1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ta cảm thấy, cho dù Vân Dục phái một trăm người đến lấy đao đâm ta thành tổ ong, để đổi lấy những lời này ta vẫn thấy đáng.

Tuy rằng hiện tại, ta chỉ có thể nói với Liễu Đồng Ỷ một câu, “Đa tạ.”

Ta được một tấc lại tiến lên một thước, hỏi, “Vậy ngài có nghĩ rằng, bản vương tiếp cận ngài, là có mục đích không?”

Mặt Liễu Đồng Ỷ hơi đình lại, ta cười khổ, “Có lẽ ngài đừng trả lời.”

Thế là y không đáp, chỉ là, chốc lát sau, ta nghe một tiếng thở dài rất khẽ.

Trong lòng bản vương có ngàn loại tư vị cuồn cuộn không dứt, không tự chủ được mà rằng, “Ngài tin cũng được, không tin cũng được, bản vương muốn nói với ngài rằng, đối với ngài, không hề có dụng ý gì.”

Nói ra xong, ta cũng tự thấy buồn cười, “Không, câu vừa rồi là giả, phải nói rằng, toàn bộ đều có dụng ý.”

Ta tìm đến ánh mắt của Liễu Đồng Ỷ, “Nhiên Tư, thật ra, ta thích ngài.”

22

Nói ra rồi, ta lại bồi thêm, “Ta, chỉ muốn nói cho ngài biết. Ngài không cần phải đáp lời.” Nhiên Tư sẽ nói gì với ta, hẳn ta cũng đoán được phần nào.

Liễu Đồng Ỷ nhìn ta không chớp mắt, thần sắc bỗng như có phần hoang mang, lát sau, y nói, “Ừm.”

Ta không ngờ mình có thể nói ra, nói thì cũng nói rồi, có lẽ giờ phút này vậy mà lại hay, cuối cùng ông trời hoặc chính ta đã cho ta một cơ hội, ta vốn nghĩ là cả đời sẽ không nói ra. Nói rồi trái lại cảm thấy rất bình thản.

Ta bèn đơn giản thổ lộ ra hết, “Liễu thừa tướng không phải lo, khó có một ngày ta nói hết được những gì thật sự trong lòng, nên mới nói ra như vậy. Ta biết ngài là người đoan chính, loại đoạn tụ mê muội này không phải là chuyện hay hớm gì, những gì ta nói với ngài, hẳn sẽ khiến trong lòng ngài không vui. Thật sự rất xin lỗi. Ta cũng không biết, tại sao ta lại rất thích Nhiên Tư, cho đến giờ, ta vẫn không thể buông tay được. Vừa rồi nói hết với ngài, ta có hơi hối tiếc, ra khỏi chỗ này rồi, Nhiên Tư sẽ quên hết thảy mọi chuyện. Nếu như về sau ngài tránh xa ta, không lai vãng nữa, âu cũng là chuyện theo lý phải làm.”

Lúc nói ta vẫn nhìn mặt hồ, nói xong cũng chỉ nhìn nước, nhìn mãi không thôi.

Liễu Đồng Ỷ bên cạnh tỏ ra cực kỳ bình tĩnh, trái tim ta thấp thỏm trồi sụt liên hồi, chờ rồi lại đợi, một lát sau, mới nghe y mở miệng nói, “Ừm.”

Sau đó toàn bộ lặng câm.

Ta không dằn được mà nhìn y, y cũng nhìn ta.

Ta lại nhẫn, nhẫn không được nữa mới bảo, “Nhiên Tư… ngài, có gì, muốn nói với ta không?”

Liễu Đồng Ỷ nhướn mày đáp, “Tương Vương đã nhớ chốn Vu Sơn, cần gì trong mộng nhắc Giang Nam?” (*)

Ta cười khổ, “Liễu thừa tướng yên tâm, từ nay về sau, ta không bao giờ nhắc lại chuyện này nữa.”

Liễu Đồng Ỷ nói, “Giờ đã không còn sớm, thần sợ ở lâu sẽ quấy rầy vương gia nghỉ ngơi, xin cáo từ trước.”

Hơi nước của hồ ngấm vào trong nếp áo, khí lạnh len lỏi vào tim.

Ta nói, “Được, ta tiễn ngài.”

Ta và Liễu Đồng Ỷ ra khỏi thủy tạ thì trời đã về chiều, ráng đỏ lấp nửa bầu trời, nhuộm hồ một màu hoàng hôn, đến chỗ để cơ quan thu cầu trong đình, ta dời hạc đá, cầu nổi lại oàm oạp nối với bờ.

Ta nói với Liễu Đồng Ỷ, “Nhiên Tư…”

Liễu Đồng Ỷ quay đầu dừng bước, ta cười cười nói, “Ngài yên tâm, sau khi ra khỏi đây rồi, ta sẽ không bao giờ gọi nữa.”

Thần sắc Liễu Đồng Ỷ biến đổi, tựa như muốn nói gì rồi lại thôi.

Nửa đêm, ta ngồi ngoài cửa phòng, nhìn trăng đơn sao lạnh, không ngủ được.

Tiếng bước chân của Sở Tầm phía sau có lại như không, không lại như có, từ tốn tiến đến cạnh ta, “Vương gia, đêm khuya sương dày, sớm nghỉ ngơi đi.”

Ta bằng lòng quay về phòng cùng hắn, đặt người xuống rồi, nhưng khó lòng ngủ được.

Sở Tầm đột nhiên nói khẽ bên tai ta, “Vương gia… tôi muốn quay về Mộ Mộ quán.”

Ta nghiêng người, nắm lấy tay hắn trong chăn, “A Mịch không muốn theo bản vương sao?”

Sở Tầm đáp, “Tôi ở lại không giúp được gì cho vương gia, còn gây thêm phiền phức.”

Ta nhíu mày, “Ai nói?”

Sở Tầm không đáp. Nhưng quay về Mộ Mộ quán, đối với hắn cũng là chuyện tốt.

Thế nên ta thở dài bảo, “Chờ đến ngày mai, ăn điểm tâm xong, ta sai người đưa ngươi về.”

Sở Tầm thấp giọng, “Tạ ơn vương gia.”

Sáng hôm sau, Sở Tầm về Mộ Mộ quán, chiếc giường mới được lấp đầy trong chốc lát lại trống rỗng, ta cảm thấy ngực mình cũng trống rỗng.

Vài hôm sau, Vân Dục mời ta đến Nguyệt Hoa các uống rượu, lần này chỉ ở trong một tiểu viện rất yên tĩnh, ta và hắn hai người ngồi dưới hành lang, Vân Dục bảo, “Nhìn sắc mặt vương gia, rất sầu não, lẽ nào gần đây có chuyện không như ý?”

Ta nâng chén rượu, “Bản vương đang cười mà Vân đại phu có thể nhìn thấy sầu não trên mặt ta, sau này cho dù là hình bộ Đại Lý Tự hay thầy tướng số ven đường, Vân đại phu đều có thể làm tốt.”

Vân Dục lắc đầu, “Khen nhầm khen nhầm rồi, cũng do hiện giờ không có cái gương, vương gia mới không nhìn thấy mặt của mình.” Hắn xoay chén rượu, cười mập mờ, “Nghe nói hai hôm trước Sở Tầm về Mộ Mộ quán, Sở Tầm không phải là người dễ giận. Có phải vương gia ngài đã làm gì tổn thương trái tim người ta không vậy?”

Ta nhấn nhấn mi tâm, buông chén, “Vân đại phu, ngài nghe được chuyện ruồi bâu kiến đậu gì ở trên phố, cứ nói hết thẳng ra xem nào.”

Vân Dục nhấp rượu, cười vang, “Cũng không có gì, chỉ là gần đây nghe đồn vương gia lại sanh chuyện đa tình, chuyển sang yêu Liễu thừa tướng, vứt bỏ Sở Tầm công tử không để ý đến nữa. Thần vốn cho là tin vịt, nhưng hôm nay nhìn thấy biểu tình của vương gia, đầu mày khóe miệng đều nhuốm màu ái hận tình sầu, nên lại phải phỏng đoán một phen, cố tình dọ hỏi, quả có hơi thọc mạch, xin vương gia chớ trách.”

Ta vốn đã đoán được Vân Dục biết chuyện Sở Tầm về Mộ Mộ quán đã lâu, chuyện Nhiên Tư hôm đó đến nhà, ta dẫn y ra thủy tạ, sợ rằng Vân Dục cũng biết, không mở miệng ra hỏi một câu, mới không phải là tác phong của Vân Dục.

Ta bèn giả bộ lơ đãng đáp, “Liễu thừa tướng đến phủ Hoài Vương, cũng chỉ là chuyện thăm hỏi hết sức bình thường. Có điều chuyện Sở Tầm đột nhiên về Mộ Mộ quán, thực sự không vì cái gì cả. Đã mấy ngày rồi không gặp hắn, ai da.”

Vân Dục nói, “Sở Tầm không phải người hay để bụng, vương gia đến tìm hắn, trò chuyện xong chắc cũng chẳng có gì nữa đâu.” Cầm chén rượu trong tay lên xoay xoay, “Chuyện dỗ ngọt người khác, không phải là sở trường của vương gia sao?”

Ta đáp tỉnh như ruồi, “Đa tạ Vân đại phu khích lệ, nhưng câu cuối của ngài ta nhất định làm không nổi đâu. Lại nói, chắc Vân đại phu đã nguôi giận nên mới rủ ta đi ăn. Hôm trước ở Nguyệt Hoa các, ta thật không biết đã nói câu nào chọc giận ngài, khiến sắc mặt ngài không ổn. Phải chăng có câu nào của bản vương đã phạm phải kiêng kỵ của ngài sao?”

Nét mặt của Vân Dục đơ lại một chút, mới thản nhiên bảo, “À, vương gia không nói thì thần cũng quên mất. Hôm ấy thần có chút chuyện phiền lòng, nên mới hơi thất lễ trước mặt vương gia, xin ngài thứ lỗi.”

Ta đáp nhanh, “Không sao không sao, chỉ là thuận miệng nhắc lại thôi.”

Ta nhắc nhở chuyện này, mục đích là để chặn miệng Vân Dục, nhân cơ hội chuyển đề tài, nói chuyện khác, chừng được nửa bình rượu, ta nửa vờ nửa vịt hỏi Vân Dục, “Bản vương đã mấy ngày không vào cung, không biết trong triều gần đây ra sao?”

Vân Dục cau mày, “Không có gì, bề ngoài thì trông rất bình yên, chỉ là, hoàng thượng, tám chín phần đã biết chuyện gì đó, nên có phòng bị.” Vân Dục nhìn ta chăm chăm, “Hoàng thượng lâu rồi không cho triệu vương gia phải không?”

Ta lắc đầu, “Không có.”

Khải Giả gần đây im hơi lặng tiếng, từ sau hôm ta thành khẩn khuyên can ở phủ Hoài Vương, thì không bị triệu đến ngự tiền nữa.

Trái lại lòng ta lại bắt đầu thấp tha thấp thỏm, không biết chỗ hoàng thượng thật ra đang dự định chuyện gì.

Ta lại nói tiếp, “Phòng bị dĩ nhiên phải có, trong kế hoạch của chúng ta đã dự trù điểm này, nhưng trong tay bọn họ hẳn không có chứng cứ thực tế, gần đây các võ tướng đại thần cũng không có điều động gì, chỉ cần qua tháng năm, đại cục cơ bản đã định rồi, cho dù biết, cũng chẳng làm gì được.”

Vân Dục cau mày, “Chắc vậy.” Hắn châm rượu, “Có điều, gia phụ vừa nghe một tin, mấy ngày tới hoàng thượng có thể cho triệu Hoài Vương điện hạ và các vị vương gia khác tiến cung nghị sự. Không biết có dụng ý gì?”

Tin tức này khiến ta ngạc nhiên, ta và các vị vương huynh khác luôn bị thái hậu phòng bị rất gắt, ngoài ra còn đề phòng bọn ta gắn thành một mạch với nhau, thường làm mấy chuyện phân biệt đối xử, ngoại trừ mùng một hằng năm với các sự kiện long trọng cần có mặt ra, bản vương với mấy người kia rất hiếm khi cùng nhau thương nghị việc triều chính. Nếu tin này là thật, thì dụng ý của Khải Giả quả thực rất khó đoán.

Ta đáp, “Việc này chỉ có đi thì mới biết được.”

Vân Dục nhìn thoáng qua ta, “Thần trước nay hay khuyên nhủ vương gia, hôm nay muốn nói, kẻ Liễu Đồng Ỷ kia thật sự rất rắc rối, vương gia nên tránh xa, đừng dây chi cho thêm phiền.”

Ta không nhịn được cười, “Tùy Nhã lo lắng thái quá rồi, Liễu Đồng Ỷ có gì để dây vào, mà ta thì dây gì nổi với người đó? Được rồi, Tùy Nhã gần đây trước thánh giá với trong triều cũng không tệ nhỉ.”

Vân Dục nhìn nhìn ta, nâng chén lên uống cạn, rồi bảo, “Cũng chỉ có những lúc như vầy, vương gia mới gọi tên tự của thần, thần tự dưng nghe, thấy không quen, phản ứng cũng chậm hơn.”

Hắn cười như có như không, “Xem ra vương gia đối với Liễu thừa tướng, quả thực nặng tình.”

Không thể phủ nhận, ánh mắt của Vân Dục rất lợi hại.

Ta bảo, “Nặng thì sao? Bản vương cũng không mê muội đến độ không thấy rõ chân dạng, chung quy cũng không phải người cùng đường.” Ta thở dài, “Có đôi khi, hữu tình với ai vô tình với ai, là do số mệnh an bày cả rồi.”

Vân Dục chậm rãi gật đầu, ánh mắt không biết lạc về phương nào, “Có lẽ, là do số mệnh an bày thật.” Hắn nhấc tay rót đầy một chén, rồi lại cạn sạch.

Ta cũng nâng chén, bất tri bất giác, ba bốn bình rượu đã rỗng không.

Đến bình thứ tư nhìn thấy đáy, Vân Dục đứng dậy lấy từ phòng trong ra bình thứ năm, xem ra hôm nay hắn đã chuẩn bị sẵn, trong phòng chuẩn bị đủ chai chai lọ lọ.

Uống mấy chén nữa, ta thấy hơi nặng đầu, xua tay, “Mà thôi mà thôi, không uống được nữa, mượn rượu tiêu sầu lại càng sầu hơn, dừng lại đây thì hơn.”

Vân Dục tựa vào lan can lắc lắc bình rượu, “Đợi uống xong nghìn chén, uống say mèm, một nghìn nỗi sầu cũng sẽ được xua tan.”

Ta bảo, “Ngài chỉ giỏi ngụy biện. Hơn nữa, bản vương ái mộ Liễu thừa tướng không thành, tích ái thành hận, tích tình thành cừu. Ngài cũng uống lắm thế, lẽ nào bị bản vương lây bệnh, trong ngực cũng có gút mắc cần được tháo gỡ?”

Vân Dục cầm bình rượu, nhíu mày, yên lặng nhìn ta rồi bỗng nói, “Nếu rượu không thể giải sầu, vương gia và thần thử đổi phương pháp xem sao?”

Hắn buông bình rượu, tựa vào cột cười cười, “Không phải, nỗi sầu của vương gia và thần không ai có thể tiêu trừ, vậy cùng nhau giúp tiêu trừ thì thế nào?”

----

23

Ta hỏi, “Tiêu trừ gì?”

Vân Dục cười, “Không biết có phải gần đây vương gia một lòng đi theo Liễu thừa tướng không, nói vậy mà cũng nghe không rõ?”

Ta nói, “Hoàn toàn không rõ.”

Vân Dục chỉ nhìn ta chốc lát rồi đứng dậy đến bên cạnh ta, một chớp mắt trôi vèo qua, ta cứng người.

Bản vương không có ngu, nghe là biết ý tứ của Vân Dục, bình thường cũng hay trêu đùa như vậy. Nhưng chỉ là đùa mà thôi.

Nhưng lần này…

Lúc ta còn trẻ cũng giống Khải Đàn Khải Lễ bây giờ, thường mượn thơ ra vẻ phong lưu, ta còn nhớ ngày đó ta đi chơi lầu hoa, viết một bài thơ bậy nho nhỏ bằng trắc loạn xị: Sương đọng anh đào, nước đẫm ba tiêu (*), trăng soi đáy ngọc, phù dung quyện đêm xuân. Giờ nghĩ lại thấy bài thơ chẳng ra làm sao, ta chỉ mong hồi đó chưa từng viết ra. Nhưng tại thời điểm đó ta cực kỳ đắc ý, còn đem bài thơ đề lại trên màn lụa, tặng tiểu quan đi với ta, kẻ đó đương nhiên không dám nói dở, lúc nhận mặt còn tỏ ra hết sức cảm động.

Ai thuở trẻ, cũng đều lông bông như thế.

Nhưng giờ này khắc này, khi Vân Dục với ta môi lưỡi quấn quýt, ma xui quỷ khiến sao mà hai câu cuối lại hiện lên trong đầu ta, không hiểu vì sao.

Có nhẽ vì dưới thềm hoa lặng, có nhẽ vì hành lang dịu gió, có nhẽ vì mùi hương nếp áo ai thoang thoảng đâu đây.

Nói thật, nhìn ngang ngó dọc, bỏ cái tính nóng nảy ra, Vân Dục quả thật là một người không thể chê được. Ta biết hắn không phải là người như ta, bình thường tuyệt đối không mảy may có ý nghĩ gì trong đầu, nhưng hiện tại, ta thực sự không thể nhẫn được quá lâu, mà sẽ bùng phát.

Ta thấy mình sắp sửa rơi tỏm xuống đáy ngọc, liền lấy lại thần trí, tóm lấy hai vai Vân Dục kéo xích ra vài tấc, thở sâu một hơi, cố gắng trấn định nói, “Vân đại phu, chuyện này không thích hợp để đùa.”

Đôi mắt Vân Dục tựa hồ nước phủ sương, hơi cong lên, “Vương gia bây giờ không gọi thần là Tùy Nhã nữa.”

Một câu chỉ có mấy chữ, đã biến thành một sợi tơ cực mỏng manh, vẽ một vòng tròn quanh chỗ sắc nhọn nhất trong trái tim ta.

Ta cười đau khổ, “Vân đại phu, thêm một bước nữa, đùa sẽ thành thật đấy.”

Vân Dục nói, “Thì an ủi tiêu trừ thật thôi có gì mà không được?” Hắn cũng cười, “Coi như là thần với vương gia, từ đồn thành thật đi.”

Ta phản đối, “Đồn là một chuyện, thực tế là chuyện khác. Bản vương nhớ là Vân đại phu không ưng người như bản vương.”

Vân Dục nói, “Chỉ là gỡ rối thôi mà, hà tất gì phải tính toán?”

Chỉ sợ không cẩn thận, càng gỡ càng rối rồi lại khỏi gỡ được. Ta thở dài, “Tùy Nhã, ta đâu có mù, hôm nay ngài có tâm sự, ta nhìn thấy được mà.” Vân Dục tuy miệng cười nhưng mắt không cười, nhìn thần sắc lại có phần rối rắm, hơi na ná với câu tục ngữ “vò đã sứt lại còn mẻ”.

Ta nói tiếp, “Ngài ém nhẹm chuyện trong lòng, có lẽ là chuyện không thể nói cho người khác biết, mà có lẽ cũng vì vậy, nên mới tự làm khó bản thân mình. Hơn nữa, ta cũng sợ vạn nhất trong lúc thư giải, bản vương lại thích Tùy Nhã, mà Tùy Nhã đã có người khác, ta biết làm sao bây giờ?”

Vân Dục nở nụ cười, “Vương gia có Liễu thừa tướng trong lòng, làm sao thích người khác cho đặng. Thần cũng không dại gì mà cứ cố đâm đầu vào cho thêm tắc tịt.” Hắn lui lại mấy bước, lòng ta chợt thấy lạnh giá.

Ta cũng đứng dậy, “Mặc dù không phải Nhiên Tư, nhưng Tùy Nhã có thể gọi ta một tiếng Thừa Tuấn không?”

Vân Dục đứng cạnh bàn cách ta mấy bước dài, nhìn ta không chớp mắt trong chốc lát rồi mới nói, “Không dám, mai này vương gia trở thành thánh thượng, nếu một ngày không đẹp trời nào đó, thần bạo gan gọi thẳng tục danh, không chừng lại gây nên lỗi lầm.”

Nguyên nhân chính là vậy, Vân Dục với bản vương, cũng giống như một nhánh cỏ yêu thích nhất của con thỏ, cho dù ta có gặm hết vỏ cây già trên thiên hạ, cũng không thể lung lay được suy nghĩ của hắn.

Đều thuộc thành phần mưu phản, hai bên đề phòng nhau, trên thực tế là ta đang suy tính với Vân Dục, nếu như ta còn có thể cùng hắn làm cái chuyện thư giãn kia, thì ta không phải là ta nữa rồi.

Vân Dục lại xách bình rượu lên rót một chén, rồi nốc một hơi cạn sạch, “Thôi được, nếu miễn cưỡng thì lại càng gỡ càng rối, chỉ tổ mệt hơn.” Hắn như cười như không với ta, “Không ngờ là vương gia lại thâm tình với Liễu thừa tướng thế. Liễu Đồng Ỷ tốt đến vậy sao?”

Ta ngồi xuống, khụ một tiếng, “Được hay không là do cách nhìn, nhìn thuận mắt thì vừa ý tính cách thôi.”

Vân Dục gật đầu, một lúc không nói năng gì khiến không khí có hơi tẻ nhạt, ta cảm thấy ngài ngại không muốn ngồi nữa, bèn đứng lên, “Bản vương còn có chút việc, phải về thôi.”

Vân Dục thản nhiên bảo, “Vương gia xin cứ đi trước, thần còn muốn nán lại thêm chút nữa.”

Ta đáp, “Ừ.”

Lúc xoay người bước ra ngoài, Vân Dục nói phía sau ta, “Nếu như hoàng thượng thực sự triệu vương gia vào cung nghị sự, xin vương gia nhớ để ý.”

Ta xoay người trả lời, “Yên tâm, dù sao thì hoàng thượng cũng không đơn giản bắt ta đâu.”

Chỉ là, Vân Dục bảo cần phải ‘để ý’, chứ không nói ‘cẩn thận’, có phần hơi kỳ quặc.

Tin tức của Vân Đường thật nhạy, qua hôm sau, mới sáng sớm đã có thánh chỉ đến, lệnh ta ngày mai vào cung nghị sự.

Lần nghị sự này quả thật hoành tráng, không chỉ có bản vương, mà các vương gia thân thích khác của hoàng thượng cũng có mặt.

Tông Vương, Gia Vương, Phúc Vương, Thọ Vương, Lộc Vương, cộng thêm ta, là vừa đủ một bàn sáu vị vương gia.

24

Lần này hoàng thượng tuyên triệu ta và ngũ vương vào cung nghị sự, không biết là nghị cái sự gì. Tuy tuổi Khải Giả còn trẻ nhưng là một vị vua cừ khôi, hay làm chuyện người ta không ngờ tới, càng không thể đoán ra.

Mấy hôm nay ta ở nhà tĩnh tĩnh dưỡng dưỡng đến giãn khớp xương, phải tự ép mình tỉnh táo mặc chính trang đội mão quan, thêm cái giờ đang hè, bào phục trong ngoài cả chục lớp nóng nực, ta đành nhét thêm cây quạt vào tay áo, ít nhất trong lúc ngồi kiệu cũng có thể phe phẩy tý gió mát.

Vào tới cung thì có tiểu hoạn quan đến dẫn đường, bảo hoàng thượng mời các vị vương gia đến điện Tu Đức. Điện Tu Đức cách ngự hoa viên không xa, là một điện các tĩnh mịch, trong điện rộng rãi mát mẻ. Lúc ta đến điện Tu Đức thì thấy Gia Vương, Khải Lễ và Lộc Vương ngồi đấy. Thọ Vương sức khỏe không tốt, Thọ Vương phủ mấy năm gần đây trên thực tế là do Khải Lễ thế tử làm chủ, hôm nay Thọ Vương không đến đây được, theo thường lệ thì Khải Lễ sẽ thay thế. Khải Lễ đứng dậy hành lễ với ta, ta chào hỏi với hai vị đường huynh Gia Vương Lộc Vương xong thì ngồi xuống ghế.

Ngự tọa của hoàng thượng ở vị trí cao nhất trong điện Tu Đức, còn lại sáu ghế chia làm hai phía gồm ba ghế đối diện nhau. Vốn ta ngồi ở cuối mé tây, nhưng do Khải Lễ thay cha đến, kém vai vế nên ngồi chót cuối, ta ngồi nhích lên một ghế, ở giữa Lộc Vương và Khải Lễ, ta vừa ngồi xuống liền lôi cái quạt ra quạt lạch phạch, Gia Vương đối diện nhíu mày.

Năm vị đường huynh đều lớn tuổi hơn ta nhiều, đặc biệt là hai vị Tông Vương và Gia Vương, tuổi tác cách nhau cả nắm, thế nên hai ông này chẳng bao giờ qua lại với ta, càng nhìn không lọt mắt những chuyện ở phủ Hoài Vương và sở thích của ta.

Cha của Gia Vương Thừa Điển với cha ta trước đó có bất hòa, người ta nói căn nguyên bắt nguồn từ sự đối đầu tranh sủng giữa hai vị hoàng phi của tiên Gia Vương và cha ta. Tiên Gia Vương với mấy ông như Liễu Tiễn rất nhiều lần đề nghị Đồng Quang Đế xin hãy bãi bỏ binh quyền của cha ta, phòng ngừa ông mưu phản. Đồng Quang Đế muốn xóa đi sự tức giận của cha ta, nên sắp xếp cho con ông ta là Thừa Điển vào trong quân của cha ta, để cha ta đích thân dạy dỗ binh pháp võ nghệ, nhưng Thừa Điển tính kiêu ngạo, không phục theo sự dạy dỗ của cha ta. Có một lần ông này thừa lúc cha ta quay về kinh, tự tung tự tác đánh úp man di, kết quả sụp bẫy, tổn hại hơn nghìn quân sĩ. Bị cha ta dựa vào quân quy xử phạt, tiên Gia Vương cũng tìm đến xin hộ, song cha ta là người làm việc công tư phân minh, không đồng ý, khiến cho hai cha con nhà này ôm hận, cho rằng từ đầu chí cuối là do cha ta cố ý dàn xếp hãm hại. Thế nên hận thù ngày càng chồng chất.

Cho đến khi Ứng Xương Đế kế vị, cha ta chủ động đem binh quyền giao cho Thừa Điển, trước mặt Ứng Xương Đế tiến cử làm tướng quân. Tiên Gia Vương, Thừa Điển, thậm chí là Ứng Xương Đế đều cho rằng cha ta cố tình diễn trò, không hề tỏ ý cảm kích.

Tuy phủ Gia Vương trước giờ không qua lại với phủ Hoài Vương ta, nhưng Thừa Điển thì đúng là một vương gia lòng trung tràn trề. Hồi thái hậu đẩy đưa lôi kéo ta, Thừa Điển cho rằng bản vương định một tay che trời, nắm giữ triều chính, muốn hãm hại trung thần, bèn phẫn nộ quăng bỏ tất cả binh quyền mà thực tế là không ai muốn mó tay vào, suốt ngày phiền muộn ở trong vương phủ viết thơ tự sự, nghe đồn trên vách tường thư phòng ở phủ Gia Vương dán đầy thơ hoài cảm của Gia Vương viết, trong đó có bài trường ca lão nhạn ngâm là nổi tiếng nhất, trong thơ Gia Vương ví von Khải Giả như vầng thái dương, còn ta là mây đen che mất thái dương với bầu trời, còn tự viết chính mình là một con nhạn già gân sắt thép.

Ông này tin rằng thiện ác ắt có hồi báo, ngày diệt vong của gian thần nhất định sẽ đến. Mây đen chỉ có thể tạm thời che khuất trời xanh và ánh dương, sẽ có một ngày thế gian tiêu tan hết khí bẩn, càn khôn sáng sủa lại quay về. Con nhạn già luôn chờ mong ngày ấy, cho dù đôi cánh bị mưa đá cắt đứt, lông bị cuồng phong của mây đen cuộn trào thổi trụi lủi, nhưng một khi sự thanh khiết còn chôn sâu trong đầu nó, nó sẽ vẫn ẩn núp trong đống cỏ khô, trên chạc cây già, ngẩng đầu nhìn trời, đợi đến một ngày, ánh dương chiếu sáng lên người nó, đôi cánh gãy bỗng chốc phục hồi, một cái vẫy cánh lên đến tận trời, bay lượn giữa bầu xanh, đến bên thái dương.

Gia Vương mang mấy cái trường thi đoản thi mình viết mấy năm qua gom thành một tập thơ tên là [ nhạn nhà tranh ngâm tập ], phát hành hơn chục quyển, đem đi biếu tặng đám nhà thanh cao kia. Nhạc phụ Lý Nguyệt của ta cũng được một quyển, có người bảo đọc xong thấy lệ lăn dài, hai ngày không ăn nổi cơm. Ta lấy làm hiếu kỳ, cũng mót một quyển về đọc, hồi đó ta còn tuổi trẻ máu nóng, sau khi đọc lão nhạn ngâm xong, cảm xúc đại khái còn tràn trề, nhịn không được bình loạn mấy câu, “Chim nhạn xuân hè ở phía bắc, thu đông bay về nam, sao có thể bị mưa đá tạt đứt, phong tuyết vùi lấp? Phải như chim sẻ (*) kìa, một năm bốn mùa đều ở lì một chỗ mới đúng.”

Lúc ta nói là đang đứng ngoài hành lang của vương phủ, trong đám hạ nhân của phủ Hoài Vương, mật thám cài vào không ít, chưa đầy một ngày, mấy câu này của bản vương đã bị truyền ra ngoài, qua nhiều lần truyền miệng, sau khi toàn kinh thành biết hết, Hoài Vương mỉa Gia Vương nhạn già không bằng chim sẻ.

Nhất thời kinh thành rộ lên làn sóng bất bình của rất nhiều vị tự cho là văn sĩ bị khí độc ô uế là ta đây chọc giận, đua nhau viết thơ văn phát biểu cảm nghĩ, hôm nay càn khôn điên đảo, khiến cho chim sẻ hoành hành, chim nhạn không được giương cánh, chim sẻ còn trêu ngươi hùng ưng.

Còn có người vẽ bức tranh, một con chim sẻ béo tốt ngồi chễm chệ trên lưng một con gà trống nhỏ, thêm cái chú thích “nhìn đời bằng nửa con mắt”.

Đầy tớ mang bức tranh đó cùng với mấy bài thơ đến bẩm báo với ta, “Vương gia vương gia, ở trong kinh có mấy bài thơ châm chích này để đả kích vương gia đó.” Ta hết sức bất đắc dĩ, châm rồi lại chích, chích rồi lại châm, mấy cái châm biếm đả kích sâu cay này nhiều như nước lũ, càng đổ càng tháo, nên chỉ nhìn bức tranh rồi nói, “Con chim sẻ béo múp này coi vậy mà dễ thương đó chứ, con gà nhỏ trong bức tranh vẽ rất chi là sinh động, vẽ đẹp vẽ đẹp. Cứ mặc kệ bọn họ đi, đại gia không có sở thích giống chim sẻ, cũng như có người thích hùng ưng chim nhạn, bản vương chỉ thích mỗi chim sẻ thôi.”

Mấy lời này lại bị mật thám truyền ra ngoài, sau khi qua n cái mồm, biến thành nhiều dị bản. Phiên bản thứ nhất nói Hoài Vương bảo rằng, chim sẻ ăn no mặc ấm, chim nhạn hùng ưng ăn không ngon ngủ không yên, chim sẻ mạnh hơn chim nhạn hùng ưng. Phiên bản thứ hai bảo Hoài Vương tự ví mình là con chim sẻ phú quý, lấy việc yêu thích gà trống xinh đẹp làm quang vinh, mỉa rằng trong mắt Hoài Vương bọn họ chỉ là đám ruồi nhặng. Còn có dị bản nói Hoài Vương bảo tự so bản thân với chim sẻ, cuộc sống sung túc ngày ngày oanh oanh yến yến.

Trước lời vũ nhục và phỉ báng như đem so sánh sự bất bình tức giận với oanh oanh yến yến, lời đồn ấy khiến đám văn sĩ càng thêm nổi giận, thành ra lấy sự tích bản vương hãm hại trung thần, thuận tiện viết luôn thành một trang sử vô cùng đặc sắc.

Thế nên Gia Vương hôm nay gặp mặt còn có thể miễn cưỡng nói với ta hai câu khách sáo, là đã thể hiện được sự kiềm chế và nhẫn nại đến bực nào. Ông này là kẻ cổ hủ, trong điện Tu Đức thấy ta lôi cây quạt ra làm phành phạch, trong mắt ông ta, e chính là vô cùng không hợp quy củ, vô lễ bất kính, không coi đứa cháu hoàng đế ra gì.

Lộc Vương và Gia Vương đi chung đường, không bao giờ lý đến bản vương. May mà bên cạnh ta còn có Khải Lễ, ta và Khải Lễ nói chuyện phiếm mấy câu, Khải Lễ hỏi, “Hai ngày qua Đại Vương có đến tìm hoàng thúc không?” Ta đáp, “Không.”

Không uổng trước kia ta thương yêu Khải Đàn, lúc ta bị thương, cứ ba ngày hai bận nó lại chạy đến phủ Hoài Vương, lần nào cũng mang đủ thứ lỉnh kỉnh, chẳng những vậy mà còn không hề tiện tay cầm nhầm thứ gì. Những thứ nó mang đến đều là những món nó cướp đoạt giấu kỹ xưa nay, như cái gì mà thuốc tiên ngọc bội có thể tiêu trừ bệnh tật, rượu hồ lô Hoa Đà từng dùng qua, ấm sắc thuốc mà Đông Phương Sóc hiến cho Hán Vũ Đế, nghe đâu dùng ấm này sắc thuốc sẽ tăng hiệu quả gấp bội. Đương nhiên toàn là hàng sida, hơn nữa còn dùng bạc của bản vương mua về, nhưng đại khái nó coi là hàng thật lại còn thật lòng mang đến, bản vương cảm thấy khá vui và cảm động. Nhưng hai ngày gần đây nhất, thiệt tình là không thấy nó đâu.

Khải Lễ nói, “À, tiểu chất nghe nói, gần đây có một thương gia ở Lĩnh Nam đang định bán cho cậu ta một bộ sưu tập, trong đó có ngọn đèn mà Gia Cát Khổng Minh sử dụng để bày trận kéo dài sinh mệnh, cây cầm trước kia dùng để đàn trong Không Thành kế, lược bằng sừng trâu từng được phu nhân của Mạnh Hoạch sử dụng, còn có tấm vải da Triệu Tử Long dùng để bọc A Đấu ngày trước vân vân.”

Tim ta đánh lô tô một chút, “Nghe coi bộ không ít đồ nhỉ.”

Khải Lễ đáp, “Theo như tiểu chất nghe thì ước chừng hơn mười vạn lượng bạc.”

Ta nghĩ mặt ta lúc này chuyển sang màu chàm rồi, ta thầm suy nghĩ, hay là bảo Vân Đường Vương Cần trong vòng hai ngày tới tạo phản quách cho rồi.

Khải Lễ an ủi ta, “Hoàng thúc đừng quá lo lắng, dạo này Đại Vương đã ngoan hơn nhiều rồi, giờ cậu ta chỉ mới bàn luận với thương gia đó thôi, chưa chắc mua mà.”

Nó không mua mới là lạ, ta nói với Khải Lễ, “Mấy hôm tới trong phủ ta có một số chuyện, hay là cháu nói với nó một tiếng giùm ta, Liễu thừa tướng là người biết coi hàng, bảo nó mời Liễu thừa tướng đến nhìn một chuyến cho an tâm.”

Cứu tinh duy nhất có thể ngăn Khải Đàn vét rỗng phủ Hoài Vương ta chỉ có Liễu Đồng Ỷ, tiếc là sau ngày ở thủy tạ, ta ra mặt mời y thì hơi bị ê mặt, chỉ có thể để Khải Đàn tự mình mời.

Đang nói, Tông Vương và Phúc Vương lục tục đến, lúc chào hỏi ngồi xuống, Tông Vương nhìn chằm chằm cây quạt trong tay ta, bảo, “Đang trong điện, Hoài Vương đệ dùng quạt có phần không thích hợp.”

Ta khép quạt lại cất trong tay áo, “Đa tạ vương huynh chỉ điểm, ta sơ ý bất kính rồi.”

Tông Vương nhìn bản vương chằm chặp một lúc, không nói gì nữa.

Tông Vương và Gia Vương giống nhau, chẳng bao giờ thèm liếc tới ta. Nhưng duyên cớ ông này không thèm nhìn ta khác với Gia Vương.

Tông Vương Thừa Nguyên trong mấy vị vương gia là người có tuổi tác lớn nhất, tính tình trung hậu ngay thẳng, ngày xưa cũng từng là phó tướng thủ hạ của cha ta, tuy tuổi tác lớn hơn cha ta, nhưng vẫn kính nể tiểu hoàng thúc của mình. Sau khi cha ta qua đời, ông còn quan tâm đến ta và mẹ ta, nhưng sau này khi ta nhiễm phải sở thích kia, Tông Vương giận dữ, từng mấy lần vỗ án giáo huấn ta, đáng tiếc dạy mãi ta cũng không chịu sửa, cuối cùng Tông Vương không còn qua lại với phủ Hoài Vương nữa.

Ông vẫn coi ta không làm nên tích sự gì, bôi nhọ tiếng tăm lừng lẫy của danh hiệu Hoài Vương mà cha ta lưu lại, lại còn thêm cái đam mê khiến người ta khinh bỉ kia, thế nên mỗi lần nhìn thấy ta là lại lộ ra thần sắc bi thống.

Ta thấy ông ấy lộ ra thần sắc đó, thường thường cũng sẽ nảy sinh một chút hổ thẹn, ông ta bi thống, ta cũng không được thoải mái, trong ngực cảm thấy bồn chồn, cho nên nếu không phải vạn bất đắc dĩ thì bản vương và Tông Vương không bao giờ gặp nhau.

Sau khi ta thu hồi cây quạt, không khí trong điện bỗng hơi chùng xuống, may mà đúng lúc này, hoàng thượng giá lâm.

25

Vẻ mặt Khải Giả hôm nay vô cùng nghiêm nghị, mày hơi nhíu, có vẻ như lần thương nghị này là một sự kiện lớn. Chờ lễ bái xong xuôi rồi, ta và chúng vương lại ngồi xuống, Khải Giả nói, “Hôm nay trẫm mời chư vị hoàng thúc đến đây là vì một việc quan hệ đến xã tắc, nhưng khó công khai nghị sự trên triều đường, muốn bàn bạc với các hoàng thúc trước.”

Đợi bọn ta lắng tiếng ồn xuống, cung kính nín lặng chờ nghe, Khải Giả chỉ dừng lại chốc lát rồi nói, “Mấy hôm trước Hách quốc phái sứ giả đến, đàm phán hòa bình, nguyện ý hiến hai tòa thành, hàng năm triều cống, trọn đời xưng thần.”

Vừa nghe xong, mấy vị vương gia đều lộ vẻ vui mừng, Tông Vương và Gia Vương là tỏ vẻ mừng nhất, Hách quốc cùng triều đình ta giao chiến bao năm, hồi cha ta còn trẻ đã đánh, đánh tới tân xá đổi thành cựu xá, Hách quốc lão vương cũng đã băng hà, để con gái độc nhất kế vị, triều đình ta tưởng đâu bên kia đổi thành nữ nhân cầm quyền, bên mình có lợi thế, lập tức sửa soạn cờ trống xuất binh, ai ngờ nữ vương bấy giờ chỉ là một tiểu cô nương mới mười mấy tuổi đầu đã là một người không dễ bắt nạt không thua kém nam nhân, tự mình dẫn binh nghênh chiến, chém chết một viên đại tướng bên quân ta, lại tiếp tục chuỗi đánh nhau khó hòa giải.

Nhưng man di tiểu quốc làm sao chịu được mấy chục năm chiến tranh, từ bốn năm năm về trước đã đình chiến, không còn quấy rối biên quan nữa, nghe nói còn dùng văn sĩ người Hán làm quan, nghỉ ngơi lấy lại sức. Lần này phái sứ giả đến nghị hòa, chưa kể còn nguyện ý xưng thần, quả là sự kiện quá tốt.

Nhưng nhìn vẻ mặt nghiêm trọng của cháu hoàng đế ta, e là hòa đàm không hề đơn giản, không biết Hách quốc đã đưa ra điều kiện gì.

Ta cẩn thận nói, “Từ lúc hoàng thượng chấp chính đến nay, thi hành rộng rãi chính sách nhân đạo, giờ đây thiên hạ yên vui sung túc, tiểu quốc man di thuần phục dưới triều đình hưng thịnh và sự anh minh của hoàng thượng là đạo lý hiển nhiên. Có điều man di vốn gian trá, không biết có phải đã đưa ra yêu sách gì quá đáng không.”

Quả nhiên, Khải Giả nghiêm nghị thở dài bảo, “Khiến trẫm đau đầu chính là việc đấy. Khi sứ giả Hách quốc đưa ra thỉnh cầu, trẫm không biết phải phúc đáp làm sao cả.”

Ta thưa, “Có thể khiến hoàng thượng đau đầu dĩ nhiên phải rất phức tạp, lẽ nào bọn họ hàng năm thượng cống muốn triều đình ta phải ban thưởng lụa vàng cho họ? Hay là muốn học thuật nông canh hoặc vay mượn các loại hạt giống của chúng ta?” Các quốc gia man di đều không giỏi trồng trọt ngũ cốc, đối với kỹ thuật dệt lụa nhuộm vải cũng rất thèm muốn. Ta còn trêu đùa, “Nói mới nhớ, lão vương Hách quốc băng hà sớm, chỉ có con gái kế vị, bằng không dám sẽ muốn hòa thân với triều ta, cưới một vị công chúa về. Nữ vương này không đến mức đòi hòa thân, muốn một vị hoàng tử của chúng ta đó chứ.”

Khải Giả giương mắt nhìn thẳng ta, chậm rãi gật đầu.

Trong điện bỗng lặng đi một thoáng.

Lát sau, Khải Giả thở dài một tiếng, thần sắc vẫn nghiêm nghị như cũ, “Hoàng thúc, bất hạnh bị người nói trúng rồi, sứ thần Hách quốc nói nữ vương bọn họ đang tuổi thanh xuân, chưa người sánh duyên, trước giờ vô cùng ngưỡng mộ nam tử thiên triều tài hoa mỹ mạo, nguyện cầu một vị vương phu, cùng chung vương vị, cai trị quốc thổ, nay lấy việc nghị hòa xưng thần làm thành ý.”

Bản vương cùng với mấy ông anh và đứa cháu Khải Lễ đều hết hồn. Gia Vương sâu sắc lắc đầu than, “Nữ tử man di, làm việc quả thực kinh thế hãi tục.”

Phúc Vương cũng lắc đầu, “Hoang đường, quá sức hoang đường! Lẽ nào toàn bộ Hách quốc không tìm được một người đàn ông có thể thành thân với nữ vương?”

Tông Vương cau mày, “Nam tử Hách Quốc thấp bé thô lỗ, quả là không thể so sánh với triều đình ta.”

Lộc Vương góp lời, “Từ trước đến giờ chỉ có công chúa hòa thân, lẽ nào lại muốn triều ta đưa ra tướng công hòa thân? Lưu truyền đến hậu thế nhất định rước lấy cười chê!”

Mấy vị vương huynh vô cùng đau lòng nhức não, nhưng ta dò xét long nhan cháu ta, thấy Khải Giả dường như có ý bằng lòng đưa một vị tướng công hòa thân đến cho nữ vương, chuyện hôm nay vô cùng quan trọng, tốt nhất nên vuốt thuận vảy rồng, một là để cháu ta không nghi ngờ chuyện mưu phản, hai là sau này khi bản vương đã đại công cáo thành, cộng thêm mấy chuyện như hôm nay, trung lại càng thêm trung, chẳng phải quá tốt sao?

Thế nên bản vương mở lời, “Theo ý thần, chuyện hòa thân cũng chưa hẳn là không được.” Vừa nói xong, mấy ông còn lại liền đổ dồn mắt về phía bản vương, Tông Vương nhíu mày, Gia Vương cười lạnh một tiếng, chỉ có Phúc Vương coi như cho ta chút mặt mũi, hỏi, “Vì sao Hoài Vương nói thế?”

Ta trình bày, “Nữ vương chịu mở lời cầu thân, xác thật là vô cùng ngưỡng mộ nam tử thiên triều ta, nàng còn đồng ý chung vương vị, nữ vương tuy là phụ nữ man di, nhưng nữ tử thiên hạ đều mang thủy tính, theo chồng ắt sẽ tòng phu, nếu thực sự đưa cho nàng một tướng công hòa thân, coi như Hách quốc nằm trong lòng bàn tay ta, sau này sinh hạ nữ tử, cũng mang huyết mạch thiên triều, nói không chừng không cần tốn một binh một tốt nào, cũng có thể thâu tóm trọn Hách quốc.”

Ngó mặt mấy ông vương huynh là thấy không đồng tình, song chưa mở lời phản bác, Khải Giả trầm ngâm chốc lát thì nói, “Những gì hoàng thúc nói đều có lý, trẫm cũng vì vậy mà vẫn cân nhắc, chần chừ do dự.”

Phúc Vương nói, “Nếu thật sự chọn người đi làm vương phu Hách quốc, thì phải chọn người ở đâu?”

Lộc Vương đưa ý kiến, “Man nữ tốt xấu gì cũng là nữ vương, muốn xứng với nàng ta thì chỉ có hoàng tử thế tử, hoặc con cháu trọng thần.”

Tông Vương nói, “Hách nữ vương năm nay ngoài hai mươi, nữ tử Hách quốc đều có da dẻ ngăm đen, nhưng nghe nói nữ vương lại xinh đẹp, các hoàng tử thế tử còn trẻ triều ta, nếu chưa hứa hôn cưới phi, thì là quá trẻ, không có người thích hợp.”

Phúc Vương lập tức gật đầu, “Xem ra, chỉ có thể chọn con cháu trọng thần.”

Lần này hoàng thượng triệu các vương gia nghị sự, không chừng là muốn dựa vào lòng trung thành của bọn họ với xã tắc mà hiến nhi tử ra. Nhưng loại người như Tông Vương đã kinh qua không ít sóng gió, có thể coi là cáo già, chỉ cần một câu nói của Tông Vương đã mang hết toàn bộ thế tử vương tử liên can đưa vào vòng an toàn.

Phúc Vương nói, “Thần không biết nhiều về con cháu trọng thần, Hoài Vương và vương chất Khải Lễ hẳn quen thuộc hơn.” Ánh mắt quét về phía bản vương và Khải Lễ, đến chỗ bản vương thì có phần sâu xa.

Khải Lễ chưa cưới vợ, vừa rồi thương nghị chuyện tướng công hòa thân, nó chỉ nín khe ngồi bên cạnh bản vương, chắc trong lòng cũng lo sợ lắm đây, giờ đã được câu nói của Tông Vương cứu rỗi, lập tức lên tinh thần, cười thưa, “Con cháu trọng thần trẻ tuổi lại chín chắn, không cần phải nghĩ nhiều, câu tục ngữ lưu truyền trong kinh thành đã nói rõ —— Hỏi ai nhân vật vô song, hãy trông Liễu tướng hãy nhìn Vân lang.”

Liễu thừa tướng Liễu Đồng Ỷ, Vân lang Vân Dục.

Khải Lễ lại nói, “Liễu thừa tướng là trụ cột triều đình, dĩ nhiên không được.”

Trong điện lại lặng thinh, bản vương rốt cuộc nhịn không được mà lên tiếng, “Vân Dục cũng không thích hợp, nên chọn người khác thì hơn.”

Ánh mắt Tông Vương, Gia Vương, Phúc Vương, Lộc Vương, và cả Khải Giả lại đổ dồn về phía ta, Khải Giả nhướn mày hỏi, “Ồ? Luận về gia thế, tướng mạo, tài học, Vân Dục đều đáp ứng tốt nhất, tại sao không thể?”

Ta biện luận, “Không thích hợp ở mấy chỗ sau, thứ nhất, Vân Dục tính tình tùy hứng sắc sảo, tuyển vương phu, tốt nhất nên tuyển người khoan dung độ lượng, tính cách hiền hòa dễ chịu thì mới nắm giữ được nữ vương. Thứ hai, Vân Dục hơi phong lưu, nữ vương liệu có thể chịu được cảnh chung chồng sao? Nên kiếm một người quân tử thủy chung mới tốt, thứ ba, Vân Dục là con Vân Đường, dù cho rất sáng giá, thì cũng phải cẩn trọng cân nhắc.”

Khải Giả chăm chú nhìn bản vương, tựa như đang tư lự, Gia Vương cười khẩy, “Mấy cái lý do Hoài Vương bảo là không thích hợp, hình như có hơi mâu thuẫn. Ngài nói con trai Vân Đường phong lưu, phong lưu chẳng phải là giỏi chiều chuộng, dỗ ngọt nữ nhân, dễ nắm giữ nữ vương sao? Lý do thứ ba ngài nói,

có điều ám chỉ

, nhưng theo ta được biết, Hoài Vương và Vân gia xưa nay hay qua lại, thường xuyên cùng nhi tử Vân gia cùng ra cùng vào, khó mà tránh khỏi suy xét chủ quan.”

Ta đáp, “Lời của Gia Vương vương huynh làm ta không còn gì để nói, ta chỉ là cố gắng làm tròn trọng trách của thần tử nói chuyện nên nói mà thôi, còn lại đương nhiên do hoàng thượng quyết định.”

Ta trung nghĩa nhìn về phía ngự tọa, Khải Giả đứng lên, thở dài, “Trẫm còn một chuyện, vốn dĩ không muốn nói, sứ thần Hách quốc cầu thân với triều ta, thực tế có chỉ đích danh một người.”

Ta với mấy ông anh cùng đứa cháu Khải Lễ lại một phen hết hồn. Khải Giả nhìn về phía bản vương, chống một tay, “Sứ thần nói, nữ vương thích nam tử hơi lớn tuổi một chút, đặc biệt am hiểu tình thú, giỏi săn sóc người khác, ví dụ như…”

Khải Giả nhìn thẳng bản vương, bản vương bỗng nhiên có linh cảm không lành.

“Ví dụ như, Hoài Vương điện hạ của triều ta.”

Trong điện lại một lần nữa lặng xuống, bản vương lập tức nghiêm mặt nói, “Hoàng thượng, thần là đoạn tụ.”

Am hiểu tình thú, giỏi săn sóc người khác tất nhiên là ưu điểm nổi bần bật của bản vương rồi, không ngờ nữ vương ở xa tít tắp ngoài phiên bang cũng nghe phong phanh, nhưng, vô cùng đáng tiếc, sở thích của bản vương đời này không sửa được.

Sắc mặt Khải Giả không mảy may biến đổi, nhìn ta nói tiếp, “Sứ thần cũng nói, nữ vương biết Hoài Vương điện hạ của triều ta là đoạn tụ, nhưng nữ vương nghĩ, đó là do nữ nhân nước ta không tốt, mới làm Hoài Vương điện hạ thành đoạn tụ, nàng tự tin có thể giúp Hoài Vương điện hạ từ đoạn tụ thành hết đoạn tụ.”

(=)))

Lẽ…lẽ… nào sự tích của bản vương lại lưu truyền rộng rãi vậy sao?

Khải Giả nhìn ta như cũ, nói thêm, “Sứ thần còn nói, nữ vương có lời nhắn muốn truyền gửi Hoài Vương điện hạ, nữ vương hỏi Hoài Vương điện hạ có còn nhớ về buổi chiều mưa phùn rả rích, ngoài tường thành, lời thệ ước bên đầu cầu nhỏ không?”

Trong điện càng thêm im ắng, hết ánh mắt sâu xa này đến gương mặt thâm thúy nọ chọc vào khiến bản vương rất chi là ngỡ ngàng.

Khải Giả thở dài, “Hoàng thúc, trẫm muốn hỏi người, nữ vương Hách quốc sao có thể cùng người trong buổi chiều mưa phùn rả rích, lập lời thệ ước bên đầu cầu nhỏ ngoài tường thành vậy?”

Ta vô cùng thành khẩn thưa, “Hoàng thượng, thần thật sự là đoạn tụ mà, hơn nữa đời này thần chưa từng qua biên cương, càng không dính dáng gì đến Hách quốc.”

Khải Giả lại thở dài sượt, “Lẽ nào nữ vương trong mộng gặp gỡ hoàng thúc ở đầu cầu, lập lời thề mưa phùn?”

6

Bản vương luôn tự nhận mình là người phong lưu nhưng không lạm tình, cho tới giờ chưa từng thề thốt gì với ai. Huống chi nữ vương phiên bang xa tận chân trời, cho dù ta trước đây không phải đoạn tụ cũng không có khả năng dính líu gì đến nàng ấy.

Ta khẩn thiết trần tình, phân tích một loạt, chuyện này không thể nào đùa giỡn như vậy, không khéo bản vương lại rước thêm cái tội danh thông đồng địch quốc.

Ta nói, Khải Giả cứ nghe, không biết có tin hay không nữa.

Khải Lễ chen vào nói giúp ta mấy câu, “Tuy sứ thần nói thế nhưng vẫn có khả năng không phải hoàng thúc, có khi nào nữ vương ý đồ ly gián quan hệ giữa hoàng thượng và hoàng thúc chăng, mà cũng có thể có kẻ rắp tâm giở trò giả mạo danh tính. Không rõ sứ thần có nói dáng dấp Hoài Vương trong lời thề hẹn của nữ vương ra sao không?”

Khải Giả chắp tay mỉm cười bảo, “Trẫm chưa hỏi, muốn hỏi hoàng thúc trước đã.”

Phúc Vương nói, “Thế thì giờ trước tiên đi hỏi sứ thần xem nữ vương có diễn tả tướng mạo Hoài Vương hay không, nếu có thì sắp xếp mấy người xấp xỉ tuổi Hoài Vương và Hoài Vương cùng đi đến cho sứ thần nhận diện, vậy không phải sẽ rõ ràng sao?”

Tông Vương và Lộc Vương tán đồng biện pháp ấy, chỉ có Gia Vương là không chịu, “Ly gián kế có bao nhiêu cách, man nữ là nữ vương, cần gì phải hy sinh danh tiết của mình. E rằng chuyện này là thật. Sứ giả chưa từng gặp qua người thề hẹn với nữ vương, cho dù có nghe mô tả hình dung, hẳn cũng chỉ sơ sài đại khái. Huống chi từ lúc lập thệ đến nay cũng đã qua nhiều năm. Nếu xảy ra lâu rồi, tướng mạo con người còn có thể biến đổi, cho dù là nữ vương thân chinh đến, muốn nhận diện cũng phải mất thời gian, sứ thần làm sao có thể nhận ra?”

Ta nói, “Thần có thể coi là người dễ nhận diện, nếu đã gặp qua, nói ra vài đặc trưng, hẳn có thể nhận được. Cho dù có ích hay không cũng nên đi hỏi trước một câu, bằng không thần mà vì triều đình hiến thân làm tướng công hòa thân thật rồi, tới Hách quốc, nữ vương vừa nhìn đã phán, nhầm người, không phải đời cả hai đều lỡ dở sao?”

Khải Lễ đứng một bên cười bảo, “Hoàng thúc nóng ruột lắm rồi, ngay cả chuyện phải đi làm tướng công hòa thân cũng nói ra, nếu hoàng thượng không đồng ý, sợ hoàng thúc sẽ oán khí ngút trời cho xem.”

Khải Giả cau mày nhìn ta, lát sau phán, “Cũng được, chuyện này liên quan đến lưỡng quốc bang giao, không phải chuyện nhỏ. Giờ cứ theo lời Khải Lễ nói, trước tiên đi hỏi sứ thần Hách quốc đã.”

Khoảng nửa canh giờ trôi qua, hoạn quan được phái đi hỏi quay về bẩm báo, “Hách sứ giả nói, nữ vương không chỉ mô tả dáng dấp Hoài Vương điện hạ, còn đích thân vẽ một bức chân dung Hoài Vương điện hạ treo ở tẩm cung, y từng nhìn thấy, nếu Hoài Vương điện hạ đứng trước mặt, y có thể nhận ra được.”

Mọi người trong điện kể cả hoàng đế đường chất đều quay lại dòm bản vương.

Phúc Vương nói, “Man nữ quả thực si tình.”

Ta tiếp lời, “Chỉ không biết mối tình si này, là dành cho ai.”

Khải Giả lại nhìn ta, nhưng không nói gì cả.

Thế nên bản vương lập tức muốn đến gặp sứ giả để nhận mặt.

Muốn gặp sứ giả, không phải như để người bị oan gặp phạm nhân trên đại đường nha môn Hình bộ, cần phải khéo léo một chút, vòng vèo lắt léo một chút, hợp lễ nghi một chút.

Vì vậy, để có thể gặp mặt, phải chuẩn bị đủ thứ linh tinh tá lả, phải cho bên Lễ bộ mào đầu trước, hoàng thượng hạ chỉ, mở tiệc nhỏ trong ngự hoa viên để chiêu đãi sứ thần, rồi lại chuẩn bị cho bản vương và mấy vị thế tử vương tử tuổi xâm xấp nhau, mặc thường phục đến dự tiệc.

Bản vương hồi phủ thay thường phục rồi quay lại cung, trước tụ họp với các vương chất trong tiểu điện, sau nhất tề bước vào ngự hoa viên.

Hách sứ thần ước chừng tứ tuần ngũ tuần gì đó, nước da ngăm đen, đầu quấn khăn nhiễu, ria hai bên mép nguẩy thành một vòng cong queo, không biết có phải dùng keo để tạo hình không nữa, nhưng rất có phong cách ngoại quốc. Từ lúc bản vương và các vương chất đi đến, ông ta cứ dán mắt nhìn trực diện, đến khi bọn ta vào chỗ ngồi rồi, mới to nhỏ không ngừng với người kế bên. Người nọ có vẻ là một người Hán làm quan ở Hách quốc.

Sứ thần Hán quan đi theo thượng tấu, “Khởi bẩm bệ hạ, A Lỗ Nam đại nhân nói, các vị vương gia vương tử đều rất lạ. Không có người đó.”

Bản vương nghe xong, trong một giây có cảm giác trời quang mây đãng.

Khải Giả ngồi thẳng người trên ngự tọa, mỉm cười, “Người mặc áo tím chính là hoàng thúc Hoài Vương của trẫm.”

Hán quan lập tức quay sang thì thầm với sứ thần, sứ thần lại quay sang nhìn ta, sau đó thì thào với Hán quan tùy tòng thêm chập nữa. Hán quan tùy tòng bẩm lên, “Bệ hạ, A Lỗ Nam đại nhân nói, tuyệt đối không phải vị Hoài Vương điện hạ này, Hoài Vương điện hạ khiến nữ vương ngưỡng mộ là một nam tử cao lớn vững vàng, bước đi như bay, nét mặt cương trực, vừa kiên nghị lại chu đáo.”

A Lỗ Nam sứ thần chấm chút rượu vẽ mấy nét lên bàn, rồi lại luyên thuyên mấy câu, Hán quan tùy tòng bẩm, “A Lỗ Nam đại nhân am hiểu hội họa, có thể vẽ lại bức tranh của nữ vương. Để bệ hạ biết rõ là người nào.”

Sao không nói sớm, hại bản vương bị đì đọa hết chập này đến chập khác, đì đọa đến tận lúc ăn tiệc, giờ mới chịu nói ra chuyện quan trọng.

Bản vương ngay cả nổi điên lên cũng lười nổi, chỉ muốn nhìn coi là ai mà hay quá vậy, làm bản vương mang tai tiếng là thông đồng với Hách nữ vương.

Ta được chứng minh trong sạch rồi, mấy người còn lại không tỏ vẻ gì, chỉ có mỗi Gia Vương là hơi bị hụt hẫng. Ai cũng đều hưng phấn muốn biết rốt cuộc Hoài Vương điện hạ được nữ vương thương yêu là ai, Khải Giả lập tức sai người mang giấy và bút mực lên. Người phiên bang suy cho cùng vẫn ngưỡng mộ văn hóa trung thổ, tuy sứ thần Hách quốc A Lỗ Nam không thể nói tiếng trung thổ, nhưng khá rành rẽ việc sử dụng bút mực. Ông ta cuốn tay áo lên múa bút mấy nét, chừng khắc sau đã vẽ xong mặt người lên tấm giấy.

Hai viên hoạn quan nâng bức tranh tiến lên, ta soi chăm chú, người trên bức tranh có gương mặt chữ điền, lông mày rậm, có thể coi là một Hán tử trầm ổn. Hơn nữa e là người bản vương biết, bởi nhìn quen kinh.

Khải Giả nói, “Người này, có lẽ trẫm cũng chưa từng thấy, hoàn toàn khác xa Thừa Tuấn.” Tông Vương, Gia Vương, Phúc Vương, Lộc Vương cũng nói không biết. Chỉ có Khải Lễ nhíu mày nói, “Người này, hình như thần từng thấy ở đâu rồi…” Nó xoa thái dương, “Hình như… hình như là… đã từng liếc mắt qua một hai lần gì đấy, hình như là… người trong phủ chú Hoài Vương…”

Bản vương đã nghĩ ra, đứng dậy xác nhận, “Bẩm hoàng thượng, Thọ Vương thế tử nói không sai, người trong bức họa, vô cùng giống kiệu phu Hàn Tứ trong phủ thần.”

Chuyện Hách nữ vương rốt cuộc biến thành hài kịch. Khải Giả sai người đến phủ Hoài Vương triệu Hàn Tứ đến diện thánh. Hắn cũng chẳng biết mô tê gì, trên điện Kim Loan người run lập cập, nước mắt hòa nước mũi, miệng hô bị oan. Đến khi cùng với sứ thần Hách quốc thẩm tra đối chiếu sự việc, hỏi lại thời gian, mới phác họa ra được tiền căn hậu quả.

Ba bốn năm trước, lúc hai nước vừa đình chiến, Hách nữ vương từng cải trang đi theo đoàn thương lữ trà trộn vào trong kinh thành. Hôm ấy bản vương có đến quán nào đó tìm niềm vui, Hàn Tứ và vài người chờ ngoài cửa, vô tình chạm trán Hách nữ vương.

Con gái phiên bang quả thực phóng khoáng khó tin, Hách nữ vương cho rằng tướng công quán là nơi chuyên mở cho phụ nữ, thế nên muốn vào để mở mang kiến thức. Bọn Hàn Tứ sợ sinh chuyện quấy rầy nhã hứng của bản vương, bèn tiến lên ngăn cản, trong mấy người đó thì Hàn Tứ là tốt tính nhất, vừa khuyên nhủ nàng, vừa can người khác đừng gây sự với phụ nữ. Có lẽ vì thế mà nữ vương thầm thương hắn. Lúc đó trời còn mưa, nữ vương không biết đường, lại đi tách với người quen, cứ đi tới đi lui đi qua đi lại, Hàn Tứ nhìn mà không đành lòng, bèn mua một tán ô ngay ven đường, dẫn nàng đến ngoài cửa thành hội họp với tùy tùng.

Thế nên nữ vương nói với Hàn Tứ, hôm nay tôi và chàng có tình với nhau, tôi nhất định sẽ quay về tìm chàng, sẽ không phụ lòng chàng.

Hàn Tứ nghĩ tình ở đây là ân tình, còn đó chỉ là một câu hứa hẹn báo đáp. Bởi lẽ tại thiên triều, cô gái cũng sẽ nói với chàng trai những câu như vậy.

Nhưng đây rõ ràng là một lời thề ước, nữ vương cũng không vi phạm lời thề, thực sự đến cầu vương phu.

Hàn Tứ nước mắt đầm đìa, thề rằng lúc đó hắn nói với nữ vương hắn là Hàn Tứ, là một kiệu phu, nhưng do bản vương đến tướng công quán không phải là chuyện trong sáng gì cho cam nên hắn không dám tiết lộ mình là kiệu phu nhà nào.

Sứ thần nói, người nữ vương thề ước quả thực tên Hàn Tứ, nhưng nữ vương nghĩ hắn không phải nhân vật bình thường, lại thêm việc hắn ngăn cản những kiệu phu tùy tùng khác, đơn giản vì đó chính là tùy tùng của hắn. Nàng còn nhớ hoa văn trên kiệu bản vương, tra ra được đây chính kiệu của phủ Hoài Vương, nên coi Hàn Tứ là bản vương.

Lúc kiểm tra đối chứng thì Hàn Tứ và Hách sứ thần ở gian phòng tách biệt, không có khả năng thông cung, mọi tình tiết đều khớp từng li từng tí nên có thể thấy đây là sự thật.

Hàn Tứ một tay kiệu phu bỗng chốc gặp phải kỳ duyên, còn đặc sắc hơn cả truyện cổ tích, chỉ khổ cho bản vương, liên lụy rồi lại lăn lộn đến đổ mồ hôi đầy người.

Sau khi điều tra rõ ràng, Khải Giả triệu ta đến ngự thư phòng, đưa ra một lời trấn an, “Chuyện Hách quốc nữ vương quả thực ly kỳ, người đúng là vô tội bị liên lụy.”

Ta thưa, “Không sao không sao rồi, chỉ làm thần sợ đến đổ mồ hôi hột thôi, thần chỉ sợ hoàng thượng tống thần đến phiên bang làm tướng công hòa thân thôi à.”

Khải Giả mỉm cười nói, “Không phải trẫm đã nói là, sẽ không để tân vương phi vào cửa sao? Vì sao Thừa Tuấn lại không tín nhiệm trẫm?”

(chẳng hiểu sao mỗi khi nghe Khải Giả gọi chú là Thừa Tuấn mình lại thấy nhoi nhói tim =__=)

Ta lập tức nói, “Thần trăm triệu lần không dám, có điều hoàng thượng chỉ nói là không để thần có vương phi vào cửa, chứ chưa nói không để thần ra khỏi cửa, thế nên thần vẫn hơi có chút lo sợ.”

Khải Giả nhìn ta chăm chú còn cười cười, sau đó thong thả đi vài bước, thuận miệng nói, “Việc này vẫn chưa xong, chưa biết sau khi Hách nữ vương hay Hoài Vương trong lòng mình là một kiệu phu thì còn muốn hắn là vương phu không. Giả thử còn thì chí ít trẫm phải cho hắn một phong hàm để giữ thể diện. Nhân tài trong phủ hoàng thúc quả đông đúc, chuyện lạ cứ liên tục xảy ra.”

Ta đáp, “Việc này là do ông trời ban nhân duyên cho Hàn Tứ, trên sổ tam sinh đã định sẵn từ lâu rồi, kỳ thực không liên quan đến thần.”

Khải Giả dừng bước, “Nhưng đúng là vẫn dính dáng đến người, chuyện này khiến người hao tổn tinh thần nhiều rồi, vết thương trên tay còn chưa khỏi hẳn, hãy về trước nghỉ ngơi cho khỏe đi.”

Ta quỳ xuống đất dập đầu, “Thần cáo lui, xin hoàng thượng cũng chớ quá lao lực.”

Âm thanh của Khải Giả phía trên đầu ta truyền xuống, “Có hoàng thúc lúc nào cũng nhớ đến trẫm, trẫm thật vui mừng.”

Ta ra khỏi ngự thư phòng, hướng về cửa hoàng thành, thong thả đi. Vừa qua một cây cầu, nhác thấy bóng áo mặc lam quen thuộc, trái tim ta không nén được nhảy chồm lên mấy cái, ta đứng lại chắp tay cười bảo, “Liễu thừa tướng, tình cờ quá.”

Y nâng tay áo lên khom người với ta, vẫn như bình thường, khách khách khí khí, “Hoài Vương điện hạ.”

Ta cũng khách khí nói, “Thấy Liễu thừa tướng đi vào trong cung, phải chăng đang bận việc công?” Khóe môi y nhếch lên, “Hoài Vương điện hạ đi ra ngoài, phải chăng chuyện quan trọng đã xong rồi.” Ta cười hai tiếng, “Chẳng bao giờ ta bận chuyện gì quan trọng, chỉ toàn vụn vặt tạp nhạp mà thôi.”

Nụ cười vẫn còn đọng lại trên môi y, “Thần nghe nói, trong phủ Hoài Vương tiến ra một vị vương phu.”

Câu này đùa chăng? Sau hôm ra khỏi thủy tạ, y thế nào mà còn có thể vui đùa với ta, ý tưởng này thật xa xôi. Còn trào phúng? Ta biết y không phải loại người thích lấy trào phúng làm niềm vui. Như vậy chỉ có thể là một câu khách sáo bình thường. Với ta mà nói, là một câu có thể khiến ta coi như một lời nói giỡn biến thành lời an ủi.

Ta tức thì đáp, “Phải, phủ Hoài Vương ta lại xuất hiện thêm một nhân vật, càng nhìn càng giống như có rất nhiều nhân tài.”

Đôi đồng tử trong veo của Liễu Đồng Ỷ nhìn ta, ta bèn nói, “Liễu thừa tướng còn bận chuyện quan trọng, bản vương không làm phiền ngài nữa, cáo từ trước.”

Y nhấc tay áo lên thản nhiên nói cáo từ, ta tiếp tục đi về hướng cửa thành, hoàng hôn đang buông, ráng đỏ nhuộm thắm nửa bầu không.

27

Hàn Tứ không muốn làm tướng công hòa thân.

Ta vốn nghĩ chuyện vương phu đã xong phần nào, nên sau khi từ trong cung trở về, ngán ngẩm một chút lại nghĩ thêm một ít về Nhiên Tư của ta, sau đó mệt mỏi chợp mắt thoáng chốc. Đến khi trời tối sầm thì mới nhấc người dậy, vừa ngồi trong sảnh được có tý thì một bóng đen từ ngoài cửa lao vào, gục xuống đất khóc rống.

“Vương gia, cầu xin ngài vì tiểu nhân đã hầu hạ ngài nhiều năm… đừng cho tiểu nhân đến phiên bang… nhà tiểu nhân còn có cha mẹ già, đệ muội nhỏ tuổi, nếu tiểu nhân đi phiên bang, bọn họ không sống được, xin vương gia khai ân…”

Hàn Tứ quả có phần thông minh, biết cháu hoàng đế của ta lợi hại, trong cung không dám khóc, thay vào đó khóc với bản vương.

Bản vương nói, “Vấn đề không phải bản vương khai ân hay không, hôn nhân của ngươi và nữ vương là do trời định sẵn, nhân duyên xảo hợp. Mấy ngày nữa hoàng thượng sẽ ban công danh cho ngươi, phụ mẫu đệ muội của ngươi sẽ được triều đình cấp dưỡng, ngươi đừng lo. Đại trượng phu phải vì nước vì dân hy sinh cái tôi, ngươi cưới Hách nữ vương, cùng chung vương vị với nàng, bao nhiêu người muốn mà không được, sao lại từ chối?”

Hàn Tứ vẫn khóc ròng rã, bản vương chưa từng thấy hán tử người cao bảy tám thước

(1 thước = 1/3 mét)

nào khóc như thế. Hàn Tứ nói, hắn sợ người phiên bang, nghe nói bọn họ toàn ăn thịt sống, uống máu tươi, không bỏ muối, hắn nói từ nhỏ mẹ hắn đã dạy, nam tử hán đỉnh thiên lập địa, có thể cưới vợ, nhưng không thể ở rể.

Bản vương lại phải giúp hắn hiểu đại nghĩa, khuyên nhủ hắn. Ở rể, cũng phải coi là rể nhà nào, hiện giờ là hắn cưới nữ vương, đi làm vương phu, giúp biên cương yên ổn, sử sách nhất định ghi nhớ công lao của hắn.

Hán Tứ vẫn khăng khăng không chịu, hắn nói không thể đánh mất họ của mình, tên của hắn là Hàn Truyền Bảo, nếu như đi theo nữ vương phiên bang, nhất định phải đổi theo họ nữ vương, trở thành người phiên bang, hắn không thể dễ dàng chấp nhận chuyện đó được.

Hách nữ vương hình như có họ là Hách Hách Na Lỗ, sau khi Hàn Tứ hòa thân, có lẽ sẽ đổi thành Hách Hách Na Lỗ Truyền Bảo hoặc Truyền Bảo Hách Hách Na Lỗ, mấy cái tên này bản vương cảm thấy cũng không quá ẹ.

Hàn Tứ cứng đầu cứng cổ, chết cũng không phục, bản vương bị hắn quậy đến độ nửa cái đầu giật tưng tưng, ta vốn không giỏi lý lẽ dằng dưa với người khác, mà việc này chỉ có thể mềm mỏng khuyên nhủ, không thể đe nạt, hơn nữa đã sắp đến ngày khởi sự, giờ còn thêm chuyện nhì nhằng, coi bản vương còn đủ sức tạo phản hay không?

Hàn Tứ làm ầm ĩ đến nửa đêm, khó khăn lắm mới khuyên hắn đi về ngủ. Tội cho ta chỉ húp được có nửa chén cháo thì cũng đi ngủ nốt.

Hôm sau, mặt trời lên cao, ta vẫn còn nằm trên giường. Tào tổng quản bẩm báo, có Vân đại phu tới. Vân Dục hôm nay đến cũng nằm trong dự liệu của ta.

Ta đứng dậy, Tào tổng quản bẩm, “Vân đại phu nói hôm nay chỉ tiện đường sang chơi, nghe vương gia còn chưa dậy, ngài ấy bảo xin cáo từ trước, nhờ thông báo một tiếng, vương gia biết mình đến là được rồi.”

Ta nói, “Ngươi đi nói Vân đại phu chờ một chút, bản vương ra ngay.” Đến khi mặc quần áo rửa mặt xong, Tào tổng quản quay lại báo, Vân đại phu đã đi rồi.

Ngày trước Vân Dục chưa từng vội vã đến thế, nói đi là đi, ta phỏng đoán hắn có chuyện quan trọng muốn nói, e là phủ Hoài Vương không tiện, đợi dùng điểm tâm xong thì gửi thiếp đến Vân phủ, hẹn hắn uống rượu ở Nguyệt Hoa các.

Sau khi thiếp đưa đến Vân phủ không lâu, ta còn chưa kịp cho người đến Nguyệt Hoa các đặt chỗ thì có thông báo, Vân đại phu đến.

Ta có hơi mệt nha, xẹt tới xẹt lui vậy là sao?

Vân Dục vừa vào đến tiền thính, ngồi xuống, không đợi ta hỏi đã chặn miệng trước, “Vương gia cũng biết Nguyệt Hoa các không bình thường, tại sao đột nhiên mời thần đến đó?”

Ta đáp, “Không phải Vân đại phu thích chỗ đó à, bản vương mời ngài uống rượu đương nhiên phải dựa trên sở thích của ngài rồi.”

Vân Dục cười, “Chỉ quen thấy vương gia được người ta mời, chứ chưa thấy mời người ta, chỗ của Nguyệt Hoa các phải đặt sớm, còn nếu đặt trong ngày, vườn tược chưa sẵn sàng, đồ ăn chưa chuẩn bị. Thần sợ làm hỏng nhã hứng của vương gia, nên đành quay lại đây.”

Ta bảo, “Chả trách hôm nay Vân đại phu cứ vội vội vàng vàng, ta còn nghĩ ngài ngại phủ Hoài Vương không bằng Nguyệt Hoa các, vội vàng đưa thiếp mời.”

Vân Dục bưng chén trà lên, ra vẻ bất đắc dĩ, “May mà thần luôn ngồi lì ở đây, thường xuyên chạy tới vương phủ, da mặt cũng dầy, bằng không, vương gia nói chuyện sâu xa thế, thần còn tưởng đang hạ lệnh đuổi khách thực ấy chứ.”

Ta giơ tay, “Đừng nghĩ thế, đuổi khách nào cũng không dám đuổi Vân đại phu, sáng hôm nay bản vương vừa vội vã ra khỏi giường vừa giữ chân lại, thế mà Vân đại phu lại ngại trễ việc, nói đi là đi, bản vương còn định lẹ làng đặt chỗ Nguyệt Hoa các, đến đó giải thích hai câu, sợ Vân đại phu không chịu thông cảm nữa là.”

Vân Dục thở dài, “Thần thực sự tội đáng vạn lần chết, sáng sớm quấy rầy vương gia nghỉ ngơi, sợ hãi xin cáo lui, cũng không nghĩ họa lại từ đây mà tới.”

Ta cũng thở dài, “Bỏ đi, bản vương sợ Vân đại phu, câu này cũng đâu phải mới nói lần đầu.”

Vân Dục dùng nắp chén thong thả khêu lá trà, “Mà, cũng có thể là bởi vậy chăng, nên vương gia mới nói với hoàng thượng rằng, thần đi làm tướng công hòa thân e là họa ngầm, không phải sự lựa chọn thích đáng.”

Mấy câu này khiến ta chột dạ. Xem ra câu “Vân Dục là con Vân Đường, không thích hợp” đã bị vặn xoắn đủ kiểu.

Lúc đó bản vương cũng sợ Vân Dục trúng tuyển vương phu. Vân Dục là người hành sự tàn độc, lại rất nhẫn nại, nếu thực sự việc rơi vào đầu hắn rồi, sợ là hắn sẽ không nói tiếng nào đồng ý ngay, vừa dấy lên chiến tranh biên cương vừa tạo phản, nội ứng ngoại hợp là coi như đại cục xác định.

Hiện tại, bản vương có thể tự tin nắm chắc được Vân Đường Vương Cần trong tay, nhưng nếu thêm cái Hách quốc vào, e là ngôi vị hoàng đế của Khải Giả lành ít dữ nhiều. Cho dù thế nào cũng không thể cho Vân Dục đi làm vương phu.

Ta nhấn huyệt thái dương, “Vân đại phu không trách bản vương phá hoại nhân duyên của ngài chứ.”

Vân Dục lại cười bảo, “Vương gia bảo vệ thần trước mặt hoàng thượng, thần phải cảm kích mới đúng. Vốn dĩ danh tiếng của thần và gia phụ cũng đã chẳng ra làm sao rồi, vương gia mượn làm lý do chốc lát, có gì phải nề hà.”

Nếu chỉ nhìn sắc mặt của hắn thì quả là bình thường, không có vẻ gì mắc mứu cả.

Ta đáp, “Vân đại phu không trách bản vương nhiều chuyện là được rồi. Không đi được Nguyệt Hoa các, trong vương phủ cũng có chỗ yên tĩnh, mời Vân đại phu sang chơi, chỗ đó có tên là Cận thủy tạ, chi bằng hôm nay chúng ta đối ẩm ở đấy?”

Bản vương dẫn Vân Dục đi qua cầu nổi đến Cận thủy tạ, hồi ức ngày ấy ta dẫn Nhiên Tư đi, thận trọng từng bước một, ngẫm lại mà thấy có hơi buồn cười.

Vân Dục đứng giữa hành lang, nhìn phía bên kia hồ quang đãng, gõ gõ chiếc quạt trong tay, “Thủy tạ của vương gia thật phong nhã, hóa ra phía sau hậu viện lại có chỗ thế này, tôi còn tự hỏi tại sao bao nhiêu vòng tường lớn nhỏ quanh phủ Hoài vương với những nơi tôi thường thấy lại kém hơn nhiều vậy?” Quay sang ta, “Lẽ nào đây chính là chỗ vương gia kim ốc tàng kiều sao?”

Ta đẩy hạc đá, thu hồi hành lang di động nối với bờ, Vân Dục tán thưởng, “Mới rồi thần còn sợ mình đoán sai, cầu nổi bị rút lại giống như một thủy lao, lẽ nào là chỗ hồi xưa vương gia bị tiên Hoài Vương điện hạ bắt đọc sách?”

Ta trả lời, “Vân đại phu rõ lợi hại, dĩ nhiên đoán đúng rồi, xem ra ngài ngồi bàn ngự sử mà không phải hình bộ quả thui chột nhân tài.”

Vân Dục thảng cười.

Cảnh này người đây, so với ngày ấy cùng Nhiên Tư, như hai thái cực đối lập. Tuy cảnh sắc không đổi, nhưng người thay đổi, tâm tình cũng biến động.

Ta nhìn Vân Dục khoan khoái ngồi trong gió mát, ý niệm bấy lâu bám trong lòng lại bắt đầu rục rịch.

Bản vương và Vân Dục, ngồi tại vị trí sáng sủa và rộng rãi nhất thủy tạ, gần chỗ tay vịn, ghế mây mềm mại, một chiếc bàn vuông nhỏ, một vò rượu ngon, dăm ba món nhắm tinh xảo.

Vân Dục híp mắt lại, “Thủy tạ nhà vương gia, mùa hè thì thừa mát, nhưng mùa đông có hơi lạnh đấy.”

Ta nói, “Hồi đó phụ vương ta thích nhất là mùa đông túm đầu ta đến đây học, lúc đó thủy tạ giống như cái hầm băng, dùng mười chậu than cũng vô dụng, răng trên răng dưới thi nhau đánh bò cạp, còn phải ráng chịu đựng mà đọc binh thư. May mà sau này ông ấy coi ta là khúc gỗ mục, khổ ải này mới được chấm dứt.”

Vân Dục nâng chén lên hướng nhìn ta, “Tương lai vương gia mặc long bào, đoạt lấy thiên hạ rồi, tiên Hoài Vương điện hạ ở dưới cửu tuyền nhất định sẽ rất vui mừng.”

Ta không nén được cười, “Vui mừng? Ông già nhà ta không nhảy ra khỏi quan tài lấy đao chém ta là may lắm rồi. Suốt đời phụ vương chỉ biết báo đền hoàng thượng, tận trung với giang sơn xã tắc. Nhưng trên lưng lại gánh với bao tội danh có lòng phản nghịch, đây là kết quả của một trung thần.”

Ta châm một chén rượu, cầm trong tay xoay xoay, “Chính vì thế nên bản vương đã thông suốt rồi, cái gì là trung, cái gì là gian? Thiên hạ đâu cứ phải nằm trong tay một người, nếu lưng đã bị bêu danh, sao không biến thành thật luôn? Hôm nay đám thanh cao kia mắng bản vương, đợi đến mai sau bản vương ngồi trên ngự tọa rồi, chẳng phải đều quỳ xuống dập đầu hô to vạn tuế ư. Còn về phần phụ vương, nếu ông ấy dưới kia có biết, thì coi như trắng mắt ra, cái gọi là khúc gỗ mục thì làm sao nắm giữ được thiên hạ.”

Bản vương vừa nói vừa quay ra phía hồ hứng gió, khí thế hùng hồn, nhiệt huyết trào dâng, lời nói dõng dạc.

Bọn người hai nhà Vân Vương đều tinh ranh, Vân Dục vừa rồi buông lời dò xét, bản vương cũng đưa đà một phen, có lẽ sẽ định được tâm hắn.

Vân Dục nói, “Hiếm khi vương gia biểu đạt sự hào hùng như hôm nay.”

Ta thản nhiên, “Có lẽ vì sắp tới ngày khởi sự rồi, nên có chút khó kiềm chế.”

Vân Dục mỉm cười, “Cha con thần càng khó kiềm chế hơn, cũng muốn nhìn thấy vương gia ngồi trên ngai báu, có điều hiện tại đang là thời gian trọng yếu, cho dù khó kiềm chế cũng phải cố mà kiềm chế.”

Ta thừa dịp hỏi, “Hôm đó ngài bảo bản vương vào triều cần phải lưu ý cẩn thận, không rõ là lưu ý chuyện gì?”

Vân Dục nhấp một ngụm rượu rồi mới thủng thẳng, “Gia phụ hôm trước nhận được tin, hình như Gia vương có nắm một ít binh quyền trong tay, vài nhánh binh ở phía Bắc có lẽ đang thuộc quyền ông ta. Lục vương yến lần này, không biết vương gia có thái độ gì đó để lộ ra một hai chuyện gì đó không.”

Khó trách lần nay trên triều, sống lưng của Gia Vương cũng thẳng dữ, ta nói, “Gia Vương này là muốn làm nhạn già giương cánh ngạo cười khổ hạnh, có điều ông ta ngủ đông lâu quá rồi, nắm binh quyền trong tay không biết có bị khớp không nhỉ.”

Vân Dục lại giương mắt ngó ta, trong ánh mắt lộ tia đã hiểu. Hắn buông chén rượu rỗng rồi quay lại nhìn mặt hồ, “Thế cục hiện tại, mạng lưới ngang dọc, từng sợi đều phải chặt chẽ cẩn trọng, không hở một khe nào, mỗi chỗ đều phải tính toán chi li cẩn thận.”

Vẻ mặt hắn dường như có phần uể oải mệt mỏi, nếu như không có âm mưu, không có tính toán, trời đất chỗ nào cũng rộng rãi thoáng đãng như hồ thủy tạ đây, cứ thế ngồi đối diện uống rượu, thưởng ngoạn sắc hồ, chẳng phải là sung sướng tột bậc sao?

Đáng tiếc chuyện đời nào có thể do tâm mình định đoạt, giả như không có âm mưu, không có tính toán, Vân Dục sao có thể kề cận ta, ngồi đối diện uống rượu, càng không thể có chuyện trông hồ hóng mát.

Ta trộm nhìn Vân Dục, đem lời vẫn canh cánh trong lòng nói ra, “Ta có một chuyện muốn khuyên ngài đã lâu, nhưng nghĩ ngài sẽ không ưng thuận nên vẫn chưa nói ra, giờ đã đến lúc cục diện khẩn thiết, ta cảm thấy như là một nước cờ cực kỳ then chốt vậy, thế nên sẽ nói với ngài.”

Vân Dục nắm chén trong tay nhìn ta, ta bảo, “Tùy Nhã, ngài hãy dứt ra khỏi mưu phản lần này, đừng tham gia nữa.”

28

Vân Dục vừa để chén chạm môi, nghe ta nói xong, trong một thoáng mặt như bị sặc, “Vương gia… sao ngài… lại đột nhiên nói chuyện đó?”

Ta đón ánh mắt của hắn, “Khởi sự lần này có thành công hay không cũng chưa đoan chắc được, Vương Cần, cha ngài và ta đều tung hết vốn liếng trong tay ra, lưu lại một nước cờ ẩn, cũng là vì tương lai sau này thôi.”

Vân Dục nhìn ta không nói năng gì, ta tiếp, “Nơi nào đó ở tây nam có một sơn cốc, dù không sánh bằng sự trù phú và an nhàn ở Giang Nam, nhưng non xanh nước biếc thì chỗ nào cũng có. Từ kinh thành đến đấy, chỉ độ ước chừng nửa tháng.”

Ta nói với Vân Dục, hôm nay từ phủ Hoài Vương về, giả vờ như dọc đường bị thích khách đâm, sau khi trị chữa ở kinh xong thì xin phép được tĩnh dưỡng, phải đi về biệt trang của Vân gia ở Giang Nam, lúc đi đến châu thì ngủ lại một đêm, hôm sau chạy tiếp.”

Vân Dục không hề nhìn ta mà chỉ nhìn chén rượu trong tay, nói đúng một câu, vương gia an bài thật thỏa đáng.

Ta nói, “Chuyện này ta nghĩ đã lâu rồi, chỉ có ngài là hợp nhất. Tài học, mưu lược, gan dạ sáng suốt… những cái này Vân đại phu đều có, vả lại ngài còn trẻ, vẫn còn nhiều thời gian.

Đây chính là lời tâm can của ta, Vân Đường Vương Cần đền tội là đúng người đúng việc, chỉ có Vân Dục, thủy chung ta vẫn có phần thương tiếc, thậm chí là hổ thẹn.

Vân Dục là một nhân tài, trong triều thần của Khải Giả đã có người như Liễu Đồng Ỷ, độ lượng gắn kết con người lại với nhau, thì cũng cần có một thần tử sắc sảo như Vân Dục. Trừ việc đi theo cha thường xuyên cùng bản vương nghiên cứu việc tạo phản, Vân Dục chưa từng làm ra chuyện gì có lỗi với triều đình.

Vân Dục buông chén rượu lần thứ hai, “Lời vương gia vừa nói với thần, là đùa hay thật vậy?” Hắn cười hai tiếng, “Hiện giờ tên đã lên cung, không chừng bên kia đã dỏ mắt nhìn bên này từ lâu rồi, giờ này khắc này, vương gia còn muốn bố trí ám tử?” Hắn đứng lên, đi đến bên lan can, “Chậm rồi.”

Ta đáp, “Chậm vẫn chưa muộn, nếu ta đã nói với ngài, tức là muốn làm đấy.” Sơn cốc kia vốn dĩ là đường lui mà bản vương tự chuẩn bị cho mình, tốt xấu gì bản vương cũng bị dính cái danh triều đình đệ nhất u độc rồi, cho một Vân Dục đi đến đó cũng còn dư dả chán.

“Nếu sự thành, bản vương đăng cơ, lập tức triệu ngài về kinh. Còn nếu thất bại, ngài lưu ở chỗ nào đó, muốn báo thù thì báo thù, còn muốn mai danh ẩn tích thì cứ tiếp tục đi về nơi khác. Chí ít bọn ta ở đây, vẫn còn sót lại một người.”

Đợi đến khi Vân Đường Vương Cần đền tội, nếu Vân Dục có thể hồi tâm chuyển ý, hoàng đế cháu ta cũng không ngại, thì có thể kêu gọi Vân Dục quay về triều nhậm chức, song bản vương biết kết quả này khó mà thành hiện thực. Cho dù là Vân Dục tự đặt mình ngoài chuyện này, sau đó mai danh ẩn tích cũng được; hay là hắn muốn quay về tìm ta báo thù, đâm cho một đao làm thịt cũng được, ta vẫn cảm thấy thoải mái hơn, chứ không như bây giờ, mỗi lần nhìn thấy hắn là lại nặng nề.

Vân Dục đứng bên lan can quay lại, đột nhiên quỳ rạp xuống.

Ta cả kinh, vội vàng bật dậy kéo lên, nhưng Vân Dục vẫn quỳ dính cứng ngắc, cho dù ta đỡ thế nào cũng không chịu đứng dậy, “Hóa ra lời vương gia nói không phải đùa.” Hắn cười khổ não, “Vương gia không cần vòng vo này nọ, thần đã hiểu rồi, Hoài Vương điện hạ thủy chung vẫn không tin tưởng cha con thần. Thần đã hạ quyết tâm đi theo vương gia, việc sống chết đã chuẩn bị tâm lý từ lâu, đây chính là tâm ý của thần. Nhưng nếu vương gia thực sự lo ngại gia phụ, muốn bắt thần làm con tin, thần cũng xin vâng lời. Chỉ là…” Vân Dục giương mắt, thần sắc ánh mắt đều hết sức bình tĩnh, “Nếu giờ cho thần đi tây nam, nhất định sẽ khiến Đế đảng sinh lòng nghi ngờ. Chẳng bằng dùng thuốc đáng tin cậy. Thuốc tác dụng chậm hoặc thuốc điều khiển con rối trong vương phủ hẳn có. Trong nhà thần cũng có mấy lọ.”

Vốn bản vương đang cúi người kéo Vân Dục lên, nghe hắn nói xong thì bản thân cũng suýt chút té phịch xuống đất. Ta nghĩ, chẳng bằng hắn lấy một đao đâm ta cho xong, nhưng đến phút cuối cùng, ra khỏi cửa miệng chỉ có một câu, “Ngài xem như… ta chưa từng nói gì cả.”

Kỳ thực ta muốn nói, hóa ra trong mắt Vân đại phu, bản vương là kẻ như vậy.

Hoặc là, ta làm sao có thể nghi ngờ ngươi như thế.

Nhưng ta không đủ can đảm nói ra, vì ta cũng đang tính toán vận mệnh Vân Dục, có lập trường gì mà nói ra lời như thế.

Ta chỉ có thể thở dài, khẩu khí thương lượng đến mức ta gần như cầu xin hắn, “Ngài coi như ta chưa từng nói gì hết, đứng lên trước đi.”

Vân Dục vẫn quỳ mãi ở đó, buộc lòng ta phải nói, “Vân đại phu, nếu bản vương thực sự nghi ngờ ngài, sao lại luôn cùng ngài…”

Vân Dục lại nở nụ cười khổ, “Thần đã tự suy xét, có phải vì trước mặt vương gia, thần luôn không biết phân nặng nhẹ cao thấp, ngày ấy ở Nguyệt Hoa các lại suýt làm cái trò luyến nịnh kia, không biết liêm sỉ thế, vương gia làm sao có thể vừa mắt thần?”

Ta đỡ Vân Dục, gần như ngồi trên đất rồi, ta không biết nên nói làm sao, vùng vẫy đấu tranh một hồi cũng chỉ đành nói một câu, “Tùy Nhã, ngài muốn thì cứ nói với ta, cũng đừng sỉ nhục bản thân.”

Vân Dục rốt cuộc đã chịu ngẩng đầu lên nhìn ta, ta lại tiếp tục thương thuyết với hắn, “Ngài coi như ta chưa từng nói gì hết, đứng lên đi.” Vân Dục vẫn bất động, bản vương cuối cùng cũng bị hắn bức phải nói mấy câu thật lòng ra, “Chuyện ở Nguyệt Hoa các lần đó, ta biết lòng ngài có tâm sự, do uống nên mới làm chuyện như vậy. Bản vương… ta… chỉ sợ bản thân coi là thật.”

Hai tay ta vốn dĩ nắm chặt lấy ống tay áo của Vân Dục, giờ buông ra, ứa cả đống mồ hôi, “Tùy Nhã, không nói gạt ngài, từ trước đến giờ, ngài là người duy nhất không hề câu nệ khi ở cạnh ta. Vương phi cũng vậy, người ta ưng mắt cũng vậy, thậm chí cả Sở Tầm, cũng không ai thực sự thả lỏng lòng mình với bản vương. Liễu thừa tướng, càng không…”

Trên thực tế, cầu mong duy nhất của bản vương, là một người có thể thực sự cùng ta có đối phương trong trái tim mình. Chuyện trò uống trà suốt một ngày dài, cứ ngày qua ngày,suốt đời không chán ngấy nhau, vậy là được rồi.

Nếu người đó là Vân Dục, thì chuyện cũng không đáng ngạc nhiên cho lắm.

Ngày ấy ở Nguyệt Hoa các, có một số chuyện bản vương đã nghĩ tới, nhưng lại không xảy ra. Cho dù có xảy ra, cũng không thể thừa nhận.

Ta nói, “Chỉ là, hiện giờ có nói chuyện này cũng chỉ tai hại vô ích. Tùy Nhã, ngài… ngài biết, bản vương là đoạn tụ, giả thử bản vương thích Tùy Nhã, quả thực phiền phức.”

Vân Dục nhìn ta, lát sau nhướn mi nói, “Phải, thực sự rất phiền, người vương gia thích là Liễu thừa tướng, làm sao có thể vừa ý thần? Vương gia nhất định sẽ không thay lòng đổi dạ.”

Một mặt hắn nói, mặt khác hắn đứng lên.

Bản vương thở phào nhẹ nhõm, đứng lên theo, “Tùy Nhã…”

Vân Dục thở dài, “Vương gia xin cứ yên tâm, chuyện ở Nguyệt Hoa các sẽ không bao giờ lặp lại. Thứ ở trong lòng thần, thì chỉ ở trong đó, không nói ra đâu.”

Ta nói, “Tùy Nhã…”

Vân Dục nhìn ta, bỗng nhiên cười, “Thần hay đùa giỡn, khi đó ở Nguyệt Hoa các quả thực trong lòng có chuyện, lại thêm uống rượu. Nếu như thực sự muốn làm chuyện gì đó, sau này nếu vương gia đăng cơ, thần lại biến thành một thần tử luyến nịnh. Danh tiếng này không được hay cho lắm, cho dù mặt dày cách mấy cũng không chịu nổi, có lẽ nên từ bỏ thì hay hơn.”

Hắn lại cười thêm cái nữa, “Hôm nay chỉ nói đến đây thôi. Có một số việc vương gia và thần coi như chưa từng xảy ra. Thần xin cáo lui.”

Ta nhìn hắn khom lưng hành lễ xong, ta và hắn đi ra khỏi thủy tạ, qua hành lang nổi đến bờ kia. Trên đường, Vân Dục chẳng nói tiếng nào, bản vương càng không có gì để nói.

Vân Dục qua tới bờ bên kia lập tức bỏ đi, một khắc cũng không nán lại, hắn đi rồi, bản vương quay về phòng ngồi, cả buổi trời vẫn chưa bình tĩnh lại được.

Ta thực sự sợ Vân Dục, hắn lấy dao đâm lòng ta nát bấy cả buổi trời, ta sợ rằng hắn đã biết.

Biết ta thực ra thích hắn.

Liễu Đồng Ỷ là một giấc mơ thơm nồng hương quế cùng sắc trăng bóng nước, chính hai câu nói của y trong thủy tạ đã khiến ta tỉnh mộng, hiểu rõ điều tốt thực sự.

Chuyện Nguyệt Hoa các, mặc dù ta không muốn suy xét, nhưng không thể không suy xét, ngẫm lại quá khứ, Vân Dục làm như vậy là rất lạ, trừ phi…

Trừ phi hắn có lòng với bản vương.

Suy nghĩ này khá là táo gan, bản vương đã từng tuổi này rồi, vốn không nên có suy nghĩ như bọn thiếu niên mới lớn. Nhưng lại không tự chủ được mà nghĩ tới. Lại đối chiếu với hành vi gần đây của Vân Dục… tưởng tượng lại càng thêm thật.

Không biết vì sao, sau khi có loại tưởng tượng này, lòng bản vương lại rộ lên vui sướng, vui sướng nhưng cũng là bi ai.

Đã sắp tạo phản rồi, sau đó, bản vương sẽ ra sao, Vân Dục sẽ ra sao?

Vô luận thế nào cũng không có kết quả tốt đẹp.

Ta tính toán với Vân Dục, quả là bất nghĩa, còn đây có lẽ chính là báo ứng.

Chỉ là thứ báo ứng này, tại sao cũng có một phần dành cho Vân Dục?

Thế nên chuyện này, bản vương không dự định cho vào sổ nợ.

Ta đang tự giày vò trong phòng ngủ, trong cung có người tới, nói rằng hoàng đế cháu ta có việc cho tuyên triệu.

Lệnh vua là lệnh trời, ta chỉ có thể thay đổi triều phục rồi tiến cung.

Chân mày hoàng đế cháu ta chau chặt, vẻ mặt đầy tâm sự, Khải Giả nhìn bản vương hỏi, “Sao trông hoàng thúc lại u sầu thế kia, có tâm sự gì à?”

Ta vội vàng thưa, không có gì, chỉ tại Hàn Tứ không biết tốt xấu, không chịu cưới nữ vương, thần đang đả thông hắn.

Khải Giả nói, “À, ra là Hàn Tứ, trẫm cũng nghĩ hắn không dễ dàng vui vẻ đi làm vương phu, hoàng thúc không giỏi khuyên giải cũng không sao, Vân Dục thường đến vương phủ của hoàng thúc, hay là để hắn đến khuyên cho?”

Lòng ta lại nhảy chồm chồm, vội nói, “Sợ là Vân đại phu cũng không giỏi chuyện ấy…”

Khải Giả nhấc tay, “Bỏ đi, hôm nay trẫm cũng lười lẩn quẩn chuyện vương phu, Vân Dục không giỏi khuyên, thì trẫm sẽ để người giỏi việc ấy nhất là Liễu thừa tướng đến phủ hoàng thúc khuyên can Hàn Tứ.” Nói rồi thì lập tức gọi người lên, truyền khẩu dụ, sai Liễu thừa tướng đến phủ Hoài Vương nói chuyện với Hàn Tứ thật.

Bản vương đuỗn mặt nhìn hoạn quan lĩnh mệnh lui xuống, không biết cháu ta muốn làm gì đây.

Khải Giả vòng về ngự tọa ngồi, còn bảo mang một cái ghế đem đặt cạnh bản vương, cười lộ hàm răng bảo, “Được rồi, Liễu thừa tướng đã đến quý phủ hoàng thúc nói chuyện với Hàn Tứ, hoàng thúc cũng ở chỗ này bồi chuyện với trẫm một lúc nhé. Trẫm cũng không có việc lớn gì, chỉ là trong lòng có chút chuyện, muốn tâm sự với người khác.” Hàm răng lại hé lộ phân nửa, “Hoàng thúc ngồi trước đi.”

Bản vương tạ ân xong ngồi xuống, lại nghe Khải Giả nói, “Trẫm vẫn luôn, do dự với một người, không biết làm thế nào với người đó cho phải. Là nên bắt y, hay là cứ vậy mà buông tha y.”

29

Bản vương đáp, “Có thể khiến hoàng thượng do dự, tất nhiên rất nan giải.”

Khải Giả nói, “Hoàng thúc nói không sai, người này, trẫm vẫn chưa nhìn thấu con người đó, vì thế y luôn đè nặng trong lòng trẫm, khiến cuộc sống hàng ngày của trẫm khó lòng an ổn.”

Ta lập tức nói, “Hoàng thượng, mặc dù quốc sự quan trọng, nhưng cũng phải quý trọng long thể.”

Khải Giả đáp, “Hoàng thúc luôn quan tâm đến trẫm, từ nhỏ đã vậy, trẫm muốn cái gì, hoàng thúc đều nhất định đoán ra.”

Ta nói, “Thần nhận được một tiếng gọi chú của hoàng thượng, tuy rằng không phải chú ruột, nhưng cũng không muốn làm thất vọng tiếng xưng hô này.”

Những lời này dường như khiến cháu ta vô cùng xúc động, ánh mắt nhìn ta lẫn nét mặt đều có sự khác biệt lớn. Sau đó Khải Giả còn nói với ta rất nhiều, phần lớn là kỷ niệm lúc nhỏ, chuyện đến phủ Hoài Vương chơi, rồi chuyện hồi nhỏ của Đại Vương vân vân, đến khi bầu trời đen mịt ta mới có thể cáo lui.

Trước khi đi, Khải Giả nói, “Hoàng thúc, lời người hôm nay nói với trẫm, trẫm sẽ ghi nhớ kỹ.”

Khi hồi phủ ta ngẫm nghĩ câu này, đoán chừng Khải Giả đã biết chuyện mưu phản.

Người khiến Khải Giả do dự, có lẽ chính là bản vương.

Trở lại vương phủ, dè đâu lại thấy kiệu của Liễu thừa tướng.

Ấy thế mà Liễu Đồng Ỷ còn chưa khuyên nhủ Hàn Tứ xong, lúc ta vòng qua hậu viện xem sự thể thế nào, thì lại đụng Liễu Đồng Ỷ vừa khuyên giải xong.

Dưới ánh đèn, Liễu Đồng Ỷ lộ ra sắc mặt mệt mỏi, có thể thấy tiến trình khuyên nhủ vô cùng cực nhọc.

Ta hỏi, khuyên can thế nào rồi? Liễu Đồng Ỷ ấn huyệt thái dương, lắc đầu. Bản vương hôm qua vừa lĩnh giáo trình độ đầu bò của Hàn Tứ, nhất thời lại thấy tội cho một người thông minh như Liễu Đồng Ỷ. Thế là liền mời y ăn một bữa cơm, lấy hơi rồi đi tiếp.

Liễu Đồng Ỷ từ chối khéo, xem ra là muốn chạy về phủ đánh một giấc phục hồi sinh lực, ta cũng không miễn cưỡng.

Hôm sau, một con bồ câu từ châu kia bay tới, mang theo một phong thư.

Trên thư chỉ có bốn chữ, “Mọi việc đã ổn.”

Ta xem thư xong, dường như uống được một viên thuốc an thần, lập tức cho người mời Vân Dục đến. Phân phó xong lại nghĩ không ổn, mới qua một ngày lại mời Vân Dục đến thì hơi bị nhiều quá, nên đa dạng mơi mới tý thì tốt hơn.

Thế nên ta lại bảo kẻ truyền tin, “Chập tối đến Mộ Mộ quán tìm Sở Tầm công tử, nói bản vương nhớ hắn, mời hắn đến quý phủ đánh đàn.”

Con ngươi tên truyền tin láo liên, nhếch miệng dạ một tiếng.

Ta lại cho đưa thiếp mời đến Vân phủ, chỉ nói hôm qua bản vương đắc tội với Vân đại phu, tối nay muốn mời ngài đến ngắm hoa nghe đàn.

Chừng hơn nửa canh giờ sau, người đưa thiếp quay về mang theo hồi âm của Vân Dục, nói tối nay hắn nhất định tới.

Trước giờ ta luôn ưng tính này của Vân Dục, chuyện của hôm trước là của hôm trước, không dây dưa kéo dài, càng không làm lỡ việc chính.

Chạng vạng, Vân Dục lại là người đến trước, trông vẫn như mọi khi, dường như chẳng để bụng chuyện hôm qua nữa, uống trà xong ngó nghiêng tứ phía, hỏi ta, “Đàn đâu?”

Ta đành bảo, “Đàn không tới sớm bằng ngài, ngài phải chờ thêm chốc nữa.”

Vân Dục ờ một tiếng, không nói nữa, ta đưa hắn vào sân trong, ngồi dưới hiên cái vườn nhỏ sau phòng ngủ ta uống rượu, vừa lúc có hai khóm thược dược đang nở rộ.

Tạm thời không có đàn, ta châm rượu trước, xung quanh không có ai, ta nói, “Chuyện Từ Châu đã ổn thỏa.”

Vân Dục cười bảo, “Hèn chi hôm qua vương gia bảo tôi chọn tuyến đường đi Từ Châu, quả nhiên là chỗ vương gia nắm trong lòng bàn tay.” Ngón tay dính rượu chấm lên bàn mấy chấm, “Giang Nam, Giang Bắc, Hoàng Hoài, Tây Nam, Tây Bắc đều đã định cả, chỉ còn Đông Bắc và kinh thành…” Lại chấm thêm mấy giọt rượu vẽ thành một vòng tròn hở, rồi chấm chỗ hở một điểm, “Là khép kín.”

Vân Dục xóa đi vệt rượu trên bàn, nói thêm, “Hôm qua gia phụ vừa nói, Tông Vương và Gia Vương gần đây đều rời khỏi kinh. Nơi Gia Vương đến, hình như là Từ Châu.”

Từ Châu là Giang Hoài trọng địa, thế nên Vương Cần và Vân Đường rất coi trọng, ta nói, “Hồi Thừa Điển còn dưới trướng phụ vương, từng mang theo Đặng Mãn mấy ngày.”

Đặng Mãn là phó tướng của Vương Tông đóng tại Từ Châu. Vân Dục nói, “Gia Vương có lẽ mấy hôm nay đang thực hiện thiên hạ binh mã lệnh.”

Ta đáp, “Có thể, ông ta coi Đặng Mãn như Vương Tống.”

Vân Dục nhếch cười.

Thiên hạ binh mã lệnh là ý chỉ binh phù cha ta dùng trong quân đội ngày trước. Khi xưa cha ta dẫn binh trấn thủ biên cương, đánh man di tơi bời, Đồng Quang Đế sai người chế thành một bộ binh phù cho ông. Gồm một đại binh phù và tám tiểu binh phù, đại phù có thể điều động toàn quân, tám tiểu phù có thể ra lệnh tám viên tòng tướng.

Ban đầu theo ông có các tiểu tướng các tá, đến thời Ứng Xương Đế thì trở thành đại tướng quân nắm trong tay trọng binh trấn thủ phần lớn quân đội. Thế nên đám trung thần đảng thương nước lo dân mới đồng loạt tấu lên Ứng Xương Đế, giờ binh phù của Hoài Vương mà đưa ra, có thể điều động phần lớn binh mã trong thiên hạ, thế nên mới có cái gọi là ‘thiên hạ binh mã lệnh’.

Cái thứ lệnh phù huyền thoại đó, hồi nhỏ ta dùng để chơi không biết bao nhiêu lần, còn mang đi đào hang kiến

(=)))

. Theo như lời mẹ ta nói, cha ta bị nhiễm tính hư của một hoàng tử từ trong xương tủy, có bệnh vứt bừa bãi, không biết cái gì là quý giá quan trọng. Hồi rỗi rãi không có đánh nhau, bộ binh phù này hay bị vứt lung tung, đến lúc cần mới đi kiếm, làm cho đám người hầu đi theo ông sợ muốn chết. Đại binh phù làm bằng sừng giao long mà ông hay mang bên người còn bị tè đầu, do bị ta dùng để cạy cục đá trên hòn giả sơn, cạy đến mức tè đầu luôn.

Ta cầm cái giao long phù bị tè sừng đó đi tìm cha ta, ông ngó quanh quất, nhìn thoáng cái binh phù một chút rồi cho vào ngực, một tay vuốt đầu ta một tay che miệng ta thì thào, “Nhớ không được nói cho mẹ con biết đấy.”

Chuyện ấy thật tựa như vừa xảy ra ngày hôm qua, khi ấy ta và cha cũng ngồi ở chỗ hôm nay ta và Vân Dục ngồi.

Vân Dục nói, “Vương gia với thần còn phải ngồi nhìn nhau đến chừng nào nữa? Bao chừ mới có đàn đây?”

Phải rồi, nắng chiều đã sắp tắt hẳn, sao Sở Tầm còn chưa đến?

Vân Dục nhích khóe miệng, “Hóa ra vương gia mời thần đến nghe Sở Tầm đàn, gần đây không đi tìm người ta, giờ còn không đến, chắc là bị người ta buồn lòng rồi.”

Mặt bản vương nhăn lại vì bó tay, đang định nói thì có người đến báo, Sở Tầm đã đến rồi.

Mấy ngày không gặp, Sở Tầm thoạt trông cũng không kém lắm, ôm cầm đến hành lễ rồi nói, “Thì ra vương gia bảo Sở Tầm đến đánh đàn cho Vân đại phu nghe.”

Vừa để cầm lên bàn, đang chỉnh dây thì bỗng lại có người đến báo, Liễu thừa tướng đến.

Vân Dục cầm chén rượu trên tay cả cười, “Hôm nay đông đủ phết.”

Ta ho một tiếng, “Liễu thừa tướng sang đây là bởi phụng chỉ khuyên bảo Hàn Tứ.” Hôm qua khuyên chưa thành công, hôm nay vẫn còn chuyện, phải tiếp tục sang khuyên.

Tuy Liễu thừa tướng đến là để khuyên Hàn Tứ, nhưng bản vương uống rượu, theo tình lý là phải mời. Cũng giống như y đến khuyên Hàn Tứ, theo tình lý cũng phải thông báo ta một tiếng.

Ta bèn sai Tào tổng quản đến mời Liễu thừa tướng, nói tiểu vương ở sau vườn ngắm hoa nghe đàn, rất hân hạnh mời Liễu thừa tướng đến đây đồng ẩm.

Tào tổng quản phụng mệnh đi, chốc sau, Vân Dục đang nhấc tay châm rượu thì có tiếng bước chân đi đến, ta đưa mắt nhìn bóng áo xanh, người bên cạnh Tào tổng quản, đương nhiên là Liễu Đồng Ỷ.

Sở Tầm phục người quỳ xuống, Vân Dục đứng lên hành lễ, Liễu Đồng Ỷ nói, “Lệnh vua trong người, lại phải đến vương phủ quấy rầy, vương gia và Vân đại phu ngắm hoa uống rượu, chỉ mong thần không phá hủy nhã hứng.”

Ta cười, “Đâu nào, có thể đúng dịp mời Liễu thừa tướng đồng ẩm, chính là vinh hạnh của bản vương.” Ghế đã sớm cho người kê lên, ta nhắc tay mời Liễu Đồng Ỷ, Liễu Đồng Ỷ ngồi xuống, uống xong một chén là đứng dậy cáo từ, “Quả thực còn vướng lệnh vua, không thể chậm trễ, xin cho thần cáo lui trước.”

Vân Dục bảo, “Liễu thừa tướng vướng lệnh vua, dù không thể ở lâu, nhưng đã ngắm hoa nghe đàn, chí ít cũng phải nghe một khúc hẵng đi.”

Ta cũng giữ lại, Sở Tầm góp thêm, “Tiểu nhân chưa kịp hiến khúc cho thừa tướng, lâu nay nghe tiếng Liễu thừa tướng am tường âm luật, chẳng hay hôm nay có thể chỉ giáo một ít chăng.”

Liễu Đồng Ỷ bất đắc dĩ cười đáp, “Đã vậy, tôi phải tranh thủ một chốc thôi.”

Vân Dục rót một chén đầy ắp, Sở Tầm đàn một khúc, âm thanh mượt mà như nước chảy, đàn xong, Liễu Đồng Ỷ mỉm cười khen, “Công tử đánh đàn tuyệt hay.”

Sở Tầm cung kính, “Thừa tướng quá khen rồi.”

Vân Dục bỗng nhiên nói, “Hằng nghe Liễu thừa tướng tinh tường âm luật, lên triều chung mấy năm rồi mà chẳng có cơ hội nghe. Hôm nay là dịp hiếm có, nếu có thể nghe Liễu thừa tướng và Sở Tầm công tử hợp tấu một khúc, quả là sự phong nhã hiếm thấy xưa nay.”

Ta thoáng kinh ngạc, Sở Tầm cười, “Vân đại phu thật khéo đùa, thừa tướng đại nhân sao có thể hợp tấu với tiểu nhân?”

Vân Dục nhíu mày, “Tôi cũng chỉ vui mồm nói đùa, Liễu thừa tướng chớ coi là thật.”

Trước kiểu nửa đùa nửa khích tướng này, ta đang định mở lời giải vây cho Liễu Đồng Ỷ, Liễu Đồng Ỷ đã cười nhạt nói, “Tôi chỉ sợ tự mình bôi bác mình, bị Sở Tầm công tử chê cười, đàn quả không dám đàn.” Dời mắt sang ta, “Chẳng hay phủ vương gia có sáo tiêu không?”

Bản vương ngẩn người, vội sai người đi tìm.

Cũng may là dù ta không rành mấy cái nhạc cụ, song để màu mè bên ngoài nên trong phủ cũng sắm một ít. Tào tổng quản thân chinh dẫn người đi tìm, lát sau đã tìm thấy một cây sáo bằng ngọc bích, dâng cho Liễu Đồng Ỷ.

Liễu Đồng Ỷ nhận lấy, mở miệng nói một câu “tài nghệ kém cỏi” xong, Sở Tầm liền nhấc tay áo lên lướt qua dây đàn, tiếng đàn hoạ tiếng suối reo, Liễu Đồng Ỷ đưa sáo ngang bên môi, mỗi âm sáo vút lên như ngọn gió đêm vi vu, bay lượn giữa mây ngàn, gờn gợn như con sóng trên dòng suối.

Nắng chiều vốn đã tắt, bầu trời tuyền một màu xanh sậm, sao ló dạng, ngoài hành lang sương dày một lớp, sắc hoa rực rỡ, chỉ có gió đêm là thản nhiên, rượu ắp chén trong veo.

Ta và Vân Dục cầm chén rượu trong tay, lưng tựa vào ghế, giữa âm sáo với tiếng đàn, dường như không say, mà lại như có say.

Tất cả hiện tại, giống một giấc chiêm bao đẹp đẽ thoảng hương hoa buổi chiều hôm, khiến cho người không muốn tỉnh.

Nhưng cho dù không muốn, cũng phải đến lúc tỉnh, tiếng sáo dăng dẵng đã bặt, tiếng đàn cũng ngừng theo, Vân Dục vỗ tay tán thưởng, “Nghe một khúc của Liễu thừa tướng, ba năm không dám nghe người khác thổi sáo.”

Liễu Đồng Ỷ khiêm tốn đáp, “Vân đại phu quá khen.” Uống thêm một chén rồi đứng lên, “Thật sự không thể trì hoãn, vương gia, thần xin cáo lui.”

Ta nhìn bóng áo xanh nhạt rời khỏi vườn, nếu là trước đây, chỉ sợ đêm nay lại trằn trọc, ngủ không an giấc. Hai hôm nay, dù thế nào ta cũng không ngủ ngon nổi. Chỉ là hiện tại người khiến ta không ngủ được, đã thay đổi rồi.

30

Đến lúc nhập canh (*), rượu hết, Vân Dục nói mệt, về phủ ngủ, Sở Tầm cũng ôm đàn từ giã.

(*) nhập canh: khoảng 7h tối.

Ta tiễn Vân Dục, uống vài chén trà xong đi tắm, tắm ra mới sực nhớ Liễu Đồng Ỷ còn chưa cáo từ, bèn ra ngoài hè hỏi một tên, “Liễu thừa tướng đi khi nào?”

Gã đầy tớ thưa, “Vương gia, thừa tướng gia còn nói chuyện với Hàn Tứ trong phòng con.” Vậy mà còn chưa khuyên xong sao?

Ta thong thả đến phòng con xem chuyện, vừa đến trước cửa thì thấy Hàn Tứ đang quỳ dưới đất dập đầu, “Đa tạ thừa tướng gia, đa tạ thừa tướng gia.”

Liễu Đồng Ỷ nói, “Không cần đâu, mai ta sẽ báo lên hoàng thượng, chuyện đã hứa với ngươi, nhất định sẽ làm được.”

Xem ra cuối cùng Liễu Đồng Ỷ cũng thành công rồi, ta chuyển qua đứng cuối hành lang, một lúc lâu sau, Liễu Đồng Ỷ bước ra. Ta nói, “Hai hôm nay làm phiền đến Liễu thừa tướng, chuyện chỉ có thế mà khiến ngài phải đích thân can dự.”

Gương mặt Liễu Đồng Ỷ dưới ánh đèn khuất lấp vẻ mỏi mệt, “Phận sự cả thôi.”

Rốt cuộc làm sao đả thông được Hàn Tứ, y còn chưa báo cho Khải Giả, không tiện nói, ta cũng không tiện hỏi. Liễu Đồng Ỷ mở miệng cáo từ, ta lưu lại một chốc, “Liễu thừa tướng khuyên nhủ cả buổi trời, uống chén trà xong hẵng đi.”

Ta và Liễu Đồng Ỷ vào một phòng nhỏ, mời trà xong, ta nói với Liễu Đồng Ỷ, “Trà trong phủ bản vương buổi tối đều là trà nhạt, pha một vài lá trà lấy vị, pha đặc quá sợ ngủ không được, không biết Liễu thừa tướng uống quen không.”

Liễu Đồng Ỷ đáp, “Thần thường xuyên ngủ muộn, quả thực hay uống trà đậm. Nhưng buổi tối đúng là nên uống trà nhạt.”

Ta khuyên, “Liễu thừa tướng bận rộn việc công, nhưng phải quan tâm sức khỏe, buổi tối nên đi ngủ sớm. Nếu cứ tiêu hao tinh lực, giờ thì chưa thấy gì, song về lâu về dài thân thể sẽ bị suy nhược.”

Liễu Đồng Ỷ cười cảm ơn, ta cũng cười bảo, “Không quan tâm thì tốt hơn, bản vương mắc bệnh hay rườm lời nói lắm, Liễu thừa tướng chớ để bụng.” Ta có ý chuyển hướng, bèn nói, “Thói quen ngủ sớm uống trà nhạt là có từ hồi nhỏ, hồi ấy phụ vương thích uống trà đậm rượu mạnh, mẫu phi muốn quản không cho ông uống, toàn bộ phủ buổi tối chỉ có thể uống trà lạt. Buổi tối vừa nhập canh là ta bị bắt đi ngủ. Còn học tập cổ nhân, tối mùa hè bắt đom đóm phát sáng, bỏ vào trong túi tiền mỏng, giấu trong màn đọc trộm sách tiểu thuyết, đáng tiếc là chả hữu ích gì, không đủ sáng.”

Liễu Đồng Ỷ đáp, “Phải, hơn nữa mùa hè thiếu đệm chăn, giấu không kín. Thật ra thần cũng từng mượn ánh trăng đọc sách, hại mắt, mùa đông lạnh cũng xem không được. Không thì gỡ miếng bìa kinh thư xuống, dán lên sách truyện, tiếc là chỗ dây ghim dán không dính.”

Ta cười, “Tại ngài hiền quá thôi, ta là cứ đi thẳng đến hiệu đóng sách, bỏ chút tiền cho họ làm sẵn cho ta mấy quyển có bìa [ lục thao ], [ tam lược ] (*) gì đó. Đến thế mà còn bị lật tẩy, bởi sách mới quá trông hơi kì.”

(*) thao = binh pháp; lược: kế sách, mưu lược.

Liễu Đồng Ỷ cũng khẽ cười, “Số thần may mắn hơn, thủ pháp tuy thua vương gia nhưng chưa bị bắt lần nào.”

Ta bảo, “Tại vì sách ngài tốt, không bị nghi là đúng rồi. Hồi ta còn bé, phụ vương bắt đọc binh thư còn dữ dội hơn ông ấy huấn luyện lính mới.”

Cha ta từng mong ta và ông sẽ vì cơ nghiệp mở mang bờ cõi, giữ gìn quốc thổ của triều đình mà phóng ngựa tung hoành biên ải. Ngày trước ta bị buộc đọc binh thư, bị buộc luyện đứng tấn, thậm chí còn có mấy lần được học dùng giáo.

Thật là, chuyện cũ nghĩ lại mà kinh.

Ta nói thêm, “Nhưng sau đó thì mặc kệ ta, ta muốn làm sao thì làm.”

Ngày xưa bị đánh bị mắng ép đọc binh thư luyện võ công, đến lúc không còn ai ép ai quản rồi, ngược lại có cảm giác hụt hẫng kỳ lạ.

(đồng cảm :v)

Ai, chuyện cũ tựa phù vân.

Liễu Đồng Ỷ nói, “Lúc bé chỉ ước gì có một ngày không bị ai quản thúc để đọc sách, đến lúc có thể công khai đường hoàng đọc rồi, lại khó có được hào hứng nhiệt tình như thời niên thiếu. Đời người tuy khó như ý mọi chuyện, nhưng thi thoảng nhớ về tuổi trẻ, vẫn thấy vui vẻ nhiều hơn buồn khổ.”

Ta tán thưởng, “Liễu thừa tướng nói thật chí lý.”

Liễu Đồng Ỷ cũng cười như nhẹ than, “Có lẽ vì mới khuyên nhủ người ta xong, bản thân còn chưa hoàn hồn. Khiến vương gia cười chê rồi.” Nhấp thêm vài ngụm trà nhạt nữa, buông chén đứng lên, “Quấy rầy đã lâu, phải xin cáo từ thôi.”

Đã qua canh hai, khuya khoắt quá rồi, ta cũng không khách sáo thêm nữa, đứng dậy tiễn Liễu Đồng Ỷ ra tiền thính.

Mấy hôm sau không có chuyện gì xảy ra.

Khải Giả gần đây cũng không triệu ta tiến cung, chỉ có Tết đoan ngọ, bản vương mang lễ vật vào cung mừng lễ, mấy ông vương huynh thì không đến, nhưng đám con cháu hoàng gia trọng thần thì rất nhiều. Ở lại cung dự tiệc, cùng với một đám người ăn mấy cái bánh tro, uống vài chén rượu hùng hoàng. Cũng không có thánh chỉ khẩu dụ gì giữ lại, tàn tiệc thì hồi phủ.

Ngày 6 tháng năm, nhận một ít tin. Ta cân nhắc hồi lâu, rồi viết thiếp mời gửi cho Vân Dục. Sau khi Vân Dục đến, tới chỗ thuận tiện yên tĩnh rồi, bèn hỏi phải có tin ở phía đông bắc ổn rồi không.

Ta đáp, chuyện đông bắc theo lý thuyết đã ổn rồi, nhưng tin tức xác định thì ta chưa có. Ta nói với Vân Dục, lần này ta tìm hắn là vì chuyện ngoài lề.

Trời quang không có gió, trong đình không khí oi bức hanh hao, bản vương do dự chốc lát thì hỏi Vân Dục, “Tùy Nhã, chuyện sơn cốc ở tây nam, ngài… thật sự không nghĩ lại à?”

Vân Dục đang phe phẩy quạt, nghe vậy thì ngó chằm ta, ta thấy vẻ mặt hắn có chút khác thường, vừa mới nghe hắn nói “vương gia, thần…” thì não ta nóng lên, chặn đứng lời của hắn, “Tùy Nhã, ta có một lời thật lòng nói với ngài. Ta, ta thích ngài.”

Vân Dục nắm chặt quạt nhìn ta, cây quạt không động, ánh mắt không động, sắc mặt không động, toàn bộ con người hắn, đều không động.

Lời này, ta chưa từng định nói ra, nhưng bỗng nhiên có cảm giác, nếu giờ ta không nói, cả đời sẽ không còn cơ hội nữa.

Bản vương có rất nhiều lời muốn nói, nhưng lại như không có gì để nói, lắp ba lắp bắp một lát, lại cân nhắc bảo, “Tùy Nhã, ta để ngài đi, chỉ vì không muốn ngài gặp nguy hiểm. Nếu ta, ta có dụng tâm khác, so với giết ta còn hơn. Tùy Nhã…”

Vân Dục cuối cùng cũng cử động, hắn khép quạt lại, khóe miệng mấp máy, đồng thời nở nụ cười, “Câu nói thích của vương gia, luân phiên tặng bao người, rốt cuộc cũng đã đến chỗ thần.”

Chỉ một câu nói, khiến bản vương lập tức nín lặng.

Đúng là gần đây bản vương quả có nói với Nhiên Tư. Nhưng câu này, ta chỉ nói với đúng hai người, một người là Nhiên Tư, một người là Vân Dục.

Ta vẫn hằng tương tư Nhiên Tư, nhưng Nhiên Tư mà ta thương nhớ, lại không phải là Liễu Đồng Ỷ thật sự. Đó chỉ là một ảo ảnh lãng đãng giữa mây trời, là bức họa trong lòng bản vương.

Từ mộng sực tỉnh, mới biết đâu chính xác là điều tốt đẹp.

Quay đầu nhìn lại, mấy năm qua, người cùng ta uống rượu vui vẻ, cùng ta nói đùa trêu chọc, chỉ có mình Vân Dục. Chưa từng ai thân cận với bản vương là thế, hiện tại chỉ có mỗi Vân Dục, sau này áng chừng cũng chẳng có người thứ hai.

Tiếc rằng, ngay cả phần ‘thật’ này, cũng đều là giả. Nếu bản vương không giả vờ tạo phản, Vân Dục cũng sẽ không thân cận ta, cũng có thể nói rằng, sự tương giao với Vân Dục, cũng do ta lừa mà có.

Sau ngày mười lăm tháng năm, đã định trước sẽ không còn lại gì.

Chuyện sau đấy, bản vương tạm thời không muốn nghĩ nữa, nhưng nếu Vân Dục bị giết, không bằng lấy mạng ta trước.

Vân Dục cười xòa, lời lẽ hững hờ, “Vương gia, đại sự trước mắt, chuyện khác để sau đi. Thần vẫn chỉ nói một lời thôi, là ông trời cho tôi lựa chọn, hơn nữa là do tôi tình nguyện chọn. Đi hay không đi. Không liên quan đến người khác. Thần sẽ vĩnh viễn đi theo vương gia. Mong ngóng nhìn thấy vương gia sớm ngày lên ngai vàng, nắm giữ thiên hạ. Cũng mong đến lúc đó, hoàng thượng sẽ không quên lòng trung thành của thần và gia phụ.”

Hai chữ “hoàng thượng” như hai cây kim chích vào lỗ tai bản vương.

Vân Dục cười cười, “Khi đó hậu cung tự nhiên sẽ có nhiều nhân vật đa dạng, đâu cần thần phải chen một chân vào làm gì.”

Câu này lại càng thêm chói tai, nếu ta nói với Vân Dục rằng, trừ ngươi ra, không thể có thêm người khác, hắn cũng chẳng tin.

Vốn dĩ, nếu đã có hắn, thì làm sao có thể thêm người khác.

Bản vương hiện tại như đang bị nhúng trong chảo dầu dưới mười tám tầng địa ngục, tiếc là nào ai hay.

Ta nắm lấy tay áo Vân Dục, “Tùy Nhã, chuyện hôm nay ta nói, nghe thì hoang đường, nhưng đều là lời thực dạ. Ta Cảnh Vệ Ấp cho dù không phải người tốt, nhưng Tùy Nhã với ta, không gì có thể so sánh được.”

Vân Dục lại nhìn ta, chỉ trong chốc lát lại phì cười, “Vương gia lần này nói làm thần xúc động quá xá, có phải vương gia lại muốn nói với Liễu thừa tướng nên mới đem thần ra diễn tập trước không?”

Ta xấu hổ buông tay áo hắn ra, do vừa rồi nắm quá chặt, trời nóng, người bản vương và lòng bàn tay đều toát mồ hôi.

Bản vương ho nhẹ một tiếng, cười giễu, “Có lẽ do hôm nay trời nóng nên hơi bị váng đầu.”

Vân Dục ân cần nhìn ta, “Thế thì vương gia nên tạm nghỉ cho khỏe đi, đại sự gần kề, nghìn vạn lần phải bảo trọng thân thể.” Hơi khom người, “Nếu đã không còn chuyện gì, thần xin cáo lui.”

Khi hắn xoay người đi, trời nổi lên ít gió, ta vẫn còn ra mồ hôi lạnh, gió cũng chẳng có tác dụng gì.

Ta đi qua đi lại trong đình mấy bước, nụ cười gượng còn gắn trên môi.

Vân Dục như vậy, là chuyện tốt. Chuyện lần trước ở Nguyệt Hoa các, ta hiểu được. Giờ hắn như thế tức là đã nghĩ thông suốt. Vốn dĩ nên như vậy.

Chỉ là, có lẽ số bản vương không có người mình thích. Trước là Nhiên Tư, giờ là Vân Dục.

Vốn là thứ gần mình nhất, thế mà giờ cũng đã đi xa.

Vân Dục không chịu đi, ta vẫn còn biện pháp. Tình thế lúc này quả không cho ta rảnh để mà xúc động thổn thức.

Nơi mạch nước ngầm dưới mặt nước tĩnh lặng hội tụ, bắt đầu trào sóng.

Lần sau Vân Dục quay lại, cũng chỉ để nói với bản vương về sự bố trí các nơi.

Ngày 8 tháng năm, doanh trại các châu vận sức chờ ngày phát động, hai nhà Vân Vương đã tiến hành kế hoạch nhiều năm, rễ đã ăn rất sâu, cành rậm lá rịt khuếch tán rộng hơn bản vương nghĩ. Đông tây nam bắc các quận các châu đều có người, trong triều phân chia tách bạch quan văn quan võ, muốn hỗ trợ cũng không thể can thiệp. Bản vương vốn nghĩ phe Vân Vương chỉ nắm trong tay phần lớn quan văn, dần dà mới phát giác ra vây cánh của chúng cũng có thể điều động không ít binh lính.

Một lần bứng gốc này, từ triều đình đến địa phương, không chỗ nào mà không dính vào ít nhiều, hình bộ đại lao muốn giam cũng giam không xuể.

Ngày 12 tháng 5, bản vương cho Vương Tuyên xem một cái binh phù, phỏng chừng tối đến Vân Đường và Vương Cần mừng đến không ngủ được.

Đây chính là binh phù tượng trưng cho hai vạn long vệ phiêu kị quân ở kinh thành.

Bình thường chỉ có một vạn cấm vệ quân, hai vạn phiêu kị quân phòng thủ tại kinh. Cấm vệ quân chỉ có ngọc tỷ của hoàng đế mới điều động được, còn hai vạn phiêu kị quân vốn do thái sư, bộ binh thượng thư cùng các quan võ trọng thần cai quản. Bộ binh thượng thư và các tướng thống lĩnh quân đội chia nhỏ thành các lệnh phù khẩn, có thể hợp thành một khối, trong tình thế cấp bách có thể huy động toàn quân.

Tối mười bốn tháng 5, trời đêm bằng lặng, ánh sao lấp lánh, trăng chỉ còn kém tý là tròn trặn. Đến lúc nhập canh, phủ Hoài Vương rất yên tĩnh, như thể toàn bộ kinh thành đều yên tĩnh.

Không biết có bao nhiều cặp mắt cũng đang nhìn trăng như bản vương, chỉ đợi đến giờ Tý.

31

Giờ tý, ta nhìn thấy pháo hoa phát sáng phía đông nam kinh thành.

Đó là tín hiệu khởi sự.

Theo như ước định giữa bản vương với Vân Đường Vương Cần, giờ tý lấy pháo hoa làm tín hiệu, thượng thư bộ binh Trình Bách và cháu Vân Đường là Vân Hoàn sẽ dẫn một vạn binh thủ quanh bốn góc kinh thành. Lý Giản và Vương Tuyên dẫn một vạn binh vào thành, hội hợp với ba nghìn cấm vệ quân của Vương Cần.

Nguyên nhân chính là ở ba nghìn cấm vệ quân kia, mà bản vương phải mạo hiểm thân chinh đi vào chỗ dữ, mượn dùng hai vạn phiêu kị quân.

Ta thật không biết bà già góa thái hậu kia mấy năm nay đổi chác cái gì, lúc đầu khi Khải Giả chưa tự mình chấp chính thì bề ngoài bà ta nhún nhường bản vương và mấy ông chú già ruột dư, bên trong thì ngầm xa lánh. Coi bọn người Cảnh thị ta không đáng tin cậy, chỉ có bên nhà mẹ đẻ của mình mới đáng tin. Chim nhạn già gân Gia Vương kia trong thời điểm mấu chốt vội xướng lên tấm lòng trung nghĩa, trong tay lão chỉ có ba nghìn cấm vệ quân, ấy vậy mà mượn cớ hục hặc với chim sẻ nhà ta, liền mang ba nghìn binh quyền trả cho thái hậu, từ quan về nhà làm thơ.

Chiêu ấy thật là lưỡng bại câu thương. Ông ta phẫn nộ ra máu, còn ta thì nội thương ói máu.

Quả nhiên đến lúc Khải Giả chấp chính rồi, ba nghìn cấm vệ quân vẫn nằm trong tay nhà mẹ của thái hậu, không quay về tay Khải Giả. Người bên nhà mẹ thái hậu cũng như thái hậu, không đủ phẩm đức trung nghĩa, cũng không đủ gan làm phản. Mới dẫn đến kết cuộc hôm nay để cho Vương Cần điều động.

Kinh thành có ba vạn trọng binh, chỉ dựa vào ba nghìn cấm vệ quân không thể thuận lợi bắt vua thoái vị. Vì thế mà Vân Đường Vương Cần phải nín nhịn nhiều năm qua.

Thượng thư bộ binh Trình Bách, cuối năm nay dễ sắp cáo lão hồi hương. Lý Giản cũng được điều qua chỗ ông ta.

Những người ngày xưa cùng cha ta chinh chiến, trải qua ba triều đại, giờ tuổi tác đã khá cao.

Một thời gian dài không chiến tranh, đối với triều đình bách tính là chuyện đáng vui mừng, song chỉ có một điểm không tốt, đó là thiếu cơ hội để tạo ra một vị tướng có thể khiến nghìn vạn quân rắp lòng nghe theo.

Trình Bách Lý Giản một lui một đi, binh quyền phiêu kỵ quân giống như rụng mất cánh tay, quả đúng vậy, ngay cả bản vương cũng từng nghe phong phanh, mấy tiểu tướng bên dưới đấu đá nhau rất dữ dội, may mà còn Lý Giản trấn áp.

Điều đáng sợ nhất là người tiếp nhận chức vụ trấn không được, thực quyền sẽ phân ra thành nhiều khối, có thể bị lợi dụng.

Vân Đường và Vương Cần bao năm qua ẩn nhẫn, chính là chờ thời cơ này.

Môn sinh của Vân thái phó trải rộng từ triều đình đến địa phương. Quan văn và quan võ chẳng mấy xung đột nhau, mà chủ yếu liên thủ nhau vì lợi lộc, phàm là quan đều nắm rõ đạo lý này. Nếu môn sinh của Vân Đường cấu kết với các tiểu tướng, ngày khác e rằng không chỉ có ba nghìn cấm vệ quân, mà là trên vạn quân.

Có điều nước cờ này đối với Vân Đường Vương Cần cũng không kém phần phiêu lưu.

Vì thế bản vương mới mượn cớ Trình Bách Lý Giản không cam lòng giao binh quyền, dùng hai vạn phiêu kỵ quân làm mồi nhử, Vân Đường Vương Cần đương nhiên hết sức mừng rỡ.

Theo sắp xếp, một vạn phiêu kị quân và ba nghìn cấm vệ quân nội ứng ngoại hợp, đầu giờ sửu, bản vương đến trước hoàng cung, đưa người vào cung, bắt Khải Giả đoạt vị.

Đã qua giờ tý bốn khắc, bản vương cũng nai nịt chỉnh tề, chuẩn bị xuất môn.

Vân Đường và Vương Cần không hay biết, hiện tại các quan viên tạo phản ở các điểm chuẩn bị tiếp ứng đã bị bắt trói hoặc đền tội. Tết đoan ngọ, các vương vắng mặt, hiển nhiên đã rời khỏi kinh, trong kinh thành hẳn chỉ còn lại mình Tông Vương. Bản vương đưa cho Vân Đường Vương Cần danh sách chắp nối những người tạo phản, hết thảy đều là những bậc trung thần.

Hoàng thượng và thái hậu vốn dĩ không nên phòng bị bản vương như vậy, Vân Đường và Vương Cần cũng không nên xem trọng bản vương nốt.

Cái gọi là thiên hạ binh mã lệnh, cái gọi là thế lực bí mật, hết thảy đều là giả. Hai tay ta trống trơn chẳng có lấy một mống binh quyền gì, tất cả mọi chuyện đều là nhờ cậy người khác, mượn gió đông mà thôi.

Điều khiến họ thề chết tận lực, không phải vì cha ta ngày trước, càng không phải vì binh phù, mà là vì giang sơn Cảnh thị và thiên hạ thái bình.

Bản vương hiện tại là muốn đường hoàng đến chỗ Vân Đường Vương Cần hội họp, vẫn còn cần phải giả vờ tạo phản.

Ta thay một bộ y bào gọn ghẽ, đeo thanh trường kiếm, dẫn theo đoàn người ở sân sau chuẩn bị lên ngựa xuất môn, bỗng nghe vách tường sân sau có tiếng đập đập, sau đó có người rớt xuống.

Thị tòng bên cạnh ta rút vũ khí, bóng đen dưới tường yếu ớt thều thào, “Vương gia.”

Là tiếng của Vân Dục, ta bước vội đến, mặt Vân Dục dưới ánh trăng tái nhợt, ta căng thẳng bật thốt, “Tùy Nhã?”

Vân Dục ôm tay trái, nhẹ giọng nói, “Vương gia, sự tình e là có biến.”

Có biến? Bản vương rõ ràng nhớ đã cùng Tông Vương hẹn ước, chờ đến khi ập vào hoàng cung, bọn người của Vân Đường thò đầu ra hết thì mới động thủ. Tại sao giờ lại thay đổi? Lẽ nào Lý Giản quá nóng vội?

Vân Dục cười khổ sở, “Có lẽ… cấm vệ quân biến mất đâu đó… trong cung… đều có người mai phục… phiêu kị quân, chỉ sợ là…”

Xem ra, ngoại trừ Tông Vương ở ngoài, Khải Giả còn có an bài dự phòng khác.

Vân Dục chậm rãi nói, “Đại thế đã mất, việc đã không thành. Bên ngoài hết thảy đều là người của Cảnh Khải Giả.”

Ta hỏi, “Vân thái phó với Vương Cần…”

Vân Dục không đáp.

Tiếng quân sĩ ồn ào loáng thoáng ngoài tường ngày càng lớn dần, Vân Dục lại cười khẽ, “Thực không ngờ tôi và vương gia thực sự chết cùng một chỗ.”

Ta nắm lấy tay áo của hắn, “Vẫn chưa phải là hết.”

Ta kéo Vân Dục, vội vã đi về phía cầu nổi nối với thủy tạ.

Người trong vương phủ bị ta giả vờ ngăn lại trong sân, một khoảng không vắng vẻ, chỉ có ta và Vân Dục.

Vào thủy tạ, ta mò tìm trên giá sách hai cái đèn lồng, mồi lửa thắp sáng một cái, đưa cho Vân Dục, sau đó đẩy thư án, mặt đất ầm ầm một trận, lộ ra một cái cửa hang.

Vân Dục cầm lồng đèn đứng trên mép cửa, “Hóa ra ngài đã chuẩn bị sẵn.”

Ta đáp, “Đã làm chuyện treo đầu trên lưỡi đao này, nhẽ nào lại không chừa đường lui?”

Ta cầm theo một cái đèn lồng khác, trước chậm rãi men theo vết bùn dưới bậc thang đi vào động. Vân Dục men theo phía sau ta. Ta vặn cơ quan điều khiển trên thạch bích, đóng cửa động lại.

Bậc thang dài hun hút dẫn xuống dưới, ta không giỏi đi thang, dò dẫm từng bậc từng bậc xuống một lát, Vân Dục hỏi, “Lẽ nào thang này thông xuống đáy hồ?”

Ta trả lời, “Phải.”

Cho đến bậc thang cuối cùng, phía trước là con đường dài ngoằn ngoẹo, thăm thẳm như vô cùng tận.

Ta lấy từ trong cái hốc ra một túi đồ, “Túi nước lương khô tiền bạc đều trong này. Cứ đi từ từ, con đường này rất dài.”

Suốt đường đi Vân Dục không hề nói tiếng nào.

Một chiếc đèn lồng khác dự phòng, một cái đèn không đủ ánh sáng, chỉ có thể miễn cưỡng chiếu sáng chừng dăm bước chân, ánh sáng chập chờn khiến cái bóng càng thêm phiêu động, tiếng hít vào thở ra rõ vanh vách.

Tay trái của Vân Dục bị thương, được băng bó qua loa, trên lớp băng trắng ri rỉ máu.

Ta không biết nên nói với hắn điều gì cho phải, giờ ta có mở miệng, cũng vẫn nói những điều giả dối với hắn.

Ta rất muốn hỏi Vân Dục, tại sao hắn muốn đến phủ Hoài Vương, Vân Đường và Vương Cần hẳn cũng chừa đường lui, nếu Vân Dục có thể chạy trốn, tại sao còn muốn đến phủ Hoài Vương.

Bí đạo này ta vốn định đợi sau khi tụ họp với Vân Đường, việc trung nghĩa tiêu diệt loạn đảng giao lại cho Tông Vương, ta bày vẻ trốn chạy, mang theo Vân Dục từ chỗ này bỏ chạy.

Đi chẳng mấy chốc, bước chân Vân Dục từ từ dừng lại. Ta hỏi hắn có mệt không, Vân Dục gật đầu, tiện thể tựa vào thạch bích ngồi xuống. Dưới ánh đèn, hắn cúi đầu nhắm nghiền mắt.

Ta lo ngoại trừ vết thương trên tay hắn vẫn còn bị thương chỗ khác, bèn cầm tay hắn lên dò mạch.

Vân Dục mở mắt ra, “Vương gia biết xem mạch?”

Ta bảo, “Mạnh yếu nhanh chậm chạm là có thể biết được.”

Vân Dục khẽ cười một tiếng, rút tay lại.

Ta muốn tìm chuyện nói với hắn, “Con đường này trước đây ta từng đi qua một lần, rất giống như đi mãi cũng không hết vậy.”

Vân Dục thản nhiên nói, “Đi không hết, cũng chẳng sao.”

Ta bình tĩnh nhìn hắn, Vân Dục chuyển mắt sang nhìn ta, “Lẽ nào vương gia sợ người của Cảnh Khải Giả phát hiện ra chỗ này rồi đuổi theo?”

Hắn lại nhắm mắt, ra điều chán chường, “Đuổi tới thật, cũng chẳng sao.”

Nghỉ tạm một lát rồi tiếp tục đi về phía trước, vừa đi ta vừa rời rạc kể lại lai lịch con đường ngầm này cho Vân Dục nghe.

Bên nhà mẹ mẫu phi cha ta, tức là gia tổ của tằng (*) ngoại tổ của bản vương từng lập nghiệp bằng nghề thợ hồ xây dựng nhà cửa, sau tích cóp đủ tiền, trong năm tai ương quyên tiền cho nhà quan, không ngờ lớp thế hệ sau lại chăm chỉ đèn sách trúng khoa cử, chức quan ngày càng thăng, đến đời tằng ngoại tổ thì đạt được chức cao nhất trong sự nghiệp quan vẻ, hộ bộ thượng thư.

(*) tằng: ý chỉ quan hệ thân thuộc cách hai đời.

Vị tằng ngoại tổ của bản vương vốn là người nhát gan thận trọng, về già ông thấy bản thân thì lên đến chức quan này, con gái lại tiến cung làm nương nương, phúc trạch của nhà này đã lên đến đỉnh điểm, mà cực thịnh thì ắt phải suy, để phòng ngừa ngày nào đó đoạn tử tuyệt tôn, ông bèn lưu lại một đường lui.

Có điều cách thức tạo đường lui của ông không giống người thường. Ông tự mình thiết kế bản vẽ, bắt đầu khởi công đào bí đạo.

Trước tiên ông tự mình đào một cái hồ lớn giữa sân sau, giữa hồ xây đảo, sau đó tạo bí đạo từ đáy hồ ra khỏi phủ.

Bí đạo này rất dài, lại được xây dựng bí mật, ông giấu tên mua mấy tòa nhà nằm trên tuyến bí đạo trong bản vẽ. Cách năm lại thuê mấy tốp người khác nhau đến đào bới. Đám thợ đào tưởng đâu chỉ là địa đạo thông thường, cũng không biết tột cùng thông đến đâu. Cuối cùng sau khi đã khai thông con đường xong, bèn cho vài người vào nhà ở. Chỉ chừa lại đường ra và đường vào trên đảo giữa hồ.

Con đường này quá khó đào, mãi đến khi ông già mất mới đào xong. Cậu của cha ta sau khi từ quan hồi hương, đã giao tòa nhà này lại cho cha ta, sau khi xây dựng tu bổ thêm thì biến thành phủ Hoài Vương.

Cố sự này thật dài, ta kể gián đoạn, thỉnh thoảng còn nghỉ chân thấm chút nước, ăn miếng bánh.

Đợi đến khi kể xong, ta ước chừng không còn cách lối ra bao xa nữa.

Quả nhiên, rẽ thêm vài chỗ ngoặt, vách đá hai bên chuyển sang màu xanh, địa đạo hẹp dần, chỉ còn đủ chỗ cho một người lách qua, lòng vòng thêm vài khúc quanh nữa, đột nhiên trở nên trống trải thoáng đãng.

Vân Dục giơ đèn lồng lên soi xung quanh, ta và hắn đang đứng trong một gian thạch thất vuông vắn, trên một mặt tường dường như có bút tích ghi lại.

Vân Dục nói, “Không phải là bản đồ kho báu của tổ tiên Hoài Vương hay bí mật gì giữ lại chứ?” Đi đến cạnh tường giơ đèn lồng lên nhìn, nét chữ bị tro bụi khuất lấp trở nên mơ hồ, song vẫn có thể đọc được.

Trên tường có khắc hai dòng.

Dòng thứ nhất, nét chữ thanh tú tuấn dật, viết rằng “Núi dài sông rộng tiên cảnh vốn do trời.” có lẽ xuất xứ từ tằng ngoại tổ hoặc cữu công mà ra. Còn dòng kia thì mạnh mẽ khắc ghi, “Nơi dành cho hậu nhân, để tự suy ngẫm, tự hổ thẹn, tự nỗ lực.” Vừa nhìn là biết bút tích của cha ta, tiên Hoài Vương.

Ta lại xoay thạch trác ở giữa thạch thất, phiến tường ngay chỗ chữ ‘núi cao sông rộng’ chậm chạp di chuyển, hiện thành hình dáng một cánh cửa, lộ ra cái khe.

Vân Dục theo ta ra ngoài cửa, trước mặt là một hành lang. Ta đẩy cửa đá, nói với Vân Dục, “Chỗ này muốn quay lại cũng không được. Cửa địa đạo, trừ chỗ giữa nhà thủy tạ ra, chỉ có thể xoay về một hướng.”

Đầu mút hành lang có bậc thang uốn khúc lên trên.

Phía trên cùng bậc thang có một căn phòng, ta chuyển động cơ quan, đẩy cửa ngầm trên thạch bích, bước ra ngoài cửa, cánh cửa đá phía sau ầm ầm đóng lại,

phía trên đầu có tiếng đập cánh phành phạch, nghe như tiếng con dơi hoặc giống thiêu thân lớn nào đó.

Phía trước mơ hồ trông thấy vừng trăng mông lung.

32

Chỗ này là một cái sơn động nhỏ trên sườn một ngọn núi con con nằm bên kinh thành, ta nắm tay áo Vân Dục ra khỏi sơn động, trời còn chưa tỏ, ánh đèn lồng kéo theo một lũ sâu bọ thiêu thân bâu lại, vừa ra khỏi cửa động, Vân Dục liền tắt đèn.

Ta đưa hắn đi theo con đường nhỏ dán chặt vách núi, nương nhờ ánh trăng mà ang áng thấy đường đi, vòng qua mặt vách núi này là một con đường quanh co hướng lên trên, vừa hẹp vừa dốc, phải đi cẩn thận mà không thể quá chậm. Đi lên cao, quay lại nhìn về hướng kinh thành, chỉ thấy màn trời mơ hồ đỏ ánh lửa hồng.

Không rõ tình hình kinh thành thế nào, hoàng thượng có truy quét sạch sẽ loạn đảng của Vân Đường Vương Cần hay không, có phái người truy bắt Vân Dục không. Người trong phủ chỉ biết ta mang Vân Dục đi vào nội viện, nhưng có mấy người thị tòng của ta trông chừng người Vân Dục mang theo, bọn chúng hẳn không biết ta đưa Vân Dục đến thủy tạ, cho dù đoán ra được trong phủ Hoài Vương có đường ngầm, cũng phải tìm một trận đã đời.

Không rõ Tông Vương có bẩm báo việc bản vương cho Khải Giả không, bản vương mang Vân Dục chạy, ông ấy sợ cũng khó giải thích.

Chuyện bản vương nằm vùng, chỉ có Tông Vương biết.

Trong tay ta không có quyền, khó mà mưu đàm với bọn Vân Đường Vương Cần, chỉ có thể mượn ngoại lực.

Nhưng trước tiên không thể để Khải Giả biết, trong cung lắm tai mắt, ít nhiều gì cũng sẽ để lộ tiếng gió. Ta chỉ có thể tìm đến Tông Vương.

Những người cũ đi theo cha ta đều chướng mắt bản vương, nghĩ ta làm mất sạch thể diện hai chữ “Hoài Vương”. Ta nói phản loạn bọn họ cũng chẳng tin, nhưng vẫn có thể giữ cho Tông Vương ba phần mặt mũi, Tông Vương tra rõ phản loạn, bọn họ nhất định tin.

Ngoài sáng có Tông Vương đứng ra chủ trì, cùng với hoàng thượng và đám thanh cao kia trừng trị nội loạn, nhưng người âm thầm bám theo thực tế, lại chính là bản vương.

Lúc mượn hai vạn phiêu kị quân, bản vương lại dấn thân vào chỗ hiểm.

Trình Bách Lý Giản đều một mực thuần phục Khải Giả, hai vạn phiêu kị quân trừ Khải Giả ra không ai có thể điều động, mà ta lại cần mượn hai vạn binh này để dụ dỗ Vân Đường Vương Cần. Bất đắc dĩ, ta đành phải nói với Tông Vương, anh đi bẩm báo hoàng thượng, nói Hoài Vương muốn tạo phản, muốn dùng binh mã phù đi tìm Trình Bách Lý Giản, xin hoàng thượng lệnh cho Trình Bách Lý Giản tạm thời tương kế tựu kế.

Vốn dĩ chỉ cần lúc ta ập vào cung bức vua thoái vị, khi lâm trận trở giáo là đủ thể hiện sự trong sạch, nhưng hôm nay vì bảo vệ Vân Dục nên không thể làm gì khác hơn là phải tạm thời mặc kệ nhiều chuyện đến vậy.

Cuối con đường nhỏ là đỉnh núi, trên đỉnh núi có một gian nhà tranh.

Ta đẩy cửa nhà tranh, lục lọi dưới gầm giường đối diện cửa ra vào một chiếc hòm gỗ, nói với Vân Dục, “Trong này có ít vật dụng y trang, từ sơn đạo xuống núi, trên đường có chỗ mua ngựa.”

Vân Dục bình tĩnh hỏi, “Chỗ nào có người tiếp ứng?”

Ta lấy trong ngực ra một tấm bản đồ, đưa đến tay Vân Dục, “Dựa theo đường đi trên bản đồ, quan binh rất khó đuổi kịp. Bản đồ này, ngươi giữ lấy.”

Vân Dục gấp bản đồ lại, nhét vào trong ngực.

Ta lại lấy ra một miếng ngọc bội, nhét vào tay hắn, “Tới Từ Châu rồi, mới có chỗ tiếp ứng. Đến ngõ Viên gia tìm cửa hàng Viên tam tửu, chỉ có đưa miếng ngọc này ra mới có thể thuận lợi đến chỗ ở tây nam.”

Vân Dục cũng nhận lấy ngọc bội.

Ta nói, “Ngươi thay đồ thường đi, ta ra ngoài trông chừng.”

Ta ra khỏi nhà tranh, đứng bên vách núi, phía đông đang chuyển màu lam, trời dần hửng sáng.

Ta đang suy nghĩ, tột cùng nên đi chung với Vân Dục, hay ở lại.

Chuyện ta nằm vùng, Vân Dục sớm muộn gì cũng biết. Khi hắn biết sẽ ra sao, bản vương vẫn chưa muốn nghĩ đến.

Ta chỉ mong ta còn sống ngày nào, cũng sẽ bảo vệ hắn bình an ngày đấy, mặc cho hắn hận ta cũng được, muốn giết ta cũng chẳng sao.

Trung thần, ta đã làm rồi. Ngôi vị hoàng đế, là của Khải Giả, thiên hạ cũng là của Khải Giả.

Bản vương vẫn luôn cảm thấy, Khải Giả nói chuyện với ta, trong lời nói trong sắc thái đều ẩn giấu điều gì đó. Thái độ kỳ quái của Khải Giả, khiến ta không khỏi hoài nghi điều bản thân không dám nghĩ đến.

Bản vương và Khải Giả, tận cùng vẫn là chú cháu, dù sao người ấy cũng là hoàng đế.

Cho dù ta biết Khải Giả với bản vương có ý tứ gì đấy ngoài tình cảm chú cháu, ta cũng làm bộ như không hiểu được.

Lần này ta đã tính toán hết mức có thể rồi, không làm phụ lòng Khải Giả.

Trong lòng ta hôm nay, chỉ có Tùy Nhã mà thôi.

Phía sau có tiếng bước chân, ta ngoái đầu lại, là Vân Dục. Hắn không thay quần áo, đi đến chỗ ta.

Ta nhíu mày, “Tùy Nhã, sao ngươi…”

Vân Dục ngó ra nơi xa, “Đáng tiếc lần này thất bại trong gang tấc, không biết đến ngày nào mới có thể quật khởi.”

Ta cười rầu, “E là cả đời cũng không thể.”

Vân Dục xoay lại nhìn ta, “Lẽ nào đường lui này không phải nước cờ ẩn sao?”

Ta vẫn khư khư giấu chuyện nằm vùng, chỉ thở dài, “Lần này được ăn cả ngã về không, hết thảy người của bản vương đều đã tung ra hết, đường lui chỉ để giữ mạng thôi.”

Ta nhìn hắn thắm thiết, “Tùy Nhã, từ nay về sau, ta và ngươi chỉ làm một đôi dân thường ở bên cạnh nhau, ẩn cư thế ngoại, ngươi có bằng lòng không?”

Vân Dục lại trông vời chốn xa xôi, khẽ thở dài, “Đa tạ vương gia quan tâm, chỉ là thần…”

Ta vừa định ngăn hắn tỏ bộ dáng bề tôi ra, thân hình Vân Dục bỗng động khẽ, ta chỉ thấy ánh sáng trắng lóe lên trước mắt, một thanh trường kiếm mang theo tia nắng ban mai nhuốm màu bạc lạnh kề sát bên cổ.

Bản vương giật mình khựng lại, xung quanh bỗng ngợp ánh lửa.

Sau nhà tranh, trong đám cây, từng bó đuốc rực lên chỉ trong nháy mắt, từng tốp người y phục đen sì ồ ạt xuất hiện tầng tầng lớp lớp tựa như ảo thuật, trong tích tắc, vây lấy ta và Vân Dục ở giữa.

Trong ngọn gió núi, ống tay áo cầm kiếm của Vân Dục bay phần phật, đám quân tốt tay cầm vũ khí tách ra hai hướng, có hai người chậm rãi bước ra, một người mặc long bào, đội đế quan, là cháu trai Khải Giả của ta. Người còn lại vận quan bào lam sắc, là Liễu Đồng Ỷ.

Ta nghe Liễu Đồng Ỷ nói, “Phản vương Cảnh Vệ Ấp, ngươi đã hết đường trốn chạy, mau nhận tội chịu trói.”

Ánh mắt Khải Giả trông về phía này, mang theo sự lo lắng lẫn khẩn thiết không rõ ràng.

Lẽ nào, Vân Dục phát hiện ra bản vương là nằm vùng, Khải Giả và Nhiên Tư vì bảo vệ bản vương nên cố tình đóng kịch?

Tay của ta không tự chủ được giật giật, bỗng nghe một câu Khải Giả vội vã thốt ra——

“A Dục cẩn thận!”

Trước mắt ta bỗng nhiên hơi chao đảo.

Trong đám người ấy, ta không thấy Tông Vương.

Cái cười mỉm của Vân Dục trong ánh đuốc chiếu rọi thật rõ ràng, “Hoài Vương điện hạ, là ngài bó tay chịu trói, hay là ta động kiếm một cái, ngài kéo ta xuống sườn núi, ta ngài đồng quy vu tận?”

Giờ ta mới phát giác, vị trí ta và Vân Dục đứng gần kề với vách núi, chỉ cần ta kéo tay hắn trong tích tắc thôi là cả hai sẽ cùng ngã xuống vực.

Khải Giả từ tốn nói, “Cảnh Vệ Ấp, niệm tình ngươi là hoàng thúc của trẫm, nếu ngươi bó tay chịu trói, trẫm sẽ tha chết cho ngươi.”

Bốn bề im lặng tựa như suốt kiếp vẫn thế.

Ta nhắm mắt lại, khẽ thở dài, “Con kiến còn tham sống, hoàng thượng đã nói tha ta tội chết, mong còn chẳng được.”

Mở mắt ra, ta nói với Vân Dục, “Vân đại phu, ta ngươi đứng ngay vách núi, quá nguy hiểm, lỡ may một người đứng không vững mà rớt xuống dưới, ta chết chưa hết tội, bù đắp cho Vân đại phu là không có lời đâu. Tốt nhất ta và ngươi nên đi vào trong một chút. Nếu hoàng thượng lo lắng có thể cho một binh sĩ lên trói bản vương lại trước, Vân đại phu hẵng buông kiếm.

Bốn bề lại yên ắng một thoáng, quân sĩ đi lên lèn giữa hai người, trói gô bản vương lại, thanh kiếm mới được hạ xuống.

Ta nhìn Vân Dục buông kiếm xuống xoay người đi về phía đoàn người. Khải Giả tiến lên, trong ánh đuốc, đôi bên nhìn nhau.

Trên mặt lẫn ánh mắt Vân Dục hiện lên vẻ biến ảo khôn lường, ta chưa bao giờ nhìn thấy biểu cảm đó của hắn.

Khải Giả tiến lên một bước, “A Dục, tay ngươi bị thương?” Khải Giả đưa tay lên, Vân Dục lui về sau một bước, nhìn đối phương, ánh lửa hắt ra đồng tử, rồi lại hạ mí mắt, “Hoàng thượng, việc ta hứa làm đã làm xong, mong hoàng thượng nhớ kỹ lời đã từng hứa với ta.”

Khải Giả nhìn chăm chắm đôi mắt hắn, “Trẫm, không nuốt lời. Trẫm hứa với ngươi, không giết Vân Đường.”

Trước mắt bao người, hai vị mày đi mắt lại như thế, có nên ý nhị một chút chăng?

Vân Dục nói, “Tạ ơn hoàng thượng. Thần là con trai loạn thần, theo luật có cần phải vào nhà tù hình bộ hậu thẩm không?”

Khải Giả thở dài, “Sao ngươi cứ như thế…” Chắc vì cảm thấy câu thở dài kia không thích hợp phô bày trước bao người, bèn đổi thành, “Phản vương Cảnh Vệ Ấp sa lưới là công lao của ngươi. Trẫm luôn thưởng phạt phân minh.”

Vân Dục đáp, “Là do kế sách của Liễu thừa tướng cao minh, thần không dám tranh công một mình.”

Ánh đuốc, quân sĩ, bản vương, đứng một bên làm nền, hình như có hơi thừa thãi.

Khải Giả xoay người lại nhìn ta, nhíu mày, “Cảnh Vệ Ấp, trẫm không rõ, vì sao ngươi lại tạo phản. Cho dù ngươi tạo phản thành công, dựa theo quy củ tông pháp, thân thể ngươi bị khiếm khuyết, không được tọa đế vị.”

Ta trả lời, “Trên đời vốn dĩ chỉ có được làm vua thua làm giặc, không nhất định phải tuân thủ quy củ, thân thể không trọn vẹn không được làm vua là quy củ tông pháp, nếu tổ tiên có thể định ra, thì hôm nay sao không thể sửa? Tại sao người bị tật chân như ta lại không được làm hoàng đế?”

Khải Giả nhướn mày, “Hoàng thúc vẫn luôn tự đề cao bản thân như thế.”

Ta đáp, “Hoàng chất quá khen.”

33

Trong hình bộ đại lao bốc mùi ẩm mốc ngai ngái.

Nhà tù tống bản vương vào không giống nhà giam bình thường khác, chỉ có độc một cửa một lối vào, dọc đường là tầng tầng lính canh, bên trong có bốn gian buồng, ta bị áp giải vào trong gian sâu nhất.

Nhà giam khá rộng rãi, sát tường kê một cái giường gạch, có phản có mền. Giữa buồng đặt một cái bàn gỗ, trên tường vỏn vẹn một cái lỗ thông hơi, không cửa sổ, không phân rõ ngày đêm, đốt một ngọn đèn vàng tù mù, ánh sáng đủ dùng.

Góc phòng để một cái bồn cầu, không gì che chắn, đi lớn đi nhỏ đều bị nhìn rành mạch.

Ngoại bào của bản vương bị cởi xuống, tròng áo tù vào, tay chân mang xiềng xích, vòng xích quanh chân nặng nề thô to, một đầu gông cùm xiềng xích bị đóng chết trên bức tường ở giữa đuôi giường và bồn cầu. Độ dài dây xích đo đạc tốt, có thể đi ngủ, sử dụng cầu hoặc ngồi bàn ăn cơm đều được, muốn đi vượt cái bàn một chút cũng không được.

Bản vương ngồi trong lao chừng nửa ngày, ánh sáng qua lỗ thông hơi vẫn còn, thì có người đến thăm.

Không ngờ người đến lại là Sở Tầm.

Ta không nghĩ hắn sẽ đến, lại còn là người đầu tiên đến, bản vương là loạn thần phản nghịch, vừa bị bắt, sao hắn có thể dây dính quan hệ mà đến gặp ta?

Sở Tầm đứng xa xa ngoài lao chắn, ta đứng dậy khỏi giường, kéo xích sắt tiến về trước hai bước, “Sở Tầm, sao ngươi đến đây? Giờ ta là phản tặc mưu nghịch, ngươi mau quay về đi.”

Sắc mặt Sở Tầm trong quầng tối ảm đạm không mấy rõ ràng, “Vương gia, giờ nhìn ngài như vậy, ta nghĩ đến một câu.”

Ta ngẩn người, “Câu gì?”

Sở Tầm chậm rãi đáp, “Lưới trời tuy thưa, nhưng khó lọt.”

Sở Tầm tiếp, “Vương gia, trong phòng ngủ của ngài có ám thất cất mật hàm sổ sách và chìa khoá, ta đã đưa cho Liễu thừa tướng. Lúc ở vương phủ, ta đã cho in lại bộ khuông chìa khóa.”

Sở Tầm nói thêm, “Hoài Vương gia, ngươi cho là ta không đoán được sao, người bức ta vào Mộ Mộ quán, rốt cuộc là ai chứ? Chỉ vì ta không nịnh bợ Hoài Vương điện hạ ngươi, ngươi búng một ngón tay, liền khiến ta phải đi làm nam xướng.”

Bản vương lặng yên không đáp.

Hóa ra Sở Tầm vẫn luôn cho là thế.

Ta nói, “Nếu ngươi đã đoán ra, sao không giết bản vương trên giường chẳng phải sướng hơn?”

Sở Tầm buông tiếng cười nhạt, “Tại sao lại làm chuyện hời thế cho ngươi. Ta muốn nhìn thấy người bị trời phạt, thụ hình thê thảm. Ta vốn đã là một người chết, lúc vào Mộ Mộ quán, đáng lẽ ta nên chết, một hai năm qua, ta không coi mình là người đứng nhìn, làm những chuyện không phải người làm, rốt cuộc đã chờ được đến ngày này.”

Sở Tầm đi rồi, đến khi ánh sáng qua lỗ thông hơi thoắt có thoắt không, Khải Lễ Khải Chính Khải Càn vân vân đám vương chất hoàng chất đều đến gặp ta.

Khải Phi Khải Đàn là tốp đầu tiên đến.

Ta còn nhớ mười năm trước, cha ta vừa tạ thế, ta ngã từ trên lưng ngựa xuống bị gãy một chân, mấy đứa nhỏ Khải Đàn thường gọi ầm sau lưng ta, “Tiểu hoàng thúc què! Tiểu hoàng thúc què!” Còn cố ý đi cà thọt phía sau hai bên ta.

Lúc đó ta còn trẻ, không khỏi cảm thấy chướng tai gai mắt, mẹ ta bèn nói, ác ý của đứa trẻ cũng chỉ là bởi ngây thơ. Rồi sau có một ngày, ta tiến cung, bên hông đeo món trang sức bằng sừng trâu do cha ta mang về, các tiểu hoàng tử lẵng nhẵng bám theo ta nhòm chòng chọc. Lúc ta đi qua khúc rẽ hành lang, Khải Đàn nhảy ra từ sau một cây cột, nhào đến bên chân ta, nắm lấy món trang sức sừng trâu kia, hai mắt mở to, “Con muốn.”

Ta liền tháo đồ trang sức xuống, Khải Đàn hoan hỉ lộ ra một cây răng cửa bị sún, vươn tay lên, “Cảm ơn tiểu hoàng thúc què.”

Tay nắm chặt đồ trang sức của ta hổng lên cao, “Gọi ta là gì?”

Khải Đàn kiễng mũi chân, cố mãi không với tới, bèn nắm lấy áo choàng của ta chớp chớp mắt, “Cảm ơn tiểu hoàng thúc.”

Ta cho nó món đồ, Khải Đàn mừng rỡ cầm trong tay, còn cho ta vuốt đầu.

Đại khái mấy đứa cháu ngày trước ta đều phải bỏ ra chút mua chuộc vậy đấy.

Cho đến hiện tại, ta vào thiên lao, bọn chúng không kiêng kị xa lánh mà còn tới thăm, gọi ta một tiếng hoàng thúc. Cho dù là vì tình cảm hay thể diện, ta đều thấy đáng quý.

Khải Đàn không ngừng lặp lại với ta, “Hoàng thúc, sao người lại vướng vào tạo phản, sao người lại nhất quyết tạo phản…” lặp đi lặp lại vô số lần, ngoại trừ câu này ra, dường như nó không biết phải nói gì hơn.

Khải Phi thở dài, “Đại hoàng thúc sau khi trúng tên từng xin hoàng huynh, xin hoàng huynh dù thế nào cũng không được giết hoàng thúc. Ông ấy vì hoàng thượng mà cản mũi tên bắn lén, trên tên có độc, hiện giờ nửa mạng đang chầu chực ở quỷ môn quan, lúc tỉnh lúc mê. Dựa vào phân lượng của đại hoàng thúc, hoàng huynh hẳn sẽ khai ân cho hoàng thúc…”

Ra thế, Tông Vương trúng tên, hôn mê bất tỉnh, xem ra ông trời đang trêu ngươi bản vương.

Ngồi một lát, Khải Phi cân nhắc chút thì nói, “Hoàng thúc, Vân… với… cháu nghĩ người biết.”

Ta không nói không rằng, Khải Phi hạ giọng nói, “Ai, hoàng thúc, người thế nào lại không nghĩ lại, Vân Đường là thái phó, Vân Dục lúc nhỏ hay chơi cùng bọn cháu. Còn từng đề nghị để Vân Dục làm thư đồng của hoàng huynh, hẳn là hoàng huynh yêu cầu, tiếc rằng tuổi y lớn hơn hoàng huynh nên việc không thành.”

Khải Đàn bảo, “Đừng nói là hoàng thúc, bọn cháu suốt ngày chơi chung với nhau còn chẳng nhìn ra. Giờ thì mới thấy rõ. Hiện tại nghĩ lại, thật ra, vật nhà hoàng thúc dâng cho hoàng huynh, chẳng phải hoàng huynh đều đem cho người đó sao.”

Trước đây, Vân Dục đúng là thỉnh thoảng cũng theo mấy đứa cháu hoàng thất cháu quan gia đến phủ Hoài Vương chơi, chỉ là khi đó ta không chú tâm lắm, giờ nghĩ lại, Khải Giả không mấy hứng thú với vật bày trí, những thứ mà hắn không ngừng nhìn đó, nói không chừng là do Vân Dục muốn.

Đây đúng là chuyện tình cảm của hai đứa nhỏ vô tư.

Việc này không tiện bàn sâu, chỉ ngây người trong chốc lát, Khải Phi và Khải Đàn phải đi, trước khi đi, Khải Đàn nói với ta, “Hoàng thúc, hoàng huynh nói sẽ không giết người. Đến lúc đó, người nói ra hết mọi chuyện, thành tâm ăn năn, bọn cháu lại xin hoàng huynh thêm, nói không chừng…”

Ta đáp, “Việc đã làm, không hối hận.”

Khải Phi và Khải Đàn lại nhìn nhau một lát, thở dài bỏ đi.

Đợi đến khi lỗ thông hơi tắt hẳn ánh sáng, bản vương đang trám miệng bằng cái màn thầu khô, một đám hộ vệ quây quanh một nhân vật tiến đến ngoài lao chắn, mở cửa lao ra.

Ta buông màn thầu xuống, ngẩng đầu lên nói, “Liễu thừa tướng.”

Tiểu quan phía sau Liễu Đồng Ỷ bưng cái khay chữ nhật sơn mài, trên khay đựng bút lông nghiên mực và xấp giấy. Ta cười bảo, “Liễu thừa tướng, không lên công đường thẩm vấn để dễ cho bản vương ký tên à?”

Liễu Đồng Ỷ ra hiệu cho tiểu quan đặt khay sơn mài lên bàn, tiểu quan và đám vệ binh lui hết ra ngoài cửa lao, Liễu Đồng Ỷ đứng đối diện bàn ngồi xuống.

Ta bảo, “Hóa ra Liễu thừa tướng định đương đêm tra vấn phản tặc.” Ta đem chén bát trên bàn để xuống dưới đất, chỉnh trang y phục rồi ngồi xuống, “Liễu thừa tướng muốn hỏi gì, mời hỏi.”

Liễu Đồng Ỷ dưới ngọn đèn nhìn ta, từ tốn nói, “Ta vẫn chưa nghĩ ra, tại sao vương gia phải tạo phản.”

Ta nói, “Liễu thừa tướng, có gì muốn hỏi cứ hỏi thẳng đi đừng ngại ngần, không cần phải quá lắt léo đâu. Liễu thừa tướng từ lâu đã biết việc bản vương mưu phản, sao lại đoán không ra duyên cớ?”

Y trước tiên cần phải nghĩ thông suốt, rồi mới có thể xác định được ta sẽ phản, sau khi xác định xong, mới có thể lập kế hoạch.

Lúc Vân Đường Vương Cần tìm đến bản vương mưu hợp, Vân Dục mới tiếp cận ta sơ sơ, Liễu Đồng Ỷ còn chưa làm thừa tướng. Có thể vì y là người lập ra kế sách này, nên mới thăng làm thừa tướng.

Liễu Đồng Ỷ nói, “Tay trong của Vương Cần có quyền điều động cấm vệ quân, hoàng thượng từ sớm đã cảm thấy hắn có ý mưu phản, lúc kiểm tra thì phát hiện ra Vân Đường cũng tham dự, sợ rằng có ý định lôi kéo vương gia. Lúc đó ta nhậm chức Đại Lý Tự Khanh, phụng chỉ điều tra rõ chuyện này.”

Ta nói, “Thế nên Liễu thừa tướng liền bày kế, kiến tạo thế cờ, sắp đặt mấy năm qua. Lấy Vân Dục làm quân cờ.”

Liễu Đồng Ỷ lẳng lặng nhìn ta, chỉ trong chốc lát thì nhẹ gật đầu, “Không sai, kế nội ứng là do ta sắp đặt.”

Ta thở dài, “Sớm biết thế này, lúc bản vương thương nhớ Liễu thừa tướng, sẽ gội đầu sạch sẽ, chặt xuống dâng lên cho Liễu thừa tướng, biết đâu Liễu thừa tướng chịu nhìn đến ta nhiều hơn. Đỡ phiền phức nhiều người đến thế.”

Liễu Đồng Ỷ không đáp.

Ta bảo, “Liễu thừa tướng điều tra sở thích của bản vương vô cùng tỉ mỉ. Đa tạ ngài đã an bài một Sở Tầm cho ta. Liễu thừa tướng vì trừ bỏ một kẻ phản bội ta đây, còn sắp xếp cho Vân Dục giả vờ lui tới với bản vương hết mấy năm. Trên giường lẫn dưới giường, đều chiếu cố chu đáo.”

Sắc mặt Liễu Đồng Ỷ rốt cuộc đã có biến đổi, “Sở Tầm không phải do ta an bài.”

Ta chế giễu, “Tương Vương đã nhớ chốn Vu sơn, cần gì trong mộng nhắc Giang Nam. Đa tạ Liễu thừa tướng đã tặng ta những lời này.”

Tương Vương đã nhớ chốn Vu sơn, cần gì trong mộng nhắc Giang Nam

. Ngày ấy ở thủy tạ, lúc Liễu Đồng Ỷ nói với ta câu ấy, tột cùng đã ôm tâm trạng như thế nào?

Liễu Đồng Ỷ không nói được lời nào, một lúc lâu sau mới nói, “Sở Tầm thực sự không phải do ta an bài, mặc dù ta không từ thủ đoạn, cũng không đến mức sử dụng loại kế sách ấy.”

Ta trả lời, “Giờ có tính toán so đo cũng vô nghĩa, bản vương đã thành tù nhân. Đúng người đúng tội. Ta chỉ còn một chuyện không giải thích được, tại sao hoàng thượng và Liễu thừa tướng lại biết lối ra bí đạo đó.”

Liễu Đồng Ỷ và Vân Dục chỉ mới đến thủy tạ một lần, tuyệt đối không thể biết chỗ đó có mật đạo.

Liễu Đồng Ỷ nói, bí đạo này sớm đã bị vương phi nói cho thái hậu biết, thái hậu nói lại cho hoàng thượng biết.

Giờ nhớ ra vương phi mỗi ngày đều ở trong thủy tạ ai oán yêu đương vụng trộm, trong lúc vô tình phát hiện ra bí đạo, nói không chừng cha đứa trẻ trong bụng vương phi cũng bỏ chạy bằng bí đạo đó.

Ta thở dài, “Chặt chẽ chu đáo thế, bản vương rõ là sao cũng không chạy thoát.” Ta cầm chén nước dưới đất lên uống thấm giọng, “Liễu thừa tướng muốn biết vì sao ta lại tạo phản ư. Ta nhớ là từng nói với ngài, lúc nhỏ ta đọc binh thư, cũng được ký thác kỳ vọng cao. Sau đó ta cưỡi ngựa bị gãy chân trái, chân khập khiễng, kỳ vọng cũng biến mất, ai nấy cũng khinh ta vô tích sự, ai cũng cho Cảnh Vệ Ấp làm mất hết mặt mũi hai chữ Hoài Vương. Thế nên bản vương muốn làm nên nghiệp lớn, cho người trong thiên hạ biết, thân thể có tật vẫn có thể hoàn thành đại nghiệp.”

Hết thảy mọi chuyện, đều là một mớ si tâm vọng tưởng của kẻ què quặt, tự mình đa tình. Ta bỗng nhiên có chút sợ hãi Tông Vương sẽ tỉnh lại, giờ này khắc này, chí ít ta còn là một tên gian vương muốn cướp ngôi hoàng đế dù chưa toại nguyện. Một khi chân tướng phơi bày, ta còn lại gì chứ? Chẳng còn gì cả. Chỉ là một gã hề với hai bàn tay trắng.

Ta cầm lấy một tờ giấy, lật qua lật lại, ghi đầy tội trạng. Điều nào điều nấy toàn là tội ác tày trời.

Ta cầm bút chấm mực, đề tên mình lên, tay mang xiềng xích nên cầm bút hơi bất tiện, viết xong, điểm thêm cái dấu tay, “Liễu thừa tướng, tất cả những tội này, bản vương đều nhận hết, Liễu thừa tướng cứ yên tâm về phục mệnh.”

Liễu Đồng Ỷ đứng dậy, tiểu quan tiến đến, nhận lấy tờ tội trạng, đặt vào khay.

Liễu Đồng Ỷ đứng lên rồi song chưa đi, ta nói, “Liễu thừa tướng còn gì muốn hỏi sao?”

Liễu Đồng Ỷ nói, “Vương gia còn gì muốn nói không?”

Ta đáp, “Không, tất cả những gì nên nói đều đã nói.”

Liễu Đồng Ỷ vẫn chưa chịu đi. Ta cả cười, “Không lẽ Liễu thừa tướng nghĩ ta còn điều chi giấu diếm? Chỗ Vân đại phu bắt được chính là đường lui cuối cùng của ta rồi. Liễu thừa tướng nếu không tin có thể điều tra.”

Liễu Đồng Ỷ nhẹ giọng, “Sở Tầm không phải do ta an bài, ta cũng không biết người làm nội ứng là Vân Dục.”

Phải hay không, có gì phải so đo nữa.

Ta đáp, “Cho dù là làm sao, lấy đạo nghĩa mà nói, Liễu thừa tướng vì muốn bắt phản vương Cảnh Vệ Ấp, làm thế là hết sức đương nhiên, theo lẽ thường mà làm thôi.”

Liễu Đồng Ỷ lần thứ hai không đáp lời, rốt cuộc cũng xoay người bỏ đi.

34

Ta lên giường nằm, sau cùng thì ngủ. Lúc mở mắt ra cũng không biết giờ nào. Ta rót từ cái bình sành ra ít nước, uống vài ngụm, có mấy tay lao tốt bưng lên ít cơm nước, nói là Liễu thừa tướng sai chuẩn bị. Một chén cháo nóng, hai ba món ăn, tuy không quá sang trọng, nhưng mùi vị cũng khá khẩm, hợp khẩu vị bản vương.

Sớm biết thế lúc vào đây bản vương đã chủ động yêu cầu nhận tội ký lời khai rồi, đỡ phải gặm một mớ màn thầu.

Ăn no xong, bản vương đang ngồi trên giường tiêu cơm, có mấy tay hộ vệ và lao đầu dẫn theo một người chậm rãi bước đến, đứng ngoài lao.

Là Vân Dục.

Vệ binh mở cửa gian buồng của bản vương, Vân Dục vào trong nhấc tay cho tùy tùng lui ra ngoài cửa lao.

Ta cười với hắn một cái, “Vân đại phu.”

Vân Dục cũng cười cười, “Vương gia bữa giờ khỏe chứ?” Cách nói tựa như vẫn giống ngày thường hắn lui tới phủ Hoài Vương chơi, gặp thì tay bắt mặt mừng.

Ta đáp, “Ở trong lao, dĩ nhiên không thoải mái bằng ở vương phủ rồi.”

Vân Dục ngồi xuống băng ghế nhỏ cạnh bàn, “Vương gia nói đúng quá.” Hắn đưa mắt nhìn ta, nhoẻn cười nơi khóe miệng, “Tội trạng hôm qua vương gia ký nhận, hoàng thượng đã xem rồi.”

Ta đáp, “Ờ.”

Vân Dục nói, “Lúc lâm triều, các quan khẩn cầu hoàng thượng sớm xử quyết vương gia. Nhưng hoàng thượng đã từng hứa giữ mạng vương gia, không tùy tiện nuốt lời, hôm nay sẽ cho hai con đường để vương gia lựa chọn, nhưng phải đợi mọi chuyện các nơi xong xuôi, Tông Vương tỉnh dậy, sau khi kiểm tra kỹ càng chỗ sơn cốc nào đó với Từ Châu.”

Thì ra Vân Dục hôm nay đến, là để thay mặt cháu hoàng đế của ta vạch ra hai con đường cho ta biết để ta chọn một.

Ta cười, “Không biết là hai con đường chi, lại để cho Liễu thừa tướng lấy khẩu cung nhận tội, lại lệnh cho Vân đại phu chỉ đường cho bản vương, sự an bài của cháu ta quả thật khéo léo.”

Vân Dục đáp, “Không khéo léo bằng lời của vương gia. Hai con đường, đường thứ nhất là đưa ngài đến một chỗ tĩnh lặng nhã nhặn, chỉ là chỗ hơi nhỏ một chút, người hầu hạ ít một chút, cách hầu hạ có lẽ không xứng lắm với tâm tưởng của vương gia.”

Cái này gọi là giam lỏng suốt đời.

Vân Dục nói tiếp, “Đường thứ hai, là mong vương gia thức tỉnh khỏi sai lầm, cuối cùng triệt để giác ngộ. Phổ Phương Tự ngoại ô kinh thành, vừa vào niết bàn, vừa buông bỏ hết thảy trần duyên.”

Hóa ra là cạo đầu chùa làm hòa thượng.

Ta bảo, “Ta bước vào đó, chỉ sợ trong miếu sư sãi nhỏ tuổi nhiều lắm, trụ trì hòa thượng không yên lòng.” (ôi vừa buồn cười vừa thương chú =)))

Vân Dục đáp, “Vương gia yên tâm, chùa chiền là cố ý kiến tạo cho ngài, không ai có thể quấy rối lòng trần của vương gia.” Này cũng là giam lỏng, chẳng qua sau khi cạo đầu xong mới giam lỏng, có thể sinh hoạt thoải mái hơn một chút, có thể đi loanh quanh trong miếu, không cần bị giam mình suốt ngày trong một gian phòng.

Ta nói, “Muốn thường xuyên hoạt động hay là muốn ăn chay, rất khó chọn lựa, để ta thủng thẳng nghĩ đã.”

Vân Dục bảo, “Không vội, đợi điều tra xong xuôi toàn bộ cũng phải tốn ít công sức, vương gia có thể nghĩ từ từ.” Hắn ngừng một thoáng, nhướn mày, “Tuy vừa rồi vương gia nói giỡn mấy câu, nhưng giận tôi rồi phải không.”

Ta thật lòng đáp, “Không có.”

Chuyện Vân Dục làm với ta, và chuyện ta làm với Vân Dục, vốn chẳng có gì khác biệt. Ở vị thế hắn, ta là gian, hắn là chính, hắn vì nước, vì Khải Giả, vì bảo vệ phụ thân là những điều hết sức hiển nhiên, không sai một li. Hắn đã từng ngầm lưu ý ta đề phòng Liễu Đồng Ỷ, thậm chí để Liễu Đồng Ỷ và Sở Tầm hợp tấu để ám chỉ hai người đó quen nhau, đã là nể tình, chỉ là ta trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã tường thôi.

Ta nói, “Ta hờn Vân đại phu, hờn thế nào cho đặng?” Lại đùa thêm, “Nhớ hồi trước ta từng mong rằng có thể chết trong tay Liễu thừa tướng, coi như chết cũng có ý nghĩa. Hôm nay có thể do chính tay Vân đại phu bắt, ta càng cam tâm tình nguyện hơn.”

Vân Dục vờ như thở dài nói, “Vương gia không hổ là kinh thành đệ nhất phong lưu nha.” Trên cổ hắn có một vết lờ mờ, dưới ánh đèn, trông không rõ mấy.

Ta nói tiếp, “Chuyện Vân đại phu làm với bản vương, chỉ vì lập trường bất đồng, giả như bản vương bị vây trong tình huống của ngài, cũng sẽ làm thế thôi. Con đường của ai cũng do tự mình chọn cả, không có đúng sai. Ta nhớ ngài từng nói với ta rồi, con người có số cả, làm người chỉ có thể chấp nhận số mệnh. Bản vương thua là thua ở chỗ không chấp nhận số mệnh. Rơi vào tình cảnh này cũng phải thôi.”

Vân Dục nói, “Người như thế, không chỉ có mình vương gia, gia phụ cũng vậy. Gia phụ luôn coi Khải Giả… hoàng thượng là một tên hoàng đế oắt con vô tri, tự cho bản thân là đa mưu túc trí, tôi là con ông, cũng khuyên không được.” Trên mặt hắn rốt cuộc cũng để lộ vẻ mỏi mệt cùng bất đắc dĩ.

Vân Đường nhìn nhầm Khải Giả, phân tích tình hình, ông ta là thái phó, nhìn một đứa trẻ trưởng thành làm hoàng đế, rất dễ coi người kia như một đứa trẻ ngây thơ. Mà không hề biết rằng trên đời này con người là giống biến đổi nhanh nhất.

Thực sự lý giải triệt để được Khải Giả, có lẽ chỉ có Vân Dục.

Ta nói, “Ngài dù sao cũng giữ được tính mạng lệnh tôn, ông ấy nhất thời chưa thông suốt, sau này suy nghĩ thấu đáo rồi, sẽ hiểu ngài cũng vì lo cho ông mà thôi.”

Vân Dục lắc đầu, “Ông ấy thất bại không nghĩ được thông suốt như vương gia đâu.”

Ta đáp, “Đa tạ Vân đại phu khen ta một câu. Thế này, nói không chừng ta và Vân thái phó được giam cùng một chỗ, đến chừng đó ta sẽ khuyên nhủ ổng, làm người nên nghĩ thông suốt chuyện thành bại.”

Vân Dục cười, “Vương gia lại đùa rồi, người ta làm sao giam ngài với gia phụ chung một chỗ được.”

Người ta này, khỏi phải hỏi cũng biết là Khải Giả.

Bản vương cười một cái, “Nói đến đùa, ta muốn nhiều chuyện một chút. Lần tới sau khi Vân đại phu bực bội ai, nhớ đừng uống nhiều rượu tuỳ tiện vớ ai đó đùa cho hả cơn giận nha, việc này chớ nên đùa. Ngài xem, người tự mình đa tình như bản vương, qua có mấy ngày đã tìm đến ngài nói lời yêu đương, chẳng phải hơi bị phiền sao?”

Ngày ấy ở Nguyệt Hoa Các, bản vương nghĩ trong lòng Vân Dục có chuyện, quả không sai. Coi bộ mắt nhìn của ta cũng không lầm. Bởi lẽ tuy ta thật sự không chứng kiến, song mấy chuyện giả vờ cũng kinh qua không ít, muốn nhận ra cũng không khó.

Sắc mặt Vân Dục hết sượng lại sùng, cười khổ, “Vương gia quả nhiên còn chút phiền lòng tôi, chuyện đó, là tôi làm bậy, hôm đó uống hơi nhiều. Sau cũng hơi hối hận, mấy hôm liền vì xấu hổ nên không dám đến phủ vương gia chơi, thật hổ thẹn.”

Ta bảo, “Ta đây thật tình muốn cảm ơn hoàng chất đã giao việc cho ngài, bằng không ngài đã chẳng bao giờ bước chân vào cửa nữa rồi? Nếu ta còn thực hờn ngài, sẽ không nói thẳng ra thế này.”

Vân Dục hiện tại coi như cháu dâu của bản vương, thân làm trưởng bối, cũng nên khuyên nhủ vài ba câu.

Thế nên ta dừng một chút, nói thêm, “Có điều, còn mấy câu ta muốn khuyên nhủ ngài. Ngài coi như ta lắm lời cũng được, tính tình ngài đôi khi hơi tuỳ hứng thái quá, xù lông nhím nhiều quá, xét cho cùng cũng vì tuổi còn trẻ. Đứa cháu kia của bản vương, tính tình cũng không được tốt lắm, lẽ dĩ nhiên cương gặp cương, sẽ khiến mọi sự trở nên vặn vẹo. Cha ngài hiện giờ thành ra vậy, dù thế nào mấy ngày này, cũng thật khó khăn cho ngài, chuyện gì cũng nên trông xa một chút, việc này tuy không có đường để đi, cũng không có nghĩa không qua được sông.”

Vân Dục lặng yên nhìn ta chăm chú, lát sau, nhích miệng thở dài, “Thế nào mà lại đến lúc cuối cùng, đổi ngược là vương gia khuyên tôi vậy.”

Ta nghiêm mặt nói, “Không chừng bản vương thực sự có duyên với Phổ Phương Tự đó.”

Vân Dục ngồi thêm chốc lát thì đứng lên, “Hôm nay tôi xin cáo từ trước, qua vài hôm lại đến thăm vương gia, mong vương gia tự lo lấy mình cho tốt.”

Ta nhìn hắn đi ra trước cửa lao, bèn mở miệng gọi, “Tuỳ Nhã.”

Vân Dục xoay người lại, nhướn mày nhìn ta, “Vương gia còn chuyện gì nữa?”

Ta nói, “Không có gì, đa tạ ngài đã nói chuyện với ta.”

Vân Dục mỉm cười, “Vương gia chịu gặp tôi, mấy ngày nữa tôi còn ghé.”

Ta gật đầu, “Được.”

Vân Dục đi rồi, ta ngồi thêm một chặp, ăn thêm miếng cơm, rồi lại lên giường nằm, đợi đến khi tia sáng qua lỗ thông hơi sạm dần, bản vương đứng dậy gọi lao tốt đứng canh, “Có thể truyền một lời không, bản vương muốn gặp Liễu thừa tướng.”

Mặt tên lao tốt cau có, “Hoài Vương điện hạ còn cho mình vẫn như ngày xưa sao? Trong triều đình này, ngoài hoàng thượng ra, Liễu thừa tướng là người bận rộn nhất, nói không chừng giờ còn bận xem công văn, vương gia ngươi trong thiên lao gọi một tiếng là Liễu thừa tướng sẽ đến sao?”

Ta nói, “Bản vương chỉ là tình cờ nhớ ra chút chuyện liên quan đến lần mưu phản này, định nói với Liễu thừa tướng. Nếu y bận thì thôi, nhưng mà nói không chừng, đến mai bản vương lại quên tuốt luốt rồi.”

Vừa dứt lời, tên lao tốt đã biến mất nhanh như gió.

Chừng một lúc sau thì Liễu Đồng Ỷ đã đến. Có lẽ y chạy từ nhà đến đây, không kịp thay đổi quan phục, chỉ mặc một bộ trường sam xanh ngọc.

Ta nuốt nước bọt, nhìn y đứng trước bàn, lên tiếng, “Liễu thừa tướng, xin lỗi, ta không có chuyện gì liên quan đến đoạt vị để nói, chỉ là có chút chuyện cần giúp đỡ, sợ lao tốt không chịu bẩm báo, nên vừa rồi mới nói thế thôi.”

Mặt Liễu Đồng Ỷ giãn ra, nói, “Không sao.”

Ta cảm ơn, “Chuyện cơm nước hôm nay, đa tạ Liễu thừa tướng.”

Liễu Đồng Ỷ nói, “Vốn dĩ phải vậy, hôm trước là do bọn họ cố tình bê trễ, chẳng hay vương gia tìm tôi có chuyện gì?”

Ta đứng lên, “Là thế này, hôm nay Vân đại phu đến, nói cho ta biết hai sự bố trí dành cho bản vương sắp tới, Liễu thừa tướng chắc cũng biết rồi. An bài dạng này, đối với ta đã là cực kỳ khai ân, nhưng ta suy tư cả buổi, cảm thấy cho dù là giam lỏng, hay đến Phổ Phương Tự xuất gia, đều rất không thích hợp với bản vương. Cho nên mới nhờ Liễu thừa tướng giúp đỡ. Ta biết Liễu thừa tướng bận rộn việc công, vốn không nên làm phiền, chỉ là nghĩ tới nghĩ lui, ngoại trừ Liễu thừa tướng, ta không còn nghĩ ra ai có thể nhờ cậy. Xin Liễu thừa tướng hãy nhận lời ta.”

Đôi mắt Liễu Đồng Ỷ dưới ánh đèn vẫn rất trong trẻo, phảng phất như nhiều năm về trước, lần đầu tiên ta gặp gỡ dưới ánh trăng, “Vương gia mời nói, cho dù tôi chưa chắc giúp được, nhưng nhất định sẽ làm hết sức.”

Ta nói, “Có câu này của Liễu thừa tướng, ta yên tâm.” Ta và Liễu Đồng Ỷ đứng cách không xa lắm, trong vừng sáng của ngọn đèn, bóng người đậm đen.

Ta tiếp lời, “Chuyện bản vương muốn nhờ Liễu thừa tướng, chỉ là chuyện cỏn con thôi. Nếu Tông Vương tỉnh, hoàng thượng không tịch biên phủ Hoài Vương, những thứ còn lại, nếu Đại Vương thích, hết thảy đưa cho nó, còn vương phủ, nó muốn bán rẻ thì cứ bán. Nhớ nói với nó, chỉ có nhiêu đó thôi, xài hết rồi cũng không mượn ta được nữa đâu. Chuyện lần này, không biết có liên luỵ đến Hàn Tứ không, chừng nào hắn đi làm tướng công hoà thân, ta xin ngài nói giúp ta một tiếng chúc mừng. Còn lại, cũng không có gì nhiều…”

Ta chống tay lên góc bàn, ho hai tiếng, “Cuối cùng có một câu, hôm nay Vân đại phu đến, ta không dám đối diện với hắn mà nói. Sở Tầm cũng vậy, phiền ngài giúp ta nói một lời, nói rằng, hãy trân trọng bản thân nhiều hơn, trên đời này đúng là có nhiều cách, đừng tuỳ tiện tự huỷ hoại mình.”

Sắc mặt Liễu Đồng Ỷ đột nhiên thay đổi, bổ nhào tới chế trụ hai tay ta, “Ngươi…”

Y nghiêng người, “Người đâu! Mau truyền đại phu…”

Ta bắt lấy tay áo của y, “Liễu thừa tướng… chuyện đoạt vị… cần nói… ta đều nói hết rồi, không còn gì nữa.”

Gương mặt Liễu Đồng Ỷ dưới ngọn đèn vàng lại nhìn ra được màu trắng xanh, có lẽ bản vương bắt đầu hoa mắt rồi.

Ta nói, “Xin Liễu thừa tướng giơ cao đánh khẽ… để ta an ổn ra đi, đừng gọi người…”

Liễu Đồng Ỷ vẫn gọi người đến khiến lỗ tai bản vương đau ong ong, mùi tanh tràn ra khỏi miệng mỗi lúc thêm nhiều, ta cố gắng vận khí lực nói, “Ngươi gọi, cũng vô ích… Ta đã chuẩn bị đến nước cuối cùng này, đương nhiên không thể cứu…”

Cũng không biết có phải tác dụng của lời ta nói không, âm thanh của Liễu Đồng Ỷ xa dần, cùng với chính y, tuy tay ta vẫn nắm giữ lấy mảnh áo đó, nhưng cánh tay ta bị giữ lấy, cũng đang xa dần.

Chân ta đã hơi nhũn đi, mí mắt cũng hơi nặng sụp, hình như đang nằm trên giường, mảnh áo trong tay từ từ trượt đi, không còn nắm được nữa, ta vùng vẫy giữa tia lý trí sau cùng, “Nhiên… Nhiên Tư…”

Nơi cánh tay bị nắm lấy có chút đau đớn, Liễu Đồng Ỷ vẫn còn nghe ta nói. Tại thời điểm quan trọng, một tiếng Nhiên Tư vẫn còn tác dụng.

Ta nói, “Người như ta, chôn không tốt lắm… còn khiến người ta khó xử… tốt nhất nên đốt… đem tro cốt kiếm đại một ngọn núi một con sông mà rải… cái gì cũng sạch sẽ.”

Ta nói xong nguyên vẹn câu này, khí lực cũng cạn kiệt, trong lúc mênh mang không rõ bờ bến, chẳng rõ là trước đây nằm mơ, hay hiện tại là đang nằm mơ.

Tuyết mịn rào rào, trong hoa viên phủ Hoài Vương, Vân Dục bé con làm đổ chén trà lên đầu gối tiểu thái tử, tay vẫn còn nắm chặt hoa mai đứng ngây ra đấy, hài đồng mặc mãng bào lên tiếng, “Bản cung không sao, đừng phạt gã mắng em.” Đứa trẻ ấy mở to mắt, hoa mai trong tay rơi xuống bay theo làn tuyết trong hành lang.

Trăng tựa gương bạc, sao đong đầy hồ, Liễu Đồng Ỷ niên thiếu ngồi đấy, dưới ngọn đèn lồng tù mù, đương cầm [ tử tu hiệp truyện ] đọc say sưa, sương khói mông lung, chớp mắt đêm đen hoá bình minh, trạng nguyên lang trẻ tuổi một thân áo đỏ, đâu rồi hồ nước xanh dờn, chỉ có hoa tử vi giăng mắc, sắc thắm mỹ miều.

Bản vương muốn hỏi Liễu Đồng Ỷ, có còn nhớ câu cuối cùng trong [ tử tu hiệp truyện ] hay không ——

“Từ cổ chí kim, có bao nhiêu giang hồ nghĩa khí, anh hùng hào kiệt, hết thảy đều là một vò rượu ngon, một trận tuý luý, một đêm mộng đẹp.”

35

Ta đi qua giàn hoa lá xanh rậm rì, vượt cửa nguyệt, quan sát gian nhà trước mặt.

Một căn nhà nhỏ hai tầng tao nhã đến lạ lùng, phía dưới là một gian phòng khách rộng rãi sáng sủa, còn có một căn xép nhỏ, trên lầu phân cách làm hai, bên trong là phòng ngủ, bên ngoài là phòng làm việc. Còn có một phần bao lơn nhô ra ngoài, từ phòng làm việc có thể bước ra ban công, lan can bằng gỗ chăng xung quanh, màn trúc tinh tế rũ xuống.

Cho một người ở, rất thích hợp.

Bạch Như Cẩm nhìn ta hỏi, “Triệu huynh, thấy ưng ý phải không?”

Ta đáp, “Được lắm, nhưng mà người miền nam các anh cứ thích ở hai tầng nhỉ, ngủ trên lầu chứ không ngủ dưới đất.”

Ta vốn định mua một tiểu viện hai ba phòng gì đấy, chỉ có một người ở, nhà to chỉ tổ phiền toái. Không ngờ cái đất Thừa Châu này, nhìn tới nhìn lui, chỗ nào chỗ nấy toàn là nhà lầu, tìm hoài không thấy một căn nhà nhỏ hai gian có khoảnh sân bé được rào chắn bởi chuối tây giếng nước giàn nho, Bạch Như Cẩm nói ta biết, thành Đông có một nhà vừa mất chủ, con trai con gái đều có nhà riêng, có một căn nhà nhỏ muốn sang tay bán gấp đổi tiền, rất thích hợp cho ta cư ngụ, vừa hỏi ta có hứng thú không thì liền kéo tới.

Người đứng cạnh Bạch Như Cẩm là con trai nhà này, họ Hồng tên Tín, tuổi ngoài tứ tuần, người gầy tong teo, sắc mặt hồng hào, thần thái sáng rỡ, tuyệt không giống hiếu tử tình cảm dạt dào có cha vừa mới chết. Ông ta nghe ta nói xong, lập tức cười bảo, “Nghe nói Triệu gia từ phương Bắc tới, Thừa Châu nằm ở phía Đông Nam, nhiều nước, độ ẩm cao, hai tầng mới chống ẩm tốt.”

Lại quan sát ta một chút rồi đế thêm, “Xem chừng Triệu gia dự định ở Thừa Châu lâu dài phải không?”

Bạch Như Cẩm đáp, “Hồng nhị viên ngoại chưa biết đấy thôi, ông chủ Triệu đây là một đại thương gia, từng đến Cao Ly (*) buôn bán, mấy năm về trước tiểu đệ cần bổ sung thêm dược liệu thì kết giao với ông chủ Triệu, cửa hàng mới khai trương trên đường Xương Long của ta, phân nửa là của ông chủ Triệu. Ông ấy phỏng chừng chạy đi tứ xứ làm ăn, nhưng do có mối ở đây, nên mới mua một căn nhà để có chỗ nghỉ chân.”

(*) Cao Ly: một vương quốc có chủ quyền nằm trên bán đảo Triều Tiên được thành lập năm 918.

Hồng Tín liên thanh bảo ngưỡng mộ đã lâu. Ta vội vàng khiêm tốn đáp, “Không dám nhận ba tiếng đại thương gia, chẳng qua là chạy tới chạy lui, buôn bán tý đồ lặt vặt, sống tạm mà thôi.”

Hồng Tín nói, “Căn nhà này chỉ cần ông chủ Triệu vừa ý, lập tức bán theo giá ấn định, coi như bán làm thân.” Lại nói thêm, “Được rồi, còn chưa thỉnh giáo tục danh của ông chủ Triệu. Trong nhà có mẫu thân bệnh nặng đã lâu, đang cần mua nhân sâm sắc thuốc. Có điều nhân sâm tính mạnh quá, sợ người tuổi tác đã cao không kham nổi. Nghe bảo sâm Cao Ly dược tính tuy nhẹ nhưng khá ôn hoà, có thể phiền ông chủ Triệu tìm giúp hai ba củ không?”

Ta trả lời, “Có chi đâu có chi đâu, hàng trong tay tại hạ, hẳn còn mấy củ, đều là cực phẩm Cao Ly hồng sâm tư mật đạt. Tại hạ họ Triệu tên Tài, tự là Gia Vượng.”

Hồng Tín tán thưởng, “Tên ông chủ Triệu thật là may mắn.” Rồi lại xoay qua khen ngợi nhà cửa với ta. Theo ông ta nói, chỗ này vốn là nơi Hồng lão viên ngoại vừa qua đời dùng làm chỗ đọc sách thư giãn, lão viên ngoại ưa thích đạo pháp, lúc nhàn rỗi thường đến đây tìm không gian yên tĩnh với sách.

Hồng Tín lại nói, bố cục bên trong ngôi nhà này còn có dụng ý ngầm. Bên phải đại môn được bao quanh bởi tường phù điêu, cửa nguyệt dẫn đến giữa chính viện có căng một giàn dây thường xuân, nên gọi là Vườn Xuân. Trong chính viện tiểu lâu, có một hồ cá nhỏ, đôi nhánh thuỷ tiên đong đưa, xem như Cảnh Hè. Tiểu viện bên trái nhà bếp, vựa củi, nhà xí, giếng nước, do liên quan đến ăn uống, ngũ cốc hoa màu, nên gọi là Sắc Thu. Cuối cùng là chỗ phía sau tiểu lâu, có dăm ba gốc mai vàng gầy guộc, mùa đông nở hoa, cực kỳ tao nhã mỹ lệ, tràn ngập Đông Thú.

Thế nên ngôi nhà này hàm chứa xuân hạ thu đông, Hồng Tín nói, “Bởi vậy, tiên phụ mới gọi nó là Khu Vườn Bốn Mùa.”

Ta nghe xong mà thấy răng hơi ê buốt, có điều căn nhà này mua thì có lợi thật. Ta suy tính một chút, sau cùng quyết định mua.

Đi loanh quanh mấy năm, cuối cùng cũng tậu được cái ổ riêng.

Mua xong, ta liền dọn đến, đêm đầu tiên ngủ ở đấy thật sảng khoái.

Bạch Như Cẩm nói với ta, “Ngủ trên lầu, còn có chỗ hay, lão đệ không lâu sau khắc tự biết thôi.”

Khi ấy ta không hiểu, nhưng qua không lâu thì quả biết hay chỗ nào.

Ta mua căn nhà này vào khoảng cuối tháng sáu, dọn vào không bao lâu thì đến tháng bảy, bỗng có một ngày trời âm u, không thấy nắng sáng, mưa to rồi lại mưa to dồn giã trút xuống. Mấy hôm sau, một buổi sáng ta trở dậy, mở cửa sổ ra nhòm, phát giác phía dưới lầu là một vùng đại dương mênh mông.

Ta đứng trước khung cửa, lõ mắt ra nhìn mực nước nhích lên cao dần cao dần, suốt một ngày không hạ được tí nào. Tới sáng hôm sau, nước đã vượt qua tường viện. Bạch Như Cẩm dẫn theo hai người lái đò, tìm một thuyền nhỏ giong vào trong sân, đưa ta ra ngoài.

Ta ngồi trước mũi thuyền, nhìn thấy thuyền đến bè đi trên đường sá Thừa Châu, toàn bộ thành chìm trong nước, song người trong thành không có vẻ gì lo lắng. Mấy chỗ có lầu hai trên đường thì trở thành cửa hàng mặt tiền như bình thường, mấy sạp bán thức ăn hoặc bán tạp hoá ven đường thì đổi thành bán trên thuyền. Ngay cả nha dịch châu phủ cũng đang chèo thuyền tuần tra trên các nẻo đường.

Bạch Như Cẩm cho thuyền đến một tửu điếm, bên cạnh gác trên tửu điếm có một cái thang, thuyền cập vào cạnh thang thì dừng lại, ta theo Bạch Như Cẩm bám theo thang trèo lên hành lang tầng trên. May mà ta đi đứng linh hoạt, leo trèo trót lọt. Vừa lên đến hành lang lầu hai, lập tức có tiểu nhị cầm khăn khô lau mặt, tiện thể khom xuống giúp khách khứa phủi sạch vuốt lại vạt áo, sau đó mời vào trong phòng.

Thực đơn đưa lên, ta nhấp một ngụm trà, lé mắt thấy một cái đầu ló ra khỏi song cửa tửu điếm đối diện bên đường, hét lớn, “Hành, một bó!”

Lập tức một chiếc thuyền nan nhẹ nhàng chèo tới, trên thuyền chất đầy rau xanh.

Ta phải tán thán, “Phong tục quý địa quả thực không giống bình thường.”

Bạch Như Cẩm giở thực đơn, mân mê chòm râu ngắn tủn trên môi, “Quen rồi.”

Thừa Châu cách Trường Giang không xa, lại sát với hai nhánh sông, coi mòi thường xuyên bị lụt.

Sau khi đưa lên mấy thức nhắm, trong lúc rảnh rỗi chờ món chính, Bạch Như Cẩm nhìn thuyền bè nối dài liên miên ngoài cửa sổ, tán gẫu, “Đất Thừa Châu, đến hè lại gặp nạn úng, để bảo vệ duyên hà của những toà thành lớn hơn, thường lấy chỗ này là điểm để xả nước, mọi người cũng quen rồi, chừng mười ngày hơn thì nước rút thôi.”

Bạch Như Cẩm nhón hai hột đậu tẩm ngũ vị hương bỏ vào miệng nhai, lại nói, “Có điều, lụt hồi đó không lớn cỡ này, cao lắm cũng chỉ đến nửa người, từ ba năm nay đổ lại, mới lớn dữ thế thôi.” Đầu nhỏng tới phía trước, âm thanh nén xuống, “Ai cũng nói, là oan hồn của quỷ Hoài Vương bất hạnh kia quấy phá.”

Ta giật mình, “Không phải vậy chứ, Hoài Vương với chỗ này can hệ gì đến nhau?”

Cái cổ Bạch Như Cẩm lại vươn dài hơn, âm thanh nhỏ hẳn, “Lão đệ à, ngươi không biết ư, trong tên Thừa Châu bọn ta có một chữ Thừa, thành Nam lại có nhánh quận Hà. Tên tự của Hoài Vương, hình như là Thừa Tuấn…”

Ta cười gượng, “Chuyện này…”

Bạch Như Cẩm vân vê một dúm râu ngắn củn cỡn, “Có đôi khi, mấy chuyện tà môn này không thể không tin. Ngươi biết không, vị oan quỷ Hoài Vương kia, là người có tật chân. Kết quả là ba năm trước, sau khi ông ta chết không lâu thì lụt ở đây càng nặng hơn, ngoài thành có một cái miếu thuỷ bá bị sét quật ngã. Bởi vì phạm vào chữ ‘què’. Sau đó cái miếu thuỷ bá làm cách nào cũng không trùng tu được, cho đến khi trong kinh hoàng thượng hạ chỉ cấp cho Hoài Vương lăng mộ lớn, tổ chức pháp sự. Bọn ta ở đây đổi miếu thuỷ bá thành miếu thuỷ thần, mới tu sửa được.”

Ta bảo, “Chuyện này nghe quả là tà đạo.”

Đến đây thì đồ ăn được đưa lên, Bạch Như Cẩm tạm dừng câu chuyện, ta gắp một đũa thịt thái chỉ, Bạch Như Cẩm rót rượu, ngoài cửa sổ lại có một chiếc thuyền chở nha dịch châu phủ lướt qua, Bạch Như Cẩm nhìn thuyền nha dịch nối đuôi nhau, bảo, “Lúc trước, khi lũ định kỳ kéo đến, tri phủ đại nhân lập tức báo lên triều đình xin cứu trợ lương thực. Có người nói năm nay triều đình phái một vị khâm sai đại nhân khó lường đến trị thuỷ, có lẽ sắp đến rồi, nên mấy ngày nay nha phủ canh phòng rất nghiêm mật.”

Mấy năm không nghe ngóng chuyện triều đình, không biết mấy ngọn Đế Trụ sừng sững trong ấy có di dịch ngọn nào không, ta tò mò hỏi, “Vị đại nhân nào vậy, nghe tay to thế?”

Bạch Như Cẩm nâng chén rượu, thấp giọng, “Người ta nói là công bộ thị lang Vân Dục, thế đủ tay to không? Sau khi Liễu thừa tướng nhận trách nhiệm từ quan, quan viên trẻ trong triều trừ Trương Bình Trương đại nhân ra, còn ai có thể so bì với y? Đáng tiếc y là con trai Vân Đường, oan án của Hoài Vương, tuy Liễu thừa tướng đã gánh vác phần lớn lỗi sai, nhưng nghe đâu y cũng can một phần. Bằng không sau khi Liễu thừa tướng từ quan, chức thừa tướng không chừng cũng chẳng đến phiên Trương đại nhân đảm nhận.”

Ta nắm chén rượu, cười ha hả.

Bạch Như Cẩm lắc đầu, “Chỉ là không biết vị đại nhân này đến, có khi nào lũ lại càng nặng hơn không?”

36

Vân Dục trị thuỷ, hẳn mấy ngày nữa sẽ đến, ta còn phải nán lại Thừa Châu đến đầu tháng tám, không chừng có thể vô tình chạm mặt, mà cũng không chừng đi lướt qua nhau.

Chạm mặt hay lướt qua cũng thế cả thôi.

Đời người mấy mươi năm rất dài rất xa, Vân Dục cũng được, Liễu Đồng Ỷ cũng thế, thậm chí cả Khải Giả, những người năm ấy, không nhất thiết phải đối mặt vào một ngày nào đó. Hoài Vương sớm đã hoá thành vụn tro, chôn trong lăng mộ ở kinh thành, rất nhiều người chứng kiến cảnh hoả táng, sẽ không còn hoài nghi có trá nữa. Ngày hôm nay trên đời chỉ có một thương nhân tên Triệu Tài. Cho dù đối mặt, thì phải làm gì đây?

Chẳng rõ những người ngày ấy hiện tại ra sao.

Vân Dục và cháu ta, à không, không phải cháu nữa, mà là thánh thượng, ăn ở với nhau có tốt không?

Hoàng thượng mấy năm nay tinh thần rất sung mãn, nghe nói đã có thêm vài hoàng tử. Thật sự rất đáng tiếc cho Vân Dục, chuyện ba năm trước, cả nhà trừ hắn ra đều biếm thành tội dân, kỳ thực hắn là một người rất hiếu thuận, bảo vệ tính mệnh toàn gia đình, song cả nhà hắn có lẽ sẽ hận hắn thấu xương. Chọn lựa đến cuối cùng vẫn là hoàng đế.

Thế mới nói, nồi nào úp vung nấy vốn đã định sẵn từ trước. Vân Dục không thuần phục ai ngoại trừ Khải Giả, và cũng không ai có thể trói buộc được Khải Giả, trừ Vân Dục.

Về phần Liễu Đồng Ỷ, ta nghe nói y từ quan về quê, có phần áy náy. Một rường cột trung trinh của triều đình lại bị gãy đổ trong tay ta. Sau đó lại láng nháng nghe nói y quy ẩn sơn dã, lại nghe nói y vân du tự tại, tiêu sái thoải mái hơn khi còn ở triều đình nhiều. Y từng nói, muốn làm một người nhàn rỗi, nghĩ như thế, áy náy trong lòng ta mới vơi bớt.

Vì vậy, lần này ta gặp Vân Dục trị thuỷ ở Thừa Châu, là ý trời an bài. Qua lần này, không chừng đời này có thể tình cờ chạm mặt nhau vài lần, cũng không chừng về sau chẳng còn gặp nữa.

Ăn cơm trong tửu điếm xong, Bạch Như Cẩm đưa ta đến nhà ông ấy, trao đổi chuyện buôn bán với nhau.

Bạch Như Cẩm có thể coi là phú hộ nhất nhì Thừa Châu, nhà cửa rộng rãi khoáng đạt, tuy hiện tại chìm một nửa trong nước, nhưng có một khúc tường che trồi trên mặt nước, tường bên cạnh đại môn có một chỗ khép vào mở ra, có thể đưa thuyền xuất nhập. Nghe nói nhà của phú hộ Thừa Châu đều có cửa thuyền. Thuyền vào trong nhà, chèo thẳng đến sảnh chính.

Bạch Như Cẩm có bốn vị phu nhân, ba trai hai gái. Đại công tử nhà ông ấy năm nay đã mười bốn mười lăm tuổi, theo cha học nghề buôn bán, Bạch Như Cẩm kêu nó đến chào ta, gọi một tiếng Triệu thúc phụ.

Ba đứa nhóc khác, chỉ mới bảy tám chín mười tuổi gì đó, chạy trên hành lang lầu hai đùa giỡn, gấp giấy thành thuyền rồi ném xuống nước. Còn có một thiên kim mới chừng một tuổi, mụn con do tam phu nhân Bạch Như Cẩm hạ sinh. Tam phu nhân là một người đàn bà tháo vát nhanh nhẹn, mấy gian hàng trong tay Bạch Như Cẩm được nàng ta quản lý một nửa, gia quyến nữ bên nhà chồng làm thương nhân không kiêng kị gặp khách lạ, nên tam phu nhân thường hay theo Bạch Như Cẩm ra ngoài bàn chuyện làm ăn, trình độ tính toán sổ sách còn siêu đẳng hơn cả tướng công.

Lần này tam phu nhân cũng ngồi trong sảnh với chúng ta, Bạch Như Cẩm trước thuyết minh kế hoạch chi phí thu chi của cửa hàng, sau bàn đến kế hoạch chuẩn bị tiếp đó, tam phu nhân ngồi cạnh mở sổ sách ra, gảy bàn tính lách chách, lần lượt báo cáo từng khoản mục, rõ ràng minh bạch, nhũ mẫu ôm tiểu thiên kim trong lòng cùng với mấy nha hoàn đứng phía sau nàng, chừng khoảng tiếng hơn thì bàn xong chuyện, tam phu nhân giao sổ sách bàn tính cho nha hoàn, rồi nhận đứa bé từ nhũ mẫu ôm vào lòng.

Ta không khỏi cảm thán, “Bạch huynh và phu nhân quả là một đôi trời sinh, phu xướng phụ tuỳ.”

Bạch Như Cẩm cười bảo, “Lão đệ cũng nên tìm người cưới là vừa. Bà nhà tôi dở tệ là vậy, lúc vừa mới gả cái gì cũng không tỏ, học chừng hơn nửa năm là có thể đỡ đần ít nhiều.”

Tam phu nhân cũng cười nói, “Phải đó, ông chủ Triệu cớ gì mà vẫn chưa lấy vợ.”

Ta trả lời, “Đàn ông trong thiên hạ, mấy người tốt số được như Bạch huynh đây, các phu nhân như hoa như ngọc dịu dàng hiền thục, lại có tam phu nhân lược thao gồm tài. Ta cũng muốn cưới, hiềm là không tìm thấy người có duyên, không còn cách nào khác là làm người độc thân.”

Tam phu nhân hé miệng cười, “Đó là do ông chủ Triệu nhìn cao quá, năm sông bốn bể, đại giang nam bắc, không ai lọt vào mắt ông đấy thôi.”

Bạch Như Cẩm lập tức lắc đầu, “Nguyệt nương, nàng sai rồi, người như Triệu lão đệ đây, theo ta thấy, là trong lòng có ai đó, không buông tay được, nên giờ chưa lập gia đình. Triệu lão đệ, phải thế không?”

Ta cũng đùa hùa theo, “Bạch huynh có định khi nào làm thầy tướng không?”

Bạch Như Cẩm đáp, “Ngươi chỉ cần nói là có tương tư hay không thôi. Thành thật trả lời đi.”

Ta nghĩ một chốc, gật đầu, “Thật lòng mà nói, có.”

Bạch Như Cẩm vỗ tay xoay qua nhìn tam phu nhân nói, “Thấy chưa.” Rồi lại nhìn qua ta, “Có thể khiến Triệu lão đệ lưu luyến đến không nỡ cưới vợ, xem ra phải là một giai nhân tuyệt sắc?”

Ta đáp, “Ừm, kể cũng đúng.”

Bạch Như Cẩm vân vê chòm râu, “Hơn nữa nhất định tài mạo song toàn, ôn nhu như nước.”

Ta trả lời, “Vế đầu đúng, vế sau không đúng lắm, là một người rất lợi hại.”

Bạch Như Cẩm vỗ chân lốp bốp, “Hoá ra Triệu lão đệ thích bị người khác quản. Người ta là cô nương lầu hoa, hay tiểu thư khuê các?”

Ta đáp, “Gia đình quan quyền.”

Bạch Như Cẩm nói, “Chu choa, khó lường à nghen, tiểu thư nhà quan! Thế tại sao lại không thành?”

Ta trả lời, “À, vì trong lòng người ta đã có người khác, hiện đang bên cạnh người tâm đầu ý hợp đó.”

Bạch Như Cẩm thổn thức thay ta, khuyên giải an ủi, “Lão đệ à, nếu đã vô duyên, buông được nên buông, đời còn nhiều cô gái tốt kia mà.”

Ta bảo, “Buông thì cũng buông từ lâu rồi, chỉ là đã quen một mình, chuyện làm ăn cũng tất bật nên quên bẵng đi. Sắp tới cũng muốn tìm một người, Bạch huynh và phu nhân nếu biết có mối nào tốt thì giới thiệu giúp tiểu đệ nghen.”

Bạch Như Cẩm lập tức vỗ ngực cam đoan đảm bảo nhất định sẽ giúp.

Tiểu thiên kim nằm trong lòng tam phu nhân nghịch một chiếc vòng, ta cầm chùm nho trêu đùa với đứa bé, đứa nhóc vươn bàn tay nhỏ nhắn ra, chỉ ta miệng bi bô lõm bõm, “Cha, muốn.”

Bạch Như Cẩm có chút rầu rĩ bảo, đứa bé này mới biết nói, lại có cái tật, thấy phụ nữ là gọi mẹ, thấy đàn ông là gọi cha.

Quả nhiên, ta cho đứa bé trái nho, nó lập tức dang tay ra cho ta ôm một cái, ta bế đứa nhỏ lên, nó nắm lấy áo ta liên hồi gọi cha, đáng yêu lạ lùng.

Ta không khỏi nghĩ đến chuyện nên kiếm một người vợ, không cầu mong gì khác, chỉ cần thật lòng thật dạ sống với ta nửa đời còn lại. Gầy dựng một gia đình, có thêm mấy đứa trẻ như vậy chơi đùa. Cuộc đời xem như cũng đến nơi đến chốn.

Bạch Như Cẩm mời ta ở lại nhà, ta vội vàng từ chối, Bạch Như Cẩm cho ta mượn hai gia đinh, một con thuyền nhỏ, một cái thùng gỗ chở nước, một thùng đựng nước sạch.

Hai gia đinh chèo thuyền, sáng sớm đưa ta rong ruổi ra ngoài vui chơi, ta ăn cơm ngoài quán, tiện thể mang về nhà một ít, chập tối, hai gia đinh mới quay về Bạch gia.

Lúc này xung quanh toàn là nước, việc uống có phần bất tiện, vì toàn là nước bẩn, bách tính trong thành đều phải mang theo thùng chèo thuyền ra đến con suối trên núi ngoài thành múc nước uống. Mỗi nhà đều trang bị hai thùng, một thùng nước uống, một thùng hứng nước mưa, sau khi lắng xong thì dùng để tẩy rửa.

Bạch Như Cẩm nói, đợi nước rút rồi, phải đem giếng nước trong sân lấp lại, xây giếng mới, nước trong giếng cũ đã bị hồng thuỷ làm bẩn, uống tiếp dễ nhiễm bệnh.

Tam phu nhân còn an bài, tặng cho một thùng than, một cái bếp đồng, hai cái ấm cho ta.

Than cất trong thùng bằng sắt, phòng cháy. Khi cần mới bỏ vào trong bếp đồng đốt lên. Hai cái ấm một cái dùng để pha trà, một cái dùng để nấu nước uống.

Ta vốn thích uống trà, nên thùng nước uống Bạch gia đưa tới hai ngày đã hết sạch.

Ta mang theo thùng đưa thuyền lên núi lấy nước. Đình bên cạnh núi xếp đầy thuyền, gia đinh Bạch gia chỉ đường cho ta, đường núi được xây đắp bằng phẳng chỉ có một đường dẫn đến con suối. Đường núi được lát đá, do phú hộ trong thành quyên tiền sửa sang, còn có người chuyên mang xe đẩy đến đây mời chào, ta ra hai mươi đồng thuê một chiếc, là có kiệu phu chuyên đẩy xe tay mang thùng lên núi, múc đầy nước rồi đẩy xuống, chu đáo khuân lên tận thuyền.

Nha môn phái mấy gã nha dịch trấn tại trước con suối, tới nơi rồi phải đến chỗ nha dịch báo danh trước, lĩnh một thẻ bài, dựa vào số thẻ mà chờ nha dịch gọi số lấy nước. Chỗ đất trống còn dựng một lều bán nước trà, trong khi chờ đợi có thể dùng trà.

Ta mới vào trong lều bán trà an toạ, lập tức có một hán tử xán lại, xì xồ, “Vị lão gia đây, nhìn trang phục bên ngoài đã biết là quý nhân, thì giờ là vàng bạc. Tôi có thẻ bài lĩnh từ lúc sáng sớm, tầm hai ba người nữa là có thể nhận nước, ngài chỉ cần ra mười đồng là chúng ta có thể đổi cho nhau, bằng không ngài chờ thêm một canh giờ cũng chưa chắc được nhận.”

Mười đồng cũng không nhiều nhặn gì, nhưng hôm nay ta rảnh rỗi, chờ một chút cũng không sao, bèn từ chối. Đợi hán tử kia đi xa, kiệu phu đẩy xe mới nói với ta, “May mà vừa rồi ngài không mua, hắn là lưu manh trong thành, cấu kết với mấy tên khác thành một nhóm, chuyên sáng sớm đến đây xếp hàng lĩnh thẻ, sau đó đổi với người cấp sau kiếm tiền, đổi xong rồi lại đổi với người ở dưới nữa, cả ngày bọn chúng kiếm còn bộn hơn bọn tôi sử dụng sức lao động đẩy xe. Nha dịch đã nhận diện được bọn chúng rồi, đại quan triều đình trị thuỷ sắp đến, tri phủ đại nhân đang muốn chỉnh đốn mọi nơi, nếu ngài đổi với chúng, không chừng sẽ bị nha dịch tịch thu thẻ, còn không cho ngài múc nước.”

Ra vậy, coi bộ bòn rút tiền dân không phải chuyện chỉ có cấp quan lại mới biết làm.

Chừng nửa tiếng trôi qua, ta nhận lấy nước đem xuống núi, rồi lại ngồi thuyền quay về thành. Tiện thể mua miếng thịt từ một thuyền ven đường, cân thêm hai kí nấm, toàn bộ gia vị trong bếp nhà ta đã úng trong nước, bèn mua thêm ít muối, đường, tiêu, hồi hương, ớt bột, cuối cùng là một ít bột thì là Ai Cập.

Trong chuyến đi đến đại mạc phương Bắc để thu gom bì thảo (*), có mang về một bộ giá nướng thịt, cũng may để trên lầu nên không bị ngập, hôm nay về nhà, ngồi trên hành lang thả cần câu, kế bên có bếp đồng nướng thịt uống rượu, quả là chuyện khoan khoái cực.

(*) bì thảo: còn gọi là bì y, chỉ quần áo dùng da lông của động vật làm chất liệu may.

Bà cụ bán nấm tặng cho ta một cái giỏ mây, có thể xếp hết thịt thà rau củ gia vị vào trong, ta còn định đến quầy rượu mua một vò rượu ngon nho nhỏ. Thuyền đang tiến đến quầy rượu, bỗng nghe bên cạnh có người chào hỏi, “Ông chủ Triệu.” Ta quay đầu, thấy quản gia Bạch gia và tam phu nhân đang ở thuyền bên cạnh, có lẽ tam phu nhân vừa kiểm tra sổ sách từ cửa hàng về. Ta quay lại chào, đứng cạnh tam phu nhân là nhũ mẫu, đang ôm tiểu thiên kim.

Tiểu thiên kim đang khóc ré, tiếng khóc thất thanh, ta bèn hỏi đã xảy ra chuyện gì. Tam phu nhân cười khổ, “Sáng nay nhẽ ra không nên đưa cháu nó theo tôi, đi được một chốc lại quấy đòi về nhà, Trương quản gia còn có chút chuyện phải đến cửa hàng đằng trước lo liệu, mà dỗ thế nào cháu nhà cũng không ngoan.”

Ta đề nghị, “Vừa khéo tại hạ đang quày về nhà, hay để ta đưa lệnh thiên kim trở về phủ trước, rồi đưa ta về sau cũng được.”

Tam phu nhân bảo, “Vậy thật ngại quá.”

Ta cười nói, “Tam phu nhân khách sáo thật, thuyền rõ ràng là của nhà bà, bà như vậy sao ta còn dám tự ý sử dụng nữa.”

Tam phu nhân khoan thai đáp, “Ông chủ Triệu đã nói thế, chúng tôi cũng không có ý chối từ nữa.” Bèn bảo chiếc thuyền nhích đến gần hơn, ta đón đứa trẻ bế trên tay, nhũ mẫu đỡ tam phu nhân sang thuyền ta.

Đứa bé nằm trong lòng ta rồi, bèn cọ nước mắt nước mũi vào vai ta, bi bô hai tiếng cha, tiếng thút thít nhỏ dần rồi bặt hẳn. Nhũ mẫu muốn ôm nó, nó ngọ nguậy tỏ ý phản đối, ta nói, “Thôi cứ để ta ôm một chốc đi.” Nhũ mẫu cười, “Tiểu thư thật hợp với ông chủ Triệu.” Ta vui đùa, “Hay là cứ để tại hạ nhận con gái nuôi đi.”

Tiểu thiên kim nhà Bạch Như Cẩm dúi vào vai ta, nhũ mẫu giúp ta xách cái giỏ mây để dưới chân, tiểu thiên kim nhìn thấy mấy cái nấm ở trong giỏ, bèn vung vẩy tay ê a, “Cha, cái ấy, cha, cái ấy!” Tam phu nhân chau mày, đánh khẽ vào bàn tay be bé đó, nạt một tiếng ‘nghịch quá’, tiểu thiên kim lập tức miệng mếu máo, ta thấy đứa bé sắp gào khóc, chừng ấy lại đến phiên cái tai và áo choàng của ta chịu tội, bèn vội vàng dỗ dành, “Trẻ con ấy mà, phải nghịch mới cưng.” Rồi lấy một cái nấm trong giỏ ra, chùi chùi vào áo choàng xong đưa cho đứa nhóc, tiểu thiên kim lập tức chộp lấy, hé miệng để lộ hàm răng sữa chưa mọc tròn trĩnh bật cười khanh khách, rồi định nhét cái nấm vào trong miệng.

Ta vội ngăn lại, nhũ mẫu cười bảo, “Ông chủ Triệu thật chiều con nít.” Tam phu nhân bỗng nói nhỏ với ta, “Ông chủ Triệu, chiếc thuyền vừa đi qua, không giống thuyền quan cho lắm, người trên thuyền, tôi thấy không tầm thường.”

Hửm? Vừa rồi ta chỉ chú tâm đến tiểu thiên kim của Bạch Như Cẩm, không chú ý lắm đến thuyền gì đó. Nghe tam phu nhân nói thế, ta mới quay qua nhìn về hướng nàng chỉ.

Trong nháy mắt nhìn cho kỹ đấy, bỗng đón nhận lại hai luồng nhìn.

Đó là loại thuyền có mui, mui là loại có màu đen sệt, thân thuyền mới cứng, trên thuyền có bốn người chèo, trang phục bình thường, nhưng sống lưng thẳng đuột, không giống người bình thường.

Trên mũi tàu có hai người đứng, trong đó có một người mặc một thân áo mỏng, nghiêm chỉnh lạnh lùng, không chút cẩu thả, chỉ nhìn dáng dấp khí chất một cách đơn thuần, ta gần như nghĩ là Trương Bình, nhưng, ta nhìn thêm chút nữa thì bóng người đã quay đi, nhìn sang chỗ khác.

Cho dù không thấy mặt, cho dù bóng lưng của hắn có thay đổi lớn lao so với ngày trước, ta vẫn có thể nhận ra ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Tiểu thiên kim của Bạch Như Cẩm lại ngọ nguậy túm lấy ống tay áo của ta, “Cha, cha.”

Ta thu mắt lại, nói với tam phu nhân, “Vị đó chính là khâm sai đại nhân.”

Hắn là Vân Dục.

37

Ta theo thuyền đưa mẹ con tam phu nhân về Bạch phủ trước. Bạch Như Cẩm không có nhà, tam phu nhân khách sáo giữ ta lại, ta khách sáo từ chối.

Ra khỏi Bạch phủ, ta mua một vò rượu nhỏ trên đường. Về đến tiểu lâu, ta dựng cái giá nướng thịt giữa nhà, chuẩn bị uống rượu ăn thịt.

Đương lúc rửa thịt, trời bỗng đổ cơn mưa vội, tí tách trên mặt nước tạo nên cảm giác thú vị lạ thường. Ta nhóm một bếp than đượm, để một ít thịt lên vỉ, rưới thêm rượu.

Rượu bản địa Thừa Châu vốn dĩ là rượu vàng, rượu trong phường cũng từa tựa như rượu nếp, rượu trúc diệp thanh, rượu hạnh hoa vân vân ở kinh thành, hương vị cũng không mấy thuần tuý. Ví dụ như vò rượu ta vừa mua, là rượu trúc diệp thanh (*) hương vị Thừa Châu, có mùi hương ngòn ngọt thoang thoảng, nhưng rượu vàng tính ấm, tuy hiện tại không khí rất mát do đổ mưa, nhưng vẫn là ngày tam phục (1), ta nướng một mẻ chân dê, nếu rưới thêm nửa cân rượu vàng, lửa càng thêm vượng, bên mép thịt không biết bắt đầu rộp lên từ khi nào.

(*) rượu Trúc Diệp Thanh: rượu nổi tiếng đất Sơn Tây, nấu bằng cao lương, tiểu mạch và đậu xanh cùng một số dược thảo. Sau khi thành rượu lại đem ngâm thuốc bắc và lá tre. Màu rượu xanh nhạt, mùi thơm. Uống vào nhẹ nhàng không gắt.

Đợi đến mười lăm tháng tám, là lúc thích hợp để uống rượu vàng ăn cua nhất. Đến mười lăm tháng tám, hẳn ta đã đến ven biển miền đông rồi, có cua bể tươi roi rói để ăn, tiện thể mang theo vài cân rượu vàng bản địa cũng hay.

Bấy giờ mây đen ùn ùn, mầu trời xám xịt, ngoài hiên mưa đan tựa mành, loáng thoáng vài hạt tình cờ được gió mát lay lắt vào trong, khơi lên sự tự tại hào hứng. Trước đây ta từng kỳ thị đám văn nhân rỗng tuếch, ngồi trong gian nhà dột, nhìn cây củ cải mập mạp mới bón phân ngoài ruộng cũng có thể phọt ra một bài thơ, rõ là bọn lập dị. Hôm nay ta ăn thịt dê quay, ngoài kia mưa và nước mù trời, lại trào lên cảm giác phong nhã, thật chả khác gì bọn kia.

Rượu trúc diệp thanh Thừa Châu trong bầu sử dụng nước suối trên ngọn núi hôm nay vừa đi lấy, uống vào miệng có cảm giác rất khác biệt. Nếu có thêm miếng dưa hấu ướp lạnh được xắt khoanh mỏng vừa, hoặc nước ô mai ướp lạnh để giảm ngấy, thế mới tuyệt.

Trước đó nhìn thấy Vân Dục, tâm tình hiện tại vốn dĩ không hề cảm thấy gì.

Chỉ là, ta không nghĩ mới ba năm mà hắn đã thay đổi đến nhường đó. Phỏng chừng có liên quan đến việc hoàng thượng long mã tinh thần, có thêm vài hoàng tử nữa.

Hắn với Khải Giả, đời này đã định sẵn không thể sống một cách dễ dàng. Dù có dễ dàng hay không, cũng không liên quan đến ta. Mỗi người đều tự lựa chọn con đường riêng cho mình. Cho dù người ngoài thấy không dễ dàng, nhưng với người trong cuộc có thể lại là vui sướng.

Không biết chỉ mới nhìn qua Vân Dục có nhận ra ta hay không. Hiện tại trên đời đã không còn Hoài Vương Thừa Tuấn bị tật chân, chỉ còn thương nhân Triệu Tài, không thể tạo phản, không thể mơ mòng ngôi hoàng đế. Dù có thấy cũng chẳng việc gì phải lo lắng thay Khải Giả. Có điều cũng khó nói, biết đâu lại tưởng là ta trốn trong dân gian nhưng tà tâm chưa cạn, vẫn còn cấu kết với thế lực bí mật mưu đồ Đông Sơn tái khởi.

Vừa hay có đám quan sai tiện thể xông lên, gông xiềng một bộ, cùm sắt xỏ xuyên.

Ta giả chết chạy trốn, đích thực là tử tù vượt ngục, khi quân là tội lớn, nếu bị định tội thật, quay về kinh chỉ có nước chém bay sọ.

Hôm nay ngoài mặt công bố là Hoài Vương tự sát, sau khi Tông Vương tỉnh lại, hoàng thượng ban cho thanh danh trung nghĩa và phần mộ bề thế cho ta. Nhưng ai biết được trong lòng những người đó thực sự nghĩ gì.

Người chết, dẫu thế nào cũng thấy yên tâm, bên ngoài muốn làm sao mà chẳng được. Nhưng nếu người chết đổi thành người sống, quả là khó xử, ngay cả giả chết cũng làm được, thế lực bí mật lại càng thêm đáng tin, không chừng lại hạ lệnh âm thầm nhanh chóng ‘tiễn vong’ ta, người chết biến thành người chết thật mới có thể yên tâm cho đặng.

Hiện tại đang lúc lụt lội, không tiện chạy trốn, chi bằng cứ yên tĩnh quan sát diễn biến thì hơn.

Vân Dục hiện giờ ở công bộ chứ không phải hình bộ, lần này tới chỉ trị thuỷ mà thôi, quả là chuyện không thể tốt hơn. Nếu hắn thật sự thấy ta, trong lòng nghi ngờ, nhất định sẽ âm thầm quan sát mấy hôm, hơn nữa bận công vụ, thư từ qua lại bất tiện, đường chạy của ta vẫn rất rộng rãi.

Sau khi rời khỏi Thừa Châu, ta sẽ mang hàng hoá vượt đại dương qua phía bên kia Đông Nam, đến mấy chỗ như Trảo Oa quốc tị nạn vài năm để tránh chuyện thị phi.

Trước đây mẹ ta từng nói, phàm là thân hữu bị nghi ngờ mắc mứu đến ngôi hoàng đế, tuyệt đối không có kết quả tốt, bất luận là trung hay gian, đều không thể dung chứa ngươi. Khi ấy ta còn chưa tin, tới giờ, mới phát hiện ra cha ta lẫn ta, cả hai đều không nhìn thấu triệt bằng người phụ nữ như mẹ.

Chuyện nằm vùng hoá thành trò cười, đến chót cùng, lại nhờ đường lui bà an bài mới vớt được cái mạng của ta.

Nói đến việc trốn chạy lần đó, có hơi áy náy với Liễu Đồng Ỷ. Khi ấy ta cân nhắc tình thế, ngoại trừ Khải Giả, trong đám quan viên phụ trách việc này, người lợi hại thông minh nhất là Liễu Đồng Ỷ, người dẫn đầu cũng là y. Chỉ có qua được mắt Liễu thừa tướng, việc chạy trốn mới thành công.

Thế nên ta mới diễn một màn đau tình trước mặt Liễu Đồng Ỷ, tương đối chân thật, quả nhiên đã bịp được y.

Cho dù là người lợi hại thông minh cách mấy, tận mắt thấy một người phun máu lăn đùng ra chết, đầu óc cũng phải tạm thời choáng váng.

Trong phủ Hoài Vương không có thế lực bí mật gì, nhưng đúng là có hai cao thủ. Chính là Trương Tiêu và Tào tổng quản.

Trương Tiêu tên thật là Thiệu Phụng, Tào tổng quản vốn tên Nhạc Túc, cả hai đều là dân giang hồ có tiếng số một số hai hồi xưa. Thiệu Phụng giỏi dịch dung, Nhạc Túc khinh công lành nghề tẩu thoát.

Lúc Trung Châu gặp đại hạn, Thiệu Phụng giả làm quan khâm sai truyền thánh chỉ mở kho lương phát chẩn. Thư thành gặp ôn dịch, quan binh phong toả thành cho bách tính chết dần mòn, Nhạc Túc ngoài Thư thành làm thảo khấu, thắng rẹt rẹt đến tận Hoàng thành Trân Bảo các, cắt ngọc châu trên mão vua, bán lấy tiền mua thuốc cứu trợ thiên tai, còn dán giấy ghi ‘Nhạc Túc Thư thành thay trời hành đạo’ đầy khắp Trân Bảo các. Hai người đó bị quan phủ treo số tiền lớn truy nã, phải lánh nạn ra ngoài biên cương, sau đó đương nhiên đầu quân dưới trướng cha ta làm binh sĩ. Cha ta vờ như không biết.

Sau đó man di xâm phạm, Thiệu Phụng giả làm phó tướng quân địch, lẻn vào địch doanh, chém chết bọn chúng. Nhạc Túc thăm dò địa thế, mang hơn trăm binh tốt đào đường nhỏ, sử kế tập kích quân địch thành công. Man di đại bại. Tiếc là lại khiến hai người kia bại lộ thân phận, sau đó cha ta bày mưu, lấy hai thi thể để cho Thiệu Phụng dịch dung, nói hai kẻ kia đã chết, chuyện này mới trôi vào dĩ vãng.

Hai người bọn họ sau đó mai danh ẩn tích, quản lý chuyện bên trong phủ Hoài Vương. Hơn mấy chục năm, cả ta cũng không hay biết.

Tây Sơn Hồng Diệp Sinh viết [ Bạch Ngọc Thần Kiếm ] bấy giờ chỉ là một văn sĩ vô danh, lấy hình mẫu hai người đó viết [ Loạn Thế Đạo Hiệp ] mới thành danh, rồi sau đó cho ra đời [ Bạch Ngọc Thần Kiếm ] vân vân mây mây.

Chỉ là trong sách, để tôn lên hình tượng hiệp nghĩa, khó tránh trau chuốt tô son điểm phấn cho nhân vật, đem Thiệu Phụng và Nhạc Túc vốn hai hán tử mộc mạc lưu manh ít biết đọc biết viết thành những người phong lưu phóng khoáng, bên cạnh là vô số tiểu thư mê đắm cùng hiệp nữ xinh đẹp quấn quýt lấy anh hùng. Sau khi hai vị đạo chích nghĩa hiệp bị giết hại, còn có một tiểu thư nhà thừa tướng và một cô công chúa phát cuồng tự tử vì tình bám gót theo sau.

Lúc bé ta không biết thân phận của Trương tổng quản và Tào tổng quản, vớ được cuốn [ Loạn Thế Đạo Hiệp ] trong hiệu sách, đọc ghiền chết bỏ, sụt sịt không ngớt, trong đó có đoạn Nhạc Túc gặp gỡ công chúa trên lầu gác, sau khi buồn miên man, là đoạn nóng xình xịch, ta vừa nuốt nuốt miếng ực ực vừa xem, vì xem quá quên mình nên xui xẻo bị cha ta bắt quả tang. Ông ấy ngồi dưới hành lang, lật xem khí thế, vừa đọc vừa cười ha hả không ngớt, “Xạo bà cố!”

Mẹ ta liếc ông một cái, “Trước mặt con nít, nói năng thô thiển vậy. Tốt nhất ông nên đem sách cho lão Trương lão Tào đọc thì hơn.”

Cha ta gật đầu, “Nương tử nói chí phải.” Ta khó hiểu nhìn ông gấp góc vài tờ trong sách, rồi vui vẻ hớn hở cầm sách mang đi.

Cho đến khi mẹ ta sắp mất, mới cho ta biết thân phận thực sự của Thiệu Phụng và Nhạc Túc, đồng thời nói với ta, con và cha con đều có chút bệnh giống nhau, mấy năm trước ta đã sắp xếp một con đường lui cho con. Hai người đó có thể bảo vệ con bình an.”

Ta không ngờ thực sự phải cần đến đường lui do mẹ ta an bài. Thuốc ta bỏ trong túi bí mật may trong nội bào, vốn định trong tình huống vạn bất đắc dĩ sẽ dùng cứu Vân Dục, nào ngờ lại dùng cho chính ta.

Kế sách này cũng không thể coi là quá cao minh, chỉ cần đến nghĩa trang tìm một thi thể vô chủ có thể hình xêm xêm ta. Then chốt là phải diễn một màn kịch bị bức ép sao cho thật đạt.

Khi ta vào thiên lao, Thiệu Phụng lẫn trong đám canh ngục, trước sau đến gặp ta hai lần, lần thứ nhất là lúc Khải Đàn Khải Phi đến thăm ta có dẫn theo tuỳ tùng hộ vệ, lần thứ hai là vào sáng hôm bỏ chạy, lại giả làm canh ngục, đi vào dọn chén đũa. Báo cho ta biết đã an bài thoả đáng.

Hai hôm liền có Liễu Đồng Ỷ Sở Tầm Khải Đàn Khải Phi Vân Dục luân phiên lên sân khấu, cho ta đủ lý do. Thế nên khi xướng một màn đau tình trước mặt Liễu Đồng Ỷ, ta hát một cách thật nhẹ nhàng thoải mái lâm ly bi đát.

Theo quy củ, loại

giam trong ngục sợ tội tự sát như ta không thể để trong lao, mà trước tiên phải lót một cái chiếu, kiếm một cái lều hoặc một gian phòng yên tĩnh để khám nghiệm tử thi, khám nghiệm xong rồi mới định đoạt là chôn thế nào táng ra sao.

Sau khi người chết rồi, hoàng đế cháu ta nhất định sẽ ban cho một cỗ quan tài, một bộ quần áo tươm tất tròng vào xác, để thể hiện sự nhân nghĩa. Loại như ta cũng không tiện xử lý tang sự, nhất định sẽ đi chôn thẳng, lập một cái bia, một đám đại thần và hoàng thượng tụ lại một chỗ, thưởng cho một bài điếu văn coi như để giữ thể diện, mọi sự đại cát.

Vì vậy chỗ có thể gian lận, chính là lúc khám nghiệm tử thi xong, tẩy thi thay y phục, ta sợ lúc đó vẫn còn trông coi nghiêm ngặt, nên mới nói với Liễu Đồng Ỷ là muốn thiêu. Thứ nhất, việc ta bỏ trốn không thành nản lòng thoái chí có vẻ thật; thứ hai, muốn châm lửa thiêu cũng phải chọn nơi ngoại ô hẻo lánh trống trải, rừng núi hoang vắng gò đống cỏ cây lều củi, thế nào cũng dễ gian lận. Nhiều cơ hội tráo thi. Thứ ba, đề phòng vạn nhất Liễu Đồng Ỷ hết choáng váng, hoặc Khải Giả Vân Dục vân vân nghi ngờ, mở quan tài khám nghiệm lại tử thi. Hoặc giả Tông Vương tỉnh lại, để giữ thể diện, muốn mang xác ta ra chôn lại. Biến thành tro bụi tương đối ít sơ hở nhất.

Cuối cùng quả không ngoài sở liệu của ta, có lẽ vì Hoài Vương đã chết, ai nấy đều cảm thấy trời quang mây đãng, vui mừng hoan hỉ không ngớt, để phòng ngừa niềm vui bị hẫng, tất cả đều đến tham quan việc tẩy thi thay y phục. Về sau hai vị tổng quản cho ta biết, khi ấy hoàng thượng thân chinh giá lâm, giám sát trình tự, Vân Dục, Liễu Đồng Ỷ đương nhiên không thể thiếu phần, thái hậu không đến được cũng đặc phái anh của bà ta đến trình diện, tình cảnh long trọng phải nói. Ngay cả vương phi của ta cũng thân mang bụng bầu cùng với mấy sư ni từ am ni cô đến tụng cho ta một đoạn kinh siêu độ, chúc ta kiếp này buông được tội nghiệt, kiếp sau sẽ làm người lương thiện. Giữa một đống người đó, nghe bảo chỉ có mình Khải Đàn khóc, Liễu Đồng Ỷ giữa chừng bỏ đi. Đáng tiếc lúc ấy ta không có ý thức, bỏ lỡ một màn trọng đại như thế. Thiệu Phụng và Nhạc Túc căn bản không có cơ hội tráo xác. May mà ta khéo nghĩ ra câu muốn thiêu, mới tránh khỏi màn bi kịch giả chết bị chôn sống.

Cũng may dạo đó trời nóng bức, không tiện để xác lâu, hoàng thượng chừng cũng hiểu được đốt là khá triệt để, sau khi tẩy thi thay đồ xong thì trực tiếp đưa đến Phổ Phương Tự, nơi vốn dĩ tạo ra cho bản vương tu, lưu xác lại một đêm. Người như ta, tự nhiên cũng sẽ không có ai túc trực bên linh cữu hoá vàng cho, hộ vệ trông coi thi thể thì cả mớ, bởi vì là xác chết, bản vương sinh tiền lại hảo nam sắc, người ta cũng kỳ thị, không ưa nhòm ngó nhiều, lúc này Thiệu Phụng và Nhạc Túc mới tận dụng sơ hở mà tráo thi thể đã dịch dung, cứu ta ra.

Hôm sau, thi thể được hoả thiêu trong khu đất trống phía sau Phổ Phương Tự. Rồi gom vào một cái bình, đặt trong quan tài, chôn phía sau Phổ Phương Tự.

Lúc ta mở mắt trên cỗ xe ngựa rời khỏi kinh thành, cảm giác như đã sang tới kiếp sau ùa đến. Đường lui của ta, sơn cốc Tây Nam ở Thừa Châu, đã bị Vân Dục bao vây sạch sẽ, không thể bén mảng tới. Tào tổng quản, tức Nhạc Túc nói cho ta biết, tiên Hoài Vương phi, mẹ ta, mấy năm trước đã lưu lại cho ta một đường lui. Có nhà cửa, có quê quán, bởi vì cha mẹ đều là thương gia, tuy đã rời khỏi nhà từ nhỏ, nhưng lão gia vẫn còn giữ lại một căn nhà, lão hàng xóm còn nhớ rõ nhũ danh của ta là Gia Vượng, từng trèo cây hoè của ông chủ, còn ăn trộm lựu của tây gia.

Trước tiên ta chia tay với Nhạc Túc, theo Thiệu Phụng đi tìm sư phụ ông ấy để đả thông huyệt đạo trên đùi, duỗi thẳng cơ, cơ chân bị gút đã mười năm, muốn duỗi cũng không dễ dầu gì, dưỡng gần ba tháng mới không khập khiễng nữa. Sau đó ta từ biệt Thiệu Phụng và sư phụ ông, quay về quê hương của ông bà ở trấn Tần Thuỷ, huyện Song Kiều, phủ Chính Dương ở vài ngày, nhìn hàng xóm xưa cũ, sửa sang lại ngôi nhà cũ kỹ đã hơn chục năm không người săn sóc, bái tế từ đường, mộ phần tổ tiên, rồi đi buôn bán khắp từ nam chí bắc.

Trên đường dông duổi, nghe nói Tông Vương đã tỉnh, Hoài Vương không phải gian vương, biến thành trung thần không may chết oan. Có khoảng thời gian từ đầu đường đến cuối hẻm đều nghe bàn tán xôn xao về chuyện này, ta cũng bắt chước người ta nói, đôi khi xen thêm mấy câu nghị luận, Hoài Vương quả thực là một con quỷ xui xẻo.

Bình tro cốt kia quả nhiên bị bới khỏi nấm mồ sau Phổ Phương Tự, an táng long trọng trong đại lăng. Hoàng thượng hạ một chiếu thư trách tội bản thân, Liễu Đồng Ỷ thì từ quan. Hình như còn muốn sửa chữa phủ Hoài Vương ta ở trước đây thành từ đường các thứ. Nói chung là một đại kết cục hết sức hoan hỉ.

Mưa ngoài hiên dần ngớt, hồi ức ba năm trước cùng ba năm qua cũng tựa như người đời này ngồi ngẫm lại chuyện đời trước. Tiếc rằng Tây Sơn Hồng Diệp Sinh đã gác bút, nếu ông ấy đem chuyện này ra mổ xẻ, khéo lại viết thêm một áng văn bất hủ. Ừm, nhưng nếu ông ấy còn viết, có lẽ cũng không chọn chuyện này, người ta chỉ thích đọc truyện hiệp khách, có ai lại muốn xem một tên vương gia không chí tiến thủ làm con buôn chớ?

Ta rắc một ít bột thìa là lên miếng thịt, rồi trở mặt, đồng thời nhìn thấy một chiếc thuyền từ xa xa đang rẽ về hướng nhà ta đi đến.

Ta nheo mắt nhìn kỹ, hình như là thuyền của Bạch phủ.

Thuyền cập vào bên lan can, quả nhiên là Bạch Như Cẩm, bước ra từ gian buồng nhỏ trên thuyền, nhảy lên hành lang, có vẻ gấp rút hoảng hốt đi nhanh vào trong, “Lão đệ, có chuyện không hay rồi.”

Ta rất đỗi ngạc nhiên, đứng dậy, Bạch Như Cẩm giậm giậm chân, kéo ghế ngồi xuống, xoa xoa tay bảo, “Tơ của đệ xảy ra chút chuyện rồi.”

Ta hỏi, “Làm sao?”

Vốn dĩ ta định ở Thừa Châu đến đầu tháng tám, là vì món tơ này.

Thừa Châu có loại tằm đất, hè tháng bảy tháng tám đua nhau nhả tơ, không ăn lá dâu, mà chuyên ăn lá cây bơ. Tơ tằm hai mùa xuân thu thừa mứa, mùa hè lại ít, bán cho các hàng dệt ở Tô Hàng (*) có thể kiếm được một món lợi nhỏ, loại tơ của tằm đất có hơi vàng, không được trắng, giá rẻ, chỉ cần lúc dệt nhuộm pha màu kỹ lưỡng thì sẽ không trông ra.

(*) Tô Hàng: Tô Châu ở Giang Tô và Hàng Châu ở Chiết Giang.

Ta đến Thừa Châu, vốn là để chuyển cho Bạch Như Cẩm một lô dược liệu, trong lúc ăn ven đường vô tình nghe người ta nhắc đến loại tằm hè năm nay thế nào, mới biết ở đây có loại tằm đất như thế. Người ở đây cho loại tơ tằm này không tốt, nên không bán ra ngoài, ta lại trỗi lên hứng thú thu mua thử xem. Để Bạch Như Cẩm hỗ trợ dẫn mối mua tơ, ta còn góp vào cửa hiệu thuốc bắc của ông ta ít tiền. Vừa bàn chuyện với chủ mấy hàng dệt ở Tô Hàng, bọn họ cũng khá có hứng thú với vụ này.

Bạch Như Cẩm trả lời, “Bên kia Tô Hàng có một thương nhân lớn đến cũng để đặt mua tơ, giá lại cao gấp đôi lão đệ, ta nghe nói hình như là một thương gia đệ dự định trao đổi tơ, hiệu buôn Thuỵ Hoà.”

Không ngờ là Thuỵ Hoà, Thuỵ Hoà là nhà buôn vải lớn nhất Giang Nam hai năm nay, trong tay có rất nhiều cửa hàng và hơn chục phường thêu. Ta muốn đến Giang Nam buôn tơ, chủ đàm phán cũng chính là mấy hàng dệt của Thuỵ Hoà, cứ nghĩ nhà bên ấy buôn bán có thể coi là thành thật đáng tin cậy, ai ngờ nháy mắt lại nhân lúc lũ lụt mà đến Thừa Châu phỗng tay trên ta.

Nhưng dùng giá cao gấp hai lần ta để mua lượng tơ đất này, chẳng khác nào lỗ tiền, lại nhân thời gian lụt lội này để đến đây chịu lỗ tiền phỗng tay trên cướp mối làm ăn, quả có hơi kỳ quái.

Bạch Như Cẩm nói, “Ta cũng chẳng hiểu nổi, những loại tơ tốt nhất Giang Nam đều đặt được, hà tất phải nhân lúc hồng thuỷ mà đến Thừa Châu tranh chấp. Sợ là sợ, giả bộ đưa ra giá cao, trước là để chèn ép đệ, chừng có được tơ rồi, lại ép giá xuống. Nhưng giờ bọn họ ra giá cao, sợ phía bên cung ứng sẽ có người giở quẻ.”

Dù thế nào cũng kỳ khôi thật.

Bạch Như Cẩm nói tiếp, “Đại gia làm ăn buôn bán mà lại ngang nhiên ép giá vậy là không đúng quy tắc, sớm nay ta vừa hay chuyện đã lập tức chạy đi nghe ngóng. Bên kia Thuỵ Hoà có hai người, bọn họ nói, không phải có ý phỗng tay trên chúng ta, thực tế là muốn hợp tác lâu dài. Người quản lý cao nhất bên đó cũng đến, nói không chừng chính là tổng chưởng quỹ, bảo chiều nay muốn mời ta qua chỗ bọn họ nói chuyện. Đem duyên cớ ra giãi bày. Mà người quản lý đó ngày mai đi rồi, đệ có muốn đi hay không?

Ta ngẫm nghĩ, “Đi thì đi.”

Ta tắt lò than, đổi trang phục, rồi lên thuyền Bạch Như Cẩm đi gặp người của Thuỵ Hoà.

Bạch Như Cẩm nói, người bên Thuỵ Hoà đã đặt sẵn tiệc rượu ở phường Cát Tường. Phường Cát Tường chính là nơi sang nhất Thừa Châu, có rượu ngon trà thơm đàn hay giai nhân, quả thực là một nơi dành để bàn bạc, vừa hay mưa cũng dần tạnh. Chỉ tiếc là ta tốn công chuẩn bị món bắp dê nướng, phỏng chừng chẳng xơi được tý nào rồi.

Thuyền tới phường Cát Tường, tiểu nhị dẫn bọn ta lên hành lang lầu hai, đến trước một gian nhã thất, tiểu nhị đẩy cửa ra, người đứng bên cửa sổ xoay lại, ta khựng lại trước lối vào một chút.

Người bên cửa sổ cũng thoáng khựng lại.

Bạch Như Cẩm chắp tay nói, “Ông chủ Mai, đã gặp qua sáng nay. Vị này chính là ông chủ Triệu ta nói với ngài.”

Ta ôm quyền, “Tại hạ Triệu Tài.”

Đôi mắt trong veo của Liễu Đồng Ỷ phản bóng ta, y nâng tay áo lên, mỉm cười, “Tại hạ Mai Dung.”

----

38

Bàn rượu trong nhã thất không quá lớn, một bữa tiệc ngoài Liễu Đồng Ỷ, Bạch Như Cẩm và ta ra, chỉ có thêm một nhân viên sổ sách của Thuỵ Hoà. Lúc ngồi xuống, Bạch Như Cẩm tranh nói trước, “Ông chủ Mai, nhận được lời mời thịnh tình cho ông chủ Triệu và kẻ hèn này đến dùng cơm, về chuyện tơ tằm, ta chỉ là người trung gian hỗ trợ, tốt nhất là nên để ông chủ Mai và ông chủ Triệu bàn với nhau. Đôi bên đều buôn bán cả, hoà khí sinh tài, hoà khí sinh tài.”

Trong lúc Bạch Như Cẩm nói, ta thoáng quan sát Liễu Đồng Ỷ một phen.

Liễu thừa tướng của ba năm trước, ngày đêm bộn bề công vụ, người khó tránh khỏi nghiêm cẩn thái quá, Mai Dung của ba năm sau, không còn hàm thừa tướng ràng buộc, dáng dấp thần thái, đều trở nên phóng khoáng hơn nhiều.

Liễu Đồng Ỷ cũng công khai quan sát ta. Mai Dung và Triệu Tài, lần đầu tiên giáp mặt, phải quan sát nhau, âu cũng là lẽ thường tình.

Đợi Bạch Như Cẩm nói xong, Liễu Đồng Ỷ đáp, “Ông chủ Bạch và Tử Thành cứ dùng bữa trước. Tại hạ muốn cùng ông chủ Triệu sang một gian tĩnh thất bàn bạc trước, chẳng hay có tiện không?”

Ta trả lời, “Có thể trò chuyện với ông chủ Mai trước cũng tốt.” Người phòng thu chi của Thuỵ Hoà lập tức đi an bài một gian phòng nhỏ, chuyên dùng để bàn chuyện kín kẽ, chỉ có một chậu cây kiểng, một chiếc bàn vuông, vài cái ghế tựa mà thôi.

Ta và Liễu Đồng Ỷ ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn vuông, tiểu nhị gõ cửa tiến vào, bưng theo vài đĩa đồ ăn và một bầu rượu, rồi khom lưng lui ra, khép cửa lại.

Ta ngó đồ ăn trên bàn, cả cười bảo, “Chỉ là muốn một gian để bàn chút chuyện, không đưa trà mà lại đưa rượu và thức ăn lên, tửu lầu cũng thú vị thật.”

Liễu Đồng Ỷ cũng cười, nhấc tay châm rượu, “Cũng được, nếu đã đưa lên, thì nhập gia tuỳ tục vậy. Nghe nói Thừa Châu có một loại rượu nếp bí mật rất ngon, không biết có phải loại rượu này không?”

Ta nâng chén rượu rót đầy, đưa đến cạnh mũi, “Không phải, rượu thổ nhưỡng Thừa Châu là rượu vàng, có lẽ chủ quán thấy chúng ta là khách phương xa đến đây bàn chuyện làm ăn, nên đã tặng riêng trúc diệp thanh nhái của bản địa.”

Liễu Đồng Ỷ nói, “Nói vậy xem ra, ông chủ Triệu đã ở Thừa Châu khá lâu rồi.”

Ta đáp, “Phải, đến trước khi có lụt. Bởi vì lô hàng tơ này mà vẫn nán lại đây.”

Liễu Đồng Ỷ mỉm cười nhìn ta, “Mạo muội hỏi một câu, ông chủ Triệu trước đây hình như không phải chuyên buôn tơ?”

Ví bằng là ta của ngày xưa, sẽ hỏi lại một câu, ông chủ Mai dựa vào đâu mà biết, Liễu Đồng Ỷ tất nhiên cũng sẽ đáp trả bằng những lời thoại quen thuộc. Đây đúng là một cái vòng lẩn quẩn. Vài năm không ở trong triều, ta cũng lười nói vòng vo. Y đã hỏi trống không, ta cũng sẽ trả lời thẳng thắn.

Ta hạ chén xuống, nói, “Phải, tại hạ thường xuyên đi rông trời nam biển bắc, cái gì tiện thì cứ mang theo. Có điều do thường xuyên đi về miền bắc, nên thường mang theo các loại nhân sâm hoang dã, lần này đến đây cũng chỉ là chuyển thuốc, nhưng vừa khéo thấy loại tơ mùa hè có thể mang theo, nên mới định thu mua một mớ.” Ta nhìn Liễu Đồng Ỷ, lại cười, “Không thể sánh với ông chủ Mai, nghiêm túc buôn bán lớn, số tơ này dù tại hạ mua được hay không, nếu ông chủ Mai muốn, ta sẽ triệt để rút lui. Chung quy ta cũng không thuộc giới buôn vải.”

Dù sao đợi đến khi lũ rút, ta cũng sẽ gom góp toàn bộ gia sản tích cóp hai năm qua, đi đến Trảo Oa quốc lánh mặt, thế nào cũng đỡ nguy hiểm hơn việc buôn bán, nhân tiện tỏ ra hào phóng hiệp trợ ‘ông chủ Mai’ một lần cũng tốt.

Liễu Đồng Ỷ nói, “Ông chủ Triệu nói vậy, là xem ta đoạt mối làm ăn rồi. Đêm nay ta hẹn ông chủ Triệu bàn bạc, vốn dĩ là để giải thích chuyện này. Thuỵ Hoà chúng tôi nâng giá tơ lên không phải muốn phỗng tay trên, mà là muốn làm ăn lâu dài với ông chủ Triệu.”

Có lẽ ta đi buôn bán chưa được bao năm, lần đầu tiên mới nghe việc đưa giá cao đoạt mối buôn bán có cách kiến giải này.

Liễu Đồng Ỷ lấy trong tay áo ra một cuộn tơ, một tấm vải, “Đây là hàng mẫu ông chủ Triệu mang theo khi đến phường dệt của chúng tôi bàn chuyện buôn bán. Ông chủ Triệu chắc không biết, ngươi vừa chân trước rời đi, chân sau người phường dệt đã mang thứ này đến cho ta.”

Ta nhận lấy tơ và vải, Liễu Đồng Ỷ nói, “Có lẽ ông chủ Triệu không biết đây là loại tơ gì.”

Ta đáp, “Đúng là ta không hiểu các loại tơ vải, chỉ nghe Bạch huynh nói, ở Thừa Châu người ta có sản xuất một loại gọi là tơ hoàng du, bởi vì tỉ lệ không tốt, không trắng, nên không dám bán ra ngoài, toàn là tự nhuộm dệt vải lụa làm quần áo, tốt hơn vải bông một chút, gọi là vải lụa dầu, bền hơn vải lụa bình thường, cũng không dễ nhăn, có lẽ người ở phương nam đã thấy loại tơ do nơi khác sản xuất, còn có cách gọi khác sao?”

Liễu Đồng Ỷ yên lặng nghe ta nói xong, nhẹ thở dài một hơi, “Loại tơ này, còn có một tên gọi, là tơ vàng hổ phách. Loại tằm nhả tơ này gọi là tằm hổ phách tơ vàng. Loại tằm này cuối hạ mới kết kén, chỉ ăn lá cây lim tơ vàng, nhả ra sợi tơ sáng bóng như hổ phách, nên mới gọi là hổ phách tơ vàng, gấm vóc dệt từ hổ phách tơ vàng cũng được gọi là gấm hổ phách tơ vàng, chỉ dùng để cống nạp.”

Liễu Đồng Ỷ nhìn thấy vẻ mặt ngớ ra của ta, bồi thêm một câu, “Ngày xưa Hoài Vương điện hạ, cũng thường hay mặc y bào làm từ gấm hổ phách tơ vàng.”

Hoá ra, vải hoàng du chính là người bạn già thân thiết của ta ngày trước, khó trách ta với nó có duyên. Ngày trước, ta không hề nhận ra nó thân thiết đến chừng nào.

Nói vậy thì, cây hoàng du lấy lá làm đồ ăn cho tằm đất ở Thừa Châu thật ra là cây lim tơ vàng. Thường thì người ta dùng nó làm quan tài, tro cốt bản vương sau khi đào lên đem đi đại táng rình rang, nghe nói cũng dùng cây gỗ lim tơ vàng làm cỗ quan tài lớn. Bộ mãng bào dùng làm áo liệm bọc lấy bình tro cốt, dám chừng cũng dùng gấm hổ phách tơ vàng cũng nên.

Nếu thực là vậy, đợi ta chạy đến Nam Dương, sẵn tiện mang theo vài súc vải hổ phách tơ vàng, rồi mang vài gốc gỗ hoàng du bán dọc đường xuôi về nam, có lẽ sẽ kiếm được một khoản hời.

Ta coi như không nghe thấy câu nói sau cùng của Liễu Đồng Ỷ, chỉ vuốt ve sợi tơ và bảo, “Khó trách ông chủ Mai vốn là đại chưởng quỹ Thuỵ Hoà, đang lúc lũ lụt phải thân chinh đến đây.”

Liễu Đồng Ỷ nói, “Đây là chỗ cần giải thích. Ông chủ Triệu cũng biết, Giang Nam có không ít cửa hàng của Thuỵ Hoà, không ít tai mắt được cài vào trong phường dệt cửa hàng của chúng tôi, chỉ sợ chuyện Thừa Châu có hổ phách tơ vàng, nội bộ đã biết hết rồi. Nếu dùng lại giá mua tơ ông chủ Triệu đưa ra, tất bị người ta chặn hàng. Biết đâu người nuôi tằm cho rằng chúng tôi làm ăn không chân chính, sau lần này, không bán tơ cho chúng tôi nữa. Chúng tôi muốn làm hết sức để lấy được nguồn tơ từ Thừa Châu, rồi từ đó kinh doanh tới nữa. Nhưng trước đó ta không biết ông chủ Triệu, không nắm được cách làm việc cũng như tính khí của ông chủ Triệu, sợ thương lượng việc tăng giá mua tơ với ông chủ Triệu, ông chủ Triệu sẽ không đồng ý, nên vừa rồi mới làm thế. Tại hạ vô tình gặt thu sớm, kỳ thực cũng chỉ là muốn ông chủ Triệu nói chuyện với chúng tôi, đồng ý nâng giá, tương lai cũng thuận lợi làm ăn lâu dài, thật sự đã đắc tội rồi.”

Y chậm rãi thong thả giải thích, nói vài câu thì ngừng một chốc, cuối cùng, lấy trong tay áo ra một tờ giấy gấp lại, ta nhận lấy mở ra, thì ra là giấy tờ y đã ký tên sẵn, trả về tất cả những lô tơ Thuỵ Hoà tranh lấy. Nét chữ trong văn thư và hai chữ Mai Dung, vẫn mang khí khái của Liễu thừa tướng. 

Ta không thể không nói, “Làm ăn với ông chủ Mai, thật sự yên tâm. Khó trách việc buôn bán của Thuỵ Hoà khuếch trương đến vậy.”

Liễu Đồng Ỷ nhấc bầu rượu, “Có lẽ, cũng như ông chủ Triệu, đây mới là tự tại.” Đoạn bưng chén rượu đến bên môi, rồi bỏ xuống, “Ông chủ Triệu, vẫn đi du ngoạn khắp nơi vậy sao?”

Ta đáp, “Đi dạo loanh quanh, sẵn kiếm chút cơm ăn.”

Năm ấy, sau khi dưỡng lành chân rồi, bỗng nổi lên ý định, quyết đi buôn bán làm ăn. Vừa đúng dịp ồn ào vụ Hoài Vương rửa sạch tội danh, ta đi đến phía bắc, cố tình đi cách kinh thành không xa, muốn cảm thụ dư âm của việc này. Tuy nói là cuối cùng quyết làm lại từ đầu, nhưng vẫn muốn biết chút tin tức sau rốt của đời trước. Kết quả chỉ nghe nói Liễu Đồng Ỷ từ quan. Hoàng thượng sau khi trách tội bản thân xong, tiếp tục xử lý sáng suốt chuyện triều chính. Còn Đại Vương sau khi tiếp nhận toàn bộ của cải tiền bạc của phủ Hoài Vương, quyết định đến phủ Hà Nam năng nổ cần cù, hẳn là nó đã ngộ ra bọn gian thương không đáng tin, định bụng tự mình đào còn hơn. Tông Vương không tham dự triều chính nữa, hồi phủ dưỡng lão. Thái hậu nói cuộc đời còn lại của bà phải ăn chay vì Hoài Vương, vương phi cũng lâm bồn, là một bé trai, được người Lý gia nhận về nuôi, vương phi nói mình nên vì Hoài Vương tụng kinh cả đời. Những người khác thì không nghe tin tức gì.

Cũng không nên xảy ra chuyện gì. Trong triều yên ổn, không còn hoạ lớn, muốn thư thái có thư thái, muốn sống tốt có sống tốt. Hết thảy mừng vui biết mấy.

Trên đường tiến về phương bắc, chứng đoạn tụ của ta cũng đỡ hơn. Sau khi trải qua nhiều chuyện, bứt ra được rồi, lại thấy nữ tử dân gian tựa hoa tươi suối ngọt, tỷ dụ như Tiểu Điệp Bạch thành, Uyển Uyển Tần Châu, Tuyết Nga biên tái, A Liên Na đại mạc, Kim Mỹ Tử Cao Ly… người dịu dàng, người giỏi đoán tâm ý người khác, người không rành thế sự, người hoạt bát ngây thơ. Thật là ấm lòng người, an ủi ta triệt để.

Tiếng mưa ngoài cửa sổ kín mít dần dồn dập, ta nhìn ra ngoài cửa sổ một thoáng, bảo, “Nghe nói ngày mai ông chủ Mai đi về, chỉ không biết ngày mai mưa có tạnh hay không.”

Liễu Đồng Ỷ đáp, “Có thể ta còn ở lại thành mấy hôm nữa.”

Ta nói, “Vậy mối làm ăn này có thể bàn tỉ mỉ thêm một chút.” Ở lại vài ngày cũng tốt, sau khi từ biệt ở Thừa Châu, đời này có còn gặp lại nữa không cũng không có gì đảm bảo trước.

Thế nên ta bảo Liễu Đồng Ỷ, “Ông chủ Mai quản lý hiệu buôn Thuỵ Hoà lớn như vậy, nhất định rất mệt nhọc. Tại sao ông chủ Mai lại có ý định kinh doanh vậy?”

Liễu Đồng Ỷ cũng nhìn ra ngoài cửa sổ, “Lúc ta còn trẻ, từng xem một quyển tiểu thuyết, trong đó có một vị hiệp khách, sau khi lưu lạc chốn giang hồ xong, thì chuyển sang buôn bán. Có điều…”

Ta tiếp lời, “Có điều, vị hiệp khách ấy buôn bán đồ cổ phải không? [ Tuý Mạt Cầm Hiệp Ký ].”

Liễu Đồng Ỷ gật đầu, nhoẻn miệng cười, “Phải.”

Ta đứng dậy, thong thả bước đến bên cửa sổ, Liễu Đồng Ỷ đến bên cạnh ta đẩy khung cửa sổ lên hẳn. Mưa quất vào mái hiên, tạt ướt bệ cửa.

Sau khi quay lại dùng xong bữa, ra khỏi phường Cát Tường thì trời đã đen kịt, mưa lớn hơn trước. Liễu Đồng Ỷ và người phòng thu chi ở trong nhà trọ cách phường Cát Tường không xa nên đã cáo từ trước.

Bạch phủ chuẩn bị sẵn hai con thuyền đến đón, ta và Bạch Như Cẩm mỗi người lên một thuyền, Bạch Như Cẩm nói, “Lão đệ, trời mưa to, chúng ta không khách khí nữa, mau mau về nhà thôi.” Rồi tách nhau ra ở ngã rẽ đầu đường.

Con thuyền hơi lảo đảo trong trận mưa nặng hạt, ta ngồi trong khoang nhìn ra ngoài, thoáng chốc đã thấy sắp đến trước tiểu lâu. Người chèo thuyền nói, “Triệu gia, trước cửa nhà có một con thuyền, có phải khách đến không?”

Ta ra khỏi khoang bung tán ô, quả nhiên có một chiếc thuyền đang cập trước nhà, có một người đứng ở mui thuyền trong mưa, giữa khung cảnh mưa móc mịt mùng tối om om, ta chỉ cần liếc mắt đã nhận ra hắn là ai. 

Ta từng nghĩ, nếu thực sự có ngày gặp lại, ta sẽ nói gì với hắn.

Có lẽ chỉ coi nhau như người xa lạ, chào hỏi cười một cái, sau đó từ biệt. Nhưng hiện tại ta biết mình sai rồi.

Ta nhìn thấy hắn, căn bản không nói nên lời điều chi, nhất thời không biết nói gì cho phải.

Nói, xin hỏi các hạ người phương nào?

Hỏi vì sao ngươi lại ở đây?

Tột cùng ta muốn nói gì với ngươi, nói với ngươi như thế nào.

Ngày đầu tiên khâm sai đại nhân đến Thừa Châu, một tối mưa to đứng ở đấy, tri phủ bản địa, hết thảy quan binh, nhất định sẽ coi ta là đối tượng cần phải quan sát theo dõi chặt chẽ.

Đến tột cùng là muốn thế nào?

Thay Khải Giả bắt ta mang về, hỏi ta tội khi quân? Hay là, tìm cố nhân ôn chuyện xưa, sau đó thả ta đi, coi như chưa có gì xảy ra?

Có lẽ, chỉ là tới hỏi ta, ngươi là người phương nào, tra xét thực hư?

Ta đứng đó, nghe hắn bên thuyền đối diện nói, “Ngươi về rồi.”

Lại một lúc lâu sau, nghe chính ta nói, “Mưa lớn quá, vào nhà trước đi.”

Vào trong nhà, ta tìm bên cạnh bàn, châm lửa đốt một ngọn đèn. Trong ánh sáng vàng vọt, quay đầu nhìn lại, hắn đã ngồi ngay chỗ ban sáng ta ăn thịt nướng, cầm lấy vò rượu bên cạnh lắc lắc, “Còn có rượu. Có thể đối ẩm không?”

Ta nhớ lại, vài năm trước, cũng là một ngày hè nào đấy, có điều là ban ngày, Vân Dục đến phủ của ta, quên mất vì chuyện gì rồi, chỉ nhớ đến lúc hắn phải đi, đột nhiên trời mưa to, Vân Dục đứng trước hành lang nói, “Kiểu này đi không xong rồi.” Ta đáp, “Đây là ông trời muốn bản vương giữ khách lại. Chỉ là chưa kịp chuẩn bị bữa ăn cho ra trò.” Vân Dục cười bảo, “Có rượu là được rồi.”

Khi ấy rượu trong hầm phủ Hoài Vương đều là rượu ngon lâu năm. Không phải trúc diệp thanh Thừa Châu chỉ còn nửa vò hiện tại.

Vân Dục khi đó cũng không phải Vân Dục hiện tại.

Tựa như Liễu Đồng Ỷ ban đầu trong mắt ta, vốn dĩ chỉ là một ảo ảnh hoạ giữa trời không trong đầu ta, không phải là Liễu Đồng Ỷ chân chính.

Vân Dục ban đầu, người duy nhất có thể thường xuyên cùng bản vương trò chuyện tán gẫu cả ngày, Vân Dục thú vị hợp tính, chẳng qua cũng chỉ là ảo ảnh, một bức hoạ người giả vẽ trên giấy mà thôi.

Song, nếu ảo ảnh Liễu Đồng Ỷ là bức hoạ của chính ta, thì hình ảnh Vân Dục hư ảo này là do chính tay Vân Dục thật sự thay ta vẽ nên.

Từ đầu đến cuối, mọi thứ đều là giả, hơn nữa ảnh ảo đã sớm tan biến, tựa như đám mây, không để lại vết tích. Có chăng cũng chỉ là một vệt lưu lại trong lòng ta.

Bởi lẽ Tuỳ Nhã ấy, với Cảnh Thừa Tuấn, không gì có thể sánh bằng.

Vốn dĩ cũng là, người thật nào đó, có gì hơn một bức hoạ đẹp?

Cảnh Thừa Tuấn đã chết ba năm rồi, những lời nhàm tai đó cũng không có ý nghĩa.

Tuỳ Nhã, Tuỳ Nhã.

Ngày ấy trong nhà lao, lần gọi sau cùng ấy, sau lần đó, hai chữ này, ta đã không còn ai để gọi rồi.

Ta tiến lên hai bước, chắp tay, “Xin hỏi các hạ có phải quan phủ đại nhân không? Vừa rồi tối trời không thấy rõ, nhất thời chậm trễ, thất kính thất kính. Không biết đêm mưa đến đây, có chuyện gì cần chỉ bảo?”

39

Vò rượu trong tay Vân Dục chậm chạp để lại xuống bàn.

Ta đợi mãi, hắn không đáp, ta lại nói, “Các hạ, xin hỏi có việc gì, có thể nói thẳng hay không?”

Vân Dục vẫn không đáp, ngọn đèn trong phòng không sáng lắm, thần sắc của hắn có phần không rõ.

Ta cười rồi bảo, “Các hạ không nói gì, làm ta chẳng biết phải thế nào cả.”

Những người đi cùng hắn đứng ở hành lang bên ngoài, lưng thẳng, vẻ mặt sắc bén, vừa nhìn là biết hộ vệ. Ta không chờ được Vân Dục trả lời, nói với ra phía ngoài, “Ngoài trời mưa to, mời chư vị vào trong phòng trước đã.”

Ta xoay người đi tìm ấm nước, “Trong nhà không có nước nóng, không pha trà được, phiền chư vị chờ thêm lát nữa.” Mấy người đó vẫn đứng thẳng bất động như cũ. Ta cầm cái ấm nhìn bọn họ rồi quay sang ngó Vân Dục, lại nói, “Các vị, chúng ta vốn không quen biết, tại hạ chỉ là một thương gia bình thường, các ngươi… không phải đến tìm ta trả thù chứ?”

Ánh mắt Vân Dục nhìn ta bỗng nhiên hơi run rẩy, cũng có thể do gió thổi ngọn đèn chao động, lẽ nào ta vô tình đoán trúng, hắn thật sự mang đội thị vệ đến bắt ta quay về hỏi tội?

Cũng được, thật sự bắt về, cùng lắm lại ngồi thiên lao thêm một bận, mộ phần hoành tráng của Hoài Vương cũng đã xây xong, quan tài để nằm cũng có sẵn rồi.

Ta cầm ấm đến thùng nước khom lưng múc nước, Vân Dục cuối cùng đã chịu mở miệng, nói với thị vệ ngoài hành lang, “Các ngươi về trước đi.”

Ta đứng thẳng lưng quay đầu lại nhìn, đám thị vệ sau khi đáp lời lại, đều rút lui khỏi hành lang, giây lát, đã nghe tiếng nước vỗ, ắt hẳn là chiếc thuyền chở Vân Dục đến rời đi.

Có cần phải đi nhanh gọn lẹ vậy không, khâm sai đại nhân còn ngồi chình ình ở đây.

Ta cầm cái ấm nói với Vân Dục, “Các hạ đã cho tả hữu thối lui hết rồi, hẳn sắp có chuyện quan trọng cần nói, đừng ngại nói thẳng.”

Vân Dục vẫn chỉ ngồi đó, không nói tiếng nào.

Hắn so với trước đây, gầy đi nhiều, tới Thừa Châu trị thuỷ, nhất định đường sá mệt nhọc, thế nên sắc mặt nhợt nhạt, vẻ mặt mỏi mệt. Có lẽ do nguyên cớ mang tâm lý thăm dò đến đây, nên biểu hiện của hắn, không còn thần khí rạng rỡ ngày trước, ngược lại có phần ảm đạm.

Nhìn hắn, trong lòng ta có cảm giác khó diễn tả.

Nhưng hắn đột ngột đến đây thế này, tuyệt đối có mục đích. Vân Dục làm việc, thoạt nhìn tưởng đâu là làm theo hứng, kỳ thực rất chu đáo, không sơ sảy tí nào. Có thể khiến hắn không để ý đến trách nhiệm khâm sai, vừa mới đến Thừa Châu một buổi tối đã ở chỗ này, quan viên địa phương và hộ vệ đi theo không quản cũng không hỏi, ắt hẳn có nhiều nguyên cớ.

Cho hộ vệ đi, là vờ tha để bắt thật?

Một mình ở đây, không nói tiếng nào, có phải đã tính toán sẵn nước cờ cao tay, chờ ta lọt ổ?

Bỏ đi, cho dù hắn thế nào, ta dựa vào Triệu Tài cũng có thể ứng phó cầm chừng.

Hắn không nói gì, ta cũng không hỏi tiếp nữa, đi đến chỗ bếp đồng, đem giá nướng thịt gác qua một bên bàn nhỏ, nói với Vân Dục, “Bằng không mời các hạ qua bên ghế kia ngồi đã, ta phải đốt than nấu nước, sợ muội than làm bẩn y phục của ngươi.”

Vân Dục sau cùng cũng chịu mở miệng đáp lời, “Không cần… cho ta trà.”

Ta lấy ra kẹp gắp than, khách khí cười bảo, “Có khách đến, lẽ nào thiếu trà.”

Vân Dục chỉ ngưng một thoáng, nói tiếp, “Có thể đổi trà thành rượu không?” Ta đáp, “Đương nhiên đổi được, nhưng rượu không phải loại ngon, không tiện thết khách, sợ các hạ uống không quen. Đồ các hạ bị mưa làm ướt, buổi tối gió mạnh, uống trà nóng tốt hơn.”

Có điều, nếu Vân khâm sai nhất định muốn rượu, ta sẽ không chống đối hắn, buông kẹp gắp than, tìm bộ chén đĩa sạch sẽ lấy nước rửa qua, để trên bàn trước mặt hắn, đem bầu rượu đặt vào.

Vân Dục lập tức rót một chén, uống một hơi cạn sạch.

Ta đổi than trong lò, nhen lửa, đem giá nướng thịt để lại trên bếp, bê một cái ghế ngồi cạnh lò. Vân Dục thấy ta cuốn tay áo lên xếp thịt tươi lên vỉ nướng, nắm chén rượu ngẩn người ra.

Ta giải thích, “Ở đây ta thật sự không có gì nhắm rượu, chỉ có vài miếng thịt dê để tiếp đãi, các hạ đừng chê bủn xỉn.”

Lửa trong lò đã cháy vựng, miếng thịt phát ra tiếng xèo xèo, ta lấy đũa trở từng miếng một, lại rắc thêm ít muối bột ớt bột thì là lên mặt thịt, Vân Dục vẫn nắm chặt chén rượu nhìn không chút cục cựa, lát sau, thịt chín tới, ta gắp mấy miếng vào đĩa hắn, thấy hắn vẫn bất động như cũ, bèn bảo, “Đây là cách nấu của dân du mục ngoài đại mạc phương bắc, có thể các hạ chưa từng thấy, không tăng thêm thứ gia vị gì, song thịt dê cũng không nặng mùi lắm. Tệ xá cũng chỉ có mấy món này, mời nếm thử xem có hạp khẩu vị không.”

Vân Dục nhấc đũa, áng chừng muốn gắp thịt sang đĩa bên ta, ta nói, “Không cần khách khí, xin cứ dùng đi, vừa rồi ta mới dùng xong bữa, giờ không ăn nổi nữa, không thể dùng chung đâu.”

Tay cầm đũa của Vân Dục khựng giữa không trung, dừng một lát, thu lại, lúc này mới gắp một miếng thịt lên ăn, lại rót thêm rượu, một hơi uống cạn.

Ta thấy hình như hắn ăn có vẻ rất đau khổ, nhịn không được bèn hỏi, “Vị có hợp không, cần thêm chút muối không?”

Vân Dục lắc đầu, nhưng biểu cảm vẫn có chút gì khổ sở. Thế nên ta thêm gia vị cho miếng thịt, Vân Dục nhìn ta nướng, cuối cùng mới mở lời, “Người đã đến tái ngoại?”

Bắt đầu hỏi hành tung hai năm qua của ta rồi, sau cùng mới chịu vào đề chính.

Ta đáp, “Đi rồi. Phong cảnh tái ngoại rất đẹp, cỏ cây xanh biếc nối liền trời cao.” Dùng đũa gõ gõ vào miếng vỉ sắt, “Món đồ này cũng mang từ tái ngoại về.”

Vân Dục mãi mới cười cười, “Ngươi còn làm ăn buôn bán gì đó.”

Ta cứ báo cáo theo thực tế, “Buôn bán nhỏ thôi, ở đâu có thứ gì thì tới đó bán, lông thú thảo dược các loại đều thử qua. Phải rồi, có phải các hạ đến đây bàn chuyện làm ăn với ta không?”

Vân Dục không trả lời, ta gắp thêm mấy miếng thịt nướng chín lên bàn hắn, “Giờ đã không còn sớm, trời lại mưa to, các hạ có việc gì thì đừng ngại nói thẳng, tránh phải đi tới đi lui cho phiền hà.”

Âm thanh của Vân Dục cũng có vẻ rất suy yếu, “Ta đến chỗ này, không có ý gì khác. Chỉ là… chỉ là muốn đến nhìn.”

Ta vờ ra vẻ nghi hoặc, “Thật khéo nói đùa, các hạ muốn nhìn gì cơ.”

Vân Dục giương mắt lên nhìn ta, ấn thái dương, cười khổ, “Phải, ta ấy vậy mà còn dám đến đây, còn ngồi ở đây, còn ăn ăn uống uống, còn nói cười, quả thật da mặt dày dạn.”

Ta bảo, “Không thể nói vậy, tại hạ chỉ hơi ngạc nhiên thôi. Các hạ dù không cho biết ý định đến đây, nhưng đã vào cửa tức là khách quý. Có điều, đêm khuya thật rồi, người đón các hạ chừng nào mới đến?”

Vân Dục nhìn qua chỗ ta đáp, “Sáng sớm ngày mai.” Nhấc chén rượu lên, “Nếu tối nay ta đã là khách, thì dứt khoát làm phiền tới cùng vậy.”

Hắn dây dưa không chịu đi, rốt cuộc là muốn gì nhỉ. Phần tình cảm năm đó giữa ta và hắn hết thảy đều là giả, hắn nhất định không có gì để nhớ nhung mà đến kiếm ta ôn chuyện.

Có lẽ khâm sai đại nhân công việc bận rộn, đành phải suốt đêm dò xét thực hư chỗ ta.

Vân Dục nốc tù tì chén này đến chén khác, sắc mặt vẫn trắng bệch như cũ, không thấy một chút hồng hào. Ta có phần tiếc thương với hắn, hắn một lòng vì Khải Giả, đem hết tính mệnh ra liều, làm người không thể quá mỏi mệt như vậy, vẫn phải nghĩ cho bản thân một chút.

Thịt dê ăn nóng trong người lại khó tiêu hoá, uống rượu có nhiều cũng vô ích. Ta đem mấy miếng thịt cuối cùng bỏ vào đĩa Vân Dục, dọn vỉ sắt, cời lửa nấu nước.

Chỗ rượu còn lại bị hắn uống hết, Vân Dục nắm chặt cái chén, ngây người ra nhìn ta.

Ta múc nước rửa vỉ sắt, Vân Dục đứng dậy đến bên cạnh bồn nước, dường như muốn giúp đỡ, tay áo còn chưa xắn, vừa nhúng tay vào nước, ta liền lập tức ngăn cản, “Các hạ không cần khách sáo, ta làm là được rồi, sao lại để khách rửa.” Nhưng Vân Dục vẫn đụng vào vỉ sắt, ta đành bảo, “Các hạ chưa từng làm chuyện như vậy, phỏng chừng sẽ rửa không sạch.” Lúc này Vân Dục mới rút tay lại, vẫn đứng bất động bên bồn nước, ta lại mời hắn ngồi xuống, hắn mới quay lại ghế ngồi.

Rửa xong vỉ nướng thịt, đổ nước đi. Ta nhớ đến sáng nay còn hơn nửa nồi cháo trắng, bèn bưng lên bếp hâm lại cho nóng, múc cho Vân Dục một chén, buổi tối hơi lạnh dày đặc, lại ăn mấy đồ kia, cần một chén cháo nóng nhẹ để trấn xuống. Để Vân khâm sai bị bệnh, ta lại có thêm tội.

Nhân lúc Vân Dục bận ăn cháo, ta lấy cái ấm lớn nấu nước tắm, rồi tìm một bộ quần áo sạch sẽ, “Đồ các hạ đã ướt rồi, không tiện mặc qua đêm, tạm thời đổi đồ chút nhé.”

Vân Dục rất phối hợp, ta bảo gì hắn nghe nấy. Chờ nước tắm có rồi, ta bảo hắn tắm rửa trước, hắn liền đi tắm trước. Đợi hắn tắm rửa xong rồi, mớ nồi niêu gáo bồn của ta cũng đã rửa xong.

Vân Dục đổi đồ sạch sẽ bước ra khỏi bình phong, lại ngây ngẩn đứng bất động, vóc người hắn cơ bản xấp xỉ ta, hiện tại đổi sang mặc đồ ta, liền lộ ra vẻ gầy gò đáng sợ, gần giống một cái sào tre phủ quần áo, phần trống rỗng khẽ lay lắt. Hẳn vì thế, mới không tìm thấy sức sống ngày trước.

Ta nói, “Giờ đã không còn sớm nữa, nếu các hạ thật sự không có chuyện quan trọng để nói, mời đi ngủ trước vậy.” Hắn đến tra thực hư, lại không chịu mở miệng hỏi thẳng, cũng không thể cứ trừng mắt nhìn nhau đến hừng đông.

Vân Dục nhìn thoáng qua giường. Ta vốn chỉ có một cái giường, hơn nữa lại không lớn, ta và Vân khâm sai càng không tiện ngủ chung. May mà hai hôm trước Bạch Như Cẩm có tặng cho ta một món vật dụng.

Ta bèn nói với Vân Dục, “Các hạ mời lên giường nghỉ ngơi trước, ta còn chưa tắm rửa.”

Vân Dục hết nhìn ta rồi lại nhìn giường, đi đến chỗ giường ngồi xuống. Ta bưng ấm trà pha sẵn đặt trên bàn cạnh giường, nói cho hắn biết vị trí của dạ hồ và mã dũng (*). Khi ta pha nước tắm xong ngó vào phòng nhìn một cái, Vân Dục đã nằm xuống ngủ, ngoại bào cởi xuống để trên ghế, gấp lại rất ngay ngắn.

(*) chỗ đi tiêu đi tiểu.

Ta tắm rửa xong xuôi, quay lại phòng nhìn, Vân Dục đã nằm an tĩnh trên giường, không biết đã ngủ chưa. Ta không khỏi thở dài, buổi tối dưới ánh đèn có người cùng như thế, trên giường có một người bầu bạn như thế, vốn là điều ta hằng tâm niệm. Đáng tiếc lúc nào cũng chỉ công dã tràng.

Ta đóng kín hết mọi cửa sổ, Vân Dục trên giường trở mình một thoáng, ta ra gian ngoài, kéo cái ghế dài nằm sát tường ra chỗ thoáng đãng, sờ thử, đệm quả lạnh ngắt. Bởi lẽ mưa mấy hôm liền, buổi tối lạnh không giống mùa hè, không thể nằm ngủ trên đệm lạnh được. Ta mở tủ lấy hai cái chăn mỏng ra, một cái làm đệm một cái đắp, phủ lên cái gối lạnh, có thể ngủ qua một đêm ngon lành.

Ta kéo một tấm bình phong chắn giữa gian trong và gian ngoài, tắt đèn, nằm trên chiếc giường lạnh ngắt lạnh ngơ, cả phòng tối thui, xung quanh yên tĩnh.

Không biết qua bao lâu, ta rơi vào giấc ngủ, một đêm không mộng mị.

Sáng sớm hôm sau, lúc ta tỉnh giấc thì Vân Dục đã thức dậy, đổi lại bộ y phục hôm qua hắn mặc, đứng bên cạnh cửa sổ. Trời trong, nắng ban mai chiếu vào, rọi lên người hắn, nháy mắt ta ngỡ là ta đang nằm mơ.

Vân Dục rũ mắt, “Tối qua làm phiền.”

Ta khách sáo đáp, “Các hạ khách khí.”

Đứng đối diện nhau, không tìm ra được gì để nói. Không bao lâu, có thuyền đến trước cửa, vài người đứng trên mũi thuyền, lặng lẽ khom mình hành lễ với Vân Dục.

Ánh mắt Vân Dục tiến vào trong mắt ta, “Ta cáo từ trước.”

Ta bảo, “Các hạ đi thong thả.”

Vân Dục đứng đó, chỉ nhìn ta trong giây lát, xoay người, ta nhìn hắn lên thuyền, thuyền từ từ rời đi.

Không lâu sau khi Vân Dục đi, thuyền Bạch gia đến. Bạch Như Cẩm đứng trên thuyền.

Bạch Như Cẩm vào phòng, mỗi chỗ nghía một chút, hạ giọng với ta, “Lão đệ à, ta vừa đụng phải chiếc thuyền đó đi ra từ chỗ người. Ta đã cho hạ nhân nhà ta chạy đi nghe ngóng rồi. Quả nhiên đúng thật.” Nhìn trái nhìn phải, giọng thấp hơn nữa, “Người tối qua tìm ngươi, địa vị hình như không nhỏ đâu.”

Ta trả lời, “Khâm sai đại nhân Vân Dục.”

Bạch Như Cẩm giật mình một cái, mắt nhìn chòng chọc, “Lão đệ, ngươi đúng là chân nhân không lộ tướng nha, bấy lâu nay có giao tình với Vân thị lang.”

Ta thở dài, “Không phải giao tình đâu, có chút xích mích.”

Bạch Như Cẩm lại giật mình phát nữa, ta nói, “Việc này không tiện giải thích, nhưng sắp tới ta sợ có tí rắc rối, phiền Bạch huynh lập tức đưa ta đi tìm một người.”

Thuyền nhỏ của Bạch gia đi nhanh thoăn thoắt, bảy rẽ tám quẹo các ngả đường, cuối cùng dừng lại trước nhà trọ Vạn Phúc.

Ta vào nhà trọ, hỏi thăm ông chủ rõ ràng xong, tiểu nhị đưa ta đến trước cửa một gian phòng, nhấc tay lên gõ cửa.

Lát sau, cửa phòng mở ra, Liễu Đồng Ỷ đứng bên trong cửa giật mình, ta đi thẳng tọt vào, đóng cửa lại, “Ông chủ Mai, ta có chuyện quan trọng cần giúp đỡ, xin hãy đồng ý.”

Ánh mắt Liễu Đồng Ỷ có chút nghi hoặc, “Ông chủ Triệu mời nói.”

Ta nói, “Ông chủ Mai đến Thừa Châu, có mang theo thuyền riêng không.”

Liễu Đồng Ỷ gật đầu. Ta nói tiếp, “Tại hạ muốn âm thầm rời Thừa Châu, chẳng hay có thể đi nhờ thuyền của ông chủ Mai không?”

Liễu Đồng Ỷ chỉ trầm ngâm một thoáng thì đáp, “Được.”

Tin Vân Dục đến đây, hẳn y đã biết, nhưng không hỏi, cũng không nói nhiều lời.

Ta nói, “Liễu thừa tướng, đa tạ.”

-----

Hoạ Liễu I

Ta ở giữa không trung, ngầm theo dõi tình cảnh bi thương sầu thảm bên dưới, trong lòng tràn ngập chờ mong, có một nhịp kích động.

Ta ở trong thiên lao rất nhiều năm, rốt cuộc đã chờ đến ngày này, cơ hội nhập xác đã ở ngay trước mắt.

Ta là một con quỷ, một oan hồn, đã ở nơi này bao năm, ta cũng lười tính, chẳng còn rõ nữa.

Rất lâu trước đây, ta cũng giống như kẻ đang nằm dưới đất, bị nhốt vào trong phòng giam này. Vô cùng oan uổng, nhất thời nghĩ không thông suốt, lấy đai lưng cột lên xà nhà thắt cổ tự vận, biến thành một con quỷ treo cổ.

Đến khi thành quỷ rồi, ta mới biết, hoá ra truyền thuyết nói thật, địa phủ không chứa chấp quỷ tự sát, nhất là quỷ treo cổ.

Ta đành phải thủ ở đây, đợi con quỷ treo cổ kế tiếp xuất hiện, mới có thể đi đầu thai.

Nhưng mà, khi ta biến thành quỷ rồi, nóc nhà tù đã bị đóng ván gỗ chắc chắn, lấp kín bưng xà nhà, trên tường không có đinh, muốn kiếm một chỗ thòng dây thừng để thắt cổ cũng không có. Quỷ mấy gian tù khác đến rồi lại đi, chỉ có mình ta chịu đựng năm này qua năm khác.

Ta rất oán hận, làm người không xong, thành quỷ cũng không yên, ông trời định cho ta ở trong lao thất này đến vô cùng vô tận hả, ta nghịch thiên cho biết mặt, đã không tìm được quỷ treo cổ thế thân, không được đi đầu thai, vậy thì ta sẽ kiếm một người chết, cướp xác mà đi vậy.

Ta là quỷ tự sát, chỉ có thể nhập xác một người tự sát. Gian nhà tù này vốn chẳng dễ có người vào, khổ sở đợi được vài người, lại chẳng có ý định tự tử gì cả, rất ngoan cường đợi bị giết hoặc thả ra.

Cuối cùng, vô số năm trôi qua, hắn đã đến.

Ta nhìn thấy được, hắn căn bản sẽ không bị giết, có thể còn được nhanh chóng thả ra. Nhưng chuyện hắn gặp phải, muốn nhìn thấy cho rõ ràng, thực sự không dễ.

Đây quả là mục tiêu đã định trước, đưa đến để ta lấy xác.

Ta mỉm cười nhìn hắn nuốt thuốc, nhẫn nại đợi.

Lúc này, trên mặt đất, hắn cứ lải nhải không ngớt, tuyên bố di ngôn, người tên Liễu Đồng Ỷ kia sắc mặt trắng bệch, tuyệt vọng dâng tràn trong mắt.

Người đời là thế đấy, lòng mình nhìn không rõ, cũng không thấy được tâm ý người khác.

Trông cái người tên Liễu Đồng Ỷ đấy, rõ ràng là thích hắn, đáng tiếc hắn có mắt như mù, chỉ cố lo rên rỉ.

Ta nhìn sắc mặt của Liễu Đồng Ỷ, bỗng nhiên hơi ao ước, trước đây giá có một người chịu nhìn ta như thế, ta chết cũng đáng. Sai rồi, là đánh chết ta cũng không tự sát.

Ta từ từ hạ xuống.

Hắn cố phun nốt mấy chữ nhẹ bâng hấp hối cuối cùng, “Nhiên… Nhiên Tư…” Tay nắm lấy ống tay áo xanh ngọc của Liễu Đồng Ỷ dần buông lỏng, ta đang định hạ xuống nhắm vào, đột nhiên hắn thở ra một hơi, lại nắm lấy tay áo Liễu Đồng Ỷ, nói một câu hết sức trọn vẹn.

“Người như ta, chôn không tốt lắm… còn khiến người ta khó xử… tốt nhất nên đốt… đem tro cốt kiếm đại một ngọn núi một con sông mà rải… cái gì cũng sạch sẽ.”

Có… lộn hay không vậy.

Vậy mà là di ngôn thiêu xác, ngay cả chết cũng không cho người ta hưởng lợi, hơi bị bủn xỉn quá đó.

Ngớ ngẩn, đã chết rồi, còn đến phiên ngươi làm chủ sao?

Mắt thấy hai tay hắn buông xuống, cổ ngoẹo một cái, đầu trượt đi tựa vào vai Liễu Đồng Ỷ, ta chậm rãi hạ xuống.

Thân thể thuận lợi đổi chủ.

Bốn bề yên lặng, ta tựa vào một cơ thể cứng vô cùng, hình như cũng biến thành xác chết rồi. Ta nắm lấy một góc vải trơn lạnh, hé nửa mắt, “Nhiên Tư.”

Liễu Đồng Ỷ một thoáng run rẩy mạnh, ta dựa sát vào cạnh mặt y, nén âm thanh thấp tối đa, “Nhiên Tư, mới nãy ta diễn kịch thôi, bây giờ ta giả chết, ta xin người giúp ta một lần, ta muốn bỏ chạy.”

Thân thể Liễu Đồng Ỷ lại cứng đờ.

Bên cạnh vang lên tiếng bước chân gấp gáp, kèm theo âm thanh ầm ĩ huyên náo. Ta nhắm mắt lại, tựa đầu vào vai Liễu Đồng Ỷ.

Ta cảm thấy Liễu Đồng Ỷ từ tốn chậm chạp buông ta ra, đứng lên.

Giây lát sau, giọng nói của y không hề có chút tình cảm, bình thản nói, “Hoài Vương điện hạ uống thuốc độc tự sát.”

Lúc này, ta chợt nhận ra một việc.

Trong nhà tù, không có mùi của con quỷ nào cả. Hồn phách của Cảnh Vệ Ấp đi đâu rồi?

Một góc nào đấy trong cơ thể, có cái gì đó mơ hồ chuyển động, sau đó chìm trong im lìm. Phảng phất như một tiếng sét bổ trúng đầu ta.

Là… hồn phách Cảnh Vệ Ấp.

Hắn không chết. Hắn thế mà không chết. Hắn thế mà té ra giả chết.

Ta thế mà nhập vào thân thể một người sống.

Đây…

Là định mệnh sao?

Một tay, ấn lên cổ của ta, cũng của Cảnh Vệ Ấp, rồi sau đó chuyển sang mí mắt của ta và hắn, giữ lấy mạch chung của ta và hắn, sờ soạng lồng ngực của bọn ta.

“Khởi bẩm hoàng thượng, Hoài Vương điện hạ đã hoăng.”

Sau đó là một âm thanh vang rền, mang theo phẫn nộ.

“Khám nghiệm một lần nữa cho trẫm! Hoài Vương nhất quyết không có khả năng tự sát! Y chắc chắn giả chết!”

Hoàng đế triều đại này tuy còn trẻ, nhưng cũng là một vị minh quân, lời nói rất có uy.

Thế là lại rà soát thêm lần nữa, lại có âm thanh dập đầu rầm rập.

“Hoàng thượng… Hoài Vương điện hạ… thực sự đã hoăng…”

“Hoăng?” Hoàng đế cười lạnh lẽo, “Trẫm băng hà y cũng không hoăng!”

Tiếng bước chân di chuyển đến cạnh ta, dừng lại, “Hoàng thúc, trẫm biết người đang giả chết, người đứng dậy, trẫm sẽ tha người vô tội.”

Hắn đang mê man, nội trong một hai ngày sẽ không tỉnh. Ta thì có thể đứng lên, nhưng ta chỉ muốn biết, làm sao có thể thoát khỏi thân thể này. 

Hoạ Liễu II

Trong lúc tứ phía lặng thinh, ta nghe Liễu Đồng Ỷ nói, “Hoàng thượng, ngự y đã khám nghiệm xong rồi, Hoài Vương điện hạ đích thực đã tự sát vong thân.”

Âm thanh hoàng đế vẫn hàm chứa ý cười nhạt, “Liễu khanh căn cứ vào đâu mà quả quyết thế? Hoàng thúc xưa nay xảo quyệt, trẫm không tin hắn cam tâm chịu chết, giả chết vượt ngục mới là chuyện người như hắn nên làm.”

Ta không nén được suy nghĩ, tên Cảnh Vệ Ấp này lúc sinh tiền đã tráo trở đến độ nào, ngay cả tự sát cũng không ai tin.

Hắn đúng là giả chết, nhưng nghe hoàng đế nói xong, ta cũng thấy lạnh lòng thay cho hắn.

Ngữ điệu Liễu Đồng Ỷ vẫn bình thản như cũ, “Hoàng thượng, Hoài Vương điện hạ trước khi chết, có để lại di ngôn cho thần, y tự thấy tội lỗi sâu nặng, không muốn nhập táng, muốn thần thay mặt thỉnh cầu hoàng thượng, mang thi cốt đi hoả táng, ngoài ruộng ngoài đồng, trên núi dưới sông, muốn rải đâu cũng được.”

Trong lao lại tĩnh lặng.

Lát sau, hoàng đế nói, “Những lời của hoàng thúc, Liễu khanh nghĩ thế nào?”

Liễu Đồng Ỷ đáp, “Thần nghĩ, có lẽ Hoài Vương điện hạ biết hoàng thượng tất nhiên nghi ngờ y nguỵ trang tự sát, nên mới nói để hoàng thượng yên tâm.”

Hoàng đế nói, “Nghe Liễu khanh bảo, hoàng thúc đúng là hiểu trẫm, quan tâm trẫm nhỉ.”

Liễu Đồng Ỷ trả lời, “Hoài Vương điện hạ dù sao cũng là chú ruột của hoàng thượng.”

Hoàng đế thong thả đi vòng quanh ta mấy bước, “Liễu khanh, ngôn từ ngươi hiện giờ, hơi khác ngày thường đấy.”

Giọng Liễu Đồng Ỷ thoáng uể oải, “Xin hoàng thượng thứ tội, lúc này thần không biết nên làm sao mới phải. Thần xin cáo lui trước, mong hoàng thượng cho phép.”

Trong lao chỉ yên lặng chốc lát. Hoàng đế chuẩn cho Liễu Đồng Ỷ lui ra.

Đợi tiếng bước chân Liễu Đồng Ỷ ra tới cửa lao, hoàng đế bỗng nhiên lại nói, “Liễu khanh.”

“Có phải Liễu khanh ngươi cũng như trẫm, nghĩ hoàng thúc không thực sự chết.”

Liễu Đồng Ỷ không trả lời.

Hoàng đế nói tiếp, “Phải rồi, Liễu khanh vừa mới nói di ngôn của hoàng thúc cho trẫm, có ý phản bác trách cứ, Liễu khanh nghĩ, hoàng thúc đã chết.”

Liễu Đồng Ỷ bình tĩnh đáp, “Thần không dám.”

Hoàng đế nói, “Trẫm đối với Cảnh Vệ Ấp, đã là chí tình chí nghĩa, y mưu đồ bí mật tạo phản, trẫm đã hứa tha chết cho y, còn cho Vân Dục đưa ra hai con đường để y chọn. Trẫm đối với y, còn gì phải nói nữa?”

Liễu Đồng Ỷ trả lời, “Thần chỉ là nghĩ, còn chưa điều tra rõ chứng cứ, hoàng thượng đã cho Vân đại phu đưa ra kết luận với Hoài Vương điện hạ, có phần vội vã. Khi đó thần đã can ngăn, song hoàng thượng không chấp nhận.”

Âm lượng hoàng đế bỗng hơi đẩy lên cao, “Còn cần tra sao? Mấy năm nay Cảnh Vệ Ấp tự tung tự tác, là trẫm mưu hại y, là Vân Dục mưu hại y, hay là Tông Vương mưu hại y? Y đã nhận tội tất thảy, mà còn là nhận tội với Liễu khanh ngươi đấy thôi!”

Liễu Đồng Ỷ đáp lời, “Thần cho rằng, dù Hoài Vương nhận tội, cũng cần điều tra rõ ràng chứng cứ phạm tội thích đáng, mới đưa ra phán quyết cuối cùng.”

Hoàng đế nói, “Liễu khanh quả nhiên có tác phong cẩn thẩn tỉ mỉ của Đại Lý Tự, thế thì ngươi nói cho trẫm biết, dựa vào hình pháp luật lệ, tội của Cảnh Vệ Ấp, nên xử thế nào đây? Trẫm tha mạng cho y có phải là vì tình riêng trái với pháp luật không?”

Liễu Đồng Ỷ đáp, “Thế nên, thần nghĩ, Hoài Vương điện hạ tự sát, có lẽ là con đường tốt nhất. Mong hoàng thượng rộng lòng khoan dung, thần xin cáo lui trước.”

Bước chân Liễu Đồng Ỷ không nhanh không chậm đi xa dần, trong lao lần này rất yên tĩnh.

Ta quả nhiên không nhìn lầm người, Liễu Đồng Ỷ rõ lợi hại. Gặp một bức tường như thế, hoàng đế tạm thời sẽ không nghi ngờ cái chết của Cảnh Vệ Ấp, ta càng dễ dàng thoát thân.

Rất lâu sau, mới có một vị quan không sợ chết xin hoàng đế chỉ thị, nên xử trí thi thể Hoài Vương thế nào.

Hoàng đế liền sai người tạm thời mang thi thể đến ‘chỗ đó’.

Ta cảm thấy bên dưới lót tấm chiếu, trên người phủ miếng vải bố, bị người ta nhấc đầu nhấc chân đưa lên cáng.

Nhiều năm về trước, ta từng ở giữa không trung nhìn người khác cáng thi thể của mình ra ngoài như vậy.

Khi đó ta đỡ hơn Cảnh Vệ Ấp một tẹo, chí ít bên dưới lót đệm mềm, có thể vì lúc ấy là cuối thu, còn giờ là mùa hạ, thời tiết khác biệt.

Chỉ là khi đó ta chỉ có thể trơ mắt nhìn thi thể bị đưa ra ngoài, hồn phách không thể thoát khỏi cửa lao.

Lần này trong cơ thể Cảnh Vệ Ấp, ta nhẹ nhàng được người khác đưa ra ngoài, rốt cuộc đã thoát khỏi chốn lao tù.

‘Chỗ đó’ theo lời hoàng đế cách thiên lao khá xa, ta trong thân thể Cảnh Vệ Ấp đưa ra khỏi cửa, đặt lên xe, xe chạy hồi lâu, xuống xe, qua thêm vài lớp cửa, sau đó mới bình yên đáp đất.

Có giọng hoạn quan bảo, “Hoài Vương trong thiên lao sợ tội tự sát, hoàng thượng khai ân, chuẩn cho đưa thi thể hồi phủ để tạm, ngày mai sau khi tẩy thi thay y phục xong, đưa vào Phổ Phương Tự hoả táng.”

Ờ, hoá ra là chuyển về vương phủ của Cảnh Vệ Ấp.

Cảnh Vệ Ấp mưu phản không thành, sợ tội tự sát. Người trong phủ hắn sợ đã chạy biến hết rồi. Chỉ còn lác đác mấy người, cũng không dám hiên ngang khóc lóc, chỉ dám len lén khóc thút thít vài tiếng bên cạnh thi thể.

Duy chỉ có một hán tử can đảm hơn hẳn, đập đầu rầm rầm mấy cái, còn đổ một chén rượu, khóc ròng nói, “Vương gia, Hàn Tứ không hiểu ngài đã phạm tội gì, Hàn Tứ chỉ biết ngài là một chủ nhân tốt, ngài đối xử tiểu nhân rất tốt, Hàn Tứ vĩnh viễn tạc dạ. Chỉ cần tiểu nhân còn sống một ngày, sẽ cung phụng bài vị của vương gia một ngày, vĩnh viễn không quên ân tình của lão vương gia lão vương phi và vương gia đối với tiểu nhân.”

Trong thế gian bạc bẽo, có một tôi tớ trung thành thế này, thực sự rất hiếm có.

Hắn khóc xong, thì bị thị vệ đuổi ra ngoài.

Hoàng thượng có thể vẫn còn nghi ngờ cái chết của Cảnh Vệ Ấp, phái mấy thị vệ và một hoạn quan trông coi thi thể.

Bọn thị vệ còn mang đến một cái chậu than, ở bên cạnh đốt hương vàng mã, lầm rầm nói, “Hoài Vương điện hạ, ngài là người có hùng tâm tráng chí, đáng tiếc không có mệnh thành nên nghiệp lớn, bọn tiểu nhân đây chỉ là vô danh tiểu tốt, ngài an tâm ra đi, đừng lưu luyến thế gian…”

Ta thích mùi nhang đèn, ngửi xong tinh thần càng thêm phấn chấn, đáng tiếc lúc nhập xác không được lộn xộn, có hơi bực bội.

Ta cố ý làm chút phép nho nhỏ, một cơn gió lạnh nổi lên, bọn hoạn quan và thị vệ sợ đến mức vừa bỏ chạy vừa dập đầu không ngừng, tiếc là ta không thể ngang nhiên mở mắt ra nhìn, nhưng nghe mấy tiếng động này cũng hưng phấn phết, trong lúc buồn chán nằm ngay đơ có quyền giở trò trêu trọc một tẹo ấy mà. 

Hoạn quan với đám thị vệ vẫn còn đang hàm trên đánh bò cạp với hàm dưới thì ta nghe tiếng bước chân như gần như xa, sau đó là âm thanh trong trẻo rõ ràng của Liễu Đồng Ỷ, “Có chuyện gì mà sợ vậy?”

Hoạn quan và bọn thị vệ run giọng đáp, “Liễu ~ Liễu thừa tướng ~ ngài đến thật đúng lúc ~~~ Hoài Vương điện hạ y ~~ y ~~ chết không nhắm mắt, đột nhiên ~~ gió lạnh… bay hết tiền giấy…”

Liễu Đồng Ỷ nói, “Cửa phòng mở hướng nam, gió lùa vào phòng, không có gì lạ.”

Răng của hoạn quan và bọn thị vệ vẫn va lập cập.

Liễu Đồng Ỷ lại nói, “Bổn tướng chợt thấy cái chết của Hoài Vương điện hạ có điểm đáng ngờ, nên đến đây kiểm nghiệm, các ngươi có thể ở bên cạnh bổn tướng giám sát.”

Hoạn quan và thị vệ lập tức nói, Liễu thừa tướng thấy nghi, kiểm chứng là đúng, nhưng Hoài Vương điện hạ dẫu sao cũng là vương gia, lúc kiểm chứng, bọn họ không tiện ở đây, ra ngoài cửa gác cổng mới thoả đáng. Rồi nhao nhao chuồn mất.

Lát sau, ta nghe tiếng cửa đóng lại, chỉ có tiếng bước chân Liễu Đồng Ỷ tiến đến gần, trong sảnh chỉ còn lại mình y.

Ta mở mắt ra, ngồi dậy.

Liễu Đồng Ỷ thoạt tiên lấy làm kinh hãi, rồi lập tức bình tĩnh.

Y đã đổi quan phục, màu mặc lam trang nghiêm, mười phần quan cách, không bằng bộ y phục ở nhà, có chút ý vị nhân tình hơn.

Ta kéo tay áo của y, thâm tình chân thành nhỏ giọng nói, “Nhiên Tư, đa tạ.”

Y tỏ thái độ đoan chính, hạ giọng nói, “Không cần, ta chỉ muốn biết vương gia rốt cuộc định làm gì, cũng muốn biết ngọn nguồn sự tình. Trước khi Tông Vương hôn mê có nói trong chuyện nhận tội của vương gia có nội tình. Ta không muốn khoan nhượng, càng không muốn oan uổng…”

Ta có hơi buồn cười, những lời này y nói cho Cảnh Vệ Ấp nghe, hay nói cho chính mình?

Y không thể chứng minh oan khiên của Cảnh Vệ Ấp, nhưng lại giúp người này khi quân giả chết, việc thế này mà là hành động của một thần tử quy củ sao?

Rõ ràng không phải chính trực, lại muốn tỏ ra chính trực, tội gì tội gì.

Màn trao di ngôn cay đắng khốn khổ trước lúc lâm chung của Cảnh Vệ Ấp đã giáng cho y kích thích không nhỏ, cho nên vừa rồi mới thuận lợi được y đồng ý hỗ trợ, vì vậy giờ này khắc này, nghìn vạn lần không thể để y tỉnh táo lại, vạn nhất sự chính trực giả dối của y chiếm thượng phong, ta chưa chiếm được thân thể của Cảnh Vệ Ấp, còn phải cùng hắn một đường làm quỷ pháp trường, chẳng phải uất ức sao.

Thế nên ta thâm tình đưa mắt nhìn y, thâm tình nắm lấy tay áo y, thâm tình nhẹ giọng nói, “Nhiên Tư, ta đem mạng mình giao cho ngươi, ta sống hay chết, đều do ngươi quyết định, ta sẽ không hối hận.”

Trong sảnh yên tĩnh, ta và y nhìn nhau.

Không đợi Liễu Đồng Ỷ kịp mở miệng, ta đã nhắm ngay môi y, dữ dội hôn tới.

(oà ~ first kisssss, nhưng sao là chú mà không phải chú?? =v=’’)

Cả người Liễu Đồng Ỷ cứng lại một chút, không chống cự, còn rất thuận theo. Hồi lâu sau, ta buông y ra, ánh mắt y trong suốt, song ta không nhìn thấu.

Y nhẹ giọng bảo, “Tim vương gia không đập, ngự y bắt cũng không có mạch. Dù ngủ hay tỉnh, cũng không có sơ hở, tại sao?”

Ta ôn nhu nói, “Ra ngoài rồi nói cho ngươi biết.”

Liễu Đồng Ỷ hỏi, “Vương gia định chạy khỏi vương phủ?”

Ta đáp, “Làm sao thế được.” Hoàng đế để Cảnh Vệ Ấp nằm kềnh ở vương phủ, rõ ràng là muốn thử. Thế nên ở trong vương phủ, nhất định không được cục cựa, phải làm như thật.

Ta nói, “Phổ Phương Tự.”

Liễu Đồng Ỷ không nói gì thêm. Giờ cũng không tiện nói gì nhiều nữa, ta đang muốn nằm trở lại giả làm thi thể, Liễu Đồng Ỷ thản nhiên bảo, “Vân đại phu sẽ đến xem vương gia.”

Vân đại phu? Là ai cơ?

Ta thoáng suy nghĩ, mới nhớ đó là người đã đưa ra hai con đường cho Cảnh Vệ Ấp chọn.

Người tên Vân Dục ấy, phút cuối cùng Cảnh Vệ Ấp còn gọi hắn là Tuỳ Nhã.

Người này với Cảnh Vệ Ấp, ý nghĩa rất khác. Ta chỉ hơi suy nghĩ về tên hắn trong bụng thôi, hồn phách Cảnh Vệ Ấp đang say ngủ trong góc nào đó liền có chút động tĩnh.

Ta chợp mắt nằm xuống.

Liễu Đồng Ỷ, Vân Dục, thú vị thú vị. 

Hoạ Liễu III

Liễu Đồng Ỷ đi rồi, ta chán muốn chết, ngủ trong thân thể Cảnh Vệ Ấp, đang mơ mơ màng màng, nghe có người hô một tiếng Vân đại phu.

Ta lắng tai nghe kỹ, tiếng bước chân từ xa đến gần, không nhanh mà cũng không chậm, nghe như tiếng giày vải, không phải ủng quan.

Tiếng động gần hơn chậm hơn, cuối cùng đến bên người ta.

Một giây ngưng nghỉ, tấm vải bố phủ lên người Cảnh Vệ Ấp bị xốc mạnh lên.

Sau đó, im hơi lặng tiếng, người này đứng bên cạnh, nhưng không hề có tiếng động, thậm chí cả tiếng thở ra cũng không nghe thấy, ta quả thực sắp cho rằng vị Vân đại phu này giống ta, cũng là quỷ.

Chí ít Cảnh Vệ Ấp lúc sinh tiền, cũng có tý gì đó với hắn, hiện tại thi thể đã nằm ngang, chưa bàn là thật hay giả, cũng phải thở dài đôi tiếng, nói một vài câu chứ.

Tiếc rằng vị Vân đại phu này vẫn bất động như núi, phụ sự chờ đợi khổ sở của ta.

Không biết qua bao lâu, lại có tiếng bước chân mạnh mẽ tiến vào.

Sau đó, ta nghe tiếng nói, “A Dục.”

Vân đại phu đứng một bên rốt cuộc đã có động tĩnh, “Tham kiến hoàng thượng.”

Hoàng đế tiến lại gần, “A Dục, trẫm nghe nói trong người ngươi không khoẻ, hà tất phải đến.”

Vân đại phu không đáp lời. Hoàng đế nói, “Ngươi không cần nhìn nữa, đích thực là y, thái y và Liễu Đồng Ỷ đã kiểm nghiệm rồi.”

Vân đại phu vẫn im thin thít như cũ, hoàng đế nói tiếp, “Lúc y chết, cố tình gọi Liễu Đồng Ỷ ở cạnh bên. Cố ý để Liễu Đồng Ỷ nói với trẫm, để trẫm thiêu y, đem tro muốn rải đâu thì rải. Ta nghĩ hiện tại nếu y đã xuống tới âm tào địa phủ, nhất định hận trẫm thấu xương. Không biết có hận ngươi không.”

Vân đại phu đã chịu mở miệng, ngữ khí vô cùng bình thường, “Hôm qua y nói với thần, chừng nào rảnh rỗi thì trò chuyện, khi đó thần chỉ lừa y, nên bèn đồng ý, không ngờ y lại lừa thần.”

Hắn lấy miếng vải phủ lại lên mặt Cảnh Vệ Ấp, thấp giọng nói, “Không ngờ ngài lại giữ sự thật lại cho riêng mình.”

Hắn xoay người bỏ đi, “Hoàng thượng, chừng nào tẩy thi?”

Hoàng đế nói, “Nửa canh giờ sau.”

Vân Dục nói, “Thần đợi tẩy thi xong thì đến.”

Quá trình tẩy thi, rối nùi rối cục.

Gọi là tẩy thi, là bị mấy tên hoạn quan nâng đầu nâng chân, bỏ vào trong một cái bồn nước lớn.

Ở giữa có một đống đạo sĩ hoà thượng ni cô cùng nhau niệm chú, rung chuông đánh khánh, văn tiêu nghiệp, kinh trừ chướng, ong ong không dứt. Phật gia Đạo gia lộn xộn một chỗ, không biết có phải triệt tiêu trung hoà nhau không, mà chẳng tác dụng gì với ta cả.

Đợi niệm kinh cũng hòm hòm rồi, lại vớt ra khỏi bồn nước, lột y phục ẩm ướt ra, lau người, coi như đã tiêu nghiệp chướng xong, kinh văn đang đọc cũng chuyển từ văn tiêu nghiệp sang chú vãng sinh, chỉ là ngay cả một tiếng khóc mướn cũng không có.

Tiếp theo nhẽ ra là thay y phục, nhưng vừa mặc vào được một cái khố, đột nhiên có tiếng hoàng đế nói, “Trẫm đến giúp Hoài Vương thay y phục.” 

Trong sảnh bỗng lặng như tờ, ngay cả tiếng rung chuông niệm kinh cũng dừng lại, hoàng đế nói, “Hoài Vương vô tự, việc thay y phục đáng lý nên để vai cháu làm. Dù sao y cũng là hoàng thúc của trẫm, muốn soán hoàng vị của trẫm không thành, nay đã vong thân, để trẫm thay y phục cho y, cũng là để y thấy được an ủi.”

Chưa dứt lời, tiếng quỳ xuống dập đầu đã đồng loạt vang lên, hết thảy đều khuyên can rằng trăm triệu lần không được, Hoài Vương dù thế nào cũng là thân mang tội, không nhận nổi chuyện này đâu, cho dù hoàng thượng nhân từ rộng lượng khoáng cổ thước kim, nhưng nếu làm vậy, sợ rằng Hoài Vương ở nơi âm tào địa phủ vĩnh viễn không được đầu thai.

Ta nghe chỉ cười thầm, hoàng đế chẳng qua muốn làm cho ra vẻ thôi, mấy tên thần tử này chỉ sợ trong lòng cũng biết rành sáu câu vọng cổ, còn muốn tỏ ra kinh sợ khuyên can, giả mù sa mưa thi nhau diễn trò, thật là phiền phức hết sức nói. Cái gọi là đế vương thuật, đạo vi thần mà nói, chẳng qua chỉ là so xem ai có trình diễn xuất cao hơn. 

Đại thần đã khuyên vậy rồi, hoàng đế vẫn kiên trì, thậm chí đã cầm lấy tay Cảnh Vệ Ấp, nhanh chóng nhét cánh tay vào trong tay áo, có người nhào đến can ngăn. Tới nước này rồi, Liễu Đồng Ỷ cũng vừa vặn xen vào, “Hoài Vương dù sao cũng là thân mang tội, hơn nữa hoàng thượng là quân, Hoài Vương là thần, hoàng thượng vì Hoài Vương thay áo, đích xác không thích hợp. Hãy để các vị vương gia làm thay.”

Y vừa dứt lời, lập tức có mấy tiếng nhao nhao chủ động xin xỏ, hết thảy đều rất trẻ, đám cháu của Cảnh Vệ Ấp chẳng ngờ lại đông thế.

Có người trực tiếp đến gần quỳ xuống nói, “Cầu hoàng thượng ân chuẩn cho thần đệ làm, vì hoàng thúc thay y phục.” Âm thanh mang theo nghẹn ngào, nghe cũng có ít gì đó thành khẩn.

Hoàng đế rốt cuộc cũng ưng thuận, “Cũng được, để Đại Vương thay đi.”

Đại Vương giúp Cảnh Vệ Ấp thay nội bào ngoại sam, tiếng hít thở của cậu ta dần nặng nề, tựa hồ như tiếng thút thít.

Bên cạnh có hoạn quan khuyên nhủ, “Đại Vương điện hạ xin hãy nén bi thương chấp nhận biến cố, Hoài Vương điện hạ dù phạm tội ác tày trời, nhưng đã được độ hoá, hồn về địa phủ. Đợi sau khi toàn bộ tội nghiệt tiêu trừ, kiếp sau có thể đầu thai làm người.”

Đại Vương nức nở, “Hoàng thúc… chú… chú đi bình yên nhé… mấy ngày nữa cháu sẽ đến phủ Hà Nam… không thể thường xuyên đến thăm chú… cháu đốt thật nhiều tiền giấy cho chú… chú ở dưới đó… sống thật tốt… thiếu cái gì… thì báo mộng cho cháu…”

Vài giọt nước mắt rơi tí tách lên mặt Cảnh Vệ Ấp, sau khi Cảnh Vệ Ấp chết, cuối cùng cũng có một người khóc cho hắn, dù làm quỷ, cũng không oan uổng quá, chả bù với ta, bao nhiêu năm rồi, mà chẳng nhận được một tờ tiền giấy nào.

Sau khi Đại Vương thay ngoại bào rồi, trước khi lui ra, còn nhét vào miệng Cảnh Vệ Ấp thứ gì đó, ta cảm giác là một miếng ngọc, một luồng âm khí tràn ra, tức khắc âm khí của ta bỗng trở nên dày đặc vô cùng. 

Đợi đến khi thay hài vớ, buộc lại phát quan xong, thì được nâng trở lại đài cao, vải bố dưới thân thay bằng tơ lụa, dưới đầu chêm thêm một cái gối, xác nhận là gối ngọc.

Tiếng niệm kinh trong sảnh lại nhất tề vang lên, có một giọng nữ nói, “Hoài Vương điện hạ, cầu ngài tiêu trừ nghiệp chướng, nếu lại vào luân hồi, kiếp sau sẽ làm người lương thiện. Bần ni cùng ngài kiếp này có một đoạn nghiệp duyên, không ai nợ ai. Từ hôm nay bần ni sẽ vì ngài mà kính dâng minh đăng trước Phật tổ, hàng đêm tụng kinh, cầu cho ngài sớm thoát khỏi luân hồi, vãng sinh chốn cực lạc.”

Ta vốn tưởng rằng Cảnh Vệ Ấp là một gã đoạn tụ, không ngờ hắn với ni cô còn có một chân, ta thật đánh giá thấp hắn rồi.

(=)))

Cô này cầu nguyện xong, tiếng tụng kinh của một đám ni cô lại trỗi lên.

Trong tiếng ồn ào, ta nghe tiếng Liễu Đồng Ỷ nói, “Hoàng thượng, thần hơi mệt, muốn cáo lui trước, xin ân chuẩn.”

Hoàng đế phán một chữ ‘chuẩn’, Liễu Đồng Ỷ tạ ân lui ra, trước khi đi còn nói, “Vân đại phu có muốn cáo lui cùng bổn tướng không?”

Tiếng Vân Dục cực kỳ bĩnh tĩnh, “Tôi xem xong rồi đi, đa tạ Liễu thừa tướng.”

Nghi thức tẩy thi ồn ào thật lâu, vất vả lắm mới xong. Ngay cả ta nghe cũng thấy oải, đang buồn ngủ thì bị phủ vải bố, khuân lên một chiếc xe, đưa đến một ngôi chùa tên là Phổ Phương Tự.

Trong chùa vô cùng yên tĩnh, ta trong cơ thể Cảnh Vệ Ấp được đưa vào một đại điện. Chẳng bao lâu sau, ta đang nhấm nháp âm khí của miếng ngọc trong miệng dưỡng tinh thần, tiếng xì xào nhỏ to của bọn thị vệ bên cạnh đột nhiên nín bặt, cánh cửa khép lại, tiếng then cài lạch cạch, có người rón ra rón rén ẩn đến bên cạnh, bóp bóp mũi Cảnh Vệ Ấp, gọi nhỏ bên tai, “Vương gia… vương gia…”

Ta không nhúc nhích.

Cổ tay bị nắm lấy, đè lên. Lại có tiếng nói nén xuống cực thấp, “Quái lạ, sao không có mạch?”

Tiếng gọi vương gia lại thì thào, “Theo lý thuyết, giờ này vương gia nên tỉnh rồi, lẽ nào thuốc phối không tốt?”

Ta cảm nhận hơi thở bên trong Cảnh Vệ Ấp, phát hiện ra hắn còn đang mê man, không chừng do ta hấp thụ âm khí của miếng ngọc, có thể áp chế được hắn, không thể động đậy.

Chính vào lúc này, có một thứ gì đó cắm vào trong lỗ mũi, phun ra một búng khói, ta nhất thời sơ sẩy, nhịn không được ắt xì một cái.

Liền có tiếng thở phào, “Tạ ơn trời đất, tỉnh rồi.”

Đến nước này rồi, ta đành mở mắt ra, trời đã tối, trong phòng rất u ám, ta chỉ mơ hồ thấy bóng hai người đang bịt mặt bên cạnh.

“Vương gia, thuộc hạ đến chậm, may mà ngài không sao.”

Hậu sự của Cảnh Vệ Ấp quả là chuẩn bị chu đáo, nghe cách nói của hai người kia hẳn là tôi tớ trong phủ hắn, cách giải cứu đã an bài đâu ra đó, giờ nhỏ to bàn luận một phen làm sao chạy trốn, sáng sớm ngày mai, còn một lần khám nghiệm tử thi nữa, sau đó là hoả táng, tráo thi thể đã chuẩn bị sẵn, định ở chỗ này đổi trắng thay đen.

Trong đó có một người tên Trương Tiêu nói, “Chỉ là, chỗ Tây Nam, đã bị người của hoàng thượng tra xét, ra khỏi đây rồi, nên đi đâu bây giờ?”

Ta giả vờ trầm ngâm nói, “Tự sẽ có chỗ, ngày mai bàn tiếp.”

Hai người đó không dám nán lại lâu, chốc lát sau thì đi ngay, trước khi đi còn để lại một viên thuốc, Cảnh Vệ Ấp dùng để giả làm thi thể.

Ta uống thuốc vào, hồn phách Cảnh Vệ Ấp càng trầm hơn, ta nằm trên đài cao, chờ đợi khách viếng thăm.

Quả nhiên, Liễu Đồng Ỷ lại đến, nghe tiếng động thì còn dẫn theo quá chừng hộ vệ, đầu tiên là hỏi thị vệ hoạn quan gác đêm ở đây có dị trạng gì không.

Thị vệ trông coi trả lời, “Không có dị trạng gì, chỉ là không hiểu vì sao, chúng tiểu nhân đều ngủ một thoáng quái lạ.”

Lập tức có người lạnh lùng nói, “Lớn mật! Hoàng thượng lệnh các ngươi trông coi thi thể chặt chẽ, tuyệt không cho phép sơ suất! Dám kháng chỉ lười biếng, có biết phạm tội gì không!”

Đám thị vệ hoạn quan trông coi liền dập đầu thỉnh tội.

Ngay lúc ấy, ta nghe Liễu Đồng Ỷ nói, “Hà đại nhân, đã vậy thì, chúng ta hãy tái nghiệm thi thể thật thoả đáng.”

Vị Hà đại nhân kia lập tức nói ‘phải lắm’, sải bước đi tới, giật tấm vải ra.

Ta liền sử dụng một chút phép thuật, thổi gió lạnh, cửa vào và cửa sổ lắc lư kẽo kẹt, tấm màn thì bay phần phật.

Trong sảnh lặng như tờ, ngay cả vị Hà đại nhân kia cũng không thấy rục rịch gì.

Có một tiểu hoạn quan răng đánh lập cập nói, “Đến ~ đến ~ đến nữa rồi ~~ Hoài Vương điện hạ ~~~ oán khí khó bình ~~ đi ra quấy phá ~~”

Chân Hà đại nhân thụt lùi mấy bước, nhưng miệng mồm thì vẫn đủ mười phần trung khí, “Nói vô căn cứ! Tội đồ mưu nghịch tự sát làm sao quấy phá được!” Còn hung tợn phun một câu, “Tự hắn muốn thiêu cũng coi như hiểu chuyện, thiêu càng sớm càng tốt!”

Liễu Đồng Ỷ nhẹ nhàng nói, “Hà đại nhân, có lẽ Hoài Vương điện hạ cho rằng trước mặt đông người, thi thể bị khám nghiệm là mất thể diện. Nhưng không nghiệm e là không làm tròn bổn phận, hay là để người khác lui ra, chỉ để Hà đại nhân và bổn tướng cùng nhau khám nghiệm, thế nào?”

Ta lại tăng thêm mấy phần lực đạo, gió lạnh thổi càng mạnh, chân Hà đại nhân lại thối lui thêm mấy bước, “Hạ quan và những người khác ra ngoài tuần tra trong chùa có gì khả nghi không, việc khám nghiệm tử thi phiền Liễu thừa tướng vậy.”

Một loạt tiếng bước chân té nhào, sợ hãi vội vàng chạy ra.

Trong sảnh vắng vẻ, cánh cửa nhẹ nhàng đóng lại, then cài.

Ta nghe tiếng bước chân y đến gần, mới xoay người nhổm dậy, phun miếng ngọc ra, kéo lấy tay áo hắn, bất chấp tất cả, lấy miệng mình chặn miệng y lại.

Hôn nhiều một cái, tình cảm sâu hơn một tý, tỷ lệ thành công cũng lớn hơn.

Y đứng mặc cho ta hôn, lát sau, ta mới buông y ra, kề sát bên tai nhỏ giọng, “Nhiên Tư, ta thích ngươi.”

Cả người Liễu Đồng Ỷ cứng lại một thoáng, né đi một chút, lúc này trời đã tang tảng sáng, vẻ mặt y nhìn ta cực kỳ quái lạ.

Ta cầm tay y lên, nắm chặt, nhỏ giọng, “Ta nói thật đấy, ta sắp phải đi rồi… sau khi đi rồi… những lời này, ta không còn cơ hội nói với ngươi nữa.”

Y khẽ nhíu mày nhìn ta, nhẹ giọng nói, “Chừng nào ngài lên đường?”

Ta đáp, “Trước khi thiêu xác, sau khi khám nghiệm tử thi, sẽ có người đón, có thi thể thay thế, ngươi không cần lo lắng.” Ta thở dài, “Chỉ là, nơi muốn đi đã bị hoàng thượng tra ra. Không tìm được nơi nào ẩn thân nữa.”

Ta dùng tay kia phủ lên tay y, “Thế nên lần này thành công hay không cũng khó nói. Tương lai có lẽ khó đoán định. Nhiên Tư, đa tạ ngươi giúp ta lần này. Kiếp này kiếp sau, ta sẽ nhớ ngươi thật kỹ, tiếc rằng ngươi và ta vô duyên, ta biết ngươi không thích ta. Nhưng ngươi có thể để ta thích ngươi, ta đã thấy đủ rồi.”

Cặp mắt Liễu Đồng Ỷ nhìn thẳng ta, sau đó dời mắt đi, nhẹ than, “Thật không?”

Ta hơi chột dạ, cặp mắt kia dường như có thể nhìn thấu bản ý của ta, ta lại nắm chặt tay y, tình tứ nói khe khẽ, “Ta thích người, mặc cho ngươi có tin hay không. Trong lòng ta chỉ có Nhiên Tư thôi.”

Câu này cũng không phải lời nói dối, vốn dĩ ta với cái xác người này không liên quan, hiện tại người ta nhớ nhung quả thực chỉ có Liễu Đồng Ỷ. Thành hay bại, tất cả phụ thuộc vào y.

Liễu Đồng Ỷ rút tay về, không nói gì cả.

Đợi ta nằm xuống giả làm thi thể, y mới thay ta đắp vải bố, hạ giọng nói, “Ngài, hết thảy bảo trọng.”

Y chỉnh lại mép tấm vải, dém thật kỹ, “Trong ngõ Cần Thái ở Tô Châu có một ngôi nhà trống, trong ngõ chỉ có một nhà như vậy, trừ bên ngoại ta, không ai biết cả.”

Một lúc lâu sau, ta ngồi trên xe ngựa băng qua vùng hoang vu, kinh thành sau lưng mỗi lúc xa dần.

Trương Tiêu nói, “Vương gia, có phải đến nơi vương phi sinh tiền an bài ở phủ Chính Dương không?”

Ta trả lời, “Tạm thời chưa cần, đến ngõ Cần Thái Tô Châu, có một toà nhà bỏ trống có thể tạm thời dung thân.” 

Ta nhắm mắt lại, hồn phách Cảnh Vệ Ấp trong cơ thể động đậy.

Hắn sắp tỉnh rồi.

Ta nói, “Ta nghỉ ngơi một chút trước, ngôi nhà bỏ không đấy, có liên quan đến một tính mệnh khác, mong hai vị đừng đề cập đến, chỉ lo việc ở lại đấy thôi.”

Hai người Trương Tào đều thông cảm mà đồng ý.

Tào tổng quản lại nói, “Vậy thì đợi sau khi qua sông, tôi xin rẽ lối từ biệt trước, phòng người khác sinh nghi, còn lão Trương đưa vương gia đi Tô Châu, vừa hay sư phụ ông ấy đến vùng Giang Nam, có thể chữa khỏi chân cho vương gia.”

Chân Cảnh Vệ Ấp có thể chữa khỏi? Thật là tin vui bất ngờ.

Ta vờ như muốn nghỉ ngơi một chốc, chuẩn bị trước khi Cảnh Vệ Ấp tỉnh giấc, phải tránh không để hắn nghi ngờ.

Muốn chiếm thân thể này, không thể quá nóng vội. Thần không biết quỷ không hay, ép rã hồn phách Cảnh Vệ Ấp mới là thượng sách.

Lúc nhắm mắt nằm xuống, không hiểu sao, lại nghĩ đến Liễu Đồng Ỷ.

Trên môi còn dư vị, chẳng rõ tương lai có còn gặp lại y hay không.

Đương nhiên ta thực sự cảm thấy y không hề tệ, nếu ta là Cảnh Vệ Ấp, tất chỉ thích mỗi mình y, đem lời ta nói với y, biến thành thật lòng thật ý.

Nếu ta là Cảnh Vệ Ấp, cái sự nếu này, có thể không bao lâu nữa, sẽ biến thành thật. 

Họa Liễu IV

Trong bóng đêm đen thẫm, ta thong thả dạo bước trong sân ngắm sao.

Đến ngụ ở ngôi nhà trong ngõ Cần Thái đã vài hôm, sau khi Cảnh Vệ Ấp tự thức dậy xong, ban ngày hắn dậy, ban đêm ta thoát ra. Hắn không phát hiện ra ta, ta âm thầm mọi lúc khống chế hắn trong tay, ở chung coi như cũng hoà hợp.

Trương Tiêu nghe ta nói xong, không còn nhắc lại chuyện ngôi nhà này. Cảnh Vệ Ấp chỉ xem như đây là chỗ bí mật mà Trương Tiêu chuẩn bị sẵn, cũng không hỏi gì nhiều, vừa vặn đôi bên đều giấu nhau.

Trương Tiêu đã tìm hiểu xung quanh mấy hôm, trong thành Tô Châu không ai nhận ra người của Cảnh Vệ Ấp. Nhà cửa gần đấy thì chỉ có mỗi một cái tiểu viện, lâu rồi không có ai ở. Ông ta mới mạo hiểm để Cảnh Vệ Ấp tạm thời lưu lại đây một mình, đi tìm sư phụ đến chữa chân cho Cảnh Vệ Ấp, sáng nay mới đi, phỏng chừng ba bốn ngày nữa mới quay về.

Thế nên nguyên ngôi nhà này, chỉ còn lại mình ta và Cảnh Vệ Ấp một người một quỷ, càng thuận lợi cho ta giày vò hắn.

Hồn phách Cảnh Vệ Ấp không bằng ta, chỉ vì thân thể này là của hắn, nếu ngang nhiên giằng co, ta sẽ không chiếm được nhiều lợi thế, chỉ có thể âm thầm hành sự.

Thân thể và hồn phách của hắn có sức sống tương liên, hắn vừa ngủ, ta liền chiếm lấy thân thể của hắn hoạt động xung quanh, thân thể người nào mà chịu nổi việc ngày đêm không nghỉ. Trước đó bởi còn Trương Tiêu, ta không tiện làm quá trớn, mỗi ngày còn cho cơ thể Cảnh Vệ Ấp nghỉ ngơi chừng một canh giờ, hồn phách Cảnh Vệ Ấp đã yếu đi rất nhiều, giờ ông ta đi rồi, ta không nghỉ một khắc, Trương Tiêu chưa kịp về thì Cảnh Vệ Ấp đã vì thân thể suy kiệt mà hồn phách tiêu tán, thân thể này sẽ triệt để thuộc về ta.

Cảnh Vệ Ấp vì cơ thể hồn phách đều suy yếu, ngày nào cũng uể oải mơ màng, ăn được một bữa, ngồi được một chốc, đi được mấy bước, thở được mấy hơi, một ngày đã trôi qua. Hắn cho đây là nhà của Trương Tiêu hoặc của sư phụ ông ta, nên chỉ an phận ngồi trong căn phòng nhỏ được Trương Tiêu dọn dẹp cho, ngồi tới tối, ta chán muốn chết, bèn lập tức hoạt động loanh quanh.

Ngôi nhà này cũng không nhỏ, mộc mạc u tịnh, lâu không có người ở, trong sân trải dài hoa cỏ dại, cây cối tự nhiên sinh trưởng, càng tăng thêm phần thi vị của thiên nhiên.

Ngoại trừ chỗ Trương Tiêu dọn dẹp, những phòng khác đều đóng cửa, tuy ta bám vào trong cơ thể người, song còn có thể sử dụng một ít phép thuật, lúc buồn chán, bèn mở một gian phòng ra xem. 

Trong mấy gian phòng này cũng không có gì đặc biệt, đều giăng đầy bụi, có cái là phòng ngủ bình thường, có chỗ cất giấu vài thứ đồ chơi, có lúc thì toàn là sách, còn có một phòng bày đầy đao kiếm binh khí, trên giá sách chồng chất những binh khí đao kiếm phổ. Có một gian trông như thư phòng, nằm ở vị trí trong cùng toà nhà, trên án kỷ còn có nghiên mực và bút chưa cất lại, thậm chí có cả một tờ giấy viết chữ, chỉ là nghiên mực và bút tích đã khô cong từ lâu, trên ngòi bút kết đầy mạng nhện, tờ giấy bày ra cùng xấp bản thảo trên án kỷ đều đã ố vàng, phủ lớp bụi dày.

Ta giở bản thảo ra nhìn, nét bút tú dật chữ thật đẹp, thế nhưng thứ viết ra lại không phải văn chương luận bàn thế sự, từ phú (*) ký gởi tâm tình, mà là truyện kiếm hiệp. Ly kỳ phóng khoáng, thật ngoài dự liệu của ta.

(*) Từ: hay còn gọi là ‘trường đoản cú’, thể loại văn vần thời Đường, Tống.

Phú: một thể văn thịnh hành vào thời Hán, dùng lối văn có nhịp điệu, nhằm miêu tả, trình bày sự vật để biểu hiện tư tưởng tình cảm của tác giả.

Trước kia ta chỉ nghe qua có loại sách như thế, chưa từng xem qua, không ngờ sau nhiều năm làm quỷ vô tình lại được mở mắt. Đương nhiên không ngờ lại hấp dẫn đến thế.

Tiếc rằng xấp bản thảo này không có đoạn kết, bụng ta ngứa ngáy khó chịu, lục lạo tìm kiếm trong phòng, tìm thấy rất nhiều bộ đầy đủ đầu đuôi. Hôm qua vừa xem đến một chỗ hay tuyệt, trời đã sáng Cảnh Vệ Ấp sắp tỉnh, đành phải nhẫn nhịn buông tay. Chịu đựng đến khi Cảnh Vệ Ấp ngủ, ta đi dạo trong sân một vòng, liền đến phòng đó lấy bản thảo, mang bàn thấp ghế dựa ra ngồi ngoài hành lang, thắp nến lên đọc.

Đang xem nhập tâm, bỗng cảm nhận được tiếng động nhỏ, chỉ nghe một tràng tiếng bước chân rất khẽ chậm rãi tiến gần, ta buông giấy ngẩng đầu, thấy một bóng người đi vào cửa nguyệt.

Ta là một con quỷ, giờ lại bị một người sống hù.

Nhìn chăm chú thật kỹ, người nọ hoá ra là Liễu Đồng Ỷ.

Y… tại sao ở đây?

Là đi theo Cảnh Vệ Ấp mà đến? Hay là thay hoàng đế kiểm tra đồng đảng của Cảnh Vệ Ấp, hôm nay đến đây thu lưới? Hay là phát hiện ra cái gì đấy bất thường?

Ta dò xét tỉ mỉ, gần đấy ngoại trừ Liễu Đồng Ỷ, không còn ai khác.

Thế nên ta đứng dậy, đi xuống hồi lang, cố ý lộ vẻ kinh ngạc, “Nhiên Tư? Ngươi… sao… đột nhiên xuất hiện ở đây…”

Dưới màn đêm, thân hình Liễu Đồng Ỷ đứng trái lại trông như u hồn, một mảnh hình cắt, “Vương gia xin chớ lo lắng, lần này ta cáo ốm ở trong phủ, bí mật rời kinh. Hoài Vương điện hạ vừa qua đời, mọi việc còn lộn xộn, không ai phát hiện ra đâu.”

Y khẽ cười, “Thật ra ta đến Tô Châu hai hôm rồi, chỉ chậm hơn vương gia một chút. Cái sân nhỏ trong nhà này, cũng chính là chỗ ở riêng của ta, có cửa ngầm thông đến.”

Ồ, ta cũng cười, nắm lấy tay y, “Nhiên Tư, ta biết rồi, thì ra ngươi lưu luyến ta, lo lắng, nên mới đuổi theo ta, có phải vậy không?”

Nét cười Liễu Đồng Ỷ thêm đậm, “Phải, ta rất lo lắng, nên mới đuổi theo vương gia. Nhưng vì còn Trương tổng quản, nên không tiện ngang nhiên hiện thân.”

Không ngờ Liễu Đồng Ỷ si tình với Cảnh Vệ Ấp đến thế, cư nhiên đi theo đến tận Tô Châu. Ta đang nhớ nhung y, y lại chủ động đến trước mặt.

Ta đang suy nghĩ, có nên ôm lấy Liễu Đồng Ỷ, hôn một cái hay không, bày tỏ sự kinh ngạc vui mừng cùng tình nùng ý mật, tay áo Liễu Đồng Ỷ đã vuột khỏi tay ta, người bước đến dưới hành lang, “Vương gia đang xem gì thế?”

Ta đáp qua loa, “Lão Trương muốn dọn dẹp nhà cửa giúp ngươi, quét tước xung quanh sạch sẽ, thấy mấy bản thảo này trong phòng, ta bèn mượn xem. Hoá ra loại tiểu thuyết hiệp khách này có thể hấp dẫn đến thế. Nhiên Tư ngươi không trách ta làm lộn xộn nhà ngươi chứ.”

Liễu Đồng Ỷ vẫn giữ nét cười nhàn nhạt, “Ừm, toàn là đồ cũ của ta, không quan trọng, vương gia thích thì cứ thoải mái xem.” Trong tay y còn cầm thứ gì đó, để lên bàn, “Không biết vương gia dùng cơm chưa, ta nghĩ Trương tổng quản mới đi, thức ăn còn trong nhà sợ cũng không thoải mái, nên cầm theo ít đồ lót dạ.”

Miệng nói, tay mở gói giấy, bên trong là vài món điểm tâm, mùi hương ngọt ngào toả ra.

Ta khen, “Tốt lắm, đợi ta bắc bếp than nhỏ nấu ít nước nóng, pha một bình trà, ta và ngươi ngồi dưới hành lang ngắm sao.”

Liễu Đồng Ỷ nói, “Trà phải đậm chút mới tốt.”

Ta cười bảo, “Đương nhiên rồi.”

Đợi ta pha trà xong rồi, cùng với Liễu Đồng Ỷ ngồi ở hành lang, ta than thở, “Lúc nhìn thấy Nhiên Tư tưởng chừng như qua một đời, lại vừa như đang nằm mơ.”

Liễu Đồng Ỷ nâng tách trà lên, “Ta đứng trên gác nhỏ phía sau sân, nhìn vào trong sân, nhìn hai ngày trời, nên không hề cảm thấy như mơ.”

Y nhẹ thở dài một hơi, “Thực ra khi ở kinh thành, vương gia nhờ ta giúp đỡ trong nhà lao, mãi cho đến bây giờ, ta vẫn có một mối nghi hoặc trong lòng, rất muốn hỏi.”

Y nhấp một ngụm trà, buông tách xuống, nhìn thẳng ta, “Xin hỏi các hạ, tột cùng là ai?”

Tay bưng trà của ta thoáng khựng, giả vờ hỏi, “Nhiên Tư, ngươi nói gì thế?”

Vẻ bình thản của Liễu Đồng Ỷ hoàn toàn biến mất, dưới ngọn đèn, y hơi cau mày, ánh mắt sắc sảo, thần thái nghiêm nghị, “Nếu ta đã cứu các hạ ra, dĩ  nhiên sẽ không để lộ. Nhưng ta chỉ muốn biết, các hạ đến tột cùng là ai, Hoài Vương điện hạ đang ở đâu?”

Ta nhìn y trong ánh đèn, Liễu Đồng Ỷ vượt ngoài dự đoán của ta.

Ta lại cười bảo, “Nhiên Tư, ngươi ngủ mê rồi à, ta có chỗ nào không thích hợp, sao ngươi có thể nói vậy?”

Ngữ điệu Liễu Đồng Ỷ bình thản rằng, “Các hạ và Hoài Vương điện hạ, bên ngoài không có mảy may khác biệt, cho dù là trong thiên lao, hay là trước khi các hạ ve sầu lột xác, đều không có thời gian không có cớ thay xà đổi cột. Nhưng…” Y lại thở dài một hơi, “Các hạ và Hoài Vương điện hạ, hoàn toàn không giống nhau.”

Ta lại cười một cái, nhấp thêm ngụm trà, “Như vậy đi, ngươi nói cho ta biết, có chỗ nào không giống, ta sẽ nói chuyện ngươi muốn biết, được không?”

Vẻ mặt Liễu Đồng Ỷ nhìn ta có phần phức tạp và bất đắc dĩ, “Hoài Vương điện hạ không dùng vẻ mặt này, ngữ khí như vậy, lời nói như vậy.”

Người có thể đổi, ngữ khí có thể sửa, ngôn từ có thể do tâm tình hoán đổi mà sinh ra. Ta có rất nhiều lý do, có thể bác bỏ lời này của Liễu Đồng Ỷ, song ta lại nghe lời kế tiếp của y.

“Hoài Vương điện hạ không thích đồ ngọt, không ăn mấy loại bánh ngọt có mùi vị này.”

“Hoài Vương điện hạ buổi tối không uống trà đậm.”

“Hoài Vương điện hạ cũng không tuỳ tiện lục lọi đồ đạc của người khác.”

“Hoài Vương điện hạ đã từng xem qua bản thảo các hạ đang đọc.”

Ta nghe y nói từng điều một, cuối cùng nghe y nói rằng ——

“Người Hoài Vương điện hạ hằng yêu không phải là tại hạ, việc các hạ làm, cùng lời các hạ nói, y sẽ không nói, sẽ không làm.”

Ta thật lòng nở một nụ cười, nhướn mày nhìn y, “Như vậy là Nhiên Tư dầu tâm còn nghi hoặc, song vẫn cứu ta, chỉ vì muốn giải được câu đố, biết Cảnh Vệ Ấp nơi nào sao? Tại sao ngươi thích Cảnh Vệ Ấp thế? Hắn tuyệt đối không thích ngươi.”

Liễu Đồng Ỷ nói, “Ta đã trình bày xong duyên cớ, mong các hạ cho biết sự thật.”

Ta nói tiếp, “Người Cảnh Vệ Ấp thích là Vân Dục kia, trong lòng hắn toàn là kẻ đó, lúc hắn sắp chết gọi tên ngươi chẳng qua là muốn làm ngươi hoảng loạn không nghi ngờ hắn giả chết để thuận lợi bỏ trốn. Cả đời hắn cũng sẽ không thật lòng nói thích ngươi, ngươi hà tất phải đợi hắn làm gì?”

Vẻ mặt Liễu Đồng Ỷ không chút biến đổi, ngữ điệu ôn hoà, “Xin các hạ cho biết sự thật.”

Ta cười nhạt, “Ngươi cần gì cứ vờ trấn định, còn câu nào câu nấy Hoài Vương điện hạ, không chừng trong lòng đã gọi Cảnh Vệ Ấp không biết bao nhiêu lần.”

Liễu Đồng Ỷ bình thản liếc ta, bình thản nói, “Hoài Vương điện hạ thích người khác gọi tên tự của y.”

A? Ta nhất thời hơi giật mình.

Liễu Đồng Ỷ tiếp tục nhẹ nhàng nói, “Nói cách khác, nếu ta thầm gọi trong lòng, cũng là gọi Thừa Tuấn Thừa Tuấn, không phải Vệ Ấp Vệ Ấp.”

Liễu Đồng Ỷ nói thêm, “Dĩ nhiên, ta cũng cho rằng Thừa Tuấn thuận miệng hơn Vệ Ấp nhiều.”

… …

Ta không nói gì, nhìn Liễu Đồng Ỷ một lát mới nói, “Được rồi, ta nói cho ngươi biết. Tin hay không tuỳ ngươi, ta không nói dối, nhưng ngươi chắc chắn không tin. Thật ra —— ta là một con quỷ.”

Liễu Đồng Ỷ nhìn ta mà không có bất kỳ phản ứng nào.

Ta đoán là y nhất thời không thể phản ứng được gì.

Ta bổ sung thêm, “Ta là quỷ treo cổ, chết trong phòng giam đó nhiều năm rồi.” Ta thè lưỡi ra đảo đảo con ngươi, “Ặc, là vậy đó, quỷ treo cổ.”

Liễu Đồng Ỷ vẫn không có phản ứng hay có lẽ không phản ứng nổi.

Ta tiếp tục giải thích tường tận hơn, “Vì ta không tìm được kẻ chết thay, ngươi biết đó, quỷ treo cổ phải tìm được kẻ chết thay mới được đầu thai, thế nên ta chiếm lấy cơ thể Cảnh Vệ Ấp. Hiện giờ thân thể này là của Cảnh Vệ Ấp, ban ngày là hồn của hắn, ban đêm là hồn của ta, ta định bụng khiến cho thân thể hắn ngày đêm không nghỉ ngơi, khiến cho hồn phách hắn suy kiệt tiêu tán, như vậy là ta có thể chiếm lấy thân thể này hoàn toàn. Là vậy đó.”

Ta giải thích xong, quan sát biến hoá của Liễu Đồng Ỷ, chỉ thấy y khẽ nhíu mày, vẻ mặt hơi có điều suy nghĩ, ta nói, “Thấy chưa, ngươi không tin.”

Hàng lông mày Liễu Đồng Ỷ đột nhiên giãn ra, “Hoá ra là thế.”

Trái lại ta thấy ngạc nhiên, “Ngươi tin à?”

Vẻ mặt Liễu Đồng Ỷ quả thực không hề có sự không tin, “Tại hạ chỉ tin sự thật, sự thật trước mắt, cho dù lạ lùng thế nào, cũng là sự thật. Lúc tẩy thi, trong những người ở đấy, có Sở Tầm công tử trước đây thường xuyên bồi bạn Hoài Vương điện hạ. Vì vậy ta không thể hiểu được, các hạ không phải là Hoài Vương điện hạ, tại sao thân thể quả thực là Hoài Vương điện hạ.”

Ta cau mày nhìn Liễu Đồng Ỷ, nói rất thật lòng, “Nhiên Tư, ta thật sự càng lúc càng thích ngươi đấy.”

Liễu Đồng Ỷ mỉm cười, “Chuyện các hạ đùa với ta, cũng nên ngừng được rồi.”

Ta thành khẩn nói, “Ta nói thật đấy.”

Liễu Đồng Ỷ nâng chung trà lên, “Vậy thì, đa tạ. Nhưng ta biết sự thật rồi, sẽ nghĩ cách giải quyết việc này, các hạ là quỷ, phải chăng vì có tâm nguyện chưa thực hiện, mới thác vào trong người Hoài Vương điện hạ?”

Ta cũng châm trà, “Có phải ngươi muốn hỏi ta, thế nào mới chịu tha cho Cảnh Vệ Ấp không? Ta không có tâm nguyện gì chưa thành cả, chỉ muốn có một thân thể thôi, vừa vặn thân thể Cảnh Vệ Ấp rất hạp ý ta, ta không định bỏ đâu.”

Liễu Đồng Ỷ nói, “Nếu các hạ chỉ là muốn tìm một thân thể để thác vào, có lẽ vẫn còn một đường thương lượng?”

Còn đường thương lượng, lẽ nào muốn an bài một thân thể cho ta?

Biết đâu còn cảm động hơn, Liễu Đồng Ỷ định thay thế Cảnh Vệ Ấp, dùng thân thể của y để cho ta nhập thân?

Ta từ chối một hơi, “Ta chỉ thấy Cảnh Vệ Ấp tương đối hợp ý. Nhiên Tư, ngươi hà tất cản ta làm gì? Dù sao Cảnh Vệ Ấp vốn là người mà toàn bộ triều đình các ngươi cho là đáng chết, dầu gì cả hắn cũng không muốn sống, chi bằng để ta hưởng sái. Về phần ngươi, ta biết ngươi thích Cảnh Vệ Ấp, ngươi có thể tiếp tục coi ta là Cảnh Vệ Ấp, chỉ là thay đổi tính cách.”

Ta bỏ chén trà xuống, kề sát y, “Cảnh Vệ Ấp kia, trong lòng toàn là người khác, ta thì chỉ thích mình ngươi. Từ nay về sau, Cảnh Vệ Ấp, chỉ thích mình Nhiên Tư thôi. Ta có thân thể, ngươi có Cảnh Vệ Ấp, không phải đôi bên vẹn toàn sao?”

Liễãu Đồng Ỷ nhẹ nhàng buông tách trà, “Nếu như ta thích Hoài Vương điện hạ, dù là lừa mình dối người, cũng sẽ không dễ dàng dung thứ một thân xác đã đổi linh hồn. Chuyện thế gian, tất thảy sở hữu, tất thảy nhân quả, đều không phải của ngài, cần gì cưỡng cầu?”

Ta cười nói, “Ta vốn là quỷ, quy củ ràng buộc thế gian không dính dáng đến ta. Có vài thứ, chỉ cần cưỡng cầu, thì sẽ có được. Thực tế ta thấy tính cách Nhiên Tư, cũng không phải là loại người thực sự thanh bạch lạnh lùng tẻ nhạt.” Ta cầm tập bản thảo trên bàn, lật lật, “Mấy cái hiệp khách chí dị này, hẳn của ngươi viết phải không? Vẻ ngoài đoan chính, bên trong lửa nóng, tính tình ngươi như vậy, Cảnh Vệ Ấp lại không biết chỗ tốt của ngươi. Nói không chừng ngươi và ta ở chung rồi, sẽ phát hiện ra là rất hợp.”

Liễu Đồng Ỷ cười, “Ta vào trong chốn quan trường mấy năm nay, thật lòng khen ta đoan chính, trừ Hoài Vương điện hạ, chỉ có các hạ.”

Y lấy xấp bản thảo còn lại, cẩn thận xếp lại, bỗng nhiên chuyển chủ đề, “Ta có thể thỉnh giáo, các hạ bao nhiêu tuổi không?”

Ta ngẩn người, nhếch miệng, “Ta là một con quỷ, không đếm nổi thời gian trôi qua đâu.”

Liễu Đồng Ỷ đặt xấp giấy đã xếp đàng hoàng sang một bên, “Ta muốn hỏi, tuổi các hạ lúc ly thế.”

Lẽ nào muốn tra lai lịch của, để dễ đối phó?

Ta nhẹ nhàng đáp, “Ngươi đoán đi.”

Nhưng Liễu Đồng Ỷ không nói gì, ta đứng lên, “Nếu ngươi muốn tra ra ta rốt cuộc là ai, rồi lại nghĩ cách đuổi ta, e là không kịp đâu. Hồn phách Cảnh Vệ Ấp quá lắm cũng chỉ cầm cự được hai ba hôm nữa. Có điều, ta nguyện ý cho ngươi một cơ hội, nếu ngươi có thể đoán ra ta là ai, ta sẽ rời khỏi cơ thể Cảnh Vệ Ấp.”

Liễu Đồng Ỷ rũ mi, hơi gật đầu, “Được.”

Ta đưa mắt nhìn gương mặt nghiêng của Liễu Đồng Ỷ dưới ánh đèn, lần đầu tiên nghiêm túc nói, “Ta nguyện ý cho ngươi một cơ hội đó, bởi vì ta thích ngươi. Ta hiện tại thực sự rất thích ngươi, Nhiên Tư.”

Hơn nữa ta biết, ta là ai, ngươi nhất định không đoán ra.

Liễu Đồng Ỷ cũng đứng lên, cươi nhẹ nhàng, “Nếu các hạ vì xem những bản thảo này mà thích ta, là thích lầm người rồi. Những bản thảo này, là do gia phụ viết, ông ấy đã qua đời mấy năm rồi.”

Y đi đến trước hành lang, trông vời cảnh đêm mịt mùng, “Ngôi nhà này, là nhà riêng gia phụ mua về, tên cũ là Tây Sơn Hồng Diệp cư. Trừ ông ấy, chỉ có ta biết.” 

Họa Liễu V

Hôm sau, trời vừa sập tối, ta đã ép Cảnh Vệ Ấp đi ngủ, lấy bản thảo của cha Liễu Đồng Ỷ ra đọc.

Ta chỉ biết Liễu Đồng Ỷ vừa khéo mang họ Liễu, hôm qua nghe y đề cập, mới biết hoá ra y chính là hậu nhân của Liễu Cần, không ngờ Liễu thị có thể thịnh vượng nhiều đời đến vậy. Nếu Liễu Cần thái phó chuyên có bản mặt cứng đờ liên tu bất tận những tràng đạo lý trỗng rỗng biết hậu nhân ông ta lại đi viết tiểu thuyết thế tục, không biết sẽ có biểu cảm gì.

Đêm đến, Liễu Đồng Ỷ lại tới, còn mang theo một ít cháo trắng và vài món bánh ngọt.

Ta ngó bánh ngọt, “Không phải ngươi nói Cảnh Vệ Ấp không ăn đồ ngọt sao, còn mang đến làm gì?”

Liễu Đồng Ỷ đáp, “Hôm qua ta thấy các hạ rất thích những món có chút tinh tế.”

Ta cười bảo, “Nhiên Tư thật sự rất tinh ý.”

Thừa lúc y đang bày các dĩa đồ ăn ra, ta hỏi, “Tại sao ngươi chỉ đến gặp ta, không gặp Cảnh Vệ Ấp? Nếu hắn biết ngươi giúp hắn, tất sẽ sinh tâm cảm kích ngươi, không chừng còn sinh tình cũng nên.”

Liễu Đồng Ỷ đặt chén cháo trước mặt ta, nói, “Vì sao vương gia giả chết bỏ trốn, việc mưu phản có ẩn tình khác hay không, ta vô cùng muốn biết, nhưng luận nặng nhẹ, trước hết cần giải quyết việc làm sao mời các hạ rời khỏi thân thể vương gia. Vả lại, vương gia rất vất vả mới trốn được, chợt thấy ta đột nhiên xuất hiện, sợ rằng…”

Ta cắt ngang y, ôn hoà nói, “Nhiên Tư, vì sao ngươi thích hắn thế, cái gì cũng không đếm xỉa mà cứu hắn, hiện giờ vẫn vậy thay hắn suy nghĩ, còn vì cứu hắn mà nghĩ cách đuổi ta đi, hắn sẽ không nghĩ tốt cho ngươi chút nào đâu.”

Liễu Đồng Ỷ cười cười, “Ta làm những việc này, có rất nhiều nguyên nhân, nguyên nhân lớn nhất, là ta muốn biết toàn bộ chân tướng. Khi đó bố cục điều tra chứng cớ ở Hoài Vương điện hạ là do ta bày ra, nhưng lúc Hoài Vương điện hạ vào tù, ta xem xét các chứng cớ, phát hiện ra rất nhiều điểm đáng ngờ, thái độ nhận tội của điện hạ, ta cũng cảm thấy kỳ quái… Có lẽ ta lo rằng,  chuyện Hoài Vương điện hạ có oan uổng bất công.”

Y nói đến đây, sắc mặt có hơi trĩu nặng, những lời này là lời thật lòng.

Ta nói, “Ngươi giúp Cảnh Vệ Ấp giả chết bỏ trốn, lẽ nào không phải trọng tội khi quân sao?”

Liễu Đồng Ỷ nói, “Cho nên tại hạ cũng không phải là trung thần, ta chỉ quan tâm có hay không có, làm hay không làm, sai hay đúng. Trong triều đình, có rất nhiều chuyện không thể luận cho rõ ràng đúng sai, nhưng xử quyết căn bản nhất, thì không thể hàm hồ.”

Ta áp má, bộ dạng y nghiêm trang nói ra mấy câu này, rất có phong cách của Liễu thái phó, làm ta không khỏi ê răng.

Được cái Liễu Đồng Ỷ đẹp hơn Liễu thái phó, cho dù mặt đơ, cũng tú dật động lòng người.

Tay phải ta áp má, nhìn y nhíu mày, chuẩn bị tiếp tục nói chuyện liên quan đến Cảnh Vệ Ấp, đột nhiên muốn lấp kín y lại. Thế nên y vừa mở miệng thì đã sấn trước mặt, thừa dịp y không kịp phòng bị, nhanh nhảu dùng miệng ngăn chặn miệng y lại.

Lần thứ nhất còn gượng, lần thứ hai đã quen, lần thứ ba thứ tư thì đã thành thạo tự nhiên, ta chỉ hôn một thoáng, rồi buông Liễu Đồng Ỷ ra, kề sát bên tai y nói, “Nhiên Tư, chúng ta không nói chuyện Cảnh Vệ Ấp, hắn sắp sửa hồn phi phách tán rồi, cho dù ngươi muốn cứu hắn, cũng nên nói nhiều về ta một chút.”

Ta đứng nhích ra một tí, tỉ mỉ quan sát vẻ mặt y, nắm ống tay áo y nói, “Thế nào, giận à?”

Vẻ mặt Liễu Đồng Ỷ vẫn vậy, làm ta hơi thất vọng. Ta lại ngồi xuống ăn cháo, Liễu Đồng Ỷ đổi một đĩa thức ăn khác đến trước mặt ta, “Tại hạ đã tra được một ít manh mối, nhưng tối nay quả thực không thể đoán ra được các hạ là ai.”

Y khều bấc đèn, “Hôm qua các hạ nói cho ta biết nguyên nhân cái chết. Nhà lao đó nhốt rất ít người, những gì liên quan ghi lại, ta từng xem qua cả. Nhưng người chết trong nhà lao đó, hình bộ ghi chép, chắc gì là thật. Thế nên cần phải kiểm chứng thêm lần nữa.”

Một câu suy đoán không chắc chắn cũng không chịu nói ra.

Y hiện tại ở Tô Châu, không tra được bản ghi chép trong triều đình kinh thành, cái gọi là kiểm chứng, chẳng qua là quan sát theo dõi ngôn hành cử chỉ của ta, rồi từ đó ghép lại với chân tướng có thể là thật mà thôi. 

Ta nhận lấy khăn mặt y đưa cho, lau lau khoé miệng, “Nhiên Tư, vừa hay đêm đẹp, nếu là trong màn rủ, chăn gấm, nói không chừng ta sẽ nói hết cho ngươi biết.”

Ta nhìn vẻ mặt y chăm chú, tình tứ bổ sung, “Nếu như, lần đầu tiên, ngươi không quen, có thể tạm coi ta là hắn, có gọi ta Thừa Tuấn, ta cũng không ngại đâu.”

Vẻ mặt Liễu Đồng Ỷ bình thản, “Hoài Vương điện hạ từng có một vị Sở Tầm công tử thường xuyên ngủ cùng.”

A?

Liễu Đồng Ỷ nói tiếp, “Sở Tầm công tử thực ra là phụng mệnh ngầm ở bên cạnh Hoài Vương điện hạ, điều tra chứng cớ mưu phản của y. Nhưng cậu ta bồi bạn với Hoài Vương điện hạ rất lâu, một thứ gọi là giống chứng cứ cũng chưa từng tra ra.”

Ớ, chuyện này…

Liễu Đồng Ỷ thở dài, “Cho nên chuyện đó đủ để chứng minh, lúc ở trên giường có thể nghe chân ngôn tuyệt đối không tin được, không cần thử nghiệm.”

… … …

Sáng hôm sau, ta đẩy cửa ngầm trên tường hậu viên, vào trong tiểu viện của Liễu Đồng Ỷ.

Liễu Đồng Ỷ nói cho ta biết, trong toà nhà này chỉ có mình y, không có tuỳ tùng. Trong tiểu viện, bụi trúc xanh rì thấp thoáng đôi ba gian sương phòng, cửa mở, khung cửa sổ chống lên, ta rón ra rón rén đến bên cạnh song cửa, Liễu Đồng Ỷ đang ngồi sau bàn bên trong phòng, lật giở thứ gì đó, ngẩng đầu lên nhìn thấy ta ngoài cửa sổ, bỗng giật cả mình.

Ta không nói tiếng nào, lê chân khập khiễng bước qua cửa, Liễu Đồng Ỷ vịn bàn chậm rãi đứng lên, ta cười nói, “Nhiên Tư, đoán ra ta là ai không?”

Vẻ mặt Liễu Đồng Ỷ biến đổi trầm trọng, “Tại sao các hạ lại xuất hiện ban ngày?”

Ta nhìn mặt y, trong lòng hơi nổi lên ghen tuông vô cớ, cố tình ra vẻ bàng quan nói, “Muốn thấy ngươi vào ban ngày, nên đến đây.”

Ta ngưng một chút, nói tiếp, “Ngươi yên tâm, hồn Cảnh Vệ Ấp còn nguyên, giờ hắn quá yếu, ta để hắn ngủ nhiều hơn, có thể giúp cho hồn của hắn không bị rã nhanh, là tốt cho hắn thôi.

Sắc mặt Liễu Đồng Ỷ mới bình thường trở lại.

Ta nhìn sang thứ y bày ra trên án, hoá ra là giấy tờ văn kiện, “Ngươi đã đến Tô Châu mà vẫn bận rộn việc công sao?” Ta lấy một văn kiện ra lật giở, “Ngươi còn nói là mình không phải trung thần, rõ là một tên trung thần bán mạng đấy thôi.” Buông văn kiện xuống, giở xấp giấy bên cạnh lên, bên dưới trang giấy toàn chữ, ngờ đâu là một xấp tranh lớn.

Ta nghi hoặc mở ra, có bức phác hoạ tinh tế, có bức qua quýt vài đường, nhưng cho dù là bức nào, thì trong tranh đều vẽ lá liễu nhành liễu, còn có một người.

Người trong tranh đều có phông nền hoặc gương mặt mơ hồ, không vẽ mặt rõ ràng, khi mặc trường sam, khi vận quan phục, hoặc đứng hoặc ngồi, tư thái bối cảnh đều khác nhau. Nhưng ta biết tranh vẽ cùng một người, trên tranh còn đề vài câu thơ.

Ta không khỏi nhìn qua Liễu Đồng Ỷ nói, “Mấy cái này không phải Cảnh Vệ Ấp vẽ về ngươi chứ…”

Liễu Đồng Ỷ không đáp, ngầm thừa nhận.

Ta lại lật tới lật lui, thật tình phán, “Tranh rõ xấu. Chữ cũng xấu tệ. Thơ… viết kiểu gì thế này!”

Liễu Đồng Ỷ tiếp tục im lặng. Ta nhân từ bỏ qua chuyện bình luận mấy bức tranh này, “Lẽ nào Cảnh Vệ Ấp đem cho ngươi coi tranh này, nên ngươi cứ khăng khăng một mực thích hắn?”

Liễu Đồng Ỷ đáp, “Những bức tranh này tìm được ở nơi Hoài Vương điện hạ để chứng cứ mưu phản, trong tủ bí mật ngoại trừ những thứ này ra, không còn cái gì khác.”

Sau khi Liễu Đồng Ỷ thấy những bức tranh này thì cảm động, yêu luôn Cảnh Vệ Ấp?

Ta nói, “Người hắn thật lòng thích là Vân Dục.”

Thần sắc Liễu Đồng Ỷ vẫn rất đỗi bình thường nói, “Ta biết.” Y gom lại gọn gàng những bức tranh bị ta lật xiên xẹo tán loạn, “Hoài Vương điện hạ từng lầm người trong lòng, những bức tranh đó là do y vẽ ra trong lúc lầm lẫn. Sau đó sớm cũng đã thôi để trên kệ nữa, mà bỏ vào trong tủ bí mật.”

Một loại tư vị không nói thành lời xộc lên cổ họng, ta cười lạnh bảo, “Vật hư tình giả ý, không thấy cũng chả sao, chữ nghĩa thì xấu, tranh vẽ thì tệ lậu, thi thơ chả ra sao. Lúc ta tám tuổi viết cái gì cũng hơn hắn nhiều.”

Y đem những bức tranh đã xếp chỉn chu để lại trên bàn, ta đè tay y xuống, “Nhiên Tư, ta vẽ tranh cho ngươi. Ta sẽ dùng tấm lòng chân thật mà vẽ, tuyệt đối tốt hơn hắn nhiều, ngươi sẽ thích ta chứ?”

Liễu Đồng Ỷ đối mắt với ta, trong ánh mắt hàm chứa ít bất đắc dĩ khác thường, “Các hạ vì lẽ gì, lại nói những lời đấy?”

Vì lẽ gì? Có lẽ lúc ở trong thiên lao, nhìn biểu cảm của y khi thấy Cảnh Vệ Ấp giả chết, khiến ta kìm lòng không đậu mà ao ước.

Lúc ta làm quỷ, mới biết được, điều đáng quý nhất trong cuộc sống, đó là tình cảm thật lòng thật dạ không cần toan tính không cần mưu cầu. Liễu Đồng Ỷ tốt biết bao, Cảnh Vệ Ấp không quý trọng, ta muốn chiếm lấy, chiếm làm của mình có gì không được.

Thế nên ta nghiêm túc nói, “Bởi vì ta thích ngươi.”

Liễu Đồng Ỷ lại nở nụ cười khoan dung độ lượng đó, đột nhiên giơ tay lên, ta chưa kịp phản ứng, đã cảm thấy tay của y đặt trên đỉnh đầu của ta, khẽ vuốt một chút.

Ta vội lùi về sau một bước, bên mặt còn cảm giác man mát tại nơi tiếp xúc với ống tay áo của Liễu Đồng Ỷ.

Vẻ mặt Liễu Đồng Ỷ áy náy, “Xin lỗi, nhất thời, cầm lòng không được.”

Ta hơi cứng người, ánh mắt Liễu Đồng Ỷ đậu lại trên người ta, thở dài, lại tiến lên một bước, lại đưa tay lên, rồi vuốt ve chóp đầu ta.

Vóc người y thấp hơn Cảnh Vệ Ấp, nhưng làm động tác ấy lại rất tự nhiên thành thạo.

“Các hạ, còn kém tuổi cập quan bao năm? Sáu năm? Bảy năm? Tám…”

Ta trong lúc tỉnh tỉnh mê mê vụt nói, “Chỉ kém có bốn năm năm mà thôi, ta thành quỷ nhiều năm vậy rồi, còn bàn dương thọ không phải mắc cười lắm sao?”

Liễu Đồng Ỷ trầm mặc, vẻ mặt y nhìn ta sau cùng thay đổi, một thoáng thương hại hiện lên.

Ta lập tức tỉnh táo lại, “Ngươi đoán ra ta là ai rồi?”

Liễu Đồng Ỷ quỳ xuống, “Điện hạ, trước đó thất lễ, xin tha tội.”

Ta cúi người đỡ Liễu Đồng Ỷ, “Ngươi đứng lên đi, ta chỉ là một thân vương thế tử, còn không tôn quý bằng địa vị hoàng thúc của Cảnh Vệ Ấp, không cần đặc biệt hành đại lễ, giống như trước đây làm gì.”

Đợi y đứng dậy, ta chắp tay thở dài, “Nhiên Tư, ta thua rồi, ta bằng lòng chịu thua, tuân thủ nghiêm chỉnh lời hứa.”

Liễu Đồng Ỷ đứng lặng yên, ta nâng mí mắt lên nhìn y, “Có điều, ta lại không biết cách ra khỏi thân thể Cảnh Vệ Ấp.”

Vẻ mặt Liễu Đồng Ỷ giờ mới thay đổi, ta rất đắc ý, làm ra vẻ ‘tuy ta cũng muốn lắm nhưng ta cũng bó tay thôi’.

Liễu Đồng Ỷ đứng lặng thinh một lúc lâu, mới xoay người đi qua cạnh bên.

Y xăn tay áo lên, trước tiên bê một cái ghế ra khỏi cửa, đến chỗ ngoặt hành lang, đặt xuống. Rồi quay về phòng, bê thêm một cái ghế nữa.

Ta ngạc nhiên nhìn y hết bê ghế lại bê bàn, sau đó biến ra khỏi cửa không thấy đâu, lát sau bưng một bộ bếp pha trà và trà cụ bày lên bàn, rồi thì chẳng biết kiếm từ đâu ra một đĩa bánh ăn kèm.

Sau cùng, y kéo ta đến cạnh bàn cuối hành lang, ấn ta ngồi xuống ghế. Ta mù mờ cầm một miếng bánh bơ củ sen lên ăn. Mắt ngó đăm đăm Liễu Đồng Ỷ pha trà châm trà, cuối cùng, đứng dậy đặt một chén trà nóng trước mặt ta, vuốt đầu ta, “Không sao, không biết cách, thần có thể từ từ tìm cách với điện hạ.”

Ta cắn miếng bánh bơ củ sen nhìn y ngồi xuống đối diện, không hiểu vì sao lông tơ khắp người bị kích thích muốn dựng cả lên.

Liễu Đồng Ỷ lại đẩy đẩy chén trà nhỏ trước mặt ta, từ tốn nói, “Vì sao điện hạ vào tù? Đoạn ghi chép trong điển sách rất vắn tắt, chỉ ghi Trần Vương thế tử, phạm thượng tống giam, vài ngày sau thì bất ngờ bệnh chết.”

Quả nhiên là bất ngờ bệnh chết, ta cười cười, “Nguyên nhân cũng không khác gì ngươi nói cho lắm.”

Liễu Đồng Ỷ nói, “Nhưng nó vẫn có chỗ sai lệch, có phải điện hạ vì oan tình, nên không thể thăng thiên không?”

Ta lắc đầu, “Không phải, ngươi cũng từng nói rồi, có rất nhiều chuyện, không thể nói rõ thị phi trắng đen, khi đó ta đã nghĩ thông hết mọi chuyện không còn tính toán gì nữa, đáng tiếc là quỷ treo cổ không có thế thân thì chỉ có thể ở trong nhà lao mà thôi.”

Nhưng Liễu Đồng Ỷ vẫn tiếp tục hỏi, “Điện hạ rốt cuộc vì sao mà phạm thượng?”

Ta suy nghĩ một thoáng, “Nhiều năm trôi qua rồi, nguyên nhân gì ta cũng quên sạch. Có điều, ta hỏi ngươi vài chuyện, nếu như ngươi có thể thực tình trả lời, nói không chừng ta sẽ ráng nhớ ra nguyên nhân.”

Liễu Đồng Ỷ sảng khoái nói, “Điện hạ cứ hỏi.”

Ta nhìn đôi mắt y, hỏi từng từ một, “Rốt cuộc tại sao ngươi thích Cảnh Vệ Ấp? Tại sao không thể chuyển sang thích ta?”

Liễu Đồng Ỷ mỉm cười, “Ta rất thích điện hạ.”

Ta cười nhạt, “Ngươi không nói thật. Vậy thì đừng nói.”

Liễu Đồng Ỷ trả lời, “Ta không hề nói dối, nếu là loại thích này…” Y lại cười, “Ta thật sự không biết ta có được tính là thích Hoài Vương điện hạ hay không.”

Họa Liễu VI

Liễu Đồng Ỷ tự rót thêm ít trà vào chén của mình, “Toà nhà điện hạ đang ở, có tên là Tây Sơn Hồng Diệp cư, là nhà tiên phụ để lại, lúc tiên phụ bệnh nặng, ta mới vô ý thấy ông ấy lén viết sách, mới biết hoá ra ông ấy còn có tên khác là Tây Sơn Hồng Diệp Sinh, viết tiểu thuyết kiếm hiệp, khi ấy ta và điện hạ tuổi tác xêm nhau, sau khi biết chuyện, ta vô cùng sợ hãi, cung cách của tiên phụ trước giờ rất cẩn trọng nghiêm trang, ta trăm triệu lần không ngờ ông ấy còn có một thân phận khác. Sau khi tiên phụ qua đời, trên đời này người biết sự tồn tại của ngôi nhà này chỉ có mình ta, ta tìm đọc những truyện ông ấy viết, còn tìm những truyện giống như vậy đọc… Sau đó, tổ phụ đưa ta trở về kinh, ta không dám cho tổ phụ biết chuyện này, bởi vì tổ phụ, cùng các thúc bá, bọn họ là những người đọc sách có chức vị, đều nói tiểu thuyết kiếm hiệp là thứ văn chương ô uế không chính thống, những kẻ viết truyện này, là làm nhục thánh hiền, phẩm chất bại hoại…”

Ta nghe Liễu Đồng Ỷ nói giống như chuyện thường ngày trong nhà, có thể y cảm thấy tiểu thuyết phụ thân viết hay hơn nhiều so với các loại văn chương nghiêm chỉnh khác, rồi lại không biết bản thân có vi phạm giáo huấn thánh nhân hay không, tổ phụ và phụ thân, đến tột cùng y không biết nên tán đồng với ai. Y một mặt mâu thuẫn, mặt khác len lén tiếp tục đọc tiểu thuyết, ngay cả đi theo tổ phụ dự ngự yến trong cung cũng tìm cơ hội đọc trộm, trong lúc vô tình thì gặp Cảnh Vệ Ấp.

Liễu Đồng Ỷ nói, “Khi ấy, Hoài Vương điện hạ nói với ta, y rất thích truyện của Tây Sơn Hồng Diệp Sinh, y bình luận tiểu thuyết kiếm hiệp, cũng trịnh trọng như bình luận văn chương nghiêm chỉnh. Cũng bắt đầu từ đó, ta mới lĩnh ngộ rằng, tiểu thuyết kiếm hiệp cũng được, sách thánh hiền cũng vậy, hết thảy đều là của con người dùng tấm lòng chân thật viết ra, để biểu đạt tình cảm ấp ủ trong lòng, chỉ là cách thức khác nhau. Văn chương vốn không phân biệt cao thấp sang hèn, chỉ phân biệt giữa thật lòng và giả tạo. Bởi nhiều nguyên do, thích hay không thích, suy cho cùng, cũng bởi sự yêu thích cá nhân mà sinh ra thôi.”

Y nói, sau đấy, vào dịp sinh thần của mẫu phi Cảnh Vệ Ấp, y theo mẫu thân đến nhà chúc, còn muốn nói ít chuyện về tiểu thuyết kiếm hiệp với Cảnh Vệ Ấp, đợi đến khi tìm ra ở hậu viên, thì nhìn thấy Cảnh Vệ Ấp đang vui đùa cùng một đám hoàng tử trong tuyết. 

Ta nghe y bình thản thuật lại, khi ấy y đứng dưới mái hiên, xa xa trông thấy, giữa bầu không tuyết trắng đó Cảnh Vệ Ấp lần lượt bế các hoàng tử lên bẻ một nhành mai nở rộ hoa, y bỗng nhiên hiểu ra, lời của tổ phụ, Liễu thị và Hoài Vương không phải người chung đường là có ý gì, ngày ấy khung cảnh cũng tựa như bức hoạ, nhưng y vốn được định sẵn chỉ là một người nhìn ngắm bức hoạ ấy mà thôi.

Nhân sinh có vài đạo lý, lúc ngộ ra chỉ trong tích tắc.

Liễu Đồng Ỷ buông chén trà, “Là người thưởng thức tranh vẽ, rất hợp với ta.”

Vì thế mà từ đó trở đi, y cũng chỉ đứng từ xa mà quan sát thôi.

Đứng bên ngoài sẽ thấy rất rõ những điều mà nhiều người trong tranh không nhìn thấy.

Thí dụ như thứ người đó thích, thí dụ như thói quen của người đó, thí dụ như người vẫn luôn nhất mực ở bên cạnh người đó, người người đó thật sự thích, người thích hợp với người đó là ai.

Răng của ta hơi ê buốt, ta nhíu mày nói, “Thế nên ngươi mới nói cho hắn biết người hắn thật sự thích là Vân Dục?” Ta bỗng nhiên cảm thấy sau gáy y đang toả ra vầng hào quang.

“Ngươi có phải cảm thấy làm như vậy thì, ngươi rất là cao thượng, rất là giỏi hiểu lòng người khác, dường như sắp dẫm lên đám mây, lập tức bay lên trời không?”

Liễu Đồng Ỷ đáp, “Người y thích không phải ta, cho nên tại một thời điểm khác trong tương lai cũng sẽ tỉnh lại mà thôi, khi đó thì ai cũng rước lấy phiền não. Ta kỳ thực không muốn bản thân bị thiệt hại.” Y cười, “Thực tế ta là một người ích kỷ sợ phiền toái.”

Ta không nói gì, chỉ vớ lấy cái bánh bỏ vào miệng, rồi nhấp ngụm trà, “Vậy giờ ngươi cứu hắn, cũng không thể coi là bàng quan chứ.”

Liễu Đồng Ỷ đáp, “Chẳng qua là bức tranh có thể bị gấp lại, người xem là ta lại đem nó trải phẳng ra mà thôi. Ta cũng không muốn lúc ngắm lại ngắm không được.”

Ta triệt để không còn gì để nói, cảm thấy ánh hào quang toát ra sau gáy y thật làm đau mắt ta.

“Bỏ đi, ngươi xem hoài cũng thấy mệt chứ, chẳng bằng ta thích ngươi, ngươi thích ta, đôi bên yêu nhau, còn thích hơn.”

Ta cắn miếng bánh bơ củ sen, kiến nghị một cách chân thật, “Hiện giờ ta giết Cảnh Vệ Ấp đi, ta và ngươi bắt đầu lại!”

Liễu Đồng Ỷ bỗng biến sắc, ta cười ha hả, “Lừa ngươi thôi, ngươi đã nói thật với ta, ta cũng nói cho ngươi biết làm thế nào để đuổi con quỷ ta đi.”

Ta đứng lên, phủi phủi y phục, “Ngươi đi tìm ít gỗ đào và rượu vàng đun với nhau, sau đó cho Cảnh Vệ Ấp uống, ta sẽ không trụ lại được. Gỗ đào có thể đuổi quỷ, cho nên không gây tổn hại gì với Cảnh Vệ Ấp.”

Liễu Đồng Ỷ nhíu mày, “Nhưng ngươi…”

Ta đáp, “Ai, giờ lại làm một con cô hồn dã quỷ thôi, nếu như ngươi muốn cảm ơn ta, thì đốt cho ta nhiều tiền giấy, làm chút công đức, biết đâu ta có thể xuống địa phủ. Nhưng mà, ngươi hỏi ta những chuyện đó, ta đã rất thoả mãn rồi.”

Ta đi vào trong viện, nhìn loanh quanh một thoáng, trước đây ta luôn muốn đến Giang Nam, không ngờ đến Giang Nam rồi, cuối cùng chỉ nhìn thấy được mấy cái sân.

Liễu Đồng Ỷ vẫn đứng chỗ hành lang, ta nói, “Ngươi nhanh tìm đi, đêm nay thái dương xuống núi để ta uống rồi đi, không phải chờ đến ngày mai.” Ta xoay người, “Ta ở trong viện kế bên chờ ngươi.”

Chiều đến, Liễu Đồng Ỷ y hẹn tới, ta nheo mắt nhìn rượu và cành đào y cầm trong tay, lại nhìn trời một chút, giờ còn sớm, đến lúc hoàng hôn vẫn còn chút thời gian.

Ta xách một cái bếp đồng nhỏ và một cái nồi bé xíu để Liễu Đồng Ỷ nấu rượu, ngồi yên một bên nhìn.

Rượu vàng đổ vào trong nồi, mùi rượu tứ tán, ta tiến đến ôm Liễu Đồng Ỷ, rồi hạ một nụ hôn.

Y hơi đổi sắc, ta buông y ra, “Không có gì đâu, ta chỉ có một chút không cam tâm, sau này không còn hôn được nữa.”

Liễu Đồng Ỷ nhẹ giọng hỏi ta, “Ngày ấy rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”

Ta ngồi dưới bậc thang, “Ta có thể đi ra là được rồi, ngươi hỏi gì lắm thế?”

Liễu Đồng Ỷ đối đáp, “Dầu gì ngươi cũng đi, tại sao không thể nói cho ta biết?”

Ta thảng cười với y, nhưng không trả lời.

Rượu ngâm cành đào đun cũng đủ giờ, ta tiến lại gần, xách lên, rót vào chén.

Rượu ánh lên sáng mờ bởi nắng chiều, ta lấy trong tay áo ra một tờ giấy cuốn lại đưa cho Liễu Đồng Ỷ, ta nhìn Liễu Đồng Ỷ giở ra thật chăm chú,  hỏi, “Thế nào? Tranh của ta đẹp hơn Cảnh Vệ Ấp nhiều chứ.”

Đây là bức tranh cảnh tuyết mà Liễu Đồng Ỷ hôm nay kể lại do ta tưởng tượng ra, khi y còn trẻ đứng dưới hành lang, nhìn Cảnh Vế Ấp và đám hoàng tử ngắt mai trong tuyết.

Ta không biết Liễu Đồng Ỷ khi còn trẻ trông thế nào, chỉ bằng trí tưởng tượng mà vẽ, nhưng ta nghĩ, ta nhất định vẽ giống hơn tranh của Cảnh Vệ Ấp nhiều.

“Ngươi coi hắn là người trong tranh, thì tất nhiên cũng có người đặt ngươi vào trong tranh.”

Ta chỉ là muốn đưa bức tranh này, nói với Liễu Đồng Ỷ những lời này.

Ta nâng tay áo của y, “Nhiên Tư, ngươi có biết vì sao ta tình nguyện đi không, bởi vì khi ngươi nói với ta những lời ấy, ta thực sự rất thích ngươi, thực sự.”

Ánh tịch dương chiếu chênh chếch, trong một lúc nhất thời, ta hoa mắt rồi, hình như y cũng hơi hơi thích ta rồi thì phải.

Ta buông tay áo y ra, “Bỏ đi, những tưởng phút cuối có thể lừa người mềm lòng, có điều dù là quỷ cũng sẽ hết lòng tuân thủ ước hẹn.”

Ta bưng chén rượu lên, uống một hơi cạn sạch, rồi lại chỉ chỉ bức tranh trong tay y, “Lạc khoản trong ấy, là nhũ danh của ta.”

Thân thể dần dần hơi bồng bềnh, ta vô cùng vất vả tích góp từng chút quỷ khí đang tiêu tán khắp chốn.

Ta nằm trên sập mát lạnh, Liễu Đồng Ỷ nắm lấy tay áo của ta, “Ngươi…”

Liễu Đồng Ỷ, kỳ thực việc ngươi đoán ta là ai, đoán sai mất rồi.

Cho dù người khôn khéo cách mấy, cũng không thể đoán đúng. 

Ta thở một hơi, “Ừm, Tử Thấu là nhũ danh của trẫm.”

“Trẫm là Cảnh Thúc, vốn dĩ trẫm nên ở tông miếu hưởng nhang đèn.”

“Ngươi vốn dĩ nên gọi trẫm là Thái Tông hoàng đế.”

“Người toạ giang sơn nhập tông miếu, là em ruột Cảnh Viên của trẫm.”

“Tổ tiên Liễu Cần của ngươi và mẫu hậu nghĩ trẫm giỏi về thi hoạ, không thích hợp làm vua, thế nên đưa Tấn Vương lên ngôi, mượn tên Trần Vương thế tử đem trẫm giam vào trong nhà lao.”

Ta và Cảnh Viên vốn là anh em song sinh, chỉ vì ta sinh sớm hơn nó vài giây mà chiếm phần hơn, vì vậy mà ta làm thái tử.

Ta vốn dĩ vô tình làm thái tử, Cảnh Viên giỏi võ nghệ, thiện cưỡi ngựa bắn cung, thích nghiên cứu binh pháp, cực kỳ giống phụ hoàng. Ta từng đề cập với phụ hoàng mấy bận, đem ngôi vị thái tử giao cho Cảnh Viên.

Ta rất thật lòng, nhưng Cảnh Viên cho ta phòng bị nó. Kiên quyết chối từ.

Khi đó Liễu thái phó, mẫu hậu đều nói trước phụ hoàng rằng, cần phải lập trưởng tử làm thái tử, làm gương cho hậu thế.

Nhưng phụ hoàng vừa băng hà, đêm ta đăng cơ, mẫu hậu và thái phó liền cho người đánh thuốc mê ta, khi tỉnh lại, đã thấy trong nhà giam.

Khi ấy gian nhà đá cực kỳ bí ẩn, bốn bề là tường, chỉ có một ô cửa nhỏ. Mẫu hậu, Liễu thái phó, còn có vài trung thần khác ở trong lao tận tình khuyên ta hết lời, nhường cho Tấn Vương lên ngôi, bởi vì ta không thích hợp làm hoàng đế, cứ như ta làm hoàng đế, giang sơn Cảnh thị ắt bị diệt vong vậy.

Ta chỉ không hiểu, khi ta muốn nhường ra mặt, bọn họ không chịu, ta thực sự làm, bọn họ lại muốn đoạt, đây là vì sao?

Ta đã hiểu rồi, cho dù ta đồng ý, ta biến thành Cảnh Viên, Cảnh Viên làm hoàng đế, cả đời ta nhất định cũng sẽ không yên, một đời bị phòng bị.

Chi bằng chấm dứt triệt để, bọn họ an lòng, ta cũng được giải thoát.

Khi đó trong nhà lao cũng không có ai trông coi, chỉ có mình ta. Ta nghĩ Cảnh Viên, mẫu hậu, Liễu thái phó chắc cũng ngấm ngầm mong ta làm thế.

Mẫu hậu và Liễu thái phó còn đưa áo mũ Cảnh Viên cho ta, nếu ta đồng ý thì mặc vào.  Đai lưng màu tím thắt trong áo bào là của ta tặng Cảnh Viên. Khi ấy Cảnh Viên còn cười bảo dài quá, đủ cho hai người dùng, nhưng vì cắt đai lưng là điềm không tốt, nên nó đành chấp nhận dùng đỡ. Không nghĩ rằng giờ nó lại đủ dài cho ta dùng lúc này.

Lúc tòng teng giữa không trung, ta thực sự cho là từ giờ đã xong xuôi rồi.

Chỉ là, ta không nghĩ chuyện quỷ treo cổ không được đầu thai là có thật, chết thì rất thuận lợi, nhưng sau đó lại bị giày vò, sớm biết thế, ta thà cả đời làm Tấn Vương, chịu mang vạ vài chục năm còn hơn.

Thác thân vào Cảnh Vệ Ấp, sau khi rời khỏi nhà giam rồi, ta phát giác ra thiên hạ thực sự được cai trị rất tốt. Giả như khi ấy ta làm hoàng đế, có thể giang sơn sẽ không được phồn vinh như hiện tại.

Giả như sự đời là một ván cờ, có lẽ ta đã định sẵn làm một quân cờ thí vì toàn cục, quả là có một nỗi oán khí khó nuốt trôi.

Mẫu hậu sinh ta nuôi ta luôn dịu dàng hiền hậu, thái phó luôn tận tình khuyên bảo dạy dỗ ta làm sao để trở thành minh quân, Cảnh Viên khi còn bé luôn như bóng như hình với ta, toàn bộ mọi chuyện đều là giả dối.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro