Hon dao bi mat 6-11

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 6: Gặp lại khinh khí cầu

*

* *

Ngày 29 tháng mười, Pencroff đã giữ đúng lời hứa và trong năm ngày đã đóng xong chiếc thuyền bằng vỏ cây, thân được gắn kết bằng những cành cây mền dẻo. Một chiếc thang đặt ở đuôi thuyền, thang giữa được gia cố hai bên mạn thuyền, thang thứ ba ở mũi thuyền để làm cọc chèo. Thuyền còn được trang bị hai mái chèo, mái chèo ở đuôi dùng để lái. "Con tàu nhỏ" ấy dài mười hai bộ và trọng lượng không quá hai tạ. Hạ thuyền xuống nước chẳng khó khăn gì. Con nước lên đã tự nâng nó. Pencroff nhảy phắt vào thuyền, thử lái bằng mái chèo ở đuôi và tin chắc rằng con thuyền đạt yêu cầu.

- Hoan hô! - chàng thuỷ thủ kêu to, được thể khoe khoang sự thành công của mình - Chúng ta có thể ngồi lên chiếc thuyền này đi du lịch vòng quanh...

- Thế giới? - Gédéon Spilett nói hòa theo.

- Không, vòng quanh đảo... Nào, các bạn, trèo lên, xem con tàu mới của chúng ta có chịu trọng lượng của năm người không!

Thế là tất cả ngồi vào thuyền, phân công nhau bơi. Họ bơi xa khỏi bờ để nhìn thấy hết tầm núi Franklin, rồi vòng trở lại cửa sông. Họ bơi như vậy được ba phần tư giờ; con thuyền đã gần đến cuối mũi đảo, và Pencroff đã định bơi vòng qua đó thì bỗng Harbert chồm lên và chỉ tay vào một chấm đen nào đó kêu to:

- Có cái gì đó ở trên bãi cát đằng kia kìa!

Mọi người nhìn về hướng đó.

- Đúng, ở đấy có cái gì thật. - chàng nhà báo nói.

- Chà! - Pencroff kêu to - Thế mà tôi lại biết đó là cái gì đấy.

- Cái gì vậy? - Nab hỏi.

- Một cái thùng phuy! Thùng phuy - và khả năng đó là những thùng phuy chứa đầy hàng! - chàng thuỷ thủ đáp.

Con thuyền cập vào bờ...

Pencroff đã không lầm. Trên bờ là hai cái thùng phuy bị cát vùi đến lưng chừng và buộc chặt vào một cái hòm to nổi trên mặt nước.

- Không nhẽ gần hòn đảo của chúng ta lại xảy ra một tai nạn đắm tàu? - Harbert hỏi.

- Có lẽ! - Gédéon Spilett trả lời.

- Trong hòm có cái gì nhỉ! - Pencroff sốt ruột kêu lên - Hòm đóng kín, lại chẳng có gì để cạy nắp ra!

Chàng thuỷ thủ đã định lấy hòn đá to đập vào thành hòm, nhưng viên kỹ sư ngăn lại, ông yêu cầu mọi người buộc các thứ tìm được vào thuyền, kéo về Lâu đài Đá hoa cương để mở ra và kiểm tra.

Tất cả những người khai khẩn thật là vui sướng, bởi trong hòm có đủ các loại dụng cụ: dao, rìu, bào, đục, dũa, cưa, khoan, đinh ốc, đinh vít; nhiều loại vũ khí khác nhau. Súng săn, súng cabin, kèm theo nhiều đạn dược; các loại khí cụ, máy lục phân, ống nhòm, dụng cụ vẽ, địa bàn, nhiệt kế Fahrenheit, phong vũ biểu, một chiếc máy ảnh kèm theo các dụng cụ, phụ tùng cần thiết như: ống kính, phim, giấy và hoá chất in phóng ảnh; nhiều quần áo vải và bít tất; đủ các loại dụng cụ nấu ăn: nồi, xoong, đồ dùng bằng nhôm, bình trà, dao. Và sách gồm nhiều cuốn: thánh kinh, tập bản đồ, từ điển thổ ngữ Polinesia, bách khoa toàn thư khoa học tự nhiên gồm sáu tập, giấy viết và sổ sách.

Sau khi thống kê xong, chàng nhà báo nói:

- Chủ của chiếc hòm này là người biết lo xa không chê vào đâu. Ở đây chẳng còn thiếu thứ gì. Quả thật cỏ thể nghĩ rằng ông ta đã đợi tai nạn đắm tàu và đã chuẩn bị trước!

Trong ngày, những người khai khẩn đã chuyển hết các thứ đồ họ bắt được vào Lâu đài Đá hoa cương và xếp cẩn thận trong phòng lớn.

*

* *

Sang ngày hôm sau, 30 tháng mười, những người ngụ cư chuẩn bị lên đường. Bây giờ, sau tất cả những gì mới xảy ra, việc nghiên cứu đảo không thể trì hoãn được.

Gédéon Spilett đề nghị khảo sát đảo để giải quyết dứt khoát vấn đề ở đây đã có xảy ra tai nạn đắm tàu không.

Ba giờ chiều, họ đến một vịnh hẹp, kín, là một bến cảng thiên nhiên tốt. Mọi người lên bờ, ăn trưa, rồi hết sức chăm chú nhìn qua ống nhòm quan sát vùng duyên hải cần nghiên cứu, bắt đầu từ bờ cát tới các dải đá ngầm, nhưng không phát hiện thấy dấu vết vụ tai nạn đắm tàu nào.

- Vậy thì kết luận thế nào đây? - chàng nhà báo hỏi.

- Kết luận là thế này - viên kỹ sư đáp - Khoảng ba tháng trước, có một con tàu lạ đã cố ý hoặc bị bắt buộc ghé vào đây...

- Thế nghĩa là, thưa ngài Cyrus, ngài cho rằng con tàu đã biến mất tăm? - nhà báo hỏi.

- Không, Spilett thân mến, nhưng anh hãy đồng ý rằng bây giờ nó không còn ở đây nữa.

- Nghĩa là, thưa ngài Cyrus, nếu cháu hiểu ngài đúng thì con tàu đã bơi đi mất rồi? - Harbert nói.

- Có lẽ!

- Nếu đã lỡ cơ hội rồi thì ta về thôi! - Pencroff nói, anh chàng đã bắt đầu nhớ Lâu đài Đá hoa cương.

Nhưng anh vừa đứng dậy thì thấy có tiếng con Top sủa vang. Con chó từ trong rừng phóng ra, răng ngoạm một miếng gì bẩn thỉu. Nab giật miếng ấy ra khỏi mõm con chó. Anh nhận thấy đó là một mảnh vải gai.

Con Top sủa đầy kích động, nó chạy, nhảy như mời ông chủ đi theo nó vào rừng.

- Biết đâu lời giải đáp về viên đạn chì ở đó cũng nên! - Pencroff thốt lên.

Và tất cả đều đi theo con chó, họ lách giữa những cây thông cao dựng thành bức tường ở cửa rừng. Cyrus Smith và các bạn của ông đều lên đạn súng, đề phòng mọi sự bất trắc.

Những người khai khẩn đi sâu vào rừng, nhưng họ đã thất vọng, họ không phát hiện thấy dấu chân người.

- Mày làm sao thể Top? - Cyrus Smith hỏi.

Con Top càng sủa càng to hơn và chạy nhảy loăng quăng bên cạnh một gốc cây thông khổng lồ cành lá xum suê.

- Tuyệt thật! Ra thế đấy! - Bỗng Pencroff reo lên.

Và chàng thuỷ thủ chỉ tay lên một mảnh vải lớn có màu trắng trên ngọn thông: con Top có lẽ đã tha về cho họ miếng vải rách, rơi dưới đất.

- Không nhẽ đó là...

- Phải rồi, đó là tất cả những gì còn lại của quả khí cầu bay, khi nó bị mắc trên cành cây.

Pencroff đã không lầm và lại kêu lớn lên: Hoan hô!

- Thế là lại có thứ vải tuyệt diệu nữa! Chúng ta sẽ có vải may quần áo mặc trong nhiều năm liên tiếp! Chúng ta sẽ may khăn tay và áo! Thế nào, thưa ngài Smith, ngài sẽ nói gì về hòn đảo có vải bọc trên cây?

Họ quyết định giữ gìn vỏ khí cầu để sau này nếu cần sẽ du hành trên không, hoặc dùng vài trăm vuông vải sợi tốt vào việc có ích, sau khi đã khử hết dầu trong vải. Dĩ nhiên mọi người đã chia sẻ niềm vui của Pencroff.

Nhưng cần phải hạ vỏ khí cầu từ trên cây xuống và cất giấu vào một nơi chắc chắn. Tiến hành việc đó không phải dễ dàng. Nab, Harbert và chàng thuỷ thủ đã leo lên ngọn thông và loay hoay mất hơn hai giờ mới hạ được xuống đất vỏ khí cầu cùng với van khí, lò xo, các bộ phận bằng đồng, lưới, các dây cáp.

Đêm xuống dần. Những người ngụ cư quyết định để thuyền lại, đi bộ trở về lâu đài. Khi các khách bộ hành của chúng ta về đến mũi Tìm thấy, nơi họ phát hiện ra thùng đồ quý báu, trời đã bắt đầu tối. Cả ở đây nữa họ cũng không tìm thấy dấu vết tàu đắm và đành phải đồng ý với kết luận của Cyrus Smith đã rút ra.

Từ mũi Tìm thấy đến Lâu đài Đá hoa cương còn bốn dặm nữa. Họ đi men theo bờ biển và về đến khúc sông Tạ ơn thì đúng nửa đêm. Khúc sông ở đây rộng tám mươi bộ, nhưng vượt qua không phải dễ dàng.

Trong lúc Pencroff và Nab đóng bè để qua sông thì Cyrus Smith và Gédéon Spilett ngồi đợi, cần gì thì giúp, còn Harbert đi dạo ngược dòng ngay lúc đó.

Bỗng chú chạy trở lại và chỉ xuống sông kêu lên:

- Xem kìa! Cái gì dưới đó vậy?

- Ê, thuyền kìa! - Pencroff kêu theo thói quen của một chàng thuỷ thủ.

Không một lời đáp lại! Con thuyền vẫn tiến gần, và khí nó còn cách họ chừng mười hai bước, chàng thuỷ thủ kinh ngạc thốt lên:

- Ơ, thuyền của ta đây mà! Nó bị đứt neo, nên nó mới trôi xuôi dòng. Thật đúng lúc ghê!

- Thuyền của ta ư? - kỹ sư lẩm bẩm.

Nab và chàng thuỷ thủ đã khéo léo dùng một cái sào dài móc chiếc thuyền vào bờ.

Viên kỹ sư nhảy xuống thuyền trước tiên, túm lấy sợi dây neo, sờ nắn và tin chắc là nó đã bị cứa vào vách đá đứt thật. Chàng nhà báo khẽ nói với ông:

- Tôi cho đây là một trường hợp...

- Rất lạ kì! - Cyrus Smith nói nốt ý của chàng nhà báo.

Dẫu sao thì sự ngẫu nhiên này cũng là một dịp may! Mọi người xuống thuyền. Họ không nghi ngờ rằng dây neo bị cắt đứt! Kì lạ hơn con thuyền đã xuất hiện đúng lúc và những người ngụ cư ở trên bờ có thể tóm được nó. Chứ chậm một lát nữa thôi là nó trôi hút ra biển mất rồi.

Sau mấy nhịp chèo những người khai khẩn đã trở về đến cửa sông Tạ ơn. Họ lôi thuyền lên bờ cát gần Hang ngụ cư, và tất cả đi về chỗ thang dây của Lâu đài Đá hoa cương.

Nhưng bỗng con Top bắt đầu sủa dữ dội, còn Nab thì mò mẫm tìm bậc thang thứ nhất và hét lên kinh hoàng.

Thang dây đã biến mất.

*

* *

Cyrus Smith im lặng dừng lại. Các bạn của ông sờ soạng tìm trong đêm tối bức tường đá hoa cương. Thoạt đầu họ tưởng gió đã thổi bay chiếc thang đi, sau họ lại cho rằng thang bị đứt, nên tìm mãi trên mặt đất. Nhưng chiếc thang dây đã không còn ở đó nữa.

- Tôi bắt đầu nghi ngờ rằng trên đảo Lincoln đang xảy ra những việc kì quái! - Pencroff càu nhàu.

- Các bạn, - Cyrus Smith lên tiếng - chúng ta chỉ còn mỗi một cách. Đợi đến sáng và lúc đó thì tùy tình hình mà hành động. Còn tạm thời chúng ta hãy về Hang ngụ cư, nhịn đói bữa tối đi ngủ vậy.

Nói thế chứ làm sao mà chợp mắt được. Lâu đài Đá hoa cương đâu phải chỉ là chỗ ở, mà còn là kho chứa các tài sản của họ: vũ khí, dụng cụ, khí cụ, đạn dược...

Trời vừa hửng sáng, những người khai khẩn trang bị đủ lệ bộ trở lại Lâu đài Đá hoa cương. Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là có ai đó đã lọt vào lâu đài của họ.

Đoạn thang trên bậu đá dẫn lên cửa ra vào vẫn còn nguyên tại chỗ, thế nhưng đoạn thang dưới đã bị ai đó kéo lên tận thềm cửa. Rõ ràng là những người xộc vào nhà đã tìm cách đề phòng mọi chuyện bất ngờ.

Harbert nảy ra ý tưởng buộc dây vào mũi tên bắn lên, sao cho mũi tên xuyên qua những thanh ngang phía dưới thềm cửa, rồi khẽ kéo sợi dây - thang rơi xuống đất, khi đó họ sẽ trèo lên Lâu đài Đá hoa cương.

Mũi tên bay trúng đích. Công việc đã tiến hành xong. Harbert chụp ngay lấy đầu dây, trong khoang cửa thoáng xuất hiện cánh tay của ai đó túm lấy chiếc thang và kéo nó trở lại Lâu đài Đá hoa cương.

- Ai thế nhỉ? - Nab hỏi.

- Đó là con khỉ đấy! Bầy khỉ đã chiếm nhà của chúng ta rồi. Chúng đã leo lên thang dây trong lúc chúng ta đi vắng.

Đúng lúc ấy, như thể khẳng định lời chàng thuỷ thủ là đúng, ba, bốn con vật bốn chân thò đầu ra cửa sổ, mếu môi, nhăn mặt như muốn chào các du khách theo kiểu của mình.

- Tôi đã biết mà, tất cả những chuyện này là trò giễu cợt của kẻ nào đó thôi, - Pencroff thét lên - Hãy cho một tên cợt nhả ấy trả giá cho tất cả bọn chúng.

Chàng thuỷ thủ nâng súng lên, ngắm nhanh và bóp cò. Bầy khỉ biến mất, chỉ còn một con bị thương rơi xuống bờ cát.

- Chẳng nhẽ không còn cách gì lên được trên đó hay sao? - Pencroff sốt ruột thốt lên.

- Có một cách. - viên kỹ sư nói, có lẽ ông đã nghĩ ra được điều gì. Một lát sau ông nói tiếp. - Ta thử lần theo đường thoát nước cũ để xuống Lâu đài Đá hoa cương xem.

Họ đi chưa đầy năm chục bước đã nghe tiếng con Top sủa vang gọi lại. Mọi người vội vã chạy về theo hướng bờ sông và thấy bầy khỉ hoảng hốt lao đến các cửa sổ. Năm sáu con đã trở thành mục tiêu cho họ nổ súng. Những con bị thương và chết rơi vào các phòng. Những con còn lại liều mạng nhảy xuống đất. Mấy phút qua, hình như trong Lâu đài Đá hoa cương không còn con khỉ nào nữa.

Vừa lúc ấy, họ thấy chiếc thang được tuồn từ phía sau ngưỡng cửa ló ra và rơi xuống.

- Tuyệt thật! - chàng thuỷ thủ kêu to, ngó sang Cyrus Smith.

- Đúng, tuyệt thật! Nhưng đâu phải là quá đáng? - kỹ sư lẩm bẩm và là người đầu tiên leo lên thang dây.

- Hãy cẩn thận đấy, ngài Cyrus! - Pencroff kêu - Có thể lũ khỉ còn ở trên ấy.

- Bây giờ ta sẽ thấy. - kỹ sư nói, không dừng lại.

Các bạn ông bắt đầu trèo theo và một phút sau họ đã lên đến ngưỡng cửa. Họ lục soát khắp nhà. Không thấy ai trong các phòng ở lẫn nhà kho.

- Thế việc ném cho ta chiếc thang dây thì giải thích sao nhỉ? - chàng thuỷ thủ nhận xét - Bậc quân tử nào đã thả nó xuống?

Vừa lúc ấy có tiếng kêu vang lên và một con khỉ lớn trốn ngoài hành lang lao vào phòng, Nab đuổi theo sau nó.

- À, mày là tên cướp! - Pencroff thét lên.

Anh vùng rìu định bổ vỡ sọ con vật, nhưng Cyrus Smith ngăn lại.

- Hãy thương hại con khỉ, Pencroff!

Mọi người lao đến chỗ con khỉ, nó chống cự một cách dữ tợn, nhưng nó đã bị đè xuống và người ta trói chặt nó lại.

- Ôi chao! - Pencroff thở hồng hộc - Thế chúng ta biết làm gì với nó bây giờ?

- Cho nó làm việc phục dịch! - Harbert trả lời.

Khi nói điều ấy chú bé không định đùa bỡn, chú biết một con khỉ thông minh có thể đem lại ích lợi như thế nào.

Thế là trên đảo lại xuất hiện thêm một người khai khẩn nữa, mà sau này nó đã đóng góp nhiều công lao cho mọi người. Theo đề nghị của chàng thuỷ thủ, và để kỷ niệm về một con khỉ mà đã có dịp nào đó trong đời anh đã biết đến, anh gọi nó là Jupiter, mọi người đồng ý đặt cho thành viên mới cái tên tắt là "Jup".

Chương 7: Việc sản xuất thuốc súng

Thế là những người khai khẩn ở đảo Lincoln đã giành lại được chỗ ở của mình.

Phần cuối ngày họ đã đem các xác vượn vào rừng chôn; sau đấy họ thu dọn lại trật tự trong nhà đã bị các vị khách không mời mà đến làm đảo lộn lung tung, nhưng hầu như không bị phá phách cái gì. Nab dùng các thứ dự trữ trong kho nấu bữa ăn trưa ngon lành.

Jup không bị lãng quên. Chú được ăn ngon lành những vật bá hương, và các loại quả củ. Pencroff cởi dây trói ở tay cho chú, nhưng quyết định không cởi dây trói ở chân cho đến khi tin chắc rằng chú biết nghe lời mọi người.

Trước khi đi ngủ, Cyrus Smith và các bạn của ông ngồi bàn một số kế hoạch cần phải thực hiện nhanh chóng hơn.

Họ thấy việc quan trọng và cấp bách nhất là bắc một cây cầu qua sông Tạ ơn, kế đến là xây dựng một trại nuôi cừu và các giống vật khác mà họ đã quyết định thuần hoá.

Sau khi thực hiện hai kế hoạch đó, những người khai khẩn sẽ giải quyết được vấn đề bức bách nhất là may sắm quần áo.

Cyrus Smith dự định xây dựng trại chăn nuôi gia súc ở cạnh nguồn suối Đỏ, trên núi tha hồ có cỏ tươi non. Con đường giữa cao nguyên Tầm nhìn và nguồn suối Đỏ hầu như đã được hình thành, còn khi nào đóng được chiếc xe kéo hoàn thiện thì việc di chuyển của họ sẽ đỡ vất vả hơn, nhất là nếu họ bắt được con vật nào đó có thể dùng để kéo xe. Nab nhận phần tìm bắt gia súc hoang và thuần hoá nó thành vật nuôi. Để tiện cho việc chăm sóc gia súc của Nab, chuồng nuôi gia súc cần được đặt gần nguồn nước. Họ đã quyết định thử thuần hoá một cặp chim gấu đuôi gồm một con trống và một con mái mới bắt được trong một chuyến đi thám hiểm gần đây. Kỹ sư cũng làm chuồng để nuôi bồ câu rừng.

Sáng ngày 3 tháng mười một. Tất cả những người khai khẩn đều phải tham gia vào công việc quan trọng là xây dựng chiếc cầu qua sông Tạ ơn. Từ Lâu đài Đá hoa cương tới cảng Khí cầu chỉ có ba dặm rưỡi, giữa hai điểm ấy làm một đường cho xe kéo đi chẳng khó khăn gì.

Công việc tất nhiên là phức tạp, sông ở đây rộng tám mươi bộ. Ở phần cần cố định họ phải đóng cọc, các nhà xây dựng đã dùng cọc để làm móng cầu, do đó cầu có thể chịu được trọng tải lớn.

May sao, họ không thiếu thứ gì, kể cả dụng cụ, lẫn đinh và óc sáng tạo. Viên kỹ sư am hiểu công việc, còn các bạn của ông sau báy tháng qua cũng tiếp thu được nhiều kỹ năng lao động và bây giờ đã giúp đỡ ông một cách sốt sắng có hiệu quả.

Vừa làm Cyrus Smith vừa trao đổi với các bạn về một kế hoạch mà ông đã nghĩ tới từ lâu. Thực hiện kế hoạch đó rất dễ và nó sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho cả vùng di dân. Kế hoạch đó là ngăn cách cao nguyên Tầm nhìn với thế giới bên ngoài, bảo đảm cho nó được an toàn, tránh được sự tấn công của kẻ thù bốn chân trên đảo. Như vậy, Lâu đài Đá hoa cương, Hang ngụ cư, sân nuôi gia cầm và toàn bộ phần trên của cao nguyên dự tính dùng để gieo trồng đều được bảo vệ khỏi những kẻ phá hoại đột nhập.

Cao nguyên đễ được ngăn cách sẵn từ ba phía bởi hồ nước và một con sông nhân tạo và một con sông tự nhiên.

Ở phía Tây Bắc, hồ Grant trải rộng mênh mông, bờ hồ đi từ vịnh nhỏ, chỗ đường thoát nước cũ, tới nơi được phá bằng mìn ở bờ phía Đông.

Từ chỗ được phá này, ở phía Bắc của cao nguyên đã hình thành một thác nước đổ xuống biển. Dòng nước tiếp tục chảy theo sườn núi và bờ cát. Chỉ cần đào sâu dòng suối nhân tạo này trên suốt đường chảy của nó là họ sẽ có một đường ngăn thú dữ.

Dọc theo suốt mé đông cao nguyên từ con suối dẫn lên đến cửa sông Tạ ơn đã có biển bảo vệ.

Cuối cùng, phía nam cao nguyên được án ngữ bởi hạ nguồn sông Tạ ơn, từ cửa sông tới chỗ uốn khúc, nơi những người khai khẩn đảo đang định bắc cầu.

Như vậy là chỉ còn lại có mé tây cao nguyên, giữa chỗ sông uốn khúc và bờ hồ phía Nam, đoạn này dài chừng một dặm, trống trải, có nguy cơ bị bất kì cuộc xâm nhập nào. Những người khai khẩn đảo đào một cái hào rộng và sâu, dẫn nước hồ vào, làm một đường thoát nước thứ hai, nhưng lần này thì thoát ra phía sông Tạ ơn. Tất nhiên, mực nước trong hồ sẽ vì vậy mà hạ thấp xuống, nhưng Cyrus Smith đã trù tính rằng con suối Đỏ sẽ cung cấp đủ lượng nước để thực hiện ý định của ông.

Cyrus Smith đã vẽ bản đồ cao nguyên để giải thích rõ hơn tất cả những điều ông phác hoạ trong đầu cho các bạn của mình nghe, và họ hiểu ngay ý đồ của ông, họ nhất trí tán thành kế hoạch ấy.

Suốt ba tuần liền, họ miệt mài thậm chí ăn cơm trưa ở ngay nơi làm việc. Thời tiết tốt nên chỉ đến bữa tối họ mới quay về.

Ngày 20 tháng mười một, họ hoàn thành việc xây dựng cầu.

- Đã đến lúc chuẩn bị gieo lúa mì vụ hai! - một hôm chàng thuỷ thủ kêu to với một vẻ quan trọng.

Tháng mười hai rất oi bức, nhưng mọi công việc vẫn được tiến hành theo kế hoạch. Mọi người đã nhắc đến việc đi chở vỏ khí cầu về. Chiếc xe ba gác đã được đóng sửa lại nên thuận tiện hơn và nhẹ nhàng hơn. Nhưng cần phải tìm ra sức kéo mới được.

Ngày 23 tháng mười hai, những người khai khẩn đang làm việc ở Hang ngụ cư, bỗng nhiên thấy vang lên những tiếng kêu la của Nab và tiếng sủa vang của Top. Mọi người chạy lại phía có tiếng kêu, sợ có tai nạn gì xảy ra.

Họ đã nhìn thấy hai con vật tuyệt đẹp lạc vào cao nguyên, - những chiếc cầu nhỏ đã được hạ xuống. Các con vật ấy, một con đực và một con cái giống những con la, lông màu hung nhạt, đuôi và chân màu trắng, còn đầu, cổ, mình sọc đen như ngựa vằn. Chúng thản nhiên bước lại gần, chẳng hề sợ hãi gì, và nhìn những người mà chúng chưa thừa nhận là chủ bằng những con mắt thông minh hiền hậu.

- Đúng, đây là những con la rừng! - Harbert kêu lên - Chúng thuộc loại súc vật được phối giống giữa ngựa vằn va lừa.

Chàng thuỷ thủ núp trong cỏ bò tới để khỏi làm những con vật hoảng hốt. Đến cây cầu nhỏ bắc qua suối Glixerin anh nâng đầu cầu lên, những con la rừng đã bị bắt làm "tù binh" một cách dễ dàng.

Mấy ngày đầu chúng vẫn được tự do gặm cỏ để quen dần. Sau đấy, những người chủ đã đóng chuồng và nhử chúng vào ở. Chẳng mấy chốc Pencroff đã thuần hoá được hai con vật. Chúng tự đến với họ. Chúng để cho mọi người đến gần, nhưng hễ thắng vào xe là chúng lồng lên. Tuy vậy, chẳng bao lâu sau, những con vật cũng chịu tuân phục số phận.

... Và đã đến ngày tất cả những người ngụ cư, trừ Pencroff đi trước dắt la, đều lên xe và đi ra cảng Khí cầu. Chiếc xe vẫn đi đến nơi một cách bình yên vô sự, và ngay hôm ấy những người khai khẩn đã chất vỏ và các bộ phận khác của khí cầu lên xe chở về. Tám giờ tối, họ dừng xe trước Lâu đài Đá hoa cương.

*

* *

Cả tuần thứ nhất của tháng giêng, những người ngụ cư dành thời gian để may áo quần cần thiết.

Chỉ thì không thiếu: Cyrus Smith đã đề nghị tận dụng chỉ tháo ở vỏ khí cầu ra.

Vải khí cầu đã được họ khử bỏ chất dầu bằng xút và bồ tạt điều chế từ tro. Sau khi khử, vải trở nên mềm mại và co giãn bình thường. Đem phơi nắng, nó bay màu và trắng ra. Cũng vào thời gian ấy, họ đã tự khâu lấy giày bằng da hải báo. Sáng kiến này rất đúng lúc, vì giày và ủng họ mang từ Mỹ đều đã rách nát cả. Đã sang năm 1866, thời tiết oi bức chưa bớt đi, nhưng việc săn bắn trong rừng vẫn được tiếp tục.

Cyrus Smith khuyên mọi người tiết kiệm đạn dược và đề ra một số biện pháp thay số thuốc súng và đạn tìm được trong hòm. Viên kỹ sư có thể làm được thuốc súng lắm, bởi vì ông đã có sẵn diêm tiêu, lưu huỳnh, than, những việc chế biến đòi hỏi hết sức cẩn thận, và không có các thiết bị đặc biệt khó làm được thuốc súng có chất lượng tốt.

Bởi vậy, Cyrus Smith ưa sản xuất thuốc súng bông hơn, tức là chất nổ thông thường làm bằng sợi bông. Tuy nhiên có thể không cần bông cũng được, bởi vì thực chất chỉ cần dùng chất xenlulo, mà xenlulo thì có rất nhiều trong các loại thực vật.

Còn một chất khác cần cho việc điều chế thuốc súng bông là axit nitric bốc khói. Cyrus Smith đã có axit sunfuric nên ông có thể dễ dàng thu được axit nitric bằng cách dùng axit sunfuric để xử lí diêm tiêu sẵn có trong thiên nhiên. Để được thuôc súng bông chỉ cần nhúng xenlulo vào axit nitric bốc khói trong một phần tư giờ, sau đó đem ra rửa và phơi khô.

Vào thời điểm ấy, những người ngụ cư đã vỡ hoang được ba acre đất trên cao nguyên Tầm nhìn, số đất còn lại họ dành làm các bãi chăn nuôi dê rừng. Đã mấy lần những người khai khẩn vào rừng lấy giống một số rau mọc hoang như diếp, củ cải, khoai tây... về trồng. Chẳng bao lâu, với sự chăm sóc khéo léo, các loại rau đều trở nên tốt tươi.

Các chuồng trại bây giờ đã được xây dựng vững chắc bằng ván, và những người ngụ cư bắt đầu những cuộc vây bắt những con vật nhai lại ở chân núi Franklin, trên các bãi cỏ. Không còn nghi ngờ gì nữa, đàn gia súc này sẽ ngày càng đông lên, bảo đảm thoả mãn lông và da cho những người khai khẩn.

*

* *

Ngay tuần lễ đầu tiên của tháng ba thời tiết đã thay đổi. Đầu tháng, trăng tròn vành vạnh, nhưng trời vẫn nóng bức không chịu nổi. Có cảm giác như không khí tích đầy điện, chắc chắn mùa mưa bão sẽ kéo dài khá lâu.

Thật vậy, ngày 2 tháng ba, sấm đã nổ rền vang. Gió đông nổi lên và cơn mưa đá hạt to bằng trứng chim bồ câu đã rơi thẳng vào cửa Lâu đài Đá hoa cương.

Tranh thủ lúc thời tiết xấu, những người khai khẩn làm công việc trong nhà, mỗi ngày họ làm thêm được một việc mới. Kỹ sư đã tạo ra được một cái máy tiện và tiện các đồ cho nhà bếp, phòng vệ sinh; ông làm khuy áo, giá súng, tủ, giá sách...

Pencroff lúc nào cũng khen ngợi con khỉ không tiếc lời:

- Jup của chúng ta bây giờ đã tài lắm! Ai cũng bằng lòng về nó, chẳng hề nghe chú ta chửi tục một tiếng bao giờ. Một người hầu phải tuyệt trần thế chứ phải không Nab!

- Học trò của tôi đấy. - Nab trả lời - Chú ta sắp theo kịp tôi rồi đó!

Quả thực là Jup hiểu thấu đáo trách nhiệm của mình. Chú rũ quần áo, trở que nướng thịt, quét nhà, phục vụ bàn ăn, xếp củi và điều đặc biệt làm cho Pencroff thán phục là trước khi ngủ bao giờ chú Jup cũng dọn giường cho chàng thuỷ thủ đáng kính.

Và thật thế, mọi người đều cảm thấy khoẻ khoắn lắm. Harbert sau một năm đã lớn. Gương mặt chú trở nên nghiêm nghị hơn, dũng cảm hơn, và nhìn chung thấy rằng chú sẽ thành một con người tốt, cả về thể lực và trí lực. Những lúc rảnh rỗi chú lao vào học tập.

Cyrus Smith giúp chú trang bị kiến thức về lĩnh vực khoa học, Gédéon Spilett giúp chú trang bị kiến thức về ngôn ngữ.

Kỹ sư tha thiết mong muốn truyền cho chú bé tất cả những gì ông biết, răn dạy chú bằng việc làm và lời nói; cái hay của Harbert là chú tiến bộ rất nhanh khi học với các thầy giáo của mình.

"Nếu ta chết, - Cyrus Smith nghĩ - chú nhóc sẽ thay ta!"...

Ngày 17 tháng ba, trước sự mãn nguyện của mọi người chiếc thang thuỷ lực lần đầu tiên đã hoạt động.

Cyrus Smith đã thực hiện lời hứa của mình. Dưới sự hướng dẫn của viên kỹ sư, những người khai khẩn đã mở rộng lỗ thoát nước cũ của hồ, cho nước chảy xuống giếng sâu thành một dòng thác. Sức nước đã làm quay bánh xe cuốn sợi cáp. Đầu cáp buộc một cái giỏ treo để đưa người hay hàng lên xuống.

Vào những ngày ấy Cyrus Smith còn thử chế tạo kính thuỷ tinh từ cát, đá phấn và xút. Công việc mới, nhưng ông đã tận dụng lò gốm cũ. Gédéon Spilett và Harbert dã giúp viên kỹ sư đắc lực trong việc thổi và cán thuỷ tinh. Và họ đã thành công, năm mươi tấm kính đã ra đời, được dùng để lắp vào cửa sổ, tuy không được trong lắm, nhưng đủ cho ánh sáng lọt qua tốt. Sau đấy, ông xây các lò nung bát đĩa, li, chai dùng trong đời sống hàng ngày.

Theo đề nghị của Gédéon Spilett, kỹ sư Cyrus đã dùng máy lục phân kiểm tra lại công việc xác định vị trí hòn đảo của mình.

Theo số liệu đầu tiên của ông, đảo Lincoln ở giữa 150º và 155º kinh tuyến tây; giữa 30º và 35º vĩ tuyến nam.

Bây giờ những tính toán hoàn toàn chính xác cho biết đảo nằm ở vị trí.

150º 30' kinh tuyến tây.

34º 57' vĩ tuyến nam.

Nghĩa là đúng như kết quả đầu tiên mà kỹ sư đã tính, sai số không quá năm độ.

Họ lật bản đồ Thái Bình Dương ra, viên kỹ sư cầm chiếc compa để xác định vị trí của hòn đảo.

Bỗng ông lặng người đi, đưa tay chỉ vào tấm bản đồ nói:

- Đúng, ở khu vực này của Thái Bình Dương trên bản đồ có vẽ một hòn đảo.

- Đó là đảo gì thế ạ? - Harbert hỏi.

- Đảo Tabor.

- Đảo có lớn không?

- Không, đây là một hòn đảo nhỏ ở Thái Bình Dương, chắc chẳng có ai lên đó làm gì!

- Vậy ta sẽ lên đó. - Pencroff tuyên bố.

- Chúng ta sẽ đóng một con tàu có boong, tôi sẽ đảm nhận việc lái nó. Thế chúng ta ở cách đảo Tabor bao xa?

- Khoảng một trăm năm mươi hải lí về phía tây bắc. - Cyrus Smith trả lời.

- Một trăm năm mươi hải lí! - Pencroff tuyên bố - Nếu thuận gió thì chỉ hai ngày hai đêm là ta đến đó thôi.

- Nhưng mà để làm gì? - nhà báo hỏi.

- Thì cứ đến thôi. Cũng cần phải đến xem láng giềng của chúng ta chứ!

Sau câu trả lời ấy, những người ngụ cư đã quyết định sẽ đóng tàu, và họ sẽ bơi sang đảo Tabor vào tháng mười, là lúc thời tiết tốt nhất.

Chương 8: Tàu Bonadventur

Nếu Pencroff đã nảy ra trong đầu một sáng kiến là anh không yên tâm nếu chưa thực hiện được việc ấy. Chẳng hạn, anh nghĩ ra chuyện đi đến đảo Tabor, muốn vậy phải có một chiếc tàu khá lớn - thế là chàng thuỷ thủ lao vào đóng tàu.

Viên kỹ sư, với sự đồng tình của chàng thuỷ thủ, đã dừng lại ở phương án như sau. Họ sẽ đóng một chiếc tàu, chiều dài bằng ba mươi lăm bộ, chiều ngang chín bộ, đủ tạo cho nó mọi tốc độ. Tàu được trang bị giống như thuyền buồm lớn, nghĩa là có nhiều buồm có thể điều khiển, phối hợp một cách dễ dàng trong lúc có bão biển.

Họ đóng tàu bằng gỗ vốn có sẵn rất nhiều trên đảo.

Sau khi cân nhắc mọi điều đến từng chi tiết, những người khai khẩn quyết định chỉ có Cyrus Smith và Pencroff lo việc đóng tàu thôi, bởi vì còn sáu tháng nữa mới đến mùa xuân.

Chỉ sau một tuần, tại khu đất trũng nằm giữa Hang ngụ cư và dãy núi đá hoa cương, nơi đặt xưởng đóng tàu, đã thấy có một thanh gỗ ba mươi lăm bộ làm sống tàu cùng với sống đuôi và sống mũi trước.

Cyrus Smith am hiểu công việc đóng tàu, cũng như nhiều việc khác; trước hết ông lập bản vẽ thi công. Quả là ông có người giúp việc tuyệt vời - Pencroff, anh đã từng nhiều năm làm việc ở các xưởng đóng tàu Brooklin, nên anh biết cần phải làm gì.

Nhưng vì một công việc mà có lần anh đã phải rời xưởng mất chỉ đúng một ngày thôi. Đó là ngày 15 tháng tư. Hôm ấy anh đi gặt lúa mì, vụ thu hoạch tuyệt vời, cũng giống như vụ đầu, họ dự tính bao nhiêu thì quả nhiên thu được bấy nhiêu hạt.

- Và nếu vụ sau cũng tốt như thế này thì chúng ta sẽ thu được bốn ngàn buaso.

- Chúng ta sẽ có bánh mì?

- Chúng ta sẽ làm cối xay.

Vì vậy, vụ thứ ba này cánh đồng lúa mì được mở rộng hơn trước, đất được cuốc xới hết sức kỹ càng rồi mới gieo hạt. Xong đâu đó Pencroff mới tiếp tục việc đóng tàu.

*

* *

Mùa đông đã đến vào tháng sáu - tháng này ở nam bán cầu tương tự như tháng mười hai ở các vĩ tuyến Bắc. Đã đến lúc phải quan tâm đến quần áo ấm.

Những người ngụ cư đã cắt lông cừu rừng và bây giờ cần phải làm ra vải từ loại nguyên liệu quý này. Đương nhiên là Cyrus Smith không có máy để chế tạo cũng như không có máy dệt để dệt vải, vì vậy, ông phải dùng những phương tiện đơn giản nhất để khỏi dệt và xe sợi. Và thực tế ông đã tận dụng đặc tính của lông thú là khi dàn ra thì nó bị ép mịn lại, các sợi xô lông đan kết vào nhau - bằng cách ấy họ đã làm ra dạ, tuy thô thiển, nhưng là loại vải ấm. Mùa đông, những người khai khẩn lại làm việc ở nhà, họ sửa chữa quần áo, làm các đồ dùng khác nhau, may buồm cho tàu bằng vỏ khí cầu...

Một hôm họ đang quây quần nghe kỹ sư Smith nói chuyện khoa học nghiên cứu dùng sức nước làm nguồn nhiên liệu cho các thể kỉ sắp tới, bỗng con Top cất tiếng sủa. Với một vẻ gì đó rất lạ lùng, đến nỗi đã nhiều lần viên kỹ sư phải nghĩ ngợi. Cũng như trước đây, con Top cứ chạy quanh giếng ở cuối hành lang trong mà sủa. Cả chú Jup cũng càu nhàu, rõ ràng chú bị kích động bởi cái gì đấy.

- Có lẽ, - Gédéon Spilett nói - cái giếng thông với đại dương, bởi vậy một động vật nào đó sống dưới biển thỉnh thoảng vào đó để hít hơi thở.

- Có thể lắm, bởi vì đâu có lối giải thích nào khác được - chàng thuỷ thủ lên tiếng - Thôi, im đi Top, - chàng quay lại bảo con chó. - Jup, về chỗ đi nào!

Ngày mồng 3 tháng tám, những người ngụ cư đi nghên cứu bãi lầy ở phía đông nam đảo. Top và Jup cũng đi theo.

*

* *

Không khí lạnh kéo dài thêm một tuần nữa, những người ngụ cư ở nhà không làm gì và quyết định đi thăm trại chăn nuôi xem mọi việc có ổn không. Suốt cả tuần ấy, Pencroff với sự giúp đỡ của Harbert đã khâu buồm và hăng say làm đến nỗi chẳng bao lâu mọi việc đã xong. Bộ trang bị của tàu gồm có các sợi cáp bện bằng tấm lưới tìm được cùng với vỏ khí cầu, chất lượng rất tốt. Các cánh buồm được khâu bằng dây cáp, dây giằng, dây lèo, dây kéo và các loại dây khác cần thiết. Như vậy là toàn bộ thiết bị của tàu đã được chuẩn bị đầy đủ trước khi đóng xong tàu. Pencroff thậm chí còn làm một lá cờ, dùng màu đỏ và màu xanh nước biển sơn lên mảnh vải trắng. Bên cạnh ba mươi bảy ngôi sao biển hiện ba mươi bảy tiểu bang trên các lá cờ của các tàu Mỹ, chàng thuỷ thủ thêm vào ngôi sao thứ ba mươi tám và gọi đó là ngôi sao tượng trưng của bang "Lincoln".

Trong lúc mùa đông thứ nhất trên đảo sắp hết, những người ngụ cư hi vọng mùa đông thứ hai sẽ trôi qua không có những sự kiện khác biệt.

Đã sang tháng chín, mùa đông đã kết thúc và những người ngụ cư lại hăng hái bắt tay vào công việc.

Cột cờ, các cột buồm, mái chèo được làm xong trong tuần lễ đầu tiên của tháng mười. Và những người ngụ cư quyết định thử tàu ở gần bờ đảo, xem nó có chịu nổi lên dưới nước không và có thể dùng nó để đi một chuyến xa đảo không.

Ngày 10 tháng mười, họ hạ thuỷ con tàu. Mọi việc diễn ra tốt đẹp. Khi họ cho tàu trượt trên những con lăn xuống bờ biển, nước triều đón ngay nó và con tàu kiêu hãnh nổi lên trong tiếng vỗ tay của những người ngụ cư.

Mọi người nhất trí cử Pencroff làm thuyền trưởng. Để hỗ trợ cho thuyền trưởng Pencroff, họ quyết định trước hết đặt tên tàu, và sau những cuộc tranh luận kéo dài, tất cả đều đồng ý đặt tên cho tàu là "Bonadventur", đó là tên thánh của chàng thuỷ thủ đáng mến.

"Bonadventur" vừa cưỡi lên sóng mọi người đã tin chắc rằng nó sẽ chịu đựng được dưới nước trong bất kì hoàn cảnh nào của cuộc hành trình.

Ngay ngày hôm ấy họ đã thử cho tàu chạy quanh đảo. Mười giờ rưỡi, tất cả mọi người, thậm chí cả Top và Jup, đều có mặt trên boong tàu. Nab và Harbert nhổ neo được cắm sâu vào trong cát ở gần cửa sông Tạ ơn. "Bonadventur" giương buồm cùng với lá cờ của đảo Lincoln phấp phới bay trên đỉnh, và lên đường ra khơi dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Pencroff.

Con tàu chạy cách bờ ba, bốn hải lí. Từ xa, hòn đảo hiện lên trước mặt họ dưới một hình thức mới trông thật lộng lẫy.

- Đẹp quá! - Harbert trầm trồ.

- Đúng, hòn đảo của chúng ta đẹp và mến khách. - Pencroff trả lời. Anh yêu nó như yêu người mẹ ruột thịt. - Thưa ngài Cyrus, - Pencroff quay sang phía kỹ sư hỏi - ngài thấy con tàu của chúng ta thế nào?

- Có vẻ tốt lắm! - viên kỹ sư trả lời.

- Tuyệt diệu! Vậy ngài nghĩ sao, có thể cho nó đi một chuyến xa đảo được không?

- Đi đâu, Pencroff?

- Chẳng hạn cho nó sang đảo Tabor.

- Anh bạn của tôi! - Cyrus Smith trả lời - Tôi nghĩ rằng, trong trường hợp cần thiết, có thể không chút lưỡng lự phó thác số phận của mình cho "Bonadventur" thậm chí còn chấp nhận một chuyến du hành đường dài.

Sau chuyến bơi thử ngoài khơi, con tàu tiến vào gần cảng khí cầu, chỉ còn cách cảng nửa hải lí. Harbert đang đứng trên mũi tàu chỉ luồng lạch bỗng kêu to:

- Cho tàu chạy ngược gió, anh Pencroff, cho tàu chạy ngược gió!

- Chuyện gì thế? - chàng thuỷ thủ đứng dậy hỏi - Đá ngầm à?

- Không! Khoan đã! - Harbert trả lời - Em trông thấy... cho tàu chạy ngược gió đi... như thế tốt rồi... tiến lên chút nữa...

Vừa nói Harbert vừa nhoài qua mạn tàu, thò nhanh tay xuống nước và kêu lên:

- Cái chai!

Chú nâng niu cái chai nút kín vớt được ở cách bờ vào cảng Cabeltov.

Cyrus Smith cầm cái chai, lặng lẽ mở nút và rút ra một mảnh giấy đã thấm nước, trên đó vẫn có thể đọc được những từ như sau:

"Tôi bị nạn đắm tàu... Đảo Tabor (153º) kinh tuyến đông, 37º11' vĩ tuyến nam".

Chương 9: Người lạ

Pencroff kêu lên:

- Thế nào ngài Cyrus Smith, bây giờ ngài sẽ không phản đối chuyến du hành nữa chứ?

- Không, Pencroff, - Cyrus Smith trả lời, - và cần phải khởi hành càng sớm càng tốt.

- Đúng vậy, ngày mai?

- Ngày mai.

Kỹ sư xem qua mảnh giấy mà ông lấy trong chai ra. Ông suy tư điều gì đó, rồi nói:

- Các bạn, dựa vào bức thư này có thể kết luận như sau: Thứ nhất, người bị nạn ở đảo Tabor là một người am hiểu về nghề hàng hải, bởi vì vĩ tuyến và kinh tuyến của đảo mà ông ta cho biết trùng khớp với độ chính xác tới một phút; thứ hai, ông ta là một người Anh hoặc người Mỹ, bởi vì lá thư đã được viết bằng tiếng Anh.

- Một nhận xét hoàn toàn logic, - Gédéon Spilett tuyên bố, đấy chính là lời giải đáp. Rõ ràng cái hòm mà chúng ta tìm thấy là ở đâu ra rồi. Một tai nạn đắm tàu xảy ra, vì đã có một người bị nạn.

- Thế có thấy điều gì lạ lùng không? Cyrus Smith hỏi Pencroff.

- Tôi cảm thấy rằng đây là một dịp may có vậy thôi. - chàng thuỷ thủ đáp - Còn ngài Cyrus, ngài thấy trong việc này có điều gì đó khác thường sao? Bởi vì, cái chai trôi đến đâu chả được? Tại sao nó lại giạt vào đây?

- Có thể anh nói đúng đấy, Pencroff. - viên kỹ sư trả lời, - nhưng...

- Nhưng, - Harbert nhận xét - đâu có gì chứng tỏ cái chai đã trôi trên mặt biển bao lâu rồi? Có nghĩa là bức thư không có ngày tháng?

- Chẳng có gì hết, - Gédéon Spilett trả lời, - và thậm chí cả bức thư cũng có thể mới được viết đây thôi. Ngài nghĩ thế nào về điều này, thưa ngài Cyrus?

- Khó nói đấy, nhưng chúng ta nhất định sẽ giải thích được tất cả! - Cyrus Smith trả lời.

"Bonadventur" đã vòng qua mũi Cái móng và bốn giờ chiều đã thả neo gần sông Tạ ơn. Buổi tối hôm ấy, những người ngụ cư bạn bạc với nhau và đi đến nhất trí là Pencroff, Harbert và Spilett sẽ sang đảo Tabor. Còn Smith và Nab ở lại Lâu đài Đá hoa cương. Trong đêm, những người ngụ cư đã chuyển lên tàu "Bonadventur" các đồ dùng, bát đĩa, vũ khí, đạn dược, địa bàn, lương thực ăn cho một tuần, sau đó họ trở về ngay Lâu đài Đá hoa cương. Hôm sau, năm giờ sáng, ba người bạn xúc động chia tay những người ở lại, nhỏ neo lên đường... "Bonadventur" chạy rất tốt, nó nhẹ nhàng lướt trên sóng vafd đạt dần tốc độ khá cao.

Thỉnh thoảng, Harbert cầm lái thay cho Pencroff. Chú điều khiển chắc chắn, tàu chạy không bị trệch hướng và thuyền trưởng không có gì phải trách cứ người giúp việc của mình. Gédéon Spilett lúc thì trò chuyện với chàng thuỷ thủ, lúc thì trò chuyện với Harbert, thỉnh thoảng còn giúp họ kéo hoặc cuốn buồm...

Sang tối ngày thứ hai, các nhà du hành tính rằng tàu "Bonadventur" có lẽ đã bơi cách đảo Lincoln được một trăm hai mươi hải lí, bởi tàu chạy tốc độ trên ba hải lí một giờ.

Suốt đêm 12 rạng 13, không có ai trong số họ, kể cả Gédéon Spilett, Harbert lẫn Pencroff chợp mắt được. Họ thao thức chờ sáng và không thể nào nén nổi hồi hộp.

Cuối cùng gần giữa trưa ngày hôm sau, sống mũi tàu "Bonadventur" chạm vào bờ cát. Họ nhả neo, hạ buồm, và đoàn thuỷ thủ của tàu lên bờ. Suốt mấy giờ liền Pencroff, Gédéon Spilett và Harbert đi tìm trên đảo, nhưng không gặp ai, và bây giờ đây, vào lúc năm giờ chiều, họ tiến hành đi sâu vào rừng.

Họ đã làm cho một số con vật nào đấy hoảng sợ chạy tán loạn, hoá ra đó là những con dê và giống heo châu Âu. Harbert quyết định thế nào cũng phải bắt lấy vài cặp giống đưa về đảo Lincoln.

Không nghi ngờ gì nữa, - trên đảo từng có người ở. Các du khách tin chắc như vậy khi bước vào rừng, ở đấy có những thân cây bị đốn ngã bằng rìu, và chỗ nào cũng thấy có những dấu vết con người đấu tranh với thiên nhiên.

- Có lẽ, - Gédéon Spilett nói - không những có người ở mà thậm chí họ còn ở đây một thời gian dài.

- Trong thư chỉ nói đến một người thôi, - Harbert nhận xét.

Trời bắt đầu tối, nhà báo đề nghị mọi người quay về tàu ngủ, ngày mai đi tìm tiếp.

Mọi người chấp nhận lời khuyên sáng suốt ấy và định thực hiện thì bỗng Harbert kêu toáng lên:

- Có lều kìa!

Và ba người vội vã đi về phía căn lều.

Pencroff mở toang cánh cửa khép hờ ra và xộc vào. Trong đó vắng tanh không một bóng người!

*

* *

Pencroff, Harbert và Gédéon Spilett im lặng đứng nhìn căn lều tối tăm. Pencroff lớn tiếng gọi người chủ lều. Không có tiếng trả lời.

Khi ấy, chàng thuỷ thủ châm lửa đốt một cành củi khô, ánh sáng trong nháy mắt soi sáng căn lều nhỏ. Trong lều không có ai. Nơi bếp lò có tro và một bó bùi nhùi. Pencroff ném cây củi cháy vào đó, bùi nhùi cháy hắt mảng ánh sáng chập chờn lên túp lều.

Bấy giờ, các du khách nhìn thấy một cái giường trải những tấm chăn đã trở nên ẩm ướt và vàng khè. Hẳn từ lâu đã không có ai sử dụng cái giường này. Bên bếp lò lỏng chỏng hai cái xoong đã han rỉ, trong tủ toòng teng một bộ quần áo lính thuỷ đã mốc meo; trên bàn có mấy cái đĩa nhôm và cuốn thánh kinh mốc xanh; trong góc lều ngổn ngang một cái xẻng, một cái cuốc chim, một cái cuốc bàn và hai khẩu súng săn, trong đó một khẩu đã bị hỏng. Trên giá có một thùng nhỏ đựng thuốc súng, một thùng nhỏ đựng đạn chì và vài hộp kíp nổ. Tất cả đều đã phủ lên một lớp bụi tích tụ có lẽ đã nhiều năm.

- Không có ai cả! - cuối cùng nhà báo nói.

- Từ lâu rồi, không ai sống ở đây hết. - Harbert nhận xét.

- Vậy chủ lều đi đâu? Hay là họ đã rời khỏi đây rồi? - nhà báo nói.

- Không, nếu đã rời đây thì anh ta phải mang theo vũ khí và dụng cụ. - Pencroff trả lời - Anh ta còn ở trên đảo này!

- Vẫn còn sống? - Harbert hỏi.

- Có thể vẫn còn sống mà cũng có thể đã chết. Mà nếu chết thì anh ta đâu có tự chôn mình được. - Pencroff nói - Chắc chắn chúng ta sẽ tìm được dấu tích của anh ta.

Thế là, những người bạn viễn du đã quyết định ngủ lại trong căn lều.

Suốt đêm, họ không nghe tiếng chân ai, cánh cửa lều cũng không mở lần nào, trong khi thời gian cứ trôi đi.

Hôm sau, trời sáng họ đã dậy và bắt đầu xem xét căn lều. Ai nấy đều tin chắc cư dân duy nhất của đảo đã chết.

- Hừng sáng ngày mai chúng ta lên đường trở về thôi. - Pencroff nói với mọi người lúc gần hai giờ chiều.

- Em nghĩ - Harbert nhận xét - Chúng ta có thể mang theo những vũ khí, dụng cụ, đồ dùng của người chủ lều mà không bị lương tâm cắn rứt. Có phải thế không?

- Đồng ý! - Pencroff nói - Chớ quên mang theo một đôi heo, vì trên đảo Lincoln không có giống này.

- Và hạt giống nữa. - Harbert nói thêm.

Và Harbert đi theo con đường nhỏ, còn chàng thuỷ thủ cùng nhà báo đi sâu vào rừng.

Nửa giờ sau, họ bỗng nghe có những tiếng kêu la vang lên cách đó vài trăm bước về phía bắc, kèm theo tiếng kêu ấy là tiếng gầm gừ khủng khiếp của một con thú nào đấy.

Pencroff và Gédéon Spilett đứng thẳng người dậy và bắt đầu lắng nghe.

- Đúng là tiếng của Harbert rồi! - nhà báo thốt lên.

- Ta chạy đến đó! - Pencroff nói nhanh - Nhanh lên!

Và cả hai ba chân bốn cẳng chạy đến chỗ có tiếng kêu vẳng lại.

Sự vội vã của họ không uổng công chút nào. Vừa ra đến khoảng rừng trống họ đã thấy một con dã thú đang vật chú bé xuống đất và bóp cổ.

Pencroff và Gédéon Spilett, nhanh như chớp, xông thẳng vào con quái vật, đánh gục nó tại chỗ, giải thoát cho Harbert. Cả hai người đều khoẻ, nên mặc dù bị con quái vật chống cự, họ vẫn trói chặt được nó lại.

- Con khỉ này định xé tan xác em ra đó! - Pencroff nói.

- Đâu phải là vượn! - Harbert cải chính.

Khi nghe cậu bé nói vậy, Pencroff và Gédéon Spilett nhìn kỹ lại sinh vật lạ nằm dưới đất. Thật vậy, đó không phải là khỉ. Một con người! Nhưng mà đó là một con người man rợ kinh khủng. Càng đáng sợ hơn nữa là con người ấy đã đi đến mức hoang dã tột cùng. Đầu tóc bù xù, râu cằm bẩn thỉu, rủ xuống ngực, thay vì quần áo quấn trên mình hắn là một cái khố bằng miếng vải rách nào đấy, hai con mắt lơ láo, hai cánh tay to, móng tay dài ngoẵng, da mặt đen nhẻm, hai bàn chân chai sần, tâm hồn của con người ấy còn giữ được tính người nữa chăng, hay chỉ còn những bản năng động vật?

- Thế anh có tin rằng đây là một con người hoặc đã từng có một thời nào đó là con người không? - Pencroff hỏi nhà báo.

- Than ôi! Không có gì phải nghi ngờ nữa, - nhà báo trả lời.

- Vậy đây chính là người bị tai nạn đắm tàu ư? - Harbert kêu lên.

- Đúng! - Gédéon Spilett khẳng định - Nhưng con người rủi ro ấy đã đánh mất diện mạo cùng bản tính của mình rồi!

Gédéon Spilett bắt chuyện với hắn. Nhưng, hắn hình như không hiểu và thậm chí hầu như không nghe họ nói. Tuy nhiên, nhìn kỹ hơn vào đôi mắt của hắn, nhà báo thấy rằng lí trí của con người ấy vẫn chưa hoàn toàn mất hẳn.

Sau khi nhìn thật kỹ con người bất hạnh ấy Gédéon Spilett nói:

- Cho dù hắn từng là ai, đã làm gì trong quá khứ và điều gì xảy đến với hắn trong tương lai thì nhiệm vụ của chúng ta là giải hắn về đảo Lincoln đã!...

Sáng sớm ngày 15 tháng mười, "Bonadventur" nhổ neo trở về Lâu đài Đá hoa cương. Tên tù binh được cởi trói và nhốt trong khoang tàu phía đằng mũi...

Nhưng tàu chạy đã sang ngày 17 mà không thấy điều gì chứng tỏ đã về gần tới đảo Lincoln. Thêm một ngày nữa, vẫn chưa thấy đất liền xuất hiện. Ngày 18, lại xảy ra chuyện tàu bị sóng tràn lên boong, suýt nữa đã cuốn sạch đoàn thuỷ thủ xuống biển.

Pencroff và các bạn lo đối phó và đã bị kiệt sức. Nhưng lúc ấy, thật bất ngờ, tên tù binh đã cứu giúp họ. Hắn từ cửa khoang lao ra, dường như trong hắn đã thức tỉnh bản năng của một thuỷ thủ, và hắn dùng tay đập vỡ tấm chắn sóng ở mạn tàu cho nước tràn lên boong thoát ra. Khi con tàu đã được giải phóng khỏi trọng tải thừa ấy, tên tù binh lại lẳng lặng trở về khoang của mình.

Pencroff, Gédéon Spilett và Harbert lặng người đi vì kinh ngạc, và đã để cho hắn được tự do đi lại hoạt động bình thường.

Suốt đêm 18 rạng 19 tháng mười, gió đã lặng, sóng êm hơn. "Bonadventur" tăng được tốc độ di chuyển.

Pencroff hết sức lo âu, nhưng không buồn nản, bởi vì anh đã được tôi luyện và lòng anh đã kiên định. Vừa điều khiển tay lái, anh lại vừa dõi nhìn bóng đêm dày đặc vây quanh con tàu bé nhỏ. Gần hai giờ đêm bỗng chàng thuỷ thủ nhảy cẫng reo lên:

- Có ánh lửa! Có ánh lửa!

Và quả thật, một chùm ánh sáng rực rỡ hiện lên cách họ về hướng đông bắc hai mươi hải lí. Ở nơi ấy, trên đảo Lincoln, đã bùng lên ánh lửa sáng rực, có lẽ do Cyrus Smith nhóm và chỉ đường cho họ.

Con tàu đã đi chệch hướng về phía bắc khá xa. Pencroff quay hướng lại theo ánh lửa sáng chói nơi chân trời.

*

* *

Sáng ngày hôm sau, 20 tháng mười, vào lúc bảy giờ sáng, "Bonadventur" thận trọng cập bến cửa sông Tạ ơn.

Cyrus Smith và Nab lo lắng vì thời tiết xấu và vì sự vắng mặt lâu ngày của những người bạn, ngay từ lúc vừa tảng sáng đã lên cao nguyên Tầm nhìn ngóng trông và cuối cùng, đã nhìn thấy "Bonadventur" mà bấy lâu họ chờ mong.

- May quá, họ đã trở về! - Cyrus Smith thốt lên.

Tên tù binh đảo Tabor được dẫn từ khoang tàu lên. Vừa bước chân lên mặt đất, hắn vùng chạy trốn.

Nhưng Cyrus Smith đã bước lại gần hắn và, bằng một điệu bộ đầy quyền uy, ông để tay lên vai hắn, nhìn hắn với một vẻ hiền từ khôn xiết. Và kẻ bất hạnh, dường như đã chịu khuất phục bởi một sức mạnh nào đấy, lặng đi, chùng mắt xuống, cúi đầu và thôi có ý chống cự.

- Một con người tội nghiệp bị mọi người lãng quên? - viên kỹ sư lẩm bẩm.

Mọi người đã quyết định cho tên tù binh, mà từ nay những người bạn mới của hắn gọi hắn là "người lạ" được ở trong một căn phòng của Lâu đài Đá hoa cương, hắn chẳng thể chạy đi đâu được.

Nab nấu vội bữa ăn sáng, vì nhà báo, Harbert và Pencroff đã đói lả đi...

Sau khi nghe hết mọi chuyện về cuộc viễn du của đoàn thuỷ thủ, Cyrus Smith đồng ý với các bạn rằng người lạ này có lẽ là người Anh hoặc người Mỹ.

- Ngài Cyrus, có nghĩa là ngài tin rằng ngài sẽ làm cho hắn ta trở lại con người? - nhà báo hỏi.

- Tôi tin. - viên kỹ sư khẳng định.

Mọi người bốc lên bờ các thứ hàng đưa từ trên đảo Tabor về. Sau đó, được sự đồng ý của Cyrus Smith, Pencroff và Harbert đưa tàu "Bonadventur" về cảng Khí cầu, mặc dù ở đó hơi xa, cách Lâu đài Đá hoa cương những ba hải lí.

Người lạ dần dần đã từ bỏ những bản năng hung dữ của mình. Hắn không ăn thịt sống như hồi còn ở hòn đảo Tabor của hắn nữa, mà ăn thịt nấu chín.

Một hôm, lợi dụng người lạ ngủ say, Cyrus Smith đã cắt bỏ mớ tóc bù xù và bộ râu cằm dài từng làm cho vẻ mặt hắn nom thật đáng sợ. Kỹ sư mặc cho hắn bộ quần áo khác thay cho cái khố rách hắn đeo trên người. Và đây, cuối cùng, trên gương mặt người lạ được sự quan tâm săn sóc đã xuất hiện cái gì đấy của con người và ánh mắt của hắn cảm thấy đã dịu dàng hơn. Hẳn trước đây, khi đôi mắt hắn sáng lên một ý tưởng, trông hắn cũng rất đẹp.

Cyrus Smith dành nhiều thời gian để gần gũi với người lạ. Đôi khi một người, hoặc có khi là tất cả những người ngụ cư đều vào phòng người lạ, kể đủ mọi thứ chuyện, nhưng thường xuyên hơn cả là chuyện về ngành hàng hải vốn gần gũi hơn với bất kì người thuỷ thủ nào. Có lúc người lạ hình như cũng lắng nghe tiếng nói của họ, và họ đi đến khẳng định rằng có lúc hắn đã hiểu được điều gì đấy.

Và, mọi người đều thấy hắn có sự gắn bó theo kiểu của hắn đối với viên kỹ sư. Bởi vậy Cyrus Smith quyết định thử thách hắn, đưa hắn ra bờ biển, rồi vào rừng, gợi cho hắn nhớ lại những khu rừng mà hắn đã sống chừng ấy năm...

Cuộc thử thách đã được thực hiện ngày 30 tháng mười, sau chín ngày người lạ bị giam trong Lâu đài Đá hoa cương.

Khi Cyrus Smith và Pencroff bước vào phòng, tên tù binh đang nằm bên cửa sổ và nhìn lên trời.

- Bạn hãy đi theo chúng tôi.

Người lạ chồm dậy. Hắn chăm chú nhìn Cyrus Smith, rồi đi theo ông ra bờ biển, còn chàng thuỷ thủ bước đi đằng sau, tỏ ý chẳng tin chút nào về sự thành công của cuộc thử thách... Hắn đi mấy bước xuống biển. Hắn nhìn những con sóng uể oải vỗ vào bờ. Trái với điều chờ đợi của mọi người, hắn không chạy trốn.

Họ đưa hắn vào rừng và từ đằng xa, họ chuẩn bị tinh thần sẵn sàng tóm hắn lại nếu hắn định tháo chạy.

Khi nhìn thấy những cây rừng tươi tốt, sum sê gió nhẹ thổi đung đưa tàu lá, hắn bắt đầu say sưa hít thở làn khí từ rừng thơm ngát.

Và quả thực, hắn đã suýt lao xuống con suối ngăn cách hắn với khu rừng, - những bắp thịt trên đôi chân hắn đã thoáng căng lên. Nhưng, ngay lập tức, hắn lùi lại, quỳ xuống đất và những giọt nước mắt lăn trên má hắn!

- Bạn khóc, - Cyrus Smith thốt lên - có nghĩa là bạn đã lấy lại bản chất con người!

*

* *

Hai ngày sau, người lạ bắt đầu quan tâm đến cuộc sống của những người trên đảo. Rõ ràng là hắn nghe hết, hiểu hết, nhưng một mực không muốn nói chuyện với những người chung quanh. Một buổi tối nọ, Pencroff áp tai vào cửa phòng hắn, và anh đã nghe thấy hắn lẩm bẩm:

- Không, không phải họ!

Chàng thuỷ thủ thông báo lại cho những người bạn của mình biết những lời hắn ta vừa nói.

- Ở đây ẩn giấu một bí mật bi thảm nào đó! - Cyrus Smith nói.

Người lạ bắt đầu làm việc. Hắn sử dụng công cụ lao động rất thành thạo. Nhưng trong quá trình làm việc, nhiều khi hắn bỏ xẻng, chìm đắm trong những suy tư.

Một lần nọ, khi đi ngang qua Harbert, hắn dừng lại và hỏi bằng một giọng nghẹn ngào:

- Bây giờ là tháng mấy?

- Tháng mười một. - Harbert trả lời.

- Còn năm?

- Năm một ngàn tám trăm sáu mươi sáu.

- Mười hai năm! Mười hai năm! - người lạ nhắc đi nhắc lại và đột nhiên hắn chạy vụt đi.

Harbert đã kể lại cho những người ngụ cư nghe câu chuyện ấy.

- Gã tù binh lạ mặt của chúng ta. - Gédéon Spilett nhận xét - Đã quên cách tính toán tháng năm rồi.

- Đúng! - Harbert nói thêm - Nghĩa là ông ta đã sống mười hai năm trên đảo Tabor?

- Mười hai năm! - Cyrus Smith nhắc lại - Đúng, nếu mười hai năm sống trong sự cô đơn mà lương tâm bị cắn rứt bởi một vết nhơ nữa thì mất trí là điều tự nhiên.

- Theo tôi, - đến đây Pencroff xen vào - con người này hoàn toàn chẳng phải bị tai nạn đắm tàu đâu, mà đơn giản là người ta đày hắn lên đảo Tabor để trừng phạt vì một tội ác nào đó thôi.

- Có lẽ anh nói đúng, Pencroff! - chàng nhà báo ủng hộ ý kiến anh ta - Nếu vậy thì những người đày hắn lên đảo nhất định sẽ trở lại đón hắn về với thế giới loài người.

- Các bạn của tôi! - Cyrus Smith nói - Chúng ta sẽ không bàn luận về vấn đề này khi chưa biết rõ sự tình ra sao. Tôi tin rằng người lạ đã phải chịu đựng nhiều đau khổ, đã phải trả giá ghê gớm cho những tội ác của mình, và đang bị dằn vặt có nên thổ lộ nỗi lòng mình với chúng ta hay không. Tạm thời chúng ta sẽ không cưỡng bức anh ta làm điều ấy. Tất nhiên anh ta sẽ tự kể hết, và khi ấy chúng ta phải xử sự như thế nào?

- Tại sao anh lại hỏi thế? - nhà báo hỏi.

- Bởi vì, nếu anh ta bị kết án có thời hạn nhất định thì anh ta sẽ chờ đợi ngày được trả tự do và đã không viết thư bỏ xuống biển. Không, chắc chắn là anh ta đã bị kết án tù chung thân và bị lưu đày vĩnh viễn.

Mồng 9 tháng mười một, gần tám giờ tối, khi những người ngụ cư ngồi dưới bàn cây leo xanh tươi trong bóng hoàng hôn, bất ngờ người lạ mặt xuất hiện trước mặt họ. Đôi mắt anh ta ánh lên những tia sáng mới kì lạ làm sao, còn trên gương mặt thì lại thấy hiện lên một vẻ hung tợn khác thường.

Cyrus Smith và các bạn đều kinh ngạc thấy người lạ hồi hộp đến thế, hai hàm răng anh ta đánh cầm cập như thể anh ta bị rét run. Lời nói thì thiếu mạch lạc.

- Các ông đưa tôi đến đây để làm gì? Các ông lấy quyền gì mà chia lìa tôi với hòn đảo nhỏ của tôi?... Giữa chúng ta có cái gì chung không?... Và các ông có biết tôi là ai đâu? Các ông có biết tôi đã từng làm điều gì không? Vì sao tôi đã phải sống những ngày lay lắt trong cảnh cô đơn?... Thế nếu tôi là người bị trục xuất? Nếu tôi bị buộc tội chết trên hòn đảo ấy thì sao? Các ông có biết quá khứ của tôi không? Biết đâu, tôi đã ăn cướp và giết người, biết đâu tôi bị ruồng bỏ và mang tì vết đáng nguyền rủa? Nếu như chỗ của ôi chỉ là ở giữa những con thú dữ. Tôi cần phải xa lánh con người thì sao? Các ông hãy trả lời đi, các ông có biết tất cả những điều đó không?

Cyrus Smith muốn an ủi người lạ và đã bước lại gần, nhưng anh ta đã đẩy ông ra.

- Ông hãy tránh ra! - anh ta thét lên - Ông hãy nói một điều thôi... Tôi có được tự do không?

- Có, anh được tự do! - viên kỹ sư đáp.

Chương 10: Một thân phận bị lưu đày

Ngày 10 tháng mười hai, sau khi trở thành khách của Lâu đài Đá hoa cương được một tuần, người lạ đến bên Cyrus Smith và nói một cách nhẹ nhàng từ tốn.

- Thưa ngài, tôi có điều muốn nói với ngài.

- Anh cứ nói. - viên kĩ sư trả lời - Nhưng trước hết anh hãy cho tôi nói đôi điều đã.

Nghe những lời ấy người lạ đỏ mặt lên và suýt bỏ chạy. Cyrus Smith hiểu phản ứng của người lạ theo cách của mình, ông cho là kẻ phạm tội có lẽ sợ bị người ta thẩm vấn về quá khứ và thấy sượng sùng.

Cyrus Smith đã giữ anh ta lại.

- Anh hãy nghe đây. - ông nói - Chúng tôi đối với anh không những là người cùng gặp nạn, mà còn là những người bạn. Đấy là tất cả những gì tôi muốn nói với anh, còn bây giờ tôi sẵn sàng nghe anh.

Người lạ lấy tay quệt nước mắt. Anh ta run run và mất đến mấy giây không sao nói lên lời.

- Thưa ngài. - cuối cùng anh ta nói - Tôi muốn xin ngài làm ơn giúp tôi một việc.

- Việc gì thế?

- Ở cách đây bốn, năm dặm, dưới chân núi, các ngài có khu chăn nuôi gia súc. Số gia súc này cần được chăm sóc. Ngài có thể cho tôi đến ở đó được không?

Cyrus Smith nhìn người lạ với lòng thương cảm sâu sắc. Rồi ông trả lời:

- Anh bạn, khu chăn nuôi không có nhà cửa, chỉ toàn chuồng trại thôi, hoàn toàn không thể ở được...

- Nhưng đối với tôi, thưa ngài! Chuồng trại như vậy cũng tốt lắm rồi.

- Anh bạn của tôi. - Cyrus Smith trả lời. - Chúng tôi sẽ không làm trái ý anh. Tuy nhiên, anh bao giờ cũng là khách quý trong Lâu đài Đá hoa cương. Nhưng, nếu như ưa sống ở khu chăn nuôi chúng tôi sẽ thu xếp cho anh ở đó được thuận tiện hơn...

Căn nhà gỗ nhỏ được xây dựng xong trong một tuần, cách các chuồng gia súc độ hai mươi bộ, trên một cái gò nhỏ, từ đó có thể quan sát đàn cừu rừng đã sinh sôi trên tám chục con một cách thuận lợi.

Ngày 20 tháng mười hai, viên kỹ sư thông báo cho người lạ biết tối hôm nay anh ta có thể ngủ đêm ở nhà mới của mình. Đã gần tám giờ, đến lúc người lạ phải ra khu chăn nuôi, mọi người đang ngồi trong phòng lớn chuyện trò, bỗng có tiếng gõ cửa vang lên khe khẽ. Người lạ bước nhanh vào phòng và nói không cần mào đầu gì hết.

- Thưa các ông, trước khi chia tay các ông tôi muốn các ông biết hết về sự thật của đời tôi. Xin các ông hãy nghe câu chuyện của tôi.

Những lời đơn giản ấy gây ấn tượng lớn đối với Cyrus Smith và các bạn của ông.

Viên kỹ sư đứng lên nói với người lạ.

- Anh bạn của tôi! Chúng tôi không hỏi anh điều gì cả. Anh có quyền im lặng.

- Bổn phận của tôi là kể hết mọi điều cho quý vị.

- Nếu vậy thì chúng tôi sẵn lòng nghe anh kể. - Cyrus Smith nói.

Người lạ lui vào một góc phòng tối. Anh ta đứng yên, bỏ mũ, khoanh tay trước ngực và bắt đầu kể bằng một giọng trầm trầm.

- Ngày 20 tháng 12 năm 1854, chiếc tàu buồm chạy bằng hơi nước có tên là "Duncan" của huân tước Glenarvan - thả neo ở bờ biển phía tây Australia, gần mũi Bernuoulli, trên vĩ tuyến 37. Trên tàu có Glenarvan cùng với vợ, một thiếu tá quân đội Anh, một nhà địa lí người Pháp và hai đứa con của thuyền trưởng Grant - một cô gái trẻ và một cậu bé. Điều khiển tàu "Duncan" là thuyền trưởng John Mangles, đoàn thủ thủ gồm có mười lăm người.

Nửa năm trước đó, đoàn thuỷ thủ trên tàu "Duncan" đã nhặt được ở bờ biển Ireland một cái chai đựng ba lá thư viết bằng ba thứ tiếng Anh, Đức và Pháp với cùng một nội dung. Trong thư thuyền trưởng Grant vắn tắt cho biết rằng họ là nạn nhân của vụ đắm tàu "Britania". Thuỷ thủ đoàn đều chết cả chỉ còn có ba người sống sót là thuyền trưởng Grant và hai thuỷ thủ. Họ đã lên được một vùng đất nào đó, có chỉ dẫn vĩ tuyến 37º11', nhưng kinh tuyến bao nhiêu thì không rõ, vì con số ghi trong thư bị nước biển ăn mờ. Họ yêu cầu được cứu giúp.

Bộ tư lệnh hải quân Anh từ chối việc tìm cứu những người bị nạn. Nhưng huân tước Glenarvan, đã dùng chiếc tàu "Duncan" của mình đi cứu họ, "Duncan" đi dọc vĩ tuyến 37º, sang tận Patagonia của Nam Mỹ, nhưng không tìm thấy dấu vết của thuyền trưởng Grant. Glenarvan quyết định đi Australia. "Duncan" đến gần và thả neo ở Bernoulli nằm trên vùng duyên hải Australia, rồi đoàn thuỷ thủ đi tìm kiếm thuyền trưởng Grant trên mặt đất liền. Tại đó, cách bờ biển vài dặm, có trang trại của một người Ireland di cư niềm nở đón tiếp đoàn thám hiểm. Huân tước Glenarvan đã kể hết cho người Ireland nghe vì sao họ đến đây và hỏi xem người chủ trang trại có biết tin tức gì về chiếc tàu "Britania" bị đắm ở vung biển này cách đây gần hai năm không. Người Ireland nọ không biết, nhưng một trong số những người làm công của ông ta có mặt hôm ấy tự nhận là một trong những người bị nạn trong vụ đắm tàu "Britania" cùng với thuyền trưởng Grant.

Họ của người ấy là Ayrton, anh ta có giấy tờ xác nhận là hoa tiêu trên tàu "Britania". Bấy lâu nay, anh ta cứ tưởng chỉ có một mình anh ta sống sót sau vụ đắm tàu.

Ayrton nhận lời hướng dẫn đoàn thám hiểm của Glenarvan đi tìm thuyền trưởng Grant trên vùng duyên hải Australia.

Vì tàu "Duncan" lúc ấy bị hỏng, nên đoàn thám hiểm chia làm hai toán. Toán đi đường bộ theo vĩ tuyến 37 ra duyên hải phía đông Australia gồm có vợ chồng Glenarvan, hai đưa con của thuyền trưởng Grant, viên thiếu tá, nhà địa lí, thuyền trưởng Mangles và vài thuỷ thủ do Ayrton dẫn đường. Còn tàu "Duncan" dưới sự chỉ huy của Tom Austin, phó thuyền trưởng, lên đường đi Melbourne để sửa chữa và ở tại đó đợi lệnh của Glenarvan.

Ngày 23 tháng 12 năm 1854, đoàn người đi bộ lên đường. Tiến hành cuộc tìm kiếm thuyền trưởng Grant. Cần phải nói rõ để các ông biết rằng Ayrton là một kẻ dối trá. Đúng là hắn đã từng làm hoa tiêu trên tàu Britania, nhưng do tranh chấp với thuyền trưởng Grant và đã âm mưu xúi giục đoàn thuỷ thủ nổi loạn chiếm tàu. Thuyền trưởng Grant đày hắn lên bờ biển phía tây Australia ngày 8 tháng 4 năm 1852. Đó là một sự trừng phạt hoàn toàn công bằng.

Vì vậy, tên bất nhân này thậm chí không hay biết gì về vụ đắm tàu "Britania". Lần đầu tiên hắn được biết mọi chuyện ấy qua lời kể của huân tước Glenarvan. Từ khi Ayrton bị đưa lên bờ, hắn núp dưới cái tên Ben Joyce cầm đầu một toán tội phạm trốn trại, và giờ đây hắn lại trắng trợn khẳng định rằng vụ đắm tàu đã xảy ra ở bờ biển phía đông. Hắn đã cố ý đưa huân tước Glenarvan đi lạc hướng hi vọng, trong lúc ông còn đang trên đường du hành thì hắn kịp chiếm lấy chiếc tàu buồm "Duncan", biến nó thành tàu cướp biển và làm mưa làm gió trên đại dương.

Người lạ im lặng. Sau đó lại tiếp tục kể bằng một giọng run run.

- Toán đi đường bộ không đạt mục đích, bởi vì, bọn thuộc hạ của Ayrton, lúc thì đi trước, lúc thì đi sau đoàn thám hiểm, sẵn sàng thực hiện âm mưu của tên thủ lĩnh.

Ayrton tìm đủ cách khuyến dụ Glenarvan viết thư phát lệnh cho tàu "Duncan" rời Melbourne đi vịnh Twofold nằm ở bờ biển phía đông, cách chỗ họ dựng trại vài ngày đường. Họ sẽ xuyên đường rừng để về với tàu "Duncan" vì chuyến tìm kiếm thuyền trưởng Grant không đạt kết quả. Trong khi đó, bọn cướp biển đã hẹn đợi Ayrton ở Twofold để tìm cách chiếm đoạt "Duncan".

Tên phản bội suýt nữa được giao nhiệm vụ chuyển bức thư lệnh cho phó thuyền trưởng Tom Austin, nhưng hắn bị vạch mặt ngay tức thì, và hắn đã bỏ chạy. Tuy nhiên, người mang thư lệnh sau đó bị bọn chúng âm mưu hành hung, và cuối cùng, chính Ayrton đã đoạt lấy bức thư và hai ngày sau đó hắn có mặt ở Melbourne, hắn giáo thư cho phó thuyền trưởng Tom Austin. Xem xong thư, Tom Austin liền cho tàu nhổ neo. Nhưng Ayrton đã thất vọng biết bao, khi sang ngày thứ hai hắn được biết Tom Austin không cho "Duncan" chạy đi vịnh Twofold như hắn mong muốn, mà lại đi về bờ biển phía đông New Zealand. Hắn âm mưu chống lại, song Tom Austin đưa cho hắn coi bức thư lệnh của Glenarvan. Đúng như vậy, nhờ một sự tình cờ - nhà địa lí người Pháp được nhận nhiệm vụ viết lại bức thư do Glenarvan đọc đã viết nhầm địa danh trong thư lệnh. Thay vì cho "Duncan" đi Twofold, ông lại điều động tàu đi về bờ biển phía đông New Zealand.

Mọi kế hoạch của Ayrton đều đã sụp đổ! Hắn nảy ra ý định dấy loạn. Và hắn bị Tom Austin khống chế và tống giam vào hầm tàu. "Duncan" tiếp tục hành trình đi New Zealand, không biết tình hình toán đi đường bộ của Glenarvan như thế nào.

"Duncan" chạy dọc bờ biển New Zealand đến ngày mồng 3 tháng ba. Hôm ấy, Ayrton đã nghe thấy những tiếng súng. "Duncan" đã nã đại bác dồn dập, và chẳng bao lâu huân tước Glenarvan cùng với tất cả những người cùng đi đã lên tàu của mình.

Đấy là tất cả những rủi ro xảy ra trong thời gian sau đó. Sau khi vượt qua nhiêu thử thách và nguy hiểm, toán của huân tước Glenarvan đã đến được vùng duyên hải phía đông Australia, và vào vịnh Twofold. Không thấy tàu "Duncan" ở đó! Glenarvan điện báo về Melbourne và được trả lời rằng tàu "Duncan" đã rời bến ngày mười tám trong tháng, hướng đi thì họ không biết.

Glenarvan cho rằng đoàn thuỷ thủ dũng cảm của ông đã sa vào tay Ben Joyce, còn "Duncan" thì trở thành tàu cướp biển.

Nhưng Glenarvan vẫn không từ bỏ những cuộc tìm kiếm. Đó là một con người dũng cảm và cao thượng. Ông đã lần theo dọc vĩ tuyến 37 mà không thấy thuyền trưởng Grant, nhưng đến bờ biển phía đông New Zealand, thật hết sức ngạc nhiên và nhờ trời phù hộ, ông đã tìm lại được tàu "Duncan" đợi ông ở đó năm tuần nay.

Thế là Glenarvan lại bước lên tàu "Duncan" - trên ấy có cả Ayrton. Hắn được dẫn đến gặp Glenarvan. Ông muốn hỏi dò tên sát nhân xem hắn có biết gì về số phận của thuyền trưởng Grant không. Ayrton từ chối trả lời. Glenarvan cảnh cáo hắn rằng, đến cảng đầu tiên ông sẽ trao hắn cho nhà đương cục Anh.

Lúc đầu hắn làm thinh, nhưng cuối cùng đã hứa kể cho Glenarvan nghe toàn bộ câu chuyện với điều kiện không trao hắn cho các nhà đương cục Anh, mà cho hắn lên một trong những hòn đảo ở Thái Bình Dương. Glenarvan đồng ý, bởi vì ông sẵn sàng làm tất cả, miễn là biết được điều gì đấy về số phận của thuyền trưởng Grant.

Đến đây Ayrton đã kể lại cuộc đời của hắn và thừa nhận rằng từ khi hắn bị đưa lên biển Australia, hắn không biết gì về thuyền trưởng Grant cả.

Tuy nhiên, Glenarvan đã giữ lời hứa. "Duncan" vẫn đi tiếp, và một đêm nọ, họ đã phát hiện ra đảo Tabor. Ayrton được mọi người để lại trên đảo này. Và chính ở đây, nơi hòn đảo nằm trên vĩ tuyến 37 này đã xảy ra một sự trùng hợp ngẫu nhiên, hoá ra thuyền trưởng Grant và hai thuỷ thủ của ông ta đang ở trên đó. Tên tội phạm phải thế chỗ cho họ và ở lại trên hoang đảo này. Khi hắn rời tàu "Duncan", Glenarvan đã dặn dò hắn như sau:

- Ayrton, ngươi sẽ bị tách biệt khỏi thế giới loài người, nhưng chúng ta sẽ không quên ngươi đâu. Trí nhớ sẽ không bao giờ phản bội ta.

Và "Duncan" nhổ neo, chẳng bao lâu biến mất khỏi tầm nhìn của Ayrton.

Việc ấy đã xảy ra vào ngày 18 tháng 3 năm 1855. Ayrton ở lại một mình, đã phải lủi thủi sống lay lắt những ngày dài lê thê và chuộc lại những tội ác do hắn gây ra.

Hắn đã tự sám hối, lương tâm cắn rứt không để hắn yên, hắn đã quyết định nếu một ngày kia có người tìm đến với hắn. Hắn sẽ trở lại thế giới loài người với một con người khác và sẽ sống lương thiện.

Ayrton đã sống như vậy hai, ba năm, nhưng sự cô đơn giày vò hắn, và hắn không rời mắt khỏi chân trời, hi vọng nhìn thấy một con tàu.

Nhưng rõ ràng là trời vẫn muốn trừng phạt đầy đủ kẻ bất hạnh, bởi vì hắn đã bắt đầu nhận thấy rằng hắn đang biến thành người man rợ. Cuối cùng, kẻ bị trục xuất đã đánh mất hết mọi tư cách con người, trở thành một sinh vật như các ông đã tìm thấy hắn!

Cyrus Smith và các bạn của ông đã đứng lặng nghe hết lời tự thú ấy. Khó mà diễn tả được lời tự thú đó làm cho họ xúc động như thế nào! Họ đã thấy nỗi xót xa đau khổ, tuyệt vọng ấy chan chứa sự chân thành biết bao!

- Ayrton - Cyrus Smith nói một cách trang nghiêm - anh đã là một tên tội phạm thâm căn cố đế nhưng tôi tin rằng đức chúa trời đã tha thứ cho anh mọi tội lỗi! Và để chứng tỏ sự độ lượng của mình. Người đã cho anh trở lại với thế giới loài người. Anh đã được xá tội, Ayrton! Anh hãy nói xem, anh có muốn trở thành bạn bè của chúng tôi không?

Ayrton giật bắn người.

- Chúng ta hãy bắt tay nhau! - viên kỹ sư nói.

Ayrton lao đến Cyrus Smith, bắt chặt tay ông, và từ đôi mắt của anh ta trào ra những dòng lệ nóng hổi.

- Bây giờ anh đồng ý sống cùng chúng tôi chứ? - Cyrus Smith hỏi.

- Thưa ngài Smith, - Ayrton trả lời - tốt hơn là hãy cho tôi sống một mình ở khu chăn nuôi ít lâu.

- Tùy anh, Ayrton! - Cyrus Smith trả lời.

Ayrton đã định đi ra, nhưng viên kỹ sư giữ anh ta lại.

- Khoan đã! Anh bạn của tôi! - ông nói - Anh đã quyết định sống cảnh cô đơn, vậy sao anh lại viết thư bỏ xuống biển báo cho chúng tôi biết dấu tích của anh?

- Thư nào? - Ayrton ngạc nhiên, rõ ràng không hiểu chuyện gì cả.

Và Ayrton cúi chào mọi người và đi ra.

*

* *

- Cyrus thân mến! - Gédéon Spilett nói. Không thể nào có chuyện Ayrton lại quên bức thư tự tay mình viết rồi cho vào chai và thả xuống biển.

- Do đó, Spilett thân mến, người bỏ chai xuống biển không phải là anh ta.

- Có nghĩa là, ngài giả thiết...

- Tôi không giả thiết gì cả, tôi không biết gì cả, - Cyrus Smith phản đối, cắt ngang lời nhà báo -Tôi chỉ đơn giản liệt kê trường hợp này vào tất cả những điều bí ẩn mà cho tới nay tôi không giải thích nổi.

Đã sang tháng giêng, năm 1867. Như mọi năm những người ngụ cư bận nhiều việc. Một hôm, Harbert và Gédéon Spilett đi thăm khu chăn nuôi và biết rằng Ayrton đã đến sống trong căn nhà làm cho anh ta ở khu chăn nuôi. Anh ta quan tâm chăm sóc một đàn súc vật lớn và bớt cho những người ngụ cư phải mất nhiều công sức như trước đây là cứ hai, ba ngày lại ra khu chăn nuôi một lần. Tuy nhiên, để giúp Ayrton bôi xoá mặc cảm tội lỗi và tránh nỗi buồn khi thấy mình bị bỏ rơi, họ vẫn thường xuyên ra thăm người bạn mới của mình.

Hơn nữa, viên kỹ sư còn lo có chuyện bất trắc xảy ra ở khu chăn nuôi nên đã quyết định tạo một đường dây liên lạc trực tiếp giữa khu chăn nuôi và Lâu đài Đá hoa cương.

Ngày 10 tháng giêng, viên kỹ sư đã trình bày cho các bạn nghe về dự định của mình.

- Ngài định đặt đường dây thông tin chăng, thưa ngài Smith? - Pencroff hỏi.

- Đúng vậy!

- Bằng điện ạ? - Harbert cười phá lên.

- Bằng điện! - Cyrus Smith khẳng định - Chúng ta có đầy đủ những thứ cần thiết để làm pin và ắcquy, làm dây dẫn bằng sắt thì khó hơn, nhưng tôi nghĩ chúng ta sẽ thực hiện được việc này bằng cách chuốt các sợi sắt nhỏ.

Cuối cùng, họ cũng đã chế tạo được những dây sắt dài từ 40 đến 50 bộ, đem nối lại họ được một sợi dây sắt dài năm dặm, vừa đúng khoảng cách từ Lâu đài đến khu chăn nuôi.

Sau khi có đủ vật liệu cần thiết rồi, Cyrus Smith lo làm ắcquy. Ông làm bộ ắcquy điện một chiều, giống như ắcquy mà năm 1820 Becquerel đã chế tạo, bởi vì nó chỉ có kẽm mà thôi.

Sự sáng chế độc đáo và đơn giản đã giúp Cyrus Smith làm được hai bộ ắcquy, một bộ đặt ở Lâu đài Đá hoa cương, bộ kia đặt ở khu chăn nuôi, để tiện cho việc liên lạc bằng điện báo. Mọi việc được hoàn thành dứt điểm vào ngày 12 tháng hai. Hôm ấy, Cyrus Smith đã cắm điện và hỏi Ayrton xem công việc của anh ta có được tốt đẹp cả không, chỉ vài giây sau, ông đã nhận được câu trả lời của Ayrton là tất cả đều thuận lợi.

*

* *

Tối 25 tháng tư, khi tất cả những người ngụ cư tập trung trên cao nguyên Tầm nhìn, Cyrus Smith đã nói với họ như sau:

- Các bạn thân yêu của tôi! Tôi thấy có trách nhiệm chỉ cho các bạn một số hiện tượng kì lạ, và tôi muốn được biết ý kiến của các bạn về những hiện tượng ấy. Tôi cho rằng những hiện tượng ấy là siêu nhiên.

- Siêu nhiên! - chàng thuỷ thủ thốt lên.

- Có thể gọi nơi chúng ta đang sống là hòn đảo bí ẩn. - viên kỹ sư nói - Có thể là các bạn sẽ giải thích được điều mà tôi và Spilett bấy lâu nay không hiểu nổi?

- Vậy thưa ngài Cyrus, ngài hãy kể đi, ở đây có chuyện gì thế? - chàng thuỷ thủ yêu cầu.

Cyrus tiếp tục:

- Tôi đã suýt bị chìm dưới biển cách bờ một phần tư hải lí, mà không biết vì sao lại lên được tới hang. Lại nữa làm sao con Top lại có thể tìm ra được chỗ các bạn, lúc ấy đang ở cách hang của tôi những năm dặm!

- Bản năng giúp nó... - Harbert nói.

- Bản năng gì ở đây, - nhà báo cắt ngang lời chú bé - đêm ấy trời mưa to, gió lớn, mà con Top đến Hang ngụ cư lại khô ráo, sạch sẽ.

- Hơn nữa, - Cyrus Smith tiếp tục - các bạn có thể hiểu được không, viên đạn chì trong mình con heo rừng mới kì lạ làm sao. Bằng cách gì mà biển lại quẳng lên bờ cho chúng ta cái hòm với đầy đủ các thứ cần thiết, mặc dù chúng ta đã không thấy dấu vết của một tai nạn đắm tàu. Và làm thế nào cái chai đựng lá thư nọ lại có thể rơi vào tay chúng ta đúng hôm đầu tiên chúng ta chạy thử tàu. Vì sao dây neo đứt và chiếc thuyền đã trôi xuôi dòng sông Tạ ơn đúng lúc chúng ta cần đến nó. Sau cuộc đột nhập của bầy vượn, làm sao cái thang có thể rơi từ Lâu đài Đá hoa cương xuống chỗ chúng ta đang đứng khắc khoải được? Cuối cùng, tác giả của bức thư trong chai mà Ayrton đã khẳng định mình không viết. Vậy ai viết?

- Thế đấy! Các bạn của tôi. - viên kỹ sư tiếp tục - Tôi nói thêm một hiện tượng lạ lùng nữa không kém phần lạ lùng và khó hiểu... Khi ở đảo Tabor về, các bạn đã nhìn thấy ngọn lửa bừng cháy trên bờ đảo Lincoln phải không?

- Đúng như vậy, Cyrus Smith, - cả Pencroff, Harbert và Spilett đều khẳng định. - Ngọn lửa sáng như ngôi sao băng, như một chùm đèn điện vậy...

- Thế đấy, các bạn của tôi! - Cyrus Smith nói - Đêm ấy cả tôi lẫn Nab đều không đốt lửa trên bờ.

Đúng! Phải đồng ý rằng, tất cả những hiện tượng ấy đều được bao phủ bởi một tấm màn bí mật. Một sức mạnh nào đấy không thể hiểu nổi, đã kịp thời đến cứu giúp họ. Đó chính là điều cần phải khám phá, và bằng bất cứ giá nào!

Ngày 17 tháng mười, khoảng ba giờ chiều, Harbert định tranh thủ lúc trời còn sáng chụp toàn cảnh vịnh Hợp chủng trải dài trước mặt Lâu đài Đá hoa cương từ mũi Xương hàm đến mũi Cái móng.

Chú đặt máy ảnh lên bậu cửa sổ trong phòng lớn của Lâu đài Đá hoa cương, từ nơi đây có thể nhìn bao quát vịnh Hợp chủng. Sau khi chụp xong một kiểu ảnh theo đúng các quy tắc, chú vào nhà kho tối như bưng để tráng rửa hình.

Lúc trở ra, ngoài ánh sáng chỉ rõ chú xem kỹ âm bản thì thấy trên đường chân trời có một vệt đen nhỏ không rõ lắm.

- Tấm kính ảnh bị hỏng! - Harbert nghĩ.

Nhưng chú vẫn quyết định soi vệt đen nhỏ xíu ấy vào kính phóng đại tháo ở ống viễn vọng ra.

Chú nhìn vào hình chụp và kêu thét lên, suýt nữa đánh rơi tấm hình.

Chú chạy vào phòng Cyrus Smith đang làm việc, đưa cho ông tấm kính âm bản cùng cái kính lúp và chỉ vào vệt đen nhỏ.

Cyrus Smith nhìn cái chấm đen trên tấm hình, và chộp lấy ống kính viễn vọng, lao tới cửa sổ.

Ông hướng ống kính vào vệt đen khả nghi. Su khi nhìn kỹ cái vệt ấy, ông buông tay, nói một tiêng gọn lỏn:

- Tàu!

Và thật vậy, nơi chân trời, xuất hiện rõ một chiếc tàu thuỷ.

Chương 11: Bọn cướp biển

Không nghi ngờ gì nữa, đã thấy rõ một con tàu ở hải phận đảo Lincoln! Nhưng nó sẽ đi ngang qua hay tiến gần vào đảo? Hai ba giờ nữa, mọi việc mới rõ ràng.

Cyrus Smith và Harbert gọi ngay Spilett, Pencroff và Nab vào căn phòng lớn của Lâu đài Đá hoa cương và báo tin cho họ biết. Pencroff chộp lấy ống kính viễn vọng, vội vàng nhìn khắp chân trời và phát hiện thấy cái chấm đen ở đúng ngay nơi có vệt mờ trên tấm kính ảnh.

Harbert khiến mọi người bất ngờ.

- Có thể là "Duncan"! - chú kêu lên.

- Cần phải báo ngay cho Ayrton biết và gọi khẩn cấp anh ta về đây. - Gédéon Spilett nhận xét - Chỉ có mình anh ta mới có thể nói cho chúng ta biết chính xác, đó có phải là "Duncan" hay không.

Mọi người tán thành ý kiến của chàng nhà báo, và anh đã đến máy điện báo, gõ những từ sau:

- Hãy về ngay!

Mấy giây sau, chuông trả lời vang lên:

- Tôi đi đây! - Ayrton đáp lại.

Những người ngụ cư lại chú ý nhìn ra tàu.

Bốn giờ chiều, đúng một giờ sau khi được gọi, Ayrton có mặt ở Lâu đài Đá hoa cương.

- Tôi xin sẵn sàng chờ lệnh, thưa các ngài! - anh ta nói khi bước vào phòng.

Cyrus Smith, như mọi khi, chìa tay cho Ayrton và dẫn anh ta lại cửa sổ nói:

- Chúng tôi gọi anh, Ayrton! Có việc quan trọng. Ở khu vực vùng đảo của chúng ta vừa xuất hiện một con tàu.

Thoạt đầu Ayrton hơi tái mặt, và trong đôi mắt anh ta thoáng vẻ lo âu. Anh ta chăm chú nhìn về chân trời, nhưng không thấy gì cả.

- Hãy cầm lấy ống kính viễn vọng. - Gédéon Spilett nói - Và nhìn cho thật kỹ, Ayrton! Có thể đó là "Duncan", trở lại vùng biển này để đón anh về Tổ quốc.

- "Duncan"! - Ayrton lẩm bẩm - Nhanh thế!

Ayrton cầm lấy ống kính viễn vọng và nhìn theo hướng Spilett chỉ dẫn. Mấy phút liền anh ta đứng bất động, lặng lẽ nhìn về phía chân trời rồi nói:

- Đúng, đó là tàu thật, nhưng không phải "Duncan".

- Tại sao không phải "Duncan"? - Gédéon Spilett hỏi.

- Tại vì "Duncan" là một tàu buồm chạy bằng hơi nước mà con tàu này dù tôi muốn lắm cũng không phát hiện được một làn khói nhỏ trên tàu lẫn đằng sau tàu.

Vừa lúc ấy, gió thổi tung lá cờ bí ẩn của con tàu lên. Ayrton giằng lấy ống kính viễn vọng từ tay chàng thuỷ thủ vừa bỏ xuống, đưa ngay lên mắt và sau khi nhìn kỹ, anh ta kêu lên bằng một giọng nghẹn ngào:

- Cờ đen!

Quả vậy, trên cột cờ của tàu phần phật bay một mảnh vải đen, và bây giờ những người ngụ cư đã có đủ cơ sở để khẳng định đây là một con tàu rất khả nghi!

Vậy là linh cảm đã không lừa dối viên kỹ sư? Có nghĩa rằng đó là một con tàu của bọn cướp biển? Nó định vào đảo Lincoln để làm gì? Có thể, nó chọn một vùng đất không ai biết đến để làm nơi cất giữ những của báu mà bọn hải tặc đã cướp được? Hoặc là, có thể nó tìm một bến cảng lặng sóng để tránh những trận bão? Lẽ nào cái cơ nghiệp đáng yêu của những người ngụ cư trở thành tổ quỷ đê tiện, hang ổ của bọn hải tặc Thái Bình Dương?

- Không thể chậm một phút nào nữa. Cần đối phó với con tàu lạ này.

- Các bạn, - Cyrus Smith bắt đầu nói - có thể tàu này chỉ muốn quan sát đảo từ xa thôi, đoàn thuỷ thủ của nó sẽ không đổ bộ lên đảo. Ta hi vọng vào điều ấy. Dẫu thế nào thì chúng ta cũng cần phải giấu kín tất cả những gì chứng tỏ sự có mặt của chúng ta trên hòn đảo này. Đập vào mắt rõ nhất là cái cối xay gió đặt trên cao nguyên Tầm nhìn, Ayrton và Nab hãy đi tháo cánh của nó ra. Chúng ta lấy cành cây bịt các cửa sổ Lâu đài Đá hoa cương lại. Cần dập tắt hết lửa đi. Đừng để lộ ra ngoài sự có mặt của con người trên hòn đảo này!

- Còn chiếc tàu của chúng ta? - Harbert hỏi.

- Không sao đâu! - Pencroff trả lời - Nó đã được giấu kín ở cảng Khí cầu. Tôi đảm bảo rằng bọn giết người cướp của này không thấy được nó đâu, em yên tâm đi.

Mệnh lệnh của viên kỹ sư được thi hành ngay. Khi mọi việc chuẩn bị đã xong. Cyrus Smith hướng về phía những người ngụ cư.

- Các bạn, - ông nói, trong giọng của ông lộ sự hồi hộp - nếu những kẻ gian hùng này dám liều mạng tấn công lên đảo Lincoln thì chúng ta sẽ giáng trả chúng một đòn thật thích đáng, có phải thế không?

- Đúng thế, Cyrus! - nhà báo trả lời thay cho tất cả - Và nếu cần thì chúng tôi sẽ hi sinh chiến đấu để bảo vệ hòn đảo của chúng ta.

Viên kỹ sư chìa tay cho các bạn của mình, và mọi người nồng nhiệt đáp lại cái bắt tay của ông. Chỉ riêng Ayrton đứng lặng thinh trong góc phòng. Có thể, anh ta một kẻ phạm tội cũ, cho rằng mình không xứng đáng với cái bắt tay ấy!

Cyrus Smith hiểu điều gì đang xảy ra trong lòng Ayrton, vì vậy ông đến gần anh ta.

- Còn anh, Ayrton! - viên kỹ sư hỏi - Anh định làm gì?

- Làm tròn nghĩa vụ của mình. - Ayrton đáp.

*

* *

Cyrus Smith và các bạn ông đã sẵn sàng hành động, nhưng họ hết sức thận trọng.

- Chúng có đông người không? Đó là một vấn đề quan trọng. - nhà báo nói - Nếu chúng có trên một chục tên thì chúng ta cân sức, nhưng nếu chúng có bốn mươi, năm mươi tên hoặc hơn, thì...

- Thưa ngài Smith! - bỗng Ayrton lại gần kỹ sư nói - Tôi muốn yêu cầu ngài một điều. Ngài cho phép tôi...

- Cụ thể là gì, anh bạn của tôi?

- Ngài hãy cho phép tôi bơi ra tàu bọn cướp để xem quân số của đoàn thuỷ thủ.

- Nhưng, Ayrton! - viên kỹ sư phản đối - điều đó có nghĩa là anh phải liều mình đấy.

- Thế tại sao lại không, thưa ngài Smith?

- Tại vì anh hành động như vậy là còn cao hơn "làm tròn nghĩa vụ của mình" nữa.

- Thì tôi cũng cần phải làm nhiều hơn nghĩa vụ của mình nữa chứ! - Ayrton trả lời.

- Anh muốn đi ra tàu bằng thuyền à? - Gédéon Spilett hỏi.

- Không, tôi muốn bơi. Người dễ lách qua những nơi mà thuyền không qua được.

- Nhưng tôi nhắc lại là sẽ nguy hiểm cho tính mạng anh đấy. - viên kỹ sư nhận xét - Và anh biết phải bơi hơn một hải lí đó chứ?

- Thì chuyện ấy cũng đâu có sao. - Ayrton nói - Tôi xin ngài cho phép, coi đó như một ân huệ, thừa ngài Smith. Đối với tôi, có thể đây là khả năng duy nhất để lấy lại cho mình lòng tự trọng.

- Thôi được, anh hãy đi đi, Ayrton! - viên kỹ sư nói. Ông hiểu rằng sự từ chối của ông sẽ làm cho kẻ tội phạm đã trở thành người lương thiện đau khổ vô cùng.

- Tôi sẽ đi cùng với anh! - bỗng Pencroff đề nghị.

Chiếc thuyền nhanh chóng cập vào đảo nhỏ, Pencroff nấp vào giữa các vách đá đợi bạn trở về. Trong khi đó Ayrton nhẹ nhàng, thận trọng bơi về phía chiếc tàu. Nửa giờ sau, anh ta tóm được dây cột buồm và leo lên tàu an toàn. Gặp chỗ phơi quần áo của thuỷ thủ anh xỏ luôn một cái và lựa tư thế thuận tiện anh chăm chú theo dõi.

Bọn trên tàu chưa ngủ. Ayrton nghe rõ tiếng chúng hát, hò, cười cợt ầm ĩ. Bỗng mấy lời ngắt quãng lẫn với những tiếng chửi tục đã thu hút sự chú ý của Ayrton.

- Cánh ta kiếm được chiếc tàu thật là tuyệt.

- Ừ, nó chạy không đến nỗi tồi. Gọi nó là tàu "Nhanh" cũng chẳng phải quá đáng!

- Thách cả hạm đội Norfolk đuổi coi!

- Thuyền trưởng Bob Harvey muôn năm!

Ayrton nhớ lại chẳng khó gì cái tên Bob Harvey. Chính hắn đã từng là kẻ đồng loã với anh ta từ hồi ở Australia. Đó là một tên liều lĩnh, bạt mạng. Bọn Harvey đã chiếm đoạt con tàu này ở vùng đảo gần biển Norfolk cùng với toàn bộ hàng hoá, vũ khí, đạn dược, dụng cụ, đồ dùng chuẩn bị chở đến một trong những đảo thuộc Sandwich. Đoàn thuỷ thủ hiện nay của hắn đều là những tên tù khổ sai người Anh vượt ngục ở Norfolk.

Khoảng một giờ sau, khi quá nửa bọn cướp đã ngủ, Ayrton không do dự đột nhập lên boong tàu lúc ấy đèn đã tắt và trời tối như bưng. Anh thận trọng luồn lách giữa bọn cướp, anh đi khắp tàu và xác định được rằng tàu "Nhanh" có bốn khẩu đại bác hiện đại, sử dụng rất thuận tiện và có sức công phá mạnh. Bây giờ Ayrton có thể trở về với một lương tâm trong sáng nhờ hoàn thành công việc trinh sát. Nhưng, một ý nghĩ dũng cảm bỗng thoáng qua đầu Ayrton - anh đã nói với viên kỹ sư rằng anh sẽ làm tròn nghĩa vụ, đúng hơn anh sẽ làm nhiều hơn mức nghĩa vụ đòi hỏi. Phải, anh sẽ hi sinh cuộc đời mình, nhưng hòn đảo và những người ngụ cư phải được cứu thoát.

Ayrton không lưỡng lự nữa. Anh tìm đến kho thuốc súng thường được bố trí ở đuôi tàu chẳng khó khăn gì. Trên một chiếc tàu cướp biển nhất định phải có lượng thuốc súng dự trữ và chỉ cần một tia lửa là đủ làm cho nó nổ tung trong nháy mắt.

Ayrton thận trọng đi xuống căn phòng nối liền với boong tàu, nơi mà bọn cướp biển say rượu nằm li bì. Gần cột buồm chính có ngọn đèn sáng, còn chung quanh là giá để gác các loại vũ khí.

Ayrton lấy một khẩu súng lục, biết chắc chắn là nó đã được nạp đạn. Bây giờ anh có thể thực hiện được kế hoạch huỷ diệt chiếc tàu, và lặng lẽ bò tới đuôi tàu, ở đó, ngay bên phải buồng lái là kho thuốc súng.

Chỉ còn việc phá cửa ra vào, và Ayrton đã cố nhẹ tay không gây lên tiếng động, nhưng hoàn thành việc đó đâu phải dễ dàng, bởi vì anh còn phải bẻ chiếc khoá treo. Tuy nhiên, với đôi tay hùng mạnh của Ayrton chiếc kháo cũng phải khuất phục, và cánh cửa bật mở.

Đúng lúc ấy, một cánh tay nặng nề hạ xuống vai Ayrton.

- Anh làm gì ở đây, hả anh bạn tử tế? - một giọng nói thô bạo phát ra ngay bên tai Ayrton, và một người to lớn cầm cây đèn pin rọi thẳng vào mặt anh.

Bất giác Ayrton lùi lại trước ánh đèn loé sáng. Anh nhận ra đó là tên đồng bọn của mình ngày trước, hắn chính là Bob Harvey. Nhưng Harvey không nhận ra anh, vì hắn tưởng anh đã chết từ lâu rồi.

- Mày làm gì ở đây? - Bob Harvey nhắc lại, túm lấy lưng quần Ayrton.

Ayrton không trả lời, hất mạnh tên đầu sỏ ra. Ayrton lao về phía câu thang dẫn lên boong tàu. Lúc chạy qua chiếc đèn Ayrton dùng báng súng đập vỡ nó đi, boong tàu lại chìm ngập trong bóng đêm, giúp cho việc chạy trốn của anh đỡ khó khăn hơn rất nhiều.

Sau đó, Ayrton nhảy qua mạn tàu và lao xuống biển. Anh bơi chưa được chục mét, một trận mưa đạn đã trút xuống anh, làn nước réo sôi sùng sục.

Pencroff, Cyrus Smith, nhà báo, Harbert và Nab đã trải qua biết bao xúc động khi nghe những tiếng súng vẳng đến tai họ! Họ chụp vũ khí, lao ra bờ, sẵn sàng tinh thần đẩy lùi quân thù.

Họ không hề có chút ảo tưởng nào, Ayrton rõ ràng đã bị sa vào tay bọn cướp và, lẽ dĩ nhiên, đã vĩnh biệt cuộc đời rồi. Có thể là bọn cướp biển đã quyết định lợi dụng ban đêm và sắp sửa đổ bộ lên bờ.

Cuối cùng, vào lúc mười hai giờ rưỡi đêm, con thuyền đã cập bến, trên đó có hai người ngồi. Những người ngụ cư dang rộng vòng tay ôm chặt Ayrton đang bị thương nhẹ ở vai, và Pencroff vẫn sống và nguyên vẹn.

*

* *

Đêm ấy trôi qua không có biến cố gì. Hòn đảo vẫn êm đềm, tưởng chừng như chiếc tàu cướp biển đã nhổ neo ra khơi.

Nhưng sáng hôm sau, sự việc hoàn toàn ngược lại, qua làn sương ban mai, những người ngụ cư nhìn kỹ vẫn thấy bóng dáng mờ mờ của tàu "Nhanh".

- Các bạn! Cần chuẩn bị tinh thần chiến đấu. Trước hết phải gây cho bọn cướp ấn tượng là đảo có đông dân và những người dân ở đây biết giáng trả kẻ thù bằng những đòn đích đáng. Bởi vậy, tôi dự kiến lập ba tổ chiến đấu ở ba nơi. Chúng ta đủ súng đạn để đương đầu với chúng. Chỉ cần các bạn bắn liên tục, nhưng phải trúng đích. Mỗi người phải tiêu diệt tám hoặc mười tên trong bọn chúng.

Các vị trí được xếp đặt như sau: Cyrus Smith cùng với Harbert ở lại Hang ngụ cư. Mai phục ở đây họ có thể bắn và khống chế được một phần đáng kể bọn cướp đổ bộ vào khu vực bờ biển dưới chân Lâu đài Đá hoa cương.

Gédéon Spilett cùng với Nab, núp trong các vách đá gần cửa sông Tạ ơn. Tại đây, các loại cầu lớn nhỏ đều được nâng lên. Tổ này đảm bảo không những không cho một chiếc xuồng địch nào vào đảo, mà còn phải ngăn chặn bọn cướp đổ bộ lên bờ bên kia.

Riêng Pencroff cùng với Ayrton trong thời gian đó đã kịp hạ chiếc thuyền xuống nước để bơi sang hòn đảo nhỏ. Tại đây, họ phải chiếm lĩnh hai vị trí cách xa nhau. Khi thấy bị bắn từ bốn phía, bọn cướp sẽ cho rằng đảo có nhiều người và những người trên đảo quyên tâm bảo vệ tự do của mình.

Khi cần thì Pencroff và Ayrton sẽ đánh ngược về, và lập tức tăng cường viện trợ cho khu vực bị đe doạ nhiều nhất.

Trước khi bước vào vị trí chiến đấu những người ngụ cư siết chặt tay nhau lần cuối cùng.

Chăng bao lâu sương mù tan hết và chiếc tàu "Nhanh" hiện rõ dưới ánh mặt trời. Nó nhả hai neo, mũi quay về phía Bắc, mạn trái quay về đảo và tiếp tục im lặng.

Nhưng tám giờ sáng, những người trên đảo nhận thấy trên tàu "Nhanh" có dấu hiệu hoạt động. Các thuỷ thủ dùng palăng hạ một chiếc xuồng xuống nước. Bảy tên ngồi trên đó, tên nào cũng có súng. Một tên ngồi lái, bốn tên chèo, còn hai tên ngồi phía mũi. Chúng khom lưng, tay lăm lăm súng và chăm chú nhìn lên bờ. Nhiệm vụ của chúng rõ ràng là trinh sát đảo, chứ không phải đổ bộ, vì nếu làm như vậy thì tên thuyền trưởng phải phái một đoàn quân đông hơn...

Pencroff và Ayrton từ vị trí quan sát kín đáo của mình trông thấy chiếc xuồng hướng thẳng đến chỗ họ, và họ đợi cho nó đến vừa tầm súng.

Mấy tên chèo xuồng thận trọng di chuyển về phía trước, cố không gây sự chú ý của những người trên đảo. Ayrton thấy rõ một tên cướp ngồi ở mũi xuồng, tay cầm dụng cụ đo độ sâu và định tìm luồng lạch của dòng chảy sông Tạ ơn. Điều đó chứng tỏ rằng tên Bob Harvey muốn đưa tàu của hắn vào gần bờ hơn. Cách đảo nhỏ chưa tới hai cabeltov chiếc xuồng dừng lại. Tên cầm lái đứng thẳng người lên đưa mắt tìm nơi cập bến.

Đúng lúc ấy vang lên hai phát súng. Một làn khói trắng bốc lên trên các mỏm đá. Tên cầm lái và tên thuỷ thủ cầm dụng cụ đo độ sâu đổ xuống đáy xuồng. Những viên đạn do Ayrton và Pencroff bắn cùng một lúc giết chết hai tên cướp biển.

Hầu như ngay lúc ấy vang lên tiếng động khủng khiếp, một cột khói bốc cao trên tàu và một viên đại bác đập vào vách đá nơi mà dưới đó Ayrton và Pencroff đang ẩn nấp. Các mảnh đá văng ra tứ phía nhưng, may sao, các xạ thủ của chúng ta vẫn còn nguyên vẹn...

Một thuỷ thủ khác ngồi thay vào chỗ lái và chiếc xuồng bơi dọc theo bờ, định vòng qua đảo nhỏ ở phía Nam. Chúng cố sức chèo xa tầm dạn. Mặc dù Pencroff và Ayrton thừa biết bọn cướp định tập hậu họ, nhưng họ không rời vị trí chiến đấu, vì không muốn để lộ mục tiêu cho khẩu đại bác của giặc. Mặt khác, họ tin tưởng các bạn của họ bảo vệ được chỗ của mình.

Khoảng hai mươi phút, sau những phát súng đầu tiên, chiếc xuồng bơi về phía cửa sông Tạ ơn được ít nhất hai cabeltov. Vào giờ ấy thuỷ triều bắt đầu lên mạnh vì nơi đây lòng sông hẹp. Nhưng, khi bọn cướp vừa vào đúng tầm súng của trận địa phía cửa sông, chúng bị hai viên đạn phóng tới đón chào. Thế là thêm hai tên cướp nữa bỏ mạng. Nab và Spilett đã bắn rất chính xác.

Bây giờ trên xuồng chỉ còn lại ba tên cướp có khả năng chiến đấu. Xuồng bị dòng thuỷ triều cuốn mạnh nên lướt nhanh khỏi tầm đạn của Cyrus Smith và Harbert. Lát sau đó, nó vòng qua phía bắc đảo và trở lại tàu.

Sau thất bại đầu tiên, bây giờ bọn cướp cho tung ra hai chiếc xuồng khác, một xuồng chở 12 tên đổ bộ vào bờ đảo nhỏ, xuồng kia chở 8 tên định đột nhập vào cửa sông Tạ ơn. Tình hình của Pencroff và Ayrton trở nên hết sức hiểm nghèo, họ hiểu rằng đã đến lúc phải quay trở lại đảo lớn.

Song họ quyết định để cho chiếc xuồng thứ nhất lại gần, nổ hai phát súng làm tiêu hao thêm sinh lực địch, rồi mới lên thuyền của mình bơi qua eo biển, vào nấp trong Hang ngụ cư.

Họ vừa kịp nhập bọn với Cyrus Smith và Harbert thì bọn cướp biển trên xuồng thứ nhất đổ bộ lên bờ đảo nhỏ và bắt đầu sục sạo trên đó. Gần như cùng một lúc vang lên hai phát súng ở cửa sông Tạ ơn, nơi chiếc xuồng thứ hai lao tới rất nhanh. Hai trong số tám tên cướp đã bị Gédéon Spilett và Nab tiêu diệt. Chiếc xuồng đã bị thuỷ triều cuốn xô vào đá ngầm ngay cửa sông và vỡ tan. Sáu tên còn lại giơ cao súng lên đầu cho khỏi ướt và lội sang bờ sông phía bên phải, nhưng sợ bị làm bia đỡ đạn, nên chúng ba chân bốn cẳng chạy ngay về hướng mũi Tìm thấy.

Tình hình bây giờ chưa hẳn đã nguy ngập, trên đảo nhỏ có mười hai tên cướp, một số tên trong đó đã bị thương, nhưng chúng lại có xuồng, còn sáu tên khác đổ bộ lên đảo lớn, nhưng chưa tiến đến Lâu đài Đá hoa cương được, vì chúng bị sông cản đường, còn tất cả các cầu đều bị rút đi.

- Chúng ta sẽ đứng vững được phải không thưa kỹ sư? - Pencroff vừa chạy vào Hang ngụ cư đã hỏi ngay Cyrus Smith.

- Theo tôi, - viên kỹ sư trả lời - cuộc chiến đấu nhất định sẽ bước sang giai đoạn mới, sẽ là vô lí nếu cho rằng bọn cướp biển là những tên ngu ngốc nào đó cứ đổ bộ quân lên bờ trong điều kiện bất lợi như thế đối với chúng. Biết đâu, con tàu sẽ vào gần bờ.

Trong khi ấy, toán cướp biển chiếm được đảo nhỏ đã đã dần dần lội tới bờ đảo trước mặt. Bây giờ chúng chỉ còn cách cái eo biển nữa là tới đảo lớn. Bỗng hai khẩu cacbin của Ayrton va Spilett cùng lên tiếng một lúc. Chắc chắn là ngôn ngữ của họ đã khiến hai tên tội phạm té nhào.

- Các ông ạ! - Ayrton nói, tay nạp đạn vào khẩu cacbin - Tình hình phức tạp rồi, tàu đang nhổ neo.

- Đúng, chúng đang nhổ neo! - Pencroff kêu lên.

- Nó đã bắt đầu chạy! - viên kỹ sư lo lắng.

Thật vậy, trên tàu bọn cướp biển đã kéo buồm lên, và con tàu tiến gần vào đảo.

Cyrus Smith hiểu rõ hiểm hoạ thật là lớn lao, cố vắt óc suy nghĩ để tìm ra một lối thoát trong tình thế hiểm nghèo này. Chỉ còn vài phút nữa thôi, dẫu sao thì ông cũng phải có một quyết định. Nhưng quyết định như thế nào đây? Trước mắt vào trú trong Lâu đài Đá hoa cương đang bị bọn cướp biển bao vây, cầm cự một tuần, một tháng, mà cũng có thể vài tháng, vì lương thực dự trữ thừa đủ.

Trong khi đó, chiếc tàu đã tiến gần đảo nhỏ, có lẽ bọn cướp biển định đổ bộ lên phía nam hòn đảo.

Không thể bỏ lỡ một phút nào nữa, những người ngụ cư lách ra khỏi Hang ngụ cư.

Trong chốc lát họ đã đến chỗ thang máy và lên tới cửa Lâu đài Đá hoa cương. Tại đây, Top và Jup đã bị nhốt trong phòng lớn từ tối hôm qua. Những người ngụ cư hi vọng rằng Lâu đài Đá hoa cương sẽ nguyên vẹn, bởi vì để đề phòng, Cyrus Smith đã ra lệnh phủ kín các cửa sổ bằng cành cây xanh, nhưng bỗng nhiên một quả đạn xé toang cửa ra vào và bay qua hành lang.

Có thể bọn cướp biển không nhìn thấy những người ngụ cư, nhưng, không nghi ngờ gì nữa, Bob Harvey cho rằng cần kịp thời nhả đạn vào bức màn cây xanh nổi bật lên một cách đáng ngờ trên tường đá. Cuộc pháo kích Lâu đài Đá hoa cương đã đã tiếp diễn với mức độ điên cuồng gấp đôi, và chẳng mấy chốc lại thêm một quả đạn nữa xé tan những cành xanh, để lộ một cái lỗ toang hoác trên khối đá hoa cương.

Tình cảnh của những người ngụ cư trở nên tuyệt vọng. Nơi trú ẩn của họ đã bị lộ. Mà họ thì không thể dựng lên những bức tường ngăn chặn đại bác, thậm chí họ không tránh nổi những mảnh đá hoa cương bay xối xả quanh họ. Chỉ có một cách là ẩn núp ở hành lang thượng của Lâu đài Đá hoa cương, rồi tìm cách rời khỏi nơi ở của mình, phó mặc tính mạng và hòn đảo cho số phận.

Bỗng từ phía biển, một tiếng "Ầm" vang lên và tiếp theo đó là những tiếng kêu tuyệt vọng của bọn cướp.

Cyrus Smith và những người bạn của ông ta lao đến cửa sổ. Một cột nước lớn giống như một vòi rồng với sức mạnh chưa từng thấy đã nhấc bổng con tàu bị vỡ làm đôi lên, và độ mười giây sau, những đợt sóng đã nuốt chửng con tàu và đoàn thuỷ thủ.

- Chúng đã bị tan xác! - Harbert thốt lên.

- Đúng vậy! Chúng đã bị nổ tung, y như là Ayrton đã đốt kho thuốc súng của chúng vậy! - Pencroff khẳng định, đồng thời cùng với Nab và cậu bé Harbert lao đến chỗ thang máy.

- Thủng thẳng rồi chúng ta sẽ biết, còn bây giờ hãy đi đã. Điều chủ yếu là bọn cướp biển không còn nữa.

Cyrus Smith vội vã kéo nhà báo và Ayrton đi ra bờ biển, tại đây Pencroff, Nab và Harbert đang chờ họ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro