mỗi ngày đều giáp mặt, biết đâu lại có lúc khiến anh ta không vừa ý. Vô duyên vô cớ đắc tội CungTử Phong, cậu chẳng ham.

Chu Tử Thư nói: "Việc đi thi, học trò chắc chắn sẽ thành công."

Phó Vị: "Ồ?"

Chu Tử Thư để ý thấy Cung Tuấn cũng đặt chung trà xuống, hứng thú nhìn mình, cậu suy nghĩ giây lát rồi nói: "Thi Hương có ba trường, trường thứ nhất thi ba bài chế nghệ, một bài thơ thí thiếp ngũ ngôn bát vận; trường thứ hai thi năm bài kinh văn, trường thứ ba thi ba câu sách vấn. Ngoài bài thơ thí thiếp ở trường thứ nhất ra, còn lại mười một bài đều là chế nghệ theo thể văn bát cổ."

Phó Vị: "Nói cũng phải." Ông bắt đầu nói bóng gió: "Tử Phong viết chế nghệ rất giỏi, ngày trước cả Lương Bác Văn cũng tán thưởng đấy."

Chu Tử Thư nghĩ bụng: Tam nguyên duy nhất của cả triều đại, được thánh thượng ban ngự bút là "Trạng Nguyên vô song", có thể viết chế nghệ dở được sao?

Cậu bèn thưa: "Học trò cho rằng, bát cổ chế nghệ, kì thực cũng không phải không có nguyên tắc làm bài."

"Con nói thử xem nào."

"Mọi người đều biết, văn bát cổ có tám đoạn, chia làm phá đề, thừa để, khởi thủ...cuối cùng là hậu cổ, thúc cổ. Ai cũng cho rằng thi Hương là khốc liệt nhất trong ba kì thi, nhưng học trò lại thấy đây là kì thi dễ đỗ nhất! Lấy Thịnh Kinh làm ví dụ, hằng năm số tú tài ứng thi ước tính một vạn người. Trong đó, chắc chắn sẽ loại ít nhất hai ngàn thí sinh viết thể chữ sai tiêu chuẩn, viết xấu, viết thiếu nét, vi phạm quy cách."

Cung Tuấn bất ngờ lên tiếng: "Nói tiếp đi."

Chu Tử Thư liếc anh ta một cái: "Thế là coi như còn tám ngàn thí sinh. Trong mỗi kì thi Hương, quan chủ khảo đều là học sĩ Hàn Lâm viện, được phân công từ kinh thành đi khắp các địa phương coi thi. Sau khi phân công xong, số học sĩ có thể ở lại Thịnh Kinh chấm bài không quá mười người. Điều thêm các học chính, biên thư cấp lục phẩm, thất phẩm hỗ trợ sẽ nâng tổng số quan viên có thể chấm bài thi lên tối đa ba mươi người. Ba mươi người này chỉ có đúng ba ngày để chấm hết mười ngàn quyển thi. Bình quân mỗi người phải chấm một trăm bài mỗi ngày. Lấy trường thi thứ nhất của kì thi Hương để tính, mỗi ngày một giám khảo phải đọc ba trăm bài chế nghệ và một trăm bài thơ thí thiếp."

Chu Tử Thư lí luận tiếp: "Người chẳng phải bậc thánh hiền, sao có thể không mắc lỗi? Viết chuẩn chữ quán các, coi như thành công một nửa. Sau đó nếu bài viết ổn định, không lạc đề, không phạm kỵ húy, xác suất thi đậu cử nhân là năm phần mười rồi! Nếu phá đề, thừa đề dụng công viết tốt, khiến quan chấm bài hứng thú, cảm thấy mới mẻ, thì chỉ cần không viết sai, dẫu nội dung bình thường đi chăng nữa vẫn dễ đạt điểm cao. Bởi lẽ ấy, thưa tiên sinh, nhiệm vụ của học trò thật ra đơn giản lắm. Trong tám đoạn của bài bát cổ, học trò chỉ cần tập trung vào hai đoạn đầu. Những đoạn sau chẳng mong đột phá xuất thần, chỉ cần tập trung viết sao cho không sơ sẩy thì đỗ cử nhân là việc trong tầm tay."

Chu Tử Thư nói xong, thư phòng lặng im phăng phắc.

Phó Vị hồi tưởng lại bức thư Lương Tụng từng viết để khoe đồ đệ với mình. Quả nhiên, ông bạn già của mình tính tình cương trực, không nói ngoa bao giờ, đứa học trò này của ông ta đúng là nòi rồng phượng, tương lai sáng sủa vô cùng.

Thế là Phó Vị bỗng sinh lòng muốn dạy dỗ. Có thể tự tay bồi dưỡng được quyền thần thứ hai của triều đại này thú vị gấp mấy lần chim chóc hoa lá. Lòng Phó Vị hừng hực ý chí chiến đấu, nếu đặt vào thời hiện đại, e chỉ có hai từ để hình dung mong muốn lúc này của ông: Dưỡng thành!

Nhưng trước khi Phó Vị kịp lên tiếng, Cung Tuấn đã cười nói: "Tiểu sư đệ, đệ nói đúng lắm. Nhưng điều kiện tiên quyết để những điều đệ nói áp dụng được, ấy là chữ Quán các của đệ phải khiến người ta tấm tắc ngợi khen, phá đề, thừa đề cũng phải đủ mới mẻ độc đáo." Chu Tử Thư nghẹn.

Lí thuyết lúc nào cũng tròn vo mà hiện thực thì hay méo mó. Cậu vận dụng mẹo ăn điểm hồi thi đại học để đi đường tắt, nhưng cũng không dám chắc mình có thể thành công.

Phó Vị: "Viết chữ thì có gì khó, chữ của Tử Phong nổi danh thiên hạ..." Là nhờ sự chỉ bảo của người thầy tài ba này chứ ai.

Ông chưa nói hết câu, Cung Tuấn đã mỉm cười xen vào: "Tiên sinh khen con viết chế nghệ giỏi, còn khen con viết chữ đẹp, là có ý bảo con thay mặt thầy dạy dỗ tiểu sư đệ phải không ạ?"

Phó Vị: "Ể?"

Cung Tuấn thở dài: "Lệnh thầy, Tử Phong nào dám chối."

Phó Vị: "..."

Chu Tử Thư: "..."

Vừa nãy ai than bận lắm, hết phải chăm hoa rồi phải chơi với chim ấy nhỉ?

Nhưng Phó Vị không phủ nhận lời Cung Tuấn. So với ông, để Chu Tử Thư tiếp xúc nhiều với Tử Phong thì có lợi cho con đường làm quan tương lai của cậu hơn.

Tiễn hai học trò ra về, Phó Vị xách lồng chim, sai Phủ Cầm đồng tử tìm thức ăn cho chim giúp mình. Ông trêu con chim hoàng yến trong lồng tre, nhớ lại một câu thơ rồi lẩm nhẩm đọc: "Nga nhi, tuyết liễu, hoàng kim lũ? Lương Bác Văn à Lương Bác Văn ơi, ông gửi đứa học trò này cho ta khác nào đào cho ta một cái hố to. Ý của ông sao ta không hiểu chứ. Chúng ta đều có tuổi rồi, nên chịu khó dưỡng già, tội gì phải dây vào những sự phiền hà. Đây là thời đại của tụi trẻ chúng nó."

Chu Tử Thư rời khỏi Phó phủ mà hoang mang tột độ.

Tại sao Phó Hi Như và CungTử Phong chơi chẳng đúng bài gì sất?

Trước khi tới Thịnh Kinh, Chu Tử Thư nghĩ tới nghĩ lui xem phải xây dựng quan hệ với Phó Vị thế nào, rồi tiếp cận Cung Tuấn từng bước ra sao. Ai ngờ hôm nay cầu được ước thấy, Phó Vị thì gửi gắm cậu luôn cho Cung Tuấn, mà Cung Tuấn cũng thuận nước dong thuyền, chẳng hề cự tuyệt.

Chu Tử Thư đột nhiên có cảm tưởng mình lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử.

"Họ thật lòng coi mình là học trò, là sư đệ!" Lòng Chu Tử Thư ấm áp hẳn.

Ra ngoài Phó phủ, Cung Tuấn hỏi: "Tiểu sư đệ đến Quốc Tử Giám phải không, ta tiễn đệ một đoạn nhé?"

Chu Tử Thư lắc đầu đáp: "Không cần đâu Tử Phong sư huynh, hôm nay đệ đã xin nghỉ ở Quốc Tử Giám rồi, giờ đệ muốn đi mua ít đồ ạ."

Cung Tuấn không nhiều lời, leo lên xe ngựa, bảo: "Thế thì mấy hôm nữa gặp lại, đệ biết phủ Thượng thư ở chỗ nào rồi nhỉ?"

Chu Tử Thư hỏi: "Sư huynh có muốn đệ chuẩn bị gì trước khi bái phỏng không?" Ví dụ như viết một bài chế nghệ, một bài thí thiếp để anh ta xem trình độ mình thế nào?

Thế mà Cung Tuấn lại bảo: "Mang người đến là đủ rồi."

Chu Tử Thư: "Dạ?"

Cung Tuấn cười thanh lịch: "Đến phủ Thượng thư, chỉ cần mang theo chính đệ là được."

Cung Tuấn nói thế, thành ra Chu Tử Thư lại càng không yên tâm.

CungTử Phong có thể thi đỗ Trạng nguyên, được ban ngự bút là "Trạng nguyên vô song", quả thực là một kì tài. Lương Tụng đã từng nói: "Ta đã từng gặp người đọc một lần là không quên," hẳn người ấy chính là Cung Tuấn. Chu Tử Thư cũng có thể đọc một lượt là in vào đầu, thậm chí thuộc làu làu, nhưng ấy là bàn tay vàng ông trời ban tặng cậu sau hai kiếp nên cậu không lấy đó làm tự tin. Riêng Cung Tuấn thì đúng là chân tài thực học.

Chu Tử Thư về nhà, trước hết viết một bài chế nghệ, rồi lại tỉ mỉ làm thêm một bài thơ thí thiếp. Viết xong, cậu chưa hài lòng lắm, bèn dùng lối chữ trâm hoa chép lại mấy lượt, rồi lựa hai bài tốt nhất viết lại bằng thể Quán các.

Lúc này, quản lí Lục cũng vừa từ phủ Cô Tô tới Thịnh Kinh.

Chu Tử Thư thu xếp cho ông ta ở lại nhà mình.

Quản lí Lục gặp cậu thì báo cáo: "Tình hình ở Cô Tô vẫn ổn lắm. Các hương thân đều là người mềm nắn rắn buông, họ nghe đồn tiểu đông gia tới Thịnh Kinh, còn bái Phó đại nho làm thầy, liền để yên cho lầu Tế Hà và

Hậu cần Đường thị ngay, hầu như chẳng có ai dám táy máy nữa. Nghe Diêu

Tam nói, tiểu đông gia gọi tôi lên Thịnh Kinh là để mở chi nhánh của lầu Tế Hà ở Thịnh Kinh nhỉ? Lúc trên thuyền tôi cũng suy nghĩ suốt, Thịnh Kinh giáp với nước Liêu, dê bò nhiều vô kể, phương án này khả thi đấy!

Chu Tử Thư: "Đúng ý ta đấy, chỉ có điều hiện giờ ta đang bận chuẩn bị thi

Hương. Hết thi Hương lại đến xuân năm sau thi Hội, không dứt ra được." Quản lí Lục: "Tiểu đông gia không cần vội, kì thực tôi cũng không vội. Trước hết tôi cứ ở lại Thịnh Kinh đã, chúng ta dù sao cũng không phải người bản xứ, lạ đường lạ lối, cần phải nghiên cứu rõ xem mở cửa hàng thế nào mới được. Ngày mai tôi sẽ đến nha hành mua mấy người đầy tớ, trước hết chúng ta làm quen với tình hình Thịnh Kinh đã."

Chu Tử Thư cười: "Thế thì tuyệt."

Ba ngày sau, Chu Tử Thư cầm hai bài chế nghệ và thí thiếp đã viết đi tới phủ Thượng thư.

Quản gia phủ Thượng thư đã biết tên cậu, liền dẫn ngay vào hoa viên trong phủ, thưa rằng Cung Tuấn còn đang tiếp khách, phiền Chu Tử Thư chờ một lát. Chu Tử Thư dạo chơi trong vườn, thấy khu vườn có một hồ nước nhân tạo, thả hơn mười chú cá chép hoa màu sắc sặc sỡ, chú nào chú nấy béo quay béo cút, hẳn là thường xuyên được cho ăn đẫy bụng.

Lại ngắm nghía những ngọn giả sơn lởm chởm, trăm hoa khoe thắm. Riêng gốc liễu ven hồ dường như chẳng thiết ganh đua, nghiêng mình soi bóng nước, cô độc một nỗi thương thân.

Chu Tử Thư đang ngắm, chợt có giọng nói du dương cất lên từ phía sau: "Khói trùm nước lạnh, Tuấng lồng cát?"

Chu Tử Thư sửng sốt, xoay người lại, liền thấy Cung Tuấn bước ra từ gốc liễu. Chồi liễu xanh ngát phớt qua mỏm vai chàng, rủ trên áo trường bào gấm trắng. Chu Tử Thư định thần, nói: "Sư huynh sao lại biết câu thơ này?" Chợt cậu nhớ ra: "Đệ quên mất, sư huynh xuất thân Lang Gia Cungthị, là người Kim Lăng."

Cung Tuấn xòe bàn tay, giờ Chu Tử Thư mới phát hiện, hóa ra nãy giờ trong nắm tay chàng giấu mồi cá.

Chu Tử Thư ngơ ngẩn nhìn chàng, Cung Tuấn mỉm cười: "Cho cá ăn không?"

Chu Tử Thư chẳng có cách nào khác ngoài nhận mồi, thả vào hồ cá theo Cung Tuấn.

Mồi cá rơi xuống nước tạo thành những gợn sóng hình tròn, bầy cá chép ùa vào tranh ăn. Chu Tử Thư chợt phát hiện thì ra đây chính là thủ phạm khiến chúng béo núc ních.

Cung Tuấn vừa rải mồi cho cá, vừa hỏi: "Câu thơ sau câu ấy là gì?"

Chu Tử Thư ngập ngừng giây lát, đáp: "Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia."

"Sau đó thì sao?"

Chu Tử Thư: "..."

Cô gái không hay buồn nước mất,

Bên sông còn hát Hậu Đình Hoa

Thơ vong quốc chính hiệu đây chứ đâu!

Chu Tử Thư: "...Hết rồi ạ. Đệ bắt gặp trong một cuốn sách, sách ấy không tìm lại được, đệ cũng không nhớ rõ nửa sau."

Cung Tuấn: "Đáng tiếc."

Cho cá ăn xong, Chu Tử Thư bèn lấy ra bài chế nghệ và thơ thí thiếp đã chuẩn bị sẵn. Cung Tuấn không ngạc nhiên khi cậu có sự chuẩn bị, chàng cầm văn và thơ của Chu Tử Thư lên đọc. Xem xong, chàng nhận xét: "Viết khá đấy." Đoạn, chàng bỏ hai tờ bài sang một bên. "Tiểu sư đệ đã từng nghĩ thử xem, quan chủ khảo kì thi Hương Thịnh Kinh bốn tháng nữa là ai chưa?"

Chu Tử Thư trợn mắt hãi hùng, nhìn Cung Tuấn bằng vẻ mặt không thể tin nổi.

Đệt, lại còn thế nữa?

Chưa thi, CungTử Phong đã định dắt cậu đi cửa sau đến mức này?

"Chẳng lẽ lại là sư huynh?"

Cung Tuấn bật cười. Chu Tử Thư mấy năm nay ăn uống đầy đủ nên cao vống lên, nhưng vẫn thấp hơn Cung Tuấn một cái đầu. Cung Tuấn cúi xuống nhìn Chu Tử Thư mặt mày hốt hoảng, bỗng cảm thấy vừa tức cười vừa đáng yêu quá chừng. Tiểu sư đệ của chàng bình thường rất thông minh lanh trí, nhưng cậu làm sao mà giấu được tâm tư trước chàng và tiên sinh.

Chung quy vẫn chỉ là một thiếu niên tuấn tú tuổi mười lăm.

Cung Tuấn thả nốt chỗ mồi cá trong tay vào hồ, chàng nghiêm mặt, ra chiều suy tư, đôi mày khẽ cau, như thể đang đấu tranh nội tâm dữ dội. Hồi lâu sau, chàng mới thở dài, nghiêm nghị nói: "Tuy huynh không phải là học sĩ Hàn Lâm viện, nhưng nếu tiểu sư đệ mong muốn thế, thì huynh sẽ cố gắng phấn đấu làm chủ khảo thi Hương năm nay. Chỉ có điều, tiểu sư đệ này, ta với đệ vốn là trò cùng thầy. Chi bằng để tiên sinh trục xuất đệ khỏi sư môn trước, kẻo lúc huynh làm chủ khảo, đệ lại không được vào thi để tránh hiềm nghi. Nếu vậy mà không xong, tiểu sư đệ còn viết bằng chữ Quán các, thì huynh hứa sẽ banh mắt mà kiếm cho ra bài của đệ trong mười ngàn bài thi, nha?"

Cung Tuấn cười rất duyên, Chu Tử Thư thì: "..."

Cái tên CungTử Phong này đúng là không tin nổi!

||

Lời tác giả:

Anh Cunghàng xóm: Sư đệ của ta, chung quy chỉ là một thiếu niên tuấn tú tuổi mười lăm.

Tiểu Thư Lang: Huynh cũng biết đệ mới mười lăm à?

Bé Phúc & độc giả: Á, cầm thú!!! (Bé Phúc là nickname của tác giả)

Chú thích

[1] Bánh du thực (du = dầu): Một loại bánh rán

Bác sĩ là những người dạy học hoặc phụ trách việc học ở Quốc Tử Giám.

Mình tra keyword "kinh văn" trong tiếng Trung thì không có nghĩa cần tìm. Nhưng sách Khoa cử Việt Nam của Nguyễn Thị Chân Quỳnh có đề cập đến "Kinh nghĩa" là phần kiểm tra xem thí sinh có nắm rõ Kinh, Truyện không. Sử dụng từ khác nhau nhưng dựa trên sự tương đồng của khoa cử hai nước thì mình nghĩ "kinh văn" Mạc Thần Hoan nhắc tới có mục đích tương tự.

"Sách vấn" tương đương với bài thi "văn sách" trong khoa cử Việt, là phần hỏi đáp về kế sách, mưu lược trị quốc. Toàn bộ các bài thi trừ thơ thì đều viết bằng thể văn bát cổ.

------oOo------

Chương 32

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thiên tử lâm Ung

Thời Tây Chu, thiên tử lập ra đại học Ích Ung. "Lâm Ung" tức là đức vua đích thân tới Ích Ung.

So với triều đại trước, chế độ thi cử của Đại Tống càng nghiêm ngặt hơn. Từ thi Hương trở lên sẽ áp dụng quy chế che tên. Sau mỗi trường thi, các học chính sẽ dán giấy đè lên tên thí sinh rồi mới chấm quyển. Vì thế, nếu Cung Tuấn trở thành chủ khảo thật, muốn thiên vị Chu Tử Thư chỉ có cách nhận diện bằng chữ viết.

Thời tiên đế đã từng có trường hợp thông đồng với nhau gian lận trong khoa thi. Hồi ấy, một cử nhân hối lộ giám khảo, quy ước cứ cuối mỗi cặp câu sẽ có một chữ làm ám hiệu, giám khảo cứ theo đó mà tìm bài của tay cử nhân này. Tiếc rằng phương pháp đó thất bại, bởi trong vòng ba ngày, phải bí mật dựa theo ký hiệu để tìm ra một quyển thi trong số mười nghìn quyển là việc bất khả thi.

Chu Tử Thư bắt chước Cung Tuấn, quẳng hết mồi xuống hồ nước.

Cung Tuấn: "Nghe nói trí nhớ của cá chỉ tồn tại trong vài giây ngắn ngủi."

Chu Tử Thư ngơ ngác: "?"

Cung Tuấn nhìn chăm chú bầy cá chép hoa hơn mười con trong hồ. Chàng ngắm rõ lâu, bỗng dưng chỉ vào một con cá ăn no đến phơi cả bụng: "Đệ xem, đệ cho con cá kia ăn lắm quá, nó lăn quay ra chết rồi."

Chu Tử Thư: "..."

Sao lại tại tui? Rõ ràng chính anh cũng cho chúng nó ăn thế mà!!!

Về thời cổ đại lâu đến vậy, đây là lần đầu tiên Chu Tử Thư muốn dí ngón giữa vào mặt ai đó. Thế nhưng cậu phải kiềm chế, cúi đầu không dám nhìn Cung Tuấn nữa, chỉ sợ liếc thêm một cái thì không nhịn nổi ước ao đấm vỡ cái bản mặt đẹp trai thanh lịch của con người này.

Dường như Cung Tuấn chẳng nhận ra điều đó, chàng vỗ tay bảo: "Làm quan chủ khảo cho tiểu sư đệ cũng là một phương án. Tiểu sư đệ, đệ có đoán được chủ khảo thi Hương năm nay là ai không?"

Chu Tử Thư đã định thần, đáp: "Chưa ạ. Đệ mới đến Thịnh Kinh, mọi sự đều lạ lẫm. Trước đây ở Cô Tô từng nghe mọi người đồn, chủ khảo thi Hương ở cống viện Giang Nam vốn là Đại học sĩ La Chân. Tiếc là ngài La Chân đã qua đời, hiện giờ không biết chủ khảo trường thi Giang Nam là ai nữa."

Cung Tuấn: "Hiện tại viện Hàn Lâm có mười lăm học sĩ, bốn Đại học sĩ. Các điểm thi Hương trong nước, cứ theo lệ thì các học sĩ sẽ chia nhau làm chủ khảo. Trường thi Thịnh Kinh và Giang Nam thì khác, phải có Đại học sĩ chủ trì. Bốn người ấy lần lượt là Lý Đại học sĩ, Dương Đại học sĩ, Chu Đại học sĩ và Phan Đại học sĩ."

Có hai người đầy tớ nhanh nhẹn đi vào vườn, pha trà rót nước, bưng lên hai khay điểm tâm cho Cung Tuấn và Chu Tử Thư ở ngôi đình ven hồ. Hai người đi vào đình, Chu Tử Thư nhìn khay bánh nếp viên trắng như tuyết trên bàn, trong lòng chợt dâng lên một thứ cảm xúc khó tả. Cậu ngẩng đầu nhìn về phía Cung Tuấn.

Cung Tuấn nói: "Trong bốn người này. Lý Đại học sĩ tuổi đã cao. Thi Hương có ba trường, mỗi trường kéo dài cả ngày. Chẳng những thí sinh vất vả, giám khảo cũng cực khổ. Lý Đại học sĩ đã tám năm không làm chủ khảo thi Hương rồi. Ngoài ra, Dương Đại học sĩ là người Kim Lăng. Nếu không có gì thay đổi, là người cùng quê, khả năng ông ấy được điều đến Cống viện Giang Nam là rất nhỏ." Ngừng một chút, Cung Tuấn mỉm cười hỏi: "Tiểu sư đệ không thích ăn bánh ngọt à?"

Chu Tử Thư yên lặng bốc bánh nếp cắn một miếng. "Ý sư huynh là, Dương Đại học sĩ không làm chủ khảo Cống viện Giang Nam, nên rất có khả năng là chủ khảo khoa thi này ở Thịnh Kinh?"

Cung Tuấn không đáp, chỉ nói: "Thiên hạ đều biết, Dương Đại học sĩ giỏi về Chu Dịch, thích nhất là Tạp Quái Truyện. Chu Đại học sĩ giỏi về Xuân Thu, Phan Đại học sĩ giỏi về Chu Dịch."

Chu Tử Thư giật mình, nhìn Cung Tuấn.

Giọng Cung Tuấn ấm áp: "Chăm đọc Chu Dịch không bao giờ là thừa." Chu Tử Thư choáng váng.

Chỉ dăm ba câu mà CungTử Phong đã gợi ý cho mình chủ khảo trường thi Thịnh Kinh năm nay là ai rồi!

Trong lòng nhộn nhạo, nhưng ngoài mặt Chu Tử Thư vẫn tỏ ra bình tĩnh, cung kính thưa: "Đa tạ sư huynh đã chỉ điểm, về nhà đệ sẽ ôn kĩ Chu Dịch."

Chỉ còn có bốn tháng nữa là tới kì thi Hương, theo lý thuyết thì sau tiết

Thanh Minh tháng tới, Hoàng đế mới lập danh sách các quan chủ khảo thi Hương ở mọi điểm thi. Danh sách ấy sẽ được giữ bí mật ở Ngọc Đường trong viện Hàn Lâm. Chẳng ai biết danh tính chủ khảo thi Hương tại Thịnh Kinh, thế mà Cung Tuấn dám để mình ôn kĩ Chu Dịch. Chu Tử Thư chợt có cảm giác, dù quan chủ khảo năm nay không phải Dương Đại học sĩ hay Phan Đại học sĩ, Cung Tuấn cũng có cách đổi cho bằng được.

Hai người hiểu lòng nhau nhưng không nói ra, chỉ yên lặng ăn bánh, uống trà.

Cung Tuấn xem lại hai bài chế nghệ và thơ thí thiếp của Chu Tử Thư, gọi thư đồng lấy bút và mực từ thư phòng tới, chữa vài chỗ trong bài. "Đệ về xem bài, mai viết lại rồi đưa cho ta." Đồng thời, chàng còn sai thư đồng lấy Bảng chữ Pháp Môn đưa cho Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư chưa mở bảng chữ ra nên vẫn tưởng là bảng chữ mẫu cho Cung Tuấn tự viết. Hai năm trước, từ khi chưa bái Lương Tụng làm thầy, cậu đã được chiêm ngưỡng thư pháp của Cung Tuấn rồi. Nét chữ rồng bay phượng múa, bút lực dồi dào mà ung dung, khó có từ ngữ nào diễn tả được hết sự tuyệt diệu.

Chu Tử Thư: "Cảm ơn Tử Phong sư huynh đã tặng chữ mẫu, đệ sẽ chăm chỉ luyện viết."

"Đây không phải bảng chữ mẫu của huynh đâu." Chu Tử Thư ngạc nhiên nhìn anh ta.

Chỉ thấy Cung Tuấn nhẹ nhàng nhấp một ngụm trà, thản nhiên nói: "Là Bảng chữ Pháp Môn của Chung Thái Sinh đấy." Chung Nguy, Chung Thái Sinh!

Chu Tử Thư choáng váng, yếu ớt "Dạ" một tiếng.

Từ phủ Thượng thư đi ra, Chu Tử Thư không chỉ đem theo bài văn và thơ của mình, còn được thêm một bảng chữ mẫu và một hộp điểm tâm nữa. Ai mà biết Cung Tuấn lấy đâu ra lắm bánh ngọt như vậy, lúc Chu Tử Thư nói chuyện với anh ta, Cung Tuấn có ăn miếng nào đâu. Hay là Cung Tuấn cố ý mua bánh ngọt để mời cậu ăn?

Chu Tử Thư cứ cảm thấy có gì đó kì quặc: "Lẽ nào CungTử Phong coi mình là trẻ con nên cần phải chiều chuộng, dỗ dành?"

"...Còn khướt!"

"Lấy đâu ra chuyện đó!"

Về tới nhà, quản lí Lục đã mua được mấy người đầy tớ tháo vát từ chỗ nha hành.

Quản lí Lục: "Tiểu đông gia, cậu thấy người nào hợp thì giữ lại, cho đi theo mà sai phái."

Chu Tử Thư quan sát bốn người đầy tớ mới được mua về một hồi. Tiêu chuẩn chọn người hầu thân cận của cậu khác với chọn tôi tớ thông thường. Từ giờ trở đi hằng ngày cậu đều phải đến phủ Cung Tuấn nghe giảng, người hầu gần như kiêm thêm nhiệm vụ thư đồng, cũng phải đi theo. Nếu chọn người kém quá làm Cung Tuấn để ý, Chu Tử Thư sẽ thấy không thoải mái chút nào.

Ngẫm nghĩ một lát, Chu Tử Thư hỏi: "Trong các ngươi có ai biết chữ không?"

Bốn người đầy tớ nhìn nhau không nói gì.

Quản lí Lục nói: "Tiểu đông gia cần người biết chữ ạ? Lúc tôi mua người ở nha hành không nhắc đến điều kiện này. Đầy tớ biết chữ hiếm lắm, phải đặt hàng trước thì may ra mới mua được."

Chợt, một người nô bộc nhỏ con đứng dậy thưa: "Tiểu nhân có biết chút chữ."

Chu Tử Thư "Ồ" một tiếng, hỏi: "Ngươi đã đọc sách gì rồi?"

Người nô bộc này mặt đỏ tía tai, nói: "Chỉ là hồi bé tôi có đi theo đứa anh họ, trốn dưới cửa sổ lớp học nghe lén dăm câu. Tiểu nhân chưa đọc sách bao giờ, chỉ biết chữ thôi ạ."

Chu Tử Thư hỏi thêm vài câu, nhận thấy người đầy tớ này biết chữ thật, dù chưa đọc Tứ Thư Ngũ Kinh, nhưng Luận Ngữ đã đọc được khoảng một nửa rồi.

"Giữ lại người này đi. Ngươi tên gì?"

"Tiểu nhân tên là Lưu Thuận Trụ."

Chu Tử Thư: "..." Lát sau, cậu nói: "Từ giờ tên ngươi là Phương Hoán."

"Vâng."

Một hồi sau, Chu Tử Thư lại thấy không hợp lắm, bèn bảo: "Khoan đã, không thể đặt tên ngươi là Phương Hoán được. Đổi thành...Phụng Bút đi."

Phụng Bút không hiểu mô tê gì, Chu Tử Thư bảo sao thì biết vậy: "Dạ, từ giờ tiểu nhân sửa tên thành Phụng Bút."

Phó Vị có Ôn Thư đồng tử và Phủ Cầm đồng tử, Chu Tử Thư trông hồ lô vẽ gáo, cũng bắt chước đặt tên tiểu đồng là Phụng Bút.

Sau khi quản lí Lục và Phụng Bút đi rồi, Chu Tử Thư quay lại phòng riêng, mở Bảng chữ Pháp Môn của Chung Thái Sinh đặt trên bàn, rồi lấy ra hai bài chế nghệ và thơ thí thiếp mà Cung Tuấn đã chữa. Chu Tử Thư xem kĩ mấy dấu khoanh tròn trên tờ giấy tuyên và những hàng chữ nhỏ ghi chú, sửa chữa hai bên lề giấy. Xem bài hồi lâu, cậu dở khóc dở cười: "Trời ạ, suýt tí nữa thì đặt nhầm cái tên này cho thằng hầu rồi!"

Tuấn dữ Vị, phương hoán hoán hề. Sĩ dữ nữ, phương bỉnh gian hề!

(Dòng sông Vĩ với sông Trân, Thủy triều vào khoảng mùa xuân dẫy đầy. Khắp vùng con gái con trai, Hoa lan mới bẻ cầm tay trao lời.)

Lúc đầu khi đặt tên cho Phụng Bút, trong đầu Chu Tử Thư bật ra ngay bài thơ Tuấn Vị trong Kinh Thi.

"...Từ giờ tốt nhất là cách xa CungTử Phong một chút."

Ngoài miệng nói thế, nhưng hôm sau Chu Tử Thư đã sửa xong bài rồi mang đến phủ Thượng thư tìm Cung Tuấn. Tiếc là lần này Cung Tuấn không có ở phủ, chàng còn bận việc ở bộ Hộ. Tuy thế, Cung Tuấn đã dặn trước quản gia phải chiêu đãi Chu Tử Thư, để Chu Tử Thư ở trong phủ tập trung chữa bài. Lúc Chu Tử Thư ra về, lại cầm theo một hộp bánh mới.

Cứ thế một tháng trôi qua.

Tiết Thanh Minh, Chu Tử Thư thắp hương ở nhà. Cậu hướng về phía Nam dâng hương cho Lương Tụng, dẫu cách muôn trùng nghìn dặm vẫn nhớ tảo mộ cho ông.

Làm xong mọi việc, Chu Tử Thư viết một phong thơ, gọi Phụng Bút tới:

"Ngươi đem phong thư này đến phủ Thượng thư bộ Hộ, giao cho quản gia Cungphủ. Sư huynh của ta từng dặn rằng hàng tháng huynh ấy đều gửi đồ về Kim Lăng, nếu cần gửi nhờ cái gì thì có thể đưa cho quản gia. Ngươi đưa thư này tới phủ Thượng thư đi, đi sớm nhé."

Phụng Bút nhận thư, giao tới tận tay quản gia Cungphủ.

Đến khi Phụng Bút trở về, Chu Tử Thư trố mắt nhìn hộp bánh ngọt trong tay cậu ta.

Chu Tử Thư: "..."

Cái số tôi khổ quá mà!

Sắp sang tháng sáu, trời càng lúc càng oi bức. Mùa đông Thịnh Kinh lạnh hơn Giang Nam, mùa hè lại không mát mẻ bằng. Mặt trời hừng hực tỏa nhiệt trên cao, Quốc Tử Giám có đến mấy trăm học trò, cộng thêm mười Bác sĩ và giảng tập. Tuy đông là thế, nhưng thầy trò Quốc Tử Giám chưa đủ cấp bậc để được hưởng thụ chậu băng trong ngày hè. Trong giảng đường nóng như thiêu đốt, các học trò vừa quệt mồ hôi vừa ra sức tụng bài.

"... Ý nghĩa của việc biên soạn Kinh Xuân Thu, là để đón đợi các vị thánh đời sau. Việc làm quân tử, chẳng phải là hạnh phúc lắm ư?"

Các học sinh đọc xong, quan Bác sĩ ngồi trên ghế rộng giảng bài cũng không chịu nổi nữa, cao giọng hô: "Buổi học hôm nay đến đây là kết thúc."

Lũ học trò sướng rơn, tranh nhau phi ra khỏi giảng đường. Chu Tử Thư cũng nằm trong số đó, nhưng cậu không vội. Chính vì mọi người ùa ra cửa nên cửa lớp tắc nghẽn. Một khiêng người chen chúc như thế chỉ tổ đầm đìa mồ hôi. Cậu thong thả chờ đi sau thì tốt hơn.

"Cảnh Tắc, buổi chiều có lớp ở Chính Ý Đường, đi học chung không?"

Chu Tử Thư ngẩng đầu, liền thấy một thanh niên khoảng hơn hai mươi tuổi, dáng người mảnh khảnh, mặt mũi hiền lành đang mỉm cười nhìn mình.

Thấy anh ta, Chu Tử Thư hớn hở, đáp: "Chiều đệ xin nghỉ rồi, có việc bận.

Để mai đi cùng nhau được không?"

Mai Thắng Trạch cười: "Được."

Hai người thu dọn sách vở chuẩn bị ra khỏi giảng đường. Chợt nghe có tiếng người oang oang: "Quay vào, chen chúc cái gì! Toàn là học sinh Quốc Tử Giám, trụ cột nước nhà, sao mà vội vàng chạy khỏi nơi thánh hiền thế?"

Tất cả học trò đành phải quay lại giảng đường. Chu Tử Thư và Mai Thắng Trạch liếc nhau, cùng quay lại chỗ ngồi.

Chu Tử Thư phát hiện người mới xuất hiện là Lưu Tư nghiệp, trong lòng cả kinh.

Sơn trưởng của Quốc Tử Giám là Lâm Tế tửu, quan giai tam phẩm. Phụ tá cho ông có hai quan Tư nghiệp, quan giai tứ phẩm.

Lưu Tư nghiệp vuốt chòm ria mép màu muối tiêu, nhìn một lượt lũ học trò vừa ngồi lại giảng đường, tức tối hừ một tiếng: "Vừa mới kết thúc lớp học, các cậu đã tháo chạy như ăn cướp thế hả? Đức thánh Mạnh từng nói, 'khi trời giao sứ mệnh trọng đại cho ai, trước tiên ắt phải làm khổ tâm chí họ, làm nhọc gân cốt họ'. Mới nóng nực có một chút, các cậu đã không chịu nổi ư?"

Lũ học trò nào dám phản bác, chỉ đành cúi đầu ăn năn.

Lưu Tư nghiệp hài lòng: "Hôm nay tới đây là để thông báo cho các cậu, quán khóa đầu tháng sáu, các cậu cần phải chuẩn bị kỹ càng. Như mọi tháng, quán khóa vẫn căn cứ vào chế nghệ và thơ thí thiếp các cậu viết, xếp thức bậc Giáp, Ất, Bính, Đinh. Bình thường thì không có gì đáng kể, riêng Quán khóa đầu tháng tới, yêu cầu tất cả phải nỗ lực gấp bội."

(*) Quán khóa: bài kiểm tra hàng tháng

Có học sinh tò mò: "Thưa Tư nghiệp đại nhân, lẽ nào lần này có gì khác thường ạ?"

Lưu Tư nghiệp cười: "Khác thường ấy hả? Cậu nói phải! Tháng sáu nay không yên rộn rịp, binh xa nay liên tiếp nghiêm trang. Mạnh thay bốn ngựa sắp hàng, ba quân đều mặc đàng hoàng nhung y! Tướng tài lấy việc hành quân, chinh chiến làm sở trường, lấy giáo, côn làm vũ khí. Còn văn nhân chúng ta, bản lĩnh nằm cả ở ngòi bút. Quán khóa đầu tháng sáu năm nay, những học trò đạt tiêu chuẩn hạng Giáp và hạng Ất sẽ được phép đến cung Ích Ung trong Quốc Tử Giám nghe giảng vào ngày mười lăm."

Nhiều học trò vẫn chẳng hiểu mô tê gì, Chu Tử Thư cũng ù ù cạc cạc.

Ấy vậy mà Mai Thắng Trạch lại siết chặt lấy đống sách của mình, kích động đến nỗi mặt mũi đỏ gay, ánh mắt hừng hực ý chí.

Chu Tử Thư thì thào hỏi: "Thắng Trạch huynh, cung Ích Ung là chỗ nào thế, đệ đến Quốc Tử Giám hai tháng nay mà chưa đi vào chỗ đó bao giờ cả."

Mai Thắng Trạch vẫn đang rất kích động, bảo: "Bình thường Cung Ích Ung không mở cửa đâu. Đệ biết đấy, Quốc Tử Giám chúng ta dạy dỗ môn sinh của Thiên tử, là thư viện quốc học của Thịnh Kinh Đại Tống. Mỗi tháng sẽ có học sĩ Hàn Lâm viện đến Quốc Tử Giám giảng bài, lúc Lý Đại học sĩ tới đây giảng, đệ cũng đã ở đây rồi."

Chu Tử Thư: "Phải, lúc đó chúng mình nghe giảng ở Chính Ý đường."

"Riêng cung Ích Ung chỉ mở cửa khi có quý nhân đến giảng. Mà thiên hạ này, chỉ có duy nhất một quý nhân có thể giảng bài ở cung Ích Ung thôi."

Chu Tử Thư nháy mắt đã nắm bắt được vấn đề, cậu siết nắm tay, hồi hộp nhìn Mai Thắng Trạch.

Mai Thắng Trạch nói rành rọt từng chữ: "Thánh nhân hạ phàm, là phúc trạch của Quốc Tử Giám. Chỉ khi nào nhà vua tới, cung Ích Ung mới mở cửa. Việc này ngụ ý rằng thiên tử lâm Ung đấy!" Cùng lúc đó, tại phủ nha bộ Hộ.

Cung Tuấn ngồi ghế trên, Tả thị lang và Hữu thị lang chia nhau ngồi ghế dưới hai bên trái phải. Tả thị lang là một người đàn ông trung niên để râu dê, thân hình quắt queo, ông ta thở dài, than: "Thiên tử lâm Ung ư? Sao trong buổi triều hôm nay Thánh thượng lại quyết định tới Quốc Tử Giám giảng bài chứ? Hai mươi sáu năm nay kể từ khi Thánh thượng lên ngôi, đã bao giờ bệ hạ ghé thăm cung Ích Ung đâu?"

Hữu thị lang trái lại là một người khá trẻ trung nhưng râu ria xồm xoàm, nom dáng dấp giống một võ tướng uy mãnh hơn là văn nhân. Anh ta liếc thấy Cung Tuấn đang uống trà, bèn bảo: "Thiên tử lâm Ung là việc đáng mừng, Từ đại nhân, chúng ta nên chuẩn bị cho sớm."

Từ Lệnh Hậu – Tả thị lang bộ Hộ nói: "Tần đại nhân nói phải. Cungđại nhân thấy sao?"

Hai vị thị lang cùng quay ra nhìn Cung Tuấn.

Cung Tuấn điềm nhiên gạt lá trà, hơi ấm tỏa lên từ chung trà nóng. Chàng nhấp một ngụm, hỏi: "Trà Long Tỉnh năm nay là loại Minh Tiền hả?"

Từ Lệnh Hậu: "Vâng."

Cung Tuấn: "Thậm diệu. Từ đại nhân mới bảo gì ấy nhỉ?" Từ Lệnh Hậu và Tần Tự liếc nhau, không ai hé răng.

Cung Tuấn đặt chung trà xuống, thở dài nói: "Đế Cungthiện học, Thiên tử lâm Ung, học trò Quốc Tử Giám năm nay quả là có phúc."

||

Lời tác giả:

Anh Cunghàng xóm: Ơ, không thích ăn bánh ngọt à?

Tiểu Thư Lang: ╭∩╮(︶ 皿 ︶)╭∩╮! ! !

Sao các em gái lại nghĩ lúc này lão Cungđã thích Tiểu Thư Lang chứ, theo mị thì lão Cunghổng có luyến đồng đâu, mặc dù tầm tuổi này ở thời cổ đại, Tiểu Thư Lang kết hôn cũng không vấn đề gì... E hèm...

Lão Cungkhông nhất kiến chung tình một cách dễ dàng thế, nhưng mà mị thấy cũng sắp rồi XDDD

Manh: Không luyến đồng, chỉ thích ghẹo sư đệ và thích nuôi sư đệ như nuôi cá thôi =))) Chương sau Chu Tử Thư lại thi rồi. Cứ thi là edit khổ lắm ToT

Chú thích

Trích bài thơ Tuấn Vị (còn có phiên âm là Trân Vĩ) trong Kinh Thi. Sông Vị và sông Tuấn là hai con sông cổ ở Trung Quốc. Bản dịch của dịch giả Tạ Quang Phát sử dụng trong chương này phiên âm là Trân – Vĩ.

Hiểu đơn giản thì Bác sĩ tương đương với giáo sư/tiến sĩ còn giảng tập thì như giảng viên ở trường đại học. "Bác sĩ" là học vị có nguồn gốc từ xưa rồi. Riêng từ "giảng tập" đã xuất hiện từ đoạn học viện Tử Dương (được edit là "thầy giáo") nhưng mình khá lăn tăn khi sử dụng tại không tìm được định nghĩa cổ đại của nó, nghĩa hiện đại thì hoàn toàn khác. Nhân đến đoạn này Chu Tử Thư đi học ở Quốc Tử Giám tương đương với đi học Đại Học, mình sẽ sử dụng "giảng tập" cho dễ liên tưởng và có kết nối với từ "Bác sĩ".

Thường hoàng tộc hoặc những nhà đại quý tộc mới có hầm trữ băng để sử dụng vào mùa hè.

Câu này khó, chỉ tham khảo được một nửa. Nửa còn lại thì chịu :)) 《春秋 之义, 以俟后圣, 以君子之为, 亦有乐乎此也

Trích bài thơ Lục Nguyệt 1 trong Kinh Thi. Dịch giả: Tạ Quang Phát.

Minh Tiền tức là trà thu hoạch từ dịp Xuân Phân đến trước tiết Thanh Minh. Đây được cho là thời điểm trà ngon nhất vào vụ Xuân.

------oOo------

Chương 33

Nguồn: EbookTruyen.Net

Ba hạng đầu kì Quán khóa

Tan học ở Quốc Tử Giám, Chu Tử Thư đem thơ thí thiếp mới viết hôm nay đến phủ Thượng thư tìm Cung Tuấn.

Cung Tuấn là Thượng thư bộ Hộ, ngày nào cũng bận bịu. Chu Tử Thư đến mười lần thì phải sáu lần anh ta vắng nhà. Vì thế, mọi ngày cậu sẽ gửi bài cho quản gia, khi nào Cung Tuấn xem xong sẽ chữa bài cho cậu, rồi đến hôm sau, anh ta sẽ dành thời gian dạy cậu ở phủ. Ấy thế mà hôm nay Chu Tử Thư nghĩ tới nghĩ lui, lại nói với quản gia rằng: "Ta có thể ở lại phủ chờ Tử Phong sư huynh về được không?"

Quản gia ngạc nhiên, nói: "Đường tiểu công tử nếu không bận, xin cứ tự nhiên."

Quản gia mời Chu Tử Thư vào phủ, cung kính tiếp đãi.

Vầng Tuấng lơ lửng trên không trung, muôn vì tinh tú giăng kín vòm trời. Cung Tuấn mặc quan bào phẳng phiu màu đỏ thuần bước vào cổng. Quản gia thưa với chàng là Chu Tử Thư đang đợi trong phủ, chàng liền dừng bước, lẩm bẩm "Thế à," song không tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào, dường như đã biết trước rằng hôm nay Chu Tử Thư sẽ đợi mình.

Chu Tử Thư đang uống trà trong phòng khách, nghe thấy tiếng bước chân thì ngó ra cửa, liền thấy Cung Tuấn hẵng còn mặc nguyên quan phục đến gặp mình. Dưới ánh sáng giao hòa dịu êm của vầng Tuấng và những ngọn nến, gương mặt tuấn nhã của CungTử Phong càng dịu dàng gấp bội. Chàng cười lịch thiệp: "Tiểu sư đệ chờ lâu lắm rồi hả?"

Chu Tử Thư: "Chỉ độ nửa canh giờ thôi ạ."

"Ăn cơm chưa?"

"Đệ chờ sư huynh nên chưa dám ăn."

Cung Tuấn khiển trách quản gia: "Tiểu sư đệ ở trong phủ lâu như vậy, sao không mời đệ ấy dùng bữa? Rõ thất trách!" Quản gia xin lỗi Chu Tử Thư rối rít.

Cung Tuấn nói: "Đã vậy thì đệ ăn tối với huynh nhé."

Hai huynh đệ tới chính sảnh, Chu Tử Thư ngồi đợi ở bàn ăn. Cung Tuấn thay trường bào gấm trắng trong buồng xong thì cũng đi ra. Khi không mặc quan bào, Cung Tuấn tựa như một văn nhân tuấn mỹ nho nhã, quả xứng với danh hiệu "Trạng nguyên vô song." Chu Tử Thư nghĩ thầm, kể cả khi mặc quan phục, vị sư huynh này của cậu cũng bật lên vẻ xuất chúng, lỗi lạc hơn hẳn các đại quan khác.

Thị nữ bày biện các món ăn lên bàn, gồm một khoanh cá tầm hầm, một tô cải thảo om với chân giò hun khói, bốn đĩa thức ăn theo mùa, kèm theo một tô canh sò điệp.

Chu Tử Thư và Cung Tuấn đều là người Giang Nam, khẩu vị tương đồng, nên phần lớn các món đều chế biến theo kiểu Giang Nam.

Thực hiện đúng châm ngôn "Ăn không nói chuyện, ngủ không nói chuyện," hai người cơm nước xong xuôi mới vào phòng khách uống trà. Cung Tuấn đọc bài thơ thí thiếp của Chu Tử Thư vài lần. Bữa nay chàng không nhận xét cậu viết có tốt không mà hỏi: "Bảng chữ Pháp Môn luyện được bao lâu rồi?"

Chu Tử Thư chẳng hiểu sao anh ta lại đá sang chuyện này: "Gần hai tháng rồi ạ."

"Chữ của tiểu sư đệ tiến bộ nhanh đấy."

"Sư huynh quá khen." Vẻ mặt Chu Tử Thư rất bình thản, giọng điệu khiêm tốn.

Hồi ở Cô Tô, mỗi ngày cậu đều luyện viết năm mươi đại tự. Khi tới Thịnh Kinh, cậu đã chép Bảng chữ Pháp Môn một nghìn ba trăm hai mươi mốt lần. Cậu không muốn lãng phí dù chỉ một chút thời gian. Kì thi Hương tháng tám, cậu nhất định phải đạt thứ hạng cao; ít nhất phải trong mười người đầu bảng. Chỉ có thế, đến kì thi mùa xuân1 năm sau, cậu mới không bị đuối so với các cử nhân khác.

[1] Thi Hội (Xuân Vi)

Cung Tuấn cầm bài viết của Chu Tử Thư lên, nhẹ nhàng đọc thơ: "Nguyệt kiểu liên không chiếu, tinh thùy định hải lâu..." Ngâm thơ xong, Cung Tuấn ngừng lại một lát, thở dài tiếc nuối: "Bát cổ chế nghệ của tiểu sư đệ có cách tiếp cận vấn đề thông minh, độc đáo, kết cấu chặt chẽ, có lớp lang, chỉ cần không rơi vào đề hiếm thì chắc chắn là viết tốt. Có điều thơ thí thiếp của đệ, loanh quanh mãi vẫn một kiểu."

Chu Tử Thư cũng biết mình viết thơ muôn bài như một.

Nếu bát cổ chế nghệ đòi hỏi thí sinh phải tư duy logic, mổ xẻ vấn đề theo đúng kết cấu, thì thơ thí thiếp lại kiểm tra tài năng và học vấn của thí sinh. Dẫu Chu Tử Thư có trí nhớ tuyệt đỉnh và khả năng thuộc lòng không sai thì cậu chẳng thể vô duyên vô cớ lột xác từ dân khoa học thành đại tài tử. Viết thơ không chỉ dựa vào kỹ năng mà còn đòi hỏi cảm hứng, sự giác ngộ và quan trọng hơn là thiên phú văn chương nữa.

Cung Tuấn: "Nếu thơ thí thiếp của tiểu sư đệ có tiến bộ thì có thể lọt vào ba hạng đầu quán khóa lần này ở Quốc Tử Giám đấy."

Tự dưng Cung Tuấn lại nhắc tới quán khóa Quốc Tử Giám, ánh mắt Chu Tử Thư lóe lên, cậu ngước nhìn chàng.

Hôm nay Chu Tử Thư cố tình chờ Cung Tuấn ở phủ không phải vì muốn gặp Cung Tuấn, mà chính là vì cái vụ Thiên tử lâm Ung kia! Cậu muốn biết lí do Thiên tử đột nhiên muốn đến cung Ích Ung giảng bài, và liệu lần giảng bài này có tạo nên ảnh hưởng gì cần chú ý không.

Ngẫm nghĩ giây lát, Chu Tử Thư nói: "Quán khóa hàng tháng ở Quốc Tử Giám, do thơ thí thiếp của đệ không có đột phá nên cứ bình bình ở hạng Ất, không bứt lên hạng Giáp được."

Cung Tuấn cười nói: "Bình thường thì không cần, nhưng nếu lọt vào ba hạng đầu lúc Thiên tử lâm Ung thì cực kì có lợi."

Chu Tử Thư sững người, nhìn Cung Tuấn trân trối, thốt lên kinh sợ: "Sư huynh?"

Hiếm lắm mới có dịp Chu Tử Thư bị bất ngờ đến mức này, trợn tròn mắt.

Cung Tuấn hào hứng hẳn, chàng chìa cây quạt trắng, khẽ nâng cằm Chu Tử Thư lên, mỉm cười êm ru: "Tiểu sư đệ, liệu đệ có lọt nổi vào nhóm ba người xuất sắc nhất không?"

Mười ngày sau, mùng một tháng sáu, kì sát hạch quán khóa của Quốc Tử Giám bắt đầu.

Mấy trăm học sinh ngồi ngay ngắn trong giảng đường, mở đề kiểm tra lần này, ai nấy trông đều trịnh trọng hơn hẳn các kì kiểm tra trước. Chu Tử Thư ngồi ở trung tâm Chính Ý đường, mở đề mục bát cổ chế nghệ. Đề mục cho câu: "Thiên chi cao dã".

Trong thiên Ly Lâu, Mạnh Tử viết: "Bầu trời cao cả, các vì sao xa xôi, ví bằng đi tìm nguyên cớ của trời sao, thì cái ngày Đông chí của một ngàn năm có thể ngồi mà thấu đáo được!" Ý rằng, tuy trời cao đất rộng, vũ trụ bát ngát vô biên, nhưng chỉ cần tìm ra được quy luật trong đó thì ngay cả tiết nhật của ngàn năm sau cũng tính được bằng quy luật.

Chu Tử Thư nhíu chặt đôi mày.

Đề này trông thì đơn giản đấy, chỉ cần lập luận là vạn sự, vạn vật trên đời đều có quy luật, cứ tìm ra quy luật đấy rồi dựa theo mà làm, nhất định sẽ thành công. Đây là một trong những triết lý lặp đi lặp lại trong sách Mạnh Tử. Đề cho "Thiên chi cao dã," dẫn dắt bằng ý "sự vật trên đời có vạn hình thái phức tạp" là sát đề nhất, hoặc có thể truy nguyên, dẫn dắt từ gốc của vấn đề là "quy luật vạn vật" để vào bài. Cách mở bài thứ nhất thì rất an toàn, mở bài thứ hai thì khá rộng, rất dễ viết lạc đề hoặc viết sai.

Nhưng..lần này cậu nhất định phải lọt vào ba hạng đầu!

Chu Tử Thư hạ quyết tâm, đặt bút: "Muốn thấu tỏ cái lớn lao của tạo hóa, ắt phải hiểu chỗ diệu kì trong luân lý. Bát quái cũng có điểm cực, vạn vật tất có lúc quy về một mối."

Viết xong bài chế nghệ thứ nhất là tròn một canh giờ. Chu Tử Thư kiểm tra không có lỗi sai nào, cẩn thận chép lại vào quyển thi. Sau đó cậu mở đề mục thơ thí thiếp.

Quán khóa hàng tháng ở Quốc Tử Giám chỉ thi hai bài, một bài chế nghệ và một bài thí thiếp.

Đề mục thơ thí thiếp lần này là "Tinh Đẩu phân minh". Nguyên văn câu thơ này là "Sao Tinh sao Đẩu mỗi vì một phương4", là thơ của một vị thi nhân triều trước sáng tác lúc lên núi ngắm sao.

[4]Tinh Đẩu phân minh tại thân bạn: Trong hệ thống Nhị thập bát tú, Sao Tinh là một trong 7 chòm sao ở phương Nam. Sao Đẩu, ngược lại, thuộc 7 chòm sao phương Bắc, nên "phân minh." "Bạn" là ven, rìa

Lên núi, ngắm sao...

Chu Tử Thư nhíu mày suy tư, sau nửa canh giờ, cậu viết câu đầu tiên xuống nháp: "Phong khởi liên sơn nhứ, ảnh nhập tinh nguyệt ngân."

Câu thơ này sử dụng phép đảo, tả cảnh gió thổi ào ào trên rặng núi làm cây cối ngả nghiêng, bóng Tuấng sao mất hút trong bóng núi. Tuy nhiên, vừa dứt bút, Chu Tử Thư lại trầm ngâm nhìn câu thơ.

Quốc Tử Giám có tổng cộng năm trăm sáu mươi mốt học sinh, trong đó có hai học sinh trên bốn mươi tuổi, bảy mươi sáu người trên ba mươi tuổi. Những người này đã kinh qua nhiều khoa thi, văn chế nghệ của ai cũng xuất sắc. Ở Quốc Tử Giám có hai người nổi tiếng nhất, một là Lưu Phóng, năm nay ba mươi hai tuổi. Văn bát cổ chế nghệ của anh ta từng được Lâm Tế tửu nhận xét là đứng nhất toàn trường. Người thứ hai chính là người bạn chí cốt của Chu Tử Thư, Mai Thắng Trạch, thơ thí thiếp của anh này đã đạt tới đỉnh cao, tài hoa ít ai sánh kịp.

Hai anh này coi như cầm chắc hai suất nhất nhì, như vậy ba hạng đầu chỉ còn đúng một suất.

Quốc Tử Giám là nơi tụ hội nhân tài trên toàn cõi Đại Tống. Cung Tuấn đã bảo ba hạng đầu sẽ giành được lợi ích lớn, vậy thì chắc chắn là cực kì có lợi, bởi nếu không, chàng đã không để ý và cố tình bật mí cho cậu biết đường chuẩn bị.

Chu Tử Thư trầm ngâm nhìn hai câu thơ vừa viết, thở dài một hơi, nghĩ bụng: "Thi Tiên Thanh Liên5 ơi, hôm nay đắc tội muôn phần, xin ngài xá cho."

[5] Thanh Liên: hiệu của Lý Bạch.

Đoạn, cậu chấm mực múa bút, thoắn thoắt chép một bài thơ lên giấy.

Hết giờ, các giảng tập thu toàn bộ quyển thi của học sinh.

Quán khóa Quốc Tử Giám không phải kì thi chính thức nên không cần dán tên. Vì tầm quan trọng của kì kiểm tra lần này, Lâm Tế tửu vô cùng sát sao.

Ông đích thân đến giảng đường chấm thi, yêu cầu: "Tìm quyển của Lưu Phóng và Mai Thắng Trạch đi, ta xem thử xem thế nào."

Các giảng tập nhanh chóng tìm được quyển thi của hai thí sinh.

Lâm Tế tửu xem bài Lưu Phóng trước, càng đọc càng phấn khích, khen: "Hay! Tuy tạo hóa khó lí giải, nhưng nhờ có phép Kinh Dịch để tính toán nên không nhất thiết phải thấy tận mắt mới biết được. Chế nghệ viết xuất sắc, tiếc là thơ thí thiếp chưa toát lên được thần thái, tuy giọng thơ rất chính trực và tư duy cũng độc đáo." Nói xong, ông lại chuyển sang xem quyển của Mai Thắng Trạch.

Lâm Tế tửu: "Lấy 'sự phức tạp của sâm lâm vạn tượng6' để phá đề, khéo đấy, nhưng không mới mẻ. Điểm mạnh là kết cấu bài chặt chẽ, lý lẽ đầy đủ, cũng là một bài xuất sắc. Đến bài thơ thì không chê vào đâu được! Câu 'Tinh dũng sơn nguyệt minh' này mới diệu kì làm sao! Xem ra trong ba hạng đầu kì sát hạch lần này, Lưu Phóng sẽ đứng hạng nhất, Mai Thắng Trạch đứng hạng nhì."

[6] sâm lâm vạn tượng hiểu là mọi hiện tượng trên đời

Lâm Tế tửu hắng giọng: "Chư vị đồng liêu, không dám giấu các vị, trong lần Thiên tử lâm Ung này, thánh thượng sẽ đích thân kiểm tra học vấn của ba người đứng đầu kì quán khóa."

Mọi người trong khu chấm thi xôn xao cả lên.

Lâm Tế tửu: "Chuyện này ta cũng mới biết được từ chỗ Quý công công chiều nay. Vì lẽ ấy, mong chư vị chấm bài càng nghiêm ngặt và kĩ lưỡng hơn, tuyệt đối không được sơ suất. Bằng không..." Ông hừ một tiếng, giọng lạnh lùng: "Bằng không, chắc chắn sẽ phạt nặng! Lỗi nhỏ thì cúp lương bổng, lỗi lớn thì cách chức!"

Ông vừa dứt lời, chợt một giảng tập hô ầm lên đầy sửng sốt ngay giữa khu chấm bài.

Lâm Tế tửu nhìn về phía ấy: "Có vấn đề gì mà ồn ào thế?"

Một giảng tập râu buộc thành túm đang cầm một quyển thi, trố mắt kinh hãi, không hề ý thức được là mình vừa làm ồn. Nghe tiếng Lâm Tế tửu trách hỏi, giảng tập ấy mới vội vàng cáo lỗi: "Xin Tế tửu đại nhân thứ tội, hạ quan bắt gặp một bài bát cổ chế nghệ xuất sắc quá, mải đọc say sưa nên không nghe thấy Tế tửu đại nhân nói gì. Thế rồi đến khi hạ quan đọc thơ thí thiếp của trò này, thì quả tình là không kìm được tiếng thán phục."

Lâm Tế tửu bước xuống chỗ người nọ: "Đâu, bài văn nào, thơ của ai?" Ông cầm quyển thi lên.

" Muốn thấu tỏ cái lớn lao của tạo hóa, ắt phải hiểu chỗ diệu kì trong luân lý. Bát quái cũng có điểm cực, vạn vật tất có lúc quy về một mối ..." Lâm Tế tửu đọc xong, khen: "Đúng là một kiệt tác! Cứ tưởng cả Quốc Tử Giám này chỉ có mình Lưu Phóng có dũng khí đi ngược đám đông7, phá đề bằng quy luật vĩnh hằng của trời đất nhưng vẫn lí luận rất xác đáng, nào ngờ Quốc Tử Giám còn có một học trò khác viết xuất chúng bực này. Ủa, đây là quyển của Chu Tử Thư à?"

[7] gốc: kiếm tẩu thiên phong

Giảng tập thưa: "Vâng, chính là quyển của Chu Tử Thư phủ Cô Tô."

Trong nhà chấm thi, rất nhiều giảng tập tỏ vẻ "thảo nào."

"Thì ra là học trò của Phó đại nhân, thảo nào viết hay đến vậy, tài thật!"

Chu Tử Thư là học trò của Phó Vị chẳng phải bí mật gì ở Quốc Tử Giám. Nhưng Lâm Tế tửu biết còn thêm một việc ngoài lề, ấy là người viết thư tiến cử Chu Tử Thư vào Quốc Tử Giám không phải Phó Vị, mà chính là Cung Tuấn! Đích thân tiến cử Chu Tử Thư vào Quốc Tử Giám, chứng tỏ CungTử Phong phải vô cùng yêu thích tiểu sư đệ này.

Lâm Tế tửu nghiêm nghị mở phần thứ hai của bài thi ra. Ông nghĩ bụng, nếu đã là sư đệ của CungTử Phong, đồ đệ của Phó Hi Như, chế nghệ đã viết tốt thế, dù lần này thơ thí thiếp của Chu Tử Thư một màu đến mấy, chỉ cần không đến nỗi diễn đạt lủng củng thì ông cũng tặng luôn cậu hạng ba kì thi này, coi như khiến CungTử Phong và Phó Hi Như mang ơn mình một lần.

Vừa mới thấy bài thơ thí thiếp, Lâm Tế tửu bỗng trợn tròn mắt, mặt đỏ gay, mãi không thốt nên lời.

Độ một chén trà nhỏ sau, ông la lên: "Hay! Hay! Quá hay! Mọi người lại đây mà đọc áng thơ phi phàm này!"

Các giảng tập hiếu kì vô cùng, vội vàng truyền tay nhau đọc thơ. Giảng tập tuy là quan viên nhưng đều là văn nhân cả. Chỉ một áng thơ ngũ ngôn tứ vận ngắn ngủi này thôi, lại khiến ai nấy tràn trề sinh lực, mặt mày rạng rỡ.

Chênh vênh trăm thước lầu cao,

Giơ tay với được Tuấng sao trên trời.

Dám đâu to tiếng nói cười,

Chỉ e kinh động đến người thiên cung.

||

Manh: Mấy đoạn văn chắc chắn là edit sai toét loét về nghĩa nhé, mọi người đọc lướt lướt cho vui thôi.

Lời tác giả:

Anh Cunghàng xóm: Hầy, chỉ khi nào có việc cầu cạnh mình, tiểu sư đệ mới ngoan ngoãn chờ ta về nhà như thế.

Tiểu Thư Lang: Thế sao huynh không nói chuyện thẳng thắn một chút, cứ úp úp mở mở hoài! Nói chuyện với kiểu người này mệt ghê!

Chú thích

Bản dịch của tác giả Lý Minh Tuấn, sách Tứ Thư bình giải.

Từ "tiết nhật" hơi khó thay thế, nhưng hiểu đại ý câu này là khi biết quy luật tuần hoàn thì sẽ tính được thời tiết/tiết khí trong một năm bất kì. Thời xưa con người sống dựa vào nông nghiệp, canh tác, nên việc phát triển ra lịch và cách tính thời gian, dự đoán thời tiết là những thành tựu vĩ đại, có giá trị đến tận bây giờ.

Bài thơ "Dạ túc sơn tự" của Lý Bạch. Dịch giả: Bùi Khánh Đản. Bản dịch sử dụng thể lục bát nhưng vì hay nên mình vẫn dẫn :) Các bạn vào Thi Viện xem bản chữ Hán nhé.

Phiên âm Hán Việt: Nguy lâu cao bách xích, Thủ khả trích tinh thần.

Bất cảm cao thanh ngữ,

Khủng kinh thiên thượng nhân.

------oOo------

Chương 34

Nguồn: EbookTruyen.Net

Gian thần CungTử Phong

Trên tờ giấy Tuyên, những con chữ Quán các tú nhã tuyệt đẹp xếp thành hàng ngay ngắn. Nhưng chính những hàng chữ chỉnh tề, tinh tế ấy lại dâng trào tráng khí hào hùng, cuồn cuộn như trường giang đại hải.

Chênh vênh trăm thước lầu cao,

Giơ tay với được Tuấng sao trên trời.

Dám đâu to tiếng nói cười,

Chỉ e kinh động đến người thiên cung.

Trong khu nhà chấm thi, các giảng tập ngâm đi ngâm lại bốn câu thơ này. Lâm Tế tửu cầm quyển thi của Chu Tử Thư lên, trịnh trọng xem lại một lần nữa, bình luận: "Đề mục lần này là Tinh Đẩu phân minh, yêu cầu viết thơ về đề tài lên núi ngắm sao. Bài thơ của Chu Tử Thư không dùng một chữ "núi" nào, nhưng từng câu từng chữ đều gợi lên sự chót vót, cheo leo. Vô sơn thắng hữu sơn, tuyệt diệu!"

Một giảng tập nói: "Bài thơ này quả thực đã gói gọn cảm giác núi cao chênh vênh, biển sao như ẩn như hiện."

Lâm Tế tửu đọc kĩ lại thêm ba lần nữa, không phải để dò xem còn lỗi nào không, mà là để nghiền ngẫm hai mươi từ này. Ông thở dài: "Vừa rồi ta còn khẳng định hạng nhất quán khóa lần này ắt về tay Lưu Phóng, giờ mới biết mắt mờ, suýt thì nữa đã phạm sai lầm lớn. Bát cổ chế nghệ của Chu Tử Thư vô cùng ưu tú, cách tiếp cận hết sức sáng tạo, lập luận có lớp lang, câu từ diễm mỹ. Giờ xét cả bài thơ thí thiếp, trò ấy hoàn toàn xứng đáng với hạng nhất! Chư vị đồng liêu, như vậy có được không?"

"Chu Tử Thư xứng đáng đứng hạng nhất!"

"Phải lắm!"

Chu Tử Thư hoàn toàn chẳng mong ước chuyện này. Dù lần này cậu không chép tác phẩm kinh điển của Lý Thái Bạch thì cũng đứng trong ba hạng đầu. Chép thơ của Thi Tiên chẳng qua là để chắc chân hạng ba, nào ngờ khéo quá hóa vụng, vọt thẳng lên hạng nhất.

Tan buổi chầu ngày hôm sau, Lâm Tế tửu lẳng lặng đi đến chỗ Phó Vị.

"Phó đại nhân."

Phó Vị quay ra thấy Lâm Tế tửu bèn đáp: "Lâm đại nhân."

Lâm Tế tửu cung kính thi lễ. Hiện giờ Phó Vị và Lâm Tế tửu cùng cấp với nhau, đều là quan tam phẩm, nên Phó Vị cũng đáp lễ.

Lâm Tế tửu nói: "Quán khóa Quốc Tử Giám ngày hôm qua, cao đồ Chu Tử Thư – Đường Cảnh Tắc của Phó đại nhân không trổ tài thì thôi, hễ cất tiếng là người người sửng sốt1! Không hổ là thầy giỏi trò hay, Phó đại nhân dìu dắt CungTử Phong đại nhân thành tài đã khiến giảng tập Quốc Tử Giám chúng ta kính nể vô cùng. Giờ học trò mới của đại nhân cũng giỏi giang không kém. Khi nào rảnh rỗi, liệu Phó đại nhân có thể ghé Quốc Tử Giám giảng một buổi không? Các giảng tập rất mong được học hỏi cách giáo dục của ngài, đặng dạy dỗ học trò Quốc Tử Giám cho tốt."

[1] Xuất phát từ tích xưa. Gà không gáy thì thôi, đã gáy một tiếng thì ai cũng phải kinh ngạc.

Phó Vị nghĩ bụng: Chu Tử Thư có phải do ta dạy quái đâu. Nhưng ông không thể hiện ra, chỉ mỉm cười mà thôi.

Làm quan thì phải mặt dày lòng đen. Quan càng to thì càng trơ lì, càng mưu mô ranh mãnh. Khi Phó Hi Như đắc thế nhất đã làm đến Hữu tướng Trung Thư tỉnh, quyền thế nghiêng đất lệch trời, da mặt ông mà mỏng thì còn ai dám nhận dày vào đây? Phó Vị cười híp mắt: "Lâm đại nhân quá khen, chẳng hay Đường Cảnh Tắc nhà ta thể hiện thế nào ấy nhỉ?"

Lâm Tế tửu đã sai người chép sẵn bài thi của Chu Tử Thư để đem vào triều cho Phó Vị xem ngay hôm nay.

Phó Vị mở bài ra xem. Văn bát cổ viết rất khá, giữa Quốc Tử Giám nhân tài đông đúc cũng xứng lọt vào ba hạng đầu. Đọc đến thơ thí thiếp, Phó Vị nhíu mày ngay tức khắc. Lâm Tế tửu đang định nói thì Phó Vị đã cất lời trước: "Đồ đệ này của ta mê làm thơ, vẽ tranh lắm. Hầy, lời ít, ý nhiều2, hẳn là thế này nhỉ. Bài chế nghệ này của nó còn phải cải thiện nữa, phiền Lâm đại nhân chỉ bảo thay."

[2] (Gốc) Ngữ xuất kinh nhân: Câu từ đơn giản nhưng sâu xa, khiến người ta sửng sốt

Lâm Tế tửu: "Không dám không dám."

Hai người đưa đẩy một hồi, Phó Vị liền né được vụ này.

Đến khi về Phó phủ, ông vừa vào thư phòng đã chép ngay lại bài thơ thí thiếp của Chu Tử Thư.

"Đứa đồ đệ này, rốt cuộc là giấu tài hay xuất thần đây?" Cùng lúc đó, trong giảng đường Quốc Tử Giám.

Thường quán khóa hàng tháng, các giảng tập sẽ chấm thi trong vòng ba ngày. Nhưng lần này thì khác, trong vòng một đêm toàn bộ bài thi đã được chấm xong, ai nấy dốc sức chuẩn bị cho dịp Thiên tử lâm Ung nửa tháng nữa.

Học trò Quốc Tử Giám chưa bao giờ hồi hộp chờ đợi kết quả thi sát hạch như hôm nay.

Buổi sáng sớm, một giảng tập tóc hoa râm ôm cuốn Luận ngữ dày cui đi vào giảng đường. Ông đặt sách xuống, nhìn một lượt những gương mặt thấp thỏm trong lớp. Trong Chính Ý đường hiện giờ có hơn bốn mươi học trò, bao gồm cả Chu Tử Thư và Mai Thắng Trạch. Người giảng tập già nói: "Ta biết các cậu đang rất nóng lòng muốn biết kết quả thi. Vì thế, trước khi vào học, ta sẽ đọc tên những người đạt hạng Ất và hạng Giáp lần này!

Lũ học trò nháo nhào cả lên.

Lần đầu tiên Thiên tử lâm Ung trong suốt hai mươi sáu năm, ai mà không muốn tận mắt chiêm ngưỡng chứ!

"Đứng thứ hai mươi sáu, hạng Ất, Tề Kiên – Tề Như Sơn."

"Là tôi, là tôi đấy!"

"Hạng Ất, Chu Công phủ U Châu..."

Hạng Ất có hai mươi sáu người, trong số bốn mươi người trong Chính Ý Đường hôm nay, có năm người đạt hạng Ất. Nhóm học trò này ai nấy đều hân hoan ra mặt, khó mà kiềm chế được. Những người không đạt hạng Ất, tự biết bản thân không được nổi hạng Giáp thì mặt mặt mũi ỉu xìu, rầu rĩ, tự trách bản thân sao trước đây không chăm chỉ hơn, thành ra để lỡ cơ hội quý báu.

Trong số học trò, chỉ có Mai Thắng Trạch và Chu Tử Thư vẫn ôm hy vọng.

Quán khóa mọi khi, Chu Tử Thư đều đứng đầu hạng Ất. Bát cổ chế nghệ của cậu xưa nay vẫn rất khá, cũng không mắc lỗi với chữ Quán các bao giờ, mỗi tội thơ thí thiếp không có gì xuất chúng, khá là cứng nhắc, máy móc. Mai Thắng Trạch thấy lần này Chu Tử Thư không có tên trong hạng Ất thì toát mồ hôi giùm. Nhưng thấy nét mặt tràn ngập mong đợi của Chu Tử Thư, anh ta kinh ngạc hỏi: "Cảnh Tắc, đệ làm bài tốt lắm hả?"

Chu Tử Thư không giấu anh ta: "Đệ đã dốc hết sức rồi."

Mai Thắng Trạch: "Tốt quá! Chúng mình phải cùng có mặt vào ngày Thiên tử lâm Ung trọng đại ấy mới được!"

Hạng Giáp quán khóa Quốc Tử Giám có tổng cộng sáu người, giảng tập già đọc tên: "Đứng hàng thứ ba hạng Giáp, Mai Thắng Trạch người Sơn Tây."

Mai Thắng Trạch vui mừng khôn xiết, các bạn học ai nấy đều chúc mừng anh.

Tiếp theo, giảng tập già tuyên bố: "Đứng Nhất hạng Giáp, Chu Tử Thư – Đường Cảnh Tắc, người phủ Cô Tô!" Cả giảng đường như vỡ òa.

Ngôi đệ nhất hạng Giáp lần này thế mà lại vuột khỏi tay cả Lưu Phóng lẫn Mai Thắng Trạch. Mặc dù Chu Tử Thư có tài học xuất chúng, nhưng tuổi còn quá trẻ nên thiếu trải nghiệm, chưa bao giờ lọt vào hạng Giáp. Tuy vậy, mọi người cũng không nghi ngờ gì về thành tích của cậu, bởi ai nấy đều rõ mười mươi Chu Tử Thư giỏi văn bát cổ cỡ nào.

Mai Thắng Trạch hân hoan: "Cảnh Tắc, chúc mừng, chúc mừng đệ, lần này tiến bộ vượt bậc rồi."

Chu Tử Thư dù sao cũng chưa bước chân vào quan trường, da mặt hẵng còn mỏng lắm, được khen là thấy thẹn thùng ngay.

Giảng tập già lại nói thêm: "Bài thơ thí thiếp của Chu Tử Thư lần này rất xuất sắc, các trò hãy cùng nhau thưởng thức và nhận xét nhé." Nói rồi, ông liền đọc diễn cảm bài thơ của Chu Tử Thư. Cả lớp nghe tới đâu kinh ngạc đến đấy, xôn xao hết cả lên. Mai Thắng Trạch là người am hiểu sáng tác và rất mê thơ, nghe câu "Giơ tay với được Tuấng sao trên trời" xong, anh ta phải nhìn Chu Tử Thư bằng ánh mắt ngỡ ngàng, như thể vừa phát hiện ra báu vật vĩ đại.

"Cảnh Tắc, bài thơ này đúng là một kiệt tác, viết thậm khéo!"

Chu Tử Thư sắp ngượng chín người đến nơi, cậu chắp tay nói: "Văn chương vốn do trời sinh sẵn, người tài hoa ngẫu nhiên đạt được. Đệ chẳng qua có cảm hứng xuất thần, chứ còn kém xa Thắng Trạch huynh."

Quốc Tử Giám thảo luận bài thơ của Chu Tử Thư đến tận giờ Ngọ. Mãi đến hôm sau, mọi người mới bắt đầu chuẩn bị cho dịp Thiên tử lâm Ung.

Chu Tử Thư đến phủ Thượng thư như mọi ngày. Lần này cậu đem theo một giỏ thịt luộc Cô Tô, được Đường Hoàng nhờ người gửi từ Giang Nam lên cách đây mấy hôm. Như thường lệ, Cung Tuấn lại vắng nhà. Chu Tử Thư ngồi phòng khách chờ anh đến tận tối. Cung Tuấn vừa về phủ đã đi gặp tiểu sư đệ ngay, chẳng buồn ngay quan phục nữa. Chu Tử Thư đứng bật dậy: "Tử Phong sư huynh."

Cung Tuấn ngắm nghía cậu một lát, nói: "Tối nay ở lại phủ ăn cơm nhé."

"Vâng."

Hai huynh đệ dùng bữa xong, Cung Tuấn bảo Chu Tử Thư viết chữ cho mình xem. Chàng nói: "Viết cái bài "Chỉ e kinh động đến người thiên cung" của đệ cho ta xem nào."

Chu Tử Thư: "..."

Đúng là chuyện tốt không ra khỏi cửa, chuyện xấu ai ai cũng biết. Các cụ nói cấm có sai!

Lúc ra về, Chu Tử Thư nghiêm túc hỏi: "Tử Phong sư huynh, thơ thí thiếp của đệ viết được tới đâu hẳn huynh cũng biết, hiếm lắm mới viết được một bài hay. Mấy bữa nay đệ vẫn cứ lo lần sau không thể hiện tốt được như vậy, huynh cho đệ lời khuyên với?"

Chu Tử Thư kiếp trước là trai bách khoa, bao nhiêu thơ, từ, ca, phú từng nhồi vào sọ, thi đại học xong là chữ thầy trả thầy. Cậu cũng không nhớ được nhiều thơ, từ, càng không muốn lợi dụng mãi vốn thơ kiếp trước để làm lợi cho bản thân ở kiếp này. Thứ nhất là không có năng lực ấy, thứ hai là không ôm hy vọng ấy.

Cung Tuấn yên lặng nhìn Chu Tử Thư, mỉm cười: "Tiểu sư đệ thông minh đĩnh ngộ, sao phải lo âu chuyện đó làm gì?" Chu Tử Thư ngước nhìn Cung Tuấn.

Cung Tuấn nhìn cậu chăm chú, khóe môi hơi nhếch lên, nhưng chỉ cười thôi chứ không nói thêm nữa.

Chu Tử Thư tỉnh ngộ ngay.

Đúng vậy, thế mạnh của cậu ở thời đại này có dựa vào thi ca cổ xưa đâu?

Các giảng tập Quốc Tử Giám, Lương Tụng, Phó Vị, thậm chí cả CungTử

Phong đều đã công nhận văn bát cổ của cậu. Năm nghìn năm văn minh Hoa Hạ, sản sinh ra được mấy Thi Tiên, Thi Thánh? Bản thân cậu không phải người bất tài, khoa cử chỉ là phương tiện để cậu làm quan, không phải vốn lập nghiệp của cậu!

"Đa tạ Tử Phong sư huynh."

Anh chàng CungTử Phong quả nhiên là người tinh tế và có cái nhìn thấu đáo, đúng như lời Lương tiên sinh từng nhắc, là người đáng tin cậy.

Chu Tử Thư nghĩ thông suốt rồi thì định đi về ngay, nhưng Cung Tuấn đã gọi cậu lại. Chàng nói với quản gia: "Bánh ngọt mới mua ở Thái Kỳ trai hôm nay đâu, đưa tiểu sư đệ cầm về."

Chu Tử Thư: "..."

Con người CungTử Phong thực ra vẫn rất kì quặc!

Nửa tháng chớp mắt đã trôi qua. Ngày mười sáu tháng sáu, Chu Tử Thư mặc Nho phục tú tài mới tinh, khoác lên mình trường sam màu xanh da trời, đội mũ Phương Cân. Tới Quốc Tử Giám, cậu liền thấy học trò toàn trường mặc Nho phục tú tài tinh tươm. Dù chỉ có ba mươi hai người được vào cung Ích Ung nghe thiên tử giảng bài, nhưng số học trò không được dự thính cũng không cam tâm.

Chưa tới Quốc Tử Giám, đường ngang ngõ dọc đã bị phong tỏa hết.

Chu Tử Thư và các học sinh khác đi vào Quốc Tử Giám từ ngõ sau, Lâm Tế tửu và các giảng tập đều đã đợi sẵn.

Đến đúng giờ Mão, cổng chính của Quốc Tử Giám mở rộng, hai cửa hông trái phải cũng đều mở ra. Từ hai cửa hông, quan viên mặc áo đỏ thuần nối đuôi nhau đi vào trường, thanh thế hùng dũng. Toàn bộ các quan tứ phẩm trở lên ở Thịnh Kinh đã tập trung ở đây, tay cầm hốt ngọc, tiến vào Quốc Tử Giám, đi dọc theo lối chính để tới trước cung Ích Ung.

Hai bên lối đi chính được làm từ đá cẩm thạch trắng đã đặt sẵn những tấm đệm cói.

Cổng cung Ích Ung mở toang, một thái giám già da trắng, mặt nhọn, dáng gầy, cất giọng the thé: "Quỳ!"

Trong tích tắc, toàn bộ quan viên hướng về phía cung Ích Ung, quỳ lên đệm cói, cúi đầu, nâng hốt ngọc lên cao.

Giờ Mão ba khắc, Lâm Tế tửu dẫn ba mươi hai học trò tới trước cổng chính. Hai bên lối đi chính đầy các đại quan đương triều đang quỳ. Trước ngày hôm nay, đám học trò này chẳng thể ngờ rằng có vô số đại quan, quyền thần sẽ tề tựu ở đây! Người nhát gan thì đã sợ đến nỗi tái mặt run chân. Chu Tử Thư cũng kinh hãi lắm, nhưng cậu cố gắng bình tĩnh, cúi đầu nghiêm chỉnh đi theo Lâm Tế tửu tiến về phía cửa cung Ích Ung.

Gần vào tới cửa, Chu Tử Thư để ý thấy Cung Tuấn quỳ ở hàng thứ hai phía bên trái.

Dưới ánh mặt trời rực rỡ, CungTử Phong mặc quan bào đỏ thuần phẳng phiu, ung dung quỳ trên tấm đệm cói. Bên cạnh chàng là một người đàn ông trung niên phốp pháp để râu quai nón, bên phải chàng là một ông già bụng phệ. Cung Tuấn vốn đẹp trai lai láng, xếp giữa hai người này thì càng bật lên phong thái tuấn nhã hơn người.

Các học trò tiến vào cung Ích Ung. Trên sàn gạch lạnh toát xếp ba mươi hai chiếc đệm cói.

Lâm Tế tửu đi đầu, cất cao giọng: "Thần – Tế tửu Quốc Tử Giám Lâm Luân, dẫn ba mươi hai môn sinh của Thiên tử vào cung Ích Ung, nghe thiên tử giáo huấn!"

Ông nói xong, vị thái giám già hô lên: "Quỳ!"

Lâm Tế tửu lập tức quỳ xuống, ba mươi hai học trò cũng quỳ mọp xuống, nom hệt như mấy miếng sủi cảo. Đệm cói được xếp thành năm hàng, hàng thứ nhất ba chiếc, hàng thứ hai ba chiếc, hàng thứ ba sáu chiếc. Hàng thứ tư và thứ năm mỗi hàng mười chiếc.

Chu Tử Thư nâng hai tay ngang trước mặt theo Chu Lễ.

Trời nắng chang chang, các quan lớn nhỏ thì quỳ ngoài cung Ích Ung, học trò thì quỳ trong cung Ích Ung.

Cả trong lẫn ngoài điện lặng im như tờ, không ai dám gây ồn ào, ngay cả tiếng hít thở cũng nhỏ như không có.

Chẳng biết đã đợi bao lâu, có tiếng bước chân vững vàng, thong thả vang lên từ phía hậu điện. Lưng Chu Tử Thư lập tức căng lên. Trong cung Ích Ung, các học trò Quốc Tử Giám cứng đơ, không ai dám thở mạnh. Thông qua tiếng động thì biết người nọ chậm rãi đi lên ngai rồng trong cung Ích Ung, nhẹ nhàng ngồi xuống.

Chu Tử Thư nghe thấy giọng nói già cỗi nhưng vững vàng của thiên tử cất lên: "Bắt đầu đi."

Thái giám già hắng giọng: "Năm Khai Bình thứ hai mươi sáu, ngày mười sáu tháng sáu, ở cung Ích Ung Quốc Tử Giám, Thiên tử truyền khóa thụ đạo!"

Lão ta nói xong, hai thái giám đứng hai bên cổng cung Ích Ung liền xướng lên theo: "Năm Khai Bình thứ hai mươi sáu, ngày mười sáu tháng sáu, ở cung Ích Ung Quốc Tử Giám, Thiên tử truyền khóa thụ đạo!"

Tiếp đó là bốn thái giám khác lặp lại: "Năm Khai Bình thứ hai mươi sáu..."

Câu nói này cứ truyền dần xuống, rền vang khắp Quốc Tử Giám, khí thế hùng tráng kinh người.

Từ cung ích Ung, Thiên tử truyền lời, bách quan lắng tai nghe.

Thiên tử nói: "Ta thường nghe, Mạnh Tử viết: Bá chủ mà lấy vũ lực giả làm nhân từ, sau lưng phải có nước lớn... "

Thái giám già cao giọng hô: "Ta thường nghe, Mạnh Tử viết: Bá chủ mà lấy vũ lực giả làm nhân từ, sau lưng phải có nước lớn..." Hai thái giám trẻ tiếp tục nhắc lại câu ấy.

Câu nói lần lượt được truyền xuống dần.

Từ giờ Mão đến giờ Ngọ, các học trò quỳ tròn ba canh giờ. Ngoài cửa điện, các quan lại Thịnh Kinh cũng quỳ đủ ba canh giờ. Phơi nắng phơi gió, bách quan vẫn nghiêm cẩn giơ cao hốt ngọc.

Khi Thiên tử giảng nốt câu cuối, đám thái giám cũng truyền lời xong, giọng thái giám già réo rắt: "Thiên tử lâm Ung, bách quan nghe giảng."

Hoàng đế đương triều – Triệu Phụ – khoát tay lên hai tay vịn của ngai rồng. Tóc của vị hoàng đế này đã điểm bạc, nhưng gương mặt không hề có nếp nhăn, trừ hai bên khóe mắt. Đã qua tuổi hoa giáp nhưng đôi mắt Triệu Phụ vẫn sáng quắc như mắt ưng. Ông ta nhìn ba mươi hai học trò Quốc Tử Giám trong điện, lại dõi mắt ra tận ngoài điện, ngắm bá quan văn võ dưới trướng mình.

Thái giám già tiếp tục truyền lệnh: "Học trò lắng tai, nghe Thiên tử phê bình."

Học trò Quốc Tử Giám quỳ ngay ngắn, đợi Thiên tử nhận xét.

Chỉ nghe Triệu Phụ nói nhẹ bẫng một từ: "Tốt."

Lâm Tế tửu rốt cuộc cũng được thở phào nhẹ nhõm. Nếu không phải hoàng đế còn ngồi lù lù trên kia khiến ông ta không dám hành xử lỗ mãng, thì ông chỉ mong được lăn kềnh ra đất đánh một giấc say sưa, ba ngày ba đêm không phải mở mắt!

Thế là sự kiện Thiên tử lâm Ung rốt cuộc cũng khép lại.

Từ đầu chí cuối, Chu Tử Thư vẫn không biết mặt Triệu Phụ ra sao. Cậu không dám ngẩng đầu mà cũng không được phép ngẩng đầu. Sau khi Triệu Phụ đi rồi, bá quan văn võ ngoài điện cũng lần lượt ra về dựa theo phẩm cấp. Sau đó mới đến phiên các học trò trong điện.

Lâm Tế tửu nói: "Chu Tử Thư, Lưu Phóng, Mai Thắng Trạch, các trò đi theo ta."

Ba người nhanh chóng đi theo Lâm Tế tửu.

Lâm Tế tửu dẫn bọn họ ra khỏi cung Ích Ung, đi về miếu Đức thánh Khổng ở hậu viện Quốc Tử Giám. Đi được nửa đường thì thấy thái giám già cười giả lả, cầm phất trần đứng chờ ngoài cổng miếu. Thấy Lâm Tế tửu đến, ánh mắt lão ta quét qua ba người Chu Tử Thư rồi hỏi: "Lâm đại nhân, đây là ba người đứng đầu kì quán khóa lần này của Quốc Tử Giám phải không?"

"Thưa Quý công công, chính là các trò này ạ."

"Thế để ta dẫn họ vào diện thánh."

"Việc này..."

Quý công công chỉ mỉm cười nhìn Lâm Tế tửu, Lâm Tế tửu không dám nói thêm câu nào.

"Mọi sự xin nghe lời Quý công công ạ."

Quý công công hừ mũi, xoay người nói: "Ba người các ngươi, theo ta."

"Vâng."

Mai Thắng Trạch thấp thỏm không yên, vừa theo sau Quý công công vừa lén nháy mắt với Chu Tử Thư: Đệ có biết thế này là sao không?

Chu Tử Thư cũng bối rối lắm chứ đùa.

Cậu nào biết...

Hóa ra lợi ích cho ba người đứng nhất mà Cung Tuấn nhắc đến nửa tháng trước là được gặp vua!

Ngoài cung Ích Ung, bách quan được tôi tớ dìu ra khỏi Quốc Tử Giám.

Leo được đến chức tứ phẩm trở lên thì các quan hầu hết cũng ngoài ba mươi rồi, chẳng có mấy ai trẻ hơn. Thiên tử lâm Ung ròng rã ba canh giờ, Hoàng đế thì ngồi trên ngai rồng, đọc y nguyên bài giảng Hàn Lâm viện soạn sẵn, còn bọn họ thì tự đi mà quỳ.

Trong đội quan lại hùng hậu này chỉ có mỗi Cung Tuấn là không cần thư đồng đỡ, đi lại thảnh thơi.

Thị lang bộ Lễ thấy thế thì vừa ghen tị vừa ước ao, than: "Cungđại nhân đúng là còn trẻ!"

Cung Tuấn mỉm cười, chắp tay: "Lý đại nhân."

Thị lang bộ Lễ cũng chắp tay đáp lễ rồi khập khiễng vịn vào người hầu ra khỏi Quốc Tử Giám, leo lên xe ngựa.

Cung Tuấn ra đến đầu đường vào Quốc Tử Giám, đang định lên xe ngựa thì nghe có người gọi tên mình từ đằng sau. Chàng quay lại thì bắt gặp một viên quan mặc áo bào Thái cực Bát quái, đầu đội mũ gài lông chim trĩ, xăm xăm bước tới, gọi: "Cungđại nhân." Cung Tuấn đáp: "Lý đại nhân."

Lý này với Lý ban nãy khác xa nhau. Thị lang bộ Lễ cũng họ Lý, nhưng Lý đại nhân đây lại là Giám chính Khâm Thiên Giám được hoàng đế sủng ái tột bậc – Lý Tiêu Nhân.

Lý Tiêu Nhân nói: "Cungđại nhân nhanh nhẹn ghê, chẳng cần ai đỡ nữa. Hạ quan quỳ ba canh giờ ngoài cung Ích Ung xong chân nặng như chì, không bước nổi một bước!"

Cung Tuấn: "Thế bây giờ Lý đại nhân về phủ nghỉ ngơi chứ?"

Lý Tiêu Nhân: "Ấy, không đâu. Ta phải ở lại Quốc Tử Giám, chờ Thánh thượng triệu kiến các học sinh xong rồi hầu Thánh thượng hồi cung." Hai người hàn huyên với nhau một hồi.

Lý Tiêu Nhân ghé lại gần, thì thào: "Thiên tử lâm Ung lần này, xin tạ ơn diệu chiêu của Cungđại nhân. Từ lúc Chung Thái Sinh chết đến giờ, Thánh thượng lúc nào cũng không vui, cảm thấy sĩ tử trong thiên hạ đều hướng về bè lũ nghịch tặc. Nhờ một chiêu hay của Cungđại nhân mà Thiên tử long nhan đại duyệt, đích thân tới cung Ích Ung." Cũng đỡ cho y ngày ngày phải dè chừng cái sự vui giận thất thường của hoàng đế, từng giờ từng phút nơm nớp lo âu, chỉ sợ bất cẩn khiến Thánh thượng nổi cơn thịnh nộ!

Cung Tuấn sửng sốt: "Lý đại nhân nói gì lạ thế? Tử Phong chưa bao giờ đàm luận chuyện lâm Ung với Thánh thượng. Chẳng lẽ không phải Lý đại nhân có lòng trung thành, lo cho long thể của bệ hạ, nên đã đề xuất ý tưởng này ư?"

Lý Tiêu Nhân cũng giật mình, nhưng chỉ chớp mắt là cười xòa ngay: "Cungđại nhân nói phải."

Cung Tuấn chắp tay: "Bộ Hộ bề bộn công việc, xin được từ biệt ở đây."

Lý Tiêu Nhân: "Cungđại nhân đi thong thả nhé." Cung Tuấn lên xe ngựa, đi về bộ Hộ.

Chàng đi rồi, đứa đồ đệ theo sau lưng Lý Tiêu Nhân mới thì thào hỏi: "Sư phụ, Cung Tuấn tuy là Thượng thư nhị phẩm, nhưng đến Chinh Tây Đại nguyên soái sư phụ còn chẳng để vào mắt, sao sư phụ nể nang y thế?" Lý Tiêu Nhân vả "bốp" vào mặt nó.

Đứa đồ đệ bụm má: "Sư phụ?"

"Ngu dốt cho lắm vào, rồi chết lúc nào không hay! Chinh Tây Đại nguyên soái là quân lỗ mãng, ngoài sức vóc ra thì chỉ còn cái dũng của kẻ thất phu. Gian thần như CungTử Phong mà ra tay, có mười Chinh Tây Đại tướng quân cũng không đủ mưu địch lại hắn!"

"Đồ nhi biết lỗi rồi ạ." Đứa đồ đệ luôn mồm kiểm điểm, nhưng trong bụng thì ấm ức lắm.

CungTử Phong cáo già thì sao chứ, Lý Tiêu Nhân nói một câu, Thánh thượng còn bí mật giết phứt Chung Thái Sinh trong thiên lao kia mà!

Lý Tiêu Nhân biết đồ đệ không phục, nhưng y chẳng hơi đâu giải thích dông dài.

Nếu Triệu Phụ quả là một hoàng đế đần độn đến mức Lý Tiêu Nhân nói gì nghe nấy, thì việc gì y phải nơm nớp lo gần vua như gần cọp, mỗi ngày tính kế rút lui an toàn đến bạc cả đầu? Nếu y dám gièm pha, xúi giục Triệu Phụ giết CungTử Phong, chỉ e Triệu Phụ là người đầu tiên chém bay đầu y ấy chứ!

Xem ra thứ đồ đệ dốt nát này phải đuổi cổ sớm thôi, kẻo có ngày rước vạ vào thân.

||

Lời tác giả:

Anh Cunghàng xóm: Quỳ có đau chân không?

Tiểu Thư Lang: Việc diện thánh mà huynh cũng dám giấu, sao huynh dám giấu ta !!!!!

Chú thích

Áo nhà Nho, mũ Phương Cân – Ảnh: Đại Minh y quan đồ chí

Đoạn này Mạnh Tử giảng rằng Bá chủ dùng vũ lực thì phải đủ sức mạnh (có nước lớn). Bá chủ dùng vũ lực chèn ép người ta nghe theo, nhưng dối rằng đấy là làm việc nhân nghĩa. Dẫu vậy, cai trị bằng vũ lực thì người không phục, khi người bị trị mạnh lên họ sẽ lật đổ. Cungthì cai trị bằng đức và lòng nhân từ nên không cần đợi tới lúc thế lực lớn mạnh, những người cảm phục đức, nhân của Cungsẽ tự nguyện đi theo và trung thành. Vậy nên chia ra làm Bá đạo và Cungđạo là vì thế.

------oOo------

Chương 35

Nguồn: EbookTruyen.Net

Quân tử chi giao đạm nhược thủy

Miếu Khổng Tử trong Quốc Tử Giám này khác hoàn toàn với miếu Khổng Tử Chu Tử Thư đã từng viếng thăm ở thời hiện đại.

Giống như cung Ích Ung , ngôi miếu nằm phía sau học xá Quốc Tử Giám bình thường cũng là nơi học sinh không được đi vào. Hằng năm ngoại trừ ngày kỵ1 của Đức thánh Khổng ra, chỉ khi có kì thi Hương và thi Hội ba năm một lần, các học trò dự thi mới được Tế tửu dẫn vào miếu làm lễ cầu phúc.

Đi vào từ cổng Tiên Sư, băng qua vườn bia Tiến sĩ, ba người Chu Tử Thư đi nhẹ nói khẽ, không dám ngẩng đầu, yên lặng theo sau Quý công công.

Đi một hồi thì tới từ đường Sùng Thánh nằm trong cùng miếu Khổng Tử. Quý công công khua phất trần, mỉm cười nói: "Kẻ tôi tớ xin dừng ở đây, mời ba vị học tử vào bên trong."

Ba người Chu Tử Thư nói: "Cảm ơn công công."

Đại nội thị vệ canh giữ ngoài từ đường Sùng Thánh mở cửa cho ba người, nhưng không ai đi vào trước. Chu Tử Thư nhìn sàn gạch sẫm màu, thình lình, cậu cất bước trước tiên, Lưu Phóng và Mai Thắng Trạch liền đi theo cậu.

Ba người vào bên trong, cánh cổng lớn kĩu kịt đóng lại.

Trong chính đường của khu từ đường Sùng Thánh đặt một pho tượng Đức thánh Khổng cao bằng người thật, tạc từ bạch ngọc. Trong không gian thoang thoảng mùi long diên hương, bên trái đặt một tủ vuông Lượng Cách có trạm trổ, trưng bày vô số bảo vật quý hiếm. Bên phải treo một bức cảnh núi lúc chiều tà. Trong rặng núi trên tranh có ngọn Thái Sơn là nguy nga bề thế nhất, vươn mình lấn át những ngọn núi nhỏ. [3] Một loại tủ để trưng bày, ảnh dưới chú thích.

Ba người Chu Tử Thư ngẩng đầu thì thấy một ông cụ khoác áo bào trắng, da trắng, râu mảnh, đang ngồi nghiêm trang ở ngôi chánh vị. Cả ba kinh hãi, Lưu Phong và Mai Thắng Trạch sụp xuống ngay tắp lự. Chu Tử Thư không có phản xạ quỳ, nên hai người kia quỳ xuống xong cậu mới vội vã sụp lạy. Sau đó, Triệu Phụ hòa ái nói: "Đứng dậy đi."

Lệnh vua vừa ban, hai thái giám trẻ theo hầu Triệu Phụ liền tiến tới đỡ ba người dậy.

Lưu Phóng và Mai Thắng Trạch nhìn nhau, sự kích động pha lẫn ngỡ ngàng bao trùm lên họ.

Ngay cả tam khôi thi Đình mỗi kì cũng chẳng có cơ hội tiếp xúc với Thiên tử ở cự ly gần đến thế! Hơn nữa, dù hiện nay bọn họ là những cá nhân xuất sắc ở Quốc Tử Giám thì cũng chưa chắc sau này đã đề danh bảng vàng hay đỗ đệ nhất giáp thi Đình. Họ chỉ là những cử nhân nhỏ nhoi, thậm chí Chu Tử Thư mới chỉ là tú tài!

Có tú tài nào may mắn được thấy mặt rồng kia chứ?

Triệu Phụ khác hẳn với những gì ba người Chu Tử Thư tưởng tượng. Ông khoác trên mình đạo bào thêu chỉ bạc, tác phong rất mực ôn hòa. Hoàng đế nói với cả ba: "Hỏi chuyện bình thường thôi ấy mà."

Ba người thưa: "Xin vâng lệnh."

Ánh mắt Triệu Phụ chăm chú quan sát ba chàng thanh niên tài tuấn, nhưng trông bàn tay ve vuốt chung trà của hoàng đế, hai thái giám thân cận của ông đều ngầm hiểu: Bệ hạ đã hết sạch kiên nhẫn rồi.

Nửa năm trước, Chung Thái Sinh bị hoàng đế ngấm ngầm hạ độc trong thiên lao, rồi phao lên thành lâm bệnh nặng mà chết. Sau đấy, triều đình tổn thất bảy vị đại thần kì cựu chỉ trong một đêm. Song thiên hạ không ai biết đã có hai mươi quan viên phẩm cấp thấp cũng bỏ mình theo, tất cả đều từng là thành viên của Tùng Thanh đảng!

Từ độ ấy, Triệu Phụ cứ nghĩ tới việc này là buồn bực không thôi, dần dà sinh căm tức. Mãi đến nửa tháng trước khi Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân đề xuất bệ hạ lâm Ung, ngõ hầu lôi kéo lòng văn sĩ trong thiên hạ, tâm tình hoàng đế mới khởi sắc.

Thái giám nghĩ thầm: Chẳng qua là ba người đứng đầu quán khóa Quốc Tử Giám thôi, chắc gì đã đỗ tiến sĩ! Kể cả Trạng nguyên đi chăng nữa, trong hai mươi sáu năm nay Thánh thượng ở ngôi đã có đến tám Trạng nguyên rồi, nhưng mấy ai lọt vào mắt xanh của Thánh thượng? Phần lớn những kẻ đó hiện giờ chỉ làm chân biên soạn nhàn tản ở Hàn Lâm viện chứ đâu xa!

Hoàng đế thì muốn gây thanh thế cho trót, nhưng ông ta chẳng hứng thú với việc hỏi han ba học trò này.

Đúng lúc ấy, Quý công công bước vào, đi tới bên Triệu Phụ. Lão ta liếc mắt đã biết Triệu Phụ muốn đuổi ba người học trò này đi, nhưng chưa kiếm được cớ thích hợp. Quý công công nghĩ mưu nhanh như chớp, châm trà cho Triệu Phụ, nói: "Bữa nay quan gia muốn kiểm tra ba vị Giám sinh, ấy là phúc đức ba vị tu được từ kiếp trước."

(Quan gia: chỉ vua. Giám sinh: học trò Quốc Tử Giám)

Nhắc tới chủ đề chuyển thế cầu tiên, Triệu Phụ mới hào hứng lên được một chút. Ông ta nói: "Đã thế, để trẫm kiểm tra các ngươi một phen."

Ba người thưa: "Xin lĩnh mệnh."

Triệu Phụ nhìn quanh quất trong từ đường, thấy chung trà mới được thái giám rót, bèn thuận miệng hỏi: "Trông chén nước này, các ngươi có suy nghĩ gì không?"

Ba người Chu Tử Thư sửng sốt.

Người đầu tiên trả lời chắc chắn sẽ khiến Triệu Phụ chú ý hơn cả. Lưu Phóng cất lời trước: "Bẩm Thánh thượng, thần nghĩ "Bậc thượng thiện như nước". Nước khéo làm lợi cho vạn vật mà không tranh với vật nào, ở chỗ mọi người ghét cho nên gần với Đạo. Nước chính là tấm gương cho quân tử chúng thần."

Triệu Phụ nhấp một ngụm trà, chẳng buồn ử ư.

Sắc mặt Lưu Phóng ảm đạm ngay.

Mai Thắng Trạch suy ngẫm một lát, tâu: "Tuân tử có câu, nước có thể nâng thuyền, cũng có thể đánh chìm thuyền. Bách tính là nước, cuồn cuộn mênh mông. Xã tắc là thuyền, rộng không bờ bến. Nước êm ả thì thuyền không tròng trành, thiên hạ tất thái bình ạ."

Đuôi mắt Triệu Phụ máy một cái, nhưng ông ta chẳng có vẻ hào hứng hơn là bao. Triệu Phụ mỉm cười, nói lấy lệ: "Rường cột nước nhà." Mai Thắng Trạch vui mừng khôn xiết.

Hai người đã trình bày xong, chỉ còn lại Chu Tử Thư. Chu Tử Thư nói: "Bẩm Thánh thượng, người xưa có câu, nước trong quá thì không có cá, người chi li quá thì không ai gần. Thần có vài suy ngẫm, nhưng không dám thưa."

Triệu Phụ thờ ơ liếc Chu Tử Thư, đoạn mỉm cười cho hợp khí độ của bậc minh quân, ra lệnh: "Cứ nói đi, đừng ngại."

Chu Tử Thư khom người, dáng vẻ khiêm tốn mà không khúm núm, nhưng những lời cậu thốt ra khiến cả từ đường im phăng phắc: "Người xưa từng nói, nước trong quá thì không có cá, người chi li quá thì chẳng ai gần. Người với người mà xét nét, khắt khe thì khó kết tình đồng đạo hảo hữu, tựa như nước trong leo lẻo thì không cá nào sống được. Nhưng kẻ hèn này trộm nghĩ...trên đời làm gì có thứ nước nào trong vắt không gợn bùn đâu!

Quý công công sởn gai ốc, phân vân nắn cây phất trần, không biết phải mắng Chu Tử Thư phạm tội đại bất kính hay sai người gô cổ cậu luôn. Song khi nhìn sắc mặt không rõ hỉ nộ của Triệu Phụ, lão ta đành làm thinh mà chầu. Đã không biết ý Thánh thượng thì chớ nên tự tiện!

Từ đường lặng ngắt, Chu Tử Thư rạp mình thấp hơn, nói tiếp: "Giao tình giữa người quân tử nhạt như nước, giao tình giữa kẻ tiểu nhân ngọt như rượu nếp. Lấy nước làm tấm gương soi, tự giác mài giũa, rèn đến khi bản thân trong vắt như nước. Giả dụ có thể rèn luyện tới mức ấy, vậy nước trong giao hòa với nước trong, có khác nào hai người đồng chí đốc thúc lẫn nhau đâu, sao có thể không thành hảo hữu được. Kẻ hèn này không hiểu, chẳng lẽ câu châm ngôn ấy không nói đến nước trong sao?"

Nói xong câu này, thắt lưng Chu Tử Thư cũng song song với mặt đất luôn rồi.

Thái độ khi hỏi của cậu cung kính như thể một học trò không rành thế sự, chỉ một lòng ham học hỏi mà thôi.

Mai Thắng Trạch và Lưu Phóng không dám hé răng nửa lời, lũ thái giám cũng không dám vọng động.

Hồi lâu sau, Triệu Phụ cười nói: "Ngây thơ."

Lưu Phóng mừng ra mặt, Mai Thắng Trạch thì hết sức lo lắng cho Chu Tử Thư. Riêng Chu Tử Thư vẫn cung kính hành lễ, dường như chẳng nghe thấy lời trách cứ của đế vương.

Triệu Phụ thong thả đặt chung trà lên bàn. Chỉ một tiếng chạm nhẹ bẫng thôi mà cả từ đường ai nấy thót tim. Triệu Phụ: "Hồi cung."

Quý công công hô to: "Hồi cung."

Giữa mùi long diên hương nhè nhẹ, Triệu Phụ và ba thái giám rời khỏi từ đường Sùng Thánh.

Sau khi bọn họ đi rồi, Mai Thắng Trạch vội vã đến bên Chu Tử Thư, trách: "Cảnh Tắc, sao đệ lại nói vậy! Quân tử như nước, sao đệ dám nói trên đời không có thứ nước nào trong thật sự, cũng không có người quân tử chân chính! May là Thánh thượng không trách tội, thấy đệ nhỏ tuổi nên chỉ mắng là trẻ con, bằng không đệ phải tội chết rồi. Khờ quá!"

Chu Tử Thư ưỡn thẳng cái lưng cứng quèo, thấy Mai Thắng Trạch lo sốt vó thì chỉ cười: "Không sao đâu mà."

Mai Thắng Trạch: "Hầy, đệ thật là...!"

Ba người cùng nhau ra khỏi từ đường Sùng Thánh.

Chu Tử Thư chỉ mạnh miệng thôi, chứ Mai Thắng Trạch không biết, lưng cậu ướt đẫm mồ hôi.

Trở về Quốc Tử Giám, Lâm Tế tửu gọi ba người tới, hỏi xem họ diện thánh đối đáp ra sao. Ba người kể lại không sót một chữ. Nghe tới câu trả lời của Chu Tử Thư, Lâm Tế tửu nhìn cậu bằng ánh mắt lạ lùng, chau mày. Chợt ông ta như hiểu ra điều gì, nói một câu không đầu không đũa: "Biết là họa hay là phúc?"

Quay lại giảng đường, Chu Tử Thư mới lau hết mồ hôi sau lưng. Cậu mở sách ra, nghe giảng tập giảng bài, nhưng đầu óc đã trôi dạt về thời điểm một canh giờ trước khi đi vào từ đường Sùng Thánh.

Thiên tử lâm Ung đã là kỳ ngộ lớn nhất trong cuộc đời Chu Tử Thư rồi.

Vậy mà cậu còn may mắn được diện kiến đức vua!

Chu Tử Thư mới có mười lăm tuổi, dẫu thông minh đĩnh ngộ đến mấy, là kì tài có một không hai, thì cậu cũng mới tới thời đại này được ba năm. Sang năm, tức năm thứ tư, cậu sẽ tham gia thi Hội. Nếu vượt qua kì thi Hội, đỗ tiến sĩ, kì thi Đình sẽ nối tiếp ngay. Từ cổ chí kim, chẳng có người nào đỗ đồng tiến sĩ mà làm quan đến hàng tam phẩm cả, chỉ có tiến sĩ trở lên mới có thể làm quan lớn.

Nhược bằng muốn vào Tam tỉnh Lục bộ, muốn có tiếng nói trong triều, ít nhất cũng phải lọt vào đệ nhất giáp!

Nếu không đỗ đệ nhất giáp, chỉ còn cách là có hậu trường vững chắc thôi.

CungTử Phong hai mươi lăm tuổi đã trở thành Thượng thư bộ Hộ, nguyên nhân thứ nhất là do chàng đỗ Trạng nguyên, còn được Hoàng đế ban ngự bút "Trạng Nguyên vô song," vừa làm quan đã vô cùng được lòng hoàng đế. Còn nguyên nhân thứ hai? Đơn giản chàng là CungTử Phong!

Lang Gia Cungthị trong triều có đến ba mươi sáu người có quan hàm.

Ngũ phẩm có mười người, tứ phẩm có năm người, tam phẩm có ba người. Thượng thư bộ Hộ CungTử Phong là quan nhị phẩm. Hữu tướng Trung Thư Tỉnh – CungThuyên, chính là nhị thúc tổ của CungTử Phong, là quan nhất phẩm.

Chu Tử Thư không có ô dù, muốn bon chen, chỉ có thể dựa vào lòng vua.

Từ nửa tháng trước nghe Lâm Tế tửu thông báo việc "Thiên tử lâm Ung", Chu Tử Thư đã không ngừng suy nghĩ về lí do hoàng đế làm như vậy.

Thiên tử lâm Ung là thông lệ từ xưa. Vua chúa coi trọng thư sinh, đến Quốc

Tử Giám giảng dạy cho các học trò, thể hiện sự quan tâm của nhà vua với Nho sinh. Triều trước có rất nhiều lần Thiên tử lâm Ung, nhưng triều này thì hiếm hoi vô cùng. Triệu Phụ tại vị hai mươi sáu năm, đây là lần đầu tiên ông ta ghé thăm cung Ích Ung.

Triệu Phụ không đến giảng bài ở cung Ích Ung một cách ngẫu nhiên, nhất định đã có chuyện gì thúc đẩy ông ta làm vậy.

Trong một năm vừa qua đã xảy ra rất nhiều sự kiện. Nạn tuyết lớn ở phương Nam, động đất ở Tây Nam, người Liêu rục rịch phá vỡ hiệp ước, âm mưu xâm lấn Đại Tống. Nhưng ngần ấy là chưa đủ để thuyết phục Triệu Phụ đến Quốc Tử Giám giảng bài cho một đám cử nhân. Ngoại trừ một việc...

"Chung Thái Sinh qua đời."

Chung Nguy vừa mất, các nhà Nho chôn theo.

Kẻ sĩ trong thiên hạ không ai không biết, không ai không hiểu. Triệu Phụ tới cung Ích Ung giảng bài, cốt là để thu phục nhân tâm sĩ tử cả nước.

Chu Tử Thư đoán được đến đấy, lại không ngờ rằng để thu phục lòng sĩ tử, Triệu Phụ còn đích thân gặp riêng ba học sinh Quốc Tử Giám. Cơ hội quý báu không tới hai lần, cậu không đời nào bỏ qua.

Ở Quốc Tử Giám, dù cho Chu Tử Thư có phát ngôn "ngây thơ" đến mấy, chỉ cần không nói lời đại nghịch bất đạo thì Triệu Phụ sẽ không xử tội chết. Thiên tử vừa lâm Ung, nếu Triệu Phụ giết học sinh Quốc Tử Giám thì chẳng khác nào tự hủy hoại công sức của chính mình.

Chính vì thế Chu Tử Thư mới dám đi nước hiểm, đem sự "trẻ người non dạ" để lấy lòng đế vương. Dẫu chỉ gây được chút xíu ấn tượng, cũng là căn cơ để cậu thăng quan tiến chức trong tương lai rồi.

Trên đời không có quân tử nào trong sạch thực thụ, giao tình quân tử nhạt như nước rõ là trò hề!

Câu mắng ấy là mắng Chung Thái Sinh, mắng cả những Đại nho bỏ mình theo Chung Thái Sinh nữa!

Tiên sinh ơi... nếu người còn tại thế, chắc sẽ đá đít ngay đứa học trò này ra khỏi cửa rồi giận dữ mắng "đồ vô lại" nhỉ?

Chu Tử Thư chống cằm, ngắm nghía những con chữ trên sách, bất giác cảm thấy mặt mình dày hơn một chút, lòng dạ cũng đen tối hơn tí teo.

Cậu chẳng hề hay biết chuyện xảy ra vào buổi đêm khi Triệu Phụ trở về cung. Đầu tiên ông ta tắm rửa thay y phục, lên đài Thỉnh Thần ngồi thiền, tu luyện suốt một canh giờ, hấp thụ linh khí thiên địa. Đến khi sắp đi ngủ, lúc Tổng quản thái giám Đại nội Quý Phúc thay áo cho Triệu Phụ, Triệu Phụ chợt nhắc: "Đứa học trò ở Quốc Tử Giám hôm nay, nói cũng hay đấy."

Quý Phúc cả kinh, theo bản năng nghĩ đến Mai Thắng Trạch. Song Quý Phúc không lộ ra, chỉ cân nhắc cẩn thận rồi hỏi: "Ý quan gia, phải chăng là người Giám sinh đã chế giễu giao tình quân tử?"

Triệu Phụ không đáp, thay áo ngủ bằng gấm Tô Châu, để Quý Phúc ngồi xuống hầu cởi giày.

Bây giờ ông ta mới nói: "Tên cậu ta là gì ấy nhỉ?"

Quý Phúc phiền muộn đáp: "Nô tài không biết ạ."

Triệu Phụ: "Ờ."

Hầu Triệu Phụ ngủ xong, một canh giờ sau, Quý Phúc rời khỏi tẩm cung của hoàng đế. Lão triệu con nuôi của mình tới, hỏi: "Sớm mai con đến phủ Lâm Tế tửu Quốc Tử Giám, bảo gã tan triều thì đem hết thông tin về cậu Giám sinh kia đến cho ta. Cái cậu Giám sinh trẻ tuổi nhất mà trông mặt mũi xinh xẻo ấy. Nói với Lâm Tế tửu rằng, việc này ta nhờ gã, khi khác tự khắc sẽ trả ơn."

||

Lời tác giả:

Anh Cunghàng xóm: Chương này tui có được tính là xuất hiện không vậy?

Bé Phúc (chỉ vào bốn cụm "CungTử Phong"): Đương nhiên là tính rồi!

Chú thích

Cách gọi khác của ngày giỗ

Chỗ này Quý công công xưng "sái gia" 洒家 – cách tự xưng của đầy tớ Tủ Lượng Cách với phần khung trống để trưng bày.

Gốc dùng từ Tam giáp, vốn chỉ ba giáp để phân hạng tiến sĩ trong kì thi Đình. Đệ nhất giáp gồm Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám hoa. Đệ nhị giáp là Tiến sĩ (hoặc hoàng giáp), đệ tam giáp là Đồng tiến sĩ. Tuy nhiên, từ này hiện nay hay được hiểu theo nghĩa 3 người đứng đầu hơn, nên mình sẽ chỉnh thành Tam khôi hoặc Đệ nhất giáp. Sử dụng bản dịch của dịch giả An Hòa tại

là vế sau câu "Tái ông mất ngựa, chưa biết là họa hay là phúc"

------oOo------

Chương 36

Nguồn: EbookTruyen.Net

Ỷ tê vấn Thương Thang

Tan triều, trời cũng vừa tảng sáng.

Khai Bình Hoàng Đế Triệu Phụ được bầy hoạn quan tiền hô hậu ủng rời khỏi điện Thùy Củng, lên đài Thỉnh Thần tu luyện. Những ngọn đèn trường minh đặt thẳng tắp trên giá, mấy thái giám trẻ hết sức cẩn thận châm thêm dầu vào đèn, không dám để tắt. Bên trong đài Thỉnh Thần giăng màn trướng trắng tuyền, ngập tràn hơi thở cõi tiên.

Thiền một canh giờ, Triệu Phụ nhẹ nhàng hỏi: "Giờ nào rồi?"

Quý Phúc lập tức đi vào trong điện hầu Hoàng đế thay y phục; ngài đã hỏi vậy tức là muốn đến điện Cần Chính phê duyệt tấu chương. Lão ta thưa: "Bẩm, đã sang giờ Thìn rồi thưa quan gia."

Triệu Phụ "Ờ" một tiếng, bầy thái giám lại cung cúc tận tụy hộ tống bệ hạ tới điện Cần Chính.

Nước Đại Tống quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa. Suốt những năm đầu thời kì Triệu Phụ ở ngôi, ông ta hết sức siêng năng cần cù, việc gì cũng đích thân làm hết. Không may, vào một đêm mười hai năm trước, Triệu Phụ thức khuya phê duyệt tấu chương thì đột nhiên ngất xỉu. Sau khi tỉnh lại, ông ta bắt đầu tôn sùng việc tu tiên, những mong được trường sinh bất lão. Việc triều chính đương nhiên chẳng thiết tha nữa. Chuyện nhỏ thì Lục bộ tự động giải quyết, chuyện lớn đã có Trung Thư tỉnh với Xu Mật viện lo toan.

Số tấu chương được gửi lên cho Triệu Phụ mỗi ngày, giỏi lắm chẳng đến một trăm bản tấu.

Triệu Phụ cầm bút son trên tay, phê sổ: "Đã duyệt, cho phép."

Mới xem được năm mươi cuốn sổ, Triệu Phụ đã lim dim mắt ngả lưng ra giường La Hán. Quý Phúc phối hợp nhịp nhàng, đấm bóp cho bệ hạ thư giãn. Chủ tớ hai người đã gắn bó hơn bốn mươi năm. Quý Phúc cất giọng nói lanh lảnh đặc trưng của hoạn quan, khe khẽ thưa: "Quan gia còn nhớ tiểu Giám sinh ở Quốc Tử Giám hôm qua không ạ?"

Có tia sáng thoảng qua đôi mắt lim dim của Triệu Phụ, song ông ta chỉ lười biếng đáp "ừ" thôi.

Quý Phúc nói tiếp: "Nô tài được biết, Giám sinh ấy tên là Chu Tử Thư, quê ở Cô Tô. Hiện cậu ta là tài tử nổi danh Quốc Tử Giám, vừa rồi đứng hạng nhất kì quán khóa."

Triệu Phụ chẳng buồn đếm xỉa, không nói không rằng.

Quý Phúc rủa thầm trong lòng, song đôi tay đấm bóp cho hoàng đế và biểu hiện tận tâm vẫn y nguyên.

Quân tâm khó dò, đêm qua hoàng đế còn hỏi chuyện Chu Tử Thư, đến sáng nay ngài đã hết hứng thú rồi. Quý Phúc chẳng tiếc cho Chu Tử Thư, loại học trò chưa đỗ cử nhân làm sao đã đủ tuổi lọt vào mắt xanh của lão? Lão tiếc là tiếc cái công nhờ vả Lâm Tế tửu mà chẳng được việc, không dưng mắc nợ người ta!

Triệu Phụ đứng dậy, Quý Phúc rót nước hầu vua.

Rốt cuộc lão thái giám già vẫn ráng gỡ gạc, bèn tâu: "Nô tài nghe nói, nguyên lai Chu Tử Thư là học trò của Phó Vị đại nhân đấy ạ."

Triệu Phụ giờ mới để ý hơn, nhấp một ngụm trà, ngước mắt nhìn kẻ đầy tớ già: "Còn có việc này hử?"

Quý Phúc thưa: "Đúng ạ."

"Phó Hi Như mà lại nhận đồ đệ? Trước đây ông ta bảo trẫm suốt, cả đời này chỉ nhận mình CungTử Phong là đủ. Mấy năm rồi còn than chóng già, đòi từ quan, hồi hương cơ mà."

Quý Phúc cười xòa: "Phó đại nhân chắc là tiếc người tài đây. Nô tài còn nghe nói đến một bài thơ do Chu Tử Thư sáng tác. Tuy không biết chữ, nhưng nô tài thấy bài thơ ấy tuyệt hay, mong được ngâm lên cho quan gia nghe thử."

Triệu Phụ cười, biết tỏng ý đồ lão ta: "Nếu đã chuẩn bị đến thế rồi thì đọc mau lên."

"Vâng."

Quý Phúc đọc bài thơ thí thiếp của Chu Tử Thư xong, biểu cảm của Triệu

Phụ im lìm một cách bí ẩn. Quý Phúc lúng tung vô cùng, tuy lão theo Triệu Phụ bao năm nay, nhưng theo tuổi tác, lão càng ngày càng không dò nổi tâm tư Hoàng đế. Mãi hồi lâu, Triệu Phụ mới đặt chung trà xuống, vuốt chòm râu trắng dài mượt: "Chỉ e kinh động đến người thiên cung? Cậu Chu Tử Thư này cũng khéo đấy." Nói xong, một nụ cười thoáng qua môi hoàng đế.

Quý Phúc bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, xem ra bệ hạ khá đẹp lòng rồi.

Sự việc Thiên tử lâm Ung truyền đi khắp thiên hạ, trở thành câu chuyện được mọi nhà ca tụng.

Suốt một tháng sau, ba mươi hai học trò được nghe hoàng đế giảng bài vẫn có cảm giác lâng lâng như vừa choàng tỉnh từ giấc mộng thành tiên. Chu Tử Thư thì không vì thế mà thỏa mãn với việc học của bản thân, còn Mai

Thắng Trạch cứ lo mãi chuyện cậu phê bình "quân tử chi giao," sợ cậu bị Hoàng đế trách phạt. Nào ngờ đã một tháng kể từ ngày Thiên tử lâm Ung, thánh thượng chẳng có động thái gì, như thể đã quên béng chuyện gặp ba người học trò hôm ấy rồi.

Mai Thắng Trạch lấy đó làm mừng, song cũng tiếc nuối: "Cảnh Tắc à, chúng ta chưa tận dụng tốt cuộc kỳ ngộ này rồi."

Chu Tử Thư nói: "Với tài học và tích lũy của Thắng Trạch huynh, kỳ thi mùa Xuân năm sau, nhất định sẽ đăng khoa bảng vàng. Đến lúc thi Đình, được diện thánh lần thứ hai, nếu Thánh thượng đã từng tán thưởng huynh là rường cột nước nhà, dễ là ngài còn nhớ mặt huynh đấy."

Mai Thắng Trạch cười: "Xin cảm ơn lời chúc của đệ. Thi Hương cuối tháng này, đệ chuẩn bị đến đâu rồi?"

Chu Tử Thư mặt mếu xệu: "Thắng Trạch huynh tha cho đệ đi, chúng ta chẳng phải anh em cột chèo sao?" "Ha ha ha, đệ điêu lắm, đừng hòng ta tin!" Chu Tử Thư lại trưng vẻ ngây thơ.

Trời thu se lạnh, chẳng mấy chốc mà đến kì thi Hương ba năm một lần.

Trung tuần tháng Bảy, Chu Tử Thư đến Quốc Tử Giám đăng kí dự thi Hương. Phần lớn học trò Quốc Tử Giám đã là cử nhân, chỉ có vài tú tài. Kì thi bắt đầu từ ngày mùng tám tháng Tám; mùng bốn Chu Tử Thư xin nghỉ để ôn thi tại nhà. Ra khỏi Quốc Tử Giám, cậu không về nhà ngay mà chạy sang Phó phủ.

Tiểu đồng Ôn Thư dẫn Chu Tử Thư đến thư phòng của Phó Vị. Chú tiểu đồng vừa đi vừa hỏi Chu Tử Thư: "Đường tiểu công tử vẫn còn phải thi Hương à?"

Chu Tử Thư bất đắc dĩ đáp: "Phải."

Ôn Thư đồng tử bèn nói: "Xin chúc công tử đăng khoa bảng vàng!"

Chu Tử Thư: "Xin nhận cát ngôn của cậu."

Tới thư phòng, Chu Tử Thư vừa vào cửa đã thấy Phó Vị đứng ở bàn sách rộng rãi bằng gỗ tử đàn, hăng hái múa bút. Chợt Chu Tử Thư phát hiện có cả Cung Tuấn, bước chân ngập ngừng, cậu gọi: "Tử Phong sư huynh." Cung Tuấn gật đầu, cậu mới thưa với Phó Vị: "Tiên sinh."

Phó Vị ngẩng lên: "Cảnh Tắc lại đây mau, xem bức họa vi sư vẽ cho con này."

Chu Tử Thư đi tới ngắm.

Phó Vị vẽ một bức núi non chầu mặt trời, có núi xanh điệp trùng, tùng mọc san sát. Vầng mặt trời đỏ au nhú lên sau rặng núi, tỏa ánh vàng chói lọi. Kiếp trước, những bức tranh Chu Tử Thư từng xem chỉ gói gọn trong bộ sưu tập tranh của thầy hướng dẫn lúc học tiến sĩ, sau đó thì thêm những tranh Lương Tụng sưu tầm. Vì lẽ đó, vào ngày Trùng Cửu hai năm trước, cậu còn cho rằng bức Đông song cúc của Phó Vị vẽ khá đẹp, trong khi Lương Tụng chê kĩ thuật vẽ của Phó Vị "quá tầm thường."

Nhưng Chu Tử Thư nay đã khác xưa rồi. Ngày nào cũng đến nhà Cung Tuấn, cậu được chiêm ngưỡng biết bao nhiêu tranh quý Cung Tuấn sưu tập, cũng nhiều lần mài mực cho sư huynh vẽ tranh.

Chu Tử Thư lại ngắm nghía bức họa của Phó Vị...

Phó Vị háo hức lấy con dấu ra đóng lạc khoản "Điêu Trùng trai chủ" vào góc tranh. Ông hỏi: "Cảnh Tắc, bức họa này của vi sư thế nào?"

Chu Tử Thư thật thà: "Khí thế hào hùng, quả là giai tác!"

Phó Vị cảm khái: "Bao lâu rồi không đụng đến giấy bút, hôm nay vẽ một hơi đã hoàn thành, sảng khoái thật! Nào, Tử Phong, đến phiên con nhận xét." Vừa nói xong, ông lại đổi ý: "Thôi thôi, khỏi bình phẩm, nhiệm vụ của con là sáng tác thơ cho vi sư, rồi đề vào tranh ấy!"

Cung Tuấn cười rất duyên: "Tiên sinh đã sai bảo, con nào dám chối từ."

Cung Tuấn kéo ống tay áo, lựa một chiếc bút lông dê từ giá bút. Chu Tử Thư theo thói quen lấy thỏi mực để mài mực cho chàng. Cung Tuấn ngẩng đầu nhìn Chu Tử Thư, Chu Tử Thư không thấy có gì lạ, bình thường ở phủ Thượng thư cậu vẫn làm vậy mà?

Ánh mắt Cung Tuấn đầy ắp ý cười, nhẹ giọng: "Đa tạ tiểu sư đệ."

Sau đó chàng chấm mực trong nghiên, đặt bút đề thơ lên góc trái bức núi non chầu mặt trời.

Phó Vị đọc:

"Ngũ Nhạc vươn mình giữa hỗn mang,

Chim Ô hạ cánh ngọn đồng tang

Khi xưa núi Lạn Kha người lạc,

Tựa gốc mộc tê hỏi chuyện Thang."

Đoạn khen: "Thơ hay lắm, chữ cũng tuyệt đẹp, tạm xứng với bức núi non chầu mặt trời của ta."

Chu Tử Thư: "..."

Cung Tuấn hạ bút, mỉm cười: "Tiên sinh nói chí phải."

Phó Vị được nịnh mà chẳng ái ngại gì, ra chiều "trò nói chuẩn đó," chẳng thèm phủ nhận. Chờ mực khô, ông sai Ôn Thư đồng tử cuộn bức tranh lại trao cho Chu Tử Thư, nói: "Mấy hôm nữa con vào trường thi rồi. Vi sư đem bức tranh mặt trời này tặng con, chúc con như vầng dương ló rạng phương Đông, vinh danh bảng vàng."

Cung Tuấn cũng nhìn Chu Tử Thư: "Bảng quế đề tên nhé."

Sự chu đáo của cả hai khiến Chu Tử Thư vừa cảm động vừa lo âu. Vốn không căng thẳng lắm với thi cử, giờ cậu lại thấy áp lực như núi đè.

Cậu đem bức họa về nhà, treo lên tường, hằng ngày ngắm tranh mà thúc đẩy bản thân ôn luyện thật chăm chỉ.

Hôm sau, Diêu Tam lên miền Bắc.

Diêu Tam: "Tiểu đông gia thi Hương, làm sao tôi vắng mặt cho được! Phải chăm sóc tiểu đông gia chứ!"

Ngày mùng tám tháng Tám, sáng sớm.

Phụng Bút chuẩn bị đầy đủ đồ vào giỏ quai dài cho Chu Tử Thư, theo Diêu Tam tiễn Chu Tử Thư đến trường thi. Tới nơi, Chu Tử Thư rất ngạc nhiên khi phát hiện quản gia phủ Thượng thư đã đợi sẵn. Người quản gia lớn tuổi cũng chuẩn bị một chiếc giỏ quai dài. Ông thấy Chu Tử Thư thì bước tới bảo: "Công tử phải vào triều sớm nên dặn lão tới đây. Đường tiểu công tử thi Hương lần đầu, có một số thứ không biết để mà chuẩn bị, lão đã sắp sẵn ít đồ cho cậu rồi."

Phụng Bút nhận chiếc giỏ, Chu Tử Thư xem đồ bên trong.

Trong giỏ để sẵn bút nghiên, giấy mực loại thượng đẳng, cùng với lương khô vừa dễ ăn vừa no lâu, còn có sẵn cả huân hương nữa.

Chu Tử Thư nói: "Đa tạ Tử Phong sư huynh."

Quản gia nói: "Đường tiểu công tử đừng khách sáo. Công tử chuyển lời, chúc tiểu công tử đề tên bảng quế."

Lần thứ hai nghe được chữ "bảng quế", Chu Tử Thư nảy ra một suy nghĩ, bừng tỉnh: "Chắc chắn rồi!"

Thi Hương luôn được tổ chức vào tháng Tám nên được gọi là kì thi mùa Thu. Lúc yết bảng cũng là lúc hoa quế nở ngát hương, vậy nên còn có tên là bảng quế. Mà hoa quế chính là hoa mộc tê. Vậy nên Cung Tuấn viết "Tựa gốc mộc tê hỏi chuyện Thang," dĩ nhiên là chúc cậu ghi tên mình vào bảng quế rồi!

Áp lực đè nặng lên vai, Chu Tử Thư xách giỏ, hít sâu một hơi, bước vào trường thi.

Diêu Tam và Phụng Bút đứng ngóng theo ngoài đường, cả hai đều sốt sắng, Chu Tử Thư vừa vào được một khắc, hai người đã nghển cổ ngóng trông.

Quản gia Cungphủ nói: "Hai vị đừng sốt ruột, mấy ngày nữa là Đường tiểu công tử được rời trường thi, chúng ta kiên nhẫn chờ là được." Trời còn nhá nhem, thinh không lấm tấm những vì sao.

Ngoài trường thi, sai nha gõ cồng, hô lớn: "Đóng cổng trường thi!" Cánh cổng lớn kĩu kịt khép lại.

Năm Khai Bình thứ hai mươi sáu, kì thi Hương chính thức bắt đầu.

||

Lời tác giả:

Anh Cunghàng xóm: Chợt cảm thấy mình như "hồng tụ thiêm hương" ấy.

(Hồng tụ là phép hoán dụ chỉ người con gái. Hình ảnh người con gái đẹp trợ giúp chàng thư sinh thi cử khá điển hình trong văn học xưa. Lư hương thì là vật dụng quen thuộc trong thư phòng. Câu nói này gợi lên khung cảnh lãng mạn: chàng thư sinh thức khuya ôn bài, người con gái đốt thêm hương vào lư cho chàng học. Anh hàng xóm đang kể công chăm sư đệ đi thi đấy TvT )

Manh: Chương này tác giả có viết một đoạn giải thích về thể loại của truyện là "giá không" (hư cấu, giả tưởng). Tóm tắt lại thì Mạc Thần Hoan nói rằng Sơn hà Bất dạ thiên là bộ truyện hư cấu. Nước Đại Tống không phải là Bắc Tống hay Nam Tống trong lịch sử, và triều đại trước đó cũng không phải nhà Đường. Vì thế, triều đại này không bị gò bó bởi một khuôn mẫu nào cả. Tác giả đã khảo chứng phần lớn các yếu tố văn hóa lịch sử, nhưng nếu có những yếu tố không khảo chứng được thì sẽ lựa viết sao cho hợp lí, vì đơn giản đây là tác phẩm hư cấu.

Mình xem qua bình luận trên Tấn Giang thì có một số độc giả phê bình về tính khả thi của vài yếu tố như dịch vụ hậu cần chẳng hạn, và hẳn cũng có phê bình về tính sát sử khi những thành thị, yếu tố văn hóa lồng ghép trong truyện được xây dựng dựa trên thực tế. Có lẽ đây là lí do khiến tác giả phải viết đoạn giải thích này. Riêng mình thì thấy truyện xuyên không giả tưởng quả thực không nên đặt quá nặng yếu tố sát sử và chính xác. Kể cả trong nghiên cứu thì sự thất thoát di vật, tài liệu theo thời gian cũng khiến cái nhìn của chúng ta về những thời đại trước đây vô cùng thiếu sót, thậm chí là sai lệch. Thế nên cái hay của truyện là khơi gợi được không khí của nền văn hóa đô thị thời xưa, với tầng lớp quan lại, sĩ tử văn nhân ưa thi ca nhạc họa, dốc lòng xây dựng đất nước, kết hợp với tầng lớp thương nhân phát triển mạnh mẽ, sôi động, đem lại sự giàu có phồn vinh cho xã hội.

Chú thích

[1] Thơ gốc chắc tác giả tự "bịa" thôi chứ không có nguồn đâu.

Nguyên văn:

五岳起微茫, 踆乌落桐桑. 曾有烂柯人, 倚樨问商汤

Phiên âm:

Ngũ Nhạc khởi vi mang, Thuân Ô lạc đồng tang. Tằng hữu Lạn Kha nhân, ỷ tê vấn Thương Thang

Giải thích cụm từ khó:

1.Ngũ Nhạc: hệ thống núi linh thiêng trong văn hóa Trung Quốc, được cho là sinh ra từ cơ thể của thần Bàn Cổ khi ngài chết.

2. Chim Thuận Ô: loài chim ba chân trong truyền thuyết, ám chỉ mặt trời.

3. Đồng tang: cây ngô đồng

4. Lạn Kha nhân (người Lạn Kha) là một tích về ông tiều phu CungChấtlên núi đốn củi thì gặp tiên, mải xem tiên đánh cờ, khi tan cuộc cờ thì tiên biến mất, cán rìu (kha) của người tiều phu đã mục (lạn), tức là hàng trăm nghìn năm đã trôi qua trong chớp mắt. Trong văn hóa Việt thì tích này tương đương với tích Từ Thức gặp tiên, tương truyền đều diễn ra ở núi Lạn Kha, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh cả. (tham khảo: Thiền Uyển Tập Anh – Lê Mạnh Thất).

5. Thương Thang: Vua sáng lập ra triều nhà Thương, nổi tiếng hiền minh.

------oOo------

Chương 37

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thi Hương

[Wall of text; không muốn đọc cứ scroll xuống nhé] Như đã báo, chương này Tiểu Thư Lang lại đi thi nên edit hơi lâu :)) Một vấn đề khác là vì khoa cử Trung Quốc và Việt Nam có nhiều điểm khác biệt (ví dụ như trong Trung Quốc học sinh thi trong các phòng thi nhỏ, nhưng ở Việt Nam thì chủ yếu là thi trong lều chõng), và nội dung trong truyện nhiều chỗ cũng không thống nhất với những gì mình tra được trong các nguồn tiếng Trung nên khá hoang mang (ví dụ cái từ "giảng tập" nghĩa tác giả dùng, nghĩa trong tiếng Trung và nghĩa trong tiếng Việt khác nhau một trời một vực). Sửa lẻ tẻ thì về sau nhỡ sai lại phải sửa lại, nên đành để hết truyện thì rà soát một thể vậy :)) Bình thường mình chủ trương Việt hóa sao cho (bản thân mình) đọc lên có cảm giác như người Trung Quốc đọc văn gốc; tuy nhiên vì truyện này là thể loại khoa cử, nên mình cũng phải nghĩ nhiều sao cho Việt hóa xong bạn đọc không tưởng là "ồ Việt Nam mình dùng từ này theo Trung Quốc," cũng như tránh bê nguyên sách vào mà chú thích. Mình sẽ cố gắng hết sức có thể, nhưng về phương diện này thì thực sự khuyên bạn nào hứng thú hãy đọc sách của học giả Nguyễn Thị Chân Quỳnh mình từng dẫn để hình dung xem ông cha ta khi xưa tuyển chọn người tài thế nào (Ví dụ cụm bài về của bà Quỳnh khá súc tích, dễ đọc). Đọc truyện Tàu mà bỗng dưng biết thêm về sử Việt cũng là điều mình không ngờ đến khi bắt tay vào làm bộ này :))

Khoa cử thời nay duy trì thể chế thời trước, cống viện các tỉnh chỉ lấy thí sinh bản địa, còn cống viện ở Thịnh Kinh sẽ nhận tú tài trên cả nước1. Học trò trong khu vực Bắc Trực Lệ đều về thi ở trường thi Thịnh Kinh. Cộng thêm thí sinh từ các địa phương khác, năm nay trường thi Thịnh Kinh đón nhận hơn mười một nghìn hai mươi chín thí sinh!

[1] Cống viện là cách gọi trường thi (địa điểm thi) của người Trung Quốc. Trước chú thích thiếu, nay bổ sung để phân biệt với các "trường thi" – vòng thi đã từng chú thích trước đây

Ngạc nhiên chưa? Tất cả là vì mấy chữ "môn sinh Thiên tử" đấy!

Đi thi ở cống viện Thịnh Kinh tức là rất gần hoàng thành rồi. Kì thi diễn ra ngay dưới mũi Thiên tử, người nào mặt dày một chút là có gan nói khoác rằng mình là môn sinh của Thiên tử ngay. Chỉ cần không quá khó khăn, một số sĩ tử tài danh từ các vùng giáp với Bắc Trực Lệ cũng đổ hết về Thịnh Kinh để ứng thi.

Đỗ Giải Nguyên ở trường thi tỉnh lẻ chẳng bằng tới Thịnh Kinh, nơi có hẳn Đại học sĩ viện Hàn Lâm ra đề và giám sát. Mỗi kì thi Hương có đến hơn mười Giải Nguyên, nhưng với mỗi thí sinh, chủ khảo chỉ có một. Quan chủ khảo cũng giống như thầy, càng có thế lực, càng có tiếng tăm, thì càng tạo đà cho thí sinh khi bước vào quan trường!

Việc rà soát an ninh ở kì thi Hương nghiêm ngặt gấp nhiều lần so với kì thi Đồng sinh. Chu Tử Thư gần như phải lột sạch quần áo cho sai nha kiểm tra. Các thí sinh sau khi được rà soát cũng chưa được vào trường thi ngay, phải xếp hàng ở ngoài, chờ kiểm tra hết một trăm người rồi mới lũ lượt đi vào. Sau khi tập trung đủ một trăm người, sai nha hô to: "Cho vào!"

Chu Tử Thư bị kẹp giữa đám đông, chen chúc lúc nhúc đi vào trường thi.

Một trăm tú tài này có cả những thiếu niên trẻ trung như Chu Tử Thư, có cả những cụ già bảy mươi tuổi còn đi thi. Phần đông vẫn là nam giới trung tuổi, đã thành gia lập nghiệp. Mới có một trăm người mà đã đủ loại người trên đời rồi. Mọi người cùng nhau qua cổng đi vào khu vực ngoại liêm, đập vào mắt là mấy nghìn học trò đứng xếp hàng chờ trước khu nội liêm.

Khung cảnh đám đông khiến Chu Tử Thư chấn động.

Đến khi các học trò xếp hàng tiến vào khu nội liêm, chính thức bước vào trường thi, trong đám đông vang lên tiếng la thất thanh ngay. Khung cảnh nhà thi đồ sộ đến mức ai ai cũng cũng phải choáng ngợp.

Trong khu nội liêm, mở ra trước mặt các sĩ tử là một lối đi thẳng băng, rộng thênh thang. Hai bên lối đi là khu nhà thi đồ sộ gồm hơn một vạn phòng thi đánh số!

Chia phòng ngẫu nhiên, Chu Tử Thư rút thăm được phòng "Nhạc Đinh". Chữ "Nhạc" nằm trong câu "Nhạc tông Thái đại" ở cuốn Thiên Tự Văn.

Chữ "Đinh" lấy từ Thiên can Địa chi. Phòng thi trong trường đánh số theo Thiên Tự Văn và Thiên can Địa chi, giúp thí sinh dễ dàng tìm kiếm chỗ của mình.

Chu Tử Thư nhanh chóng tìm được phòng thi của mình.

Sai nha tuần tiễu trong trường thi đi ngang qua cậu, gõ cồng boong boong: "Khẩn trương vào phòng thi, cấm lề mề!"

Chu Tử Thư trông phòng thi rộng chưa đến một mét rưỡi vuông, cười bất đắc dĩ, đi vào.

Đây chính là nơi cậu phải giam mình suốt ba ngày tới!

Sắp xếp cho một vạn thí sinh vào trường thi tốn rất nhiều thời gian. Nhưng vào đến nơi vẫn chưa thể bắt đầu thi được.

Các thí sinh phải chờ đến tận chiều thì việc kiểm tra, rà soát mới hoàn tất, các thí sinh mới vào hết phòng thi. Chu Tử Thư ngồi trong phòng thi ăn linh tinh, chẳng có việc gì làm ngoài việc ngủ. Mãi đến nửa đêm, giờ Tý, quan chủ khảo mới gõ trống cái thùng thùng. Các thí sinh đang ngủ mơ màng bấy giờ mới choàng tỉnh. Sai nha chia ra nhau từ lối chính, lần lượt chia bài vào các phòng thi.

Chu Tử Thư nhận quyển đề rồi mở ra đọc.

Đề số một: "Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học."

Y như Cung Tuấn đoán, chủ khảo thi Hương ở Thịnh Kinh kì này là Dương đại học sĩ. Dương đại học sĩ thích đọc Chu Dịch, nhưng vòng thi đầu tiên chưa thi Ngũ Kinh, chỉ thi Tứ Thư và một bài thơ thí thiếp ngũ ngôn bát vận.

Đề thứ nhất lấy từ thiên Vi Chính trong sách Luận ngữ. Nguyên văn câu này là: "Đức Khổng Tử nói: Ta mười lăm tuổi chuyên chú vào việc học, ba mươi tuổi thì vững vàng, bốn mươi tuổi thì không ngờ vực, năm mươi tuổi thì biết mệnh trời, sáu mươi tuổi thì nghe theo, bảy mươi tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt khuôn phép." Câu này về sau cũng rất nổi tiếng, nghe nhiều thành thuộc. Đây là tổng kết của Khổng Tử đối với cuộc đời mình, dựa vào việc đánh giá bản thân mà khích lệ người khác.

Khổng Tử nói: "Ta mười lăm tuổi chuyên chú vào việc học."

Chu Tử Thư tỉ mỉ nghiền ngẫm những lời này, hí hoáy viết nháp.

Phương án phá đề có khá nhiều, có thể lấy câu gốc để dẫn vào bài, bàn luận về việc khi còn sống, Đức Khổng Tử làm thế nào để khích lệ, cổ vũ người sau, rồi những người theo ông đã học tập Đức Khổng Tử thế nào. Nhưng viết kiểu này này khá mạo hiểm ở chỗ dễ lạc đề.

Chu Tử Thư ngồi trong phòng thi bé xíu, trước mặt là bức tường, hai bên là các học trò khác. Cậu không nhìn thấy bất cứ ai, nhưng cậu biết có đến hơn một vạn người ở trong trường thi này.

Trổ tài sao cho nổi bật giữa một vạn người, nói thì dễ làm mới khó! Nhưng ngay từ bài đầu tiên đã viết lạc đề, khéo quan chấm bài chẳng buồn đọc thêm chữ nào mà đánh rớt cậu ngay tắp lự.

"Hừm, vào đề bằng câu này vậy, nhưng viết in ít thôi."

Đức Khổng Tử mười lăm tuổi quyết định khắc khổ luyện tập, từ đó về sau ngài luôn chuyên cần, chăm chỉ, ôn cố tri tân. Đấy chính là thái độ của ngài với con đường học vấn. Chu Tử Thư quyết định dẫn vào bài dựa theo tinh thần học tập này. Cậu suy tư hồi lâu, nháp ra vài ý cho phần phá đề.

Động não lắm thì mau đói. Trong giỏ thi Cung Tuấn chuẩn bị cho Chu Tử Thư có cả điểm tâm lẫn lương khô. Điểm tâm không để lâu được, Chu Tử Thư bèn lấy ra ăn trước.

Ăn xong, cậu suy nghĩ thêm cho kĩ rồi đặt bút viết bài xuống nháp.

"Người đương thời đi học theo đạo Thánh Khổng, trước hết có chí, sau mới học thành tài. Người có chí thì hằng hà sa số, mà người học thành tài thì chỉ còn vài trăm. Dẫu thánh nhân là người đắc đạo, nhưng ngài vẫn viết rằng sinh mệnh có hạn, còn tri thức thì vô cùng!"

Từ thuở vỡ lòng, người học trò khởi đầu con đường học vấn theo đạo Thánh Khổng, noi theo đức Thánh mà tìm tòi tri thức, lấy gương đức Thánh để nuôi chí học hành. Rồi năm tháng trôi đi, chí hướng của con người thay đổi không ngừng, vô cùng vô tận, dần dần sao nhãng việc học hành. Ngay cả Thánh nhân cũng phải nhận xét rằng sinh mệnh thì có hạn mà tri thức thì vô cùng.

Chính vì vậy, Chu Tử Thư sẽ mở bài bằng việc "lập chí", rồi phá đề bằng chuyện "khuyến học"!

Có mở bài rồi thì thân bài không khó viết nữa. Chu Tử Thư nghiền ngẫm từng con chữ, lập dàn bài ra giấy nháp. Từ phần khung xương này cậu lại phát triển các nhánh luận điểm, bổ sung luận cứ, ghi rõ chỗ nào cần trích dẫn từ đâu. Sau khi làm xong dàn bài, cậu mới bắt tay vào viết văn.

Đến khi mặt trời đứng bóng rọi nắng chói chang thì Chu Tử Thư viết xong bài bát cổ chế nghệ đầu tiên. Vừa dừng bút, cậu chẳng kịp chép lại đã lăn vật ra ngủ. Ngủ hai canh giờ thì dậy, cậu soát kĩ hết lỗi rồi cẩn thận chép sang giấy thi.

Giờ Chu Tử Thư mới chú ý tới ngọn nến để châm vào buổi tối. Cậu ngạc nhiên phát hiện nến Cung Tuấn chuẩn bị cho cậu có rất ít khói, không hề cay mắt chút nào!

Chu Tử Thư từng nghe nói phủ Kim Lăng có loại nến như thế, giá hét trên trời, tấc nến tấc vàng. Cậu không ngờ Cung Tuấn lại chuẩn bị loại nến đắt tiền này cho cậu dùng. CungTử Phong ơi...

Giờ phút này, Tử Phong sư huynh được Chu Tử Thư mong nhớ đang vẽ tranh ở nhà.

Quản gia vào thư phòng, báo cáo cho Cung Tuấn tình hình trong phủ hôm nay, Cung Tuấn mới nhớ ra: "Hôm nay bắt đầu thi Hương rồi nhỉ?"

Quản gia đáp: "Vâng."

"Đưa đủ đồ cho đệ ấy chưa?"

"Y lời công tử dặn, không thiếu món nào."

Cung Tuấn chấm mực đỏ, giọng nói êm ái hiền hòa: "Vậy chờ hai hôm nữa rồi đến xem tiểu sư đệ của ta thế nào."

Thi Hương gồm ba trường thi, mỗi trường kéo dài ba ngày. Ổn định vào trường đã mất một ngày đêm, thời gian thi chính thức chỉ có hai ngày.

Giống như thi đồng sinh, trường thi quan trọng nhất vẫn là trường đệ nhất, hai trường còn lại chỉ thi cho đủ số.

Làm xong đề số một, Chu Tử Thư chuyển sang đề số hai. Đề mục lần này là "Ngã diệc dục chính nhân tâm," xuất xứ từ thiên Đằng Văn Công, sách Mạnh Tử. Nguyên văn là "Ngã diệc dục chính nhân tâm, tức tà thuyết, cự bí hành, phóng dâm từ, dĩ thừa tam thánh giả."

Công Đô Tử từng hỏi Mạnh Tử: "Mọi người đều nói thầy thích biện luận với người ta, lí do vì sao vậy?"

Thế là thầy Mạnh Tử bèn trả lời Công Đô Tử bằng câu ấy.

Thầy Mạnh Tử thích tranh luận cùng người khác vì không còn cách nào khác mà thôi. Ngài thấy thời đại, xã tắc mục nát, nên mong muốn chấn chỉnh lòng người, gạn lọc học thuyết sai trái, chống lại hành vi bất công, phê phán những ngôn luận xằng xiên, từ đó, kế thừa sự nghiệp của ba vị Thánh.

"Ta muốn cải chính nhân tâm," chính là hoài bão của thầy Mạnh Tử.

Bản thân ông cũng là người đề xướng học thuyết "tính bản thiện."

Chu Tử Thư suy nghĩ mãi, bèn quyết định lấy "giáo hóa" để mở đề, viết một bài chế nghệ với chủ đề chấn chỉnh xã hội, phát huy tư tưởng giáo hóa, hướng thiện.

Làm bài và chép tỉ mỉ vào quyển thi xong, Chu Tử Thư mệt lả, gục đầu ngủ như chết. Đến tối, cậu đốt nến lên, đọc đề bài chế nghệ thứ ba, suy ngẫm kỹ càng rồi phá đề viết văn.

Viết xong ba bài chế nghệ thì cũng đến buổi chiều ngày thi cuối cùng.

Dẫu là người sắt hay thiếu niên trẻ trung phơi phới, bị nhốt ba ngày trong phòng thi chật chội cũng biến thành người rừng.

Chu Tử Thư vực lại tinh thần, châm huân hương mà Cung Tuấn chuẩn bị cho. May là thi Hương không giống thi đồng sinh, thứ mùi kinh khủng nhất không phải là mùi xú uế (bởi trường thi có nhà xí riêng), mà là mùi mồ hôi mồ kê của một lũ một lĩ đàn ông ba ngày không tắm, đốt huân hương coi như át đi được một chút.

Chu Tử Thư xem đề mục thơ thí thiếp, trên đề thi chỉ có bốn chữ đại tự "Kim cổ phàm hoa."

Chu Tử Thư hốt hoảng, tỉnh táo hẳn ra.

Kim cổ phàm hoa?

Dương Đại học sĩ phải can đảm cỡ nào mới dám ra cái đề rộng khủng khiếp này chứ?

Đề mục này nằm trong sáng tác của một tác giả từ sống ở triều đại trước. Nguyên văn bài từ là gì không quan trọng, cái chính là câu "Kim cổ phàm hoa" này bao trùm toàn bộ các loài hoa từ xưa tới nay trên đất Hoa Hạ Cửu châu7!

Các tên gọi xưa chỉ Trung Quốc.

Đúng lúc đấy, Chu Tử Thư nghe thấy tiếng chửi om tí tỏi từ gian bên cạnh. Thí sinh ngồi kế bên nói giọng Thịnh Kinh đặc sệt, thiếu điều rủa Dương đại học sĩ xuống lỗ quách đi cho rồi. Sai nha đi tuần đến kiểm tra thì tiếng chửi im bặt. Nhưng đã đến giai đoạn cuối của trường thi đầu, phần lớn các thí sinh đều đang bắt tay vào viết thơ thí thiếp, thành ra toàn trường rặt tiếng than cùng thở.

Chu Tử Thư nhăn nhó, nghĩ bụng tuy mình là dân bách khoa nhưng thơ hay vịnh hoa nhiều như lá mùa thu, cậu quơ bừa cũng được đôi ba bài. Cái ngặt nghèo là bài thi yêu cầu viết thể ngũ ngôn bát vận, Chu Tử Thư dù có ý đồ đi tắt, đạo thơ để đỗ Giải Nguyên cũng chẳng thể nào tìm được một bài thơ đúng yêu cầu.

Cứ vịnh hoa bình thường thì chắc chẳng sai được, nếu viết hay có khi còn được xếp hạng cao. Nhưng Dương Đại học sĩ ra đề mục thế này, ắt hẳn không phải để thí sinh vịnh hoa theo nghĩa đen đâu.

Vả lại...Với văn vẻ của Chu Tử Thư thì vịnh hoa suông khó mà đỗ cao lắm!

Chợt Chu Tử Thư nhớ ra bài thơ: "Đâu phải vô tình làm hoa rụng, hoá mùn dành để giúp xuân tươi!" Cậu lập tức hưng phấn hẳn lên.

Đúng rồi, thời hiện đại người ta ưa dùng hình ảnh ngọn nến, người làm vườn để ví von với người thầy; thời cổ đại cũng vậy, người xưa đã từng dùng hình ảnh hoa rụng để ẩn dụ việc phụng dưỡng cha mẹ. Cậu hoàn toàn có thể dựa vào biện pháp này để viết một bài thơ "tình hoa."

Cậu hạ quyết tâm, bản nháp đã có sẵn trong đầu, chỉ việc múa bút thành thơ thôi.

Đùng đùng cơn sấm động, Sóng sánh cả tầng mây.

Mặt cỏ nước dâng đầy, Mưa xối tàn hoa lá.

...

Hoa rụng, người từ tạ

Càng xót tủi phận hoa Lặng thầm tan vào đất

Xuân tới lại bên chàng.

Chu Tử Thư hạ bút như thần, viết liền tù tì không ngừng nghỉ. Trong chốc lát, một bài thơ ngũ ngôn bát vận đã ra đời trên trang giấy. Viết xong, cậu chép lại vài quyển thi, thổi cho khô mực rồi soát lại ba bài bát cổ chế nghệ.

Muốn đỗ Giải nguyên đúng là khó phát khiếp! – Chu Tử Thư thầm than.

Nhưng cậu nhất định phải lọt vào ba hạng đầu!

Rốt cuộc ba ngày thi cũng khép lại. Sau khi viết bài suốt cả đêm, các thí sinh ai về nhà nấy đi ngủ, hôm sau quay lại thi tiếp.

Sai nha thu quyển xong là Chu Tử Thư xách giỏ theo đoàn thí sinh khác ra khỏi cổng. Vừa đứng lên cậu đã thấy đầu óc quay cuồng, sự mệt mỏi tích lũy suốt ba ngày bây giờ xông thẳng lên não. Chu Tử Thư lảo đảo hòa vào dòng người ra khỏi trường thi, loáng thoáng nghe thấy ai đó gọi tên mình.

Chu Tử Thư ngoái đầu, ngơ ngẩn nhìn người đang tiến tới.

Bỗng có ai đó đi qua huých phải cậu, làm Chu Tử Thư loạng choạng ngã vào lòng cái người vừa đến trước mặt mình.

Tim Cung Tuấn hẫng một nhịp, chàng vỗ nhè nhẹ lên má Chu Tử Thư, ngạc nhiên hỏi: "Tiểu sư đệ?"

Chu Tử Thư nghĩ: "Không cho sờ má người ta!" rồi buột miệng mắng luôn câu ấy. Cung Tuấn phì cười, nhưng chỉ tích tắc sau, Chu Tử Thư đã ngủ không vẫy tai. Cung Tuấn nhanh tay ôm eo cậu, Chu Tử Thư mới không tuột xuống đất.

Diêu Tam chạy tới hỏi: "Tiểu đông gia làm sao thế ạ?"

Cung Tuấn ôm sư đệ, ngửa mặt lên trời bó tay thở dài, không giấu nổi nụ cười trên môi: "Ngủ mất tiêu rồi!"

||

Lời tác giả:

Anh Cunghàng xóm: Đây là lần đầu tiên ta ôm người khác, cũng là lần đầu tiên bị người ta mắng đấy. Tiểu sư đệ ơi, đệ bảo phải làm sao bây giờ?

Tiểu Thư Lang: zzz....

Hình ảnh

1. Gian phòng thi của thí sinh. Ván gỗ vừa kê thành bàn vừa kê thành giường.

2. Mô hình cống viện Quảng Đông. Khu nhà thi ở phía trước, phía sau là khu ở/làm việccủa khảo quan.

Ảnh:

Chú thích

Bắc Trực Lệ: Khu vực trực thuộc quản lí của triều đình trung ương, bao gồm phần lớn tỉnh Hà Bắc, một phần các tỉnh Hà Nam, Sơn Đông, Bắc Kinh, Thiên Tân ngày nay.

Việc sử dụng nội liêm – ngoại liêm ở đây có thể thiếu chính xác (liêm là rèm, các quan phải chấm bài kín sau rèm để tránh gian lận). Theo tài liệu mình tra được thì cả khu Nội liêm và Ngoại liêm đều là khu vực của khảo quan (ngoài Chánh, phó chủ khảo ra thì còn nhiều quan khác cũng bị "nhốt" trong trường đến hết kì thi). Nội liêm ứng với Nội trường và Ngoại liêm ứng với Ngoại trường trong trường thi Việt. Khu Ngoại liêm-Ngoại trường mới giáp với khu vực các thí sinh thi, nên nói các thí sinh đi vào tận khu Nội liêm rồi mới chia ra các phòng thi thì mình thấy chưa thuyết phục.

Sách Thiên Tự Văn gồm 1000 từ riêng biệt, sau được biên soạn thành các câu có nghĩa.

Nhạc tông Thái đại nghĩa là trong nhóm núi Ngũ Nhạc, núi Thái Sơn được sùng bái nhất.

(theo )

Trong khoa cử Việt hay gọi là kỳ đệ nhất, kỳ đệ nhị nên mình sẽ chỉnh thành trường đệ nhất, đệ nhị cho có sự tương đồng.

Tam Thánh mà Mạnh Tử công nhận nếu không nhầm thì là Y Doãn, Bá Di, Khổng Tử, đều là những nhà chính trị, tư tưởng có đức hạnh, có tài tế thế an bang.

Bạn nào muốn biết thêm có thể tìm hiểu qua về thuyết Hoa – Di và cách chia vùng lãnh thổ thành 9 châu của Trung Quốc thời xưa. Vì có liên quan đến Hoa – Di, cũng như thời Bắc thuộc lãnh thổ Việt Nam từng bị gộp vào Giao Châu trong 9 châu nên mình ghi rõ đây là những cách gọi "cổ"

Trích Kỷ Hợi tạp thi bài số 5 của tác giả Cung Tự Trân thời Thanh. của dịch giả Nguyễn Thị Bích Hải.

Thơ gốc của Mạc Thần Hoan: 雷动虺虺听, 晴定滟滟生. 草漫连独枝, 雨打落群芳. 落花人去也, 花自更伤心. 不堪碾做泥, 春来与君倾.

------oOo------

Chương 38

Nguồn: EbookTruyen.Net

Long phượng trình tường

Ngoài trường thi Thịnh Kinh, các thí sinh ùa ra như ong vỡ tổ.

Diêu Tam thấy Chu Tử Thư ngủ ngon lành cành đào bèn bảo: "Hay là để tiểu nhân bế tiểu đông gia đi ạ."

Cung Tuấn nghĩ ngợi, thấy thư đồng Phụng Bút của Chu Tử Thư đã gọi xà ích đánh xe ngựa đến gần rồi thì đáp: "Thôi, ta đỡ đệ ấy lên xe ngựa cũng được."

Diêu Tam định nói thêm, nhưng khó mà cất lời trước một CungTử Phong từ khí chất đến cử chỉ đều rất mực văn nhã, ung dung, không hổ là đại gia công tử. Anh ta tự thấy bản thân có phần thô thiển, nhất thời không dám trái lời Cung Tuấn, trong bụng thầm nghĩ chuyện này không quá to tát, nên cứ theo sau Cung Tuấn, nhìn chàng đỡ Chu Tử Thư lên xe ngựa.

Việc Cung Tuấn chờ Chu Tử Thư ngoài trường thi thực ra cũng do trùng hợp. Hôm nay Cung Tuấn có việc phải xử lí ở Quốc Tử Giám mà trường thi lại ngay gần đấy, thế nên chàng mới tiện thể sang xem tình hình Chu Tử Thư ra sao. Trông tướng ngủ không vẫy tai của Chu Tử Thư, Cung Tuấn lại nghĩ đến câu nói ban nãy mà bật cười. Chàng cố tình vỗ má cậu thêm hai cái nữa.

Diêu Tam: "?" Làm gì kì vậy?

Cung Tuấn nhìn anh ta, giọng điệu cực kì chính trực: "Hình như sốt nhẹ đấy, về nhớ mời đại phu đến thăm bệnh."

Diêu Tam hoảng hốt: "Vâng!"

Hai bên bấy giờ mới từ biệt nhau.

Xe ngựa về đến nhà, Diêu Tam vội vàng mời đại phu tới khám. Các đại phu trong Thịnh Kinh đang cuống cuồng hết cả lên; trường thi đầu tiên vừa kết thúc, số tú tài đổ bệnh nhiều không đếm xuể. Y quán lớn nhỏ khắp Thịnh Kinh chật ních người, Diêu Tam phải chi mạnh tay mới mời được một đại phu già đến.

Đại phu già bắt mạch xong thì bảo: "Đúng là hơi sốt, nhưng bệnh nhẹ thôi. Các tú tài phải ngồi trong phòng thi chật chội bẩn thỉu suốt ba ngày ba đêm, thể hư khí nhược cũng là bình thường. Lão phu kê cho ít thuốc đây, tỉnh thì uống một thang khắc đỡ. Giờ anh theo lão đi bốc thuốc."

Chu Tử Thư tỉnh lại vào lúc nửa đêm, uống thuốc Phụng Bút sắc cho, quả nhiên tỉnh táo hẳn ra.

Ăn nhẹ xong, Chu Tử Thư chợt nhớ ra một điều, bèn hỏi: "Diêu đại ca, lúc mới ra khỏi trường thi tôi gặp ảo giác thì phải. Hình như tôi thấy...thấy sư huynh Tử Phong?"

Diêu Tam cười: "Tiểu đông gia không gặp ảo giác đâu, đúng là Cungđại nhân chờ cậu ngoài cổng trường, còn đỡ cậu lúc cậu ngủ mê man đấy!"

Chu Tử Thư: "..."

Sao lại cứ phải là CungTử Phong cơ chứ!!!

Chu Tử Thư không biết phải mô tả cảm xúc hiện tại ra sao, chỉ ước gì ngủ một giấc là quên sạch bách phiền não, tỷ như chuyện Cung Tuấn tự dưng vỗ má cậu, hay chuyện cậu mắng thẳng mặt CungTử Phong là "Không cho sờ má người ta!"

Ngày hôm sau còn phải thi tiếp, Chu Tử Thư thở dài ngao ngán, đành nhắm mắt ngủ.

Hôm sau, hơn mười ngàn thí sinh lại lũ lượt kéo vào trường thi từ lúc trời tối mịt. Chu Tử Thư nhìn quanh quất, phát hiện nhân số đã giảm đi cỡ một phần mười so với ba ngày trước. Cậu thở dài, cũng hiểu là có nhiều thì sinh sau ba ngày thi đã đổ bệnh nặng, không thể thi tiếp nổi; ngoài ra cũng có những thí sinh biết mình thi hỏng trường đệ nhất, hai trường sau có thi tiếp cũng vô ích, bèn quyết tâm quay lại con đường ôn luyện, chờ ba năm sau tái chiến.

Nói vậy nhưng đây là tin mừng cho cậu vì bớt được một đống đối thủ cạnh tranh.

Chu Tử Thư lên dây cót tinh thần, tiến vào phòng thi. Đến giờ Tý, quan chủ khảo đứng trên lầu Minh Viễn, gõ trống vang rền.

Thùng!

Sai nha phát bài cho thí sinh.

Trường thi Hương đệ nhị yêu cầu viết năm bài văn bát cổ, đề mục lấy từ Ngũ Kinh. Đề không lấy từ mỗi quyển kinh mà cứ mỗi quyển quan chủ khảo lại chuẩn bị năm đề, tổng cộng là hai mươi lăm đề mục. Thí sinh có thể chọn một bộ đề rồi viết năm bài chế nghệ theo bộ đề đó.

Chu Tử Thư không do dự chọn năm đề về Chu Dịch.

Trên quyển để bằng giấy đỏ là năm đề mục.

Đề thứ nhất: Tự cường bất tức

Đề thứ hai: Tiểu hanh

Đề thứ ba: Quân tử dĩ biện

Đề thứ tư: Hà thiên chi cù

Đề thứ năm: Tác nhạc sùng đức.

Vừa đọc đề số một Chu Tử Thư đã nhướng mày, nghĩ bụng hỏng bét rồi.

Việc Dương Đại học sĩ thích Chu Dịch là Cung Tuấn nói cho Chu Tử Thư nên cậu không nghi ngờ chút nào. Nếu cậu chọn Chu Dịch để viết, nhất định sẽ làm hài lòng quan chủ khảo. Nhưng Dương đại học sĩ nghiên cứu Chu Dịch quá tường tận, năm đề này đề nào cũng khiến người ta phải đau đầu.

"Tự cường bất tức", nguyên văn là "Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức", ý chỉ người quân tử luôn luôn nỗ lực vươn lên, hăng hái học tập.

Tiểu hanh, nguyên văn là "tiểu hanh, lợi hữu du vãng , lợi kiến đại nhân." Tiểu tức là "khiêm nhường cẩn thận", hanh là từ thông dụng, chỉ "thuận lợi." Khi khiêm tốn cẩn thận thì vạn sự thuận lợi. Câu này đòi hỏi người quân tử phải nghiêm khắc với bản thân.

Xuống đề thứ ba, "Quân tử dĩ biện" dặn dò người quân tử phải biết phân biệt đúng sai. "Hà thiên chi cù" khuyên nên trọng dụng người tài đức. Còn câu cuối cùng "Tác nhạc sùng đức", là vế chính trong câu "Tiên Cungdĩ tác nhạc sùng đức", ý rằng "Những bậc quân chủ hiền minh thời xưa tạo ra âm nhạc để ngợi ca công đức." [1]

[1] Nhạc là một phần không thể thiếu của Lễ

Nói tóm lại, trong năm đề này thì ba đề đầu hướng đến người quân tử, nhắc nhở người quân tử biết gìn giữ, rèn luyện bản thân. Hai đề sau là tâm tư gửi tới người cai trị đất nước.

Mỗi đề đều rộng và có thể viết thoải mái tự do, nhưng dường như tất cả đều có sự liên kết vô hình nào đấy. Đặc biệt là ba đề đầu, rất có khả năng viết trùng với nhau. Viết bài thứ nhất xong lại phải viết bài thứ hai y đúc, chẳng khác nào nhai đi nhai lại một bài ba lần.

Chu Tử Thư thầm ca thán trong lòng: "Dương Đại học sĩ say mê Chu Dịch thật!"

Ra đề hay đến mức thí sinh không biết phải cảm động hay đau tim nữa!

Chu Tử Thư lật các quyển đề khác ra đọc thử xem sao. Quả nhiên, năm đề Chu Dịch là khó nhằn nhất!

Viết Chu Dịch thì ắt làm đẹp lòng Dương đại học sĩ, nhưng năm đề Chu Dịch cũng khó viết chết đi được!

Trong lúc Chu Tử Thư vắt óc suy nghĩ thì trời dần hửng sáng. Vầng thái dương ló rạng đằng Đông, tỏa ánh ban mai lên khu nhà thi ken đặc phòng ốc như tổ ong. Thánh thượng hướng về phương Nam cai quản, thần dân hướng lên phương Bắc phục tùng. Nắng xéo vào phòng thi, Chu Tử Thư nheo đôi mắt, nhìn vầng mặt trời đang dần dần nhô lên.

Chỉ trong tích tắc, Chu Tử Thư hạ quyết tâm, không do dự nữa: "Dù viết không tốt thì có hề gì, đây là Chu Dịch, chỉ cần mình không lạc đề, không có tư tưởng phản nghịch thì Dương Đại học sĩ không thể chấm điểm thấp cho mình được. Hơn nữa, trường thi đệ nhất mình làm bài khá chắc ăn rồi. Trường đệ nhị chỉ là thứ yếu thôi, tóm lại không việc gì phải lo hết." Chí đã quyết, Chu Tử Thư bèn đọc cẩn thận lại năm đề bài cho.

Bậc quân tử biết phân biệt phải trái, khiêm tốn, thận trọng thì thuận lợi, tất sẽ không ngừng vươn lên, con đường tương lai rộng thênh thang như đường trời, chớ coi khinh lễ nhạc, biết tôn vinh công đức người xưa!

Chu Tử Thư nảy ra một ý tưởng táo bạo!

Những đề mục này khá hóc búa bởi phạm vì đề rộng, cậu có thể viết năm bài bình bình nhưng khó viết sao cho xuất sắc. Tuy vậy, dù Lương Tụng hay Cung Tuấn thì đều nhận xét rằng, cái giỏi giang của Chu Tử Thư trong văn bát cổ không phải là suy luận hay hành văn, mà là cách phá đề rất khác người. Đã thế, cớ gì mà cậu không sáng tạo lên chứ!

Gộp luôn năm đề này lại, viết thành một bài văn lớn!

Bài văn lớn của cậu sẽ gồm năm phần, mỗi phần vừa là một bài văn đơn lẻ, vừa là một phần tạo nên chỉnh thể bài văn lớn. Kết hợp năm bài lại sẽ thành một áng văn về "Quân tử cầu đạo, thánh nhân hiền năng." Thông qua cách sáng tạo này, cậu có thể bù lại cho hiểu biết còn hạn chế của cậu về Kinh Dịch.

Đã có phương hướng, Chu Tử Thư bắt tay vào dựng dàn bài trên nháp, liệt kê ra hết những liên kết giữa các đề, rồi sắp xếp các đề này theo trình tự tăng tiến.

Đến tối ngày thi thứ hai thì cậu đã xây dựng xong liên kết giữa các đề, bắt đầu viết bài.

Dương Đại học sĩ ra đề "Tự cường bất tức."

Chu Tử Thư đáp rằng: "Người sĩ phu mạnh nhờ không ngừng chiến thắng bản thân, con đường tìm đạo của người quân tử xuất phát từ việc noi theo phép tắc của đất trời. Lấy trật tự của trời làm cơ sở cho hành động, biết phân biệt đúng sai, biết giữ mình khiêm tốn, ấy chính là đức độ hợp với lẽ trời, đưa con người ta gần gũi nhất với thần thánh..."

Bài thứ nhất viết vô cùng lưu loát, Chu Tử Thư không dừng lại mà tranh thủ đà cảm hứng, viết luôn bài thứ hai.

Viết liên tục ba bài, Chu Tử Thư đánh một giấc dài say sưa, tỉnh lại thì viết nốt hai bài còn lại dưới ánh Tuấng và ánh nến.

Bấy giờ tiếng gà gáy sáng đã cất lên, đến ngày thi cuối cùng rồi.

Chu Tử Thư lại ngủ thêm một giấc nữa. Ngủ dậy, cậu chép lại hết năm bài văn cho thật nắn nót, đẹp đẽ bằng thể chữ Quán các, rồi thổi mực, nộp bài thi.

Các Tú tài nộp bài sớm cùng nhau ra khỏi trường thi Thịnh Kinh, lúc này mới là giờ Thân buổi chiều ngày thứ ba. Diêu Tam và Phụng Bút đang ngồi chờ dưới bóng râm của cây liễu trước trường thi, đột nhiên thấy Chu Tử Thư thì đờ người ra. Chu Tử Thư đi tới trước mặt hai người, Diêu Tam mới bật dậy: "Tiểu đông gia sao lại ra đây?"

Chu Tử Thư cười: "Làm bài xong thì về thôi." Như thể chẳng có gì to tát.

Diêu Tam gãi đầu gãi tai: "Thế chúng ta về nhà nghỉ ngơi vậy."

Chu Tử Thư nhìn quanh quất: "Hôm nay Tử Phong sư huynh không đến à?"

Diêu Tam: "Không ạ. Tiểu đông gia đang chờ Cungđại nhân ư?"

Chu Tử Thư: "...Không, về thôi."

Nghỉ ngơi ở nhà một đêm, hôm sau Chu Tử Thư lại đến trường thi.

Trường thi đệ tam chỉ thi cho đủ số, các thí sinh đều nhẹ nhõm ung dung. Thi đỗ hay hỏng đều đã xong rồi. Trường đệ tam chủ yếu thi về chính sách, các tú tài thì biết gì về chính trị, thời sự đâu, chỉ lí luận suông thôi! Các quan chấm thi cũng không mong tú tài viết được tác phẩm sách luận nào đặc sắc cả, chỉ cần không phạm thượng, không viết điều đại nghịch bất đạo thì cho qua hết.

Chu Tử Thư làm bài ngon ơ, sau ba ngày thì rời trường thi về nhà. Việc đầu tiên cậu làm là: Tắm.

Ngâm mình trong bồn nước ấm sực, Chu Tử Thư thở phào nhẹ nhõm: "Phê quá đi!"

Song cậu chưa hết việc đâu. Rửa mặt chải đầu, thay quần áo mới tinh tươm, Chu Tử Thư tranh thủ lúc trời còn chưa tối thì ghé Phó phủ.

Phó Vị đang đút thức ăn cho hai con vẹt trong thư phòng. Thấy Chu Tử Thư, ông liền cho cậu một nắm mồi chim. Trong lòng Chu Tử Thư chợt dâng trào một cảm xúc quen thuộc, tưởng như đang thấy một bóng hình thanh nhã rất đỗi thân thương. Cậu giật mình, hướng về phía Phó Vị nói: "Tiên sinh, học trò xong rồi."

Phó Vị nghe thế, nghiêm mặt: "Sao lại nói là 'xong'? Cảnh Tắc, con nói bậy quá!"

Chu Tử Thư dở khóc dở cười: "Dạ dạ dạ, học trò đã hoàn thành kì thi

Hương rồi."

Phó Vị nở nụ cười: "Cảm nhận ra sao?"

Chu Tử Thư nhớ lại kĩ càng: "Trường đệ nhất viết khá tốt, phát huy hơn bình thường. Trường đệ nhị thì miễn chê, trường đệ tam hỏi sách luận, học trò không viết gì đao to búa lớn, chỉ nghe theo lời Tử Phong sư huynh, có gì nói nấy thôi."

Phó Vị hừ một tiếng: "Ai hỏi con mấy cái đấy làm gì!"

"Ơ?"

"Ý ta hỏi con, là ngồi phòng thi Thịnh Kinh có đến nỗi điếc mũi vì mùi chân thối với mùi mồ hôi không?"

Chu Tử Thư: "..."

Kẻ nào nhập vào thầy tôi thế này?!

Ngày mười chín tháng tám, một ngày sau khi ba trường thi Hương ở Thịnh Kinh kết thúc. Sai nha đã dán xong tên cho hơn ba vạn bài thi, chuyển đến khu nhà chấm thi của giám khảo. Bài thi cả đống cả khiêng, các học chính, học sĩ chấm bài lên bờ xuống ruộng.

Trước khi chính thức chấm bài, quan chủ khảo Dương đại học sĩ nâng chén trước mọi người: "Lấy trà thay rượu, trong mười ngày tới, chư vị đồng liêu có nhiệm vụ chấm bài cho một vạn thí sinh. Ta xin kính mời chư vị một chén!"

"Xin kính đại nhân một chén!"

Mọi người uống trà, rồi bắt tay vào công cuộc chấm bài gian khổ kéo dài mười ngày.

Đến ngày hai mươi chín tháng tám, các quan chấm bài đều đã xem xong bài thi, mỗi bài phải qua ba vòng thẩm duyệt, có đầy đủ lời phê của khảo quan và điểm số [2]. Ngày cuối cùng, ba quan phó khảo cùng chọn ra ba bài thi, Dương đại học sĩ cũng chọn một bài, các quan họp lại để quyết định ba giáp đầu cho kì thi Hương tại Thịnh Kinh năm nay.

[2] Có các quan sơ khảo, phúc khảo và giám khảo mỗi quan chấm một lượt

Một vị phó khảo nói: "Lưu Trạch ở Sơn Tây là đồng hương với ta. Ta từng nghe thanh danh của trò ấy rồi. Lưu Trạch là thần đồng nổi tiếng ở Sơn Tây, mười sáu tuổi bắt đầu đi thi, đỗ ngay tiểu tam nguyên đồng thí. Đáng lẽ hai năm sau đấy trò ấy thi Hương luôn, nhưng vì mẫu thân đột ngột qua đời, trò ấy thủ hiếu ba năm nên không được đi thi. Ba năm sau khăn gói đi thi, chẳng may phụ thân qua đời, Lưu Trạch tiếp tục phải thủ hiếu. Cứ thế lần lữa tám năm, hôm nay hai mươi lăm tuổi mới tới Thịnh Kinh thi Hương."

Một vị phó khảo khác xem quyển của Lưu Trạch, nhận xét: "Văn phong độc đáo, bút lực khỏe khoắn, khả năng sáng tác tinh tế. Ưu tú thật!"

Mọi người cùng đọc thử, Dương đại học sĩ cũng bị hấp dẫn, nói: "Tuyệt vời! Mỗi chữ trong bài 'Ta mười lăm tuổi chuyên chú vào việc học' đều vô cùng tâm huyết. Trải qua mấy phen biến cố mà viết nên kiệt tác bực này, hoàn toàn xứng đáng danh hiệu Giải Nguyên năm nay!

Một viên quan phó khảo khác nói: "Thí sinh này là Diêu Thiện, sĩ tử kinh thành, năm nay bốn mươi ba tuổi. Tuy tuổi hơi lớn nhưng tài năng thật phi phàm. Hai mươi tư năm trước anh ta vốn là tiểu tam nguyên Đồng thí ở Thịnh Kinh. Không may thay, người anh cả của Diêu Thiện bị người Liêu sát hại. Vì thế, Diêu Thiện xếp bút tòng quân, đi lính ở phủ U Châu, mãi đến năm ngoái mới xuất ngũ. Bài văn 'Ta muốn chấn chỉnh lòng người' của người này có hùng tâm tráng chí, thể hiện trải nghiệm cực kì phong phú, sâu sắc."

Dương đại học sĩ đọc xong cũng gật gù khen: "Xuất sắc!"

Mọi người xem hết mười bài thi tiêu biểu của trường đệ nhất xong, ngoài Lưu Trạch đã được Dương Đại học sĩ chấm làm Giải Nguyên, bốn khảo quan khó mà nhất trí được với thứ hạng của chín người còn lại.

Thế là một quan đề xuất: "Chi bằng ta hãy xem thử chế nghệ Ngũ Kinh của các thí sinh."

Các quan cùng lấy quyển thi của trường đệ nhị ra đọc với nhau.

Trong nhà chấm thi đang yên ắng, đột nhiên Dương Đại học sĩ thốt lên: "Hay, hay, hay quá!"

Ba quan Phó khảo vội vàng hỏi: "Dương đại nhân đọc được bài nào ưu tú thế?"

Dương Kỳ lập tức chìa quyển thi cho các quan khác: "Chư vị đại nhân đã đọc tác phẩm này chưa?"

Một phó khảo nói: "Chu Tử Thư Đường Cảnh Tắc? Quyển của trò này tôi nhớ. Cả thơ thí thiếp và chế nghệ của cậu này không vượt trội hẳn so với tám thí sinh còn lại, nhưng bài nào bài nấy xuất sắc cực kì, thuộc tốp trên trong chín bài. Hơn nữa, chữ trò này rất đẹp, khí phách hệt như ân sư Phó Vị – Phó đại nhân của cậu ta vậy."

"Nguyên lai là cao đồ của Phó đại nhân."

"Thư pháp Cungđại nhân nổi tiếng thiên hạ, hiển nhiên chữ của sư đệ ngài ấy cũng phải hơn người."

Phó Vị và Cung Tuấn tuy vắng mặt nhưng cũng thu hoạch được cả rổ những lời tán tụng.

Dương Đại học sĩ nói: "Trò này chọn năm đề Chu Dịch, xem qua dễ tưởng mỗi bài cứ chiếu theo quy củ mà viết thôi, nhưng chư vị để ý này, phần phá đề trong mỗi bài của cậu ta luôn liên hệ với bốn đề còn lại. Tức là tuy năm mà một, toàn bộ bài thi là một bài văn lớn!"

Bấy giờ các khảo quan khác mới nhận ra điểm khác biệt này.

"Giỏi quá!"

Dương Kỳ càng đọc quyển của Chu Tử Thư càng ưng bụng.

Trong mười thí sinh xuất sắc nhất mà họ lọc ra thì chỉ Chu Tử Thư và một người khác chọn Chu Dịch. Bài của thí sinh kia câu chữ hoa mỹ, nhưng lặp đi lặp lại một điệu. Dương Kỳ là điển hình tiêu biểu của học sĩ nghèo mà thanh cao trong viện Hàn Lâm, ngay từ cách ông ta chọn đề, Chu Tử Thư đã nhận ra rằng vị học sĩ này chẳng những vô cùng kiêu hãnh mà còn đặt tiêu chuẩn cực kì cao đối với bản thân.

So với những bài thi chau chuốt, đao to búa lớn, Dương Kỳ càng thích năm bài viết của Chu Tử Thư hơn, thích tới nỗi không nỡ buông tay.

Người sĩ phu mạnh nhờ không ngừng chiến thắng bản thân, con đường tìm đạo của người quân tử xuất phát từ việc noi theo phép tắc của đất trời. Lấy trật tự của trời làm cơ sở cho hành động, biết phân biệt đúng sai, biết giữ mình khiêm tốn, ấy chính là đức độ hợp với lẽ trời, đưa con người ta gần gũi nhất với thần thánh!

Câu này chính là để chỉ bản thân Dương Kỳ đây mà!

Không đời nào ông để bản thân bị đánh đồng với bè lũ quan lại ngu dốt, hồ đồ trong chốn quan trường!

Dương Kỳ thậm chí muốn chấm Chu Tử Thư đỗ Giải Nguyên. Ông bèn đem ý định này nói cho ba quan phó khảo.

Ba vị phó khảo đều ngạc nhiên: "Tuy năm bài Chu Dịch của Chu Tử Thư viết rất hay, nhưng quyển thi trường đệ nhất của cậu ta viết không tốt bằng Lưu Trạch. Lúc nãy đại nhân cũng bảo Lưu Trạch hoàn toàn xứng đáng đỗ

Giải Nguyên mà?"

Có người đoán: "Chẳng lẽ Dương đại nhân...thích Chu Dịch?"

Dương Kỳ: "..."

Nếu Chu Tử Thư đứng ở đây lúc này chắc cậu sẽ bị sốc nặng. Sao Cung Tuấn dám nói "thiên hạ ai cũng biết Dương đại học sĩ say mê Chu Dịch" cơ chứ? Đâu? Thiên hạ nào biết?

Dương Kỳ đọc lại năm bài Chu Dịch của Chu Tử Thư, rồi xem lại quyển của Lưu Trạch. Lưu Trạch chọn đề Xuân Thu, viết năm bài văn về Xuân Thu.

"Đúng là Thiên mệnh rồi!"

Mùng một tháng chín, yết bảng thi Hương.

Diêu Tam vốn định đến cổng trường thi xem sai nha yết bảng, nhưng Chu Tử Thư ngăn anh ta lại: "Anh có biết hôm nay có bao nhiêu người tụ tập ở trường thi không?"

Diêu Tam làm sao mà biết được: "Không ạ."

Chu Tử Thư: "Thí sinh hơn vạn người thì ít nhất cũng phải tám nghìn người muốn xem kết quả. Họ dẫn theo bạn bè người thân nữa, ở chỗ quế bảng phải có ít nhất hai mươi nghìn người. Chúng ta không xếp hàng từ nửa đêm thì đừng hòng mong thấy bảng! Khỏi đi cho mất công, bảo Phụng Bút đến nghe ngóng thôi, nếu nghe thấy có tên thì về báo. Tôi thừa sức thi đậu cử nhân."

Hiện tại, quản lí Lục và kế toán Lâm đều đã lên Thịnh Kinh.

Người khác nói thế, còn lâu kế toán Lâm mới tin, chỉ cho là họ khoác lác. Nhưng Chu Tử Thư thì khác; kế toán Lâm gật gù vuốt râu: "Diêu Tam đừng đi, để Phụng Bút đi thôi. Nếu nghe được tin gì thì về báo cáo."

Phụng Bút nhận lệnh đến trường thi nghe ngóng, còn mọi người thì ở nhà đợi.

Ngồi đợi mãi mà Phụng Bút vẫn chưa về, Chu Tử Thư cũng bắt đầu sốt ruột. Cậu lấy Bảng chữ Pháp Môn hồi trước Cung Tuấn cho ra chép đi chép lại thật tỉ mỉ. Đến khi mặt trời lên cao ba sào mới thấy Phụng Bút tất tả chạy về, mặt mũi đỏ bừng, hớn ha hớn hở.

Mọi người thấy thế thì biết Chu Tử Thư chắc chắn là đậu rồi.

Diêu Tam: "Chú mau nói cho chúng tôi biết, tiểu đông gia đỗ chưa? Đỗ hạng mấy?"

"Đỗ...đỗ!"

Chu Tử Thư đi từ thư phòng ra, nghe thế thì thở phào nhẹ nhõm.

Kế toán Lâm hỏi: "Đỗ hạng mấy?"

Phụng Bút nhấp một ngụm trà, thở không ra hơi: "Á nguyên! Công tử đỗ Á Nguyên!"

Cả nhà sửng sốt.

Một giây sau, bên ngoài có tiếng chiêng trống tưng bừng. Một tốp sai nha mặc quan phục, đeo đai hồng bước vào sân nhà, vui vẻ báo tin: "Chúc mừng Chu Tử Thư – Đường Cảnh Tắc người phủ Cô Tô, Giang Nam, đỗ Á Nguyên kì thi Hương tại Thịnh Kinh." Á Nguyên, là đỗ đệ nhị.

Chu Tử Thư cười ha hả, nói với Diêu Tam: "Thưởng."

Diêu Tam lập tức lấy bạc đã chuẩn bị sẵn ra, chia cho đám sai nha báo hỉ.

Biết thành tích rồi, Chu Tử Thư lập tức tới Phó phủ, báo tin mừng cho thầy.

Phó Vị thế mà chẳng hề bất ngờ, cười bảo Chu Tử Thư: "Đúng rồi."

Chu Tử Thư nghĩ rồi hỏi: "Chẳng lẽ tiên sinh phái người chờ ở ngoài trường thi?"

Tiểu đồng Ôn Thư xen mồm vào: "Tất nhiên, từ sáng sớm tôi đã phải đến trường thi xếp hàng đấy, ngủ cả đêm ngoài đường luôn." Chu Tử Thư hạnh phúc vô cùng.

Trong hai học trò của Phó Vị, Cung Tuấn đương nhiên là tam nguyên cập đệ, thi đồng sinh, thi hương, thi hội đều đứng nhất. Lần này Chu Tử Thư đỗ đệ nhị, Phó Vị chẳng hề thất vọng, trái lại ông rất mừng vì học trò của mình có chí phấn đấu.

CungTử Phong xuất thân Lang Gia Cungthị, năm tuổi đã bái Phó Hi Như làm thầy. Chu Tử Thư là học sinh nhà nghèo thứ thiệt, năm nay mười lăm tuổi đã có học vấn và thành tựu bực này, quả là hiếm có.

Phó Vị hỏi: "Con đã báo tin mừng cho sư huynh con chưa?"

Chu Tử Thư: "Thưa thầy, chưa ạ."

"Thế con đi đi. Tử Phong cũng gần như là thầy con rồi." Chu Tử Thư gật đầu, đi sang phủ Thượng thư.

Khi Cung Tuấn về nhà đã thấy Chu Tử Thư chờ chàng trong phòng khách.

Nhác thấy bóng Cung Tuấn, Chu Tử Thư liền đứng lên ngay, nói: "Đạ tạ Tử Phong sư huynh mỗi ngày thi đều chuẩn bị giỏ đồ cho đệ, Cảnh Tắc không đỗ Giải Nguyên, khiến sư huynh thất vọng rồi."

Cung Tuấn dừng bước, nhìn dáng vẻ cung kính của Chu Tử Thư thì không nhịn được cười: Tiểu sư đệ này của chàng cũng khéo biết ra đòn phủ đầu đấy.

"Vạn người mới có một Á Nguyên, chẳng lẽ không đáng mừng ư?"

Chu Tử Thư chắp tay thi lễ: "Kì thì năm xưa, sư huynh từng đỗ Giải Nguyên còn gì."

Cung Tuấn sai quản gia dâng trà, chàng không ngồi ở ghế chủ mà thản nhiên ngồi xuống cạnh Chu Tử Thư. Chợt chàng nói: "Thế này người xưa gọi là long phượng trình tường đấy(*)."

(*rồng phượng báo điềm lành: ý chỉ hạnh phúc lứa đôi, may mắn, thịnh vượng) Chu Tử Thư: "?" Đùa à?

Cung Tuấn nói như thật: "Ta đỗ Giải Nguyên, tiểu sư đệ đỗ Á Nguyên. Ẵm cả ngôi đệ nhất lẫn ngôi đệ nhị, chẳng long phượng trình tường đấy thì gì? Sư môn chúng ta thế là trọn vẹn rồi!"

Chu Tử Thư: "..."

CungTử Phong, anh bị chập mạch rồi!

||

Lời tác giả:

Tiểu Thư Lang: Ai thèm làm long phượng với huynh!

Anh Cunghàng xóm: Ủa? Ý huynh là, ta với tiểu sư đệ đều là nhân trung long phượng. Tiểu sư đệ nghĩ đi đâu vậy?

------oOo------

Chương 39

Nguồn: EbookTruyen.Net

Bởi vì huynh thích thế

Hai người ngồi trong phòng khách uống trà, ngoài phòng bắt đầu nghe tí tách hạt mưa. Chốc lát sau, trận mưa rào đổ ào xuống, mưa lộp độp rơi trên tàu lá chuối.

Cung Tuấn lẳng lặng thưởng trà, chàng vẫn mặc quan phục đỏ thuần, hiển nhiên là vừa về phủ đã gặp ngay Chu Tử Thư. Chu Tử Thư lén quan sát sư huynh. Cậu biết sư huynh nhà mình hơi...lập dị, tính tình cũng khó nắm bắt, hành vi cử chỉ càng khó dự liệu, nhưng đến giờ xem ra anh ta không có ác ý với mình.

Chu Tử Thư thầm thở dài: CungTử Phong thỉnh thoảng cứ nghĩ một đằng nói một nẻo, cậu cố gắng chịu đựng là được.

Chu Tử Thư đang tự làm công tác tư tưởng, chợt Cung Tuấn hỏi: "Trường đệ nhị lần này, đệ chọn năm đề Chu Dịch đúng không?"

Chu Tử Thư ngẩn người, ngồi thẳng lên đáp: "Vâng. Tử Phong sư huynh đã dặn rằng Dương Đại học sĩ thích Chu Dịch, nên đệ tận dụng cơ hội luôn."

"Viết khá đấy."

Chu Tử Thư tò mò ghê gớm: Thế quái nào anh ta biết mình viết khá?

Nhưng đầu óc cậu phản ứng khá nhanh. Dương Đại học sĩ với Cung Tuấn đều là quan trong triều, chuyện mình là sư đệ Cung Tuấn chẳng phải bí mật ở Quốc Tử Giám, có thể Dương Đại học sĩ cũng biết. Nếu thế, việc ông ta nói riêng cho Cung Tuấn biết về bài văn của mình cũng không phải là không thể.

Nghĩ thế xong, Chu Tử Thư cầm chén trà lên định làm một hớp, chợt cậu trố mắt nhìn Cung Tuấn rút từ ống tay áo ra một tệp giấy Tuyên Thành. Trên chồng giấy đó còn lờ mờ vết hồ dán, lại nhìn theo tay Cung Tuấn lật bài, rành rành nét chữ Quán các không thể quen hơn của chính mình chứ ai!

Chu Tử Thư ngớ người ra, ngó trân trân, tay bưng chén trà khựng lại giữa chừng, chẳng biết phải uống tiếp hay đặt xuống đây.

Đệt!

CungTử Phong dám lạm quyền đến mức này luôn!

Ngay cả bài thi Hương của cậu cũng lén lấy về!!!

Giờ mà là thời hiện đại thì có khác nào lấy bài thi đại học về xem đâu?

Dường như Cung Tuấn nghe được tiếng lòng của Chu Tử Thư, chàng ngẩng đầu, bắt gặp vẻ mặt khiếp hãi của đàn em, liền vờ như ngạc nhiên hỏi: "Ủa, tiểu sư đệ không biết, quyển thi Hương được thoải mái lấy về à?"

"Dạ?"

"Để phòng trường hợp giám khảo bất công, chấm bài sai sót, sau khi yết bảng thí sinh nào cũng có quyền lấy bài của mình về để xem. Bài thi đồng sinh thì lưu trữ ở huyện nha trong một năm; thi Hương, thi Hội thì giữ bài trong ba năm. Tiểu sư đệ không biết thật à?"

Chu Tử Thư: "..."

Cậu nào biết những chuyện này!

Nếu thí sinh có thể tự do lấy bài về, vậy Cung Tuấn lấy được bài của cậu cũng không phải việc gì ghê gớm.

Cung Tuấn cười nói: "Ngồi dịch sang đây mà xem này."

Chu Tử Thư do dự một thoáng rồi mới đến ngồi cạnh Cung Tuấn.

Trong phòng khách có một chiếc giường La Hán bằng gỗ tử đàn, chạm khắc rất đẹp. Chỉ cần dịch bàn trà nhỏ giữa giường sang một bên thì đủ chỗ cho hai người ngồi cạnh nhau.

Thi Hương kéo dài ròng rã chín ngày, Chu Tử Thư lúc đi thi phải làm bài ba ngày không được tắm, nghỉ ngơi cũng bất tiện. Để vượt qua kì thi cậu đã dốc cạn sức rồi. Bởi thế, được đọc lại bài mình viết là việc rất có ích, vừa giúp ôn tập, vừa để biết đường chữa lỗi, bổ sung những chỗ còn yếu kém.

Chu Tử Thư đọc lại hai bài chế nghệ ở vòng thi đầu, phát hiện có một số chỗ nếu thay đổi cách diễn đạt sẽ thể hiện ý đồ rõ ràng hơn và gây ấn tượng sâu hơn với người đọc. Cậu thấy quan chấm bài dán lời phê vào bài là "Mở đoạn đặc sắc, phát triển ý tự nhiên, chuyển ý đa dạng, bài làm có chiều sâu."

Chấm bài thi Hương, thi Hội rất vất vả cho các quan. Mỗi bài văn dù hay dù dở, các quan cũng phải dán lời phê vào. Lời phê được chuẩn bị sẵn theo số lượng lớn, trừ trường hợp bài viết quá xuất sắc khiến các quan chấm thi nhiệt liệt tán thưởng, tự mình viết lời bình, còn không lời bình đều được đính lên bài thi sau khi chấm xong.

Quyển thi trường đệ nhất của Chu Tử Thư chỉ được dán lời phê đại trà.

Riêng năm bài Chu Dịch trường đệ nhị thì nhận được lời bình của một người viết thể chữ Hành kiểu CungPhái rất là đẹp. Cung Tuấn: "Nghe nói Dương Đại học sĩ đích thân phê đấy." Dương Đại học sĩ viết:

『Văn hay ở chỗ đúc kết được những điều ngàn năm vẫn có giá trị, khí phách cứng cỏi, dồi dào, nói lên được những điều người khác không thể nói』

Chu Tử Thư gật đầu.

Dương Đại học sĩ quả nhiên là si mê Chu Dịch.

Sư huynh đệ hai người thảo luận bài thi Hương của Chu Tử Thư trong phòng khách suốt. Cung Tuấn chỉ điểm từng chỗ một, Chu Tử Thư nghe tới đâu gật đầu tới đó. Đến khi Tuấng lên, Cung Tuấn gọi quản gia: "Có cơm tối chưa?"

Quản gia đáp: "Bẩm, đã xong xuôi rồi ạ."

Cung Tuấn quay ra bảo Chu Tử Thư: "Thế ở lại dùng cơm nhé."

"...Vâng."

Ăn cơm xong, Chu Tử Thư cáo biệt Cung Tuấn ra về. Cung Tuấn đã thay trường bào màu chàm bằng tơ lụa. Màu này thường con gái hay mặc, nhưng khoác lên người CungTử Phong lại càng tôn lên vẻ tuấn tú của chàng, trông thanh nhã hơn người mà chẳng hề nữ tính chút nào. Trước khi Chu Tử Thư về, Cung Tuấn lại sai thư đồng đưa cậu một quyển chữ mẫu.

Cung Tuấn: "Đến lúc thi Hội thì chữ viết không quan trọng nữa, bởi mỗi bài thi đều được sao chép lại để tránh kẻ gian làm rối kỉ cương."

Việc này Chu Tử Thư biết, đến lúc thi Hội ngoài việc dán tên, triều đình còn sắp xếp các tú tài viết chữ đẹp chép lại quyển thi của thí sinh. Các quan sau đó sẽ chấm bản sao chứ không phải bản gốc bài làm. Cất công đến thế âu cũng để phòng ngừa nạn gian lận.

Cung Tuấn: "Mặc dầu vậy, chữ đẹp vẫn cực kì quan trọng."

Chu Tử Thư thấy hơi căng thẳng, cho là Cung Tuấn lại muốn giúp mình đi cửa sau. Cậu do dự, dè dặt hỏi: "Ý của sư huynh là..."

"Bởi vì huynh thích thế."

"...."

Cung Tuấn lấy quạt che môi, cười nói: "Trêu đệ thôi. Đợi đến lúc thi Đình, nếu đệ lọt vào đệ nhất giáp, được Thánh thượng đích thân xem bài, lúc ấy tự khắc biết vì sao có lợi."

Chu Tử Thư ôm một bụng nghi ngờ mà không dám hỏi về nhà. Đến lúc mở bảng chữ ra cậu mới phát hiện, té ra là chữ mẫu Cung Tuấn tự tay viết. Cậu suy tư một lát rồi hiểu ngay: Cung Tuấn muốn cậu đổi thể chữ!

Người khôn nghĩ ngàn việc, ắt có một việc sai.

Lúc trước Cung Tuấn cho Chu Tử Thư tập viết Bảng chữ Pháp Môn của Chung Thái Sinh bởi lẽ Chung Nguy từng là Nho sĩ hàng đầu trong Tứ Nho thiên hạ, chữ Khải của ông rắn rỏi, khỏe khoắn, được công nhận là không ai bì kịp. Lối viết của ông luyện rất nhanh, chữ lại dễ đẹp, thế nên vô số sĩ tử học theo chữ của Chung Nguy. Nhưng đến khi thi Đình, kể cả khi tất cả các thí sinh đều viết thể chữ của Chung Thái Sinh, Cung Tuấn cũng không để Chu Tử Thư viết giống vậy.

Vì mình, sư huynh bố trí không thiếu thứ gì cả.

Chu Tử Thư nhìn cuốn chữ mẫu, cảm xúc chộn rộn khó lí giải nổi.

CungTử Phong chỉ là sư huynh, nhưng chàng đối xử hết lòng với cậu chẳng khác nào tình nghĩa thầy trò.

Thi Hội là chuyện đầu năm sau thì Chu Tử Thư phải ôn luyện ngay từ bây giờ. Thịnh Kinh cũng bắt đầu xuất hiện nhiều Cử nhân hơn. Các tài tử mặc khách từ bốn phương đều tề tựu ở Thịnh Kinh, sẵn sàng cho kì thi Hội.

Chu Tử Thư đi học ở Quốc Tử Giám, dù có không chủ động nghe ngóng thì vẫn nắm bắt được tin tức mỗi lần bè bạn bàn tán xôn xao.

"Các cậu đã nghe tin, Giải Nguyên trường thi Giang Nam hôm qua vừa đến Thịnh Kinh, thuê trọ ở khu Tây chưa?"

"Phải CungTiêu phủ Kim Lăng không? Nghe đồn có họ hàng xa với họ Cungở Lang Gia đấy."

"Chính y! Đáng lẽ hai năm trước y đã thi Hội rồi, nhưng hồi ấy y bảo không chắc sẽ đỗ Trang Nguyên nên chờ dịp khác. Giờ y tới Thịnh Kinh tức là nhắm đỗ Trạng đấy."

"Thế thì sao, Quốc Tử Giám mình có Lưu Phóng, Mai Thắng Trạch, nào phải hạng đầu đường xó chợ?"

Mai Thắng Trạch khiêm tốn chắp tay: "Các bạn học quá khen, còn có Cảnh Tắc mới đỗ Á Nguyên này, tài học xuất chúng kém ai đâu."

Một câu thôi mà đẩy ngay Chu Tử Thư lên đầu sóng ngọn gió. Tuy biết anh bạn tốt khen mình, nhưng Chu Tử Thư vẫn lườm anh ta một cái, trách anh ta lôi mình xuống nước. Song Chu Tử Thư không thể hiện ra mặt, chỉ bình tĩnh, khiêm tốn chắp tay: "Chu Tử Thư không dám mơ danh hiệu Trạng Nguyên, phải thi đã rồi mới dám bàn luận!" Mười sáu tuổi đỗ Trạng Nguyên ư?

Thế thì rùm beng khác nào "Trạng Nguyên vô song CungTử Phong" chứ?

Chẳng những Chu Tử Thư không muốn chuyện này xảy ra, ở Quốc Tử Giám cũng chẳng ai mong cho cậu đỗ Trạng.

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, chẳng mấy chốc đã vào đông.

Hôm đó Chu Tử Thư đang ngồi trong nhà luyện chữ, đọc sách. Mới có trận tuyết lớn, Quốc Tử Giám cho nghỉ ba ngày, Chu Tử Thư bèn ở nhà tự học. Cậu vừa nhấp miếng trà thì ngoài phòng có tiếng gõ cửa.

"Mời vào."

Cửa gỗ mở ken két, quản lí Lục vỗ người cho rơi hết tuyết rồi đi vào nhà. "Ầy, tuyết to ghê. Tiểu đông gia à, Thịnh Kinh lạnh phát khiếp, phủ Cô Tô nhà mình chưa bao giờ tuyết lớn thế này đâu!"

Chu Tử Thư cười, chỉ chậu than giữa phòng: "Lại đây sưởi cho ấm người."

Quản lí Lục mau lẹ tới bên chậu than, ngồi xích lại sưởi: "Dễ chịu quá. Tiểu đông gia, trưa nay tôi vừa tới lầu Thiên Lý."

Chu Tử Thư buông bút lông, nhìn ông ta với vẻ nghiêm túc: "Kết quả thế nào?"

Quản lí Lục nói: "Có một tin tốt và một tin xấu. Tiểu đông gia muốn nghe cái nào?"

Chu Tử Thư: "Cả hai chứ."

Chu Tử Thư nói năng thẳng đuột, nhưng quản lí Lục giấu giếm cũng chẳng ích chi. Ông đành nói: "Tin tốt là ngoài lầu Thiên Lý – tửu lâu lớn nhất Thịnh Kinh, ba trăm hai mươi mốt tửu lầu khác không nhà nào kinh doanh bát hà cung cả. Thậm chí, chưa có nhà nào thử bán bát hà cung!"

Đồng nghĩa với việc Thịnh Kinh chính là một thị trường khổng lồ đang chờ khai thác!

Chu Tử Thư mắt sáng rực, hỏi: "Thế tin xấu là gì?"

Quản lí Lục đáp: "Lúc trước mình chỉ nghiên cứu xem làm thế nào mở tửu lầu ở Thịnh Kinh, nhưng nào ngờ sau khi tôi tiếp xúc với quản lí Hình của lầu Thiên Lý xong thì phát hiện, tiểu đông gia đoán xem, ai là người chống lưng cho lầu Thiên Lý nào?" Ông nói xong cũng chẳng chờ Chu Tử Thư phản ứng, ngửa mặt lên trời than: "Dĩ nhiên là Tiêu Dao Cunggia, Lục hoàng thúc Triệu Ngao rồi!"'

||

Lời tác giả:

Tiểu Thư Lang: Kỳ thực sư huynh đối xử với ta rất tốt, ta biết chứ. Mỗi tội huynh ấy rất hay...chọc mình! Cố gắng chịu đựng là được. Mà nói đi nói lại, sao sư huynh đối xử với ta tốt vậy nhỉ?

Anh Cunghàng xóm: Nuôi trẻ con sướng nhất là được trêu thỏa thích.

Các bồ tèo nghĩ loại cáo già đạo hạnh vạn năm như lão Cungcó "đổ" ai nhanh vậy hơm?

------oOo------

Chương 40

Nguồn: EbookTruyen.Net

Đệ thích ăn sốt cay

Chu Tử Thư tới Thịnh Kinh chưa đầy một năm, nhưng đã nghe tiếng tăm của Tiêu Dao Cunggia Triệu Ngao.

Triệu Ngao là em trai của đương kim hoàng đế, phong hào là Cảnh, về lí thì nên gọi là Cảnh vương, nhưng mọi người ai cũng gọi ngài là Tiêu Dao vương. Triệu Ngao đã ngót nghét năm mươi tuổi, nhưng tính tình khác hẳn những Cunggia, hoàng tử khác. Vị Cunggia này đam mê ngọc quý và các loại châu báu; nhưng hơn thế, ngài cực kì thích kết giao với sĩ tử trong thiên hạ!

Phàm là sĩ tử hàn môn có tài, chỉ cần đưa danh thiếp đến Cảnh Cungphủ là có thể được chiêu đãi một bữa cơm. Cứ ba năm một lần thi Hội, Giải Nguyên khắp chốn đến Thịnh Kinh còn có cơ hội tham dự Giải Nguyên yến do đích thân Triệu Ngao chủ trì. Tuy gọi là Giải Nguyên yến, nhưng khách khứa không nhất thiết phải đỗ Giải Nguyên. Tháng trước Mai Thắng Trạch đã nói chuyện với Chu Tử Thư về việc này: "Nếu đệ gửi danh thiếp thì cũng được tham gia Giải Nguyên yến vào tháng Chạp đấy."

Tiêu Dao Cunggia Triệu Ngao không có thực quyền, nhưng vẫn đường đường là một Cunggia.

Không ngờ lầu Thiên Lý lại là tửu lầu của ông ta.

Chu Tử Thư suy tư chốc lát: "Chỉ có mỗi lầu Thiên Lý thôi ư?"

Quản lý Lục nghe thế, bật ngón cái: "Tiểu đông gia cao minh, đương nhiên không chỉ có mỗi lầu Thiên Lý rồi. Cảnh Cungthích mỹ ngọc châu bảo, ở Thịnh Kinh việc này ai ai cũng biết. Ngoại trừ lầu Thiên Lý ra, cửa hàng châu báu Họa Đường Thu lớn nhất Thịnh Kinh cũng do quản lí Hình thay mặt Cunggia Triệu Ngao điều hành đó."

Chu Tử Thư: "Ngọc lô hương, hồng chá lệ, thiên chiếu họa đường thu tư.

Cảnh Cungquả thực là một văn nhân phong nhã."

(Câu thơ mô tả nỗi sầu muộn, cô đơn của người thiếu phụ)

Thoạt tiên Chu Tử Thư nhờ quản lý Lục đi thăm dò lầu Thiên Lý vốn là để tìm hiểu tình hình kinh doanh tửu lầu ở Thịnh Kinh, biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Ông chủ ngầm của lầu Thiên Lý là Cảnh vương, mà vị Cảnh Cungnày còn sở hữu cửa hàng châu báu lớn nhất Thịnh Kinh nữa.

Chu Tử Thư trầm ngâm một lát rồi bảo quản lý Lục: "Đã thế, chúng ta cứ tạm gác chuyện này lại đã."

Quản lý Lục sửng sốt: "Ý tiểu đông gia là sao?"

"Ba tháng nữa ta thi Hội rồi, vốn ta không có ý định tham dự Giải Nguyên yến, nhưng ngày mai ta sẽ gửi bái thiếp, đặng có cơ hội gặp mặt Cảnh vương. Việc của chú là tiếp tục kết nối quan hệ với quản lý Hình. Chúng ta vẫn sẽ kinh doanh bát hà cung, nhưng tạm thời không vội được. Từ đầu ta vẫn lo các tửu lầu khác không vừa mắt việc chúng ta bán bát hà cung, vốn ở Cô Tô đã lôi kéo lắm kẻ ghen ghét rồi, ở Thịnh Kinh đương nhiên càng dễ có đối thủ."

Quản lý Lục biết Chu Tử Thư đang nhắc lại vụ quản lí Cunglầu Như Ý cố tình mua chuộc người vu khống lầu Tế Hà.

Chu Tử Thư: "Việc này phải bàn bạc kỹ hơn. bắt đầu từ mai, chú, Diêu Tam và kế toán Lâm hãy đi khảo sát khu vực ngoài thành Thịnh Kinh, ta nhớ rằng phần lớn các nhà xưởng ở Thịnh Kinh tập trung ở phía Đông thành. Kiếm một nhà xưởng phù hợp rồi mua lại. Sẽ có lúc dùng đến."

Quản lý Lục đầu óc rất nhanh nhẹn, ông hiểu ngay ý Chu Tử Thư: "Tiểu đông gia muốn bán xà phòng trước ư?"

Chu Tử Thư cười: "Đúng rồi! Đợt này rét suốt, vất vả cho mọi người quá."

"Không vất vả đâu, tôi hiểu ý tiểu đông gia rồi, xin cậu cứ yên tâm."

Quản lý Lục đi rồi, Chu Tử Thư vẫn cứ tư lự mãi. Cậu lấy một tờ giấy Tuyên Thành, cẩn thận viết một phong bái thiếp.

Sáng sớm hôm sau, cậu tự mình tới phủ Cảnh vương. Chu Tử Thư xưng là

Á Nguyên kì thi Hương vừa qua, liền được đón tiếp niềm nở bởi gác cổng

Cảnh Cungphủ. Chu Tử Thư đưa danh thiếp và bái thiếp xong, hai hôm sau, người của phủ Cảnh Cungliền tới tận nhà gửi thiệp mời cho cậu. Bữa tiệc Giải Nguyên ở phủ Cảnh Cungđược ấn định vào ngày mười chín tháng Chạp.

Ngày mười chín tháng Chạp, Chu Tử Thư thay Nho phục tinh tươm, ghé thăm Cảnh Cungphủ.

Khách khứa đã đến chật phủ Cảnh Cungtừ sớm.

Tháng hai năm sau sẽ thi Hội, cử nhân các nơi đều đổ về Thịnh Kinh từ sớm để chuẩn bị thi. Thi Hương ba năm một khoa, thi Hội cũng vậy. Tuy thế, không phải Giải Nguyên nào đỗ cử nhân xong cũng thi Hội ngay. Đôi khi họ cảm thấy bản thân chưa đủ giỏi, không đỗ tiến sĩ được, đôi khi họ bị trì hoãn bởi việc khác.

Chu Tử Thư được tôi tớ trong phủ Cảnh Cungtiếp đón nồng nhiệt, dẫn tới phòng thết tiệc. Vừa tới cậu đã gặp ngay Lưu Phóng và Mai Thắng Trạch.

Ba người đều là cử nhân Quốc Tử Giám chuẩn bị ứng thi năm sau, lại từng diện thánh cùng nhau, bèn ngồi chung thành một nhóm. Mai Thắng Trạch nói: "Chẳng thấy đệ bảo là định đi, hóa ra vẫn phải đến hử? Cảnh Tắc, đệ đến đây làm gì?"

Lưu Phóng và Chu Tử Thư không thân nhau, chào hỏi xong thì chỉ ngồi đó, không tham gia vào câu chuyện giữa hai người.

Chu Tử Thư hỏi vặn lại: "Thế Thắng Trạch huynh tới đây làm gì?" Hai người nhìn nhau cười.

Mai Thắng Trạch trỏ vào một người đàn ông trung niên phía đối diện: "Người kia tên là Tiêu Cung, nhân sĩ vùng nam Thiểm Tây, nghe nói anh ta nổi tiếng sau một đêm, văn chương lần thi Hương này được quan chủ khảo ca ngợi hết lời, thậm chí còn tự nhận bản thân không đủ trình độ để bình phẩm nữa cơ."

Chu Tử Thư chỉ vào một thanh niên nom khá giản dị bên cạnh Tiêu Cung, nói: "Vậy huynh có biết người kia là ai không?"

Mai Thắng Trạch sửng sốt: "Không biết."

Chu Tử Thư: "Anh ta là Lưu Trạch, chính là vị Giải Nguyên năm nay, tài giỏi hơn cả đệ đấy!"

Hai người cười phá lên.

Trên thực tế phần đông những cử nhân tham dự Giải Nguyên yến đều giống Mai Thắng Trạch, có mục đích là gặp gỡ, học hỏi các đối thủ năm sau của mình. Chu Tử Thư vừa uống trà vừa ngấm ngầm lia mắt về ghế chủ trong phòng thết tiệc. Vị trí đó vẫn trống, Tiêu Dao Cunggia Triệu Ngao chưa có mặt.

Khoảng chừng một khắc đồng hồ, có tiếng bước chân ngoài phòng thết tiệc.

Các cử nhân vội đứng cả lên, nhưng người vào phòng không phải là Triệu Ngao mà là một thanh niên cao gầy.

Đây là con cả của Cunggia, thế tử Cảnh CungTriệu Quỳnh.

Triệu Quỳnh lên ghế chủ vị, vái chào các cử nhân có mặt trong phòng. Đoàn cử nhân vội đáp lễ. Triệu Quỳnh áy náy nói: "Phụ thân rất mong có thể đến tận nơi thù tiếp các vị, nhưng Thánh thượng vừa khéo lại muốn dùng một viên tiên đan mới có được, nên đã cho vời phụ thân vào cung bầu bạn cùng thánh giá. Giải Nguyên yến lần này đành phải để ta chủ trì vậy."

Đoàn cử nhân đồng thanh: "Xin nghe thế tử."

Triệu Quỳnh nâng chén rượu: "Kính mời chư vị sĩ tử."

Đoàn cử nhân đáp lễ: "Kính mời thế tử."

Chu Tử Thư cười khổ, nâng chén uống một hớp rượu.

Đến tận đây rồi còn không gặp được Triệu Ngao!

Uống rượu xong, Triệu Quỳnh bắt đầu kể những chuyện lí thú về kì thi Hương ở các nơi năm nay, bầu không khí của buổi yến dần nóng lên. Qua ba tuần rượu, Triệu Quỳnh đích thân tiễn các cử nhân ra về. Là thế tử Cảnh vương, hoàng thân quốc thích mà anh ta lại ra ngoài sảnh tiệc chào tạm biệt từng cử nhân, thành thử ai nấy đều cảm động vô cùng.

Chu Tử Thư tới trước mặt Triệu Quỳnh, đang định chắp tay thi lễ thì Triệu

Quỳnh nói: "Trông vị sĩ tử này mới độ mười lăm mười sáu tuổi thôi nhỉ."

Chu Tử Thư: "Tại hạ năm nay mười lăm ạ."

Triệu Quỳnh cười: "Tới dự Giải Nguyên yến toàn là những người đỗ ba hạng đầu kì thi Hương các vùng miền. Xin hỏi, phải chăng cậu đây là

Chu Tử Thư – Đường Á nguyên?"

Chu Tử Thư có chút ngạc nhiên: "Chính là tại hạ."

Triệu Quỳnh tiễn cậu ra cổng, nói: "Phụ thân từng nhắc tới Đường Á nguyên, có liên quan đến Cungđại nhân."

Chu Tử Thư: "..."

Chu Tử Thư có dự cảm chẳng lành, nhưng vẫn lịch sự hỏi thăm: "Có liên quan đến Tử Phong sư huynh của ta ấy ạ?"

"Phụ thân nói, Cungđại nhân là bậc kì tài vô cùng thông tuệ bác học, lại rất mực cao nhã, thấu tình đạt lý. Sư đệ của ngài ấy hẳn cũng là nhân tài. Hôm nay có dịp gặp gỡ, Đường Á nguyên quả là giống hệt Cungđại nhân, là đấng quân tử như ngọc quý đã qua giũa mài."

"..."

Chu Tử Thư cười đáp: "Đa tạ thế tử đã khích lệ."

Chu Tử Thư về tới nhà, quản lý Lục đã đợi cậu suốt từ tối.

Chu Tử Thư thở dài: "Có biến rồi, Cảnh Cungkhông đến, chỉ có thế tử là

Triệu Quỳnh. Song cũng không khác với phỏng đoán của chúng ta, thế tử Cảnh Cunglà người có khí phách, hiểu lễ nghĩa. Dạy dỗ được một thế tử như vậy, Cảnh Cunghẳn là thật lòng mến yêu sĩ tử trong thiên hạ. Công việc tiếp theo, xin cậy nhờ quản lý Lục sát sao hộ." Quản lý Lục nói: "Xin tiểu đông gia chớ bận lòng."

Hôm sau, quản lý Lục bèn đem một cây san hô đỏ cực phẩm được tuyển lựa từ vùng Giang Nam tới Họa Đường Thu. Cây san hô đỏ quý giá cỡ ấy, quản lí Họa Đường Thu không dám tự tiện nhập kho, vội mời quản lí Hình từ lầu Thiên Lý sang giám sát. Quản lí Hình vừa vào tiệm, thấy quản lí Lục thì giật mình: "Sao lại là đệ?"

Quản lý Lục cũng tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên: "Hình lão ca, chẳng phải huynh quản lí lầu Thiên Lý ư? Sao lại tới đây?"

Quản lí Hình chắp tay cười: "Không dám giấu giếm, Họa Đường Thu với lầu Thiên Lý là cùng một nhà. Vi huynh là tổng quản lí, trông coi cả hai bên. Nghe nói Lục lão đệ có một cây san hô đỏ cực phẩm, thật vậy sao?"

"Mời Hình lão ca xem..."

Sắp đến Tết, Thịnh Kinh lại đổ một trận tuyết lớn.

Một ngày trước hôm Giao thừa, quản lý Lục đội tuyết đến tìm Chu Tử Thư.

Ông phủi tuyết bám trên áo khoác, nói: "Tiểu đông gia, ngày mai quản lí

Hình hẹn tôi đến nhà ông ta ăn bữa cơm tất niên. Ông ấy biết tôi từ Giang Nam lên, không có người thân ở Thịnh Kinh nên mới rủ."

Chu Tử Thư suy nghĩ một lát: "Vậy chú đã nghĩ xem phải tặng quà gì chưa?"

Quản lý Lục nói: "Xà phòng, xà phòng thơm và Hoàng Kim Lũ đều đã xuất hiện ở Thịnh Kinh từ lâu nhờ các thương nhân từ Giang Nam lên đây rồi, không phải của hiếm. Quản lí Hình đã có hết những thứ ấy."

Chu Tử Thư cười: "Ngày mai chú hãy tặng một hộp Hoàng Kim Lũ đi."

Quản lý Lục sửng sốt: "Tiểu đông gia, tôi vừa nói quản lí Hình đã biết đến Hoàng Kim Lũ rồi, nhà ông ấy hẳn đã có thứ đó."

"Lúc tặng thì đừng dùng hộp của Trân Bảo các phủ Cô Tô, cũng đừng dùng hộp của Cẩm Tú Các phủ Kim Lăng. Chú hãy đến Họa Đường Thu mua một món trang sức, lấy cái hộp của Họa Đường Thu đựng Hoàng Kim Lũ mà đem tặng."

Quản lý Lục nghe thế thì hiểu ý ngay, ông chắp tay thưa: "Tiểu đông gia mới mười lăm tuổi mà khiến người sống hơn ba mươi năm trên đời như tôi phải hổ thẹn, thua xa cậu về bản lĩnh kinh thương." Chu Tử Thư cười ha hả: "Còn nói nữa là nghỉ chơi nhé." Ngụ ý, vỗ tới mông thôi, chớ vỗ tới chân kẻo ngựa đá hậu đấy.

Quản lý Lục gãi gãi đầu giả bộ không hiểu, trông đến là vô tội.

Việc buôn bán xà phòng và bát hà cung tạm gác lại. Mừng năm mới xong, Chu Tử Thư dồn hết tâm trí vào đèn sách, chuẩn bị cho kì thi Hội.

Nhắc đến chuyện này lại thấy kì lạ, bởi gần thi rồi, Cung Tuấn bỗng yêu cầu Chu Tử Thư mỗi ngày viết một bài văn bát cổ.

Hôm nay Chu Tử Thư đến phủ Thượng thư để Cung Tuấn xem tiến độ luyện chữ hai ngày nay. Cung Tuấn kiểm tra một lượt rồi đặt giấy viết sang bên, hỏi Chu Tử Thư: "Mấy hôm nay đệ có đi phóng sinh không thế?"

Càng ngày càng nhiều cử nhân đổ về Thịnh Kinh. Ngày thi cận kề, thành thử lắm thí sinh ngày thường nén hương chẳng mất, lúc gấp ôm Phật mà kêu.

Mà ôm chân Phật thì cũng lắm chiêu nhiều trò. Nào là cột tóc lên xà nhà, đâm mũi dùi vào chân để đọc sách. Nào là ra chợ cây, chợ chim mua thú vật để phóng sinh ở chùa Quan Âm, chùa Tướng Quốc. Càng sát kì thi, các thể loại cầu đảo khấn vái xin đỗ đạt của các ông cử càng kì quặc. Phóng sinh còn bình thường chán, lúc Chu Tử Thư đến phủ Thượng thư hôm nay, còn thấy có hai chàng trai trẻ đứng ngoài cổng phủ vái lấy vái để.

"Nghe đồn đây là phủ của Cungđại nhân – CungTử Phong. Cungđại nhân là Trạng Nguyên vô song được Thánh thượng khen tặng, vái ngài ấy kiểu gì cũng linh!" Chu Tử Thư: "..."

Cứ theo lẽ ấy mà nói, cậu với CungTử Phong sớm chiều gặp gỡ, nhắm mắt cũng phải đỗ Tiến sĩ, không thì chẳng khác nào bôi tro trát trấu vào tên tuổi sư huynh!

Sau một hồi làm thinh, Chu Tử Thư đáp: "Không ngờ Tử Phong sư huynh cũng tin chuyện phóng sinh cơ đấy."

Cung Tuấn: "Đệ không tin à?"

Chu Tử Thư nghĩ thầm, người ta là mầm non đỏ* tiếp nối truyền thống xã hội chủ nghĩa, là tín đồ nhiệt thành của chủ nghĩa duy vật, ai thèm tin mấy chuyện mê tín dị đoan?

(*) 根正苗红 – thuật ngữ thời Cách mạng Văn Hóa chỉ người có xuất thân trong sạch như công nhân, nông dân, liệt sĩ

Cung Tuấn thở dài: "Có thờ có thiêng chứ."

Chu Tử Thư: "Sư huynh?" Không hiểu sao cậu thấy hôm nay CungTử Phong cứ là lạ thế nào.

"Sáng sớm huynh đã sai quản gia mua mấy loài vật cho đệ phóng sinh ấy mà."

Chu Tử Thư ngơ ngơ ngác ngác đi theo Cung Tuấn vào hậu viện phủ Thượng thư. Quản gia đã xách theo một con cá, một con thỏ và một con gà chờ sẵn.

Lại còn chuẩn bị đến mức này nữa!

Cung Tuấn: "Xách cá lên nào." Chu Tử Thư: "..." Ừ thì xách.

"Thả nó đi."

Chu Tử Thư xách cá đến bên hồ nước, nhẹ nhàng thả xuống hồ. Nhưng cậu vừa thả cá xong, ông quản gia đứng bên hồ đã vãi mồi ngay. Chú cá kia cũng rõ ngố, bị loài người bắt lên bờ, vừa được phóng sinh, thấy mồi đã lại nhào tới. Quản gia tóm ngay lấy con cá, lôi lên bờ.

Cung Tuấn nghiêm túc nói: "Xem ra chú cá này có duyên với huynh đệ mình, không nỡ ra đi."

Chu Tử Thư: "..."

Huynh bị ấm đầu à CungTử Phong!!!

Tiếp theo Cung Tuấn lại nói: "Lấy con thỏ đi kìa."

Chu Tử Thư lại xách con thỏ lên, nghe lời Cung Tuấn lẳng ra giữa vườn hoa. Chẳng bao lâu, quả nhiên quản gia và hai tên đầy tớ đã túm con thỏ bị kẹp vào bẫy về. Chu Tử Thư phóng sinh nốt con gà, quản gia cũng bắt về nốt.

Cung Tuấn ngửa mặt lên trời than: " Nào cá nào thỏ nào gà, chúng ta không thể phụ tấm lòng son của bọn chúng. Quản gia, nướng hết lên đi."

Chu Tử Thư đã biết tỏng ý đồ của Cung Tuấn, bèn nói chen vào: "Đệ thích ăn sốt cay."

Cung Tuấn sững lại, gương mặt tuấn nhã thoáng vẻ kinh ngạc. Chàng nhìn Chu Tử Thư chăm chú hồi lâu, đôi mắt sáng ngời và sâu thẳm dễ gợi cho người ta nhiều suy ngẫm. Lát sau, Cung Tuấn mới bảo quản gia: "Nghe lời Cảnh Tắc, ướp sốt Ma lạt hết."

Quản gia: "Vâng."

Sau nửa canh giờ, hai người cùng nhau ăn uống, thành phần bữa ăn chính là lũ cá, thỏ và gà mà Chu Tử Thư tự tay phóng sinh.

Cơm nước xong xuôi, Chu Tử Thư cáo từ. Thật là một dịp hiếm hoi, Cung Tuấn tiễn cậu ra tận cửa.

Dưới ánh Tuấng vằng vặc, Cung Tuấn mặc áo bào gấm trắng tuyền, tựa như thần tiên trên cung Quảng. Chu Tử Thư chuẩn bị đi tới nơi rồi còn ngập ngừng, quay đầu lại hỏi: "Tử Phong sư huynh, hôm nay huynh làm thế, phải chăng là để dặn đệ, muốn đỗ cao thì phải dựa vào sức mình, chớ nên cầu cạnh những điều hư vô?"

Cung Tuấn ngạc nhiên, quay ra hỏi quản gia: "Hôm nay ta có nói thế ư?" Quản gia trung thực lắc đầu: "Công tử không hề nói vậy ạ."

Cung Tuấn gật gù tỏ vẻ mình đãng trí, rồi mới bảo với Chu Tử Thư: "Đệ thấy đấy, ta có nói vậy đâu."

Chu Tử Thư dở khóc dở cười: "Thế Cảnh Tắc xin cáo từ, sư huynh không cần tiễn."

Tới Thịnh Kinh một năm, Chu Tử Thư cũng quen CungTử Phong được một năm rồi.

Như phán đoán ban đầu của cậu khi mới gặp CungTử Phong, người đàn ông này như vực sâu không đáy, Chu Tử Thư đến giờ vẫn không nhìn thấu được anh ta. Thế nhưng dần dần, Chu Tử Thư bắt đầu hiểu, sư huynh nhà mình khoái nhất và thạo nhất là trò nói bóng gió. Tỷ như hôm nay, rõ ràng không muốn cậu học theo đám cử nhân nước đến trôn mới nhảy, phóng sinh để cầu đỗ đạt, nhưng cố tình không chịu nói thẳng mà cứ giả bộ để cậu phóng sinh, ngầm thể hiện rằng mình không ưa cách làm này.

Kiểu hành vi này thời hiện đại cũng có một cái tên, Chu Tử Thư nghĩ thầm: "Không nói tiếng người!"

Nhưng, có khi "tiếng quan" nó vậy.

Làm quan là thế đấy mà!

Trên đường về nhà, Chu Tử Thư ngắm vầng Tuấng sáng chói trên bầu trời, lẳng lặng cảm thán.

Mùng chín tháng hai, kì thi Hội bắt đầu.

Chưa đến tảng sáng các thí sinh đã tề tựu ở cổng trường thi Thịnh Kinh.

Phụng Bút xách giỏ quai dài, Diêu Tam khoác thêm áo lông cho Chu Tử Thư. Mới giờ Sửu, họ không ngờ lại gặp quản gia phủ Thượng thư chờ sẵn ở cổng trường thi. Giống lần trước Chu Tử Thư thi Hương, quản gia cũng xách theo một chiếc giỏ tai dài.

Xuất thân từ Lang Gia Cungthị, Cung Tuấn có lắm thứ mà Chu Tử Thư dẫu có tiền cũng chẳng thể mua, tỷ như nến chỉ bạc không khói. Gộp đồ trong hai chiếc giỏ lại với nhau, Chu Tử Thư nói với quản gia mấy câu, cánh cổng chính sừng sững của trường thi Thịnh Kinh đã mở rộng. Hai hàng sai nha đi từ bên trong ra, dõng dạc hô: "Thí sinh vào trường!" Cứ mỗi sai nha hô xong là có một sai nha khác hô theo.

Họ gọi thí sinh liên tiếp mười hai lần liền, vang động một góc trời, đảm bảo từng thí sinh ngoài cổng trường đều nghe thấy. Chu Tử Thư xách giỏ quai dài, nói: "Ta vào thi đây."

Quản gia: "Đường tiểu công tử, còn có một việc."

Chu Tử Thư dừng bước: "Chuyện gì thế?"

Quản gia thưa: "Trước khi đi, công tử nhà tôi dặn phải nhắn Đường tiểu công tử một câu – Trạng Nguyên ai cũng nhớ, mấy ai nhớ Hội Nguyên. Tháng sau thi Đình, công tử đã chuẩn bị kỹ chưa?"

Chu Tử Thư giật thót. Mãi đến khi cậu vào trường thi, tìm được phòng thi, Chu Tử Thư mới nhìn cây nến chỉ bạc trong giỏ quai dài trầm ngâm hồi lâu, đoạn than: "CungTử Phong ơi là CungTử Phong, huynh muốn nói gì sao không nói thẳng chứ? Cứ vòng vo Tam Quốc hoài, chẳng biết cái thói xấu ấy học từ ai nữa!"

Trạng Nguyên vang danh thiên hạ, mấy ai nhớ mặt Hội Nguyên.

Đây là lời Cung Tuấn an ủi cậu, dẫu không đỗ Hội Nguyên cũng chớ nên phiền muộn; ngoài ra nói như vậy cũng là vì chàng lo cậu quá mong mỏi đạt thành tích cao trong kì thi Hội mà hao tâm tổn sức, chẳng may phản tác dụng rồi mắc lỗi thì đến tiến sĩ cũng không đỗ nổi!

Tuy thế, lời nhắc nhở của Cung Tuấn không hề thừa chút nào.

Chu Tử Thư mắt sáng rực như đuốc: "Mười Hội Nguyên chẳng bằng một Trạng nguyên! Lần này thi Hội nhân tài đông như kiến cỏ, mình khó lòng đỗ trong ba hạng đầu. Đích đến của mình là đỗ tiến sĩ cập đệ, được Thánh thượng khâm điểm trên điện ngọc! Thi Đình không có bát cổ chế nghệ, không có thơ thí thiếp, chỉ hỏi sách vấn thời sự mà thôi. Đến lúc đó luận điểm là chính, câu chữ là phụ, chẳng phải cơ hội của mình đấy thì gì!" Ngày mùng chín tháng hai vào trường thi, đến giờ Tý ngày mùng mười bắt đầu công bố đề mục.

Chu Tử Thư ngủ từ sớm, chưa tới giờ Tý cậu đã tỉnh, ngồi ngay ngắn chờ sai nha phát đề mục. Hàng ngàn, hàng vạn thí sinh khác cũng đang hồi hộp như cậu. Đây là kì thi Hội, là kì thi quan trọng nhất trong cuộc đời họ. Không phải cứ hễ thi Đình là đỗ tam khôi, nhưng khi thi Đình không ai bị đánh trượt cả, chỉ xếp thứ tự cao thấp mà thôi.

Thi Hội mới chính là cơ hội cuối cùng để họ dốc cạn vốn liếng đèn sách bao năm.

Trên lầu Minh Viễn, chủ khảo khoa thi Hội năm Khai Bình thứ hai mươi bảy – Lý Đại học sĩ gõ trống vang dồn, tuyên bố kì thi chính thức bắt đầu.

Chu Tử Thư nhận quyển đề, hít sâu một hơi, mở ra đọc.

Đề thứ nhất là bát cổ chế nghệ, đề mục là: "Nghi phong nhân thỉnh kiến."

Trong đêm đông, trận gió rét thổi ào qua, chúng sĩ tử đọc đề xong đều giật nảy, cả người lạnh toát.

Ngay cả Chu Tử Thư đọc đề cũng phải ngẩng đầu nhìn về phía lầu Minh Viễn, dẫu không thấy rõ mặt Lý Đại học sĩ và các quan phó khảo, cậu cũng muốn chửi đổng một câu.

"Rõ là vô liêm sỉ!!!" Cử nhân ở phòng thi kế bên đã chửi thay cậu rồi.

"Nghi phong nhân thỉnh kiến", xuất xứ từ thiên Bát Dật trong Luận Ngữ, nguyên văn là: "Nghi phong nhân thỉnh kiến, viết: 'Quân tử chi chí ư tư dã, ngô vị thường bất đắc kiến dã.' Tùng giả kiến chi. Xuất viết: Nhị tam tử hà hoạn ư táng hồ? Thiên hạ chi vô đạo dã cửu hĩ. Thiên tương dĩ Phu tử vi mộc đạc."

Ý rằng có một viên quan ở ấp Nghi nghe nói Khổng Tử tới, bèn xin được gặp Khổng Tử. Ông ta nói: "Những người quân tử đi ngang qua đây, chưa có ai là tôi chưa từng gặp." Các tùy tùng của Khổng Tử dẫn ông ta tới chỗ Khổng Tử. Sau khi gặp gỡ xong, ông ta bèn nói với đoàn tùy tùng của Khổng Tử rằng: "Vì cớ gì mà các ông phải lo thiên hạ đang hỗn loạn chứ? Thiên hạ đã hỗn loạn từ lâu rồi, nhưng trời cao sẽ cho Thầy của các ông đi giáo hóa muôn dân, khôi phục trật tự thiên hạ."

Những câu là lời ca tụng của người đời dành cho phẩm đức ưu tú của Khổng Tử, tán dương những hành động của ngài.

Oái oăm ở chỗ, Lý đại học sĩ lại ra đề vào phần "Nghi phong nhân thỉnh kiến"!

Nếu liên hệ với cả câu văn thì vẫn phá đề được. Nhưng dù phá đề thế nào thì cả bài văn vẫn phải xoay quanh năm chữ "Nghi phong nhân thỉnh kiến." Một viên quan* muốn cầu kiến Khổng Tử.

(*) Phong nhân là quan trông coi bờ cõi

Chỉ dùng ý này mà viết thành cả bài văn đâu phải chuyện đùa!

Trong trường thi Thịnh Kinh, các cử nhân sầu như trái bầu, nhìn đề thi mà chẳng biết đáp thế nào cho phải. Lý Đại học sĩ đỗ tiến sĩ khươm mươi niên rồi, là Đại học sĩ vang danh thiên hạ, nhưng các cử nhân trong trường thi nào đã thoát nghiệp đèn sách! Ông ta ra đề hiểm thế này là tự đánh đố bản thân chứ có phải để kiểm tra thí sinh đâu, thành thử đám cử nhân mắng cho là "Vô liêm sỉ!" cũng có lí lắm.

Nhưng rủa xả thì rủa xả, bài thi vẫn phải viết.

Chu Tử Thư nháp nháp lên giấy mấy hướng phá đề, song hướng nào cũng không thấy vừa ý. Đề kiểu này rất dễ viết lạc, mà một khi đã lạc đề thì rất dễ viết thành phạm thượng, tự cấm cửa mình khỏi trường thi Hội luôn.

Cung Tuấn dặn, làm đâu chắc đấy, không cần ráng giành ngôi đầu bảng, chỉ cần đủ tiêu chuẩn thi Đình là được. Vòng này thi vừa đủ đỗ thôi, vòng sau mới bung hết sức tranh thứ hạng.

Chu Tử Thư nhăn nhó, lẽ nào CungTử Phong biết trước Lý Đại học sĩ sẽ ra đề hóc búa, dễ khiến học sinh viết lạc đề?

Song cậu gạt đi ngay, hẳn là không đến mức đấy đâu. Vì cậu đi thi, để tránh hiềm nghi, Cung Tuấn đã từ chối việc làm khảo quan thi Hội ngay từ đầu.

Thi Hội khác với các kì thi khác. Quan chủ khảo kì thi Hội phải là quan lớn trong Trung Thư Tỉnh, cả ba phó khảo cũng phải có chức quyền trong Trung Thư Tỉnh. Cung Tuấn mười bảy tuổi đỗ Trạng Nguyên, nhưng hai lần thi Hội trước chàng chưa đủ thâm niên làm quan nên mới chỉ làm phó khảo chứ chưa được làm chủ khảo. Vốn mọi người đã đồn năm nay rất có khả năng Cung Tuấn sẽ lên chủ khảo, nhưng vì sư đệ là Chu Tử Thư dự thi, chàng tuyệt nhiên không dính dáng gì đến quá trình tổ chức thi cả, thậm chí ghế phó khảo cũng vắng bóng chàng.

Được làm chủ khảo thi Hội là một cột mốc cực kì quan trọng trong sự nghiệp cả đời của mỗi vị quan.

Tuy vậy đến khóa thi tới, với tư lịch của Cung Tuấn, khả năng chàng làm chủ khảo khoa thi Hội ba năm sau còn cao hơn lần này nữa.

Suy nghĩ vẩn vơ một hồi, Chu Tử Thư thở dài, quay lại nghĩ cách giải đề mục.

Một vị quan cầu kiến Khổng Tử, sau khi nói chuyện với Khổng Tử xong thì hết lòng ngợi ca Khổng Tử. Trước khi bái kiến Khổng Tử, ông ta đã khen Khổng Tử là bậc quân tử rồi. Như thế, "Nghi phong nhân thỉnh kiến," thỉnh kiến...Ồ hai chữ "thỉnh kiến" này hay đấy! Ngay chữ "thỉnh" đã thể hiện lòng tôn kính của vị quan này với Khổng Tử rồi, cũng ám chỉ rằng khi ông ta cầu kiến Khổng Tử tức là đang xin được gặp bậc Thánh nhân quân tử vậy.

Tóm lại, khi vị quan này chưa gặp Khổng Tử, ông ta đã đem lòng kính ngưỡng rồi, đến khi gặp Khổng Tử, ông ta lại càng tán dương đức độ và hành động cao đẹp của ngài.

Vị quan đất Nghi muốn gặp Khổng Tử, thiên hạ có ai không muốn gặp ngài chứ?

Cho dù là ngàn năm sau, hơn một vạn cử nhân cặm cụi viết bài trong phòng thi đây cũng muốn được gặp Đức thánh!

Tuy không hợp hoàn cảnh lắm, nhưng Chu Tử Thư chợt nhớ tới một câu thơ: "Chàng sinh thiếp chửa ra đời, thiếp sinh chàng đã già rồi còn đâu." Đúng là sinh mà không gặp thời!

Cảm hứng dạt dào, Chu Tử Thư nhấc bút viết thoăn thoắt lên nháp: "Vị quan trông coi bờ cõi mong được thấy mặt Thánh nhân mà nói câu "thỉnh", gặp Thánh nhân rồi thì khen ngợi không tiếc lời. Kẻ sĩ phu sinh vào thời chẳng gặp được Phu tử, lại cứ năm lần bảy lượt xin được nghe lời răn của Thánh, chẳng hóa là đã thấy Đức thánh mà không biết đường ngộ ra hay sao..."

Phá đề xong, Chu Tử Thư vừa ngẫm nghĩ vừa sửa sang từng câu chữ, cuối cùng cũng viết xong bài văn sau hai canh giờ.

Cậu thở phào nhẹ nhõm.

Đề số một khó quá, cậu không mong sáng tác ra cái gì hay ho, chỉ cần không sai là được. Chu Tử Thư tự nhận mình viết văn chẳng giống ai, may mà có Lương Tụng và Cung Tuấn nghiêm khắc uốn nắn dạy dỗ, bài chế nghệ của cậu luôn đảm bảo kết cấu chặt chẽ, diễn đạt rành mạch, chỉ cần không giải đề sai thì sẽ không mắc lỗi.

Nghỉ ngơi cho hồi sức, chép lại bài văn lên giấy thi, Chu Tử Thư mở đề thứ hai ra xem tiếp.

Vừa đọc xong đầu đề, mắt Chu Tử Thư trợn ngược, mồm phì khói, ánh mắt tóe ra lửa chọc thẳng về phía lầu Minh Viễn: "Rặt phường vô liêm sỉ!!!"

Năm Khai Bình thứ hai mươi bảy, khoa thi Hội đặt tại Thịnh Kinh, đề thứ hai...

"Bỏ họ Mặc tất về họ Dương!"

||

Lời tác giả:

Anh Cunghàng xóm: Thậm khéo, ta cũng thích thịt thỏ ướp cay.

Manh: Pass chương sau như cũ

Chú thích

Bản dịch của Mai Văn Tạo.

Mình đoán ý Chu Tử Thư là những người sinh sau thường tiếc rằng không được tận mắt gặp Đức thánh Khổng. Nhưng thực ra, người sĩ phu chỉ cần tiếp thu, nghiên cứu những điều Khổng Tử răn dạy tức là đã được thấy Khổng Tử rồi (bằng chứng là viên quan ấp Nghi từ trước khi gặp đã biết Khổng Tử là bậc thánh nhân, sau khi gặp quan điểm đấy không đổi). Bởi thế, việc tiếc nuối là thừa thãi, chứng tỏ chưa thấm nhuần những gì thánh nhân truyền lại.

Giải thích ở chương 41 nên không chú thích nhé :D Đôi lời về xưng hô:

Chu Tử Thư có nhiều mối quan hệ thân-sơ khác nhau nên mình để xưng hô tùy theo đối tượng. Ví dụ với những người làm thuê, người hầu như quản lí Lục, Phụng Bút, nhân viên ở Hậu cần Đường thị, hay các tiểu đồng Ôn Thư, Phủ Cầm, thì Chu Tử Thư xưng "ta" để thể hiện vai trò là chủ hoặc người bề trên; song vì nhỏ tuổi nên cậu có thể gọi quản lí Lục là "chú", hay xưng "cháu" với kế toán Lâm để thể hiện sự kính trọng. Những người dưới mình để xưng "tôi" với nghĩa "tôi tớ," "đầy tớ." Khi thể hiện sự khiêm nhường hoặc khi vai vế ĐT kém người đối thoại cùng cậu, ĐT cũng có thể xưng "tôi." Về sau với các đồng liêu trong quan trường ĐT sẽ xưng "ta" vì đó là cách những người bề trên xưng hô với nhau. Riêng với Diêu Tam thì có chút khác biệt. Chu Tử Thư luôn coi Diêu Tam như người nhà nên mình để Chu Tử Thư xưng "tôi" theo kiểu hiện đại, vừa gợi đến việc Chu Tử Thư vốn là người xuyên không, vừa thể hiện sự trân trọng của Chu Tử Thư với Diêu Tam, dù anh ta luôn coi Chu Tử Thư là ông chủ và luôn xưng "tôi" (với nghĩa "đầy tớ.") Còn với anh hàng xóm thì thường gọi là "sư huynh", không thì mình cũng để "huynh" nhé.

------oOo------

Chương 41

Nguồn: EbookTruyen.Net

Hữu tắc cải chi, vô tắc gia miễn

"Bỏ họ Mặc tất về với họ Dương", xuất xứ từ thiên Tận Tâm trong sách Mạnh Tử, nguyên văn là "Bỏ họ Mặc tất về với họ Dương, bỏ họ Dương tất về với Nho đạo."

Khác với thời Xuân Thu có đến hàng trăm trường phái tư tưởng đua nhau hình thành, thời Chiến Quốc có ba trường phái lớn được người đời chấp nhận, bao gồm trường phái Mặc gia, trường phái Dương Chu và trường phái Nho gia. Câu "Bỏ Mặc tất về với Dương" là cái nhìn của Mạnh Tử đối với ba trường phái này. Ý của ông là "đào thải trường phái Mặc gia tất sẽ hướng về trường phái Dương Chu. Đào thải trường phái Dương Chu, tất sẽ quy thuận trường phái Nho gia."

Nói ngắn gọn là Mạnh Tử coi trường phái Nho gia là chính thống, là con đường ngay duy nhất cho các học giả.

Về cơ bản đề này không phải là dạng khó viết. Trường phái Mặc gia chủ trương ôn hòa, nhân ái, phản đối chiến tranh, đề cao việc hi sinh bản thân để cứu đời, tạo phúc cho thế gian. Trường phái Dương Chu thì chủ trương tư tưởng vị kỉ, không màng đến ai mà cũng chẳng màng tới thiên hạ, không

hại người tức là làm lợi cho bản thân. Chu Tử Thư có thể nghĩ ngay ra mấy hướng giải đề khác nhau, tỷ như lấy góc nhìn của tư tưởng ích người ích mình trong Nho gia để phân tích ngược lại hai trường phái Mặc gia và Dương Chu, từ đó tôn vinh sự ưu việt của trường phái Nho gia.

Cái khó là hướng đi này phải lấy tư tưởng phê phán Mặc gia, Dương Chu và tôn sùng Nho gia làm điều kiện tiên quyết.

Chu Tử Thư trông đề mục trên giấy, lại ngẩng đầu dõi mắt về lầu Minh Viễn, thở dài thườn thượt.

Thiên hạ này có ai không biết, hoàng đế Triệu Phụ hiện nay mải mê theo đuổi con đường trường sinh bất lão, tu luyện đan dược của Đạo gia!

Mà trường phái Dương Chu chính là một trong ba trường phái kinh điển của Đạo gia.

Thực ra thì Triệu Phụ chưa bao giờ công khai sùng bái Đạo gia, thậm chí ông ta cực kì coi trọng Nho gia, hằng năm cứ đến ngày kỵ của Đức thánh Khổng, ông ta lại viết một bài điếu văn. Nhưng lòng si mê với Đạo gia của Triệu Phụ cả triều đình đều thấy rõ mồn một. Lý Đại học sĩ ra đề mục thế này chẳng có gì sai cả, nhưng nếu thí sinh phê phán Dương Chu quá gay gắt, thì dẫu có cơ hội đề danh bảng vàng, làm quan đến hàng nhất phẩm đi chăng nữa, cũng tự khắc biến thành kẻ thù chính trị trong mắt Triệu Phụ mà thôi.

Quân tâm khó dò, gần vua như gần cọp, ai mà lường trước được suy nghĩ của Triệu Phụ!

Chu Tử Thư nghĩ thầm, sơ sơ thôi cũng đã có hai tình huống rồi. Hoặc là

Triệu Phụ không phải hôn quân, mặc kệ anh muốn viết gì thì viết; hoặc là Triệu Phụ sẽ để ý tới kẻ bề tôi dám phê phán việc mình tu tiên. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, nếu chẳng may Triệu Phụ muốn xử lí bề tôi, thì bài văn phê phán đó chính là một trong những lí do ông ta sẽ vin vào để hạch tội kẻ bề tôi đó.

Các cử nhân khác có thể không suy nghĩ sâu xa tới vậy, nhưng Chu Tử Thư nhất định phải suy tính trước sau cho chu toàn.

Bởi tầm nhìn của cậu không thể chỉ dừng lại ở kì thi Hội này, cậu phải nhìn xa, phải toan tính trước cho tương lai!

Nhắm mắt lại, Chu Tử Thư lược bỏ dần từng phương án phá đề trong đầu. Cậu quyết định chọn phương án đơn giản nhất, kém phần xuất sắc nhất, nhưng không sai vào đâu được. Sau đó, cậu đặt bút viết: "Quan dị đoan giả phẫn lệ băng căng, xá nhất cầu tái dĩ cầu khoáng dật, dĩ mặc chi ác nhi quy vu dương, tất viết hà dĩ vi chi..."

Ta thấy những người không chung đường với Nho gia, thường là do chứng kiến cái sai ác nhiều nên sinh sợ sệt. Bởi lẽ đó họ từ bỏ Mặc gia mà mưu cầu Dương Chu để cõi lòng được khoáng đạt, an nhàn. Bỏ Mặc đề về với Chu, là vì cớ gì chứ?

Chính thế, lần này Chu Tử Thư không suy luận mở rộng từ đề mục nữa, mà tập trung khai thác ý chính, viết bài văn bát cổ thảo luận về vấn đề "tại sao sau khi từ bỏ trường phái Mặc gia, các học giả lại chọn theo đuổi trường phái Dương Chu". Bài văn này cốt là để không làm mích lòng bên nào cả, Chu Tử Thư không khẳng định trường phái Dương Chu là đúng đắn, thậm chí còn cho rằng trường phái này dựa trên mê tín dị đoan, nhưng cậu không trắng trợn hạ thấp trường phái Dương Chu trên giấy mực.

Đây là lần đầu tiên Chu Tử Thư viết văn mà khổ sở thế, cậu biết bài này phá đề không tốt, nên chú trọng nhiều vào logic và luận chứng. Sau ba canh giờ, chau chuốt từng li từng tí, cuối cùng Chu Tử Thư cũng viết xong bài chế nghệ thứ hai. Xong bài, cậu phát hiện lưng áo mình đã đẫm mồ hôi. Giữa mùa đông tháng hai trời rét căm căm, thế mà mồ hôi mồ kê đầm đìa!

Làm bài nháp xong, Chu Tử Thư chợt ngẩn ngơ, không hiểu là mình đang làm đúng hay sai nữa.

Phải chăng cậu đã suy nghĩ quá nhiều? Chẳng qua chỉ là một bài thi Hội, có cần để ý lắm thế không?

Nhưng cậu gạt đi ngay: "Nếu đặt CungTử Phong vào hoàn cảnh này, chắc chắn huynh ấy cũng làm giống mình."

Chu Tử Thư tự biết bài mình không vượt trội hẳn, nhưng chắc chắn vẫn thuộc tốp trên trong các thí sinh. Cậu chép lại bài cho sạch đẹp rồi đánh một giấc. Đến khi tỉnh lại, đã sang ngày thi thứ ba rồi.

Trước khi ngủ Chu Tử Thư đã đọc đề số ba. Đề mục lần này là "ngô nhật tam tỉnh ngô thân."

Tăng tử viết: "Tôi, mỗi ngày tự xét mình ba điều: mưu việc cho người có hết lòng chăng? Cùng bạn bè giao thiệp có giữ niềm tin chăng? Được truyền dạy, có ôn tập chăng1?"

Đoạn này trích từ thiên Thuật Nhi trong sách Luận ngữ, cũng là một trích đoạn kinh điển mà ai cũng thuộc lòng ở thời hiện đại. Hai bài chế nghệ vừa rồi khiến Chu Tử Thư có chút phiền muộn, nhưng vừa đọc đề thứ ba thì cậu khoái chí lắm, suýt tí nữa thì cười phá lên giữa trường thi.

Bình thường trong các kì thi Hội, ba bài chế nghệ ở trường đệ nhất sẽ được ra đề từ những cuốn sau: Hai bài dựa trên Luận Ngữ hoặc Mạnh Tử, một bài dựa trên Đại Học hoặc Trung Dung. Nhưng Lý Đại học sĩ lại rất ngược đời! Bài thứ nhất ông ta ra đề hiếm, bài thứ hai thì có bẫy phạm thượng, đến bài thứ ba lại vòng về Luận Ngữ!

Chu Tử Thư kiếp trước trong đầu rặt Toán với Lý, chẳng có tí văn vẻ nào, nhưng cậu làm sao mà không biết câu "Tôi mỗi ngày tự xét mình ba điều" chứ, thậm chí cậu còn biết một câu khác.

"Hữu tắc cải chi, vô tắc gia miễn!"

Đây là lời bình của Chu Hi cho câu "Tôi mỗi ngày tự xét mình ba điều."

Đến nước này thì Chu Tử Thư cũng chẳng ngại ngần chi nữa, mượn luôn câu của Chu Hi để vào bài, dựa trên quan điểm của ông để viết áng văn này: "Tăng thánh mỗi ngày tự xét bản thân ba điều, quan sát người khác rồi dốc sức rèn luyện. Nếu Khổng thánh biết học trò của mình nỗ lực đến vậy, ắt sẽ nhận xét rằng: có sai thì sửa, không sai thì khích lệ bản thân nỗ lực hơn nữa!"

Bài văn thứ ba viết trôi chảy, Chu Tử Thư đọc lại vẫn thấy trào dâng cảm xúc. Riêng câu "hữu tắc cải chi, vô tắc gia miễn" là ăn chắc thứ hạng cao rồi, kể cả phần sau có viết dở đi chăng nữa.

Chép nốt bài bát cổ chế nghệ này vào giấy thi, Chu Tử Thư mở đề thơ thí thiếp ngũ ngôn bát vận cuối cùng.

Đề mục là: "Phong vũ thê thê."

Mưa bay gió thổi lạnh lùng, tiếng gà eo óc, dặm chừng đìu hiu. Thấy chàng quân tử mến yêu, lòng em thoắt đã muôn chiều thảnh thơi2.

Xuất xứ từ Kinh Thi, bộ thơ Quốc phong, phần Trịnh phong*.

(*) phong ở đây là "phong tục". Trịnh phong = phong tục nước Trịnh. MTH viết sai là Trịnh Vũ, mình sửa lại cho đúng.

Câu thơ này miêu tả cảnh gió thảm mưa sầu, nhưng cả bài lại nói về nỗi tương tư của người con gái với tình lang. Chu Tử Thư ngẫm nghĩ cẩn thận rồi viết:

Ai tìm nẻo mây về, ve bàng hoàng trước gió

Hột mưa nảy chuối biếc, tám hồi sấm rì rầm

...

Bạc đầu đường đời tận, khắc khoải tiếng cuốc kêu

Đến kì thi Hội thì nét chữ của học trò không còn quan trọng nữa, dù sao các quan chấm thi đều không được thấy chữ thật của thí sinh. Song Chu Tử Thư vẫn chép bài thơ thí thiếp cho thật đẹp, kiểm tra không còn gì sai sót rồi mới đứng dậy nộp bài.

Cậu ra khỏi phòng thi, tới lối đi chính thì gặp ngay Mai Thắng Trạch.

Mai Thắng Trạch thấy Chu Tử Thư thì mừng quýnh, hỏi: "Cảnh Tắc, phát biểu cảm tưởng coi."

Chu Tử Thư thật thà đáp: "Đúng là vô liêm sỉ!"

Thành ra Mai Thắng Trạch đang tí tởn vì gặp cạ cứng lại xẹp như bong bóng xì hơi: "Vô sỉ thấy ớn!"

Hai người cười phá lên, mồm miệng tía lia đi ra khỏi trường thi.

Mai Thắng Trạch: "Đề thứ nhất, huynh nghĩ mất hai canh giờ mới chốt là phá đề thế nào. Huynh dở bát cổ chế nghệ lắm, riêng cái khoản này thì đệ với Lưu Phóng ăn đứt huynh rồi. Hôm nay không tệ, đề thơ "Phong vũ thê thê" ngon ăn quá, chả hiểu sao cái bài chế nghệ đầu tiên khó thế không biết! May mà Lý đại học sĩ cho hai bài sau dễ, không thì hôm nay huynh đâm đầu vào cột lầu Minh Viễn chết luôn cho rồi!"

Chu Tử Thư nghe thế thì biết Mai Thắng Trạch viết bài chế nghệ thứ hai không đắn đo nhiều như mình.

Hai người ra khỏi trường thi liền từ biệt nhau.

Diêu Tam đã dẫn theo thầy thuốc trực sẵn ngoài cổng chờ Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư nói: "Về nhà đã, hôm nay tôi không mệt lắm, chắc là có kinh nghiệm thi Hương đợt trước nên khá ổn. Về tắm cái, ngủ một giấc rồi mai thi tiếp."

Diêu Tam và kế toán Lâm trút được gánh lo lớn.

Buổi tối tắm nước nóng xong, đánh một giấc ngon lành cành đào, hôm sau Chu Tử Thư lại tới trường thi từ lúc trời chưa sáng.

Cung Tuấn đã từng bảo Chu Tử Thư rằng, trong bốn Đại học sĩ trong viện

Hàn Lâm hiện giờ thì Dương Đại học sĩ và Phan Đại học sĩ thích Chu Dịch, Chu Đại học sĩ thích Xuân Thu. Chỉ riêng Lý Đại học sĩ là chàng không bảo ông ta thích gì. Chu Tử Thư không hỏi, bởi cậu biết Cung Tuấn không nói chẳng qua là vì trong Ngũ Kinh không có cuốn nào Lý Đại học sĩ thích hơn hẳn cả. Rất có thể ông ta thích Luận Ngữ trong Tứ Thư, vì thế mà trường đệ nhất kì thi Hội mới ra đến hai đề về Luận Ngữ.

Nếu Lý Đại học sĩ không tâm đắc cuốn nào trong Ngũ Kinh thì Chu Tử Thư chẳng phải nghĩ ngợi nhiều, chọn ngay đề dễ nhất bắt tay vào làm.

Ba ngày sau, Chu Tử Thư mặt mũi bợt bạt đi ra khỏi trường thi.

Diêu Tam vội vàng chạy tới.

Chu Tử Thư nói: "Không sao, buồn ngủ quá thôi."

Ngủ kĩ cho hồi sức, Chu Tử Thư lại trở về "trại giam", cày thêm ba ngày ba đêm nữa, viết đủ ba đề về các vấn đề thời sự của trường đệ tam.

Ròng rã chín ngày, cuối cùng kì thi Hội cũng khép lại. Cả nhà vừa về, quản lí Lục đã ghé thăm. Ông lựa đúng lúc Chu Tử Thư thi Hội xong để đến gặp, thế mà Chu Tử Thư vừa thấy mặt ông thì xua tay lia lịa, nói: "Mai hẵng qua."

Quản lý Lục cười méo cả miệng: "Vâng, xin nghe lời tiểu đông gia."

Hôm sau Chu Tử Thư ngủ tít đến lúc mặt trời cao ba sào, xơi bánh nướng kiểu Thịnh Kinh mà Phụng Bút mua về, đang húp dở tô cháo thì quản lí Lục gõ cửa vào nhà. Ông vái chào Chu Tử Thư, nói: "Tiểu đông gia, thành công rồi! Hôm trước lúc cậu đang thi thì quản lí Hình của lầu Thiên Lý tới tìm tôi. Ông ta nói thẳng luôn rằng đã biết tôi chính là quản lí của lầu Tế Hà ở phủ Cô Tô, sau đó bóng gió hỏi thăm tôi có muốn hợp tác với Họa Đường

Thu để bán xà phòng và Hoàng Kim Lũ không."

Chu Tử Thư nghe thế thì đặt bát cháo xuống, hỏi: "Ông ta biết chú là quản lí lầu Tế Hà rồi à?"

"Đúng vậy. Hai tháng trước lúc tôi tặng ông ấy hộp Hoàng Kim Lũ cũng rầu lắm. Tiểu đông gia không biết, lúc đó tôi nghĩ, chúng ta đã tỏ ý muốn hợp tác với Họa Đường Thu đến thế rồi, sao quản lí Hình nhận lễ vật xong vẫn tỏ ra không hiểu chứ? Mãi hôm nay tôi mới biết, không phải người ta không hiểu, mà người ta ngấm ngầm điều tra rõ thân phận của tôi, bấy giờ mới ngỏ lời hợp tác!"

Chu Tử Thư cười: "Có thể phát triển lầu Thiên Lý và Họa Đường Thu thành những tên tuổi bậc nhất chốn kinh kỳ, quản lý Hình ắt chẳng phải người tầm thường. Thế chú bàn bạc với ông ta đến đâu rồi?"

Quản lý Lục lần lượt nêu những thỏa thuận sơ bộ của mình với quản lí Hình: "...Tôi thấy không có vấn đề gì, các điều kiện quản lí Hình đề xuất đều rất có lợi. Nhưng cụ thể hợp tác thế nào, hai quản lí chúng tôi không định đoạt được. Quản lí Hình mong cậu có thể gặp trực tiếp ông chủ của lầu Thiên Lý, để hai vị cùng thương lượng rõ ràng với nhau."

Chu Tử Thư kinh ngạc: "Gặp Tiêu Dao Cunggia Triệu Ngao ư?"

Quản lý Lục: "Là thế tử Cảnh vương, Triệu Quỳnh."

Bóng dáng người kia liền hiện lên trong đầu Chu Tử Thư, cậu gật đầu ngay: "Được, gặp chứ sao không."

||

Lời tác giả:

Anh Cunghàng xóm: Ơ thế hôm nay không có suất diễn của tui à?" Tiểu Thư Lang: Thì sao? Huynh muốn diễn cái gì chớ?

Lại nói, tui cảm thấy công trong bộ này, tức là anh Cunghàng xóm á, khá là khác với công trong các bộ tui viết trước đây. Tui đã rất nghiêm túc khi xây dựng và viết về nhân vật này, không biết mọi người có cảm nhận được không? Chú thích

[1] Bản dịch của Lý Minh Tuấn.

[2] Bản dịch của .

[3] Bánh nướng Chu Tử Thư ăn

------oOo------

Chương 42

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thi Hội

Muốn xem ngàn dặm xa xôi, hãy lên tầng nữa trông vời nước non.

Lầu Thiên Lý nằm ở khu Tây thành Thịnh Kinh. Leo lên bốn tầng lầu, tầm nhìn thu trọn một góc Đại Vận Hà mênh mông như thước lụa bạc. Hôm sau kì thi Hội, Chu Tử Thư và quản lý Lục đi đến lầu Thiên Lý, quản lí Hình với gương mặt tròn trịa niềm nở đã chờ sẵn để đón hai người.

Quản lí Hình ngắm nghía Chu Tử Thư, cười: "Không ngờ tiểu công tử còn trẻ như vậy, đúng là thanh niên tài tuấn."

Chu Tử Thư vái chào: "Quản lí Hình."

Quản lí Hình: "Thế tử nhà chúng tôi chưa tới, xin mời tiểu công tử lên nhã gian, nghỉ ngơi chốc lát."

Ba người cùng nhau lên lầu, Chu Tử Thư đi vào nhã gian, quản lí Hình và quản lý Lục đứng ngoài cửa.

Vừa vào nhã gian, Chu Tử Thư đã bắt gặp một tấm bình phong vẽ ngàn dặm núi non. Góc trái phòng là một kệ trưng bày nhiều ngăn, đặt không biết bao nhiêu là các loại đồ cổ, trân bảo lung linh muôn màu. Nhìn qua bên phải, khung cửa sổ hai cánh khép kín. Chu Tử Thư đẩy cửa sổ, ùa vào tầm mắt là cảnh thành thị, người ngựa tấp nập trên đường phố thênh thang của Thịnh Kinh.

"Lên trên lầu này, tất thấy tinh thần nhẹ nhõm, u cảm tiêu tan, nâng rượu đón gió, vui vẻ dương dương làm sao!" Được chiêm ngưỡng phong cảnh phồn hoa của Thịnh Kinh, Chu Tử Thư bỗng thấu hiểu mấy câu văn này của Phạm Trọng Yêm.

"Câu "tất thấy tinh thần nhẹ nhõm, nâng rượu đón gió" nghe hay lắm. Đã thế, hôm nay không được thiếu rượu đâu nhé."

Chu Tử Thư nhanh chóng quay lại nhìn, thì ra thế tử Cảnh Cungđã vào trong phòng. Thế tử mặc áo bào gấm, đội ngọc quan chỉnh tề. Hai người thấy mặt nhau, Triệu Quỳnh đứng sững lại, ngạc nhiên nhìn Chu Tử Thư. Lát sau, thế tử mới thốt lên: "Hóa ra là ngươi à!"

Chu Tử Thư vái chào: "Bái kiến thế tử Cảnh vương."

Có một số việc một khi đã biết thì sẽ hiểu nguyên lí ẩn sau. Triệu Quỳnh nhận ra ngay rằng việc Chu Tử Thư đến phủ Cảnh Cungdự yến hẳn là có tính toán. Nhưng chuyện nhỏ nhặt cỡ ấy chẳng khiến y phật lòng, trái lại, y lấy làm mừng vì việc kinh doanh xà phòng lại được chủ trì bởi một sĩ tử có công danh.

Triệu Quỳnh gọi quản lí Hình: "Dâng thức ăn lên."

Quản lí Hình: "Vâng."

Triệu Quỳnh hỏi Chu Tử Thư: "Kì thi Hội mới kết thúc hôm qua, Đường công tử thi tốt chứ?"

Chu Tử Thư cười đáp: "Tốt lắm."

"Tuyệt, thế thì hôm nay không nói chuyện sách vở, chỉ bàn chuyện trời Tuấng mây gió thôi. Còn đâu chờ yết bảng rồi bàn nhé, được không?"

Chu Tử Thư cũng không muốn vừa gặp mặt đã đi thẳng vào chuyện buôn bán xà phòng và tinh dầu. Hơn nữa, Triệu Quỳnh nói thẳng như vậy tức là có ý định hợp tác với cậu rồi. Đợt đến khi công bố kết quả thi Hội, nếu Chu Tử Thư đỗ Tiến sĩ, thái độ của Triệu Quỳnh rất có thể sẽ thay đổi. Lúc ấy, hai bên lại đàm phán chuyện hợp tác thì vừa có lợi cho Chu Tử Thư, vừa có ích cho Triệu Quỳnh.

Đã tỏ ý nhau, hai người chỉ đơn thuần nâng ly nói chuyện phiếm.

Chu Tử Thư còn nhỏ tuổi, không thể uống rượu, Triệu Quỳnh cũng không ép cậu.

Một canh giờ sau, hai người đã thành bè bạn. Chu Tử Thư ra khỏi nhã gian, xoay người lại vái chào Triệu Quỳnh: "Thế tử không cần tiễn."

Triệu Quỳnh nói: "Thế khi nào Hạnh bảng gọi tên, ta lại chúc mừng Cảnh Tắc vậy nhé."

Chu Tử Thư và quản lý Lục rời khỏi lầu Thiên Lý, quản lý Lục xem chừng khá bất ngờ: "Cứ tưởng thế tử Cảnh Cunglà hoàng thân quốc thích thì khó nói chuyện lắm. Nào ngờ ngài ấy cởi mở dễ gần quá, chẳng làm giá chút nào."

Chu Tử Thư sực nhớ ra một việc, cười nói: "Quản lý Lục, chú thấy phủ Cảnh Cungmở lầu Thiên Lý và Họa Đường Thu với mục đích gì?"

Quản lý Lục đáp: "Hoàng thân quốc thích ở Thịnh Kinh ai ai cũng có sản nghiệp riêng, phủ Cảnh Cungbuôn bán cũng là chuyện thường, chẳng lẽ có chỗ nào bất thường ư?"

"Phải, đúng là rất bình thường, nhưng phủ Cảnh Cunglại chuyên kinh doanh mỹ thực mỹ tửu, ngọc ngà châu báu. Cảnh Cunglà một Cunggia giàu có song không có thực quyền. Thế nên, có những phi vụ một vốn bốn lời như việc sửa chữa tuyến vận chuyển đường sông năm ngoái, bất cứ quan viên nào nhúng tay vào đều có cơ may hốt bạc vạn, ông ta lại chịu bó tay!"

Việc tu sửa đường sông của triều đình thường là cách tốt nhất để Cungcông quý tộc và trọng thần đại quan kiếm chác.

Nói thế không có nghĩa là giới quý tộc và quan viên hà lạm, bởi riêng việc mua bán vật liệu tu bổ công trình ở từng châu, từng phủ thôi đã là những phi vụ lớn, đủ cho họ thu lợi nhuận ngay cả khi không tham ô. Tuy không hoàn toàn loại bỏ được tình trạng bòn rút của công, nhưng những dự án này luôn đem lại khoản tiền kếch sù cho quan lại và quý tộc.

Cảnh Cungcó thể mở tửu lầu và cửa hàng châu bảo lớn nhất Thịnh Kinh, nhưng ông sẽ không bao giờ tranh thủ được một chân trong việc triều đình. Bởi lẽ ấy, ông rốt cuộc vẫn chỉ là một Cunggia khá giả, có tiếng mà không có miếng.

Ở vào hoàn cảnh ấy, có người tha hóa, có người lại say sưa hưởng lạc đến quên đường về.

Chu Tử Thư ngẫm nghĩ thì thấy thế tử Cảnh Cungxem chừng không mấy uất ức với hoàn cảnh nhà mình. Dù sao đương kim thánh thượng rất tạo điều kiện cho công thương nghiệp, dẫu người đời có chỉ trích ông ta là hôn quân, là hoàng đế gàn dở chỉ mong trường sinh bất lão. Xưa nay đầy rẫy quân Cungôm mộng trường sinh, Triệu Phụ may mắn vẫn là một minh quân.

Hoàng đế không hà khắc với anh em nhà mình, Cảnh Cungcũng vui vẻ yên phận.

Còn những chuyện thâm cung bí sử, những dây mơ rễ má chằng chịt trong hoàng gia thì chẳng phải điều mà Chu Tử Thư có thể biết được vào lúc này.

Quản lý Lục hỏi: "Tiểu đông gia, bao giờ thi Hội yết bảng vậy? Có phải sau mười ngày giống thi Hương không?"

Chu Tử Thư bật cười: "Nào dễ thế!"

Thi Hội là cửa ải cuối cùng trên con đường khoa cử. Từ nay về sau, một khi đã đỗ thi Hội rồi thì không trượt vào đâu được nữa, chỉ chờ thi Đình xếp hạng tiến sĩ thôi. Thi Đình mà không tốt thì vẫn có danh, chỉ tội là xếp chót.

Bởi tầm quan trọng của kì thi Hội, ngoại trừ việc dán tên, từng quyển thi còn phải được sao chép lại để giám khảo không chấm vào bản chính.

Cử nhân trong thiên hạ có đến hơn vạn người, các tú tài được thuê có nai lưng chép ba ngày cũng chưa chắc đã xong nổi.

Trên thực tế, Chu Tử Thư áng chừng ba ngày là còn nhanh chán. Kì thi hội kết thúc vào trung tuần tháng Hai, nhưng đến tận ngày hai mươi bảy, các giám khảo mới biết mặt mũi bài thi ra sao. Tên đã được quết hồ, chữ cũng không phải là chữ của thí sinh, tất cả đều chung một thể Quán các chỉnh tề nắn nót. Sau khi tế bái Đức thánh Khổng xong, các khảo quan đều khóa mình trong khu vực chấm thi, tập trung phê quyển.

Sau năm ngày, ba mươi giám khảo cũng lọc ra được mười bài xuất sắc nhất.

Nhân lúc Lý Đại học sĩ – quan chủ khảo vắng mặt, một giám khảo mới thì thầm than với đồng nghiệp: "Đề lần này oái oăm phát sợ. Có mấy thí sinh văn chương trác tuyệt mà viết lạc đề hết trơn. Thậm chí có bài phá đề chệch đến mức muốn vớt cũng không vớt nổi. Về tình về lí đều không thể xếp bài kiểu ấy vào mười hạng đầu được, đành phải chấm cho đỗ tiến sĩ, hi vọng thi Đình có cơ hội trổ tài bứt phá."

Đợi Lý Đại học sĩ tới, các quan cùng nhau xét duyệt lại mười quyển đáng chú ý nhất.

Thi Hội, Thi Hương và thi Đồng sinh đều lấy trường đệ nhất là chính. Ở trường đệ nhất lần này, Lý Đại học sĩ ra ba đề mục, lần lượt là: "Viên quan ấp Nghi xin gặp", "bỏ Mặc tất về với Dương", và "ta mỗi ngày tự xét mình ba điều".

Riêng đề thứ nhất thôi đã loại được hàng đống thí sinh rồi.

Ba vị Phó khảo lần này có hai người là học sĩ viện Hàn Lâm, một người là

Thị lang bộ Lễ. Một phó khảo nói: "Ta thấy quyển này xứng với danh hiệu Hội Nguyên nhất. Mời chư vi xem, Nghi phong nhân thỉnh kiến, trò này phá đề bằng cách mượn Khổng thánh để răn dạy người trong thiên hạ. So sánh đối chiếu rõ ràng, kết luận vô cùng xác đáng."" Mọi người đọc quyển ấy xong thì gật gù: "Viết tốt thật!"

Phó khảo khác nói: "Thế chư vị xem thử quyển này đi." Mọi người lại ngó sang.

Lý Đại học sĩ có tuổi rồi nên không tinh mắt, thính tai bằng các giám khảo khác. Ông giơ quyển bài trước mặt, nheo mắt đọc: "năm lần bảy lượt xin được nghe lời răn của Thánh, chẳng hóa là đã thấy Đức thánh mà không biết đường ngộ ra hay sao...Ờ, trò này hết sức sùng bái Đức thánh Khổng. Để xem bài thứ hai coi." Đọc một hồi, Lý Đại học sĩ nói: "Bài này thường quá, được cái lời văn chặt chẽ, câu chữ chải chuốt, nhưng phá đề chẳng có gì nổi bật cả. Hừ, quyển này lọt vào mười hạng đầu còn được, chứ làm sao đòi đoạt Hội Nguyên?"

Phó khảo bị Lý Đại học sĩ xét nét, trong bụng thở vắn than dài. Lý Đại học sĩ là học giả lão làng, nổi tiếng là trái tính trái nết. Có thể thấy ngay từ cái cách ông ta ra đề tréo ngoe là vị Đại học sĩ này cũng chẳng được lòng mọi người ở viện Hàn Lâm mấy.

Phó khảo nói: "Lý đại nhân đã đọc bài chế nghệ thứ ba của trò này chưa ạ?"

Lý Đại học sĩ bèn đọc tiếp bài còn lại. Chỉ một lát sau thôi, ông đã phải trầm trồ kinh ngạc, dí bài thi vào sát tận mặt để soi tỉ mỉ từ trên xuống dưới, đoạn thốt lên: "Thật phi thường! Câu 'hữu tắc cải chi, vô tắc gia miễn' mới hay làm sao. Văn chương kết nối được cả tư tưởng xưa và nay, cứ ngỡ như đang được nghe lời răn của Tăng thánh vậy." Nói rồi, ông lại nhẩm đi nhẩm lại tám chữ này, xong mới đưa bài cho các giám khảo khác trong sảnh chấm thi cùng đọc.

Lý Đại học sĩ rạng rỡ mặt mày, khen: "Sâu sắc từng câu chữ, đúng là một áng văn trác tuyệt, xứng đáng xếp hạng nhất kì thi Hội lần này!"

||Chú thích

Trích bài thơ Lên lầu Quán Tước – CungChi Hoán. Bản dịch của

Câu văn nằm trong bài tản văn Nhạc Dương lâu ký (Ký ở lầu Nhạc Dương). Không biết là chủ động hay vô tình, MTH bỏ vế "u cảm tiêu tan." Mình bổ sung vào theo đúng nguyên văn bài ký và bản dịch của Điệp Luyến Hoa (Thi Viện).

------oOo------

Chương 43

Nguồn: EbookTruyen.Net

Tấm lòng sư huynh

Lý Đại học sĩ cầm quyển thi đã bị che tên, tấm tắc khen hay.

Các giám khảo khác cũng gật đầu liên tục, ai nấy tán thưởng. Một giám khảo nói: "Tuy hai bài đầu viết không có gì nổi trội, nhưng riêng bài cuối thì xứng đáng xếp hạng nhất trong hơn một vạn thí sinh."

Có người hỏi: "Thế ta nên xếp hạng sao cho phải đây?"

Lý Đại học sĩ suy ngẫm một chút, nói: "Tuy bình thường dù xét đến mười bài xuất sắc cũng hiếm khi bóc tên thí sinh, nhưng hôm nay chúng ta sẽ phá lệ. Thời tiên đế đã có tiền lệ hai cử nhân văn chương xuất chúng ngang ngửa nhau, cuối cùng các quan quyết định bóc tên, xét chữ viết từng người, sau đó kết hợp với bài viết trong hai trường còn lại để chọn Hội Nguyên. Chư vị đồng liêu, lão phu đề xuất chúng ta chọn ra ba thí sinh đỗ đầu trước, sau đó bóc tên, rồi sắp xếp thứ hạng cho ba người ấy, các vị thấy sao?"

"Xin nghe theo Lý đại nhân."

Vì thế, các quan chấm thi bèn chọn ra ba bài đứng đầu, rồi cho sai nha lấy bài thi hai trường còn lại của ba người ra. Đương nhiên là bản gốc với chữ thật của thí sinh.

Tuy những người được chọn để sao chép bài thi đều có nét chữ ngay ngắn chỉnh tề, nhưng dầu sao cũng chỉ là tú tài thôi. Vừa đem so với chữ gốc của ba thí sinh xuất sắc liền thấy khác biệt một trời một vực. Các giám khảo xem bản gốc cũng rất hào hứng.

Sau khi duyệt bài của ba thí sinh, một phó khảo nói: "Ta có kết luận rồi."

Hai vị phó khảo còn lại cùng gật gù: "Tôi cũng thế." Cuối cùng mọi người nhìn về phía Lý Đại học sĩ.

Vị đại học sĩ nổi tiếng lập dị vuốt chòm râu dê bạc trắng khô queo: "Thế chúng ta bỏ phiếu quyết định. Lão phu tính làm ba phiếu, ba người các vị mỗi người được tính hai phiếu."

"Vâng."

Một ngày trước khi yết bảng, Chu Tử Thư đã vứt toẹt chuyện thi cử ra sau đầu, ngủ đến là ngon lành. Ai ngờ hôm sau, cậu bị Phụng Bút đánh thức dậy từ lúc trời còn chưa sáng. Chu Tử Thư giật mình, chợt nhớ ra hôm nay là ngày gì. Phụng Bút nói: "Hôm nay công tử vẫn đợi ở nhà, còn tôi đến trường thi xem kết quả chứ ạ?"

Chu Tử Thư nghĩ ngợi một chút: "Để ta tự đi."

Cậu mặc áo bông dày ấm, khoác thêm áo choàng, dẫn Phụng Bút và Diêu Tam đến trường thi Thịnh Kinh từ lúc trời vẫn còn mịt mờ.

Đã vào tháng Ba xuân về, nhưng Thịnh Kinh vẫn rét mướt, thở ra khói được. Chưa tới giờ Dần, trên đường cái hẵng còn vắng vẻ, ngoại trừ các Cungcông, đại thần lên triều sớm thì chỉ có các thí sinh chờ kết quả thi tụ tập ở trước cống viện. Bọn họ chịu khó dãi dầm sương gió, lặng lẽ đi lại hai bên đường, chẳng hề có chút hân hoan, tự tin nào.

Chu Tử Thư vén rèm xe liền thấy đám thí sinh mặt nhăn mày nhó, bất đắc dĩ thở dài: "Đề mục thi Hội lần này đúng là trái khoáy thật!"

Đi tới cổng trường thi, dưới ánh Tuấng là đám đông học sinh đen kìn kịt. Nhiều người thế mà chỉ nghe thấy tiếng hít thở với đôi ba tiếng ho húng hắng, còn lại thì lặng ngắt như tờ.

Rốt cuộc, cổng chính trường thi mở ra, làn sóng thí sinh bắt đầu động đậy.

Chu Tử Thư đứng giữa đoàn người, cậu thấy hai sai nha giơ cao tấm bảng son, dán lên danh sách những người lọt vào Hạnh bảng. Danh sách được dán từ dưới lên trên, kì thi Hội lần này có tổng cộng hai trăm chín mươi mốt thí sinh thi đỗ. Chu Tử Thư phát hiện Lưu Phóng thế mà đỗ hạng hai trăm mười bảy. Cậu cứ tưởng là trùng tên, nhưng nhìn kỹ lại thì đúng là Lưu Phóng – Lưu Khắc Kỷ, học trò Quốc Tử Giám được tất cả đặt kì vọng đoạt Hội Nguyên.

Cũng có học trò Quốc Tử Giám khác phát hiện tên Lưu Phóng, bèn hô:

"Lưu Phóng, sao huynh lại đứng hạng hai trăm mười bảy thế kia? Ơ, Lưu Phóng huynh, làm sao vậy...Hầy, không ngờ huynh ấy thiếu kiên nhẫn thế, chẳng đợi danh sách dán hết đã phất tay áo bỏ đi rồi!"

Chu Tử Thư nghĩ thầm: Nếu không phải tại Lý Đại học sĩ ra đề kì quặc, thì có lí nào ba ngôi đầu bảng lại không gọi tên Lưu Phóng kia chứ? Phất tay áo bỏ đi còn tốt chán, phải người nóng tính thì chắc đã chửi đổng lên ngay tại chỗ rồi.

Chờ thêm một lúc, Chu Tử Thư lại nhận ra một vài cái tên quen thuộc. Có mấy học trò tham dự Giải Nguyên yến lần trước ở phủ Cảnh Vương, hầu hết đều có tên trong một trăm hạng đầu, xếp hạng không chênh lệch quá nhiều. Xem lên tiếp, Chu Tử Thư tìm thấy tên Mai Thắng Trạch, đứng hạng ba mươi tư.

Chu Tử Thư ngó ngay về phía Mai Thắng Trạch cách đó không xa.

Mai Thắng Trạch chắp tay với cậu, cười méo xẹo: "Thế là thỏa mãn lắm rồi,

Cảnh Tắc đừng chê cười ta nhé."

Chu Tử Thư vô cùng thông cảm: "Đệ hiểu mà, vô sỉ thấy ớn."

Phần sau của danh sách, Chu Tử Thư cũng thấy hai người mình quen. Sau hai khắc, chỉ còn ba cái tên đứng đầu là chưa được công bố.

Diêu Tam nín thở hồi hộp, Chu Tử Thư cũng trừng trừng nhìn Hạnh bảng, không dám chớp mắt.

Khai Bình năm hai mươi bảy, kì thi Hội tại Thịnh Kinh, đệ tam danh: Diêu Thiện – Diêu Vấn Cơ.

Đệ nhị danh: Chu Tử Thư – Đường Cảnh Tắc.

Đệ nhất danh: CungTiêu – CungĐại Nhạc.

Bỗng có người vỗ vai, Chu Tử Thư ngơ ngác ngoái lại, hóa ra là Mai Thắng Trạch hớn hở hò reo: "Cảnh Tắc, đệ đỗ đệ nhị kìa!"

Diêu Tam cũng vỡ òa sung sướng: "Tiểu đông gia, cậu đỗ đệ nhị danh rồi!"

Chu Tử Thư sửng sốt, cố ý hỏi: "Tên ta là Chu Tử Thư à?"

Mọi người cười phá lên, bè bạn Quốc Tử Giám xung quanh đều xúm lại chúc mừng.

Mai Thắng Trạch trêu: "Trông cái mặt này, đắc chí thấy ghét."

Chu Tử Thư cười hí ha hí hửng, không nén được kích động: "Người hiểu ta chỉ có Thắng Trạch huynh thôi! Các bạn học, trưa nay tại lầu Thiên Lý, Chu Tử Thư xin chiêu đãi tất cả mọi người!"

"Sao mà lỡ tiệc chúc mừng của Cảnh Tắc huynh được!"

"Ta nhất định sẽ có mặt!"

Đỗ thi Hội hoàn toàn nằm trong dự kiến của Chu Tử Thư, nhưng đỗ hàng đệ nhị hoàn toàn nằm ngoài dự kiến. Cậu sung sướng suốt một ngày một đêm, ngẫm nghĩ kĩ càng rồi kết luận: "Hừm, hẳn là tám mươi phần trăm nguyên nhân đỗ cao là nhờ ta đây có tài năng trời phú, lại được phụ trợ bởi bàn tay vàng xuyên không đọc gì cũng nhớ. Ngoài ra, bài đầu viết không tệ, bài thứ hai lại khá tầm thường, chỉ được cái chặt chẽ. Được đỗ hạng nhì ắt là nhờ bài thứ ba, "Ngô nhật tam tỉnh ngô thân". Chu Hy tiên sinh giúp ta rồi!"

Đoán vẩn vơ mà cũng gần như trúng phóc.

Đạt thành tích tốt, Chu Tử Thư đi báo tin mừng ngay cho Phó Vị và Cung Tuấn. Song lần này cậu không gặp được Cung Tuấn, bởi chàng có việc nên đã rời kinh mấy ngày chưa về. Sau đó, Chu Tử Thư gặp lại Cung Tuấn trong một hoàn cảnh khá bất ngờ.

Thi Hội mỗi khóa đều diễn ra vào tháng hai, yết bảng vào tháng ba, đầu tháng tư thì thi Đình.

Nhân tài Quốc Tử Giám nhiều như lá mùa thu, mỗi lần thi Hội phải có một phần sáu thí sinh thi đỗ là học trò Quốc Tử Giám. Khi ấy, Lâm Tế tửu sẽ mời đại thần trong triều tới giảng bài ở Quốc Tử Giám, những tiết giảng này gọi là "Quan khóa." Hôm ấy Chu Tử Thư nghe giảng tập thông báo, người đứng lớp Quan khóa ngày mai là Thượng thư bộ Hộ CungTử Phong, cậu ngạc nhiên muốn rớt quai hàm.

Mai Thắng Trạch cũng nói: "Cảnh Tắc, sư huynh của đệ kìa! Chắc là đệ biết trước rồi chứ gì."

Chu Tử Thư kêu oan: "Nào có, sư huynh của đệ về kinh từ bao giờ đệ còn chẳng biết nữa là!"

Hôm sau, Lâm Tế tửu dẫn các đệ tử đến Suất Tính đường. Giờ Mùi một khắc, Cung Tuấn mặc quan bào đỏ thuần tiến vào từ cổng chính giảng đường. Tuy chàng mặc quan phục nhưng không đội mão quan. Đứng trước bục giảng, chàng nhìn lướt qua toàn bộ học sinh trong giảng đường bằng ánh mắt ôn hòa, cũng trông thấy Chu Tử Thư, nhưng chỉ thoáng qua thôi.

Trong số học trò Quốc Tử Giám phải có một nửa là con nhà quan lại, thế gia, cũng biết đôi chút về Cung Tuấn. Nửa còn lại là học trò nghèo, chưa từng gặp quyền thần trong triều như chàng. Thấy Cung Tuấn trẻ như thế, các đệ tử hàn môn, đại diện là Lưu Phóng, đều lấy làm kinh hãi, ngạc nhiên trưng hết lên mặt.

Nhưng mọi người đều hết sức trật tự.

Cung Tuấn cất tiếng nói: "Tên ta là Cung Tuấn, tự Tử Phong. Hôm nay mở Quan khóa ở Quốc Tử Giám, chúng ta thảo luận với tư cách thầy-trò, không liên quan đến vai vế trong quan trường." Các học trò đáp: "Xin nghe Cungtiên sinh giảng." Cung Tuấn liền bắt đầu giảng bài.

Lâm Tế tửu cố ý mời Cung Tuấn đến giảng, nội dung bài giảng chính là tình hình thời sự, việc triều chính, chứ hoàn toàn không phải Tứ thư Ngũ kinh. Dĩ nhiên, Cung Tuấn không thể để lộ việc nước; song bài giảng của chàng là những chuyện từ thời tiên đế, phong cách giảng cũng hết sức thoải mái ung dung, chuyện trò vui vẻ với tất cả. Các học trò đều thông minh nên tiếp thu nhanh chóng, càng hiểu rõ hơn về quan trường, coi như chuẩn bị cho kì thi Đình sắp tới.

Thi Đình đầu tháng Tư không thi bát cổ chế nghệ mà thi sách vấn về tình hình chính trị đương thời!

Quan khóa kết thúc, các học trò hẵng còn say sưa đắm chìm trong bài giảng.

Giọng Cung Tuấn thanh như tiếng chuông ngân: "Còn trò nào thắc mắc không?"

Vài học sinh dè dặt đặt câu hỏi, Cung Tuấn tận tình giải đáp cặn kẽ.

Từ đầu tới cuối giờ học, Cung Tuấn hoàn toàn không nhìn Chu Tử Thư lấy một cái. Chu Tử Thư bắt đầu thắc mắc, chẳng lẽ rằng sư huynh mình đến đây chỉ để dạy học thôi sao?

"CungTử Phong mà tốt bụng thế ư?" Chu Tử Thư luôn cảm thấy cái từ này không hợp với con người CungTử Phong xíu nào cả.

Cậu vừa ra khỏi Suất Tính đường, một giảng tập đứng ngoài bảo: "Cảnh Tắc, Cungđại nhân chờ cậu ở Sùng Chí đường đấy!"

Chu Tử Thư ù ù cạc cạc đi sang Sùng Chí đường. Cậu gõ cửa khe khẽ, Cung Tuấn nói: "Vào đi."

Chu Tử Thư vào phòng, liền thấy Cung Tuấn đang ngẩng đầu ngắm nghía một bức ông lão cưỡi trâu treo trên mặt tường phía Tây của Sùng Chí đường. Khi Chu Tử Thư đi vào, chàng quay ra nhìn cậu, ánh mắt lưu lại trên gương mặt một chút, rồi liếc xuống mỏm vai Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư: "Tử Phong sư huynh."

Cung Tuấn bước tới, đưa tay nhón lấy cánh hoa màu nhạt trên bờ vai Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư ngỡ ngàng.

Cung Tuấn: Hoa hạnh."

Chu Tử Thư: "Chắc lúc nãy đệ đi từ hậu viện Quốc Tử Giám sang đây thì hoa rụng lên vai đấy."

Cung Tuấn cười: "Chúc mừng tiểu sư đệ đề danh Hạnh bảng, đạt hạng nhì thi Hội ."

Mấy bữa nay nhận vô số lời chúc mừng tán tụng, Chu Tử Thư đã miễn dịch với khen ngợi. Nhưng không hiểu sao khi nghe câu nói rất đỗi bình thường này, nhìn nét mặt vui vẻ của CungTử Phong, Chu Tử Thư lại thấy hơi thẹn thùng. Cậu thật thà đáp: "Như sư huynh nói ấy à, thi Hội không quan trọng mấy, quan trọng là...thi Đình."

Cung Tuấn gật đầu, chợt quay phắt sang một vấn đề khác hẳn: "Đệ luyện chữ đến đâu rồi?"

Chu Tử Thư là người hiện đại mà cũng không hiểu nổi cách não bộ CungTử Phong vận hành.

Sao đang nói chuyện thi Hội lại nhảy sang chuyện luyện chữ?

Chu Tử Thư lẩm nhẩm trong bụng thế, ngoài miệng chỉ đáp: "Lâu nay vẫn luyện đều ạ."

"Còn có mười ngày nữa là thi Đình, mấy hôm tới cứ giờ Thân thì đệ sang phủ ta nhé."

"Sư huynh?"

"Ta hướng dẫn đệ luyện chữ."

"..."

Hôm nay CungTử Phong kì quặc quá mức bình thường rồi!

Mãi về sau Chu Tử Thư mới biết, Cung Tuấn căn bản không tin học lực của cậu đủ để tự thi đỗ đệ nhất giáp!

Thi sách vấn nói thì dễ, nhưng viết còn khó hơn văn bát cổ! Đề văn bát cổ lúc nào cũng nằm trong Tứ thư Ngũ kinh, dù các đệ tử hàn môn không mấy quen thuộc với chính trị cũng có thể trích dẫn, lí luận, viết được bài văn xuất sắc. Nhưng sách vấn thì sao?

Chu Tử Thư năm nay mới mười sáu tuổi, luận về độ từng trải thì cậu kém Diêu Thiện – người đỗ đệ tam, luận xuất thân từ gia đình có truyền thống khoa bảng thì cậu kém xa Hội Nguyên CungTiêu. Ngoại trừ hai người này ra, trong số những thí sinh có tên trên bảng hạnh, ối người là con nhà quan lại, quý tộc, dòng dõi thư hương, ai cũng giỏi giang hơn cậu! Chu Tử Thư nhắm hai mươi hạng đầu còn có cơ hội, nhắm mười hạng đầu thì rất khó, mong đỗ tam khôi nữa thì khó như lên trời!

Nhưng, thành sự tại nhân.

Chủ khảo thi Đình chỉ có duy nhất một người là đương kim hoàng đế, các khảo quan đều chỉ được gọi là "Quan đọc quyển." Trong hai trăm chín mươi mốt quyển thi, các quan đọc quyển sẽ lọc ra mười bài, xếp sẵn thứ tự rồi trình lên hoàng đế để ngài khâm điểm ba người đỗ đầu.

Chu Tử Thư nếu không lọt vào mười hạng đầu thì khỏi được hoàng đế nhìn đến luôn.

Mùng hai tháng tư, chưa tới giờ Mão, các thí sinh đã tiến vào hoàng cung từ cửa bên cổng Tuyên Võ, tập trung ở điện Minh Ý. Giờ này, hoàng đế đương nhiên chưa có mặt. Gần ba trăm thí sinh hành lễ trước ngai rồng trống không, mười quan đọc quyển phát đề và coi thi.

Chu Tử Thư đỗ hạng hai trong kì thi Hội, được ngồi ở vị trí thứ hai trên hàng đầu.

Dù cậu đã chuẩn bị từ trước, nhưng gặp bốn đề sách vấn vẫn thấy hoang mang vô cùng. Chu Tử Thư kiếp trước không có kinh nghiệm chính trị, đời này xuyên không chưa được ba năm, ngay cả vấn đề "chiến loạn biên cương" trong đề thứ tư cậu cũng mới chỉ nghe chung chung chứ chưa nắm vững, nữa là bắt cậu tư duy bằng lập trường của một quan viên, đề xuất sách lược giải quyết!

Nhưng Chu Tử Thư không vì thế mà căng thẳng, cậu hít sâu thở đều, bình tĩnh làm bài thi.

Không biết viết gì thì cứ bắt đầu bằng kính tâu thánh thượng, thỉnh an bệ hạ các kiểu. Chu Tử Thư tỉ mỉ viết từng câu từng chữ theo đúng quy cách thi Đình, viết xong thì chép lại từng bài cho sạch đẹp.

Viết bài sách vấn không khó, viết sao cho đẹp, sao cho đúng quy cách thì khó kinh khủng! Mãi đến khi mặt trời lặn đằng Tây, Chu Tử Thư mới viết xong chữ cuối cùng. Cậu thổi khô mực, dừng bút ở đây.

Nửa canh giờ sau, toàn bộ thí sinh dừng bút, nộp quyển, rời khỏi hoàng cung.

Chu Tử Thư đi nửa đường thì Mai Thắng Trạch đuổi kịp. Hai người nhìn nhau, sầu như trái bầu.

Mai Thắng Trạch: "Cảnh Tắc, thi thế nào?"

Chu Tử Thư thật thà đáp: "Viết kín giấy, mỗi bài một ngàn năm trăm từ."

Mai Thắng Trạch: "Đường Cảnh Tắc đệ ghê thật, ta chỉ viết được có một nghìn hai trăm từ thôi. Tiêu rồi, kiểu này thứ hạng thi Đình của ta lại thấp hơn đệ."

Hai người cười phá lên.

Các sĩ tử thi xong nối đuôi rời khỏi cung theo cửa bên cổng Tuyên Võ. Các quan đọc quyển thì chia nhau mỗi người ba chục bài thi đã dán tên, bắt đầu chấm điểm. Quan đọc quyển đều là trọng thần trong triều, một nửa số đó là Thượng thư lục bộ hàm nhị phẩm, trừ Cung Tuấn vắng mặt để tránh hiềm nghi.

Thượng thư bộ Lễ là một người đàn ông trung niên cao gầy, nuôi một chòm râu đen mướt vô cùng phong cách.

Đến thi Đình thì các quan đọc quyển đều chấm thẳng vào bài thi gốc của thí sinh. Thượng thư bộ Lễ vừa chấm hết một quyển, mở quyển tiếp theo thì khựng lại ngay từ hàng chữ đầu tiên. Hồi lâu, ông ta mới vẫy Tả thị lang bộ Lễ ra, chỉ quyển thi bảo: "Trông quen không?"

Tả thị lang bộ Lễ vừa nhòm vào đã không dứt mắt được. Đọc xong bài thi, ông ta phải phì cười, ới Hữu thị lang bộ Hộ: "Tần đại nhân, ra đây xem cái này, nhanh."

Ông ta nói câu đấy làm cả phòng chấm thi tò mò lắm.

Các quan xúm lại một chỗ. Tần Tự chạy sang đọc bài, thiếu điều dán luôn mắt lên bài thi.

Thượng thư bộ Lễ vuốt râu, cười híp mắt: "Phải chữ Cungđại nhân không nào?"

Tần Tự cười gượng: "Phải có đến bảy phần thần vận của Cungđại nhân ấy. Chắc là quyển của Đường Cảnh Tắc, tiểu sư đệ Cungđại nhân chẳng sai rồi!"

Thượng thư bộ Lễ giả vờ nghiêm giọng: "Nét chữ này ít nhất phải luyện một năm rưỡi mới giống được đến mức ấy! Tên CungTử Phong quả thực gan cùng mình, hành vi này là cố ý đánh dấu bài, làm rối kỉ cương để mưu lợi riêng đây mà!"

Trong phòng chấm thi, các quan đại thần rường cột nước nhà đều cúi đầu đếm kiến, nghĩ bụng: Ông có giỏi thì nói thẳng câu này vào mặt CungTử Phong ấy!

Thượng thư bộ Lễ hừ một tiếng, chuyển bài của Chu Tử Thư cho Tả thị lang.

"Lập luận chặt chẽ, văn hay chữ tốt, xếp bài này vào mười hạng đầu."

"Vâng."

Tấm lòng này của sư huynh, Chu Tử Thư hỡi, liệu có thấu chăng?

||

------oOo------

Chương 44

Nguồn: EbookTruyen.Net

Bố!

Mùng bảy tháng tư, toàn bộ hai trăm chín mươi mốt tân khoa tiến sĩ của kì thi Hội thay Nho phục, bước vào hoàng cung lần thứ hai.

Hôm nay, trong điện Tử Thần chật kín đại thần văn võ trong triều. Như buổi triều sớm ngày thường, quan văn đứng bên trái, quan võ đứng bên phải. Hơn hai trăm tiến sĩ đương nhiên không thể nhét tất vào điện Tử Thần. Giờ Dần ba khắc, khi tia nắng đầu tiên ló rạng, Thủ lĩnh Thái giám Quý Phúc đi ra từ điện Tử Thần, hô vang: "Tiến sĩ thi Hội năm Khai Bình thứ hai mươi bảy vào điện Tử Thần diện thánh!"

Dứt lời, hai thái giám trẻ đừng dưới bậc thềm đầu tiên ngoài cửa cung hô theo: "Tiến sĩ thi Hội năm Khai Bình thứ hai mươi bảy vào điện Tử Thần diện thánh!"

Tiếp theo, bốn thái giám khác lại nối đuôi tuyên bố.

Sau ba mươi mốt tiếng hô, lời tuyên triệu đã âm vang khắp cả hoàng cung.

Tiếp đó, Quý Phúc gọi tên mười vị tiến sĩ xuất sắc nhất vào điện. Danh tính ba người đỗ đầu hẵng còn để ngỏ, chờ hoàng đế khâm điểm.

Tên Chu Tử Thư được gọi thứ năm, ám chỉ rằng cậu được các quan đọc quyển xếp hạng năm trong số mười người. Chu Tử Thư cúi đầu, bình tĩnh bước ra khỏi hàng ngũ tiến sĩ, đi cùng chín người kia vào điện Tử Thần.

Trong mười người này, có Diêu Thiện từ lúc chưa thi đã nức tiếng tài giỏi, cũng có Hội nguyên CungTiêu, và hai bạn cùng trường Quốc Tử Giám của Chu Tử Thư là Lưu Phóng và Mai Thắng Trạch.

Nhưng lúc này dù có thân đến mấy họ cũng chẳng thể châu đầu rì rầm với nhau. Điện Tử Thần mặt tiền rộng chín gian, bề sâu dài năm gian1, tượng trưng cho ngôi cửu ngũ chí tôn. Ngẩng đầu lên là mái đôi lưu ly hoàng ngọc, trên nóc vẽ tranh màu vàng kim lấp lánh. Chính giữa điện treo một bức hoành, thời tiên đế thì bức hoành đề "Thận chung như thủy2", còn đến triều này, Hoàng đế Khai Bình Triệu Phụ đã đổi lại từ mười năm trước thành "Thông nhất vạn tất", lấy từ sách Thôn Trang của Đạo gia, câu "Thông ư nhất nhi vạn sự tất, vô tâm đắc nhi quỷ thần phục3."

[1] Đơn vị đo đạc nhà cửa thời xưa. [2] Đến cuối vẫn cẩn thận như ban đầu. [3] Khi Đạo bao trùm hết thảy thì mọi sự đều thành, khi tâm trí không bị trói buộc thì quỷ thần cũng phục tùng.

Mười tiến sĩ tập trung đông đủ. Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng bưng khay lót tơ vàng, trình quyển thi Đình của mười người lên trước Triệu Phụ.

Triệu Phụ chưa xem quyển ngay lập tức mà cười rằng: "Các khanh coi, cứ mỗi ba năm trẫm lại được thấy mười mái đầu đen mới." Vừa dứt lời, Triệu Phụ bổ sung ngay: "Năm nay trẫm sai rồi, trong số thí sinh này có một người tóc hoa râm. Ngươi tên gì?"

Người này đứng thứ bảy trong số mười người, Chu Tử Thư đã nghe danh từ trước khi thi Hội, chính là Giải Nguyên vùng Sơn Tây.

Được hoàng đế gọi tên, vị tiến sĩ già năm mươi tuổi này cảm động rơi nước mắt, quỳ xuống xưng tên.

Triệu Phụ nói: "Trời thương lấy đức cần cù."

Chỉ bốn chữ ngắn ngủi thôi mà khiến vị tiến sĩ già nước mắt đầm đìa.

Triệu Phụ cho phép mười người ngẩng đầu lên, cả mười tiến sĩ liền y lệnh. Đối với một số người trong nhóm này, hôm nay có thể là dịp họ được gần vua nhất trong cả cuộc đời. Chu Tử Thư đứng ngoài cùng ở hàng thứ nhất, lẳng lặng hướng ánh mắt xuống đất, đứng im ru. Cậu nghe thấy Triệu Phụ nói chuyện với bách quan, rồi lại nói riêng với Thượng thư bộ Lễ – Mạnh Lãng.

Hoàng đế như vậy, ai dám chê bai là tầm thường, hồ đồ đây? Dẫu ông ta mê mải tu tiên, tiêu hao quốc khố để tìm kiếm đảo tiên ngoài khơi xa, nhưng đất nước vẫn phồn vinh hưng thịnh không kém gì khi xưa. Bách tính thương thay cho Chung Thái Sinh và các vị đại nho qua đời, nhưng có ai hận thù Hoàng đế đâu?

Triệu Phụ không phải minh quân, nhưng cũng là vị quân chủ biết gìn giữ thành quả của người đi trước. Ông ta sủng tín hạng tiểu nhân (như đám Giám chính Lý Tiêu Nhân của Khâm Thiên Giám chẳng hạn), nhưng không mù quáng tin dùng tiểu nhân. Hôm nay ông ta chỉ nói vài cậu, Chu Tử Thư trộm liếc Mai Thắng Trạch đứng cạnh mình, nét mặt tuy bình thản, nhưng trong lòng cậu thở dài: Anh bạn thân hiển nhiên đã quyết định trở thành bề tôi trung thành nhất của hoàng đế rồi!

Luận về thuật đế vương, Triệu Phụ quả là một cao thủ!

Nói thêm dăm câu, rốt cuộc Triệu Phụ cũng mở bài thi của mười người ra xem. Đây được gọi là "Thiên tử duyệt văn." Thi Đình chỉ có một quan chủ khảo duy nhất, mười quan đọc quyển cũng chỉ có quyền dâng xếp hạng của mười thí sinh lên cho hoàng đế, nhưng không hề biết sau đó hoàng đế sẽ sửa lại thứ hạng như thế nào.

Mọi người chỉ thấy Triệu Phụ nghiêng mình từ ngai rồng, khom người lấy quyển thi.

Ông ta xem bài cực kì nhanh, rõ ràng chỉ tùy tiện đọc lướt qua, cho tới một quyển thi nọ thì Triệu Phụ chợt dừng lại. Ông ta nhỏ giọng nói gì đó, tiếng cực khẽ, chỉ đủ để Quý Phúc đứng hầu bên cạnh nghe thấy, thậm chí Thượng thư bộ Lễ cũng không biết hoàng đế nói gì.

Quý Phúc lập tức ngẩng đầu, ánh mắt bắn thẳng về phía Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư thực ra vẫn lén quan sát hoàng đế như các tiến sĩ khác, khi Quý Phúc nhìn về phía cậu, Chu Tử Thư vội vàng cúi ngay đầu xuống, ánh mắt của hai người hoàn toàn không chạm nhau.

Quý Phúc nhìn gương mặt tuấn tú non nớt của Chu Tử Thư, nghĩ thầm: Không ngờ lần Thiên tử lâm Ung vừa rồi lại hời to cho tên nhóc này!

Vừa rồi Triệu Phụ nói gì thế?

Triệu Phụ nói: "Chỉ e kinh động đến người thiên cung à? Nhưng nhỡ kinh động mất rồi thì phải làm sao?" Bèn thủng thẳng lấy bút son, sửa luôn tên Chu Tử Thư từ hàng đệ ngũ lên đệ tam.

Trong cuộc thi Đình, ba trăm tiến sĩ sẽ được xếp hạng theo ba giáp.

Đệ nhất giáp là "Tiến sĩ cập đệ," chỉ bao gồm Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Đệ nhị giáp là "Tiến sĩ xuất thân," số lượng không giới hạn; còn đệ tam giáp là "Đồng tiến sĩ xuất thân." Quý Phúc phải giật mình là bởi Triệu Phụ đưa thẳng Chu Tử Thư vào đệ nhất giáp.

Người ngoài không hiểu Triệu Phụ, nhưng Quý Phúc biết, tuy vị hoàng đế này nói toàn lời hay ý đẹp, thái độ ân cần thương dân như con, nhưng trên thực tế những năm gần đây, Triệu Phụ chẳng còn hứng thú với khoa cử thi Đình nữa! Hôm nay nói "Trời thương lấy đức cần cù" thế thôi, chứ ngày mai tu tiên là ông quên mặt mũi vị tiến sĩ già "được trời thương" kia ngay.

Bậc vua chúa vốn vô tình, thế mà Triệu Phụ lại nâng Chu Tử Thư lên hẳn một giáp, chứng tỏ ông ta có ấn tượng với Chu Tử Thư. Dù chỉ là một Thám hoa, nhưng tương lai của cậu khéo còn rạng rỡ hơn cả Trạng Nguyên nữa!

Quý Phúc thầm lưu tâm đến cái tên Chu Tử Thư này.

Triệu Phụ duyệt bài thi xong, Thượng thư bộ Lễ nhận các quyển thi lại. Ông mở bài ra thì thấy sửa đổi thứ hạng của Triệu Phụ, đôi mày giật giật, kín đáo nhìn về phía Cung Tuấn giữa bách quan triều đình.

Song Cungđại nhân chỉ đang nhìn thẳng xuống đất rất đỗi nghiêm chỉnh, thơ thẩn đếm xem điện Tử Thần có mấy viên gạch lát nền!

Mạnh đại nhân chửi thầm: "Chỉ giỏi làm bộ làm tịch!" Rồi sau đó ông bắt đầu xướng tên đệ nhất giáp của kì thi Đình năm nay.

"Tân khoa Trạng nguyên năm Khai Bình thứ hai mươi bảy, Diêu Thiện – Diêu Vấn Cơ!"

Diêu Thiện vốn được các quan đọc quyển, trong đó có Mạnh Lãng, xếp thứ nhất; anh ta nghe tên mình thì vui mừng khôn xiết, vội vàng tiến tới hành lễ tạ ơn.

"Tân khoa Bảng nhãn, CungTiêu – CungĐại Nhạc!"

Thứ hạng gốc của CungTiêu cũng là đệ nhị, anh này cũng tiến lên phía trước.

"Tân khoa Thám hoa, Chu Tử Thư – Đường Cảnh Tắc!"

Chu Tử Thư sửng sốt, ánh mắt cậu đầy ắp ngạc nhiên, song cậu không để lộ ra mặt, điềm tĩnh bước lên phía trước.

Tiếp theo, Thượng thư bộ lễ công bố danh sách giáp đệ nhị, số tiến sĩ còn lại xếp hết vào giáp đệ tam là "Đồng tiến sĩ xuất thân."

Mạnh Lãng hô vang: "Truyền lô điện ngọc, các tiến sĩ bái Thiên tử, tạ ơn ân sư!"

Đến lúc này, từ mười tiến sĩ trong điện đến hai trăm tiến sĩ ngoài cửa, cùng đại thần văn võ có mặt đều dập đầu bái lạy Triệu Phụ, hoàn thành bước cuối cùng trong đại lễ truyền lư.

Chờ Triệu Phụ đi rồi, ba người Chu Tử Thư ra khỏi cung theo lối chính cổng Tuyên Võ, những người còn lại chỉ được đi ra từ cổng bên.

Lúc ra khỏi hoàng cung, Chu Tử Thư thở phào nhẹ nhõm. Cậu vô thức quay đầu lại, những mong tìm thấy bóng sư huynh giữa dòng quan lại xuất cung. Tiếc rằng Cung Tuấn không có trong đó, các quan nhất phẩm, nhị phẩm khác cũng vậy, hẳn là được Triệu Phụ giữ lại rồi.

Chu Tử Thư cũng không rõ tại sao tự dưng cậu lại muốn thấy Cung Tuấn nữa. Nhưng cậu chưa kịp suy nghĩ thì đã nghe tiếng reo hò đinh tai nhức óc bên ngoài hoàng cung. Ngay khi bước ra khỏi cổng cung, các tiến sĩ được đón chào bởi vô vàn bách tính đứng chật hai bên lề đường.

E là toàn bộ thiếu nữ kinh thành đều tụ tập cả về đấy.

Thấy Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa bước ra từ cổng chính, dân chúng vây xem, nhất là các thiếu nữ chưa chồng đều căng mắt hết cỡ mà chiêm ngưỡng. Diêu Thiện năm nay ngoài bốn mươi, dáng người đô con rắn rỏi, tướng mạo tục tằng. Các chị em nhác thấy Trạng nguyên lang có tướng tá nhà binh như vậy thì thất vọng vô cùng.

Rồi CungTiêu xuất hiện, nhen nhóm hy vọng cho các cô gái.

Có người đứng giữa đám đông nói: "Đây là Bảng nhãn CungTiêu, người Kim Lăng, có họ hàng xa với Lang Gia Cungthị! Năm nay ba mươi mốt tuổi, đã có thê thất."

"Ôi thật đáng tiếc!"

Chị em xuýt xoa chán nản tập hai.

Đến khi Chu Tử Thư bước ra khỏi cổng cung, các cô gái lại háo hức mong đợi.

"Thám hoa lang trẻ tuổi như vậy, chắc chắn là chưa đính hôn đâu!"

"Trẻ như vậy, hẳn là Đường Thám hoa – Chu Tử Thư phủ Cô Tô rồi!"

"Y như lời hát kịch ấy nhỉ, chàng Trạng nguyên đa tài, chàng Thám hoa tuấn tú, ngỡ là ngọc là hoa. Đúng là Thám hoa trong mộng đây mà!"

Nghe câu này xong, Chu Tử Thư: "..."

Ông mới là ngọc là hoa ấy, cả nhà ông là ngọc là hoa thì có5!

[5] Gốc: như hoa như ngọc – vốn là câu khen phụ nữ

Lề lối Đại Tống rất cởi mở, triều đình cũng ngầm cho phép dân chúng tụ tập hai bên đường reo hò chúc tụng khi đệ nhất giáp diễu hành qua phố.

Cộng cả hai kiếp Chu Tử Thư cũng chưa bao giờ được nhiều người săn đón đến vậy. Cậu cưỡi trên chú ngựa cao to, rõ ràng là đi đằng sau Diêu Thiện và CungTiêu, nhưng số người dân chen chúc vây xung quanh cậu là đông nhất.

May mà triều đại này không có truyền thống các cô gái ném hoa quả thay lời ái mộ, chứ không chắc Chu Tử Thư đã ngỏm củ tỏi dưới sự nồng nhiệt của người dân rồi!

Bận rộn suốt cả ngày mới được thả về nhà, Chu Tử Thư thỏa thích ngâm mình trong bồn tắm. Chưa kịp thư giãn thì ngoài cổng nhà đã dồn dập tiếng đập cửa.

Chu Tử Thư bật cười: "Chẳng thà đỗ hạng năm cho đám đông giải tán!"

Nhưng hả hê xong, Chu Tử Thư cũng ra tiễn hết khách khứa đến tận nhà chúc tụng. Cậu trở lại thư phòng, lấy bảng chữ mẫu Cung Tuấn đưa cho.

Chu Tử Thư đặt bảng chữ trên án thư, mài mực, đặt bút viết.

Viết tròn một trang giấy, Chu Tử Thư thở phù một cái, ngồi xuống ghế. Cậu nhắm đôi mắt lại, đầu óc trở nên rất minh mẫn, toàn bộ những chuyện xảy ra từ khi đặt chân tới Thịnh Kinh ùa tới như dòng lũ.

Lúc mới đến Thịnh Kinh, cậu chỉ là một tú tài tầm thường, được Phó Hi Như quan tâm, lại được CungTử Phong đích thân dạy dỗ.

Đến Quốc Tử Giám, gặp được mấy người bạn chí cốt, hô một tiếng là có thể tụ tập nâng ly chuyện trò.

Thi Hương đậu Á nguyên, thi Hội lại đỗ đệ nhị. Đến thi Đình, hoàng đế đích thân sửa thứ hạng, đưa cậu hạng năm đệ nhị giáp lên hẳn Thám hoa đệ nhất giáp.

Bỗng nhiên, Chu Tử Thư mở choàng mắt, vội vã lấy Bảng chữ mẫu Pháp Môn của Chung Thái Sinh ra.

Chu Tử Thư nhìn Bảng chữ mẫu Pháp Môn, rồi lại chăm chú nghiên cứu bảng chữ mẫu Cung Tuấn đích thân viết cho cậu.

Một hồi lâu, Chu Tử Thư ngẩng mặt nhìn trời, gấp bảng chữ lại, than: "CungTử Phong à, hóa ra kết cục này đã được huynh sắp đặt chu toàn ngay từ đầu!"

Lúc mới tới Thịnh Kinh, Cung Tuấn cho Chu Tử Thư luyện chữ theo Bảng chữ Pháp Môn chính là vì chữ Chung Thái Sinh đẹp nổi tiếng khắp thiên hạ, cậu học theo không khó, luyện cũng đơn giản. Sau khi thi Hương xong, cách thi Hội chừng nửa năm, Cung Tuấn bắt đầu sửa lại bảng chữ mẫu cho Chu Tử Thư.

Khi ấy, Chu Tử Thư đoán Cung Tuấn làm thế chỉ vì giúp cậu chuẩn bị cho thời điểm "Thiên tử duyệt văn" trong kì thi Đình, tránh để nét chữ làm phật lòng hoàng đế. Chu Tử Thư đoán cũng không sai, trong mười người xếp đầu kì thi Đình thì có đến bốn người viết thể chữ của Chung Thái Sinh. Cả bốn đều không lọt được vào đệ nhất giáp, Triệu Phụ cũng không có ý kiến gì hết cả.

Nhưng chẳng lẽ chỉ có vậy thôi ư?

"Đến thi Đình không còn luật đổi quyển. Mình có thể xếp hạng năm, hẳn là cũng liên quan đến huynh ấy."

Huynh trưởng như cha, ân sư như cha.

CungTử Phong vừa là sư huynh của mình, vừa là thầy trên thực tế.

Một suy nghĩ nảy lên khiến biểu cảm của Chu Tử Thư trở nên hết sức kì cục: "... Cha?" Nói xong chữ ấy, Chu Tử Thư cũng hết hồn. Dù cậu có bằng lòng nhận ông bố này (thà chết chứ không nhận đâu), khéo CungTử Phong cũng chẳng thèm nhận cậu làm con!

"Đã vậy, cớ gì huynh ấy lại tốt với mình thế nhỉ?!"

Chu Tử Thư ôm một bụng thắc mắc, mệt mỏi thiếp đi.

Sau khi yết bảng thi Đình, Chu Tử Thư mất liền mấy ngày lu bu, tham gia đủ các loại tiệc tùng, tiếp đón ti tỉ vị khách đến chúc mừng. Mãi đến ngày thứ bảy sau khi kì thi kết thúc, Phó Vị phái gia nhân tới gọi cậu, dặn tối nay nhất định phải đến Phó phủ để thầy trò ba người có dịp chung vui ăn mừng Chu Tử Thư thi đỗ Thám Hoa.

Chu Tử Thư lập tức từ chối hàng đống lời mời dự tiệc, vội vã đi sang Phó phủ.

Tiểu đồng Ôn Thư đã chờ cậu sẵn ngoài cổng, dẫn Chu Tử Thư đi vào phủ, qua cổng nguyệt môn của khu vườn7, vừa đi vừa liến thoắng: "Đường tiểu công tử mấy hôm nay có mệt không? Xí nhầm, phải gọi là Thám hoa lang chớ! Chín năm trước Cungđại nhân đỗ Trạng nguyên cũng bận y như cậu, tụi tôi hiểu mà." Tiểu đồng Ôn Thư nháy mắt: "Không đỗ Thám hoa, chẳng ai thèm hỏi. Vừa đỗ Thám hoa, người dưng nước lã cũng ùa tới chúc mừng, rõ phiền!"

Chu Tử Thư than thở: "Chỉ có Ôn Thư đồng tử hiểu ta!"

Ôn Thư đồng tử cười hì hì: "Đường tiểu công tử, mời nhanh chân nào!"

Hai người đi xuyên vào khu vườn, vừa qua một hòn giả sơn thì Chu Tử Thư chợt va phải ai đó. Cả hai cùng lùi lại nửa bước, Chu Tử Thư ngẩng lên liền thấy Cung Tuấn đang cúi đầu nhìn mình. Chàng mặc y phục trắng thường nhật, từ đầu đến chân toát lên vẻ quyền quý. Phát hiện người mình đụng phải là Chu Tử Thư, Cung Tuấn khẽ nhướng mày, định nói gì đó.

Nào ngờ, Chu Tử Thư vốn trằn trọc suốt mấy ngày đêm vì câu "Huynh trưởng như cha, ân sư như cha", hôm nay tự dưng thấy Cung Tuấn liền buột miệng gọi: "Ba!"

Cung Tuấn sửng sốt: "Bãi?"

Chu Tử Thư: "..."

Tức thì, gương mặt "ngỡ là ngọc là hoa" của tân khoa Thám hoa lang đỏ bừng như gấc!

||

Lời tác giả:

Tiểu Thư Lang: Ba!

Anh Cunghàng xóm: Phụ (ehhh!) tử văn?

Chú thích

Gốc: thiên đạo thù cần – đạo trời ban thưởng cho người cần cù

Chỗ ngày Chu Tử Thư dùng thành ngữ "泯然众人" ý chỉ một người lúc tài năng thì mọi người săn đón, hết tài rồi thì chẳng ai quan tâm. Xuất xứ từ chính câu chuyện Thương Trọng Vĩnh đã từng được nhắc đến từ đầu truyện.

[7] Cổng hình tròn, mô phỏng mặt Tuấng, rất phổ biến trong kiến trúc vườn

Ảnh:

------oOo------

Chương 45

Nguồn: EbookTruyen.Net

Đồng môn là bằng, đồng chí là hữu!

Chu Tử Thư luýnh quýnh, trong lúc khẩn cấp, ý tưởng chữa cháy bật ra: "Ba... Bãi như giang hải ngưng thanh quang!"

Cảnh sắc trong khu vườn Phó phủ có thể miêu tả bằng câu "xuân về hoa đua nở, chỉ nghe tiếng chim ca." Bóng liễu xòa lên hòn giả sơn, hòn giả sơn lại ngả bóng lên ba người Chu Tử Thư. Câu nói của Chu Tử Thư rơi tõm vào bầu không khí tĩnh lặng trong vườn.

Chu Tử Thư gặp khó ló cái khôn mà bật ra câu thơ ấy, Ôn Thư đồng tử chưa nghe lần nào, còn Cung Tuấn lại đăm chiêu nhìn cậu. Một lát sau, chàng mới cất lời: "Lai như lôi đình thu chấn nộ? Sao tiểu sư đệ vừa thấy ta lại đột nhiên nói thế?"

Đến tựa thiên lôi thâu sấm sét, dừng múa ánh ngời tỏa biển sông.

Đây là câu thơ Đỗ Phủ viết để tả cách múa kiếm của Công Tôn đại nương, thế giới này cũng có.

Chu Tử Thư đã kịp bình tĩnh lại, cậu bịa ngay: "Lâu lắm rồi không thấy Tử Phong sư huynh, hôm nay gặp lại, trông thần thái huynh vẫn rạng rỡ ung dung hệt như trong trí nhớ của đệ, chẳng khác nào giọt nắng giữa dòng Trường Giang, lấp lánh chói lọi. Đệ thấy sư huynh liền nhớ ngay tới câu thơ ấy, thế nên mới vô thức thốt thành lời." Trước tiên cứ phải xoa mông ngựa cái đã.

Cung Tuấn nhìn Chu Tử Thư một hồi, nói: "Không ngờ mới bảy ngày không gặp nhau mà Cảnh Tắc đã nhớ nhung ta dường ấy." Đoạn chàng trách thư đồng nhà mình: "Cảnh Tắc không sang phủ Thượng thư suốt bảy ngày, sao ngươi không đi mời đệ ấy hả? Nếu không nhờ hôm nay tiên sinh gọi hai huynh đệ chúng ta tới thì chẳng biết bao giờ mới gặp lại Cảnh Tắc! Ngươi đã biết tội chưa?"

Cậu thư đồng không dưng bị đổ oan: "?" Chuyện hai vị vừa nói có liên quan gì đến tôi chứ?

Chu Tử Thư: "..."

Thư đồng ngoan ngoãn thưa: "Là lỗi của tiểu nhân ạ."

Cung Tuấn răn đe: "Cấm có lần thứ hai đấy."

Thư đồng: "... Thưa vâng."

Cung Tuấn kéo tay Chu Tử Thư, nhẹ nhàng vỗ về. Hai người như một đôi huynh đệ chí thân, như những quân tử thời Xuân Thu, dan tay thả bộ ra khỏi vườn hoa. Cung Tuấn thủ thỉ: "Chúng ta là sư huynh đệ đồng môn, từ rày những việc như vậy nhất định sẽ không tái diễn nữa. Nếu Cảnh Tắc nhớ ta, bất lúc nào cũng có thể đến chơi phủ Thượng thư, nghe không?"

Chu Tử Thư gật đầu, thở phào nhẹ nhõm, nghĩ bụng CungTử Phong cũng chỉ đến thế mà thôi, nói linh tinh mấy câu là qua mặt như bỡn. Mãi đến lúc vào phòng khách, Chu Tử Thư mới ngớ người. Ban nãy cậu chỉ bảo mình thấy Cung Tuấn thì ngợi ca theo phản xạ, chứ có bảo nhớ anh ta đâu? Sao CungTử Phong dám đổ điêu cho cậu kia chứ!

Chu Tử Thư thiếu điều tức ói máu như trong phim truyền hình.

Cung Tuấn dắt tay Chu Tử Thư vào phòng khách, Chu Tử Thư giận mà không dám nói, cứ dỗi dằn lườm sư huynh. Đến khi Cung Tuấn ngó sang cậu thì Chu Tử Thư lại liếc qua chỗ khác, đứng đắn gọi: "Sư huynh."

Cung Tuấn: "Đúng là sư đệ nhớ ta quá rồi, từ nãy đến giờ cứ nhìn ta suốt thôi."

Chu Tử Thư: "..."

Đúng lúc đó Phó Vị đi tới, ông ồ lên: "Cảnh Tắc nhớ Tử Phong à? Xem ra những lúc vi sư không có mặt, hai sư huynh đệ chung sống vui vẻ hòa thuận phết nhỉ!"

Cung Tuấn: "Tiên sinh."

Chu Tử Thư tiu nghỉu: "Tiên sinh."

Hai người cùng nhau chắp tay hành lễ với Phó Vị.

Trong phòng khách đã đặt sẵn một chiếc bàn tròn làm bằng gỗ sưa, trên bàn bày biện nhiều món ăn Giang Nam được chế biến công phu. Chu Tử Thư và Cung Tuấn đều là người Giang Nam, ẩm thực nơi đây chú trọng vào sự tinh tế và khéo léo, mỗi phần ăn chỉ vừa đủ, nêm nếm thiên về thanh đạm. Tuy ăn uống chung nhưng mục đích chính của bữa cơm là để trò chuyện nên ba thầy trò không ăn nhiều lắm, Phó Vị cũng không mấy khắt khe với quy tắc không được nói khi đang ăn. Ông hỏi Chu Tử Thư: "Tân khoa Thám hoa lang, cảm giác ấy mới sung sướng làm sao nhỉ?"

Khổ quá! Chu Tử Thư chớp mắt đầy oan ức: "Tiên sinh chế nhạo con!"

Phó Vị cười ha hả, trỏ đũa về phía Cung Tuấn: "Trạng nguyên năm Khai Bình thứ mười tám kìa." Đoạn lại chỉ bản thân: "Vi sư cũng phải chào thua.

Hồi ấy Chung Thái Sinh thi cùng khoa với vi sư, xui tận mạng. Ông ta đỗ Trạng, còn ta chỉ được Bảng nhãn thôi." Nói rồi ông lại nhìn Chu Tử Thư: "Khéo sao con lại đỗ Thám hoa, sư môn ta ôm cả đệ nhất giáp, thật không gì vẹn tròn bằng!"

Cung Tuấn chỉ bình thản lắng nghe Phó Vị chứ không lên tiếng.

Chu Tử Thư liếc chàng, lại nảy ra một ý: "Thế mà Tử Phong sư huynh từng nói với con theo kiểu khác cơ."

Phó Vị: "Ồ, nói kiểu gì?"

Cung Tuấn ngước mắt liếc Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư trong bụng hí hửng, người ta mới mười sáu nè, huynh cứ chống mắt lên mà coi, chẳng ai bắt bẻ lời trẻ con cả! "Hồi trước con thi Hương đỗ Á nguyên, Tử Phong sư huynh mới bảo con rằng, huynh ấy là Giải nguyên, con là Á nguyên, hai người chúng con chẳng khác nào long phượng trình tường, sư môn ấy mới vẹn tròn. Con nghĩ bụng, Tử Phong sư huynh là Trạng nguyên, tiên sinh là Bảng nhãn, thầy với huynh chẳng phải cũng là long phượng trình tường sao, quả đúng là điềm lành!"

Phó Vị: "..."

Cung Tuấn mỉm cười.

Trong bữa cơm, Phó Vị lườm Cung Tuấn mấy cái liền, Cung Tuấn lờ đi như không, đến cuối bữa thì châm rượu cho Phó Vị.

Ăn cơm xong, ba thầy trò mỗi người một chén Bích Loa Xuân Minh Tiền nóng hổi, ngồi trong phòng khách ngắm hoa thưởng trà. Ánh Tuấng khoác lên cho khu vườn Phó phủ một vẻ đẹp mới mẻ diệu kì, nghe đâu đây còn có tiếng ếch ộp vọng về từ phía hồ. Ba người chuyện trò không dứt, chủ yếu là Phó Vị căn dặn Chu Tử Thư đủ điều.

Phó Vị nói: "Quan trường khác với đời thường, vi sư chỉ có thể dìu dắt con đến đây thôi, về sau giỏi lắm thì chỉ điểm được cho con phương hướng, còn xoay xở thế nào phải dựa vào sức con. Là Thám hoa, con khác với hai tiến sĩ còn tại trong đệ nhất giáp, được bổ nhiệm chức Biên tu ở viện Hàn Lâm, hàm thất phẩm. Vi sư tuy là Thừa chỉ viện Hàn Lâm, nhưng chẳng qua là do hoàng thượng ưu ái giữ lại, chứ rất ít khi đến viện Hàn Lâm. Mấy hôm nữa con nhậm chức, còn gì không hiểu không?"

Chu Tử Thư lần đầu ra làm quan, còn là quan thời cổ đại, dĩ nhiên có rất nhiều điều thắc mắc, bèn đem ra hỏi hết.

Phó Vị giải đáp một số điều, Cung Tuấn cũng trả lời thêm vài cái khác.

Tuấng lên đỉnh đầu, Chu Tử Thư và Cung Tuấn cùng nhau từ biệt Phó Vị.

Sư huynh đệ hai người ra đến cổng chính Phó phủ, Chu Tử Thư định về luôn, đang chuẩn bị tạm biệt Cung Tuấn thì phát hiện Cung Tuấn đang say sưa ngẩng đầu ngắm Tuấng rằm, còn chỉ lên bầu trời. Chu Tử Thư nhìn theo hướng chàng chỉ. Thường thường Tuấng sáng thì sao thưa, nhưng ở thời cổ đại, không có ánh đèn thị thành, không có khói bụi ô nhiễm, xung quanh vầng Tuấng sáng vằng vặc trên bầu trời vẫn có thể nhìn thấy hơn mười vì sao sáng lấp lánh.

"Giơ tay với được Tuấng sao trên trời. Tiểu sư đệ còn nhớ câu thơ đệ viết không?"

Chu Tử Thư mặt dày nói: "Nhớ chứ ạ. Sao Tử Phong sư huynh lại nhắc chuyện này?"

Cung Tuấn: "Dám đâu to tiếng nói cười, chỉ e kinh động đến người thiên cung."

Chu Tử Thư chưa kịp phản ứng thì Cung Tuấn đã trỏ lên trời mà rằng: "Tiểu sư đệ phúc trạch dài lâu, kinh động đến người trời rồi đấy." Chu Tử Thư chợt hiểu ngay ý Cung Tuấn.

Người trời chỉ có một, chính là Triệu Phụ chứ chẳng còn ai.

Hóa ra Triệu Phụ nâng cậu lên một giáp, từ hàng đệ ngũ lên hàng đệ tam, chính là bởi bài thơ cậu từng viết trong kì Quán khóa ở Quốc Tử Giám! Chu Tử Thư hồi tưởng về con đường khoa cử của mình từ khi đến Thịnh

Kinh; xem ra, sự kiện Thiên tử lâm ung chính là yếu tố then chốt để cậu đỗ Thám hoa. Nhưng mối liên hệ giữa kì quán khóa và Thiên tử lâm ung, lời nhắc nhở rằng nhất định phải lọt vào ba hạng đầu, vốn bắt nguồn từ CungTử Phong cả.

Chu Tử Thư vã mồ hôi, cậu không tài nào ngờ nổi chuyện này lại có dây mơ rễ má với CungTử Phong.

Chu Tử Thư chắp tay: "Đa tạ Tử Phong sư huynh."

Cung Tuấn cười: "Ta không hiểu sư đệ đang cảm ơn cái gì."

Chu Tử Thư không nói huỵch toẹt ra, chỉ nghĩ bụng huynh nói đến thế chẳng phải là để ta cảm ơn huynh hay sao, đuôi sói xù lên thế kia còn vờ vĩnh! Nhưng cậu chỉ nói đơn giản: "Đệ vô cùng biết ơn sư huynh đã có lòng dạy dỗ, chỉ bảo!"

Cung Tuấn cười, hai người đi vài bước, chợt chàng nói: "Bài thơ đó của đệ viết rằng muốn vươn tay hái sao trời. Vậy đệ có biết ở Thịnh Kinh, và thậm chí là trên toàn cõi Đại Tống, tòa lầu cao nhất nằm ở đâu không?" Chu Tử Thư suy nghĩ một lát, đáp: "Phải chăng là lầu Thiên Lý?"

Cung Tuấn lắc đầu: "Là lầu Hư Cực!"

Lầu Hư Cực nằm ở phía Bắc kinh thành. Ngồi trên xe ngựa của phủ Thượng thư, Chu Tử Thư và Cung Tuấn đi tới tận chân lầu Hư Cực. Chu Tử Thư ngẩng đầu nhìn, ngạc nhiên phát hiện tòa lầu ấy cao tận chín tầng!

Thời cổ đại, các kiến trúc cao tầng thường là tháp trong chùa miếu. Kiến trúc của các công trình Phật giáo khác với nhà lầu thông thường, dù xây cao cũng vẫn chắc chắn, không sợ gió lay đổ. Nhưng từ khi đến thời đại này, Chu Tử Thư chưa thấy tòa lầu nào cao quá sáu tầng cả, huống chi là một tòa lầu cao chín tầng! Trước đây, cậu chưa bao giờ đến khu Bắc nên mới không thấy tòa lầu này. Dẫu vậy, dù cậu có dịp đi qua, chỉ e cũng chẳng vào được.

Xung quanh lầu Hư Cực là lớp lớp vệ binh mặc giáp trụ sáng lóa!

Cung Tuấn: "Lên xem tí nào."

Chu Tử Thư không nghi ngờ lời Cung Tuấn một chút nào. Chàng đã bảo được thì chắc chắn là họ có thể vào. Cậu đi theo Cung Tuấn tới lầu Hư Cực. Quả nhiên, dàn lính canh thấy Cung Tuấn thì dẹp ra nhường đường cho chàng đi vào.

Chín tầng lầu cao. Nếu còn ở kiếp trước, Chu Tử Thư sẽ đi thang máy ngay không ngần ngại. Lâu lắm rồi cậu không leo cao đến vậy. Kiếp này càng chẳng cần nói, hai người leo lên tầng trên cùng, ngay cả Cung Tuấn cũng thấm mệt. Trông vầng trán lấm tấm mồ hôi của CungTử Phong, Chu Tử Thư chợt nhận ra sư huynh của mình cũng chỉ là một người phàm thôi.

Cậu chỉ vừa kịp nghĩ anh Cungcũng giống như người trần mắt thịt, thì bất chợt, màn mây đen được vén lên bởi bàn tay chị Hằng. Trong ánh Tuấng tuôn trào, dáng hình CungTử Phong như được dát lên một vầng hào quang huyền ảo, như thể chỉ trong chớp mắt, chàng trai ấy sẽ vụt thoát khỏi xác phàm, giang rộng đôi cánh chạm tới cõi tiên!

Chu Tử Thư chợt thấy tim mình hơi mỏi.

Chu Tử Thư: "Sao tự nhiên đêm nay Tử Phong sư huynh lại muốn tới đây? Dưới kia có nhiều lính gác như vậy, lúc đầu đệ cứ tưởng chúng ta không vào được."

"Đệ hiểu ý nghĩa của lầu Hư Cực không?"

Nếu đổi người đối thoại, có lẽ ngay cả tân khoa Trạng nguyên Diêu Thiện cũng chưa chắc trả lời được câu hỏi của Cung Tuấn. Nhưng Chu Tử Thư là ai kia chứ? Cậu là người có bàn tay vàng đọc một lần là nhớ. Chẳng những Tứ thư Ngũ Kinh, cậu đã thuộc lòng tất cả những tác phẩm kinh điển. Suy ngẫm giây lát, Chu Tử Thư đáp: "Trí hư cực, thủ tĩnh đốc." Xuất xứ từ Đạo Đức kinh của Đạo gia.

Cung Tuấn xem chừng rất hài lòng, nói: "Không sai, chính là câu "Hư không cùng cực, hết sức yên tĩnh." Năm năm trước, Thánh thượng muốn xây một tòa lầu cao thông lên trời để tìm đạo. Bốn năm trước thì bộ Hộ bắt đầu xây dựng tòa lầu này, tháng sau hoàn thành. Thánh thượng sẽ đích thân tới đây, cử hành đại lễ Hư Cực."

"Thì ra là vậy."

Nhưng chuyện đó thì liên quan gì đến cậu?

Cung Tuấn trông về phía nam, hiện giờ họ đang đứng ở vị trí dựa bắc nhìn nam, giống như Thiên tử vậy, phóng tầm mắt là thu trọn cả Thịnh Kinh. Cung Tuấn bỗng vươn tay lên bầu trời, diễn cảm ngâm lên bài thơ Chu Tử Thư viết: "Chênh vênh trăm thước lầu cao, giơ tay với được Tuấng sao trên trời. Dám đâu to tiếng nói cười, chỉ e kinh động đến người thiên cung. Đứng ở đây, tiểu sư đệ, đệ nói xem có thể hái được sao trời không?"

Chả cứ đứng trên tòa lầu cao chín tầng này, dẫu huynh có đứng trên mặt trời cũng không hái nổi một ngôi sao nhé!

Chủ nghĩa lãng mạn làm sao mà thẩm thấu nổi vào bộ não vận hành bằng toán, lý của Chu Tử Thư! Nhưng cậu không thể làm một bài diễn văn giải thích cho Cung Tuấn rằng "sao" là một khối cầu nằm ở xa tít tắp mù khơi ngoài Trái Đất. Ngẫm nghĩ hồi lâu, Chu Tử Thư bèn đáp bằng một câu mà tự cậu cho là lãng mạn ghê gớm: "Chỉ cần trong lòng có sao, tự khắc sẽ hái được sao xuống."

Cung Tuấn chợt quay lại nhìn Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư thấy nghèn nghẹn ở cổ.

... Thái độ gì thế này?

Cung Tuấn bật cười.

Chu Tử Thư: ???

Ủa, anh ta cười nhạo mình à?

Dưới ánh Tuấng, CungTử Phong trong bộ bào gấm trắng tuyền thủng thẳng nói: "Khổng Tử từng giảng, đồng môn gọi là bằng, đồng chí gọi là hữu. Cảnh Tắc, đệ nói xem, chúng ta đã là bằng, nhưng có phải là hữu không?"

Chu Tử Thư thầm hoảng hốt, chuông báo động reo liên hồi kì trận. Cậu ngước nhìn Cung Tuấn.

Cung Tuấn ấy thế mà đang cười tủm tỉm nhìn lại, ánh mắt rất đỗi trong trẻo ẩn chứa bao điều thâm thúy mà Chu Tử Thư không tài nào lí giải.

Trò cùng thầy thì gọi là bằng, người cùng chí hướng thì gọi là hữu!

CungTử Phong... đang vấn lòng cậu đấy ư?

||

Lời tác giả:

Anh Cunghàng xóm: Chúng ta là đồng môn, hay là đồng chí đấy?

Tiểu Thư Lang (hốt hoảng): Huynh muốn làm gì!!!

(*Đồng chí: gay)

Chú thích

Hai câu thơ trong bài hành Xem Công Tôn đại nương múa "Kiếm khí" của Đỗ Phủ. Trích đoạn dịch của Nguyễn Phước Hậu.

Đoạn này tác giả dùng từ "vũ hóa" (Từ điển Nguyễn Quốc Hùng giải thích vũ hóa là "Trở thành có lông có cánh mà bay, ý nói thành tiên"). Đây là một khái niệm xuất phát từ Đạo giáo. Đạo giáo coi thần tiên sống ở trên trời, và chỉ có các loài chim mới có thể bay tới cõi tiên. Một ví dụ mình biết là người ta từng phát hiện lông vũ được đính trên nắp quan tài của phu nhân Đại thời Tây Hán, thể hiện mong ước rằng bà sẽ được thành tiên sau khi qua đời. Các bạn có thể tìm hiểu thêm về ngôi mộ của phu nhân, nơi xác ướp của bà gần như vẹn nguyên sau hơn 2000 năm nằm trong 4 lớp quan tài sơn mài cực kì công phu.

Nhân tử Nguyễn Văn Thọ bình giảng: "'Hư cực' tức là khi lòng trống, không còn vấn Cungsắc tướng, trần ai, tục lụy. 'Tĩnh đốc' tức là khi tâm tư không phát sinh một niềm lự nào." Câu dịch xuôi mà Cung Tuấn nói mình mạn phép mượn của dịch giả. Nguyễn Văn Thọ cũng dịch hai câu ấy thành thơ như sau:

Thử tách khỏi vòng đời luân chuyển,

Để lặng thinh ngắm chuyện trần hoàn.

Hai câu này thuộc chương 16 trong Đạo Đức kinh, bàn về chuyện khi con người ta đạt đến "hư" và "tĩnh" thì hiểu được quy luật trời đất tuần hoàn, vạn vật đều quy về một mối.

------oOo------

Chương 46

Nguồn: EbookTruyen.Net

Dẫu vạn người cản ngăn, ta quyết không chùn bước!

Mảnh Tuấng mất hút sau cụm mây dày sụ. Đứng trên lầu Hư Cực, chỉ nghe thấy tiếng gió thổi ào ạt. Đến cỏ dại cũng phải oằn mình trước sức gió. Đã sang tháng tư, xuân đà ngót nửa, thế mà Chu Tử Thư vẫn thấy rét buốt tận tim.

Thoạt tiên, những gì Cung Tuấn nói khiến Chu Tử Thư hết sức ngỡ ngàng, nhưng cậu nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, cố ghìm cơn xúc động.

Cậu và Cung Tuấn là trò cùng thầy, dù thế nào đi chăng nữa cũng đã là bằng. Nhưng Cung Tuấn nói, phải cùng chí hướng mới thành hữu! Chí hướng của Cung Tuấn ra sao, Chu Tử Thư làm sao biết? Lẽ nào anh ta hỏi vậy là có ý ép mình theo phe cánh anh ta?

Giờ Chu Tử Thư đã là Thám Hoa, đương nhiên sẽ được giao việc ở viện Hàn lâm. Nếu không có gì bất ngờ, ít nhất cậu sẽ làm việc ở viện Hàn Lâm nửa năm, không hề dính dáng đến Cung Tuấn ở bộ Hộ. Tình huống trong triều cậu hết sức mù mờ, mãi đến bữa tiệc hôm nay mới hỏi được Phó Vị và Cung Tuấn. Như vậy, cậu có ích lợi gì cho Cung Tuấn đây? Chí hướng của Cung Tuấn là gì, con người của anh ta trên triều đình ra sao, địa vị của anh ta cao đến mức nào, cậu hoàn toàn không biết dù chỉ một chút!

Sự bình tĩnh ngoài mặt của Chu Tử Thư, chẳng qua là lớp ngụy trang cho mớ bòng bong rối rắm trong lòng.

Bỗng cậu như sực tỉnh: Có đúng là Cung Tuấn đang lôi kéo mình về phe anh ta không?

Cậu mới mười sáu tuổi, xuất thân tầm thường, chẳng phải con dòng cháu giống. Nếu không nhờ sự nâng đỡ của Lương Tụng, Chu Tử Thư không bao giờ có được cơ hội bái Phó Vị làm thầy. Suốt một năm qua, cậu được gần gũi, bầu bạn với Cung Tuấn. Lúc này đây, Chu Tử Thư bỗng nhớ lại từng chuyện lớn nhỏ đã trải qua, từ những lần Cung Tuấn chỉ điểm cho cậu, đến sự giúp đỡ của chàng để cậu thi cử đầu xuôi đuôi lọt, đến cả cái lần Cung Tuấn dẫn cậu phóng sinh trước kì thi Hội.

Hít một hơi thật sâu, Chu Tử Thư kết luận: Cung Tuấn quả thật chỉ đang hỏi chí hướng của mình thôi! Cũng có thể anh ta có ý khác, nhưng bây giờ mình giả bộ không nắm bắt được cũng không hại gì.

Khi thấy nụ cười của CungTử Phong, Chu Tử Thư lại chần chừ trong giây lát rồi mới nói: "Tháng ba năm ngoái đệ đến Thịnh Kinh, được tiên sinh và sư huynh hết lòng chăm nom, coi như có chốn dừng chân ở nơi đất khách quê người xa lạ. Từ lúc rời Cô Tô, đệ chưa bao giờ nghĩ con đường khoa cử của mình lại trôi chảy được đến thế, tất cả là nhờ ơn Tử Phong sư huynh hết lòng dạy dỗ bảo ban. Ơn nghĩa ấy, Cảnh Tắc trọn đời không quên." Ngưng một lát, cậu mới nói câu cuối cùng: "Trong lòng ta, sư huynh vừa là thầy, vừa là bạn hữu."

Cung Tuấn quan sát bộ dạng căng thẳng, thấp thỏm của Chu Tử Thư hồi lâu, bỗng bật cười khẽ.

"Nhìn sư đệ hôm nay, ta chợt nhớ đến khoảng thời gian chín năm về trước."

Chu Tử Thư ngẩng lên nhìn chàng: "Chín năm trước?"

Cung Tuấn như chìm vào kí ức: "Chín năm trước là thuở ta đỗ Trạng Nguyên, cũng trẻ như sư đệ bây giờ."

Lần này Chu Tử Thư mới thực là choáng váng.

Cung Tuấn năm nay hai mươi sáu tuổi, lớn hơn Chu Tử Thư tròn mười tuổi, song Chu Tử Thư chưa bao giờ có suy nghĩ rằng Cung Tuấn đã già. Bởi lẽ, nếu đặt vào bối cảnh hiện đại, Cung Tuấn ở độ tuổi này hẵng còn là thanh niên, có khi vẫn đang cặm cụi trên giảng đường chứ chưa đi làm nữa. Ở thời hiện đại, chẳng ai bảo hai mươi sáu tuổi là già! Nhưng đây là thời cổ đại kia! Cung Tuấn nói mình không còn trẻ, Chu Tử Thư cũng không thể phủ nhận được.

Cậu ngắm khuôn mặt Cung Tuấn, chợt nhớ tới Lưu Phóng mình quen ở Quốc Tử Giám hình như cũng hai mươi sáu tuổi, nhưng trông già gấp mấy lần Cung Tuấn. Nhìn Cung Tuấn cùng lắm chỉ như hai mươi tuổi. Chàng mang dáng vẻ của một thế gia công tử vừa cập quan, rạng ngời nét phong lưu như hòn ngọc quý.

Chu Tử Thư nói: "Sư huynh hẵng còn trẻ lắm mà." Hiếm hoi mới có một nhận xét thật lòng.

Cung Tuấn ngoái nhìn Chu Tử Thư, nói: "Về đêm gió lớn, xuống lầu thôi."

Hai người cùng nhau xuống khỏi lầu Hư Cực.

Trước khi đi, Cung Tuấn bỗng hỏi: "À, tiểu sư đệ đã biết phủ Thám Hoa của mình ở đâu chưa?"

Chu Tử Thư: "Chưa ạ, đệ nghe nói tháng sau mới thông báo."

Cung Tuấn trỏ về một khu ở phía Đông, ngay sát hoàng thành, vừa hay cũng gần Phó phủ và phủ Thượng thư. Chàng nói: "Cứ mỗi dịp thi Đình, tam khôi luôn được Thánh thượng ban dinh thự, việc này thường do bộ Hộ phụ trách. Tiểu sư đệ thấy chỗ kia thế nào?"

Chỗ ấy đương nhiên là đất lành, phong thủy tốt, cả Phó Vị và Cung Tuấn đều ở khu đấy, Chu Tử Thư có gì để phàn nàn?

Oái oăm thay, viện Hàn Lâm nằm ở phía Tây kinh thành, hai nơi cách nhau cả nửa Thịnh Kinh.

Chu Tử Thư thật thà đáp: "Chỗ đó tuyệt lắm ạ, mỗi tội hơi xa viện Hàn Lâm."

Cung Tuấn: "Ừ, báo cho đệ một tiếng ấy mà. Khu đất ấy được chọn từ cách đây ba hôm rồi."

Ý rằng: Thông báo cho mà biết thôi nhé, không phải để hỏi ý kiến đâu.

Chu Tử Thư: "..."

Đã vậy huynh còn hỏi làm chi!

Sau khi sư huynh đệ hai người cùng nhau xuống lầu, Cung Tuấn chủ động đề nghị đưa Chu Tử Thư về nhà, Chu Tử Thư cũng không từ chối. Xe ngựa của Cung Tuấn rộng ơi là rộng, ghế ngồi lót da hổ thượng hạng, nước lông bóng mượt, trong tủ trên xe chứa đầy các loại đồ ăn vặt và thư tịch. Cung Tuấn đúng là người biết hưởng thụ, xe chạy trên đường phố Thịnh Kinh bằng phẳng, êm ru không xóc nảy tí nào.

Chiếc xe ngựa treo đèn Thượng thư thong thả dừng lại trước ngõ nhà Chu Tử Thư. Chu Tử Thư nhảy xuống xe, quay lại thưa: "Đa tạ Tử Phong sư huynh đã tiễn đệ."

Cung Tuấn vén rèm xe, nói với Chu Tử Thư: "Đêm khuya rồi, tiểu sư đệ đi cẩn thận."

Chu Tử Thư: "Sư huynh cũng thế ạ."

Hai người khách sáo xong, Chu Tử Thư định về nhà, Cung Tuấn bỗng nói thêm: "Mấy hôm trước đọc sách có câu này, hôm nay ngẫm lại thấy rất chí lí. Tiểu sư đệ, có đôi khi cần biết mình có thể làm gì, nhưng cũng nên biết việc gì không thể làm được."

Chu Tử Thư ngẩn ra, ngẩng lên nhìn Cung Tuấn trong xe ngựa.

Một lúc sau, cậu phì cười: "Câu này chẳng phải là câu 'tri kỳ bất khả nhi vi chi' trong Luận Ngữ sao, huynh sửa lại khéo thật!"

Cung Tuấn cũng cười theo, không nói nữa. Bánh xe ngựa lăn lộc cộc trên nền đường đá. Chu Tử Thư đứng ở đầu hẻm, nhìn Cung Tuấn đi xa dần, nụ cười trên môi cũng nhạt mất.

Về đến nhà, Chu Tử Thư vào thư phòng ngồi, Phụng Bút dâng một chén canh nóng cho cậu, nhưng cậu không có tâm trạng nào để ăn.

Luận ngữ có câu: tri kỳ bất khả nhi vi chi, ý rằng "Khổng Tử biết rõ việc bất khả thi, nhưng vẫn muốn thực hiện." Ban nãy tự dưng Cung Tuấn lại sửa câu ấy, nói với cậu rằng "Nên biết điều gì có thể làm và điều gì là không thể."

"Rốt cuộc anh ta muốn nói gì đây?" Chu Tử Thư suy tư mãi, đột nhiên siết hai nắm tay: "Chẳng lẽ anh ta biết mình đến Thịnh Kinh với ý đồ gì?"

Song, Chu Tử Thư gạt đi ngay: "Không thể có chuyện đó. Suốt năm vừa qua, từ khi trở thành môn sinh của Phó Vị, mình không hề có hành động nào khả nghi hết. Nếu CungTử Phong thần thông quảng đại hơn nữa, có khi còn biết mình đã thẳng thừng chỉ trích đảng Tùng Thanh trước mặt thánh thượng ở Quốc Tử Giám."

Quả thật chuyện này Chu Tử Thư đoán không sai. Cung Tuấn với Đại thái giám Quý Phúc như sói săn theo bầy, hợp tác cực kì khăng khít với nhau, chàng đúng là đã nắm được tin ấy.

Chu Tử Thư lại nghĩ: "Không có sơ suất nào ở đây cả. Ngay sau khi Lương tiên sinh mất, mình đã cắt đứt quan hệ với thầy, thậm chí rất ít khi nhắc đến thầy trước mặt Phó tiên sinh. Huống hồ, hiện giờ mình mới mười sáu tuổi, chỉ có thể coi là trẻ con. Hẳn là mình đã lo lắng thái quá rồi."

"Nhưng ngộ nhỡ...mình không nghĩ quá lên thì sao nhỉ?"

"Lẽ nào CungTử Phong thực sự đang nhắc nhở mình rằng, nhiệm vụ mà mình tưởng là khả thi thực ra là bất khả thi, khuyên mình nên suy nghĩ cho thật chín rồi hẵng quyết định?"

Trong thư phòng, bấc nến nổ lách tách.

Tuấn trở hồi lâu, Chu Tử Thư vẫn hạ quyết tâm. Ánh mắt cậu kiên định rực lửa, không gì lay chuyển được: "Dẫu vạn người cản ngăn, ta quyết không chùn bước!"

Đả thông tư tưởng xong, Chu Tử Thư như trút được một gánh nặng. Cậu không để bụng những gì Cung Tuấn nói nữa, tránh cho đầu óc mệt mỏi thêm. Bưng bát canh thịt nên định húp một miếng, Chu Tử Thư chợt phát hiện canh đã nguội ngắt, thịt trắng nổi lềnh phềnh, trông đến là mất khẩu vị. Chu Tử Thư cụt hứng, để bát canh dịch ra. Nghĩ ngợi giây lát, cậu trải giấy Tuyên, mài mực viết chữ, luyện một lượt bảng chữ mẫu Cung Tuấn cho.

Cậu lấy con dao tước1, đóng những tờ tập viết của mình thành một quyển.

Hôm sau, Chu Tử Thư nhờ Diêu Tam làm hộ một ít thanh đoàn tử2.

[2] Bánh viên tròn làm từ gạo nếp và nước rau ngải cứu. Vỏ xanh, nhân ngọt hoặc mặn. Tên bánh là "bánh tròn màu xanh" nếu hiểu theo nghĩa đen

Tiết Thanh Minh rơi vào tháng Tư, song người dân Thịnh Kinh không có phong tục ăn bánh thanh đoàn tử như người Giang Nam. Chạng vạng, Chu Tử Thư xách giỏ thanh đoàn tử nóng hổi, cầm theo cuốn tập viết chữ của mình, đi đến phủ Thượng thư.

Đợi ở phòng khách nửa canh giờ, cuối cùng Cung Tuấn cũng trở về từ bộ Hộ.

Cung Tuấn thấy cậu đến thì ngạc nhiên lắm.

Chu Tử Thư nói: "Hôm trước sư huynh có nói rằng đã lâu đệ không đến phủ Thượng thư, nên hôm nay đệ lại ghé chơi. Tiện thể bữa nay nhà đệ làm bánh thanh đoàn tử, tuy hơi vụng, nhưng cũng xin mời sư huynh nếm thử. À, còn có chữ đệ luyện theo bảng mẫu tháng trước nữa. Chữ của sư huynh đẹp quá, đệ viết đi viết lại mà chỉ bắt chước được hình dạng chứ không tài nào học nổi ý. Mong sư huynh chỉ điểm thêm."

Cung Tuấn nhìn Chu Tử Thư, nở nụ cười dịu dàng: "Chi bằng, tối nay đệ hãy ngủ lại phủ Thượng thư. Hai hôm nữa đệ sẽ nhậm chức ở viện Hàn Lâm, nơi ấy tuy nhàn hạ, nhưng cũng không thể rảnh rang được như bây giờ. Hôm nay sư huynh đệ chúng ta chong đèn đàm đạo, để ta xem đệ viết như thế nào, được không?"

Chu Tử Thư không định ở lại phủ Thượng thư qua đêm, nhưng cậu vẫn để tâm đến những lời Cung Tuấn nói giữa đêm khuya hôm nọ. Chí ít hiện giờ, nếu muốn trở thành quan to, có quyền thế trong tay, thì lợi dụng con đường tắt CungTử Phong vẫn là lựa chọn tốt nhất của cậu.

Chu Tử Thư nói: "Tuyệt quá, đệ cũng có ý định đấy từ đầu, chỉ ngại quấy rầy sư huynh."

Cung Tuấn: "Thật thế ư?"

Chu Tử Thư dằn lương tâm, thành thực đáp: "Thật ạ!"

Cung Tuấn: "Thế từ giờ cứ chăm qua đây mà ngủ, phủ Thám Hoa cách có mấy bước chân thôi!"

Chu Tử Thư: "..."

Nghe cứ là lạ thế nào ấy nhỉ?

Dùng bữa tối xong, Chu Tử Thư lấy bài tập viết của mình ra, bốc phét trắng trợn là bài luyện từ tháng trước. Cung Tuấn cầm quyển luyện chữ lên xem rất tỉ mỉ, rồi bảo Chu Tử Thư viết thử cho mình quan sát lần nữa. Chàng chỉ điểm đôi ba chỗ, Chu Tử Thư bèn viết lại hai chữ.

Thình lình, một bàn tay từ đằng sau phủ lên tay cậu. Cung Tuấn nắm tay Chu Tử Thư, hướng dẫn cậu đưa nét bút.

"Sắc sảo là tốt, nhưng nét móc này, nên mềm mại hơn."

Trong ánh nến lung linh, Chu Tử Thư chậm rãi ngước mắt nhìn người đang đứng sau lưng.

Cung Tuấn buông tay, cười hỏi: "Tiểu sư đệ?"

Chu Tử Thư quay đầu lại: "Nên viết thế này đúng không hả sư huynh?"

"Ừ, đúng rồi."

Dưới ánh sáng vàng nhạt của ngọn nến, một bàn tay nắm lấy tay cậu, dạy cậu nắn nót từng nét bút. Một năm rưỡi về trước, đã từng có người làm như thế.

Chu Tử Thư học viết nghiêm túc, Cung Tuấn cũng kiên nhẫn chỉ bảo. Đến khi học xong, hai người tạm biệt nhau, Chu Tử Thư ngủ lại ở phòng dành cho khách trong phủ Thượng thư. Nằm trên giường, cậu giơ tay, nương ánh Tuấng ngắm nghía bàn tay phải. Trên bàn tay ấy, hơi ấm da thịt khi Cung Tuấn chạm vào hẵng còn chưa phai, nhưng cảm giác khi Lương Tụng dạy cậu tập viết đã không cách nào tái hiện nổi nữa.

Bàn tay Lương Tụng hình như lạnh hơn một chút, còn tay CungTử Phong thì ấm áp vô cùng.

Nhưng đối mặt với CungTử Phong cũng giống như bước đi trên mặt băng mỏng dính. Còn trước mặt Lương Tụng, điều gì Chu Tử Thư cũng dám làm, cái gì Chu Tử Thư cũng dám nói, cậu chính là cậu, là Chu Tử Thư, không phải Đường Cảnh Tắc.

Với CungTử Phong, cậu vừa là Chu Tử Thư, vừa là Đường Cảnh Tắc, nhưng phần nhiều thời gian, cậu là Đường Cảnh Tắc.

Chỉ có ở bên Lương tiên sinh, cậu mới chỉ là Chu Tử Thư, luôn luôn chỉ là Chu Tử Thư mà thôi!

"Thầy ơi..."

Con nhớ thầy xiết bao!

Chu Tử Thư mất ngủ trắng đêm, thức tới tận khi bình minh ló rặng. Khi cậu xuống giường, Cung Tuấn đã lên triều. Quản gia giữ Chu Tử Thư ở lại phủ Thượng thư ăn sáng, Chu Tử Thư không từ chối, dùng bữa sáng xong mới về nhà. Lúc cậu về chưa tới giờ Mão; trưa nay, ở lầu Thiên Lý, cậu có hẹn với Triệu Quỳnh.

Có việc thì chớ dềnh dàng. Chu Tử Thư rửa mặt chải đầu, ăn vận tịnh tươm rồi đến lầu Thiên Lý.

||Chú thích

[1] Dao tước: loại dao dùng để sửa lỗi viết sai trong sách vở thời xưa

Update (2/11/2020): Mình mới biết người dân tộc Tày nước ta cũng làm bánh lá ngải giống với thanh đoàn tử vào dịp Thanh Minh tảo mộ (mùng 3 tháng 3 Âm lịch theo truyền thống của người Tày). Có lẽ đây là một phong tục được tổ tiên người Tày tạo ra và được lưu truyền khắp khu vực theo sự di cư và giao thoa của văn hóa. Ở nước Nhật thì món bánh này được gọi là yomogi dango (Yomogi là ngải cứu, dango – 団子 là đoàn tử).

thanh đoàn tử Bánh lá ngải

Yomogi dango

------oOo------

Chương 47

Nguồn: EbookTruyen.Net

Nước biếc chảy về Đông

Chu Tử Thư và Diêu Tam vừa vào lầu Thiên Lý, quản lý Hình đã niềm nở đón tiếp: "Xin được diện kiến Thám hoa đại nhân."

Chu Tử Thư cười nói: "Quản lý Hình sao lại bắt chước mấy người lũ lượt đến nhà ta tặng quà thế này?"

"Cậu chủ Đường tiền đồ vô lượng, mười sáu tuổi đã đỗ Thám hoa, thảo dân nào dám thất lễ. Cậu mà khách sáo thế tiểu nhân không kham nổi đâu ạ." Quản lý Hình ngoài miệng thì nói thế, nhưng thấy Chu Tử Thư không kiêu căng ngạo mạn, liền thở phào nhẹ nhõm.

Quản lý Hình biết sau lưng mình chính là phủ Cảnh Vương, Chu Tử Thư muốn hợp tác với họ, chẳng cứ đỗ Thám Hoa, dẫu đỗ Trạng Nguyên cậu cũng không dám ra vẻ ta đây với phủ Cảnh Vương. Nhưng người thường xuyên tiếp xúc với Chu Tử Thư không phải là Cảnh Cunggia hay thế tử Cảnh Vương, mà chính ông – quản lí Hình! Hôm nay thấy Chu Tử Thư không hề hách dịch hay kênh kiệu so với trước, quản lý Hình mới yên lòng rằng từ giờ việc hợp tác sẽ không có gì thay đổi.

Ông ta cung kính dẫn Chu Tử Thư lên nhã gian trên tầng bốn. Chu Tử Thư vừa bước chân vào cửa đã thấy Triệu Quỳnh đang đợi mình.

Triệu Quỳnh nói: "Cảnh Tắc, hôm hay chúng ta nhất định phải chúc mừng ngươi đỗ Thám Hoa nhé! Đây là rượu nếp Hầu Nhi lầu Thiên Lý nhà ta ủ suốt bấy lâu nay, hai ta không say không về!

Chu Tử Thư chắp tay thưa: "Xin đa tạ thế tử."

Hai người cười ha hả, châm rượu, tỉ tê chuyện trò.

Ăn trưa xong, quản lý Hình đích thân dọn bàn trên nhã gian thật sạch sẽ, rồi dâng một ấm trà Long Tỉnh nóng hổi.

Chu Tử Thư và Triệu Quỳnh nhâm nhi trà, bắt đầu nói vào chuyện chính.

Chu Tử Thư: "Chắc hẳn thế tử cũng biết, tôi là người Cô Tô, việc buôn bán xà phòng ở phủ Cô Tô là do nhà đại bá phụ tôi quản lí. Sang Kim Lăng thì ủy thác cho nhà họ Trịnh phủ Kim Lăng. Khi hợp tác với nhà họ Trịnh, xưởng nhà họ Đường sẽ sản xuất xà phòng sẵn, rồi chở sang phủ Kim Lăng theo đường Đại Vân Hà."

Triệu Quỳnh trầm tư chốc lát, nói: "Từ phủ Cô Tô tới Kim Lăng cũng gần, chi phí phát sinh trong lúc vận chuyển không nhiều. Cảnh Tắc, ngươi nên biết Thịnh Kinh xa Cô Tô hơn Kim Lăng nhiều lắm!"

Chu Tử Thư: "Phải, Thế tử nói đúng, đương nhiên tôi biết điều này. Chính vị thế năm ngoái tôi đã cho Diêu Tam để mắt đến các xưởng ở vùng ngoại ô kinh thành, tháng trước anh ta đã mua lại một xưởng rồi. Xưởng đó ban đầu dùng để chưng cất rượu, nhân công giữ nguyên như vậy, chỉ cần hướng dẫn một chút là có thể chuyển đổi sang sản xuất xà phòng."

Triệu Quỳnh nghe thế thì đã rõ, mắt sáng ngời: "Vậy là người định mở xưởng xà phòng ở ngay Thịnh Kinh luôn?"

"Đúng vậy."

Triệu Quỳnh mỉm cười: "Tốt lắm. Cảnh Tắc, nếm thử trà Long Tỉnh Minh Tiền đi. Đây là cống phẩm vua ban đấy, người thường không có diễm phúc thưởng thức đâu."

Chu Tử Thư vốn không hiểu biết về trà. Tuy nhiên, trong hai năm vừa qua, cậu học với Lương Tụng suốt năm đầu tiên, sang năm thứ hai thì thường xuyên theo Cung Tuấn, nên dần dà Chu Tử Thư cũng thay đổi. Cậu học cử chỉ uống trà của Cung Tuấn, nhẹ nhàng, từ tốn nhấc nắp chung, gạt khẽ hơi nóng bốc lên, nhấp thử một ngụm.

Chu Tử Thư khoan khoái thốt lên: "Hương thơm vấn Cungnơi đầu lưỡi, hậu vị lưu luyến mãi chẳng phai!

Sau khi Chu Tử Thư ra về, Triệu Quỳnh gọi quản lý Hình đến, chủ tớ hai người bàn bạc với nhau.

Hôm sau, quản lý Hình đi theo Diêu Tam đến xưởng xà phòng ngoài thành Thịnh Kinh, chốt số lượng hàng hóa và thời gian xuất hàng.

Lúc đầu Chu Tử Thư không mở xưởng sản xuất xà phòng ở ngoài thành Kim Lăng là vì sợ khuất mắt trông coi. Nhà họ Đường không vươn tay nổi tới Kim Lăng; nếu đặt bừa công xưởng dưới mắt chúa trùm phương ấy là nhà họ Trịnh, rất có thể họ sẽ nảy lòng tham, lừa gạt thợ thuyền, chiếm lấy công xưởng, khiến nhà mình tiền mất tật mang. Thế nhưng ở vùng nước lạ Thịnh Kinh này, Chu Tử Thư có gan mở xưởng ngay tại chỗ.

Thứ nhất, hiện giờ cậu đã không còn là một cử nhân tép riu nữa rồi. Giờ đây cậu có thể dựa vào uy tín của chính bản thân mình – Chu Tử Thư, chứ không cần dựa dẫm hoàn toàn vào nhà họ Đường. Sắp tới, cậu – một Thám hoa vừa là học trò Phó Vị vừa có sư huynh là CungTử Phong, sẽ định cư tại Thịnh Kinh. Nếu có người dám không nể mặt mà ngang nhiên cướp xưởng của cậu, không biết CungTử Phong thế nào, chứ Phó Vị nhất định sẽ không khoanh tay đứng nhìn.

Thứ hai, ấy chính là việc hợp tác giữa Chu Tử Thư và Cảnh Cungphủ. Bất luận kẻ nào muốn nhòm ngó việc làm ăn của phủ Cảnh Cungcũng phải tự đặt mình lên bàn cân mà xem được bao nhiêu lạng. Đương nhiên, không loại trừ trường hợp chính phủ Cảnh Cungmuốn chiếm xưởng của Chu Tử Thư, như thế, đối tượng duy nhất cậu phải để phòng là Cảnh Vương.

"Trên đời này há có việc kinh doanh nào mà không mạo hiểm!" Chu Tử Thư cảm thán.

Xà phòng không phải là thứ xa lạ ở các nhà giàu có tại Thịnh Kinh, nhưng đích đến của sản phẩm này kì thực lại là tầng lớp bình dân.

Nói đến xà phòng, người dân Thịnh Kinh nghe đâu đó là một mặt hàng xuất xứ từ vùng Giang Nam, có tác dụng giống với di tử. Thế nhưng khi Họa Đường Thu bất ngờ mở bán xà phòng rầm rộ, dân chúng Thịnh Kinh mới trầm trồ: "Ồ tuy giống di tử, nhưng tác dụng tốt hơn di tử nhiều!"

Chu Tử Thư chỉ kinh doanh ở ba nơi là phủ Cô Tô, phủ Kim Lăng và Thịnh Kinh.

Ba tòa thành này, tòa sau giàu hơn tòa trước!

Hạ tuần tháng Năm, xưởng xà phòng xuất lô hàng đầu tiên, mới được một buổi đã bán hết sạch sành sanh.

Chu Tử Thư mới nhậm chức ở viện Hàn Lâm, tối đến liền sang Phó phủ thăm Phó Vị. Phủ Cầm đồng tử vừa dẫn cậu vào thư phòng vừa nói: "Đường đại nhân, nghe nói cái xà phòng Họa Đường Thu bán ấy, là của nhà cậu phải không? Cái đó xài tốt lắm ạ. Mẹ tôi hôm qua mới mua một cục, hôm nay nói với tôi rằng xà phòng không làm xây xát tay như di tử, mùi hương cũng thơm tho hơn di tử nhiều."

Chu Tử Thư cười: "Mẹ ngươi cũng mua hả?"

Phủ Cầm đồng tử nói: "Mẹ tôi là người giặt giũ trong phủ này ạ. Trước đây Đường đại nhân có biếu Phó tiên sinh mấy cục xà phòng, nhưng chẳng mấy chốc là hết. Hôm nay Thịnh Kinh có bán xà phòng, cả phủ chúng tôi đều chuyển sang dùng xà phòng hết."

Chu Tử Thư lập tức bảo: "Để tiên sinh dùng thì không thể mua, từ giờ hàng tháng ta sẽ sai Phụng Bút đem một giỏ xà phòng sang. Mọi người trong phủ cùng nhau sử dụng, sẽ đủ hết cho tất cả."

Tiểu đồng Phủ Cầm chỉ tiện thể nói thế thôi, nào ngờ Chu Tử Thư lại nhiệt tình đến vậy. Tuy là việc nhỏ, nhưng chú ta vô cùng cảm kích, bèn nói: "Tạ ơn Đường đại nhân!"

Thịnh Kinh là kinh đô của Đại Tống, phong tục nơi đây đậm nét giản dị, phóng khoáng của miền Bắc, cũng cởi mở với vô vàn yếu tố mới lạ, thập cẩm. Cư dân nhanh chóng đón nhận xà phòng, chỉ mấy ngày thôi, khắp các ven kênh, ven sông trong Thịnh Kinh đều thấy phụ nữ giặt quần áo bằng xà phòng!

Thợ thuyền trong xưởng lần đầu làm xà phòng, Chu Tử Thư tạm thời để họ chuyên tâm vào chế tạo xà phòng cho thành thạo, chưa dạy họ cách làm xà phòng thơm và tinh dầu.

Tháng sáu, thiết bị chưng cất tinh dầu được chuyển đến xưởng, đám thợ ngạc nhiên vây quanh cục sắt to lớn đen sì sì này, nghe Diêu Tam giảng giải cách luyện chế tinh dầu. Chu Tử Thư là quan ở viện Hàn Lâm, tuy triều đình cho phép quan lại buôn bán, nhưng cậu không hề lộ mặt mà khoán hết cho Diêu Tam phụ trách.

Luyện chế tinh dầu khó hơn so với xà phòng, muốn đạt chất lượng cao thì vừa đòi hỏi quá trình luyện chế công phu vừa đòi hỏi tay nghề giỏi.

HIện giờ đang là mùa hoa nở ở Thịnh Kinh. Giữa dịp xuân, Chu Tử Thư cho thợ làm đi thu gom cánh hoa các loại. Nếu để cánh hoa khô mới làm tinh dầu thì độ tinh khiết bị giảm sút, hương thơm cũng không đậm đà. Tinh dầu như vậy là loại hạ phẩm, bán với giá rẻ. Tới tháng sáu có hoa sen, hoa nhài, thược dược, thạch trúc, khi đó dùng cánh hoa tươi làm tinh dầu sẽ cho ra hàng thượng phẩm, bán được với giá đắt.

Hơn nữa, còn có thể trộn lẫn nhiều loại hoa tạo thành tinh dầu hỗn hợp.

Lầu Thiên Lý, nhã gian tầng bốn.

Quản lý Hình kiểm tra thử tinh dầu hạ phẩm làm từ cánh hoa khô, nhận xét: "Mùi hương nồng nàn!"

Sau đó ông ta lại thử tinh dầu từ cánh hoa tươi, nhận xét: "Tươi mới trong trẻo!"

Chu Tử Thư lại lấy tinh dầu hỗn hợp ra, nói: "Đây chính là Hoàng Kim Lũ trân phẩm mà ta đã kể."

Quản lý Hình trịnh trọng đỡ ngay lấy lọ tinh dầu, nhẹ nhàng mở nắp rồi ngửi thử, sắc mặt hơi khác thường. Quản lý Hình nhắm mắt lại, cẩn thận nghiền ngẫm, cảm thấy có rất nhiều mùi hương pha trộn với nhau. Lúc mở mắt ra, ông ta ngần ngại nói: "Cậu chủ Đường khiến tiểu nhân buồn quá. Họa Đường Thu xưa nay chỉ buôn châu báu, song tiểu nhân cũng là quản lí lầu Thiên Lý. Tuy chẳng dám tự xưng là nhạy bén hơn người với mùi hương, nhưng ắt là hơn hẳn người thường. Tôi nhận ra được Hoàng Kim Lũ hạ phẩm của cậu mùi hương nồng nàn nhưng kém xa loại thượng phẩm. Riêng Hoàng Kim Lũ trân phẩm này, đúng là trộn lẫn nhiều hương hoa với nhau đấy, song phải chăng do tiểu nhân ngu dốt, không hiểu phong nhã, nên chưa thấy được sự nổi trội của Hoàng Kim Lũ trân phẩm. Chẳng lẽ loại trân phẩm khác xa loại thượng phẩm thật sao? Tiểu nhân thích Hoàng Kim Lũ hương hoa sen hơn, mùi thương thanh nhã dễ chịu!"

Chu Tử Thư nở nụ cười: "Ta chưa hề nói Hoàng Kim Lũ trân phẩm tốt hơn so với Hoàng Kim Lũ thượng phẩm."

Quản lý Hình cảm thấy khó hiểui: "Vậy ý cậu là sao?"

"Ở lầu Thiên Lý của quản lý Hình, món gì là đắt nhất?"

"Đương nhiên là bào ngư và chân gấu rồi!"

"Vì sao lại đắt thế?"

"Vì những nguyên liệu ấy vô cùng hiếm quý."

Chu Tử Thư: "Nhưng ta nghe nói, lầu Thiên Lý có hai món chân gấu, tuy đắt tiền thật, nhưng không phải là món đắt nhất. Thậm chí, có món ăn chay còn đắt hơn cả món ăn này."

Quản lý Hình: "Không ngờ cậu chủ Đường nắm rõ về lầu Thiên Lý như vậy. Đúng, lầu Thiên Lý chúng tôi có một món chay tên là Bích thủy Đông lưu. Mỗi buổi sớm, chúng tôi lấy những giọt sương được tia nắng mặt trời đầu tiên rọi vào để dùng kèm với tám món chay trân quý và độc đáo. Các nguyên liệu được chần sơ, sau đó đun nhỏ lửa, cuối cùng là xào to lửa. Lúc bày món thì dẫn nước sương vào ống nhỏ lên ngói lưu ly, lót bên dưới, đồ chay đặt lên trên. Mỗi ngày chỉ bán đúng tám đĩa, bán hết thì dừng." Quản lý Hình tự hào giới thiệu.

Chu Tử Thư hỏi: "Nói thế thì về bản chất vẫn là một món xào chay thôi?"

Quản lý Hình: "Ầy, cậu nói vậy..."

Ông ta chẳng có cách nào phản bác cả!

Chu Tử Thư: "Tám món chay, nhờ cách chế biến mà còn đắt hơn cả chân gấu. Quản lý Hình, như thế thì đâu phải cứ món nào ngon hơn, hay mùi hương nào thơm hơn thì tự khắc quý giá hơn đâu? Người đời có bao giờ theo đuổi vật gì vì bản chất của nó chứ! Hoàng Kim Lũ vốn không hướng tới bình dân, nếu ta bảo ông rằng, Hoàng Kim Lũ trân phẩm chỉ dùng cánh hoa tươi mới, mềm mại nhất được ngắt mỗi sớm mai để chế tạo thành, ông nghĩ nó có quý báu không?"

Quản lý Hình: "Đương nhiên là có, nhưng cậu chủ Đường, như thế chẳng cậu ngài đang lừa khách ư?"

"Ta chỉ ví von vậy thôi. Nhưng quả thực cách chế tạo Hoàng Kim Lũ trân phẩm phức tạp hơn nhiều so với Hoàng Kim Lũ thượng phẩm. Phải làm sao để tạo ra một công thức kết hợp, hòa quyện được tất cả những mùi hương đó với nhau, đã tốn bao nhiêu công sức suy nghĩ rồi. Công thức chế tạo cũng là trí tuệ cả đấy!"

Vừa dứt câu, Chu Tử Thư chợt ngẩn ra giây lát, rồi sung sướng thốt lên: "Quản lý Hình, đến đêm Thất Tịch khi Họa Đường Thu mở bán xà phòng thơm và Hoàng Kim Lũ, ta muốn quản lý Hình hãy làm giúp ta một chuyện, việc này ở cả Cô Tô lẫn Kim Lăng ta đều chưa từng thực hiện."

Quản lý Hình lập tức đứng dậy: "Xin cậu cứ giao phó!"

||

------oOo------

Chương 48

Nguồn: EbookTruyen.Net

Nay kỉ niệm 9 năm lập tài khoản WordPress. Thời gian trôi như chó chạy ngoài đồng.

Nghệ thuật nịnh hót

Tinh dầu không phải của hiếm ở Thịnh Kinh.

Tất cả những khách hàng có đủ tiền của mua nổi tinh dầu thì dù mặt hàng này không có mặt ở Thịnh Kinh, họ cũng đặt mua được từ Cô Tô, Kim Lăng xa xôi với cái giá đắt đỏ. Tin tức Họa Đường Thu chuẩn bị bán tinh dầu vào hôm nay, chưa tới nửa tháng đã lan truyền khắp các nhà phú hộ ở Thịnh Kinh.

Tinh dầu là thứ bọn họ đã dùng rồi, giờ Họa Đường Thu có bán thì cũng không còn mới mẻ, hấp dẫn như trước, hiệu quả quảng cáo kém xa so với ở Cô Tô hay Kim Lăng.

Quản lí Hình ra lệnh cho các nhân viên Họa Đường Thu chào hàng nhiệt tình, nhưng không thu hoạch được mấy.

Chỉ còn ba hôm nữa là đến tiết Khất Xảo, Chu Tử Thư xong việc ở viện Hàn Lâm thì đến lầu Thiên Lý gặp quản lí Hình. Vị quản lí oai phong lẫm liệt thường ngày cũng có lúc thẫn thờ, thấy Chu Tử Thư thì than thở: "Cậu chủ Đường, chẳng giấu gì cậu, tôi đã nghe tả cảnh dân chúng đổ xô ra đường khi Trân Bảo Các ở Cô Tô và Cẩm Tú Các ở Kim Lăng bán xà phòng, Hoàng Kim Lũ. Chỉ tiếc là, Giang Nam tuy giàu có, đông đúc, nhưng chung quy vẫn kém Thịnh Kinh. Xin cậu chớ nóng giận, những gì tôi nói đều là thật. Các phu nhân, tiểu thơ ở chốn kinh kỳ chúng tôi đây còn của ngon vật lạ gì trên đời là chưa thấy, từ dạ minh châu Tây Vực đến san hô cao ba trượng Đông Doanh? E là chúng tôi chẳng thể làm Hoàng Kim Lũ đắt hàng như ở Giang Nam đâu."

Chu Tử Thư nghe thế thì biết mình suy đoán không trật, nhưng vẫn hơi ngạc nhiên: "Phú thương ở Thịnh Kinh am hiểu thế cơ à?"

"Quả đúng vậy ạ."

Chu Tử Thư an ủi ông ta: "Vậy thì phải trách người dân Thịnh Kinh cái gì cũng biết, chứ quản lí Hình đâu có lỗi."

Quản lí Hình được an ủi thì cũng đỡ buồn, càng có hảo cảm hơn với Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư hỏi: "Việc ta nhờ ông nửa tháng trước đã ổn thỏa chưa?"

Quản lí Hình nói: "Việc trưng bày ngọc ngà châu báu là sở trường của Họa Đường Thu. Tiểu nhân đã nghe lời cậu, cho chế tác một trăm kiểu dáng khác nhau, sáng sớm hôm nay thì giao cho quản lí Lục mang đến xưởng ngoài thành. Tiểu nhân xin mạo muội hỏi, cậu chủ Đường, cậu giao cho tôi làm thế để làm gì?"

Chu Tử Thư mỉm cười: "Chẳng phải ông nói các phu nhân, tiểu thơ ở Thịnh Kinh am hiểu nhiều thứ, không có gì là chưa từng thấy, chưa từng thưởng thức sao? Nếu họ đã dùng Hoàng Kim Lũ rồi, chúng ta chỉ cần cho họ một thứ mới hơn là được. Ba ngày sau, ông sẽ biết."

Ba ngày sau, tiết Khất Xảo. Tiết Khất Xảo còn có tên gọi khác là đêm Thất

Tịch. Cái tên này xuất phát từ việc ngày lễ này rơi vào mùng bảy tháng bảy.

Ban đầu, đêm Thất Tịch là dịp lễ mừng ngày sinh của nàng tiên thứ bảy (tức nàng Chức Nữ), cũng là dịp để các thiếu nữ cầu xin cho tay nghề may vá thêu thùa của mình thêm điêu luyện. Về sau khi xuất hiện câu chuyện tình giữa Ngưu Lang và Chức Nữ thì ngày lễ này cũng dần dần trở thành ngày các cô gái cầu khấn nhân duyên tốt lành.

Chạng vạng hôm đó, có mấy cỗ xe ngựa xa hoa đỗ lại trước cửa Họa Đường Thu.

Nữ giới nhà quyền quý thường ít khi lộ mặt vào ban ngày. Tới tối, họ không hẹn mà ghé thăm Họa Đường Thu. Vừa xuống xe, ba người phụ nữ liền ngạc nhiên khi tình cờ gặp phải người quen.

"Lâm phu nhân, Triệu phu nhân."

"Mã phu nhân, Triệu phu nhân."

"Lâm phu nhân, Mã phu nhân."

Ba vị phu nhân nghiêng mình chào hỏi nhau, rồi cùng đi vào Họa Đường Thu.

Tầng một Họa Đường Thu dùng để trưng bày trâm khảm đá quý, son phấn, bột màu trang điểm giá cả phải chăng và xà phòng. Xà phòng chỉ bán riêng ở tầng thứ nhất. Ba vị phu nhân nhà quan vào trong cửa hàng thì có nhân viên đón tiếp, kính cẩn mời lên tầng hai.

Lên đến tầng hai, ba vị phu nhân ngạc nhiên phát hiện ở khúc ngoặt trên thang có đặt một giá trưng bày rất tinh xảo, liền dừng bước. Một phu nhân che miệng cười duyên: "Nghe nói ở Giang Nam, xà phòng là thứ bình dân hay dùng để giặt giũ, rửa tay. Còn giới quý tộc giàu sang thì phải rửa tay bằng thứ xà phòng ướp hương thơm ngát, còn gọi là xà phòng thơm. Ta bắt đầu chuyển sang dùng xà phòng thơm từ cách đây một năm, đúng là rất sạch sẽ, tay cũng mềm mịn hơn hẳn."

Một phu nhân khác nói: "Độ một năm rưỡi trở lại đây ta luôn rửa tay bằng xà phòng thơm, đúng là hữu dụng."

Vị phu nhân cuối cùng cười: "Còn ta thì chẳng bì được với hai tỷ tỷ, nửa năm trước mới bắt đầu dùng xà phòng thơm. Song Hoàng Kim Lũ được ngợi ca nức nở thì ta vẫn sử dụng thường xuyên từ nửa năm nay, tay trắng mềm hơn bao nhiêu. Kìa thằng hầu, ta nghe nói từ hôm nay Họa Đường Thu sẽ bán xà phòng thơm và Hoàng Kim Lũ. Hoàng Kim Lũ ở đâu, dẫn ta và hai chị đây đi xem thử nào."

Cậu nhân viên cửa hàng cảm thấy mình xui tận mạng mới vớ phải ba Phật bà vào cũng một buổi thế này.

Thịnh Kinh là đô thành của Đại Tống nên người ta hay bông đùa rằng, đập bừa một bảng hiệu, đấm đại mười người thì dễ có tám người là quan lại, một người đã từ quan. Ba vị phu nhân này là khách quen của cửa hàng, phu quân các bà ở trong triều bét nhất cũng là quan ngũ phẩm. Tướng công của Mã phu nhân còn là quan tứ phẩm – tức quan lớn! Phu quân các bà trên triều đình khác nhau về tư tưởng chính trị, đấu đá kèn cựa nhau suốt, thành thử ba bà hễ gặp mặt là phải cạnh khóe, hơn thua nhau bằng được.

Thậm khéo, đúng cái hôm Họa Đường Thu mở bán Hoàng Kim Lũ thì cả ba bà hứng chí kéo nhau đến đây!

Cậu nhân viên nén nỗi đau thét gào trong lòng, cười thân thiện: "Mời các vị phu nhân đi theo tiểu nhân."

Ba bà đi một chốc đã băng qua gian chính bày xà phòng thơm và các loại trang sức, rồi vòng qua một tủ Bách Bảo cổ làm bằng gỗ sưa, trưng bày vô số thứ. Đằng sau một tấm bình phong hai mặt thêu tranh bách điểu triều phượng trên gấm Tô Châu, ba phu nhân phải choáng ngợp trước một tủ Bách Bảo khác, lộng lẫy như một động tiên bí mật đang náu mình!

Trước tủ Bách Bảo là một cái giá cao bày chiếc bình lưu ly nhỏ xíu, đựng dung dịch trong veo màu vàng nhạt. Một viên dạ minh châu to bự vô cùng xa xỉ nằm ở một góc giá. Tắm trong ánh sáng từ viên minh châu, nước ngọc lưu ly càng lóng lánh gấp bội. Ba vị phu nhân phú quý chẳng kém ai, thấy giá trưng bày này cũng phải trố mắt hãi hùng vì độ xa hoa phung phí.

Đến khi ngẩng lên nhìn tủ Bách Bảo...

Mỗi ô vuông trên tủ Bách Bảo đều trưng bày một chiếc lọ trong suốt bé xinh, mỗi bình chỉ đủ đựng một xíu chất lỏng. So với chiếc bình trên giá bày dạ minh châu, mỗi bình ở đây chỉ nhỏ bằng một phần năm, nhưng chế tác thì vô cùng tinh xảo, bản thân chiếc bình đã khiến người xem phải thấy thích thú vô cùng, không nỡ buông tay. Phần lớn những chiếc bình này chứa chất lỏng màu vàng, nhưng cũng có một số bình chứa chất lỏng nhạt màu hơn, gần như trong suốt.

Mã phu nhân hiểu biết rộng rãi, nói thẳng: "Bình trên giá này là Hoàng Kim Lũ, ta biết rồi. Nhưng mười mấy bình nhỏ trên tủ Bách Bảo kia chẳng lẽ cũng là Hoàng Kim Lũ ư?"

Cậu nhân viên cười nói: "Phu nhân thật uyên bác. Trên giá Bách Bảo cũng là Hoàng Kim Lũ, nhưng những bình Hoàng Kim Lũ này đều được đông gia nhà chúng tôi đích thân điều chỉnh, thay đổi thành phần. Ba vị phu nhân e là không biết, Hoàng Kim Lũ bán ở Họa Đường Thu Thịnh Kinh không hề có mặt ở Kim Lăng hay Cô Tô! Hoàng Kim Lũ ở Thịnh Kinh chúng tôi chia làm ba bậc, hạ phẩm, thượng phẩm và trân phẩm." Nói rồi, cậu ta giải thích về ba loại Hoàng Kim Lũ cho các phu nhân nghe, rồi kết luận: "Ở Giang Nam chỉ có Hoàng Kim Lũ hạ phẩm và thượng phẩm, còn Hoàng Kim Lũ trân phẩm, chỉ riêng Thịnh Kinh mới bán!" Ba bà nghe thế thì sướng rơn, liên tục gật gù.

Cậu nhân viên còn thổi phồng thêm: "Những bình trên chiếc tủ Bách Bảo này còn phi thường hơn. Hoàng Kim Lũ trân phẩm được điều chế từ nhiều loại cánh hoa khác nhau, tạo ra mùi thơm mới lại. Họa Đường Thu chúng tôi đã cải tiến thêm một bước. Những bình Hoàng Kim Lũ phía sau tiểu nhân đây đều là Hoàng Kim Lũ thượng phẩm, chỉ có một hương hoa, song chúng có thể được pha chế với nhau đấy ạ!"

Mã phu nhân kinh ngạc hỏi: "Ý ngươi là, chúng ta có thể tự điều chế ra Hoàng Kim Lũ trân phẩm ư?"

Cậu nhân viên gật đầu lia lịa: "Đúng rồi đấy ạ! Những hương hoa khác nhau hòa chung vào sẽ tạo ra mùi hương mới. Ba vị phu nhân đây là thượng khách, làm sao có thể dùng chung mùi hương với người khác được!"

Nghe câu này xong thì cả ba phu nhân đều lóa mắt. Một khắc sau, ba bà lớn cùng ra về với cả mớ chai lọ be bé, sung sướng ra mặt.

Bán được hơn một trăm bình Hoàng Kim Lũ cỡ nhỏ, cậu nhân viên phổng hết cả mũi. Tiễn ba thượng khách xong, cậu ta thầm ngạc nhiên: "Quản lí làm thế nào mà biết, các phu nhân này sẽ mua hết mọi mùi hương nhỉ?"

Xin một tràng pháo tay, đây chính là ý tưởng mới của Chu Tử Thư ở Thịnh Kinh: Tinh dầu tự chế tạo!

Phương pháp điều chế tinh dầu của Chu Tử Thư còn rất sơ khai, chất lượng không thể sánh bằng sản phẩm thời hiện đại, nhưng được cái là không có nhiều chỗ lắt léo cần lưu ý như sản xuất thời hiện đại. Khi pha trộn các mùi hương với nhau, thành quả tệ nhất là một mùi hương khó ngửi, nhưng không gây ra vấn đề gì nghiêm trọng. Bình ngọc lưu ly vô cùng quý giá, chỉ dùng để đựng hàng mẫu đặt trong cửa hàng. Các bình tinh dầu bán cho các cô các bà đều là bình sứ trắng phỏng theo.

Độc nhất vô nhị chính là thứ bùa mê mà giới nhà giàu Thịnh Kinh không cưỡng lại nổi.

Những người phụ nữ này đã thấy vô số của hiếm trên đời rồi, dù có quý giá đến mấy, dù có thổi phồng Hoàng Kim Lũ lên như quảng cáo kim cương, họ cũng có tiền mua, thành ra chẳng mấy mặn mà hồ hởi. Song, nếu nói rằng họ có thể tự mình điều chế, thử nghiệm, tạo ra Hoàng Kim Lũ thuộc về riêng mình, chắc chắn các quý cô quý bà sẽ lung lay ngay. Thậm chí, Chu Tử Thư phỏng đoán, độ nửa năm nữa thôi, Thịnh Kinh sẽ rộ lên phong trào so tài pha chế Hoàng Kim Lũ trong khuê phòng ấy chứ!

Chu Tử Thư đem sáng kiến này nói cho quản lí Hình, quản lí Hình phải thốt lên là quá sáng suốt. Đồng thời, ông ta cũng bổ sung một chiêu rất cao tay. Nhân viên bình thường làm sao mà nói được những câu mê hoặc lòng người thế? Toàn là do quản lí Hình bày cho cả đấy! Thổi phồng giới nữ quý tộc ở Thịnh Kinh, hạ thấp các phu nhân tiểu thơ Giang Nam, nhấn mạnh rằng trên toàn Đại Tống, loại Hoàng Kim Lũ này chỉ được bán duy nhất ở Thịnh Kinh, làm sao các chị em không xiêu lòng cho được?

Chiêu trò marketing này quả nhiên phát huy cực kì hiệu quả. Về sau khi nó truyền đến tai Chu Tử Thư, cậu ngẩn người, dở khóc dở cười: "Hóa ra cái lối thượng đội hạ đạp, phân biệt vùng miền đã có từ xa xưa, mười lần chẳng sai!" Suy nghĩ một lát, cậu nghĩ thầm: "Rõ thật trơ trẽn!"

Dù sao thì các phu nhân, tiểu thơ xứ Giang Nam cũng chẳng biết đến việc này. Chu Tử Thư chỉ đành chờ đến sang năm thì bắt đầu bán Hoàng Kim Lũ trân phẩm ở Kim Lăng và Cô Tô, rồi mở rộng phong trào tự pha chế tinh dầu.

Xà phòng, xà phòng thơm và Hoàng Kim Lũ đại thắng ở kinh thành, tiền chảy như lũ vào túi Chu Tử Thư và phủ Cảnh Vương.

Sang tháng tám, thời tiết vẫn rất mát mẻ. Chu Tử Thư và các tiến sĩ cùng bảng dần dần vững chân ở Thịnh Kinh. Đệ nhất giáp được phân hết về viện Hàn Lâm; Chu Tử Thư, Diêu Thiện, CungTiêu không còn xa lạ gì nhau nữa. Khoảng một nửa đệ nhị giáp thì đi làm quan ở ngoài, số còn lại đều ở kinh thành. Cuối tháng tám, CungTiêu chủ trì, các tiến sĩ cùng bảng tụ hội ở lầu Thiên Lý.

Tuấng sáng trên không, đèn hoa vừa thắp.

Trong nhã gian trên tầng hai lầu Thiên Lý, hơn hai mươi tân khoa tiến sĩ nâng chén chúc tụng.

CungTiêu vui vẻ nói: "Chư vị đồng liêu, xin mời các vị, tối nay không say không về."

Mọi người cùng nhau nói: "Mời Cungđại nhân, không say không về!"

Các tiến sĩ chia nhau ra ngồi hai bàn, vừa ăn uống vừa ngâm thơ, lãng mạn bay bổng đúng chất tài tử.

Của đáng tội, say bí tỉ rồi thì tài tử cũng thành ma men, thơ thẩn dẹp hết sang một bên để mà nói sảng. Người thì oán thán thượng cấp hà khắc, tống cho mình cả núi việc. Người thì khóc lóc rằng lương bổng bèo bọt, nuôi làm sao đủ tám miệng ăn trong nhà. Cứ tưởng đỗ tiến sĩ là lên hương, nào ngờ muốn làm thanh quan thì cả đời chỉ có ăn rau ăn trấu!

Ai cũng có nỗi khổ riêng, Chu Tử Thư tuổi nhỏ nhất nên ít bị mời rượu nhất. Cậu không say nên lỉnh ngay sang bên chỗ Mai Thắng Trạch ngồi cùng. Mai Thắng Trạch tửu lượng tốt nhưng mặt mũi cũng đỏ gay. Vừa thấy Chu Tử Thư, anh ta ôm chầm lấy cậu khóc, mắt sưng vù: "Cảnh Tắc, huynh khổ quá hu hu!"

Chu Tử Thư đã bao giờ thấy Mai Thắng Trạch rũ rượi thế này, vừa bấm bụng cười ngất vừa giả vờ sốt sắng: "Thắng Trạch huynh, làm sao thế?"

Mai Thắng Trạch khóc: "Sau kì thi dành cho các quan lại, huynh bị điều đến bộ Công, đệ biết rồi đúng không?"

Chu Tử Thư trêu: "Biết quá đi chứ lị. Chẳng phải huynh là Viên Ngoại lang của Thủy bộ trực thuộc bộ Công đó sao? Chức Viên Ngoại lang ấy ở tiền triều là quan ngũ phẩm, tuy giờ xuống thành lục phẩm, nhưng Mai đại nhân ơi, ngài đỗ đệ nhị giáp mà giờ đã là quan lục phẩm, còn cao hơn cả ta. Ta phải gọi ngài là là tiến bối mất."

Mai Thắng Trạch chỉ vào mặt Chu Tử Thư: "Đệ đệ đệ..."

"Đệ làm sao?"

Mai Thắng Trạch chấm nước mắt: "Thôi đệ thì ghê gớm rồi Đường Cảnh Tắc ạ, huynh không nói lại đệ, huynh khổ quá mà! Một thư sinh trói gà không chặt như huynh, học tập gian khổ mười năm những mong báo đền ơn vua. Đệ bảo họ bắt huynh đến bộ Công để làm gì chứ? Gần đây Thủy bộ bên huynh phải lo trùng tu hồ Thái Dịch, huynh ờ à ờ ẫn, chẳng biết một cái gì. Lang Trung đại nhân còn bắt huynh phải theo ông ta đi khảo sát hồ Thái Dịch hằng ngày trong cung. Huynh chỉ là quan lục phẩm tép riu, mỗi lần vào cung cứ sợ nhũn cả chân. Hồ Thái Dịch trong mắt huynh có khác gì cái ao to bự đâu, huynh có biết gì đâu chứ!"

Chu Tử Thư nghĩ ngợi một lát, nói: "Thế huynh có muốn giống đệ, hằng ngày giam mình ở viện Hàn Lâm sửa sang Tứ Thứ, viết đến gãy cả cổ tay, tương lai mịt mù không thấy mặt trời không?"

Mắt Mai Thắng Trạch sáng rực như đèn lồng: "Muốn!"

Chu Tử Thư: "..."

Chu Tử Thư: "Đệ chỉ ước được hóa thành huynh thôi!" Mai Thắng Trạch mặt mũi ngơ ngác.

Mai Thắng Trạch ước ao được tu soạn Tứ Thư giống như Chu Tử Thư, trong mắt anh chàng đấy là nghiệp lớn, có thể lưu danh sử sách, tiếng thơm muôn đời. Nhưng trong mắt Chu Tử Thư, thay vì giam mình trong phòng sao chép, viết lách, cậu thà đi khảo sát hồ Thái Dịch còn hơn! Quan trọng hơn là...

Ánh mắt Chu Tử Thư rất gian manh!

Quan trọng hơn là ngày nào cũng được vào cung!

Mai Thắng Trạch thì sợ vãi ra quần vì ngày nào cũng đụng phải quý nhân trong cung, không tránh được, thỉnh thoảng còn gặp cả hoàng đế. Nhưng đấy chẳng phải là cơ hội vô cùng tốt sao? Chu Tử Thư thầm thở ngắn than dài, cơ hội béo bở như vậy huynh không thèm, thì cho ta đi, ta chỉ thèm có dịp được xuất hiện trước mặt hoàng đế thôi!

Tháng chín, viện Hàn Lâm hoàn tất việc tu soạn sách Trung Dung kéo dài suốt một năm. Lý đại học sĩ đích thân cất sách vào kho sách.

Mọi người đều thở phào nhẹ nhõm, nhưng chỉ nhàn rỗi được hai ngày, bên trên đã lại giao việc xuống.

Viết văn cầu phúc nhân dịp sinh nhật của hoàng đế!

Cả viện Hàn Lâm lại rơi vào cảnh nước mắt chan mưa.

Người ngoài ai cũng thấy viện Hàn Lâm là một cơ quan rất nhàn hạ, vì hằng ngày cứ tạt qua đây công chuyện là thấy từ Đại học sĩ nhị phẩm đến chức Biên tu thất phẩm đang đọc sách, còn không thì đang trên đường đi đọc sách.

"Rảnh đến mức không có việc gì ngoài việc đọc, chẳng nhàn quá thì gì?"

Quan Biên tu thất phẩm ở viện Hàn Lâm, tức Chu Tử Thư, xin được nhổ tặng anh một bãi nước bọt: "Xùy!"

Nếu như nói, đọc sách viết văn là một việc nhàn hạ, thì đúng là viện Hàn Lâm rất nhàn, cả ngày quanh đi quẩn lại chỉ có hai việc đó thôi. Nhưng từ sáng sớm đến đêm thâu, từ năm này qua năm khác, ai mà chịu nổi? Diêu Thiện, CungTiêu thì vô tư, cả hai đều là người cổ đại, đèn sách hơn mười năm nay đã thành quen. Còn Chu Tử Thư ấy à, cậu đến phát ốm lên từ tám mươi đời bảy mươi kiếp rồi! Ngày nào cũng viết viết viết!

Mở mắt ra bắt đầu nghĩ hôm nay phải viết mấy bài luận, đang và miếng cơm lại nghĩ xem hôm nay còn mấy bài chưa viết. Buổi tối tan làm, trước khi nhắm mắt lại nghĩ xem ngày mai phải viết bao nhiêu bài.

Nước mắt Chu Tử Thư chảy ngược vào tim!

Sinh nhật hoàng đế thì càng khốn đốn gấp bội.

Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ của nước Đại Tống sinh vào ngày mùng bảy tháng mười. Giờ mới đầu tháng chín, viện Hàn Lâm đã bù đầu bù óc lo viết văn cầu phúc cho ông ta. Diêu Thiện bị Dương Đại học sĩ giao việc tổng kết những gì hoàng đế đã làm trong năm vừa qua, khảo sát kỹ lưỡng xong thì chép lại thành sách. CungTiêu và Chu Tử Thư bị sai viết văn, chỉ viết đúng văn cầu phúc.

Khốn nỗi, văn chương dầu hay hớm đến mấy thì hoàng đế cũng chỉ đọc vài bài thôi, còn lại đốt tuốt dưới cái mỹ danh cầu phúc với trời.

Người lãnh trách nhiệm tuyển lựa các bài văn dâng lên bệ hạ, chính là Hàn Lâm viện Học sĩ – Dương Đại học sĩ hàm nhị phẩm.

Ngài Dương Đại học sĩ này với Chu Tử Thư cũng gọi là có duyên phận.

Trước đây khi Chu Tử Thư thi Hương, số người viết bát cổ chế nghệ xuất sắc ở trường đệ nhất quá nhiều, bài của cậu chưa đủ nổi bật, không có cơ hội trở thành Á Nguyên. Nhưng Dương Đại học sĩ phát hiện ra trường đệ nhị cậu viết năm đề Chu Dịch. Vị đại học sĩ ấy vừa thấy đã xiêu lòng, thiếu điều trao ngay ngôi Giải Nguyên cho Chu Tử Thư. Cuối cùng, ông cân nhắc rằng bài thi trường đệ nhất của Chu Tử Thư quả đúng là kém hơn các thí sinh khác, vì tính công bằng, bèn chấm cho Chu Tử Thư đỗ Á Nguyên.

Từ khi đến viện Hàn Lâm thì Chu Tử Thư không có cơ hội gặp các Đại học sĩ. Chức quan cao nhất cậu tiếp xúc chỉ đến hàm ngũ phẩm.

Biết ngày mai Dương Đại học sĩ đích thân tới, Chu Tử Thư về nhà suy nghĩ miên man, bèn lôi Chu Dịch ra, đọc thêm một lượt cho kỹ.

Đi làm ở viện Hàn Lâm lâu như thế, Chu Tử Thư đã sớm phát hiện rằng chuyện Dương Đại học sĩ thích Chu Dịch, trừ mình ra thì chẳng ai biết!

"CungTử Phong ơi là CungTử Phong!"

Chu Tử Thư ngâm nga tên sư huynh nhà mình, dở khóc dở cười.

Ba tháng trước Chu Tử Thư chuyển nhà về phủ Thám Hoa. Phủ đệ của cậu quả thực rất gần phủ Thượng thư, chỉ cách hai con ngõ nhỏ. Tối đó, đọc Chu Dịch xong, Chu Tử Thư nghĩ ngợi một hồi, bèn cầm quyển sách mò sang phủ Thượng thư. Người gác cổng thấy Chu Tử Thư thì lập tức cung kính mời cậu vào. Hôm nay Cung Tuấn có nhà, Chu Tử Thư không cần phải vào phòng khách mà đi thẳng đến thư phòng.

Cung Tuấn đang nằm trên ghế bập bênh, nhàn nhã thắp nến đọc sách.

Chu Tử Thư tới nơi thì gọi: "Tử Phong sư huynh."

Cung Tuấn ngẩng lên từ trang sách, trông mặt có vẻ ngạc nhiên: "Sao hôm nay tiểu sư đệ lại đến chơi thế?"

Chu Tử Thư nói điêu: "Đệ đọc sách có chỗ không hiểu, thấy hẵng còn sớm, nên qua đây nhờ sư huynh giải đáp thắc mắc."

Cung Tuấn bình thản nhìn cậu, đặt sách xuống, mỉm cười: "Đến giải đáp thắc mắc thật à?"

Chu Tử Thư ngẫm nghị, quyết định nói thật lòng: "Nhớ sư huynh."

Cung Tuấn cười tươi roi rói, chìa tay ra hỏi: "Sách gì?"

Chu Tử Thư nghĩ thầm, nói xạo huynh không tin, nói thật huynh cũng không tin! CungTử Phong à, huynh thông minh lắm chỉ tổ phản tác dụng thôi, đúng là cóc thể hiểu nổi!

Hôm nay đúng là Chu Tử Thư bỗng dưng nổi hứng đến phủ Thượng thư. Cung Tuấn nói không sai, từ khi Chu Tử Thư đi làm ở viện Hàn Lâm, sư huynh đệ hai người tiếp xúc với nhau ngày càng ít, thời gian gặp gỡ cũng giảm đi nhiều. Chu Tử Thư chỉ là quan thất phẩm ruồi muỗi, trên quan trường cậu chưa đủ tư cách để được qua lại với Cung Tuấn. Hãn hữu lắm thì khi tan làm hai người mới tình cờ gặp nhau.

Hôm nay Chu Tử Thư nhớ đến việc Cung Tuấn từng mách cho mình rằng Dương đại học sĩ thích Chu Dịch, tự dưng lại muốn đến nghe ý kiến của Cung Tuấn.

Cung Tuấn đương nhiên sẽ không tin câu "Nhớ sư huynh" của Đường

Thận, nhưng khi Chu Tử Thư đưa cuốn Chu Dịch cho chàng thì Cung Tuấn lại trầm ngâm. Sau một hồi, chàng mới hỏi: "Viện Hàn Lâm đang phải viết văn cầu phúc cho hoàng thượng à?"

Trong giây lát Chu Tử Thư không tài nào hiểu nổi làm sao mà Cung Tuấn biết được, nhưng cậu nhìn cuốn Chu Dịch thì giật mình kinh sợ: Chỉ một cuốn sách thôi, làm sao mà CungTử Phong đoán được tường tận vậy? Đáng sợ quá đi mất!

Chu Tử Thư suy nghĩ một lát, không giấu giếm: "Vâng." Người như Cung Tuấn nếu muốn biết sự thật thì chỉ chẳng tốn mấy thời gian.

Cung Tuấn im lặng hồi lâu mới nói: "Tiểu sư đệ nhớ ta thật rồi."

Chu Tử Thư ngẩng đầu nhìn chàng bằng ánh mắt ngạc nhiên. Trong ánh nến lung linh, Cung Tuấn mỉm cười mới dịu dàng làm sao, hiếm có khi nào chàng tỏ ra hiền hậu và ấm áp đến thế.

Giây phút ấy, lần đầu tiên Chu Tử Thư cảm thấy mình dường như đã giao nộp lòng mình cho Cung Tuấn, chính thức trở thành bằng hữu của chàng rồi.

Cầm một cuốn Chu Dịch, sư huynh sư đệ rủ rỉ hàn huyên, tâm sự thâu đêm.

Hôm sau, Chu Tử Thư đến viện Hàn Lâm, tầm buổi trưa thì Dương Đại học sĩ tới thật.

Dương Kỳ ngồi ở ghế chủ trong phòng, tầm mắt ông bao trọn tất cả quan lại trước mặt. Ông chậm rãi nói: "Chư vị đồng liêu, mấy ngày nữa là đến thọ thần của Thánh thượng, viện Hàn Lâm bận bịu suốt cả tháng, cũng nên có thành quả rồi. Thọ thần hàng năm của Thánh thượng, bản quan luôn là người tuyển lựa ba áng văn hay trình lên bệ hạ, năm nay cũng không ngoại lệ. Mỗi người một bài, chư vị đã chuẩn bị xong chưa?" Mọi người trăm miệng một lời: "Đã chuẩn bị xong rồi ạ."

Dương Kỳ hài lòng gật đầu: "Quan Biên thừa thu lên đây đi."

Các sai nha đi xuống từ trên đài, thu từng bài văn một. Chu Tử Thư nộp bài của mình, Dương đại học sĩ thu xong bài cũng không nói gì, đi thẳng luôn.

Diêu Thiện không phụ trách viết văn, trong đệ nhất giáp khoa thi năm nay thì chỉ có CungTiêu và Chu Tử Thư viết.

CungTiêu cảm khái với Chu Tử Thư: "Không biết kết quả ra sao, Cảnh Tắc, cậu có tự tin không?"

Chu Tử Thư: "Từ trước đến nay ta vẫn nghĩ, mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên."

CungTiêu gật đầu: "Đúng đấy, chúng ta chỉ cần làm tốt phần việc của mình, thế là đủ."

Ngày kế, Dương Đại học sĩ vẫn chưa công bố ba áng văn được dâng lên vua là của ai. Tới mùng bốn tháng mười, Chu Tử Thư tự dưng nhận được chiếu chỉ. Một vị quan ngũ phẩm bên bộ Lại cười tươi rói ghé thăm viện Hàn Lâm, tuyên đọc chiếu chỉ trước mặt cả viện: "Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao, xét thấy Hàn Lâm viện Biên tu Chu Tử Thư khiêm nhường, chỉn chu, văn chương mẫu mực1, nay thăng lên chức Khởi Cư xá nhân hàm lục phẩm, mùng mười nhậm chức, khâm thử. Tháng mười, năm Khai Bình thứ hai mươi bảy."

Toàn bộ mọi người trong phòng đều choáng váng, Chu Tử Thư cúi đầu, nét mặt bình thản, nhưng đôi tay run nhè nhè khi giơ lên tiếp chỉ đã nói lên nỗi xúc động trong nội tâm.

Cùng lúc đó, một chiếu chỉ khác cũng được đưa vào viện Hàn Lâm, nhưng nơi tuyên chỉ là tòa nhà chính ở ngay kế bên. Diêu Thiện giơ cao hai tay tiếp chỉ, khó kiềm nổi nét mặt vui mừng, anh ta đã được thăng chức thành Khởi Cư lang hàm ngũ phẩm.

Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân được coi là "sử quan bên cạnh hoàng đế", phụ trách ghi chép lại tất cả sự vụ lớn nhỏ của hoàng đế, tập hợp lại thành cuốn Khởi Cư chú. Từ đối thoại giữa hoàng đế với các bề tôi, đến tấu chương của quần thần, hay thánh ngôn mà hoàng đế ngẫu hứng thốt lên, tất cả đều được ghi chép lại bởi Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân.

Triều đình đặt ba chức Khởi Cư lang và mười hai chức Khởi Cư xá nhân. Phần lớn thời gian, phải có một Khởi Cư lang và một Khởi Cư xá nhân đi theo hoàng đế để ghi chép.

Khởi Cư lang hàng năm ít nhất là đổi một người. Sau mỗi kì thi Đình, Trạng Nguyên chắc chắn được bổ nhiệm làm Khởi Cư lang, vấn đề chỉ là thời điểm bổ nhiệm. Sau khi Trạng Nguyên làm Khởi Cư lang một thời gian thì sẽ được thay đổi, không ngày ngày theo hoàng đế nữa. Kể từ lúc ấy, Trạng Nguyên mới chính thức được vua trọng dụng. Về phần Khởi Cư xá nhân thì tự do hơn nhiều, thường xuyên thay đổi, cũng không giới hạn đối tượng đảm nhận là ai.

Tất cả mọi người đều biết Diêu Thiện sẽ được thăng chức làm Khởi Cư lang, nhưng không ai ngờ Chu Tử Thư cũng được thăng chức cùng anh ta!

Mọi người trong viện Hàn Lâm đều chúc mừng, CungTiêu trông thất vọng ra mặt, bần thần mãi. Nhưng anh ta vẫn chắp tay chúc mừng Chu Tử Thư: "Cảnh Tắc, cung hỉ cung hỉ."

Chu Tử Thư nhìn anh ta bằng ánh mắt thâm thúy: "Đa tạ Đại Nhạc huynh."

Cõi lòng CungTiêu đắng nghét, định đáp lời mà không nặn ra được chữ nào.

Chu Tử Thư ở viện Hàn Lâm rất được lòng đồng nghiệp, thứ nhất là vì cậu còn trẻ, viện Hàn Lâm toàn các cụ học giả, ai cũng thấy cậu như cháu giai nhà mình, làm sao mà không đem lòng yêu mến? Thứ hai, ấy là vì cậu có chỗ dựa!

Chu Tử Thư là đồ đệ của Phó Vị, chuyện này không ai không biết. Phó Vị tuy không có mặt ở viện Hàn Lâm, nhưng trên danh nghĩa, ông vẫn là người đứng đầu viện. Ngoài ra, quan hệ giữa Chu Tử Thư và Cung Tuấn rất tốt đẹp. Bộ Hộ phụ trách phân phối và sửa sang phủ đệ cho Trạng Nguyên,

Bảng Nhãn và Thám Hoa. Phủ Trạng Nguyên, phủ Bảng Nhãn đều ở phía Tây thành, riêng phủ Thám Hoa lại ở phía Đông, ngay sát phủ Thượng thư.

Người đời hay kháo nhau rằng CungTiêu là họ hàng xa của CungTử Phong. Họ nói chẳng sai, CungTiêu với CungTử Phong đúng là họ hàng xa, xa theo kiểu bắn đại bác cũng không tới nổi. Từ khi đến Thịnh Kinh CungTiêu đã bái phỏng Cung Tuấn mấy lần, Cung Tuấn lúc nào cũng niềm nở lắm, nhưng cũng chỉ niềm nở mà thôi.

Trong khi đó, Cung Tuấn với Chu Tử Thư là sư huynh đệ đồng môn thứ thiệt.

CungTiêu có cay cú đến mấy thì cũng chỉ rủa được một câu: "Quỷ tha ma bắt cái mớ quan hệ!"

Nhưng anh ta không biết rằng việc Chu Tử Thư được thăng chức thành Khởi Cư xá nhân lần này chẳng hề dính dáng gì tới Cung Tuấn. Người quyết định thăng chức cho Chu Tử Thư chính là Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ.

Trong ba áng văn Dương Kỳ tiến cử, đương nhiên có một bài của Chu Tử Thư, bởi mở đầu bài Chu Tử Thư đã viết: "Rồng bay ở trời, ngôi về đức trời. Rồng hiện ở ruộng, thiên hạ văn minh." Hai câu này lấy trong sách Chu Dịch, phần về quẻ Càn. Dương Đại học sĩ vừa đọc đã thích mê, lại nhớ tới năm bài văn Chu Tử Thư viết hồi thi Hương.

"Thôi, trước đây không thể cho ngươi đỗ Giải Nguyên, hôm nay coi như đền bù vậy, vì đã thấu hiểu tấm lòng của lão phu!"

Đoạn đầu viết để lấy lòng Dương Đại học sĩ, từ đoạn giữa trở đi, Đường

Thận trích lấy trích để các thể loại kinh, điển, từ Đạo Đức Kinh đến Trang Tử, Hoài Nam Tử, rồi múa bút tâng bốc công tích vĩ đại của Triệu Phụ suốt hai mươi bảy năm trị vì lên tận chín tầng mây. Cả bài ngợi ca Triệu Phụ là vị vua anh minh tựa thần tiên, lời lẽ hoa mỹ, chỉ thiếu điều đứng trước mặt Triệu Phụ mà tung hô "Bệ hạ, người quả là đấng tiên nhân."

Áng văn này được thảo ngay trước mặt Cung Tuấn vào đêm cậu với Cung Tuấn chuyện trò thân mật. Chu Tử Thư nghĩ bụng chắc mình lên cơn động kinh rồi mới sáng tác nổi áng văn phỉnh nịnh vô tiền khoáng hậu như vậy! Có thể tối đấy cậu đã vô thức viết trong lúc lơ mơ buồn ngủ. Giờ mà bảo viết lại chắc cậu bó tay: Làm sao mà trơ trẽn thế được!

Nói tóm lại, Chu Tử Thư có việc vui, được thăng lên chức Khởi Cư xá nhân, từ giờ trở đi tha hồ theo sát hoàng đế. Cậu cũng không keo kiệt, bèn mời đồng liêu và mấy tiến sĩ thân quen cùng bảng đi liên hoan ở lầu Thiên Lý, ăn mừng sự kiện này.

Khuya về nhà, Diêu Tam biết chuyện đó thì mừng rỡ nói: "Tiểu đông gia song hỷ lâm môn rồi!"

Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Song hỷ? Còn việc vui gì khác nữa?"

Diêu Tam đáp: "Việc này đáng lẽ phải xong từ sớm cơ ạ. Nửa năm trước, lúc tiểu đông gia đỗ Thám Hoa, tiểu thư A Hoàng đã định đi từ Cô Tô lên đây, đoàn tụ với tiểu đông gia. Chẳng may, mẹ tôi bỗng dưng bị cảm nặng, nằm liệt giường, không thể đi thuyền được. Tiểu thư A Hoàng không chịu bỏ mẹ tôi lại để một mình lên Thịnh Kinh mà kiên quyết ở lại phủ Cô Tô chăm sóc bà. Thế là việc điều dưỡng cho bà cụ kéo dài suốt nửa năm. Tháng trước mẹ tôi khỏe hẳn, nên hai bà cháu lên thuyền cách đây hai ngày rồi, cỡ nửa tháng là tới Thịnh Kinh!"

Chu Tử Thư nhớ đến hình ảnh cô nhóc mặc áo vải gai, tức tối quát "Chu Tử Thư em không cho anh tiêu tiền bậy bạ đâu", lòng chợt ấm áp, nói: "Được, chúng ta cùng chờ hai bà cháu đến đây!"

Mùng sáu tháng mười, Phó Vị bị cảm, Chu Tử Thư tan làm thì sang Phó phủ thăm ông. Một canh giờ sau, Cung Tuấn cũng tới.

Hai người nói chuyện với thầy một hồi, đến khi Phó Vị ngủ thì sư huynh đệ cùng ra về.

Rời khỏi Phó phủ, Chu Tử Thư bỗng dưng hỏi: "Hôm nay nhà sư huynh có rượu và đồ ăn ngon không?"

Cung Tuấn ngạc nhiên nhìn Chu Tử Thư, lát sau mới cười bảo: "Tiểu sư đệ sang nhà, làm gì có chuyện không sẵn rượu ngon, thức ăn ngon?"

Chu Tử Thư gật đầu: "Thế chờ đệ về nhà thay bộ quần áo rồi sang tìm sư huynh nhé."

Cung Tuấn nheo mắt nhìn Chu Tử Thư, chỉ cười mà không ý kiến.

Đêm xuống, quả nhiên Chu Tử Thư đã đổi sang bộ y phục màu xanh, đi tới phủ Thượng thư.

Phủ Thượng thư rộng lớn vắng tênh. Cung Tuấn đã cho bày biện bàn ăn trong sân, cách mấy bước chân là hồ nước. Bóng Tuấng lai láng mặt hồ, hơn mười chú chép hoa nô đùa dưới làn nước. Vì Cung Tuấn ít khi nói chuyện trong lúc ăn cơm, Chu Tử Thư cũng trật tự ăn uống. Đến khi ăn xong bữa, quản gia dọn bàn, dâng ấm trà lên.

Ngẩng đầu ngắm Tuấng tròn vành vạnh, cúi đầu nhấp ngụm trà thơm tho.

Chu Tử Thư lấy từ trong tay áo ra một món đồ, khẽ khàng đặt lên mặt bàn đá, tiếng "canh cách" trong veo.

Cung Tuấn cúi đầu thấy vật này thì ngẩn ra, ngẩng lên hỏi: "Tiểu sư đệ?" Chu Tử Thư nói:

"Có người quân tử tài ba.

Như lo cắt dũa để mà lập thân. Dồi mài dốc chí siêng cần2.

Trước giờ đệ vẫn biết sư huynh cao nhã, thanh bạch; đệ sai người tìm kiếm ở Cô Tô suốt hai tháng mới được một miếng bạch ngọc trong trẻo thế này, trộm nghĩ ngọc này phối với áo bào gấm trắng sư huynh thường mặc là hợp nhất. Đệ biết sư huynh xuất thân Lang Gia Cungthị, từng gặp vô vàn loại ngọc quý, nên miếng ngọc này chẳng thể nào lọt vào mắt xanh của sư huynh. Vì vậy, mong sư huynh coi nó như chút lòng thành nhỏ nhoi của đệ, mừng sư huynh bước sang tuổi hai sáu."

[2] Trích Kỳ úc 1, Kinh Thi. Tạ Quang Phát dịch.

Dưới ánh Tuấng vằng vặc, cặp mắt trong vắt như nước mặt hồ của Cung Tuấn lấp lánh những tia sáng tựa ánh sao trời.

Hồi lâu, Cung Tuấn cầm miếng ngọc lên: "Sao đệ biết hôm nay là sinh nhật ta?"

Chu Tử Thư sửng sốt, nói: "Hồi năm ngoái, Phó tiên sinh có nhắc đến.

Thầy bảo bận bịu mấy bữa thành ra quên mất sinh nhật huynh vào hôm kia. Tiên sinh nói thế vào hôm mùng tám tháng mười, lẽ nào sinh nhật sư huynh không phải là ngày mùng sáu tháng mười?"

Cung Tuấn vuốt ve viên ngọc quý: "Phải. Có điều mùng bảy tháng mười là đại thọ của Thánh thượng, các quan trên triều trăm thứ việc phải lo, ngay cả ta cũng hay quên mùng sáu là sinh nhật mình."

Chu Tử Thư không ngờ là còn có chuyện này, bèn nói không chút đắn đo: "Vậy cứ để đệ ghi nhớ hộ sư huynh là được mà."

Cung Tuấn thình lình ngẩng lên, nhìn Chu Tử Thư chăm chú.

Chu Tử Thư: "... Sư huynh?" Cậu đâu có trêu CungTử Phong chứ? Chẳng lẽ vuốt mông ngựa lệch chỗ rồi?

Cung Tuấn ngắm nghía cậu hồi lâu mới mỉm cười. Chàng lần xuống túi hương thắt dưới miếng ngọc. Túi hương được làm từ gấm màu lam đậm, Cung Tuấn ngửi thử, mùi hương tỏa ra từ chiếc túi ấy vừa thanh nhã vừa thân thuộc vô cùng. "Hương thược dược đấy ư?"

Chu Tử Thư giải thích: "Hương cỏ lan và thược dược đấy ạ. Bài Tuấn Vị trong tập Quốc Phong, Kinh Thi có viết: 'Dòng sông Vị với sông Tuấn, thuỷ triều vào khoảng mùa xuân dẫy đầy. Khắp vùng con gái con trai, hoa lan mới bẻ cầm tay trao lời. Nàng rằng: sao chẳng xem chơi? Chàng rằng: vừa mới đến rồi xem qua. Nàng thêm: hãy đến xem mà, phía ngoài sông Vị đôi ta đến cùng. Chắc là vui thú mênh mông, rủ nhau sánh bước đi chung hai người. Lại nhân dịp ấy vui cười, tặng nàng thược dược ghi lời ái ân.' Đệ đoán tên của sư huynh lấy từ bài Tuấn Vị, lẽ nào đệ đoán sai rồi?"

Cung Tuấn mỉm cười với Chu Tử Thư: "Không sai đâu."

||

Tưởng như rất thẳng mà ngờ đâu gay quá...gay ~

Lời tác giả:

Tiểu Thư Lang: Xuyên về cổ đại, việc hay nhất ta học được là vuốt mông ngựa! Sư huynh, chẳng nhẽ đệ vuốt tệ lắm ư?

Anh Cunghàng xóm: Cực kì tốt là đằng khác (mỉm cười) Chú thích

[1] Gốc: 谦雅恣让, 躬亲事必, 文善达雅. Trình độ mình có hạn nên những câu khó thế

này chúng ta nhẹ nhàng lướt qua nhé :)) hoặc ai biết thì bảo mình với

Thược dược (hoa nở mùa xuân) này khác với thược dược mà chúng ta biết

(nở mùa thu). Trai gái xưa kia tặng nhau hoa này trước khi đi xa để tỏ lòng nhung nhớ. Thời cổ, tên hoa đọc gần giống "hẹn yêu" nên cũng được tặng để bày tỏ tình yêu và mong muốn kết duyên (theo Zhihu).

Bản dịch thơ Tuấn Vị (hay Trân – Vỹ, theo cách phiên âm của dịch giả) là của dịch giả Tạ Quang Phát. Ông đã dịch cuốn Kinh Thi do NXB Đà Nẵng xuất bản. Mời các bạn tìm đọc thêm.

Tủ Bách Bảo là một dạng tủ/giá trưng bày đồ sưu tầm (đá, bình, lọ gốm sứ). Có rất nhiều hình dạng khác nhau nhưng đặc điểm chung là chia làm nhiều ngăn trưng bày.

------oOo------

Chương 49

Nguồn: EbookTruyen.Net

Khởi Cư xá nhân

Cung Tuấn đứng lên, đeo luôn miếng ngọc và túi hương vào đai lưng.

Thấy chàng làm thế, Chu Tử Thư có chút ngạc nhiên, nhưng cậu không nói gì.

Chu Tử Thư hoàn toàn không biết người xưa có những tập tục gì vào dịp lễ sinh nhật. Cậu thử suy nghĩ, bèn đoán rằng chắc ít nhất cũng phải ăn mì trường thọ. Tuy thế, ở quê cậu hồi xưa, mọi người thường ăn mì vào buổi trưa, còn buổi tối thì mở tiệc. Chần chừ chốc lát, Chu Tử Thư mới hỏi: "Sư huynh đã ăn mì chưa ạ?"

Cung Tuấn đương nhiên biết Chu Tử Thư đang nghĩ gì, chàng ra lệnh cho quản gia: "Đưa hai bát mì lên đây."

Quản gia sai bảo đầy tớ: "Đem hai bát mì lên." Chu Tử Thư ngơ ngơ ngác ngác.

Sinh nhật Cung Tuấn thì mình anh ta ăn mì thôi, sao lại quàng thêm cả cậu? Nhưng Chu Tử Thư chưa kịp từ chối, tên đầy tớ đã vâng dạ rồi chạy tọt xuống bếp. Chẳng bao lâu, đầy tớ lại bưng hai tô mì vào vườn.

Chu Tử Thư nhìn chằm chằm bát mì trên bàn, không biết phải nói sao.

"Tiểu sư đệ không thích ăn mì à?"

Chu Tử Thư: "Không phải ạ."

Cung Tuấn tỏ vẻ phật ý: "Thế thì ắt là nhà bếp nấu nướng không hợp khẩu vị đệ rồi."

"Không đâu ạ."

"Vậy thì ăn đi."

Chu Tử Thư không thể làm gì khác ngoài cầm đũa, gắp mì. Cậu ăn ba bốn miếng mới phát hiện rằng Cung Tuấn chưa ăn miếng nào, đũa vẫn gác nguyên đấy. Chu Tử Thư lấy làm lạ: "Sao sư huynh không ăn?"

Cung Tuấn tỏ ra hết sức ngạc nhiên, nói như đúng rồi: "Chúng ta mới ăn tối xong, huynh hẵng còn no căng, làm sao mà ăn được nữa."

Chu Tử Thư: "..."

Ô thế huynh no căng, còn ta thì không no căng phỏng?

Chu Tử Thư chẳng nói chẳng rằng buông đũa, bỏ mứa bát mì luôn, trong bụng thì mắng mỏ CungTử Phong xối xả. Ấy thế mà CungTử Phong vừa gọi một tiếng "Cảnh Tắc," Chu Tử Thư lập tức "Dạ" ngay, ngoan thế cơ chứ lại! Dạ xong Chu Tử Thư cũng chỉ muốn tự vả miệng: Rõ bẽ mặt! CungTử Phong, anh giỏi lắm. Giờ thì tôi phải nịnh anh, nhưng hãy đợi đấy, sẽ có ngày tôi không phải nịnh anh nữa!

Sư huynh đệ hai người lại nói chuyện thêm một chốc rồi Chu Tử Thư cáo từ về nhà, Cung Tuấn tiễn cậu ra tận cửa.

Nhìn bóng lưng dần xa của Chu Tử Thư, CungTử Phong cầm quạt gõ nhè nhẹ lên lòng bàn tay trái. Gõ một lát, chàng trỏ quạt về phía Chu Tử Thư, nói: "Ngươi đoán xem hồi nãy đệ ấy có thầm nói xấu ta không?"

Quản gia nhìn xung quanh, nghĩ bụng ở đây chẳng có ai, hẳn là công tử đang nói chuyện với mình.

Ông ta nhủ thầm: Có mắng ngài hay không, ngài chẳng biết quá rồi còn gì?

Quản gia cung kính đáp: "Tiểu nhân không biết ạ."

Gương mặt điển trai của Cung Tuấn đầy ắp ý cười, song khi chàng cất lời thì rất nghiêm túc: "Ta là ta cứ thấy những lúc đệ ấy oán thầm mình mới hay ho làm sao, không tài nào mà nhịn trêu được, ngươi nói xem, biết làm sao cho phải đây?"

Quản gia: "..."

Cung Tuấn chỉ hỏi thế thôi chứ chàng không định nghe quản gia trả lời. Vuốt ve miếng bạch ngọc thượng hạng trên thắt lưng, chàng thở dài một hơi, rảo bước quay về cổng chính phủ Thượng thư.

Ngày mùng bảy tháng mười, đại thọ Thiên tử.

Quan thất phẩm ruồi muỗi như Chu Tử Thư không có tư cách tham gia nghi lễ tế trời ở Đàn Trời. Tuy thế, trong lúc văn võ bá quan và hoàng thân quốc thích tế tổ thì họ cũng phải ngồi quỳ trong viện Hàn Lâm cả buổi, cảm nhận "oai trời" lồng lộng từ cách đó mấy chục dặm. Đến tận chiều, nghi thức tế trời dài lê thê mới kết thúc. Văn võ bá quan vào hoàng cung dự tiệc, đám quan nhỏ lục phẩm, thất phẩm thì về nhà nghỉ ngơi, hưởng thụ thời gian thanh nhàn.

Sinh nhật hoàng đế, đại xá thiên hạ.

Ba ngày sau tức mùng mười tháng mười, Chu Tử Thư thay quan phục lục phẩm của Khởi Cư xá nhân, đi đến nha môn Trung Thư Tỉnh.

Triều đại trước, Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân là hai chức quan thuộc

Nội Sử Tỉnh. Sang triều đại này, vua Thái Tổ phế bỏ Nội Sử Tỉnh, dựng nên Trung Thư Tỉnh. Quan lại trong Trung Thư Tỉnh đều kiêm nhiệm chức khác, ví dụ như Cung Tuấn vừa là Thượng thư bộ Hộ, vừa là Nội Các đại thần trong Trung Thư Tỉnh, nên còn được gọi là Cungtướng công. Những quan lại không kiêm chức trong Trung Thư Tỉnh cũng chỉ có duy nhất hai đối tượng.

Một là các tể tướng, hai là các quan Khởi Cư như Chu Tử Thư, Diêu Thiện.

Một đằng là quan nhất phẩm, quyền thế nghiêng trời lệch đất; đằng kia là cận thần của thiên tử, phụ trách ghi chép cuộc sống hàng ngày của đức vua.

Đến nha môn Trung Thư Tỉnh, Chu Tử Thư thấy Diêu Thiện đến trước cả mình. Anh ta gặp Chu Tử Thư thì nói: "Cảnh Tắc, không ngờ chúng ta lại có duyên như vậy. Trung Thư Tỉnh khác xa viện Hàn Lâm, sau này chúng ta nên chiếu ứng lẫn nhau."

Chu Tử Thư tán thành: "Xin được phấn đấu cùng Vấn Cơ huynh!"

Hai người hàn huyên một hồi thì có hai viên quan mặc áo bào ngũ phẩm đi tới cửa. Chu Tử Thư vái chào hai vị này, họ lại chào hỏi Diêu Thiện bằng lễ của quan cùng cấp. Một trong hai người nói: "Hẳn vị này là Diêu Vấn Cơ – Diêu đại nhân, còn vị này là Đường Cảnh Tắc – Đường đại nhân. Ta là Lý Thư, cũng là quan Khởi Cư lang ngũ phẩm giống Diêu đại nhân đây. Còn đây là Trương Tư – Trương đại nhân, cũng là quan Khởi Cư lang .

Trương Tư nói: "Hôm nay đến lượt ta theo bệ hạ, đã chọn sẵn hai Khởi Cư xá nhân rồi. Sang ngày mai đến lượt Lý đại nhân theo hầu bệ hạ, lúc ấy, Đường đại nhân hẵng vào cung."

Chu Tử Thư hỏi: "Trương đại nhân, ngày mai đến lượt ta ghi chép ư?" Cậu tỏ vẻ lúng túng: "Chẳng giấu gì hai vị, ta vừa mới đến Trung Thư Tỉnh nên còn bỡ ngỡ lắm, hỏi một chẳng biết ba, chỉ sợ mai thành trò cười mất. Khiến mọi người cười chê là chuyện nhỏ, kinh động đến thánh giá mới nguy to. Ngày mai, ta biết phải làm sao đây?"

Chu Tử Thư mới mười sáu tuổi, đóng vai âu sầu rầu rĩ không thể nào đạt hơn. Cậu chau mày, hai tay nắm chặt, trông hết sức lúng túng.

Hai quan Khởi Cư lang ngũ phẩm thấy thế thì nhìn nhau cười, quả nhiên như lời đồn, cậu ta chỉ là một đứa con nít. Lý Thư nói: "Đại nhân chớ lo lắng, ngày mai người chịu trách nhiệm là ta, không chỉ có mình cậu ghi chép đâu. Đến lúc ấy, cậu cứ đứng sau lưng ta, xem ta chép thế nào là được. Ta sẽ đứng bên trái thánh thượng, một Khởi Cư xá nhân khác đứng ở bên phải. Cậu và Diêu đại nhân mới tới đây, vẫn chưa quen việc. Đã thế, hôm nay hai người hãy tham khảo Khởi Cư chú của năm Khai Bình triều ta đi. Xem được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu. Khi nào các cậu đọc xong, ắt sẽ biết phải làm thế nào."

Diêu Thiện và Chu Tử Thư liếc nhau một cái, cười bất đắc dĩ: "Vâng." Không ngờ rời khỏi viện Hàn Lâm rồi vẫn phải đọc sách!

Chu Tử Thư và Diêu Thiện mỗi người mở một cuốn Khởi Cư chú dày cồm cộp ra đọc. Hai người đọc một mạch đến tận lúc mặt trời lặn, Hoàng đế đã tu tiên xong, quay về hậu cung. Sau khi hoàng đế về hậu cung, Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân mới kết thúc một ngày làm việc.

Chu Tử Thư về đến nhà, rửa mặt bằng nước lạnh. Dòng nước lạnh buốt như đá hắt lên mặt khiến cậu tỉnh táo bất ngờ.

Chu Tử Thư xốc lại tinh thần, mắt sáng rực, khẩn trương đi vào thư phòng, lấy một cuốn vở trắng. Cậu mài mực, cầm bút lông dê mảnh viết thoăn thoắt: "Năm Khai Bình thứ hai mươi tư, ngày mùng bốn tháng tám, có sao chổi lớn như trái đào, rơi về phía Đông Nam. Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân vào cung giữa đêm...."

Nhắm mắt lại, vô số hàng chữ lại hiện lên trước mắt cậu, Chu Tử Thư viết tiếp: "Năm Khai Bình thứ hai mươi tư, mùng bảy tháng tám, Thánh thượng triệu Thiếu Khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn. Vua nói: Đêm qua trẫm gặp cơn mộng dữ, thấy chúng sinh trong lao tù than khóc, huyết lệ đẫm song sắt. Tô khanh đáp rằng: Bệ hạ nhân từ, thần không bì kịp. Vua nói: Trẫm đau nỗi đau của thiên hạ, Tô khanh có xót xa cùng với trẫm không? Nhân nhớ đến muôn dân, ban phúc trạch cho bách tính, trẫm đại xá thiên hạ! Ngày hôm ấy, vua Tống đại xá tội nhân.

Cây bút của Chu Tử Thư đưa nhanh như chớp trên giấy trắng.

Đọc một lần không quên!

Ngay cả Chu Tử Thư cũng không ngờ, sẽ có ngày cậu dùng năng lực trời ban của mình vào việc này.

Hôm nay khi đến kho lưu trữ của của Trung Thư Tỉnh chọn sách thì Chu Tử Thư chọn đúng cuốn Khởi Cư chú năm Khai Bình thứ hai mươi tư đến năm Khai Bình thứ hai mươi sáu. Cậu đọc suốt cả ngày mà mới chỉ xong được một năm, còn hơn một năm nữa chưa xem hết.

Viết tất tật những gì cậu nghĩ có liên quan đến việc mình cần, Chu Tử Thư thở phù một hơi rõ dài, ngồi tê liệt trên ghế. Cậu cầm cuốn Khởi Cư chú bản nhái mình vừa viết xong, đọc lại kỹ càng.

Chu Tử Thư sao chép đủ thứ linh tinh tạp nham, có những câu nói vu vơ của Triệu Phụ, cũng có những cuộc đối thoại giữa Triệu Phụ và bề tôi. Tất cả những gì có có thể liên quan đến thành viên Tùng Thanh đảng , cậu đều ghi lại tất.

Nhưng mà những mẩu vụn này...

"Còn xa mới đủ!"

Chu Tử Thư đặt phịch cuốn vở lên án thư, đôi mắt đỏ quạch: "Hoàng đế đại xá thiên hạ, đương nhiên không có chuyện thả Chung Thái Sinh. Đại xá thiên hạ chỉ đặc xá cho một số phạm nhân tội nhẹ, còn trọng phạm, mệnh phạm thì không thể được ban ơn. Triệu Phụ đặc xá tội phạm, chỉ vì một cơn ác mộng, hay ông ta còn ý đồ gì?"

Chu Tử Thư vắt óc ra mà nghĩ: "Sau đêm sao chổi xuất hiện, đây là lần duy nhất ông ta nhắc đến phạm nhân trong tù. Mình đã bỏ sót gì nhỉ?"

Chu Tử Thư nhanh chóng lật lại cuốn vở mình chép, nhưng soi xét ngược xuôi, cậu vẫn không tìm được manh mối.

Áp lực như Thái sơn đè trên vai khiến Chu Tử Thư phát ngộp. Cậu biết chắc rằng chuyện sinh tử của Chung Thái Sinh có liên quan đến Triệu Phụ, cậu còn biết, chính biến trong cung hai mươi bảy năm trước cũng liên quan đến Triệu Phụ. Hàng ngàn bí mật đan cài với nhau như một mạng nhện dày đặc, cậu có mở to mắt hết cỡ cũng không tài nào nhìn thấu.

"Hiện giờ những gì mình biết còn quá ít ỏi." Chu Tử Thư phán đoán.

Đặt một giả thiết táo bạo, cẩn thận tìm kiếm bằng chứng. Tất phải làm như vậy!

Chu Tử Thư thổi tắt nến trong thư phòng, lặng lẽ giấu cuốn vở trong ngăn bí mật đằng sau giá sách, về phòng ngủ nghỉ ngơi.

Giờ Sửu ngày hôm sau, từ lúc trời còn tờ mờ, Chu Tử Thư đã thay quan bào đến nha môn Trung Thư Tỉnh.

Lý Thư thấy Chu Tử Thư đến trình diện từ sớm thì rất hài lòng. Chờ Khởi Cư xá nhân còn lại đến nơi, Lý Thư chỉ liếc người đó một cái, rồi lẳng lặng dẫn Chu Tử Thư và người đó đi vào hoàng cung. Màn đêm vẫn còn chưa tan, sao nhỏ li ti rải rác trên trời. Ba viên quan nhỏ không ai dám ngẩng đầu, rảo bước đi trong cung.

Trong hoàng cung vô cùng yên tĩnh, đình đài lầu các chìm trong bóng đêm, nom như những con thú dữ nhe nanh múa vuốt, chỉ chực ăn tươi nuốt sống người ta.

Ba người tới điện Tử Thần, trong điện chỉ có thái giám và cung nữ đang quỳ trên sàn lau dọn. Lý Thư dặn dò hai người Chu Tử Thư rằng: "Cấm nói gì đấy." Hai người biết điều, không ai hé răng, ông ta bèn dẫn họ ra đằng sau ngai rồng.

Chu Tử Thư mới vào điện Tử Thần một lần duy nhất – hồi cậu đỗ đệ nhất giáp kì Đình. Lần đó, cậu đứng giữa đại điện, được Triệu Phụ đích thân ban danh hiệu Thám Hoa lang.

Lý thư liếc mắt ra hiệu cho Khởi Cư xá nhân kia, người kia đã có kinh nghiệm, thì thào dạ một tiếng rồi đi sang bên phải. Chu Tử Thư đi theo Lý Thư sang bên trái. Bọn họ đi vòng qua ngai vàng, đứng ở mé bên bệ đá đúc từ đá trắng Thái Hồ. Khuất đằng sau một cây cột bàn long2 bằng bạch ngọc năm người ôm mới xuể là một chiếc bàn nho nhỏ.

[2] Bàn long: rồng cuốn

Chiếc bàn này vừa hẹp vừa nhỏ, ghế ngồi cũng chỉ được ghép từ ba tấm gỗ.

Chu Tử Thư giật mình nhìn kỹ lại. Lúc được phong Thám Hoa lang, cậu không ngờ đằng sau cây cột hai bên ngai rồng còn có người nữa!

Lý Thư: "Cậu đứng sau lưng ta, đứng sao cho khuất sau cột."

Chu Tử Thư: "Vâng."

Lý Thư ngồi xuống, nhẹ nhàng mài mực.

Qua một lúc, cung nữ, thái giám quét tước điện Tử Thần nối đuôi nhau ra ngoài. Sau đó thì có một nhóm thái giám khác tiến vào từ cửa hông. Thái giám đi cuối cùng phụ trách đóng cửa điện Tử Thần lại. Hai khắc sau, ngoài cửa vang lên tiếng hô lanh lảnh như thể ép giọng: "Bá quan vào điện!"

"Bá quan vào điện!"

"Bá quan vào điện!"

Những câu lệnh cứ lần lượt truyền xuống, vang khắp hoàng cung.

Sau một hồi tuyên gọi, Chu Tử Thư căng tai lắng nghe, để ý thấy tiếng bước chân sột soạt. Lũ thái giám vào điện Tử Thần từ sớm đang cúi đầu, đi tới trước hai bên cửa điện, chia làm bốn người mỗi bên. Tám thái giám hè nhau kéo, hai cánh cổng điện kẽo kẹt mở ra. Sau một khắc, quan lại hai ban văn võ, khoác trên mình những bộ áo bào tượng trưng cho phẩm trật khác nhau, lần lượt vào điện.

Chu Tử Thư và Lý Thư đứng ở bên trái của ngai rồng, tức là bên phải của bá quan.

Văn bên trái, võ bên phải. Trước mặt Chu Tử Thư toàn các tướng võ. Chu Tử Thư ngó nghiêng, phát hiện Cung Tuấn đứng trong hàng ngũ quan văn bên trái, chàng mặc áo bào đỏ, cầm chiếc hốt ngọc rất dài, đứng ở vị trí thứ ba trong hàng quan văn. Hai người đứng trước chàng đều mặc áo bào của quan nhất phẩm. Bên cạnh chàng cũng có mấy người khác mặc quan bào nhất phẩm.

Trong đám quan lại này, xếp hàng sau cùng chính là các quan tứ phẩm.

Đại Tống trọng văn, từ thời Thái Tổ đã bỏ lễ quỳ, những khi có lệnh "quỳ" thì chỉ cần ngồi quỳ mà thôi. Khi lên triều thì các quan thậm chí không cần quỳ trước hoàng đế mà được phép đứng trong điện, ngước nhìn lên hoàng đế.

Trong điện, sàn gạch dát vàng tỏa ra hơi lạnh.

Trăm quan cầm hốt đứng đợi một khắc mới nghe tiếng Đại thái giám Quý Phúc cất cao: "Bá quan bái yết!"

Lý Thư lập tức đứng lên, Chu Tử Thư cũng bắt chước, hành lễ cùng các quan trong điện. Mấy chục con người cùng nhau hô lớn, tiếng nói cộng hưởng rung chuyển cả điện Tử Thần, thấu tận trời cao.

"Bái kiến bệ hạ!"

||Chú thích

Đây là một câu nói có từ xa xưa để chỉ người thiếu hiểu biết. Xin đừng liên tưởng đến nhân vật nào trong truyện nào đó nhé :P

------oOo------

Chương 50

Nguồn: EbookTruyen.Net

CungTử Phong!

Chu Tử Thư và Lý Thư đứng phía tay trái ngai vàng, sau cây cột rồng bằng bạch ngọc. Hai người khom mình hành lễ, Triệu Phụ đi ngang qua họ. Chu Tử Thư chỉ có thể thấy một góc vạt áo nho nhỏ màu vàng sáng, cậu nheo mắt. Lát sau, nghe tiếng Triệu Phụ nhẹ nhàng nói: "Miễn lễ."

"Tạ ơn bệ hạ."

Lý Thư ngồi xuống chuẩn bị ghi chép, Chu Tử Thư đứng sau lưng ông ta.

Điện Tử Thần vắng vẻ lạnh lẽo cuối cùng cũng bắt đầu buổi triều.

Cây cột bàn long bạch ngọc quá đỗi bé nhỏ so với những trụ cột quyền lực trên khắp cõi Đại Tống tập trung đằng sau nó. Có bề tôi tâu chuyện chiến sự biên cương gần đây. Triệu Phụ lắng nghe xong rồi phán: "Để sau rồi bàn lại." Lý Thư ghi câu này vào Khởi Cư chú. Các đại thần lần lượt tâu trình, phần lớn là báo cáo những việc phát sinh gần đây.

Trong triều không có việc gì nghiêm trọng cả.

Sau nửa canh giờ, buổi triều kết thúc. Bá quan hành lễ trước ngai báu, tiễn Triệu Phụ rời điện. Sau khi Triệu Phụ đi, các quan mới rút ra khỏi điện từ hai bên cửa hông. Còn Chu Tử Thư, Lý Thư và Khởi Cư xá nhân còn lại thì theo Triệu Phụ rời khỏi điện Tử Thần.

Từ lúc buổi triều kết thúc, Khởi Cư lang và hai Khởi Cư xá nhân vẫn theo sau hai bên Triệu Phụ. Trừ lúc tiêu tiểu ra, bọn họ không hề rời vua một tấc. Đến lúc chạng vạng, Triệu Phụ lên đài Đăng Tiên tu luyện thì ba người đứng ngoài cửa, Triệu Phụ chỉ cho hai đạo đồng theo hầu.

Chu Tử Thư thắc mắc ngó Lý Thư, Lý Thư chỉ nhìn xuống đất, không nói gì.

Chu Tử Thư thở dài trong lòng.

Hoàng đế rốt cuộc vẫn là hoàng đế thôi!

Theo lý thuyết, Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân phải túc trực cạnh hoàng đế từ sáng đến tối, từ lúc lâm triều đến khi hoàng đế về hậu cung, mới được coi là hoàn thành nhiệm vụ. Triệu Phụ tu tiên không cho bọn họ theo sau, việc ấy không phải phép, nhưng ai dám hé răng phản đối nửa lời?

Song ông ta vẫn có thể coi là một hoàng đế đứng đắn.

Nghe đồn triều đại trước đây từng có một vị hoàng đế cực kì quyền lực và độc đoán. Ngày nọ ông ta đột nhiên yêu cầu được xem Khởi Cư chú. Bá quan văn võ đều can gián: "Bệ hạ không thể làm vậy được!" Nhưng hoàng đế đó không hề quan tâm. Khuyên sao cũng không nổi, các đại thần không tài nào lay chuyển nổi vị hoàng đế quyền lực đầy mình này, chỉ đành để mặc ông ta đọc những ghi chép về bản thân. Đương nhiên, sau khi hoàng đế đọc Khởi Cư chú, bản ghi chép đã bị sửa đổi rất nhiều1.

Về sau, sử sách ghi nhận việc này, cho nên Khởi Cư chú thời hoàng đế này bị nhiều sử quan coi là không có giá trị.

Triệu Phụ khá hơn nhiều, ông ta chỉ không cho quan ghi chép đi theo thôi chứ không nhúng tay vào việc sửa đổi Khởi Cư chú. Cuộc sống hàng ngày của ông ta cũng không có tì vết gì, tuy không phải minh quân cả đời, nhưng cũng không có thói hư tật xấu. Tóm lại, ông ta là một hoàng đế bình thường.

Hoàng đế tu tiên xong thì dùng bữa tối rồi về hậu cung. Màn đêm buông xuống, ba người Chu Tử Thư tranh thủ ra về khi cổng cung chưa khóa.

Đây là ngày đầu tiên nhậm chức của Chu Tử Thư, đến ngày hôm sau thì cậu không cần tiến cung, chỉ ở trong nha môn đọc sách.

Quanh đi quẩn lại, bảy ngày đã trôi qua.

Chu Tử Thư vẫn theo Lý Thư học hỏi chứ chưa tự làm việc được. Nhưng trước hết cậu phải nghênh đón một người đã.

Hôm đó Chu Tử Thư nghỉ làm. Từ sáng sớm, cậu và Diêu Tam đi đến bến cảng Vận Hà ở phía Tây Thịnh Kinh, đứng trên bến tàu, trông vời sông nước mênh mang. Nửa canh giờ sau, một con thuyền chở khách rẽ nước tiến tới từ đằng xa. Thuyền cập bờ, khách khứa trong khoang nối đuôi lên bến. Diêu đại nương và Đường Hoàng vừa xuất hiện, Diêu Tam đã nhận ra ngay mẹ mình, sung sướng gọi ầm lên: "Mẹ ơi, mẹ ơi, con ở đây!" Diêu đại nương thấy con trai thì mừng quýnh, nước mắt rơm rớm.

Bên cạnh Diêu đại nương dĩ nhiên là Đường Hoàng. Thế nhưng, nhác thấy cô thiếu nữ duyên dáng yêu kiều, Chu Tử Thư đứng đực ra. Khi Đường

Hoàng và Diêu đại nương đến gần, cậu mới giật mình thốt lên: "Đường Hoàng đấy à?"

Dưới bầu trời xanh trong và những áng mây biêng biếc, cô thiếu nữ mảnh khảnh mặc chiếc váy màu vàng nhạt như ánh Tuấng, hoa văn như ý hồng cánh sen phơn phớt, khoác chiếc áo lông trắng nhỏ, dáng vẻ thanh tú lạ thường. Bên dòng Vận Hà cuồn cuộn, em mang trong mình nét duyên của miền sông nước Giang Nam hiền hòa say đắm lòng người, khác hẳn với những thiếu nữ kiêu sa chốn kinh kỳ.

Chỉ hai năm ngắn ngủi thôi, Chu Tử Thư không ngờ em gái mình trổ mã nhanh đến vậy!

Song, cậu cũng nhận ra Đường Hoàng năm nay đã mười hai tuổi. Một cô bé mười hai tuổi ở thời hiện đại mới tốt nghiệp tiểu học, nhưng ở thời đại này, chỉ tầm ba năm nữa là đến tuổi cập kê, có thể lập gia đình.

Nhưng Chu Tử Thư cứ thấy có gì đó là lạ.

Thấy Chu Tử Thư nhìn mãi quần áo của mình, Đường Hoàng cúi đầu, lí nhí: "Đại bá mẫu nói Thịnh Kinh lạnh hơn Cô Tô, nên bá mẫu cho em mang theo nhiều quần áo. Giờ xem ra cũng không lạnh lắm." À, cô bé đang giải thích tại sao mình phải mặc áo khoác lông.

Chu Tử Thư ngắm nghía em gái mình một hồi lâu, tỏ vẻ biết tuốt, cười khoái trá: "Em béo lên rồi!"

Đường Hoàng ngẩng phắt đầu, trợn trừng mắt la lên: "Béo đâu mà béo!"

Chu Tử Thư cười ha hả: "Ăn nói lí nhí, hít thở phập phù, chẳng phải là béo tắc thở đấy thì gì? Á à, giờ nói to được rồi này."

Đường Hoàng điên tiết: "Đồ anh trai thối, sao anh không nói nổi một câu tử tế chứ?"

"Thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng, vi huynh chỉ muốn tốt cho em thôi." Chu Tử Thư thật thà nói.

Đường Hoàng: "..."

Than ôi, chứng dở hơi của anh tôi hai năm nay vẫn chưa khỏi!

Nhí nhố một hồi, cả nhà cười chán chê, bèn lên xe ngựa về phủ Thám Hoa.

Ngồi trên xe, Đường Hoàng thở phào nhẹ nhõm.

Đầu năm ngoái sau khi Chu Tử Thư đi rồi, Đường Hoàng lúc nào cũng nhớ anh trai, mỗi ngày đều mong ngóng được lên Thịnh Kinh đoàn tụ với anh.

Nhưng theo tháng ngày, tâm trạng của cô bé dần dần thay đổi. Người ta nói với em rằng, Đường tiểu tam nguyên đã đỗ Á nguyên, trở thành ông cử rồi. Sau đó họ lại bảo với em, Chu Tử Thư đỗ hẳn Thám hoa, trở thành quan lớn thật sự rồi.

Chu Tử Thư giáo dục Đường Hoàng theo kiểu nuôi thả tự do, Đường Hoàng không phải giam mình trong nhà trong phủ như các cô gái khác. Đường Hoàng có gia sư riêng, cũng hay đi chơi với các thiên kim tiểu thư khác ở phủ Cô Tô. Có người bảo cô bé rằng, Chu Tử Thư đỗ Thám hoa lang, ra làm quan rồi sẽ khác trước, dù là em gái ruột, từ rày cũng phải cư xử thận trọng, không thể vượt cấp bậc lễ nghĩa.

Vì thế, trước khi tới Thịnh Kinh, Đường Hoàng lo nghĩ miên man. Đặt chân lên thuyền, cô bé bắt đầu nôn nao sợ hãi.

Mãi đến khi gặp lại Chu Tử Thư, mọi lo lắng của Đường Hoàng mới tan biến: Anh mình vẫn là ông anh thối tha chuyên bắt nạt người khác!

Bốn người về phủ Thám Hoa, Chu Tử Thư đã biết trong hai năm vừa qua mình rời nhà phủ Cô Tô phát sinh những việc gì.

Diêu Tam nói: "Việc này năm ngoái lúc mới về Cô Tô tôi có kể cho tiểu đông gia rồi. Hầy, đúng là giậu đổ bìm leo. Năm ngoái khi tiểu đông gia mới rời Cô Tô, có đến mấy nhà tửu lầu, son phấn nhòm ngó việc kinh doanh nhà chúng ta. Họ không bươi móc được Trân Bảo Các với lầu Tế Hà thì quay ra chơi đểu Hậu cần Đường thị, bôi nhọ nhân viên. Đến khi tin tiểu đông gia bái Phó đại nho làm thầy truyền tới Cô Tô, lũ đấy cờ im trống lặng ngay tức khắc, tiệt không còn bóng dáng đứa nào."

Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Anh biết cả cụm 'cờ im trống lặng' nữa à?"

Diêu Tam đỏ mặt: "Tiểu đông gia, tôi nói nhiều thế, sao cậu chỉ nghe được mỗi vậy?"

Chu Tử Thư cười: "Diêu đại ca, anh có muốn đi học không?"

Diêu Tam cuống cuồng xua tay: "Ấy chớ ấy chớ, tôi chỉ muốn làm trợ thủ cho tiểu đông gia thôi, thế là đủ rồi."

Chu Tử Thư mỗi tháng đều biên thư về Cô Tô để liên lạc với người nhà. Đôi khi cậu cũng nhờ vả Cung Tuấn để gửi ké thuyền nhà họ Cungmấy thứ đồ về Giang Nam. Tuy thế, có nhiều việc không thể nói rõ qua thư từ được.

Đường Hoàng hớn ha hớn hở: "Nghe nói anh thi đỗ Á nguyên, cả nhà mình tưng bừng đáo để. Tất cả các phú thương có quan hệ lợi ích với lầu Tế Hà và Trân Bảo Các và cả những người không quen biết đều đến bái phỏng nhà chúng ta. Phủ doãn mới ở Cô Tô cũng đến nữa." Nghỉ một lát, Đường Hoàng nói: "Nhưng Á nguyên chỉ là cái cớ thôi. Ngay từ đầu ông ta đã có ý định gặp anh rồi."

Chu Tử Thư liền nhìn Đường Hoàng, không ngờ cô bé hiểu cả chuyện Phủ doãn mới ở Cô Tô đến thăm Đường gia không phải vì cậu đỗ Á nguyên, mà vì quan hệ của cậu với Phó Vị và Cung Tuấn.

Đường Hoàng lại nói thêm: "Sau kì thi Hương, đại bá phụ mở tiệc lớn ở Cô Tô linh đình suốt bảy ngày đêm! Đến khi anh đỗ Thám hoa thì thôi rồi, không thể tưởng tượng nổi. Người nhà họ Đường ở khắp phủ Cô Tô đều đến chung vui, tiệc tùng suốt mười ngày mười đêm, dân chúng cả thành kéo về ăn uống. Tiếc là anh không về được, đại bá mẫu bảo khi nào thư thư ra thì anh nhớ về, cả nhà chờ để mở từ đường cho anh tế tổ đấy."

Chu Tử Thư nghĩ thầm, có phải chưa mở từ đường cho mình vào tế tổ lần nào đâu, song cậu chỉ nói: "Anh biết rồi."

Đường Hoàng nói thêm một hồi thì nhớ ra một chuyện. Nét mặt cô bé hơi kì lạ, nháy mắt với Chu Tử Thư: "À, anh ơi, anh có nhớ lúc chúng ta rời khỏi thôn Triệu gia thì có chuyện gì không?"

Chu Tử Thư bị hỏi thế thì hơi lúng túng: "Chuyện từ khi mình rời thôn

Triệu gia ấy à?" Cậu suy nghĩ một hồi: "Chuyện gì ý nhỉ?"

"Anh nhớ lại mà xem."

"Anh em mình nợ ai chưa trả? Hay người ta nợ nhà mình?"

"..."

"Thế anh có nhớ, nếu anh đỗ cử nhân, bác trưởng thôn đã hứa với chúng mình cái gì không?"

Chu Tử Thư sực nhớ ra: "Ơ? Chuyện đấy á?"

Diêu đại nương cười nói: "Giờ không còn thôn Triệu gia nữa đâu. Từ khi cậu thi đỗ Á nguyên, thôn đó đã cải danh thành thôn Đường gia rồi!" Chu Tử Thư dở khóc dở cười.

Không ngờ câu nói đùa ngày xưa lại thành sự thật.

Việc thôn Triệu gia sửa tên thành thôn Đường gia này cũng khá thú vị.

Trưởng thôn hồi trước chỉ hứa đại thế thôi, bởi đâu có dễ gì mà đỗ cử nhân. Ngay cả anh họ cả của Chu Tử Thư, Đường Vân, con trưởng của Đường cử nhân, tới giờ vẫn chưa đậu nổi tú tài!

Nhưng trưởng thôn làm sao mà ngờ được, mới hơn một năm, Chu Tử Thư đã thi đỗ thật, còn đỗ hẳn Á nguyên.

Trưởng thôn lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan.

Tên thôn đâu phải cứ thích là đổi chứ? Nào là phải lên phủ nha Cô Tô báo cáo, rồi sau khi đổi tên, gia phả rất nhiều hộ trong thôn cũng phải sửa theo, không được viết là "Ông này bà nọ thôn Triệu gia nữa", mà phải sửa thành "Ông này bà nọ thôn Đường gia." Trưởng thôn nghĩ tới nghĩ lui mãi, nghĩ từ năm nọ qua năm kia, nghĩ đến tận lúc Chu Tử Thư đỗ Thám hoa rình rình rang rang.

Sau sự kiện ấy, mọi người trong thôn đều hối thúc trưởng thôn sửa tên. Trưởng thôn bấy giờ mới hồ hởi đi sửa tên ngay.

Phiền đến mấy thì phiền chớ, làm sao sánh nổi với niềm hãnh diện khi thôn Đường gia bọn họ có một chàng Thám hoa?

Nghe Đường Hoàng và Diêu đại nương kể lại những chuyện phát sinh trong hai năm xa nhà, Chu Tử Thư cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Từ khi đến Thịnh Kinh, đây là lần đầu tiên cậu cảm nhận được không khí gia đình ấm cúng, chân thật, như thể được trở lại những tháng ngày êm ả ở Cô Tô.

Ăn tối xong, chỗ ở cho Đường Hoàng và Diêu đại nương được thu xếp ổn thỏa.

Chu Tử Thư gọi Diêu Tam vào thư phòng: "Bao giờ anh định lên phương Bắc?"

Diêu Tam: "Định đi sớm rồi đấy ạ, nhưng vì mẹ tôi và tiểu thư A Hoàng lên đây nên mới lùi lại. Sáng mai tôi sẽ khởi hành."

Chu Tử Thư: "Cũng không phải vội thế đâu. Diêu đại nương mới tới, anh cứ ở chơi với mẹ hai hôm đã."

Diêu Tam cười ngượng nghịu: "Cậu đừng trêu tôi, việc miền Bắc khéo cậu còn sốt ruột gấp mấy lần tôi ấy chứ. Không sao đâu, sáng mai tôi đi." Chu Tử Thư chỉ cười.

Diêu Tam đang định đi, chợt thấy trên bàn Chu Tử Thư có một cuốn sách đang mở ra. Anh ta lấy làm lạ, hỏi: "Ơ, tiểu đông gia, gần đây cậu đang luyện... vẽ bùa à?"

"Bùa?"

Diêu Tam nói: "Đúng thế, chứ không cuốn sách trên bàn kia là sách gì ạ, không phải sách bùa sao?"

Chu Tử Thư nhìn theo ánh mắt của Diêu Tam, thoáng giật mình, lặng lẽ gập cuốn sách kia lại, cười nói: "Ừ, tôi đọc mấy cuốn sách Đạo gia ấy mà, trau dồi thêm chút xíu. Được rồi, anh cứ đi cho xong việc đi rồi về tha hồ bầu bạn với Diêu đại nương."

"Vâng ạ."

Đợi Diêu Tam đi hẳn, Chu Tử Thư mới mở lại cuốn sách "bùa" ra, lặng lẽ nhìn.

Nếu Diêu Tam may mắn xuyên thời gian đến hiện đại, học hết chương trình phổ cập giáo dục chín năm, thì hẳn là anh ta sẽ nhận ra ngay, cuốn sách này đâu phải bùa Đạo gia, mà toàn là bính âm tiếng Hán.

Cất cuốn bính âm vào ngăn mật sau giá sách, Chu Tử Thư thổi tắt nên, rời khỏi thư phòng.

Đường Hoàng và Diêu đại nương mới tới Thịnh Kinh nên vô cùng hiếu kì với đế đô phồn hoa. Chu Tử Thư hàng ngày phải đến nha môn, không có thời gian rảnh dẫn hai bà cháu du ngoạn, bèn giao chuyện này cho Phụng Bút lo.

Lên làm Khởi Cư xá nhân được nửa tháng, Chu Tử Thư cuối cùng cũng được chính thức ghi chép cuộc sống hàng ngày của hoàng đế.

Hôm đó lên triều, cậu không đi sang bên trái ngai vàng với Lý Thư mà tự mình sang phía bên phải. Như thường lệ, Chu Tử Thư triều kiến hoàng đế theo bách quan, sau đó ngồi xuống, nhấc bút ghi chép.

Tan triều, cậu và Lý Thư quay về ngự thư phòng. Hoàng đế đọc sách, xem tấu chương, còn bọn họ cũng không nghỉ ngơi mà phải trau chuốt, sửa sang lại những ghi chép của ngày hôm nay, đảm bảo không có gì sai sót.

Suốt cả buổi, dù không phải viết nhiều, nhưng Chu Tử Thư căng thẳng hết sức, lưng áo ướt đẫm mồ hôi.

Từ đầu đến cuối, Triệu Phụ không hề liếc nhìn cậu lấy một cái, như thể ông ta đã hoàn toàn quên mất chàng Thám hoa được chính mình khâm điểm trên điện Tử Thần hôm nào.

Đêm về, Triệu Phụ lên đài Đăng Tiên, Chu Tử Thư và Lý Thư đứng ngoài cửa.

Trong những câu chuyện gẫu của các Khởi Cư xá nhân, vị Lý đại nhân này mặc dù không tốt tính cho lắm nhưng cũng không đến nỗi khó ở chung. Tuy vậy, khi Chu Tử Thư theo ông ta học tập, ông ta lúc nào cũng hòa nhã, tận tình. Chu Tử Thư biết mình được đối xử như thế là nhờ thầy mình cây cao bóng cả, tán cây của thầy là "ô dù vững chắc" cho cậu. Mọi người kể rằng, dù là Trạng nguyên Diêu Thiện, Khởi Cư lang hàng ngũ phẩm ngang với Lý Thư, ông ta cũng chưa bao giờ chu đáo đến vậy.

Hai người đứng ngoài đài Đăng Tiên, áng chừng một canh giờ nữa hoàng đế mới ra ngoài.

Lý Thư cười hỏi: "Ngày làm việc chính thức đầu tiên, Đường đại nhân thấy sao?"

Chu Tử Thư giả vờ sầu khổ: "Bình thường chỉ quan sát thôi thì tưởng là dễ, bắt tay vào làm mới biết vô vàn khó khăn. Thêm nữa, khi thánh thượng nói chuyện với quần thần, các quan nói nhanh quá, nhiều lúc ta không viết theo kịp, nhưng chẳng dám viết sai một chữ."

Lý Thư gật đầu: "Cậu làm đúng lắm, dù không viết kịp lúc ấy, chúng ta vẫn có thể so sánh với bản ghi chép của nhau rồi bổ sung sau. Còn nếu viết sai thì có thể nguy đến tính mạng đấy."

Hai người thì thà thì thầm, trời dần dần sẩm tối.

Sau gần nửa canh giờ, bỗng có một người mặc quan bào đỏ thẫm vội vã đi vào từ cổng cung. Dưới ánh mặt trời cuối ngày, người này đội mũ quan, gương mặt hết sức điển trai, đôi mắt như cánh hoa đào. Lý Thư và Chu Tử Thư đều liếc nhìn anh ta theo bản năng. Người đàn ông này cũng liếc lại chòng chọc, ánh mắt sắc lẻm rọi thẳng vào hai người.

Lý Thư thấy anh ta thì thầm than: Sao lại là gã chứ!

Đoạn vội vàng cúi gằm xuống không dám nhìn nữa.

Chu Tử Thư ngó nghiêng mấy lần, viên quan trẻ tuổi này thấy Chu Tử Thư vẫn nhìn mình thì nhếch mép. Sau hồi lâu, anh ta mới quay đi, lên trên đài tiên, thì thầm mấy câu với đạo đồng giữ cửa điện. Đạo đồng nghe xong thì mở cửa đi vào điện, lát sau mới đi ra, mở rộng cửa cho viên quan trẻ tuổi ấy tiến vào.

Cửa điện khép lại, Lý Thư cũng thở phào nhẹ nhõm, lẩm bẩm: "Thế là tống tiễn được đức ôn thần."

Chu Tử Thư hỏi: "Người ấy là ai thế?"

Lý Thư ngó nghiêng xung quanh, biết là không có ai nhưng càng phải thì thào: "Thiếu Khanh Đại lý tự, Tô Ôn Duẫn. Tay này không dễ chọc đâu, sau này nếu tránh được thì ráng mà tránh. Đại lý tự có hai Thiếu Khanh, tuy y là quan tứ phẩm nhưng tất cả các quan phạm tội đều thuộc quyền quản lí của y. Hơn nữa, y còn rất được lòng Thánh thượng. Đài Đăng Tiên này ngoài các tể tướng trong Trung Thư Tỉnh ra thì chỉ có Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức, Thượng thư bộ hộ CungTử Phong, và y – Tô Ôn Duẫn là được vào."

Chu Tử Thư giật mình thon thót.

Tô Ôn Duẫn!

"Khai Bình năm thứ hai mươi tư, ngày mùng bảy tháng tám, thánh thượng triệu quan Thiếu Khanh Đại lý tự là Tô Ôn Duẫn. Vua nói: Đêm qua trẫm gặp cơn mộng dữ, thấy chúng sinh trong lao tù than khóc, huyết lệ đẫm song sắt. Tô khanh đáp rằng: Bệ hạ nhân từ, thần không bì kịp. Vua nói: Trẫm đau nỗi đau của thiên hạ, Tô khanh có xót xa cùng với trẫm không? Nhân nhớ đến muôn dân, ban phúc trạch cho bách tính, trẫm đại xá thiên hạ! Ngày hôm ấy, vua Tống đại xá tội nhân."

Tô Ôn Duẫn là người xử lí tất cả quan có tội, như vậy hai năm trước, Chung Thái Sinh cũng nằm trong phạm vi quản lí của anh ta!

Đang nghĩ dở, cửa điện lại mở, Tô Ôn Duẫn bước ra ngoài.

Chu Tử Thư cúi xuống, lần này không nhìn anh ta nữa. Chỉ thấy một bóng người áo đỏ thẫm đi ra khỏi đài Đăng Tiên, ngang qua Chu Tử Thư và Lý Thư thì thoáng ngần ngừ. Nhưng cũng có thể đó chỉ là ảo giác, vì anh ta lại xăm xăm bước về phía trước, nghênh ngang ra về.

Mấy ngày sau đó, Chu Tử Thư cũng chưa gặp viên quan nào khác đi vào đài Đăng Tiên cả.

Chu Tử Thư thích nghi rất tốt với công việc của Khởi Cư xá nhân, thuận buồm xuôi gió. Diêu Thiện so ra thì kém hơn cậu một chút, Diêu Thiện là Khởi Cư lang, công việc của anh ta cũng là ghi chép lại cuộc sống thường ngày của hoàng đế như các Khởi Cư xá nhân, nhưng kèm thêm chức trách đôn đốc, rà soát sai sót trong quá trình ghi chép. Tiếc rằng Diêu Thiện đi lính nhiều năm, tốc độ viết không nhanh bằng Chu Tử Thư, đôi khi hoàng đế xuất thần phán một câu thì anh ta khó mà viết theo kịp.

Cứ thế, tháng Mười một đã sang.

Đầu tháng mười Một, Chu Tử Thư về tới nhà đã thấy Diêu Tam mặc áo lông đợi cậu từ lâu. Thấy Chu Tử Thư, Diêu Tam bước ngay tới thưa: "Tiểu đông gia, tình hình bên kia hơi khác so với chúng ta tưởng, viết thư khó nói rõ được, tôi đành phải quay về một chuyến. Tôi nghe nói quản lí Lục đã chọn được địa chỉ cho lầu Tế Hà, cũng mua luôn tửu lầu rồi, nhưng việc bên tôi lại chưa ra đâu vào đâu." Nói đến đây, Diêu Tam tỏ ra rất hổ thẹn: "Tôi về đây, thứ nhất là để xin cho quản lí Lục đi cùng với tôi, có thêm anh ta thì tiện hơn nhiều. Thứ nhì... Tôi xin cậu bí mật đồng hành với chúng tôi ạ."

Chu Tử Thư chau mày: "Bí mật đi cùng anh ư?"

Diêu Tam cười ngượng nghịu: "Việc buôn bán với người Liêu khó hơn tôi tưởng rất nhiều, có lắm việc tôi không dám tự tiện quyết định. Chỉ có cậu mới biết khi nào cần quyết đoán, khi nào cần thận trọng. Bên ấy cũng không an toàn, xin cậu hãy cải trang đi cùng tôi với quản lí Lục, như vậy cũng tiện bảo vệ bản thân hơn."

Chu Tử Thư suy nghĩ một lát: "Giờ anh thương thảo được đến đâu rồi?"

"Cỡ ba phần mười ạ."

Ít hơn nhiều so với dự liệu của Chu Tử Thư.

Diêu Tam: "Chỉ được chừng ấy là vì nhiều việc tôi không dám quyết bừa. Có cậu, mọi chuyện sẽ đâu vào đấy ngay!"

Chu Tử Thư cân nhắc hồi lâu mới đáp: "Được rồi, ba ngày nữa là đến ngày nghỉ, tôi sẽ xin nghỉ thêm mấy hôm, đi cùng với anh!

Hôm sau đến nha môn, Chu Tử Thư xin nghỉ với thượng cấp của mình là Lý Thư, Lý Thư chẳng buồn hỏi cậu bận việc gì, phê chuẩn cho nghỉ luôn. Lúc ra khỏi nha môn Trung Thư tỉnh, Chu Tử Thư cảm khái: "Trong triều có quan hệ rõ sướng, ô dù còn đấy thì việc gì cũng trôi chảy!"

Mấy hôm nữa phải rời Thịnh Kinh, Chu Tử Thư chợt phát hiện ra nửa tháng nay cậu chưa đến thăm hai cái ô đại bự của mình.

Đã nghĩ tới thì phải làm ngay. Về nhà xong, Chu Tử Thư bèn lấy đặc sản Cô Tô Đường Hoàng mang lên sang thăm Phó phủ. Phó Vị đang vẽ tranh, thấy Chu Tử Thư thì rào ngay một câu: "Cảnh Tắc lại đây nào con, nào nào, con hãy bình phẩm kiệt tác này của vi sư đi."

Chu Tử Thư: "..."

Tiên sinh, "kiệt tác" là để người khác khen ngài, chứ đời thuở nhà ai tự dùng để mà huênh hoang!

Quà cáp Phó Vị xong, thầy trò hai người tâm tình trò chuyện. Sau đó, Chu Tử Thư mang hộp quà đi sang phủ Thượng thư.

Chẳng may, hôm nay Cung Tuấn không có nhà, nghe bảo là đã tiến cung diện thánh rồi, phải lâu lâu mới về.

Chu Tử Thư nghĩ một lát rồi nói: "Cứ để ta ngồi đây đợi sư huynh."

Quản gia đáp: "Vâng ạ."

Cậu đợi mãi đến khi Tuấng lên đỉnh đầu, sao trời lấp lánh mà Cung Tuấn vẫn chưa về. Chu Tử Thư bận bịu cả ngày quá mệt, ngả ra ghế ngủ thiếp đi. Trong lúc mơ màng cậu thấy mũi ngưa ngứa, tức mình khua tay gạt cái thứ cọ lên mũi mình ra. "Chát!" Chu Tử Thư giật mình tỉnh giấc, bắt gặp ngay Cung Tuấn đang khom người nhìn mình bằng ánh mắt ngạc nhiên.

Sư huynh đệ hai người nhìn nhau hồi lâu, Cung Tuấn lên tiếng trước, nghe giọng vừa ngỡ ngàng vừa tủi thân: "Tiểu sư đệ, đệ..." Chu Tử Thư cũng hết cả hồn.

Cậu ngả lên ghế ngủ, thấy ngứa mũi nên vô thức xua tay. Nhưng trông tư thế giữa mình và Cung Tuấn mà xem, chắc chắn là lúc Cung Tuấn cúi xuống nhìn cậu thì tóc chàng rủ xuống mũi làm cậu bị ngứa, thế là cậu đã tát...

Tát thẳng vào mặt Cung Tuấn!

Giàng ơi, sao cậu đến tặng quà mà lại thành tát vào mặt CungTử Phong thế này? Thế này liệu còn tặng nổi quà không đây?

Gay thật, lỡ cái tát này ủn bay luôn cây dù bự nhất của mình thì chết dở!

Chu Tử Thư ngó mặt Cung Tuấn ngay trước nhất, trên gương mặt trẻ trung, điển trai và trắng trẻo ấy không hề có một dấu tay nào. Nhưng ai quy định rằng cứ bị tát vào mặt thì phải hằn dấu tay? Chu Tử Thư giật mình, vội vàng đứng dậy, rối rít phân bua: "Sư huynh, đệ mới ngủ thiếp đi, không biết đã xảy ra chuyện gì. Đệ có lỡ làm sai điều gì không?"

Cung Tuấn không nói gì cả, chỉ lẳng lặng nhìn Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư bị chàng nhìn thế thì chột dạ, cuống quýt nghĩ cách chữa cháy. Cậu vớ lấy hộp quà trên bàn: "Vừa rồi em gái đệ mới từ Cô Tô lên đây, con bé có mang theo vài món ăn vặt ở Cô Tô, mời sư huynh nếm thử." Cung Tuấn vẫn cứ nhìn cậu mà chẳng nói chẳng rằng.

Chu Tử Thư: "..."

Anh ơi, em van anh, anh nói giùm em một câu đi anh ơi!

Cuối cùng, trong ánh mắt thiết tha van nài của Chu Tử Thư, Cung Tuấn mới chịu mở mồm: "Lâu rồi không gặp tiểu sư đệ, ta nhớ đệ lắm luôn. Thấy tiểu sư đệ đang ngủ, ta không nỡ đánh thức nên mới khẽ khàng lại gần. Nào ngờ tiểu sư đệ chưa tỉnh ngủ, lại đánh vào tay ta, dường như không muốn gần gũi với ta vậy..."

Lúc Cung Tuấn nói câu ấy thì trông mặt mũi rầu rĩ vô cùng, như thể hành động của Chu Tử Thư làm chàng tổn thương ghê gớm.

Chu Tử Thư hối hận lắm, nói: "Sư huynh, lúc đó đệ đang ngủ, không biết gì hết cả, huynh đừng để bụng được không? Không phải là đệ không muốn gần gũi với huynh, cũng không cố ý gạt tay huynh ra, tại đệ đang ngủ nên không..." Cậu bỗng khựng lại, trố mắt: "Gạt tay huynh á?"

Cung Tuấn nín cười: "Đúng rồi, ta thấy tiểu sư đệ đang ngủ nên lấy tóc gẩy nhẹ lên má đệ ý mà, gọi là gần gũi với nhau tí."

Chu Tử Thư nhất thời không nhận thấy có gì bất thường trong câu "gần gũi với nhau tí", cậu thộn ra nhìn Cung Tuấn, miệng há hốc, không thốt nên lời.

Thấy thế, Cung Tuấn không tài nào mà nhịn nổi nữa, cười phá lên.

Ngay từ đầu Cung Tuấn đã biết Chu Tử Thư hiểu nhầm rồi, nhưng nom tiểu sư đệ đáng yêu quá đi mất, nên chàng cứ giả đò như không biết, mặc kệ Chu Tử Thư tự biên tự diễn.

Chu Tử Thư từ từ bặm môi, thình lình, cậu đặt hộp quà đánh "cộp" lên bàn, quay lưng bỏ về.

Ánh mắt Cung Tuấn thoáng chút hoảng hốt, chàng túm lấy cổ tay Chu Tử Thư.

"Tiểu sư đệ."

Có ai bị trêu ghẹo mà vui nổi chứ? Chu Tử Thư tức cành hông: "Sư huynh, quà tặng xong rồi, đệ nên cáo từ thôi." Nói rồi lại giằng ra.

Cung Tuấn níu chặt tay Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư ngẩng đầu: "CungTử Phong!"

Cung Tuấn chỉ lặng im nhìn cậu. Trước ánh mắt sáng trong như vì sao của sư huynh, Chu Tử Thư bỗng thấy cơn giận nguôi ngoai, nhận ra hình như thái độ của mình vừa rồi không được hay lắm. Vừa hối hận vừa ảo não, Chu Tử Thư nhủ thầm "Kệ đi, phải nhịn chứ, giờ mình vẫn cần anh ta mà." Cậu định chủ động xin lỗi, nhưng Cung Tuấn đã giành nói trước. Bằng một giọng nói hết sức dịu dàng, chàng rủ rỉ những lời khiến người ta phải giật mình thảng thốt:

"Cảnh Tắc giận ta trêu đùa đệ, khiến đệ hoảng sợ lo lắng có phải không?"

"Đệ còn giận vì mình tức tối đến thế mà lại chẳng thể nổi nóng, thậm chí còn phải tìm mọi cách nhún nhường ta, đúng không?"

"Hay phải nói," Cung Tuấn nhẹ nhàng siết cổ tay Chu Tử Thư, kéo mạnh cậu về sát trước mặt mình rồi buông tay, không cương quyết giữ lấy Chu Tử Thư nữa. Chàng cúi đầu nhìn cậu, rót vào tai Chu Tử Thư những câu chữ mê hoặc: "Hay phải nói là, đệ giận vì sao mình cứ sợ sệt, giận vì sao bản thân lại rơi vào cảnh bất lực đến thế, phải chứ?"

Chu Tử Thư trợn tròn mắt, bị hỏi đến nỗi á khẩu.

Trông dáng vẻ ấy, đáng lẽ Cung Tuấn phải thấy Chu Tử Thư buồn cười lắm, nhưng không hiểu sao chàng chẳng thể hồ hởi nổi. Hơn cả thế, chàng vừa thấy khó chịu, vừa không thể lờ đi cảm giác xót xa đang len lỏi trong lòng. Mãi sau, Cung Tuấn mới thở dài, ngẩng lên ra lệnh cho quản gia trực ngoài phòng khách: "Chuẩn bị cơm tối, lấy thêm một đôi đũa."

||

Chú thích

[1] Đoạn này khả năng là dựa vào chuyện vua Lý Thế Dân đời Đường, người đã nhiều lần xem và sửa quốc sử. Chi tiết Triệu Phụ bắn chết Thái tử trong chính biến có thể coi là phỏng theo sự kiện Huyền Vũ môn nổi tiếng. Nếu bạn nào chưa biết thì Lý Thế Dân không phải con trưởng của Đường Cao Tổ. Tuy anh trai ông đã được lập làm Thái tử, nhưng Lý Thế Dân vẫn kiên quyết cạnh tranh quyền thừa kế. Ông cho quân mai phục ở cổng Huyền Vũ khi Thái tử và Tề Cungvào cung, và tự mình giết cả hai người anh em. Đường Cao Tổ không còn lựa chọn nào khác ngoài nhường ngôi cho Thế Dân.

------oOo------

Chương 51

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thắp đèn lồng cũng không kiếm được người đàn ông tốt như ta đâu

Không lâu sau, nhà bếp đã làm xong mâm cơm thịnh soạn. Cá cháy chiên, măng om thịt hun khói, và canh dưa cải đều là những món Giang Nam quen thuộc với Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư vốn không muốn ở lại ăn cơm, nhưng Cung Tuấn đã lên tiếng thì cậu cũng không tiện từ chối.

Cầm đũa lên, Chu Tử Thư nhìn những món ăn đơn giản nhưng rất tươi ngon trên bàn mà chẳng có khẩu vị. Cậu ôm bát, lòng rối như tơ vò mà không cách nào biểu lộ. Giây lát sau, Chu Tử Thư mới nén tâm trạng rối bời, bình tĩnh khắp một miếng thịt hun khói vào bát. Cậu và miếng cơm mà miệng nhạt thếch.

Cứ ăn uống như vậy một hồi, giọng nói êm ái của Cung Tuấn chợt vang lên: "Tiểu sư đệ này, huynh chưa bao giờ thấy đệ nói chuyện trong lúc ăn cơm nhỉ."

Chu Tử Thư sửng sốt, ngẩng lên nhìn Cung Tuấn: "Tử Phong sư huynh?"

Cung Tuấn chẳng ăn được mấy gắp, cơm trong bát và thức ăn trên bàn gần như nguyên si. Chàng gác đũa, không đợi Chu Tử Thư trả lời đã tự nói trước: "Ở chỗ tiên sinh đệ không giống vậy, đệ vẫn hay nói chuyện với tiên sinh trong lúc ăn cơm."

Chu Tử Thư trầm ngâm: "Tại đệ theo quan điểm của sư huynh, quân tử ăn không nói, ngủ không nói ấy chứ."

Cung Tuấn mỉm cười: "Đệ coi, đệ hiểu lầm ta đấy ư, ta nói vậy bao giờ nào? Được rồi, nghe nói đệ mới được thăng lên làm Khởi Cư xá nhân."

"Vâng ạ, được thăng chức từ tháng trước."

"Có trải nghiệm gì thú vị không?"

Hai huynh đệ dần dà cuốn vào cuộc hàn huyên.

Sang tháng mười một, thời tiết lạnh dần. Khi Chu Tử Thư đến gặp Cung Tuấn trời đã sẩm tối, chờ Cung Tuấn về nhà, hai người ăn cơm thì đã qua giờ Tuất. Hai sư huynh đệ cơm nước xong, thuyết phục kiểu gì Chu Tử Thư cũng không nán lại nữa. Cung Tuấn thì muốn giữ cậu ở qua đêm: "Trời tối rồi, tiểu sư đệ nghỉ lại phủ Thượng thư có phải hơn không?"

Chu Tử Thư nghiêm túc trả lời: "Đa tạ ý tốt của sư huynh, nhưng mai có phiên trực của đệ rồi. Phủ Thám hoa rất gần đây, đệ về nhà cũng nhanh thôi ạ."

Cung Tuấn dở khóc dở cười: "Thì ra nhà gần cũng thành cái cớ."

Chu Tử Thư không nghe rõ, hỏi: "Sư huynh bảo gì cơ ạ?"

"Không có gì."

Cung Tuấn tự tiễn Chu Tử Thư ra tận cửa. Chu Tử Thư nói: "Sư huynh xin dừng bước, đệ về đây ạ."

Cung Tuấn lại nói: "Tiểu sư đệ vẫn chưa trả lời ta, rốt cuộc hôm nay đệ giận cái gì."

Đầu Chu Tử Thư nhói một cái.

Sao huynh vẫn còn nhớ chuyện này thế!

Màn đêm đen tuyền, chỉ có một vầng Tuấng rằm tỏa sáng lung linh khắp bầu trời quang. Quản gia xách đèn lồng đứng cách một quãng, Chu Tử Thư và Cung Tuấn đứng đối diện nhau, nhưng trời tối quá, dù chỉ cách nhau trong gang tấc, Chu Tử Thư cũng không thấy rõ gương mặt Cung Tuấn, chỉ thấy đôi mắt Cungý cười của sư huynh.

Anh chàng CungTử Phong này, miệng thì hỏi những câu đến là oái oăm mà bề ngoài lại khiến người ta không thể bắt bẻ.

Chu Tử Thư biết trả lời sao bây giờ.

Cậu nghĩ Tần nghĩ Sở, quyết định lại ỷ vào cái tuổi mười sáu của mình, lấy cái giận hờn của trẻ con để mà đối đáp. Chu Tử Thư nói: "Đệ giận sư huynh trêu đệ đấy. Đệ có lòng tặng đặc sản Cô Tô cho huynh, còn chờ huynh bao nhiêu lâu trong phủ, nào ngờ sư huynh về nhà thấy đệ ngủ quên, đã không đánh thức thì thôi còn trêu đùa đệ."

Cung Tuấn: "Thì ra là thế."

"Chính thế đấy ạ."

"Tiểu sư đệ, đệ nghĩ ta là người như thế nào?"

Chu Tử Thư sửng sốt. Nhìn nụ cười trên môi Cung Tuấn, cậu không tài nào bật ra câu trả lời được.

Cung Tuấn bảo quản gia về trước rồi lấy chiếc đèn lồng trên tay quản gia. Chàng chỉ vào đèn lồng, bảo với Chu Tử Thư: "Đệ thấy ta có giống cái đèn lồng này không?"

Chu Tử Thư hoang mang. Liên quan gì đến đèn lồng ở đây?

Chu Tử Thư không rõ dụng ý của Cung Tuấn, nhưng đầu óc sư huynh cậu đã bao giờ vận hành theo lối thường?

Đoán Cung Tuấn đang thăm dò mình, Chu Tử Thư không dám trả lời tùy tiện. Thôi thì ba mươi sáu kế, "nịnh" là thượng sách. Cậu nói: "Sư huynh và chiếc đèn này giống nhau ở chỗ đều sáng ngời thanh cao. Đệ tới Thịnh Kinh hai năm nay, không có lúc nào sư huynh không chiếu cố. Xuất phát điểm của đệ là một tú tài nhỏ nhoi, giờ nhìn lại quả là vật đổi sao dời. Sư huynh chính là người soi sáng con đường đệ đi." Càng nói, Chu Tử Thư càng lồng vào nhiều cảm xúc chân thành hơn. Quả thực, Cung Tuấn chính là người quan tâm và săn sóc cậu nhiều nhất kể từ khi cậu tới Thịnh Kinh, Cung Tuấn đối với cậu thực sự quá tử tế.

Ấy thế mà Cung Tuấn chỉ lắc đầu: "Hóa ra tiểu sư đệ nghĩ về ta như vậy."

Chu Tử Thư: "... Sư huynh giơ đèn lồng là có ý gì ạ?"

Cung Tuấn đung đưa chiếc đèn, cười nói: "Lẽ nào tiểu sư đệ không cảm thấy, thắp đèn lồng cũng không kiếm được người đàn ông tốt như ta sao?"

Chu Tử Thư: "..."

CungTử Phong à, từ bao giờ huynh biết pha trò mà mặt tỉnh bơ thế!

Cung Tuấn cũng không để bụng, chàng nâng đèn lên ngang mặt mình: "Chiếc đèn này soi được mặt ta thì không soi đến chân ta. Soi thấy chân ta thì không chiếu tới mặt ta. Tiểu sư đệ, đệ xách ngọn đèn lồng nhỏ xíu thế này đến gặp ta thì làm sao mà tìm được ta chứ?"

Chu Tử Thư nhận ra lớp lang trong lời nói của Cung Tuấn, nhưng bảo cậu phản ứng ngay thì khó quá. Trong lúc ấy, Cung Tuấn đã dúi đèn lồng vào tay Chu Tử Thư, cười nói: "Nhưng dù thấy mặt hay thấy chân, tiểu sư đệ à, người đệ thấy vẫn là ta đó. Mà ta, là sư huynh của đệ. Về đi, ta không tiễn." Chu Tử Thư kinh ngạc nhìn Cung Tuấn.

Về tới nhà, Chu Tử Thư đặt ngọn đèn lồng Cung Tuấn đưa cho mình lên bàn đọc sách, lẳng lặng ngắm nó.

"Huynh ấy bảo mình không nhìn ra con người thật của huynh ấy, không biết con người thật của huynh ấy là thế nào. Nhưng trên đời, có mấy người biết con người thật của CungTử Phong chứ. Huynh ấy cũng chẳng cho mình cơ hội nữa..."

Thư phòng yên ắng hồi lâu.

"... Huynh là sư huynh của ta ư?"

Đôi mắt Chu Tử Thư bừng sáng rồi lại ủ ê.

"Rốt cuộc ta nên đối đãi với huynh thế nào đây, CungTử Phong!"

Cung Tuấn nói rằng chàng là sư huynh của Chu Tử Thư với ngụ ý rằng,

Chu Tử Thư không cần phải đề phòng, dè chừng chàng như vậy. Chu Tử Thư hiểu thế nhưng không thể làm theo được. Chí ít hiện giờ, cậu vẫn không dám tin tưởng Cung Tuấn hoàn toàn, không dám tùy tiện trước mặt chàng.

Chu Tử Thư nhìn chiếc đèn lồng, thở than: "Người như huynh ấy à, đừng nói là đốt đèn lồng, đến bật đèn pin cũng không tìm được ai giống vậy..."

Sau đó Chu Tử Thư cũng không đến tìm Cung Tuấn nữa. Ba ngày sau là ngày nghỉ của Chu Tử Thư. Từ sáng tinh mơ, cậu đã thay bộ quần áo vải thô giản dị, đóng giả người hầu, lên xe ngựa cùng Diêu Tam và quản lí Lục. Đến khi sáng rõ mặt người thì chiếc xe ngựa bí mật rời khỏi Thịnh Kinh, thẳng tiến về phương Bắc.

Trấn Lạc Hà, nơi tiếp giáp giữa Đại Tống và nước Liêu.

Chu Tử Thư vẫn cảm thấy quan hệ giữa Đại Tống và nước Liêu ở thế giờ này rất kì dị. Về một mặt, hai nước đã từng chiến tranh nảy lửa, một mất một còn, kết cục của cuộc can qua là thiệt hại thảm khốc cho cả hai phe, không phe nào ăn được phe nào cả. Mặt khác, từ sau khi kí hòa ước, hai nước ngoài mặt thì hòa bình hợp tác, nhưng bên nào cũng nung nấu tham vọng riêng.

Vùng biên giới Tây Bắc thỉnh thoảng sẽ có nạn giặc cỏ cướp bóc thôn làng. Trong quá trình làm Khởi Cư xá nhân, Chu Tử Thư đã từng nghe quan viên báo cáo việc này. Khi ấy, vị quan đó đã cười khẩy: "Bệ hạ minh giám. Giặc cỏ ư? Giặc cỏ ở chỗ nào chứ! Chẳng quân Liêu ngụy trang thì gì!" Đại Tống đương nhiên không chịu lép vế.

Hôm nay mi đóng vai giặc cỏ, thì ngày mai ta giả làm cướp ngựa, ăn miếng trả miếng bằng được thì thôi.

Dù thế, người Tống thiếu ngựa thiếu dê, người Liêu thiếu vải vóc lương thực. Vì hai nước vẫn phải buôn bán qua lại với nhau, những cuộc chém giết giữa hai bên tập trung chủ yếu ở khu vực Tây Bắc, cửa ngõ duy nhất ở mạn Bắc Thịnh Kinh mở ra cho lái buôn hai nước trao đổi hàng hóa.

Trấn Lạc Hà nằm ở biên giới giữa hai nước, là thị trấn mậu dịch lớn nhất vùng Bắc Trực Lệ.

Đến trấn Lạc Hà, Chu Tử Thư không ngồi xe ngựa nữa mà ngồi lên đằng trước cùng xà ích, vừa đi vừa quan sát khung cảnh thị trấn này.

Trấn Lạc Hà không khác gì với các thị trấn nhỏ lân cận cả. Thị trấn này thuộc về Đại Tống nên nhà cửa, công trình đều thiên về lối kiến trúc Tống, nhưng một nửa dâu cư nơi đây là người Tống, nửa còn lại là người Liêu. Đặc điểm của người Liêu là đa dạng kiểu tóc. Một số người bện tóc thành nhiều bím nhỏ giống như mốt tóc bện thừng thường thấy sau này. Choáng hơn, một số người cạo trọc hết tóc trên đỉnh đầu, chỉ để một viền tròn xung quanh, giống như bệnh hói "Địa Trung Hải" mà người hiện đại vô cùng ngán.1

Da đầu Chu Tử Thư ớn lạnh, cậu không nhịn được, sờ lên tóc mình.

Cấy tóc thì nghe rồi, chứ chủ động làm mình hói thì chưa thấy bao giờ cả.

Rất dễ nhận biết người Liêu ở trấn Lạc Hà, bởi dù họ mặc trang phục gì thì những kiểu tóc kì lạ của họ đều rất khác so với kiểu tóc của người Tống.

Diêu Tam rất quen thuộc với trấn Lạc Hà. Ba người nghỉ lại trong một nhà trọ trong thị trấn. Buổi chiều, ba người đến một cửa hàng bán vải.

Vừa vào cửa, quản lí tiệm đang tính tiền sau quầy đã nhận ra Diêu Tam, bèn bước lại chào: "Ồ, quản lí Diêu đấy à, đã đi Thịnh Kinh về rồi đấy ư?"

Quản lí Lục sửng sốt, nhìn Diêu Tam bằng ánh mắt khó hiểu: Chú thành quản lí từ khi nào thế?"

Diêu Tam nháy mắt với anh ta: Ngài hiểu rồi chứ.

Quản lí Lục: ... Tui hông có hiểu.

Chu Tử Thư đóng vai người hầu, đứng sau lưng cả hai. Diêu Tam từ một tiếng: "Chớ nhiều lời, việc bàn lần trước, khi hồi kinh, ta đã bàn bạc với ông chủ xong rồi. Ông chủ của các ngươi đâu rồi, đây là ông chủ của bọn ta đây!" Nói rồi, anh chỉ thẳng vào quản lí Lục.

Quản lí Lục sửng sốt, mỉm cười rất chuyên nghiệp.

... Vở diễn này sao chú không đưa kịch bản trước cho anh vậy!

||Chú thích

[1] Mảng hói lớn giữa đầu thì hay bị gọi là "Địa Trung Hải", chắc vì nó là vùng biển bị bao quanh bởi hai đại lục :>

Tóc bện thừng – Dreadlock

Một kiểu tóc của người Liêu (Khiết Đan) xưa

------oOo------

Chương 52

Nguồn: EbookTruyen.Net

Hẳn là tiểu sư đệ nhớ ta thật rồi

Cửa hàng vải này được quản lí bởi người Tống, nhưng chủ sở hữu lại là người Liêu.

Tuy nước Tống và nước Liêu thường xuyên giao dịch với nhau, nhưng trấn Lạc Hà vẫn thuộc về nước Tống, thành ra số cửa hàng của người Liêu ở trung tâm thị trấn khá ít ỏi, cửa hàng của người Tống thì chiếm phần đông. Cửa hàng này là một ngoại lệ.

Nghe Diêu Tam nói xong, quản lí đó liền đóng tiệm, dẫn họ đi vào gian phòng phía sau. Ông ta gõ cửa trước, hỏi ý kiến người trong phòng rồi mới ra cửa nói: "Các vị vào đi."

Ba người Chu Tử Thư theo ông ta vào.

Vào phòng rồi, trước mặt họ là một bức bình phong Thiên Sơn, tranh trang trí vẽ vào thời này nên không có giá trị mấy, nhưng phong cách mang hơi hướng của họa tiên Lưu Tử Ngang triều trước. Hai bên tường treo một vài bức tranh sơn thủy vẽ bằng mực tàu. Chỉ có số ít là có niên đại từ triều trước, còn đâu chủ yếu là vẽ trong thời kì hiện tại. Tuy tranh đẹp, nhưng họa sĩ không có tiếng tăm thì có bán cũng không được mấy đồng.

Trong phòng cũng đốt hương để thể hiện khí phái văn nhã của người đọc sách, nhưng kiểu gì cũng có cảm giác chỉ được cái mẽ ngoài.1

Chu Tử Thư đã từng vào thư phòng của Cung Tuấn, lấy ngưỡng ấy mà so sánh với ở đây thì đâu phải chỉ khác nhau một trời một vực, phải gọi là trưởng giả học làm sang mới đúng.

"Mi là ông chủ của thằng nhãi họ Diêu này à?" Một giọng nói thô lỗ phát lên từ sau tấm bình phong. Ngay sau đó, một gã đàn ông trung niên bước ra. Gã cạo trọc giữa đầu, mặc áo lông của người Liêu. Dò xét từ đầu đến chân quản lí Lục xong, gã ta nói: "Trông đặc sệt kiểu Tống nhỉ." Giọng điệu gã ta pha lẫn sự khinh bỉ và hợm hĩnh.

Quản lý Lục hơi biến sắc, cười nói: "Bỉ nhân họ Lục."

Gã đàn ông nước Liêu: "Gia Luật Cứu."

Quản lý Lục mỉm cười: "Thì ra là Gia Luật đại nhân."

Cả nhóm không ai quan tâm đến họ của Gia Luật Cứu cho lắm.

Nước Liêu khác nước Tống ở chỗ, cả nước chỉ có hai họ là Gia Luật và Tiêu. Dân chúng nước Liêu không có họ, chỉ có quý tộc và tầng lớp trung đẳng mới có họ. Diêu Tam đã tiết lộ cho quản lý Lục, Gia Luật Cứu đúng là có nửa dòng máu quý tộc; gã ta là người Liêu ở quận Liễu Thành, mẹ là con nhà quyền quý. Mặc dù vậy, đến đời Gia Luật Cứu thì chỉ còn sót lại chút hư danh của quý tộc thôi.

Gia Luật Cứu là thương nhân, chủ yếu buôn bán ngựa, cũng là một phú thương ở quận Liễu Thành.

Nhưng trong vụ làm ăn này phía Chu Tử Thư không cần mua ngựa mà cần mua dê bò.

Quản lý Lục nói: "Gia Luật đại nhân, lúc trước Diêu Tam đã nói, ta cần mua dê bò chứ không cần mua ngựa." Người Tống bình thường vẫn có thể mua ngựa, nhưng không thể mua nhiều. "Bò là của hiếm ở Đại Tống, nhưng ta biết, ở chỗ các ông có nguồn cung rất dồi dào."

Gia Luật Cứu: "Rất dồi dào ư? Mi chớ nói lung tung, bò ở chỗ chúng ta cũng rất đắt."

Quản lý Lục nheo mắt, cười: "Đừng hiểu lầm thế chứ, chuyến này ta chủ yếu muốn mua dê."

Gia Luật Cứu cười cười, phất tay gọi quản lí cửa hàng vải. Quản lí người Tống lập tức đến gần, báo một con số.

Quản lý Lục biến sắc, Diêu Tam phản ứng ngay: "Bảy ngày trước ngươi nói với ta giá khác cơ mà!"

Gia Luật Cứu cười khà khà: "Bảy ngày trước là bảy ngày trước, bảy ngày sau là bảy ngày sau. Lẽ nào người Tống tụi mi tưởng bán buôn không tăng giá bao giờ à?"

Diêu Tam muốn nổi quạu, quản lý Lục ngăn lại.

Sau lưng họ, Chu Tử Thư trong vai người hầu ngẩng lên nhìn Gia Luật Cứu. Gia Luật Cứu chỉ liếc cậu một cái rồi thôi, không thèm để vào mắt. Quản lý Lục liếc Chu Tử Thư: "Chuyện này chúng ta phải về bàn bạc đã." Ba người nhanh chóng rời khỏi cửa hàng vải.

Trở về quán trọ, Diêu Tam không nuốt trôi nổi cục tức này: "Gã người Liêu này lật lọng như chảo chớp! Bọn chúng buôn bán ở trấn Lạc Hà xưa nay đều thế, coi người Tống không ra cái đinh gì! Nếu không phải Đại Tống thiếu thốn nhiều thứ, phải mua từ nước Liêu, tôi chẳng thèm giao du với bọn chúng."

Nước Liêu và nước Đại Tống khác nhau, tính cách và lối sống của người Liêu rất cởi mở, không bám vào một khuôn mẫu, họ là những con người gan lì và ương ngạnh, không quá cầu kì về lề thói sinh hoạt. Người Tống quen kiểu nhã nhặn, dù cũng kèn cựa, đấu đá ngầm với nhau trong buôn bán, nhưng lúc nào cũng chừa mặt mũi cho nhau. Người Liêu thì khác, những thứ họ mua từ Tống thường là những mặt hàng xa xỉ, họ chẳng quan tâm đến giá cả vì người mua thường là quý tộc, hoặc mua để bán lại cho quý tộc.

Người Liêu giàu có vô cùng. Một trong những yếu tố quan trọng ấy là những giống ngựa tốt nhất chỉ sống trên thảo nguyên của nước Liêu, người Tống phải mua từ bên họ.

Quản lý Lục nói với Chu Tử Thư: "Tiểu đông gia, chúng ta không cần thiết phải mua gia súc từ chỗ Gia Luật Cứu. Thịt dê bò tươi mà lầu Tế Hà cần, không phải chỉ Gia Luật Cứu mới bán được. Nhiều người Liêu khác ở trấn Lạc Hà cũng bán được cho chúng ta."

Chu Tử Thư trầm tư, gõ ngón tay lên mặt bàn: "Vấn đề là chỉ Gia Luật Cứu mới có con đường vận chuyển hàng đến thẳng Thịnh Kinh trong ngày." Quản lý Lục và Diêu Tam liếc nhau, không phản bác được.

Những thương lái người Liêu khác cũng bán thịt dê thịt bò, nhưng không ai đảm bảo được rằng có thể vận chuyển hàng đến Thịnh Kinh trong ngày. Ưu thế của Gia Luật Cứu nằm ở chỗ gã ta có tuyến đường riêng. Thịnh Kinh không phải phủ Cô Tô, không có Hậu cần Đường thị, nếu mua thực phẩm từ người khác, Chu Tử Thư phải tốn công sức vận chuyển thực phẩm về địa điểm kinh doanh, mà chưa chắc đã đến ngay trong ngày được.

Diêu Tam: "Nhưng Gia Luật Cứu khinh người quá thể! Cái giá hôm nay gã đưa ra cao hơn bảy ngày trước đến một phần mười!"

Chu Tử Thư cân nhắc một hồi, nói: "Chúng ta cứ mua hàng của họ đi, giá cả cũng thuận theo họ. Nhưng quản lý Lục, ngày mai chú hãy nói với Gia Luật Cứu rằng, chúng ta chấp nhận mức giá của họ, thậm chí đồng ý trả giá cao hơn."

Diêu Tam sửng sốt: "Tiểu đông gia, cậu định...?"

Chu Tử Thư mỉm cười nói: "Mình sẽ chơi chiêu 'mỗi mùa một giá'. Lầu Tế Hà kinh doanh ở phủ Cô Tô hai năm nay, mọi người hẳn đã nhận ra, đến hè, lượng khách đến ăn ở lầu Tế Hà giảm đi rất nhiều phải không?"

Quản lý Lục: "Thời tiết nóng bức, ăn bát hà cung cũng nóng nên sẽ ít người ăn."

"Đúng. Thịnh Kinh cũng giống thế thôi. Mùa hè ở Thịnh Kinh không mát hơn ở Cô Tô bao nhiêu cả. Vì thế, mùa đông chúng ta cần nhiều thịt dê, bò hơn, còn mùa hè thì cần ít hơn. Cái chính là, Gia Luật Cứu không biết điều đấy. Chính vì vậy, ngày mai khi chúng ta đến đó, quản lý Lục sẽ nói với Gia Luật Cứu rằng, chúng ta chấp nhận giá đấy, nhưng phải có bù trừ. Mùa đông thời tiết giá lạnh vô cùng, thịt dê bò không hỏng nhanh được nên yêu cầu với tốc độ vận chuyển hàng sẽ giảm đi, phía mình đương nhiên không muốn mua đắt, với mức giá thấp hơn một chút so với mức giá ông ta đề ra, bên mình sẽ chấp nhận."

Diêu Tam vẫn chưa hiểu ra làm sao, quản lý Lục đã sáng bừng hai mắt. Ông ta nói: "Tôi hiểu rồi. Sau đó, tôi sẽ bảo gã rằng, mùa hè thời tiết nóng bức, giá thành vận chuyển thịt dê, bò tăng cao, chúng ta đồng ý trả giá cao hơn. Cứ thế mua qua bán lại, bề ngoài tưởng là bù trừ lẫn nhau, nhưng trên thực tế chúng ta tiết kiệm được khối tiền ấy chứ!"

Song quản lý Lục chỉ phấn chấn được một lát, rồi buồn bã ngay: "Nhưng tiểu đông gia ơi, chúng ta chỉ có thể gạt được một năm thôi, đến năm sau, nhất định Gia Luật Cứu sẽ phát hiện ra chỗ bất thường."

Chu Tử Thư hỏi ngược lại: "Sau một năm, chẳng lẽ lầu Tế Hà còn không đứng vững nổi ở Thịnh Kinh sao?"

Quản lý Lục: "Ồ, ý cậu là..."

Chu Tử Thư thong thả nói: "Sau một năm, lẽ nào ta còn phải phụ thuộc vào người khác để vận chuyển hàng hóa, để họ đè đầu cưỡi cổ mình? Chẳng lẽ chúng ta không thể có tuyến đường vận hàng riêng của mình ư?"

"Cậu nói chí phải!"

Ngày kế, quản lý Lục đến gặp Gia Luật Cứu, đem những lời Chu Tử Thư dạy mình nói lại với gã ta.

Gia Luật Cứu nghĩ một hồi, thấy không vấn đề gì, nhưng gã lại chìa một ngón tay: "Giá hôm nay là ngần này."

Chu Tử Thư nhíu mày, quản lý Lục nhẩm tính chênh lệch tiêu thụ thịt dê giữa mùa đông và mùa hè của lầu Tế Hà ở phủ Cô Tô. Vẫn có lãi! Ông ta giả vờ giận dữ nhưng bất lực, nói: "Được, chốt."

Trên đường trở về Thịnh Kinh, quản lý Lục tính toán sổ sách, Diêu Tam thì vẫn ghim thái độ vênh váo ngạo mạn của Gia Luật Cứu.

Quản lý Lục nói: "Gã bị chúng ta chơi một vố, giờ mình là phe được lợi, chú tức tối làm gì. Coi như trả đũa cho sự vô lễ của gã là được rồi." Nói rồi bảo Chu Tử Thư: "Tiểu đông gia, theo tính toán dự trù của tôi, dựa trên nhu cầu tiêu thụ từng mùa của lầu Tế Hà ở Cô Tô, lần này chúng ta tiết kiệm được ít nhất ba nghìn lượng bạc!" Chu Tử Thư: "Còn hơn nữa đấy."

"Dạ?"

"Ta tin rằng mức độ ưa chuộng của người dân Thịnh Kinh đối với bát hà cung, nhất là bát hà cung thịt dê, nhất định sẽ vượt xa mức độ yêu thích của người dân Cô Tô."

Quản lý Lục vui mừng khôn xiết, song ông lại thắc mắc: "Tiểu đông gia, tôi thấy suốt dọc đường trông cậu có vẻ không được vui lắm." Lẽ nào bọn họ

lỗ ở đâu sao?

Chu Tử Thư nhìn ông ta, rồi vén rèm xe lên. Ngoài cửa sổ, ở tít phương xa, thấp thoáng bóng dáng thảo nguyên mênh mông xanh tận chân trời.

"Người Liêu, chung quy vẫn là một mối họa ngầm."

Việc trao đổi hàng hóa luôn chú trọng bình đẳng giữa hai bên. Họ buôn bán với Gia Luật Cứu, Gia Luật Cứu kiếm được tiền, nhưng gã ta tìm đủ mọi cách làm khó dễ họ. Gã không sợ Chu Tử Thư đổi ý một phần là vì ở cả trấn Lạc Hà chỉ có mình gã là nuốt trôi được vụ làm ăn này. Tuy nhiên thái độ phách lối của gã thực ra xuất phát từ việc hiệp ước hòa bình bắt nguồn từ mười bảy năm trước giữa hai nước Tống – Liêu, được kí kết dựa trên chiến thắng thảm thương của người Tống!

Mười bảy năm trước, hai nước đình chiến, ký kết hiệp ước tưởng chừng như bình đẳng. Song Đại Tống thắng với cái giá quá đau lòng, tổn thất không biết bao nhiêu là binh mã.

Một tên lái buôn quý tộc nửa mùa người Liêu đã coi khinh người Tống như thế, khỏi cần nói trên triều đình, vua quan nước Liêu nhìn dân Tống bằng ánh mắt gì.

Triều Tống ở thế giới này đỡ hơn triều Tống mà Chu Tử Thư biết, nhưng cũng chỉ đỡ hơn mà thôi.

Người khôn không đứng dưới bờ tường sắp đổ.

Hơn cả người Liêu, người Tống vô cùng sợ chiến tranh nổ ra.

Chu Tử Thư thở dài, những vấn đề này còn xa vời tầm tay cậu lắm.

Ngày hôm sau khi Chu Tử Thư trở về Thịnh Kinh, đến phiên cậu và Diêu Thiện lĩnh nhiệm vụ ghi chép.

Sau buổi triều ở điện Tử Thần, Hoàng đế đi đến điện Thùy Củng để xử lí chính sự. Diêu thiện và Chu Tử Thư mỗi người ngồi một bên. Đến buổi trưa, Chu Tử Thư thay ca với Khởi Cư xá nhân khác, chạng vạng tối thì cậu trở về, rón rén đi vào điện Thùy Củng. Cậu vừa ngẩng đầu thì chợt phát hiện ra dáng hình quen thuộc đứng giữa điện.

Chu Tử Thư sững lại, rồi vội cúi đầu đi về chỗ ngồi của mình, nhấc bút viết.

Triệu Phụ nhìn bản tấu trên tay, nét mặt không rõ là vui hay buồn, trên đôi môi mỏng chỉ có một nụ cười nhạt. Ông ta thở dài một hơi, Đại thái giám Quý Phúc đứng hầu ngay bên cạnh hiểu ý ngay, tiến tới đỡ lấy bản tấu, thay bằng một chén trà sâm.

Vừa chạm tay vào chén, sắc mặt Triệu Phụ thoắt đổi, hất chén trà văng xuống đất.

Choang, chén sứ vỡ tan tành trên mặt đất.

Quý Phúc hốt hoảng quỳ xuống đất. Chu Tử Thư và Diêu Thiện cũng phải đứng lên, cúi mình trước vua. Cung Tuấn đứng giữa điện cũng phải cúi đầu, chắp tay làm lễ. Trên ngôi cao, Triệu Phụ vẩy nhẹ tay, giọng điệu giận dữ: "Tại sao để trà nóng thế hả?"

Quý Phúc sửng sốt, đôi mắt láo liên, lão nói: "Nô tài biết tội, nô tài biết tội rồi."

Triệu Phụ mắng: "Có mỗi cái việc đấy thôi mà cũng không làm được, hôm nay về liệu mà ngẫm nghĩ lại cho kĩ. Tử Phong, ngươi cảm thấy nên xử lý tiện tỳ này thế nào?" Tử Phong?

Chu Tử Thư quá đỗi ngạc nhiên trước sự thân thiết của Triệu Phụ với Cung Tuấn.

Bấy giờ, giọng nói thanh nhã của Cung Tuấn mới vang lên: "Trà nóng thì nên biết nó nóng chừng nào trước khi cầm lên để mà thổi cho nguội. Bệ hạ gần đây long thể khiếm an, hẳn là Quý công công lo lắng cho bệ hạ quá nên mới chẳng may sơ suất thôi."

"Trà nóng thì phải thổi nguội." Triệu Phụ cười: "Nhưng trà này nóng quá, trẫm thì chẳng nhẫn nại được, thà đổ hết luôn đi cho rồi."

Cung Tuấn nhẹ nhàng cười: "Bệ hạ nói đúng quá."

Không lâu sau, Cung Tuấn rời khỏi điện Thùy Củng. Chu Tử Thư và Diêu Thiện ngồi trong điện ghi lại những gì Triệu Phụ và CungTử Phong vừa nói với nhau.

Đến tối, hoàng đế về hậu cung, hai người cùng nhau rời khỏi hoàng cung.

Diêu Thiện cảm thán: "Chén trà ấy nóng thật ư?"

Chu Tử Thư nhìn anh ta, nói: "Bệ hạ bảo là nóng."

Diêu Thiện hiểu ý: "Ừ, ừ. Nóng thật."

Hai người ra đến ngoài cung thì nói lời từ biệt.

Về nhà, Chu Tử Thư nhìn chén trà đã được Phụng Bút pha sẵn cho mình, rơi vào suy tư.

Quý Phúc là ai? Lão ta là người theo hầu Triệu Phụ từ nhỏ đến lớn, hầu hạ hơn năm mươi năm nay. Một bề tôi được lòng vua như lão, có lí nào lại dâng nhầm trà quá nóng cho Triệu Phụ?

Mỗi một câu Triệu Phụ và CungTử Phong nói hôm nay đều có ý nghĩa sâu xa khác!

"Chưa một lần đọc Khởi Cư chú nhưng tuyệt nhiên không để tâm đến việc sửa đổi. Sở dĩ ông dám làm thế là vì căn bản ông không cần xem ghi chép. Một khi ông đã muốn làm việc gì, ông sẽ không để bất cứ kẻ không phận sự nào phát hiện. Đế Cunglà đấy chứ là đâu... Nhưng ngỗng trời bay qua còn để lại dấu vết, bất cứ chuyện gì cũng lưu lại manh mối thôi."

Chu Tử Thư lập tức lấy một quyển vở từ trong ngăn mật sau giá sách ra, lật xem.

Lần này cậu chỉ đọc lại đoạn Triệu Phụ cho đòi Tô Ôn Duẫn đến gặp, rồi tỉ mỉ nghiên cứu lại một số chi tiết mình từng không để ý.

Những người khác chắc không có cách nào phỏng đoán quân tâm, giải mã ý đồ của Triệu Phụ. Nhưng riêng Cung Tuấn và người đồng nghiệp Tô Ôn Duẫn cực kì được sủng tín chắc chắn là có bản lĩnh ấy.

Hôm sau là ngày nghỉ của Chu Tử Thư, cậu đọc suốt đêm đến tận khi nến cháy hết cây.

Ngày kế tiếp, Chu Tử Thư giao toàn quyền phụ trách lầu Tế Hà chi nhánh Thịnh Kinh cho quản lí Lục, còn mình thì sang phủ Thượng Thư.

Buổi tối, Cung Tuấn từ nha môn về, thấy Chu Tử Thư thì việc đầu tiên là nhìn quanh quất rồi cười: "Hôm nay tiểu sư đệ không tới để tặng quà cho ta à?"

Mỗi lần Chu Tử Thư đến phủ Thượng thư đều mang theo món này món nọ.

Bị chàng hỏi thế, Chu Tử Thư hơi ngơ ngẩn. Hôm nay quả thật cậu không có ý định mang gì sang.

Cung Tuấn khẽ gật đầu: "Nếu không đến tặng quà, hẳn là nhớ ta thật rồi."

Chu Tử Thư: "..."

Cung Tuấn: "Có việc cần nhờ ư?"

Chu Tử Thư đang định mở lời thì chợt nhớ đến câu "Ta là sư huynh của đệ" Cung Tuấn nói ngày hôm ấy. Bất giác, áp lực phải dè dặt cẩn thận trong từng hành động liền vơi bớt đi. Cậu không hề chú ý rằng, cách nói chuyện của mình cũng trở nên thoải mái và gần gũi hơn nhiều: "Cớ gì mà mỗi lần đệ tới đây chỉ được tặng quà cho sư huynh hoặc nhờ vả?"

Điệu bộ của cậu làm Cung Tuấn sửng sốt lắm, chàng chớp mắt, cười xòa: "Thế có việc gì nào?"

Chu Tử Thư húng hắng, nói: "Ở phủ Cô Tô, sư đệ có chút sản nghiệp riêng... Khụ khụ, Tử Phong sư huynh có biết không ạ?"

Triều đình không cấm quan lại buôn bán, chuyện Chu Tử Thư kinh doanh xà phòng và Hoàng Kim Lũ đương nhiên Cung Tuấn biết. Câu "Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa" ở Kim Lăng còn do tay chàng tự viết nữa mà.

"Có, thế thì sao?"

Chu Tử Thư: "Mấy hôm nữa, đệ sẽ mở một tửu lầu chuyên bán bát hà cung ở Thịnh Kinh, tên là lầu Tế Hà ạ."

Cung Tuấn nhướng một bên mày: "Chỉ bán bát hà cung ư?"

"Vâng, chỉ bán bát hà cung ạ."

"Hai chữ 'Tế Hà' là hai chữ nào?"

"Là 'tế hà' trong câu 'tu giáo nguyệt hộ tiêm tiêm ngọc, tế phủng hà thương diễm diễm kim'. Tử Phong sư huynh chưa đến Cô Tô, ở Kim Lăng thì không có lầu Tế Hà, nên mấy hôm nữa đệ muốn mời sư huynh và tiên sinh đến lầu Tế Hà cùng thưởng thức. Ăn bát hà cung vào mùa đông là việc thần tiên sung sướng nhất trên đời!"

||Chú thích

[1] Gốc: Hổ giấy. Cụm từ chỉ sự vật/sự việc trông bề ngoài thì ghê gớm nhưng bên trong chẳng có gì.

------oOo------

Chương 53

Nguồn: EbookTruyen.Net

Thần giao cách cảm

Mùng bốn tháng Chạp, năm Khai Bình thứ hai mươi bảy.

Hai bên con phố lớn Chính Dương Môn, hàng quán, lầu gác rực rỡ muôn màu. Nếu đi dọc theo con phố về phía Tây đến lúc bắt đầu thấy Đại Vận Hà thấp thoáng đằng xa, tửu lầu đệ nhất Thịnh Kinh – lầu Thiên Lý cao bốn tầng, sẽ hiện ra trong tầm mắt. Cách lầu Thiên Lý nửa dặm về phía Bắc là một tửu lầu hai tầng.

Tửu lầu này có tên là Triêu Huy, lấy từ câu "Triêu huy tịch âm, khí tượng vạn thiên." Tiếc là vận số của tửu lầu ấy cũng như cái tên, không khác gì ánh ban mai, bóng hoàng hôn cả. Lầu Triêu Huy cách đây mấy chục năm còn có tiếng tăm ở Thịnh Kinh, giờ đã xuống dốc rồi.

Hai tháng trước lầu Triêu Huy bị người ta mua lại. Hôm nay, giữa ngày đông giá rét, có một đội múa lân đang gióng trống khua chiêng vang lừng trước lầu.

Phố lớn Chính Dương Môn trải dài từ phía Đông sang phía Tây Thịnh Kinh, là con đường quy tụ nhiều hoạt động buôn bán nhất, tấp nập vô cùng. Đội múa lân linh đình nhanh chóng thu hút được sự chú ý của một nhóm người dân. Thình lình, một người đàn ông trung niên mặc áo bào biểu diễn màu sắc rực rỡ bước ra từ sau đội múa lân. Tay ông ta cầm một cái hũ sành lớn, gõ nhẹ một cái, có chú thỏ trắng nhảy từ hũ ra.

"Hay quá!"

Dân chúng vây xem hoan hô cổ vũ.

Chu Tử Thư và quản lý Lục đứng quan sát cách đó một quãng.

Quản lý Lục dở khóc dở cười: "Tiểu đông gia, sao cậu có thể nghĩ ra nhiều trò hay vậy nhỉ. Tửu lầu nhà khác khai trương giỏi lắm là mời một đội múa lân. Cậu mời cả ảo thuật gia, rồi xiếc khỉ với đoàn xiếc nữa." Chu Tử Thư hỏi ngược lại: "Chú thấy dân chúng có hào hứng không?"

Không chờ quản lý Lục trả lời, Đường Hoàng đã nói leo: "Hào hứng lắm, em cũng thấy mới mẻ!"

Quản lý Lục bất đắc dĩ: "Chúng tôi thuê tốn bao nhiêu là tiền, không mới mẻ thế nào được!"

Chờ đội múa lân và các nhà ảo thuật trình diễn xong, Chu Tử Thư đứng nguyên tại chỗ, nói với Diêu Tam và quản lý Lục: "Hai người đi cắt băng nhé."

Quản lý Lục chần chờ: "Tiểu đông gia, sao cậu không đi?"

Thực ra Chu Tử Thư có thể đích thân cắt băng, lộ mặt là ông chủ lầu vì triều đại này không có định kiến với quan lại buôn bán làm ăn. Nhưng cậu nghĩ một hồi thì bảo: "Ta phải đi đón tiên sinh và sư huynh. Đường Hoàng, em cũng đi đi."

Đường Hoàng mừng gỡ gật đầu lia lịa, đi theo quản lý Lục và Diêu Tam đến trước tửu lầu. Ba người lấy băng lụa màu đỏ và những quả cầu vải nhiều màu từ "miệng" con sư tử trong đội múa lân, cùng nhau cắt băng khánh thành. Đường Hoàng đích thân giật nhẹ tấm vải đỏ phủ trên bảng hiệu, tấm vải rơi xuống, ba con chữ thanh thoát đẹp đẽ hiện ra..

『Tế Hà Lâu』

Dân chúng Thịnh Kinh vây quanh xôn xao và ngạc nhiên lắm khi phát hiện chủ nhân của lầu Tế Hà là một cô gái xinh xắn. Đội múa lân và ảo thuật hồi nãy đã lôi kéo rất nhiều khách khứa đến, giờ các vị khách đều đi cả vào lầu Tế Hà. Lầu Tế Hà khác với lầu Thiên Lý có bốn tầng, nó chỉ có hai tầng thôi, nên sức chứa có hạn hơn nhiều.

Nghe nói quán đã kín chỗ, nhiều khách ăn định ra về, nhưng tiểu nhị đã rào đón ngay: "Quý khách có muốn chờ thêm một lát ở quán trà không ạ?"

Một thư sinh trẻ tuổi ngạc nhiên: "Quán trà ư?"

Tiểu nhị: "Vâng, mời quý khách đi theo tôi."

Bước vào quán trà, những vị khách này mới hiểu được dụng ý.

Nào là đoàn kể chuyện, nào là trà nước bánh trái, tất cả mọi thứ đã được chuẩn bị chu toàn. Người dân Thịnh Kinh chưa bao giờ thấy tửu lầu nào chịu chơi như thế, khách chưa vào ăn đều được dâng trà, mời bánh ngọt, còn cho nghe kể chuyện miễn phí.

Thư sinh không tin nổi vào mắt nhìn: "Sao trên đời lại có chuyện tốt bực này? Trà nước, bánh trái, hẳn là sẽ tính tiền hết phải không?"

Tiểu nhị: "Sao có chuyện đó được ạ! Xin quý khách cứ yên tâm chờ đợi."

Không trả tiền mà lại được ăn uống, nghe kể chuyện, ai mà chẳng vui. Chỉ một lúc, quán trà của lầu Tế Hà cũng đã kín khách.

Chu Tử Thư nhanh chóng đón được Phó Vị, cậu tự mình đỡ thầy lên nhã gian trên tầng hai.

Nồi được nhóm lên, hai thầy trò gọi một vài món. Đến khi thịt dê, bò, rau dưa trái cây được bưng lên đủ, Cung Tuấn rốt cuộc cũng tới.

Cung Tuấn vẫn còn mặc quan bào, vừa vào cửa đã cười: "Con đến trễ ạ."

Phó Vị bình thường không đến viện Hàn Lâm, chỉ lo trồng hoa nuôi chim cảnh, rảnh không để đâu cho hết. Nghe cậu trò lớn nói vậy, ông bèn bảo với đứa trò nhỏ: "Cảnh Tắc này, con coi sư huynh con mà xem, nó bắt vi sư đợi nửa canh giờ, nói mỗi một câu "con đến trễ" mà đòi vi sư xí xóa hử?"

Chu Tử Thư nghĩ thầm, từ lúc thầy vào lầu Tế Hà đến giờ còn chưa được nổi hai mươi phút mà thầy. Nhưng khi nói thì cậu lại bảo: "Sư huynh bận rộn việc công nên mới đến muộn ạ."

Cung Tuấn ngồi vào chỗ, gạt tay áo tự châm trà cho mình, nhẹ nhàng hỏi: "Nửa canh giờ ấy ạ?" Ánh mắt chàng ung dung lướt về phía Phó Vị.

Phó Vị chột dạ, hắng giọng: "Đúng, tận nửa canh giờ đấy. Tử Phong, con tính đền nửa canh giờ cho vi sư và sư đệ con thế nào đây?"

Cung Tuấn: "Thế bữa hôm nay con mời nhé?"

Chu Tử Thư vội vàng xua đi: "Sư huynh, hôm nay đệ mời huynh và tiên sinh, sao để huynh trả tiền được."

Phó Vị thì cản Chu Tử Thư: "Ôi chao, thằng bé này chẳng biết gì cả. Sư huynh con làm chức gì, con quên rồi sao?"

Chu Tử Thư sửng sốt: "Thượng thư bộ Hộ?"

Phó Vị cười phá lên, trỏ đũa về phía Cung Tuấn: "Thiên hạ này nếu có ông quan nào giàu nhất, thì chính là sư huynh con đó!"

Lượng thông tin trong câu nói này là quá tải với Chu Tử Thư, cậu nghĩ mà hốt hoảng, nhưng không dám nói gì.

Đồ ăn thức uống đã lên cả rồi nhưng nước lẩu chưa sôi. Phó Vị uống nhiều trà nên ra ngoài giải quyết. Trong nhã gian chỉ còn lại Chu Tử Thư và Cung Tuấn.

"Đệ chớ nghe tiên sinh nói linh tinh đấy."

Chu Tử Thư ngẩng đầu, Cung Tuấn đang nhấc nắp chung trà, nhẹ nhàng gạt vụn lá trà lơ thơ trên bề mặt.

Cung Tuấn: "Tiểu sư đệ có sản nghiệp riêng ở phủ Cô Tô..."

Chu Tử Thư: "Ý sư huynh là?" Tự dưng nói chuyện này làm chi?"

Cung Tuấn mỉm cười: "Ở phủ Kim Lăng, sư huynh cũng có sản nghiệp."

Chu Tử Thư: "..."

Huynh đang giải thích rằng của cải của huynh được tích cóp hợp pháp chứ không phải tham ô hối lộ mà có đấy hả?

Không lâu sau, Phó Vị quay về, nước lẩu trong nồi đồng đã sôi xình xịch. Phó Vị gắp một miếng thịt dê siêu mỏng, từ tốn thả vào nồi, nhúng nhúng mấy cái, thịt dê đổi màu ngay. Gắp miếng thịt vừa trần ra chấm vào tương trong đĩa, ông đưa vào miệng. "Tươi ngon mềm ngọt, đúng là kì diệu! Người xưa ăn bát hà cung chỉ dùng thịt thỏ, không ngờ ăn với thịt dê lại ngon gấp bội phần!"

Chu Tử Thư cười: "Tiên sinh nếm thử thịt bò trần đi ạ." Nói rồi, cậu gắp thịt bỏ thả vào bát của Phó Vị.

Phó Vị nheo mắt hỏi: "Thịt bò, mua của người Liêu đấy phỏng?" Chu Tử Thư tằng hắng hai tiếng.

Cung Tuấn nhúng thịt bò rồi lại nhúng thịt dê. Chàng để ý thấy Chu Tử Thư cứ mải miết hầu Phó Vị ăn, còn mình thì bị cho ra rìa. Thượng thư đại nhân lẩm bẩm tự giễu: "Mình lại thành người lẻ loi." Vừa nói dứt lời, Chu Tử Thư đã gắp thịt dê vào bát của Cung Tuấn.

Cung Tuấn ngẩn người, ngước nhìn cậu.

Chu Tử Thư cười ngoan ngoãn: "Đệ gắp bằng đũa chung đấy, sư huynh yên tâm." Rất sạch, không dính nước bọt của người ta đâu.

Khóe môi Cung Tuấn nhếch lên.

Ba thầy trò thưởng thức nồi bát hà cung nóng hổi hấp dẫn. Buổi chiều

Cung Tuấn vẫn phải đến nha môn nên chàng về trước. Chu Tử Thư và Phó Vị ăn uống thêm nửa canh giờ nữa. Phó Vị vô cùng thỏa mãn, lại sang quán trà nghe kể chuyện thêm nửa canh giờ rồi mới về.

Đến tối, Diêu Thiện, CungTiêu, Mai Thắng Trạch... các đồng liêu và bạn thân của Chu Tử Thư ở trường Quốc Tử Giám cũng đến lầu Tế Hà.

Mai Thắng Trạch ăn một miếng thịt dê xong thì xúc động quá, xuất khẩu thành thơ ngay: "Khói sương ôm vệt ráng chiều, tan trên đầu lưỡi bao nhiêu sững sờ."

Đến khi các tiến sĩ cùng trường đi rồi, Chu Tử Thư gọi quản lý Lục tới: "Chú đã biết ngày mai phải tuyên truyền, quảng cáo thế nào cho lầu Tế Hà chúng ta chưa?"

Quản lý Lục ngạc nhiên: "Quảng cáo là gì thế ạ?"

Chu Tử Thư chưa kịp đáp, Đường Hoàng đã lanh chanh: "Cái này cháu biết, quảng cáo tức là thông báo rộng rãi cho người ta biết, anh cháu từng giải thích cho cháu rồi."

Chu Tử Thư cười mắng: "Ừ em thì biết, sao chưa về nhà, còn nấn ná ở đây làm gì?"

Đường Hoàng: "Ngày đầu tiên khai trương lầu Tế Hà, em phải chờ đóng cửa rồi mới về. Anh cũng đã về đâu."

Chu Tử Thư kệ con bé, lại nói chuyện với quản lý Lục.

Quản lý Lục suy tư mãi, nói: "Thịnh Kinh chỉ có nhà mình bán bát hà cung, hình thức rập khuôn như bên phủ Cô Tô, hiển nhiên người dân Thịnh Kinh rất thích thú."

Chu Tử Thư nhắc nhở: "Không chỉ thế, thị trường Thịnh Kinh còn rộng lớn hơn Cô Tô!"

Quản lý Lục đang muốn nói gì đó, nhưng Đường Hoàng sau một hồi trầm ngâm bỗng cho sáng kiến: "Phường mặc khách tao nhân, hay về đây tụ hội."

Chu Tử Thư và quản lý Lục cùng nhau quay ra nhìn cô nhóc mới mười ba tuổi kia.

Đường Hoàng bị cả hai nhìn chằm chằm thì hoảng sợ, dè dặt nói: "Em chỉ muốn nhắc đến cái tên cũ của lầu này là Triêu Huy thôi. Kế toán Lâm từng dạy em bài này, ánh ban mai, bóng hoàng hôn, muôn vàn kiểu khí tượng... Phường mặc khách tao nhân, hay về đây tụ hội1. Hôm nay, Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa đều đã đến ăn ở lầu Tế Hà nhà ta, ấy chẳng phải là mặc khách tao nhân sao. Kìa, em nói sai à?"

Quản lý Lục bừng tỉnh: "Tôi đã hiểu rồi, tiểu đông gia, việc ngày mai cứ để tôi."

Chu Tử Thư gật đầu, thấy Đường Hoàng đang liếc mình thì bất đắc dĩ nói: "Về nhà!"

Hai anh em dắt nhau về nhà.

Hôm sau, không biết tin đồn từ đâu truyền ra, nói rằng phố Tây Chính Dương Môn có lầu Tế Hà mới mở, là nơi văn nhân Thịnh Kinh thích tụ tập nhất. Chẳng bao lâu, giờ văn thơ đều thích đến lầu Tế Hà. Những bình dân muốn ké chút khí chất văn nhân thi sĩ cũng chuộng lầu Tế Hà theo.

Quản lý Lục nhờ người viết lại thơ do tiến sĩ đương triều Mai Thắng Trạch sáng tác làm lưu niệm, trang trọng treo chính giữa tửu lầu. Vì thế, Chu Tử Thư bèn tặng Mai Thắng Trạch một bầu rượu để tạ ơn.

Mùa đông lạnh giá ùa về, lầu Tế Hà càng ngày càng tấp nập, tên tuổi nổi như cồn ở Thịnh Kinh.

Tháng Chạp dần dần trôi đi, năm mới lại đến.

Hôm nay đến phiên Diêu Thiện và Chu Tử Thư công tác.

Hai người đã làm công việc này được hai tháng, giờ đã rất thành thạo việc ghi chép cuộc sống hàng ngày của hoàng đế. Ở gần bên thiên tử, hai người thỉnh thoảng cũng được Triệu Phụ chú ý.

Thời điểm chính giữa mùa đông là lúc rét đậm, tuyết bay trắng trời. Triệu

Phụ xử lí chính vụ ở điện Thùy Củng, hậu cung báo tin có bà phi bị ốm, Triệu Phụ bèn về hậu cung để thăm. Chu Tử Thư và Diêu Thiện lẳng lặng đi theo rồi gác ở ngoài cửa cung. Một canh giờ sau, Triệu Phụ mới đi ra.

Quý Phúc rạp người, cẩn thận giương ô che tuyết cho Triệu Phụ.

Triệu Phụ ra đến cửa cung thì thấy tuyết bám đầy trên đầu Chu Tử Thư và Diêu Thiện. Triệu Phụ sửng sốt: "Các ngươi vẫn chờ ở đây ư?" Chu Tử Thư và Diêu Thiện dạ ran.

Triệu Phụ trỏ tóc Chu Tử Thư mà đùa với Quý Phúc: "Ngươi xem, Diêu khanh thì thôi, bốn mươi tuổi chẳng còn là trẻ, phải có tóc bạc từ sớm rồi. Nhưng Đường khanh tóc còn đen nhánh, thế mà hôm nay lại thành ông cụ già lụ khụ." Ngoài miệng nói vậy, nhưng Triệu Phụ ra lệnh ngay cho hai thái giám khác che ô cho Diêu Thiện và Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư ngẩng lên, lén nhìn Triệu Phụ.

Trở về điện Thùy Củng, Triệu Phụ cho Chu Tử Thư và Diêu Thiện đi thay quần áo.

Đợi đến khi hai người về, Triệu Phụ đang phê dở bản tấu liền thong thả gác bút son. Ông ta ngồi trên ngai vua, ngẩng đầu lên nói bằng một giọng nhẹ nhàng, từ tốn và rất đỗi nhã nhặn: "Vấn Cơ, ngươi hầu bên trẫm đã bao lâu rồi?"

Vấn Cơ là tự của Diêu Thiện. Được Triệu Phụ bất chợt gọi tên, Diêu Thiện vừa mừng vừa sợ, lập tức đứng lên tâu: "Thần đảm nhiệm chức Khởi Cư lang đã được hai tháng."

Triệu Phụ dường như giờ mới nhớ ra: "Phải, đã hai tháng rồi. Cảnh Tắc nhậm chức cùng lúc với Vấn Cơ, vậy cũng là hai tháng nhỉ?"

Chu Tử Thư cũng đứng lên, chắp tay cúi đầu: "Vâng ạ."

Triệu Phụ cười nói: "Vấn Cơ là người Thịnh Kinh, tuyết lớn nhường này đã thấy rồi. Cảnh Tắc hình như là người Giang Nam đúng không?"

Đến ngón tay Chu Tử Thư cũng thấy căng thẳng, cậu giữ bình tĩnh, đáp:

"Thần là người Cô Tô ạ."

"Cô Tô có tuyết lớn thế này không?"

Chu Tử Thư đáp: "Năm ngoái thì rất ít. Thần chỉ thấy trận tuyết to thế này vào mấy năm trước, hồi miền Nam gặp nạn tuyết lớn thôi."

Nghe thế, nét mặt Triệu Phụ thoáng lên vẻ hồi tưởng: "Nạn tuyết lớn miền

Nam mấy năm trước... Ồ, là năm ấy. Khi đó Cảnh Tắc còn nhỏ nhỉ?"

"Năm ấy thần mười ba tuổi ạ."

Triệu Phụ hỏi Chu Tử Thư thêm vài câu rồi thôi, chuyển sang hỏi về trải nghiệm của Diêu Thiện hồi ở biên cương, những điều anh ta mắt thấy tai nghe trên chiến trường. Diêu Thiện hai mươi năm trước đã vứt bút tòng quân, xông pha sa trường. Triệu Phụ quan tâm đặc biệt đến Diêu Thiện, cũng là vì trong số tiến sĩ rất hiếm có tướng võ như anh ta.

Hôm nay, Chu Tử Thư và Diêu Thiện về nhà, chưa được một lúc đã có thái giám tặng quà đến phủ Trạng Nguyên và phủ Thám Hoa.

Triệu Phụ tặng cho mỗi người một tấm áo khoác lông, kèm theo vô số món điểm tâm của hoàng đế trong cung đình. Chu Tử Thư và Diêu Tam đã đến trấn Lạc Hà, tiếp xúc với người Liêu, đặc biệt là Diêu Tam còn quen thuộc với rất nhiều thương lái người Liêu nữa. Nước Liêu xưa nay thừa mứa áo choàng lông chồn; Diêu Tam vuốt tấm lông áo Triệu Phụ ban thưởng, xuýt xoa: "Tiểu đông gia, màu lông mướt quá, chiếc áo thể này là hàng thượng hạng, ở nước Liêu cũng là của hiếm đấy!"

Chu Tử Thư lặng lẽ vuốt ve tấm áo choàng lông, cậu nhắm mắt lại, nhẹ nhàng thở dài.

Cất áo choàng vào rương quần áo, Chu Tử Thư tiến vào thư phòng, mài mực. Trong thư phòng, ánh nến chập chờn, Chu Tử Thư nghĩ hồi lâu, chấm một ít mực, mở sổ nhỏ, tập trung viết chữ. Hôm sau, cậu nộp cuốn sổ này lên. Ba ngày sau, khi Lý Thư và Chu Tử Thư cùng nhau công tác, Triệu Phụ gọi riêng Chu Tử Thư ở lại.

Lý Thư kinh ngạc liếc nhìn Chu Tử Thư, hành lễ rồi lui ra.

Chu Tử Thư theo chỉ dẫn của Quý Phúc, tiến vào đài Đăng Tiên.

Đài Đăng Tiên được xây cất ở giữa chín mươi chín giá nến. Những giá nến này được xếp thành ba tầng, chia ra bốn mặt, lấy Triệu Phụ làm trung tâm. Trước mặt Triệu Phụ là một loạt giá nến bằng đồng thau. Mỗi giá nến thắp chín ngọn đèn trường minh. Triệu Phụ mặc đạo bào màu trắng, ngồi ở chính giữa. Trên đầu ông ta không đội long quan mà chỉ cài một cây trâm giản tiện. Vài sợi tóc trắng không búi hết rơi lòa xòa trên vai, trông ông ta hoàn toàn không giống một hoàng đế nắm cả thiên hạ trong lòng bàn tay, mà như một đạo sĩ siêu nhiên đã thoát khỏi cõi trần.

Lý Thư nói, ngoài các tể tướng trong Trung Thư tỉnh, chỉ có Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức, Thượng thư bộ Hộ CungTử Phong và Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn là được vào đài Đăng Tiên. Chu Tử Thư nghĩ thầm, không biết ông ta nói vậy tức là những người này thường xuyên được vào đây, hay mới chỉ vào một lần.

Nhưng tóm lại, hôm nay đến lượt Chu Tử Thư được tiến vào.

Triệu Phụ ngồi giữa đài tu luyện được bao quanh bởi những ngọn nến, tĩnh tại như một vị tiên, dường như hơi thở cũng tan biến theo.

Một hồi lâu sau, ông ta mới nhẹ nhàng thở ra một hơi, mở mắt, nói với

Chu Tử Thư: "Cảnh Tắc, hôm nay ngươi quan sát trẫm, đã thấy những gì?"

Gần vua như gần hổ, câu hỏi của ông ta khiến cả Quý Phúc cũng phải choáng váng.

Thời gian tu tiên là quãng thời gian Triệu Phụ trở nên lạ lùng nhất, tính tình kì quặc, cực kì khó nắm bắt. Có lúc thì cười sang sảng, có lúc lại giận tím tái mặt mày. Đài Đăng Tiên này đã là nơi bỏ mình của mấy tên thái giám và cả mấy tên đạo đồng. Triệu Phụ bên ngoài có thể đóng vai một vị vua sáng suốt, nhưng mỗi khi vào đài Đăng Tiên, ông ta sẽ không coi mình là hoàng đế nữa, mà tự nghĩ bản thân là một vị tiên.

Quý Phúc không biết phải trả lời thế nào, Chu Tử Thư cũng không tài nào hiểu nổi.

Nhưng cậu chỉ hơi luống cuống thôi rồi tỉnh táo lại ngay. Bản lĩnh đọc một lần là nhớ lại được phen trổ tài, các loại kinh, điển nổi tiếng của Đạo gia như Chu Dịch, Trang tử đến Đạo Đức kinh, Hoài Nam Tử lướt qua vùn vụt trong đầu cậu. Chu Tử Thư vái dài, cất tiếng nói thanh thoát: "Bậc đức cao coi thường tục đức, vì thế nên có đức. Người đức thấp nệ vào tục đức, vì thế nên không có đức. Thần quan sát bệ hạ, có khác nào chiêm ngưỡng điều đã vượt lên khỏi trần thế, nhìn thấy mà cứ như chưa nhìn thấy, chưa nhìn thấy mà ngỡ như đã thấy." Triệu Phụ cười ha hả.

Quý Phúc không biết chữ, không hiểu ý Chu Tử Thư, nhưng thấy Triệu Phụ vui vẻ đến thế, lão ta thầm nhủ: Không ngờ Đường đại nhân còn khéo nịnh hơn cả mình! Hôm nay vinh hạnh được gặp bậc thầy trong nghề rồi.

Triệu Phụ nói: "Ngươi lui xuống trước đi."

Quý Phúc có chút kinh ngạc, lão hành lễ rồi thưa: "Vâng."

Cổng lớn đóng kín lại, đài Đăng Tiên chỉ còn lại hai đạo đồng trẻ canh đèn trường minh, Triệu Phụ và Chu Tử Thư.

Triệu Phụ ngồi xếp bằng, hỏi Chu Tử Thư: "Cảnh Tắc à, ngươi đã đến nước Liêu chưa?"

Chu Tử Thư lập tức thi lễ, thưa: "Thần chưa từng đến nước Liêu."

"Ồ, vậy ngươi viết bản tấu ấy là có ý gì?"

Chu Tử Thư giải thích: "Thần chưa từng đến nước Liêu nhưng thần đã tới trấn Lạc Hà. Bệ hạ có lẽ chưa biết, trấn Lạc Hà là một trấn nhỏ ở biên giới Đại Tống và Liêu, nằm ở hướng Đông Bắc của lãnh thổ Đại Tống. Các thành, trấn ở Tây Bắc Đại Tống chúng ta thường xảy ra xung đột với Liêu, còn ở hướng Đông thì buôn bán, qua lại khá nhiều." Triệu Phụ gật đầu.

Chu Tử Thư thưa tiếp: "Thần và gia nhân từng đến trấn Lạc Hà, gặp một vài thương nhân người Liêu, dọc đường cũng tiếp xúc với một số người Liêu. Người Tống chúng ta rất hiền lành, nhưng thái độ của người Liêu với chúng ta thì vô cùng kẻ cả, trịch thượng, ăn nói hành xử thô tục, cử chỉ thiếu tôn trọng, không thèm coi người Tống chúng ta ra gì! Thần thấy một lái buôn người Liêu nhỏ nhoi mà đã thế, vậy cái nhìn của triều đình nước Liêu với nước Tống chúng ta ra sao, không còn gì để bàn cãi. Vì thế, vi thần bất tài, tha thiết mong bệ hạ minh giám, người Liêu là phường sài lang mãnh thú, không thể coi thường!"

Ánh mắt Triệu Phụ lướt qua Chu Tử Thư rồi dừng lại ở chín ngọn đèn trường minh sau lưng cậu.

Chu Tử Thư một mực cúi đầu, không dám lên tiếng, ngay cả hít thở cũng phải thật sẽ sàng.

Triệu Phụ nói: "Trẫm biết rồi. Ngươi lui đi."

Chu Tử Thư vừa hành lễ vừa đi giật lùi về phía sau. Chờ đến khi ra khỏi cửa cung của đài Đăng Tiên, cậu mới thẳng lưng tên. Trước hết là hành lễ với Đại thái giám Quý Phúc trông giữ ngoài cửa. Quý Phúc ra chiều kinh sợ vì sự ưu ái ấy: "Đường đại nhân coi trọng chúng tôi quá." Miệng nói thế nhưng mặt lão tỉnh bơ, coi rằng ấy là lẽ đương nhiên.

Chu Tử Thư rời khỏi đài Đăng Tiên, xuất cung, về nhà.

Hôm sau, một viên quan từ bộ Lại đến nha môn Trung Thư tỉnh tìm Chu Tử Thư vào lúc cậu đang đọc Khởi Cư chú từ thời tiên đế. Vị quan bộ Lại ấy lấy thánh chỉ ra, toàn bộ Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân trong phòng quỳ xuống đất. Ông ta dõng dạc tuyên đọc: "Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao, Trung Thư tỉnh Khởi Cư xá nhân Chu Tử Thư văn nhã khiêm đạt, giữ vững phép tắc kỉ cương triều đình, trong đời sống càng bội phần trung thực. Nay thăng làm Khởi Cư lang ngũ phẩm, nhậm chức ngay trong ngày hôm nay, khâm thử. Tháng Giêng, năm Khai Bình thứ hai mươi tám."

Cùng lúc đó, viên quan bộ Lại lấy một thánh chỉ khác ra: "Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao, Trung Thư tỉnh Khởi Cư lang Trương Tư kính mẫn cung thân, từ thiện đạt nhã. Nay thăng làm Ngu bộ lang trung bộ Công, hàm tứ phẩm, nhậm chức ngay hôm nay, khâm thử. Tháng Giêng, năm Khai Bình thứ hai mươi tám."

Tất cả mọi người vô cùng kinh hãi, Chu Tử Thư và Trương Tư lĩnh thánh chỉ.

Chờ viên quan ấy đi rồi, mọi người xúm lại chúc mừng Trương Tư và Chu Tử Thư thăng chức. Trương Tư cười ngại ngùng: "Đa tạ chư vị đồng liêu."

Được cất nhắc từ ngũ phẩm Khởi Cư lang lên tứ phẩm Lang trung bộ Công tưởng chừng như là sự thăng tiến; song thực chất, được thăng chức kiểu này đồng nghĩa với việc rời xa trụ cột hoàng quyền, từ giờ không thể thường xuyên thấy vua nữa! Con đường cho Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân thường có hai nhánh, một là từ Khởi Cư lang thăng lên thành quan Trung Thư, ví dụ như Trung Thư xá nhân, vẫn có thể diện thánh thường xuyên.

Nhánh còn lại là bị tách khỏi trung tâm hoàng quyền một cách triệt để.

Trương Tư có thể không chỉ dừng lại ở chức Lang trung tứ phẩm, nhưng muốn quay lại Trung Thư tỉnh chỉ e là rất khó khăn. Giờ gã bị thuyên chuyển từ Trung thư tỉnh sang Thượng thư tỉnh, trong tương lai, trừ khi phấn đấu lên thành Thượng thư một bộ, còn đâu coi như hết đường quay về Trung thư tỉnh đầy quyền uy.

Mọi người lại quay sang chúc mừng Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư vẫn chưa hết ngạc nhiên, cậu chắp tay: "Đa tạ chư vị đồng liêu."

Trương Tư nhìn về phía Chu Tử Thư bằng ánh mắt ghen tị và ước ao.

Việc bổ nhiệm, điều động hai viên quan tứ phẩm ngũ phẩm chỉ như gợn nước trên triều đình, chẳng gây ra nổi sóng gió gì cả. Nhưng năm Khai Bình thứ hai mươi tám, ngay sau dịp lễ năm mới, hoàng đế Triệu Phụ tuyên thánh chỉ, ra lệnh xây dựng một tuyến quan đạo và một kênh đào từ Thịnh Kinh lên phía Bắc!

Mệnh lệnh này khiến quần thần trên triều phải sửng sốt.

Tả thị lang bộ Hộ – Từ Lệnh Hậu bước lên một bước, tâu: "Bệ hạ, từ năm Khai Bình thứ mười, hai nước Tống Liêu kí hòa ước đến nay đã là mười tám năm. Trong mười tám năm vừa qua, thiên tai không ngừng xảy đến. Xa xôi không nói đến, gần thì ba năm trước vừa có nạn tuyết lớn ở miền Nam, năm ngoái thì tỉnh Hà Nam hạn hán nghiêm trọng. Quốc khố eo hẹp, việc xây dựng quan đạo và kênh đào, kính mong bệ hạ cân nhắc lại!"

Hữu thị lang bộ Công – Tạ Thành phất tay áo, thưa: "Hai nước đình chiến đã mười tám năm, từ cổ chí kim, thiên tai đã khi nào ngưng nghỉ. Nếu không có nhân họa, chỉ có thiên tai, vì cớ gì quốc khố mãi chẳng đầy? Ý của Từ thị lang là, trong quá trình bệ hạ tại vị, thiên tai nhiều hơn so với trước sao?"

Cung Tuấn vốn lắng nghe với tâm thế bình thản, nhưng riêng câu này của Hữu thị lang bộ Công lại khiến chàng liếc ông ta một cái.

Từ Lệnh mặt đỏ phừng phừng: "Thần tuyệt đối không dám có ý đấy ạ! Quan đạo có thể không tính, nhưng từ xưa đến nay, mỗi lần xây dựng kênh đào đều tốn kém rất nhiều tiền của. Mong bệ hạ lùi kì hạn lại, công trình này không thể hoàn thành trong một sớm một chiều được ạ!"

Tạ Thành tiếp tục tâu: "Thần cho rằng, từ triều đại trước, Đại Vận Hà bắt nguồn từ Thịnh Kinh ở phương Bắc, xuôi nam về Tiền Đường, nối liền phía Nam nước ta. Giờ xây thêm một kênh đào nữa dọc lên phương Bắc thì từ nay về sau, Nam Bắc sẽ được nối liền thông suốt, tạo phúc cho ngàn đời sau!"

Nhất thời, các đại thần đều nêu ý kiến của mình.

Triệu Phụ ngồi trên ngai rồng, chờ các đại thần ồn ào tranh luận xong xuôi đến hết hơi, ông ta mới nhìn Thượng thư bộ Công – Viên Mục, hỏi: "Ý Viên khanh thế nào?"

Viên Mục tiến lên một bước, hành lễ thưa: "Lợi ích của công trình này sẽ tồn tại mãi về sau. Thần cho rằng như thế quá tốt."

Triệu Phụ lại hỏi Cung Tuấn: "Còn Tử Phong thì sao?"

Cung Tuấn bước ra khỏi hàng ngũ quan lại, hành lễ nói: "Khi xưa Dương đế nối liền phương Nam, mang lại ích lợi cho hàng trăm thế hệ. Ngày nay bệ hạ nối liền phương Bắc, gắn kết hai miền Bắc Nam, đương nhiên là đại sự thiên cổ. Nhưng Dương đế xây được kênh đào thông suốt miền Nam, vốn phải dựa vào hệ thống sông nước phương Nam dày đặc, nguồn nước mưa dồi dào. Phương Bắc Đại Tống ta sông ngòi thưa thớt, hạn hán liên miên. Thần cho rằng việc xây kênh đào nên hoãn lại. Chi bằng thay vì xây kênh đào, chúng ta xây ba tuyến quan đạo, thông về ba hướng Đông, Tây, chính Bắc."

Các quan bộ Hộ lập tức ủng hộ: "Thần tán thành."

Viên Mục nhìn Cung Tuấn – chàng đã lại hướng ánh mắt xuống sàn điện – nghĩ bụng nhà ngươi nói thì nghe có vẻ kín kẽ đấy, nhưng chẳng phải chỉ muốn tiết kiệm tiền thôi hay sao. Trong lòng thì rủa thầm CungTử Phong, nhưng bản thân Viên Mục cũng biết việc xây kênh đào lên phía Bắc tốn kém vô cùng. Vì vậy ông ta cũng nói: "Thần tán đồng ạ."

Triệu Phụ bảo: "Thế thì cứ y lời Tử Phong nói, bãi triều."

Bãi triều xong, trên đường trong cung, Viên Mục ngăn Cung Tuấn lại. Cungđại nhân mỉm cười, Viên đại nhân thì cạn lời: "Không xây kênh đào được thật à?"

Cung Tuấn: "Nếu bộ Hộ cấp tiền được, thì bộ Công các ông có xây nổi không?"

Viên Mục á khẩu.

Bộ Công của ông ta đúng là không xây nổi Đại Vận Hà lên miền Bắc.

Lúc này, Đại thái giám Quý Phúc đi tới. Lão ta vái chào, rồi nói với Cung Tuấn: "Cungđại nhân, bệ hạ triệu kiến."

Cung Tuấn theo Quý Phúc đến điện Thùy Củng.

Thấy chàng, Triệu Phụ có vẻ vui, cười nói: "Tử Phong đã sớm biết rồi phỏng?

Cung Tuấn quan sát xung quanh, hôm nay Khởi Cư lang là Lý Thư, Khởi Cư xá nhân là Quách Tuệ. Hai người này đều là tâm phúc của Triệu Phụ. Mỗi khi Triệu Phụ triệu Cung Tuấn đến để nói một số chuyện bí mật, hai người này đều tỏ vẻ như không nhìn thấy, cũng không chép lại vào Khởi Cư chú.

Cung Tuấn không hiểu gì, thưa: "Thần không hiểu ý bệ hạ."

Có lẽ Triệu Phụ đang rất hưng phấn. Ông ta rời ngự tọa, đi vòng quanh nhìn Cung Tuấn một hồi mới nói: "Hóa ra ngươi không biết thật! Thế thì sư huynh đệ hai người các ngươi có thần giao cách cảm rồi."

||Chú thích

[1] Trích bài ký Nhạc Dương Lâu của Phạm Trọng Yêm (đã chú thích ở những chương trước).

Trích Đạo Đức Kinh chương 38. Bản dịch của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ.

Trung thư tỉnh và Môn hạ tỉnh là hai cơ quan quyền lực hơn cả vì chúng lần lượt phụ trách soạn thảo các chính sách và thẩm định chính sách trong triều đình. Chức Trung Thư xá nhân là chức chịu trách nhiệm soạn thảo chiếu lệnh. Trong triều đình Việt Nam chúng ta cũng có Tam sảnh tương đương với Tam tỉnh, gồm sảnh Thượng thư, sảnh Trung thư và sảnh Môn hạ.

------oOo------

Chương 54

Nguồn: EbookTruyen.Net

Minh tu sạn đạo*

Tiêu đề lấy từ kế "minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương" của tướng Hàn Tín thời Hán; giống kế giương Đông kích Tây: ngoài mặt sửa lối mòn cho quân địch lơ là, nhưng thực tế thì đi vòng đường tắt đánh úp

Cung Tuấn suy nghĩ thoáng qua, cân nhắc từ đầu đến cuối những việc vừa xảy ra.

Hôm nay lâm triều, đột nhiên Triệu Phụ tuyên bố ý định mở đường và kênh đào. Tính khả thi của ý tưởng này thực sự không hề cao vì xây dựng kênh đào tốn kém vô cùng. Nhất là đào kênh về hướng Bắc thì xưa nay chưa có bao giờ, e là dốc cạn quốc khố cũng không làm nổi.

Triệu Phụ không phải hôn quân, trái lại, suốt hai mươi tám năm trị vì của ông ta, cục diện chính trị và thế lực các quyền thần trong triều được cân đối cực kì ổn định. Ban đầu rõ ràng Triệu Phụ không định đào kênh, ông ta muốn mở ba tuyến đường vận chuyển ở miền Bắc. Để làm được như vậy, trước hết ông ta đưa ra một quyết sách gần như phi lý, khiến quần thần phản bác, sau đó giả vờ nhượng bộ, đồng ý với phương án đơn giản hơn là xây dựng ba con đường.

Điều này không chỉ Cung Tuấn mà các tể tướng trên triều hôm nay đều nắm trong lòng bàn tay. Vì thế mọi người cùng nhau hợp sức giúp Triệu Phụ diễn kịch, lôi kéo sự đồng thuận cho chính sách mở đường.

Mỗi tội Cung Tuấn không ngờ, đằng sau việc này còn có bóng dáng của tiểu sư đệ nhà mình.

Sau khi rời khỏi điện Thùy Củng, Cung Tuấn đánh tiếng để trao đổi với

Quý Phúc, chàng hỏi thăm một chút là biết được chuyện năm ngoái Chu Tử Thư từng dâng một cuốn sổ tấu lên. Liên hệ với việc Chu Tử Thư đột nhiên được thăng lên thành ngũ phẩm Khởi Cư lang, Cung Tuấn tháo miếng bạch ngọc và chiếc túi hương bên hông xuống, cầm trên tay ngắm nghía.

"Cảnh Tắc ơi là Cảnh Tắc ơi, đệ giỏi mang đến cho ta những bất ngờ đáng vui mừng lắm đấy!"

Triều đình muốn làm đường, lại còn là ba tuyến đường huyết mạch dẫn lên phía Bắc, thoắt cái đã tạo công ăn việc làm cho bá quan văn võ toàn triều.

Bộ Hộ thì lo chu cấp tiền bạc, bộ Lại thì chịu trách nhiệm điều phối nhân sự, bộ Binh phụ trách đảm bảo an toàn trên đường. Riêng bộ Công là bận rộn nhất. Cơ quan phụ trách việc tu bổ đường sá ở bộ Công chính là Ngu bộ, lo từ chuyện ao hồ đồi núi đến thuyền bè may mặc... Hoàng đế ban chiếu thư, các quan trong ban đều bị điều hết đi công tác trên cả ba tuyến đường. Do cùng lúc phải xây dựng đến ba con đường, nhân lực của Ngu bộ không đáp ứng được, phải bổ sung thêm một lô nhân tài từ bên Thủy bộ và viện Văn Tư sang.

Mai Thắng Trạch vốn là quan ở Thủy bộ, cuối năm ngoái đã ốm xác vì dự án trùng tu hồ Thái Dịch của ban này. Chưa kịp hoàn hồn, anh ta đã bị túm sang Ngu bộ.

Mười chín tháng Giêng, Mai Thắng Trạch chuẩn bị rời Thịnh Kinh, đi U Châu công cán.

"Chuyến này đi không biết bao giờ mới có ngày về, sớm nhất cũng phải sang năm!" Trong lầu Tế Hà, Mai Thắng Trạch đứng dậy nâng chén, buồn bã nói với các bạn học Quốc Tử Giám khi xưa. "Ai cũng bảo ta may mắn, tuy không đỗ đệ nhất giáp, nhưng sau kì thi quan lại thì được giữ lại ở Thịnh Kinh, không bị điều ra ngoài. Nhưng các bạn ơi, ta còn không bằng những người được điều đi nữa kia!"

Mai Thắng Trạch phải đi, các bạn học ở Quốc Tử Giám hẹn nhau ở lầu Tế Hà tiễn anh.

Lưu Phóng cũng được ở lại Thịnh Kinh, làm quan kinh thành ở bộ Hộ. Anh ta nâng ly: "Thắng Trạch huynh nói gì thế, việc làm đường lần này là cơ hội làm ăn lớn đấy."

Mai Thắng Trạch sầu não: "Cơ hội lớn nào đến lượt quan lục phẩm nhãi nhép như ta?"

Mọi người đành gắp thức ăn và châm rượu cho Mai Thắng Trạch liên tùng tục. Mai Thắng Trạch đau lòng quá, tu rượu như nước lã, chẳng mấy chốc đã say bí tỉ. Chu Tử Thư sai quản lý Lục đưa anh ta vào nghỉ trong một nhã gian trống suốt buổi chiều. Đến tối, Mai Thắng Trạch tỉnh dậy, đầu váng mắt hoa, các bạn học Quốc Tử Giám đều đã ra về cả, chỉ còn lại Chu Tử Thư ngồi với mình.

Ở Quốc Tử Giám, Mai Thắng Trạch thân với Chu Tử Thư nhất. Giờ chỉ còn hai người, anh không ngần ngại mà trút hết nỗi lòng với Chu Tử Thư: "Cảnh Tắc ơi, đệ nói xem huynh đã tạo nghiệp gì chứ! Người bình thường thì được quan kinh thành, tiền đồ như gấm. Còn huynh, mới chân ướt chân ráo đã phải vào bộ Công, sửa xong cái ao lại bị người ta bắt đi làm đường. Uổng cho mười năm học tập gian khổ, nếu biết cơ sự thế này, huynh còn đọc sách Nho làm gì, thà đọc sách xây dựng còn hơn!"

Chu Tử Thư rót cho anh ta một chén trà giải rượu: "Không đến nỗi bi đát như huynh nói đâu."

Mai Thắng Trạch: "Không bi đát như huynh nói á? Quả thực, việc thông đường về phía Bắc chắc chắn là công trình lớn nhất năm nay. Từ quy mô điều động thợ thuyền đến các kế hoạch dự trù, đều rất nghiêm chỉnh và bài bản."

Đụng tới công trình to thế này, dù không tham ô, các quan nhúng tay vào đều vợt được miếng ngon.

"Nhưng thế thì có liên quan gì đến ta chứ!" Mai Thắng Trạch ngửa mặt lên trời than: "Rốt cuộc tại sao thánh thượng tự dưng muốn làm đường? Thằng trời đánh nào hiến kế cho bệ hạ vậy? Nó hót mỗi một câu mà đám quan tiểu tốt như chúng ta phải bán mặt cho đất bán lưng cho trời đằng đẵng cả năm!"

Chu Tử Thư cũng lên án kịch liệt: "Dám đề xuất xây đường, cái ngữ ấy đúng là vô nhân tính!" Cậu nói hùng hồn như thể ôm mối thù chung. Tiễn Mai Thắng Trạch, Chu Tử Thư bất ngờ nhận được một tấm thiệp mời.

Thiệp này là của Trương Tư – người trước đây còn là Khởi Cư lang ngũ phẩm. Khởi Cư lang vốn có ba người, khi Chu Tử Thư thăng chức, Trương Tư đã được điều sang làm chức Lang trung Ngu bộ, hàm tứ phẩm. Ban đầu Trương Tư tưởng vụ bổ nhiệm này là giáng chức trá hình, cay đắng khổ sở biết bao lâu. Đến khi triều đình tuyên bố làm ba tuyến đường, gã một bước lên tiên ngay tắp lự.

Mai Thắng Trạch là lục phẩm tép riu, chuyện cầu đường anh chỉ có thể được chia phần bèo bọt chứ chẳng được dự phần chính. Song Trương Tư thì khác, nên gã được thể huênh hoang vô cùng, mở tiệc chiêu đãi đồng liêu rầm rộ trước khi đi U Châu.

Trong tiệc rượu, Trương Tư chủ động mời Chu Tử Thư một chén, Chu Tử Thư cung kính đáp lễ.

Trương Tư nói: "Thì ra bệ hạ mưu tính sâu xa như vậy, trước đây ta hạn hẹp quá, còn đố kị với cậu nữa. Cảnh Tắc, ta thật lòng xin lỗi."

Chu Tử Thư: "Chúc Trương đại nhân thuận buồm xuôi gió."

Nếu việc mở đường thành công tốt đẹp, Trương Tư chẳng những kiếm được một khoản kếch xù cho riêng mình, mà có khi còn được thăng quan tiến chức.

Trương Tư đi rồi, không ngờ người tiếp theo lên đường lại là CungTiêu.

Năm Khai Bình thứ hai mươi bảy, Trạng Nguyên Diêu Thiện, Thám Hoa

Chu Tử Thư đều vào Trung Thư tỉnh, trở thành Khởi Cư lang ngũ phẩm. Riêng Bảng Nhãn CungTiêu thì như bị Triệu Phụ quên mất, dậm chân mãi ở chức Hàn Lâm viện Biên tu thất phẩm suốt cả năm. Hôm nay, triều định muốn mở đường, anh ta mới bất ngờ được giao trách nhiệm mới, thăng làm Viên ngoại Ngu bộ ngũ phẩm, lập tức sửa soạn đến Ninh Châu làm đường ngay.

Quả nhiên tẩm ngầm tầm ngẩm mà đấm chết voi.

Quá nửa tiến sĩ khoa bọn họ đã rời khỏi Thịnh Kinh, còn non nửa hội họp với nhau ở lầu Thiên Lý.

Chu Tử Thư và Diêu Thiện đã sáu tháng không gặp CungTiêu, hôm nay tái ngộ, cả ba người đều xúc động vô cùng.

CungTiêu như già thêm năm tuổi, rõ ràng chưa đến tuổi băm mà tóc mai đã điểm bạc. Anh nâng chén mới Chu Tử Thư và Diêu Thiện, ba người không nhiều lời, chỉ uống rượu. Đến nửa đêm, CungTiêu phấn chấn ra về. Ba ngày sau, anh ta đóng gói hành lí, chuẩn bị khởi hành về phía Bắc đến Ninh Châu. Trước khi đi, bỗng có một người khách đến thăm.

CungTiêu đích thân đón tận cổng, người ấy là quản gia phủ Thượng thư bộ Hộ.

CungTiêu mời quản gia của Cung Tuấn vào nhà, quản gia đưa một phong thư cho CungTiêu, nói: "Thượng thư đại nhân công vụ bề bộn, không thể đích thân đến tiễn. Ngài viết phong thư này dặn tôi trao cho anh.

Khi nào Cungcông tử đến Ninh Châu, nếu gặp việc cấp bách, cứ đem thư này đến chỗ Công bộ Tả thị lang đại nhân là được."

Ở Thịnh Kinh hai năm, CungTiêu đã sớm hết hi vọng với người bà con xa là Cung Tuấn rồi, hôm nay cầm lá thư, bất giác ứa hai hàng lệ.

"Đa tạ Thượng thư đại nhân!"

Mười năm đằng đẵng mài kinh sử, đế đô mấy bận nhạt tình người.

Hôm nay, anh lên đường tới phương Bắc, khởi đầu một trang mới trong cuộc đời mình.

Triều đình muốn mở ba con đường lớn, lần lượt nối về U Châu, Thứ Châu và Ninh Châu. Ba châu này đều giáp với nước Liêu ở ba hướng Tây Bắc, chính Bắc và Đông Bắc. Thực tế mà nói, kế hoạch xây dựng cả ba tuyến đường chỉ là để tung hỏa mù. Mục tiêu quan trọng của Đại Tống chính là làm đường thông đến châu U.

Công tác làm đường ở U Châu do Thượng thư bộ Công Viên Mục đích thân giám sát.

U Châu là chốt phòng ngự quân Liêu trọng yếu của Đại Tống, việc kiến tạo một con đường đâm thẳng đến U Châu không chỉ giúp thông tin kịp thời về việc quân tình mà còn giúp đẩy nhanh tốc độ vận lương cho tiền tuyến một khi chiến tranh nổ ra.

Ninh Châu nằm ở khu vực Đông Bắc bộ của Đại Tống, trấn Lạc Hà thuộc về khu vực phía Bắc Ninh Châu.

Con đường đến Ninh Châu là dễ làm nhất vì khoảng cách ngắn nhất. Chỉ cần có con đường này thì dù lầu Tế Hà không tự mở lối đi cho mình được, cứ chờ đến cuối năm là có thể vận chuyển thịt dê, bò bằng tuyến quan đạo này, đỡ phải nhún nhường trước gã thương nhân người Liêu Gia Luật Cứu kia.

Biết chuyện triều đình làm đường, Diêu Tam và quản lý Lục mừng quýnh.

Ba tháng sau, Diêu Tam định một mình đến trấn Lạc Hà để nghe ngóng tình hình làm đường. Đường Hoàng ở Thịnh Kinh nửa năm nay đã chán lắm rồi, nằng nặc đòi Diêu Tạm phải dắt đi theo. Diêu Tam không thuyết phục nổi, đành dẫn theo Đường Hoàng lên phương Bắc.

Tháng tư, hai người trở về từ trấn Lạc Hà.

Diêu Tam nói: "Tiểu đông gia, quan đạo ở Ninh Châu xây nhanh lắm! Tuyến đường này cũng không có núi sông cách trở gì cả, phần lớn là bình nguyên. Tính đến hôm nay, tôi quan sát thấy đã xây được một phần sáu rồi. Dự kiến đến cuối năm nhất định sẽ hoàn thành!"

Chu Tử Thư làm Khởi Cư lang, trong lúc ghi chép về hoàng đế cũng nghe được nhiều tin tức phương xa được các quan bên bộ Công báo về, tiến độ công trình không khác với những gì Diêu Tam quan sát lắm. Đường đi U Châu là khó xây nhất, xong đến Thứ Châu, rồi cuối cùng là Ninh Châu.

Đường Hoàng: "Thực ra Đại Tống vẫn có đường lên phía Bắc, nhưng ba con đường mới này thì khác. Ba tuyến đường này chạy thẳng lên miền Bắc, không có đường rẽ đường cắt, hơn nữa chiều rộng mặt đường rất lớn, ở những khu vực mưa nhiều còn rải đá vụn để lót đường." Chu Tử Thư giờ mới nhìn sang Đường Hoàng.

Cậu đến thế giới này đã được bốn năm, Đường Hoàng cũng từ một cô nhóc chín tuổi trở thành cô gái mười ba tuổi hôm nay.

Con gái nhà khác thích ở khuê phòng, thêu hoa cỏ, Đường Hoàng thì từ khi đến Thịnh Kinh suốt ngày đến lầu Tế Hà.

Lần này Đường Hoàng muốn đến trấn Lạc Hà, ban đầu Chu Tử Thư định ngăn cản, nhưng thấy ánh mắt kiên định và gương mặt khác hẳn với những khuê nữ được nuông chiều, thì cậu không ngăn cản nữa.

Dân thường không được sở hữu bản đồ quốc gia, Đường Hoàng bèn trải giấy Tuyên, phác thảo lại tuyến đường theo trí nhớ của mình trong hành trình lên phía Bắc. Cô bé nói: "Người Liêu qua lại buôn bán với người Tống chủ yếu ở châu Ninh. Đường ở châu Ninh chậm nhất là đến cuối năm nay sẽ hoàn thành. Sau đó, trừ trường hợp thời tiết quá khắc nghiệt ra, chỉ cần một ngày là hàng hóa từ Ninh Châu có thể vận chuyển thẳng đến Thịnh Kinh. Giờ hãy xét đến phía Nam..."

Bàn tay cô bé dẻo dai, linh hoạt chứ không hề yếu ớt, lia bút vẽ một nét dài ngoằn ngoèo: "Về phía Nam Thịnh Kinh có Đại Vận Hà. Thuyền chở khách bình thường chỉ cần đi nửa tháng là có thể đi từ Thịnh Kinh đến Tiền Đường. Nhưng đấy là là đi với tốc độ chậm, đi cẩn thận, nếu cần gấp, đi nhanh thì chỉ tối đa năm ngày là có thể từ miền Nam lên miền Bắc.

Chu Tử Thư nhìn em gái mình, nghiêm túc hỏi: "Thế nên?"

Tự nhiên bị hỏi, Đường Hoàng ngơ ra, miệng há hốc, lại biến thành một cô nhóc tuổi mười ba.

Nghĩ ngợi hồi lâu, cô bé mới ấp úng: "Anh à, chẳng qua em thấy điều kiện vận tải tốt quá, có thể kinh doanh gì đó... Chẳng phải anh bảo, ưu thế lớn nhất của lầu Tế Hà và Trân Bảo Các nhà chúng ta ở phủ Cô Tô không phải là xà phòng, mà là Hậu cần Đường thị sao?"

Chu Tử Thư chăm chú nhìn Đường Hoàng hồi lâu mới cười: "Em nói đúng, điều kiện tốt như vậy, không tận dụng thì phí của giời!"

||

------oOo------

Chương 55

Nguồn: EbookTruyen.Net

Trêu chọc

Đầu tháng năm, Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ bị bệnh đầu phong1, phải nằm một chỗ dưỡng bệnh.

[1] Một chứng đau đầu mãn tính

Triệu Phụ bị chứng đầu phong đã lâu, khoảng mười mấy năm trước còn bị một cơn rất nặng, đến nỗi sau khi tỉnh lại thì nhất quyết truy tìm bí quyết trường sinh bất lão. Hằng năm Triệu Phụ đều bị đầu phong một lần, giờ có lẽ do tuổi tác lớn, lần này bệnh vô cùng nghiêm trọng. Triệu Phụ hoãn lên triều, giao hết việc cho Trung Thư Tỉnh, còn mình thì tĩnh dưỡng ở điện Phúc Ninh.

Là Khởi Cư lang, Chu Tử Thư không vì thế mà được nghỉ.

Mỗi ngày, các Khởi Cư lang và Khởi Cư xá nhân phải canh gác ngoài điện Phúc Ninh. Họ không có gì để ghi cả, chỉ đứng đó gác thôi. Đến chạng vạng thì về Trung Thư tỉnh báo cáo với các thừa tướng. Chu Tử Thư mỗi lần báo cáo thì chủ yếu nói xem hôm nay có chuyện gì lớn không. Tỷ như bệnh tình Triệu Phụ có chuyển biến xấu không, Triệu Phụ có dặn dò gì các thừa tướng không; ngày mai Triệu Phụ có tính toán gì không, tiếp tục hoãn lên triều hay định làm gì khác.

Điện Cần Chính là nơi các tướng công trong Trung Thư tỉnh làm việc mỗi khi vào cung.

Hàng ngày các sự vụ lớn nhỏ trong triều đều được đưa đến điện Cần Chính trước, các quan trong Trung Thư tỉnh thẩm tra xong, viết kiến nghị vào rồi dâng lên Triệu Phụ. Triệu Phụ xem xong thì phê vào đấy rồi đưa về điện Cần Chính. Nếu các tướng công không có ý kiến gì thì bản tấu được trả về.

Nếu các tướng công có ý kiến khác thì lại đệ sổ lên cho Triệu Phụ duyệt lại.

Chu Tử Thư đi đến điện Cần Chính, bước quá một cánh cổng che rèm hoa. Qua cổng là thấy một cánh cửa khảm bốn đóa hoa mai.

Đi qua cánh cửa đó, Chu Tử Thư được một viên Tiểu lại dẫn đến gian phòng của Tả thừa – Trần tướng công.

"Hạ quan Chu Tử Thư, xin được diện kiến Trần tướng công."

Trần Lăng Hải đang xem một quyển tấu, nghe thấy tiếng nói thì ngẩng lên.

Tiểu lại hành lễ với ông rồi rời khỏi phòng. Một tay cầm bản tấu, Trần Lăng Hải quan sát Chu Tử Thư bằng ánh mắt đầy hứng thú. Ông ta cười: "Đường đại nhân đến rồi."

Chu Tử Thư chắp tay: "Thần đến báo cáo công việc ạ."

Tiếp đó, Chu Tử Thư bẩm báo những chuyện trong ngày ở điện Phúc Ninh. Kỳ thực cũng không có việc gì cả, Triệu Phụ nằm trong điện Phúc Ninh một ngày một đêm, không gặp quan nào, cũng không ra khỏi cung đi lại. Gần đến chạng vạng ông ta mới bảo Chu Tử Thư dặn Trung Thư tỉnh tiếp tục quản lí triều chính, sau đó uống thuốc Thái y sắc cho, mơ màng ngủ thiếp đi.

Trần Lăng Hải nghe báo cáo xong, nói: "Đường đại nhân vất vả rồi."

Chu Tử Thư lấy làm lạ, rõ ràng đây là lần đầu cậu gặp Trần Lăng Hải, tại sao ông ta lại thân thiết với cậu đến thế?

Trung Thư tỉnh có bốn vị thừa tướng, lần lượt là Tả tướng, Hữu tướng, Tả thừa và Hữu thừa. Hai vị Tướng xếp hàng trên, là Tể tướng trong triều; hai vị Thừa có nhiệm vụ hỗ trợ, là Phó tướng của triều đình. Trần Lăng Hải là một trong hai Phó tướng. Bốn người này mới đích thực là các tướng công của Đại Tống. Ngoài ra, Lục bộ Thượng thư trong Trung Thư tỉnh cũng tạm được gọi một cách kính trọng là "Tướng công". Cung Tuấn và các Thượng thư khác chính là kiểu "Tướng công giả" như vậy.

Chu Tử Thư than thầm trong lòng, nói: "Hạ quan chỉ làm đúng bổn phận thôi ạ."

Báo cáo xong, Chu Tử Thư vái chào Trần Lăng Hải, chuẩn bị rời cung. Cậu vừa ra khỏi phòng của Trần Lăng Hải thì đụng độ một người đàn ông trung niên với chòm râu nhỏ, mặc quan bào nhị phẩm, tiến tới từ phía đối diện trên hành lang chạm trổ hoa. Nhìn thấy Chu Tử Thư, ông ta tỏ vẻ hết sức kinh ngạc. Trần đại nhân lúc ấy cũng đi ra, vui vẻ chào: "Mạnh đại nhân." Vị này đúng là Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng.

Mạnh Lãng thấy Chu Tử Thư thì ánh mắt soi mói chòng chọc còn ngang nhiên hơn cả Trần tướng công. Ông ta quan sát từ đầu đến chân Chu Tử Thư một hồi. Trước đây, chính ông ta là người đọc tên Chu Tử Thư ở buổi thi Đình, tuyên bố cậu là Thám hoa khoa thi năm Khai Bình thứ hai mươi bảy. Thế mà giờ ông ta lại giả vờ như không hề quen biết, cố ý hắng giọng hỏi: "Trần đại nhân, ai đây ý nhỉ, sao ta chưa thấy ở điện Cần Chính lần nào thế?"

Trần tướng công nói: "Đây là Khởi Cư lang Chu Tử Thư – Đường đại nhân."

Mạnh Thượng thư cố tình diễn: "Ồ, thì ra là Đường đại nhân. Đường đại nhân đến đây có việc chi?"

Chu Tử Thư: "..."

"Bẩm Mạnh đại nhân, long thể của bệ hạ không được khỏe, hạ quan đến đây báo cáo tình hình."

Mạnh Thượng thư dài giọng: "Đến Trung Thư tỉnh báo cáo mà chỉ báo cáo với mỗi mình Trần đại nhân ư? Thế còn bọn ta thì sao?"

Chu Tử Thư: "..."

Mạnh Thượng thư: "Đường đại nhân không thể bên trọng bên khinh thế được, chúng ta đều quan tâm đến long thể bệ hạ. Chi bằng, trước hết ngươi hãy báo cáo với ta đi, báo cáo xong, ta lại dẫn ngươi đến gặp Chung đại nhân, Từ đại nhân... báo cáo hết một lượt cho đủ."

Chu Tử Thư: "..."

Ô cái lão này bị dở hơi à?

Chu Tử Thư tưởng Mạnh Lãng cố ý gây khó dễ cho mình.

Nhưng Mạnh Thượng thư bừng bừng phấn khởi dắt Chu Tử Thư đi hết chỗ nọ đến chỗ kia. Đầu tiên là tìm gặp Tả tướng – Kỷ đại nhân, Kỷ đại nhân đi vắng. Xong ông ta lại dắt cậu sang gặp Cungđại nhân, khéo chưa, Cungđại nhân cũng vắng mặt. Thế là bốn vị tướng công – đại quan nhất phẩm quyền quý nhất triều đình, đã vắng mất hai vị rồi. May quá, Hữu thừa – Từ đại nhân thì có trong phòng. Từ đại nhân là một ông cụ tóc hoa râm, tươi cười hiền hậu. Ông nghe Chu Tử Thư là ai xong, bèn nheo mắt cười, chăm chú nhìn cậu rồi nói: "Còn Thượng thư Lục bộ nữa thì sao? Nhớ để bộ Hộ chốt sổ nhé."

Mạnh Thượng thư mỉm cười: "Vâng."

Thượng thư Lục bộ là quan nhị phẩm, không có gian làm việc riêng như bốn vị tướng công. Họ chia nhau hai người một phòng. Mạnh Thượng thư rất quái chiêu, đầu tiên là dẫn Chu Tử Thư đến bộ Lại, bộ Công, bộ Hình, bộ Binh, rồi cuối cùng mới quành về phòng làm việc chung của bộ Hộ và bộ Lễ.

Mạnh Thượng thư đẩy cửa vào phòng, Cung Tuấn ngẩng lên. Thấy Chu Tử Thư sau lưng Mạnh Lãng, Cungđại nhân liền nhíu mày.

Mạnh Thượng thư giới thiệu: "Cungđại nhân, quan viên trong cung đến bẩm báo tình hình này."

Cung Tuấn đứng dậy, bước tới trước mặt Chu Tử Thư, mỉm cười gọi: "Tiểu sư đệ."

Mạnh Thượng thư hoảng hốt: "Hóa ra Cungđại nhân và Đường đại nhân là sư huynh đệ sao? À ừ nhỉ, tự dưng ta lại quên béng mất có chết không cơ chứ."

Chu Tử Thư: "..."

Tôi thấy da mặt ông xứng với áo bào quan lớn nhị phẩm lắm đấy!

Cungđại nhân thản nhiên nói: "Nếu đến báo cáo công tác thì báo cáo đi."

Chu Tử Thư cung kính nhắc lại tình hình của Triệu Phụ. Chu Tử Thư nói chuyện thong thả từ tốn, không hèn mọn hay cao ngạo, không nóng nảy hay kiêu căng. Tuy thái độ khiêm nhường là vậy, nhưng trong bụng là vô số lời chửi thầm không thể lộ ra.

Cung Tuấn nghe xong liền nói: "Bệ hạ long thể bất an, bá quan chúng ta không thể san sẻ mối lo giúp bệ hạ, quả là thất trách. Mạnh đại nhân, nghe nói triều Chu có một nghi lễ cổ là xây đài trong cung, tụng kinh cho bệ hạ trong chín ngày, thông qua đó mà cầu phúc cho Thiên tử, xin trời phù hộ Thiên tử vạn phúc. Lễ này khi xưa vốn do Đại tư tế cử hành, ngày nay e là chỉ Mạnh đại nhân mới xứng với nhiệm vụ này thôi. Ngày mai ta sẽ viết ngay bản tấu, xin bệ hạ ân chuẩn cho Mạnh đại nhân cầu phúc vì Thiên tử. Việc cao cả như vậy vi thần lúc nào cũng mong được thực hiện. Tiếc là ta chưa từng chấp chưởng bộ Lễ, đành phải nhường vận may này cho Mạnh đại nhân rồi."

Mạnh Lãng sửng sốt: "Sao ta chưa từng nghe nói đến Chu lễ này?"

Cung Tuấn tỉnh bơ: "Có mà, trong sách Nhĩ Nhã2 ấy."

[2] Một cuốn từ điển thời cổ đại của Trung Quốc

Mạnh Lãng: "Thật à?"

Cung Tuấn: "Thật mà."

Mạnh Lãng: "..."

Mạnh Lãng: "Ta chợt nhớ ra nhà có chút việc, cáo từ trước, không quấy rầy Cungđại nhân và Đường đại nhân tán gẫu."

Mạnh thượng thư quày quả ra về, Chu Tử Thư đó giờ chưa thấy quyền thần nào lật mặt nhanh như lật bánh tráng thế.

Cung Tuấn dọn mấy món đồ, bảo: "Chúng ta cũng về thôi." Chu Tử Thư không phản ứng kịp, ngơ ngác nhìn chàng.

Cung Tuấn mỉm cười, đưa tay vén một sợi tóc mướt mồ hôi Cungtrên trán Chu Tử Thư, nói: "Sắp khóa cổng cung rồi, hôm nay ta không có phiên trực trong cung. Chẳng nhẽ, tiểu sư đệ muốn ở lại điện Cần Chính ư?"

Chu Tử Thư: "..."

"Về về về ạ." Cậu muốn về từ tám mươi đời bảy mươi kiếp trước rồi!

Ngồi trong xe ngựa của quan Thượng thư, Chu Tử Thư lại được dịp đi chùa xe Cung Tuấn. Xe ngựa lọc cọc lăn bánh rời khỏi hoàng cung.

Cung Tuấn giải thích: "Điện Cần Chính không bận bịu tối ngày như các đệ nghĩ đâu. Tháng trước thì điện Cần Chính bận việc làm đường lên phía Bắc, sang tháng năm thì việc đã bớt đi rồi. Trong sáu bộ ấy à, rảnh nhất là bộ Lễ. Lúc trước đệ không sang đây, cứ mỗi khi đệ phụ trách viết ý chỉ của Thánh Thượng vào sổ truyền đến điện Cần Chính, Mạnh đại nhân mà thấy là lại cố tình cầm đến cho ta xem."

Chu Tử Thư: "Ủa, vì sao thế ạ?"

Cung Tuấn nhìn Chu Tử Thư, ánh mắt hóm hỉnh: "Không hiểu à?"

Chu Tử Thư suy nghĩ một chút: "Vì đệ là sư đệ của huynh?"

"Bởi vì chữ chúng ta na ná nhau." Cung Tuấn than thở: "Đệ đi thi cách đây cả năm rồi. Mạnh đại nhân đúng là rỗi hơi, cứ ghim mãi! Bình thường đệ không đến điện Cần Chính thì thôi, hôm nay đệ đến, ông ta càng cố tình muốn trêu đệ. Thật ra cũng chẳng phải bông đùa đệ đâu, ông ta muốn chọc ta ấy mà, mỗi tội lại liên lụy đến đệ."

Nói vậy cũng giống như khẳng định rằng, một năm trước, Chu Tử Thư có thể đỗ Thám hoa được là nhờ Cung Tuấn không tiếc sức hỗ trợ phía sau.

Chu Tử Thư lặng lẽ nói: "Đa tạ Tử Phong sư huynh."

Cung Tuấn nhìn cậu một lát, hỏi: "Ăn tối chưa?"

"Chưa ạ."

"Thế sang phủ Thượng thư cùng ăn nhé."

Xơi một bữa cơm Giang Nam ngon lành ở phủ Thượng thư xong, Chu Tử Thư về nhà. Cậu nhẩm đếm lại ngày trực trong cung của mình, về cơ bản là cứ ba ngày phải đến điện Cần Chính một buổi!

Hầy, phiền ghê!

Chu Tử Thư đã chuẩn bị sẵn tinh thần những lần tới đến điện Cần Chính báo cáo sẽ bị Mạnh Thượng thư và các quan lớn khác hóng hớt trêu chọc. Nào ngờ ba ngày sau, đến phiên cậu vào cung trực, Chu Tử Thư nghe Lý Thư nói rằng, Thượng thư bộ Lễ – Mạnh đại nhân đã lên đàn trời tụng kinh cầu phước cho Triệu Phụ rồi!

Lý Thư: "Nghe đồn là Cungtướng công bảo, xưa kia có nghi lễ thời Chu như vầy. Ban đầu Mạnh tướng công chẳng thèm để ý, chỉ coi là Cungtướng công bịa ra thôi. Ai ngờ hôm sau Cungtướng công cầm một quyển sách cổ đến thật, chỉ thẳng vào cho Mạnh tướng công xem. Mạnh tướng công trố mắt, không bàn cãi gì nữa, xế chiều hôm ấy lên thẳng đàn trời tụng kinh luôn."

Chu Tử Thư: "...Ra vậy."

Cung Tuấn nói làm sao mà sai được.

Ba năm trước, Lương Tụng từng bảo Chu Tử Thư rằng đời thầy đã gặp một người đọc đến đâu nhớ đến đấy, người ấy chính là Cung Tuấn.

Không có Mạnh đại nhân lượn ra lượn vào, Chu Tử Thư đến điện Cần Chính báo cáo tình hình, giỏi lắm thì bị các quan lớn nhìn ngó thêm một tí, chứ không ai cố tình mượn cậu để chọc ghẹo Cung Tuấn.

Sau nửa tháng, sức khỏe của Triệu Phụ có khởi sắc.

Một buổi chiều nọ, Chu Tử Thư và Khởi Cư xá nhân đang trông ngoài điện Phúc Ninh thì thấy một người trẻ tuổi mặc quan bào đỏ thẫm từ xa đi tới. Thiếu khanh Đại lý tự được hoàng đế triệu đến điện Phúc Ninh, vua tôi trò chuyện gần nửa canh giờ.

Tô Ôn Duẫn còn ở bên trong, Đại thái giám Quý Phúc đã ra ngoài, nói: "Đường đại nhân, quan gia cho đòi ngài vào ạ." Chu Tử Thư lập tức tiến vào điện.

Triệu Phụ nằm trên giường, hai má gầy sọp, khí sắc hư nhược. Thấy Chu Tử Thư vào, ông ta nói: "Cảnh Tắc, trước kia ngươi làm việc ở viện Hàn Lâm cũng lâu, coi như quen thuộc với viện Hàn Lâm. Phỉ Nhiên muốn tìm một quyển sách cho trẫm ở viện, ngươi dẫn hắn đi, được không?"

Tim Chu Tử Thư hẫng một nhịp, cậu hành lễ, nói: "Thần lĩnh mệnh."

Triệu Phụ mỉm cười: "Phỉ Nhiên, ngươi đi theo cậu ta đi."

Chu Tử Thư ngẩng lên, tình cờ chạm mắt với Tô Ôn Duẫn.

Có gì đó nháng lên trong đôi mắt rực rỡ như nắng ban mai của anh ta, anh ta cũng đang nhìn Chu Tử Thư. Nghe Triệu Phụ dặn dò xong, Tô Ôn Duẫn nhếch môi, tủm tỉm nói: "Vâng."

||

------oOo------

Chương 56

Nguồn: EbookTruyen.Net

Đúng là sư huynh của đệ

Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn ra khỏi cung, đi đến viện Hàn Lâm ở hướng Đông.

Gần sang tháng sáu, thời tiết oi bức. Hai người xuất cung vào buổi chiều – thời điểm nóng nhất trong ngày. Các điện phía trước trong hoàng cung trồng rất ít cây, không có gì che chắn ánh nắng thiêu đốt rọi thẳng xuống. Chu Tử Thư ra đến ngoài cung thì cả người đã đẫm mồ hôi. Cậu lẳng lặng bước đi, chợt có tiếng nói êm ái cất lên bên cạnh: "Đường đại nhân không nóng sao?"

Chu Tử Thư dừng bước, quay sang đáp lời Tô Ôn Duẫn: "Tô đại nhân nóng à?"

"Hơi hơi."

"Chúng ta đi chậm lại một chút vậy."

Nói thì nói là xuất cung, nhưng thực ra họ vẫn đi ở trong khu vực hoàng thành, chỉ là di chuyển đến các nha môn thôi. Khu vực này không có mấy dân chúng, chủ yếu là các quan kinh thành trực thuộc các bộ đi qua đi lại. Chu Tử Thư là quan Khởi Cư lang ngũ phẩm, Tô Ôn Duẫn thì mặc quan bào tứ phẩm. Các quan kinh thành thấy họ đều phải dừng lại vái chào rồi mới được đi.

Tô Ôn Duẫn cười vui vẻ: "Nghe tên tuổi Đường đại nhân đã lâu, hôm nay được gặp gỡ, đúng là trăm nghe không bằng một thấy."

Chu Tử Thư nhìn anh ta, gương mặt tuấn tú của Tô Ôn Duẫn tràn ngập nét vui cười chứ không có ý gì đặc biệt cả. Đây là cơ hội hiếm có được tiếp xúc với Tô Ôn Duẫn, trong đầu Chu Tử Thư đầy rẫy tính toán. Cậu cũng cười đáp lại: "Kỳ thực hạ quan khá là sợ hãi."

Tô Ôn Duẫn: "Tại sao thế?"

Chu Tử Thư: "Tô đại nhân là Thiếu khanh Đại lý tự, quản lí tất cả những mệnh quan phạm tội trên đời. Được Tô đại nhân nhớ mặt nhớ tên... Hạ quan không sợ thế nào cho được."

Tô Ôn Duẫn ngạc nhiên chớp mắt một cái, rồi anh ta liền nở nụ cười. Tướng mạo chàng trai này có chút nữ tính, cười lên lại càng long lanh rạng rỡ.

"Đường đại nhân đúng là người thú vị."

Nói chuyện gì cũng cần biết điểm dừng ở đâu. Chu Tử Thư mỉm cười thật thà, không đáp lại.

Tô Ôn Duẫn: "Từ trước tới giờ những lần nghe danh Đường đại nhân hầu như đều gắn liền với Phó đại nhân và Cungđại nhân. Hình như Đường đại nhân là người Cô Tô nhỉ?"

"Đúng thế."

"Cô Tô là đất lành đấy, nhân tài lớp lớp mọc lên, trong triều có nhiều quan lại xuất thân từ Cô Tô lắm. Xa xôi không nói, gần đây có Phủ doãn Cô Tô là Thám hoa năm Khai Bình thứ sáu cũng là người Cô Tô. Còn người tiền nhiệm Lương Tụng – Lương đại nhân, thì đích thực là bậc Đại Nho trong thời đại này."

Chu Tử Thư căng thẳng vô cùng, cậu gật đầu: "Thì ra là thế."

Tô Ôn Duẫn mỉm cười nhìn Chu Tử Thư: "Phải." Hai người không nói nữa.

Đến viện Hàn Lâm, Chu Tử Thư nói rõ mục đích của cả hai, quan viên viện Hàn Lâm bèn mời họ vào ngay.

Hôm nay Hàn Lâm học sĩ trực Tàng thư các là người Chu Tử Thư không quen, Chu Tử Thư dẫn người ấy tới, nói với Tô Ôn Duẫn: "Tô đại nhân, ngài đã đến Hàn Lâm viện rồi, tiếp theo đã có Tiếu đại nhân dẫn ngài tìm sách. Hạ quan còn công việc dang dở, xin phép hồi cung trước."

Tô Ôn Duẫn nói: "Thánh thượng đã dặn Đường đại nhân giúp ta thì Đường đại nhân chớ lo lắng. Chi bằng ở lại tìm sách cùng nhau đi?"

Chu Tử Thư hết nước từ chối, đành theo Tô Ôn Duẫn và Tiếu Kế vào Tàng thư các.

Viện Hàn Lâm chuyên sưu tầm và lưu trữ mọi loại sách vở trên đời. Ngoài Khởi Cư chú của Hoàng đế được cất giữ ở khu vực đặc biệt, các thư tịch khác đều phải có bản sao ở viện Hàn Lâm. Ngay cả sử quan soạn sách sử cũng thường để bản gốc ở viện Hàn Lâm để viện này bảo quản thay.

Tô Ôn Duẫn muốn tìm sách từ ba năm trước.

Những loại sách anh ta cần tìm vô cùng đa dạng, có sách thiên văn, địa lý, còn có cả ghi chép về việc điều động quan viên các địa phương trong vào năm ấy. Tiếu học sĩ thấy Tô Ôn Duẫn muốn tìm tài liệu về việc điều động quan lại thì đề cao cảnh giác, đoán rằng tên sát tinh này lại toan tính gì rồi. Ông ta vội vàng nói: "Tài liệu về việc điều động quan viên đều do bộ Lại quản lý, viện Hàn Lâm cũng không có ghi chép hoàn chỉnh, bản sao cũng còn thiếu sót. Nếu Tô đại nhân cần, chi bằng đến bộ Lại hỏi xem?"

Tô Ôn Duẫn nói: "Không cần đâu, Thánh thượng chỉ muốn xem lại chuyện năm ấy thôi, bản không hoàn chỉnh cũng không phải ngại."

Tô Ôn Duẫn lấy mười mấy cuốn sách liền, hoàn toàn vượt khỏi phạm vi "một cuốn sách" mà Triệu Phụ nói, song chẳng ai dám vạch điều ấy ra cả. Tiếu Kế gọi một quan thất phẩm tới, sai kẻ đó bê hộ đống sách đến nha môn Đại lý tự cho Tô Ôn Duẫn.

Đến lúc này thì Chu Tử Thư ra về được rồi. Tô Ôn Duẫn không cản Chu Tử Thư nữa, anh ta kiếm được một tuyển tập thơ của văn nhân Trừ Châu, thích thú mở ra đọc.

Chu Tử Thư rời khỏi viện Hàn Lâm, cậu ngẩng đầu nhìn mặt trời dần dần ngả về Tây. Một cơn gió lạnh thổi qua, cậu bỗng giật thót, cả người toát mồ hôi.

Tô Ôn Duẫn tìm rất nhiều sách từ ba năm trước.

Tô Ôn Duẫn... tìm sách liên quan đến phủ Cô Tô năm ấy!

Chu Tử Thư đứng trước cổng viện Hàn Lâm mà lòng lạnh toát, họng khô khốc. Cậu mấp máy môi nhưng không nói nên lời.

Đến tối, Chu Tử Thư cầm một bầu rượu sang phủ Thượng thư.

Cung Tuấn đang vẽ tranh trong thư phòng, Chu Tử Thư đến nơi bèn lấy thỏi mực, mài mực cho chàng theo thói quen.

Việc này Chu Tử Thư đã làm đi làm làm không biết bao nhiêu lần rồi, mài mực rất thuần thục, Cung Tuấn chỉ ngước nhìn cậu một cái chứ không nói gì. Sư huynh sư đệ một người vẽ tranh, một người mài mực. Trong thư phòng, tiếng nến nổ tí tách. Cung Tuấn ngừng bút, bức tranh mặc cúc1 đã họa xong. Chàng nói với Chu Tử Thư: "Tiểu sư đệ đề thơ lên bức họa này nhé?"

[1] Loại cúc quý màu đỏ tím

Chu Tử Thư sửng sốt: "Đệ ư?" Cung Tuấn cười: "Ừ, lại đây."

Cây bút được đặt vào tay Chu Tử Thư. Cậu nhìn bức họa mặc cúc của Cung Tuấn, suy ngẫm một lát, rồi viết một câu thơ xuống góc trái của bức tranh.

"Giậu đông hái đoá cúc nhà; Nam sơn thanh thản cho ta ngóng về2." Cung Tuấn ngâm thơ rồi bảo: "Viết tên của đệ vào."

Chu Tử Thư viết ba chữ "Đường Cảnh Tắc" xuống góc trái câu thơ. Cây bút được truyền sang tay Cung Tuấn, chàng viết ba chữ "CungTử Phong" bên cạnh tên cậu, rồi lấy con dấu, in lạc khoản lên.

Bức tranh mặc cúc đến đó là hoàn chỉnh.

Cung Tuấn thấy Chu Tử Thư mang cả rượu đến, hỏi: "Hôm nay đệ tới muộn quá. Tiểu sư đệ, ta đã ăn tối rồi, còn đệ chắc chưa ăn đâu nhỉ?"

Chu Tử Thư: "Đệ ăn rồi ạ."

Cung Tuấn nghe thế, ánh mắt nhìn cậu pha lẫn chút ngạc nhiên.

"Vậy để bầu rượu này lại, lần sau hẵng uống."

Cung Tuấn không hỏi hôm nay Chu Tử Thư tới có việc gì, dường như chàng đã ngầm thừa nhận cái đáp án "Tiểu sư đệ nhớ ta" rồi. Cung Tuấn vẽ xong bức tranh mặc cúc thì để Chu Tử Thư mài mực cho mình viết thư pháp tiếp. Dưới ánh nến, diện mạo ngời sáng của CungTử Phong toát lên khí chất của một vị tiên giáng trần. Chàng tập trung viết chữ, ngòi bút múa lượn như có linh tính của nó, còn người cầm bút thì đã vượt lên khỏi cõi nhân gian.

Chu Tử Thư ngắm Cung Tuấn đến mức xuất thần. Dần dần, cõi lòng của cậu cũng trở nên tĩnh tại.

Viết xong một bức thư pháp, Cung Tuấn nói: "Tiểu sư đệ ngắm ta đến ngẩn ngơ, có thấy được gì không nào?" Chu Tử Thư: "Thấy ánh nến rọi sáng sư huynh." Nghe vậy, Cung Tuấn ngẩng lên nhìn cậu.

Chu Tử Thư: "Giờ phút này đây, sư huynh được ánh nến soi tỏ, đệ nhìn thấy huynh trọn vẹn rồi. Huynh đúng là sư huynh của đệ."

Hai người nhìn vào mắt nhau, Cung Tuấn nở nụ cười: "Chẳng phải ta vẫn luôn là sư huynh của đệ sao?"

Chu Tử Thư thỏa mãn rời khỏi phủ Thượng thư.

CungTử Phong sẽ bảo vệ cậu.

... Dù có bị Tô Ôn Duẫn, Triệu Phụ có phát hiện ra thật đi chăng nữa, CungTử Phong nhất định sẽ bảo vệ cậu!

Kết luận của Chu Tử Thư hoàn toàn xuất phát từ niềm tin của cậu với Cung Tuấn chứ chẳng có nguyên nhân nào khác cả. Thậm chí, cậu còn chưa nghĩ xem nếu Triệu Phụ muốn xử lí cậu thật, Cung Tuấn sẽ cứu cậu từ tay hoàng đế thế nào.

Nhưng mấy ngày tiếp theo, diễn biến của mọi chuyện dường như chứng minh rằng Chu Tử Thư nằm mơ bắt con tưởng bở rồi!

Sang tháng sáu, Triệu Phụ khỏe hẳn, các buổi triều lại được khôi phục như thường. Mùng ba tháng sáu, có viên quan miền Nam vào kinh yết kiến, dẫn theo một con hươu trắng như tuyết, khiến cả triều đình phải sửng sốt. Triệu Phụ vừa mới khỏe lại, thấy con hươu ấy thì ngạc nhiên lắm. Ông ta xuống khỏi ngai vàng, đi đến vuốt sừng con hươu trắng.

"Đây... đây là hươu trắng thật ư?"

Viên quan địa phương hành lễ, giọng nói dạt dào xúc động: "Bẩm bệ hạ, tháng trước một người dân làng ở địa phương thần trông coi đã tìm được con hươu này trong rừng. Người xưa có câu, chỉ khi đất nước có bậc quân Cunghiền minh, hươu trắng mới xuất hiện! Thần không dám chậm trễ, giục ngựa bất kể ngày đêm, dâng hươu thần lên bệ hạ. Tâu bệ hạ, đây chính là điềm lành ạ!"

Quần thần trên triều cũng hô theo: "Bệ hạ ban phúc muôn dân, trời giáng điềm lành!"

Nhận hươu trắng xong, Triệu Phụ vô cùng mừng rỡ. Khí sắc hơi nhợt nhạt chỉ sau một đêm đã tươi tỉnh hẳn. Hễ vui thì ông ta ban thưởng vô tội vạ cho người hầu kẻ hạ xung quanh. Phi tần hậu cung được thưởng đã đành, lũ thái giám hầu hạ cũng được hưởng lây vô số. Ngay cả Chu Tử Thư và hai Khởi Cư xá nhân khác cũng được ban thưởng.

Tan buổi triều, Triệu Phụ tự mình đến vườn nuôi thú ngắm con hươu, còn nói với Chu Tử Thư rằng: "Cảnh Tắc này, ngươi trông con hươu này mà xem, ngay cả lông mi nó cũng trắng."

Thái độ của Triệu Phụ với Chu Tử Thư hoàn toàn không có gì thay đổi.

Tô Ôn Duẫn cũng không gặp lại Chu Tử Thư nữa.

Xem ra, việc Triệu Phụ sai sử Tô Ôn Duẫn hoàn toàn không có liên quan gì đến Chu Tử Thư, cậu cả nghĩ rồi.

Thở phào nhẹ nhõm, Chu Tử Thư mới suy nghĩ ngược lại. Kỳ thực, quan hệ của cậu và Lương Tụng dù có đưa ra ánh sáng cũng không nguy hiểm gì. Thứ nhất Lương Tụng chỉ là thầy dạy vỡ lòng cho cậu, giờ thầy giáo của cậu đã là Phó Vị rồi. Dù Triệu Phụ biết cậu là học trò Lương Tụng đi chăng nữa, thì tình huống xấu nhất là ông ta sẽ xa lánh và thôi trọng dụng cậu. Trừ khi Triệu Phụ nhỏ nhen và đa nghi đến mức không thể tưởng tượng nổi, còn đâu ông ta sẽ không làm khó dễ Chu Tử Thư.

Huống hồ, Lương Tụng vừa từ trần, Chu Tử Thư đã đi một mạch lên Thịnh Kinh xin làm học trò Phó Vị, quả thực chẳng khác nào xăm luôn lên trán câu "Tôi muốn phủi sạch quan hệ với Lương Tụng".

Nếu Triệu Phụ có Thiên Nhãn thì may ra ông ta sẽ liên hệ được mục đích vào kinh làm quan của Chu Tử Thư với nhóm người Lương Tụng.

Việc này khiến Chu Tử Thư nơm nớp lo âu suốt nửa tháng, hôm nay nghĩ lại, thu hoạch lớn nhất ấy là cậu và Cung Tuấn đã xích lại gần nhau thêm một chút. Chu Tử Thư lần đầu tiên có suy nghĩ không giấu giếm gì nữa mà thành thật nói hết mọi chuyện cho Cung Tuấn.

Tháng bảy, Chu Tử Thư nhân ngày hưu mộc, xin nghỉ thêm mấy buổi để đi Ninh Châu.

||

Tôi thích cái đoạn "Chẳng phải ta vẫn luôn là sư huynh của đệ sao?" lắm.

Núi đao biển lửa cũng có sư huynh che chở cho em <3

Chú thích

*Nếu bạn nào không hiểu thì Chu Tử Thư nói thấy rõ sư huynh rồi là nhắc lại vụ lần trước sư huynh bảo Chu Tử Thư cầm đèn lồng đi tìm sư huynh thì chỉ thấy đầu hoặc chân thôi chứ không thấy cả người.

** Hưu mộc lần trước mình đã chú thích là ngày nghỉ cuối tuần của quan lại. 10 ngày tính làm một tuần, vị chi các quan được nghỉ ba ngày mỗi tháng.

[2] Thơ Ẩm tửu kỳ 5 – Đào Tiềm (thời Tấn). Bản dịch Trần Trọng Dương. Mặc cúc – Ảnh:

------oOo------

Chương 57

Nguồn: EbookTruyen.Net

Chớ nghe, chớ hỏi

Đây là lần thứ hai Chu Tử Thư lên miền Bắc, đích đến vẫn là Ninh Châu.

Lần này Đường Hoàng ở nhà, Diêu Tam đi cùng với Chu Tử Thư. Dọc đường, Diêu Tam đánh xe ngựa phía trước, Chu Tử Thư ngồi trong toa xe, chốc chốc lại vén rèm lên quan sát cảnh vật bên ngoài.

Từ Thịnh Kinh xuất phát, chiếc xe lăn bánh bon bon trên con đường quan đạo rộng thênh thang. Đường xây men theo bờ ruộng để không hại đến hoa màu ở các vùng nông thôn. Ngu bộ mở rộng nền đường hết sức có thể, phạt hết cỏ dại, san bớt gò núi, xây nên con đường cái bằng phẳng thuận tiện này. Đi được ba canh giờ thì hết phần đường được hoàn thiện. Ở cuối con đường, thợ thuyền khom lưng xúc đất, mải miết làm đường.

Chu Tử Thư và Diêu Tam đi vào đường vòng cũ. Vốn dĩ hai người đã đi được hai phần ba lộ trình rồi, khúc đường vòng này chỉ kéo dài khoảng một phần ba quãng đường thôi, nhưng đi mất bốn canh giờ mới đến Ninh Châu.

Thành Ninh Châu thăm nay sung túc hơn hẳn năm ngoái.

Chu Tử Thư và Diêu Tam đặt phòng tại một quán trọ. Sớm ngày hôm sau, Diêu Tam ra đường hỏi thăm chỗ ở của Viên ngoại Ngu bộ CungTiêu, quan ngũ phẩm ở bộ Công. Nghe ngóng xong, đến buổi chiều, Chu Tử Thư cầm một hộp đặc sản Thịnh Kinh và một hộp trà Bích Loa Xuân Cô Tô đến thăm nhà CungTiêu.

CungTiêu đi vắng, thê tử của anh tiếp đãi Chu Tử Thư.

Đến sẩm tối thì CungTiêu từ nha môn về. Gặp Chu Tử Thư, anh ta mừng rỡ khôn xiết: "Cảnh Tắc, sao ngươi lại đến đây?"

Chu Tử Thư đứng dậy bước tới: "Đại Nhạc huynh, lâu lắm mới gặp, gần đây khỏe không?"

"Ta khỏe lắm. Nhưng mà ngươi trả lời ta đã, sao lại đến thành Ninh Châu." CungTiêu bảo phu nhân nhà mình: "Mình xuống bếp nấu hộ tôi mấy món với. Cảnh Tắc cũng là người Giang Nam, cậu ấy hợp tay nghề của mình đấy."

Cungphu nhân cười duyên dáng, đi xuống bếp.

Đến đêm, Chu Tử Thư và CungTiêu cạn ly chuyện trò say sưa.

Tháng bảy là tháng nóng nhất, giờ mà ở Thịnh Kinh thì trong cung đã lấy băng ra giải nhiệt rồi. Nhưng ở Ninh Châu là cực Bắc của Đại Tống, thời tiết tuy nóng bức, chỉ cần một trận gió thổi qua là xua tan ngay, mát mẻ vô cùng.

Dùng cơm xong, Cungphu nhân cắt mấy miếng dưa hấu tráng miệng.

CungTiêu đắc ý nói: "Cảnh Tắc chưa thấy quả này đúng không? Quả này ở Thịnh Kinh là của hiếm đấy, chỉ dùng để tiến vua thôi. Tên nó là dưa hấu, đặc sản miền Tây Vực. Người Liêu thường buôn bán với Tây Vực, ta đến Ninh Châu mới được mở mang tầm mắt. Loại quả này tuy đắt nhưng không đến nỗi không mua được, thương lái người Liêu vẫn bán. Ngươi nếm thử đi, mát lắm, ăn đỡ nóng."

Chu Tử Thư đương nhiên biết dưa hấu thế nào, nhưng từ khi về thời cổ đại, đây là lần đầu tiên được ăn dưa hấu. Chu Tử Thư không khách khí, nhón miếng dưa ăn thử. Dưa nhiều nước mặc dù không ngọt lắm. Đến thế giới này lâu quá, Chu Tử Thư sắp quên mất chuyện kiếp trước, cũng không còn nhớ kĩ được giống dưa hấu thời hiện đại sau bao năm cải tạo đã trở nên ngon ngọt như thế nào. Hôm nay được ăn miếng dưa hấu rất đỗi bình thường thôi cậu đã cảm thấy mỹ mãn vô cùng rồi.

Chu Tử Thư không hề khách sáo, khen: "Sướng miệng thật!"

CungTiêu: "Ha ha ha ha, ăn thêm mấy miếng nữa đi." Ăn dưa hấu xong, hai người uống trà mát ở trong sân.

CungTiêu bày tỏ: "Ta đến Ninh Châu ba tháng nay, ngươi là người quen cũ duy nhất ta gặp đấy. Ninh Châu được cái tốt, chỉ tiếc là người quen chẳng có lấy một ai."

Chu Tử Thư: "Hôm nay gặp Đại Nhạc huynh, ta liền nghĩ đến một câu thành ngữ."

"Ồ, thành ngữ gì thế."

Chu Tử Thư cười: "Tâm khoan thể bạng1."

Cung Tuấn ngớ người ra: "Tâm khoan thể bạng cái khỉ gì, tâm khoan thể bàn chứ! Đường Cảnh Tắc ngươi ghê gớm nhỉ, chúng ta là tiến sĩ cùng khoa, mấy tháng không gặp nhau, ta hết lòng chiêu đãi ngươi, thế mà ngươi dám chê ta béo. Ta béo chỗ nào?"

[1] cùng chữ này đọc "bàn" (pán) thì là thảnh thơi (lòng thư thái thì người thảnh thơi), đọc là "bạng" (pàng) thì là béo.

Chu Tử Thư nhún vai: "Béo lên hay không, trong lòng Đại Nhạc huynh chẳng lẽ không rõ sao?"

"Ha ha ha ha." Hai người nhìn nhau cười phá lên.

Ở Thịnh Kinh, CungTiêu suốt ngày giam mình ở viện Hàn Lâm nước trong leo lẻo2. Đám tiến sĩ cùng khoa hết đứa này đến đứa nọ thăng quan tiến chức, mình thì lầm lũi khổ sở ở viện Hàn Lâm, làm sao mà không phẫn uất cho được? CungTiêu ngày ngày buồn bực u sầu, người ngợm gầy guộc héo hon. Ngược lại, Ninh Châu nơi anh ta chuyển đến là chốn trời cao hoàng đế xa. Ở cái miền này, mấy ai đè đầu cưỡi cổ nổi quan chức bộ Công? Chưa kể, anh ta còn được thăng quan. Gặp chuyện đáng mừng thế, tinh thần sảng khoái, thân thể đương nhiên cũng béo tốt khỏe mạnh lên.

[2] Gốc: thanh thủy nha môn – thành ngữ chỉ cơ quan nghèo túng, chẳngcó lợi lộc gì.

Chu Tử Thư kể khái quát tình hình Thịnh Kinh mấy tháng nay. Cung Tuấn bèn hỏi thẳng: "Cảnh Tắc, hôm nay cậu đến tìm ta có việc gì?"

Chu Tử Thư chắp tay thưa: "Không gạt Đại Nhạc huynh, quả thật ta có việc muốn nhờ. Đại Nhạc huynh cũng biết, họ Đường nhà ta ở phủ Cô Tô làm buôn bán, cũng có cơ ngơi nho nhỏ. Lầu Tế Hà ở Thịnh Kinh là sản nghiệp nhà ta, năm ngoái lúc mới khai trương Đại Nhạc huynh đã đến rồi đấy. Lầu Tế Hà chỉ chuyên bát hà cung, mà thịt dê thịt bò bán ra đều mua từ thương lái người Liêu cả."

Cung Tuấn đảo mắt, đã hiểu ý Chu Tử Thư rồi. Nhưng anh ta vẫn hỏi kĩ: "Cảnh Tắc, vậy ngươi định làm gì?"

Chu Tử Thư nói nghiêm túc: "Đại Nhạc huynh, xin hỏi quan đạo từ Ninh

Châu đến Thịnh Kinh có thể thông đường trong năm nay không? Ta đến Ninh Châu đã thấy một phần đường mới được hoàn thành rồi, chẳng hay phần còn lại sẽ dẫn đến những đâu? Nếu lấy tiểu thương làm ví dụ, thì di chuyển hai chiều giữa Thịnh Kinh và Ninh Châu, ước chừng tốn bao nhiêu thời gian?"

CungTiêu thở phào nhẹ nhõm, cười nói: "May chỉ là chuyện cỡ này, tuy ta là Lang trung ngũ phẩm, nhưng việc lớn hơn thì ta không giúp ngươi nổi."

Đoạn, CungTiêu bèn nói cho Chu Tử Thư biết con đường mới sẽ đi qua những thành và thị trấn nào.

Đến Ninh Châu ba ngày thì Chu Tử Thư và Diêu Tam sang trấn Lạc Hà để móc nối với những thương lái người Liêu mới. Sau khoảng nửa năm, Gia Luật Cứu đã sinh lòng ngờ vực với lầu Tế Hà. Vào đông, nhu cầu thịt dê, bò của lầu Tế Hà là cực kì lớn, mỗi ngày đều phải vận chuyển đến vài xe. Nhưng sang mùa hè, nhu cầu thịt lập tức sụt giảm rất nhiều.

Quản lí người Tống của Gia Luật Cứu có hỏi thăm Diêu Tam mấy bận, Diêu Tam lấp liếm hết. Nhưng đến mùa đông tiếp theo, chuyện này không thể bưng bít thêm được nữa.

Hai người mua mấy người làm công thông qua nha hành.

Trên đường trở về Thịnh Kinh, Chu Tử Thư cố ý đi vòng qua những huyện mà CungTiêu nhắc đến, nghiên cứu trước địa hình.

Đến khi hai người về Thịnh Kinh đã là một tuần sau.

Nghỉ ngơi một tối, hôm sau đến phiên Chu Tử Thư làm việc. Mới qua giờ Sửu, Chu Tử Thư đã mặc quan phục đi vào hoàng cung. Trong lúc bá quan đợi hoàng đế vào triều, Chu Tử Thư hỏi thăm hai Khởi Cư xá nhân khác trong Trung Thư tỉnh về những việc phát sinh gần đây. Trao đổi một hồi thì tới chuyện chỉ lệnh vừa được ban hành trên triều ngày hôm qua. Chu Tử Thư kinh ngạc: "Tuần Tra sứ?"

Một Khởi Cư xá nhân nói: "Đúng. Đường đại nhân mới về hôm nay nên không biết, hôm qua Thượng thư bộ Công Viên Mục – Viên đại nhân đích thân hồi kinh, bẩm báo tình hình thi công ba tuyến đường. Thánh thượng hết sức đẹp lòng, bèn phong cho ba người làm quan Tuần Tra sứ, ra lệnh cho họ lần lượt đến U Châu, Thứ Châu và Ninh Châu trong vòng ba ngày, rà soát tình hình xây dựng quan đạo. Ba người này là Thượng thư bộ Hộ Cungđại nhân, Thiếu khanh Đại lý tự Tô đại nhân, cùng với Tống đại nhân của Ngự Sử đài.

Cung Tuấn, Tô Ôn Duẫn, Tống Tuần.

Hai người trước không cần bài cãi, cả hai đều là sủng thần bậc nhất của Triệu Phụ rồi. Tống Tuần là quan Ngự Sử ở Ngự Sử đài, tuổi lớn hơn hai người kia một chút, nhưng là tâm phúc của Triệu Phụ đã lâu, từng nhiều lần mật đàm trong điện Thùy Củng với Triệu Phụ.

Hoàng đế phái người tuần tra tình hình làm đường, cả ba đều là thân tín của ông ta, xem chừng không có vấn đề gì cả.

Chu Tử Thư có chút ngạc nhiên, nhưng cậu chỉ giữ trong bụng chứ không thể hiện ra.

Tan triều, Triệu Phụ cho đòi Cung Tuấn, Tô Ôn Duẫn và Tống Tuần vào điện Thùy Củng, hỏi thăm tình hình chuẩn bị lên phía Bắc trong hai ngày tới của ba người bọn họ. Ba vị Tuần Tra sứ răm rắp trả lời, Triệu Phụ bèn ban cho mỗi người một chiếu chỉ, chính thức phong chức Tuần Tra sứ cho cả ba.

Sau buổi trưa, Chu Tử Thư phụng mệnh Triệu Phụ, mang tấu chương về nha môn Trung Thư tỉnh.

Buổi chiều Triệu Phụ muốn ngủ trưa, Chu Tử Thư có thể vắng mặt một lúc mà không có gì đáng ngại. Cậu trả tấu chương xong, nghĩ một hồi, lại đến gian làm việc chung của Thượng thư bộ Hộ và Thượng thư bộ Lễ. Lấy hết dũng khí gõ cửa thì ôi chao, trong phòng chỉ có hai viên quan thất phẩm đang trực.

Chu Tử Thư có phần lúng túng: "Cungđại nhân và Mạnh đại nhân không ở đây à?"

"Mạnh đại nhân đến Ngự Sử đài, Cungđại nhân hôm nay không làm việc ở Trung Thư tỉnh mà làm việc ở bộ Hộ. Đường đại nhân muốn gặp Cungđại nhân ạ? Nếu có việc gấp, hạ quan có thể đến bộ Hộ báo tin giúp."

"Không cần đâu!"

Chu Tử Thư ngượng chín mặt, vội vã ra về.

Chiều tà, Triệu Phụ tu tiên xong, Chu Tử Thư và hai Khởi Cư xá nhân rời khỏi hoàng cung.

Mới ra đến cổng cung, một người nom như xà ích chạy ra đón cậu. Người ấy nói với Chu Tử Thư rằng: "Đường đại nhân, mời qua đây."

Chu Tử Thư và hai người Khởi Cư xá nhân nghìn theo hướng chỉ của xà ích, liền thấy một cỗ kiệu rộng màu đỏ thẫm đỗ ngay cạnh cổng phụ hoàng cung, không biết đã chờ từ bao giờ. Quan viên Đại Tống phải từ nhị phẩm trở lên mới được dùng kiệu vải điều.

Xà ích nói: "Thượng thư đại nhân chờ ngài đã lâu."

Chu Tử Thư nhớ chiều hôm nay mình sang tìm Cung Tuấn mà công cốc, cậu ho nhẹ hai tiếng rồi đi tới.

Vén màn kiệu lên, Cung Tuấn đang cầm một cuốn sách, ngồi trong kiệu nhàn nhã đọc.

Chu Tử Thư đứng ngoài kiệu gọi: "Tử Phong sư huynh."

Cung Tuấn để sách xuống, nhìn sắc trời bên ngoài, nói: "Tuấng đà lên đến lưng chừng, tinh vân sà xuống giữa tầng thinh không. Tiểu sư đệ giờ này mới rời cung, đúng là tận tụy hết lòng, xứng đáng là rường cột quốc gia." Chu Tử Thư chẳng hiểu sao Cung Tuấn lại nói một tràng vô thưởng vô phạt như thế, song chàng đã nhích sang một bên, cười bảo: "Nào rường cột nước nhà, lên đây đi."

"Rường cột nước nhà" định lí sự, mà mở miệng ra lại cảm thấy CungTử Phong không nói kháy mình thì thôi, trả lời chi cho mất công. Cậu suy nghĩ chốc lát, rồi cũng chui vào kiệu.

Cung Tuấn nói: "Về phủ Thượng thư."

Kiệu được nâng lên, đi về hướng phủ Thượng thư.

Phủ Thượng thư và phủ Thám Hoa ở trên cùng một đường, nhưng trên lộ trình thì kiệu sẽ đến phủ Thám Hoa trước, qua hai con hẻm nữa mới đến phủ Thượng thư.

Cỗ kiệu lúc lắc trên đường. Cung Tuấn hỏi: "Chiều nay tiểu sư đệ đến điện

Cần Chính tìm ta à?"

Chu Tử Thư: "..."

CungTử Phong, huynh phải nuôi đến một trăm tai mắt trong cung đúng không hả?

Chu Tử Thư: "Hai vị đại nhân đệ gặp buổi chiều nói cho sư huynh rồi ạ?"

Cung Tuấn ngạc nhiên: "Đệ còn gặp người khác à, gặp ai thế?"

Chu Tử Thư: "..."

Huynh chắc chắn là có nuôi tai mắt thật rồi!

Chu Tử Thư: "Cũng không có việc gì đâu, chẳng qua hôm nay Thánh thượng sai đệ trả tấu chương về điện Cần Chính, đệ tiện đường định ngó sư huynh một cái. Tiếc là sư huynh vắng mặt nên đệ về thôi."

Cung Tuấn cười: "Trước đây mỗi lần đến điện Cần Chính, chẳng thấy tiểu sư đệ tiện đường sang ngó ta nhỉ?" Chu Tử Thư không đáp.

Cung Tuấn cười tủm tỉm, dài giọng: "Tiểu sư đệ?"

"Đúng là có việc thật."

Nụ cười trên mặt Cung Tuấn vụt tắt, có thể thấy sự ngạc nhiên trong ánh mắt chàng, dường như chàng không lường trước được Chu Tử Thư sẽ thẳng thắn thế này. Cung Tuấn yên lặng nhìn Chu Tử Thư. Chu Tử Thư hít sâu một hơi, dứt khoát đi thẳng vào vấn đề: "Đệ mới về Thịnh Kinh liền nghe chuyện sư huynh sắp đến U Châu. Sư huynh thân là Thượng thư bộ Hộ, về lý mà nói việc tuần tra không đến phiên huynh phải lo, bộ Hộ còn rất nhiều việc cần sư huynh lo toan. Vì thế, đệ có chút ngỡ ngàng, vả lại đệ nghĩ sư huynh sắp rời kinh thành, nên muốn đến gặp huynh một lát." Cung Tuấn nhíu mày, không trả lời.

Chu Tử Thư nhận thấy có gì đó bất ổn, bèn gọi chàng: "Sư huynh?'

Lúc này, kiệu đến trước phủ Thám hoa. Phu kiệu dừng lại, hỏi: "Đại nhân, có dừng ở đây không ạ?"

Chu Tử Thư vén rèm kiệu, thấy đã đến nhà mình. Cung Tuấn lặng thinh, Chu Tử Thư cũng không biết phải nói gì. Nếu giữ thái độ trước đây của cậu với Cung Tuấn, cậu sẽ không nói trực tiếp như vậy. Cậu cứ tưởng với tình sư huynh đệ thân thiết giữa mình và Cung Tuấn, cậu có thể tin tưởng Cung Tuấn, chí ít là tin một nửa. Nhưng hôm nay xem ra cậu chỉ có thể nghe theo lời Lương tiên sinh, vĩnh viễn ôm tâm lý đề phòng CungTử Phong.

Chu Tử Thư nói: "Sư huynh, đến nhà đệ rồi, đệ xuống trước ạ." Nói rồi, Chu Tử Thư định xuống kiệu.

Cậu vừa mới đứng dậy, chưa xốc màn kiệu lên, Cung Tuấn đã nắm cổ tay cậu kéo lại.

Chu Tử Thư ngạc nhiên quay đầu lại, chỉ thấy nét mặt CungTử Phong hết sức bình tĩnh, ánh mắt nhìn cậu thẳm sâu mà phẳng lặng. Chàng cất tiếng nói nhẹ nhàng: "Tiểu sư đệ, ta sắp phải xa Thịnh Kinh một thời gian. Có bốn chữ này, hy vọng đệ nhớ kĩ lấy."

"Chớ nghe, chớ hỏi."

||

------oOo------

Chương 58

Nguồn: EbookTruyen.Net

Mưa lớn ở sông Kinh Hà

Cuối tháng bảy, ba vị Tuần Tra sứ lần lượt rời Thịnh Kinh.

U Châu là tiền tuyến giao tranh giữa Tống và Liêu, nhưng sau hòa ước mười tám năm trước, hai nước không tổ chức chiến dịch chính thức nào ở khu vực này nữa, chỉ có xung đột rải rác, nhỏ lẻ ở U Châu thôi. Nơi Cung Tuấn đến là U Châu, vốn nguy hiểm hơn nơi Tô Ôn Duẫn và Tống Tuân được phân công; song khi Chu Tử Thư tiễn chàng, chàng chẳng nói gì mà chỉ cười bảo: "Tiễn người ngàn dặm cuối cùng vẫn phải từ biệt, tiểu sư đệ, đừng tiễn nữa."

Xe ngựa lộc cộc lăn bánh rời khỏi cổng thành. Cung Tuấn và các quan lại, binh lính hộ tống dần dần khuất bóng ở chân trời.

Cuộc sống lại trôi qua từng ngày.

Chẳng mấy chốc đã gần đến giữa tháng Tám – tết Trung Thu đoàn viên, ba vị Tuần Tra sứ cũng sắp hồi kinh rồi. Chiều hôm ấy đến phiên Chu Tử Thư trực, Triệu Phụ đang thiền trong thiên điện1 của điện Thùy Củng, nghe Giám chính Khâm Thiên giám Lý Tiêu Nhân giảng đạo. Bỗng nhiên, một thái giám trẻ quýnh quáng đi vào trong điện, ghé tai Đại thái giám Quý Phúc thì thầm mấy câu.

[1] Thiên điện là gian nhỏ hơn, nằm mé bên chính điện.

Tức thì, Quý Phúc biến sắc.

Lúc Triệu Phụ tu tiên tuyệt đối không cho phép ai quấy rầy, nhưng lúc nghe giảng đạo thì không nghiêm đến thế, tuy Triệu Phụ vẫn nổi giận nếu bị cắt ngang.

Song Quý Phúc không quản nhiều đến thế, lão ta khom người hành lễ, nói:

"Bẩm quan gia, Ngu bộ Lang trung bộ Công – Cao Duy, xin cầu kiến ạ." Triệu Phụ chậm rãi mở mắt, lạnh nhạt lườm Quý Phúc. Quý Phúc sợ run cả người, cúi gằm mặt xuống sàn.

Triệu Phụ: "Cho vào."

Quý Phúc hô lên the thé: "Cho Ngu bộ Lang trung Cao Duy vào yết kiến!"

Không lâu sau, một người đàn ông trung niên tầm bốn mươi tuổi, mặc quan bào màu đỏ, tiến vào điện.

Triệu Phụ quay về chính điện, Chu Tử Thư và Khởi Cư xá nhân ngồi hai bên, chuẩn bị ghi chép.

Lang trung là chức quan ngũ phẩm. CungTiêu – tiến sĩ cùng khóa với

Chu Tử Thư cũng là Ngu bộ Lang trung giống ông Cao đại nhân này. Chức Lang trung ở bộ Công phải có đến hơn mười người; trong mấy lần đến điện Cần Chính, Chu Tử Thư mới gặp ông Cao đại nhân này một lần trong, ngoài ra chưa gặp nhau lúc nào khác.

Lúc này, mặt mũi Cao Duy tái nhợt, trán lấm tấm mồ hôi. Ông ta vừa thấy Triệu Phụ thì quỳ phịch xuống.

Đại Tống gần như đã loại bỏ lễ quỳ rồi. Cao Duy quỳ một cái, Chu Tử Thư thót tim, Triệu Phụ cũng nheo mắt. Cao Duy cố gắng nói cho rành rọt, nhưng cả người ông ta cứ run cầm cập nên giọng cũng run rẩy theo. Còn những điều ông ta tâu trình, thì không khác gì sấm đánh ngang tai, nện từng tiếng lên sàn gạch dát vàng: "Thần bái kiến thánh thượng. Thần từ Thứ Châu về đây. Nửa năm trước thần lĩnh chỉ đi Thứ châu xây quan đạo. Từ khi vào hè, miền Bắc liên tục mưa xối xả. Chiều hôm qua, trời mưa như thác đổ. Cơn mưa ấy đã... cuốn trôi một cây cầu trên quan đạo."

Chu Tử Thư nhấc bút lên chuẩn bị ghi, nghe thế liền ngẩng phắt đầu, sững sờ nhìn Cao Duy.

Hồi lâu, Triệu Phụ chậm rãi nói: "Một cây cầu à?"

Cao Duy cúi gằm mặt: "Tâu bệ hạ, là cầu bắc qua sông Kinh Hà2 ạ."

[2] Sông Kinh Hà thuộc tỉnh Sơn Đông

Triệu Phụ: "Có thương vong không?"

Cao Duy im thin thít mấy giây, tiếng nói lí nhí dần: "Số người chết, hiện vẫn chưa thống kế được hết..."

"Khốn kiếp!"

"Chát..."

Triệu Phụ vớ một quyển tấu trên bàn ném trúng đầu Cao Duy. Trán Cao Duy giàn giụa máu. Ông ta không dám kêu đau, khấu đầu lạy: "Thần biết tội!"

Ngày mùng chín tháng tám năm Khai Bình thứ hai mươi tám, mưa lớn ở sông Kinh Hà, cuốn sập cây cầu đang xây dở. Gần một trăm người thiệt mạng vì cơn lũ, gây nên nỗi kinh hoàng cho cả triều đình và nhân dân.

Miền Bắc ít sông ngòi, sông Kinh Hà là con sông dài nhất mạn Bắc đại

Tống. Con sông này khởi nguồn từ Hứa Châu, chảy vào Thứ Châu và Cảnh

Châu, là nguồn nước chính cho ba châu miền Bắc đấy. Để làm đường từ

Thịnh Kinh đến Thứ Châu không thể không đi qua sông Kinh Hà. Với Chu Tử Thư thì sông Kinh Hà nhỏ hơn sông Trường Giang rất nhiều. Ở thời hiện đại, xây một cây cầu bắc qua sông Kinh Hà không phải hề khó khăn. Nhưng trong thời đại này, đây là một công trình lớn.

Đường đến Thứ Châu khó thi công hơn đường đến Ninh Châu, chính là vì phải xây cây cầu bắc ngang sông ấy.

Nhưng không ai lường trước cầu sẽ sập ngay khi mới xây một nửa!

Cả triều đình khiếp hãi, hoàng đế nổi giận đùng đùng.

Dưới cơn thịnh nộ của thiên tử, thây chất đầy đồng, máu tuôn vạn dặm.

Hôm sau lên triều, Triệu Phụ không thèm kiềm chế, nhẫn nại như mọi ngày nữa, quát ầm cả lên.

"Gạo tốt Thanh Khoa của triều đình là để nuôi lũ ăn tàn phá hại chúng bay đúng không? Hôm trước trẫm vừa nghe Thứ Châu báo tin, tình hình rất tốt, tất cả đều thuận lợi. Hôm nay quân bay lại bảo trẫm, cầu sập rồi, tai nạn rồi. Quân bay làm ăn như vậy đó hả, mở đường cho trẫm như thế đấy hả?" Cả triều đình im thin thít, không ai dám mở miệng.

Kỳ thực các quan ở đây ai cũng thấy oan uổng. Việc làm đường chủ yếu do bộ Công phụ trách, các bộ Lại, bộ Binh và quan địa phương đều chỉ có nhiệm vụ hỗ trợ. Nếu cầu sập thì trách nhiệm lớn nhất vẫn thuộc về bộ Công; lỗi ở quan viên bộ Công sơ sót trong khâu thiết kế cầu, không tính đến tình huống mùa hè năm nay sẽ có mưa lớn. Mà giả dụ năm nay cầu không sập, sau này nhất định sẽ sập. Khốn nạn thay cho đám quan lại này, cầu lại sập ngay lúc đang xây dựng, đè chết mấy chục người và khiến hàng chục người khác chết đuối. Giả sử như về sau cầu mới bị sập, chỉ thiệt mạng vài người, hoặc không ai thiệt mạng, có khi Triệu Phụ sẽ không giận dữ đến vậy.

Song kỳ thực, Triệu Phụ không tức vì vụ tai nạn làm chết gần một trăm người thợ và mấy quan viên. Các quan lớn đang ngắm sàn điện Tử Thần ở đây đều biết, Triệu Phụ tức vì mất thể diện, ông ta cảm thấy quan lại dưới quyền không ra sức cống hiến vì mình.

Đấy mới là cái gai trong lòng ông ta.

Triệu Phụ xả giận xong, Trung Thư Tả Thừa Trần Lăng Hải – Trần tướng công tiến lên một bước, nói: "Việc ở Kinh Hà vô cùng cấp bách. Thần đề nghị, bệ hạ phái thêm một Giám sát Sứ đến điều tra rõ."

Triệu Phụ hỏi: "Trần khanh tiến cử ai?"

Trần Lăng Hải nói: "Theo ý thần, Kỷ đại nhân Kỷ Tri của Ngự Sử đài là người đảm đương nổi việc này."

Trong buổi triều, các tướng công của Trung Thư tỉnh chốt danh sách đoàn giám sát, ngày kia sẽ cắt cử đến Thứ Châu. Hôm nay không phải phiên trực của Chu Tử Thư; hôm qua cậu đã được chứng kiến cơn thịnh nộ của Triệu Phụ ở điện Thùy Củng rồi, nghe nói hôm nay lên triều Triệu Phụ lại nổi bão một lần nữa, cậu cũng không lấy làm lạ. Bất ngờ thay, buổi chiều, một thái giám đến nha môn Trung Thư tỉnh mời Chu Tử Thư tiến cung, nói rằng Triệu Phụ triệu kiến cậu.

Chu Tử Thư vô cùng ngạc nhiên, lập tức đi theo thái giám ấy vào cung.

Thường vào giờ này Triệu Phụ đang làm việc trong điện Thùy Củng, thế mà hôm nay thái giám lại dẫn Chu Tử Thư sang đài Đăng Tiên. Thái giám không được vào, Chu Tử Thư chờ bên ngoài một lúc thì có Quý Phúc ra dẫn cậu vào trong.

Đài Đăng Tiên là nơi Triệu Phụ xây dựng riêng cho việc tu tiên của mình.

Đây là cung điện cao ba tầng duy nhất trong hoàng cung. Thường ngày Triệu Phụ đều tu hành trong đại điện ở tầng một, nhưng hôm nay, Quý Phúc dẫn Chu Tử Thư lên tận tầng ba. Chu Tử Thư lên đến nơi thì thấy Triệu Phụ đang dựa vào lan can ngắm nhìn toàn cảnh hoàng cung.

Chu Tử Thư: "Thần – Chu Tử Thư, tham kiến bệ hạ."

Triệu Phụ không quay lại, ông ta nhìn đình đài lầu các trong cung, chỉ về một nơi phía xa, hỏi: "Cảnh Tắc có biết, kia là đâu không?"

Chu Tử Thư nhìn theo hướng ông ta chỉ. Ấy là một tòa cung điện chóp vàng lợp ngói lưu ly, to lớn như các cung điện khác. Chu Tử Thư chỉ được đi một số chỗ trong cung, nên căn bản cậu không thể biết cung đấy là cung nào.

Cậu thành thật đáp: "Thần không biết ạ."

"Đó là điện Bạch Lộc, do trẫm tự tay đề tên, dùng làm nơi nuôi con hươu trắng kia."

Chu Tử Thư cúi đầu nhìn xuống đất, không nói câu nào. Câu làm Khởi Cư xá nhân, rồi thăng lên Khởi Cư lang đã được một năm, tuy chẳng dám nhận là đoán được hết ý vua, nhưng cậu biết lúc này Triệu Phụ không cần câu trả lời của cậu.

Quả nhiên, Triệu Phụ nói tiếp: "Trời ban điềm lành, phù hộ Đại Tống, đấy là câu lũ ăn hại ấy nói cách đây hai tháng. Hôm nay, cái phước lành trời ban chúng cho trẫm xem mới vĩ đại chừng nào! Cảnh Tắc, ngươi có bằng lòng đến Thứ Châu thay trẫm một chuyến không?"

Chu Tử Thư sững sờ, vô vàn suy nghĩ bùng nổ trong nháy mắt, cậu không tài nào đoán nổi Triệu Phụ có ý gì. Ngoài mặt, Chu Tử Thư cung kính hành lễ, nói: "Thần không dám3. Thần là Khởi Cư lang, nhiệm vụ của thần là chép lại những gì bệ hạ làm hàng ngày."

"Cảnh Tắc không muốn ư?"

Ngón tay Chu Tử Thư run lên, mạch ý tưởng ào lên như cơn lũ, hàng trăm câu trả lời vút qua trong tâm trí cậu. Cuối cùng, Chu Tử Thư ngẩng đầu, nhìn Triệu Phụ bằng ánh mắt đầy âu lo và hãi sợ, nhưng nói bằng một giọng kiên định vô cùng: "Thần nguyện san sẻ gánh lo vì bệ hạ!"

Ánh nhìn của Triệu Phụ đầy bao dung và ấm áp, ông ta mỉm cười: "Ngày mai, Cảnh Tắc hãy khởi hành cùng bọn Kỷ Tri. "

Chu Tử Thư siết ngón tay, nói: "Thần tuân mệnh."

Chu Tử Thư rời khỏi đài Đăng Tiên, bước chân thoăn thoắt, nét mặt lo âu.

Sau khi cậu đi, Triệu Phụ đứng trên tầng ba tòa lầu ngắm nhìn hoàng cung với gương mặt lạnh nhạt, dáng vẻ tươi cười hòa nhã khi nói chuyện với Chu Tử Thư lúc nãy đã biến mất.

Chu Tử Thư trở lại nha môn, đau đầu suy nghĩ mà vẫn không thể giải mã được ý đồ của Triệu Phụ.

Nhóm của Kỷ Tri gồm toàn quan lại do các tướng công Trung Thư tỉnh chỉ định đi làm Giám sát Sứ ở Thứ Châu trong buổi triều hôm nay. Triệu Phụ chẳng những bổ sung cậu vào đoàn Giám sát Sứ, còn yêu cầu cậu cứ ba hôm lại viết mật báo gửi về kinh, tường thuật những việc xảy ra ở Thứ Châu.

"... Ông ta muốn mình làm tai mắt cho ông ta." Chu Tử Thư kết luận.

Chu Tử Thư không biết tại sao Triệu Phụ lại giao trách nhiệm này cho cậu.

Nếu cần người mật báo về từ Thứ Châu, Triệu Phụ nên chọn một tâm phúc mà ông ta tín nhiệm. Trùng hợp thay, sự lựa chọn tốt nhất của ông ta, đáng lẽ phải là Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn, người được phái đi Thứ Châu làm Tuần Tra sứ đến nay vẫn chưa về. Nhưng Triệu Phụ lại cho gọi Chu Tử Thư mà không hề nói một chữ nào về Tô Ôn Duẫn cả.

Triệu Phụ và Tô Ôn Duẫn mâu thuẫn với nhau ư?

Triệu Phụ không tin cậy Tô Ôn Duẫn?

Lần này Triệu Phụ sai cậu đi Thứ Châu là để điều tra vụ việc sông Kinh Hà hay để điều tra Tô Ôn Duẫn?

Trước mắt Chu Tử Thư là một tòa thành bị che phủ bởi sương mù dày đặc, cậu không lùi bước nổi, bị Triệu Phụ đẩy vào trong.

Hồi lâu, Chu Tử Thư thở hắt ra.

"Chớ nghe, chớ hỏi... CungTử Phong, lẽ nào huynh đã dự đoán được tình huống ngày hôm nay?" Suy luận một hồi, Chu Tử Thư lại thấy giả thuyết ấy thật vô lí, cậu cười giễu bản thân. Dù CungTử Phong thần cơ diệu toán đến mấy cũng không thể nào tính được sau nửa tháng có trận mưa lớn cuốn sập cầu sông Kinh Hà.

Cung Tuấn đang ở tận châu U, chưa về kinh. Chu Tử Thư dẫu muốn tìm chàng để hỏi cũng không có cách nào.

Nhưng Cung Tuấn đã dặn: Chớ nghe, chớ hỏi.

"Việc đi Thứ Châu không cứu vãn nổi, mình cũng không tự chọn con đường này. Nhưng khi đến nơi thì đành... chớ nghe, chớ hỏi vậy."

Hôm sau, Giám sát Ngự sử Kỷ Tri dẫn đầu một nhóm quan, rời kinh thành lên phía Bắc, nhằm hướng Thứ Châu.

Trên đường, họ không đi ngang qua khu vực cầu sông Kinh Hà bị cuốn trôi mà đi đường vòng cũ dẫn thẳng đến Thứ Châu. Tới trước thành, phủ doãn, quan đồng phán, quan lại các cấp ở Thứ Châu, cùng toàn bộ các quan chịu trách nhiệm làm đường thuộc bộ Công, bộ Lại, bộ Binh đều ra cổng thành tiếp đón.

Đứng đầu các quan là Tả thị lang bộ Công Tạ Thành và Tả thị lang bộ Hộ

Từ Lệnh Hâu. Bên cạnh họ, Thiếu khanh Đại lý tự, Tuần Tra sứ Thứ Châu Tô Ôn Duẫn mặc quan bào đỏ thẫm cũng đứng đó. Tô Ôn Duẫn nhìn lướt qua toàn độ Giám sát Sứ, chợt phát hiện Chu Tử Thư đứng lẫn trong đám ấy, làn thu thủy sóng sánh lóe lên một tia sáng rất mảnh, rồi lại lướt đi.

Trước thành Thứ Châu, Tạ Thành và Từ Lệnh Hậu bước lên một bước, hô:

"Hạ quan Tạ Thành / Từ Lệnh Hậu, xin được ra mắt Giám sát Sứ đại nhân."

||

Gõ "làn thu thủy" xong cứ ngồi cười vì nó cứ sên sến làm sao. Làn thu thủy nét xuân sơn. Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh ~

[3] Chỗ này Chu Tử Thư dùng từ "惶恐" có nghĩa là sợ hãi hoặc hổ thẹn, hoặc dùng để tỏ ý nhún nhường. Mình dùng "không dám" cho thoát ý.

------oOo------

Chương 59

Nguồn: EbookTruyen.Net

Quan trường

Tạ Thành và Từ Lệnh Hậu là quan Thị lang tam phẩm. Kỷ Tri là Giám sát

Ngự sử của Ngự Sử đài, có chức trách giám sát tất cả các quan lại, giữ gìn khuôn phép triều đình. Nghe danh oai phong là thế, nhưng chức quan này chỉ xếp vào hàng lục phẩm, còn thấp hơn Chu Tử Thư một cấp. Tuy vậy, ở thành Thứ Châu không ai dám coi thường Kỷ Tri hết.

Ông ta là Giám sát Sứ do hoàng đế bổ nhiệm, trước khi vụ việc cầu sông Kinh Hà được giải quyết xong xuôi, tánh mạng gia quyến toàn thể các quan trong thành Thứ Châu đều nằm trong tay ông ta cả.

Đoàn Giám sát Sứ vào thành Thứ Châu xong thì đến thẳng nha môn phủ doãn.

Kỷ Tri là một người đàn ông tầm tuổi trung niên, tương mạo nghiêm nghị, cứng rắn và lạnh lùng. Các quan trong Ngự Sử đài tuy phẩm cấp thấp nhưng trong triều đình không phải sợ ai cả, bởi cơ quan này chịu sự quản lí trực tiếp của hoàng đế và chỉ nghe lệnh của hoàng đế mà thôi. Ngoài đức vua ra, không ai được quyền sai sử họ.

Vào nha môn phủ doãn, Kỷ Tri ngồi luôn vào ghế chủ tọa, không cần phải nhường ai.

Ông ta nhìn một lượt xung quanh, nói bằng thứ giọng lạnh ngắt: "Các vị đại nhân, hạ quan phụng chỉ Thánh thượng đến Thứ Châu, hẳn chư vị cũng biết mục đích chuyến đi này là gì. Mưa to ở Kinh Hà làm sập cầu, gây tử thương cho gần một trăm thợ khéo và quan viên, khiến Thánh thượng nổi giận lôi đình. Việc này tuyệt đối không thể qua loa lấy lệ. Mấy ngày tới, xin các vị đại nhân hãy phối hợp để chúng ta dễ bề làm việc."

Mọi người đáp: "Vâng."

Kỷ Tri nhanh chóng chia đoàn Giám sát Sứ ra thành hai nhóm. Một nhóm ở lại thành Thứ Châu, còn nhóm kia đi theo ông ta đến sông Kinh Hà khảo sát hiện trường. Chu Tử Thư bị phân vào nhóm ở lại thành.

Thiệt hại gần trăm nhân mạng, thiên tai chỉ góp một phần, yếu tố con người không thể nào coi nhẹ.

Sự cố vừa xảy ra, quan phụ trách xây dựng cầu sông Kinh Hà lập tức bị tống giam. Những người thợ có liên quan đến vụ việc đều bị hạ ngục. Hữu thị lang bộ Công – Tạ Thành dẫn đoàn Giám sát Sứ vào nhà lao Thứ Châu để chọn một số quan lại và thợ thuyền lên nha môn thẩm vấn.

Trong ngày hôm ấy, các quan viên và thợ thủ công được chọn ra từ đại lao đều bị xét hỏi hết ở nha môn.

Chu Tử Thư đi theo đoàn Giám sát Sứ đến nhà giam, thấy các quan viên bị lột sạch mũ mão, quan bào cũng lấm bùn. Họ gầy gò và ốm yếu đến thảm hại, song mỗi buồng giam chỉ nhốt ba đến bốn người, trông tinh thần các quan vẫn không đến nỗi. Trái lại, các thợ thủ công bị đối xử tàn tệ, người ta đã nhồi nhét hơn hai mươi người thợ vào một nhà giam vừa hôi hám vừa bẩn thỉu. Giữa mùa hè oi bức, có người thợ bị lôi tới nha môn mà mặt cứ dại ra, không trả lời nổi câu hỏi.

Quan với dân phạm tội, chẳng bao giờ trông mong được đối xử ngang hàng.

Chu Tử Thư ngồi trong nha môn, bỗng cảm thấy xót xa khôn tả.

Ánh nhìn của cậu từ từ hướng về trung tâm của đại sảnh, chĩa thẳng vào Hữu thị lang Tạ Thành ngồi ngay dưới ghế chủ tọa.

Trong số các quan có tội, chức to nhất phải kể đến Tạ Thành! Thế mà gã ta vẫn chưa hề bị tống giam, còn được ngồi đây tiếp đón đoàn Giám sát Sứ, thẩm vấn phạm quan. Đúng là quan trường!

Chu Tử Thư ngồi một góc im ắng, thỉnh thoảng ghi biên bản. Cuối ngày, cậu soạn lại tổng thể những việc xảy ra trong trận mưa to ở sông Kinh Hà.

Đầu tháng Tư, các quan và thợ thủ công di chuyển đến Thứ Châu chuẩn bị mở đường. Hạ tuần tháng Tư, họ đến khu vực sông Kinh Hà và khởi công bắc cầu. Do cây cầu này là hạng mục khó thi công nhất, nên Tạ Thành chuẩn bị mất nửa năm, dự định xây cầu trước, sau đó lấy cây cầu này làm trung tâm để mở đường về hai hướng Bắc, Nam.

Khó làm trước dễ làm sau, phương án của Tạ Thành không sai, nhưng không ai lường trước được việc cầu sẽ bị sập trong trận mưa to cả.

Nguyên nhân chính của sự kiện lần này là thiên tai.

Miền Bắc ít khi có mưa to, nhưng không may, năm nay là năm mưa lớn. Sông ngòi phương Bắc thưa thớt, chỉ có sông Kinh Hà là con sông to nhất, dòng chảy xiết nhất thì họ thi công ở đúng nơi đây. Hai yếu tố thiên nhiên hợp lại với nhau, cầu vừa xây được một nửa nước sông đã dâng cao, mưa tuôn xối xả, thế là cầu sập.

Sau ngày làm việc đầu tiên, đoàn Giám sát Sứ đã lý giải được phần lớn vụ việc.

Kỷ Tri rời Thứ Châu, giao nhiệm vụ chỉ huy đoàn Giám sát Sứ cho Thủy bộ Lang trung họ Quách ở bộ Công. Ông này là quan ngũ phẩm, nhưng vì đang đảm nhiệm chức Giám sát Sứ nên Tạ Thành và Từ Lệnh Hậu đều coi ông ta là thượng cấp, vô cùng tôn kính.

Quách Lang trung thẩm vẩn xong các quan viên và thợ thủ công thì bảo:

"Hôm nay đến đây thôi, ngày mai thẩm vấn tiếp."

Các quan thưa: "Dạ."

Đoàn Giám sát Sứ đến trạm dịch Thứ Châu trọ lại.

Hôm nay là ngày đầu tiên Chu Tử Thư đến Thứ Châu, lệnh của hoàng đế là cứ ba ngày cậu phải viết một bức thư gửi về, nhưng không nói bức thư đầu tiên phải chờ ba ngày sau mới viết. Chu Tử Thư ngồi trong phòng, nhắm mắt suy tư, hồi tưởng lại hết một lượt những việc mình nhìn thấy, nghe thấy ở nha môn Thứ Châu ngày hôm nay, đoạn lấy giấy bút ra viết thư.

"Kính tâu đức Chí Thượng, thần khó nén kinh hãi, nếu có gì sai sót, tội đáng muôn chết.

Rằm tháng Tám vừa qua, thần và đoàn Giám sát Sứ đến Thứ Châu. Các quan trong thành đều ra cổng đón chào... "

Viết hết những điều tai nghe mắt thấy hôm nay là hết một tờ giấy. Chu Tử Thư thổi khô mực rồi bỏ thư vào bao, cẩn thận dán kín. Đến chỗ quan sở tại ở trạm dịch, Chu Tử Thư lấy lệnh bài ra, nói: "Gửi phong thư này đến Thịnh Kinh, ra roi thúc ngựa."

Quan phụ trách truyền tin giữa hai đầu thấy lệnh bài này thì hết hồn, nhận thư rồi nói ngay: "Dạ."

Người đưa thư nhanh chóng nhận thư, cưỡi khoái mã rời khỏi Thứ Châu.

Cùng lúc đó, ở trạm dịch U Châu.

Thượng thư bộ Công Viên Mục ngồi trong một căn phòng sạch sẽ trang nhã, nhấc ấm trà bằng sứ Thanh Hoa tự châm một chén. Cẩn thận nhấp môi thưởng thức, ông ta xuýt xoa: "Giáo kia treo một cờ này1, vị đi tươi mát vị về ngọt thơm, trà ngon lắm! Đúng là Bích Loa Xuân hái trước tiết Thanh Minh. Quả nhiên, ở chốn khỉ ho cò gáy U Châu, chỉ đến phòng Cungđại nhân mới có thể uống trà ngon bực này. Tiếc là ngày mai ngài phải đi rồi.

Cungđại nhân, để lại ít lá trà được không?"

[1] Chỉ búp trà non mới mọc một lá, tức là loại cực phẩm.

Cung Tuấn thổi nhẹ làm mặt trà gợn sóng, phong thái rất mực ung dung, lời nói lại khiến người ta lộn ruột: "Mơ hão."

Viên Mục chẳng khách sáo, rót tiếp một chén.

Ngoài trời mưa tầm tã, tiếng mưa xối trên khung cửa sổ nghe rì rào rì rào. Trong phòng, Viên Mục nói: "Năm nay cũng kì lạ thật. Mưa to thế này ở miền Bắc hiếm lắm, xui thay trúng năm nay thì mưa lớn, đúng là ông trời trêu ngươi. Nếu không có trận mưa cỡ này, cầu sông Kinh Hà có lẽ không sập được."

Cung Tuấn: "Viên đại nhân cũng tinh thông thiên văn, khí tượng quá nhỉ?"

Viên Mục: "Gọi là biết võ vẽ thôi chứ có thạo lắm đâu."

Hai người ngồi đối diện nhau. Được một lát, Viên Mục nói: "Đáng lẽ trước Trung thu là ngài được về rồi đấy. Tiếc là xảy ra việc này nên phải kéo dài đến tận hôm nay."

"Cuối tháng Viên đại nhân mới về Thịnh Kinh à?"

"Đương nhiên. Lúc ấy về kinh rồi, ta có đến phủ Thượng thư bộ Hộ xin Cungđại nhân một chén Bích Loa Xuân, ngài phải cho ta đấy nhé." Cung Tuấn mỉm cười không đáp.

Viên Mục đứng lên, đi ra đóng cửa sổ cho mưa khỏi hắt vào nhà. Lúc chuẩn bị đóng cửa, tự dưng ông ta lại ngẩng lên bầu trời đen kịt vần vũ, lặng ngắm hồi lâu, đoạn nói: "Hoàng thượng phái ngài tới U Châu để điều tra gì đấy?"

Cung Tuấn không buồn ngẩng lên, chỉ chăm chú thắp nến trong phòng, bình tĩnh đáp: "Chẳng phải Viên đại nhân đã đoán được từ sớm rồi hay sao?"

Viên Mục đóng cửa sổ lại, quay ra nhìn Cung Tuấn, cười: "Ta đoán thì đúng thật, nhưng người phải tiếc là Cungđại nhân chứ. Đi cả một chuyến mà đến nhầm chỗ, rõ uổng công! Nói vậy chứ trên đời này dù là ta, ngài, hay thánh thượng đi chăng nữa cũng không thể tiên đoán miền Bắc đổ mưa dữ dội đến thế, sập cả cầu sông Kinh Hà. Thằng ôn kia đúng là người mang mệnh trời, chuyện ngon ăn nào cũng đến lượt nó xơi! Ta là ta ghen tị lắm đấy!"

Cung Tuấn hết sức ngạc nhiên: "Viên đại nhân mà lại ghen tức với một quan tứ phẩm nhỏ nhoi à?"

Viên Mục nói sâu xa: "Nhỏ nhoi ư? Chỉ e ta về đến Thịnh Kinh, người ta đã thành đại thần tam phẩm từ tám mươi đời, có khi ngang cấp với hai chúng ta luôn ấy chứ!"

Trong phòng hoàn toàn yên tĩnh, không ai nói nữa.

Viên Mục uống nốt một chén trà rồi đứng dậy đi về. Bỗng Cung Tuấn nói: "Hộp Bích Loa Xuân này xin Viên đại nhân hãy cầm theo." Viên Mục quay lại, ngạc nhiên nhìn chàng.

Cung Tuấn cười nói: "Vốn là mang đến cho ngài đấy."

Viên Mục nhìn Cung Tuấn hồi lâu, cười gượng gạo: "Người ta hay bảo bữa cơm đầy thịt là bữa cuối của tử tù, sao ta cứ nghĩ, Cungđại nhân tặng ta hộp Bích Loa Xuân cực phẩm này là để tiễn ta đi nốt chặng đường cuối nhỉ?"

"Sao Viên đại nhân lại nghĩ thế?" Cung Tuấn tỏ vẻ kinh ngạc.

Viên Mục đối mặt với chàng một hồi cũng thấy dở khóc dở cười: "CungTử Phong, đừng nói thêm gì nữa, hẹn tháng sau tái ngộ ở Thịnh Kinh!"

Cầm hộp Bích Loa Xuân rời khỏi trạm dịch, Viên Mục trở lại nha môn U Châu. Vừa về tới nơi ông ta đã liệng luôn hộp trà xuống đáy rương, hậm hực: "Thôi thì khuất mắt đi cho khỏi phiền lòng này. Cái tay CungTử Phong đáng ghét này, đến giờ rồi còn không chịu nói thật. Rõ rành rành nó biết chuyện chẳng can hệ gì đến ta, thế mà cứ câm như hến! Thảo nào ở điện Cần Chính, cứ thấy nó là mình lại ngứa cả mắt!"

Đến khi ăn tối xong, Viên Mục nằm trên giường nghĩ Tần nghĩ Sở, lại bò dậy lục hộp Bích Loa Xuân ra.

"Không thể để CungTử Phong hời thế được, của này là của báu mà."

CungTử Phong là cái đồ bụng một bồ dao găm, nhưng hộp Bích Loa Xuân này vô tội biết bao, sao nỡ lãng phí chứ?

Về phần mình, Chu Tử Thư yên tâm gửi thư mà không lo bị đọc trộm. Lệnh bài này Triệu Phụ cấp riêng cho cậu, nếu thư của cậu bị lộ, thì tính mạng người đưa thư mới là điều đáng lo hơn.

Về đêm, Chu Tử Thư đang định ngủ, quan viên phụ trách trạm dịch lại đến gõ cửa, bảo có khách tới thăm.

Chu Tử Thư lấy làm lạ. Cậu vừa mặc xong quần áo thì một chàng trai trong bộ áo gấm đen bước vào phòng. Chu Tử Thư đơ ra mất một lúc mới định thần bước tới: "Chào Tô đại nhân. Đêm khuya Tô đại nhân ghé thăm, chẳng hay có việc gì?"

Vị khách ấy chính là Tô Ôn Duẫn.

Chu Tử Thư từ trước đến nay chưa thấy Tô Ôn Duẫn mặc quần áo màu đen bao giờ, thực tế ra đây cũng là lần đầu tiên cậu thấy Tô Ôn Duẫn mặc thường phục thay vì quan bào. Không thể không nói, nếu CungTử Phong là chàng tiên giáng thế ở tít trên cao, thanh nhã xuất trần đến nỗi ai thấy cũng phải nghiêng mình, thì Tô Ôn Duẫn như con dao găm bén ngọt, lưỡi dao giấu trong vỏ không chỉ sắc bén mà còn đầy nọc độc. Anh ta ưa nhìn thật đấy, nhưng cũng cực kì đáng gờm, khiến người khác khó lòng sinh hảo cảm.

Tô Ôn Duẫn đi thẳng vào vấn đề luôn: "Hôm nay Đường đại nhân quan sát những người trong đại lao Thứ Châu, có cảm tưởng gì không?" Chu Tử Thư thăm dò: "Ý của Tô đại nhân là...?"

Tô Ôn Duẫn nở nụ cười: "Ngươi nghĩ, chỉ là thiên tai thôi à?"

Chu Tử Thư lẳng lặng chưa đáp vội. Trong ánh nến, gương mặt Tô Ôn Duẫn mỹ miều vô cùng.

Tháng bảy, Triệu Phụ phái ba người tâm phúc chia nhau đi U Châu, Thứ Châu và Ninh Châu.

Tháng tám, cầu sông Kinh Hà bị lũ cuốn trôi, Thánh thượng nổi trận lôi đình. Đoàn Giám sát Sứ được cử đến Thứ Châu, Triệu Phụ vô duyên vô cớ lại ghé thêm Chu Tử Thư vào.

Hóa ra...mọi chuyện chính là vậy!

Chu Tử Thư tự dưng bật cười. Mọi việc trước mắt cậu trở nên sáng tỏ, nhưng trong lòng cậu rối rắm lung bung, vừa thấy khó xử lại vừa thấy hài hước.

Đang yên đang lành lại cười, Chu Tử Thư không trả lời ngay câu hỏi của

Tô Ôn Duẫn. Song Tô Ôn Duẫn tạm thời chưa phát hiện phản ứng bất thường của cậu. Ánh nến leo lét, Chu Tử Thư cứ lặng lẽ cười, Tô Ôn Duẫn có chút ngạc nhiên, tự dưng lại quên mình định nói gì.

Chu Tử Thư nhớ đến hôm ấy trong kiệu, CungTử Phong đã kéo tay cậu lại, dặn dò.

Chớ nghe, chớ hỏi.

...Không nghe, không hỏi, đúng là cách người khôn giữ mình.

Bây giờ cũng chỉ còn cách làm người khôn giữ mình thôi.

Chu Tử Thư làm bộ băn khoăn, nghĩ tới nghĩ lui một hồi mới đáp: "Hạ quan...Thật sự không hiểu ý Tô đại nhân ạ!"

||

Mỹ nam khác thì như rắn độc, còn sư huynh thì như tiên giáng trần nhé. Tội thằng bé, u mê quá.

------oOo------

Chương 60

Nguồn: EbookTruyen.Net

Nhân họa

Trời tối om om, trong trạm dịch, chỉ nghe thấy tiếng gió thổi ào ạt và tiếng mưa rả rích.

Tô Ôn Duẫn lựa lúc tối trời đến gặp Chu Tử Thư, mặc đồ đen, rõ ràng là muốn giữ bí mật. Bỗng nhiên, ngoài phòng có tiếng sứ bể; Tô Ôn Duẫn giật mình, lẳng lặng đi đến cửa sổ, khẽ đẩy cửa sổ hở ra một khe nhỏ xíu. Thì ra ở tòa đối diện có một viên quan hậu đậu làm đổ mâm bát xuống sàn.

Đóng cửa lại, Tô Ôn Duẫn đi về giữa phòng, hỏi Chu Tử Thư: "Đường đại nhân có nghĩ đây là thiên tai thật không?"

Chu Tử Thư ngạc nhiên hết sức. Cậu suy tư chốc lát rồi nghiêm túc đáp: "Thật lòng mà nói, nếu chỉ là thiên tai, Thánh thượng sẽ không phái hẳn một đoàn Giám sát Sứ đến Thứ Châu. Mục đích đến Thứ Châu của chúng ta chính là điều tra xem ngoài yếu tố thiên tai ra, có sai phạm của con người không. Có điều, hạ quan chưa rõ, rốt cuộc Tô đại nhân... có dụng ý gì khi sang đây tối nay?"

"Khởi Cư lang phụ trách ghi chép việc hàng ngày của hoàng đế, bình thường sẽ chẳng bao giờ rời cung."

Chu Tử Thư im như thóc, không hé răng nửa lời.

Tô Ôn Duẫn bình thản nhìn cậu, cười nói: "Vì thế, Đường đại nhân đến Thứ Châu... với mục đích gì đây nhỉ?"

Chu Tử Thư không có cách nào trả lời câu này cả.

Chẳng những Triệu Phụ không nói cho cậu biết ý đồ của ông ta khi phái cậu đi Thứ Châu, kể cả ông ta có ngầm dặn dò đi chăng nữa, cậu cũng chẳng thể nói trắng ra cho Tô Ôn Duẫn được.

Sự im lặng của Chu Tử Thư là quá đủ cho một câu trả lời đối với Tô Ôn Duẫn.

Tô Ôn Duẫn cười nhạt: "Chẳng lẽ Thánh thượng cũng nghi ngờ ta ư?"

Chu Tử Thư lập tức nói: "Hạ quan không hiểu Tô đại nhân đang nói gì."

Tô Ôn Duẫn nghiêm nghị nhìn Chu Tử Thư, rồi thình lình anh ta phẩy tay áo bỏ đi, chỉ ném lại một câu nói khiến từng viên gạch trong phòng khách trạm dịch cũng phải rùng mình: "Chu Tử Thư, lần này cầu sông Kinh Hà sập không chỉ do thiên tai, mà tội phần nhiều là do nhân họa! Dù ngươi tin hay không, việc này cũng không liên can gì đến ta. Nhưng ta cũng muốn điều tra rõ chân tướng giống như ngươi thôi."

"Tô đại nhân..."

Tô Ôn Duẫn đã đi xa rồi.

Chu Tử Thư móc tấm lệnh bài bằng bạc trong ngực áo ra, nheo mắt, rồi nhét nó trở lại.

Bốn ngày sau, Giám sát sứ Kỷ Tri dẫn theo các quan trở về Thứ Châu. Ông ta đến nha môn phủ doãn Thứ Châu, tất cả các quan đều đến trình diện. Kỷ Tri nhìn lướt qua toàn thể rồi nói: "Chư vị đại nhân, hạ quan chỉ là một Giám sát Ngự sử lục phẩm, phẩm cấp có thế coi là thấp nhất so với các vị ở đây. Nhưng hạ quan cũng xin nói rằng, trước khi đến nơi này, kẻ hèn này đã được bệ hạ bổ nhiệm làm Giám sát Sứ Thứ Châu. Nếu có chỗ nào mạo phạm, mong các vị đại nhân bỏ quá cho, chớ để bụng."

Các quan Ngự sử ở Ngự sử đài xưa nay có bao giờ để ai vào mắt? Quan to quan nhỏ đối với họ như nhau cả, nhưng hiếm khi họ cố tình nói thẳng ra như vậy.

Tự dưng bây giờ Kỷ Tri nói thế, các quan trong phòng xôn xao cả lên, ngay đến Chu Tử Thư cũng phải ngước nhìn ông ta.

Kỷ Tri nói tiếp: "Vậy coi như các vị đại nhân đã ngầm tán thành rồi nhé. Mang thứ ấy lên đây." Giọng Kỷ Tri trầm xuống; hai sai nha khiêng một sọt trúc vào phòng. Sọt trúc ấy to cỡ cái vò đựng nước, trông rất bình thường, không có gì lạ. Trong sọt đựng mấy tảng đá bị vỡ có kích thước lớn.

Các quan đều không rõ sự thể ra sao, châu đầu thì thào với nhau về ý đồ của Kỷ Tri.

Câu nói tiếp theo của Kỷ Tri như một lời cảnh cáo, khiến nha môn Thứ

Châu im phăng phắc: "Đây chính là đầu sỏ gây nên thảm họa sập cầu sông Kinh Hà!"

Sông Kinh Hà là con sông to với dòng chảy xiết nhất vùng Bắc Đại Tống, nhưng nó chỉ là thằng chột làm vua xứ mù ở miền đất thưa thớt sông ngòi này thôi. Xây một cây cầu bắc ngang sông khá gian nan đấy, song không đến nỗi bất khả thi; thợ thủ công của Đại Tống hoàn toàn có thể thực hiện được.

Thời tiết mùa hè năm nay khó đoán, miền Bắc mưa nhiều, dẫn đến nước sông dâng cao và dữ dội bất thường, mưa lớn ồ ạt cuốn sập cây cầu xây dang dở. Mặc dù vậy, Triệu Phụ nghi ngờ rằng thiên tai không phải là nguyên nhân duy nhất. Bên cạnh đó, các quan ở triều đình xa xôi cũng hết sức hoài nghi, lẽ nào chỉ một trận mưa lớn mà cướp nổi sinh mạng của gần một trăm con người?

Kỷ Tri đến Thứ Châu chính là để giải đáp những mối nghi hoặc ấy. Không phụ sự kì vọng của mọi người, ông ta đã tìm được những tảng đá lớn này trong xác cầu tan hoang, đổ nát.

Kỷ Tri bước tới bên giỏ trúc, chỉ vào những tảng đá mà nói: "Tạ đại nhân là Hữu thị lang bộ Công, hẳn ngài biết những tảng đá này là gì. Chính thế, đây là đá để dựng móng cầu. Cầu sông Kinh Hà xây theo hướng từ Nam lên Bắc, dài hơn năm trăm mười hai trượng. Năm ngoái, dòng chảy của sông Kinh Hà không quá xiết, nên khi xây cầu, bộ Công đã tính chiều sâu vào khoảng mười trượng. Ta nói có đúng không?"

Trông Tạ Thành có vẻ chột dạ, hiển nhiên gã ta biết Kỷ Tri sắp nhắc đến cái gì.

Kỷ Tri: "Tạ đại nhân, ngài xem thử xem những tảng đá xây cầu này có dài đủ mười trượng không?"

Tạ Thành quay phắt lại, tức tối quát: "Kẻ nào phụ trách xây móng cầu hả? Lôi quan phụ trách xây móng cầu và toàn bộ thợ có liên quan lên đây!"

Vừa dứt lệnh, sai nha khẩn trương rời nha môn, đến đại lao Thứ Châu áp tải phạm nhân. Một khắc sau, chỉ có hai sai nha cuống cuồng chạy về; một tên quỳ phịch xuống đất, mặt cắt không còn hột máu: "Đại nhân thứ tội, đại nhân thứ tội! Năm ngày trước, khi đoàn Giám sát Sứ đến Thứ Châu đã giải một số quan viên và thợ thủ công lên công đường tra hỏi. Sau đó, có vài viên quan và thợ sợ tội nên đã tự sát rồi ạ!" Tất cả sửng sốt.

Tô Ôn Duẫn sấn tới: "Sợ tội tự sát?"

Sai nha vừa quỳ vừa tâu: "Dạ. Vì chỉ có ba viên quan và mười mấy người thợ tự sát thôi nên tiểu nhân... tiểu nhân mới không bẩm báo ạ."

"Huỵch!"

Tô Ôn Duẫn đạp tên sai nha văng ra ba mét.

Sai nha nôn ra máu mà không dám nằm đó, sợ vãi ra quần, lồm cồm chạy về khấu đầu lia lịa: "Tiểu nhân biết lỗi rồi, tiểu nhân biết lỗi rồi ạ. Tiểu nhân xin chỉ thị của quan Phủ doãn đại nhân, Phủ doãn đại nhân bảo không phải chuyện lớn nên tiểu nhân mới không bẩm báo."

Tô Ôn Duẫn quay phắt về phía Phủ doãn Thứ Châu: "Trương đại nhân, có chuyện này thật không?"

Tô Ôn Duẫn là Thiếu khanh Đại lý tự hàm tứ phẩm, chẳng những cùng cấp với phủ doãn Thứ Châu mà còn giám sát việc tù đày tất tật các quan trong triều. Phủ doãn Thứ Châu bị hỏi một câu mà lạnh toát cả người, y vội vàng thưa: "Quả có việc ấy ạ, nhưng bẩm Giám sát Sứ đại nhân, bẩm Tô đại nhân, khi hạ quan kiểm tra thì mấy kẻ đó đều tuyệt thực mà chết chứ không phải bị ai mưu hại! Sau tai nạn ở Kinh Hà, số quan lại, thợ thuyền bị giam trong tù đông vô kể, hạ quan không tài nào để mắt xuể. Mãi đến khi họ tuyệt thực chết tôi mới biết chuyện."

Kỷ Tri: "Khiêng thi thể lên đây."

Sau nửa canh giờ, sai nha đã di chuyển thi thể của ba viên quan và mười hai người thợ từ nghĩa trang về đến nha môn.

Bây giờ đã là tháng tám rồi, nhiệt độ ngoài trời rất cao, trong số những người này có người đã chết được ba hôm, có người thì một, hai hôm, nhưng dù thế nào thì tất cả xác chết đều bốc mùi cực kì tanh tưởi. Có viên quan quen sống nhung lụa, chưa gì đã nôn thốc nôn tháo. Chu Tử Thư cũng thấy lợm giọng, nhưng Kỷ Tri, Tạ Thành và Tô Ôn Duẫn đều bắt tay vào kiểm tra thi thể ngay, nên cậu đành nghiến răng mà xông tới.

Kỷ Tri và Tô Ôn Duẫn đã kiểm tra xong. Kỷ Tri nói: "Đúng là chết vì tuyệt thực. Trong số này có mấy người phụ trách dựng móng cầu?"

Tạ Thành đáp: "Kẻ này, và mấy kẻ này."

Gã chỉ vào một viên quan và bốn người thợ.

Những quan lại và thợ thủ công phụ trách móng cầu dĩ nhiên không chỉ có năm người; nhưng trùng hợp thay, lúc cầu bị sập, toàn bộ những người còn lại đều đang ở công trường xây dựng. Họ bị lũ cuốn trôi hết, chết không toàn thây.

Kỷ Tri vấp phải vấn đề nan giải, không biết tính sao nữa.

Sau khi cho khiêng chỗ thi thể ấy đi, Kỷ Tri bèn tập hợp cả đoàn Giám sát Sứ lại để họp kín.

Kỷ Tri: "Chư vị đồng liêu, trong thành Thứ Châu này, chúng ta chỉ có thể tin tưởng vào nhau mà thôi. Chỉ có các vị ngồi đây mới là những người thực sự không dính dáng gì đến vụ sập cầu sông Kinh Hà. Ban đầu hạ quan cho rằng vụ tai nạn này xảy ra bởi cả yếu tố thiên tai lẫn sai phạm của con người, nhưng xét tình hình này, xem ra nước thành Thứ Châu sâu hơn so với chúng ta tưởng. Các vị ạ, chúng ta đơn độc dấn thân vào chốn địa ngục rồi."

Một viên quan nói: "Không thể có chuyện trùng hợp như thế. Tuyệt thực bỏ mình, sợ tội tự sát, chết sạch không còn một ai!"

"Chắc chắn vụ này có bẫy."

"Nhưng kể cả biết là bị qua mặt, chúng ta có thể làm thế nào chứ? Giờ họ đã chết không đối chứng rồi."

Kỷ Tri: "Hiện giờ có hai việc như sau. Trước tiên, ta sẽ trình báo lại chuyện phát sinh ở thành Thứ Châu về Thịnh Kinh, xin bệ hạ định đoạt. Đồng thời, chúng ta sẽ tiếp tục ngầm điều tra. Ý các vị ra sao?"

"Tất cả xin nghe theo Kỷ đại nhân."

Màn đêm buông xuống, Kỷ Tri viết một bản tấu, phái người giục ngựa suốt đêm gửi về Thịnh Kinh.

Hôm sau, Kỷ Tri triệu tập toàn bộ các Giám sát Sứ trong đoàn. Khi bọn họ chuẩn bị vào họp, Kỷ Tri chợt dừng bước, nhìn sang Chu Tử Thư: "Đường đại nhân cũng theo vào đây."

Chu Tử Thư sửng sốt, vội cất bước đi theo các quan Giám sát Sứ vào phòng.

Chu Tử Thư vừa mới vào tới nơi, Kỷ Tri đã bắt đầu nói, giọng trĩu nặng ưu phiền: "Các vị đại nhân, toàn bộ quan lại và thợ thủ công trực tiếp tham gia vào việc xây dựng móng cầu đã tử vong, chết không đối chứng, đây là sự thật không thể xoay chuyển. Nhưng ta vừa nhận được tin rằng ngoài những người đó ra, còn có tám vị đại nhân khác có cơ hội tiếp xúc với việc thu mua đá xây cầu và công đoạn xây móng. "

"Là tám vị nào vậy?"

Kỷ Tri không mở miệng, một Giám sát Sứ khác nói thay ông ta: "Tám người này toàn bộ đều là quan lớn, thấp nhất cũng là ngũ phẩm. Những người này theo thứ tự là Kim bộ Lang trung Tằng Phỉ thuộc bộ Hộ, Ti huân Lang trung Nhạc Tử Quang thuộc bộ Lại,... Lang trung bộ Công Cao Duy, người mới về Thịnh Kinh báo tin cách đây nửa tháng. Ngoài ra còn có Phủ doãn Thứ Châu Trương Phong – Trương đại nhân, Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn – Tô đại nhân, Hữu Thị lang bộ Công Tạ Thành – Tạ đại nhân, cùng với Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu – Từ đại nhân!"

||

------oOo------

Chương 61

Nguồn: EbookTruyen.Net

Bị khiển trách

Ngay trong đêm đó, miền Bắc lại đón một cơn mưa ào ạt.

Tiếng mưa rơi rầm rầm như thác đổ, trong không khí dậy mùi ngai ngái của đất đai. Trên đường thành Thứ Châu không một bóng người, mưa to quá, toàn bộ cư dân trong thành đều trú mưa trong nhà chứ chẳng ai đi lại trên đường cả. Một con tuấn mã màu đen phi như bay từ cổng chính nha môn phủ doãn, xông thẳng đến cổng thành. Móng ngựa đạp trên nền đất làm nước mưa văng tung tóe.

Trưởng đoàn Giám sát Sứ Thứ Châu – Kỷ Tri đang ở trong gian chính của nha môn. Sau khi trao bản tấu cho người đưa thư, dặn dò người ấy hỏa tốc về Thịnh Kinh, ông ta tiếp tục bàn bạc vụ việc với các quan khác.

Trong tòa lầu trên cổng thành, Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu nhìn con ngựa phi nước đại ra khỏi cổng thành, thở dài khe khẽ. Từ Lệnh Hậu nói bằng một giọng xa thẳm: "Khoái mã từ nha môn phủ doãn đấy. Tạ đại nhân, xem chừng bọn Giám sát Sứ đã điều tra ra rồi."

Đứng bên cạnh ông ta chính là Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành.

Từ Lệnh Hậu và Tạ Thành hiện đang là hai đại quan tam phẩm duy nhất trong toàn thành Thứ Châu, cũng là hai quan lớn có phẩm cấp cao nhất.

Nghe xong, Tạ Thành nói với Từ Lệnh Hậu: "Từ đại nhân có cao kiến gì không? Thật choáng váng, thế mà lại có người tham ô trong vụ án này. Hóa ra tai nạn không phải do thiên tai gây nên, mà do nhân họa!"

Từ Lệnh Hậu quay ra nhìn gã ta: "Sao, Tạ đại nhân biết chuyện gì à?"

Tạ Thành cười: "Thế Từ đại nhân biết gì rồi?"

Hai người cười với nhau một hồi, nhưng sâu trong ánh mắt, ý cười chẳng thể chạm tới đáy.

Mưa ồ ồ như thác đổ, không hề có dấu hiệu ngưng nghỉ.

Đêm đến, Chu Tử Thư trở lại trạm dịch. Cậu châm nến, mở một quyển tấu trắng để ghi chép lại những gì quan sát được ba hôm nay. Vào khuya, cậu lấy lệnh bài Triệu Phụ ban cho, bí mật gửi quyển tấu ấy đi.

Lúc Chu Tử Thư vừa về đến chỗ ở thì đụng phải Kỷ Tri.

Kỷ Tri đứng trong sân, ngẩng lên nhìn Chu Tử Thư. Hai người mắt đối mắt, Chu Tử Thư biết Kỷ Tri không tình cờ đứng ở đây, ông ta đã đợi cậu một lúc rồi. Cậu bèn lặng lẽ đi tới: "Kỷ đại nhân."

Kỷ Tri: "Đường đại nhân vừa gửi gì đi thế?"

Chu Tử Thư im ắng hồi lâu mới đáp: "Không có gì, xuống nhà bếp lấy đồ ăn thôi ý mà."

Kỷ Tri: "Đường đại nhân, việc đã đến nước này, ngươi cũng nên ý thức được rằng chúng ta đã tiến đến bước ngoặt ở ngay đầu sóng ngọn gió. Thành Thứ Châu hung hiểm khôn lường, nước ở đây thẳm hơn chúng ta tưởng. Mong Đường đại nhân mở to mắt nhìn mọi sự cho tỏ tường, chớ để kẻ tiểu nhân che mắt thánh."

Chu Tử Thư bình tĩnh nhìn Kỷ Tri, không đáp gì cả.

Vị Ngự sử đại nhân lục phẩm nghiêm túc và bảo thủ ấy chắp tay: "Cáo từ."

Mưa to làm con sông Kinh Hà trở nên dữ dằn hơn bao giờ hết. Các quan và thợ được phái đi điều tra ở khu vực sông đều quay trở về thành Thứ Châu. Còn các quan ở thành cũng đã biết vấn đề ở nằm ở móng cầu và đoán chắc rằng có bàn tay tham nhũng. Kỷ Tri bí mật mời Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu đến gặp, hai người mật đàm trong phòng suốt hai canh giờ.

Lúc ra khỏi cửa, sắc mặt Từ Lệnh Hậu vô cùng tồi tệ, ông ta quay đầu lại nhìn cánh cửa khép chặt sau lưng, tức tối phất tay áo ra về.

Trong thành Thứ Châu, dân chúng vẫn thản nhiên như không, còn các quan thì lo ngay ngáy.

Mây đen che lấp cả bầu trời. Chẳng biết có phải do áp lực tâm lý không, quan lại trong thành đều cảm thấy như chết ngộp dưới nền trời sầm sì ấy.

Tối hôm đó, Chu Tử Thư đang nghỉ ngơi trong trạm dịch thì đột nhiên nghe có tiếng động trong căn phòng tối om của mình. Chu Tử Thư cả kinh, mò ngay lấy con dao găm giấu dưới gối, căng mắt, cảnh giác lắng nghe động tĩnh bốn bề.

Có tiếng cửa sổ bị ai đó nhẹ nhàng đẩy ra, nối tiếp là tiếng bước chân nhẹ bẫng như lông hồng nhảy vào qua bậu cửa.

Trong tích tắc, Chu Tử Thư định hét toáng lên, nhưng người kia đã kịp thời xông tới, dùng một tay bịt kín mũi miệng cậu lại. Bàn tay lạnh như băng còn ướt nước mưa, lòng bàn tay buốt đến thấu xương. Chu Tử Thư trợn trừng mắt, thò tay ra sau lưng rút dao đâm về phía kẻ lạ mặt. Kẻ đó giật mình "Ối" một tiếng, phản xạ nhanh như cắt, bổ ngoéo một cái vào cổ tay Chu Tử Thư. Chu Tử Thư nhăn nhó vì đau, con dao găm rơi cộp xuống đất.

"Ta đây, đừng lên tiếng."

Chu Tử Thư giật mình thon thót: ...Tô Ôn Duẫn?

"Ngươi đồng ý giữ im lặng thì ta thả tay ra. Gật đầu tức là đồng ý." Chu Tử Thư gật đầu.

Tô Ôn Duẫn buông cậu ra.

"Tô đại nhân?"

"Ờ."

Chu Tử Thư đứng lên từ trên giường, phủ thêm một tấm áo ngoài lên người, hỏi: "Nửa đêm nửa hôm, Tô đại nhân lén lút đến phòng ta có việc gì?" Nói xong, Chu Tử Thư đến bên cạnh bàn toan đốt nến. Tô Ôn Duẫn lập tức cản cậu lại: "Không được thắp đèn."

Chu Tử Thư lấy làm lạ: "Tô đại nhân có ý gì?"

Tô Ôn Duẫn móc từ trong tay áo ra một viên dạ minh châu cỡ bằng lòng bàn tay, rồi kéo Chu Tử Thư lên giường, hết sức cẩn thận buông màn xuống. Ánh sáng của dạ minh châu êm mượt như tơ lụa, không chói mắt như ánh nến nhưng sáng rực hẳn lên khi kề sát vào. Hai lớp màn giường quây kín xung quanh, Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn ngồi trên giường, cầm dạ minh châu là có thể thấy rõ mặt nhau.

Chu Tử Thư lúc này mới phát hiện, mặt Tô Ôn Duẫn ướt đẫm nước mưa.

Sắc mặt anh ta tái mét, môi cũng bợt bạt cả đi, tóc tai sũng nước, dính bết cả lên mặt. Tuy thế, trong ánh sáng dạ minh châu, trông anh ta vẫn kiều diễm đến sững sờ.

Chu Tử Thư tiếp tục giữ im lặng.

Tô Ôn Duẫn trêu: "Nửa đêm có người xông vào phòng, còn lôi mình lên giường kéo rèm kín mít. Đường đại nhân, ngươi không thấy kì quặc à? Giả sử bây giờ có ai tông cửa vào, ngươi bảo hai ta nên giải thích thế nào đây?" Chu Tử Thư hỏi ngược lại: "Tô đại nhân tới tìm ta có việc gì, nói thẳng đi."

"Nhạt nhẽo." Tô Ôn Duẫn cười khẩy, rút trong ngực áo ra một cuốn sổ dày cộp, ướt sũng. Chu Tử Thư thấy bìa sổ thì giật mình thon thót, cậu không dám tin vào mắt mình, nhìn Tô Ôn Duẫn như đang dò hỏi. Tô Ôn Duẫn nói: "Không lầm đâu, giống như ngươi nghĩ đấy, đây là là sổ âm dương1 bí mật bị giấu đi đấy."

[1] Sổ âm dương tức là sổ sách kế toán làm giả (để trốn thuế chẳng hạn). Cuốn "âm" thì để mình giữ, còn cuốn "dương" thì dùng để khai báo, kiểm toán.

"Ngươi lấy từ chỗ nào thế hả?"

"Liều mạng đổi chứ sao."

Tô Ôn Duẫn nói câu ấy bình thản vô cùng, cứ như thể chỉ là một trò đùa vui mồm thì nói. Thế nhưng, Chu Tử Thư phát hiện ở cổ áo anh ta có vết máu. Chu Tử Thư hỏi: "Tô đại nhân bị thương rồi ư?"

Tô Ôn Duẫn giật giật cổ áo: "Không phải máu của ta. Đường đại nhân muốn xem cuốn sổ này không?"

Chu Tử Thư hơi do dự, Tô Ôn Duẫn đưa sổ cho cậu, cậu nhận lấy.

Đọc từ trang đầu tiên, càng lúc sắc mặt Chu Tử Thư càng nặng nề hơn. Cậu lật sổ thoăn thoắt, chỉ trong một khắc đã đọc hết cả quyển. Chu Tử Thư ngẩng lên: "Tô đại nhân, sổ này là thật à?"

"Có thật hay không, chẳng lẽ Đường đại nhân không tự biết?" Chu Tử Thư im lặng không nói gì.

Là thật!

Mỗi một giao dịch trong cuốn sổ kế toán này được ghi chép cực kì tỉ mỉ, thu chi không sai lệch một li. Nhưng nếu những gì được ghi ở đây là thật, thì không chỉ móng cầu mà cát, đá, suất ăn của thợ thuyền, tất cả đều bị kẻ gian cắt xén! Bốn tháng trước, triều đình xuất kho tám mươi vạn lượng bạc để làm đường ở Thứ Châu, nếu chiếu theo sổ này, thì hao hụt tận hai mươi lăm vạn!

Gập cuốn sổ lại, Chu Tử Thư trả nó về cho Tô Ôn Duẫn.

"Tô đại nhân đem sổ này tới đây tìm ta để làm gì? Có cuốn sổ này, muốn tìm ra kẻ chủ mưu chỉ là vấn đề thời gian. Tức là nếu Kỷ đại nhân có được cuốn sổ, hẳn ngài ấy sẽ truy ra các quan tham ô trong vòng một tháng."

Tô Ôn Duẫn: "Ngươi tin Kỷ Tri à?" Chu Tử Thư sửng sốt.

Tô Ôn Duẫn cười giễu cợt: "Trông Kỷ Tri công chính vô tư, hiên ngang lẫm liệt lắm chứ gì? Cách đây năm năm, y từng cưới một cô vợ bé. Người thiếp này vốn là con gái nhà lành đã được đính ước, nhưng chẳng may lọt vào mắt xanh của Kỷ Tri nên bị y ép cưới về phủ. Nhà cô gái ấy nghèo túng bần cùng, Kỷ Tri bèn dùng tiền để dẹp yên vụ này, bắt cô gái nhà lành ấy về làm vợ lẽ. Vụ việc cứ thế mà êm xuôi, cũng chẳng có ai tố cáo y cả. Tuy y chỉ là quan lục phẩm, nhưng tiền chưa bao giờ là vấn đề với y."

"Làm sao ngươi biết chuyện này?"

"Đường đại nhân, ta là Thiếu khanh Đại lý tự đấy."

Quan lại trên triều đình ai mà chẳng có chuyện nhơ nhuốc sau lưng, giấu kĩ thì Tô Ôn Duẫn không phát hiện được. Còn nếu mà để bị phát giác, thì người đầu tiên moi được những chuyện ấy ra, dĩ nhiên là Tô Ôn Duẫn rồi.

Tô Ôn Duẫn nói: "Thánh thượng cho ngươi tới đây cốt là để nắm được những sự thật mà Kỷ Tri biết nhưng che đậy thông qua ngươi. Trong tòa thành Thứ Châu to lớn này, Đường đại nhân, chỉ có ta và ngươi mới đích thực là những người phụng sự hoàng thượng."

Tô Ôn Duẫn nói xong thì cất viên dạ minh châu đi, thu gọn màn giường lại. Lúc xuống giường, tự dưng anh ta cười bảo: "Nếu như lúc nãy có người xộc tới bất thình lình, rất có thể hai ta đầu rơi máu chảy ngay tại chỗ đấy."

"Không đâu."

Tô Ôn Duẫn quay lại nhìn Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư ngước cặp mắt sáng ngời, thản nhiên nói: "Ta sẽ bảo, ta với ngươi có tình trai ấy mà2." Tô Ôn Duẫn ngẫn ra.

Hồi lâu sau, đôi môi mỏng của anh ta cong lên: "May là không ai xông tới."

Lúc gần đi, Tô Ôn Duẫn lại nói thêm: "Hãy đem việc vừa thấy hôm nay nói cho bệ hạ, Đường đại nhân. Kính nhờ ngài đấy." Dứt lời, Tô Ôn Duẫn mở cửa sổ, nhẹ nhàng chuồn ra ngoài. Chu Tử Thư cẩn thận khép cửa sổ lại, cậu đang định về giường, chợt nhớ lúc Tô Ôn Duẫn rời khỏi phòng thì ngực áo xẹp hẳn xuống, trông không giống có nhét một cuốn sổ dày.

Chu Tử Thư sợ điếng người, cậu mò mẫm trong căn phòng tối đen một hồi lâu, nhưng trời tối quá, không tìm thấy gì cả.

Suốt đêm Chu Tử Thư không dám chợp mắt, thức trắng đến tận bình minh. Trời vừa sáng, cậu lập tức tìm cẩn thận lại trong phòng một lần nữa. Tìm suốt nửa canh giờ, cuối cùng cậu mới moi được cuốn sổ ra từ một kẽ hở ở giá sách trong góc tường.

Tô Ôn Duẫn!

Chu Tử Thư sợ hãi mà không biết phải làm sao.

Bất kể thế nào cậu cũng không ngờ tên Tô Ôn Duẫn này lại trơ tráo đến vậy! Cậu không biết Tô Ôn Duẫn lấy cắp được cuốn sổ từ đâu, nhưng cậu chắc mười mươi nó chính là một quả bom hẹn giờ. Cả cái thành Thứ Châu này kiểu gì cũng có người đang lùng sục tìm kiếm nó, tìm cuốn sổ mà Tô Ôn Duẫn phải liều mạng mới chiếm được này. Thế mà Tô Ôn Duẫn lại dám giấu nó trong phòng Chu Tử Thư.

"Y... y lôi mình ra làm bia ngắm rồi còn gì!"

Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn, xứng danh là kẻ máu lạnh vô tình nhất trần đời.

Cùng lúc đó, ở Thịnh Kinh cách đây mấy trăm dặm.

Mở đầu buổi triều, bá quan văn võ yến kiến vua, Triệu Phụ bước lên ngai rồng, từ từ ngồi xuống.

Các quan mới đang cúi người hành lễ chứ chưa thẳng lưng dậy, Triệu Phụ đã hừ một tiếng lạnh ngắt, vớ ngay bản tấu đặt trên cái khay gỗ lim Quý Phúc đang bưng, quăng mạnh xuống đất. Cuốn sổ giấy cứng cáp nện "cốp" lên nền gạch lạnh lẽo, bật mấy cái trên sàn rồi lăn đến vị trí thứ ba trong hàng ngũ các quan bên trái, tức là ngay cạnh chân Cung Tuấn.

Cung Tuấn cầm hốt ngọc trong tay, bình tĩnh nhìn xuống sàn, liếc được một ít nội dung trong quyển tấu.

Cả triều đình im phăng phắc.

Triệu Phụ đứng dậy từ ngai vàng, đi hai vòng trên bệ rồng, thỉnh thoảng lại ngẩng lên nhìn các quan bên dưới. Chợt, ông ta nở nụ cười, cất giọng ôn hòa: "Các ái khanh ở đây, đều là công thần của nước Đại Tống ta, là nhân tài rường cột của Đại Tống ta. Nửa năm trước, trẫm muốn mở đường, các khanh khuyên trẫm rằng, không thể đào kênh, chỉ có thể xây quan đạo, trẫm đã ưng thuận rồi. Thượng Thư tỉnh có sáu bộ, thì riêng bộ Công, trẫm đã phái cả quan Thượng thư lẫn Tả Hữu thị lang đến tận chân công trình. Trẫm còn huy động vô số đại quan tam phẩm, tứ phẩm, vô số quan viên cấp thấp, đặng gánh vác việc trọng đại nghìn xưa này."

"Đêm qua, Kỷ Tri dâng tấu chương lên nói cho trẫm biết, trong các đại thần trẫm đau đáu trong tim, trẫm tín nhiệm cả nửa đời, có kẻ tham ô!"

Triệu Phụ cười: "Viên Mục ở U Châu, trẫm chẳng thể khiển trách. Trẫm không cách nào vượt vạn dặm đường xa, chỉ vào mặt y mà nhiếc móc rằng, quân ăn hại nhà ngươi quản lí thuộc hạ như thế đó hả? Tạ Thành – Hữu thị lang bộ Công nhà y đang làm cái gì ở Thứ Châu? Tại sao khi có kẻ tham ô trong số thuộc hạ của y, thì y lại chẳng hề biết gì sất? Nhưng còn Thượng thư bộ Hộ – Cungđại nhân..."

Cung Tuấn tiến lên một bước, hốt ngọc cầm trong tay, chàng cúi đầu không lên tiếng.

Triệu Phụ nhìn chóp mũ của chàng, cười bảo: "Tử Phong, ngẩng mặt lên."

Cung Tuấn ngẩng đầu, gương mặt tuấn tú thanh nhã không có mấy cảm xúc.

Triệu Phụ lặng im trong chốc lát, khẽ khàng nháy mắt với Cung Tuấn một cái, rồi đột ngột gầm lên: "CungTử Phong, ngươi giải thích cho trẫm biết, trong hai quan lớn tam phẩm ở thành Thứ Châu, thì Từ Lệnh Hậu đang làm cái trò gì? Ngươi là Thượng thư bộ Hộ, hắn là Tả thị lang bộ Hộ, thế mà lại để kẻ gian tham ô vơ vét ngay dưới mũi!" Dứt lời, Triệu Phụ lại vớ lấy một quyển tấu ném thẳng về phía Cung Tuấn. Cung Tuấn không tránh né, bị quyển tấu đập vào mặt, má đỏ lừ.

"Cút đến Thứ Châu, tóm hết bè lũ tham ô về cho trẫm, lập công chuộc tội!" Điện Tử Thần lặng ngắt như tờ.

Triệu Phụ tin yêu Cung Tuấn đến nhường nào, ai ai cũng biết. Hôm nay ông ta nổi cơn thịnh nộ, trông như thể sắp giật phăng cái mũ cánh chuồn trên đầu Cung Tuấn, có thể thấy chuyện này khiến đấng cửu ngũ vô cùng giận dữ.

Trong đám quan lại ở đây, số đại quan nhất phẩm đứng trước Cung Tuấn chỉ có vài người. Hữu tướng CungThuyên đứng đầu hàng các quan bên phải chính là ông chú3 ruột của Cung Tuấn. Cung Tuấn bị hoàng đế chỉ đích danh nạt nộ, song CungThuyên hoàn toàn không phản ứng gì cả, vẫn bình thản nhìn xuống đất.

Trong đại điện trống trải, Cung Tuấn chắp tay hành lễ: "Vâng."

Ngày kế, Thượng thư bộ Hộ Cung Tuấn lĩnh chỉ đến Thứ Châu.

Từ Thịnh Kinh đến Thứ Châu, đi hết tốc lực chỉ mất một ngày. Một đoàn nhân mã như của Cung Tuấn thì phải mất hai đến ba ngày.

Ngày hôm đó, Kỷ Tri triệu tập các quan trong đoàn Giám sát Sứ lại, song lần này khi Chu Tử Thư chuẩn bị đứng dậy, Kỷ Tri lại nói một cách đầy ẩn ý: "Đường đại nhân hãy khoan đã."

Chu Tử Thư ngẩng lên nhìn ông ta.

Kỷ Tri nói: "Đừng tiếp xúc quá nhiều với Tô Ôn Duẫn. Đường đại nhân, đây là lời gan ruột cuối cùng của ta đấy."

||

Sơn hà bất dạ thiên đã được xuất bản bên Trung Quốc rồi đó ^^ Để hôm nào mình up riêng hình poster lên một bài nhé, tại có liên quan đến việc sư huynh và sư đệ mặc áo đen thay vì áo trắng đó :)

Chú thích

[2] Ở đây dùng Long Dương chi hảo tức là tình gay ấy mà :)

[3] Ông chú tức là chú của bố

------oOo------

Chương 62

Nguồn: EbookTruyen.Net

Đừng sợ

Các chị em đã nhớ sư huynh chưa?

Hạ tuần tháng Tám, miền Bắc mưa như trút nước.

Trên đường phố thành Thứ châu chỉ nghe rì rầm tiếng mưa, thỉnh thoảng sẽ thấy một số người mặc quan bào vội vã di chuyển từ đầu này sang đầu kia thành.

Chẳng biết bắt đầu từ khi nào, trong thành Thứ châu tạm chia ra thành ba phe phái. Phe thứ nhất dĩ nhiên là đoàn Giám sát sứ do Kỷ Tri đứng đầu. Phe thứ hai là vây cánh của Phủ doãn Thứ châu Trương Phong, bao gồm toàn thể các quan viên đã ở thành Thứ Châu suốt mấy tháng nay, thậm chí là lâu hơn thế. Phe thứ ba do Tô Ôn Duẫn đại diện, bao gồm những quan lại không được gộp vào hai nhóm trên.

Tô Ôn Duẫn là Tuần tra sứ, không liên quan trực tiếp đến việc thi công quan đạo ở Thứ châu. Tuy vậy, anh ta cũng không thuộc về đoàn Giám sát Sứ được phái đến sau này, nên thành ra thân phận anh ta không khớp vào đâu cả.

Ngoài ba phe phái trên, còn có một người lạc lõng hơn cả Tô Ôn Duẫn.

Đó chính là Chu Tử Thư.

Phe Trương Phong, Tạ Thành thì khỏi cần nghĩ, chẳng dính líu gì đến Chu Tử Thư cả. Phe Tô Ôn Duẫn thì càng dẹp đi. Tô Ôn Duẫn giấu sổ âm dương vào phòng Chu Tử Thư cũng đồng nghĩa với việc đẩy cậu vào giữa biển lửa. Về sau chạm mặt nhau, Tô Ôn Duẫn cũng chẳng tỏ thái độ gì cả, cứ như thể đêm hôm ấy người lén lút đột nhập vào phòng Chu Tử Thư tuyệt nhiên không phải anh ta vậy.

Còn đoàn Giám sát sứ, vốn Chu Tử Thư phải được xếp vào phe này, nhưng chẳng biết Kỷ Tri đánh hơi thế nào được vụ Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn ngầm liên lạc với nhau, thành thử ông ta có vẻ đang cho Chu Tử Thư ra rìa.

Sáng sớm một ngày nọ, Chu Tử Thư bước ra khỏi nha môn phủ doãn, giương chiếc ô trúc, đi bộ đến hàng bánh bao gần nha môn.

"Cho hai bánh nhân rau tể thái với."

"Có ngay!"

Người bán hàng lấy giấy dầu gói kĩ hai chiếc bánh bao nóng hổi, đưa cho Chu Tử Thư. Thấy Chu Tử Thư mặc quan bào, anh ta dè dặt hỏi: "Vị đại nhân này...mới từ nha môn ra đây phải không ạ?"

Chu Tử Thư: "Đúng vậy."

"Sạp bánh bao của tiểu nhân vẫn mở đối diện nha môn, thế mà xưa nay chưa thấy ông quan nào khôi ngô tuấn tú như đại nhân. Nghe giọng đại nhân chắc không phải là người Thứ châu nhỉ?"

"Ta là người Giang Nam."

"Thảo nào."

Đang lúc rảnh rang không có việc gì làm, Chu Tử Thư ngồi luôn ở hàng bánh bao nói chuyện phiếm với ông chủ.

Lúc Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành và Phủ doãn Thứ châu Trương Phong đi từ trong nha môn ra thì bắt gặp ngay cảnh ấy. Một viên quan trẻ măng, mặc áo bào đỏ thẫm đang ngồi trong sạp hàng tối om, vừa ăn bánh bao vừa trò chuyện với dân thường. Trương Phong chỉ tay hỏi: "...Trông cứ như Chu Tử Thư – Đường đại nhân ý nhỉ?"

Tạ Thành liếc nhìn: "Chẳng hiểu đang làm trò gì nữa."

Trương Phong: "Bọn Kỷ Tri hình như không qua lại với hắn, vì hắn khá thân với Tô Ôn Duẫn."

Tạ Thành "Ồ" một tiếng, hai người cùng nhau bỏ đi.

Thành Thứ Châu ngoài mặt gió êm bể lặng, bên trong sóng ngầm sôi sục rít gào.

Đêm khuya hôm ấy, Giám sát sứ Kỷ Tri đột nhiên hạ lệnh, tróc nã Ti huân Lang trung bộ Lại – Nhạc Tử Quang. Nhạc Tử Quang sợ điếng người, mặt cắt không còn hột máu. Trương Phong nghe tin cũng choáng váng: "Kỷ đại nhân, ý ngài là sao?"

Kỷ Tri cười khẩy, vứt một mẩu vàng lá be bé xuống đất, lớn lối trách hỏi: "Ý ta ấy à? Thế để ta hỏi Nhạc đại nhân một chút, xin đại nhân nói cho ta biết, đây là vật gì? Nhạc đại nhân, bốn tháng trước ngài đến Thứ Châu với nhiệm vụ điều tiết nhân lực xây dựng quan đạo, dẫn theo cả gia quyến. Chuyện ấy cũng thường thôi, dù gì việc xây dựng quan đạo Thứ Châu ít nhất cũng phải kéo dài một năm rưỡi. Còn lá vàng này, thì được chính lệnh công tử thưởng cho kĩ nữ trong lúc uống rượu hoa đấy!"

Mọi người ồ lên kinh hãi, Trương Phong ngỡ ngàng: "Nhạc đại nhân?"

Nhạc Tử Quang cứng họng, lắp bắp: "Đấy là của hồi môn của phu nhân ta, lẽ nào...lẽ nào có chỗ không thỏa đáng?"

Kỷ Tri: "Thế thì bắt bà ấy về đây! Để ta xem lệnh phu nhân là con nhà nông thì lấy đâu ra vàng lá làm của hồi môn."

Nhạc Tử Quang ngồi bệt xuống đất, không ú ớ được tiếng nào.

Trương Phong lập tức phái sai nha dịch đi tróc nã.

Chưa kịp thở một hơi, Kỷ Tri đã đánh úp tiếp: "Còn chuyện của Cao đại nhân, hôm nay cũng làm rõ luôn một thể nhé."

Nghe ba chữ "Cao đại nhân", Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành híp mắt lại, nhìn Kỷ Tri mà cười: "Cao đại nhân, là Cao đại nhân nào thế?" Kỷ Tri: "Ngu bộ Lang trung bộ Công, Cao Duy – Cao đại nhân."

Tạ Thành: "Cao Duy thì có vấn đề gì?"

Kỷ Tri nháy mắt với thuộc hạ, lấy ra một cuốn sổ kê khai nợ nần dày cộp. Tạ Thành nhìn giấy ghi nợ trong sổ, sa sầm nét mặt, im thin thít. Cao Duy chính là Lang trung bộ Công cách đây nửa tháng đã chạy về Thịnh Kinh bẩm báo hoàng đế về việc cầu sông Kinh Hà bị sập. Hôm nay ông ta vẫn đang ở Thịnh Kinh, nhưng chứng cứ đã hai năm rõ mười rồi. Ngay hôm đó, Kỷ Tri viết tấu tố cáo sai phạm của Nhạc Tử Quang và Cao Duy, sai người gửi về Thịnh Kinh ngay trong đêm.

Tuấn mã phi nhanh như tên bắn trên quan đạo lầy lội, tảng sáng hôm sau đã dâng bản tấu lên án thư của Triệu Phụ.

Trên triều, Triệu Phụ lần thứ hai giận tím tái cả người. Tấu chương bị ông ta quăng đầy đất, các quan đều phải cúi đầu, hít thở khẽ hết mức có thể.

Tan buổi triều, Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng phe phẩy quạt, thở than với cấp dưới: "CungTử Phong khôn thế chứ lại, bảo biến một cái là lẩn nhanh như trạch. Y đi Thứ châu nhanh mấy cũng phải năm, sáu ngày. Còn chúng mình mới khốn khổ khốn nạn làm sao, hễ thánh thượng cáu lên là tụi mình hứng trọn."

Tả thị lang bộ Lễ cười bảo: "Hộ bộ Thượng thư đại nhân đi Thứ châu có khác nào vừa bị cách chức phải đoái công chuộc tội đâu?"

Mạnh Lãng phì cười: "Y mà đòi bị cách chức? Có mà trời đổ mưa vàng! Chao ôi, mấy giờ hôm nay nước ô mai mới về thế? Nóng thế này thì chết mất thôi."

Phía đông thành Thịnh Kinh, Phó phủ, vườn hoa trong hậu viện. Phó Vị đang lúi húi bên cái lồng chim treo trên cành cây, cẩn thận đút mồi cho chú chim trong lồng. Trong lồng tre ấy là một chú chim hoàng yến cực hiếm, được cưng chiều hết mức. Phó Vị dỗ dành mãi, hoàng yến bé bỏng mới chịu xơi một miếng. Mới ăn được hai miếng, ngoài tường bỗng rầm rập tiếng bước chân, hoàng yến sợ quá lại bay vút về.

Lông mày Phó Vị xếch tớn lên: "Làm gì thế không biết, binh lính phương nào ra đường nhũng nhiễu dân chúng vậy trời?"

Cỡ nửa canh giờ sau, Phủ Cầm đồng tử thở hồng hộc chạy tới báo tin: "Lão gia lão gia, con mới hỏi thăm về, Lang trung bộ Công Cao đại nhân nhà ở ngõ kế bên gặp chuyện không may rồi! Ngự lâm quân điều một đội binh sĩ có vũ trang đến tịch biên hết nhà cửa Cao đại nhân, cả nhà họ Cao đang sợ chết khiếp, có người bảo Cao lão phu nhân ngất lịm đi luôn."

"Tịch biên nhà cửa thì có quyền quấy quả dân chúng ư? Tịch biên nhà cửa thì có quyền phá bĩnh ta nuôi chim hử? Đúng là bọn kiêu binh coi trời bằng vung!"

Phủ Cầm đồng tử thầm nghĩ: Nhà người ta bị lục soát đến là tan hoang thê thảm, máu chảy thành sông, thế mà ngài chỉ bận tâm đến chim chóc, còn gì là tình người nữa!

Phó Vị vỗ tay: "Đi thôi, mình đi ngó tí."

Phủ Cầm đồng tử sửng sốt: "Lão gia?"

"Đi hóng hớt, nhanh."

"Vâng ạ!"

Trong hôm đó, nhà Cao Duy và nhà Nhạc Tử Quang bị tịch biên không chừa lại gì.

Cũng trong đêm đó, sứ giả truyền tin đến Thịnh Kinh trở về Thứ châu, thông báo cho Kỷ Tri biết việc hoàng đế đã phái người đến. Kỷ Tri choáng váng: "Thánh thượng lại cắt cử người đến Thứ châu?"

Sai nha thưa: "Vâng ạ. Nghe nói do Thượng thư bộ Hộ Cungđại nhân suất lĩnh, xuất phát từ sáng hôm qua. Trên đường tôi đi tình cờ bắt gặp xe ngựa của Cungđại nhân, án theo tốc độ của bọn họ thì ngày mai là có thể đến nơi."

Chu Tử Thư đang bước từ ngoài vào thì đụng phải sai nha từ trong nhà đi ra.

Kỷ Tri đang định nói gì đó mà thấy Chu Tử Thư tới thì ông ta lại thôi.

Chu Tử Thư không thể làm gì khác hơn ngoài cười xòa. Đến khi nha môn đóng cửa, cậu lại bung dù về trạm dịch. Một trận sấm rền vang bầu trời, Chu Tử Thư đẩy cửa sổ ra, ngoài trời không mưa nhưng rất u ám, mây đen mù mịt. Gió lớn thốc vào từng cơn rồi lại từng cơn, hất tóc cậu bay phấp phới ra sau lưng.

Chu Tử Thư lẩm bẩm: "Mưa núi toan sang, gió ngập lầu."

[1] Trích Lầu đông thành Hàm Dương của Hứa Hồn thời Đường. Trần Trọng San dịch.

Nói đoạn, cậu đóng cửa, thổi tắt nến.

Đêm xuống, mọi âm thanh lắng dần, cơn bão hầm hè chực tràn đến, gió đêm hung hãn như muốn xé xác từng căn nhà, nện thùm thụp lên từng cánh cửa. Trong trạm dịch, thình lình có mấy bóng người đen thui leo qua bờ tường, di chuyển thoăn thoắt, loáng cái đã đến trước phòng Chu Tử Thư. Một người rút dao, nhẹ nhàng lách lưỡi dao vào giữa khe cửa phòng cậy mở tung.

Bốn người chui vào ngay. Một tên cầm sẵn miếng vải trắng tẩm thuốc mê, nhanh chân mò đến bên giường, vén chăn, toan ụp vải vào miệng mũi Chu Tử Thư. Ai ngờ vừa xốc chăn lên, gã liền sửng sốt quay ra bảo đồng bọn: "Không có trên giường!"

Ba tên kia cũng hoảng, vội vàng lục soát trong phòng nhưng không thấy Chu Tử Thư đâu.

Bốn tên đột nhập lâm vào thế bí, một tên nói: "Cứ tìm đồ đã! Dù sao mục tiêu cũng không phải là hắn!"

Cả bốn lập tức xới tung căn phòng lên. Bọn chúng tìm gần nửa canh giờ, moi móc từng kẽ hở trong phòng mà không thu hoạch được gì. Đang lúc thương thảo kế sách, ngoài cửa chợt có tiếng sột soạt. Lũ bốn tên lập tức núp kín, lát sau, lại có năm kẻ bịt mặt nhảy vào phòng.

Năm kẻ kia vừa vào đến nơi, thấy căn phòng bị xáo trộn lung tung thì rút đao quát lên: "Kẻ nào đấy!"

Lũ bốn tên biết không tránh được, bèn hạ quyết tâm, tuốt kiếm vọt ra.

Tiếng sấm ùng ục nổ vang rền. Chỉ trong chớp mắt, cơn mưa sập xuống, tiếng mưa như thác đổ át cả tiếng đao kiếm chát chúa. Thế nhưng không trận mưa nào có thể giấu nổi máu người. Máu đỏ lòm hòa vào nước mưa chảy ồng ộc ra khỏi cửa phòng. Sai nha trong trạm dịch nửa đêm mò đi đại tiện, bắt gặp khoảnh sân đẫm máu thì khiếp hãi tột độ, hô hoán ầm cả lên.

Trạm dịch lúc này toàn quan lại. Vì đoàn Giám sát sứ đang ở tạm nơi đây nên các quan tại Thứ châu cũng chuyển vào ở cùng.

Bị tiếng hét chói tai đánh thức, Phủ doãn Thứ châu Trương Phong, Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu, Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành, Giám sát sứ Kỷ Tri... tất cả đều khẩn trương chạy ra khỏi phòng. Thấy máu lênh láng khắp nơi, Trương Phong lập tức điều động sai nha từ nha môn đến.

Trong phòng còn ba tên áo đen chưa chết, chúng thấy tình thế không ổn thì vội đình chiến để tẩu thoát.

Trương Phong gấp gáp hô lên: "Không được để chúng thoát thân!"

Tô Ôn Duẫn giờ mới ra khỏi cửa, anh ta cười khẩy: "Bắt kẻ chạy về hướng đông ấy. Hai kẻ còn lại đều bị thương, ngày mai đi tìm một lát là túm cổ được ngay. Hai đứa ấy có chạy đằng trời."

Trương Phong sửng sốt, nhìn Tô Ôn Duẫn hỏi: "Tô đại nhân, thành Thứ Châu lớn thế này, làm sao ngài bắt được hai kẻ ấy giữa biển người mênh mông?"

Tô Ôn Duẫn giả vờ ngạc nhiên: "Biển người mênh mông ư? Trương đại nhân đang đùa đấy à? Tìm trong biển người làm chi cho nhọc? Cứ tra ngay trong đám hộ vệ Trương phủ nhà ông là đủ rồi còn gì?"

Mặt Trương Phong đỏ gay: "Tô Ôn Duẫn, ngươi có ý gì?"

Tô Ôn Duẫn bỉ bôi: "Ta có ý gì ấy hả? Ý ta thế nào, Trương Phong ông không rõ hay sao? Đi, đuổi theo tên thích khách bị thương kia cho ta!"

"Đuổi cùng nhau chứ nhỉ?" Có tiếng ai vừa ung dung vừa ôn hòa vang lên từ bên ngoài trạm dịch, khiến tất cả các quan trong trạm chết trân.

Nghe thấy giọng nói ấy, nét mặt Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu trở nên kì lạ, ông ta đằng hắng một tiếng rồi lẩn vào giữa đám đông trong trạm dịch.

"Đùng..."

Trong màn đêm tối tăm, một ánh chớp rạch ngang bầu trời, chiếu sáng bừng cả trạm dịch.

Ngay giữa cổng chính, Hữu thị lang bộ Hộ Tần Tự cầm một chiếc ô giấy dầu rất rộng theo sau Cung Tuấn tiếng vào trạm dịch, che ô cho Cung Tuấn đi đằng trước. Hôm nay Cung Tuấn mặc bào gấm trắng, cao quý như dát ngọc dát vàng. Tay phải chàng cầm quạt giấy trắng gấp chặt, nhịp nhịp nó vào lòng bàn tay trái.

Chàng vừa gõ mấy cái, thì từ sau lưng, một đội quân Ngự lâm giáp trụ sáng ngời tràn vào trạm dịch. Gõ thêm cái nữa, Tả tướng của quân Ngự Lâm là Thiệu Văn Trác xách kiếm tiến vào, báo cáo với Cung Tuấn: "Bẩm đại nhân, đã bắt được ba tên thích khách về quy án."

Mọi ánh mắt đều đổ dồn vào Cung Tuấn, trông mặt ai cũng khó coi. Riêng phản ứng của Tô Ôn Duẫn là ngoạn mục nhất. Thoạt tiên Tô Ôn Duẫn cực kì choáng váng, vừa nghi ngờ vừa không thể hiểu nổi. Sau một hồi thì thái độ của anh ta lại thành giễu cợt. Anh ta nhìn Cung Tuấn như thể nhìn một tên bại tướng mình đã hạ gục.

Cung Tuấn quay ra bảo Tần Tự: "Tần đại nhân, cứ để ta tự cầm ô."

Tần Tự cười nói: "Tiện thì làm thôi mà, Thượng thư đại nhân nói gì vậy." Cung Tuấn nhận chiếc ô từ tay anh ta, không buồn để mắt đến các quan viên khác trong sân mà đi thẳng vào phòng Chu Tử Thư. Bước chân của chàng rất thoải mái, động tác cũng ung dung như thể không việc gì phải vội ở đây. Vào trong phòng, chàng đến bên giường, thấy trên giường không có ai, bàn tay nắm chặt cán ô của Cung Tuấn mới thả lỏng ra một chút. Không ai hay biết ngón tay chàng đã trắng bệch vì siết chặt cán ô suốt từ nãy đến giờ. Đến khi vạch mặt nạ từng thi thể trên sàn nhà mà vẫn không tìm thấy người mình muốn tìm, Cung Tuấn mới đứng lên, đi ra ngoài sân với nét mặt nhẹ nhõm.

Tô Ôn Duẫn cười: "Cungđại nhân, nghe nói ngày mai các ngài mới đến Thứ châu cơ mà. Sao tối nay đã tới ngay rồi thế?"

Cung Tuấn liếc anh ta một cái, điềm đạm nói: "Đương nhiên phải bôn ba cả đêm rồi, không thì làm sao chiêm ngưỡng kịp tấn kịch xuất sắc nhường này?" Đoạn, chàng ra lệnh cho quân Ngự lâm: "Đưa những thi thể này về nha môn phủ doãn."

"Vâng."

Mưa quất rào rào lên nền đất. Các quan lại và sai nha hoặc kéo nhau về nha môn phủ doãn, hoặc thu dọn tàn cuộc ở trạm dịch.

Cung Tuấn một mình tìm kiếm khắp trạm dịch mãi, cuối cùng mới phát hiện một gian nhà kho chứa củi quạnh quẽ. Cái kho này bình thường vẫn dùng để chăm nuôi ngựa và cất xẻng hốt phân, thế nên chưa vào đến cửa đã ngửi thấy mùi thối hoăng hoắc. Trong bộ y phục trắng muốt, Cung Tuấn một tay cầm ô, tay kia đẩy cửa kho chứa củi.

Vào lúc cánh cửa mở toang, cậu thiếu niên co quắp trong góc phòng chứa củi vội siết chặt con dao găm, quắc mắt nhìn chàng. Đôi mắt ấy đã cả đêm không nhắm, đỏ vằn tia máu. Nhận ra người vừa xuất hiện là ai, Chu Tử Thư chợt cảm thấy một luồng hơi ấm ùa về. Làn môi mấp máy, cậu nhìn Cung Tuấn khép ô, đặt xuống một chỗ, rồi bước tới bên cậu.

"Sư... sư huynh." Khi cất tiếng nói, Chu Tử Thư mới phát hiện hóa ra giọng mình đã khản đặc, nỗi sợ hãi cũng trào dâng không cách gì kìm nổi.

Dù đã sống đến hai kiếp, nhưng chưa lần nào trong đời cậu phải đối đầu trực tiếp với mặt tối của xã hội, chưa bao giờ rơi vào cảnh mạng sống mong manh như bước chân trần trên lưỡi dao.

Cung Tuấn xốc Chu Tử Thư dậy, ôm cậu thiếu niên mảnh mai vào lòng, vỗ về cậu bằng giọng nói dịu dàng nhất trên đời: "Cảnh Tắc, đừng sợ, huynh đến rồi đây."

Nước mắt chợt ứa ra trên đôi bờ mi, Chu Tử Thư quàng tay ôm chặt Cung Tuấn, rúc mặt vào vai chàng, nghẹn ngào không nói nên lời.

Sư huynh đệ hai người lặng lẽ ôm nhau trong phòng chứa củi không biết bao nhiêu lâu, Chu Tử Thư mới từ từ hồi lại, không còn run lẩy bẩy nữa. Cậu cất con dao găm vào trong áo, ngẩng lên nhìn Cung Tuấn, đôi mắt còn sũng nước, nhưng ánh mắt hết sức kiên định.

Chu Tử Thư trấn tĩnh nói: "Sự tình ở Thứ châu thật sự quá phức tạp. Tuy sư huynh mưu tính như thần, nhưng e rằng cũng chỉ biết một mà không biết hai, chưa tỏ tường sự thật. Cụ thể thế nào đệ khó giải thích ngay được, nhưng mấy hôm trước, Tô Ôn Duẫn có giao một cuốn sổ thu chi cho đệ, nói rằng đó là sổ âm dương đằng sau án tham ô Kinh Hà này."

Cung Tuấn nhướng mày: "Có phải sổ thật không?"

"Là thật ạ." Chu Tử Thư cười mỉa mai, "Đêm hôm ấy, lúc Tô Ôn Duẫn rời khỏi phòng đệ thì y đã giấu một cuốn sổ lại. Y cố ý thể hiện cho người ngoài thấy rằng mình đã giấu vật nguy hiểm ấy ở chỗ đệ, hòng đẩy đệ ra làm bia ngắm. Nhưng y không biết, đệ có bản lĩnh đọc đến đâu nhớ đến đấy, chỉ xem một lần đã nhớ hết từng câu từng chữ trong cuốn sổ ấy rồi. Vì thế đệ biết, cuốn sổ y giấu trong phòng đệ thực ra là sổ giả!"

"Còn sổ thật... Sư huynh, đệ không biết Tô Ôn Duẫn giấu nó ở chỗ nào, nhưng hiện giờ, chúng ta cũng có cuốn sổ ấy rồi."

Hai người đi vào một gian nhà trống. Chu Tử Thư đang định mài mực thì một bàn tay thon gọn trắng bóc đã cầm lấy thỏi mực đen trước khi cậu kịp chạm vào.

Chu Tử Thư ngẩng lên nhìn sư huynh.

Cung Tuấn mỉm cười: "Hôm nay đến phiên ta mài mực cho em, tiểu sư đệ."

||

Manh: *chấm nước mắt* Không gặp nhau thì thôi đã gặp là tình bể bình.

Chú thích

------oOo------

Chương 63

Nguồn: EbookTruyen.Net

Cuốn sổ thật

Chẳng biết từ bao giờ, mưa đã tạnh.

Chưa đến giờ Sửu, thành Thứ Châu vốn đang trong giờ giới nghiêm lại thắp đèn sáng trưng. Ngự Lâm quân giáp trụ loang loáng, những ngọn đuốc bập bùng trên tay, chạy rầm rập trong thành theo đội ngũ. Họ như giặc cướp xộc vào một nhà, tuốt đao sáng lóa, xông tới lục soát khắp nơi.

Trong đêm đen, ánh đuốc ngút trời, chiếu sáng bầu trời thành Thứ Châu hoen đỏ như máu.

Đến sáng sớm hôm sau, Ngự Lâm quân đã tịch biên toàn bộ phủ đệ của Phủ doãn Thứ Châu Trương Phong và bè lũ vây cánh. Trương Phong tóc tai bù xù, ngồi bệt trên sàn nha môn phủ doãn, mặt mũi thần thộn ngỡ hồn lìa khỏi xác, tai không nghe rõ tiếng, miệng lẩm nhà lẩm nhẩm. Có người ghé vào nghe thử xem gã ta nói gì, nhưng chẳng hiểu được chữ nào.

Tả tướng Ngự Lâm quân Thiệu Văn Trác sai người khiêng từng rương chất đầy vàng bạc châu báu vào thẳng nha môn. Những rương gỗ chật ních bạc xếp kín cả sân. Toàn bộ là tang vật tìm được từ nhà của Trương Phong, trên rương còn dính nguyên bùn đất.

Thiệu Văn Trác nói: "Bẩm đại nhân, đã thanh tra tịch thu hết tài sản, đây là tang vật đào được từ hậu viện Trương phủ."

Cung Tuấn liếc một cái rồi ngẩng lên nhìn ra xa, tang vật xếp hàng trải dài ra đến tận cổng lớn nha môn. Giọng chàng ngân nga: "Trước cứ tạm thế đã."

"Vâng."

Đến giờ Dần ba khắc, Trương Phong và một số quan lại Thứ Châu khác đều đã bị bắt giữ, cùm xích sắt, đứng giữa nha môn.

Ghế chủ tọa trong nha môn được dành cho Giám sát Sứ Kỷ Tri. Kỷ Tri vốn muốn nhường lại cho Cung Tuấn, nhưng Cung Tuấn chỉ mỉm cười bảo: "Kỷ đại nhân, ta chỉ vâng mệnh hoàng thượng đế kiểm tra tiến độ điều tra án tham ô mà thôi, quan đứng đầu ở đây vẫn là ngài."

Kỷ Tri vốn là một quan Ngự Sử thẳng tính, có mọc mười cái mồm cũng không nói lại Cung Tuấn, tranh luận vô ích, ông ta đành ngồi vào ghế chủ tọa. Cung Tuấn ngồi bên trái, bên phải là Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành và Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn. Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu và Hữu thị lang Tần Tự đều ngồi cùng phía với Cung Tuấn, rất có khí thế của hai ông Thiên lôi chỉ đâu đánh đấy dưới quyền quan Thượng thư đại nhân.

Đẳng cấp của quan lại trong xã hội Đại Tống rất cao, dù có phạm tội thì trước khi bị kết án cũng không phải chịu quỳ. Hơn mười viên quan Thứ Châu đứng dưới công đường, mặt mũi thẫn thờ như chết cha chết mẹ. Mới hôm qua còn phơi phới rạng ngời, mà hôm nay đã hom hem tiều tụy, dường như đường đến quan tài chỉ cách nửa bước chân.

Kỷ Tri gõ kinh đường mộc: "Phủ doãn Thứ Châu Trương Phong, mi có biết tội của mình không?"

Tai Trương Phong ù ù, không nghe rõ Kỷ Tri nói gì cả. Gã ta hốt hoảng ngẩng đầu, mắt nhòe nhoẹt, chẳng còn thấy những đại quan nhị phẩm, tam phẩm ngồi trên công đường. Ảo ảnh vụt lên trong mắt, gã thấy hồi bảy tuổi gã học vỡ lòng, thấy ngày đầu tiên lẫm chẫm vào trường tư thục. Rồi gã lại thấy chín năm ròng rã thi Hương, thi Đình, thấy lúc vinh danh bảng vàng, trở thành Đồng tiến sĩ xuất thân.

Đời gã mới ngoài bốn mươi tuổi đã leo lên thành quan lớn tứ phẩm hiển hách, cai quản cả một phủ Thứ Châu.

Thế mà hôm nay, gã đứng nơi đây, tương lai trước mắt là những tháng ngày quỳ gối trong ngục giam lạnh lẽo của Đại lý tự, rồi sau đó là quỳ gối trước pháp trường, bị đao phủ bổ cho một phát, đi đời nhà ma.

Mọi thứ sụp đổ đánh rầm trong đầu gã.

Trương Phong ngã quỵ xuống sàn.

Kỷ Tri làm sao có thể để gã giả bộ bất tỉnh cho qua chuyện được. Ông ta ra lệnh cho sai nha hắt nước lạnh vào mặt Trương Phong cho tỉnh, rồi liệt kê từng tội danh của gã: "Phủ doãn Thứ Châu Trương Phong, tại sao hai thích khách trong vụ ám sát ở trạm dịch hôm nay lại là hộ vệ trong phủ mi? Nhà mi hãy giải thích đi! Vàng bạc châu báu đào được từ hậu viện Trương Phủ, từ đâu mà có? Vai trò của mi trong vụ việc sập cầu sông Kinh Hà là như thế nào? Khôn hồn thì mau khai báo trung thực từ đầu đến cuối." Họng Trương Phong đắng nghét, gã không nói nổi một chữ nào.

Nhưng Kỷ Tri không cần gã phải mở miệng.

Kỷ Tri đã thẩm vấn hết các quan viên Thứ Châu khác, kẻ nào cũng sợ vỡ mật, thú nhận hết toàn bộ hành vi hà lạm của mình.

Chỉ cần tìm được tang vật là có thể định tội Trương Phong. Lấy lí do có thích khách, họ cưỡng chế lục soát phủ đệ của Trương Phong, phát hiện của cải bị chôn giấu. Tuy đầu đuôi lẫn lộn, sai về nguyên tắc, nhưng có Ngự Lâm quân ở đây, không ai dám phản đối.

Kỷ Tri thốt lên đầy xót xa: "Ăn lộc vua ban, vì vua dốc sức. Trương đại nhân, ông báo đền ơn nghĩa triều đình như vậy đấy à?"

Câu nói ấy như hồi chuông cảnh tỉnh Trương Phong. Ánh mắt gã trôi về nơi xa xăm, rồi đột nhiên, nét mặt gã trở nên thảng thốt như thể đã ngộ ra điều gì. Trương Phong quỳ mọp dưới công đường, nức nở: "Tội thần biết lỗi, tội thần biết lỗi rồi!"

"Người đâu, áp giải những kẻ này vào đại lao, chờ xử lí."

Bọn Trương Phong bị giải đi hết. Kỷ Tri thở phào nhẹ nhõm, song trông mặt ông ta chưa có vẻ gì là thỏa mãn cả. Ông ta im lặng không nói gì, nhưng có người lại không chịu để cái miệng mình nhàn rỗi. Tô Ôn Duẫn cười nhạt: "Cái án tham ô Kinh Hà lớn thế này mà lại chỉ có mỗi một viên quan tứ phẩm tép riu giật dây thôi ư?" Mọi người đồng loạt nhìn Tô Ôn Duẫn.

Tô Ôn Duẫn ngồi dưới Tạ Thành, nụ cười ẩn giấu những lưỡi dao: "Chư vị đại nhân có tin không?"

Cung Tuấn cúi đầu thưởng trà, Tả Hữu thị lang bộ Hộ thấy chàng không nói gì thì cũng mặc kệ Tô Ôn Duẫn. Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành trông khá ảm đạm, chẳng biết đang suy nghĩ gì. Chỉ có mình Kỷ Tri là hỏi: "Ồ, Tô đại nhân có cao kiến gì chăng?"

Trước khi Tô Ôn Duẫn trả lời, một bóng hình mảnh mai lọt vào mắt anh ta. Người ấy đi vào từ góc cổng chính nha môn, hòa mình trong đám đông quan lại dưới công đường. Anh ta thoáng chần chừ, rồi bảo: "Hai chữ 'cao kiến' chẳng dám nhận đâu. Trương đại nhân quả là trang nghĩa khí, ôm hết trách nhiệm về mình, không khai ra đồng bọn nào cả. Nhưng chắc hẳn y chưa biết, Đại lý tự còn đang chờ y ở Thịnh Kinh."

Mọi người nghĩ thầm: Thứ đáng sợ nhất đang chực chờ lão ta, chính là kẻ lòng dạ nham hiểm nhà ngươi đấy Tô Ôn Duẫn ạ!

Tô Ôn Duẫn nói: "Của cải tham ô đã bày ra đây, y tất phải nhận tội chịu phạt. Nhưng đồng bọn sau lưng y vẫn đang ẩn núp rất kĩ. Mặc dù vậy..." Cố ý kéo dài giọng, Tô Ôn Duẫn liếc nhìn Kỷ Tri và Cung Tuấn bằng ánh mắt hả hê.

Kỷ Tri trông có vẻ tức tối, nhưng Cung Tuấn chỉ mỉm cười.

Tô Ôn Duẫn: "Mặc dù vậy, chỉ cần tìm được cuốn sổ thu chi chứng minh hành vi hà lạm của bọn chúng, chúng ta sẽ có manh mối để vạch trần sự thật!"

Kỷ Tri hoàn toàn không cười nổi.

Sổ thu chi mới chính là bằng chứng phạm tội hết sức cần thiết cho vụ án tham ô này.

Cho dù lục soát được tang vật từ nhà Trương Phong, họ cũng chưa đủ chứng cứ để chứng minh đó đều là tài sản bòn rút từ ngân quỹ làm đường. Bạc của triều đình có đánh số, nhưng ngọc ngà châu báu khác thì không, nên hiện giờ quy mô của vụ tham ô mới chỉ dừng lại ở chỗ bạc tịch thu được. Thêm nữa, muốn truy tìm bè lũ tòng phạm thì phải dựa vào cuốn sổ kế toán kia, bằng không chỉ còn nước dùng cực hình của Đại lý tự để ép Trương Phong khai ra.

Ai tìm được cuốn sổ kế toán bí mật ấy, người đó chính là đại công thần trong án tham ô Kinh Hà.

Hôm qua trong số thích khách lén lút đột kích phòng Chu Tử Thư có một nhóm là do Trương Phong phái đi, nhóm còn lại chính là do Giám sát Sứ Kỷ Tri điều động. Kỷ Tri thân là Giám sát Sứ, khó khăn lắm vớ được một vụ rình rang thế này, làm gì có chuyện ông ta cam tâm tình nguyện biếu công lao cho kẻ khác.

Thoạt tiên ông ta nghi ngờ Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu, nhưng không bao lâu, tầm ngắm của Kỷ Tri chuyển sang Phủ doãn Thứ châu Trương Phong. Ấy vậy mà mặc cho ông ta lùng sục khắp mọi nơi, cuốn sổ kế toán vẫn mất tăm mất tích. Sau khi ngấm ngầm quan sát, Kỷ Tri phát hiện Trương Phong dường như rất để mắt đến Tô Ôn Duẫn, nên mới nghi rằng Tô Ôn Duẫn trộm được cuốn sổ ấy trước, rồi giấu trong phòng Chu Tử Thư.

Lúc ấy chỉ còn một ngày là Cung Tuấn và quân Ngự Lâm sẽ đến; trước khi cơ hội vuột mất, Kỷ Tri bắt buộc phải hành động ngay để đoạt lấy cuốn sổ. Chính vì vậy, vụ đụng độ giữa hai phe thích khách mới xảy ra trong trạm dịch tối hôm qua.

Không may thay, có tính giời tính bể đi chăng nữa, Kỷ Tri cũng không tính được rằng, chẳng những sổ không có trong phòng Chu Tử Thư, mà Cung Tuấn lại đến Thứ Châu sớm hơn dự kiến!

Tuy thích khách của Kỷ Tri cũng bị bắt giữ, nhưng tất cả mọi người đều biết án tham ô Thứ Châu không dính líu đến Kỷ Tri. Ở Thịnh Kinh ông ta chỉ là quan nhỏ lục phẩm, phải đến sau khi cây cầu lớn sập xuống ông ta mới tham gia vào việc điều tra. Trên thực tế, Cung Tuấn cũng không nghi ông ta, thậm chí chàng còn sai Ngự Lâm quân thả tên thích khách là thuộc hạ của Kỷ Tri.

Kỷ Tri ngồi giữa công đường, nhìn Cung Tuấn bên trái, lại nhìn Tô Ôn Duẫn bên phải. Bỗng ông ta cảm thấy mình già cỗi thật rồi, thủ đoạn không bì nổi với hai chàng trai trẻ.

Giọng điệu Kỷ Tri có phần tự giễu: "Nghe ý Tô đại nhân, hẳn đã biết cuốn sổ ấy ở đâu rồi nhỉ?"

Tô Ôn Duẫn đang định đáp thì bị cắt ngang bởi một âm thanh trong trẻo. Ấy là tiếng chung trà của Cung Tuấn đặt xuống bàn. Chàng ngẩng lên một chút, vui vẻ bảo Kỷ Tri: "Dĩ nhiên, Tô đại nhân biết chứ. Cách đây mấy hôm, Tô đại nhân đã bí mật tìm được sổ kế toán rồi mà. Để phòng ngừa bất trắc, ngài ấy đã giấu nó ở chỗ Khởi cư lang Chu Tử Thư – Đường đại nhân."

Có vẻ như Tô Ôn Duẫn chỉ đợi cái trò hề này diễn ra thôi, anh ta nhìn Cung Tuấn đầy giễu cợt.

Kỷ Tri: "Đường đại nhân, việc này có thật không?"

Chu Tử Thư tiến lên phía trước, chắp tay hành lễ: "Đúng là có chuyện ấy ạ."

Kỷ Tri: "Vậy cuốn sổ đang ở đâu?"

Chu Tử Thư nói: "Ta đã bàn giao cho Hộ bộ Thượng thư đại nhân rồi.

Cung Tuấn chìa tay, sai nha sau lưng đưa một cuốn sổ thu chi cho chàng.

Kỷ Tri thở dài, lòng ông ta đã rõ: công lớn trong vụ án lần này rơi hết vào tay Cung Tuấn, Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn rồi, còn mình thì móm.

Nào ngờ, Tô Ôn Duẫn tự dưng cười phá lên, nheo mắt, giọng điệu cực kì mỉa mai: "Cungđại nhân, ngài có chắc mình đang cầm trên tay sổ thu chi của án sập cầu Kinh Hà không? Ngài hiện là Thượng thư đại nhân quản lí quốc khố triều đình, một cuốn sổ kế toán nhỏ nhoi chắc hẳn không lừa được mắt ưng của ngài. Song đây là việc trọng đại, hạ quan khuyên ngài nên mở sổ ra kiểm tra cho kĩ. Ngộ nhỡ có chỗ nào sai sót, còn kịp thời xử lí trước khi hồi kinh báo cáo thánh thượng."

Cung Tuấn ra vẻ tập trung lắm, chàng giả vờ suy nghĩ nghiêm túc một hồi rồi nói: "Tô đại nhân nói phải, chứng cứ này sẽ trình lên Thánh thượng, cẩn thận không đi đâu mà thừa. Đã thế, mời Tần đại nhân và Từ đại nhân mỗi người kiểm tra cuốn sổ này một lượt, để chắc chắn là không có lỗi sai."

Tần Tự và Từ Lệnh Hậu đồng thanh: "Xin vâng."

Hai người nhận cuốn sổ kế toán, bắt tay vào rà soát.

Chu Tử Thư đứng trong phòng xử án, cụp mắt nhìn xuống đất, không nói gì cả.

Tô Ôn Duẫn hết sức đắc chí, chỉ đợi Cung Tuấn tự làm xấu mặt mình. Đến lúc nhìn sang Chu Tử Thư, anh ta mới bỏ cái thái độ giễu cợt khinh khi. Tô Ôn Duẫn lòng dạ hiểm độc, thủ đoạn vô tình, nhưng cũng không đến mức thấy người gặp nguy, thừa cơ hãm hại. Anh ta biết thừa trong vụ này mình toàn lợi dụng Chu Tử Thư chứ không hề có ý định chia lộc với cậu ta. Đã lôi người ta ra làm bia ngắm thì làm gì có chuyện giấu sổ thật ở phòng Chu Tử Thư, bằng không nhỡ bị ai đó trộm được thì thua trắng.

Từ đầu đến cuối, Tô Ôn Duẫn không ngần ngại gài bẫy, lợi dụng Chu Tử Thư, thậm chí đẩy Chu Tử Thư ra thí mạng cho mình. Những điều đó không khiến anh ta áy náy, nhưng anh ta sẽ không chế giễu nạn nhân của mình.

Sau gần nửa canh giờ, Tần Tự và Từ Lệnh Hậu nhìn nhau một cái, rồi Tần Tự nói: "Bẩm Thượng thư đại nhân, hạ quan và Từ đại nhân đã thẩm tra xong, đây chính là sổ kế toán thật ạ."

Tô Ôn Duẫn biến sắc, Cung Tuấn ôn tồn bảo: "Vất vả cho hai vị đại nhân rồi."

Tần Tự và Từ Lệnh Hậu đều là Thị lang bộ Hộ, ngày ngày tiếp xúc với các loại giao dịch thu chi, hai người này đã tính toán thì không thể sai được. Họ cũng không thể lừa gạt mọi người, vì chỉ cần đưa cuốn sổ này về Thịnh Kinh, trình lên hoàng thượng, chân tướng sẽ lộ ngay.

Mặt Tô Ôn Duẫn trắng bệch, mắt trợn trừng nhìn chằm chằm Cung Tuấn. Mãi lâu sau, anh ta mới nghiến răng nặn ra từng chữ: "Đúng... đúng, là, sổ, thật, à?"

Tần Tự nhìn anh ta hết sức lạ lùng: "Chả lẽ sai được ư?"

Cung Tuấn cười: "Hay là Tô đại nhân tự kiểm tra đi."

Ai cũng biết Cung Tuấn chỉ khách sáo thế thôi, nhưng Tô Ôn Duẫn lại đứng phắt dậy, đi đến trước mặt chàng để lấy cuốn sổ về kiểm tra. Anh ta lật hết trang này đến trang khác, đọc không sót chữ nào. Càng xem, lòng Tô Ôn Duẫn càng lạnh đi. Đến khi gấp sổ, Tô Ôn Duẫn hết cười nổi nữa.

Hàng vạn suy nghĩ lóe lên trong đầu, anh ta liền soi xuống Chu Tử Thư đứng dưới công đường.

Không ngờ đúng lúc ấy, Chu Tử Thư cũng ngẩng lên nhìn anh ta.

Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu thấy sự thay đổi của Tô Ôn Duẫn thì manh nha phát hiện ra gì đấy. Coi thái độ Cung Tuấn, ông ta bèn giúp một tay: "Thế nào, sổ này là thật đấy, Tô đại nhân không nhận ra ư? Hay là đây không phải cuốn sổ ngài giấu ở phòng Đường đại nhân? Chẳng phải chính ngài đã giao nó cho Đường đại nhân sao?"

Tô Ôn Duẫn chịu chết. Anh ta vô cùng muốn nói cuốn này không phải cuốn mình đưa cho Chu Tử Thư, vì sổ thật còn nhét trong ngăn kép ở tủ quần áo của anh ta kia kìa, nhưng làm sao mà nói thế được! Nếu nói thế, anh ta phải giải thích chuyện có hai cuốn sổ kiểu gì, giải thích việc mình giấu sổ giả trong phòng Chu Tử Thư ra sao? Lẽ nào lại nói toạc móng heo là mình gí Chu Tử Thư lên chết thay, để kẻ địch nhắm vào cậu chứ không nhắm vào mình?

Mãi sau Tô Ôn Duẫn mới nói: "Đương nhiên là không phải rồi, đây chính là quyển sổ ta giao cho Đường đại nhân bảo quản."

Tô Ôn Duẫn bước xuống đài xử án, đi tới trước mặt Chu Tử Thư, bình thản dừng bước.

Môi anh ta nhếch lên thành nụ cười, mắt hoa đào cong vút, nhưng nghe giọng thì rõ là đang tức lộn gan lộn mề.

"Chu Tử Thư, Đường đại nhân. Đường Cảnh Tắc, Đường đại nhân... phải bảo quản cuốn sổ này giúp ta, đúng là quá vất vả cho ngươi."

Chu Tử Thư chắp tay: "Lệnh của Tô đại nhân, hạ quan nào dám chối từ."

Tô Ôn Duẫn đứng trước mặt Chu Tử Thư, bất chợt nở nụ cười: "Cảnh Tắc à."

Cung Tuấn nhẹ nhàng nhìn lên.

Chu Tử Thư bình tĩnh đối mặt với Tô Ôn Duẫn.

Tô Ôn Duẫn: "Quả thực, ta phải hết lòng cảm tạ... ngươi và Cungđại nhân đấy!"

||

------oOo------

Chương 64

Nguồn: EbookTruyen.Net

Trung Thư xá nhân

Đọc tin thấy kì thi vào 10 đang chuẩn bị diễn ra, và còn khoảng 3 tuần nữa là đến kì thi đại học. Mong rằng các bạn nhỏ chuẩn bị thi sẽ có sức khỏe, tâm trạng thật tốt, tự tin thi hết sức mình và có kết quả ưng ý. Trạng nguyên vô song CungTử Phong độ các bạn :)

Ngày hai mươi bảy tháng tám, Ngự Lâm quân áp giải bè đảng Trương Phong về kinh đợi xét xử.

Xuất phát từ Thứ Châu, đoàn áp tải đi được khoảng hai phần ba lộ trình thì đến phần đường quan đạo mới xây. Bọn Trương Phong bị còng bằng xích sắt, nhốt trong xe, đi ngang qua những ruộng lúa mạch vàng ươm. Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu giục ngựa chạy song song với xe chở tù, nói với Trương Phong: "Trương đại nhân, ông trông kìa, chúng ta đang đi trên con đường quan đạo ông tham ô đấy. Ông làm quan hơn hai mươi năm, là tiến sĩ cùng khóa với lão phu, hà cớ gì ông lại làm khổ mình như vậy!" Sát hông chữ "lợi" treo một con dao.

Mặt mũi, tóc tai Trương Phong bơ phờ, bết bát. Ông ta ngước mắt nhìn lên trời, dường như không nghe thấy những gì Từ Lệnh Hậu nói nữa.

Ba ngày sau, Ngự Lâm quân về đến kinh thành. Trương Phong và hơn mười viên quan khác bị tống vào nhà giam của Đại lý tự. Hôm đó, Cung Tuấn đích thân dâng sổ kế toán lên hoàng đế. Triệu Phụ xem xong thì giận đùng đùng, ra lệnh cho Đại lý tự thẩm vấn lũ Trương Phong thật kĩ càng, ngõ hầu truy bằng được thủ phạm đằng sau vụ này.

Cùng lúc ấy, Thượng thư bộ Công Viên Mục – người bị điều đi giám sát công trình ở U Châu – cũng trở về kinh thành. Trong khu làm việc của Trung Thư tỉnh ở điện Cần Chính, Viên Mục lấy hộp Bích Loa Xuân thượng hạng ra để cùng nhâm nhi với hai viên Thị lang nhà mình. Trong gian nhà, ba vị quan đứng đầu bộ Công ngồi quây quần bên chiếc bàn, Viên Mục vén tay áo tự châm trà, nếm một hớp, khoan khoái thở ra:

"Trà ngon quá xá! Sống trên đời ấy à, cứ mỗi ngày trôi qua là bớt đi một ngày, nếu được thường xuyên thưởng thức trà ngon nhường này, thì chớ nên lãng phí."

Tả thị lang Lý Ngọc Đức cầm chung trà, ngơ ngác nhìn Viên Mục. Bên cạnh ông ta, Hữu thị lang Tạ Thành im ắng cúi đầu, không nói chi cả.

Hai hôm sau, Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn dẫn quan binh xộc đến nha môn bộ Công, bắt giữ Hữu thị lang Tạ Thành về quy án.

Cả triều đình choáng váng.

Hôm sau lên triều, Thượng thư bộ Công Viên Mục vẫn chưa hết bàng hoàng, đứng ra xin tội ngay với hoàng đế.

"Bẩm thánh thượng, thần lơi lỏng quản lí, để cấp dưới phạm tội tham ô tày đình! Đường quan đạo Thứ Châu là công trình quan trọng của triều ta, là vĩ nghiệp nghìn thu. Sông Kinh Hà gặp mưa lớn gây sập cầu khiến gần một trăm người thợ bị lũ cuốn tử vong, tội của thần không thể tha thứ. Xin bệ hạ hãy trừng phạt thần!"

Ở điện Tử Thần chỉ có các quan từ tứ phẩm trở lên mới được dự buổi chầu. Viên Mục mới nói xong, Tả thị lang bộ Công là Lý Ngọc Đức và các Lang trung trong bộ đều đứng ra thưa: "Quan viên bộ Công đều phạm lỗi giám sát thiếu chu toàn, xin bệ hạ giáng tội!"

Trên ngai rồng, Triệu Phụ lẳng lặng nhìn các quan bộ Công đang xin tội.

Phải một lúc sau, ông ta mới nhẹ nhàng cười với Tả tướng Kỷ Ông Tập: "Kỷ khanh, khanh bảo trẫm nên làm gì cho phải đây?"

Kỷ Ông Tập tiến lên, thưa: "Hữu thị lang bộ Công Tạ Thành tham ô, vơ vét của công, khiến cầu sông Kinh Hà sập trong mưa lớn, gây thương vong cho gần một trăm người, tội không thể tha. Viên đại nhân công tác ở U Châu, có lòng mà không đủ sức, chẳng thể phân thân ra để quản hai đầu. Tuy có lỗi quản lí chưa nghiêm, nhưng không phải cố tình lơ là chức trách."

Triệu Phụ gật đầu: "Kỷ khanh nói có lý lắm. Viên khanh, ngươi coi sóc việc làm đường ở châu U thay trẫm, đúng ra trẫm phải ban thưởng cho ngươi mới đúng. Nhưng nếu ban thưởng cho ngươi, thì trẫm không còn mặt mũi nào mà đối diện với hồn thiêng gần một trăm thợ thuyền và các quan viên trên trời. Như vậy, trẫm cho khanh lấy công bù tội, có được không?"

Viên Mục giơ hốt ngọc lên cao: "Thần đội ơn bệ hạ."

"Nói 'đội ơn' dễ dàng quá nhỉ?" Triệu Phụ bất ngờ đổi giọng, hừ một tiếng khiến cả điện Tử Thần sởn tóc gáy. Quần thần trong điện nín thở. Triệu Phụ cười nhạt: "Cứ coi như chuyện sông Kinh Hà ngươi lấy công bù tội đi, nhưng Viên Mục này, ngươi nói trẫm hay, ba năm trước đây, khi miền Nam mắc nạn tuyết lớn, Tạ Thành ngang nhiên ăn hối lộ, ngươi đang ở chỗ nào?"

Viên Mục rên rỉ trong lòng, biết hôm nay mình phải ngã ở ải này rồi.

Quả đúng vậy, thực ra, lần này hoàng đế phái ba tâm phúc của mình đến U Châu, Thứ Châu và Ninh Châu hoàn toàn không phải để điều tra vụ tham ô quan đạo, mà cốt là để điều tra viên quan cao cấp nào trong bộ Công đã ăn chặn tiền cứu trợ nạn tuyết nghiêm trọng ở miền Nam cách đây ba năm.

Ba năm trước, Giang Nam có mùa tuyết lớn nhất trong hàng trăm năm lịch sử, khiến mấy vạn bách tính tử vong vì giá lạnh. Triều đình chi không biết bao nhiêu tiền của để cứu trợ thiên tai mà như muối bỏ bể. Nguyên mùa đông năm ấy, dân chúng cả vùng miền Nam lâm vào cảnh cùng quẫn, khố rách áo ôm. Sang mùa xuân năm sau, tuyết lớn tan dần, hàng vạn bộ hài cốt từng bị chôn vùi bắt đầu lộ ra. Khi các quan địa phương báo cáo số người thương vong và mất tích lên, cả triều đình bàng hoàng kinh sợ.

Mùa xuân sau nạn tuyết, Triệu Phụ tự lên Đàn Trời cầu phúc cho dân chúng, viết chiếu xưng rõ tội trạng của mình.

Mấy tháng trước, Triệu Phụ sai Chu Tử Thư dẫn Tô Ôn Duẫn đến viện Hàn Lâm tìm tài liệu, chính là để bắt đầu tra ngược lại vụ án tham ô hồi ấy.

Không sai, nạn tuyết năm ấy gây thiệt hại lớn không chỉ vì thiên tai khắc nghiệt mà còn có bàn tay con người. Số người tử vong không phải gần một trăm thợ thủ công, mà là hàng vạn lê dân bách tính!

Trong quá trình âm thầm điều tra, Tô Ôn Duẫn đã lần ra được một ít manh mối, bèn bí mật bắt giữ một số quan viên địa phương. Anh ta biết tính chất vụ việc cực kì nghiêm trọng nên không hề trình báo trên triều, sợ đánh động đến những kẻ chóp bu. Tô Ôn Duẫn thẩm tra gắt gao, dùng cực hình xét hỏi những quan viên tham ô, cuối cùng cũng tìm ra được ngọn nguồn, xác định được quan lớn đứng sau vụ án thảm khốc ấy là người của bộ Công, ít nhất phải thuộc hàng tam phẩm trở lên.

Trong bộ Công, các quan thuộc hàng tam phẩm trở lên chỉ có ba người, một là Thượng thư Viên Mục, hai là Tả thị lang Lý Ngọc Đức, và ba là Hữu thị lang Tạ Thành.

Chính vì thế, Triệu Phụ đã sai ba người tâm phúc là Cung Tuấn, Tô Ôn Duẫn và Tống Tuân lên phương Bắc điều tra xem, rốt cuộc ai trong ba người đó mới là kẻ cầm đầu thực sự. Vụ sập cầu Kinh Hà chẳng qua là một sự trùng hợp, nhưng phải nói, vận làm quan của Tô Ôn Duẫn xuân đến phát hờn. Trong vụ án lần này, anh ta chẳng những thộp cổ được Tạ Thành, mà còn vơ được thêm một đống lâu nhâu khác, công lao to gấp bội.

Một tướng nêu công chết vạn người1, gần một trăm vong hồn tan xương nát thịt dưới lòng sông Kinh Hà lạnh căm đã xếp thành nấc thang cho Tô Ôn Duẫn tót lên mây xanh!

Trên điện Tử Thần, Triệu Phụ tức giận nhiếc móc Tạ Thành, khiển trách bá quan. Tạ Thành giờ này đã bị tống giam rồi, Triệu Phụ không có đối tượng để trút giận, bèn đổ tuốt lên đầu Thượng thư bộ Công Viên Mục.

Viên Mục quỳ phục xuống thỉnh tội: "Thần quản lí thuộc hạ không nghiêm, tội đáng muôn chết! Xin bệ hạ hãy cách chức thần, trừng trị thần thích đáng, thần không còn mặt mũi nào nhìn bệ hạ, không còn mặt mũi nào đối diện với muôn dân nữa!"

Vở tuồng hiền thần xin tội lại được biểu diễn trong điện Tử Thần.

Triệu Phụ lạnh lùng khiển trách Viên Mục mấy câu liền, Viên Mục nước mắt ngắn nước mắt dài, khóc lóc sụt sùi thảm thiết, nào là thương thay dân đen tị nạn vùi thây trong trận tuyết ba năm trước, nào là đau thay những sinh linh chết đuối ở Kinh Hà hôm nay, nào là mắng mỏ bản thân không biết nhìn người.

Quanh đi quẩn lại một phen Triệu Phụ mới nói: "Được rồi được rồi, việc này cũng không hoàn toàn là lỗi của Viên khanh."

Viên Mục nước mắt tèm lem, rống lên: "Bệ hạ!"

"Phạt ngươi sáu tháng bổng lộc, về ngay U Châu, đôn đốc việc xây dựng quan đạo cho hẳn hoi tử tế, làm không xong thì đừng có bước chân về bộ Công!"

"Thần lĩnh phạt!"

Vở diễn minh quân trung thần hạ màn xuất sắc, Viên Mục đứng lên, trở lại hàng ngũ các quan.

Phạt xong rồi thì đến hồi ban thưởng. Đại thái giám Quý Phúc đứng ra đọc thánh dụ2: "Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao, Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn cơ trí thận trọng, sáng suốt tài giỏi, can đảm hơn người. Nay thăng làm Hữu thị lang bộ Công hàm tam phẩm, kiêm nhiệm chức Thiếu khanh Đại lý tự. Nhậm chức ngay từ hôm nay."

[2] Dụ tức là lời truyền bảo của người trên xuống người dưới

Tô Ôn Duẫn bước ra từ hàng ngũ các quan Đại lý tự, cao giọng thưa: "Đội ơn bệ hạ3."

Quý Phúc đọc tiếp: "Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao, Thượng thư bộ Hộ Cung Tuấn trung thành giỏi giang, làm việc nhạy bén kịp thời. Nay ban thưởng năm mươi lạng vàng trắng, ba mươi cuộn gấm trắng."

Cung Tuấn hô: "Đội ơn bệ hạ."

"Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao..."

Lần lượt các quan trong đoàn Giám sát Sứ có công điều tra vụ án ở Thứ Châu được ban thưởng, Triệu Phụ tuyên bố tan triều, bá quan lục tục ra về.

Hôm nay là phiên trực của Chu Tử Thư, cậu đã trở lại với công việc ghi chép hàng ngày của Khởi Cư lang. Tan triều, Triệu Phụ sang điện Thùy Củng, cậu liền đi theo ông ta. Trong quá trình di chuyển, Chu Tử Thư và hai Khởi Cư xá nhân khác đi cách Triệu Phụ một quãng, nghiêm chỉnh cúi đầu giữ im lặng. Chu Tử Thư không hề hỏi tại sao trong số quan lại đi Thứ Châu lần này, chỉ có mỗi mình không được ban thưởng.

Đến điện Thùy Củng, Triệu Phụ lật qua lật lại đống tấu chương trên bàn, đùa rằng: "Quý Phúc, ngươi xem đống tấu này đi, ngày nào cũng hành trẫm đến mụ cả đầu. Trẫm đã già, mắt mờ lắm rồi, làm sao đọc nổi tất cả chỗ tấu chương này chứ!"

Quý Phúc lập tức mỉm cười xun xoe: "Quan gia hồng phúc tề thiên, thọ ngang trời đất, vĩnh viễn không già."

Triệu Phụ cười mắng: "Cái mồm khéo đáo để chưa kìa!" Đoạn ông ta nhìn các quan Khởi Cư chầu hai bên, hỏi Chu Tử Thư: "Cảnh Tắc, ngươi thấy thế nào?"

Chu Tử Thư lập tức đứng dậy, hành lễ rồi nói: "Bệ hạ ngày đêm lo việc nước, nhờ vậy mà muôn dân được kê cao gối ngủ, mạnh mẽ oai phong nhường ấy, sao có thể nói là già được ạ."

Triệu Phụ mỉm cười, giở một bản tấu rồi tiện tay đặt nó sang bên.

"Cảnh Tắc cũng học được cách ăn nói của lũ hoạn quan rồi."

Quý Phúc thấy tâm tình Triệu Phụ có vẻ vui, vả lại lão đã biết trước đôi điều, bèn đảo mắt, nhỏ giọng nói: "Bệ hạ ghét bỏ nô tài rồi."

Triệu Phụ cười ha hả: "Thế ngươi có tủi thân không?" Quý Phúc làm bộ như tủi hờn lắm mà không dám nói.

Cười xong, Triệu Phụ nhìn Chu Tử Thư, nghiêm túc hỏi: "Cảnh Tắc có trách trẫm hôm nay ban thưởng cho tất thảy quần thần mà bỏ qua ngươi không?"

Chu Tử Thư thưa: "Thần không dám. Có thể san sẻ gánh lo cho bệ hạ đã là vinh hạnh lớn lao của thần rồi."

"Dù vậy, cũng không thể bạc đãi ngươi được." Nói rồi, Triệu Phụ nháy mắt ra hiệu cho Quý Phúc, Quý Phúc lập tức tiến lên, chậm rãi đọc thánh dụ: "Các khanh, trẫm vâng mệnh trời cao, Khởi Cư lang Chu Tử Thư tài tư mẫn tiệp, ngôn từ sâu sắc, thấu hiểu tấm lòng trẫm. Nay thăng làm Trung Thư xá nhân hàm tứ phẩm, nhậm chức ngay trong ngày."

Chu Tử Thư tuy đã dự liệu được, nhưng khi trực tiếp nghe dụ lệnh thăng chức, cậu vẫn hết sức choáng ngợp. Trăm mối cảm xúc đan xen trong lòng, Chu Tử Thư hồi tưởng lại toàn bộ những gì đã trải qua suốt một năm nay, cuối cùng mới ngẩng lên nhìn vua với gương mặt đầy ngỡ ngàng. Cậu nghẹn ngào nói: "Bệ hạ..."

Triệu Phụ mỉm cười: "Cảnh Tắc, tiếp chỉ đi chứ, hay là không ưng phần thưởng này?"

Chu Tử Thư lập tức hành lễ: "Thần đội ơn bệ hạ!"

Chu Tử Thư lĩnh chỉ xong thì trở về chỗ ngồi của Khởi Cư lang. Triệu Phụ nói với cậu: "Để Cảnh Tắc sang điện Cần Chính, coi như là chút lòng riêng của trẫm. Ngươi xem tấu chương các quan viết ở đây đi, đến mấy chuyện vặt vãnh như 'Trái sơn trà ở Lĩnh Nam chín nẫu, gấp lắm rồi ạ' cũng tâu lên với trẫm! Hay như cái này chẳng hạn, văn vẻ bay bướm, trẫm đọc hoa cả mắt, hóa ra cũng chỉ để chúc trẫm hai tháng nữa sinh nhật vui khỏe. Nếu Cảnh Tắc đến điện Cần Chính giúp trẫm thẩm duyệt tấu chương, nhất định sẽ hiểu suy nghĩ của trẫm, có thể tóm tắt ngắn gọn nội dung tấu chương cho trẫm, đúng không nào?"

Triệu Phụ đã nói thế, Chu Tử Thư làm sao mà ngồi được nữa, cậu đứng lên ngay: "Thần nhất định không phụ thánh mệnh."

Triệu Phụ nhìn Chu Tử Thư, bỗng nói: "Trẫm là trẫm không nỡ để Cảnh Tắc đi chút nào đâu!"

Ông ta vừa dứt câu, cả Quý Phúc lẫn hai Khởi Cư xá nhân trong điện đều phải nhìn Chu Tử Thư bằng ánh mắt ngưỡng mộ.

Lời Triệu Phụ nói nửa thật lòng, nửa vờ vĩnh. Về một mặt, Triệu Phụ thấy Chu Tử Thư là một trong những quan viên trẻ tuổi hiếm hoi làm việc thực chất, nghiêm chỉnh. Suốt một năm nay theo hầu cậu cũng thường xuyên nắm bắt được ý của ông ta. Không chỉ thế, nhờ là sư đệ của Cung Tuấn – tâm phúc của Triệu Phụ, Chu Tử Thư còn được thơm lây và lọt vào mắt xanh của đức vua. Vì những lí do ấy, để Chu Tử Thư đi, thực lòng Triệu Phụ cũng lấy làm tiếc.

Mặt khác, chính vì Chu Tử Thư đang nổi đình đám giữa lớp trẻ trong triều mà Triệu Phụ rất muốn thu phục cậu, khiến cậu toàn tâm toàn ý trung thành với mình.

Quả nhiên, Chu Tử Thư cảm động rơi nước mắt: "Thần nguyện cúc cung tận tụy vì bệ hạ, đến chết mới thôi!" Triệu Phụ thỏa mãn cười tươi.

Chiều tối, hoàng đế lên đài Đăng Tiên tu luyện. Được nửa canh giờ thì Hữu thị lang bộ Công kiêm Thiếu khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn vào cung xin yết kiến.

Tô Ôn Duẫn đến cửa đài Đăng Tiên lại gặp Chu Tử Thư. Thái giám vào bẩm báo lên hoàng đế, còn Tô Ôn Duẫn thì đứng chờ ở cửa, đối diện với Chu Tử Thư.

Tô Ôn Duẫn cười: "Nghe nói sáng sớm hôm nay Đường đại nhân đã được thăng làm Trung thư xá nhân tứ phẩm, đáng mừng thật đấy."

Chu Tử Thư hành lễ: "Đa tạ Tô đại nhân. Hạ quan cũng chúc mừng Tô đại nhân vừa lên chức Hữu thị Lang bộ Công tam phẩm."

Ánh mắt đẹp say lòng người của Tô Ôn Duẫn bám lấy Chu Tử Thư hồi lâu, anh ta nói: "Từ sau khi rời Thứ Châu, ta cứ băn khoăn mãi một việc. Đường đại nhân này, nếu đêm đó trong trạm dịch có người tông cửa vào, chém chết hai ta ngay tại chỗ, thì ngươi nghĩ hôm nay ai sẽ là người mang thi thể chúng ta về kinh ẵm hết công trạng đây?"

Chu Tử Thư: "Việc chưa từng xảy ra, Tô đại nhân nghĩ ngợi làm gì."

Chăm chú quan sát Chu Tử Thư thêm một lúc, Tô Ôn Duẫn lại bảo: "Ngày mai Đường đại nhân sẽ đến điện Cần Chính nhậm chức, ta đợi ngươi ở điện Cần Chính đấy."

Không bao lâu sau, Tô Ôn Duẫn đi vào đài Đăng Tiên.

Trong đài Đăng Tiên, Giám chính Khâm Thiên giám Lý Tiêu Nhân cầm chiếc bát ngọc, nhúng lá trúc vào nước trong bát, nhẹ nhàng vẩy lên người Triệu Phụ. Hoàng đế Đại Tống khoác đạo bào, ngồi nghiêm trang ngay giữa trận Thái cực Bát Quái, nhắm mắt tu tiên.

Tô Ôn Duẫn đến xong cũng không lên tiếng, chỉ đứng đó chờ.

Qua một khắc, Triệu Phụ mở mắt ra, nói: "Ngươi lui xuống trước đi."

Lý Tiêu Nhân sững người mất mấy giây mới hiểu ý Triệu Phụ, bèn mau chóng rời khỏi đài Đăng Tiên.

Triệu Phụ đưa mắt nhìn Tô Ôn Duẫn, vẻ mặt hững hờ như bậc tiên nhân đã thoát ly khỏi tình cảm và dục vọng. Tiếng ông ta vang vọng trong đài Đăng Tiên: "Phỉ Nhiên đến bao lâu rồi?"

Tô Ôn Duẫn: "Mới một khắc thôi ạ."

Triệu Phụ vẫn ngồi xếp bằng, hỏi: "Tình hình thế nào?"

Tô Ôn Duẫn trả lời: "Án tham ô trong thảm họa tuyết miền Nam ba năm trước, chỉ lần ra được đến Tạ Thành. Lên cao hơn nữa, nếu không phải không có kẻ nào thì tức là chúng giấu quá khéo, không thể tóm được sơ hở. Thần vô năng, xin bệ hạ thứ tội."

Triệu Phụ gật gù khe khẽ, dường như đang suy tư điều gì.

"Nạn tuyết năm ấy ảnh hưởng rất lớn, triều đình phát hai trăm vạn lượng để cứu tế, nếu chỉ có mình Tạ Thành thì còn non sức lắm." Triệu Phụ cảm thán, nhưng thay vì đi sâu vào việc ấy, ông ta lại thâm thúy ám chỉ chuyện khác: "Ta nhớ rõ năm ấy, họa tuyết lớn không gây thiệt hại gì cho phủ Cô Tô. Đúng là nơi địa linh nhân kiệt, Đường khanh là người Cô Tô đấy."

Tô Ôn Duẫn đương nhiên hiểu ý hoàng đế. Về lí thuyết, đúng ra Tô Ôn Duẫn sẽ nhân dịp này thêm mắm dặm muối, dìm Chu Tử Thư xuống ngay. Song anh ta chỉ nhếch môi rồi thưa: "Tuy Đường đại nhân đã từng là học trò của Phủ doãn Cô Tô Lương Tụng – Lương đại nhân, nhưng tâu bệ hạ, sau khi Lương đại nhân tự ải, chưa đến một tháng, cậu ta đã ngược Bắc đổi thầy ngay tắp lự, cắt đứt hoàn toàn quan hệ với Lương đại nhân. Quyết đoán đến nhường ấy, khiến thần cũng phải thấy tự ti."

Nghe thì có vẻ Tô Ôn Duẫn chỉ đang nhận mình không bằng Chu Tử Thư, nhưng thật ra anh ta đang nói kháy Chu Tử Thư là đồ gió chiều nào theo chiều ấy, thầy vừa mất đã chạy theo người khác, Lương Tụng dưới đất có linh, khéo tức đến nỗi chết rồi cũng phải vùng dậy.

Triệu Phụ ngẩng lên nhìn Tô Ôn Duẫn.

Tô Ôn Duẫn bĩu môi, khinh Chu Tử Thư ra mặt.

Triệu Phụ nói: "Kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, việc này đúng là Cảnh Tắc sai, nhưng chẳng qua là trẻ người non dạ."

Tô Ôn Duẫn thôi tỏ ra dè bỉu, không nói nữa.

Triệu Phụ phất tay: "Lui đi."

"Vâng."

Ra khỏi đài Đăng Tiên, Tô Ôn Duẫn tia ngay Chu Tử Thư ngoài cửa, cười tươi roi rói, thái độ vênh váo cực kì: "Đường đại nhân, thế là ngươi nợ ta một ơn huệ lớn rồi đấy. Từ rày trở đi, vụ ta mượn ngươi làm bia ngắm ở Thứ Châu coi như xí xóa nhé." Chu Tử Thư nhíu mày.

Tô Ôn Duẫn không dài dòng, nghênh ngang ra về.

Trong đài Đăng Tiên, Triệu Phụ mân mê hai viên dạ minh châu trong trẻo. Ông ta nhìn xuống sàn đầy suy tư: "Trẫm nhớ, Chu Tử Thư năm nay mười bảy tuổi nhỉ."

Trong đài Đăng Tiên chỉ có Triệu Phụ và Quý Phúc. Tự dưng hoàng đế nói vậy, Quý Phúc mất một lúc mới nhận ra Triệu Phụ đang chờ mình trả lời, bèn đáp: "Bẩm bệ hạ, Đường đại nhân đỗ Thám hoa năm mười sáu tuổi, tức là vào đầu năm ngoái. Nô tài còn nhớ, Đường đại nhân là Thám hoa lang do chính bệ hạ khâm điểm ạ."

Triệu Phụ: "Ừ, đúng là như vậy, suýt tí nữa trẫm quên mất. Trẫm rất thích văn của cậu ta, nhớ bài văn cậu ta viết nhân ngày sinh nhật trẫm năm ngoái, giọng văn thật tuyệt vời biết bao."

Quý Phúc cười nói: "Đường đại nhân giỏi giang hơn người, tuổi trẻ tài cao, nô tài hết sức ngưỡng mộ."

"Hà hà, đúng là cái đồ già ranh."

Một thoáng yên tĩnh trôi qua, Triệu Phụ thong thả nhận xét: "Xét về tài siểm mị4, cậu ta cũng sánh ngang với Tử Phong đấy."

[4] Nịnh nọt, nịnh hót

Quý Phúc sững người, không nói nên lời.

Triệu Phụ thở dài: "Trẫm lại rất thích cậu ta như vậy."

Một bề tôi thấy lợi quên nghĩa, a dua nịnh hót đối với đấng minh quân mà nói, chính là kẻ gian thần tiểu nhân, thế mà Triệu Phụ lại thích kiểu người ấy, thích vô cùng.

"Tô Phỉ Nhiên ghét cậu ta, CungTử Phong thích cậu ta." Triệu Phụ cảm khái, "Sao thiên hạ lại sinh ra một Đường Cảnh Tắc hay ho thế nhỉ, vừa khéo kẹp giữa hai người kia. Thế nên, trẫm càng thích."

Quý Phúc có khôn khéo đến mấy thì cũng chỉ là một hoạn quan, lão ta không hiểu ý Triệu Phụ, chỉ đành cười xòa.

Lẽ dĩ nhiên, một lão thái giám hiểu được quyền mưu của đế Cungmới là lạ.

Trên triều đình, các quyền thần đức cao vọng trọng đều đã lớn tuổi và có phe phái riêng của mình. Ngay cả với Triệu Phụ, việc thay đổi những người này cũng hết sức nhức đầu, tiềm ẩn hậu họa khôn lường. Trong khi đó, nhóm quan trẻ tuổi được Triệu Phụ cố ý nâng đỡ những năm gần đây, dẫn đầu bởi Cung Tuấn và Tô Ôn Duẫn, dần dần đã có vị thế ngang bằng với các cựu thần.

Mà trong nhóm trẻ này thì Cung Tuấn lại kình nhau với Tô Ôn Duẫn.

Nếu bây giờ đặt một bàn cờ vào điện Tử Thần cho tất cả mọi người quan sát, để các quan làm quân cờ còn thiên tử cầm quân, bàn cờ ấy sẽ có con sông chia hai bờ, bên Sở bên Hán, vừa tách biệt rõ rệt vừa hòa trộn với nhau. Gió mưa trên triều đình chưa gạt nổi đôi mắt già nua lâu nay của Triệu Phụ. Trăm năm nữa, ông ta vẫn sẽ là hoàng đế tài đức, sáng suốt không ai bằng trong lịch sử Đại Tống. Ông ta muốn hậu thế phải tán dương mình cả đời.

Ông ta sẽ bất tử, ông ta sẽ trở thành vị vua thánh minh nhất trần đời.

Nụ cười của Triệu Phụ trở nên sâu xa khó đoán, ông ta nhắm mắt, tiếp tục tu tiên.

Đến tối, quan viên bộ Lễ đưa quan bào mới đến phủ Thám hoa. Chu Tử Thư thay áo mới, Đường Hoàng hớn hở chạy quanh anh trai mấy vòng liền. Phải mất một lúc cô bé mới bớt kích động, bĩu môi: "Rõ ràng là y phục cho đại quan tứ phẩm hẳn hoi, anh à, sao anh mặc vào trông chả khác trước tí nào thế?"

Chu Tử Thư lườm cô em: "Vào năm Khai Bình thứ ba khi Tống Liêu chiến tranh liên miên, Thượng thư bộ Hộ hồi ấy, giờ là Hữu tướng CungThuyên – Cungđại nhân đã dâng thỉnh nguyện, đề xuất đơn giản hóa phục sức của bách quan để giảm bớt gánh nặng cho quốc khố. Em nhìn cái tay áo mà xem."

Đường Hoàng lại gần, nhòm kĩ: "Tay áo làm sao hả anh?"

"Thêu chỉ bạc kia kìa! Chỉ có quan tứ phẩm mới được dùng chỉ bạc thôi!"

Đường Hoàng: "..." Ai mà nhìn ra nổi!

Chu Tử Thư thăng quan, cả nhà vui mừng khôn xiết. Quan trọng nhất là, từ giờ Chu Tử Thư được ngủ nướng thêm hai khắc.

Trong các quan, Khởi Cư lang phải dậy sớm nhất, họ phải tiến cung trước tất cả những người khác. Từ hồi làm quan Khởi Cư, Chu Tử Thư cả năm nay không được ngon giấc. Dù không có phiên trực, cậu cũng phải dậy sớm vào cung, sẵn sàng đợi lệnh.

Hên nữa là tuy Chu Tử Thư mới nhậm chức, và chức Trung thư xá nhân tứ phẩm cũng phải lên triều, nhưng ngày đầu tiên đi làm, cậu không phải vào triều, chỉ cần đến điện Cần Chính nhận nhiệm vụ sau buổi chầu là được.

Kể từ khi làm quan, hôm nay Chu Tử Thư mới có một giấc ngủ no nê.

Sáng sớm hôm sau, cậu mặc quan bào, đi lên điện Cần Chính.

Trước đây Chu Tử Thư đã ghé thăm điện Cần Chính nhiều lần. Điện Cần Chính là nha môn duy nhất trong hoàng cung, là cơ quan làm việc đặc biệt của Trung Thư tỉnh ở Đại Tống. Vì thế, điện Cần Chính cũng được gọi là nha môn Trung Thư. Tuy vậy, không phải tất cả quan Trung Thư tỉnh đều làm việc ở điện Cần Chính.

Hồi trước Chu Tử Thư làm Khởi Cư lang, về lý thuyết thì cũng là quan viên thuộc Trung Thư tỉnh, nhưng nơi làm việc của Khơi Cư lang là nha môn Trung Thư ở ngoài cung chứ không phải trong điện Cần Chính.

Để khái quát thì điện Cần Chính được chia làm ba khu vực. Khu thứ nhất là nơi làm việc của bốn tướng công, tức là Tả tướng Kỷ Ông Tập, Hữu tướng CungThuyên, Tả thừa Trần Lăng Hải và Hữu thừa Từ Bí. Khu thứ hai là nơi làm việc của Thượng thư Lục bộ, gồm ba gian phòng, cứ hai bộ chung một gian. Thượng thư sáu bộ không phải lúc nào cũng làm việc trong điện Cần Chính, họ cũng hay có mặt ở nha môn từng bộ bên ngoài cung.

Còn khu vực đằng sau những gian nhà trên là nơi làm việc của các quan khác trong Trung Thư tỉnh.

Quan Trung thư tam phẩm chia nhau hai phòng. Chu Tử Thư là quan tứ phẩm thì dùng chung một phòng với các quan tứ phẩm khác.

Ở Trung Thư tỉnh, chỉ có quan tứ phẩm trở lên mới được vào điện Cần Chính làm việc.

Chu Tử Thư đến điện Cần Chính từ sớm, cậu không để mọi người chờ mình mà đến trước khi buổi chầu kết thúc. Sau buổi chầu, các quan trở về điện Cần Chính. Ba quan Trung Thư xá nhân cùng phẩm hàm với Chu Tử Thư thấy cậu đến sớm thì ngạc nhiên lắm, mọi người chắp tay: "Chúc mừng Đường đại nhân, từ giờ chúng ta là đồng liêu rồi."

Chu Tử Thư cười: "Đa tạ Quý đại nhân, Lưu đại nhân và Lâm đại nhân."

Trung Thư xá nhân Quý Mậu cười: "Lần trước gặp Đường đại nhân mới cách đây ba tháng thôi. Hôm ấy ta đến chỗ Cungtướng công, vừa khéo gặp đại nhân. Chỉ kịp liếc nhau một cái, không ngờ hôm nay đã thành đồng liêu với Đường đại nhân."

Một Trung Thư xá nhân khác nói: "Đường đại nhân năm nay mới mười bảy tuổi, đúng là tuổi trẻ tài cao."

Bốn người khách sáo một phen, Quý Mậu mới nói: "Trong điện Cần Chính, ta làm việc cho Kỷ tướng công, Lưu đại nhân hỗ trợ Cungtướng công, Lâm đại nhân thì do Trần tướng công sai sử. Như vậy, Đường đại nhân sẽ theo Từ tướng công. Giờ mới tan triều, Từ tướng công đang bận lắm. Cứ chờ một lúc rồi sẽ có người đến tìm Đường đại nhân."

Quý Mậu nói đúng, sau nửa canh giờ, có sai nha đến phòng gọi Chu Tử Thư, báo rằng Hữu thừa Từ tướng công triệu kiến cậu.

Chu Tử Thư chỉnh trang lại quan bào, đi theo sai nha đến gian làm việc của Từ Bí.

Từ Bí đang xem tấu chương, thấy Chu Tử Thư đến thì ông nhẹ nhàng gật đầu với cậu. Chu Tử Thư cũng không lên tiếng, ngoan ngoãn đứng ra sau lưng Từ Bí.

Từ Bí xem tấu chương xong thì thở dài, đưa cho Chu Tử Thư bảo: "Ngươi đọc thử đi."

Chu Tử Thư cung kính nhận cuốn sổ, mở ra xem.

Lúc mới mở ra, cậu cũng bình tĩnh lắm. Mà đọc được một nửa, Chu Tử Thư bắt đầu thấy hoang mang. Cậu nghĩ ngợi một chút, bèn đọc lại tỉ mỉ từ đầu.

Chu Tử Thư: "..."

Chu Tử Thư bảo: "Hạ quan xem xong rồi ạ."

Từ Bí nhấp một ngụm trà: "Thấy sao?"

"... Liễu đại nhân phủ doãn Thương Châu văn từ hoa mỹ, tài giỏi xuất chúng, thần không bì kịp."

Nói tóm lại là: viết nhảm nhí thái quá, đọc đau hết cả đầu!

Từ Bí cười bất đắc dĩ: "Đây cũng là việc của ngươi đấy. Tấu chương của quan viên địa phương đều chuyển về đây cho ta, sau khi ta đọc xong sẽ tóm lược những điểm chính yếu, trình lên bệ hạ. Đường đại nhân trước đây làm Khởi Cư lang, hẳn cũng biết mỗi ngày bệ hạ phải duyệt bao nhiêu tấu chương đúng không?"

"Hạ quan biết ạ."

Từ Bí cảm thán: "Bệ hạ vẫn như xưa!"

Lần đầu tiên, Chu Tử Thư thấy đồng cảm với hoàng đế Triệu Phụ.

||

Cung Tuấn chắc phải có một gian nhà chỉ để áo gấm trắng thượng hạng đủ loại xì-tai cho mọi dịp.

Kể ra Chu Tử Thư cũng không lo xa, Triệu Phụ dùng người nhất định sẽ điều tra đến chân tơ kẽ tóc, Tô 'khẩu nghiệp' mà thêm mắm dặm muối vào kiểu "thà giết nhầm còn hơn bỏ sót loạn đảng" thì chắc cháu bé hết cửa đi thi Đại Tống's next top quyền thần.

Chú thích

[1] Trích bài Năm Kỷ Hợi kỳ 1 của nhà thơ Tào Tùng thời Đường. Bản dịch Cao Tự Thanh. Bài thơ sáng tác trong bối cảnh cuối triều Đường loạn lạc, tướng Cao Biền đàn áp quân khởi nghĩa Hoàng Sào một cách tàn khốc.

[3] Chia sẻ vui là lúc đầu mình cứ băn khoăn mãi phải edit câu "tạ bệ hạ long ân" như thế nào. Lâu nay không coi chữ Hán nên cứ lầm tưởng 'long' là 'rồng', nhưng thực ra chữ 隆 ấy là sâu đậm, to lớn. Long ân được hiểu là ơn sâu, ơn dày của đấng bề trên. Sau mình mới nghĩ ra người ta hay có câu "đội ơn bệ hạ" cũng rất hợp lý, nên chú thích vào cho mọi người biết thêm.

------oOo------

Chương 65

Nguồn: EbookTruyen.Net

Lăng Tử thạch

Trong bốn vị tướng công ở điện Cần Chính, Hữu thừa Từ Bí – Từ tướng công là người cao tuổi nhất, năm nay đã ngoài bảy mươi. Có người đồn năm ngoái Từ tướng công đã xin bệ hạ cho cáo lão hồi hương. Ban đầu, Triệu Phụ ưng thuận, song hiềm nỗi, khắp cả triều đình không chọn được ai thế chỗ Từ Bí cả. Vì sự ra đi của ông sẽ gây ảnh hưởng lớn đến thế cờ giữa các phe phái trên triều, Triệu Phụ quyết định giữ Từ Bí lại.

Từ tướng công tính tình hiền lành, thường ghé gian sau của điện Cần Chính trò chuyện với các quan tứ phẩm.

Quan lại khắp nơi dâng tấu sớ về Thịnh Kinh, đều phải qua tay Từ Bí sàng lọc rồi mới dâng lên hoàng đế. Lên chức Trung Thư xá nhân, mới từ gian nhà của Từ Bí về, Chu Tử Thư đã thấy hai sai nha gánh một hòm tấu chương theo sau lưng mình.

Chu Tử Thư ngửa mặt lên trời thở dài.

Thế là đi đứt cả buổi sáng chỉ để đọc tấu sớ.

Đến trưa, bụng Chu Tử Thư sôi ùng ục. Trong lúc các quan còn làm việc, nhóm sai nha trong điện Cần Chính đã gánh thùng cơm lên, xới cơm chia canh cho các vị.

Quan lại Trung Thư tỉnh làm việc trong điện Cần Chính dù sao cũng là quan tứ phẩm. Kể cả xét trong đế đô Thịnh Kinh của Đại Tống, họ vẫn thuộc hàng quan lớn, là những bề tôi thân cận nhất của thiên tử. Tuy vậy, đến giờ ăn trưa, sai nha cũng chỉ phục vụ một món mặn một món chay cực kì đạm bạc. Cơm rắn đến nỗi nhai mỏi cả răng, thức ăn thì ổn, nhưng nói tóm lại là không ngon lành gì cho cam.

Hồi Chu Tử Thư còn làm Khởi Cư xá nhân, những hôm vào cung trực, cậu thường được ăn ké những món ngon mà đầu bếp hoàng cung chế biến sau khi Triệu Phụ dùng bữa xong. Nếu không có phiên trực thì cậu ăn ở nha môn, cơm canh cũng không khác gì đồ ăn trong điện Cần Chính cả, còn dở hơn cả đồ ăn căng-tin ở thời hiện đại!

Chu Tử Thư ăn uống phủ phê ở Cô Tô suốt hai năm, về nhà luôn có Diêu đại nương cơm nước cho, tay nghề không phải bàn cãi. Giờ cậu chuyển sang công tác ở điện Cần Chính, được tiếng là quan lớn đấy, nhưng từ rày xin chia tay những tháng ngày ăn ké cơm vua, đón chào những tháng ngày ăn cám ăn trấu.

Chu Tử Thư ngán ngẩm, xơi miếng cơm nhạt như nước ao bèo.

Trong điện Cần Chính, các quan có vẻ tập mãi cũng thành quen, lẳng lặng ăn trưa.

Ăn được nửa bữa, Chu Tử Thư ngẩng lên, tự dưng thấy bóng ai quen ơi là quen đứng ngoài phòng. Chu Tử Thư ngạc nhiên lắm, nghĩ ngợi một lát bèn đặt đũa xuống mò ra ngoài.

Giữa sân, Cung Tuấn mặc quan bào đỏ, tay cầm một chiếc lệnh bài, mắt dõi theo từng bước chân Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư chú ý đến lệnh bài của chàng trước nhất, hỏi: "Sư huynh qua đây có việc gì thế? Cái này là cái gì?"

Cung Tuấn giấu lệnh bài vào tay áo, ngắm nghía Chu Tử Thư một hồi, thở dài: "Tiểu sư đệ gầy đi rồi."

Chu Tử Thư ngớ người, nghĩ bụng, có tóp bớt lạng nào đâu nhỉ?

"Sao sư huynh lại nói vậy?"

Cung Tuấn: "Hôm nay chưa gầy, dăm ba hôm nữa thể nào cũng sút cân. Cơm điện Cần Chính, đệ có nuốt nổi không?"

Lòng Chu Tử Thư nặng trĩu nỗi sầu không biết tỏ bày cùng ai.

Cung Tuấn trông điệu bộ cậu thì biết thừa. Chàng mỉm cười: "Đi thôi."

Chu Tử Thư chẳng hiểu gì nhưng vẫn tò tò bám theo Cung Tuấn. Cung Tuấn đi qua hành lang chạm trổ, sai nha thấy chàng đều dừng lại chào một tiếng "Cungtướng công" rồi mới đi tiếp. Chàng dẫn Chu Tử Thư đến tận phòng làm việc của Thượng thư bộ Hộ. Đến cửa, Chu Tử Thư do dự dừng bước.

Cung Tuấn quay lại bảo cậu: "Hôm nay Mạnh đại nhân không làm việc trong cung."

Mạnh đại nhân tức là Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng chứ còn ai!

Chu Tử Thư vẫn không quên, lần đầu tiên cậu sang điện Cần Chính đã bị Mạnh đại nhân tha lôi từ chỗ bốn tướng công đến tận chỗ Thượng thư Lục bộ, y như dắt con khỉ xiếc diễu hành cho các quyền thần nhất phẩm, nhị phẩm trong triều ngắm chơi! Đáng ghét làm sao, người chung phòng làm việc với Cung Tuấn cũng chính đầu sỏ trong sự kiện ấy – Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng!

Biết Mạnh Lãng không có ở đây, Chu Tử Thư mới thoải mái vào nhà theo Cung Tuấn.

Sau một hồi lâu, hai sai nha xách hộp đựng thức ăn vào phòng. Họ nhấc nắp hộp, bày biện từng đĩa một lên trên bàn. Những món ăn này tuy không sánh được với đẳng cấp ngự trù, cũng kém tay nghề đầu bếp nhà Cung Tuấn, nhưng trong mắt kẻ mới xơi cơm căng-tin là Chu Tử Thư thì mâm cơm này chẳng khác nào sơn hào hải vị!

Tiêu chuẩn của CungTử Phong đúng là tiêu chuẩn VIP1!

Sư huynh đệ hai người nhập cuộc tự nhiên. Đến khi cơm nước no nê, Chu Tử Thư mới tò mò hỏi: "Sư huynh ơi, bữa cơm này từ đâu mà ra thế ạ? Đệ tưởng các quan trong điện Cần Chính phải ăn chung với nhau hết cơ mà?"

Cung Tuấn giải thích: "Đệ nói đúng rồi, nhưng đệ không biết có một nhà bếp nhỏ dành riêng cho bốn vị tướng công."

"Ủa?" Khoan, chuyện đó thì có liên quan gì đến huynh?

Cung Tuấn uống trà Long Tỉnh, phóng tầm mắt ra xa, nhẹ nhàng bảo:

"Hữu tướng ưu ái, ta cũng hay được chia phần tí đỉnh."

Ngẫn ra một hồi, Chu Tử Thư mới ngộ ra... Hữu tướng?

CungThuyên?

Nhị thúc tổ của Cung Tuấn!

Quả nhiên trong triều cứ có người quen là nhàn, đến miếng ăn cũng phải hơn kẻ khác! Cơ mà ngẫm lại thì, hình như cậu cũng có người quen mà, cậu có Cung Tuấn, nên cậu cũng được ăn ké đấy thôi.

Dùng bữa xong, hai huynh đệ uống chén trà rồi Chu Tử Thư phải về đọc tấu chương. Trước khi đi, cậu suy tư một chút, ngập ngừng gọi: "Tử Phong sư huynh."

"Ừ?"

"Bây giờ đệ làm việc ở chỗ Từ tướng công." Cung Tuấn ngước lên nhìn Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư đang nhìn chàng đầy trông mong.

Hồi lâu, Cung Tuấn mới mỉm cười: "Tiểu sư đệ, mai lại sang ăn cơm nhé?"

Chu Tử Thư thở phào nhẹ nhõm, cười tươi rói: "Vâng!"

Từ khi Triệu Phụ lên ngôi đến giờ, Trung Thư tỉnh đã thay mấy tướng công rồi. Có người là bị biếm trích do phạm phải tội lớn, song hầu hết là do các vị tướng công tuổi cao sức yếu, xin Triệu Phụ cho từ quan về quê dưỡng già. Bốn vị tướng công đứng đầu điện Cần Chính hiện giờ, ai cũng có thể gây dựng đảng phái riêng cho mình.

Trong đó, Tả tướng Kỷ Ông Tập xuất thân hàn môn, không hay qua lại với ba người kia, một mình một phái.

Hữu tướng CungThuyên xuất thân danh môn, thuộc dòng dõi Lang Gia Cungthị. Ông và Tả thừa Trần Lăng Hải là đôi bạn đèn sách chí cốt, hai người rất thân với nhau.

Còn lại, Hữu thừa Từ Bí rất nhiều tuổi rồi, là nguyên lão ba triều đức cao vọng trọng.

Cung Tuấn thuộc phái quan viên trẻ tuổi, nhưng chàng là cháu trai của

CungThuyên. Dù thế nào đi chăng nữa, chàng vẫn dính dáng đến CungThuyên. Hôm nay, Chu Tử Thư cố ý đem chuyện mình đang làm việc dưới trướng Từ Bí ra để hỏi, Cung Tuấn đáp: Mai lại sang đây ăn cơm chung. Nói vậy tức là chàng đã rõ chuyện này và không hề ngại.

Tuy chuyện không to tát mấy, nhưng Chu Tử Thư không muốn nó làm tình cảm sư huynh đệ của mình với Cung Tuấn trở nên xa cách.

Đến giờ, cậu không còn coi Cung Tuấn là đối tượng để mình lợi dụng nữa. Đối với cậu, chàng đã dần dần trở thành một sư huynh thực thụ, một người bằng hữu mình có thể tin tưởng, một người huynh trưởng mình có thể dựa dẫm. Chu Tử Thư mãi mãi không quên việc Cung Tuấn làm vì mình ở trạm dịch Thứ Châu đêm hôm đó.

Triệu Phụ sai Cung Tuấn đến kiểm tra tiến độ án tham ô, Cung Tuấn hoàn toàn có thể hành quân theo tốc độ bình thường. Một khi chàng đến Thứ Châu, dù không đoạt được sổ kế toán từ tay Tô Ôn Duẫn, chàng cũng vẫn được Triệu Phụ ngợi khen. Năm nay chàng chưa đến hai mươi bảy tuổi nhưng đã quan cao lộc hậu, là Thượng thư bộ Hộ đương triều. Xét công trạng lần này của chàng, Triệu Phụ chỉ thưởng vàng bạc chứ không thưởng gì thêm. Hiện giờ dù chàng có lập công to bằng trời đi chăng nữa, những thứ Triệu Phụ có thể ban cho cũng chỉ là vật chất.

Vì thế, Cung Tuấn hành quân gấp gáp đâu chỉ nhằm mục đích chen chân vào vụ án tham ô Thứ Châu sớm hơn một chút hòng tăng thêm chút công trạng? Chàng vội vã như vậy âu cũng là vì Chu Tử Thư.

Thứ Châu là vũng bùn lầy khổng lồ, mà Chu Tử Thư chỉ là một Khởi Cư lang bé nhỏ giữa muôn trùng nanh vuốt. Ai cũng biết cậu là tai mắt của hoàng đế, cậu là kẻ lạc loài nhất ở Thứ Châu, không một ai muốn dính líu đến cậu cả.

Chu Tử Thư biết, Cung Tuấn vì mình nên mới ngày đêm không quản, gấp rút hành quân đến Thứ Châu.

Hôm nay Cung Tuấn lại tỏ rõ thái độ với cậu, nỗi lo âu trĩu nặng trong lòng Chu Tử Thư cuối cùng cũng tan biến.

Cậu đang định về thì Cung Tuấn bỗng đứng dậy từ ghế thái sư, níu tay cậu lại.

"Tử Phong sư huynh?"

"Cảnh Tắc à, hôm nay huynh vui lắm." Chu Tử Thư sửng sốt.

"... Đệ không hiểu ý sư huynh."

Cung Tuấn nở nụ cười, gương mặt chàng vốn đã đẹp mê hồn, cười lên càng tao nhã gấp bội. Chàng buông tay: "Về đi."

Chu Tử Thư: "....?"

CungTử Phong lại lên cơn gì không biết?

Ôm nỗi băn khoăn trở về phòng, Chu Tử Thư đọc tấu sớ suốt cả một ngày. Đến tối, xe ngựa của bốn vị tướng công nối đuôi nhau rời điện Cần Chính, theo sau là các quan thượng thư nhị phẩm. Chờ đến khi các quan tam phẩm ra về hết, Chu Tử Thư và các quan tứ phẩm mới lần lượt rời cung. Đầu tháng chín, Diêu Tam và Đường Hoàng tiếp tục đi Ninh Châu.

Nửa tháng sau, hai người từ Ninh Châu về. Diêu Tam mang theo một phong thư cho Chu Tử Thư: "Tiểu đông gia, tôi đã gặp Cungđại nhân, đưa thư của cậu cho ngài ấy, ngài ấy bảo tất cả vẫn ổn. Sau đó thì ngài có gửi lại thư này cho cậu, cậu đọc nhé." Chu Tử Thư bóc thư ra .

Trong thư, CungTiêu có viết một số tin tức về quan đạo Ninh Châu.

Quan đạo Ninh Châu là con đường dễ làm nhất trong ba quan đạo. Tuy nhiên, do thời tiết khó lường, miền Bắc mưa to liên tục, đường sá lầy lội rất khó thi công, tiến độ xây dựng quan đạo Ninh Châu chậm hơn rất nhiều. Ban đầu dự kiến xây xong vào cuối tháng chín, nhưng giờ có lẽ phải lui lại đến tận cuối tháng mười.

Kể cả như thế thì mọi việc vẫn trong tầm kiểm soát của Chu Tử Thư. Vào tháng mười một, lưu lượng khách ở lầu Tế Hà mới tăng lên đáng kể.

Đúng lúc này, Tả thị lang bộ Công Lý Ngọc Đức – người phụ trách tuyến quan đạo Ninh Châu – đem đến một bất ngờ cho toàn thể nhân dân cả nước.

Đầu tháng mười, quan đạo Ninh Châu được hoàn thành.

Lý Ngọc Đức trở về Thịnh Kinh với thành công này, vừa kịp trước sinh nhật của Triệu Phụ. Triệu Phụ vô cùng mừng rỡ, ban thưởng rất hậu.

Đại thọ hoàng đế, cả nước hân hoan.

Trưa hôm đó, Chu Tử Thư lại lén lút sang ăn chùa cơm VIP ở phòng Thượng thư. Lạ lùng thay, Cung Tuấn chỉ ăn đúng một miếng rồi gác đũa, mỉm cười nhìn cậu.

Chu Tử Thư bị chàng ngó dữ vậy, và miếng cơm cũng khó.

"Sư huynh..." Huynh làm gì thế?

Cung Tuấn: "Hôm nay là ngày mấy ý nhỉ?"

Chu Tử Thư nghe thế, đầu tiên là hơi ngạc nhiên một chút, xong lại thấy hết sức buồn cười.

CungTử Phong cũng tế nhị thật, đương nhiên cậu biết hôm nay là sinh nhật Cung Tuấn rồi. Khắp thiên hạ này e chẳng có sinh nhật ai dễ nhớ hơn sinh nhật Cung Tuấn cả. Cứ nhớ đó là ngày trước sinh nhật hoàng đế một hôm thì không bao giờ quên được. Chỉ có điều Chu Tử Thư khá ngạc nhiên khi thấy Cung Tuấn để ý chuyện này. Chàng hỏi thế, làm Chu Tử Thư có cảm tưởng như bị bạn gái vặn hỏi có nhớ hôm nay là kỷ niệm một trăm ngày yêu nhau không.

Ý nghĩ kì quặc đấy khiến Chu Tử Thư hơi lúng túng, cậu tằng hắng rồi bảo:

"Hôm nay là sinh nhật sư huynh ạ."

Cung Tuấn: "Tối nay tiên sinh cũng muốn đến nhà ta dùng bữa. Lúc nào thì Cảnh Tắc qua được?" Phó Vị cũng đến à?

Chu Tử Thư nói: "Xuất cung xong, đệ về thay quan bào rồi sang phủ Thượng thư."

Thế là CungTử Phong đã ăn mừng sinh nhật lần thứ hai mươi bảy tại phủ Thượng thư.

Ngày hôm sau là sinh nhật của Thiên tử, muôn dân hồ hởi chung vui.

Sang tháng mười một, mùa đông Thịnh Kinh lạnh cắt da cắt thịt, lượng khách của lầu Tế Hà tăng đột ngột. May mắn thay, chuỗi cung ứng thịt dê, bò không gặp khó khăn gì cả, đường quan đạo Ninh Châu đã xây xong, di chuyển với tốc độ nhanh thì mỗi lượt đi về chỉ tốn một ngày thôi.

Đầu tháng Chạp, quản lí Lục và Diêu Tam lên miền Bắc. Đến khi quay lại, quản lý Lục mang theo một tảng đá trắng về cho Chu Tử Thư. Thấy tảng đá ấy, mắt Chu Tử Thư sáng ngời, cầm nó lên săm soi hồi lâu, rồi ngẩng đầu hỏi: "Tìm thấy ở đâu thế?"

Quản lí Lục nói: "Ở Ninh Châu không có đâu, phải đến sát vùng Đông Bắc Ninh Châu, tức là ngay giáp biên giới với nước Liêu mới kiếm được đấy. Tiểu đông gia, đây là đá Bạch Vân cậu muốn ư? Tôi thấy nó dễ tìm phết! Dân bản xứ họ không gọi là đá Bạch Vân, mà họ gọi là đá Lăng Tử!"

||Chú thích

Mình mới để ý Thịnh Kinh là tên cũ của thành phố Thẩm Dương thuộc tỉnh Liêu Ninh. Nơi đây đã từng là cố đô của triều Hậu Kim và triều Thanh. Cái tên Thịnh Kinh được đặt bởi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (về sau được truy tôn là vị vua đầu tiên của triều Thanh) và thành phố này có ý nghĩa rất quan trọng với triều Thanh dù sau nay họ dời đô về Bắc Kinh. Tuy trong thế giới giả tưởng này thì vị trí của Thịnh Kinh chắc chắn không trùng với Thẩm Dương, nhưng sự trùng hợp này cũng khá thú vị.

[1] Mình có chú thích một lần, tác giả dùng cụm từ "khai tiểu táo" – nôm na là tiêu chuẩn đặc biệt, hoặc đối xử một cách ưu ái, ưu đãi. Tiểu táo là chế độ ăn cao cấp nhất trong bối cảnh ăn cơm tập thể, phân biệt với trung táo và đại táo.

------oOo------

Chương 66

Nguồn: EbookTruyen.Net

Miệng lưỡi đàn ông

Đá Lăng Tử hay còn gọi là đá Bạch Vân, có thành phần chủ yếu là CaMg(CO3)2, là một khoáng thạch phổ biến.

Theo Chu Tử Thư nhớ thì ở thời hiện đại, đá Bạch Vân có trữ lượng lớn và khá dễ tìm, Nhưng ở thời đại này thì rất ít khi thấy nó. Thứ nhất, không ai cần dùng đến khoáng thạch này cả. Thời này, công dụng chủ yếu của khoáng thạch là luyện kim và chế tạo gốm sứ, hoặc chế biến thuốc màu. Đá Bạch Vân không dùng để luyện kim được, cũng không thể làm dụng cụ chế tạo gốm sứ, càng không chế biến thành màu nhuộm.

Không có thị trường và cũng không có nhu cầu.

Thứ hai, tìm được một quặng đá Bạch Vân với độ tinh khiết cao là tương đối khó.

Với kỹ thuật sản xuất của thời đại này, muốn chế tạo thủy tinh từ đá Bạch Vân đòi hỏi độ tinh khiết của nguyên liệu đầu vào rất cao. Kể cả khi độ tinh khiết cao, cũng chưa chắc đã tạo ra được thủy tinh trong suốt hoàn toàn.

Chính thế đó, Chu Tử Thư đang có ý định sản xuất thủy tinh.

Thực ra mà nói, thủy tinh cũng không phải phát minh của thời hiện đại. Từ ba ngàn năm trước Công nguyên, người Ai Cập đã có dụng cụ bằng thủy tinh rồi. Đến thế kỷ thứ V trước Công nguyên, người La Mã đã phát minh ra phương pháp thổi thủy tinh, dùng ống bằng sứ để thổi ra các dụng cụ bằng thủy tinh. Phương pháp này được phát triển và sử dụng suốt hàng nghìn năm sau; thậm chí trong thời hiện đại, vẫn có những thợ làm thủy tinh thủ công sử dụng phương pháp này để chế tác thủy tinh mỹ nghệ.

Mặc dù vậy, trong lịch sử Trung Quốc, nhất là nước Đại Tống nơi Chu Tử Thư đang ở đây, kỹ thuật luyện chế thủy tinh kém xa so với các nước phương Tây.

Đại Tống cũng có thủy tinh, thường được biết với tên gọi ngọc lưu ly. Được chế tạo từ đá Lưu Ly cực kì đắt đỏ, ngọc lưu ly là một sản phẩm tinh xảo đến phi thường, mỗi chiếc chén ngọc lưu ly đều vô giá, chỉ được sản xuất riêng cho hoàng tộc sử dụng. Đá Lưu Ly phần lớn đều có màu sắc rực rỡ, thế nên những vật dụng làm từ ngọc lưu ly trong hoàng cung cũng pha trộn nhiều màu sắc; loại thủy tinh trong suốt vì thế trở nên cực kì hiếm.

Muốn chế tạo thủy tinh thực ra cũng không khó.

Chu Tử Thư ngẫm nghĩ một hồi, hỏi: "Thế đá Bồ Tát và cát kết thì sao?"

Quản lí Lục đáp: "Hai cái đó đều dễ tìm, trong khu vực Bắc Trực Lệ có những mỏ quặng phù hợp."

Chu Tử Thư nói: "Tốt lắm, thế thì quản lí Lục này, hai hôm nữa, chú hãy đánh một xe đá Bạch Vân có độ tinh khiết cao từ Đông Bắc về đây."

"Được!"

Quản lý Lục hoàn toàn không hiểu được ý đồ của Chu Tử Thư và ông quyết định không nên cố hiểu làm gì, miễn ông biết tiểu đông gia không làm điều xấu, chỉ muốn mua mấy xe đá thôi là được. Thiên hạ thích chơi đá quý, Chu Tử Thư thích chơi đá tảng, ấy là thú vui tốt! Mấy tảng đá vớ vẩn này cũng không khiến họ táng gia bại sản.

Không lâu sau, quản lí Lục đã đánh mấy xe đá Bạch Vân, đá Bồ Tát và cát kết về Thịnh Kinh, chuyển thẳng đến xưởng xà phòng Đường thị ở ngoại thành. Tan làm, Chu Tử Thư qua xưởng ngay, toàn tâm toàn ý nghiên cứu phương pháp chế tạo thủy tinh.

Để tạo ra thủy tinh không quá phức tạp, chỉ cần có nguyên liệu nòng cốt gồm đá Bạch Vân, đá Bồ Tát, cát kết, và xút là được.

Lúc Chu Tử Thư chế tạo xà phòng thì đã điều chế được NaOH. Quen tay hay việc, Chu Tử Thư nhanh chóng điều chế NaOH, đựng cẩn thận trong bình sứ. Đá Bồ Tát và cát kết đều giàu silic, sau khi dùng xút ô-xy hóa đá Bạch Vân, rồi cho phản ứng tạo ra silicat là có thể điều chế ra thủy tinh thô.

Đương nhiên, nói bao giờ cũng dễ hơn làm!

Kiếp trước Chu Tử Thư học ngành Khoa học Vật liệu, nhưng phòng thí nghiệm lúc nào cũng đầy ắp nguyên liệu chứ đâu thiếu thốn thế này. Chế tạo thủy tinh từ những khoáng thạch thô sơ chưa qua xử lí là cả một thách thức.

Chu Tử Thư gọi mấy người thợ thủ công đến nhờ họ mài vụn đá thành dạng bột, mất nguyên nửa ngày. Do nguyên vật liệu có độ tinh khiết chưa đủ cao, cậu vừa phải thí nghiệm, vừa phải điều chỉnh tỉ lệ theo độ tinh khiết của vật liệu nữa.

Tháng Chạp, sắp sửa sang năm mới.

Thịnh Kinh đón trận tuyết đầu mùa, tuyết trắng phau phau, phủ tà áo bạc tinh khôi lên khắp kinh thành. Trên đường sá ngập tuyết in chi chít dấu chân người xe qua lại, đông đến nỗi san phẳng cả tuyết. Để chuẩn bị mừng năm mới, nhà nào cũng giăng đèn kết hoa. Mười hai tháng Chạp, nha môn bắt đầu kì nghỉ lễ kéo dài đến tận sau tết Nguyên tiêu.

Chu Tử Thư trở về nhà từ nha môn, phủi bớt hoa tuyết rơi trên vai. Diêu đại nương bưng bát canh gà nóng hôi hổi đến, Chu Tử Thư húp canh xong là ấm sực cả người. Cậu ngó quanh quất rồi hỏi: "Đường Hoàng đâu rồi ạ?"

Diêu đại nương cười bảo: "A Hoàng và Tam nhi đi sắm đồ Tết rồi." Chu Tử Thư gật đầu.

Chạng vạng tối, Đường Hoàng và Diêu Tam mới về nhà.

Phủ Thám hoa là một tòa dinh thự lớn với kiến trúc ba tiến, hai bên trái phải có thêm một viện hai tiến nữa. Ở tòa phủ rộng lớn như vậy, ban đầu Chu Tử Thư định mua mấy người đầy tớ, thị nữ về lo việc quét tước, nhưng không ngờ Diêu đại nương kiên quyết ngăn cản.

"Chỉ mình tôi là đủ rồi. Hàng ngày tôi ở nhà rỗi rãi không có việc gì, cứ để tôi quét tước dọn dẹp."

Chu Tử Thư không lay chuyển được bà, đành bỏ ý định mua người hầu. Việc nhà trong phủ Thám hoa được Diêu đại nương và thư đồng Phụng Bút hợp tác lo liệu hết.

Thấy Đường Hoàng về, Chu Tử Thư cố ý tỏ ra sừng sộ: "Anh đã dặn hôm nay ở nhà chờ anh về, tối đi ăn ở lầu Tế Hà cơ mà?"

Đường Hoàng: "Anh hẹn tối cơ mà, anh giai thương mến của em, bây giờ đã đến tối đâu?"

Chu Tử Thư ngán ngẩm lắc đầu: "Lượn đi thay quần áo mau." Được một chốc, cậu lại bảo Đường Hoàng: "Mặc cái áo khoác lông em mang từ Cô Tô đến đây ý."

Đường Hoàng lấy làm lạ nhưng cũng gật đầu, ngoan ngoãn đi thay quần áo.

Đông sang, chưa gì trời đã tối sập. Vừa mới qua giờ Thân, mặt trời đã lặn xuống núi nhường chỗ cho màn đêm bao la. Hai huynh muội Đường gia đi dưới bầu trời lấp lánh ánh sao, chẳng mấy chốc đã đến lầu Tế Hà. Thấy tiểu đông gia đến, quản lí Lục lập tức dẫn hai người vào lầu, lên nhã gian trên tầng hai. Vừa vào phòng, Chu Tử Thư liền cảm nhận được hơi ấm ùa tới xua tan giá rét.

Căn phòng bài trí theo phong cách cổ xưa với tông màu trắng thuần khiết, ở chính giữa đặt một lò than bập bùng ánh lửa.

Than trong lò là than chỉ bạc không khói loại tốt nhất, bên cạnh còn đốt thêm đàn hương. Khói trắng lững lờ đem lại cảm giác thanh thỏa khoan khoái.

Trong phòng rất ấm, Chu Tử Thư và Đường Hoàng cởi áo khoác ra treo một góc. Chu Tử Thư mở cửa sổ cho ánh Tuấng trắng lóa ùa vào phòng. Tuấng soi sáng rực cả thành Thịnh Kinh mênh mông tuyết phủ, ánh tuyết quyện Tuấng xán lạn bội phần.

Đường Hoàng hồi hộp hỏi: "Anh ơi, tối nay mình ăn với ai mà cầu kì thế?"

Chu Tử Thư liếc cô bé: "Em đoán xem?"

Đường Hoàng nghĩ ngợi một hồi: "...Lẽ nào là thầy của anh?"

"Cả sư huynh anh nữa."

Sau gần nửa canh giờ, Phó Vị và Cung Tuấn cũng lần lượt đến lầu Tế Hà.

Phó Vị là người đến trước. Vừa vào phòng, ông đã tia ngay bức tranh trên tường. Mắt Phó Hi Như sáng trưng, ông lập tức đến bên bức tranh. Chiêm ngưỡng kĩ càng hồi lâu, ông hỏi Chu Tử Thư: "Tranh của Ngô Đạo Tử đấy à?"

Chu Tử Thư cười: "Chẳng dám giấu tiên sinh, đúng thế ạ, chính là tranh của Họa thánh."

"Tranh đẹp lắm. Tuy không phải tranh truyền đời của Ngô Đạo Tử, nhưng chắc cũng tốn kha khá tiền." Phó Vị ngắm nghía thêm rồi ngợi khen: "Tranh vẽ khéo thật, đúng là khá hơn lão phu tí đỉnh."

Đến khi Cung Tuấn vào phòng, chàng cũng để ý thấy bức tranh trên tường. Chàng thích thú lia ánh mắt qua bức tranh, đoạn quay đầu nhìn sang cô gái nhỏ thấp tha thấp thỏm đứng cạnh Chu Tử Thư.

Công bằng mà nói, Chu Tử Thư và Đường Hoàng không giống nhau mấy.

Vóc dáng Chu Tử Thư cao ráo, tuấn tú nho nhã. Đôi mắt cậu sáng ngời và trong veo, đúng mắt cười trời sinh, hễ cười lên là lấp lánh như hai vì tinh tú, cong vút như mảnh Tuấng lưỡi liềm. Những lúc không cười, Chu Tử Thư mang vẻ khôi ngô tươi trẻ của một chàng thiếu niên thanh cao như dòng suối trong ngần, hiên ngang như trúc mọc trên đá. Mà trên thực tế, năm nay cậu cũng mới mười bảy, vốn đang độ thiếu niên.

So với Chu Tử Thư thì Đường Hoàng càng lớn càng ra dáng anh hào. Nói vậy không phải bảo cô bé giống con trai, mà khác với người anh trai tuấn tú, diện mạo của Đường Hoàng có phần sắc nét hơn, đôi mắt long lanh rất có hồn. Tuy còn sợ sệt khi nhìn Cung Tuấn, nhưng sâu trong đáy mắt cô bé là nghị lực không gì lay nổi.

Hẳn là một cô nhóc vừa gan lì vừa rắn rỏi.

Cung Tuấn kết luận thế xong, bèn nhẹ nhàng hỏi Chu Tử Thư: "Em gái đệ đấy à?"

Chu Tử Thư giới thiệu: "Vâng, đây là em gái đệ, tên là Hoàng."

Làm quen xong, bốn người ngồi xuống bàn, bắt đầu thưởng thức bát hà cung.

Không biết tự bao giờ, những bông tuyết lơ thơ đã bay đầy bên khung cửa. Giữa trận tuyết mênh mang trùm lên cả kinh thành, được quây quần bên nồi lẩu nóng hôi hổi mới thật đã đời làm sao.

Cơm nước xong, Chu Tử Thư nháy mắt với quản lí Lục. Quản lí Lục ngầm hiểu, bèn gỡ ngay bức tranh của Ngô Đạo Tử trên tường xuống, gói ghém cẩn thận bằng vải trắng cho Chu Tử Thư đem biếu Phó Vị. Vì đây là tranh của Ngô Đạo Tử nên ngay cả Phó Vị cũng rất kinh ngạc: "Cảnh Tắc, bức họa này mà con cũng tặng vi sư sao?"

Chu Tử Thư: "Con sưu tầm nó cũng vì tiên sinh đấy thôi. Con biết tiên sinh say mê hội họa, lại nghe nói ở phủ Cô Tô có người bán bức tranh này nên đã tranh thủ mua luôn. Tiên sinh nhất định không được từ chối đâu. Con đến Thịnh Kinh tính đến nay cũng hơn ba năm rồi. Ở nơi đất khách quê người, nếu không có tiên sinh dạy dỗ chỉ bảo, con ắt chẳng biết xoay sở ra sao và càng không làm nên trò trống gì. Cảm ơn tiên sinh đã dìu dắt con, ơn nghĩa ấy con xin ghi lòng tạc dạ, không bao giờ dám quên!"

Mặt dày cỡ Phó Vị mà cũng phải thẹn thùng, nghĩ thầm: Ta đã dạy mi được chữ nào đâu?

Ông cười ha hả: "Vậy vi sư nhận nhé."

Cơm no rượu say, Đường Hoàng theo quản lí Lục đi kiểm tra tình hình bán buôn của lầu Tế Hà hôm nay. Phó Vị được bức họa quý thì sướng tê cả lòng, đứng dậy cầm tranh về phủ luôn, bảo là muốn thưởng thức cho kĩ. Thế là trong nhã gian chỉ còn lại Chu Tử Thư và Cung Tuấn.

Cung Tuấn gạt bớt bọt trà trên chén, nhẹ nhàng nhấp một hớp Bích Loa Xuân.

Cửa sổ mở, trong phòng phảng phất hương đàn. CungTử Phong tắm trong ánh Tuấng thanh, áo trắng lịch thiệp, lặng lẽ thưởng trà ngắm Tuấng. Không biết Tuấng đêm nay sáng hơn thường lệ, hay là dưới ánh Tuấng, khí chất của người đàn ông này càng thêm xuất chúng.

Chu Tử Thư ngắm đến nỗi ngây ngẩn cả người. Mất một lúc cậu mới sực tỉnh, bèn lấy từ trong tay áo ra một hộp gấm nhỏ đưa cho Cung Tuấn.

Cung Tuấn nhận lấy hộp gấm, cười: "Hối lộ đấy à?" Chu Tử Thư sửng sốt.

Cung Tuấn đâu chỉ nói vu vơ.

Phó Vị là Thừa chỉ viện Hàn Lâm nên không trực tiếp quản lí Chu Tử Thư,

Chu Tử Thư tặng quà cho ông không có gì đáng chê trách. Nhưng Cung Tuấn là Thượng thư bộ Hộ, nếu chàng thực sự muốn nhúng tay thì chẳng khó để tác động đến vị trí Trung Thư xá nhân của Chu Tử Thư. Huống chi, cả hai còn cùng làm việc ở điện Cần Chính.

Chu Tử Thư bất đắc dĩ bảo: "Sư huynh lại trêu đệ rồi. Phải hay không, chẳng lẽ ngài Thượng thư còn không biết?"

Cung Tuấn: "Tiểu sư đệ dạo này to gan gớm nhỉ."

"Đệ to gan chỗ nào?"

Cung Tuấn nhại giọng Chu Tử Thư: "To gan chỗ nào, chẳng lẽ ngài Trung Thư xá nhân còn không biết hay sao?" Hai người nhìn nhau cười.

Cung Tuấn mở hộp. Khi thấy vật bên trong, dù đã chuẩn bị tinh thần từ trước, Cung Tuấn vẫn bị choáng ngợp và ngay ngẩn mất mấy giây.

Thì ra trong hộp gấm be bé tinh xảo kia là một chiếc bình lưu ly cỡ bằng bàn tay.

Chiếc bình lưu ly trong hộp mới lạ lùng làm sao, toàn thân bình trong suốt, hình dạng vuông vắn, thiết kế sắc sảo, góc cạnh. Miệng bình mạ một vòng kim tuyến rất mảnh, thân bình cẩn một đóa hoa mai. Khen chiếc bình này đẹp không gì sánh, khéo đoạt công trời cũng không ngoa. Chí ít sống hai mươi sáu năm trên đời, Cung Tuấn chưa bao giờ thấy bình lưu ly trong suốt, ngay cả trong quốc khố của hoàng cung.

Chiếc bình tinh xảo thật, song tay nghề mạ kim tuyến có phần hơi vụng về. May nhờ bình đựng sẵn chất lỏng vàng kim nên người xem sẽ không mấy để ý đến viền kim tuyến.

Cung Tuấn đưa lại gần nghe thử: "Đây là Hoàng Kim Lũ đấy ư?"

"Vâng."

Cung Tuấn ngắm nghía thêm: "Chiếc bình lưu ly này từ đâu mà có thế?"

Phần lớn sản phẩm ngọc lưu ly đều dành riêng cho hoàng tộc, thế nên những món đồ lưu ly ngoài cung khá hiếm. Trong khi đó, độ tinh xảo của chiếc bình này có thể sánh ngang với cống phẩm. Chu Tử Thư: "Đệ tự tay làm tặng sư huynh đấy."

Nghe vậy, Cung Tuấn chợt ngẩng lên nhìn Chu Tử Thư không chớp mắt.

Chu Tử Thư cười: "Ba năm quen biết sư huynh gặt hái được bao nhiêu điều. Đây là quà Tết năm nay ạ."

Cung Tuấn nhìn Chu Tử Thư rất lâu, rồi khoan thai nói: "Tiểu sư đệ có quà cho ta, thế mà ta chẳng chuẩn bị gì cả. Xem ra ta phải đáp lễ rồi nhỉ." Làm gì có chuyện Chu Tử Thư từ chối quà Cung Tuấn tặng, có mà ủng hộ hai tay hai chân ấy chứ.

Sướng mà không biết đường hưởng thì rõ đần!

Nhưng đợi suốt hai hôm, Chu Tử Thư vẫn chẳng thấy bóng dáng quà cáp của CungTử Phong đâu cả.

"Không ngờ CungTử Phong mà cũng nói xạo. Đúng là cóc tin được miệng lưỡi đàn ông!"

Chu Tử Thư than thở một hồi thì đi thu dọn hành lý để về quê ăn Tết với Đường Hoàng.

Không sai, năm nay Chu Tử Thư quyết định về thăm phủ Cô Tô.

Diêu Tam còn bận việc nên sẽ ở lại Thịnh Kinh. Chu Tử Thư dẫn em gái và thư đồng Phụng Bút lên thuyền, xuôi dòng Đại Vận Hà về phương Nam. Mười ngày sau, cậu về đến phủ Cô Tô.

Ba người vừa chân ướt chân ráo xuống thuyền đã có tiếng chiêng trống vang trời dậy đất, pháo giấy nổ tưng bừng.

Đương hết hồn, Chu Tử Thư thấy Đường cử nhân và tộc trưởng họ Đường vồn vã chạy đến hò reo: "Cảnh Tắc, cháu đã về rồi. Chúng ta chờ cháu suốt cả năm trời đấy!"

||

Giờ thì biết Chu Tử Thư học ngành gì rồi nha

Chú thích

Chính xác là những người thợ thủ công Syria dưới thời cai trị của Đế quốc La Mã.

Đá Bạch Vân (dolomit), đá bồ tát (Feldspar) và cát kết (sa thạch) là loại vật liệu giúp gia tăng độ bền, độ trơ cho thủy tinh và tăng hiệu suất cho quá trình sản xuất thủy tinh. Nguyên liệu nòng cốt cho việc sản xuất thủy tinh là cát, Na2CO3 và đá vôi.

Ở đoạn này nhắc đến "tiến". Đây là đơn vị nhỏ nhất trong cấu trúc nhà, gồm một khoảnh sân và kiến trúc nhà bao quanh khoảnh sân đó. "Tam tiến" tức là có ba khoảnh sân với nhà bao quanh hình chữ mục 目, "nhị tiến" là gồm hai sân, dạng hình chữ nhật 日.

------oOo------

Chương 67

Nguồn: EbookTruyen.Net

Bàn việc cưới xin

Rời khỏi bến tàu, Đường cử nhân lập tức cho Chu Tử Thư thay một bộ áo gấm tinh tươm. Cậu đội mũ điêu1, chân xỏ giày ngọc, đeo đai lưng bảo thạch, đến cây quạt trên tay cũng là quạt cổ từ triều trước. Từ khi Chu Tử Thư được hoàng đế khâm điểm làm Thám hoa trên điện Tử Thần, chưa bao giờ cậu ăn mặc long trọng đến vậy!

[1] quan lớn, bậc quyền quý thời xưa đội mũ có đúc con ve vàng hoặc gắn đuôi chồn (điêu)

Mọi người trong cả dòng họ Đường, chẳng cần biết có thân quen với Chu Tử Thư không, đều tặng cậu đủ loại quà cáp.

Khi đoàn người trùng trùng điệp điệp tiến đến từ đường dòng họ thì trên tay Phụng Bút đã kĩu kịt hàng đống hộp gấm.

Chu Tử Thư đi theo Đường cử nhân và tộc trưởng vào từ đường, chú bác trong họ ngồi kín ghế thái sư hai bên. Đầu tiên, Đường cử nhân quỳ xuống, nói: "Tổ tiên họ Đường trên cao, hôm nay cháu Chu Tử Thư thuộc chi thứ hai nhà họ Đường đỗ Thám Hoa làm rạng danh dòng họ. Là bá phụ của cháu, chúng con mừng rỡ vô cùng. Nhà họ Đường chúng ta có bậc kì tài này, ắt sẽ hưng thịnh trăm năm!"

Tộc trưởng đứng trước linh vị tổ tiên, mở cuốn gia phả, đọc tên Chu Tử Thư lên cho tổ tiên trên trời rồi từ tốn đọc to gia quy.

Vào thời đại này, đỗ Tiến sĩ là việc vẻ vang dòng họ. Nếu đỗ Trạng Nguyên thì sau hôm thi đỗ sẽ có mười sáu sai nha rước bảng Trạng Nguyên theo tân thủ khoa về thăm quê, lệ ấy gọi là phụng chỉ về quê. Trạng Nguyên cùng khóa với Chu Tử Thư là Diêu Thiện đã được hưởng nghi lễ ấy, nhưng nhà anh ta ở Thịnh Kinh, chỉ cần tổ chức ngay tại chỗ là được, không phải đợi chờ lâu.

Chu Tử Thư đỗ Thám Hoa năm ngoái, sau đó suốt một năm rưỡi cậu không quay về phủ Cô Tô khiến cả họ Đường chờ mòn mỏi, chỉ thiếu điều dong buồm lên Thịnh Kinh kiếm Chu Tử Thư, hỏi tận nơi xem cậu có định về thăm quê cũ không.

Hôm nay Chu Tử Thư cuối cùng cũng về rồi, người nhà họ Đường sao có thể tiếp đón qua quýt được.

Đường cử nhân bùi ngùi xúc động: "Tuấn nhi, cả họ Đường chúng ta chỉ có mỗi cháu đỗ Thám Hoa, thậm chí chỉ có mình cháu là Tiến sĩ. Cháu chính là vinh quang của cả dòng họ ta, đại bá phụ chân thành cảm ơn cháu!"

Chu Tử Thư nói: "Đều là máu mủ ruột rà, đại bá phụ chớ nói vậy."

Đường cử nhân xúc động đến nỗi rơm rớm nước mắt, ông muốn nói thêm dăm câu ba điều, nhưng giờ Chu Tử Thư chẳng những là tân khoa Thám hoa lang mà còn là đại quan tứ phẩm, thành ra ông có phần sợ sệt, không dám nhiều lời.

Đến tối, bữa tiệc linh đình ba ngày ba đêm của nhà họ Đường bắt đầu diễn ra.

Dân chúng trong thành Cô Tô đều kéo đến nhà họ Đường chúc tụng. Mọi người không đến chỉ để đánh chen thỏa thuê mà còn để chung vui với không khí đón mừng Thám Hoa lang.

Nhân tài ở Cô Tô nhiều như nấm mọc sau mưa, nơi đây là đất lành, đất thiêng đã sản sinh ra bao đời hiền tài. Tuy nhiên, Cô Tô đông nhân tài đến mấy đi chăng nữa, trong những năm Khai Bình cũng mới có năm Tiến sĩ, trong năm Tiến sĩ lại chỉ có một Bảng Nhãn mà thôi.

Sau bữa tiệc ai đến trước xơi trước kéo dài ba ngày ba đêm, Chu Tử Thư rốt cuộc cũng có thời gian xả hơi. Nhưng vừa hết tiệc thì đến lượt phủ doãn Cô Tô ghé nhà bái phỏng.

Phủ doãn mới của phủ Cô Tô mang họ Cổ, là tiến sĩ năm Khai Bình thứ ba. Bởi trong triều không có chỗ dựa, ông thi đỗ Tiến sĩ hơn hai mươi năm mà vẫn chỉ có thể làm tri huyện, phủ doãn ở những địa phương xa xôi hẻo lánh. Hơn năm mươi tuổi, Cổ phủ doãn mới được Trần tướng công điều về cai quản phủ Cô Tô. Được thế coi như khổ tận cam lai, đến tuổi già được về nơi đất lành an dưỡng.

Cổ phủ doãn là quan tứ phẩm giống Chu Tử Thư, nhưng so ra về vinh dự thì kém xa.

Quan địa phương không bằng quan kinh thành, quan phổ thông càng không bằng quan trong điện Cần Chính.

Việc Cổ phủ doãn đến nhà mình bái phỏng không khiến Chu Tử Thư ngạc nhiên. Cậu lấy lễ đối đãi, mở tiệc tiếp đón Cổ phủ doãn ở phòng khách. Cổ phủ doãn cẩn thận lựa lời chúc mừng Chu Tử Thư, rồi hỏi thăm những chuyện gần đây ở Thịnh Kinh. Rượu quá ba tuần, Cổ phủ doãn nói: "Đường đại nhân, hôm nay ghé thăm phủ ngài, kì thực tôi còn dẫn theo một người."

Chu Tử Thư hỏi: "Ồ, ngài dẫn theo ai vậy?"

Cổ phủ doãn ra lệnh cho sai nha về nha môn, dẫn một ông lão tóc bạc trắng đến Đường phủ. Chu Tử Thư thấy người đó thì sửng sốt, cậu nhìn kĩ một lát rồi thốt lên: "Bác trưởng thôn?"

Trưởng thôn Đường gia đứng khép nép trong phòng khách, có chút thấp thỏm lo âu.

Chuyện Đường Thám hoa trở về phủ Cô Tô đã lan truyền khắp toàn phủ, nhà họ Đường thiết yết mời cả phủ ăn uống thỏa thuê suốt ba ngày ba đêm, người thôn Đường gia cũng nghe đồn. Hay tin Chu Tử Thư trở về, mọi người trong thôn đều động viên trưởng thôn đến phủ thành một chuyến, không phải để lôi kéo quan hệ với Chu Tử Thư hòng trục lợi, mà cốt là để xin chữ của cậu.

Chu Tử Thư nói: "Bác trưởng thôn, năm năm không gặp, suýt thì cháu không nhận ra bác đấy."

Nói rồi, Chu Tử Thư tiến đến đỡ ông ngồi xuống.

Trưởng thôn quýnh lên: "Thế này không được đâu!"

Hai người ngồi ở bàn này, một là Phủ doãn Cô Tô, một là Thám hoa Chu Tử Thư, trưởng thôn làm sao dám ngồi. Không ngờ, khi ông toan đứng dậy, một bàn tay thon thả nhưng rất cương quyết đã đặt nhẹ lên vai ngăn ông lại. Trưởng thôn nhìn sang thì thấy Chu Tử Thư đang mỉm cười với mình.

Rõ ràng là nụ cười rất ôn hòa, nhưng ở Chu Tử Thư có uy thế rõ rệt của người làm quan, vừa nghiêm trang vừa trịnh trọng, khiến người khác chỉ có thể nghe lời.

Chu Tử Thư suýt thì không nhận ra trưởng thôn, trưởng thôn cũng chẳng tài nào nhận ra cậu.

Ai mà tưởng tượng nổi, sau năm năm, cậu bé sống dựa vào nghề bán nước hoa quả ở đầu thôn Đường gia đã lớn khôn, thành đạt như bây giờ!

Trưởng thôn ngồi xuống, Chu Tử Thư sai Phụng Bút lấy thêm bát đũa cho ông.

Hàn huyên một hồi, Chu Tử Thư mới biết được nguyện vọng của trưởng thôn, cậu dở khóc dở cười: "Hồi trước A Hoàng chỉ nói đùa vậy thôi, không ngờ mọi người lại tưởng thật. Thực ra thì không cần đổi thành thôn Đường gia đâu, nhưng nếu đã lỡ rồi thì đành vậy. Bác trưởng thôn, bác muốn cháu viết ba chữ 'Thôn Đường gia' cho thôn mình phải không?" Trưởng thôn gật đầu.

Chu Tử Thư suy nghĩ một lát, kêu Phụng Bút chuẩn bị giấy mực. Cậu cầm bút lông sói cỡ lớn, múa ba chữ đại tự "Thôn Đường gia" lên giấy Tuyên Thành.

Vừa dứt bút, Cổ phủ doãn đã trầm trồ thốt lên, vỗ tay khen: "Tuyệt vời! Chữ đẹp lắm! Khí thế hiên ngang, sức lực tràn trề như tùng bách, nét bút thoăn thoắt tựa rồng cuộn, quá đỗi phi thường!"

Nịnh nhau rắm thối cũng thành thơm, Chu Tử Thư gãi tai, nghĩ thầm: bản thân việc nịnh đã là nói không thành có rồi, tinh hoa nằm ở chỗ phải biết một vừa hai phải, hiểu không?

Cổ phủ doãn có ý ca tụng Chu Tử Thư, trưởng thôn vốn không biết thư pháp đẹp xấu chỗ nào, nghe Cổ phủ doãn nói thế, chỉ cảm thấy Chu Tử Thư đúng là người trời. Chữ của Thám Hoa lang đương nhiên phải vượt xa sĩ phu thông thường rồi, ông định bụng sau khi đem bức thư pháp này về khắc thành bia đá ở đầu thôn Đường gia xong xuôi, sẽ bí mật giấu làm của báu gia truyền cho con trai thừa kế!

Nghe tin trưởng thôn đến chơi, Đường Hoàng cũng ra khỏi hậu viện ôn chuyện với ông ta.

Loanh quanh bận bịu suốt bốn ngày, đến ngày thứ năm thì Chu Tử Thư mới có thể nghỉ ngơi tử tế.

Thảnh thơi chưa được hai ngày đã lại đến Tết.

Đêm giao thừa, hai anh em đến nhà Đường cử nhân, cùng nhau đón chào năm mới. Đường cử nhân và đại công tử Đường Vân đều hơi rén Chu Tử Thư, không dám nói chuyện với cậu như trước nữa. Chỉ có Đường phu nhân là vẫn đối xử với hai anh em như con cháu trong nhà, gắp cá cho Chu Tử Thư và Đường Hoàng, chúc: "Niên niên hữu ngư nhé*."

(*) "ngư" (cá) và "dư" đồng âm (yú). Câu chúc năm sau giàu có, no đủ hơn năm trước

Họ hàng nội ngoại Đường gia ở phủ Cô Tô rất đông, nhưng Chu Tử Thư không cần đến tận nơi thăm hỏi vì ngay mùng hai, tất cả mọi người đã đổ xô đến nhà họ Đường để chúc Tết rồi.

Chu Tử Thư tiễn hết tốp khách này đến tốp khách khác, xong xuôi mới trở về thư phòng, trải giấy mực ra viết chữ.

Ở Thịnh Kinh, Đường Hoàng đã xin Chu Tử Thư viết cho mình một bảng chữ mẫu. Chu Tử Thư hàng ngày đi làm ở điện Cần Chính, về nhà lại mải mê chế tạo thủy tinh, không dư ra được phút nào để viết bảng chữ cho em gái cả. Hôm nay cậu đã chế tạo thủy tinh thành công, lại được nghỉ Tết về quê, cuối cùng cũng có thời gian rảnh để chuẩn bị một quyển chữ mẫu tươm tất cho em gái, để cô bé luyện viết theo.

Chu Tử Thư nắn nót viết lên trang giấy Tuyên Thành: "Thiên địa huyền hoàng, vũ trụ hồng hoang, nhật nguyệt doanh trắc, thần túc liệt trương..."

Viết xong một bản Thiên tự văn, Chu Tử Thư đăm chiêu nhìn trang giấy, hồi lâu sau cậu mới thì thầm: "Khí thế hiên ngang, sức lực tràn trề như tùng bách, nét bút thoăn thoắt tựa rồng cuộn, quá đỗi phi thường? Mình thấy rõ ràng chỉ giống được phần hình, chứ nào bắt chước được phần ý trong chữ CungTử Phong."

Khi Chu Tử Thư mới tập tành viết chữ, cậu học theo chữ Lương tiên sinh, ông dạy cho cậu lề lối căn bản trong thư pháp. Khi chữ của cậu còn chưa định hình, CungTử Phong cho cậu bảng chữ mẫu của Chung Thái Sinh để cậu rèn từng nét ngang, nét móc, nét phẩy, nét mác. Khi cậu thực sự học được cách thổi hồn vào con chữ, thì Chu Tử Thư học theo chữ của CungTử Phong.

Trên đời không phải không có chuyện trò giỏi hơn thầy, nhưng thiên phú của Chu Tử Thư về thư pháp quả thực thua xa Cung Tuấn. Thậm chí toàn cõi Đại Tống chẳng có mấy ai sánh kịp Lang Gia CungTử Phong!

Người này cứ như yêu nghiệt ngàn năm có một, cầm kỳ thi họa không gì không tinh thông.

Ngoài tường nhà, hàng xóm bắt đầu đốt pháo. Chu Tử Thư nghe tiếng pháo nổ đì đùng, tự dưng lại thấy nhơ nhớ Cung Tuấn.

Lúc này Cung Tuấn đang làm gì thế nhỉ?

Niềm mong nhớ cứ trôi hoài theo dòng suy tư, Chu Tử Thư mơ màng một chốc, bỗng giật mình, thầm nghĩ sao đang yên đang lành lại nhớ CungTử Phong. Cậu lắc đầu, rũ ngay cái ý nghĩ đáng sợ ấy đi rồi trở về nhà ngủ.

Triều đình cho nghỉ năm mới hơn hai mươi ngày, đến tận mười tám tháng Giêng mới kết thúc.

Chu Tử Thư dự tính mùng mười sẽ quay về Thịnh Kinh.

Mùng sáu, cậu sang nhà Đường cử nhân ăn cơm. Đường phu nhân lén lút giữ cậu lại, sai cô con gái thứ của Đường cử nhân dắt Đường Hoàng sang biệt viện chơi, giữ chân cô bé lâu lâu một chút. Chu Tử Thư không hiểu bà định làm gì, cậu vừa uống Bích Loa Xuân vừa ngẫm nghĩ xem có phải Trân Bảo Các gặp rắc rối, nên Đường phu nhân mới muốn nói chuyện riêng với mình.

Đúng lúc đấy, cậu nghe Đường phu nhân hỏi: "Tuấn nhi, năm nay cháu mười tám rồi đấy, thế đã... để ý cô gái nào chưa?"

Chu Tử Thư: "..."

Miếng trà nóng tí nữa thì phụt ra khỏi mồm, may mắn là Chu Tử Thư ở

Thịnh Kinh ba năm nay, hàng ngày nếu không dính lấy con cáo già đạo mạo CungTử Phong thì cũng bầu bạn với con hổ chúa Triệu Phụ, tâm lý của cậu đã được mài giũa vững như thành đồng rồi.

Chu Tử Thư lấy lại bình tĩnh, đáp: "Đại bá mẫu, cháu chưa từng nghĩ đến chuyện này. Tuổi cháu còn nhỏ, chưa cập quan, chuyện cưới xin tạm thời cứ thong thả."

Đường phu nhân cười nói: "Anh họ cả của cháu lúc bằng tuổi cháu đã đính ước, đầu năm nay mới thành thân xong. Cha mẹ cháu mất sớm, trong nhà không có người lớn quyết định những việc đại sự này, đương nhiên bác phải lo liệu cho cháu rồi. Nhưng dù sao cháu nói cũng đúng, cháu có phải cái thằng ngốc Đường Vân kia đâu, làm quan ở kinh thành vất vả, chuyện cưới gả thư thư ra mấy năm cũng được. Nhưng Tuấn nhi này, chuyện hôn nhân của Đường Hoàng... Cháu có tính toán gì chưa?"

Chu Tử Thư nhíu mày, đặt chén trà xuống, nghiêm túc bảo: "Chuyện này cháu cũng Tuấn trở thật ạ."

Đường phu nhân nói: "A Hoàng năm nay mười bốn rồi, sang năm là cập kê, nên lập gia đình. Nếu cháu bằng lòng để đại bá mẫu thu xếp, thì cháu cứ yên tâm, bác đã thay A Hoàng xem xét hết những chàng trai tốt nhất hai phủ Cô Tô, Kim Lăng rồi, cũng chấm được mấy cậu đấy. Còn nếu cháu nhắm được nhà nào triển vọng ở Thịnh Kinh cho A Hoàng thì bác lại theo cháu."

Chu Tử Thư: "Chuyện này không cần vội đâu ạ, để cháu hỏi ý Đường Hoàng trước đã."

Đường phu nhân hết sức ngạc nhiên.

Huynh trưởng như cha, chuyện cưới gả của con gái vốn là cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, với nhà Chu Tử Thư thì cậu nên là người quyết định thay Đường Hoàng.

Nhưng Đường phu nhân lại nghĩ, Chu Tử Thư xưa nay vẫn rất thương yêu em gái mình, thế là bà bèn nói: "Được, tất cả đều theo ý cháu. Mà Tuấn nhi này, bác đã đánh tiếng với mấy cô nương ở Cô Tô và Kim Lăng rồi đấy. Nếu cháu không bận gì, hai hôm tới, bác cháu mình bàn bạc chút xem sao nhỉ?"

Chu Tử Thư: "..."

Ở trạm dịch Thứ Châu nguy hiểm trùng trùng, Đường đại nhân nhạy bén cảnh giác, tùy cơ ứng biến, ung dung không sợ hãi.

Theo hầu đương kim hoàng thượng tính tình đa nghi, Đường đại nhân múa bút như thần, miệng trơn như bôi mỡ, dễ dàng bay vút lên mây xanh.

Thế mà giờ đây khi "đối đầu" với Đường phu nhân hết lòng quan tâm, muốn thu vén hôn sự cho mình, Đường đại nhân vắt chân lên cổ mà chạy, ngay hôm sau đã bịa ra một lí do để chuồn đi Kim Lăng.

Chu Tử Thư dắt theo thư đồng Phụng Bút, trốn biệt sang phủ Kim Lăng.

Phụng Bút theo Chu Tử Thư đã ba năm, cũng hiểu tâm tư Chu Tử Thư, biết cậu sang Kim Lăng để né tránh chuyện dạm ngõ. Khi đến nơi, Chu Tử Thư ngẫm nghĩ một lát rồi bảo: "Ngươi theo ta đi thăm Cẩm Tú Các một chuyến."

Chủ tớ hai người đến Cẩm Tú Các, chỉ thấy trong cửa hàng đầy ắp người dân đến mua xà phòng. Ngó nghiêng một hồi, Chu Tử Thư phát hiện bức thư pháp treo giữa cửa hàng. Cậu tròn mắt, nhìn trân trối dòng chữ kia, không kìm nổi kinh ngạc.

Phụng Bút thấy dáng vẻ ngỡ ngàng của chủ nhân, bèn đọc dòng chữ ấy lên: "Khói trùm nước lạnh, Tuấng lồng cát. Công tử, câu thơ này có gì không ổn ư?"

Chu Tử Thư dở khóc dở cười: "Ta chưa bao giờ nghĩ rằng, duyên phận của ta với sư huynh hóa ra lại bắt nguồn từ nơi đây."

"Có phải Đường tiểu đông gia phủ Cô Tô đấy không ạ?"

Chu Tử Thư ngoái đầu lại, liền thấy đại chưởng quỹ Phương của Cẩm Tú

Các đang dè dặt quan sát họ. Khi Chu Tử Thư quay ra, đại chưởng quỹ Phương mừng rỡ thi lễ rồi nói: "Quả đúng là ngài, cậu chủ Đường. À không, giờ phải gọi là Đường đại nhân mới đúng chứ. Bốn năm trước từ biệt ở Kim Lăng, không ngờ tiểu nhân có phúc ba đời, vẫn được gặp đại nhân một lần nữa."

Chu Tử Thư nói: "Bốn năm mới tái ngộ, Phương đại chưởng quỹ có khỏe không?"

"Không ngờ ngài vẫn nhớ tên tiểu nhân." Đại chưởng quỹ Phương xúc động quá, "Tôi khỏe, mọi sự đều tốt lành. Xà phòng và Hoàng Kim Lũ ở Cẩm Tú Các đều rất đắt hàng, hẳn là kế toán Lâm cũng nói với ngài rồi. Tôi thấy ban nãy Đường đại nhân ngắm mãi bức thư pháp kia, chắc hẳn ngài đã phát hiện bức thư pháp ấy được viết bởi chính đại công tử Lang Gia Cungthị, Cung Tuấn – Cungtướng công. Nghe nói Đường đại nhân là sư huynh đệ với Cungtướng công, ngài đến Kim Lăng để bái phỏng Cungtướng công đúng không ạ?"

Chu Tử Thư sửng sốt: "Tử Phong sư huynh đang ở Kim Lăng à?"

"Đúng thế, năm nay Cungtướng công về ăn Tết ở Kim Lăng đấy ạ!"

Nửa canh giờ sau, Chu Tử Thư tần ngần đứng trước hẻm Ô Y, ngước mắt trông cánh cổng oai nghiêm hùng vĩ của Lang Gia Cungthị.

... Rốt cuộc, vì sao cậu phải đứng ở đây hả trời!?

||

Đang đọc lại Truyện Kiều đến đoạn Kiều trốn sang nhà Kim Trọng hẹn hò, xong Kim Trọng cũng nhờ Kiều vịnh thơ vào bức tranh Kim Trọng vẽ. Cung Tuấn cũng nhờ Chu Tử Thư y chang thế TvT (chương 56)

Chú thích

[1] Về đoạn "mũ điêu" hơi khó giải thích, tại trong raw tác giả dùng từ 雕 (đại bàng/chim điêu) chứ không phải là 蛁 (ve sầu) hay 貂(chồn). Mình khá chắc đây là lỗi đánh máy vì ba từ này đồng âm. Trong lịch sử thì cũng có loại "điêu quan" là mũ cánh ve, nhưng đây là loại mũ dành cho quan võ chứ không phải quan văn. Thế nên mình thiên về giải thích của từ điển Thiều Cửu, rằng giới quyền quý họ hay đính đuôi chồn hoặc con ve vàng vào mũ để thể hiện thân phận, mặc dù mình chưa tra được rằng việc này có giới hạn trong những đối tượng cụ thể nào không.

Gốc dùng từ "kì lân" – cũng là để chỉ người xuất sắc, có tài năng.

------oOo------

Chương 68

Nguồn: EbookTruyen.Net

Lang Gia Cungthị hẻm Ô Y

Đến thì cũng đã đến rồi, tới cửa mà không vào, chẳng phải tác phong của người quân tử.

Phụng Bút cầm danh thiếp của Chu Tử Thư, gõ cổng chính phủ nhà họ Vương. Người gác cổng nhận danh thiếp thì sửng sốt vô cùng, anh ta trịnh trọng mời chủ tớ Chu Tử Thư vào phủ rồi báo ngay cho quản gia. Chỉ trong chốc lát, người quản gia trong bộ trường bào đã chạy tới. Ông ta hành lễ trước tiên: "Xin hỏi công tử có phải là Chu Tử Thư – Đường công tử phủ Cô Tô không ạ?"

Chu Tử Thư nói: "Đúng là ta."

Quản gia hỏi: "Đại nhân là Trung Thư xá nhân – Đường đại nhân đúng không ạ?"

Chu Tử Thư lại đáp: "Chính thế."

Quản gia vội vàng nói: "Mời ngài qua bên này."

Chu Tử Thư đi theo quản gia, chính thức bước qua ngưỡng cửa Lang Gia Cungthị.

Thời trước, hai nhà CungTạ là danh môn thế gia chân chính, vừa có quyền thế lại vừa giàu sang không ai bì kịp. Đến triều đại này, họ Tạ đã suy bại nhiều, không còn huy hoàng như xưa nữa, nhưng họ Cungtính đến nay đã sản sinh ra ba tể tướng, hơn hai mươi tiến sĩ, danh tiếng lẫy lừng khắp muôn nơi. Đến thời Khai Bình hoàng đế, họ Cungcó đến hai tướng công trong triều đình, có thể nói đã đạt đến đỉnh cao danh vọng.

Dinh thự khổng lồ của nhà họ Cungphần nhiều là những dãy nhà tường phấn ngói chì1, như một tài tử thi nhân từng dạo chơi nơi đây một lần đã sáng tác thành thơ:

"Suối hồng men vách núi xanh, thang son xen lẫn cây xanh điệp trùng."

[1] Dựa theo câu 粉墙黛瓦 tức "tường trắng như phấn, ngói đen như đại (chì kẻ mày cho phụ nữ, màu xanh đen sẫm)".

Vào trong vườn, chỉ thấy lớp lớp rừng cây chen bóng nước, mênh mông cỏ biếc quyện trúc xanh. Cứ mỗi một cánh cổng bán nguyệt lại khắc một cái tên riêng, nào "Tầm Nguyệt môn", nào "Mộng Ẩn cư". Bên mỗi dòng tên là một dấu lạc khoản, những người đóng lạc khoản đều họ Vương. Từ xưa đến nay, danh nhân xuất thân từ Lang Gia Cungthị đều muốn lưu tên mình ở tòa dinh thự rộng lớn này.

Chu Tử Thư đi được khoảng một nén nhang thì thấy, vào Lang Gia Cungthị,̣ mình chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Không nghi ngờ gì nữa, nếu hoàng cung Đại Tống mang vẻ đẹp bao la hùng vĩ của tư tưởng và tâm thế phương Bắc, thì dinh thự họ Cungquận Lang Gia là điển hình của nét kì ảo trong phong cảnh Giang Nam, cảnh chuyển động trên từng bước chân, mỗi vị trí lại mở ra một góc nhìn, một khung hình mới mẻ.

Có thể xây dựng được một tòa dinh thự đồ sộ cỡ này, ngoài hàng trăm năm tích lũy danh vọng thì yếu tố then chốt là phải rất giàu.

Chuyến tham quan này đã khắc sâu nhận thức của Chu Tử Thư về sự giàu có của Cung Tuấn.

Lắm tiền sướng thế chứ lị!

E rằng chỉ có một nơi như thế này mới sản sinh ra được người như CungTử Phong!

Chu Tử Thư chờ trong phòng khách một xíu, quản gia đã tự tay dâng trà nóng, điểm tâm. Không bao lâu sau thì có một người đàn ông tuấn lãng tầm tuổi trung niên bước vào phòng. Người đàn ông này mặc y phục đen tuyền, đầu đội mũ nhà nho. Bỗng dưng thấy người lạ, Chu Tử Thư ngạc nhiên, nhanh nhẹn đặt chén trà xuống, đứng dậy hành lễ.

Hai người thi lễ với nhau, người đàn ông trung niên mặc áo đen nói: "Hôm nay mùng bảy, nữ quyến trong nhà đi dâng hương lễ phật ở chùa Kê Minh, lũ trẻ nhỏ đi theo cả. Tử Phong là anh cả nên cũng đi cùng, giờ vẫn chưa về. Đường công tử chi bằng hãy dùng bữa trước, lưu lại phủ đợi một chốc?"

Chu Tử Thư không ngờ lúc cậu nổi hứng đến thăm nhà họ Cungcũng là lúc Cung Tuấn đi vắng!

Chu Tử Thư nhất thời chẳng biết nên làm sao cho phải, cậu nói với người đàn ông kia: "Hôm nay đến đây đã là quấy quả rồi, vậy tại hạ xin phép cáo từ trước."

Người đàn ông trung niên mặc áo đen cười bảo: "Nếu cậu đi, Tử Phong về mà biết lại oán ta mất. Lang Gia Cungthị chúng ta cũng đâu có đạo lí đãi khách thế này."

Chu Tử Thư nghe thế thì ngạc nhiên lắm. Cậu cho rằng người đàn ông này là bậc chú, bác của Cung Tuấn, nhưng nghe giọng điệu thì dường như ông thân với Cung Tuấn lắm, không hề bị gò bó bởi khoảng cách thế hệ.

Dường như người ấy hiểu được thắc mắc của của Chu Tử Thư, ông bèn giải thích: "Ta họ Vương, tên một chữ Tuệ thôi, đứng hàng thứ tư trong các anh em, là Tứ thúc của Tử Phong. Tử Phong với Đường công tử là sư huynh đệ, cháu cứ gọi một tiếng Tứ thúc thúc là được rồi."

Chu Tử Thư cứ cảm thấy có gì sai sai ở đây, nhưng nghĩ mãi không ra, bèn nghe lời gọi theo: "Tứ thúc thúc."

CungTuệ không hề nổi danh trong giới văn nhân Đại Tống, bởi từ bé ông đã không thích sách vở, chỉ say sưa tìm hiểu kinh thương. Chu Tử Thư không biết, phần lớn các cửa hiệu của dòng họ Cungđều do một tay vị Tứ lão gia này điều hành. Tuy vậy, thu nhập chủ yếu của Lang Gia Cungthị không đến từ thương nghiệp mà đến từ thuế ruộng đất. Là một gia tộc thâm căn cố đế mấy trăm năm, họ Cungsở hữu vô số đất đai ở phủ Kim Lăng, chỉ riêng nguồn thu từ thuế đất đã đủ cho họ sống sung túc, ngồi mát ăn bát vàng thêm mấy trăm năm nữa rồi.

CungTuệ kinh doanh cũng chỉ vì đam mê mà thôi.

Là thương nhân, CungTuệ rất giỏi giao tế. Ông tiếp đón Chu Tử Thư chu đáo, ân cần; Chu Tử Thư trò chuyện với ông càng lúc càng cởi mở. CungTuệ khéo ăn khéo nói, hài hước dí dỏm, khiến Chu Tử Thư vô cùng mến mộ.

Chu Tử Thư tới nhà họ Cungvào buổi chiều, nhưng mãi đến chạng vạng mới thấy một con khoái mã đen bóng phi từ chùa Kê Minh về hẻm Ô Y.

Từ lúc Chu Tử Thư vừa vào phủ, CungTuệ đã lẳng lặng sai người lên chùa Kê Minh bắn tin cho Cung Tuấn. Tứ thúc nhạy bén hơn người, ông đã biết Chu Tử Thư ghé chơi thì sao có thể không báo cho Cung Tuấn? Trong triều đình, CungTử Phong có địa vị cao chót vót và được hoàng đế hết mực sủng ái, nhưng cũng vì chàng được lòng vua quá, lại có Hữu tướng CungThuyên nắm quyền lớn trong triều, thành ra Cung Tuấn không kết bè kết đảng với bất cứ ai.

Đảng phái của Cung Tuấn là Cungđảng, phe bảo hoàng trung lập.

Vì lòng trung thành của chàng đặt trọn ở hoàng đế nên Triệu Phụ cực kì coi trọng Cung Tuấn. Trên triều Cung Tuấn chẳng thiếu bè bạn, song người thân thiết và gần gũi với chàng đến mức độ này chỉ có mình Đường Cảnh Tắc mà thôi.

Ở Lang Gia Cungthị, chẳng những gác cổng có thể nhận ra Chu Tử Thư mà ngay cả quản gia cũng có thể đọc vanh vách từng mẩu tin về cậu. Chung quy cũng bởi Chu Tử Thư là hảo hữu hiếm hoi của CungTử Phong, nên phủ họ Cungmới tìm hiểu cậu kĩ càng như thế.

Sắc trời tối dần, Chu Tử Thư tự thấy có lẽ không đợi được Cung Tuấn, liền muốn đứng dậy ra về.

CungTuệ đứng lên khuyên: "Cảnh Tắc, hay là đợi thêm chút nữa?"

Chu Tử Thư định đáp lời, chợt có gã đầy tớ chạy vào bẩm báo: "Đại công tử đã về."

CungTuệ nhíu mày: "Đoàn xe đông thế, làm sao nó về nhanh vậy được?"

Gã đầy tớ đáp: "Đại công tử cưỡi khoái mã về trước một mình, còn các phu nhân, tiểu thư đi sau, cỡ nửa canh giờ nữa may ra mới về ạ." Đến nước này thì Chu Tử Thư hết đường cáo từ.

Cậu theo CungTuệ ra khỏi phòng khách, lên sảnh lớn ở nhà trước. Mới đi được nửa đường, bỗng có tiếng ngựa hí vang trời, thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. Tim Chu Tử Thư reo lên, cậu rẽ vào hành lang hoa. Vừa ngước mắt, cậu đã thấy Cung Tuấn trong bộ áo đại sưởng màu đen, đầu đội ngọc quan, tay ghì cương ngựa, hiên ngang cưỡi trên lưng con tuấn mã. Chàng quay đầu, tình cờ bắt gặp Chu Tử Thư cũng đang nhìn mình.

Cả hai cùng đứng từ xa mà trông về nhau, cùng ngây ngẩn trong ánh mắt.

Chu Tử Thư hồi thần, bèn bước tới gần; Cung Tuấn cũng xuống khỏi lưng ngựa. Chàng đứng đó, bình thản ngắm nghía Chu Tử Thư một chốc, rồi mới cười dịu dàng: "Tiểu sư đệ lại gầy đi đấy." Chu Tử Thư sửng sốt.

Gầy đâu? Mấy hôm nay về Cô Tô cậu ăn khỏe uống khỏe lắm mà, tự cậu còn thấy mập ra cơ mà!

Tiếp theo, Cung Tuấn sai bảo người hầu: "Đường công tử thích ăn tôm, nấu luôn tôm mới gửi từ ngoài biển về hôm qua ấy, còn tôm sông thì làm món tôm đuôi phượng Kim Lăng3."

[3] Đuôi tôm để nguyên, giống như đuôi phượng. Xem ảnh cuối bài Người hầu cúi đầu vâng lệnh.

Sai sử xong, Cung Tuấn lại ngắm Chu Tử Thư, nghiêm túc nói: "Phải bồi bổ thêm tí chút."

Chu Tử Thư: "..."

Bồi bổ tức là phải ở lại xơi cơm rồi.

CungTuệ đứng bên quan sát, thái độ Cung Tuấn khiến ông lén phì cười. Nghe tiếng cười trộm, Cung Tuấn quay ra hành lễ với chú mình ngay: "Tứ thúc thúc." Giọng nói ôn hòa du dương của chàng khiến CungTuệ phải "khụ" một tiếng.

CungTuệ nói: "Tôm biển tôm sông nhà ta đủ cả, ta mà biết Cảnh Tắc thích ăn tôm thì đã dặn chuẩn bị từ lâu rồi."

Cung Tuấn: "Cảnh Tắc?"

CungTuệ cười bất đắc dĩ: "Nếu Tử Phong đã về thì ta đi lo công chuyện trước nhé. Hai đứa cứ hàn huyên với nhau."

CungTuệ đi rồi, Cung Tuấn dẫn Chu Tử Thư về chỗ ở của mình.

Tòa viện của Cung Tuấn nằm ở tận cùng góc Tây dinh thự họ Vương, ở hướng này có một rừng trúc xanh rì thanh tĩnh. Vào thời điểm giao mùa giữa xuân và hạ, rừng trúc đem lại cho ta cảm giác phóng khoáng thoát tục, thanh thản tươi vui. Nhưng bây giờ là giữa mùa đông rét mướt, Chu Tử Thư bất giác lạnh run. Cậu nhìn Cung Tuấn, nhận xét: "Chẳng mấy khi thấy sư huynh mặc màu đen."

Cung Tuấn nghĩ một chốc mới hỏi: "Tiểu sư đệ không biết nguồn gốc của cái tên 'Hẻm Ô Y' à?"

Chu Tử Thư: "Ủa, có sự tích gì ư?"

Cung Tuấn: "Hẻm Ô Y rất dài, nhưng vì có hai nhà Vương, Tạ ở đây nên nó mới nổi tiếng đến vậy." Người khác nói câu này còn bị cho là bốc phét, nhưng nghe Cung Tuấn nói, Chu Tử Thư coi đó là lẽ dĩ nhiên. Hôm naỹ cậu tham quan Lang Gia Cungthị xong cũng không nhịn được phải khen, dòng họ Cungđúng là một gia tộc hùng mạnh. Nhờ có họ, chẳng riêng gì hẻm Ô Y trở nên tiếng tăm, mà cả phủ Kim Lăng cũng đi vào huyền thoại.

"Hẻm này hồi xưa có tên khác. Phải đến triều trước, khi các công tử quyền quý ở đây chuộng mặc ô y, tức là áo đen đấy, thì nơi đây mới đổi tên. Công tử hai nhà Vương, Tạ đều mặc áo đen đi lại trong hẻm, thế là sinh ra cái tên hẻm Ô Y." Dừng một chút, Cung Tuấn nói: "Tiểu sư đệ có muốn thay xiêm áo không?"

Chu Tử Thư lấy làm lạ: "Đệ không phải người nhà họ Cungmà cũng phải thay áo đen sao?"

Cung Tuấn thủng thẳng đáp: "Thế thì thôi vậy." Chu Tử Thư cảm thấy hết sức khó hiểu.

Nhưng đến tối, cậu mới ngộ ra tại sao CungTử Phong lại bảo mình làm thế.

Cả nhà toàn người mặc áo đen, mỗi mình cậu mặc áo trắng, đúng là như chim trĩ lạc ổ phượng hoàng, một mình một phách!

Chùa Kê Minh nằm ở phía Đông Bắc phủ Kim Lăng; đêm xuống, cả nhà họ

Cungđi lễ Phật ở chùa đã về đến nhà. Phong tục người dân nước Đại

Tống khá cởi mở, nam nữ có thể ăn chung trong một phòng. Nhưng dù sao Chu Tử Thư cũng là nam giới đến tuổi lập gia đình, vì thế nên lúc ăn cơm sẽ có bình phong ngăn cách giữa hai bàn một bên là nam giới, bên kia là các tiểu thư, phu nhân.

Cung Tuấn chẳng quan trọng chuyện "ăn không nói, ngủ không nói", nhưng những người khác trong nhà họ Cungthì rất để tâm, nên trên bàn ăn tuyệt nhiên không ai nói chuyện cả.

Sau khi các tiểu thư và phu nhân dùng bữa xong, tấm bình phong cũng được giỡ ra, mọi người bấy giờ mới uống trà, tán gẫu với nhau.

Cha của Cung Tuấn mất sớm, nhị thúc CungThuyên ở Thịnh Kinh, năm nay không về nhà ăn Tết. Nam giới trong đại sảng chỉ có ba người là bậc cha chú, sau đó là đến Cung Tuấn, nhị công tử CungTự, và giờ có thêm Chu Tử Thư.

CungTuệ hỏi: "Uống trà này có quen không hả Cảnh Tắc?"

Chu Tử Thư đặt chén trà xuống: "Trà ngon lắm ạ, cảm ơn Tứ thúc thúc."

Tam lão gia nghe thế thì ngạc nhiên lắm: "Gọi Tứ thúc thúc luôn cơ đấy?" Ông cười hì hì: "Bình thường cũng hay có người đến chơi nhà, nhưng chả mấy khi gặp bạn của Tử Phong. Cảnh Tắc, nghe nói năm nay cháu mới mười tám nhỉ, đúng là tuổi trẻ tài cao."

"Tam thúc thúc quá khen."

Họ Cungkhông phải ai cũng làm quan, trong số những người có chức sắc ở đây, chỉ có Cung Tuấn giữ chức quan cao hơn Chu Tử Thư.

Nhà họ Cungdanh giá bao đời nhưng không nghề kiêu căng hợm hĩnh. Mọi người trò chuyện với Chu Tử Thư được một lúc, Chu Tử Thư bỗng nghe ngoài phòng có tiếng ríu ra ríu rít. Cậu ngạc nhiên ngó ra, lắng tai nghe, chợt có tiếng trẻ con lanh lảnh: "Mi nghĩ là anh này hở?"

"Dám thế, dám thế lắm."

"Bao nhiêu năm rồi mà chỉ có mỗi anh này đến đây, cho tui xem với."

Tiếng nói chuyện trong phòng im bặt, Cung Tuấn nhấp trà, nét mặt chàng khuất sau làn khói trà vấn vít. CungTuệ lúng túng, tằng hắng một tiếng rồi hô: "Đứa nào ngoài đấy, vào đây cả đi!"

"Chết chửa, lộ rồi!"

Giây lát sau, bốn năm đứa trẻ con lũn cũn vào phòng. Trong đám ấy lớn nhất mới mười tuổi, nhỏ thì chỉ cỡ sáu bảy tuổi. Cả lũ đều mặc áo quần đen, đội ngọc quan.

Nhị công tử CungTự thấy mấy đứa trẻ thì xây xẩm mặt mày, giải thích với Chu Tử Thư: "Để Đường công tử chê cười rồi, lũ nhóc này là em họ ta. Có lẽ chúng thấy trong nhà có khách nên hiếu kỳ, chạy đến đây ngó nghiêng chút thôi." Nói rồi, cậu ta nơm nớp liếc ông anh họ cả.

Cung Tuấn vẫn bình thản uống trà như không.

Lũ trẻ con thấy không bị mắng thì cũng lớn gan hơn. Đứa bé nhất trong hội mở to đôi mắt đen láy hột nhãn, ngó Chu Tử Thư không chớp mắt. Chu Tử Thư cũng không hiểu sao mình lại được chú ý đến thế. Lúc này, Vương

Tuấn mới nhẹ nhàng đặt chung trà xuống, bảo: "Ban ngày vừa lên chùa Kê Minh, về nhà không chịu nghỉ ngơi, chắc là không mệt nhỉ. Đã thế thì tất cả về phòng, làm thêm một lần bài tập tiên sinh giao."

Lũ trẻ há hốc mồm. Thế thì có mà chết à? Tụi nó trộm liếc Cung Tuấn, nhưng trông cái vẻ hổ dữ mỉm cười4 của anh họ cả thì chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt, khổ lắm mà chẳng thể nói ra. Bầy trẻ ủ ê cụp đuôi rời khỏi phòng.

[4] Thành ngữ chỉ người ngoài mặt thì lành nhưng trong bụng ghê gớm. Giống như miệng phật tâm xà, hay bụng chua miệng ngọt.

Cung Tuấn thở dài: "Em thơ bướng bỉnh, khiến tiểu sư đệ chê cười."

Chu Tử Thư: "Đâu có, Tử Phong sư huynh cả nghĩ rồi."

Nhà họ Cungnghe hai anh em nói chuyện kiểu ấy lại nhấm nháy với nhau. Nhị công tử CungTự cũng tò mò săm soi Chu Tử Thư, như thể cậu ta muốn soi xem rốt cuộc nhân vật này là người thế nào mới có thể sống chung hài hòa với CungTử Phong mà không bị ông anh họ mình ăn tươi nuốt sống.

Uống trà xong, Cung Tuấn giữ Chu Tử Thư qua đêm ở phủ, Chu Tử Thư không từ chối.

Rời khỏi đại sảnh, Chu Tử Thư lơ đãng liếc nhìn về phía nhà sau. Trong nhà có giọng nữ thì thầm: "Úi, hình như cậu ấy phát hiện ra chúng ta rồi."

Chu Tử Thư: "..."

Sao người nhà họ Cungkì quặc thế nhỉ?

Suy nghĩ của nhà giàu đúng là khó hiểu!

Chu Tử Thư đến nơi ở được chuẩn bị riêng cho mình, rửa sơ sơ mặt mũi rồi đi ngủ. Nữ giới và những người khác ở tách riêng phía hậu viện, còn Chu Tử Thư, Cung Tuấn và những công tử chưa lập gia đình trong họ Cungthì ở tiền viện.

Không thể phủ nhận, khu nhà dành cho khách trong dinh thự họ Cungvô cùng xinh xắn, có hồ nước với đá trang trí, chỗ nào trông cũng thật mê li.

Suốt cả ngày, Chu Tử Thư trốn từ Cô Tô đến Kim Lăng, giờ đã mệt rã rời. Vừa đặt lưng là cậu ngủ thiếp đi.

Đến nửa đêm, Chu Tử Thư giật mình tỉnh giấc, trán đẫm mồ hôi.

Ngoài phòng có những tiếng động mơ hồ, nghe thật lạ lùng, thật yếu ớt, len lỏi vào tâm can.

Chu Tử Thư đẩy cửa sổ. Đêm sâu hun hút, tuyết lông ngỗng trắng xóa bầu trời. Tuyết rơi xuống hồ nước trong sân, lặng lẽ tan chảy.

Trái tim cậu thắt lại, kí ức ba năm trước bỗng dội về. Vào một ngày đông tuyết lớn giống thế này, cậu cắm đầu chạy dưới mưa tuyết, điên cuồng đuổi theo Lương Tụng, nhưng Lương Tụng quay lưng về phía cậu, lững thững bước vào giữa trận tuyết mịt mùng... để rồi tan biến, chỉ lưu lại cho cậu một bóng lưng quả quyết, không bao giờ ngoái đầu.

Chu Tử Thư ngơ ngác đứng trước cửa sổ, ánh mắt bần thần xa xôi. Mãi sau khi cậu đưa tay lên chùi má, mới phát hiện mặt mình nhòe nhoẹt nước, lạnh căm.

Mặc quần áo vào, Chu Tử Thư ra khỏi phòng, xòe ô bước vào trong sân.

Dưới trận mưa tuyết trắng trời, Chu Tử Thư giương ô, thả bộ một vòng quanh hồ nước. Cậu rẽ vào một rừng mai, đi mải miết rồi lạc đường lúc nào không hay. Chu Tử Thư nghĩ thầm, gay go rồi, giờ đã quá nửa đêm, cậu vừa không biết đường ra, vừa không thể chờ sáng hôm sau mọi người thức dậy tìm mình được, thế thì chết rét mất.

Biết thế này thì đã chẳng đi dạo lung tung.

Cậu lang thang thêm một lúc, chợt nghe vang tiếng thở dài sau lưng: "Không lạnh à?"

Chu Tử Thư kinh ngạc ngoái lại, chưa kịp thấy rõ mặt CungTử Phong thì một tấm áo khoác lông dày sụ đã choàng lên vai cậu. Nhiệt độ cơ thể ấm áp và mùi hương thân thuộc xua tan đi giá lạnh trên người, Chu Tử Thư ngẩn ngơ, ngẩng lên nhìn Cung Tuấn, sẽ sàng gọi một tiếng: "Sư huynh..." Giọng nói pha lẫn chút rụt rè vì biết mình mới mắc lỗi.

"Đệ cũng biết sai rồi hử?"

Chu Tử Thư dụi mũi. Hơn nửa đêm không ngủ lại đi lung tung trong nhà người ta, đúng là chẳng có phép tắc gì cả.

"Sao sư huynh cũng ở đây?"

"Sao đệ lại ở đây?"

Chu Tử Thư: "Đệ không ngủ được. Cung Tuấn: "Ừ, ta cũng mất ngủ."

Chu Tử Thư: "..."

CungTử Phong mà nói thì một dấu chấm câu cũng không thể tin!

Cung Tuấn: "Chỗ này gần phòng ta, tuyết lớn lắm, về đó tránh tuyết đã."

Chu Tử Thư giờ mới phát hiện sau khi nhường áo cho mình, tay Cung Tuấn bị lạnh đỏ cả lên. Môi cậu mấp máy, nhưng không biết nói sao. Trong đêm Tuấng tuyết trắng, CungTử Phong mặc áo đen, vẻ anh tuấn pha chút cao ngạo ung dung. Bỗng Chu Tử Thư nhận ra chàng đang nhìn mình chờ

đợi. Cung Tuấn hỏi rất nhẹ nhàng: "Tiểu sư đệ?"

"Vâng."

||

Sư huynh có vẻ nhạy cảm với hai chữ "Cảnh Tắc". Lần trước thì lườm Tô khẩu nghiệp, hôm nay thì dằn mặt cả chú Tư. Cháu dâu của các chú ngoan đáo để!

Chú thích

Mình đã tra cứu lại thì dòng họ Lang Gia Cungthị có thật, xuất thân từ quận Lang Gia (còn có phiên âm là Lang Tà) tỉnh Sơn Đông. Dòng họ này hưng thịnh nhất vào thời Tấn rồi sau đó suy bại nên trong truyện chỉ là hư cấu thôi.

Ánh nắng chiếu vào suối tạo nên suối hồng (đỏ). Hồng tuyền, thúy bích (núi xanh) là những cảnh thiên nhiên đẹp hùng vĩ. Mình từng giới thiệu kiến trúc vườn trong văn hóa Á Đông chuộng dùng hồ nước, thác nước, giả sơn để mô phỏng cảnh thiên nhiên. Nên có thể hiểu cảnh vườn trong nhà họ Cungcũng nguy nga tráng lệ như thiên nhiên thực thụ. Cầu thang đỏ (đan thê) còn ám chỉ con đường làm quan, hình ảnh cây xanh mình chưa hiểu rõ lắm, nhưng có thể câu thơ này mô tả dòng dõi khoa bảng, quan lại kéo dài.

[3] Tôm sông nấu với đậu xanh, trứng, chiên với mỡ vịt. Món nổi tiếng của Kim Lăng.

Ảnh: Baidu

Gốc: Đứa câm ăn hoàng liên. Tương đương với "ngậm bồ hòn làm ngọt" nhưng mình đổi qua ngậm bồ hòn cho khớp câu.

------oOo------

Chương 69

Nguồn: EbookTruyen.Net

Đồng khâm cộng chẩm

Từ rừng mai đi dọc theo hồ nước, khoảng hơn mười bước nữa thì đường lối thoáng đãng, hai người đã vào đến khoảnh sân nơi Cung Tuấn ở.

Cung Tuấn ngụ ở góc Tây yên ắng nhất trong dinh thự họ Vương, nơi có rừng trúc êm ả. Từ rừng trúc, phóng mắt ra bên ngoài có thể thấy bờ Tần Hoài tĩnh mịch mờ khói sương. Tuyết rơi càng lúc càng dày trong lúc họ đi, vào đến sân nhà Cung Tuấn thì tuyết đã phủ trắng bờ vai hai sư huynh đệ.

Chẳng ô nào che nổi khi tuyết tạt liên miên từ bốn phía, tuyết bám đầy trên mái tóc Chu Tử Thư và cả mái tóc Cung Tuấn.

Hai chàng trai trẻ "tóc bạc phơ" khép ô chui vào phòng, hơi ấm lan tỏa trong khoảnh khắc. Chậu than hồng đang cháy giữa nhà át đi khí lạnh trên người Chu Tử Thư. Đêm khuya rồi, nước trà trong ấm nguội ngắt. Cung Tuấn đặt ấm lên tấm lưới sắt mỏng kê trên chậu than để hâm nóng lại.

"Trễ quá, người hầu ngủ hết rồi. Tiểu sư đệ, mình đun chút trà nóng uống cho ấm người nhé."

Chu Tử Thư nghĩ thầm: Người hầu đã ngủ hết, sao huynh còn thức làm chi?

Nhưng cậu không hỏi ra miệng mà ngoan ngoãn nhận chén trà nóng Cung Tuấn đưa cho. Cậu hớp ngụm trà, cả người khoan khoái tức thì.

Chu Tử Thư ngồi trên đệm mềm, tay ôm cái chén, dè dặt ngó nghiêng căn phòng.

Đây là buồng ngủ của Cung Tuấn.

Hồi chiều khi Chu Tử Thư vào nhà này, cậu chỉ ngồi chơi ở thư phòng Cung Tuấn chứ không ghé buồng ngủ. Vào đây rồi, Chu Tử Thư mới thấy phòng ngủ của Cung Tuấn bày biện rất khiêm tốn, chỉ kê một chiếc giường la hán và thêm cái giá đặt mấy chậu hoa dại không rõ tên. Trên tường treo ba bức họa vẽ tuế hàn tam hữu1 – tức tùng, trúc, mai, lạc khoản đề CungTử Phong.

[1] Ba người bạn trong giá rét. Đây là một mô típ trong tranh cổ, ba loài cây đều đại diện cho người quân tử, và chúng xanh tươi ngay cả giữa mùa đông

Căn phòng ngủ này được bài trí hết sức nhã nhặn và mộc mạc. Chu Tử Thư không biết phòng ngủ của Cung Tuấn ở phủ Thượng thư trên Thịnh Kinh có đơn giản vậy không, nhưng cậu nghĩ rằng: CungTử Phong tâm tư sâu kín, xưa nay luôn khó đoán. Nếu thư phòng của chàng đã là chỗ xa xỉ và cao nhã, trưng bày rất nhiều đồ cổ, tranh, thư pháp, thì rất có thể chàng thích buồng ngủ của mình giản tiện hơn một chút.

Chu Tử Thư trộm nhìn mấy lần, Cung Tuấn hỏi: "Sao hôm nay lại đến Kim Lăng thế?"

Chu Tử Thư trầm ngâm giây lát, không muốn nói ra chuyện mình trốn dạm ngõ mới tới đây. Cậu bảo: "Sư huynh cũng biết rồi đấy, đệ về Cô Tô mừng năm mới, vừa hay có chút thì giờ rảnh rỗi nên nảy ra ý định ghé Kim Lăng chơi. Vì có mối buôn bán với họ Trịnh ở Kim Lăng, đệ đã đến Cẩm Tú Các một chuyến, rồi tình cờ lại thấy bức thư pháp lưu niệm của sư huynh trong cửa hàng. Khói trùm nước lạnh, Tuấng lồng cát... Đệ rất ngạc nhiên khi biết đích thân sư huynh đã viết lại câu thơ ấy."

Nói đến chuyện này, Chu Tử Thư xúc động lắm. Cậu không ngờ mình và Cung Tuấn còn có mối duyên phận như thế.

Thế mà Cung Tuấn lại bảo: "Thực ra huynh biết đệ là người sáng tác câu thơ ấy từ lâu rồi."

Chu Tử Thư sửng sốt.

Cung Tuấn: "Chắc đệ đã quên, hôm tiên sinh giới thiệu ta với đệ, ta đã hỏi đệ rằng câu thơ nối tiếp câu 'khói trùm nước lạnh, Tuấng lồng cát' là câu gì."

Chu Tử Thư bừng tỉnh: "Đệ chỉ nghĩ sư huynh là người Kim Lăng, đi ngang qua Cẩm Tú Các nên biết câu thơ này chứ chẳng ngờ có duyên do như thế!"

Cung Tuấn vén tay áo nhấc cái ấm lên: "Chén trà."

Chu Tử Thư chẳng chần chừ, ngoan ngoãn chìa chén ra để Cung Tuấn rót cho mình.

Chu Tử Thư: "Sư huynh có hay về Kim Lăng ăn Tết không? Đệ nhớ năm ngoái huynh không về."

Cung Tuấn khoan thai uống trà: "Ta ít khi về, thỉnh thoảng được một hai lần."

"Bao giờ huynh trở lại Thịnh Kinh?"

"Ngày mai."

Chu Tử Thư ngỡ ngàng: "Nhanh thế cơ ạ?"

Cung Tuấn mỉm cười: "Đệ sang muộn một ngày thôi là ta không còn ở Kim Lăng rồi. Bộ Hộ nhiều việc lắm, tuy nói các quan được nghỉ đến mười bảy tháng Giêng nhưng ta vẫn phải về sớm."

"Thế thì khéo thật."

Chu Tử Thư đẩy cửa sổ ra nhìn trời tuyết bên ngoài. Tuyết càng lúc càng dày, trút xuống lả tả như lông ngỗng. Vạn vật trắng xóa trong tầm mắt. Cậu không có cách nào quay về, chỉ đành trở vào nhà tiếp tục chờ đợi. Chu Tử Thư thở dài: "Nếu biết trước, đệ đã không ra ngoài đi dạo lung tung giữa đêm khuya, may mà sư huynh còn bắt gặp."

Cung Tuấn bỗng bảo: "Tâm trạng tiểu sư đệ hôm nay có vẻ tốt nhỉ?" Chu Tử Thư ngẩng đầu.

Cung Tuấn mỉm cười: "Hôm nay đệ nói chuyện nhiều hơn ngày thường."

Chu Tử Thư nhíu mày, suy ngẫm kĩ càng lời Cung Tuấn nói, cũng nhận ra đêm nay mình quả thật hơi khác.

Tối nay cậu gặp ác mộng, tỉnh dậy không nhớ nổi mình đã mơ gì mà tưởng như đứt từng khúc ruột. Ra mở cửa sổ lại thấy ngoài trời tuyết lớn, khiến cậu nhớ lại cách đây ba năm, Lương Tụng cũng ra đi trong một cơn mưa tuyết mịt mùng giống vậy. Cõi lòng trống trải đơn côi, không tài nào vỗ giấc, Chu Tử Thư đành ra vườn tản bộ cho khuây khỏa. Sau đó, cậu tình cờ gặp Cung Tuấn.

Ban đầu cậu cảm thấy lạc lõng, bức bối không để đâu cho hết, nhưng sau khi cùng Cung Tuấn đến gian nhà này, uống trà nói chuyện một hồi, nỗi bi thương trong lòng đã dần dần nguôi ngoai.

Có lẽ nào Cung Tuấn biết cậu không vui, nên mới cố ý dẫn cậu về đây để gỡ mối tơ vò?

Chu Tử Thư bối rối, ánh mắt nhìn Cung Tuấn cũng thay đổi theo, cậu chân thành nói: "Đạ tạ sư huynh."

Cung Tuấn: "...?"

Lần đầu tiên bắt trượt tâm tình sư đệ, Cung Tuấn có chút tư lự. Chàng bảo: "Ta không biết đệ hiểu lầm chỗ nào, nhưng Cảnh Tắc này, chắc là phải lâu nữa tuyết mới tạnh đấy."

Hai người tới bên cửa sổ, đẩy cánh cửa ra quan sát, quả nhiên, ngoài sân tuyết sắp dày quá mắt cá chân. Nếu muốn về, Chu Tử Thư dĩ nhiên không đi một mình được mà phải có Cung Tuấn dẫn đường cho cậu. Nhưng tuyết lớn thế, cậu đội tuyết đã đành, sao nỡ phiền Cung Tuấn tự mình đưa về đây?

Cung Tuấn khuyên: "Chi bằng đệ hãy ở lại đây nghỉ ngơi một đêm."

Cũng chẳng còn cách nào khác, Chu Tử Thư đành nói: "Vậy xin quấy rầy sư huynh."

Cung Tuấn nghe thế, ánh mắt cũng trở nên sâu xa, nhưng chàng không nói gì cả.

Đã đến giờ Tý, hai người cởi quần áo, chỉ chừa lại lần áo đơn mỏng manh để lên giường đi ngủ. Căn phòng vô cùng ấm áp, đắp chăn lên không quá nóng. Nếu như đang ở nhà, Diêu đại nương sẽ nhét một túi nước nóng vào ổ chăn trước khi cậu đi ngủ. Tuy ở đây không có túi nước nóng, nhưng phòng đủ ấm nên cũng không hề gì. Chỉ một lát sau Chu Tử Thư đã thả lỏng người.

Giường rất rộng, đủ cho hai người đàn ông cùng nằm mà không chật chội hoặc đụng chạm đến nhau.

Chu Tử Thư nhắm mắt lại. Một khắc sau, cậu vẫn không thấy buồn ngủ chút nào. Nghe tiếng hít thở đều đặn của Cung Tuấn, Chu Tử Thư biết chàng đã say giấc nồng, song về phần mình, cậu không tài nào đi vào giấc ngủ. Trằn trọc chốc lát, một giọng nói êm ái cất lên: "Tiểu sư đệ không ngủ được à?"

Chu Tử Thư kinh ngạc: "Sư huynh còn thức đấy ư?"

"Ừ."

"Đệ cứ tưởng huynh đang ngủ."

Nếu đã mất ngủ thì nói chuyện thôi.

Chu Tử Thư kể lại những chuyện trái khoáy mình gặp phải khi soạn tấu chương ở điện Cần Chính cho Triệu Phụ. Theo lý thuyết thì quan viên không được tiết lộ nội dung tấu chương, nhưng hai vị quan trong phòng này chẳng những biết nhau như lòng bàn tay, mà còn là hai quan lớn được nhà vua hết lòng tin cậy.

Chu Tử Thư lựa một số chuyện không ảnh hưởng đến toàn cục để nói, tỷ như chuyện hai tháng trước, vào dịp sinh nhật Triệu Phụ, có một quan địa phương viết tấu chương suốt ba tháng trời, hi vọng được đến Thịnh Kinh đúng vào dịp mừng sinh nhật Triệu Phụ, Triệu Phụ chẳng ngại phiền, phê sổ mắng xéo kẻ ấy, bảo y kiếm chỗ nào mát mẻ mà chờ. Viên quan này cứ như thể không hiểu ý, vẫn viết tấu sớ đều đặn dâng lên để tỏ lòng trung. Cung Tuấn hỏi: "Ở điện Cần Chính có thân với đồng liêu nào không?"

Chu Tử Thư nghĩ ngợi một lát, nói: "Người đệ thân nhất chẳng phải sư huynh sao?"

Cảnh giới tối cao của nịnh nọt ấy là nịnh mà như không nịnh, nhịp nhàng êm ru.

Riêng ngón nghề này thì Đường đại nhân quá am hiểu rồi, Cổ phủ doãn phủ Cô Tô mà đọ tài thì chỉ còn nước phục sát đất.

Cung Tuấn im im một hồi, bất chợt cúi đầu bật cười.

Chu Tử Thư: "???" Nịnh lố rồi sao? Có lí nào lại như vậy?

Bỗng, Chu Tử Thư bất cẩn chạm chân vào một thứ gì đó nong nóng. Cung Tuấn ngừng cười, Chu Tử Thư cũng ngây ngẩn. Theo bản năng, cậu định rút chân lại, cậu biết mình chạm phải chân Cung Tuấn. Nhưng Cung Tuấn lại nói: "Tự nhiên, huynh nghĩ đến một câu."

Chu Tử Thư: "Câu gì thế?"

"Để túc nhi miên2. Tiểu sư đệ, đệ gác lên chân ta, chúng mình cùng đi ngủ, chính là gác chân lên nhau mà ngủ đấy còn gì?"

[2] ví tình cảm sâu đậm. Xuất xứ từ Tam Quốc, đoạn Chu Du mời TưởngCán là bạn học cũ nằm chung một ghế, gác chân lên nhau mà ngủ.

Chu Tử Thư dở khóc dở cười. Cậu nghĩ một lát, bèn co đầu gối đụng vào đầu gối Cung Tuấn. Cung Tuấn ngẩn người, chỉ nghe Chu Tử Thư bắt chước điệu bộ của chàng, nói: "Tự nhiên, đệ nghĩ đến một câu: xúc tất trường đàm3. Sư huynh với đệ gối kề gối, mình nói chuyện thâu đêm với nhau, chẳng kề gối tâm sự đấy thì gì?"

[3] đầu gối sát nhau, tả bạn bè tâm sự thân thiết

Cung Tuấn cười: "Giờ huynh lại nghĩ đến câu, đồng sàng dị mộng. Tiểu sư đệ ngủ cùng giường với ta, nhưng thể nào cũng không mơ chung một giấc, chính là chung giường khác mộng chứ chẳng sai."

Chu Tử Thư thầm nghĩ: Huynh chê ta chẳng đồng lòng với huynh, muốn mỉa mai ta chứ gì?

Chu Tử Thư sao có thể để quả núi dựa lưng bự nhất của mình nói thế được. Cậu buột miệng: "Sư huynh sai rồi, đệ thấy rõ ràng là đồng khâm cộng chẩm cơ. Ta với huynh đắp chung một chăn, ngủ chung một gối, chẳng phải chung chăn sẻ gối ấy thì gì?"

Cậu nói xong câu ấy, cả phòng lặng im như tờ, Cung Tuấn không trả lời nữa.

Chu Tử Thư sững người, giờ mới vỡ lẽ là mình lỡ lời, nhưng nhất thời chẳng biết mình nói sai chỗ nào. Rõ ràng không khí giữa cả hai đang hết sức hòa hợp, sao tự dưng lại thành thế này chứ?

Chu Tử Thư ngước mắt, cẩn thận ngó Cung Tuấn.

Có lẽ là mắt đã quen với bóng tối, khi ánh Tuấng giao hòa ánh tuyết rót vào phòng qua lớp giấy cửa sổ mỏng tang, Chu Tử Thư thấy rõ đôi mắt đen sẫm của Cung Tuấn đang nhìn mình. Tầm mắt quyện vào nhau, Chu Tử Thư mấp máy môi, không hiểu sao thấy họng mình nghẹn chát.

Phải rất lâu sau, cậu mới nghe Cung Tuấn thở dài khe khẽ: "Câu chung chăn sẻ gối dùng chưa chính xác rồi. Truyện Thái Bình Quảng viết, Phan Chương và CungTrọng Tiên mới gặp đã phải lòng nhau, tình như phu phụ, liền chung chăn sẻ gối, quấn quýt không rời."

Đầu Chu Tử Thư ong ong, cậu ngây ra như phỗng, ngập ngừng muốn nói mà không thốt nổi chữ nào.

Giọng Cung Tuấn vẫn đều đều thong thả: "Tình như chồng vợ có phải để chỉ ta với tiểu sư đệ không? Phan Chương và CungTrọng Tiên đều là nam giới, là tình Long Dương đấy. Họ là như vậy... nên, Cảnh Tắc này, có phải đệ muốn cắt tay áo với ta không?"

Chu Tử Thư: "..."

Tâm tư Chu Tử Thư bùng nổ, cậu vừa hổ thẹn lại vừa tức tối. Cậu giận mình có trí nhớ siêu phàm hẳn hoi mà lại lỡ miệng nói ra câu thành ngữ này! Bao nhiêu thành ngữ chẳng dùng, tại sao lại nhắc đến chung chăn sẻ gối? Giờ thì hay chưa, bị CungTử Phong vặn hỏi cho cứng họng, giải thích thế nào cũng không xong.

Hồi lâu sau, Chu Tử Thư bèn trùm chăn kín đầu, buồn bực nói: "Đệ chưa cập quan, hẵng còn con nít nên đọc sách không kĩ càng. Sư huynh đừng cười nhạo đệ."

"Con nít à?" Cung Tuấn bật cười dịu dàng.

Chu Tử Thư: "..."

Cung Tuấn không nói nữa.

Trong lúc ấy, Chu Tử Thư xấu hổ chết đi được, thế mà lại ngủ lịm đi.

Sáng sớm hôm sau, Chu Tử Thư tỉnh lại thì thấy Cung Tuấn vẫn còn say giấc.

Đúng là hiếm có khó tìm cậu mà lại dậy sớm hơn CungTử Phong, được thấy CungTử Phong ngủ nướng hẳn hoi!

Chu Tử Thư rón rén xuống giường, lẹ tay lẹ chân mặc quần áo vào. Tuyết đã tạnh, trời đã sáng sủa, dù không có Cung Tuấn dẫn đường cậu cũng tìm về khu nhà khách được. Việc này chớ nên nấn ná, Chu Tử Thư khẽ khàng đẩy cửa chính chui ra khỏi phòng. Vừa mới ra đến cửa, quay đầu lại, đã thấy một người hầu bưng chậu nước tới.

Người hầu đi đến cửa viện thì thấy Chu Tử Thư từ trong nhà đi ra, anh ta hoảng hốt, mắt trợn ngược cả lên, dáo dác nhìn quanh cho chắc mình không đi nhầm chỗ, nhưng đây đúng là chỗ ở của đại công tử mà.

Chu Tử Thư trông vẻ mặt khiếp đảm của anh hầu thì nhíu mày, cứ thấy là lạ thế nào ấy. Cậu bước tới hỏi: "Xin hỏi, ngươi có biết đi đường nào mới về được khu nhà ta ở không?"

Người hầu cuống quýt chỉ đường cho Chu Tử Thư.

Chu Tử Thư gật đầu nói cảm ơn rồi đi về hướng ấy.

Người hầu bưng chậu nước, tiến thoái lưỡng nan, không biết bây giờ mình nên vào nhà hay chạy sang xin chỉ thị của Tam lão gia – người phụ trách mọi sự trong phủ. Đột nhiên anh ta nhận ra chỗ bất thường, dáng vẻ Đường công tử lúc ra khỏi phòng rất là nhanh nhẹn, bước đi khoan thai, không giống như là... đã phát sinh chuyện ấy. Có lí nào, đại công tử nhà mình mới là... Người hầu rùng mình lần thứ hai.

Đúng lúc ấy, cửa phòng bật mở, Cung Tuấn trong bộ trang phục đen tuyền bước ra nói: "Vào đi." Người hầu: "Vâng."

Cung Tuấn súc miệng, rửa mặt, thong thả lau tay bằng nước nóng. Đoạn chàng hỏi anh hầu: "Sáng sớm hôm nay ngươi có thấy gì không?"

Người hầu cung kính thưa: "Bẩm công tử, tiểu nhân thấy..." Cung Tuấn hiền từ nhìn anh ta, ánh mắt ngậm cười.

Anh hầu cứng người, từ từ nói: "Tiểu nhân chẳng thấy gì cả, cũng không biết đại công tử nói gì ạ..."

Cung Tuấn thở dài một hơi: "Đi thôi, lên tiền sảnh."

Dùng bữa sáng xong, Chu Tử Thư bái biệt Cung Tuấn, dẫn thư đồng rời khỏi Lang Gia Cungthị, nói thế nào cũng không nán lại thêm. Chiều nay Cung Tuấn phải về Thịnh Kinh rồi, quả thực cũng không tiện giữ cậu lại.

Tiễn Chu Tử Thư đi, trông theo bóng lưng cậu xa dần, Tứ lão gia CungTuệ chỉ tay bảo: "Y như chạy nạn ý nhỉ."

Cung Tuấn thờ ơ liếc ông: "Sao tự dưng Tứ thúc thúc lại nói thế?"

CungTuệ bảo: "Ta nghe nói lúc người hầu đến biệt viện tặng quà cho Đường công tử thì phát hiện phòng chẳng có ai, ngay cả thư đồng cũng không biết cậu ấy ở chỗ nào. Tử Phong, con có biết cậu ta đi đâu không?"

Cung Tuấn cười nhẹ tênh, lắc đầu, dường như đang nhấm nháp cảm giác bị bắt bài hiếm hoi.

CungTuệ hỏi: "Thế là cậu bé ấy hả?" Biểu cảm của ông hết sức nghiêm túc, không hề có ý đùa cợt.

Cung Tuấn dừng bước, nhíu mày ngạc nhiên hỏi CungTuệ: "Là cái gì cơ ạ?"

"Con hiểu ý ta mà."

"Thế thì chắc Tứ thúc thúc vẫn nhớ, cách đây mười năm con đã nói rồi, con chưa bao giờ nghĩ sẽ có ngày con gặp được người đó cả. Bấy lâu nay con vẫn chuẩn bị sẵn sàng để sống cô độc cả quãng đời còn lại. Thế gian này có hàng nghìn, hàng vạn người tốt, con chỉ cần một người, nhưng chưa chắc người đó đã cần con. Là em ấy, hay không phải em ấy thì có khác gì. Em ấy và con không chung đường chung lối, con cũng không phải là người xứng đôi với em."

CungTử Phong nói một tràng dài rồi thong dong phất tay áo rời đi, để lại Tứ lão gia nhà họ Cungchoáng váng đứng ngây ra như phỗng, không nói nên lời.

Hồi lâu sau, CungTuệ mới định thần, híp mắt cười khoái trá: "Vớ va vớ vẩn. Từ cái lúc bé tí đến giờ, có cái gì mi muốn mà không chiếm được đâu?"

Đầu giờ chiều, Cung Tuấn đi thuyền lên phương Bắc, trở về Thịnh Kinh.

Mấy ngày sau, Chu Tử Thư từ biệt người thân và bạn bè ở Cô Tô, cũng hồi kinh theo lối ấy. Vừa cập bến Thịnh Kinh, cậu đã tìm Diêu Tam, hỏi: "Chuyện xưởng ngọc lưu ly, chuẩn bị đến đâu rồi?"

||

Nghe sư huynh nói thấy chua chát thế nào. Sư huynh cũng muốn được yêu thương lắm ấy chứ T^T

Dưới là poster mặc áo đen làm dâu họ Cungbackground chim én và thắng cảnh chùa Kê Minh ở Nam Kinh chương trước quên up ảnh. Chú thích

Lược dịch theo Chuyện Phan Chương trên Chinese Text Project:

Phan Chương có phong tư tài mạo hiếm có, người đương thời vừa ghen tị lại vừa ngưỡng mộ. Nước Sở có chàng CungTrọng Tiên, nghe danh thơm bèn tìm đến để kết bạn. Hai người vừa gặp đã yêu, tình như phu phụ, liền chung chăn sẻ gối, quấn quýt không rời. Về sau cùng mất đi, người nhà thương tiếc, bèn hợp táng ở núi La Phù. Chôn cất xong thì trên mộ hai người mọc một thân cây, cành lá cuốn lấy nhau. Người đương thời lấy làm lạ, đặt tên là cây Cộng Chẩm.

Có thể bạn chưa biết: Cắt tay áo (đoạn tụ) là tích về tình yêu đồng giới giữa Hán Ai Đế và Đổng Hiền. Đổng Hiền gối lên tay áo vua ngủ, vua muốn quay người nhưng sợ đánh thức Đổng Hiền, bèn cắt tay áo đi. Về sau cụm từ này dùng để chỉ tình yêu đồng tính nam. Tương tự, tình Long Dương cũng là tích về tình yêu đồng giới của Long Dương quân, một nam sủng của An Ly Cungnước Ngụy thời Chiến quốc, mình đã từng chú thích.

------oOo------

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#123