HP7 P1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lời đề tặng của quyển sách này được chia bảy phần:

Tặng Neil,

Tặng Jessica,

Tặng David,

Tặng Kenzi,

Tặng Di,

Tặng Anne,

Và tặng Bạn,

Nếu bạn gắn bó với Harry cho đến phút cuối cùng.

***

Ôi đau khổ sinh ra trong đua tranh

tiếng kêu gào rợn óc của tử thần

và cú đấm vỡ huyết mạch,

máu tuôn không ai có thể cầm được, nỗi buồn,

lời nguyền không ai chịu đựng nổi.

Nhưng phương thuốc chữa lành nằm trong chính ngôi nhà

 không phải ngoài kia, không ,

không phải từ ai , mà từ chính họ,

sự bất hoà đẫm máu. Chúng tôi hát xin người,

hỡi các thần linh âm u trong lòng đất.

Vì chưng nghe thấu , hỡi những quyền lực hoan lạc ở cõi âm - hãy đáp lời cầu khẩn, hãy cứu giúp.

Hãy phù hộ trẻ em , và ban cho chúng khải hoàn.

                                                      Aeschylus, Những người dâng rượu tế.

***

Chết chẳng qua là đi sang một thế giới khác, như bạn bè đi biển; họ vẫn sống trong nhau. Bởi vì họ nhất thiết cần tồn tại, yêu và sống trong tình yêu đó có ở khắp nơi. Trong tấm gương thiêng này họ nhìn tận mặt nhau, chuyện trò tự do và trong sáng. Đây là niềm an ủi của bạn bè , rằng cho dù họ có bị coi là đã chết, nhưng tình bạn và mối thâm giao của họ, theo lẽ thường nhất, vẫn tồn tại, bởi vì bất tự

                                     William Penn, Thêm những chiêm nghiệm nữa của cô đơn.

***

Chương Một

Chúa tể Hắc ám đang lên

Hai người đàn ông hiện ra từ cõi không, cách nhau vài thước, trên một con đường nhỏ hẹp dưới ánh trăng. Cả hai cùng đứng im phắc trong một giây, đũa phép người này chĩa vào ngực người kia; nhưng khi nhận ra nhau họ thu đũa cất vào áo choàng, bắt đầu đi về cùng một hướng.

“Tin tức sao?” Người cao hơn trong hai người hỏi.

“Tuyệt,” Severus Snape trả lời.

Con đường nằm giữa một bụi dâu gai còi cọc mọc hoang bên trái và một hàng giậu cao được cắt tỉa chu đáo ở bên phải. Vạt áo choàng dài của hai người đàn ông bay lất phất quanh cổ chân khi họ bước đi.

“Tưởng đâu tôi trễ rồi chứ,” Yaxley nói, bộ mặt thô đần của hắn lúc ẩn lúc hiện khi những cành cây cao bên trên che khuất ánh trăng. “Hơi rắc rối hơn dự kiến. Nhưng tôi hy vọng ngài sẽ hài lòng. Anh coi bộ chắc mẻm tin tức anh thu được là xịn?”

Snape gật đầu, nhưng không nói gì thêm. Họ quẹo phải, tiến vào một con đường rộng dành cho xe chạy dẫn ra khỏi con đường mòn. Hàng giậu cao uốn cong theo họ, và kéo dài đến tận hai cánh cổng kiểu cọ bằng sắt đồ sộ chắn đường hai người đàn ông. Không người nào dừng bước: cả hai im lặng giơ tay trái lên kiểu như chào và đi xuyên qua cổng, như thể mớ kim loại đen đó là khói.

Những hàng giậu thủy tùng hãm bớt tiếng bước chân của hai người đàn ông. Đâu đó bên trái họ có tiếng xào xạc: Yaxley lại rút cây đũa phép ra chĩa lên phía trên đầu người đồng hành, nhưng âm thanh ấy hóa ra xuất phát từ một con công trắng tinh đang oai phong đường bệ bước đi trên hàng giậu.

“Lúc nào cũng bày đặt, cái lão Lucius ấy! Lại còn công nữa...” Yaxley nhét cây đũa phép vào trong áo choàng kèm theo một cái khịt mũi.

Một dinh thự sang trọng hiện ra trong bóng tối cuối con đường thẳng tắp dành cho xe chạy, ánh sáng lóe ra từ những ô vuông lấp lánh như kim cương của những khuôn cửa sổ tầng trệt. Một cái hồ đang phun nước ở đâu đó trong khu vườn âm u phía bên kia hàng giậu. Sỏi nghiến rào rạo dưới chân họ khi Snape và Yaxley bước về phía cửa chính, cửa mở ra khi họ đi tới gần, mặc dù không thấy ai mở cửa.

Hành lang rộng, được chiếu sáng mờ mờ, và được trang trí lộng lẫy, với một tấm thảm diễm lệ trải gần kín mặt sàn đá. Những đôi mắt của đám chân dung mặt tai tái treo trên tường dõi theo Snape và Yaxley khi hai người đi ngang qua. Hai người đàn ông dừng bước bên một cánh cửa bằng gỗ nặng ịch dẫn vào căn phòng kế tiếp, ngần ngừ trong tích tắc, rồi Snape vặn nắm đấm cửa.

Phòng khách đầy những người ngồi im bên một cái bàn dài chạm trổ kiểu cọ. Những bàn ghế vốn thường bày biện trong phòng đã bị dồn bừa vào sát tường. Ánh sáng tỏa ra từ ngọn lửa đang cháy phừng phừng trong một lò sưởi bằng cẩm thạch to đẹp đội một tấm gương viền vàng. Snape và Yaxley chần chừ một chút ở ngưỡng cửa. Khi mắt đã quen với bóng tối, họ đi về phía một hình ảnh kỳ quái nhất trong toàn cảnh: một nhân dạng rõ ràng là bất tỉnh đang chổng ngược lơ lửng bên trên cái bàn, chầm chậm xoay vòng như thể bị treo bằng một sợi dây thừng vô hình, và được phản chiếu trong tấm gương lẫn trên mặt bàn láng bóng bên dưới. Không ai trong số người ngồi phía dưới cái cảnh quái đản ấy nhìn lên ngoại trừ một thanh niên trắng nhợt ngồi gần như ngay bên dưới hình nhân treo ngược. Cậu ta dường như không thể cưỡng được cứ một hai phút lại liếc nhìn lên phía trên đầu mình.

“Yaxley. Snape,” một giọng nói cao, rõ, phát ra từ đầu bàn. “Chúng bây suýt trễ.”

Người vừa nói ngồi ngay phía trước lò sưởi, cho nên thoạt đầu những người mới đến khó mà nhìn thấy gì khác hơn bóng dáng kẻ đó. Tuy nhiên, khi họ đến gần hơn thì gương mặt kẻ đó lộ rõ dần vẻ u ám, trọc lóc, như đầu rắn, với một cái khe tét ra làm lỗ mũi và hai con mắt đỏ chóe có đồng tử vạch thẳng đứng. Kẻ đó xanh xao đến nỗi dường như phát ra một quầng sáng ngà ngà.

“Severus, lại đây,” Voldemort nói, chỉ vào một cái ghế ngay sát bên phải hắn “Yaxley... ngồi cạnh Dolohov.”

Hai người đàn ông ngồi vào chỗ được chỉ định. Hầu như mọi con mắt quanh cái bàn đều hướng về Snape, và Voldemort nói với Snape trước nhất.

“Sao?”

“Thưa Chúa tể, Hội Phượng Hoàng có ý định chuyển Harry Potter từ chỗ đang ở đến một nơi an toàn vào thứ bảy tới, lúc trời tối.”

Sự hào hứng nổi lên thấy rõ quanh cái bàn: một số căng người lên cứng đơ, một số bồn chồn cựa quậy, tất cả đều chăm chú nhìn Snape và Voldemort.

“Thứ bảy... lúc trời tối,” Voldemort lặp lại. Hai con mắt đỏ của hắn nhìn chằm chặp vào đôi mắt đen của Snape với sự chiếu tướng mà một vài kẻ quan sát bên ngoài phải ngoảnh đi, dường như sợ chính mình sẽ bị cháy lây bởi cái nhìn rực lửa dữ dội đó. Tuy nhiên, Snape bình tĩnh nhìn thẳng vào mặt Voldemort; một lúc sau, cái miệng không môi của Voldemort cong lên từa tựa như một nụ cười.

“Tốt. Tốt lắm. Và thông tin này xuất phát...”

“... từ nguồn mà chúng ta đã bàn,” Snape nói.

“Thưa Chúa tể.”

Yaxley đã chồm tới trước để nhìn lên Voldemort và Snape ở đầu cái bàn dài. Mọi gương mặt đều hướng về hắn.

“Thưa Chúa tể, tôi lại nghe khác.”

Yaxley chờ đợi, nhưng Voldemort không nói gì, nên hắn tiếp tục, “Thần Sáng Dawlish để lộ là Potter sẽ không được chuyển đi đâu cho tới ngày ba mươi mốt, vào cái đêm trước khi thằng đó đủ mười bảy tuổi.”

Snape mỉm cười.

“Nguồn của tôi cho tôi biết là có những kế hoạch nghi binh; đây ắt là thế rồi. Chắc chắn là Dawlish đã bị ếm bùa Lú lẫn. Đây không phải là lần đầu tiên; ai cũng biết hắn dễ mắc lừa.”

“Tôi cam đoan với ngài, thưa Chúa tể, Dawlish tỏ ra khá chắc chắn,” Yaxley nói.

“Nếu hắn bị ếm bùa Lú lẫn thì đương nhiên hắn phải chắc mẻm rồi.” Snape nói. “Tôi cam đoan với anh, Yaxley, Sở Thần Sáng sẽ không đóng vai trò gì nữa trong việc bảo vệ Harry Potter. Hội Phượng Hoàng cho rằng chúng ta đã thâm nhập vào Bộ Pháp thuật rồi.”

“Vậy là Hội Phượng Hoàng cũng đúng được một cái, há?” Một gã mập chè bè ngồi gần Yaxley nói; hắn phát ra tiếng cười khụt khịt được vài ba người ngồi dài theo cái bàn hưởng ứng.

Voldemort không cười. Cái nhìn chằm chằm của hắn đảo lên hướng về cái thân xác đang xoay chầm chậm phía trên đầu mọi người, dường như hắn đang chìm đắm trong suy nghĩ.

“Thưa Chúa tể,” Yaxley tiếp tục, “Dawlish tin là toàn bộ lực lượng Thần Sáng sẽ được huy động để hộ tống thằng nhỏ...”

Voldemort giơ lên một bàn tay trắng nhợt to tướng, và Yaxley nín ngay tức thì, ấm ức nhìn Voldemort quay lại nói với Snape.

“Sau đó chúng sẽ giấu thằng đó ở đâu?”

“Ở nhà của một trong những Hội viên,” Snape nói. “Theo nguồn tin, nơi đó được Hội Phượng Hoàng và Bộ Pháp thuật bố trí mọi sự bảo vệ mà họ có thể làm được. Tôi nghĩ một khi nó đã ở đó rồi thì chúng ta rất ít có cơ hội tóm được nó, trừ khi, dĩ nhiên thôi, thưa Chúa tể, là Bộ Pháp thuật sập trước thứ bảy tới, điều đó giúp cho chúng ta cơ hội phát hiện và giải trừ một số bùa ểm đủ để phá hủy những bùa phép còn lại.”

“Sao, Yaxley?” Voldemort hỏi vọng xuống cuối bàn, ánh lửa lóe lên một cách quái gở trong đôi mắt đỏ của hắn. “Bộ Pháp thuật sẽ sập trước thứ bảy tới chứ?”

Một lần nữa, tất cả những cái đầu đều xoay. Yaxley gồng vai.

“Thưa Chúa tể, về việc đó tôi có tin lành. Tôi đã... vô cùng vất vả, và sau nỗ lực lớn lao... đã thành công trong việc ếm lời nguyền Độc đoán lên Pius Thicknesse.”

Nhiều người ngồi quanh Yaxley có vẻ sửng sốt; người ngồi cạnh hắn, Dolohov, một gã có gương mặt dài ngoằng méo mó, vỗ tay lên lưng hắn.

“Đó là một khởi đầu,” Voldemort nói. “Nhưng Thicknesse chỉ là một người. Scrimgeour phải được người phe ta vây bọc trước khi ta hành động. Một nỗ lực tấn công mạng sống Bộ trưởng mà thất bại sẽ đẩy ta lùi lại rất xa.”

“Vâng... Thưa Chúa tể, đúng như vậy... nhưng ngài biết, với chức Giám đốc sở Thi hành Luật Pháp thuật, Thicknesse có tiếp xúc thường xuyên không chỉ với bản thân ông Bộ trưởng, mà còn với Giám đốc các Sở khác trong Bộ. Tôi cho là, việc giờ đây chúng ta có trong tay một viên chức cao cấp như thế sẽ khiến cho chúng ta dễ dàng khuất phục những viên chức khác, và rồi tất cả bọn họ có thể cùng nhau hạ bệ Scrimgeour.”

“Với điều kiện ông bạn Thicknesse của chúng ta không bị vạch mặt trước khi hắn cải tạo đám còn lại” Voldemort nói. “Dù sao thì vẫn không có vẻ gì là Bộ Pháp thuật sẽ về tay ta trước thứ bảy tới. Nếu chúng ta không rớ được thằng bé ở nơi nó đến, thì ta ắt phải hành động khi nó đang di chuyển.”

“Thưa Chúa tể, ở điểm đó chúng ta có lợi thế,” Yaxley nói, hắn dường như quyết chí phải được chấp thuận phần nào. “Chúng ta giờ đây đã cài đặt nhiều người trong Sở Giao thông Pháp thuật. Nếu Potter độn thổ hay dùng Mạng Floo, chúng ta sẽ biết ngay tức thì.”

“Nó sẽ không sử dụng hai cách đó,” Snape nói. “Hội đang loại ra bất cứ hình thức di chuyển nào do Bộ Pháp thuật kiểm soát hay điều hành, họ không tin mọi thứ có dính dáng tới Bộ.”

“Càng tốt,” Voldemort nói. “Nó sẽ phải di chuyển nơi trống trải. Càng dễ tóm hơn.”

Một lần nữa, Voldemort nhìn lên cái thân người treo đang xoay chầm chậm trong lúc nói tiếp, “Ta sẽ đích thân chăm sóc thằng nhỏ. Đã có quá nhiều sai lầm mỗi khi có chuyện liên quan đến Harry Potter. Một số do chính ta gây ra. Thằng Potter đó sống là nhờ sai sót của ta nhiều hơn là nhờ chiến thắng của nó.”

Đám người ngồi quanh bàn lo lắng ngó Voldemort, mỗi người, qua vẻ mặt, lo sợ mình có thể bị trách mắng về việc Harry Potter vẫn tiếp tục sống. Tuy nhiên, Voldemort có vẻ tự nói với chính hắn hơn là với bất cứ ai trong đám người có mặt, và hắn vẫn tiếp tục hướng về cái xác bất tỉnh phía trên mà nói tiếp.

“Ta đã bất cẩn, và vì vậy mà bị thời cơ với may rủi ngáng trở, chúng làm hỏng mọi thứ trừ những kế hoạch được lập hoàn hảo nhất. Nhưng giờ đây ta đã biết khá hơn. Ta đã hiểu những điều mà trước đây ta không hiểu. Ta phải là kẻ giết Harry Potter, ta sẽ đích thân làm.”

Dường như để đáp lại những lời này, một tiếng khóc thét thình lình rống lên, một tiếng khóc sầu khổ và đau đớn khủng khiếp kéo dài. Nhiều người trong đám ngồi quanh bàn ngó xuống sàn, kinh ngạc, bởi vì âm thanh đó dường như phát ra từ phía dưới chân họ.

“Đuôi Trùn,” Voldemort nói, không hề thay đổi giọng nói trầm tư lặng lẽ của hắn, và không hề rời ánh mắt khỏi cái thân người đang xoay phía trên, “ta chưa bảo cho mi biết cách khiến cho tên tù của chúng ta im lặng sao?”

“Dạ, thưa... thưa Chúa tể,” một người đàn ông nhỏ thó ngồi khoảng giữa bàn hổn hển nói. Hắn ngồi lọt thỏm trong ghế, thấp đến nỗi thoáng nhìn qua cái ghế có vẻ như không có người ngồi. Giờ đây hắn lập cập rời khỏi chỗ, lật đật chạy ra khỏi phòng, chẳng để lại gì phía sau ngoại trừ một vệt sáng bạc kỳ lạ.

“Như ta đã nói,” Voldemort tiếp tục, nhìn lại gương mặt căng thẳng của đám tay chân, “Giờ đây ta hiểu biết hơn. Thí dụ, ta sẽ cần phải mượn cây đũa phép của một trong đám chúng bây trước khi đi giết Potter.”

Những gương mặt quanh hắn chỉ bộc lộ nỗi sững sờ; như thể hắn vừa tuyên bố hắn muốn mượn một cánh tay của họ.

“Không ai tình nguyện à?” Voldemort nói. “Để xem... Lucius, ta thấy mi không còn lý do gì để giữ một cây đũa phép nữa.”

Lucius Malfoy ngước lên. Trong ánh lửa, da hắn trông vàng ệch, bóng như sáp, và mắt hắn sâu hóm quầng thâm. Khi hắn nói, giọng hắn khàn khàn.

“Thưa Chúa tể?”

“Cây đũa phép của mi, Lucius. Ta cần cây đũa phép của mi.”

“Tôi...”

Malfoy liếc ngang sang vợ hắn. Bà ta đang trợn mắt nhìn thẳng phía trước, mặt tái nhợt không khác ông chồng, mái tóc vàng óng của bà ta xõa dài xuống lưng, nhưng dưới gầm bàn, những ngón tay thon của bà nắm nhanh lấy cổ tay chồng. Khi bà chạm vào chồng, Malfoy đút tay vào trong áo chùng, rút ra một cây đũa phép, và chuyền nó cho Voldemort, hắn bèn giơ nó lên trước hai con mắt đỏ ngầu, xem xét kỹ càng.

“Làm bằng gì?”

“Cây đu, thưa Chúa tể,” Malfoy thì thào.

“Và lõi?”

“Rồng... sợi tim rồng.”

“Tốt,” Voldemort nói. Hắn rút cây đũa phép của hắn ra và so đo chiều dài. Lucius Malfoy làm một cử chỉ vô ý; trong một thoáng không đầy giây, dường như lão trông chờ nhận được cây đũa phép của Voldemort để đổi lại cây đũa phép của lão. Với đôi mắt gian ác mở to, Voldemort không để sót cử chỉ đó.

“Cho mi cây đũa phép của ta hả, Lucius? Cây đũa phép của ta à?”

Vài kẻ trong đám ngồi quanh cười khẩy.

“Ta đã cho mi tự do, Lucius, chẳng lẽ chưa đủ cho mi sao? Nhưng ta nhận thấy mi và gia đình mi có vẻ kém vui hơn sau... Sự hiện diện của ta trong nhà mi có điều chi khiến mi không hài lòng hả, Lucius?”

“Không... không có gì cả, thưa Chúa tể!”

“Những lời dối trá như thế Lucius...”

Giọng nói nhẹ nhàng dường như rít lên ngay cả sau khi cái miệng đã thôi cử động. Một hay hai kẻ trong đám phù thủy khó kìm được một cơn rùng mình khi tiếng rít trở nên to hơn; rồi tiếng một cái gì đó nặng nề đang trườn ngang qua sàn phòng bên dưới cái bàn.

Con rắn khổng lồ từ từ trườn lên ghế của Voldemort. Nó ngóc lên, có vẻ như ngóc lên hoài, cho đến khi nó nằm vắt ngang qua vai Voldemort: cổ của nó bự bằng bắp vế của một người đàn ông; mắt của nó, với đồng tử là một vạch thẳng đứng, không hề chớp. Voldemort lơ đãng vỗ về con vật đó bằng những ngón tay dài trong khi vẫn ngó Lucius Malfoy.

“Tại sao gia đình Malfoy trông không được vui với số phận của họ nhỉ? Chẳng phải sự trở về của ta, sự hồi phục quyền lực của ta là chính cái điều họ đã tỏ ra khao khát trong bao nhiêu năm qua sao?”

“Dĩ nhiên chứ, thưa Chúa tể,” Lucius Malfoy nói. Bàn tay lão run rẩy khi lau mồ hôi rịn ra trên mép. “Chúng tôi hằng khao khát... chúng tôi vẫn khao khát.”

Ngồi bên trái Malfoy, vợ lão ngắc ngứ gật đầu sượng trân, đôi mắt của bà ta lảng tránh cả Voldemort lẫn con rắn. Bên phải Malfoy là con trai lão, Draco, từ nãy giờ vẫn ngó chằm chằm cái thân xác ù lì lơ lửng trên đầu nó, bây giờ mới liếc qua Voldemort thật nhanh, và hãi hùng khi ánh mắt gặp nhau, nó bèn ngó ngay qua chỗ khác.

“Thưa Chúa tể,” một người đàn bà u ám ngồi khoảng giữa cái bàn với giọng nói dồn nén cảm xúc, “chúng em rất vinh dự được đón ngài tại đây, trong gia đình chúng em. Không thể có niềm vui sướng nào lớn hơn được.”

Mụ ta ngồi bên cạnh chị mình, với mái tóc đen và đôi mắt tùm hụp, trông chẳng giống bà chị chút nào, kể cả dung nhan lẫn phong thái và cách cư xử; trong khi Narcissa ngồi thẳng và dửng dưng, thì Bellatrix chồm về phía Voldemort, vì chỉ lời nói thì không thể đủ diễn tả lòng khao khát được thân tình.

“Không có niềm vui sướng nào lớn hơn,” Voldemort lặp lại, đầu hơi ngoẹo sang bên một chút khi hắn chú ý nhìn Bellatrix. “Điều này do mi thốt ra, Bellatrix à, có nhiều nghĩa đấy.”

Gương mặt Bellatrix tràn trề niềm hân hoan; mắt mụ sưng mọng lên vì những giọt lệ vui mừng.

“Chúa Tể của em biết là em chỉ nói sự thật thôi mà!”

“Không có niềm vui sướng nào lớn hơn... ngay cả khi so sánh với cái sự kiện hạnh phúc, ta nghe nói, vừa xảy ra trong gia đình mi tuần này sao?”

Bellatrix trố mắt nhìn Voldemort, môi mụ hé ra, rõ ràng là bối rối.

“Thưa Chúa tể, em không biết ngài muốn nói việc gì ạ?”

“Ta đang nói về cháu gái của mi, Bellatrix à. Và của cả tụi mi nữa, Lucius và Narcissa. Nó vừa cưới gã người sói Remus Lupin. Bọn mi ắt tự hào lắm.”

Một trận cười giễu cợt bùng lên khắp chung quanh cái bàn. Nhiều kẻ chồm tới trước để chườn ra bộ mặt hể hả; một số kẻ đánh trống lên mặt bàn bằng những nắm tay. Con rắn khổng lồ, không ưa sự khuấy động, ngoác rộng miệng ra huýt lên giận dữ, nhưng bọn Tử Thần Thực Tử không nghe tiếng rắn huýt, vì chúng quá hí hửng trước sự ê càng bẽ mặt của Bellatrix và gia đình Malfoy. Gương mặt Bellatrix mới đó còn ửng hồng vì niềm hạnh phúc, giờ đã chuyển màu đỏ bầm giập xấu xí.

“Thưa Chúa tể, nó không còn là cháu gái của chúng em nữa,” Bellatrix gào lên để dập tắt tiếng cười đùa. “Chúng em – Narcissa và em – chưa bao giờ để mắt tới con chị từ khi con đó cưới chồng Máu bùn. Còn con ranh kia, lẫn con quái vật nào đó nó cưới, chẳng dính dáng gì tới hai chị em chúng em cả.”

“Mi nói sao, Draco?” Voldemort hỏi, và mặc dù giọng hắn nhỏ nhẹ, vẫn truyền rành rọt qua những tiếng cười cợt chê bai. “Mi sẽ chăm chút mấy con sói con chứ?”

Trò vui nhộn càng được bơm lên cao; Draco Malfoy nhìn cha khiếp đảm, cha nó cúi gằm nhìn xuống đùi mình, rồi nó bắt được ánh mắt của má nó. Bà ta lắc đầu, khẽ khàng đến mức gần như không nhận thấy được, rồi tiếp tục ngây nhìn bức tường đối diện.

“Đủ,” Voldemort nói, vỗ về con rắn quạu đeo. “Đủ.”

Và tiếng cười nhạo tắt ngay tức thì.

“Nhiều gia tộc lâu đời nhất của chúng ta về sau trở nên suy đồi,” Voldemort nói trong khi Bellatrix chăm chú nhìn hắn, nín cả thở và đầy vẻ cầu xin. “Bọn mi cần phải thanh lọc gia tộc của mình để giữ nó được lành mạnh, hay không cần hả? Hãy cắt bỏ những phần đe dọa đến sự lành mạnh của phần gia tộc còn lại.”

“Vâng, thưa Chúa tể,” Bellatrix thì thào, và mắt mụ lại đẫm lệ tri ân. “Ngay khi có cơ hội đầu tiên!”

“Mi sẽ có cơ hội đó,” Voldemort nói. “Và trong gia đình mi, cũng như trên toàn thế giới... chúng ta sẽ cắt bỏ những ung nhọt làm nhiễm độc chúng ta cho đến khi chỉ còn lại những người mang huyết thống thuần túy mà thôi...”

Voldemort giơ cây đũa phép của Lucius Malfoy lên, chĩa thẳng vào cái hình nhân đang xoay lờ đờ lơ lửng bên trên cái bàn, khẽ nhấp một cái. Hình nhân tỉnh lại thốt lên một tiếng rên và bắt đầu vùng vẫy cố thoát những dây trói vô hình.

“Mi có nhận ra khách mời của chúng ta không, Severus?” Voldemort hỏi.

Snape nhướn mắt nhìn gương mặt bị quay ngược xuống. Tất cả bọn Tử Thần Thực Tử lúc này đều đang nhìn kẻ bị trói ngược như thể chúng nhận được lệnh cho phép lộ ra sự tò mò. Khi người đàn bà xoay mặt về phía ánh lửa, bà kêu lên bằng giọng ngắc ngứ kinh hoàng, “Severus! Cứu tôi!”

“À, có,” Snape nói khi kẻ bị trói lại chầm chậm xoay đi.

“Và mi, Draco?” Voldemort hỏi, vừa vuốt ve cái mõm rắn bằng bàn tay không cầm đũa phép. Draco ngắc ngứ lắc đầu. Giờ đây, khi người đàn bà đã tỉnh, Draco dường như không thể nào ngó bà ta nữa.

“Nhưng ắt là mi không theo học những lớp của mụ ta,” Voldemort nói. “Ta nói cho những ai trong chúng bây chưa biết, chúng ta họp ở đây đêm nay vì Charity Burbage, kẻ mới đây còn dạy ở trường Đào tạo Phù thủy và Pháp sư Hogwarts.”

Có tiếng xì xào nhận ra lan trong đám người ngồi quanh bàn. Một mụ ngang bè bè gù lưng răng nhọn hoắt cất tiếng nói như gà mái cục tác.

“Đúng... Giáo sư Burbage đã dạy con em các pháp sư và phù thủy đủ thứ về bọn Muggle... rằng chúng nó chẳng khác chúng ta cho lắm...”

Một tên trong bọn Tử Thần Thực Tử đạp phành phạch lên sàn. Charity Burbage lại xoay vòng đối diện với Snape.

“Severus... làm ơn... làm ơn...”

“Im,” Voldemort nói, hắn nhấp cây đũa phép của Malfoy một cái nữa, và Charity nín khe như bị bịt miệng. “Chưa vừa ý với việc làm băng hoại và ô nhiễm đầu óc trẻ con phù thủy, giáo sư Burbage tuần rồi đã viết một bài rất xúc động bênh vực bọn Máu bùn trên tờ Nhật báo Tiên Tri. Mụ nói, các phù thủy cần phải chấp nhận bọn ăn cắp tri thức và pháp thuật của họ. Sự thoái hóa của phù thủy thuần chủng, theo lời giáo sư Burbage, là điều đáng mong nhất... Hẳn mụ sẽ cho tất cả chúng ta lấy Muggle... hoặc, chắc ăn hơn, lấy người sói...”

Lần này không ai cười cả. Chẳng thể lầm được cơn thịnh nộ và sự khinh miệt trong giọng nói của Voldemort. Lần thứ ba, Charity Burbage lại xoay vòng đối mặt với Snape. Nước mắt đang trào từ mắt xuống tóc bà. Snape nhìn lại bà, hoàn toàn dửng dưng, trong khi bà lại chầm chậm xoay mặt đi.

“Avada Kedavra”

Ánh sáng xanh biếc lóe lên chiếu rọi khắp mọi góc phòng. Bà Charity rớt xuống mặt bàn bên dưới, gây nên một tiếng va chạm vang rền, khiến cái bàn rung lên kêu ken két. Nhiều Tử Thần Thực Tử nhảy bật ra khỏi ghế đang ngồi. Draco té từ trên ghế xuống sàn.

“Ăn tối, Nagini,” Voldemort nói dịu dàng, và con rắn khổng lồ đu đưa rồi tuột từ vai hắn xuống mặt bàn gỗ bóng láng.

Chương Hai

Hồi niệm

Harry đang chảy máu. Nắm chặt bàn tay phải trong bàn tay trái và lầm bầm rủa thầm, nó dùng vai đẩy cánh cửa phòng ngủ. Có tiếng miểng sứ bể kêu rào rạo. Nó đã giẫm lên một cái tách trà nguội đặt trên sàn ngay bên ngoài cửa phòng ngủ của nó.

“Cái đồ...?”

Nó nhìn quanh, đầu cầu thang căn nhà số bốn, đường Privet Drive, trống trải. Có thể tách trà là sáng kiến của Dudley cho một cái bẫy ngố láu lỉnh. Giữ bàn tay chảy máu giơ cao, Harry dùng tay kia gom những mảnh vụn của cái tách lại và quăng chúng vào một cái sọt rác đã đầy nhóc khuất sau cánh cửa phòng ngủ. Rồi nó nặng nề bước qua buồng tắm, xả nước rửa ngón tay.

Thiệt là ngu ngốc, nhảm nhí, dễ khùng quá sức tưởng tượng khi mà chỉ còn bốn ngày nữa là nó có thể làm phép thuật... nhưng nó phải tự thừa nhận là vết cắt sâu nham nhở này không khéo sẽ đánh quỵ nó. Nó chưa bao giờ học cách chữa những vết thương, và bây giờ nó phải nghĩ tới chuyện đó – đặc biệt cho những kế hoạch trước mắt – điều này dường như là một thiếu sót nghiêm trọng của nền giáo dục pháp thuật. Ghi nhẩm trong đầu là sẽ hỏi Hermione cách làm, nó dùng một nùi bự giấy vệ sinh để chùi nước trà được bao nhiêu hay bấy nhiêu trước khi trở lại phòng ngủ và đóng sầm cánh cửa lại sau lưng.

Harry đã bỏ cả buổi sáng để lần đầu tiên soạn ra toàn bộ cái rương đi học của nó kể từ khi nó bắt đầu bỏ đồ đạc vô đó sáu năm về trước. Cứ mỗi lần bắt đầu một niên học mới từ đó tới nay, nó chỉ soạn sơ sơ ba phần tư bên trên của những thứ trong rương để thay thế hoặc cập nhật chúng, chừa lại một lớp những đồ lụn vụn nói chung ở dưới đáy rương – nào là viết lông ngỗng cũ, mắt bọ khô, vớ lẻ nó không mang vừa chân nữa. Mấy phút trước đó, Harry đã thọc tay vô mớ bùng nhùng này, lãnh một vết cắt đau điếng ở ngón thứ tư bàn tay phải, và khi rút tay ra thì thấy máu me tùm lum.

Bây giờ nó tiếp tục một cách cẩn thận hơn một tí. Lại quỳ xuống bên cạnh cái rương, nó mò quanh đáy, và sau khi lôi ra được một phù hiệu cũ vẫn còn lập lòe yếu ớt giữa Ủng hộ CEDRIC DIGGORY với POTTER THÚI HOẮC, một Ống kính mách lẻo te tua rạn nứt, và một cái mặt dây chuyền vàng bên trong có giấu một mẩu thư ngắn ký tên là R.A.B., nó rốt cuộc khám phá ra cái cạnh bén ngót đã gây họa cho nó. Nó nhận ra vật đó tức thì. Đó là một mảnh vỡ dài cỡ ba phân của cái gương đã được ểm bùa mà Sirius, người cha đỡ đầu quá cố, đã cho nó. Harry đặt mảnh gương vỡ qua một bên và cẩn thận dò khắp rương để kiếm phần còn lại, nhưng chẳng còn lại chút mảnh vụn nào của món quà cuối cùng của người cha đỡ đầu, ngoại trừ thủy tinh nát như bột bám dính vào lớp cuối cùng những đồ linh tinh lụn vụn tựa như kim tuyến lấp lánh.

Harry ngồi dậy và xem xét cái mảnh gương có cạnh bén ngót đã làm nó đứt tay. Nó chẳng thấy gì khác ngoài con mắt xanh biếc sáng quắc của chính nó nhìn ngược lại nó. Thế là nó đặt mảnh gương vỡ lên trên tờ Nhật báo Tiên Tri sáng hôm đó; tờ báo vẫn còn nằm trên giường, chưa được đọc, và bằng cách sục vào mớ rác còn lại trong rương, nó cố gắng dằn xuống cơn trào dâng đột ngột của những ký ức đắng cay, những vết chém của tiếc thương và mong mỏi mà việc tìm ra mảnh gương vỡ đã khơi gợi lên.

Mất thêm một giờ nữa nó mới hoàn toàn soạn ra được hết đồ đạc trong rương, quăng đi những đồ vô dụng, và sắp xếp những thứ được giữ lại thành những đống tùy theo những vật đó từ nay nó còn cần tới hay không cần tới nữa. Đồng phục đi học và đồng phục thi đấu Quidditch, vạc, giấy da, viết lông ngỗng, và hầu hết sách giáo khoa được chất đống ở một góc để được bỏ lại. Nó tự hỏi dì dượng nó sẽ làm gì với đống đó; có lẽ sẽ đem thiêu rụi giữa đêm khuya, như thể đó là tang chứng của một tội ác rùng rợn. Quần áo Muggle của nó, tấm Áo khoác Tàng hình, bộ đồ chế tạo độc dược, một số sách, tập ảnh bác Hagrid đã có lần đưa cho nó, một xấp thư, và cây đũa phép được dời chỗ sang một cái ba lô cũ. Trong túi trước là tấm Bản đồ Đạo tặc và cái mặt dây chuyền bên trong có bức thư ký tên R.A.B. Cái mặt dây chuyền được dành cho vị trí vinh dự đó không phải vì giá trị của nó – nó hoàn toàn vô tích sự hiểu theo mọi nghĩa thông thường – mà vì cái giá đã phải trả để có được nó.

Việc dọn dẹp để lại một đống báo khá to ngồi ì trên bàn bên cạnh con cú Hedwig trắng như tuyết: mỗi tờ cho một ngày mà Harry đã trải qua ở Privet Drive trong mùa hè này.

Nó đứng lên, duỗi tay chân, và đi tới cái bàn viết. Hedwig chẳng buồn nhúc nhích khi Harry bắt đầu giở đống báo ra, liệng từng tờ một vô đống rác. Con cú vẫn ngủ hay giả bộ ngủ; nó giận Harry về việc giới hạn thời gian nó được phép ngao du ở ngoài lồng trong lúc này.

Khi giở gần tới đáy đống báo, Harry chậm tay lại, tìm một số đặc biệt mà nó biết là được gởi đến ngay sau khi nó trở về Privet Drive để nghỉ hè; nó nhớ là trên trang đầu số báo đó có một tin nhỏ về việc từ chức của bà Charity Burbage, giáo viên môn Muggle Học ở trường Hogwarts. Cuối cùng nó tìm được tờ báo đó. Lật ra trang mười, nó ngồi lún xuống cái ghế bên bàn viết và đọc lại bài báo mà nó tìm nãy giờ.

NHỚ MÃI ALBUS DUMBLEDORE

Elphias Doge

Tôi gặp Albus Dumbledore năm mười một tuổi, vào ngày đầu tiên của chúng tôi ở trường Hogwarts. Chúng tôi thu hút lẫn nhau chắc chắn là vì cả hai cùng cảm thấy mình lạc lõng. Tôi mới mắc bệnh mụn rồng ít lâu trước khi đến trường Hogwarts, và tuy bệnh không còn lây nữa, nhưng bộ mặt còn dấu thẹo các nốt đậu cùng sắc mặt xanh xao của tôi làm nhiều người ngại đến gần tôi. Về phần Albus, anh đến trường Hogwarts dưới cái ách của tai tiếng ngoài ý muốn. Mới một năm trước đó, cha anh, Percival, đã bị kết tội vì một cuộc tấn công dã man ba thanh niên Muggle, vụ này khá nổi tiếng.

Albus không bao giờ tìm cách chối bỏ việc cha mình (về sau chết trong nhà tù Azkaban) đã phạm tội ác này; ngược lại, khi tôi thu hết can đảm hỏi anh, anh khẳng định với tôi là anh biết cha mình có tội. Trừ lần ấy ra, còn thì Dumbledore từ chối nói về chuyện buồn đó, mặc dù nhiều kẻ cố gắng kích cho anh nói. Thực vậy, một số kẻ sẵn sàng ca ngợi hành động của cha anh và cho là Albus cũng là kẻ ghét-Muggle. Những kẻ ấy quá sức sai lầm: vì bất cứ ai từng biết Albus sẽ chứng thực rằng anh không hề để lộ chút xíu khuynh hướng chống-Muggle nào. Quả thực, sự cương quyết ủng hộ Muggle quyền của anh đã khiến cho anh có nhiều kẻ thù trong những năm sau đó.

Tuy nhiên, chỉ trong vòng vài tháng, tên tuổi của chính Albus đã bắt đầu che khuất tai tiếng của người cha. Đến cuối năm thứ nhất thì không còn ai nhìn anh như là con trai của một kẻ ghét-Muggle nữa, mà chỉ coi anh gần như là học sinh xuất sắc nhất từ xưa tới nay của trường. Những ai trong chúng tôi được vinh dự là bạn của anh đều thu được nhiều điều bổ ích từ tấm gương của anh, ấy là chưa kể còn được anh giúp đỡ và khuyến khích – những nghĩa cử đó anh luôn sẵn sàng làm. Về sau này, anh thú nhận với tôi là ngay từ hồi còn đi học anh đã tìm thấy niềm khoái lạc lớn nhất của mình trong việc dạy dỗ.

Anh không chỉ đoạt được mọi giải thưởng đáng kể ở trường, mà chẳng mấy chốc anh đã có trao đổi thư từ thường xuyên với những tên tuổi nổi nhất trong giới pháp thuật đương thời, kể cả Nicolas Flamel, nhà giả kim lừng lẫy nhất; Bathilda Bagshot, sử gia lừng danh; và Adalbert Waffling, nhà lập thuyết pháp thuật. Nhiều bài viết của anh đã tìm được cách xuất hiện trên những ấn phẩm uyên bác như Thuật Biến Hình Ngày Nay, Những Thách Thức trong Ếm Bùa và Độc Dược Gia Thực Hành. Sự nghiệp tương lai của Dumbledore tỏ ra rất có triển vọng rực rỡ, và vấn đề duy nhất còn lại là khi nào anh sẽ trở thành Bộ trưởng Bộ Pháp thuật. Mặc dù trong những năm về sau người ta thường dự đoán là anh sắp đảm nhiệm công việc đó, thế nhưng anh không hề nuôi tham vọng nắm quyền Bộ trưởng.

Ba năm sau khi chúng tôi nhập học ở Hogwarts, em trai của Albus là Aberforth cũng đến trường. Họ không giống nhau cho lắm: Aberforth chẳng hề đam mê sách vở, và chẳng giống anh Albus, chú em khoái giải quyết những vụ cãi cọ bằng đấu tay đôi hơn là tranh luận cho ra lẽ. Dù vậy, hoàn toàn sai lầm nếu (như một số người) cho rằng, hai anh em này không làm bạn với nhau được. Hai người hòa thuận, cũng thoải mái như bất kỳ hai đứa con trai nào sống cùng nhau. Để công bằng với Aberforth, phải thừa nhận rằng sống trong cái bóng của Albus thì nói chung không thể là một trải nghiệm dễ chịu cho lắm. Làm bạn với anh mà cứ bị án bóng hoài đã là một hiểm họa thường trực, thì làm đứa em bị án bóng lại càng không sung sướng gì.

Khi Albus và tôi tốt nghiệp trường Hogwarts, chúng tôi có ý định cùng nhau làm một chuyến du hành thế giới có tính truyền thống vào thời đó, thăm thú và xem xét các phù thủy nước ngoài, trước khi theo đuổi sự nghiệp riêng của mỗi người. Thế nhưng, bi kịch đã chen vào. Đúng cái đêm trước ngày khởi hành chuyến viễn du của chúng tôi, bà Kendra mẹ của Albus qua đời, để lại cho Albus gánh nặng gia đình mà anh là trụ cột duy nhất. Tôi hoãn ngày khởi hành một thời gian để đến bày tỏ lòng tôn kính phân ưu tại tang lễ bà Kendra, rồi ra đi thực hiện cuộc lữ hành giờ đây chỉ còn lại một mình. Còn lại một người em trai và một người em gái để chăm sóc, trong khi gia sản chẳng còn sót lại mấy đồng vàng, vì vậy cũng chẳng còn chuyện Albus đi cùng tôi nữa.

Đó là giai đoạn trong đời mà chúng tôi ít liên lạc với nhau nhất. Tôi viết thư cho Albus, miêu tả một cách vô ý tứ những điều kỳ thú của chuyến đi, từ chuyện chạy thoát trong gang tấc con sư-dương-xà ở Hy Lạp, cho đến những thí nghiệm của các nhà giả kim Ai Cập. Thư của anh cho tôi biết rất ít về cuộc sống qua ngày của anh, cuộc sống mà tôi đoán là nhạt nhẽo đến phát cuồng đối với một phù thủy xuất sắc như anh. Say sưa với những trải nghiệm của chính mình, tôi thật kinh hoàng khi nghe tin, vào cuối cuộc du hành gần cả năm của tôi, một bi kịch nữa lại giáng xuống gia đình Dumbledore: em gái của anh, Ariana, đã chết.

Mặc dù Ariana đã ốm yếu suốt một thời gian dài, tai họa này, xảy ra quá nhanh sau khi người mẹ vừa mới mất, đã ảnh hưởng sâu sắc đến cả hai người anh của cô. Tất cả những ai thân cận nhất với Albus – và tôi tự cho mình là nằm trong số người may mắn đó – đều đồng ý rằng cái chết của Ariana và mặc cảm của Albus về trách nhiệm cá nhân trong cái chết đó (mặc dù, dĩ nhiên, anh vô tội), đã để lại vết chàm trong suốt cuộc đời còn lại của anh.

Tôi trở về quê nhà và nhận ra một chàng trai trẻ đã phải trải nỗi đau khổ của một người già dặn hơn rất nhiều. Albus trở nên nghiêm nghị hơn xưa, và rất ít khi vui vẻ. Bồi thêm vào nỗi tang thương của anh, cái chết của Ariana còn dẫn tới, không phải sự gần gũi được nối lại giữa Albus và Aberforth, mà là sự bất hòa. (Theo thời gian điều này cũng mất đi – những năm về sau, hai anh em đã thiết lập lại, nếu không phải là một quan hệ gần gũi, thì chắc chắn cũng là một tình thân ái.) Tuy nhiên, từ dạo ấy về sau, anh hiếm khi nào nói về cha mẹ mình hay về Ariana, và bạn bè anh cũng biết là không nên nói tới họ.

Những cây bút lông ngỗng khác sẽ miêu tả nhiều chiến thắng của những năm sau đó. Những đóng góp không kể xiết của Dumbledore vào kho tàng kiến thức pháp thuật (trong đó có khám phá của anh về mười hai công dụng của máu rồng) đem lại lợi ích cho nhiều thế hệ sau này, cũng như sự khôn ngoan mà anh đã thể hiện trong nhiều phán quyết khi làm Tổng Tướng quân của Liên minh pháp thuật. Dù vậy, người ta nói rằng chưa từng có trận đấu pháp thuật tay đôi nào so được với trận đấu giữa Dumbledore và Grindelwald năm 1945. Những ai từng chứng kiến trận đó đã mô tả nỗi khủng khiếp và kinh hoàng mà họ cảm thấy khi xem hai pháp sư xuất chúng ấy lâm trận. Chiến thắng của Dumbledore, và hệ quả của chiến thắng đó đối với thế giới pháp thuật, được coi là bước ngoặt trong lịch sử pháp thuật, quan trọng ngang với sự đề xuất Quy chế Quốc tế về Bí mật hay sự sụp đổ của Kẻ-chớ-gọi-tên-ra.

Albus Dumbledore không hề tự hào hay huênh hoang; anh có thể tìm ra điều gì đó đáng quý ở bất cứ ai, cho dù kẻ đó tầm thường hay tồi tệ thấy rõ, và tôi tin là những mất mát thời trẻ đã đem lại cho anh khả năng cảm thông cùng lòng nhân đạo lớn lao. Tôi sẽ không thể tả hết nỗi nhớ tình bằng hữu với anh, nhưng mất mát của tôi chẳng đáng kể gì so với mất mát của thế giới pháp thuật. Chắc chắn anh là hiệu trưởng được yêu kính nhất và là tấm gương sáng nhất trong tất cả hiệu trưởng xưa nay ở trường Hogwarts. Anh đã chết như anh đã sống: luôn cống hiến cho cái thiện cao cả hơn, và cho đến tận giờ phút cuối cùng của mình, anh vẫn sẵn lòng đưa tay giúp một thằng bé con mắc bệnh mụn rồng như thuở tôi mới gặp anh.

Harry đã đọc xong nhưng vẫn tiếp tục nhìn đăm đăm bức ảnh đăng kèm theo bài cáo phó. Cụ Dumbledore vẫn nở nụ cười ân cần quen thuộc, nhưng khi nhướn mắt qua gọng kiếng hình nửa mặt trăng, cụ vẫn khiến cho Harry có cảm giác, dù là trên tờ giấy báo, là cụ đang nhìn thấu suốt Harry, kẻ mang trong mình nỗi buồn trộn lẫn với cảm giác hổ thẹn.

Nó cứ tưởng nó biết cụ Dumbledore rõ lắm, nhưng từ lúc đọc xong bài cáo phó này, nó đã phải bất đắc dĩ nhìn nhận rằng nó hầu như chẳng biết gì về cụ cả. Trước giờ Harry chưa từng tưởng tượng ra tuổi thơ hay tuổi trẻ của cụ Dumbledore; cứ như thể cụ vào đời đã là người như nó vẫn biết: già nua, tóc bạc, tôn nghiêm. Cái ý nghĩ về một Dumbledore tuổi mới lớn sao thấy kỳ kỳ, giống như tưởng tượng một Hermione ngốc nghếch hay một Quái tôm Đuôi nổ dễ thương vậy.

Nó chưa bao giờ nghĩ tới việc hỏi cụ Dumbledore về quá khứ của cụ. Chắc chắn hỏi như vậy thì kỳ và thậm chí vô lễ, nhưng nói cho cùng thì ai cũng biết cụ Dumbledore từng tham dự trận đấu tay đôi huyền thoại với Grindelwald, và Harry đã không nghĩ đến việc hỏi cụ Dumbledore trận đó như thế nào, cũng không hề hỏi về bất cứ thành tích nào trong những thành tích nổi tiếng khác của cụ. Không, hai thầy trò lúc nào cũng chỉ trò chuyện về Harry, về quá khứ của Harry, tương lai của Harry, kế hoạch của Harry... và giờ đây, bất chấp cái thực tế là tương lai của nó quá hiểm nghèo và bất định, dường như nó đã bỏ lỡ mất rồi những cơ hội không bao giờ có được nữa để hỏi cụ Dumbledore nhiều hơn về chính cụ, mặc dù câu hỏi thân tình duy nhất nó từng hỏi thầy hiệu trưởng của mình lại chính là câu hỏi mà nó ngờ rằng cụ Dumbledore đã không thành thật trả lời.

“Thầy nhìn thấy cái gì khi nhìn vào tấm gương?”

“Thầy ư? Thầy thấy chính mình đang cầm một đôi vớ len dày.”

Sau nhiều phút suy nghĩ, Harry xé bài cáo phó ra khỏi tờ báo Tiên Tri, gấp lại cẩn thận, và nhét vào bên trong quyển đầu tiên của bộ Pháp Thuật Phòng Thủ Thực Tiễn và Ứng Dụng Chống Lại Nghệ Thuật Hắc Ám. Rồi nó quăng mớ báo còn lại lên đống rác và quay lại nhìn căn phòng. Đã ngăn nắp sạch sẽ hơn nhiều. Cái duy nhất còn ở trật chỗ là tờ Nhật báo Tiên Tri số ra hôm nay, vẫn còn nằm trên giường, và bên trên nó là mảnh gương vỡ.

Harry băng ngang căn phòng, đẩy mảnh gương vỡ ra khỏi tờ báo Tiên Tri số hôm nay, và mở tờ báo ra. Hồi sáng sớm này khi nhận cuộn báo từ con cú phát báo, Harry chỉ liếc qua cái tít trang nhứt rồi liệng tờ báo qua một bên sau khi nhận thấy báo chẳng đá động gì đến Voldemort. Harry tin chắc là Bộ Pháp thuật đang dựa vào tờ Tiên Tri để bưng bít tin tức về Voldemort. Thành ra, chỉ bây giờ nó mới thấy cái mà nó đã bỏ sót.

Chạy ngang nửa dưới của trang nhứt là một cái tít nhỏ hơn đặt bên trên một bức ảnh của cụ Dumbledore đang sải bước, có vẻ bực bội.

DUMBLEDORE – RỐT CUỘC SỰ THẬT Ư?

Câu chuyện chấn động về một thiên tài hoàn hảo được nhiều người coi là pháp sư vĩ đại nhất thuộc thế hệ của ông sẽ phát hành vào tuần tới. Bóc trần chân dung nổi tiếng của trí tuệ râu bạc thanh thoát, Rita Skeeter để lộ ra tuổi thơ xáo trộn, tuổi trẻ hoang đàn, những hận thù suốt kiếp, và những bí mật tội lỗi mà Dumbledore đã mang theo xuống mồ, TẠI SAO người được trao cho chức Bộ trưởng Bộ Pháp thuật lại bằng lòng giữ chức hiệu trưởng quèn? CÁI GÌ mới là mục đích thực sự của tổ chức bí mật được gọi là Hội Phượng Hoàng? Cuộc đời của Dumbledore đã kết thúc NHƯ THẾ NÀO?

Câu trả lời cho những câu hỏi này và nhiều câu hỏi khác nữa được nghiên cứu trong một quyển tiểu sử mới hứa hẹn xì-căn-đan, Chuyện Đời và Chuyện Xạo của Albus Dumbledore, tác giả Rita Skeeter, bài phỏng vấn dành riêng cho bổn báo của Berry Braithwaite, trang 13, bên trong.

Harry xé banh tờ báo và tìm thấy trang 13. Đầu bài báo là bức ảnh của một gương mặt quen thuộc khác: một người đàn bà đeo kính làm điệu, mái tóc vàng uốn cong chải chuốt, răng nhe ra trong cái thứ rõ ràng được coi là nụ cười thắng cuộc, đang ngọ nguậy ngón tay chỉ vào nó. Ráng hết sức lờ đi cái chân dung phát ói này, Harry đọc tiếp.

Về bản thân, Rita Skeeter nồng nàn và dịu dàng hơn nhiều những gì ta hình dung khi đọc những chân dung hung hăng nổi tiếng chị viết. Đón tôi trong hành lang ngôi nhà ấm cúng của chị, Rita dẫn tôi đi thẳng vào nhà bếp để mời trà, bánh ngọt, và khỏi cần nói, một nồi sôi sùng sục chuyện đồn đại mới nhất.

“Ừ, đương nhiên, Dumbledore là giấc mơ của một tiểu sử gia,” Skeeter nói. “Một cuộc đời dài trọn vẹn. Tôi chắc chắn là cuốn sách của tôi sẽ là cuốn đầu tiên của rất, rất nhiều cuốn nữa.”

Skeeter hẳn nhiên đã vọt nhanh khỏi vạch xuất phát. Quyển sách chín-trăm-trang được hoàn tất chỉ trong bốn tuần lễ sau cái chết bí ẩn của Dumbledore hồi tháng sáu. Tôi hỏi chị xoay trở cách nào để lập được kỳ tích siêu nhanh này.

“À, khi nào bạn hành nghề báo chí lâu như tôi, thì viết cho kịp hạn chót nộp bài là bản năng thứ hai. Tôi biết là thế giới pháp thuật đang kêu gào đòi hỏi một câu chuyện đầy đủ và tôi muốn là người đầu tiên đáp ứng nhu cầu này.”

Tôi nhắc đến những nhận xét được công bố rộng rãi gần đây của Elphias Doge, Cố vấn đặc biệt của Liên minh Pháp thuật và là người bạn lâu đời của Dumbledore, rằng “quyển sách của Skeeter chứa ít sự thật hơn cả một tấm thẻ nhái sô-cô-la.”

Skeeter ngửa đầu ra sau cười ha hả.

“Dodgy đáng yêu thật! Tôi nhớ từng phỏng vấn ổng cách đây vài năm về ngư nhân quyền, trời đất ơi. Hoàn toàn lẩm cẩm, hình như nghĩ chúng ta đang ngồi dưới đáy hồ Windermere hay sao ấy, cứ bảo tôi phải coi chừng lũ cá hồi.”

Thế nhưng lời cáo buộc của Elphias Doge về sự thiếu chính xác đã được nhiều nơi hưởng ứng. Liệu Skeeter có thực sự cảm thấy bốn tuần lễ ngắn ngủi là đủ để có được một bức tranh toàn diện về cuộc đời dài và phi thường của Dumbledore không?

“Ôi, cưng ơi,” Skeeter cười toe, âu yếm cốc đầu tôi bằng mấy đốt ngón tay, “cưng cũng biết như tôi đấy, là có thể moi được bao nhiêu thông tin bằng một bao to sụ toàn đồng Galleon, bằng từ chối nhận tiếng ‘không’, và bằng một cây viết Trích-Dẫn-Nhanh! Với lại người ta đang sắp hàng để buôn chuyện về Dumbledore kìa. Cưng biết mà, đâu phải ai cũng nghĩ ổng tuyệt vời đâu – ổng đã làm mếch lòng khối người quan trọng đấy. Nhưng lão già Doge láu cá có thể tụt khỏi con bằng mã cao vót của lão đi thôi, bởi vì tôi vừa tiếp cận được một nguồn tin mà hầu hết ký giả sẵn sàng đổi cây đũa phép của mình để có được; nguồn tin là một người trước đây chưa từng phát biểu với công chúng, đồng thời là người thân cận với Dumbledore trong suốt thời kỳ hỗn loạn rối rắm của tuổi trẻ ông ta.”

Việc quảng cáo trước cuốn tiểu sử của Skeeter chắc chắn khiến ta nghĩ sắp tới sẽ có những cơn chấn động nơi những người vẫn tin rằng Dumbledore đã sống một cuộc đời không có chỗ chê. Những ngạc nhiên lớn nhất mà Skeeter vạch ra là gì, tôi hỏi.

“Ấy, thôi đi nhé, Betty, tôi sẽ chẳng phát không tất cả những gì sáng giá nhất trước khi có người mua cuốn sách của tôi đâu nhá!” Skeeter cười lớn. “Nhưng tôi có thể hứa là bất cứ ai vẫn còn nghĩ Dumbledore trắng bóc như râu ổng rồi sẽ lâm vào cuộc tỉnh ngộ dã man! Chỉ cần đơn cử, không một ai từng nghe về cơn thịnh nộ của ổng đối với Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó lại có thể nằm mơ rằng chính ổng từng học đòi Nghệ thuật Hắc ám hồi còn trai trẻ! Và mặc dù là một pháp sư đã dành những năm cuối đời để kêu gọi lòng khoan dung, nhưng hồi còn trẻ trung ổng lại không có đầu óc khoáng đạt như thế! Vâng, Albus Dumbledore đã có một quá khứ đục ngầu, chưa kể đến một gia đình rất mập mờ, mà ổng đã bỏ công khó nhọc ra bưng bít.”

Tôi hỏi có phải Skeeter nói đến người em trai của Dumbledore, Aberforth, người đã bị Liên minh Pháp thuật buộc tội lạm dụng pháp thuật và việc đó đã gây ra một xì-căn-đan nho nhỏ cách đây mười lăm năm.

“Ối, Aberforth chỉ là cái chóp của đống cứt ấy mà thôi.” Skeeter cười. “Không, không, tôi đang nói về cái điều còn tồi bại hơn cả một ông em có cái thú làm trò vớ vẩn với mấy con dê, tồi bại hơn cả một người cha chuyên xẻ-thịt-Muggle – Đằng nào thì Dumbledore cũng không thể giữ kín được hai chuyện đó, cả hai người đó đều đã bị Liên minh Pháp thuật kết án. Không, chính người mẹ và người em gái mới khiến tôi tò mò, và chỉ cần đào bới chút xíu là phát hiện ra cả một ổ kinh tởm hết sức – nhưng, như tôi đã nói, cưng phải chờ đọc từ chương chín đến chương mười hai để biết chi tiết đầy đủ. Tất cả những gì tôi có thể nói lúc này là chẳng có gì để thắc mắc tại sao Dumbledore không bao giờ kể ổng đã gãy mũi như thế nào.”

Cho dù có những việc xấu xa của gia đình, nhưng liệu Skeeter có phủ nhận tài ba lỗi lạc đã làm nên nhiều khám phá pháp thuật của Dumbledore?

“Ổng có đầu óc.” Skeeter thừa nhận. “Mặc dù giờ đây nhiều người nghi vấn là liệu ông ta có nên hưởng trọn công lao về tất cả những khám phá được coi là của ông ta không. Như tôi tiết lộ trong chương mười sáu, Ivor Dillonsby tuyên bố, khi Dumbledore ‘mượn’ bài luận văn của ông, ông đã khám phá ra tám công dụng của máu rồng rồi.”

Nhưng, tôi mạo muội có ý kiến, rằng không thể phủ nhận tầm quan trọng của một số thành tích của Dumbledore. Một vụ rất nổi tiếng là ông đánh bại Grindelwald thì sao?

“A, đây rồi, tôi mừng là cưng nhắc đến Grindelwald,” Skeeter nói với một nụ cười thiệt là trêu ngươi. “Tôi e rằng những người nào vẫn còn mờ mắt về chiến thắng ngoạn mục của Dumbledore sẽ phải gồng mình mà đối phó với một quả bom dư luận – mà có lẽ là một quả bom phân. Một vụ bầy hầy thật sự. Tôi chỉ có thể nói là, đừng có chắc mẻm là đã có thực một trận đấu tay đôi ngoạn mục như trong truyền thuyết. Sau khi đọc cuốn sách, người ta có thể buộc lòng phải kết luận rằng Grindelwald chỉ đơn giản được chiêu hồn bằng một chiếc khăn tay trắng từ đầu cây đũa phép của ổng và hành động một cách lặng lẽ.”

Skeeter từ chối đưa ra thêm điều gì về vật chiêu hồn này, vì vậy chúng tôi xoay qua mối quan hệ chắc chắn sẽ hấp dẫn độc giả của chị hơn bất cứ điều gì khác.

“À, phải.” Skeeter nói, nhanh nhẩu gật đầu, “Tôi dành trọn một chương cho toàn bộ quan hệ Potter-Dumbledore. Lâu nay quan hệ đó được coi là không lành mạnh, thậm chí xúi quẩy. Một lần nữa, độc giả báo của cưng sẽ phải mua cuốn sách của tôi để biết toàn bộ câu chuyện, nhưng rõ ràng là Dumbledore có mối quan tâm không bình thường đối với Potter ngay từ ban sơ. Liệu đó có thật sự vì quyền lợi cao nhất của thằng bé không – Chà, chúng ta sẽ biết. Chuyện Potter trải qua một thời mới lớn lộn xộn bậc nhất chắc chắn là một bí mật mà ai cũng biết.”

Tôi hỏi Skeeter có còn liên lạc với Harry Potter, người mà chị đã từng có một cuộc phỏng vấn nổi tiếng hồi năm ngoái: một bài báo đột phá trong đó Potter nói riêng về việc cậu tin chắc chắn Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó đã trở lại.

“À, có chứ, chúng tôi ngày càng gắn bó thân thiết hơn,” Skeeter nói. “Potter đáng thương có rất ít bạn bè thực sự, và chúng tôi đã gặp nhau vào một trong những thời điểm thử thách nhất trong đời cậu bé – Cuộc thi đấu Tam pháp thuật. Tôi có lẽ là người đang sống duy nhất có thể nói mình biết Harry Potter chánh hiệu.”

Điều này đưa ngay chúng tôi đến những chuyện đồn đãi vẫn còn lan truyền về giờ phút cuối cùng của Dumbledore. Liệu Skeeter có tin là Potter có mặt ở đó khi Dumbledore chết không?

“Chà, tôi không muốn nói quá nhiều – tất cả đều có trong cuốn sách – nhưng những nhân chứng bên trong lâu đài Hogwarts đã nhìn thấy Potter chạy ra khỏi hiện trường chỉ mấy phút sau khi Dumbledore gục ngã, (cũng có thể ông ta nhảy xuống, hay bị đẩy xuống). Về sau Potter làm chứng chống lại Severus Snape, một người mà cậu bé nổi tiếng là có ác cảm. Liệu mọi việc có đúng như ai cũng tưởng không? Điều đó để cho cộng đồng pháp thuật quyết định, một khi họ đọc cuốn sách của tôi.”

Tôi ra về mang theo sự lưu ý hấp dẫn đó. Không nghi ngờ gì, Rita Skeeter đã viết ra một cuốn sách bán chạy ăn liền. Trong lúc ấy, đám đông ngưỡng mộ Dumbledore có thể sẽ phải run rẩy trước những điều chẳng bao lâu nữa sẽ lộ ra về người anh hùng của họ.

Harry đã đọc hết dòng cuối của bài báo, nhưng mắt vẫn ngây ra ngó chằm chằm trang báo không dứt được. Sự ghê tởm và phẫn nộ trào lên trong người nó như muốn ói, nó vo tròn tờ báo và quăng mạnh vô tường bằng tất cả sức lực, cục báo nhập vô đám rác chất đống quanh cái thùng rác đã đầy tràn.

Nó bắt đầu sải bước quanh căn phòng một cách mù quáng, mở tung những ngăn kéo đã trống rỗng và cầm lên những cuốn sách để rồi lại đặt trở vào chỗ cũ, hầu như không ý thức mình đang làm gì, khi cứ lộn xộn từng câu chữ trong bài phỏng vấn Rita vang vọng trong đầu nó: “... trọn một chương cho toàn bộ quan hệ Potter-Dumbledore... lâu nay quan hệ đó được coi là không lành mạnh, thậm chí xúi quẩy... chính ổng từng học đòi Nghệ thuật Hắc ám thời trai trẻ... tôi đã tiếp cận được một nguồn mà hầu hết các ký giả sẽ đánh đổi cây đũa phép để có được...”

“Láo!” Harry gào lên, và qua khung cửa sổ nó thấy ông hàng xóm nhà kế bên, vừa ngừng lại để khởi động cái máy cắt cỏ của ông ta, ngó lên lo lắng.

Harry ngồi phịch xuống giường. Mảnh gương vỡ nhảy múa ra xa nó; nó lượm lên và xoay mảnh gương vỡ trong mấy ngón tay, nghĩ mãi, nghĩ mãi về cụ Dumbledore cùng những điều dối trá mà Rita đang dùng để phỉ báng cụ...

Một ánh sáng xanh lơ nhá lên. Harry sững sờ, ngón tay bị đứt của nó lại cứa vào cạnh bén của mảnh gương vỡ một lần nữa. Nó đã tưởng tượng, ắt là nó đã tưởng tượng ra thôi. Nó liếc ra sau, nhưng bức tường chỉ toàn một màu đào chín bệnh hoạn mà dì Petunia ưng chọn. Chẳng có gì ở đó màu xanh lơ để cho mảnh gương phản chiếu. Nó săm soi nhìn vào mảnh gương một lần nữa, và chẳng thấy gì ngoài con mắt sáng xanh biếc của chính nó ngó lại nó.

Nó đã tưởng tượng, chứ không có cách giải thích nào khác; đã tưởng tượng ra điều đó, bởi vì nó đang nghĩ đến thầy hiệu trưởng đã mất. Nếu có điều gì đó chắc chắn, thì điều đó là đôi mắt sáng xanh lơ của cụ Albus Dumbledore sẽ không bao giờ nhìn thấu lòng nó nữa.

Chương Ba

Cuộc ra đi của nhà Dursley

Tiếng cánh cửa trước đóng sầm vọng lên lầu và một giọng nói  gầm lên, “Ê, mày!”

Mười sáu năm trời bị gọi như vậy khiến cho Harry chẳng còn thắc mắc gì khi dượng nó gọi, mà dù gì đi nữa, nó cũng không thèm đáp ngay. Nó vẫn còn để tâm vào mảnh gương hẹp mà thoáng trong một giây nó đã tưởng nhìn thấy mắt cụ Dumbledore trong đó. Chỉ đến khi dượng nó rống “THẰNG RANH!” Harry mới thủng thẳng ra khỏi giường, đi về phía cửa phòng ngủ, ngừng một tí để bỏ mảnh gương vỡ vào cái ba lô đã đầy nhóc những thứ mà nó sẽ vác theo bên mình.

“Mày từ tốn quá hén!” Dượng Vernon Dursley gầm lên khi Harry xuất hiện trên đầu cầu thang, “Xuống đây ngay! Tao muốn nói đôi lời!”

Harry thong thả bước xuống cầu thang, hai tay thọc sâu trong túi quần. Khi nó vô tới phòng khách thì thấy cả ba người trong gia đình Dursley đều đã có mặt. Họ đều ăn mặc thích hợp để đi đường; dượng Vernon mặc một cái áo khoác cũ cài bằng dây kéo suốt, dì Petunia mặc áo khoác màu cá hồi gọn ghẽ, còn Dursley, thằng anh bà con của Harry, vạm vỡ to xác tóc vàng hoe, thì khoác áo da.

“Dạ?” Harry hỏi.

“Ngồi xuống!” Dượng Vernon bảo. Harry nhướn mày lên. “Mời!” Dượng Vernon bổ sung, mặt hơi cau lại như thể cái từ đó cứa vào cổ họng ông.

Harry ngồi xuống. Nó nghĩ là nó biết chuyện gì sắp xảy ra. Dượng nó bắt đầu đi qua đi lại. Dì Petunia và Dudley dõi theo cử động của ông với vẻ mặt căng thẳng. Cuối cùng, bộ mặt to bè tím đỏ của dượng rúm lại vì tập trung tư tưởng cao độ. Dượng Vernon đứng lại trước mặt Harry và phát biểu.

“Tao đã thay đổi ý kiến,” dượng nói.

“Thiệt là ngạc nhiên,” Harry đáp.

“Mày đừng giở cái giọng...” Dì Petunia lên tiếng, giọng the thé, nhưng dượng Vernon phất tay dẹp dì xuống.

“Việc này nhiều mắc mứu lắm,” dượng Vernon nói, quắc đôi mắt heo ti hí nhìn Harry. “Tao đã quyết định là tao không thèm tin một lời nào hết. Chúng tao cứ ở tại chỗ. Chúng tao sẽ không đi đâu hết.”

Harry ngước nhìn dượng nó và cảm thấy vừa muốn phát khùng vừa muốn bật cười. Dượng Vernon Dursley cứ mỗi hai mươi bốn giờ lại đổi ý một lần trong suốt bốn tuần lễ qua, hết chất đồ lên xe rồi lại dỡ đồ xuống theo nhịp thay đổi cảm xúc. Harry khoái nhất là lúc dượng Vernon, vì không dè Dudley đã bỏ vô va-li của nó mấy quả tạ sau lần mở gói đóng gói trước đó, nên đã cố nhấc cái va-li bỏ trở vô cốp để hành lý của chiếc xe hơi, và té chúi nhủi, phát ra những tiếng rống đau đớn kèm theo vô số lời chửi bới.

“Theo mày,” dượng Vernon nói, bây giờ dượng lại tiếp tục đi qua đi lại trong phòng khách, “thì chúng tao – Petunia, Dudley và ta – đang bị đe dọa tính mạng. Bởi... bởi...”

“Một số kẻ trong ‘bọn tôi’, đúng.” Harry nói.

“Này, tao không tin chuyện đó,” dượng Vernon lặp lại, và lại dừng bước trước mặt Harry. “Tao đã thao thức nửa đêm suy nghĩ lại toàn bộ chuyện này, và tao tin đó là một âm mưu chiếm đoạt căn nhà.”

“Nhà?” Harry lặp lại. “Nhà nào?”

“Nhà này! Giá nhà đang tăng vọt lên trong vùng này! Mày muốn lừa chúng tao ra khỏi nhà rồi mày sẽ trổ vài mánh khóe lừa gạt xong giấy tờ sẽ đứng tên mày và trước khi chúng tao kịp biết thì...”

“Dượng mất trí rồi hả?” Harry hỏi. “Âm mưu chiếm căn nhà này? Không lẽ dượng ngu thiệt chứ không phải trông có vẻ ngu?”

“Mày dám hỗn...!” Dì Petunia thét lên, nhưng một lần nữa dượng Vernon lại phất tay trấn dì xuống. Xúc phạm nho nhỏ về ngoại diện cá nhân dượng có vẻ chẳng ăn thua gì so với hiểm họa mà dượng vừa phát hiện.

“Nếu dượng quên rồi thì con nhắc,” Harry nói, “con đã có nhà rồi, cha đỡ đầu đã để lại cho con một căn. Vậy thì con chiếm căn nhà này để làm gì? Để giữ tất cả những kỷ niệm hạnh phúc à?”

Im lặng. Harry nghĩ bằng những lời lẽ này nó đã hơi thuyết phục được dượng nó.

“Mày cho rằng,” dượng Vernon nói, lại tiếp tục đi qua đi lại, “cái tay Chúa tể Gì đó...”

“... Voldemort,” Harry sốt ruột tiếp lời. “Và chúng ta đã nói đi nói lại về chuyện này hàng trăm lần rồi. Đây không phải là chuyện cho rằng, đó là sự thật. Thầy Dumbledore đã nói với dượng hồi năm ngoái, chú Kingsley và ông Weasley cũng...”

Dượng Vernon Dursley gồng vai lên giận dữ, và Harry đoán là dượng đang cố gắng gạt đi những hồi tưởng về cuộc viếng thăm không báo trước của hai pháp sư người lớn hẳn hòi chỉ vài ngày sau khi Harry về đây nghỉ hè. Việc Kingsley Shacklebolt và Arthur Weasley xuất hiện ở ngưỡng cửa nhà Dursley đã trở thành một cơn chấn động khó chịu nhất đối với gia đình Dursley. Nhưng Harry phải thừa nhận rằng, do ông Weasley từng làm tanh bành hết một nửa phòng khách nhà Dursley, nên không thể trông mong sự tái xuất hiện của ông sẽ khiến dượng Vernon hân hoan chào mừng.

“Chú Kingsley và ông Weasley đều đã giải thích tất cả rồi,” Harry tiếp tục nói rấn tới không chút áy náy. “Một khi con tròn mười bảy tuổi, bùa bảo hộ cho con được bình yên sẽ hết hiệu lực, và khi đó cả con lẫn gia đình dì dượng đều bị nguy hiểm. Hội chắc chắn rằng Voldemort sẽ nhắm vào gia đình dượng, hoặc là tra tấn dì dượng để truy ra chỗ con ở, hoặc là hắn cho rằng bắt giữ gia đình dượng làm con tin sẽ khiến con phải đến mà cứu dì dượng.”

Ánh mắt dượng Vernon và ánh mắt Harry gặp nhau. Harry chắc rằng trong tích tắc đó cả hai đều thắc mắc cùng một việc. Sau đó dượng Vernon tiếp tục bước và Harry tiếp tục nói.

“Gia đình dượng phải dọn đến nơi ẩn náu an toàn và Hội muốn giúp đỡ. Người ta đang dành cho gia đình dượng sự bảo vệ tốt nhất, nghiêm nhặt nhất đó.”

Dượng Vernon không nói gì nhưng vẫn tiếp tục bước tới bước lui. Bên ngoài mặt trời đã xuống thấp tới mấy hàng giậu thủy lạp. Cái máy cắt cỏ của nhà bên cạnh lại chết máy.

“Tao tưởng có một Bộ Pháp thuật chứ?” Dượng Vernon đột ngột hỏi.

“Có chứ.” Harry nói, ngạc nhiên.

“Vậy thì, tại sao họ không bảo vệ chúng ta? Theo tao thấy thì, những nạn nhân vô tội chúng tao, chẳng có lỗi gì ngoài việc nuôi dưỡng chứa chấp một kẻ bị truy nã thì đáng được chính quyền bảo vệ lắm chứ.”

Harry bật cười; nó không thể nhịn được. Trông mong hy vọng vào chính quyền, thậm chí chính quyền trong một thế giới mà dượng miệt thị và không tin tưởng, thì thiệt đúng là tính đặc thù của dượng Vernon.

“Dượng đã nghe những gì chú Kingsley và ông Weasley nói.” Harry đáp. “Họ cho là Bộ Pháp thuật đã bị địch thâm nhập rồi.”

Dượng sải dài bước chân về phía lò sưởi rồi quay trở lại, thở mạnh đến nỗi bộ ria đen vĩ đại đùn bộ mặt vẫn còn tím đỏ vì sự tập trung tư tưởng nổi lên những nếp u nần.

“Thôi được,” dượng nói. Lại dừng bước trước mặt Harry một phen nữa. “Được rồi, cứ coi như vì lí lẽ của mày mà tao chấp nhận sự bảo vệ này đi. Nhưng tao vẫn không hiểu tại sao chúng ta lại không được tay Kingsley đó bảo vệ.”

Harry cố gắng không đảo tròn con mắt, nhưng thật là khó. Vấn đề này cũng đã được giải thích cả nửa tá lần rồi.

“Như con đã nói với dượng rồi,” Harry nói qua kẽ răng nghiến lại, “ông Kingsley đang bảo vệ thủ tướng Mug... Ý con nói ông thủ tướng của dượng ấy.”

“Đúng vậy... Tay đó khá nhất!” Dượng Vernon nói, chỉ vào màn hình tivi vừa tắt. Gia đình Dursley đã nhìn ra Kingsley trong chương trình thời sự, đi bên cạnh ông thủ tướng Muggle khi ông này đến thăm một bệnh viện. Sự kiện này, cùng với việc Kingsley sành điệu về ăn mặc như một Muggle, chưa kể đến nét gì đó rất dễ làm vững dạ trong giọng nói trầm trầm từ tốn của ông đã khiến cho gia đình Dursley khoái Kingsley một cách mà họ chưa bao giờ có đối với bất kỳ phù thủy nào khác, mặc dù đúng là họ chưa bao giờ thấy Kingsley khi ông đeo bông tai.

“Đành thôi, chú ấy có công tác rồi.” Harry nói. “Nhưng Hestia Jones và Dedalus Diggle làm công việc bảo vệ còn hơn cả giỏi nữa...”

“Giá mà ta được coi lý lịch họ...” Dượng Vernon bắt đầu, nhưng Harry đã mất hết kiên nhẫn. Nó đứng lên, đi qua mặt dượng nó, bây giờ chính nó chỉ vào cái máy truyền hình.

“Những tai nạn đó không phải là tai nạn – những vụ đụng độ, nổ tung hay trật đường rầy, và những vụ khác nữa xảy ra từ lần chúng ta xem tin tức trước. Người ta đang mất tích, đang chết và Voldemort – hắn ở đằng sau những vụ đó. Con đã nói đi nói lại với dượng rồi, hắn giết Muggle để giải trí. Ngay cả sương mù... cũng là do bọn Giám ngục gây ra, và nếu dượng không thể nhớ bọn chúng như thế nào, thì hãy hỏi con trai của dượng!”

Hai tay Dudley giật nảy lên bụm lấy miệng. Thấy cha mẹ và Harry đang nhìn mình, Dudley từ từ hạ tay xuống và hỏi: “Chúng... còn nhiều nữa hả?”

“Còn nhiều nữa?” Harry bật cười. “Ý mày nói nhiều hơn hai tên đã tấn công tụi mình à? Dĩ nhiên là còn nhiều nữa, hàng trăm, có thể bây giờ lên tới hàng ngàn, căn cứ vào nỗi sợ hãi và tuyệt vọng mà chúng mớm cho người ta.”

“Được rồi, được rồi,” dượng Vernon quát tháo. “Mày đã nói rõ...”

“Con hy vọng vậy.” Harry nói, “Bởi vì một khi con tròn mười bảy tuổi, tất cả bọn chúng – bọn Tử Thần Thực Tử, bọn Giám ngục, có thể cả bọn âm binh – tức là những xác chết bị bọn pháp sư Hắc ám phù phép sai khiển – sẽ có thể tìm dượng và chắc chắn sẽ tấn công dượng. Và nếu dượng nhớ lại lần trước dượng đã thử chạy trốn phù thủy như thế nào, con tin dượng sẽ đồng ý là dượng cần sự giúp đỡ.”

Trong một thoáng im lặng, vọng âm xa xa của tiếng bác Hagrid đạp sập cánh cửa gỗ dường như dội về từ nhiều năm trước. Dì Petunia đang nhìn dượng Vernon; Dudley thì chăm chú ngó Harry. Cuối cùng dượng Vernon thốt ra: “Nhưng còn công việc của tao? Việc học của Dudley sẽ thế nào? Tao không tin một lũ phù thủy rỗi hơi lại thèm bận tâm những điều đó...”

“Dượng vẫn không hiểu sao?” Harry hét lên. “Chúng sẽ tra tấn và giết dượng như chúng đã giết cha mẹ con!”

“Ba.” Dudley la lớn. “Ba... con sẽ đi với mấy người Hội đó.”

“Dudley,” Harry nói, “Lần đầu tiên trong đời mày, mày nói nghe được.”

Harry biết nó thắng trận tranh cãi này rồi. Nếu Dudley đủ khiếp sợ để chấp nhận sự giúp đỡ của Hội, ba má nó sẽ theo nó thôi. Không đời nào có chuyện họ chịu xa cách Duddy-cưng của họ. Harry liếc nhìn cái đồng hồ quả lắc trên bệ lò sưởi.

“Họ sẽ đến đây trong vòng năm phút nữa,” nó nói, và khi không ai trong gia đình Dursley nói gì đáp lại, nó bỏ ra khỏi phòng. Cái cảnh tượng chia tay – có lẽ vĩnh viễn – với dì dượng và thằng anh họ là điều mà nó có thể nhâm nhi một cách khoái tỉ, nhưng sao vẫn có chút bối rối nào đó trong không khí. Nói gì với nhau đây sau mười sáu năm trời ghét nhau chết bỏ?

Trở về phòng mình, Harry thơ thẩn vờn cái ba lô rồi búng mấy hạt đậu cú qua chấn song cái chuồng của con Hedwig. Chúng rớt xuống sàn chuồng phát ra tiếng kêu lịch kịch chán ngắt đến con cú cũng không thèm ngó tới.

“Tụi mình sắp đi rồi, lát nữa thôi.” Harry nói với con cú. “Lúc đó mày sẽ lại tha hồ bay.”

Chuông cửa reo. Harry chần chừ, rồi ra khỏi phòng nó, xuống cầu thang. Để mặc cho Dedalus và Hestia đối phó với gia đình Dursley thì hơi quá.

“Harry Potter!” Một giọng phấn khích ré lên ngay khi Harry mở cửa phòng khách; một phù thủy nhỏ thó đội nón chóp màu hoa cà đang cúi rạp mình chào nó. “Thật vinh hạnh, như xưa nay!”

“Cám ơn anh, Dedalus.” Harry nói, nở một nụ cười nửa miệng ngượng ngập chào Hestia tóc đen. “Anh chị làm việc này thì hay quá... Họ đều có mặt ở đây, dì, dượng, và anh họ tôi...”

“Chào bà con của Harry Potter!” Dedalus vui vẻ nói khi sải dài bước chân đi vào phòng khách. Ông bà Dursley và cậu ấm lại tỏ ra không vui vẻ lắm khi được chào hỏi như vậy; Harry có phần tưởng đâu lại một phen đổi ý nữa. Dudley co lại gần má nó khi nhìn thấy hai vị phù thủy.

“Tôi thấy quý vị đã chuẩn bị hành lý và sẵn sàng rồi. Xuất sắc! Như Harry Potter đã nói với quý vị, kế hoạch là một phương án đơn giản.” Dedalus vừa nói vừa lấy từ áo vét ra một cái đồng hồ bỏ túi to tổ bố và nghiên cứu nó. “Chúng ta sẽ lên đường trước khi Harry ra đi. Do việc xài bùa phép trong nhà quý vị rất nguy hiểm – Harry vẫn chưa đủ tuổi trưởng thành, Bộ Pháp thuật có thể lấy cớ đó mà bắt cậu ấy – nên chúng ta sẽ đi bằng xe hơi, để coi, chừng mười dặm hay cỡ đó trước khi độn thổ tới địa điểm an toàn mà chúng tôi đã chọn cho quý vị. Tôi chắc ông biết cách lái xe chứ?” Anh ta lịch sự hỏi dượng Vernon.

“Biết...? Dĩ nhiên là tôi quá ư biết lái xe!” Dượng Vernon nói như phun phèo phèo.

“Ông giỏi quá, thưa ông, quá ư giỏi. Bản thân tôi thì dứt khoát sẽ bị nghệt ra vì mấy cái nút với mấy cái cục đó,” Dedalus nói. Anh ta rõ ràng là đinh ninh mình đang tán dương dượng Vernon Dursley, trong khi dượng đang mất dần lòng tin vào kế hoạch theo từng lời Dedalus thốt ra.

“Đến lái xe cũng không biết,” dượng lầm bầm trong miệng, bộ ria của dượng dợn sóng phẫn nộ, nhưng may là cả Dedalus và Hestia đều không có vẻ gì nghe ra lời dượng.

“Cậu, Harry,” Dedalus tiếp tục nói, “sẽ ở đây đợi vệ sĩ của cậu. Có chút đỉnh thay đổi trong sắp xếp...”

“Anh nói sao?” Harry hỏi ngay. “Tôi tưởng thầy Mắt Điên sẽ tới và đưa tôi đi bằng cách Độn thổ kèm theo chứ?”

“Không thể làm cách đó.” Hestia nói gọn lỏn. “Mắt Điên sẽ giải thích.”

Cả gia đình Dursley, nãy giờ lắng nghe tất cả những lời đó với vẻ mặt nghệt ra chẳng hiểu gì cả, bỗng nhảy dựng lên vì một tiếng ré to chói tai, “Nhanh lên!”

Harry ngó quanh phòng trước khi nhận ra giọng nói đó phát ra từ cái đồng hồ bỏ túi của Dedalus.

“Đúng vậy, chúng ta đang hành động theo một thời gian biểu rất khít khao.” Dedalus nói, gật đầu với cái đồng hồ rồi nhét nó trở vô trong áo vét. “Harry à, chúng ta đang cố gắng canh giờ sao cho lúc cậu rời căn nhà cũng là lúc gia đình cậu độn thổ; như vậy bùa phép chỉ mất linh khi tất cả đều tới được nơi an toàn.”

Anh ta quay qua gia đình Dursley, “Sao, chúng ta đã khăn gói sẵn sàng ra đi chứ?”

Không ai trả lời anh tiếng nào. Dượng Vernon vẫn đang kinh hoàng trố mắt ngó cái cục cộm lên ở túi áo vét của Dedalus.

“Có lẽ chúng ta nên chờ trong hành lang, anh Dedalus à.” Hestia thì thầm. Hiển nhiên cô cảm thấy không được tế nhị cho lắm nếu hai vệ sĩ có mặt trong phòng vào lúc Harry và gia đình Dursley chia tay trong trìu mến, và không chừng cả nước mắt nữa.

“Không cần đâu.” Harry lúng búng nói, nhưng dượng Vernon đã khiến cho mọi bày tỏ dài dòng trở nên không cần thiết bằng cách nói to.

“Thôi, vậy là chia tay hén, mậy!”

Dượng đung đưa cánh tay lên toan bắt tay Harry, nhưng sau rốt dường như không thể chịu đựng nổi việc đó, dượng chỉ nắm bàn tay lại và bắt đầu đung đưa tới lui cánh tay giống như một cái máy nhịp.

“Sẵn sàng chưa, Duddy?” Dì Petunia hỏi, lui cui kiểm tra móc khóa cái túi xách của dì để tránh nhìn Harry.

Dudley không trả lời mẹ mà cứ đứng ỳ ra, miệng hé mở, khiến Harry liên tưởng một chút đến người khổng lồ Grawp.

“Vậy đi thôi,” dượng Vernon nói.

Dượng hầu như đã đi tới cửa phòng khách thì Dudley bỗng bệu bạo nói: “Con chả hiểu.”

“Con không hiểu cái gì hở cưng?” Dì Petunia ngước lên nhìn cậu quý tử.

Dudley giơ bàn tay tựa như khúc dồi tổ chảng chỉ vào Harry.

“Sao nó không đi với mình?”

Dượng Vernon và dì Petunia sững sờ đứng ngó chằm chằm Dudley như thể nó vừa bày tỏ nguyện vọng trở thành diễn viên múa ba lê.

“Cái gì?” Dượng Vernon la lớn.

“Tại sao nó không đi cùng?” Dudley hỏi.

“À thì nó... không muốn,” dượng Vernon nói, quay lại trừng mắt ngó Harry và nói thêm, “Mày đâu có muốn, phải không mậy?”

“Không một chút nào hết.”

“Thấy chưa!” Dượng Vernon nói với Dudley, “Bây giờ chúng ta đi thôi.”

Dượng dõng dạc đi ra khỏi phòng. Mọi người nghe tiếng cánh cửa trước mở ra, nhưng Dudley không nhúc nhích và dì Petunia cũng dừng lại sau mấy bước lừng khừng.

“Gì nữa hả?” Dượng Vernon tái xuất hiện ở ngưỡng cửa, quát lên.

Dường như Dudley đang đấu tranh dữ dội với những khái niệm quá khó phát biểu thành lời. Sau nhiều đợt đấu tranh nội tâm có vẻ đau đớn, nó nói, “Nhưng nó sẽ đi đâu?”

Dì Petunia và dượng Vernon nhìn nhau. Rõ ràng là Dudley đang làm họ hoảng sợ. Hestia Jones bèn phá vỡ sự im lặng.

“Nhưng... chắc chắn ông biết cháu trai của mình sẽ đi đâu chứ?” Cô hỏi mà có vẻ lúng túng.

“Đương nhiên là chúng tôi biết,” dượng Vernon nói. “Nó sẽ đi theo ai đó trong lũ tụi bay, đúng không? Đúng đó, Dudley à, chúng ta hãy lên xe, con nghe ông kia nói rồi đó, chúng ta phải nhanh lên.”

Một lần nữa, dượng Vernon lại dõng dạc đi gần tới cửa trước, nhưng Dudley vẫn không đi theo.

“Theo ai đó trong lũ tụi ta á?”

Hestia trông như nổi khùng. Harry đã từng gặp thái độ này trước đây. Nhiều phù thủy và pháp sư dường như kinh ngạc khi những họ hàng gần gũi nhất của nó chả tỏ ra quan tâm chút nào đến Harry Potter lừng danh.

“Tốt thôi.” Harry trấn an Hestia. “Thiệt tình, không hề gì.”

“Không hề gì à?” Hestia lặp lại, giọng của cô cao lên một cách đáng lo ngại.

“Chẳng lẽ những người này không nhận thức được những gì cậu đã trải qua sao? Hiểm họa mà cậu đang đối đầu? Vị trí có một không hai mà cậu đang nắm giữ ở trung tâm phong trào chống Voldemort?”

“Ơ... không, họ không biết.” Harry nói. “Thật ra, họ coi tôi là đồ hao cơm tốn chỗ mà thôi, nhưng tôi quen...”

“Tao đâu có coi mày là đồ hao cơm tốn chỗ.”

Nếu Harry không tận mắt thấy môi của Dudley cử động thì nó đã không thể nào tin nổi. Vì vậy nó trố mắt nhìn Dudley một hồi lâu mới chấp nhận cái điều ắt là thằng anh họ của nó là người vừa phát ngôn; nhờ một chứng cớ, Dudley đỏ cả mặt. Chính Harry cũng lúng túng và ngạc nhiên.

“Ờ... vậy... cám ơn nghe, Dudley”

Một lần nữa, Dudley dường như vật lộn với những ý tưởng khó khăn quá sức diễn tả trước khi lúng búng nói:

“Mày cứu mạng tao.”

“Không hẳn vậy.” Harry nói, “Hồn mày mới là cái mà bọn Giám ngục muốn hớp...”

Nó tò mò nhìn thằng anh họ. Hai đứa nó thực tế đã không hề có tiếp xúc nào trong suốt mùa hè này hay mùa hè trước, vì thời gian Harry trở về ngôi nhà ở đường Privet Drive quá ngắn và nó cứ ở lỳ trong phòng riêng. Nhưng bây giờ Harry chợt hiểu ra có lẽ cái tách trà mà nó giẫm phải hồi sáng này không phải là cái bẫy ngố bẫy nghếch gì cả. Mặc dù hơi bị xúc động, nó vẫn cảm thấy nhẹ người khi Dudley tỏ ra đã cạn kiệt khả năng bày tỏ tình cảm của mình. Sau khi há miệng ra thêm một hay hai lần nữa, Dudley rút vào nỗi câm lặng đỏ tía mặt mày.

Dì Petunia bỗng òa khóc. Hestia Jones nhìn dì hài lòng nhưng cái nhìn đó chuyển ngay thành ánh mắt giận dữ khi dì Petunia lao tới ôm chầm Dudley chứ không phải Harry.

“Dễ... dễ thương quá, Dudders...” Dì khóc thổn thức trên tấm ngực mập ú của con trai. “Một chàng trai dễ thương hết sức... biết nói cám ơn...”

“Nhưng nó đã nói cám ơn gì đâu!” Hestia tức giận nói. “Nó chỉ mới nói nó không coi Harry như đồ hao cơm tốn chỗ!”

“Đành vậy nhưng với Dudley thì điều đó tương đương với ‘tao thương mày’.” Harry nói, bị xâu xé giữa nỗi bực mình và cơn tức cười khi dì Petunia tiếp tục ấp iu Dudley như thể nó vừa mới cứu được Harry ra khỏi một tòa nhà đang cháy.

“Chúng ta có đi hay không hả?” Dượng Vernon gầm lên, tái xuất hiện một lần nữa ở cửa phòng khách. “Tôi cứ tưởng thời gian biểu của chúng ta khít khao lắm chớ!”

“Đúng... đúng, khít khao lắm.” Dedalus Diggle nói. Nãy giờ anh ta coi cái cảnh chia tay này với vẻ mặt ngơ ngác, và bây giờ anh có vẻ tỉnh táo ra. “Chúng tôi thật tình phải đi ngay, Harry à...”

Anh bước nhẹ nhàng về phía Harry, vặn vẹo bàn tay Harry bằng cả hai tay của anh ta.

“... Chúc may mắn. Tôi hy vọng chúng ta còn gặp lại nhau. Niềm hy vọng của thế giới pháp thuật đang đặt trên đôi vai của cậu.”

“Ôi,” Harry nói, “Được. Cám ơn anh.”

“Tạm biệt, Harry.” Hestia nói, cũng siết chặt bàn tay Harry. “Chúng tôi luôn nghĩ đến cậu.”

“Tôi hy vọng mọi việc sẽ tốt đẹp.” Harry nói, mắt liếc về phía dì Petunia và Dudley.

“Ôi, tôi chắc chắn rồi sẽ thân thiết cả thôi mà,” Diggle nói nhỏ, vẫy vẫy cái nón khi anh ta ra khỏi phòng. Hestia bước theo anh.

Dudley nhẹ nhàng tự giải thoát mình ra khỏi vòng tay của mẹ và đi về phía Harry. Harry phải dằn xuống một cơn khoái hù dọa Dudley bằng pháp thuật. Dudley đưa ra bàn tay to tướng hồng hồng của nó.

“Khỉ thiệt, Dudley à,” Harry nói át tiếng nức nở vừa tái trỗi dậy của dì Petunia. “Bọn Giám ngục thổi một nhân cách khác vô người mày rồi hả?”

“Hổng biết.” Dudley ú ớ. “Hẹn gặp lại, Harry.”

“Ừ...” Harry nói, cầm bàn tay của Dudley và lắc. “Có thể. Bảo trọng nghe, D. bự.”

Dudley gần như mỉm cười, rồi ì ạch đi ra khỏi phòng. Harry nghe tiếng bước chân nặng nề của Dudley trên đường trải sỏi dành cho xe hơi, và rồi cánh cửa xe đóng lại.

Dì Petunia, nãy giờ úp mặt trong chiếc khăn tay, nghe tiếng cửa xe đóng bèn ngước nhìn quanh. Dì không có vẻ trông mong còn lại một mình với Harry. Vội vàng nhét chiếc khăn tay ướt đẫm vào trong túi áo, dì nói, “Thôi... tạm biệt,” và bước về phía cánh cửa mà không hề nhìn tới Harry.

“Tạm biệt,” Harry nói.

Dì dừng bước và ngoái nhìn lại. Trong một thoáng Harry có cái cảm giác hết sức kỳ cục là dì muốn nói với nó điều gì đó: ánh mắt của dì rưng rưng, thảng thốt, kỳ cục và dì dường như chênh vênh bên bờ sắp thốt ra lời; nhưng rồi, chỉ khẽ gật đầu, dì vội vã rời khỏi căn phòng đi theo chồng con.

Chương Bốn

Bảy Potter

Harry chạy ngược lên cầu thang trở về phòng ngủ, đến bên cửa sổ vừa đúng lúc nhìn thấy chiếc xe hơi của gia đình Dursley lượn ra khỏi ngõ tiến ra đường. Thấy nhô lên cái nón chóp của Dedalus giữa hai bên là dì Petunia và Dudley ở băng ghế sau.

Chiếc xe hơi quẹo phải ở cuối con đường Privet Drive, cửa sổ xe rực lên màu đỏ tía trong chốc lát vì lúc này mặt trời đang lặn, rồi chạy đi mất hút.

Harry nhặt nhạnh cái lồng con cú Hedwig, cây chổi Tia Chớp, và cái ba lô, đưa mắt nhìn lướt qua căn phòng ngăn nắp sạch sẽ một cách khác thường của mình, rồi lóng ngóng đi xuống cầu thang vô hành lang, ở đó nó để tạm cái lồng cú, cây chổi, và ba lô cạnh chân cầu thang. Ánh sáng đang tắt nhanh, hành lang nhập nhòa trong bóng chiều. Nó có cảm giác kỳ quái nhất khi đứng đây, trong im vắng, và biết rằng sắp rời khỏi ngôi nhà này vĩnh viễn. Hồi lâu rồi, mỗi khi gia đình Dursley đi đâu đó vui chơi bỏ nó ở lại nhà một mình, nó coi những giờ phút cô độc ấy là một niềm vui hiếm hoi. Nó sẽ chạy ào lên lầu để vọc cái máy tính của Dudley, hay mở máy truyền hình và bấm qua các kênh tùy thích, chỉ dừng lại để mở tủ lạnh chôm cái gì đó ngon lành. Nhớ lại những lúc đó, nó có một cảm giác trống rỗng kỳ cục; giống như nhớ về một thằng em mà mình đã mất.

“Mày có muốn ngó qua chỗ này lần cuối không?” Nó hỏi Hedwig, con cú vẫn còn hờn dỗi vùi đầu dưới cánh. “Chúng mình sẽ không bao giờ ở đây nữa. Mày không muốn nhớ lại hết những lúc vui vẻ sao? Ý tao là, thử nhìn tấm thảm chùi chân ở ngạch cửa coi. Kỷ niệm gì... Dudley đã mửa ra đó sau khi tao cứu nó khỏi tay bọn Giám ngục... Hóa ra nó cũng biết ơn, mày có tin nổi không?... Và mùa hè năm ngoái, thầy Dumbledore đã bước qua cánh cửa trước...”

Dòng suy tư của Harry bị rối lung tung mất một lúc và Hedwig không làm gì để giúp nó tập trung lại được, con cú cứ tiếp tục ngồi lì với cái đầu vùi dưới cánh. Harry quay lưng lại cánh cửa trước.

“Và, Hedwig à, dưới này...” Harry mở một cánh cửa dưới gầm cầu thang, “là chỗ tao ngủ hồi xưa! Hồi đó mày chưa biết tao – Quỷ ơi, nó nhỏ xíu, tao đã quên béng...”

Harry nhìn khắp mớ giày và dù chất đống, nhớ lại hồi xưa nó thường thức dậy mỗi buổi sáng, ngước nhìn lên từ dưới gầm cầu thang, nơi ít khi nào mà không được trang trí bằng một hay hai con nhện. Đó là những ngày nó còn chưa biết gì về lai lịch thực sự của nó, những ngày trước khi nó biết cha mẹ nó đã chết như thế nào hay tại sao những chuyện lạ lùng lại thường xảy ra quanh nó. Nhưng Harry cũng nhớ cả những giấc mơ đã khiến nó run sợ, thậm chí tới tận bây giờ: những giấc mơ lộn xộn kéo theo những tia chớp nhá xanh lè, và có lần – dượng Vernon suýt tông xe khi Harry kể lại – là một chiếc xe gắn máy biết bay...

Một tiếng gầm điếc tai đột ngột vang lên từ đâu đó rất gần. Harry giật nảy người đứng thẳng lên và đỉnh đầu nó đụng phải khung cửa thấp một cái bốp. Chỉ khựng lại để xài đỡ mấy tiếng chửi thề chọn lọc nhất của dượng Vernon, nó khập khễnh đi vào nhà bếp, tay ôm đầu và mắt nhìn chăm chú qua cửa sổ ra vườn sau nhà.

Bóng tối dường như xao động, chính không khí cũng rung rinh. Thế rồi, những bóng người hiện ra, từng người một, sau khi giải bùa Ảo ảnh. Nổi bật trên toàn cảnh là bác Hagrid, đội nón cối đeo kiếng lồi và đang cỡi trên một chiếc xe gắn máy khổng lồ có gắn một thùng xe khách đen thùi. Quanh bác những người khác đang nhảy khỏi chổi, trừ hai người trèo xuống từ hai bộ xương con ngựa có cánh đen hù.

Vặn cánh cửa để mở ra, Harry nhào vào giữa đám người đó. Tiếng chào đồng thanh vang lên khi Hermione quăng hai tay ra ôm chầm lấy nó, Ron vỗ lên lưng nó và bác Hagrid nói, “Ổn hén, Harry? Xẵn xàng dông chưa?”

“Chắc cú!” Harry nói, tươi cười với mọi người. “Nhưng cháu đâu có dè nhiều người đến như vầy!”

“Kế hoạch có thay đổi,” Mắt Điên làu bàu, thầy đang cầm hai bao gì phình căng bự chảng, và con mắt pháp thuật của thầy đảo vòng từ bầu trời đang tối dần đến ngôi nhà đến khu vườn với độ nhanh chóng mặt. “Bảo mật trước đã rồi giải thích mọi việc cho con sau.”

Harry dẫn mọi người trở vào nhà bếp, ở đó họ líu lo trò chuyện và cười đùa, an tọa trên mấy cái ghế, ngồi lên cả mặt bàn nơi dì Petunia bày đồ ăn khi nấu nướng, hoặc dựa vào những dụng cụ nhà bếp không một tỳ vết của dì; Ron, dài sọc và cao nghệu; Hermione, mái tóc dày được thắt lại thành một bím dài; Fred và George, cười nhe răng giống nhau như đúc; Bill, tóc dài thẹo đầy mình; ông Weasley, gương mặt hiền lành, đầu hói, cặp mắt kiếng hơi bị vẹo; Mắt Điên, một giò, te tua vì chiến trận, con mắt pháp thuật màu xanh sáng rực kêu véo véo trong hốc mắt; Tonks, tóc ngắn chơi màu ưa thích nhất là hồng tươi; Lupin, đầu bạc hơn, mặt nhiều nếp nhăn hơn; Fleur, thon thả và xinh đẹp, với mái tóc dài vàng óng ánh; Kingsley, đầu hói, vai rộng; bác Hagrid, tóc râu bù xù hoang dã, đứng khòm khòm lưng để tránh đụng đầu vô trần nhà; và Mundungus Fletcher, nhỏ, dơ, lóm thóm, mắt chó săn ti hí cụp xuống và tóc dơ như nùi giẻ chùi chân. Trái tim Harry dường như nở lớn và chảy tràn cảm xúc trước cảnh này: nó cảm thấy yêu mến cực kỳ tất cả những người này, kể cả Mundungus, kẻ mà lần gặp trước nó đã toan bóp cổ.

“Chú Kingsley, cháu tưởng chú đang bảo vệ ông thủ tướng Muggle chứ?” Nó nói vọng qua căn phòng.

“Ổng có thể sống mà không cần đến chú trong một đêm”, chú Kingsley nói. “Cháu quan trọng hơn.”

“Harry, đoán coi gì đây?” Cô Tonks nói từ chỗ ngồi ngất nghểu trên đầu cái máy giặt, và cô phe phẩy bàn tay trái về phía Harry; trên đó một chiếc nhẫn lấp lánh.

“Cô cưới rồi?” Harry hét lên, nhìn từ cô Tonks sang thầy Lupin.

“Cô chú xin lỗi đã không mời cháu dự đám cưới, Harry à, tiệc nhỏ thôi.”

“Tuyệt vời quá, chúc...”

“Được rồi! Được rồi! Chúng ta sẽ có thì giờ cho một bữa tiệc thân mật bù lại sau này,” thầy Moody gầm lên át tiếng nhao nhao, và nhà bếp trở nên im phắc. Thầy thả mấy cái bao xuống chân và quay lại Harry. “Như Dedalus có lẽ đã nói với con, chúng ta đã phải bỏ kế hoạch A. Pius Thicknesse đã bị ếm, làm chúng ta rắc rối to. Hắn làm sao khiến căn nhà này nếu nối với hệ thống Floo, đặt một Khóa cảng ở đây, hoặc Độn thổ vô hay ra đều là vi phạm bắt bỏ tù. Tất cả đều được làm dưới danh nghĩa để bảo vệ con, để ngăn Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy tấn công con. Hoàn toàn nhảm nhí, bởi vì bùa bảo vệ của mẹ con đã làm được việc đó rồi. Việc mà hắn đã làm thực ra là ngăn không cho con ra khỏi nơi đây một cách an toàn.”

“Vấn đề thứ hai: con còn chưa tới tuổi trưởng thành, nghĩa là con vẫn còn mang Dấu Hiện.”

“Con đâu có...”

“Dấu Hiện! Dấu Hiện ấy!” Mắt Điên sốt ruột nói, “là bùa dò la hoạt động quanh trẻ em dưới mười bảy tuổi, đó là cách mà Bộ Pháp thuật phát hiện những vụ vi phạm pháp thuật vị thành niên! Nếu con, hay bất cứ ai quanh con, làm bùa phép đem con ra khỏi nơi đây, Thicknesse sẽ biết chuyện đó, và bọn Tử Thần Thực Tử cũng sẽ biết.”

“Chúng ta không thể chờ đến khi Dấu Hiện hết linh, bởi vì đúng thời điểm con đủ mười bảy tuổi con sẽ mất hết sự bảo vệ mà mẹ con đã phù hộ con. Ngắn gọn lại, Pius Thicknesse nghĩ là hắn đã cho con vô rọ gọn gàng ngon ơ.”

Harry không thể không đồng ý với tay Thicknesse nào đó.

“Vậy chúng ta sẽ làm gì đây?”

“Chúng ta sẽ dùng phương tiện di chuyển duy nhất còn chừa lại cho chúng ta, phương tiện duy nhất mà bùa Dấu Hiện không dò ra được, bởi vì chúng ta không cần ếm bùa lên mấy thứ đó: chổi, vong mã, và xe gắn máy của bác Hagrid.”

Harry có thể thấy những sơ hở trong kế hoạch này; tuy nhiên, nó kềm lưỡi lại để thầy Mắt Điên có cơ hội diễn thuyết.

“Bây giờ, bùa của mẹ con sẽ chỉ hết linh với hai điều kiện: khi con đến tuổi trưởng thành, hoặc...” thầy Moody khoát tay chỉ quanh cái nhà bếp sạch bong như mới gỡ nhãn, “... khi con không còn coi nơi đây là nhà mình nữa. Đêm nay con và dì dượng con sẽ đi những ngả đường khác nhau, hiểu cho rốt ráo thì con và họ sẽ không bao giờ chung sống với nhau nữa, đúng không?”

Harry gật đầu.

“Vậy là lần này, khi con ra đi, sẽ không có trở lại, và bùa bảo vệ con sẽ hết linh ngay khi con ra khỏi vùng bùa ếm. Chúng ta đang chọn cách giải bùa sớm hơn, bởi vì ngược lại có nghĩa là ngồi chờ Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy đến tóm con ngay thời điểm con tròn mười bảy tuổi.

“Có một lợi thế về phía chúng ta là Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy không biết chúng ta di chuyển đêm nay. Chúng ta đã để lọt kế hoạch giả cho Bộ Pháp thuật: họ tưởng con đến ngày ba mươi mốt mới ra đi. Nhưng mà, chúng ta đang đương đầu với Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy, vì vậy chúng ta không thể ỷ y hắn nhầm ngày; nhất định là hắn có vài ba Tử Thần Thực Tử tuần tra vùng trời của toàn khu vực này, để phòng xa. Do vậy chúng ta đã bố trí bảo vệ hết cỡ cho một tá căn nhà khác nhau. Những nơi đó con đều có thể đến ẩn náu được, tất cả đều có liên hệ với Hội: nhà thầy, chỗ của anh Kingsley, nhà dì Muriel của chị Molly... con nắm được vấn đề chứ.”

“Dạ,” Harry nói, không hoàn toàn chân thực, bởi vì nó vẫn thấy có một lỗ hở trong kế hoạch.

“Con sẽ đến nhà cha mẹ cô Tonks. Một khi đã ở trong vòng linh nghiệm của bùa phép bảo vệ mà chúng ta ếm lên căn nhà, con sẽ có thể dùng Khóa Cảng để đến Hang Sóc. Có thắc mắc gì không?”

“Ơ... có.” Harry nói. “Có thể ban đầu chúng sẽ không biết con đang tới căn nào trong mười hai căn nhà an toàn đó, nhưng có bị quá lộ liễu không khi mà...” nó đếm đầu người thiệt nhanh, “mười bốn người chúng ta cùng bay về phía nhà ba má cô Tonks?”

“À,” thầy Moody nói. “Thầy quên nói tới một điểm quan trọng. Mười bốn người chúng ta sẽ không cùng bay đến nhà cha mẹ cô Tonks. Đêm nay sẽ có bảy Potter di chuyển trên bầu trời, mỗi Potter có một người đi kèm, mỗi cặp hướng tới một ngôi nhà an toàn khác nhau.”

Lúc này thầy Moody rút từ trong áo choàng ra một cái hũ đựng thứ gì đó giống như sình. Thầy không cần phải nói thêm một lời nào nữa; Harry hiểu ngay tức thì phần còn lại của kế hoạch.

“Không!” Nó la lớn, giọng nó vang rền khắp nhà bếp. “Không đời nào!”

“Mình đã nói thể nào bồ cũng sẽ phản ứng như vầy mà,” Hermione nói với thoáng đắc ý.

“Nếu thầy nghĩ là con sẽ chấp nhận cho sáu người liều mạng vì con...!”

“... vì đây là cơ hội đầu tiên cho tất cả tụi này,” Ron nói.

“Việc này khác, giả làm mình...”

“Thôi, Harry à, đâu có ai trong bọn mình thực sự khoái làm vậy đâu.” Fred nói một cách nghiêm chỉnh. “Thử tưởng tượng nếu có gì đó trục trặc và tụi này kẹt luôn trong bộ vó một thằng cà khêu lốm đốm.”

Harry không cười.

“Nếu con không hợp tác thì mọi người cũng đâu có làm được. Mọi người cần con cho mấy sợi tóc mà.”

“Ờ, đó là chỗ kế hoạch bị bể,” George nói. “Hiển nhiên là tụi này đừng hòng xin tí tóc của em nếu em không chịu.”

“Ừ há, mười ba người chọi lại một thằng không được phép xài bùa phép; pó tay!” Fred nói.

“Khôi hài.” Harry nói. “Hài hước thiệt.”

“Nếu đến nước phải dùng sức thì đành phải dùng thôi,” thầy Moody gầm ghè, con mắt pháp thuật của thầy lúc này đang khẽ run run trong hốc mắt khi thầy ngó Harry chằm chằm. “Mọi người ở đây đều trưởng thành, Potter à, và tất cả đều đã chuẩn bị để đối phó với hiểm nguy.”

Lão Mundungus rùng mình nhăn mặt, con mắt pháp thuật chạy tọt qua một bên đầu của thầy Moody để liếc chừng lão ta.

“Chúng ta đừng tranh cãi nữa. Thời giờ sắp hết rồi. Thầy cần một chút tóc của con, nghe không, đưa ngay!”

“Nhưng chuyện này điên quá, khỏi cần...”

“Khỏi cần hả!” Thầy Moody quát. “Khi Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy đang hoành hành và một nửa Bộ Pháp thuật thuộc về phe hắn? Potter, nếu chúng ta may mắn thì hắn sẽ táp cái mồi giả và sau đó sẽ âm mưu phục kích con vào ngày băm mốt, nhưng hắn có điên mới không cho một hai Tử Thần Thực Tử canh chừng từ bây giờ, nếu thầy là hắn thì thầy sẽ làm vậy. Chúng có lẽ không thể tấn công con hay căn nhà này khi bùa ểm của mẹ con còn linh nghiệm; nhưng bùa sắp sửa hết linh và họ biết vị trí hớ hênh của chỗ này. Chúng ta chỉ còn có cách là dùng mồi nhử. Ngay cả Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy cũng không thể tự phân thân thành bảy.”

Harry bắt gặp ánh mắt của Hermione nhưng nó ngó đi chỗ khác ngay.

“Vậy đó, Potter... một nhúm tóc của con, cho thầy xin.”

Harry liếc Ron, Ron nhăn mặt ra cái vẻ thì-cứ-làm-đi.

“Đưa ngay!” Thầy Moody quát.

Trước tất cả những con mắt đổ dồn vào nó, Harry đưa tay lên đầu, nắm một nhúm tóc, và giật ra.

“Tốt.” thầy Moody nói, đi cà nhắc tới trước trong khi giật cái nút của hũ đựng thuốc ra. “Bỏ vô đây, làm ơn.”

Harry thả dúm tóc vô trong chất lỏng giống như sình đó. Ngay khi nhúm tóc vừa chạm vào bề mặt chất lỏng, thuốc bắt đầu sủi bọt và bốc khói, rồi ngay tức thì, nó chuyển sang một màu vàng rực trong veo.

“Ái chà, coi bộ bồ nhấm ngon hơn Crabbe và Goyle, Harry à.” Hermione nói, trước khi nhìn thấy đôi chân mày của Ron nhướn lên. Cô nàng hơi đỏ mặt, nói, “Ôi, bồ hiểu ý mình mà – thuốc biến thành Goyle có vị như quỷ ấy.”

“Được rồi, các Potter giả làm ơn sắp hàng ở đây.”

Ron, Hermione, Fred, George và Fleur đứng sắp hàng trước cái chậu sáng choang của dì Petunia.

“Chúng ta cần thêm một người nữa,” thầy Lupin nói.

“Đây,” bác Hagrid hô lên cộc lốc, và tay bác túm gáy của lão Mundungus nhấc bổng lên rồi thả lão xuống bên cạnh Fleur, cô nàng chun mũi nhọn hoắt và nhích ra để đứng giữa Fred và George

“Tôi là một chiến sĩ, tôi muốn được làm người bảo vệ hơn.” Mundungus nói.

“Câm miệng,” thầy Moody gầm gừ. “Như tôi đã nói với ông rồi, đồ trùn không xương sống ạ, bọn Tử Thần Thực Tử mà chúng ta đụng phải sẽ nhắm bắt Potter, chứ không giết nó. Cụ Dumbledore luôn nói là Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy muốn đích thân kết liễu mạng Potter. Chính những người bảo vệ mới đáng lo nhất, bọn Tử Thần Thực Tử sẽ muốn giết họ.”

Lão Mundungus có vẻ không yên tâm cho lắm, nhưng thầy Moody đã lấy từ trong áo khoác ra sáu cái chén con to cỡ nửa cái trứng gà, phát ra trước khi rót vô mỗi chén một tí thuốc Đa Quả dịch.

“Nào, tất cả...”

Ron, Hermione, Fred, George Fleur, và Mundungus uống. Tất cả há miệng ra nhăn mặt lại khi thuốc chạy tới cổ họng họ. Ngay lập tức, nét mặt họ bắt đầu phồng lên, méo mó như sáp nóng. Hermione và Mundungus cao vọt lên; Ron, Fred và George thì rút thấp lại, tóc tụi nó sậm đen dần, tóc của Hermione và Fleur thì như đang mọc ngược vô hộp sọ.

Thầy Moody, khá lãnh đạm, đang nới lỏng nút thắt của mấy cái túi bự chảng lúc nãy thầy mang đến. Khi đứng thẳng trở lại, thầy thấy trước mặt mình sáu Harry Potter đang há hốc miệng thở hổn hển.

Fred và George quay sang nhìn nhau và cùng nói: “Chu choa – tụi mình giống y chang há!”

“Tao không biết, nhưng tao tin tao vẫn đẹp trai hơn,” Fred nói, vừa ngắm nghía diện mạo mình phản chiếu trên cái ấm đun nước.

“Ố là la,” Fleur nói, vừa tự ngắm bóng mình trong cửa lò vi ba, “Anh Bill, đừng nhìn em... em xí lắm.”

“Ai thấy áo quần hơi bị chật, tôi có đồ lớn hơn đây,” thầy Moody nói, chỉ vào cái bao thứ nhất, “và ngược lại. Đừng quên đeo kiếng. Có sáu cặp kiếng trong túi bên. Và khi nào mọi người thay đồ xong thì nhận hành lý trong cái bao kia.”

Harry thật nghĩ đây có lẽ là chuyện quái đản nhất mà nó từng thấy, ấy là nó đã từng thấy một số chuyện cực kỳ quái đản rồi. Nó ngó sáu cái bóng vía của mình đang xúm lại lục lọi cái bao, lôi ra những bộ đồ, đeo kiếng lên, nhét giấu đồ đạc riêng của họ đi. Nó cảm thấy muốn yêu cầu họ tôn trọng sự riêng tư kín đáo của nó hơn một chút, khi tất cả sáu Harry giả bắt đầu cởi quần áo ra tỉnh bơ, hiển nhiên nếu là thân thể của chính họ thì họ đâu có thoải mái phô bày ra như đối với thân thể nó.

“Mình đã biết là Ginny xạo về cái vết xăm đó mà,” Ron nói khi ngó xuống bộ ngực trần của nó.

“Harry, mắt bồ cận khủng khiếp quá,” Hermione nói khi cô bé đeo kiếng lên.

Khi thay đồ xong, mấy Harry giả lấy trong bao thứ hai những chiếc ba lô và lồng cú, trong mỗi lồng có một con cú nhồi bông trắng như tuyết.

“Tốt,” thầy Moody nói, khi cuối cùng bảy Harry đã ăn mặc xong, mang kính, đeo ba lô đứng trước mặt thầy. “Từng cặp được chia như sau: Mundungus sẽ đi với tôi, bằng chổi...”

“Sao tôi lại đi với ông?” Tên Harry đứng gần cửa làu bàu.

“Bởi vì ông là người cần canh chừng,” thầy Moody gầm gừ, và không sai chút nào, con mắt pháp thuật của thầy không hề rời khỏi lão Mundungus khi nói tiếp, “Arthur và Fred...”

“Cháu là George,” anh chàng sinh đôi mà thầy Moody chỉ vào nói. “Cả khi tụi cháu biến thành Harry rồi mà chú cũng chẳng thể phân biệt được sao?”

“Xin lỗi, George...”

“Cháu chỉ bắt giò chú chơi thôi, thực ra cháu là Fred...”

“Tào lao đủ rồi!” Thầy Moody quát. “Đứa kia, dù cháu là George hay Fred hay ai đi nữa, cháu đi với chú Remus. Cô Delacour...”

“Cháu sẽ đưa Fleur đi bằng vong mã,” anh Bill nói, “cô ấy không thích cỡi chổi.”

Fleur bước ra đứng cạnh anh Bill, lườm anh bằng ánh mắt tình tứ quỵ lụy đến nỗi Harry hy vọng với tất cả tấm lòng là cái nhìn đó sẽ không bao giờ tái xuất hiện trên mặt nó.

“Cô Granger sẽ đi với chú Kingsley, cũng bằng vong mã...”

Hermione tỏ vẻ yên tâm khi đáp lại nụ cười của chú Kingsley; Harry biết Hermione cũng thiếu tự tin khi cỡi chổi.

“Vậy là còn lại cháu đi với cô, Ron nhé!” Cô Tonks rạng rỡ nói, hất ngã một cây kiểng con khi đưa tay vẫy nó.

Ron không tỏ ra hài lòng được như Hermione.

“Còn con đi với bác, Harry à. Được hông?” Bác Hagrid nói, lộ vẻ hơi căng thẳng. “Chúng ta sẽ cỡi xe gắn máy, chổi với Vong mã không chở nổi bác, hiểu hén. Nhưng bác mà ngồi lên yên rồi thì không còn đủ chỗ cho con nữa, cho nên con sẽ ngồi trong thùng xe bên hông.”

“Tuyệt vời!” Harry nói, không thành thực cho lắm.

“Chúng ta nghĩ bọn Tử Thần Thực Tử sẽ tưởng con cỡi chổi,” thầy Moody nói, dường như cố đoán cảm xúc của Harry. “Snape có khối thì giờ để kể cho bọn chúng biết mọi điều về con mà trước đây hắn chưa nói tới, vì vậy nếu chúng ta đụng phải bọn Tử Thần Thực Tử thì ta cầm chắc là chúng sẽ đuổi theo Harry Potter nào tỏ ra cỡi chổi thành thạo. Vậy là ổn,” thầy nói tiếp, cột cái bao đựng quần áo của mấy Potter giả và dẫn đầu mọi người đi về phía cửa. “Tôi cho ba phút chuẩn bị trước khi chúng ta lên đường. Không cần phải khóa cửa sau, khi bọn Tử Thần Thực Tử đến tìm, cửa nẻo sẽ không thể chặn được chúng. Đi thôi...”

Harry vội vã chạy vô hành lang quơ cái ba lô của nó, cây chổi Tia Chớp, và cái lồng Hedwig rồi đi theo cả đám ra khu vườn sau nhà tối thui.

Ở mọi phía chổi vọt vào tay người; Hermione đã được chú Kingsley giúp trèo lên một con vong mã đen hù cao lớn, anh Bill giúp chị Fleur trèo lên con kia. Bác Hagrid đã đứng bên cạnh chiếc xe gắn máy, kính lồi đã đeo sẵn.

“Phải chiếc này không? Chiếc xe của chú Sirius?”

“Cũng một chiếc,” bác Hagrid nói, ngó xuống Harry cười toe toét. “Và lần con cỡi nó trước đây, Harry à, con nằm gọn ơ trong một bàn tay hè!”

Harry không thể không cảm thấy hơi ngường ngượng khi trèo vô cái thùng xe bên. Vị trí đó khiến cho nó thấp hơn tất cả những người khác cả thước: Ron nhe răng cười ngố khi thấy nó ngồi đó y như một đứa con nít ngồi trong xe điện đụng. Harry nhét ba lô và chổi xuống dưới chân và kẹp cái lồng Hedwig giữa hai đầu gối. Nó thấy khó chịu cực kỳ.

“Ông Arthur có hàn xì chút đỉnh,” bác Hagrid nói, hơi vô tâm trước nỗi khốn khổ của Harry. Bác ngồi chàng hảng trên chiếc xe khiến nó rít lên khe khẽ và lún xuống đất vài phân. “Cần lái giờ có thêm mấy chiêu mới. Cái đó sáng kiến của bác.” Bác chỉ một ngón tay to thù lù vào một cái nút tím gần đồng hồ tốc độ.

“Làm ơn cẩn thận, nhé bác Hagrid,” ông Weasley nói, ông đang đứng bên cạnh hai bác con, cầm cây chổi của ông. “Tôi vẫn chưa chắc cái đó có đáng tin cậy không và chắc chắn là chỉ nên dùng khi nào khẩn cấp.”

“Được rồi, nào,” thầy Moody nói. “Xin mọi người hãy chuẩn bị. Tôi muốn tất cả chúng ta xuất phát thật chính xác cùng một lúc nếu không thì toàn bộ chiến thuật nghi binh này sẽ mất toi ý nghĩa.”

Mọi người gật đầu.

“Bây giờ ôm chặt nghe Ron,” cô Tonks nói, và Harry thấy Ron ngấm ngầm ném một cái nhìn tội lỗi về phía thầy Lupin trước khi đặt tay lên hai bên eo của cô Tonks. Bác Hagrid nổ máy xe: chiếc xe rú lên như một con rồng, và cái thùng xe bên hông rung lên.

“Chúc mọi người may mắn,” thầy Moody la lớn. “Hẹn gặp lại tất cả trong vòng một giờ ở Hang Sóc. Xuất phát khi đếm đến tiếng thứ ba. Một... hai... BA.”

Một tiếng rống khủng khiếp phát ra từ chiếc xe gắn máy, và Harry cảm thấy cái thùng xe lắc lư muốn ói. Nó được nhấc bổng lên cao rất nhanh, mắt hơi chảy nước, tóc bị thổi giạt ra khỏi mặt. Quanh nó những cây chổi cũng vọt thẳng lên; cái đuôi đen dài thòng của con vong mã ngoắc lướt qua. Hai chân Harry, bị nêm bên trong cái thùng xe của bác Hagrid, vốn đã đau rồi, bây giờ bắt đầu tê. Quá khốn khổ nên nó gần như quên béng ngó lại ngôi nhà số 4 đường Privet Drive lần cuối cùng. Đến khi nhìn được qua thành cái thùng xe thì không sao phân biệt được nhà nào với nhà nào nữa rồi.

Và bỗng nhiên, hoàn toàn không ngờ được, cả đám bị bao vây. Ít nhất ba chục cái bóng đội mũ trùm đầu lơ lửng giữa không gian, hình thành một vòng vây lớn mà trung tâm là đám hội viên Phượng Hoàng vừa bay lên, chưa hiểu gì hết...

Tiếng gào thét, những ngọn lửa xanh lè nhá lên từ mọi phía: bác Hagrid gào lên một tiếng và chiếc xe gắn máy lộn ngược lại. Harry không còn biết là bác cháu nó đang ở đâu nữa. Trên đầu nó là đèn đường, quanh nó là tiếng gào rú, nó đang bám vào thùng xe bên để mong sống sót. Cái lồng Hedwig, cây chổi Tia Chớp, và cái ba lô của nó tuột xuống khỏi đầu gối...

“Không... HEDWIG!”

Cây chổi quay mòng mòng xuống đất, nhưng nó chỉ xoay sở túm được cái đai của ba lô và cái nóc lồng khi chiếc xe gắn máy xoay trở lại vị trí ban đầu. Mới hú vía được một giây thì một đợt lửa xanh lè khác lại bùng lên. Con cú rít lên và ngã lăn quay xuống đáy lồng.

“Không... KHÔNG!”

Chiếc xe gắn máy lao tới trước; Harry thoáng thấy bọn Tử Thần Thực Tử trùm kín đầu tản ra khi bác Hagrid phá tung vòng vây của chúng.

“Hedwig... Hedwig...”

Nhưng con cú nằm bất động, thảm hại như một món đồ chơi vứt ở đáy lồng. Harry không tin nổi, và nỗi lo sợ cho những người khác mới là điều quan trọng nhất. Nó liếc ra sau lưng và thấy một đám đông chuyển động. Những luồng ánh sáng lóe lên xanh lè, hai cặp cỡi chổi phóng vọt đi khá xa, nhưng nó không nhận ra được họ là ai...

“Bác Hagrid, chúng ta phải trở lại, chúng ta phải trở lại!” Nó gào lên át tiếng gầm rú như sấm của cái máy xe, rút đũa phép ra, đẩy cái lồng Hedwig xuống sàn, không chịu tin là con cú đã chết.

“Bác Hagrid, QUAY VÒNG LẠI!”

“Việc của bác là đưa con tới nơi an toàn, Harry à.” Bác Hagrid rống lên, và bác mở hết ga.

“Ngừng... NGỪNG LẠI!” Harry hét lên, nhưng khi nó ngoái nhìn lại lần nữa thì hai tia sáng xanh bỗng bay trượt qua vành tai trái của nó: Bốn Tử Thần Thực Tử đã tách khỏi vòng vây và đuổi theo hai bác cháu, nhắm vào tấm lưng to bè của bác Hagrid. Bác Hagrid lạng lách, nhưng bọn Tử Thần Thực Tử đã đuổi kịp chiếc xe gắn máy, thêm nhiều bùa chú phóng sát sạt vào hai bác cháu, và Harry phải hụp xuống sâu trong thùng xe để tránh. Xoay người ra sau nó hét: “Điểm huyệt” và một tia chớp đỏ phóng ra từ cây đũa phép của chính nó, chẻ ra một khoảng hở giữa bốn Tử Thần Thực Tử khi chúng giạt ra để tránh đòn.

“Bám chặt nghe Harry, để cái này trị tụi nó!” Bác Hagrid gầm lớn, và Harry ngước nhìn lên đúng lúc để thấy bác Hagrid dập một ngón tay to thù lù lên cái nút xanh gần đồng hồ xăng.

Một bức tường, một bức tường gạch chắc chắn, phụt ra từ ống bô xe. Nhóng cổ lên, Harry thấy bức tường phình ra định hình giữa không trung. Ba Tử Thần Thực Tử lạng lách được, nhưng tên thứ tư kém may mắn hơn; hắn biến khỏi tầm nhìn và rồi rớt xuống như một tảng đá đằng sau bức tường, cây chổi của hắn gãy vụn. Một tên trong bọn bay chậm lại để cứu hắn, nhưng cả hai tên cùng bức tường trong không trung bị bóng tối nuốt chửng khi bác Hagrid chồm rạp người trên tay lái và tăng tốc vọt đi.

Nhiều Lời nguyền Giết chóc bay ngang qua đầu Harry từ cây đũa phép của hai tên Tử Thần Thực Tử còn lại; chúng nhắm vào bác Hagrid. Harry đáp trả bằng cách tung thêm càng nhiều bùa Choáng: đỏ và xanh đụng nhau giữa trời trong một màn mưa tia sáng đủ màu, và Harry nghĩ lộn xộn đến những chùm pháo bông và đám dân Muggle dưới mặt đất hẳn chẳng biết được đang xảy ra chuyện gì...

“Chơi một cú nữa nè, Harry, bám chặt nghe!” Bác Hagrid gào to, và bác dập vào nút thứ hai. Lần này một tấm lưới vĩ đại bung ra từ ống bô xe, nhưng bọn Tử Thần Thực Tử đã cảnh giác. Chẳng những chúng lạng lách tránh được tấm lưới mà cái tên lúc nãy bay chậm lại để cứu đồng bọn cũng đã đuổi kịp. Hắn hiện ra từ bóng tối, và bây giờ cả ba cùng đuổi theo chiếc xe gắn máy, tất cả cùng bắn theo những lời nguyền.

“Cái này được đây, Harry, bám chặt vào!” Bác Hagrid gào to, và Harry thấy bác đấm nguyên bàn tay lên cái nút tím bên cạnh đồng hồ tốc độ.

Cùng với một tiếng rống kinh thiên động địa không thể nhầm lẫn được, lửa rồng phun ra từ ống bô, nóng đến trắng xanh, và chiếc xe gắn máy vọt tới trước như một viên đạn trong tiếng kim loại kêu răng rắc. Harry thấy một tên Tử Thần Thực Tử lạng ra khỏi tầm nhìn để tránh luồng lửa kinh hoàng, và cùng lúc đó nó cảm thấy cái thùng xe lắc lư một cách đáng ái ngại: mối hàn kim loại giữa cái thùng và cái xe đã bị vỡ banh vì sức mạnh của tăng tốc.

“Không sao đâu, Harry!” Bác Hagrid rống lên, tốc độ vọt nhanh quăng bác bẹp ngửa trên yên, bây giờ chẳng còn ai lèo lái xe nữa, và cái thùng xe bắt đầu vặn xoắn dữ dội ở mối hàn hở.

“Để bác lo, Harry, con khỏi lo!” Bác Hagrid hét to và rút từ bên trong túi áo khoác ra cây dù hoa màu hồng.

“Bác Hagrid! Đừng! Để con!”

“SỬA!”

Một tiếng nổ điếc tai và cái thùng xe sút hoàn toàn ra khỏi cái xe gắn máy. Lực đẩy của chiếc xe gắn máy đang bay khiến cho Harry lao nhanh tới trước, rồi cái thùng xe bắt đầu mất độ cao...

Trong cơn tuyệt vọng, Harry chĩa cây đũa phép vào cái thùng xe, hét lớn: “GắncánhBay lên!”

Cái thùng xe nổi lên như cái nút phao, tuy không còn lèo lái được nhưng ít nhất thì vẫn còn lơ lửng giữa trời. Tuy nhiên, Harry chỉ thở phào được có một giây, vì nhiều lời nguyền đang xẹt qua nó veo véo: ba tên Tử Thần Thực Tử đang sáp lại.

“Bác tới đây, Harry!” Tiếng bác Hagrid quát trong bóng tối, nhưng Harry cảm thấy cái thùng xe lại bắt đầu rớt xuống: nó cố gắng ngồi thu lại thật thấp, rồi chĩa vào tên chính giữa trong ba cái bóng đang tiến tới gần và hét: “Chặn lại!”

Thần chú trúng ngay ngực tên Tử Thần Thực Tử chính giữa. Gã bỗng bị căng tay chân giữa trời một cách lố lăng như thể tông phải một thanh chắn vô hình: một tên đồng bọn suýt tông phải gã.

Thế rồi cái thùng xe bắt đầu rớt xuống một cách nghiêm trọng, và bọn Tử Thần Thực Tử phóng ra một lời nguyền sát Harry đến nỗi nó phải thụp xuống thấp hơn vành thùng xe, đập miệng vào cạnh của cái ghế làm văng ra một cái răng...

“Bác tới ngay, Harry, bác tới ngay!”

Một bàn tay khổng lồ túm lấy lưng áo Harry, nhấc nó ra khỏi cái thùng xe đang lao thẳng xuống. Harry kéo được cái ba lô theo trong lúc tự mình trèo lên yên xe gắn máy, để rồi nhận ra đang ngồi đâu lưng lại bác Hagrid. Khi hai bác cháu vọt lên trên, bỏ lại hai tên Tử Thần Thực Tử, Harry nhổ máu ra khỏi miệng, chĩa cây đũa phép về phía cái thùng xe đang rơi, và hét: “Phá hủy!”

Lúc cái thùng xe nổ tung, Harry thấy đau cho Hedwig đến thắt ruột khủng khiếp; tên Tử Thần Thực Tử gần nhất bị nổ văng khỏi chổi té mất tăm; tên cùng đi với hắn rớt lại và biến mất.

“Harry, bác xin lỗi, bác xin lỗi nghe,” bác Hagrid rên rỉ. “Lẽ ra bác không nên tự sửa... con mất chổi rồi...”

“Không quan trọng, bác cứ bay tiếp!” Harry hét ngược lại, vì hai Tử Thần Thực Tử nữa hiện ra từ bóng tối, đang kéo tới gần.

Những bùa chú lời nguyền lại một lần nữa phóng qua lại trong khoảng không giữa hai phe, bác Hagrid lạng lách và bay theo hình chữ z: Harry biết bác Hagrid không dám dùng đến nút lửa rồng một phen nữa khi mà Harry ngồi trong thế chông chênh như vậy. Harry phóng ra hết bùa Choáng này đến bùa Choáng khác vào bọn đang đuổi theo, chỉ đủ cầm chân chúng. Nó lại phóng thêm một thần chú Chặn đường nữa: tên Tử Thần Thực Tử đuổi theo sát nhất lạng người tránh được, cái mũ trùm đầu của hắn tuột ra, và nhờ ánh sáng đỏ của bùa Choáng nó tung ra tiếp theo đó mà Harry nhìn thấy gương mặt trơ kỳ quái của Stanley Shunpike... Stan...

“Giải giới!” Harry hét.

“Nó đó, nó đó, nó là đứa thật đó!”

Harry nghe tiếng la của tên Tử Thần Thực Tử còn lớn hơn cả tiếng máy xe nổ như sấm rền: ngay sau đó, cả hai tên đuổi theo đều rớt lại sau và biến mất.

“Harry, chuyện gì xảy ra vậy?” Bác Hagrid hét. “Chúng bỏ đi đâu rồi?”

“Con không biết!”

Nhưng Harry sợ: tên Tử Thần Thực Tử đội mũ trùm đã hét “nó là đứa thật đó!” Làm sao hắn biết? Nó nhìn đăm đăm vào bóng tối dường như trống trơn và cảm nhận được mối đe dọa. Chúng ở đâu?

Nó lồm cồm xoay quanh chỗ ngồi để quay ra phía trước và níu lấy lưng áo khoác của bác Hagrid.

“Bác Hagrid, bác xịt lửa rồng một lần nữa đi, chúng ta hãy đi khỏi đây ngay.”

“Vậy thì, bám chặt nghe Harry”

Một lần nữa tiếng gầm rú đinh tai nhức óc vang lên và lửa trắng xanh phụt ra từ ống bô: Harry cảm thấy bản thân mình bị trật ra sau trượt khỏi cái yên chỉ còn có chút xíu chỗ cho nó ngồi. Bác Hagrid bật ngửa ra sau đè lên nó, suýt vuột cả tay lái...

“Bác nghĩ mình đã bỏ rơi chúng rồi Harry à, bác nghĩ mình đã thoát rồi.”

Nhưng Harry không tin tưởng lắm; nỗi sợ bao trùm khi nó nhìn trái ngó phải canh chừng những kẻ truy đuổi mà nó chắc chắn là sẽ đến... Tại sao chúng rớt lại? Một tên trong bọn chúng vẫn còn cây đũa phép cơ mà... Nó đó... nó là đứa thật đó... Chúng nói điều đó ngay sau khi nó cố Giải giới Stan...

“Chúng ta gần đến nơi rồi, Harry à, chúng ta gần thành công rồi!” Bác Hagrid hét toáng lên.

Harry cảm thấy chiếc xe gắn máy hạ thấp xuống một tí mặc dù ánh đèn dưới mặt đất trông vẫn còn xa xăm như những vì sao.

Bỗng cái thẹo trên trán nó nóng bỏng như lửa: mỗi bên chiếc xe gắn máy xuất hiện một tên Tử Thần Thực Tử, hai Lời nguyền Giết chóc bắn từ phía sau sướt qua nó trong đường tơ kẽ tóc...

Và rồi Harry thấy hắn. Voldemort đang bay như khói nương theo gió, không cỡi chổi cũng không cỡi vong mã, gương mặt như rắn của hắn sáng lập lòe trong bóng tối, những ngón tay trắng hếu của hắn lại giơ cao cây đũa phép...

Bác Hagrid thốt ra một tiếng rú kinh hãi và bẻ lái xe lao xuống theo chiều thẳng đứng. Bám lấy hy vọng sống sót, Harry phóng lung tung những bùa Choáng vào bóng đêm đang quay mòng mòng. Nó thấy một thân thể bay ngang qua và biết là nó đã phóng trúng một tên trong bọn chúng, nhưng rồi nó nghe một tiếng nổ kinh thiên và nhìn thấy những tia lửa nháng lên từ động cơ của chiếc xe. Chiếc xe quay xoắn tít trong không trung, hoàn toàn không điều khiển được nữa...

Những tia sáng xanh lè lại phóng trớt qua hai bác cháu. Harry không còn biết đâu là trên đâu là dưới nữa: cái thẹo của nó vẫn đang cháy bỏng, nó chờ chết trong chớp mắt. Một cái bóng đội mũ trùm kín mặt cỡi chổi bay chỉ cách nó vài bước, nó thấy hắn giơ cánh tay lên...

“KHÔNG!”

Bác Hagrid gào lên giận dữ và tự mình phóng ra khỏi chiếc xe lao vào tên Tử Thần Thực Tử, Harry kinh hoàng ngó cả bác Hagrid lẫn tên Tử Thần Thực Tử cùng rớt xuống mất tiêu, trọng lượng gộp lại của cả hai quá sức chịu đựng của cây chổi...

Ráng dùng hai đầu gối kẹp chặt chiếc xe gắn máy đang lao thẳng xuống, Harry nghe Voldemort gào lên: “Của ta!”

Thế là hết: Nó không thể nghe hay thấy Voldemort ở đâu nữa; nó thoáng thấy một tên Tử Thần Thực Tử khác sà xuống tránh chỗ và nó nghe “Avada...”

Cơn nhói đau từ cái thẹo khiến Harry nhắm mắt lại, cây đũa phép của nó tự phản ứng. Nó có cảm giác cây đũa phép kéo bàn tay nó quay vòng như một thỏi nam châm vĩ đại, qua đôi mắt hé mở nó thấy một ngọn lửa vàng chóe bắn ra, một tiếng rắc rồi một tiếng thét giận dữ. Tên Tử Thần Thực Tử còn lại rống lên, Voldemort gào, “Không!” Và không biết bằng cách nào đó, Harry phát hiện ra mũi mình chỉ cách nút bấm lửa rồng có vài phân. Nó dùng bàn tay không cầm đũa phép thụi vô cái nút và chiếc xe gắn máy xịt thêm lửa vào không khí trong khi nhào thẳng xuống mặt đất.

“Bác Hagrid!” Harry gọi, bám vào chiếc xe gắn máy để tự cứu mình, “Bác Hagrid! Triệu lại đây bác Hagrid!”

Chiếc xe gắn máy lao nhanh hơn, bị hút về phía mặt đất. Mặt Harry nằm ngang tay lái, nên nó chẳng thể thấy gì ngoại trừ những ánh đèn xa xăm đang càng lúc càng gần: nó sắp rớt xuống đất và nó không thể làm gì để đừng rớt. Đằng sau nó lại vang lên một tiếng gào nữa:

“Cây đũa phép của mi, Selwyn, đưa ta đũa phép của mi!”

Harry cảm nhận được Voldemort trước khi nhìn thấy hắn. Quay ngang, nó ngó chòng chọc vào hai con mắt đỏ và chắc mẻm đó là thứ cái cuối cùng nó nhìn thấy trên đời: Voldemort đang chuẩn bị ếm nó một lần nữa...

Và bỗng nhiên Voldemort biến mất. Harry ngó xuống, thấy bác Hagrid nằm dạng tay chân trên mặt đất bên dưới. Nó ghị chặt tay lái để tránh đụng phải bác, mò mẫm tìm cái thắng, nhưng với một cú đâm sầm rung đất điếc tai, nó nhào mạnh xuống một cái ao sình.

Chương Năm

Chiến binh rơi rụng

“Bác Hagrid?” Harry vùng vẫy để tự ngoi lên khỏi đống da rách và kim loại bể bao quanh nó; hai bàn tay nó lún sâu mấy phân trong vũng nước đục ngầu khi cố chống tay đứng dậy.

Nó không thể hiểu Voldemort đã biến đi đâu và nó chờ đợi hắn sà xuống từ bầu trời tối đen bất cứ lúc nào. Có cái gì đó nóng và ướt đang từ trên trán nhễu xuống cằm nó. Nó bò ra khỏi vũng nước và loạng choạng đi về phía cái đống đen to thù lù nằm trên mặt đất là bác Hagrid.

“Bác Hagrid? Bác Hagrid ơi, nói với con đi...”

Nhưng cái đống đen đó không nhúc nhích.

“Ai ở ngoài đó? Có phải Potter không? Cháu là Harry Potter hả?”

Harry không nhận ra giọng nói của người đàn ông. Bỗng nhiên một người đàn bà hét lên, “Họ bị tai nạn rồi. Anh Ted ơi! Tai nạn trong vườn nè!”

Đầu óc Harry mù tịt.

“Bác Hagrid ơi,” nó ngốc nghếch lặp lại, và đầu gối nó sụm xuống.

Điều tiếp theo mà nó biết được là nó đang nằm ngửa trên cái gì đó mềm như những cái gối nệm, tay phải và chỗ be sườn của nó rát bỏng. Cái răng bị văng mất của nó đã mọc trở lại. Cái thẹo trên trán nó vẫn còn phập phồng.

“Bác Hagrid?”

Nó mở mắt ra và thấy mình đang nằm trên một cái ghế nệm dài trong một phòng khách xa lạ sáng đèn. Cái ba lô của nó được đặt trên sàn gần đó, ướt sũng và dính đầy sình. Một người đàn ông tóc vàng hoe, bụng bự, đang lo lắng nhìn Harry.

“Bác Hagrid không sao đâu con,” người đàn ông nói. “Bà xã ông đang chăm sóc bác ấy. Con thấy sao? Còn gì khác bị gãy không? Ông đã gắn lại xương sườn, tay và răng cho con. Nhân tiện ông giới thiệu luôn, ông là Ted, Ted Tonks – cha của Dora.”

Harry vội vàng ngồi dậy. Ánh sáng nổ đom đóm trước mắt nó và nó cảm thấy buồn nôn, choáng váng.

“Voldemort...”

“Thong thả thôi,” ông Ted Tonks vừa nói vừa đặt một bàn tay lên vai Harry và đẩy nó nằm trở xuống nệm. “Tai nạn con vừa trải qua thiệt là tệ. Mà có chuyện gì vậy? Cái xe gắn máy hư à? Ông Arthur Weasley lại quá lậm khả năng của ổng và mớ máy móc Muggle kỳ cục của ổng chứ gì?”

“Không,” Harry nói, trong khi cái thẹo của nó xốn xang như một vết thương hở miệng, “Bọn Tử Thần Thực Tử, đông lắm... tụi con bị rượt đuổi...”

“Tử Thần Thực Tử?” Ông Ted nói nhanh. “Con muốn nói gì, Tử Thần Thực Tử à? Ông tưởng chúng không biết con dọn chỗ ở đêm nay chớ, ông tưởng...”

“Chúng biết,” Harry nói.

Ted Tonks ngó lên trần nhà như thể ông có thể nhìn xuyên qua trần thấy được bầu trời.

“Lạ, chúng ta biết bùa bảo vệ vẫn còn linh nghiệm mà, đúng không? Bọn chúng không thể nào xâm nhập phạm vi một trăm thước quanh địa điểm này từ bất cứ hướng nào.”

Bây giờ Harry hiểu tại sao Voldemort biến mất. Ắt hẳn lúc đó chiếc xe gắn máy đã vượt qua rào cản làm bằng những lá bùa của Hội. Nó chỉ mong bùa tiếp tục linh: Nó tưởng tượng Voldemort đang ở trên cao, cách chỗ ông cháu nó đang nói chuyện chỉ có một trăm thước và đang tìm cách xâm nhập vào cái mà Harry hình dung ra giống như một cái bong bóng trong veo khổng lồ.

Nó quăng cặp giò ra khỏi ghế xô-pha; nó cần phải thấy tận mắt mới tin là bác Hagrid còn sống. Nhưng nó chỉ mới gượng đứng dậy được thì cửa mở ra và bác Hagrid lách qua cửa, mặt mũi be bét sình và máu, chân đi cà nhắc một chút, nhưng vẫn sống nhăn một cách nhiệm mầu.

“Harry!”

Đá văng hai cái bàn xinh xắn và một cây tỏi kiểng, bác vượt qua khoảng cách giữa hai bác cháu bằng hai bước sải dài và ôm chầm Harry vào lòng thắm thiết đến nỗi suýt làm gãy mấy be sườn vừa được ráp lại của nó. “Mèn ơi, Harry, làm sao con thoát được trận đó hà? Bác tưởng cả hai bác cháu mình tiêu rồi chớ.”

“Dạ, con cũng tưởng vậy. Con không tin nổi...”

Harry nín bặt. Nó vừa nhận ra người đàn bà mới đi vào phòng phía sau bác Hagrid.

“Mụ!” Nó hét, và thọc tay vô túi áo, nhưng túi trống trơn.

“Cây đũa phép của con đây, con trai ơi,” ông Ted vừa nói vừa gõ cây đũa phép lên cánh tay Harry.

“Nó rớt ngay bên cạnh con, ông đã lượm nó lên... và người con đang quát là vợ của ông.”

“Ôi, con... con xin lỗi!”

Khi đã tiến vào trong phòng rồi, các nét của bà Tonks với mụ em Bellatrix mới đỡ giống nhau hơn: tóc bà hơi ánh nâu và mắt bà to hơn, nhân hậu hơn. Cho dù vậy, bà trông có vẻ hơi kiêu kỳ sau tiếng kêu thảng thốt của Harry.

“Chuyện gì đã xảy ra cho con gái tôi?” Bà hỏi. “Ông Hagrid nói các người bị phục kích; Nymphadora giờ ở đâu?”

“Con không biết,” Harry nói. “Bác cháu con không biết chuyện gì đã xảy ra cho mấy người kia.”

Ông bà Ted nhìn nhau. Một nỗi sợ hãi pha lẫn cảm giác tội lỗi kẹp chặt lấy Harry khi nó thấy vẻ mặt của hai ông bà Tonks. Nếu bất cứ ai trong số những người kia chết thì đó chính là lỗi của nó, lỗi của nó hoàn toàn. Nó đã thuận lòng theo kế hoạch, đưa họ dúm tóc của nó...

“Khóa Cảng.” Bỗng nhiên nó nhớ ra. “Bác cháu mình phải về Hang Sóc để biết... lúc đó cháu sẽ có thể báo tin cho ông bà, hoặc là... hoặc cô Tonks sẽ báo, khi cô ấy đã...”

“Dora sẽ không sao cả, Dromeda à,” ông Ted nói. “Nó biết công việc của mình, nó từng làm nhiều công tác khó khăn với các Thần Sáng. Khóa Cảng có đặt ở đây,” ông nói thêm với Harry. “Nó khởi hành trong vòng ba phút nữa, nếu cháu muốn đi.”

“Dạ, con đi,” Harry nói. Nó tóm lấy cái ba lô, lẳng lên vai. “Con...”

Nó nhìn bà Tonks, muốn xin lỗi về nỗi lo sợ mà nó gây ra cho bà, nó cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm kinh khủng về chuyện này, nhưng nó chẳng tìm được từ nào để nói ra mà không nghe rỗng tuếch và giả dối.

“Con sẽ thưa với cô Tonks... à, cô Dora... nhắn tin, khi cô ấy... Cám ơn ông bà đã cứu giúp con và bác Hagrid, cám ơn về mọi thứ, con...”

Nó mừng vì được ra khỏi căn phòng và theo ông Ted Tonks đi dọc một hành lang ngắn để vào phòng ngủ. Bác Hagrid đi theo phía sau, cúi thấp xuống để khỏi đụng đầu vào rầm cửa.

“Đây, con trai. Khóa Cảng đó.”

Ông Tonks chỉ vào một cái lược cán bạc nằm trên bàn trang điểm.

“Cám ơn ông,” Harry vừa nói vừa vói tới chạm một ngón tay lên cái lược, sẵn sàng ra đi.

“Khoan đã,” bác Hagrid vừa nói vừa nhìn quanh quất, “Harry à, con Hedwig đâu?”

“Nó... nó bị trúng bùa,” Harry nói.

Nó như sụp đổ khi nhận ra điều đó: nó cảm thấy xấu hổ về chính mình trong lúc nước mắt chảy làm mắt cay xè. Con cú đã làm bạn với nó lâu nay, là mối liên hệ chính của nó với thế giới pháp thuật mỗi khi nó bị buộc phải trở về với gia đình Dursley.

Bác Hagrid đưa một bàn tay to tướng vỗ lên vai nó khiến nó phát đau.

“Không sao,” bác nói cụt ngủn. “Không sao. Nó đã sống một đời rất thọ rồi...”

“Ông Hagrid!” Ông Ted Tonks nhắc nhở, vì cái lược đang ửng lên màu xanh sáng rực, và bác Hagrid chỉ kịp chạm ngón tay vào đúng lúc.

Thót bụng một cái như thể có một cái móc câu vô hình và một sợi dây lôi tới trước, Harry bị kéo vào cõi thinh không, xoay tít không tự chủ được, ngón tay nó dính cứng vào cái Khóa Cảng khi nó và bác Hagrid bị tống ra khỏi gia đình ông Tonks. Tích tắc sau, chân Harry chạm mạnh vào mặt đất cứng và nó té bò càng xuống sân Hang Sóc. Nó nghe tiếng la hét. Liệng cái lược không còn tỏa sáng qua một bên, Harry đứng dậy, hơi lảo đảo, và ngó thấy bà Weasley cùng Ginny đang chạy xuống bậc thang dẫn lên cửa sau, trong khi bác Hagrid chật vật chống chỏi đứng lên vì bác cũng bị té lăn cù khi chạm đất.

“Harry? Con là Harry thiệt phải không? Chuyện gì đã xảy ra? Những người kia đâu?” Bà Weasley khóc.

“Bác nói vậy là sao? Chưa ai về à?” Harry thở hổn hển.

Câu trả lời rõ ràng đã khiến cho gương mặt tái mét của bà Weasley càng tái thêm.

“Bọn Tử Thần Thực Tử rình sẵn tụi con,” Harry nói với bà. “Tụi con vừa mới khởi hành là đã bị phục kích rồi... chúng biết thời điểm là đêm nay... Con không biết chuyện gì xảy ra cho những người khác, bốn tên trong bọn chúng đuổi theo bác Hagrid và con, tụi con cố hết sức để thoát được chúng, rồi đến Voldemort đuổi kịp tụi con...”

Nó nghe thấy sự phân trần trong giọng nói của mình, khẩn khoản xin bà thông cảm vì sao nó không biết chuyện gì xảy ra cho các con trai của bà, nhưng...

“May phước con được bình an,” bà nói, kéo nó vào vòng tay ôm ấp thương yêu đến nỗi nó cảm thấy không xứng đáng.

“Bà Molly, bà hông có chút rượu mạnh nào he?” Bác Hagrid hỏi, giọng run run. “Để làm thuốc ấy mà.”

Bà có thể hô phép đem rượu ra, nhưng rồi lại quày quả đi trở vào ngôi nhà ngoằn ngoèo, Harry biết bà muốn giấu vẻ mặt của bà đi. Nó quay qua Ginny và cô bé ngay lập tức trả lời cho sự cầu khẩn thông tin chưa thốt ra lời của nó.

“Lẽ ra anh Ron và cô Tonks về đây sớm nhất, nhưng họ bị lỡ chuyến Khóa Cảng, cái khóa trở về đây mà không có họ,” cô bé nói, chỉ vào một cái hộp đựng dầu rỉ sét nằm trên mặt đất gần đó. “Còn cái kia,” cô bé chỉ vào một chiếc giày cũ, “lẽ ra phải đưa ba và anh Fred về, theo dự định thì họ là cặp thứ hai về đến nhà. Anh và bác Hagrid là cặp thứ ba và,” cô bé coi đồng hồ đeo tay, “nếu anh George và thầy Lupin thoát được thì họ sẽ về đây trong vòng một phút nữa.”

Bà Weasley lại đi ra, mang theo một chai rượu mạnh đưa cho bác Hagrid. Bác bật nút chai uống thẳng một hơi.

“Má!” Ginny la to, chỉ vào một chỗ cách đó mấy thước.

Một vệt sáng xanh lơ hiện ra trong bóng tối: nó lớn dần và sáng dần, và thầy Lupin cùng George hiện ra, quay mòng mòng rồi té xuống. Harry biết ngay tức thì là có điều gì đó không ổn: thầy Lupin đang đỡ George, anh này bất tỉnh, mặt đầy máu.

Harry chạy tới trước, nắm chân George. Nó cùng với thầy Lupin khiêng George vào trong nhà, đi xuyên qua nhà bếp để vào phòng khách, đặt anh ta nằm xuống cái ghế nệm dài. Khi ánh đèn rọi đến cái đầu của George, Ginny há hốc miệng và bao tử Harry thót lại: một vành tai của George đã mất. Một bên đầu và cổ anh ta ướt đẫm máu đỏ au thiệt dễ sợ.

Bà Weasley vừa cúi xuống con trai mình thì thầy Lupin túm lấy cánh tay của Harry lôi nó đi, chẳng được nhẹ nhàng cho lắm, trở vô nhà bếp, nơi bác Hagrid vẫn còn đang ì ạch nhét khối lượng thân thể của mình qua khung cửa sau.

“Ấy,” bác Hagrid tức giận nói. “Bỏ nó ra, bỏ Harry ra!”

Thầy Lupin bất kể đến bác.

“Sinh vật nào ngồi ở trong góc khi Harry Potter đến văn phòng ta ở trường Hogwarts lần đầu tiên?” Thầy vừa nói vừa lắc nhẹ người Harry. “Trả lời ta!”

“Một... một con Grindylow trong bồn nước thì phải?”

Thầy Lupin thả Harry ra và ngã lưng dựa vào tủ chén.

“Vậy là sao hả?” Bác Hagrid gầm lên.

“Thầy xin lỗi, Harry, nhưng thầy phải kiểm tra,” thầy Lupin nói ngắn gọn. “Chúng ta đã bị phản bội. Voldemort biết con được dời đi đêm nay và chỉ kẻ nào tham gia trực tiếp trong kế hoạch này mới có thể báo cho hắn biết. Con có thể là một kẻ đội lốt giả.”

“Vậy sao chú hông kiểm tra tôi?” Bác Hagrid thở hổn hển, vẫn còn đang chật vật lách qua khung cửa.

“Bác là người lai khổng lồ,” thầy Lupin nói, ngước lên nhìn bác Hagrid “Thuốc đa dịch chỉ dùng cho con người mà thôi.”

“Không ai trong Hội Phượng Hoàng lại đi báo cho Voldemort việc chúng ta di chuyển đêm nay cả,” Harry nói. Ý tưởng đó quá khủng khiếp đối với nó, nó không thể nào tin việc đó lại do bất cứ ai trong số họ làm. “Voldemort chỉ đuổi kịp theo con vào phút chót, lúc đầu hắn không biết ai là con. Nếu hắn nắm được kế hoạch thì ngay từ đầu hắn đã phải biết con là người đi với bác Hagrid chớ.”

“Voldemort đuổi kịp con à?” Thầy Lupin nói gay gắt. “Chuyện gì đã xảy ra? Làm sao con thoát được?”

Harry giải thích bọn Tử Thần Thực Tử đuổi theo hai bác cháu như thế nào và nhận ra nó là Harry ra sao, rồi chúng bỏ dở cuộc truy đuổi, và có lẽ chúng đã thỉnh đến Voldemort, hắn đã xuất hiện chỉ ngay trước khi nó và bác Hagrid đến được nơi ẩn náu trong nhà cha mẹ cô Tonks.

“Chúng nhận ra con à? Nhưng bằng cách nào? Con đã làm gì?”

“Con...” Harry cố gắng nhớ lại; cả cuộc hành trình có vẻ như một khối mờ mịt của hoảng sợ và hỗn loạn. “Con thấy Stan Shunpike... Thầy biết anh lơ xe trên chiếc xe buýt Hiệp sĩ chớ? Và con tính Giải giới ảnh thay vì... ảnh đâu có biết ảnh đang làm gì, đúng không ạ? Chắc ảnh bị ếm bùa Độc đoán!”

Thầy Lupin có vẻ kinh hoàng.

“Harry, thời của bùa Giải giới đã qua rồi! Những kẻ ấy đang tìm cách bắt và giết con! Nếu chưa sẵn sàng để giết chúng thì ít nhất thì con cũng phải đánh bùa Choáng chứ.”

“Tụi con đang ở trên cao cả trăm thước! Anh Stan đang không tự chủ, và nếu con mà đánh choáng ảnh và ảnh té, thì ảnh cũng sẽ chết y như con dùng Lời nguyền Giết chóc vậy! Hai năm trước thần chú Giải giới đã cứu con khỏi tay Voldemort,” Harry nói thêm một cách bướng bỉnh. Thầy Lupin nhắc nó nhớ đến anh chàng ưa giễu cợt Zacharias Smith của nhà Hufflepuff, anh ta đã chế nhạo Harry về chuyện nó muốn dạy Đoàn quân Dumbledore cách Giải giới.

“Đúng vậy, Harry à,” thầy Lupin nói mà phải vất vả kiềm chế, “và rất đông bọn Tử Thần Thực Tử đã chứng kiến việc đó xảy ra! Tha lỗi cho thầy, nhưng hồi ấy, đó là một phản ứng rất lạ thường trước sự đe dọa của thần chết cận kề. Còn lặp lại ứng xử đó tối nay trước bọn Tử Thần Thực Tử đã từng nghe nói hay chứng kiến sự kiện đó lúc xảy ra lần đầu tiên thì gần như là tự sát.”

“Vậy là thầy cho rằng con phải giết anh Stan Shunpike à?” Harry tức tối nói.

“Dĩ nhiên là không,” thầy Lupin nói, “Nhưng bọn Tử Thần Thực Tử, và thành thật mà nói – hầu hết mọi người! – đều nghĩ là con phải đánh trả! Giải giới là một thần chú rất có ích, Harry à, nhưng bọn Tử Thần Thực Tử dường như coi đó là độc chiêu đặc trưng của con, và thầy khuyên con đừng để thành như thế.”

Thầy Lupin đang khiến cho Harry cảm thấy nó ngu hết sức, vậy mà vẫn còn cộm một hột bướng bên trong nó.

“Con sẽ không bao giờ cho nổ tung người khác chỉ vì họ láng cháng trước mặt con,” Harry nói. “Đó là việc của Voldemort.”

Nhưng thầy Lupin không kịp bắt bẻ lại nó: rốt cuộc bác Hagrid cũng thành công trong nỗ lực nhét thân mình qua được khung cửa, rồi lê tới một cái ghế và ngồi xuống; cái ghế sụm bà chè. Không để ý đến những tiếng nguyền rủa lẫn lộn với lời xin lỗi của bác, Harry tiếp tục nói với thầy Lupin:

“Anh George sẽ không sao chứ ạ?”

Tất cả cơn giận của thầy Lupin với Harry dường như được rút cạn vì câu hỏi đó.

“Thầy tin vậy, mặc dù sẽ không cách gì gắn lại được tai cho nó, khi đã bị mất tai vì lời nguyền thì không thể...”

Bên ngoài có tiếng ạch đụi. Thầy Lupin lướt ngay tới cửa sau, Harry nhảy qua đám giò cẳng của bác Hagrid và phóng ra sân.

Hai bóng người vừa xuất hiện trong sân, và khi Harry chạy về phía họ thì nó nhận ra đó là Hermione, bây giờ đã trở lại nguyên dạng, và chú Kingsley, cả hai còn nắm chặt một cái móc treo áo cong queo. Hermione lao mình vào vòng tay của Harry, nhưng chú Kingsley chẳng tỏ ra chút xíu vui mừng được gặp lại ai trong đám cả. Qua vai Hermione, Harry thấy chú Kingsley giơ cây đũa phép của chú chĩa vào ngực thầy Lupin.

“Lời cuối cùng cụ Albus Dumbledore nói với chúng ta!”

“Harry là niềm hy vọng lớn nhất của chúng ta. Hãy tin nó,” thầy Lupin bình tĩnh đáp.

Chú Kingsley quay đũa chĩa vào Harry, nhưng thầy Lupin nói, “Nó mà. Tôi kiểm tra rồi.”

“Tốt lắm! Tốt lắm!” Chú Kingsley nói, nhét cây đũa phép vào bên trong áo khoác. “Nhưng ai đó đã phản bội chúng ta! Chúng biết, chúng biết là tối nay!”

“Có vẻ như vậy,” thầy Lupin đáp. “Nhưng hình như chúng không biết là sẽ có bảy Potter.”

“Chút an ủi cỏn con!” Chú Kingsley gầm gừ. “Còn ai trở về nữa?”

“Chỉ mới có Harry, bác Hagrid. George và tôi.”

Hermione nén một tiếng rên sau bàn tay.

“Còn anh gặp chuyện gì vậy?” Thầy Lupin hỏi chú Kingsley.

“Bị năm tên đuổi theo, hai tên bị thương, có thể một tên bị giết,” chú Kingsley quay đi, “và chúng tôi cũng nhìn thấy Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy, hắn nhập bọn đuổi theo chúng tôi được nửa chừng thì biến mất rất nhanh. Anh Remus, hắn có thể...”

“Bay,” Harry thêm vào. “Cháu cũng thấy hắn, hắn rượt theo bác Hagrid và cháu.”

“Vậy ra đó là lý do hắn bỏ đi, để đuổi theo cháu!” Chú Kingsley nói. “Lúc ấy chú không hiểu tại sao hắn biến mất. Nhưng cái gì khiến hắn đổi mục tiêu?”

“Harry cư xử hơi quá tử tế với Stan Shunpike,” thầy Lupin nói.

“Stan nào?” Hermione lặp lại. “Nhưng cháu tưởng anh ta đang ở trong ngục Azkaban mà?”

Chú Kingsley bật ra tiếng cười buồn bã.

“Hermione à, rõ ràng là có một vụ vượt ngục tập thể rất đông đã bị Bộ Pháp thuật ém nhẹm. Mũ trùm đầu của Travers rớt ra khi chú nguyền hắn, lẽ ra hắn cũng đang ngồi tù. Nhưng chuyện gì đã xảy ra cho anh thế, anh Remus? George đâu?”

“Nó bị mất một vành tai,” thầy Lupin nói.

“Mất một...?” Hermione lặp lại giọng thảng thốt.

“Chiến công của Snape,” thầy Lupin nói.

“Snape à?” Harry hét. “Chú đừng nói là...”

“Hắn bị mất mũ trùm trong cuộc săn đuổi. Cắt sâu Mãi mãi luôn luôn là chiêu đặc biệt của Snape. Phải chi tôi có thể đáp lễ hắn, nhưng sau khi George bị thương tôi chỉ còn làm được mỗi một việc là giữ nó trên cây chổi, nó bị mất nhiều máu quá...”

Cả bốn người im lặng khi cùng ngước nhìn lên trời. Chẳng có dấu hiệu chuyển động nào; những ngôi sao đăm chiêu nhìn lại họ, không nhấp nháy, dửng dưng, chẳng hay biết gì về những người bạn đang bay. Ron ở đâu? Anh Fred và ông Weasley ở đâu? Anh Bill, chị Fleur, cô Tonks, thầy Mắt Điên, và lão Mundungus ở đâu?

“Harry, giúp một tay với!” Bác Hagrid ồm ồm gọi vọng ra từ cánh cửa mà bác lại một phen nữa bị mắc kẹt. Mừng là có chuyện gì đó để làm, Harry kéo bác thoát ra, rồi nó đi ngang qua nhà bếp trống vắng trở lại phòng khách nơi bà Weasley và Ginny vẫn còn đang chăm sóc anh George. Bà Weasley lúc này đã cầm được máu cho anh, và nhờ ánh đèn Harry nhìn thấy một cái lỗ toác hoác sạch sẽ vốn là cái vành tai của George.

“Anh ấy sao rồi ạ?”

Bà Weasley quay lại nhìn và nói, “Bác không thể làm cho nó mọc lại được, không thể được một khi nó bị cắt bằng pháp thuật Hắc ám. Nhưng đáng ra còn tệ hơn vầy nhiều... Nó còn sống.”

“Dạ,” Harry nói. “Cám ơn Trời.”

“Em nghe có ai đó ở trong sân phải không?” Ginny hỏi.

“Hermione và chú Kingsley,” Harry nói.

“May phước,” Ginny thì thầm. Hai đứa nhìn nhau, Harry muốn ôm lấy Ginny, giữ cô bé trong vòng tay, nó thậm chí không ngại rằng bà Weasley đang có mặt, nhưng trước khi nó kịp thực hiện được điều thôi thúc, một tiếng đổ ầm vang lên trong nhà bếp.

“Tôi sẽ chứng minh tôi là ai, anh Kingsley à, sau khi tôi nhìn thấy con trai tôi, muốn tốt lành thì tránh ra ngay.”

Trước đây Harry chưa bao giờ nghe ông Weasley hét lớn như vậy. Ông xông vào phòng khách, mảng đầu hói của ông sáng bóng mồ hôi, cặp kính xéo xẹo, anh Fred ở ngay bên cạnh ông, cả hai đều xanh mét, nhưng không bị thương.

“Anh Arthur!” Bà Weasley thổn thức. “Ôi, phước đức biết bao!”

“Nó sao rồi?”

Ông Weasley quỳ ngay xuống bên cạnh George. Lần đầu tiên kể từ khi Harry quen biết anh, Fred dường như đớ lưỡi. Đứng đằng sau cái ghế nệm dài anh há hốc miệng nhìn vết thương của thằng em song sinh như thể không tin nổi cái mà anh đang thấy.

Có lẽ bị tiếng ồn khuấy động khi cha và anh đến bên mình, George cục cựa.

“Con thấy thế nào, George?” Bà Weasley thì thào.

Ngón tay George rờ rẫm một bên đầu.

“Thấy như sư,” nó lẩm bẩm.

“Nó mắc chứng gì vậy?” Fred rền rĩ, tỏ ra kinh hoảng. “Đầu óc nó có bị ảnh hưởng không đấy?”

“Như sư,” George lặp lại, mắt mở to ra nhìn ông anh. “Anh coi... Em như sư rồi. Mất tóc mất tai rồi, Fred ơi, hiểu chưa?”

Bà Weasley khóc nức nở hơn bao giờ hết. Gương mặt nhợt nhạt của Fred hồng lên.

“Lâm ly,” nó nói với George, “Ôi, lâm ly! Trước mặt là cả một thế giới rộng lớn toàn chuyện tiếu lâm dính tới lỗ nhĩ mà mày lại mất tai à?”

“Ờ, phải rồi,” George nói, nhe răng cười với bà mẹ đang nước mắt đầm đìa. “Bây giờ má có thể phân biệt được hai đứa con rồi hén, má.”

Rồi nó nhìn quanh.

“Chào, Harry... Em là Harry, đúng không?”

“Dạ, em đây,” Harry nói, đi tới gần cái ghế nệm dài.

“Chà, ít nhất thì em cũng về được đây an toàn,” George nói. “Sao Ron và anh Bill không xúm xít quanh giường bệnh của mình nhể?”

“Họ chưa về tới nơi, George à,” bà Weasley nói. Nụ cười của George héo đi. Harry đưa mắt ra hiệu cho Ginny đi cùng nó trở ra bên ngoài. Khi hai đứa đi ngang nhà bếp, Ginny nói nhỏ:

“Giờ này lẽ ra anh Ron và cô Tonks phải về tới rồi. Họ đâu phải đi xa; nhà dì Muriel gần đây mà.”

Harry không nói gì. Nó đã cố gắng gạt đi mối lo sợ từ khi đến Hang Sóc, nhưng bây giờ nỗi sợ hãi bao bọc lấy nó, dường như trườn bò khắp da nó, phập phồng trong ngực nó, chẹn họng nó. Khi hai đứa bước xuống bậc tam cấp ra sân sau tối thui, Ginny nắm bàn tay nó.

Chú Kingsley đang sải bước đi tới đi lui, liếc nhìn lên trời mỗi khi vòng lại. Cảnh đó nhắc Harry nhớ đến dượng Vernon đi qua đi lại trong phòng khách đâu như một triệu năm về trước. Bác Hagrid, Hermione, và thầy Lupin đứng sát vai nhau, chăm chú nhìn lên trời trong im lặng. Không ai trong ba người đó quay lại nhìn khi Harry và Ginny nhập bọn trong đêm thâu im ắng.

Từng phút dài ra như cả năm trường. Làn gió thoảng nhẹ nhất cũng khiến tất cả giật mình hướng về phía lùm bụi hay cây cỏ lao xao, hy vọng một trong những Hội viên có thể từ trong đám lá nhảy ra bình yên vô sự...

Và rồi một cây chổi hiện ra ngay phía trên đầu họ và lao thật nhanh xuống đất...

“Họ kìa!” Hermione gào lên.

Cô Tonks đáp xuống với một đà trượt dài làm bắn bụi đất và sỏi khắp nơi.

“Anh Remus!” Cô Tonks òa khóc khi loạng choạng rời cây chổi để ngã vào vòng tay thầy Lupin. Gương mặt thầy se lại và trắng bệch: dường như thầy không thể thốt ra lời nữa. Ron đi vấp váp một cách kỳ quái về phía Harry và Hermione.

“Bồ vô sự,” nó lầm bầm được mấy tiếng trước khi Hermione bay tới ôm nó chặt cứng.

“Mình tưởng... Mình tưởng đâu...”

“Đây không sao,” Ron nói, vỗ nhè nhẹ lên lưng cô bé. “Đây ổn mà.”

“Ron tuyệt lắm,” cô Tonks nồng nhiệt nói, thả vòng tay ôm thầy Lupin ra. “Tuyệt vời luôn. Đánh Choáng một tên trong bọn Tử Thần Thực Tử, đánh thẳng vô đầu, mà lại nhắm vào một mục tiêu di động khi đang bay trên cây chổi...”

“Bồ đánh?” Hermione nói, trố mắt nhìn Ron, hai tay vẫn còn câu cổ nó.

“Lúc nào cũng giọng ngạc nhiên,” Ron nói hơi cộc một tí, thoát ra khỏi vòng tay của Hermione. “Có phải tụi này là những người về cuối cùng không?”

“Không,” Ginny nói. “Chúng ta vẫn còn đang đợi anh Bill, chị Fleur, chú Mắt Điên và bác Mundungus. Em vô nói cho ba má biết là anh vô sự nghe, anh Ron. “

Cô bé chạy trở vô trong nhà.

“Chuyện gì làm em về trễ vậy? Chuyện gì đã xảy ra cho em?” Giọng thầy Lupin nghe như nổi giận với cô Tonks.

“Mụ Bellatrix,” cô Tonks nói. “Mụ muốn tóm em ngang với tóm Harry, anh Remus à, mụ ráng hết sức giết em. Em chỉ ước sao tóm được mụ ta, em còn nợ Bellatrix. Nhưng chắc chắn là tụi em đã làm cho Rodolphus bị thương... Sau đó tụi em đến nhà dì Muriel và trễ chuyến Khóa Cảng và dì ấy cứ nhặng xị cả lên với tụi này...”

Một gân mặt giật giật bên hàm thầy Lupin. Thầy gật đầu, nhưng dường như không thể nói được gì cả.

“Vậy chuyện gì đã xảy ra với quý vị?” Cô Tonks hỏi, quay sang Harry, Hermione và chú Kingsley.

Họ kể lại những câu chuyện về hành trình của chính mình, nhưng đồng thời sự vắng mặt của anh Bill, chị Fleur, thầy Mắt Điên và lão Mundungus dường như phủ chụp lên họ một lớp sương giá, sự gặm nhấm băng giá của nó càng lúc càng khó làm lơ.

“Tôi sắp phải trở lại đường Downing, lẽ ra tôi đã phải có mặt ở đó một tiếng đồng hồ trước,” cuối cùng chú Kingsley nói, sau khi quét mắt chăm chú nhìn bầu trời một lần chót. “Báo cho tôi biết khi họ trở về.”

Thầy Lupin gật đầu. Vẫy tay chào những người kia, chú Kingsley bước vào bóng tối phía cổng. Harry nghe một tiếp bụp yếu ớt khi chú Kingsley độn thổ ngay bên ngoài ranh giới Hang Sóc.

Ông bà Weasley chạy xuống mấy bậc thềm, Ginny theo sau họ. Hai bậc cha mẹ ôm chầm lấy Ron trước khi quay qua thầy Lupin và cô Tonks.

“Cám ơn cô và chú,” bà Weasley nói, “đã vì các con trai tôi.”

“Đừng có ngớ ngẩn thế, chị Molly,” cô Tonks nói ngay.

“George ra sao?” Thầy Lupin hỏi.

“Ảnh bị gì?” Ron hỏi rõ to.

“Nó mất...”

Nhưng đoạn cuối câu nói của bà Weasley bị nhấn chìm trong tiếng thét đồng loạt: một con vong mã vừa lao tới trước mắt mọi người và đáp xuống cách họ vài bước. Anh Bill và Fleur cùng tuột khỏi lưng nó, te tua vì gió nhưng không bị thương.

“Bill! Ơn trời, ơn trời...”

Bà Weasley chạy tới trước, nhưng cái ôm anh dành cho bà chỉ phớt qua chiếu lệ; nhìn thẳng vào cha mình, anh nói: “Chú Mắt Điên đã chết.”

Không ai nói một lời. Không ai cử động. Harry cảm thấy như thể có cái gì đó bên trong nó đang rơi xuống, rơi xuyên lòng đất, bỏ lại nó vĩnh viễn.

“Tụi con thấy tận mắt,” anh Bill nói, Fleur gật đầu, những vệt nước mắt long lanh trên má chị được soi bằng ánh sáng hắt ra từ cửa sổ nhà bếp. “Chuyện xảy ra ngay sau khi chúng ta phá vỡ vòng vây: chú Mắt Điên và lão Dung gần sát tụi con, họ cũng nhắm hướng bắc. Voldemort... hắn bay được... đánh thẳng vào họ. Lão Dung hoảng loạn, con nghe lão khóc la, chú Mắt Điên cố ngăn lão, nhưng lão vẫn độn thổ. Voldemort phóng lời nguyền trúng ngay mặt chú Mắt Điên, chú ngã bật ngửa ra khỏi cây chổi và... tụi con chẳng thể làm gì được, tụi con bị nửa tá đứa trong bọn chúng bám đuôi...”

Giọng Bill đứt đoạn.

“Đương nhiên cháu không thể làm gì được rồi,” thầy Lupin nói.

Tất cả đều đứng lặng nhìn nhau. Harry không thể hiểu được hết. Thầy Mắt Điên đã chết; không thể nào lại là... thầy Mắt Điên, ngoan cường như vậy, dũng cảm như vậy, người sống sót tài ba...

Cuối cùng dường như mọi người nhận ra trời đã rạng, mặc dù không ai nói ra, ai cũng biết chẳng còn lý do gì để mà chờ đợi trong sân nữa, và họ lặng lẽ bước theo ông bà Weasley trở vào trong Hang Sóc, và vào tới phòng khách, nơi Fred và George đang cười ha hả với nhau.

“Có chuyện gì không hay?” Fred dò mặt mọi người khi họ bước vào phòng. “Chuyện gì xảy ra vậy? Ai...?”

“Chú Mắt Điên,” ông Weasley nói, “đã chết.”

Nụ cười của hai anh em sinh đôi biến thành cái méo miệng sững sờ. Dường như không ai biết phải làm gì. Cô Tonks âm thầm khóc trong chiếc khăn tay. Cô vốn gần gũi với thầy Mắt Điên, Harry biết, thầy là người nó quý mến nhất, người che chở cho nó ở Bộ Pháp thuật. Bác Hagrid, ngồi trên sàn trong một góc nhà, nơi bác có được chỗ rộng rãi nhất, đang chậm nước mắt bằng cái khăn tay của bác có kích thước bằng tấm khăn trải bàn.

Anh Bill đi tới tủ lấy ra một chai rượu đế lửa và vài cái ly.

“Đây,” anh nói, và với một cái vẫy cây đũa phép, anh phát mười hai ly rượu đầy bay vụt ngang phòng đến từng người, anh giơ cao ly rượu thứ mười ba, “Mắt Điên.”

“Mắt Điên,” tất cả cùng hô, và uống.

“Mắt Điên,” tiếng bác Hagrid vọng lại, chậm hơn một chút, kèm tiếng nấc cụt.

Rượu đế lửa đốt cổ họng Harry. Dường như rượu hâm cảm xúc ấm lại trong người nó, làm tan đi nỗi tê dại điếng người và cảm giác phi thực, thiêu đốt nó với điều gì đó giống như lòng can đảm.

“Vậy là Mundungus đã biến mất?” Thầy Lupin nói. Thầy đã uống một hơi cạn ly.

Không khí thay đổi ngay lập tức. Mọi người tỏ ra căng thẳng, nhìn thầy Lupin, Harry cảm thấy như mọi người vừa mong thầy nói tiếp vừa hơi sợ điều họ có thể phải nghe.

“Cháu biết chú đang nghĩ gì,” Bill nói, “và cháu cũng tự hỏi điều đó suốt trên đường về đây, bởi vì dường như chúng chực sẵn để đón đầu chúng ta, phải không ạ? Nhưng lão Mundungus không thể phản bội chúng ta. Chúng đã không biết là có bảy Harry, điều này khiến chúng lúng túng ngay khi chúng ta xuất hiện, mà chúng ta đừng quên rằng chính lão Mundungus là kẻ đã đưa ra cái mẹo bịp con con ấy. Tại sao lão không nói luôn cho chúng điều mấu chốt đó? Cháu nghĩ lão Dung bị hoảng loạn, đơn giản vậy thôi. Lão đã không muốn đi ngay từ đầu, nhưng chú Mắt Điên ép lão, và Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy tấn công thẳng vào họ. Nhiêu đó cũng đủ để ai cũng phải hoảng loạn rồi.”

“Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy đã hành động đúng như anh Mắt Điên dự đoán,” cô Tonks thút thít khóc. “Anh Mắt Điên có nói hắn sẽ cho rằng Harry thật sẽ đi cùng Thần Sáng giỏi nhất, cứng cựa nhất. Hắn đuổi theo anh Mắt Điên trước nhất, và khi lão Mundungus để lộ bí mật, hắn liền quay qua anh Kingsley...”

“Đúng, lý lẽ đó đều rớt hay,” Fleur ngắt lời cô Tonks, “nhưng vỡn không giãi thích được làm sao họ biết chúng ta đưa Arry đi vào tối nay, đúng hông? Ắt là ai đó đã hông cẫn thận, ai đó đã lỡ lời đễ lộ cho người ngoài biết. Chĩ có cách đó mới giãi thích đượt tại sao hắn biết ngày nhưng hông biết toàn bộ kế hoạch.”

Chị tức tối nhìn khắp tất cả mọi người, nước mắt vẫn còn lem nhem trên gương mặt xinh đẹp, ngầm thách thức bất cứ ai dám nói ngược lại. Không ai dám. Âm thanh duy nhất phá vỡ sự im lặng là tiếng nấc cụt của bác Hagrid phát ra từ phía sau tấm khăn tay. Harry liếc nhìn bác Hagrid, người vừa mới liều mạng sống của chính mình để cứu lấy mạng sống nó – bác Hagrid, người mà nó tin tưởng, người đã từng một lần bị lừa trao thông tin cực kỳ quan trọng cho Voldemort để đổi lấy một cái trứng rồng...

“Không,” Harry nói lớn, và cả đám đều nhìn nó ngạc nhiên: rượu đế lửa dường như vừa tăng âm giọng nói của nó. “Ý tôi là... nếu có ai đó sơ xuất,” Harry nói tiếp, “và để lọt ra điều gì đó, tôi biết là người đó không có chủ tâm làm vậy. Không phải lỗi của người đó.” Nó lặp lại, một lần nữa giọng hơi to hơn bình thường. “Chúng ta phải tin tưởng lẫn nhau. Tôi tin tưởng tất cả mọi người ở đây, tôi không nghĩ bất cứ ai trong phòng này lại bán tôi cho Voldemort.”

Lại sự im lặng nữa tiếp theo lời nói của nó. Tất cả mọi người đều đang nhìn nó: Harry lại cảm thấy nóng, và uống thêm mấy hớp rượu lửa để cho có việc mà làm. Khi nó uống, nó nghĩ đến thầy Mắt Điên. Thầy Mắt Điên lúc nào cũng phủ nhận thiện chí tin tưởng con người của cụ Dumbledore.

“Nói khéo lắm, Harry,” Fred đột ngột nói.

“Ừ nhỉ, nhĩ, nhĩ,” George nói, liếc Fred nửa cái, miệng anh chàng này bị cà giựt.

Nét mặt thầy Lupin rất kỳ quặc khi thầy nhìn Harry. Nét mặt ấy gần như thương hại.

“Thầy nghĩ con là đồ ngu à?” Harry hỏi.

“Không, thầy nghĩ con giống James,” thầy Lupin nói, “anh ấy ắt hẳn đã coi việc không tin tưởng bạn bè là điều ô nhục nhất.”

Harry biết điều thầy Lupin muốn ám chỉ: ấy là cha nó đã bị bạn mình là Peter Pettigrew phản bội. Nó cảm thấy tức giận phát điên lên được. Nó muốn cãi lại, nhưng thầy Lupin đã quay lưng lại nó, đặt cái ly của thầy lên một cái bàn nhỏ, và nói với anh Bill, “Còn việc phải làm. Tôi có thể hỏi anh Kingsley liệu...”

“Không.” Anh Bill nói ngay, “cháu sẽ làm việc đó. Cháu sẽ đi.”

“Anh đi đâu?” Cả cô Tonks và chị Fleur cùng nói.

“Thi thể của Mắt Điên,” thầy Lupin nói, “chúng ta cần tìm lại.”

“Chẳng lẽ không thể...?” Bà Weasley mở lời với ánh mắt cầu khẩn nhìn anh Bill.

“Đợi à?” Anh Bill nói, “Không, trừ khi má muốn cho bọn Tử Thần Thực Tử chiếm lấy?”

Không ai nói gì nữa. Thầy Lupin và anh Bill chào từ giã và ra đi.

Những người còn ở lại giờ đây đều ngồi phịch xuống ghế, tất cả ngoại trừ Harry, nó vẫn đứng. Với mọi người, sự bất ngờ và gọn ghẽ của cái chết như thể sờ thấy được.

“Con cũng phải đi,” Harry nói.

Mười cặp mắt sửng sốt ngó nó.

“Con đừng dại, Harry à,” bà Weasley nói. “Con đang nói về chuyện gì vậy?”

“Con không thể ở lại đây.”

Nó xoa trán, cái thẹo lại nhói đau, hơn một năm nay nó đã không còn bị đau như vầy.

“Tất cả mọi người sẽ bị nguy hiểm khi con ở đây. Con không muốn...”

“Nhưng đừng có ngu ngốc như vậy!” Bà Weasley nói. “Toàn bộ vấn đề đêm nay là đưa được con về đây an toàn, và nhờ phước đức mà đã làm được. Và Fleur đã đồng ý làm đám cưới ở đây thay vì ở Pháp, chúng ta đã dàn xếp mọi việc để có thể ở cùng một nơi mà chăm sóc cho con...”

Bà Weasley không hiểu; bà đang khiến nó cảm thấy tồi tệ thêm, chứ chẳng nhẹ nhõm gì hơn.

“Nếu Voldemort biết con ở đây...”

“Nhưng mà làm sao hắn biết được chứ?” Bà Weasley hỏi.

“Harry à, hiện giờ có đến một tá chỗ có thể coi là có con đang ở,” ông Weasley nói. “Hắn không có cách gì biết được con ở trong ngôi nhà an toàn nào.”

“Không phải con lo cho chính con!” Harry nói.

“Chúng ta biết điều đó,” ông Weasley khẽ nói, “nhưng nếu con bỏ đi thì tất cả những cố gắng của chúng ta đêm nay trở nên vô nghĩa.”

“Con không được đi đâu hết!” Bác Hagrid lầu bầu. “Mèn ơi, Harry à, bỏ đi sau mọi chiện mà bọn ta chải qua để đem con về đây hả?”

“Ừ, còn cái tai đổ máu của anh thì sao?” George nói, hơi nhổm mình dậy trên đống gối nệm.

“Con biết rằng...”

“Chú Mắt Điên sẽ không...”

“TÔI BIẾT RỒI!” Harry rống lên.

Nó cảm thấy bị bao vây và dọa dẫm: họ tưởng là nó không biết họ đã làm gì cho nó sao, bộ họ không hiểu rằng chính vì cái lý do đó mà nó muốn ra đi lúc này, trước khi họ phải chịu đựng thêm đau khổ vì nó sao? Sự im lặng khó xử kéo dài, và trong khoảng thời gian đó cái thẹo của nó tiếp tục nhói đau và phập phồng. Cuối cùng bà Weasley phá vỡ sự im lặng.

“Hedwig đâu, Harry?” Bà nói ngọt ngào. “Chúng ta có thể nhốt nó chung với con Pidwidgeon và cho nó ăn cái gì đó.”

Ruột gan Harry quặn cục lại như một nắm đấm. Nó không thể nói với bà sự thật. Nó uống nốt ly rượu đế lửa để khỏi trả lời.

“Harry à, chờ đi rồi thể nào chuyện cũng lộ ra là con lại thành công một phen nữa,” bác Hagrid nói. “Thoát khỏi tay hắn, đánh hắn chạy dài khi hắn ở ngay trên đầu con.”

“Không phải con,” Harry nói thẳng thừng. “Mà là cây đũa phép của con. Cây đũa phép của con tự phản ứng theo ý nó.”

Một lát sau Hermione nói nhẹ nhàng, “Nhưng không thể vậy được, Harry à. Ý bồ là bồ đã làm pháp thuật không chủ tâm; bồ đã phản ứng theo bản năng chứ gì.”

“Không,” Harry nói. “Chiếc xe gắn máy rớt xuống. Lúc đó mình thật sự không biết được là Voldemort đang ở đâu, nhưng cây đũa phép của mình cứ quay tít trong tay mình, tìm ra hắn và phóng một câu thần chú vào hắn. Mình thậm chí còn không nhận ra đó là thần chú gì mà. Trước nay mình có bao giờ tạo được ngọn lửa vàng chóe nào đâu.”

“Thường thường,” ông Weasley nói, “khi ở trong tình huống bị o ép, con có thể tạo ra phép thuật nhiệm màu mà con cũng chưa bao giờ mơ tới. Trẻ con thường gặp tình huống đó, trước khi chúng được huấn luyện...”

“Không phải thế,” Harry nói qua kẽ răng nghiến chặt. Cái thẹo của nó đang cháy bỏng. Nó cảm thấy tức giận và tuyệt vọng; nó ghét cái ý nghĩ là mọi người đang tưởng tượng nó có sức mạnh tương đương với sức mạnh của Voldemort.

Không ai nói gì. Nó biết là họ không tin nó. Bây giờ nó bắt đầu nghĩ lại, trước đây nó chưa hề nghe nói đến một cây đũa phép tự ý làm phép một mình.

Cái thẹo của nó nhói đau, nó cố gắng hết sức mới không rên la. Lẩm bẩm gì đó về khí trời trong lành, nó đặt cái ly xuống và bỏ ra khỏi phòng.

Khi nó đi ngang qua sân, con vong mã trơ xương ngước nhìn lên – vỗ vỗ đôi cánh giống như cánh dơi khổng lồ của mình, rồi lại tiếp tục gặm cỏ. Harry dừng bước bên cánh cổng vào khu vườn, đăm đăm nhìn đám cây cối mọc um tùm, xoa cái trán đang dộng bưng bưng và nghĩ đến cụ Dumbledore.

Cụ Dumbledore đã tin tưởng nó, nó biết điều đó. Cụ Dumbledore ắt biết tại sao và cách nào cây đũa phép của nó lại hành động độc lập như thế, bởi vì cụ Dumbledore luôn luôn có câu trả lời. Cụ biết nhiều về những cây đũa phép, cụ đã từng giải thích cho nó mối liên quan kỳ lạ giữa cây đũa phép của nó với cây đũa phép của Voldemort... Nhưng cụ Dumbledore, cũng như thầy Mắt Điên, cũng như chú Sirius, cũng như ba má nó, cũng như con cú đáng thương, tất cả đều đã ra đi đến cõi mà Harry không bao giờ có thể chuyện trò với họ một lần nữa. Nó cảm thấy một cơn nóng cháy cổ họng không dính dáng gì tới rượu đế lửa...

Và rồi bỗng nhiên cơn đau trong cái thẹo của nó bùng phát lên tột đỉnh. Khi nó bưng chặt trán và nhắm nghiền mắt lại, một giọng nói gào lên bên trong đầu nó.

“Mi nói với ta rằng vấn đề sẽ được giải quyết bằng cách dùng cây đũa phép của một người khác!”

Và bùng lên trong đầu nó hình ảnh một ông già gầy rộc nằm trên thảm trải trên một nền đá đang gào thét, một tiếng thét kinh hoàng kéo dài, một tiếng thét của nỗi đau đớn quá sức chịu đựng.

“Đừng! Đừng! Tôi van ngài, tôi xin ngài...”

“Mi đã lừa dối Chúa tể Voldemort, Ollivander!”

“Tôi không hề... tôi thề là tôi không hề...”

“Mi tìm cách giúp Potter, giúp nó thoát khỏi tay ta!”

“Tôi thề là tôi không hề... Tôi đã tưởng là một cây đũa phép khác sẽ có hiệu quả...”

“Vậy thì, hãy giải thích điều đã xảy ra. Cây đũa phép của Lucius đã bị hủy diệt!”

“Tôi không hiểu nổi... mối liên kết... chỉ tồn tại... giữa hai cây đũa phép của ngài và của nó...”

“Láo toét!”

“Làm ơn... tôi xin ngài...”

Và Harry nhìn thấy bàn tay trắng bệch giơ cao cây đũa phép và cảm thấy được cơn giận hiểm độc của Voldemort trào lên, nó nhìn thấy ông già bạc nhược quằn quại trong đớn đau cùng cực.

“Harry?”

Mọi chuyện biến đi nhanh cũng ngang như lúc hiện ra: Harry đứng run rẩy trong bóng tối, níu chặt cánh cổng vào khu vườn, tim nó đập dồn dập, cái thẹo của nó vẫn còn nhoi nhói. Một lát sau nó mới nhận ra Hermione và Ron đang ở bên cạnh.

“Harry, trở vô nhà đi,” Hermione thì thầm. “Bồ đâu còn nghĩ đến chuyện bỏ đi nữa hả?”

“Ừ, bồ phải ở lại đây, bồ tèo à!” Ron nói, đấm thùm thụp lên lưng Harry.

“Bồ không sao hả?” Hermione hỏi, cô bé lúc này đã đến sát bên Harry đủ để nhìn vào gương mặt nó. “Trông bồ khủng khiếp quá!”

“À,” Harry nói giọng run run, “Mình có lẽ trông còn khá hơn ông Ollivander...”

Khi nó kể xong cho hai đứa bạn những gì nó thấy, Ron tỏ ra khiếp đảm, nhưng Hermione thì kinh hoàng thực sự.

“Nhưng lẽ ra chuyện đó không thể diễn ra nữa! Cái thẹo của bồ... lẽ ra nó không thể làm vậy được nữa! Bồ không được để cho mối liên kết đó nối lại lần nữa... Thầy Dumbledore muốn bồ đóng đầu óc lại mà!”

Trong lúc Harry không trả lời được, Hermione nắm chặt cánh tay nó.

“Harry, hắn đang chiếm Bộ Pháp thuật, chiếm báo chí và một nửa thế giới pháp thuật! Đừng để hắn cũng lọt luôn vào đầu óc của bồ!”

Chương Sáu

Con ma xó mặc đồ ngủ

Nỗi điếng người vì mất thầy Mắt Điên lơ lửng trong ngôi nhà suốt những ngày sau đó. Harry cứ trông mong được thấy thầy lộc cộc đi qua cánh cửa sau để vào nhà như những Hội viên khác vẫn xẹt ra xẹt vô để tiếp vận tin tức.

Nó cảm thấy chỉ có hành động mới làm nguôi ngoai được cảm giác tội lỗi và đau buồn, và nó phải khởi hành thực hiện nhiệm vụ tìm và diệt những Trường Sinh Linh Giá càng sớm càng tốt.

“Ái chà, bồ đâu có thể làm được gì mấy cái...” Ron nhăn mặt đọc rõ từng chữ Trường Sinh Linh Giá, “trước khi tròn mười bảy tuổi đâu. Bồ vẫn còn bị ếm Dấu Hiện mà. Vả lại tụi mình vẫn có thể bàn tính kế hoạch tại đây hay tại đâu cũng được mà, đúng không? Hay là...” nó hạ thấp giọng thì thào, “bồ cho rằng bồ đã biết Cái-mà-ai-cũng-biết-là-cái-gì-đó ở đâu rồi?”

“Không,” Harry thừa nhận.

“Mình nghĩ lâu nay Hermione có nghiên cứu chút đỉnh,” Ron nói. “Nó nói nó để dành đợi bồ đến đây.”

Tụi nó đang ngồi ở bàn ăn điểm tâm. Ông Weasley và anh Bill vừa mới đi làm. Bà Weasley đã lên lầu đánh thức Hermione và Ginny, trong khi chị Fleur đã phất phơ đi tắm.

“Dấu Hiện sẽ hết linh vào ngày băm mốt,” Harry nói. “Nghĩa là mình chỉ cần ở đây bốn ngày, sau đó mình có thể...”

“Năm ngày,” Ron chỉnh nó một cách nghiêm nghị. “Tụi mình phải ở đây để dự đám cưới. Tụi mình mà bỏ lỡ cái đám cưới này thì họ sẽ giết tụi mình.”

Harry hiểu “họ” tức là chị Fleur và bà Weasley.

“Chỉ thêm có một ngày mà thôi,” Ron nói, khi trông thấy cái mặt Harry muốn nổi loạn.

“Chẳng lẽ họ không nhận thức được tầm quan trọng...”

“Dĩ nhiên là không,” Ron nói. “Họ có biết quái gì đâu. Và bây giờ nhân bồ nhắc tới, mình cũng muốn bàn với bồ về chuyện đó.”

Ron liếc về phía cửa mở vào hành lang để chắc là bà Weasley chưa quay trở lại, rồi nó chồm tới gần Harry hơn.

“Hổm rày má cứ tìm cách moi móc Hermione và mình. Để biết chuyện mà tụi mình toan tính đó. Bồ sẽ là đứa tiếp theo má tra gạn, liệu mà giữ mình. Cả ba với thầy Lupin cũng đã hỏi rồi, nhưng khi tụi này nói cụ Dumbledore dặn bồ không được nói với ai hết, ngoại trừ tụi này, thì họ không hỏi tới nữa. Nhưng má vẫn không chịu thôi. Má kiên quyết lắm.”

Điều Ron tiên đoán đã trở thành hiện thực chỉ trong vài giờ. Trước giờ ăn trưa một chút, bà Weasley tách Harry ra khỏi những người khác bằng cách nhờ nó xác nhận giúp một chiếc vớ nam lẻ đôi mà bà nghĩ có lẽ đã rớt ra từ cái ba lô của Harry. Khi đã cô lập được nó trong phòng tắm giặt ở ngoài nhà bếp, bà bắt đầu.

“Hình như thằng Ron với con Hermione tính là ba đứa con sẽ bỏ học ở trường Hogwarts,” bà bắt đầu bằng giọng tự nhiên, nhẹ nhàng.

“Ơ,” Harry nói. “À, dạ. Tụi con sẽ nghỉ học.”

Cái chậu giặt tự động xoay ở góc phòng, vắt ra một thứ giống như cái áo vét của ông Weasley.

“Cho phép bác hỏi tại sao con bỏ ngang việc học của mình?” Bà Weasley nói.

“Dạ, thầy Dumbledore để lại cho con... việc phải làm,” Harry ấp úng. “Ron và Hermione biết việc đó, và tụi nó cũng muốn đi cùng.”

“Việc gì?”

“Con xin lỗi, con không thể...”

“Chà, thành thật mà nói, bác Arthur và bác có quyền được biết, và bác chắc chắn là ông bà Granger cũng đồng ý với bác!” Bà Weasley nói. Trước đó Harry đã lo sợ về một cuộc công kích của “phụ huynh có liên quan”. Nay nó buộc mình phải nhìn thẳng vào mắt bà Weasley, và khi làm vậy nó nhận ra ánh mắt bà giống y chang ánh mắt nâu sẫm của Ginny. Nhưng chi tiết này cũng chẳng tích sự gì.

“Thầy Dumbledore không muốn cho bất cứ ai khác biết, bác Weasley à. Con rất tiếc. Ron và Hermione không cần phải đi, đó là tự các bạn ấy...”

“Bác thấy con cũng không cần phải đi!” Bà ngắt lời nó, giờ thì bà không cần làm bộ nữa. “Các con vẫn chưa đủ tuổi trưởng thành, cả ba đứa con! Thiệt vô lý hết sức, nếu cụ Dumbledore thấy có việc gì cần phải làm thì cụ đã có sẵn cả một Hội mà sai khiến! Harry à, chắc là con đã hiểu lầm cụ. Có lẽ cụ dặn con điều gì đó cụ muốn được làm, và con đã tưởng là cụ muốn con làm...”

“Con không hiểu lầm,” Harry nói thẳng thừng. “Phải là chính con làm.”

Nó đưa trả chiếc vớ lẻ mà nó được giao nhiệm vụ nhận dạng, chiếc vớ có hoa văn hình cỏ chỉ màu vàng.

“Và cái này không phải của con, con đâu có ủng hộ đội Puddlemere United.”

“Ủa, đương nhiên không phải rồi,” bà Weasley nói giọng chưng hửng và hơi dịu xuống trở lại giọng nói tự nhiên của bà. “Đáng lẽ bác phải nhận ra chứ nhỉ. À, Harry, trong thời gian con còn ở đây, con không ngại giúp một tay chuẩn bị cho đám cưới của Bill và Fleur chớ, hả con? Vẫn còn cả đống việc phải làm.”

“Vâng... Con... dĩ nhiên con không ngại,” Harry nói, lúng túng vì sự đổi đề tài đột ngột này.

“Con ngoan lắm,” bà Weasley nói, và bà mỉm cười khi rời phòng rửa chén.

Từ lúc đó trở đi, bà Weasley khiến Ron, Hermione và Harry tất bật với việc chuẩn bị cho đám cưới đến nỗi tụi nó không còn thì giờ nghĩ ngợi nữa. Lời giải thích tử tế nhất cho thái độ này có lẽ là bà Weasley muốn phân tán tâm trí chúng khỏi những suy tư về thầy Mắt Điên và những nỗi kinh hoàng trong chuyến đi vừa rồi của tụi nó. Nhưng sau hai ngày không nghỉ tay giặt ủi, sắp xếp cho hài hòa màu sắc những phù hiệu, ruy-băng, và hoa lá; bắt quỷ lùn trong vườn và giúp bà Weasley nấu những mẻ bánh khổng lồ, Harry bắt đầu nghi ngờ bà có động cơ khác. Tất cả những công việc bà sai bảo đều dường như khiến nó, Ron và Hermione phải tách xa nhau; nó không có tới một cơ hội nào để nói chuyện riêng với hai đứa kia kể từ đêm đầu tiên, lúc nó nói với hai đứa về việc Voldemort tra tấn ông Ollivander.

“Em nghĩ má cho là ngăn được các anh và chị Hermione xúm lại bàn tính thì má sẽ có thể làm chậm lại việc anh bỏ đi,” Ginny nói nhỏ với Harry khi hai đứa bày bàn ăn tối vào đêm thứ ba nó ở Hang Sóc.

“Và làm như vậy thì bác ấy cho là chuyện gì sẽ xảy ra?” Harry lầm bầm. “Chắc ai đó sẽ giết phứt Voldemort trong khi bác ấy giữ chân tụi này ở đây làm chuyện vớ-vẩn-khỉ-gió chắc?”

Nó đã nói mà không suy nghĩ, và nó thấy gương mặt Ginny trắng bệch ra.

“Vậy là thật sao?” Cô bé nói. “Có thật đó là chuyện anh đang tính làm không?”

“Anh... không... anh nói giỡn mà,” Harry nói lảng đi.

Hai đứa đăm đăm nhìn nhau, và trong vẻ mặt của Ginny không chỉ có sự sửng sốt mà thôi. Bỗng nhiên Harry nhận ra rằng đây là lần đầu tiên hai đứa nó được ở bên nhau một mình kể từ những giờ lén lút gặp nhau trong những góc vắng vẻ của sân trường Hogwarts. Nó biết chắc Ginny cũng đang nhớ lại kỷ niệm đó. Cả hai giật nảy người khi cánh cửa mở ra, và ông Weasley, chú Kingsley cùng anh Bill bước vào.

Dạo này các Hội viên khác thường đến ăn tối chung với gia đình tụi nó, bởi vì Hang Sóc đã trở thành Tổng hành dinh thay thế số mười hai Quảng trường Grimmauld. Ông Weasley đã giải thích rằng sau cái chết của cụ Dumbledore, Người-giữ-bí-mật của họ, thì mỗi người trong số những người đã được cụ Dumbledore giao phó địa điểm Quảng trường Grimmauld sẽ luân phiên trở thành Người-giữ-bí-mật.

“Và bởi vì có tới hai chục người trong bọn ta, nên sức mạnh của bùa Trung Thành cũng bị chia loãng ra. Bọn Tử Thần Thực Tử sẽ có nhiều cơ hội hơn gấp hai chục lần để moi bí mật ra từ bất kỳ người nào. Chúng ta không mong giữ được bí mật lâu hơn nữa.”

“Nhưng chắc bây giờ Snape đã nói cho bọn Tử Thần Thực Tử địa chỉ rồi chứ?” Harry hỏi.

“À, anh Mắt Điên đã ếm vài lời nguyền chống lại Snape trong trường hợp hắn lại quay trở về đó. Chúng ta hy vọng những bùa ếm đó đủ mạnh để vừa cấm cửa hắn vừa trói lưỡi hắn nếu hắn toan tiết lộ địa điểm, nhưng chúng ta không thể chắc chắn. Tiếp tục sử dụng nơi đó làm tổng hành dinh khi mà giờ đây sự bảo vệ đã lung lay thì đúng là điên.”

Buổi tối đó nhà bếp đông đến nỗi xài dao nĩa đúng cách cũng khó khăn. Harry bị ép chật ních bên cạnh Ginny; những điều không nói ra mà hai đứa vừa trao đổi cho nhau khiến nó chỉ ước gì có vài ba người ngồi tách hai đứa ra. Nó hết sức vất vả tránh quẹt vào cánh tay cô bé đến nỗi gần như không thể cắt được miếng thịt gà của mình.

“Không có tin về thầy Mắt Điên sao?” Harry hỏi anh Bill.

“Không,” anh Bill trả lời.

Họ đã không thể tổ chức một tang lễ cho thầy Mắt Điên, bởi vì anh Bill và thầy Lupin chưa tìm được thi thể của thầy. Khó mà biết được thầy đã rớt xuống đâu trong hoàn cảnh tối trời và trận chiến hỗn loạn như thế.

“Tờ Nhật báo Tiên Tri vẫn chưa đăng một chữ nào về cái chết của thầy hay về việc tìm thấy thi thể,” anh Bill nói tiếp. “Nhưng điều đó cũng chẳng đáng kể lắm. Những ngày này báo chí cứ im ỉm.”

“Và họ cũng chưa mở phiên tòa xử việc dùng phép thuật ở tuổi vị thành niên mà con đã vi phạm khi chạy trốn bọn Tử Thần Thực Tử à?” Harry vói qua bàn ăn hỏi ông Weasley, ông lắc đầu.

“Tại họ biết con không còn cách nào khác, hay tại họ không muốn nói cho thế giới biết là Voldemort đã tấn công con?” Nó tiếp.

“Bác nghĩ là lý do sau. Scrimgeour không muốn công nhận Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy hùng mạnh như thực lực hắn hiện nay, ông ta cũng không thừa nhận đã có một cuộc vượt ngục tập thể đông đúc ở Azkaban.”

“Ừ há, tại sao phải nói cho công chúng biết sự thật chứ?” Harry nói, tay siết chặt cán dao của nó đến nỗi vết thẹo mờ trên mu bàn tay phải của nó nổi rõ lên, trắng nhách trên làn da: Tôi không được nói dối.

“Không ai ở Bộ sẵn sàng đứng lên chống lại ông ta sao?” Ron tức giận hỏi.

“Dĩ nhiên là có, Ron à. Nhưng người ta sợ lắm,” ông Weasley trả lời. “Sợ rằng họ sẽ là kẻ mất tích tiếp theo, con cái họ sẽ là kẻ bị tấn công tiếp theo! Nhiều lời đồn đại khủng khiếp đang lan truyền. Ba chẳng hạn, ba không tin là giáo sư bộ môn Muggle học của trường Hogwarts lại từ nhiệm. Cho đến giờ bà đã biến mất nhiều tuần lễ. Trong khi đó Scrimgeour cứ im ỉm trong văn phòng của ổng cả ngày.”

Cuộc trò chuyện tạm ngừng một tí khi bà Weasley úm ba la cho đám dĩa đã hết đồ ăn được dọn qua bàn làm bếp và dọn ra món bánh táo tráng miệng.

“Chúng ta phãi quyết định xem em sẽ cãi trang ra sao, Arry à,” Fleur nói, khi mọi người đều đã có phần bánh ngọt. “Đễ dự đám cứi,” chị nói thêm, khi Harry ngớ ra. “Dĩ nhiên không có khách mời nào của chúng ta là Tữ Thần Thực Tữ rồi, nhưng chúng ta không thễ bão đãm là khách khứa không đễ lọt tin tứt ra một khi họ đã uống rựu sâm banh.”

Nghe điều này, Harry suy ra chị Fleur vẫn còn nghi ngờ bác Hagrid.

“Ừ, ý kiến hay đó,” từ đầu bàn bà Weasley nói vọng xuống, với cặp kính ngự ngay trên chóp mũi, bà dò qua một danh mục nhiều dễ sợ những công việc mà bà đã liệt kê trên một tờ giấy da dài ngoằng. “Để coi, Ron, con dọn dẹp phòng con chưa?”

“Tại sao?” Ron kêu lên, dộng cái muỗng xuống và ngó má nó chằm chằm. “Tại sao lại phải dọn phòng của con chứ? Harry với con thấy như vầy là thoải mái rồi mà.”

“Chúng ta sắp làm đám cưới cho anh của cậu tại đây trong vài ngày tới, cậu trẻ ạ...”

“Họ sẽ lấy phòng con làm phòng hoa chúc sao?” Ron giận dữ hỏi lại. “Không! Vậy tại sao quỷ thần ôn dịch...”

“Không được nói với má con như vậy,” ông Weasley nói chắc nịch. “Và làm đúng như lời má biểu.”

Ron quắc mắt nhìn cả ba lẫn má nó, rồi cầm muỗng lên và tọng đầy họng những miếng bánh táo cuối cùng.

“Mình có thể giúp một tay, một phần bừa bãi trong phòng đó là của mình,” Harry nói với Ron, nhưng bà Weasley ngắt lời nó:

“Khỏi, Harry, cưng à. Bác muốn con giúp bác Arthur dọn chuồng gà, và Hermione, bác cám ơn con nhiều lắm nếu con thay vải trải giường cho ông bà Delacour; con cũng biết là họ sẽ đến vào mười một giờ sáng mai.”

Nhưng hóa ra, chẳng có việc gì để làm với lũ gà cả.

“Khỏi cần, ờ, nói lại với bác Molly đâu,” ông Weasley bảo Harry, ngáng đường không cho nó đi tới cái chuồng gà, “nhưng, ơ, ông Ted Tonks đã gởi cho bác gần hết những mảnh vụn còn lại của chiếc xe gắn máy của chú Sirius và, ờ, bác đang giấu... ấy là bác nói bác đang giữ... nó ở trong này. Đồ kỳ diệu thật: có một ống quần bô xì khói, bác nghĩ người ta gọi nó là vậy thì phải, bình điện ác liệt nhất, và đây là dịp tuyệt nhất để tìm hiểu xem bộ thắng hoạt động như thế nào. Bác đang cố gắng ráp nó lại khi nào bác Molly không... ý bác là, khi nào bác có thì giờ.”

Khi hai bác cháu quay trở vô nhà thì không thấy bà Weasley ở đâu cả, vì vậy Harry vọt lên cầu thang đến cái buồng ngủ sát nóc của Ron.

“Con đang dọn đây, con đang... Ủa, bồ hả?” Ron nói trong cái thở phào khi Harry đi vào phòng. Ron lại nằm ườn ra cái giường mà rõ ràng là nó vừa nhổm khỏi đó. Cái phòng tùm lum tà la như vẫn thế suốt tuần; chỉ có đổi khác duy nhất là giờ đây Hermione đang ngồi ở tuốt một góc với con mèo lông xù vàng hoe quần bên chân, cô bé đang phân loại sách thành hai đống kếch xù, một số sách đó Harry nhận ra là sách của nó.

“Chào Harry,” Hermione nói khi Harry ngồi xuống cái giường xếp dã chiến của nó.

“Và bồ xoay cách nào mà thoát ra được vậy?”

“Ôi, má Ron quên là đã nhờ mình và Ginny thay vải trải giường ngày hôm qua rồi,” Hermione nói. Cô bé quăng cuốn Lượng Số Học và Ngữ Pháp vào một đống và cuốn Thăng Trầm của Nghệ Thuật Hắc Ám vô đống kia.

“Tụi này vừa nói chuyện về thầy Mắt Điên,” Ron nói với Harry, “mình đoán là thầy vẫn còn sống.”

“Nhưng anh Bill nhìn thấy thầy ấy bị trúng Lời nguyền Giết chóc mà,” Harry nói.

“Ừ, nhưng lúc ấy anh Bill cũng đang bị tấn công,” Ron nói, “làm sao ảnh chắc chắn được điều ảnh thấy?”

“Cho dù lời nguyền không đánh trúng thầy Mắt Điên thì rớt xuống từ độ cao mấy trăm thước...” Hermione nói, cô bé đang cân nhắc cuốn Những Đội Quidditch của Anh và Ái Nhĩ Lan trên tay.

“Thầy đúng ra có thể xài bùa Chắn...”

“Nhưng chị Fleur nói cây đũa phép của thầy bị văng khỏi tay rồi...” Harry nói.

“Ừ, thì thôi, nếu bồ cứ muốn thầy chết,” Ron lầu bầu; nhồi cái gối của nó thành một hình thù thoải mái hơn.

“Dĩ nhiên tụi mình đâu có muốn thầy ấy chết!” Hermione nói, tỏ vẻ sửng sốt. “Thầy ấy chết thì thật là khủng khiếp! Nhưng tụi mình phải thực tế chớ!”

Lần đầu tiên, Harry hình dung ra thi thể của thầy Mắt Điên, tan tành như xác cụ Dumbledore từng bị, nhưng vẫn còn con mắt pháp thuật xoay tít mù trong hốc mắt. Nó cảm thấy một nỗi đau thấu ruột trộn lẫn với một cơn tức cười quái dị.

“Bọn Tử Thần Thực Tử có lẽ đã dọn dẹp chiến trường sau đó, vì vậy mà không ai tìm được thi thể của thầy,” Ron nói một cách khôn ngoan.

“Ừ,” Harry nói. “Giống như ông Barty Crouch, bị biến thành một khúc xương và chôn trong mảnh vườn trước chòi của bác Hagrid. Có lẽ họ đã biến hình thầy Moody và nhồi bông thầy...”

“Đừng!” Hermione ré lên. Kinh ngạc, Harry quay lại nhìn vừa đúng lúc thấy cô bé òa khóc trên cuốn Bảng Ký Hiệu Âm Tiết cho Người Niệm Chú.

“Ôi, đừng,” Harry nói, loay hoay bò dậy khỏi cái giường xếp cũ kỹ của nó. “Hermione à, mình không có ý chọc giận bồ...”

Nhưng với một tiếng két ầm ĩ của cái khung giường rỉ sét, Ron bật ra khỏi giường, lao đến bên Hermione trước tiên. Choàng một cánh tay quanh Hermione, nó mò trong túi quần bò và móc ra một cái khăn tay ngó thấy ghê mà nó đã dùng để chùi bếp lò trước đó. Hấp ta hấp tấp, nó rút ra cây đũa phép, chĩa vào miếng giẻ lau ấy và nói, “Tẩy.”

Cây đũa phép rút gần hết vết dầu mỡ bầy hầy. Ra vẻ hơi tự mãn, Ron đưa cái khăn tay còn bốc khói thoang thoảng cho Hermione.

“Ôi... cám ơn, Ron... mình xin lỗi...” Cô bé hỉ mũi và nấc cụt. “Chẳng qua... khủng khiếp quá, phải không? Ngay... ngay sau cái chết của thầy Dumbledore... Chẳng hiểu sao, mình không... không bao giờ tưởng tượng nổi thầy Mắt Điên lại chết, thầy trông kiên cường lắm.”

“Ừ, mình biết,” Ron nói, siết Hermione một cái. “Nhưng bồ có biết thầy sẽ nói với tụi mình điều gì không, nếu thầy có mặt ở đây?”

“Cảnh... cảnh giác không ngừng,” Hermione nói, chùi nước mắt.

“Đúng vậy,” Ron gật đầu nói. “Thầy sẽ bảo tụi mình hãy học tập từ chuyện đã xảy ra cho thầy. Và điều mình học được là chớ có tin tưởng vào thằng cha cà chớn hèn nhát Mundungus.”

Hermione bật cười rung cả người và chồm tới trước để nhặt lên hai cuốn sách nữa. Một giây sau, Ron đã phải giật phắt lại cánh tay đang choàng ôm vai Hermione: cô nàng đã làm rớt cuốn Quái Thư về Quái Vật lên chân Ron. Cuốn sách thoát ra được cái đai ràng bèn đớp một miếng chí tử lên mắt cá chân Ron.

“Mình xin lỗi! Mình xin lỗi!” Hermione kêu lên trong khi Harry giật mạnh cuốn sách ra khỏi chân Ron và cột chặt nó lại.

“Mà bồ định làm gì với mớ sách đó chứ?” Ron vừa hỏi vừa đi cà nhắc trở về giường.

“Chỉ cố chọn ra cuốn nào nên đem theo,” Hermione nói. “Đọc trong lúc tụi mình đi tìm Trường Sinh Linh Giá.”

“Ờ, tất nhiên,” Ron nói, vỗ tay lên trán, “quên béng là tụi mình sẽ săn lùng Voldemort trong một cái thư viện lưu động.”

“Hì hì,” Hermione cười, ngó xuống cuốn Bảng Ký Hiệu Âm Tiết cho Người Niệm Chú... “Mình tự hỏi... liệu có khi nào cần dịch chữ Runes không? Biết đâu... mình nghĩ tụi mình nên đem nó theo, để yên tâm.”

Cô bé thảy cuốn sách lên đống bự hơn trong hai đống sách và lượm lên cuốn Hogwarts, Một Lịch Sử.

“Nghe mình nói nè,” Harry nói.

Nó đã ngồi thẳng dậy. Ron và Hermione cùng nhìn nó với một thái độ kiểu vừa nhân nhượng vừa bất chấp.

“Mình biết hai bạn đã nói sau đám tang cụ Dumbledore là hai bạn muốn đi với mình,” Harry bắt đầu.

“Nó bắt đầu đó,” Ron vừa nói với Hermione vừa đảo tròn hai con mắt.

“Thì tụi mình đã biết là nó sẽ nói mà,” cô bé thở dài, quay về với những cuốn sách. “Bồ biết không, mình nghĩ mình sẽ đem theo cuốn Hogwarts, Một Lịch Sử. Cho dù tụi mình không trở về nơi đó nữa, mình nghĩ mình sẽ cảm thấy không phải nếu không mang nó theo cùng...”

“Nghe đây!” Harry lại nói.

“Không, Harry, bồ nghe đây,” Hermione nói. “Tụi này sẽ cùng đi với bồ. Chuyện đó đã được quyết định từ cả mấy tháng trước – thực sự là cả nhiều năm trước.”

“Nhưng...”

“Thôi im đi,” Ron khuyên Harry.

“... hai bồ có chắc là đã suy nghĩ kỹ việc này chưa?” Harry vẫn cù nhây.

“Để coi,” Hermione nói, quăng phịch cuốn Du Hành Cùng Người Khổng Lồ lên đống sách vứt đi với vẻ mặt hầm hầm. “Mình đã chuẩn bị hành lý mấy ngày trời, cho nên tụi mình sẵn sàng ra đi trong tích tắc ngay khi được thông báo. Mà nói cho bồ biết, để được thế là đã phải thực hiện một số phép thuật khá vất vả, ấy là chưa nói đến việc chôm toàn bộ Đa Quả dịch dự trữ của thầy Mắt Điên ngay trước mũi má anh Ron.

“Mình cũng đã điều chỉnh trí nhớ của ba má mình để họ tin rằng họ thực sự tên là Wendell và Monica Wilkins, và tham vọng cả đời họ là di cư đến Úc, mà họ đã làm việc đó rồi. Ấy là để Voldemort khó dò ra tung tích họ và tra vấn họ về mình – hay về bồ, bởi vì thiệt không may, mình đã kể cho ba má mình nghe hơi nhiều về bồ.

“Cứ cho là mình sống sót sau cuộc săn lùng Trường Sinh Linh Giá của tụi mình đi, lúc đó mình sẽ đi tìm ba má và giải bùa ếm đi. Nếu mình không... thì thôi, mình tin mình đã ếm đủ bùa để giữ cho ba má bình yên và vui vẻ. Ông Wendell và bà Monica Wilkins sẽ không biết là họ từng có một đứa con gái, vậy đó.”

Đôi mắt của Hermione lại ràn rụa nước mắt. Ron lại phải vọt ra khỏi giường, choàng tay ôm vai cô bé một lần nữa, và cau mày nghiêm mặt nhìn Harry như thể trách mắng nó vì thiếu tế nhị. Harry không thể nghĩ ra điều gì để nói, đặc biệt vì cái sự Ron dạy dỗ người khác tế nhị là rất rất ư bất thường.

“Mình... Hermione à, mình xin lỗi... mình đâu có...”

“... đâu có biết là Ron và mình đã ý thức hoàn toàn điều gì có thể xảy ra nếu tụi này cùng đi với bồ chứ gì? Có chứ, tụi này hiểu rõ chứ. Ron, bồ cho Harry xem cái tụi mình vừa làm xong đi.”

“Không được, nó vừa mới ăn xong,” Ron nói.

“Không sao đâu, Harry cần biết mà!”

“Ờ, cũng được. Harry, lại đây.”

Lần thứ hai Ron thu hồi cánh tay đang ôm Hermione và lốc cốc đi tới cửa.

“Đi nào!”

“Chi vậy?” Harry vừa hỏi vừa đi theo Ron ra khỏi phòng đến đầu cầu thang nhỏ xíu.

“Hạ xuống!” Ron lẩm nhẩm, chĩa cây đũa phép lên trần nhà thâm thấp. Một cái cửa sập mở ra ngay bên trên đầu tụi nó và một cái thang thòng xuống tới chân tụi nó. Một âm thanh ghê rợn, nửa như rên, nửa như hớp, phát ra từ cái lỗ vuông, cùng với một mùi khó chịu như mùi cống lộ thiên.

“Có phải là con ma xó của bồ không?” Harry hỏi, nó vẫn chưa thực sự giáp mặt cái kẻ đôi khi làm gián đoạn sự tĩnh mịch hàng đêm.

“Ừ. Nó đó,” Ron nói, trèo lên thang. “Lên đây ngó nó một cái.”

Harry theo Ron trèo mấy bậc thang ngắn để chui lên cái buồng sát mái bé tẹo. Đầu và vai nhô lên hẳn trong buồng rồi nó mới nhìn thấy con ma xó nằm cuộn tròn cách nó mấy bước, đang ngủ say trong ánh sáng lờ mờ, miệng há hốc.

“Nhưng nó... nó giống... bộ ma xó thường mặc đồ ngủ hả?”

“Không,” Ron nói. “Thường tụi nó cũng không có tóc đỏ hay cả đống mụn.”

Harry ngắm nghía con ma xó, hơi gớm gớm. Nó có hình dạng và kích thước của con người, và mặc cái mà, nhờ mắt Harry giờ đã quen với bóng tối nên đã nhận ra, rõ ràng là một bộ đồ ngủ đã cũ của Ron. Nó cũng biết chắc là ma xó thường thường hói và đầy nhớt, chứ không lắm tóc và mặt mũi chi chít những mụn nước viêm tấy.

“Nó là mình đó, hiểu không?”

“Không,” Harry nói. “Mình không hiểu.”

“Trở về phòng mình sẽ giải thích, cái mùi này sắp giết mình rồi,” Ron nói. Tụi nó trèo xuống thang, Ron trả cái thang lên trần nhà, rồi đến ngồi bên Hermione. Cô bé vẫn còn đang lựa sách.

“Khi tụi mình ra đi, con ma xó sẽ xuống đây sống trong căn phòng này của mình.” Ron nói. “Mình tin nó thực sự trông mong đến lúc đó... Ừ, cũng khó nói thế được, vì nó chẳng biết gì khác hơn là rên rỉ và sụt sịt mũi dãi lòng thòng... nhưng nó gật đầu lia lịa khi mình nói tới chuyện đó. Đại khái, nó sẽ là mình đang mắc bệnh trái rạ. Hay hén?”

Harry chỉ bày tỏ được sự bối rối của nó.

“Hay chứ!” Ron nói, thất vọng thấy rõ khi Harry không quán triệt được sự lỗi lạc của cái kế hoạch đó. “Như vầy nè, khi ba đứa tụi mình không đến trường Hogwarts nhập học lại, mọi người sẽ nghĩ là Hermione và mình ắt là đi cùng với bồ, đúng không? Điều đó có nghĩa là bọn Tử Thần Thực Tử sẽ đi thẳng tới gia đình tụi này để coi chúng có thể moi ra tin tức về chỗ ở của bồ không.”

“Nhưng lúc đó hy vọng nhìn có vẻ như mình đã đi xa với ba má mình; dạo này nhiều phù thủy gốc Muggle bàn tính chuyện đi trốn lắm,” Hermione nói.

“Tụi mình không thể đem cả nhà mình đi trốn, coi bộ đáng nghi lắm, với lại mọi người không thể bỏ hết công ăn việc làm được,” Ron nói. “Vì vậy tụi mình bịa ra chuyện mình bị bệnh trái rạ nặng, đó là lý do mình không thể trở lại trường. Nếu có ai đó đến kiểm tra, ba hay má đều có thể chỉ cho họ thấy con ma xó trên giường của mình, mặt đầy mụn mủ. Bệnh trái rạ lây dữ lắm, cho nên họ sẽ không muốn tới gần nó đâu. Nó không thể nói năng gì cũng không sao, bởi vì hiển nhiên người ta không thể nói nữa một khi nấm đã lan tới lưỡi gà.”

“Ba má bồ cũng tham gia kế hoạch này hả?” Harry hỏi.

“Ba thì có. Ba giúp anh Fred và anh George biến hình con ma xó. Má thì... chèn ơi, bồ đã thấy má ra sao rồi. Má sẽ không chấp nhận chuyện tụi mình ra đi cho đến khi tụi mình đi hẳn.”

Trong phòng im lặng, chỉ vang lên tiếng ạch đụi nho nhỏ vì Hermione tiếp tục liệng sách vào đống này hoặc đống kia. Ron ngồi nhìn Hermione, và Harry nhìn hết đứa này đến đứa kia, không thể nói được gì cả. Những biện pháp hai đứa dùng để bảo vệ gia đình tụi nó khiến Harry hiểu ra, hơn bất kỳ điều gì khác có thể khiến nó hiểu ra, rằng hai đứa thực sự sẽ đi cùng với nó và tụi nó biết chính xác việc đó sẽ nguy hiểm như thế nào. Harry muốn nói với hai đứa rằmg điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với nó, nhưng lại không tìm được lời lẽ đủ tầm cỡ để diễn tả.

Xuyên qua màn im lặng, từ dưới bốn tầng lầu vọng lên âm thanh đã bị hãm bớt của bà Weasley đang quát mắng.

“Chắc Ginny để sót một chấm bụi trên vành khăn ăn thổ tả,” Ron nói. “Mình không thể hiểu được tại sao gia đình Delacour phải đến đây trước ngày cưới những hai ngày.”

“Em gái chị Fleur sẽ là phù dâu, cô bé phải tới đây sớm để tổng dợt, và cô ta còn bé quá không thể tự đến đây một mình.” Hermione nói, trong khi còn nghiền ngẫm mãi không quyết định được về cuốn Đoạn Tuyệt Nữ Thần Báo Tử.

“Điệu này khách khứa sẽ chẳng giúp má bớt căng thẳng đâu,” Ron nói.

“Điều mà tụi mình thực sự cần quyết định,” Hermione nói, quăng cuốn Lý Thuyết Pháp Thuật Phòng Vệ vô thùng rác mà không cần liếc qua lần thứ hai và cầm lên cuốn Đánh Giá Nền Giáo Dục Pháp Thuật ở Châu Âu, “là đi đâu sau khi tụi mình rời khỏi nơi đây. Mình biết bồ nói bồ muốn đi đến Thung lũng Godric trước tiên, Harry à, và mình hiểu tại sao, nhưng... ừ... tụi mình có nên coi Trường Sinh Linh Giá là ưu tiên hàng đầu không?”

“Nếu tụi mình biết được bất kỳ Trường Sinh Linh Giá nào ở đâu thì mình đồng ý với bồ,” Harry nói, nó không tin là Hermione thực sự hiểu được nỗi khao khát quay về Thung lũng Godric của nó. Mồ mả ba má nó chỉ là một phần: nó có một cảm giác rõ rệt, dù không giải thích được, rằng nơi chốn ấy đang nắm giữ những giải đáp cho nó. Có thể đơn giản vì đó là nơi nó đã sống sót bất chấp Lời nguyền Giết chóc của Voldemort; và giờ đây, khi đang phải đối đầu với thách thức lặp lại kỳ tích đó, Harry bị lôi kéo về nơi kỳ tích đó đã xảy ra, muốn hiểu thấu.

“Bồ không nghĩ là có khả năng Voldemort đang canh chừng Thung lũng Godric à?” Hermione hỏi. “Hắn có thể chờ bồ trở lại đó thăm viếng mồ mả ba má bồ một khi bồ đã được tự do muốn đi đâu thì đi?”

Điều này Harry chưa từng nghĩ tới. Trong khi nó đang cố gắng tìm cách biện bác thì Ron cất lời, rõ ràng là đang theo đuổi một hướng suy nghĩ của riêng mình.

“Cái tay R.A.B. này,” nó nói. “Mấy bồ biết chứ, cái tay đã ăn cắp cái mặt dây chuyền thật đó?”

Hermione gật đầu.

“Ổng nói trong cái thư ngắn là ổng sẽ hủy nó, phải không?”

Harry kéo cái ba lô về phía nó và lấy cái Trường Sinh Linh Giá giả ra, bên trong bức thư ngắn của R.A.B. vẫn còn xếp kỹ.

“Ta đã lấy cắp Trường Sinh Linh Giá thật và dự định sẽ phá hủy nó ngay khi có thể,” Harry đọc lớn.

“Vậy, nếu ông ấy đã hủy nó đi rồi thì sao?” Ron hỏi.

“... hoặc bà ấy,” Hermione chen vô.

“Dẫu ai đi nữa,” Ron nói, “thì tụi mình cũng bớt được một việc phải làm!”

“Ừ, nhưng tụi mình vẫn cứ phải thử và dò la ra cái mặt dây chuyền thật, đúng không?” Hermione nói, “để coi nó có bị hủy thiệt không.”

“Và một khi tụi mình tìm được nó rồi, làm cách nào bồ hủy được một Trường Sinh Linh Giá?” Ron hỏi.

“Ừ,” Hermione nói. “Mình đang nghiên cứu chuyện đó.”

“Làm cách nào?” Harry hỏi. “Mình không nghĩ là có bất kỳ cuốn sách nào về Trường Sinh Linh Giá ở thư viện.”

“Không có thiệt,” Hermione nói, cô bé ửng hồng. “Thầy Dumbledore đã cho dẹp hết chúng, nhưng thầy... thầy không hủy chúng đi.”

Ron ngồi thẳng dậy, mắt mở thao láo.

“Bồ xoay sở cách quỷ gì mà rớ được tay vô mấy cuốn sách về Trường Sinh Linh Giá vậy?”

“Đâu... đâu có ăn cắp gì đâu!” Hermione nói, khẩn khoản nhìn từ Ron đến Harry. “Chúng vẫn là sách của thư viện, cho dù thầy Dumbledore đã cho dẹp chúng khỏi kệ sách. Với lại, nếu thầy thực sự không muốn cho bất cứ ai đọc chúng, mình tin chắc thầy đã gây nhiều khó khăn hơn cho việc...”

“Nói thẳng ra đi!” Ron ngắt.

“À... dễ thôi,” Hermione nói nhỏ. “Mình chỉ cần niệm chú Triệu tập. Mấy bồ biết đấy... Lại đây. Và... sách bay vèo từ cửa sổ phòng làm việc của thầy Dumbledore vào thẳng ký túc xá nữ.”

“Nhưng bồ làm chuyện này hồi nào?” Harry hỏi, nhìn Hermione đầy vẻ ngưỡng mộ pha lẫn ngờ vực.

“Ngay sau đám tang cụ... thầy Dumbledore,” Hermione nói, giọng nhỏ hơn nữa. “Ngay sau khi tụi mình đồng ý là sẽ bỏ trường đi tìm các Trường Sinh Linh Giá. Khi mình đi trở lên lầu để lấy đồ đạc... đột nhiên mình nghĩ là tụi mình càng biết nhiều về những Trường Sinh Linh Giá đó thì càng thuận lợi hơn... và chỉ có một mình mình ở đó... cho nên mình thử... và làm được luôn. Những cuốn sách bay thẳng vào cửa sổ mở và mình... mình gói ghém chúng lại.”

Cô bé nuốt nước miếng và bỗng nhiên nói giọng năn nỉ, “Mình tin là thầy Dumbledore sẽ không giận, đâu có phải tụi mình sẽ dùng thông tin trong sách để chế tạo Trường Sinh Linh Giá đâu?”

“Bồ có thể nghe ý kiến của tụi này không?” Ron nói. “Mà thôi, mấy cuốn sách đó đâu rồi?”

Hermione lục lọi một lát và rút từ đống sách ra một bộ kếch xù, được cột chặt bằng dây da đen đã ngả màu. Cô nàng tỏ ra buồn nôn một tí và cầm nó bằng mấy ngón tay như thể đó là cái gì vừa mới chết.

“Đây là bộ sách có hướng dẫn rõ ràng về cách tạo ra một Trường Sinh Linh Giá. Những Bí Mật Của Nghệ Thuật Hắc Ám – một cuốn sách khủng khiếp, thực sự ghê tởm, đầy những pháp thuật ác độc. Mình thắc mắc thầy Dumbledore đã dẹp nó khỏi kệ sách từ lúc nào... nếu mãi đến khi thành hiệu trưởng thầy mới dẹp nó đi thì mình dám cá là Voldemort đã học được tất cả mọi hướng dẫn mà hắn cần có trong cuốn sách này.”

“Vậy tại sao hắn phải hỏi thầy Slughorn cách chế tạo Trường Sinh Linh Giá nếu hắn đã đọc cuốn sách?”

“Hắn chỉ lân la bên thầy Slughorn để tìm hiểu xem việc gì sẽ xảy ra khi người ta xẻ hồn mình thành bảy mảnh,” Harry nói. “Thầy Dumbledore tin chắc là khi Riddle đến hỏi thầy Slughorn về Trường Sinh Linh Giá thì hắn đã biết cách chế tạo rồi. Mình nghĩ bồ đúng, Hermione à, rất có thể hắn đã lấy thông tin từ cuốn sách.”

“Và mình càng đọc về những Trường Sinh Linh Giá,” Hermione nói, “thì có vẻ chúng càng khủng khiếp, và mình càng khó tin là hắn đã thực sự tạo ra được những sáu cái. Trong cuốn sách này có cảnh cáo là việc xé linh hồn mình ra sẽ khiến cho phần hồn còn lại bất ổn như thế nào, và ấy là chỉ mới tạo một Trường Sinh Linh Giá thôi đấy.”

Harry nhớ điều mà thầy Dumbledore nói về việc Voldemort đã vượt xa sự “tàn ác thông thường.”

“Không có cách nào để nhập hồn lại sao?” Ron hỏi.

“Có chứ,” Hermione nói kèm một nụ cười gượng gạo, “nhưng sẽ đau đớn quằn quại.”

“Tại sao? Mà làm cách nào?” Harry hỏi.

“Sám hối,” Hermione nói. “Người ta phải thực sự cảm nhận được điều mình đã làm. Có một chú thích. Rất có thể nỗi đau đớn đó sẽ hủy diệt người sám hối. Mình thấy Voldemort không đời nào thử làm chuyện đó, mấy bồ có nghĩ vậy không?”

“Không,” Ron nói, trước khi Harry có thể trả lời. “Vậy trong sách đó có nói cách phá hủy Trường Sinh Linh Giá không?”

“Có,” Hermione nói, lúc này cô nàng đang lật những trang giấy mong manh như thể xem xét một bộ lòng thúi nát. “Bởi vì nó cảnh cáo các pháp sư Hắc ám phải mạnh như thế nào mới ếm được bùa lên chúng. Qua tất cả những gì mình đọc, điều mà Harry đã làm đối với quyển nhật ký của Riddle là một trong những cách cực kỳ đơn giản để phá hủy một Trường Sinh Linh Giá.”

“Cái gì, đâm nó bằng một cái nanh mãng xà à?” Harry hỏi.

“Ái chà, vậy thì may quá, tụi mình có cả đống nanh mãng xà dự trữ,” Ron nói. “Mình đang thắc mắc không biết tụi mình sẽ phải làm gì với chúng đây.”

“Không nhất thiết phải là nanh mãng xà,” Hermione kiên nhẫn nói. “Chỉ cần là cái gì đó có tính chất hủy diệt ghê gớm đến nỗi Trường Sinh Linh Giá không thể tự cứu chữa được. Nọc độc mãng xà chỉ có một chất giải độc, mà lại cực kỳ hiếm...”

“... nước mắt phượng hoàng,” Harry gật đầu nói.

“Đúng vậy,” Hermione nói. “Vấn đề của tụi mình là có quá ít những vật liệu có tính hủy diệt như nọc độc mãng xà, và chúng đều quá nguy hiểm không thể mang theo bên mình được. Nhưng đó là vấn đề mà tụi mình phải giải quyết, vì xé nát, đập bể, hay nghiến vụn một Trường Sinh Linh Giá không được tích sự gì. Mình phải đặt nó ra ngoài khả năng cứu chữa bằng pháp thuật.”

“Nhưng ngay cả nếu như mình phá tan nát cái vật chứa linh hồn đó,” Ron nói, “thì tại sao mảnh linh hồn trong vật đó lại không bỏ đi mà sống trong một vật khác?”

“Bởi vì Trường Sinh Linh Giá là một thứ trái ngược hoàn toàn với con người.”

Nhận thấy cả Harry và Ron đều có vẻ bối rối hết sức, Hermione vội nói tiếp, “Như vầy nhé, nếu bây giờ mình cầm lên một thanh gươm, đây Ron, và đâm xuyên gươm qua người bồ, thì cũng chẳng làm tổn hại gì hết đến linh hồn của bồ.”

“Thực là một niềm an ủi cho mình đấy, chắc chắn,” Ron nói làm Harry bật cười.

“Thiệt như vậy ấy chớ! Nhưng điều mình muốn nói là cho dù thân thể của bồ có bị gì đi nữa thì linh hồn của bồ vẫn còn đó, nguyên si,” Hermione nói. “Nhưng đối với Trường Sinh Linh Giá thì ngược lại hoàn toàn. Mảnh linh hồn bên trong lệ thuộc vào vật chứa nó, vào cái thân xác được ếm bùa của nó để sống sót, không thì nó không thể tồn tại.”

“Cuốn nhật ký đó coi như là chết khi mình đâm nó,” Harry nói, nhớ lại mực đã tuôn ra như máu từ những trang sách bị đâm lủng, và tiếng gào thét của mảnh linh hồn Voldemort khi tan biến.

“Và một khi cuốn nhật ký được phá hủy đúng cách, mảnh linh hồn kẹt trong đó không thể tồn tại nữa. Ginny đã cố gắng vứt bỏ cuốn nhật ký trước khi bồ hủy nó, cô bé đã liệng nó vô bồn cầu xả nước cho nó trôi đi, nhưng rõ ràng là nó vẫn trở lại, xịn như mới.”

“Khoan đã,” Ron nói, cau mày lại. “Một mảnh linh hồn trong cuốn nhật ký đó đã ám ảnh Ginny, đúng không? Nó làm thế bằng cách nào?”

“Khi vật chứa pháp thuật vẫn còn nguyên vẹn, mảnh linh hồn bên trong có thể nhập vào hay xuất ra khỏi người nào đó nếu người đó quá gần gũi vật đó. Mình không có ý nói là cầm nó quá lâu, đây không ăn nhằm gì đến chuyện đụng chạm nó,” Hermione nói thêm trước khi Ron có thể mở miệng. “Ý mình nói đến sự gần gũi về tình cảm. Ginny đã trút hết nỗi lòng mình vào cuốn nhật ký đó, tự làm cho chính mình trở nên cực kỳ yếu đuối. Người nào quá thích hay quá lệ thuộc vào Trường Sinh Linh Giá thì người đó sẽ gặp rắc rối.”

“Mình thắc mắc thầy Dumbledore đã hủy chiếc nhẫn như thế nào?” Harry nói. “Tại sao mình lại không hỏi thầy nhỉ? Mình chưa bao giờ thực sự...”

Giọng nói của nó lạc đi: nó đang nghĩ về tất cả những điều lẽ ra nó nên hỏi thầy Dumbledore, và vì thầy hiệu trưởng đã mất rồi, nên nó đang nghĩ vì sao nó lại lãng phí quá nhiều cơ hội khi thầy còn sống, để tìm ra nhiều hơn... tìm ra mọi thứ...

Sự im lặng bỗng tan tành khi cửa phòng ngủ bật mở tung bằng một cú tông phá đến rung tường. Hermione thét lên và làm rớt cuốn Bí Mật Của Nghệ Thuật Hắc Ám; con mèo Crookshanks xẹt ngay xuống gầm giường, kêu xì xì đầy phẫn nộ; Ron nhảy phóc khỏi giường, trượt trên một miếng giấy gói kẹo Nhái sô-cô-la, đập luôn đầu vào bức tường đối diện; và Harry theo bản năng mò kiếm ngay cây đũa phép của mình trước khi nhận ra nó đang ngước nhìn bà Weasley, tóc bà rối lù xù và mặt bà méo đi vì tức giận.

“Tôi rất tiếc phải giải tán cuộc họp mặt thân ái nho nhỏ này,” bà nói, giọng run run, “Tôi biết là tất cả các anh chị cần nghỉ ngơi... nhưng quà cưới còn chất đống trong phòng tôi giờ cần phải sắp xếp, mà tôi lại cứ có cảm tưởng rằng các anh chị đã đồng ý giúp đỡ rồi chớ.”

“Dạ, đúng,” Hermione nói, có vẻ khiếp đảm khi đứng bật lên khiến đống sách văng tứ tung. “Tụi con sẽ... tụi con xin lỗi...”

Quăng cho Ron và Harry một ánh mắt đau khổ, Hermione vội vã đi theo bà Weasley ra khỏi phòng.

“Y như thân phận gia tinh,” Ron lầm bầm than thở, vẫn còn xoa xoa cái trán khi nó và Harry đi theo sau. “Chỉ thiếu niềm đam mê nghề nghiệp. Cái đám cưới này càng xong sớm thì càng vui hơn.”

“Ừ,” Harry nói, “lúc đó tụi mình không còn chuyện gì ngoài chuyện đi tìm những Trường Sinh Linh Giá... Sẽ giống như đi nghỉ lễ hén?”

Ron phá ra cười, nhưng nhìn thấy đống quà cưới vĩ đại đang chờ tụi nó trong phòng bà Weasley, nó lập tức nín luôn.

Gia đình Delacour đến vào lúc mười một giờ sáng hôm sau. Harry, Ron, Hermione, và Ginny đều cảm thấy khó chịu với gia đình Delacour lúc này; và với một thái độ khiếm nhã, Ron đi thình thịch lên cầu thang để thay vớ cho đúng đôi, còn Harry cố gắng vuốt cho tóc nằm ẹp xuống. Và khi tất cả mọi người đều được coi là đủ thanh nhã, họ kéo cả đám ra sân sau đầy nắng để chờ khách đến.

Harry chưa bao giờ thấy sân sau chỉn chu sạch sẽ như vậy. Mấy cái vạc rỉ sét và mấy chiếc giày ống Wellington thường lăn lóc bên những bậc thềm dẫn lên cửa sau đã biến mất, thay vào đó là hai bụi Bông Phe Phẩy mới toe trong hai cái chậu bự đứng hai bên cánh cửa; mặc dù không có gió thoảng, lá vẫn uể oải ve vẩy tạo nên hiệu quả gợn sóng lăn tăn hấp dẫn. Gà qué đã được nhốt lại, sân được quét dọn, và khu vườn bên cạnh đã được tỉa cành, nhổ cỏ, nhìn chung rất bảnh bao, mặc dù Harry, kẻ vốn thích tình trạng cây cối mọc um tùm, thì nghĩ là cảnh vườn có hơi hoang vu khi không còn bè lũ những con quỷ lùn tí tởn như thường lệ.

Nó không nắm được có bao nhiêu bùa phép an ninh đã được cả Hội Phượng Hoàng lẫn Bộ Pháp thuật ếm lên Hang Sóc, nó chỉ biết là không ai còn có thể dùng phép thuật đi thẳng đến nơi này nữa. Vì vậy ông Weasley phải đi đón gia đình Delacour ở tuốt trên đỉnh của một ngọn đồi gần đó, nơi gia đình Delacour đến bằng Khóa Cảng. Âm thanh đầu tiên báo hiệu họ đến là tiếng cười khanh khách cao vút một cách khác thường, hóa ra xuất phát từ ông Weasley, khi ông xuất hiện ở cổng ngay sau đó, khuân vác hành lý đùm đề, đi sau là một người đàn bà tóc vàng xinh đẹp mặc áo đầm dài nhiều lớp màu xanh biếc; bà này chỉ có thể là má của Fleur.

“Ma-măn!” Fleur bật khóc, ào tới trước ôm chầm lấy bà khách. “Pa-pa!”

Me xừ Delacour còn lâu mới bằng được vẻ quyến rũ của vợ; ổng lùn hơn vợ một cái đầu, và cực kỳ béo tròn, với một chòm râu đen nho nhỏ và nhọn hoắt. Tuy nhiên trông ông ta hiền hậu tử tế. Nhón lên về phía bà Weasley đứng trên đôi giầy cao gót, ông khách hôn lên mỗi bên má bà Weasley hai lần, để lại cho bà chút xôn xao bối rối.

“Quý zị đã chịu quá nhiều phiền toái,” ông nói giọng thâm trầm. “Cháu Fleur nói với chúng tôi là quý zị đã chuẩn bị rất chu đáo”

“Ôi, chẳng có chi, có chi đâu!” Bà Weasley uốn lưỡi, “Không có phiền toái chi cả!”

Ron xả cảm xúc của mình bằng cách nhắm vào một con quỷ lùn và đá cho nó một cái đích đáng, con quỷ lùn ấy đã thò đầu ra từ phía sau một trong hai bụi Bông Phe Phẩy.

“Thưa bà!” Me xừ Delacour nói, vẫn còn cầm bàn tay bà Weasley trong hai bàn tay béo múp của ông ta mà tươi cười. “Chúng tôi vô cùng vinh hạnh trước việc hợp nhất sắp tới của hai gia đình chúng ta! Cho phép tôi được giới thiệu vợ tôi, Apolline.”

Bà Delacour lướt tới trước và cúi khòm xuống cũng để hôn bà Weasley.

“Hân hạnh”, bà ta nói. “Chồng của bà đã kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện thật là thú vị.”

Ông Weasley phát cười lên như điên; bà Weasley ném cho ông chồng một cái nhìn có tác dụng làm cho ông nín ngay lập tức và lấy lại được vẻ mặt đúng đắn như bên giường bệnh của một người bạn thân.

“Và dĩ nhiên, quý zị đã thấy cô con gái bé bỏng của chúng tôi, Gabrielle!” Me xừ Delacour nói. Gabrielle là Fleur nho nhỏ; mười một tuổi, tóc dài tới eo màu vàng óng ánh, cô bé nở nụ cười tươi tắn chào bà Weasley và ôm bà một cái, rồi ném cho Harry một ánh mắt nồng nàn, đôi mi chơm chớp. Ginny đằng hắng om xòm.

“Thôi, mời vào, mời,” bà Weasley hớn hở nói, dẫn gia đình Delacour vô trong nhà, luôn miệng nói những “Ấy đừng!” và “Xin mời đi trước” và “Không có chi”.

Gia đình Delacour chẳng mấy chốc đã lộ ra là những người khách dễ thương ưa giúp đỡ. Họ hài lòng với mọi thứ và sẵn lòng giúp chuẩn bị cho hôn lễ. Me xừ Delacour phát biểu rằng mọi thứ, từ kế hoạch xếp chỗ ngồi cho khách đến giày của cô dâu là “Mê hồn!” Ma đàm Delacour đạt thành tích nhiều nhất trong lãnh vực bùa phép nội trợ và bà đã lau sạch cái bếp lò thật đúng cách trong nháy mắt; Gabrielle lẽo đẽo theo chị, tìm cách giúp đỡ bằng mọi cách mà cô bé có thể làm được và nói chuyện líu lo bằng tiếng Pháp.

Tuy nhiên, Hang Sóc vốn không được xây cất để cho quá nhiều người ở. Ông bà Weasley giờ đây ngủ trong phòng khách, sau khi đã gạt đi sự phản đối của ma đàm và me xừ Delacour, và khăng khăng bắt khách nhận phòng ngủ của mình. Gabrielle ngủ với chị Fleur trong căn phòng cũ của Percy, và khi anh Charlie từ Romania về để làm phù rể, anh sẽ ở chung phòng với anh Bill. Hầu như không còn cơ hội mà tụ tập bàn bạc kế hoạch nữa, và trong nỗi tuyệt vọng đó, Harry, Ron và Hermione bèn xung phong đi cho gà ăn chỉ để thoát ra khỏi căn nhà quá ư đông đúc.

“Rồi má vẫn không để tụi mình yên đâu!” Ron càu nhàu, và cố gắng lần thứ hai của tụi nó để gặp nhau trong sân lại bị thất bại vì sự xuất hiện của bà Weasley, đang bưng một cái giỏ tổ bố những quần áo vừa giặt xong.

“A, hay quá, các con đã cho gà ăn xong,” bà vừa gọi vừa đi tới gần tụi nó. “Chúng ta nên nhốt chúng lại trước khi thợ đến dựng rạp cưới vào ngày mai...” Bà giải thích, dừng bước để dựa vào cái chuồng gà. Bà có vẻ kiệt sức. “Lều Rạp Pháp thuật Millamant... hãng này làm ăn được lắm. Bill sẽ canh chừng họ... Khi họ ở đây con nên ở trong nhà, Harry à. Bác phải thừa nhận là có tất cả đám bùa chú này vây quanh thì tổ chức một đám cưới đâm rất phức tạp.”

“Con xin lỗi,” Harry khiêm tốn nói.

“Ôi, đừng có ngớ ngẩn, con à,” bà Weasley nói ngay. “Bác không hề có ý... Ờ mà, sự an toàn của con quan trọng hơn rất nhiều. Thật ra, mấy hôm nay bác vẫn tính hỏi con muốn tổ chức sinh nhật như thế nào, Harry à. Nói cho cùng, mười bảy tuổi, đó là một ngày quan trọng...”

“Con không muốn ồn ào phiền phức,” Harry nói nhanh, nhìn thấy trước vụ này sẽ tăng thêm căng thẳng cho tụi nó. “Bác Weasley à, thiệt tình, một bữa cơm bình thường là được... nhằm ngày trước ngày đám cưới...”

“Ôi, được, nếu con muốn vậy, cưng à. Bác có nên mời chú Remus và cô Tonks không? Và bác Hagrid nữa nhé?”

“Vậy là tuyệt vời,” Harry nói. “Nhưng xin bác đừng mất công phiền phức quá.”

“Không có chi, không có chi... không phiền phức gì hết á...”

Bà nhìn nó, một cái nhìn lâu, dò xét, rồi mỉm cười buồn bã, xong đứng thẳng lên và bước đi. Harry nhìn theo khi bà vẩy cây đũa phép gần chỗ phơi đồ, quần áo ướt bay lên không trung và tự giăng lên dây, và bỗng dưng nó cảm thấy một đợt sóng ăn năn hối tiếc về những phiền phức và đau buồn mà nó đem đến cho bà.

Chương Bảy

Di chúc của Cụ Albus Dumbledore

Nó đang đi dọc theo một con đường núi trong ánh bình minh màu xanh dịu mát. Xa xa bên dưới, phủ trong sương mù, lờ mờ hình ảnh một thị trấn nhỏ.

Người đàn ông nó đang tìm có ở dưới đó không, người đàn ông nó cần ghê gớm đến nỗi nó không thể nghĩ đến chút gì khác, người đàn ông nắm lời giải – lời giải cho vấn đề của nó...

“Ê, tỉnh dậy.”

Harry mở mắt ra. Nó lại đang nằm trên cái giường xếp trong căn phòng sát mái dơ hầy của Ron. Mặt trời vẫn chưa mọc và căn phòng vẫn còn tối nhờ nhờ. Con cú Pigwidgeon còn ngủ, đầu vùi dưới cánh. Cái thẹo trên trán Harry đang nhói đau.

“Bồ mớ trong lúc ngủ.”

“Mình mớ à?”

“Ừ. ‘Gregorovitch’. Bồ cứ nói hoài ‘Gregorovitch’.”

Harry không đeo kính, gương mặt Ron hiện ra hơi nhòe.

“Gregorovitch là ai?”

“Làm sao mình biết? Bồ là người nói ra cái tên đó mà.”

Harry chà xát cái thẹo trên trán, suy nghĩ. Nó có một ý nghĩ mơ hồ là nó đã từng nghe cái tên đó trước đây, nhưng nó không thể nghĩ ra là ở đâu.

“Mình nghĩ Voldemort đang tìm kiếm hắn.”

“Khốn khổ cho hắn,” Ron sốt sắng nói.

Harry ngồi dậy, vẫn chà xát cái thẹo, giờ nó đã hoàn toàn tỉnh ngủ. Nó cố gắng nhớ chính xác đường nét của ngôi làng nhỏ được ấp ủ trong một thung lũng sâu.

“Mình nghĩ hắn đã ra nước ngoài.”

“Ai, Gregorovitch hả?”

“Voldemort. Mình nghĩ hắn đang ở đâu đó ở nước ngoài, tìm kiếm Gregorovitch. Chỗ đó trông không giống bất cứ nơi nào trên nước Anh.”

“Bồ cho là bồ lại nhìn thấu óc hắn một lần nữa à?”

Giọng Ron có vẻ lo lắng.

“Bồ làm ơn đừng nói lại với Hermione,” Harry nói. “Dù nó vẫn mong biết bao mình đừng thấy những thứ đó trong giấc ngủ nữa, nhưng...”

Nó đăm đăm nhìn cái lồng con Pigwidgeon, nghĩ ngợi... “Tại sao cái tên Gregorovitch nghe quen quen?”

“Mình nghĩ,” nó nói chậm rãi, “ắt có dính dáng tới Quidditch. Có mối liên quan, nhưng mình không thể... mình không thể nghĩ ra nó là cái gì.”

“Quidditch hả?” Ron nói. “Hay là bồ đang nghĩ đến Gorgovitch?”

“Ai?”

“Dragomir Gorgovitch, truy thủ, được chuyển qua đội Chudley Cannons với một khoản tiền kỷ lục cách đây hai năm. Người nắm kỷ lục về bật bóng Quaffle trong một mùa.”

“Không,” Harry nói. “Mình chắc chắn không nghĩ tới Gorgovitch.”

“Mình cũng cố gắng không nghĩ tới nữa,” Ron nói. “Thôi, đằng nào thì cũng chúc mừng sinh nhật bồ.”

“A! Đúng rồi! Mình quên béng đi! Mình đã tròn mười bảy tuổi!”

Harry chộp cây đũa phép nằm bên cạnh cái giường xếp, chĩa vào cái bàn bừa bộn mà nó đã đặt cặp kiếng của nó lên, và hô: “Lại đây Mắt kiếng!” Mặc dù cặp kiếng chỉ cách nó một bước chân, vẫn có điều gì đó khiến Harry cực kỳ thỏa mãn khi được thấy cặp kiếng bay vèo về phía nó, cho đến khi chúng chọc thẳng vô mắt nó.

“Tuyệt!” Ron cười hô hố.

Khoái vì được gỡ bỏ bùa Dấu Hiện, Harry làm phép thảy đồ đạc của Ron bay khắp phòng, khiến con Pigwidgeon thức giấc và vỗ cánh bồn chồn bay loạn trong lồng. Harry cũng thử cột dây đôi giày bố của nó bằng phép thuật (sinh ra cái nút thắt khiến nó mất một lúc lâu mới cởi ra được bằng tay), và chỉ để vui mà thôi, nó đổi những chiếc áo choàng màu cam trên tấm bích chương đội Chudley Cannons của Ron ra màu xanh lam sáng.

“Nhưng mình sẽ kéo khóa quần của bồ bằng tay thôi,” Ron khuyên Harry rồi khúc khích cười khi thấy Harry phải kiểm tra ngay tức thì. “Quà cho bồ đây. Mở tại đây, cái này không nên để cho má thấy.”

“Một cuốn sách à?” Harry nói khi cầm cái gói hình chữ nhật. “Hơi khác với truyền thống một chút hả?”

“Cuốn này không phải loại sách lèng èng bồ có đâu,” Ron nói. “Vàng ròng đó: Mười Hai Cách Khỏi-Lo-Thất-Bại Để Bỏ Bùa Các Nàng Phù Thủy. Giải thích mọi thứ người ta cần biết về con gái. Giá mà mình có cuốn sách này hồi năm ngoái thì mình đã biết tỏng cách bỏ rơi Lavender và mình sẽ biết cách làm lành với... Ừm, anh Fred và George có cho mình một cuốn, và mình đã học được khá nhiều. Bồ sẽ ngạc nhiên cho mà coi, cũng không phải chỉ toàn xài đũa phép đâu.”

Khi hai đứa vô nhà bếp, tụi nó thấy một đống quà đang nằm chờ trên bàn. Anh Bill và me xừ Delacour đang ăn nốt bữa điểm tâm, trong khi bà Weasley đứng chuyện vãn với họ bên cái chảo.

“Bác Arthur bảo bác chúc mừng sinh nhật thứ mười bảy của con, Harry à,” bà Weasley nói, tươi cười với nó. “Bác trai phải đi làm sớm, nhưng bác ấy sẽ trở về vào bữa ăn tối. Quà của hai bác cho con nằm trên cùng đó.”

Harry ngồi xuống, cầm cái gói vuông vức mà bà Weasley chỉ, và mở ra. Bên trong là một cái đồng hồ rất giống cái mà ông bà Weasley đã tặng cho Ron nhân sinh nhật thứ mười bảy của nó; một cái đồng hồ vàng có những ngôi sao xoay vòng trên mặt thay vì mấy cây kim.

“Theo truyền thống người ta tặng cho pháp sư đến tuổi trưởng thành một cái đồng hồ đeo tay,” đứng bên cạnh cái nồi, bà Weasley nhìn nó áy náy. “Bác e là cái đó không được mới như cái của Ron, nó thực ra là cái đồng hồ của em bác là Fabian, mà cậu này thì không được cẩn thận cho lắm với đồ đạc của mình, nó hơi bị mẻ một chút xíu ở mặt sau, nhưng...”

Những lời nói còn lại của bà bị rớt mất; Harry đã đứng dậy và ôm ghì lấy bà. Nó cố gởi trong cái ôm thân thiết này những điều không nói ra lời và có lẽ bà đã hiểu được, bởi vì bà vụng về vỗ nhè nhẹ lên má nó khi nó buông bà ra, rồi bà vẫy nhẹ cây đũa phép của bà một cách hơi ngẫu hứng, khiến cho nửa tá miếng thịt muối văng ra khỏi chảo rớt xuống sàn.

“Chúc mừng sinh nhật, Harry!” Hermione nói, vội vã đi vào nhà bếp và đặt món quà của cô bé lên chóp đống quà. “Không có gì nhiều, nhưng mình hy vọng bồ sẽ thích. Bồ tặng Harry cái gì?” Cô bé hỏi Ron, anh chàng này làm như không nghe.

“Vậy, mau lên, mở quà của Hermione!” Ron nói.

Hermione mua cho Harry một Cái kính Mách lẻo mới toanh. Những gói quà khác chứa một con dao cạo có phép, quà tặng của anh Bill và chị Fleur (“À phải, cái này sẽ zúp cháu cạo râu êm ái nhứt trừn đừi.” Me xừ Delacour cam đoan với Harry, “nhưng cháu phải nói rõ zới nó cháu muốn gì... nếu không cháu sẽ thấy mình hưi bị ít râu tóc hưn mong muốn...”), sô-cô-la là quà của ông bà Delacour, và một cái hộp bự chảng những món hàng mới nhất của tiệm Phù Thỉ Wỉ Wái do Fred và George tặng.

Harry, Ron và Hermione không nấn ná lâu lắc ở bàn ăn, bởi vì ma đàm Delacour, Fleur và Gabrielle vừa đến khiến cho nhà bếp đông đúc không thoải mái.

“Mình sẽ xếp vô hành lý những thứ này cho bồ,” Hermione vui vẻ nói, lấy những món quà của Harry ra khỏi tay nó khi ba đứa cùng đi lên cầu thang. “Mình gần xong rồi, chỉ còn chờ quần đùi của bồ giặt xong thôi, Ron à...”

Ron lúng búng nói gì đó nhưng bị ngắt ngang vì một cánh cửa ở đầu cầu thang lầu một mở ra.

“Anh Harry, mời anh vô đây một lát.”

Đó là Ginny. Ron khựng lại ngay, nhưng Hermione nắm lấy cùi chỏ nó và lôi lên cầu thang. Harry đi theo Ginny vào phòng, cảm thấy bồn chồn lo lắng.

Trước đây nó chưa từng vô trong phòng Ginny. Phòng nhỏ nhưng sáng sủa. Có một tấm bích chương to đùng của ban nhạc pháp thuật Quái Tỷ Muội treo trên tường, và tấm hình của Gwenog Jones, đội trưởng đội Quidditch toàn-nữ-phù-thủy Holyhead Harpies dán trên tường đối diện. Một bàn viết đặt đối diện khung cửa sổ mở ra vườn cây ăn trái mà có lần nó và Ginny đã chơi Quidditch với Ron và Hermione, mỗi đội hai người, và bây giờ chỗ đó đã mọc lên một cái rạp khổng lồ màu trắng ngà.

Ginny ngước lên nhìn mặt Harry, hít sâu một hơi, rồi nói, “Chúc mừng sinh nhật mười bảy...”

“Ừ... cám ơn.”

Cô bé cứ nhìn nó mãi; nhưng nó thấy nhìn lại cô bé thiệt là khó, giống như nhìn vào một ngọn đèn sáng rực.

“Cảnh đẹp,” nó nói giọng yếu ớt, chỉ ra ngoài cửa sổ.

Cô bé không bận tâm điều đó. Nó không trách được.

“Em không nghĩ ra cái gì để tặng anh,” cô bé nói.

“Em không cần tặng anh cái gì cả.”

Cô bé lơ cả điều này.

“Em không biết cái gì sẽ có ích. Không có gì được quá lớn, bởi vì anh sẽ không thể đem theo bên mình.”

Nó có dịp liếc nhìn Ginny. Cô bé không khóc. Đó là một trong những điểm tuyệt vời của Ginny, cô bé ít khi nào khóc lóc. Đôi khi nó nghĩ ắt là cô bé đã trở nên cứng cỏi nhờ có sáu ông anh.

Cô bé bước tới gần Harry hơn.

“Vì vậy em nghĩ, em muốn anh có cái gì đó để nhớ tới em, biết đâu, nếu anh gặp gỡ một cô tiên khi anh đang rong ruổi làm chuyện gì đó mà anh làm.”

“Nói thật, anh nghĩ thực tế mấy vụ hẹn hò sẽ cực kỳ thưa thớt.”

“Vậy là em vẫn còn hên,” Ginny thì thầm, và rồi cô bé hôn nó như chưa từng hôn nó trước đây; Harry hôn lại, và đó là cơn say sưa vui sướng hơn cả rượu đế lửa; lúc này cô bé là điều duy nhất có thật trên đời, Ginny, và cái cảm giác về cô, với một tay đỡ lưng và một tay luồn vào trong mái tóc dài thơm ngọt ngào của cô bé.

Cánh cửa bật mở ra sau lưng hai đứa khiến tụi nó giật mình buông nhau ra.

“Ối,” Ron nói giọng xoi mói. “Xin lỗi”

“Ron!” Hermione ở ngay sau lưng Ron, hơi bị khó thở. Im lặng ngột ngạt, rồi Ginny nói bằng một giọng nhỏ buồn buồn.

“Thôi, dù sao cũng chúc mừng sinh nhật vui vẻ, anh Harry.”

Tai Ron đỏ tía; Hermione tỏ vẻ lo âu. Harry muốn đóng sập cửa vào mặt hai đứa nó, nhưng lại cảm thấy như thể một luồng gió lạnh đã lùa vô phòng khi cánh cửa mở ra, và khoảnh khắc tươi sáng của đời nó đã nổ tan như bong bóng xà phòng. Tất cả lý do để nó chấm dứt bồ bịch với Ginny, để không đèo bòng với cô bé nữa, dường như lẻn theo Ron mà nhảy vô phòng, và tất cả sự lãng quên đầy vui sướng bèn bỏ đi mất.

Nó nhìn theo Ginny, muốn nói đôi điều, mặc dù nó khó mà biết nói điều gì, nhưng cô bé đã quay lưng về phía nó. Nó nghĩ có lẽ cô bé lần này đã không cầm được nước mắt nữa. Nó không thể làm gì để an ủi cô bé trước mắt Ron.

“Lát nữa sẽ gặp lại em,” nó nói, và đi theo hai đứa kia ra khỏi phòng.

Ron dẫm thình thịch xuống cầu thang, đi xuyên qua nhà bếp vẫn còn đông đúc để ra sân, và Harry bước đồng nhịp với nó suốt chặng đường, còn Hermione thì te te đi theo đằng sau có vẻ khiếp đảm.

Khi đến chỗ khuất của bãi cỏ mới cắt, Ron quay lại chặn đầu Harry.

“Mày đã bỏ nó. Bây giờ mày giở trò gì nữa, vờn nó chơi hả?”

“Mình không vờn,” Harry nói, lúc ấy Hermione vừa theo kịp tụi nó.

“Ron...”

Nhưng Ron giơ tay bảo Hermione im lặng.

“Con nhỏ đã đau khổ thực sự khi mày chấm dứt quan hệ...”

“Mình cũng vậy. Bồ biết tại sao mình phải chấm dứt mà, và điều đó chẳng phải do mình muốn.”

“Ừ, nhưng bây giờ mày lại đi ôm ấp hun hít nó và nó sẽ vừa mới nhen nhóm hy vọng trở lại thì...”

“Ginny không phải đồ ngu, Ginny biết chuyện đó không thể xảy ra, Ginny không trông mong gì hai đứa tôi... đi tới hôn nhân, hay...”

Khi nói điều này, trong trí Harry hiện rõ hình ảnh của Ginny trong bộ áo đầm trắng, đang kết hôn với một thằng cha xa lạ cao kều khó ưa và không có mặt mũi gì ráo. Trong một khoảnh khắc tăng đến cao trào, nó dường như nhìn ra: tương lai của Ginny tự do và không vướng víu gì hết, trong khi tương lai của nó... nó không thấy gì khác ngoài Voldemort ở phía trước.

“Nếu mày còn tiếp tục dụ dỗ nó mỗi khi có mày có cơ hội...”

“Điều đó sẽ không bao giờ có nữa,” Harry gay gắt nói. Ngày hôm đó không có mây nhưng nó cảm thấy như mặt trời vừa đi trốn. “Được chưa?”

Ron có vẻ nửa tức tối nửa ngượng ngùng; nó đứng lắc lư một lát, rồi nói, “Vậy được, thôi, vậy là... ừ.”

Suốt ngày hôm đó Ginny không kiếm cách gặp gỡ Harry một mình nữa, cũng không bày tỏ qua ánh mắt hay cử chỉ nào cho thấy hai đứa nó có chung nhau những điều sâu đậm hơn một cuộc chuyện trò lịch sự trong căn phòng cô bé. Cho dù vậy, Harry cũng cảm thấy nhẹ nhõm khi anh Charlie về đến nhà. Nó tìm được chút xao lãng khi nhìn bà Weasley ép anh Charlie ngồi xuống một cái ghế, giơ cây đũa phép của bà lên một cách dọa nạt và tuyên bố rằng anh sẽ phải đi cắt tóc cắt tai lại cho đàng hoàng.

Bởi vì bữa tiệc sinh nhật của Harry có thể sẽ nong cái nhà bếp của Hang Sóc tới mức nứt banh ra ngay cả trước khi anh Charlie, chú Lupin, cô Tonks, và bác Hagrid đến, nên nhiều cái bàn đã được đặt nối tiếp nhau trong vườn. Fred và George phù phép ra một số lồng đèn tím, tất cả đều được trang trí nổi bật con số 17 to tổ tướng, treo lơ lửng trên đầu khách. Nhờ sự chăm sóc của bà Weasley, vết thương của George coi gọn gàng sạch sẽ, nhưng Harry vẫn chưa quen nhìn cái lỗ tôi tối ở một bên đầu của anh ta, cho dù hai anh em sinh đôi đã nói giỡn rất nhiều về cái lỗ đó.

Hermione khiến những dải băng giấy màu tím với vàng kim phun ra từ đầu cây đũa phép và tự treo chúng lên khắp cây cối lùm bụi một cách tinh xảo.

“Hay,” Ron nói, khi Hermione vung cây đũa phép một cách bay bướm lần chót, biến lá trên cây táo dại thành vàng, “Bồ đúng là có con mắt tinh đời về những việc như vậy.”

“Cám ơn bồ, Ron,” Hermione nói, trông vẻ mặt vừa khoái chí vừa hơi mắc cỡ. Harry quay mặt đi, mỉm cười với chính mình. Nó có một ý nghĩ tức cười là sẽ tìm đọc chương về những lời khen ngợi khi có thì giờ nghiên cứu cuốn Mười Hai Cách Khỏi-Lo-Thất-Bại Để Bỏ Bùa Các Nàng Phù Thủy; nó bắt gặp ánh mắt của Ginny bèn nhe răng cười với cô bé trước khi kịp nhớ ra lời hứa với Ron và vội vã bắt chuyện với me xừ Delacour.

“Tránh ra! Tránh ra!” Bà Weasley ca vang, xuất hiện ở cửa với một thứ có vẻ như một trái banh Snitch bự-bằng-banh-phao-ở-bãi-biển đang bay trước mặt bà. Chỉ vài giây sau Harry nhận ra cái đó là ổ bánh sinh nhật của nó, bà Weasley dùng cây đũa phép giữ cho cái bánh trôi lơ lửng trên không, chứ bà không dám liều lĩnh bưng nó đi trên mặt đất gồ ghề. Khi cái bánh rốt cuộc đáp được xuống mặt bàn, Harry nói:

“Con quá bất ngờ, bác Weasley à.”

“Ôi, có gì đâu, cưng.” Bà khoái chí nói. Phía sau vai bà, Ron ra hiệu với Harry, ngón tay cái giơ lên, mặt nhăn lại, Giỏi lắm.

Khoảng bảy giờ tất cả khách khứa đều đã đến, được Fred và George đón ở cuối con đường nhỏ dẫn vào nhà. Bác Hagrid nhân cơ hội này diện bộ cánh đẹp nhất, và khủng khiếp nhất của bác, là bộ đồ nâu lông lá xù xì. Mặc dù thầy Lupin mỉm cười khi bắt tay Harry, Harry nghĩ thầy có vẻ không vui lắm. Mà vậy thì kỳ cục hết sức; bên cạnh thầy, cô Tonks tỏa ra nét rạng rỡ cực kỳ tươi tắn.

“Chúc mừng sinh nhật, Harry!” Cô nói, ôm nó rất chặt.

“Ê, mười bảy tuổi rồi hén!” Bác Hagrid nói khi nhận ly rượu bự-bằng-cái-xô mà Fred đưa bác. “Sáu năm chẵn kể từ ngày bác cháu mình gặp nhau, Harry, con còn nhớ ngày đó hông?”

“Mang máng,” Harry nói, nhe răng cười với bác. “Có phải bác đã đạp sập cánh cửa trước, gắn cho thằng Dudley một cái đuôi heo, và nói cho con biết con là một phù thủy?”

“Bác quên béng chi tiết rồi,” bác Hagrid cười phát nấc lên. “Hông sao. Ron, Hermione khỏe hả?”

“Tụi con khỏe” Hermione nói. “Bác khỏe không?”

“Ờ, không tệ lắm. Bận hổm rày, có thêm mấy con kỳ lân mới sanh. Khi nào con trở về trường bác sẽ cho con coi...”

Harry tránh cái nhìn chòng chọc của Ron và Hermione khi bác Hagrid lục lọi túi áo của bác.

“Đây, Harry... không thể nghĩ ra được món gì tặng con, nhưng rồi bác nhớ ra cái này.” Bác rút ra một cái túi bùa nhỏ bằng da lông thú, miệng túi có dây thắt, rõ ràng là để đeo quanh cổ. “Da lừa. Cất bất cứ cái gì trong đó thì không ai ngoại trừ chính chủ nhân có thể lấy ra được. Hiếm lắm à, mấy thứ này.”

“Cám ơn, bác Hagrid!”

“Hổng có chi,” bác Hagrid nói rồi vẫy bàn tay bự-bằng-nắp-cái-thùng-rác. “A kia là Charlie! Lúc nào cũng khoái cậu này... Ê, Charlie!”

Anh Charlie đến gần, lùa bàn tay một cách hơi phiền muộn qua mớ tóc mới bị cắt ngắn một cách tàn nhẫn. Anh hơi lùn hơn Ron, thân hình chắc nịch, một số vết phỏng và thẹo lan lên hai cánh tay nổi vồng cơ bắp.

“Chào bác Hagrid, tình hình ra sao?”

“Tính biên thư lâu lắm rồi. Thằng Norbert sao rồi?”

“Thằng Norbert hả?” Anh Charlie bật cười. “Con rồng Lưng gai Na Uy hả? Bây giờ tụi cháu kêu nó là nàng Norberta.”

“Cái g... Norbert là rồng cái à?”

“Dạ phải.”

“Làm sao anh biết được?” Hermione hỏi.

“Rồng cái hung hăng hơn rất nhiều,” anh Charlie nói. Anh ngoảnh nhìn ra sau lưng rồi hạ thấp giọng. “Ước gì ba mau mau về đây. Má đang phát quạu.”

Cả bọn cùng nhìn về phía bà Weasley. Bà đang nói chuyện với ma đàm Delacour trong khi mắt cứ liếc chừng về phía cổng.

“Tôi nghĩ chúng ta đành bắt đầu mà không có anh Arthur thôi,” bà nói chung chung với mọi người trong vườn sau một hai lúc ngần ngừ. “Anh ấy có lẽ bị kẹt công việc ở... Ối!”

Tất cả mọi người nhìn thấy cùng một lúc: một vệt ánh sáng bay ngang qua khu vườn và đáp xuống giữa bàn, tại đó nó biến thành một con chồn bạc óng ánh, đứng trên hai chân sau và nói bằng giọng của ông Weasley:

“Bộ trưởng Pháp thuật đến cùng với tôi.”

Thần Hộ mệnh của ông Weasley tan biến vào không trung, để lại cho gia đình Delacour nỗi sửng sốt khi họ trố mắt ngó vào chỗ nó vừa biến đi.

“Chúng ta không nên ở đây,” thầy Lupin nói ngay. “Harry... thầy xin lỗi... thầy sẽ giải thích vào dịp khác...”

Thầy nắm cổ tay cô Tonks và kéo cô đi khỏi. Cả hai đến hàng rào, trèo qua, và biến mất. Bà Weasley tỏ ra bối rối.

“Bộ trưởng... nhưng mắc mớ gì? Tôi không hiểu...”

Nhưng chẳng có thời giờ đâu mà bàn thảo vấn đề; một giây sau, ông Weasley từ cõi không hiện ra ngay bên cánh cổng, đi cùng có ông Rufus Scrimgeour, có thể nhận ra được ngay tức thì nhờ bờm tóc hoa râm của ông.

Hai người vừa đến băng ngang qua sân về phía khu vườn và cái bàn được thắp lồng đèn, nơi mọi người ngồi im phăng phắc, chăm chú nhìn họ đi tới gần. Khi ông Scrimgeour bước vào vùng tỏa sáng của lồng đèn, Harry thấy ông có vẻ già hơn lần gặp gỡ trước đây, ông giờ gầy trơ xương, nét mặt khắc khổ.

“Xin lỗi đã đường đột,” ông Scrimgeour nói khi mệt mỏi đứng lại trước cái bàn. “Đặc biệt là, như tôi có thể nhận ra, mình đến một bữa tiệc mà mình không được mời.”

Mắt ông dừng lại một chút ở cái bánh Snitch khổng lồ.

“Chúc vui vẻ khỏe mạnh.”

“Cám ơn ông,” Harry nói.

“Tôi yêu cầu được nói chuyện riêng với cậu,” ông Scrimgeour nói tiếp. “Với cả cậu Ronald Weasley và cô Hermione Granger.”

“Chúng cháu à?” Ron nói, giọng ngạc nhiên. “Sao lại chúng cháu?”

“Tôi sẽ nói cho cậu biết khi chúng ta ở nơi nào đó kín đáo hơn,” ông Scrimgeour nói. “Có nơi nào như vậy không?” Ông hỏi ông Weasley.

“Vâng, dĩ nhiên,” ông Weasley nói, trông ông rất căng thẳng. “Phòng, ơ, phòng khách, dùng phòng khách được không ạ?”

“Cậu có thể dẫn đường,” ông Scrimgeour nói với Ron. “Ông không cần đi cùng chúng tôi, ông Arthur à.”

Harry thấy ông Weasley trao đổi ánh mắt lo âu với bà Weasley khi nó, Ron và Hermione đứng dậy. Tụi nó dẫn đường trở vô nhà trong im lặng, Harry biết hai đứa kia đang suy nghĩ như nó; ông Scrimgeour ắt là, bằng cách nào đó, đã biết ba đứa tụi nó toan tính bỏ học trường Hogwarts.

Ông Scrimgeour không nói gì khi cùng ba đứa nó đi ngang qua nhà bếp bừa bộn để vào phòng khách của Hang Sóc. Mặc dù khu vườn tràn đầy ánh hoàng hôn vàng óng êm dịu, trong phòng đã tối rồi; Harry phẩy cây đũa phép để thắp lên những ngọn đèn dầu khi bước vào phòng và ánh đèn dầu soi sáng căn phòng nhếch nhác nhưng ấm cúng. Ông Scrimgeour tự mình ngồi xuống một cái ghế đã bị lún mà ông Weasley thường ngồi, để cho Ron, Harry và Hermione chen chúc ngồi sát bên nhau trên cái ghế nệm dài. Khi tụi nó đã ngồi đâu vô đó, ông Scrimgeour nói.

“Tôi có vài câu muốn hỏi ba cô cậu, và tôi nghĩ tốt nhất chúng ta nên hỏi riêng từng người. Nếu hai cô cậu – ông chỉ vào Harry và Hermione – có thể đợi ở trên lầu, tôi sẽ bắt đầu với cậu Ronald trước.”

“Chúng cháu không đi đâu cả,” Harry nói, trong khi Hermione gật đầu tán đồng mạnh mẽ. “Ông có thể nói chung với tất cả chúng cháu, hoặc khỏi nói luôn.”

Ông Scrimgeour nhìn Harry lạnh lùng, suy tính. Harry có cảm tưởng ông Bộ trưởng đang tự hỏi liệu có đáng gây chiến sớm như vầy không.

“Vậy thì rất tốt, chung tất cả,” ông nhún vai, nói. Ông tằng hắng, “Tôi đến đây, chắc cô cậu cũng đã biết, là vì di chúc của cụ Albus Dumbledore.”

Harry, Ron và Hermione nhìn nhau.

“Coi bộ ngạc nhiên hả! Vậy là các cô cậu không biết cụ Dumbledore có để lại cho các cô cậu cái gì à?”

“Tất... tất cả... chúng cháu?” Ron hỏi. “Cho cả cháu và Hermione nữa?”

“Phải, tất cả...”

Nhưng Harry ngắt lời ông ta.

“Thầy Dumbledore mất đã hơn một tháng nay. Tại sao phải mất thời gian lâu như vậy để trao lại những gì thầy để lại cho chúng cháu?”

“Còn chưa rõ sao?” Hermione nói, trước khi ông Scrimgeour có thể trả lời. “Họ muốn kiểm tra cái gì đó mà thầy để lại cho chúng ta. Các ông không có quyền làm như vậy!” Cô bé nói, giọng hơi run run.

“Tôi có mọi quyền,” ông Scrimgeour nói một cách thô bạo. “Đạo luật về sự Trưng thu Chính đáng cho phép Bộ có quyền tịch thu những nội dung trong một bản di chúc...”

“Luật đó ban ra là để ngăn chặn các pháp sư truyền lại những khí cụ Hắc ám,” Hermione nói, “và Bộ cần có chứng cớ vững chắc rằng tài sản của người quá cố là bất hợp pháp trước khi thu giữ chúng! Bộ ông muốn nói là ông nghĩ thầy Dumbledore tính trao lại cho chúng tôi cái gì đó bị ếm hả?”

“Cô có dự định theo đuổi nghề Luật Pháp thuật không, cô Granger?” Ông Scrimgeour hỏi.

“Không,” Hermione đốp chát lại. “Tôi hy vọng mình sẽ làm điều gì đó tử tế trên đời.”

Ron cười. Đôi mắt của ông Scrimgeour nhấp nháy về phía nó rồi lại quay đi khi Harry nói.

“Vậy tại sao bây giờ ông lại quyết định để chúng cháu được sở hữu những thứ của chúng cháu? Không thể nghĩ ra cớ để giữ chúng lại sao?”

“Không, chẳng qua vì thời hạn ba mươi mốt ngày đã hết,” Hermione nói ngay. “Họ không thể giữ các món đồ lâu hơn thời hạn đó trừ khi họ có thể chứng minh là chúng nguy hiểm. Đúng không?”

“Cậu có thể nói là cậu thân cận với cụ Dumbledore không, Ronald?” Ông Scrimgeour hỏi, phớt lờ Hermione, Ron có vẻ giật mình.

“Cháu hả? Không... thực ra thì không... Lúc nào Harry cũng chính là người...”

Ron nhìn qua Harry và Hermione để thấy Hermione đang nhìn nó cái kiểu đừng-nói-nữa, nhưng điều bất lợi đã được thốt ra; ông Scrimgeour tỏ vẻ như ông vừa nghe đúng chóc điều mà ông mong nghe, và muốn nghe. Ông vồ lấy câu trả lời của Ron như một con chim vồ mồi.

“Nếu cậu không thân cận với cụ Dumbledore lắm, thì cậu nghĩ sao về sự kiện là cụ nhớ đến cậu trong di chúc của cụ? Cụ để lại ít một cách khác thường những ước nguyện cá nhân. Đại bộ phận tài sản của cụ – thư viện cá nhân của cụ, dụng cụ pháp thuật của cụ, và những vật dụng cá nhân khác – đều được để lại cho trường Hogwarts. Cậu nghĩ xem tại sao cậu lại được đặc biệt ưu ái?”

“Cháu không biết...” Ron nói. “Cháu... khi cháu nói chúng cháu không thân cận... ý cháu nói, cháu nghĩ cụ thích cháu...”

“Bồ khiêm tốn đó, Ron à,” Hermione nói. “Cụ Dumbledore rất thích bồ.”

Điều này thì rõ là nói ngoa đến mức quá đáng rồi; theo như Harry biết, Ron và cụ Dumbledore chưa bao giờ tiếp xúc riêng với nhau, và sự tiếp xúc trực tiếp giữa hai người hầu như không đáng kể. Tuy nhiên, ông Scrimgeour dường như không thèm nghe. Ông đút tay vào bên trong áo khoác và rút ra một cái túi có thắt dây lớn hơn cái túi bác Hagrid tặng Harry rất nhiều. Từ trong túi, ông lấy ra một cuộn giấy da, ông mở nó ra và đọc to.

“Di chúc và Nguyện vọng cuối cùng của Albus Percival Wulfric Brian Dumbledore... À, đây... Tôi để lại cho Ronald Bilius Weasley cái Tắt sáng của tôi, hy vọng trò ấy sẽ nhớ đến tôi khi dùng nó.”

Ông Scrimgeour lấy trong túi ra một vật mà Harry đã nhìn thấy trước đây: nó giống như một cái hộp quẹt để đốt thuốc lá bằng bạc, nhưng Harry biết, nó có phép hút hết ánh sáng ở một nơi, rồi phục hồi lại chỉ bằng một cái bật đơn giản. Ông Scrimgeour chồm tới trước và đưa cái Tắt sáng cho Ron; Ron cầm lấy và xoay cái vật đó trong mấy ngón tay, tỏ vẻ sửng sốt.

“Đó là một vật có giá trị,” ông Scrimgeour vừa nói vừa quan sát Ron. “Thậm chí còn độc đáo. Chắc chắn là đồ vật do chính cụ Dumbledore thiết kế. Tại sao cụ để lại cho cậu một món hiếm như vậy?”

Ron lắc đầu, tỏ ra bối rối.

“Cụ Dumbledore ắt hẳn đã dạy hàng ngàn học sinh,” ông Scrimgeour vẫn kiên trì. “Nhưng những người duy nhất mà cụ nhớ đến trong di chúc là ba cô cậu. Tại sao thế? Cậu Weasley, cụ Dumbledore nghĩ cậu có thể dùng cái Tắt sáng này vào việc gì?”

“Tắt ánh sáng, cháu đoán vậy,” Ron lúng búng. “Cháu còn có thể làm gì khác với nó?”

Hiển nhiên ông Scrimgeour không đưa ra được ý kiến gì cả. Sau khi ngó Ron đến lé mắt, ông quay lại bản di chúc của cụ Dumbledore.

“Tôi để lại cho Hermione Jean Granger quyển sách Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong bản của tôi, hy vọng trò ấy sẽ thấy sách hay và có ích cho tri thức.”

Ông Scrimgeour lấy từ trong cái túi ra một cuốn sách nhỏ coi có vẻ xưa như cuốn Bí Mật của Nghệ Thuật Hắc Ám đang ở trên lầu. Gáy sách đã hoen ố và long ra vài chỗ. Hermione nhận cuốn sách từ tay ông Scrimgeour không nói một lời. Cô bé giữ cuốn sách trên đùi và đăm đăm nhìn nó. Harry nhận thấy tên sách viết bằng cổ ngữ Runes; nó chưa bao giờ học đọc chữ Runes. Khi nó nhìn cuốn sách, một giọt nước mắt rơi bắn tóe ra trên những ký hiệu chạm nổi.

“Cô Granger, cô nghĩ tại sao cụ Dumbledore để lại quyển sách đó cho cô?”

“Thầy... thầy biết tôi thích sách,” Hermione đáp giọng khàn khàn, chùi nước mắt bằng ống tay áo.

“Nhưng tại sao lại là cuốn sách đặc biệt đó?”

“Cháu không biết. Chắc là thầy nghĩ cháu sẽ thích nó.”

“Cô có từng thảo luận bằng mật mã, hay bất cứ cách truyền thông điệp bí mật nào với cụ Dumbledore hay không?”

“Không, cháu không hề,” Hermione nói, vẫn chùi nước mắt bằng ống tay áo. “Và nếu Bộ đã không tìm ra được bất kỳ mật mã được ẩn giấu nào trong ba mươi mốt ngày, cháu không tin là cháu sẽ tìm được.”

Cô bé nén một tiếng nấc. Tụi nó ngồi sát nhau chật đến nỗi Ron vất vả lắm mới rút được cánh tay của nó ra để quàng quanh vai Hermione. Ông Scrimgeour quay lại bản di chúc.

“Tôi để lại cho Harry James Potter,” ông đọc, và ruột gan Harry quặn thắt với cơn hồi hộp bất ngờ, “trái banh Snitch trò ấy bắt được trong trận đấu Quidditch đầu tiên của trò ấy ở trường Hogwarts, như một nhắc nhở đến những phần thưởng cho sự kiên nhẫn và khéo léo.”

Khi ông Scrimgeour lấy ra trái banh vàng nhỏ xíu cỡ-bằng-hột-óc-chó, hai cánh bạc của nó vỗ vỗ hơi yếu ớt, và Harry không thể không cảm thấy rõ là cụt hứng.

“Tại sao cụ Dumbledore để lại cho cậu trái banh Snitch này?”

“Cháu không biết,” Harry nói. “Cháu đoán vì những lý do mà ông vừa đọc lên... để nhắc nhở cháu điều người ta có thể đạt được bằng sự... kiên nhẫn và gì gì đó.”

“Vậy cậu nghĩ đây chỉ là vật lưu niệm tượng trưng?”

“Cháu đoán vậy,” Harry nói “Chứ nó còn có thể là gì nữa?”

“Tôi đang hỏi đấy nhé,” ông Scrimgeour nói, kéo cái ghế của ông đến gần hơn cái ghế nệm dài tụi nó đang ngồi. Hoàng hôn đã thực sự buông xuống ở ngoài kia, cái rạp bên ngoài cửa sổ nhô lên cao bên trên hàng giậu màu trắng ma quái.

“Tôi nhận thấy cái bánh sinh nhật của cậu hình trái banh Snitch,” ông Scrimgeour nói với Harry. “Tại sao thế?”

Hermione bật cười đầy nhạo báng.

“Ôi, nó không thể là một cách ám chỉ đến việc Harry là một tầm thủ cừ khôi, cách đó quá lộ liễu,” cô bé nói. “Ắt hẳn là có một thông điệp bí mật của thầy Dumbledore giấu trong lớp kem bánh!”

“Tôi không nghĩ có gì đó giấu trong kem bánh,” ông Scrimgeour nói. “Nhưng một trái banh Snitch là một nơi rất tốt để giấu một vật thể nhỏ. Tôi chắc các cô cậu biết tại sao chứ?”

Harry nhún vai, tuy nhiên Hermione trả lời. Harry nghĩ cái phản ứng trả lời câu hỏi đúng chóc là một thói quen đã thấm quá sâu đến nỗi cô nàng không thể nén được ham muốn trả lời.

“Bởi vì những trái banh Snitch có trí nhớ về da thịt,” Hermione nói.

“Cái gì?” Cả Harry và Ron cùng nói, lâu nay cả hai vẫn coi kiến thức về Quidditch của Hermione là không đáng kể.

“Đúng,” ông Scrimgeour nói. “Một trái banh Snitch không được chạm vào bằng da trần cho đến khi nó được thả ra, thậm chí người chế tạo ra nó cũng phải mang găng tay. Nó mang một bùa ếm giúp nó phân biệt được người đầu tiên đặt bàn tay lên nó, trong trường hợp có tranh cãi về việc bắt được banh. Trái banh Snitch này,” ông giơ trái banh vàng bé tí lên – “sẽ nhớ sự tiếp xúc với cậu, Potter à. Theo tôi thì cụ Dumbledore, người có tài năng pháp thuật phi thường, bất chấp khuyết điểm khác của cụ, có thể đã phù phép trái banh Snitch này để cho nó chỉ có thể mở ra cho cậu mà thôi.”

Trái tim Harry đập hơi nhanh. Nó chắc chắn ông Scrimgeour nói đúng. Làm sao nó tránh để khỏi chạm vào trái banh Snitch bằng bàn tay trần trước mặt ông Bộ trưởng bây giờ?

“Cậu không nói gì cả,” ông Scrimgeour nói, “có lẽ cậu đã biết trái Snitch này chứa cái gì?”

“Không,” Harry nói, vẫn tự hỏi làm cách nào để nó có vẻ chạm vào trái banh mà thực ra không chạm phải. Giá mà nó biết phép Đọc Tư Tưởng, phải thật sự biết kìa, và có thể đọc ý kiến của Hermione. Nó gần như có thể nghe được bộ óc của cô bé đang rít lên xèo xèo ngay bên cạnh nó.

“Cầm lấy,” ông Scrimgeour khẽ nói.

Harry bắt gặp ánh mắt vàng khè của ông Bộ trưởng và biết là nó không có lựa chọn nào khác hơn là vâng lời. Nó đưa tay ra, và ông Scrimgeour chồm tới trước một lần nữa rồi đặt trái banh Snitch, chậm chạp và thận trọng, vào lòng bàn tay Harry.

Không có gì xảy ra cả. Khi những ngón tay Harry khép lại quanh trái banh Snitch, đôi cánh mệt mỏi của trái banh vỗ vỗ rồi nằm yên. Ông Scrimgeour, Ron, và Hermione vẫn tiếp tục ngấu nghiến nhìn chăm chăm vào trái banh lúc này đã phần nào được bàn tay che kín, như thể họ vẫn còn hy vọng nó có thể biến hình bằng cách nào đó.

“Thiệt là đầy kịch tính,” Harry nói mát mẻ. Cả Ron và Hermione phá ra cười.

“Vậy là hết, hả?” Hermione hỏi, làm ra bộ đứng dậy khỏi cái ghế dài.

“Không hẳn,” ông Scrimgeour nói, bây giờ ông có vẻ nóng nảy. “Cụ Dumbledore còn để lại cho cậu di vật thứ hai, Potter à.”

“Cái gì vậy?” Harry hỏi, nỗi hồi hộp lại bùng lên.

Lần này ông Scrimgeour không thèm mất công đọc di chúc nữa.

“Thanh gươm của Godric Gryffindor,” ông nói. Cả Hermione và Ron ngây người ra. Harry ngó quanh coi có cán gươm cẩn hồng ngọc nào không, nhưng ông Scrimgeour không rút thanh gươm nào ra khỏi cái túi da, đằng nào thì cái túi đó cũng có vẻ quá nhỏ để chứa được thanh gươm.

“Vậy nó đâu?” Harry ngờ vực hỏi.

“Không may,” ông Scrimgeour nói, “thanh gươm đó cụ Dumbledore không được quyền đem cho. Thanh gươm của Godric Gryffindor là một hiện vật lịch sử quan trọng, và do vậy, thuộc về...”

“Nó thuộc về Harry!” Hermione nóng nảy nói. “Thanh gươm chọn bạn ấy, bạn ấy là người đã tìm ra nó, nó đã vọt ra khỏi cái nón phân loại để nhảy vào tay bạn ấy...”

“Theo nguồn tư liệu lịch sử đáng tin cậy thì thanh gươm tự trình diện với bất cứ một học sinh nhà Gryffindor nào xứng đáng,” ông Scrimgeour nói. “Điều đó không khiến nó trở thành tài sản riêng của cậu Potter, bất kể cụ Dumbledore quyết định gì đi nữa,” ông Scrimgeour gãi cái cằm được cạo nham nhở của ông, xoi mói nhìn Harry. “Cậu nghĩ tại sao...?”

“... thầy Dumbledore muốn cháu có thanh gươm đó chứ gì?” Harry nói, cố gắng không nổi nóng. “Có lẽ thầy nghĩ treo nó trên tường của cháu thì ngó nó ngộ ngộ.”

“Đây không phải chuyện đùa, cậu Potter!” Ông Scrimgeour gầm gừ. “Có phải vì cụ Dumbledore tin là chỉ có thanh gươm của Godric Gryffindor mới có thể đánh bại được kẻ thừa kế của Slytherin không? Có phải cụ muốn trao thanh gươm đó cho cậu, Potter, bởi vì cụ tin, như nhiều người tin, rằng cậu là người được tiên tri sẽ là kẻ tiêu diệt Kẻ-chớ-có-gọi-tên-ra không?”

“Giả thiết hay thiệt,” Harry nói. “Có ai đã thử thọc một thanh gươm vào Voldemort chưa? Có lẽ Bộ nên giao một số người công tác đó, thay vì lãng phí thời giờ của họ vào việc tháo rời một cái Tắt sáng, hay bưng bít những vụ vượt ngục Azkaban. Vậy ra đây là chuyện ông làm lâu nay hả, ông Bộ trưởng, đóng cửa ở trong văn phòng, tìm cách mở một trái banh Snitch? Dân chúng đang chết – tôi suýt là một trong số đó – Voldemort truy đuổi tôi qua ba nước, hắn giết thầy Mắt Điên Moody, nhưng chẳng có một tiếng nói nào của Bộ về bất kỳ vụ nào trong những vụ đó, có không? Và ông còn trông mong chúng tôi hợp tác với ông à?”

“Cậu đi quá xa!” Ông Scrimgeour quát, đứng dậy. Harry cũng đứng bật dậy. Ông Scrimgeour đi khập khiễng về phía Harry và chọc mạnh đầu cây đũa phép của ông vào ngực nó. Cú chọc này làm cháy xém một cái lỗ trên chiếc áo thun của Harry giống như một đóm thuốc lá.

“Ối!” Ron nói, đứng bật dậy và giơ cao cây đũa phép của chính nó, nhưng Harry nói:

“Đừng, bồ đâu có muốn tạo cho ông ta cái cớ để bắt tụi mình hả?”

“Đã nhớ ra mi không còn ở trong trường nữa, phải không?” Ông Scrimgeour nói, thở mạnh vào mặt Harry. “Đã nhớ ra ta không phải là cụ Dumbledore, kẻ đã tha thứ cho sự láo xược và ngang bướng của mi hả? Mi có thể cứ mang cái thẹo đó như một vương miện, Potter à, nhưng một thằng nhóc mười bảy tuổi không có nhiệm vụ dạy bảo ta làm công việc của ta! Đã tới lúc mi phải học lấy sự tôn trọng!”

“Đã quá thời ông được tôn trọng,” Harry đáp lại.

Sàn nhà rung chuyển; có tiếng chân chạy rầm rập, rồi cánh cửa vào phòng khách bật mở và ông bà Weasley chạy vào.

“Chúng tôi... chúng tôi nghĩ chúng tôi nghe...” Ông Weasley mở miệng nói, tỏ ra hết sức hốt hoảng trước cái cảnh Harry và ông Bộ trưởng hầu như đâu mũi kênh nhau.

“... tiếng hơi to,” bà Weasley hổn hển nói.

Ông Scrimgeour lùi lại cách Harry hai bước, liếc vào cái lỗ mà ông đã tạo ra trên áo thun của Harry. Ông có vẻ hối tiếc đã mất bình tĩnh.

“Chuyện... không có gì,” ông gầm gừ. “Tôi... tiếc cho thái độ của cậu,” ông nói, nhìn thẳng vào mặt Harry một lần nữa. “Cậu có vẻ cho rằng Bộ không mong muốn cái điều cậu... cái điều cụ Dumbledore... đã mong muốn. Chúng ta nên hợp tác với nhau.”

“Tôi không ưa phương pháp của ông, ông Bộ trưởng à,” Harry nói. “Còn nhớ không?”

Lần thứ hai, nó giơ nắm tay phải lên để lộ cho ông Scrimgeour vết thẹo vẫn còn nổi trắng trên mu bàn tay, đọc được là Tôi không được nói dối. Vẻ mặt của ông Scrimgeour rắn đanh lại. Ông quay đi không nói thêm một lời nào nữa và khập khiễng đi ra khỏi phòng. Bà Weasley lật đật đi theo sau ông ta; Harry nghe bà dừng chân ở ngưỡng cửa sau. Chừng một phút sau bà hô lên: “Ổng đi rồi!”

“Ông ta muốn gì?” Ông Weasley hỏi, nhìn khắp Harry, Ron và Hermione trong khi bà Weasley lật đật chạy trở vô với tụi nó.

“Trao cho tụi con những di vật thầy Dumbledore di chúc để lại cho tụi con,” Harry nói, “Họ chỉ vừa mới nhả ra nội dung di chúc của thầy.”

Ở ngoài vườn, bên bàn ăn, ba đồ vật mà ông Scrimgeour vừa đưa tụi nó được chuyền tay từng người. Ai cũng xuýt xoa về cái Tắt sáng và cuốn Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong và than vãn cái điều rằng ông Scrimgeour đã từ chối trao lại thanh gươm, nhưng không ai đưa ra được ý kiến nào về việc vì sao cụ Dumbledore để lại cho Harry một trái banh Snitch cũ. Trong khi ông Weasley xem xét cái Tắt sáng đến lần thứ ba hay thứ tư, bà Weasley ngập ngừng nói, “Harry, cưng, mọi người đều đang đói bụng khủng khiếp. Chúng ta không muốn bắt đầu bữa ăn mà không có con... Bây giờ bác dọn đồ ăn ra được chưa con?”

Mọi người đều ăn uống hơi hấp tấp, và sau khi vội vã đồng thanh hô “Chúc sinh nhật vui vẻ!” rồi ngốn gọn miếng bánh, bữa tiệc tan. Bác Hagrid, người được mời dự đám cưới ngày hôm sau, nhưng vì quá ư to xác không thể ngủ trong Hang Sóc vốn đã phình ra hết mức, nên phải ra ngoài tự dựng một cái lều trên cánh đồng hàng xóm.

“Gặp tụi này trên lầu,” Harry thì thầm với Hermione trong khi tụi nó giúp bà Weasley phục hồi nguyên trạng của khu vườn. “Sau khi mọi người đã đi ngủ.”

Trên căn phòng ngủ sát mái, Ron xem xét cái Tắt sáng, và Harry nhét đầy cái túi bùa da lừa của bác Hagrid tặng, không phải vàng, mà là những đồ vật nó quý trọng nhất, có vẻ vô giá trị mặc dù một số thứ trong đó là: tấm Bản đồ Đạo tặc, mảnh gương vỡ có phép của chú Sirius, và cái mặt dây chuyền của R.A.B. Nó thắt sợi dây thật chặt và đeo gọn quanh cổ, rồi ngồi xuống cầm trái banh Snitch cũ ngắm nghía đôi cánh vỗ vỗ yếu ớt. Cuối cùng, Hermione gõ nhẹ lên cửa rồi nhón gót đi vào.

“Lùng bùng lỗ tai,” cô nàng thì thầm, vẫy cây đũa phép về hướng cầu thang.

“Tưởng bồ không chấp thuận câu thần chú đó chớ?”

“Thời thế thay đổi,” Hermione nói, “Đâu, bồ cho tụi này coi cái Tắt sáng đi.”

Ron gia ơn ngay tức thì. Giơ cái Tắt sáng lên trước mặt, nó bấm một cái. Ngọn đèn duy nhất tụi nó thắp trong phòng tắt phụt ngay.

“Vấn đề là,” Hermione thì thầm trong bóng tối, “tụi mình có thể làm được việc đó bằng Bột Tối hù Tức thì xứ Pê-ru.”

Một tiếng tách nho nhỏ vang lên, và cái bong bóng ánh sáng từ cây đèn bay ngược lên trần và chiếu sáng cả đám cùng một lúc.

“Dù vậy, nó là hàng độc,” Ron nói, giọng tự vệ một tí. “Và theo lời họ nói thì chính thầy Dumbledore tự phát minh ra!”

“Mình biết, nhưng chắc chắn thầy không ưu ái riêng bồ trong di chúc chỉ để giúp tụi mình tắt đèn!”

“Bồ có nghĩ là thầy biết Bộ sẽ tịch thu di chúc của thầy và kiểm tra mọi thứ thầy để lại cho tụi mình không?” Harry hỏi.

“Chắc chắn,” Hermione nói. “Thầy không thể nói trong chúc thư cho tụi mình biết tại sao thầy để lại cho tụi mình những thứ này, nhưng thế vẫn không giải thích được...”

“... tại sao thầy không cho tụi mình một gợi ý nào hết khi thầy còn sống?” Ron hỏi.

“Ừ, đúng chóc,” Hermione nói, lúc này đang lật khắp quyển Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong. “Nếu những thứ này đủ quan trọng để truyền lại ngay trước mũi Bộ, người ta sẽ nghĩ hẳn là thầy đã cho tụi mình biết lý do... trừ khi thầy nghĩ lý do quá rõ ràng.”

“Vậy là thầy nghĩ sai rồi, đúng không?” Ron nói. “Mình luôn nói là thầy hơi bị tâm thần mà. Rất tài giỏi, hay đủ thứ, nhưng khùng. Để lại cho Harry một trái banh Snitch cũ – cái đó có ý nghĩa khỉ khô gì chớ?”

“Mình không biết,” Hermione nói. “Khi lão Scrimgeour bắt bồ cầm nó, Harry à, mình đã chắc là chuyện gì đó sẽ xảy ra!”

“Ừ, thực ra,” Harry nói, mạch máu nó đập nhanh hơn khi giơ trái banh Snitch lên trong những ngón tay. “Mình chưa cố gắng hết sức trước mặt lão Scrimgeour mà.”

“Bồ muốn nói gì?”

“Trái banh Snitch mà mình bắt được trong trận Quidditch đầu tiên của mình?” Harry nói, “Mấy bồ không nhớ hả?”

Hermione có vẻ hết sức khoái chí. Nhưng Ron thì há hốc miệng, chỉ tay như điên hết từ Harry đến trái banh Snitch rồi chỉ ngược lại cho đến khi nó nói lại được.

“Đó là cái bồ suýt nuốt phải!”

“Đúng chóc!” Harry nói, và với trái tim đập gấp gáp, Harry dí miệng vô trái banh.

Trái banh không mở ra. Nỗi chán nản và thất vọng cay đắng phình lên trong người nó. Nó hạ trái cầu vàng xuống, nhưng lúc đó Hermione la lên:

“Chữ viết! Có chữ viết trên đó, mau, coi nè!”

Nó suýt làm rớt trái banh Snitch vì ngạc nhiên và hồi hộp. Hermione hoàn toàn đúng. Được khắc trên bề mặt vàng óng mịn màng, nơi trước đó vài giây chẳng có gì cả, là năm từ được viết bằng nét chữ viết tay gầy nghiêng nghiêng mà Harry nhận ra ngay là chữ của thầy Dumbledore

Ta mở vào lúc kết.

Nó suýt không đọc được khi dòng chữ lại biến mất.

“Ta mở vào lúc kết... Câu này có nghĩa gì?”

Hermione và Ron lắc đầu, có vẻ lúng túng.

“Ta mở vào lúc kết... vào lúc kết... ta mở vào lúc kết...”

Nhưng cho dù có lặp lại mấy chữ đó bao nhiêu lần, với nhiều giọng điệu cách thức khác nhau, tụi nó vẫn không thể vắt ra thêm ý nghĩa nào từ năm từ đó.

“Và thanh gươm,” cuối cùng Ron nói, khi tụi nó rốt cuộc đành phải bỏ cuộc đoán mò ý nghĩa trong dòng chữ khắc trên trái banh Snitch.

“Tại sao thầy muốn Harry giữ thanh gươm?”

“Và tại sao thầy không thể mách nước cho mình biết?” Harry lặng lẽ nói. “Mình đã ở đó, nó ở ngay đó trên bức tường của văn phòng thầy trong suốt những buổi nói chuyện hồi năm ngoái! Nếu thầy muốn mình có nó, tại sao thầy không đơn giản cứ trao luôn cho mình lúc đó?”

Nó cảm thấy như thể đang ngồi trong một kỳ thi với một câu hỏi ở ngay trước mắt mà nó lẽ ra đã có thể trả lời, nhưng bộ não của nó chậm chạp và không nhạy bén gì cả. Có điều gì nó đã bỏ sót trong những buổi nói chuyện dài với thầy Dumbledore hồi năm ngoái? Nó có cần biết ý nghĩa của tất cả không? Có khi nào thầy Dumbledore cho rằng nó đã hiểu không?

“Và với cuốn sách này,” Hermione nói, Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong... Mình thậm chí còn chưa nghe nói đến bao giờ!”

“Bồ chưa từng nghe nói đến Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong hả?” Ron hỏi với vẻ không tin được “Bồ nói đùa phải không?”

“Không,” Hermione nói vẻ ngạc nhiên. “Vậy bồ có biết không?”

“Ôi, dĩ nhiên là biết chớ!”

Harry ngước nhìn lên, thú vị. Trước giờ chưa từng xảy ra cái tình huống Ron đã đọc một cuốn sách mà Hermione lại chưa đọc. Tuy nhiên, Ron có vẻ khoái chí trước vẻ ngạc nhiên của hai đứa nó.

“Thôi mà! Tất cả những chuyện trẻ con hồi xưa đều là chuyện Beedle, đúng không? Nào là Suối nước của thần may mắn công bằng... Gã phù thủy và cái nồi nhảy... Babbbity Rabbitty và cái chân răng ba hoa của cô bé...

“Nói lại giùm?” Hermione nói vừa cười khúc khích. “Cái cuối cùng là gì?”

“Đừng làm bộ nữa!” Ron nói, nhìn từ Harry đến Hermione không tin nổi. “Mấy bồ ắt phải từng nghe qua chuyện Babbitty Rabbitty...”

“Ron à, bồ quá biết là Harry và mình được lớn lên trong thế giới Muggle mà!” Hermione nói. “Tụi này đâu có nghe được những chuyện như chuyện đó khi còn nhỏ đâu, tụi này nghe những chuyện như Bạch Tuyết và bảy Chú Lùn và Cô bé Lọ Lem...”

“Cái đó là cái gì? Một chứng bệnh hả?” Ron hỏi.

“Vậy ra đây là những câu chuyện trẻ con?” Hermione hỏi, lại nghiêng mình xuống những chữ Runes.

“Ừ,” Ron nói không chắc chắn lắm. “Mình muốn nói, như bồ vừa nghe đó, là tất cả những câu chuyện cổ tích đều xuất xứ từ Beedle. Mình không biết chuyện như thế nào trong bản gốc.”

“Nhưng mình thắc mắc tại sao thầy Dumbledore nghĩ là mình nên đọc những chuyện đó?”

Cái gì đó kêu răng rắc dưới lầu.

“Chắc là anh Charlie thôi, bây giờ má đã ngủ rồi, ảnh lẻn ra ngoài để mọc lại tóc,” Ron nói một cách lo lắng.

“Dù sao thì mình cũng nên đi ngủ,” Hermione thì thầm. “Mai mà ngủ dậy trễ là không xong.”

“Không xong đâu,” Ron đồng ý. “Một cuộc ám sát bộ ba do chính tay má chú rể gây ra có thể khiến đám cưới mất vui một tý. Mình sẽ thu ánh sáng lại.”

Và nó bật cái Tắt sáng một lần nữa khi Hermione rời khỏi căn phòng.

Chương Tám

Đám cưới

Ba giờ chiều ngày hôm sau, Harry, Ron, Fred và George đang đứng bên ngoài cái rạp cưới to đùng màu trắng trong vườn cây ăn trái, chờ khách dự đám cưới đến.

Harry đã uống một liều lớn thuốc Đa Quả dịch và giờ đây trở thành một bản sao của một anh chàng Muggle tóc đỏ sống ở làng này, Ottery St. Catchpole; Fred đã dùng phép Triệu Hồi để chôm tóc của anh ta.

Kế hoạch là giới thiệu Harry như “em họ Barny” và hy vọng số lượng bà con đông đúc của dòng họ Weasley sẽ giúp nó giấu được gốc tích.

Cả bốn đứa tụi nó đều đang nắm chặt những bản đồ chỗ ngồi để có thể đưa khách đến đúng chỗ. Một đám người phục vụ mặc áo chùng trắng đã đến trước đó một giờ, cùng với một ban nhạc mặc áo vét màu vàng kim, và tất cả những phù thủy này hiện thời đang ngồi dưới một tán cây cách đó không xa. Harry có thể nhìn thấy một làn khói lam của ống điếu tỏa lên từ chỗ đó.

Đằng sau Harry, cổng vào rạp cưới cho thấy từng hàng, từng hàng những chiếc ghế mảnh khảnh vàng chóe được sắp dọc hai bên một tấm thảm dài màu tím. Hoa vàng hoa trắng quấn quanh những cây cột chống rạp. Fred và George đã cột một chùm to tướng những bong bóng ngay chóc bên trên vị trí mà lát nữa anh Bill và chị Fleur sẽ thành chồng thành vợ. Bên ngoài, ong bướm đang lượn lờ trên đám cỏ và hàng giậu. Harry không được thoải mái cho lắm. Anh chàng Muggle mà nó đang giả dạng hơi mập hơn nó một tí và bộ áo chùng lễ của nó vừa nóng vừa chật trong sự chói chang hết mức của một ngày hè.

“Bao giờ anh cưới vợ,” Fred vừa nói vừa kéo mạnh cái cổ áo chùng của mình, “anh sẽ chẳng hơi đâu gây phiền phức bằng mấy trò nhảm nhí này. Tụi bây cứ ăn mặc cách gì tụi bây thích, và anh sẽ ếm bùa Trói Toàn Thân lên má cho đến khi cưới hỏi xong xuôi.”

“Nói cho cùng thì sáng nay má cũng đâu đến nỗi nào,” George nói. “Chỉ khóc chút xíu về chuyện anh Percy vắng mặt, nhưng mà ai cần tới ảnh chớ? Ối mèn ơi, cố lên đồng bào, họ đến đó, coi kìa!”

Những hình dáng màu sắc rực rỡ đang hiện ra, từng bóng một, đột ngột, ở ranh giới xa xa của khu vườn. Trong một loáng, họ hình thành một đám rước bắt đầu rồng rắn kéo qua khu vườn về phía rạp cưới. Kỳ hoa và dị điểu được ếm bùa chấp chới bay trên nón các nữ phù thủy, trong khi ngọc quý lấp lánh chiếu ra từ cà vạt các pháp sư; tiếng trò chuyện râm ran hào hứng càng lúc càng to, át hết tiếng bầy ong, khi đám rước đến gần rạp.

“Quá đã, tui nghĩ tui thấy mấy cô em họ tiên nữ rồi,” George nói, nhóng cổ cò lên để nhìn rõ hơn. “Các em cần được giúp đỡ để hiểu phong tục Ăng-lê của nhà mình, tui sẽ săn sóc các ẻm...”

“Đừng hấp tấp, Ông Mất Tai ạ,” Fred nói, và phóng xẹt qua khỏi đám các bà phù thủy sồn sồn nói năng quàng quạc dẫn đầu đám rước, anh chàng nói với hai cô gái Pháp xinh xinh: “Đây... cho phép tôi để giúp quý cô.”[1] Các cô cười khích khích và cho phép anh chàng hộ tống vào bên trong.

George bị bỏ lại để đối phó với các bà sồn sồn và Ron thì lãnh nhiệm vụ đón tiếp bạn đồng sự cũ ở Bộ Pháp thuật của ông Weasley là Perkins, trong khi một cặp vợ chồng già điếc lác rơi vào phần tiếp đón của Harry.

“Wotcher,” một giọng quen thuộc vang lên khi nó lại chui ra khỏi rạp cưới và gặp cô Tonks cùng thầy Lupin đứng ở đầu hàng người nối đuôi vào rạp. Nhân dịp này cô đã đổi tóc sang màu vàng óng ả. “Anh Arthur nói với cô chú rằng cháu là đứa tóc quăn. Xin lỗi về chuyện tối hôm qua nghen,” cô nói thêm bằng giọng thì thào khi Harry dẫn họ đi giữa hai hàng ghế. “Bộ Pháp thuật hiện nay đang rất chống-người-sói và cô chú nghĩ sự hiện diện của cô chú có thể không có lợi cho cháu lắm.”

“Không sao, cháu hiểu mà,” Harry nói, cho thầy Lupin nghe nhiều hơn là cho cô Tonks. Thầy Lupin mỉm cười thoáng qua với Harry, nhưng khi hai người quay đi Harry thấy gương mặt thầy sa sầm trở lại trong nỗi khổ tâm. Harry không hiểu được sao lại thế, nhưng chẳng có thì giờ tìm hiểu sâu vấn đề. Bác Hagrid đang gây ra một sự cố đổ vỡ gì đó. Do nhầm lẫn phương hướng Fred chỉ, bác ngồi xuống, không phải cái ghế đã được củng cố và nới rộng bằng pháp thuật dành riêng cho bác ở hàng chót, mà là năm cái ghế mảnh khảnh, khiến chúng giờ đây chỉ còn là một đống to những que củi vụn vàng chóe.

Trong khi ông Weasley sửa chữa hư hại và bác Hagrid hò hét lời tạ lỗi với bất cứ ai muốn nghe, Harry vội vã trở lại cổng chào và thấy Ron đang đối diện với một pháp sư tướng tá kỳ dị nhất. Mắt hơi lé, tóc bạc dài tới vai bồng bồng như kẹo bông gòn, ông ta đội một cái nón có chóp tua rua thả đòng đưa ngay trước mũi và mặc một bộ áo chùng màu vàng lòng đỏ trứng chói lọi đến cay mắt. Một ký hiệu kỳ lạ, hơi giống một con mắt hình tam giác, sáng lấp lánh từ một sợi dây chuyền vàng ông ta đeo quanh cổ.

“Xenophilius Lovegood,” ông ta nói, đưa tay ra cho Harry, “con gái tôi và tôi sống trên đồi, gia đình Weasley tốt bụng thật là tử tế khi mời chúng tôi. Nhưng tôi nghĩ cậu quen biết cháu Luna nhà tôi chứ?” Ông nói thêm với Ron.

“Dạ, biết,” Ron nói. “Bạn ấy không đi cùng bác sao?”

“Nó còn la cà trong khu vườn nhỏ đầy quyến rũ để chào hỏi mấy con quỷ lùn, phá phách mới tuyệt làm sao! Rất ít pháp sư nhận thức được rằng chúng ta có thể học tập rất nhiều từ bọn quỷ lùn bé nhỏ khôn ranh... hay gọi cho đúng tên là Thầy Quậy Vườn.”

“Bọn quỷ lùn nhà cháu biết nhiều tiếng chửi thề ác liệt lắm,” Ron nói, “nhưng cháu nghĩ anh Fred và George dạy chúng mấy tiếng đó.”

Khi Harry dẫn một đoàn các chiến tướng vào trong rạp cưới thì Luna lật đật chạy tới.

“Chào anh Harry!” Cô bé nói.

“Ơ... tên tôi là Barry,” Harry lúng túng đáp.

“Ủa, anh cũng đổi tên nữa hả?” Cô bé nhanh nhảu hỏi.

“Làm sao em biết...?”

“Ôi, chỉ cần nhìn vẻ mặt của anh,” cô bé nói.

Giống cha mình, Luna mặc một bộ áo chùng vàng chói, lại còn được cô bé thêm vào một bông hướng dương tổ tướng cài trên mái tóc. Một khi vượt qua được sự chói lọi của tất cả những thứ đó, thì hiệu quả chung là khá dễ chịu. Ít nhất thì cũng không có củ cải đeo lòng thòng ở vành tai.

Ông Xenophilius, mải say sưa trò chuyện với một người quen, đã bỏ sót cuộc chuyện trò giữa Harry và Luna. Chào tạm biệt ông pháp sư quen xong, ông ta quay lại đứa con gái đang giơ ngón tay lên méc, “Ba, coi nè... một con quỷ lùn cắn con thiệt.”

“Hay biết chừng nào! Nước miếng quỷ lùn cực kỳ bổ,” ông Lovegood vừa nói vừa nắm lấy ngón tay Luna chìa ra và xem xét những dấu cắn rướm máu. “Luna, cưng của ba à, nếu hôm nay con cảm thấy tài năng bộc phát – có thể một cơn hứng bất ngờ muốn hát opêra hay ngâm thơ tiếng người cá – thì con đừng kiềm chế nhé! Con ắt hẳn đã được Thầy Quậy tặng cho tài năng đó!”

Ron đang đi ngang qua cha con Luna từ hướng ngược lại phát ra tiếng cười hô hố rõ to.

“Anh Ron cứ cười,” Luna bình thản nói khi Harry đưa cô bé và ông Xenophilius về chỗ ngồi của hai người, “nhưng ba em đã làm rất nhiều nghiên cứu về pháp thuật Thầy Quậy.”

“Thật hả?” Harry nói, từ nãy giờ đã quyết định là không nên khiêu khích quan điểm lập dị của Luna hay cha cô bé. “Nhưng mà em có chắc là em không muốn đắp cái gì lên vết cắn đó không?”

“Ôi, nó lành mà,” Luna nói, mút ngón tay trong điệu bộ mơ màng và ngắm Harry từ đầu đến chân. “Coi anh bảnh bao há? Em nói với ba có lẽ hầu hết khách sẽ mặc áo chùng, nhưng ba cho là đi đám cưới nên mặc màu mặt trời để lấy hên.”

Khi cô bé lướt đi theo cha mình, Ron xuất hiện với một phù thủy cao tuổi đang bám chặt cánh tay nó. Cái mũi khoằm của bà ta, cùng với hai con mắt viền đỏ và cái nón hồng mượt như lông tơ khiến bà trông giống một con hồng hạc cáu kỉnh.

“... và tóc con dài quá rồi đó, Ronald, hồi nãy bà cứ tưởng con là Ginevra. Mèn đét ơi, ông Xenophilius Lovegood ăn mặc kiểu gì vậy? Ngó ổng giống y cái trứng gà chiên ốp lết. Còn cậu là ai?” Bà quát Harry.

“À, thưa bà dì Muriel, đây là Barny em họ con.”

“Một đứa Weasley nữa hả? Dòng họ bây đẻ như quỷ lùn. Harry Potter có ở đây không? Bà đang mong gặp nó. Bà tưởng nó là bạn của con, đúng không Ronald, hay là con chỉ bốc phét?”

“Dạ không... nó không đến được...”

“Hừm. Nó kiếm cớ tránh mặt hả? Vậy thì không đến nỗi đần như hình nó in trên báo. Bà vừa hướng dẫn cô dâu cách hay nhất đội cái miện ngọc của bà,” bà nói to với Harry. “Cậu biết chớ, do yêu tinh chế tạo và lưu truyền trong gia đình bà cả mấy trăm năm. Nó là một đứa xinh đẹp, nhưng vẫn là... một con đầm. À, ừ, kiếm cho bà một chỗ ngồi, Ronald, bà một trăm lẻ bảy tuổi và không nên đứng lâu quá.”

Ron nhìn Harry một cái đầy ý nghĩa khi nó đi ngang qua và lặn tăm mất một lúc. Khi tụi nó gặp lại nhau ở cổng chào, Harry đã đưa xong cả chục người khách đến chỗ ngồi. Rạp cưới bây giờ đã gần đầy người và lần đầu tiên không còn người đứng nối đuôi bên ngoài.

“Ác mộng, bà dì Muriel ấy,” Ron vừa nói vừa lau mồ hôi trán bằng ống tay áo. “Hồi xưa bà thường đến vào lễ Giáng sinh hàng năm, sau này, may phước, bà giận vì anh Fred và anh George đặt bom phân dưới ghế của bà vào bữa tối. Ba cứ nói hoài là bà sẽ xóa tên hai anh khỏi di chúc của bà – làm như hai ảnh ham lắm vậy, cứ cái đà này rồi đây hai ảnh sẽ giàu hơn bất cứ ai trong gia đình... Chà,” nó nói thêm, mắt chớp chớp khi Hermione vội vã đi về phía tụi nó. “Trông bồ đẹp tuyệt trần!”

“Lúc nào cũng cái giọng ngạc nhiên,” Hermione nói, mặc dù cô nàng mỉm cười. Hermione mặc một chiếc áo đầm phồng màu hoa tử đinh hương rất hài hòa với đôi giày cao gót. Tóc cô nàng mượt mà óng ả. “Bà dì Muriel của bồ không đồng ý đâu, mình vừa mới gặp bà trên lầu lúc bà trao cho chị Fleur cái miện ngọc. Bả nói, ‘Ôi trời, đây là cái đứa con-nhà-Muggle hả?’ Và rồi, ‘Điệu bộ xấu xí, giò cẳng khẳng khiu.’”

“Đừng để bụng chuyện đó, bà thô lỗ với tất cả mọi người,” Ron nói.

“Đang nói về dì Muriel hả?” George hỏi khi cùng Fred từ trong rạp đi trở ra. “Ờ, bả vừa nói với anh là tai anh bị xệ. Mụ dơi già. Anh ước chi có cậu Bilius ở đây với tụi mình; ổng là một cây chọc cười ở mấy đám cưới.”

“Có phải ông ấy là người đã nhìn thấy Hung tinh rồi hăm bốn giờ sau thì chết không?” Hermione hỏi.

“À, phải, vào cuối đời ổng đâm ra dở dở ương ương,” George thừa nhận.

“Nhưng trước khi phát bệnh khùng thì ổng là linh hồn của bữa tiệc,” Fred nói. “Ổng thường uống cạn một chai rượu đế lửa, rồi chạy lên sàn nhảy, tốc vạt áo chùng lên, rồi bắt đầu kéo ra từng chùm bông từ...”

“Phải rồi, nghe là biết có duyên ghê,” Hermione nói trong khi Harry rống lên cười.

“Chưa hề cưới vợ, chẳng hiểu vì sao,” Ron nói.

“Bồ khiến mình sửng sốt đó,” Hermione nói.

Tụi nó cười nhiều đến nỗi không đứa nào để ý đến người đến trễ, một thanh niên tóc đen có cái mũi to cong vòng và chân mày rậm rì, mãi cho tới khi anh ta chìa thiệp mời cho Ron và đưa mắt nhìn Hermione, nói: “Em đẹp tuyệt zời.”

“Anh Viktor!” Hermione ré lên, và làm rớt cái bóp đầm nhỏ kết bằng hột cườm, gây ra một tiếng bịch thật to không chút tương xứng với kích thước của nó. Cô nàng đỏ mặt, vừa lụp chụp lượm lại cái bóp vừa nói: “Em không dè anh có mặt ở đây... Trời ơi... thật vui được gặp lại... anh khỏe không?”

Hai tai của Ron lại chuyển sang màu đỏ tía một phen nữa. Sau khi liếc qua thiệp mời của Krum như thể không tin một chữ nào trong thiệp, nó nói hơi to tiếng, “Làm sao mà anh lại đến đây?”

“Fleur mời tôi,” Krum nói, chân mày nhướn lên.

Harry không có ân oán gì với Krum nên bắt tay anh ta, rồi cảm thấy nên thận trọng tách Krum ra khỏi vùng lân cận Ron, Harry tình nguyện đưa anh ta đến chỗ ngồi.

“Bạn của anh không được vui khi gặp tôi,” Krum nói khi hai người đi vào cái rạp cưới đã đông chật. “Hay anh ta là bà con của anh?” Krum nói thêm khi liếc thấy mái tóc quăn màu đỏ của Harry.

“Anh em họ,” Harry lúng búng, nhưng Krum chẳng thực sự để tai nghe. Sự xuất hiện của anh chàng đang gây xôn xao, đặc biệt trong đám các cô em họ tiên nữ: nói cho cùng, anh ta là một cầu thủ Quidditch nổi tiếng. Trong khi người ta đang nhóng cổ cò để nhìn anh ta cho rõ, Ron, Hermione, Fred và George vội vã đi xuống lối đi giữa hai dãy ghế.

“Tới lúc ngồi xuống rồi,” Fred bảo Harry, “nếu không tụi mình sẽ bị cô dâu đạp phải.”

Harry, Ron và Hermione ngồi xuống ghế của tụi nó ở hàng thứ hai phía sau Fred và George. Trông Hermione hơi hồng hồng và tai Ron thì vẫn còn đỏ tía. Ngồi được một lúc nó thì thầm với Harry, “Bồ có thấy hắn để một chòm râu con ngu dễ sợ không?”

Harry lẩm bẩm một câu vô thưởng vô phạt.

Cả rạp cưới ấm áp lúc này đầy không khí đợi chờ náo nức, trong tiếng rì rầm chung chung thỉnh thoảng vỡ ra tiếng cười to sôi nổi. Ông bà Weasley đi lên lối đi giữa hai dãy ghế, mỉm cười và vẫy tay chào bà con. Bà Weasley mặc một bộ áo đầm mới toanh màu thạch anh tím và đội một cái nón cùng màu.

Một lát sau anh Bill và anh Charlie ra đứng ở phía đầu rạp cưới, cả hai đều mặc áo chùng trang trọng cài những bông hồng trắng rất to ở khuy áo. Fred huýt sáo và tiếng cười khúc khích vang lên trong đám các cô em họ tiên nữ. Bỗng nhiên đám đông nín lặng khi âm nhạc trỗi lên từ những cái trông như là bong bóng vàng chóe.

“Ôôôôô!” Hermione kêu lên, xoay hẳn người lại trên ghế để nhìn ra cửa rạp.

Toàn thể phù thủy pháp sư trong rạp đều đồng loạt hướng mắt nhìn về phía me xừ Delacour và chị Fleur đang bước trên lối đi giữa hai dãy ghế, chị Fleur đi như lướt còn me xừ Delacour thì vừa tươi cười vừa nhún nhảy. Chị Fleur mặc một chiếc áo đầm trắng rất đơn giản và dường như phát tiết ra một vầng hào quang rạng rỡ óng ánh bạc. Trong khi vẻ rực rỡ của chị thường ngày vẫn làm mờ đi mọi người khác khi đem ra so sánh, thì hôm nay hào quang của chị lại làm đẹp lên bất cứ ai được nó tỏa chiếu vào. Ginny và Gabrielle, cả hai đều mặc áo đầm vàng rực, trông xinh đẹp hơn hẳn ngày thường, và khi chị Fleur đi đến bên chú rể, thì anh Bill trông không có vẻ gì là đã từng gặp Fenrit Greyback.

“Thưa quý vị,” một giọng ngân nga nhẹ nhàng vang lên, và Harry hơi giật mình khi thấy lão phù thủy nhỏ thó tóc rậm rì đã từng chủ trì đám tang cụ Dumbledore giờ đây lại đứng trước anh Bill và chị Fleur. “Chúng ta họp mặt tại đây hôm nay để đánh dấu sự hợp nhất của hai tâm hồn thủy chung...”

“Đó, cái miện ngọc của ta đã khởi đầu mọi thứ tốt đẹp,” bà dì Muriel nói giọng thì thầm nhưng hơi ngân vang. “Nhưng ta phải nói, cái áo đầm của Ginevra cắt quá ngắn.”

Ginny liếc ra sau, nhe răng cười, nháy mắt với Harry, rồi nhanh chóng quay mặt ra phía trước. Đầu óc Harry lang thang ra khỏi rạp vượt qua một quãng đường dài, trở về những buổi chiều ngồi một mình với Ginny ở những góc sân trường vắng vẻ. Sao những buổi chiều đó xa xăm quá; luôn luôn có vẻ như quá đẹp đến nỗi không thể là hiện thực, như thể nó đã lấy cắp những giờ phút tươi sáng trong đời của một người bình thường, một người không mang cái thẹo hình tia chớp ngay trên trán...

“William Arthur, anh có đồng ý nhận cô Fleur Isabelle làm...?”

Ở hàng ghế đầu, bà Weasley và ma đàm Delacour đều sụt sịt khóc khe khẽ trong mớ dải ren rua. Âm thanh như tiếng kèn đồng vọng lên từ cuối rạp báo cho mọi người biết rằng bác Hagrid đã rút chiếc khăn tay bự-bằng-khăn-trải-bàn của bác ra. Hermione quay qua tươi cười với Harry; cô bé cũng đầy nước mắt.

“... vậy ta tuyên bố hai người ràng buộc nhau suốt đời.”

Lão pháp sư tóc rậm vẩy cây đũa phép trên đầu anh Bill chị Fleur và một đám mưa những ngôi sao bạc rơi xuống trên đầu hai người, rồi cuốn xoáy ốc quanh hai thân mình giờ đã bện lấy nhau của họ. Khi Fred và George khởi xướng một trận vỗ tay, mấy cái bong bóng vàng kim trên đầu họ bùng nổ. Bầy chim thiên đàng và những cái chuông vàng tí hon bay lượn ra khỏi những bong bóng đó, góp thêm tiếng hót và tiếng chuông rung vào tiếng ầm ĩ điếc tai.

“Thưa quý vị,” lão pháp sư tóc rậm lên tiếng. “Mời quý vị đứng dậy.”

Mọi người đều đứng lên, bà dì Muriel lẩm bẩm rõ to; lão pháp sư bèn vẩy cây đũa phép một lần nữa. Những chiếc ghế mà mọi người đang ngồi bỗng duyên dáng bay cao lên, trong khi tấm bạt căng vách rạp biến mất, khiến cho họ đứng dưới một cái tán được chống đỡ bằng những cái trụ bằng vàng, chung quanh là cảnh trí rực rỡ của đồng quê và vườn cây ăn trái đầy nắng. Tiếp theo một cái hồ vàng lỏng từ trung tâm rạp tráng ra thành một sàn nhảy lấp lánh; đám ghế bay bỗng tự xếp quanh những cái bàn nhỏ trải khăn trắng, rồi những cái bàn này lại bay trở lại mặt đất một cách trang nhã quanh sàn nhảy, và ban nhạc mặc áo vét vàng kéo nguyên băng đi về phía một cái bục.

“Nhuyễn,” Ron nói một cách thán phục khi đám người phục vụ hiện ra từ mọi phía, một số bưng những khay nước bí, bia bơ, và rượu đế lửa, những người khác thì khệ nệ bưng những đống bánh tạc và bánh mì kẹp thịt.

“Tụi mình nên đến chúc mừng họ,” Hermione nói, đứng nhón gót để ngó cái chỗ mà anh Bill và chị Fleur vừa biến vào một đám đông xúm xít chúc tụng.

“Lát nữa tụi mình sẽ có thì giờ,” Ron nhún vai, chớp lấy ba ly bia bơ trên một cái khay vừa lướt ngang qua và đưa một ly cho Harry. “Hermione, chớp lẹ, tụi mình mau xí một cái bàn... Đừng ngồi chỗ đó! Đừng ngồi chỗ nào gần bà dì Muriel...”

Ron dẫn đầu băng ngang sàn nhảy trống trơn, vừa đi vừa liếc trái liếc phải; Harry chắc chắn là nó đang canh chừng Krum. Khi tụi nó đến được phía bên kia của cái rạp, hầu hết các bàn đều đã có người ngồi đầy: cái bàn duy nhất còn chỗ trống là cái bàn chỉ có một mình Luna ngồi.

“Tụi này ngồi chung được không?”

“Ồ, được chứ,” cô bé vui vẻ nói. “Ba em vừa mới đi tặng quà cho anh Bill và chị Fleur.”

“Quà gì vậy? Một mớ Rễ Quéo đủ xài cả đời hả?” Ron hỏi.

Hermione nhắm đá giò Ron dưới gầm bàn, nhưng lại đá nhằm chân Harry. Đau ứa nước mắt, Harry mất một lúc không để ý theo dõi được cuộc chuyện trò.

Ban nhạc đã bắt đầu chơi, anh Bill và chị Fleur là cặp đầu tiên ra sàn nhảy trong tiếng vỗ tay vang rền; một lát sau ông Weasley đưa ma đàm Delacour lên sàn, theo sau là bà Weasley cùng cha của chị Fleur.

“Em thích bài hát này,” Luna nói, lắc lư đúng lúc điệu nhạc nghe như vanxơ vang lên, và chỉ vài giây sau cô bé đã đứng dậy và lướt ra sàn nhảy, ở đó cô bé xoay tròn tại chỗ, một mình, mắt nhắm nghiền, hai cánh tay vung vẩy.

“Con nhỏ ác liệt há?” Ron nói một cách ngưỡng mộ. “Luôn luôn đúng nhịp.”

Nhưng nụ cười biến khỏi gương mặt nó ngay tức thì: Viktor Krum vừa ngồi xuống cái ghế trống của Luna. Hermione tỏ ra bối rối một cách thích thú nhưng lần này Krum không đến để tán tình cô nàng. Mặt mày cau có, anh ta nói: “Người đàn ông mặc áo vàng là ai?”

“Đó là ông Xenophilius Lovegood, cha một người bạn của tụi này,” Ron nói. Cái giọng gây sự của Ron cảnh báo là chớ có mà cười cợt Xenophilius, bất chấp vẻ khiêu khích lộ liễu. “Đi ra nhảy,” nó đột ngột nói thêm với Hermione.

Cô nàng có vẻ bất ngờ nhưng cũng vui lòng, và đứng dậy. Hai đứa nó cùng biến mất với nhau trong đám người càng lúc càng đông trên sàn nhảy.

“A, bây giờ hai người đó cặp nhau vồi à?” Krum hỏi, ngớ ra trong chốc lát.

“Ờ... đại khái vậy,” Harry nói.

“Anh là ai?” Krum hỏi.

“Barny Weasley.”

Hai người bắt tay nhau.

“Anh, Barny... anh có bít nhìu về cái tay Lovegood đó không?”

“Không. Tôi chỉ mới gặp ông ta hôm nay. Mà sao vậy?”

Krum trừng mắt qua miệng ly ngó ông Lovegood đang tán gẫu với nhiều tay chiến tướng bên kia sàn nhảy.

“Bởi vì,” Krum nói, “níu hắn không phởi là khách mời của Fleur thì tôi sẽ đục hắn, tợi đây và ngay bây giờ, vì mang cới ký hịu bẩn thỉu đó trên ngực.”

“Ký hiệu?” Harry nói, cũng nhìn về phía ông Lovegood. Con mắt hình tam giác kỳ lạ đang lấp lánh trên ngực ông ta. “Tại sao? Cái đó thì có gì bậy bạ?”

“Grindelvald. Đó là ký hịu của Grindelvald.”

“Grindelvald... có phải là tay phù thủy Hắc ám đã bị thầy Dumbledore đánh bại?”

“Chính xác!”

Cơ bắp quanh cằm Krum căng lên như thể anh ta đang nhai, anh chợt nói tiếp, “Grindelvald zít rất nhìu người, ông tôi chẳng hạn. Dĩ nhin hắn chưa bao giờ hùng mạnh ở xứ này, người ta nói hắn sợ cụ Dumbledore – mà chắc đúng, căn cứ vào cách đời hắn kết thúc. Nhưng đây” – anh ta chỉ một ngón tay vào ông Lovegood – “đây là ký hịu của hắn, tôi nhận va nó ngay lập tức: Grindelvald đã khắc nó lên một bức tường ở Durmstrang hồi hắn còn là học sinh ở đó. Mấy thằng ngốc cóp pi vô sách và quần áo của chúng, tính gây sốc, làm cho có vẻ chịu chơi mà – cho đến khi những người có thân nhân bị Grindelvald zít như chúng tôi dạy cho chúng hỉu bít hơn.”

Krum bẻ khớp ngón tay vẻ hăm he và trừng mắt nhìn ông Xenophilius. Harry cảm thấy khó hiểu. Chẳng có vẻ gì tin được là cha của Luna lại có thể là một kẻ ủng hộ Nghệ thuật Hắc ám, và không ai trong cả rạp cưới tỏ vẻ nhận ra cái hình tam giác cỡ bàn tay đó.

“Anh có... ơ... chắc chắn đó là ký hiệu của Grindelvald...?”

“Tôi không nhầm được,” Krum lạnh lùng nói. “Tôi đã đi ngang qua ký hịu đó nhìu năm trời, tôi bít nó vất võ.”

“Có thể là,” Harry nói, “ông Xenophilius không thực sự biết ký hiệu đó nghĩa là gì, cha con nhà Lovegood rất... khác thường. Có thể ông ta vớ được nó ở đâu đó và tưởng là hình cắt ngang cái đầu một con Khụt-khịt Sừng-nát hay cái gì đó.”

“Hình cắt ngang của cái gì?”

“À, tôi không biết là cái gì, nhưng có vẻ như ông ta và cô con gái đi nghỉ mát để tìm chúng...”

Harry cảm thấy nó giải thích không nên thân về Luna và cha cô bé.

“Cô ta đó,” nó nói, chỉ Luna, cô bé vẫn đang nhảy một mình, vung vẩy hai cánh tay quanh đầu như thể một người đang cố gắng đuổi ruồi.

“Tợi sao cô ta làm như thế?” Krum hỏi.

“Có lẽ đang tìm cách xua đuổi một con Tảo vọt,” Harry nói, nó vừa nhận ra điệu bộ của Luna.

Krum có vẻ như không biết là Harry đang đùa hay thật. Anh đưa tay vào túi áo chùng rút ra cây đũa phép và gõ lên đùi với vẻ đe dọa; đầu đũa nhá ra tia lửa.

“Gregorovitch!” Harry la lớn, và Krum giật mình, nhưng Harry quá xúc động nên không bận tâm; ký ức đã ùa về với nó khi nó nhìn thấy cây đũa phép của Krum: ông Ollivander đã cầm cây đũa phép đó và xem xét kỹ lưỡng trước cuộc thi đấu Tam Pháp Thuật.

“Ông ấy thì sao?” Krum tò mò hỏi.

“Ông ta là người chế tạo đũa phép.”

“Tôi biết thế,” Krum nói.

“Ông ấy làm ra cây đũa phép của anh. Vì vậy mà tôi đã nghĩ đến... Quidditch...”

Krum càng tỏ vẻ tò mò hơn.

“Làm sao anh bít Gregorovitch làm ra cây đũa phép của tôi?”

“Tôi... tôi nghĩ tôi đã đọc ở đâu đó,” Harry nói, “trong một... một tạp chí người hâm mộ,” nó ứng khẩu nói đại và Krum tỏ ra dịu xuống.

“Tôi không bít võ mình có bao giờ lợi nói chuyện về cây đũa phép với người hâm mộ,” anh ta nói.

“Vậy... ơ... dạo này ông Gregorovitch ở đâu?”

Krum tỏ ra lúng túng.

“Ông ấy về hưu nhìu năm rồi. Tôi là một trong những người cuối cùng mua đũa phép của Gregorovitch. Đó là những cây đũa phép tốt nhất – mặc dù, dĩ nhin, tôi bít, dân Ăng-lê các anh chuộng hàng của Ollivander.”

Harry không trả lời. Nó giả đò ngắm những người khiêu vũ, như Krum, nhưng bụng thì suy nghĩ lung lắm. Vậy là Voldemort đang tìm kiếm một người làm đũa phép nổi danh và Harry không cần phải tìm lý do ở đâu xa xôi. Chắc chắn nguyên nhân là chính cái điều mà cây đũa phép của Harry đã gây ra vào cái đêm Voldemort truy lùng nó trên vòm trời. Cây đũa phép bằng lông phượng hoàng và gỗ nhựa ruồi đã chế ngự được cây đũa phép vay mượn, điều mà Ollivander không lường trước và không hiểu được. Liệu Gregorovitch thì có hiểu hơn không? Liệu ông ta có thực sự giỏi hơn ông Ollivander không, liệu ông ta có biết bí mật của những cây đũa phép mà ông Ollivander không biết không?

“Cô bé này trông xinh thật,” Krum nói, đem Harry về lại với thực tế chung quanh. Krum đang chỉ vào Ginny, cô bé vừa lên sàn nhảy chung với Luna. “Cô bé cũng có bà con với anh chứ?”

“Ừ,” Harry nói, bỗng dưng nổi quạu, “và cô ta đang cặp với tay nào đó. Ghen lắm. Bự con. Anh sẽ không muốn chạm trán với hắn đâu.”

Krum lầu bầu.

“Nổi danh,” anh ta vừa nói vừa uống cạn cái ly và đứng lên, “là một cầu thủ Quidditch thế giới để làm quới gì nếu tất cả những cô gái xinh đẹp đều đã có kẻ phỗng tay trên?”

Và anh chàng bỏ Harry ở lại, sải dài bước chân đi lấy một cái bánh mì kẹp thịt trên mâm của một người phục vụ vừa đi ngang qua, rồi đi vòng quanh sàn nhảy đông đúc. Harry muốn tìm Ron để nói với nó về Gregorovitch, nhưng Ron đang nhảy với Hermione ngay giữa sàn. Harry đứng tựa lưng vào một trong mấy cái trụ vàng và ngắm Ginny, lúc này cô bé đang nhảy với Lee Jordan, bạn của Fred và George, cố gắng không hối hận về lời nó đã trót hứa với Ron.

Trước đây Harry chưa bao giờ dự một đám cưới, vì vậy nó không thể nói đám cưới phù thủy khác với đám cưới của dân Muggle như thế nào, mặc dù nó khá chắc chắn là đám cưới Muggle không có cái bánh cưới mà trên cùng có hai mô hình phượng hoàng cất cánh bay lên mỗi khi bánh được cắt ra, hay là những chai rượu sâm banh tự bay lơ lửng giữa đám đông. Khi đêm xuống, bọn thiêu thân lao vào phía dưới tán rạp được chiếu sáng bằng những chiếc lồng đèn vàng, cuộc vui trở nên càng lúc càng phá rào. Fred và George đã biến vào bóng tối từ lâu cùng với hai cô em họ của Fleur; anh Charlie, bác Hagrid và một lão phù thủy mập lùn đội nón chóp bẻ vành màu tím đang hát bài Odo đấng anh hùng trong một góc.

Đi thơ thẩn qua đám đông để tránh mặt một ông chú say xỉn của Ron, ông ta không chắc Harry có phải là con ổng hay không, Harry chợt thấy một cụ pháp sư già ngồi một mình. Mái tóc trắng như mây của cụ khiến cụ trông giống một chùm bông bồ công anh già đội cái rế bị mối gặm. Trông cụ quen quen: xóc óc một hồi, Harry chợt nhận ra đó là cụ Elphias Doge, thành viên Hội Phượng Hoàng và là người viết cáo phó thầy Dumbledore.

Nó bèn đến gần cụ.

“Ông cho phép con ngồi ạ?”

“Đương nhiên, đương nhiên,” cụ Doge nói, giọng cụ hơi cao và khò khè.

Harry cúi mình.

“Thưa ông Doge, con là Harry Potter.”

Cụ Doge há hốc mồm.

“Con trai ta! Arthur có nói với ta là con có mặt ở đây, cải trang... Ta mừng lắm, rất hân hạnh!”

Cụ Doge rót cho Harry một ly sâm banh trong cơn run rẩy vì niềm vui xúc động.

“Ta đã nghĩ đến việc viết thư cho con,” cụ thì thầm, “sau khi cụ Dumbledore... chấn động và đối với con, ta chắc...”

Đôi mắt nhỏ xíu của cụ Doge đột ngột tràn đầy nước mắt.

“Con có thấy bài cáo phó cụ viết trên tờ Nhật báo Tiên Tri,” Harry nói, “Con không ngờ cụ biết giáo sư Dumbledore nhiều như vậy.”

“Như mọi người biết thôi,” cụ Doge nói, chậm nước mắt bằng chiếc khăn ăn. “Chắc chắn ta biết cụ lâu nhất, nếu con không tính đến Aberforth – và chẳng biết thế nào, người ta dường như không tính đến Aberforth.”

“Nhân nói đến tờ Nhật báo Tiên Tri... thưa cụ Doge, không biết cụ có...?”

“Ôi, cứ gọi ta là Elphias, con à.”

“Thưa cụ Elphias, con không biết cụ có thấy bài phỏng vấn Rita Skeeter nói về cụ Dumbledore không?”

Gương mặt cụ Doge đỏ lên vì tức giận.

“A, có, Harry, ta có thấy bài đó. Người đàn bà đó, gọi là một con kền kền thì có lẽ chính xác hơn, đã nhằng nhì quấy rối ta để ép ta nói chuyện với thị, ta xấu hổ mà nói rằng ta đã trở nên khá thô lỗ, gọi thị là miếng cá hồi dai nhách, mà hậu quả, như con có lẽ đã thấy, là trò bôi bác sự minh mẫn của ta.”

“Dạ, trong bài phỏng vấn đó,” Harry nói tiếp, “Rita Skeeter ám chỉ là giáo sư Dumbledore có dây dưa với Nghệ thuật Hắc ám khi còn trẻ...”

“Đừng tin một lời nào cả!” Cụ Doge nói ngay. “Đừng tin một lời nào, Harry à. Đừng để cho bất cứ điều gì làm hoen ố ký ức của con về cụ Dumbledore.”

Harry nhìn vào gương mặt đau đớn và tha thiết của cụ Doge, và cảm thấy nản lòng, chứ không phải được yên lòng. Chẳng lẽ cụ Doge tin rằng mọi việc dễ như vậy sao, rằng Harry lại có thể cứ đơn giản chọn cách đừng tin là xong sao? Chẳng lẽ cụ Doge không hiểu được nhu cầu của Harry là muốn biết đến đầu đến đũa mọi việc sao?

Có lẽ cụ Doge nghi ngờ những cảm nghĩ của Harry nên cụ có vẻ lo lắng và nói vội vàng:

“Harry à, Rita Skeeter là một kẻ đáng sợ...”

Nhưng cụ bị cắt ngang vì tiếng cười hinh hích chói tai.

“Rita Skeeter hả? Ôi, ta khoái cô ả, luôn luôn đọc ả.”

Harry và cụ Doge ngước lên để thấy bà dì Muriel đang đứng đó, đám lông chim nhảy múa trên tóc, bà cầm trong tay một ly rượu sâm banh. “Ả vừa mới viết một cuốn sách về Dumbledore, mọi người biết chứ.”

“Chào bà Muriel,” cụ Doge nói, “chúng tôi đang nói...”

“Thằng kia! Đưa cái ghế của mi cho ta, ta đã một trăm lẻ bảy tuổi.”

Một đứa anh em họ Weasley tóc đỏ khác nhảy bật ra khỏi chỗ ngồi, coi bộ hơi hoảng, và bà dì Muriel lẳng cái ghế một vòng với một sức mạnh đáng ngạc nhiên rồi thả mình ngồi gọn xuống giữa cụ Doge và Harry.

“Chào cháu lần nữa, Barny hay tên gì đó của cháu,” bà nói với Harry. “Sao, ông nói gì về Rita Skeeter, ông Elphias? Ông biết ả có viết một cuốn tiểu sử về cụ Dumbledore chứ hả? Tôi sốt ruột chờ đọc cuốn đó. Tôi phải nhớ mà đặt mua trước ở tiệm Flourish & Blotts!”

Cụ Doge tỏ vẻ cứng nhắc và nghiêm trang về chuyện đó, nhưng bà dì Muriel uống cạn ly và búng ngón tay xương xẩu của bà gọi một người phục vụ đang đi ngang qua để đổi ly rượu mới. Bà hớp một ngụm to sâm banh, ợ hơi rồi nói, “Chẳng việc gì phải trông như một đôi ếch nhồi thế! Trước khi ông Albus trở nên đáng kính như thế và được trọng nể như thế và tất cả đồ bá láp như thế, thì đã có những đồn đãi rất khôi hài về ổng rồi!”

“Ngậm máu phun người,” cụ Doge nói, mặt mày lại đỏ tía.

“Thể nào ông cũng nói vậy mà, ông Elphias,” bà dì Muriel cười khành khạch. “Tôi có nhận thấy ông đã khéo léo lách qua mấy chuyện khó nói trong bài cáo phó đó của ông!”

“Tôi rất tiếc là bà nghĩ vậy,” cụ Doge nói, càng lặng lẽ một cách lạnh lùng. “Tôi cam đoan với bà tôi viết từ đáy lòng.”

“Ối, tất cả chúng ta đều biết ông sùng bái Dumbledore; tôi dám nói ông sẽ vẫn cứ nghĩ ông ấy là một vị thánh ngay cả nếu như chuyện đổ bể ra rằng ổng đã giết con em á phù thủy của ổng!”

“Bà Muriel!” Cụ Doge kêu lên.

Một cơn lạnh buốt không phải do rượu sâm banh ướp đá đang len lỏi khắp buồng ngực Harry.

“Ý bà là sao?” Nó hỏi bà dì Muriel. “Ai nói em gái của cụ là một á phù thủy? Con tưởng cô ấy bị bệnh chớ.”

“Tưởng nhầm rồi, Barry ơi!” Bà dì Muriel nói, tỏ ra vui sướng hớn hở trước hiệu quả mà bà tạo ra. “Dù sao đi nữa, làm sao cháu lại nghĩ là có thể biết được gì về chuyện đó hả? CHUYỆN ĐÓ xảy ra từ năm nẳm năm nào rồi, từ hồi người ta còn chưa nghĩ ra cháu nữa kìa, và sự thật là tất cả những người cùng lứa với bà mà còn sống khi đó đã không hề biết thực sự có chuyện gì xảy ra. Bởi vậy bà hết sức nôn nóng coi Skeeter tiết lộ điều gì! Dumbledore đã giữ kín chuyện cô em gái đó của ổng hơi lâu à!”

“Không đúng!” Cụ Doge phều phào. “Hoàn toàn không đúng!”

“Thầy không hề nói với con em gái thầy là á phù thủy,” Harry nói, không kịp nghĩ, trong lòng vẫn còn lạnh buốt.

“Mà mắc mớ gì ổng phải nói cho cháu biết hả?” Bà dì Muriel rít lên, lắc lư một tí trên ghế khi bà cố gắng tập trung chú ý vào Harry.

“Tôi cho rằng,” cụ Doge mở lời, giọng nghẹn lại vì xúc động, “lý do anh Albus không bao giờ nói về em Ariana rất rõ ràng. Anh suy sụp tan nát vì cái chết của cô ấy.”

“Thế tại sao chưa từng có ai thấy cô ta hả ông Elphias?” Bà dì Muriel vặc lại. “Tại sao một nửa số người trong chúng ta không hề biết cô ta từng tồn tại, cho đến khi họ khiêng cỗ quan tài ra khỏi nhà và làm tang lễ cho cô ta? Anh Albus thánh thiện ở đâu khi Ariana bị nhốt trong hầm rượu hả? Ở tít trong trường Hogwarts làm một thiên tài sáng chói, và chẳng bao giờ bận tâm chuyện gì xảy ra trong chính ngôi nhà của mình!”

“Bà muốn nói gì, bị nhốt trong hầm rượu à?” Harry hỏi, “Nghĩa là sao?”

Cụ Doge có vẻ suy sụp. Bà dì Muriel lại cười khành khạch và trả lời câu hỏi của Harry.

“Bà mẹ ông Dumbledore là một mụ đàn bà đáng sợ, hoàn toàn đáng sợ. Gốc Muggle. Mặc dù ta nghe mụ giả bộ không phải...”

“Bà ấy không hề giả bộ gì hết! Bà Kendra là một phụ nữ tử tế,” cụ Doge thì thào một cách khốn khổ, nhưng bà dì Muriel phớt lờ cụ.

“... kiêu căng và rất độc đoán, một thứ phù thủy đáng bị cụp mặt vì đẻ ra một con á phù thủy...”

“Ariana không phải là á phù thủy!” Cụ Doge phều phào.

“Anh nói vậy, anh Elphias, thì anh hãy giải thích coi tại sao cô ta chẳng bao giờ đi học ở trường Hogwarts!” Bà dì Muriel nói. Bà đã quay lưng lại Harry. “Vào thời của chúng ta, á phù thủy thường bị giấu nhẹm, dù vậy vẫn cực kỳ tàn nhẫn khi thực sự giam cầm một cô gái nhỏ trong nhà và giả bộ như cô ta không hề tồn tại...”

“Ta nói với con, chuyện không phải như vậy,” cụ Doge nói, nhưng bà dì Muriel hùng hục nói át đi, vẫn hướng về Harry.

“Thường người ta hay đưa á phù thủy đến trường học Muggle và khuyến khích chúng hội nhập với cộng đồng Muggle... như thế tốt hơn là cố tìm cho ra một vị trí trong thế giới pháp thuật, nơi chúng luôn luôn phải nằm trong giai cấp hạng nhì, nhưng tất nhiên là mụ Kendra Dumbledore không đời nào mơ tới chuyện cho con gái của mụ đi học ở trường Muggle...”

“Ariana rất mảnh dẻ,” cụ Doge cố nói. “Sức khỏe của cô ấy tệ đến nỗi không thể để cô...”

“... để cho cô ta ra khỏi nhà à?” Bà dì Muriel lại cười khành khạch. “Vậy mà cô ta chưa hề được đưa tới bệnh viện Thánh Mungo và cũng không có lương y nào được mời đến khám chữa cho cô ta cả!”

“Thực ra, bà Muriel à, làm sao bà có thể biết liệu...”

“Nói cho anh biết, anh Elphias à, anh họ Lancelot của tôi là một lương y ở bệnh viện Thánh Mungo vào thời đó, và ảnh kể cho gia đình tôi nghe với sự tin cẩn tuyệt đối là chưa bao giờ có ai thấy Ariana ở đó cả. Tất cả đều hết sức đáng ngờ, Lancelot nghĩ thế.”

Cụ Doge có vẻ sắp phát khóc. Bà dì Muriel, dường như hết sức tự mãn, búng ngón tay gọi thêm rượu sâm banh.

Harry lặng người nghĩ đến cách gia đình Dursley đã có lần nhốt nó, khóa nó trong phòng, giữ cho không ai nhìn thấy nó, tất cả chỉ vì cái tội là phù thủy. Phải chăng em gái cụ Dumbledore đã chịu đựng số phận tương tự vì lý do ngược lại: bị giam cầm vì không có khả năng pháp thuật? Và chẳng lẽ cụ Dumbledore thực sự đã để mặc em gái mình với kiếp sống đó trong khi cụ thì đến trường Hogwarts để tự chứng minh mình lỗi lạc, tài hoa?

“Này nhé, nếu mụ Kendra không chết trước,” bà dì Muriel lại nói tiếp, “thì tôi dám nói chính mụ giết Ariana...”

“Bà Muriel, sao bà có thể!” Cụ Doge rên rỉ. “Một người mẹ mà giết con gái của chính mình sao? Hãy suy nghĩ điều bà nói ra.”

“Nếu bà mẹ ta đang bàn tới đã có thể giam cầm đứa con gái trong nhiều năm liên tục, thì sao lại không thể giết nó đi?” Bà dì Muriel nhún vai. “Nhưng mà như tôi nói rồi, điều đó không hợp lý, vì mụ Kendra chết trước Ariana – chết vì cái gì, có vẻ như không ai biết chắc...”

“Ôi, chắc là Ariana ám sát bà ấy,” cụ Doge nói với một nỗ lực dũng cảm biểu lộ sự khinh miệt. “Sao lại không nhỉ?”

“Ừ, Ariana rất có thể vùng vẫy trong tuyệt vọng để tìm tự do và đã giết Kendra trong cuộc đấu tranh đó,” bà dì Muriel nói với vẻ đầy suy tư. “Cứ lắc đầu tùy thích, anh Elphias à. Anh có mặt trong đám tang Ariana, đúng không?”

“Đúng,” cụ Doge nói qua đôi môi run run. “Và tôi không thể nhớ có sự kiện nào lại thảm thiết hơn thế. Trái tim anh Albus tan nát.”

“Không phải trái tim ổng là thứ duy nhất tan nát. Chẳng phải Aberforth đã đấm gãy mũi Albus giữa chừng tang lễ sao?”

Nếu trước đó cụ Doge đã tỏ ra hãi hùng, thì so với lúc này nỗi hãi hùng đó chẳng là gì cả. Bà dì Muriel có lẽ đã đâm trúng cụ. Bà cười khành khạch lớn hơn và nốc thêm một ngụm rượu nữa, rượu nhễu cả xuống cằm bà.

“Sao bà...” cụ Doge nghẹn ngào.

“Má tôi rất thân với bà lão Bathilda Bagshot,” bà dì Muriel vui vẻ nói. “Bà Bathilda đã miêu tả toàn bộ câu chuyện cho má tôi trong khi tôi lén nghe ở cửa. Một trận cãi lộn tưng bừng bên cỗ quan tài. Cứ như bà Bathilda kể, thì Aberforth hét lên rằng Ariana chết hoàn toàn là do lỗi của Albus, rồi dộng vào mặt ông anh. Theo lời Bathilda, Albus thậm chí không tự vệ, và riêng chi tiết đó cũng đã kỳ lạ. Albus có thể tiêu diệt Aberfoth trong một trận đấu tay đôi cho dù hai tay bị trói sau lưng mà.”

Bà dì Muriel nốc thêm nhiều sâm banh nữa. Dường như việc nhắc lại chuyện tai tiếng xưa lắc này khiến bà phấn chấn bao nhiêu thì gây kinh hoàng cho cụ Doge bấy nhiêu. Harry không biết nghĩ ra sao, tin cái gì. Nó muốn biết sự thật, nhưng cụ Doge chỉ ngồi đó mà thều thào yếu ớt là Ariana bị bệnh. Harry khó mà tin nổi rằng cụ Dumbledore lại không can thiệp gì nếu một hành động tàn ác như vậy xảy ra trong chính ngôi nhà của cụ, nhưng chắc chắn phải có điều gì đó kỳ quái trong câu chuyện.

“Và ta nói cho cháu biết thêm chuyện nữa,” bà dì Muriel nói, nấc cụt nho nhỏ khi hạ cái ly của bà xuống. “Ta nghĩ bà Bathilda đã xì ra cái thâm cung bí sử đó cho Rita Skeeter. Tất cả những ám chỉ trong bài phỏng vấn của Skeeter về một nguồn tin quan trọng thân cận với gia đình Dumbledore... có trời biết bả đã ở đó suốt từ đầu tới cuối vụ Ariana, và vậy là khớp.”

“Bà Bathilda không bao giờ nói với Rita Skeeter!” Cụ Doge thì thào.

“Bathilda Bagshot à?” Harry hỏi, “Tác giả cuốn Một Lịch Sử Pháp Thuật?”

Cái tên đó được in trên bìa một trong những cuốn sách giáo khoa của Harry, mặc dù phải thừa nhận đó không phải là cuốn sách nó đọc say mê cho lắm.

“Phải,” cụ Doge nói, níu lấy câu hỏi của Harry như một người chết đuối níu lấy phao cứu mạng. “Một sử gia pháp thuật tài giỏi nhất và là một người bạn lâu đời của cụ Dumbledore.”

“Tôi nghe nói dạo này lẩm cẩm rồi,” bà dì Muriel phấn khởi nói.

“Nếu vậy thì Skeeter lại càng thiếu trung thực khi lợi dụng bà ấy,” cụ Doge nói, “và như thế Bathilda có nói ra điều gì cũng không thể tin cậy được.”

“Ôi, có những cách gợi cho nhớ lại được chứ, mà tôi chắc chắn Rita biết mọi cách,” bà dì Muriel nói. “Nhưng ngay cả như Bathilda có hoàn toàn ngớ ngẩn, tôi chắc bà ta vẫn còn những hình ảnh cũ, có thể cả thư từ. Bả quen biết gia đình Dumbledore bao nhiêu năm trời mà... Đáng công bỏ ra làm một chuyến đi tới Thung lũng Godric, tôi cho là vậy.”

Harry, đang hớp từng ngụm bia bơ, bỗng phát sặc. Cụ Doge đấm đấm lên lưng nó trong khi nó ho, nhìn bà dì Muriel qua đôi mắt đang ứa lệ. Khi đã kiểm soát lại được giọng nói của mình, nó hỏi, “Bà Bathilda sống ở Thung lũng Godric à?”

“Ừ, đúng. Bả ở đó mãn đời! Gia đình Dumbledore dọn đến đó sau khi ông Percival bị đi tù, và bà ta trở thành hàng xóm của họ.”

“Gia đình cụ Dumbledore đã sống ở Thung lũng Godric sao?”

“Đúng đó, Barry, ta vừa mới nói vậy,” bà dì Muriel nói giọng bực mình.

Harry cảm thấy cạn kiệt, trống rỗng. Trong suốt sáu năm trời, cụ Dumbledore chưa một lần nào nói với Harry là cả hai đều từng sống và mất mát người thân ở Thung lũng Godric. Tại sao? Mẹ Lily và ba James của nó có được chôn gần mẹ và em gái cụ Dumbledore không? Cụ Dumbledore có đi thăm viếng mộ mẹ và em gái, thậm chí bước ngang qua mộ phần của mẹ Lily và ba James khi viếng mộ người thân không? Và cụ chưa bao giờ nói với Harry tới một lần... chưa bao giờ buồn nói tới...

Và tại sao điều đó lại quan trọng như vậy, Harry không thể giải thích cho chính mình, nhưng nó cảm thấy việc không nói cho nó biết là hai người có chung chốn ấy, chung những trải nghiệm giống nhau thì cũng gần như một lời dối trá. Nó đăm đăm nhìn ra phía trước, gần như không để ý những việc đang diễn ra chung quanh, và không nhận ra Hermione đã rời khỏi đám đông mãi tới khi cô nàng kéo cái ghế ngồi xuống bên cạnh nó.

“Mình thiệt tình không thể nhảy nữa,” cô nàng thở hổn hển, cởi một chiếc giày ra và xoa bóp lòng bàn chân. “Ron đi kiếm thêm bia bơ rồi. Hơi kỳ quái. Mình vừa mới thấy anh Viktor đùng đùng bỏ đi khỏi chỗ cha của Luna, có vẻ như hai người vừa cãi lộn...” Hermione hạ giọng, chăm chú nhìn nó, “Harry, bồ có sao không?”

Harry chưa biết bắt đầu từ đâu, nhưng không hề gì. Ngay lúc đó, một cái gì vừa to vừa bạc trắng rơi xuyên qua tán rạp rớt xuống sàn nhảy. Thanh nhã và trắng bóc, con linh miêu nhẹ nhàng đáp xuống giữa đám người khiêu vũ kinh ngạc. Những cái đầu ngoảnh lại, trong khi những người ở gần con linh miêu nhất cứng đờ ra ngơ ngẩn giữa chừng điệu nhảy. Đột ngột miệng Thần Hộ mệnh há rộng và nói bằng giọng chậm rãi, sâu và to của chú Kingsley Shacklebolt.

“Bộ đã sụp đổ. Scrimgeour đã chết. Chúng đang đến.”

Chương Chín

Một nơi để trốn

Harry và Hermione lao mình vào đám đông hoảng loạn. Khách khứa phóng chạy về mọi hướng; nhiều người Độn thổ; bùa phép bảo vệ ếm quanh Hang Sóc đã bị phá giải.

“Ron!” Hermione kêu. “Ron, bồ ở đâu?”

Khi hai đứa nó chen lách băng qua được sàn nhảy, Harry nhìn thấy những hình bóng khoác áo choàng và đeo mặt nạ xuất hiện trong đám đông; rồi nó thấy thầy Lupin và cô Tonks, đũa phép giơ cao, và nó nghe cả hai người đó thét, “Che chắn!”, một tiếng kêu dội vang khắp mọi phía.

“Ron! Ron ơi!” Hermione gọi, nửa như khóc khi cô bé và Harry bị những người khách kinh hoảng xô đẩy: Harry nắm chặt tay cô bé để chắc chắn tụi nó không bị tách ra khi một luồng sáng phóng xẹt qua trên đầu tụi nó, có thể là bùa bảo vệ hay cái gì đó hung ác hơn, nó không biết được...

Và Ron kìa. Nó chụp cánh tay kia của Hermione, và Harry cảm thấy cô bé xoay tại chỗ; ánh sáng và âm thanh biến mất khi bóng tối phủ chụp xuống nó; nó chỉ còn cảm nhận được bàn tay Hermione khi nó chen qua không gian và thời gian, xa khỏi Hang Sóc, xa khỏi bọn Tử Thần Thực Tử đang đổ bộ, có lẽ, xa khỏi chính Voldemort...

“Tụi mình đang ở đâu?” Giọng của Ron vang lên.

Harry mở mắt ra. Trong một thoáng, nó ngỡ tụi nó vẫn chưa rời khỏi đám cưới; tụi nó dường như vẫn còn ở giữa đám đông.

“Đường Tottenham Court,” Hermione thở hổn hển. “Đi, cứ đi tới, tụi mình cần tìm chỗ cho hai bồ thay đồ.”

Harry làm y như cô bé bảo. Tụi nó nửa đi nửa chạy ngược lên con đường rộng tối thui đông đúc những kẻ chơi bời ban đêm và hai bên đường san sát cửa tiệm đã đóng cửa, trên đầu tụi nó sao đêm lấp lánh. Một chiếc xe buýt hai tầng ầm ầm chạy ào qua và một nhóm dân nhậu vui nhộn trố mắt ngó bỡn cợt khi tụi nó đi ngang; Harry và Ron vẫn còn mặc áo chùng lễ.

“Hermione, tụi mình đâu có đồ gì để thay ra?” Ron nói với cô bé, khi một phụ nữ trẻ nhìn nó và bật ra tiếng cười khụt khịt khàn khàn.

“Tại sao mình không nhớ mà đem theo tấm Áo khoác Tàng hình chứ?” Harry nói, trong lòng thầm nguyền rủa sự ngu ngốc của chính mình. “Suốt năm ngoái mình luôn mang theo nó bên mình, vậy mà...”

“Không sao, mình có tấm Áo khoác Tàng hình, và mình có quần áo cho cả hai người đây,” Hermione nói. “Chỉ cần cố gắng và hành động tự nhiên cho đến khi... chỗ này chắc được.”

Cô bé dẫn tụi nó đi xuống một con đường ngang, rồi đi vào một mái che tạm trong một cái hẻm âm u.

“Khi bồ nói bồ có tấm Áo khoác, và quần áo...” Harry nói, không hài lòng nhìn Hermione, cô bé không mang theo gì khác ngoài cái túi xách kết bằng hột cườm nhỏ xíu, giờ đây cô bé đang lục lọi cái túi đó.

“Thì có ngay, đây nè,” Hermione nói, và trước sự ngạc nhiên cùng cực của Ron và Harry, cô bé lấy ra một cái quần bò, một cái áo thun, mấy chiếc vớ nâu, và cuối cùng là tấm Áo khoác Tàng hình.

“Làm cách quỷ nào...”

“Bùa Mở Rộng Không Thể Dò Ra,” Hermione nói. “Phức tạp, nhưng mình tin là mình đã làm đúng; đại khái là mình đã xoay sở nhét hết mọi thứ tụi mình cần vô đây,” cô bé lắc nhẹ cái túi xách trông-có-vẻ-mong-manh và nó kêu như thể một thùng xe vận tải chở một mớ đồ vật nặng nề lăn lông lốc bên trong. “Ôi, khỉ, ắt là mấy cuốn sách,” cô bé nói, ngó vô túi, “và mình đã xếp chúng ngăn nắp theo từng loại rồi ấy chớ... Mà thôi... Harry, bồ nên mặc Áo khoác Tàng hình vào. Ron, bồ thay đồ nhanh lên...”

“Bồ chuẩn bị tất cả những thứ này từ hồi nào?” Harry hỏi trong khi Ron cởi áo chùng của nó ra.

“Mình đã nói với bồ hồi ở Hang Sóc, mình đã sắp xếp xong hành lý cần thiết mấy ngày rồi, bồ biết mà, trong trường hợp tụi mình cần ra đi đột xuất. Harry à, mình sắp xếp cái ba lô của bồ hồi sáng, sau khi bồ thay đồ, và bỏ nó vô trong này rồi... chẳng là mình có một cảm giác...”

“Bồ khiến mình ngạc nhiên quá, thiệt đó,” Ron vừa nói vừa đưa cô bé cái áo chùng đã được cuộn lại.

“Cám ơn bồ,” Hermione nói, cố nở một nụ cười khi cô bé nhét cuộn áo vào trong cái túi. “Harry, làm ơn mặc Áo khoác vào!”

Harry quăng tấm Áo khoác Tàng hình lên vai rồi kéo nón trùm qua đầu, biến mất ngay. Giờ nó mới bắt đầu nhận thức được chuyện gì đã xảy ra.

“Những người khác... mọi người ở đám cưới...”

“Tụi mình không thể lo chuyện đó lúc này,” Hermione thì thầm. “Harry à, bồ mới là kẻ bị bọn chúng truy lùng, và nếu tụi mình quay trở lại thì chỉ khiến cho mọi người bị nguy hiểm thêm mà thôi.”

“Hermione nói đúng,” Ron nói, nó dường như biết Harry sắp cãi lại, cho dù nó không thể nhìn thấy mặt Harry. “Hầu hết thành viên Hội Phượng Hoàng đều có mặt ở đó, họ sẽ bảo vệ mọi người.”

Harry gật đầu, rồi nhớ ra hai đứa kia không thể thấy nó, bèn nói: “Ừ.” Nhưng nó nghĩ đến Ginny, và nỗi lo sợ lại sôi sục như a-xít trong bao tử nó.

“Đi thôi, mình nghĩ tụi mình cứ tiếp tục đi,” Hermione nói.

Tụi nó đi ngược lại con đường ngang rồi trở lên con đường chính, một nhóm đàn ông ở lề đường bên kia đang nghêu ngao hát, chân nam đá chân xiêu.

“Chỉ là tò mò thôi, tại sao lại là đường Tottenham Court?” Ron hỏi Hermione.

“Mình không biết, chẳng qua nó chợt nảy ra trong đầu mình, nhưng chắc chắn là trong thế giới Muggle tụi mình sẽ an toàn hơn, bọn chúng sẽ không ngờ tụi mình tới đây.”

“Đúng,” Ron nói, nhìn quanh quất, “nhưng bồ không cảm thấy hơi... tục à?”

“Chứ còn đâu khác nữa?” Hermione hỏi, khép nép co người lại khi bọn đàn ông bên kia đường huýt gió chọc ghẹo cô bé. “Tụi mình đừng hòng đặt phòng ở quán Cái Vạc Lủng, đúng không? Và Quảng trường Grimmauld cũng bị loại nếu lão Snape có thể vào được nơi đó... Mình cho là tụi mình có thể thử đến nhà ba má mình, mặc dù mình nghĩ cũng có nguy cơ bọn chúng lục soát nơi đó... Ôi, ước gì mấy thằng kia khớp mỏ lại!”

“Chịu không, cưng?” Gã xỉn nhất trong đám đàn ông bên kia đường đang gào lên. “Khoái nhậu hông? Bỏ thằng tóc đỏ qua đây làm một xị!”

“Tụi mình kiếm chỗ nào ngồi đi,” Hermione vội vàng nói khi Ron há miệng toan hét trả lại bọn bên kia đường. “Kìa, chỗ này chắc được, vô đây!”

Đó là một quán ăn nhỏ, nhếch nhác, mở cửa thâu đêm. Tất cả mặt bàn ốp mi-ca đều phủ một lớp mỏng dầu mỡ, nhưng được một cái là quán vắng hoe. Harry lẻn vào ngồi trước trong một ô ngăn, Ron ngồi xuống bên cạnh nó, đối diện với Hermione. Cô bé ngồi quay lưng lại cửa ra vào và không ưa vị trí này chút nào. Cô bé ngoái nhìn ra sau thường xuyên đến nỗi trông có vẻ như bị vẹo. Harry không thích bị ngồi yên một chỗ; di chuyển tạo cho nó ảo tưởng là tụi nó có một mục tiêu. Dưới tấm Áo khoác Tàng hình nó có thể cảm thấy những tác dụng cuối cùng của thuốc Đa Quả dịch đang tiêu tan trong người nó, hai tay nó đã trở lại hình dạng và chiều dài bình thường. Nó lấy cặp mắt kiếng ra khỏi túi áo và đeo trở lại.

Một hay hai phút sau, Ron nói, “Mấy bồ biết không, tụi mình ở đây thì không xa quán Cái Vạc Lủng cho lắm, nó ở trên đường Charing Cross...”

“Ron, tụi mình không thể!” Hermione nói ngay.

“Không phải đến đó ở, mà để biết coi chuyện gì đang diễn ra!”

“Tụi mình biết chuyện gì đang diễn ra mà! Voldemort đã chiếm được Bộ Pháp thuật, còn chuyện gì tụi mình cần biết nữa?”

“Thôi được, thôi được, chỉ là có ý kiến vậy thôi.”

Tụi nó rơi vào một sự im lặng bứt rứt. Cô hầu bàn nhai kẹo cao su lệt xệt đi tới và Hermione kêu hai ly cà phê sữa. Bởi vì Harry vô hình, nếu gọi cho nó một ly thì kỳ quá. Hai công nhân lực lưỡng bước vào quán và nhét thân chúng vào ô ngăn kế bên. Hermione hạ thấp giọng thì thào.

“Mình đề nghị tụi mình kiếm một chỗ Độn thổ ra vùng quê. Khi ra tới đó rồi, tụi mình có thể gởi thư cho Hội.”

“Bộ bồ tạo được cái món Thần Hộ mệnh nói đó hả?”

“Mình vẫn thực tập lâu nay và mình tin là làm được.”

“Được, miễn sao không khiến họ bị rắc rối, mặc dù rất có thể họ đã bị bắt rồi. Trời ơi, nếu vậy thì thiệt là kinh hoàng,” Ron nói thêm sau một ngụm cà phê xam xám nổi bọt lều bều. Cô hầu bàn đã nghe lóm; cô ta ném cho Ron một ánh mắt ghê tởm khi lệt xệt quay ra tiếp những người khách mới đến. Gã bự con hơn trong hai gã công nhân có mái tóc vàng và đúng là khổng lồ, Harry nhìn gã, gã xua tay cho cô hầu bàn đi. Cô ta trố mắt, thộn ra.

“Vậy tụi mình đi đi, mình không muốn uống thứ nước cống này,” Ron nói. “Hermione, bồ có tiền Muggle để trả không?”

“Có, mình đã rút hết tiền tiết kiệm Kiến thiết Xã hội trước khi đến Hang Sóc. Mình cá là tất cả tiền lẻ nằm ở dưới đáy,” Hermione thở dài, vói lấy cái túi xách hột cườm.

Hai gã công nhân đồng loạt cử động y như nhau, và Harry phản ứng y như chúng mà không kịp ý thức. Cả ba đều rút cây đũa của mỗi người ra. Ron, nhận ra chuyện gì đang diễn ra trễ mất một giây, nó nhào qua mặt bàn, đẩy Hermione ngã xuống băng ghế. Sức mạnh bùa phép của bọn Tử Thần Thực Tử làm tan nát tung tóe mảng gạch lát tường chỗ mà trước đó một giây là cái đầu Ron, trong khi ấy Harry, vẫn vô hình, gào lên, “Đánh Choáng!”

Tên Tử Thần Thực Tử tóc vàng lớn xác bị một tia sáng đỏ đánh trúng ngay giữa mặt: hắn đổ ụp qua một bên, bất tỉnh. Gã đồng bọn của hắn, không thể nhìn thấy ai vừa phóng bùa, bèn nhắm vào Ron một lần nữa: những sợi dây thừng đen bóng vọt ra từ đầu cây đũa phép của hắn trói gô Ron từ đầu đến chân - cô hầu bàn thét lên và chạy ra cửa - Harry phóng thêm một thần chú Đánh Choáng nhắm vào tên Tử Thần Thực Tử có bộ mặt nhăn nhúm đã trói gô Ron, nhưng thần chú không trúng hắn, mà trúng cửa sổ và dội lại trúng cô hầu bàn, cô này lăn đùng ra xỉu trước cánh cửa.

“Nổ Tung!” Tên Tử Thần Thực Tử rống lên, và cái bàn phía sau cái bàn Harry đang đứng nổ tung: sức mạnh của vụ nổ tống mạnh nó vô tường và nó cảm thấy cây đũa phép vuột khỏi tay nó và tấm Áo khoác Tàng hình tuột khỏi người nó.

“Tê Liệt Toàn Thân!” Từ đâu không thấy, Hermione hét lên, và tên Tử Thần Thực Tử đổ nhào tới trước như một bức tượng, rớt xuống sàn một cái rầm trên đống xà bần những bàn ghế, cà phê, đồ sứ bể kêu răng rắc. Hermione bò ra khỏi gầm ghế, rũ bỏ những mảnh vỡ của cái gạt tàn thuốc lá bằng thủy tinh bám trên tóc cô bé và rùng mình.

“Cắt... cắt rời!” Cô bé vừa hô vừa chĩa cây đũa phép vào Ron, nó rống lên đau đớn khi Hermione rạch tét đầu gối cái quần bò của nó để lộ một vết cắt sâu. “Ôi, mình xin lỗi, Ron, tay mình run quá! Cắt Rời!”

Những mẩu dây thừng đứt rớt ra. Ron đứng lên, lắc hai cánh tay để chúng có lại cảm giác. Harry lượm cây đũa phép của nó lên và ngoi lên khỏi đống đổ nát, đến chỗ gã Tử Thần Thực Tử tóc vàng to xác đang nằm vắt ngang cái băng ghế.

“Lẽ ra mình phải nhận ra hắn, hắn có mặt ở đó vào đêm thầy Dumbledore chết,” Harry nói. Nó nắm chân tên Tử Thần Thực Tử da sậm hơn và lật ngửa hắn ra; mắt hắn đảo thật nhanh từ Harry qua Ron và Hermione.

“Hắn là Dolohov,” Ron nói. “Mình nhận ra hắn nhờ những tờ bố cáo truy nã cũ. Mình nghĩ tên bự con kia là Thorfinn Rowle.”

“Đừng bận tâm đến tên họ chúng!” Hermione nói, hơi bấn loạn. “Làm cách nào chúng tìm ra được tụi mình? Tụi mình sẽ phải làm sao đây?”

Chẳng hiểu sao nhưng cơn bấn loạn của Hermione lại khiến đầu óc Harry sáng suốt hẳn.

“Khóa cửa lại,” nó bảo Hermione. “Và Ron, tắt đèn đi.”

Nó ngó xuống tên Dolohov nằm cứng đơ, suy nghĩ thật nhanh khi cửa được khóa và Ron dùng cái Tắt sáng để nhấn cả quán ăn vào bóng tối. Harry có thể nghe lũ đàn ông chọc ghẹo Hermione lúc nãy đang kêu réo một cô gái khác ở xa xa.

“Tụi mình phải làm gì với bọn chúng đây?” Ron thì thầm với Harry trong bóng tối; rồi, nói nhỏ hơn nữa, “Giết chúng không? Chúng muốn giết tụi mình. Chúng vừa cố làm chuyện đó.”

Hermione rùng mình lùi lại một bước. Harry lắc đầu.

“Tụi mình chỉ cần xóa bỏ trí nhớ của chúng,” Harry nói. “Như vậy tốt hơn, chúng sẽ bị loại ra ngoài vòng chiến. Nếu tụi mình giết chúng thì việc tụi mình có mặt ở đây sẽ bị lộ.”

“Bồ là chỉ huy,” Ron nói, nghe như thể nó thở phào một cái thiệt mạnh. “Nhưng mình chưa từng xài bùa Ký Ức lần nào.”

“Mình cũng chưa,” Hermione nói, “nhưng mình biết lý thuyết.”

Cô bé hít một hơi thở sâu trầm tĩnh, rồi chĩa cây đũa phép vào trán của Dolohov và nói, “Lú lẫn!”

Lập tức mắt Dolohov trở nên mơ màng, thần sắc không tập trung.

“Giỏi quá!” Harry nói, vỗ nhẹ tay lên lưng cô bé. “Bồ cứ săn sóc tiếp tên kia và cô hầu bàn trong khi mình và Ron dọn dẹp.”

“Dọn dẹp?” Ron nói, nhìn quanh cái quán ăn đã bị tan hoang một phần. “Để chi?”

“Bồ không tính đến việc bọn chúng sẽ thắc mắc chuyện gì xảy ra khi tỉnh dậy nhìn quanh thấy mình ở một nơi tan hoang như vừa bị dội bom à?”

“Ờ phải đó...”

Ron chật vật một lúc mới rút được cây đũa phép của nó ra khỏi túi quần.

“Khỏi thắc mắc tại sao mình không thể lấy nó ra được, Hermione à, bồ lấy nhầm cái quần cũ của mình, nó chật căng.”

“Ôi, mình xin lỗi,” Hermione ré lên, và trong khi cô bé lôi cô hầu bàn ra khỏi chỗ cho ngoài cửa sổ khỏi nhìn thấy được, Harry nghe cô bé rù rì đề nghị Ron một chỗ khác để nhét cây đũa phép.

Khi quán ăn được phục hồi lại nguyên trạng trước đây, tụi nó khiêng hai tên Tử Thần Thực Tử trở vô ô ngăn của chúng và đặt chúng ngồi đối diện nhau.

“Nhưng làm sao chúng lại tìm ra được tụi mình?” Hermione hỏi, nhìn hết gã lờ đờ này đến gã lờ đờ kia. “Làm sao chúng biết được chúng ta ở đâu?”

Cô bé quay qua Harry.

“Bồ... bồ có nghĩ là bồ vẫn còn mang Dấu Hiện trong người không, Harry?”

“Nó không còn đâu,” Ron nói. “Dấu Hiện hết linh khi đúng mười bảy tuổi, đó là luật pháp thuật, bùa đó không thể ếm lên người trưởng thành.”

“Đó là bồ biết có thế,” Hermione nói. “Còn nếu bọn Tử Thần Thực Tử tìm cách ếm nó lên một người mười bảy tuổi thì sao?”

“Nhưng Harry đâu có đến gần bất cứ tên Tử Thần Thực Tử nào trong vòng hăm bốn giờ qua. Ai có thể ếm trở lại Dấu Hiện lên nó chứ?”

Hermione không trả lời. Harry cảm thấy như nó bị ô nhiễm, nhơ bẩn: có thực đó là cách mà bọn Tử Thần Thực Tử đã tìm ra được tụi nó không?

“Nếu mình không thể dùng pháp thuật, và các bạn cũng không thể dùng pháp thuật gần mình mà không để lộ vị trí của tụi mình...” nó bắt đầu nói.

“Tụi mình không thể tách ra!” Hermione quả quyết nói.

“Tụi mình cần một chỗ an toàn để trốn,” Ron nói, “để có thì giờ suy nghĩ thấu đáo chuyện này.”

“Quảng trường Grimmauld,” Harry nói.

Hai đứa kia há hốc miệng ra.

“Đừng ngu, Harry, lão Snape có thể vô đó.”

“Ba của Ron nói là họ đã ếm bùa độc chống lại hắn - mà nếu như bùa không công hiệu,” nó nói rấn tới vì Hermione mở miệng cãi lại. “Thì sao? Tôi thề, tôi không mong gì hơn là gặp lão Snape!”

“Nhưng...”

“Hermione à, còn chỗ nào khác nữa đâu? Đó là nơi tốt nhất mà tụi mình có thể có được. Lão Snape chỉ là một Tử Thần Thực Tử. Nếu mình vẫn còn mang Dấu Hiện trong người, thì dù cho mình có đi đâu nữa thì cũng sẽ có cả đám bọn chúng bám theo tụi mình.”

Hermione không thể tranh cãi, mặc dù tỏ vẻ như thể sẽ cãi. Trong khi cô bé mở chốt cánh cửa quán ăn, Ron bấm cái Tắt sáng để trả lại ánh sáng lại cho quán ăn. Xong, khi Harry đếm đến ba, tụi nó giải bùa đã ếm lên ba nạn nhân của tụi nó, và trước khi cô hầu bàn hay tên nào trong hai tên Tử Thần Thực Tử chẳng thể làm gì khác hơn là vặn mình ngái ngủ, Ron, Harry và Hermione đã xoay người tại chỗ và biến mất vào bóng tối dày đặc một lần nữa.

Vài giây sau buồng phổi của Harry nở ra một cách đầy cảm kích và nó mở mắt ra: giờ đây tụi nó đang đứng giữa một quảng trường nhếch nhác và nhỏ bé quen thuộc. Những tòa nhà cao xiêu vẹo ngó xuống tụi nó từ khắp mọi phía. Tụi nó nhìn thấy ngôi nhà số mười hai bởi vì đã được cụ Dumbledore, Người Giữ Bí Mật của ngôi nhà, nói cho biết về sự hiện hữu của ngôi nhà đó, và tụi nó vội vã đi về phía ngôi nhà, cứ vài thước lại kiểm tra coi có bị theo dõi hay quan sát không. Tụi nó chạy đua lên bậc thềm đá, và Harry gõ lên cánh cửa trước một cái bằng cây đũa phép của mình. Tụi nó nghe một chuỗi tiếng lách cách của kim loại, tiếng loảng xoảng của dây xích, rồi cánh cửa cọt kẹt mở bung và cả đám vội vã bước qua ngưỡng cửa.

Khi Harry đóng cánh cửa lại sau lưng, những bóng đèn kiểu xưa thắp bằng khí bừng sáng lên, phát ra ánh sáng bập bùng dọc theo chiều dài của hành lang. Cảnh trông y như trong trí nhớ của Harry: kỳ bí, đầy mạng nhện, hình thù những cái đầu gia tinh treo trên tường đổ những cái bóng kỳ cục xuống cầu thang. Những bức màn dài sẫm màu che kín bức chân dung của bà mẹ chú Sirius. Vật duy nhất không nằm đúng vị trí là cái đế cắm dù hình chân con quỷ khổng lồ, nằm lăn lóc như thể cô Tonks vừa đá ngã nó một lần nữa.

“Mình nghĩ có ai đó vừa đến đây,” Hermione thì thầm, chỉ về phía cái đế cắm dù...

“Cái đó có thể đã xảy ra từ lúc Hội rút đi,” Ron rù rì đáp lại.

“Vậy mấy lá bùa độc Hội ếm để chống lão Snape ở đâu?” Harry hỏi.

“Có lẽ chúng chỉ được kích hoạt khi lão xuất hiện?” Ron đưa ra giả thuyết.

Dù vậy tụi nó vẫn đứng chúm chụm nhau trên tấm thảm chùi chân, lưng tựa vào cánh cửa, không dám đi vô sâu trong nhà.

“Đi, tụi mình không thể đứng đây hoài,” Harry nói, và nó tiến tới một bước.

“Severus Snape?”

Giọng thầy Moody Mắt Điên thì thầm phát ra từ bóng tối, khiến cả ba đứa nhảy lùi lại vì khiếp đảm. “Tụi con không phải lão Snape,” Harry cau có, và ngay sau đó một cái gì bỗng vút qua trên đầu nó như luồng khí lạnh rồi lưỡi của nó tự uốn ngược vô trong khiến nó không thể nói được. Tuy nhiên nó chưa kịp dò dẫm bên trong miệng mình thì cái lưỡi đã tự duỗi trở ra.

Hai đứa kia dường như cũng vừa trải qua cái cảm giác khó chịu tương tự. Ron đang phát ra tiếng nôn ọe; Hermione lắp bắp, “Cái... cái đó ắt là... là phép nguyền Cột Lưỡi mà thầy Mắt Điên ếm để chống lão Snape!”

Rón rén, Harry làm một bước tới trước. Có cái gì đó dịch chuyển trong bóng tối cuối hành lang, và trong khi chưa đứa nào nói thêm được một lời thì một cái bóng trồi lên khỏi tấm thảm, cao, màu xám xịt, và khủng khiếp; Hermione thét lên và bà Black cũng thét lên, bức màn che chân dung bà bay lật ra; cái bóng xám đang lướt về phía tụi nó, càng lúc càng nhanh, bộ râu và mái tóc dài tới eo lướt theo phía sau, bộ mặt rúm ró không da thịt với hai hốc mắt trống rỗng: quen thuộc một cách hãi hùng, biến đổi một cách dễ sợ, nó giơ một cánh tay ruỗng lên chỉ vào Harry.

“Không!” Harry hét, và mặc dù đã giơ cây đũa phép lên nhưng nó chẳng nghĩ ra được câu thần chú nào, “Không! Không phải tụi con! Tụi con không giết thầy...”

Từ giết vừa thốt ra, cái bóng nổ tan thành một đám mây bụi thật to: ho, chảy nước mắt, Harry nhìn quanh thấy Hermione ngồi thụp xuống sàn gần cánh cửa, hai cánh tay vòng qua đầu, và Ron, run rẩy từ đầu đến chân, đang vụng về vỗ vai cô bé mà nói: “H... hổng sao... N... nó biến rồi...”

Bụi xoáy quanh Harry như sương mù, bám lấy ánh đèn khí màu xanh lơ, trong khi bà Black tiếp tục thét.

“Đồ Máu bùn, bẩn thỉu, nhơ nhuốc, dấu bất lương, vết ô nhục trên ngôi nhà của ông cha ta...”

“CÂM NGAY!” Harry gào lên, chĩa cây đũa phép vào bà ta, và kèm theo một tiếng nổ cùng những tia sáng đỏ lóe ra, bức màn khép lại, khiến bà ta nín luôn.

“Đó... đó là...,” Hermione thút thít khóc khi Ron đỡ cô bé đứng lên.

“Ừ,” Harry nói, “nhưng không thực sự là thầy ấy, phải không? Chỉ là cái gì đó để hù dọa lão Snape.”

Harry tự hỏi không biết cái đó có linh nghiệm không, hay lão Snape đã đánh bạt cái bóng-kinh hoàng qua một bên cũng dễ dàng như lão đã giết cụ Dumbledore thật? Thần kinh vẫn còn căng thẳng, nó dẫn hai đứa kia đi dọc hành lang, nửa chờ đợi một nỗi kinh hoàng khác tự phô ra, nhưng chẳng còn gì chuyển động nữa ngoại trừ một con chuột đang gậm nhấm miếng gỗ ốp chân tường.

“Trước khi đi xa hơn, mình nghĩ tụi mình nên kiểm tra,” Hermione thì thào, và cô bé giơ đũa phép lên nói, “Lộ người.”

Không có gì xảy ra.

“Ôi, bồ vừa mới bị một vố kinh hồn,” Ron nói giọng tử tế. “Cái đó để làm gì chứ?”

“Làm cái mà mình biểu nó làm!” Hermione nói hơi gắt gỏng. “Đó là thần chú để làm lộ ra sự có mặt của người ta, và như vậy hiện giờ ở đây không có ai khác, trừ tụi mình!”

“Và lão Bụi cũ nữa,” Ron nói, liếc đám bụi của tấm thảm nơi cái xác bụi đã trồi lên.

“Tụi mình lên lầu đi,” Hermione nói, ánh mắt kinh sợ vẫn còn nhìn về chỗ đó, và cô bé dẫn đầu đi lên cái cầu thang cọt kẹt để tới phòng khách trên lầu một.

Hermione vẫy cây đũa phép để thắp sáng những bóng đèn khí cũ kỹ, sau đó, rùng mình trong căn phòng trống vắng, cô bé ngồi thu lu trên cái ghế nệm dài, vòng tay ôm chặt lấy mình. Ron băng ngang căn phòng tới bên cửa sổ và vén tấm màn nhung dày qua một bên vài phân. “Không thấy ai ở ngoài kia,” nó tường thuật. “Và bồ nghĩ coi, nếu Harry vẫn còn mang Dấu Hiện thì chúng ắt đã theo tụi mình tới đây rồi. Mình biết là chúng không thể vô được trong nhà, nhưng... Có chuyện gì vậy, Harry?”

Harry thốt ra một tiếng kêu đau đớn: cái thẹo của nó lại thiêu đốt khi điều gì đó nhá xuyên qua óc nó như một tia sáng rực trên mặt nước. Nó thấy một cái bóng khổng lồ và cảm thấy một cơn cuồng nộ vốn không phải của nó lại đang nện khắp thân thể nó, dữ dội và nhanh như một cơn điện giật.

“Bồ thấy cái gì?” Ron hỏi, thúc giục Harry. “Bồ thấy hắn ở nhà mình hả?”

“Không, mình chỉ cảm thấy giận dữ... hắn giận ghê lắm...”

“Nhưng điều đó chắc là xảy ra ở Hang Sóc,” Ron nói to. “Còn gì nữa? Bồ có thấy gì không? Hắn đang nguyền rủa ai hả?”

“Không, mình chỉ cảm thấy giận dữ... Mình không thể nói được là...”

Harry cảm thấy bị dồn ép quá, đâm bối rối, và Hermione cũng chẳng giúp được gì khi cô bé nói bằng giọng kinh sợ, “Lại cái thẹo của bồ nữa hả? Nhưng đang xảy ra chuyện gì vậy? Mình tưởng mối liên kết đã được đóng lại rồi mà!”

“Nó đã đóng lại, được một thời gian,” Harry lầu bầu; cái thẹo của nó vẫn còn đau thốn, khiến nó khó tập trung. “Mình... Mình nghĩ nó bắt đầu nối lại mỗi khi hắn không tự chủ, đó là kiểu trước đây vẫn thường xảy ra...”

“Nhưng bồ phải đóng đầu óc của bồ lại!” Hermione nói giọng the thé. “Harry, thầy Dumbledore không muốn bồ dùng đến mối liên kết đó, thầy muốn bồ đóng nó lại, đó là lý do bồ nên dùng phép Bế Quan Bí Thuật! Nếu không Voldemort có thể nhồi vô đầu bồ những hình ảnh sai lạc, nhớ...”

“Ừ, tôi nhớ, cám ơn,” Harry nói qua hàm răng nghiến chặt; nó không cần Hermione bảo cho nó biết là Voldemort đã có lần dùng mối liên kết đồng-ngã giữa nó với hắn để đưa nó vào tròng, cũng không cần nói là việc đó đã đưa tới cái chết của chú Sirius. Nó ước gì đã không nói cho hai đứa kia biết điều nó đã nhìn thấy và cảm thấy; chuyện đó khiến cho Voldemort đáng sợ hơn, như thể hắn đang áp mình vô cửa sổ căn phòng, vậy mà cơn đau của cái thẹo lại nổi lên và nó phải chống chỏi: giống như chống lại cơn buồn nôn.

Nó quay lưng lại Ron và Hermione, giả đò như xem xét tấm thảm cũ thêu gia phả dòng họ Black treo trên tường. Chợt Hermione rú lên: Harry rút cây đũa phép ra một lần nữa và quay phắt lại để thấy một Thần Hộ mệnh màu trắng bạc đang lao qua cửa sổ căn phòng khách và đáp xuống sàn trước mặt tụi nó, ở đó Thần Hộ mệnh hiện hình thành một con chồn phát ra giọng nói của cha Ron.

“Gia đình bình an, đừng hồi âm, chúng ta đang bị canh chừng.”

Thần Hộ mệnh tan biến vào không trung, Ron để bật ra một âm thanh nửa như nức nở nửa như càu nhàu và thả người ngồi phịch xuống cái ghế nệm: Hermione đến ngồi bên nó, ôm chặt lấy cánh tay nó.

“Họ bình an, họ bình an mà!” Cô bé thì thầm, và Ron ôm ghì cô bé vừa khóc vừa cười.

“Harry,” Ron nói qua vai của Hermione, “Mình...”

“Không hề gì,” Harry nói, kiệt quệ vì cơn đau trong đầu. “Gia đình của bồ, dĩ nhiên bồ phải lo lắng. Mình cũng cảm thấy như vậy.” Nó nghĩ đến Ginny. “Mình cũng cảm thấy y như vậy.”

Cơn đau trong cái thẹo của nó lên tới đỉnh, thiêu đốt như lúc phát ra ở trong vườn của Hang Sóc. Nó mơ hồ nghe Hermione nói, “Mình không muốn ngủ một mình. Hay là tụi mình dùng mấy cái túi ngủ mình đem theo để ngủ tạm ở đây đêm nay nghe?”

Nó nghe Ron tán thành. Nó không thể chống chỏi với cơn đau lâu hơn nữa. Nó phải chịu thua.

“Buồng tắm,” nó thều thào, và bỏ đi ra khỏi phòng thật nhanh, gần như chạy.

Nó suýt không tới được: cài xong chốt cửa sau lưng bằng bàn tay run rẩy, nó ôm ghì lấy cái đầu nhức bưng bưng như búa bổ và té lăn xuống sàn phòng tắm, và rồi trong cơn thống khổ bùng nổ, nó cảm nhận cơn giận vốn không phải của nó đang độc chiếm tâm hồn nó, nó thấy một căn phòng chỉ được chiếu sáng bằng ánh lửa, và tên Tử Thần Thực Tử tóc vàng to tướng nằm trên sàn, quằn quại gào thét, và một cái bóng mong manh hơn đứng trùm bên trên gã, đũa phép chĩa thẳng ra, trong khi Harry nói bằng một giọng lạnh lùng tàn nhẫn cao the thé.

“Nữa, Rowle, hay ta kết thúc và để cho Nagini xơi mi? Chúa tể Voldemort không chắc là ngài sẽ tha thứ phen này... Mi vời ta trở lại vì điều này ư, nói cho ta biết là Harry Potter lại trốn thoát một phen nữa à? Draco, cho Rowle nếm thêm một lần nữa món khó xơi của chúng ta... Làm đi, nếu không thì chính mi sẽ nếm cơn thịnh nộ của ta!”

Một khúc củi rớt xuống đống lửa: ngọn lửa bùng lên, ánh lửa hắt qua một khuôn mặt nhọn trắng bệch khiếp đảm - với một cảm giác như trồi lên từ dưới đáy nước sâu, Harry cố hớp lấy không khí và mở mắt ra.

Nó đang nằm soãi tay dạng chân trên sàn lát cẩm thạch đen lạnh giá, mũi nó còn vài phân là chạm vào cái đuôi con bạch xà bệ đỡ cái bồn tắm to. Nó ngồi dậy. Gương mặt hốc hác mất hồn của Malfoy dường như cháy lên trong mắt nó. Harry phát ói vì điều mà nó vừa thấy, vì cái cách mà Voldemort đang sử dụng.

Có tiếng gõ đột ngột lên cửa, và Harry giật bắn người khi giọng nói của Hermione vang lên:

“Harry, bồ cần bàn chải răng của bồ không? Mình có nó đây.”

“Ừ, tuyệt, cám ơn nhé,” nó nói, cố gắng giữ giọng nói bình thường khi đứng lên mở cửa cho cô bé vào

Chương Mười

Câu chuyện của Kreacher

Harry thức giấc vào sớm hôm sau, nằm trong một cái túi ngủ trên sàn phòng khách. Một thẻo trời hé ra giữa hai tấm màn cửa sổ u ám. Thẻo trời ấy màu mực xanh loãng mát dịu, đâu đó giữa đêm và bình minh, và mọi thứ đều yên lặng, ngoại trừ tiếng thở sâu, chậm của Ron và Hermione.

Harry liếc qua những cái bóng lờ mờ tối tối của hai đứa bạn trên sàn bên cạnh nó. Ron đã nổi hứng ga lăng và nhất mực ép Hermione ngủ trên mấy cái gối lấy từ cái ghế nệm dài, vì vậy bóng của cô bé trùm lên bóng của Ron. Cánh tay của cô bé thõng xuống sàn, ngón tay cô bé chỉ cách ngón tay của Ron có vài phân. Harry tự hỏi phải chăng hai đứa nó đã ngủ thiếp đi trong lúc tay còn cầm tay nhau. Ý nghĩ này khiến nó cảm thấy cô đơn lạ lùng.

Nó ngước nhìn trần nhà âm u, chùm đèn treo bám đầy mạng nhện. Cách đây chưa đầy hai mươi bốn tiếng đồng hồ, nó còn đứng trong ánh sáng mặt trời ở cổng vào rạp cưới, chờ đón tiếp những người khách dự đám cưới. Hình ảnh đó dường như đã xa xưa bằng cả đời người rồi. Bây giờ chuyện gì sắp xảy ra? Nó nằm trên sàn và nghĩ đến những Trường Sinh Linh Giá, đến sứ mệnh khó khăn phức tạp đến nản lòng mà cụ Dumbledore đã giao lại cho nó... cụ Dumbledore...

Nỗi buồn vẫn xâm chiếm tâm hồn nó từ khi cụ Dumbledore qua đời giờ đây đã khác. Những lời cáo buộc mà nó nghe bà dì Muriel nói ra ở đám cưới dường như làm ổ trong óc nó như những thứ bệnh hoạn ảnh hưởng đến ký ức của nó về vị pháp sư từng được nó thần tượng hóa. Có lẽ nào cụ Dumbledore đã để cho những việc như vậy xảy ra? Chẳng lẽ nào cụ lại giống như Dudley, hả hê nhìn sự bỏ bê và ngược đãi, miễn là điều đó không ảnh hưởng đến bản thân mình? Chẳng lẽ nào cụ lại quay lưng với đứa em gái bị giam cầm và giấu giếm?

Harry nghĩ đến Thung lũng Godric, đến những nấm mộ ở đó mà cụ Dumbledore không bao giờ nhắc tới; nó nghĩ đến những món đồ bí mật được để lại không kèm lời giải thích trong di chúc của cụ Dumbledore, và sự giận dỗi phồng căng lên trong bóng tối. Tại sao cụ Dumbledore đã không nói cho nó biết? Tại sao cụ không chịu giải thích? Cụ Dumbledore có thực sự thương yêu lo lắng cho nó hay không? Hay là Harry chẳng qua chỉ là một dụng cụ cần được đánh bóng và mài giũa, nhưng không đáng tin cậy, không bao giờ được thổ lộ?

Harry không thể chịu đựng nổi việc nằm không ở đó quẩn quanh với những ý nghĩ đắng cay. Tha thiết muốn làm một cái gì đó để xao lãng, nó trườn ra khỏi cái túi ngủ, cầm lấy cây đũa phép, và bò ra khỏi phòng. Đến đầu cầu thang nó thì thầm “Thắp sáng,” và bắt đầu trèo lên cầu thang nhờ ánh sáng từ cây đũa phép.

Ở tầng thứ hai có căn phòng ngủ mà nó và Ron đã ngủ hồi tụi nó ở đây lần trước; nó liếc nhìn vào. Cửa tủ quần áo để mở và vải trải giường bị lật ra. Harry nhớ đến cái đế cắm dù lăn lóc ở tầng trệt. Ai đó đã lục soát căn nhà sau khi Hội dọn đi. Lão Snape chăng? Hay có lẽ lão Mundungus, kẻ đã chôm chĩa khá nhiều đồ đạc trong nhà từ trước lẫn sau khi chú Sirius qua đời? Harry chăm chú đưa mắt nhìn lên bức tranh mà đôi khi có chân dung cụ Phineas Nigellus Black - ông cố của chú Sirius - nhưng bức tranh trống trơn, chẳng cho thấy gì ngoài không gian trải ra trên tấm vải nền xám xịt. Hẳn là cụ Phineas Nigellus ngủ đêm trong phòng làm việc của hiệu trưởng trường Hogwarts.

Harry tiếp tục đi lên cầu thang cho đến khi lên tới tầng trên cùng, nơi chỉ có hai cánh cửa. Cánh cửa ngay trước mặt nó có gắn một biển tên ghi là Sirius. Trước đây Harry chưa bao giờ vào phòng ngủ của người cha đỡ đầu của nó. Nó đẩy cánh cửa ra, giơ cao cây đũa phép để ánh sáng tỏa ra rộng chừng nào tốt chừng nấy. Căn phòng rộng rãi và ắt là đã từng trang nhã. Có một cái giường rộng với đầu giường bằng gỗ chạm khắc, một cửa sổ cao được che bằng những tấm màn dài bằng nhung và một chùm đèn treo được bọc bằng một lớp bụi dày, những mẩu đèn cầy cháy sót vẫn còn trong những lỗ chân đèn, sáp nhễu đông đặc tựa những giọt sương giá. Một lớp bụi mỏng phủ lên những bức tranh trên tường và cái đầu giường; một mạng nhện giăng giữa chùm đèn treo và đầu tủ quần áo bằng gỗ rất to, và khi Harry tiến sâu hơn vào trong phòng, nó nghe tiếng tháo chạy nhốn nháo của bầy chuột bị quấy rầy.

Cậu thiếu niên Sirius đã dán đầy tường quá nhiều áp phích và tranh ảnh đến nỗi hiếm có mảng lụa xám bạc bọc tường nào còn lộ ra. Harry có thể đoán là ba má chú Sirius đã không thể nào gỡ được bùa Dính Vĩnh Viễn gắn những áp phích và tranh ảnh đó vô tường, bởi vì nó chắc chắn họ không thể nào tán thưởng nổi thẩm mỹ trang trí của cậu con trai. Chú Sirius hình như đã đi quá trớn trong việc chọc tức ba má. Rất nhiều cờ phướn biểu ngữ bự chần vần của nhà Gryffindor, màu đỏ tía và vàng kim phai mờ, như để nhấn mạnh sự khác biệt của chú với tất cả những người còn lại trong gia đình Slytherin. Rất nhiều hình xe gắn máy Muggle, và cũng có (Harry phải thán phục thần kinh của chú Sirius) rất nhiều hình quảng cáo các cô gái Muggle mặc đồ tắm hai mảnh. Harry có thể phân biệt họ là dân Muggle bởi vì họ ở đâu yên đấy trong tấm hình của mình, nụ cười đã héo và ánh mắt đờ đẫn đông cứng trên giấy. Điều này tương phản với một bức ảnh phù thủy duy nhất trên tường, tấm hình của bốn học sinh trường Hogwarts đứng quàng tay nhau, cười cợt với ống kính.

Một niềm vui bừng lên khi Harry nhận ra ba nó, mái tóc đen rối bời của ba chải lật ngược ra sau y như tóc Harry, và ba cũng đeo kiếng. Bên cạnh ba là chú Sirius, đẹp trai một cách phóng túng, gương mặt hơi kiêu, trẻ hơn nhiều và vui vẻ hơn nhiều so với gương mặt Harry từng thấy khi chú còn sống. Đứng bên phải chú Sirius là Pettigrew, thấp hơn hẳn một cái đầu, tròn trịa và mắt ươn ướt, tràn trề niềm vui sướng được gộp vô nhóm bạn chịu chơi nhất này, với những kẻ nổi loạn được ngưỡng mộ vô cùng là ba James và chú Sirius. Bên trái ba James là thầy Lupin, ngay cả hồi đó trông cũng đã có vẻ nhếch nhác, nhưng thầy cũng có cùng một vẻ mặt ngạc nhiên vui sướng khi thấy chính mình được yêu mến và được gộp vô nhóm, hay chẳng qua chỉ vì Harry đã biết sự tình như thế, nên nó đã nhìn ra những điều đó trong tấm hình? Nó tính gỡ tấm hình ra khỏi tường; suy cho cùng thì tấm hình bây giờ thuộc về nó rồi, - chú Sirius đã để lại mọi thứ cho nó - thế nhưng tấm hình không thèm nhúc nhích. Chú Sirius đã rất kỹ trong việc ngăn ba má chú trang hoàng lại căn phòng của mình.

Harry nhìn quanh sàn phòng. Bầu trời bên ngoài càng lúc càng sáng hơn. Một tia sáng để lộ ra giấy tờ, sách vở, và những đồ vật nho nhỏ vung vãi khắp tấm thảm. Rõ ràng là căn phòng của chú Sirius cũng đã bị lục lọi, mặc dù những thứ ở trong phòng có vẻ đã được thẩm định là hầu như, (nếu không nói là hoàn toàn), không có giá trị. Vài quyển sách đã bị xốc tung thô bạo đến nỗi sút cả bìa và nhiều trang linh tinh rơi rớt khắp sàn.

Harry cúi xuống, lượm lên vài tờ giấy, và xem xét chúng. Nó nhận ra có một tờ của bản in cũ, cuốn Một Lịch Sử Pháp Thuật của Bathilda Bagshot, và một tờ khác thuộc về cuốn sách hướng dẫn bảo trì xe gắn máy. Tờ giấy thứ ba được viết tay và bị vò nát. Nó vuốt phẳng tờ giấy:

Anh Chân Nhồi Bông mến,

Cám ơn anh, cám ơn anh về món quà sinh nhật cho Harry! Cho tới giờ đó là món nó khoái nhất. Một tuổi mà đã biết bay vèo vèo trên cán chổi, nó có vẻ tự mãn lắm. Em gởi kèm theo đây một tấm hình để anh có thể thấy. Anh biết là chổi chỉ bay lên khỏi mặt đất cỡ sáu tấc nhưng thằng nhóc suýt làm chết con mèo và đã làm bể nát cái bình bông xấu hãi hùng mà Petunia gởi làm quà Giáng sinh (không phải lời phàn nàn đâu nhé). Dĩ nhiên anh James thấy chuyện này buồn cười lắm, ảnh nói nó sẽ trở thành một cầu thủ Quidditch vĩ đại, nhưng tụi này phải cất đi hết những đồ trang trí trong nhà và chắc chắn phải để mắt tới nó mỗi khi nó bay.

Tụi này làm một bữa tiệc trà đơn giản mừng sinh nhật, chỉ có tụi này và bà cụ Bathilda, người luôn ân cần với tụi này và mê Harry như điếu đổ. Tụi này tiếc là anh không thể đến được, nhưng công việc của Hội là ưu tiên số một, với lại Harry cũng chưa đủ lớn để biết đó là sinh nhật của nó! Anh James hơi chán nản vì bị cầm chân ở đây, ảnh cố gắng không để lộ ra, nhưng em biết - và cũng vì thầy Dumbledore vẫn còn giữ tấm Áo khoác Tàng hình của ảnh, nên ảnh chẳng có dịp dạo chơi. Nếu anh có thể đến chơi, thì sẽ khiến ảnh vui lên nhiều lắm. Cuối tuần trước anh Đuôi Trùn có đến đây. Em thấy ảnh có vẻ xuống tinh thần, nhưng có lẽ điều đó là tất nhiên sau vụ gia đình McKinnons. Em đã khóc suốt đêm khi nghe chuyện.

Bà cụ Bathilda ghé chơi hầu như mọi ngày, bà là một kho đồ cũ hấp dẫn với nhiều câu chuyện lạ lùng về thầy Dumbledore. Nếu thầy mà biết, em không chắc thầy hài lòng đâu! Em không biết chuyện đáng tin được mấy phần, bởi vì thực ra dường như không thể tin được là thầy Dumbledore...

Tay chân Harry dường như đã tê liệt. Nó đứng ngay đơ, cầm tờ giấy mầu nhiệm giữa những ngón tay xuội đi trong khi trong lòng trào dâng lặng lẽ điều gì đó tựa như niềm vui lẫn nỗi buồn, và chúng cùng tuôn chảy cuồn cuộn trong mạch máu với mức độ ngang nhau. Lảo đảo lê đến bên giường, nó ngồi xuống.

Nó đọc lại lá thư một lần nữa, nhưng cũng chẳng hiểu thêm ý nghĩa nào khác hơn lần đọc đầu tiên, và nó chỉ còn đăm đăm nhìn nét chữ viết tay. Má viết chữ 'g' giống y như chữ 'g' nó viết. Nó dò khắp lá thư để tìm ra mọi chữ 'g', và cảm thấy mỗi chữ như một cái khẽ vẫy tay thân thiện thoáng hiện sau tấm mạng che. Lá thư ấy là một kho báu phi thường, bằng chứng là má Lily đã từng sống, thực sự sống, và bàn tay ấm áp của má đã từng chuyển động ngang qua miếng giấy da này, lưu lại dấu mực trong những chữ này, những lời này, những lời về nó, Harry, con trai của má.

Nôn nóng gạt nước mắt, nó đọc lại lá thư, lần này tập trung vào ý nghĩa. Giống như lắng nghe lại một giọng nói còn nhớ mang máng. Gia đình mình từng có một con mèo... có lẽ nó đã tiêu tùng, như ba má ở Thung lũng Godric... hay là nó đã bỏ đi hoang khi không còn ai sống sót để cho nó ăn nữa... Chú Sirius đã tặng cho nó cây chổi bay đầu tiên... Ba má nó biết bà cụ Bathilda Bagshot; có phải thầy Dumbledore đã giới thiệu cho họ quen nhau? Thầy Dumbledore vẫn giữ tấm Áo khoác Tàng hình của ba nó... có điều gì kỳ kỳ ở điểm này...

Harry ngừng lại, cân nhắc lời lẽ của má nó. Tại sao thầy Dumbledore lại lấy tấm Áo khoác Tàng hình của ba James? Harry còn nhớ rõ rành rành thầy hiệu trưởng nói với nó nhiều năm trước, “Ta không cần một tấm Áo khoác để trở nên vô hình.” Có thể một Hội viên không được tài ba nào đó cần tấm Áo khoác hỗ trợ, và thầy Dumbledore đã hành động như người chuyển giao? Harry cho qua... Đuôi Trùn đây rồi... Pettigrew, kẻ phản bội, dường như 'xuống tinh thần' thật sao? Phải chăng hắn ý thức là hắn đang gặp gỡ ba James và má Lily lần cuối cùng?

Và cuối cùng lại bà cụ Bathilda, người kể những câu chuyện không thể tin được về cụ Dumbledore...

Chuyện gì không tin được về cụ Dumbledore? Nhưng có cả tỷ chuyện ắt có vẻ không tin được về cụ Dumbledore; thí dụ như chuyện cụ đã từng bị điểm bẹt cùng trong kỳ kiểm tra môn Biến Hình, hay chuyện cụ cũng rù quến dê như cụ Aberforth...

Harry đứng dậy và chăm chú tìm khắp sàn: có thể phần còn lại của lá thư nằm đâu đó. Nó chụp lấy mọi tờ giấy, háo hức xem xét, và cũng bất kính như kẻ lục soát trước đó, nó kéo ngăn tủ ra, xốc tung những cuốn sách, leo lên ghế đứng để vói tay tới đầu tủ quần áo, bò xuống dưới gầm giường và gầm ghế.

Cuối cùng, nằm sấp mặt trên sàn, nó ngó thấy một cái gì đó giống như một miếng giấy rách phía dưới cái tủ có ngăn kéo. Khi nó kéo cái đó ra thì chính là tấm hình mà má Lily đã miêu tả trong thư. Một đứa bé tóc đen đang bay gần rồi bay xa trong hình trên một cây chổi tí hon, cười khanh khách, và một cặp giò ắt hẳn là chân của ba James đang rượt theo nó. Harry nhét tấm hình cùng với lá thư của má Lily vô túi áo và tiếp tục tìm tờ thứ hai của lá thư.

Nhưng sau một khắc đồng hồ, nó đành phải kết luận là phần còn lại của lá thư má nó đã bị mất rồi. Liệu nửa lá thư đó chỉ đơn giản bị lạc mất trong khoảng mười sáu năm từ lúc thư được viết, hay đã bị kẻ nào đó lục soát căn phòng trước đây lấy đi? Harry đọc lại phần đầu lá thư một lần nữa, lần này nhằm tìm xem những manh mối liên quan đến những điều có thể khiến cho phần còn lại của lá thư trở nên có giá trị. Cây chổi đồ chơi của nó khó lòng được coi là thú vị đối với bọn Tử Thần Thực Tử... Điều duy nhất coi bộ có giá trị mà nó thấy được ở đây có lẽ là thông tin về cụ Dumbledore. Dường như không thể tin được là thầy Dumbledore... Mà cái gì?

“Harry? Harry! Harry!”

“Mình ở đây!” Nó gọi, “Chuyện gì vậy?”

Có tiếng chân dồn dập bên ngoài cánh cửa, và Hermione xông vào phòng.

“Tụi này thức dậy và không biết bồ ở đâu!” Cô bé nói gần đứt hơi, rồi ngoái đầu ra sau la lớn, “Ron! Mình tìm được nó rồi.”

Giọng bực bội của Ron văng vẳng vọng lại từ mấy tầng lầu bên dưới.

“Tốt! Nói giùm mình nó là thằng cà chớn!”

“Harry ơi, làm ơn đừng biến đi đâu hết, tụi này lo lắm. Mà nhân tiện hỏi, bồ lên đây để làm gì?” Cô bé chăm chú ngó quanh căn phòng bị lục tùm lum. “Bồ làm gì ở đây từ nãy giờ?”

“Coi thử cái mình vừa tìm thấy nè.”

Nó đưa lá thư của má nó ra. Hermione cầm lấy và đọc trong khi Harry quan sát cô bé. Khi đọc tới cuối tờ giấy cô bé ngước lên nhìn nó.

“Ôi Harry...”

“Và cái này nữa”

Nó đưa cô bé tấm hình rách, và Hermione mỉm cười với đứa bé bay gần rồi bay xa trên cây chổi đồ chơi.

“Mình đang tìm phần còn lại của lá thư,” Harry nói, “nhưng nó không có ở đây.”

Hermione liếc nhìn quanh.

“Bồ gây ra sự bừa bộn này, hay lúc bồ vô đây thì nó đã bừa bộn phần nào rồi?”

“Kẻ nào đó đã lục soát căn phòng trước mình,” Harry nói.

“Mình cũng vậy. Phòng nào mình ngó vô trong lúc đi lên đây cũng bị xáo trộn hết. Bồ nghĩ thử, chúng kiếm cái gì?”

“Thông tin về Hội, nếu đó là lão Snape.”

“Nhưng bồ có thấy là lão đã có mọi thông tin lão cần rồi không. Mình muốn nói là lão đã từng ở trong Hội, đúng chưa?”

“Vậy thì,” Harry nói, hăm hở thảo luận giả thuyết của nó, “thông tin về cụ Dumbledore thì sao? Trang thứ hai của lá thư chẳng hạn. Bồ biết bà Bathilda mà má mình nhắc tới đó, bồ biết bả là ai không?”

“Ai?”

“Bathilda Bagshot, tác giả cuốn...”

“Một Lịch Sử Pháp Thuật,” Hermione nói, có vẻ hứng thú. “Vậy là ba má bồ quen biết bà ấy? Bà là một sử gia pháp thuật phi thường.”

“Và bà ta vẫn còn sống,” Harry nói, “và sống ở Thung lũng Godric. Lúc ở đám cưới, bà dì Muriel của Ron có nói về bà ta. Bà ta cũng biết về gia đình thầy Dumbledore. Chắc nói chuyện với bà ta cũng khá hay đấy, đúng không?”

Nụ cười của Hermione dành cho nỗi ham thích của Harry có hơi quá bao dung. Harry lấy lại lá thư và tấm hình, nhét chúng vào trong cái túi bùa đeo quanh cổ để khỏi phải nhìn cô bé và để lộ chân tướng mình.

“Mình hiểu tại sao bồ muốn nói chuyện với bà ấy về ba má bồ và cả thầy Dumbledore,” Hermione nói. “Nhưng điều đó đâu có giúp tụi mình tìm ra những Trường Sinh Linh Giá, đúng không?”

Harry không trả lời, cô bé vội nói tiếp, “Harry à, mình biết bồ thực sự muốn đi đến Thung lũng Godric, nhưng mình sợ lắm. Mình thấy sợ việc bọn Tử Thần Thực Tử đã tìm ra chúng ta quá dễ dàng vào ngày hôm qua. Việc đó khiến mình linh cảm rõ hơn lúc nào hết là tụi mình nên tránh đến nơi mà ba má bồ được chôn cất. Mình tin chắc là bọn chúng đang chờ bồ đến thăm nơi đó.”

“Không hẳn chỉ đi thăm,” Harry nói, vẫn tránh nhìn cô bé. “Bà dì Muriel nói này nói nọ về thầy Dumbledore ở đám cưới. Mình muốn biết sự thật...”

Nó kể cho Hermione nghe mọi chuyện bà dì Muriel nói với nó. Khi nó kể xong, Hermione nói, “Đương nhiên, mình có thể hiểu tại sao những chuyện đó khiến bồ buồn bực như vậy, Harry à...”

“Mình đâu có buồn bực,” nó chối, “Mình chỉ muốn biết liệu đó là sự thật hay...”

“Harry, bồ có thực sự nghĩ rằng bồ sẽ tìm ra sự thật từ một bà già ác độc như bà dì Muriel, hay từ mụ Rita Skeeter không? Sao bồ có thể tin họ được? Bồ biết thầy Dumbledore mà!”

“Mình vẫn tưởng là mình biết,” nó lẩm bẩm.

“Nhưng bồ biết có bao nhiêu sự thật trong mọi thứ mụ Rita viết về bồ chứ! Cụ Doge nói đúng, sao bồ có thể để cho những kẻ đó làm hoen ố ký ức của bồ về thầy Dumbledore hả?”

Harry ngoảnh mặt đi, cố gắng không để lộ nỗi ấm ức mà nó cảm thấy trong lòng. Lại một lần nữa vấn đề đặt ra là chọn niềm tin. Nó muốn biết sự thật. Tại sao mọi người cứ một mực cho rằng nó không nên biết?

“Tụi mình xuống nhà bếp nhé?” Hermione đề nghị sau khi ngừng một chút. “Kiếm cái gì đó điểm tâm nha?”

Nó đồng ý, nhưng một cách bất đắc dĩ, đi theo cô bé ra đầu cầu thang và đi ngang qua cánh cửa thứ hai nơi cầu thang bắt đầu. Có những dấu cào sâu vào lớp sơn phía dưới một tấm bảng nhỏ mà nó đã không chú ý lúc trời còn tối. Nó đứng ngay đầu cầu thang để đọc. Đó là một tấm bảng nhỏ kiểu cọ, nét chữ viết tay ngay ngắn, cái kiểu mà anh Percy Weasley rất có thể dán lên cửa phòng ngủ của ảnh.

Cấm Vào

Nếu Không Được Sự Cho Phép Của

Regulus Arcturus Black

Cơn hồi hộp chảy loang khắp người Harry, nhưng nó không biết chắc ngay tại sao. Nó đọc lại tấm bảng một lần nữa. Hermione đã xuống hết một tầng.

“Hermione,” Harry gọi, và nó ngạc nhiên sao giọng nó bình tĩnh như vậy, “Trở lên đây.”

“Có chuyện gì?”

“R.A.B. Mình nghĩ mình đã tìm ra người đó.”

Một cái hả kinh ngạc, và rồi Hermione chạy ngược trở lên cầu thang.

“Trong lá thư của má bồ hả? Nhưng mình đâu có thấy...”

Harry lắc đầu, chỉ vào tấm bảng của Regulus. Cô bé đọc, rồi túm lấy cánh tay của Harry chặt đến nỗi nó nhăn mặt.

“Em của chú Sirius?” Cô bé thì thầm.

“Hắn là một Tử Thần Thực Tử,” Harry nói. “Chú Sirius đã kể cho mình nghe về hắn, hắn đã nhập bọn chúng khi còn rất trẻ, rồi tháu cáy và tìm cách ly khai - vì vậy bọn chúng giết hắn.”

“Hợp lý!” Hermione nói trong hơi thở hổn hển. “Nếu chú ấy là một Tử Thần Thực Tử thì chú đã tiếp cận với Voldemort, và nếu chú ấy vỡ mộng thì chú ấy ắt hẳn muốn lật đổ Voldemort!”

Cô bé buông tay Harry ra, chồm qua lan can cầu thang, và gào: “Ron ơi! RON! Lên đây, mau!”

Một phút sau Ron xuất hiện, thở hổn hển, đũa phép đã lăm le trong tay. “Chuyện gì? Nếu lại là bọn Nhền Nhện khổng lồ thì mình cần ăn sáng trước khi mình...”

Nó nhăn mặt ngó tấm bảng trên cửa phòng Regulus mà Hermione đang lặng lẽ chỉ.

“Cái gì? Đó là em của chú Sirius, đúng không? Regulus Arcturus... Regulus... R.A.B.! Cái mặt dây chuyền... mấy bồ cho là...?”

“Tụi mình thử tìm hiểu coi,” Harry nói. Nó đẩy cánh cửa: cửa bị khóa. Hermione chĩa cây đũa phép của cô bé vào nắm đấm cửa mà hô: “Úm ba la mở ra.” Một tiếng cách vang lên và cánh cửa mở tung.

Tụi nó cùng bước qua ngưỡng cửa một lúc, chăm chú ngó chung quanh. Phòng ngủ của Regulus hơi nhỏ hơn phòng của chú Sirius một tí, mặc dù nó cũng tạo cảm giác là trước đây rất sang trọng. Trong khi chú Sirius theo đuổi việc quảng bá cho sự khác biệt của chú với những người khác trong gia đình, thì Regulus cố gắng nhấn mạnh điều ngược lại. Màu bạc và xanh ngọc bích của nhà Slytherin có khắp mọi nơi, từ vải trải giường, tường, đến cửa sổ. Gia huy của giòng họ Black được sơn tỉ mỉ phía trên cái giường, cùng với câu phương châm: LUÔN THUẦN HUYẾT THỐNG[2]. Bên dưới là một bộ sưu tập những bài được cắt ra từ báo đã ố vàng, tất cả dán dính vào nhau làm thành một bộ tranh cắt dán te tua. Hermione đi ngang qua phòng để đến xem xét cái đó.

“Tất cả những thứ này đều nói về Voldemort,” cô bé nói. “Chú Regulus dường như là người hâm mộ suốt mấy năm trước khi gia nhập bọn Tử Thần Thực Tử...”

Một đám bụi nhỏ bốc lên từ những tấm phủ giường khi cô bé ngồi xuống đọc mấy mẩu cắt dán. Trong khi đó Harry chú ý đến một tấm hình khác: một đám cầu thủ Quidditch Hogwarts đang mỉm cười và từ trong khung hình vẫy vẫy tay. Nó đi tới gần hơn và thấy huy hiệu hình con rắn trên ngực áo các cầu thủ: học sinh nhà Slytherin. Có thể nhận ra ngay tức thì Regulus là cầu thủ đứng chính giữa hàng đầu: cũng mái tóc đen và vẻ mặt hơi kiêu giống như người anh, mặc dù nhỏ hơn, mảnh khảnh hơn, và không đẹp trai như chú Sirius hồi xưa.

“Hắn chơi vai Tầm thủ,” Harry nói.

“Cái gì?” Hermione nói giọng mơ hồ; cô bé vẫn còn chìm đắm trong mớ báo cắt dán về Voldemort.

“Hắn ngồi ở chính giữa hàng đầu, đó là vị trí của Tầm thủ... mà đừng bận tâm chi,” Harry nói, khi nhận ra chẳng ai lắng nghe nó cả. Ron đang bò lổm ngổm, lục tìm dưới gầm tủ quần áo. Harry nhìn quanh phòng tìm những nơi có vẻ là nơi giấu đồ và nó đi tới gần cái bàn giấy. Nhưng ở đây cũng vậy, đã bị ai đó lục soát trước tụi nó rồi. Những thứ bên trong ngăn kéo đã bị lật tung mới đây thôi, lớp bụi bị khuấy lên, nhưng chẳng có gì đáng giá trong đó: viết lông ngỗng cũ, sách giáo khoa quá xưa còn mang bằng chứng chúng bị đối xử thô bạo, một bình mực mới bị bể, phần mực còn lại dinh dính làm lem hết những thứ bên trong ngăn kéo.

“Có một cách dễ hơn,” Hermione nói, trong khi Harry chùi mấy ngón tay dính mực lên quần bò của nó. Cô bé giơ cây đũa phép lên và hô: “Mặt dây chuyền lại đây!”

Chẳng có gì xảy ra. Ron, đang xem xét những nếp gấp của tấm màn đã ngả màu, tỏ vẻ thất vọng.

“Vậy đành chịu hả? Không có ở đây sao?”

“À, nó có thể vẫn còn ở đây, nhưng bị ếm phép-phản-bùa.” Hermione nói. “Bồ biết đó, là mấy phép ngăn không cho nó bị triệu tập bằng pháp thuật ấy mà.”

“Giống như Voldemort đặt cái chậu đá trong hang,” Harry nói, nhớ ra nó đã không thể nào triệu tập được cái mặt dây chuyền giả.

“Vậy tụi mình làm sao kiếm ra nó?” Ron hỏi.

“Tụi mình xài tay xài mắt của mình thôi,” Hermione nói.

“Ý kiến hay dữ à,” Ron nói, đảo tròn con mắt, rồi tiếp tục xem xét tấm màn.

Tụi nó lục lọi từng phân một của căn phòng trong hơn một giờ đồng hồ, nhưng cuối cùng đành phải kết luận là cái mặt dây chuyền không có ở đó.

Mặt trời bây giờ đã lên cao, ánh nắng làm tụi nó lóa mắt cho dù nắng chiếu qua ô cửa sổ cầu thang đầy bụi.

“Nhưng nó có thể ở đâu đó trong căn nhà,” Hermione nói giọng cố lấy lại niềm hy vọng. Trong khi Ron và Harry đã hơi thối chí, cô bé dường như lại quyết tâm hơn.

“Cho dù chú ấy đã tiêu hủy nó hay chưa, thì chú ấy cũng muốn giấu nó khỏi Voldemort, đúng không? Có nhớ tất cả những thứ kinh khủng mà tụi mình phải dọn dẹp khi tụi mình ở đây lần trước không? Cái đồng hồ phóng tia sét vào mọi người và mấy bộ áo chùng cứ tính bóp cổ Ron; chắc là chú Regulus bày chúng ở đó để bảo vệ chỗ giấu cái mặt dây chuyền, mặc dù tụi mình chẳng hề nhận ra nó vào... vào...”

Harry và Ron nhìn cô bé. Hermione đứng với một chân giơ lên không trung, vẻ mặt sững sờ của một kẻ vừa bị trúng bùa Lú Lẫn: thậm chí mắt cô bé cũng mất cả tập trung.

“... vào lúc đó,” cô bé thì thào nói nốt.

“Có cái gì hả?” Ron hỏi.

“Có một cái mặt dây chuyền.”

“Cái gì?” Harry và Ron cùng nói.

“Trong ngăn tủ ở phòng khách. Không ai có thể mở được nó. Và tụi mình... tụi mình...”

Harry có cảm giác như một cục gạch đã tuột khỏi ngực để rớt vào bao tử nó. Nó nhớ lại. Nó thậm chí đã cầm cả cái vật đó trong tay khi tụi nó chuyền tay nhau, mỗi đứa thay phiên nhau cố cạy cái nắp hộp ra. Cái vật đó đã bị liệng thùng rác, cùng với hộp đựng bột thuốc lá Wartcap và hộp nhạc ru mọi người ngủ gục...

“Kreacher mót lại cả đống đồ tụi mình liệng đi,” Harry nói. Đó là cơ may duy nhất, niềm hy vọng mong manh còn sót lại cho tụi nó, và nó quyết bám lấy cho đến khi nào bị buộc phải buông ra. “Nó có cả một kho giấu đồ trong tủ chén của nó trong nhà bếp. Đi thôi.”

Harry chạy xuống cầu thang, nhảy hai bậc một, hai đứa kia đùng đùng chạy theo sát gót. Tụi nó gây ra nhiều tiếng ồn đến nỗi bức chân dung của bà mẹ chú Sirius bị đánh thức khi tụi nó chạy xuyên qua hành lang.

“Bẩn thỉu! Đồ Máu Bùn! Cặn bã!” Bà gào theo trong lúc tụi nó phóng xuống nhà bếp dưới tầng hầm và đóng sập cánh cửa lại sau lưng. Harry chạy hết chiều dọc căn phòng, đứng khựng lại trước cánh cửa cái tủ chén của Kreacher, và vặn mở ra. Một mớ mền cũ dơ hầy mà trước đây Kreacher từng nằm ngủ, nhưng cái ổ mền này giờ không còn lấp lánh những món trang trí rẻ tiền mà Kreacher mót lượm được nữa. Vật duy nhất có trong đó là một bản sách cũ: Giới Quý Tộc Của Thiên Nhiên: Một Bảng Phả Hệ Phù Thủy. Không chịu tin vào mắt mình, Harry chụp lấy mấy cái mền và rũ tung chúng. Một con chuột chết rớt ra và lăn lóc một cách thảm sầu xuống sàn nhà. Ron vừa rên lên vừa quăng mình xuống một cái ghế nhà bếp; Hermione nhắm mắt lại.

“Chưa hết hy vọng!” Harry nói, và nó cất cao giọng gọi, “Kreacher!”

Một tiếng rắc thật to vang lên và con gia tinh mà Harry đã thừa kế một cách vô cùng bất đắc dĩ từ chú Sirius đột ngột từ cõi không hiện ra trước cái lò sưởi trống trơn lạnh lẽo: nhỏ xíu, chỉ bằng một nửa kích thước con người, da tái mét nhăn nheo bọc xương, tóc trắng phau mọc lỉa chỉa từ sau vành tai giống cánh dơi. Y vẫn còn mặc miếng giẻ rách dơ hầy mà y đã mặc khi gặp tụi nó lần đầu tiên, và cái vẻ khinh khỉnh khi y cúi chào Harry cho thấy thái độ của y đối với sự thay thầy đổi chủ chẳng thay đổi gì hơn bộ dạng bên ngoài của y.

“Chủ nhân,” Kreacher khào khào nói bằng giọng ếch đực, và cúi rạp xuống lẩm bẩm với đầu gối của y, “đã trở về ngôi nhà xưa của Nữ Chủ nhân tôi với thằng phản bội huyết thống Weasley và con Máu Bùn...”

“Ta cấm mi gọi bất cứ ai là 'phản bội huyết thống' hay 'Máu Bùn',” Harry làu bàu. Nó coi Kreacher, mũi dài như vòi và mắt toét đỏ ngầu, là một đối tượng đặc biệt khó ưa, ngay cả trong trường hợp con gia tinh này không bán đứng chú Sirius cho Voldemort đi nữa.

“Ta có một câu muốn hỏi mi,” Harry nói, tim nó đập hơi nhanh khi ngó xuống con gia tinh, “và ta ra lệnh cho mi thành thật trả lời. Hiểu không?”

“Dạ, thưa chủ nhân,” Kreacher nói, lại cúi rạp xuống. Harry thấy môi y nhép nhép không thành tiếng, chắc hẳn là đang ghìm lại những lời sỉ nhục mà bây giờ y đã bị cấm thốt ra.

“Cách đây hai năm,” Harry nói, trái tim nó đang dộng ình ình vào be sườn, “có một cái mặt dây chuyền vàng rất to trong phòng khách trên lầu. Tụi này đã quăng nó đi. Mi có lấy cắp nó lại không?”

Im lặng một lúc, suốt lúc đó Kreacher đứng thẳng lên để nhìn tận mặt Harry. Rồi y nói, “Có.”

“Bây giờ nó ở đâu?” Harry hớn hở hỏi, Ron và Hermione tỏ ra mừng rỡ.

Kreacher nhắm mắt lại như thể y không thể nào chịu đựng nổi việc nhìn thấy những phản ứng đối với lời nói tiếp theo của y:

“Mất.”

“Mất?” Harry lặp lại, sự hân hoan bay thoát khỏi người nó, “Mi muốn nói gì? Mất à?”

Con gia tinh rùng mình. Y lắc lư.

“Kreacher,” Harry nói giọng dữ tợn, “Ta ra lệnh cho mi...”

“Mundungus Fletcher,” con gia tinh rầu rĩ thốt lên, mắt y vẫn còn nhắm nghiền. “Mundungus Fletcher đã ăn cắp hết. Tranh của tiểu thư Bella và tiểu thư Cissy, găng tay của Phu nhân, huy chương Merlin đệ nhất đẳng, những cái cốc có gia huy, và... và...”

Kreacher há miệng hớp không khí: bộ ngực lép của y nhô lên xẹp xuống gấp gáp, rồi mắt y mở bừng ra và thét lên một tiếng rú kinh hoàng.

“... và cái mặt dây chuyền, cái mặt dây chuyền của cậu chủ Regulus. Kreacher đã làm sai, Kreacher không thực hiện được lệnh của cậu chủ!”

Harry phản ứng theo bản năng: khi Kreacher nhào tới chụp cây sắt cời lửa dựng gần vỉ lò sưởi, Harry cũng lao mình nhào vô con gia tinh đè y nằm bẹp dưới sàn. Tiếng hét của Hermione hòa lẫn tiếng rú của Kreacher, nhưng Harry rống to hơn cả hai, “Kreacher, ta ra lệnh cho mi nằm yên!”

Harry cảm thấy con gia tinh cứng đờ, bèn buông y ra. Con gia tinh nằm bẹp dí trên sàn đá lạnh, nước mắt trào ra từ hai con mắt lõm sâu.

“Harry, cho ổng đứng dậy!” Hermione thì thầm.

“Để nó có thể tự đánh nó bằng cây sắt cời lửa hả?” Harry thở phì phèo, vẫn quỳ bên cạnh con gia tinh. “Mình không đồng ý. Này, Kreacher, ta muốn biết sự thật. Làm sao mi biết lão Mundungus Fletcher đã đánh cắp cái mặt dây chuyền?”

“Kreacher thấy hắn!” Con gia tinh nói trong tiếng thở hổn hển trong khi nước mắt tuôn qua cái mũi dài ngoằng chảy vào cái miệng đầy răng xám xịt. “Kreacher thấy hắn đi ra khỏi cái tủ của Kreacher hai tay ôm đầy kho báu của Kreacher. Kreacher bảo tên đạo chích đứng lại, nhưng Mundungus Fletcher phá lên cười rồi ch... chạy...”

“Mi nói cái mặt dây chuyền của cậu chủ Regulus,” Harry nói. “Tại sao? Cái đó có nguồn gốc ở đâu? Chú Regulus làm gì với nó? Kreacher, ngồi dậy và nói cho ta biết mọi thứ mi biết về cái mặt dây chuyền, và mọi việc chú Regulus đã làm liên quan tới cái mặt dây chuyền đó!”

Con gia tinh ngồi dậy, co ro như một trái banh, úp bộ mặt ướt nhẹp của y vào hai đầu gối, và bắt đầu lắc lư từ sau ra trước và từ trước ra sau. Khi y nói, giọng của y nghèn nghẹn nhưng vẫn nghe rõ ràng trong căn nhà bếp im ắng vang vang.

“Cậu chủ Sirius bỏ đi, một sự giải thoát, bởi vì cậu ấy là một kẻ hư hỏng và cách sống bừa bãi của cậu ấy làm tan nát trái tim Bà chủ. Nhưng cậu chủ Regulus có niềm kiêu hãnh đúng đắn; cậu biết điều gì xứng đáng với cái tên Black và phẩm giá huyết thống thuần chủng của cậu. Suốt nhiều năm trời cậu chủ nói về Chúa tể Hắc ám, người sẽ đưa các pháp sư ra khỏi sự trốn tránh để cai trị bọn Muggle và bọn có gốc Muggle... và khi tròn mười sáu tuổi, cậu chủ Regulus đi theo Chúa tể Hắc ám. Tự hào lắm, tự hào vô cùng, hạnh phúc vô cùng được phục vụ...

Và một hôm, một năm sau ngày gia nhập, cậu chủ Regulus xuống nhà bếp để gặp Kreacher. Cậu chủ Regulus luôn luôn thích Kreacher. Và cậu chủ Regulus nói... Cậu chủ nói...”

Con gia tình già lắc lư nhanh hơn bao giờ hết:

“... cậu chủ nói là Chúa tể Hắc ám đòi có một gia tinh.”

“Voldemort cần một gia tinh à?” Harry lặp lại, nhìn qua Ron và Hermione, hai đứa đó cũng hoang mang như nó.

“Dạ phải,” Kreacher rên rỉ. “Và cậu chủ Regulus đã tình nguyện hiến Kreacher. Đó là một vinh dự, cậu chủ Regulus nói, một vinh dự cho cậu và cho Kreacher, kẻ chắc chắn sẽ làm bất cứ điều gì mà Chúa tể Hắc ám ra lệnh cho y làm... và sau đó tr... trở về nhà.”

Kreacher lắc lư nhanh hơn, y thở trong tiếng nức nở.

“Thế là Kreacher đi gặp Chúa tể Hắc ám. Chúa tể Hắc ám không nói cho Kreacher biết việc họ sắp làm, chỉ đem Kreacher đi cùng ngài đến một cái hang bên bờ biển. Và xa hơn cái hang đó là một cái hang lớn nữa, và trong cái hang lớn có một cái hồ đen...”

Tóc gáy của Harry dựng đứng lên. Giọng rền rĩ của Kreacher nghe dường như vọng đến nó từ bên kia mặt nước đen. Nó nhìn thấy những gì đã xảy ra, rõ ràng như thể nó đã có mặt ở đó.

“... Có một chiếc thuyền...”

Dĩ nhiên là đã có một chiếc thuyền; Harry biết chiếc thuyền đó, nhỏ xíu và xanh rờn rợn, bị phù phép để chỉ có thể đưa một người kèm theo một nạn nhân hướng ra hòn đảo ở giữa hồ. Vậy ra đây là cách Voldemort kiểm tra việc phòng vệ chung quanh cái Trường Sinh Linh Giá, bằng cách mượn một sinh linh có thể vứt đi, một gia tinh...

“Có một cái ch... chậu đầy thuốc độc ở trên đảo. Ch... Chúa tể Hắc ám bắt Kreacher uống thuốc đó...”

Con gia tinh run rẩy từ đầu đến chân.

“Kreacher đã uống, và khi uống Kreacher đã thấy chuyện kinh khủng... ruột gan Kreacher cháy bỏng... Kreacher thét gọi cậu chủ Regulus cứu giúp mình, Kreacher thét gọi Nữ Chủ nhân Black, nhưng Chúa tể Hắc ám chỉ cười... Ngài bắt Kreacher uống tất cả thuốc độc đó... Ngài thả một cái mặt dây chuyền vô trong cái chậu rỗng... ngài đổ thêm thuốc độc vô đầy chậu.

“Và sau đó Chúa tể Hắc ám giong buồm ra đi, bỏ lại Kreacher trên đảo...”

Harry có thể thấy cả việc đó như đang xảy ra. Nó thấy gương mặt trắng bệch giống như mặt rắn của Voldemort biến mất vào bóng tối, hai con mắt đỏ nhìn không chút xót thương con gia tinh đang giẫy giụa mà cái chết sẽ đến chỉ trong phút chốc, khi y không thể chịu đựng hơn nữa cơn khát cùng cực mà chất độc cháy bỏng đó gây ra cho nạn nhân... Nhưng tới đây, trí tưởng tượng của Harry không thể đi xa hơn nữa, bởi vì nó không thể hiểu Kreacher đã thoát ra được bằng cách nào.

“Kreacher cần nước, Kreacher bò tới mép đảo và uống nước hồ đen... và những bàn tay, những bàn tay chết, thò lên khỏi mặt nước và lôi Kreacher xuống dưới mặt nước...”

“Làm sao mi thoát ra?” Harry hỏi, và nó không ngạc nhiên khi thấy chính mình thì thầm.

Kreacher ngẩng cái đầu xấu xí lên nhìn Harry bằng đôi mắt to đỏ quạch.

“Cậu chủ Regulus bảo Kreacher trở về,” Kreacher nói.

“Tôi biết... nhưng làm cách nào mi thoát được bọn Âm binh?”

Kreacher dường như không hiểu.

“Cậu chủ Regulus bảo Kreacher trở về,” y lặp lại.

“Ta biết, nhưng...”

“Ôi, quá rõ ràng, không thấy sao, Harry?” Ron nói. “Nó Độn thổ!”

“Nhưng... người ta không thể Độn thổ vô hay ra cái hang đó,” Harry nói, “nếu không thầy Dumbledore...”

“Pháp thuật của giới gia tinh không giống pháp thuật của giới phù thủy, đúng không?” Ron nói, “Ý mình nói là, họ có thể Hiện hình hay Độn thổ ra vô trường Hogwarts trong khi tụi mình đâu có làm được.”

Mọi người im lặng trong lúc Harry tiêu hóa điều này. Làm sao mà Voldemort có thể phạm một sai lầm như vậy? Nhưng trong khi nó còn đang suy nghĩ về việc này thì Hermione đã nói ra, giọng cô bé hơi lạnh.

“Dĩ nhiên, Voldemort hẳn coi trình độ của giới gia tinh còn lâu mới đáng cho hắn để ý tới... Hắn ắt chưa bao giờ nghĩ tới chuyện gia tinh có những pháp thuật mà hắn không có.”

“Luật lệ tối cao của gia tinh là mệnh lệnh của chủ nhân” Kreacher nói giọng xướng ngâm. “Kreacher được lệnh về nhà, vì vậy Kreacher trở về nhà...”

“Vậy là, ông đã làm cái điều người ta bảo ông làm, phải không?” Hermione ân cần nói. “Ông không hề bất tuân lệnh chủ!”

Kreacher lắc đầu, lắc lư nhanh chưa từng thấy.

“Vậy chuyện gì xảy ra khi mi trở về?” Harry hỏi. “Regulus nói gì khi mi kể cho ông ấy nghe chuyện đã xảy ra?”

“Cậu chủ Regulus rất lo lắng, rất lo lắng,” Kreacher rền rĩ. “Cậu chủ Regulus bảo Kreacher ẩn mặt và không được ra khỏi nhà. Và rồi... ít lâu sau đó... một buổi tối cậu chủ Regulus đến tìm Kreacher trong cái tủ chén, và cậu chủ Regulus rất lạ, không giống với cậu chủ thường ngày, Kreacher có thể nói, đầu óc của cậu chủ bị hoang mang rối rắm... và cậu chủ bảo Kreacher đưa cậu chủ đến cái hang đó, cái hang mà Kreacher đã đến với Chúa tể Hắc ám...”

Và thế là cả hai ra đi. Harry có thể hình dung ra họ khá rõ ràng, con gia tinh già khiếp sợ và tay Tầm thủ gầy ngăm đen rất giống chú Sirius... Kreacher biết cách mở cái cửa đã bị ếm bùa để vào hang động ngầm dưới đất, biết cách nâng cái thuyền nhỏ xíu lên: lần này chính cậu chủ kính yêu của y giong thuyền cùng y ra hòn đảo có cái chậu thuốc độc...

“Và chú ấy đã bắt mi uống thuốc độc hả?” Harry nói, ghê tởm.

Nhưng Kreacher lắc đầu và khóc. Hai bàn tay của Hermione đột ngột đưa lên bưng lấy miệng: dường như cô bé vừa hiểu ra điều gì đó.

“Cậu ch... chủ Regulus lấy từ trong túi của cậu ra một cái mặt dây chuyền giống như cái của Chúa tể Hắc ám,” Kreacher nói, nước mắt chảy dài xuống hai bên cái mũi dài ngoằng. “Và cậu chủ bảo Kreacher cầm lấy cái đó và tráo với cái mặt dây chuyền trong chậu sau khi cái chậu cạn...”

Tiếng khóc nức nở của Kreacher giờ đây trở nên lu loa the thé khiến Harry phải tập trung hết sức mới hiểu được y.

“Và cậu chủ ra lệnh... Kreacher phải đi... không có cậu chủ. Và cậu chủ bảo Kreacher... đi về nhà... và không bao giờ nói cho Nữ chủ nhân biết... chuyện cậu chủ đã làm... mà phải tiêu hủy... cái mặt dây chuyền thứ nhất. Và cậu chủ uống... tất cả thuốc độc... và Kreacher đánh tráo hai cái mặt dây chuyền... và nhìn... khi cậu chủ Regulus... bị lôi xuống dưới mặt nước... và...”

“Ôi, Kreacher!” Hermione đang khóc bỗng thét lên đau đớn. Cô bé đã khuỵu đầu gối quỳ xuống bên cạnh con gia tinh và toan ôm lấy y. Ngay lập tức con gia tinh đứng bật dậy, né xa cô bé, thái độ cự tuyệt rõ ràng.

“Con Máu Bùn chạm vào Kreacher, Kreacher không cho phép làm vậy, Nữ chủ nhân của Kreacher sẽ nói gì?”

“Ta đã bảo mi không được gọi cô ấy là 'Máu Bùn'!” Harry quát, nhưng con gia tinh đã bắt đầu tự trừng phạt mình. Y ngã lăn xuống đất và dộng trán xuống sàn nhà.

“Ngăn ổng lại! Ngăn ổng lại!” Hermione kêu la. “Ôi, bây giờ mấy bồ thấy cách thức các gia tinh phải tuân lệnh tởm lợm như thế nào chưa?”

“Kreacher... ngừng lại, ngừng ngay!” Harry hét.

Con gia tinh nằm trên sàn, thở hổn hển và run rẩy, mũi dãi xanh rờn bóng nhẫy quanh cái mũi dài ngoằng của y, một vết bầm đã nổi lên trên cái trán vàng ệch, chỗ y tự dộng xuống sàn, hai con mắt y sưng mọng, đỏ ngầu, và lai láng nước mắt. Harry chưa từng thấy cái gì đáng thương như vậy.

“Vậy là mi đem cái mặt dây chuyền về nhà,” nó nói giọng không thương xót, bởi vì nó cương quyết tìm hiểu toàn bộ câu chuyện. “Và mi đã tiêu hủy nó?”

“Kreacher làm gì cũng không để lại được chút xây xát nào lên cái đó,” con gia tinh than vãn. “Kreacher đã thử mọi cách, mọi cách mà Kreacher biết, nhưng không cách nào, không cách nào có kết quả... Cái hộp bị ếm quá nhiều bùa phép đầy uy lực, Kreacher biết chắc chắn cách tiêu hủy nó là phải vô tuốt bên trong nó, nhưng nó không chịu mở ra... Kreacher đã tự phạt mình, đã cố gắng lần nữa, rồi lại tự phạt mình, rồi lại cố gắng lần nữa. Kreacher không thực hiện được mệnh lệnh, Kreacher không thể tiêu hủy cái mặt dây chuyền! Và Nữ chủ nhân của Kreacher phát điên vì buồn khổ, bởi vì cậu chủ Regulus biến mất và Kreacher không thể nói cho bà biết chuyện gì đã xảy ra, không, bởi vì cậu chủ Regulus đã cấm... cấm... cấm Kreacher nói cho bất cứ ai trong gia đình biết chuyện xảy ra trong cái... cái... cái hang động...”

Kreacher bắt đầu bù lu bù loa đến nỗi chẳng còn nghe ra được lời nào mạch lạc nữa. Nước mắt lăn dài xuống hai má của Hermione khi cô bé nhìn Kreacher, nhưng cô bé không dám đụng tới y một lần nữa. Ngay cả Ron, kẻ không hề có cảm tình với gia tinh, cũng bối rối. Harry ngồi lại trên gót chân và lắc lắc đầu, cố gắng làm cho đầu óc nó sáng ra.

“Ta không hiểu nổi mi, Kreacher à,” cuối cùng nó nói. “Voldemort toan giết mi, Regulus chết để hạ bệ Voldemort, nhưng mi vẫn vui vẻ bán đứng chú Sirius cho Voldemort là sao? Mi đã hớn hở đi gặp Narcissa và Bellatrix, và thông qua họ chuyển thông tin cho Voldemort...”

“Harry à, Kreacher không suy nghĩ như vậy đâu,” Hermione nói, vừa lau nước mắt bằng mu bàn tay mình. “Ông ta là một nô lệ; gia tinh đã quen với sự đối xử tồi tệ, thậm chí tàn bạo; điều mà Voldemort làm đối với Kreacher cũng chẳng tàn ác hơn lề thói thông thường là mấy. Chiến tranh phù thủy thì có ý nghĩa gì đối với một gia tinh như Kreacher chứ? Ông ta chỉ trung thành với người nào tử tế với ông ta, và bà Black ắt đã đối xử như vậy, và chú Regulus chắc chắn cũng đã làm vậy, cho nên ông ta sẵn lòng phụng sự họ và là cái loa phát ra niềm tin của họ mà thôi. Mình biết điều bồ sắp nói,” cô bé nói tới khi Harry mở miệng phản đối, “rằng chú Regulus đã thay đổi ý định... nhưng chú ấy dường như chưa giải thích cho Kreacher điều đó, đúng không? Và mình biết tại sao. Kreacher và gia đình chú Regulus được an toàn nhất nếu họ cứ đứng trong hàng ngũ thuần huyết thống. Chú Regulus đã cố gắng bảo vệ tất cả gia đình.”

“Chú Sirius...”

“Chú Sirius rất tệ đối với Kreacher, Harry à, và đừng làm ra cái vẻ đó, chẳng ích gì, bồ biết là đúng như vậy mà. Kreacher đã cô độc trong suốt một thời gian dài trước khi chú Sirius trở về sống ở đây, và có lẽ ông ta đã thèm khát chút ân cần thông cảm, và mình chắc chắn 'Tiểu thư Cissy' và 'Tiểu thư Bella' cực kỳ dễ thương đối với Kreacher khi ông ta tìm đến họ, vì vậy ông ta đền đáp bằng cách nói với họ tất cả những gì họ muốn biết. Mình đã nói suốt từ đầu là phù thủy sẽ phải trả giá cho cách thức họ đối xử với những gia tinh. Ừ, Voldemort đã lãnh đủ... và chú Sirius cũng vậy.”

Harry không cãi lại. Khi nó nhìn Kreacher thổn thức trên sàn, nó nhớ cụ Dumbledore đã từng nói với nó, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau cái chết của chú Sirius: Thầy không nghĩ là chú Sirius từng coi Kreacher như một sinh linh có tình cảm tế nhị như tình cảm của con người...

“Kreacher à,” một lúc sau Harry nói, “khi nào mi cảm thấy được thì... ơ... làm ơn ngồi dậy.”

Kreacher nấc nghẹn hết mấy phút rồi mới nín khóc được. Sau đó y lại tự lôi mình dậy trong tư thế ngồi, dụi mắt bằng mấy khớp ngón tay y như một đứa con nít.

“Kreacher à, tôi muốn nhờ ông làm một việc,” Harry nói. Nó liếc qua Hermione để mong được giúp đỡ. Nó muốn ra lệnh một cách tử tế, nhưng đồng thời nó lại không thể giả bộ như đó không phải là một mệnh lệnh. Tuy nhiên sự đổi giọng của nó dường như được Hermione tán thành: cô bé mỉm cười khuyến khích.

“Kreacher à, tôi muốn ông, làm ơn đi tìm lão Mundungus Fletcher. Chúng ta cần tìm ra cái mặt dây chuyền... cái mặt dây chuyền của cậu chủ Regulus ở đâu. Chuyện này rất quan trọng. Chúng ta muốn hoàn tất công việc mà cậu chủ Regulus đã khởi đầu, chúng ta muốn... ờ... bảo đảm là chú ấy đã không chết một cách vô ích.”

Kreacher buông thõng nắm tay xuống và ngước lên nhìn Harry.

“Đi tìm Mundungus Fletcher ư?” Y rên rỉ.

“Và đưa lão về đây, về Quảng trường Grimmauld,” Harry nói. “Ông thấy ông có thể làm được việc đó cho chúng ta không?”

Khi Kreacher gật đầu và đứng lên, Harry bỗng nổi hứng. Nó rút ra cái túi bùa của bác Hagrid cho và lấy ra cái Trường Sinh Linh Giá giả, cái mặt dây chuyền đánh tráo mà Regulus đã để lại trong đó lời nhắn cho Voldemort.

“Kreacher à, tôi... ơ... muốn ông giữ cái này,” Harry nói, ấn cái mặt dây chuyền vào tay con gia tinh. “Cái này vốn là của chú Regulus và tôi chắc là chú ấy muốn ông giữ nó như một kỷ vật của lòng biết ơn về những gì ông đã...”

“Tuyệt chiêu!” Ron nói khi con gia tinh vừa ngó thấy cái mặt dây chuyền đã rú lên một tiếng đầy sửng sốt và đau thương, rồi tự lăn đùng ra mặt đất.

Gần nửa tiếng đồng hồ sau tụi nó mới dỗ yên được Kreacher, con gia tinh có vẻ xúc động quá mức vì được tặng một vật gia bảo của gia đình Black để làm của riêng nên đầu gối y nhũn cả ra không thể đứng đàng hoàng được. Cuối cùng khi y có thể chập chững đi vài bước, cả đám cùng theo y đi tới cái tủ chén giang sơn của y, nhìn y nhét kỹ cái mặt dây chuyền vô đống mền dơ hầy, và cam đoan với y là tụi nó sẽ coi việc bảo vệ cái mặt dây chuyền đó là ưu tiên số một của tụi nó khi y đi vắng. Lúc đó y bèn cúi rạp mình hai cái trước Harry và Ron, thậm chí còn làm một động tác cà giựt mắc cười về phía Hermione, động tác đó rất có thể là một nỗ lực giơ tay chào trân trọng, trước khi y Độn thổ trong một tiếng nổ tạch thiệt to.

Chương Mười Một

Quà hối lộ

Nếu Kreacher có thể thoát được một cái hồ đầy âm binh, thì Harry tin chắc việc bắt lão Mundungus chỉ tốn vài tiếng đồng hồ là cùng, nên nó lê la khắp nhà suốt cả buổi sáng trong một trạng thái mong ngóng căng thẳng.

Nhưng Kreacher không trở về trong buổi sáng hôm đó, thậm chí đến chiều cũng không về. Khi trời tối, Harry cảm thấy nản lòng và lo lắng, và bữa ăn tối gồm chủ yếu là món bánh mì mốc đã bị Hermione thử nhiều kiểu biến hóa vẫn không xong cũng chẳng giúp được gì.

Kreacher không trở về vào ngày hôm sau, mà hôm sau nữa cũng không về. Tuy nhiên, ở quảng trường bên ngoài tòa nhà số mười hai lại xuất hiện hai kẻ mặc áo choàng, và chúng ở lì chỗ đó đến tối, chăm chăm nhìn về phía ngôi nhà mà chúng không thể nhìn thấy.

“Chắc chắc là bọn Tử Thần Thực Tử,” Ron nói, khi nó, Harry và Hermione dòm ra từ cửa sổ phòng khách. “Liệu chúng có biết tụi mình ở đây không?”

“Mình nghĩ là không,” Hermione nói, mặc dù trông cô bé có vẻ sợ hãi. “Chứ nếu biết thì chúng đã phái lão Snape đến bắt tụi mình rồi, đúng không?”

“Bồ có cho là lão đã từng đến đây và bị lời nguyền của thầy Moody trói lưỡi không?”

“Có,” Hermione nói. “Chứ không thì lão đã có thể nói cho bọn kia biết cách vô trong này rồi, đúng không? Nhưng có lẽ bọn chúng đang canh chừng coi tụi mình có xuất hiện không. Xét cho cùng, chúng biết Harry là chủ nhà này mà.”

“Làm sao chúng...” Harry mới mở miệng nói.

“Không nhớ hả, di chúc pháp thuật bị Bộ kiểm tra mà? Họ tất phải biết thầy Sirius để lại căn nhà này cho bồ.”

Sự hiện diện của bọn Tử Thần Thực Tử ở bên ngoài làm tăng thêm tình trạng bất ổn bên trong ngôi nhà số mười hai. Kể từ lúc có tin nhắn do Thần Hộ mệnh của ông Weasley đem tới, tụi nó không nghe thêm được tin nào từ bất cứ ai ở ngoài quảng trường Grimmauld, và sự căng thẳng bắt đầu lộ ra. Bồn chồn và cáu kỉnh, Ron đã phát sinh ra một thói quen phiền nhiễu là vọc cái Tắt sáng trong túi nó. Chuyện này đặc biệt chọc Hermione tức điên lên, cô bé giết thì giờ trong khi chờ đợi Kreacher bằng cách nghiên cứu Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong và không tán thưởng được cái cách đèn cứ chớp tắt chớp sáng.

“Bồ có thôi đi không!” Cô bé gào lên vào đêm thứ ba kể từ lúc Kreacher vắng mặt, khi tất cả ánh sáng lại bị hút khỏi căn phòng khách một phen nữa.

“Xin lỗi, xin lỗi!” Ron nói, bấm cái Tắt sáng để trả lại ánh sáng cho những ngọn đèn. “Mình không biết mình đang làm vậy.”

“Sao, bồ không thể kiếm ra việc gì có ích mà làm à?”

“Như việc gì, đọc truyện trẻ con hả?”

“Ron, thầy Dumbledore để lại cho mình cuốn sách này...”

“... và thầy để lại cho mình cái Tắt sáng này, có lẽ mình có nhiệm vụ xài nó!”

Không chịu nổi chuyện gây gổ vặt vãnh, Harry lẻn ra khỏi phòng mà không bị hai đứa kia để ý. Nó đi xuống cầu thang vô nhà bếp, nơi nó ghé qua hoài vì nó chắc chắn đó là nơi Kreacher có triển vọng tái xuất hiện nhất. Ở giữa chừng cầu thang dẫn xuống hành lang, nó nghe có tiếng gõ lên cánh cửa trước, rồi đến tiếng lách cách kim loại và tiếng loảng xoảng của dây xích.

Mọi dây thần kinh trong cơ thể nó dường như đều căng lên: nó rút cây đũa phép ra, di chuyển vô bóng tối bên cạnh những cái đầu lâu gia tinh, và chờ đợi. Cánh cửa mở ra: nó thoáng thấy quảng trường được đèn chiếu sáng ở bên ngoài, và một bóng người khoác áo choàng lách vô trong hành lang rồi khép lại cánh cửa sau lưng. Kẻ đột nhập tiến tới một bước, và giọng thầy Moody hỏi: “Severus Snape?” Tiếp theo là cái hình thù bằng bụi trồi lên từ cuối hành lang xông vào kẻ đột nhập, giơ cao bàn tay chết.

“Tôi không phải là kẻ giết cụ, cụ Albus à,” một giọng trầm đáp.

Bùa ếm được giải: hình thù bằng bụi lại nổ banh, để lại một đám mây xám xịt khiến cho không thể nhận ra kẻ mới đến.

Harry chĩa cây đũa phép vào giữa đám bụi đó.

“Đứng im!”

Nó quên béng đi bức chân dung của bà Black: tiếng hét của nó vừa vang lên, bức màn che khuất bà bay giạt ra và bà bắt đầu gào thét, “Đồ Máu bùn và đồ bẩn thỉu làm ô nhục ngôi nhà của ta...”

Ron và Hermione cùng chạy ào xuống cầu thang đến sau lưng Harry, cũng như nó, chúng chĩa đũa phép vào kẻ chưa biết là ai đang đứng trong hành lang bên dưới, tay giơ cao.

“Khoan tấn công, thầy là Remus đây!”

“Ôi, may phước quá!” Hermione nói giọng ỉu xìu, chĩa cây đũa phép của cô bé vô bà Black thay vì vô kẻ mới đến; và cùng với một tiếng đùng vang lên, tấm màn được khép kín trở lại, và căn phòng lại lặng im. Ron cũng hạ cây đũa phép của nó xuống, nhưng Harry thì không.

“Hãy tự chứng minh!” Nó quát lại.

Thầy Lupin tiến vào vùng sáng ánh đèn, hai tay vẫn giơ cao trong tư thế đầu hàng.

“Tôi là Remus John Lupin, người sói, đôi khi còn gọi là Moony, một trong bốn người chế ra tấm Bản đồ Đạo tặc, kết hôn với Nymphadora, thường được gọi là Tonks, và tôi đã dạy con, Harry à, cách tạo ra một Thần Hộ mệnh, nó có hình dạng của một con hươu.”

“Ôi, đúng rồi!” Harry nói, hạ cây đũa phép của nó xuống, “nhưng con phải kiểm tra, đúng không thầy?”

“Nói với tư cách cựu giáo sư bộ môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám của con, thầy hoàn toàn đồng ý là con phải kiểm tra. Ron, Hermione, hai con không nên hạ thấp sự phòng vệ của mình.”

Tụi nó chạy xuống cầu thang về phía thầy. Quấn mình trong lớp áo choàng đi đường màu đen dày cui, thầy có vẻ kiệt sức, nhưng mừng được gặp tụi nó.

“Vậy là không có dấu hiệu gì của Snape à?” Thầy hỏi.

“Dạ, không.” Harry nói. “Chuyện gì đang xảy ra? Mọi người bình an hả thầy?”

“Ừ” thầy Lupin nói. “Nhưng chúng ta đang bị theo dõi. Có hai tên Tử Thần Thực Tử trên quảng trường ngoài kia...”

“Tụi con biết...”

“Thầy phải Độn thổ vào đúng chóc cái bậc thềm trên cùng bên ngoài cửa trước để chắc chắn bọn chúng không thấy được thầy. Bọn chúng không biết các con ở trong này, chứ nếu biết thì thầy tin chắc chúng sẽ cho nhiều lâu la hơn đến bao vây ngoài kia; chúng đang bố ráp tất cả những nơi có bất cứ liên hệ gì tới con, Harry à. Chúng ta hãy đi xuống lầu, có nhiều chuyện cần nói với các con, và thầy muốn biết chuyện gì xảy ra sau khi các con rời Hang Sóc.”

Thầy trò cùng đi xuống nhà bếp, ở đó Hermione chĩa cây đũa phép vào cái vỉ lò. Một ngọn lửa bùng cháy lên tức thì: nó tạo ảo giác ấm áp cho những bức tường đá ảm đạm và tỏa ánh sáng lung linh trên cái bàn gỗ dài. Thầy Lupin lôi từ bên trong tấm áo choàng đi đường ra mấy chai bia bơ và thầy trò ngồi xuống.

“Thầy đã tới đây từ ba ngày trước nhưng thầy phải tống khứ tên Tử Thần Thực Tử theo đuôi thầy,” thầy Lupin nói. “Sao, các con đến thẳng đây sau đám cưới hả?”

“Dạ không,” Harry nói, “bị đụng đầu hai tên Tử Thần Thực Tử ở một quán cà phê trên đường Tottenham Court rồi tụi con mới tới đây.”

Thầy Lupin làm đổ gần hết bia bơ của thầy xuống ngực áo.

“Cái gì?”

Tụi nó giải thích chuyện đã xảy ra; khi tụi nó nói xong, thầy Lupin tỏ vẻ kinh hoàng.

“Nhưng làm sao chúng tìm ra được các con nhanh như vậy? Không thể nào lần theo dấu vết bất cứ người nào Độn thổ, trừ khi nắm giữ được họ ngay lúc họ biến mất.”

“Và cũng không có vẻ gì bọn chúng chỉ dạo chơi trên đường Tottenham Court vào lúc đó, đúng không?” Harry nói.

“Tụi con thắc mắc,” Hermione ngập ngừng nói, “liệu Harry có thể vẫn còn Dấu Hiện trên người bạn ấy không ạ?”

“Không thể được,” thầy Lupin nói. Ron có vẻ tí tởn đắc ý, và Harry cảm thấy cực kỳ nhẹ nhõm. “Ngoài ra, nếu Harry vẫn còn Dấu Hiện trên người thì bọn chúng đã biết chắc nó ở đây, phải không nào? Nhưng thầy không thể hiểu làm sao mà chúng có thể dò ra con ở đường Tottenham Court, điều đó đáng lo lắm, thực sự đáng lo.”

Trông thầy có vẻ hoang mang, nhưng đối với Harry thì vấn đề đó có thể để thủng thẳng tính sau.

“Thầy nói cho tụi con biết với, chuyện gì xảy ra sau khi tụi con đi rồi, tụi con chẳng nghe được tin tức gì từ khi ba của Ron báo cho tụi con biết gia đình bình an.”

“À, chú Kingsley đã cứu chúng ta,” thầy Lupin nói. “Nhờ cảnh báo của chú ấy mà hầu hết khách dự đám cưới đã Độn thổ trước khi bọn chúng tới.”

“Chúng là Tử Thần Thực Tử hay nhân viên Bộ Pháp thuật?” Hermione chen ngang.

“Hổ lốn; nhưng thực tế là bọn chúng giờ đây đều cùng một giuộc,” thầy Lupin nói. “Có khoảng một tá đứa, nhưng chúng không biết con ở đó, Harry à. Bác Arthur nghe một tin đồn là chúng đã tra tấn ông Scrimgeour để truy ra chỗ ở của con trước khi chúng giết ông, nếu chuyện đó đúng thì ông ấy đã không phản bội con.”

Harry nhìn Ron và Hermione; vẻ mặt của tụi nó phản ánh nỗi sững sờ pha lẫn sự tri ơn mà nó cũng cảm thấy trong lòng. Nó chưa bao giờ ưa ông Scrimgeour, nhưng nếu điều thầy Lupin nói là đúng, thì hành động cuối cùng của ông là cố gắng bảo vệ Harry.

“Bọn Tử Thần Thực Tử lục soát Hang Sóc từ đầu đến đáy,” thầy Lupin nói tiếp. “Chúng tìm thấy con ma xó, nhưng không muốn tới gần - và rồi chúng thẩm vấn tất cả những người còn ở lại suốt mấy tiếng đồng hồ. Chúng cố moi tin tức về con, Harry à, nhưng dĩ nhiên không ai ngoại trừ Hội biết là con đã ở đó.

“Trong lúc chúng làm tan hoang đám cưới, nhiều tên Tử Thần Thực Tử khác cũng xông vào sục sạo mọi căn nhà có liên hệ với Hội ở vùng quê. Không ai chết,” thầy nói thêm rất nhanh, đoán trước được câu hỏi. “Nhưng chúng rất hung hăng. Chúng đốt rụi nhà của Dedalus Diggle, nhưng như các con biết, thầy ấy không có ở đó, và chúng dùng bùa Cực hình đối với gia đình của Tonks. Cũng lại là cố tìm ra chỗ mà con đi sau khi đến nhà họ. Họ đều bình an - họ sợ, dĩ nhiên rồi, nhưng về mặt khác thì vô sự.”

“Bọn Tử Thần Thực Tử vượt qua được tất cả bùa phép bảo vệ đó sao?” Harry hỏi, vẫn còn nhớ những bùa phép đó đã linh nghiệm biết bao trong cái đêm nó rớt xuống khu vườn nhà ba má cô Tonks.

“Một điều con cần nhận thức rõ, Harry à, là bọn Tử Thần Thực Tử giờ đây đã giành được toàn quyền ở Bộ Pháp thuật về phe chúng,” thầy Lupin nói. “Chúng đã có quyền thực hiện những bùa phép dã man mà không sợ bị vạch mặt hay bắt bớ. Chúng tìm cách xuyên thủng mọi bùa phòng vệ mà chúng ta đã ếm chống lại chúng, và một khi đã vào được bên trong, chúng để lộ ra hết ý đồ vì sao chúng đến.”

“Và bọn chúng có thèm đưa ra một cái cớ nào cho việc tra khảo người ta về chỗ ở của Harry không?” Hermione hỏi, giọng cô bé sắc đanh lại.

“À,” thầy Lupin nói. Thầy ngập ngừng, rồi rút ra một tờ Nhật báo Tiên Tri đã được gấp lại.

“Đây,” thầy vừa nói vừa đẩy tờ báo ngang qua mặt bàn về phía Harry, “sớm muộn gì thì đằng nào con cũng biết. Đó là cái cớ của bọn chúng để săn lùng con.”

Harry trải bằng tờ báo ra. Một cái hình chụp gương mặt nó thiệt to chiếm hết trang nhất. Nó đọc cái tựa phía trên hình:

BỊ TRUY NÃ ĐỂ ĐIỀU TRA VỀ

CÁI CHẾT CỦA ALBUS DUMBLEDORE

Ron và Hermione cùng rống lên phẫn nộ, nhưng Harry không nói gì cả. Nó đẩy tờ báo ra; nó không muốn đọc thêm nữa: nó đã biết bài báo sẽ nói gì. Ngoại trừ những người có mặt ở trên đỉnh tháp lúc cụ Dumbledore chết thì không ai khác biết được ai đã thực sự giết cụ, và như Rita Skeeter đã nói với thế giới pháp thuật, người ta nhìn thấy Harry chạy ra khỏi hiện trường ngay sau khi cụ Dumbledore ngã xuống.

“Thầy rất tiếc, Harry à,” thầy Lupin nói.

“Vậy là bọn Tử Thần Thực Tử cũng đã thao túng luôn cả tờ Nhật báo Tiên Tri?” Hermione giận dữ hỏi.

Thầy Lupin gật đầu.

“Nhưng chắc chắn người ta hiểu chuyện gì đang xảy ra chớ?”

“Cuộc đảo chánh đã diễn ra êm thấm và hầu như yên lặng,” thầy Lupin nói.

“Giải thích chính thức về vụ ám sát ông Scrimgeour là ông từ chức; thay vào chỗ của ông là Pius Thicknesse, kẻ đã bị ếm Lời nguyền Độc đoán.”

“Vậy sao Voldemort không tuyên bố hắn là Bộ trưởng Bộ Pháp thuật luôn cho rồi?” Ron hỏi.

Thầy Lupin bật cười.

“Hắn không cần làm vậy, Ron à. Hắn là Bộ trưởng thực quyền, nhưng mắc gì hắn phải ngồi sau cái bàn giấy ở Bộ chứ? Bù nhìn của hắn, Thicknesse, sẽ lo công việc mỗi ngày, để Voldemort rảnh tay bành trướng quyền lực của hắn rộng ra ngoài Bộ.

“Đương nhiên nhiều người suy ra được việc gì đã xảy ra: trong mấy ngày qua đã có những thay đổi đột ngột trong chính sách của Bộ, và nhiều người đang xì xầm rằng Voldemort ắt đứng đằng sau chuyện đó. Nhưng, vấn đề ở chỗ đó: họ xì xầm. Họ không dám tin cậy nhau, không biết ai để mà tin; họ không dám nói ra, sợ rằng nghi ngờ của họ mà đúng thì gia đình của họ sẽ trở thành mục tiêu bị tấn công. Đúng, Voldemort đang thi hành một âm mưu khôn khéo. Tự phong chức cho hắn có thể khơi dậy sự chống đối công khai: giữ nguyên tình trạng ngụy trang tạo ra sự mập mờ, bất ổn và sợ hãi.”

“Và sự thay đổi đột ngột này trong chính sách của Bộ,” Harry nói, “bao gồm cả việc cảnh giác giới pháp thuật chống lại con thay vì Voldemort sao?”

“Chắc chắn đó là một phần trong mưu đồ của hắn,” thầy Lupin nói, “và đó là một nước cờ cao tay. Giờ đây cụ Dumbledore đã chết, con - Đứa trẻ Sống sót - chắc chắn là biểu tượng và ngọn cờ chiêu tập mọi sự đối kháng với Voldemort. Nhưng bằng cách ám chỉ con có nhúng tay vào cái chết của cụ, Voldemort không chỉ treo giá cái đầu của con, mà còn gieo hoang mang và sợ hãi vào những người có thể sẽ bảo vệ con.

“Đồng thời, Bộ đã khởi động bài trừ phù thủy gốc Muggle.”

Thầy Lupin chỉ vào tờ Nhật báo Tiên Tri.

“Xem trang hai.”

Hermione lật trang báo với vẻ tởm lợm như lúc cô bé cầm quyển Bí Mật Nghệ Thuật Hắc Ám.

“Đăng ký phù thủy gốc Muggle!” Cô bé đọc to. “Bộ Pháp thuật đang thực hiện một cuộc khảo sát về những kẻ-gọi-là 'Phù thủy gốc Muggle' để hiểu biết hơn cách thức họ nắm giữ những bí mật pháp thuật.

“Nghiên cứu gần đây do Sở Bí mật thực hiện cho thấy pháp thuật chỉ có thể truyền từ cá nhân sang cá nhân khi phù thủy sinh sản. Vì vậy, một khi không chứng minh được dòng dõi phù thủy, kẻ-gọi-là phù thủy gốc Muggle rất có thể đã có được quyền năng pháp thuật bằng cách trộm cắp hay cưỡng đoạt.

“Bộ Pháp thuật cương quyết loại bỏ tận gốc bọn cướp quyền năng pháp thuật đó, và đến nay đã gởi thư mời cho mọi kẻ-gọi-là phù thủy gốc Muggle đến trình diện để được Ủy ban Đăng ký phù thủy gốc Muggle mới được bổ nhiệm phỏng vấn.”

“Người ta sẽ không để cho việc này xảy ra,” Ron nói.

“Việc đó đang xảy ra, Ron à,” thầy Lupin nói. “Trong lúc chúng ta đang nói đây, các phù thủy gốc Muggle đang bị bố ráp.”

“Nhưng làm sao mà người ta có thể bị coi là 'trộm cắp' pháp thuật được chứ?” Ron nói, “Đó là vấn đề trí tuệ, nếu người ta có thể ăn cắp được pháp thuật thì đâu có ai là á phù thủy chớ?”

“Thầy biết,” thầy Lupin nói. “Đằng nào đi nữa, ai không thể chứng minh mình có ít nhất một người bà con ruột thịt là phù thủy, thì người đó bị coi như đã sở hữu quyền năng pháp thuật bất hợp pháp và phải chịu sự trừng phạt.”

Ron liếc qua Hermione, rồi nói, “Nếu những phù thủy thuần chủng và phù thủy lai chính thức xác nhận một phù thủy gốc Muggle là thành viên trong gia đình mình thì sao? Con sẽ nói với mọi người Hermione là em họ của con...”

Hermione nắm tay Ron siết nhẹ.

“Cám ơn bồ, Ron à, nhưng mình sẽ không để bồ...”

“Bồ sẽ không còn cách nào khác đâu,” Ron vừa hùng hổ nói vừa giữ chặt lại bàn tay cô bé. “Mình sẽ dạy bồ gia phả của mình để bồ có thể trả lời những chất vấn về dòng dõi.”

Hermione bật cười xao xuyến.

“Ron ơi, tụi mình đang đào tẩu với Harry, kẻ bị truy nã gắt gao nhất nước, nên mình không nghĩ chuyện đó có gì là quan trọng. Nếu mình mà quay trở lại trường học thì có thể khác. Mà Voldemort định làm gì với trường Hogwarts?” Cô bé hỏi thầy Lupin.

“Việc theo học giờ đây là cưỡng bách đối với mọi nam nữ phù thủy trẻ,” thầy Lupin đáp. “Việc đó được thông báo ngày hôm qua. Đó là một thay đổi, bởi vì trước đây việc theo học trường Hogwarts không bị bắt buộc. Dĩ nhiên, hầu như mọi phù thủy pháp sư ở nước Anh đều được giáo dục ở trường Hogwarts, nhưng phụ huynh học sinh có quyền dạy con em mình ở nhà hay gởi chúng du học ở nước ngoài nếu họ muốn. Bằng việc cưỡng bách này, Voldemort sẽ giám sát được toàn bộ dân chúng pháp thuật ngay từ khi họ còn thơ ấu. Và đó cũng là một cách khác để loại ra những phù thủy gốc Muggle, bởi vì học sinh phải được cấp Huyết tịch - nghĩa là phải chứng minh với Bộ Pháp thuật là chúng thuộc dòng dõi phù thủy - trước khi chúng được phép nhập học.”

Harry cảm thấy lợm giọng và tức điên: ngay lúc này, những đứa trẻ mười một tuổi đang mải mê với đống sách bùa chú mới mua không hay biết rằng tụi nó sẽ không bao giờ được thấy trường Hogwarts, có thể cũng sẽ không bao giờ còn gặp lại cha mẹ mình.

“Thiệt là... thiệt là...” nó lắp bắp, cố hết sức tìm từ ngữ diễn tả được nỗi kinh khủng trong ý nghĩ của nó, nhưng thầy Lupin đã nhẹ nhàng nói.

“Thầy biết.”

Thầy Lupin ngập ngừng.

“Thầy sẽ thông cảm nếu con không thể thừa nhận việc này, Harry à, nhưng Hội đang có ấn tượng là cụ Dumbledore đã trao cho con một sứ mệnh.”

“Dạ, phải,” Harry đáp. “Ron cùng Hermione cũng có dự phần và hai bạn sẽ cùng đi với con.”

“Con có thể nói riêng cho thầy biết sứ mạng đó là gì không?”

Harry nhìn vào gương mặt sớm hằn nếp nhăn lồng trong mái tóc dày những chớm bạc, và ước gì nó có thể trả lời khác đi.

“Thưa thầy Remus, con không nói được, con rất tiếc. Nếu cụ Dumbledore đã không nói với thầy thì con nghĩ là con cũng không nói được.”

“Thầy cũng nghĩ là con sẽ nói vậy,” thầy Lupin nói, tỏ vẻ thất vọng. “Nhưng thầy vẫn có thể giúp con cách nào đó. Con biết nghề nghiệp và khả năng của thầy. Thầy có thể đi cùng các con để bảo vệ. Các con không cần nói cho thầy biết chính xác việc các con làm.”

Harry lúng túng. Đây là một đề nghị rất hấp dẫn, mặc dù nó không thể hình dung ra làm cách nào tụi nó có thể giữ được bí mật sứ mệnh của tụi nó nếu thầy Lupin lúc nào cũng kè kè bên cạnh.

Tuy nhiên, Hermione lại tỏ ra ngơ ngác.

“Nhưng còn cô Tonks?” Cô bé hỏi.

“Cô ấy thì sao?” Thầy Lupin nói.

“Thì ơ...,” Hermione nói, mặt mày nhăn lại. “Thầy với cô ấy cưới nhau rồi mà! Cô ấy sẽ cảm thấy thế nào nếu thầy bỏ đi với tụi con?”

“Tonks sẽ tuyệt đối bình an,” thầy Lupin nói. “Cô ấy sẽ ở nhà ba má.”

Có gì đó là lạ trong giọng nói của thầy Lupin, nghe như lạnh lùng. Mà cái ý tưởng cô Tonks tiếp tục trốn tránh ở nhà ba má cô ấy cũng kỳ cục nốt; xét cho cùng, cô Tonks là một thành viên của Hội, và theo như Harry biết, cô chắc hẳn muốn xông pha trận mạc lắm.

“Thầy Remus à,” Hermione nói, dè dặt thăm dò, “mọi việc có tốt đẹp không... thầy hiểu... giữa thầy và...”

“Mọi việc đều tốt, cám ơn con,” thầy Lupin nói giọng châm chọc.

Hermione đỏ mặt. Mọi người lại im lặng một lát, một sự im lặng ngượng ngùng và bối rối. Rồi thầy Lupin nói, với cái vẻ buộc lòng phải thừa nhận một điều không được dễ chịu lắm. “Cô Tonks sắp có em bé.”

“Ôi, tuyệt quá!” Hermione ré lên.

“Xuất sắc!” Ron phấn khởi nói.

“Chúc mừng cô thầy,” Harry nói.

Thầy Lupin gượng cười trông như một cái mếu, rồi nói, “Vậy... các con nhận lời đề nghị của thầy há? Bộ ba sẽ thành bộ bốn há? Thầy không tin là cụ Dumbledore không tán đồng, xét cho cùng, cụ đã chỉ định thầy làm thầy dạy các con Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám. Và thầy phải nói với các con thầy tin là chúng ta sẽ đương đầu với những ma thuật mà nhiều người trong chúng ta chưa bao giờ gặp phải hay tưởng tượng nổi.”

Cả Ron và Hermione đều nhìn Harry.

“Chỉ... con chỉ hỏi cho rõ thôi,” Harry nói. “Thầy muốn bỏ cô Tonks ở nhà ba má cô ấy và bỏ đi với tụi con à?”

“Cô ấy sẽ tuyệt đối an toàn ở đó, ba má cô sẽ chăm sóc cô,” thầy Lupin nói. Thầy nói với giọng dứt khoát gần như dửng dưng. “Harry à, thầy chắc chắn ba James muốn thầy ở bên con.”

“Dạ,” Harry chậm rãi nói, “con không chắc. Thực ra, con hơi chắc là ba con sẽ muốn biết tại sao thầy lại không ở bên con của chính thầy.”

Nét mặt của thầy Lupin tái đi. Nhiệt độ trong nhà bếp có lẽ đã tụt xuống khoảng mười độ. Ron trợn mắt nhìn quanh phòng như thể nó được ra lệnh phải ghi nhớ chuyện này, trong khi mắt của Hermione thì đảo từ Harry sang thầy Lupin rồi đảo lại.

“Con không hiểu rồi,” cuối cùng thầy Lupin nói.

“Vậy thầy giải thích đi,” Harry nói.

Thầy Lupin nuốt nước miếng.

“Thầy... thầy đã sai lầm trầm trọng khi cưới cô Tonks. Thầy cứ cưới dù biết là không nên và từ lúc cưới đến giờ thầy hối tiếc vô cùng.”

“Con hiểu rồi,” Harry nói, “vậy là thầy cứ thế mà bỏ rơi cô ấy và đứa con rồi dông theo tụi con chứ gì?”

Thầy Lupin đứng bật dậy: chiếc ghế của thầy ngã lật ra sau, và thầy trừng mắt nhìn tụi nó dữ dằn đến nỗi Harry thấy, lần đầu tiên, dấu vết của sói hiện trên gương mặt người của thầy.

“Các người có hiểu tôi đã đem lại tai họa gì cho vợ và đứa con chưa sinh của tôi không? Lẽ ra tôi đừng bao giờ cưới cô ấy, tôi đã biến cô ấy thành kẻ ngoài lề xã hội!”

Thầy Lupin đá cái ghế mà thầy đã làm ngã chổng kềnh.

“Các người chỉ nhìn thấy tôi ở trong Hội, hay dưới sự che chở của cụ Dumbledore ở trường Hogwarts! Các người không biết phần lớn thế giới pháp thuật nhìn những sinh vật như chúng tôi như thế nào! Khi họ biết cái họa mà tôi phải mang, họ không thể nào vô tư nói chuyện với tôi! Các người không thấy tôi đã làm gì sao?

“Ngay cả gia đình cô ấy cũng bị ghê tởm lây vì cuộc hôn nhân của chúng tôi, cha mẹ nào muốn đứa con gái duy nhất của mình cưới một người sói hả? Và đứa bé... đứa bé...”

Thầy Lupin đang nắm cả túm tóc của thầy mà giật; trông thầy như đã loạn trí.

“Những người như tôi thường không sinh con đẻ cái! Con cái sẽ giống như mình, tôi chắc chắn điều đó - làm sao tôi có thể tha thứ cho mình, khi đã biết mà cứ liều di truyền kiếp phận của mình cho đứa con vô tội chứ? Và nếu nhờ phép lạ nào đó, đứa con không giống tôi, thì tốt hơn, trăm lần tốt hơn cho đứa nhỏ thà không có cha, một người cha khiến nó phải xấu hổ!”

“Thầy Remus!” Hermione thì thầm, nước mắt ứa ra. “Thầy đừng nói vậy - làm sao có đứa nhỏ nào lại xấu hổ về thầy được chớ?”

“A, chưa chắc đâu, Hermione,” Harry nói. “Tôi hơi xấu hổ về ông ấy đó.”

Harry không biết cơn giận của nó trào lên từ đâu, nhưng thúc cho nó phải đứng bật dậy. Trông thầy Lupin như thể vừa bị Harry đấm một quả.

“Nếu chế độ mới coi những phù thủy gốc Muggle là xấu xa,” Harry nói, “thì họ sẽ đối xử như thế nào với một người sói lai mà cha nó có chân trong Hội? Cha tôi đã chết vì cố gắng bảo vệ mẹ tôi và tôi, vậy mà ông cho là cha tôi muốn ông bỏ rơi con ông để đi phiêu lưu với tụi tôi à?”

“Sao... sao cậu dám...” thầy Lupin nói. “Đây không phải là chuyện ham hố... mạo hiểm hay vinh quang cá nhân... sao cậu dám nghĩ ra một điều như...”

“Tôi nghĩ ông đang nổi máu liều,” Harry nói. “Ông mơ tưởng kiểu sống của chú Sirius...”

“Harry, đừng mà!” Hermione năn nỉ nó, nhưng nó cứ tiếp tục nhìn chòng chọc vào gương mặt tái tím của thầy Lupin.

“Tôi không tin được điều này,” Harry nói. “Người đã dạy tôi chiến đấu với bọn Giám ngục lại là... đồ hèn nhát.”

Thầy Lupin rút cây đũa phép của thầy ra nhanh đến nỗi Harry không kịp đụng tới cây đũa phép của nó; một tiếng nổ đùng thiệt to và nó cảm thấy bản thân mình bay ngược ra sau như thể bị đấm văng; khi dộng vào tường nhà bếp và trượt xuống sàn, nó vừa kịp thoáng thấy vạt sau tấm áo choàng của thầy Lupin khuất sau cánh cửa.

“Thầy Remus, thầy Remus, quay lại đi thầy!” Hermione khóc gọi, nhưng thầy Lupin không đáp lại. Một lát sau tụi nó nghe tiếng cánh cửa trước đóng sầm.

“Harry!” Hermione tru tréo. “Sao bồ có thể ăn nói như vậy?”

“Dễ mà,” Harry nói. Nó đứng lên, cảm thấy một cục u đang phồng lên ở chỗ đầu nó đã đụng vô tường. Nó vẫn còn căm giận đến nỗi run bần bật.

“Đừng nhìn tôi như vậy!” Nó nạt Hermione.

“Đừng kiếm chuyện với bạn ấy!” Ron gầm gừ.

“Đừng... đừng... tụi mình không được chống lại nhau!” Hermione nói, xông vào giữa hai đứa con trai.

“Bồ lẽ ra không nên nói những lời đó với thầy Lupin,” Ron nói với Harry.

“Ổng đáng nghe những lời đó.” Harry nói. Những hình ảnh không nguyên vẹn nối nhau lướt qua đầu nó: chú Sirius rơi xuyên qua bức màn, cụ Dumbledore lơ lửng giữa không trung, không toàn thây; một ánh chớp xanh rờn nháng lên và giọng nói của má nó, van xin lòng từ bi...

“Cha mẹ...” Harry nói, “không nên bỏ rơi con cái trừ khi... trừ khi họ đành phải...”

“Harry à...” Hermione nói, đưa tay ra để vỗ về, nhưng Harry gạt ra và bỏ đi, mắt nó ngó đăm đăm ngọn lửa mà Hermione đã hô biến thành. Nó có lần đã nói chuyện với thầy Lupin ở lò sưởi đó, tìm kiếm lòng tin vào ba James, và thầy Lupin đã vỗ về nó. Giờ đây gương mặt trắng bệch đau khổ của thầy Lupin dường như trôi lềnh bềnh trong không gian trước mặt nó. Harry cảm thấy một cơn hối hận trào dâng khiến nó muốn ói. Cả Ron lẫn Hermione đều không nói gì, nhưng Harry đoán chắc hai đứa nó đang nhìn nhau ở sau lưng nó, lặng lẽ trao đổi cảm nghĩ với nhau.

Nó quay lại và bắt gặp hai đứa kia vội vã ngoảnh mặt đi, không nhìn nhau.

“Mình biết lẽ ra mình không nên gọi thầy ấy là đồ hèn nhát.”

“Ừ, không nên,” Ron nói ngay.

“Nhưng thầy ấy hành xử như một kẻ hèn.”

“Thì cũng không nên...” Hermione nói.

“Mình biết,” Harry nói. “Nhưng nếu chuyện này khiến cho thầy ấy quay trở lại với cô Tonks thì cũng đáng, phải không?”

Nó không thể giữ cho giọng nó không có vẻ biện bạch. Hermione tỏ vẻ cảm thông, Ron thì không chắc. Harry ngó xuống chân, nghĩ đến cha nó. Liệu ba James có tán thành những lời nó nói với thầy Lupin không, hay ba sẽ nổi giận vì cách đối xử của con trai ba với người bạn cũ của ba?

Cái nhà bếp im ắng dường như còn ong ong nỗi sững sờ với cảnh vừa rồi và với sự trách móc không nói ra lời của Ron và Hermione. Tờ Nhật báo Tiên Tri mà thầy Lupin đem tới vẫn còn nằm trên bàn, gương mặt Harry trên trang nhất đang ngó đăm đăm cái trần nhà. Nó đi tới cái bàn và ngồi xuống, mở đại tờ báo ra, giả bộ đọc. Nó không thể đọc vô chữ nào; đầu nó vẫn còn đầy ứ dư âm cuộc đối đầu với thầy Lupin. Nó chắc là Ron và Hermione lại tiếp tục trao đổi cảm nghĩ trong im lặng phía bên kia tờ báo Tiên Tri. Nó lật tờ báo xột xoẹt, và cái tên của cụ Dumbledore nổi bật lên bắt mắt nó. Nó mất một lát mới hiểu được ý nghĩa của tấm hình chụp cảnh một gia đình. Bên dưới tấm hình là hàng chữ: “Gia đình Dumbledore, từ trái qua phải: Albus, Percival, bồng đứa con mới sinh Ariana, Kendra, và Aberforth.”

Tấm hình thu hút ngay sự chú ý của Harry, nó xem xét tấm hình kỹ lưỡng hơn. Cha của cụ Dumbledore, ông Percival, là một người đàn ông đẹp có đôi mắt có vẻ long lanh ngay cả trong tấm hình cũ đã mờ phai này. Đứa bé sơ sinh, Ariana, chỉ hơi dài hơn ổ bánh mì một chút xíu và không còn thấy rõ được nữa. Người mẹ, bà Kendra, có mái tóc đen nhánh bới lên thành một búi cao. Gương mặt của bà rất có nét, như được chạm trổ. Harry nghĩ đến hình của những thổ dân châu Mỹ mà nó từng xem trong lúc nó nghiên cứu đôi mắt đen, đôi gò má cao, và cái mũi thẳng trang nghiêm đĩnh đạc ngự trên bộ áo đầm lụa cao cổ. Albus và Aberforth mặc áo khoác có cổ cồn viền ren hài hòa và có cùng kiểu tóc dài đến vai y như nhau. Albus trông lớn hơn Aberforth nhiều tuổi, nhưng mặt khác hai chàng trai rất giống nhau, bởi vì hình này chụp trước khi Albus bị bể mũi và trước khi cậu bắt đầu đeo kiếng.

Cả gia đình có vẻ rất hạnh phúc và bình thường, cùng mỉm cười thanh thản trên mặt báo. Cánh tay của bé Ariana thò ra khỏi khăn tã vẫy vẫy một cách lơ đãng. Harry nhìn lên phía trên tấm hình và thấy cái tựa:

TRÍCH ĐOẠN ĐẶC BIỆT

TỪ TIỂU SỬ SẮP XUẤT BẢN CỦA ALBUS DUMBLEDORE

Tác giả: Rita Skeeter

Nghĩ rằng dẫu có đọc bài báo thì cũng không thể khiến nó cảm thấy khốn khổ hơn tâm trạng đang có, Harry bắt đầu đọc.

Từ hào và kiêu hãnh, Kendra Dumbledore không thể chịu đựng được cuộc sống ở Mould-on-the-Wold sau khi ông Percival chồng bà bị bắt rùm beng và bị tống vào ngục Azkaban. Vì vậy bà quyết định bứng gốc gia đình đi và tái định cư ở Thung lũng Godric, ngôi làng sau này nổi tiếng là hiện trường của vụ thoát chết kỳ lạ của Harry Potter khỏi bàn tay Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó.

Cũng như Moul-on-the-wold, Thung lũng Godric là quê nhà của một số gia đình phù thủy, nhưng vì Kendra không quen biết ai trong số đó, bà sẽ tránh được sự tọc mạch về tội ác của chồng bà mà bà phải đối mặt trong ngôi làng trước đây của bà. Bằng việc từ chối tới từ chối lui sự chủ động kết thân trước của những láng giềng phù thủy mới, chẳng bao lâu sau bà đã bảo đảm cho gia đình mình được để yên.

“Đóng sập cửa vào mặt tôi khi tôi mang một mẻ bánh vạc nhà làm ghé qua chào mừng bà ấy,” Bathilda Bagshot nói. “Năm đầu tiên họ sống ở đó tôi chỉ thấy có mỗi hai cậu con trai. Không hề biết có cô con gái nếu tôi không thơ thẩn bắt Rận Sầu dưới ánh trăng vào mùa đông sau khi họ dọn tới, và nhìn thấy Kendra dẫn Ariana ra khu vườn sau nhà. Dắt con bé đi vòng quanh bãi cỏ một lần, nắm chặt con bé, rồi dắt nó trở vô trong nhà. Không biết nghĩ sao về chuyện đó.”

Có vẻ như Kendra tưởng việc dọn đến Thung lũng Godric là cơ hội hoàn hảo để giấu biệt Ariana vĩnh viễn, một việc có lẽ bà đã toan tính nhiều năm. Sự tính toán thời gian rất có ý nghĩa. Ariana chỉ mới bảy tuổi thì biến mất, và bảy tuổi là tuổi mà hầu hết các chuyên viên đồng ý là pháp thuật sẽ tự bộc lộ, nếu có. Không người nào còn sống ngày nay nhớ được Ariana từng biểu lộ thậm chí dấu hiệu nhỏ nhất về khả năng pháp thuật. Vì vậy, dường như rõ ràng rằng Kendra đã quyết định thà giấu biệt sự tồn tại của cô con gái còn hơn là chịu đựng nỗi nhục nhã phải thừa nhận bà ta đã sản sinh ra một á phù thủy. Dọn xa khỏi hàng xóm và bạn bè đã từng biết Ariana dĩ nhiên sẽ làm cho việc giam cầm cô bé hoàn toàn dễ dàng hơn. Từ đó trở về sau, có thể trông mong vào con số ít ỏi người biết đến sự tồn tại của Ariana để giữ bí mật, bao gồm hai người anh của cô bé, những người đã lảng tránh những câu hỏi mắc mứu bằng câu trả lời mà mẹ chúng dạy chúng: “Em gái tôi yếu quá không đi học được.”

Tuần sau: Albus Dumbledore ở Hogwarts - những phần thưởng và sự phô trương

Harry đã nhầm: những gì nó đọc thực ra khiến nó cảm thấy đau khổ hơn. Nó nhìn lại tấm hình chụp của cái gia đình có vẻ hạnh phúc đó. Thật không? Làm sao nó biết được? Nó muốn đi tới Thung lũng Godric, cho dù bà Bathilda không còn đủ minh mẫn để trò chuyện với nó: nó muốn đến thăm nơi mà nó và cụ Dumbledore đều đã mất mát những người thân yêu. Nó đang hạ tờ báo xuống để hỏi ý kiến Ron và Hermione, thì một tiếng nổ đùng điếc tai vang dội khắp nhà bếp.

Lần đầu tiên trong ba ngày qua Harry quên béng mất Kreacher. Ý nghĩ ngay lúc đó của nó là thầy Lupin xông vô nhà bếp trở lại, và trong nửa giây, nó không nhận dạng được cái khối tay chân giẫy giụa vừa xuất hiện trong không trung ngay bên cạnh ghế của nó. Nó lật đật đứng lên khi Kreacher tự gỡ y ra và cúi rạp chào Harry, khào khào nói, “Thưa chủ nhân, Kreacher đã trở về với tên trộm Mundungus Fletcher.”

Mundungus lồm cồm đứng dậy và rút cây đũa phép của lão ra; tuy nhiên, Hermione đã nhanh hơn lão.

“Giải giới!”

Cây đũa phép của lão Mundungus bay vèo lên không trung, và Hermione bắt lấy nó. Kinh hoàng, lão Mundungus lao tới cầu thang. Ron chặn lão bằng thế đốn chân khóa tay và lão té nhào xuống sàn đá kèm tiếng nghiến răng trong họng.

“Chuyện gì?” Lão rống lên, vùng giẫy cố gắng thoát ra khỏi sự kìm kẹp của Ron. “Tôi đã làm gì chớ? Cho một con gia tinh khốn kiếp đi bắt tôi, mấy người đang giở trò gì hả, tôi đã làm gì, thả tôi ra, thả tôi ra, nếu không...”

“Ông không ở trong cái thế lớn tiếng đe dọa được đâu,” Harry nói. Nó liệng tờ báo qua một bên, băng ngang nhà bếp bằng vài cái sải chân, và quì xuống bên cạnh Mundungus, lão đã thôi vùng vẫy và tỏ vẻ khiếp đảm. Ron đứng dậy, thở hổn hển, và quan sát khi Harry cẩn thận chĩa cây đũa phép vào cái mũi của Mundungus. Lão Mundungus bốc mùi mồ hôi chua loét và mùi khói thuốc lá. Tóc lão rối bù và áo chùng của lão bê bết vết dơ.

“Thưa chủ nhân, Kreacher xin lỗi đã đem tên trộm về trễ,” con gia tinh khào khào nói. “Fletcher biết cách tránh bị bắt, có nhiều chỗ chui trốn và bọn đồng lõa. Nhưng mà cuối cùng Kreacher đã dồn được hắn tới đường cùng.”

“Ngươi làm giỏi lắm, Kreacher à,” Harry nói và con tinh cúi rạp xuống.

“Đây, tôi có vài câu muốn hỏi ông,” Harry nói với lão Mundungus, lão hét lên tức thì.

“Tôi hoảng sợ, được chớ? Tôi không hề muốn đi cùng, đừng mích lòng nhe, bồ tèo, nhưng tôi không hề tình nguyện chết cho cậu, và cái Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai khốn nạn đó bay rượt theo tôi, bất cứ ai cũng phải chuồn thôi. Tôi đã nói là tôi không muốn làm chuyện đó mà...”

“Nói cho ông biết, không ai trong số những người còn lại Độn thổ cả,” Hermione nói.

“Chà, thì chẳng phải các người đều là một lũ anh hùng khốn nạn đó sao, nhưng tôi không hề làm bộ phấn đấu tự giết mình...”

“Tụi này không quan tâm đến lý do ông bỏ mặc thầy Mắt Điên,” Harry nói, nhích cây đũa phép của nó đến gần con mắt có nọng đỏ ngầu của lão Mundungus. “Tụi này vẫn biết ông là đồ cặn bã chẳng đáng tin.”

“Vậy thì mắc cái quỷ gì mà tôi bị bọn gia tinh săn lùng chớ? Hay lại chuyện về mấy cái cốc? Tôi không còn giữ cái nào nữa, nếu còn các người cứ lấy...”

“Cũng không phải về mấy cái cốc, mặc dù ông gần đúng rồi,” Harry nói, “Im và nghe đây.”

Kể cũng hay khi có việc gì đó để làm, có ai đó để nó có thể đòi hỏi chút xíu sự thật. Cây đũa phép của Harry giờ đây sát sống mũi của lão Mundungus đến nỗi Mundungus phải lé con mắt để canh chừng.

“Khi ông vơ vét của nả trong căn nhà này,” Harry bắt đầu nói, nhưng lão Mundungus ngắt lời nó một phen nữa.

“Anh Sirius đâu có để ý tới món nào trong mớ xà bần...”

Có tiếng chân chạy lộp cộp, một ánh nhá lên của đồng sáng loáng, một tiếng “canh” lanh lảnh ngân vọng, và một tiếng thét đau điếng, Kreacher vừa chạy tới lão Mundungus và nện lên đầu lão bằng một cái chảo.

“Kêu nó ngừng, kêu nó thôi đi, nó phải được nhốt lại!” Lão Mundungus gào thét, co rúm người lại khi Kreacher giơ cao cái chảo dày đáy một lần nữa.

“Kreacher, đừng!” Harry hét.

Cánh tay gầy gò của Kreacher run run vì sức nặng của cái chảo, nhưng vẫn còn giơ cao.

“Có lẽ thêm một cái nữa nha, cậu chủ Harry, để lấy hên?”

Ron bật cười.

“Chúng ta cần lão ấy tỉnh táo, Kreacher à, nhưng nếu lão cần thuyết phục, thì ngươi cứ tùy nghi định đoạt,” Harry nói.

“Cám ơn chủ nhân nhiều lắm,” Kreacher nói kèm cái cúi mình, rồi y lùi ra một khoảng ngắn, đôi mắt to xam xám vẫn ngó lão Mundungus chằm chằm đầy kinh tởm.

“Khi ông gỡ sạch tất cả của cải mà ông kiếm được trong căn nhà này,” Harry lại bắt đầu cuộc thẩm vấn, “ông đã lấy một mớ đồ trong cái tủ chén nhà bếp. Trong đó có một cái mặt dây chuyền.” Miệng Harry bỗng nhiên khô đi: nó cảm nhận được sự căng thẳng lẫn hồi hộp của Ron và Hermione. “Ông đã làm gì với cái đó?”

“Tại sao?” Lão Mundungus hỏi. “Cái đó có giá trị hả?”

“Ông còn giữ nó!” Hermione la lên.

“Không, ổng không còn giữ nữa!” Ron nói ra vẻ khôn ngoan. “Ổng đang thắc mắc biết vậy hồi đó đòi thêm tiền thì sao.”

“Thêm hả?” Lão Mundungus nói, “để cho mà khó chuồn hả... đứt ruột cho không đó chứ, đâu còn cách nào khác?”

“Ý ông là sao?”

“Tôi đang bán nó ở Hẻm Xéo thì mụ ta xuất hiện hỏi tôi có giấy phép mua bán khí cụ pháp thuật không. Đồ đâm thọc khốn nạn. Mụ sắp phạt tôi, nhưng rồi mụ khoái cái mặt dây chuyền và bảo là mụ sẽ lấy cái mặt và tha cho tôi lần đó, coi như tôi còn hên.”

“Bà đó là ai?”

“Ai biết, một mụ phù thủy nào đó của Bộ.”

Lão Mundungus suy nghĩ một chút, chân mày châu lại.

“Một con mẹ lùn. Có cái nơ con bướm trên đầu.”

Lão cau mày rồi nói thêm, “Trông như một con cóc.”

Harry làm rớt cây đũa phép của nó: cây đũa phép trúng mũi lão Mundungus và xẹt ra những tia sáng đỏ vô chân mày lão khiến chúng cháy lên.

“Xịt nước!” Hermione gào lên, và một tia nước tuôn ra từ cây đũa phép của cô bé, xối lên một lão Mundungus ngộp thở ú ớ.

Harry ngước nhìn lên và thấy sự bất ngờ của nó được phản ánh trên gương mặt của Ron và Hermione. Những vết thẹo trên mu bàn tay phải của nó dường như lại nhoi nhói đau.

Chương Mười Hai

Pháp thuật là quyền lực

Đến cuối tháng tám, vuông sân cỏ mọc tùm lum ở giữa quảng trường Grimmauld đã héo queo trong nắng đến mức dòn rụm và nâu xỉn. Cư dân trong ngôi nhà số mười hai hoàn toàn vô hình dưới mắt những người sống trong những ngôi nhà chung quanh; bản thân nhà số mười hai cũng vô hình.

Từ lâu dân Muggle sống ở quảng trường Grimmauld đã chấp nhận sự nhầm lẫn thú vị trong việc đánh số nhà khiến cho nhà số mười một nằm ngay cạnh nhà số mười ba.

Ấy vậy mà cái quảng trường đó giờ đây cũng thu hút được một nhúm khách tham quan, những người có vẻ phát hiện ra cái sự không bình thường đó rất ư hấp dẫn. Hiếm có một ngày nào mà không có một hay hai người đến quảng trường Grimmauld chỉ với mục đích (hay có vẻ như với mục đích) đứng dựa vào hàng rào song sắt đối diện nhà số mười một và nhà số mười ba, quan sát chỗ giáp vách giữa hai căn nhà. Mấy tay rình rập đó khác nhau mỗi ngày, mặc dù tất cả dường như có chung cái tính không ưa ăn mặc bình thường. Hầu hết dân Luân Đôn đã quen thấy những người ăn mặc lập dị nên khi đi ngang qua mấy tay đó cũng chẳng thèm để ý đến nữa, nhưng thỉnh thoảng cũng có người liếc nhìn lại, thắc mắc sao lại có người trùm áo choàng trong thời tiết nóng bức thế này.

Mấy tay dòm ngó đó dường như không mót được điều gì như ý trong những phiên gác của chúng. Thỉnh thoảng một tên hồi hộp nhóng tới trước, như thể cuối cùng hắn đã thấy điều gì đó hay ho, để rồi lại trở lui với vẻ thất vọng.

Vào ngày mùng một tháng chín có nhiều kẻ rình mò trong quảng trường hơn bao giờ hết. Nửa tá đàn ông choàng áo khoác dài đứng im lặng và cảnh giác, chăm chú ngó hoài hai nhà số mười một và mười ba, nhưng điều mà họ chờ đợi vẫn có vẻ còn lảng khuất ở đâu đâu. Khi chiều về, kèm theo một trận mưa rào lạnh lẽo không báo trước, trận mưa đầu tiên trong nhiều tuần nay, đã xảy ra một trong những khoảnh khắc không thể hiểu nổi khi đám người đó tỏ vẻ như đã nhìn thấy điều gì đó hay ho. Gã đàn ông có gương mặt nhọn hoắt nhăn như bị xoắn và tên đồng bọn đứng gần nhất, một gã mập lùn tai tái, nhóng ngay tới trước, nhưng chỉ tích tắc sau chúng đã chùng người xuống trong trạng thái đứng ì như trước đó, trông có vẻ ngao ngán và thất vọng.

Cùng lúc đó, bên trong ngôi nhà số mười hai, Harry vừa bước vào hành lang. Nó suýt mất thăng bằng khi Độn thổ lên bậc thềm trên cùng bên ngoài cửa trước, và tưởng đâu bọn Tử Thần Thực Tử có lẽ đã thoáng thấy cái cùi chỏ nó bị lộ ra trong lúc đó. Đóng cánh cửa trước cẩn thận lại sau lưng, Harry cởi Áo khoác Tàng hình ra, vắt qua cánh tay, rồi vội vã đi dọc hành lang âm u về hướng cánh cửa dẫn xuống tầng hầm, tay nắm chặt một tờ Nhật báo Tiên Tri vừa chôm được.

Tiếng thì thầm nho nhỏ thường lệ “Severus Snape” chào nó, luồng gió lạnh quét qua nó, và lưỡi nó cuộn lại trong tích tắc.

“Tôi không hề giết cụ,” nó nói, sau khi lưỡi đã duỗi ra, rồi nó nín thở khi hình nhân bùa ếm bằng bụi nổ ra. Nó đợi đến khi xuống được nửa cầu thang dẫn vào nhà bếp, ở ngoài tầm tai của bà Black và không còn đám mây bụi nữa, mới gọi: “Mình có tin đây, và mấy bồ sẽ không khoái đâu.”

Nhà bếp hầu như không còn có thể nhận ra được nữa. Mọi bề mặt giờ đây đều sáng loáng; chảo đồng nồi đồng đều được đánh bóng tới mức ánh lên màu hồng; mặt bàn gỗ óng ả; cốc dĩa bày biện sẵn cho bữa ăn tối đang lấp lánh trong ánh sáng của ngọn lửa vui vẻ cháy bập bùng bên dưới một cái vạc sôi liu riu. Tuy vậy, không có gì trong căn phòng này đổi khác một cái rụp như con gia tinh, lúc này đang lật đật đi về phía Harry; y mặc một cái khăn tắm trắng tinh, tóc tai sạch và xốp như bông gòn, cái mặt dây chuyền của Regulus nảy tưng tưng trên bộ ngực lép.

“Thưa cậu chủ Harry, cậu làm ơn cởi giày ra, và rửa tay trước khi ăn tối,” Kreacher nói giọng ồm ồm, cầm tấm Áo khoác Tàng hình và luộm thuộm treo nó lên một cái móc trên tường bên cạnh một mớ áo chùng kiểu xưa vừa mới được giặt sạch.

“Có chuyện gì vậy?” Ron lo lắng hỏi. Nó và Hermione đang nghiền ngẫm một xấp những tờ ghi chép nguệch ngoạc và bản đồ vẽ bằng tay vung vãi ở đầu cái bàn bếp dài, nhưng bây giờ cả hai đứa đều ngước nhìn Harry sải chân đi về phía tụi nó và liệng tờ báo lên trên đám giấy da lộn xộn.

Một tấm hình khổ lớn của một người đàn ông tóc đen mũi khoằm quen thuộc trừng mắt nhìn cả đám tụi nó bên dưới một cái tựa ghi:

SEVERUS SNAPE ĐƯỢC PHÊ CHUẨN CHỨC VỤ

HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG HOGWARTS

“Không!” Ron và Hermione cùng la lên.

Hermione mau mắn nhất; cô bé quơ ngay tờ báo và bắt đầu đọc to bản tin liên quan đến tấm hình.

“Ông Severus Snape, bậc thầy Độc dược kỳ cựu ở trường đào tạo pháp sư và phù thủy Hogwarts, hôm nay đã được bổ nhiệm chức hiệu trưởng, đây là cải cách quan trọng nhất trong nhiều cải cách nhân sự ở ngôi trường cổ xưa này. Sau khi giáo viên bộ môn Muggle học trước đây từ chức, bà Alecto Carrow sẽ đảm nhận công việc này trong khi anh của bà là ông Amycus được bổ nhiệm làm giáo sư bộ môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám.”

“'Tôi vui mừng có cơ hội giương cao những giá trị và truyền thống phù thủy tốt đẹp nhất...' Như ám sát và cắt tai người ta, chắc thế! Lãp Snape làm Hiệu trưởng! Lão Snape trong phòng làm việc của thầy Dumbledore... Đội quần!” Hermione ré lên khiến cả Harry và Ron giật mình. Cô nàng đứng bật dậy rời khỏi bàn, gạt đổ đồ vật chạy ra khỏi phòng, vừa chạy vừa la “Mình sẽ trở lại ngay!”

“'Đội quần' hả?” Ron lặp lại, có vẻ khoái trá. “Chắc là nàng lộn ruột ứa gan.” Nó kéo tờ báo về phía mình và đọc kỹ lại bài báo về Snape.

“Mấy thầy cô khác sẽ không chịu đựng nổi chuyện này đâu, cô McGonagall, thầy Flitwick và cô Sprout đều biết sự thật, các thầy cô đó đều biết thầy Dumbledore chết như thế nào. Họ sẽ không chấp nhận lão Snape làm hiệu trưởng đâu. Mà hai anh em Carrows này là ai vậy?”

“Tử Thần Thực Tử,” Harry nói. “Có hình của chúng ở trang trong. Khi lão Snape giết thầy Dumbledore, chúng có mặt trên đỉnh tháp, tóm lại là một giuộc với nhau. Và,” Harry ngồi xuống một cái ghế cay đắng nói tiếp, “mình có thể thấy các thầy cô khác không còn cách nào khác hơn là ở lại trường. Nếu Bộ và Voldemort đứng đằng sau lão Snape thì các thầy cô chỉ có thể lựa chọn hoặc ở lại trường và dạy, hoặc đi nghỉ mát ở ngục Azkaban vài năm - và ấy là nếu họ may mắn. Mình đoán các thầy cô sẽ ở lại trường và bảo vệ học sinh.”

Kreacher lăng xăng đi tới bàn, hai tay bưng một cái liễn bự chảng, và múc canh vô mấy cái chén sạch như mới tinh, vừa làm vừa huýt gió qua kẽ răng.

“Cám ơn Kreacher,” Harry nói, liệng sấp tờ báo Tiên Tri để khỏi phải nhìn thấy gương mặt Snape. “Thôi thì, ít nhất tụi mình cũng biết chính xác hiện giờ lão Snape ở đâu.”

Nó bắt đầu múc canh cho vô miệng. Chất lượng nấu ăn của Kreacher đã tiến bộ đột xuất kể từ khi y được tặng cái mặt dây chuyền của Regulus: món canh hành tây bữa nay ngon chưa từng thấy.

“Vẫn còn một bầy Tử Thần Thực Tử canh chừng ngôi nhà này,” nó nói với Ron trong lúc ăn, “đông hơn thường ngày. Có vẻ như chúng đang hy vọng tụi mình bước ra với rương cặp để đi đón tàu tốc hành Hogwarts.”

Ron liếc nhìn đồng hồ đeo tay.

“Cả ngày nay mình cứ nghĩ đến chuyện đó. Tàu đã khởi hành gần sáu tiếng đồng hồ rồi. Không có mặt trên tàu, cảm giác kỳ cục hén?”

Harry hình như còn thấy trong tâm trí nó cái đầu máy hơi nước màu đỏ tía như nó và Ron đã có lần bay rượt theo, tàu chạy xình xịch qua đồng ruộng núi đồi, như một con sâu róm đỏ chét uốn éo. Nó chắc là Ginny, Neville và Luna đang ngồi với nhau trong lúc này, có lẽ đang tự hỏi Harry, Ron và Hermione đang ở đâu, hoặc đang bàn bạc cách tốt nhất để phá hoại chế độ quản trị mới của lão Snape.

“Hồi nãy bọn chúng suýt thấy mình trở về đây,” Harry nói, “mình trồi lên bậc thềm trên cùng vụng quá, và tấm Áo khoác tuột ra.”

“Mình bị vậy hoài. A, cô nàng đây rồi,” Ron nói thêm, ngồi nhóng trên ghế nhìn theo Hermione đi trở vô nhà bếp. “Cái được hân hạnh đội quần là cái gì vậy?”

“Mình quên vụ này,” Hermione thở hổn hển.

Cô bé đem tới một bức tranh lớn đóng khung hẳn hoi, đặt nó xuống sàn trước khi vói lấy cái túi xách hột cườm nhỏ xíu của mình đặt trên tủ chén. Mở túi xách ra, Hermione bắt đầu nhét bức tranh vô bên trong bất chấp thực tế là bức tranh rõ ràng quá lớn không thể nào nằm gọn trong cái túi xách được, nhưng chỉ trong vài giây, bức tranh biến mất, như rất nhiều thứ khác, vào đáy túi sâu rộng rinh.

“Cụ Phineas Nigellus,” Hermione giải thích khi quăng cái túi xách lên bàn nhà bếp gây ra tiếng va chạm rổn rảng không bình thường.

“Cái gì?” Ron hỏi, nhưng Harry đã hiểu. Cái chân dung của cụ Phineas Nigellus Black có thể di chuyển qua lại giữa bức tranh của cụ ở quảng trường Grimmauld với bức tranh treo trong văn phòng hiệu trưởng ở trường Hogwarts: căn phòng tròn trên đỉnh tháp mà giờ này chắc chắn lão Snape đang chễm chệ, chiếm hữu một cách đắc thắng bộ sưu tập của cụ Dumbledore: những dụng cụ pháp thuật bằng bạc tinh tế, cái Tưởng ký bằng đá, cái Nón phân loại và, thanh gươm của Gryffindor, trừ khi nó đã bị dời đi chỗ khác.

“Lão Snape có thể nhờ cụ Phineas Nigellus dòm ngó qua căn nhà này dùm lão,” Hermione giảng giải cho Ron khi ngồi trở xuống cái ghế của mình. “Nhưng giờ cứ để lão thử coi. Tất cả những gì mà cụ Phineas Nigellus có thể nhìn thấy là bên trong cái túi xách tay này.”

“Tính giỏi thiệt!” Ron nói, có vẻ cảm phục.

“Cám ơn bồ,” Hermione mỉm cười, kéo chén canh của mình lại gần, “Sao, Harry, bữa nay còn xảy ra chuyện gì nữa?”

“Chẳng có gì!” Harry nói. “Rình ngoài cổng Bộ Pháp thuật bảy tiếng đồng hồ. Không có dấu hiệu nào của mụ ta. Nhưng có thấy ba của bồ, Ron à. Trông bác vẫn khỏe.”

Ron gật đầu cảm kích về cái tin đó. Tụi nó đã đồng ý là việc liên lạc với ông Weasley khi ông đang đi ra hay đi vô Bộ Pháp thuật thì quá sức nguy hiểm, bởi vì lúc nào chung quanh ông cũng có những nhân viên khác của Bộ. Tuy nhiên, tụi nó thấy yên tâm khi thỉnh thoảng được thoáng thấy ông, cho dù ông quả thật có vẻ căng thẳng và lo lắng.

“Ba luôn nói với tụi này là hầu hết người của Bộ dùng hệ thống Floo để đến sở làm,” Ron nói. “Vì vậy mà tụi mình đã không thấy mụ Umbridge, mụ chẳng đời nào đi bộ, mụ tự coi mình là nhân vật quan trọng mà.”

“Còn mụ phù thủy già ngồ ngộ cùng gã pháp sư nhỏ con mặc áo chùng màu xanh nước biển thì sao?”

“Ờ phải, gã đó làm ở Sở Bảo trì Pháp thuật,” Ron nói.

“Làm sao bồ biết gã làm việc ở Sở Bảo trì Pháp thuật?” Hermione hỏi, cái muỗng canh của cô bé khựng lại giữa không trung.

“Ba nói mọi nhân viên Sở Bảo trì Pháp thuật đều mặc áo chùng màu xanh nước biển.”

“Vậy mà bồ không nói cho tụi này biết!”

Hermione buông cái muỗng và kéo về phía mình xấp giấy ghi chú cùng những tấm bản đồ mà cô bé và Ron xem xét khi Harry đi vào nhà bếp.

“Trong này không có tí gì về áo chùng xanh nước biển, tuyệt đối không!” Cô bé nói, gấp gáp lật lật xấp giấy.

“Ôi, chuyện đó có gì quan trọng?”

“Ron, tất cả đều quan trọng! Nếu tụi mình muốn xâm nhập Bộ Pháp thuật mà không bị lộ trong lúc Bộ chắc chắn đang cảnh giác cao kẻ đột nhập, thì mọi chi tiết nhỏ nhặt đều quan trọng! Tụi mình đã bàn tới bàn lui chuyện này, mình muốn nói là, tất cả những chuyến đi trinh sát này để làm gì nếu bồ thậm chí không thèm nói cho tụi này biết...”

“Mèn đẹt ơi, Hermione ơi, mình chỉ quên có một chuyện tí xíu...”

“Bồ có thực sự hiểu hay không, rằng có lẽ trên toàn thế giới này không có nơi nào nguy hiểm hơn Bộ Pháp thuật để cho tụi mình mò tới ngay lúc này...”

“Mình nghĩ tụi mình nên làm chuyện đó vào ngày mai,” Harry nói.

Hermione nín bặt, miệng vẫn há ra; Ron thì bị sặc canh.

“Ngày mai hả?” Hermione lặp lại. “Bồ không nói chơi chứ, Harry?”

“Mình nói nghiêm túc,” Harry đáp. “Mình không tin là tụi mình sẽ được chuẩn bị tốt hơn hiện nay cho dù tụi mình có lẩn quẩn quanh cổng Bộ Pháp thuật thêm một tháng nữa. Tụi mình càng trì hoãn lâu thêm việc này thì cái mặt dây chuyền đó càng có khả năng lưu lạc xa hơn. Mụ Umbridge rất có thể đã liệng nó đi rồi, nó đâu có chịu mở ra.”

“Trừ khi,” Ron nói, “mụ đã kiếm được cách mở nó ra và giờ đây mụ đã bị ám.”

“Thì mụ cũng chẳng đổi khác được, mụ vốn đã quá độc ác rồi mà,” Harry rùng mình.

Hermione đang cắn môi, suy nghĩ ghê gớm.

“Tụi mình đã biết hết những điều quan trọng,” Harry nói tiếp với Hermione. “Tụi mình biết họ đã cấm Độn thổ ra vô Bộ, tụi mình biết giờ đây chỉ những cán bộ cao cấp nhất của Bộ mới được phép nối nhà họ với hệ thống Floo, bởi vì Ron đã nghe hai người Không-thể-nói-ra phàn nàn về chuyện đó. Và tụi mình cũng biết đại khái văn phòng của mụ Umbridge ở đâu, nhờ bồ đã nghe được gã có râu nói với đồng sự...”

“Tôi lên lầu một đây, bà Dolores muốn gặp tôi,” Hermione đọc thuộc lòng ngay.

“Chính xác,” Harry nói. “Và tụi mình biết là muốn vô đó thì dùng mấy đồng xu ngộ nghĩnh, hay đồng thẻ tròn, hay đồng quỷ gì đó, bởi vì mình đã thấy một phù thủy mượn của bạn bà ta...”

“Nhưng tụi mình không có cái nào hết!”

“Nếu kế hoạch diễn tiến tốt đẹp, tụi mình sẽ có,” Harry bình thản nói tiếp.

“Mình không biết, Harry à, mình không biết... Vẫn còn nhiều khủng khiếp những điều có thể trục trặc, vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào may rủi...”

“Điều đó vẫn đúng cho dù tụi mình có bỏ ra thêm ba tháng nữa để chuẩn bị,” Harry nói. “Tới lúc hành động rồi.”

Nó có thể thấy qua nét mặt của Hermione và Ron là tụi nó sợ; bản thân nó cũng không hoàn toàn tự tin, nhưng nó vẫn chắc chắn là đã tới lúc thực hiện kế hoạch.

Trong suốt tuần lễ vừa qua tụi nó đã thay phiên nhau mặc tấm Áo khoác Tàng hình đi dò la cổng ra vào chính của Bộ, mà nhờ ông Weasley, Ron đã biết từ hồi còn nhỏ. Tụi nó đã bám đuôi nhân viên của Bộ trên đường vào, nghe lén những cuộc chuyện trò của họ, và nhờ quan sát cẩn thận tụi nó đã biết được ai trong số họ có thể tin được là xuất hiện đúng giờ mỗi ngày. Thỉnh thoảng tụi nó cũng có cơ hội chôm một tờ Nhật báo Tiên Tri từ cặp táp của người nào đó. Dần dà tụi nó đã lập ra được những bản đồ phác họa và những ghi chép đang để cả xấp trước mặt Hermione.

“Thôi được,” Ron chậm rãi nói, “Cứ coi như tụi mình sẽ làm chuyện đó vào ngày mai... Mình nghĩ chỉ cần mình với Harry đi là được.”

“Ôi, đừng có khơi lại chuyện đó nữa!” Hermione thở dài. “Tưởng tụi mình đã giải quyết xong rồi mà.”

“Khoác Áo Tàng hình lẩn quẩn quanh cổng là một chuyện, nhưng đây là chuyện khác Hermione à,” Ron gõ gõ một ngón tay xuống tờ Nhật báo Tiên Tri số ra mười ngày trước đó. “Bồ nằm trong danh sách những phù thủy gốc Muggle đã không tự trình diện để phỏng vấn!”

“Còn bồ thì bị coi như đang hấp hối ở Hang Sóc vì bệnh đậu rồng! Nếu có ai đó không nên đi, thì đó là Harry, cái đầu bạn ấy được treo giá tới mười ngàn Galleon...”

“Được, mình sẽ ở lại đây,” Harry nói. “Chừng nào hai bồ đánh bại Voldemort xong thì cho mình biết với, nhé?”

Trong khi cả Hermione và Ron cùng bật cười thì cơn đau bỗng nhói lên ở cái thẹo trên trán nó. Tay Harry bật đưa lên trán. Nó thấy đôi mắt nheo lại của Hermione, và nó cố gắng đánh lảng động tác đó bằng việc lùa mớ tóc lòa xòa trước mắt.

“Nhưng, nếu ba đứa mình cùng đi thì tụi mình phải Độn thổ riêng lẻ,” Ron đang nói. “Tấm Áo khoác Tàng hình không thể trùm kín hết cả ba đứa mình nữa.”

Cái thẹo của Harry càng lúc càng thêm đau đớn. Nó đứng dậy. Ngay lập tức Kreacher lật đật chạy tới.

“Cậu chủ chưa ăn hết canh, cậu chủ thích ăn tiếp món hầm hay món bánh mật khoái khẩu của cậu chủ?”

“Cám ơn, Kreacher, nhưng chút nữa tôi quay lại... ơ... tôi vô nhà vệ sinh.”

Biết là Hermione đang ngó mình ngờ vực, Harry vội đi lên cầu thang vào hành lang rồi sau đó tới đầu cầu thang ở tầng một, ở đó nó nhào vô phòng tắm và cài chặt cửa lại. Nghiến răng vì đau đớn, gục mặt xuống bên trên cái chậu đen có những cái vòi nước hình miệng rắn há ra, nó nhắm mắt lại...

Nó đang lướt dọc theo một con đường sáng lờ nhờ. Nhà cửa hai bên đường có những cột chống cao bằng gỗ; trông chúng có vẻ là những ngôi nhà hào nhoáng. Nó đi tới gần một căn, rồi nhìn thấy màu trắng bệch của những ngón tay dài của chính mình trên cánh cửa. Nó gõ. Nó cảm thấy nỗi bồn chồn tăng lên...

Cánh cửa mở ra. Một người đàn bà đang cười vui đứng đó. Gương mặt bà sa xuống khi bà nhìn vào mặt Harry: nét hóm hỉnh biến mất, thay vào đó là vẻ kinh hoàng...

“Gregorovitch?” Một giọng lạnh lùng lanh lảnh cất lên.

Người đàn bà lắc đầu: bà đang cố gắng đóng cánh cửa lại. Một bàn tay trắng bệch giữ chắc cánh cửa, không cho bà ta đóng sập vào mặt nó...

“Ta cần Gregorovitch.”

“Er wohnt hier nicht mehr!” Bà ta vừa thét lên vừa lắc đầu. “Ông ấy không có ở đây! Ông ấy không ở đây!”

Thôi gắng sức đóng cánh cửa, bà ta liền chạy ngược vào hành lang tối om, và Harry theo sau, lướt về phía bà, bàn tay có những ngón dài của nó đã rút ra cây đũa phép.

“Hắn ở đâu?”

“Das weiff ich nicht! Ông ấy dọn đi rồi! Tôi không biết! Tôi không biết!”

Nó giơ tay lên. Bà ta gào thét. Hai đứa trẻ chạy tới trong hành lang. Bà ta cố gắng che chắn cho chúng bằng đôi cánh tay. Một tia sáng xanh rờn lóe lên...

“Harry! HARRY!”

Nó mở mắt ra, nó đã té rũ xuống sàn. Hermione lại đang dộng ình ình lên cánh cửa.

“Harry, mở cửa ra!”

Nó biết nó đã thét thành tiếng. Nó đứng dậy và mở chốt cửa; Hermione lập tức bị ngã ập vô trong buồng tắm; cô bé gượng lấy lại thăng bằng, rồi nhìn quanh ngờ vực. Ron có mặt ngay sau lưng Hermione, coi bộ quạu quọ khi chĩa cây đũa phép của nó vô mấy góc buồng tắm lạnh lẽo.

“Bồ làm gì ở đây?” Hermione nghiêm nghị hỏi.

“Bồ nghĩ coi mình làm gì ở đây?” Harry hỏi lại, làm bộ hiên ngang một cách yếu ớt.

“Tụi này nghe bồ hét bể óc!” Ron nói.

“Ờ há... chắc là mình ngủ thiếp đi hay...”

“Harry, bồ làm ơn đừng xúc phạm trí thông minh của tụi này,” Hermione nói, hít thở thật sâu. “Tụi này biết cái thẹo của bồ đau lúc ở dưới nhà bếp, và bồ thì trắng xác như ma.”

Harry ngồi xuống thành bồn tắm.

“Không sao. Mình vừa thấy Voldemort ám sát một người đàn bà. Vào lúc này thì có lẽ hắn đã giết hết cả gia đình bà ấy rồi. Mà hắn đâu cần phải làm vậy. Lại diễn ra y như trường hợp anh Cedric, những kẻ ngẫu nhiên có mặt ở đó...

“Harry à, bồ không được để cho việc này xảy ra nữa!” Hermione la lên, giọng cô bé vang vọng khắp buồng tắm. “Thầy Dumbledore đã yêu cầu bồ học Bế quan Bí thuật! Thầy cho là mối liên hệ đó nguy hiểm - Voldemort có thể sử dụng nó, Harry à! Xem hắn giết chóc và tra tấn thì hay ho gì, điều đó ích lợi ra sao?”

“Bởi vì điều đó có nghĩa là mình biết hắn đang làm gì.”

“Vậy là bồ thậm chí sẽ không cố tống hắn ra ngoài hả?”

“Hermione à, mình không thể. Bồ biết mình dở ẹt môn Bế quan Bí thuật. Mình chưa bao giờ nắm vững mà.”

“Bồ chưa bao giờ thực sự cố gắng!” Hermione nóng nảy nói. “Mình không hiểu nổi, Harry... có phải bồ thích có mối liên kết đặc biệt này hay mối quan hệ, hay mối gì gì đó...”

Hermione ấp úng khi Harry đứng dậy nhìn cô bé.

“Thích à?” Nó khẽ nói. “Bồ có thích bị vậy không?”

“Mình... không... Mình xin lỗi, Harry à. Mình không có ý...”

“Mình ghét chuyện đó. Mình ghét cái chuyện hắn xâm nhập vào trong người mình, ghét phải nhìn hắn khi hắn nguy hiểm nhất. Nhưng mình sẽ quen với chuyện đó.”

“Thầy Dumbledore...”

“Dẹp thầy Dumbledore đi. Đây là lựa chọn của mình, chứ không phải của ai hết. Mình muốn biết tại sao hắn săn lùng Gregorovitch.”

“Ai?”

“Ông ta là nhà chế tạo đũa phép người nước ngoài,” Harry nói. “Ông chế tạo cây đũa phép của anh Krum và anh Krum cho là ông ta xuất sắc.”

“Nhưng theo bồ,” Ron nói, “Voldemort đã bắt được Ollivander đem nhốt đâu đó. Nếu hắn đã có một người làm đũa phép thì hắn cần thêm một người nữa để làm gì?”

“Có lẽ hắn nghĩ như Krum, có lẽ hắn tin Gregorovitch sẽ có thể giải thích cho hắn điều mà cây đũa phép của mình đã làm khi hắn đuổi theo mình, bởi vì Ollivander không biết.”

Harry liếc vào tấm gương rạn nứt bụi bặm và thấy sau lưng nó Ron và Hermione trao đổi với nhau ánh mắt nghi hoặc.

“Harry à, bồ cứ nói hoài về cái điều cây đũa phép của bồ đã làm,” Hermione nói, “nhưng chính bồ đã khiến cho điều đó xảy ra! Tại sao bồ cứ khăng khăng không nhận lấy trách nhiệm về chính quyền lực của bồ?”

“Bởi vì mình biết không phải chính mình làm được chuyện đó! Và Voldemort cũng biết vậy, Hermione à! Cả hắn và mình đều biết chuyện gì đã thực sự xảy ra!”

Tụi nó trừng mắt nhìn nhau; Harry biết nó chưa thuyết phục được Hermione và cô nàng đang dàn thành lớp lang những tranh luận phản bác, chống lại lý thuyết của nó về cây đũa phép lẫn cái việc nó tự cho phép bản thân nhìn vào đầu óc của Voldemort. Nó thở phào khi Ron xen vào.

“Bỏ đi,” Ron khuyên Hermione. “Kệ nó. Và nếu tụi mình định đi tới Bộ vào ngày mai, bồ có cho là tụi mình nên xem lại kế hoạch không?”

Ron và Harry có thể thấy Hermione đã phải bất đắc dĩ để vấn đề đó lắng xuống, mặc dù Harry hoàn toàn chắc chắn là cô nàng sẽ lại tấn công ngay khi có cơ hội đầu tiên. Trong lúc này thì tụi nó cùng trở lại nhà bếp ở tầng hầm, ở đó Kreacher dọn cho tụi nó món hầm và món bánh mật.

Tụi nó thức rất khuya vào đêm đó, bỏ ra hàng tiếng đồng hồ xem đi xét lại kế hoạch cho đến khi có thể đọc thuộc lòng cho nhau nghe cái kế hoạch đó, đúng từng chữ một. Harry, lúc này ngủ trong phòng của chú Sirius, cứ nằm trằn trọc trên giường, hướng ánh sáng phát từ cây đũa phép của nó vào tấm hình ba nó, chú Sirius, thầy Lupin và Pettigrew, lẩm nhẩm kế hoạch với chính mình thêm mười phút nữa. Tuy nhiên, khi đã tắt ánh sáng cây đũa phép, nó không còn nghĩ gì đến thuốc Đa Quả dịch, kẹo Ói, hay áo chùng màu xanh nước biển của nhân viên sở Bảo trì Pháp thuật nữa; mà nó lại nghĩ đến người chế tạo đũa phép Gregorovitch, và liệu ông ấy có thể trốn tránh được bao lâu khi mà Voldemort săn lùng ông quyết liệt như vậy.

Bình minh dường như hấp tấp thay thế đêm khuya một cách sỗ sàng.

“Trông bồ ghê quá,” là lời chào của Ron khi nó bước vào phòng để đánh thức Harry.

“Không lâu đâu,” Harry nói, ngáp dài.

Tụi nó xuống lầu gặp Hermione trong nhà bếp. Cô bé đã được Kreacher dọn cho món cà phê, bánh mì tròn nóng hổi và mang một vẻ mặt hơi bấn loạn khiến Harry liên tưởng đến việc ôn thi.

“Áo chùng,” Hermione nói thầm, ghi nhận sự có mặt của Ron và Harry bằng một cái gật đầu căng thẳng và tiếp tục lục lọi trong cái túi xách hột cườm. “Thuốc Đa Quả dịch... Áo khoác Tàng hình... Mìn bẫy... Hai bồ mỗi người nên đem theo hai cái để phòng hờ... kẹo Ói, kẹo Chảy Máu mũi, Bành trướng nhĩ...”

Tụi nó nuốt lẹ lẹ bữa điểm tâm rồi đi lên nhà trên để khởi hành, Kreacher cúi chào tiễn đưa tụi nó, hứa hẹn sẽ có món bánh nướng thập cẩm chờ sẵn khi tụi nó trở về.

“Phước đức cho lão!” Ron khoái chí nói. “Vậy mà bồ nghĩ coi mình đã từng tưởng tượng đến chuyện cắt đầu lão và ghim lên tường.”

Ba đứa xoay sở một cách cực kỳ thận trọng ra được bậc thềm cửa trước. Tụi nó thấy hai tên Tử Thần Thực Tử mắt hum húp canh chừng ngôi nhà từ phía bên kia quảng trường mù sương.

Hermione Độn thổ với Ron trước, rồi trở lại đón Harry.

Sau trạng thái tối tăm ngắn ngủi và suýt ngẹt thở như thường lệ, Harry thấy mình đang ở trong một cái hẻm nhỏ xíu mà theo lịch trong kế hoạch của tụi nó là nơi thực hiện bước đầu tiên. Lúc đó hãy còn trống vắng, ngoại trừ hai cái thùng rác to tướng. Những nhân viên Bộ Pháp thuật đến sở đầu tiên thường thường chưa xuất hiện trước tám giờ.

“Rồi,” Hermione nói, kiểm tra đồng hồ đeo tay. “Năm phút nữa thì bà ta sẽ xuất hiện. Khi mình Đánh choáng bà ấy...”

“Hermione ơi, tụi này biết rồi,” Ron nghiêm nghị nói. “Và mình tưởng tụi mình phải mở cửa trước khi bà ta đến chứ?”

Hermione ré lên.

“Mình suýt quên béng mất! Lùi lại...”

Cô bé chĩa cây đũa phép vào cánh cửa thoát hiểm bị vẽ nhăng nhít tùm lum bên cạnh tụi nó, cánh cửa cọt kẹt mở ra, tụi nó đã biết qua những chuyến trinh sát kỹ lưỡng, hành lang tối thui sau cánh cửa dẫn tới một giảng đường trống rỗng. Hermione kéo cánh cửa về lại phía mình để làm cho nó có vẻ vẫn còn đóng.

“Và bây giờ,” Hermione nói, sau khi quay lại đối diện với hai đứa kia trong con hẻm, “tụi mình trùm lại Áo khoác Tàng hình...”

“... và tụi mình đợi,” Ron nói nốt, vừa tung tấm Áo khoác trùm lên đầu Hermione như trùm một cái mền lên lồng chim vừa đảo tròn mắt với Harry.

Chưa tới một phút sau, một tiếng bốp nho nhỏ vang lên và một bà phù thủy nhỏ thó làm việc trong Bộ có mái tóc xám phất phơ Độn thổ lên nơi cách tụi nó vài bước, chớp chớp mắt một tí trong ánh sáng rạng lên bất ngờ: mặt trời vừa ló ra khỏi một đám mây. Tuy nhiên, bà ta chưa kịp thưởng thức thời tiết ấm áp không ngờ ấy thì câu thần chú Choáng của Hermione đọc thì thầm đã tung vô ngay ngực bà ta, khiến bà ngã lăn quay.

“Làm giỏi lắm, Hermione.” Ron nói, hiện ra từ phía sau cái thùng rác khi Harry cởi tấm Áo khoác Tàng hình ra. Tụi nó hè nhau khiêng bà phù thủy nhỏ nhắn vào lối đi dẫn vào hậu trường. Hermione nhổ vài sợi tóc trên đầu bà phù thủy bỏ vô một bình đựng chất thuốc Đa Quả dịch đục như nước sình mà cô bé lấy ra từ cái túi hột cườm. Ron đang lục lọi khắp cái túi xách tay của bà phù thủy.

“Bà này là Mafalda Hopkirk,” nó nói, vừa đọc một cái thẻ nhỏ xác nhận căn cước nạn nhân của tụi nó là trợ lý trong Sở Dùng sai Pháp thuật. “Bồ nên lấy cái này, Hermione à, và đây là mấy thẻ đồng xu.”

Nó đưa cho Hermione mấy đồng xu nhỏ bằng vàng mà nó lấy được trong bóp của bà phù thủy, tất cả những đồng xu vàng đó đều chạm nổi mấy chữ B.P.T.

Hermione uống thứ thuốc Đa Quả dịch lúc này đã trở thành một màu đỏ ánh xanh dễ chịu, và sau vài giây một bản sao của bà Mafalda Hopkirk đã đứng trước mặt Ron và Harry. Trong lúc Hermione gỡ mắt kiếng của bà Mafalda để đeo, Harry xem đồng hồ.

“Tụi mình hơi trễ rồi, ông Bảo trì Pháp thuật sắp tới trong vài giây nữa.”

Tụi nó vội vã đóng cánh cửa nhốt bà Mafalda thật; Harry và Ron trùm lại Áo khoác Tàng hình lên mình, nhưng Hermione vẫn còn đứng nguyên, chờ đợi. Vài giây sau một tiếng bốp khác vang lên, và một pháp sư nhỏ choắt trông giống như con chồn hiện ra trước mặt tụi nó.

“A, chào bà Mafalda.”

“Chào ông,” Hermione nói giọng run run. “Bữa nay ông khỏe không?”

“Thiệt tình thì không được khỏe lắm,” ông pháp sư nhỏ choắt trả lời, ông ta tỏ vẻ vô cùng ngao ngán.

Khi Hermione và ông pháp sư đi về phía đường chính, Harry và Ron rón rén đi theo đằng sau họ.

“Ôi, tôi thiệt áy náy khi nghe anh không được khỏe lắm,” Hermione nói giọng vững vàng với ông pháp sư trong lúc ông này cố gắng diễn giải rắc rối của mình; cần phải chặn không để ông ta ra tới đường. “Đây, mời ông ăn kẹo.”

“Hả? Ờ không, cám ơn...”

“Tôi năn nỉ mà!” Hermione nói một cách hùng hổ, vừa lắc lắc cái túi đựng kẹo Ói vào mặt ông pháp sư. Hơi hoảng hồn, ông pháp sư nhỏ con đành lấy một cái kẹo.

Hiệu quả tức thì. Ngay khi viên kẹo Ói chạm vào lưỡi, ông pháp sư nhỏ choắt bắt đầu ói dữ dội đến nỗi ông ta không để ý Hermione đã giựt đứt một nắm tóc trên đỉnh đầu ông.

“Ôi thôi!” Cô nàng nói khi ông pháp sư ói văng tứ tung con hẻm. “Có lẽ ông nên nghỉ một ngày!”

“Không... không được,” ông mắc nghẹn và lại ói, cố gắng đi tiếp cho dù đi đứng không còn được ngay ngắn nữa. “Tôi... phải... bữa nay... phải đi...”

“Nhưng mà như vậy thì dại quá,” Hermione hoảng hốt nói. “Ông không thể làm việc trong tình trạng này đâu... tôi nghĩ ông phải vô bệnh viện Thánh Mungo để họ khám chữa cho ông.”

Ông pháp sư ngã lăn kềnh, cố nhổm dậy trên tứ chi, gắng bò lê về phía đường chính.

“Ông thiệt tình là không thể nào đi làm trong tình trạng như vầy đâu,” Hermione la lên.

Cuối cùng ông ta dường như phải chấp nhận thực tế mà Hermione nói. Níu lấy một cô nàng Hermione nản lòng để trở lại tư thế đứng, ông ta xoay người tại chỗ và biến mất, chẳng để lại gì ngoài cái túi đã bị Ron giật khỏi tay ngay khi ông đi, cùng mấy đống ói bay tứ tung.

“Ghê!” Hermione nói, vừa kéo vạt áo chùng lên để tránh mấy vũng đồ ói. “Đánh Choáng ổng thì đã đỡ tầy huầy rồi.”

“Ừ,” Ron nói, hiện ra từ dưới tấm Áo khoác Tàng hình, tay cầm cái bị của ông pháp sư. “Nhưng mình vẫn cho là cả một đống thây người nằm bất tỉnh sẽ khiến nhiều người chú ý. Nhưng ông này cũng nhiệt tình công tác hén? Thôi, quăng cho tụi này tóc với thuốc đi.”

Trong vòng hai phút, Ron đã đứng trước mặt tụi nó, nhỏ thó và từa tựa con chồn như ông pháp sư ói mửa, và mặc tấm áo chùng màu xanh nước biển vốn đã được xếp sẵn trong cái bị của ông ta.

“Coi cách ổng ham đi làm như vậy mà bữa nay không mặc cái này thì cũng kỳ kỳ. Mà thôi, mình là Reg Cattermole, theo như cái nhãn ở đằng sau lưng.”

“Bây giờ đợi ở đây,” Hermione bảo Harry, nó vẫn dưới lớp Áo khoác Tàng hình. “Và tụi này sẽ trở lại đem tóc cho bồ.”

Harry phải đợi tới mười phút, nhưng nó cảm thấy dường như lâu hơn khi lẩn lút một mình trong con hẻm bầy hầy đồ ói mửa bên cánh cửa đang giấu bà Mafalda bị đánh Choáng. Cuối cùng Ron và Hermione xuất hiện.

“Tụi này không biết ổng là ai,” Hermione nói khi đưa cho Harry mấy sợi tóc quăn màu đen, “nhưng ổng đã về nhà rồi với cái mũi chảy máu cam dễ sợ! Đây, ổng hơi cao, bồ cần áo chùng bự hơn...”

Cô bé lôi ra một bộ áo chùng cũ mà Kreacher đã giặt sạch cho tụi nó, và Harry rút lui để uống thuốc và thay đồ.

Khi trò biến hình đau đớn đã hoàn tất, nó cao hơn một thước tám và đô con mạnh khỏe, căn cứ vào hai cánh tay lực lưỡng cuồn cuộn cơ bắp. Nó còn có một bộ râu nữa. Giấu cái Áo khoác Tàng hình và cặp mắt kiếng của nó vô trong bộ áo chùng mới, Harry lại nhập bọn với hai đứa kia.

“Mèn ơi, dễ ngán thiệt,” Ron nói, ngước nhìn Harry lúc này đã cao vượt khỏi đầu Ron.

“Cầm một thẻ đồng xu của bà Mafalda,” Hermione nói với Harry, “và tụi mình đi thôi, gần chín giờ rồi.”

Tụi nó cùng nhau đi ra khỏi con hẻm. Dọc theo năm mươi thước của lề đường đông đúc là một hàng rào chắn bằng sắt đen có đầu nhọn chắn giữa hai dãy cầu thang, một đeo bảng QUÝ ÔNG, một đeo bảng QUÝ BÀ.

“Thôi, hẹn lát nữa gặp lại,” Hermione lo lắng nói, rồi cô bé lảo đảo tách ra đi xuống những bậc thang dành cho QUÝ BÀ. Harry và Ron nhập bọn với một số ông ăn mặc kỳ lạ cùng đi xuống một nơi có vẻ là nhà vệ sinh công cộng trạm xe điện ngầm thông thường, lát gạch trắng và đen nhờ nhờ.

“Chào ông Reg,” một pháp sư mặc áo chùng xanh khác gọi khi nó len vô một cái buồng nhỏ bằng cách nhét đồng xu vàng vô một cái rãnh trên cửa. “Cái này đau mông quá mạng hả? Ép tất cả tụi mình đi tới sở bằng cách này! Họ canh ai xuất hiện chớ, Harry Potter à?”

Ông pháp sư rống lên cười vì sự hóm hỉnh của chính mình. Ron cố rặn vài tiếng cười khì.

“Ừ,” nó nói, “ngu thiệt hén?”

Rồi nó và Harry vô cái buồng bên cạnh.

Bên trái và phải của Harry nổi lên tiếng nước xả ào ào. Nó ngồi xổm xuống và dòm qua cái lỗ hổng dưới đáy cái buồng nhỏ, vừa đúng lúc thấy một cặp giò mang giầy ống trèo vô cái nhà vệ sinh kế bên. Nó ngó qua bên trái thì thấy Ron đang nháy mắt với nó.

“Tụi mình phải giựt cầu cho trôi vô hả?” Ron thì thầm.

“Có vẻ như vậy,” Harry thì thầm trả lời; giọng của nó phát ra trầm và ngắc ngứ.

Hai đứa cùng đứng dậy. Harry trèo vô cái bồn cầu, cảm thấy cực kỳ ngu ngốc.

Nó biết ngay lập tức nó đã làm đúng; mặc dù có vẻ như nó đang đứng trong nước, nhưng giày, áo và chân cẳng vẫn khô ráo. Nó vói lên, kéo sợi dây xích, và tích tắc sau nó đã tuột vèo xuống một cầu trượt ngắn, chui ra khỏi một lò sưởi dẫn vào Bộ Pháp thuật.

Nó lụp chụp đứng dậy, thân thể nó hiện giờ quá thừa thãi so với thân hình mà nó vốn quen thuộc. Vòm cổng vĩ đại dường như âm u hơn như nó nhớ. Trước đây một bồn phun nước choán hết phần trung tâm sảnh đường, phát ra những vệt sáng lung linh trên tường và sàn gỗ bóng loáng. Giờ đây một bức tượng khổng lồ bằng đá đen áp đảo toàn khung cảnh. Bức tượng lớn quá cỡ này thiệt dễ sợ: một bà phù thủy và một ông pháp sư ngự trên một cái ngai chạm trổ lộng lẫy ngó xuống đám nhân viên của Bộ đang lóp ngóp chui ra khỏi mấy cái lò sưởi phía dưới bức tượng. Trên bệ tượng có khắc hàng chữ cao cỡ ba tấc: PHÁP THUẬT LÀ QUYỀN LỰC.

Harry lãnh một cú tông mạnh vào phía sau bắp chân. Một ông pháp sư khác vừa bị thổi ra khỏi cái lò sưởi sau lưng ông.

“Tránh ra, mày không... ủa, xin lỗi, anh Runcorn.”

Sợ ra mặt, ông pháp sư đầu hói lật đật bỏ đi. Rõ ràng cái người mà Harry đang mượn lốt giả danh, Runcorn, là một tay đáng sợ.

“Suỵt!” Một giọng khẽ nói, nó ngoái lại nhìn thì thấy một bà phù thủy nhỏ xíu đang thì thào và một pháp sư tướng như chồn của Sở Bảo trì Pháp thuật đang ra dấu gọi nó từ bên kia bức tượng. Harry vội vã nhập bọn tụi kia.

“Vậy là bồ vô trót lọt hả?” Hermione thì thầm hỏi Harry.

“Không, nó còn kẹt trong cái xác heo,” Ron nói.

“Ôi, mắc cười quá... thiệt là khủng khiếp há?” Cô bé nói với Harry, lúc này nó đang ngước nhìn bức tượng. “Bồ có thấy họ ngồi trên cái gì không?”

Harry nhìn kỹ hơn và nhận ra cái mà nó tưởng là một cái ngai chạm trổ lộng lẫy thực ra là những đống thây người bị đục khoét: hàng trăm và hàng trăm thân thể trần truồng, đàn ông, đàn bà, và trẻ con, tất cả đều mang những bộ mặt xấu xí đần độn, méo mó và đè ép vào nhau để đỡ sức nặng của mấy phù thủy ăn mặc sang trọng.

“Dân Muggle,” Hermione thì thầm, “ở vị trí chính đáng của họ. Thôi, tụi mình đi thôi.”

Ba đứa nhập vào dòng phù thủy và pháp sư đi về phía những cánh cửa bằng vàng ở cuối hành lang, hết sức kín đáo nhìn quanh, nhưng tịnh không hề thấy hình dáng đặc biệt của mụ Dolores Umbridge. Tụi nó đi qua những cánh cửa để vào một hành lang nhỏ hơn, nơi đó người ta đang xếp hàng trước mười hai khung lưới bằng vàng chứa ngần ấy thang máy. Tụi nó vừa mới nhập vô cái hàng gần nhất thì một giọng nói vang lên: “Cattermole!”

Ba đứa ngoái lại: ruột gan Harry đảo lộn. Một tên trong bọn Tử Thần Thực Tử đã từng chứng kiến cái chết của cụ Dumbledore đang sải dài bước chân về phía tụi nó. Những nhân viên Bộ đứng bên cạnh tụi nó bỗng im phắc; mắt họ đều cụp xuống; Harry có thể cảm nhận được cơn sợ hãi đang làm rộn xương sống họ. Bộ mặt hơi đần độn cau có của tên đó vì lý do nào đó chọi lỏi với bộ áo chùng lộng lẫy dài thướt tha được thêu bằng nhiều sợi chỉ vàng. Ai đó trong đám đông đứng quanh các thang máy kêu bằng giọng xu nịnh, “Chào ông Yaxley!” Yaxley phớt lờ họ.

“Cattermole, ta đã yêu cầu Sở Bảo trì Pháp thuật cử ngươi đến sửa chữa văn phòng của ta. Trong đó vẫn còn mưa.”

Ron nhìn quanh như thể hy vọng người nào khác sẽ xen vô, nhưng không ai nói năng gì cả.

“Mưa... trong văn phòng của ông à? Vậy là... vậy là đâu có tốt hả?”

Ron khì ra một tiếng cười căng thẳng. Con mắt của Yaxley trợn to.

“Mày cho là vui lắm hả, Cattermole?”

Hai phù thủy bỏ hàng chờ thang máy lật đật tránh ra xa.

“Đâu có!” Ron nói. “Dĩ nhiên, đâu có...”

“Mày có biết tao đang đi xuống lầu để thẩm vấn vợ mày không, Cattermole? Thật ra, tao hơi ngạc nhiên là mày lại không ở đó cầm tay vợ mày trong khi chờ đợi. Hay mày đã bỏ nó như bỏ một công việc tồi? Thế có lẽ lại khôn. Nhớ lần sau cưới một con thuần chủng nghe mậy?”

Hermione không nén được một tiếng ré kinh hoàng. Yaxley ngó lại. Cô bé vội vàng ho khục khặc và quay mặt đi.

“Tôi... tôi...” Ron lắp bắp.

“Nhưng nếu vợ tao mà có bị kết tội là dân Muggle,” Yaxley nói, “... mặc dù không bao giờ có con đàn bà nào tao cưới lại bị nhầm ra cái đồ bẩn thỉu đó - và Giám đốc Sở Cưỡng chế Thi hành Pháp thuật có việc cần làm cho xong, thì tao sẽ ưu tiên làm công việc đó, Cattermole à. Mày hiểu tao chứ?”

“Dạ,” Ron nói nhỏ.

“Vậy thì lo mà làm đi, Cattermole, và nếu văn phòng tao mà không hoàn toàn khô ráo trong vòng một tiếng đồng hồ nữa, Tình trạng Huyết thống của vợ mày sẽ bị nghi vấn còn hơn cả lúc này.”

Cái cửa lưới vàng trước hàng của tụi nó loảng xoảng mở ra. Yaxley gật đầu và mỉm cười khó chịu với Harry, hắn rõ ràng là mong chờ Harry tán thưởng cách đối xử của hắn với Cattermole, rồi hắn vội vã bỏ đi về phía một thang máy khác. Harry, Ron và Hermione đi vào thang máy của tụi nó, nhưng không ai đi theo tụi nó: làm như thể tụi nó bị bệnh truyền nhiễm. Cái cửa lưới lách cách đóng lại và thang máy bắt đầu kéo lên.

“Mình phải làm gì đây?” Ron hỏi cả hai đứa kia cùng một lúc, nó có vẻ hoảng hốt. “Nếu mình không tới văn phòng hắn, thì vợ mình... ý mình nói là vợ của ông Cattermole...”

“Tụi này sẽ đi với bồ, tụi mình phải bám lấy nhau...” Harry mở miệng nói, nhưng Ron nóng nảy lắc đầu

“Điên sao, tụi mình đâu có nhiều thì giờ. Hai bồ cứ đi tìm mụ Umbridge, mình sẽ đi sửa sang cái văn phòng của Yaxley - nhưng mình làm sao ngừng được mưa?”

“Thử Thần chú Chấm dứt,” Hermione nói ngay. “Thần chú đó ngưng được mưa nếu cơn mưa đó là do bị ếm hay nguyền; nếu nó không có hiệu quả thì chắc có gì đó trục trặc với Bùa ếm Không khí, hơi khó sửa chữa hơn, trong trường hợp đó dùng biện pháp tạm thời là xài Bùa Không thấm để bảo vệ tài sản của hắn...”

“Làm ơn nói lại, chầm chậm...” Ron nói, lục lọi túi áo một cách khẩn thiết để tìm cây viết lông ngỗng, nhưng ngay lúc đó cái thang máy lúc lắc để dừng lại. Một giọng nữ quái dị vang lên: “Tầng bốn, Sở Điều phối và Kiểm soát Sinh vật Kỳ bí, tổ hợp Phân ban Dã thú, Sinh vật, và Linh hồn, Văn phòng liên lạc Yêu tinh, và Văn phòng Tư vấn Vật gây hại,” sau đó cái cửa lưới lại mở ra, nhận thêm hai ông pháp sư nữa và nhiều máy bay giấy màu tím nhạt bay xà quần cái bóng đèn trên trần thang máy.

“Chào anh Albert,” một ông râu mép rậm rì nói, mỉm cười với Harry. Ông ta liếc qua Ron và Hermione khi cái thang máy lại một lần nữa cót két di chuyển lên; lúc này Hermione đang thì thầm cho Ron nghe những chỉ dẫn điên rồ. Ông pháp sư chồm về phía Harry, liếc đểu và thì thầm, “Dirk Cresswell, hả? Ở phòng Liên lạc Yêu tinh hả? Chiêu đẹp đó, Albert. Mình tin chắc sẽ lãnh chức của hắn, ngay thôi.”

Ông ta nháy mắt. Harry mỉm cười đáp lại, hy vọng như vậy là đủ. Cái thang máy ngừng lại; cái cửa lưới lại mở ra.

“Tầng hai, Sở Cưỡng chế Thi hành Luật pháp thuật, bao gồm các phòng ban Dùng sai Pháp thuật, Trụ sở Thần sáng, và Dịch vụ Hành chính Liên đoàn Pháp thuật,” giọng nữ phù thủy lại vang lên.

Harry thấy Hermione đẩy nhẹ Ron và Ron vội vã ra khỏi thang máy, theo sau là mấy pháp sư khác, để lại một mình Harry với Hermione. Ngay khi cánh cửa lưới đóng lại Hermione nói rất nhanh, “Thiệt tình, Harry à, mình nghĩ mình nên đi theo Ron, mình không tin là nó biết nó sẽ phải làm gì, mà nếu Ron bị bắt thì toàn bộ...”

“Tầng một, Bộ trưởng Pháp thuật và nhân viên trợ lý.”

Cánh cửa lưới lại mở ra và Hermione há hốc miệng. Bốn người đang đứng trước mặt tụi nó, hai người đang say sưa trò chuyện: một pháp sư tóc dài mặc một tấm áo chùng lộng lẫy màu vàng và đen, và một mụ phù thủy mập lùn trông như con cóc đeo một cái nơ nhung trên mái tóc ngắn đang ghì chặt tấm bìa kẹp hồ sơ vào ngực.

Chương Mười Ba

Ủy ban đăng ký phù thủy gốc Muggle

“A, Mafalda!” Mụ Umbridge nhìn Hermione nói. “Travers phái cô đến phải không?”

“D... dạ,” Hermione rít lên.

“Tốt, cô thì hoàn toàn thích hợp đấy,” mụ Umbridge nói với vị pháp sư mặc đồ đen và vàng. “Vấn đề đó thế là được giải quyết xong. Thưa ngài Bộ trưởng, nếu cô Mafalda được dành cho công việc quản lý hồ sơ thì chúng ta sẽ có thể bắt đầu ngay lập tức.” Mụ tham khảo tấm bìa kẹp giấy tờ của mình, “Mười người hôm nay và trong số đó có một người là vợ một viên chức của Bộ! Chà, chà... ngay ở đây, ngay trung tâm Bộ!” Mụ bước vào thang máy, đứng bên cạnh Hermione, hai pháp sư nãy giờ chỉ nghe mụ Umbridge nói chuyện với ông Bộ trưởng cũng theo mụ bước vào. “Chúng ta sẽ đi thẳng xuống, Mafalda à, cô sẽ tìm thấy mọi thứ cô cần trong phòng xử. Chào anh Albert, anh không đi ra à?”

“Có chứ, dĩ nhiên,” Harry nói bằng giọng trầm của Runcorn.

Nó bước ra khỏi thang máy. Cánh cửa lưới bằng vàng đóng lại kêu lanh canh sau lưng. Liếc ra sau, Harry thấy gương mặt lo lắng của Hermione bị chìm khuất giữa hai pháp sư cao lớn kẹp hai bên, cái nơ cài tóc bằng nhung của mụ Umbridge ngang bằng vai cô nàng.

“Anh lên đây có việc gì, anh Runcorn?” Ông Bộ trưởng Pháp thuật mới nhậm chức hỏi. Tóc và râu đen dài của ông ta mang những đường sọc bạc, và một mớ tóc dày xõa xuống trán che đôi mắt sáng long lanh khiến Harry liên tưởng tới một con cua nằm bên dưới một tảng đá ngó ra.

“Cần nói vài lời với...” Harry ngập ngừng trong một tích tắc, “ông Arthur Weasley. Có người nói ông ấy đã lên lầu một.”

“À,” ông Plum Thicknesse nói. “Đã bắt được quả tang ông ta tiếp xúc với một Kẻ Phá Rối à?”

“Không,” Harry nói, cổ họng nó khô khốc. “Không, không có chuyện như vậy.”

“Ừ, phải. Trước sau gì cũng sẽ thế thôi,” ông Thicknesse nói. “Theo ý tôi, bọn phản bội huyết thống cũng xấu xa như bọn Máu bùn. Chào anh Runcorn.”

“Chào ông Bộ trưởng.”

Harry nhìn theo ông Thicknesse đĩnh đạc bước đi dọc theo hành lang trải thảm dày. Ngay khi ông Bộ trưởng khuất khỏi tầm mắt, Harry rút mạnh tấm Áo khoác Tàng hình từ dưới lớp áo chùng đen nặng nề ra, tung tấm áo trùm lên người, và bắt đầu đi dọc hành lang theo hướng ngược lại. Runcorn quá cao nên Harry buộc phải khòm lưng xuống để yên chí là chân cẳng nó được che kín.

Nỗi hoang mang làm bụng nó thót lại từng cơn. Khi nó đi ngang qua hết cánh cửa gỗ bóng loáng này đến cánh cửa gỗ bóng loáng khác, mỗi cánh cửa đều có đính một tấm biển nhỏ ghi tên và nghề nghiệp của chủ nhân, uy quyền của Bộ, sự phức tạp và vững bền của Bộ hình như buộc nó phải nhìn nhận rằng cái kế hoạch mà nó cùng Hermione và Ron đã dàn dựng công phu suốt bốn tuần lễ qua có vẻ trẻ con đến tức cười. Tụi nó đã tập trung tất cả nỗ lực để đột nhập mà không bị phát hiện: tụi nó đã không hề có một suy nghĩ thoáng qua về việc tụi nó sẽ làm gì trong trường hợp bị buộc phải tách ra. Bây giờ Hermione bị kẹt vô chuyện thủ tục tòa án, chắc chắn sẽ kéo dài nhiều tiếng đồng hồ; Ron thì đang gắng hết sức để làm những pháp thuật mà Harry biết là vượt quá sức của nó, tự do của một người đàn bà đang tùy thuộc vào kết quả cố gắng của Ron, còn nó, Harry, thì đang đi lêu bêu trên tầng lầu cao nhất khi nó đã biết rõ một cách tuyệt đối là người nó tìm vừa đi xuống trong thang máy rồi.

Nó đứng lại, dựa lưng vào một bức tường, và cố gắng quyết định coi phải làm gì. Sự im lặng đè nặng lên nó. Ở đây không có tiếng lao xao hay trò chuyện hay tiếng chân bước nhanh, những hành lang trải thảm đỏ nín khe như thể bùa Ù tai vừa được ếm lên khắp chốn này.

Văn phòng mụ ta ắt là ở đây, Harry nghĩ.

Chẳng có vẻ gì là mụ Umbridge cất giữ tư trang trong văn phòng của mụ, nhưng mặt khác nếu không lục soát cho chắc ăn thì có vẻ hơi ngu. Vì vậy nó bắt đầu đi dọc hành lang một lần nữa, không đi ngang qua người nào hết trừ một pháp sư quạu quọ đang rì rầm sai khiến một cây viết lông ngỗng lơ lửng trước mặt ông ta ghi chép trên một tấm giấy da dài thòng.

Giờ đây chú ý đến những cái tên trên cửa, Harry quẹo qua một hành lang khác. Đi được nửa chừng hành lang này nó tới một chỗ trống trải rộng rãi có chừng một tá phù thủy và pháp sư ngồi thành hàng ở những cái bàn nhỏ hao hao bàn học sinh mặc dù được đánh bóng láng o và không bị vẽ bậy. Harry dừng lại để quan sát họ, bởi vì tác động của cảnh này đầy mê hoặc. Tất cả những phù thủy đó đang đồng loạt vẫy vẫy xoay xoay những cây đũa phép của họ, và những vuông giấy màu đang bay khắp mọi hướng như những cánh diều hồng nho nhỏ. Sau vài giây Harry nhận ra nhịp điệu của quy trình, tất cả những vuông giấy đó đều hình thành nên một mẫu y chang nhau và sau vài giây nữa Harry hiểu ra là nó đang xem việc tạo ra những quyển sách tuyên truyền - những mẩu giấy vuông là những trang sách, khi đã được tập hợp, gấp lại, đóng xén đâu vô đó bằng pháp thuật, thì rớt xuống thành những chồng sách gọn gàng bên cạnh mỗi phù thủy hay pháp sư.

Nó rón rén đi tới gần hơn, mặc dù những công nhân đó mải chăm chú vào công việc họ đang làm đến nỗi nó không tin là họ để ý đến những dấu chân lún trên thảm, và nó thuổng một cuốn đã hoàn chỉnh từ chồng sách bên cạnh một phù thủy trẻ. Nó xem xét cuốn sách dưới tấm Áo khoác Tàng hình. Tên sách màu vàng chóe nổi bật trên cái bìa màu hồng:

MÁU BÙN

Và những hiểm họa chúng gây ra cho

một xã hội thuần chủng thanh bình

Bên dưới tựa sách là hình vẽ một đóa hồng đỏ có một cái mặt cười điệu đàng ngay chính giữa những cánh hoa, bị một cọng cỏ xanh có răng nanh và mắt quắc hung tợn quấn siết. Không thấy tên tác giả trên cuốn sách, nhưng một lần nữa, những vết thẹo trên mu bàn tay phải của nó dường như ngứa râm ran khi nó xem xét cuốn sách. Thế rồi cô phù thủy trẻ bên cạnh nó đã xác nhận mối nghi ngờ của nó khi cô nói trong lúc vẫn vẫy vẫy xoay xoay cây đũa phép, “Có ai biết cái mụ già quỷ cái có thẩm vấn bọn Muggle hết ngày không ta?”

“Coi chừng đó,” ông pháp sư ngồi bên cạnh cô ta nói, liếc chung quanh lo lắng; một tờ trong mớ giấy của ông ta tuột ra rớt xuống sàn.

“Sao, bộ bây giờ mụ ta có cả tai pháp thuật như mắt pháp thuật hả?”

Cô phù thủy đưa mắt về phía cánh cửa gỗ gụ bóng lưỡng đối diện cái không gian đầy những phù thủy chế tạo sách; Harry cũng nhìn theo, và cơn giận lồng lên như một con rắn trong người nó. Ở chỗ mà cửa nhà của dân Muggle thường có một cái lỗ nhỏ để dòm ra, thì ở đây lại là một con mắt tròn to có tròng mắt màu xanh lơ sáng được cẩn vô trong gỗ - một con mắt quen đến giật mình đối với những ai đã từng biết thầy Alastor Moody.

Trong một tích tắc Harry quên béng nó đang ở đâu và việc nó đang làm: nó thậm chí quên rằng nó đang tàng hình. Nó sải bước dài đi thẳng tới cánh cửa để xem xét con mắt. Con mắt không động đậy: chỉ liệt cứng, đăm đăm nhìn lên, mù tịt. Tấm biển bên dưới con mắt ghi:

Dolores Umbridge

Phụ tá cao cấp của Bộ trưởng

Bên dưới nữa là một tấm biển mới hơi bóng hơn ghi:

Trưởng ban Đăng ký phù thủy gốc Muggle

Harry ngoái nhìn lại mười hai phù thủy chế tạo sách: mặc dù họ chăm chú vào công việc, nó khó lòng nghĩ rằng họ sẽ không để ý một khi cánh cửa văn phòng không có người lại mở ra trước mắt. Vì vậy nó lấy từ túi áo trong ra một vật kỳ cục với phần thân là một cái còi có bụng tròn bằng cao su và hai chân nhỏ đạp lia lịa. Ngồi thụp xuống trong lớp Áo khoác Tàng hình, nó đặt cái Mìn bẫy trên sàn.

Cái vật đó lập tức lon ton chạy xuyên qua đám chân cẳng của các phù thủy pháp sư trước mặt Harry. Một lát sau, vừa đủ thời gian để Harry đặt sẵn tay lên nắm đấm cửa chờ đợi, một tiếng nổ đùng và một cuộn khói cay xè phồng lên ở một góc. Cô phù thủy trẻ ngồi hàng đầu thét lên: những tờ giấy hồng bay tá lả trong lúc cô ta và những đồng nghiệp nhảy dựng lên, nhìn quanh quất tìm kiếm nguyên nhân của vụ chấn động. Harry xoay nắm đấm cửa, bước vào văn phòng mụ Umbridge, khép cánh cửa lại sau lưng.

Nó có cảm giác như bước vào quá khứ. Căn phòng này y chang văn phòng mụ Umbridge ở trường Hogwarts: màn che trướng rủ ren rua lòng thòng, chỗ nào cũng thấy phủ khăn lót bàn với hoa khô. Tường cũng gắn mấy cái dĩa kiểu như trước, mỗi cái vẽ một con mèo thắt nơ màu sắc chói chang, nhí nhảnh giỡn hớt với vẻ ranh ma phát ói. Bàn giấy mà trải khăn ren hoa hòe. Đằng sau con mắt của thầy Mắt Điên có gắn kèm một cái kính viễn vọng để mụ Umbridge có thể theo dõi các công nhân bên ngoài cánh cửa. Harry dòm qua cái kính thấy các công nhân đang túm tụm quanh cái ngòi nổ. Nó vặn tháo cái kính viễn vọng ra khỏi cửa, chừa lại một cái lỗ, rút con mắt pháp thuật ra khỏi đó, và đặt con mắt vào túi áo nó. Rồi nó quay lại nhìn căn phòng một lần nữa, giơ cây đũa phép lên, lẩm nhẩm: “Mặt dây chuyền lại đây.”

Chẳng có gì xảy ra, nhưng nó cũng chẳng trông mong xảy ra việc đó; chắc chắn mụ Umbridge biết rành tất cả các bùa chú bảo vệ. Vì vậy nó vội vã đi vòng ra sau bàn giấy của mụ và bắt đầu kéo tất cả ngăn kéo ra. Nó thấy nào viết lông ngỗng, sổ ghi chép và bùa dán; kẹp giấy được ếm bùa từ ngăn kéo cuộn lên như rắn và phải đập chúng xuống; một hộp ren nho nhỏ kiểu cọ đầy những nơ và kẹp tóc thừa; nhưng chẳng có dấu hiệu nào của cái mặt dây chuyền.

Có một tủ hồ sơ đằng sau bàn giấy: Harry bắt đầu lục lọi. Giống như tủ hồ sơ của thầy Filch ở trường Hogwarts, cái tủ này cũng đầy những tập hồ sơ, mỗi tập đều có nhãn ghi một cái tên. Chỉ đến khi Harry lục tới gần đáy tủ nó mới thấy một thứ kéo sự chú ý của nó ra khỏi cuộc tìm kiếm, hồ sơ ông Weasley.

Nó rút tập hồ sơ và mở ra.

Arthur Weasley

Tình trạng

huyết thống:    Thuần chủng, nhưng có khuynh hướng ủng hộ Muggle không chấp nhận được. Hội viên công khai của Hội Phượng Hoàng.

Gia đình:    Có vợ (thuần chủng), bảy con, hai đứa nhỏ nhất học ở trường Hogwarts. Lưu ý: đứa con trai nhỏ nhất hiện đang ở nhà, bệnh nặng, thanh tra của Bộ đã xác nhận.

Tình trạng

an ninh:    BỊ THEO DÕI. Tất cả hoạt động đều đang được giám sát. Rất có khả năng Kẻ Phá Rối số 1 sẽ tiếp xúc (từng sống trong gia đình Weasley trước đây.)

.

“Kẻ Phá Rối Số Một”, Harry lẩm bẩm trong miệng khi nó đặt trả lại hồ sơ ông Weasley và đóng ngăn kéo. Nó thoáng nghĩ nó biết kẻ đó là ai, và đúng như nó nghĩ, khi đứng thẳng lên và liếc nhìn quanh căn phòng để tìm những chỗ cất giấu khác, nó thấy một áp phích có hình của chính nó dán trên tường với hàng chữ KẺ PHÁ RỐI SỐ MỘT in nổi bật ngang ngực nó. Một mẩu ghi chú nhỏ màu hồng với hình con mèo con ở góc được ghim vô tấm áp phích. Harry băng ngang căn phòng để đọc và thấy mụ Umbridge đã viết tay mấy chữ “Sẽ bị trừng phạt.”

Giận chưa từng thấy, Harry tiếp tục tìm kiếm dưới đáy những chậu những rổ đựng hoa khô, nhưng chẳng ngạc nhiên chút nào khi không tìm thấy cái mặt dây chuyền ở đó. Nó nhìn lướt khắp phòng một lần chót, và trái tim nó thót một cái. Cụ Dumbledore đang trố mắt nhìn nó từ một tấm kiếng nhỏ hình chữ nhật dựng dựa vào kệ sách bên cạnh bàn giấy.

Harry chạy ngang qua phòng và chụp lấy tấm kiếng, nhưng ngay lúc chạm tay vô, nó kịp nhận ra rằng vật đó không phải là một tấm kiếng. Cụ Dumbledore đang mỉm cười buồn bã trên bìa một cuốn sách láng bóng. Harry không nhận ra ngay tức thì hàng chữ xanh uốn éo vắt ngang qua cái nón của cụ - Chuyện Đời và Chuyện Xạo của Albus Dumbledore - kể cả dòng chữ hơi nhỏ hơn vắt ngang qua ngực cụ: “Rita Skeeter, tác giả ăn khách nhất của quyển Armando Dippet: Bậc Thầy hay Thằng Dở Hơi?”

Harry mở đại cuốn sách ra và thấy chiếm hết trang sách là một tấm hình của hai cậu bé mười mấy tuổi, cả hai cùng quàng vai nhau cười toe toét. Cậu Dumbledore, lúc chụp hình tóc để dài tới cùi chỏ, và đã để râu mọc lưa thưa khiến Harry nhớ tới cái cằm của Krum từng khiến Ron bực mình hết chỗ nói. Cậu thiếu niên đang hét vui không thành tiếng bên cạnh cậu Dumbledore có một vẻ mặt hân hoan phóng túng. Mái tóc vàng óng của cậu rủ xuống vai thành từng lọn loăn xoăn. Harry tự hỏi đó có phải là cụ Doge thời trẻ không, nhưng nó chưa kịp coi ghi chú về tấm hình thì cánh cửa văn phòng mở ra.

Nếu ông Thicknesse không ngoái nhìn lại sau lưng khi bước vào phòng, Harry sẽ không có đủ thời giờ để kéo tấm Áo khoác Tàng hình trùm qua người nó. Dù vậy, nó nghĩ ông Thicknesse có lẽ đã thoáng thấy cử động đó, bởi vì ông đứng yên mất một lát, tò mò ngó chằm chằm vào chỗ mà Harry vừa tàng hình. Có lẽ ông cho là điều ông vừa thấy chẳng qua là ảnh cụ Dumbledore gãi mũi trên bìa cuốn sách, vì Harry vừa vội vàng đặt trả cuốn sách lên kệ. Cuối cùng ông Thicknesse đi tới bàn giấy và chĩa cây đũa phép vào cây viết lông ngỗng đã cắm sẵn trong bình mực. Cây viết nhảy vọt ra và bắt đầu hí hoáy một bức thư ngắn cho mụ Umbridge. Chậm thật chậm, gần như nín thở, Harry lùi ra khỏi văn phòng để tới chỗ trống bên ngoài.

Những người làm sách đang túm tụm quanh tàn tích của cái Mìn bẫy vẫn còn la huýt yếu ớt khi bốc khói. Harry vội vã đi ngược lên hành lang đúng lúc cô phù thủy trẻ nói, “Tôi dám cá là nó trốn ra đây từ phòng Bùa chú Thể nghiệm, họ ẩu lắm, còn nhớ vụ con vịt độc không?”

Đi thật nhanh về phía thang máy, Harry cân nhắc những khả năng để quyết định. Không có nhiều khả năng lắm là cái mặt dây chuyền đang ở trong Bộ, và không có hy vọng phù phép cách nào có thể moi ra tung tích của nó từ mụ Umbridge khi mụ ta ngồi giữa một phiên xử đông người. Ưu tiên của tụi nó lúc này là rời khỏi Bộ trước khi tụi nó bị lộ, và ngày khác sẽ thử thời vận lại. Việc đầu tiên cần làm là đi tìm Ron, hai đứa nó có thể kiếm cách nào đó rút Hermione ra khỏi phòng xử án.

Thang máy trống vắng khi lên tới nơi. Harry nhảy ngay vô và cởi tấm Áo khoác Tàng hình ra khi thang máy bắt đầu xuống. Khi thang máy lắc lư ngừng lại ở tầng hai, Harry hú vía thở phào khi thấy Ron bước vào, ướt nhem và bơ phờ.

“Ch... chào,” Ron nói cà lăm với Harry khi thang máy tiếp tục chạy.

“Ron, mình là Harry nè. “

“Harry! Mèn ơi, mình quên béng tướng tá bồ ra sao... sao Hermione không đi chung với bồ?”

“Nó phải đi xuống phòng xử án với mụ Umbridge, nó không thể nào tránh việc được và...”

Nhưng Harry chưa kịp nói dứt câu thì thang máy lại ngừng. Cửa mở ra và ông Weasley vừa bước vào, vừa nói chuyện với một bà phù thủy đứng tuổi có mái tóc vàng hoe được bới cao đến nỗi trông tựa như ổ kiến.

“... tôi hoàn toàn hiểu điều bà nói, bà Wakanda à, nhưng tôi e là tôi không thể đứng về phe...”

Ông Weasley nín bặt, ông đã nhận ra sự hiện diện của Harry. Thiệt kỳ lạ khi bị ông Weasley trừng mắt nhìn với vẻ căm ghét nhiều như vậy. Cửa thang máy đóng và cả bốn người lại lắc lư tuột xuống.

“A, chào ông Reg,” ông Weasley nói khi ngoái nhìn lại vì tiếng nước nhễu long tong từ tấm áo chùng của Ron. “Không phải vợ ông đang bị thẩm vấn bữa nay sao? Ủa... Ông bị sao vậy? Sao ông ướt nhem vậy?”

“Văn phòng Yaxley bị mưa,” Ron nói. Nó nói với bờ vai ông Weasley, và Harry biết chắc chắn là Ron sợ ba nó rất có thể nhận ra nó nếu hai người nhìn thẳng vào mắt nhau. “Tôi không thể nào làm ngừng mưa được, cho nên họ biểu tôi đi kiếm Bernie - Pillsworth, tôi nghĩ họ nói...”

“Ừ, gần đây nhiều văn phòng bị mưa lắm,” ông Weasley nói. “Mà ông đã thử phép Đánh lùi bùa Khí tượng chưa? Ông Bletchley xài phép đó thành công lắm. “

“Đánh lùi Bùa Khí tượng,” Ron nói khẽ. “Chưa, con chưa thử. Cám ơn b... ý tôi muốn nói, cám ơn ông, ông Arthur à.”

Cửa thang máy mở ra; bà phù thủy đứng tuổi tóc bới hình ổ kiến bước ra, và Ron vọt qua bà biến mất hút. Harry tính đi theo Ron, nhưng nó bị Percy Weasley cản đường khi anh chàng này vừa chúi mũi đọc giấy tờ vừa bước gấp vào thang máy.

Mãi đến khi cửa thang máy đóng lại lanh canh Percy mới nhận ra anh ta đang đi chung thang máy với ba mình. Anh ta liếc nhìn lên, thấy ông Weasley, mặt mày đỏ bừng, và bỏ ra khỏi thang máy ngay khi cửa lại mở ra. Trong một thoáng, Harry toan bước ra, nhưng lần này nó bị ngáng lại bởi cánh tay của ông Weasley.

“Khoan đã, ông Runcorn.”

Cửa thang máy đóng lại và trong khi thang máy lanh canh tụt xuống, ông Weasley nói, “Tôi nghe ông đã có thông tin về Dirk Cresswell?”

Harry có ấn tượng là cơn giận của ông Weasley không hề nguôi đi vì cái sự Percy làm lơ ông. Nó quyết định cứ ngu là tốt nhất.

“Xin lỗi?”

“Đừng vờ vịt, ông Runcorn,” ông Weasley nói giọng giận dữ. “Ông đã dò ra vị pháp sư giả mạo gia phả, đúng không?”

“Tôi... nếu tôi đã làm vậy thì sao?” Harry nói.

“Thì ông Dirk Cresswell là phù thủy giỏi hơn ông mười lần,” ông Weasley nói khẽ, khi thang máy tuột xuống thấp hơn. “Và nếu ông ấy sống sót qua hạn tù ở Azkaban, ông sẽ phải trả lời ông ấy, chưa kể tới vợ, các con trai, và bạn bè ông ấy...”

“Ông Arthur à,” Harry ngắt lời, “ông có biết ông đang bị theo dõi không?”

“Ông dọa tôi hả, Runcorn?” Ông Weasley la lớn.

“Không.” Harry nói. “Sự thật là vậy! Họ đang giám sát mọi hành vi cử...”

Cửa thang máy mở ra. Hai người đã xuống tới Cổng vòm. Ông Weasley khinh miệt nhìn Harry rồi bỏ ra khỏi thang máy. Harry vẫn còn đứng đó, run rẩy. Nó ước gì nó đã giả mạo người nào khác chứ không phải tay Runcorn này... Cửa thang máy đóng lại lanh canh.

Harry rút tấm Áo khoác Tàng hình ra và lại mặc vào. Nó sẽ cố gắng một mình giải thoát Hermione trong khi Ron giải quyết vụ mưa văn phòng. Khi cửa mở, nó bước ra một hành lang lát đá được rọi bằng ánh đuốc hoàn toàn khác những hành lang trải thảm ốp gỗ ở những tầng trên. Lúc cái thang máy lắc lư kéo lên, Harry hơi rùng mình, nhìn về phía cánh cửa màu đen ở đằng xa chặn lối vào Sở Bí mật.

Nó bước đi, mục tiêu của nó không phải là cánh cửa đen, mà là khung cửa ở bên tay trái theo như nó nhớ, khung cửa mở ra cầu thang đi xuống những phòng xử án. Khi đi rón rén xuống những bậc thang, đầu óc Harry bám lấy mấy khả năng: nó vẫn còn hai trái Mìn bẫy, nhưng có lẽ chỉ cần gõ cửa phòng xử mà vào với tư cách Runcorn thì tốt hơn, rồi yêu cầu được nói vài lời với bà Mafalda. Dĩ nhiên, nó không biết danh phận tay Runcorn này có đủ quan trọng để qua thoát vụ này hay không, và ngay cả nếu như nó xoay sở trót lọt, thì liệu việc Hermione biến mất luôn có gây ra một vụ lục soát trước khi tụi nó ra khỏi Bộ không...

Mải suy nghĩ nó không cảm nhận được ngay một cơn ớn lạnh bất thường khiến nó rùng mình, như thể nó vừa sa vào một đám sương mù. Theo mỗi bước đi tới, nó càng lúc càng thấy lạnh hơn, một cái lạnh xộc thẳng vào cổ họng và xé banh buồng phổi nó. Và rồi nó nhận ra cái cảm giác thất vọng, vô vọng lén lút đó đang tràn vào nó, đang trương nở bên trong nó...

“Giám ngục,” nó nghĩ.

Và khi xuống tới bậc cuối cùng của cầu thang rồi rẽ phải, nó thấy một cảnh hãi hùng. Lối đi tối thui bên ngoài phòng xử án đầy ắp những hình thù cao nghều đội mũ trùm đen che kín hoàn toàn gương mặt, tiếng thở phì phèo của chúng là âm thanh duy nhất vang lên nơi đây. Những phù thủy gốc Muggle bị đưa vào để thẩm vấn ngồi dồn cục trên những băng ghế gỗ cứng sợ điếng người và run lập cập. Hầu hết họ đều úp mặt vào hai bàn tay, có lẽ là một cố gắng theo bản năng che chắn mình khỏi những cái miệng tham tàn của bọn Giám ngục. Một số người cùng đi với gia đình, một số khác ngồi một mình. Bọn Giám ngục vờn qua vờn lại trước mặt họ, và cái lạnh giá, nỗi vô vọng, nỗi tuyệt vọng ở chốn này ập xuống Harry như một lời nguyền...

Chống lại, nó tự nhủ, nhưng nó biết là nó không thể triệu Thần Hộ mệnh đến đây mà không để lộ hành tung ngay tức thì. Cho nên nó đi nhanh tới trước, hết sức lặng lẽ, và theo mỗi bước nó đi, sự tê điếng dường như chiếm dần óc nó, nhưng nó buộc mình phải nghĩ đến Hermione và Ron, những người đang cần đến nó.

Đi xuyên qua những hình thù đen thui cao nghệu thật dễ sợ: những gương mặt không mắt khuất dưới mũ trùm quay theo nó khi nó đi ngang qua, và nó cảm thấy chắc chắn chúng đánh hơi được nó, có lẽ đánh hơi được sự hiện diện của con người vẫn còn chút hy vọng nào đó, vẫn còn chút phản kháng nào đó.

Và rồi, một trong những cánh cửa căn hầm bên trái hành lang bật mở và tiếng gào thét từ đó vang dội ra, đột ngột và kinh hoàng giữa sự im lặng đông cứng.

“Không, không, tôi lai mà, tôi hai dòng máu, tôi thề! Cha tôi là phù thủy, ông tôi là phù thủy, tra cứu lại dùm tên Arkie Alderton, ông là người thiết kế chổi bay nổi tiếng, tra lại tên ông ấy đi, tôi thề... buông tôi ra, buông tôi ra...”

“Đây là lời cảnh cáo cuối cùng cho ông,” giọng êm dịu của mụ Umbridge vang lên, được khuếch âm bằng pháp thuật để vang to át hẳn tiếng gào thét tuyệt vọng của người đàn ông. “Nếu ông còn chống cự, ông sẽ phải lãnh Nụ hôn của Giám ngục.”

Tiếng kêu gào của người đàn ông lắng xuống, nhưng tiếng khóc uất nghẹn vẫn còn vang vọng suốt hành lang.

“Đem hắn đi,” mụ Umbridge nói.

Hai tên Giám ngục xuất hiện ở ngưỡng cửa của phòng xử án, mấy bàn tay sứt sẹo mục rữa của chúng túm chặt lấy cánh tay của ông pháp sư, ông ta dường như đang chết ngất. Chúng lôi ông lướt xuống hành lang, và bóng tối chúng để lại đằng sau nuốt chửng ông khiến không còn ai thấy ông đâu nữa.

“Tiếp theo... Mary Cattermole,” mụ Umbridge gọi.

Một người đàn bà nhỏ xíu đứng dậy; bà run rẩy từ đầu đến chân. Mái tóc đen của bà được chải mướt ra sau và bới lại thành một búi và bà mặc một bộ áo chùng trơn dài. Gương mặt của bà cắt không còn giọt máu. Khi bà đi ngang qua bọn Giám ngục, Harry thấy bà rùng mình.

Khi cánh cửa căn hầm bắt đầu chuyển động để đóng lại, Harry lách vào phòng xử án sau lưng bà Cattermole. Nó đã hành động theo bản năng, chứ không tính toán gì ráo, chẳng qua nó ghét cái cảnh bà ta bước một mình vào căn hầm.

Đây không phải căn hầm mà nó từng bị thẩm vấn vì dùng pháp thuật không đúng luật. Căn hầm này nhỏ hơn nhiều, mặc dù trần hầm vẫn rất cao, gây ra nỗi hoảng sợ tưởng đâu bị kẹt dưới một đáy giếng sâu.

Trong này còn có nhiều Giám ngục hơn nữa, chúng tỏa hơi lạnh buốt khắp nơi; chúng đứng như những lính canh không mặt mũi ở những góc xa nhất trên những cái bục cao. Trên bục, sau hàng chấn song, mụ Umbridge ngồi giữa Yaxley và Hermione, mặt cô nàng này tái mét như mặt bà Cattermole. Dưới chân bục, một con mèo lông dài màu bạc óng ánh lẩn quẩn bò lên bò xuống, rồi bò xuống bò lên, và Harry nhận thấy con mèo ở đó để bảo vệ những công tố viên khỏi nỗi tuyệt vọng phát ra từ bọn Giám ngục: nỗi tuyệt vọng là để dành cho kẻ bị buộc tội, chứ không phải cho kẻ kết án.

“Ngồi xuống,” mụ Umbridge nói bằng giọng êm dịu mượt mà.

Bà Cattermole lụp chụp vấp váp đi tới cái ghế đơn đặt giữa sàn bên dưới cái bục. Khi bà đã ngồi xuống, dây xích loảng xoảng thò ra từ chỗ gác tay của cái ghế trói bà vô đó.

“Bà là Mary Elizabeth Cattermole hả?” Mụ Umbridge hỏi.

Bà Cattermole chỉ run run gật đầu một cái.

“Kết hôn với ông Reginald Cattermole của Sở Bảo trì Pháp thuật hả?”

Bà Cattermole bật khóc.

“Tôi không biết anh ấy đang ở đâu, lẽ ra anh ấy phải gặp tôi ở đây!”

Mụ Umbridge phớt lờ bà Cattermole.

“Mẹ của Maisie, Ellie, và Alfred Cattermole hả?”

Bà Cattermole càng khóc thảm thiết hơn.

“Mấy đứa nhỏ sợ lắm, tụi nó sợ tôi sẽ không thể trở về nhà...”

“Miễn giùm đi,” Yaxley nạt. “Đám con nít ranh của bọn Máu bùn không gợi được thương cảm của bọn ta đâu.”

Tiếng nức nở của bà Cattermole đã che át được tiếng chân bước của Harry khi nó thận trọng đi về phía những bậc thềm dẫn lên cái bục cao. Khi nó ngang qua chỗ con mèo Thần Hộ mệnh đang đi tuần, nó cảm thấy sự thay đổi nhiệt độ ngay: ở đó ấm áp và dễ chịu. Nó chắc chắn Thần Hộ mệnh là của mụ Umbridge, và con mèo sáng lên rực rỡ như vậy bởi vì mụ Umbridge quá vui ở đây, trong môi trường của mụ, bảo vệ những luật quái dị mà mụ đã góp phần thảo ra. Từ từ và hết sức cẩn thận, Harry lách dài theo cái bục đằng sau lưng mụ Umbridge, Yaxley và Hermione, ngồi xuống cái ghế đằng sau Hermione. Nó ngại làm cho Hermione giật mình. Nó nghĩ đến chuyện ếm bùa Ù tai lên mụ Umbridge và gã Yaxley, nhưng chỉ riêng việc rì rầm câu thần chú cũng đủ khiến cho Hermione giật mình. Bỗng mụ Umbridge cất cao giọng nói với bà Cattermole, và Harry chụp lấy cơ hội đó ngay.

“Mình ở sau lưng bồ,” nó thì thầm vào tai Hermione.

Đúng như nó dự kiến, cô nàng giật bắn người mạnh đến nỗi suýt hất đổ bình mực mà cô nàng lẽ ra dùng để ghi biên bản cuộc thẩm vấn, nhưng cả mụ Umbridge và gã Yaxley đều đang tập trung vào bà Cattermole, nên chuyện này xảy ra mà không bị chú ý.

“Bà Cattermole, khi bà đến Bộ hôm nay, bà đã bị tước một cây đũa phép,” mụ Umbridge nói, “Tám-và-ba-phần-tư phân, gỗ anh đào, lõi lông kỳ lân. Bà có nhận ra đúng như miêu tả không?”

Bà Cattermole gật đầu, chùi nước mắt bằng tay áo.

“Bà có thể cho chúng tôi biết bà đã lấy cây đũa phép đó từ vị phù thủy hay pháp sư nào không?”

“Lấy... lấy?” Bà Cattermole khóc nức nở. “Tôi đâu có... lấy của ai. Tôi m... mua nó khi tôi mười một tuổi. Nó... nó... nó... chọn tôi mà.”

Bà khóc thảm thiết hơn nữa.

Mụ Umbridge phá ra cười giọng ẻo lả kiểu con gái khiến Harry chỉ muốn đập. Mụ chồm tới trên hàng chấn song để ngắm nạn nhân kỹ hơn, và một cái gì đó bằng vàng cũng đung đưa tới trước và lòng thòng giữa khoảng không: cái mặt dây chuyền.

Hermione cũng đã thấy cái đó; cô bé thốt ra một tiếng ré nho nhỏ, nhưng mụ Umbridge và gã Yaxley vẫn đang mải mê vờn mồi, không nghe thấy gì hết.

“Không,” mụ Umbridge nói. “Không, tôi không tin đâu, bà Cattermole à. Những cây đũa phép chỉ chọn phù thủy và pháp sư. Bà không phải là phù thủy. Tôi có ở đây bản trả lời của bà cho cuộc điều tra mà chúng tôi đã gởi cho bà... Mafalda, cô đưa hồ sơ cho tôi.”

Mụ Umbridge chìa ra một bàn tay nhỏ: lúc đó mụ trông giống một con cóc đến nỗi Harry hơi ngạc nhiên thấy giữa những ngón tay múp míp của mụ không có màng da. Hai bàn tay của Hermione đang run run vì sửng sốt. Cô bé xốc tung đống tài liệu đặt cân xứng trên cái ghế bên cạnh, cuối cùng rút ra một xấp giấy da có tên của bà Cattermole trên đó.

“Cái đó... cái đó xinh ghê, bà Dolores à,” Hermione nói, chỉ vào cái mặt dây chuyền lấp lánh trên những nếp gấp dợn sóng của cái áo mụ Umbridge.

“Cái gì?” Mụ Umbridge nói như táp lại, mắt liếc xuống, “À, phải... một món gia bảo cổ xưa,” mụ nói, vỗ vỗ nhẹ lên cái mặt dây chuyền đang nằm trên bộ ngực đồ sộ của mụ. “Chữ S viết tắt của chữ Selwyn... Tôi có bà con với Selwyn... thật ra thì hiếm có gia đình thuần chủng nào mà tôi không có họ hàng... Đáng tiếc,” mụ nói tiếp giọng lớn hơn, tay gõ gõ trên bản trả lời câu hỏi điều tra của bà Cattermole, “là không thể nói như thế về bà. 'Nghề nghiệp cha mẹ: buôn bán rau cải'.”

Yaxley cười giễu. Phía dưới, con mèo bạc lông xù rảo lên rảo xuống, và bọn Giám ngục đứng đợi ở góc phòng.

Chính lời nói láo của mụ Umbridge đã làm máu trào lên tới đầu Harry và bịt tắc ý thức thận trọng của nó - cái mặt dây chuyền mà mụ ta ăn hối lộ từ một tên trộm vặt lại đang được mụ ta dùng để nổ về danh giá thuần chủng của chính mình. Harry giơ cao cây đũa phép, thậm chí không buồn giấu giếm cây đũa dưới tấm Áo khoác Tàng hình, và hô: “Điểm huyệt!”

Một tia sáng đỏ nhá lên; mụ Umbridge ngã gục xuống, trán dập vào cạnh của hàng chấn song: hồ sơ của bà Cattermole tuột khỏi đùi mụ rớt xuống sàn, và bên dưới, con mèo bạc đang lởn vởn bỗng biến mất. Khí lạnh như băng ập vào mọi người như một luồng gió đang xộc tới. Bối rối, Yaxley ngoái lại tìm nguyên nhân sự cố và thấy bàn tay Harry chơ vơ không đầu mình đang cầm đũa phép chĩa ngay vào hắn. Hắn toan rút cây đũa phép của hắn ra, nhưng trễ quá rồi: “Điểm huyệt!” Yaxley trượt té xuống đất nằm còng queo trên sàn.

“Harry!”

“Hermione à, nếu bồ cho là mình cứ ngồi yên đây để cho mụ giả đò...”

“Harry, bà Cattermole!”

Harry xoay vòng lại, cởi phắt tấm Áo khoác Tàng hình ra; phía dưới, bọn Giám ngục đã rời khỏi những góc phòng; chúng đang lướt về phía người đàn bà bị xiềng xích vào cái ghế: có thể vì Thần Hộ mệnh đã biến mất hoặc vì cảm thấy không bị chủ kiểm soát nữa, chúng dường như bứt bỏ sự ràng buộc. Bà Cattermole thét lên một tiếng gào khủng khiếp đầy hoảng sợ khi bàn tay sứt sẹo nhầy nhụa chụp lấy cằm của bà ấn mặt bà ra sau.

“HÚ HỒN THẦN HỘ MỆNH!”

Con hươu bạc phóng ra từ đầu cây đũa phép của Harry và nhảy về phía bọn Giám ngục khiến bọn chúng rút lui và lại tan vào bóng tối. Ánh sáng của con hươu mạnh và ấm hơn sức bảo vệ của con mèo, tràn khắp căn hầm khi nó phi quanh phòng.

“Lấy cái Trường Sinh Linh Giá,” Harry bảo Hermione.

Nó chạy ngược xuống những bậc thang, nhét tấm Áo khoác Tàng hình trở vào ba lô, và đến bên bà Cattermole.

“Ông sao?” Bà ngó mặt nó trân trân, thì thào. “Nhưng... nhưng anh Reg nói ông là kẻ đã nộp tên tôi để điều tra mà!”

“Tôi hả?” Harry lẩm bẩm, giật mạnh sợi dây xích đang trói cánh tay bà, “À, tôi vừa đổi ý. Cắt đứt!” Không có gì xảy ra. “Hermione, làm sao cởi bỏ những xiềng xích này?”

“Chờ tí, mình đang bận tay trên này...”

“Hermione! Tụi mình đang ở giữa vòng vây của bọn Giám ngục!”

“Mình biết, Harry à, nhưng nếu mụ ta tỉnh lại và thấy mất cái mặt dây chuyền thì... mình phải chế ra một cái giống hệt... Sinh đôi! Được rồi... Vậy là mụ sẽ bị lừa...”

Hermione chạy xuống những bậc thang.

“Để coi... Giải thoát!”

Xiềng xích kêu loảng xoảng và rút lại vào tay ghế. Bà Cattermole có vẻ còn hoảng sợ hơn cả trước đó.

“Tôi không hiểu,” bà thì thào.

“Bà phải rời khỏi nơi đây với tụi này,” Harry vừa nói vừa kéo bà đứng lên. “Về nhà, dắt con cái chạy xa, chạy ra khỏi xứ này nếu cần. Tự cải trang và chạy trốn đi. Bà đã thấy chuyện này như thế nào rồi đó, bà sẽ chẳng có được phiên tòa công minh nào ở đây đâu.”

“Harry,” Hermione nói, “Làm sao tụi mình ra khỏi chỗ này khi bọn Giám ngục đầy nhóc ngoài cửa?”

“Thần Hộ mệnh,” Harry nói, chĩa cây đũa phép vào chính Thần Hộ mệnh của nó. Con hươu chạy chậm lại rồi thong thả bước đi về phía cửa, vẫn tỏa sáng rạng rỡ. “Gọi lên được càng nhiều càng tốt; bồ gọi Thần Hộ mệnh của bồ đi, Hermione”

“Hú... Hú hồn Thần Hộ mệnh,” Hermione hô lên, nhưng chẳng có gì xảy ra.

“Đây là thần chú duy nhất mà cô ấy bị trục trặc,” Harry nói với bà Cattermole đang kinh ngạc hết sức. “Hơi xui xẻo, thiệt là... ráng lên, Hermione...”

“Hú hồn Thần Hộ mệnh!”

Một con rái cá bạc vọt ra từ đầu cây đũa phép của Hermione và duyên dáng bơi trong không khí để đến hỗ trợ con hươu.

“Đi thôi,” Harry nói, và nó dẫn Hermione cùng bà Cattermole chạy ra cửa.

Khi các Thần Hộ mệnh lướt ra khỏi căn hầm, đám người ngồi đợi bên ngoài đều sửng sốt. Harry nhìn quanh; bọn Giám ngục đã giạt sang hai bên, tan biến vào bóng tối, tan tác trước những Thần Hộ mệnh.

“Đã có quyết định là tất cả mọi người nên về nhà và cùng gia đình đi tìm chỗ trốn,” Harry nói với những phù thủy gốc Muggle đang ngồi đợi, họ đều bị chói mắt vì ánh sáng của những Thần Hộ mệnh và vẫn còn co ro cúm rúm. “Trốn ra nước ngoài nếu có thể. Miễn là tránh thiệt xa Bộ. Đó là... ơ... quan điểm chính thức mới ra. Bây giờ mọi người chỉ cần đi theo các Thần Hộ mệnh là có thể ra tới Cổng vòm.

Tụi nó xoay sở đến được những bậc thềm đá mà không bị trở ngại lắm, nhưng khi đi tới gần thang máy, Harry bắt đầu hoang mang lo ngại. Nếu tụi nó kéo vào Cổng vòm với sự hộ tống của một con hươu bạc và một con rái cá bạc, cùng với khoảng hai chục người bị cáo là phù thủy gốc Muggle, thì Harry không thể không lo việc tụi nó sẽ thu hút sự quan tâm ngoài ý muốn. Nó vừa đạt được cái kết luận không đáng phấn khởi này thì thang máy kêu lanh canh ngừng lại trước mặt tụi nó.

“Anh Reg!” Bà Cattermole hét lên, và lao mình vào cánh tay Ron. “Anh Runcorn thả em ra, anh ấy đánh mụ Umbridge và gã Yaxley, và anh ấy biểu tất cả tụi mình bỏ xứ mà đi. Em thấy mình nên làm vậy, anh Reg à. Thiệt mà, tụi mình mau mau về nhà dắt díu con cái và... Sao anh ướt nhem vậy?”

“Nước,” Ron làu bàu, tự gỡ mình ra khỏi tay bà Cattermole. “Harry, chúng biết có kẻ đột nhập ở trong Bộ, chuyện gì đó dính tới cái lỗ trên cánh cửa văn phòng mụ Umbridge. Mình đoán là tụi mình có chừng năm phút nếu...”

Thần Hộ mệnh của Hermione biến mất bằng một tiếng nổ bụp khi cô bé quay gương mặt kinh hoàng về phía Harry.

“Harry, nếu tụi mình bị kẹt ở đây...”

“Nếu chúng ta đi nhanh lên thì sẽ không bị kẹt lại,” Harry nói. Nó nói với đám người im lặng đằng sau tụi nó, tất cả đều đang trố mắt nhìn nó trân trân.

“Ai có đũa phép?”

Khoảng một nửa số người giơ tay lên.

“Được, tất cả những ai không có đũa phép phải bám vào người nào có đũa phép. Chúng ta phải thật nhanh trước khi họ chặn chúng ta lại. Đi thôi.”

Cả đám cố nhồi nhét hết vào hai cái thang máy. Thần Hộ mệnh của Harry đứng gác trước cánh cửa lưới bằng vàng khi cửa đóng lại và thang máy bắt đầu kéo lên.

“Tầng tám,” giọng bình thản của một bà phù thủy vang lên. “Cổng vòm.”

Harry biết ngay là tụi nó gặp rắc rối to. Cổng vòm đầy người đang đi từ lò sưởi này đến lò sưởi khác để niêm phong lại.

“Harry!” Hermione ré lên. “Tụi mình làm gì nữa đây...?”

“NGỪNG LẠI!” Harry gầm lên, và giọng oai phong của Runcorn vang vọng khắp Cổng vòm: những phù thủy đang niêm phong lò sưởi đứng sững ra. “Đi theo tôi.” Nó thì thầm với đám phù thủy gốc Muggle khiếp đảm, họ chúm chụm nhau di chuyển tới trước, bị Hermione và Ron lùa đằng sau.

“Chuyện gì vậy, anh Albert?” Ông pháp sư hói đầu hỏi, chính là cái ông đã cùng chui ra từ một lò sưởi với Harry trước đó. Ông ta có vẻ lo lắng.

“Đám người này cần phải ra khỏi Bộ trước khi các ông niêm phong cửa ra,” Harry nói với tất cả uy quyền mà nó có thể gồng lên được.

Đám pháp sư đứng trước mặt nó nhìn nhau.

“Chúng tôi được lệnh đóng tất cả cửa ra và không để cho bất kỳ ai...”

“Ông cãi lệnh tôi hả?” Harry quát tháo dọa dẫm. “Ông có muốn tôi đem gia phả của ông ra kiểm tra không, như tôi đã làm cho Dirk Cresswell ấy?”

“Dạ, xin lỗi!” Ông pháp sư hói đầu há hốc miệng khiếp sợ đứng thụt lùi lại. “Tôi đâu có ý gì đâu, anh Albert, chẳng qua tôi tưởng... tôi tưởng họ vô đây để thẩm vấn và...”

“Máu của họ thuần,” Harry nói, và giọng trầm đục của nó vang vọng rất ấn tượng khắp sảnh đường. “Thuần hơn rất nhiều người trong bọn các ông, tôi dám nói vậy. Quý vị ra đi,” nó nói oang oang với đám phù thủy gốc Muggle, những người này bèn nhốn nháo chạy tới lò sưởi và bắt đầu biến mất từng cặp một. Các pháp sư của Bộ đứng lưỡng lự, một số tỏ ra bối rối, một số hoảng sợ lo lắng. Bỗng:

“Mary!”

Bà Cattermole ngoái đầu lại. Ông Reg Cattermole thực vừa mới chạy ra khỏi thang máy, sau khi hết ói mửa, nhưng vẫn còn xanh xao mệt mỏi.

“Anh R... Reg?”

Bà Cattermole hết dòm ông chồng đến ngó Ron, nó chửi um lên.

Ông pháp sư hói đầu há hốc miệng, đầu ông quay ngược quay xuôi từ ông Reg Cattermole này đến ông Reg Cattermole kia.

“Ê... chuyện gì đang xảy ra vậy? Vụ này là sao?”

“Bít lối ra! Niêm phong cửa!”

Yaxley đã xộc ra từ một thang máy khác và chạy về phía đám người bên cạnh các lò sưởi, nơi tất cả phù thủy gốc Muggle đã chui qua đó biến mất, ngoại trừ bà Cattermole. Khi ông pháp sư hói đầu giơ cao cây đũa phép, Harry cũng giơ nắm đấm bự tổ của nó thụi cho ông một cái, khiến ông ta bay vèo lên không.

“Nãy giờ hắn giúp bọn phù thủy gốc Muggle chạy trốn đó, Yaxley!” Harry thét.

Đồng nghiệp của ông hói đầu rộn lên phân bua cãi lại om xòm, thừa cơ hội này Ron túm chặt bà Cattermole, kéo bà tới một lò sưởi vẫn còn mở, và biến mất. Lúng ta lúng túng, Yaxley hết nhìn Harry đến ông pháp sư bị ăn đấm, trong khi ông Reg Cattermole thực gào lên: “Vợ tôi! Thằng nào đi với vợ tôi vậy? Chuyện gì đang xảy ra đây?”

Harry thấy đầu Yaxley quay lại, nó thấy một tia sự thật lộ dần trên gương mặt đần độn.

“Đi mau!” Harry hét với Hermione; nó nắm tay cô bé và cùng nhảy vào lò sưởi trong lúc lời nguyền của Yaxley bay véo qua đầu của Harry. Tụi nó ngất ngư một lát trước khi vọt ra khỏi cái bồn cầu tiêu trong một cái buồng vệ sinh. Harry mở tung cánh cửa: Ron đang đứng đó bên cạnh mấy chậu rửa mặt, vẫn còn vật lộn với bà Cattermole.

“Anh Reg, em không hiểu...”

“Buông ra, tôi không phải là chồng bà, bà phải đi về nhà ngay.”

Một tiếng động vang lên trong cái buồng vệ sinh đằng sau tụi nó; Harry ngoái nhìn ra sau; Yaxley vừa xuất hiện.

“CHUỒN!” Harry gào lên. Nó nắm tay Hermione và cánh tay Ron rồi xoay mình tại chỗ.

Bóng tối nhận chìm tụi nó, cùng với cảm giác bàn tay ép chặt, nhưng có gì đó không ổn... tay Hermione dường như tuột khỏi nắm tay của nó...

Nó tự hỏi hay là nó sắp chết ngộp; nó không thể thở hay thấy nữa và điều chắc chắn duy nhất trên thế giới này là cánh tay Ron và mấy ngón tay của Hermione đang từ từ tuột ra...

Và nó nhìn thấy cánh cửa ngôi nhà số mười hai, quảng trường Grimmauld, với cái gõ cửa tạc hình con rắn, nhưng chưa kịp lấy hơi lại thì một tiếng thét vang lên cùng một tia sáng tím nhá lên: bàn tay Hermione đột ngột chụp trở lại tay nó và mọi thứ lại đen thui.

Chương Mười Bốn

Tên trộm

Harry mở mắt ra và bị chói lóa vì màu xanh lá và vàng kim; nó không biết chuyện gì đã xảy ra, nó chỉ biết nó đang nằm trên cái gì đó có vẻ là cành và lá cây.

Cố gắng hít hơi vào hai buồng phổi cảm giác như đã bị dẹp lép, nó chớp mắt và nhận ra ánh sáng chói lòa là ánh nắng xuyên qua tán lá cao tít phía trên.

Bỗng một vật gì đó co giật sát mặt nó. Nó cố nhấc mình lên bằng hai tay và hai đầu gối, sẵn sàng đối đầu với sinh vật hung tợn nho nhỏ nào đó, nhưng nó thấy cái vật đó hóa ra là bàn chân của Ron. Nhìn quanh quất, Harry thấy hai đứa nó và Hermione đang nằm trên mặt đất một cánh rừng, dường như chỉ có ba đứa nó mà thôi.

Harry nghĩ ngay đến Rừng Cấm, và trong tích tắc, mặc dù nó biết là tụi nó mà xuất hiện trên đất đai của trường Hogwarts thì thiệt là ngu ngốc và nguy hiểm, tim nó vẫn rộn lên khi nghĩ tới chuyện lẻn đi qua rừng cây đến cái chòi của bác Hagrid. Nhưng, chỉ trong khoảng thời gian ngắn đủ để Ron rên lên một tiếng nho nhỏ và Harry bò về phía Ron, Harry nhận ra đây không phải là Rừng Cấm; cây cối có vẻ nhỏ hơn, mọc thưa hơn, và mặt đất trống trải hơn.

Nó gặp Hermione ở phía đầu của Ron, cô bé cũng đang bò trên hai tay và hai chân. Ngay khi Harry nhìn xuống Ron, tất cả mọi băn khoăn khác biến ngay ra khỏi đầu Harry, bởi vì máu chảy ướt sũng toàn bộ sườn trái của Ron và mặt nó nổi bật lên, xám ngoét trên mặt đất trải lá. Món thuốc Đa Quả dịch lúc này đang nhả dần tác dụng: hình dạng Ron đã trở lại một nửa là nó, còn một nửa vẫn là ông Cattermole, tóc nó đang càng lúc càng đỏ hơn trong khi mặt nó chẳng còn được chừa lại cho chút sắc màu nào.

“Nó bị sao vậy?”

“Sót thân,” Hermione nói, ngón tay cô bé đã lần vô trong ống tay áo của Ron, nơi máu ướt nhất và sậm màu nhất.

Harry nhìn mà hãi hùng khi Hermione xé toạc áo sơ mi của Ron. Lâu nay nó cứ tưởng sót thân là chuyện tiếu lâm, nhưng đây... ruột gan nó cồn cào khó chịu khi Hermione tuột trần cánh tay trên của Ron, để lộ ra một mảng thịt bị thiếu, như thể được thẻo gọn gàng bằng một con dao.

“Harry, mau lên, trong cái túi xách của mình đó, có một cái chai nhãn đề Tinh chất Bạch tiễn...”

“Túi xách... có ngay...”

Harry chạy thật nhanh tới chỗ Hermione đã Độn thổ lên, túm chặt cái túi xách tay bằng hột cườm nhỏ xíu và thọc tay vô trong đó. Ngay lập tức, hết vật này đến vật khác tự giới thiệu bằng cách tiếp xúc với ngón tay của nó. Nó sờ được gáy da của những cuốn sách, những tay áo len, gót giầy...

“Mau lên!”

Harry bèn chụp cây đũa phép trên mặt đất và chĩa vào đáy cái túi xách kỳ diệu.

“Bạch tiễn tới đây!”

Một cái chai nhỏ màu nâu vọt ra khỏi túi xách; nó chụp lấy và vội vã quay lại với Hermione và Ron, mắt Ron vẫn còn hé mở, nhưng chỉ thấy mỗi vạch lòng trắng lộ ra giữa hai mí mắt.

“Ron xỉu rồi,” Hermione nói, cô bé cũng tái xanh; mặc dù tóc vẫn còn xám ở vài chỗ, nhưng cô bé trông không còn giống bà Mafalda nữa. “Harry, mở nút chai giùm mình, tay mình đang run quá.”

Harry vặn cái nút ra khỏi cái chai nhỏ, Hermione cầm lấy và nhễu ba giọt thuốc vào vết thương đang chảy máu. Khói xanh lè tỏa thành cuộn bốc thẳng lên và khi khói tan, Harry thấy máu đã ngừng chảy. Vết thương bây giờ trông có vẻ đã lành nhiều ngày, da non đã kéo kín miệng chỗ vừa mới là vết thương toang hoác.

“Tuyệt chiêu!” Harry nói.

“Mình chỉ dám làm nhiêu đó thôi,” Hermione run rẩy nói. “Có mấy thần chú có thể giúp Ron bình phục hoàn toàn, nhưng mình không dám thử, rủi mà làm trật thì sẽ gây thương tích trầm trọng hơn... Ron mất quá nhiều máu rồi...”

“Làm sao mà nó bị thương? Ý mình là...” Harry lắc đầu, cố gắng làm cho đầu óc mình sáng sủa ra, để hiểu được chuyện gì vừa xảy ra. “Tại sao tụi mình lại ở đây? Mình tưởng tụi mình trở về quảng trường Grimmauld chứ?”

Hermione hít vào một hơi thiệt sâu, cô bé trông như sắp khóc.

“Harry à, mình không nghĩ là tụi mình còn có thể trở về nơi đó nữa.”

“Bồ nói sao...?”

“Khi tụi mình độn thổ, Yaxley đã tóm được mình và mình không thể rảy hắn ra, hắn quá mạnh, và hắn vẫn còn bám chặt khi tụi mình về tới quảng trường Grimmauld, và rồi... vậy đó, mình nghĩ hắn chắc hẳn đã nhìn thấy cánh cửa, và tưởng là tụi mình dừng ở đó, nên hắn thả lỏng nắm tay và mình tìm cách gạt được hắn ra rồi đưa cả ba đứa mình tới đây, thay vì vào nhà ở quảng trường Grimmauld.”

“Nhưng vậy thì, hắn ở đâu? Khoan... bồ đâu có nói là hắn đang ở Quảng trường Grimmauld hả? Hắn đâu có thể vô nhà được?”

Mắt Hermione rươm rướm nước mắt khi cô bé gật đầu.

“Harry à, mình nghĩ hắn có thể. Mình... mình đã buộc hắn thả mình ra bằng cách ếm bùa Rút ra, nhưng mình đã đem hắn vô trong vòng bảo vệ bùa Trung tín. Từ khi thầy Dumbledore chết, tụi mình đều trở thành Người giữ Bí mật, vậy là coi như mình đã đưa cho hắn bí mật, đúng không?”

Không cần phải giả vờ; Harry biết chắc Hermione nói đúng. Đây là một cú đấm trầm trọng. Nếu Yaxley có thể vô được trong nhà thì tụi nó đừng hòng trở lại đó. Ngay lúc này đây, hắn có lẽ đang đưa những Tử Thần Thực Tử khác đến đó bằng phép Độn thổ. Mặc dù ngôi nhà âm u và ngột ngạt nỗi buồn, nhưng đó đã là nơi tị nạn an toàn của tụi nó; thậm chí là một kiểu gia đình, khi mà giờ đây Kreacher vui vẻ và thân thiện hơn nhiều. Harry tưởng tượng con gia tinh giờ này đang bận rộn làm món bánh nướng thập cẩm mà Harry, Ron và Hermione sẽ chẳng bao giờ được ăn, nó nhói lên một nỗi đau tiếc rẻ, một nỗi đau không dính dáng gì đến đồ ăn cả.

“Harry à, mình xin lỗi, mình rất tiếc.”

“Đừng ngu, đâu phải lỗi của bồ. Nếu cần trách thì đó là lỗi mình...”

Harry đút tay vào túi và lấy ra con mắt của thầy Mắt Điên. Hermione co rúm lại, vẻ mặt hãi hùng.

“Mụ Umbridge đã gắn nó trên cánh cửa văn phòng của mụ để rình rập người ta. Mình không thể bỏ mặc nó ở đó... nhưng chính vì vậy mà chúng biết có kẻ đột nhập.”

Hermione chưa kịp trả lời thì Ron rên lên và mở mắt ra. Nó vẫn còn xám ngoét và mặt rịn mồ hôi lấp lánh.

“Bồ thấy sao?” Hermione thì thầm.

“Ẹ quá,” Ron rên rỉ, cau mặt khi sờ cánh tay bị thương. “Tụi mình đang ở đâu đây?”

“Trong khu rừng mà người ta tổ chức Cúp Quidditch Thế giới.” Hermione nói. “Mình muốn đến một nơi kín đáo, bí mật, và chỗ này...”

“... là nơi đầu tiên bồ nghĩ tới,” Harry nói nốt giùm Hermione, vừa liếc nhìn quanh cái trảng có vẻ hoang vu. Nó không thể không nhớ lại điều đã xảy ra khi lần trước tụi nó Độn thổ tới nơi mà Hermione nghĩ tới đầu tiên - làm cách nào bọn Tử Thần Thực Tử lại tìm ra được tụi nó chỉ trong vòng vài phút. Liệu có phải nhờ phép Đọc tâm trí? Liệu ngay lúc này Voldemort hay tay sai hắn có biết được Hermione đã đưa tụi nó đi đâu không?

“Bồ có cho là tụi mình nên đi tiếp không?” Ron hỏi Harry, và Harry có thể thấy qua vẻ mặt Ron là Ron cũng đang suy nghĩ giống nó.

“Mình không biết.”

Trông Ron vẫn còn xanh xao và yếu ớt. Nó không buồn cố gắng ngồi dậy và có vẻ yếu đến nỗi không thể ngồi dậy được. Viễn cảnh chuyển nó đi thiệt là nản lòng.

“Bây giờ tụi mình cứ ở lại đây,” Harry nói.

Có vẻ nhẹ nhõm, yên tâm, Hermione đứng dậy.

“Bồ đi đâu vậy?” Ron hỏi.

“Nếu ở lại đây, tụi mình cần phải ếm một số bùa bảo vệ quanh chỗ này,” Hermione đáp, và giơ cao cây đũa phép, cô bé bắt đầu đi một vòng rộng quanh Harry và Ron, vừa bước đi vừa lầm rầm những câu thần chú. Harry thấy vài xao động nhỏ trong bầu không khí chung quanh: có vẻ như Hermione vừa tung một làn khói nóng mù mịt phủ lên khoảng đất trống.

“Kỵ giải bùa... Tổng bảo vệ... Đuổi Muggle... Bịt tai... Harry, bồ có thể lấy lều ra rồi.”

“Lều nào?”

“Trong túi xách!”

“Trong cái... tất nhiên rồi,” Harry nói.

Lần này nó không thèm mất công mò mẫm bên trong túi nữa, mà dùng một bùa triệu tập khác. Cái lều hiện ra thành một đống tùm lum vải bạt, dây thừng, và cột chống. Một phần cái nhờ mùi của mấy con mèo, Harry nhận ra đó chính là cái lều mà tụi nó đã ngủ vào cái đêm xảy ra trận tranh Cúp Quidditch Thế giới.

“Mình tưởng cái này của tay Perkins ở Bộ?” Nó hỏi khi bắt đầu gỡ những cọc buộc lều ra.

“Hình như ổng không muốn lấy lại, bệnh đau lưng của ổng nặng lắm,” Hermione nói, lúc này cô bé đang làm một động tác ếm bùa hình số tám phức tạp bằng cây đũa phép. “Cho nên ba của Ron nói mình có thể mượn đỡ. Dựng lên!” Hermione nói thêm, chĩa cây đũa phép vào đống vải bạt lùng nhùng, và với một chuyển động mềm mại, đống lùng nhùng ấy nổi lên trong không khí rồi ổn định đâu ra đấy, hoàn toàn được dựng xong trên mặt đất trước mặt Harry, và một cái cọc lều vọt ra khỏi hai bàn tay chưng hửng của nó để cắm xuống đất, làm vang lên một tiếng cụp cuối cùng ở đầu một sợi dây lòi tói.

“Ổ Độc,” Hermione hoàn tất bằng một cái vung tay hướng lên trời. “Mình chỉ có thể làm được nhiêu đây thôi. Ít nhất thì mình cũng biết được khi bọn chúng đến. Mình không thể bảo đảm là nó ngăn cản được Vol...”

“Đừng nói tên hắn ra!” Ron ngắt lời Hermione, giọng nó gay gắt.

Harry và Hermione nhìn nhau.

“Mình xin lỗi,” Ron nói, rên lên khe khẽ khi anh chàng tự nhổm người lên để nhìn hai đứa bạn. “Nhưng cái tên đó nghe như một lời nguyền hay gì đó. Tụi mình cứ gọi hắn là Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó, làm ơn mà!”

“Thầy Dumbledore nói sợ sệt một cái tên...” Harry bắt đầu cãi.

“Chẳng lẽ bồ không nhận thấy sao, bồ tèo, cái sự gọi đúng tên cúng cơm của Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó rốt cuộc đâu có đem lại cái gì hay ho cho thầy Dumbledore đâu?” Ron ngắt lời Harry. “Chỉ... chỉ... bày tỏ chút tôn trọng Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó, có được không?”

“Tôn trọng hả?” Harry lặp lại, nhưng Hermione đưa mắt khuyên can Harry; rõ ràng là nó chớ nên cãi vã với Ron trong khi Ron đang ở trong tình trạng suy yếu như vầy.

Harry và Hermione vừa khiêng vừa kéo Ron chui qua cửa lều. Bên trong vẫn y chang như trong trí nhớ của Harry; một gian phòng nhỏ, hoàn chỉnh với buồng tắm và nhà bếp tí tẹo. Harry đẩy qua một bên cái ghế bành cũ và cẩn thận hạ Ron xuống đặt nằm trên tầng dưới của cái giường hai tầng. Ngay cả cuộc dịch chuyển ngắn ngủi này cũng khiến Ron tái thêm, và khi tụi nó đã đặt Ron nằm đàng hoàng trên nệm, Ron nhắm mắt lại một lần nữa, không nói năng gì mất một lúc lâu.

“Mình sẽ pha chút trà,” Hermione nói không kịp thở, lôi ấm đồng và tách từ đáy túi xách ra, đi về phía nhà bếp.

Harry nhận thấy trà nóng cũng sảng khoái như rượu đế lửa vào cái đêm thầy Mắt Điên chết; dường như đốt cháy được một chút của nỗi sợ hãi đang chấp chới trong lồng ngực nó. Một hai phút sau Ron phá vỡ sự im lặng.

“Theo mấy bồ nghĩ thì ông bà Cattermole ra sao rồi?”

“May mắn thì họ sẽ thoát,” Hermione nói, ấp hai tay vào cái tách của mình cho thoải mái. “Chỉ cần ông Cattermole tỉnh táo, ông ấy sẽ đưa bà Cattermole đi bằng cách Độn-thổ-kèm-theo và ngay lúc này họ đang cùng con cái trốn ra khỏi nước. Đó là điều Harry đã bảo bà ấy làm.”

“Mèn ơi, mình hy vọng họ trốn thoát,” Ron nói, tựa lưng lên cái gối. Dường như trà làm cho nó tươi tỉnh ra; da nó đã nhuốm lại chút màu sắc. “Nhưng mình có cảm tưởng ông Reg Cattermole không phải là người tinh ranh cho lắm, theo cái cách mà mọi người nói chuyện với mình khi mình là ổng. Trời, mình hy vọng họ thoát được... nếu cả hai người đó mà phải vô ngục Azkaban vì tụi mình thì...”

Harry ngó qua Hermione và câu hỏi mà nó đã định hỏi - liệu bà Cattermole có thể Độn thổ cùng với chồng không khi mà bà thiếu mất một cây đũa phép - nghẹn trong cổ họng nó. Hermione đang ngắm Ron ca cẩm về số phận của gia đình Cattermole, và nét mặt cô nàng dịu dàng đến nỗi Harry cảm thấy gần như thể nó đã chộp được cảnh cô nàng đang hôn Ron.

“Vậy, bồ lấy được nó rồi chớ?” Harry hỏi Hermione, phần nào để nhắc chừng cô nàng là nó đang có mặt ở đó.

“Lấy... lấy cái gì?” Hermione nói, hơi giật mình.

“Chứ tụi mình đã vì cái gì mà trải qua tất cả những chuyện vừa rồi? Cái mặt dây chuyền! Cái mặt dây chuyền đâu?”

“Bồ lấy được nó rồi?” Ron thét lên, nhổm người cao hơn cái gối một tí. “Không ai nói cho mình biết gì hết! Mèn ơi, đáng ra bồ phải nhắc tới nó chứ!”

“Ôi, chẳng phải tụi mình đã chạy trối mạng mới thoát được bọn Tử Thần Thực Tử sao?” Hermione nói. “Đây.”

Và cô bé lấy cái mặt dây chuyền ra khỏi túi áo chùng, đưa nó cho Ron.

Nó bự bằng cái trứng gà. Một chữ S cầu kỳ khắc chìm cùng với nhiều viên đá nhỏ màu xanh biếc, lấp lánh yếu ớt trong ánh sáng khuếch tán chiếu xuyên qua nóc vải bạt của cái lều.

“Bộ không ai tiêu hủy nó kể từ hồi Kreacher có nó à?” Ron hỏi đầy hy vọng. “Ý mình là, có chắc nó vẫn còn là một Trường Sinh Linh Giá không?”

“Mình nghĩ là còn,” Hermione nói, nhận lại cái mặt dây chuyền từ Ron và ngắm nghía nó kỹ càng. “Nếu nó đã bị tiêu hủy bằng pháp thuật thì sẽ có vài dấu hiệu hư hao.”

Cô bé đưa cái mặt dây chuyền cho Harry. Harry xoay xoay nó giữa những ngón tay. Cái mặt dây chuyền coi có vẻ hoàn hảo, y nguyên. Nó nhớ phần còn lại của cuốn nhật ký rách xơ xác, và viên đá cẩn chiếc nhẫn Trường Sinh Linh Giá đã rạn nứt như thế nào khi đã bị cụ Dumbledore tiêu hủy.

“Mình nghĩ Kreacher nói đúng,” Harry nói. “Tụi mình sẽ phải tìm ra cách mở cái món này trước rồi mới tiêu hủy được nó.”

Đang nói, đột nhiên Harry ý thức ra mình đang cầm cái gì, rằng cái gì đang sống bên trong cái nắp hộp bằng vàng này. Sau tất cả những nỗ lực tìm kiếm của tụi nó, Harry thậm chí vẫn cảm thấy một ham muốn mãnh liệt là quăng cái mặt dây chuyền ra xa khỏi mình. Lấy lại tự chủ, nó thử cạy nắp hộp ra bằng mấy ngón tay, rồi thử câu thần chú mà Hermione đã dùng để mở cửa phòng ngủ của Regulus. Chẳng có cách nào được việc. Nó đưa lại cái mặt dây chuyền cho Ron và Hermione, mỗi đứa đều cố gắng hết sức, nhưng cũng chẳng thành công hơn Harry trong việc mở cái nắp hộp.

“Nhưng mà bồ có cảm thấy nó không?” Ron hỏi bằng giọng nén nhỏ lại, khi nắm chặt cái mặt dây chuyền trong bàn tay siết mạnh.

“Bồ muốn nói gì?”

Ron đưa cái Trường Sinh Linh Giá cho Harry. Một lát sau Harry nghĩ là nó biết Ron muốn nói gì. Đó là nhịp máu chảy trong mạch máu của nó, hay là cái gì đó đang đập bên trong cái mặt dây chuyền, như một trái tim kim loại bé xíu?

“Tụi mình làm gì nó đây?” Hermione hỏi.

“Giữ nó an toàn cho đến khi mình tìm được cách tiêu hủy,” Harry đáp, và mặc dù không muốn lắm, nó vẫn đeo sợi dây chuyền quanh cổ, thả cái mặt dây chuyền vô bên trong lớp áo chùng, ở trong đó cái mặt dây chuyền nằm yên trên ngực nó bên cạnh cái túi bùa mà bác Hagrid đã tặng.

“Mình nghĩ tụi mình cần thay phiên canh gác bên ngoài lều,” nó nói thêm với Hermione khi đứng dậy và vươn vai. “Và tụi mình cũng cần nghĩ về đồ ăn nữa. Bồ nằm yên đó,” Nó nói giọng sắc gọn khi Ron toan ngồi dậy và tái xanh tái mét.

Với cái Kiếng mách lẻo Hermione đã tặng Harry vào dịp sinh nhật đặt cẩn thận trên chiếc bàn trong lều, Harry và Hermione dành hết thời gian còn lại trong ngày chia nhau vai trò canh gác. Tuy nhiên, cái Kiếng mách lẻo vẫn im re nằm nguyên cả ngày, và hoặc là nhờ bùa chú bảo vệ và bùa đuổi Muggle mà Hermione đã ếm chung quanh tụi nó, hoặc là vì người ta ít khi nào lai vãng lối này, mà khu rừng của tụi nó vẫn hoang vắng, không kể chim và sóc thỉnh thoảng xuất hiện. Ban đêm cũng không khác mấy; Harry thắp cây đũa phép của nó lên khi đổi gác với Hermione vào lúc mười giờ, và nhìn ra khung cảnh hoang vắng, để ý lũ dơi vỗ cánh bay trên cao ngang qua một thẻo trời đầy sao nhìn thấy được từ khoảng trống được bảo vệ của tụi nó.

Bây giờ nó cảm thấy đói, và hơi xây xẩm. Hermione đã chẳng gói ghém theo chút thực phẩm nào trong cái túi xách mầu nhiệm của mình, bởi vì cô bé cho rằng tụi nó sẽ trở về quảng trường Grimmauld vào đêm nay, cho nên tụi nó chẳng có gì để ăn ngoài mấy cái nấm dại mà Hermione đã hái từ đám cây gần nhất rồi hầm trong một cái cà-mèn. Mới ngốn được hai miếng Ron đã đẩy phần ăn của nó ra, có vẻ muốn ói; Harry ráng kiên trì ăn nốt chỉ để không làm Hermione buồn.

Sự yên ắng bao quanh bị xao động vì tiếng xào xạc kỳ lạ và âm thanh gì đó nghe như tiếng cành cây nhỏ bị gãy. Harry nghĩ những tiếng động đó do thú vật gây ra chứ không phải do con người, dù vậy nó vẫn nắm chặt cây đũa phép sẵn sàng ứng phó. Bụng dạ nó, vốn đã khó chịu vì lỏng bỏng món nấm dai nhách, giờ lại cồn cào không yên.

Nó đã tưởng đâu nó sẽ phấn chấn lên khi tụi nó lấy cắp lại được cái Trường Sinh Linh Giá, nhưng chẳng biết sao nó không vui lên được; khi ngồi nhìn ra bóng tối mà đầu cây đũa phép của nó chỉ rọi sáng được một khoảnh, nó chỉ cảm thấy lo lắng về những điều sẽ xảy ra tiếp theo. Có vẻ như suốt mấy tuần, mấy tháng, thậm chí mấy năm, nó đã cuống cuồng lao tới mục tiêu này, nhưng giờ đây nó chợt khựng lại, cùng đường.

Vẫn còn những Trường Sinh Linh Giá khác ở đâu đó, nhưng nó không hề biết chúng có thể ở đâu. Nó thậm chí không biết tất cả những cái đó là gì. Đồng thời nó còn lúng túng không biết làm thế nào để tiêu hủy cái duy nhất mà tụi nó đã tìm ra, cái Trường Sinh Linh Giá mà hiện giờ đang nằm trên da thịt trần trụi của ngực nó. Kỳ lạ là cái vật đó không hấp thu nhiệt của cơ thể nó, mà cứ nằm lạnh lẽo trên da thịt nó, lạnh như mới vớt ra từ nước đá. Thỉnh thoảng Harry nghĩ, hay có lẽ là tưởng tượng, nó có thể cảm nhận được nhịp tim nhỏ xíu đập khẽ khàng một cách thất thường cùng với trái tim của chính nó.

Những linh cảm chẳng lành không biết là gì xâm chiếm nó, nó cố kháng cự lại chúng, nhưng chúng cứ xông vào nó không nao núng. Kẻ này không thể sống khi kẻ kia còn tồn tại. Ron và Hermione, lúc này đang chuyện trò khe khẽ trong lều sau lưng nó, hai đứa đó có thể bỏ cuộc nếu tụi nó muốn: nó thì không thể. Và khi ngồi đó cố gắng chế ngự chính nỗi sợ và sự kiệt quệ của mình, Harry dường như cảm thấy cái Trường Sinh Linh Giá trên ngực nó đang nhịp tích tắc đếm thời gian mà nó còn lại... Nghĩ nhảm, nó tự nhủ, đừng nghĩ chuyện đó...

Cái thẹo của nó lại bắt đầu nhức nhối. Nó đã sợ là những ý nghĩ này sẽ khiến chuyện đó xảy ra, và đã cố gắng hướng chúng qua một suy nghĩ khác. Nó nghĩ tới Kreacher khốn khổ, y hẳn là chờ đợi tụi nó trở về nhà, nhưng lại bị tiếp đón Yaxley. Liệu con gia tinh sẽ giữ im lặng hay y sẽ nói cho bọn Tử Thần Thực Tử mọi điều mà y biết? Harry muốn tin là Kreacher đã thay đổi thuận theo nó trong một tháng vừa qua, tin là giờ đây y trung thành với nó, nhưng ai biết điều gì có thể xảy ra? Nếu bọn Tử Thần Thực Tử tra tấn con gia tinh thì sao? Những hình ảnh tởm lợm tràn ngập đầu óc Harry và nó cố gắng xua đuổi chúng ra, bởi vì nó chẳng thể làm được gì cho Kreacher cả: nó và Hermione đã quyết định không gọi Kreacher đến; rủi mà ai đó của Bộ cũng đến cùng con gia tinh thì sao? Tụi nó không hy vọng phép Độn thổ của gia tinh thoát được cái sơ xuất đã để cho Yaxley đến được quảng trường Grimmauld bằng cách níu tay áo của Hermione.

Cái thẹo của Harry bây giờ lại rát bỏng. Nó nghĩ còn quá nhiều điều tụi nó vẫn chưa biết: thầy Lupin nói đúng về những pháp thuật mà tụi nó chưa từng gặp phải hay tưởng tượng ra. Tại sao thầy Dumbledore không giải thích nhiều hơn? Phải chăng thầy đã tưởng là sẽ còn đủ thời giờ; rằng thầy còn sống nhiều năm nữa, có thể nhiều thế kỷ, như cụ Nicolas Flamel bạn của thầy? Nếu vậy, thầy đã sai lầm... Lão Snape đã giải quyết chuyện đó... Lão Snape, con rắn độc thâm hiểm, kẻ đã ra tay trên đỉnh tháp...

Và thầy Dumbledore đã ngã xuống... ngã xuống...

“Đưa nó cho ta, Gregorovitch.”

Giọng Harry cao, rõ, và lạnh lùng, cây đũa phép của nó được giơ ra trước ngực nó bằng một bàn tay trắng xác có những ngón tay dài. Người đàn ông mà nó đang chĩa cây đũa phép vào đang lơ lửng giữa không trung trong thế chổng ngược, mặc dù chẳng có sợi dây thừng nào treo ông ta lên cả; ông đung đưa trên không, bị trói gô một cách kỳ quái và vô hình, chân tay ông ép sát thân, gương mặt khiếp sợ của ông ở ngang tầm với gương mặt đỏ ửng của Harry nhờ máu vừa dồn lên đầu nó. Ông có bộ tóc trắng như cước và một bộ râu rậm dày: kiểu râu tóc ông già Noel.

“Tôi không có nó, tôi không còn nó nữa! Nó bị đánh cắp, lâu, lâu lắm rồi!”

“Đừng lừa dối Chúa tể Voldemort, Gregorovitch. Ngài biết... Ngài luôn luôn biết...” Hai con ngươi của người đàn ông bị treo ngược trợn trắng, nở lớn vì sợ, và dường như chúng tiếp tục trương lớn, càng lúc càng lớn đến khi nỗi u tối trong con mắt đó nuốt chửng toàn bộ con người Harry...

Và giờ đây Harry đang vội vã đi dọc một hành lang tăm tối theo chân một ông Gregorovitch nhỏ thó béo tròn đang giơ cao cái lồng đèn: ông Gregorovitch xông vào một căn phòng ở cuối lối đi và ngọn đèn lồng của ông soi sáng một chỗ có vẻ như xưởng chế tạo; dăm bào và vàng lấp lánh trong vũng sáng đung đưa của ánh đèn, và kia, ngồi chồm hổm trên gờ cửa sổ, trông như một con chim khổng lồ, là một chàng trai trẻ tóc vàng kim. Trong tích tắc nhờ ánh sáng ngọn đèn lồng soi đến, Harry nhìn thấy vẻ hớn hở trên gương mặt đẹp trai của anh ta. Thế rồi kẻ đột nhập phóng ra một bùa Choáng từ cây đũa phép của mình và nhảy bật ra khỏi cửa sổ một cách gọn gàng kèm theo một tràng cười ha hả.

Và Harry hấp tấp quay trở ra khỏi đôi tròng mắt nở rộng giống như đường hầm và gương mặt Gregorovitch đầy kinh hãi.

“Tên trộm là ai hả, Gregorovitch?” Giọng nói lạnh lùng cao ngạo vang lên.

“Tôi không biết, tôi không hề biết, một thanh niên... đừng... làm ơn... Xin làm ơn!”

Một tiếng rú cứ vang mãi vang mãi và rồi ánh sáng xanh lè nổ ra...

“Harry!”

Nó mở mắt ra, thở hổn hển, vầng trán phập phồng. Nó đã bất tỉnh dựa vào vách lều rồi trượt xuống tấm vải bạt, ngã sóng xoài trên mặt đất. Nó ngước lên nhìn Hermione, mái tóc dày của cô bé che mờ thẻo trời tí xíu nhìn thấy được qua những cành cây đen thui cao cao phía trên đầu tụi nó.

“Chiêm bao,” Harry nói, ngồi dậy lẹ làng và cố gắng đáp lại cái nhìn trừng trừng của Hermione bằng một ánh mắt ngây thơ. “Chắc là mình ngủ gục, xin lỗi.”

“Mình biết đó là cái thẹo của bồ! Mình có thể nói chắc qua vẻ mặt của bồ! Bồ lại ngó vô đầu óc Vol...”

“Đừng nói tới cái tên đó nữa!” Giọng giận dữ của Ron vang lên từ tuốt trong lều.

“Được,” Hermione vặc lại, “vậy thì, đầu óc Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó!”

“Mình không hề cố ý để cho nó xảy ra!” Harry nói. “Đó là một giấc mơ! Bồ có thể kiểm soát được chuyện bồ chiêm bao không, Hermione?”

“Giá bồ chịu học cách áp dụng Bế quan Bí thuật...”

Nhưng Harry không thích bị rầy la, nó muốn thảo luận chuyện mà nó vừa thấy.

“Hắn đã tìm được Gregorovitch, Hermione à, và mình nghĩ hắn vừa giết ông ta, nhưng trước khi giết ông ta hắn đã đọc tâm trí Gregorovitch và thấy...”

“Mình nghĩ mình sẽ lãnh gác thay cho bồ nếu bồ mệt đến nỗi ngủ gục,” Hermione lạnh lùng nói.

“Mình có thể gác hết phiên.”

“Không, bồ có vẻ kiệt quệ rồi. Đi vô nằm nghỉ đi.”

Cô nàng ngồi phịch xuống ngay cửa lều, tỏ ra kiên quyết. Tức tối, nhưng muốn tránh một cuộc cãi cọ, Harry lùi vô trong lều.

Gương mặt vẫn còn tái mét của Ron thò ra từ tầng dưới cái giường ngủ; Harry trèo lên cái giường tầng trên, nằm xuống và nhìn lên nóc lều tối thui. Một lát sau, Ron nói bằng giọng thật nhỏ để Hermione đang ngồi bó gối ở cửa lều không thể nghe được.

“Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó đang làm gì vậy?”

Harry chong mắt lên cố gắng nhớ mọi chi tiết, rồi thì thào trong bóng tối.

“Hắn đã tìm được Gregorovitch. Hắn trói gô ông ta và tra tấn ông ta.”

“Làm sao Gregorovitch chế ra được cây đũa phép cho hắn nếu bị trói gô?”

“Mình không biết... lạ thiệt, há?”

Harry nhắm mắt lại, nghĩ lại tất cả những gì nó vừa nghe và thấy. Càng cố nhớ lại sự việc càng vô lý... Voldemort không hề nói gì về cây đũa phép của Harry, không nói gì về hai cái lõi đũa sinh đôi, cũng không nói về chuyện Gregorovitch chế ra một cây đũa phép mới đầy sức mạnh để đánh bại cây đũa phép của Harry...

“Hắn muốn cái gì đó của Gregorovitch,” Harry nói, mắt vẫn còn nhắm chặt. “Hắn bảo ông ta đưa cho hắn, nhưng ông Gregorovitch nói ổng đã bị ăn cắp mất cái đó rồi... và rồi... rồi...”

Nó nhớ lại cách mà nó, tức là Voldemort, đã xộc vào mắt, vào ký ức của Gregorovitch...

“Hắn đã đọc đầu óc của Gregorovitch, và mình thấy một gã trẻ tuổi ngồi chồm hỗm trên bệ cửa sổ, gã phóng lời nguyền vào Gregorovitch rồi vọt đi mất. Gã đã ăn cắp cái đó, gã đã ăn cắp cái mà Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó đang tìm. Và mình... mình nghĩ mình đã từng thấy tên trộm đó ở đâu rồi...”

Harry ước gì nó có thể nhìn thoáng qua gương mặt tên trộm một lần nữa. Vụ trộm đã xảy ra lâu lắm rồi, theo ông Gregorovitch. Tại sao tên trộm trẻ tuổi đó lại có vẻ quen quen?”

Những tiếng động trong khu rừng chung quanh bị giảm âm bên trong căn lều; Harry chỉ còn nghe tiếng thở của Ron. Một lát sau, Ron thì thầm “Bồ có thấy tên trộm cầm cái gì không?”

“Không... chắc là một cái gì nhỏ thôi.”

“Harry à?”

Những giát giường bằng gỗ của cái giường Ron đang nằm nghiến kẽo kẹt khi nó xoay mình.

“Harry à, bồ có cho là Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó đang săn lùng cái gì đó để tạo ra một Trường Sinh Linh Giá nữa không?”

“Mình không biết,” Harry nói chậm rãi. “Có thể. Nhưng chẳng phải hắn sẽ gặp nguy hiểm nếu cố làm ra một cái khác nữa à? Chẳng phải Hermione nói là hắn đã đẩy linh hồn hắn tới giới hạn rồi à?”

“Ừ, nhưng có thể hắn không biết điều đó.”

“Ừ... có thể,” Harry nói.

Nó đã biết chắc chắn là Voldemort đang tìm cách giải quyết vấn đề của hai cái lõi đũa phép sinh đôi, nó biết chắc Voldemort đã tìm kiếm giải pháp ở người chế tạo đũa phép già... và đã giết ông ta, mà dường như không hề hỏi ông ta lấy một câu về kiến thức đũa phép.

Voldemort đang cố tìm cái gì? Tại sao với cả Bộ Pháp thuật và thế giới pháp thuật quy phục dưới chân mà hắn lại vẫn dong ruổi đường xa, cố tình đeo đuổi một món đồ mà Gregorovitch từng sở hữu và đã bị một tên trộm vô danh đánh cắp?

Harry vẫn còn có thể thấy gương mặt của chàng trai trẻ tóc vàng kim; gương mặt hí hửng, phóng túng; có một vẻ khoái trá bịp-được-người-ta hơi có phong cách Fred và George trên gương mặt đó. Anh ta đã từ bệ cửa sổ phóng vút đi như một con chim, và Harry đã từng thấy anh ta trước đây, nhưng nó không thể nào nghĩ ra ở nơi nào...

Với cái chết của Gregorovitch, giờ đây đến phiên tên trộm có gương mặt hí hửng bị lâm nguy, và suy nghĩ của Harry tập trung vào anh ta, khi tiếng ngáy của Ron bắt đầu vang lên khò khò ở tầng dưới của cái giường và khi chính Harry cũng thiếp dần vào giấc ngủ một lần nữa.

Chương Mười Lăm

Yêu tinh rửa hận

Sáng sớm hôm sau, trước khi hai đứa kia thức dậy, Harry đã rời khỏi lều, đi vô khu rừng bao quanh tụi nó để tìm một cây cổ thụ già nhất, lắm mấu cành nhất, và trông có vẻ kiên cường nhất.

Nơi đó, dưới bóng mát cây cổ thụ, nó chôn con mắt của thầy Moody Mắt Điên và đánh dấu nơi chôn bằng cách dùng đũa phép gọt đẽo một thập tự giá nho nhỏ bằng cành cây. Chẳng nhiều nhặn gì, nhưng Harry nghĩ thầy Mắt Điên thích con mắt được đối xử như vầy hơn là bị gắn trên cánh cửa của mụ Dolores Umbridge. Sau đó nó trở về lều để đợi hai đứa kia thức dậy, và bàn bạc coi việc sắp tới phải làm là gì.

Harry và Hermione đều cảm thấy tốt nhất là đừng ở đâu quá lâu, và Ron đồng ý, với điều kiện duy nhất là chỗ kế tiếp mà tụi nó dọn tới phải gần chỗ có bánh mì kẹp thịt. Vì vậy Hermione giải những bùa chú mà cô nàng đã ếm quanh khoảng đất trống, trong khi Harry và Ron xóa hết tất cả những dấu vết và lỗ đóng cọc trên mặt đất, những thứ có thể cho thấy tụi nó đã cắm trại tại đó. Sau đó tụi nó Độn thổ đến một vùng ngoại ô của một thị trấn nhỏ.

Khi mấy đứa đã dựng xong lều trong một chỗ tạm trú giữa một khu rừng trồng cây tạp, rồi bao bọc căn lều bằng những bùa chú bảo vệ mới ếm, Harry bèn phiêu lưu ra ngoài dưới tấm Áo khoác Tàng hình để kiếm chất bồi dưỡng. Tuy nhiên, chuyện này không suôn sẻ như dự định. Nó chưa kịp vô tới phố thì một cơn giá buốt bất thường, rồi một màn sương mù ập xuống, và bầu trời đột ngột tối sầm khiến nó đông cứng ngay tại chỗ.

“Nhưng bồ có thể gọi lên một Thần Hộ mệnh rực sáng kia mà!” Ron cự nự khi thấy Harry trở về lều với hai bàn tay không, thở hết nổi và miệng thều thào hai tiếng duy nhất: Giám ngục.

“Mình không... gọi lên được,” nó thở hổn hển, tay ấn chặt be sườn để làm dịu cơn đau xóc hông. “Không... hiện ra.”

Nét mặt kinh hoàng và thất vọng của hai đứa bạn khiến Harry cảm thấy xấu hổ. Thật là một việc tựa như ác mộng: nhìn thấy bọn Giám ngục lướt ra từ màn sương mù xa xa, và nhận ra, trong cơn lạnh đến tê liệt làm nghẹt buồng phổi cùng một tiếng thét từ xa ứ hết hai tai, rằng nó đã chẳng làm gì được để tự bảo vệ mình. Harry đã phải dùng tất cả sức mạnh của ý chí để tự nhổ bật mình ra khỏi chỗ đó và bỏ chạy, để mặc cho bọn Giám ngục không có mắt lướt giữa đám dân Muggle có lẽ không nhìn thấy chúng, nhưng chắc chắn cảm được nỗi tuyệt vọng mà chúng gieo rắc nơi nào chúng đi qua.

“Vậy là tụi mình vẫn không có gì ăn!”

“Im đi, Ron!” Hermione gắt. “Harry, có chuyện gì vậy? Theo bồ thì tại sao bồ không thể gọi được Thần Hộ mệnh của bồ? Ngày hôm qua bồ làm xuất sắc mà!”

“Mình không biết!”

Nó ngồi thụp xuống một trong mấy cái ghế bành cũ của ông Perkins, giờ đây lại càng cảm thấy nhục nhã hơn. Nó sợ là có cái gì đó bị trục trặc trong người nó. Ngày hôm qua dường như cách đây đã lâu lắm rồi: hôm nay có lẽ nó đã trở lại tuổi mười ba một lần nữa, trở thành đứa trẻ duy nhất gục ngã trên chuyến xe lửa tốc hành Hogwarts.

Ron đá một cái chân ghế.

“Sao?” Nó hầm hè với Hermione. “Tôi đang đói chết được! Từ khi tôi chảy máu gần chết tôi chỉ được ăn có mỗi hai cái nấm cứt cóc!”

“Vậy thì mày tự đi mà đánh nhau với bọn Giám ngục đi!” Harry sừng sộ nói.

“Tao đi ngay, nhưng mày không thấy tay tao còn đeo băng sao?”

“Càng tiện chứ sao!”

“Mày nói vậy nghĩa là...?”

“Dĩ nhiên rồi!” Hermione la lên, vỗ một bàn tay lên trán khiến cho cả hai đứa kia nín thinh. “Harry, đưa mình cái mặt dây chuyền! Đưa đây!” Cô bé sốt ruột, búng tay tanh tách về phía Harry khi nó không phản ứng. “Cái Trường Sinh Linh Giá, Harry, bồ đang đeo nó!”

Cô bé đưa cả hai tay ra, và Harry cởi sợi dây chuyền vòng qua đầu. Ngay khi cái mặt dây chuyền không còn tiếp xúc với da nó, Harry cảm thấy thảnh thơi và nhẹ nhõm một cách kỳ lạ. Nãy giờ nó thậm chí không nhận ra mình bị ướt hoặc có một khối nặng đang đè lên bao tử, chỉ đến khi cả hai cảm giác đó được cất đi.

“Khá hơn không?” Hermione hỏi.

“Ờ, khỏe hẳn ra!”

“Harry à,” Hermione nói, khom xuống trước mặt Harry và dùng cái giọng mà Harry tưởng như nói với người đang mắc bệnh trầm kha, “bồ có nghĩ là bồ bị ám không?”

“Cái gì? Không đâu!” Harry nói, vẻ chống chế. “Mình nhớ được mọi việc mình làm trong lúc vẫn đeo nó mà. Nếu bị ám thì mình đã không biết được mình làm chuyện gì, đúng không nào? Ginny nói với mình là có những lúc nó không nhớ được gì hết.”

“Chà,” Hermione nói, ngó xuống cái mặt dây chuyền nằng nặng. “Thôi được, có lẽ tụi mình không nên đeo nó. Tụi mình cứ để nó trong lều.”

“Tụi mình sẽ không để cái Trường Sinh Linh Giá đó nằm lung tung,” Harry kiên quyết nói. “Nếu tụi mình làm mất nó, nếu nó bị đánh cắp...”

“Ờ, thì thôi, được thôi,” Hermione nói, và cô bé đeo sợi dây chuyền lên cổ mình rồi nhét nó vô trong ngực áo sơ mi mất dạng. “Nhưng tụi mình sẽ thay phiên nhau đeo nó, để không ai giữ nó quá lâu.”

“Hay,” Ron nói, giọng cáu kỉnh. “Bây giờ vụ đó giải quyết xong rồi, làm ơn giải quyết tới vụ ăn uống.”

“Được, nhưng tụi mình sẽ đi chỗ khác kiếm đồ ăn,” Hermione vừa nói vừa liếc nửa cái qua Harry. “Chẳng có lý gì ở hoài cái chỗ mà mình biết là bọn Giám ngục đang vờn quanh.”

Cuối cùng tụi nó hạ trại nghỉ đêm ở một cánh đồng mênh mông thuộc về một trang trại hẻo lánh, và xoay sở kiếm được trứng với bánh mì từ trang trại đó.

“Đâu phải ăn cắp há?” Hermione băn khoăn hỏi khi tụi nó ăn ngấu nghiến món trứng chiên và bánh mì nướng. “Mình có để lại tiền trong chuồng gà thì đâu phải ăn cắp hả?”

Hai má phồng đồ ăn, Ron đảo tròn con mắt nói, “Ẹc mi ôn, bồ o ắng nhiều quá. Ư giãn nào!”

Và, thiệt tình thì dễ thư giãn hơn khi đã được ăn no thoải mái. Vụ cãi vã về bọn Giám ngục bị quên tuốt trong tiếng cười giòn đêm đó, và Harry cảm thấy phấn khởi, thậm chí tràn trề hy vọng, khi nó lãnh phiên đầu tiên trong ba phiên gác đêm.

Đây là lần đầu tiên tụi nó đụng đầu cái thực tế là có thực mới vực được đạo: bụng no thì tinh thần tốt, bụng trống không thì sanh cãi cọ và rầu rĩ. Harry là đứa ít ngạc nhiên nhất về chuyện này, bởi vì nó đã từng trải qua những thời kỳ gần chết đói ở nhà của dì dượng Dursley. Hermione cầm cự tương đối tốt qua mấy đêm mà tụi nó chẳng vơ vét được gì ngoài dâu dại và bánh mốc, tánh khí của cô nàng có lẽ hơi nóng nảy hơn bình thường một tí và sự chịu đựng có phần khắc khổ. Nhưng Ron, từ trước giờ đã quen ăn ba bữa ngon lành mỗi ngày, hoặc do má nấu hoặc do các gia tinh trường Hogwarts phục vụ, nên khi bị cơn đói hành thì đâm ra cáu kỉnh, không còn biết điều nữa. Nhằm lúc tới phiên phải đeo cái Trường Sinh Linh Giá mà lại thiếu ăn thì nó khó chịu không còn chỗ nói.

“Đi đâu tiếp?” Là điệp khúc triền miên của nó. Dường như nó chẳng tự có sáng kiến gì cả, chỉ trông cậy vào Harry và Hermione đề ra những kế hoạch, trong khi nó thì ngồi nghiền ngẫm về nỗi thiếu đói. Vì vậy Harry và Hermione cứ phải bỏ ra hàng tiếng đồng hồ vô ích tìm cách quyết định đi đâu để có thể tìm ra những Trường Sinh Linh Giá khác; những cuộc chuyện trò của tụi nó càng lúc càng trở nên lải nhải vì chẳng có thêm được thông tin gì mới.

Vì cụ Dumbledore từng nói với Harry là cụ tin Voldemort đã giấu những Trường Sinh Linh Giá ở những nơi quan trọng đối với hắn, nên tụi nó cứ nhẩm tới nhẩm lui, kiểu như đọc kinh cầu nguyện, những địa điểm mà tụi nó biết Voldemort đã từng sống hay từng thăm viếng. Cô nhi viện nơi hắn đã chào đời và được nuôi lớn, trường Hogwarts, nơi hắn được học hành; tiệm Borgin và Burks, nơi hắn làm việc sau khi ra trường, kế đến là Albania, nơi hắn lưu vong nhiều năm: những nơi này tạo thành cơ sở cho sự suy đoán của tụi nó.

“Ừ, tụi mình đi Albania đi. Chỉ cần một buổi trưa là đủ để sục sạo hết cả cái nước này,” Ron nói giọng chua chát.

“Không thể có cái gì ở đó. Hắn đã tạo xong năm cái Trường Sinh Linh Giá trước khi hắn lánh ra nước ngoài, và thầy Dumbledore thì chắc chắn con rắn là cái thứ sáu,” Hermione nói. “Tụi mình biết con rắn đâu có ở Albania, nó thường ở bên Vol...”

“Mình đã biểu bồ đừng nói cái tên đó mà!”

“Được! Con rắn thường ở bên Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy, vừa lòng chưa?”

“Chưa hoàn toàn.”

“Mình không thấy được hắn có giấu cái gì ở tiệm Borgin và Burkes,” Harry nói, nó đã đưa ra ý kiến này nhiều lần trước đó, nhưng nay lặp lại chỉ để phá vỡ sự im lặng khó chịu. “Mấy ông Borgin và Burke là chuyên viên về khí cụ Hắc ám, họ sẽ nhận ra một Trường Sinh Linh Giá ngay lập tức.”

Ron ngáp dài kiểu châm chọc. Ráng nhịn cơn sùng bố muốn chọi cái gì đó vào Ron, Harry cứ bàn tới, “Mình còn đoán là hắn có thể giấu cái gì đó ở trường Hogwarts.”

Hermione thở dài.

“Nhưng Harry ơi, nếu có thì thầy Dumbledore đã tìm ra nó rồi.”

Harry lặp lại cái lý lẽ mà nó cứ đưa ra hoài để bênh vực giả thuyết này.

“Thầy Dumbledore nói trước mặt mình là thầy không bao giờ cho là thầy biết hết mọi bí mật của trường Hogwarts. Mình cam đoan với mấy bồ, nếu có một chỗ nào mà Vol...”

“Ối!”

“Ừ thì KẺ-MÀ-AI-CŨNG-BIẾT-LÀ-AI-ĐÓ!” Harry quát lên, tức quá sức chịu đựng. “Nếu có một nơi thực sự quan trọng đối với Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó, thì nơi ấy chính là trường Hogwarts.”

“Ối, thôi đi,” Ron giễu cợt. “Trường của hắn ấy hả?”

“Ừ, trường của hắn! Đó là mái nhà thực sự đầu tiên của hắn, nơi hắn là kẻ đặc biệt, điều đó là tất cả đối với hắn, và ngay cả sau khi hắn rời...”

“Có phải tụi mình đang nói về Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó không? Hay là về bồ?” Ron hỏi gặng. Nó đang giật giật cái sợi dây có cái mặt dây chuyền đeo quanh cổ; Harry thoáng nổi cơn điên muốn chụp lấy sợi dây và bóp cổ Ron cho rồi.

“Bồ từng nói với tụi này Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó đã xin thầy Dumbledore một công việc sau khi ra trường,” Hermione nói.

“Đúng vậy,” Harry nói.

“Và thầy Dumbledore cho là hắn chỉ muốn trở lại để thử tìm cái gì đó, có thể là vật dụng của một người sáng lập khác của trường, để biến nó thành một cái Trường Sinh Linh Giá nữa?”

“Ừ,” Harry nói.

“Nhưng hắn đâu có được nhận về trường, đúng không?” Hermione nói. “Vậy là hắn đâu có cơ hội nào để tìm ra một vật dụng của người sáng lập ở đó rồi giấu nó trong trường!”

“Vậy thì, thôi,” Harry nói, đuối lý. “Bỏ qua trường Hogwarts.”

Không còn chỉ dẫn nào khác, tụi nó đi vào Luân Đôn, và trốn dưới tấm áo tàng hình, tụi nó đi tìm cô nhi viện, nơi mà Voldemort đã được nuôi dưỡng. Hermione lẻn vô một thư viện và phát hiện qua hồ sơ lưu của họ là cô nhi viện đã bị phá hủy từ nhiều năm trước. Tụi nó tới thăm địa điểm thì thấy một tòa cao ốc văn phòng.

“Tụi mình có thể thử đào xuống nền không?” Hermione đề nghị không được sốt sắng cho lắm.

“Hắn không thể giấu một cái Trường Sinh Linh Giá ở đây,” Harry nói. Nó biết ngay từ đầu. Cô nhi viện là nơi Voldemort đã rắp tâm trốn đi; hắn sẽ chẳng đời nào giấu một phần linh hồn hắn ở đó. Thầy Dumbledore đã chỉ cho Harry thấy Voldemort ưng tìm sự cao sang hay huyền bí cho nơi cất giấu linh hồn hắn; cái xó âm u này của Luân Đôn khác biệt quá sức tưởng tượng khi so với trường Hogwarts, Bộ Pháp thuật hay một tòa nhà cỡ nhà băng phù thủy Gringotts với cửa thếp vàng và sàn cẩm thạch.

Ngay cả khi không có ý tưởng mới nào, tụi nó vẫn tiếp tục đi khắp đất nước, mỗi đêm cắm lều ở một chỗ khác nhau vì lý do an ninh. Mỗi sáng tụi nó đều kiểm tra cho chắc là đã xóa hết mọi dấu vết về sự hiện diện của tụi nó, rồi lên đường tìm một nơi vắng vẻ hẻo lánh khác, Độn thổ qua những cánh rừng, những khe vực tăm tối giữa các vách đá, những đồng hoang tím ngắt, những sườn núi mọc đầy cây kim tước, và có lần Độn thổ cả vào một cái vịnh đầy sỏi được che chắn tốt. Cứ cỡ mười hai tiếng đồng hồ tụi nó lại chuyền tay nhau cái Trường Sinh Linh Giá như thể đang chơi trò chuyền-chuyền-trúng-chịu chậm thật chậm, lòng lo sợ bản nhạc sẽ dừng lại, vì phần thưởng sẽ là mười hai tiếng đồng hồ càng lúc càng lo âu và sợ hãi.

Cái thẹo của Harry vẫn nhức nhối. Nó để ý thấy cơn đau xảy ra thường nhất khi nó đeo cái Trường Sinh Linh Giá. Đôi khi không sao kìm mình được, nó phản ứng lại với cơn đau.

“Cái gì vậy? Bồ thấy cái gì vậy?” Ron gặng hỏi mỗi khi nhận thấy Harry nhăn nhó.

“Một gương mặt,” Harry thì thầm, lần nào cũng vậy, “Cùng một gương mặt. Tên trộm đã chôm đồ của Gregorovitch.”

Và Ron quay mặt đi, chẳng cần mất công giấu giếm nỗi thất vọng. Harry biết Ron đang hy vọng biết được tin tức về gia đình mình hay về những hội viên khác trong Hội Phượng Hoàng, nhưng xét cho cùng, nó, Harry đây, đâu phải là một cái ăng ten truyền hình; nó chỉ có thể thấy cái mà Voldemort đang nghĩ vào lúc đó, chứ không thể vặn qua đài khác theo ý thích. Có vẻ như Voldemort đang liên tục chăm chú vào gã thanh niên không rõ là ai, kẻ có gương mặt hí hửng mà tên họ và nơi ở Harry chắc chắn Voldemort cũng chẳng biết rành hơn nó. Mỗi khi cái thẹo của Harry tiếp tục rát bỏng và gã trai tóc vàng vui nhộn cứ lượn lờ trêu ngươi trong ký ức nó, Harry đã biết cách đè nén mọi dấu hiệu đau đớn hay khó chịu, bởi vì hai đứa kia chẳng bày tỏ chút cảm thông nào ngoài sự mất kiên nhẫn khi nghe nhắc đến tên trộm. Harry hoàn toàn không thể trách tụi nó khi mà tụi nó không còn hy vọng vào một hướng dẫn nào về những Trường Sinh Linh Giá.

Khi ngày kéo dài lê thê như thể cả tuần, Harry bắt đầu nghi Ron và Hermione có những cuộc chuyện trò sau lưng nó, và về nó. Nhiều lần hai đứa cùng đột ngột ngừng nói khi Harry bước vô lều, và đã hai lần nó tình cờ bắt gặp hai đứa rù rì bí mật ở xa xa, đầu kề nhau, nói rất nhanh; hai lần thì cả hai lần tụi nó đều nín khe khi nhận ra Harry đi tới gần, và vội vàng làm bộ lượm củi hay lấy nước.

Harry không thể không tự hỏi, phải chăng hai đứa kia đồng ý tham gia cuộc hành trình mà giờ đây có vẻ là một chuyến đi lang thang vô nghĩa chẳng qua vì tụi nó tưởng Harry có một kế hoạch bí mật gì đó mà đến đúng lúc thì tụi nó cũng sẽ được biết. Ron không cần cố gắng giấu giếm tâm trạng quạu quọ, và Harry lo rằng Hermione cũng thất vọng vì sự lãnh đạo kém cỏi của nó. Trong nỗi tuyệt vọng, nó cố gắng nghĩ đến những địa điểm cất giấu Trường Sinh Linh Giá xa hơn, nhưng duy nhất có một nơi cứ nảy ra trong đầu nó là trường Hogwarts, và vì cả hai đứa còn lại đều không nghĩ nơi đó có hứa hẹn gì cả, nó đành thôi không nói tới chốn đó nữa.

Tụi nó di chuyển cùng với mùa thu cuốn qua những miền quê. Lúc này cả bọn đang cắm lều trên thảm lá rụng. Sương mù tự nhiên hòa với sương mù do bọn Giám ngục tỏa ra; gió và mưa cộng thêm vô những khó khăn của tụi nó. Việc Hermione ngày càng giỏi nhận dạng nấm ăn được cũng không bù lấp nổi sự cô lập triền miên của tụi nó, sự thiếu vắng người chung quanh, sự mù tịt của tụi nó về những diễn biến của cuộc chiến chống lại Voldemort.

Một buổi tối, khi cả đám đang ngồi trong lều bên bờ một con sông ở xứ Wales, Ron nói: “Má mình có thể làm phép ra đồ ăn từ không khí.”

Nó rầu rĩ chọc chọc miếng cá xám đã cháy thành than trong dĩa đồ ăn của nó. Harry tự động liếc nhìn cổ Ron, và đúng như mong đợi, nó thấy lấp lánh sợi dây chuyền vàng của cái Trường Sinh Linh Giá. Harry tìm cách dập xuống cơn sôi gan muốn chửi vào mặt Ron, nó biết thái độ của Ron sẽ tiến bộ hơn một tí khi nào được cởi cái mặt dây chuyền kia ra.

“Má bồ không thể tạo ra đồ ăn từ không khí được,” Hermione nói. “Không ai có thể làm được. Đồ ăn đứng đầu danh sách năm Ngoại lệ Chủ yếu theo Luật Biến hóa Căn bản của Gamp...”

“Ôi, nói tiếng Anh giùm, được không?” Ron vừa nói vừa cạy một cái xương cá kẹt trong kẽ răng.

“Không thể nào từ không khí mà tạo ra đồ ăn ngon được! Mình có thể gọi đồ ăn đến nếu mình biết nó ở đâu, mình có thể biến đổi nó, gia tăng khối lượng nếu mình đã có sẵn...”

“Khỏi, đừng mất công gia tăng thêm món này, dở phát ói,” Ron nói.

“Harry bắt con cá và tôi đã cố gắng hết sức mình để chế biến nó! Tôi nhận thấy tôi rốt cuộc luôn là người nấu nướng, vì tôi là con gái, chắc vậy!”

“Không, đúng ra là vì cô được coi là người giỏi pháp thuật nhất!” Ron phản pháo.

Hermione nhảy dựng lên và mấy miếng vây cá cháy văng khỏi dĩa của cô nàng rớt xuống sàn.

“Bồ có thể nấu ăn ngày mai, Ron à, bồ có thể tìm nguyên liệu rồi phù phép chúng thành ra cái gì đó xứng đáng để ăn, và tôi sẽ ngồi đây và vênh mặt và than vãn và bồ sẽ thấy là bồ...”

“Im lặng!” Harry nói, đứng bật dậy giơ cả hai tay lên. “Im lặng ngay!”

Hermione tỏ vẻ bị tổn thương ghê gớm.

“Làm sao bồ lại có thể bênh nó, có mấy khi nó nấu nướng gì...”

“Hermione, im coi, mình nghe có tiếng ai đó!”

Nó đang chăm chú lắng nghe, hai tay vẫn còn giơ lên, ra dấu khuyên tụi nó đừng nói chuyện. Thế rồi, vọng từ bên kia dòng sông tăm tối đang cuồn cuộn chảy bên cạnh tụi nó, nó lại nghe có những tiếng nói. Nó ngoái lại nhìn cái Kiếng Mách lẻo. Cái kiếng chẳng hề nhúc nhích.

“Bồ đã ếm bùa Ù tai quanh tụi mình rồi chứ?” Nó thì thầm với Hermione.

“Mình đã làm mọi thứ,” cô nàng thì thầm trả lời. “Bùa Ù tai, Đuổi Muggle, và các bùa Tan Ảo Tưởng, tất cả. Họ không thể nghe hay thấy tụi mình, cho dù họ là ai.”

Tiếng lê lết nặng nề và tiếng cào sột soạt, cộng thêm tiếng sỏi đá và cành cây bị dời chỗ cho tụi nó biết là có nhiều người đang trèo xuống cái sườn dốc thẳng đứng mọc đầy cây to đổ xuống bờ sông hẹp chỗ tụi nó đang cắm lều. Tụi nó rút đũa phép ra, chờ đợi. Trong bóng tối gần như tuyệt đối, bùa phép tụi nó ếm chung quanh ắt là đủ hiệu lực để bảo vệ tụi nó khỏi sự chú ý của dân Muggle và những phù thủy cùng pháp sư thông thường. Nhưng nếu đó là bọn Tử Thần Thực Tử thì có lẽ sự phòng thủ của tụi nó sắp được pháp thuật Hắc ám thử thách lần đầu tiên.

Tiếng nói nghe lớn hơn nhưng không thể hiểu được khi nhóm người đầu tiên đến được bờ sông. Harry ước chừng chủ nhân những tiếng nói đó còn cách tụi nó khoảng sáu thước, nhưng dòng sông chảy như thác đổ ầm ầm khiến nó không thể nói chắc được. Hermione vớ cái túi hột cườm và bắt đầu lục lọi; một lát sau cô bé kéo ra ba cái Bành trướng nhĩ và liệng cho Ron cùng Harry mỗi đứa một cái, hai đứa này vội vàng nhét mấy sợi dây màu thịt tươi vô lỗ tai và thòng đầu dây kia ra khỏi cửa lều.

Chỉ vài giây sau Harry nghe một giọng đàn ông mệt mỏi.

“Chắc phải có vài con cá hồi ở đây, hay ông cho là chưa tới mùa cá? Cá hồi lại đây!”

Nhiều tiếng nước bắn tung tóe vang lên rồi tiếng cá quẫy đập trong tay người. Ai đó làu bàu thán phục. Harry ép cái Bành trướng nhĩ sâu hơn vô lỗ tai: nó có thể phân biệt được thêm nhiều tiếng nói khác ngoài tiếng rào rạt của dòng sông, nhưng bọn đó không nói tiếng Anh hay bất cứ tiếng người nào mà nó từng nghe. Giọng thô cục không êm tai, chỉ là một chuỗi rổn rảng phát ra từ yết hầu, và dường như có tới hai kẻ nói, một kẻ nói giọng hơi thấp, chậm hơn kẻ kia.

Một đốm lửa bừng sáng lên bên kia vách lều, những cái bóng to thù lù qua lại giữa ngọn lửa và căn lều. Mùi cá hồi nướng thơm phưng phức bay về phía tụi nó đầy khiêu khích. Kế đến là tiếng lanh canh của dao nĩa chạm vào chén dĩa, và người đầu tiên lại nói.

“Đây, Griphook, Gornuk.”

Yêu tinh! Hermione thì thầm với Harry, nó gật đầu.

“Cám ơn,” hai con yêu tinh giờ cùng nói bằng tiếng Anh.

“Vậy ba vị đã chạy trốn được bao lâu rồi?” Một giọng nói mới, nghe êm ái dễ chịu cất lên, Harry nghe quen quen một cách mơ hồ, nó hình dung người nói là một ông bụng tròn có gương mặt vui tươi.

“Sáu tuần... hay bảy... tôi quên rồi,” giọng của người đàn ông mệt mỏi. “Gặp Griphook trong hai ba ngày đầu và không lâu sau thì hợp sức với Gormuk. Có chút bầu bạn cũng hay.” Họ ngừng nói một lát, trong lúc dao quèn quẹt vét dĩa và những cái ca thiếc được bưng lên rồi đặt xuống trở lại trên nền đất. “Tại sao ông phải bỏ đi vậy, ông Ted?” Người đàn ông nói tiếp.

“Biết họ tới bắt tôi,” giọng êm ái của ông Ted trả lời, và Harry bỗng nhận ra ông ấy là ai: cha của cô Tonks. “Nghe nói bọn Tử Thần Thực Tử ở trong vùng này hồi tuần rồi và tôi quyết định là nên tránh mặt thì hơn. Vì những nguyên tắc đạo đức, tôi đã từ chối đăng ký phù thủy gốc Muggle, vậy thôi, cho nên tôi biết chỉ là vấn đề thời gian, trước sau gì rồi cuối cùng tôi cũng phải bỏ đi. Vợ tôi sẽ không sao, bà ấy thuần chủng. Và rồi tôi gặp cháu Dean ở đây, để coi, cách nay vài ngày hả cháu?”

“Dạ,” một giọng khác đáp, và Harry, Ron cùng Hermione trợn mắt nhìn nhau, im lặng nhưng quýnh cả lên vì hồi hộp, tụi nó chắc chắn đã nhận ra giọng của Dean Thomas, thằng bạn học của nhà Gryffindor.

“Phù thủy gốc Muggle hả?” Người đầu tiên hỏi.

“Không rõ,” Dean nói. “Ba cháu bỏ mẹ cháu hồi cháu còn nhỏ xíu. Dù sao thì cháu cũng chẳng có bằng chứng ông ấy là phù thủy.”

Lặng yên một lúc, chỉ còn vang lên tiếng nhai nhóp nhép; sau đó ông Ted lại nói.

“Tôi phải nói, ông Dirk à, tôi ngạc nhiên khi gặp ông đấy. Vui mừng, nhưng ngạc nhiên. Nghe đồn ông bị bắt rồi.”

“Đúng là tôi đã bị bắt,” ông Dirk nói. “Tôi bị giải đi được nửa đường đến nhà ngục Azkaban thì đánh trả tháo thân. Đánh choáng Dawlish và chôm cây chổi của hắn. Dễ hơn mình tưởng; tôi cho là bây giờ hắn cũng chưa tỉnh ra. Hình như bị ếm bùa Lú lẫn. Nếu vậy thì tôi muốn bắt tay ông bà phù thủy nào đã làm việc đó, có lẽ đã cứu mạng tôi.”

Lại một khoảng lặng trong lúc ngọn lửa reo tí tách và dòng sông rào rạt chảy. Rồi ông Ted nói. “Còn hai anh vì cớ gì mà bôn tẩu? Tôi... ơ... có cảm tưởng yêu tinh nói chung là ủng hộ Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó.”

“Ông có ấn tượng sai lầm rồi,” con yêu tinh có giọng cao nói. “Chúng tôi không theo phe nào cả. Đây là chiến tranh phù thủy.”

“Vậy thì sao anh lại chạy trốn?'

“Tôi cho rằng thế là khôn ngoan,” con yêu tinh có giọng trầm hơn nói. “Vì đã từ chối điều mà tôi coi là một đòi hỏi láo xược, tôi có thể thấy sự an toàn của cá nhân mình bị lâm nguy.”

“Họ đã yêu cầu anh làm gì?” Ông Ted hỏi.

“Những nhiệm vụ không-thích-hợp với đạo đức chủng tộc tôi,” con yêu tinh trả lời, khi nói vậy giọng y khô khốc hơn và ít tính người hơn. “Tôi không phải là một gia tinh.”

“Còn anh thì sao, ông Griphook?”

“Lý do tương tự,” con yêu tinh có giọng cao nói. “Gringotts không còn dưới quyền kiểm soát hoàn toàn của chủng tộc chúng tôi. Tôi không công nhận ông chủ phù thủy nào cả.”

Y lẩm bẩm nói thêm gì đó bằng kiểu nói trịnh trọng màu mè, và Gormuk phá ra cười.

“Chuyện tếu gì vậy?” Dean hỏi.

“Anh ta nói,” ông Dirk trả lời, “có những điều cả phù thủy cũng không nhận ra.”

Im lặng một lát.

“Cháu chẳng hiểu gì cả,” Dean nói.

“Trước khi bỏ đi tôi đã làm một cuộc phục thù nho nhỏ,” Griphook nói bằng tiếng Anh.

“Hảo hán... à, tôi phải gọi là hảo tinh mới phải,” ông Ted vội vàng nói chữa lại, “bộ anh tìm cách nhốt được tên Tử Thần Thực Tử nào vô một trong những cái hầm cổ lỗ sĩ cực kỳ an toàn rồi hả?”

“Nếu tôi có nhốt thì thanh gươm cũng không thể giúp hắn thoát ra,” Griphook trả lời. Gormuk lại cười phá lên và ngay cả ông Dirk cũng khụt khịt cười khan một tiếng.

“Ở đây vẫn có gì cái đó cháu Dean và tôi không hiểu lắm,” ông Ted nói.

“Severus Snape cũng vậy. Mặc dù hắn không biết vậy,” Griphook nói, và hai con yêu tinh lại rống lên cười đầy ác ý. Bên trong lều Harry thở gấp vì hồi hộp: nó và Hermione trợn mắt nhìn nhau, rồi ráng hết sức lắng nghe.

“Ông chưa nghe về vụ đó hả ông Ted?” Ông Dirk hỏi. “Vụ mấy đứa nhỏ tính đánh cắp thanh gươm ra khỏi văn phòng lão Snape ở trường Hogwarts ấy.”

Dường như có một dòng điện chạy khắp người Harry, giật tưng tưng mọi dây thần kinh của nó trong lúc nó đứng sững như trời trồng.

“Chưa nghe gì hết,” ông Ted nói. “Đâu có đăng trên tờ Tiên Tri hả?”

“Đời nào,” ông Dirk cười như nắc nẻ. “Griphook đây kể cho tôi nghe, anh ta nghe cậu Bill Weasley kể lại. Bill làm việc cho nhà băng Gringotts và có cô em gái út là một trong mấy đứa nhỏ đã tính ăn cắp thanh gươm đó.”

Harry liếc qua Hermione và Ron, cả hai đang nắm chặt cái Bành trướng nhĩ như bám vào dây đai an toàn.

“Cô bé và hai người bạn vô trong văn phòng lão Snape và đập bể một chân đế thủy tinh có vẻ là nơi lão ta cất giữ thanh gươm. Lão Snape bắt được tụi nó khi tụi nó đang lén đem thanh gươm xuống cầu thang.”

“Ôi, phước đức cho mấy đứa nhỏ,” ông Ted nói. “Tụi nó nghĩ sao chứ, bộ tụi nó có thể dùng thanh gươm mà diệt trừ Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó à? Hay diệt trừ chính lão Snape?”

“Ôi, bất kể tụi nó nghĩ tụi nó sẽ làm gì với thanh gươm đó, thì lão Snape vẫn cho là để thanh gươm ở chỗ cũ thì không an toàn,” ông Dirk nói. “Hai ngày sau, khi hắn đã được Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó bảo vậy, tôi đoán thế, hắn bèn đem nó đi Luân Đôn để gởi trong nhà băng Gringotts.”

Hai con yêu tinh lại phá ra cười nữa.

“Tôi vẫn chưa hiểu được chuyện này khôi hài ở chỗ nào?” Ông Ted nói.

“Đồ giả!” Griphook nói the thé.

“Thanh gươm của Gryffindor hả?”

“Ừ, đúng vậy. Chỉ là đồ nhái - đúng là một đồ nhái cừ khôi - nhưng cái đồ đó là hàng-chế-tạo-bởi-phù-thủy. Thanh gươm nguyên thủy được yêu tinh làm ra cách đây hàng trăm năm và mang những đặc tính mà chỉ khí cụ do yêu tinh chế tạo mới có. Thanh gươm thật của Gryffindor nằm ở đâu chứ chắc chắn không nằm trong hầm an toàn của nhà băng Gringotts.”

“Thì ra vậy,” ông Ted nói. “Và tôi đoán là anh chẳng hơi đâu mà nói cho tên Tử Thần Thực Tử ấy biết sự thật?”

“Tôi thấy chẳng có lý do gì phải khiến họ bận tâm vì thông tin đó,” Griphook ngạo nghễ nói, và giờ đây ông Ted và Dean cùng cười rộ lên với Gormuk và ông Dirk.

Bên trong lều, Harry nhắm mắt lại, cầu mong ai đó hỏi cái câu mà nó cần được trả lời, và sau một phút dường như dài bằng mười phút, Dean góp chuyện (Harry thót ruột nhớ ra anh chàng này cũng là bồ cũ của Ginny).

“Chuyện gì xảy ra cho Ginny và mấy đứa kia? Mấy đứa tính đánh cắp thanh gươm ấy?”

“À, tụi nó bị trừng phạt, một cách tàn bạo,” Griphook dửng dưng nói.

“Nhưng tụi nó không sao chứ?” Ông Ted hỏi ngay. “Ý tôi là, gia đình Weasley đâu cần có thêm đứa con nào nữa bị thương tật, phải không?”

“Tụi nó bị thương không trầm trọng lắm, theo như tôi biết,” Griphook nói.

“May cho tụi nó,” ông Ted nói. “Với thành tích trong quá khứ của Snape, tôi cho là tụi nó còn sống là đáng mừng rồi.”

“Vậy là ông tin câu chuyện đó, hả ông Ted?” Ông Dirk hỏi. “Ông tin Snape giết cụ Dumbledore à?”

“Dĩ nhiên là tôi tin,” ông Ted nói. “Ông sẽ không ngồi đó mà nói với tôi là ông nghĩ Potter có dính dáng vô chuyện đó đấy chứ?”

“Những ngày này khó mà biết là nên tin cái gì,” ông Dirk lẩm bẩm.

“Cháu biết Harry Potter,” Dean nói. “Và cháu đoán nó là kẻ đó thật - Kẻ Được Chọn, hay kẻ gì đó tùy các bác gọi.”

“Ừ, có rất nhiều người muốn tin nó là kẻ đó, cháu à.” Ông Dirk nói. “Kể cả tôi. Nhưng bây giờ nó ở đâu? Đào tẩu rồi, bề ngoài có vẻ vậy. Mấy người nghĩ coi, nếu nó biết điều gì đó mà chúng ta không biết, hay có tài năng gì đặc biệt đánh được tên kia, thì nó nên công khai chiến đấu, tập hợp lực lượng kháng chiến đi chứ, thay vì trốn chui trốn nhủi. Và quý vị có biết, tờ Tiên Tri đã đưa ra khá nhiều chứng cớ chống lại nó...”

“Tờ Tiên Tri hả?” Ông Ted giễu cợt. “Ông đáng bị xỏ mũi nếu ông vẫn còn đọc đồ rác rưởi đó, ông Dirk à. Ông muốn sự thật thì cứ thử đọc tờ Kẻ Lý Sự.”

Đột nhiên nổ ra một tràng những tiếng nghẹn họng, tiếng khạc nhổ, rồi thêm vào rất nhiều tiếng thụi bịch bịch; căn cứ vào âm thanh thì ông Dirk đã nuốt phải một cái xương cá. Cuối cùng ông phun ra phèo phèo, “Kẻ Lý Sự hả? Cái đồ giẻ rách khùng điên của tay Xeno Lovegood hả?”

“Dạo này tờ báo không đến nỗi khùng lắm đâu,” ông Ted nói. “Ông nên đọc qua một cái. Ông Xeno in tất cả những thứ mà tờ Tiên Tri bỏ qua, trong số báo mới nhất không còn đá động gì tới mấy con Khụt khịt Sừng nát nữa. Để coi, tôi không biết chúng sẽ để cho ổng đứng được bao lâu nữa. Nhưng ông Xeno vẫn nói, trên trang đầu mỗi số, rằng bất cứ phù thủy nào chống lại Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy nên coi việc giúp đỡ Harry Potter là ưu tiên số một.”

“Coi bộ khó mà giúp một thằng nhóc đã biến khỏi mặt đất,” ông Dirk nói.

“Nghe đây, nội cái chuyện cậu ta không để cho chúng bắt được cũng đáng kể là thành tích vĩ đại rồi,” ông Ted nói. “Tôi vui vẻ làm theo mách bảo của cậu ấy đấy. Đó là điều mà chúng ta đang làm đây, giữ cho được tự do, đúng chưa nào?”

“Ừ há, anh có lý chỗ đó.” Ông Dirk nặng nhọc nói “Với toàn thể nhân viên Bộ và cả bầy chỉ điểm của chúng đang lùng kiếm nó, tôi e lúc này nó đã bị bắt. Nghĩ coi, biết đâu họ đã chẳng bắt được nó và giết nó rồi mà không cần công bố?”

“Ôi, đừng nói vậy chớ, ông Dirk,” ông Ted cằn nhằn.

Tiếng trò chuyện tạm ngừng một lúc lâu, chỉ còn vang lên tiếng dao nĩa khua lách cách. Khi lại tiếp tục câu chuyện thì họ chỉ bàn về việc nên ngủ cạnh bờ sông hay lùi lên triền dốc có rừng cây. Sau khi quyết định là cây sẽ che chắn tốt hơn, họ dập tắt lửa, rồi trèo lên dốc, tiếng nói của họ xa dần.

Harry, Ron và Hermione cuộn lại mấy cái Bành trướng nhĩ. Harry, lúc nãy thấy nghe lóm càng lâu thì càng khó giữ im lặng, bây giờ lại tự thấy không thể nói gì thêm nữa. “Ginny... thanh gươm...”

“Mình biết!” Hermione nói.

Cô bé nhào tới cái túi xách bằng hột cườm, lần này thọc cánh tay vào túi xách sâu đến tận nách.

“Đây... rồi...” cô bé nói rít qua kẽ răng, và lôi ra cái gì đó rõ ràng là ở tận dưới đáy túi. Dần dần cạnh của một cái khung tranh được trang trí công phu lộ ra. Harry vội tới giúp một tay. Khi hai đứa nó đem được bức chân dung trống trơn của cụ Phineas Nigellus ra khỏi cái túi của Hermione, cô bé chĩa cây đũa phép vào bức tranh, sẵn sàng ếm bùa bất cứ lúc nào.

“Nếu có ai đó đánh tráo thanh gươm thật bằng thanh gươm giả khi thanh gươm để trong văn phòng thầy Dumbledore,” cô nàng thở hổn hển khi hai đứa hè nhau dựng bức tranh vào vách lều, “thì cụ Phineas Nigellus ắt hẳn phải thấy lúc chuyện xảy ra, cụ được treo ngay kế bên hộp đựng gươm mà!”

“Trừ khi cụ ngủ,” Harry nói, nhưng nó vẫn nín thở khi Hermione quỳ xuống trước bức tranh sơn dầu trống trơn, cây đũa phép của cô bé chĩa vào ngay chính giữa bức tranh, đằng hắng rồi nói:

“Ơ... cụ Phineas? Cụ Phineas Nigellus ơi.”

Không thấy gì xảy ra.

“Cụ Phineas Nigellus à?” Hermione gọi một lần nữa. “Thưa giáo sư Black? Xin thầy vui lòng, chúng con có thể thưa chuyện với thầy không? Xin thầy làm ơn?”

“Hai tiếng 'làm ơn' luôn được việc,” một giọng lạnh lùng, cạnh khóe vang lên, và cụ Phineas Nigellus nhẹ nhàng nhập vào bức chân dung cụ. Ngay lập tức, Hermione la lên:

“Bịt mắt!”

Một dải bịt mắt màu đen hiện ra che đôi mắt đen sắc sảo của cụ Phineas Nigellus khiến cụ đụng đầu phải khung tranh và thét lên vì đau đớn.

“Cái gì... sao dám... các người...?”

“Dạ, con rất tiếc, thưa giáo sư Black,” Hermione nói, “nhưng đây là sự thận trọng cần thiết!”

“Gỡ cái đồ thêm thắt hôi hám này ra ngay! Ta bảo, gỡ ra! Tụi bây đang làm hư một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại! Ta đang ở đâu? Chuyện gì đang xảy ra hả?”

“Thầy khỏi bận tâm chúng ta đang ở đâu,” Harry nói, và cụ Phineas Nigellus ngây ra, từ bỏ nỗ lực tháo gỡ cái bịt mắt vẽ trên mặt cụ.

“Có thể nào đó là giọng nói của cậu Potter ưa lẩn tránh?”

“Có thể lắm,” Harry nói, biết là điều đó sẽ khiến cụ Phineas Nigellus hứng thú. “Tụi con có hai câu muốn hỏi thầy... về thanh gươm của Gryffindor.”

“À,” cụ Phineas Nigellus nói, lúc này cụ đang xoay đầu qua xoay đầu lại cố gắng thấy cho được Harry. “Phải. Con bé ngu ngốc hành động hết sức thiếu khôn ngoan ở đó...”

“Đừng nói động tới em gái tôi!” Ron nói giọng cộc cằn. Cụ Phineas Nigellus nhướn đôi chân mày khinh khỉnh.

“Ai nữa đó?” Cụ hỏi, quay đầu từ bên này qua bên kia. “Giọng của trò khiến ta không hài lòng! Con bé và bạn nó đã cực kỳ liều lĩnh. Trộm cắp của hiệu trưởng.”

“Tụi nó đâu có trộm cắp,” Harry nói. “Thanh gươm đâu phải của lão Snape.”

“Thanh gươm thuộc về ngôi trường của giáo sư Snape,” cụ Phineas Nigellus nói. “Chính đáng ra thì con bé Weasley đó có quyền gì đối với thanh gươm? Nó đáng bị trừng phạt, cũng như thằng ngốc Longbottom và con khùng Lovegood!”

“Neville không phải thằng ngốc và Luna không phải con khùng!” Hermione nói.

“Ta đang ở đâu đây?” Cụ Phineas Nigellus lại hỏi, lại bắt đầu vật lộn với cái dải bịt mắt. “Các trò đã đem ta đến đâu đây? Tại sao các trò lại dọn ta ra khỏi nhà của tổ tiên ta?”

“Thầy đừng để ý chuyện đó! Lão Snape trừng phạt Ginny, Neville, và Luna như thế nào?” Harry khẩn khoản hỏi.

“Giáo sư Snape phái chúng vô Rừng Cấm, làm việc gì đó cho lão hậu đậu Hagrid.”

“Bác Hagrid không phải là kẻ hậu đậu,” Hermione rít lên.

“Và lão Snape chắc tưởng thế là trừng phạt,” Harry nói, “nhưng Ginny, Neville và Luna có lẽ được một bữa cười no với bác Hagrid. Khu Rừng Cấm... Tụi nó từng đương đầu nhiều thứ còn tệ hơn Rừng Cấm nữa kìa, nhằm nhò gì!”

Nó cảm thấy nhẹ nhõm hẳn; nó đã tưởng tượng ra những điều khủng khiếp, nhẹ nhất cũng là bị Lời nguyền Tra tấn.

“Thưa giáo sư Black, điều mà tụi con thiệt tình muốn biết là liệu có ai đó, ơ, từng lấy thanh gươm ra không? Có thể người ta lấy nó ra để lau chùi... hay làm gì đó!”

Cụ Phineas Nigellus lại tạm ngừng giữa chừng cuộc vật lộn để giải phóng đôi mắt và cười khẩy.

“Cái đồ gốc Muggle,” cụ nói. “Khí giới do yêu tinh chế tạo không cần lau chùi, con ngây ngô à. Bạc của yêu tinh kháng lại bụi bặm tầm thường, chỉ hấp thu điều gì làm nó sắc bén thêm.”

“Đừng gọi Hermione là con ngây ngô,” Harry nói.

“Ta phát mệt vì bị cãi hoài,” cụ Phineas Nigellus nói. “Có lẽ đã tới lúc ta trở về văn phòng hiệu trưởng được rồi chứ?”

Vẫn bị bịt mắt, cụ lại đụng đầu vô khung tranh khi cố tìm đường ra khỏi bức tranh của cụ để trở về bức tranh ở trường Hogwarts. Harry bỗng nảy ra một ý bất ngờ.

“Thầy Dumbledore! Thầy có thể đưa thầy Dumbledore đến gặp tụi con không?”

“Làm ơn nói lại coi!” Cụ Phineas Nigellus hỏi.

“Chân dung của giáo sư Dumbledore... thầy có thể đưa thầy Dumbledore cùng về đây, trong bức tranh này của thầy không?”

Cụ Phineas Nigellus xoay mặt về hướng phát ra giọng nói của Harry.

“Potter à, rõ ràng là không phải chỉ bọn phù thủy gốc Muggle mới dốt nát. Những bức chân dung ở trường Hogwarts có thể thông tin với nhau, nhưng họ không thể đi lung tung ra ngoài lâu đài trừ khi đi thăm chính bức tranh vẽ mình ở đâu đó. Cụ Dumbledore không thể đến đây cùng với ta, và sau sự đối đãi mà ta nhận được từ tay các trò, ta có thể cam đoan với các trò là ta sẽ không bao giờ trở lại nữa đâu!”

Harry hơi tiu nghỉu nhìn cụ Phineas Nigellus đang nỗ lực gấp đôi để rời khỏi khung tranh.

“Thưa giáo sư Black,” Hermione nói, “Thầy làm ơn nói cho tụi con biết lần cuối cùng thanh gươm được lấy ra khỏi chân đế là khi nào? Ý con là trước khi Ginny lấy nó ấy?”

Cụ Phineas khịt mũi sốt ruột.

“Ta tin rằng lần cuối cùng ta thấy thanh gươm của Gryffindor rời khỏi chân đế là khi giáo sư Dumbledore dùng nó để nạy một cái nhẫn.”

Hermione quay phắt lại nhìn Harry. Cả hai đều không dám nói thêm gì trước mặt cụ Phineas Nigellus, rốt cuộc cụ đã xác định được lối ra.

“Thôi, chúc các trò ngủ ngon,” cụ nói, hơi châm chọc, và lại bắt đầu biến mất dần. Khi chỉ còn thấy vành nón của cụ, Harry bỗng hét lớn.

“Khoan! Cụ có nói với lão Snape là cụ đã thấy chuyện đó chưa?”

Cụ Phineas Nigellus thò cái đầu bị bịt mắt trở vô bức tranh.

“Giáo sư Snape có nhiều chuyện quan trọng để lo nghĩ hơn là những trò lập dị hơi bị nhiều của cụ Dumbledore. Chào nghe, Potter!”

Và dứt lời, cụ biến mất hoàn toàn, chẳng để lại dấu vết gì ngoài cái nền vải tối thui.

“Harry!” Hermione kêu lên.

“Mình biết!” Harry hét. Không tự dằn lòng được, nó vung tay đấm vào không khí; thông tin này đáng giá hơn cả những gì nó dám hy vọng. Nó sải bước đi qua đi lại trong lều, cảm thấy nó có thể chạy cả một dặm; thậm chí không còn cảm thấy đói nữa. Hermione đang nhét bức tranh của cụ Phineas Nigellus trở vào cái túi xách hột cườm. Khi đã cài khóa xong, cô bé liệng cái túi qua một bên và ngước gương mặt sáng rỡ lên nhìn Harry.

“Thanh gươm có thể tiêu diệt Trường Sinh Linh Giá! Lưỡi gươm do yêu tinh chế tạo chỉ hấp thu cái gì làm cho nó mạnh thêm lên - Harry à, thanh gươm đó đã nhiễm nọc độc rắn thần!”

“Và thầy Dumbledore đã không đưa nó cho mình vì thầy còn cần đến nó, thầy muốn dùng nó để diệt cái mặt dây chuyền...”

“... Và ắt là thầy biết họ sẽ không để cho bồ nhận thanh gươm nếu thầy ghi nó trong di chúc...”

“... vì vậy thầy đã làm một mẫu nhái y chang...”

“... và đặt thanh gươm giả trên cái chân đế thủy tinh...”

“... và thầy cất thanh gươm thật... ở đâu?”

Tụi nó đăm đăm nhìn vào mắt nhau và Harry cảm thấy câu trả lời lơ lửng vô hình trong không gian trên đầu tụi nó, gần đến mức ứa gan. Tại sao cụ Dumbledore không nói cho nó biết? Hay thật ra cụ đã nói với Harry, nhưng vào lúc đó Harry đã chẳng hiểu ra.

“Suy nghĩ coi!” Hermione thì thầm. “Suy nghĩ đi! Thầy có thể để nó ở đâu?”

“Không ở trong trường Hogwarts,” Harry nói, lại bước tiếp.

“Đâu đó ở làng Hogsmead?” Hermione đưa ra giả thuyết.

“Trong Lều Thét chăng?” Harry nói. “Không ai vô trong đó hết.”

“Nhưng thầy Snape biết cách vô trong đó, như vậy chẳng phải là hơi liều lĩnh sao?”

“Cụ Dumbledore tin lão Snape mà!” Harry nhắc cô bé.

“Nhưng không đủ tin để nói với thầy là cụ đã đánh tráo thanh gươm,” Hermione nói.

“Ừ, bồ nói đúng!” Harry nói, và nó còn cảm thấy phấn khởi hơn khi nghĩ rằng cụ Dumbledore vẫn có những hạn chế, tuy mong manh, trong sự tin cậy lão Snape. “Vậy thì, liệu thầy có giấu thanh gươm ở nơi nào đó rất xa làng Hogsmead không? Bồ thấy sao, Ron? Ron à?”

Harry nhìn quanh. Trong một thoáng ngơ ngác Harry tưởng Ron đã bỏ ra khỏi lều, rồi chợt nhận ra Ron đang nằm dài trong bóng tối của cái giường hai tầng, coi bộ lạnh lùng chai đá.

“Ủa, mấy người nhớ ra tôi rồi à?” Ron nói.

“Cái gì?”

Ron khụt khịt mũi trong khi vẫn ngó trừng trừng cái gầm của tầng giường trên.

“Hai người cứ tiếp tục. Đừng để tôi làm cụt hứng.”

Không biết nói sao, Harry nhìn Hermione cầu cứu, nhưng cô bé lắc đầu, dường như cũng giống Harry, chẳng biết xử lý tình huống này ra sao nữa.

“Có chuyện gì chứ?” Harry hỏi.

“Chuyện gì? Chẳng có chuyện gì hết,” Ron nói, vẫn không chịu nhìn Harry. “Nếu xét theo bồ thì dù thế nào đi nữa làm gì có chuyện gì.”

Nhiều tiếng tưng tưng dội trên tấm vải căng lều ngay trên đầu tụi nó. Trời bắt đầu mưa.

“Chà, bồ rõ ràng là có chuyện gì đó,” Harry nói. “Bồ có chịu khạc ra không?”

Ron quăng cặp giò ra khỏi giường và ngồi dậy. Ngó mặt nó khổ não, chẳng giống chính nó chút nào.

“Được thôi, tôi khạc ra đây. Đừng có mong tôi nhổ lều lên nhổ lều xuống chỉ vì còn mấy món khỉ gió gì gì nữa chúng ta phải tìm kiếm. Chỉ cần thêm nó vô cái danh sách những thứ bồ không biết.”

“Mình không biết á?” Harry lặp lại. “Mình không biết sao?”

Tưng, tưng, tưng. Mưa rơi lớn hơn và nặng hột hơn, mưa lộp độp quanh tụi nó, trên bờ sông trải đầy lá rụng, mưa rơi xuống dòng sông róc rách chảy xuyên bóng đêm. Nỗi sợ đã dập tắt niềm hân hoan của Harry. Ron đang nói đúng chóc cái điều nó vẫn nghi ngờ, cái điều đã khiến nó sợ không dám nghĩ tới.

“Không hẳn là tôi không có những lúc vui vẻ ở đây,” Ron nói, “mấy bồ biết đó, với cánh tay đeo băng và không có gì để ăn rồi đêm đêm lạnh cứng cả lưng. Tôi chỉ hy vọng, mấy bồ hiểu cho, là sau khi đã chạy lòng vòng mấy tuần lễ thì tụi mình phải đạt được cái gì đó chứ.”

“Ron”, Hermione nói, nhưng bằng một giọng nhỏ đến nỗi Ron giả đò như không nghe thấy vì tiếng mưa rầm rầm như tiếng trống nện trên nóc lều.

“Mình tưởng bồ hiểu bồ tham gia để làm gì.”

“Ừ, tôi cũng tưởng đâu tôi hiểu chớ.”

“Vậy thì có điều gì trong chuyện này không đúng như kỳ vọng của bồ?” Harry hỏi. Cơn giận đang ngấm vô lời cãi của nó. “Bồ tưởng là tụi mình sẽ ở khách sạn năm sao chắc? Cách ngày lại kiếm ra một cái Trường Sinh Linh Giá chắc? Bồ tưởng tới lễ Giáng Sinh thì sẽ về với má hả?”

“Tụi này tưởng bồ biết việc bồ đang làm!” Ron đứng dậy hét vang, và lời của nó không khác gì những lưỡi dao nung đâm vào Harry. “Tụi này tưởng thầy Dumbledore đã nói cho bồ biết phải làm gì, tụi này tưởng đâu bồ có một kế hoạch thật sự!”

“Ron!” Hermione nói, lần này đã nghe được rõ ràng trong tiếng mưa ầm ầm trên mái lều, nhưng một lần nữa, Ron phớt lờ cô bé.

“À, xin lỗi đã khiến bồ thất vọng,” Harry nói, giọng nó khá bình tĩnh cho dù nó cảm thấy rỗng tuếch, không thỏa đáng. “Mình đã nói thẳng với bồ ngay từ lúc đầu. Mình đã nói với mấy bồ tất cả những gì thầy Dumbledore nói với mình. Và trong trường hợp bồ chưa ghi nhận, thì mình nhắc là tụi mình đã tìm được một cái Trường Sinh Linh Giá...”

“Đúng, và tụi mình tìm cách diệt nó cũng khốn khổ không kém gì tìm kiếm những cái còn lại - nói cách khác, không có kẽ thoát!”

“Cởi cái mặt dây chuyền ra đi, Ron,” Hermione nói, giọng cô bé cao lên một cách bất thường. “Làm ơn cởi nó ra. Bồ sẽ không nói năng như vậy nếu bồ không đeo cái đó suốt cả ngày.”

“Chà, nó cũng sẽ nói vậy thôi,” Harry nói, nó không muốn Ron vin vào cái cớ nào cả. “Bồ tưởng là mình không để ý hai bồ thì thầm sau lưng mình hả? Bồ tưởng mình không đoán được mấy bồ nghĩ sao về chuyện này hả?”

“Harry à, tụi này đâu có...”

“Đừng nói láo!” Ron sấn tới cô nàng. “Cô cũng nói thế, cô đã nói cô thất vọng, cô đã nói cô tưởng nó còn có thêm gì đó nữa để tiếp tục...”

“Mình không nói cái kiểu đó... Harry, mình không hề!” Hermione bật khóc.

Mưa dội ầm ầm xuống căn lều, nước mắt tuôn xuống gương mặt Hermione, và cơn kích động trước đó vài phút biến mất như thể chưa từng xảy ra, như một cái pháo hoa đã bùng tỏa ra rồi tắt ngấm, để lại mọi thứ tối tăm, ẩm ướt, và lạnh lẽo. Thanh gươm của Gryffindor cất ở đâu tụi nó không biết, và tụi nó là ba thiếu niên mười mấy tuổi ngồi trong một cái lều, với thành tích duy nhất là không chết, hay chưa chết.

“Vậy tại sao bồ còn ở đây?” Harry hỏi Ron.

“Biết chết liền.”

“Vậy thì về nhà đi.”

“Được, chắc tao sẽ về thôi!” Ron hét, và nó sấn mấy bước về phía Harry, Harry không lùi lại. “Mày không nghe họ nói gì về em gái tao hả? Vậy mà mày có thèm lý tới mảy may nào đâu, có không, chỉ là Rừng Cấm thôi mà, Harry Potter tôi-từng-đương-đầu-còn-tệ-hơn cóc cần quan tâm chuyện gì xảy ra cho con bé ở trong đó, phải, nhưng tao thì quan tâm, phải, mấy con nhện khổng lồ và cái đồ khùng...”

“Mình chỉ nói là... Ginny và mấy đứa kia, tụi nó có bác Hagrid bên cạnh...”

“Được, tao hiểu, mày đâu thèm quan tâm! Nhưng những người còn lại trong gia đình tao thì sao, 'gia đình Weasley đâu cần có thêm một đứa con thương tật nữa', mày không nghe hả?”

“Có, mình...”

“Nhưng không mất công tìm hiểu ý nghĩa chứ gì?”

“Ron!” Hermione nói, chen vô giữa hai đứa nó. “Mình không nghĩ như thế có nghĩa là lại mới có chuyện gì xảy ra thêm, chuyện gì đó mà tụi mình không biết; nghĩ đi Ron, anh Bill đã có thẹo rồi, bây giờ nhiều người ắt cũng đã thấy anh George sứt tai, và bồ thì bị coi là nằm trên giường hấp hối vì bệnh đậu rồng, mình chắc là ông ấy chỉ muốn nói...”

“A, mấy người chắc thế hả? Vậy thôi, được rồi, tôi sẽ chẳng việc gì phải rộn lên vì đám kia nữa. Mấy người thì có bị ảnh hưởng gì đâu, há, ba má mấy người thì đã an toàn cao bay xa chạy...”

“Ba má tôi chết rồi!” Harry rống lên.

“Còn ba má tao thì sắp có cùng số phận đó!” Ron gào lên.

“Vậy thì ĐI!” Harry gầm lên. “Đi về với ba má, giả đò như mày vừa hết bệnh đậu rồng và má sẽ cho mày ăn ứ họng và...”

Ron làm một động tác đột ngột: Harry phản ứng ngay, nhưng đũa phép của hai đứa nó chưa kịp rút ra khỏi túi áo thì Hermione đã giơ cây đũa phép của cô bé lên.

“Che chắn!” Cô bé hô lên, và một tấm chắn vô hình mở rộng giữa một bên là Harry và Hermione với bên kia là Ron, tất cả ba đứa nó đều bị quyền lực của thần chú đẩy lùi vài bước, và Harry với Ron trừng mắt ngó nhau từ hai bên bức rào cản trong suốt như thể tụi nó đang nhìn rõ mặt nhau lần đầu tiên trong đời. Harry cảm thấy một nỗi căm ghét như tàn phá dành cho Ron: có cái gì đó đã vỡ tan giữa hai đứa nó.

“Để lại cái Trường Sinh Linh Giá,” Harry nói.

Ron kéo sợi dây chuyền vòng qua khỏi đầu và liệng cái mặt dây chuyền xuống một cái ghế gần đó. Nó quay lại Hermione.

“Cô sẽ làm gì?”

“Bồ muốn nói gì?”

“Cô ở lại, hay sao?”

“Mình...” Hermione tỏ vẻ khổ sở. “Ừ... ừ, mình ở lại. Ron, tụi mình đã nói là tụi mình sẽ đi với Harry, tụi mình nói tụi mình sẽ giúp...”

“Tôi hiểu rồi. Cô chọn nó.”

“Ron, đừng... xin bồ... trở lại, trở lại đi!”

Cô bé bị chính bùa Che chắn của mình chặn lại; khi giải được bùa xong thì Ron đã đùng đùng bỏ đi vào bóng đêm. Harry đứng ngay đơ và nín thinh, lắng nghe tiếng Hermione khóc nức nở và gọi tên Ron giữa rừng cây.

Vài phút sau Hermione trở lại, mái tóc ướt mem của cô bé dính bết đầy mặt.

“Ron đ... đ... đi rồi! Độn thổ!”

Cô bé tự quăng mình xuống một cái ghế, co chân thu mình lại, và bắt đầu khóc.

Harry bàng hoàng. Nó cúi xuống, lượm cái Trường Sinh Linh Giá lên, và tròng vô cổ. Nó kéo mấy tấm mền trên giường của Ron và quăng đống mền lên Hermione. Rồi nó trèo lên giường của nó và nằm đó mà trừng mắt ngó nóc lều, lắng nghe tiếng mưa tuôn ào ào.

Chương Mười Sáu

Thung lũng Godric

Khi Harry thức dậy vào ngày hôm sau, nó mất vài giây định thần rồi mới nhớ lại được chuyện gì đã xảy ra. Rồi nó hy vọng một cách trẻ con, rằng đó chẳng qua chỉ là một giấc mơ, rằng Ron vẫn còn đó chứ không hề bỏ đi. Nhưng khi xoay đầu trên cái gối, nó thấy cái giường trống không của Ron.

Cái giường có vẻ như hút lấy ánh mắt nó bằng sức hút của một xác chết. Harry nhảy ra khỏi giường của mình, cố tránh nhìn vào giường của Ron. Hermione, nãy giờ bận bịu trong bếp, đã không chúc Harry một buổi sáng tốt lành, mà còn quay mặt đi nhanh khi nó đi ngang.

Nó đi rồi, Harry tự nhủ. Nó đi rồi. Harry cứ nghĩ hoài điều đó khi rửa mặt và thay quần áo như thể sự lặp đi lặp lại sẽ làm nguôi ngoai nỗi đau về chuyện đó. Nó đi rồi và sẽ không trở lại. Và đây là một chân lý giản đơn, Harry biết thế, bởi vì bùa phép bảo vệ sẽ khiến cho Ron không thể nào tìm lại được tụi nó một khi tụi nó dời khỏi chỗ này.

Harry và Hermione ăn điểm tâm trong im lặng. Mắt của Hermione vẫn còn sưng húp và đỏ hoe; trông cô bé có vẻ như đã thức trắng đêm qua. Tụi nó gói ghém đồ đạc; Hermione lần khân. Harry biết tại sao cô bé muốn câu giờ trên bờ sông này; nhiều lần nó thấy Hermione ngước nhìn lên tha thiết, và nó biết chắc cô bé đang tự đánh lừa mình khi tưởng rằng nghe thấy tiếng bước chân trong mưa tầm tã, nhưng rồi không có cái đầu tóc đỏ nào xuất hiện giữa rừng cây. Mỗi lần Harry bắt chước Hermione nhìn quanh quất (vì chính nó cũng không thể không nuôi chút hy vọng) và chẳng thấy gì ngoài cánh rừng bị mưa quật, thì một bọc giận khác lại nổ ra trong người nó. Nó như nghe thấy Ron nói, “Tụi này tưởng bồ biết bồ đang làm gì chớ!”, và nó tiếp tục thu vén đồ đạc với một cục rối cứng ngắc trong cuống bao tử.

Dòng sông đục ngầu bên cạnh đang dâng nước lên rất nhanh và chẳng mấy chốc sẽ tràn bờ. Lẽ ra hai đứa đã rời khỏi chỗ cắm trại như thường lệ cả tiếng đồng hồ trước đó, nhưng tụi nó cứ nấn ná chần chừ. Cuối cùng, sau khi đã xếp đi sắp lại cái túi xách hột cườm tới ba lần, Hermione dường như không thể tìm ra thêm được lý do trì hoãn nào nữa: cô bé và Harry nắm tay nhau Độn thổ, rồi hiện ra lại trên một sườn đồi lộng gió phủ đầy cây thạch nam.

Ngay khi vừa đến nơi, Hermione liền buông tay Harry ra và bỏ đi, cuối cùng cô bé ngồi xuống một tảng đá lớn, úp mặt vào đầu gối, run rẩy vì cái mà Harry hiểu là cơn thổn thức. Nó nhìn Hermione, nghĩ là cũng nên đến và an ủi cô bé, nhưng có cái gì đó cứ giữ rịt lấy chân nó. Mọi thứ trong lòng nó đều lạnh ngắt và căng ra: một lần nữa nó lại thấy vẻ khinh khỉnh trên gương mặt của Ron. Harry sải dài băng qua đám cây thạch nam, bước thành một vòng tròn rộng có cô nàng Hermione đang quẫn trí làm tâm, và ếm các thứ bùa phép mà Hermione vẫn hay làm để bảo đảm an toàn.

Trong suốt mấy ngày sau đó tụi nó không bàn cãi gì đến Ron nữa. Harry đã quyết tâm không bao giờ nhắc lại cái tên Ron và Hermione dường như biết o ép vấn đề đó cũng chẳng ích gì, mặc dù ban đêm khi Hermione tưởng Harry ngủ rồi, Harry vẫn hay nghe tiếng cô nàng khóc. Lúc đó Harry đang bắt đầu đem tấm Bản đồ Đạo tặc ra xem xét dưới ánh sáng đầu cây đũa phép. Nó đang chờ thời điểm cái chấm mang tên Ron sẽ xuất hiện ở hành lang trường Hogwarts, chứng tỏ Ron đã trở về tòa lâu đài ấm cúng, được gia thế thuần chủng của mình che chở. Nhưng Ron không xuất hiện trên bản đồ, và một lúc sau Harry nhận thấy mình đã lại lấy cái bản đồ ra để nhìn đăm đăm vào cái tên Ginny trong ký túc xá nữ, tự hỏi tình cảm mãnh liệt trong cái nhìn của nó liệu có thể thâm nhập vào giấc ngủ của cô bé không, liệu cô bé có thể bằng cách nào đó biết là nó đang nghĩ đến cô bé, hy vọng cô bé vẫn bình an không.

Ban ngày, tụi nó dành hết thì giờ cố gắng xác định những địa điểm có thể có thanh gươm Gryffindor, nhưng càng bàn bạc về nơi mà cụ Dumbledore có thể cất giữ thanh gươm, thì suy đoán của tụi nó càng thêm xa thực tế và ít hy vọng. Dù có nện gậy lên đầu, Harry cũng không thể nhớ ra cụ Dumbledore có bao giờ nhắc đến một nơi nào đó mà cụ có thể cất giấu một thứ gì. Có những lúc nó không biết là nó giận Ron hơn hay giận cụ Dumbledore hơn. Tụi này tưởng bồ biết bồ đang làm gì chớ... Tụi này tưởng thầy Dumbledore đã nói với bồ việc phải làm chớ... Tụi này tưởng đâu bồ có một kế hoạch thực sự!

Nó không thể giấu chính nó: Ron đã nói đúng. Cụ Dumbledore hầu như chẳng để lại cho nó chỉ dẫn gì. Tụi nó đã tìm được một Trường Sinh Linh Giá, nhưng lại chẳng có cách gì để tiêu hủy nó đi. Còn những cái khác thì vô phương tiếp cận như hồi nào vẫn vậy. Nỗi tuyệt vọng lăm le nhấn chìm nó. Giờ đây, nó hoang mang nghĩ tới sự liều lĩnh của chính mình khi chấp nhận đề nghị của bạn bè cùng đi với nó trong hành trình vô định và vô nghĩa này. Nó chẳng biết gì hết, nó chẳng có ý kiến gì hết, và nó cứ ở trong tình trạng phập phồng một cách thường trực và đau đớn đợi bất cứ dấu hiệu nào cho thấy Hermione cũng sắp nói với nó rằng cô nàng chịu hết thấu rồi, rằng cô nàng sẽ bỏ đi.

Tụi nó trải qua nhiều buổi tối hầu như yên lặng và Hermione kiếm cớ lôi bức tranh của cụ Phineas Nigellus ra và dựng nó trên một cái ghế, như thể cụ có thể lấp được phần nào khoảng trống mà Ron đã để lại khi bỏ đi. Bất chấp sự khẳng định trước đó là sẽ không bao giờ thèm đến thăm chúng lần nữa, cụ Phineas Nigellus có vẻ không cưỡng lại được cơ hội tìm hiểu thêm Harry đang làm gì và cụ chấp nhận tái xuất hiện cứ vài ba ngày một lần, với mắt bị bịt kín. Harry thậm chí còn vui mừng mỗi khi được gặp cụ, bởi vì có cụ làm bầu bạn, cho dù một kiểu bầu bạn châm chọc cạnh khóe. Tụi nó thưởng thức bất cứ tin tức nào về những việc đang diễn ra ở trường Hogwarts, mặc dù cụ Phineas Nigellus không phải là một người thông tin lý tưởng cho lắm. Cụ sùng kính Snape, vị hiệu trưởng thuộc nhà Slytherin đầu tiên kể từ thời chính cụ điều hành ngôi trường, và tụi nó phải cẩn thận để không phê phán hay hỏi những câu hỗn hào về thầy Snape, nếu không cụ Phineas Nigellus sẽ bỏ đi khỏi bức tranh ngay tức thì.

Tuy vậy, cụ cũng để lọt một số tin tức vụn vặt. Thầy Snape dường như đang đối phó một cuộc nổi loạn liên miên ở cấp thấp mà thành phần nòng cốt là học sinh. Ginny đã bị cấm không được đi tới làng Hogsmead. Thầy Snape đã phục hồi đạo luật cũ của bà Umbridge cấm tụ tập từ ba học sinh trở lên hay lập hội đoàn học sinh không chính thức.

Từ tất cả những việc này, Harry suy ra là Ginny, và có lẽ cùng với cả Neville và Luna, đang làm hết sức mình để tiếp tục duy trì Đoàn quân Dumbledore. Tin tức ít ỏi này khiến Harry muốn gặp Ginny khủng khiếp đến nỗi nó có cảm giác như đau bao tử; nhưng điều này cũng khiến nó lại nghĩ đến Ron, và đến cụ Dumbledore, đến chính trường Hogwarts, đến những điều mà nó nhớ cũng gần như nhớ cô bồ cũ. Thật ra, khi cụ Phineas Nigellus nói về sự đàn áp không nương tay của thầy Snape, Harry đã trải qua một thoáng điên khùng, tưởng tượng mình đơn giản cứ trở về trường để tham gia chống phá cách thức cai trị của thầy Snape: được nuôi ăn và có một cái giường êm ái, được những người khác chăm lo dường như là viễn cảnh tuyệt vời nhất trên đời trong lúc này. Nhưng rồi nó nhớ ra nó là Kẻ Phá Rối Số Một, cái đầu nó được treo giá mười ngàn Galleon, và bước vào trường Hogwarts lúc này cũng nguy hiểm như đi vào Bộ Pháp thuật. Quả vậy, cụ Phineas Nigellus vô tình nhấn mạnh sự thực này khi sơ xuất hỏi mấy câu hỏi mẹo về chỗ mà Harry và Hermione đang ở. Mỗi khi cụ hỏi vậy, Hermione nhét cụ vô ngay trong cái túi xách, và cụ Phineas Nigellus lần nào cũng từ chối tái xuất hiện trong nhiều ngày, sau những cuộc chia tay không được thân mật đó.

Thời tiết càng lúc càng lạnh hơn. Tụi nó không dám ở lại bất cứ chỗ nào quá lâu, cho nên lẽ ra cứ ở lại miền nam nước Anh, nơi đáng lo nhất là gặp phải một trận sương giá khắc nghiệt, thì tụi nó lại tiếp tục đi lang thang ngang dọc đất nước, bất chấp một sườn núi, nơi mưa đá rớt lộp bộp xuống lều của tụi nó; bất chấp một đầm lầy rộng và bằng phẳng, nơi lều của tụi nó bị ngập lụt trong nước lạnh buốt; và bất chấp một hòn đảo tí hon ở giữa một cái hồ Tô Cách Lan, nơi nửa đêm tuyết vùi lấp hết nửa căn lều.

Tụi nó đã nhận thấy những cây Nô-en nhấp nháy trong nhiều cửa sổ phòng khách trước cái buổi tối Harry quyết định đề nghị một lần nữa điều mà dường như đối với nó là con đường duy nhất còn lại mà hai đứa chưa thăm dò. Tụi nó vừa mới ăn xong một bữa ngon khác mọi ngày: Hermione đã đi siêu thị dưới tấm Áo khoác Tàng hình (khi rời siêu thị đã hết sức cẩn thận thả tiền vào một ngăn kéo tiền để mở), và Harry cho là cô bé có thể dễ bị thuyết phục hơn bình thường một khi bao tử đã đầy món mì ống Bolognese và lê đóng hộp. Nó cũng đã lo xa mà đề nghị hai đứa tạm ngừng đeo cái Trường Sinh Linh Giá vài tiếng đồng hồ, treo cái vật đó lên đầu giường bên cạnh nó.

“Hermione à?”

“Ừm?”

Hermione đang cuộn tròn trong một cái ghế bành mềm lún đọc cuốn Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong. Harry không thể tưởng tượng cô nàng có thể bòn rút thêm được bao nhiêu tri thức nữa từ cuốn sách mà, nói cho cùng, đâu có dài lắm, nhưng rõ ràng cô nàng vẫn đang tìm cách giải đoán điều gì đó trong sách, bởi cuốn Bảng Ký Hiệu Âm Tiết cho Người Niệm Chú đang để mở trên tay ghế.

Harry đằng hắng. Nó có cảm giác y chang như cái cảm giác mà nó đã trải qua trong một dịp nhiều năm về trước, khi hỏi xin giáo sư McGonagall xem nó có thể đi tới làng Hogsmeade không, bất chấp thực tế là nó đã không thuyết phục được dì dượng Dursley ký vào tờ giấy cho phép.

“Hermione à, mình đã suy nghĩ, và...”

“Harry, bồ có thể giúp mình một chút không?” Dường như Hermione chẳng hề nghe nó nói. Cô bé chồm tới trước và chìa ra cuốn Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong.

“Nhìn thử cái ký hiệu đó coi,” Hermione nói, chỉ vào đầu một trang sách. Phía trên cái mà Harry đoán là tít của truyện (vì không đọc được chữ Runes nên nó không thể nói chắc được) có một hình vẽ của một cái gì đó giống như một con mắt hình tam giác, với một sọc thẳng đứng cắt qua con ngươi.

“Mình chưa bao giờ học cổ ngữ Runes, Hermione à.”

“Mình biết chứ; nhưng nó không phải chữ Runes, mà cũng không có trong bảng ký hiệu âm tiết nốt. Ngay từ đầu mình cứ tưởng đó là hình vẽ một con mắt, nhưng bây giờ mình nghĩ không phải vậy. Nhìn đi, nó được vẽ bằng mực, ai đó đã vẽ nó lên đó, chứ nó không hẳn là một phần có sẵn của cuốn sách. Nghĩ coi, trước đây bồ đã từng thấy nó bao giờ chưa?”

“Chưa... Khoan, chờ một chút,” Harry nhìn cái hình kỹ hơn. “Chứ không phải nó giống cái biểu tượng mà ba của Luna đeo quanh cổ sao?”

“Ừ, mình cũng có nghĩ như vậy!”

“Vậy thì nó là dấu hiệu của Grindelwald.”

Hermione há hốc miệng ngó sững Harry.

“Cái gì?”

“Anh Krum nói với mình...” Harry kể lại câu chuyện mà Viktor Krum đã kể nó nghe ở đám cưới. Hermione tỏ vẻ kinh ngạc.

“Dấu hiệu của Grindelwald?”

Cô bé hết nhìn Harry đến nhìn cái ký hiệu kỳ lạ rồi lại nhìn Harry. “Mình chưa từng nghe chuyện Grindelwald có một dấu hiệu. Trong tất cả những gì mình từng đọc về Grindelwald, không thấy nói gì đến chuyện đó.”

“Ừ, như mình nói đó, anh Krum cho là ký hiệu đó được khắc trên một bức tường ở Durmstrang, và Grindelwald là kẻ đã khắc nó lên đó.”

Hermione ngồi ngả lưng lại trong cái ghế bành cũ, đăm chiêu tư lự.

“Điều này rất kỳ hoặc. Nếu đó là biểu tượng của Nghệ thuật Hắc ám thì tại sao nó lại nằm trong một cuốn truyện cho trẻ con chứ?”

“Ừ, kỳ cục thiệt,” Harry nói. “Và bồ có nghĩ là ông Scimgeour nhận ra biểu tượng đó không? Ông ấy là Bộ trưởng, chắc ông ấy phải am hiểu thành thạo về những đồ Hắc ám chớ.”

“Mình biết... có lẽ ông ấy cũng như mình, tưởng đó là một con mắt. Tất cả những truyện khác đều có những hình vẽ nho nhỏ bên trên tít truyện.”

Cô bé không nói nữa, mà tiếp tục nghiền ngẫm cái dấu hiệu lạ lùng. Harry thử một lần nữa.

“Hermione à?”

“Ừm?”

“Mình đã nghĩ kỹ rồi. Mình... mình muốn đi tới Thung lũng Godric.”

Hermione ngước lên nhìn nó, nhưng ánh mắt không tập trung, và nó có thể nói chắc cô bé vẫn còn đang suy nghĩ về dấu hiệu bí mật trên cuốn sách.

“Phải,” cô bé nói. “Phải lắm, mình cũng đang tự hỏi điều đó. Thiệt tình mình nghĩ là tụi mình nên đi.”

“Bồ có nghe đúng điều mình nói không đó?”

“Dĩ nhiên là có. Bồ muốn đi tới Thung lũng Godric. Mình đồng ý. Mình nghĩ tụi mình nên đi. Ý mình là, mình cũng không thể nghĩ ra được chỗ nào khác. Sẽ rất nguy hiểm, nhưng mình càng nghĩ đến nơi đó thì càng có vẻ là có nó ở đó.”

“Ơ... cái gì ở đó?”

Nghe câu đó Hermione tỏ vẻ ngơ ngác như chính Harry vậy.

“Ủa, thanh gươm chứ cái gì hả, Harry? Thầy Dumbledore ắt hẳn biết bồ muốn đi tới đó, và mình muốn nói Thung lũng Godric là quê quán của cụ Godric Gryffindor...”

“Thiệt hả? Gryffindor xuất thân từ Thung lũng Godric à?”

“Harry ơi, bồ chưa bao giờ mở cuốn Một Lịch Sử Pháp Thuật ra sao?”

“Ờ...” Harry nói, mỉm một nụ cười mà nó có cảm giác như nụ cười đầu tiên trong suốt mấy tháng qua: các cơ trên mặt nó cứng ngơ cứng ngắc một cách kỳ cục. “Có lẽ mình có mở ra, bồ biết, khi mình mua cuốn sách... chỉ một lần...”

“Thôi được, vì ngôi làng được đặt theo tên cụ nên mình cứ tưởng bồ đã phải thấy được mối liên hệ,” Hermione nói. Cô nàng nói năng giờ đã nghe đúng giọng Hermione, không như mấy lúc gần đây; Harry phần nào chờ đợi Hermione thông báo sẽ đi thư viện. “Có khá nhiều thông tin về ngôi làng đó trong cuốn Một Lịch Sử Pháp Thuật, để coi...”

Hermione mở cái túi xách hột cườm và lục lọi một lát, cuối cùng lôi ra cuốn sách giáo khoa cũ của mình, cuốn Một Lịch Sử Pháp Thuật của Bathilda Bagshot, và lật nhanh cuốn sách cho đến khi tìm được trang cô bé cần.

“Theo ký kết của Đạo luật Quốc tế về Bí mật năm 1680, giới pháp thuật lui vào bí mật vĩnh viễn. Có lẽ cũng là điều tự nhiên khi họ hình thành những cộng đồng của chính mình bên trong một cộng đồng. Nhiều làng xóm nhỏ thu hút được những gia đình pháp thuật, họ tụ tập thành nhóm để bảo vệ và giúp đỡ lẫn nhau. Những làng Tinworsh ở Cornwall, Upper Flagley ở Yorkshire, và Ottery St. Catchpole ở bờ biển nam nước Anh là nơi cư ngụ đáng chú ý của các nhóm gia đình phù thủy sống bên cạnh những dân Muggle rộng lượng và đôi khi đã được ếm bùa Lú lẫn. Nổi tiếng nhất trong những nơi cư trú bán-pháp-thuật này có lẽ là Thung lũng Godric, một ngôi làng ở miền Tây nơi pháp sư vĩ đại Godric Gryffindor đã chào đời, và nơi người thợ rèn pháp thuật Bowman Wright đã chế ra trái banh Snitch đầu tiên. Nghĩa trang nơi này đầy tên tuổi của những dòng họ pháp thuật cổ xưa, và điều này chắc chắn giải thích được những câu chuyện ma quái ám ảnh ngôi nhà thờ nhỏ bên cạnh nghĩa trang suốt mấy thế kỷ.”

“Không thấy nói đến bồ và ba má bồ,” Hermione nói khi xếp sách lại, “bởi vì giáo sư Bagshot không ghi lại những gì xảy ra sau cuối thế kỷ mười chín. Nhưng bồ thấy không? Thung lũng Godric, cụ Godric Gryffindor, thanh gươm của Gryffindor; bồ không nghĩ là thầy Dumbledore vẫn mong bồ sẽ lần ra được mối liên hệ sao?”

“Ờ há...”

Harry không muốn thừa nhận là nó đã không hề nghĩ gì đến thanh gươm khi đề nghị tụi nó nên đi về Thung lũng Godric. Đối với nó, sự cám dỗ của ngôi làng nằm trong phần mộ của ba má nó, trong ngôi nhà mà nó đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, và trong cá nhân bà Bathilda Bagshot.

Cuối cùng nó hỏi:

“Còn nhớ bà dì Muriel nói gì không?”

“Ai cơ?”

“Bồ biết mà,” Harry ngập ngừng, nó không muốn nhắc đến tên Ron. “Bà dì của Ginny. Ở đám cưới. Cái bà đã nói bồ có mắt cá chân lòi xương đó.”

“A,” Hermione nói.

Khoảnh khắc đó hơi khó chịu: Harry biết là Hermione đã cảm nhận được cái tên Ron chực vuột ra. Nó vội nói tới luôn:

“Bà ấy nói bà Bathilda Bagshot vẫn còn sống ở Thung lũng Godric.”

“Bathilda Bagshot,” Hermione lẩm nhẩm, ngón tay trỏ của cô bé vuốt lên cái tên rập nổi của bà Bathilda trên bìa cuốn Một Lịch Sử Pháp Thuật. “Ừ, mình cho là...”

Cô bé bỗng há miệng hớp hơi đột ngột đến nỗi ruột gan Harry lộn tùng phèo, nó rút cây đũa phép ra, ngoái nhìn cửa ra vào, có phần chờ đợi một bàn tay thọc qua tấm cửa lều, nhưng chẳng thấy cái gì cả.

“Cái gì hả?” Nó nói, nửa nổi giận nửa thở phào. “Bồ làm như vậy để chi? Mình tưởng bồ vừa thấy một tên Tử Thần Thực Tử rạch lều ra, ít nhất thì...”

“Harry nè, biết đâu bà Bathilda giữ thanh gươm? Biết đâu thầy Dumbledore tin tưởng giao nó cho bà ấy?”

Harry cân nhắc khả năng này. Bà Bathilda chắc hẳn đã là một bà già khú đế vào thời điểm này, và theo bà dì Muriel thì bà ta “khùng khùng”. Liệu có khả năng cụ Dumbledore gởi thanh gươm của Gryffindor nhờ bà giấu dùm không? Nếu có thì Harry cảm thấy cụ Dumbledore đã phó mặc cho may rủi hơi nhiều: cụ Dumbledore chưa bao giờ tiết lộ cụ đã đánh tráo thanh gươm thật bằng thanh gươm giả, cụ cũng không nhắc gì nhiều đến tình bạn với bà Bathilda. Nhưng lúc này không phải là lúc tung ngờ vực vào giả thuyết của Hermione, đặc biệt là không nên khi mà, một cách đáng ngạc nhiên, cô nàng đang sẵn sàng ủng hộ nguyện vọng tha thiết nhất của Harry.

“Ừ, thầy có thể làm vậy lắm! Vậy tụi mình đi tới Thung lũng Godric chứ?”

“Đi, nhưng tụi mình phải suy tính chuyện này hết sức cặn kẽ, Harry à.” Giờ đây Hermione đã ngồi thẳng lưng lên, và Harry thấy đúng là cái viễn cảnh sẽ lại có một kế hoạch hẳn hoi đã khiến cô nàng lên tinh thần cũng hệt như nó vậy. “Để bắt đầu tụi mình cần thực tập cùng Độn thổ dưới tấm Áo khoác Tàng hình, và có lẽ bùa Xóa Ảo ảnh cũng nên lắm, trừ khi bồ cho là tụi mình phải làm tới cùng và dùng thuốc Đa Quả dịch? Trong trường hợp đó tụi mình sẽ cần thu thập tóc của ai đó. Mình thực sự cho là nên làm như vậy, Harry à, tụi mình càng hóa trang kỹ chừng nào càng tốt chừng nấy...”

Harry để cho Hermione nói, gật đầu và tán thành mỗi khi cô bé tạm ngừng, nhưng đầu óc nó đã bay bổng khỏi cuộc chuyện trò. Lần đầu tiên nó lại cảm thấy hào hứng, tính từ khi nó khám phá ra thanh gươm ở Gringotts là đồ giả.

Nó sắp được về nhà, sắp trở lại nơi mà nó từng có một gia đình. Nếu không có Voldemort, Thung lũng Godric chính là nơi lẽ ra nó được nuôi dưỡng đến lớn khôn và trở về vào mỗi kỳ nghỉ hè. Nó lẽ ra đã có thể mời bạn bè đến nhà chơi... nó thậm chí có thể có anh chị em nữa... và chính má nó lẽ ra là người làm cho nó cái bánh mừng sinh nhật thứ mười bảy. Cuộc đời bị cướp mất của nó chưa bao giờ lại hiện ra thực như bằng lúc này, khi nó biết mình sắp được nhìn tận mắt cái nơi mà cuộc đời đó bị tước đoạt. Sau khi Hermione đã đi ngủ vào tối hôm đó, Harry lặng lẽ moi cái ba lô của nó ra khỏi túi xách của Hermione, và lấy từ trong ba lô ra bộ an-bum hình ảnh mà bác Hagrid đã tặng nó từ thời xa xưa. Lần đầu tiên sau nhiều tháng nó lại ngắm nghía kỹ càng mấy tấm hình cũ kỹ của ba má nó, họ đang mỉm cười và vẫy tay chào nó từ trong những tấm hình, đó là tất cả những gì còn lại về họ mà nó có được lúc này.

Harry lẽ ra đã vui vẻ lên đường đến Thung lũng Godric vào sáng hôm sau, nhưng Hermione lại có ý kiến khác. Cô bé một mực tin rằng Voldemort hẳn cho rằng Harry ắt sẽ phải trở về hiện trường nơi cha mẹ nó bị giết, nên quyết định là tụi nó chỉ khởi hành một khi bảo đảm có được cách cải trang tốt nhất. Thành ra phải chờ trọn một tuần lễ sau Hermione mới đồng ý lên đường - trong suốt tuần đó tụi nó đã bí mật chôm tóc của mấy người Muggle lương thiện đang mua sắm cho lễ Giáng sinh rồi thực hành Hiện hình và Độn thổ dưới tấm Áo khoác Tàng hình.

Tụi nó sẽ phải Hiện hình ở làng dưới sự bao phủ của bóng đêm, cho nên vào buổi chiều hôm đó, khi đã uống xong thuốc Đa Quả dịch, Harry biến hình thành một gã Muggle trung niên hói đầu, còn Hermione thì thành bà vợ nhỏ bé và hơi lúi xùi của gã. Cái túi xách hột cườm chứa tất cả của nả của tụi nó (ngoại trừ cái Trường Sinh Linh Giá được Harry đeo quanh cổ) được nhét vào túi áo bên trong cái áo khoác gài nút tới cổ của Hermione. Harry phủ tấm Áo khoác Tàng hình lên cả hai đứa, rồi nó xoay mình để chìm vào bóng tối ngộp thở một phen nữa.

Harry mở mắt ra, tim nó đập dội lên tận cổ họng. Tụi nó đang nắm tay nhau đứng trên một lối đi đầy tuyết dưới bầu trời xanh thẫm, và trên trời vài ngôi sao đêm mới mọc đang nhấp nháy lung linh. Những ngôi nhà nhỏ đứng hai bên con đường hẹp, cửa sổ lấp lánh những đồ trang trí cho lễ Giáng sinh. Trước mặt tụi nó, cách một quãng ngắn, ánh sáng rực rỡ của đèn đường màu vàng cho biết đó là trung tâm của ngôi làng.

“Toàn là tuyết!” Hermione thì thầm bên dưới tấm Áo khoác Tàng hình. “Sao mà tụi mình lại không nghĩ đến tuyết há? Chuẩn bị trước chu đáo cho lắm, để rồi vẫn để lại dấu chân! Tụi mình phải xóa hết mới được... Bồ đi trước đi, mình sẽ xóa...”

Harry không muốn đi vào làng như một con ngựa câm, vừa cố gắng che giấu tung tích phù thủy vừa dùng pháp thuật để xóa dấu vết của mình.

“Tụi mình cứ cởi Áo khoác Tàng hình ra,” Harry nói, và khi Hermione tỏ vẻ hoảng sợ, nó nói thêm. “Ôi, không sao mà, tụi mình trông có giống tụi mình đâu, và cũng chẳng có ai ở chung quanh mà.”

Nó nhét cái Áo khoác Tàng hình vào trong áo vét và hai đứa bước tới không gặp trắc trở gì hết, không khí giá buốt châm châm vào mặt khi tụi nó đi ngang qua vài ngôi nhà nữa. Bất cứ ngôi nào trong số đó cũng có thể là ngôi nhà mà ba James và má Lily đã từng sống, hay nơi bà Bathilda hiện đang sống. Harry nhìn đăm đăm vào từng cánh cửa trước, từng mái nhà đội đầy tuyết, từng hàng hiên, tự hỏi liệu nó còn nhớ chút gì về những thứ đó chăng, nhưng sâu tận đáy lòng nó vẫn biết rằng chuyện đó là không thể, vì khi phải rời khỏi nơi này vĩnh viễn, nó mới chỉ hơn một tuổi. Nó thậm chí cũng không dám chắc liệu nó có thấy được ngôi nhà hay không; nó không biết chuyện gì đã xảy ra khi những con người được bảo vệ bằng bùa Trung thành đã chết. Thế rồi con đường nhỏ tụi nó đang đi bỗng lượn cong về bên trái và trung tâm của ngôi làng, một quảng trường nhỏ, hiện ra trước mắt.

Có cái gì đó trông giống như một tượng đài kỷ niệm chiến tranh đứng ngay chính giữa, chung quanh treo lủng lẳng đầy đèn màu, bị che khuất phần nào vì một cây Giáng sinh bị gió thổi bạt. Bên kia quảng trường có nhiều cửa tiệm, một bưu điện, một quán rượu, và một ngôi nhà thờ nhỏ có cửa sổ bằng kiếng màu sáng rực rỡ lóng lánh.

Tuyết ở đây đã bị giẫm đạp nhiều: cứng và trơn trợt ở những chỗ người ta bước qua suốt cả ngày. Dân làng đang hối hả đi lại trước mắt tụi nó, ánh đèn đường chiếu thoáng qua những gương mặt họ. Tụi nó nghe thấy tiếng cười rộ và tiếng nhạc bình dân mỗi khi cánh cửa quán rượu mở ra rồi đóng lại; và rồi tụi nó nghe khúc nhạc Giáng sinh bắt đầu vang lên bên trong ngôi nhà thờ nhỏ.

“Harry à, mình nghĩ đêm nay là đêm Giáng sinh!” Hermione nói.

“Vậy hả?”

Nó đã không còn biết đến ngày tháng nữa; tụi nó đã chẳng hề thấy một tờ báo nào suốt mấy tuần liền.

“Mình tin chắc là thế,” Hermione nói, mắt cô bé ngước nhìn lên nhà thờ. “Họ... họ ở trong đó, phải không? Ba má của bồ ấy? Mình thấy nghĩa trang phía sau nhà thờ.”

Harry cảm thấy một cơn rùng mình vì một cái gì đó còn hơn cả nỗi hồi hộp, giống nỗi sợ hãi thì đúng hơn. Giờ đây khi đã ở gần đến vậy, nó băn khoăn là rốt cuộc nó có muốn thấy không? Có lẽ Hermione biết nó đang cảm thấy thế nào, bởi vì cô bé đưa tay ra nắm lấy tay nó và lần đầu tiên đóng vai trò dẫn đường, kéo nó đi tới trước. Tuy nhiên, vừa băng qua được nửa quảng trường, cô bé đứng khựng lại chết trân.

“Harry, nhìn kìa!”

Hermione chỉ vào tượng đài kỷ niệm chiến tranh. Khi tụi nó vừa đi qua khỏi, tượng đài liền biến dạng. Thay vì một cột hình tháp khắc đầy những cái tên, thì lại hiện ra một bức tượng ba người: một người đàn ông tóc rối bù đeo mắt kiếng, một người đàn bà tóc dài có gương mặt xinh đẹp hiền hậu, và một đứa bé ngồi trong vòng tay người mẹ. Tuyết đã phủ một lớp trên đầu họ trông như những cái nón xốp màu trắng.

Harry bị hút tới gần bức tượng hơn, đăm đăm nhìn vào gương mặt ba má nó. Nó chưa bao giờ hình dung nổi là có hẳn một tượng đài... Thiệt là kỳ lạ khi nhìn chính mình được tạc thành tượng đá, một đứa bé hớn hở với cái thẹo trên trán...

“Đi thôi!” Harry nói, sau khi đã nhìn đến mãn nhãn, và tụi nó quay lại về phía nhà thờ. Trong lúc băng qua đường, nó ngoái lại nhìn, bức tượng đã trở lại là đài kỷ niệm chiến tranh.

Tiếng ca nghe lớn hơn khi tụi nó đi đến gần nhà thờ. Nó khiến cổ họng Harry thắt lại, nó nhắc Harry nhớ ghê gớm đến trường Hogwarts, đến con ma Peeves từ bên trong những bộ áo giáp rống lên những lời tục tĩu nhại các khúc ca Giáng sinh, đến mười hai cây thông Nô-en trong Đại Sảnh Đường, đến thầy Dumbledore đội cái nón vải mà thầy xí được trong một gói kẹo nổ, đến Ron trong chiếc áo len đan tay...

Ở lối vào nghĩa trang có một cánh cổng khép hờ. Hermione hết sức nhẹ nhàng đẩy cổng mở ra và hai đứa lách vào bên trong. Dọc hai bên lối đi hơi trơn dẫn đến cửa nhà thờ tuyết phủ thành lớp dày và chưa bị ai giẫm lên. Tụi nó lội vô trong tuyết, rạch thành những đường mương sâu ở phía sau khi đi vòng qua tòa nhà, cố lẩn khuất trong bóng tối bên dưới những cửa sổ sáng choang.

Đằng sau nhà thờ, từng hàng nối tiếp từng hàng bia mộ phủ đầy tuyết nhô lên khỏi một tấm chăn màu lam nhạt lốm đốm nào đỏ chói, vàng chóe, hay xanh biếc tùy theo ánh sáng xuyên qua chỗ nào trên lớp kính màu của cửa sổ rồi đậu xuống trên tuyết. Tay nắm chặt cây đũa phép trong túi áo, Harry đi tới nấm mộ gần nó nhất.

“Nhìn cái này coi, mộ của một người họ Abbott, có thể là bà con chết từ đời tám hoánh của Hannah.”

“Nói nhỏ nhỏ thôi,” Hermione năn nỉ nó.

Tụi nó lội càng lúc càng sâu hơn vô nghĩa trang, vẹt thành những rãnh tối trong tuyết phía sau lưng, lom khom để săm soi những hàng chữ trên dãy bia mộ cũ kỹ, thỉnh thoảng liếc mắt vào bóng tối chung quanh để biết chắc chắn không có ai khác ngoài tụi nó.

“Harry, đây nè!”

Hermione đang cách nó hai hàng bia mộ, nó phải lội ngược về phía cô bé, tim đập thình thình trong lồng ngực.

“Có phải...?”

“Không, nhưng nhìn thử coi!”

Hermione chỉ vào tấm bia đen. Harry cúi xuống và thấy, trên tấm đá hoa cương lốm đốm địa y đông cứng là những chữ Kendra Dumbledore, và không xa bên dưới ngày tháng sinh tử của bà là dòng chữ, và con gái Ariana của bà. Có cả một trích ngôn:

Của ngươi ở đâu, lòng ngươi ở đó

Vậy là thông tin của Rita Skeeter và bà Muriel cũng có cái đúng. Gia đình cụ Dumbledore quả thật đã sống nơi đây, và một số người trong gia đình họ đã chết nơi đây.

Nhìn thấy nấm mồ còn khổ sở hơn nghe nói về nó. Harry không thể không nghĩ rằng cả nó và cụ Dumbledore đều có cội rễ sâu xa trong nghĩa trang này, và cụ Dumbledore lẽ ra nên nói với nó, vậy mà cụ không hề nghĩ đến việc chia sẻ mối liên hệ đó. Hai thầy trò biết đâu có thể cùng đi thăm nơi này với nhau; trong một thoáng Harry tưởng tượng nó mà đến nơi này với cụ Dumbledore thì tình thầy trò sẽ thắm thiết biết bao, và điều đó sẽ có ý nghĩa biết bao đối với nó. Nhưng dường như đối với cụ Dumbledore, cái sự kiện gia đình cụ và gia đình nó nằm bên cạnh nhau trong cùng một nghĩa trang chẳng qua là một ngẫu nhiên không có ý nghĩa gì quan trọng, và có lẽ cũng không liên quan gì đến công việc mà cụ muốn Harry làm.

Hermione đang nhìn Harry, và Harry mừng là gương mặt mình khuất trong bóng tối. Nó đọc hàng chữ trên bia mộ một lần nữa. Của ngươi ở đâu, lòng ngươi ở đó. Nó không hiểu những chữ này mang ý nghĩa gì. Chắc chắn chính cụ Dumbledore đã chọn khắc câu đó, bởi vì cụ là người lớn nhất trong gia đình sau khi mẹ cụ qua đời.

“Bồ có chắc là thầy không hề nhắc tới...” Hermione mới mở miệng nói.

“Không,” Harry sẵng giọng đáp ngay, rồi nói thêm, “Tụi mình kiếm tiếp đi,” và nó quay đi, ước phải chi đừng nhìn thấy tấm bia: nó không muốn nỗi xao xuyến bồi hồi của nó bị lu mờ vì cơn oán giận.

Một lát sau Hermione lại kêu lên từ trong bóng tối:

“Đây nè! Ủa không phải, xin lỗi! Mình tưởng bia ghi Potter.”

Cô bé lau chùi một tấm bia bể phủ đầy rêu, chăm chú nhìn xuống bia, gương mặt hơi sững sờ.

“Harry, trở lại đây ngay.”

Harry không muốn bị hố nữa, nên bất đắc dĩ lần đường trong tuyết đi về phía Hermione.

“Cái gì?”

“Nhìn cái này đi!”

Ngôi mộ cực kỳ xưa cũ, bị thời tiết bào mòn đến nỗi Harry khó có thể đọc được cái tên. Hermione chỉ cho nó cái ký hiệu bên dưới.

“Harry, đó là ký hiệu vẽ trong cuốn sách!”

Nó săm soi cái chỗ Hermione chỉ: tấm bia đá bị mòn đến nỗi khó mà phân biệt được cái gì đã khắc trên đó, mặc dù có vẻ như có một ký hiệu hình tam giác bên dưới cái tên không thể đọc được.

“Ừ... có thể...”

Hermione thắp cây đũa phép của mình lên và chĩa vào cái tên trên tấm bia.

“Bia ghi Ig... Mình nghĩ là Ignotus...”

“Mình tiếp tục tìm kiếm mộ của ba má mình, được không?” Harry nói với Hermione, giọng hơi quạu, và nó bước đi, bỏ lại Hermione cúi lom khom bên ngôi mộ cũ.

Thỉnh thoảng nó nhận ra một cái họ nó từng gặp ở trường Hogwarts, như Abbott chẳng hạn. Đôi khi nhiều thế hệ của cùng một dòng họ phù thủy đều có mặt trong nghĩa trang: dựa vào ngày tháng, Harry biết dòng họ đó không còn ai nối dõi hoặc con cháu họ hiện nay đã đi khỏi Thung lũng Godric. Càng đi vào sâu hơn giữa những nấm mộ, và mỗi lần gặp một tấm bia mới, nó lại càng cảm thấy một chút chòng chành giữa e sợ và đề phòng.

Bỗng nhiên bóng tối và sự im lặng dường như trở nên sâu hơn. Harry nhìn quanh, lo lắng, nghĩ đến bọn Giám ngục, rồi nhận ra những khúc ca Giáng sinh đã hết rồi, và tiếng chuyện trò cùng lao xao của những người đi lễ đang mờ dần khi họ quay về phía quảng trường. Ai đó trong nhà thờ vừa mới tắt các ngọn đèn.

Chợt giọng của Hermione vang lên trong bóng tối lần thứ ba, sắc và rõ, cách nó vài thước.

“Harry, họ ở đây... ngay đây nè.”

Và nghe giọng của Hermione nó biết ngay lần này thì đúng là ba má nó: nó đi về phía Hermione, cảm giác như có cái gì đó nặng lắm đang đè lên lồng ngực, giống như cái cảm giác mà nó trải qua ngay sau khi cụ Dumbledore chết, một nỗi buồn thực sự đè nặng lên tim phổi nó.

Tấm bia đó chỉ nằm sau bia mộ của bà Kendra và Ariana có hai hàng. Nó được làm bằng cẩm thạch trắng, giống y như mộ của cụ Dumbledore, và nhờ vậy mà dễ đọc, vì nó dường như sáng lên trong bóng tối. Harry không cần quỳ xuống, thậm chí không cần đi tới thật gần cũng nhìn thấy những chữ được khắc trên bia:

JAMES POTTER    LILY POTTER

SINH NGÀY 27 THÁNG 3 NĂM 1960     SINH NGÀY 30 THÁNG 1 NĂM 1960

CHẾT NGÀY 31 THÁNG 10 NĂM 1981     CHẾT NGÀY 31 THÁNG 10 NĂM 1981

Kẻ thù cuối cùng bị tiêu diệt là cái chết

Harry chậm rãi đọc hàng chữ, như thể nó chỉ có một cơ hội để tiếp thu ý nghĩa của những chữ đó, và nó đọc lớn dòng cuối cùng.

“Kẻ thù cuối cùng bị tiêu diệt là cái chết...” Nó chợt nảy ra một ý nghĩ hãi hùng và hơi kinh hoảng. “Chẳng phải đây là ý tưởng của bọn Tử Thần Thực Tử sao? Tại sao lại ghi ở đây?”

“Câu này không có nghĩa là đánh bại cái chết như ý bọn Tử Thần Thực Tử đâu, Harry à.” Hermione nói, giọng thật dịu dàng. “Đây có nghĩa là... bồ hiểu chứ... sự sống vượt qua cái chết. Sự sống sau cái chết.”

Nhưng họ đâu còn sống nữa, Harry nghĩ. Họ mất rồi. Những con chữ trống rỗng không che giấu được sự thật là di thể vụn nát của ba má nó nằm bên dưới tuyết và đá, dửng dưng, vô thức. Và trước khi nó kịp cầm lại, nước mắt đã ứa ra, nóng hổi nhưng rồi đông lạnh ngay tức thì trên mặt nó; chùi nước mắt đi, hay giả đò tỉnh rụi, thì có nghĩa lý gì? Nó cứ để cho nước mắt rơi, môi mím chặt hơn, nhìn xuống lớp tuyết dày che khuất cái nơi mà phần cuối cùng của má Lily và ba James nằm, giờ chỉ còn xương, chắc vậy, hay chỉ là bụi; họ không biết, không bận tâm đến đứa con trai còn sống đang đứng sát bên, trái tim vẫn đập, vẫn sống nhờ sự hy sinh của họ, và nó gần như ao ước, ngay lúc này đây, được nằm ngủ dưới tuyết cùng ba má.

Hermione lại cầm lấy tay nó và siết chặt. Nó không thể nhìn Hermione, nhưng siết tay cô bé để đáp lại, rồi hớp vào sâu và mạnh làn khí đêm, cố gắng tự trấn tĩnh, cố gắng tự chủ. Lẽ ra nó nên đem đến cho ba má nó cái gì đó, vậy mà nó đã không nghĩ ra, và mọi cây cỏ trong nghĩa trang đều trụi lủi và đông cứng. Nhưng Hermione đã giơ cây đũa phép lên, vẽ một vòng tròn trong không trung và một vòng hoa Giáng sinh kết bằng hoa hồng nở ra trước mặt tụi nó. Harry bắt lấy vòng hoa và đặt lên mộ ba má nó.

Ngay khi đứng dậy nó muốn đi ngay: nó nghĩ nó không thể chịu đựng thêm phút giây nào ở đó nữa. Nó choàng cánh tay qua vai Hermione, và cô bé vòng tay ra ôm eo nó, cả hai lặng lẽ quay lưng bước đi trong tuyết, ngang qua mộ của mẹ và em gái cụ Dumbledore, trở về hướng ngôi nhà thờ tối thui và cánh cổng hờ khuất tầm mắt.

Chương Mười Bảy

Bí mật Bathilda

“Harry, ngừng lại.”

“Có chuyện gì?”

Tụi nó vừa mới tới được nấm mộ của một người nào đó mang họ Abbott.

“Có ai ở đằng kia kìa. Ai đó đang rình tụi mình, mình dám nói chắc luôn. Ở đằng kia, núp sau mấy bụi cây.”

Tụi nó đứng im re, níu lấy nhau, đăm đăm nhìn về vùng ranh đen đặc của nghĩa trang. Harry không thấy được gì cả.

“Bồ chắc không?”

“Mình thấy cái gì đó nhúc nhích. Mình dám thề là mình thấy...”

Cô bé buông Harry ra để cánh tay cầm đũa phép được tự do.

“Tụi mình trông giống dân Muggle mà,” Harry nêu lên một thực tế.

“Dân Muggle mà đặt hoa lên mộ của ba má bồ sao? Harry à, mình chắc chắn là có ai đó ở đằng kia!”

Harry nghĩ đến cuốn Một Lịch Sử Pháp Thuật; nghĩa trang này bị coi là có ma ám; nếu mà...? Nhưng rồi nó nghe một tiếng lào xào và thấy một đám tuyết nhỏ bị tung lên từ bụi cây mà Hermione vừa chỉ. Ma đâu có thể làm tung tuyết được.

Một hai giây sau, Harry nói: “Một con mèo, hay một con chim. Nếu là một tên Tử Thần Thực Tử thì bây giờ tụi mình đã chết rồi. Nhưng mà tụi mình ra khỏi chỗ này đã, xong rồi có thể trùm lại Áo khoác Tàng hình.”

Tụi nó vừa liếc nhìn lại sau lưng vừa lần đường ra khỏi nghĩa trang. Không thực sự cảm thấy vững tâm lắm như nó giả bộ khi cam đoan với Hermione, Harry mừng húm khi hai đứa tới được cánh cổng và con đường trơn trợt. Tụi nó kéo Áo khoác Tàng hình trùm lên người. Quán rượu đông khách hơn cả trước đó. Nhiều người bên trong đang hát những ca khúc Giáng sinh mà tụi nó đã nghe lúc đi ngang qua nhà thờ. Trong một thoáng, Harry tính đề nghị chui vô quán để trú ẩn, nhưng nó chưa kịp nói gì thì Hermione đã thì thầm, “Tụi mình đi ngõ này,” và kéo nó xuống một con đường tối thui dẫn ra khỏi làng theo hướng ngược lại con đường đã dẫn tụi nó vô làng. Harry có thể nhận ra mỏm đất nơi không còn nhà cửa nữa, và con đường lại chạy ra vùng nông thôn trống trải. Tụi nó liều đi cho nhanh, ngang qua thêm nhiều cửa sổ lấp lánh ánh đèn đủ màu, với hình dáng những cây thông Giáng sinh mờ mờ sau những tấm màn cửa.

“Làm sao kiếm được nhà bà Bathilda đây?” Hermione hỏi, cô bé hơi run và cứ liếc chừng ra sau. “Harry? Bồ đang nghĩ gì vậy? Harry?”

Hermione kéo mạnh cánh tay Harry, nhưng Harry không bận tâm. Nó đang nhìn về phía cái khối đen hù đứng ở cuối dãy nhà này. Ngay sau đó nó đi thật nhanh, kéo Hermione theo khiến cô bé suýt trượt chân trên băng.

“Harry...”

“Nhìn kìa... nhìn đi, Hermione...”

“Mình không... Ôi!”

Nó có thể thấy điều đó; bùa Trung thành ắt là đã chết cùng với ba James và má Lily. Hàng giậu đã mọc hoang trong suốt mười sáu năm qua kể từ khi bác Hagrid đem Harry ra khỏi cái đống đổ nát giờ nằm rải rác giữa đám cỏ cao tới thắt lưng. Phần lớn ngôi nhà vẫn còn đứng vững mặc dù bị dây trường xuân và tuyết trùm lấp hoàn toàn, nhưng phần bên phải của tầng trên cùng đã bị nổ banh; Harry tin chắc đó là nơi lời nguyền đã phản phé. Nó và Hermione đứng bên cổng, ngó chằm chằm đống hoang tàn của cái ắt đã một thời từng là một ngôi nhà giống như những ngôi nhà bên cạnh.

“Mình thắc mắc tại sao không ai xây lại ngôi nhà?” Hermione thì thầm.

“Có thể người ta không xây nó lại được?” Harry đáp. “Hay có thể nó giống như thương tích do Nghệ thuật Hắc ám, không thể sửa lại được thiệt hại?”

Harry thò một bàn tay ra khỏi Áo khoác Tàng hình, nắm lấy cánh cổng rỉ sét và đầy tuyết, không hề muốn mở nó ra, mà chỉ để cầm nắm một cái gì đó của ngôi nhà.

“Bồ không đi vô bên trong đấy chứ? Coi không được an toàn lắm đâu, có thể... ôi, Harry, nhìn kìa!”

Cái chạm tay của nó vào cánh cổng dường như đã khiến điều đó xảy ra: một tấm bảng nhô lên khỏi mặt đất ngay trước mặt tụi nó, xuyên qua đám chằng chịt những cây tầm ma và cỏ dại, giống như một đóa hoa kỳ quái lớn rất nhanh, những chữ vàng trên mặt gỗ ghi rằng:

Tại đây, vào đêm 31 tháng 10 năm 1981,

Lily và James Potter đã thiệt mạng.

Con trai họ, Harry, hiện là phù thủy duy nhất

sống sót dưới Lời nguyền Giết chóc.

Căn nhà này, vô hình đối với dân Muggle, được giữ

y nguyên tình trạng đổ nát để tưởng nhớ gia đình Potter

và để nhắc nhở sự bạo tàn

đã làm tan nát gia đình họ.

Chung quanh những dòng chữ sắc gọn này là những chữ nguệch ngoạc của các phù thủy và pháp sư đến tham quan địa điểm Kẻ Sống Sót đã thoát chết. Một số chỉ đơn giản ký tên mình bằng mực vĩnh cửu, những kẻ khác khắc chữ viết tắt của tên mình lên gỗ, lại có những người để lại cả thông điệp. Những thông điệp mới nhất trong số đó, tỏa sáng rực rỡ trên những bức grafito pháp thuật trải dài qua mười sáu năm, đều có nội dung tương tự.

“Harry, chúc may mắn, dù bạn đang ở đâu.”

“Harry, nếu anh đọc được dòng chữ này, tất cả chúng tôi ở bên anh.”

“Harry Potter muôn năm!”

“Lẽ ra họ không nên viết bậy lên tấm bảng!” Hermione phẫn nộ nói.

Nhưng Harry cười toe với cô bé.

“Vui chớ! Mình khoái họ viết như vậy. Mình...”

Nó nín ngang. Một bóng người mặc đồ ấm dày kín mít đang khập khiễng lê bước trên con đường nhỏ tiến về phía tụi nó, nổi bật lên nhờ ánh đèn sáng ở quảng trường xa xa. Mặc dù rất khó phán đoán, nhưng Harry nghĩ hình bóng đó là một người đàn bà. Bà ta đi đứng chậm chạp, có lẽ sợ trượt té trên mặt đất phủ tuyết. Cái lưng khòm của bà, vẻ ục ịch của bà, và dáng đi lếch thếch của bà đều cho ấn tượng bà cực kỳ già nua. Tụi nó im lặng nhìn trong lúc bà tiến lại gần hơn. Harry đang chờ coi bà có quẹo vô một trong những ngôi nhà mà bà đi ngang qua không, nhưng linh tính cho nó biết là bà sẽ không quẹo. Cuối cùng bà ngừng bước cách tụi nó vài thước và chỉ đơn giản đứng đó giữa con đường đóng băng, hướng mặt về phía tụi nó.

Nó không cần Hermione véo vào cánh tay. Chạy trời cũng không sai người đàn bà này không phải dân Muggle: bà đang đứng đó nhìn đăm đăm ngôi nhà đúng ra sẽ hoàn toàn vô hình đối với bà nếu bà không phải là một phù thủy. Tuy nhiên, cho dù có là một phù thủy đi chăng nữa, thì hành vi đi ra ngoài đường trong một đêm lạnh như vầy chỉ để ngắm một phế tích cũ kỹ cũng hết sức kỳ quái. Đồng thời, theo đúng quy luật của pháp thuật thông thường thì lẽ ra bà không thể nào thấy được Hermione và Harry. Vậy mà, Harry có cảm giác hết sức lạ là bà biết tụi nó có mặt ở đó, và thậm chí còn biết tụi nó là ai. Ngay khi nó vừa khẳng định suy luận này, bà liền giơ một bàn tay đeo găng lên và ngoắc ngoắc.

Hermione đứng sát vào Harry hơn dưới tấm Áo khoác Tàng hình, cánh tay cô bé áp mạnh vào cánh tay nó.

“Làm sao bà ấy biết được?”

Harry lắc đầu. Người đàn bà lại ngoắc tay lần nữa, mạnh hơn. Harry có thể nghĩ ra nhiều lý do để đừng tuân theo sự vẫy gọi đó, chưa kể đứng nhìn nhau trên con đường vắng vẻ thế này, nỗi nghi ngờ về nhân thân của bà lại càng lúc càng mạnh hơn.

Có thể nào bà đã chờ đợi tụi nó suốt mấy tháng trời? Có thể nào cụ Dumbledore đã dặn bà đợi, và Harry cuối cùng sẽ đến? Không phải chính bà là cái kẻ đã lẩn khuất trong bóng tối nghĩa trang và đi theo tụi nó tới chỗ này chứ? Ngay cả khả năng nhận ra tụi nó của bà cũng gợi tới thứ quyền lực gì đó mang hơi hướng cụ Dumbledore mà trước đây Harry chưa từng gặp.

Cuối cùng Harry nói, khiến Hermione giật bắn người và há hốc miệng thở.

“Bà là bà Bathilda?”

Cái bóng người lếch thếch đó gật đầu và lại ngoắc tay nữa.

Dưới tấm Áo khoác Tàng hình, Hermione và Harry nhìn nhau. Harry nhướn chân mày, Hermione sợ sệt gật nhẹ đầu.

Tụi nó bước về phía người đàn bà, và ngay lập tức, bà quay lưng lại và khập khiễng lê bước ngược trở lại con đường mà tụi nó vừa đi. Dẫn hai đứa đi qua nhiều ngôi nhà, bà quẹo vào một cái cổng. Tụi nó đi theo bà đến một lối đi dẫn vào cửa trước, xuyên qua một khu vườn rậm rạp gần bằng ngôi nhà hoang mà tụi nó vừa rời khỏi. Bà lóng ngóng với cái chìa khóa cửa trước một lúc, rồi mở cửa ra và đứng qua một bên cho tụi nó bước vào.

Bà hôi kinh khủng, hay có lẽ ngôi nhà của bà hôi; Harry nhăn mũi khi tụi nó khép nép đi ngang bà và cởi tấm Áo khoác Tàng hình ra. Giờ đây khi đã đứng cạnh bà, nó nhận ra bà mới nhỏ nhắn làm sao; tuổi tác khiến bà còng rạp xuống, cao chưa tới ngang ngực Harry. Bà đóng cửa lại sau lưng tụi nó, những mấu tay bà xanh lè và mốc meo lốm đốm nổi trên lớp sơn tróc, rồi bà quay lại và săm soi gương mặt Harry. Mắt bà dày vì bị cườm và lõm sâu giữa những nếp da nhăn lộ rõ và toàn bộ gương mặt của bà lấm chấm những vết rạn tĩnh mạch với mụn gan. Nó tự hỏi liệu bà có thể nhìn thấy nó không; mà cho dù bà có thấy, thì cái kẻ bà thấy chỉ là một gã Muggle trung niên đầu hói mà nó đang đội lốt giả danh.

Mùi của tuổi già, của bụi bặm, của quần áo không giặt giũ và đồ ăn thiu càng nồng hăng thêm khi bà tháo chiếc khăn quàng màu đen cũ nát, để trần một cái đầu tóc trắng lưa thưa lộ cả da đầu.

“Bà Bathilda?” Harry lại hỏi.

Bà gật đầu lần nữa. Harry bắt đầu nhận thấy cái mặt dây chuyền đang áp trên da nó, có cái gì bên trong đó thỉnh thoảng vẫn kêu tích tắc hay đập nhè nhẹ giờ đây đã thức dậy, Harry có thể cảm được nhịp đập của cái đó qua lớp vàng lạnh ngắt. Phải chăng cái đó biết, phải chăng cái đó cảm nhận được, rằng vũ khí tiêu diệt nó đang ở gần?

Bà Bathilda lê bước ngang qua tụi nó, đẩy Hermione qua một bên như thể bà không nhìn thấy cô bé, rồi bà biến vào một chỗ có vẻ là phòng khách.

“Harry à, mình không cảm thấy yên tâm về chuyện này,” Hermione thì thào.

“Nhìn thử tướng tá của bà ấy coi, mình nghĩ tụi mình dư sức khống chế nếu cần,” Harry nói. “Nghe nè, lẽ ra mình nên nói với bồ, mình biết bà ấy không hoàn toàn tỉnh táo. Bà Muriel nói bả 'khùng khùng'.”

“Lại đây!” Bà Bathilda gọi từ phòng bên cạnh.

Hermione giật mình níu lấy cánh tay Harry.

“Không sao đâu,” Harry nói giọng vỗ về, rồi nó dẫn đường đi vô phòng khách. Bà Bathilda đang lắc lư đi quanh phòng thắp nến, nhưng căn phòng vẫn còn rất tối, ấy là chưa nói nó cực kỳ dơ. Lớp bụi dày lạo xạo dưới chân hai đứa, và mũi Harry đánh hơi được, dưới cái mùi ẩm ướt mốc meo còn có mùi gì khác hôi hám hơn nữa, giống như mùi thịt thối. Nó tự hỏi lần cuối cùng có ai đó vào trong nhà bà Bathilda để coi bà sống chết ra sao là vào lúc nào. Bà dường như cũng quên rằng bà có thể làm pháp thuật, bởi vì bà thắp đèn vụng về bằng tay, cổ tay áo ren rua lòng thòng của bà cứ lăm le bắt lửa.

“Để cháu làm cho,” Harry đề nghị, và nó cầm lấy diêm quẹt từ tay bà. Bà đứng nhìn trong khi nó làm nốt việc thắp mấy mẩu nến cùn cắm trong mấy cái dĩa con có khắp phòng, đậu chông chênh trên những đống sách và trên mấy cái bàn con bừa bộn toàn tách mốc meo rạn nứt.

Chỗ đặt nến cuối cùng mà Harry đến thắp là trên một cái tủ ngăn kéo có mặt trước hình cánh cung, trên đó đặt rất nhiều bức hình. Khi ánh lửa bừng lên, ánh phản chiếu chờn vờn trên mặt kiếng và khung bạc đầy bụi của những tấm hình đó. Harry thấy vài cử động nhỏ trong những tấm hình. Trong lúc bà Bathilda lóng ngóng chụm củi trong lò sưởi, Harry hô “Lau sạch”. Bụi trên những bức hình biến mất, và nó thấy ngay lập tức đến nửa tá hình đã biến khỏi những cái khung lớn nhất và đẹp nhất. Nó tự hỏi bà Bathilda hay ai đã xóa những cái hình đó đi. Bỗng mắt nó bắt gặp một tấm hình gần phía cuối bộ sưu tập này, và nó chụp lấy ngay.

Đó là tên trộm tóc vàng có bộ mặt hí hửng, chàng trai trẻ đã ngồi chồm hỗm trên bệ cửa sổ nhà ông Gregorovitch, chàng ta đang uể oải mỉm cười với Harry trong cái khung hình bằng bạc. Và ngay lập tức Harry nhớ ra trước đây nó đã nhìn thấy chàng trai đó ở đâu: trong cuốn Chuyện Đời và Chuyện Xạo của Albus Dumbledore, tay quàng tay với cậu thiếu niên Dumbledore, và Harry nhận ra tất cả những tấm hình bị mất ở đây ắt phải ở đâu: trong cuốn sách của Rita.

“Thưa bà... cô... Bagshot?” Harry nói, giọng nó hơi run. “Người này là ai ạ?”

Bà Bathilda đang đứng giữa phòng nhìn Hermione đốt lò sưởi giùm bà.

“Thưa cô Bagshot?” Harry lặp lại, và nó cầm tấm hình bước tới, trong lúc ngọn lửa bùng lên trong lò sưởi. Bà Bathilda ngước lên khi nghe tiếng Harry, và cái Trường Sinh Linh Giá đập nhanh trên ngực nó.

“Người này là ai?” Harry đẩy tấm hình tới trước hỏi bà Bathilda. Bà nghiêm trang ngắm tấm hình, rồi ngước nhìn Harry.

“Bà có biết người này là ai không?” Nó hỏi lại, giọng lớn hơn và chậm hơn bình thường. “Người đàn ông này? Bà có biết ông ta không? Ông ấy tên gì?”

Bà Bathilda chỉ đứng đó, tỏ vẻ đãng trí. Harry cảm thấy nản lòng kinh khủng. Rita Skeeter đã làm cách nào để giải phóng được ký ức bà?

“Người này là ai?” Nó lớn tiếng hỏi lại.

“Harry, bồ đang làm gì vậy?” Hermione hỏi.

“Tấm hình này, Hermione à, là tên trộm đã đánh cắp của ông Gregorovitch! Bà làm ơn trả lời giùm!” Nó nói với bà Bathilda. “Ai đây?”

Nhưng bà chỉ im lặng nhìn Harry đăm đăm.

“Tại sao bà kêu tụi cháu đi theo bà, bà... cô... Bagshot?” Hermione hỏi, cũng lớn tiếng. “Bà cần nói điều gì với tụi cháu?”

Chẳng tỏ dấu hiệu gì là có nghe tiếng Hermione, bà Bathilda lại lê mấy bước khập khiễng đến gần Harry hơn. Kèm theo cái hất đầu bà ngó ra hành lang.

“Bà muốn tụi cháu đi ra à?” Harry hỏi.

Bà lặp lại động tác vừa rồi, lần này chỉ vào nó trước tiên rồi chỉ vào chính bà, rồi chỉ lên trần nhà.

“À, được... Hermione à, mình nghĩ bà muốn mình đi lên lầu với bà”

“Được thôi,” Hermione nói. “Tụi mình cứ đi.”

Nhưng khi Hermione động đậy, bà Bathilda lắc đầu dữ dội khiến tụi nó ngạc nhiên, rồi một lần nữa bà lại chỉ vào Harry rồi chỉ vào chính bà.

“Bà muốn mình đi với bà, một mình mình.”

“Tại sao?” Hermione hỏi, giọng cô bé vang lên sắc đanh và rành rọt trong căn phòng lập lòe ánh nến, bà già hơi lắc đầu khi nghe tiếng la lớn đó.

“Có lẽ thầy Dumbledore bảo bà đưa thanh gươm cho mình, chỉ đưa cho mình thôi?”

“Bồ có thực lòng nghĩ bà biết bồ là ai không?”

“Có,” Harry vừa nói vừa nhìn xuống đôi mắt đục lờ ngó chằm chằm vào mắt nó. “Mình nghĩ bà biết.”

“Vậy thì, được, nhưng mau mau lên nghe Harry.”

Harry nói với bà Bathilda, “Bà đi trước.”

Bà dường như hiểu, bởi vì bà khập khiễng đi vòng qua nó về phía cửa. Harry ngoái lại nhìn Hermione mỉm cười trấn an, nhưng nó không chắc Hermione nhìn thấy, cô bé đang đứng co ro khoanh hai tay ôm lấy mình giữa đám bụi được chiếu sáng bằng ánh nến, ngước nhìn lên kệ sách.

Khi ra khỏi phòng, nhân lúc Hermione và bà Bathilda không nhìn thấy, Harry tuồn tấm hình có cái khung bạc của tên trộm bí ẩn vô bên trong áo vét của nó.

Cầu thang dốc và hẹp, Harry suýt đưa tay nó ra đặt lên cái lưng bè bè của bà Bathilda để yên chí bà không té bật ngửa ra sau đè lên nó, mà chuyện đó coi bộ dễ xảy ra lắm.

Chậm chạp, thở khò khè, bà trèo lên tới đầu cầu thang, quẹo ngay qua bên phải, và dẫn nó vào một phòng ngủ trần thấp.

Căn phòng tối thui và hôi khủng khiếp: Harry chỉ kịp nhận ra một cái bô nước tiểu thò ra dưới gầm giường trước khi bà Bathilda đóng cửa lại và ngay sau đó nó bị bóng tối nuốt trọn.

“Thắp sáng,” Harry nói, và cây đũa phép của nó sáng lên. Nó giật mình: trong có mấy giây mà bà Bathilda đã đến sát bên nhưng nó lại không hề nghe tiếng bà đến gần.

“Mi là Potter?” Bà thì thầm.

“Dạ. Cháu đây.”

Bà gật đầu, chậm rãi và trang trọng. Harry cảm thấy cái Trường Sinh Linh Giá đang đập rất nhanh, nhanh hơn chính nhịp tim của nó; một cảm giác thật khích động, khó chịu.

“Bà có đưa gì cho cháu không?” Harry hỏi, nhưng bà cụ dường như bị cây đũa phép đang chiếu sáng của nó làm cho hoảng hốt.

“Bà có đưa gì cho cháu không?” Nó lặp lại.

Thế rồi bà Bathilda nhắm mắt lại và nhiều việc xảy ra cùng một lúc: cái thẹo của Harry nhói lên đau đớn; cái Trường Sinh Linh Giá co giật mạnh đến nỗi ngực áo len của Harry động đậy thực sự; căn phòng hôi hám tối đen biến đi trong chốc lát. Nó thấy một niềm vui sướng dâng lên và cất giọng the thé lạnh lùng, bảo: Giữ lấy nó!

Harry lắc lư tại chỗ: căn phòng hôi hám tối tăm dường như thít chặt quanh nó một lần nữa; nó không biết điều gì vừa xảy ra.

“Bà có đưa gì cho cháu không?” Nó hỏi lần thứ ba, giọng to hơn hẳn.

“Lại đây,” bà Bathilda thì thầm, chỉ vào một góc phòng. Harry giơ cây đũa phép lên cao và thấy đường nét lờ mờ của một cái bàn trang điểm bừa bộn bên dưới tấm màn cửa sổ. Lần này bà không dẫn đường Harry nữa. Nó lách đi giữa bà và cái giường xộc xệch, cây đũa phép giơ cao. Nó không muốn rời mắt khỏi bà.

“Cái gì hở bà?” Nó hỏi khi tới bên cái bàn trang điểm chất cao nghệu một đống những thứ bốc mùi và trông giống như áo quần chưa giặt.

“Ở đó,” bà Bathilda nói, chỉ vào cái đống không hình thù. Và ngay khi nó vừa rời mắt khỏi bà, đảo mắt rà tìm trong đống hỗn độn một chuôi gươm, một viên hồng ngọc, thì bà Bathilda chuyển động một cách kỳ lạ: nó nhìn thấy điều đó qua khóe mắt; nỗi kinh hoảng khiến nó quay phắt lại và nỗi sợ hãi khiến nó tê liệt khi thấy cơ thể già nua của bà sụm xuống và một con mãng xà vọt ra từ cái chỗ trước đó là cần cổ của bà.

Con rắn lao tới tấn công ngay khi Harry giơ cây đũa phép lên: cú mổ mạnh vào cánh tay nó khiến cây đũa phép văng lên trần nhà; ánh sáng phát từ cây đũa chờn vờn đến chóng mặt khắp phòng rồi tắt ngúm; sau đó cái đuôi rắn đập một cú cực mạnh vào giữa be sườn khiến Harry đứt hơi: nó ngã ngửa lên cái bàn trang điểm, té vô đống quần áo dơ hầy...

Nó lăn tròn qua một bên, né được trong đường tơ kẽ tóc cái đuôi con rắn đang quật xuống cái bàn chỗ nó vừa nằm một giây trước đó. Tấm kiếng lót mặt bàn bể vụn rớt như mưa rào xuống Harry khi nó chạm tới sàn. Nó nghe tiếng Hermione gọi từ nhà dưới, “Harry?”

Nó không sao lấy được đủ hơi vào phổi để gọi lại: thình lình một khối trơn nhẵn đè nó xuống sàn và nó cảm thấy cái khối đó trườn qua người nó, mạnh bạo, lực lưỡng...

“Không!” Nó bị kẹp chặt xuống sàn, há hốc, thở hổn hển.

“Có,” một giọng thì thào, “Cóoo... giữ lấy mi... giữ lấy mi...”

“Đũa phép lại đây...”

Nhưng chẳng có gì xảy ra và nó phải dùng cả hai tay để gắng sức đẩy con rắn ra trong khi con rắn quấn quanh thân hình nó, vắt kiệt không khí khỏi người nó, ép mạnh cái Trường Sinh Linh Giá vào ngực nó, một vòng tròn băng giá phập phồng đầy sức sống, chỉ cách trái tim hoảng loạn của nó có mấy phân, và đầu óc nó chìm ngập trong ánh sáng trắng toát lạnh buốt, tất cả suy nghĩ đều mù mịt, hơi thở của chính nó bị dìm tắt, tiếng bước chân xa xa, mọi việc vẫn tiếp diễn...

Một trái tim kim loại đang dộng ình ình bên ngoài buồng ngực nó, và giờ đây nó đang bay, bay với trái tim đắc thắng, không cần chổi hay vong mã...

Harry đột ngột bừng tỉnh trong bóng tối bốc mùi chua loét; con rắn Nagini đã thả nó ra. Nó lồm cồm bò dậy và thấy hình thù con rắn nổi trên nền ánh sáng đầu cầu thang: con rắn lao tới và Hermione nhào qua một bên kèm theo một tiếng ré; lời nguyền không trúng mục tiêu của cô bé mà lại trúng vào khuôn cửa sổ có màn che khiến nó tan nát. Không khí lạnh buốt tràn vào phòng khi Harry hụp xuống để tránh một trận mưa rào miểng kiếng nữa, và chân nó trượt trên cái gì giống như cây viết chì... cây đũa phép của nó...

Harry cúi xuống và chụp lấy cây đũa phép, nhưng giờ đây con rắn đã chiếm ngự căn phòng, đuôi nó quật đập, chẳng còn thấy Hermione đâu nữa và trong một thoáng Harry nghĩ đến điều tệ hại nhất, nhưng chợt vang lên một tiếng nổ đùng thật to, một ánh sáng đỏ nháng lên, và con rắn bay véo lên không trung, đập mạnh vào mặt Harry trong lúc văng lên, cuộn mình ngoằn ngoèo vươn tới tận trần nhà. Harry giơ cao cây đũa phép, nhưng khi nó làm vậy, cái thẹo của nó nhói lên nhức buốt, đau đớn hơn thảy mọi cơn đau trong suốt những năm qua.

“Hắn đang đến! Hermione, hắn đang đến!”

Trong lúc nó hét lên, con rắn rớt xuống, rít lên điên cuồng. Mọi thứ hỗn loạn: con rắn đè sập những kệ tủ gắn trên tường, đồ sứ bể vụn bay tán loạn và Harry nhảy lên giường chụp cái khối đen đen mà nó biết là Hermione...

Hermione ré lên đau đớn khi nó kéo cô bé băng ngang cái giường: con rắn lại chồm lên, nhưng Harry biết cái đáng sợ hơn cả con rắn đang đến, và có lẽ đã tới cổng rồi, đầu nó đang sắp tét ra vì cơn đau của cái thẹo...

Con rắn nhào theo khi Harry bật chạy, kéo theo Hermione; con vật lao đến tấn công, Hermione gào to “Nổ!” và thần chú của cô bé vang khắp phòng, làm nổ tan tành tấm kiếng của tủ quần áo và nẩy bật lại về phía tụi nó, dội từ sàn lên tới trần nhà; Harry cảm nhận được sức nóng của vụ nổ đốt quéo mu bàn tay nó. Miểng kiếng cắt vào má nó khi nó xốc Hermione nhảy từ cái giường gãy qua cái bàn trang điểm cũng đã gãy để rồi nhảy qua cái cửa sổ bể tanh banh và rơi vào cõi không, tiếng gào của Hermione vang dội trong đêm khi tụi nó quay tít giữa không trung...

Thế rồi cái thẹo của nó vụt mở ra và nó là Voldemort, đang chạy ngang qua căn phòng ngủ hôi hám, hai bàn tay dài trắng bệch bấu chặt bệ cửa sổ khi thoáng thấy bóng gã đàn ông trung niên hói đầu cùng người đàn bà nhỏ nhắn xoay tít và biến mất. Hắn rú lên tức giận, tiếng rú hòa lẫn với tiếng gào của cô gái, vang vọng qua những khu vườn tối đen, to hơn cả tiếng chuông nhà thờ đang đổ mừng ngày Giáng sinh...

Và tiếng rú của hắn cũng là tiếng rú của Harry, cơn đau của hắn cũng là cơn đau của Harry... điều đó có thể xảy ra ở đây, nơi điều đó trước kia từng xảy ra... ở đây, có thể nhìn thấy ngôi nhà đó, nơi hắn từng cận kề cái chết để biết chết là gì... chết... cơn đau thật khủng khiếp... xé toạc thân thể hắn... nhưng nếu hắn không có thân thể, sao cái đầu hắn lại đau khủng khiếp thế này, nếu hắn đã chết, sao hắn lại thấy lạnh quá sức chịu đựng thế này, chẳng phải chết rồi thì cũng hết đau sao, chẳng phải...

Cái đêm ẩm ướt và gió lộng này, hai đứa trẻ mặc đồ như trái bí rợ đang lạch bạch đi ngang qua quảng trường và cửa tiệm giăng đầy nhền nhện giấy, tất cả những trò Muggle hào nhoáng của cái thế giới mà họ không hề tin... Và khi hắn lướt dọc con đường, cái cảm giác về mục tiêu, quyền lực và công bằng nổi lên trong hắn, cái cảm giác mà hắn luôn luôn có vào những dịp này... không phải cơn tức giận... cái đó chỉ dành cho những linh hồn yếu đuối hơn hắn... mà là sự đắc thắng, phải... Hắn đã chờ đợi dịp này, hắn đã hy vọng có dịp này...

“Hóa trang hay lắm, thưa ông!”

Hắn thấy nụ cười của thằng nhóc sượng đi khi nó chạy lại đủ gần để nhìn vào dưới lớp áo choàng và nón trùm đầu, hắn thấy nỗi khiếp sợ bao phủ gương mặt hóa trang của thằng bé: rồi thằng bé quay đi, bỏ chạy... Bên dưới tấm áo chùng hắn đã chạm ngón tay vào chuôi cây đũa phép... Một động tác đơn giản và thằng bé sẽ không bao giờ chạy được tới má nó... nhưng không cần thiết, hoàn toàn không cần thiết...

Rồi hắn đi dọc theo một con đường mới và tối hơn, giờ đây mục tiêu của hắn cuối cùng đã hiện ra trong tầm mắt, bùa Trung thành đã mất hiệu lực, mặc dù người trong cuộc vẫn chưa biết... Và hắn khẽ khàng còn hơn cả những chiếc lá chết vất vưởng dọc lề đường khi co mình xuống ngang bằng hàng giậu tôi tối, và chăm chú nhìn qua bờ giậu...

Người trong nhà đã kéo màn cửa lên; hắn thấy họ rất rõ trong phòng khách nhà họ, người đàn ông cao tóc đen đeo kiếng đang tạo ra những cuộn bông khói màu sắc phụt ra từ cây đũa phép của mình để mua vui cho đứa con trai nhỏ tóc đen mặc bộ đồ ngủ màu xanh lam. Đứa nhỏ đang cười và cố bắt cụm khói, nắm chặt khói trong nắm tay nhỏ xíu...

Một cánh cửa mở ra và người mẹ bước vào, nói gì đó hắn không thể nghe được, mái tóc dài màu đỏ sậm của cô xõa trên khuôn mặt. Bấy giờ người cha bèn bế bổng đứa con lên và đưa nó cho người mẹ. Ông liệng cây đũa phép lên ghế nệm dài và duỗi người ra, ngáp...

Cánh cổng rít lên khe khẽ khi hắn đẩy nó mở ra, nhưng ông James Potter không nghe thấy. Bàn tay trắng của hắn rút cây đũa phép ra từ bên dưới tấm áo khoác và chĩa vào cánh cửa trước, khiến nó mở tung.

Hắn đã đứng ngay ngưỡng cửa khi James phóng ra tới hành lang. Thật dễ dàng, quá dễ dàng, ông ta thậm chí không cầm theo cây đũa phép...

“Lily, đưa Harry đi! Hắn đến! Đi đi! Chạy đi! Anh sẽ cầm chân hắn!”

Cầm chân hắn à, trong khi tay không đũa phép!... Hắn cười dòn trước khi phát ra lời nguyền...

“Avada Kedavra!”

Ánh sáng xanh lè chói đầy hành lang chật chội, rọi sáng cái xe trẻ con được đẩy sát tường, ánh sáng xanh lè đó khiến cho lan can cầu thang sáng chói lên như những tia chớp, và James Potter gục xuống như một con rối bị cắt đứt dây...

Hắn nghe tiếng người mẹ gào rú trên tầng lầu, như sập bẫy, nhưng miễn là cô ta biết điều thì phần cô ta, ít nhất, cũng không việc gì phải sợ... Hắn leo lên cầu thang, lắng nghe với chút khoái trá cái cố gắng của người mẹ tự dựng chướng ngại vật để che chắn cho mình... mà cô ta cũng không có cả đũa phép... họ ngu gì đâu, cả tin gì đâu, tưởng đâu sự an toàn của mình là nhờ vào bạn bè, tưởng đâu vũ khí nhiều khi cũng có thể bỏ qua một bên...

Chỉ bằng một cái vẫy cây đũa phép uể oải, hắn tông cửa mở ra, gạt qua một bên cái ghế cùng mấy cái hộp chồng chất lên để tấn cánh cửa... và kia, người mẹ đứng đó, bồng trong tay đứa con. Khi thấy hắn, cô đặt đứa con trai vào trong cái nôi sau lưng và giang rộng cánh tay ra, như thể làm vậy thì cứu được, như thể khi che chắn cho đứa con để hắn không nhìn thấy, cô hy vọng hắn sẽ chọn tấn công cô thay vì...

“Đừng giết Harry, đừng giết Harry, xin làm ơn đừng giết Harry!”

“Tránh ra, con ngốc... Tránh ra, mau!”

“Đừng giết Harry, làm ơn đừng, cứ giết tôi, hãy giết tôi thay cho...”

“Đây là cảnh cáo cuối cùng của ta...”

“Đừng giết Harry! Làm ơn... tội nghiệp... tội nghiệp... Đừng giết Harry! Đừng giết Harry! Làm ơn... tôi sẽ làm bất cứ điều gì...”

“Tránh ra. Tránh ra con ngốc!”

Hắn có thể đẩy người mẹ ra khỏi cái nôi, nhưng giết hết cả lũ có lẽ khôn ngoan hơn...

Ánh sáng xanh lè nháng lên khắp phòng và người mẹ gục xuống hệt như chồng cô. Lúc này đứa bé chưa khóc. Nó đứng lên được, bám vào những chấn song của cái nôi, và ngước nhìn gương mặt của kẻ đột nhập với vẻ thích thú tươi sáng, có lẽ tưởng là cha nó đang núp dưới lớp áo choàng tạo ra thêm nhiều ánh sáng đẹp đẽ và mẹ nó sẽ chồm dậy tức thì, cười vang...

Hắn cẩn thận chĩa cây đũa phép vào giữa mặt đứa nhỏ: hắn muốn thấy điều đó xảy ra, sự tiêu diệt kẻ này, mối nguy hiểm không thể giải thích được. Đứa nhỏ bắt đầu khóc: nó đã nhận ra hắn không phải là ba James. Hắn không thích đứa nhỏ khóc lóc, hắn chưa bao giờ chịu đựng nổi những đứa nhỏ khóc èo ẹo ở cô nhi viện...

“Avada Kedavra!”

Và rồi hắn tan nát. Hắn không còn là gì cả, không gì cả ngoài nỗi đau đớn và hãi hùng, và hắn phải tự trốn đi, không phải trong đống nát vụn của ngôi nhà tan tành, nơi đứa nhỏ bị kẹt trong đó đang khóc lóc, mà trốn đi xa... xa thật xa...

“Không.” Nó rên rỉ.

Con rắn bò sột soạt trên nền nhà ngổn ngang nhớp nhúa, và hắn đã giết đứa nhỏ, vậy mà hắn lại là đứa nhỏ...

“Không...”

Và giờ đây hắn đứng bên khung cửa sổ tan hoang của nhà bà Bathilda, chìm đắm trong ký ức về thất bại lớn nhất của mình, và dưới chân hắn con mãng xà đang trườn qua những miểng kiếng và miểng sành sứ... hắn nhìn xuống và thấy cái gì đó... cái gì đó không thể nào tin được...

“Không...”

“Harry, yên rồi, bồ không sao hết!”

Hắn cúi xuống và lượm lên tấm hình nhỏ. Chính gã đây, tên trộm bí mật, tên trộm mà hắn đang tìm...

“Không... Mình làm rớt nó... mình làm rớt nó...”

“Harry, yên rồi, tỉnh dậy đi, tỉnh dậy!”

Nó là Harry... Harry, không phải Voldemort... và cái đang lào xào không phải là một con rắn... Nó mở mắt ra.

“Harry,” Hermione thì thầm. “Bồ cảm thấy... khỏe không?”

“Khỏe,” nó nói dối. Nó đang nằm trong lều, trên cái giường tầng dưới, bên trên một đống mền. Nó có thể thấy trời gần rạng sáng nhờ sự yên tĩnh và ánh sáng nhàn nhạt lạnh giá bên ngoài nóc lều. Nó đã toát mồ hôi; nó cảm thấy mồ hôi nó thấm ướt cả mền và vải trải giường.

“Tụi mình thoát rồi.”

“Ừ,” Hermione nói. “Mình phải dùng thần chú Nhấc bổng mới đem bồ lên giường được. Mình không khiêng nổi bồ. Bồ đã... Ừ, bồ không hoàn toàn...”

Có vết thâm tím dưới đôi mắt nâu của Hermione và Harry nhận thấy trong tay cô bé có một miếng bọt biển: Hermione lau mặt cho nó nãy giờ.

“Bồ bệnh nặng lắm,” Hermione nói nốt. “Bệnh nặng lắm.”

“Tụi mình ra khỏi chỗ đó bao lâu rồi?”

“Mấy tiếng đồng hồ. Trời gần sáng rồi.”

“Và mình đã... sao, bất tỉnh hả?”

“Không hẳn,” Hermione nói vẻ không thoải mái lắm. “Bồ gào thét, rên rỉ, và... đại khái vậy,” cô bé nói thêm bằng cái giọng khiến Harry cảm thấy khó chịu. Nó đã làm gì? Quát thét nguyền rủa như Voldemort, hay kêu khóc như đứa nhỏ trong nôi?

“Mình không sao lấy được cái Trường Sinh Linh Giá ra khỏi bồ,” Hermione nói, và nó biết cô bé muốn thay đổi đề tài. “Nó bám chặt, dính vô ngực bồ. Bồ bị hằn một cái dấu, mình rất tiếc, mình phải dùng tới bùa Tùng Xẻo để lấy nó ra. Con rắn cũng cắn trúng bồ, nhưng mình đã rửa sạch vết thương và đã bôi dầu bạch tiễn lên vết thương...”

Harry cởi cái áo thun nó đang mặc ra và ngó xuống. Có một hình bầu dục màu đỏ tươi bên trên trái tim, ngay chỗ cái mặt dây chuyền đã thiêu đốt nó. Nó cũng thấy những dấu răng đã lành một nửa trên cánh tay nó.

“Bồ để cái Trường Sinh Linh Giá ở đâu?”

“Trong túi xách của mình. Mình nghĩ tụi mình nên tránh đeo nó một thời gian.”

Harry ngả lưng xuống gối và nhìn gương mặt xám ngoét quầng thâm của Hermione.

“Lẽ ra tụi mình đừng đi tới Thung lũng Godric. Lỗi tại mình, lỗi tại mình hết, Hermione à, mình xin lỗi.”

“Đâu phải lỗi ở bồ. Mình cũng muốn đi mà. Mình thiệt tình nghĩ là thầy Dumbledore có thể đã để thanh gươm ở đó cho bồ.”

“Ừ, thôi... Tụi mình đã tính sai, há?”

“Chuyện gì đã xảy ra vậy, Harry? Chuyện gì đã xảy ra khi bà ấy đưa bồ lên lầu vậy? Có phải con rắn đã núp ở đâu đó không? Có phải nó đã phóng ngay ra giết bà ấy và tấn công bồ không?”

“Không,” Harry nói. “Bà ấy là con rắn... hay con rắn là bà ấy... ngay từ đầu.”

“Cái... cái gì?”

Nó nhắm mắt lại. Nó như vẫn còn ngửi được mùi hôi thối trong căn nhà của bà Bathilda. Cái mùi đó khiến cho toàn bộ câu chuyện trở nên sống động một cách ghê rợn.

“Bà Bathilda ắt là đã chết ít lâu rồi. Con rắn đã... đã nhập vô bà ấy. Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó đã đặt con rắn ở Thung lũng Godric để đợi. Bồ đã đoán đúng. Hắn biết mình sẽ trở về đây.”

“Con rắn nhập vô bà ấy sao?”

Harry lại mở mắt ra. Hermione tỏ vẻ tởm lợm, muốn ói.

“Thầy Lupin nói có những pháp thuật mà tụi mình không bao giờ hình dung được,” Harry nói. “Bà ấy đã không muốn nói chuyện trước mặt bồ, bởi vì đó là Xà ngữ, bà ấy toàn nói Xà ngữ, và mình đã không nhận ra, nhưng dĩ nhiên mình hiểu được. Khi mình và bà ấy đã lên lầu rồi, con mãng xà thông báo cho Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó, mình nghe chuyện đó trong đầu mình, mình cảm thấy hào hứng, mình bảo nó giữ lấy mình ở đó... và sau đó...”

Nó nhớ con mãng xà vọt ra từ cổ bà Bathilda: Hermione không cần thiết phải biết chi tiết.

“... bà ấy biến đổi, biến đổi từ từ thành con rắn, và tấn công.”

Nó nhìn xuống vết rắn cắn.

“Nó không có nhiệm vụ giết mình, chỉ giữ mình ở đó cho đến khi Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó tới.”

Giá mà nó tìm cách giết được con rắn, đáng ra phải như vậy, tất cả chuyện đó... nặng chịch trong lòng, nó ngồi dậy, hất chăn mền ra.

“Không được, Harry. Mình chắc chắn là bồ cần nghỉ ngơi.”

“Bồ mới là người cần ngủ. Đừng giận, nhưng ngó bồ thê thảm lắm. Mình khỏe. Mình sẽ giữ phiên gác một lát. Cây đũa phép của mình đâu rồi?”

Hermione không trả lời, cô bé chỉ nhìn Harry.

“Cây đũa phép của mình đâu, Hermione?”

Cô bé cắn môi, nước mắt ứa đầy mi. “Harry à...”

“Cây đũa phép của mình đâu?”

Hermione vói xuống bên cạnh giường và cầm lên đưa cho Harry. Cây đũa phép làm bằng lông phượng hoàng và gỗ cây nhựa ruồi gần như gãy ra làm đôi. Một sợi lông phượng hoàng mong manh giữ cho hai đoạn dính toòng teng với nhau. Phần gỗ thì đã tét hoàn toàn. Harry cầm cây đũa trong tay như thể cầm một sinh vật đang bị thương trầm trọng. Nó không thể nào nghĩ cho ra lẽ: mọi thứ nhòa đi trong hoảng hốt và sợ hãi. Rồi nó đưa cây đũa phép cho Hermione.

“Bồ làm ơn chữa cho nó lành lặn giùm.”

“Harry à, mình không nghĩ là... một khi nó đã gãy như vầy...”

“Làm ơn mà, Hermione, cứ thử đi!”

“Ch... chữa lành.”

Nửa toòng teng của cây đũa phép tự liền lại. Harry cầm đũa lên.

“Thắp sáng!”

Cây đũa phép xẹt lửa yếu ớt, rồi tắt ngóm. Harry chĩa vào Hermione.

“Giải giới!”

Cây đũa phép của Hermione khẽ giật một cái, nhưng vẫn không rời khỏi tay cô bé. Nỗ lực pháp thuật yếu ớt đó vượt quá sức cây đũa phép của Harry, nên nó lại gãy lặc lìa làm đôi. Harry đăm đăm nhìn cây đũa phép, kinh hoàng, không thể nào tin được điều nó thấy... cây đũa phép đã tồn tại qua bao phen...

“Harry à,” Hermione thì thầm khẽ đến nỗi Harry khó mà nghe được. “Mình rất, rất tiếc. Mình nghĩ đó là lỗi của mình. Bồ biết, khi tụi mình thoát ra, con mãng xà lao tới tụi mình, cho nên mình phát lời nguyền Nổ tung, và nó dội lại tứ phía, chắc là... chắc là nó đã trúng...”

“Chuyện đó là tai nạn mà,” Harry nói một cách máy móc. Nó cảm thấy trống rỗng, thẫn thờ. “Tụi mình sẽ... tụi mình sẽ... tìm cách chữa lại nó.”

“Harry à, mình không nghĩ tụi mình có thể làm được vậy đâu,” Hermione nói, nước mắt nhỏ giọt xuống má. “Nhớ... Nhớ Ron không? Hồi nó bị gãy cây đũa phép, hồi chiếc xe hơi rớt đó? Cây đũa chẳng bao giờ được như trước nữa, nó phải sắm cây đũa phép mới.”

Harry nghĩ đến ông Ollivander đã bị Voldemort bắt cóc và giam cầm; nó nghĩ đến ông Gregorovitch, đã chết. Làm sao nó có thể tìm được cho mình một cây đũa phép mới đây?

“Thôi,” nó nói, bằng cái giọng đành-chấp-nhận-thực-tế không được thật thà cho lắm. “Thôi, mình sẽ mượn đỡ cây đũa phép của bồ lúc này vậy. Trong lúc mình trực gác.”

Gương mặt Hermione nhòe nhoẹt nước mắt, cô bé đưa cây đũa phép của mình ra, và Harry bỏ mặc Hermione ngồi lại bên giường nó, chẳng mong muốn gì hơn là tránh xa khỏi cô nàng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro