Hon dao bi mat 12-16

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 12: Quả thuỷ lôi

Sóng biển đã nuốt gọn con tàu, thậm chí các cột buồm cũng không thấy đâu. Con nước xoáy đã nhấc bổng con tàu lên, lật nó nằm nghiêng, và cứ thế nó chìm nghỉm. Nước đã ùa vào lỗ thủng thân tàu.

Trên mặt nước, những mảnh tàu vỡ cứ xoáy tròn - nguyên bộ cột buồm và trục buồm dự trữ, các chuồng gà (những tù nhân có cánh này vẫn còn sống), các hòm và thùng phuy đựng công cụ bị áp lực của nước tống qua các cửa rơi xuống biển và dần dần nổi trên mặt nước. Ayrton cùng Pencroff đã lao xuống thuyền, lùa bộ cột buồm còn nguyên vẹn và tất cả những gì nổi trên mặt nước, vào đảo lớn và đảo Cứu thoát.

Cùng với các mảnh tàu vỡ có vài xác người nổi lên. Trong số đó Ayrton nhận ra Bob Harvey. Anh chỉ cho Pencroff thấy tên cướp biển và xúc động nói:

- Tôi cũng từng là người như thế đó, Pencroff ạ!

- Nhưng bây giờ anh hoàn toàn khác rồi, Ayrton đáng yêu của chúng tôi! - chàng thuỷ thủ thốt lên.

Khi những mảnh tàu bị đắm đã được vớt từ dưới nước lên và xếp vào một chỗ an toàn trên bờ, những người ngụ cư quyết định nghỉ ngơi và ăn sáng.

- Đúng là kì diệu, - Pencroff khẳng định - phải thừa nhận là bọn ác ôn đã bị tan xác rất đúng lúc! Lâu đài Đá hoa cương đã trở lên trống trải lắm rồi.

- Thưa ngài Cyrus, ngài biết không, - Harbert bắt đầu nói - có điều này làm cháu hết sức ngạc nhiên: Tại sao vụ nổ không gây ra những phá hoại lớn? Tiếng nổ không mạnh lắm, và chỉ có lớp vỏ bọc tàu bị hư hại thôi. Quả thật, có thể nghĩ rằng chiếc tàu bị đắm đúng hơn là bị nổ.

- Cả tôi cũng thấy thế, Harbert ạ! - viên kĩ sư trả lời - Điều ấy cũng làm tôi rất ngạc nhiên. Hãy đợi đã, sau khi xem xét thân tàu, tất nhiên chúng ta sẽ rõ sự việc như thế nào.

Độ một giờ rưỡi chiều, những người ngụ cư ngồi vào xuồng và bơi ra chỗ tàu đắm. Vừa lúc ấy, thân tàu "Nhanh" bắt đầu nổi lên khỏi mặt nước. Những người ngụ cư đi vòng quanh thân tàu rồi chui vào bên trong tàu, lần tới đằng lái, nơi trước đây là tầng trên. Theo lời của Ayrton thì phải tìm kho thuốc nổ ở chỗ này đây. Cyrus Smith hi vọng rằng nó không bị nổ. Và do đó, vài thùng thuốc súng còn nguyên vẹn, vì thuốc súng thường được bảo quản trong bao bì bằng kim loại, nên chắc chắn nó không bị ướt.

Những giả định của viên kĩ sư đúng hoàn toàn. Trong số rất nhiều đạn đại bác, những người ngụ cư đã phát hiện được khoảng hai chục thùng thuốc súng bọc bằng những lá đồng... Pencroff đã tận mắt nhìn thấy và tìn chắc rằng tàu "Nhanh" bị diệt không phải do kho thuốc tự nổ. Chính phần trên tàu, nơi để thuốc súng lại ít bị hư hại hơn những phần khác.

Mải xem xét tàu, những người ngụ cư không để ý mấy tiếng đồng hồ đã trôi qua và thuỷ triều bắt đầu lên. Đành phải ngưng các công việc lại. Tuy nhiên, chẳng có gì phải sợ sóng cuốn mất sườn tàu ra khơi, vì tàu đã mắc cạn và được giữ chắc chắn bằng tất cả số neo của nó.

Đã năm giờ chiều. Những người ngụ cư trải qua một ngày vất vả. Họ ăn bữa trưa thật ngon miệng, và mặc dù rã rời chân tay, họ vẫn không thể cưỡng lại được sự quyến rũ là tìm hiểu những đồ chứa trong các thùng được tìm thấy trong các hầm tàu "Nhanh".

Phần lớn các thùng đều có quần áo may sẵn, giày dép đủ cỡ, nhiều đến mức thừa dùng cho cả một vùng di dân. Ngoài ra còn có những thùng rượu, thuốc lá, vũ khí, dụng cụ nông nghiệp, đồ dùng cho thợ mộc, thợ nề và thợ rèn, các bao hạt giống gieo trồng đủ loại.

Họ lấy những thứ cần thiết trên tàu mang về đảo. Bây giờ họ mới nhớ là trên đảo còn sáu tên cướp sống sót đang quanh quẩn đâu đó và những vị khách không mời mà đến này rất bất trị. Do đó, họ phải hết sức cẩn thận đề phòng.

Sau tai nạn một tuần, đúng hơn là sau vụ nổ tàu bí ẩn đã cứu sống những người ngụ cư, thậm chí khi nước ròng cũng không thể phát hiện ra dấu vết của tàu "Nhanh". Những mảnh vỡ cuối cùng của nó đã bị cuốn ra khơi, còn hàng thì làm giàu cho các kho tàng của Lâu đài Đá hoa cương.

Song, tình huống tàu bị diệt quá ư đột ngột và lạ lùng vẫn còn là vấn đề bí mật, nếu như ngày 10 tháng mười, trong khi đi dạo trên bờ biển, Nab không tìm thấy mảnh một ống kim loại còn giữ lại dấu vết của vụ nổ. Chiếc ống ấy bị xoắn và vỡ ở hai bên cạnh.

Cyrus Smith chăm chú xem xét ống, sau đó quay sang Pencroff nói:

- Tàu đụng phải cục sắt này nên nó bị chìm. - viên kỹ sư đưa cho Pencroff xem phần còn lại của ống kim loại.

- Đụng phải cái ống nhỏ này ư? - chàng thuỷ thủ thốt lên, thậm chí không che giấu sự nghi hoặc.

- Các bạn! - Cyrus Smith nói với những người ngụ cư - Tôi hi vọng các bạn nhớ rằng, trước khi chìm, chiếc tàu buồm đã bị nhấc bổng lên bởi lực đẩy của cột nước lớn?

- Tất nhiên là nhớ ạ, thưa ngài Cyrus! - Harbert vội đáp lời.

- Các bạn chưa biết cột nước ấy do cái này mà ra. - và viên kỹ sư chìa cho mọi người xem mảnh ống bị hỏng.

- Do cái này ư? - Pencroff hỏi.

- Đúng! Đó là phần còn lại của một quả thuỷ lôi.

- Thuỷ lôi! - những người ngụ cư đồng thanh thốt lên.

- Thế ai đã đặt quả thuỷ lôi ấy? - Pencroff hỏi.

- Tôi chỉ có thể khẳng định một điều là không phải tôi! - Cyrus Smith trả lời - Nhưng sự thật đã rành rành, có ai đó đã đặt quả thuỷ lôi và tự các bạn hình dung được sức công phá của nó.

*

* *

Thế là mọi biến cố được giải thích bởi tiếng nổ của quả thuỷ lôi, Cyrus Smith không thể lầm được. Trong thời kì nội chiến ở Mỹ, ông đã nhiều lần chứng kiến tác dụng của loại vũ khí phá hoại kinh khủng này.

Phải, mọi chuyện đều trở nên rõ ràng, trừ một tình huống. Ở đâu xuất hiện quả thuỷ lôi ấy?

- Các bạn! - Cyrus Smith lên tiếng - Bây giờ khỏi phải nghi ngờ gì nữa, trên đảo có một người bí ẩn nào đó, có thể, cũng như chúng ta, người ấy là nạn nhân của một vụ đắm tàu. Tôi nói điều ấy cốt để cho Ayrton làm quen với những sự kiện huyền bí xảy ra ở đây trong hai năm qua. Ân nhân bí ẩn ấy đã từng nhiều lần cứu giúp chúng ta. Nhưng nhân vật ấy là ai thì tôi không làm sao biết được. Vì những lí do gì ông ta hành động và tại sao ông ta lại tránh chúng ta, điều ấy tôi cũng không thể hiểu nổi. Ayrton chịu ơn người đó với mức độ cũng ngang như tất cả chúng ta. Ân nhân ấy đã cứu tôi thoát khỏi những đợt sóng biển sau khi quả khí cầu bị tai nạn hất tôi xuống biển, cũng lại chính ông ta đã viết lá thư, bỏ vào chai thả xuống eo biển và bằng cách ấy báo cho chúng ta biết tình trạng nguy khốn của Ayrton. Tôi nói thêm rằng, chính ông ta đã kịp thời thả lên mũi Tìm thấy chiếc hòm đựng tất cả những dụng cụ mà chúng ta đặc biệt cần thiết; chính ông ta đã đốt lửa trên đỉnh núi để các bạn có thể về đến đảo, chính ông ta đã bắn con lợn rừng, và viên đạn chì từ súng của ông ấy bắn ra chúng ta đã tìm thấy trên mình con vật bị chúng ta giết; chính ông ta đã đặt quả thuỷ lôi trong eo biển để phá chiếc tàu của bọn hải tặc. Tóm lại, chúng ta chịu ơn con người bí ẩn ấy về tất cả những nghĩa cử cao thượng và ân huệ không giải thích nổi và không sao hiểu được.

- Cyrus thân mến, ngài hoàn toàn có lí! - Gédéon Spilett đáp lời - Vâng, ngài đã nói rất có lí rằng ở đâu đây trên đảo này có một người bí ẩn có sức mạnh hầu như siêu nhân và bấy lâu nay đã giúp ích chúng ta... Có thể là ông ấy bí mật theo dõi chúng ta qua cái giếng của Lâu đài Đá hoa cương và nhờ đó biết được mọi kế hoạch của chúng ta.

Những người có mặt không thể không đồng ý với ý kiến của nhà báo.

- Hoàn toàn đúng! - Cyrus Smith tiếp lời - không ai trong chúng ta nghi ngờ về sự tồn tại của một cư dân bí ẩn trên đảo. Tôi thừa nhận rằng ông ta có những phương tiện mà tạm thời con người chưa biết tới. Đây, lại thêm một điều bí ẩn nữa. Tiếp tục tôn trọng sự ẩn danh của con người độ lượng ấy, hay làm tất cả những gì có thể làm được để tìm ông ta. Tôi muốn biết ý kiến của các bạn về vấn đề này.

- Theo con, thưa ông chủ! - Nab thốt lên - Chúng ta có tìm hay không tìm con người ấy - điều đó không quan trọng. Khi cần tự bản thân ông ta sẽ lộ diện, chúng ta chẳng cần tìm ông ta làm gì.

- Nói rất hay, Nab! - Pencroff khen.

- Tôi hoàn toàn đồng ý với Nab! - Gédéon Spilett bắt đầu - Nhưng đó là cái cớ chưa đủ xác đáng để từ bỏ cuộc tìm kiếm. Chúng ta có tìm thấy hay không tìm thấy thì ít nhất chúng ta phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với ông ta.

- Còn cháu, chú bạn nhỏ, cháu có ý kiến gì không? - viên kỹ sư hỏi Harbert.

- Ôi! - Harbert kêu lên, mắt sáng rực - Cháu muốn được tạ ơn ông ấy đầu tiên là đã cứu ngài, thưa ngài Cyrus, còn sau đó thì cứu tất cả chúng ta!

- Nghĩ khá đấy, em trai bé bỏng ạ! - Pencroff đáp lại - Mọi người biết đó, tôi không có thói tò mò quá đáng, nhưng dẫu sao cũng sẵn sàng chịu mất một con mắt để được nhìn thấy con người kì diệu ấy.

- Còn ý kiến của anh thế nào, Ayrton? - viên kỹ sư hỏi.

- Thưa ngài Smith, tôi không biết nói gì nữa. Ngài đã quyết định điều gì thì mọi việc đều sẽ đúng và tốt cả. Nếu như ngài muốn tôi tham gia vào các cuộc tìm kiếm thì tôi sẽ không chậm trễ đi theo ngài.

- Rất cảm ơn anh, Ayrton. - Cyrus Smith trả lời - nhưng tôi lại muốn nhận được ở anh một câu trả lời thẳng thắn hơn. Anh là một người bạn, anh có đầy đủ quyền hạn như chúng tôi. Vì vậy, anh hãy nói cho chúng tôi biết anh nghĩ gì về việc này?

- Thưa ngài Smith, tôi cho rằng chúng ta có trách nhiệm làm tất cả những gì có thể làm để tìm ra ân nhân bí ẩn của chúng ta. - Ayrton trả lời - Có thể ông ấy đang bị giày vò trong cô đơn. Có thể ông ấy đang đau khổ. Có thể, với sự giúp đỡ của chúng ta, ông ấy sẽ bắt đầu cuộc sống mới. Chính ngài vừa nói rằng tôi là người mắc nợ ông ấy. Đúng là ông ấy, tất nhiên là ông ấy chứ không phải ai khác, đã đến thăm đảo Tabor, phát hiện thấy có một người bất hạnh đang đau khổ và đã báo cho các ngài biết cần phải cứu con người ấy. Nghĩa là, nhờ ơn của ông ấy mà tôi tìm lại được hình hài và diện mạo con người. Tôi sẽ không bao giờ quên được điều đó.

- Thôi được rồi, vậy là đã quyết định xong. - Cyrus Smith nói - Chúng ta sẽ bắt đầu những cuộc tìm kiếm càng nhanh càng tốt. Chúng ta khảo sát toàn bộ đảo, xem xét từng xó xỉnh. Chúng ta lục hết mọi chỗ khuất kín và mong người bạn chưa quen biết ấy tha thứ cho chúng ta về sự khiếm nhã này.

*

* *

Trước khi bắt đầu cuộc hành trình khảo sát đảo, những người ngụ cư quyết định bỏ ra mười ngày làm nốt một số công việc trên cao nguyên Tầm nhìn.

Song, Ayrton phải trở lại khu chăn nuôi, bởi vì gia súc cần được trông nom và săn sóc. Họ quy ước với nhau là anh ta sẽ ở đó vài ngày và trở về Lâu đài Đá hoa cương sau khi cho gia súc thật nhiều thức ăn.

Thế là Ayrton ra đi lúc sáng sớm ngày 9 tháng mười bằng chiếc xe do hai con la kéo, hai giờ sau anh ta đánh điện báo cho mọi người biết ở khu chăn nuôi mọi việc bình thường.

Ngay buổi chiều hôm đó Ayrton nhận được bức điện với yêu cầu mang hai con dê ở bãi chăn nuôi về. Nab muốn luyện cho chúng thích nghi với đồng cỏ của cao nguyên. Nhưng, thật là lạ, trái với mọi khi, Ayrton không tiếp nhận điện. Viên kỹ sư ngạc nhiên. Đúng là lúc ấy Ayrton không có mặt ở khu chăn nuôi, có lẽ anh ta đang trên đường về Lâu đài Đá hoa cương.

Lúc ấy gần một giờ tối, vẫn chưa thấy Ayrton đâu cả. Khi ấy mọi người quyết định gởi bức điện thứ hai và yêu cầu trả lời gấp.

Nhưng chuông ở Lâu đài Đá hoa cương lại im lặng. Những người ngụ cư lo lắng nhìn nhau.

Nhiều ý kiến khác nhau được đưa ra, một số nằng nặc đòi đi ngay, những người khác nói đợi đến sáng mai thì tốt hơn.

Họ đã quyết định đợi đến sáng, nhưng nỗi lo âu của những người ngụ cư cứ tăng lên.

Lúc trời hừng sáng, Cyrus Smith lại cho máy điện báo hoạt động, nhưng vẫn không nhận được tín hiệu trả lời của Ayrton. Ông gọi lần nữa, chuông vẫn im lặng.

- Ra khu chăn nuôi mau! - ông kêu lên.

- Mang theo vũ khí! - Pencroff nói thêm.

Họ để lại Nab ở Lâu đài Đá hoa cương, vì họ thấy không thể bỏ mặc chỗ ở mà không có người trông coi được. Nab tiễn những người ngụ cư đến cuối Glixerin, nâng cầu lên và nép vào sau các gốc cây đợi họ hoặc Ayrton trở về.

Trong trường hợp bọn cướp biển xuất hiện và mưu toan đột nhập cao nguyên Tầm nhìn, anh ta sẽ nổ súng kìm chân chúng, cùng lắm thì anh ta sẽ ẩn náu trong Lâu đài Đá hoa cương và cất thang dây lên - ở trong pháo đài bất khả xâm phạm này anh ta chẳng phải sợ gì hết. Xuống khỏi cao nguyên Tầm nhìn, những người khai khẩn hướng thẳng tới khu chăn nuôi. Họ cầm chắc súng trong tay, sẵn sàng nhả đạn ngay khi có tiếng động khả nghi đầu tiên. Trang bị của họ gồm hai khẩu cacbin và hai khẩu súng săn đã nạp đạn... Tuy nhiên, một lát sau viên kỹ sư phát hiện thấy đường dây điện hơi bị chùng, khi họ đến cột số bảy mươi bốn thì Harbert đi trước bỗng dừng lại và kêu to:

- Dây điện bị cắt đứt!

Những người cùng đi với chú rảo bước nhanh hơn và một lát sau họ đã nhập vào với Harbert.

- Mới bị đứt phải không? - Cyrus Smith hỏi.

- Vâng! - Harbert khẳng định - Còn trụ điện thì bị quật đổ.

- Ra khu chăn nuôi mau! - mọi người đồng thanh kêu to và rảo bước.

Cuối cùng họ đã đến nơi. Mọi người chậm bước để thở lấy hơi và nếu cần thì có thêm sức lực mới xông vào chiến đấu. Súng đã được lên đạn. Mỗi người theo dõi một khu rừng nhất định. Con Top khẽ gầm gừ không báo hiệu điều gì tốt lành.

Từ sau những hàng cây họ đã nhìn thấy hàng rào của khu chăn nuôi. Thoạt trông thì nó còn nguyên vẹn. Cổng vẫn khoá như mọi khi. Đằng sau đó, hoàn toàn im ắng, không nghe tiếng be của dê rừng, tiếng quát tháo nghiêm khắc của Ayrton.

- Ta vào đi! - Cyrus Smith nói.

Viên kỹ sư bước đến chỗ hàng rào, còn các bạn của ông thì đứng cảnh giới cách đó hai mươi bước và sẵn sàng nổ súng.

Cyrus Smith nâng chốt cổng lên và định mở cánh cổng ra, bỗng con Top sủa dữ tợn. Từ sau hàng rào vang lên một phát súng, và đáp lại là một tiếng kêu thương đau.

Harbert đã bị trúng đạn nằm trên đất.

Chương 13 Cái chết của những tên cướp

Sau khi nghe tiếng kêu của Harbert, Pencroff bỏ súng lao đến chỗ chú bé.

- Chúng giết thằng bé rồi! - anh kêu lên - Chúng giết thằng em trai bé bỏng của tôi rồi! Chúng nó giết rồi! Giết rồi!

Cyrus Smith và Gédéon Spilett cũng lao đến chỗ Harbert. Nhà báo áp tai vào ngực chú, hi vọng bắt được nhịp đập con tim.

- Còn sống! - ông kêu lên - Phải đưa chú bé đi...

- Về Lâu đài Đá hoa cương ư? Như thế không được đâu. - viên kỹ sư lên tiếng.

- Vậy thì đưa chú bé vào khu chăn nuôi! - Pencroff kêu lên.

- Đợi chút đã! - Cyrus Smith trả lời.

Và ông lao về bên trái, định vòng qua hàng rào. Tại đây ông giáp mặt một tên cướp, hấn lẩy cò súng, viên đạn trượt qua mũi kỹ sư. Nhưng chưa kịp bắn viên thứ hai thì tên cướp đã ngã lăn ra đất bởi một nhát dao găm cắm vào tim. Cyrus Smith sử dụng gươm đao thành thạo hơn sử dụng súng.

Trong khi đó, Gédéon Spilett và chàng thuỷ thủ nhảy qua rào, xông thẳng vào nhà, nhưng ở đấy vắng tanh. Chẳng mấy chốc, chú Harbert bất hạnh được đặt nằm trên giường của Ayrton. Lát sau, Cyrus Smith vào với họ.

Sang ngày hôm sau, 11 tháng mười một, những người ngụ cư thấy hi vọng chút ít. Harbert đã tỉnh dậy sau cơn ngất kéo dài. Chú đã mở mắt và nhận ra Cyrus Smith, nhà báo và Pencroff đang cúi trên người chú. Thậm chí chú đã nói được vài lời. Mọi chuyện xảy ra chú không nhớ gì hết. Gédéon Spilett kể lại tóm tắt sự việc xảy ra cho chú nghe và năn nỉ chú phải hết sức nằm yên. Bởi vì, mặc dù nguy hiểm đã qua nhưng cần phải làm sao cho vết thương sớm thành sẹo. Tuy vậy, Harbert hầu như đã không cảm thấy đau, còn nước lạnh được đắp vào thường xuyên đã ngăn chặn được quá trình viêm nhiễm. Mủ được trích ra đều đặn, thân nhiệt không tăng nữa, vì vậy họ có thể hi vọng rằng vết thương đáng sợ sẽ khỏi mà không có biến chứng phức tạp gì. Pencroff lần đầu tiên thở phào nhẹ nhõm. Chàng biến thành "cô hộ lí" thật sự, chàng chăm sóc cho thằng bé cưng của mình, y như người mẹ hiền vậy.

Harbert lại thiếp đi, nhưng lần này giấc ngủ của chú thật bình yên.

Ngày 12 tháng mười một, trong lúc Pencroff trực bên giường bệnh nhân, Cyrus Smith và nhà báo đã bàn về tình hình xảy ra và quyết định bắt tay hành động.

Công việc đầu tiên của họ là đi tuần tra toàn bộ khu vực chăn nuôi, nhưng họ không thấy dấu vết gì của Ayrton.

- Chắc Ayrton tội nghiệp đã bị bọn chúng bắt. - Cyrus Smith nói - Nhưng anh ta đâu phải là người chịu buông súng đầu hàng dễ dàng, có lẽ anh ta đã bị chúng giết rồi.

- Vâng, tôi cũng sợ như vậy đó! - nhà báo đáp lại - Hiển nhiên bây giờ Ayrton dù sống hay chết cũng đã ở nơi xa rồi.

- Cho dù thế nào đi nữa, - viên kỹ sư nói - chúng ta cũng cần phải ở lại trại chăn nuôi cho đến khi nào có thể đưa được Harbert về Lâu đài Đá hoa cương.

- Nhỡ đột nhiên sự vắng mặt của chúng ta làm cho Nab lo lắng, không chịu ngồi yên ở Lâu đài Đá hoa cương và quyết định ra đây thì sao?

- Ôi, nếu như đường dây điện báo không bị đứt thì chúng ta báo tin cho chú ấy biết ngay rồi! Nhưng bây giờ không thể thực hiện được việc ấy nữa! Mặt khác, chúng ta không thể để Pencroff và Harbert ở lại đây một mình. Các bạn, tôi sẽ đi về Lâu đài Đá hoa cương báo tin cho Nab.

- Không, sao lại hành động liều lĩnh như thế, ngài Cyrus! - nhà báo kêu lên - Ngài không có quyền liều mạng. Lòng dũng cảm trong trong trường hợp này không giúp gì cho người khác. Bởi vì, quân đê tiện đang theo dõi chúng ta, chúng quẩn quanh đâu đó trong rừng, nếu ngài đi về Lâu đài Đá hoa cương là chúng tôi sẽ phải khóc than không phải cho một mà là cho hai người nữa đó.

- Chẳng lẽ không thể làm gì được để báo tin cho chú ấy biết sao?

Ánh mắt của viên kỹ sư chợt dừng nơi con Top. Trong suốt thời gian họ nói chuyện, con chó trung thành cứ chạy trong phòng với một vẻ lo lắng, như muốn nói rằng: "Thế còn tôi thì sao?"

- Top! - Cyrus Smith kêu to.

Con Top lao về phía chủ.

- Đúng, nên cho con Top đi, - nhà báo đoán được ý nghĩ của viên kỹ sư - Con Top sẽ dễ dàng đi qua nơi mà chúng ta không qua nổi! Nó sẽ mang thư về Lâu đài Đá hoa cương và đem câu trả lời từ đó về đây.

- Đừng để mất phút giây nào nữa! - viên kỹ sư kêu lên - Nhanh lên nào!

Gédéon Spilett nhanh chóng xé một tờ giấy ở cuốn sổ nhỏ dùng để ghi chép và viết mấy dòng:

"Harbert bị thương. Chúng tôi tạm thời ở lại khu chăn nuôi. Hãy cẩn thận. Không được rời Lâu đài Đá hoa cương. Có thấy bọn cướp biển xuất hiện ở ngoại vi Lâu đài không? Gởi trả lời cho con Top mang theo".

Nhà báo gấp thư lại và nhét vào vòng cổ con Top, cố ý để cho một góc tờ giấy ló ra ngoài.

- Top! Con chó bé nhỏ của ta! - viên kỹ sư vuốt ve con Top - Nab! Mày hiểu không Top, Nab! Đi đi nào! Trao lá thư này cho Nab.

Viên kỹ sư ra mở cổng.

- Nab! Top hiểu không, Nab! - ông nhắc lại, chỉ tay về hướng Lâu đài Đá hoa cương.

Con Top lao ra ngoài hàng rào và trong nháy mắt đã biến mất. Lúc ấy là mười giờ...

Những người ngụ cư lo lắng đợi con Top trở về. Gần mười một giờ, Cyrus Smith và nhà báo đứng sẵn chờ đợi mở cổng khi nghe vẳng lại tiếng chó sủa từ xa. Họ biết chắc con Top đã an toàn về đến Lâu đài Đá hoa cương và Nab phải cho nó về lại đây để trao lá thư trả lời của anh ta cho họ.

Họ cứ đứng như vậy chừng mười phút, bỗng có tiếng súng vang lên, sau đó là tiếng sủa dài.

Viên kỹ sư mở toang cổng và nhận thấy cách đó chừng 100 bước có khói thuốc súng, ông bắn về hướng đó.

Hầu như ngay tức khắc con Top lao vụt qua hàng rào khu chăn nuôi và cánh cổng đóng sập ngay lại.

- Top! Top! - viên kỹ sư kêu to, hai tay túm lấy mõm con chó dễ thương.

Trên vòng cổ của con Top có buộc một mảnh thư, Cyrus Smith đọc lướt qua mấy chữ Nab viết nguệch ngoạc:

"Ở ngoại vi Lâu đài Đá hoa cương không có tên cướp biển nào. Con sẽ không bao giờ rời vị trí của mình. Tội nghiệp Harbert".

*

* *

Sức khoẻ của Harbert ngày một khá hơn. Những người ngụ cư bây giờ chỉ mong muốn một điều: Hễ chú bé khoẻ là đưa chú về Lâu đài Đá hoa cương... Bởi vậy họ sốt ruột đợi đến ngày có thể đưa Harbert về nhà và không có biến chứng nào gây nguy hiểm cho sức khoẻ của chú. Họ đã quyết định dù thế nào đi nữa cũng phải thực hiện kế hoạch của mình, mặc dù họ hình dung rất rõ rằng đi qua rừng Jacamar sẽ rất khó khăn.

Trưa 29 tháng mười một, tranh thủ lúc Harbert ngủ, Cyrus Smith, Gédéon Spilett và Pencroff đã phác thảo kế hoạch hành động chống lại bọn cướp biển.

Đã một, hai lần chàng nhà báo ra khỏi khu chăn nuôi và tuần tra quanh hàng rào. Cùng đi có Top, Gédéon Spilett lăm lăm trong tay khẩu súng cacbin sẵn sàng đối phó với bất kì cuộc đụng nào.

Do vậy, Gédéon Spilett liền mạnh dạn đi sâu hơn vào khu rừng rậm chừng một phần tư dặm. Bỗng ông thấy con Top bắt đầu lo lắng.

Con Top lùng sục trong rừng chừng năm phút, còn nhà báo thì thận trọng theo dõi nó. Bỗng con chó lao vào bụi rậm nhỏ và tha trong đó ra một mảnh vải. Đấy là một tấm áo lem luốc, bị rách tơi tả. Gédéon Spilett lập tức mang vật tìm thấy về khu chăn nuôi.

Những người ngụ cư chăm chú xem xét mảnh vải và nhận ra đó là một phần thuộc chiếc áo bludong của Ayrton.

Niềm hi vọng gặp bạn lại nhen lên trong lòng những người ngụ cư. Trước đây họ nghĩ rằng một viên đạn của bọn cướp biển đã bất ngờ giết chết Ayrton, giống như đã bắn Harbert bị thương. Nhưng nếu bọn tội phạm không giết anh ta ngay, mà chúng đưa anh ta đến nơi nào đó trên đảo thì có lẽ bây giờ anh ta đang là tù binh của chúng.

Họ quyết định đưa Harbert về Lâu đài Đá hoa cương và sau đó tiến hành cuộc tìm kiếm Ayrton.

*

* *

... Việc quan trọng bây giờ là sức khoẻ của Harbert. Mười phút sau, chiếc xe được đấy tới sát bức tường thành đá hoa cương. Thang máy được khởi động và chẳng bao lâu Harbert đã nằm trên giường của mình trong Lâu đài Đá hoa cương.

Chú bé sốt li bì, hết cơn nọ đến cơn kia.

- Thuốc chống sốt rét!... - viên kỹ sư nhắc lại - Lấy đâu ra được thứ đó? Ở nơi ta không có vỏ cây quinin, không có sunfat quinin!

Cũng cần nhận xét rằng, sau những cơn sốt Harbert phờ phạc hẳn đi, đầu chú nặng trĩu, mắt tối sầm. Lại thêm một triệu chứng làm cho Gédéon Spilett hoảng sợ là: gan của Harbert bị sưng to quá, và chẳng bao lâu, cơn mê sảng đã tăng lên, chứng tỏ bệnh đã ảnh hưởng đến não.

Tình trạng phức tạp mới ấy khiến Gédéon Spilett xúc động. Ông dẫn viên kỹ sư ra một nơi và nói:

- Đây là sốt rét ác tính!

- Sốt rét ác tính ư? - Cyrus Smith kêu lên - Anh có nhầm không đấy, Spilett? Sốt rét ác tính không thể phát ra ngay như thế được. Vậy là trong cơ thể Harbert phải có mầm bệnh sốt rét từ trước kia rồi.

- Không, tôi không nhầm đâu. - nhà báo nói - Harbert chắc chắn đã bị nhiễm bệnh ấy ở vùng sình lầy này đây. Chúng ta đã chứng kiến cơn sốt rét. Có lẽ sẽ đến cơn thứ hai, mà nếu không kịp phòng ngừa cơn thứ ba thì Harbert sẽ chết mất.

- Thế vỏ cây liễu có thay được vỏ cây quinin không?

- Nó sẽ không giúp gì được trong trường hợp này. - Gédéon Spilett trả lời - Một khi bị sốt rét ác tính mà không cắt được cơn thứ ba thì không tránh khỏi tử vong.

Đến giữa trưa thì cơn sốt rét thứ hai bắt đầu. Bệnh biến chứng thật đáng sợ. Harbert đã cảm thấy mình gần cõi chết. Chú chìa tay về phía Cyrus Smith, Gédéon Spilett, Pencroff với vẻ cầu khẩn. Chú không muốn chết! Thật là một cảnh tượng đau xé lòng. Đành phải đưa Pencroff ra khỏi phòng.

Cơn sốt thứ hai kéo dài suốt năm giờ. Chắc chắn là bệnh nhân không chịu đựng nổi cơn sốt thứ ba.

Khoảng ba giờ sáng, Harbert la hét điên dại và co giật y như đang hấp hối. Nab trực bên giường chú, hoảng hốt chạy bổ sang phòng bên cầu cứu các bạn của anh đang ngồi đó.

Lúc ấy con Top cất tiếng sủa với một vẻ lạ lùng mà thỉnh thoảng người ta vẫn gặp.

Một bóng người lao vào phòng ngủ và kịp đỡ chú bé đang hấp hối đúng lúc trong phòng không có ai trực ban. Trong cơn mê sảng chú suýt lăn từ trên giường xuống sàn nhà. Một lát sau Nab cùng mọi người trở lại phòng với Harbert. Gédéon Spilett cầm tay Harbert, thấy mạch của chú dần dần trở nên đều hơn.

Đã năm giờ sáng. Những tia nắng ban mai lọt vào cánh cửa sổ nhỏ của Lâu đài Đá hoa cương. Một tia nắng rọi trên chiếc bàn nhỏ kê cạnh giường bệnh nhân đang hấp hối.

Và bỗng Pencroff kêu to lên, chỉ vào một cái hộp nhỏ hình thoi không biết tự bao giờ đã xuất hiện trên chiếc bàn con. Trên nắp hộp có hàng chữ: sunfat quinin.

*

* *

Gédéon Spilett chộp lấy cái hộp nhỏ và mở ra. Trong đó có khoảng hai trăm gram chất bột trắng. Nhà báo lấy vài hạt bột mịn ấy bỏ vào mồm. Vị đắng khủng khiếp của nó khẳng định rằng dòng chữ viết trên nắp hộp không nhằm mục đích đánh lừa ai. Thật vậy, đó là chất quý từ vỏ cây quinin, một loại thuốc tốt nhất để đặc trị sốt rét.

Không cần phải suy nghĩ lâu la gì nữa, cần phải cho Harbert uống bột thuốc quinin.

- Cà phê! - Gédéon Spilett yêu cầu.

Ngay lập tức, Nab mang đến một tách cà phê nóng, Gédéon Spilett bỏ vào đó khoảng mười tám gram quinin và cho Harbert uống.

Vẫn còn chưa muộn - cơn sốt rét thứ ba chưa bắt đầu!... Ít nhất bây giờ nó cũng không thể phát ra được nữa.

Mấy giờ sau Harbert ngủ yên giấc hơn.

Trong ngày, cứ cách ba giờ, những người ngụ cư lại cho Harbert uống quinin một lần.

Sang ngày hôm sau, chú thấy khá hơn. Tất nhiên, chú chưa khoẻ hẳn. Ai nấy trong tim đều ấm niềm hi vọng. Và niềm hi vọng đó không phải là hão huyền. Mười ngày sau, 20 tháng mười hai, Harbert bắt đầu bình phục.

Harbert đã 17 tuổi, cơ thể phát triển rắn chắc. Những ngày cuối tháng giêng, chú đã đi dạo quanh cao nguyên Tầm nhìn và khắp bờ biển. Nhiều lần chú đã tắm biển cùng với Pencroff và Nab, và những lần tắm ấy rất có lợi cho chú. Cyrus Smith thấy đã có thể ấn định ngày lên đường đi thám hiểm hòn đảo. Như mọi khi, vào thời gian ấy trong năm, ban đêm trời rất sáng, điều kiện ấy rất thuận lợi cho việc trinh sát mà họ định tiến hành trên toàn đảo, nhằm hai mục đích: Thứ nhất, tiêu diệt bọn cướp biển và tìm cho được Ayrton, nếu anh ta còn sống. Thứ hai, tìm ra con người bí ẩn đã bí mật giúp đỡ cuộc sống của những người ngụ cư...

Họ lên đường vào một ngày đẹp trời.

Sau khi khảo sát cánh rừng ven biển kéo dài từ mũi Rắn đến suối Thác nước.

Chẳng mấy chốc họ đến khu chăn nuôi. Ở đó không có ai. Đội quân nhỏ nhanh chóng băng qua "khu vực nguy hiểm" và dũng cảm tiến sát hàng rào. Chiếc xe kéo cũng dừng lại ở đó. Không một phát súng nào phá tan sự im lặng. Viên kỹ sư, nhà báo, Harbert và Pencroff đến xem cổng có bị khoá trái không.

Hoá ra có một cánh cổng để mở! Cả năm người lại gần cổng. Quả thật, ngay trước mắt họ, trong khung cửa sổ có ánh lửa mờ mờ nhấp nháy. Những người ngụ cư đã lẻn vào trong sân, sẵn sàng vũ khí trong tay. Chiếc xe kéo họ để ngoài hàng rào cho Jup và Top giữ, để cho chắc chắn, họ buộc chúng vào chiếc xe. Lát sau, cả năm người đều đến cạnh ngôi nhà. Sát bên cánh cửa khoá.

Cyrus Smith ra hiệu cho các bạn giữ yên lặng và ông ghé mắt nhìn vào cửa sổ mà ánh sáng từ bên trong hắt ra lờ mờ. Ông đưa mắt nhìn bao quát căn phòng. Trên bàn có ngọn đèn đang cháy. Cạnh bàn là cái giường mà trước đây Ayrton đã ngủ. Có ai đó nằm trên giường. Bỗng Cyrus Smith né khỏi cửa sổ và nói khé:

- Ayrton!

Ngay lập tức những người ngụ cư đã mở, đúng hơn là phá, cửa và lao vào phòng.

Ayrton hình như đang ngủ. Nét mặt anh phờ phạc nói lên bao nỗi đau khổ kéo dài hơn cả tháng nay. Trên hai cổ tay và mắt cá chân anh thấy có những vết xây xát rớm máu.

- Ayrton! - Cyrus Smith cúi xuống gọi và nắm lấy tay người đang ngủ.

Cuộc gặp gỡ bất ngờ này đã diễn ra trong hoàn cảnh khác thường biết bao. Ayrton mở mắt ra và nhìn Cyrus Smith, sau đó, nhìn khắp lượt những người còn lại.

- Ngài? - anh ta kêu lên - Không lẽ đây là ngài sao?

- Ayrton! Ayrton! - Cyrus Smith nhắc lại.

- Tôi đang ở đâu thế này?

- Ở khu chăn nuôi của chúng ta.

- Một mình ư?

- Phải.

- Nhưng bọn chúng sẽ đến đây bây giờ đấy! - Ayrton kêu lên - Hãy đề phòng, các ông hãy đề phòng!

Và anh ta ngã xuống giường vì kiệt sức.

- Spilett! - viên kỹ sư - Bọn chúng có thể tấn công chúng ta bất kì lúc nào. Các bạn hãy cho xe vào trong sân. Sau đó, khoá cổng lại, rồi quay về đây.

Mọi người nhanh chóng làm theo lệnh của viên kỹ sư. Nhưng khi chạy ra khỏi hàng rào, họ đã nghe thấy tiếng gầm gừ khàn khàn của con Top. Vừa lúc ấy, trăng đã lên khỏi những lùm cây rậm rạp đen ngòm, khu chăn nuôi trở lên sáng trưng như ban ngày. Khi mọi người đẩy xe vào sân, con Top lại dứt dây, sủa dữ dội và lao sâu vào khu chăn nuôi, phía bên phải căn nhà.

- Hãy cẩn thận, các bạn! Nhắm vào mục tiêu. - Cyrus Smith kêu to.

Những người ngụ cư tì súng và sẵn sàng nhả đạn. Con Top sủa hoài không dứt, còn chú Jup thì chạy lại chỗ Top và rít lên inh ỏi.

Những người ngụ cư lần theo tiếng chó sủa và ra đến một con suối chảy dưới những hàng cây cao.

Họ đã nhìn thấy gì bên bờ suối vằng vặc ánh trăng vậy? - Trước mắt họ là năm cái xác nằm trên cỏ.

Đó chính là những tên cướp biển mà bốn tháng trước đây đã đổ bộ lên đảo Lincoln.

Chương 14: Thuyền trưởng Nemo

Trong khi đó Ayrton ngủ li bì, không sao đánh thức anh ta dậy được.

Sáng ngày hôm sau Ayrton mới tỉnh lại sau một cơn mê man, ai nấy đều vui mừng, sau một trăm lẻ bốn ngày chia li bây giờ mọi người được thấy anh ta còn sống và hầu như mạnh khoẻ. Liền đó Ayrton kể lại vắn tắt những gì đã xảy ra, tất nhiên là trừ những điều anh ta không biết.

Vào ngày 9 tháng mười một, đúng ngày mà Ayrton trở lại khu chăn nuôi, vào lúc trời bắt đầu tối, bọn cướp biển đã leo qua hàng rào và bắt anh. Sau khi trói Ayrton, bọn ác ôn bịt mồm anh và dẫn tới chân núi Granklin, đưa đến một trong những cái hang tối tăm mà chúng ẩn náu.

Chúng đã định giết anh ngay ngày hôm sau. Nhưng bỗng một trong số những tên cướp nhận ra anh, gọi anh bằng cái tên Ben Joyce mà anh đã mang hồi ở Australia.

Nhưng từ lúc chúng nhận ra Ayrton, anh phải đấu tranh chống lại những yêu cầu của các "chiến hữu" cũ. Chúng đã quyết định lôi kéo anh về với chúng và tính toán rằng anh sẽ giúp chúng chiếm đoạt Lâu đài Đá hoa cương. Chúng hi vọng rằng sau khi lọt được vào căn hầm kiên cố ấy chúng sẽ giết hết những người ngụ cư và chúng sẽ trở thành chủ nhân trên đảo.

Ayrton không chịu khuất phục. Một tên cướp trước đây, nay đã chuộc lỗi bằng sự sám hối và xứng đáng được tha thứ, thà chịu chết còn hơn phản bội những người bạn của mình.

Chúng đối xử với Ayrton ngày càng tồi tệ. Anh chờ đợi cái chết từng phút và cứ thế kéo dài cho đến giữa tháng hai, anh không hay biết gì về tin tức các bạn của mình.

Cuối cùng, Ayrton bất hạnh đã bị hành hạ suy yếu đến nỗi kiệt sức hoàn toàn từ hai ngày nay, không nhìn thấy, không nghe thấy và không thể kể được chuyện gì đã xảy ra trong thời gian này.

- Tôi không biết, thưa ngài Smith, sao lại thế này. Tôi đang bị trói nằm trong hang, thế mà bỗng nhiên lại thức dậy, thấy mình có mặt ở khu chăn nuôi.

- Thế việc bọn cướp nằm chết ở bờ suối gần khu chăn nuôi đã xảy ra như thế nào? - viên kỹ sư hỏi.

- Chúng chết à? - Ayrton kêu lên kinh ngạc và mặc dù yếu sức anh cũng cố nhỏm dậy trên giường.

Trời đã sáng rõ. Mọi người đi ra suối xem xét. Trên bờ suối, mấy xác chết nằm theo những tư thế tự nhiên như đang còn sống, chắc là bị tử thần bắt đi trong chớp nhoáng.

Ayrton bị xúc động, Cyrus Smith và tất cả mọi người im lặng nhìn anh. Theo dấu hiệu của viên kỹ sư, Nab, Pencroff xem xét các xác chết lạnh cóng.

Họ không phát hiện ra vết thương nào trên các xác chết. Chỉ sau khi xem xét thật kỹ Pencroff mới thấy trên mỗi thi thể có một vết màu đỏ y như là dấu vết bị đập thương; tên thì bị vết trên trán, tên thì trên ngực, tên trên lưng, tên trên vai. Những vết ấy do đâu mà ra thì không thể xác định được.

- Ai đã giết chúng vậy? - Pencroff hỏi.

- Người thực hiện công lí trên toàn đảo của chúng ta, - Cyrus Smith trả lời - người đã đưa anh về khu chăn nuôi đêm qua, Ayrton ạ! Người đã bao nhiêu lần can thiệp vào công việc của đảo Lincoln và cứu chúng ta.

- Chúng ta hãy đi tìm ông ấy ngay. - Pencroff kêu lên.

- Chúng ta sẽ đi tìm ông ta, - Cyrus Smith đồng tình - và cầu trời cho chúng con được chứng tỏ với ân nhân kiêu kì của chúng con rằng người không thể gọi chúng con là những kẻ vô ơn.

*

* *

Đã bao nhiêu lần trong ba năm ấy họ nhắc đến tổ quốc của mình. Những lần chuyện trò với nhau họ đều mơ ước cái ngày họ được nhìn thấy đất nước thân yêu.

Những ước mơ của họ chỉ có thể thực hiện được bằng hai con đường. Hoặc là một con tàu nào đó sẽ đến khu vực đảo Lincoln, hoặc là những người ngụ cư sẽ tự đóng một chiếc tàu đủ lớn để bơi về nơi đất liền gần nhất.

Tối ngày 15 tháng mười, cuộc chuyện trò thú vị kéo dài hơn mọi khi. Lúc ấy đã chín giờ. Bắt đầu nghe thấy những tiếng ngáp dài lộ liễu và Pencroff đã về giường mình. Bỗng trong phòng vang lên tiếng chuông điện báo.

Tất cả những người ngụ cư đều có mặt ở đây - Cyrus Smith, Gédéon Spilett, Harbert, Ayrton và Pencroff - ở khu chăn nuôi không còn ai.

- Ta đợi đã! - Gédéon Spilett nói - Nếu đây là tín hiệu thì dù là tín hiệu ai phát đi, chuông cũng sẽ reo lại.

- Thế thì theo ông, ai có thể phát tín hiệu? - Nab kêu lên.

- Chú quên rồi sao? - Pencroff trả lời - Đó là người mà...

Lời nói của anh ta bị tiếng chuông mới cắt ngang; chiếc búa nhỏ gõ liên hồi vào nắp chuông. Cyrus Smith bước đến máy điện báo, cắm điện và đánh ra khu chăn nuôi bức điện với nội dung:

- Ông cần gì?

Mấy giây sau, chiếc kim động đậy trên đĩa có ghi các chữ cái, và các cư dân Lâu đài Đá hoa cương nhận được câu trả lời:

"Các bạn ra khu chăn nuôi ngay!"

- Có thế chứ! - Cyrus Smith kêu lên.

Cyrus Smith và những người bạn đường của ông rời Lâu đài Đá hoa cương lúc chín giờ mười hai phút. Mười giờ mười lăm phút, dưới ánh chớp chói lòa họ đã nhìn thấy hàng rào khu chăn nuôi. Họ vừa vào cổng thì một tiếng sấm vang lên đinh tai nhức óc.

Người lạ mặt có lẽ đang ở trong nhà - bởi vì, tất nhiên ông ta phải đánh điện đi từ đó chứ. Song không cửa sổ nào thấy có ánh đèn.

Viên kỹ sư gõ cửa. Nhưng không có tiếng trả lời.

Cyrus Smith mở toang cửa ra, và mọi người bước vào căn phòng tối như bưng. Nab đánh lửa, trong nháy mắt họ thắp đèn và soi khắp mọi xó xỉnh. Trong nhà không có ai hết. Mọi đồ vật đều nguyên chỗ cũ như đã được xép đặt trước đây.

- Xem kìa! Có thư! - Harbert kêu lên, chỉ vào một tờ giấy trên bàn. Bức thư được viết bằng tiếng Anh:

"Các bạn hãy đi theo dọc đường dây điện mới".

- Lên đường! - Cyrus Smith kêu lên; ông hiểu rằng bức điện khẩn đã được đánh đi không phải từ khu chăn nuôi, mà là từ nơi ở bí ẩn của người lạ mặt, và một đường dây điện bổ sung nào đấy dẫn đi từ đường dây cũ đã nối liền nơi đó với Lâu đài Đá hoa cương.

Nab mang theo cây đèn mới thắp và mọi người ra khỏi khu chăn nuôi. Ngoài sân, họ không thấy dấu hiệu nào của đường dây điện báo cả. Khi ra khỏi cổng Cyrus Smith đã chạy lại cột điện gần nhất. Dưới ánh chớp, ông nhìn thấy một đường dây điện mới được thòng từ ống sứ cách điện xuống đất.

- Đây rồi! - viên kỹ sư nói.

Sợi dây được rải lên mặt đất, bọc lớp cách điện như cáp ngầm nên bảo đảm dẫn điện tốt. Căn cứ vào hướng đi của dây thì nó xuyên qua rừng và các nhánh núi, đến phần phía tây của đảo.

- Hãy bán sát đường dây cáp! - Cyrus Smith nói.

Viên kỹ sư túm lấy sợi cáp và thấy nó đi xuống nước.

Viên kỹ sư cúi xuống, thấy một vật đen bập bềnh trên mặt nước liền kéo vào. Đó là chiếc thuyền được buộc vào một vách đá bên trong hang. Thuyền được đóng bằng những tấm tôn ghép chặt với nhau. Trên sàn thuyền, dưới các băng ghế ngồi có hai mái chèo.

- Lên thuyền! - Cyrus Smith nói.

Một giây sau, mọi người đã ngồi quanh thuyền. Nab và Ayrton ngồi chèo, Pencroff lái. Cyrus Smith đặt đèn lên sống mũi thuyền soi đường. Họ đang bơi dưới vòm hang thấp, bỗng thấy vòm hang cao lên và rộng ra; chung quanh tối như bưng, dưới ánh sáng yếu ớt của cây đèn không thể nào xác định được hang này lớn chừng nào. Con thuyền bơi theo đường dây cáp. Cách cửa hang độ nửa dặm thì Cyrus Smith ra lệnh:

- Dừng lại!

Con thuyền dừng lại và trước mắt các du khách rất đỗi ngạc nhiên loé lên ánh sáng rực rỡ chiếu rọi khắp cái hang thiên nhiên ăn sâu trong lòng đảo. Ánh sáng ấy tất nhiên do nguồn điện cung cấp. Điện đã thay mặt trời chiếu sáng khắp nơi trong cái hang này.

Ở giữa hồ có vật gì đó dài, nhô lên khỏi mặt nước đã đóng băng và bất động. Vật ấy giống như một động vật ở biển thuộc họ cá voi, dài khoảng hai trăm năm mươi bộ và nhô cao trên mặt hồ chừng mười đến mười hai bộ.

Theo lệnh của viên kỹ sư, con thuyền bơi đến gần cái công trình kì lạ đang nổi trên mặt nước. Các tay chèo cập vào bên trái bức tường hình tròn của công trình, từ trong đó một chùm ánh sáng chói lòa toả sáng qua lớp kính dày.

Cyrus Smith và những người cùng đi trèo lên sàn. Trên ấy, một cái lỗ nhỏ gọi là cái cửa mở ra. Tất cả ùa vào đó.

Phía bên dưới cầu thang là một hành lang sáng rực ánh điện. Cuối cầu thang, các khách lạ nhìn thấy một cánh cửa ra vào. Cyrus Smith mở toang cửa. Đi vội qua một căn phòng được trang trí sang trọng, họ bước vào một thư viện kế bên. Nơi đây, trên trần ánh sáng toả chiếu rực rỡ. Ở cuối thư viện hoá ra còn có một cửa nữa. Viên kỹ sư mở luôn cánh cửa ấy. Và khi đó họ nhìn thấy một căn phòng rộng rãi, giống như một nhà bảo tàng. Trên chiếc đi văng lộng lẫy có một người đang nằm, hình như không nhận thấy sự xuất hiện của họ.

Cyrus Smith bước lên phía ấy và trước sự kinh ngạc của những người cùng đi, ông dõng dạc nói:

- Thưa thuyền trưởng Nemo, ngài đã gọi chúng tôi? Vậy chúng tôi đã có mặt.

Khi nghe những lời ấy, người đang nằm trên đi văng nhổm dậy, và ánh sáng chiếu rọi vào khuôn mặt của ông. Mái đầu ông tuyệt đẹp, vầng trán cao, cái nhìn kiêu hãnh, bộ râu bạc phơ, mái tóc dày được trải hất ra sau.

- Tôi không có tên, thưa ngài!

- Tôi biết tên ngài! - Cyrus Smith đáp.

Thuyền trưởng Nemo nhìn viên kỹ sư đăm đăm với ánh mắt rực lửa, như muốn tiêu diệt ông ta. Sau đó, ông ngã phịch xuống đi văng, thuyền trưởng thì thào:

- Rốt cuộc thì đằng nào cũng vậy thôi. Tôi sắp chết rồi.

Cyrus Smith bước lại gần thuyền trưởng Nemo hơn, còn Gédéon Spilett thì nắm tay thuyền trưởng.

Thuyền trưởng Nemo khẽ đưa tay ra hiệu mời chàng nhà báo và viên kỹ sư ngồi xuống.

Mọi người nhìn thuyền trưởng với niềm xúc động chân thành. Đây chính là ông, người mà họ gọi là "vị thần của đảo", con người hùng mạnh, đã nhiều lần can thiệp và trở thành vị cứu tinh, ân nhân mà họ chịu ơn.

Thuyền trưởng lại nằm xuống đi văng và chống khuỷu tay chăm chú nhìn Cyrus Smith ngồi cạnh ông.

- Vậy là, thưa ngài, ngài biết cái tên mà tôi đang mang? - thuyền trưởng Nemo hỏi.

- Tôi biết! - Cyrus Smith đáp - Tôi còn biết cả chiếc tàu ngầm tuyệt diệu tên gì nữa.

- Nautilus! - thuyền trưởng mỉm cười.

- Vâng, Nautilus.

- Thế ngài có biết không? Ngài có biết tôi là ai không?

- Biết.

- Vậy, nhưng đã ba mươi năm nay tôi không có chút liên hệ nào với thế giới con người. Ai đã tiết lộ bí mật của tôi thế nhỉ?

- Một người nào đó đã không bị ràng buộc trách nhiệm đối với ngài, thưa thuyền trưởng Nemo!

- Phải chăng đó là người Pháp đã tình cờ lọt lên tàu của tôi mười sáu năm trước?

- Chính ông ta.

- Nghĩa là người ấy và hai người cùng đi đã không bị chết ở Malstrim, khi Nautilus bị kẹt ở đó?

- Không, họ đã không chết. Và thế là đã ra đời một cuốn sách với tựa đề "Hai vạn dặm dưới đáy biển", trong đó có kể về lịch sử cuộc đời ngài.

- Lịch sử của mấy tháng trong đời tôi, thưa ngài! - thuyền trưởng sửa lại với một vẻ linh hoạt.

- Ngài nói đúng! - Cyrus Smith xác nhận. - Nhưng chỉ sống gần ngài mấy tháng thôi là đủ để phán xét ngài rồi.

- Như là một tên tội phạm lớn, có phải thế không? - Thuyền trưởng Nemo đáp lời và trên môi ông thoáng một nụ cười kiêu ngạo - Phải, như một tên phiến loạn, một kẻ li khai xã hội loài người.

Viên kỹ sư không trả lời.

- Sao ngài im lặng thế, thưa ngài.

- Tôi không có quyền phán xét thuyền trưởng Nemo. - Cyrus Smith nói - Ít nhất là không có quyền phán xét quá khứ của ông. Bởi vì không ai, trong đó có cả tôi biết được cái gì đã buộc ông phải sống một cuộc sống kì lạ như vậy, mà khi đã không biết nguyên nhân thì không nên phán xét hậu quả. Nhưng tôi biết chắc rằng sự can thiệp đầy thiện chí của ngài đã thường xuyên bảo vệ chúng tôi kể từ ngày chúng tôi có mặt trên đảo Lincoln; tôi biết tất cả chúng tôi suốt đời chịu ơn một ân nhân hùng mạnh, độ lượng, hiền từ, ân nhân ấy là ngài, thưa thuyền trưởng.

- Vâng, tôi đã giúp đỡ các bạn! - thuyền trưởng Nemo trả lời một cách giản dị.

Kỹ sư và chàng nhà báo đứng dậy. Những người bạn của họ bước tới, muốn bày tỏ với thuyền trưởng Nemo lòng biết ơn tràn đầy trái tim họ.

Thuyền trưởng Nemo đưa tay ngăn những biểu hiện tình cảm của họ và không giấu nỗi xúc động nói:

- Khoan đã, trước hết các vị hãy nghe tôi.

Thuyền trưởng Nemo kể lại toàn bộ cuộc đời mình bằng một ít lời cô đọng và rõ ràng.

Ông là một người gốc Ấn Độ, con trai của quận vương cai quản đất nước Bundelhand, cháu của vị anh hùng Tippo-Saib nổi tiếng ở Ấn Độ. Khi lên mười tuổi, cha cậu cho cậu sang châu Âu với ý muốn trang bị một kiến thức toàn diện cho cậu, và ông thầm mong đến một lúc nào đó, con trai của ông sẽ chiến đấu chống lại những kẻ áp bức đất nước yêu dấu của mình.

Từ mười đến mười ba tuổi, Dakkar - tên cậu bé, là một người có nhiều kỹ năng và trí tuệ khác người. Chàng đã học và nắm vững kiến thức các môn khoa học khác nhau, và đạt những hiểu biết rộng về lĩnh vực tự nhiên học, cũng như toán học và văn học nghệ thuật.

Thái tử Dakkar đã chu du khắp châu Âu.

Trang thanh niên tuấn tú người Ấn Độ ấy bao giờ cũng nghiêm nghị, thậm chí đăm chiêu, và say mê, khao khát, hiểu biết và có những năng khiếu kì lạ.

Là con trai của một trong những số những quận vương chỉ phục tùng nước Anh trên lời nói, thái tử thuộc dòng dõi Tippo-Saib được giáo dục theo tinh thần đấu tranh giành độc lập và báo thù.

Thái tử Dakkar trở thành một hoạ sĩ, một nhà bác học, một chính trị gia đã từng nghiên cứu đầy đủ ngọn ngành nghề ngoại giao trong các triều đình ở châu Âu.

Trên thực tế, chàng là một người yêu nước. Danh hoạ ấy, nhà bác học ấy, thiên tài ấy trong tâm hồn vẫn là một người Ấn Độ tràn đầy nỗi khao khát báo thù cho dân tộc.

Vào năm 1849, thái tử Dakkar trở về Bundelhand. Chàng cưới một cô gái dòng dõi quý tộc làm vợ. Cũng như chàng, trái tim nàng ứa máu khi nhìn thấy kẻ thù dày xéo trên tổ quốc mình. Người vợ đã tặng chàng hai đứa con, chàng yêu quý chúng tha thiết. Nhưng trong khi tận hưởng hạnh phúc gia đình chàng không thể quên đất nước Ấn Độ đang bị nô dịch. Chàng đợi thời cơ đấu tranh giành quyền độc lập.

Năm 1857, ở Ấn Độ đã nổ ra cuộc khởi nghĩa lớn của những người Sipai. Linh hồn của cuộc khởi nghĩa là thái tử Dakkar. Chàng đã phát động đông đảo quần chúng đứng dậy chống quân thù. Chàng đã hiến dâng cho sự nghiệp chính nghĩa tất cả tài năng và tài sản của mình. Chàng dũng cảm liều thân như một người bình thường nhất trong số những người anh hùng đã đứng dậy khởi nghĩa vì sự nghiệp giải phóng tổ quốc. Chàng đã tham gia vào hai mươi trận chiến và bị thương đến mười lần.

Tên tuổi của thái tử Dakkar trong những ngày tháng ấy trở lên lừng lẫy. Người anh hùng mang tên ấy đã không giấu mình và tiến hành cuộc đấu tranh một cách công khai. Cái đầu của chàng đã được trả giá, và mặc dù không có tên phản bội nào giao nộp chàng cho chính phủ bảo hộ Anh, nhưng cha, mẹ, vợ con chàng đã trả cả đời mình thay cho chàng.

Những người Sipai đã bị đàn áp dã man và các quốc gia thuộc Ấn Độ lại rơi vào ách thống trị tàn bạo của thực dân Anh.

Chàng đã đem tất cả những tài sản còn lại bán lấy tiền, tập hợp quanh mình những người bạn chiến đấu trung thành nhất và một ngày đẹp trời nọ chàng đã biến mất cùng với họ.

Thay vì người lính bây giờ chàng là nhà bác học. Một hòn đảo hoang ở Thái Bình Dương được dùng làm nơi trú ngụ của chàng. Chàng đặt ở đó một xưởng đóng tàu, và một chiếc tàu ngầm đã ra đời ở đó theo đồ án thiết kế của chàng. Chàng đã tận dụng nguồn điện lực thiên nhiên phục vụ cho mọi nhu cầu cần thiết trên con tàu ngầm của mình: chạy máy, thắp sáng, sưởi ẩm. Tất cả những gì thiên tai đã vùi dưới đáy biển và tài sản con người đã đánh mất ở đó hoàn toàn đáp ứng các nhu cầu của thái tử Dakkar và đoàn thuỷ thủ. Chàng đã đặt tên cho con tàu là Nautilus, cho mình là Nemo và biến mất dưới mặt nước.

Là một công dân Ấn Độ trong thế giới con người, ông đã thu thập được những báu vật kì lạ ở các thế giới huyền bí dưới mặt nước. Hàng kho châu báu chìm dưới vịnh Vigo năm 1702, khi những chiếc tàu Tây Ban Nha chở vàng bị đắm ở đây, đã trở thành nguồn của cải không bao giờ cạn đối với ông, luôn luôn thuộc quyền sử dụng của ông, không ai biết đến và tranh giành. Ông đã dùng số vàng này giúp đỡ những người chiến đấu cho nền độc lập của nước Ấn Độ.

Một thời gian dài ông không có bất kì cuộc tiếp xúc nào với loài người. Bất chợt đêm ngày 5 rạng ngày 6 tháng mười một năm 1866, có ba người đột nhiên xuất hiện trên tàu của ông; một vị giáo sư người Pháp, người hầu của ông ta và một thợ săn cá người Canada. Những người này được thuyền trưởng cứu vớt khi họ bị ngã xuống biển trong cuộc đụng độ giữa Nautilus với chiến hạm A.Lincoln của Mỹ khi chiến hạm đuổi theo chiếc tàu ngầm này.

Qua vị giáo sư người Pháp, thuyền trưởng Nemo biết rằng họ đã tưởng Nautilus khi thì là một động vật biển khổng lồ thuộc họ cá voi, khi thì là một tàu ngầm của bọn cướp biển mà trên khắp các đại dương người ta đang săn lùng.

Thuyền trưởng Nemo đã có ý định quẳng xuống đại dương ba người kì quặc đã ngẫu nhiên xâm nhập vào sự tồn tại bí ẩn của ông. Nhưng ông đã không làm như vậy, ông đã giữ họ làm tù binh trên tàu, và trong suốt bảy tháng trời họ đã chứng kiến tất cả những diễn biến kì lạ trong cuộc hành trình hai mươi vạn dặm dưới biển của tàu Nautilus.

Ngày 22 tháng sáu năm 1867, ba tù binh ấy, không biết gì về quá khứ của thuyền trưởng Nemo cả, đã bỏ trốn trên một chiếc thuyền mà họ đánh cắp của tàu Nautilus. Nhưng vì trong lúc ấy Nautilus bị dòng nước cực mạnh của biển Malstrim cuốn vào bờ biển Na Uy, nên thuyền trưởng Nemo cho rằng, gặp dòng xoáy khủng khiếp như vậy, những người chạy trốn chắc chắn bỏ mạng dưới đáy biển. Ông không biết rằng nhờ một sự may mắn kì lạ cả ba người trên đã được những dân chài ở Lofoten cứu thoát. Và giáo sư đã trở về Pháp, cho xuất bản một cuốn sách thuật lại cuộc hành trình dài bảy tháng trên tàu Nautilus, khiến cho các bạn đọc say mê những chuyến phiêu lưu diễn ra trong suốt cuộc hành trình lạ thường này.

Thuyền trưởng Nemo đã sống như vậy trong một thời gian dài sau đấy. Nhưng rồi những người cùng đi với ông lần lượt qua đời; ông đã chôn cất họ ở nghĩa đĩa san hô dưới đáy Thái Bình Dương. Tàu Nautilus trở nên trống trải, tất cả những người đã cùng trốn khỏi thế giới của loài người chỉ còn có mỗi mình thuyền trưởng Nemo là còn sống.

Lúc ấy thuyền trưởng đã 60 tuổi. Ông đã đưa được Nautilus vào một bến cảng ngầm, nơi tàu ông thỉnh thoảng lặn xuống sau các cuộc hải trình. Đó là một cái hang được địa chất kiến tạo, nằm phía dưới đảo Lincoln, bây giờ nó vẫn đang là trạm dừng của Nautilus.

Đã sáu năm nay thuyền trưởng Nemo sống ở đây, và ông đang chờ chết. Ông gọi đó là khoảnh khắc mà ông đang chờ chết. Ông gọi đó là khoảnh khắc mà ông sẽ hòa nhập cùng với các bạn đồng đội của mình, tình cờ ông đã chứng kiến sự kiện quả khí cầu cùng với năm tù bình của quân đội miền Nam chạy trốn khỏi Richmond bị rơi xuống đảo. Ông mặc áo lặn, thực hiện một cuộc dạo chơi dưới nước cách đảo vài cabeltov, đúng nơi kỹ sư Cyrus Smith đã bị biển nhận chìm và thuyền trưởng Nemo đã cứu thoát ông ta.

Thoạt đầu ông định trốn năm nhà du hành trên khinh khí cầu bị nạn, nhưng lối ra khỏi cảng đã bị bịt kín. Do những cơn địa chấn của núi lửa sắp hoạt động nên đáy của hang đá bị trồi lên, và Nautilus không thể thoát ra khỏi bến cảng ngầm được.

Thế là thuyền trưởng Nemo đành ở lại. Ông bắt đầu theo dõi những người láng giềng của mình bị quẳng lên hòn đảo không người và thiếu thốn mọi phương tiện vật chất. Nhưng tự ông không muốn ra mắt họ. Dần dần, thấy đó là những con người cao thượng, có nghị lực, gắn bó nhau bằng tình hữu ái, ông quan tâm đến cuộc đấu tranh thiên nhiên của họ. Dù muốn hay không, ông cũng đi sâu vào những bí mật của họ. Với bộ đồ lặn, ông đã luồn lách xuống đáy biển dưới Lâu đài Đá hoa cương, leo theo các bậc thành giếng lên miệng trên, nghe những người ngụ cư kể về quá khứ của mình, bàn về tình hình hiện tại và phác hoạ các kế hoạch cho tương lai... Phải, những con người tình cờ bị rơi trên đảo này xứng đáng được kính trọng và có thể hòa giải giữa thuyền trưởng Nemo với nhân loại, vì họ là những đại diện hào hiệp nhất của loài người.

Thuyền trưởng Nemo đã cứu Cyrus Smith; cũng chính ông đã dẫn con Top về Hang ngụ cư, ông đã thả xuống mũi Tìm thấy chiếc hòm đựng đồ dùng cần thiết cho họ. Ông đã tháo dây buộc cho chiếc thuyền trôi xuôi dòng Tạ ơn. Ông đã cho nổ chiếc tàu cướp bằng trái thuỷ lôi đặt dưới eo biển; ông đã đem thuốc sunfat quinin đến và cứu sống Harbert, và cuối cùng, cũng chính ông đã tiêu diệt bọn cướp biển bằng đạn điện - phát minh mà ông dùng để săn dưới nước. Đấy là những lời giải thích cho tất cả những sự kiện mà trước đó những người trên đảo cứ tưởng như là hiện tượng siêu nhiên; Tất cả những chuyện này đều chứng tỏ sự độ lượng và sự hồn hậu của thuyền trưởng Nemo.

Thuyền trưởng Nemo kết thúc câu chuyện về đời mình. Khi ấy Cyrus Smith mới nói, ông nhắc lại tất cả những trường hợp mà sự can thiệp của người lạ mặt cao cả đã đem lại lợi ích cho vùng di dân, nhân danh cá nhân và nhân danh các bạn mình, Smith đã cảm ơn thuyền trưởng về tất cả những nghĩa cử mà ông đã đem lại cho họ.

Nhưng thuyền trưởng Nemo không yêu cầu sự biết ơn của những người được mình giúp đỡ. Một ý nghĩ cuối cùng đã làm cho ông xúc động, và khi đã bắt tay viên kỹ sư, ông nói:

- Còn bây giờ, thưa ngài, khi các ngài đã biết cuộc đời tôi, các ngài hãy phán xét tôi đi.

Khi nói điều ấy, có lẽ thuyền trưởng muốn ám chỉ trường hợp rủi ro mà ba người nước ngoài tình cờ lọt lên tàu Nautilus đã chứng kiến. Về chuyện này ông chắc chắn vị giáo sư người Pháp đã kể hết trong cuốn sách của mình.

Thật ra, mấy ngày trước khi vị giáo sư và hai người bạn của ông chạy trốn, Nautilus, lúc ấy đang đi dọc các vĩ độ bắc của Đại Tây Dương, và nó đã xông vào một chiến hạm truy kích nó, lấy cả thân tàu đâm mạnh vào và nhận chìm chiến hạm ấy không chút thương tiếc.

Cyrus Smith hiểu những lời thuyền trưởng Nemo ám chỉ và không trả lời gì.

- Vì đó là một chiến hạm của nước Anh! - thuyền trưởng Nemo kêu lên, trong ông thoáng sống lại hình ảnh của thái tử Dakkar - Một chiến hạm Anh! Các ngài có nghe rõ không? Nó đã tấn công tôi. Nó đã hãm tôi vào một cái vịnh hẹp, nông... Tôi cần phải thoát ra với bất cứ giá nào và tôi đã thoát ra được! - sau đấy, ông ta bình tĩnh hơn - cả pháp lí lẫn công lí đều thuộc về tôi. Ở khắp mọi nơi, hễ có thể là tôi làm điều thiện cho mọi người. Cũng có khi phải làm cả điều ác. Không phải khi nào sự tha thứ cũng là hành vi đúng đắn đâu!

Sau khi ngưng câu chuyện một lát, thuyền trưởng Nemo nhắc lại:

- Các ngài nghĩ gì về tôi, hãy nói đi!

Cyrus Smith đã chìa tay ra cho thuyền trưởng bắt và trả lời bằng một giọng nghiêm trang.

- Thưa thuyền trưởng Nemo, lỗi của ngài là ở chỗ ngài đã định làm sống lại quá khứ bị tráng và đã dấn sâu vào một cuộc đấu tranh kì lạ. Ngài đã gây cho một số người sự khoái trá, song cũng làm những người khác tức giận, lí trí của con người có thể hiểu được, còn phán xử chúng thì chỉ có trời mà thôi. Ngài đã đi theo con đường không đúng. Tuy xuất phát từ những động cơ lành mạnh... Những sai phạm của ngài thuộc số những bôi nhọ không thanh danh, và ngài chẳng có gì phải sợ sự phán xét của lịch sử. Con người ưa thích những hành động cuồng dại mang tính anh hùng, mặc dù lịch sử sẽ tuyên án nghiêm khắc những hậu quả của chúng.

Thuyền trưởng Nemo thở dài nặng nhọc và giơ tay lên trời, khẽ nói:

- Tôi đáng bị hành xử, đúng hay sai?

Cyrus Smith nhắc lại:

- Về những hành vi vĩ đại hãy để trời phán xét vì mọi sự đều từ trời mà ra! Thưa thuyền trưởng Nemo, những con người lương thiện đang đứng đây, những người đã được ngài giúp đỡ nhường ấy, sẽ luôn luôn khóc thương ngài.

Harbert bước đến thuyền trưởng Nemo và quỳ xuống, cầm tay ông đưa lên môi mình.

Những giọt lệ từ mắt của người hấp hối trào ra.

- Con của ta. - ông thì thào - Cầu phước luôn đến với con!...

Chương 15: Động đất và núi lửa

Trong khi người bệnh nằm bất động, mê man, Cyrus Smith và Gédéon Spilett chăm chú theo dõi tình trạng sức khỏe của ông. Rõ ràng hơi thở ông đang yếu dần và sắp tắt hẳn.

Cyrus Smith và các bạn của ông đi đến gần đi văng, sửa lại gối cho người bệnh nằm được thoải mái hơn.

Họ nhận thấy thuyền trưởng Nemo đưa mắt nhìn khắp lượt những kì quan đặt trong căn phòng của ông đang ngập tràn ánh điện sáng dịu từ trên trần toả xuống.

Cuối cùng thuyền trưởng Nemo đã quay mặt về phía những người ngụ cư nói:

- Các ngài cho rằng tôi xứng đáng với lòng biết ơn của các ngài?

- Thưa thuyền trưởng, tất cả chúng tôi đều sẵn sàng cống hiến đời mình, chỉ mong sao kéo dài được tuổi thọ của ngài.

- Tuyệt lắm! - thuyền trưởng Nemo nói tiếp - Tuyệt lắm! Các ngài hãy hứa với tôi, rằng các ngài sẽ thực hiện di chúc của tôi và khi ấy tôi sẽ coi như được ban thưởng về tất cả những gì mà tôi đã làm cho các ngài.

- Chúng tôi xin hứa! - Cyrus Smith trả lời - Nhân danh cá nhân và thay mặt các bạn mình.

- Ngày mai tôi sẽ chết. - thuyền trưởng nói.

Ông đưa tay ngăn Harbert định phản đối điều gì đó.

- Ngày mai tôi sẽ chết. - ông nhắc lại - Và tôi muốn Nautilus trở thành chiếc áo quan của tôi. Tất cả bạn bè tôi đều yên nghỉ dưới biển. Tôi muốn nằm cùng họ.

Mọi người im lặng, lắng nghe những lời trối trăn của thuyền trưởng Nemo.

- Các ngài hãy nghe tôi! - ông nói - Nautilus đã trở thành tù binh, bởi vì đáy của hang động này đã trồi lên sát lối vào. Giờ đây nó không thể chạy khỏi ngục tối. Tuy nhiên ít nhất nó cũng có thể hạ xuống vực thẳm bên dưới mình và mai táng di hài của tôi trong đó.

Những người ngụ cư lắng nghe ông nói với vẻ sùng kính.

- Ngày mai, sau khi tôi chết, - thuyền trưởng Nemo nói tiếp - Ngài Smith và các bạn của ngài phải rời khỏi Nautilus. Tôi muốn tất cả những của cải mà tôi thu thập được trong tàu biến đi cùng với tôi. Để kỉ niệm về thái tử Dakkar mà tiểu sử của ông ta bây giờ ngài đã biết, tôi xin dành một vật tặng cho các ngài: vật đó là cái tráp con này đây... Trong tráp đó có những hạt kim cương đáng giá vài triệu đồng... Phần lớn những viên kim cương này này có liên quan đến quá khứ của tôi, khi tôi là một người chồng và một người cha, khi tôi tin rằng trên trái đất này có tồn tại hạnh phúc. Trong ấy cũng còn có những hạt ngọc trai chọn lọc do tôi và các bạn của tôi tìm được dưới đáy biển. Với những vật báu này, đến một lúc nào đó các ngài sẽ làm được nhiều điều tốt, tôi tin như vậy. Trong tay những người như ngài và các bạn của ngài, thưa ngài Smith, tiền sẽ không trở thành công cụ của tội ác. Linh hồn tôi sẽ nhập vào sự nghiệp của các ngài - Tôi tin các ngài không e ngại gì hết.

Thuyền trưởng Nemo im bặt - do sức yếu ông không nói được nữa, nhưng nghỉ một lát, ông tiếp lời.

- Ngày mai các ngài lấy cái tráp con này, ra khỏi phòng và khoá cửa lại. Sau đó, các ngài leo lên cầu thang của Nautilus, hạ nắp cửa xuống và đóng kín lại.

- Mọi việc sẽ được làm đúng như ngài chỉ dạy, thưa thuyền trưởng! - Cyrus Smith đáp.

- Tốt. Sau đấy, các ngài hãy ngồi vào chiếc thuyền đã dùng để đi đến đây. Nhưng trước khi rời khỏi Nautilus các ngài hãy bơi lại phía đuôi tàu và mở hai cái vòi lớn ở đường máng nước đằng đó ra. Nước sẽ ào vào các buồng. Nautilus sẽ dần dần chìm xuống nước và được mai táng ở đáy vực thẳm.

Cả Cyrus Smith lẫn các bạn ông đều cho rằng mình không có quyền phản đối thuyền trưởng Nemo điều gì. Ông ấy nói lên những lời di chúc của mình, họ chỉ còn có việc thực hiện.

- Các ngài đã hứa với tôi rồi nhé! - người đang hấp hối khẽ nói.

- Chúng tôi giữ lời hứa. - viên kỹ sư đáp.

Thuyền trưởng chỉ ra hiệu tỏ lòng cảm ơn và yêu cầu được ở lại một mình trong vài giờ.

Mọi người ra khỏi phòng, đi về phía mũi tàu, họ vào phòng máy, nơi đặt máy phát điện cung cấp cho Nautilus ánh sáng, nhiệt năng và các động cơ của tàu.

Nautilus là một kì quan thật sự của khoa học kĩ thuật, chứa đựng trong nó nhiều điều khác thường khiến viên kỹ sư rất thích thú.

Những người ngụ cư trèo lên sàn tàu cao hơn mặt nước bảy, tám bộ. Ở đó họ ghé vào mộ thấu kính lồi làm bằng thuỷ tinh dày, qua đó thấy có một buồng lái để không. Đã có một thời người lái tàu Nautilus ở đó, lái nó xuyên qua nhiều tầng nước biển, có ánh điện toả sáng soi rọi đường cho nó chạy.

Sau khi trò chuyện với nhau hồi lâu, Cyrus Smith và các bạn ông đã trở xuống phòng của Nemo.

- Các ngài, - thuyền trưởng nói - các ngài là những con người dũng cảm, trung thực và nhân từ. Các ngài đã hết mực trung thành với sự nghiệp trung của mình. Tôi thường xuyên theo dõi các ngài. Tôi rất quý ngài! Hãy đưa tay đây, ngài Smith.

Cyrus Smith chìa tay ra, thuyền trưởng Nemo nắm chặt lấy.

- Vậy là tốt! - ông thì thầm, rồi nói to lên - Nhưng, nói về tôi thế là đủ rồi. Bây giờ tốt hơn là hãy nói về bản thân các ngài và đảo Lincoln, nơi các ngài đã tìm được chỗ ở... Các ngài định rời khỏi đây phải không?

- Nhưng nhất định chúng tôi sẽ trở lại! - Pencroff nhanh nhảu trả lời.

- Trở lại? Thôi được, Pencroff, tôi biết các bạn yêu hòn đảo này như thế nào, - thuyền trưởng mỉm cười, nói - Nhờ những nỗ lực của các bạn mà ở đây đã có nhiều thay đổi, và đó thật sự là hòn đảo của các bạn.

- Kế hoạch của chúng tôi là thế này, thưa thuyền trưởng! - Cyrus Smith nói ngay - Chúng tôi tặng hòn đảo cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.

- Các ngài nghĩ về đất nước của các ngài, - thuyền trưởng trả lời - Các ngài đã lao động vì sự phồn vinh của đất nước. Và các ngài đúng. Tổ quốc là trên hết! Tất nhiên. Cần phải trở về Tổ quốc khi chết làm sao được nằm trên quê cha, đất tổ! Thế mà tôi thì lại chết ở xa tất cả những gì mà tôi yêu, tôi quý!

- Có lẽ ngài nên chuyển cho ai đó lời di chúc của ngài? - viên kỹ sư nói - Có thể, ngài gởi một di vật gì đó để kỉ niệm cho bạn bè? Chắc ngài còn bạn bè ở Ấn Độ.

- Không, thưa ngài Smith. Tôi không còn bạn bè nữa! Tôi là người cuối cùng trong dòng họ của tôi... Còn những ai biết tôi thì cho rằng tôi đã chết từ lâu. Ở đây tôi sẽ được an giấc ngàn thu, miễn là... - thuyền trưởng Nemo ấp úng, và bỏ lửng câu nói trên, ông tiếp lời: - Thưa ngài Smith, tôi muốn được nói chuyện riêng với ngài.

Tôn trọng ý muốn của người đang hấp hối, các bạn của viên kỹ sư ra khỏi phòng.

Thuyền trưởng Nemo nói chuyện tay đôi với Cyrus Smith mấy phút về việc gì đấy, sau đó kỹ sư gọi các bạn mình lại, nhưng không nói gì với họ về điều mà người hấp hối cho ông biết...

Đêm đến, trạng thái của người bệnh hầu như không có sự biến chuyển gì. Những người ngụ cư không phút nào rời Nautilus. Chẳng bao lâu, sau lúc nửa đêm, thuyền trưởng Nemo tập trung sinh lực cuối cùng, đưa tay lên để chéo trước ngực với một vẻ khó nhọc, dường như ông muốn chết ở một tư thế bình thản như vậy.

Gần hai giờ sáng, toàn bộ sự sống của ông tập trung trong ánh mắt nhìn chăm chú. Hai con ngươi của ông ngời lên những ánh lửa sự sống lần cuối cùng. Rồi ông thì thào: "Thượng đế và Tổ quốc!" và lặng lẽ qua đời.

Những người ngụ cư đã làm theo những điều thuyền trưởng Nemo yêu cầu. Họ khoá chặt cửa tàu để không giọt nước nào thấm vào. Sau đó, họ tháo hai vòi nước lớn ở đuôi tàu, nước chảy qua các buồng, Nautilus chìm dần và biến khỏi mặt nước phẳng lặng.

Cyrus Smith và các bạn của ông đã rời khỏi Nautilus, mang theo món quà tặng duy nhất mà ân nhân quá cố của họ đã để lại: Cái tráp nhỏ đựng những của cải giá trị cao.

Những người ngụ cư còn nhìn thấy hồi lâu con tàu ở sâu dưới biển qua tầng nước dày. Dưới ánh sáng của những ngọn đèn điện mạnh, làn nước biển lấp lánh một màu trong xanh, trong khi cái hang động lấy lại hình ảnh một hầm mộ đen ngòm. Nhưng cuối cùng, quầng sáng rực rỡ của tàu cũng mờ dần, và Nautilus trở thành chiếc quan tài của thuyền trưởng Nemo nằm bất động dưới đáy biển.

*

* *

Ngày đầu năm mới, năm 1869, được đánh dấu bằng một trận bão khủng khiếp. Sét đã nhiều lần đánh xuống đảo Lincoln. Một số cây cổ thụ bị đổ. Phải chăng tự nhiên đã thiết lập mối liên hệ trực tiếp giữa những cơn giông, bão với hiện tượng quái gở đang phát sinh trong lòng đất? Phải chăng những trận giông, bão này là sự phản ánh của những chuyển dịch đã xảy ra trong các tầng sâu của đảo Lincoln?

Ngày 3 tháng giêng, Harbert dậy từ lúc hừng sáng, chú đã lên cao nguyên Tầm nhìn để thắng xe cho một con la kéo, bỗng chú thấy trên miệng núi Franklin một cột khói lớn phun thẳng. Harbert vội vàng báo cho những người khai khẩn khác biết. Họ cũng đã lên ngay cao nguyên và bắt đầu chăm chú nhìn về hướng núi.

- Ừ nhỉ! - Pencroff kêu lên - Lần này thì không phải là đơn giản là hơi nước nữa rồi! Tuồng như chàng dũng sĩ của chúng ta không những thở, mà lại còn hút thuốc nữa!

Cyrus Smith chăm chú quan sát những cụm khói từ miệng Franklin phun ra. Rồi ông bước đến chỗ các bạn mình và nói:

- Các bạn của tôi, quả thật trong lòng hòn đảo đang xảy ra những biến động rất đáng lo ngại. Chúng ta sẽ không dối mình trước tình hình đó. Cái khối chất lỏng trong núi lửa không những đang ở trạng thái sôi, mà chúng đã bùng cháy, và có thể trong một tương lai không xa, chúng ta sẽ bị phún xuất đe doạ.

- Kệ nó, thưa ngài Cyrus! - Pencroff kêu lên - Chúng ta hoan nghênh hiện tượng này. Biết đâu, bỗng nhiên núi lửa lại phun cho chúng ta những loại quặng hữu ích và quý hiếm thì sao. Ngài đừng lo, chúng ta sẽ biết tận dụng tấm lòng tử tế của nó.

Nhưng, Cyrus Smith lắc đầu không tán thành cách khôi hài của Pencroff. Nét mặt ông bộc lộ rằng cá nhân ông không hi vọng sự tốt lành nào ở quá trình chuyển biến nhanh đến như thế của núi lửa.

- Tôi cảm thấy, - bỗng Ayrton nói (anh ta đã nằm, ghé tai xuống đất nghe ngóng), - tôi nghe có tiếng ầm ầm giống như có tiếng sấm rền vậy.

Những người ngụ cư chăm chú lắng nghe và phải thừa nhận Ayrton nói đúng. Tiếng ầm ầm có lúc kèm theo tiếng ồn ào dưới đất lúc mạnh lên, lúc lắng xuống - có cảm giác như trong lòng đất đang bị một cơn lốc dữ dội hoành hành. Tuy nhiên vẫn chưa nghe thấy những âm thanh điển hình của hiện tượng phún xuất phát nổ.

Đến tối, sau khi ăn xong, Cyrus Smith cùng Gédéon Spilett và Harbert đi lên cao nguyên Tầm nhìn. Bóng tối đã bao phủ mặt đất, nhưng lại thuận lợi cho nhiệm vụ của họ là xác định xem lẫn trong hơi và khói bao trùm quanh miệng, núi lửa đã phun ra những hạt nham thạch bị nóng chảy chưa.

- Miệng núi Franklin ngập lửa kìa? - Harbert chạy vượt lên mọi người, đến cao nguyên Tầm nhìn trước tiên, bỗng kêu lên.

- Các bạn có cảm thấy đất rung chuyển không? - Cyrus Smith hỏi.

- Thấy, - Gédéon Spilett trả lời - nhưng đó chưa phải là động đất thật sự.

- Tôi cũng không bảo là chúng ta đang bị hiện tượng động đất đe doạ - Cyrus Smith nhanh nhẹn đáp lại, - cầu trời tránh cho chúng ta cái tai hoạ ấy.

Gédéon Spilett không hỏi gặng nữa... và lát sau, bất chấp tiếng ầm ầm dưới đất mỗi lúc một to hơn và vang vọng khắp đảo, các cư dân trong Lâu đài Đá hoa cương đã thiếp đi trong giấc ngủ bình yên. Hừng sáng hôm sau, Ayrton và viên kỹ sư ngồi lên trên chiếc xe kéo được thắng một cặp la; chúng phóng nước kiệu đến khu chăn nuôi.

Ayrton chăm sóc đàn gia súc, còn Cyrus Smith thì đi ngược dòng suối Đỏ, đến nơi mà trước đây những người ngụ cư đã phát hiện ra nguồn hơn lưu huỳnh.

Bây giờ đây không phải chỉ có một luồng khói, mà là những mười ba luồng khói từ dưới đất phun lên rất mạnh. Rõ ràng là ở chỗ này vỏ trái đất đã phải chịu một áp lực bên trong rất khủng khiếp. Khi nghiên cứu sườn phía bắc của núi Franklin viên kỹ sư cũng gặp một cảnh tượng như vậy, có khi còn rõ ràng hơn ở khu vực suối Đỏ.

Sau đó, viên kỹ sư trở lại khu chăn nuôi, vừa đi vừa lắng nghe tiếng ầm ầm dưới mặt đất giống như những chuỗi sấm rền liên tục; thỉnh thoảng lại vang lên những tiếng nổ lớn như đạn pháo. Mười giờ, ông đã có mặt ở khu chăn nuôi.

Ayrton đợi ông ở đó.

- Tôi đã cho súc vật ăn rồi. Những con vật bồn chồn thế nào ấy, thưa ngài Smith - Ayrton nói.

- Chúng có linh tính đấy, mà linh tính súc vật thì không sai đâu.

- Thế bây giờ...

- Anh mang theo đèn và bật lửa, Ayrton, - viên kỹ sư đáp - và đi theo tôi.

Ayrton làm theo lệnh của viên kỹ sư.

Hai người cùng đi đến hang Dakkar theo một con đường mòn hẹp. Họ đi tựa hồ như trên một lớp bông, toàn bộ mặt đất phủ kín những hạt bụi nhỏ li ti trên trần hang rơi xuống.

Thật dễ hiểu, trong những điều kiện như thế thì Cyrus Smith và Ayrton không thể rảo bước được. Tuy vậy, chẳng bao lâu họ cũng lần xuống được tới cửa hang Dakkar.

- Chiếc thuyền còn ở đây chứ? - viên kỹ sư hỏi.

- Vâng. - Ayrton trả lời và kéo chiếc thuyền gọn nhẹ mà anh cùng với Pencroff đã giấu dưới vòm hang đá baran.

- Thế thì ta đi thôi.

Cả hai người ngồi trong thuyền và bơi đi. Ayrton đặt đèn ở mũi thuyền để rọi đường... Họ bơi dọc theo các thành hang bên phải. Một lát sau, viên kỹ sư đã phân biệt rõ tiếng ầm ầm từ trong lòng đất dội lên.

- Đấy là núi lửa đang hoạt động! - ông nói.

Chẳng bao lâu, hòa vào tiếng ầm ầm dưới đất là mùi hăng hắc của các hợp chất hoá học bốc hơi.

- Thuyền trưởng Nemo sợ chính cái điều này đây! - Cyrus Smith lẩm bẩm, và gương mặt ông hơi tái đi. - Dẫu sao chúng ta cũng phải tới đích.

Chừng độ hai mươi lăm phút sau, kể từ lúc bắt đầu bơi, con thuyền đã đến cuối hang và dừng lại. Cyrus Smith soi đèn vào từng phần của bức thành ngăn cách hang với miệng núi lửa. Không thể đoán được độ dày của bức thành hang là bao nhiêu. Nhưng chắc gì thành hang quá dày bởi vì tiếng ầm ầm dưới lòng đất ở đây nghe rõ mồn một.

Sau khi khảo sát theo đường ngang, viên kỹ sư lại soi đèn dọc theo thành đá badan, cố rọi sáng phần trên của nó.

Ở đó, ông thấy có khói như hắc ín toả ra qua các kẽ nứt, đầu độc bầu không khí trong hang. Toàn bộ bức thành đá đều nham nhở bởi những vết nứt, một số trong đó, nhất là những vết nứt nổi rõ tren mặt đá badan bằng phẳng, đã lan xuống gần sát tận nước. Cyrus Smith đứng trầm ngâm. Sau đó, Ayrton thoáng nghe thấy ông lẩm bẩm:

- Đúng, thuyền trưởng Nemo đã nói đúng! Ở đây hang động tiềm ẩn một nguy cơ thật khủng khiếp!

Ayrton không hỏi gì. Theo hiệu lệnh bằng tay của Cyrus Smith, anh ta lại chèo thuyền đi, và nửa giờ sau họ ra khỏi hang.

*

* *

Sau khi làm việc cả ngày ngoài khu chăn nuôi và tin chắc rằng công việc ổn thoả, Cyrus Smith và Ayrton đã ngủ đêm tại đó và sáng ngày 8 tháng giêng họ trở về Lâu đài Đá hoa cương.

Ngay lập tức, viên kỹ sư triệu tập các bạn thông báo với họ rằng hòn đảo đang bị đe doạ bởi một nguy cơ lớn mà không có sức mạnh nào của con người có thể ngăn nổi.

- Các bạn, - ông nói, giọng lộ rõ sự xúc động sâu sắc, - hòn đảo Lincoln không thuộc một trong số những hòn đảo mà cấu tạo địa chất có thể tồn tại lâu dài với toàn trái đất. Nó không tránh khỏi sự phá huỷ đang tới gần, nguyên nhân sự diệt vong nằm ngay trong chính bản thân nó và không có gì cứu vãn.

Những người ngụ cư đưa mắt nhìn nhau, rồi ngơ ngác nhìn Cyrus Smith - họ không hiểu hết ý nghĩa của những lời ông nói.

- Hãy giải thích rõ hơn, Cyrus - Gédéon Spilett nói.

- Tôi sẽ giải thích ngay bây giờ, - Cyrus Smith trả lời - Tôi sẽ truyền đạt lại cho các bạn biết điều mà thuyền trưởng Nemo dã nói riêng với tôi trong cuộc trao đổi ngắn lần cuối cùng của chúng tôi. Trước khi chết, ông ấy còn muốn giúp đỡ chúng ta bằng một lời tiên tri khủng khiếp.

- Nhưng thuyền trưởng Nemo đã nói gì với ông vậy? - nhà báo hỏi.

- Các bạn biết không, - viên kỹ sư trả lời - hòn đảo Lincoln có cấu tạo khác với những hòn đảo ở Thái Bình Dương: Lớp vỏ trái đất ở đây quá mỏng, do vậy phần đất ngầm của nó sớm muộn thế nào cũng phải sụp đổ... thuyền trưởng Nemo đã nhận định như thế và bản thân tôi ngày hôm qua cũng xác minh lại được điều này sau khi xem xét hang Dakkar. Cái hang ở dưới hòn đảo, thông tới sát dòng núi lửa và chỉ cách lò lửa trung tâm một bức tường nối liền nhau. Nhưng toàn bộ bức tường ấy đã bị rạn nứt và khí sunfuarơ hình thành bên trong núi lửa đã lọt qua những kẽ nứt đó.

Đêm 23 rạng ngày 24 tháng, dưới áp lực của phún thạch đã dâng lên đến tận miệng núi lửa, đỉnh núi hình chóp, nom giống như một cái nón, đã bị bật tung ra. Tiếng ầm ầm vang lên không thể tưởng tượng nổi. Những người ngụ cư tưởng đảo bị sup lở nên đã lao ra khỏi Lâu đài Đá hoa cương.

Lúc ấy là hai giờ đêm.

Cả bầu trời ngập trong biển lửa. Miệng núi lửa bây giờ đã hoác rộng ra, phun lửa lên trời đỏ rực. Dòng phún thạch chảy tràn theo các sườn núi, trông như hàng ngàn con rắn lửa khổng lồ.

- Khu chăn nuôi! Khu chăn nuôi! - Ayrton kinh hoàng kêu lên.

Đúng là phún thạch đã chảy về phía khu chăn nuôi, do đó sẽ huỷ diệt mất phần đất màu mỡ của đảo. Đáp lại lời của Ayrton, mọi người lao vào chuồng la. Trong nháy mắt họ đã thắng xong xe kéo. Tất cả đều chung một ý nghĩ: phóng ra khu chăn nuôi, thả đàn gia súc bị nhốt ở đó ra.

Một giờ sau, cả khu chăn nuôi ngập tràn phún thạch, căn nhà Ayrton bị cháy, hàng rào bị lửa thiêu huỷ. Khu chăn nuôi không còn sót lại một thứ gì nữa!

Đã sang ngày 24 tháng giêng. Trước khi trở về Lâu đài Đá hoa cương, Cyrus Smith và các bạn của ông đã quyết định xem xét hướng phún thạch cuối cùng sẽ chảy về đâu. Bắt đầu từ núi Franklin, bề mặt đảo dốc về bờ biển phía đông, vì vậy họ cho rằng dòng phún thạch sẽ chảy đến cao nguyên Tầm nhìn.

- Hồ nước sẽ bảo vệ chúng ta. - Gédéon Spilett nói.

- Hi vọng như thế! - Cyrus Smith đáp lại gọn lỏn.

Cyrus Smith không bao giờ mất bình tĩnh trong những hoàn cảnh hiểm nghèo. Ông biết rằng trước mắt ông là những con người có khả năng chấp nhận sự thật cay đắng nhất, và ông đã nói:

- Có thể là hồ nước sẽ chặn đứng dòng phún thạch. Nếu vậy thì một phần hòn đảo sẽ thoát khỏi cảnh phá hoại hoàn toàn, nhưng cũng rất có thể là phún thạch sẽ chảy tràn lan sang các khu rừng Viễn Tây, huỷ hoại hết thảy cây cối trong rừng và trên đảo sẽ không còn lại ngọn cỏ nào. Khi ấy tử thần sẽ đợi chúng ta trên các vách đá trần trụi, và không phải đợi lâu đâu, bởi vì hòn đảo sẽ nổ tung giữa trời.

Đúng lúc ấy, dòng phún thạch len giữa những hàng cây đẹp đẽ đã bị nó thiêu huỷ, lấn dần đến hồ nước. Trên đường nó gặp một cái gò nhô cao lên, giá mà cái gò đó dựng đứng và cao hơn thì nó đã chặn được dòng phún thạch.

Những người ngụ cư ngây người ra đứng nhìn cảnh vật lộn diễn ra trước mặt họ giữa hai lực lượng tự nhiên - lửa và nước. Những dòng phún thạch sôi sục chảy xuống hồ, thế là nước xèo xèo bốc thành hơi. Những cụm hơi trắng bốc lên rõ cao, xoáy tít như một cơn lốc, giống như có ai đó xả van chiếc nồi hơi khổng lồ ra. Nhưng, dù lượng nước trong hồ nhiều đến đâu thì cuối cùng lửa cũng hút khô, bởi vì nước cạn đi không được bổ sung, còn con sông lửa khủng khiếp có nguồn mạch lửa vô tận tiếp thêm thì không ngừng tuôn ra những lớp sóng dung nham mới.

Đêm ngày 8 rạng ngày 9 tháng ba, từ miệng núi lửa một cột khói đã bùng phát ầm ầm như sấm dậy và bốc lên cao trên ba ngàn bộ. Hẳn là thành hang Dakkar đã bị sụp xuống dưới áp suất của khí sunphat bị nén, nước biển đã ùa vào lò lửa trung tâm của núi lửa và khí đã không tìm được lối thoát tự do nữa. Một tiếng nổ với sức mạnh khủng khiếp đã vang lên, cách xa cả trăm hải lý cũng nghe thấy. Những mảnh đá bay tung, rơi xuống đại dương, và vài phút sau, nước biển phủ kín nơi vừa mới đây còn là hòn đảo Lincoln.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro