Quyển 4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 121: Tế Nam

Có câu "sông có khúc, người có lúc", xưa nay họa phúc sớm chiều do trời định, phàm nhân há rõ tận tường?

Hậu Chiêu năm Kiến Nguyên thứ hai mươi hai, vận mệnh phồn vinh thịnh vượng của ngôi sao Tào thị dường như đã đi đến hồi kết.

Tháng giêng, Bắc Đẩu Văn Khúc chết ở thành Vĩnh Châu, mùa hạ năm ấy, Hoàng Hà lại vỡ đê.

Tin tức Bắc đế bệnh nặng lan truyền nhanh chóng, thái tử vô năng, nhi tử của kỹ nữ là Tào Ninh dã tâm bừng bừng, bướng bỉnh không chịu phụng chiếu, tự đưa binh ra trước trận hai quân.

Mà Nam triều đã ngủ đông hơn 20 năm cũng trời long đất lở.

Vào cuối xuân tế tổ ở thái miếu, Kiến Nguyên hoàng đế đột nhiên thề đoạt lại đất đai đã mất, nhất thống bắc nam. Kế đó, ông thay đổi vẻ ôn hòa nhã nhặn trước đây, lộ ra răng nanh đã dùi mài sắc bén.

Mồng ba tháng tư, thái phó Phạm Chính và vây cánh trong triều gồm 13 trọng thần bị xét nhà điều tra không chút điềm báo trước. Ba ngày sau đó, trưởng hoàng tử Khang vương vì tội không nghiêm trước mặt vua, mặc sức nô lệ hành hung, "trong phủ nuôi dưỡng mấy mươi võ sĩ làm môn khách, đao rìu đầy kho, phóng túng không đoan chính, dẫu không thực mưu phản, nhưng há không có tâm vượt quá giới hạn", bị ngự sử vạch tội đầy đầu, Kiến Nguyên Đế giận dữ, hạ lệnh tước vương vị Khang vương, cấm túc trong phủ chờ xử lý.

Cũng trong đêm đó, mẹ là quý phi Phạm thị tự vẫn sau thành cung.

Chớp mắt, hướng gió ở Nam đô Kim Lăng thay đổi.

Hoàng đế bị đủ quyền thần phức tạp chèn ép hơn hai mươi năm càng chưa thỏa mãn, lục bộ cửu khanh trong vòng nửa tháng đã vơi mất hai, ba phần mười, vô số khuôn mặt bình thường im hơi lặng tiếng nay một bước lên mây. Cuối tháng, thái học sinh thỉnh nguyện ngự tiền, Kiến Nguyên Đế thờ ơ bỏ mặc, cách ngày liền dùng tội danh "dùng lời lẽ gian tà mê hoặc người khác" bắt tám kẻ chủ mưu, liên lụy mấy vị đại thần trong triều.

Một loạt động tác có thể nói là "dò âm mưu, đoạt uy thế, như sấm vang chớp giật".

Cả triều trên dưới, bầy quạ im hơi.

Kiến Nguyên hoàng đế khăng khăng xuất quân Bắc phạt, chuyện này đã là chắc chắn.

Tháng chín trong năm, ngọn lửa chiến tranh từ Thục Trung cháy lan ra như nghiêng chậu nước sôi, thế không thể cản làm ngập hơn nửa giang sơn, Tào Ninh và Chu Dĩ Đường đấu tranh trực diện, có thắng có bại, hơn mười thành trì nơi tiền tuyến nhiều lần đổi chủ.

Kể cũng lạ, năm xưa lúc Tào Ninh tập kích 48 trại, bách tính Thục Trung như đại họa lâm đầu, thi nhau bỏ chạy, chỉ lo bị cuốn vào trong chiến hỏa.

Đợi sau đó khi thực sự chiến tranh, mọi người qua cơn kinh hoảng thì cũng giống trấn nhỏ dưới chân Hành Sơn không ai quản lý năm xưa, nhanh chóng thích ứng với thế đạo mới.

Chính là thời bình có cách sống của thời bình, thời loạn có cách sống của thời loạn, chốn chợ búa thôn quê có rất nhiều thủ đoạn lưu manh vô lại, cứ như thiên bẩm, những người đó như cỏ dại dưới đá nơi vách núi cheo leo hiểm trở, tuy không xanh um tươi tốt, nhưng dẫu sao vẫn luôn sống.

Chiến sự tiền tuyến Nam Bắc thình lình căng thẳng, chỉ Tào Ninh có thể khống chế. Chiến sự đã nổi, thời điểm này bất luận thế nào cũng không thể động đến hắn ta, đành trơ mắt nhìn hắn ta làm lớn trong quân. Bắc thái tử như nắm trong tay chó dữ đấu với bầy sói, buông tay cũng không phải, mà không buông tay cũng không phải, không còn cách nào khác, đành vắt óc sai người thu thập đủ loại linh đan diệu dược trong dân gian, chỉ cầu Tào Trọng Côn đừng rời xa nhân thế lúc này.

Bắc Đẩu Lục Dao Quang và Cốc Thiên Toàn đi theo quân, còn lại Thẩm Thiên Khu và Đồng Khai Dương phụng mệnh Đông cung Bắc triều, không ngừng lăn lộn trong giang hồ, hận không thể đào ba thước đất, gây nên sóng gió, khiến ai nghe cũng sợ hãi.

Những môn phái nhỏ bé đi khắp nơi tìm kiếm sự che chở, bệnh nặng vái tứ phương, không cần mặt mũi, thậm chí chạy đi nhờ vả ngay cả đại ma đầu.

"Đại ma đầu" này cần phải nói rõ tí.

Kẻ ác nhất võ lâm Trung Nguyên hiện tại sớm đã không còn là mấy đồ cổ núi Hoạt Nhân Tử Nhân nữa.

Tại "chinh Bắc anh hùng hội" năm Kiến Nguyên thứ hai mươi hai, Đinh Khôi thần không biết quỷ không hay chết ngoài thành Vĩnh Châu, Mộc Tiểu Kiều và Phùng Phi Hoa từ đó mai danh ẩn tích, không rõ sống chết, núi Hoạt Nhân Tử Nhân triệt để đi đến hồi kết.

Lớp trước ngã xuống, lớp sau vùng dậy. Danh tiếng của một gã luôn đeo mặt nạ sắt bắt đầu nổi lên.

Gã này chưa từng tiết lộ danh tính thực, người ngoài đều không biết sư môn bằng hữu gã nơi nào, tựa như chui ra từ kẽ đá rồi thình lình đại sát tứ phương.

Gã tự xưng mình là "Thanh Huy chân nhân", vì võ công gã cực cao, thủ đoạn cực ác nên người đương thời gọi gã là "Thiết diện ma".

Sở thích Thiết diện ma mới mẻ kỳ lạ, vừa xuất thế liền ra tay xử lý Huyền Vũ chúa Đinh Khôi, sau đó chiếm lấy núi Hoạt Nhân Tử Nhân.

Tin tức này còn chưa khiến những người khắp nơi ghét ác như thù vỗ tay khoái trá thì mọi người liền phát hiện, so với bốn vị trước, Thiết diện ma chỉ hơn chứ không kém, bản lĩnh làm mưa làm gió hoàn toàn là "Trường Giang sóng sau xô sóng trước".

Dần dần, mọi người không còn nhắc tới tứ thánh một thời gió tanh mưa máu năm xưa nữa, họ đã có một kẻ thù chung khác để nói lúc trà dư tửu hậu.

Chớp mắt, thoáng đó đã ba năm.

Năm Kiến Nguyên thứ hai mươi lăm, vừa qua tết trung thu.

Tế Nam phủ không biết năm nay sao lại mưa nhiều đến vậy, mưa to đã rơi liên tục một ngày một đêm, mặt đất thấm đầy nước mưa lạnh lẽo, chút nóng ẩm còn sót lại cuối cùng đã không thể trụ tiếp, tan rã chìm xuống lòng đất, nổi lên một lớp lá vàng dày đặc.

Tế Nam phủ tuy thuộc địa giới Bắc triều nhưng trước mắt vẫn xem như thái bình.

Mấy năm nay người có chút đầu óc sẽ nhắm tới tiền tài quốc nạn, không ít kẻ to gan biết chút thủ đoạn giang hồ bắt đầu làm việc mua bán dạo suốt từ nam tới bắc, cái gì cũng bán, lương thực, vải vóc, vũ khí, đồ sắt... thậm chí mấy thứ như muối và dược liệu, chỉ cần dọc đường bình an vô sự thì đi một vòng như vậy, những món đồ bình thường cũng có thể bán với giá trên trời, lợi nhuận lớn đến mức có thể khiến người ta làm càn.

Vì để tránh chiến tranh, những người buôn bán dạo thông thường đều đi theo đường duyên hải phía đông, đa phần đều qua Tế Nam, dần dần sinh ra chợ địa phương theo thời thế, ở thời buổi này vậy mà lại sinh ra mấy tầng phồn hoa quỷ dị.

Rời nhà ra ngoài, không thể không qua lại với những người "xe thuyền tiệm", cho nên phàm là đại thương hộ có chút thể diện đều có liên hệ với Hành Tẩu Bang. Tế Nam phủ có "khách điếm Hồng Vận" vốn là một hắc điếm dưới trướng Hành Tẩu Bang, không ngờ mấy năm nay người ghé trọ đều là khách quý cầm theo "Biên Bức lệnh", khiến họ ngày nào cũng phải đón đưa, còn bận rộn hơn cả mấy chỗ làm ăn đàng hoàng, bận tới mức tối mày tối mặt, không còn hơi sức đâu nghĩ chuyện hại người, lâu dần liền được tẩy trắng thành một nơi kinh doanh đàng hoàng, còn mở rộng thêm một tầng lầu.

Chạng vạng hôm đó, một con tuấn mã đội mưa lao tới, hí một tiếng dừng ở cửa, hất bờm văng một đống nước, đắc ý kêu lên hai tiếng.

Tiểu nhị rất lanh lẹ, vội cầm cây dù trúc ra cổng chào: "Khách quan có ở trọ không? Còn phòng trống đấy!"

Người trên lưng ngựa đội nón rộng vành, tay cầm trường đao. Người đó tung người xuống ngựa, đưa dây cương qua, gật đầu nói: "Làm phiền."

Tiểu nhị lúc này mới nhận ra đó là một cô nương trẻ, hơn nửa khuôn mặt bị khuất dưới nón, chỉ lộ cái cằm hơi nhọn trắng trẻo, vài sợi tóc dài bị nước mưa làm ướt dính bên tai, lộ ra vành tai xinh xắn, chỉ một dáng vẻ thoáng qua liền biết nàng tuyệt đối không xấu.

Tiểu nhị vừa dắt ngựa vừa len lén quan sát nàng, thấy nàng cầm theo đao cũng không sợ mà vui vẻ hỏi: "Nữ hiệp đi đường vất vả có mang theo Biên Bức lệnh không? Có Biên Bức lệnh của chúng tôi thì ăn ở đều rẻ hơn ba phần."

Nữ khách kia khựng lại, không ngờ Hành Tẩu Bang nơi này lại đặc biệt thế, gióng trống khua chiêng chuyện làm ăn, nàng không khỏi nghiêng đầu hỏi: "Sao?"

Cái nghiêng đầu này khiến tiểu nhị nhìn rõ mặt nàng, lòng thầm nhủ "đẹp quá", nụ cười trên mặt càng chân thành hơn ba phần, nói: "Tình thế đặc biệt, chúng tôi cũng là bị ép thôi."

Ép một đám đại lưu manh theo con đường lương thiện.

Nữ khách cười, khoát tay, bóng đỏ trong lòng bàn tay lóe lên, lộ ra một khối Ngũ Bức ấn được điêu khắc từ mã não.

"Ngũ Bức!" Tiểu nhị giật mình, lập tức biết đối phương có quan hệ không tầm thường với Hành Tẩu Bang, bèn vội khom người xuống, nói: "Mời, mời ngài vào ạ! Có chuyện gì có thể sai phái bất cứ lúc nào, muốn ăn gì cũng có thể tùy ý gọi, tiệm này không có thì chúng tiểu nhân có thể ra phố mua cho ngài."

Nữ khách kia khoát tay, chỉ nói một câu "không cần phiền như vậy" rồi đi thẳng vào, tìm một góc nhỏ gần cửa ngồi xuống, quay mặt về phía cửa chính, giống như là đợi người.

Khách điếm Hồng Vận rất náo nhiệt, khách ngồi đầy đại sảnh, mấy tiểu nhị sắp luyện ra công phu chạy như bay, băng tới băng lui giữa mọi người, hiển nhiên ai nấy đều có chút võ công.

Nữ khách tùy tiện gọi một bát mì nóng, nàng rõ ràng đã đói, mì vừa bưng tới là cắm đầu vào hơi nóng của mì, vừa ăn vừa nghe người bên cạnh huyên thuyên khoác lác làm thú vui tiêu khiển. Ở đây phần nhiều là thương nhân, hơi tiền nồng nặc, dăm ba câu là có thể rẽ tới chuyện tiền nong, ai nấy đều thổi phồng khoản thu nhập của mình lên, không biết thật hay giả mà nghe giống như nhà nào cũng có mỏ vàng vậy.

Chợt, bàn kế bên có một hán tử trung niên xấu xí nói: "Không biết chư vị có nghe chưa, dạo trước ta có một lão bằng hữu làm nghề buôn vải, lúc đi buôn bán thì gặp phải "kẻ đó"."

Ông ta vừa nói vừa huơ tay ra dấu.

Có người nhỏ giọng nói: "Thiết diện ma?"

Nữ khách đang uống canh dừng lại, nghiêng đầu nhìn sang, nói leo: "Ờm gì nhỉ ... Thiết diện ma đó không phải ở núi Hoạt Nhân Tử Nhân sao? Sao lại chạy sang phía đông?"

Hán tử mặt nhọn thấy người hỏi là một cô nương xinh đẹp liền bắt đầu nhiều lời, cố ý khoe khoang rằng mình hiểu biết, nói: "Cô nương nghĩ xem, ma đầu nuôi nhiều thuộc hạ như vậy lại không làm ăn kiếm sống thì ăn cái gì đây? Núi Hoạt Nhân Tử Nhân kia sớm đã thưa dấu chân người, có cướp cũng không có gì để cướp, khai chiến nhiều năm nay, đường bộ đường thủy đều không thông, tổng cộng chỉ có mấy con đường để đi thôi, ta nghe nói gã đó mấy ngày trước ở Tấn Dương mà nay đã chạy tới bên này rồi ... khụ, gã cũng biết đạo lý là lông dê không thể nhè một con mà bứt."

Bên cạnh có người vội hỏi: "Đừng nói lời thừa nữa, sau đó thì sao?"

"Thiết diện ma đó chặn đường, muốn thu "phí qua đường" bảy phần theo đầu người."

Hán tử mặt nhọn vừa dứt lời, mọi người có mặt thi nhau hít sâu một hơi.

"Bằng hữu kia của ta nhát gan tiếc mạng, thấy không ổn liền tự nhận mình xui xẻo, họ không làm khó nữa, đếm đủ số thì cho đi, những người từ chối hoặc cò kè mặc cả thì không còn ai hết, toàn bộ đều bị con sâu quỷ của gã mặt sắt kia hút thành người khô."

Có người phẫn nộ vỗ bàn nói: "Khinh người quá đáng!"

Những người có mặt nhất thời trở nên trầm mặc, họ vào nam ra bắc, vô lại cứng đầu, nhắc núi vàng núi bạc, toàn bộ đều là dáng vẻ giàu xổi kiêu căng, nhưng bây giờ lại thay đổi nhanh chóng thành tiểu dân yếu đuối không nơi nương tựa, hoảng hốt lo sợ cho tương lai của mình.

Qua một hồi, có người nói: "Ta nghe người ta nói ma đầu này không phải không gì cản được đâu, năm đó ở Vĩnh Châu, gã từng bại dưới tay "Nam đao" đấy."

Nữ khách ngồi trong góc vốn đang uống canh, nghe vậy lập tức sặc, nước canh của nàng có bỏ thêm ớt, nàng sặc đến mức đỏ mắt, vội kiếm nước trà, may mà mọi người ai nấy đều sầu lo phận mình nên không hề chú ý tới nàng. Nàng liếc nhìn xung quanh, lặng lẽ thu trường đao bên cạnh xuống dưới bàn, đeo vào eo mình phía bên dựa tường, chuôi đao đụng phải hà bao bên hông, nàng ngẫm nghĩ rồi cẩn thận cởi hà bao xuống nhét vào lòng.

Đúng lúc này, trong những người có mặt có người nhỏ giọng than thở: "Nhưng những đại hiệp tài giỏi ấy hiện đang ở phương nào? Mọi người nói xem cái thế đạo này, người hàng yêu phục ma thì đóng cửa không ra, mấy năm không lộ diện được một lần, ngược lại yêu ma quỷ quái thì hoành hành khắp chốn, sợ người khác không biết danh tiếng của mình ... Haiz, mấy năm trước có lời đồn rằng Hoắc Liên Đào Hoắc bảo chủ lừa đời lấy tiếng, là hung thủ hại chết huynh trưởng, ta thấy bây giờ còn không bằng khi ông ấy còn tại thế nữa là, tốt xấu gì khi đó mọi người còn có người để dựa dẫm, còn bây giờ, mọi người nói Hoắc bảo chủ là ngụy quân tử, là chân tiểu nhân, vậy chư vị đây không ngụy hãy đứng ra nói lời công đạo cho mọi người đi."

Nữ khách trong góc nghe lời này hơi ngơ ngác, muỗng canh trong tay khựng trên bát, hồi lâu không nhúc nhích.

Đột nhiên, cổng lớn khách điếm Hồng Vận mở ra, một nam tử cao to bước vào.

Người này không mang bất kỳ đồ đi mưa nào, bị nước mưa dội ướt nhẹp đầu cổ, sắc mặt trắng bệch, khóe mắt có vết bầm. Tướng mạo ông đường đường nhưng thần sắc căng thẳng, lúc vào thì đứng ở cửa, dùng ánh mắt địch ý lướt qua toàn bộ khách ở sảnh khách điếm rồi mới căng vai, xách trọng kiếm đi vào, không ít kẻ nhát gan tưởng ông đi báo thù, đang khẽ giọng nói chuyện cũng im bặt, ai ngờ ông vừa vào thì bị vấp bậc cửa, bước chân lảo đảo, suýt ngã chổng vó, bàn tay to vịn lên tường, hồi lâu mới bình ổn được hơi thở.

Như vậy xem ra, không giống đi báo thù mà ngược lại giống bị người ta truy sát hơn.

Tiểu nhị ngập ngừng bước lên chào hỏi: "Khách quan ..."

Nam tử kia đưa tay với tiểu nhị, trên tay có thứ gì đó lóe lên, người ở xa không nhìn rõ nhưng tiểu nhị lập tức biến sắc, vô cùng cung kính nói: "Thất kính, mời ngài mau vào bên trong ạ."

Nam tử kia khoát tay, đưa qua một nắm bạc vụn và một bầu rượu, nói: "Khỏi, ta phải gấp rút đi đường, phiền thêm cho ta một bình rượu và gói lương khô thịt khô ăn dọc đường, ta đi ngay."

Tiểu nhị không dám khuyên nữa, vâng dạ, nhận lấy bầu rượu nhưng không lấy ngân lượng, chạy ra sau bếp như một làn khói.

Nam tử toàn thân ướt đẫm hít sâu một hơi, gượng thẳng người dậy, dường như muốn tìm một chỗ tạm nghỉ chân nhưng nhìn quanh thấy những thương nhân bán dạo lộ vẻ mặt e ngại, thi nhau dời mắt, không chịu nhìn thẳng ông nhưng lại cứ âm thầm liếc mắt về phía ông.

Nam tử rất ngán ngẩm, qua một lát mới thấy một ghế trống trong góc, chính là bàn của vị nữ khách độc hành kia.

Ông do dự rồi đi tới nhỏ giọng nói: "Cô nương, ta ngồi nghỉ chân một lát được chứ?"

Cô nương ấy không nói gì, đưa tay ra hiệu cứ tự nhiên.

Gối nam tử như thình lình mất sức, tê liệt ngồi phịch xuống, làm cái ghế ma sát ra một tiếng "kẹtttt", toàn thân ông dựa vào tường, chỉ trong chốc lát liền nhắm mắt, ngực phập phồng yếu ớt, không biết là ngất hay ngủ.

Chương 122: Bất Bình

Tiểu nhị cực kỳ lanh lẹ, thành thạo chuẩn bị một bọc lương khô còn tỏa ra hơi nóng, kẹp thịt kho thái lát vào, trong bầu là rượu gạo làm xua đi cái lạnh, xong xuôi liền chạy lại chỗ bên cạnh nam tử nọ, nhỏ giọng kêu: "Khách quan, khách quan."

Nam tử nhắm mắt, dường như không nghe thấy.

"Haiz." Cô nương trẻ cùng bàn cuối cùng không kìm được, lên tiếng: "Đừng đẩy, ông ấy chảy nhiều máu lắm, ta còn ngửi thấy mùi nè, ngươi xem xem, có lẽ ông ấy ngất rồi."

Cô nương này chính là Lý Nghiên, ba năm trước muội ấy ham chơi, khóc lóc van nài đòi đi theo bọn Chu Phỉ trốn khỏi nhà, dù quay về có Chu Dĩ Đường hộ tống nhưng vẫn bị đại đương gia đánh cho một trận nên thân.

Lý Nghiên từ nhỏ đã được sủng ái, chưa có kinh nghiệm bị đánh, không ngờ là tích góp để dành tới năm 14 15 tuổi chịu một lần, nghe nói lúc đó muội ấy khóc như ma tru sói gào, âm thanh quanh quẩn suốt ba ngày, dư âm vang mãi không suy, dọa hãi hùng một đám tiểu đệ tử.

Sau lần đó, cuối cùng Lý Nghiên đã dụng chút ít tâm vào việc tập võ, đầu năm nay, muội ấy đã lấy được thành tích là bốn tờ giấy hoa ở Tú Sơn Đường một cách hiểm hóc, được cầm lệnh bài xuống núi.

Đây là lần đầu tiên Lý Nghiên quang minh chính đại ra ngoài làm việc, muội ấy đi cùng Lý Thịnh, thay Lý Cẩn Dung đi một đường từ tây sang đông, chính là "bắt mạch" theo thông lệ của trại. Đây là quy củ mới đặt ra sau lần các trạm ngầm của 48 trại bị thất thủ quy mô lớn hồi mấy năm trước. Đầu tiên là trong trại gửi ra một xấp thư rồi phái mấy đệ tử âm thầm điều tra các trạm ngầm dọc theo đường đưa thư, người "bắt mạch" không cần lộ diện, chỉ cần đến mỗi nơi quẩn quanh vài ngày, thấy thư không có gì khác thường là họ có thể rời đi.

Nhóm Lý Nghiên đi theo đường thẳng vào Đông Hải, Tế Nam phủ chính là trạm cuối cùng.

Dù là Chu Phỉ và Lý Thịnh thì lần đầu xuống núi cũng chỉ làm nhiệm vụ của tùy tùng ... tuy rằng sau đó do duyên trời run rủi mà tính chất thay đổi ... nên lần này Lý Nghiên chỉ là đi theo Lý Thịnh cho quen đường quen lối, trừ để ca ca răn dạy mấy trận thì không có tác dụng gì.

Không ngờ ban nãy ở ngoài thành, không biết Lý Thịnh nhìn thấy gì mà nhấc chân muốn đuổi theo, chỉ vội vàng dặn dò muội ấy một câu, bảo muội ấy đợi trong khách điếm Hồng Vận.

Ý định ban đầu của Lý Thịnh là đuổi muội ấy vào một khách điếm nhỏ ăn tô mì, còn Y đi một lát rồi về, ai ngờ Lý Nghiên từ nhỏ đến lớn trừ lần bị Dương Cẩn bắt thì chưa từng rời khỏi ca ca tỷ tỷ và các trưởng bối trong trại bao giờ, thình lình bị bỏ lại liền như chim hoàng yến được sổ lồng lần đầu tiên trong đời. Muội ấy chỉ hận không thể lập tức tung cánh vui chơi vẫy vùng trời cao, nhưng lại mơ hồ thấp thỏm bất an nên cố sức vờ vịt ra vẻ bình tĩnh trải đời, biến khách điếm Hồng Vận nho nhỏ trong thành Tế Nam thành nơi thám hiểm.

Thế mà muội ấy thật nghĩ gì gặp nấy, chỉ ăn tô mì thôi cũng xảy ra "chuyện ngoài ý muốn".

Tiểu nhị nghe lời muội ấy nói thì bị dọa nhảy lên, cẩn thận đưa tay lay nam tử kia, thấy sắc mặt ông tái xám, môi hơi xanh, quả nhiên vô cùng không ổn. Cú lay này khiến cánh tay đặt bên hông ông rơi xuống, mùi máu từ eo bay ra, nhìn kỹ thì máu đã thấm ra ngoài áo đen, bị thương không nhẹ.

Tiểu nhị khó xử, không biết làm sao cho phải, bèn quay đầu đưa mắt nhìn chưởng quỹ.

Chưởng quỹ khách điếm Hồng Vận là một ông lão nhỏ con, tay gảy bàn tính, ánh mắt nội liễm, là một nội công cao thủ.

Chưởng quỹ gật đầu với tiểu nhị, lập tức có một người khác chạy ra giúp đỡ, định dìu nam tử xuống.

Đúng lúc này, ngoài khách điếm chợt có một tràng tiếng ngựa hí truyền tới. Dường như có một nhóm đông người đội mưa cưỡi ngựa chạy nhanh đến.

Lý Nghiên không hiểu sao chợt có linh cảm chẳng lành, vội cúi đầu, lẹ làng húp hết nước mì còn lại vào bụng. Muội ấy chưa kịp lau sạch miệng thì mấy người áo đen đội nón đã ngang nhiên xông vào, kẻ cầm đầu duỗi tay dài ra, mặt không cảm xúc giơ lên một khối lệnh bài, ngạo mạn cho mọi người trong sảnh đều xem.

Tai Lý Nghiên cực nhạy, trong nháy mắt đã nghe thấy nhiều tiếng hít không khí, xa xa có người nhỏ giọng nói: "Mẹ ta ơi, sao Bắc Đẩu lại tới rồi?"

Lý Nghiên mở to mắt.

Lệnh bài mở đường, theo sau là nhiều kẻ áo đen Bắc Đẩu nối đuôi nhau vào rồi chia ra đứng hai hàng.

Một nam tử trung niên chậm rãi bước vào, người áo đen phía sau cung kính khép nép che dù cho ông ta, ông ta tướng mạo đường đường, mặc quan bào đỏ thẫm, chân đi ủng cao, tay xách bội đao, nghiêm chỉnh đến mức có thể trực tiếp lên triều.

Hiện còn tứ đại Bắc Đẩu, Lý Nghiên từng gặp hai người, nhưng nghe nói Thẩm Thiên Khu là kẻ cụt tay tướng tá tiều tụy, hình tượng không giống quan lão gia trung niên này, muội ấy ngẫm nghĩ --- Lẽ nào là Vũ Khúc Đồng Khai Dương của Bắc Đẩu?

Đám người kia vừa vào, khách điếm lập tức yên lặng như tờ.

Chưởng quỹ của Hành Tẩu Bang không còn lo gảy bàn tính sau quầy nữa, vội nhanh chân tách mọi người ra tiến lên trước, vái sâu nói: "Chư vị đại nhân, thảo dân làm buôn bán nhỏ, không hề vi phạm pháp luật, thuế má đều đã đóng đủ từ lâu, chưa bao giờ khất nợ, chẳng hay chư vị đại nhân đến có việc gì ạ?"

Người trung niên mặc quan bào đỏ liếc ông, cười nói: "Sao, không có chuyện gì thì bọn ta không thể tới ở trọ à?"

Thái dương chưởng quỹ toát mồ hôi lạnh, cười hùa theo: "Đương nhiên, đương nhiên, chỉ cần các quan gia không chê tiểu điếm chúng tôi giản dị là được ... ôi, người đâu ..."

"Không cần." Nam tử mặc quan bào khoát tay, nghiêm mặt nói việc công: "Bắc Đẩu tróc nã khâm phạm triều đình, người không liên quan tránh lui, kẻ cản trở sẽ xử lý như đồng bọn!"

Lý Nghiên nghe hai chữ "khâm phạm" là lập tức liên tưởng đến vết thương trên eo vị khách kỳ lạ trước mắt, muội ấy không kịp suy nghĩ, ỷ mình đang ở trong góc được một đám người che chắn, bèn đưa tay cầm chén nước lạnh dùng để rửa chén đũa trên bàn, xoay cổ tay, hất nửa chén nước lạnh không lãng phí giọt nào lên mặt nam nhân kia.

Nam tử bị trọng thương không biết đã bị truy sát bao lâu, vào khoảnh khắc bị giội nước liền tỉnh táo, mắt sáng như đuốc.

Cùng lúc đó, nam tử quan bào đỏ quát: "Bắt!"

Lý Nghiên hoa mắt, thấy người bị trọng thương đột nhiên trở mình vùng dậy, trọng kiếm đặt ngang trước ngực, "keng" một tiếng như rồng ẩn mình lao ra mặt nước, quét ngang ngực tên Bắc Đẩu đầu tiên xông tới, võ công của ông cực ít màu mè, nhưng chiêu nào chiêu nấy đều chuẩn xác, lội ngược dòng giữa đám Bắc Đẩu, ngạo nghễ vô song, chớp mắt đã lao tới cửa.

Người trung niên mặc quan bào đỏ quát: "Phế vật!"

Kế đó, không thấy hắn ta có động tác gì lớn mà bóng người lóe lên, không hiểu sao đã đến ngay cửa. Bội đao xinh đẹp trong tay hắn ta hơi rộng hơn của nam tử bình thường, trở mình như rắn độc quấn lấy người bị trọng thương.

Nam tử bị thương không dám cứng rắn đón đỡ, đành lùi về sau, nam tử quan bào đỏ cười lạnh, liên tiếp xuất ba đao, chiêu càng lúc càng nhanh mà vạt áo và ống tay áo không mảy may dao động, chẳng mấy chốc đã ép người ra ngoài cửa quay vào trong khách điếm.

Lúc này, đám người trong khách điếm đã bị dọa chạy tứ tán, đâu đâu cũng là bàn chén bừa bãi, đại sảnh như chật kín ban nãy bỗng trống ra một khoảng to.

Bọn Bắc Đẩu được huấn luyện nghiêm chỉnh quây thành một vòng, bao vây người bị thương kia vào giữa.

Người bị trọng thương kia hiển nhiên là nỏ mạnh hết đà, vô thức đưa tay đè vết thương trên eo, không kìm được thở dốc.

Người mặc quan bào đỏ nói: "Lưu Hữu Lương, bệ hạ đối đãi ngươi không bạc, ngươi ăn cây táo rào cây sung vậy sao?"

Lý Nghiên thầm nghĩ --- Hóa ra người này tên Lưu Hữu Lương.

Muội ấy mơ hồ cảm thấy cái tên này nghe quen quen, hình như dọc đường từng nghe ai đó nhắc tới nhưng nhất thời không nhớ ra được.

May mà Lý Nghiên trí nhớ chả ra sao nhưng tai lại rất thính, muội ấy nghe có người nhạy tin tức nhỏ giọng nói: "Lưu Hữu Lương nào? Không phải là Lưu Hữu Lương đại thống lĩnh ngự lâm quân chứ? Thật kỳ lạ, sao một đại quan lại thành khâm phạm triều đình?"

Bên cạnh có người "suỵt" một tiếng, suỵt xong nhưng bản thân lại không nhịn được, nói tiếp: "Sao không được chứ, ngươi quên "Trung Vũ tướng quân" họ Ngô rồi à?"

Gió thu xào xạc thổi vào qua cánh cửa rộng mở của khách điếm khiến người ta rét lạnh từng cơn.

Mồ hôi lạnh của Lưu Hữu Lương chảy xuôi theo tóc mai bị giội nước chưa khô xuống dưới, môi cũng không kìm được run run, không đáp.

Người mặc quan bào đỏ quét mắt qua toàn bộ những kẻ bất giác xem trò vui trong khách điếm, cười sâu xa nói: "Ta biết Lưu thống lĩnh mềm lòng, chắc chắn không chịu nói lời quan trọng ở nơi này, bằng không chẳng phải sẽ liên lụy bách tính vô tội trong cả khách điếm hay sao?"

Lý Nghiên nhất thời chưa nhận ra hàm ý trong lời này, nhưng trong những người ở đây có kẻ lão luyện giang hồ lặng lẽ thay đổi sắc mặt. Bắc Đẩu truy sát Lưu Hữu Lương suốt đường, nếu không phải là ông đã phạm vào chuyện gì đó thì chính là ông biết bí mật quan trọng nào đó. Người mặc quan bào đỏ đang uy hiếp ông, nếu ông dám mở miệng tiết lộ một chữ thì bất kể nơi này có ai nghe hay không, Bắc Đẩu đều sẽ giết sạch!

Lưu Hữu Lương thở hổn hển như cái ống khói cũ, có thể nghe được tạp âm từ trong phổi truyền ra.

Người mặc quan bào đỏ thở dài, khuyên nhủ: "Đừng tiếp tục cố chống đỡ nữa."

Lời hắn ta chưa dứt, Lưu Hữu Lương thình lình giơ kiếm ra trước, trọng kiếm cực nhanh lao thẳng tới mặt người mặc quan bào đỏ, người mặc quan bào đỏ cười to một tiếng như đang chế giễu đối phương không biết tự lượng sức, tiện tay tiếp chiêu.

Lão chưởng quỹ của khách điếm Hồng Vận thấy chuyện này khó mà êm thấm, bèn vội tiến lên vái nói: "Quý khách! Hai vị quý khách xin thương xót, đừng động thủ trong tiệm."

Người mặc quan bào đỏ ngạo mạn nói: "Đống bàn ghế mục này ta đền, lão già, không có chuyện của ông, cút sang một bên!"

Thấy Lưu Hữu Lương bị người mặc quan bào đỏ vờn như mèo vờn chuột sắp bị ép tới thổ huyết, Lý Nghiên vô thức sờ thanh đao bên hông mình, thầm nghĩ --- Nếu A Phỉ ở đây, tỷ ấy đảm bảo sẽ không trơ mắt nhìn.

Ý nghĩ này chợt lóe, Lý Nghiên lặng lẽ đẩy đao ra một chút.

Nhưng liền sau đó, muội ấy lại tự ủ rũ, người áo đỏ kia võ công quá cao, dựa vào nhãn lực của mình, ngay cả võ công người ta rốt cuộc cao tới mức nào cũng không nhìn ra thì khỏi phải tính lo chuyện bao đồng.

Tất cả mọi người xung quanh đều chỉ lo tránh còn không kịp, đao của Lý Nghiên được đẩy ra nửa tấc rồi dừng lại, lòng do dự đổi ý --- Nếu Lý khuyết đức biết mình cả gan không tự lượng sức quản chuyện bao đồng này thì chắc chắn sẽ giận thành con ếch ... vả lại mình quản kiểu gì đây?

Ngay lúc Lý Nghiên trù trừ do dự thì đột nhiên, lão chưởng quỹ ban nãy còn xin tha chợt tiến lên một bước, lấy trong lòng ra một đoạn côn nhị khúc!

Tiếng "keng keng" nhỏ vang lên, côn nhị khúc vung ra giữa không trung, tinh chuẩn treo giữa binh khí của người mặc quan bào đỏ và Lưu Hữu Lương, xoay một vòng trong không khí, khiến động tác của hai người kia dừng lại trong chốc lát.

Người mặc quan bào đỏ tức giận nói: "Lão thất phu, ngươi dám!"

Hắn ta hất mạnh tay áo, nhẹ nhàng thoát khỏi côn nhị khúc của chưởng quỹ, ông lão gầy nhom thuận thế nghiêng người, đứng vững cạnh Lưu Hữu Lương, nhỏ giọng nói: "Vị khách này mang tín vật của chúng tôi, gặp người có vật ấy phải nghe theo mệnh lệnh của người đó, khách nhân nghĩa không chịu ra lệnh, nhưng chúng tiểu nhân không thể trơ mắt khoanh tay đứng nhìn khách gặp nạn. Đồng đại nhân, xin thứ lỗi."

Người mặc quan bào đỏ quả nhiên là Đồng Khai Dương, ông ta âm u nói: "Biết ta là ai còn dám láo xược như vậy, lão già, ta thấy khách điếm này của ông không muốn mở cửa nữa rồi."

Lưu Hữu Lương nhỏ giọng nói: "Chưởng quỹ, không cần ..."

Khách điếm Hồng Vận là khách điếm lớn nhất vùng này, vì các tiểu nhị tay chân lanh lẹ lại còn dẻo mồm dẻo miệng, có vài món ăn thương hiệu, mấy năm nay rất có tiếng tăm trong các khách qua đường, nghiễm nhiên đã thành một điểm đặc biệt của Tế Nam phủ. Khách giang hồ bình thường không có gì để mất nhưng liên lụy một sản nghiệp lớn như vậy thì hơi quá. Đây cũng là lý do mà Lưu Hữu Lương đi qua nơi này nhưng chỉ tạm dừng chân chứ không tìm sự che chở từ Hành Tẩu Bang.

Chưởng quỹ nhấc côn nhị khúc, cười nói: "Chúng tiểu nhân mở tiệm làm ăn vốn là để làm chân sai vặt giúp đỡ cho chư vị bằng hữu, những thứ khác đều là phụ, bây giờ "Thiên Bức lệnh" tái hiện, nếu chúng tôi vì sợ sản nghiệp gặp phiền phức mà tránh lui thì chẳng phải lẫn lộn đầu đuôi sao?"

Nói xong, không đợi Lưu Hữu Lương ngăn cản, chưởng quỹ liền nói tiếp: "Chư vị bằng hữu, xin lỗi, hôm nay tiểu điếm đóng cửa nghỉ bán một ngày, cơm rượu xem như tiểu lão mời các vị, không cần trả tiền, mong chư vị nhân lúc trời chưa tối hãy tìm nơi ở khác!"

Mọi người ban nãy còn bóp tay than thở anh hùng đều không xuất thế, ấy vậy mà giờ thấy chưởng quỹ đập nồi bán sắt sống mái với Bắc Đẩu Vũ Khúc thì lập tức không nhiều lời, thi nhau thức thời cuốn gói rời đi. Chỉ có Lý Nghiên là ngập ngừng do dự, lúc thì cảm thấy mình xuất thân danh môn chính phái, lại có võ nghệ trong người, đương nhiên khác những thương nhân kia, cứ thế bỏ đi sẽ quá khó coi, lúc lại nghĩ Lý Thịnh bảo mình đợi ở khách điếm Hồng Vận, nếu mình bỏ đi, đại ca tới tìm không thấy lại gặp phải người của Bắc Đẩu nên lại càng sốt ruột.

Lý Nghiên xách đao theo dòng người ra khỏi khách điếm Hồng Vận nhưng không đi xa như người khác, muội ấy đảo mắt, tung người lên một cây đại thụ, ẩn nấp bản thân sau bóng cây um tùm.

Đồng Khai Dương nói: "Giỏi, Hành Tẩu Bang đúng không? Đường cho người các ngươi không đi, lại cứ muốn đi quỷ môn quan!"

Lúc hắn ta nói, ngoài cửa có tiếng vó ngựa và tiếng bước chân dồn dập tới, còn có thể nghe được tiếng kêu la của những vị khách chạy chậm, khoảng 80-100 kẻ áo đen Bắc Đẩu ầm ầm chạy tới, trận mưa to không biết đã ngừng khi nào nhưng trời vẫn âm u, đất đai lầy lội, cả thành Tế Nam đều vô cùng nhếch nhác.

Các tiểu nhị trong khách điếm Hồng Vận và bọn áo đen Bắc Đẩu chiến nhau hỗn loạn.

Các tiểu nhị đều có võ nghệ nhưng tư chất vàng thau lẫn lộn, loại môn phái giang hồ xuất thân nghèo khổ như Hành Tẩu Bang dẫu sao cũng khác bọn áo đen Bắc Đẩu được huấn luyện nghiêm chỉnh, huống hồ Bắc Đẩu người đông thế mạnh, trừ số ít cao thủ có thể chống đỡ được, còn lại đều là châu chấu đá xe.

Chưởng quỹ hô một tiếng, mang mấy người bao vây Đồng Khai Dương, không quay đầu lại, nói với Lưu Hữu Lương: "Lưu đại nhân đi mau!"

Lưu Hữu Lương đang chần chừ, chưởng quỹ lại nói: "Đại nhân không tiếc lộ ra Thiên Bức lệnh, ắt có chuyện quan trọng có thể liều mạng, còn trì hoãn cái gì!"

Lưu Hữu Lương nghe, cắn mạnh răng, chợt chắp tay: "Huynh đài, chúng ta bèo nước gặp nhau, đại ân không lời nào đa tạ xiết."

Gương mặt quắt queo của chưởng quỹ thoáng nở nụ cười, Lưu Hữu Lương hét dài một tiếng, lui ra khỏi vòng, trọng kiếm quét ngang, chém liên tục bảy tám kẻ áo đen, giết ra một đường máu, xông thoát khỏi vòng vây.

Loạt động tác này ắt hẳn tiêu hao không ít sức lực, lúc rời khỏi khách điếm, bước chân ông lảo đảo, huýt gọi ngựa của mình tới, nhịn đau hét lớn một tiếng "đi". Bốn năm gã Bắc Đẩu lao đến, trọng kiếm của Lưu Hữu Lương quét qua hai gã, hông đau nhức, nhất thời không trở tay được, đúng lúc này, ông nghe hai tiếng kêu rên, mấy gã Bắc Đẩu còn lại tự che mặt lui ra.

Lưu Hữu Lương không kịp suy nghĩ xem là ai giúp mình, vội phóng ngựa chạy như điên.

Vừa chạy tới ngoài thành, trước mắt Lưu Hữu Lương đã nhòe đi, ông nằm trên lưng ngựa nỗ lực chống đỡ, cắn mạnh đầu lưỡi, định khôi phục vài phần thần trí thì đột nhiên, con ngựa đang lao nhanh chợt hét thảm một tiếng, chân trước khuỵu xuống, hất người trên lưng ngã ra ngoài ... dưới đất có dây cản ngựa.

Lưu Hữu Lương ngã cú này rất nặng, mắt tối sầm, giãy dụa mấy lần vẫn không thể bò dậy trong khi bọn áo đen Bắc Đẩu mai phục ở đây đã bọc đánh tới.

Đột nhiên, một nhánh cây đại thụ dính đầy nước mưa bay ngang đến, rào rào quét ngang một vòng, tầm mắt mấy kẻ áo đen bỗng bị nhiễu loạn giật mình, chưa đợi họ phản ứng, một thanh trường đao đã từ sau nhánh cây xông ra, người tới ra tay bất ngờ đánh ngã ba bốn gã áo đen, cùng lúc đó, Lưu Hữu Lương cuối cùng hét lớn một tiếng, liều mạng bò dậy.

Cứu binh từ trên trời giáng xuống này chính là Lý Nghiên, lúc muội ấy ở bên ngoài khách điếm Hồng Vận lẳng lặng quan sát thấy Lưu Hữu Lương bỏ chạy liền chạy theo. Lúc này, một tay Lý Nghiên xách đao, một tay xách một nhánh cây còn to hơn cả mình vung loạn xạ, tạo ảo giác như mình vô cùng cao to khỏe mạnh, lợi dụng khoảng hở nói với Lưu Hữu Lương: "Đại thúc chạy mau!"

Lưu Hữu Lương không ngờ người ra tay lại là một cô nương trẻ như thế, hơi giật mình, chưa đợi ông phản ứng thì thấy Bắc Đẩu đầu kia hét dài mấy tiếng, vô số bóng đen từ hai bên xông ra.

Lý Nghiên: "..."

Nhiều người quá, tiêu rồi.

Muội ấy không có lựa chọn nào khác, bèn cắn răng, vứt nhánh đại thụ kia qua một bên, hít sâu một hơi, hai tay nắm trường đao, thầm nghĩ --- Nếu A Phỉ có thể nhập vào mình thì tốt biết mấy.

Chu Phỉ chưa luyện thành bản lĩnh hồ ly tinh đó, bọn Bắc Đẩu đã xông lên.

Ngay lúc Lý đại trạng tưởng mình sắp hi sinh vì nghĩa thì trận hình Bắc Đẩu bỗng rối loạn, lại có một con ngựa xông tới, người trên ngựa tay cầm song kiếm, ra tay cực chuẩn, thuần thục hất bọn áo đen dọc đường, vọt tới cạnh Lý Nghiên, quát: "Lý đại trạng!"

Lý Nghiên nhe hàm răng trắng vừa vui mừng vừa chột dạ.

Lý Thịnh không ngờ mình vừa đi là muội ấy có thể gây ra họa lớn nhường này, sau cơn sợ hãi liền nổi trận lôi đình, ra tay càng không chừa đường lui, bọn Bắc Đẩu ngã rạp một đám, Lý Nghiên cực kỳ thông minh, không nhàn rỗi mà huýt sáo gọi ngựa của mình tới, đưa tay đỡ Lưu Hữu Lương: "Đại thúc, ngựa cho thúc đấy, ta có ca ca rồi!"

Lý Thịnh: "..."

Nha đầu phá sản này thật biết hào phóng đồ của người khác.

Y không muốn chiến lâu, đánh lui một đám áo đen liền xách vai Lý Nghiên, túm muội ấy lên ngựa mình rồi huýt sáo, ngựa của Lý Nghiên chở Lưu Hữu Lương vội vàng chạy theo.

Chợt, cách đó không xa vẳng tới một tiếng hét dài, chấn động đến mức làm ngực người ta khó chịu, Lý Nghiên lảo đảo, suýt ngã ngựa.

Bóng một người áo đỏ chỉ lên xuống mấy cái đã đến trước mặt họ: "Lại là thần thánh phương nào lo chuyện bao đồng?"

Chương 123: Ân Thù

Lý Nghiên nhìn từ xa, nhận ra người đó, lập tức thất sắc: "Đại sự không hay rồi!"

Muội ấy hoang mang thúc vào bụng ngựa cho ngựa chạy nhanh, Lý Thịnh vẫn ù ù cạc cạc, nghe có người lên tiếng thì phản ứng đầu tiên là kéo dây cương, kết quả là hai người một người muốn ngựa chạy, một người muốn ngựa dừng, con tuấn mã bị ép chở hai người vô cùng bực dọc, hai chân trước gắt gỏng cào xuống đất, sắp đá hậu.

Lý Nghiên tức giận nói: "Lý khuyết đức huynh muốn chết à? Đó là "Vũ Khúc" của Bắc Đẩu đấy!"

Lý Thịnh: "..."

Y phát hiện mình xem thường Lý Nghiên rồi, Y chỉ biết muội ấy có thể gây họa, nhưng không ngờ có thể gây họa lớn nhường này!

Nhưng bây giờ buông cương phóng ngựa lao nhanh đã không còn kịp nữa, Đồng Khai Dương cách họ hơn một trượng, đôi ủng vốn sạch sẽ đã dính ít vết máu, toàn thân ngay cả tóc cũng không rối loạn, ông ta hơi ngửa đầu nhìn huynh muội Lý gia trên lưng ngựa, không quá để những người trẻ tuổi này vào mắt.

Đồng Khai Dương đứng chắp tay nhìn Lưu Hữu Lương, cười nhạo: "Lúc nãy là Hành Tẩu Bang, bây giờ lại là ai? Lưu đại thống lĩnh à, không phải ta nói chứ, ông tốt xấu gì cũng là người đứng đầu cận vệ, sao những kẻ chịu giúp ông ngoại trừ đám ăn mày hạ lưu thì là bọn nhãi miệng còn hôi sữa thế?"

Đồng Khai Dương xuất hiện ở đây, đủ hiểu kết cục của người trong khách điếm Hồng Vận, có lẽ khi lão chưởng quỹ nói những lời ấy là đã dự liệu được kết cục của chính mình, nhưng Lưu Hữu Lương tuyệt đối không ngờ lại nhanh đến vậy. Ban nãy Lý Nghiên vừa ra tay là ông nhìn thấu cô nương này sâu cạn cỡ nào, so với những hậu bối đồng trang lứa, cô ấy xem như rất tốt, nhưng trước mặt Đồng Khai Dương thì chẳng đỡ nổi một đòn, huynh trưởng cô ấy trông không lớn hơn được bao nhiêu, có lẽ cũng mạnh hơn không nhiều.

Lưu Hữu Lương chợt nản lòng thoái chí, cảm giác trời muốn diệt ông ở đây, thầm thở dài, nghĩ --- Thôi, mưu sự tại nhân thành sự tại thiên, có những việc dù nỗ lực cũng không được, đều là số mệnh, ta hà tất lại liên lụy người vô tội?

Ông đè ngựa, miễn cưỡng ho mấy tiếng, thúc ngựa tiến lên, chắp tay nói với Lý Nghiên: "Cô nương và ta vốn không quen biết nhưng lại chịu ra tay giúp đỡ, Lưu mỗ vô cùng cảm kích, kiếp sau ắt kết cỏ ngậm vành báo đáp, việc đến nước này, ta và Đồng đại nhân không thể không kết thúc, hai người ... mau đi đi."

Đồng Khai Dương hơi cong khóe môi, cảm thấy thú vị nhìn nam tử bị thương trên lưng ngựa. Lưu Hữu Lương vóc dáng cao lớn, thường ít nói ít cười, vì ánh mắt vô cùng sắc bén nên thường xuyên như mang theo sát khí, thoạt nhìn như sói hoang nhe nanh giơ vuốt chực chờ ăn tươi nuốt sống con mồi, nào ngờ chỉ là một con dê khoác lớp da sói mà thôi.

Đến bước này, bất kể ông chạy trốn là vì chưa hoàn thành sự nghiệp hay đơn thuần vì mạng sống, lẽ nào không nên tận dụng mọi thứ có thể, tìm mọi cách để chạy trốn sao? Thế mà còn có tâm trạng đẩy hai người trẻ tuổi ra ngoài ... làm như Đồng Khai Dương sẽ tin ông không bằng.

Lý Thịnh cau mày, cúi đầu nhìn Lý Nghiên với ánh mắt nghi vấn: người muội cứu này là ai?

Kỳ thực Lý Nghiên không rõ lắm, đành lặng lẽ thuật lại dăm ba câu nghe được từ người khác cho Y.

Lý Thịnh một tay nhấc dây cương, một tay đặt lên thanh kiếm bên eo mình, cau mày không biết đang nghĩ gì, chợt nói với Lưu Hữu Lương: "Vị Lưu ... thống lĩnh này, có còn nhớ Trung Vũ tướng quân?"

Lưu Hữu Lương nói: "Ngô tướng quân trung nghĩa thiên thu."

Lý Thịnh nghe vậy, đăm chiêu nhìn ông rồi lại nhìn Đồng Khai Dương, sau chốc lát, Y nhét thứ gì đó vào tay Lý Nghiên, nói với muội ấy: "Đi trước."

Nói xong, chưa đợi Lý Nghiên phản ứng, Lý Thịnh đột nhiên trở mình tung xuống ngựa, chân dài quét ngang qua mấy gã Bắc Đẩu chung quanh, đồng thời trở tay chưởng con ngựa kia một chưởng, con ngựa đó cuối cùng cũng nhận được mệnh lệnh chính xác, lập tức tung vó chạy như điên.

Lý Thịnh chu môi huýt sáo, con ngựa ban đầu Lý Nghiên cưỡi cũng nghe lệnh Y, không quan tâm mệnh lệnh của người trên lưng, chạy theo Lý Nghiên phía trước ra ngoài.

Lý Nghiên luống cuống tay chân, nghe tiếng "lách tách", cúi đầu nhìn, thứ mà Lý Thịnh nhét vào tay mình là một ống pháo hiệu đã đốt dây dẫn, Lý Nghiên vội vung tay ném ra ngoài, một quả cầu lửa nhỏ rít gào bay lên giữa không trung, nổ ra một chùm sáng óng ánh.

Thấy hiệu lệnh này, tất cả tai mắt ngầm của 48 trại ở đây đều sẽ lập tức chạy tới.

Lý Nghiên hét lớn: "Ca!"

Lý Thịnh không để ý đến muội ấy, hai tay rút song kiếm ra, vừa nhẩm tính trong lòng xem mình có thể ngăn Đồng Khai Dương được bao lâu, vừa xông lên để ra tay trước chiếm lợi thế.

Lý Nghiên kéo dây cương: "Huuuu ... Dừng ... dừng lại!"

Con ngựa của Lý Thịnh tính tình rất cáu bẳn, chạy như cưỡi mây đạp gió, không chịu nghe lời muội ấy, tiếng đao kiếm phía sau đã vang lên, Lý Nghiên sắp bị con ngựa ngu cứ cắm đầu chạy này làm gấp muốn khóc, bèn kéo mạnh dây cương về sau, con liệt mã ấy tức giận giơ cao vó trước, hất đầu.

Lý Nghiên liều mạng muốn quay đầu ngựa, con ngựa như hiểu được tính người, biết ý Lý Thịnh nên đầu to cứ lắc lư trái phải mà vẫn không chịu nghe lời Lý Nghiên, Lý Nghiên tức quá đập vào gáy nó một cú: "Khốn kiếp!"

Muội ấy trực tiếp nhảy xuống khỏi lưng ngựa, định chạy trở về.

Lưu Hữu Lương: "Cô nương!"

Lý Thịnh đã bắt đầu động thủ với Đồng Khai Dương, Y vừa ra tay, Đồng Khai Dương liền cau mày, vì hắn ta nhận ra mình đã xem thường thiếu niên này, thế mà Lý Thịnh còn cười nói: "Đồng đại nhân thành danh đã lâu, ta sớm đã muốn thăm gặp, nay được cơ hội không đánh không quen, mong ông vui lòng chỉ giáo."

Lý Thịnh lên tiếng như vậy làm câu "bắt lấy hắn" của Đồng Khai Dương bị kẹt trong cuống họng, nói không được mà không nói cũng không được. Vì Lý Thịnh "cản trở thi hành công vụ" là sự thực, nhưng Y lại nói việc mình cản đường là khiêu chiến cá nhân Đồng Khai Dương, Đồng Khai Dương thành danh nhiều năm, cũng cần thể diện trước mặt thuộc hạ, hôm nay ông ta không tự tay thu dọn tiểu tử này thì sao có thể lập uy?

Lý Thịnh năm xưa được vài người trẻ tuổi 48 trại xưng là "số một", hiển nhiên có sở trường của Y. Từ nhỏ Y đã có chí khí cao, chịu nhọc tâm nghiên cứu ưu khuyết của từng nhà, hiểu rộng nhưng không hiểu sâu, bản thân lại luôn sốt sắng muốn phân cao thấp với Chu Phỉ nên hơi xốc nổi. Nhưng ba năm trước, 48 trại đại thương nguyên khí, các hậu bối đều bị ép dùng tốc độ nhanh nhất trưởng thành, toàn thân Lý Thịnh đã nhu hòa lại không ít, xét về cảnh giới thì thật loáng thoáng có vẻ trở nên thấu hiểu đạo lý.

Đồng Khai Dương tự cao tự đại, đao trong tay chỉ là loại đao cơ bản của các võ quan bình thường, tác dụng chủ yếu là làm trang sức, đủ thấy hắn ta căn bản chưa từng đặt chuyện truy sát Lưu Hữu Lương vào mắt, càng thiếu kiên nhẫn dây dưa với loại hậu bối như Lý Thịnh. Hắn ta chợt rung bội đao, bổ xuống đầu Lý Thịnh, Lý Thịnh không dám đón đỡ, liên tục lùi về sau nhiều bước, thấy Đồng Khai Dương chỉ huơ đao trong không khí mà trên mặt đất lại nhiều thêm một vết hẹp dài hơn hai thước.

Mặt đất còn như vậy, đủ thấy nếu chém vào người sẽ có kết quả gì.

Lý Thịnh kinh sợ trong lòng, công phu của gã Vũ Khúc này đã đến mức ngưng gió thành đao! Hèn gì hắn ta không thèm để ý mình cầm binh khí gì. Y không dám cứng rắn đón đỡ nữa, bước chân chợt trở nên phức tạp, toàn thân phảng phất hóa thành một mê trận di động khiến người ta không tóm được. Đây là Phù Du trận mà lúc sau Chu Phỉ đã dạy Y, Lý Thịnh thực rất có thiên phú với mấy thứ màu mè hoa lá hẹ này, sau khi tinh thông nguyên lý liền biết biến thể ra nhiều dạng, lập tức trò giỏi hơn thầy.

Bọn áo đen Bắc Đẩu chỉ sợ tai bay vạ gió, dồn dập lui ra khỏi vòng lớn, Lý Thịnh hành tung ẩn hiện, nơi Y đi qua, trên mặt đất lập tức hiện ra mấy lỗ đan xen chằng chịt như bàn cờ, lá cây ố vàng bên đường bị lệ khí chèn ép rơi lả tả, thoạt nhìn như mưa hồ điệp, nhưng lại gần mới biết, mỗi lá cây đều không phải rơi từ cuống lá mà toàn là nửa lá, bên trên là vết đao gọn ghẽ!

Lý Thịnh tâm tư trầm ổn, thân trong hiểm cảnh mà vẫn không chút biến sắc, bước chân không loạn, thỉnh thoảng còn rút kiếm ra đâm.

Bội đao của Đồng Khai Dương "keng keng" đè lại song kiếm của Y, cổ tay Lý Thịnh tê rần nhưng vẫn bình tĩnh thuận thế tháo lực, trượt ra ngoài như nước chảy, Đồng Khai Dương chợt cười to nói: "Hay cho một tên tiểu tặc, hóa ra là môn hạ Thục Sơn!"

Lý Thịnh cau mày, chiêu ban nãy của Y là chiêu kiếm thoát thai từ chiêu kiếm phái Tiêu Tương mà Y học được hồi nhỏ, tuy giờ đã khác đi nhưng loáng thoáng vẫn có thể nhìn được bóng dáng, mấy năm trước nhóm Vương lão phu nhân xuống núi tìm Trương Thần Phi rồi một đi không trở lại, Lý Cẩn Dung không yên tâm, từng phái người đi dò hỏi chung quanh mấy lần, đến nay vẫn bặt vô âm tín.

Không biết tại sao, Lý Thịnh nghe nụ cười đó của Đồng Khai Dương, lòng chợt dâng lên một dự cảm chẳng lành.

Lý Thịnh chợt xoay người giơ ngang song kiếm, nghe Đồng Khai Dương cong khóe môi cười lạnh: "Lão thái bà kia có chút thú vị, tiếc là quá không tự lượng sức, báo thù gì chứ? Tuổi cả bó mà không chịu ở nhà chờ chết, còn học người ta đi ám sát, ha ha!"

Gân xanh trên mu bàn tay Lý Thịnh chợt nổi lên.

Đồng Khai Dương khẽ liếm lưỡi đao mình, nói: "Ngươi biết tiếng xương nứt của người già khác với của người trẻ không?"

Trẻ con 48 trại, có ai thuở bé không lẽo đẽo theo Vương lão phu nhân đòi quà vặt? Tuy Lý Thịnh sớm đã nghĩ tới Vương lão phu nhân có lẽ gặp điều bất trắc nhưng khi nghe lời này vẫn lập tức phẫn nộ. Y không nói tiếng nào, song kiếm phát ra một tiếng ngâm khẽ, Tiêu Tương kiếm pháp xảo quyệt nhẹ nhàng đâm thẳng đến ngực và yết hầu Đồng Khai Dương. Đồng Khai Dương cười phá lên, tiếng cười mang theo kình lực, người bình thường cách thật xa vẫn cảm thấy váng đầu hoa mắt, càng khỏi phải nói Lý Thịnh ở ngay trước mắt, đứng mũi chịu sào.

Sắc mặt Lý Thịnh trắng nhợt, tai đỏ lên tại chỗ, nhưng thế kiếm trong tay không đổi, Đồng Khai Dương vung tay áo dài muốn chụp lấy song kiếm của Y, đồng thời, bội đao rít lên một tiếng, ngạo nghễ vô song đâm về phía ngực trái Lý Thịnh.

Đúng lúc này, Đồng Khai Dương chợt cảm giác phía sau có kình phong ập đến với sức mạnh không thể khinh thường, hắn ta cau mày, lệ khí trên mặt dâng lên, xoay người đẩy kiếm Lý Thịnh ra rồi nghiêng đầu tránh lui, "cạch" một tiếng, thứ đánh tới là một cái vỏ đao, lúc rơi xuống đất vừa vặn nện vào giữa hai vết xước, tựa như con cờ trên bàn cờ.

Đồng Khai Dương phẫn nộ quát: "Ai?"

Tiếng sột soạt vang lên, một người đội nón rộng vành dắt ngựa chậm rãi từ trong rừng bước ra, tay xách một thanh trường đao không vỏ.

Người này vóc dáng mảnh mai, hơi gầy yếu, trong đám nữ tử... trong đám nữ tử phương nam đại khái có thể gọi là "cao gầy", tóc dài như mây đen buộc hờ thả phía sau, trên người dính một lớp hơi nước mịt mờ.

Nàng tùy tiện giắt cương ngựa lên một thân cây, đưa tay đẩy nón che quá nửa mặt lên một chút, liếc Lý Thịnh, chậm rề rề nói: "Còn tưởng ai thả pháo hiệu cầu cứu. Nếu không phải đúng lúc muội ở ngoài thành Tế Nam thì chẳng lẽ huynh định để mấy kẻ tai mắt võ công mèo quào kia tới cứu chắc? Chậc, Lý bà bà, nghĩ sao vậy hả?"

Lý Thịnh thấy người đến, đầu tiên sắc mặt thả lỏng nhưng bây giờ nghe nàng nói năng lỗ mãng thì lại đen mặt: "Chu Phỉ, muội "bắt" không phải "mạch" này, chạy tới đây làm gì?"

"Chân nhanh, xong việc sớm tiện thể dạo loanh quanh, không được à?" Chu Phỉ vừa nói vừa bước từng bước qua, không biết tại sao, bọn áo đen Bắc Đẩu vây quanh vòng ngoài thoái lui như rẽ nước, nàng không thèm nhìn chúng lấy một lần, hoàn toàn xem chúng như đang xếp hàng chào đón mình. Nàng xách đao đi tới trước mặt Đồng Khai Dương, đẩy nón hơi xụp xuống lên trên lần nữa, ngước khuôn mặt thanh tú, nói: "Ồ, hóa ra là Vũ Khúc đại nhân của Bắc Đẩu."

Khóe mắt Đồng Khai Dương nhảy lên mấy lần, rít ra hai chữ từ kẽ răng: "Là ngươi."

Mấy năm nay, trừ phi Lý Cẩn Dung triệu nàng về làm việc, bằng không quanh năm suốt tháng có hơn nửa năm là Chu Phỉ ở bên ngoài, không biết đi hoang ở đâu, dù sao cũng không nghe nói nàng ở bên ngoài làm ra chuyện kinh thiên động địa gì - có lẽ có làm nhưng không để lại tên - dịp lễ Tết chắc chắn nàng sẽ về nhà đúng giờ, Lý Cẩn Dung cũng không quản nàng nhiều nữa. Chu Phỉ nhận ra Đồng Khai Dương là rất bình thường, nhưng Đồng Khai Dương dường như cũng rất quen thuộc với nàng ...

Thái dương Lý Thịnh nổi gân xanh. Y biết con nhóc thổ phỉ lần đầu tiên xuống núi đã gây ra chuyện kinh thiên động địa này không thể nào yên tĩnh như nàng thể hiện mà!

Ngón tay Chu Phỉ vuốt nhẹ mũi đao Toái Già, cười nói: "Mấy hôm không gặp, trông ông vẫn khỏe nhỉ."

Lý Thịnh cảnh cáo: "Chu Phỉ."

Chu Phỉ đứng giữa hai người họ, mở miệng giới thiệu: "Muội quen Đồng đại nhân đây, duyên phận cũng không cạn đâu. Lần đầu gặp Đồng đại nhân là lúc ổng và Thẩm Thiên Khu truy sát Mộc Tiểu Kiều, lúc đó muội thấy ổng nhưng ổng không thấy muội. Lần thứ hai là ổng chưởng muội rớt xuống sơn cốc vì một cây "hỏa liên", hại muội suýt mất mạng, hơn bốn tháng mới trèo lên được, quả là cửu tử nhất sinh, đại ân đại đức không biết lấy gì báo đáp, đành lẻn vào cố đô, phóng hỏa đốt nhà ổng."

Lý Thịnh: "..."

"Lần thứ ba ... haiz, nói ra thật xấu hổ, muội và ổng lại xích mích vì một món thuốc, quá không thể diện rồi. Lần thứ ba là vì một cái gan rắn của con "cổn địa giao", muội và con mãng xà lớn và Đồng đại nhân lợi hại hơn con mãng xà lớn đó đấu nhau suốt hai ngày một đêm, muội bất tài, thắng được nhờ chút mánh lới, còn khiến thanh kiếm tốt của Đồng đại nhân vùi thây trong bụng rắn nên vô cùng áy náy, hôm nay đặc biệt mang 10 lượng bạc tới bồi thường." Chu Phỉ nói với Lý Thịnh: "Ca, bỏ tiền."

Lý Thịnh: "..."

Lý Thịnh cảm giác mình không bao giờ muốn nghe chữ "ca" từ miệng Lý Nghiên và Chu Phỉ nữa.

Đồng Khai Dương nhìn Lý Thịnh, ngoài cười trong không cười, nói: "Hóa ra là lệnh huynh trưởng."

"Không sai." Chu Phỉ đưa tay nhổ vỏ đao cắm trên mặt đất lên, xoay một vòng trong tay: "Đồng đại nhân, nể mặt người quen cũ, gia huynh nếu có gì đắc tội, ông nhắm một mắt mở một mắt cho qua nhé."

Đồng Khai Dương bị yêu cầu vô lý của nàng làm tức giận muốn bùng nổ, nhưng biết nha đầu yêu quái này rất vướng víu tay chân, bên cạnh lại thêm một Lý Thịnh thân thủ không kém. Nếu thật động thủ, ông ta chưa chắc đã chiếm lợi, lỡ xảy ra sai sót, chết trong tay đám tiểu bối thì không chừng sau này sẽ trở thành chuyện cười của Bắc Đẩu.

Đầu óc ông ta xoay chuyển, cố ép cơn giận dữ, trưng ra nụ cười dữ tợn nói: "Nếu Chu cô nương đã nói vậy, ta cũng không tiện được lý không tha người, mời!"

Chu Phỉ mỉm cười: "Đa tạ."

"Khoan." Đồng Khai Dương lại nói: "Lệnh huynh đương nhiên có thể đi, nhưng khâm phạm Lưu Hữu Lương tội ác tày trời, ta muốn bắt ông ta về quy án, hẳn Chu cô nương không vô cớ cản trở thi hành công vụ chứ?"

Chương 124: Đao Trong Tử Địa

Mặt Chu Phỉ bị nón che, người bên cạnh không nhìn thấy biểu cảm của nàng, chỉ thấy nàng trầm mặc chốc lát.

Lý Thịnh cùng nàng lớn lên từ nhỏ, vừa liếc mắt liền nhận ra Chu Phỉ không muốn gây phiền toái, bằng không sớm đã động thủ chứ nhất định không lắm lời với Đồng Khai Dương như vậy.

Lý Thịnh đoán nàng chắc chắn không phải "tùy tiện đi dạo" như nàng nói mà rất có thể đang muốn đi làm chuyện gì đó quan trọng, vừa hay ngang qua ngoại thành Tế Nam, thấy pháo hiệu của Lý Nghiên từ xa nên định qua quản một lát, quản xong sẽ đi ngay.

Hiển nhiên Đồng Khai Dương không phải là phiền toái có thể giải quyết bằng "quản một lát", cho nên nếu có thể chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không là tốt nhất.

Chu Phỉ nhanh chóng mỉm cười, định nói gì đó thì Lý Thịnh tranh mở miệng trước: "Trước khi nói đến công vụ, ta muốn thỉnh giáo Đồng đại nhân, chuyện liên quan đến Vương phu nhân phái Tiêu Tương mà ông vừa nói với ta là thật sao?"

Ban nãy Đồng Khai Dương nhận ra kiếm chiêu của Y, để nhiễu loạn tinh thần Y nên mới thuận miệng nói vậy, ai ngờ Y còn có viện trợ phía sau?

Bây giờ bị hỏi, Đồng Khai Dương lập tức như bị "chiếu tướng", nhất thời chưa nghĩ ra lời đáp thế nào.

Chu Phỉ sững sờ, nhỏ giọng hỏi: "Sao?"

Lý Thịnh không nói gì, vẫn nhấc song kiếm chỉ vào Đồng Khai Dương như cũ.

Chu Phỉ nhanh chóng hoàn hồn, hiểu ngay ý Lý Thịnh.

Đúng rồi, ban đầu trong thành Hoa Dung, nhằm ép nàng và Ngô Sở Sở lộ diện, Cừu Thiên Cơ đã gây động tĩnh lớn như vậy, tin tức nhất định đã truyền ra, Vương lão phu nhân không thể không biết. Lão phu nhân bình thường điềm đạm hiền từ, nhưng tính tình cực kỳ mạnh mẽ, nếu biết con trai ruột bị người ta hại chết, chắc chắn bà sẽ không chịu để yên ...

Lý Thịnh gằn từng chữ: "Đồng đại nhân, các ông tróc nã khâm phạm triều đình, chẳng lẽ không biết bốn chữ "giết người đền mạng" viết thế nào sao?"

Chu Phỉ chợt giơ một tay đè lên kiếm Lý Thịnh.

Lý Thịnh trầm giọng: "A Phỉ, muội nói sao?"

"Huynh đánh không lại ông ta." Chu Phỉ gạt mũi kiếm của Y qua, sau đó than thở như chấp nhận số phận: "Huynh đi lo liệu những chuyện khác, đưa hai kẻ vướng víu đằng sau đi, tránh ra."

Lý Thịnh lúc này mới chú ý thấy bọn Lý Nghiên vẫn chưa đi xa: "Muội ..."

Chu Phỉ lạnh nhạt nói: "Một Bắc Đẩu mà thôi, huynh đi đi, không sao."

Đồng Khai Dương giận quá hóa cười: "Ha, thật ngông cuồng! Khẩu khí thật lớn! Lần trước có con súc sinh kia cản trở để ngươi may mắn thoát khỏi tay ta, nếu hôm nay ngươi đã khăng khăng tự tìm đường chết thì ta sẽ tiễn ngươi một đoạn!"

Nói xong, mũi đao của hắn ta ban nãy có thể treo giữa không trung mà làm nứt đất nhắm ngay đầu Chu Phỉ chém xuống.

Chu Phỉ đẩy Lý Thịnh ra, hơi co một chân lên, toàn thân xoay hơn nửa vòng tròn, trở tay đưa mũi đao Toái Già chống đỡ. Mũi đao Toái Già như va phải một kình lực cực lớn làm cong đi. Chu Phỉ lật cổ tay, trường đao phát ra một tiếng vang khẽ kéo dài không ngớt, bất ngờ bắn ngược về phía Đồng Khai Dương, liền theo đó quấn lấy hắn ta.

Trong ánh đao như kén tằm, Đồng Khai Dương triệt phá mười mấy chiêu, lùi liên tục sáu bước, sau đó hắn ta hét lớn một tiếng, hai tay nắm chặt chuôi đao, gân xanh trên mu bàn tay cuồn cuộn, bất ngờ phát lực, chiều dài đao hữu hạn nhưng đao phong dường như vô hạn, tựa một con cự long vô hình gầm rống hướng về phía Chu Phỉ. Chu Phỉ khẽ nheo mắt, không lùi không tránh, trực tiếp dùng chiêu "Trảm" tự quyết nghênh đón.

Nón trên đầu nàng bị đao phong phá rách toạc thành hai mảnh, rơi theo hai bên vai nàng xuống đất, chỗ binh khí hai người giao nhau, bội đao của Đồng Khai Dương bị bảo đao Toái Già làm thủng một lỗ!

Nếu lỗ thủng này sâu thêm một phần, đao phong mạnh mẽ của Đồng Khai Dương thu lực muộn thêm một khắc, thì thứ vỡ thành hai mảnh ắt không chỉ có cái nón bằng mây tre đó. Ban nãy nàng rõ ràng có thể tránh nhưng lại nhất quyết đón đỡ đao phong, gần như được ăn cả ngã về không mà cưỡng chế tiếp chiêu, cược mạng mình trên đầu mũi đao ... lại còn cược thắng!

Đúng là điên rồi!

Khóe mắt Đồng Khai Dương không nghe khống chế, nhảy lên lần nữa.

Hai tay Chu Phỉ nắm chuôi đao Toái Già, xoay đao, tiếng "răng rắc" vang lên, bội đao của Đồng Khai Dương như kết ra một lớp mạng nhện rồi rào rào vỡ thành từng mảnh nhỏ.

"Ơ, xin lỗi." Chu Phỉ ngẩng đầu mỉm cười, nụ cười của cô nương trẻ đương nhiên đều trong trẻo động lòng người, nhưng nụ cười này của nàng lại khiến sau lưng Đồng Khai Dương nổi lên cảm giác mát lạnh. Nàng nhẹ giọng nói: "Thanh đao này của ông trông quý quá, e là mười lượng bạc không thể mua được, ca ..."

Chu Phỉ vờ vịt gọi một tiếng, vẻ mặt vô tội quay sang nói với Đồng Khai Dương: "Xem ra họ đi trước rồi, hay là ta viết giấy nợ cho ông nhé?"

Đồng Khai Dương đương nhiên sẽ không thừa nhận võ công mình không bằng con nhóc ranh này. Phảng phất như ba năm trước, sau khi một chưởng của hắn ta không thể nhổ cỏ tận gốc thì trên người Chu Phỉ liền mọc lên một thứ điên cuồng khiến người ta rợn tóc gáy, nàng như bị ngã thành nghiện, không ai biết khi nào nàng sẽ đưa mình và người khác cùng treo lơ lửng trên vách núi.

Chu Phỉ không tiếc mạng nhưng Đồng Khai Dương tiếc, lúc này hắn ta thấy bóng dáng Lưu Hữu Lương đã mất hút, đương nhiên cũng không muốn dây dưa với nàng. Hắn ta hừ lạnh một tiếng, vứt thanh đao nát, hô lên: "Đuổi theo!"

Bắc Đẩu bên cạnh vội vã đuổi theo, chớp mắt đã không còn bóng dáng.

Đồng Khai Dương dù sao cũng lợi hại, Chu Phỉ không đuổi theo, cổ tay nàng hơi tê tê, đợi người đi hết sạch, nàng tra đao vào vỏ, cúi đầu dùng răng xé vải bao cổ tay, miếng vải rơi xuống đất, lộ ra cổ tay đỏ ửng. Chu Phỉ huýt sáo, yên tĩnh đợi con ngựa được huấn luyện kia chạy qua đây liền bốc một nắm đậu cho nó ăn, thầm nghĩ --- Đồng Khai Dương, cho ông sống thêm được ít ngày.

Một người một ngựa nghỉ ngơi tại chỗ chốc lát, Chu Phỉ nhìn đường về của mình, cau mày, cuối cùng vẫn cưỡi ngựa đuổi theo bọn Lý Thịnh.

Lưu Hữu Lương bị Lý Nghiên dùng chén nước giội tỉnh trong khách điếm Hồng Vận chống đỡ đến bây giờ, thực có thể nói là kỳ tích. Ông chịu không nổi nữa, trong lúc mơ mơ màng màng vẫn nắm cương ngựa duy trì thăng bằng, kéo con ngựa kia càng chạy càng nhanh, cuối cùng nó mở đôi mắt to mờ mịt, gần như dừng lại.

Lý Nghiên túm vai Lý Thịnh quay đầu nhìn, hỏi: "Đại thúc, ông sao rồi?"

Lưu Hữu Lương không đáp, lung lay lảo đảo trên lưng ngựa, sau đó cắm đầu ngã xuống.

Bọn Lý Thịnh hết cách, đành để lại ký hiệu ven đường, men xuôi dòng Bách Mạch hướng về phía Chương Khâu, tốt xấu gì cũng phải tìm một nơi nghỉ chân trước đã.

Lý Nghiên vừa giúp dắt ngựa vừa quay đầu nhìn: "Hình như ông ấy sốt rồi, có phải nên tìm một đại phu cho ông ấy không ... Ca, A Phỉ không sao chứ?"

Lý Thịnh vừa nghe được thù mới thù cũ giữa Chu Phỉ và Bắc Đẩu, Y cau mày không lên tiếng. Tuy Chu Phỉ không nói, nhưng Lý Thịnh động não, đại khái có thể đoán được tại sao Chu Phỉ luôn lấn cấn với Bắc Đẩu vì chút chuyện thuốc men, Y nghĩ --- Đúng rồi, hình như mình từng nghe muội ấy thuận miệng nói sư môn Tạ công tử ở Bồng Lai, chắc cách nơi này không xa, chẳng lẽ ...

Năm đó, Tạ công tử mượn Y mấy quyển "du ký" không được thanh nhã lắm, đến nay chưa kịp trả đã bặt vô âm tín. Lý Thịnh chợt cảm thấy, từ khoảnh khắc họ từ Vĩnh Châu về, những tháng ngày sau đó phảng phất như có người vung roi đuổi, sáng vừa mở mắt là có vô số chuyện phải an bài, phải nghĩ vô số thứ mà trước giờ chưa từng suy xét. Họ vốn dĩ từ từ chậm rãi lớn lên, ngờ đâu tiết tấu đó đột nhiên bị đánh cho hỗn loạn, trong một đêm, họ từ hậu bối chuyện gì cũng phải xin ý kiến đã biến thành "người lớn" có thể gánh vác đòn gánh của 48 trại trong thế hệ này.

"Có sao muội cũng không giúp được gì." Lý Thịnh tỉnh bơ thúc giục: "Có điều Đồng Khai Dương thấy chúng ta đi rồi sẽ không dây dưa nhiều với muội ấy, muội ấy qua không bao lâu sẽ đuổi kịp thôi, đi nhanh lên, dẫu sao nơi này cũng trực thuộc Bắc triều."

Để đảm bảo, Lý Thịnh không tùy tiện vào thành Chương Khâu mà thu xếp Lưu Hữu Lương trong một miếu Khổng Tử ở ngoại thành. Y leo tường lặng lẽ lẻn vào hậu viện, đằng trước có một lão tiên sinh đang đưa một đám học trò trẻ con nhập môn bái kiến Khổng Tử, vừa thắp nhang vừa răn dạy, nghi thức dài dòng lôi thôi. Lý Thịnh lặng lẽ nhìn, nói với Lý Nghiên: "Muội ở đây trông ông ấy, không được phép gây họa nữa, huynh đi trước xem xem, biết đâu kiếm được một chiếc xe ngựa."

Lý Nghiên thề son sắt: "Ca, huynh yên tâm, muội đây là đáng tin nhất đấy!"

Lý Thịnh đưa tay xoa muội ấy như xoa đầu chó, rất không nể mặt: "Xạo quần ... haiz, huynh vẫn nên mau chóng quay về mới được."

Lý Thịnh vừa đi, Lý Nghiên liền trở nên cảnh giác, co người trong hậu viện miếu Khổng Tử, dỏng tai nghe động tĩnh. Lão tiên sinh phía trước nói chuyện như mắc lông gà trong cổ họng, kéo âm dài khàn khàn "chi, hồ, giả, dã" nói "thánh nhân có câu", ông đọc câu nào là bắt đám trẻ đọc theo câu nấy. Đám trẻ có lẽ vừa học vỡ lòng không lâu, chưa từng đọc sách gì ra hồn, lão tiên sinh nói chuyện lại mang theo khẩu âm khiến bọn trẻ về cơ bản chẳng hiểu nghĩa gì ráo, chỉ đọc theo như vẹt, râu ông nọ cắm cằm bà kia, rất buồn cười.

Lý Nghiên nhịn một lúc rồi không nhịn được nữa, thầm buồn cười theo.

Lưu Hữu Lương hôn mê suốt một đường, tỉnh lại trong âm thanh ngắn ngủi ấy, ông không lộ ra, chỉ an tĩnh dựa vào chỗ xa hơn, nghe tiếng đọc sách, đôi mắt hơi đục mở hé nhìn chằm chằm bầu trời ảm đạm, không biết đang nghĩ gì.

Lý Nghiên nhỏ giọng hỏi: "Đại thúc, tại sao Bắc Đẩu lại truy sát thúc? Thúc cũng giống Ngô tướng quân, thực ra là người của Nam triều nhưng bị họ phát hiện sao?"

Lưu Hữu Lương nghiêng đầu nhìn muội ấy, cười nói: "Không phải, ta có thứ quan trọng muốn đưa xuống phía nam, bằng không họ cũng chưa chắc phát hiện ... các cô vì cứu ta mà dính líu nhiều thế này, thực ..."

"Chuyện đó không ngại." Lý Nghiên ngồi xếp bằng trên đất, nói: "Cô cô của tôi nói, chúng tôi không vô cớ gây chuyện, nhưng chúng tôi không sợ chuyện, bảo vệ bản thân đương nhiên quan trọng nhưng bảo vệ tới bảo vệ lui lại thành một đám rùa rụt cổ tham sống sợ chết, không khỏi trái với tâm nguyện ban đầu."

Lưu Hữu Lương sững sờ, hỏi: "Vẫn chưa thỉnh giáo sư môn của cô nương?"

Lý Nghiên mỉm cười nói: "Thục Trung 48 trại, nữ nhi của Trung Vũ tướng quân còn đang ở nhà tôi kia kìa!"

Lưu Hữu Lương đầu tiên là giật mình, sau đó mừng rỡ: "Cái gì? Các cô là người của Thục Trung 48 trại? Ta chính là muốn ..."

Lời ông còn chưa dứt thì thình lình bị tiếng bước chân gấp gáp bên ngoài ngắt ngang, tiếng đọc sách của bọn trẻ im bặt, bên ngoài hình như có một đám đông khí thế hùng hổ xông vào.

Sắc mặt cả Lưu Hữu Lương và Lý Nghiên đều thay đổi, cả hai đồng thời nín thở, Lý Nghiên chậm rãi nắm lấy thanh trường đao của mình.

Phía trước có người phách lối kêu lên: "Bắc Đẩu truy bắt khâm phạm triều đình! Lão già, có thấy một nam một nữ mang theo một người bị thương đi ngang qua đây không?"

Lý Nghiên thầm tính toán --- Giọng này hình như không phải giọng Đồng Khai Dương. Những người khác chưa chắc mình không thể đánh một trận... chỉ sợ họ đông người thôi.

Thầy đồ giọng như vịt đực đằng trước run rẩy nói: "Các vị quan gia, lão chưa từng nhìn thấy."

Bắc Đẩu đặt câu hỏi hừ lạnh: "Thành Chương Khâu đã giới nghiêm, chúng không thể vào thành, không có nơi nào tốt để đi cả. Lão già vô dụng, tránh ra! Để ta lục soát từ trong ra ngoài một lượt!"

Thầy đồ vội nói: "Không được vô lễ! Ngươi ... ai da! Sao các ngươi dám càn rỡ trước mặt thánh nhân?"

Tiếp theo là khung cảnh hỗn loạn, tiếng bọn trẻ hoảng sợ kêu gào, tiếng bước chân càng lúc càng gần, Lý Nghiên chợt đứng dậy, toàn thân căng thẳng, lòng bàn tay đầy mồ hôi lạnh, tim đập dồn dập, muội ấy nhắm mắt cố gắng định thần, thầm nghĩ --- Liều thôi, chi bằng mình ra tay trước để chiếm lợi thế!

Lý Nghiên đang định xách đao tiến về trước, nhưng chân vừa trượt ra một bước thì đột nhiên, một bóng người như ánh chớp rơi xuống trước mặt, Lý Nghiên bị dọa nhảy dựng, suýt hét lên, người tới giơ tay bịt miệng muội ấy lại, ra dấu tay im lặng.

Lý Nghiên mở to mắt, nhìn rõ người tới thì suýt lệ nóng dâng tràn, Chu Phỉ chạy tới rồi!

Chu Phỉ buông muội ấy ra, điềm tĩnh gật đầu với Lưu Hữu Lương rồi cầm Toái Già dựa vào tường.

Tư thế đứng của Chu Phỉ vô cùng thả lỏng, dường như không hề để tiếng bước chân áp sát và tiếng hỗn loạn phía trước vào mắt.

Lý Nghiên không hiểu gì cả cũng thả lỏng theo, giống như nơi đây có Chu Phỉ thì dù bên ngoài là trời sập hay đất lở, muội ấy đều chẳng quan tâm.

Đúng lúc này, thầy đồ kia chợt quát to một tiếng: "Dừng tay! Cái đồ ... cái đồ các ngươi ... Nam quốc tử giám ở bên ngoài hơn mười dặm, sao các ngươi dám vô giáo dục như vậy hả!"

Chu Phỉ dựa ở góc tường, nghe lời này không hiểu sao lại cười.

Lý Nghiên tưởng Chu Phỉ cười thầy đồ cổ hủ, tuy muội ấy cũng cảm thấy mắng Bắc Đẩu "vô giáo dục" hơi buồn cười nhưng vẫn không khỏi lo lắng, thầm nghĩ --- Lão mọt sách này bỗng dưng đắc tội Bắc Đẩu, lỡ bị chúng hại thì sao?

Muội ấy nôn nóng kéo ống tay áo Chu Phỉ, đang định mở miệng thì thấy Chu Phỉ lắc đầu với mình.

Chương 125: Hải Thiên Nhất Sắc

Khi thầy đồ quát to "Nam quốc tử giám" thì bọn Bắc Đẩu hung hăng kia khựng lại, sau chốc lát có một người mở miệng, lần này khách sáo hơn không ít, người nọ nói: "Xin hỏi tiên sinh là ..."

Thầy đồ tiếp tục giọng nói khiến tai người ta ngứa: "Lão phu chính là thầy đồ Lâm Tiến của Nam quốc tử giám, môn hạ Khổng thánh nhân, tuy địa vị thấp kém nhưng há có thể ngồi nhìn các ngươi càn rỡ? Ngược lại ta muốn thỉnh giáo hôm nay là vị tướng quân nào, động tĩnh thật lớn, quan uy thật to nhỉ!"

Bắc Đẩu lên tiếng trước đó nói: "Chỉ là một thầy đồ nho nhỏ, nếu thả khâm phạm triều đình chạy trốn, ông gánh trách nhiệm nổi không?"

Thầy đồ lập tức hùng hồn châm biếm: "Bắt khâm phạm thì tự đi mà bắt, chạy đến nơi này gây xúi quẩy cho một đám trẻ con là đạo lý gì, ta thấy các hạ mới là kẻ muốn thả khâm phạm chạy thì có!"

Lý Nghiên nghẹn trong cổ họng, luôn cảm thấy tiếp ngay sau sẽ là tiếng kêu thảm thiết vang lên, không ngờ bên kia lúng túng trầm mặc một lát rồi gã Bắc Đẩu lên tiếng sau hét ngưng gã đồng bọn giận dữ. Đó đại khái là tiểu đầu mục dưới trướng Đồng Khai Dương, từ giọng nói cũng có thể nghe ra gã chắc chắn đang trưng vẻ mặt nhẫn nhịn chịu đựng, nói: "Hóa ra là Lâm tiên sinh, ngưỡng mộ đã lâu, nếu là tiên sinh, đương nhiên sẽ không che giấu gì cả, quấy rầy rồi, chúng ta đi!"

Lý Nghiên không ngờ tới cú đảo ngược này, kinh ngạc mở to mắt.

Chốc lát, tiếng bước chân dần xa, Bắc Đẩu khí thế hung hăng đã bỏ đi.

Lý Nghiên: "Chỉ ... chỉ vậy ..."

Bên ngoài yên tĩnh hồi lâu, sau đó, thầy đồ dông dông dài dài duy trì đám trẻ trật tự rồi bắt đầu dạy họ đọc sách.

Mãi đến lúc này, Lưu Hữu Lương mới thở phào nhẹ nhõm, cái cổ luôn cứng ngắc dựa vào một bên, thều thào nói: "Tào Trọng Côn lúc trẻ lên ngôi hoàng đế danh bất chính ngôn bất thuận, khi mới nắm quyền đã hại không ít mạng người, mạng của người giang hồ mất thì mất thôi, nhưng mạng của người đọc sách lại quý hơn nhiều. Sau này tuổi tác ông ta lớn, không có lá gan "đốt sách chôn nho", cũng sợ ô danh muôn thuở nên mấy năm nay khai ân, mở quốc tử giám."

"Có mở cũng không giả vờ được." Chu Phỉ đứng bên cạnh tiếp lời: "Lập ra hai quốc tử giám nam bắc, thể hiện mình biết lắng nghe cả hai bên, sư đồ nam bắc quốc tử giám có thể định kỳ dâng thư tấu biểu lên cố đô, mấy tên mọt sách đôi lúc cắn người còn lợi hại hơn cả Ngự sử đài. Nghe nói sở dĩ người Triệu gia hốt hoảng xuôi nam chính là vì lão hoàng đế khăng khăng dao động căn cơ của đám văn thần và quyền quý trong triều, có vết xe đổ phía trước nên Tào thị luôn rất cẩn thận, Bắc Đẩu trên danh nghĩa là cận vệ thiên tử, kỳ thực chẳng qua là con chó làm việc thôi, không dám càn rỡ ở Nam quốc tử giám... đúng không, Lưu đại nhân?"

Một tay Lưu Hữu Lương ấn vết thương trên eo, cười khó nhọc, khẽ nói: "Không sai, lão Lâm tiên sinh này tuy chỉ là một thầy đồ nho nhỏ nhưng rất có tiếng. Ông ta vốn là một lão hủ nho, làm việc nói chuyện đều hồ đồ thậm chí đôi lúc bừa bãi lộn xộn, thực không thể làm quan. Nhưng vận số ông rất tốt, thời trẻ đã mở trường tư thu học trò, chẳng qua dạy mấy bài học vỡ lòng biết mặt chữ như "Thiên tự văn", nào ngờ được ông ấy dạy vỡ lòng xong là có bốn năm người liên tiếp đăng khoa nhất giáp (*), ngay cả tế tửu đại nhân (*) hiện nay cũng từng đi học ông ấy, nên không ít con cái gia đình nho học cảm thấy được học ông ấy thì tương lai ắt có tài hoa, chuyện này sắp thành điển cố trong vùng luôn rồi."

(*) Đăng khoa nhất giáp: 3 người có thứ hạng cao nhất trong thi cử ngày xưa là trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa, 3 thứ hạng này gọi chung là nhất giáp.

(*) Tế tửu: tên một chức quan, thời Hán gọi là tiến sĩ tế tửu, là người đứng đầu tiến sĩ, thời Tây Tấn gọi là thiết quốc tử tế tửu, sau thời Tùy Đường gọi là quốc tử giám tế tửu, là quan chủ quản quốc tử giám, cuối thời Thanh phế bỏ chức quan này.

Lý Nghiên nghe mà sững sờ.

Chu Phỉ ngước mắt nhìn muội ấy: "Ngạc nhiên cái gì? Muội tưởng ca ca muội tùy tiện tìm một nơi bá vơ mà cũng dám quẳng muội lại đi mất à?"

Lý Nghiên chợt không thốt nên lời.

Mấy năm qua, số lần Lý Nghiên gặp Chu Phỉ có thể đếm trên đầu ngón tay, ấn tượng của muội ấy về Chu Phỉ vẫn dừng lại ở quãng thời gian thiếu nữ dài dằng dặc. Lý Nghiên nhớ, Chu Phỉ đi đường luôn không ngẩng đầu, thường chìm đắm trong thế giới của riêng mình không để ý đến ai, bởi vậy nên không biết đường cũng không biết người, mỗi lần lễ Tết, Chu Phỉ đều mang vẻ mặt thờ ơ theo sau Lý Thịnh, hễ gặp ai, Lý Thịnh gọi người ta là gì thì Chu Phỉ gọi theo y hệt ... thậm chí có lần không để ý mà bắt chước Lý Thịnh gọi đại đương gia là "cô cô".

Kể bí mật với Chu Phỉ, không cần lo bị nói ra, vì Chu Phỉ căn bản chẳng quan tâm, lúc nghe cũng nghe không lọt nữa là. Kể tâm sự thiếu nữ với Chu Phỉ xong thì vừa quay đầu đi là tỷ ấy quên không còn một mống.

Lý Nghiên không biết Chu Phỉ ... và cả ca ca nữa, làm thế nào mà họ biết nhiều chuyện như vậy, rồi lại tỉnh bơ suy xét nhiều thứ cong cong quẹo quẹo như vậy.

Lý Nghiên không biết che giấu, trong lòng nghĩ gì là hiện hết ra ngoài mặt, Chu Phỉ treo Toái Già bên hông, khoanh hai tay trước ngực, cười nói: "Chuyện này có gì đâu, lúc tỷ vừa xuống núi cũng không nghĩ gì cả, không ai dẫn đường là mù tịt. Lý bà bà còn tệ hơn nữa, mấy chuyện xấu xa huynh ấy làm tỷ không thèm nhắc đâu."

Lý Nghiên ủ rũ hỏi: "Vậy sau đó sao tỷ biết đường?"

Chu Phỉ khựng lại, nhìn mặt Lý Nghiên chốc lát mới nói: "Vì người dẫn đường cho tỷ đều không còn bên cạnh nữa."

Vương lão phu nhân, Thần Phi sư huynh, Mã Cát Lợi ...

Và Tạ Doãn.

Nói xong, Chu Phỉ nhanh chóng thu hồi ánh mắt, xoay qua nói với Lưu Hữu Lương: "Ta biết Đồng Khai Dương có lẽ sẽ kiêng kỵ Nam quốc tử giám, chỉ là không ngờ lại dễ đuổi cổ ông ta như vậy, chỉ dăm ba câu liền đi. Nếu không phải có âm mưu gì thì chắc chắn là có nguyên nhân."

Lý Nghiên lập tức nhớ câu Lưu Hữu Lương suýt nói trước đó, vội giới thiệu: "Đây là tỷ tỷ của tôi, với đại đương gia của chúng tôi là ..."

"Nam đao." Chưa đợi Lý Nghiên nói xong, Lưu Hữu Lương đã nói tiếp: "Ta biết, cô nương nổi tiếng trong Bắc Đẩu hơn trong võ lâm phía nam nhiều, dù sao không phải ai cũng dám phóng hỏa đốt nhà Đồng Khai Dương ... Chu cô nương xác thực tỉ mỉ, Đồng Khai Dương không dám, là vì tế tửu Nam quốc tử giám hiện nay là cậu ruột của thái tử, Bắc Đẩu chính đáng đến đâu cũng không có huyết thống hoàng thất ... còn Đồng Khai Dương vì sao không muốn đắc tội thái tử trong lúc mấu chốt này, khụ ..."

Ông khép hờ mắt, thở dốc ho khan mấy tiếng, nói: "Vì Tào Trọng Côn đã chết."

Chu Phỉ: "..."

Lý Nghiên: "..."

Cách một bức tường, thầy đồ đọc đến chỗ "vị vạn thế khai thái bình", chữ "bình" kéo dài hơn ba mươi dặm, có thể nói là vừa hát vừa than khiến lão đán (*) nghe cũng phải cam bái hạ phong. Trong hậu viện miếu Khổng Tử lâu năm ít tu sửa này, một nam tử trung niên còn nửa cái mạng nằm trên đất, nhẹ nhàng thả ra tin tức kinh thiên động địa.

(*) Lão đán: chỉ vai cụ già trong hí khúc.

Đừng nói Lý Nghiên, ngay cả Chu Phỉ cũng sững sờ.

"Kinh thành hiện đang bí mật không phát tang, tin tức này chỉ có hoàng hậu, thái tử và mấy cận vệ bọn ta vừa khéo có mặt lúc đó là biết. Thái tử muốn nhân cơ hội nhổ vây cánh của Đoan vương ở kinh thành, giành kế vị đăng cơ trước nên nghiêm lệnh cấm truyền tin tức này ra ngoài, bọn ta lúc đó đều bị nhốt trong cung, có người cả gan rời đi nửa bước liền bị xử tội." Lưu Hữu Lương giang tay: "Thế nên Lưu mỗ đã "mưu phản" rồi."

Lý Nghiên sững sờ nửa ngày, hơi bất ngờ nói: "Lẽ nào thúc định đưa tin này nói cho gã Tào... cái gã mập phì lũ kia hả?"

Chu Phỉ nhỏ giọng: "Lý Nghiên."

Lý Nghiên le lưỡi, không dám nói lời ngốc nghếch nữa.

Chu Phỉ đi tới, chống thanh Toái Già, nửa quỳ trước mặt Lưu Hữu Lương, nhìn chằm chằm ông: "Nếu chỉ là một tin tức, Lưu đại nhân có thể thần không biết quỷ không hay truyền lời đi, thực sự không cần phí công đến vậy."

"Không sai, lúc ở cố đô ta đã nghĩ cách truyền tin cho Hành Tẩu Bang giúp, bây giờ ắt hẳn lệnh tôn đã sớm nhận được rồi. Chỉ là khi đó có chút vui quá bất cẩn, bị tiểu nhân hãm hại, bằng không sẽ không dễ bị Đồng Khai Dương phát hiện." Lưu Hữu Lương cố sức đưa tay luồn vào ngực, lần mò một lát, lấy ra một hộp nhỏ cỡ lòng bàn tay, hoa cỏ vẽ bên trên đã nhạt màu, giống như là hộp son phấn cũ: "Nhưng không sao cả, ta vốn cũng ..."

Lưu Hữu Lương cố cử động, thở hổn hển như cái ống khói nát, nhét hộp son phấn kia vào tay Chu Phỉ: "Nơi này hung hiểm, cô nương tuy có danh thơm Nam đao nhưng mang theo ta cũng nhiều điều bất tiện, không cần... không cần lo cho ta, cô đem thứ này về cho lệnh tôn, tâm nguyện ta đã thành, chết cũng ..."

Chu Phỉ hỏi: "Đây là gì?"

"Là minh ước Hải Thiên Nhất Sắc." Lưu Hữu Lương đáp.

Sắc mặt Chu Phỉ chợt thay đổi.

Lưu Hữu Lương thở dốc mấy hơi, bổ sung: "Không phải ... khụ, cái Hải Thiên Nhất Sắc mà các cô nói, các cô tranh tới tranh lui hoa văn sóng nước gì đó, ta không biết là thứ gì, cũng không biết vì sao nó lại tiếp tục dùng tên "Hải Thiên Nhất Sắc"."

"...Năm xưa cố đô gặp biến, một nhóm người rời đi hộ tống ấu chúa xuôi nam, hi sinh vì nghĩa, một nhóm ở lại, nhẫn nhục gánh vác trọng trách, họ đều biết rằng dẫu đi hay ở thì có lẽ cả đời cũng khó gặp lại, nên trước lúc đi, chúng ta đã định ra minh ước, tên là "Hải Thiên Nhất Sắc"..."

Bỏ đời và sống tạm, nhịn đau và nhẫn nhục, giống như nước thu và bầu trời chung sắc.

"Người còn sống cuối cùng phải đưa bản minh ước này và danh sách xuống phía nam, như vậy dù chúng tôi lặng lẽ chết đi, tương lai trong ba thước sử xanh cũng có một phần công luận. Buồn cười gã Đồng Khai Dương thần hồn nát thần tính kia còn tưởng đây là cơ mật quan trọng gì đấy, muốn lấy danh sách khỏi tay ta rồi theo đó xử lý từng người một."

Chu Phỉ mở ra lướt mắt xem, dù hiện nay nàng có vẻ mắt nhìn sáu phương tai nghe tám hướng nhưng rất nhiều cái tên trong danh sách vẫn vô cùng xa lạ với nàng. Bởi có những người đại khái cả đời cũng không có chiến tích gì, không thể leo đến địa vị cao như Ngô tướng quân để làm ra chuyện gì hữu dụng, họ chỉ là những vị quan thấp bé bất lực, lặng lẽ chết già trong nỗi nghi hoặc và lo lắng hết năm này qua năm khác. Có những người dứt khoát cuốn vào trong các sự cố khác, chìm ngập giữa vô số bè lũ xu nịnh, tranh quyền đoạt thế ở Bắc triều gió nổi mây vần, phần trung thành trong lòng bị ép xuống rất sâu, đến chết cũng không còn dính dáng.

Lưu Hữu Lương nói: "Ta luôn tìm kiếm người có thể phó thác nó, cuối cùng cũng xem như được trời ưu ái. Chu cô nương, nhờ cả vào cô."

Lý Nghiên bối rối nhìn Chu Phỉ rồi lại nhìn Lưu Hữu Lương. Thành Chương Khâu đã giới nghiêm, vùng xung quanh đây chắc chắn đều đã bị thám tử của Bắc Đẩu bao vây, mang theo một người bị trọng thương, ngoài kia lại có cường địch như Đồng Khai Dương, dù là Chu Phỉ, e cũng lực bất tòng tâm.

Lý Nghiên rất muốn vỗ ngực nói một câu "Đại thúc yên tâm, tôi có thể bảo vệ thúc chu toàn", nhưng muội ấy không thể. Dù nguyện không thèm đếm xỉa đến bản thân, nhưng muội ấy không thể không thèm đếm xỉa thay ca ca và tỷ tỷ, nên đành trơ mắt thiết tha nhìn Chu Phỉ.

Chu Phỉ không lên tiếng, nàng nghĩ ngợi rồi nhét hộp son phấn kia vào ngực, đứng dậy hô với ra bên ngoài: "Lâm lão đầu, ông niệm kinh xong chưa?"

Lý Nghiên: "..."

Cánh cửa nhỏ đóng chặt được đẩy ra từ bên trong, một ông lão nhỏ thó có râu dê dùng một tay gỡ mạng nhện trên cửa xuống, vịn tường bước ra, chỉ vào Chu Phỉ nói bằng giọng vịt đực: "Càn rỡ, không tôn kính bề trên, không biết lớn nhỏ!"

Bọn trẻ nhốn nháo trong miếu ban nãy đã đi hết, thầy đồ chống gậy bước từng bước qua, tóc ông bạc trắng, trông đã tới tuổi thất tuần, ông chỉ đi có mấy bước mà Lý Nghiên thấp thỏm, chỉ sợ ông bị ngã.

Chu Phỉ không kiên nhẫn: "Con không ăn gạo nhà ông cũng không đọc sách nhà ông, bớt ra vẻ trưởng bối với con đi, lẹ qua đây giúp giùm cái!"

Lâm Tiến dùng gậy chọt nàng, râu dê vểnh lên xinh đẹp: "Ta là sư bá của con!"

Chu Phỉ mặt không đổi sắc nói: "Ông là sư bá của ai? Con đâu có sư phụ là hòa thượng."

Lâm Tiến nghe vậy, nở nụ cười vô cùng bỉ ổi, khoác lớp da lão học giả, đích thân biểu diễn thế nào là "ra vẻ đạo mạo", nói: "Sớm muộn gì con cũng thừa nhận thôi, khà khà."

Lý Nghiên cảm giác như nhìn thấy gân xanh trên trán Chu Phỉ, sau đó thấy ông già bước đi còn run lẩy bẩy tiến về trước một bước, tránh vết thương của Lưu Hữu Lương, nhẹ nhàng nắm thắt lưng ông ấy như nhặt một tờ giấy, vác một nam nhân to lớn thô kệch lên vai.

Lý Nghiên há hốc mồm nhìn ông, thầy đồ nháy mắt cười với muội ấy, nói: "Ôi, vị tiểu cô nương vô cùng xinh đẹp này có từng đọc tứ thư chưa? Thích đọc phần nào trong ngũ kinh?"

"Muội ấy thích "Tam tự kinh"." Chu Phỉ lạnh lùng nói: "Đừng nói nhảm nữa, đi thôi!"

Lâm Tiến trừng mắt với nàng: "Lòng người thay đổi, lòng người thay đổi mà! Con có học đến mấy cũng không thể nào biết tri thức hiểu lễ nghĩa đâu, đừng hòng vào cửa nhà ta."

Từ đó có thể thấy, sự "bỉ ổi" của Tạ Doãn tuyệt đối không phải bẩm sinh mà là có lai lịch.

Chu Phỉ giơ ngang thanh Toái Già, cả giận: "Ông nằm mơ đi!"

Lâm Tiến nhảy loi choi như khỉ tránh né, cười ha hả, vác Lưu đại thống lĩnh đang kinh hãi không thôi, phút chốc đã không còn bóng dáng.

Lý Nghiên chỉ vào hướng thầy đồ biến mất: "Ông ... ông ấy ..."

"Một tiền bối, tính tình hơi bỉ ổi chút nhưng xem như đáng tin cậy, giao cho ông ấy thì có thể yên tâm." Chu Phỉ dừng lại, nhìn Lý Nghiên, nói tiếp: "Tỷ không chờ Lý bà bà đâu, muội nói với huynh ấy một tiếng là được, tỷ còn có việc, qua mấy ngày nữa tới tết trùng cửu mới về nhà. Dọc đường cẩn thận nhé, tạm biệt."

Lý Nghiên vội nói: "Nè, đợi ..."

Nhưng Chu Phỉ không đợi muội ấy mở miệng, bóng người lóe lên rồi biến mất.

Chạng vạng hôm sau, một chiếc thuyền nhỏ khoan thai nằm trên sóng nước, Chu Phỉ sớm đã không còn là con vịt cạn bị mái chèo làm xoay mòng mòng nữa, nàng thong thả ngồi bên mạn thuyền, thỉnh thoảng tiện tay khua một cái, chiếc thuyền nhỏ băng băng tiến về trước, đi ngược dòng cả ngày thì tới một rặng đá ngầm lớn.

Chu Phỉ không biết đã đi qua đây bao nhiêu lần, không cần bản đồ, không cần la bàn, nhắm mắt cũng có thể đưa thuyền nhỏ rẽ trái rẽ phải tiến vào một thạch trận khiến người ta hoa mắt, sau đó chui vào một hang động chỉ có thể cho một người đi qua. Nàng đặt mái chèo xuống, mặc cho dòng nước đẩy thuyền nhỏ tiến lên, uốn cong mấy lần, dòng nước càng lúc càng hẹp, càng lúc càng cạn, mãi đến khi thuyền không thể nào đi tiếp nữa, Chu Phỉ mới đậu thuyền nhỏ chỗ nước cạn, nhẹ nhàng nhảy lên trên bờ động đen ngòm, không hề có đuốc, nàng lần mò trên vách đá mấy lần, sau một tiếng vang nhỏ, trên vách đá bỗng mở ra một cánh cửa, đi vào trong khoảng một nén nhang thì phía trước trở nên rộng rãi sáng sủa, lộ ra nhà cửa trên đảo.

Có một lão ngư dân đang phơi lưới, thấy nàng đến thì không hề giật mình, hời hợt gật đầu với nàng, nói: "Chu nha đầu, đến không đúng lúc rồi, mấy ngày trước tiểu tử kia tỉnh lại một chút, vốn định chờ con mấy ngày nhưng không được, hôm qua vừa bế quan trở lại rồi."

Chu Phỉ thở dài không quá rõ ràng, nói: "Dọc đường gặp phải chút phiền toái."

Lão ngư dân đưa tay chỉ một sơn động đá ngầm thiên nhiên: "Mau đi đi, nó có để lại thư cho con đấy."

Chương 126: Hoa Núi

Nhưng Chu Phỉ không hề di chuyển.

Nàng như một lữ nhân đi xa mới trở về, lòng không hẳn không vui, chỉ là vô cùng mệt mỏi, mệt đến mức thấy người thân ngày ngày lo lắng cũng không muốn chào, ngửi mùi cơm nhà nhớ nhung tưởng niệm cũng không muốn ăn, thoạt nhìn dửng dưng hờ hững.

Chu Phỉ đứng bên bờ chốc lát, nhìn những bọt nước nhỏ li ti vỗ vào đá ngầm ven bờ, một phần lưới đánh cá chìm trong nước, nhấp nhô lên xuống theo mặt nước, lúc chìm trong bọt nước trắng xóa thì lộ ra ánh sáng khác thường. Thật lâu, nàng mới chống Toái Già xuống đất, lấy ra một bình nhỏ, nói: "Con tìm được "cỏ Chu Minh Hỏa Vĩ" trong truyền thuyết, nhờ Độc lang trung mài thành bột đem về, không biết có tác dụng không."

Năm ấy Chu Phỉ lấy được bản đồ từ Chu Dĩ Đường liền chạy đi đào mộ Lương Thiệu tanh banh.

Lương tướng gia thật thảm, lúc sống cúc cung tận tụy, sau khi chết cũng không được an bình, mộ bị người ta đào bới không chỉ một lần. Khi Chu Phỉ đi, ngay cả hài cốt của ông cũng không tìm thấy, nắp quan tài hất ở một bên, lộ cái quan tài trống rỗng, vô cùng thê lương. May mà vị khách ghé thăm trước tìm đồ rất có tính mục đích, phần lớn vật tùy táng đều không bị động đến, Chu Phỉ hốt hết đồ có liên quan tới Đại Dược cốc, thứ hữu dụng thì đưa tới Bồng Lai, còn lại thì tặng cho Ưng Hà Tòng, bán một ân tình.

Mấy năm nay, Chu Phỉ đối chiếu với "Bách độc kinh" của kỳ tài lầm đường lỡ bước Lữ Nhuận một cách máy móc, đi qua vô số nơi giả dối của nhân gian, còn kết thâm thù đại oán với Đồng Khai Dương, bản thân cũng thành một nửa người trong nghề kỳ trân thảo dược, nhưng kết quả dường như luôn không như ý muốn, trị ngọn khó trị gốc.

Đôi lúc Chu Phỉ cũng sẽ nghĩ, nếu nàng là Tạ Doãn, nàng sẽ bằng lòng treo một hơi thở để quá nửa thời gian đều trôi qua trong hôn mê như vậy sao?

Chỉ nghĩ thôi nàng đã thấy muốn điên rồi.

Tâm tư rẽ đi như thế, Chu Phỉ sẽ thường xuyên cảm thấy rất nản lòng, nhưng tính cách nàng lại có chút cố chấp, tuy nản lòng nhưng chưa bao giờ hết hi vọng, nản một buổi tối là ngay hôm sau có thể "tro tàn lại cháy" (*).

(*) Tác giả chơi chữ: từ "tro" (khôi - 灰) vừa có nghĩa 'nản lòng, chán nản' vừa có nghĩa là 'tro than'.

Thời gian Tạ Doãn tỉnh táo rất ngắn ngủi, ban đầu Y được ba vị trưởng bối trên đảo dùng nội lực chữa thương ép tỉnh, gần như không có ý thức, một năm qua dùng "Giao Hương" được làm từ gan mãng xà kỳ lạ theo ghi chép của "Bách độc kinh", Y mới hơi có chuyển biến tốt, đã có thể ngồi dậy hoạt động được một chút, tiếc rằng ... Chu Phỉ vội vội vàng vàng đuổi tới nhưng vẫn không kịp.

Chu Phỉ nhẹ giọng nói: "Con vẫn chưa tìm được loại nội lực mà Đồng Minh đại sư nói."

Lão ngư dân không hề bất ngờ, vô cùng chuyên chú kéo lưới trong tay, không ngẩng đầu nói: "Lúc con bước vào, ta nghe bước chân con hơi nặng, chần chừ không quyết đoán là biết không có kết quả gì rồi."

"Bồng Lai tiên" trong truyền thuyết gồm 4 người, năm xưa vì cứu Tạ Doãn, có một vị tiền bối gạt ba người kia lén lút truyền công cho Y nên đã qua đời, hiện nay chỉ còn một cao tăng Đồng Minh đại hòa thượng, một thầy đồ Lâm trà trộn quốc tử giám, nhiệt tình làm hại con cháu người ta, và lão ngư dân này.

Ông lão mặc trang phục ngư dân này tên Trần Tuấn Phu, cả tên và tướng mạo đều bình thường, nói ra chưa chắc bao nhiêu người biết, nhưng vật ông làm ra lại cực kỳ nổi tiếng, ví dụ như "Mộ Vân sa" đao thương bất nhập mà Sơn Xuyên kiếm năm xưa đặt làm cho phu nhân, sau đó rơi vào tay Thanh Long chúa Trịnh La Sinh.

Tương truyền ông có một đôi tay có thể biến đá thành vàng, cơ quan, binh khí, bảo y ... không thứ nào là ông không tinh thông.

So với Đồng Minh đại sư nói chuyện luôn mang ý thiền, với thầy đồ Lâm ăn nói ba hoa, thì Chu Phỉ khá thích trò chuyện với vị Trần lão này hơn.

Hơn ba năm, dù Chu Phỉ là người bản tính nóng nảy cũng đã trấn định lại sau nhiều lần thất vọng, nàng và lão ngư dân một đứng một ngồi, miệng nói lời chán chường nhưng mặt không chút dao động, giống như chỉ đang tán gẫu việc nhà với ông vậy.

Chu Phỉ hỏi: "Trần lão, nếu đến cuối cùng, con vẫn không tìm được thì sao?"

Lão ngư dân lấy ra một con thoi hình dáng cổ quái, dùng tốc độ tay mà người thường nhìn không rõ bắt đầu đan thêm một lớp lưới nữa bên trên lớp lưới trước, ông dùng dây câu cực nhỏ, nhỏ hơn cả sợi tơ "năm tầng lụa mỏng vẫn có thể thấy nốt ruồi trên ngực" trong truyền thuyết.

Tay Trần Tuấn Phu tuy nhanh nhưng nói lại rất chậm, ông bình tĩnh nói: "Lần đầu tiên lão Lâm gặp con, vừa gặp là muốn ra tay đùa bỡn, lúc đó con bó tay với ông ấy, nhưng bây giờ chỉ mới 2 3 năm mà ông ấy đã không dám tùy tiện chọc giận con nữa, con biết tại sao không?"

Tuy Chu Phỉ đam mê võ nghệ nhưng cũng có lúc không muốn thảo luận võ công, nghe vậy uể oải nói: "Không biết, nắm đấm sợ tuổi trẻ chăng? Không chừng là ông ấy đọc "chi, hồ, giả, dã" nhiều nên càng lúc càng thụt lùi cũng nên."

Trần Tuấn Phu đưa tay nhẹ nhàng kéo dây câu, dây câu liền gọn gàng lưu loát bị ông cắt đứt, "lưới đánh cá" to trải trên đất hơi cử động, ánh sáng chói mắt "rào" chảy lan ra như giội. Ông ngước khuôn mặt ngăm đen, nheo mắt cười với Chu Phỉ, nói: "Vì người khác hoặc lên dốc, hoặc xuống dốc, hoặc đứng nguyên tại chỗ không nhúc nhích, dưới chân nhấp nhô lên xuống đều có chỗ đặt. Nhưng con thì khác, đường con đi không phải dốc mà là vách đá cheo leo, giữa các bậc đá không có đường, chỉ có thể liều mạng tung người nhảy lên, lần nào cũng phải gắng túm được đá bên trên rồi giãy giụa bò lên, lỡ bò không được sẽ ngã tan xương nát thịt, đây là tìm đường sống trong chỗ chết. Ta hỏi con, con có từng sợ không?"

Chu Phỉ ngẩn người, sau đó gật đầu nói: "Có."

Sợ là thói thường của con người, nhưng nàng cứ bị Tạ Doãn lây vận xui, mỗi lần lâm vào hiểm cảnh đều như mắc trong khe đá, nếu không muốn bị vây chết ở đó thì chỉ có thể tiến về phía trước, sợ cũng vô dụng.

Trần Tuấn Phu hỏi: "Vậy lúc sợ, con sẽ làm sao?"

"Nghĩ rằng kỳ thực con đang ở trên bậc đá cao hơn một bậc ... hoặc cao hơn nữa, nghĩ đến mức bản thân tin tưởng không chút nghi ngờ thì sẽ thấy chuyện trước mắt không đáng kể nữa."

Chu Phỉ mím môi, gật đầu với Trần Tuấn Phu, miễn cưỡng cười nói: "Con hiểu rồi, đa tạ Trần lão chỉ điểm."

"Chỉ điểm gì đâu, chẳng qua dạy con lừa mình dối người cho dễ chịu chút thôi, mau đi đi." Trần Tuấn Phu khoát tay với nàng, lại bắt đầu bận rộn.

Chu Phỉ xoay người đi vào động bế quan của Tạ Doãn, vừa tới cửa đã cảm giác được hơi nóng phả vào mặt, một mùi hương kỳ lạ từ bên trong tỏa ra, đó chính là Giao Hương, nghe nói người bình thường ngồi thiền bên trong chốc lát, hít ít Giao Hương thì nội công tu vi có thể làm ít ăn nhiều, chỉ là không thể ở lâu, bằng không sẽ tổn hại đến kinh mạch.

Trong động bị mấy lão già thô kệch khoe của làm cho sáng choang, không có nửa bó đuốc mà toàn bộ đều là dạ minh châu to cỡ nắm tay, Chu Phỉ vừa vào liền sững sờ. Trên vách đá lần trước nàng tới còn trống trải giờ đây được ai đó dùng mực đậm vẽ lên bức tranh hoa đỗ quyên, kỹ xảo vẽ rất tốt, màu đỏ rực rỡ y như thật nở rộ cả một mặt vách, xán lạn đến cực điểm in sâu vào mắt, sức sống bừng bừng, tựa như một cơn gió thổi qua là có thể gợn lên một đợt sóng đỏ lửa, khiến người ta vừa nhìn liền cảm thấy nỗi âu sầu không tan trong ngực như vơi đi mấy lần.

Giao Hương lượn lờ, một người gầy đi không ít đang an tĩnh nằm đó, sắc mặt tái nhợt được bức tranh trên vách chiếu ra nhiều thêm chút máu, tay đang cầm một khối hồng ngọc đỏ rực.

Chu Phỉ từ từ đi tới ngồi xuống bên cạnh Y, cảm giác cả hang đá đều nóng như lò lửa, chỉ có khối băng lớn bên cạnh Tạ Doãn mới mát được một chút.

Nàng ngẩng đầu nhìn bức tranh trên tường, nói với Tạ Doãn: "Tranh huynh vẽ à? Chậc, nhàn hạ ghê nhỉ."

Người nằm đương nhiên không thể đáp, nhưng Tạ Doãn lại có câu trả lời. Ánh mắt Chu Phỉ lướt qua đỗ quyên đỏ cả mặt vách, phát hiện ở góc có mấy dòng chữ đề và lạc khoản, đầu tiên là đề một câu của Bạch Lạc Thiên "Quay nhìn đào mận đều vô sắc, Chiếu đến phù dung chẳng phải hoa" (*), sau đó lại viết "Ta mơ một giấc mơ dài, trong mơ hoa núi rợp trời như phỉ (*), như thấy cố nhân, lòng vui khôn xiết", phần lạc khoản ký tên "cư sĩ nghĩ thoáng".

(*) Trích "Sơn tì ba" (Sơn trà núi) của Bạch Lạc Thiên (tức Bạch Cư Dị), cả bài thơ khen vẻ đẹp của hoa sơn trà núi, 2 câu trích này có nghĩa đã thấy vẻ đẹp rực rỡ của hoa sơn trà núi rồi, quay đầu nhìn lại các loại hoa khác (đào mận phù dung) đều thấy chúng nhạt nhòa kém sắc.

(*) Chữ "phỉ" ở đây là翡, cũng chính là chữ "phỉ" trong tên Chu Phỉ, chữ này có 2 nghĩa: 1 là chim trả - loài chim có bộ lông rất đẹp, và 2 là phỉ thúy - một loại ngọc đẹp, người ta hay dùng chữ này để khen thứ gì đó đẹp rực rỡ lộng lẫy. Khi Doãn thấy hoa núi rợp trời lộng lẫy thì nhớ đến cố nhân là A Phỉ.

Khi nhìn thấy hai chữ "nghĩ thoáng", Chu Phỉ không kìm được nở nụ cười.

Tiếp đó, nàng thấy trên bàn nhỏ bên cạnh có bút nghiên giấy mực, bèn nhảy xuống khỏi giường đá, bước chân nhẹ nhàng đi tới trước bàn, lật xem lá thư Tạ Doãn viết cho nàng.

Trên mặt bàn trải mấy bức tranh, bức đầu tiên vẽ một tiểu cô nương 13-14 tuổi, vô cùng non nớt, nhỏ nhắn xinh xinh, đứng một chân trên tảng đá lớn, nghiêng đầu nhìn ra ngoài bức tranh, mặt mày sinh động, vô cùng oai phong.

Chu Phỉ kinh ngạc nhướng mày, loáng thoáng nhớ ra đây là dáng vẻ mình lúc nhỏ khi lần đầu gặp Tạ Doãn trên sông Tẩy Mặc, chính nàng đã mơ hồ không nhớ rõ, không ngờ lại tái hiện đầy đủ dưới ngòi bút Tạ Doãn, tim nàng đầu tiên là hơi nhảy lên... không ngờ khi nhìn thấy dòng chữ sau đó thì lập tức từ cảm động không thôi biến thành giận không chỗ phát. Cái đồ xúi quẩy Tạ Doãn lại đặt cho bức tranh này cái tên "rong tinh lúc nhỏ".

Bức tranh thứ hai là một thiếu nữ, hơi lớn hơn chút, khuôn mặt xinh đẹp, cầm trong tay một cái đầu lâu đặt nó lại trên đống xương, bên cạnh là bóng đen lay động, chỉ có chút ánh trăng chiếu xuống bóng lưng thiếu nữ.

Chu Phỉ dằn sóng to gió lớn trong lòng, xem tiêu đề trước, thấy bức tranh này viết "rong tinh uy phong một mình xuống động ngầm, chuẩn bị chiến 800 rùa đen Bắc Đẩu".

Chu Phỉ: "..."

Nàng nghiến răng tại chỗ, quay đầu liếc Tạ Doãn, không biết có phải ảo giác hay không mà nàng luôn cảm thấy khóe môi Tạ Doãn như mang chút ý cười xấu xa.

Trong nháy mắt, Chu Phỉ chợt cảm thấy tâm trạng nặng nề của mình thực không quan trọng, vị cư sĩ nghĩ thoáng này biết chơi như vậy, xem ra cách cái chết còn xa lắm.

Nàng thầm mắng một tiếng "vô sỉ", tức giận mở bức tranh thứ ba.

Bức tranh thứ ba vẽ một cô nương trẻ, hơi lớn hơn thiếu nữ trong mấy bức trước nhưng ngũ quan giống hệt, đang mỉm cười, nàng mặc bộ váy đỏ, tà váy tung bay, tóc mai như lông quạ, mặt mũi xinh xắn, đứng giữa đám hoa đỗ quyên đỏ, tay chắp sau lưng xách một thanh trường đao.

Chu Phỉ sững sờ, chợt bỗng dưng cảm thấy mình quả thực nên mặc một bộ váy đỏ như thế.

Liền sau đó, nàng lại lắc đầu, xem phần chữ Tạ Doãn viết cho bức tranh rởm này, chữ viết: "Tiên trong tranh là ..."

Là gì thì phía sau không nói, Chu Phỉ tìm một lát, phát hiện ba chữ trong góc: "Cô đoán xem."

Chu Phỉ không nhịn được hỏi ra tiếng: "Bức tranh này của huynh tên là "cô đoán xem"?"

Tạ Doãn không lên tiếng, nhưng bức tranh trên tay theo động tác của nàng rơi ra một phong thư nhỏ, bên trên kèm theo một tờ giấy, viết: "Đoán sai rồi, không phải cô, mà là vợ ta."

Chu Phỉ dở khóc dở cười mở thư, thấy nét chữ quen thuộc từng viết "Ly hận lâu" và "Hàn nha thanh", chỉnh tề ngay ngắn.

Y viết: "A Phỉ, nghe nói ít ngày nữa cô đến, ta rất vui, bọn binh tôm tướng tép của Đông Hải rất đông, đều là đồng tộc của cô, đem nhúng tương giấm dầu muối pha thêm gừng giã nhuyễn là vô cùng ngon, cô có thể thân thiết với chúng nhiều một chút ..."

Trong thư, Tạ Doãn không nhắc một chữ về Thấu Cốt Thanh, cũng không thê lương thảm thiết cảm kích nàng bôn ba, mà vừa đùa tiêu khiển nàng vừa liệt kê những món ăn ngon và thú chơi vui của Bồng Lai, kế đó bảo nàng mở xem cái hộp nhỏ bên gối, thần bí nói là bên trong có "dị bảo", kết quả Chu Phỉ nghe lời mở ra, chỉ thấy bên trong là một đống vỏ sò khiến nàng dở khóc dở cười.

Phần cuối, Tạ Doãn đáng thương cầu khẩn: "Bút mực đều để trên bàn đá, xin rủ lòng thương xót, viết thao thao bất tuyệt là tốt nhất, nhưng viết dăm câu vài lời cũng được, mong chờ cô hồi âm đôi chút để hơi xoa dịu nỗi nhớ nhung của ta nơi ngòi bút."

Sau đó Y lại dặn dò thừa thãi: "Chú ý: văn chương chỉ viết trên mặt giấy, cấm lấy ta ra xài."

Chu Phỉ vốn không nghĩ cầm bút mực làm gì, nhưng thấy câu này nàng lập tức được gợi ý lớn, bèn cười xấu xa xắn tay áo lên, nhúng mực thật đậm rồi đi tới trước mặt Tạ Doãn đang hôn mê không còn tri giác, thầm nhủ --- Đây là tự huynh tìm nhá.

Nàng đưa tay ước tính trên mặt Tạ Doãn, sau đó quyết đoán vung bút, bắt đầu ra tay ác độc với khuôn mặt mắt mũi rõ ràng của Đoan vương, trước tiên vẽ một viền tròn trên mặt Y, kế đó vẽ hai hàng chân mày của Y thành hai cây gậy đen, hai bên mặt mỗi bên vẽ ba cọng râu, cuối cùng giữa trán thêm một chữ "vương" ngay ngắn.

Vẽ xong, Chu Phỉ nghiêng đầu quan sát Y chốc lát, vẫn cảm thấy thiếu thiếu gì đó, bèn kéo cái tay không của Tạ Doãn qua, viết vào lòng bàn tay Y: "Thiếu một trận đòn."

Chu Phỉ quanh quẩn trong sơn động như lò lửa một lát, lúc trở ra, sự do dự và uể oải khi đến bất giác đều không còn nữa.

Trần Tuấn Phu không ngẩng đầu lên, nói: "Đi à?"

"Dạ." Chu Phỉ gật đầu với ông: "Tết trùng dương phải về nhà, Tào Trọng Côn vừa chết, cha con đại khái lại bắt đầu bận rộn rồi. Về con lại đi khắp nơi tìm xem, nghĩ cách kiếm thêm một cái gan mãng xà nữa."

"Không cần gấp, có một chút đó là đủ đốt tới mấy năm rồi." Trần Tuấn Phu nói, đưa tay ném một thứ gì đó sáng loáng cho nàng: "Cầm đi."

Chu Phỉ quơ tay tiếp được, thấy nó là một chiếc nhuyễn giáp bó sát người, kích thước nhỏ nhắn, cảm giác nhẹ như không: "Mộ Vân sa?"

Trần Tuấn Phu cười nói: "Mộ Vân sa là thứ đồ nát gì chứ, nhưng đây cũng không phải vật gì quan trọng, ta đan lưới đánh cá còn thừa thẹo một chút, làm vật gì người khác cũng mặc không vừa, chỉ đủ cho con dùng. Lão phu đặt cho nó cái tên "Thải Hà", thế nào?"

Chu Phỉ: "..."

Hèn gì Tạ Doãn lại có sở thích đi sưu tập vỏ sò.

Chương 127: Vô Thất

Chu Phỉ chọn trong đống vỏ sò Tạ Doãn ăn thừa lại cho nàng ra vài cái có màu sắc đẹp, tự đâm lỗ gắn vào chiếc áo mà Trần lão dệt từ lưới đánh cá thừa thẹo cho nàng, mặc vào tả tơi thôi rồi, nếu kiếm thêm hai cái bao tải vá chằng vá đụp thì với trang phục hành nghề này, nàng có thể lăn lộn thành một tiểu đầu mục Cái Bang cũng nên.

Chu Phỉ định trước tiên về nhà một chuyến, báo cáo với Lý Cẩn Dung, sau đó lại đến chỗ Chu Dĩ Đường xem cha có gì sai phái hay không, nếu chuyện bên này ổn, nàng muốn đi xuống phía nam một chuyến, tìm xem còn cái gan mãng xà nào khác có thể hốt về hay không.

Võ học hễ có thành tựu ở Trung Nguyên đều tự có hệ thống riêng, có tên có họ có ngọn nguồn gốc gác, nếu có loại nội lực mà Đồng Minh đại sư nói thì lẽ ra kiểu gì cũng không phải vô danh, nếu không tìm được trong võ lâm Trung Nguyên thì Chu Phỉ nghĩ có lẽ có thể đi tái ngoại và Nam Cương thử vận may. Vì việc này mà nàng đồng ý sau mùa đông sẽ đến Nam Cương tỷ thí đao với Dương Cẩn một trận, nhằm sai khiến Y giúp để ý kỳ nhân dị sự ở Nam Cương.

Chuyện lớn chuyện nhỏ nhiều đến mức đủ xếp sang mùa xuân năm sau, Chu Phỉ không dám trì hoãn, gắn vỏ sò vào áo rồi ra roi thúc ngựa đi một mạch trên quan đạo, ai ngờ mới đi được nửa đường, nàng thấy pháo hiệu của 48 trại. Lần này pháo hiệu thả khá tinh tế, chen lẫn trong đống pháo hoa bình thường, không giống có chuyện gì gấp mà giống như có thông tin mập mờ hơn.

Chu Phỉ nửa đường kéo dây cương, cau mày nhìn hướng pháo hoa biến mất, không biết có phải bọn hay gây họa thành tinh của 48 trại đều bị Lý Cẩn Dung phái ra ngoài hết không, nếu không thì sao thường xuyên gây chuyện thế?

Nhưng nếu đã nhìn thấy thì không thể mặc kệ, nàng đành quay đầu ngựa chạy về phía đó.

Ngựa tung vó chạy khoảng một khắc, pháo hoa lớn nhỏ liên tiếp nổ giữa trời đêm như Tết, xa xa có thể nghe tiếng người náo nhiệt nơi pháo hoa nở rộ, người gặp phải trên đường cũng dần dần nhiều lên, dường như đều chạy về bên đó.

Một cô nương trẻ xinh đẹp như Chu Phỉ đi một mình luôn khiến người khác không kìm được ngoái đầu nhìn, thỉnh thoảng có những kẻ mặt dày to gan còn muốn tiến lên bắt chuyện với nàng.

Chu Phỉ lúc nhỏ hơi mang đến cảm giác "người sống chớ lại gần", mấy năm nay thường xuyên đi trong hiểm cảnh, võ công tiến bộ, trên người càng lúc càng toát lên khí chất khó tả. Người đến bắt chuyện thấy nàng không hé răng thì đa số đều không dám dây dưa, chỉ có một "nam tử" thanh niên có hai cọng râu trên miệng đi tới đi lui quanh Chu Phỉ mấy vòng, bạo gan tiến lên hỏi: "Vị cô nương này cũng đi Liễu gia trang sao?"

Chu Phỉ nghiêng đầu liếc người này, khung xương nhỏ nhắn, cổ áo che cổ họng một cách giấu đầu hở đuôi, lưng ưỡn rất thẳng, lúc khuỷu tay buông xuống tự nhiên hơi đặt ở phía sau, lúc nói chuyện thì cằm hơi thu lại, tuy khóe miệng có hai cọng râu nhưng khuôn mặt nhỏ nhắn trắng trẻo phản quang trong màn đêm, vừa nhìn liền biết là một đại cô nương gắn râu vào.

Chu Phỉ "ừ" một tiếng rồi dời mắt qua chỗ khác, không hứng thú.

Ai ngờ cô nương kia vẫn quấn lấy, sáp lại nói với nàng: "Liễu gia trang này đúng là ghê quá, lão phu nhân trong nhà mừng thọ, còn không phải thọ chẵn mà họ lại làm lớn đến thế, hèn gì người ta nói họ giàu sánh ngang một nước."

Chu Phỉ không hứng thú với Dương gia trang Liễu gia trang gì đó, vừa định thúc ngựa đi trước vờ như không nghe thấy thì chợt cảm thấy sai sai, nàng kéo nhẹ dây cương, quay phắt đầu nhìn người gắn râu kia.

Người đó im lặng, đoan trang ngồi trên lưng ngựa, mỉm cười với Chu Phỉ.

"Sao lại là cô?" Chu Phỉ kinh ngạc hỏi: "Sao cô lại đến đây, còn biến thành như vậy nữa?"

Hóa ra người gắn râu này là Ngô Sở Sở lẽ ra đang ở Thục Trung.

Ngô Sở Sở không toét miệng cười như Lý Nghiên, động tác nơi khóe miệng luôn không lớn bằng động tác nơi khóe mắt, nàng ấy cong mắt cười, hỏi: "Sao, không giống à?"

Chu Phỉ dở khóc dở cười lắc đầu.

"Của A Nghiên cho ta." Ngô Sở Sở cúi đầu, bứt cọng râu xuống, lộ đôi môi như cánh hoa, nói: "Ta vốn cảm thấy không lịch sự nhưng thấy muội ấy từ sáng đến tối ăn mặc kỳ quái chạy khắp núi, dường như cũng có chút thú vị, thế là ta không kìm được mà trông bầu vẽ gáo, quả nhiên ta bắt chước không giống."

Sau khi Chu Phỉ đi, người ở bên Ngô Sở Sở nhiều nhất trong 48 trại chính là Lý Nghiên, Lý Nghiên cô nương bẩm sinh đã tự có tà khí không đứng đắn, lực ô nhiễm cực mạnh. Muội ấy vĩnh viễn không cách nào theo người khác "gần đèn thì rạng" nhưng luôn có thể khiến người khác theo muội ấy "gần mực thì đen".

Chu Phỉ lại hỏi: "Sao cô tới đây? Ai đưa cô tới? Pháo hiệu ban nãy là cô phóng hả?"

"Tự ta đi, đã nói với đại đương gia rồi." Ngô Sở Sở nói, nghiêng đầu thấy Chu Phỉ luôn cau mày thì cười nói: "Biểu cảm gì đấy hả, đại đương gia đã dạy ta vài công phu nhập môn đơn giản, ta tự hiểu bản thân, không thấy chuyện bất bình rút đao tương trợ như các cô đâu, ra ngoài tự vệ là đủ dùng."

"Đại đương gia? Đích thân mẹ ta dạy cô sao?" Chu Phỉ giật mình, lập tức nói: "Hèn gì dạo này không thấy cô viết thư hỏi ta nữa."

Năm xưa nhóm của họ từ Vĩnh Châu về Thục Trung rồi đường ai nấy đi.

Lý Thịnh và Chu Phỉ quanh năm không ở trong trại, còn lại một mình Lý Nghiên tuy có thể tán gẫu bầu bạn nhưng bài tập của đệ tử rất nặng, dù được sủng ái đến đâu chăng nữa, Lý Nghiên mỗi ngày đều kiên trì luyện công sáng tối và bài kiểm tra định kỳ với Lý Cẩn Dung tránh không thoát, nên không có nhiều thời gian ở bên Ngô Sở Sở.

Ngô Sở Sở có dạo không biết mình nên làm gì, các thiên kim nhà quan ở cố đô cỡ tuổi nàng ấy đều học nữ công và quản gia, chờ "lệnh của phụ mẫu, lời của bà mai" để xuất giá, cuộc đời đến đó xem như đã bụi trần lắng đọng, yên ổn, những nhấp nhô lên xuống về sau đều chỉ trong trạch viện nho nhỏ, vinh hoa hay sa sút, toàn bộ đều dựa vào vinh nhục hưng suy của nhà chồng.

Nhưng nàng ấy giờ đây côi cút một mình, không còn là tiểu thư nhà quan, cũng không có nhà cho nàng ấy quản. Nàng ấy trà trộn trong đám giang hồ dân gian, giữa hai bên như có một khoảng cách sâu hơn biển. Người trong trại tuy đối xử tốt với nàng ấy nhưng cũng là "dùng lễ đối đãi", không vượt quá chức phận mà an bài nàng ấy làm việc gì. Dũng khí nàng ấy tích góp được hơn mười năm qua đã dùng hết sạch trên đường chạy trốn, chỉ còn lại "ấm áp thiện lương" và "đoan trang trầm tĩnh", hoàn toàn không đủ tạo tương lai tươi sáng cho bản thân.

Còn thâm thù của phụ mẫu nàng ấy đã thăng đến cấp độ quốc thù gia hận, là cuộc chiến giữa cố đô và Kim Lăng, nàng ấy không thể làm gì, không thể góp sức.

Cảm giác khốn đốn này không thể nào nói hết, trong loạn thế đầu ai mà chẳng như thắt lưng (*), sống còn không dễ, ai rỗi hơi nghe những suy nghĩ mờ mịt yếu ớt và ngây thơ của một nữ cô nhi?

(*) Đầu như thắt lưng: một cách nói dân gian chỉ cuộc sống nguy hiểm đến tính mạng. Thời xưa, người nông dân bần cùng tết cỏ hoặc rơm rạ làm thắt lưng đơn giản, khom tới khom lui chẳng bao lâu là đứt, người ta dùng hình ảnh đó để ví von với cuộc sống trong thời loạn, khi mạng người (đầu người) chẳng khác nào cái thắt lưng, rẻ rúng và có thể chết bất cứ lúc nào.

Có lần Chu Phỉ về nhà, thấy Ngô Sở Sở bối rối chẳng biết làm sao, bèn thuận miệng tìm chút chuyện cho nàng ấy làm. Trong trận chiến với Tào Ninh, những tích lũy suốt mấy chục năm của 48 trại suýt bị hủy trong một ngày, không ít môn phái trong trại vốn đã khan hiếm nhân tài, tiếp tục như vậy sẽ càng thêm sa sút. Điển tịch võ công mà các tiền bối để lại nhiều năm không được tu sửa biên tập, hoặc thiếu trang thiếu chữ, hoặc dính đầy bụi bặm, rất nhiều điển tịch bản thân nó vốn đã trúc trắc, vậy mà thỉnh thoảng còn xen vài cảm ngộ lung tung của các tiền bối, trích dẫn bách gia chư tử nào cũng có, cực khó xem hiểu, bị những người thô kệch không biết được mấy chữ truyền nhau hết thế hệ này tới thế hệ khác, sai sót nhiều như cái lỗ sàng. Vừa khéo Ngô Sở Sở từ nhỏ đọc đủ thi thư, Chu Phỉ bảo nàng ấy từ từ chỉnh lý lại kho võ học của 48 trại.

Chu Phỉ vốn chỉ thuận miệng nói thôi, ý định ban đầu là để Ngô Sở Sở không có chuyện gì làm thì đi chép sách cho đỡ buồn.

Lẽ ra một tiểu thư yếu đuối chưa từng luyện võ ngày nào, chỉ dựa vào một cây bút đi chỉnh lý biên tập điển tịch võ học của trại thổ phỉ, nghe kiểu nào cũng thấy vớ va vớ vẩn.

Nhưng Ngô Sở Sở lại như đã nắm được cọng cỏ cứu mạng, thật sự một lòng một dạ đâm đầu vào.

Đầu tiên nàng ấy học những kiến thức cơ bản như kỳ kinh bát mạch, nhận biết huyệt đạo. Sau khi hiểu biết đại khái, Ngô Sở Sở bắt đầu sao chép nguyên văn, trước hết bắt tay vào những bản được bảo tồn hoàn hảo, những bản có thể đọc hiểu sơ sơ để làm. Mỗi lần gặp chữ thiếu, nàng ấy không dám mảy may qua loa, để tu bổ một chữ mà nàng ấy thường xuyên phải khảo chứng hơn cả tháng.

Ngô Sở Sở xuất thân tiểu thư khuê các, tính cách hướng nội, lúc mới tới 48 trại, nàng ấy rảnh rỗi cũng ngại chủ động bắt chuyện với người khác, càng khỏi phải nói tới chuyện xin chỉ giáo. Mỗi khi có nghi vấn, nàng ấy chỉ có thể không ngại đường xa vạn dặm mà viết thư hỏi Chu Phỉ, mỗi lần gửi thư là gửi một xấp dày. Có lúc Chu Phỉ chạy tới rừng sâu núi thẳm không nhận được thư nên để dồn mấy tháng, trở về nhìn đống thư cao hơn nửa thước ở chỗ trạm ngầm mà trong thư toàn đủ loại vấn đề cổ quái kỳ lạ, Chu Phỉ tự cho là vững kiến thức cơ bản cũng thường xuyên bị hỏi đến mức đầu óc mơ hồ, những câu thực không trả lời được còn phải đi thỉnh giáo tiền bối khác.

Mấy năm qua Chu Phỉ tiến bộ cực nhanh là có liên quan rất lớn với Ngô tiểu thư lòng mang mười vạn câu "không hiểu" này.

Ba năm trôi qua, Ngô Sở Sở đã chỉnh lý được hơn 20 quyển điển tịch, tuy về số lượng chỉ như muối bỏ biển nhưng nàng ấy đã dần dần tìm ra được cách thức, bắt đầu thử chỉnh lý những quyển có độ khó cao hơn, đồng thời có thể viết được vài chú giải.

Ngô Sở Sở đưa tay vén ít tóc rơi xuống ra sau tai, cười nói: "Có lần sách ta sửa xong bị A Nghiên cầm xem, đại đương gia thấy liền hỏi ta có muốn tập võ không, ta vốn nghĩ mình đã lớn tuổi như vậy rồi mà bắt đầu tập võ sẽ không theo kịp. Nhưng đại đương gia nói với ta "xưa nay người thành công muộn nhiều không kể xiết, có người sau tuổi trung niên mới bắt đầu nhập môn, gặp cơ duyên thì cũng thành chuyên gia, huống hồ con chỉ mới mười mấy tuổi, cả đời dài lắm, con lại không gấp tỷ võ với ai, nhập môn muộn chút có hề gì? Chỉ cần con đồng ý thì luyện mười mấy hai mươi năm, dẫu tư chất và cơ duyên đều bình thường cũng đủ cho con dùng, không có gì là không kịp cả"."

Chu Phỉ ngẩn người, cảm giác lời ấy và lời Lý Cẩn Dung nói năm xưa khi truyền Phá Tuyết đao cho nàng hiệu quả như nhau. Lý Cẩn Dung không hổ là người mà tuổi trẻ đã dám lên Bắc đô ám sát hoàng đế, dẫu bị năm tháng mài mòn đến đâu, trong bản tính của bà vẫn có nét chuyện ta cứ làm của "Vô Thất" (*), mấy năm nay, nếu không phải bị gánh nặng 48 trại đè trĩu đôi vai, có lẽ bà có tiềm năng lật đổ núi Hoạt Nhân Tử Nhân, trở thành ma đầu một phương.

(*) Vô thất (无匹): đơn độc, đặc biệt, độc nhất vô nhị.

Ngô Sở Sở lại nói: "Ôi, cảm giác có được qua trang giấy chung quy vẫn ít, khi ta bắt đầu học thì thấy quả thực khác với những lý luận suông trước đó. Lần này ta đến đây là để bái phỏng vị Liễu lão gia này."

Chu Phỉ nói: "Chủ nhân nơi đây hả? Làm gì?"

Ngô Sở Sở: "Vị Liễu lão gia này trước đây là môn hạ phái Thái Sơn, thời trẻ có chút danh tiếng, sau đó rửa tay gác kiếm, rút khỏi giang hồ, tiếp quản việc kinh doanh trong nhà, tạo được gia nghiệp lớn. Dạo này ta đang chỉnh lý công phu phái Thiên Chung, Lý công tử nói phái Thiên Chung khởi nguồn từ Thái Sơn, võ công kế thừa hệ thống phái Thái Sơn, ta viết thư cho Liễu lão gia, muốn tới xin thỉnh giáo ông ấy."

Chu Phỉ há hốc mồm lần nữa.

Ngô Sở Sở trong quá khứ ngay cả nói mấy câu với Lý Thịnh cũng cảm thấy xấu hổ giờ đây lại viết thư cho một người lạ cách xa ngàn dặm!

"Cô gọi cái thứ đó là "Lý công tử" ta nghe hơi không quen." Chu Phỉ ngẫm nghĩ rồi lại hỏi: "Rất nhiều người đều có thói quen quý trọng đồ của mình quá mức, trừ phi gia nhập vào dưới trướng mình, bằng không sẽ không chịu chỉ điểm người khác ... Liễu lão gia thật sự đồng ý với cô à?"

"Đồng ý rồi." Ngô Sở Sở vui vẻ nói: "Liễu lão gia có gia nghiệp lớn, bản thân tuy không còn trong giang hồ nhưng vẫn thích kết giao đủ loại bằng hữu, mấy năm nay về phương diện làm ăn cũng nhờ các bằng hữu hỗ trợ nên mới thuận lợi như vậy. Ông ấy hồi âm cho ta, nói từ khi Hằng Sơn sa sút, mấy năm nay Ngũ Nhạc cũng lần lượt có ý mai danh ẩn tích, không ít đệ tử chưa xuất sư đã xuống núi mạnh ai nấy tự lo tìm đường sống riêng, lòng ông ấy cảm thấy vô cùng đáng tiếc. Vả lại, ta tới khảo chứng nguồn gốc của Thiên Chung và Thái Sơn, xác minh lẫn nhau, tương lai nếu thật có ngày phát triển rạng rỡ thì cũng là chuyện tốt."

Chu Phỉ không ngờ mình chỉ thuận miệng nói mà Ngô Sở Sở lại có thể làm được đến mức này, đã thế còn tìm được một quái thai cùng chung chí hướng đồng ý phối hợp, nàng không khỏi cảm thán vạn sự thế gian đều do người làm. Ngô Sở Sở bỏ ra ba năm, đi tới bước ngày hôm nay, nếu nàng ấy thực có thể quyết chí 30 năm không đổi thì truyền thừa của võ lâm Trung Nguyên mấy năm nay thực có thể nhờ nàng ấy mà để lại một hơi thở cho đời sau học tập.

"Đúng rồi." Chu Phỉ hỏi: "Pháo hiệu ban nãy do cô phóng hả?"

Ngô Sở Sở lắc đầu: "Nhà Liễu lão gia mừng thọ cao đường, hôm nay tam giáo cửu lưu đều có thể đến nhà ké chút không khí vui mừng, ta vốn nghĩ hôm nay nhà họ đông khách, nhất định rất loạn nên không đi gây thêm phiền phức, hai ngày nữa sẽ lại tới bái phỏng, nhưng ban nãy thấy pháo hiệu kêu gọi nên mới tiện đường qua đây luôn."

Trong lúc nói chuyện, hai người đã trà trộn vào đại đội ăn chực của Liễu gia trang. Liễu lão gia quả nhiên hào phóng hiếu khách, người qua lại Liễu gia trang có kẻ phong độ ngời ngời, cũng có kẻ áo quần lam lũ, nô bộc được huấn luyện nghiêm chỉnh, toàn bộ đều tươi cười đón tiếp, trong trang viên còn chưa giăng đèn kết hoa xong mà bàn tiệc đã bày ra tới cửa, chỉ cần tùy tiện nói vài câu cát tường với chủ nhà là có thể ngồi xuống dự tiệc.

Ngô Sở Sở tới báo tên kèm theo thư từ qua lại với Liễu lão gia, gia nô chạy vào báo tin, Chu Phỉ buồn chán nhìn quanh.

Chợt, nàng thấy trong đám đông có một bóng dáng vô cùng quen thuộc.

Chương 128: Gậy Ông Đập Lưng Ông

Hôm nay trăng sáng sao thưa đan cài cùng đèn đóm, ánh sáng lung tung trùng điệp vào nhau, thỉnh thoảng có người đi tới đi lui, ầm ĩ xoay vòng vòng chóng mặt, Chu Phỉ quét mắt qua đám đông thì thấy "Lý công tử" nào đó trong lời Ngô Sở Sở.

Lý Nghiên không biết đi đâu mà không đi cùng Y, Lý Thịnh trà trộn trong đám công tử văn nhã như thể thời thời khắc khắc chuẩn bị đi tuyển tú nam, trông như cá gặp nước.

Chu Phỉ vô cùng kinh ngạc, nghĩ --- Mình đã dạo Đông Hải một vòng mới về mà sao vẫn đụng phải tên xui xẻo này? Đúng là nghiệt duyên.

Lý Thịnh không thấy Chu Phỉ, Y đang giả tạo bưng ly rượu cụng với người xung quanh, ly rượu nhỏ chỉ chứa cỡ một hớp, Chu Phỉ trơ mắt nhìn Y cụng với 20 người, hồi lâu nàng mới ngớ ra là đâu thấy Y uống miếng nào, không hiểu mấy kẻ ngu kia sao lại để Y lừa.

Sau đó Chu Phỉ phát hiện, Lý Thịnh luôn nhìn chằm chằm về một hướng. Nàng theo ánh mắt Y nhìn tới nhìn lui hai lượt, không thấy có gì khác thường, đang buồn bực thì đột nhiên có một hán tử say bét nhè xiêu xiêu vẹo vẹo băng giữa đám đông.

Hán tử say ngâm nga hát một tiểu khúc phố phường vô cùng hạ lưu, không ít hán tử nhà quê lỗ mãng vây quanh cười vang, nhưng ông ta không cho là nhục, đi tới đâu là lấy bình rượu trên bàn người ta tới đó, gây họa suốt dọc đường, cuối cùng lảo đảo đi tới cái bàn trong góc nhất. Hán tử say đặt mông ngồi xuống, đưa tay lấy một loạt bình rượu trên bàn chưa động đến. Chu Phỉ giật mình, vì mãi đến lúc này nàng mới phát hiện ở trong góc đó có một người áo đen đang ngồi.

Nam tử mặc áo đen đó có dáng gầy mảnh khảnh, khuôn mặt gầy gò, tóc mai điểm bạc, toàn thân như hòa vào bóng đêm, rất dễ bị lãng quên.

Chu Phỉ nhanh chóng đưa mắt quay trở lại đám đông, nàng cho rằng đó là người mà Lý Thịnh nhìn chằm chằm.

Lần này, nam tử áo đen ngẩng đầu nhìn hán tử say đối diện, hán tử ban nãy còn loạng choạng dường như trong nháy mắt liền tỉnh ngủ, tiểu khúc im bặt. Lát sau, ông ta đứng dậy không được tự nhiên, lảo đảo băng qua đám đông, hốt hoảng rời đi, vả lại đi xa rồi còn sợ hãi cứ quay đầu nhìn quanh.

Chu Phỉ hơi buồn bực, thấy nam tử áo đen kia tư thế ngồi đoan chính, mặt để râu, ánh mắt hòa nhã, không hề hung thần ác sát. Chu Phỉ nhìn chằm chằm ông ta chốc lát lại thấy hơi quen quen, nàng cố nhớ lại hồi lâu, giật mình. Vì nàng nhận ra ông ta chính là người năm xưa truyền "Đạo đức kinh" và Phù Du trận cho nàng ở ngoài thành Nhạc Dương - đạo trưởng Xung Tiêu Tử!

Chu Phỉ nghĩ --- Ông ấy hoàn tục sao?

Xung Tiêu Tử và nàng tuy bèo nước gặp nhau nhưng đã gián tiếp cứu mạng nàng, khiến Chu Phỉ tốt xấu gì cũng không bị Đoàn Cửu Nương chơi chết, lần này run rủi được gặp, về tình về lý, nàng đều nên bước qua chào, bèn xuyên qua đám đông huyên náo, định đi về phía Xung Tiêu Tử.

Không ngờ nàng vừa mới cử động, Xung Tiêu Tử áo đen tựa như cảm giác được, đột nhiên nhìn sang, ánh mắt bắn về phía Chu Phỉ như điện xẹt, chưa đợi nàng chào từ xa thì Xung Tiêu Tử chợt dời mắt, đứng dậy như trốn nợ, lách vào đám đông.

Chu Phỉ bỗng dưng bị ghét, vô cùng khó hiểu, định đuổi theo.

Nhưng dường như những tên ăn mày và lưu manh cả vùng đều tới ăn chực, liên tục có người cản trở chắn đường nàng, lão đạo sĩ Xung Tiêu Tử kia lại như cá chạch trơn, chớp mắt liền sắp hòa vào biển người.

Chu Phỉ: "Tiền bối!"

Đúng lúc này, cách đó không xa bỗng huyên náo.

Một đám nô bộc bưng đào mừng thọ từ trong viện đưa ra, vừa hay chắn giữa Chu Phỉ và Xung Tiêu Tử, đợi họ qua rồi, Xung Tiêu Tử đã không còn bóng dáng.

Sênh tiêu cổ nhạc trong viện nổi lên, gia chủ mời ban nhạc đến, giọng nữ tử trong trẻo từ trong viện truyền ra.

Chu Phỉ chống Toái Già, quay đầu lại phát hiện Lý Thịnh đã không thấy đâu nữa, nàng không khỏi cau mày, nghĩ thầm --- Ông ấy nhận ra mình sao? Nhưng ông ấy trốn mình làm gì?

Lúc này, Ngô Sở Sở cố chen đến bên cạnh, vỗ vai, nói lớn vào tai Chu Phỉ: "Sao cô chạy tới đây?"

Nàng ấy ôm một chồng sách cũ, cẩn thận đưa tay che chở nó khỏi đám người chen chúc.

Chu Phỉ vội đưa tay ôm giúp nàng ấy một nửa, hỏi: "Đây là gì?"

Ngô Sở Sở nói: "Liễu lão gia sai người đưa cho ta. Nói là hôm nay phủ loạn quá, không thể cùng ta trò chuyện tử tế một phen, vô cùng áy náy nên đưa những điều tâm đắc nhiều năm qua viết cho ta."

Chu Phỉ: "..."

Sư phụ dạy đồ đệ còn chưa chắc có tâm như vậy đâu.

Ngô Sở Sở nói: "Chúng ta đi như vậy có phải không tốt lắm không, thế nào cũng phải vào đích thân nói tiếng đa tạ chứ?"

Chu Phỉ cũng rất muốn biết vị quái thai Liễu lão gia này trông thế nào nên không dị nghị gì, hai người cẩn thận đi vào nội viện.

Trong viện, bàn ghế đầy ăm ắp, ngay cả trên tường cũng có người ngồi, ở giữa đặt một cái sân khấu cao, trên sân khấu là vài cô nương xinh đẹp đàn hát, rất náo nhiệt.

Hai người vừa mới tìm một góc dừng chân, các nữ tử trên sân khấu đồng loạt vung tay áo, chỉnh tề lui khỏi sân khấu như mây.

Tiếng chiêng trong viện kêu "cheng" một tiếng, tiếng huyên náo nhất thời yên tĩnh.

Một người trung niên vui vẻ ở giữa đứng dậy, hẳn là chủ nhân Liễu lão gia nơi này, ông cao chưa tới năm thước, hơi béo tròn, đạp ông một cú là có thể lăn đi hai dặm, cười lên thấy răng không thấy mắt.

Liễu lão gia đứng dậy, không vội lên tiếng, đầu tiên là làm bộ làm tịch nhìn quanh bốn phía, tìm một dãy bậc thang, nhấc đôi chân ngắn trèo lên trên mấy bậc, sau đó dùng tay làm mái che nhìn quanh, thấy mình có vẻ cao hơn những người khác đứng thì mới gật đầu hài lòng, chắp tay trong tiếng cười vang của mọi người: "Chê cười, chê cười rồi."

Ông lấy chiều cao của mình ra đùa rồi vui vẻ chỉnh lại vạt áo, cao giọng: "Hôm nay mừng thọ mẫu thân ta 84 tuổi, có câu "73, 84, không ai gọi, tự mình đi" (*)..."

(*) Câu đúng là "73, 84, Diêm Vương không gọi, tự mình đi", Khổng Tử thọ 73 tuổi, Mạnh Tử thọ 84 tuổi. Người xưa lấy tuổi của hai người này làm mốc, cho rằng sống đủ đến tuổi của họ là hài lòng. Thời xưa sống đến tuổi này là rất thọ rồi.

Mọi người lại cười, lão phu nhân gầy nhom bên cạnh sân khấu đứng dậy, tinh thần quắc thước cầm quạt trong tay ném ông: "Thằng khốn, mày trù ai đó?"

Liễu lão gia ôm đầu né tránh cái quạt của mẹ, ông đầu to tay ngắn, trông vô cùng buồn cười, ông cười đùa: "Mẹ à, mẹ để con nói xong đã. Con không tin cái lời vớ vẩn đó nên nay mới mời hết mọi người tới, tổ chức lớn cho náo nhiệt sôi nổi, mấy hố vũng (*) gì đó đều đạp bằng hết! Chư vị hôm nay chịu đến là chịu thưởng cho Liễu mỗ thể diện, ta đều cảm kích, mọi người nhất định phải ăn ngon uống đủ, ăn nhiều thêm miếng thịt, tiện thể tráng dương cho lão phu nhân ..."

(*) Hố vũng: ám chỉ khó khăn trắc trở.

Gần đó có người uống rượu cũng phun ra, mọi người cười phá lên ha hả, lão phu nhân 84 tuổi nghe những lời xàm xí này thì tức giận, một tay cầm gậy, chỉ huy hai tiểu nha đầu dìu đỡ, run run muốn đích thân tiến lên kéo Liễu lão gia xuống sân khấu.

Liễu lão gia vừa chạy vắt giò lên cổ vừa kêu: "Mẹ! Mẹ! Nhi tử còn chưa lấy quà mừng ra cho mọi người xem mà, ai da ... mẹ chừa con chút mặt mũi với."

Các nhạc sư sau sân khấu cũng lém lỉnh, thấy cảnh này liền nổi chiêng trống lên, đệm nhạc thú vị sinh động cho quả cầu thịt Liễu lão gia chạy nhanh, xen với tiếng cười khẽ của cô nương hát khúc. Cô ấy chuẩn bị lên hát, tà váy như ẩn như hiện sau sân khấu, các hán tử nơi đầu tường duỗi cổ ra, chuẩn bị làm người khen hay đầu tiên. Đột nhiên, trong đám đông ồn ào như xảy ra chuyện gì, sự im lặng lan tràn nhanh chóng từ ngoài vào trong viện như dịch bệnh.

Đám đông không hiểu sao cả, một truyền mười, mười truyền trăm, tất cả đều yên tĩnh lại, nhạc sư gảy dây đàn "ting" một tiếng, sau đó bất giác nhận thấy không ổn, bèn nhấc tay đè lại dây đàn, tiếng dây và đàn run run va vào nhau phát ra tiếng chói tai, vô cùng rõ rệt trong bầu không khí yên tĩnh.

Người bên trong ngửi được mùi căng thẳng, khó hiểu nhìn ra bên ngoài, thì thấy một gia nô của Liễu gia trang mặt tái mét chen mọi người chạy đến: "Lão... lão gia, bên... bên ngoài đến..."

Lời hắn chưa dứt thì phía sau chợt có người vô cùng khiếp sợ hỗn loạn cả lên. Mấy người đeo mặt nạ sắt như một bầy yêu ma quỷ quái bước đi, người phản ứng đầu tiên trốn hơi xa chúng, nhất thời, nơi chúng đi qua như thần long phân hải, đám đông chen chúc chia làm hai, nhường chỗ đất trống lớn cho đám khách không mời mà đến này, người người sợ hãi chen nhau, trơ mắt nhìn chúng nghênh ngang xông vào.

Chu Phỉ nghe xung quanh có vài người nhỏ giọng nói ra ba chữ "Thiết diện ma".

Ngô Sở Sở kề tai nói nhỏ với nàng: "Hình như là người của vị Ân công tử kia."

Ngón tay cái Chu Phỉ khẽ vuốt chuôi đao Toái Già, hừ nhẹ: "Âm hồn bất tán."

Công tích vĩ đại mấy năm nay của Ân Bái, phàm là người có tai đều nghe thấy, có thể nói là tội ác tày trời, chỉ tính riêng chuyện ác, hắn ta lấy một địch bốn, vượt xa đám ma đầu núi Hoạt Nhân Tử Nhân ngày xưa.

Ngô Sở Sở cau mày lo lắng: "Dọc đường đi ta có nghe nói gần đây hắn ta chợt bắt đầu hoạt động bên này, không ngờ là thật ... hắn ta sẽ không gây bất lợi cho Liễu lão gia chứ? Haiz, Ân công tử sao lại trở nên như vậy nhỉ."

Chu Phỉ không lên tiếng, ánh mắt quét qua đám đông yên tĩnh và hoang mang. Pháo hiệu của 48 trại, Lý Thịnh, Xung Tiêu Tử ... nàng luôn cảm thấy tiệc mừng thọ hôm nay có gì đó không ổn.

Các nhạc sư sau sân khấu dường như cũng hơi căng thẳng, ấn dây đàn phát ra vài tiếng rít.

Lão phu nhân mừng thọ không biết bị dọa hay bị sao mà ban nãy còn dồi dào sức sống đuổi đánh nhi tử nhưng bây giờ sắc mặt tái nhợt, toàn thân run rẩy như sắp ngất ngay lập tức, phải có hai nha hoàn đỡ hai bên mới có thể đứng vững.

Liễu lão gia ra dấu với bọn nha hoàn, bảo họ dìu lão phu nhân qua một bên, ông thu lại nụ cười, bước về trước nói với kẻ đeo mặt nạ dẫn đầu: "Người tới là khách, chư vị nếu đã đến thì mời lên ghế trên ngồi nhé?"

Người ở "ghế trên" hiển nhiên không mấy vui với đám hàng xóm này, nghe vậy thi nhau đứng dậy như lâm đại địch.

Mấy người đeo mặt nạ không hề lên tiếng, nghiêm chỉnh bước về trước, đứng thành một hàng, xoay người đưa lưng về phía Liễu lão gia, hướng về cửa đồng loạt quỳ xuống, sau đó có vài người khiêng một chiếc kiệu gỗ vào, bên trên là một người đeo mặt nạ sắt đang ngồi, bàn tay trắng bệch đặt một bên, một con quái trùng yên tĩnh nằm trên mu bàn tay hắn ta, xúc tu cử động lên xuống.

Hắn ta đã gầy đến mức thay đổi hình dáng, hai má dưới mặt nạ hõm vào, cằm càng lúc càng nhọn, chưa tới tuổi 30 mà hai nếp nhăn pháp lệnh đã nứt ra trên mặt, ép khóe môi hơi xanh đen xuống, thực không còn ra hình người.

Chu Phỉ nhìn tới nhìn lui nhìn xuôi nhìn ngược, ngoại trừ người này đeo vỏ Sơn Xuyên kiếm bên hông thì nàng không nhìn ra chút xíu quen thuộc nào, nàng không kìm được hỏi Ngô Sở Sở: "Kẻ này thực là Ân Bái?"

Ngô Sở Sở hơi rùng mình, mu bàn tay nổi một lớp da gà.

Kiệu hạ xuống đất nhưng Ân Bái chưa xuống. Một người đeo mặt nạ khiêng kiệu cho hắn ta cung kính bước lên vài bước, bò rạp xuống trước Ân Bái, lúc này Ân Bái mới từ từ đứng dậy, đạp lên lưng người nọ bước xuống.

Chu Phỉ tinh mắt, thấy ống tay áo của người khiêng kiệu nằm rạp dưới đất làm thảm kia hơi lộ ra, trên cổ tay là hình xăm Huyền Vũ từng bị Lý Nghiên giễu là rùa. Đó là thuộc hạ cũ năm xưa của Đinh Khôi!

"Náo nhiệt nhỉ." Ân Bái đạp lên thảm người sống, âm u mở miệng.

Không biết có phải vì ngoại hình hắn ta quá khủng bố hay không, chiếc đàn phía sau sân khấu bị ai đó không cẩn thận đụng vào, ngân một tiếng "ting" dài, trong viện lúc này tiếng kim rơi cũng có thể nghe thấy, tiếng đàn trở nên vô cùng cao vút, có thể dọa người.

Tai Chu Phỉ hơi động đậy, ánh mắt chợt nhìn về phía sân khấu kịch, cảm thấy tiếng đàn ấy hơi quen tai.

Sắc mặt Liễu lão gia căng thẳng, ông nói: "Xin hỏi các hạ có phải là "Thanh Huy chân nhân"?"

Khóe miệng người đeo mặt nạ khẽ nhếch, ngón tay thon dài hơi xanh tái nhẹ lướt qua con quái trùng, con quái trùng nhanh chóng động đậy xúc tu, phát ra tiếng kêu kỳ lạ.

"Liễu đại hiệp nhận được thư rồi mà nhỉ?" Ân Bái đeo mặt nạ sắt nói: "Sao, chưa chuẩn bị đồ xong à?"

Thịt mỡ trên mặt Liễu lão gia run rẩy: "Hôm nay là ngày mừng thọ gia mẫu, lại có nhiều bằng hữu ở đây, chân nhân có thể thư thả cho một ngày, cách hôm nhất định sẽ cung phụng đủ tiền bạc mà ngài muốn."

Ân Bái cười, nói: "Tiệc mừng thọ? Vậy bọn ta có thể nói là đến sớm không bằng đến đúng lúc, thế nào cũng phải xin ly rượu uống ... Ơ, đó là gì?"

Ánh mắt hắn ta quét tới hai gia nô của Liễu gia trang bên cạnh sân khấu kịch, trong tay họ đang nâng một cái rương nhỏ, Ân Bái vừa quét mắt qua, hai gia nô lập tức như ếch bị rắn độc nhìn chằm chằm, sợ đến mức chân run lẩy bẩy, gần như không thể đứng vững.

Liễu lão gia chảy mồ hôi lạnh ròng ròng, giọng cố đè nén nói: "Là quà mừng thọ của Liễu mỗ chúc thọ gia mẫu."

Ân Bái ồ lên, hỏi: "Quà gì thế?"

Một ông lão dáng dấp như quản gia đứng cạnh khom eo đến mức gần như đụng đầu xuống đất, cẩn thận nói: "Chính là ... một vật ... vật cổ, tương truyền là bảo châu ngậm trong miệng Long Vương, ngậm vào miệng sẽ tránh được bách độc ..."

"Ồ." Ân Bái gật đầu, sờ quái trùng trong tay như không hề để ý: "Tị Độc châu cũng xem như là vật quý hiếm, kể ra thì lúc nhỏ ta từng thấy trưởng bối trong nhà thu được một viên, sau đó gia đạo sa sút, không biết nó đã lưu lạc phương nào. Bây giờ nhớ lại, đồ chưa chắc quý, chỉ là tưởng niệm mà thôi. Lấy qua cho ta mở mang kiến thức nào."

Chu Phỉ nghe ra được, viên Tị Độc châu này nói không chừng là đồ của Ân gia, sau đó không biết cơ duyên run rủi thế nào lại rơi vào tay Liễu lão gia, Ân Bái chính là tới vì nó.

Nàng nhất thời hơi cảm khái. Đến bây giờ Ân Bái vẫn nghĩ đến việc đi khắp nơi thu thập những vật cũ của Ân gia, vậy mà lại biến bản thân - huyết mạch duy nhất của Ân gia thành ra thế này.

Chương 129: Săn Giết

Mọi người ở Liễu gia trang không ai dám động đậy, nụ cười nơi khóe môi Ân Bái sụp xuống, căng thành một đường thẳng, hắn ta âm u hỏi: "Sao, ta xem không được à?"

Lúc nói lời này, giọng hắn ta hơi cao, con quái trùng trên tay quay đầu theo, đôi xúc tu đáng sợ chỉ về phía nô bộc khiêng rương.

Một nô bộc quỳ phịch xuống, bầu không khí trong nội viện lập tức căng thẳng như dây đàn kéo căng, bầu không khí sôi nổi ban nãy do sự hóm hỉnh của Liễu lão gia mang lại không còn sót chút gì.

Khóe mắt Chu Phỉ nhảy lên, nàng kéo Ngô Sở Sở ra sau một chút, lẩm bẩm: "Đây đúng là Ân Bái sao?"

"Cô cảm thấy có vấn đề à?" Vốn dĩ Ngô Sở Sở rất khẳng định trong bụng nhưng nghe Chu Phỉ hỏi vậy thì cũng chợt dao động, chần chừ nói: "Nhưng trừ Ân Bái ra, quái trùng này đụng vào ai, người đó sẽ hóa thành một vũng máu mà? Lý công tử từng nói với ta, cổ trùng này chỉ nhận một chủ ..."

"Suỵt." Chu Phỉ dựng một ngón trỏ bên môi, nói: ""Lý công tử" thùng rỗng kêu to, đừng nghe huynh ấy nói hươu nói vượn."

Mấy chữ cuối cùng của nàng gần như không nghe rõ, thần kinh bất giác trở nên căng thẳng.

Lúc này, sau sân khấu chợt vang lên tiếng "cạch", hình như là ai đó đụng làm lật đàn ngọc, đầu tiên là tiếng thứ gì đó rơi xuống, kế tiếp là tiếng dây đàn ma sát với mặt đất làm vang lên tiếng "ting" đột ngột. Âm thanh ấy chui thẳng vào tai Chu Phỉ, nháy mắt như được phóng đại hàng trăm hàng ngàn lần, một cảm giác huyền diệu khó tả từ tai nàng lan ra khiến Chu Phỉ như bắt được thứ gì đó trong khoảnh khắc.

Chu Phỉ chợt nảy ra một ý nghĩ, nhỏ giọng nói: "... Là bà ấy?"

Ngô Sở Sở: "Ai?"

Người của cả Liễu gia trang đều đang nhìn nhóm người Ân Bái, chỉ có Chu Phỉ là nhìn sân khấu kịch, nàng khẽ nói: "Vũ Y ban... nhạc sư sau sân khấu là Nghê Thường phu nhân."

Ngô Sở Sở kinh ngạc: "Cái gì? Sao cô biết? Cô khẳng định?"

Ngô Sở Sở biết Chu Phỉ không kiên nhẫn với mấy thứ phong hoa tuyết nguyệt, trước giờ không có chút thành tựu nào về âm luật. Vả lại dù Chu Phỉ tinh thông âm luật đạt đến mức "nghe âm đoán ý" thì cũng chỉ có thể nghe "khúc" đoán "tình", chứ thông qua vài tạp âm mà nghe ra được người đánh đàn là ai thì quá không thể tưởng tượng nổi.

Chu Phỉ không nói được làm sao mình lại biết, lúc nãy tinh lực cả người nàng dường như đều dồn hết vào tai, có một khoảnh khắc mọi khí tức lưu động trên thế giới đều hiện rõ mồn một, sinh ra một loại cộng hưởng nào đó với kỳ kinh bát mạch trên người nàng. Những khí tức ấy lặp đi lặp lại, gần giống nhau nhưng cũng có chỗ khác nhau, những thứ không thể nào miêu tả ấy hóa thành một cảm giác mông lung mơ hồ, như cách một tầng giấy cửa sổ mỏng manh báo với nàng qua trực giác loáng thoáng rằng người gảy đàn sau sân khấu chính là Nghê Thường phu nhân.

Đây không phải lần đầu tiên, non nửa năm qua, mỗi lần Chu Phỉ tập trung tinh lực đến một mức nào đó, nàng đều có thể cảm nhận được "tầng giấy cửa sổ" xa xôi kia, đã mấy lần chạm được, nhưng không thể vào.

Hơn nữa, một khi phân tâm là cảm giác huyền diệu ấy sẽ nhanh chóng biến mất, Ngô Sở Sở hỏi "sao cô biết", Chu Phỉ há miệng nhưng hoàn toàn không biết trả lời thế nào.

Lúc này, lão quản gia của Liễu gia trang chợt tiến lên một bước, đưa tay đón lấy cái rương kia, nói: "Người sống đến bảy mươi xưa nay hiếm, lão hủ đến tuổi này đã đủ rồi, các ngươi đều không dám, vậy ta đưa qua là được. Thanh Huy chân nhân, ngươi muốn xem hãy tới mà xem cho rõ!"

Dứt lời, vẻ mặt ông thấy chết không sờn nâng cái rương ấy đi về phía Ân Bái.

Hai người đeo mặt nạ quỳ dưới đất ngăn ông lại, lão quản gia liền mạnh miệng lớn tiếng mắng: "Sao hả, các hạ không dám xem à?"

Ân Bái hơi ngước cằm, hai người đeo mặt nạ kia tiến lên mở nắp rương ra.

Khoảnh khắc nắp rương mở ra, con quái trùng trên tay Ân Bái lập tức dựng đứng, phát ra tiếng kêu khiến người khác hoảng sợ, hai hàng chân ghê tởm dưới bụng khua khoắng loạn xạ. Chưa nói người khác, ngay cả "thảm người sống" dưới chân Ân Bái dường như cũng run cầm cập, mồ hôi lạnh tuôn ào ào rất giống một tấm giẻ chưa vắt khô nước.

Cái rương rất lớn, cần hai người khiêng nhưng Tị Độc châu bên trong chỉ cỡ kích thước trứng chim bồ câu. Liễu lão gia chắc là để cho đẹp nên làm cho viên châu đó bộ vỏ ngoài rất long trọng. Bên trong là bể thủy tinh vuông khoảng hai thước, trong bể thả vài cây san hô đỏ rực, phía trên dùng tơ vàng làm giá đỡ, gốc san hô to nhất đỏ nhất ở giữa đội một cái vỏ sò bằng vàng ngọc, trong vỏ sò là Tị Độc châu vô giá, hạt châu màu xanh lục, phản chiếu nhàn nhạt tầng tầng sóng nước, trong bóng đêm còn lóa mắt hơn cả dạ minh châu của Bồng Lai.

Dị bảo như vậy nếu ở tình huống bình thường tuyệt đối đủ tư cách khiến người khác trầm trồ kỳ diệu một phen, có điều hiển nhiên kỳ nhân Ân Bái còn "kỳ diệu" hơn xa thứ vật chết kia, lần này không bị Tị Độc châu cướp sự nổi bật, vẫn được vạn người chú ý như cũ.

Nghe nói ngậm Tị Độc châu vào miệng có thể tránh bách độc, ngay cả khí độc Nam Cương cũng không ăn thua, lúc đi dã ngoại mà mang nó trên người thì rắn rết bò cạp đều không thể tới gần, nhưng quái trùng trên tay Ân Bái không hiểu sao lại trở nên hưng phấn, từ đầu ngón tay Ân Bái bắn xẹt ra ngoài, háo hức muốn xông thẳng vào cái rương kia.

Hình như ngay cả bản thân Ân Bái cũng không ngờ tới biến cố này, hắn ta hơi sững sờ, tiếp theo đó, lão quản gia hét lớn một tiếng, vào lúc độc trùng lao tới giữa trời, ông hất mạnh thứ gì đó trong rương ra ngoài!

San hô và minh châu vô giá lăn xuống đất, nước trong bể thủy tinh hóa thành mũi tên cuốn quái trùng vào trong, hướng thẳng đến Ân Bái!

Quái trùng nhe nanh múa vuốt giữa không trung bị "nước" trong bể giội vào, rơi xuống mặt người nằm dưới đất làm đệm, người đó kêu gào thảm thiết như giết heo, hai mắt trợn lên, bị dọa hôn mê tại chỗ.

Nhưng quái trùng không đâm vào máu thịt người đó mà run chân như tôm hấp rượu, co lại bất động.

Cùng lúc đó, Ân Bái vung mạnh ống tay áo, toàn thân vụt lên khỏi mặt đất, bay nhẹ nhàng ra sau, hạ xuống kiệu.

Sau sân khấu chợt vang lên tiếng đàn dồn dập, giống như kiểu "thả rơi cốc làm hiệu" trong lời kịch.

Trong đám đông vốn hỗn loạn chợt có mấy đợt nhân mã lao ra, không biết họ đã mai phục bao lâu, chốc lát đã đem những người ngoài cuộc tới ăn chực không hiểu gì cả ra rìa, từ bốn phương tám hướng giết về phía Ân Bái, mấy người trên tường thấp giơ cờ hô hiệu lệnh, chỉ huy các nhánh nhân mã, Chu Phỉ quét mắt liền nhận ra vài gương mặt quen thuộc. Trong những người giơ cờ có nhiều người là của 48 trại!

Lại nhìn kỹ, mấy đợt nhân mã vây công Ân Bái tiến lùi thỏa đáng, dễ dàng chia những kẻ đeo mặt nạ thuộc hạ hắn ta ra từng cụm nhỏ rồi đánh tan, trận hình còn có thể biến hóa theo hiệu của lá cờ nhỏ trên tường, không cần hỏi cũng biết là tác phẩm của Lý công tử!

Sau đó, sân khấu to lớn như bị dùng vũ khí sắc bén bổ ra, tách làm hai ở giữa, Nghê Thường phu nhân vũ y phiêu bồng, lướt qua đỉnh đầu mọi người như đốm mây lửa, đôi tay vừa kéo là trong lòng bàn tay hiện ra ba sợi dây đàn không thua kém gì so với dây trong dây trận, rít vang một tiếng, quét xuống đầu Ân Bái.

Chân Ân Bái không di chuyển, hắn ta vung tay áo đẩy dây đàn ra, chưa kịp đánh trả thì phía sau có tiếng mũi tên xé gió lao tới. Ân Bái chợt nghiêng đầu, thấy người đánh lén lại là mẹ ruột "già cả 84 tuổi" của Liễu lão gia!

Lão phu nhân ban nãy còn đứng không vững vai cứng đờ, tay nắm chặt một cái nỏ liên hoàn đầu rồng, có thể bắn cùng lúc hơn mười mũi tên nhọn, chỉ đơn thuần nhìn dáng người cũng biết bà chắc chắn không phải một lão thái bà.

Cả người Ân Bái như một chiếc lá, vịn tay vào ngục giam ghế mây không người chống đỡ, mũi chân điểm nhẹ lên chỗ tựa lưng, hắn ta di chuyển rất đẹp và thoải mái, chiếc kiệu tre mà một cơn gió nhẹ thổi qua cũng lay động không hề nhúc nhích dưới chân hắn ta.

Nghê Thường phu nhân đánh một đòn không được liền rơi ra ngoài một trượng, hơn mười mũi tên đều bị hắn ta tránh thoát, ngay cả góc áo cũng không đụng tới, Ân Bái bị hai đại cao thủ đánh lén mà từ đầu tới cuối, chân đều chưa chạm đất.

Ma đầu này võ công cao đến mức khiến người ta run sợ.

Ân Bái nhẹ nhàng đạp lên tay vịn một bên kiệu, đưa tay vuốt mớ tóc dài rơi xuống trước mắt trở lại: "Hóa ra Tị Độc châu là mồi nhử bổn tọa à? Đúng là đa tạ chư vị phí tâm rồi."

Trên người "lão thái bà" cầm nỏ Cửu Long phát ra mấy tiếng "kẹt kẹt", nháy mắt "bà" cao lên hơn ba tấc, vai chợt rộng ra nửa bàn tay, hóa ra là một cao thủ Thúc Cốt công. Sau đó, "lão thái bà" đưa tay quẹt lên mặt, gỡ nếp nhăn xuống, đâu còn là lão thái bà nhỏ nhắn gầy đét nữa, rõ ràng là một nam tử cường tráng có vóc dáng hơi lùn!

Nam tử kia vẻ mặt căm phẫn, chỉ vào Ân Bái nói: "Thiết diện ma đầu, ngươi vô duyên vô cớ giết hơn 20 mạng người trên dưới Trâu gia ta, có từng nghĩ tới ngày hôm nay?"

"Trâu?" Ân Bái nghe vậy, nghiêng đầu ngẫm nghĩ, hai tay chắp sau lưng, hắn ta đã cực kỳ gầy, y phục rộng thùng thình, đứng trên kiệu như một ác quỷ sắp cưỡi gió bay đi: "Làm gì? Chuyện khi nào? Ta không nhớ."

Hán tử họ Trâu sững sờ, sau đó giận sôi: "Ngươi ..."

Ân Bái cười trầm thấp: "Mạnh hiếp yếu chính là thiên đạo, ví dụ như mãnh ưng vồ thỏ, đàn sói săn dê, chẳng lẽ ngươi có thể nhớ con heo trong dĩa của mình lúc sống họ gì tên chi? Ai bảo ngươi là thịt cá mà không phải là dao thớt chứ?"

Hán tử họ Trâu gầm lên giận dữ, xông tới Ân Bái như liều mạng, cùng lúc đó, nhân thủ mai phục trong viện cũng bắt đầu động thủ với những kẻ đeo mặt nạ thuộc hạ của Ân Bái.

Toái Già của Chu Phỉ vốn đã nắm trong tay, không biết nàng nghĩ tới điều gì mà đột nhiên buông xuống, dựa vào góc tường thờ ơ nhìn tình hình đang diễn ra.

Ngô Sở Sở nói: "Kỳ lạ, nếu Liễu lão gia bỏ thứ gì đó vào bể thủy tinh mà có thể khiến quái trùng lao vào như thiêu thân thì tại sao cả buổi chỉ bay ra có một con, ta nhớ lúc đó..."

Lời nàng chưa dứt thì thấy Nghê Thường phu nhân, hán tử họ Trâu và mấy cao thủ không biết tên khác bao vây kiệu, hợp lực vây công Ân Bái.

Tà công của Ân Bái quả nhiên không tầm thường, dù bị vây công như vậy vẫn không hề lộ dấu hiệu thất bại.

Nhưng thuộc hạ đeo mặt nạ của hắn ta lại không may như thế, nháy mắt liền bị Lý Thịnh trong bóng tối chỉ huy người chia nhau bắt gọn.

Sau đó một tiếng còi cao vút vang lên, Nghê Thường phu nhân khẽ quát một tiếng, tung ra một dải lụa trắng, mọi người răm rắp làm theo, mấy thứ roi dài, khóa sắt ầm ầm vung ra cuốn lấy Ân Bái, phối hợp chia nhau trói tứ chi hắn ta.

Ân Bái cười lạnh, trường bào phồng lên, định chấn văng mấy thứ tào lao vướng víu chân tay kia.

Nghê Thường phu nhân quát: "Lui!"

Mấy người vây công Ân Bái đều không trì hoãn, lập tức tản ra tứ phương, họ vừa tản ra thì nghe tiếng xích sắt và tiếng vải rách hòa vào nhau, Ân Bái dùng nội lực cực cao chấn mấy thứ tào lao này nát thành ngàn mảnh!

Dải lụa trắng của Nghê Thường phu nhân nát vụn tung bay như bươm bướm, trông rất đẹp, nhất thời chắn tầm mắt Ân Bái. Lúc này, mặt đất nội viện cả Liễu gia trang lún xuống, sau vài tiếng nổ lớn "ầm ầm", 28 sợi xích sắt cực đại từ lòng đất nhô ra, thình lình cuốn về phía Ân Bái.

Tiếng xích sắt tự động khóa vang lanh lảnh bức người, nháy mắt đã tự dệt thành một cái lồng sắt lớn, giam chặt "Thanh Huy chân nhân" khiến người ta vừa nghe tiếng đã sợ vỡ mật vào trong.

Ân Bái nổi giận bắt đầu giãy giụa, cả viện Liễu gia trang đều bị hắn ta làm chấn động, đá trên mặt đất vang "lạo xạo", mấy người xung quanh đều lộ vẻ sợ hãi, không tự chủ lùi vài bước.

Liễu lão gia than: "Thanh Huy chân nhân không cần nhọc công giãy giụa, thứ này tên "khóa Địa Môn", nó và "khóa Thiên Môn" đều xuất xứ từ tay danh gia về cơ quan, mặc ngươi lên trời xuống đất cũng không thoát được. Ngoài ra, trên xiềng xích còn bôi một loại rượu thuốc tên "Lưu Hỏa", nhờ một vị chuyên gia dùng độc chế thành, nó không phải độc vật nhưng cổ trùng rắn độc dính nó là say, chắc hẳn Niết Bàn cổ của ngươi trong thời gian ngắn sẽ không thể hại người."

Lời ông nói chưa dứt thì thấy có người cách chiếc găng tay nhặt con quái trùng rơi xuống đất ban nãy ném vào đống lửa, bóng quái trùng lóe lên mấy cái rồi bị ngọn lửa nuốt sống, tỏa ra một mùi hôi tanh khó tả.

Hán tử họ Trâu xách nỏ Cửu Long, bước lên nói: "Thiết diện ma, ta nhất định phải lột sống ngươi!"

Nghê Thường phu nhân cau mày: "Trâu huynh đệ, trước đó chúng ta đã nói ..."

Mắt hán tử họ Trâu đỏ lên: "Nói gì? Giết người đền mạng, thiếu nợ trả tiền! Gã và ta có thù không đội trời chung, không lột sống gã, thiên lý ở đâu?"

Nghê Thường đang định lên tiếng thì Ân Bái bị khóa ở giữa lại cười to: "Thiên lý? Ha ha ha!"

Tiếng cười của hắn ta vô cùng chói tai, dường như có chút tê tâm liệt phế, tiếng cười như quỷ khóc vang vọng trong Liễu gia trang.

Liền theo đó, chuyện khiến người ta sởn tóc gáy đã xảy ra, tiếng cười kia càng lúc càng lớn, như vang vọng không ngớt, truyền từ khắp bốn phương tám hướng rồi tụ thành một thể.

"Thiên lýyyy ..."

"Ha ha! Thiên lý ở đâuuuu ..."

"Ha ha ha haaaa ..."

Chu Phỉ chợt kéo vai Ngô Sở Sở, đẩy nàng ấy vào trong một hang đá sau ngọn núi giả.

Ngô Sở Sở: "A Phỉ!"

"Suỵt, đừng nhúc nhích, đừng ra ngoài." Chu Phỉ nghĩ ngợi, lại quay đầu, nói nhanh hơi mang chút ý đùa: "Trọng trách kéo dài truyền thừa các đại môn phái của võ lâm Trung Nguyên vẫn đang do cô gánh đấy!"

Ngô Sở Sở bị trọng trách nặng nề bỗng dưng ập xuống đầu dọa cho bối rối.

Chu Phỉ vừa giấu xong Ngô Sở Sở thì thấy 17 18 chiếc kiệu được khiêng từ mọi hướng tới, trên mỗi kiệu đều có một "Ân Bái" đang ngồi giống y như đúc với người bị nhốt trong khóa Địa Môn!

17 18 người này đồng thời mở miệng: "Là ai muốn diệt trừ bổn tọa?"

Chương 130: Quần Hùng

Kỳ thực khi nhìn kỹ thì 17 người này, tính luôn người bị khóa Địa Môn khóa lại là 18 người, họ trông không giống nhau hoàn toàn, chỉ đều gầy như quỷ sống, đều mặc trang phục và đeo mặt nạ sắt như nhau, mặt nạ sắt lại che hết mắt mũi, chỉ để lộ chút môi và cằm. Đừng nói những người chưa từng gặp Ân Bái, ngay cả Chu Phỉ cũng không phân biệt được ai là ai.

Ban nãy chỉ 1/18 đã khiến Nghê Thường phu nhân và đám cao thủ đồng thời xuất chiêu, thế mà bây giờ lại đến một ổ!

Chưa kể thứ khác, Liễu lão gia chắc chắn không thể kiếm ra một mớ khóa Địa Môn.

Ba năm trước, Chu Phỉ nhờ một gói thuốc bột của Đồng Minh đại sư dọa lui Ân Bái, khi đó Chu Phỉ đã bước đầu chạm vào "đạo" Vô Thường của Phá Tuyết đao, đao pháp thẳng tiến tới trình độ của cao thủ nhất lưu. Ngược lại, kinh nghiệm đối địch của Ân Bái ít đến đáng thương, nội lực thâm hậu quỷ dị trên người đều do cướp được mà có, trong thời gian ngắn rất khó thu về triệt để cho bản thân sử dụng. Nhưng dù vậy, nếu lúc đó tâm tính Ân Bái kiên định một chút thì chỉ với nội lực bá đạo ấy là có thể dễ dàng xử đẹp Chu Phỉ.

Nay đã khác xưa, tên tuổi "Thanh Huy chân nhân" của Ân Bái giờ đây có thể nói là hào quang chói lọi trong võ lâm Trung Nguyên, e rằng không dễ bị dọa chạy như thuở mới xuất đạo năm đó. Ban nãy nhóm Nghê Thường phu nhân vây công người đeo mặt nạ kia, Chu Phỉ hờ hững đứng nhìn, còn cảm thấy không chút áp lực, ỷ vào đao của mình tốt, đại khái có thể chiến một trận ... nhưng thình lình tới 18 người, vụ này nàng thật sự chiến không nổi.

Huống hồ Chu Phỉ quét mắt qua những người đeo mặt nạ kia, lòng chợt nảy sinh một suy nghĩ đáng sợ, suy nghĩ này giống như nàng nhận ra tiếng đàn của Nghê Thường phu nhân một cách chắc chắn, không hề có đạo lý vậy. Nàng nghĩ --- Lỡ họ đều không phải Ân Bái thật sự thì sao đây?

Một người nuôi nhiều con rối nguy hiểm như vậy, hơi không chú ý là sẽ rước họa vào thân, thế thì hắn ta phải có biện pháp áp chế chúng, hoặc bằng vũ lực, hoặc bằng thủ đoạn.

Đạo lý này không thể đơn giản hơn.

Cho nên nếu 18 người này đều không phải Ân Bái thì hắn ta hiện tại đã tới bước nào rồi? Người bình thường thực khó mà tưởng tượng.

Chu Phỉ bấm đốt ngón tay tính đại khái, cảm thấy Ân Bái e còn cách thăng thiên không xa.

Nàng vừa cẩn thận điều chỉnh vị trí của mình ở chân tường Liễu gia trang, vừa bi thương cảm nhận 4 chữ "tà không thắng chính" chỉ là vô nghĩa.

Nếu không sờ lương tâm, không xét đạo nghĩa, chỉ thuần túy bàn về sự việc, thì võ công tà phái lợi hại hơn cái gọi là "chính phái" là điều không có gì phải bàn cãi.

Công pháp thông thường chú trọng kinh mạch, tích lũy, tư chất, phương pháp, cảnh giới, ngoài ra còn phải đông luyện tam cửu, hạ luyện tam phục (*), cứ thế luyện hơn 10 năm đến râu tóc bạc trắng rồi tốt hay không tốt còn phải xem duyên số.

(*) Đông luyện tam cửu, hạ luyện tam phục: chuyên cần rèn luyện, bất kể thời tiết khắc nghiệt (*).

Nhưng võ công tà phái thì có thể khiến người ta một bước lên trời, mới đây còn là "cá thịt" chó thấy còn chê, lắc mình một cái là có thể hoành hành thiên hạ, khiến quần hùng cúi đầu!

Nếu ví võ công với con người thì võ công danh môn chính phái đại khái đều là "tư sắc bình thường, tính tình hung dữ, xuất thân nghèo túng, tiền đồ vô lượng", lại còn hờ hững lạnh nhạt khiến những kẻ hèn kém khổ sở tìm kiếm theo đuổi mấy chục năm. Trong khi võ công tà ma ngoại đạo thì như tiên tử công chúa, dịu dàng hiểu ý, chưa bao giờ xoi mói điều gì, cái gì cũng sẵn lòng cho ngươi.

Thực là người so với người so đến chết, hàng so với hàng so đến vứt.

Phế vật Lý Nghiên lúc bé nghe trưởng bối trong trại kể chuyện xưa, kể đến đoạn những kẻ tranh đấu nhau vì bí tịch võ công, muội ấy luôn mở to đôi mắt vô tri khó hiểu, muội ngốc ấy cho rằng bí tịch võ công chính là những "bài tập" mà bình thường mình tránh còn không kịp, thế nên đã bị chấn kinh rất nhiều năm bởi những kẻ xấu xa làm chuyện xấu vì muốn "chăm chỉ luyện công" trong chuyện kể.

Bây giờ nhìn lại, đúng là lời cảm khái chỉ trẻ con mới có.

Ngón tay Chu Phỉ chậm rãi vuốt ve thanh Toái Già trong tay, cảm giác nhóm Liễu lão gia hôm nay tự cho rằng "gậy ông đập lưng ông" nhưng nói không chừng lại thành "tự mình hại mình".

Từ lúc 18 Ân Bái đồng thời xuất hiện, những người 48 trại phất cờ nhỏ các hướng liền không thấy đâu nữa, chắc hẳn Lý Thịnh cũng chỉ vì vướng phải tình nghĩa gì đó nên mới thuận đường qua giúp, bây giờ xem ra, tiểu tử kia đúng là rất tinh ranh, giúp thì giúp nhưng từ đầu đến cuối đều không lộ diện, chớp mắt phủi mình ra sạch sẽ.

Lý Thịnh không lộ diện, nhưng nhóm Liễu lão gia phải hát tuồng này cho xong.

Thiết diện ma là ai?

Hắn ta tàn bạo thích giết chóc, hỉ nộ thất thường, trái ý chút xíu xiu cũng có thể khiến hắn ta lạnh lùng tàn sát. Lần này người của Liễu gia trang dám gài bẫy hắn ta, chắc chắn không hay rồi, bây giờ xin tha đã không còn kịp nữa.

Liễu lão gia tung hoành trên thương trường nhiều năm, am hiểu sâu sắc lòng người, biết bây giờ tuy nhiều người tụ tập ở Liễu gia trang nhưng đều như một đám dê bò hoảng sợ, một khi ông tự lộ ra nhược điểm, dê bò mất đi "thủ lĩnh" tất nhiên sẽ bỏ chạy tứ tán, lúc đó sẽ thuần túy làm thức ăn cho Thiết diện ma.

Liễu lão gia quét mắt nhìn cả đám Thiết diện ma, lòng đưa ra quyết định, ông vẫn bình tĩnh tự nhiên như cũ, nói: "Không biết vị nào là Thanh Huy chân nhân?"

18 người đồng thanh: "Liễu Tuệ Thân, ông tự khoe là 20 năm không hỏi chuyện giang hồ, bây giờ đưa tay khuấy vào nước đục, phí công như vậy mà ngay cả bổn tọa là ai cũng không biết, nói ra há không khiến người khác cười rụng răng sao?"

Cảnh này vô cùng kỳ dị, nếu là một người ngây thơ không hiểu sự đời đứng trong đó thì chắc là ngay cả thở cũng quên mất, nhưng Liễu lão gia mặt không đổi sắc, nói: "Ta chỉ biết Thanh Huy chân nhân bản lĩnh cực lớn, thủ đoạn cực cao, lẽ ra xứng là anh tài nhưng lại đi khắp nơi làm xằng làm bậy. Liễu mỗ xác thực không hỏi chuyện giang hồ nhưng cũng không nhìn nổi các lão bằng hữu quen biết nhiều năm ngày ngày đắm mình trong thù hận, nên không khỏi không tự lượng sức một lần, đưa đầu này ra đòi chân nhân một lời giải thích."

Vị họ Trâu kia nghe xong lời này thì cúi đầu quẹt mắt một cái, im lặng chắp tay với Liễu lão gia.

18 Ân Bái cất tiếng cười to, mỗi chữ "ha" đều vô cùng đồng loạt, thực giống như một người có 18 miệng: "Dựa vào ngươi? Ngươi là cái thá gì?"

Liễu lão gia ngẩng đầu ưỡn ngực, đứng như một quả bóng hiên ngang, cao giọng: "Kẻ bất tài chỉ là một thất phu trong thiên địa."

18 người mặt sắt chợt yên tĩnh.

Liễu lão gia không nhìn những ánh mắt âm u tử khí xung quanh, nói: "Chư vị, năm xưa họa loạn liên tiếp xảy ra, Bắc Đẩu hoành hành ngang ngược, tay nắm bao nhiêu oan hồn? Sư môn của tại hạ, sư môn của chư vị, bao nhiêu trăm ngàn năm truyền thừa đều bị hủy trong một ngày, vậy mà chúng ta bó tay hết cách, hoặc hốt hoảng xuôi nam, hoặc mai danh ẩn tích, uất ức biết bao! Giờ đây Bắc Đẩu bảy người đã mất ba, thế lực Bắc Đẩu dần sa sút, mây đen dần rạng trên võ lâm Trung Nguyên, vậy mà vì tà ma bậc này làm người người bất an! Hôm qua là núi Hoạt Nhân Tử Nhân, hôm nay là Liễu gia trang, ngày mai lại là ai? Tứ đại đạo quán? Thiếu Lâm Cái Bang? Hay Thục Trung 48 trại?"

Chu Phỉ nghe ra được, Liễu lão gia quen biết rộng, người hẹn hôm nay tới đây vây diệt Ân Bái không chỉ có một nhúm nhỏ này, chỉ là mọi người đều chẳng ai ngốc, tới thì tới nhưng chưa chắc vì chút tình cảm đó mà xông pha chiến đấu.

Người trong võ lâm chính là như vậy, lúc bản thân một mình bên ngoài, gặp chuyện bất bình chưa chắc sẽ không rút đao tương trợ, đứng dưới tình nghĩa chưa chắc sẽ không xả thân vì nghĩa... nhưng khi các đại môn phái tụ tập cùng nhau, khi "ta" biến thành "phái chúng ta" thì đám anh hùng hào kiệt đều biến thành thương nhân tính toán chi li, nhà mày nhìn nhà tao, nhà tao nhìn nhà mày, không thằng nào chịu đứng ra làm chim đầu đàn.

Liễu lão gia hít sâu một hơi, ánh mắt lướt qua những người có mặt, lời vừa nói khiến bản thân hơi sầu não khó an, ông cảm thấy mình như một người xây cát bên bờ biển, ra sức muốn gom những hạt cát rời rạc thành một pháo đài chống lại từng cơn sóng biển nhưng tất cả đều là phí công vô ích.

"Có lẽ đao kiếm chưa tới đầu ai, người đó sẽ không nghĩ đến hai chữ "đạo nghĩa"." Liễu lão gia cười khổ, đưa tay nhấc lên thanh trường thương tua đỏ do nô bộc đưa tới, nói: "Thôi, năm xưa Liễu mỗ gặp ác phỉ phía nam, được mấy vị lão anh hùng của tiêu cục Trâu thị ra tay tương trợ nên mới có hôm nay, ta tự làm tự chịu, chư vị cứ tự nhiên."

Hán tử họ Trâu và mấy người do ông ta mang đến không nói hai lời đều đứng cùng với Liễu lão gia.

Nghê Thường phu nhân đưa tay sờ thái dương, gỡ một đóa hoa tươi cài trên tóc xuống, cẩn thận đặt một bên, tiếp đó vung tay, các nữ tử của Vũ Y ban dồn dập bước ra đứng cạnh bà.

Nghê Thường phu nhân nói: "Bọn ta chẳng qua là ca nữ đào kép dựa vào hát tiểu khúc kiếm kế sinh nhai, không hiểu những đạo lý đao to búa lớn của Liễu huynh đệ, chỉ là ta nhìn không nổi con của cố nhân làm bại hoại danh tiếng tổ tiên. Tiểu tử, ta hi vọng ngươi về sau đừng tự xưng "Thanh Huy" nữa, ngươi không cần mặt mũi nhưng cha ngươi dưới cửu tuyền cần. Ta không tin ngươi có thể ngày ngày an giấc, không tin liệt tổ liệt tông nhà ngươi không tìm ngươi lúc nửa đêm!"

Trong lòng Chu Phỉ chợt hiện nỗi bi thương không rõ, Nghê Thường phu nhân nói tàn nhẫn như vậy nhưng vẫn lo cho thanh danh người đã khuất, không chịu chỉ ra tên thật của Ân Bái trước mặt mọi người.

Năm xưa một đao một kiếm, nhìn non uống tuyết (Vọng Sơn Ẩm Tuyết), hẳn đã khắc ghi trong tâm khảm.

Đến hôm nay, kiếm chỉ còn lại vỏ, lưỡi đao chưa xuất, Lý Thịnh ở trong tối không chịu lộ diện, nàng chần chừ ở bên ngoài, Ân Bái dương dương tự đắc trong vũng lầy.

Chu Phỉ không biết khi nghe lời này, họ Ân và họ Lý có cảm tưởng gì, dù sao nàng hơi khó chịu trong lòng.

18 người mặt sắt dường như bị lời Nghê Thường phu nhân chọc giận, đồng thanh: "Đệch!"

Nghê Thường phu nhân thở dài, hơi ngẩng đầu nhìn bầu trời đêm trĩu nặng, tựa như đang cùng ai nhìn nhau từ xa xa, sau đó bà lạnh lùng nói: "Nghĩa phụ của ngươi tuy không tính là ác nhân gì nhưng cả đời đúng là chưa từng làm được chuyện gì tốt, nhìn xem hắn nuôi lớn cái thứ gì này!"

Khóa Địa Môn vang một tiếng to, 17 người mặt sắt đồng thời lao vào gây chiến với bà, người bị khóa cũng có động tác y hệt nhưng bị khóa Địa Môn ngăn trở không thể rời đi. Người đó như dính ma chướng, không biết đau đớn, cùng xông lên như những người khác, tiếng "răng rắc" vang lên, hắn cưỡng chế kéo khóa sắt, một chân bị khóa sắt kéo đứt, vặn vẹo thành hình dáng dọa người mà bản thân hắn không hề hay biết, vẫn lê cái chân gãy loạng choạng nửa quỳ trên mặt đất, liều mạng giãy giụa, gân xanh trên cổ nhô cao, đã không còn ra dáng người nữa.

Dây đàn trên tay Nghê Thường phu nhân chợt bắn ra, các ca nữ của Vũ Y ban mặc y phục diễm lệ như những đóa hoa nở trong màn đêm quấn lấy những kẻ mặt sắt khủng bố tạo nên một câu chuyện tiên ma ly kỳ. Đám người Liễu gia trang lập tức giết vào vòng chiến, các nô bộc hạ nhân bưng chậu đồng đựng "Lưu Hỏa" chuẩn bị sẵn giội khắp nơi, hương rượu nhàn nhạt lan tràn khắp nơi, bọn quái trùng thi nhau lăn vào trong đó, nhanh chóng bị người đợi sẵn dùng cây cời lò gắp ném vào trong lửa.

Nhưng dù không có quái trùng thì thực lực chênh lệch cũng một trời một vực.

18 người mặt sắt nói: "Ta ngược lại muốn xem anh hùng thiên hạ ở đâu?"

Vừa giao thủ, những đóa hoa Vũ Y ban như bị gió thu thổi qua, mới nở đã thoắt tàn, trừ Nghê Thường phu nhân có thể đỡ trái đỡ phải gắng chống đỡ được một lúc, những người khác thực không chịu nổi một đòn.

Liễu lão gia rửa tay gác kiếm nhiều năm, công phu thoái hóa không ít, trường thương trong tay như giấy, chiêu "Tam Tinh Liên Châu" kinh điển phái Thái Sơn đâm ra hai lần thì bị một người mặt sắt dùng tay không bắt lấy, chưởng vào đầu thương nhọn. Liễu lão gia liền cảm thấy như có một luồng sức mạnh cực lớn ập vào, hổ khẩu trên đôi tay dày cùng tét ra, bàn tay máu me đầm đìa không cầm thương nổi, lảo đảo lùi về sau, một người mặt sắt khác xuất hiện như ma quỷ phía sau ông, cười gằn, định chưởng chết ông.

Đột nhiên, một thanh kiếm sáng loáng xuất hiện chen vào, gạt chưởng của người mặt sắt ra. Người mặt sắt vừa xuất chưởng thì một thanh kiếm khác như linh xà đuổi theo, nháy mắt đã đâm liền ba kiếm, xuất hư chiêu nhân lúc người mặt sắt né tránh, kéo Liễu lão gia ra sau, đó chính là Lý Thịnh!

Y vừa lộ diện, Chu Phỉ mới chú ý tới những người 48 trại phất cờ ban nãy đã thần không biết quỷ không hay tự ai nấy mang theo một nhóm người đứng vào đúng vị trí như hoa mai vây 18 người mặt sắt vào giữa.

Chu Phỉ ở một góc nhỏ không ai chú ý huýt vài tiếng sáo, thoạt nghe giống tiếng chim hót trong núi Thục Trung, ra hiệu với Lý Thịnh là mình có ở đây. Đây là ám hiệu của họ hồi nhỏ nghịch ngợm phá phách, sau đó quan hệ giữa Chu Phỉ và Lý Thịnh ngày càng căng thẳng, nàng đã nhiều năm chưa từng dùng, không biết Y còn nghe ra hay không.

Tai Lý Thịnh hơi động đậy, liền đó Y quay lưng về phía Chu Phỉ, tra kiếm vào vỏ, đưa mu bàn tay ra sau lưng khoát khoát với nàng, bảo nàng đừng hành động khinh suất.

Lý Thịnh mỉm cười nói: "Liễu tiền bối nói có lý, hậu bối thụ giáo. Dương huynh, huynh nói xem?"

Lời Y chưa dứt, một đám người ngoại tộc mắt sâu bước ra, đi đầu là Dương Cẩn, Dương Cẩn không lên tiếng, xoay Đoạn Nhạn đao trong tay vang tiếng "leng keng" ngân thật xa trong đêm tối.

Lý Thịnh gật đầu với Y rồi lập tức lại phong độ ngời ngời chắp tay với đông đảo người mặt sắt, nói: "Thanh Huy chân nhân, ngươi hỏi anh hùng thiên hạ ở đâu, vậy ta giới thiệu với ngươi một chút: 48 trại ở đây, Kình Vân Câu ở kia, chư vị huynh đệ Hành Tẩu Bang ban nãy vội bắt những tên phế vật thuộc hạ bợ đỡ ngươi nên không rảnh ra chào, ngoài ra ... Xin chư vị tiền bối Võ Đang canh gác tốt cổng chính, lưu ý quái trùng, cẩn thận. Các cao tăng Thiếu Lâm chiếm vị trí Khôn, dùng La Hán trận chặt đứt liên hệ của Thiết diện ma đầu, đa tạ giúp đỡ ..."

Liễu lão gia phúc hậu, chỉ để mọi người tự lựa chọn, nhưng tiểu tử Lý Thịnh lại cực kỳ xấu xa "Trường Giang sóng sau xô sóng trước", tự mình lộ diện đã đành, còn há miệng lôi hết các đại môn phái xuống nước, dùng miệng lưỡi bày bố thiên la địa võng, vừa phân công nhiệm vụ hợp tình hợp lý cho tất cả thế lực các nơi vừa để họ biết mình nên làm gì, đồng thời lại không để họ có dịp thừa nước đục thả câu.

Bố trí xong, Lý Thịnh quét mắt qua đám người mặt sắt, cười nói: "Nếu con rối ở đây thì người giật dây chắc chắn không xa, Ân huynh, xá muội và huynh quen biết đã lâu, muốn cùng huynh ôn lại chuyện cũ, huynh còn không ra nữa thì muội ấy sẽ đến tìm huynh đấy."

(*) Tam cửu: ngày đông chí mùa đông tính là 'giao cửu', sau đó mỗi chín ngày là một cửu, tam cửu là cửu thứ ba, tức 27 ngày sau ngày đông chí, đây được xem là giai đoạn lạnh nhất trong năm.

Tam phục: gồm sơ phục (từ ngày can (**) thứ ba sau ngày hạ chí) 10 ngày, trung phục (từ ngày can thứ tư sau ngày hạ chí) tùy năm, có năm 10 ngày, có năm 20 ngày và mạt phục (từ ngày can thứ nhất sau ngày lập thu) 10 ngày. Đây được xem là thời kỳ nóng nhất trong năm.

Cả câu thành ngữ ý chỉ kiên trì chăm chỉ tập luyện thể dục, bất kể thời tiết khắc nghiệt (nóng nhất hoặc lạnh nhất).

(**) Ngày can: Trung Quốc (cả Việt Nam) cổ tính ngày giờ theo thiên can và địa chi. Thiên can gồm 10 can là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Địa chi gồm 12 chi là Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Người ta gọi ngày tháng năm bằng cách ghép thiên can và địa chi lại với nhau: Giáp Tý, Bính Dần...

Ngày can là ngày có thiên can giống nhau (Quý Dậu, Quý Ngọ...), cứ 10 ngày sẽ có thiên can lặp lại nên có 1 ngày can.

Chương 131: Thành Ma

Lúc người lớn dọa trẻ nhỏ sẽ luôn nói "con còn khóc nữa, đại yêu quái sẽ đến tìm con đấy", tới lượt Lý Thịnh dọa Ân Bái thì trực tiếp bắt chước rập khuôn "huynh còn không ra nữa, Chu Phỉ sẽ đến tìm huynh đấy"!

Nhất thời Chu Phỉ cũng không biết Lý Thịnh muốn chọc tức Ân Bái hay chọc tức nàng, nàng nhìn chằm chằm sau gáy Y, lòng thầm lên kế hoạch --- Khốn kiếp, mình phải nện cho cái đầu này thành trái đào thọ mới được.

Chu Phỉ tạm đè nén lửa giận ngùn ngụt về đào thọ Lý Thịnh trong tưởng tượng để tập trung tinh thần lo chính sự. Câu nói kia của Lý Thịnh không chỉ dọa Ân Bái mà còn là nói cho nàng nghe.

18 cái miệng kia thực quá đồng thanh, nếu không phải học sẵn trước thì chắc chắn là Ân Bái dùng biện pháp gì đó khống chế 18 người này. Nếu là như vậy, khống chế 18 người hỏi gì đáp nấy, còn phải khống chế họ phối hợp thỏa đáng khi động thủ với người khác, độ khó là rất cao, giả như Ân Bái thực có bản lĩnh nghe thôi đã sởn gai ốc này thì đương nhiên bây giờ chính hắn ta cũng đang ở hiện trường.

Nghĩa là, nếu Ân Bái không phải một trong 18 người này thì chắc chắn hắn ta đang ở trong vòng chiến.

Nhưng phán đoán thế nào đây?

Lý Thịnh đúng là đã cho nàng một đề khó.

Chưa đợi Chu Phỉ nghĩ ra cách, bên kia đã bắt đầu động thủ.

Nếu bản lĩnh của một người mặt sắt là 10 phần thì mức trung bình của những kẻ danh môn chính phái này chỉ khoảng 1-2 phần. Hơn nữa, như vậy không có nghĩa là cứ 10 người vây công là có thể bắt được 1 người mặt sắt, vì họ chưa chắc có thể phối hợp lẫn nhau, đã thế người bị vây còn biết mượn lực chống lực khiến họ cản trở tay chân nhau ... nhưng đó là trước khi Lý Thịnh lộ diện.

Lý Thịnh tuổi trẻ ít từng trải, Lý Cẩn Dung cố ý muốn tôi luyện Y thêm vài năm nên vẫn chưa chính thức cho Y vào Trưởng Lão Đường trong 48 trại. Nhưng trên thực tế, việc tuần tra phòng vệ của 48 trại bây giờ do Y và Lâm Hạo chia nhau mỗi người một nửa. Lý Thịnh có được chân truyền của Tề môn, bày trận vây khốn Đinh Khôi ở Vĩnh Châu, sau khi về lại lo việc phòng ngự 48 trại, chỉnh đốn tai mắt ngầm, thậm chí còn phối hợp với Chu Dĩ Đường, giúp ông dẫn binh mấy lần, trình độ chỉ huy có thể nói là tiến triển cực nhanh, đến nay đã đạt đến mức thành thạo điêu luyện.

Các đại môn phái vì chần chừ nhất thời, mất đi tiên cơ, bị động bị Lý Thịnh gọi tên ra, giờ đành để một tiểu tử vắt mũi chưa sạch sai khiến quay mòng mòng, kỷ luật nghiêm minh hiếm thấy, nhanh chóng xoay chuyển thế yếu ban nãy, đánh ngang ngửa với đám người mặt sắt.

Gia nô Liễu gia trang không ngừng giội "Lưu Hỏa" xuống đất, khô lớp nào giội lớp đó, tuyệt đối không để quái trùng trên người những kẻ mặt sắt có cơ hội.

Lý Thịnh như ống máu gà, khiến mọi người chợt cảm thấy Thiết diện ma trong truyền thuyết không phải bất khả chiến bại, lập tức càng lúc càng đông người gia nhập vòng chiến, dệt nên thiên la địa võng.

Dây đàn của Nghê Thường phu nhân tung ra chụp lấy cổ một người mặt sắt, cùng lúc đó, ba tiểu cô nương Vũ Y ban cùng đánh úp vào hạ bàn gã, một hòa thượng Thiếu Lâm cầm trường côn trong tay hô một tiếng Phật hiệu rồi đập gậy xuống giữa đầu gã, năm người vững vàng áp chế gã vào giữa. Người mặt sắt đánh ra một chưởng, dây đàn đoạt mệnh của Vũ Y ban liền mềm nhũn dính vào tay gã, mạch máu trên làn da trắng bệch và gân cốt như những con rắn đáng sợ của gã chợt nổi lên, kéo mạnh Nghê Thường phu nhân đầu kia dây đàn xuống rồi trở tay đánh ba thiếu nữ Vũ Y ban, đồng thời gã hơi nghiêng đầu, dùng phần ngực trước vai đón đỡ một gậy của tăng nhân Thiếu Lâm.

"Rắc" một tiếng, người mặt sắt không chút sứt mẻ nhưng cây gậy của võ tăng bị gãy!

Khóe môi khô quắt của người mặt sắt nở nụ cười lạnh, nhưng gã còn chưa đắc ý xong thì một thanh đao nhỏ mà sống đao và chuôi đao gộp lại cũng không to bằng ngón tay nữ tử mảnh khảnh nhất chợt lóe qua, lưỡi đao kèm theo một mùi hương son phấn, nhân lúc người mặt sắt liều nội lực đấu với võ tăng, nó quả quyết lướt qua cổ người mặt sắt. Mọi người đều không nhìn ra Nghê Thường phu nhân xuất đao kia thế nào vào lúc bản thân đứng còn chưa vững.

Đây chính là kỹ năng vang danh của Vũ Y ban năm xưa liệt vào hàng tứ đại thích khách - "Dương Liễu Phong".

Nghê Thường phu nhân một kích thành công, bị nội lực mạnh mẽ chưa tan trên dây đàn làm chấn động lảo đảo hai bước, lùi về sau ba bước mới đứng vững.

Bà hơi mím đôi môi đỏ, nhìn người mặt sắt với vết đỏ ngầu giữa cổ, ánh mắt hiện chút phức tạp, bà sợ mình phí sức như vậy chỉ để giết một con rối không chút quan trọng, nhưng càng sợ khi mặt nạ kia rơi xuống, đằng sau là gương mặt Ân Bái mang theo những vết tích của cố nhân.

Nhưng liền sau đó, võ tăng tới giúp chợt quát lên: "Cẩn thận!"

Nghê Thường phu nhân chỉ cảm thấy một cơn lạnh toát từ sau lưng bò lên đỉnh đầu, bà không kịp suy nghĩ, nghiêng người tránh lui theo bản năng, một nữ tử trẻ của Vũ Y ban bên cạnh còn chưa luyện được trực giác này, căn bản không phản ứng, liền bị một đôi tay lạnh băng bóp cổ.

Ánh mắt cuối cùng của thiếu nữ nhìn người mặt sắt, máu từ vết thương nơi cổ gã phun ra ngoài nhuộm đỏ nửa mặt nạ, đôi mắt sau mặt nạ thờ ơ lạnh lẽo, đục ngầu như cương thi. Một tiếng giòn rụm vang lên, cổ thiếu nữ bị đôi tay kia bẻ gãy, mềm oặt rơi xuống.

Máu người mặt sắt liên tục phun ra ngoài từ cái cổ bị cắt, toàn thân như bị rút khô, da thịt trên cổ nhanh chóng xám xịt, thế mà gã vẫn có thể đi, có thể giết người, không biết sợ hãi!

Dù là Nghê Thường phu nhân thấy nhiều biết rộng cũng không khỏi lạnh toát toàn thân, thất thanh: "Đây rốt cuộc là quái vật gì?"

Chu Phỉ lúc này đã leo lên cây đại thụ to nhất trong viện Liễu gia trang, nàng đứng trên cây, từ trên cao nhìn xuống chiến cuộc hỗn loạn bên dưới, cảm thấy sắp tiêu rồi.

Quả nhiên, liền sau đó, có người kêu lên: "Mấy tên này giết không chết!"

"Cương thi!"

"Trời ạ! Người chết ... người chết cũng có thể giết người!"

Cơn khủng hoảng lập tức bao lấy đám đông, trong phạm vi một trượng quanh người mặt sắt có vết thương ở cổ kia không còn vật sống, mặt người mặt sắt không chút máu, ngón tay hơi co giật, cái cổ dường như không thẳng nổi nữa, nghiêng nghiêng một cách kỳ dị, sau đó chân gã đột nhiên tăng tốc lao vào đám đông hoang mang sợ hãi.

Người đầu tiên kêu to bỏ chạy triệt để phá hủy trận hình của Lý Thịnh, toàn bộ Liễu gia trang hỗn loạn.

Trâu đại hiệp giết đỏ mắt, thấy cảnh này bèn quát to: "Bọn nhu nhược các người tránh ra!"

Nói rồi, ông bước thẳng lên trước đám đông, vung Kim Ti Đại Hoàn đao, liều mình đón chưởng, một đao bổ xuống người mặt sắt không rõ sống chết, một chưởng của người mặt sắt đánh vào dưới sườn ông, đồng thời cũng bị lòng sốt ruột báo thù của Trâu đại hiệp gỡ xuống một cánh tay.

Người mặt sắt gãy một trong tứ chi, mất đi thăng bằng, lảo đảo nửa bước suýt ngã nhào.

Trâu đại hiệp bị gã đánh gãy một xương sườn, hét lên đau đớn, khom người phun ra ngụm máu, nghiến răng nghiến lợi: "Không chết thì sao chứ? Chúng ta chém đầu của chúng, chặt tứ chi của chúng, xem xem chúng lấy gì giết người!"

Hán tử đầy máu nóng này cực kỳ có sức cảm hóa, không ít người vốn còn chần chừ do dự khi nghe xong lời này đều thi nhau theo ông tiến về trước, họ người đông thế mạnh, sắp băm những người mặt sắt kia thành thịt vụn thì đột nhiên, "ầm" một tiếng, một cương thi nào đó nổ tung tại chỗ.

Những mảnh vỡ máu thịt và thứ gì đó đen sì bay tứ tán, ngay cả Chu Phỉ trên cây xem chiến cũng bị liên lụy, nàng giơ ngang đao chắn theo bản năng, khi định thần nhìn lại thì da đầu tê rần. Bóng đen đập vào mũi đao nàng chính là quái trùng hút máu của Ân Bái!

Quái trùng dùng vô số chân nhỏ ôm đầu mũi đao Toái Già, sau đó định theo thân đao bò lên người nàng, Chu Phỉ hất mạnh tay, nội lực xuyên qua Toái Già chấn văng quái trùng ra ngoài, rơi xuống đất bất động.

Nhưng người dưới đất thì không may mắn như vậy, trong xác chết nổ tung chui ra hàng trăm con quái trùng, mấy con sâu đó hành động nhanh như chớp giật, vừa ló mặt liền tán loạn theo mùi "Lưu Hỏa", đồng thời cực kỳ đói khát, hễ dính lên vật sống thì bất kể đó là người là thú hay là chim đều bị hút khô.

Cả Liễu gia trang biến thành tu la địa ngục, tiếng kêu thảm thiết liên tục vang lên.

Lý Thịnh cũng toát mồ hôi đẫm trán, quát: "Chu Phỉ!"

Chu Phỉ nửa quỳ trên ngọn cây nhẹ nhàng đung đưa theo gió. Trong chốc lát, tinh lực nàng tập trung đến cực hạn, bỗng nhiên, cảm giác huyền diệu như thật như giả kia lại tới, động tác mọi thứ chung quanh dường như trở nên chậm đi, mọi người tới tới lui lui đều biến thành một loại ký hiệu trong mắt nàng. Nàng "thấy" côn pháp phái Thiếu Lâm nóng tính như lửa, võ tăng trẻ tuổi huơ gậy như ngọn lửa hoang dã hung mãnh, còn lão hòa thượng thì như đốm lửa trong chao đèn, nàng thấy sự khác biệt tinh tế trong cách dùng đao của hai người, thấy vô số những đường lối quen thuộc trong cách dùng song kiếm pha tạp đủ phái của Lý Thịnh, trong đó dấu ấn rõ ràng nhất là của Tiêu Tương kiếm ...

Chu Phỉ chợt chuyển hướng sang 18 người mặt sắt, phát hiện hơi thở của họ hoàn toàn tương tự!

Nghĩa là, nếu nàng tin vào trực giác của mình thì 18 người này không có ai là Ân Bái!

Vậy là ai? Có thể là ai?

Lý Thịnh bày bố đã khiến nội viện Liễu gia trang thành nơi nước chảy không lọt, Ân Bái có thể trà trộn vào đâu?

Mấy người trong nội viện đã hoảng sợ tới đỉnh điểm, không thể chịu được việc vật lộn tay không với quái vật nữa, bắt đầu liều mạng xông ra cổng.

Các hiệp khách Võ Đang bị Lý Thịnh an bài gác cổng, làm phòng tuyến đầu tiên ngăn ngoại địch xâm nhập và ma đầu bỏ chạy, còn chưa rõ xảy ra chuyện gì liền bị đám đông hoảng sợ ập vào, nhất thời, người ngăn cổng và người lao ra ngoài hỗn loạn hết lên, trong viện đã hoàn toàn mất khống chế, đừng nói Lý Thịnh, dù là Chu Dĩ Đường ở đây, chỉ e cũng lực bất tòng tâm.

Chu Phỉ chợt ngẩng đầu, ánh mắt như mũi tên bắn về phía một góc nội viện. Người mặt sắt vào đầu tiên dẫn theo không ít tay sai, có người mở đường, có người khiêng kiệu, còn có người nằm xuống làm thảm cho gã, đa số họ đều là thuộc hạ cũ của núi Hoạt Nhân Tử Nhân, bị chủ nhân mới ra sức chà đạp, về cơ bản là không chịu nổi một kích, bị người của Hành Tẩu Bang khống chế rất sớm, trói quanh cây đại thụ.

Chu Phỉ nhìn thấy một "tù binh" mặc toàn màu đen, mặt nạ che mặt, lưng dựa vào đại thụ, mặt hướng về phía chiến trường, không hề giãy giụa, môi hơi mím, phần cổ lộ ra có nửa hình xăm Thanh Long dửng dưng phơi ra ngoài, không hề che đậy.

Người đó dường như cảm nhận được ánh mắt của Chu Phỉ, chợt ngẩng đầu lên, cách biển người và cành lá xum xuê chưa vàng hết trên cây, ánh mắt hắn ta và Chu Phỉ giao nhau.

Chu Phỉ đột nhiên di chuyển, ngọn cây ban nãy còn đung đưa theo gió chợt kéo căng như một cây cung lớn, cành cây căng tới cực hạn như sắp nứt, sau đó chợt buông lỏng, Chu Phỉ tung mình như mũi tên nhọn lao xuống.

Ba lớp dây thừng trói người vào cây bỗng nổ tung, một luồng nội tức hung tàn như gió bão nơi quan ngoại thình lình đẩy văng hai đệ tử Hành Tẩu Bang trông coi hắn ta.

Vạt áo và tóc dài của Chu Phỉ đều bay về sau, nàng ngay cả mí mắt cũng không chớp, ánh đao Toái Già lóa mắt xẹt qua như sao băng với khí thế chém vào gió bão, hung hãn tiến quân thần tốc nhắm thẳng vào ấn đường hắn ta.

Người dưới cây giơ hai tay lên.

Trong mắt Chu Phỉ, động tác hắn ta cũng chậm hệt như những người khác nhưng nội lực lại thâm hậu đến mức khó lường, nàng nhìn rất rõ ràng nhưng không thể tránh thoát, hai tay hắn ta chập lại, kẹp vững thanh Toái Già vào tay, mũi đao chỉ cách trán hắn ta hai tấc.

Một luồng sức mạnh khổng lồ tập kích vào thanh Toái Già ép Chu Phỉ bỏ đao, nàng không cứng rắn giật về mà chợt buông tay, vỗ một chưởng vào chuôi đao, cưỡng chế cắm thanh bảo đao cực kỳ sắc bén vào giữa đôi tay hắn ta, đây là chiêu "Phá" thuần thục như nước chảy mây trôi.

Hắn ta hơi nghiêng đầu, xoay tay khẽ đẩy, Toái Già lướt qua má, bị Chu Phỉ chộp vào tay. Lúc này, đôi chân nàng vừa rơi xuống đất.

"Chà." Người dưới cây khẽ than: "Tên mặt trắng kia không khoác lác nhỉ, đúng thật là ngươi."

Ánh mắt Chu Phỉ lướt qua hình xăm Thanh Long trên cổ hắn ta: "Ân Bái."

Một con quái trùng vô cùng to béo nằm trên hình Thanh Long chậm rãi vươn xúc tu ra, thoạt nhìn như hòa làm một với con rồng dài sống động ấy, nó chợt ngẩng đầu, rít vang.

Trong viện Liễu gia trang vang lên tiếng "vo ve" như tiếng vỗ cánh của hàng trăm hàng ngàn con ong bay qua, toàn bộ những con quái trùng chui vào cơ thể người và cắm đầu vào trong "Lưu Hỏa" đều nghe theo hiệu lệnh, bay lên như một làn gió đen, rơi xuống cơ thể người sẽ chích chứ không chui vào trong da thịt. Người bị chích động tác trở nên cứng nhắc, mắt đục ngầu, thoạt tiên lung lay lảo đảo, sau đó như phát điên, xoay người đấu với đồng bọn của mình, họ không có võ công cao cường như 18 người mặt sắt kia, chỉ có thể phát huy một hai phần mười võ công của bản thân một cách khó khăn, nhưng họ người đông thế mạnh, cộng thêm những người xung quanh sợ ném chuột vỡ bình nên nhất thời trở thành một sức mạnh đáng sợ.

Anh hùng hào kiệt khắp viện bị một con sâu béo nằm trên hình Thanh Long chỉ huy tự giết lẫn nhau!

Ân Bái sờ đầu quái trùng, lấy ra một thứ huơ huơ trước mắt Chu Phỉ. Viên Tị Độc châu ban nãy rơi xuống đất không biết lăn đi đâu hóa ra đã bị hắn ta nhặt.

Ân Bái cười nói: "Đồ đã tới tay, ta đi đây, không cần tiễn."

Chu Phỉ: "Chỉ vì viên Tị Độc châu này mà ngươi ..."

"Nói lý chút đi Chu cô nương." Ân Bái ung dung ngắt lời nàng: "Là các ngươi gài bẫy muốn giết ta trước, ta tương kế tựu kế có gì không đúng? Hôm nay lãng phí 18 dược nhân của ta, phải cho ta hồi vốn chứ? Chậc, không nói chuyện phiếm nữa, sau này chúng ta gặp lại."

Nói xong, Ân Bái lao về sau bỏ đi như một làn khói đen.

Hắn ta vỗ mông đi rồi nhưng đám quái trùng khắp viện vẫn đang tàn phá, hiển nhiên là không giết sạch người nơi này sẽ không thôi. Dù người của Liễu gia trang chạy hết, e là bọn quái trùng vẫn tràn ra bên ngoài, vùng này mấy năm gần đây ít bị ngọn lửa chiến tranh lan đến, là một trong những nơi an bình nhất Cửu Châu, dân cư đông đúc, chỉ riêng phụ cận Liễu gia trang đã có rất nhiều thôn xóm, ai biết quái trùng có thể sống bao lâu, gieo vạ cho bao nhiêu nơi?

Chu Phỉ không chút suy nghĩ, đuổi theo Ân Bái.

Chương 132: Con Rối

Chu Phỉ đuổi một mạch hơn mấy dặm, tuy bóng dáng Ân Bái phập phù lúc ẩn lúc hiện nhưng không thể nào thoát khỏi nàng. Mãi đến một nơi xa xôi thưa dấu chân người, Ân Bái giống như bị nàng đuổi hết chịu nổi, bèn dừng bước, hơi nghiêng người, ánh mắt lạnh lùng bắn ra từ sau mặt nạ sắt nhìn về phía Chu Phỉ đuổi tận không buông: "Ngươi tới tìm chết à?"

Chu Phỉ lười nhiều lời với hắn ta, mũi chân hơi chỉa xuống đất, ánh đao Toái Già ngưng tụ thành một điểm, bay về phía ngực Ân Bái như sao băng đuổi trăng, nhắm thẳng vào mẫu trùng Niết Bàn cổ to béo.

Quái trùng nhận ra sát ý của nàng, tức giận phát ra tiếng rít gào khàn khàn, quái trùng to cỡ lòng bàn tay ấy kêu lên tạo thanh thế rất lớn, thoạt nghe như tiếng sóng biển vỗ bờ trong truyền thuyết.

Ống tay áo dài của Ân Bái khẽ khép lại, bộ hắc y bị nội lực đẩy lên như được đúc từ vàng đá, sượt qua lưỡi đao sắc của thanh tuyệt đại danh đao trong tay Chu Phỉ xẹt ra tia lửa, sau đó hai tay hắn ta ấn xuống, đè lại sống đao Toái Già, lồng ngực hắn ta gầy đến mức chỉ dày cỡ nửa bàn tay nhấp nhô yếu ớt mà gấp gáp, phối hợp với con quái trùng nằm trên ngực, lộ rõ sự bệnh hoạn và nguy hiểm.

"Ồ, ta hiểu rồi, ngươi muốn giết mẫu trùng để cứu những người kia?" Ân Bái cười khàn: "Chu cô nương, ngươi đúng là vẫn bất chấp hậu quả hệt như năm xưa ở Hành Sơn."

Nhắc tới Hành Sơn là Chu Phỉ bực, vì chuyện đó mà Tạ Doãn quạo quọ khó chịu với nàng cả đoạn đường, nếu sớm biết Ân Bái có thể biến thành như vầy thì nàng dở hơi mới đồng ý với Kỷ Vân Trầm lo chuyện bao đồng.

Nàng quát khẽ một tiếng, trường đao chấn văng đôi tay Ân Bái ra, thanh Toái Già trong tay nàng sắp chịu đến cực hạn, một đợt ánh đao như tấm màn bao chặt lấy Ân Bái như cái lồng. Đao của Chu Phỉ theo đạo Vô Thường, mũi nghiêng nghiêng, không biết đâu mà lần, dù Ân Bái công lực thâm hậu, nhất thời cũng khó tránh thoát, chỉ có thể liên tục bị động tiếp chiêu.

Quái trùng trên người hắn ta cực kỳ bất mãn với kiểu giằng co này, tiếng kêu càng lúc càng lớn, khi thì thô khàn, khi thì chói tai, khi thì xen lẫn tiếng "ầm ầm" kỳ quái, thay đổi cao thấp thất thường có thể so với tiếng chửi đổng đanh đá của các thôn phụ chua ngoa, giống như đang quở mắng Ân Bái là đồ vô dụng.

"Mắng" một hồi thấy không tác dụng, tiếng cổ trùng dừng lại, lưng nó nứt xòe ra hai cánh, lộ thân bên dưới, con sâu này trông vô cùng quái dị, rất giống một khúc xương trắng, lóe lên ánh sáng nhạt như men sứ trong màn đêm.

Ân Bái đưa tay che quái trùng trên ngực, sờ thấy quái trùng biến đổi thì khóe môi lười nhác của hắn ta đột nhiên căng thẳng, thế tấn công thình lình trở nên ác liệt, gần như hóa thành tàn ảnh.

Mỗi lần Chu Phỉ đánh trực diện với hắn ta đều bị chấn động đến mức cổ tay đau đớn, Ân Bái lên cơn hung ác, chiêu nào chiêu nấy đều mãnh liệt, không mảy may chừa lại cho bản thân và người khác khoảng trống thở lấy hơi, Phá Tuyết đao kín kẽ bị hắn ta dùng sức lực thô bạo vạch ra một lỗ hổng, Chu Phỉ như hơi yếu sức, Toái Già bỗng trượt đi, lướt qua người Ân Bái.

Ân Bái chưởng một chưởng vào vai nàng: "Không tự lượng sức!"

Lúc này, Toái Già bị trượt trong tay Chu Phỉ bỗng nhiên trở mình, mũi đao như u linh từ dưới xuyên qua hai bàn tay Ân Bái, từ nơi vô tận xông ra, vạch một vòng cung ... chính là "Đoạn Thủy Triền Ti" của Bắc đao năm xưa.

Một chiêu này như nét bút của thần, đâm xuyên ống tay áo tưởng không gì xuyên thủng của Ân Bái, quẹt ra một vệt máu trên mu bàn tay gầy trơ xương của hắn ta.

Hai người đấu sức mấy bận trong không gian cực nhỏ, đấu tới đấu lui chốc lát, ống tay áo rộng của Ân Bái và Toái Già quấn vào nhau, giằng co.

Chu Phỉ rủ mắt, nhìn cổ trùng tức giận nơi ngực hắn ta, chợt nói một câu với Ân Bái.

Nàng hỏi: "Rốt cuộc là ngươi nghe lời nó hay nó nghe lời ngươi?"

Sắc mặt Ân Bái chợt biến đổi, vẻ mặt trong nháy mắt gần như dữ tợn.

Chu Phỉ không hề sợ, thấy hắn ta biến sắc thì cười khẽ, thêm dầu vào lửa: "Sao hả, không thật sự bị ta nói trúng chứ?"

Tiếng rít của quái trùng có chứa vọng âm, càng lúc càng âm trầm, gân xanh trên trán Ân Bái như muốn đâm thủng cả mặt nạ sắt.

Hắn ta rít từ kẽ răng: "Câm miệng."

Nhưng Chu Phỉ không im, nàng đề khí, đưa thanh Toái Già ra trước hai phần: "Ân Bái, trước đây ngươi thân bất do kỷ, bị Trịnh La Sinh cưỡng ép đã đành, nhưng bây giờ ngươi tự do rồi, không cần nghe lệnh người nào nữa, ngươi lại đi nghe lệnh một con sâu? Không làm cẩu cho người ta thì toàn thân ngươi ngứa ngáy phỏng? Ngươi đúng là khiến ta mở mang kiến thức, liệt tổ liệt tông nhà ngươi thấy chắc chắn cũng rất vui mừng."

Ân Bái gầm lên giận dữ, thình lình phát lực, hai ống tay áo chợt rách thành vài mảnh, Chu Phỉ lảo đảo nửa bước, bị nội lực đáng sợ ấy chấn động đến mức ngực cuồn cuộn, cổ họng thoáng mùi tanh tanh.

"Vì những kẻ tiểu nhân nhu nhược dám giận mà không dám nói, ta giết Phùng Phi Hoa, diệt Đinh Khôi, san bằng núi Hoạt Nhân Tử Nhân hễ nhắc tới là ai nấy đều run rẩy." Ân Bái như kiềm chế thứ gì đó, nói từng chữ một: "Ta trừ khử đại họa trong lòng họ, thế là ta biến thành đại họa kế tiếp trong lòng họ, ngươi nói ta nghe xem, có đạo lý này sao?"

Chu Phỉ từng nghe câu kẻ ác cáo trạng trước, không ngờ ác tới mức như Ân Bái vẫn có nhu cầu cáo trạng, nàng không khỏi sững sờ.

Hình xăm Thanh Long trên cổ Ân Bái nổi lên màu tím mơ hồ, cơ thể gầy gò của hắn ta như một chiếc lá rơi chập chờn chịu đựng nỗi đau gì đó.

Ân Bái đè chặt ngực mình, ngay cả giọng cũng run run: "Không ... không cùng một tộc, ắt không đồng lòng, phải không?"

Chu Phỉ vô cùng khó hiểu, trừ vết thương chưa tới nửa tấc ban nãy, nàng không hề làm tổn thương Ân Bái được gì, đau tới mức như vậy ư?

Nàng cau mày quan sát Ân Bái, hỏi: "Nè, ngươi run gì mà run?"

Ân Bái thở hổn hển mấy hơi, gian nan nở nụ cười lạnh, đè lại con quái trùng cứ cựa quậy nơi ngực, nói với Chu Phỉ: "Lần đó ở Hành Sơn, xem như ta nợ ngươi một lần, bây giờ ngươi cút, ta không giết ngươi, sau này hai chúng ta ... CÚT!"

Với sự ác độc của Ân Bái thì câu này có thể xem như đong đầy tình nghĩa, tiếc rằng Chu Phỉ chẳng những không mảy may cảm kích mà còn châm biếm: "Nói vậy là ta phải đa tạ ngươi à?"

Lời nàng chưa dứt, giữa không trung vang lên tiếng "vút" rất nhẹ, hầu như ở gần mới có thể nghe thấy, Chu Phỉ cảnh giác nâng Toái Già nghiêng người tránh ra nửa bước, hai cây châm mảnh dài cỡ hai tấc lướt qua nàng, bắn về phía quái trùng trước ngực Ân Bái.

Châm mảnh này và Yên Vũ Nồng của Khấu Đan có hiệu quả như nhau, tuy nó không dày đặc như Yên Vũ Nồng nhưng nó mạnh hơn Khấu Đan không biết bao nhiêu lần, đúng là thần khí đánh lén vào ban đêm.

Ân Bái đánh ra một chưởng qua không khí, chợt ngẩng đầu lên.

Một người áo đen như chui ra từ bóng, xuất hiện trong rừng cây phía sau Chu Phỉ, giạt những cành thấp ra, chậm rãi tiến về trước.

Chu Phỉ nhìn rõ người tới thì sững sờ: "Xung Tiêu Tử ... đạo trưởng?"

Gọi đạo trưởng hình như không thích hợp, Xung Tiêu Tử không mặc trang phục đạo sĩ, ông búi tóc gọn lên, mặc y phục dạ hành, hiện ra lồng ngực dày rộng, tay cầm một ống sáo hình dáng kỳ lạ, tăng thêm vài phần khí chất bí hiểm.

Xung Tiêu Tử gật đầu với Chu Phỉ rồi không nhìn nàng nữa, ánh mắt bình tĩnh không gợn sóng chuyển sang Ân Bái, duỗi một tay về phía hắn ta, chậm rãi nói: "Ân Bái, trả lại thứ không thuộc về ngươi."

Ân Bái chỉ cười khẩy.

Xung Tiêu Tử nói: "Năm đó chưởng môn sư huynh của ta nhặt được ngươi dưới chân Hành Sơn, niệm tình ngươi là hậu nhân danh môn nên không tiếc bại lộ vị trí cấm địa Tề môn, mang ngươi về an dưỡng, giúp ngươi chữa thương, điều trị kinh mạch, thậm chí còn định dạy võ công cho ngươi, nhưng ngươi báo đáp huynh ấy thế nào?"

Cổ trùng trong ngực Ân Bái lần nữa phát ra tiếng kêu cao vút.

Ân Bái cười nham hiểm: "Niệm tình ta là hậu nhân danh môn? Hậu nhân danh môn nhiều lắm, đâu thấy chưởng môn quý phái mời hết từng người một về cấm địa đâu, rõ ràng là gã mũi trâu đó muốn đoạt Sơn Xuyên kiếm gia truyền của ta!"

Xung Tiêu Tử lạnh lùng nói: "Đồ vong ân phụ nghĩa, đương nhiên cảm thấy mình luôn có lý, còn người khác luôn sai. Ân Bái, hôm nay ngươi nói lời này, đủ thấy ngươi căn bản không biết hoa văn sóng nước trên thân Sơn Xuyên kiếm của lệnh tôn có ý nghĩa gì, ngươi cũng hoàn toàn không xứng cầm nó. Chưởng môn sư huynh của ta chân thành đối đãi ngươi, ngươi lại lén xông vào kho cấm, lỡ tay thả Niết Bàn cổ, còn bị cổ trùng mê hoặc, làm ra nhiều chuyện táng tận lương tâm, ngươi nhìn xuống suối vàng hỏi thử xem, ngươi có xứng họ Ân hay không?"

Chu Phỉ từng nghe Lý Thịnh nhắc không chỉ một lần về vị Xung Vân đạo trưởng bèo nước gặp nhau kia, nghe đến đây, nàng nghĩ --- Chưởng môn Xung Vân Tử của Tề môn lúc đó không chỉ nhặt Lý Thịnh ba tháng mà còn nhặt cả Ân Bái sao?

Cái bệnh nhặt đồ vứt dọc đường gì thế này?

Chu Phỉ nhìn mẫu trùng Niết Bàn cổ, chợt nhớ ra gì đó, hít sâu một hơi, không kìm được hỏi: "Vậy Xung Vân đạo trưởng ..."

"Chưởng môn sư huynh ta chính là người đầu tiên chết bởi Niết Bàn cổ. Cổ trùng đó tham lam thành tính, thích máu thịt người, càng là cao thủ, nó càng kích động. Kẻ gọi là chủ nhân của cổ trùng chẳng qua là một con rối bị tà vật này sử dụng thôi." Xung Tiêu Tử chậm rãi nói: "Khi sắp chết, sư huynh vẫn muốn khuyên ngươi đừng tham tà công, dốc sức nghĩ cách trừ đi Niết Bàn cổ trên người ngươi, không ngờ hết thảy đều là tưởng bở. Ta thấy ngươi rất cam tâm tình nguyện bị con sâu này sử dụng. Ân Bái, phàm ngươi còn chút tôn nghiêm làm người, thì ngươi nên tự mình kết liễu ở đây."

Ân Bái cười to, hai mắt đỏ quạch, ba phần lý trí miễn cưỡng điều động được lúc nãy khi trò chuyện với Chu Phỉ giờ không còn lại chút gì. Cổ trùng trong ngực hắn ta vỗ đôi cánh xấu xí phành phạch, sau đó, tiếng bước chân soàn soạt truyền đến, mấy chục người mặt sắt từ bốn phương tám hướng ùa tới, giống như tử thi từ lòng đất bị cổ trùng gọi ra.

Ân Bái cười lạnh: "Ai nói với các ngươi ... là bên cạnh ta chỉ có 18 dược nhân?"

Chu Phỉ không còn cách khác, đành tạm kết đồng minh với Xung Tiêu Tử có mục đích đến không rõ ràng kia, nàng cầm Toái Già đứng cùng Xung Tiêu Tử tạo thành một góc, hỏi: "Đạo trưởng, những "dược nhân" này là sao?"

Xung Tiêu Tử giải thích: "Vẽ 108 vết thương dọc theo kinh mạch và mạch máu trên cơ thể một người, sau đó đưa nọc độc cổ trùng vào làm chất dẫn rồi đưa nước nóng vào, ngâm người bị thương tích đầy mình ấy trong vòng một canh giờ, nọc độc của cổ trùng sẽ dính vào vết thương, từ từ thâm nhập rồi phủ một lớp màng mỏng cứng như vỏ côn trùng lên ngoài cơ thể, sau ba ngày, người đó bị độc của cổ trùng chảy khắp tứ chi bách hài, trở thành "dược nhân", tương tự như cổ con vậy. Những dược nhân này vẫn còn sống, bình thường nói chuyện, đi đứng đều không khác người thường, thậm chí có thể chia sẻ một phần lợi ích do cổ trùng mang đến là công lực tiến triển cực nhanh. Họ nghe lời cổ mẫu vô điều kiện, một khi cổ mẫu ra lệnh là họ có thể bỏ đi tính tình của mình, nháy mắt có thể đồng thanh trăm miệng một lời, ngàn người một mặt, dù cổ mẫu bảo họ đi chết, họ cũng có thể không chút do dự cắt cổ tự sát."

Chu Phỉ chợt nhớ lúc ở ngoài thành Vĩnh Châu, Ân Bái không hiểu sao lại nhắm Chu Thần, cứ đòi đưa hắn đi. Lúc đó nàng còn tưởng thân thế Chu Thần làm Ân Bái xúc động nên Ân Bái muốn khiến hắn đồng bệnh tương liên sinh ra tâm lý cực đoan, nhưng bây giờ nhìn lại, Ân Bái căn bản là định bắt thiếu chủ nhân của Hưng Nam tiêu cục về làm dược nhân!

Đám thuộc hạ cũ núi Hoạt Nhân Tử Nhân như cỏ đầu tường, khúm núm với hắn ta, cả võ lâm Trung Nguyên lưu truyền ác danh của hắn ta mà hắn ta còn chê chưa đủ, chính hắn ta làm con rối to của Niết Bàn cổ rồi còn muốn nuôi một đám con rối nhỏ chỉ nghe lệnh hắn ta.

Chu Phỉ tê cả da đầu, nói: "Đạo trưởng, cấm địa quý phái có sở thích kiểu gì thế? Tại sao lại nuôi thứ đồ chơi này? Bây giờ làm sao đây?"

Xung Tiêu Tử đến bước này vẫn bình tĩnh ung dung, như thể núi có lở, thần sắc cũng không dao động, ông nói với Chu Phỉ: "Mấy năm nay Chu cô nương hành tẩu giang hồ, ít khi dùng tên thật, danh tiếng Nam đao vẫn độc bộ thiên hạ như xưa. Toái Già là đao do đại quốc sư Lữ Nhuận năm xưa làm, vừa khéo thứ kịch độc giữa nhân gian là Niết Bàn cổ cũng do Lữ Nhuận để lại, nên có một chấm dứt thôi, không biết Chu cô nương có dám cùng lão đạo phiêu lưu chuyến này không?"

Chu Phỉ: "..."

Xung Tiêu Tử nói đại nghĩa hào hùng cứ như bắt đại ma đầu Ân Bái là việc trong lòng bàn tay, chỉ bảo nàng vất vả một chút thôi ấy! Tạm chưa tính đám dược nhân có thân thủ không tồi kia, dù chỉ một mình Ân Bái nàng cũng đánh không lại nữa là.

Dược nhân của Ân Bái không cho Chu Phỉ cơ hội uốn nắn lão đạo sĩ nói như rồng leo, làm như mèo mửa này, trong nháy mắt chúng đã vây công lại.

Xung Tiêu Tử vẫy ống sáo trong tay, một cây châm mảnh dài cỡ hai tấc phun ra từ ống sáo, động tác tay ông liên tục, châm mảnh bay ra liên tiếp ba đợt, vừa nhanh vừa độc.

Đám dược nhân đeo mặt nạ sắt thi nhau vận công chống đỡ, quái trùng trên người họ dường như hơi sợ mấy cây châm kia, nhao nhao chui vào ống tay áo.

Xung Tiêu Tử cao giọng: "Trên châm của ta có nhúng vật trừ tà đuổi trùng đặc biệt, có thể chống đỡ được một lát, Chu cô nương, mẫu trùng Niết Bàn cổ là kẻ cầm đầu, giao cho cô đấy."

Chu Phỉ: "..."

Năm xưa lão đạo sĩ Xung Tiêu Tử bị vây trong ngục tối ở sơn cốc của Mộc Tiểu Kiều sao không thấy lợi hại như vậy?

Lẽ nào khi đó ông cố ý bị Mộc Tiểu Kiều bắt?

Xung Tiêu Tử quát to một tiếng, ngắt ngang những suy nghĩ linh tinh của nàng: "Đi!"

Ân Bái cười to điên cuồng: "Giỏi, hai ngươi một người là Nam đao làm việc khiêm tốn, một người là "Hắc phán quan" mai danh ẩn tích, ta sẽ lĩnh giáo hết, vừa vặn đủ ăn một bữa!"

Con ngươi Chu Phỉ co lại. Hắc phán quan được liệt vào tứ đại thích khách, nhiều năm trước cùng mai danh ẩn tích với Minh Phong lâu và Vũ Y ban, ấy thế lại vào Tề môn? Mà Tề môn lại vừa khéo có dính líu không ít với "Hải Thiên Nhất Sắc", trong đây lại có dây mơ rễ má gì?

Nhưng lúc này không cho phép nàng ngẫm nghĩ, nếu để Ân Bái mang theo cổ mẫu chạy mất thì dù Hắc phán quan lợi hại đến mấy, mấy chục dược nhân này cũng có thể vây chết hai người ở đây. Những kẻ xui xẻo trong Liễu gia trang càng khỏi phải nói!

Chu Phỉ chợt nhảy lên, Trảm tự quyết của Phá Tuyết đao như chém ngân hà, ngạo nghễ vô song bức lui một dược nhân, nàng giơ ngang đao chặn Ân Bái.

Chương 133: Bóng Ma

Ân Bái cười lạnh nói với Chu Phỉ: "Đám mũi trâu thối của Tề môn không lo niệm kinh đàng hoàng, lại giấu một con Niết Bàn cổ trong cấm địa, lời xằng bậy của loại người này nói mà ngươi cũng tin!"

Chu Phỉ xuất liên tục ba đao, trong "Phong" mang theo hơi hướm của Bắc đao, đao nào đao nấy nối liền không ngớt, chuyên chọc vào chỗ sơ hở của Ân Bái, lần nào cũng chui vào chỗ hắn ta khó bảo vệ, đao pháp của nàng theo đạo Vô Thường, "khí" trong đao phong càng vô hình vô ảnh, dù nội lực Ân Bái có thể thâm hậu đến mức đao thương bất nhập, nhưng cổ mẫu kia vẫn chỉ là một con sâu yếu ớt, đao phong sắc bén mấy lần suýt đụng trúng cổ mẫu.

Võ công của Ân Bái hoàn toàn do cướp đoạt mà có, chưa từng nghiêm chỉnh tu luyện, không thể đọ đao thuật với Chu Phỉ, hắn ta bèn dứt khoát đơn giản thô bạo, đẩy ngang song chưởng ra, dùng sức mạnh sấm vang chớp giật đánh về phía Toái Già mảnh khảnh, muốn dùng sức mạnh thô bạo bẻ gãy đao.

Bất luận chủ nhân của Toái Già khi còn sống là kỳ tài cỡ nào, dù sao cũng đã chết mấy trăm năm, tam xích thanh phong dẫu còn dư hận thì suy cho cùng vẫn chỉ là một khối sắt bình thường, hơn nữa vì đao cực sắc, lưỡi cực mỏng, nên trông hơi yếu ớt hơn miêu đao thông thường, tuyệt đối không chịu nổi sức mạnh thuần túy tàn phá.

Đao mà Chu Phỉ dùng hỏng gom lại chắc có thể xếp một vòng quanh 48 trại nên nàng kinh nghiệm đầy mình.

Nàng lập tức thu lực, giơ ngang đao tránh thế tiến công, nhưng vào lúc này, cổ mẫu nơi ngực Ân Bái như cuối cùng không chịu nổi nữa, vỗ cánh bay lên, lướt như chớp qua mu bàn tay Ân Bái, không mảy may bị sức mạnh dữ dội của hắn ta ảnh hưởng, nó như một chiếc lá cây nhanh nhạy, xuyên qua gió bão một cách tinh chuẩn, không hề bị tổn thương chút nào.

Trong thời gian một hơi thở, Chu Phỉ đã nhìn trực tiếp vào hình dáng con quái trùng kinh khủng ấy, nhưng nàng không hề cảm thấy sợ hãi hay buồn nôn.

Quỹ tích mà quái trùng tránh khỏi chưởng phong của Ân Bái kéo dài vô hạn và vô cùng rõ rệt trong mắt nàng, cảm giác luôn như ẩn như hiện trước giờ trong lòng nàng đột nhiên bị một cây bút vô hình vẽ ra đậm nét.

Lần đầu tiên nàng thành công xoa dịu Khô Vinh chân khí muốn tạo phản trong cơ thể, khiến hai luồng nội tức song song lưu động trong kinh mạch.

Lần đầu tiên nàng đối diện với đối thủ mạnh, sức đã kiệt, Khô Vinh chân khí tự động vận chuyển người đao hợp nhất.

Lần đầu tiên nàng chạm đến ngưỡng cửa mỗi một thức trong Phá Tuyết đao.

Lần đầu tiên nàng lĩnh hội được sự ảo diệu biến hóa của đao Vô Thường ...

Trên vách núi cheo leo, trong rừng sâu núi thẳm, nơi tuyết băng vạn trượng, vô số lần nàng lướt qua lằn ranh sinh tử.

Lúc nửa đêm khó ngủ, nàng gối đầu lên Toái Già nơi hoang vu, màn trời chiếu đất, cô độc ngửa mặt nhìn dãy ngân hà xa xăm, vô số lần sau khi bị kẹt nghĩ không thông, nàng cảm thấy đao pháp của mình không tiến bộ mà ngược lại còn thụt lùi, nội lực nhiều lần tôi luyện tích lũy như sỏi cát giữa ngón tay, nàng ngẩn ngơ đau khổ khó lòng chịu nổi, tưởng mình cứ thế đi đến hồi kết trên con đường võ học.

Nhiều lắm những trăn trở và chất vấn trong thinh lặng lướt qua từng cái một như bùng nổ trong đầu Chu Phỉ, sau đó chợt co lại thành một điểm, tụ lại nơi con cổ mẫu tham lam gần trong gang tấc.

Chu Phỉ chợt di chuyển, chân nàng dịch đi nửa bước như không chút quy luật, không thèm nhìn con cổ mẫu kia, Toái Già nghiêng nghiêng lướt tới, như nét bút thần tìm được con đường yếu nhất trong chưởng phong của Ân Bái, trượt qua không chút trở ngại, lưỡi đao với ánh sáng lạnh toát ra tứ phía sượt qua người, đao phong rơi lại cắt đứt nhúm tóc buông xuống nơi quai hàm hắn ta.

Sau đó mũi đao nàng vạch ra nửa vòng tròn tao nhã, chân bước theo Phù Du trận, bóng Chu Phỉ lóe lên không hiểu sao đã lướt qua người Ân Bái, vòng qua một bên khác của hắn ta, vừa vặn vòng quanh hắn ta nửa vòng tròn, mũi đao ẩn sau lưng Ân Bái buông tha chính chủ, nhắm thẳng vào Niết Bàn cổ mẫu.

Ân Bái đột nhiên biến sắc, liều mạng dùng thân che chở Niết Bàn cổ mẫu, "phụp" một tiếng, Toái Già cắt rách y phục, bả vai gầy trơ xương lập tức da tróc thịt bong, đao phong chưa tan hất mặt nạ sắt trên mặt hắn ta ra, lộ một gương mặt gầy đến biến dạng ... với vành mắt đen bị mặt nạ che chắn và xương gò má nứt nẻ.

Ân Bái nhất thời ngây dại, hắn ta vốn tưởng mình đã thiên hạ vô song, không ngờ lại có người dùng thanh đao chưa lớn bằng lòng bàn tay làm bị thương được hắn ta.

"Ta mặc kệ Niết Bàn cổ của ngươi từ đâu mà có, cũng không muốn tìm ngươi báo thù cho ai, càng không biết ngươi và Tề môn có ân oán gì, hôm nay ta không truy cứu tiền căn hậu quả, cũng không bàn thiện ác âm dương." Chu Phỉ quét mắt qua gương mặt gần như bị hủy dung của Ân Bái, bàng quan nói: "Chỉ cần ngươi thu hồi tất cả dược nhân và cổ trùng ở Liễu gia trang, dù bây giờ ngươi muốn mang con sâu tổ tông kia đi, ta cũng không cản."

Một tay Ân Bái cào vào vai mình, ngón tay gầy đét chọc vào vết thương, máu biến màu đen tuôn ào ạt, cổ mẫu ban nãy suýt bị chém thành hai nửa yên tĩnh ngắn ngủi, lẳng lặng nằm hút ăn lớp máu tươi của hắn ta.

Mắt Ân Bái hơi đục, tơ máu như nổi lên thành mạng lớn chi chít, mắc lại những sướng vui đau khổ bên trong, sau đó hắn ta há miệng to, bật cười ha hả như điên như dại.

Ân Bái nói: "Ta không làm đấy. Nói thật cho ngươi biết, dù ta chết thì dược nhân của ta vẫn tràn trề sức sống, đủ giết sạch bọn danh môn chính phái đại nghĩa hào hùng kia. Ngươi làm gì được ta? Chu Phỉ, những kẻ các ngươi vì dân vì nước, ra vẻ đạo mạo, danh lợi đều có, nói ai đáng chết thì kẻ đó đáng chết, đúng không? Các ngươi thật uy phong, thật lợi hại ... ta muốn xem các ngươi có thể lợi hại đến khi nào!"

Chu Phỉ cau mày: "Hại người không lợi mình có ích gì với ngươi, có bệnh à?"

Nụ cười của Ân Bái như cái cửa, mở ra là nước lũ cuộn trào, khép lại là biến mất không còn một mống, ban nãy hắn ta còn cười ló răng mà liền sau đó, da mặt lập tức căng như mặt trống.

Hắn ta khôi phục biểu cảm lạnh tanh, nhìn chằm chằm Chu Phỉ, nhẹ nhàng nói: "Võ lâm Trung Nguyên từ xưa đã không dung được những kẻ tài năng xuất chúng, là các ngươi xem ta là dị tộc trước. Được thôi, ta phát điên phát rồ, ta muốn người người đều sợ ta như rắn rết, người người thấy ta đều hoảng hốt bỏ chạy! Sơn Xuyên kiếm tính là gì? Ông ấy chết rồi, các ngươi đều đem ông ấy lên bàn thờ tôn làm thánh nhân, chứ nếu ông ấy còn sống thì chưa chắc được vinh quang gì đâu. Trước đây ta cho rằng cha ta chết dưới tay Trịnh La Sinh, sau đó lại cảm thấy Kỷ Vân Trầm mới là thủ phạm, nhưng những kẻ này đều chết mà ta không mảy may vui sướng. Ngươi đoán xem, mãi đến gần đây ta mới hiểu, hóa ra Ân thị bị chôn vùi bởi "chính đạo" và "đại nghĩa", xấu hổ biết mấy, buồn cười biết mấy?"

Xung Tiêu Tử quát: "Chu cô nương, đừng nghe người này đổi trắng thay đen! Bắt lấy cổ mẫu!"

Chu Phỉ liếc mắt qua, thấy võ công Xung Tiêu Tử còn cao hơn nàng tưởng tượng, lão đạo sĩ tuy lúc này rất chật vật nhưng vẫn nhờ khinh công như ma quỷ và ám khí tầng tầng lớp lớp trong tay mà qua lại như con thoi giữa đám dược nhân đông đúc.

Chu Phỉ biết lời Ân Bái nói như đánh rắm nhưng nàng không quá tin Xung Tiêu Tử, nên dứt khoát xem lời cả hai người họ như gió thoảng qua tai, chỉ tập trung vào chuyện trước mắt, nói với Ân Bái: "Nếu không thu hồi dược nhân của ngươi thì ta đành giết ngươi và con sâu kia thôi."

Ân Bái bình tĩnh nhìn nàng, chợt nói: "Có phải ngươi biết được gì không?"

Chu Phỉ biết rất nhiều chuyện, vì nguyên nhân Tạ Doãn nên lúc rảnh rỗi, ngoài nghiên cứu võ công, nàng còn nghiên cứu "Hải Thiên Nhất Sắc".

Người dính líu tới "Hải Thiên Nhất Sắc", hình như đều không ai có kết quả tốt.

Ngô tướng quân hi sinh vì nghĩa thì khỏi nói, nhưng Ân Văn Lam rõ ràng chết bởi âm mưu mà kẻ cầm đầu vẫn cần tranh luận. Lúc đó Chu Phỉ còn nhỏ, không thấy gì không ổn, nhưng sau này nhớ kỹ lại, kẻ tiểu nhân hèn hạ như Trịnh La Sinh nếu thật có trí tuệ và mưu kế để trù tính toàn bộ sự việc thì ông ta cũng sẽ không dễ bị họ liên thủ vây chết trong mật đạo Hành Sơn như vậy. Huống hồ đám người Trịnh La Sinh không vì gì khác ngoài bảo vật bí mật của Hải Thiên Nhất Sắc trong truyền thuyết, nhưng Hải Thiên Nhất Sắc trừ mấy viên thuốc của Đại dược cốc là đã biết thì còn bảo vật bí mật gì đây? Không ai nói rõ được. Nếu ngay cả nhân chứng như Nghê Thường phu nhân cũng giữ kín như bưng thì Hải Thiên Nhất Sắc làm thế nào truyền đến tai Thanh Long chúa núi Hoạt Nhân Tử Nhân?

Lại nói đến Lý Chủy, năm xưa ông hộ tống ấu chúa xong không bao lâu liền bị Bắc Đẩu ám hại, Đoàn Cửu Nương điên điên khùng khùng đầu óc không rõ ràng, quá nửa chuyện mà bà vú già kể là do bà kể lại, chỉ có thể nghe ý đại khái, còn chi tiết nhỏ thì đều đáng ngờ. Chẳng hạn như năm xưa Bắc Đẩu làm thế nào biết được hành tung của Đoàn Cửu Nương? Nếu Lý Chủy được tai mắt ngầm báo tin, biết có Bắc Đẩu hoạt động gần 48 trại, tại sao còn đơn thân mạo hiểm? Loại chuyện đầu óc ngu si, tứ chi phát triển này, Chu Phỉ cảm thấy đại khái chỉ có mình làm ra được chứ không giống lão trại chủ điềm tĩnh thận trọng trong lời kể của mọi người.

Còn Hoắc lão bảo chủ, chuyện ông bị Hoắc Liên Đào hạ độc cho ngu ngốc là điều chắc chắn, nhưng Hoắc Liên Đào lấy đâu ra gan đó, lấy đâu ra độc đó, ông ta chết, điều này trước sau vẫn là bí ẩn chưa có lời giải đáp.

Còn rất nhiều chỗ kỳ lạ khác nữa, nếu tất cả đều trùng hợp, thì cái gọi là "Hải Thiên Nhất Sắc" chỉ còn lại một lời giải thích... chắc chắn là lời nguyền do quỷ quái nào đó đạo hạnh thâm hậu để lại.

Ánh mắt chần chừ của Chu Phỉ trong nháy mắt khiến Ân Bái nhìn ra đầu mối, hắn ta chợt bước lên một bước, nhưng đúng lúc này, một mùi hương nhạt ngòn ngọt tanh tanh không biết từ đâu bay tới. Cổ mẫu hút máu Ân Bái xong đã an tĩnh lại giờ thình lình như phát điên, gào to cao vút, phía sau Chu Phỉ truyền đến một tiếng hầm hừ, những dược nhân kia cũng cực kỳ phấn khởi theo, hung mãnh hơn ban nãy gấp bội, Xung Tiêu Tử khó chống đỡ, bị hai dược nhân bên cạnh chưởng trúng hai bên sườn trái phải, lập tức bay ra ngoài, đụng trúng một cây đại thụ, ngã xuống đất, không rõ sống chết.

Các dược nhân giải quyết xong lão đạo sĩ, tự nhiên là cùng chạy về phía Chu Phỉ, Niết Bàn cổ mẫu dường như đã quên chuyện ban nãy suýt bị Chu Phỉ chém ngang hông, lại lần nữa bay lên nhào về phía Chu Phỉ.

"Vù" một tiếng, quái trùng trên người các dược nhân đều bay lên không trung theo cổ mẫu, bay về phía nàng chi chít, trong nháy mắt ấy, Chu Phỉ thấy sự kinh ngạc trên mặt Ân Bái, nhưng nàng đã không rảnh quan tâm nữa.

Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, Toái Già chợt bổ tới, cổ mẫu dường như có thể đoán trước được đao pháp của nàng, tránh ra bên cạnh, nhưng liền sau đó, nó va đầu vào vỏ đao sớm đã chờ sẵn, vang nhẹ một tiếng, mọi khoảng trống tránh né của cổ mẫu đều bị vỏ đao không bắt mắt của Chu Phỉ phong bế.

Lúc này quái trùng đầy trời đã rơi xuống mái tóc dài của Chu Phỉ, dường như đã cuốn nàng vào trong, Chu Phỉ mặt không biến sắc, mũi đao đuổi theo cổ mẫu, không chút do dự chém nó làm hai.

Tập thể quái trùng mãnh liệt dừng lại, sau đó rơi ầm ầm như mưa, rớt xuống đầu, xuống vai Chu Phỉ ... nhưng không thể làm nàng bị thương.

Chu Phỉ tung vạt áo hất hết quái trùng xuống đất, thân thể đám sâu bóng loáng trải đầy một lớp đất xám xịt với tốc độ mà mắt thường cũng có thể nhìn thấy, chớp mắt liền bất động.

Mãi đến lúc này, Chu Phỉ mới bất giác nổi da gà.

Chưa đợi nàng thở phào nhẹ nhõm đi xử lý Ân Bái thì sau gáy chợt truyền đến chưởng phong sắc bén, Chu Phỉ lướt ra ngoài ba bốn trượng, quay đầu, giật mình thấy mấy dược nhân kia chẳng những không ngỏm theo đám sâu mà ngược lại, ai nấy đều như bị oan hồn quái trùng nhập, liều mạng lao vào nàng, nháy mắt đã bao vây kín nàng.

Nhân lúc này, Ân Bái lẻn vào rừng mất tăm mất tích, Chu Phỉ không hơi đâu suy nghĩ hắn ta sau khi mất đi Niết Bàn cổ sẽ thế nào, nàng hơi luống cuống tay chân ứng phó chốc lát, bất đắc dĩ bước Phù Du trận.

Phù Du trận chính là trận pháp dùng khéo léo thắng sức mạnh, phát huy tác dụng lớn nhất vào lúc đối phương người đông thế mạnh hoặc võ công cao hơn, một hai năm nay Chu Phỉ rất ít dùng đến, không ngờ bây giờ lại bị những dược nhân điên cuồng này đuổi chạy té khói.

Nàng chém một đao đứt luôn hai cổ tay trái phải của một dược nhân nhưng kẻ đó hoàn toàn không biết đau, quyết quấn lấy nàng, cùng lúc đó, một dược nhân khác thò tay ra dưới nách đồng bọn máu me đầm đìa, tay cầm roi dài mà năm xưa Đinh Khôi từng dùng, cuốn lấy cẳng chân Chu Phỉ. Dược nhân thứ ba nhảy lên trên, từ trên cao chưởng xuống đỉnh đầu Chu Phỉ, Chu Phỉ không chỗ tránh né, đành gắng đón đỡ.

Quái trùng vừa chết, những dược nhân này giống như hồi quang phản chiếu, công lực nháy mắt tăng hai ba lần, Chu Phỉ lập tức cảm thấy luồng sức mạnh đối phương ngang tàng mạnh mẽ hơn cả Ân Bái ban nãy theo Toái Già trực tiếp truyền đến người nàng.

Mắt Chu Phỉ tối sầm, suýt đứng không vững, Toái Già rung mạnh, một ngụm máu nghẹn nơi cổ họng nàng.

May mà ứng phó với loại hoàn cảnh nguy hiểm "sắp tiêu đời" này, Chu Phỉ kinh nghiệm phong phú hơn người thường, càng là lúc tính mạng ngàn cân treo sợi tóc, nàng càng bình tĩnh.

Nàng cắn nhẹ đầu lưỡi, toàn thân chợt nghiêng người, Toái Già như ngân hà trĩu xuống đất, tháo gỡ sức mạnh chưởng từ trên cao xuống của dược nhân kia, sau đó nàng đổi tay cầm chuôi đao giữa không trung, trực tiếp đưa mũi đao vào cổ họng dược nhân, đẩy ra xa hơn nửa thước, đánh ngang về phía đồng bọn hắn. Đồng thời, nàng lấy cái chân bị trói làm trục tâm, trường đao gào thét vẽ ra một vòng, phát huy cực hạn toàn bộ tu vi cả đời trên mũi đao nhọn.

Đón, đỡ, chặn, phá, mượn lực chống lực ... tất cả đều trong gang tấc, Toái Già dệt thành một tấm lưới kín kẽ, dược nhân phát điên chung quanh khó lại gần nàng nửa bước. Nháy mắt ấy, Chu Phỉ cảm giác trong ý thức mình chỉ còn lại một thanh đao, năm giác quan như nối thành một đường thẳng giữa mùi máu tanh đầy miệng, động tác của bọn dược nhân nàng vừa liếc mắt là hiểu ngay, thậm chí có thể nhìn ra điểm khác biệt nhỏ bé giữa chúng. Tầng giấy cửa sổ luôn quanh quẩn không rời kia vỡ ra không hề có điềm báo trước, Nam đao biến mất hơn 20 năm như lần nữa nhập vào ba thước sắt, khởi tử hoàn sinh.

Tiếc rằng Chu Phỉ nhanh chóng thoát ra khỏi cảnh giới giác ngộ ấy. Nàng và Ân Bái đấu nhau suốt cả đường, vốn đã gần đến mức sức cùng lực kiệt, ban nãy lại bị dược nhân làm trọng thương, giờ gần như cung đã hết đà.

Mà bọn dược nhân không sợ đau, không sợ chết, xông lên hết nhóm này đến nhóm khác, quyết vây chết nàng ở đây. Chu Phỉ hoàn hồn trong đao thuật như bộc phát, kinh mạch toàn thân đều âm ỉ đau, nội tạng bị thương lan đến cánh tay, "keng" một tiếng, thanh Toái Già suýt tuột khỏi tay.

Nàng lảo đảo, bị roi dài trên đùi kéo mạnh xuống đất.

Chương 134: Hắc Phán Quan

Chu Phỉ chật vật lăn mấy vòng trên đất, dựa vào tiếng gió tránh được thế giáp công của mấy dược nhân, mu bàn tay sượt rách da đau đớn. Nàng cảm thấy vô cùng không đáng, lần trước lúc nàng liều mạng như vậy, bên cạnh còn có dược liệu quý hiếm, ai liều người đó được, nhưng lần này là gì chứ?

Lỗ vốn lời được tiếng thét to sao?

Tuy Chu Phỉ đang tự giễu nhưng cũng không để lỡ chuyện, nàng đưa tay dùng vỏ đao Toái Già cắm vào bắp chân, nạy roi dài quấn bắp chân nàng ra, trong chút thời gian đó đã có dược nhân vây tới, Chu Phỉ bị roi trên đùi khống chế, không né tránh kịp, bị cái búa nhỏ trên tay dược nhân kia chém trúng vai.

Mấy lọn tóc dài đứt theo tiếng động, Chu Phỉ cắn chặt răng, nhắm mắt theo bản năng.

Nào ngờ cơn đau khi một vai bị chém xuống không hề tới, Chu Phỉ chỉ cảm thấy vai như bị người ta đập mạnh vào, liền theo đó lưỡi búa trượt theo vai nàng ra ngoài. Áo ngoài của nàng bị rách một đường, lộ ra lớp áo lót dệt từ lưới đánh cá kia.

Tấm lưới đánh cá hơi lóe ánh sáng trắng, còn sáng hơn cả minh châu và đồi mồi trong truyền thuyết, mấy vỏ sò nơi viền góc chạm nhau vang khe khẽ như tiếng gió mát thổi qua nước biển dịu hiền, qua sỏi đá trên đảo nhỏ Bồng Lai.

Chu Phỉ cuối cùng cũng thoát khỏi roi dài, có chút thời gian thở dốc, đương nhiên muốn phát động phản công. Mặc kệ kinh mạch bị kéo căng đau đớn, nàng vận khí lần nữa, nhấc Toái Già lên, lưỡi đao và chưởng phong và các loại binh khí va nhau tóe ra chuỗi tia lửa, bọn dược nhân dưới đao pháp mạnh mẽ không tự chủ bị nàng kéo chạy.

Chu Phỉ bị thương tới mức này nhưng không xót cho bản thân, ngược lại lại hơi xót cho đao, răng nàng đã rướm máu, lòng thầm nghĩ --- Nếu Toái Già cũng gãy thì sau này có phải mình phải đi ăn xin không?

Đúng lúc này, đột nhiên tất cả dược nhân đồng thời ngừng lại.

Chu Phỉ chưa ngừng, Toái Già đâm thẳng vào cổ một dược nhân, chân nàng lảo đảo, trường đao suýt kẹt không rút ra được. Đầu gối Chu Phỉ mềm nhũn, cùng khuỵu xuống với xác dược nhân kia.

Những dược nhân kỳ dị đứng vây quanh nàng đờ ra, mờ mịt như vừa tỉnh mộng, có người nhìn quanh, có người sững sờ nhìn chằm chằm Chu Phỉ, lặng ngắt như tờ.

Chu Phỉ khó khăn ho ra một ngụm máu trong cổ họng như thiêu như đốt, chống đỡ chút tỉnh táo cuối cùng, sống lưng như sởn gai ốc, cầm Toái Già lên đề phòng.

Sau đó, có một dược nhân sải một bước cứng ngắc về phía nàng rồi ngã phịch xuống, nằm nhoài trước mặt Chu Phỉ.

Chu Phỉ giật mình, hít vào theo bản năng, hơi không chú ý liền bị máu trong cổ họng vướng lại, làm ho khan một tràng lên bờ xuống ruộng.

Bọn dược nhân liên tục ngã xuống trong tiếng ho như sắp tắt thở của nàng, tay chân co giật, chốc lát liền bất động.

Chu Phỉ khó khăn lắm mới dằn được cơn ho dữ dội, cố nhịn làm ngực đau nhức, nàng chống Toái Già xuống đất, cẩn thận đưa tay sờ cổ một dược nhân, cơ thể đó vẫn ấm áp, nhưng cổ hoàn toàn yên tĩnh, đã không còn hơi thở.

Hóa ra những dược nhân này ban nãy thật sự chỉ là hồi quang phản chiếu "con rết trăm chân, chết mà không ngã".

Chu Phỉ thở phào một hơi, lảo đảo tại chỗ, suýt ngất.

Lúc này, cách đó không xa truyền đến một tràng tiếng lạo xạo, Xung Tiêu Tử ban nãy ngã qua một bên tỉnh lại, chật vật vịn cây bò dậy, đi về phía Chu Phỉ: "Cô nương ..."

Tư thế quỳ một chân của Chu Phỉ không đổi, nàng nói nhẹ: "Đạo trưởng, tốt nhất ông đứng yên đó, ông đi thêm một bước, e là ta sẽ không khách sáo đâu."

Xung Tiêu Tử không ngờ nàng đột nhiên trở mặt, không khỏi sững sờ.

Chu Phỉ gục đầu, dựa vào ánh phản quang trên trường kiếm của một dược nhân để lưu ý động tác của Xung Tiêu Tử, vừa dốc sức điều tức lại khí hải hỗn loạn của mình vừa lạnh lùng chậm rãi nói: "Đạo trưởng, lúc nãy ông nói, những dược nhân này tuy bị cổ mẫu khống chế nhưng không phải không có thần trí của bản thân, hoàn toàn không dễ gạt như con rối thông thường. Vậy ban nãy khi họ đuổi giết tận diệt ta như vậy, vì sao tới chỗ ông thì ông chỉ tùy tiện đụng cây ngất là có thể thoát được một kiếp?"

Xung Tiêu Tử nghe lời dừng bước, ánh mắt lóe lên, lướt qua mũi đao Toái Già, ôn tồn nói: "Niết Bàn cổ là độc vật hiếm thấy trên thế gian, người ngoài nghề như chúng ta cũng không nói rõ được ... nhưng cô có phải hiểu lầm gì với ta không?"

Chu Phỉ nghi ngờ có lẽ mình bị thương xương sườn, lúc nãy đánh một mất một còn nàng không cảm nhận được nhưng bây giờ dừng lại, ngay cả thở cũng đau.

Chính nàng cũng không rõ tình hình của bản thân, hiện chỉ đứng thôi đã khó, không còn sức đâu để đánh thêm một trận với lão đạo sĩ lai lịch bất minh này, nàng đành tận lực không lộ ra sự mỏi mệt và yếu sức của mình, miễn cưỡng giữ được vẻ bề ngoài, nói: "Không có, năm xưa đạo trưởng truyền cho ta bộ Phù Du trận pháp, ma xui quỷ khiến đã cứu ta một mạng, ta vẫn luôn chưa có cơ hội trực tiếp nói lời cảm tạ đạo trưởng."

Xung Tiêu Tử cười nói: "Không đáng nhắc, ta chẳng qua ..."

"Chỉ là vãn bối tư chất ngu độn, vẫn có nhiều chỗ không hiểu trong Phù Du trận pháp." Chu Phỉ ngước mí mắt, từ dưới nhìn chằm chằm lên Xung Tiêu Tử, ánh mắt sắc bén khó tả: "Không biết đạo trưởng có thể giải đáp nghi hoặc không?"

Nụ cười của Xung Tiêu Tử hơi thu lại: "Chuyện đó không cần nóng vội nhất thời, tuy cổ mẫu đã chết nhưng vật này cực kỳ tà ác, ta thấy nơi này không hợp ở lâu, chúng ta đi trước rồi nói sau."

Chu Phỉ suy nghĩ, vịn đao cười, cắn răng chịu đựng mồ hôi lạnh toát toàn thân, đứng dậy: "Bỏ đi, tính tình nóng nảy của ta thực không làm được chuyện ra vẻ bí hiểm trong bụng biết rõ mà còn giả hồ đồ như bọn Tạ Doãn, để ta nói rõ với ông vậy. Năm đó ở Nhạc Dương, Mộc Tiểu Kiều dung túng thuộc hạ làm chuyện xấu xa cướp bóc, bắt nhiều nhân sĩ giang hồ vô tội nhốt trong địa lao sơn cốc, ta đánh bậy đánh bạ xông vào đó thả người ra, có duyên bèo nước gặp nhau với Xung Tiêu Tử đạo trưởng ở đấy. Lúc đó, ta bị môn hạ Chu Tước chúa và bọn áo đen Bắc Đẩu vây công hai bên, chật vật đỡ trái đỡ phải, Xung Tiêu Tử đạo trưởng mới truyền miệng cho ta mấy thức "Phù Du trận", ông biết Phù Du trận là gì không?"

Mặt Xung Tiêu Tử không cảm xúc nhìn nàng.

"Phù Du trận là trận pháp bàng môn tả đạo gian trá xảo quyệt, chuyên dùng cho một người đánh với một đám, gồm đủ các thứ thượng vàng hạ cám như khinh công, bát quái, ngũ hành, kinh nghiệm đánh hội đồng ... Nó dạy làm thế nào phân tách sự phối hợp của đối thủ, để khi đứng trước một nhóm đối thủ mạnh hơn thì ta có thể mượn lực chống lực, lấy ý từ "phù du lắc cây", theo ta thấy gần như là đo ni đóng giày cho bọn dược nhân này." Chu Phỉ nhìn Xung Tiêu Tử, nói: "Ta thấy ban nãy đạo trưởng toàn cứng rắn chống đỡ chứ không dùng tới nửa bước Phù Du trận, không biết các hạ già nên hồ đồ quên sạch, hay tự tin rằng bọn dược nhân thần thông quảng đại này chỉ là giun dế?"

"Xung Tiêu Tử" đầu tiên cau mày, kế đó lắc đầu, mỉm cười than: "Hậu sinh khả úy, tiểu cô nương im im chẳng ừ chẳng hử, hóa ra vô cùng thận trọng."

Nói rồi ông đưa tay quẹt mấy cái trên mặt, gỡ râu dài trên môi xuống.

Tướng mạo ông ta giống Xung Tiêu Tử năm xưa tới bảy tám phần, gắn râu vào cùng một dáng mặt liền giống tới chín phần. Chu Phỉ chẳng qua chỉ có duyên gặp mặt lão đạo sĩ một lần vào nhiều năm trước, có thể nhớ ngoại hình ông trông thế nào đã không dễ, chút khác biệt nhỏ bé ấy thật không thể nào nhận ra.

Chu Phỉ hỏi: "Cho nên ông là "Hắc phán quan" Phong Vô Ngôn chứ không phải Xung Tiêu Tử tiền bối?"

"Không sai." Phong Vô Ngôn thoải mái thừa nhận, nhẹ nhàng đáp: "Xung Tiêu chính là xá đệ, từ nhỏ lớn lên ở Tề môn, sau khi trưởng thành ta mới có cơ duyên được gặp đệ ấy. Nhờ có đệ ấy nên mấy năm nay ta và Tề môn qua lại nhiều, giang hồ giờ đây không còn là giang hồ năm cũ của bọn ta, ngay cả Minh Phong lâu cũng ẩn cư nơi thâm sơn, ta đương nhiên cũng rửa tay gác kiếm từ lâu, danh hiệu "Hắc phán quan" gây quá nhiều thị phi nên ta dứt khoát ẩn cư trong Tề môn, thỉnh thoảng cần ra ngoài đều mượn danh hiệu của Xung Tiêu. Trừ chuyện cũ đó ra, ta và Xung Tiêu không có gì khác cả, đệ ấy cũng nhiều lần nhắc với ta về cô, Chu cô nương thực không cần đề phòng ta như vậy."

Chu Phỉ lại ép hỏi: "Phong tiền bối, ông nói có đầu có đũa, ta suýt thì tin rồi. Nhưng ông có điều không biết, năm đó Tề môn đột nhiên tan rã, Xung Tiêu đạo trưởng gặp nạn, vừa nghe nói Thẩm Thiên Khu đi tới Hoắc gia bảo ở Nhạc Dương là ông ấy chưa đợi thuốc mê tan hết đã rời khỏi bọn ta trong đêm, chạy vội tới Nhạc Dương. Trước khi đi, ông ấy nghe nói ta là hậu nhân Lý gia bèn truyền cho ta một quyển sách, bên trong trừ ghi lại mánh khóe "Phù Du trận pháp" còn có một bộ nội công tâm pháp vạn pháp quy nhất. Tiền bối biết nhiều hiểu rộng, biết việc truyền nội công tâm pháp cho người khác có ý nghĩa gì chứ?"

Tuy có vài cao nhân tiền bối thích lên mặt dạy đời, thỉnh thoảng gặp nhân tài có thể mài giũa, họ cũng sẽ thuận miệng chỉ dạy đôi câu, nhưng chỉ dạy chứ không truyền công, chiêu thức còn dễ bàn chứ nội công là tuyệt đối không hé răng với người không cùng môn phái.

Đến nay, trừ trưởng bối trong 48 trại, chỉ có hai người từng truyền nội công tâm pháp cho Chu Phỉ, một là bà điên Đoàn Cửu Nương từng tự xưng "bà ngoại" nàng, và hai là Xung Tiêu Tử.

Tạm không bàn đến Đoàn Cửu Nương, Xung Tiêu Tử giao quyển "Đạo đức kinh" kia cho Chu Phỉ, rõ ràng có ý mình sắp đi chịu chết nên phó thác truyền thừa để nó không bị đứt đoạn.

"Nếu Xung Tiêu đạo trưởng sau đó bình an vô sự, lại nhiều lần nhắc với ông về ta, thì sao Phong tiền bối lại không mảy may quan tâm ta có xem hiểu truyền thừa của Tề môn hay không, ngược lại vừa gặp mặt đã ép ta giúp ông đối phó Niết Bàn cổ của Ân Bái?"

Vẻ mặt Phong Vô Ngôn bất đắc dĩ, ông ta nói: "Đã là truyền thừa của Tề môn thì là chuyện nhà của Tề môn, nhiều chi tiết vụn vặt lắm, sao đệ ấy nói với ta hết được? Haiz, tiểu cô nương à, nói câu hơi khó nghe, lúc ta thoái ẩn, cô còn chưa ra đời nữa kìa, nếu ta hại cô thì ta được gì đây?"

Chu Phỉ thầm nhủ --- Ai mà biết được, chuyện đó phải hỏi ông chứ.

Nàng đang nghĩ phải làm sao để ung dung dọa ông ta đi, thì đột nhiên, phía sau nàng truyền đến tiếng động lạ.

Chu Phỉ lập tức cảnh giác, nàng nghiêng đầu, lập tức sởn tóc gáy, thấy một dược nhân đeo mặt nạ sắt như cương thi, lảo đảo bò dậy trong đống người chết ngổn ngang!

Một bên khác, Phong Vô Ngôn nở nụ cười bí hiểm nói: "Ơ, cẩn thận!"

Lời ông ta chưa dứt, ống sáo đã tung ra một mớ châm dài bao lấy Chu Phỉ từ đầu tới chân!

Một bên là Hắc phán quan bỗng dưng sinh ra sát ý với nàng, một bên là dược nhân như cương thi, quả là trước có hổ sau có sói, càng đòi mạng hơn là, lúc này chân Chu Phỉ vẫn còn mềm nhũn!

Nàng sống đến chừng này, bản lĩnh lớn nhất học được chính là trong tuyệt cảnh vẫn duy trì trái tim "chưa tàn hơi là chưa ngừng tranh đấu", nhưng lúc này cũng chỉ có thể trơ mắt không thể làm gì.

Dược nhân "cương thi" kia như dã thú phát cuồng, thét một tiếng không giống tiếng người, sau đó chợt lao về phía nàng.

Chu Phỉ đưa tay chắn theo bản năng, nhưng tay không còn sức không nghe theo sai khiến, chỉ có thể mặc cho dược nhân kia lao tới người nàng, hắn còn thở nhưng hơi thở dồn dập và cực nhẹ phả vào cổ Chu Phỉ mang theo mùi thối rữa chưa tan. Sức dược nhân kia cực lớn, đôi tay gầy trơ xương như hai sợi dây sắt trói chặt lấy người Chu Phỉ.

Hai chân Chu Phỉ tách khỏi mặt đất, bị dược nhân kia rút lên, quăng nửa vòng ra ngoài, liền sau đó thân thể dược nhân kia bỗng cứng đờ.

Chu Phỉ mở to mắt.

Hắn lấy thân làm lá chắn, dùng thân thể cao gầy chắn trước mặt Chu Phỉ.

Mớ châm dài đòi mạng của Phong Vô Ngôn toàn bộ đều ghim lên người hắn!

Gió đêm xào xạc thì thầm xung quanh, ánh trăng dần ảm đạm, ánh sao dần mờ đi, chỉ còn lại một ngôi sao sớm treo nhàm chán và cô độc trên một góc màn đen.

Trong nháy mắt, Chu Phỉ dường như cảm giác được gì đó, nàng từ từ đưa tay lên, định gỡ mặt nạ dược nhân kia xuống.

Nhưng dược nhân gầm lên giận dữ, đẩy nàng ra, Chu Phỉ thình lình bị đẩy ngã xuống đất, mắt tối sầm.

Phong Vô Ngôn không ngờ dược nhân lại đột nhiên lao ra vừa phá chuyện của mình vừa đẩy Chu Phỉ đi, đang khó hiểu thì thấy hắn thình lình xoay người, mang một lưng đầy châm, lấy tay làm móng vuốt chống lại Phong Vô Ngôn.

Phong Vô Ngôn đành ứng chiến, quát khẽ một tiếng, dùng sáo như gai nhọn đâm vào mắt hắn.

Tuy sức dược nhân cực lớn nhưng lúc này các khớp xương toàn thân như bị gỉ sét, không còn linh hoạt, quơ quào lung tung tiến về trước, ống sáo của Phong Vô Ngôn xuyên thẳng qua mặt nạ, đâm vào mắt hắn.

Từ mắt xuyên vào não, dù là yêu ma quỷ quái gì cũng không sống nổi.

Tay Phong Vô Ngôn đột ngột tăng sức, nhưng không ngờ dược nhân lại không tránh không né, há miệng cắn vào cổ tay ông ta.

Dược nhân không biết có thâm thù đại hận gì với Hắc phán quan mà chết đến nơi vẫn cắn chặt không nhả, Phong Vô Ngôn không khỏi ngơ ngác, tay dùng thêm sức, non nửa ống sáo ngập lút trong mắt dược nhân.

Hơi thở của dược nhân ban nãy còn dồn dập như kéo bễ giờ im bặt, đứng tắt thở, nhưng răng vẫn ghim chặt vào tay Phong Vô Ngôn.

Phong Vô Ngôn quát to một tiếng, đẩy mạnh răng thi thể ra.

Cổ tay ông ta lúc này đã không còn tri giác, máu tím đen ào ào chảy, dược nhân bị ngấm cổ độc đã lâu, ngay cả răng cũng mang theo độc.

Phong Vô Ngôn toát mồ hôi lạnh đầy đầu, vừa vận công chống đỡ vừa liều mạng ép máu độc nơi vết thương ra, nhưng cảm giác tê liệt ấy vẫn theo vết thương lan đến ngực.

Lúc này, có ánh đao chợt lóe, động tác luống cuống tay chân của Phong Vô Ngôn khựng lại.

Toái Già từ từ lộ ra mũi nhọn từ ngực ông ta.

Chương 135: Nhân Chứng

Chu Phỉ đâm Hắc phán quan xong, thực không còn sức rút đao, đành để mặc Toái Già cắm trên thi thể, dựng thẳng như lá cờ trong đống hoang tàn.

Nàng mệt mỏi lùi về sau mấy bước, dựa lưng vào một cây đại thụ, lại trượt theo thân cây xuống đất.

Dù sao vẫn là tuổi trẻ, vết thương trên mu bàn tay nàng nhanh chóng kết vảy, vết máu xen lẫn với bụi bặm, gần như nhìn không ra màu da vốn có.

Chu Phỉ cúi đầu nhìn tay mình, lòng bàn tay rõ ràng bị múa đao lâu ngày tạo ra vết chai dày, ban nãy cầm Toái Già dùng sức quá mức làm rách cả vết chai dày ấy.

Nếu không phải nàng thật không còn dư sức thì chắc chắn sẽ không giết Phong Vô Ngôn dứt khoát như vậy. Nàng còn muốn biết tung tích của Xung Tiêu đạo trưởng thực sự, muốn biết Tề môn cấm địa tại sao lại nuôi một con Niết Bàn cổ, muốn hỏi rõ thích khách rửa tay gác kiếm đã lâu rốt cuộc có dính dáng gì đến Hải Thiên Nhất Sắc, tại sao muốn giết Ân Bái, tại sao muốn trừ khử cả nàng ...

Nhưng bây giờ đều bỏ hết.

Dù sao chân tướng có thể từ từ tìm hiểu, nhưng một khi không quyết đoán, mạng không còn thì không cần hỏi gì nữa.

Chu Phỉ bắt đầu cảm thấy hơi lạnh, dường như kể từ khoảnh khắc nàng xuống núi, giang hồ mà nàng thuở nhỏ ngóng trông có thể cùng người qua đường ngồi xuống uống một bầu rượu đã sụp đổ, nàng bị ép trở nên hay nghi hay nghĩ, nghi ngờ người này, đề phòng người nọ, bất cứ lúc nào cũng phải chuẩn bị sẵn sàng sẽ bị một người xa lạ có vẻ mặt hiền từ ám hại, hoặc sẽ bị người vốn tin cậy thân thiết phản bội ... Bản tính nàng vốn không muốn nghĩ nhiều, đôi lúc cảm thấy mình nghĩ đến mức đầu như muốn nổ tung mà vẫn không thể "tinh tường thế sự".

Đúng rồi ... còn dược nhân xả thân cứu nàng kia nữa.

Lúc cuối Phong Vô Ngôn cạy răng dược nhân đã rút cây sáo sắt đâm trong mắt hắn ra, dùng sức quá mạnh nên khiến mặt nạ và mấy cái răng cửa của hắn cũng bay luôn, lộ gương mặt máu thịt be bét bên dưới.

Người có tuấn tú đến đâu mà mắt bị đâm thủng thì hình tượng cũng không gọn gàng được, huống hồ còn bị trúng cổ độc nhiều năm, đã thay hình đổi dạng.

Hắn chết không nhắm mắt ngã trên nền đất, giữa răng môi há ra còn vương vết máu, xấu xí đến mức vô cùng kinh dị.

Chu Phỉ nhìn chằm chằm gương mặt đó hồi lâu mới từ một nửa gương mặt xem như còn bảo tồn hoàn hảo mà nhìn ra đầu mối, nàng ngờ ngợ nhận ra đường nét của một người quen ... hình như là thiếu gia Hưng Nam tiêu cục năm xưa họ tình cờ gặp ở ngoài thành Vĩnh Châu - Chu Thần.

Ân Bái cướp núi Hoạt Nhân Tử Nhân, công tích làm việc ác còn cao hơn một bậc so với tứ đại ma đầu trước đây gộp lại, kẻ vô tội chết trong tay hắn ta nhiều không kể xiết. Một tiêu cục nho nhỏ, gia đạo sa sút, quá khứ phải phụ thuộc vào việc làm thuộc hạ Hoắc Liên Đào mới có thể miễn cưỡng sống qua ngày, cầu sinh trong kẽ hở, chẳng khác gì cỏ không rễ, chắc hẳn trong thế đạo bây giờ thì bị diệt môn trong một đêm cũng chẳng ai nhớ đến việc báo thù giải oan cho họ.

Chuyến đi Vĩnh Châu xảy ra quá nhiều chuyện, chuyện nổi bật trong ký ức có thể đủ viết một bài dài, so với nó thì việc tiện tay cứu giúp một tiêu cục nho nhỏ dọc đường chỉ như muối bỏ biển, thực không có giá trị khiến người ta ghi nhớ.

Bây giờ nhớ lại, Chu Phỉ chỉ nhớ trong đoàn người có một lão bá kiến thức rộng rãi, một đại cô nương dáng vẻ mờ nhạt, và một thư sinh trang trí dọc đường, ngay cả nói chuyện với nàng cũng lắp bắp không rõ.

Tuổi Chu Phỉ càng lớn, kinh nghiệm càng dày dạn, rất nhiều chuyện không cần phải phân tích cặn kẽ như trước kia mới hiểu, lòng nàng mơ hồ hiểu vì sao Chu Thần lại giúp nàng. Nàng hơi ngửa đầu dựa vào thân cây lạnh giá, cảm giác gió đêm không chịu nổi gánh nặng nên đọng hơi nước phân tán bên trong trĩu thành giọt sương, ươn ướt đè lên hàng mày mái tóc nàng, trong lòng nàng hiện lên muôn vàn cảm xúc, không tính là sóng to gió lớn nhưng cũng trở trăn trăm mối.

Có điều, bất luận nàng ngồi đây cảm khái gì, nhớ chuyện gì ... đối với Chu Thần mà nói, đều không quan trọng nữa.

Vì đã muộn.

Chu Phỉ không biết đã ngồi bao lâu trong rừng đầy thi thể, nhớ tới khúc "Ly hận lâu" phong hoa tuyết nguyệt của Tạ Doãn, mấy năm trước nó là khúc hát nổi tiếng khắp đại giang nam bắc nhưng nay đã mai danh ẩn tích khá lâu, ngay cả nghệ nhân kém nhất cũng không hát nó nữa. Vì người ta không thích nghe, mấy năm nay càng lúc càng loạn lạc, người người mỏi mệt, các khúc hát đều nói về quốc thù gia hận.

Phong hoa tuyết nguyệt quá xa, quá thời rồi.

Tin tức Tào Trọng Côn đã chết không biết có truyền đến tai Chu Dĩ Đường chưa, chắc hẳn đại chiến sắp bắt đầu.

Trong giang hồ ngầm ẩn phong ba, võ lâm các đời thi nhau lên sân khấu, mỗi người đều có những câu chuyện phức tạp riêng, mỗi thời đều có người chết, mỗi khắc đều đang tranh đấu. Nhiều nhân quả không biết khởi nguồn từ đâu như một sợi dây mảnh bị tay nghề kém cỏi nhất phá hoại, đan cài thành một mớ rối tung, Chu Phỉ tìm không được dù chỉ là một đầu sợi trong đó, cảm thấy ai cũng đều tự cho mình thông minh, ai cũng bị mắc kẹt trong tấm lưới ấy, hệt như đêm trường mãi không chấm dứt, đưa mắt là nhìn xuyên suốt cả mà vẫn không thấy được đầu kia.

Chu Phỉ thử sắp xếp các chuyện theo thứ tự trước sau, không ngờ càng nghĩ càng hồ đồ, đành mệt mỏi nhắm mắt lại, mặc cho ý thức tiêu tan ngắn ngủi, dựa vào thân cây nửa ngất nửa ngủ.

Mãi đến khi cả đêm dài trôi qua, nàng mới bị ánh nắng mai đâm thủng bầu trời làm quấy nhiễu.

Trong ánh nắng mai ấy xen vài tiếng đàn khẽ gảy, Chu Phỉ vừa mở mắt liền trở nên cảnh giác, thấy có một người ngồi trên cành cây khuất sáng, cách nàng chưa tới một trượng.

Người đó nhẹ nhàng ngồi, hai bên tóc mai đã hoa râm, mặc trường bào màu hồng đào lẳng lơ yêu khí, mái tóc dài xõa tung phía sau, tay ôm một cây đàn tì bà.

Là Mộc Tiểu Kiều đã nhiều năm vô tung vô tích!

Chu Phỉ giật mình, sờ binh khí bên hông theo bản năng, sờ thấy trống rỗng mới nhớ Toái Già còn cắm trên thi thể Phong Vô Ngôn.

Mộc Tiểu Kiều lạnh nhạt nhìn nàng, duỗi mười ngón tay đè lên dây đàn tì bà, nhảy xuống khỏi cây, đi một vòng giữa đống thi thể ngổn ngang, sau đó xoay đầu hỏi Chu Phỉ như rất thân quen: "Ân Bái vẫn chạy rồi sao? Phong Vô Ngôn là do cô giết?"

Chu Phỉ há miệng, nhưng sau khi bị thương, cổ nàng hơi sưng, nhất thời không phát ra được tiếng nào.

Mộc Tiểu Kiều "chậc" một tiếng, rút Toái Già sau lưng Phong Vô Ngôn ra, lấy một mảnh lụa nhỏ lau khô vết máu trên thân đao và chuôi đao.

""Toái... Già"." Mộc Tiểu Kiều đọc chữ khắc trên đao, nghiêng đầu suy nghĩ chốc lát, nói: "Nghe quen quen, của cô à?"

Với trình độ Phá Tuyết đao của Chu Phỉ hiện nay, vốn không cần sợ Mộc Tiểu Kiều, nhưng bây giờ nàng đang trọng thương, đao lại nằm trong tay người khác ... thì khó nói lắm.

Ai ngờ sau đó Mộc Tiểu Kiều vung tay quẳng Toái Già cho nàng.

Chu Phỉ quơ tay đón được, không khỏi thở phào, chỉ khi nắm chặt chuôi đao, nàng mới có cảm giác chân thật hai chân tiếp đất. Nàng ngờ vực quan sát vị đại ma đầu tiền nhiệm trước mắt, không biết hắn muốn gì.

"Cô không cần căng thẳng vậy đâu." Mộc Tiểu Kiều vừa dùng mũi chân lật thi thể Phong Vô Ngôn qua cẩn thận xem xét, vừa nói với Chu Phỉ mà không hề ngẩng đầu: "Ta không giết nữ nhân."

Chu Phỉ nghe lời không biết xấu hổ này, thực dở khóc dở cười, nàng hắng cổ họng, khàn khàn nói: "Sao ngươi không nói mình ăn chay luôn đi?"

Mộc Tiểu Kiều không nổi giận, thản nhiên nói: "Không lừa cô, ta thực sự không giết nữ nhân. Ta chỉ giết nam nhân và kẻ xấu xí, trong mắt ta thì kẻ xấu xí không được tính là nữ nhân, giết thì giết thôi."

Chu Phỉ cạn lời, cảm thấy người có thể nói ra lời này ắt trong đầu có một cái lỗ to cỡ hồ Động Đình.

Nhưng nghĩ lại, Chu Phỉ lại cảm thấy chuyện này cũng chẳng có gì. Vì Mộc Tiểu Kiều luôn là đại ma đầu nức tiếng, trước nay không hề nói lý, suốt ngày ỷ mạnh hiếp yếu, lạm sát người vô tội, muốn giết ai là giết, hôm nay hắn nói người xấu xí không tính là nữ nhân, ngày mai nói người nhỏ tuổi không tính là nữ nhân, ngày mốt không chừng lại biến thành người lớn tuổi không tính là nữ nhân ... dù sao cũng là tự nói tự tính, quyết định ở chỗ hắn muốn ra tay với ai mà thôi.

Khi phán xét thánh nhân như Sơn Xuyên kiếm, thông thường tiêu chuẩn của người đời luôn cực kỳ cao, hễ ông có chỗ nào xử lý chưa ổn thỏa, người ta sẽ cảm thấy ông mang danh tốt nhưng thực chất không xứng, là cái ghét của ngụy quân tử. Nhưng đối với kiểu người như Mộc Tiểu Kiều thì người đời lại khoan dung nhiều lắm, chỉ cần hắn không nổi điên cắn người ... hoặc chỉ cần người hắn cắn không phải mình thì sẽ có thể cưỡng ép chắt lọc ra chút đáng yêu từ hắn.

Chu Phỉ cũng không ngoại lệ, nàng nhanh chóng "tha thứ" cho hành vi nói năng lỗ mãng của Mộc Tiểu Kiều, hỏi: "Chu Tước chúa đã lâu không lộ diện, hôm nay đến nơi này là để làm gì?"

Mộc Tiểu Kiều tém tóc rối bên thái dương, nói: "Ta tới xem gã Thiết diện ma, nghe nói tiểu tử đó chính là Ân Bái, vỏ Sơn Xuyên kiếm cũng ở trên tay hắn?"

Chu Phỉ nói: "Không sai."

Mộc Tiểu Kiều: "Lẽ ra chuyện này không liên quan tới ta, có điều lần trước ở Vĩnh Châu, lão thái bà kia của Vũ Y ban xem như đã giúp ta, tuy bà ta vô dụng nhưng ta không nợ ân tình, nên lần này tới giúp bà ta một lần."

Trong thành Vĩnh Châu, Nghê Thường phu nhân ra mặt tranh cướp Thận Độc ấn, tại sao lại xem như "đã giúp Mộc Tiểu Kiều"? Lần này bao vây tiêu diệt Ân Bái, bà lại là vì điều gì?

Câu này của Mộc Tiểu Kiều không rõ ràng nhưng nội hàm lại rất phong phú.

Chu Phỉ nghĩ ngợi, chần chừ thử thăm dò: "Thứ lỗi ta ngu dốt, nghe không hiểu ... Chu Tước chúa giúp gì cho Nghê Thường phu nhân?"

Mộc Tiểu Kiều nhìn nàng, cười nói: "Muốn hỏi gì cứ hỏi thẳng, ta không quan tâm quy định minh ước thề ước gì đâu, ta muốn nói gì thì nói đó."

Chu Phỉ vốn không giỏi ăn nói, lập tức nương theo, nói thẳng: "Cho nên Chu Tước chúa cũng là nhân chứng của "Hải Thiên Nhất Sắc"."

"Không sai." Mộc Tiểu Kiều nói.

Chu Phỉ: "Nghê Thường phu nhân từng nói, "Hải Thiên Nhất Sắc" không phải dị bảo gì cả, nó chẳng qua là một minh ước."

Mộc Tiểu Kiều: "Là một lời thề do mấy tên ngốc lập nên. Song phương không tin tưởng lẫn nhau, thế là tìm vài nhân chứng đến nhận lợi ích từ hai phía. Chẳng hạn như ta, một phía hứa giúp ta điều tra thân phận một kẻ thù, phía còn lại hứa giúp ta thoát khỏi núi Hoạt Nhân Tử Nhân."

Chu Phỉ tỉnh ngộ. Như vậy xem ra, bọn Ngư thái sư thúc cũng giống vậy, lúc đó hai huynh đệ Minh Phong lâu chủ trúng độc Thấu Cốt Thanh, một phía cho họ "Quy Dương đan", phía còn lại cho họ nơi thoái ẩn dung thân.

Hèn gì năm đó lão trại chủ Lý Chủy chống lại ý kiến mọi người, đưa Minh Phong lâu hoàn toàn không hợp rơ vào 48 trại.

Chu Phỉ hỏi: "Lời thề đó rốt cuộc là ..."

Mộc Tiểu Kiều nói: "Chính là không tiết lộ bí mật của "Hải Thiên Nhất Sắc". Cô đừng nhìn ta, nhìn ta cũng vô dụng, bí mật đó đến nay chưa từng tiết lộ, cho nên ta cũng không biết nó là gì. Đa số người giữ bí mật đều là kẻ tai to mặt lớn, hòa thượng chạy được nhưng miếu không chạy được, nhân chứng bọn ta lại đa số là thích khách, ẩn trong bóng tối, vừa theo dõi người giữ bí mật không để lộ bí mật vừa chứng kiến họ bị giết người diệt khẩu ... giống như "người môi giới" mua nhà đất vậy, cô hiểu không?"

Chu Phỉ bị những quan hệ lung tung trong đó làm loạn não, cúi đầu trầm tư.

"Hoa văn sóng nước chính là bùa hộ mệnh cuối cùng của người giữ bí mật, nếu đối phương nảy sinh ác ý muốn hại chết họ thì người giữ bí mật có thể thông qua phương thức đã giao hẹn sẵn để đưa tín vật cho nhân chứng, nghe nói mấy món tín vật tụ lại cùng nhau thì dù người giữ bí mật năm xưa đã chết hết cũng có thể chắp vá ra bí mật của "Hải Thiên Nhất Sắc"." Mộc Tiểu Kiều nói: "Nhưng nhiều năm như thế, người giữ bí mật không để lộ bí mật, lại đều chết bởi chuyện không liên quan, xem ra cũng không thể tính là bị "giết người diệt khẩu", việc này coi như xong. Còn về tín vật hoa văn sóng nước bị người khác lấy đi cũng không sao cả, dù sao họ cũng không biết nó là vật gì."

Chu Phỉ nói: "Cho nên năm đó Sơn Xuyên kiếm bị Trịnh La Sinh lấy đi, Nghê Thường phu nhân cũng không ra mặt truy đuổi?"

"Đuổi cũng vô dụng, cái bà Vũ Y ban đó không đấu lại Trịnh La Sinh." Mộc Tiểu Kiều khoát tay: "Có điều đúng là như vậy, Ân Văn Lam chắc chắn không tiết lộ bốn chữ "Hải Thiên Nhất Sắc" cho Trịnh La Sinh, nếu bà ta cứ bám riết theo đòi lấy lại, chẳng khác nào chọc chuyện này ra, cho nên mới luôn im lặng, chỉ là ..."

Mộc Tiểu Kiều ngừng lại, Chu Phỉ nhanh chóng nói tiếp: "Chỉ là không ngờ nhiều năm sau, "Hải Thiên Nhất Sắc" không hiểu sao bị chọc ra, còn vì một đống truyền thuyết càng đồn càng thái quá khiến mọi người đổ xô tranh đoạt, cho nên Chu Tước chúa năm đó đi Vĩnh Châu là để thu hồi Thận Độc ấn?"

"Ha!" Mộc Tiểu Kiều nhướng mày: "Ta không thích lo chuyện bao đồng như nữ nhân Vũ Y ban đâu, ta đi là để lấy đầu Hoắc Liên Đào thôi."

Chu Phỉ không để bụng mấy lời nói năng lỗ mãng của hắn: "Lần này Nghê Thường phu nhân là vì thu hồi Sơn Xuyên kiếm từ chỗ Ân Bái?"

Mộc Tiểu Kiều: "Đại khái vậy, quả cầu thịt họ Liễu kia xuất thân Thái Sơn, ta và phái Thái Sơn vốn có xích mích nên không lộ diện, không ngờ họ lại đánh tưng bừng như vậy, thế mà khiến Ân Bái lẳng lặng chạy đi ... Ồ? Đây là ..."

Chu Phỉ vừa định hỏi hắn Hắc phán quan có phải cũng là nhân chứng hay không, cũng như ông ta có lai lịch gì, thì thấy Mộc Tiểu Kiều chắp tay đứng một bên, hứng thú cúi đầu nhìn xác một con sâu to cỡ lòng bàn tay, nói: "Nghe nói lão đạo sĩ Tề môn mắc chứng động kinh, không biết kiếm từ đâu ra mầm Niết Bàn cổ, ta còn tưởng là lời đồn, hóa ra trên đời thật sự có vật này... chậc, đáng tiếc bị cô một đao bổ ra rồi, nghe nói lão đạo sĩ nuôi nó làm thuốc."

Chu Phỉ nghe tới chữ "thuốc" là lập tức quên sạch mọi thứ: "Thuốc gì?"

Chương 136: Nấm Mồ Hoang

Mộc Tiểu Kiều: "Sao ta biết?"

Chu Phỉ như người bệnh nặng cầu y loạn xạ, tiến lên một bước: "Xin tiền bối nói cho ta biết."

Mộc Tiểu Kiều nhướng mày nhìn nàng, chợt không hiểu sao đột nhiên nảy ra ý nghĩ gì đó, bèn thình lình duỗi tay chuyên dùng để móc tim ra tóm lấy cổ Chu Phỉ.

May là tuy tinh thần Chu Phỉ loạn nhưng không thật sự xem lời nói xằng của hắn "không giết nữ nhân" là thật. Trong không gian giới hạn, nàng vung Toái Già ra, sống đao đụng một tiếng "keng" vào móng tay như hung khí của Mộc Tiểu Kiều, sau đó nàng dùng một tay kéo chuôi đao, giơ ngang lưỡi đao đẩy về trước, sau đó không hề báo trước chuyển từ chặn thành chém.

Mộc Tiểu Kiều bị ép nghiêng người tránh ra, dư âm của đao phong đẩy về phía đàn tỳ bà trong tay hắn kêu một tiếng "ting".

Mái tóc dài và tà áo dài của Mộc Tiểu Kiều bay loạn trong gió sớm, hắn từ từ thu móng tay vào lòng bàn tay.

Mặt hắn rất trắng, nhưng con ngươi lại rất đen, những đặc điểm này nếu trên người thiếu nữ thì rất đẹp nhưng ở trên người một nam tử có tuổi thì cứ như ma treo cổ, may mà hôm nay hắn đại phát từ bi, không thoa son nên không dọa người như khi "lòe loẹt hát sân khấu" mấy lần khác.

Chu Phỉ nói: "Ta sớm biết Chu Tước chúa chính là người béo nhờ nuốt lời, chỉ không ngờ nuốt nhanh như vậy."

Mộc Tiểu Kiều cười ha ha, uốn giọng trong trẻo có thể tráo với giọng nữ thật, cười nói: "Đâu có, theo ta thấy, Tề môn dẹp tiệm, Hoắc gia đoạn tử tuyệt tôn, nhi tử Ân Văn Lam tiền đồ to lớn, ra ngoài làm tôn tử cho sâu, chỉ có nhánh Lý gia của cô là còn lại vài người, nghĩ nếu cô có tiền đồ, ta sẽ nói chuyện Niết Bàn cổ cho cô biết."

Chu Phỉ cười nhạt, nếu "nghĩ" xong phát hiện chẳng ra sao thì "lỡ tay ngộ sát", đến lúc đó đại ma đầu này vẫn có lời giải thích: cô chết tại cô chứ ta đâu cố ý.

Mộc Tiểu Kiều nghịch móng tay mình, ánh mắt từ từ quét qua người Chu Phỉ, mỗi lần ngừng lại đều phảng phất như ám chỉ một chỗ sơ hở trên người nàng, hắn như mèo bắt chuột, dùng móng vuốt nghịch thú săn đẩy tới đẩy lui chơi, chưa dọa đủ sẽ chưa chịu dễ dàng ăn thịt.

Chu Phỉ thình lình di chuyển, nàng không nhìn Mộc Tiểu Kiều, trực tiếp vòng qua hắn, nhặt vỏ đao tối hôm trước bị rơi giữa đám dược nhân, tra Toái Già vào vỏ.

Mộc Tiểu Kiều: "..."

Lần đầu tiên hắn thấy kẻ "to gan ngu ngốc" trắng trợn như vậy, cảm thấy mới mẻ.

Chu Phỉ ung dung: "Ta nghe một vị trưởng bối nói, trong những người thế hệ trước thì tư chất của Chu Tước chúa gần như là ... một trong những người xuất chúng, nhưng lúc trẻ lệ khí quá nặng, luyện công phu "Bách Kiếp Thủ", đi theo đường tà môn hại người hại mình, lúc cực thịnh đương nhiên không gì không địch nổi, nhưng một khi xuống dốc sẽ như nước sông ngày càng cạn, trước kia ta không tin nhưng bây giờ xem ra là thật."

Ba chữ "Bách Kiếp Thủ" vừa thốt, thần sắc Mộc Tiểu Kiều hơi khựng lại, nhưng hắn bụng dạ thâm trầm, không để lộ gì cả, chỉ nhàn nhạt nói: "Ồ?"

"Ba năm trước ta gặp Chu Tước chúa ở Vĩnh Châu, thấy thân hình ngươi đã hơi ngừng trệ." Chu Phỉ đeo trường đao ra sau, bước vài bước, lại quay đầu chỉ vào ngực Mộc Tiểu Kiều nói: "Ban nãy thấy Chu Tước chúa xuất chiêu, cảm giác càng rõ ràng hơn một ít, khí tức ở huyệt đản trung của ngươi không thuận, Bách Kiếp Thủ mất vài phần quyết đoán, bằng không chỉ dựa vào một trảo đứng đầu tứ thánh núi Hoạt Nhân Tử Nhân năm xưa thì ta cũng không dễ dàng tránh được như vậy."

Mộc Tiểu Kiều ngạc nhiên: "Không phải các ngươi đều nói kẻ đứng đầu tứ thánh là Trịnh La Sinh sao?"

Chu Phỉ cúi đầu cười rất thục nữ, nói: "Trịnh La Sinh tính là cái thá gì."

Mộc Tiểu Kiều ngoài cười trong không cười: "Tiểu cô nương, rốt cuộc là cô đang nịnh ta hay đang dọa ta đấy?"

Chu Phỉ đứng lại, không đáp mà hỏi ngược: "Thường ngày Chu Tước chúa có phải có bệnh đau đầu không?"

Mày Mộc Tiểu Kiều cuối cùng cau lại.

Chu Phỉ hơi giang tay, nói: "Ta không phải thầy bói, ban nãy nếu Bách Kiếp Thủ của Chu Tước chúa cao thêm một tấc thì đã đụng vào chuôi đao của ta, ta ắt không kịp dùng đao biến chiêu, với chiều cao của các hạ lẽ ra không nên "mắt cao tay thấp" như vậy, chắc do cụp mắt thời gian dài mà ra chứ gì? Cho nên ta mới đoán."

Mộc Tiểu Kiều chậm rãi nói: "Ồ? Nếu ta ra tay cao thêm một tấc, cô "ắt không kịp dùng đao biến chiêu"? Vậy sao cô dám dùng đao như thế?"

"Ngu ngốc." Chu Phỉ cười vô cùng qua quít: "Có lẽ là ăn hên."

Lúc nói chuyện, không biết vô tình hay cố ý, nàng đưa tay phủi phủi cánh tay trái của mình, hơi hoạt động cổ, bàn tay lướt qua bên cổ, lại bấm bấm huyệt thái dương bên phải như chưa tỉnh ngủ.

Mộc Tiểu Kiều đưa đàn tỳ bà ra trước người theo bản năng. Mấy chỗ Chu Phỉ chạm đến đều là chỗ có bệnh của hắn, chiêu chém ban nãy của nàng hiển nhiên đã chừa lại đường lui, bằng không một kích không trúng thì có thể giữa đường trực tiếp biến chiêu thành "Phá", với vai vế của hắn, chắc chắn không cam tâm tránh né trước mặt tiểu bối, nhất định sẽ phản kích.

Nhưng với tư thế đó, tay trái hắn chắc chắn sẽ bị Toái Già áp chế, không nhấc lên được, chỉ có thể xoay nửa vòng, nghiêng người dùng cánh tay phải đón đỡ. Mà "Phá" chính là thức có thể biến chiêu nhiều nhất trong Phá Tuyết đao, đánh vào một điểm bất kỳ thì bất cứ lúc nào cũng có thể biến hóa thành "Trảm", "Phách" ..., thậm chí còn dính tới chiêu trong "Sơn, Hải, Phong" nếu đao của Chu Phỉ đủ nhanh... không cần nhanh quá, cỡ cỡ với nàng năm xưa ở Vĩnh Châu là được ... nàng có thể chuyển qua chiêu thức "Phong" xưa mà không cũ, vừa vặn có thể lướt qua bên phải cổ hắn!

Mộc Tiểu Kiều thấy nàng bấm huyệt thái dương như thật, mấy cọng gân trong đầu hắn thỉnh thoảng nhảy ra quấy rối kia dường như lại muốn rục rà rục rịch, nhảy lên "thình thịch".

Chu Phỉ nói: "Đao của ta luôn là luyện bừa, ít khi được cao nhân tiền bối chỉ điểm. Hiếm thấy Chu Tước chúa trượng nghĩa, vậy ta từ chối thì bất kính rồi."

Vừa dứt lời, Chu Phỉ liền bước về trước, Toái Già ra khỏi vỏ giữa không trung, di vật của đệ nhất quốc sư bổn triều quả nhiên không tầm thường, ánh sáng như sao băng bay vút theo lưỡi đao. Lúc Mộc Tiểu Kiều nghe tiếng gió thì đao đã đến gần, hắn sợ hãi cả kinh, đẩy đàn tỳ bà về trước. Lần này, Toái Già vạch một đường cong cực kỳ phức tạp giữa không trung, tránh được thân đàn tỳ bà không xê không xích, nhắm thẳng vào tay cầm đàn của Mộc Tiểu Kiều, ép hắn không thể không tránh.

Mộc Tiểu Kiều đã đoán được cô nương này có lẽ có vài phần chân truyền từ Nam đao, nhưng không ngờ nàng tuổi còn trẻ mà đao có thể đạt tới mức này, vẻ mặt hắn nhất thời khó đoán, nói không nên lời.

Hắn lại quay đầu, ánh đao phức tạp bỗng chốc tan thành mây khói, nàng thình lình ra tay, cũng thình lình ngừng lại, tiện tay thu Toái Già về, như cười như không nói với Mộc Tiểu Kiều: "Lần này Chu Tước chúa đã quan sát rõ chứ?"

Mộc Tiểu Kiều nhìn chằm chằm nàng rất lâu, chợt nói: "Đao của cô không giống Lý Chủy lắm."

Chu Phỉ xé trên người ra một miếng vải sạch, cẩn thận bọc xác con Niết Bàn cổ lại: "Đương nhiên ta không bằng ông ngoại ta rồi. Ban nãy Chu Tước chúa nói sẽ cho ta biết chuyện về cổ trùng này, bây giờ có thể nói rồi chứ?"

Mộc Tiểu Kiều không để ý tới nàng, hắn đặt đàn tỳ bà xuống, ánh mắt nhìn vào khoảng không, nơi có ánh nắng mai rơi vãi trên nền đất, hồi lâu mới nói như xuất hồn: "Đao pháp của Lý Chủy rất tốt, dùng sở trường của mọi nhà, khí chất uyên bác chính trực, lúc ta gặp ông, ông không hề nặng nề như vậy, không đầy sát cơ như vậy. Luận tu vi, cô không bằng ông, nhưng nếu ông còn tại thế, thật sự động đao lại chưa chắc thắng cô."

Chu Phỉ sững sờ, không ngờ Mộc Tiểu Kiều lại đánh giá nàng cao đến vậy.

Mộc Tiểu Kiều chợt thấy nhàm chán tẻ nhạt, cả đời hắn muốn gì được nấy, bừa bãi tùy hứng, tổn hại thanh danh, coi thường mạng sống, không trọng lời hứa, vô tình vô nghĩa, ngạo nghễ quần hùng, đến lúc này mới nhận ra "quần hùng" mà hắn liếc bằng nửa con mắt đều đã đến tuổi chết già. Dường như chỉ trong một đêm, những thiếu niên không đáng lọt vào mắt hắn đều đã bắt đầu bộc lộ tài năng.

Sương hoa tan hết, hắn có cao ngạo tự đại thế nào đi nữa, cũng đã già rồi.

Hắn bình thản nói: "Tương truyền Niết Bàn cổ được đào lên từ mộ vu độc thần bí nào đó ở quan ngoại, bị chôn dưới lòng đất không biết bao nhiêu năm. Lúc đào ra, nó chỉ là một cái vỏ khô quắt khô queo, thế mà vẫn sống, vừa ra đời liền biến mấy kẻ trộm mộ khi đó thành dược nhân. Các dược nhân từng hoành hành một thời, hình như còn lập ra "Niết Bàn thần giáo" gì đó, rất oai phong. Vì Niết Bàn cổ thích máu thịt cao thủ nên ép các con rối của nó gây không ít án mạng. Niết Bàn thần giáo đương nhiên khiến nhiều người phẫn nộ, võ lâm minh chủ khi đó dẫn đầu 16 môn phái Trung Nguyên cùng đi thảo phạt, quốc sư Lữ Nhuận lúc đấy còn là một đệ tử hăng hái của Đại Dược cốc, đại diện Đại Dược cốc đi theo giúp đỡ, mang bảy loại thuốc bột khắc chế côn trùng, đến nay đều đã thất truyền, trong đó có một loại là khắc tinh của Niết Bàn cổ, chế ngự được cổ mẫu nên mới tiêu diệt được "dược nhân" thần giáo ... Đây chỉ truyền thuyết, thật giả không biết, lúc đó ta còn chưa đầu thai kìa."

"Chính miệng Lữ quốc sư năm xưa chứng thực Niết Bàn cổ đã bị ông thuốc chết, còn về tại sao sau này nó lại sống, khà khà ..." Mộc Tiểu Kiều cười vô cùng xấu xa: "... thì phải hỏi danh môn chính phái các cô nghĩ thế nào thôi. Nhưng có lời đồn nói sở dĩ cổ trùng này tên Niết Bàn vì nó có công dụng cải tử hồi sinh."

Chu Phỉ: "..."

Nếu người khác nói cho nàng biết thứ này có thể tiêu đàm khử ho, giải độc tan ứ... thậm chí là có thể tráng dương nàng cũng tin, nhưng "cải tử hồi sinh"?

Quá viển vông rồi, vừa nghe cũng biết là nói hươu nói vượn, nàng không khỏi hơi thất vọng.

Sau đó nàng lại nghĩ, cảm thấy mình đúng là kích động vớ vẩn, "Bách độc kinh" của Lữ Nhuận còn ở trên tay nàng, nếu thật sự Niết Bàn cổ mẫu có giá trị thuốc thang gì thì phải có ghi chép lại mới phải.

"Ta còn nghe được vài lời đồn trên giang hồ." Mộc Tiểu Kiều suy nghĩ, lại nói: "Lữ Nhuận để lại Niết Bàn cổ, nghe nói là vì để Triệu Nghị tướng quân hoàn dương, gã mũi trâu của Tề môn không biết tại sao từ nhỏ đã có giao tình thân thiết với Đại Dược cốc, có thể lấy được Niết Bàn cổ về tay, hẳn là trong tay còn có thứ tốt khác. Nếu cô tò mò dữ dội thì có thể thử đi tìm cấm địa Tề môn, dù sao Tề môn bây giờ đã không còn ai, không tính là tự tiện xông vào, nghe nói nó ở vùng sông Tương, cách nhà cô không quá xa, chỉ là họ thường úp úp mở mở, lại thích làm vài trận pháp giả thần giả quỷ, tìm được hay không phải xem chính cô thôi."

Chu Phỉ vốn dĩ có cũng được mà không có cũng chả sao, nhưng giờ nghe được "còn có thứ tốt khác", mắt lập tức sáng lên: "Đa ..."

"Khỏi đa tạ, nể ngoại hình của cô mới nói với cô vài câu, haiz, thế đạo này mấy kẻ nhảy nhót tứ tung toàn xấu chết đi được." Mộc Tiểu Kiều hờ hững cảm thán, không để ý nàng nữa. Hắn nhìn chằm chằm thi thể Phong Vô Ngôn, lật ông ta lại rồi đá chơi chốc lát, cười nhạo: "Lão già đáng thương, lơ là võ công, lại làm quá nhiều việc trái lương tâm, kẻ thù còn nhiều hơn cả ta, mấy năm nay mượn mỹ danh "nhân chứng" làm rùa rụt cổ sống an ổn trong Tề môn. Tề môn vừa bại lộ là bắt đầu hốt hoảng không chịu nổi, chỉ dám lấy danh hiệu của huynh đệ để hành tẩu giang hồ, không ngờ người ta vẫn không xem ông là người phe mình, đến chết cũng không bảo ông tìm đến cổng cấm địa Tề môn ở nơi nào, hèn gì lại hận Ân Bái như vậy."

Chu Phỉ: "..."

Lúc này nàng mới biết, hóa ra ban đầu Phong Vô Ngôn chỉ lợi dụng nàng để đối phó Ân Bái, nhưng sau đó vì Ân Bái lắm mồm gọi ra danh hiệu "Hắc phán quan" của ông ta trước mặt nàng mới ép ông ta muốn giết nàng diệt khẩu.

Nỗi oan này đúng là không nơi để tố mà!

Mộc Tiểu Kiều nói xong, không để ý Chu Phỉ nữa, khẽ gảy đàn tỳ bà, hát:

"Tin người thăm thẳm giấy thư vàng,

Son phấn nhuộm mưa, hai hàng lệ đổ,

Cố hương có phong sương..."

Chính là "Ly hận lâu" đã lâu chưa được nghe.

Mộc Tiểu Kiều hát xong một câu, người đã ngoài mấy trượng, âm nhạc đồi trụy ngâm nga vang vọng trầm bổng nhiều lần, truyền đi thật xa, đại khái là để cho Nghê Thường phu nhân biết hắn đã tới, thứ gọi là "ân tình" đúng là rất qua loa.

Chu Phỉ lập tức muốn quay về Liễu gia trang tìm Lý Thịnh, nhưng trước khi đi bỗng nhớ tới gì đó, thần sắc nàng phức tạp nhìn Chu Thần. Nàng đi đến bên cạnh hắn lặng im chốc lát rồi đưa tay khép con mắt kia lại, chợt thấy một tấm gỗ nhỏ rơi ra từ ống tay áo hắn, phủi bụi bên trên nhặt lên xem thì thấy trên tấm gỗ nhỏ bị sờ tới mức bóng láng ấy, không ít nét chữ đã nhạt đi nhưng vẫn còn nhận ra được mấy chữ "Hưng Nam tiêu cục"... chính là đồ cũ của Chu gia.

Chu Phỉ suy nghĩ, thu thẻ gỗ lại rồi tìm một chỗ đất mềm bên cạnh, đào một cái hố nông, chặt một miếng gỗ khắc làm bia, đưa người nhập thổ vi an.

............

Ánh nắng mai quét qua rừng cây nhỏ kỳ dị, cũng quét qua Liễu gia trang như địa ngục tu la.

Toàn bộ người may mắn sống sót đều vẻ mặt ngây dại, không biết mình làm thế nào sống sau kiếp nạn. Tối hôm trước quá hỗn loạn, đầu tiên là cổ trùng đại bạo phát, mọi người giẫm đạp nhau bỏ chạy, may có Lý Thịnh dưới tình thế cấp bách dùng pháo hiệu cảnh báo, dẫn đầu lấy đuốc châm lửa, miễn cưỡng ổn định các đại môn phái rồi vội vàng giội "Lưu Hỏa" còn sót lại khắp chung quanh, mới không rơi vào kết cục xác chết máu me đầy đất.

Ai ngờ họ vừa thở phào một hơi thì những con quái trùng giễu võ dương oai kia đột nhiên rơi xuống đất chết hết, Lý Thịnh đầu tiên giật mình, sau đó vui vẻ, lòng biết chắc chắn là Chu Phỉ đuổi kịp Ân Bái, nhưng chưa đợi Y vui xong thì 18 dược nhân kia ai nấy đều trắng trợn tàn sát như bị điên.

Lý Thịnh toàn thân chật vật, thực không biết mình đã trải qua đêm này thế nào, cổ họng đã la khản giọng, chỉ cảm thấy theo Chu Dĩ Đường đánh trận một đêm cũng không đáng sợ như vậy.

Đã thế Y còn không thể trực tiếp thả lỏng ngất đi, các đại môn phái ở hiện trường tuy đều bị một câu của Y hãm hại vào, nhưng khổ chiến một đêm, họ nghiễm nhiên đã xem hậu bối trẻ tuổi Lý Thịnh này thành tâm phúc, cả đám nhao nhao vây quanh Y.

Lý Thịnh cuối cùng cũng xem như được một lần lĩnh hội cảm giác của Chu Phỉ năm xưa khi mới xuất đạo đã bị đồn là "Nam đao", thực vô cùng phiền toái, còn phải trưng ra dáng vẻ khiêm tốn lễ độ, trong lòng Y lần đầu tiên mong đợi Chu Phỉ nhanh nhanh cút trở về để Y tiện đẩy tên tuổi giết ma đầu giết cổ trùng lên người nàng cho xong phứt.

Chương 137: Ngôi Sao Mới

Nhưng Chu Phỉ đi đâu rồi?

Lý Thịnh trước tiên tìm được Ngô Sở Sở bị giấu trong núi giả, Ngô Sở Sở được Chu Phỉ giấu từ rất sớm, tính cách nàng ấy thận trọng lại sợ mình võ công thấp kém gây phiền phức cho người khác, nên Chu Phỉ bảo trốn là nàng ấy trốn, dù trong lòng hiếu kỳ đến đâu cũng nhịn không nhìn ra ngoài nhiều, bởi vậy không rõ Chu Phỉ đi đâu.

Lý Thịnh đợi từ đêm hôm khuya khoắt đến khi mặt trời ló dạng vẫn không thấy tăm hơi Chu Phỉ.

Mới đầu, Lý Thịnh vừa bận sứt đầu mẻ trán vừa thầm mắng Chu Phỉ trong lòng, nhưng khi đợi đến hừng đông mà vẫn chẳng thấy bóng dáng nàng đâu, Y bắt đầu hơi hoảng.

Mấy năm nay Chu Phỉ luôn đi lung tung bên ngoài, ngay cả nhà của Bắc Đẩu Đồng Khai Dương cũng dám đốt, gan to bằng trời, nhưng chưa hề gây ra họa nào không thể thu dọn, bây giờ vẫn nhảy nhót tưng bừng, theo lý thuyết thì bản lĩnh khác không biết có bao nhiêu, nhưng bản lĩnh giữ mạng hẳn là không thiếu... Nhưng gã Ân Bái đó cũng không phải người có thể đo theo lẽ thường, võ công của chính hắn ta đã cực cao, trên người còn mang theo quái trùng cực độc, Chu Phỉ đuổi theo một mình liệu có xảy ra chuyện gì không?

Lý Thịnh gian nan duy trì mặt nạ giả gặp biến không sợ hãi của mình, nỗi bất an trong lòng như nồi nước trên đống lửa, ban đầu là sủi bọt, sau đó trời càng lúc càng sáng, "nước" càng đun càng sôi, "ùng ục ùng ục" sắp trào.

Cổ trùng và dược nhân trong Liễu gia trang đều đã ngã xuống, suy đoán theo lẽ thường thì rất có khả năng cổ mẫu đã bị giết rồi.

Cổ mẫu chết thế nào? Có phải bị Chu Phỉ giết không?

Ban nãy ngay cả Chu Phỉ đột nhiên mất tích lúc nào Y cũng không nhìn thấy. Nếu đúng là muội ấy giết cổ mẫu thì có thể toàn thân thoát khỏi Ân Bái không? Lỡ như không thì Y phải ăn nói với đại cô cô thế nào đây?

Lý Thịnh càng nghĩ càng lo lắng sợ hãi, thế mà mọi người lại không để Y được toàn tâm toàn ý lo lắng, lúc nào cũng khiến Y không thể yên tĩnh.

"Lý thiếu hiệp, xác của những dược nhân này cậu thấy làm sao bây giờ?"

"Lý thiếu hiệp, đã an bài hết người bị thương rồi, còn mấy người trúng cổ độc cậu thấy xử lý sao?"

"Lý thiếu hiệp, ta nghe nói gần đây có người của Bắc Đẩu ẩn hiện ở phụ cận, chúng ta gây ra động tĩnh lớn thế, liệu có hấp dẫn chó săn triều đình tới hay không?"

"Lý thiếu hiệp ..."

Lý Thịnh phiền muốn vỡ mật, chỉ mong sao quay về tối hôm đầu tiên để rút tay mình ra sạch sẽ, Y hung dữ với chính mình, thầm nhủ --- Sao đi đâu cũng có mày thế, chỗ này là núi Thục Trung à, vớ va vớ vẩn chen vào làm gì không biết? Tới lượt mày ra mặt hả?

Lý Thịnh đến Liễu gia trang thuần túy chỉ vì "mặt mũi ân tình", Lý Cẩn Dung sai Y đem vài người đến cho có, bởi vậy lúc 18 dược nhân vừa lộ diện, Y thấy tình thế không ổn liền lập tức rụt cổ như những môn phái khác.

Trước đây 48 trại tự thành một quốc gia, gần như không qua lại với bên ngoài, nhưng mấy năm trước Tào Ninh mang binh vây khốn Thục Trung đã khiến Lý Cẩn Dung nhìn ra được xu hướng "thế hệ sau ngày càng kém" của nhiều môn phái. Nhớ năm xưa những kẻ theo Lý trại chủ "phụng chỉ làm phỉ" là ai cơ chứ? Tùy tiện ném một cái tên ra ngoài rơi xuống đất cũng đập ra một cái hố kêu vang dội.

Nhưng lớp trẻ bây giờ thì sao?

Ngay cả kiểu nói như rồng leo, làm như mèo mửa như Lý Thịnh hồi bé cũng có thể xem là "tài năng xuất chúng" thì có thể thấy được loáng thoáng tương lai 48 trại không người nối nghiệp rồi.

Trong loạn thế, thế ngoại đào nguyên chẳng cho ra được hạt giống gì tốt đẹp, chỉ có thể mọc lên cải xanh và nấm mặc người ta hái, hai năm qua Lý Cẩn Dung gắng sức khôi phục việc qua lại với bên ngoài, thường xuyên thả người trẻ tuổi ra ngoài làm việc.

Lần này Liễu lão gia ngầm triệu tập các đại môn phái vây diệt Thiết diện ma Ân Bái, đương nhiên cũng bắn tin cho 48 trại. Lão giang hồ Lý Cẩn Dung vừa nghe là hiểu, biết các đại môn phái bị vướng bởi mặt mũi nên chắc chắn sẽ hưởng ứng, nhưng mấy năm gần đây, các danh môn còn sót lại sớm đã quen an phận trong góc, có đi cũng chưa chắc chịu ra sức, quá nửa chỉ là trợ uy. Nếu thực có người ra tay xử được đại ma đầu thì họ sẽ đi theo dọn dẹp chiến trường, xem như giúp một tay, còn nếu thấy tình thế không ổn thì chắc chắn họ sẽ chạy nhanh hơn bất kỳ ai.

Vừa hay Lý Thịnh ở gần đó, Lý Cẩn Dung bèn điều một nhóm người trong số các tai mắt ở phụ cận cho Y, để Y đi thay mình.

Lý Thịnh từ nhỏ nhiều tâm cơ, xưa nay trước mặt người ngoài cũng luôn thận trọng, không có cái tính thối hoắc như Chu Phỉ. Lý Cẩn Dung không lo Y sẽ gây họa, chỉ gửi vài phong thư nhắn mấy bằng hữu cũ giúp đỡ chiếu cố, và dặn Lý Thịnh "tùy cơ ứng biến, vạn sự cẩn thận, làm theo tiền bối, đừng tùy tiện ra mặt" ... ý là bảo Y chen vào các đại môn phái cho biết mặt thôi, chứ có các ngôi sao sáng như Võ Đang Thiếu Lâm phía trước, người khác ra tay thì Y ở bên cạnh gõ chiêng, người khác chạy trốn thì Y cũng chạy trốn theo, dù sao mấy lão giang hồ kia ai nấy đều là cáo già, theo họ sẽ không chịu thiệt.

Ai ngờ người tính không bằng trời tính.

Đại đương gia cũng không ngờ, Lý công tử "thận trọng" trước mặt bà ít nhất tám phần mười đều là giả vờ, vào thời khắc mấu chốt, Y còn nóng máu hơn cả Chu Phỉ không đáng tin kia.

Câu dặn dò của Lý đại đương gia bị Y ngắt đầu ngắt đuôi, chỉ còn lại tám chữ "tùy cơ ứng biến, tùy tiện ra mặt".

Lý Thịnh hít sâu một hơi, gắng ép câu gào thét "đừng làm phiền ta" về, nở nụ cười khó coi, giả vờ bình tĩnh nói: "Xác chết đương nhiên phải thanh lý chung với cổ trùng, thiêu hết. Cổ độc thì phiền Dương huynh ..."

Dương Cẩn tuy chỉ có thể làm tay chân đánh nhau, nhưng đám thuộc hạ Kình Vân Câu ... người hái thuốc của Nam Cương thì rất có ích, vừa nghe dặn liền lập tức quăng vị môn chủ tứ chi phát triển chỉ biết chém người qua một bên, nghe Lý Thịnh sai khiến quay mòng mòng.

Liễu lão gia vội nói: "Chư vị thần y chớ tiếc thuốc thang, phí tổn liên quan Liễu gia trang ta chịu hết."

"Còn Bắc Đẩu đúng là ở gần đây, đợt trước ta từng gặp, vì một chuyện khác nên có giao thủ với Đồng Khai Dương, lần này theo lý thì họ đã xuôi nam rồi ... có điều cũng không nói chắc được, để phòng ngừa ngộ nhỡ, có thể mời chư vị tiền bối các phái cử ra vài người đi phụ cận sơn trang tuần tra chút ít không?" Lý Thịnh ngẫm nghĩ, lại bổ sung: "Nếu có biến cố gì, có thể dùng pháo hiệu của 48 trại để trao đổi tin tức."

Liễu lão gia khẽ than, gật đầu: "Trường Giang sóng sau xô sóng trước, đều nghe hết theo lời dặn của Lý thiếu hiệp."

Lý Thịnh mỉm cười với ông, gọi người 48 trại sang một bên, nhỏ giọng dặn dò: "Mọi người cùng đi, chia làm ba ngả tìm Chu Phỉ, đừng để lộ."

Các tai mắt ngầm lập tức lĩnh mệnh đi, bề ngoài là đi tuần tra quanh Liễu gia trang như mọi người, nhưng thực tế là mượn việc công làm việc tư, đi khắp nơi tìm người.

Lý Thịnh sắp xếp một đống việc vặt, nhớ tới lời dặn của Lý Cẩn Dung mà hối hận xanh ruột. Lúc mới tới Liễu gia trang, không ít tiền bối chủ động bắt chuyện với Y, còn hiền từ hòa nhã giới thiệu với Y không ít người, Lý Thịnh thạo đời, đương nhiên biết chắc chắn là Lý Cẩn Dung mở đường sẵn cho, nhờ người chiếu cố.

Kết quả người ta chiếu cố Y, còn Y lại nhất thời kích động, lôi hết mọi người xuống nước.

Ban nãy Y uy phong vô cùng, nhưng bây giờ nghĩ tới chuyện hỏng bét mình làm thì lòng ứa nước đắng, đành kiên trì đích thân đi tới từng nhà một, thăm hỏi người bị thương, đưa thuốc xong còn ăn nói khép nép tự kiểm điểm rằng mình suy nghĩ không thấu đáo.

Người khác đâu biết trong lòng Y nhát gan sợ phiền phức ra sao, tuy mới đầu nhiều người đều là bị Y ép ra, nhưng trận chiến này suy cho cùng đã tiêu diệt được sự kiêu ngạo hung hăng của Thiết diện ma, dù không rõ thi thể của Thiết diện ma chân chính có nằm trong đống lửa đó không nhưng giết được một đám dược nhân của hắn ta và nhiều cổ trùng như vậy đã là vô cùng hãnh diện rồi.

Ai cũng là người dùng "hiệp nghĩa" để lập thân, đa phần nén giận và an phận trong góc cũng vì bất đắc dĩ, chứ nào muốn cả ngày tạm bợ? Dù ban đầu hơi có ý bất mãn ngầm với Lý Thịnh nhưng sau đó thấy Y không kiêu ngạo không nóng nảy thành khẩn chân thành, lại thêm Liễu lão gia dẻo miệng điều đình, thì cũng đều cho qua.

Nghê Thường phu nhân điều hòa hơi thở rất lâu mới qua cáo từ cùng Lý Thịnh. Vũ Y ban tuy đã rửa tay gác kiếm nhiều năm nhưng dẫu sao cũng là thích khách, không quá muốn ở chung với mọi người.

Nghê Thường phu nhân nói: "Nếu không có việc gì khác thì chúng tôi đi đây."

Nơi này dẫu sao cũng là Liễu gia trang, có tiễn khách cũng nên là Liễu lão gia ra mặt, Lý Thịnh không tài lanh làm thay.

Nghê Thường phu nhân tuy đã lớn tuổi nhưng nhiều năm qua chú trọng bảo dưỡng, võ công lại cao, bởi vậy trông không hề già, ngược lại năm tháng trôi qua, ở bà lại có vẻ quyến rũ biếng nhác điêu luyện, theo sau là một đám nữ tử thanh xuân phơi phới.

Lý Thịnh biết phi lễ chớ nhìn nên dời tầm mắt, không nhìn thẳng vào bà, chỉ cung kính hành lễ vãn bối: "Vâng, đa tạ hành vi trượng nghĩa của tiền bối, tiền bối đi thong thả."

Nghê Thường phu nhân nheo mắt nhìn Y, chợt cười khẽ, vươn ngón tay khều cằm Y.

Lý Thịnh từ nhỏ cùng lớn lên với Chu Phỉ và Lý Nghiên, đến tuổi thanh xuân thiếu niên rực rỡ, ấn tượng về tiểu cô nương chỉ có hai người, một người là "chúa phiền phức" và một người là "quỷ đáng ghét". Tuy Y cũng xem "Sơn hải kinh" nhưng chỉ nhằm tìm kiếm mới mẻ, với những bức tranh vẽ nữ tử chân chính thì chỉ có ý kính trọng nhưng né xa, cộng thêm lời nói cử chỉ chịu ảnh hưởng phong độ quân tử của Chu Dĩ Đường, nên nếu không có chuyện quan trọng thì Lý Thịnh kiên quyết không tìm nữ tử bên ngoài trò chuyện, bởi vậy trước giờ chưa từng trải qua chuyện này, lập tức bị Nghê Thường phu nhân dọa giật mình, đơ mặt lùi về sau nửa bước.

Nghê Thường phu nhân cười to nói: "Tiểu ca này, ta làm bà ngoại ngươi cũng được đấy, tránh gì mà tránh?"

Lý Thịnh lại lùi thêm một bước: "Tiền bối nói đùa."

"Ngươi đấy, chán ngắt hệt như tổ phụ ngươi." Nghê Thường phu nhân vươn tay chỉ chỉ giữa không trung vào trán Y, cười xong lại nghiêm mặt, chỉnh ống tay áo tán loạn, hơi nhỏ giọng nói với Lý Thịnh: "Sau này năng đi lại trên giang hồ một chút, ta thấy cô cô ngươi chắc cũng có ý đó, bằng không sẽ không phái ngươi tới."

Lý Thịnh chưa từng lĩnh giáo kiểu trở mặt như lật sách này, nhất thời không khỏi hơi ngơ ngác.

Nghê Thường phu nhân hơi xoay người, ánh mắt quét qua mọi người vẫn còn ở Liễu gia trang, khẽ nói: "Mọi người tốt với ngươi không chỉ vì nể mặt đại đương gia các ngươi, tối qua ngươi dẫn dắt mọi người đánh lui Ân ... Thiết diện ma, chắc hẳn đã khiến mọi người nhìn thấy được chút hi vọng."

Lý Thịnh vô cùng mờ mịt.

"Ngươi là hậu nhân danh môn." Nghê Thường phu nhân cười nói với Y: "Lúc tiểu nhân nắm quyền, người người bất an, ai nấy đều bị ép tới mức không thở nổi, thì mọi người đều hi vọng sẽ có một nhân vật như Lý Chủy, Ân Văn Lam xuất hiện, ngươi hiểu không?"

Lý Thịnh nghe, thầm nhủ chẳng phải nói linh tinh sao?

Đến giờ, Y ngay cả Phá Tuyết đao của Lý gia còn chưa nhập môn kìa! Lý Cẩn Dung thấy đao của Chu Phỉ mới biết cách nhìn của mình đối với tiểu bối quá hạn hẹp, bèn đích thân viết ra một bản đao phổ Phá Tuyết đao cho Y. Còn Chu Phỉ tuy chẳng ra sao nhưng tính tình phóng khoáng, vả lại vô cùng tự phụ, về việc luyện võ sẽ hỏi gì đáp nấy, không hề giấu riêng.

Nhưng Lý Thịnh dùng song kiếm đã quen, cộng thêm bị ảnh hưởng nặng bởi tạp học các môn phái 48 trại nên mãi chưa nhập môn, dần dà cũng chỉ luyện sơ sơ cho biết "gia học" nhà mình thế nào chứ chưa từng luyện tiếp.

"Không cần tự coi nhẹ mình." Nghê Thường phu nhân hơi cong khóe mắt, lộ ra vài nếp nhăn xinh đẹp: "Kẻ vung tay nhất hô thiên hạ ứng đôi lúc chưa chắc là kẻ võ công cao nhất, ngươi rất tốt, hãy nghĩ rõ sau này mình muốn đi con đường thế nào, đừng phụ lòng các tiền bối, thay ta gửi lời hỏi thăm tới A Phỉ."

Nói xong, chưa đợi Lý Thịnh phản ứng, bà xoay người bỏ đi.

Lý Thịnh ù ù cạc cạc, không kìm được nói với Ngô Sở Sở bên cạnh: "Bà ấy có ý gì? Bảo ta bắt chước Hoắc Liên Đào, chạy đi làm võ lâm minh chủ ư?"

Ngô Sở Sở chớp mắt, chưa kịp nói gì thì Lý Thịnh nhận ra mình xem nàng ấy thành Lý Nghiên, giọng điệu thân mật quá mức, lập tức lúng túng cúi đầu, hàm hồ nói: "Ta cũng ra ngoài một chuyến tìm Chu Phỉ đây."

Nói xong, chân Y như bôi dầu, chuồn đi.

Trước đó còn đỡ, nhưng bây giờ Lý Thịnh thấy ánh mắt mọi người nhìn mình, nhớ tới câu của Nghê Thường phu nhân "mọi người đều hi vọng sẽ có một nhân vật như Lý Chủy, Ân Văn Lam xuất hiện", Y liền như có sâu bò đầy trong mình, toàn thân không thoải mái, luôn cúi đầu, đi sát tường Liễu gia trang chuồn ra ngoài.

Khó khăn lắm mới tránh được tầm mắt mọi người, chạy ra ngoài Liễu gia trang, Lý Thịnh còn chưa kịp thở phào một hơi, trước mắt liền hoa lên, một người lỗ mãng chặn Y lại.

Lý Thịnh chợt giật mình, đợi nhìn rõ người đó thì vừa vui vừa giận, há mồm khiển trách: "Chu Phỉ, muội chết đi đâu đó?"

Chu Phỉ nói: "Đừng nói nhảm nữa, mau mau nói với họ một tiếng rồi theo muội!"

Chương 138: Tam Vị

Lý Thịnh phí công lo lắng bất an suốt nửa đêm, bị Chu Phỉ làm giận đến mức mũi sắp méo qua tai, lập tức dùng chiêu Thiên Cân Trụy, đứng như cái cọc cố định, hỏi: "Theo muội đi đâu? Muội đi làm gì? Tại sao rề rà lâu như vậy không chịu về, còn nữa ..."

Y cau mày, quan sát những vết bẩn chỗ đen chỗ trắng trên người Chu Phỉ, rất không hòa nhã đánh rớt móng vuốt bẩn của nàng, đang định hỏi nàng lăn trong vũng bùn nào mà thành ra thế này.

Chu Phỉ sờ sờ trên người, lấy ra một bọc vải nhét cho Y, thản nhiên nói: "Đúng rồi, còn cái này, huynh cầm đi."

Lý Thịnh nghi hoặc nhận lấy: "Cái ..."

Hai chữ "gì vậy" còn kẹt nơi cổ họng, Lý Thịnh đối diện với đôi mắt Niết Bàn cổ mẫu bị đao sắc bổ thành hai nửa.

Y giật mình không nhẹ, trái tim trong ngực từ "thong thả đi đường" biến thành "chạy thục mạng", suýt vọt theo cuống họng tung lên đỉnh đầu.

Lý Thịnh run run tay, phản ứng đầu tiên là muốn ném nó đi, sau đó lại nghĩ cổ mẫu này tuy là tà vật nhưng vô cùng trân quý, thế là lại lật đật nâng nó lên, nhất thời cũng không biết mình muốn ném hay muốn nâng, hai tay xoắn xuýt.

Khó khăn lắm Y mới cầm Niết Bàn cổ mẫu trong tay, chỉ cảm thấy thứ này nặng trịch, cánh và cơ thể như xương trắng vô cùng cứng rắn, xuyên qua lớp vải cộm vào tay Y, nhưng vùng bụng lại vô cùng mềm mại, như loại sâu gặm lá cây sống, bấm nhẹ vào hình như còn phát ra tiếng "òm ọp" đáng sợ.

Lý Thịnh cứng ngắc toàn thân, run run hỏi: "Đây là gì?"

"Con cổ mẫu trên người Ân Bái." Chu Phỉ: "Hình như là thứ ghê gớm lắm. Muội cũng không biết nó có thể làm gì, huynh cứ cất đi, lỡ có công dụng thì sao."

Giết thì giết, không đốt xác ngay tại chỗ lại còn cầm về!

Lý Thịnh cảm giác sau này mình mà thấy mấy con sâu lông lá e là sẽ nổi hết da gà, hận không thể mất đi tri giác đôi tay, gắng bình tĩnh, cuối cùng cũng không hét lên ném nó vào mặt Chu Phỉ.

Chu Phỉ dùng dăm ba câu giải thích lai lịch của Niết Bàn cổ rồi nói: "Ca, huynh đi với muội một chuyến chứ, chúng ta đi thăm dò cấm địa Tề môn, không phải Xung Vân Tử từng dạy huynh ít thứ sao? Mấy trận pháp làm khó người ta đó muội không biết phá."

Lý Thịnh hừ một tiếng: "Cầu xin huynh à?"

Y vừa nói vừa hơi không yên tâm quay đầu nhìn quanh Liễu gia trang ồn ào, cứ cảm thấy mình chạy theo Chu Phỉ như vậy không hay lắm.

Chu Phỉ không kiên nhẫn: "Huynh quản họ làm gì, ngày mai họ có thể đồn huynh dùng một kiếm đâm chết 250 Ân Bái, ngày mốt lừa huynh đi làm võ lâm minh chủ, ngày kia nói không chừng là Bắc Đẩu hay ma đầu ở xó xỉnh nào đó muốn kiếm chuyện với huynh, cộng thêm đủ loại thiếu hiệp đầu óc có bệnh cả ngày tìm huynh đưa chiến thư, qua thêm vài ngày nữa, vì chút chuyện vặt vãnh, hơi không chú ý chút, nói không chừng huynh lại biến thành "khó xứng với danh thơm", Hoắc Liên Đào kế tiếp chính là huynh."

Những lời này của nàng nghe hơi cực đoan, Lý Thịnh thoạt đầu dở khóc dở cười, vốn định trưng ra uy phong đại ca, dạy dỗ nàng không được "hận đời" như thế, nhưng chợt nhớ mấy lời Nghê Thường phu nhân nói với Y bèn dần cười không nổi.

Chưa đợi Chu Phỉ nói xong, Lý Thịnh liền cởi áo ngoài của mình ra, bọc con Niết Bàn cổ kia kín mít ba tầng trong ba tầng ngoài, sau đó thắt nút hai đầu, sửa thành một gói nhỏ móc bên hông, nói với Chu Phỉ: "Huynh đi đón Lý Nghiên trước đã."

Vì sợ cái miệng không khóa của Lý Nghiên nên trước đó Lý Thịnh đã đưa Lý Nghiên và vài đệ tử tương đối thận trọng trong 48 trại ở chung trong một khách điếm gần Liễu gia trang, với mỹ danh là để muội ấy "tiếp ứng", kỳ thực chỉ là gửi muội ấy lại đó. Đi một chuyến rồi về cũng không mất bao nhiêu thời gian.

Lý Nghiên sẽ đến nhanh thôi, Chu Phỉ cũng lặng lẽ thông qua người của 48 trại đưa Ngô Sở Sở ra ngoài.

Lý Thịnh để lại thư từ biệt khách sáo với Liễu lão gia, thông báo với các tai mắt trong trại một tiếng rồi thần không biết quỷ không hay chuồn khỏi Liễu gia trang, thuận đường xuôi nam.

Qua sông Hoài, vào địa giới Nam triều, lại đi một mạch về tây, nhanh chóng đến đất Sở.

Lá khô phủ Tế Nam đã rơi hết mà đất Sở vẫn nóng ẩm chưa tan, nắng gắt cuối thu đang giãy giụa hơi tàn. Sơn đạo gồ ghề khúc khuỷu, hai bên đường cách vài dặm sẽ có một lán trà đơn sơ cho các nông dân và khách qua đường ghé nghỉ ngơi, thu mấy đồng tiền.

Đỉnh lán trà bị dột, một thiếu niên đang xắn ống quần lấy cỏ tranh đắp lên, trong lán có ba băng ghế và một cái bàn đã có người ngồi, khách qua đường khác chỉ có thể mua ít nước uống và lương khô đứng bên cạnh ăn hoặc mang đi.

Lý Thịnh đặt một đồng tiền xuống, cầm ấm trà thô rót xong trở tay đưa cho Chu Phỉ, còn mình thì bưng chén trà mẻ từ từ uống trà nóng, muốn toát mồ hôi và nghỉ chân một chút.

Vừa nghỉ chân thì nghe mấy hán tử chiếm ghế dài trong lán trà nghị luận: "... Ai cũng đồn vậy mà, ta thấy Thiết diện ma chắc hẳn chết thật rồi."

Lý Thịnh khựng lại, nhìn sang qua làn hơi nước nóng.

Một hán tử khác nói như đinh đóng cột: "Chết! Có thể không chết sao? Ta nghe nói Thiết diện ma đó có ba đầu sáu tay, bị thiếu hiệp Lý gia đưa vào bẫy, cả trăm người không làm gì được gã. May có Lý thiếu hiệp gặp nguy không sợ, chỉ huy mọi người chặn giết, tự tay chém lần lượt ba đầu sáu tay của gã, quái trùng chết như ngả rạ, hôm sau đốt còn nghe bên trong có tiếng quái vật rít gào, kinh thiên động địa, mấy con sâu đó rõ ràng đã nát bươm nhưng trong lửa lớn lại ánh lên một bóng người cao to, đầu có hai sừng, mắt mở trừng trừng ... mọi người nói có quái lạ hay không?"

Lý Thịnh suýt bị nước nóng sặc chết, bỏng ho sù sụ như chết đi sống lại, vành mắt cũng đỏ lên.

Ba hán tử đang tán gẫu kia khó hiểu quay đầu nhìn Y, thấy Y chỉ là một tên thư sinh "yếu đuối" thì không để ý nữa, vẫn tự nhiên thảo luận: "Lý thiếu hiệp rốt cuộc là ai vậy?"

"Cái này mà ngươi cũng không biết? Có nghe nói Nam đao chưa? Là Nam đao của 48 trại ở Thục Trung đấy! Lý thiếu hiệp chính là trưởng tôn của Nam đao Lý Chủy."

"Đây đúng là một trận chiến thành danh, chậc chậc, hoặc là nói Trường Giang sóng sau xô sóng trước ..."

Lý Thịnh thực nghe không nổi nữa, bỏ chạy như ma đuổi, giục nhóm Chu Phỉ: "Đi mau đi mau!"

Thính lực Chu Phỉ cực tốt, sớm đã nghe hết không sót chữ nào: "Hóa ra Lý thiếu hiệp không phải chém 250 Ân Bái mà là chém Thiết diện ma ba đầu sáu tay, thất kính!"

Lý Thịnh: "Còn nói nhảm nữa thì tự cầm bản đồ mà cút."

Chu Phỉ và hai nữ tử trong xe ngựa cười nghiêng ngả.

Có điều xét tổng thể, trừ những lời đồn quăng tám sào tre cũng không tới này ra, cộng thêm Chu Phỉ và Lý Nghiên thường xuyên phỉ nhổ Lý Thịnh, lần nào cũng chọc Y tức lồng lộn, thì quãng đường này miễn cưỡng xem như thái bình.

Hôm đó, đoàn người đi đến Giang Lăng, không biết có phải Lý Thịnh dẫn sai đường không mà gần đó ngay cả một bóng người cũng không có, đám Chu Phỉ nhân lúc trời còn sớm, dừng chân cho ngựa uống nước ven đường.

Chợt nghe phía sau có tiếng khoái mã đuổi tới, kỵ sĩ kia như hận ngựa mình không thể mọc thêm đôi cánh, quất roi vang rền, chưa tới cạnh Chu Phỉ, kỵ sĩ đã vội vã rút đao, đứng trên lưng ngựa, giơ lên phía sau Chu Phỉ như Thái Sơn đè xuống đỉnh đầu, tiếng "leng keng" của Nhạn Sí Hoàn đao dọa con tuấn mã trẻ giật mình, chân dài giơ cao, người trên lưng ngựa thuận thế bổ xuống, chém về phía Chu Phỉ.

Lý Nghiên thét lên kinh hãi.

Chu Phỉ chợt xoay người, Toái Già chưa ra khỏi vỏ đã chống đỡ một đao ập xuống đầu ấy, thần sắc nàng không thay đổi, dường như hoàn toàn không để ý trình độ đánh lén này, giơ ngang đao chặn lại, sau đó khéo léo hất lên trên.

Người trên lưng ngựa bướng bỉnh không chịu nhận thua, muốn cứng rắn đấu với nàng, song sức mạnh truyền qua đao Toái Già của Chu Phỉ không lớn lại vô cùng khéo léo, nàng nhẹ nhàng vẫy, vừa khéo phá hỏng thế cân bằng giữa kỵ sĩ, ngựa và Đại Hoàn đao.

Kỵ sĩ ngửa ra sau, gian nan kéo cương giữ vững cơ thể, Nhạn Sí đao thoát lực, trượt xuống.

Chu Phỉ không cần nhìn cũng biết là ai, không thèm ngẩng đầu, nói: "Dương cục than, ngươi ăn no rửng mỡ à?"

Người trên ngựa chính là Dương Cẩn, Y đánh lén từ xa, bị chất vấn mà không mảy may xấu hổ, tức giận trừng Chu Phỉ: "Ta đưa thiếp mời ước chiến với cô, cô năm lần bảy lượt giả vờ ứng chiến, bảo ta đi làm việc cho cô, ta làm xong việc rồi, cô lại lật lọng, người Trung Nguyên các cô ..."

Lý Thịnh ngắt ngang tràng lên án thao thao bất tuyệt của Y, hỏi: "Sao Dương huynh lại bỏ người trong môn phái mình lại, một mình chạy tới đây?"

Dương Cẩn vừa mới giao thủ, cảm nhận được sự chênh lệch giữa mình và Chu Phỉ nên càng nóng nảy.

Y khoát tay, nói: "Ta không làm chưởng môn Kình Vân Câu nữa, cả ngày từ sáng đến tối bị mấy chuyện vặt vãnh quấn mãi, loại chuyện rắm thối như vườn thuốc nào mọc cỏ tạp cũng tìm ta xử lý, hại ta không có thời gian luyện đao."

Lý Nghiên ló đầu ra sau Chu Phỉ, hỏi: "Ta nghe nói quý phái chỉ trọng dược lý không trọng võ công, rõ ràng là huynh dùng vũ lực cưỡng bức mới được làm chưởng môn, kết quả huynh làm được vài ngày rồi chê không làm nữa, huynh là con nít à?"

"Nói bậy, ta là bị họ lừa đi tỷ võ!" Hai hàng chân mày rậm của Dương Cẩn dựng thẳng, Y tức giận nói: "Tuy đánh thắng một đám dược nông cả ngày làm ruộng không có gì thú vị, nhưng đã là tỷ võ thì đương nhiên phải thắng, đâu ai nói ta biết họ đang tuyển chưởng môn kế nhiệm đâu! Cái đám ... thôi không nói nữa. Nè, Lý huynh, mấy người đó đều đang tìm huynh kìa, mọi người định đi đâu thế?"

Lý Thịnh khách sáo đáp: "Bọn ta định vòng qua phía nam đi Thục Trung, chạy vặt thay người nhà một chuyến, xong thì về thôi."

Lý Thịnh không muốn đã liên lụy tới người nhà rồi còn kéo theo một đám người không liên quan ... đặc biệt Dương Cẩn còn là một kẻ đại phiền phức không thua kém gì Chu Phỉ, bởi vậy từ thời gian, địa điểm cho tới tuyến đường, mục tiêu, không có câu nào Y nói thật, vô cùng hiển nhiên là muốn lừa gạt tiểu tử ngốc này, để Y tự động rời đi.

Ai ngờ Dương Cẩn không hề biết nhìn sắc mặt người khác, nói không chút quanh co: "Vậy được, ta tiễn các ngươi một đoạn."

Lý Thịnh: "..."

Chu Phỉ gõ Toái Già trên đùi hai cái, cười nhạo.

Dương Cẩn trừng nàng, Chu Phỉ liếc xéo lại Y, nói: "Bọn ta cần ngươi tiễn chắc?"

Nhưng rất nhanh, Chu Phỉ liền trả giá cho vạ miệng của mình.

Cục than đệ nhất Nam Cương này trịnh trọng sờ vào ngực, lấy ra một mảnh giấy nhăn nhúm, phí sức chín trâu hai hổ vuốt cho phẳng rồi đập vào mặt Chu Phỉ.

Chu Phỉ: "..."

Nét mực trên giấy dính cục với nhau, thỉnh thoảng mới có thể nhận ra vài nét xiêu xiêu vẹo vẹo, nếu căng mắt ra nhìn kỹ thì có thể thấy loáng thoáng bóng dáng chữ Hán, thực có thể trực tiếp dán lên cửa trừ tà trấn trạch.

Chu Phỉ khó khăn đọc lên: ""Chí" thư ... tháng tám năm Giáp Ngọ, "Ìn" Vân ... gì ... ờ, Câu, chưởng môn "Ìn" Vân Câu Dương Cẩn, "mợi" Nam đao một... một trận chiến, quyết phân thắng bại ..."

Chữ "chiến" viết thiếu một nửa, chữ "Kình" bị chém khúc giữa, chữ "mời" viết sai, chỉ nhắc "Nam đao", không nhắc Chu Phỉ, không biết có phải vì Dương chưởng môn không biết viết chữ "Phỉ" không.

Dương Cẩn chưa đợi nàng đọc xong cũng biết mình bêu xấu, đỏ mặt tía tai, giật tờ giấy đó lại.

Lý Thịnh và Ngô Sở Sở đều có hàm dưỡng nên gắng nhịn được, vẻ mặt bình thường, nhưng Lý Nghiên thì không quản được nhiều như vậy, cười phá lên.

Chu Phỉ dở khóc dở cười: "Dương chưởng môn, sao viết chiến thư mà ngươi cũng có thể bớt xén thế, chỉ viết có nửa chữ?"

Mặt than đen của Dương Cẩn bị nung thành mặt than hồng, nói với Chu Phỉ: "Rút đao!"

Chu Phỉ đang bận đi tìm cấm địa Tề môn, nào có tâm trạng dây dưa với Y, quăng lại một câu "không ứng chiến", lời vừa dứt, nàng đã xa ngoài mấy trượng, tung người lên ngựa chạy.

Dương Cẩn lập tức đuổi theo: "Cô sợ à?"

Chu Phỉ đáp không chút để ý: "Phải đó, ta sợ chết đi được!"

Lý Thịnh lười quản họ, ung dung lên ngựa, thong thả đi về trước, đột nhiên, Chu Phỉ đi phía trước chợt ghìm cương, ngựa lùi về sau nửa bước, nàng hơi ló người ra, cau mày nhìn ven đường.

Trong bụi cỏ ven đường có vài thi thể áo quần lam lũ nằm ngang dọc đều mặc trang phục nhà nông bình thường, bên cạnh có một sọt đầy cỏ khô, trong sọt hình như có vật sống luôn ngọ nguậy, bị tiếng vó ngựa làm giật mình, run cầm cập mới cứng đờ lại.

Chu Phỉ tài cao gan lớn, tung người xuống ngựa, dùng Toái Già hất cái sọt đang úp lên trên.

"Vật" bên trong co rúm sợ hãi nhìn chằm chằm nàng.

Đó là một đứa trẻ khoảng 2-3 tuổi, gầy đét, rơm rạ đầy người.

Chu Phỉ liếc thi thể bên cạnh, nhớ tới vùng kỳ lạ không chút bóng người này, chợt cảm giác có gì đó không ổn, bèn nửa quỳ xuống, nói với đứa trẻ kia: "Nhóc là con cái nhà ai, cha mẹ đâu?"

Đứa trẻ cắn chặt miệng, nhìn trường đao trong tay nàng, sợ đến mức con ngươi co lại thành một chấm nhỏ, không dám lên tiếng, lồng ngực bé xíu nhấp nhô dồn dập, run càng dữ dội hơn.

Lúc này, nhóm Dương Cẩn và Lý Thịnh đuổi tới.

Ngô Sở Sở kéo Toái Già ra sau Chu Phỉ: "Cất đao của cô đi ... mọi người đừng vây quanh nó, để ta thử xem."

Chu Phỉ không nói gì lui sang một bên, đi lật xem mấy xác chết bên cạnh. Tổng cộng có bốn người chết, ba nam một nữ, đều là người tuổi trẻ khỏe mạnh, xác đã lạnh nhưng chưa có dấu hiệu thối rữa, chắc hẳn mới chết chưa lâu.

"Nông dân bình thường." Lý Thịnh lật tay chân một thi thể lên xem, lập tức ồ lên một tiếng khó hiểu: "Vết thương do kiếm, một kiếm đứt cổ ..."

Lý Nghiên hỏi: "Ai thế, giết mấy nông dân làm gì, họ gặp sơn phỉ cướp bóc sao?"

"Chắc không phải." Chu Phỉ nói: "Trên người mấy người này có không ít vết thương nhẹ, không biết đã đi được bao xa, vả lại trước khi bị giết họ đã giấu kỹ đứa trẻ trong sọt, e là bị truy sát."

Nói rồi nàng cau mày. Giang hồ báo thù không hiếm thấy, nhưng mấy thi thể này rõ ràng tay thô chân thô, mặt mày xanh xao, cơ bắp phân tán, vết chai lòng bàn tay phân bố cũng không giống người từng luyện võ, rõ ràng chỉ là dân chúng bình thường.

Lý Nghiên nói: "Giang Lăng hiện nay là địa giới Nam triều chúng ta, quan phủ chắc có người quản chứ?"

Lý Thịnh lắc đầu, nói: "Bên này gần tiền tuyến, tranh chấp dữ lắm, nay họ Nam, mai họ Bắc, triều đình sẽ không phái quan chức chính thức qua nhanh vậy đâu, đều là người trong quân tạm thay chức thái thú thôi, một khi có căng thẳng là họ sẽ chạy theo quân ngay, nghe theo điều động, chưa chắc có tâm tư lo quản việc dân sinh ..."

Lời Y chưa dứt, Chu Phỉ bên cạnh đột nhiên rút đao, một chuỗi tên như sao băng vút qua không khí lao tới!

..............

"Keng", tiếng sắt lạnh va nhau!

Trên đảo bí mật Bồng Lai, Lưu Hữu Lương dọn sạch tàn nhang, bao cổ tay sắt không cẩn thận va phải hương án, làm lệch cái lò nhỏ, ông vội đỡ cho ngay lại, lau lớp mồ hôi toát ra trên trán do nóng, cẩn thận quay đầu nhìn người vẫn luôn hôn mê bất tỉnh.

Lại vừa vặn đối diện một đôi mắt trong trẻo.

Lưu Hữu Lương giật mình, lập tức phản ứng lại, tiến lên một bước quỳ xuống: "Điện hạ!"

Tạ Doãn không có sức đáp lời, chỉ chớp mắt với ông, nhưng ánh mắt mang theo ý cười.

Lưu Hữu Lương nhanh chóng hoàn hồn, vái Tạ Doãn một vái rồi đứng dậy nhanh chân bỏ chạy, kêu to: "Đại sư, đại sư!"

Trên hòn đảo nhỏ thưa thớt bóng người bỗng dưng nhốn nháo hỗn loạn, thầy đồ Lâm "a ơ" một tiếng nhảy lên, Trần Tuấn Phu sốt sắng quăng lưới đánh cá lại, chỉ có Đồng Minh lão hòa thượng là như sớm có dự liệu, bưng một bát nước thuốc đen sì, thong thả đi tới nói: "Ta đoán cũng tới lúc con tỉnh rồi."

Tạ Doãn nằm rất lâu, nhất thời không có sức, để lão hòa thượng dùng tay đút uống hết bát nước thuốc, ba ông lão ăn ý chia nhau bấm đỉnh đầu và cánh tay Y, dùng nội lực đánh vào Thiếu Dương Tam Tiêu (*). Chỉ trong chốc lát, đỉnh đầu Tạ Doãn liền có khí trắng bốc lên, gương mặt vốn trắng bệch hiện ra chút sắc máu, ước chừng trong thời gian ngắn, người tuy còn yếu nhưng đã có sức nói chuyện.

(*) Thiếu Dương Tam Tiêu: 23 huyệt, từ ngón tay đeo nhẫn dọc bờ (phía ngón út) mu ngón tay lên kẽ ngón út và đeo nhẫn dọc mu tay (giữa 2 xương bàn tay 4 và 5) lên cổ tay đi giữa hai xương (quay và trụ) qua mỏm khuỷu dọc mặt sau ngoài cánh tay lên vai bắt chéo ra sau kinh Thiếu dương đởm, qua vai (Kiên tỉnh) vào hố trên đòn (Khuyết bồn) xuống giữa hai vú (Đản trung), liên lạc với Tâm bào, qua cơ hoành, từ ngực xuống bụng (thuộc về Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu).

Lưu Hữu Lương cung kính ở bên cạnh hộ pháp, thấy Tạ Doãn hắng hắng giọng, thều thào: "Đa tạ sư phụ và hai vị sư thúc."

Nói rồi, ánh mắt Y lướt qua trong động, thấy dưới dạ minh châu bên cạnh treo một tấm da mềm, trên da là một đống nét mực vẽ lung ta lung tung thành một cái mặt quỷ.

Thầy đồ Lâm cười nói: "Ha ha, cái đó là bản dập từ trên mặt con xuống đấy, tiểu nương tử kia của con đúng là chẳng ra sao! Quá nghịch ngợm, cái khác cũng thôi, trên trán vẽ cho con chữ "vương", phía dưới trái phải vẽ hai cọng râu dê, đó chẳng phải là "vương bát" sao?"

Tạ Doãn rùng mình đưa tay sờ mặt, mỉm cười nói với thầy đồ Lâm: "Sư thúc dạy phải, lần sau con nhất định sẽ viết thư truyền đạt lại cho nàng ạ."

Thầy đồ Lâm: "..."

Lúc này, Đồng Minh ở bên cạnh ho khan một tiếng, ngắt ngang lời đùa giỡn của mọi người.

Tạ Doãn: "Sư phụ."

Đồng Minh đặt bát thuốc sang một bên, trầm giọng: ""Tam vị thang" con đã uống tới vị thứ hai, thêm một lần nữa, lão nạp cũng bó tay hết cách."

Chương 139: Chuyện Cũ Kim Lăng

Đồng Minh đại sư vừa lên tiếng, thầy đồ Lâm và Trần Tuấn Phu đều im lặng.

Hồi lâu, Trần Tuấn Phu mới nói: "Đồng Minh huynh, huynh ... nói vậy là ý gì?"

"Ý nói con đang là hồi quang phản chiếu." Tạ Doãn vịn tường đá bên cạnh, thử đứng dậy.

Kể cũng lạ, ban nãy Y nói còn không nổi mà giờ một bát thuốc xuống, tuy rất vất vả nhưng Y vẫn lảo đảo trụ được, kế tiếp, Tạ Doãn thử đi tại chỗ mấy bước, đại khái cảm thấy đã ổn mới vô cùng nhẹ nhàng nói: "Lần trước con được chư vị sư thúc nhiều lần điều trị mới có thể miễn cưỡng đi được trong hang đá, lần này cảm thấy khá hơn nhiều."

Đồng Minh đại sư thở dài: "Giao Hương vực dậy tinh thần, "Tam vị" treo mạng, hai thứ trùng điệp vào nhau có thể ép ra chút sức sống cuối cùng trên người con, khiến con không tới nỗi lặng lẽ suy yếu mà chết, chỉ là trị ngọn không trị gốc, treo mạng một lần là ít đi một đốm "chân hỏa", sau ba vị nếu vẫn không tìm được thuốc giải ..."

Trần Tuấn Phu sa sầm mặt, hỏi: "Vì sao huynh lại cho nó dùng thứ thuốc hổ lang như vậy?"

Đồng Minh đại sư: "Thấu Cốt Thanh toàn bộ đều dựa vào chút nội lực trên người nó chống đỡ, một khi cơ thể suy yếu là hoàn toàn hết cứu, ta thực tài hèn sức mọn, lật nát "Bách độc kinh" cũng chỉ có thể nghĩ ra kế tạm bợ như vậy thôi."

Tạ Doãn không mảy may để ý: "Trần sư thúc, "sống chết có số, phú quý do trời", trúng độc Thấu Cốt Thanh còn có thể nhảy nhót tưng bừng như con đâu được mấy người, ngay cả "hồi quang phản chiếu" cũng có thể chiếu tới ba lần, chắc hẳn duy nhất từ cổ chí kim, còn gì mà chưa biết đủ?"

Trần Tuấn Phu nghe lời khuyên giải này, hàng mày vẫn không giãn ra, ông nhìn Tạ Doãn sâu sắc, Tạ Doãn thản nhiên ngẩng đầu cười với ông. Trần Tuấn Phu thở dài nặng nề, mắt không thấy, tâm không phiền, rời khỏi hang động khô nóng này.

Thầy đồ Lâm cụp mắt, mặt buồn rười rượi: "Biết đủ thế nào đây? Con còn chưa cưới vợ!"

Tạ Doãn liền nói: "Có gì đâu, Lâm sư thúc, thúc cũng chưa cưới vợ mà!"

Thầy đồ Lâm đầy bi thương lập tức bị Tạ Doãn hỗn láo trào phúng làm đau nhói, tức đến mức nhảy tại chỗ ba cái, bứt đứt hai cọng râu bạc, phẫn nộ chạy đi.

Tạ Doãn không chịu tha, cất cao giọng: "Sư thúc, tốt xấu gì con cũng tặng người ta tín vật định tình rồi, còn sư thúc thực không được thì nuôi con mèo cái tán gẫu cho đỡ cô quạnh đi ha."

Lâm phu tử gầm lên ở cửa hang: "Nghiệt đồ! Hỗn xược!"

Tạ Doãn đắc ý đưa tay sờ "tín vật định tình" của Y - hộp nhỏ chứa đầy vỏ sò. Y mở ra xem, thấy mấy cái vỏ vốn được xếp ngay ngắn bên trong như bị mèo cào, loạn hầm pà lằng, Chu Phỉ nhận "ý tốt" của Y nhưng không nhận toàn bộ, nàng chỉ chọn những cái đẹp mang đi, còn mấy cái méo mó nứt mẻ thì để lại hết cho Y.

Tạ Doãn: "..."

Còn rất khó hầu nhỉ.

Đồng Minh đại sư nói với Lưu Hữu Lương luôn căng thẳng đứng hầu bên cạnh: "Lưu thống lĩnh đi trước nghỉ ngơi đi, hôm nay đã làm phiền nhiều, An Chi đã tỉnh rồi, cứ để nó tự quét dọn là được."

Lưu Hữu Lương ngập ngừng, không biết bảo Đoan vương điện hạ tự quét dọn sơn động có hợp tình hợp lý hay không, nhưng sau đó nhìn ra được lão hòa thượng có lời muốn nói bèn thức thời khom người hành lễ, lui ra ngoài.

Thấy ông đi rồi, Tạ Doãn mới hỏi: "Lưu thống lĩnh nào thế?"

"Thống lĩnh cấm quân bên cạnh Tào Trọng Côn, nghe nói là "Hải Thiên Nhất Sắc" cuối cùng." Đồng Minh đại sư nói: "Dạo trước ông ấy trốn chạy khỏi cố đô, dọc đường bị Đồng Khai Dương mang người truy sát, giữa chừng gặp A Phỉ, A Phỉ cứu ông ấy rồi tiện tay giao phó cho Lâm sư thúc con."

Tạ Doãn hơi bất ngờ cau mày, không biết là kinh ngạc vì "Chu Phỉ có thể cướp được người dưới tay Đồng Khai Dương" hay khó hiểu vì sao Hải Thiên Nhất Sắc cuối cùng lại bị lộ.

Đồng Minh đại sư thay Giao Hương đã cháy hết, đốt một cây mới cắm vào hương án, nói: "Tào Trọng Côn chết rồi."

Tạ Doãn thình lình nghe được tin này, đầu tiên là giật mình, sau đó cười nói: "Gì? Nói vậy là con làm Tào Trọng Côn nhịn chết rồi!"

Đồng Minh đại sư: "..."

Tạ Doãn hưng phấn vịn tường đứng dậy, bắt đầu đi lại quanh giường đá, mùi Giao Hương nồng nặc hơi ngộp, Y vươn ngón tay, khói trắng lượn lờ kia như có sinh mạng, triền miên quấn lấy tay Y, tiếp đó chui vào trong thất khiếu bách hài của Y.

Mỗi lần đi một vòng, sắc mặt Y lại tốt hơn một chút, thân hình cũng nhẹ nhàng hơn.

Đi tới vòng thứ mười, Tạ Doãn không cần vịn tường nữa, tiếng bước chân kéo dài càng lúc càng nhẹ, kế đó, Y chợt rung ống tay áo, vận lực vào tay nhẹ nhàng vẫy, bức tranh trên bàn đá ngoài mấy thước bị chưởng phong chính xác của Y bắn văng ra, trải "soạt" đầy bàn.

Nữ tử áo đỏ như muốn tung giấy tuôn ra, phong thái hào hoa trong nét mực soi sáng cả hang động âm u.

Tạ Doãn thu chưởng, chắp tay đứng, cảm khái: "Sư phụ, con cảm thấy mình sắp khỏi rồi, "Tam vị thang" này của Người thật là thuốc độc chứ không phải thuốc giải ạ?"

Đồng Minh đại sư: "A di đà Phật, từ xưa tới nay, bị thương bị bệnh đều đến như núi đổ, đi như kéo tơ, vật sau khi uống mà bệnh đi ngay như hiển linh một đêm, dù Lữ quốc sư cũng chưa từng gặp, phàm nhân sao dám hy vọng xa vời?"

Tạ Doãn chỉ thuận miệng nói đùa nhưng lại khơi ra một tràng thao thao bất tuyệt của lão hòa thượng, bèn vội nói: "Con đùa với Người thôi, không cần nghiêm túc vậy đâu ạ."

Y vừa nói vừa lấy tấm da mềm loang lổ nét mực kia xuống, tỉ mỉ thưởng thức kiệt tác của Chu Phỉ, hỏi: "Sư phụ, con có thể ra ngoài đi dạo không?"

Đồng Minh đại sư không lên tiếng, trong hang đá yên tĩnh chỉ có thể nghe thấy tiếng ông lần tràng hạt, qua một lát, ông mới nhỏ giọng nói: "Tùy con, nhớ mang theo Giao Hương."

Tạ Doãn hiểu, Đồng Minh đại sư đồng ý có nghĩa là Y có thể nhảy nhót vui vẻ cho đến lần uống "Tam vị thang" kế tiếp.

Y suy nghĩ, lại sửa miệng: "Thôi, không đi nữa, một tháng nửa tháng, đi cũng không được bao xa, chán phèo, con cứ ở trên đảo trò chuyện với lão nhân gia vậy."

Đồng Minh đại sư lặng lẽ niệm một tiếng Phật hiệu, vươn bàn tay như cành khô vỗ vai Tạ Doãn, nói: "Thiệt thòi cho con không chê ba lão già sắp xuống lỗ bọn ta."

Tạ Doãn cười nói: "Sư phụ thiên hoàng quý tộc, năm xưa ngay cả loạn thần tặc tử họ Triệu như con đây Người cũng chịu thu nhận giúp đỡ, đồ nhi sao dám chê Người?"

Đồng Minh đại sư nghe, gương mặt đầy nếp nhăn nở nụ cười ấm áp, nói: "Con biết mình là ai là được, là nhi tử của ai, hậu duệ của ai, quan trọng sao? Huống hồ lão nạp thân ngoài chốn hồng trần, qua lại như lục bình trôi, tứ đại giai không, nếu còn so đo chuyện tục gia mấy trăm năm trước thì cả đời tu hành há chẳng phí hoài sao?"

Tạ Doãn giơ một ngón tay lắc lắc, hỏi ngược: "Sinh lão bệnh tử là nỗi khổ phàm nhân, cũng là đạo tu hành, đại sư, nếu Người không so đo chuyện tục gia thì sao thấy đồ nhi tu hành, Người lại mày chau mặt ủ?"

Đồng Minh nhất thời hơi á khẩu.

Tạ Doãn lại nói: "Sư phụ, Người không biết đâu, con vừa mơ một giấc mơ rất dài."

Đồng Minh: "Mơ thấy gì?"

"Mơ thấy chuyện hồi nhỏ... khi đó con không nghe lời khuyên của Người, khăng khăng đòi về Kim Lăng, cảm thấy mình có tài kinh thiên vĩ địa, học nghệ đã thành, nhất định phải về cố đô báo thù." Tạ Doãn bắt chéo chân ngồi trên giường đá, nhẹ nhàng nói trong Giao Hương bảng lảng: "Kỳ thực con chỉ có chút xíu ấn tượng về cố đô và cha mẹ mà thôi, không nhớ rõ, lẽ ra không có chấp niệm lớn như thế, có lẽ do Vương công công lúc nhỏ luôn hộ tống và chăm sóc con cứ nhắc mãi bên tai con mà thành."

Đầu đuôi câu chuyện năm xưa vì sao Tạ Doãn trúng Thấu Cốt Thanh, tuy trong lòng Đồng Minh đại sư có phán đoán nhưng lần đầu tiên nghe chính Tạ Doãn nói nên không ngắt lời Y, yên lặng lắng nghe.

"Con đến Kim Lăng, hoàng thượng và con ôm nhau khóc rống, trước đây con tưởng cả triều trên dưới đều ôm nặng quốc thù gia hận, chỉ mong sao được lập tức Bắc phạt, quay về đánh để báo thù. Nhưng sau đó con mới phát hiện, căn bản không phải vậy, mọi người đều không muốn đánh trận, chỉ muốn an ổn chiếm nửa giang sơn phía nam, tiếp tục làm quan to quý nhân sống qua ngày, không ai muốn hiến gia sản để "phục quốc" cả. Hoàng thượng không làm gì được họ, khoảng thời gian đó, hoàng thượng thường xuyên gọi con vào cùng uống rượu, rượu vào ắt say, say ắt nói ra những lời khổ sở tận đáy lòng. Con vốn ôm đầy bụng xúc động và phẫn nộ, thấy vậy càng không thể nhịn nổi, liên tiếp nhiều ngày đấu võ mồm với phái chủ hòa trên triều đường, cãi nhau ầm ĩ, chướng khí mịt mù. Sau đó con tự cho mình thông minh, xin lệnh đi tuần biên cương, dùng kế dụ người Bắc tới, lại báo láo quân tình, bịa ra ba ngàn quân phòng thủ ở biên quan, thừa cơ đoạt lại ba thành, lấy trận đại thắng này làm cớ, xúi giục bộ hạ cũ của phụ thân và một đám con cháu hàn môn không nơi nương tựa công kích bộ Binh ..."

Đồng Minh cảm khái: "Trẻ người non dạ."

"Trẻ người non dạ, không biết nông sâu." Tạ Doãn cười nói: "Kỳ thực lúc đó Bắc triều đang lúc binh hùng tướng mạnh, còn phương nam hai năm liền chịu lũ lụt, dân chúng lầm than, vả lại triều đình trên dưới không đồng lòng, căn bản không phải thời cơ tốt để khai chiến, ngay cả hoàng thượng cũng chỉ mượn việc tranh chấp giữa hai phái chủ chiến chủ hòa để tạo thế cân bằng giữa "tân đảng" và "thế gia" ở Kim Lăng mà thôi. Mọi người đều hiểu rõ đạo lý này, chỉ mình con không hiểu."

Triệu Uyên dùng "con côi của Ý Đức thái tử" lập ra một tấm bia lớn cho phái chủ chiến, ngoài miệng năm lần bảy lượt tuyên bố mình chuẩn bị nhường ngôi, khiến cựu đảng phương nam phức tạp hốt hoảng không yên, chỉ sợ triều đình Kim Lăng rơi vào tay một tiểu tử choai choai suốt ngày đòi báo thù phục quốc.

Đồng Minh đại sư hỏi: "Sau đó thì sao?"

Tạ Doãn nói: "Sau đó hoàng thượng hạ chiếu cho con vị trí thân vương. Sau đó nữa thì mời đại học sĩ thảo chiếu chỉ, muốn chính thức sắc phong con làm thái tử vào ngày con khải hoàn về triều, đợi khi con đại hôn sẽ nhường ngôi trả quyền. Nếu chưa tuyên bố, lẽ ra nó là mật chỉ, nhưng không biết từ đâu tiết lộ phong thanh, trong một đêm nó đã truyền khắp Kim Lăng sóng ngầm cuồn cuộn."

Ngữ khí Y bình bình nhạt nhạt, nhưng mấy câu ấy như mang theo sóng to gió lớn khiến người nghe lạnh hết cả sống lưng.

Chiếu thư mật bị lộ như đốm lửa hoang đốt lên nỗi lo lắng sợ hãi nhiều ngày của các quý tộc Nam đô, họ không ngờ Triệu Uyên lại "mềm yếu" đến độ này, đành được ăn cả, ngã về không, định diệt trừ "bạo quân" tương lai.

"Con lúc đó ở tiền tuyến xa xôi, ngày ngày lo bố trí canh phòng đối kháng, còn phải vắt óc thu xếp ổn thỏa cho bách tính bị chiến tranh liên lụy... nên không biết chuyện này." Tạ Doãn cúi đầu, nhìn đầu ngón tay nhợt nhạt của mình, nuốt những lời chua chát "dẫu sao con trẻ người non dạ" trở vào, dùng giọng điệu người ngoài cuộc nói: "Chuyện sau đó sư phụ đại khái cũng nghe rồi, lương thảo quân con bị cố ý lề mề, tấu sớ con gửi về Kim Lăng bị giữ lại, bất đắc dĩ chỉ có thể dùng chiêu hiểm, đúng lúc trong quân có kẻ phản bội để lộ bí mật, thành trì bị Tào Ninh cô lập mà viện quân lần lữa mãi không chịu đến."

Tạ Doãn nói: "Nhiều năm nay, bề ngoài con viết "Hàn nha thanh", bán "máu" làm lộ phí, kỳ thực chưa từng chân chính nhắc với ai về chuyện này. Lúc nãy con nằm mơ, từng chuyện từng chuyện một như mới hôm qua, chợt không nhịn được muốn tìm người tán gẫu."

Lần đó chuyện bại lộ, Kiến Nguyên hoàng đế tức giận, cả triều xôn xao.

Đoan thân vương dẫu sao cũng là "hoàng thất chính thống", nghe nói các thái học sinh trong thành Kim Lăng viết thư gây rối, yêu cầu triều đình nghiêm trị "quốc tặc", chuyện càng làm càng lớn, cựu đảng Giang Nam không thể không đẩy ra mấy chục kẻ thế mạng để lắng chuyện, Ngự lâm quân cưỡi ngựa trên đường, xét nhà bắt người ... Xuôi nam hơn mười năm, lần đầu tiên Triệu Uyên đóng mạnh được cây đinh của mình vào thế lực Giang Nam vững chãi, ấu đế "mềm yếu" ấy dựa vào sự ẩn nhẫn phi thường của mình, cuối cùng từng bước một đi đến ngày hôm nay.

Đồng Minh đại sư trầm mặc hồi lâu mới hỏi: "Lúc đó có thân binh tự nguyện làm thế thân cho con, suất binh dẫn dụ bọn Tào Ninh Liêm Trinh đi, yểm trợ con phá vây bỏ chạy, vì sao con không chịu?"

Nếu lúc đó "giữ lại núi xanh, lo gì thiếu củi", với uy tín của Y trong quân đội và dân gian, cộng thêm một lần ngã là một lần bớt dại tương lai, nói không chừng cuối cùng hươu chết vào tay ai còn chưa biết.

Tạ Doãn cười, nói: "Không biết, chắc là số mệnh."

Nói xong, Y vươn vai, bỏ qua đề tài này và những chuyện trong quá khứ, hỏi: "Sư phụ, thanh đao mấy năm trước rảnh rỗi con rèn ra đâu rồi?"

"Tan rồi, chưa kịp ra lưỡi." Đồng Minh cũng ngầm hiểu, không nhắc nữa, chỉ nói: "Trần sư thúc con nói tay nghề con không được."

"Ờm, vậy thôi." Tạ Doãn: "Con lại đi thỉnh giáo thúc ấy, rèn lại thanh khác mới được."

Đồng Minh nói: "Chỗ A Phỉ ..."

Tạ Doãn: "Không cần báo nàng biết, vật có thể gặp nhưng không thể cầu, giục nàng cũng vô dụng, chờ hôm nào con thực chịu hết nổi hẵng báo cũng không muộn."

Y đứng dậy cuộn tranh lại, rồi cất lá thư bên cạnh Chu Phỉ để lại cho Y, chuẩn bị giữ để từ từ xem, tiếp đó hít sâu một hơi, chậm rãi bước ra khỏi sơn động nhỏ bé này, gọi Trần Tuấn Phu bên bờ biển: "Trần sư thúc, có sắt tốt không ạ?"

............

Sắt dùng làm thần binh tuyệt thế dường như đều có lai lịch, chỉ riêng Toái Già là không thấy lưu danh sử sách, không có bối cảnh thần bí "sắt rơi từ thiên ngoại" gì, chỉ là vật được luyện chế thông thường giữa thế gian, nhờ hai vị chủ nhân trước sau là Lữ quốc sư và Nam đao mà trở nên bất phàm trong thiên hạ.

Dương Cẩn hâm mộ nhìn Toái Già chém sắt như chém bùn, cảm giác kiếm sắt khắp thiên hạ đều là bùn trước mặt nó, không dằn được hỏi: "Đao này của cô là đao gì thế? Cho ta xem với được không?"

Chu Phỉ còn chưa kịp đáp, Lý Thịnh đã nóng nảy trước: "Dương huynh, đã là lúc nào rồi! Bắn tên trong rừng, mai phục ở đường nhỏ, lúc bắn tên thì tiết tấu từng đợt rõ ràng, huấn luyện nghiêm chỉnh, đây chắc chắn không phải sơn phỉ bình thường ... A Phỉ muội đi làm gì?"

Lời Y chưa dứt, Chu Phỉ đã lao lên ngược dòng tên bắn, ngang nhiên bổ ra một con đường giữa rừng tên dày đặc, chớp mắt còn chưa vào rừng, tiếng hét thảm đã vang lên bốn phía, tên bắn lén ngợp trời bỗng chốc thưa thớt, đám Lý Thịnh vội vàng đuổi theo, chỉ trong chốc lát, Chu Phỉ đã đánh ngã một nửa đám thích khách trong rừng như gió thu cuốn hết lá vàng.

Bắn cung cần khoảng cách, một khi người tới đủ gần sẽ rất khó thể hiện uy lực, đặc biệt là khi võ lực song phương chênh lệch rất lớn.

Người bắn tên lén thấy tình thế không ổn, lập tức quân lính tan rã, định chạy trốn.

Lý Thịnh nhanh chóng đưa mắt ra hiệu cho Dương Cẩn, hai người chia nhau mỗi người một bên chặn đường chạy của đào binh, bao vây ba mặt, trong nháy mắt đã quấn thích khách hốt hoảng bỏ chạy như cái bánh sủi cảo.

Chương 140: Hiệp Chi Đại Giả (*)

(*) Trích câu của Kim Dung "hiệp chi đại giả, vị quốc vị dân", ý nói kẻ làm hiệp khách phải biết lo cho dân cho nước.

"A Phỉ, muội ..." Lý Thịnh đang định lên tiếng thì chợt thấy dưới sườn Chu Phỉ cắm một mũi tên, sợ hết hồn: "Chuyện gì thế này, đợi đã, muội đừng cử động loạn!"

Chu Phỉ nghe vậy, cúi đầu liếc nhìn không chút để ý, đưa tay gỡ mũi tên sắt kia xuống, trên đầu mũi tên không có tí máu nào, ngược lại còn bị đập bằng.

Lý Thịnh: "..."

Dương Cẩn bên cạnh hít sâu một hơi, không ngờ võ công của Chu Phỉ đã đến cảnh giới "mình đồng da sắt, đao thương bất nhập", Y lập tức dâng đầy niềm bi phẫn phải hít bụi phía sau, mấy năm trước rõ ràng còn ngang ngửa, dựa vào đâu mà nàng có thể tiến xa đến vậy?

Nhất định là đám dược nông Kình Vân Câu làm lỡ việc luyện công của Y!

"Ta mặc giáp thôi, nhìn cái gì mà nhìn." Chu Phỉ đưa tay che áo ngoài bị thủng một lỗ nhỏ, lườm hai kẻ nhà quê thiếu hiểu biết, cúi người đánh giá những kẻ bị họ giết dưới đất. Mấy kẻ mai phục trong rừng này đều là hán tử to khỏe, lấy lá cây vỏ cây để ngụy trang, ẩn mình trong bụi rậm, ai nấy đều che mặt.

Chu Phỉ: "Mấy người này là ai?"

Lý Thịnh lật lòng bàn tay một thi thể qua, cúi đầu quan sát tỉ mỉ chốc lát, lại lấy tay vạch vạt áo người đó ra: "Hộ tâm giáp, cờ lệnh ... trên cờ vẽ gì thế? Ta chưa từng thấy kiểu này."

Trên cờ lệnh vẽ một con chim, không giống kiểu chim ưng, dáng vô cùng đẹp, nhưng ánh mắt lại toát lên vẻ hung ác bí hiểm.

Lý Thịnh nói: "Mấy kẻ này quen dùng cung tên, hình như cũng từng được huấn luyện trường thương, khảm đao các kiểu, biết ẩn náu mai phục, kỷ luật nghiêm minh ... huynh cảm giác họ giống với quân lính. Muội xem những mũi tên sắt họ dùng kìa, chế tác tinh xảo, kích cỡ thống nhất, phỉ nhân làm phản thông thường không có tài lực này, hay là đợi lát nữa soát từng người, tìm xem có thứ gì có thể chứng minh thân phận hay không."

Chu Phỉ ngẩng đầu nhìn thẳng Y, vẻ mặt hai người đều hơi nghiêm nghị. Tuy vì loạn lạc mà nơi đây tạm thời không có trật tự gì nhưng dẫu sao cũng là địa giới Nam triều, binh tướng trong quân ... hình như đều là người của Chu Dĩ Đường.

"Đừng có miệng quạ đen." Đầu tiên Chu Phỉ nói một câu như vậy, sau đó nghĩ ngợi lại nhỏ giọng yếu ớt nói: "Nè, chúng ta không thật sự đánh người của cha muội chứ?"

Lời nàng chưa dứt thì trong góc chợt có một bóng đen vùng dậy, ấy thế mà có cá lọt lưới, gã nhân lúc không ai chú ý, nhảy lên, định chạy thục mạng vào rừng sâu.

Chu Phỉ đang bị suy đoán của mình làm nghi thần nghi quỷ, nhất thời chưa biết là nên đuổi theo hay nên thả, chần chờ cử động bước chân, còn chưa kịp chạy thì thấy người áo đen kia từng bước từng bước lùi ngược lại từ trong rừng, trên cổ đang bị gác một thanh trường đao bản hẹp.

Hóa ra là Ngô Sở Sở chăm sóc đứa trẻ nhặt được và Lý Nghiên bị rớt lại đã đuổi kịp tới.

Lý Nghiên hiếm hoi thể hiện được công dụng một lần, muội ấy một tay cầm đao, một tay vẫy vẫy với bọn Chu Phỉ, đắc ý kêu: "A Phỉ, ở đây còn một tên nè!"

Tay cung tiễn thủ suýt chạy thoát được này khoảng 35-36 tuổi, mặt ngăm đen, trên mặt có một vết sẹo, chưa từng lên tiếng, con ngươi đảo đảo, trông rất không thành thật, ban nãy rõ ràng là ở bên cạnh giả chết, nghe Lý Thịnh nói "soát từng người" mới bất đắc dĩ tự mình bỏ chạy.

Lý Thịnh khống chế huyệt đạo gã, hỏi: "Các ngươi là ai?"

Tay cung tiễn thủ đó chớp chớp mắt, dè dặt cười lấy lòng, nói: "Anh hùng, anh hùng tha mạng! Tiểu nhân có mắt như mù, thấy các vị xe đẹp ngựa quý, ăn mặc bất phàm, nên muốn xin ít tiền tiêu vặt chứ quyết không phải ... Á!"

Dương Cẩn đơn giản mà thô bạo rút một mũi tên sắt ra đánh vào mặt tay cung tiễn thủ đó, Y xuống tay vô cùng xảo diệu, đánh vừa chuẩn vào phần thịt mềm trên mí mắt gã nhưng không mảy may làm bị thương tới con ngươi.

Cơn đau giả gây ra nỗi sợ mù mắt, tay cung tiễn thủ không thể động đậy, đành gào lên như heo bị chọc tiết.

Dương Cẩn nhìn Chu Phỉ như khiêu khích.

Chu Phỉ không hiểu chuyện này có gì hay mà phân cao thấp, bèn "khiêm tốn" lùi ra sau một bước, đưa tay ra hiệu "mời" với Y.

Dương Cẩn uy phong nói: "Còn không nói thật, lần sau sẽ đâm vào mắt ngươi đấy, muốn thử không?"

Dương chưởng môn da đen thui, ngũ quan hơi sâu hơn người thường, nếu người khác không biết Y là đồ ngốc thích viết nửa chữ, chỉ đơn thuần nhìn nụ cười hiểm ác này thì đúng là có dáng dấp của các vu y trong truyền thuyết Trung Nguyên khiến người ta "muốn sống không được, muốn chết không xong".

Tay cung tiễn thủ che con mắt sưng vù của mình, kêu thảm thiết: "Tôi ... tôi ... tôi là ... là một tiểu binh trong quân "chim ngói", chỉ nghe lệnh làm việc thôi! Anh hùng ... không, thiếu hiệp! Đại hiệp! Các vị đại nhân đừng chấp kẻ tiểu nhân, tha ... tha cho tôi một mạng."

Chu Phỉ nghe hơi quen quen, dùng ánh mắt giao lưu với Lý Thịnh: hình như là người của Tào Ninh?

Lý Thịnh chậm rãi nói: "Ừ, dưới tay Tào Ninh có một nhánh quân thám báo nổi danh tên "chim ngói", hành quân cực nhanh, nghe nói có thể một ngày đi ngàn dặm trong sơn đạo gian nan nhất, không đâu không lọt."

Tay cung tiễn thủ - thám báo kia vội gật đầu: "Vâng vâng vâng, tiểu nhân phụng lệnh thâm nhập tiền tuyến nghe ngóng quân tình, không ngờ ..."

Lời gã chưa dứt, Lý Thịnh cười khẽ ngắt ngang, nói với Dương Cẩn: "Hắn vẫn không thành thật, Dương huynh, đánh bể mắt hắn, cho chúng ta nghe chút tiếng vang đi."

Lý Nghiên bên cạnh phối hợp đưa tay bịt tai mình.

"Đừng! Đừng! Đừng! Thiếu hiệp ngài muốn hỏi gì?"

Lý Thịnh nửa ngồi nửa quỳ trước mặt gã, nhìn chằm chằm vào mắt gã hỏi: "Ta từng nghe đại danh quân chim ngói từ chỗ cô phụ, ngành nào cũng có chuyên gia, trong tình huống thông thường, ai lại dùng thám báo bậc cao như các ngươi làm cung tiễn thủ xông pha chiến đấu? Hoặc là lão đại các ngươi ngốc, hoặc là ngươi đang nói bậy ... ngươi thích cách nói nào?"

Thám báo chim ngói lập tức hét to: "Ngốc! Là ngốc! Lão đại chúng tôi ngốc! Thiếu hiệp, ngài nhìn cờ truyền lệnh này là biết, bên trên chính là vẽ chim ngói mà! Đoan vương điện hạ đưa chim ngói và mấy đội ngũ khác cho hai vị đại nhân Cự Môn và Phá Quân sử dụng, hai vị đại nhân đó không để tâm, sai khiến nhiệm vụ đều tùy tiện an bài, tôi cũng nói mà, làm gì có ai bắt thám báo đi làm thích khách chứ?"

Cự Môn Cốc Thiên Toàn và Phá Quân Lục Dao Quang là kẻ thù cũ của 48 trại, Chu Phỉ khoanh tay trước ngực, đứng ngoài hai bước, hỏi: "Ngươi theo hai người họ tới làm gì?"

Thám báo hơi sợ hãi nhìn Toái Già trong tay nàng, dè dặt nói: "Tới ... tới dò đường, Đoan vương gia muốn ..."

Mặt Chu Phỉ không cảm xúc ngắt lời gã: "Còn nói một câu "Đoan vương gia" nữa, ta đánh nát răng ngươi."

Thám báo vô cùng thông minh, lập tức biết nghe lời phải đổi giọng: "Tào... Tào mập kia gần đây bị triều đình ... ngụy triều liên tiếp cản trở, bởi vậy cấp thiết muốn tóm lấy sáu thành Giang Lăng để chặn miệng thái tử ... đại ca hắn, định ra kế sách giương đông kích tây, sai hai vị đại... đại... đại Bắc Cẩu, mang tinh binh vòng sang trận địa địch ... không không, là triều ta, là hậu phương của Đại Chiêu ta ..."

"Ừm." Chu Phỉ nhàn nhạt nói: "Dương huynh, huynh động thủ đi."

Dương Cẩn trợn mắt nhìn nàng. Hai huynh muội này thật xem Y là tay chân sai vặt à!

Thám báo hét lên: "Lời tôi nói đều là thật! Cô nương! Nữ hiệp! Tôi lấy cha mẹ, lấy tổ tông mười tám đời của tôi ra thề!"

Chu Phỉ nhướng mày: "Nói vòng qua trận địa địch là vòng qua trận địa địch, các hạ biết phi thiên hay biết độn thổ? Nếu dễ như vậy thì ta đã hái đầu Tào Trọng Côn xuống làm cầu đá từ lâu rồi."

"Không không không, nghe tôi giải thích." Thám báo bị dọa, mồm mép càng lưu loát, nói nhanh gần như không hề nghỉ lấy hơi: "Để phòng ngừa hàng loạt lưu dân chạy về nam, Đoan... Tào mập trước đó đã sai người tung đủ loại lời đồn về Nam triều, nói họ hung bạo, hễ bắt được lưu dân không có giấy thông hành là giết hết toàn bộ như gian tế, dù sao muốn thảm thế nào thì cứ bịa thế nấy, vả lại hai bên đang đánh trận, bên nào cũng chả tốt hơn bên nào, thật sự đã dừng được thế xuôi nam của lưu dân ..."

Dương Cẩn không kiên nhẫn: "Ngươi không thể nói ngắn gọn sao?"

Thám báo tự cảm thấy mình đã tóm mười câu thành một câu rồi mà vẫn bị chê bai, cũng rất oan ức.

Gã dùng bản lĩnh nghệ nhân kể chuyện dân gian kể nước miếng văng tung tóe: "Trước đây có dạo không hiểu vì sao thám báo nơi tiền tuyến phát hiện thỉnh thoảng có lượng ít lưu dân xuôi nam, rỉ rỉ không ngớt, chúng tôi thấy lạ, bắt một đám mới biết, hóa ra ở sông Tương có một lối đi bí mật có thể thông đến một sơn cốc bí mật thưa dấu chân người, quần sơn thấp thoáng, vô cùng bí mật, người bình thường không tìm được. Dần dà có người tụ cư ở đó, trồng trọt và săn bắn để kiếm sống, người có bằng hữu thân thích trong sơn cốc nghe vậy cũng dắt díu người nhà đến cậy nhờ, phải có người trong sơn cốc ra đón mới tìm được đường. Tào mập nghe xong, lập tức nảy sinh một kế, sai Cự Môn và Phá Quân mang theo chúng tôi giả làm lưu dân trà trộn vào, nhóm dò đường đầu tiên đã xác nhận là đường này có thể thông, còn có thể tránh được tai mắt người Nam, chúng tôi mới chia nhóm mà vào, định tụ tập bốn vạn tinh binh ở đó, đánh một cú giáp công trước sau cho tên tặc ... cho đại tướng quân phía Nam. Chư vị đại hiệp, lời tôi nói đều là thật, thật đấy!"

Vẻ mặt Lý Thịnh không tin.

Thám báo lại nói: "Chúng tôi vì bảo mật mà bắt hết mấy người ban đầu sống trong sơn cốc lại hết, không ngờ mấy ngày trước có vài kẻ chạy thoát, Cự Môn đại nhân sau khi biết vô cùng tức giận, phái liên tục ba nhóm nhân mã đi truy sát, chúng tôi chính là nhóm cuối phụng lệnh đi, ai ngờ gặp phải các vị, nhất thời ..."

Lý Thịnh hỏi: "Các ngươi có bao nhiêu người tới?"

Thám báo quanh co úp mở.

Lý Thịnh không phí lời, đưa tay bẻ trật tay gã, thám báo lập tức đau đến mức nước mắt ròng ròng: "Hai ... hơn hai vạn, gần ba vạn nhân mã, những người khác đang trên đường tới."

Chu Phỉ chợt cảm thấy sơn cốc kia sao nghe giống "cấm địa Tề môn" trong lời Mộc Tiểu Kiều quá, vị trí nè, khó tìm nè, mật đạo dày đặc nè ... hình như đều khớp, bèn hỏi: "Ngươi nói sơn cốc kia nằm ở đâu?"

Thám báo nghẹn ngào: "Chỗ đó rất quái đản, người bình thường đi vào dễ váng đầu hoa mắt, chỉ có "đế thính" trong chim ngói bọn tôi là bị ảnh hưởng ít một chút... ờ, đế thính là người mù từng được huấn luyện nhĩ âm, bình thường là cao thủ thám thính dò la tin tức, mỗi đội chúng tôi đều có một đế thính dẫn đường mới có thể thuận lợi ra vào cái sơn cốc tà môn đó."

Gã vừa nói vừa run rẩy dùng ánh mắt ra hiệu, mọi người nhìn theo ánh mắt gã thì thấy một thi thể nằm trong góc, lật qua xem, quả thực người đó không có con ngươi, đúng là mù ... nhưng đã không thể nào nghe âm thanh để phân biệt vị trí nữa.

Dương Cẩn bĩu môi: "Nói vậy là ngươi vô dụng rồi?"

Nói rồi, Y nhẹ nhàng lần sờ mũi tên sắt trong tay, chậm rãi bước về trước.

"Hữu dụng hữu dụng!" Thám báo vội la lên: "Chim ngói chúng tôi trước giờ hễ đường đi qua rồi là sẽ không quên, tuy chỗ đó tà môn, nhưng... nhưng tôi chỉ cần cẩn thận phân biệt, có ... có lẽ cũng tìm được, tôi tôi tôi tôi ..."

Lý Thịnh giơ tay bắn nửa viên thuốc vào miệng thám báo.

Thám báo thình lình nuốt xuống, nghẹn mở to mắt.

Lý Thịnh lộ ra nửa thân xác chết Niết Bàn cổ mẫu mang theo người cho thám báo xem, cười nói: "Cho ngươi ăn một con Niết Bàn cổ, ngoan ngoãn dẫn đường đi."

Thám báo chim ngói không rõ mấy kẻ giang hồ này dùng chiêu trò ma quỷ gì, sợ vỡ mật, đành gian nan dẫn đường. Lý Thịnh chỉ giải huyệt hoàn khiêu trên đùi gã, lấy dây thừng dài trói dắt gã như dắt chó, để nửa thân trên của gã cứng nhắc đi về trước. Lý Thịnh nói nhỏ với Chu Phỉ: "Huynh biết muội muốn tìm cấm địa Tề môn, nhưng nếu điều hắn nói là thật thì e mấy người chúng ta không dễ tùy tiện xông vào. Trước tiên phải xem thế nào đã rồi về báo cho cha muội biết."

Chu Phỉ gật đầu.

Lý Thịnh lại nhìn đứa trẻ mà Ngô Sở Sở bế, đứa trẻ kia thoạt trông chỉ mới 2-3 tuổi nhưng nhìn kỹ thì e là nó lớn hơn vài tuổi, do cuộc sống thời loạn lạc khó khăn, ăn không đủ no mặc không đủ ấm nên mới vô cùng gầy yếu. Hẳn nó cũng biết ai muốn giết nó ai muốn cứu nó nên ngoan ngoãn vùi vào lòng Ngô Sở Sở, cực kỳ yên tĩnh, không kêu tiếng nào.

Thám báo chim ngói dẫn họ đi trong vùng sơn thủy hết hai giờ, từ giữa trưa tới lúc mặt trời ngả về tây, dù là người luyện võ nhưng nhìn bốn bề cứ nước rồi núi rồi núi rồi nước lặp đi lặp lại mãi cũng sinh ra mệt mỏi. Tuy Chu Phỉ đã sửa cái tật năm xưa ra ngoài không phân biệt phương hướng từ lâu, nhưng hình như cảm giác phương hướng bẩm sinh đã hơi kém hơn người khác, ba năm trôi qua, nàng lại trải nghiệm sự mờ mịt mất phương hướng hồi năm đó ở phụ cận Nhạc Dương thêm lần nữa.

Nàng đưa chân đạp gã thám báo chim ngói một cú, lạnh lùng nói: "Ngươi đưa chúng ta đi lòng vòng đấy à?"

Thám báo vốn run chân, bị nàng đạp một cú ngã sấp mặt, hồi lâu không dậy nổi, bị Lý Thịnh phong bế huyệt câm nên hét cũng hét không ra tiếng, đành mặt đầy sợ hãi liều mạng lắc đầu.

Lý Nghiên chạy tới dưới một cây đại thụ, chỉ vào một cái hố do dấu chân người giẫm ra: "Chúng ta từng qua nơi này, nhìn nè, ta còn để lại ký hiệu!"

Dương Cẩn lạnh lùng nói: "Chúng ta không để lại ký hiệu cũng nhận ra được nơi nào đi qua rồi."

Lý Nghiên trừng Y.

"Người Trung Nguyên các ngươi toàn rề rề rà rà." Dương Cẩn lẩm bẩm, một phát túm tóc thám báo chim ngói: "Đi nhầm một lần, ta chém ngươi một đao."

Nói rồi, Dương Cẩn rút từ cổ chân ra một thanh chủy thủ, giơ tay chặt một ngón tay tên thám báo, Lý Nghiên nhanh chóng lùi lại nhưng vẫn tránh không kịp, giày bị văng vài vết máu, muội ấy thét lên: "Đồ dã nhân Nam man nhà huynh!"

Ngô Sở Sở muốn che mắt đứa trẻ nhưng không kịp, trong lúc gấp gáp đành bế nó xoay người.

Đứa trẻ không biết bị dọa hay bị sao, chợt giãy khỏi lòng nàng ấy, Ngô Sở Sở xuất thân đại tiểu thư, đâu biết bế trẻ, luống cuống buông lỏng tay, để nó thoát đi.

Đứa trẻ ngã phịch mông ngồi xuống nhưng không để ý, phủi phủi đất rồi tự mình nhảy lên, chạy thẳng tới gần một tảng đá, nhón chân, đưa tay móc móc trong tảng đá kia.

Chương 141: Mai Phục

Vị trí khối đá tuy rất thấp nhưng đối với đứa trẻ thì cần phải kê chân, cánh tay nhỏ nhắn của cậu bé chỉ to cỡ hai ngón tay, căn bản không có chút sức nào, cào cào móc móc hồi lâu mà khối đá vẫn không nhúc nhích.

Chu Phỉ hỏi: "Nhóc làm gì?"

Đứa trẻ bị giọng nàng dọa sợ run lên, cảnh giác nghiêng người qua, lưng dựa vào vách đá, như một con thú nhỏ sợ hãi.

Chu Phỉ bất đắc dĩ, đành thuận tay đem hung khí Toái Già treo sau lưng Dương Cẩn, bước lên trước, nắm chặt khối đá kia, lăn xuống ... nàng không lăn được.

Chu Phỉ hơi bất ngờ, ngón tay chợt căng, mu bàn tay nổi gân xanh, nàng dùng tám phần lực, đất cát bị nội lực kích vào rơi rào rào xuống, nhưng khối đá kia vẫn không nhúc nhích. Trước đó nàng thấy đứa trẻ bình tĩnh đưa tay móc, còn tưởng nó là một khối đá gá đỡ vào, không ngờ nó lại dính chặt vào vách đá phía sau.

Ngô Sở Sở nửa ngồi nửa quỳ xuống, cẩn thận nhìn vào mắt cậu bé, hỏi: "Tại sao đệ móc khối đá kia? Ở đó có gì à? Hay đệ từng thấy người lớn trong nhà lấy nó xuống?"

Cậu bé sợ Chu Phỉ nhưng rất tốt với Ngô Sở Sở, cúi đầu không lên tiếng, ngón tay móc móc như có như không vào khe đá sau lưng, lén lút liếc Chu Phỉ, sau đó gật đầu nhanh.

Chu Phỉ cau mày, mấy năm gần đây nàng quả thực tập trung luyện Phá Tuyết đao, nhưng không có nghĩa là công phu khác không được, sau khi đạt đến một trình độ nhất định, đạo võ học đều có thể suy luận tương đồng. Nếu ngay cả nàng cũng không thể dịch được khối đá đó thì mấy nông phu bình thường kia sao có thể làm được?

Nếu họ có công phu đó thì sao lại dễ dàng bị giết ở ven đường?

Lý Nghiên cúi đầu nhìn cậu bé, hỏi: "Nè? Sao nó không nói nhỉ? Muội thấy nó chạy rất nhanh nhẹn, cũng nghe hiểu người khác nói, không phải bị câm chứ?"

Cậu bé rụt lại càng bé hơn.

Chu Phỉ nghĩ ngợi, nói: "Nói không chừng người trong sơn cốc đúng là dựa vào vài khối đá chuyển động làm bảng chỉ đường, nhưng thằng nhóc này chưa chắc nhớ được là khối nào, chi bằng chúng ta tìm loanh quanh thử xem."

Dương Cẩn nắm chắc mọi cơ hội trào phúng nàng: "Là cô không được thôi chứ gì?"

Chu Phỉ cạn lời với loại mặt hàng họ Dương rảnh rỗi đi khiêu khích này, dứt khoát lùi sang bên một bước: "Ngươi được ngươi làm đi."

Dương Cẩn hừ một tiếng, đặt Toái Già sang một bên vô cùng trân quý rồi rút Đoạn Nhạn đao của chính mình, Y thuộc kiểu dị dạng trong những người Nam Cương, tướng tá vô cùng cao to, hai tay giang ra cả mấy thước, lúc nắm Nhạn Sí Đại Hoàn đao trong tay liền tự nhiên có tư thế, Y lùi về sau nửa bước, vai hơi trầm xuống, quát khẽ một tiếng.

"Đoạn Nhạn Thập Tam đao" vào tay Y tuyệt đối không chỉ có mã bề ngoài, Dương Cẩn chợt tiến lên một bước, đại đao ầm ầm bổ xuống như muốn chém đứt Thái Sơn, đao phong cũng bị lưỡi đao sắc cắt làm hai, kêu một tiếng ngắn ngủi rít vang, Lý Nghiên đứng ngoài ba bước bị kình phong thổi đau nửa cánh tay, vội nhấc đứa trẻ đang co rúm lại tránh sang một bên.

Lưỡi đao và núi đá va nhau phát ra tiếng vang khiến người ta ê răng, tiếng "keng" vang vọng không dứt, mũi đao cực kỳ tinh chuẩn cắm vào khe đá bé nhỏ gần như bị bụi bặm che mất, cả vách đá đều bị một đao phá đá rung trời này của Y làm chấn động rung mãi không thôi ...

Nhưng vô dụng.

Đoạn Nhạn đao dùng sức mạnh thô bạo làm khe đá ban đầu sâu hơn nửa tấc, nhưng khối đá mà đứa trẻ chỉ vẫn ở nguyên tại chỗ không nhúc nhích.

Dương Cẩn gầm lên giận dữ, từ trán tới xương quai xanh đều đỏ lên, muốn rút đao tái chiến.

Lý Thịnh ban nãy chưa kịp lên tiếng ngăn cản, lúc này cuối cùng không nhìn nổi nữa, nói: "Dương huynh, dù người trong sơn cốc thật dùng đá di động để làm bảng chỉ đường thì cũng là bảng chỉ đường do người lớn làm, người lớn sao lại chọn tảng đá thấp thế này chứ? Huynh ... huynh ..."

Chu Phỉ phì cười, nói tiếp: "Có phải bị ngu không?"

Dương Cẩn: "..."

Ngô Sở Sở thấy đồng đội có xu hướng nội chiến, bèn vội lên tiếng ngắt lời: "Nhưng ít nhất cũng nói rõ đứa trẻ này từng thấy phụ mẫu nó lấy xuống một khối đá ven đường, đúng không? Nếu đứa trẻ chỉ bắt chước theo thì có phải chứng tỏ người lớn lúc đó đặt đá cũng phải kê chân không?"

Chu Phỉ duỗi dài cánh tay, hơi nhón lên, sờ lớp vách đá bên trên một vòng, cảm thấy khối đá nào cũng dính chắc vào đó, không sờ ra có khối nào từng bị người ta động tay động chân.

"Vẫn không có." Chu Phỉ cau mày nói: "Có phải thằng nhóc này nhớ lộn chỗ không?"

"Chắc không đâu." Ngô Sở Sở nhỏ nhẹ nói: "Phía trước chính là ngã rẽ, cô xem, người chưa từng tới đây như A Nghiên cũng biết để lại ký hiệu dưới gốc cây, nếu người trong cốc thật sự từng để lại ký hiệu thì chắc chắn cũng ở gần mấy ngã rẽ."

Mọi người nghe vậy, nhất thời đều trầm mặc, năm người mười con mắt chốc chốc liếc về phía đứa trẻ như có điều suy nghĩ, đứa trẻ hình như càng bất an hơn, cuộn tròn mình lại, vùi mặt vào lòng Ngô Sở Sở, hiển nhiên, hi vọng moi được gì từ miệng nó là điều quá sức, huống hồ nó còn nhỏ như vậy cũng chưa chắc có thể nói rõ được chuyện nó từng thấy.

Chợt, Lý Nghiên lên tiếng: "Liệu có khả năng ..."

Mọi người cùng nhìn muội ấy.

Lý Nghiên rụt cổ: "Muội ... muội chỉ nói đại thôi, ơ, tỷ... có phải tỷ... không đủ cao không?"

Chu Phỉ lườm muội ấy, Dương Cẩn liếc mắt nhìn đỉnh đầu Chu Phỉ, nở nụ cười khinh bỉ.

Lý Nghiên vội dồn khí vào đan điền, giữ vững lập trường, hùng hồn nói: "Có điều cao cũng vô dụng, chúng ta đâu có lập chí làm kẻ ngu! Ý ta là ... hay là ngươi lên xem xem?"

Kẻ ngu Dương Cẩn: "..."

Sao Y phải ở chung với đám người Trung Nguyên đáng ghét này nhỉ?

Lý Thịnh nói: "Để ta."

Lời Y chưa dứt, mũi chân Chu Phỉ điểm nhẹ lên mặt đất, chợt nhảy lên giữa vách núi, bước chân nhẹ như lông vũ, vách đá bị Đoạn Nhạn đao gây vạ thế mà ngay cả một hạt cát cũng không lăn xuống.

Lý Thịnh trước giờ biết Chu Phỉ không sở trường khinh công, nhưng hôm nay, khinh công tựa làn gió này của nàng khiến lòng Y chợt nhảy ra hai chữ "Vô Ngân".

Không hiểu sao, Lý Thịnh nhớ tới Tạ Doãn.

"Ngây ra đó làm gì." Chu Phỉ nhẹ nhàng bám vào vách đá, nói: "Đưa đao cho muội."

Lý Thịnh hoàn hồn, vội ném Toái Già cho nàng, Chu Phỉ dùng chuôi đao gõ các hòn đá từ trên xuống dưới qua lại một lượt, chợt, Lý Nghiên kêu lên: "Cẩn thận!"

Một khối đá to cỡ bàn tay bỗng rơi ra, Chu Phỉ nhanh tay nhanh mắt đưa tay đón lấy, trở mình nhảy xuống.

Trên vách đá có thêm một cái lỗ, lộ ra dây cót cơ quan nhỏ bên trong, hễ khối đá bị gõ vào, dây cót cơ quan sẽ tự động nhảy lên, bắn đá ra, chỉ là nó đã lâu ngày nên hơi bị gỉ, may mà Chu Phỉ cẩn thận gõ nhiều lần, bằng không không cẩn thận là sẽ bỏ sót nó.

Lý Thịnh hỏi: "Trên đá có huyền cơ gì?"

Chu Phỉ: "Hình như là vẽ một phương hướng. Đợi đã, đây là gì?"

"Đưa huynh xem." Lý Thịnh vội đón lấy, thấy trên phiến đá nho nhỏ ấy khắc hình bát quái, bên cạnh là chú giải chi chít bằng chữ cực nhỏ, không cẩn thận sẽ bỏ sót dòng, nội dung cũng vô cùng cao thâm, không tính loại như Dương Cẩn, dù là Chu Phỉ cũng chưa chắc biết hết các chữ.

Thứ này xuất xứ từ tay các lưu dân tị nạn trong cốc ư?

Lý Thịnh nhìn sơ qua, người khắc đá hình như sợ người khác xem không hiểu, dành ra một khoảng nhỏ giữa đống chú giải phức tạp khắc một mũi tên đơn giản, một bên viết "ra", một bên viết "vào".

"Là bảng chỉ đường." Lý Thịnh nói: "Sơn cốc này e do con người tạo nên, mật đạo ra vào cũng là do tiền nhân để lại ... là cấm địa Tề môn ư? Nhưng đã là cấm địa, sao lại cho nhiều người ngoài tới như vậy?"

Mọi người nghĩ bất kể thế nào cũng phải xem trước đã rồi nói sau, bèn giải quyết tên thám báo chim ngói kia ngay tại chỗ, tự lần mò đi, mỗi khi đến ngã rẽ sẽ dùng phương thức cũ tìm đá chỉ đường, Lý Thịnh còn làm bản dập của mỗi hình trận pháp bát quái phức tạp trên đá chỉ đường. Họ đều là người trẻ tuổi, chân đi rất nhanh, nhưng dù vậy vẫn phải đi vòng vòng hơn hai canh giờ, rừng cây núi đá xung quanh thực giống nhau như đúc, nếu không phải mỗi chú giải trên đá đều khác nhau thì họ gần như nghi ngờ mình vẫn lòng vòng một chỗ.

Đi từ lúc mặt trời lặn tới đêm khuya, sương đã xuống, con đường nhỏ trong rừng tưởng như muôn đời không đổi cuối cùng cũng rẽ ngoặt, tầm nhìn trở nên trống trải, tinh thần Lý Nghiên mỏi mệt, thấy vậy vừa mừng vừa sợ, đang định mở miệng kêu to thì bị Chu Phỉ che miệng lại.

Lý Thịnh khoát tay, mọi người nấp trong góc khuất ven đường, đứa trẻ cũng vô cùng lanh lợi, mở to mắt không nói tiếng nào.

Lát sau, cuối con đường nhỏ có bóng người lóe qua, có người qua lại tuần tra.

Lý Thịnh gật đầu với Chu Phỉ. Tìm đúng nơi rồi.

Chu Phỉ xách Toái Già, chợt xoay người nhảy lên, đêm nay vừa vặn trăng mờ sao ít, nàng vút lên cành cây, không hề kinh động dù là một chiếc lá, như một con chim cảnh giác, chớp mắt liền không còn bóng dáng.

Chuyện đêm khuya đi ẩn nấp với nàng là vô cùng quen thuộc, nàng lặng lẽ xuyên qua bóng đêm không dấu vết, lên xuống mấy lần là lại gần lối vào sơn cốc, Chu Phỉ ló đầu nhìn, thấy nơi đó có hơn mười vệ binh canh gác, còn nghiêm ngặt hơn các lầu cổng thành thông thường, vệ binh ai nấy đều mặc giáp cầm binh khí, nhưng quay mặt về phía sơn cốc. Hiển nhiên, họ không lo người ngoài có thể xông vào, chỉ đề phòng người trong sơn cốc trốn ra ngoài.

Cả sơn cốc sáng như ban ngày, gần lối vào chất đống chạc cây và cọc gỗ linh tinh, đều là cây mới chặt, lá còn rất tươi, không biết có phải để tăng cường phòng bị sau khi có người mượn rừng rậm trong núi để trốn đi hay không.

Thỉnh thoảng có tiếng kim loại va nhau do người mặc giáp đi tới đi lui xuôi gió truyền đến, vô cùng nghiêm ngặt, quả nhiên là nơi có đại quân đồn trú.

Lúc này, Chu Phỉ nghe tiếng chim quen thuộc, nàng ngẩng đầu nhìn, thấy trên núi có thứ gì đó chớp nháy với nàng, hóa ra bọn Lý Thịnh đã bò tới chỗ cao.

Chu Phỉ và Y vô cùng ăn ý, vừa nghe tiếng chim liền hiểu ngay ý Y, tay nàng nắm hạt đậu để dành cho ngựa ăn búng ra ngoài, đậu đen thêm kình lực va vào đá núi vang lên tiếng lộp bộp hỗn loạn, các vệ binh lập tức bị kinh động, thi nhau cầm đao kiếm tìm quanh.

Chu Phỉ chợt nhảy từ trên cây xuống, các vệ binh chỉ thấy một bóng đen lóe lên, căn bản nhìn không ra có phải là người hay không, tức khắc đuổi theo như lâm đại địch, tiếng còi chói tai vang lên bốn phía, lối vào sơn cốc nhất thời hỗn loạn, nhân lúc Chu Phỉ kéo vệ binh đi, đám Lý Thịnh từ chỗ đá núi tối chạy qua, may mà cây trên núi chưa kịp chặt hết, chỉ dọn sạch chỗ lối vào, nên tránh được một quãng ngắn ấy thì bên trong không đến mức không có chỗ ẩn thân.

Vệ binh nơi lối vào bị Chu Phỉ dắt đi đủ rồi, cuối cùng, đám người cầm đao kiếm thuận theo tiếng vang áp sát chỗ đống gỗ. Người cầm đầu ra dấu tay với thuộc hạ, tiếp đó chợt tiến lên một bước, hét to, dùng trường thương trong tay đâm vào đống lá cây. Trong đống cành lá có một tiếng kêu thảm thiết vang lên, dọa cho đám vệ binh thi nhau rút đao rút kiếm, tiểu đầu mục rút trường thương ra, trên đầu thương đâm một con chim lớn vẫn chưa chết, đang đập cánh phành phạch giãy giụa sắp chết.

"Sao lại là chim?" Tiểu đầu mục gãi đầu khó hiểu: "Tản đi tản đi, ai nấy về vị trí canh gác... đây là quạ hay gì nhỉ? Sao to thế? Tà môn quá!"

Thấy chỉ là sợ bóng sợ gió, nơi lối vào sơn cốc nhanh chóng khôi phục sự yên tĩnh, chỉ có tiểu đầu mục kia cảm thấy đêm hôm khuya khoắt chợt nhảy ra một con quạ dọa người là không may mắn, bèn đưa con chim đó tới bên lửa, định trực tiếp thiêu chết.

Hắn ngâm nga một tiểu khúc không biết của vùng nào, trường thương đặt trên đống lửa, không để ý phía sau từ từ ló lên ánh sáng lạnh nhắm thẳng vào lưng.

Lúc này, chợt có một tràng tiếng bước chân truyền đến, đội tuần tra trong cốc đi tới, ở xa xa chào hắn: "Nướng gì đó? Ăn vụng thì được nhưng đừng làm lỡ việc đấy!"

Tiểu đầu mục gào to đáp lại, không nhìn thấy ánh sáng lạnh sau lưng từ từ rụt trở về.

Chu Phỉ quay đầu nhìn sơn cốc rộng lớn, thấy trong cốc có không ít nhà dân đơn giản, vài cái bị san phẳng cắm hàng rào, ở giữa là một quân trướng lớn vô cùng bắt mắt dưới ánh lửa thấp thoáng, lương thảo chất cao cao, chiến mã chỉnh tề như một ... quá khác so với "cấm địa Tề môn" trong tưởng tượng của nàng, đặc biệt là những nhà dân chưa kịp bị san bằng kia, rõ ràng đã trải qua gió táp mưa sa, có ít năm tháng, nàng từ nơi cao quét mắt nhìn có thể thấy vài miếng gạch bể ngói vỡ và chuồng gia súc bị đổ một nửa.

Tề môn xưa nay thần bí khó lường, "cấm địa" lại càng là truyền thuyết, Hắc phán quan trà trộn vào Tề môn nhiều năm như vậy cũng không tìm được cấm địa, trong đó liệu có một đám bá tánh bình dân chăn dê nuôi heo chứ?

Không thể nào.

Chu Phỉ không ngăn được nỗi thất vọng, thầm thở dài, chỉ cảm thấy một ngày một đêm này đều là phí công, kỳ thực ngẫm kỹ cũng biết, đâu dễ chui vào cấm địa Tề môn như vậy, nếu có vận may đó thì nàng có thể chạy đôn chạy đáo chạy ngược chạy xuôi hơn ba năm vẫn chẳng thu hoạch được gì sao?

Chu Phỉ nhàm chán thu Toái Già lại, nhìn tiểu đầu mục Bắc quân vô tri vô giác nhặt được mạng về, lặng lẽ lách mình nép vào bên vách núi tránh đi.

Chu Phỉ nghĩ --- Đại quân Bắc triều tập kết ở đây, không phải là chuyện mà người giang hồ dân gian như chúng ta có thể quản được, tốt nhất nhân lúc trời tối, vào thế nào ra thế nấy thôi.

Lý Thịnh vì mang theo Ngô Sở Sở và một đứa trẻ nên không dám quá liều lĩnh, luôn cẩn thận mượn núi đá và rừng cây quanh sơn cốc để che giấu tra xét, càng nhìn càng kinh hãi: "Mọi người xem, lương thảo và kho vũ khí đều đầy đủ, cả sơn cốc không có lấy một tàn binh yếu ớt, ai nấy đều cường tráng khỏe mạnh ... thám báo kia nói không đúng, ít nhất cũng gần bốn vạn người, chủ yếu là kỵ binh và cung tiễn thủ."

Dương Cẩn và Lý Nghiên mắt to trừng mắt nhỏ, ù ù cạc cạc, không quan tâm tới Y.

Chỉ có Ngô Sở Sở nhẹ nhàng tiếp lời: "Quân nhu rất ít, e là không ở đây lâu."

Lý Thịnh cuối cùng cũng tìm được một người nghe hiểu tiếng người, thở dài.

Ngô Sở Sở lại đưa tay chỉ, hỏi: "Ở đó là sao?"

Mọi người đều là người tập võ, thị lực ban đêm vô cùng tốt, nhìn theo hướng tay nàng ấy chỉ, thấy trong góc sơn cốc có một nơi được trọng binh canh gác, bốn phía lấy lưới sắt ngăn lại, loáng thoáng có thể thấy bóng người áo quần lam lũ bên trong.

Lúc này, phía sau họ chợt truyền đến một tiếng vang khẽ, có người dùng chuôi đao gõ lên đá, Dương Cẩn giật mình quay đầu, thấy người tới là Chu Phỉ mới bỏ Đoạn Nhạn đao xuống.

Chu Phỉ nói không kiên nhẫn: "Đi mau thôi, chúng ta có mấy người như vậy, còn mang theo một thằng nhóc, bị phát hiện không phải chuyện đùa đâu. Ca, về tự muội sẽ đi tìm Tề môn, huynh mau gấp rút tìm cha muội, đừng để lỡ chính sự."

"Đợi đã." Ngô Sở Sở chợt nói: "Mọi người nhìn xem, họ muốn làm gì?"

Chương 142: Ẩn Nấp Nặng Nề

Một lính liên lạc từ trướng lớn ở giữa chạy ra, đứng trên đất trống, giơ cao tay.

Đám cai ngục ngồi vây quanh hàng rào sắt thấy tên lính đó tới thì toàn bộ đều đứng lên, bọn Chu Phỉ cách quá xa, không biết hai bên trao đổi gì, dù sao qua chốc lát, tên lính liên lạc đó liền xoay người rời đi, các vệ binh ngoài hàng rào sắt thi nhau đốt đuốc.

Hàng rào sắt vốn xây ở chỗ tối, trước đó chỉ có thể thấy bên trong hình như có mấy người bị giam, bọn Lý Thịnh thoạt đầu tưởng đấy chỉ là một góc nhỏ dựa núi, đại khái chỉ giam vài lưu dân xui xẻo, bất quá chỉ mười mấy hai mấy người.

Nhưng theo từng bó đuốc sáng lên, mọi người đều ngây ngẩn.

Hàng rào sắt này hóa ra không phải dựa vào chân núi mà là bịt lại một sơn động, không nhìn rõ sơn động sâu bao nhiêu nhưng bên trong toàn người với người, già trẻ đủ cả, áo quần lam lũ, khuôn mặt đờ đẫn, chỉ nhìn từ bề ngoài thì hơn mấy trăm người, họ bị nhốt sau hàng rào như súc vật, trên đầu nhọn của hàng rào là một cái đầu lâu đã rữa còn xương trắng!

Lý Nghiên kinh hãi: "Trời... trời ơi, sao lại nhiều người như vậy!"

Dương Cẩn kinh ngạc: "Là lưu dân à? Nhiều người như vậy mà không giết cũng không thả, nhốt họ lại làm gì? Nuôi hả?"

Lý Thịnh nhẹ nhàng giải thích: "Ta đoán lúc Cự Môn và Phá Quân của Bắc Đẩu mới đến đây, chắc chắn đã nhìn ra được bí mật của sơn cốc này là do con người làm ra, lúc chưa rõ tình huống thì trong lòng chưa chắc chắn liệu sơn cốc này có mật đạo khác không. Nơi đây nhiều lưu dân như vậy, nếu tùy tiện hạ sát thủ, lỡ lưu dân biết lối mật đạo khác ra vào, để vài con cá lọt lưới chạy thoát thì họ sẽ không diễn nổi vở tuồng này nữa."

Ngô Sở Sở lập tức hiểu ý Y, bừng tỉnh: "Cho nên không thể giết mà phải tạm ổn định mấy lưu dân này."

"Không sai, chẳng hạn như mới đầu đám Bắc quân có thể ban phát cả ân uy, một mặt nói lưu dân xuôi nam là phản quốc, đáng tội tru di cửu tộc, sau đó lại bắt một kẻ cầm đầu trong đám ra giết một để răn trăm, giết xong tiện thể đẩy hết tội danh lên đầu người chết, rồi an ủi vỗ về đám lưu dân hoảng hốt lo sợ kia, tuyên bố họ bị kẻ gian mê hoặc, nếu thành tâm hối cải thì có thể thoát tội." Lý Thịnh hơi suy tư một lúc rồi nói tiếp: "Nếu là ta, ta sẽ vờ phái người soạn sổ sách nhập tịch cho họ lần nữa, nói với họ rằng hiện nay dân số phương bắc đang giảm mạnh, triều đình dự định đo đạc lại, phân chia ruộng đất hoang, người có tên trong sổ sách sau này về có thể được phân cho ruộng nhất đẳng, cứ thế, lưu dân ổn định, kiểm kê xong nhân số, lại còn khỏi phải lo có kẻ đục nước béo cò."

Dương Cẩn cúi đầu nhìn, phát hiện mình bị dăm ba câu của Lý Thịnh nói làm nổi da gà toàn thân, mấy người Trung Nguyên này giết người không cần đao.

Đe dọa cộng thêm dụ dỗ, đối phó bầy dê mất con đầu đàn là chuẩn không cần chỉnh.

Đa số lưu dân đều nhát gan, yêu cầu bức thiết cả đời chẳng qua chỉ là một mảnh đất dung thân, chưa tới mức không sống nổi thì sẽ không tùy tiện phản kháng hay bỏ trốn, chỉ cần có ăn có uống không bị đánh là có thể bảo họ ngoan ngoãn đợi ở đây, có lẽ còn có thể thu mua vài kẻ tâm trí không kiên định để giúp bọn Bắc quân điều tra mật đạo khác.

Chờ Bắc quân hiểu rõ địa hình là có thể xé bỏ vỏ bề ngoài. Tới nước này, các lưu dân đã mất đi năng lực và dũng khí ban đầu, cơ bản chỉ có thể mặc người làm thịt, lúc này muốn giết họ diệt khẩu hoặc sai họ làm cu li, thao túng thế nào cũng được.

Nhưng đáng tiếc, trong một nhóm dù ngàn người như một tới đâu đi nữa, vẫn luôn có những kẻ khác biệt... mấy người mang đứa trẻ bỏ trốn chính là người như thế.

Họ chưa chắc có đại trí đại dũng gì, có lẽ là trùng hợp vì nguyên do gì đó không thể không trốn, còn không cẩn thận trốn thành công.

Bắc quân sắp tập kết xong, lúc này mà để lộ bí mật thì chắc chắn là công dã tràng, trong thời khắc mấu chốt đấy, Lý Thịnh có thể tưởng tượng được bọn Cốc Thiên Toàn phẫn nộ cỡ nào, do đó không tiếc phái ra mấy nhóm nhân mã truy sát các nông phu thôn phụ, nhất định phải đuổi tận giết tuyệt. Đồng thời, bọn lưu dân được nuôi này đã không còn giá trị, để đề phòng chuyện tương tự không xảy ra nữa, vừa khéo diệt khẩu họ một lượt.

Trong sơn cốc, ngoài hàng rào sắt, một đội vệ binh đồng loạt cài áo giáp, xách dao bầu sáng loáng. Nhóm Chu Phỉ cũng không hiểu sao lại tới đúng lúc như vậy, vừa khéo đụng phải màn "diệt khẩu" này.

Đứa trẻ được Ngô Sở Sở bế lại liều mạng giãy giụa lần nữa, nhưng lần này Ngô Sở Sở đã có kinh nghiệm, cứ giữ lấy cậu không cho cựa quậy, đứa trẻ dưới tình thế cấp bách phát ra tiếng nghèn nghẹn như thú nhỏ, cúi đầu cắn tay nàng ấy, chỉ là chưa kịp cắn thì bị một cái tay bóp lấy cằm.

Chu Phỉ cưỡng chế đẩy miệng cậu ra, ngẩng mặt cậu lên, lạnh lùng lườm cậu, ngón tay khẽ búng qua huyệt ngủ của cậu, vành mắt cậu đỏ lên nhưng không thể nào kháng cự, đành nhắm mắt rất không cam tâm tình nguyện, nước mắt bị mi mắt khép lại ép ra ngoài, rơi ướt mặt.

Chu Phỉ lau nước mắt dính trên đầu ngón tay, nhỏ giọng: "Lý Thịnh."

Lý Thịnh cưỡng chế thu hồi ánh mắt của mình, chần chừ một chút, cắn răng nói: "Giang hồ có quy củ của giang hồ, không đụng tới việc triều đình, chuyện nào ra chuyện nấy, đi thôi."

Lý Nghiên mở to mắt không tin nổi: "Ca?"

Lý Thịnh mắt điếc tai ngơ, xách muội ấy lên đẩy nhẹ về phía trước, giục muội ấy đi mau, đồng thời chìa tay với Ngô Sở Sở: "Đưa đứa trẻ ta bế cho, mọi người đi trước đi."

Dưới núi, lưu dân "đợi làm thịt" dường như hiểu ra gì đó, đám người trở nên hoang mang hoảng loạn, trong sơn động tối tăm ấy không biết chen chúc bao nhiêu người, tiếng họ thét gào, xô đẩy, xin tha và mắng chửi loạn xà ngầu từ sơn cốc rộng rãi truyền tới nơi cao, chui vào tai mấy vị "thiếu hiệp".

Lý Nghiên hốt hoảng quay đầu nhìn, không chú ý bị Lý Thịnh đẩy cho lảo đảo.

"Nhìn gì mà nhìn." Lý Thịnh trở nên cáu kỉnh, quát không kiên nhẫn: "Lo đi đi kìa!"

Lý Nghiên không khỏi kêu lên: "Lý Thịnh huynh mù sao? Họ muốn giết người đấy! Giết những lưu dân tay không tấc sắt chạy nạn tới đây ... Nhiều người như vậy, cả sơn động toàn là người, A Phỉ! Tỷ nói gì đi chứ!"

Bước chân Chu Phỉ dừng lại, nhưng không lên tiếng.

Lý Nghiên tưởng nàng không nghe thấy, gọi liền mấy tiếng "A Phỉ, A Phỉ", nhưng Chu Phỉ vẫn không đếm xỉa. Trong nháy mắt, dường như Lý Nghiên hiểu ra gì đó, sững sờ nhìn Chu Phỉ rồi lại nhìn Lý Thịnh, ánh sáng phản chiếu trong đôi mắt to như đống lửa bị nước lạnh giội vào, nét kinh ngạc dần ảm đạm.

Qua một lát, muội ấy lúng túng nói: "Mặc ... mặc kệ họ à?"

Lý Thịnh lạnh lùng nói: "Muội muốn đi tìm chết hả?"

Lý Nghiên cực kỳ tủi thân: "Nhưng ở phủ Tế Nam, A Phỉ chẳng phải đã cứu đại thúc kia khỏi tay Đồng Khai Dương sao?"

Chu Phỉ cúi đầu vuốt nhẹ chuôi đao Toái Già.

Lý Nghiên lại nói với Lý Thịnh: "Còn huynh nữa, dọc đường huynh khoác lác nói mình dẫn một đám người đánh lui Thiết diện ma Ân Bái ở Liễu gia trang, huynh ..."

"Muội xong chưa thế?" Lý Thịnh ngắt lời muội ấy: "A Phỉ và Đồng Khai Dương giao thủ không chỉ một lần, trước khi rút đao, trong lòng muội ấy đã nắm chắc rồi. Lần ở Liễu gia trang, mọi người vốn đã thương lượng xong xuôi là bao vây tiêu diệt Ân Bái, muội biết "bao vây tiêu diệt" nghĩa là gì không? Mấy năm nay nếu không phải các đại môn phái đều chia năm xẻ bảy thì Ân Bái căn bản không thể nhảy nhót tới bây giờ. Muội nhìn lại nơi này đi!"

Y chợt quay đầu chỉ xuống dưới sơn cốc: "Đó là bao nhiêu người? Còn đây là mấy mống? Chúng ta tổng cộng chỉ có năm người, còn mang theo một thằng nhóc phiền hà, mà muội thế này cũng không thể tính là một người. Huynh nói thật cho muội biết, Lý Nghiên, hôm nay đừng nói là ta và muội, dù là đại cô cô mang theo tất cả tiền bối trong trại ở đây, cô cô cũng không dám tùy tiện ra tay với mấy vạn tinh binh Bắc triều."

Lý Thịnh luôn không có sắc mặt tốt với muội ấy, nhưng cũng rất ít khi thật sự nghiêm nghị giận dữ.

Lý Nghiên bị ca ca thình lình lên cơn dọa sợ ngây người.

Lý Thịnh hít sâu một hơi, giảm thấp âm lượng: "Dù muội pháp lực vô biên, có thể dời non lấp biển, áp chế được mấy vạn đại quân này, nhưng sau đó thì sao? Muội nhìn mấy người kia đi, đa số đều đứng còn không nổi, muội cứu họ thế nào, hả? Lý Nghiên, muội không còn nhỏ nữa, lúc nói chuyện có bao giờ động não không?"

Trước đây rất lâu, Lý Thịnh từng lòng đầy hoài bão muốn "nổi bật hơn người", tự mình dỗi với chính mình đến mức cách ly mọi người, thực lòng tin rằng Lý thiếu gia thiên hạ vô song, tưởng sẽ có ngày mình đâm thủng cả trời, chết cũng không chịu thừa nhận võ công Chu Phỉ tốt hơn mình.

Giờ đây, Y đã biết quản lý phòng ngự trong trại một cách ngay ngắn rõ ràng, biết khôn khéo trước mặt người ngoài, cũng biết che giấu tài năng, biết "thiên hạ vô song" chẳng phải từ gì hay ho ... thậm chí còn biết lâm trận bỏ chạy vì mấy câu ám chỉ ý tứ sâu xa của Nghê Thường phu nhân.

Trước đây rất lâu, Chu Phỉ cũng từng nghé con không sợ hổ, dùng Phá Tuyết đao gà mờ vừa chiến tranh lạnh với Tạ Doãn vừa không biết trời cao đất rộng chống lại Thanh Long chúa Trịnh La Sinh, còn tự cảm thấy mình rất có lý, cho rằng "trong loạn thế vốn không có vương pháp, nếu đạo nghĩa cũng âm u mất tiếng, thì đám người ham sống sợ chết kia còn gì đáng hi vọng đây?"

Giờ đây, Vô Thường trong Phá Tuyết đao của nàng đã luyện thành, có thể khiến chính miệng Mộc Tiểu Kiều thốt ra câu "Lý Chủy cũng chưa chắc thắng được cô" nhưng tay chân nàng lại như bị trói buộc. Nàng biết ứng phó qua loa lúc oan gia ngõ hẹp gặp Đồng Khai Dương, cũng biết ẩn náu trong chỗ khuất không lộ diện khi mọi người bao vây tiêu diệt Ân Bái ... thậm chí có lúc, nhớ lại những chuyện cũ dày đặc sương mù, lòng nàng cũng sinh ra nỗi hoài nghi và khó hiểu vô biên.

Lý Thịnh muốn về 48 trại, cả đống chuyện lặt vặt trong trại đang chờ Y, Lý Cẩn Dung không thể mãi mãi che chở con thuyền nhỏ 48 trại trong mưa gió dập dềnh, bà đang dần dần dời trọng trách lên đôi vai lứa trẻ.

Chu Phỉ muốn đi cấm địa Tề môn, đi tìm chút hi vọng nhỏ bé mong manh ấy, dạo này nàng luôn có cảm giác nôn nóng không biết từ đâu mà có, cứ như nàng mà không nhanh lên thì Tạ Doãn sẽ không chờ được nữa.

Ngô Sở Sở biết mình bản lĩnh thấp kém, có thể không vướng chân người nhà đã là phát huy vượt bậc, lòng bất bình lớn đến đâu cũng không dám lợi dụng người khác để giúp ích cho mình, do đó chỉ im lặng nghe huynh muội Lý Thịnh cãi nhau.

Lý Cẩn Dung mấy năm gần đây cũng già đi thấy rõ, giờ bà gặp đám tiểu bối họ cũng hòa nhã hơn nhiều, thỉnh thoảng rảnh rỗi, thậm chí bà có thể ôn hòa ngồi xuống trò chuyện với Chu Phỉ về Phá Tuyết đao, sau đó bất đắc dĩ khoát tay, thừa nhận: "Ta không còn gì để chỉ bảo con nữa rồi."

Không ai là cô độc, dù thật có thể làm được "sinh tử nhẹ" thì phía sau vẫn còn một câu "tình nghĩa nặng", sao dám trổ tài anh hùng lỗ mãng vô nghĩa như vầy chứ.

Giang hồ mưa gió mịt mù chưa chắc sẽ biến huyết thống anh hùng thành tiểu nhân tham sống sợ chết.

Nhưng nó luôn có thể dạy một người "không gây phiền toái".

Lý Nghiên khó khăn thút thít một tiếng, vô thức kêu lên: "A Phỉ ..."

Chu Phỉ tránh ánh nhìn muội ấy, không phụ họa Lý Thịnh, cũng không bênh vực muội ấy, chỉ cứng ngắc nói chen vào: "Vẫn đi đường cũ ra ngoài sao?"

Vẻ mặt Dương Cẩn do dự, ngũ quan sắp nhăn thành một cục.

Lúc này, Ngô Sở Sở đã lâu không lên tiếng nhìn xuống sơn cốc lần nữa, chợt nói: "Phía sau hàng rào sắt đó ... hình như không nhốt nữ nhân."

Lưu dân từ bắc xuôi nam đương nhiên đủ cả già trẻ nam nữ, những lưu dân này đi đường xa xôi đến, định cư làm nông trong sơn cốc, không thể chỉ có mỗi nam tử, vậy nữ tử không ở đây thì ở đâu?

Khắp núi đồi đều là binh lính tinh lực tràn trề, chuyện này đã không cần nói rõ.

Một câu của Ngô Sở Sở khiến mọi người đều im lặng.

Tiếng "keng" vang lên, giữa những tràng tiếng gào khóc, binh khí sắc bén vạch mở hàng rào sắt.

.............

Lúc này, bên bờ Đông Hải gió yên sóng lặng, Tạ Doãn đang cầm một thanh đao tỉ mỉ lật qua lật lại: "Trần sư thúc, tiêu chuẩn "đao tốt" của thúc rốt cuộc là gì? Có thể nói rõ chút không?"

Trần Tuấn Phu không có Thấu Cốt Thanh trong người, bị lò lửa nóng hừng hực làm toàn thân mồ hôi mồ kê nhễ nhại, ông cởi áo lau mồ hôi nóng dưới cằm, giọng điệu vẫn không nóng không lạnh: "Con thấy thế nào?"

"Đầu tiên là vật liệu tốt, kế đó là tay nghề tốt, lưỡi sắc mà không giòn, sống đao cứng mà không nặng, lúc nghịch gió không trở ngại, lúc thuận gió cũng không tùy tiện ... đương nhiên, còn phải bền chắc nữa. Đó là đao tốt." Tạ Doãn dừng lại, lại nói: "Nếu chủ nhân của đao có bản lĩnh lớn, khiến tên khắc trên đao danh tiếng lan xa, nó sẽ thành danh đao tuyệt thế."

Trần Tuấn Phu cười.

Tạ Doãn: "Sao ạ?"

Trần Tuấn Phu nói: "Con không dùng đao, lời nói ra đều là lời của thợ, A Phỉ nghe được, chắc chắn sẽ cười con."

Tạ Doãn mặt dày: "Nghề nào cũng có chuyên gia, cứ việc cười. Thế sư thúc nói lời không phải của thợ con nghe xem."

Trần Tuấn Phu nói: "Nhiều năm về trước, có một tiểu nha đầu ra tay hào phóng, đến Bồng Lai cầu ta làm một bộ đao kiếm, bảo là muốn đền cho bằng hữu. Đao khắc chữ "Sơn", kiếm khắc chữ "Tuyết" ..."

Tạ Doãn: "Con may mắn từng thấy."

Trần Tuấn Phu nói tiếp: "Thanh "Sơn" kia là đao thịnh thế, ta chưa từng thấy vật gốc, chỉ nghe cô nhóc kia miêu tả, cô ấy là người sảng khoái, rất hoạt bát, nói chuyện như đổ đậu, đao kiếm được cô ấy miêu tả là đao cho bậc anh hùng mà cô ấy ngưỡng mộ, khi rèn ra vừa điềm đạm vừa trang nghiêm, trong nó mang tâm ý của rượu ngon kính người tri kỷ. Không phải ta khoe khoang, đó là thanh đao tốt. Lại nói một thanh đao khác ... yêu đao "Toái Già"."

Tạ Doãn: "Di tác của Lữ quốc sư, lúc nhỏ con từng thấy một lần ở chỗ hoàng thượng."

Trần Tuấn Phu: "Cả đời Lữ Nhuận, văn thành võ tựu, xứng với tám chữ "kinh thiên vĩ địa, kinh tài tuyệt diễm", nhưng cả đời lại thân bất do kỷ, trên có lỗi với quốc gia, dưới có lỗi với bằng hữu, giữa có lỗi với bản thân, sau khi chết mấy trăm năm, Dược cốc còn vì từng cho ra một Lữ quốc sư mà bị Tào Trọng Côn sát hại, sụp đổ tan hoang, giống như trời đố kỵ anh tài. Lữ Nhuận bị quản chế bởi trời, bởi người, bởi mệnh, tài hoa ngút ngàn không thể thi thố, đành không nhìn không nghe không hỏi, bởi vậy làm ra thanh "Toái Già" hùng hổ dọa người, đầy lòng căm phẫn, tuy trước khi gặp A Phỉ, nó chưa từng ra khỏi vỏ nhưng lại có lệ khí cắt ngang trời đất."

Tạ Doãn hơi nhíu mày.

Trần Tuấn Phu: "Nhưng nó cũng là đao tốt, đao tốt tuyệt thế. Hai thanh đao tốt, vật liệu đều là sắt tốt hiếm gặp, tay nghề đều rất tốt, lưỡi đều rất bén, sống đao đều cứng, "lúc nghịch gió không trở ngại, lúc thuận gió không tùy tiện" là điều cơ bản nhất, và cũng đều rất bền chắc. Nhưng hai thanh lại khác nhau một trời một vực, nói vậy, con hiểu chứ?"

Trần Tuấn Phu đưa tay vỗ nhẹ vai Tạ Doãn: "Một thanh là đao thịnh thế, một thanh là đao phá hoại, con muốn rèn một thanh đao thế nào?"

Chương 143: Hỏi Trời

"Vị tiền bối này đã lập lời thề độc, muốn cứu vạn dân khỏi nước sôi lửa bỏng."

"... Triệu tướng quân bị gian thần dụ giết ở man hoang tây nam. Lữ tiền bối sau khi biết thì bi phẫn không thôi, vốn định vung kiếm vào cung giết hết đám sâu dân mọt nước ..."

"... Nhận được di thư của Triệu Nghị tướng quân dặn ông phải lấy ngàn vạn lê dân bách tính làm trọng, không thể không để ý đại cục ... còn phó thác gia quyến của mình cho ông ..."

"Ông trốn vào Đại Dược cốc, không màng thế sự."

"Tám năm sau, huynh đệ Triệu thị mà Lữ tiền bối hao tâm tổn trí bảo vệ đã nắm lấy binh quyền, nhưng kiếm chỉ đế đô ..."

"... Không hiểu sao tính tình của ông đã thay đổi lớn, mê muội cầu tiên vấn đạo, cả ngày làm bạn cùng chu sa dược đỉnh, luyện mấy cái đan dược trời ơi đất hỡi, hành vi cử chỉ làm việc cực hoang đường điên đảo."

Đây là câu chuyện mà Chu Dĩ Đường kể Chu Phỉ nghe lúc giao Toái Già cho nàng. Một đời người, một kiếp đao, một mùa cây cỏ ... một nụ cười lạnh của tạo hóa.

Lúc này, lưu dân trong sơn động hoảng sợ chen vào trong hang, vệ binh Bắc triều ngoài hàng rào sắt hợp thành một bức tường đao kiếm, một người trong đó tiến lên, ném ra một quyển trục dài, bắt đầu đọc những cái tên ghi trên sổ, nếu không ai đáp thì vệ binh xông vào trước sẽ dùng roi ngựa có gai xước quất vào đám đông.

Như vậy, dù mới đầu có người chần chừ do dự không dám đáp cũng sẽ bị đồng bọn chạy trối chết xung quanh đẩy ra.

Giọng người điểm danh rất lớn, hùng hồn to rõ, bọn Chu Phỉ trên vách núi có thể nghe lõm bõm được vài tiếng. Không ngờ đúng như Lý Thịnh dự liệu, chúng ghi lại hết các lưu dân vào danh sách, bảo đảm chắc chắn không có một con cá lọt lưới nào.

Tiếng quất roi vô cùng rõ rệt giữa màn đêm, Ngô Sở Sở ý thức được mình lắm mồm, bèn mím môi, cúi đầu nói: "Mặc kệ ta, ta chỉ ..."

Lý Thịnh không tiện phát tác với Ngô Sở Sở như phát tác với Lý Nghiên, Y hơi cụp mắt, nhẹ giọng giải thích: "Việc cấp bách trước mắt, chúng ta phải mau chóng để cô phụ và Văn tướng quân biết chuyện này, bằng không đại quân triều ta hai bề thụ địch, liên quan lớn lắm. Nếu không thì dù chúng ta chết hết ở sơn cốc này, cùng nổ lên tới trời, cũng vẫn vô dụng."

Con người Lý Thịnh, trong lòng càng tích tụ u ám thì ngoài miệng càng lý lẽ hùng hồn, Y sẽ liều mạng tìm cho mình cả đống lý do, còn cứ phải lừa mình dối người nói ra ngoài, hận không thể dán ba chữ "ta có lý" lên trán.

Dương Cẩn không giỏi nói năng, Chu Phỉ tương đối nội liễm, hai người chẳng ai tiếp lời Lý Thịnh, ai cũng biết Y đang nói nhảm. Vì chuyện báo tin căn bản không thành vấn đề, bảo Lý Nghiên và Ngô Sở Sở đi trước là được, Giang Lăng cách Thục Trung không xa lắm, Lý Nghiên kém cỏi cách mấy cũng là người lấy được bảng tên ở Tú Sơn Đường, có Ngô Sở Sở trông chừng, chẳng lẽ hai người không tìm được tai mắt ngầm trong nhà để đưa tin sao?

Lý Thịnh ngậm cái cớ cứng ngắc ấy trong miệng một hồi, nếm thế nào cũng thấy khó chịu, bèn nổi giận đùng đùng nhìn người khác, giận cá chém thớt: "Sao không ai nói gì? Câm hết rồi à?"

Chu Phỉ nhẩm lại một lượt những chuyện mình muốn làm, nàng muốn đi tìm cấm địa Tề môn, muốn tìm cách giải Thấu Cốt Thanh, muốn về 48 trại, Ân Bái vẫn chưa chết, thù của Vương lão phu nhân chưa báo, "Hải Thiên Nhất Sắc" càng là mối lo ngầm có thể gây sóng gió bất cứ lúc nào ...

Nhưng nàng chọn tới chọn lui, cảm thấy chuyện nào cũng không thể lôi ra nói, vì dù lòng mang ngàn vạn lý do đối với nàng nặng tựa Thái Sơn chăng nữa, một khi nói ra đều trở thành "cái cớ".

Dương Cẩn chợt nói: "Lý huynh, đừng vòng vo nữa, huynh nói dông dài nhiều như vậy chẳng phải chính là ở thì không dám, đi thì bất an sao?"

Nếu bây giờ là ban ngày, mặt Lý Thịnh đại khái đã đỏ lên rồi.

"Ta cũng vậy." Gã Nam man họ Dương này không hề biết giữ mồm giữ miệng: "Nè, Chu Phỉ, không ai ngốc cả, cô cũng thẳng thắn chút đi, đừng giả vờ nữa."

Chu Phỉ: "..."

Lý Thịnh cảm thấy lúc nãy mình bị ma ám mới hi vọng mấy kẻ này có thể nói ra lời gì đó hay ho.

Y thở dài nặng nề, không nhìn bọn Dương Cẩn nữa, mắt không thấy, tâm không phiền, quẳng hết vụ sơn cốc ra sau đầu, đi trước về theo đường cũ. Y chẳng qua chỉ là một hậu bối nho nhỏ của 48 trại, không phải Sơn Xuyên kiếm, không phải lão trại chủ, càng không phải võ lâm minh chủ hay hoàng thân quốc thích gì, làm không xong thì cả đời chắc chắn sẽ bừa bãi vô danh, tầm thường xoàng xĩnh, vậy tại sao phải tự đa tình gánh lấy nỗi bứt rứt và bất an vô nghĩa?

Người chết nhiều đến mấy chẳng phải đều là người dưng sao? Liên quan gì tới Y?

Nhưng Y vừa xoay người thì Dương Cẩn nói: "Ta có một biện pháp."

Con người Dương Cẩn trời sinh không dính líu gì với hai chữ "biện pháp", đột nhiên nói ra câu như vậy, mọi người đều há hốc mồm, ngơ ngác nhìn Y.

Dương Cẩn nói: "Mọi người đều xoay lưng qua đi."

Chu Phỉ hỏi: "Ngươi muốn làm gì?"

Dương Cẩn khoát tay: "Mau lên, đừng nói nhảm."

Chờ mọi người đều nghe lời xoay tầm mắt đi, Dương Cẩn liền khom lưng nhặt vài cọng cỏ dài nhỏ dưới đất, trong đó có bốn cọng bị bứt sao cho độ dài và hình dáng như nhau, chỉ chừa một cọng thật dài, xong xuôi, Y nắm năm cọng cỏ vào tay, đưa tới trước mặt mọi người: "Rút."

Khóe miệng Lý Thịnh co giật: "...Dương huynh, vầy là ý gì?"

Dương Cẩn: "Chỗ bọn ta tin thờ vạn vật có linh tính, vào ngày lễ Tết hoặc có đại sự gì đều phải mời một thầy pháp tới bốc quẻ cát hung, bọn họ ê a thần bí gì ta không hiểu lắm nhưng nguyên lý thì như nhau, đều là nghe theo thiên mệnh. Bốn người rút đi, mỗi người rút một cọng, hễ có người rút trúng cọng đặc biệt thì chúng ta đi ngay, còn nếu không ai rút trúng, để nó cuối cùng rơi vào tay ta thì chúng ta tính toán kỹ xem phải làm sao, được không?"

Quá không đáng tin!

Mọi người nhất thời câm nín, ngay cả Lý Nghiên cũng liếc xéo.

Lý Thịnh chưa bao giờ nghĩ còn có biện pháp giải quyết "độc đáo" như vậy, lập tức lúng túng ho một tiếng, uyển chuyển nói: "Khụ, ừm, Dương huynh ..."

Chu Phỉ bộc trực bổ sung nửa câu sau: "Có phải ngươi bị bệnh không?"

Thái dương Dương Cẩn nổi lên một đống gân xanh.

Chưa đợi Y trả đũa vụng về, Chu Phỉ chợt đưa tay ra rút một cọng trong đám cỏ ỉu xìu trong tay Y rồi xòe tay ra nhìn, là cọng cỏ bị bứt ngắn, nói: "Của ta không phải."

Lý Thịnh: "..."

Con nhỏ này sao dễ thay đổi như vậy hả!

Lý Nghiên vào thời khắc mấu chốt luôn chạy theo Chu Phỉ, cũng bắt chước rút một cọng: "Của ta cũng không phải."

Ngô Sở Sở nối gót rút cọng thứ ba: "Không phải."

Dương Cẩn đưa hai cọng cuối cùng tới trước mặt Lý Thịnh: "Huynh rút không?"

Vào thời khắc sinh tử tồn vong, mấy người họ trốn trên sườn núi chơi rút cỏ, đây là chuyện gì chứ trời!

Lý Thịnh không kìm được cảm thấy bi quan, mình cả ngày ở chung với đám ngốc này thì có thể có tiền đồ gì chứ? Sau đó ... Y tự cam chịu rút một cọng trong hai cọng cỏ còn lại, từ từ kéo nó khỏi tay Dương Cẩn.

Cọng cỏ nhỏ bé từ khi ra đời chưa bao giờ ngờ có ngày mình sẽ gánh vác trọng trách thế này, run rẩy trong gió đêm, dường như có thể gãy bất cứ lúc nào, năm người mười con mắt đều nhìn lom lom vào cọng cỏ ấy.

Cọng cỏ được rút trụi lủi phần phía dưới. Dương Cẩn xòe tay ra, cọng cỏ còn lại lẳng lặng nằm trong lòng bàn tay ngăm đen của Y, bên dưới những sợi rễ nhỏ còn dính vụn bùn đất.

Hai nam nhân lặng im chốc lát, cùng vứt cọng cỏ trong tay, Lý Thịnh thay đổi vẻ cáu kỉnh gặp ai cắn người nấy ban nãy, trong nháy mắt liền tỉnh táo, nói: "Chúng ta không thể ở lại đây hết, A Nghiên và Ngô cô nương mang đứa trẻ này đi trước. Lý Nghiên, muội biết trạm ngầm gần nhất ở đâu không?"

Lý Nghiên vừa theo Y đi dạo một vòng các trạm ngầm từ Đông sang Tây nên lập tức đáp: "Dạ biết."

Lý Thịnh lại nói: "Theo đường cũ ra ngoài, tốt nhất đừng chờ trời sáng, gần đây có lẽ có thám báo của Bắc Đẩu tuần tra, những thám báo đó rất xảo quyệt, quá nửa sẽ cải trang giả dạng, hai người nhớ che mặt lại, ra roi thúc ngựa đi mau, giả vờ là người vội đi đường đi ngang qua, nhớ trưng hết binh khí trên người ra, ai kêu cũng đừng dừng lại, gặp người chặn đường thì một đao chém hết. Nếu thật có chuyện không ứng phó được thì nhanh chóng thả pháo hiệu trong trại, nếu có người của mình hoặc bằng hữu đi đường trông thấy thì có thể cứu mạng."

Chu Phỉ nghĩ ngợi, xoay người đi ra sau mấy cây đại thụ trong rừng, chốc lát sau lấy ra một cái nhuyễn giáp màu trắng bạc như tơ lụa.

Ngón tay nàng lướt qua, các vỏ sò gắn trang trí trên viền nhuyễn giáp thi nhau rơi vào lòng bàn tay nàng.

Chu Phỉ cất kỹ chúng rồi ném nhuyễn giáp cho Ngô Sở Sở, nói: "Đây là nhuyễn giáp "Thải Hà", xuất xứ từ cùng một đại sư năm xưa làm "Mộ Vân Sa" cho Ân phu nhân, đao kiếm bất nhập, thủy hỏa bất xâm ... Đương nhiên, nhuyễn giáp không thể chống va đập, nếu gặp cao thủ có thể chưởng chết trâu cách một ngọn núi thì vẫn phải chạy, hai người mang theo đi, tự thương lượng xem là ai mặc."

Nói xong, Chu Phỉ sờ soạng khắp người, lấy từ trong túi đeo bên mình ra một cái bao cổ tay sắt có kích thước nhỏ của thiếu nữ, vô cùng tinh xảo hoa lệ, như một cái vòng tay rộng độc đáo: "Đây là một cơ quan nhỏ cũng xuất xứ từ tay vị đại sư kia, tên gì tỷ quên rồi, bên trong có ám khí, gặp nguy hiểm có thể bảo vệ mạng, trong vòng một trượng, chỉ cần muội không hoảng, nhắm cho chuẩn thì trình độ cỡ ca ca muội là tránh không thoát."

Lý Thịnh: "..."

Chu Phỉ trúc trắc mở đồ ra chỉ cho Lý Nghiên và Ngô Sở Sở cách dùng, bình thường nàng không quen dùng ám khí, bây giờ mở cái bao cổ tay sắt kia ra, thấy cơ quan thì tốt nhưng bên trong trống rỗng, không có gì cả, đang lúng túng thì Dương Cẩn chợt đưa tới một bọc nhỏ: "Gắn cái này vào không?"

Lý Nghiên kinh ngạc đón lấy, thấy trong bọc là một mớ châm nhỏ.

"Có cái là độc rắn, có cái là thuốc mê, ta không phân biệt được, gom chung hết, xài trúng cái nào hay cái nấy." Dương Cẩn quẹt mũi, nói tiếp: "Là của đám dược nông kia bỏ vào đấy."

Lý Thịnh: "Lát nữa ai đó ra chỗ lối vào gây rối, hai muội nhân lúc đó rời đi."

"Muội đi cho." Chu Phỉ nói: "Để muội lộ diện, hạ chiến thư với hai Bắc Cẩu, Lục Dao Quang với Cốc Thiên Toàn không phải tướng quân chân chính, vừa nghe có người khiêu chiến nhất định sẽ lộ diện theo quy củ giang hồ, A Nghiên và Sở Sở nhân lúc đó rời đi, còn hai huynh thì thừa dịp đi cứu người."

Dương Cẩn chấn động: "Một mình cô đánh lại hai Bắc Đẩu?"

"Đương nhiên đánh không lại." Chu Phỉ thản nhiên nói: "Nhưng ta là hậu bối, trước mặt nhiều Bắc quân như vậy, chỉ cần mới đầu ta biểu hiện hơi yếu thế, hai người họ chưa chắc sẽ bỏ sĩ diện xuống mà cùng lên đánh."

Lý Thịnh: "Huynh thấy hai người họ chưa chắc sẽ ra tay đâu, khả năng lớn nhất là sẽ sai người dùng loạn tên bắn chết muội, ý tưởng dở hơi gì thế không biết?"

"Dùng loạn tên bắn chết muội đương nhiên rất dễ, nhưng dựa vào mấy thằng binh lính thuộc hạ kia mà muốn bắt sống muội là không thể nào." Chu Phỉ nói: "Nếu muội khiến họ cảm thấy kỳ lạ, Cốc Thiên Toàn và Lục Dao Quang không biết muội vào như thế nào, phía sau còn có ai khác hay không, họ chắc chắn sẽ đích thân ra tay."

"Hiểu." Lý Thịnh than thở: "Cố ý ra vẻ bí ẩn, đều dựa vào muội diễn cả đấy, cũng quá nguy hiểm rồi."

Chu Phỉ cười, không tiếp lời.

Năm đó nàng và Ngô Sở Sở bị vây ở thành Hoa Dung, bên cạnh Tạ Doãn chỉ có một Minh Sâm cản trở và một Bạch tiên sinh miễn cưỡng có thể dùng, thế mà ngay dưới mắt Thẩm Thiên Khu và Cừu Thiên Cơ, Y quấy nhiễu xôn xao cả thành, cuối cùng vẫn thành công đưa cậu nhóc Triệu Minh Sâm dấn thân vào nguy hiểm ra khỏi thành, còn cho hai nàng cơ hội chạy thoát.

"Ta còn có cái này." Dương Cẩn nói, lấy từ trong ngực ra hai vật tròn vo: "Cũng là mấy dược nông bàng môn tả đạo làm, nghe nói đập xuống đất là có thể kích phát ra lượng lớn thuốc bột, khiến người khác không mở nổi mắt, có lẽ nó hơi bị ẩm, không biết còn dùng được không. Đến lúc đó ta có thể đập thứ này vào đống vệ binh ở hàng rào sắt, nhân lúc họ hỗn loạn, chúng ta thả người ra, coi như làm hết sức, còn đám lưu dân kia chạy được hay không thì hoàn toàn xem số mệnh của họ thôi, chúng ta tận tình tận nghĩa rồi, không cần tiễn Phật tiễn tới tây thiên."

Lý Thịnh suy nghĩ, nói: "Trên người ta còn vài pháo hiệu liên lạc trong trại, có bắn ra tia lửa, thả ra có thể chúng sẽ cho rằng chúng ta muốn hỏa thiêu liên doanh, có lẽ phân tán được binh lực của chúng ... Đợi đã, ta vẫn cảm thấy không ổn, kế hoạch này quá cẩu thả, nghĩ thế nào ta cũng cảm giác không đáng tin. Đầu tiên chúng ta phải nhanh như cuồng phong sét đánh, vận may của chúng ta phải đủ tốt, tốc độ tập kết và phản ứng của Bắc quân phải chậm, tướng lĩnh của chúng phải là đồ vô dụng, vả lại ... trong Cốc Thiên Toàn và Lục Dao Quang phải có ít nhất một kẻ cần sĩ diện, bằng không A Phỉ không thoát được ... thế này cần vận may kiểu gì chứ? Có phải cần có một cha ruột là Thái Thượng lão quân không?"

Chu Phỉ bổ sung: "Những lưu dân kia còn phải đủ lanh lợi, chỉ đâu đánh đó mới được. Muội thấy cũng quá rồi."

Mọi người nhất thời trở nên trầm mặc.

Lý Nghiên trước đó không biết trời cao đất rộng nghe đến đây, cuối cùng mới ý thức được mình có quá nhiều chuyện không nghĩ tới, không kìm được nhỏ giọng: "Cho nên, hay chúng ta cứ ..."

Mặc kệ đi?

Lý Thịnh trầm ngâm, nói: "Bốn người chúng ta đều chẳng ai rút được cọng cỏ kia, huynh tin đây là ý trời. Đã là ý trời ... thì sẽ luôn có vận may, đúng không?"

Câu cuối cùng Y nói không quá có sức, ngẩng đầu nhìn Chu Phỉ như cầu viện.

Chu Phỉ nắm Toái Già trong tay, vỗ vai Lý Nghiên: "Đi, ta đưa hai người ra ngoài."

Lý Nghiên đột nhiên muốn khóc, hối hận bản thân ban nãy kích động phẫn nộ và trượng nghĩa ấu trĩ, nhưng Chu Phỉ không hề cho Lý Nghiên thời gian lau nước mắt, nàng vô cùng quen tay nhanh nhẹn với việc qua lại bí mật trong rừng, nháy mắt đã đưa Ngô Sở Sở và Lý Nghiên tới gần lối ra, chỗ không có cây cối thấp thoáng.

Chu Phỉ chợt nói với Lý Nghiên: "Lúc tỷ mới xuống núi còn nhỏ hơn muội bây giờ, võ công chẳng mạnh tới đâu, cũng bị hai Bắc Đẩu bao vây, vừa khóc vừa thề phải hộ tống Ngô Sở Sở về Thục Trung ... Lúc đó nàng ấy vẫn là một đại tiểu thư, chạy còn không nổi kìa, hiện tại nàng ấy theo đại đương gia học võ, ít nhất không cần muội hộ tống nữa."

Lý Nghiên lặng lẽ lau nước mắt.

Ngô Sở Sở gật đầu: "Cô yên tâm."

Chu Phỉ nở nụ cười keo kiệt với nàng ấy, sau đó lại chuyển sang nói với Lý Nghiên: "Nếu vận may bọn tỷ không tốt, muội ... muội phải thay tỷ đi một chuyến đến Nam quốc tử giám, tìm vị thầy đồ già họ Lâm kia, nói với ông ấy một tiếng là được."

Lý Nghiên há miệng muốn nói gì đó nhưng gặp ánh nhìn sâu sắc của Chu Phỉ, thế rồi nàng hóa thành một tàn ảnh trong đêm tối, phút chốc vút ra ngoài.

Chương 144: Xuất Sư Bất Lợi

Thân hình Chu Phỉ quá nhanh, tới mức khi nàng băng qua vách đá trụi lủi, đám vệ binh đều không nhìn thấy nàng.

Mũi chân nàng nhẹ nhàng mượn lực trên đống gỗ, vút ra ngoài khiến lá cây vang lên tiếng “soạt” nhỏ, vệ binh ở lối vào sơn cốc nghe tiếng giật mình, vội giơ đuốc trong tay hướng về chỗ phát ra âm thanh, chưa đợi hắn ta nhìn được gì thì cổ đã bị hai ngón tay lạnh lẽo khống chế.

Đám vệ binh nơi lối vào sơn cốc đồng loạt rút binh khí, vây thành một vòng như lâm đại địch, nhìn chằm chằm nữ nhân thình lình xuất hiện giữa họ.

Chu Phỉ quét mắt qua bốn phía, ngón tay chặt hơn vài phần, vệ binh nọ toàn thân ngửa về sau, cổ họng vang tiếng “lục cục”, trợn trắng mắt.

Chu Phỉ nói: "Gọi Cốc Thiên Toàn và Lục Dao Quang ra đây, nói là có cố nhân tới đòi nợ."

Nàng không cao cũng không to, đứng đó như có thể lay động theo gió, như ma nữ thình lình xuất hiện giữa bóng đêm, bỗng có thêm vài phần quỷ dị. Một nam tử trung niên dáng dấp thủ lĩnh vội vàng chạy tới, quát mọi người tránh ra, tách đám vệ binh bao vây tạo ra một con đường, đứng ngoài năm bước cảnh giác trừng Chu Phỉ: "Ngươi là ai? To gan lắm!"

Tiếng sột soạt cực nhỏ truyền tới theo gió đêm, chỉ có thính lực cực nhạy mới có thể phân biệt được khác biệt nhỏ bé giữa tiếng gió thổi qua đá và tiếng bước chân. Ánh mắt Chu Phỉ lẳng lặng nhìn vào trong sơn cốc nhưng tai đã bắt lấy động tĩnh nhỏ của Ngô Sở Sở và Lý Nghiên, nàng dùng một ngón tay cái chậm rãi đẩy Toái Già ra, hàn thiết và vỏ đao ma sát khẽ vào nhau, phát ra một tiếng ngân dài lạnh lẽo, vừa khéo che tiếng bước chân của hai kẻ khinh công chẳng ra sao kia.

Sau đó Chu Phỉ chợt cười, nói rõ từng chữ một: "Chu Phỉ, sư môn 48 trại ở Thục Trung, truyền nhân Phá Tuyết đao đời thứ ba, hôm nay không mời mà tới, là thay bậc tổ tông cha chú và chư vị đồng môn mấy năm trước mất mạng dưới tay ông ta, đến nói lời chào hỏi hai vị đại nhân Bắc Đẩu, phiền thông báo."

Cái tên “Chu Phỉ” này quanh năm suốt tháng bị gọi rất nhiều lần, nàng nghe đến mức tai đóng kén, nhưng khi tự mình nói ra lại cảm thấy vừa xa lạ vừa kỳ cục. Từ khi xuống núi đến nay, nàng rất ít khi tự báo tên - ban đầu là không cần thiết nói, dù sao nói cũng không ai biết, sau đó “Nam đao” ma xui quỷ khiến truyền ra chút thanh danh, nàng lại bỗng lười nói, có lúc là sợ gây vạ cho 48 trại, có lúc là cảm thấy mình chưa từng làm chuyện gì vẻ vang, đi lan truyền cái tên “Nam đao Chu Phỉ” không khỏi quá mặt dày vô sỉ, bởi vậy đa phần nàng đều không nhắc đến.

Mãi đến lúc này, nàng mới biết, hóa ra hai chữ “Nam đao” với nàng không phải “áo vải bình thường” mà là “trang phục lộng lẫy” do tổ tiên truyền lại, vạt áo kéo dài mấy trượng, gấm vóc rườm rà, hoa mỹ tuyệt luân, mũ miện đường hoàng được đúc từ vàng ngọc, đội lên đầu nặng mấy chục cân. Bộ trang phục như vậy, dù yêu thích, ham muốn đến mức nào đi nữa, cũng không thể cả ngày mặc nó uống trà ăn cơm, lên rừng xuống biển.

Nhưng luôn có vài trường hợp mặc nó vào người có thể loáng thoáng thấy bóng dáng tổ tiên.

Trên người vệ binh bị nàng bóp cổ chợt truyền đến mùi khai, hắn thế mà bị dọa tè ra quần. Chu Phỉ “chậc” một tiếng, vung tay ném tên phế vật đó qua một bên, sau đó nhấc Toái Già lên đi về phía sơn cốc, không coi ai ra gì.

Một đoạn ngắn từ lối vào tới giữa sơn cốc, Chu Phỉ nháy mắt liền bị Bắc quân vây kín, ai nấy đều như lâm đại địch.

Khóe mắt Chu Phỉ đảo qua, lòng trầm xuống. Vốn nghĩ hai “thống soái” Lục Dao Quang và Cốc Thiên Toàn đều là nửa thùng nước, thế nhưng cảnh “binh sợ một đứa sợ, tướng sợ một đám sợ” (*) lại chưa từng xuất hiện.

(*) Nhái câu “binh hùng một người hùng, tướng hùng cả đám hùng” (兵熊熊一个,将熊熊一窝), câu gốc ý nói trong một tập thể, nếu một thành viên có năng lực kém thì chỉ đại diện cho một thành viên đó, nhưng nếu lãnh đạo có năng lực kém thì cả tập thể đều kém. Câu nhái của tác giả trong truyện ý nói 2 vị tướng này đều không phải tướng quân chân chính nên lẽ ra không có năng lực lãnh đạo quân đội, quân đội dưới trướng họ lẽ ra phải đều sợ hãi, vô dụng.

Những Bắc quân này hiển nhiên ai nấy đều có tổ chức riêng, binh tướng từ bậc trung trở xuống tuyệt đối không phải do loại vớ vẩn làm chỉ huy như họ tưởng tượng. Bốn vạn đại quân trên danh nghĩa là nghe hai vị Bắc Đẩu đại nhân chỉ huy, nhưng trên thực tế, Lục Dao Quang và Cốc Thiên Toàn e càng giống tay chân lợi hại đi theo tòng quân hơn.

Vừa thăm dò sâu cạn liền cảm thấy xuất sư bất lợi.

Thầy bói Dương tốt không linh xấu lại linh. --- Chu Phỉ chợt có linh cảm chẳng lành, nghĩ --- Làm không xong thì hôm nay mình thật bị loạn tên bắn chết mất.

Nàng lẳng lặng thu hồi ánh nhìn nơi khóe mắt, thầm hít sâu hai cái, lòng nhẩm lại khẩu quyết nội công tâm pháp, chân khí quanh thân như dòng nước bị khuấy lên, từ từ dạo khắp kinh mạch toàn thân nàng rồi thả ra ngoài.

Dưới chân Chu Phỉ vang một tiếng nhỏ, thềm đá bị nàng giẫm ra vết nứt như mạng nhện, chiếc lá úa vàng một nửa lung lay rơi xuống bên cạnh nàng, lúc tới giữa không trung, nó bỗng rách làm hai mảnh, thình lình tăng tốc rơi xuống đất, trong đó có một mảnh cắm vào bùn đất bên đường, lộ ra vết rách như bị lưỡi đao sắc cắt qua, chỉnh tề mà xơ xác nhắm thẳng vào bầu trời đêm.

Chuyện này sớm đã có người báo vào quân trướng, Lục Dao Quang và Cốc Thiên Toàn nghe mà giật mình không nhỏ.

Trước khi đi, Đoan vương Tào Ninh đã đặc biệt dặn đi dặn lại họ là lần hành quân này cực kỳ quan trọng, phải nhanh và bảo mật, nhất định không được có sơ suất, bằng không tính mạng họ sẽ gặp nguy. Bây giờ thấy sắp thành công thì ông trời như phát điên chống đối họ, đầu tiên là để vài lưu dân chạy thoát, sau đó lại có một kẻ khách không mời mà đến!

Lục Dao Quang lập tức mất bình tĩnh, quăng lại một câu “ta đi xem xem” rồi đứng dậy đi ra trướng.

Năm đó Chu Phỉ khống chế Đoan vương Tào Ninh trước hai quân thực đã khiến người ta khắc sâu ấn tượng, thời gian đã qua mấy năm nhưng Lục Dao Quang vừa liếc mắt là nhận ra nàng, bật thốt: "Là ngươi!"

Chu Phỉ cười: "Lục đại nhân, đã lâu không gặp, vẫn khỏe chứ?"

Khắp sơn cốc là giáp đen đao lạnh, một cô nương như nàng lại bình thản đứng giữa đó, bát phong bất động…(*)

(*) Bát phong bất động: từ trong Phật giáo, bát phong gồm Lợi, Suy, Hủy, Dự, Xưng, Cơ, Khổ, Lạc, trong đó có bốn thuận bốn nghịch, Lợi là thuận lợi, Suy là thất bại, Hủy là nói xấu sau lưng, Dự là khen ngợi sau lưng, Xưng là khen trước mặt, Cơ là chửi trước mặt, Khổ là đau khổ, Lạc là vui vẻ. Phật gia dạy rằng, khi tu dưỡng đến mức không một phong nào trong bát phong trên làm dao động tâm trí thì gọi là bát phong bất động.

Chuyện này quá kỳ lạ, chắc chắn có gian trá!

Thần kinh Lục Dao Quang nháy mắt căng đến cực hạn, liên tưởng tới thân phận Chu Phỉ, hắn ta lập tức vô thức nhìn quanh các bụi cây quanh sơn cốc, cảm giác như đâu đâu cũng có địch nhân mai phục.

Nữ nhi của Chu Dĩ Đường ở đây, ông ấy có biết không?

Lục Dao Quang tự dọa mình toát mồ hôi lạnh, trong lòng chỉ còn lại một câu --- Lần này tiêu rồi.

Đúng lúc này, như để chứng thực suy đoán của hắn ta, nơi rừng sâu chợt có pháo hiệu lạnh lùng gào thét bắn lên trời, nổ vang khắp sơn cốc, nhuộm sáng rực cả bầu trời.

Lục Dao Quang lập tức biến sắc.

Cao thủ đấu nhau, kỵ nhất là phân tâm, Chu Phỉ vừa thấy ánh mắt ông ta dao động là biết ngay hắn ta bị động tĩnh này dọa sợ, vừa hay Cốc Thiên Toàn vẫn chưa ra.

Thời cơ này quyết không để mất!

Toái Già chợt chuyển động, ánh đao như sao băng vút tới trước mặt Lục Dao Quang.

Lục Dao Quang hét to một tiếng, trong lúc hốt hoảng đành giơ ngang đao chống lại nàng. Chu Phỉ kiêng kỵ Cốc Thiên Toàn đến giờ vẫn chưa lộ diện, dành ra nửa sự chú ý để dè chừng bốn phía, ra tay cố chừa lại ba phần sức, Toái Già bị hắn ta va chạm mạnh làm lệch đi, nàng lảo đảo nửa bước như mất sức, nụ cười dưới ánh đao tức khắc trông hơi miễn cưỡng.

Lục Dao Quang trước nay luôn tự phụ, quả nhiên trúng kế, thầm nghĩ --- Đám phế vật Nam triều đúng là danh to sức nhỏ, một tiểu nha đầu oắt con mà cũng xứng gọi là “Nam đao”.

Khóe môi hắn ta khẽ giật, u ám nhìn Chu Phỉ: "Chỉ dựa vào ngươi?"

Lục Dao Quang quả nhiên trúng kế, không để ý tới đám binh tướng thuộc hạ, lập tức muốn đích thân bắt Chu Phỉ, hai người bắt đầu đấu nhau vờn quanh đại trướng.

Bên nàng miễn cưỡng xem như thuận lợi, bên kia Lý Thịnh và Dương Cẩn lặng lẽ tiến gần hàng rào sắt trong bầu không khí căng thẳng trong cốc.

Chỉ trong chốc lát, số lưu dân trong hàng rào sắt đã kiểm kê xong xuôi, quân trướng xảy ra động tĩnh lớn như thế mà những vệ binh này không hề tự ý rời vị trí, vẫn trật tự chỉnh tề chuẩn bị giết người diệt khẩu.

Đám lưu dân bị roi quất sợ vỡ mật, hồ đồ làm theo yêu cầu của vệ binh Bắc triều, đứng xếp thành hàng, vệ binh hai bên lập tức tiến lên, gọi mười người trói gô lại đẩy ra ngoài hàng rào sắt.

Vệ binh tạm thời đảm nhiệm vị trí đao phủ nhấc đao lên, lưu dân phía sau lúc này mới biết đại họa sắp tới, liều mạng giãy giụa sau hàng rào sắt, tiếng gào khóc rung trời.

Lý Thịnh dựa vào động tĩnh này, huýt sáo một tiếng, ra hiệu Dương Cẩn động thủ.

Dương Cẩn xa xa gật đầu với Y, đưa tay sờ vào ngực, lấy ra một viên “đạn thuốc” mà theo truyền thuyết là có thể bắn ra thuốc bột, Lý Thịnh lập tức lấy vải che mặt, che kín miệng mũi, siết chặt song kiếm bên hông.

Vào khoảnh khắc đồ đao đầu tiên hạ xuống, hai người đồng thời động thủ.

Dương Cẩn ném mạnh đạn thuốc xuống đất, cùng lúc đó, Lý Thịnh chợt lướt qua đỉnh đầu mọi người như đại bàng, nâng kiếm nhắm thẳng vào hàng đao phủ, muốn mượn khói đặc do đạn thuốc tạo ra để nhanh chóng trà trộn vào, giết tạo một lối ra giữa đám vệ binh.

Hai người phối hợp có thể nói là vô cùng ăn ý, nhưng nào ngờ trong thời khắc mấu chốt lại xảy ra chuyện ngoài ý muốn.

Đạn thuốc Dương Cẩn ném xuống đất “phụp” một tiếng vỡ ra, nhưng không nổ, quả bóng nhỏ ấy kêu “xì xì” như ho, toát ra vài làn khói mỏng, lăn lăn rồi bất động!

Dương Cẩn: "…"

Lý Thịnh: "…"

Đồ quạ đen chết tiệt Dương cục than, bình thường mình mẩy mồ hôi thúi hoắc không tắm rửa, đạn thuốc trên người bị ẩm rồi!

Hiệu quả “khói mù cuồn cuộn, thần binh trời giáng” trong tưởng tượng lập tức biến thành một trò hề, viên đạn thuốc gian nan toát lên một làn khói mỏng trên mặt đất, Lý Thịnh lẻ loi một mình đứng giữa đám vệ binh, không ứng phó kịp, cùng bọn chúng mắt to trừng mắt nhỏ.

Lông tóc toàn thân Lý Thịnh đều dựng lên, mồ hôi lạnh tuôn ào ạt, đầu óc trống rỗng.

Cho nên có lẽ họ đã hiểu sai “ý trời” rồi, bốn cọng cỏ ngắn họ rút được không phải bảo họ ở lại cứu người mà rõ ràng là bảo họ đi được bao xa thì đi bấy xa!

Nhưng đến nước này, nói gì cũng đã muộn.

Lý Thịnh lập tức cắn lưỡi, ngó lơ vệ binh quát hỏi, không nói tiếng nào bắt đầu động thủ.

Nếu lúc này người lao ra là Dương Cẩn, người nấp trong bóng tối là Lý Thịnh thì Lý Thịnh nhất định biết việc cấp bách trước mắt là “giả thần giả quỷ”, tuyệt đối không tùy tiện hiện thân.

Đạn thuốc mất hiệu lực thì Y có thể đánh lén, nhờ ra tay nhanh nhẹn để tạo hiệu quả như có mai phục rồi lại thả ra vài đạn tín hiệu để tạo thanh thế, ném đồ dẫn lửa vào kho lương thảo, khiến Bắc quân trong cốc tưởng có địch tập kích ban đêm mà kéo dài được chút.

Nhưng gã ngốc Dương Cẩn nào biết “giả thần giả quỷ”? Cục than đó hoàn toàn không biết tùy cơ ứng biến, vừa thấy đạn thuốc mất hiệu lực, không thể làm theo kế hoạch là lập tức bó tay, dứt khoát nhào vô đánh. Chưa đợi Lý Thịnh ngăn lại, Dương Cẩn liền trực tiếp nhảy khỏi chỗ ẩn thân, trầm đại đao xuống, hét to xung phong xông vào giữa Bắc quân.

Kết quả là bên hàng rào sắt bị tập kích, đội ngũ Bắc quân tứ phía lập tức tập kết bao vây lại, đồng thời, lính gác xông vào quân trướng.

Cốc Thiên Toàn để râu, tay cầm quạt, càng lộ vẻ cáo già xảo quyệt.

Lục Dao Quang vội vàng ra nghênh địch, Cốc Thiên Toàn không ngăn cản, nghe Lục Dao Quang và Chu Phỉ đánh nhau trời đất mịt mù bên ngoài, hắn ta vẫn tọa trấn trong trướng, không hề dao động.

Lúc này nghe lính gác báo chỗ hàng rào sắt bị tập kích, Cốc Thiên Toàn chợt ngước ánh mắt như điện, hỏi: "Chúng có bao nhiêu người?"

Lính gác ngớ người, lúng túng đáp: "Không … không nhiều, hình như chỉ có hai ba người, nhưng đều là cao thủ, huynh đệ chúng tôi nhất thời không ngăn được họ."

"Ha." Cốc Thiên Toàn cười lạnh: "Thú vị, hóa ra là chạy đến cổng nhà người khác hát “không thành kế”."

Chuẩn bị không đầy đủ mà còn hát hỏng.

Cốc Thiên Toàn chợt đứng dậy, cởi áo khoác trên người xuống, lộ ra bộ áo chẽn ngắn bên trong, ra lệnh: "Điều cung tiễn thủ bao vây chúng, nếu đã có “đại hiệp” khăng khăng cứu đám ăn mày vướng víu đó thì cứ để chúng đồng sinh cộng tử đi."

Nói xong, hắn ta sải bước ra khỏi quân trướng, vén mạnh rèm lên, bóng người loáng cái đã đến gần Chu Phỉ, giơ tay đánh một chưởng, đồng thời quạt trong tay “xoẹt” mở ra, nan quạt được làm từ sắt tinh luyện, ánh sáng lạnh nhắm thẳng vào ấn đường Chu Phỉ.

Chu Phỉ sớm phòng bị Cốc Thiên Toàn, “Trảm” tự quyết của Phá Tuyết đao vẽ ra một vòng tròn lớn trước người, chắn một quạt và một chưởng kia ra, chợt đáp xuống ngoài ba bước.

Lục Dao Quang bỗng dưng không vui: "Ngươi làm gì vậy? Chỉ là một tiểu nha đầu chưa dứt sữa, ta …"

"Phá Quân à, ông đúng là mấy chục năm như một, không tiến bộ gì hết." Cốc Thiên Toàn khẽ than thở ngắt lời hắn ta, sau đó sắc mặt đột nhiên trầm xuống: "Đây là quân doanh trọng địa, sao lại cho bọn vặt vãnh quấy rối, còn không mau tốc chiến tốc thắng bắt ả!"

Các thủ vệ quân trướng nghe vậy, lập tức cùng hét lớn “tuân lệnh”, mấy chục thanh trường thương nhanh chóng kết trận, nhắm vào trên đầu Chu Phỉ ép xuống.

Đồng thời, Cốc Thiên Toàn vẫy quạt sắt trong tay, đâm về phía Chu Phỉ không chút lưu tình.

Lục Dao Quang chỉ cảm thấy mắt hoa lên, Phá Tuyết đao trong tay Chu Phỉ mà ban nãy ông ta thấy “hữu danh vô thực” đột nhiên trở mặt, “Phong” tự quyết cùng lên, nội trong ba chiêu khua trường thương của mấy chục thân binh liểng xiểng, đồng thời, nàng vẫn có thể tận dụng khe hở đỡ quạt sắt của Cốc Thiên Toàn.

Toái Già chiếu ra ánh lửa bốn phía mãnh liệt chói mắt, Lục Dao Quang đương nhiên nhìn ra được Cốc Thiên Toàn không hề nương tay, mà thanh quạt sắt tung hoành mấy chục năm trên giang hồ kia lại loáng thoáng có xu thế bị trường đao áp chế.

Lục Dao Quang chấn động mạnh trong lòng, hóa ra lúc nãy Chu Phỉ chỉ vì muốn câu giờ với hắn ta mà cố ý nhường!

Lục Dao Quang tuy xếp cuối trong Bắc Đẩu nhưng cũng hung danh lan xa, có bao giờ từng bị sỉ nhục vậy đâu, lập tức phẫn nộ, giơ đao xông lên, cùng Cốc Thiên Toàn liên thủ vây Chu Phỉ vào giữa.

Chu Phỉ mặt không biến sắc nhưng lòng thì nôn nóng. Hai kẻ không đáng tin Lý Thịnh và Dương Cẩn kia không biết làm gì, vốn đã nói là thả lưu dân trong khói mù cuồn cuộn, khiến Bắc quân trở tay không kịp, không rõ có bao nhiêu người xông vào sơn cốc, phối hợp với nàng giả thần giả quỷ bên này.

Nào ngờ hai người kia cả buổi chẳng có tí động tĩnh nào, để nàng độc diễn một mình!

Mà Cốc Thiên Toàn và Lục Dao Quang hiển nhiên chẳng có tí phong độ cao thủ nào hết, không những lấy hai đánh một, mà còn gọi tới một đám vệ binh tùy thời kết trận ép nàng phải di chuyển khắp nơi.

Từ khoảnh khắc nàng khai ra danh hiệu khi vào sơn cốc, tất cả phân đoạn đều đi ngược với kế hoạch.

Hồn thiêng của tổ tiên không phù hộ nàng mà đang nguyền rủa nàng thì có!

Tiếng cung sắt từ chung quanh truyền đến, loáng thoáng mang theo vọng âm trong sơn cốc.

Chu Phỉ nghĩ --- Thôi xong.

Chương 145: Tề Môn

Lý Thịnh mấy năm gần đây tiếp xúc nhiều nhất với Chu Dĩ Đường, thường xuyên làm sai vặt cho cô phụ, thậm chí từng đích thân theo Nam quân lên chiến trường, Y không cần nghe tiếng dây cung cũng biết họ đã rơi vào hoàn cảnh bết bát nhất.

Dương Cẩn thình lình lao ra như vậy, đồng nghĩa cả ba người họ đều ở chỗ sáng, không có ai tiếp viện.

Tình cảnh như thế, đừng nói là Lý Thịnh, dù là đại gia binh pháp của các triều đại mà dưới tay không có người để dùng thì cũng là không bột đố gột nên hồ.

Có câu “bắt ba ba trong rọ”, cảm giác làm ba ba đúng là chẳng tốt đẹp tí nào.

Lý Thịnh thực sự hết cách, đành nhắm mắt đưa chân. Một kiếm của Y đâm xuyên hai Bắc quân chắn trước mặt, xong lười rút kiếm, trực tiếp đưa cả kiếm và thi thể đẩy ra làm lá chắn, đánh lung tung đến trước cửa hàng rào sắt rồi tiện tay vứt đi, sau đó Lý Thịnh dùng thanh kiếm còn lại đâm vào khóa cửa, ghim rồi uốn, nạy mở hàng rào sắt do Bắc quân khóa vội ra.

Y trở tay làm thịt một vệ binh Bắc quân đuổi theo, quát với người bên trong hàng rào sắt: "Mau ra đây!"

Lưu dân trong hàng rào sắt hoảng sợ nhìn Y.

Lý Thịnh bực mình, xách cái cửa sắt lên, chém đứt dây thừng trên người lưu dân suýt bị chém đầu kia rồi đẩy mạnh người đó về trước: "Chạy!"

Lưu dân đó vốn tưởng đại nạn sắp đến, ai ngờ tình thế xoay chuyển, nhặt được mạng về, sau khi lảo đảo đứng vững thì lập tức nhanh chân ù té chạy theo bản năng.

Có một người dẫn đầu như vậy, những lưu dân bị giam khác cuối cùng cũng phản ứng lại, chen nhau lao lên, chạy ra ngoài hàng rào sắt, người phía sau không ngừng xô đẩy giục người phía trước, ngay cả vệ binh Bắc quân nỗ lực ngăn chặn cũng bị đẩy ra, cơn khủng hoảng như nước lũ tìm được miệng cống, cuối cùng hội tụ thành một luồng sức mạnh.

Chưa đợi Lý Thịnh thở phào một hơi, Dương Cẩn chợt quát lên: "Cẩn thận!"

Lý Thịnh nghe bên tai có một luồng gió ác liệt thổi qua, Y không kịp suy nghĩ liền dịch bước né tránh, nghiêng đầu nhìn, chỉ thấy một mũi tên sắt bị Đoạn Nhạn đao gọt giữa không trung, vừa khéo rơi xuống chỗ Y đứng ban nãy.

Liền sau đó, tiếng dây cung vang lên bốn phía như chọc phải tổ ong vò vẽ, khiến người ta tê cả da đầu, tên lạc trí mạng từ khắp nơi bắn tới, rơi xối xả như mưa.

Lưu dân chạy trước nhất bị một mũi tên ghim xuyên đầu dưới cái nhìn trừng trừng của mọi người, trực tiếp đóng vào một tảng đá lớn, màu đỏ và trắng nhuộm một mảng.

Các lưu dân chạy theo bị dọa sợ vỡ mật, toàn bộ loạn cào cào.

Lý Thịnh bị mưa tên đầy trời ép ra sau một cây cổ thụ, tùy tiện nhặt một thanh đao trên thi thể quân địch, vừa nỗ lực chống lại tên lạc bốn phía vừa rống to: "Chia ra chạy! Tìm nơi trốn, đừng tụ lại với nhau, đừng quay đầu, đừng quay về sơn động! Không được chạy về sơn động!"

Lưu dân ầm ĩ hỗn loạn chạy tứ tung, một bộ phận chạy loạn xạ, nhanh chóng bị ghim trên mặt đất, một nhóm tương đối thông minh bắt chước Lý Thịnh, chia nhau trốn tránh trong sơn cốc, chui tới đủ thứ vật có thể ẩn thân như đá tảng và đại thụ, còn một nhóm nhỏ trong cơn hoảng loạn không nghe tiếng la của Lý Thịnh, quay đầu chạy về sơn động phía sau hàng rào sắt.

Lý Thịnh khàn giọng hét: "Ra ngoài! Mau ra ngoài! Chúng phóng hỏa đấy!"

Y cảm thấy mình như một gã chăn dê dỏm, cổ họng đã la khàn mà chẳng ai nghe.

Lý Thịnh chợt trầm mặc, nghe tiếng gió trong sơn cốc, tiếng tên bắn, tiếng kêu la và tiếng hét thảm, không hiểu sao lại nhớ tới câu của Nghê Thường phu nhân “vung tay nhất hô thiên hạ ứng”.

Lúc đó sau khi hoảng hốt, Y còn có chút đắc ý nho nhỏ, giờ nghĩ lại, thực muốn cười khổ ra tiếng.

Đừng nói “thiên hạ ứng”, ngay cả mấy trăm người này Y còn không làm gì được nữa là.

Có lẽ Nghê Thường phu nhân xưa nay không câu nệ tiểu tiết, thấy Y thiếu niên trẻ tuổi nên chọc ghẹo đùa Y chơi.

Lý Thịnh nghĩ, mình chẳng qua chỉ là một hậu bối trẻ tuổi vừa nông cạn vừa đố kỵ, đời này đại khái chỉ xứng lo chuyện vặt vãnh, tương lai trở thành một đại tổng quản Mã Cát Lợi khác quản Tú Sơn Đường là hết, dẫu sao thuở thiếu niên đại đương gia từng nói, tư chất luyện võ của Y chẳng ra sao.

"Lửa! Lửa!"

Lý Thịnh chợt hoàn hồn, khẽ quát một tiếng, chật vật dùng đao gạt ra những mũi tên đầy trời bắn tới, trên đám mũi tên này của Bắc quân thật sự nhúng dầu, lúc xẹt qua giữa không trung, lửa văng tung tóe như sao băng.

Má Lý Thịnh bị lửa hơ nóng, cây gỗ nơi Y ẩn thân bị bén lửa, lửa và nước trong cây va nhau khiến cả hai bên đều nhanh chóng tổn hại. Thân cây cháy đen một mảng, lửa cũng lụi tắt, nhưng rất nhanh, càng nhiều mũi tên lửa liên tiếp phá không trung lao tới.

Thời cơ họ tới rất không may, Bắc quân đã tập kết xong tám chín phần mười, nhìn bề ngoài thì Bắc quân đã chuẩn bị xong việc giết sạch lưu dân nơi này, dùng một mồi lửa hủy đi sơn cốc rồi tiến quân thần tốc ra tiền tuyến … dầu này không hề lãng phí, toàn bộ đều dùng cho họ.

Mấy người trốn chung quanh theo Lý Thịnh tuy chật vật nhưng trong thời gian ngắn vẫn có thể gắng chống đỡ, còn những người ban nãy khăng khăng trốn vào sơn động thì cảnh ngộ gặp phải chẳng tốt đẹp gì. Vốn nghĩ vào sơn động là có thể tránh tên bay loạn lạc đầy trời, ngờ đâu có quả cầu lửa bay vào sơn động, nhanh chóng đốt cỏ khô và chiếu của các lưu dân.

Cơn gió đêm vừa khéo thổi vào trong động, nháy mắt cuốn lửa vào bên trong, sơn động đó bị Bắc quân làm thành phòng giam thiên nhiên nên bên trong hiển nhiên là ngõ cụt, các lưu dân ban nãy trốn vào động vì bảo vệ tính mạng nên đều nấp trong cùng, căn bản chưa phản ứng kịp thì khói đặc đã ùn ùn cuồn cuộn bốc lên, ngọn lửa bùng phát nhanh chóng che kín cửa động.

Lúc này muốn chạy đã không còn kịp nữa.

Không biết có phải ảo giác của Lý Thịnh hay không, Y luôn cảm giác mình ngửi được mùi thịt cháy khét, ngực lập tức nổi lên cơn buồn nôn, Lý Thịnh liều mạng nhịn xuống kích động muốn nôn ọe, nước mắt sắp chảy ra.

Lúc này, trước mắt Lý Thịnh lóe lên một bóng người, Dương Cẩn lảo đảo rơi xuống trước mặt Y.

Người phương nam không quá quen búi tóc giống nam tử Trung Nguyên, ngày thường xõa tóc thì có thể xem như “đen mà đẹp”, nhưng bây giờ xõa tóc thì là tìm đường chết, thành “đen mà khét”, tóc Dương Cẩn bị tên lửa bay loạn xạ đốt ngắn một đoạn, mùi cháy nồng nặc phả vào mũi theo một độ cong duyên dáng, hình tượng lại càng khỏi phải nói.

May mà mặt Y đen, có hun khói cũng không nhìn ra đầu mối gì.

"Không quản được đâu!" Dương Cẩn hét to với Y: "Trừ phi phun nước vào, dù sao ta làm không được, ngươi phun được hả?"

Lý Thịnh: "…"

Lý thiếu gia bị nước miếng Y văng vào mặt, chút yếu mềm do dự thiếu quyết đoán trong lòng bị sự đơn giản thô bạo của Dương Cẩn đập vụn, Y lập tức xốc lại tinh thần, nén tâm trạng xuống, lau mạnh khói bụi trên mặt.

Lý Thịnh nghiêng đầu phóng tầm mắt nhìn, thu hết cảnh tượng cả sơn cốc vào đáy mắt, vừa nhìn liền nhận ra vấn đề. Tất cả cung tiễn thủ và dầu đốt đều nhắm về phía hàng rào sắt, còn Bắc quân ở giữa sơn cốc lại hơi hỗn loạn.

Đúng rồi, còn Chu Phỉ!

"Gọi những người còn lại đi theo ta." Lý Thịnh trầm giọng: "Chưa tới lúc cùng đường mạt lộ đâu."

...............

Chu Phỉ bị Cốc Thiên Toàn và Lục Dao Quang chặn trước quân trướng, mới đầu còn có tâm trạng lo cho mạng mình sắp tiêu, nhưng sau đó cơ bản không rảnh quan tâm nữa.

Trước đó nàng thừa nhận với Dương Cẩn là một mình không đấu lại Cự Môn và Phá Quân liên thủ. Nhưng chuyện đến nước này đã không có chỗ cho nàng lùi bước, đấu không lại cũng phải cắn răng tiến tới. Chu Phỉ chấp nhận số phận rất nhanh, cảm thấy nếu hôm nay mình chết thì cứ dứt khoát tập trung tinh thần dồn tất cả vào Toái Già trên tay.

Dù hôm nay Phá Tuyết đao theo đạo Vô Thường này sẽ trở nên thất truyền thì hãy để nó thất truyền sao cho sảng khoái.

Quạt sắt của Cốc Thiên Toàn từ trên cao đánh xuống trán nàng, đồng thời, Lục Dao Quang từ phía sau nàng đâm một đao cực xảo quyệt tới, nhắm vào nhiều đại huyệt trên người nàng.

Chu Phỉ không còn chỗ trốn, nàng bỗng xoay toàn thân trong chỗ vô cùng chật hẹp, Toái Già và vỏ đao giao nhau phía trước, một trên một dưới, đồng thời chống đỡ quạt sắt của Cốc Thiên Toàn và đao của Lục Dao Quang.

Khô Vinh chân khí thấm trong kinh mạch nàng mấy năm thức tỉnh trong sự giằng co vào thời khắc này, vận chuyển đến cực hạn, kéo căng kinh mạch toàn thân nàng âm ỉ đau. Sau đó Chu Phỉ chợt buông tay, vỏ đao hoa lệ không chịu nổi gánh nặng, đứt gãy giữa không trung, kình lực trong đó không mảy may lơi lỏng, gầm thét văng về hai phía, Cốc Thiên Toàn và Lục Dao Quang không thể không chia nhau tránh lui.

Toái Già “keng” một tiếng, mũi đao bị quạt sắt ép hơi cong quật cường bắn trở về.

Hai tay Chu Phỉ nắm lấy chuôi đao hơi ấm áp, đứng trầm vai thả khuỷu tay.

Nháy mắt ấy, trong lòng nàng chợt hiện ra một ý nghĩ rõ ràng --- Mình chưa chắc sẽ thua.

Trong võ học dần dần tìm kiếm đạo, bốn phía đều là một mảng đen kịt, những ý nghĩ tình cờ hiện ra như pháo hoa chợt sáng rồi tắt, nháy mắt lóe lên đã rọi sáng con đường phía trước … khiến nàng như giác ngộ, nhìn rõ đối thủ hơi chậm hơn mình nửa bước.

Bắc Đẩu là ác mộng mà võ lâm Trung Nguyên không loại bỏ được suốt hai mươi năm, trong đó có tuyệt đỉnh cao thủ như Tham Lang, Văn Khúc và Vũ Khúc, cũng có tiểu nhân vô sỉ am hiểu bàng môn tả đạo và đánh lén hại người như Lộc Tồn, Liêm Trinh, lại càng có cáo già gian xảo như Cự Môn, có kẻ quyền quý như Phá Quân. Chúng là chó săn Bắc triều, nắm chắc quyền và lực, từ khi các đại cao thủ lần lượt ngã xuống, chúng càng lộng hành hống hách, không còn cố kỵ, khiến người ta nghe tiếng đã sợ hãi.

Nhưng ác mộng dài đến mấy cũng luôn có lúc bị ánh nắng mai xé nát.

Đôi tay này của Chu Phỉ, nhìn từ mặt trái thì vẫn là đôi tay mịn màng mềm mại của tiểu cô nương, nhưng lòng bàn tay đã tạo nên những đường nét cứng rắn sau nhiều lần sinh kén và mài rách.

Đôi tay này từng cầm thanh đao dỏm mua bằng vài văn tiền, từng cầm thanh đao nát lượm từ người chết ven đường, từng cầm bội đao Vọng Xuân Sơn do đại sư đương thời mô phỏng theo đao của Nam đao Lý Chủy, cũng từng cầm thanh Toái Già ký thác nỗi bi phẫn cuối cùng do Lữ quốc sư để lại trên nhân thế … suốt một đường, lưỡi đao từng va chạm với vô số truyền thuyết to nhỏ chốn giang hồ, từng bổ ra một đường máu từ nơi gian nguy nhất.

Hổ khẩu Chu Phỉ rách ra vết thương nhỏ, nàng lau vết máu lên chuôi đao không chút để ý, lần đầu tiên trong đời có cảm giác ung dung bình tĩnh như vậy, tay cầm trường đao, không sợ không thắng bất kỳ đối thủ nào.

Đoàn Cửu Nương năm xưa từng cười lớn nói câu “ta chính là phiền toái”, sự kiêu ngạo của bà hóa ra chưa từng biến mất theo bà mà nó đã truyền đi theo Khô Vinh chân khí bạo ngược, chôn sâu trong kinh mạch và máu thịt của nàng. Lý Cẩn Dung từng nói với nàng “ngoài quỷ thần ra, kẻ cất bước giữa thế gian đều là phàm nhân”, Chu Phỉ luôn nhớ câu này, đồng thời thường xuyên dùng nó để tự nỗ lực, nhưng mãi đến thời khắc này, khi hai tay nàng nắm chắc thanh Toái Già, nàng mới tâm thần lĩnh hội.

Ánh mắt Cốc Thiên Toàn âm trầm lướt qua nửa vỏ đao làm xước vành tai hắn ta, nói: "Nể mặt cha ngươi là Chu Tồn, nếu bây giờ ngươi bó tay chịu trói, chúng ta sẽ giữ lại mạng cho ngươi."

Một lọn tóc dài rơi xuống sườn mặt Chu Phỉ, rủ xuống bên quai hàm, nàng chê vướng víu, bèn dùng trường đao cuốn nhẹ cắt nó xuống, sau đó như thấy vô cùng buồn cười, nhẹ nhàng cụp mắt cười.

Ba đại cao thủ so chiêu, chiến cuộc có thể nói là thay đổi trong nháy mắt, căn bản không phải người ngoài có thể tùy ý nhúng tay.

Dù trước quân trướng có mấy vạn đại quân vây quanh cũng chỉ có thể ném chuột sợ vỡ bình, bao vây nhưng không biết nên nhúng tay thế nào.

Đấu lâu như vậy vẫn không có kết quả, lúc này trừ phi giữa Cốc Thiên Toàn và Lục Dao Quang có một người chịu hi sinh gánh một đao, quấn lấy Chu Phỉ, để người kia nhân lúc đó lui ra ngoài vòng chiến rồi lại nghĩ cách dùng ám khí đánh lén yểm trợ từ xa mới có thể phá vỡ cục diện bế tắc này.

Nhưng Cốc Thiên Toàn và Lục Dao Quang tuy hợp tác nhiều năm, ngoài mặt là huynh đệ như thể tay chân nhưng trong lòng lại luôn chướng mắt đối phương. Cốc Thiên Toàn chê Lục Dao Quang tính tình xốc nổi, không tiến bộ, Lục Dao Quang cảm thấy Cốc Thiên Toàn giả dối làm màu, bản lĩnh chưa chắc bao lớn nhưng luồn cúi nịnh nọt thì rất giỏi.

Nên lúc này hai người họ đều kiên quyết không ai chịu hi sinh vì đối phương.

Cốc Thiên Toàn hối hận vì động thủ với Chu Phỉ, ông ta dự liệu được võ công của nàng tất nhiên cao hơn ban đầu nàng thể hiện nhưng không ngờ đã cao đến mức này. Điều này rất bình thường, vì trước khi động thủ, ngay cả Chu Phỉ cũng không biết.

Nàng không ngờ có thể hãm chân hai Bắc Đẩu, hơn nữa còn quần đấu rất lâu mà không mảy may có vẻ yếu thế.

Còn đấu tiếp như vậy nữa, Cốc Thiên Toàn biết, dù lấy hai chọi một thì kẻ sinh lòng sợ hãi trước chắc chắn không phải Chu Phỉ. Bởi quyền cước và đao kiếm sợ sức trẻ trung … người cũng vậy.

Bụi vàng nhuộm khắp nào chỉ có lão anh hùng, “ác mộng” cuối cùng cũng khó thoát kiếp nạn này.

Trong mấy thập niên, dù tu vi Cốc Thiên Toàn nhiều lần tăng tiến nhưng sự tham lam và hung ác của tuổi trẻ năm xưa khi bốn đại Bắc Đẩu vây công Nam đao Lý Chủy lại khó tái hiện, tới nỗi bây giờ khi đối diện với khuôn mặt hậu bối này, trong lòng hắn ta lại mơ hồ dâng lên niềm hoảng hốt.

..............

Trong màn khói dày đặc, Lý Thịnh tung người nhảy lên ngọn cây cao, to giọng: "Các người có muốn sống không?"

Một mũi tên lửa ghim vào nhánh cây dưới chân Y, cành cây vang tiếng “tanh tách” nhưng Y không thèm nhìn, tiếng la mang theo nội lực chấn động khiến đá xung quanh rung nhẹ: "Các người có phải do cha sinh mẹ dưỡng, có phải là người không? Nếu là người, vì sao lại để chúng giày xéo tàn sát như súc vật?"

Chạc cây kia hoàn toàn gãy, mũi chân Lý Thịnh điểm nhẹ, nhanh nhẹn đáp xuống đất, thanh đao nhặt được và mũi tên lạc qua khe hở đại thụ chạm vào nhau, tạo ra “ngọc nát đá tan”, Y vứt thanh đao gãy ấy đi không chút tiếc rẻ, cúi người nhặt một thanh trọng kiếm rơi xuống từ người Bắc quân.

Một thiếu niên có dáng dấp lưu dân đột nhiên lao ra khỏi tảng đá ẩn thân, cầm binh khí từ thi thể, lại lấy cái mũ sắt rơi ra đội lên đầu, mắt đỏ au, quát to một tiếng đuổi theo Lý Thịnh.

Vô số tên sắt nhúng dầu cuối cùng đã chiến thắng cây cỏ, khói đen chỗ họ nấp không đè được lửa mạnh nữa, các lưu dân may mắn sống sót không thể trốn tiếp, đành liều mạng chạy ra ngoài.

Dương Cẩn cắt đuôi tóc bị cháy của mình, xông lên trước mở đường, lao về phía phụ cận quân trướng hỗn loạn, Đoạn Nhạn đao dày nặng rơi mất vài cái răng, mấy cái vòng trên sống đao không biết rớt chỗ nào, không còn phát ra tiếng nhạn kêu phô trương nữa.

Mưa tên lửa theo sát họ, nơi họ đi qua, bụi cây, bãi cỏ ào ào ngã rạp, đốt khiến mặt đất trụi lủi, bọn Dương Cẩn dẫn lửa lại gần quân trướng, cung tiễn thủ bắn tên qua đầu nhanh chóng bị quát ngưng lại.

Chu Phỉ và hai đại Bắc Đẩu đánh đến mức chỉ thấy ánh đao bóng kiếm, không phân biệt rõ ai với ai, đám thân binh của Cự Môn và Phá Quân không dám tiến lên, lính gác tới xin chỉ thị và các tướng quân làm theo ý mình cũng không dám tự ý làm chủ, đành chia nhau sai binh lính đích thân ra trận, đánh giáp lá cà ngăn cản lưu dân hỗn loạn trong cốc.

Sự dũng mãnh ngắn ngủi của lưu dân nhanh chóng bị đại quân đông đảo phá tan, Lý Thịnh không biết đã chém bao nhiêu người, đôi tay đã không còn tri giác, vết thương tên lửa bắn qua bên hông đau rát, cổ họng dâng lên mùi tanh ngọt.

Đúng lúc này, những Bắc quân vốn tiến thoái trật tự đột nhiên tự rối loạn.

Lý Thịnh dùng sức ấn ấn lỗ tai “ong ong” vang vọng của mình, nghe có người hét thảm: "Rắn! Rắn đâu ra thế!"

Chương 146: Bí Cảnh

Thứ gì tới tham chiến thế?

Lý Thịnh thoạt đầu tưởng mình ù tai nghe lầm, đang kinh ngạc thì thấy Dương chưởng môn ban nãy uy phong xách đại đao mở đường giờ sợ chết khiếp lùi về, bị dọa đến nỗi “mặt như thoa phấn”, vết thương trúng tên trên vai chảy máu cũng không để ý đến, thất sắc nói: "Sao bên đó lại có nhiều rắn như vậy?"

Lý Thịnh: "…"

Không sợ người mà đi sợ rắn, Dương đại đao đúng là kỳ nhân.

Dương Cẩn nghiêm túc đề nghị: "Ta thấy để an toàn, chúng ta đổi đường lui nhé?"

Lý Thịnh đẩy Y ra sau: "Quân địch đông lắm, lưu dân rơi cả vào trận của chúng rồi, có thể lui lại hay không còn chưa biết, huynh tới đúng lúc, mau đi giúp đi."

Chỉ cần không bảo Dương Cẩn đối mặt trực tiếp với rắn độc đáng sợ thì bảo Y đơn thương độc mã đi ám sát Bắc đế cũng được, Dương chưởng môn không nói hai lời, xoay người phóng ra sau lưng Lý Thịnh, hung hăng xông vào giữa Bắc quân đông nghịt, Đoạn Nhạn đao tung bay trên dưới, chém giết liên tục.

Các lưu dân rơi vào trận địch thấy Y như thấy cứu tinh, vội tự gom lại chung quanh Y.

Hỗn loạn bắt đầu từ góc tây bắc sơn cốc, mấy vạn đại quân quần long vô thủ đột nhiên nghe động tĩnh này, không khỏi hơi khủng hoảng.

Vùng Giang Lăng vào hạ ẩm ướt oi bức, nơi hoang dã thực có không ít loài bò sát máu lạnh như rắn rết nhưng đa phần động vật đều sợ người, rất ít khi kết bầy đàn lại gần nơi con người tụ cư. Huống hồ nơi này mấy vạn binh mã sát khí ngút trời, lúc nãy lại phóng một trận hỏa, gần như đốt phân nửa sơn cốc, lúc này khói đặc mịt mù bốn phía, mà thế lửa vẫn đang lan tràn … sao lại có rắn xông vào đây chứ?

Lý Thịnh cảm thấy lạ, túm một Bắc quân bị Y đâm xuyên làm lá chắn, vừa tránh trái tránh phải, vừa kinh ngạc nói: "Tây bắc rốt cuộc có gì vậy?"

Y vốn chỉ thuận miệng tự nhủ, không ngờ bên cạnh lại có người nức nở nói: "Là tỷ tỷ, họ bị giam bên kia."

Lý Thịnh đẩy thi thể Bắc quân ra, đánh giạt mấy kẻ đánh lén từ sau lưng, nghiêng đầu nhìn, thấy là thiếu niên nhặt nón sắt và binh khí của Bắc quân lao ra theo Y sớm nhất, thiếu niên đó vận số không tồi, cũng khá lanh lợi, dọc đường luôn theo sát Lý Thịnh, lúc này ngoại trừ trên mặt dính không ít bụi bẩn thì gần như không tổn thương gì.

Lý Thịnh: "Đệ nói gì?"

Thiếu niên lưu dân đó mặt mày xanh xao, tay dài chân dài nhưng cơ thể lại ốm yếu mảnh khảnh, cứ như nhảy lên một cái là mất hết phân nửa sức, phải dừng lại nghỉ giữa chừng vậy, vẫn còn bộ dạng con nít.

Lý Thịnh vừa hỏi, cậu liền khóc lên tại chỗ: "Tỷ tỷ … và những người khác nữa, đều bị chúng bắt nhốt trong lều lớn ở tây bắc, đệ muốn liều với chúng, nhưng chúng đè đệ lại, bảo đệ đừng rảnh rỗi gây sự, chúng nói, mấy cái bánh bao dọc đường là có thể mua được một người sống sờ sờ, đâu đáng mấy đồng? Nữ nhân đi theo chúng là chuyện tốt, ít nhất có thể ăn có thể sống, chúng bảo đệ đừng liên lụy tỷ tỷ, còn bảo đệ làm vậy là hại tỷ ấy …"

Lý Thịnh ngăn giúp cậu vài mũi tên bắn lén trong đám loạn quân, thở hổn hển mấy hơi, nhất thời không biết nói gì.

Người an cư lạc nghiệp trong thôn xóm và thành quách thì gọi là “bách tính”, gọi là người. Nhưng người một khi lang thang lưu lạc sẽ thành chó hoang rơm rác, dù chết hàng ngàn hàng vạn cũng không đáng nhắc.

Hèn gì năm đó họ và Vương lão phu nhân xuống núi đi tới phụ cận Nhạc Dương, những thôn dân kia thà canh giữ nơi chó ăn đá gà ăn sỏi ấy cũng không chịu rời đi.

Có điều … nếu phía tây bắc chỉ là một đám nữ nhân đáng thương thì những Bắc quân này sợ cái gì?

Đâu thể là nữ nhân biến thành rắn ngay tại chỗ chứ?

Sơn cốc lúc này thay đổi trong nháy mắt, hai người bọn Lý Thịnh mang hơn trăm lưu dân gần như nối liền một đường với phía tây bắc hỗn loạn. Thấy trong cốc sắp mất khống chế, tiếng kèn lệnh của Bắc quân âm u vang lên bốn phía, bảy tám tướng lĩnh Bắc quân mặc giáp ào ào chạy tới, vượt lên trước mọi người, có một người nhìn không ra cấp bậc nhưng rất dám nói chuyện, quát to với Cốc Thiên Toàn và Lục Dao Quang: "Hai vị đại nhân, lúc này nên lấy đại cục làm trọng, hà tất dây dưa mãi với bọn giang hồ dân gian này!"

Hắn không lên tiếng còn đỡ, vừa lên tiếng thì mồ hôi nóng của Cốc Thiên Toàn đều toát ra.

Những tướng quân này tuy bình thường cũng tập võ nhưng khác cao thủ võ lâm chân chính, căn bản không nhìn ra tình thế ngàn cân treo sợi tóc giữa ba người, còn tưởng bọn Cốc Thiên Toàn đang khăng khăng cậy mạnh nên mới đấu mãi với người ta không tha, nói không chừng trong lòng còn đang khó hiểu: Phá Quân cũng đành, nhưng Cự Môn đại nhân ngày thường rất có tâm cơ, hôm nay lại định hát tuồng gì?

Cốc Thiên Toàn đánh hư chiêu, muốn dẫn Phá Tuyết đao về phía Lục Dao Quang.

Nhưng Chu Phỉ và Lục Dao Quang đều không mắc bẫy, Lục Dao Quang chém nghiêng một đao, nhìn như chém về phía Chu Phỉ nhưng đao phong ngưng tụ lại mơ hồ chỉ hướng Cốc Thiên Toàn. Chu Phỉ căn bản không tiếp chiêu, còn bước Phù Du trận pháp, một thanh trường đao lấy Phá Tuyết làm hồn nhưng bên trong lại mang theo vài phần kỳ dị hiểm trở khó dò của Đoạn Thủy Triền Ti, khiến người khác cảm thấy ánh đao như gần như xa nhưng lại như tồn tại khắp nơi, chỉ cần bước sai một bước là có thể bị cắt yết hầu như chơi.

Ba người mỗi người đều mang ý xấu riêng, chẳng ai tránh thoát được ai.

Mà đúng lúc này, Lý Thịnh cuối cùng cũng thấy nguồn cơn hỗn loạn, từ bên kia chạy tới đúng là một đám nữ nhân áo quần lam lũ!

Các nữ nhân ai nấy đều mặt mày xanh xao, tóc tai rối loạn, mặc trang phục lưu dân điển hình, cổ và cổ tay màu sắc rực rỡ, lại gần nhìn mới biết đó không phải dây chuyền vòng tay gì mà là rắn độc to nhỏ quấn đầy trên đó!

Những rắn độc kia giống như có trí khôn, không hề sợ đoàn người và khói lửa, ngược lại vô cùng có tính công kích, hễ có người tới gần là nó sẽ ngóc cái đầu tam giác lên, há to miệng tạo tư thế sắp cắn, ngoại trừ trên người nữ nhân, dưới đất cũng có không ít rắn độc to nhỏ sột soạt bò qua, nơi nào cũng có, như hộ giá hộ tống những nữ nhân này.

Người hai bên chạy trốn nhanh chóng tụ lại cùng nhau, Lý Thịnh nghe thiếu niên kia bên cạnh chợt kêu to “tỷ tỷ”, nhanh chân chạy về bên đó, vội vàng cuống quít sắp giẫm lên một con rắn, con rắn nọ hung dữ ngóc nửa mình dậy, ngửa đầu định cắn, Lý Thịnh nhanh tay nhanh mắt tóm sau gáy cậu, kéo cậu trở về.

Một nữ tử trẻ mặc áo hoa thấy thiếu niên thì vội hô: "Tiểu Hổ, đừng lại gần, cũng đừng giẫm lên rắn! Ở xa xa đi theo bọn tỷ và xà cô nương!"

Lý Thịnh: "… Xà cô nương?"

Cách đó không xa truyền đến tiếng sáo chói tai, càng nhiều rắn giống như từ dưới đất chui ra, tụ thành một “dòng chảy rắn” khiến người ta tê hết da đầu, rít gào thuận ta thì sống nghịch ta thì chết. Lý Thịnh nhìn chằm chằm theo, thấy người thổi sáo kia cao gầy, đầu búi mái tóc chẳng ra sao, không biết muốn ăn mặc thành phụ nhân hay cô nương, khuôn mặt nghiêng nghiêng thanh tú trắng nhợt … nhìn kiểu nào cũng thấy quen mắt!

Hình như là cái vị năm xưa gặp ở Vĩnh Châu - Độc lang trung Ưng Hà Tòng!

"Ưng …" Lý Thịnh trố mắt, suýt bị trường thương của Bắc quân đâm, chật vật né tránh, hai chữ “Ưng huynh” không thốt được, Y kinh ngạc nói: "Ưng … ơ ừm, ngươi, ngươi là nữ?"

Đúng là chân nhân bất lộ tướng!

Lý Thịnh cảm giác mình chưa từng gặp đại cô nương nào nữ giả nam trang giống đến vậy!

Trên gương mặt không cảm xúc của Ưng Hà Tòng vụt hiện lên bốn chữ “một lời khó nói”, âm u nói: "Có phải ngươi muốn chết không?"

Hắn vừa lên tiếng là Lý Thịnh yên tâm, giọng nói này tuy không hiền hậu nhưng cũng vô cùng trầm, nghe là biết không phải nữ nhân.

Tỷ tỷ của Tiểu Hổ hình như giật mình: "A! Xà cô nương, hóa ra cô biết nói à?"

"Câm miệng!" Trán Ưng Hà Tòng nổi một loạt gân xanh: "Đi mau!"

Đường đường Độc lang trung mà tự dưng phải chui vào đám lưu dân, vậy cũng thôi đi, đằng này còn là chui vào đám nữ nhân!

Đã thế, vì sợ bại lộ thân phận mà hắn phải giả câm, không dám nói chuyện với người ta!

Chuyện này đúng là có chút không tưởng tượng nổi.

May lúc này tình thế nguy cấp, Lý Thịnh không có thời gian nhàn rỗi, lập tức lớn tiếng: "Cẩn thận cung tiễn thủ và kỵ binh, nhắm vào quân trướng của họ!"

Rắn độc đầy đất này thực quá khủng bố, hai nhóm lưu dân tụ lại thành một nhưng cũng không dám áp quá gần nhau, Ưng Hà Tòng thò tay vào trong ngực, không biết lấy ra gì vung lên người Lý Thịnh, bọn rắn độc bò khắp nơi tự động tránh Y ra, nhanh chóng kéo Lý Thịnh nhập phe.

Các nữ nhân thấy vậy đua nhau bắt chước theo, rắc thuốc bột tránh rắn cho người thân mình. Thế là trừ Dương Cẩn, áp lực bị vây đuổi của mọi người giảm đi không ít.

Ưng Hà Tòng nói: "Rắn của ta tuy tạm thời có thể mở đường nhưng chỉ cần kỵ binh hai bên tránh ra, cung tiễn thủ nơi cao hỏa công là ta bó tay, nên vẫn phải mau mau nghĩ đối sách … có điều lạ quá, sao giờ chúng không bắn tên nữa? Chẳng lẽ hết dầu à?"

Lý Thịnh: "Chúng sợ ném chuột vỡ bình."

Tới gần quân trướng, hai vị “chủ soái” vướng bận kia không chịu dời chỗ khiến đám thân binh và các tướng quân vây quanh họ, cung tiễn thủ nào dám bắn tên lửa trong cốc nữa.

Ưng Hà Tòng sững sờ, đang muốn hỏi rõ liền nghe Lý Thịnh vận khí đan điền, hô: "Chuuuu … Phỉiiii!"

Tai Chu Phỉ hơi nhúc nhích, dù không quay đầu nhưng có thể thông qua âm thanh để phán đoán vị trí đại khái của bọn Lý Thịnh, nàng chợt trầm cổ tay xuống, Khô Vinh chân khí và Toái Già vô cùng ăn nhịp, trường đao sung sướng phát ra một tiếng vang khẽ, Phá Tuyết đao đột nhiên trở nên ác liệt.

Sau đó Chu Phỉ như nổi điên, cứ thế bỏ qua Lục Dao Quang, liều mạng đưa lưng hứng một đao của Phá Quân, nhắm thẳng vào Cốc Thiên Toàn.

Đến loại cảnh giới này của họ, có cao thủ nào lại đưa lưng mình cho kẻ địch? Bởi vậy phản ứng đầu tiên của Lục Dao Quang là có bẫy.

Mà ban nãy Cốc Thiên Toàn nhiều lần muốn dẫn lửa đi nơi khác khiến cơn giận tích tụ trong lòng Lục Dao Quang đã đạt đến một trình độ nhất định, lần này thấy Cốc Thiên Toàn xui xẻo, Lục Dao Quang còn lóe lên chút vui ngầm.

Chút do dự và vui ngầm này khiến hắn ta khi ra tay bị chững lại trong nháy mắt.

Chính trong nháy mắt mà mắt chưa nháy xong đó, Cốc Thiên Toàn thình lình cứng rắn đón đỡ mười bốn đao của Chu Phỉ.

Tốc độ hai người đã đến mức mắt thường không thể nhìn rõ, hoàn toàn dựa vào trực giác.

Mãi đến lúc này, trường đao khoan thai của Lục Dao Quang mới tới vai Chu Phỉ.

Chu Phỉ hình như quên mất mình đã cởi “Thải Hà” cho Ngô Sở Sở, bị một đao của Bắc Đẩu Phá Quân chém tới là vẫn ăn đủ. Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc mũi đao quẹt rách một lớp da mỏng trên vai nàng, nàng bước Phù Du trận tránh được, tiến về trước như bóng ma, không quay đầu lại, trường đao hất từ dưới lên trên hướng vào cằm Cốc Thiên Toàn.

Cốc Thiên Toàn lúc này đã tay không tấc sắt, còn bị trọng thương một tay, đành cắn răng hét lớn một tiếng, dùng bàn tay không bị thương đánh về phía sống đao Toái Già.

Chu Phỉ thuận theo chưởng phong của hắn ta đẩy ra bên cạnh, vừa vặn tránh được một đao của Lục Dao Quang từ sau đuổi đến, nàng lấy Cốc Thiên Toàn làm lá chắn, xoay quanh hắn ta nửa vòng.

Cốc Thiên Toàn ban nãy xuất chưởng trong tình thế cấp bách, dùng mười phần lực, căn bản không kịp thu về, lúc này chưởng phong chưa tán, chỗ hiểm yết hầu của hắn ta đã nằm dưới Phá Tuyết đao.

Cốc Thiên Toàn cứng đờ, Lục Dao Quang cũng sững sờ.

Ngay cả Lý Thịnh khó khăn lắm mới tiếp cận gần quân trướng, đang suy nghĩ bước kế tiếp nên làm gì cũng ngẩn người.

Đường đường là Cự Môn, tung hoành giang hồ bao nhiêu năm, thế mà có ngày nếm trải cảm giác bị gác đao lên cổ.

Chu Phỉ ban nãy tập trung toàn lực chiến đấu, hoàn toàn không cảm nhận được, nhưng bây giờ chợt dừng lại, nàng mới phát hiện vừa rồi thực đến cực hạn, ngũ quan lục cảm và kinh mạch tứ chi của nàng toàn bộ đều được sử dụng quá mức, mồ hôi toàn thân bỗng tuôn ra, cả người chợt mất nước, môi nứt nẻ.

Nhưng bất luận hình tượng của nàng thế nào đều không thể thay đổi được sự thực là Toái Già gác lên cổ Cốc Thiên Toàn.

Ngực Chu Phỉ vẫn đang phập phồng kịch liệt, khí hải đau như muốn nứt, nàng cắn răng mạnh mẽ chống đỡ, gắng ép ra nụ cười lạnh, nói: "Cốc đại nhân đã khăng khăng muốn tiễn ta một đoạn, vậy chúng ta từ chối thì bất kính rồi."

Lời này chưa dứt, Chu Phỉ đã ra tay như chớp, cách không trung phong ấn mấy đại huyệt trên người Cốc Thiên Toàn, lưỡi đao đặt chắc bên gáy hắn ta, xa xa nhìn Lý Thịnh, quát: "Đi."

Mấy vạn Bắc quân tinh nhuệ tụ tập trong cốc mà một trong các chủ soái lại bị bắt trước quân trướng, nói ra thì các binh tướng nơi đây thật muốn tự sát tập thể!

Chu Phỉ gằn từng chữ một: "Tránh đường."

Bắc quân ba tầng trong ba tầng ngoài đành nhường ra một con đường, Chu Phỉ đẩy Cốc Thiên Toàn toàn thân cứng ngắc, vừa bước một bước là cảm thấy như bước trên núi đao, cơn đau như kim châm từ dưới chân truyền tới bên hông, nàng tỉnh bơ hít sâu, thậm chí còn nhàn rỗi cười lạnh với Lục Dao Quang, nghênh ngang bước đi dưới ánh mắt âm u của Phá Quân.

Hai nhóm lưu dân kính nể nhìn Chu Phỉ, cả người và rắn đều nối đuôi nàng ra khỏi Bắc quân.

Chu Phỉ thực sự rất khó chịu, Khô Vinh chân khí sử dụng quá độ mơ hồ có dấu hiệu cắn trả, mà nàng lại không thể thể hiện trước mặt Cốc Thiên Toàn, đành cố dời sự chú ý của mình, vừa liếc mắt liền thấy Ưng Hà Tòng với trang phục kỳ dị thì lập tức ngớ người: "Sao ngươi là nữ?"

Ưng Hà Tòng: "…"

Nàng ta với tiểu tử vừa rồi chắc chắn là ruột thịt.

Chu Phỉ nhìn các nữ nhân khoác rắn độc bên cạnh, lại nhìn Ưng Hà Tòng, hình như hơi hiểu ra, bèn nói: "Cho nên ngươi luôn ở cùng với họ? Sao ngươi lại chạy tới đây?"

"Nói ra dài lắm." Mặt Ưng Hà Tòng không chút cảm xúc: "Ta vốn tới vì chuyện khác, tình cờ bị vây ở đây, nếu không phải hôm nay các cô gây lớn chuyện thì dù ta mang nhiều rắn hơn nữa cũng chưa chắc có thể dẫn họ ra ngoài."

"Ừ." Chu Phỉ nói tiếp không khách sáo: "Ta biết, công phu ngươi luyện chưa đủ. Có điều nói đi nói lại, Ưng … công tử? Hay cô nương? Ầy, thôi kệ đi, sao lần nào ngươi cũng có thể làm ít ăn nhiều thế hả?"

Khóe mắt Ưng Hà Tòng nhảy mạnh, một con rắn nhỏ đỏ chót ló đầu ra cổ áo hắn, hung dữ nhe răng với Chu Phỉ.

Lý Thịnh: "Được rồi, A Phỉ, muội đừng bắt nạt …"

Lời Y chợt dừng lại, ánh mắt lướt qua Chu Phỉ, nhìn sơn cốc to lớn phía sau nàng, nơi bị Bắc quân đốt cỏ cây cháy thành tro, thế lửa từ từ lan sang nơi khác, lộ ra đá núi và mặt đất trụi lủi, nhìn từ xa xa … giống như hợp thành một hình nào đó!

Chương 147: Bắc Đẩu Đổi Chiều

Lý Thịnh không biết có phải do mình quá mệt mỏi đến mức xuất hiện ảo giác hay không, bèn ra sức dụi mắt.

Trên đường đến, mỗi khối đá chỉ đường chỗ khúc quanh đều có bảng chỉ đường đơn giản, chỉ cần biết hai chữ "ra, vào" là có thể hiểu. Nhưng bên cạnh nó còn có một hình bát quái phức tạp, Lý Thịnh lúc đó chỉ nhìn lướt qua chứ không nghĩ kỹ, vì Y từng theo học Tề môn trận pháp với Xung Vân Tử nên rất hứng thú với đạo kỳ môn độn giáp, ngũ hành bát quái, còn cố ý làm bản dập mang theo người để chuẩn bị sau này nghiên cứu.

Bây giờ T nhìn kiểu gì cũng cảm thấy chỗ đất trống bị đốt ra vừa khớp với một góc thái cực đồ trên bảng chỉ đường!

Lý Thịnh chợt nhìn quanh bốn phía, nếu đoán theo tỷ lệ đó thì cả sơn cốc chính là một thái cực đồ hoàn chỉnh.

Nếu đúng là vậy, sơn cốc này do ai dựng nên? Dựng làm gì?

Những lưu dân và Bắc quân tu hú chiếm tổ này có biết bí mật trong đó không?

Y chợt cảm thấy toàn thân run rẩy.

Lý Thịnh lập tức đưa tay sờ vào ngực, lấy ra những bản vẽ được sao chép kia.

Đúng lúc này, một tiếng hét vang lên bên tai, Lý Thịnh chợt hoàn hồn, chưa kịp phản ứng, vai bị người khác đẩy mạnh, một mũi tên sắt xé gió lao tới, vừa vặn ghim vào chỗ Y mới đứng.

Ưng Hà Tòng đẩy Y quát: "Cẩn thận!"

Lý Thịnh kinh hãi, thấy Bắc quân trong cốc chỉ trong thời gian ngắn ngủi đã tập kết xong xuôi, cung tiễn thủ xếp thành hai hàng, mặc kệ sống chết của Cốc Thiên Toàn, trực tiếp bắn tên!

Lục Dao Quang khoát tay, hàng loạt Bắc quân nhanh chóng phủ kín lối vào sơn cốc, cung tiễn thủ nơi cao lần nữa xách thùng dầu lớn, kéo cung, loạt tên nhúng dầu thứ nhất bắn giữa không trung, đốt cháy bầu trời tang tảng sáng.

Đừng nói trong tay Ưng Hà Tòng chỉ có mớ rắn nhỏ, dù có long vương cũng chưa chắc có thể bay nhảy trong biển lửa.

Lúc đó sở dĩ Chu Phỉ cố sức chọn Cốc Thiên Toàn khó khống chế hơn để ra tay là nhằm đề phòng chiêu này. Nàng biết, nếu người nàng bắt là Lục Dao Quang thì đi chưa tới ba bước, lão cáo già Cốc Thiên Toàn có thể quyết đoán khiến hai người họ cùng đổ máu tại chỗ ... Ai ngờ Lục Dao Quang tuy có ngốc, phản ứng cũng hơi chậm nhưng sự độc ác trong xương cốt không hề ít.

Cốc Thiên Toàn không ngờ Lục Dao Quang xưng huynh gọi đệ với mình nhiều năm như vậy mà vào thời khắc mấu chốt lại trực tiếp trở mặt, muốn đưa mình vào chỗ chết. Ông ta hận trố mắt muốn nứt, sắp cắn nát chân răng, nhưng huyệt đạo ông ta đã bị phong bế, có kêu cũng không ra tiếng, đành nghẹn đến chết đi sống lại, sắc mặt xanh tím.

Mũi tên sắt liên tiếp rít gào lao xuống, các lưu dân chạy trối chết.

Chu Phỉ tự động chặn hậu, thấy một mũi tên nhọn lao đến trước mắt, nàng vốn định lôi Cốc Thiên Toàn né tránh, ai ngờ đúng lúc ngực lên cơn đau, lại hít phải ngụm khói, tay nàng mất sức lướt xuống khỏi người hắn ta, lảo đảo nửa bước, không thể kéo.

Bên tai vang lên tiếng "phụp", Chu Phỉ bỗng mở to mắt, thấy Cốc Thiên Toàn bị một mũi tên sắt bắn xuyên qua bụng.

Hắn ta đứng cứng đờ, cổ nổi gân xanh như muốn phá tung da thịt ra gào thét, cổ họng vang tiếng "hự" rồi phun ra một ngụm máu tím đen ... không biết là bị thương hay tức giận mà hắn ta giống như tẩu hỏa nhập ma!

Chu Phỉ lúc này đâu còn lo được cho hắn ta, nàng chật vật lăn hai vòng tại chỗ, tiện tay túm một nữ nhân trung niên sợ choáng váng đẩy ra sau: "Đừng đơ ra đó, chạy mau!"

Bản thân công phu Chu Phỉ không thuộc dạng nội lực thâm hậu kiểu một chưởng có thể xô ngã núi, càng khỏi phải nói lúc này nàng đã sức cùng lực kiệt.

Một chưởng đánh ra hất bay mũi tên sắt gì đó, nàng nghĩ cũng đừng nghĩ, đành mệt mỏi cầm Toái Già lần lượt chặn từng cái một, cố sức chặn hậu cho đám lưu dân xung quanh.

Chu Phỉ trong lúc vô tình quay đầu nhìn chỗ mình đặt chân ban nãy, thấy dầu hỏa đầy trời đã đốt trụi cỏ xanh trên đất, ánh lửa tàn phá lan ra bốn phía, há to miệng cắn nuốt người đứng bên trong.

Người đó đứng thẳng tắp trong biển lửa, trên ngực, bụng và tứ chi cắm đầy mũi tên, cái bóng dị dạng bị ánh lửa chiếu lên vách đá.

Vốn cũng là anh tài một đời, đáng tiếc.

Trong sơn cốc không còn chỗ ẩn thân, mọi người đành theo bản năng chạy về phía rừng cây hai bên.

Nhưng một đám lưu dân bắp chân bị chuột rút sao chạy lại tinh binh được huấn luyện nghiêm chỉnh? Nháy mắt liền có Bắc quân dọc theo ngoài sơn cốc bọc đánh qua, ôm cây đợi thỏ chờ họ tự chui đầu vào lưới.

Lý Thịnh luống cuống, động tác gạt tên sắt dùng sức quá mạnh, làm trọng kiếm nhặt được gãy luôn, Y lùi hai bước, bản vẽ lúc nãy bị Y kéo ra một nửa rơi khỏi lồng ngực, như bươm bướm giấy bay loạn trong gió đêm.

Một mũi tên lửa chợt xẹt qua bên cạnh, chiếu bốn phía sáng như ban ngày, con ngươi Lý Thịnh co mạnh, thái cực đồ trên giấy xuyên qua tầm mắt Y.

Mũi tên nhọn mang theo đốm lửa "phốc" ghim thái cực đồ xuống đất, tờ giấy sáng lên trong nháy mắt, Dương Cẩn túm gáy Y kéo ra sau: "Ngươi đờ ra đó làm gì?"

Lý Thịnh nhìn chằm chằm đống giấy hóa tro tàn ấy, bỗng nhiên, những trận pháp năm xưa Xung Vân Tử giảng bâng quơ cho Y trong thôn nhỏ phụ cận Nhạc Dương cùng thái cực đồ cả sơn cốc như sinh ra một mối liên hệ nào đó khó nói.

Và lối vào như mê cung, vết tích trên mặt đất bị đốt trụi ...

"Ta biết rồi!" Lý Thịnh chợt giãy thoát khỏi tay Dương Cẩn: "Ta biết rồi!"

Dương Cẩn ù ù cạc cạc: "Hả?"

Lý Thịnh nhanh chân chạy đi: "Mau theo ta!"

Mọi người đều không biết Y muốn làm gì, nhưng nơi này chỗ nào cũng là đường cùng, không ai có ý tưởng gì cả, hiếm khi thấy Y chắc chắn nên đành mặc kệ, chạy theo Y.

Họ như quân cảm tử lao về phía chính diện Bắc quân ở rìa sơn cốc.

Dương Cẩn ôm đồm việc, nói: "Muốn làm gì? Cưỡng chế phá vây sao? Tránh ra, để ta!"

Ưng Hà Tòng không biết tập hợp tới từ lúc nào, cau mày: "Chúng đông quá, tầng tầng lớp lớp, còn có thể thay nhau trông giữ, e là không được."

Dương Cẩn vừa nghe tiếng Ưng Hà Tòng, toàn thân liền cứng đờ, len lén liếc kẻ nuôi rắn như thấy ma, lẳng lặng dịch ra bên cạnh hơn hai thước, sau đó quay đầu chạy, vừa chạy vừa la: "Chu Phỉ, Chu Phỉ! Mau, cô lên mở đường, ta chặn hậu cho!"

Ưng Hà Tòng không hiểu gì cả, hoàn toàn không biết mình đắc tội Y chỗ nào.

Chu Phỉ và Dương Cẩn nhanh chóng trao đổi vị trí, nàng như một thanh đao nhọn, trực tiếp đâm vào trận địch.

Lúc này, trời đã tờ mờ sáng, bộ y phục màu nhạt của nàng sớm đã nhuốm máu đỏ đen một mảng, không biết là máu của mình hay máu của người khác.

Lý Thịnh đang lẩm bẩm tính toán gì đó trong miệng, thoáng thấy hình tượng của Chu Phỉ thì bị dọa: "Muội không sao chứ?"

Chu Phỉ tiến lên rồi lùi lại, trên mũi đao treo thêm mấy gã Bắc quân: "Chưa chết."

"Chưa chết thì giúp huynh." Lý Thịnh ra lệnh không chút khách sáo: "Nghe huynh này, "đông chí nhất dương sơ sinh, tòng khôn chi tả, khởi vu bắc" ..." (*)

(*) Ngày đông chí, khí dương bắt đầu sinh ra từ bên trái quẻ khôn, khởi nguồn phương bắc (**).

Chu Phỉ vô thức hỏi: "Hả? Không phải tây nam à?"

Lý Thịnh nói: "Không, đó là phương vị của "hậu thiên bát quái", huynh thấy nơi này e là lấy "tiên thiên bát quái" ..." (*)

(*) Tương truyền tiên thiên bát quái là do Phục Hi sáng lập, phản ánh vạn vật trong thời kỳ vũ trụ sơ khai, còn khi đã có văn minh nhân loại rồi thì là hậu thiên, tương truyền hậu thiên bát quái do Văn Vương sáng lập, phương vị của hai loại này khác nhau.

Chu Phỉ mấy năm trước nghiên cứu Phù Du trận pháp có xem lướt lướt qua, hoàn toàn là học vẹt, nghe Y nói gì mà "tiên thiên hậu thiên" là đầu muốn to ra hai vòng, huyệt thái dương giật giật đau, bèn lập tức ngắt lời Lý Thịnh: "Huynh cứ nói muốn muội làm gì đi ..."

Lý Thịnh hít sâu một hơi, chỉ vào một chỗ trong rừng rậm: "Muội đi từ đó, chắc chắn có thể thấy một cây khác mấy cây còn lại, hoặc quá to, hoặc quá nhỏ, sau khi tìm thấy nó thì nghĩ cách nhổ lên!"

Chu Phỉ nhìn theo ngón tay Y, không thấy cây gì lạ thường, chỉ thấy Bắc quân chi chít càng tụ càng nhiều.

Nàng khẽ nhấc vai, hít sâu một hơi rồi nặng nề thở ra, nghe như tiếng thở dài, kế đó nói với Lý Thịnh: "Được, tin huynh. Thật chơi tiêu đời thì sau này mỗi năm huynh đều phải quỳ đốt vàng mã cho muội đấy."

Lý Thịnh: "..."

Chu Phỉ quăng lại một câu rồi mặc kệ yêu cầu của Lý Thịnh bảo nàng đi nhổ cây vào lúc mấu chốt này hoang đường cỡ nào, cũng không hỏi mục đích của Y là gì. Nàng lại lần nữa mạnh mẽ đề khí, cảm giác cực hạn của mình giống một sợi dây đàn hồi mạnh, mỗi lần nàng cảm thấy mình đã kéo căng đến cực hạn thì vẫn có thể kéo tiếp.

Nàng tung người lên, khoác sương lạnh và vết máu khô đầy người, xẹt qua đỉnh đầu vô số Bắc quân trước mặt.

Cung nỏ trong rừng đã lên dây, ba tầng trong ba tầng ngoài công khai hay âm thầm đều đưa nàng vào giữa. Chu Phỉ quát khẽ một tiếng, Toái Già gần như dệt thành một hàng rào bạc, âm thanh mũi tên và đao thương đánh vào sống đao chấn động đến mức đau tai, Chu Phỉ không để ý cổ tay mình tê sắp không còn cảm giác, chỉ trong vài hơi thở, nàng đã lao vào rừng sâu.

Tầm mắt nàng bắt đầu hơi mơ hồ, nàng ra sức chớp mắt, nơi bả vai bị trúng một mũi tên, không tiện trực tiếp nhổ ra, đành huơ đao tạm thời chém đứt đuôi tên, đồng thời ánh mắt lướt qua bốn phía, thế mà thật sự nhìn thấy một cây khác biệt. Sơn cốc này hiển nhiên có lịch sử lâu đời, đa số cây cối là cổ thụ to cỡ vòng ôm, chỉ có một cây nhỏ nhưng cực cao, đứng cùng những cây cổ thụ xung quanh không có gì nổi trội nhưng thân cây đó chỉ to cỡ cổ tay đứa trẻ kẹt giữa bụi cây xanh um rậm rạp, hệt như một cành của cây cổ thụ bên cạnh, không hề dễ thấy, nếu không có câu gợi ý của Lý Thịnh thì e nàng cũng sẽ ngó lơ bỏ qua nó.

Chu Phỉ tránh một mũi tên lén, khom người nhảy xuống cạnh "cây non" nọ, đưa tay nắm thân cây, vốn định chém đứt trước rồi nói sau, ai ngờ mới dùng tí sức là cái cây nọ xoay hết nửa vòng trong tay nàng.

Chu Phỉ sững sờ.

Lúc này, một đám Bắc quân từ bốn phía chạy tới vây công nàng, một tay Chu Phỉ cầm thân cây nhỏ ấy, lấy nó làm trục, Toái Già vẽ một vòng lớn, một đao phá tan thế tiến công của bảy người. Mà cái thân cây bị nàng cưỡng chế xoay một vòng kia bỗng vang "cạch" một tiếng, hình như là dây cót cơ quan nào đó chuyển động, Chu Phỉ choáng váng không đứng vững, ngơ ngác nhìn thân cây bị mình nhổ lên khỏi mặt đất, đầu óc đờ đẫn, nghĩ --- Không dùng nội lực mà có thể một tay nhổ cây ... mình luyện thành thần lực hồi nào vậy?

Liền sau đó, nàng phát hiện rễ dưới thân cây vô cùng kỳ lạ, bọc lấy một "khối đá" quái gở dưới đất, rìa "khối đá" có một vòng lưỡi đao nhỏ, trên lưỡi thoáng hiện ánh sáng lạnh, cắt toàn bộ sợi rễ bao quanh nó, chỗ bị cắt còn rất mới, bùn đất quanh "khối đá" bị tách ra ... Chu Phỉ nhớ lúc nãy mình nghe âm thanh nho nhỏ, hình như là nàng chạm phải cơ quan gì khiến quanh "khối đá" bắn ra lưỡi dao nhỏ cắt rễ cây trong nháy mắt, sau đó nâng cả cây lên mặt đất.

Chu Phỉ thử dùng Toái Già gõ một cái lên "khối đá" thăm dò.

"Coong"... rỗng?

Nàng cắt nhẹ mũi đao quanh khối đá, quả nhiên tìm được một đường nối nhỏ, bèn lật cổ tay nhếch lên trên. Nắp "khối đá" lạ bị mở ra, bên trong có một thứ trông rất giống cơ quan khống chế dây trận trong đình nhỏ giữa sông của Ngư lão năm xưa.

Chu Phỉ sững sờ, lúc này lại có một nhóm Bắc quân lao tới, Chu Phỉ theo bản năng đem cơ quan chôn dưới nắp đá đẩy xuống.

Cả sơn cốc đều rung động, dưới mặt đất truyền đến những tiếng rung "ầm ầm" loáng thoáng pha lẫn tiếng gào thét như rồng ngâm, Chu Phỉ chợt ngẩng đầu, thấy cả một bên sơn cốc lún xuống, Bắc quân không hề phòng bị ngã nhào.

Đúng lúc này, Lý Thịnh cách đó không xa đã kích thích một cơ quan khác, mặt đất lại rung mạnh lần nữa, bên còn lại của sơn cốc nâng cao lên, đập ầm ầm vào vách núi, cung tiễn thủ vốn mai phục ở đây bất ngờ không kịp chuẩn bị, ào ào lăn xuống, bị đá đè, thùng dầu hỏa nổ tung.

Nếu sơn cốc là một thế giới nhỏ thì nó chắc chắn có một chìa khóa mà người cầm được chiếc chìa khóa ấy có thể hô mưa gọi gió nơi đây.

Lý Thịnh lớn tiếng: "Chu Phỉ! Hủy cơ quan đó, đừng rề rà!"

Chu Phỉ chém một đao xuống chỗ nối tiếp dây cót cơ quan, sau đó nàng không quan tâm tới thương tích đầy mình, nhảy vọt lên, vút qua đám Bắc quân rơi vào hỗn loạn vẫn chưa hoàn hồn.

""Dương thuận thượng cấn vị..." A Phỉ, nếu huynh đoán không sai, nơi này ắt có bảy chỗ "định sơn chuẩn tinh", tương ứng với trận "Bắc Đẩu đổi chiều" của Tề môn."

"Bắc Đẩu?" Chu Phỉ khẽ nói: "Thật trùng hợp."

Theo chỉ dẫn của Lý Thịnh, nàng nhanh chóng trông bầu vẽ gáo tìm được cây thứ ba, đất bằng ngay chính giữa sơn cốc nhô lên, quân trướng của Lục Dao Quang nháy mắt lên trời, cột cờ treo lơ lửng cờ Bắc Đẩu bên cạnh từ trên cao đập xuống, một đống thân binh tránh né không kịp, ào ào trúng chiêu.

Lục Dao Quang chật vật nhảy lên lưng ngựa, hét to một tiếng, nắm mạnh dây cương: "Ngăn hai kẻ đó lại, bất luận sống chết!"

Các lưu dân nhất thời không ai quản, người và rắn cùng đơ ngây ngốc tại chỗ.

Dương Cẩn thấy rất nhiều Bắc quân bọc đánh hai người trên sườn núi liền lập tức tiến lên tham gia, vứt Đoạn Nhạn đao bị uốn lưỡi qua một bên, nhặt hai thanh đao lớn xung phong lao tới, xô Bắc quân tới muộn ra một lỗ hổng, đi thẳng tới cạnh Chu Phỉ: "Ta tới giúp cô, làm gì?"

Chu Phỉ thu Toái Già, nhổ cây thứ tư, bỗng chốc đóng lại cơ quan.

Lần này là sườn núi bên họ rung mạnh, hai người suýt đứng không vững, cả một mặt đá trầm xuống, một mặt khác trồi lên, ở giữa nứt ra một vết to, Bắc quân truy sát họ ngã nhào, Chu Phỉ choáng váng hồi lâu mới vịn một cây cổ thụ đứng vững, nói với Dương Cẩn: "Hỏi Lý Thịnh á!"

Dương Cẩn bị nàng chưa gì đã đuổi đi, bèn bước thấp bước cao tìm Lý Thịnh xung quanh. Còn chưa đợi Y tìm được người giữa đống đất đá bay loạn thì cơ quan thứ năm không biết được ai mở ra, dưới chân Dương Cẩn trống rỗng, Y hét to, đao cắm phập vào thân cây bên cạnh, hiểm hóc treo mình lên, định thần nhìn lại, bên dưới không biết từ khi nào đã cải thiên hoán địa, có thêm một lối vào sơn động khổng lồ.

Lúc này, một bàn tay kéo Y lên, Dương Cẩn ngẩng đầu, thấy Lý Thịnh đầu đầy bùn cát.

Lý Thịnh kéo Y lên rồi lau mạnh trên mặt: "Dẫn họ đi từ nơi này, mau!"

Kỳ thực không cần Y dặn, Ưng Hà Tòng chăm sóc các lưu dân vừa thấy cửa động hiện ra, các con rắn lớn nhỏ không biết tại sao lại ào ào chui về phía đó, hắn xưa nay tin động vật hơn tin người, lập tức quyết đoán đuổi các lưu dân chạy theo.

(**) Vào ngày đông chí, mặt trời chiếu thẳng vào chí tuyến nam, ở Bắc bán cầu ngày ngắn nhất và đêm dài nhất. Qua đông chí, mặt trời lại từ từ chiếu dịch về phía chí tuyến bắc, ở Bắc bán cầu ngày càng dài hơn và đêm càng ngắn lại. Do đó người xưa có câu "đông chí nhất dương sinh" nghĩa là: ngày đông chí thì một khí dương được sinh ra, sau đông chí thì khí dương từ từ tăng.

Chương 148: Chạy Trốn Đằng Trời

Trên vách núi bỗng dưng nứt ra một cái động lớn, Bắc quân không mù, đương nhiên cũng thấy.

Ưng Hà Tòng mang lưu dân chạy về phía mật đạo mở ra, Bắc quân gần đó cũng đuổi theo sát nút.

May mà dầu hỏa của chúng nổ rồi, chỉ cần không có những tên lửa mịt mù trời đất thì bầy rắn của Ưng Hà Tòng có thể phát huy tác dụng. Dưới tiếng sáo của người nuôi rắn, bầy rắn rải rác bên ngoài đám lưu dân bày binh bố trận thành hình mặt quạt chặn bước chân Bắc quân, Dương Cẩn cúi đầu nhìn, nói với Lý Thịnh: "Buông tay."

Nói xong, Y điều chỉnh tư thế rồi tung người nhảy xuống vách núi như tinh tinh, chỉ trong vài lần lên xuống liền vọt tới ngoài bầy rắn, quát với Ưng Hà Tòng: "Nuôi Rắn, ta chặn hậu, các ngươi đi nhanh lên!"

Nếu không phải ba chữ “đi nhanh lên” bị phá âm thì có vẻ rất uy phong.

Lúc này, một phần Bắc quân trong sơn cốc đã rơi vào hỗn loạn, phần còn lại chia làm hai, một nửa bao vây mật đạo tự dưng xuất hiện này, nửa còn lại lao tới hai bên sơn cốc.

Dù là tuyệt đại cao thủ cỡ nào chăng nữa mà bị vây công hết lượt này tới lượt khác cả đêm cũng không khỏi tay yếu chân run, Lý Thịnh có ảo giác như tứ chi không thuộc về mình nữa, đầu óc đều chém tới tê dại, hơi không chú ý liền bị một khối đá làm vấp ngã, không bò dậy được.

Y và Chu Phỉ sớm đã bị đợt sóng Bắc quân tách ra, nhất thời không thấy nàng ở đâu, vừa té là mấy chục thanh trường thương và đại đao từ trên đầu ép tới, định ép Y làm nhân bánh nhàn hạ vĩnh viễn.

Lý Thịnh liều mạng hét to một tiếng, tay cầm cây trường kích không biết nhặt được từ đâu giơ cao quá đỉnh đầu, chống lại “núi đao” đè xuống. Lần đánh trực diện này Y nghe rõ một tiếng “rắc”, sau đó cánh tay truyền đến cơn đau dữ dội, không biết là bị trật hay bị gãy.

Trận pháp “Bắc Đẩu đổi chiều” có bảy mắt trận, bây giờ đã là mắt thứ năm, khó khăn lắm mới đi đến bước này, sao có thể sắp thành lại bại? Huống hồ cửa mật đạo kia còn chưa đóng, nếu Y chết ở đây thì các lưu dân đó có vào mật đạo hay không đâu có gì khác biệt, chẳng qua là đổi nơi bị Bắc quân truy sát mà thôi …

Lý Thịnh không biết lấy sức từ đâu ra, một tay ráng chống đám đao trên đỉnh đầu, răng nghiến bật máu, liều mạng đưa tay bị thương sờ vào ngực, lấy ra một viên đạn tín hiệu của 48 trại, run rẩy đưa đến bên miệng, dùng răng cắn kíp nổ, sau đó kề sát mặt đất ném ra ngoài.

Đạn tín hiệu vang lên, dường như đốt từ giữa Bắc quân, tia lửa bắn ra tung tóe.

Cả đám Bắc quân bất ngờ không kịp đề phòng, không ít người căn bản chưa nhìn rõ là thứ gì bay qua đã bị tia lửa cháy trúng, áp lực trên đầu Lý Thịnh phút chốc giảm bớt, Y nhân cơ hội nghiêng người lăn đi, dùng phương pháp “lấy yếu chống mạnh” đẩy đống đao thương đè trên đỉnh đầu sang bên cạnh, ầm ầm rơi xuống đất.

Lúc này, một tia sáng lóe qua, Lý Thịnh hoa mắt, chợt ngẩng đầu thấy ánh đao Toái Già như vung mực, thanh danh đao truyền thế ấy qua cả đêm mà không dính chút máu dơ, trên đao loáng thoáng ngưng tụ ánh nắng mai vừa ló dạng chảy qua rãnh hội tụ thành một điểm nơi mũi đao rồi bắn ra bốn phương tám hướng.

Vành mắt Lý Thịnh bỗng nóng lên, Chu Phỉ vung vết máu trên tay nói: "Sao yếu vậy ca? Chỉ biết bắt nạt người nhà thôi à?"

Lý Thịnh: "…"

Đầu mũi tên ghim vào vai Chu Phỉ đã be bét máu thịt, toàn thân nàng từ trên xuống dưới thực không có chỗ nào coi được, duy chỉ đôi mắt và mũi đao là không nhiễm một hạt bụi, vẫn sáng ngời, hệt như trong thân thể phàm tục của nàng có một cây đuốc sáng mãi không ngơi nghỉ.

Trước mắt Lý Thịnh tối đen từng đợt, Y thở dốc mấy hơi, nắm tay Chu Phỉ đứng dậy, nhỏ giọng nói với nàng: "Nếu huynh đoán không sai, mắt trận kế tiếp chắc là ở đông nam …"

Chưa đợi Y nói xong, Chu Phỉ đột nhiên chen ngang: "Ca, huynh nói nơi này là cấm địa Tề môn ư?"

Hiếm khi nghe từ miệng Chu Phỉ tiếng “ca”, Lý Thịnh chợt có linh cảm chẳng lành, Y nghe chữ “ca” này luôn không nhịn được nổi da gà toàn thân, vì đi kèm với nó đương nhiên không có chuyện gì tốt.

Lý Thịnh nói: "Bắc Đẩu đổi chiều đúng là của Tề môn …"

"Vậy thì tốt." Chu Phỉ chợt cười: "Đã đến cổng cấm địa Tề môn rồi, không vào xem cho rõ thì muội chết không nhắm mắt, cho nên chắc chắn muội sẽ không chết, huynh tin không?"

Lý Thịnh giật mình: "Đợi đã, muội muốn …"

Chu Phỉ hất tay Y ra, nói to: "Cơ quan thứ sáu ở bên đó sao? Biết rồi!"

Nói xong, nàng tung người băng qua đám đông, chạy về hướng “đông nam” ngược lại.

Bắc quân nghe lời này, lập tức phát điên, biết không thể để nàng làm ra vụ đất rung núi chuyển nữa, tức khắc cùng nhau đuổi theo.

Lý Thịnh thất thanh: "A Phỉ!'

...............

Đông Hải Bồng Lai, ánh mặt trời chói mắt lướt qua mặt biển, tiến thẳng vào một viên ngọc đỏ hồng rồi trở nên dịu ấm, chần chừ trong viên ngọc không đi.

Một thanh trường đao giắt ngang đầu gối Tạ Doãn, Y nhắm mắt ngồi thẳng trên một tảng đá ngầm lớn, từ từ mở mắt.

Lão ngư dân đan lưới đánh cá bên bờ biển lấy tay che nắng, ngẩng đầu nhìn Y.

"Con luôn nghĩ, thế nào là “sinh không gặp thời”." Tạ Doãn chợt thình lình lên tiếng.

Vẻ mặt Trần Tuấn Phu không dao động, ông hỏi: "Thế nào là “sinh không gặp thời”?"

"Đều là nhân dân chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, năm thái bình thì mai thê hạc tử (*), hái cúc dưới giậu đông, tự có thú vui dân dã, còn năm loạn lạc thì lang thang trôi giạt, bán con bán cái, ngày ngày được bữa nay lo bữa mai. Không chỉ bá tánh bình dân và giang hồ du hiệp như vậy, mà quan to quý nhân cũng trốn không thoát, thúc nói xem, sinh trong loạn thế phải chăng vốn dĩ thấp kém hơn sinh trong thái bình thịnh thế?"

(*) Mai thê hạc tử: lấy mai làm vợ, hạc làm con, chỉ cuộc sống thanh cao thoát tục.

Lời này nghe như thương cảm thân thế bản thân, Trần Tuấn Phu cười nói: "Ngày có sáng tối, trăng có tròn khuyết, người có ly hợp, đời đương nhiên cũng có loạn lạc thái bình, sinh ở nơi nào, không do chúng ta quyết định."

Khóe mắt Tạ Doãn hơi cong, nơi đó có một lớp vụn băng li ti, thoạt nhìn rất rạng ngời: "Vậy người sinh vào trước lúc tảng sáng chắc chắn là may mắn nhất. Cả đời đều nhìn ngày từ từ sáng lên."

Trần Tuấn Phu ngẫm nghĩ, hỏi: "Con đang nói A Phỉ à?"

Tạ Doãn nói: "Con đang nói chính con."

Y nhảy xuống tảng đá ngầm, một tay vén mái tóc dài chưa búi ra phía sau, vẩy đi lớp sương mỏng do hơi nước tụ thành trên người: "Sư thúc, con nghĩ ra nên khắc tên gì lên thanh đao kia rồi."

Trần Tuấn Phu: "Tên gì?"

Tạ Doãn: "“Hi Vi”." (*)

(*) Hi vi: Ánh nắng mai yếu ớt.

Trần Tuấn Phu thoạt tiên sững sờ, kế đó kinh ngạc nói: "Có gì hay đâu, không phải cổ nhân có câu “hận thần quang chi hi vi” (*) sao?"

(*) Trích “Quy khứ lai từ” của Đào Uyên Minh, nghĩa: “hận ánh nắng mai yếu ớt”.

"Không có gì đáng hận cả." Tạ Doãn khoát tay với ông, đầu không ngoảnh lại: "Đừng không biết đủ."

Tạ Doãn chợt cảm thấy, nếu số mình đã định phải dừng bước nơi đây, cũng đã đủ rồi.

Trong kinh sư phụ đọc có câu “Nhất thiết hữu vi pháp, hữu như mộng huyễn bào ảnh, như mộng diệc như huyễn, như lộ diệc như điện” (*), vậy nếu hồn phách của Y có thể nhập vào thân đao như các truyền thuyết dân gian kỳ quái thì chẳng phải Y sẽ thành một hạt “sương mai” mãi mãi bám trên “ánh nắng mai yếu ớt” sao?

(*) Trích “Kinh kim cang”, đại ý là đạo Phật quan niệm tất cả những gì có hình tướng, bị vô thường sanh diệt đều là pháp hữu vi, chúng đều như mộng ảo, như sương, như ánh chớp.

Bám dai như đỉa cũng có thể xem như trường cửu.

Nghĩ đến đây, Tạ Doãn không kìm được vui vẻ, quyết định viết đoạn này trong thư cho Chu Phỉ.

.............

Một mình Chu Phỉ hút đi phần lớn áp lực cho Lý Thịnh, hét câu kia xong, nàng đã ở ngoài mấy trượng, nhiều Bắc quân lúc này mới phản ứng lại, trước sau trái phải chạy đi vây đánh, hòng dùng biển người chắn đường nàng, rất nhanh đã khiến nàng rơi vào bên trong, nửa bước khó đi.

Nhưng binh tướng vây lấy Chu Phỉ cứ như gỗ mục giấy nát, thoạt nhìn cứng rắn bền chắc, nhưng gặp thần binh lợi khí thì chẳng chống được bao lâu đã bị Chu Phỉ đâm thủng hết lớp này đến lớp khác, mũi đao lộ ra, nàng nhìn chằm chằm một mục tiêu nào đó không xa, mí mắt cũng không chớp, ai cản là giết hết.

Tướng lĩnh tạm thời của nhánh Bắc quân này toát mồ hôi lạnh trên trán, không dám tới gần Chu Phỉ, chỉ hô to: "Không ngăn được thì tản ra, đừng tiếc cung tên, bắn chết ả!"

Chu Phỉ nghe giọng hắn ta, ánh mắt liếc qua như chớp, tướng lĩnh Bắc quân đó bị ánh mắt đầy sát ý của nàng dọa sợ, không kìm được lùi về sau một bước, suýt vấp rễ cây ngã.

Hắn ta hoàn hồn, giận không nhịn nổi, quát: "Ngoan cố chống cự, không biết tốt xấu, bắnnnn … tênnnnn!"

Cung tiễn thủ đồng thanh đáp lời, chợt lùi ra một vòng, không thèm đếm xỉa việc ngộ thương người phe mình, tất cả mũi tên theo tiếng hiệu lệnh của cấp trên cùng hướng vào một chỗ, Chu Phỉ xoay người nhảy lên, như một chiếc lá khô xoay tròn trong gió lốc.

Mũi tên chi chít xếp thành một tấm lưới lớn dài một tấc, rộng một tấc giữa không trung, Toái Già chơi hết toàn bộ, sống đao và mũi tên va nhau, như tiếng đá và hạt châu rơi xuống mâm ngọc.

Mũi tên liểng xiểng và Chu Phỉ cùng rơi xuống đất, ngực nàng phập phồng kịch liệt, mồ hôi lạnh nơi thái dương bị hàng mi dày thiếu nữ ngăn cản.

Mí mắt nàng chớp như không chịu nổi gánh nặng, thấy trên lưỡi đao sáng bóng của Toái Già cuối cùng có thêm hai vết xước cạn … mũi đao bị mẻ mất một mảnh nhỏ.

Thần binh vô song, rồi cũng sẽ về nơi cát bụi?

Bộ binh Bắc quân không cho nàng đau lòng bảo đao, nhanh chóng lấp lỗ hổng, đao thương ào ào tiến tới, tay cầm đao của Chu Phỉ chợt căng lên, biết mình sắp thành đèn cạn dầu, không dám cứng rắn chống đỡ nữa, bèn dùng Phù Du trận pháp, gian nan chui ra ngoài từ khe hở Bắc quân.

"Bắn cung! Bắn cung! Đừng để ả chạy!"

“Rétttt”, lại thêm một đợt lên dây cung nữa, sau lưng Chu Phỉ cứng đờ, đợt tên thứ hai đã tới.

Lưng nàng đau đớn, toàn thân chợt đổ về trước, hóa ra nàng tránh không kịp, bị một thanh đao trong tay Bắc quân quét qua, sau lưng lập tức trầy xước một mảng. Chu Phỉ không để ý vết thương, lăn tránh ngay tại chỗ, đồng thời Toái Già liên tục chém đùi mấy kẻ to gan chặn đường, dùng Bắc quân bên cạnh không kịp tránh làm lá chắn, lăn lộn liên tục tránh đợt tên thứ hai.

Chu Phỉ lăn mãi tới bên cạnh một bụi cây, vai đập mạnh vào rễ cây ngừng lại, mượn lực nhảy lên, đợt tên thứ ba không cho nàng thở dốc, ép tới trước mặt.

Chu Phỉ hết cách, đành mạnh mẽ đề khí lần nữa, dùng khinh công miễn cưỡng tránh né, ai ngờ lần này nàng thật sự kiệt sức, khí chưa đề lên mà nàng cảm thấy ngực và bụng đau nhức, lục phủ ngũ tạng như bị kéo căng nứt.

Trước mắt Chu Phỉ tối sầm, mùi tanh tanh không thể khống chế trào lên cuống họng, sau đó đùi nàng truyền đến cơn đau dữ dội, một mũi tên sắt bắn xuyên qua bắp đùi nàng, ghim nàng lên cây.

Chu Phỉ theo bản năng chống Toái Già đứng dậy, nhưng đao run rẩy như lá rơi trong gió, da dần rách từ chỗ bị thương, nàng đưa tay sờ muốn nhổ mũi tên ra nhưng trước mắt không nhìn rõ gì cả, mấy lần liền, nàng không thể sờ được đuôi tên.

Vừa mới khoe khoang, nhanh vậy đã đần mặt ra … --- Chu Phỉ mơ màng nghĩ, trong khoảnh khắc ngắn ngủi, nàng như hôn mê, thần hồn thoát khỏi chiến trường tu la trước mắt, bỗng lóe qua một giấc mơ thoáng chốc, trong lúc hoảng hốt, nàng như thấy Tạ Doãn đứng trước mặt, tay cầm một thanh đao dài nhỏ …

Nàng nghĩ --- Đúng rồi, tiểu tử kia còn nợ mình một thanh đao.

Đột nhiên, Chu Phỉ cảm thấy cả người mình đổ ập xuống, tất cả trước mắt như điên đảo, toàn bộ Bắc quân và mũi tên bị ép tới trước mắt đều đổi hướng, lướt qua người nàng.

Chu Phỉ mới đầu cho là ảo giác, sau đó cả người như bị thứ gì đó va mạnh, đưa ba hồn bảy phách thoát ra của nàng kéo mạnh về cơ thể. Ánh mắt nàng chợt tỉnh táo, phát hiện mình và cây đại thụ phía sau đang đồng thời ngã ngửa lún xuống!

Lý Thịnh đã động cơ quan thứ sáu!

Chu Phỉ có kinh ngạc chứ không có vui mừng, biết nếu nàng ngã theo cái cây này thì sẽ thành cái bánh nhân thịt, bèn vội túm lấy mũi tên ghim nàng vào cây kia.

Tốc độ trụy xuống của nàng càng lúc càng nhanh, Chu Phỉ không biết lấy đâu ra sức, gân xanh trên cổ tay gần như muốn phá tung làn da trắng nhợt, cơn đau toàn thân như tụ lại một chỗ, nàng từng chút từng chút nhổ mũi tên ra ngoài.

Máu theo cổ tay và ống quần tí tách chảy xuống.

Sau một khắc, cây cổ thụ từ nơi cao ầm ầm ngã xuống.

Vào khoảnh khắc nó sắp tiếp đất, Chu Phỉ rời thân cây, dùng chân không bị thương điểm lên thân cây, mượn lực lao nghiêng đi, sau đó rơi xuống đất ngoài mấy thước một cách hiểm hóc, chân mềm nhũn quỳ trên đất.

Lúc này, quanh nàng có vật gì, có âm thanh gì, nàng đều không nhìn thấy, không nghe thấy, người lạnh lẽo từng cơn, tay chân không nghe sai khiến, nhưng nàng không dám ngất, thà chết ngay tại chỗ còn dễ chịu hơn.

Thình lình, một đôi tay nhấc nàng lên, Chu Phỉ giãy giụa theo bản năng, nàng cảm thấy mình đã dùng toàn lực nhưng thực tế chỉ hơi hơi nhúc nhích.

Người đó bế nàng, giọng nói như từ nơi xa xăm quát: "A Phỉ!"

Hết hồn, hóa ra là Lý bà bà … --- Chu Phỉ nghĩ, sau đó tay nàng buông lỏng, Toái Già chợt rời tay, vào khoảnh khắc rơi xuống đất liền vỡ tan.

Lý Thịnh hơi khựng lại, sắp bị nàng dọa chết, run rẩy đưa tay thăm dò hơi thở nàng.

Nhưng lúc này khi cơ quan thứ sáu hạ xuống, trên cửa động cách đó không xa có một tấm cửa đá cũng hạ xuống theo, sắp từ từ đóng lại.

Dương Cẩn canh trước cửa, một tay cầm đại đao, một tay nâng tấm khiên không biết nhặt từ đâu, chắn lối vào cửa động, một người canh giữ, vạn người khó qua, hô lớn với Lý Thịnh: "Lý huynh! Nhanh lên!"

Hơi thở Chu Phỉ quá yếu, Lý Thịnh chưa dò ra được, nhưng không còn lựa chọn nào khác, đành bế nàng chạy vội đi.

Nhưng đông đảo Bắc quân chặn ở cửa sơn động, trong thời gian ngắn Y căn bản không thể nào xông qua.

Lúc này, một tiếng còi chói tai khiến tai người ta ngứa ngáy vang lên, vô số rắn độc trong sơn động ào ào chui ra, như quả cầu tuyết càng lăn càng lớn, chưa tới ba đến năm trượng đã lăn ra một “quả cầu rắn” cao hơn nửa người, nhắm về phía Bắc quân.

Dương Cẩn mới đầu chưa phản ứng thứ lướt qua mình là gì, sau một lát mới hoàn hồn, mồ hôi lạnh bất giác tuôn đầy người, sợ đến suýt quỳ xuống.

Bắc quân cũng chưa từng gặp “quái vật” bậc này, bị quả cầu rắn kia đụng tách ra một con đường, vừa hay mở đường cho Lý Thịnh.

Sau đó, tiếng sáo của người nuôi rắn chợt vút cao, chói gần như phá âm, quả cầu rắn lăn tới giữa đội ngũ Bắc quân, “ầm” nổ tung, vô số rắn độc bay ra bốn phương tám hướng, rơi vào trên mặt, trên người của binh sĩ chung quanh, nhất thời tiếng hét thảm vang lên liên tiếp.

Lý Thịnh cắn răng, khinh công nhanh đến cực hạn, nhắm mắt xuyên qua bầy rắn bay loạn, chỉ cảm thấy trên mặt, trên cổ bị vảy lạnh quét qua mấy lần, may mà trên người họ đều dính thuốc bột của Ưng Hà Tòng nên rắn độc không há miệng công kích.

Dương Cẩn không nhịn nổi nữa, hét lên: "Ôi điên rồi!"

Vẻ mặt Dương Cẩn như đời không còn gì lưu luyến, duỗi cánh tay ra kéo Lý Thịnh và cả mấy con rắn đeo tòn ten trên vai vào cửa sơn động chỉ còn cao đến nửa người, trong lúc đó dường như Y sờ trúng một cái đuôi rắn trơn nhẵn, mái tóc chỉ còn một đoạn của Y như chỉa hết lên trời, giống một con nhím to bị oan ức.

Liền sau đó, cương đao kẹt cơ quan cửa động vỡ ra, cửa hang đá ầm ầm hạ xuống, nặng nề tách bên trong và bên ngoài.

Mọi người chưa kịp thở phào thì nghe bên ngoài cửa đá truyền đến tiếng vang ... Bắc quân muốn tông cửa.

Lý Thịnh chưa kịp ổn định hơi thở, bế Chu Phỉ chưa có ý thức cùng quỳ trên mặt đất, nói chưa lưu loát, chỉ có thể đưa tay chỉ vào giữa cửa đá: "Cái, cái cuối cùng …"

Dương Cẩn ngẩng đầu, nương theo ánh đuốc trong tay người bên cạnh, nhìn thấy vị trí chính giữa trên đỉnh cửa đá có một hình Bắc Đẩu đảo ngược.

Cửa đá vang một tiếng “rầm” to, Bắc quân bắt đầu tông cửa.

Bùn đất bên trên đổ ào ào xuống theo, Dương Cẩn không dám chần chừ, nhảy vọt lên, dùng cả tay chân leo lên cửa đá ở mặt trong, đặt chân ấn lung tung trên hình Bắc Đẩu đổi chiều. Một tiếng động nhỏ vang lên, phía trên bắn ra một ngăn bí mật nhỏ, lộ cơ quan bên trong, Dương Cẩn đóng cơ quan lại, mọi người chỉ cảm thấy mặt đất dưới chân chuyển động, từ từ trầm xuống.

Sơn động mật đạo đột nhiên xuất hiện chậm rãi chìm vào lòng đất, ngay cả lối vào cũng biến mất!

Trong mật đạo chật hẹp u ám, tầm nhìn đột nhiên trở nên rộng rãi, thiếu niên tên Tiểu Hổ giơ cao bó đuốc, thấy dưới chân họ là một chuỗi thềm đá mấy trăm bậc dựa vào vách, thông thẳng xuống lòng đất, dưới lòng đất lại có một hình bát quái khổng lồ có kích cỡ giống sơn cốc trên mặt đất.

Ưng Hà Tòng lẩm bẩm: "Đây là … cấm địa Tề môn chân chính …"

Chương 149: Di Tích

Chu Phỉ cảm giác mình có thể ngủ một giấc đến thiên hoang địa lão, tốt nhất là nằm nát rữa trong bùn, đỡ cho tương lai dậy lại chết thêm lần nữa.

Mấy năm bất lực này, nàng ở bên ngoài ăn gió nằm sương, rèn luyện đến mức quá cảnh giác, dù ý thức phiêu du giữa không trung cũng có thể bị những tiếng sột soạt liên tu bất tận trong hoàn cảnh xa lạ đánh thức.

Chu Phỉ hơi tỉnh táo lại trong cơn mơ mơ màng màng, vô thức nhúc nhích một tí, không ngờ bị động tác nho nhỏ ấy làm đau đến mức trước mắt tối sầm. Nàng hơi sợ hãi, lập tức muốn ngất, ai dè bên cạnh có người đặt thứ gì đó xuống đất không nặng không nhẹ, rồi một tiếng “rầm” cực lớn vang lên dọa nàng tỉnh lại.

Nàng chợt giật mình, ký ức ùa về như nước lũ, nhớ mình đang ở nơi nào, bèn đưa tay muốn sờ đao bên hông nhưng lại sờ vào khoảng trống.

Chu Phỉ bừng mở mắt, đối diện với gương mặt một nữ tử trẻ dơ dáy.

Nữ tử kia sợ hết hồn, mở to mắt, dùng khẩu âm không biết của vùng nào hét to: "Cô ấy tỉnh rồi!"

Giọng nàng ấy chưa dứt, một đám đông “ăn mày” không rõ nam nữ già trẻ thi nhau tụ lại, cùng ló đầu nhìn Chu Phỉ.

"Ôi, thật này!"

"Tỉnh rồi tỉnh rồi!"

Chu Phỉ: "…"

Lúc này nàng mới chú ý, hình như mình đang ở dưới lòng đất, tầm nhìn cực kỳ rộng rãi, đuốc xung quanh đã được đốt lên, hèn gì các lưu dân chạy tới chạy lui vọng ra tiếng to như vậy.

Nữ tử trước mặt không sợ nàng, múc trong nồi to bên cạnh ra một bát gì đó sền sệt đưa cho Chu Phỉ, lại nói: "Nồi này nặng quá, lúc nãy tôi suýt làm đổ, mau, cô uống tí đi, có cả thuốc và nước đấy."

Chu Phỉ thử dịch chuyển, kinh ngạc phát hiện eo mình không có sức.

"A, đúng, xà cô … ơ, xà … đại hiệp đã cho cô dùng một loại kim sang dược độc môn, huynh ấy nói hiệu quả rất nhanh, nhưng mới đầu vết thương hơi mất cảm giác, hoạt động không quá thoải mái, không sao đâu, tôi đút cô uống." Nàng ấy nhanh mồm nhanh miệng, đưa cái bát bị mẻ một góc đến trước mặt Chu Phỉ như rất quen thuộc: "Tôi đây nhũ danh là Xuân Cô, không có đại danh, có việc gì cô cứ dặn tôi là được. Tôi nói này, mọi người đừng vây quanh cô ấy nữa, Tiểu Hổ, đệ mau đi báo cho nhóm Xà đại hiệp biết đi."

Một thiếu niên bên cạnh đáp lời, nhanh chân chạy đi.

Xuân Cô tuy nói nhiều nhưng trông có vẻ như từng hầu hạ người khác, nhanh nhẹn đút hết bát thuốc cho Chu Phỉ, vừa không làm nàng bị sặc vừa không để giọt nào đổ ra ngoài.

Sau đó nàng ấy lại ngâm nga hát, lấy ra một mảnh lụa trắng sạch, Chu Phỉ không khỏi nghi hoặc nhìn mảnh lụa ấy.

Xuân Cô hình như nhìn ra được thắc mắc của nàng, cười nói: "Cái này ấy à, là Lý đại hiệp dẫn chúng tôi tìm ở đây, chỗ này tốt quá, nồi niêu xoong chảo gì cũng có, có một cái rương để rất nhiều vải tốt, còn có không ít lương thực nữa, tuy không quá tươi nhưng sàng lọc lại vẫn có thể ăn được, xem ra trước đây có người thường xuyên ở! Nào, để tôi lau mồ hôi cho cô."

Chu Phỉ không quá quen được người khác chăm sóc, vội nghiêng đầu: "Cô nương, cô không cần như vậy …"

"Có gì đâu." Xuân Cô cười nói: "Nếu không có các cô thì tôi và đệ đệ đều mất mạng cả rồi. Chúng tôi từ phương bắc chạy nạn tới đây, vốn tưởng sắp chết đói đến nơi thì được người tốt cùng chạy nạn cứu và thu nhận, đưa tỷ đệ chúng tôi đến nơi này."

Chu Phỉ hỏi: "Người dẫn đường là đạo sĩ sao?"

"Không phải." Xuân Cô bận bịu bưng một bát cháo tới, nhẹ nhàng thổi nguội, đút cho Chu Phỉ rồi nói: "Có điều nghe nói cũng có liên quan với đạo sĩ, mấy năm trước có đạo sĩ tiện đường ghé nhà một lão bá xin nước uống, lúc đó gia đình lão bá cũng xem như giàu có, thấy người xuất gia nên mời vào cho bữa cơm ăn, các đạo sĩ trước khi đi đã cho ông ấy một tấm bản đồ, nói là nếu có ngày gặp khó khăn thì cứ đi theo tấm bản đồ sẽ có chỗ dung thân. Lúc đó lão bá không để ý, ai ngờ về sau thật xảy ra chiến tranh, ông mới nhớ tới thứ này, bèn triệu tập bà con bạn bè đi theo. Đến sơn cốc mới phát hiện, hóa ra không chỉ có một nhóm người đến, những người trước sau chạy đến đây hoặc nhiều hoặc ít đều từng giúp đỡ đạo sĩ, câu chuyện cũng không khác nhau nhiều."

Chu Phỉ đăm chiêu.

Nói cách khác, sơn cốc xây trên cấm địa Tề môn bên ngoài được tạo thành từ nhiều năm trước, các đạo sĩ Tề môn dự liệu sẽ có ngày loạn lạc nên từ lâu đã tiết lộ địa chỉ cho các bách tính biên cảnh từng có ơn với họ.

"Tôi còn tưởng mình được cứu rồi." Xuân Cô nói: "Haiz, ai dè ngày vui ngắn chẳng tày gang, bọn súc sinh kia lại xông vào, mới đầu còn nói những lời ngon tiếng ngọt với chúng tôi. Chúng tôi đều chỉ là bách tính bình thường, sao dám chống lại triều đình, đương nhiên người ta nói gì nghe nấy, nhưng chúng càng lúc càng lấn tới, càng ngày càng xem chúng tôi như heo chó, cuối cùng còn gom chúng tôi nhốt chung một chỗ, cưỡng chế nhốt nữ nhân vào đại doanh phía tây mua vui cho chúng."

Chu Phỉ khẽ cau mày.

"Ai ngờ chúng tôi tốt số, có xà cô … ơ, không đúng, là xà đại hiệp." Xuân Cô le lưỡi: "Mấy gã khốn xấu xa kia không hiểu sao cứ tới gần đại doanh tây bắc là bị rắn cắn, rắc hùng hoàng cũng vô dụng, khà khà, chúng còn không biết là chuyện gì, cứ tưởng trúng tà."

Lúc này, bên cạnh có một giọng nói xen vào: "Ta bất đắc dĩ mới giả nữ, mạo phạm chư vị rồi, xin lỗi."

Chu Phỉ nghiêng đầu thấy Ưng Hà Tòng đi tới, Y đã gỡ mấy bím tóc kỳ cục trên đầu ra, tuy chưa thay y phục nhưng chỉ cần không cố ý che giấu giọng nói và cử chỉ thì vẫn có thể khiến người khác nhìn ra là một nam thanh niên tướng mạo thanh tú.

"Trong thời gian ngắn đừng động chân khí lung tung, nội công của cô vững, tuy bị nội thương nhưng không biết dùng phương pháp gì mà có xu hướng hỏng rồi tự tái lập, ta thấy vấn đề không lớn." Ưng Hà Tòng nói xong, đánh giá Chu Phỉ, lại chân thành khen ngợi: "Chu cô nương, cô đúng là chịu thương giỏi đấy."

Chu Phỉ: "…"

Từ biệt mấy năm, bản lĩnh nói chuyện đáng đánh đòn của Độc lang trung còn hơn năm đó.

Chu Phỉ hỏi: "Sao ngươi lại ra cái bộ dạng này thế?"

"Ta nhờ Hành Tẩu Bang nghe ngóng giúp về cấm địa Tề môn, không ngờ tin tức bị rò rỉ thế nào mà mấy hán tử Hành Tẩu Bang làm chân chạy giúp ta đều bị giết, hung thủ là một gã thích khách cứ khăng khăng cho rằng ta biết gì đó nên truy sát ta. May mà rắn ta nuôi cảnh giác, nhiều lần cảnh báo trước, có một lần ta bị vây khốn trong khách điếm, thuốc bột trên người đã dùng hết, chưa kịp chế mới, hết cách ta mới đành cải nữ trang, trà trộn vào đám nữ nhân trốn khỏi bọn buôn người rời đi, ai ngờ cơ duyên trùng hợp được họ dẫn tới sơn cốc này."

Đám Bắc quân kia mù, xem Y thành một đại cô nương non tươi mơn mởn.

Thích khách cố chấp với cấm địa Tề môn, Chu Phỉ biết ngay là Phong Vô Ngôn, nàng suy nghĩ cảm thấy cũng có lý. Hắc phán quan Phong Vô Ngôn là ai, đương nhiên sẽ không chú ý tới một đám lưu dân ăn bữa nay lo bữa mai, sao lại nghĩ đến bí cảnh mà ông ta tha thiết ước mơ lại nằm trên tay đám giun dế này? Nên chắc chắn ông ta đã lướt qua cơ hội duy nhất trong đời. Lúc mất tung tích Ưng Hà Tòng, Phong Vô Ngôn phải đi tìm cách khác, vừa khéo gặp các đại môn phái bao vây tiêu diệt Ân Bái ở Liễu gia trang, bèn đi vào kiếm hời.

Chu Phỉ ngạc nhiên: "Ngươi không phải người của Đại Dược cốc à, sao cũng đi tìm cấm địa Tề môn?"

Ưng Hà Tòng: "Vì mộ của Lữ quốc sư là mộ y quan (*). Nghe nói mấy năm cuối đời, ông sống rất hoang đường, ngày ngày luyện đan uống thuốc, uống tới mức thần trí không tỉnh táo, có hôm đi lạc, các tiền bối trong cốc lật tung cả Trung Nguyên cũng không tìm được, mấy năm sau mới nhận được một phong thư của ông ủy nhiệm chưởng môn đời kế tiếp, đồng thời nói bản thân được tiên nhân chỉ điểm, tìm được một bí cảnh ở nơi không ai biết, chuẩn bị ở đó thành tiên bay đi … thực là không thể nói lý, mấy chuyện mất mặt này là bí mật môn phái, không truyền ra ngoài."

(*) Mộ không có thi thể, chỉ chôn quần áo, di vật của người chết để tượng trưng.

Chu Phỉ: "Ngươi hoài nghi “bí cảnh ở nơi không ai biết” chính là cấm địa Tề môn?"

Ưng Hà Tòng: "Vì Niết Bàn cổ. Mới đầu ta còn không biết, sau đó thấy cô đưa tới đám điển tịch dược cốc kia, trong đó có một quyển “Dị văn lục” ghi chép những chuyện lạ mà Lữ quốc sư tai nghe mắt thấy trong đời, giống giống thần thoại dân gian. Có lẽ cô không xem kỹ, trong đó có một phần về yêu quái, nhắc tới chuyện Niết Bàn thần giáo và Niết Bàn cổ, phía sau có một hàng chữ nhỏ không rõ lắm do Lữ quốc sư thêm vào sau, nói ông vì nhất thời hiếu kỳ nên để lại nghiệp chướng này, sau đó lại vì một ít tâm ma mà nuôi dưỡng nó, bây giờ xem ra giống một mầm họa … ta mới nổi lòng nghi ngờ gã tự xưng “Thanh Huy chân nhân” kia rất có khả năng từng tới nơi Lữ quốc xư năm xưa “thành tiên”."

Chu Phỉ nghe mà sững sờ, không ngờ bên trong còn có nguyên do rối rắm như vậy.

Ưng Hà Tòng lại nhẹ nhàng nói: "Thế là ta đi truy tra về cuộc đời của “Thanh Huy chân nhân”, phát hiện trước khi hắn ta có Niết Bàn cổ, hình như chỉ là một tiểu nhân vật không ai biết, ta phí rất nhiều công sức mới moi được thân phận thật của hắn ta - chính là hậu nhân Sơn Xuyên kiếm, chắc hẳn cô cũng biết, không cần ta nhiều lời. Ta quanh quẩn dưới chân Hành Sơn rất lâu, cuối cùng dò la được chút manh mối, nói hắn ta năm xưa từng bị trọng thương, được mấy đạo sĩ cứu. Đạo quán nổi tiếng tổng cộng chỉ có vài cái, có thể đếm trên đầu ngón tay, trong đó chỉ có núi Chúc Âm của Tề môn cách sông Tương không xa, mà năm xưa người đầu tiên chết dưới tay Thanh Huy chân nhân là Bạch Hổ chúa Phùng Phi Hoa sau khi rời khỏi núi Hoạt Nhân Tử Nhân hình như cũng hoạt động ở gần đây, Tề môn quen dùng mấy thứ kỳ môn độn giáp, chẳng phải giống “nơi không ai biết” trên di thư của Lữ quốc sư sao? Tới đây thì manh mối đều khớp cả, ta mới đoán nơi cuối cùng Lữ quốc sư ở chính là cấm địa Tề môn."

Chu Phỉ nghe xong những lời miêu tả qua loa này của Y, nhất thời hơi chấn động, khó có thể tin hỏi: "Ngươi … đều là một mình ngươi tra được?"

Ưng Hà Tòng khó hiểu nhìn nàng: "Đại Dược cốc chỉ có một mình ta, không ta thì ai?"

Cả đời này của Y, thật có thể xem như không thành văn không giỏi võ, trừ nuôi rắn ra thì ngay cả chút vỏ bề ngoài của Đại Dược cốc Y cũng không học được bao nhiêu. Thế nhưng số trời run rủi, Y lại trở thành người duy nhất còn sống sót, đành nuốt xuống huyết lệ, liều mạng truy tìm những di tích truyền thừa đã mất, chút xíu manh mối cũng không chịu bỏ qua.

Chu Phỉ im lặng, nàng luôn cho rằng mình vì Tạ Doãn đã làm đủ chuyện ngốc nghếch trong thiên hạ, không ngờ giang hồ ngọa hổ tàng long, còn có kẻ ngốc hơn cả nàng.

Ưng Hà Tòng vứt cho nàng một khúc gỗ làm gậy, nói: "Trong này còn nhiều trận pháp cổ quái, bọn ca ca cô ban nãy đi loạn, bị vây ở một góc tường nửa ngày không ra được, cô đi xem không?"

Chu Phỉ nhận gậy, cắn răng chống mình dậy, tự cảm thấy mình thành một lão thái bà tuổi già sức yếu, chống gậy gỗ xuống đất, run run như chiếc lá trong gió.

Xuân Cô thấy vậy, há miệng, muốn tiến lên dìu thì bị Ưng Hà Tòng khoát tay ngăn.

Độc lang trung đứng nói chuyện không đau eo, hững hờ nói: "Nàng ta cả ngày lăn đi lăn lại giữa gió đao sương kiếm, oai phong lắm, dễ chết vậy à? Không cần lo cho nàng ta đâu."

Chu Phỉ bị thương tích đầy mình cộng thêm món kim sang dược độc môn thất đức của Y hành hạ toát mồ hôi, lúc này hoàn toàn dựa vào một hơi thở chống đỡ, nghe câu bình luận lạnh nhạt của gã “lang trung” này, lập tức giận mà không chỗ phát, cảm thấy nếu mình còn chút sức nào thì nhất định phải cho Y một đao.

Chu Phỉ: "Nuôi Rắn, sau này ngươi phải cẩn thận đấy, đừng để rơi vào tay ta."

Ưng Hà Tòng nhướng mày với Xuân Cô: "Cô xem kìa."

Xuân Cô: "…"

Nói xong, Ưng Hà Tòng nghênh ngang bước về trước, căn bản không biết thả chậm bước chân để chờ người bệnh.

Chu Phỉ ngứa răng, đem những chấn động và cảm thông, tán thưởng mơ hồ ban nãy vo thành một cục đạp dưới chân. Tên họ Ưng này vẫn là một tên khốn đáng ghét!

Chẳng bao lâu, Ưng Hà Tòng đã chạy ra phía trước. May có Xuân Cô đút cháo và thuốc cho nàng nên bây giờ tốt xấu gì Chu Phỉ cũng có chút sức, chống gậy bước từng bước chậm rì rì đi theo cọc gỗ chỉ đường. Trong sơn cốc dưới đất này, vách núi và mặt đất đâu đâu cũng có hình bát quái và hòn đá cọc gỗ với ý đồ riêng, Chu Phỉ nhìn mà hoa mắt, may trong lúc nàng hôn mê, bọn Lý Thịnh đã dọn dẹp gần đó ra một con đường, cắm đầy cọc gỗ nhỏ làm dấu trên mặt đất xem như chỉ đường giúp nàng.

Chu Phỉ đi một bước nghỉ nửa ngày, mượn cơ hội nhìn quanh “nơi không ai biết” trong truyền thuyết, đột nhiên, nàng phát hiện một bài “Đạo đức kinh” trong một mảng hình bát quái với mấy ngàn chữ khắc trên vách đá. Chu Phỉ không khỏi ngừng chân nhìn kỹ, thấy “Đạo đức kinh” này y hệt quyển năm xưa Xung Tiêu Tử cho nàng, thoạt nhìn viết vô cùng cẩu thả, nét chấm nét ngang nét phẩy bay loạn tứ tung, nhưng ẩn chứa một bộ nội công tâm pháp không rõ tên.

Nhìn lại lần nữa, hóa ra tiêu đề kinh văn không phải “Đạo đức kinh” mà là “Tề vật quyết”.

Chu Phỉ sực tỉnh, thầm nhủ --- Hóa ra công pháp mình luyện nhiều năm có tên này.

Nàng nhớ lại chuyện cũ trong tiểu viện của Đoàn Cửu Nương. Nàng bị bà điên ấy làm cho muốn sống không được, muốn chết không xong, nàng xem tiếp với lòng hơi hoài niệm, chợt ồ lên ... nửa phần trước Tề vật quyết y hệt của Xung Tiêu Tử cho nàng, nhưng nửa phần sau có thay đổi.

Có người dùng lực ngón tay mạnh mẽ bôi những nét bút phần sau, vừa khéo bôi những chỗ chỉ kinh mạch, vả lại còn bôi không hề che giấu, khiến nửa phần sau có rất nhiều chữ đứt một nửa, giống như của Dương Cẩn viết.

Mà giữa chữ với chữ lại có thêm không ít vết đao rìu chém lên đá, như có người từng chém lung tung ở đây phát tiết, nhưng nhìn kỹ, Chu Phỉ lại cảm thấy trong những vết tích loạn xạ kia như có thứ gì đó vô cùng sống động, một luồng chiến ý lạnh lẽo ập vào mặt.

Nàng giật mình, lùi một bước theo bản năng, lảo đảo suýt đứng không vững.

Đúng lúc này, cách đó không xa có người hô: "Ra rồi! Ta phá trận rồi!"

Chu Phỉ đưa tay ấn mạnh ấn đường, cưỡng chế dời ánh mắt khỏi vách đá, thấy bọn Lý Thịnh từ đường nhỏ cắm đầy cọc gỗ chạy qua.

Lý Thịnh treo một cánh tay, huơ tay múa chân: "A Phỉ! Ai da, muội tỉnh nhanh lắm, dọa chết huynh rồi biết không hả? Mau xem bọn huynh tìm được gì nè!"

Chu Phỉ nhướng mày, thấy trên tay Y huơ ba bốn cái vỏ đao cũ kỹ.

Toàn bộ … đều giống y như đúc vỏ thanh Sơn Xuyên kiếm mà Ân Bái mang trên người!

Chương 150: Chân Tướng Vu Hồi

"Tới xem cái này nè." Lý Thịnh chỉ có một cánh tay kẹp cả đống vỏ trường kiếm khá bất tiện, đành ném hết xuống đất: "Bên kia còn nhiều vỏ kiếm này lắm. Chỗ này thật tuyệt, dựa đại mảnh tường nào cũng có thể lọt vào trận pháp cơ quan, dù muội từng học chút ít cũng bị nhốt nửa ngày không ra được, quay lại nhớ bảo mọi người đừng đi lung tung."

Một chân Chu Phỉ bị mũi tên của Bắc quân bắn xuyên qua, nàng không dám chạm chân xuống đất, chỉ di chuyển nhờ gậy và chân còn lại, nàng nghi ngờ hễ mình ngồi là không đứng dậy nổi, đành chống hai tay lên gậy gỗ, hơi khom người nhìn xuống.

Dương Cẩn và Ưng Hà Tòng đều sáp lại.

Đoạn Nhạn đao của Dương Cẩn chém đến cong lưỡi đao, sau cơn đau lòng, Y tạm thời tìm vật thay thế, ai ngờ lật tung chỗ ban nãy cũng không tìm được thanh kiếm nào, toàn bộ đều là vỏ kiếm, Y lập tức vô cùng thất vọng: "Cấm địa gì thế này? Ta thấy giống cái hầm để đồ linh tinh hơn."

Lý Thịnh đặt mấy vỏ kiếm kia quay mặt chính lên, xếp thành một hàng: "Nhìn ra gì không?"

Chu Phỉ cau mày, thấy trên mỗi vỏ kiếm đều có một hoa văn sóng nước ở cùng một vị trí, hầu như giống nhau như đúc.

Lý Thịnh nói: "Tương truyền Sơn Xuyên kiếm cũng xuất xứ từ tay vị Trần đại sư ở Bồng Lai. Nhưng bản thân kiếm đã bị mất từ lâu, chỉ còn lại vỏ kiếm."

"“Sơn Xuyên kiếm” thực ra không phải kiếm mà là chỉ bản thân Ân đại hiệp." Chu Phỉ sửa lại, tò mò đống vỏ Sơn Xuyên kiếm trông thế nào, bèn chống một chân và gậy, từ từ dịch về phía bọn Lý Thịnh.

Lý Thịnh thở dài: "Qua đây, ca cõng muội."

Chu Phỉ khoát tay với Y, nói tiếp: "Ân đại hiệp cả đời không biết đã thay bao nhiêu thanh kiếm, đều là hàng dỏm phí ít tiền nhờ người ta rèn, còn không có tên khắc nữa là. “Ẩm Trầm Tuyết” của Nghê Thường phu nhân về sau không phải vẫn chưa giao cho Ân đại hiệp đấy sao? Muội thấy nguyên nhân lớn là do bà ấy thấy Ân đại hiệp tìm Trần đại sư mua bừa một thanh."

Ưng Hà Tòng lấy làm lạ: "Nguyên nhân đó nghĩa là sao?"

Chu Phỉ: "Trần đại sư là danh gia đương thời, có vài món đồ ông làm là do người ta đặt, chẳng hạn như Vọng Xuân Sơn và Ẩm Trầm Tuyết, đều là binh khí có thể truyền lại đời sau. Nhưng có vài món đồ ông làm tương đối qua quít, ông gom nồi lấy sắt vụn đúc bừa vài thanh, không hề dụng tâm, không khắc tên, không kiểu cọ, thống nhất cho vào vỏ gỗ đem bán lấy tiền trợ cấp vật dụng trong nhà. Ta nghe Trần đại sư nói Ân đại hiệp chính là mua kiếm kiểu “trợ cấp vật dụng trong nhà” đó, Nghê Thường phu nhân về sau có lẽ đã hiểu, với cảnh giới của Ân đại hiệp năm xưa, nếu ông cầm một mảnh sắt thì mảnh sắt đó chính là “Sơn Xuyên kiếm”, nếu có người dùng danh kiếm đem tặng thì ngược lại có vẻ cố ý … đây chỉ là ta đoán, nghe qua rồi thôi, chưa chắc đúng."

Trong lúc nói chuyện, nhóm người họ từ từ tới chỗ Lý Thịnh đi ban nãy, thấy trên vách đá mở ra một cánh cửa nhỏ, bên trong có một động khác, nhìn không thấy đầu mút.

"Theo sát ta, trong này ba tầng trận pháp trùng điệp, biến ảo khó lường, bọn ta ban nãy bị vây bên trong gần một canh giờ mới ra được đấy." Lý Thịnh vừa nói vừa giơ cao bó đuốc.

Ưng Hà Tòng xách một cái vỏ Sơn Xuyên kiếm, nói: "Cũng tức là cái vỏ Sơn Xuyên kiếm mà khắp nơi tranh đoạt kia là sau này mới làm chứ không phải từ tay Trần đại sư. Ta đang nghĩ một chuyện, Ân Bái từng tới đây, nghe nói trước khi hắn ta có Niết Bàn cổ thì võ công vô cùng kém, nếu lúc đó tiền bối Tề môn ra tay tráo vỏ Sơn Xuyên kiếm trên người hắn ta, cô nói xem liệu hắn ta có nhận ra không?"

Chu Phỉ ngẩn người, vì Mộc Tiểu Kiều từng nói với nàng, bây giờ truyền thuyết về Hải Thiên Nhất Sắc càng ngày càng quái gở, mấy nhân chứng như họ bắt đầu muốn thu lại tín vật được truyền đến tay hậu nhân, Ân Bái trước kia võ công kém cỏi, sau này thì nhân phẩm kém cỏi, Tề môn muốn thu lại vỏ kiếm trong tay hắn ta cũng hợp lý.

Nếu đúng là vậy, các đạo trưởng Tề môn không khỏi thiếu quang minh lỗi lạc.

Chu Phỉ nói: "Ừm, lấy giả tráo thật, không phải là không có khả năng. Nhưng đồ giả làm một cái là đủ, làm nhiều thế làm gì?"

"Vỏ kiếm rốt cuộc có gì đáng nghiên cứu?" Dương Cẩn rốt cuộc nghe không nổi nữa, không nhịn được chen miệng: "Ta nói này, các ngươi có đúng là người dùng đao kiếm không vậy? Đao kiếm có phân tốt xấu cao thấp, còn vỏ kiếm… vỏ kiếm không phải chỉ là một cái hộp đựng sao? Ai lại nhìn ra thật giả? Kiếm khách Trung Nguyên các ngươi thịnh hành lấy gùi bỏ ngọc à?"

Chu Phỉ nhướng mày: "Giỏi lắm, Nam man, ngươi còn biết từ “lấy gùi bỏ ngọc” cơ đấy!"

"Được rồi A Phỉ, sao muội vừa mở mắt là gây sự thế, Dương huynh nói đúng, vấn đề là ở đây."

Đuốc trong tay Lý Thịnh quơ lên, vô số hạt bụi li ti băng qua ngọn lửa phát ra tiếng “lép bép” nhỏ, đường nhỏ quanh co trong mật đạo khiến người ta bối rối đã đến phần cuối, họ tới một thạch thất nho nhỏ.

Trong thạch thất đặt mấy cái rương lớn, bên trong chất đầy vỏ kiếm giống nhau như đúc.

Hoa văn sóng nước, làm cũ, ngay cả vết xước nhỏ trên vỏ kiếm cũng hoàn toàn giống nhau, đừng nói là người ngoài như họ, e đích thân Ân Bái đến đây cũng phải ngớ người chốc lát.

Lý Thịnh tiện tay cắm đuốc vào chỗ hõm trên tường, giơ lên hai tờ giấy mỏng: "Mỗi hoa văn sóng nước trên vỏ kiếm đều y hệt, ban nãy ta và Dương huynh đã thử in nó lên giấy, mọi người xem, hoàn toàn trùng khớp."

Ưng Hà Tòng chợt nói: "Đợi đã, đó là gì?"

Mọi người nhìn theo hướng ngón tay Y chỉ, thấy trong góc có thứ gì đó đang phản quang.

Dương Cẩn đến gần: "Đây là thạch anh hay băng …"

"Đợi đã, Dương huynh đừng động vào!" Lý Thịnh vội hô lớn ngăn Y lại.

Góc tường có một tấm kính nhỏ vô cùng sáng bóng, bên cạnh là một đám thạch anh trong suốt, mỗi cái đều có góc cạnh, ánh sáng từ bó đuốc trên tường chiếu xuống bị kính phản xạ, lại băng qua tầng tầng lớp lớp thạch anh, vừa vặn hội tụ thành một điểm trên một tấm gạch cạnh mấy rương lớn.

Lý Thịnh lấy bó đuốc trên tường xuống, quơ xung quanh, thay đổi góc độ, ánh sáng xuyên qua thạch anh lập tức phân tán, không thể tụ lại nữa.

"Quả nhiên, ban nãy vào luôn là Dương huynh cầm đuốc rọi thay ta." Lý Thịnh đặt lại đuốc vào chỗ hõm, ngọn lửa chợt sáng chợt tắt, ánh sáng cũng dao động như có như không, rất không ổn định.

Ưng Hà Tòng tiến lên gõ gạch: "Rỗng."

Nói rồi ngón tay Y lần theo mép, móc nhẹ, nạy nó lên, lấy ra một phong thư.

Lý Thịnh: "Cẩn thận!"

"Không sao, không có độc." Ưng Hà Tòng đặt lá thư dưới mũi, ngửi: "Trên thư viết “hiền điệt Ân Bái thân khải” (*). Có phải Ân Bái chưa từng thấy lá thư này không?"

(*) Thân khải: Đích thân mở, cũng chỉ người nhận thư.

Y vừa nói vừa mở thư ra đọc nhanh như gió, sau đó chợt trở nên trầm mặc, hồi lâu mới đưa thư cho Lý Thịnh bên cạnh, nhỏ giọng: "Xin lỗi, hình như ban nãy ta lòng dạ tiểu nhân."

Dương Cẩn hỏi: "Viết gì thế?"

Ưng Hà Tòng nói: "“Thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội (*).” Những vỏ kiếm này vốn là chuẩn bị cho Ân Bái, nếu tuồn chúng ra ngoài, trên giang hồ sẽ có vô số “vỏ Sơn Xuyên kiếm”, đến lúc đó không ai phân biệt được thật giả…"

(*) Kẻ thường dân vốn không có tội, chỉ vì có ngọc bích mà thành có tội.

Chu Phỉ than: "Ân Bái sẽ giống như giọt nước giữa biển khơi, an toàn."

Thận Độc ấn của Hoắc gia xuất hiện ở Vĩnh Châu đã gây ra họa lớn nhường nào? Sơn Xuyên kiếm đương nhiên cũng giống vậy.

Khi đó Ân Bái bị dư nghiệt Thanh Long đả thương như chó mất chủ, được Tề môn đón về chữa trị, Xung Vân đạo trưởng đương nhiên nhìn ra được hắn ta lòng dạ hẹp hòi, tính tình cực đoan, bị bệnh từ trong bụng mẹ, gân cốt toàn thân không thể tập võ. Ân Bái chỉ xem Sơn Xuyên kiếm là một di vật vô cùng quan trọng do tiên phụ để lại chứ không biết “Hải Thiên Nhất Sắc” rốt cuộc là gì, hắn ta lại không có năng lực tự bảo vệ, vỏ Sơn Xuyên kiếm rơi vào tay há chẳng phải như trẻ con ôm thỏi vàng sao?

Lý Thịnh xem thư xong, nói: "Xung Vân đạo trưởng từng nhắc với Ân Bái là để mình bảo quản vỏ Sơn Xuyên kiếm, nhưng Ân Bái hình như hiểu lầm gì đó, kịch liệt từ chối, Xung Vân đạo trưởng không tiện thúc ép, đành lùi một bước, nghĩ ra biện pháp không ra sao thế này, đáng tiếc …"

Đáng tiếc chưa để Ân Bái hiểu rõ khổ tâm của mình thì thù hận và sự cố chấp của Ân Bái đã đánh thức Niết Bàn cổ.

Hậu nhân Sơn Xuyên kiếm, cả đời bị vây trong “ý đồ riêng”, bẩm sinh nhu nhược, trước giờ chưa từng phản kháng, đành dùng ác ý để suy đoán người khác.

Nhóm người trong lúc vô tình đã phát hiện một chân tướng vu hồi như vậy, nhất thời đều không thốt nên lời, cùng lặng yên chốc lát.

Qua một lát, Ưng Hà Tòng lại nói: "Nhưng mọi người không thấy lạ sao? Một vỏ kiếm như vậy, không cần đại sư, thợ bình thường chỉ cần có mẫu, muốn phục chế bao nhiêu là có bấy nhiêu, mọi người nói xem, Ân Văn Lam năm xưa kết minh Hải Thiên Nhất Sắc lại dùng vỏ kiếm ... cái “hộp” này làm tín vật, có quá như trò đùa không?"

Lý Thịnh nói: "Như trò đùa đâu chỉ mỗi vật này, còn nhớ ấn của Hoắc gia tên gì không? “Thận Độc”, mọi người không cảm thấy hai chữ đó nghe như con ấn làm riêng chơi ư? Còn về “tín vật bảo chủ” toàn là mọi người nghe Hoắc Liên Đào tự biên tự diễn thôi. Ta nghĩ mãi không hiểu, Hoắc gia bảo không phải chỉ là một môn phái giang hồ do lão bảo chủ mang một đám đệ tử lập nên sao? Lão bảo chủ chỉ là kết giao bằng hữu rộng rãi chứ chưa bao giờ tự xưng võ lâm minh chủ, còn mọi người tới quy thuận Hoắc gia ở Nhạc Dương cũng là chuyện mấy năm trước sau khi Bắc Đẩu Liêm Trinh chết. Cho nên Hoắc lão bảo chủ năm xưa ở không làm một món tín vật to thế làm gì?"

Chu Phỉ: "Chuyện càng giống trò đùa hơn đâu phải huynh chưa từng gặp. Tín vật của Ngô tướng quân là khóa trường mệnh của Sở Sở, không phải khóa vàng mà là một cái khóa bạc không đáng tiền. Cái mà ông ngoại muội để lại càng kỳ cục hơn, năm ngoái lúc muội về nhà giúp mẹ dọn dẹp đồ đạc cũ, mẹ có cho muội xem. Đó là chiếc vòng tay mẹ đeo hồi bé, xấu chết đi được, không giấu gì mọi người, cái vòng đó nhỏ đến mức ngay cả ta cũng đeo không vừa, ngoại trừ nấu chảy ra đúc mới thì không thấy có giá trị gì. Nếu Khấu Đan biết thứ năm xưa bà ta liều mạng tìm chính là hai món đó chắc là bị tức tới mức đội mồ sống lại quá."

Một con dấu riêng tự mình làm chơi, một cái “hộp” đựng kiếm, một cái khóa bạc không đáng tiền, và một cái vòng tay bé gái … mấy người họ đang ở trong cấm địa Tề môn thần bí nhất trên đời, tán gẫu về thứ thần bí nhất giang hồ hiện nay ... “Hải Thiên Nhất Sắc”, càng nói càng cảm thấy quái đản, cứ như “Hải Thiên Nhất Sắc” trong truyền thuyết vốn chỉ là một trò đùa.

Mọi người nhìn nhau chốc lát, Dương Cẩn không tưởng tượng nổi, hỏi: "Cho nên? Đừng nói với ta là trên đời căn bản không có “Hải Thiên Nhất Sắc” gì hết nhé."

"Không thể nào, chắc chắn có Hải Thiên Nhất Sắc." Ưng Hà Tòng nói: "Cái chết của Sơn Xuyên kiếm và Lý lão trại chủ đều có điểm đáng ngờ, độc mà Hoắc Liên Đào hãm hại Hoắc lão bảo chủ từ đâu có, đến nay cũng chết không đối chứng, Ngô Phí tướng quân chết rồi mà thê nhi luôn bị Bắc Đẩu truy sát, tin tức tiết lộ thế nào? Còn Tề môn nữa, lánh đời nhiều năm, cuối cùng lại lộ vết tích, nếu nói một chuyện trong đó là trùng hợp thì ta tin, nhưng không thể chuyện nào cũng trùng hợp được."

Ưng Hà Tòng quanh năm đắm mình trong rắn độc và ếch nhái, ít nhiều có chút khác thường, gặp chuyện gì cũng hay liên tưởng tới âm mưu quỷ kế.

Chu Phỉ nói: "Ý ngươi là mấy tiền bối đó đều chết vì minh ước Hải Thiên Nhất Sắc, bị người khác diệt khẩu. Điều này ta cũng từng nghĩ, nhưng sau đó thấy không ổn, nếu người hại họ chính là người năm xưa cùng họ lập ra minh ước thì thủ đoạn người đó tất nhiên vô cùng lợi hại. Hắn đã có thể giết người trong vô hình, vậy sao còn mặc cho tín vật hoa văn sóng nước phiêu bạt khắp nơi? Dù sao nếu là ta, ta chắc chắn không thể thờ ơ nhìn tín vật Hải Thiên Nhất Sắc rơi vào tay Trịnh La Sinh của núi Hoạt Nhân Tử Nhân."

Ưng Hà Tòng sững sờ: "Cũng đúng."

Dương Cẩn nghe mà đầu như to ra, hoàn toàn rơi vào sương mù, chẳng hiểu gì ráo.

Y ngán ngẩm đi loanh quanh, xách một cái vỏ Sơn Xuyên kiếm bên cạnh lên áng chừng trong tay, nói: "Nè, lão đạo sĩ mà các ngươi nói có phải có bệnh không? Nếu cảm thấy vỏ kiếm đó trong tay Ân Bái là mầm họa chứ không phải tham lam đồ của tiểu tử kia, thì hủy ngay trước mặt hắn ta, nói cho rõ ràng không phải được rồi sao? Có gì không nói thẳng mà lại đi làm mớ vô dụng này … Mấy đồ rởm này tuồn ra ngoài, Ân Bái thì an toàn rồi, nhưng “Hải Thiên Nhất Sắc” gì đó không phải càng ồn ào ầm ĩ hơn sao? Làm điều thừa thãi."

Ba người kia nghe vậy, toàn bộ đều sững sờ, ai nấy đều trầm mặc như có điều suy nghĩ.

Dương Cẩn lại nói to: "Ta thấy nơi này không có đồ gì mới nữa, không phải các ngươi muốn tìm vết tích Niết Bàn cổ sao? Đi không đây?"

Lời Y chưa dứt, bên ngoài chợt truyền đến một tiếng hét chói tai.

Sơn cốc dưới đất tuy lớn nhưng vọng âm cũng rất mạnh.

Mọi người vội vã nối đuôi nhau ra khỏi hang đá, Lý Thịnh ôm vai Chu Phỉ, mang nàng dùng khinh công bay ra ngoài, hướng về phía âm thanh kia.

Đám lưu dân tán loạn khắp nơi không hiểu sao đều vây quanh một góc.

"Xảy ra chuyện gì?" Lý Thịnh cau mày: "Không phải đã bảo mọi người đừng …"

Lưu dân nhanh chóng nhường đường cho họ, giọng Lý Thịnh chợt im bặt. Chỗ trong tường đá có lẽ do có người không cẩn thận chạm phải, lộ ra một con đường nhỏ …

Bên trong là một cái xác khô trông rất khủng bố.

Chương 151: Trong Núi

Người hét là thiếu niên Tiểu Hổ, lúc đó tỷ tỷ cậu là Xuân Cô thuận miệng căn dặn một câu, bảo cậu đi tìm Lý Thịnh, kết quả cậu vừa cúi đầu xoay đi là chạy lạc đường, đi bậy đi bạ không cẩn thận mở ra cửa ngầm, đúng lúc mắt to trừng mắt nhỏ với cái xác khô.

"Phiền tránh đường." Ưng Hà Tòng tiến lên, cẩn thận kiểm tra xác khô kia, con rắn lúc nào cũng mang trong tay áo hắn tò mò từ từ ló đầu ngó nghiêng bên ngoài, kế đó như gặp phải thiên địch, con rắn nhỏ bỗng cứng đờ, sợ hãi rụt về trong tay áo Độc lang trung.

Trên thi thể đóng một lớp bụi nhưng lớp da mỏng manh bên ngoài lại không thối rữa, dán sát khung xương, phác họa rõ rệt hình dáng các khớp và xương.

"Là nam, từng luyện công phu tương tự Bát Quái chưởng, trông tuổi tác không nhỏ." Ưng Hà Tòng lật mấy chỗ quan trọng khắp thi thể nhưng không tìm thấy vết thương rõ ràng, hơi nghi hoặc.

Lý Thịnh liền nói: "Xem tay chân ông ấy có chỗ rách không."

"Ý ngươi là …" Ưng Hà Tòng lập tức hiểu ra gì đó, hơi mở to mắt, vội lật tay thi thể, thấy trên mu bàn tay có vết rách dài ba tấc, lớp da người khô quắt bết lên xương tay như cái túi bị chuột cắn, Ưng Hà Tòng lật thi thể lại, thấy sau gáy ông có một vết rách khác giống hệt: "Niết Bàn cổ."

"Ừ, nghe nói sau khi thả Niết Bàn cổ, Ân Bái đã dùng độc vật này giết Xung Vân đạo trưởng nghe tin chạy tới." Lý Thịnh khẽ nói, Y ôm một cánh tay nửa quỳ xuống, lật mặt thi thể lại, cẩn thận phân biệt ngũ quan đã biến dạng của người ấy, hồi lâu cũng không nhìn ra được hình mẫu ban đầu, cuối cùng từ bỏ, chậm rãi lắc đầu: "Biến dạng dữ quá, ta cũng không nhận ra được người này rốt cuộc có phải Xung Vân đạo trưởng hay không."

Ưng Hà Tòng cười lạnh: "Nơi Cửu Châu mênh mông chúng ta đúng là sinh ra nhiều sói trong núi thật (*)."

(*) Sói trong núi: chỉ kẻ vong ân phụ nghĩa, lấy oán báo ơn.

Lý Thịnh biết mồm miệng Y chua ngoa nên không tranh luận với Y, chỉ khoát tay nói: "Bất kể là ai, nếu chúng ta đã gặp thì hãy để ông ấy yên nghỉ."

Dưới sự chỉ huy của Lý Thịnh, mọi người cẩn thận tránh các loại trận pháp trong cấm địa Tề môn, tìm chỗ đào một cái hố chôn thi thể xuống.

Chu Phỉ hành động bất tiện, tránh sang một bên. Xem người khác đào hố không có gì thú vị, nàng liền một tay chống gậy, tự cầm bó đuốc đi vào cửa ngầm có thi thể theo một đường nhỏ hẹp dài, phát hiện bên trong sâu hun hút không tưởng tượng nổi, có bảy cửa đá, cơ quan trên tường đã bị người khác phá hỏng, nhưng phần lộ ra khiến nàng hoa cả mắt.

Nếu không phải Ân Bái từng tới thì nơi này đúng là không dễ vào, Chu Phỉ không khỏi thả chậm bước chân, bắt đầu hơi phòng bị.

Sau bảy cánh cửa đá là một hang đá âm u, nàng giơ đuốc lên cao, mắt nheo lại không thoải mái.

Không biết có phải ảo giác của Chu Phỉ không, lúc vừa vào hang đá liền có một khí tức âm u lạnh lẽo nồng nặc phả vào mặt, hang đá vuông vức này vô cùng kỳ lạ, trên tường, trên nóc đều viết những chữ nhỏ chi chít, không biết là bùa chú gì, Chu Phỉ không nhận ra chữ nào cả, cảm giác những chữ đó như loài bò sát bám vào tảng đá, đang lạnh lùng nhìn chằm chằm người ngoài dám cả gan xông vào.

Cửa thạch thất có năm tượng đá cao hơn một người, trên đầu là mặt người nhưng từ cổ trở xuống chia ra gắn liền thân ngũ độc (*), đuôi rắn và bò cạp sinh động như thật, mặt người hoặc giận dữ hoặc vui vẻ đều toát ra cảm giác yêu dị khó tả.

(*) Ngũ độc: năm loài động vật mà theo người xưa là có mang độc tính cực mạnh, gồm: rắn, rết, thằn lằn, cóc, bò cạp.

Chu Phỉ và mấy bức tượng đá nhìn nhau, nhất thời không dám đi vào.

"Đây là “vu độc ngũ thánh”." Ưng Hà Tòng không biết từ khi nào đã đi đến phía sau nàng, nói: "Tà thần nơi quan ngoại, dân biên cương rất tin vào vu thuật, thờ phụng họ để cầu không bị độc trùng làm hại … nhưng về sau bị đám rác rưởi “Niết Bàn thần giáo” mượn dùng để giả thần giả quỷ."

Chu Phỉ bị Y thình lình lên tiếng dọa giật mình.

Ưng Hà Tòng tiện tay rút bó đuốc khỏi tay nàng, bước vào trong thạch thất, chân Y bước chả sao nhưng con rắn nhỏ trên người thì như phát điên, sợ đến mức phản chủ ngay tại chỗ, bò ra khỏi cổ áo nhanh như chớp, rớt phịch xuống đất, vặn vẹo mười tám vòng, liều mạng lao về phía cửa.

Chu Phỉ giơ tay dùng gậy đè chỗ bảy tấc của con rắn, cầm lên, con rắn nhỏ điên cuồng quẫy đuôi trong tay nàng, nếu nó là con người thì đại khái đã hét ầm lên “cứu mạng” rồi.

Chu Phỉ cau mày: "Ta thấy ngươi nên ra trước đi. Con rắn nhỏ này ngay cả lửa với hùng hoàng cũng không sợ mà bây giờ lại bị dọa thành như vầy, trong thạch thất này chắc có gì đó kỳ quái."

"Không sao đâu." Ưng Hà Tòng vòng quanh mấy bức tượng đá tà thần vài vòng, hờ hững nói: "Nơi này chắc là mật thất từng để Niết Bàn cổ mẫu, lúc mẫu trùng còn sống, trên người có chất nhầy lưu lại, cổ này quá độc, đã rời đi nhiều năm mà côn trùng rắn rết bình thường vẫn không dám lại gần, trong thạch thất ngược lại còn sạch sẽ hơn cả bên ngoài."

Chu Phỉ cảm giác tay hơi nằng nặng, phát hiện con rắn hiếu động kia thế mà thõng đuôi bất động, nhất thời không rõ là chết hay ngất, nàng còn tự nhủ chắc lực tay mình quá mạnh, bèn vội buông ngón tay nói: "Ê, rắn của ngươi …"

Lời còn chưa dứt, con rắn nhỏ trượt khỏi tay nàng lao ra ngoài, bỏ chạy đầu không ngoảnh lại! Tiểu súc sinh đó giả chết rất chân thực!

"Không sao, lát nữa tự nó sẽ tới tìm ta." Ưng Hà Tòng xắn tay áo, kê chân phủi phủi chữ khắc trên vách đá, lẩm bẩm: "Đây hình như là … “chữ cổ vu độc”."

Chu Phỉ: "Hả?"

"Trước Niết Bàn thần giáo bẩn thỉu xấu xa kia, Niết Bàn cổ xuất hiện sớm nhất trong mộ cổ của “vu độc” nơi quan ngoại, nghe nói trong mộ huyệt cũng khắc đầy loại văn tự này, trên tường dùng máu gà trống vẽ những hình thù kỳ quái, nhưng thời gian đã quá lâu đời, chắc hẳn tộc nhân cũng chết hết rồi, mấy văn tự kiểu bò sát này không còn ai nhận ra được nữa, Lữ quốc sư mới gọi nó đơn giản là “chữ cổ vu độc”."

"Không ai nhận ra …" Chu Phỉ chỉ mặt tường: "Vậy mấy thứ này là ma khắc à?"

Ưng Hà Tòng không lên tiếng, đi vào giữa thạch thất, phát hiện nơi trong cùng nhất có một bệ hương án, bên trên thờ một hộp bát giác hình thù kỳ quái, Ưng Hà Tòng đưa tay ấn nắp hộp, thử vặn nhẹ. Nắp hộp thế mà hoạt động, vừa chạm vào liền mở ra.

Đồng thời, một luồng khói trắng từ lúc mở nắp hộp bắt đầu bay lên, Chu Phỉ nhanh tay nhanh mắt xem gậy trong tay thành trường đao, túm gáy Ưng Hà Tòng kéo lại: "Sao cái gì ngươi cũng đụng lung tung thế hả?"

Khói trắng trong hộp như oan hồn hấp hối, khí thế hùng hổ lao về phía đỉnh thạch thất, kế đó tản đi, trong hộp bát giác trống rỗng chỉ có một mảnh lụa, phía trên bị ép xuống hình dạng một con sâu.

Ưng Hà Tòng có lẽ cảm thấy mình bách độc bất xâm, lại định đưa tay thì bị Chu Phỉ gõ gạt ra.

Độc lang trung hơi tủi thân che mu bàn tay mình, lén lút nhìn Chu Phỉ nhưng không lên tiếng.

"Tránh ra." Chu Phỉ cà nhắc tiến lên, nín thở, cẩn thận dùng đầu nhọn gậy khều mảnh lụa ra.

Mảnh lụa khoảng ba thước vuông, Chu Phỉ sau khi khều thì trải phẳng nó trên nền đất, nhìn những chữ khải nhỏ viết chi chít bên trên, nét chữ vô cùng ngay ngắn, thậm chí còn có vẻ thanh tú.

Ưng Hà Tòng giơ bó đuốc lên, đọc: “Ta thuở nhỏ mất đi bến dựa, nhận đại ân sư môn đặt tên là “Nhuận”, nuôi nấng thân ta, truyền đạo cho ta. Năm nhược quán xuất sư, tính tình tùy tiện đắc chí, tự cho mình có thành tựu, miệng lúc nào cũng “thiên hạ”, lời nói ra ắt có “vạn dân”…”

Mắt Ưng Hà Tòng chợt sáng lên, cẩn thận quỳ xuống đất, cả người gần như nằm nhoài lên mảnh lụa: "Đây là bút tích của Lữ quốc sư!"

Đoạn sau, Lữ Nhuận bỏ ra mấy trăm chữ lưu loát viết nên những cơ duyên gặp gỡ trong đời mình, ngữ khí rất bình thường, nét chữ ngay ngắn, bố cục đẹp, nhưng nội dung thì thần thần bí bí, cứ ba câu là không rời mấy thứ như “cầu tiên”, “siêu thoát”.

"Ông nói ông từng tìm địa điểm cũ của mộ vu độc và Niết Bàn thần giáo năm xưa, sau đó bỏ ra mấy năm ở Dược cốc, nghiên cứu chữ cổ vu độc, là để …" Ưng Hà Tòng ngừng lại, cau đôi mày dài, nói tiếp: "… Tìm xem trên đời liệu có thuật khởi tử hồi sinh hay không."

Chu Phỉ: "Mấy lời nhảm nhí đó lướt qua đi. Sau đó thì sao? Ông ấy nghiên cứu chữ cổ vu độc nhiều như vậy, nghiên cứu ra được gì? Niết Bàn cổ đó phải có gì hữu dụng chứ, bằng không tại sao Tề môn lại bảo quản nó nhiều năm như thế?"

Ưng Hà Tòng nhỏ giọng đọc: "“Ta sống hoài sống phí 60 năm, đến nay đời phù du tạm nghỉ, giật mình tỉnh mộng, mới biết mình dùng cái ngắn ngủi trong chớp mắt lo cái dài của muôn đời, dùng cái nhỏ bé của giun dế xót thiên địa mênh mang, nào có gì đáng nhắc, chỉ làm tăng thêm tiếng cười mà thôi. Độc trùng của dân biên cảnh nhỏ nhoi, chẳng qua là tà môn dùng để ký sinh truyền công, thế mà cũng có thể xua người tác oai tác quái, giả thần giả quỷ, nực cười, nực cười! Nhưng nọc độc của nó cũng có chút công dụng, có thể khiến bách độc tránh lui, nơi này tuy thanh tịnh nhưng côn trùng rất nhiều, chúng tiểu hữu ở đây lâu thường chịu nỗi khổ hai độc ẩm lạnh tới mức kinh mạch ngưng trệ, có thể lấy ít nọc độc, phối hợp với phương pháp âm dương nhị khí để loại trừ. Độc trùng bản tính nham hiểm, vạn mong thận trọng …” Ê ê, cô làm gì đó?"

Chu Phỉ chưa đợi Y đọc xong đã tóm lấy cổ tay Y, nàng không biết lấy sức từ đâu ra, ban nãy còn khập khà khập khiễng mà giờ chỉ một tay đã xách Ưng Hà Tòng lên, ép hỏi: "Có thể khiến bách độc tránh lui là ý gì?"

Ưng Hà Tòng khó khăn hoạt động cổ: "Ý trên mặt chữ … cô chưa nghe nói lấy độc trị độc bao giờ à? Mau thả ta ra!"

Ngón tay Chu Phỉ túm càng chặt hơn, nhanh chóng hỏi: "Hồi ở Vĩnh Châu trước đây ngươi cũng từng nói Thấu Cốt Thanh như vậy, ngươi nói nó đứng đầu trong bách độc, người bị trúng Thấu Cốt Thanh không cần lo gì nữa … cho nên Thấu Cốt Thanh gặp Niết Bàn cổ độc sẽ thế nào?"

"Thấu Cốt Thanh?" Ưng Hà Tòng sững sờ: "Người đó chưa chết à?"

Chu Phỉ rít ba chữ từ kẽ răng: "Nói tiếng người."

"Cái này… chưa thử bao giờ…" Ưng Hà Tòng: "Khó … khụ … khó nói lắm."

Chu Phỉ trầm mặc chốc lát, đột nhiên ném Y, quay đầu bước đi, ngay cả gậy cũng không quan tâm, nhanh như chớp dùng một chân nhảy ra khỏi bảy cửa, dựng dậy Lý Thịnh đang chỉ huy đào hố: "Con Niết Bàn cổ mẫu mà huynh tùy tiện bọc lại đâu? Mau lên, đưa cho muội, còn nữa, nơi này chắc chắn còn có cửa ngầm khác, mau tìm ra hết, tìm xem trong cấm địa Tề môn có ghi chép gì về “âm dương nhị khí” hay không?"

Ưng Hà Tòng đuổi tới nghe câu này, cả kinh nói: "Cái gì, Niết Bàn cổ mẫu trên người cô? Không thể nào!"

Lý Thịnh bị Chu Phỉ giục cuống quít tìm hồi lâu mới tìm ra được trong gói nhỏ mang bên mình có một con Niết Bàn cổ mẫu bị gói bằng y phục cũ, ba người cùng ngồi xổm dưới đất nhìn chằm chằm con mẫu trùng bị Chu Phỉ một đao bổ đôi kia.

Ưng Hà Tòng nheo mắt nhìn chằm chằm vết đao trên thân nó: "Hèn gì rắn của ta không cảm giác được, hóa ra nó chết thế này. Chu đại hiệp, xem vết đao này … là cô giết à?"

Chu Phỉ mới nhảy một hơi từ mật đạo ra khiến vết thương bên hông bị rách, lúc này máu và kim sang dược độc môn Ưng thị hòa vào nhau, vừa đau vừa ngứa, cảm giác ấy thực có thể khiến người ta trực tiếp thăng thiên, nàng kiềm chế vẻ mặt đau khổ khó diễn tả, nói: "Đừng nói nữa, bây giờ ta muốn đền mạng cho nó đây nè."

Ưng Hà Tòng cau mày xách con mẫu trùng chết không toàn thây lên.

Chu Phỉ căng thẳng, lòng bàn tay toát mồ hôi, hỏi: "Sao, nọc độc mà Lữ quốc sư nhắc trong di thư có còn không?"

Ưng Hà Tòng lạnh lùng liếc nàng: "Lời này cô cũng hỏi được, mẫu trùng chết khô quắt khô queo rồi, nọc độc ở đâu ra? Cô vào chỗ năm xưa chém giết cổ trùng cạo ra còn hơn."

Tâm Chu Phỉ bỗng chốc chùng xuống, ngực như bị cái chùy sắt lạnh lẽo gõ vào.

Ưng Hà Tòng xách xác Niết Bàn cổ mẫu, lải nhải một thôi một hồi gì đấy, Chu Phỉ đều không nghe thấy.

Thoáng chốc, Chu Phỉ bỗng nhớ tới một câu của Lữ Nhuận trong di thư ban nãy: “Vạn vật đều là rơm rác, duy có con người tưởng bở, tự cho rằng mình có trí khôn, ngờ đâu thực chỉ là súc sinh trong lục đạo (*)! Tạo hóa độc biết bao.”

(*) Lục đạo: tức “lục đạo luân hồi”, là từ trong Phật giáo chỉ sáu cõi mà chúng sinh sẽ đi vào sau khi chết, gồm: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a tu la, cõi người và cõi trời.

Chu Phỉ xưa nay làm nhiều nghĩ ít, cũng thực chưa tới tuổi mê muội mệnh lý, nhưng bỗng dưng nàng chợt nhớ tới mấy trưởng bối trong trại bình thường hay treo câu “cát hung” bên mép.

Từ khi sinh ra đến nay, lần đầu tiên nàng chạm tới cái gọi là “trong cõi u minh tự có ý trời”.

Tại sao cứ là nàng tự tay chém Niết Bàn cổ?

Tại sao cứ là nàng sau khi giết Niết Bàn cổ mới vào cấm địa Tề môn, tìm được di thư của Lữ quốc sư?

Thế gian này liệu có chăng một tạo hóa không thể trái, luôn chạy không chút do dự về phía kết quả đã định sẵn, mặc cho phàm nhân vùng vẫy thế nào, cuối cùng đều phải bó tay hết cách?

Trong sơn cốc mấy vạn địch quân, Chu Phỉ không mảy may sợ hãi, thậm chí còn quả quyết với Lý Thịnh rằng mình chắc chắn không chết, nhưng bây giờ khi lánh vào nơi an toàn, ngược lại nàng không cách nào áp chế nỗi run rẩy tự nhiên sinh ra trong lòng. Trên người nàng vốn có hai luồng chân khí, tuy nàng bị nội thương nhưng sau khi tỉnh lại, nó không ngừng tuần hoàn tự chữa trị, trong lúc bất chợt, khí hải nàng như khô kiệt, nếu không phải kinh mạch bị thương suy yếu thì loáng thoáng có dấu hiệu tẩu hỏa nhập ma.

Lý Thịnh là người sớm nhất nhìn ra sắc mặt nàng không ổn, vội giơ tay ngắt lời Ưng Hà Tòng: "Chờ chút nói sau … A Phỉ?"

Chu Phỉ thẫn thờ cụp mắt nhìn Y.

Lý Thịnh cẩn thận đánh giá sắc mặt nàng: "Muội … không sao chứ?"

Chu Phỉ không lên tiếng.

Lý Thịnh vội dùng y phục cũ của mình che xác sâu lại, cứng nhắc nói: "Ừm … Tạ công tử ở hiền ắt gặp lành, chỉ là một con cổ trùng thôi, chưa chắc thật hữu dụng, dù sao bây giờ bên ngoài đều là Bắc quân, chúng ta cũng không ra được, đúng lúc tìm kiếm kỹ trong cấm địa này trước khi nhóm của cô phụ đến, nói không chừng …"

Chu Phỉ: "Ừ."

Nàng không nhìn Lý Thịnh nữa, tự mình lảo đảo đứng vững, bước thấp bước cao rời đi.

Mọi người trốn trong cấm địa Tề môn hơn nửa tháng, nơi đây không có ánh mặt trời, ở lâu sẽ khiến người ta sinh ảo giác không phân biệt được ngày đêm sáng tối, Lý Thịnh mỗi ngày đều mang người đi sục sạo các cửa ngầm mật đạo trong cấm địa, tìm được chỗ nào thì dùng thanh gỗ nhỏ đánh dấu lại, thỉnh thoảng tìm ra được gì đều nói với Chu Phỉ.

Nhưng Chu Phỉ luôn đạm nhạt không phản ứng, ngày ngày ngồi ngẩn người trước bức tường vẽ đầy “Đạo đức kinh” thiếu nét kia.

Chương 152: Phúc Hoạ

Trong sơn cốc đổ nát hỗn loạn, toàn bộ chỗ trước quân trướng của Lục Dao Quang bị cơ quan Tề môn đẩy lên cao.

Trận chiến này, mấy vạn Bắc quân tuy không tới nỗi thương gân động cốt nhưng bị sơn cốc kỳ dị thình lình trở mặt làm cho sứt đầu mẻ trán.

Lục Dao Quang võ công cao cường, dư sức làm tiên phong dẫn đầu nhưng bảo hắn ta thống soái một phương thì kém quá xa, hắn ta mượn tay Chu Phỉ giết chết Cốc Thiên Toàn, nhất thời sảng khoái, nhưng đợi khi Cốc Thiên Toàn bị đâm thành nhím, hắn ta mới nhận ra mình mất khống chế với đại quân trong cốc.

Kế hoạch thông qua mật đạo, tập kết binh lực sau lưng địch vốn có thể nói là hoàn mỹ, thế mà lúc sắp xong lại xảy ra quá nhiều chuyện ngoài ý muốn, Lục Dao Quang hận đến suýt nghiến nát răng, một thiên tướng còn không biết sống chết lại gần nói: "Lục đại nhân, chuyện không nên chậm trễ, tôi thấy chúng ta nên báo sự cố này lên Đoan vương điện hạ… Lục đại nhân!"

Lục Dao Quang đánh một chưởng đẩy thiên tướng đó sang bên, rít ra một chữ từ kẽ răng: "Cút!"

Sắc mặt hắn ta u ám trừng cơ quan nhô ra khắp sơn cốc, gằn từng chữ một: "Ta phải bắt mấy tên nhãi này ra cho bằng được!"

Thiên tướng nghe vậy cả kinh, họ thâm nhập vào sau lưng địch, vốn là đi chiêu hiểm, giờ vị trí đã bại lộ mà hắn ta chẳng những không lập tức truyền tin cho Đoan vương Tào Ninh bổ cứu để sớm động binh đánh Chu Tồn trở tay không kịp, lại muốn giằng co với mấy kẻ giang hồ lo chuyện bao đồng, đầu người này úng nước đủ lấp hồ Động Đình rồi!

Thiên tướng vừa lăn vừa bò lao đến dưới chân Lục Dao Quang: "Đại nhân cân nhắc, quân cơ không thể dây dưa được đâu ạ!"

Lục Dao Quang thầm nhủ --- Thằng Cốc Thiên Toàn quen nịnh nọt Đoan vương, hôm nay nhiều người thấy mình hạ lệnh bắn chết ông ta như vậy, khi về tên béo kia hỏi, mình chưa chắc được lợi ích gì. Dù lúc này truyền tin cho Đoan vương bổ cứu thì sơ hở cũng đã tạo thành, nếu thuận lợi, đương nhiên là Đoan vương tính toán không sai sót, nhưng nếu sơ sẩy, chẳng phải tội danh sẽ đổ hết lên đầu mình sao?

Nghĩ vậy, hắn ta đá văng thiên tướng kia, lạnh lùng nói: "Ngươi biết cái rắm, ngươi tưởng mấy tên nhãi đó đánh bậy đánh bạ đụng cơ quan trong cốc à? Chuyện này rõ ràng từ khi bắt đầu đã là một cái bẫy, nhất định gã họ Chu kia ngầm sai người giả làm lưu dân, dụ chúng ta cắn câu rồi chia binh của ta ra hai đường, đánh tan từng cái một, Đoan vương điện hạ bị lừa rồi!"

Thiên tướng nghe mà há hốc mồm.

Lục Dao Quang lại nói: "Trong chuyện này, nội bộ quân ta ắt có nội gián, đường đường là Cự Môn của Bắc Đẩu, sao lại để một tiểu nha đầu miệng còn hôi sữa trói lại bắt đi, đây chẳng phải là chuyện buồn cười nhất thiên hạ sao? Bây giờ nội gián kia tuy đã bị loạn tên bắn chết nhưng chúng ta cũng rơi vào hoàn cảnh thế này, ta thấy chuyện đến nước này, cần phải xuất chiêu cực hiểm mới được. Nếu Chu Tồn đã cược hậu bối nhà mình tới đây thì chúng ta phải để ông ta tiền mất tật mang! Người đâu, ta không tin chúng mang theo đám già yếu bệnh tật kia mà có thể chạy xa, cơ quan đó chẳng phải chìm xuống đất sao? Đào cho ta! Đào ba thước đất, ta không tin không đào được chúng ra!"

.............

Lúc này, trong cấm địa Tề môn lại là khung cảnh yên tĩnh, mọi người theo Lý Thịnh tra xét mật đạo khắp nơi trong cấm địa, Tiểu Hổ cầm thanh gỗ, Lý Thịnh đi đến đâu, cậu sẽ cắm gỗ vào chỗ đó.

Chu Phỉ quay mặt vào vách tường.

Nàng thường xuyên một mình cô độc bên ngoài, thỉnh thoảng tâm trạng dao động đều không có chỗ để xả. Từ nhỏ nàng đã quen thấy phụ thân hướng nội tự khống chế bản thân, đại đương gia lại vô cùng nghiêm khắc, bởi vậy nàng không học được kiểu la hét to của người giang hồ bình thường, nàng sống mơ mơ màng màng, dù ngẫu nhiên uống rượu cũng đa số là để làm ấm cơ thể, chứ chưa từng tham chén, dần dà tạo thành một thói quen: mỗi khi lòng có tích tụ không thể xả, nàng sẽ đi luyện công.

Nàng luyện đa phần là đao pháp, Phá Tuyết đao tuy biến ảo đa đoan nhưng bất luận đi theo lối “ôn hòa mềm mại” hay “biến hóa vô thường”, trong xương cốt của nó luôn là tinh khí thần được kế thừa từ danh môn chính phái.

Thượng võ, hướng về phía trước, bất khuất, tự thành khí phách.

Khi người diễn dịch đao pháp thì đao pháp cũng ảnh hưởng đến người, thường thường khi diễn dịch xong một bộ đao pháp thoải mái tràn trề thì chút âm u trong lòng Chu Phỉ cũng tiêu tan.

Nhưng lúc này, Toái Già của Chu Phỉ đã mất, trong tay nàng chỉ còn một cây gậy gỗ giúp bước đi, nàng thử lấy gậy làm đao, tiện tay vung ra vẫn là đao pháp Phá Tuyết đao đã trải qua trăm rèn ngàn luyện, dù nàng nhắm mắt vẫn không có mảy may sai sót về chiêu thức, nhưng cảm giác đã thay đổi.

Không biết có phải do nàng trọng thương nên khí huyết yếu hay không, đao pháp của nàng đột nhiên trở nên âm u u ám, khiến người ta không lấy nổi chút sức mạnh nào.

Chu Phỉ dứt khoát quăng luôn cây gỗ, cả ngày ngồi tĩnh tọa trước vách núi, điều chỉnh nội tức, vừa ngồi xuống là ngồi mấy canh giờ liền, ngẩn ngơ mấy ngày, đầu óc trống rỗng, ngược lại giống như quên sạch Phá Tuyết đao.

Chu Phỉ ngán ngẩm nhìn chằm chằm Tề vật quyết ẩn trong “Đạo đức kinh”. Nàng chỉ dám nhìn nửa phần trước, nửa phần sau không biết có huyền cơ gì mà hễ nhìn chằm chằm một lát là thần trí dễ bị đao phong trên đó làm đau mắt.

Đạo về nội lực hiếm có phương pháp thành công cấp tốc, trừ phi được người khác truyền công giống Tạ Doãn, hoặc thình lình nhặt được công pháp thần bí độc bộ thiên hạ nào đó, bằng không dù là hậu nhân danh môn gia học uyên thâm cũng cần trải qua tích lũy lâu dài và công phu nước chảy đá mòn. Chu Phỉ từ nhỏ đã quen với cảm giác luyện như không luyện, nhưng không còn tiến vào cảnh giới rõ ràng như quá khứ nữa, đó là cảnh giới mà nàng cảm giác được khí hải mình yên ả, kinh mạch thông thuận, hai luồng nội tức bình an vô sự trên người chảy xuôi như dòng nước.

Nhưng lúc này thì khác, Chu Phỉ chợt cảm thấy kinh mạch bị thương của mình như cây sắp héo tàn, dòng nội tức ngưng trệ đình đốn, trước kia nội tức lưu chuyển chưa tới nửa canh giờ là xong một tiểu chu thiên, mà giờ, dù lúc nàng đối diện vào tường tĩnh tọa, tâm lặng như thiền, chân khí vẫn như bùn cát lắng đọng, gian nan tiến về trước trong kinh mạch đắng chát, hơi không cẩn thận là đứt đoạn.

Thế này là sắp phế sao? --- Nàng thầm nhủ.

Tuy Chu Phỉ không tới mức táo bạo bộp chộp nhưng bẩm sinh cũng hơi nóng tính, nếu là thường ngày, nàng chắc chắn đã sốt ruột đứng ngồi không yên, nhưng bây giờ trong lòng nàng đang trống rỗng mịt mờ, không biết nên đi đâu về đâu, thậm chí nàng còn cảm thấy kinh mạch bị tổn hại cũng không có gì ghê gớm.

Nàng dù sao cũng rảnh rỗi không có chuyện gì làm, thế là ngày ngày làm cùng một chuyện vô vị như thợ mộc chẻ củi.

Bất giác, vết thương trên hông và trên đùi nàng dần khép miệng, mọc ra thịt mới, có thể không cần chống gậy vẫn đi lại như thường, chỉ có nội thương là không mảy may có dấu hiệu chuyển biến tốt, vẫn dở dở ương ương như cũ.

Hôm đó, Chu Phỉ khó khăn lắm mới đẩy nội tức đi về trước được mấy tấc thì bỗng nhiên bên cạnh có một loạt tiếng bước chân truyền đến, tai nàng khẽ cử động, thoáng thất thần, chút chân khí vừa ngưng tụ liền tản đi, phí công vô ích.

Chu Phỉ chẳng sao cả, ngước mắt nhìn về hướng người tới.

Lý Thịnh đi đến bên cạnh nàng, nhìn Tề vật quyết trên tường, chợt cảm thấy con ngươi như bị choáng, bèn vội thu tầm mắt, đưa tay che mắt nói: "Bức tường này quá tà môn, muội có thể đổi chỗ khác ngồi không?"

Chu Phỉ ngước mí mắt: "Huynh không biết đừng nhìn à?"

Lý Thịnh quay lưng về phía tường đá, tìm một tảng đá ngồi xuống, liên tiếp đổi mấy tư thế mới cân nhắc từ ngữ nói với Chu Phỉ: "Ở nơi Lữ quốc sư nuôi cổ, Ưng huynh phát hiện một mớ ghi chép của Lữ Nhuận về chữ cổ vu độc, đang quên ăn quên ngủ đối chiếu với chữ trên tường để nghiên cứu đấy."

Chu Phỉ: "Ừ."

Lý Thịnh thấy nàng không hứng thú, lại nói: "Đúng rồi, muội mau nhìn nè, tụi huynh còn tìm được cái này."

Y trở tay lấy ra một cây phất trần cũ hình dáng “teo gầy”, cây phất trần đó không biết bị người ta quăng bao nhiêu năm, lông bẩn thỉu sắp rụng hết, chỉ có chỗ tay cầm là còn một vết khắc hoa văn sóng nước rõ ràng.

Lý Thịnh vô cùng thần bí đưa phất trần đến trước mặt Chu Phỉ, cố ý khẽ giọng: "Muội đoán xem đây có phải tín vật hoa văn sóng nước cuối cùng không?"

Tốt quá, trong thành viên của Hải Thiên Nhất Sắc thần bí lại có thêm một cây phất trần trụi lông.

Chu Phỉ nhìn lướt qua rồi lạnh lùng thu ánh mắt, sau đó lại cụp mắt như chuẩn bị nhập định lần nữa: "Ờ, có lẽ."

Lý Thịnh trầm mặc chốc lát, thu cây phất trần cũ kia lại, đung đưa chân trước mặt Chu Phỉ: "Bọn huynh còn phát hiện một mật đạo, có lẽ là thông ra ngoài, bị người khác dùng nội lực chấn sụp vách núi, hiện tại đường chưa hoàn toàn được dọn thông, mọi người đang cố gắng dọn dẹp. Tuy huynh cảm thấy chỉ cần Lục Dao Quang có tí não thì chắc chắn sẽ không ở lại trong cốc, nhưng để chắc chắn, chúng ta tìm lối ra khác sẽ tốt hơn."

Chu Phỉ lúc này ngay cả nói cũng lười nói, chỉ gật nhẹ đầu tỏ ý mình có nghe.

Lý Thịnh lải nhải một hồi, cuối cùng xổ hết những đề tài có thể dùng, Y cau mày khổ não, bó tay đi quanh Chu Phỉ mấy vòng, chợt nhớ ra gì đó, bèn đổi đề tài: "Đúng rồi, muội biết mùa xuân năm nay, có một công tử thượng thư gì đó đến trại chúng ta không?"

Chu Phỉ thuận miệng tiếp lời: "Thượng thư gì?"

Lý Thịnh nói: "À, lúc đó muội ở bên ngoài, lúc mà có một tai mắt ngầm của chúng ta say rượu gây sự đánh chết người, đại cô cô phái muội đi bắt ấy ... huynh quên mất là bộ Lại hay bộ gì rồi, dù sao ý đại khái là vậy, tuyên bố mình tới cầu hôn."

Chu Phỉ hơi mở mắt.

Lý Thịnh: "Nhìn gì mà nhìn, chính là tới cầu hôn muội đấy. Kỳ thực trước đó cũng có nhiều người âm thầm hoặc rõ ràng phái người tới hỏi, nhưng đây là lần đầu tiên có người bỏ vốn lớn, đích thân tới."

Chu Phỉ lần đầu nghe chuyện này, lập tức yên lặng chốc lát, nhất thời không biết nên phản ứng gì, hồi lâu mới nói: "Muội? Một thổ phỉ nhà quê như muội, mấy quan to quý nhân đó cưới về làm gì? Trấn trạch à?"

"Còn không phải vì nịnh bợ cha muội sao, trước đây mấy kẻ đó không xem hoàng đế ra gì, nào ngờ mấy năm nay hoàng đế càng lúc càng mạnh, những tên quan đứng nhầm chiến tuyến bây giờ đều hối hận xanh ruột, không kịp làm tâm phúc của đế vương nữa, đành đi khắp nơi tìm cửa sau." Lý Thịnh tì khuỷu tay lên đầu gối, ngón tay gõ nhẹ xương bánh chè nhô ra của mình, hơi dừng lại rồi nói tiếp: "Công tử đó yếu ớt nhu nhược, khó khăn lắm mới đi tới giữa sườn núi, thực đi hết nổi bèn đổi sang ngồi kiệu, cuối cùng sống sót lên được Thục Sơn, hắn gặp đại cô cô, nho nhã lễ độ nói là tới để xin cưới “tiểu thư Chu gia”, muội đoán xem đại cô cô có biểu cảm gì?"

Vẻ mặt trống rỗng của Chu Phỉ cuối cùng cũng có chút thần thái: "Mặt mẹ muội chắc chắn là u mê, có khi còn hỏi người ta “tiểu thư Chu gia” là cọng hành nào?"

Lý Thịnh bật cười ha hả.

Khóe môi Chu Phỉ khẽ giật: "Sau đó thì sao?"

"Đại cô cô nói “cánh nó cứng rồi, ta không quản được nữa, nếu cậu đồng ý thì tự tìm Chu Tồn nói chuyện”. Công tử thượng thư đó nào dám lên tiền tuyến cho cô phụ ghét, thế là nịnh nọt nói “nghe nói nữ nhi giang hồ không câu nệ tiểu tiết, phu nhân quả nhiên rất có phong thái nữ anh hùng hào kiệt thời xưa, liệu có thể xin phu nhân truyền thay ý của tại hạ, hỏi xem Chu tiểu thư nghĩ thế nào không”."

Một mình Lý Thịnh đóng hai vai, hoán đổi tự nhiên, Chu Phỉ không biết Y có bản lĩnh này từ khi nào.

"Đại cô cô liền vẫy tay với Lâm sư huynh, cố ý hỏi “bây giờ nó không có nhà, Tiểu Lâm, gần đây Chu sư muội của con có gửi thư về không, nó đi đến đâu rồi”, Lâm sư huynh ở bên cạnh nghiêm túc nói “dạ muội ấy đã đến trạm Trừ Châu, điều tra được tên bại hoại ở đấy làm không ít chuyện dối trên gạt dưới, không chịu hối cải, tiểu sư muội liền xách đầu thằng đó đi nhận lỗi với nạn nhân rồi ạ”."

Chu Phỉ dở khóc dở cười: "Nói bậy, muội bắt người đưa về trại thôi, có tự xử phạt bao giờ đâu?"

Lý Thịnh giang tay: "Dù sao công tử thượng thư kia nghe câu đó xong là lập tức xanh lét như cọng rau héo, tối gặp ác mộng, lại còn bị sốt, hôm sau chưa kịp đợi đại phu đã lồm cồm bỏ chạy xuống núi."

Chu Phỉ nghe đến đó, rốt cục không nhịn được bật cười.

Lý Thịnh từ nhỏ đã nghịch ngợm, chưa bao giờ ra dáng huynh trưởng, lớn đến chừng này, đây là lần đầu tiên Y vắt óc nói nhiều như vậy. Chu Phỉ cười xong, cũng hiểu được ý Y.

Nàng trầm mặc, ngước mắt nhìn cả sơn cốc dưới lòng đất của cấm địa Tề môn, thấy sơn cốc vốn thần bí khó lường bị cắm những thanh gỗ chỉ đường dài ngắn đủ cả, đâu đâu cũng có, thoạt nhìn giống một đám mạ héo.

Đúng rồi, không biết Lý Nghiên và Ngô Sở Sở có thể thuận lợi truyền tin hay không, bọn Lục Dao Quang có thay đổi kế hoạch tập kích sớm hay không, cha nàng có ứng phó được hay không.

Còn chuyện trong 48 trại, chuyện trong triều đình, mấy năm nay tuy Lý Cẩn Dung cố ý thả họ đi rèn luyện nhưng chưa hoàn toàn dỡ trọng trách xuống, không phải chuyện gì cũng nói cho nàng biết, hôm nay chắn một công tử thượng thư, ngày mai không biết lại chắn thay nàng bao nhiêu chuyện lung tung phức tạp … có lẽ bà vẫn không yên tâm về họ.

Chẳng lẽ nàng cũng muốn làm một kẻ nhu nhược như Lữ Nhuận, không nhìn không nghe không ngửi không động đậy, cúi mình trước “thiên mệnh” trong ý nghĩ chủ quan sao?

"Muội biết rồi." Chu Phỉ chợt nói: "Khi nào dọn đường xong, các huynh gọi muội một tiếng, muội ra ngoài tra xét chút, lỡ gặp phải Lục Dao Quang cũng không sao, lão thất phu đó sợ muội."

Lý Thịnh nhìn nàng, biết đã truyền được ý, lập tức không nhiều lời nữa, gật nhẹ đầu rời đi.

Chu Phỉ hít sâu một hơi, xốc lại tâm trạng, một lần nữa nhập định điều hòa hơi thở, lúc này nàng mới xem như chân chính xem trọng nội thương mãi không thấy chuyển biến tốt. Không biết nàng ngồi bao lâu, cách đó không xa hình như có ai hét lớn “ở đây có đồ, mau qua xem nè”.

Âm thanh ấy phối với vọng âm như sấm nổ, Chu Phỉ giật mình, chút nội tức khó khăn lắm mới ngưng tụ được lại lần nữa tiêu tan trong kinh mạch bị tổn thương nghiêm trọng.

Chu Phỉ cau mày mở mắt, cảm giác mình hoàn toàn đang lãng phí thời gian. Nàng thầm nhẩm lại một lần tất cả nội công tâm pháp mà mình biết, vẫn không tìm được biện pháp gì tốt, chợt ngước mắt lên nhìn nửa phần sau của Tề vật quyết trên vách đá như ma xui quỷ khiến.

Những nét chữ cổ quái kia mang theo khí hung sát ập vào mặt, thét gào lao tới, nhắm thẳng vào Chu Phỉ.

Lần này, Chu Phỉ không vì mắt bị đâm đau mà dời ánh mắt, ba hồn bảy phách của nàng được Lý Thịnh đánh thức khỏi giấc mộng dài ngơ ngác, Phá Tuyết đao đang muốn trấn áp hồn nàng lần nữa thì gặp đòn công kích này, phản ứng đầu tiên là phản kháng.

Trong nháy mắt, vô số chiêu thức lướt qua đầu nàng, một luồng chiến ý nảy mầm sống lại từ trong lòng vốn không mảy may gợn sóng của Chu Phỉ. Khí hải u ám của nàng chấn động dữ dội, nội tức ban nãy bị quấy rầy tiêu tán giữa chừng lập tức hưởng ứng hồi sinh, lần nữa ngưng tụ lại, bơi qua kinh mạch bị tổn thương của nàng, đau như cạo xương.

Đến đây Chu Phỉ đã cảm giác được khác thường, nàng vốn nên lập tức thu công, không nhìn vách đá kia nữa, nhưng Phá Tuyết đao dường như sinh ra một loại cộng hưởng nào đó với vết rìu trên tường, bên tai và trước mắt nàng xuất hiện ảo giác vô tận, toàn thân như bị đè lại, ngay cả con ngươi cũng không động đậy, lòng bàn tay dần rướm máu, rõ ràng là dấu hiệu tẩu hỏa nhập ma … Chí mạng nhất là, các bằng hữu của nàng đều tưởng nàng đang chú tâm điều trị nội thương nên toàn bộ đều đi về phía tiếng la ban nãy, cạnh nàng chẳng có một ai để cầu viện!

Lúc nàng chịu đả kích nặng nề, do bị thương quá nặng nên mới thoát một kiếp. Bây giờ khó khăn lắm mới muốn xốc lại lần nữa thì bỗng dưng gặp phải chuyện này!

Chu Phỉ thực khóc không ra nước mắt.

Đúng lúc này, cả cấm địa chợt truyền đến một tiếng vang lớn, một luồng sáng chẳng lành từ nơi nào đó xuyên vào lòng đất tối tăm, loáng thoáng vọng đến tiếng người bên ngoài.

Tên đần Lục Dao Quang trực tiếp diễn giải câu “có chí ắt thành công”, trong thời gian dài như vậy thực sự không làm gì cả ngoài chú tâm đào ba thước đất … không đúng, ít cũng phải ba trăm thước, đào xuyên qua cơ quan cấm địa!

Chương 153: Khai Đao

Ưng Hà Tòng bước ra khỏi mật thất sau bảy cửa đá, ló đầu nhìn quanh: "Tiếng gì vậy?"

Lý Thịnh không tin nổi nhìn khe hở nhỏ lọt sáng, lẩm bẩm: "Tên Lục Dao Quang này … có phải có bệnh không?"

Chu Phỉ lúc đó liều sau lưng bị chém để bắt một bỏ một giữa hai Bắc Đẩu, nàng đã ưu tiên bắt Cốc Thiên Toàn cũng vì Cốc Thiên Toàn quá nhiều mưu mẹo, nếu giữ lại mạng hắn ta, nói không chừng hắn ta sẽ nghĩ ra chiêu ác độc gì đó, so ra thì giữ Lục Dao Quang lại có lợi với họ hơn.

Nhưng gã này không chỉ ngu mà còn đầy ích kỷ và ác độc, hai thứ kết hợp, thành ra không thể tính theo lẽ thường, ngay cả Chu Phỉ cũng không ngờ Lục Dao Quang có thể “siêu phàm thoát tục” đến vậy.

Ưng Hà Tòng ngạc nhiên nói: "Ông ta không sợ đào ra mật đạo rồi phát hiện chúng ta đã chạy mất từ lối khác sao? Người này lai lịch thế nào, sao lại gia nhập được vào Bắc Đẩu thế?"

"Xuất thân tốt? Hoặc là võ công cao, giỏi đánh nhau… ai mà biết." Lý Thịnh cười khổ nói: "Ta vốn lo xá muội làm việc không ổn, không kịp báo tin cho cô phụ, bây giờ xem ra là lo lắng dư thừa. Giang hồ đồn rằng mẫu tộc của vị Lục đại nhân này có quan hệ bạn bè thân thích gì đấy với Tào thị, hoàng thân quốc thích của họ không tới nỗi là nội ứng của phía nam đâu nhỉ?"

Lục Dao Quang không biết lấy từ đâu ra mấy cái máy bắn đá, bắn từng đợt từng đợt vào chỗ vỡ bên này, đập khiến cấm địa dưới đất của Tề môn đất rung núi chuyển, mà hai “người thông minh” Lý Thịnh và Ưng Hà Tòng lại xúm lại với nhau anh một câu tôi một câu nghiên cứu về xuất thân của Lục Dao Quang.

Dương Cẩn bên cạnh nghe không nhịn nổi nữa, chen miệng vào: "Lý Thịnh, cô phụ của ngươi chừng nào đến?"

Lý Thịnh: "…"

Dương Cẩn tức giận nói: "Nếu đại quân chưa tới, sao hai ngươi còn đứng đây thảnh thơi nói chuyện? Lo cho chính mình trước đi chớ!"

"Tới thì tới, trong cấm địa Tề môn, ta sợ họ chắc?" Lý Thịnh cười lạnh, vỗ tay: "Chư vị, gỡ hết mấy thanh gỗ chỉ đường ra, chúng ta đợi chúng tự chui vào lưới."

Đám lưu dân trải qua nhiều lận đận, khó khăn lắm mới sống đến bây giờ, mọi người đều tin theo Lý Thịnh, mới đầu nghe Lục Dao Quang không đi theo lối thường thì hơi hoảng nhưng bây giờ thấy vẻ mặt Lý Thịnh chắc chắn, không khỏi cảm giác như có chỗ dựa đáng tin cậy, lập tức nghe lời hành động.

Ưng Hà Tòng nhìn quanh, hỏi: "Chu Phỉ đâu?"

"Quay mặt vô tường trị thương rồi, để ta gọi muội ấy một tiếng." Lý Thịnh huýt một tiếng dài, âm thanh vang vọng trong cấm địa dưới lòng đất âm u, hồi lâu vẫn không nghe Chu Phỉ đáp.

Lý Thịnh không nghi ngờ gì, vì từ nhỏ Chu Phỉ đã cảm thấy mấy ám hiệu giao hẹn sẵn này rất ngốc nghếch, nghe thì nghe chứ hiếm khi đáp, nên Y không để tâm, nói: "Muội ấy nghe được sẽ tự nắm chắc trong lòng, không cần quan tâm."

Lúc này, Bắc quân trên cấm địa đào hừng hực khí thế, Lý Thịnh trong cấm địa dùng khinh công như bay, mang đám lưu dân thu dọn cọc gỗ chỉ đường một cách trật tự nề nếp, mọi người bận rộn tất bật.

Chu Phỉ nghe tiếng những Bắc quân kia đào, đương nhiên cũng nghe tiếng huýt sáo của Lý Thịnh, nhưng nàng dường như rơi vào một hoàn cảnh cực kỳ lúng túng, vừa không hoàn toàn nhập định vừa khó thoát khỏi trạng thái “bị yểm”, chỉ có thể bị kẹt ở giữa không lên không xuống, chân khí toàn thân như bị Tề vật quyết bá đạo nửa phần sau rút sạch, càng lúc càng vào được ra không được.

Vết rìu trên vách đá ngưng tụ thành ánh đao bóng kiếm như thực, làm tiêu hao chút nội tức ít ỏi còn lại của nàng, đầu tiên là lòng bàn tay rướm máu, sau đó là mười hai kinh mạch chính dần dần luân hãm, thậm chí tới mức toàn thân gần như không chỗ nào không đau.

Cơn đau này hơi quen quen, rất giống cảm giác như lăng trì năm xưa khi Đoàn Cửu Nương ở thành Hoa Dung lỗ mãng đẩy Khô Vinh chân khí vào cơ thể nàng, có điều khi đó nàng như muốn nổ tung, còn giờ là muốn nứt, khó nói cái nào gian nan hơn cái nào.

Bên trên cấm địa bị máy bắn đá đập ra tiếng vang to, mặt đất ầm ầm rung chuyển, cánh cửa đá chìm xuống bị đập ra vết nứt, Chu Phỉ cảm giác mình bị một thanh đao chẻ từ đầu xuống ra làm hai. Đầu nàng ong lên, mắt tối sầm, gần như không còn tri giác, những tiếng động quấy nhiễu xung quanh càng lúc càng xa, tầm nhìn cũng càng lúc càng mờ, nửa bộ Tề vật quyết hại người kia cuối cùng cũng làm nhạt đi tầm mắt nàng, ảo giác ánh đao bóng kiếm cũng nhạt theo sự tê dại của ngũ quan lục giác. Có một khoảnh khắc ngắn ngủi, Chu Phỉ thậm chí cảm thấy thân thể mình đang lạnh đi.

Khi ý thức bắt đầu tan rã, đủ loại nỗi lo nơi trần thế quấy nhiễu nàng cũng tan theo, nàng đã không rảnh lo tới Bắc quân có lẽ gần trong gang tấc, quên mất những chất vấn bi phẫn đối với “định mệnh”, những buồn vui sướng khổ quẩn quanh trong lòng không dứt trở nên không còn quan trọng, nàng thậm chí ngay cả mình họ gì tên chi cũng mơ hồ không nhớ được.

Toàn bộ thần trí của Chu Phỉ chỉ đủ giữ lại chút tỉnh táo nhỏ nhoi, toàn thân như lùi về thuở nàng mới sinh ra, để lộ bản năng hiếu thắng tự nhiên ... chính là chết đến nơi cũng tuyệt đối không chủ động tránh lui.

Ngơ ngơ ngác ngác như vậy không biết qua bao lâu, Chu Phỉ cảm giác như mình đã trải qua cả một đời dài đằng đẵng, đột nhiên, một cảm giác khó tả từ đan điền của nàng hiện lên, như một cơn gió xuân dịu nhẹ gột rửa qua kinh mạch khô cằn nứt nẻ của nàng.

Mà chân khí đã khô kiệt giờ như tro tàn lại cháy, chậm rãi chảy qua kinh mạch vốn trì trệ, mới đầu cực kỳ yếu ớt, gần như không cảm giác được, sau đó mạnh lên từng chút một, hòa cùng tiếng tim đập trở nên rõ rệt của nàng.

Tiếng vang và ánh sáng bên ngoài lần nữa ùa vào tai vào mắt, ánh mắt hơi rời rạc của Chu Phỉ từ từ ngưng tụ, nửa phần sau Tề vật quyết lại ập vào đáy mắt, nhưng nàng ngạc nhiên phát hiện, mình có thể nhìn rõ những vết khắc như muốn ăn người kia!

Mỗi vết khắc đều trở nên rõ rệt, trong đó tuy chứa đầy khí tiêu điều xơ xác nhưng ngoan ngoãn nằm trên tường, không đả thương người nữa. Những vết khắc đó cũng như những nét bút bay loạn trong nửa bộ đầu, đều là một bộ nội công tâm pháp hoàn chỉnh, lúc Chu Phỉ chưa phản ứng lại đã tự động vận chuyển nội tức theo hướng dẫn công pháp trên bức vẽ.

Nàng chưa bao giờ có cảm giác thần kỳ như vậy, căn bệnh trầm kha quanh thân đột nhiên nhẹ bẫng, nàng cảm nhận được sức khống chế mạnh mẽ trước nay chưa từng có.

Đoàn Cửu Nương dùng Khô thủ cưỡng chế đánh một luồng chân khí Vinh vào trong cơ thể Chu Phỉ, luồng chân khí bạo ngược ấy suýt lấy mạng nàng, nhưng bà chưa kịp nói rõ với nàng Khô Vinh chân khí luyện thế nào, dùng thế nào.

Mấy năm nay, Chu Phỉ vừa không có tâm pháp vừa không có khẩu quyết, chỉ có thể dựa theo Tề vật quyết mà Xung Tiêu đạo trưởng giao cho nàng để điều hòa vỗ về hai cỗ chân khí bài xích nhau, luôn bình an vô sự với Khô Vinh chân khí.

Nàng chưa bao giờ nghĩ thế nào là “khô” thế nào là “vinh”, chỉ khi ngẫu nhiên tiến bộ cảnh giới Phá Tuyết đao mới có thể nhờ “đại đạo quy về một mối” mà dòm ngó chút ít đạo của Khô Vinh chân khí.

Mấy năm nay, đối với Chu Phỉ, Khô Vinh chân khí ngoại trừ có thể phối hợp chín thức Phá Tuyết đao thì về cơ bản là giậm chân tại chỗ, không tiến bộ gì.

Mãi đến khi nàng thấy nửa bộ Tề vật quyết bị người nào đó không biết là ai sửa chữa.

Tâm pháp ôn hòa vốn thuộc đạo gia kia trở nên hung hiểm và ác độc, lại đúng lúc Chu Phỉ bị nội thương rất nặng, tâm trạng bất ổn, suýt làm kinh mạch nàng chết khô. Thế nhưng nàng không chịu tùy tiện chết, trong lúc mỏng manh đã ngộ được đạo khô vinh lưu chuyển, không ngừng sinh sôi, vô tình đả thông được Khô Vinh chân khí chân chính, bước ra một bước mà năm xưa sư huynh muội Đoàn Cửu Nương mãi chưa đạt đến!

Ngẫm kỹ, đạo gia âm dương tương sinh, vốn cùng đạo khô vinh tương hỗ lẫn nhau, cũng xem như để lại dấu vết.

Chu Phỉ cuối cùng có thể xem kỹ nửa phần sau Tề vật quyết.

Giữa “Đạo đức kinh” thiếu cân thiếu lượng kia và vết rìu có một đoạn chữ khắc cực nhỏ, với nhãn lực của Chu Phỉ mà phải tập trung tinh thần vào mắt mới có thể miễn cưỡng nhận ra được. Trước đó, bức tường đá tà môn này quá có tính công kích, khiến người ta căn bản không thể nhìn thẳng, nên không ai chú ý tới dòng chữ này.

Nét chữ xinh xắn chỉnh tề ấy giống hệt bút tích trong di thư của Lữ quốc sư sau bảy cửa đá, cực kỳ rõ ràng so với vết rìu như cuồng phong bão táp xung quanh. Nó viết: “Tề vật quyết, bí pháp Tề môn, tu âm dương nhị khí, có tác dụng lớn trong hóa công trị thương, rèn luyện kinh mạch, tích lũy lâu dài sẽ giúp ích không nhỏ. Song, sự ôn hòa của nó chung quy chẳng ngoài đạo nhỏ bé cường thân kiện thể.”

Câu này vô cùng ngông cuồng, thiếu điều nói rõ công pháp nhà người ta có cái rắm để dùng, nhưng nghĩ kỹ cũng có lý. Cẩn thận ngẫm lại quyển Tề vật quyết mà Xung Tiêu đạo trưởng giao cho nàng, cả quyển chẳng ngoài hai chữ “điều hòa”, cũng tức là lúc đó nếu Chu Phỉ không bị bà điên họ Đoàn chơi dở sống dở chết, nhờ Tề vật quyết ẩn trong “Đạo đức kinh” giúp cường thân kiện thể, thì đúng là chẳng có tác dụng gì.

Phần sau Lữ quốc sư lại viết: “Đạo âm dương tương sinh tương khắc, các tiểu hữu Tề môn đa số lánh đời, sống hòa hợp không tranh giành, nên thường bỏ thuật “tương khắc” không dùng, nào biết tiêu sơ khởi nguồn khi cực thịnh, cỏ cây đâm chồi từ mảnh đất cằn khô, lửa mạnh tan băng mới sinh ra nước chảy, không biết nơi tử địa thì nói gì tới tìm sinh cơ? Nay Lữ mỗ xóa đi nửa bộ tiểu Tề vật quyết, thay bằng thuật đại sát, thành “đại Tề vật quyết” để chờ đợi hậu nhân. Công pháp hung hiểm, cửu tử nhất sinh, xin thận trọng.”

Chu Phỉ: "…"

Lão già họ Lữ viết ba chữ “xin thận trọng” ở đây, mẹ kiếp ai mà thấy?

Thất đức quá!

Lúc này, lại một tiếng “rầm”chát chúa vang lên, núi đá to lớn đổ ào ào sập xuống, cửa đá trong cấm địa không chịu nổi, sụp trong nháy mắt.

Cùng lúc đó, tiếng kêu la và tiếng ầm ầm cùng vang lên, núi đá vỡ ra, đất sụp xuống.

Lục Dao Quang dùng sức mạnh thô bạo, nhất định đưa cấm địa Tề môn hiện dưới ánh mặt trời, không mảy may lo lắng chôn binh tướng thuộc hạ của mình, mở ra một hố to rộng mấy trượng bên trên cấm địa.

Lục Dao Quang phủi bụi đất trên mặt, chỉ vào cái hố to hét ra lệnh: "Xông xuống!"

Một đám lớn Bắc quân thét gào lao xuống hố.

Mấy kẻ tiên phong vừa xông vào cấm địa liền bị sơn cốc mênh mông dưới lòng đất dọa ngây người, tướng lĩnh Bắc quân dẫn binh không khỏi dừng bước.

Ánh sáng không mời mà tới chiếu sáng cả cấm địa Tề môn, phô bày hình bát quái khổng lồ trên mặt đất, mang theo chút thần thánh khó tả, những hạt bụi li ti trôi nổi giữa không trung như những đốm sao tản khắp bốn phương tám hướng, lặng lẽ lướt qua những kẻ xâm nhập ngang ngược.

Đột nhiên có một bóng người lóe qua, một Bắc quân nói: "Tướng quân, chúng ở kia, vẫn chưa chạy!"

Tướng lĩnh tiên phong ngẩng đầu nhìn, thấy cách đó không xa có một khu trụ đá với những tảng đá to cỡ hai cánh tay ôm mọc như rừng, chống đỡ động tiên này, một thiếu niên lưu dân đang trơ mắt đứng đó, giống như bị Bắc quân từ trên trời rơi xuống dọa ngây người.

Hai bên mắt to trừng mắt nhỏ chốc lát, thiếu niên hét to, xoay người lao vào đám trụ đá.

Tướng lĩnh Bắc quân tiên phong theo Tào Ninh vào sinh ra tử bao nhiêu năm, tuy chưa thể vừa nhìn là thấy cấm địa Tề môn có huyền cơ gì, nhưng bản năng mách bảo không ổn, nhất thời do dự.

Lục Dao Quang đã dẫn người chạy tới, mắng: "Còn ngây ra đó làm gì!"

Tướng lĩnh Bắc quân đi theo một chủ soái khó tả thế này cũng bó tay, đành dẫn người đuổi theo.

Thiếu niên lưu dân kia nhỏ con chân ngắn, dáng vẻ ăn chưa đủ no, trong lúc hoang mang sao chạy trốn được Bắc quân khí thế ào ạt?

Cậu nhờ trụ đá che chắn, chạy quanh tại chỗ vài vòng, thấy sắp bị Bắc quân đuổi kịp, nơi sâu trong đám trụ đá vang lên tiếng kêu, hình như có một nữ tử trẻ trốn ở đó, nhỏ giọng gọi: "Tiểu Hổ! Tiểu Hổ chạy mau!"

Lục Dao Quang dẫn người xông vào trận trụ đá, đương nhiên nghe tiếng kêu kinh hãi ấy, lập tức vung tay: "Chia ra bao vây!"

Bắc quân lập tức tản ra tại chỗ, một nhóm đi lùng bắt thiếu niên cùng đường, một nhóm chạy về hướng tiếng kêu của nữ tử.

Tướng quân tiên phong của Bắc quân huýt tiếng còi dài, người truy kích lập tức tách ra, chia hướng bao vây thiếu niên, sắp vây cậu vào giữa.

Đúng lúc này, thiếu niên đột nhiên quay đầu chui vào sau một trụ đá lớn, cứ thế biến mất trước con mắt trừng trừng của mọi người!

Chúng Bắc quân từ bốn phương tám hướng vây quanh trụ đá ấy nhưng không ai thấy rõ cậu biến mất thế nào. Chẳng lẽ có người biết độn thổ?

Cùng lúc, giọng nữ ban nãy cũng im bặt, trận trụ đá to lớn nhất thời yên tĩnh đến mức có thể nghe tiếng kim rơi, đám Bắc quân nhìn nhau, cực kỳ quái dị.

Tướng quân tiên phong nổi hết da gà da vịt, đến trước mặt Lục Dao Quang nói: "Đại ... đại nhân …"

Hắn vừa lên tiếng, âm thanh liền vang vọng khắp cấm địa Tề môn, vô cùng chói tai, dọa hắn sợ hết hồn.

Lục Dao Quang giơ một ngón tay ra hiệu hắn im lặng. Thính lực của Bắc Đẩu Phá Quân cực tốt, hắn ta nhắm mắt nghiêng tai lắng nghe chốc lát, đột nhiên vung ống tay áo dài chỉ về một hướng, nói: "Bọn chuột giả thần giả quỷ trốn bên đó!"

Hai nhánh Bắc quân chưa đợi ra lệnh đã bọc đánh về hướng Lục Dao Quang chỉ.

Đến nơi nhìn thì ở đó chỉ có một người nộm nhỏ.

Lúc này, phía sau họ đột nhiên “vút” một tiếng, một Bắc quân tránh không kịp, bị bắn thủng cổ họng tại chỗ, tức khắc mất mạng. Hung khí là một mũi tên gỗ được vót nhọn hai đầu!

"Cẩn thận đề phòng!"

"Có mai phục!"

"Lùi! Lùi lại!"

Trong lúc họ lên tiếng, vô số mũi tên gỗ từ bốn phương tám hướng bắn về phía Bắc quân bao vây trận trụ đá, tuy làm bằng gỗ nhưng không biết bắn từ cơ quan nào, chẳng nhẹ nhàng hơn tên sắt chân chính là bao, nháy mắt đã đánh ngã một đám lớn. Chờ Lục Dao Quang rống giận bảo thuộc hạ liều mạng đi ngược dòng, men theo chỗ bắn tên tìm tới thì không thấy nửa người mà chỉ có hình nộm châu chấu được bện bằng lá!

"Đại nhân, đám trụ đá này quái gở quá, ra ngoài trước nói sau!"

Thái dương Lục Dao Quang nổi gân xanh, Bắc quân hoảng hốt lui khỏi đám trụ đá, ra rồi nhìn, lại phát hiện họ không phải về theo đường cũ mà lạc vào một rừng đá cao chót vót.

Lục Dao Quang nối gót sau đội tiên phong, ban nãy hắn ta lao quá nhanh nên bị nhốt trong rừng đá, không tìm được đại đội nhân mã của mình.

Đúng lúc này, một bóng người đột nhiên lóe qua, một Bắc quân không phản ứng kịp, lặng lẽ ngã xuống, thanh đao trong tay bị cướp, ánh đao như tuyết chém về phía Lục Dao Quang.

Chương 154: Lắng Đọng

Lục Dao Quang kinh hãi, thanh đao trong tay binh lính tầm thường ấy vào tay người này đã biến thành Tử Điện Thanh Sương (*). Hắn ta ngửa đầu tránh một đao trước mặt rồi căn bản không phản ứng kịp, ánh đao tới tấp khiến hắn ta không ứng phó xuể.

(*) Tên một thanh danh kiếm cổ.

Trong lúc cấp bách, Lục Dao Quang lùi liên tục ba bước, chật vật trở tay rút trường đao bên hông, hét lớn một tiếng, chống lại lưỡi đao chém ngang lưng trời.

Hai bên va chạm, sống đao mỏng như giấy kia không hiểu sao không chút sứt mẻ, liền sau đó, người kia rung cổ tay, một luồng kình lực khó tả như sóng nước từ chỗ giằng co giữa hai đao truyền thẳng vào tay Lục Dao Quang.

Từ cổ tay tới hổ khẩu Lục Dao Quang tức khắc tê rần, trường đao thoát lực, hai lưỡi đao lướt qua nhau cực kỳ hung hiểm.

Tim hắn ta đập mạnh, lúc này mới nhìn rõ người kia, con ngươi bỗng chốc co rụt.

Lại là Chu Phỉ.

Lục Dao Quang nghĩ rất hay --- Lúc đó tên bay tán loạn giữa đám loạn quân, có câu “kiến đông có thể cắn chết voi”, ngay cả Cốc Thiên Toàn còn bị loạn tên bắn thành nhím huống hồ Chu Phỉ? Dù đao pháp của tiểu nha đầu kia có vài phần ra dáng, nhưng nó chạy loạn khắp núi cả nửa đêm, còn yểm trợ nhiều lưu dân chỉ biết vướng víu chân tay, dẫu may mắn thoát chết cũng phải bị lột một lớp da, chắc chắn bị thương không nhẹ, có chạy cũng chạy không xa được, cộng thêm trong mật đạo thiếu thầy thiếu thuốc, nói không chừng chẳng cần phí công, tự nó thức thời chết luôn cho rảnh nợ.

Nào ngờ tuy Chu Phỉ gầy đi một vòng, hình tượng cũng tả tơi tơi tả, nhưng xuống tay không chút yếu mềm, khí tức toàn thân nàng càng nội liễm hơn lúc ở trước quân trướng.

Võ công đến một cảnh giới nhất định sẽ không coi bề ngoài vào đâu, kiểu ngoài mặt bình thản không gợn sóng này mới đáng sợ, vì nó có nghĩa là nàng đã đến trình độ có thể thu phát tự nhiên.

Lục Dao Quang nghiến ra một câu từ kẽ răng: "Rất tốt, ngươi vẫn chưa chết."

Chu Phỉ lười để ý hắn ta, cũng không nhìn những Bắc quân vây quanh nàng như lâm đại địch, nàng hơi nghiêng tai, tiếp đó xoay đầu nói về phía cuối rừng đá: "Còn không nhân lúc chúng mới xuống ít người mà mau mau bắt giặc bắt vua, giả thần giả quỷ cái gì?"

Lý Thịnh nghe lời này, thầm mắng to đồ quái vật Chu Phỉ nói cứ như Bắc Đẩu Phá Quân là củ cải mọc trong đất, cầm cái liềm là có thể tùy tiện cắt vậy!

Lý Thịnh quay đầu nói với Tiểu Hổ luôn đi theo bên cạnh: "Đệ dựa theo phương pháp huynh vừa dạy, lợi dụng trận pháp nơi đây vây nhốt họ lại, mỗi một đợt tên gỗ bắn xong là lập tức đổi chỗ, đừng để bị chúng bắt."

Dặn dò xong, Lý Thịnh đưa mắt ra hiệu với Dương Cẩn và Ưng Hà Tòng, tung người lao ra, ba người phối hợp với nhau, xông vào giữa Bắc quân.

Lục Dao Quang từ khi cai sữa tới nay chưa từng bị người ta phớt lờ như vậy, muốn bốc khói tại chỗ, quát to: "Bắt ả, xem Chu Tồn có dám cược nữ nhi bảo bối của mình hay không!"

Chu Phỉ cười: "Ta sao? Ta cảm thấy…"

Lúc nàng nói hai chữ “cảm thấy”, xung quanh có mấy chục Bắc quân nghe tiếng ra lệnh của Bắc Đẩu Phá Quân đã bao vây Chu Phỉ lại, quân tiên phong quả thực được nghiêm chỉnh huấn luyện, tiến thoái như một, trường thương đồng loạt giơ lên tạo một hàng rào gai lớn, như chiến xa đẩy về phía lưng Chu Phỉ.

Đồng thời, Lục Dao Quang giơ ngang đao tiến lên, tụ tu vi cả đời vào một đao, bổ ập vào Chu Phỉ, phong bế tất cả đường tiến tới của nàng, quyết đưa nàng vào trận trường thương.

Bước chân Chu Phỉ không ngừng lại, dường như căn bản khinh thường vị Bắc Đẩu chắn trước mặt này, thanh đao chỉ mấy văn tiền trong tay nàng thậm chí không thể nói là nhanh nhưng lưỡi đao nháy mắt thu lại thành một đường cực mảnh, uyển chuyển như tơ, nhẹ như dây trận. Phía dưới nó là đống đá tảng có thể dời sông lấp biển, nghiêng nghiêng đánh về phía trường đao của Lục Dao Quang.

Chu Phỉ chưa dùng hết một hơi thở, ung dung nói tiếp: "… chi bằng ngươi …"

Thanh đao nàng tiện tay cướp lấy chỉ là hàng rởm, quân phí của Bắc quân không biết bị tên cẩu quan nào tham mất, đao kiếm làm vô cùng cẩu thả, thanh đao như tờ giấy kia khó chịu nổi hai đại cao thủ đấu sức, bắt đầu hoạt động là chỗ nối giữa thân đao và chuôi đao lập tức “rắc” một tiếng, chuôi đao bằng gỗ nứt từ giữa ra làm hai, thân đao bỗng bay lên. Chu Phỉ thở dài, ung dung vỗ nhẹ chuôi gỗ, kế đó đưa tay đè lại cán đao.

Chuôi đao gỗ bay lên nhắm thẳng vào Lục Dao Quang, tầm mắt hắn ta khó tránh bị quấy nhiễu, ngay lúc hắn ta chớp mắt, hai tay Chu Phỉ lưu loát đẩy thân đao trụi lủi đi một vòng tròn, thân đao mỏng manh xoay quanh trường đao Phá Quân như một đóa mạn đà la từ từ nở rộ, tự nhiên xinh đẹp.

Chu Phỉ cuối cùng nói xong câu: "…trực tiếp bắt cha ta còn dễ hơn."

Sau đó nàng hờ hững lướt qua Lục Dao Quang, thậm chí chê hắn ta chắn đường, dùng vai huých nhẹ hắn ta.

Trên mặt Lục Dao Quang là vẻ khiếp sợ tột cùng, ông ta như ngây dại, bị nàng huých ngoan ngoãn nghiêng người tránh đường.

Chu Phỉ loáng cái đã ở ngoài mấy bước, mãi đến lúc này, trường thương trận dệt thành tấm lưới lớn của Bắc quân mới đưa tới, vì Lục Dao Quang chắn đường mà đành dừng lại.

Lọn tóc dài phía sau Chu Phỉ lướt ngắn ngủi qua đầu nhọn trường thương rồi lặng yên buông xuống.

Thân đao đã mất chuôi lúc này mới rơi “keng” xuống đất, làm kinh động bay lên vô số bụi trần lắng đọng.

Trên cổ Lục Dao Quang như có người cầm mực đỏ từ từ nhuộm lên, một đường màu đỏ từ trái tràn qua phải, kéo dài tới mang tai, vẽ xong một đường thì vết thương đột nhiên bung ra, máu tuôn ào ạt. Hắn ta mở to mắt, con ngươi khẽ run run, ngã rầm về phía sau.

Bắc Đẩu đổi chiều, bị chôn vùi dưới đất bằng xa xôi.

Thình lình, một tiếng còi lệnh chói tai vọng đến, trên đất và dưới đất đồng thời bị chấn động dữ dội, tiếng người như tiếng thủy triều dần vang tới, gói Bắc quân trong cốc lại thành sủi cảo.

Bắc quân trong cấm địa Tề môn vẫn chưa hoàn hồn khỏi chuyện chủ soái bị một đao chém chết liền nghe tin dữ mình đã bị bao vây, lập tức trong rừng đá và trận trụ đá rắc rối phức tạp đều hỗn loạn, chưa tới một nén nhang, Nam quân đã dễ dàng chiếm lĩnh cả sơn cốc.

Nơi lối vào mà Lục Dao Quang đào, tiên phong của Nam quân vào trước, kế đó là đội cung tiễn thủ, căn bản không phí chút sức lực nào đã khiến đám Bắc quân sợ vỡ mật quỳ xuống xin hàng.

Giọng thiếu nữ chói tai xuyên thủng cấm địa dưới đất đầy ánh đao bóng kiếm: "Ca! A Phỉ!"

Ngay sau đó, một người cao gầy bỏ lại thân binh, trực tiếp từ cửa hang nhảy xuống, lúc tiếp đất chân hơi lảo đảo, suýt đứng không vững. Văn Dục mặc quân trang phía sau vội vã chạy tới, muốn ngăn lại không dám ngăn, đành đưa tay đỡ một cánh tay: "Chu đại nhân, ngài …"

Chu Dĩ Đường không để ý tới ông, lao xuống cấm địa sau quân tiên phong lỗ mãng như Lục Dao Quang, áo khoác rộng của ông quét qua mặt đất bừa bãi, bước nhanh như gió.

Bỗng nhiên, trên đỉnh một tảng đá lớn cao hơn hai trượng có hình dáng như măng trong rừng đá có người lên tiếng: "Cha, sao cha cũng học làm ít ăn nhiều thế?"

Bước chân Chu Dĩ Đường bỗng dừng lại, ông ngẩng đầu nhìn, thấy Chu Phỉ ngồi thả chân trên tảng đá, đôi tay trống rỗng, mặt như mặt mèo cười với ông … răng vẫn trắng.

Yết hầu Chu Dĩ Đường hơi động đậy, hồi lâu mới lặng lẽ cười, ông đứng nguyên chỗ cũ, nghiêng đầu ho hai tiếng, khẽ trách mắng: "Bao lớn rồi mà y như khỉ, còn ra thể thống gì? Xuống đây."

Tuy Chu Dĩ Đường tập kích bất ngờ nhưng đối mặt với đại quân Bắc triều quần long vô thủ cả sơn cốc, những công việc vặt vãnh phía sau cũng phải bận bịu từ chính ngọ đến tối đen, không thể không dựng trại đóng quân tại chỗ.

Lưu dân được cứu ra từ cấm địa Tề môn được an bài tập thể ở trong mấy cái lều.

Các lưu dân này trải qua một trận chiến, có thêm không ít can đảm, dường như đi theo Lý Thịnh là không sợ trời không sợ đất, không ít người vẫn cầm theo mũi tên gỗ mà họ dùng trong cấm địa đi tuần tra xung quanh cảnh giác.

Đám Lý Thịnh quây lại thành một vòng, xử lý cái hộp gỗ lớn không biết đào từ đâu ra. Tiếng gào lúc đó quấy rầy Chu Phỉ vận công, suýt hại chết nàng, chính là vì có người moi ra được thứ này trong tường đá cấm địa.

Bản thân hộp gỗ hình như là một cơ quan, muốn mở hộp phải giải đúng từng chút từng chút, nghe nói hễ không cẩn thận giải sai một bước là sẽ không giữ được thứ bên trong.

Lý Thịnh cầm cái bàn chải nhỏ nằm nhoài trên đất như lâm đại địch, tỉ mỉ quét bùn đất đọng trong mấy khe hở ở các mối nối mảnh gỗ số lượng không nhiều.

Chu Phỉ cuối cùng cũng thay bộ y phục sạch sẽ ... trong quân không có bộ nào có kích cỡ nhỏ cho nữ tử thanh tú như nàng mặc vừa, nên nàng đành mặc bộ nam trang cỡ nhỏ xắn ống tay áo và ống quần lên. Nàng khoanh tay trước ngực, dựa vào thân cây, đợi xem Lý Thịnh khi nào có thể nghiên cứu rõ ràng.

Lúc này, Tiểu Hổ bên cạnh đảm nhiệm “canh gác” đột nhiên đứng thẳng, Chu Phỉ nghiêng đầu, thấy Chu Dĩ Đường và Văn Dục bước qua.

Văn Dục đang nói chính sự với ông: "Chu đại nhân, binh quý thần tốc, nghe thẩm vấn thì họ nói Lục Dao Quang vẫn chưa truyền tin cho Tào Ninh, đã có cơ hội trời ban, chi bằng chúng ta tương kế tựu kế …"

Chu Dĩ Đường giơ tay ngắt lời Văn Dục, ông vỗ vai Tiểu Hổ, lại gật đầu với bọn Lý Nghiên Lý Thịnh rồi nói với Chu Phỉ: "Qua đây."

Văn Dục thức thời lùi sang một bên, xem bọn Lý Thịnh nghiên cứu đồ được đào ra từ cấm địa Tề môn. Chu Dĩ Đường chắp tay phía trước, đi mấy bước dọc theo bóng cây nghiêng nghiêng trong sơn cốc, nói với Chu Phỉ: "Sao lỗ mãng thế hả?"

Chu Phỉ suy nghĩ, nghiêm túc đáp: "Không biết, có lẽ do trẻ tuổi ngông cuồng? Cha, cho con ít tiền."

Chu Dĩ Đường: "…"

Ông bị Chu Phỉ làm nghẹn họng hồi lâu, bất đắc dĩ đưa tay sờ vào ngực, nói: "Không đem theo, lát tự tìm thân binh mà đòi. Con làm gì?"

"Toái Già gãy rồi, con phải mua vài thanh đao." Chu Phỉ: "Ngoài ra con còn đột xuất định đi phía đông một chuyến, tạm thời không về nhà, lộ phí mang theo không đủ."

Chu Dĩ Đường nhìn nàng, thấy dưới cổ áo nàng có một vết thương mới vừa lành vắt trên chiếc cổ mảnh khảnh, trông vô cùng hung hiểm, y phục vải thô mặc trên người là đồ mượn, ra bên ngoài mà ngay cả tiền lẻ mua đao cũng không có, ông chợt không dằn được nói: "Mùa này ở Kim Lăng là mùa hội thơ tụ tập, ngắm cúc ăn cua, tuy cha thường xuyên ở ngoài, thỉnh thoảng mới về một chuyến, nhưng cũng nhận được không ít thiếp mời, có điều đa số họ chỉ mời khách sáo thôi, vì phần lớn là mời gia quyến, họ đều biết con và mẹ con không ở bên cạnh cha."

Chu Phỉ chớp mắt.

Chu Dĩ Đường dừng lại, lại nói: "Cha được Lương Thiệu nhờ cậy, xuống núi giúp ông ấy, chưa bao giờ xem Nam đô là quê hương, nhưng gần đây thỉnh thoảng cha nghĩ, nơi dưới chân thiên tử dẫu sao cũng phồn hoa, ra vào có xe có người hầu tháp tùng, ngọc bội tha hồ chọn lựa, ăn uống càng chẳng ngại tinh tế rườm rà, hình như cha chưa từng hỏi con có muốn đi Kim Lăng không."

Chu Phỉ sững sờ, sau đó cười nói: "Cũng được, có điều năm nay e không kịp rồi, mùa này sang năm, cha nhớ mua nhiều cua chút đấy, con ăn cả mùa luôn."

Chu Dĩ Đường nhàn nhạt nói: "Cái cha nói không phải là ở tạm."

Thế đạo loạn đến mấy cũng sẽ có quan to hiển quý, trên tóc họ cứ như được nạm vàng, giơ tay nhấc chân cũng sợ đụng rơi mất, lúc nào cũng cao cao tại thượng, gió sông và mưa đêm không thổi được vào trạch viện cao của họ, ngựa sắt sông băng không vào được giấc mơ màn gấm. Ở Kim Lăng, với thân phận của Chu Dĩ Đường, nàng có thể làm một đại tiểu thư “không màng nóng lạnh dân gian”, dù nàng xuất thân “nhà quê” vẫn có con trai thượng thư to gan đến cầu hôn.

"Chu tiểu thư." Không hiểu sao Chu Phỉ lại nói ra xưng hô kỳ cục này, lúc nói suýt cắn phải lưỡi, không nhịn được cười: "Ha ha, không ngờ con thật biết đầu thai, nhưng thôi khỏi, con cứ là “Nam đao” thì hơn."

Chu Dĩ Đường nghe ra ý của nàng, bèn bỏ qua đề tài này, lắc đầu nói: "Nói khoác không biết ngượng, mẹ con còn không dám tự xưng “Nam đao” kia kìa."

Chu Phỉ đưa mu bàn tay ra sau, dửng dưng: "Cốc Thiên Toàn và Lục Dao Quang sẽ oán đấy, đến âm gian, nghĩ mình chết dưới tay một kẻ vô danh tiểu tốt thì ngại mở miệng lắm."

Chu Dĩ Đường lườm nàng, hỏi: "Chừng nào con xuất phát?"

Chu Phỉ: "Nếu không có chuyện gì khác thì mai con đi."

Chu Dĩ Đường: "…"

Khó khăn lắm ông mới gặp Chu Phỉ được một lần, quá trình lại còn chấn động tâm can như vậy, thế mà tiểu súc sinh này lại định vòi tiền xong bỏ chạy!

Chu Phỉ thấy thần sắc cha mình không ổn, bèn hỏi: "A? Sao thế, cha còn chuyện gì dặn con làm à?"

Trong lòng Chu Dĩ Đường đột nhiên hơi tức giận, ông lười nói với nàng, khoát tay rời đi.

Chu Phỉ: "Cha, tiền!"

Lúc này, một thân binh ôm cái hộp dài chạy tới chỗ Chu Dĩ Đường, nhỏ giọng xin chỉ thị: "Chu đại nhân, thanh danh đao ngài bảo mạt tướng mang tới …"

Chu Dĩ Đường liếc cái hộp kia: "Bỏ đi, để tự nó mua."

..............

Ven bờ Đông Hải.

Tạ Doãn bóp tắt Giao Hương, chợt ngẩng đầu nhìn về phía cửa, thấy lão hòa thượng Đồng Minh đã đứng đó từ lúc nào, Y định đứng dậy nghênh đón, không ngờ nửa người bỗng cứng đờ, không đứng dậy được, ngã ngồi phịch trở lại.

Đồng Minh thở dài: "Ta đã chuẩn bị vị thuốc thứ ba rồi, An Chi, con còn có thể chống đỡ thêm mấy ngày?"

Chương 155: Lương Thiệu

Sắc mặt Tạ Doãn rất kém, Y im lặng hoạt động nửa cơ thể tê dại, hồi lâu mới tìm về được chút tri giác. Lúc nãy đứng lên ngã xuống, mu bàn tay Y va vào góc bàn, nổi một mảng đỏ tím như vết hoen tử thi mà Y lại không hề thấy đau.

Chờ khi có thể vịn bàn đứng vững, Tạ Doãn mới lắc đầu “chậc” một tiếng, phủi ống tay áo, ung dung nói: "Sư phụ, câu này Người hỏi con làm gì? Đương nhiên là con muốn nhây thêm ngày nào hay ngày nấy, trước tiên cứ để con cố chịu đã, chừng nào Người thấy con ngã xuống tắt thở thì đổ vị thuốc thứ ba cho con là được."

Đồng Minh đánh giá sắc mặt Y, nói: "An Chi, con thật sự …"

Tạ Doãn nghiêng đầu: "Dạ?"

"Không oán giận sao?"

Lúc Tạ Doãn ngã không cẩn thận làm đổ bút mực, trên bàn gỗ giờ đầy vết mực, Y vừa cầm miếng khăn lụa cẩn thận lau chùi vừa đáp: "Có chứ, nhưng ai mà chẳng oán giận? Người có, con có, mọi người đều có, thế thì đâu có gì lạ, nói nó làm gì?"

Đồng Minh bước vào thư phòng của Y, cảm giác trong phòng có một Tạ Doãn là như có một tòa núi băng giải nóng, trong cửa với ngoài cửa là hai loại khí hậu khác nhau, lão hòa thượng hơi lo lắng than thở: "Dẫu sao con cũng là phượng tử hoàng tôn."

Tạ Doãn xin tha: "A di đà Phật, đại sư, Người nói toàn lời thế tục là do đọc kinh bậy bạ của vị tà Phật nào thế?"

Y dừng lại, không biết nhớ ra gì, bèn cười nói: "Sư phụ, con luôn thấy chuyện này rất thú vị, chúng ta biết các triều đại nổi lên đều là thắng làm vua thua làm giặc, hai chữ “chính thống” chẳng qua chỉ là lừa bách tính để họ ngoan ngoãn nghe lời thôi. Nhưng nếu nói lời nói dối một vạn lần thì đôi lúc chính chúng ta dù biết rõ không hề có lý nhưng vẫn bị nó ảnh hưởng trong tiềm thức … khá giống với tượng thần được cung phụng trong chùa miếu."

Đồng Minh: "Hả?"

Tạ Doãn: "Chẳng qua chỉ là một tượng đất, mọi người bái lạy, hương khói lâu, lại thật sinh ra lòng kính nể."

"“Thánh nhân không bàn luận thứ ngoài thiên địa tứ phương”, chớ nói bậy." Đồng Minh ngắt lời Y, xắn ống tay áo giúp Y dọn dẹp bản thảo lung tung trên bàn, thấy trên tờ giấy trải ra là nét chữ rõ ràng ngay ngắn, không phải kiểu chữ phong lưu đa tình mà Tạ Doãn thường dùng, nhìn kỹ, chỗ chuyển bút có hơi cứng ngắc, thỉnh thoảng sẽ có nét không khống chế tốt, tạo ra nhiều chỗ không hài hòa, chắc là cổ tay Y đang từ từ cứng lại, đến nay ngay cả cầm bút cũng khó tự nhiên.

Nét chữ tuy cứng nhưng nội dung rất nhàn hạ thoải mái, là một câu chuyện kỳ quái thần bí.

Thằng này, cầm bút không vững mà còn viết linh tinh!

Đồng Minh hỏi: "Viết gì thế?"

Tạ Doãn: "Chuyện tào lao. Kể về một bộ xương trắng, chết đi sống lại, kết quả vừa bò lên nhìn thì phát hiện mình không nằm trong lăng tẩm đã xây sẵn, nghĩ mãi không hiểu, đành tự leo ra tìm phần mộ của chính mình. Con đặt tên cho nó là “Bạch cốt truyện”, thế nào?"

Đồng Minh đại sư nghe nội dung chính của tác phẩm mới hoang đường của Y thì không tùy tiện đánh giá, lật sơ sơ quyển “đại tác phẩm” này.

Nếu nói “Hàn nha thanh” còn có chút bóng dáng chuyện con người, thì “Bạch cốt truyện” hoàn toàn là lời quỷ quái huyên thuyên, nếu không phải Đồng Minh thấy ban nãy Y nói năng mạch lạc rõ ràng thì có lẽ đã nghi ngờ Tạ Doãn bị bệnh hồ đồ nên mới viết ra mấy thứ linh tinh nhăng nhít.

Tạ Doãn nói: "Nhờ Lâm sư thúc sao ra một bản giúp con, qua mấy ngày nhờ người đưa cho Vũ Y ban của Nghê Thường phu nhân. Người đừng thấy thế đạo bây giờ loạn lạc, đêm con xem thiên tượng, thấy ngày Nam Bắc nhất thống e chỉ trong vòng một hai năm nữa thôi. Phàm thái bình thịnh thế, người ta luôn thích mấy thứ ly kỳ, cái này của con có ly kỳ không? Không chừng đến lúc đó lại là một “Ly hận lâu” đột nhiên xuất thế cũng nên."

Đồng Minh đại sư không nói tiếp đề tài, chỉ lẳng lặng lật hết cả quyển chuyện ma quỷ, nói: "A Phỉ từng giúp ta tìm “Bách độc kinh” trong mộ Lương đại nhân, lúc con bé đi, phát hiện mộ ông ấy đã bị người khác nhanh chân đến trước, hài cốt chủ nhân mộ đã không cánh mà bay, lúc đó con còn đang hôn mê, mấy việc nhỏ nhặt này chúng ta đều không nói với con. Hóa ra con đã biết rồi, là A Phỉ viết thư kể cho con à?"

Tạ Doãn cười tít mắt bưng cốc trà nóng lên, không nói gì. Nước trà bốc hơi nóng hừng hực vừa vào tay Y liền lạnh đi, ngoài thành cốc ngưng tụ ra những hạt nước nhỏ li ti.

Đồng Minh xếp xấp bản thảo lại lần nữa, hỏi: "Xương trắng vì sao sống lại?"

Tạ Doãn: "Có lẽ vì nó bất tử."

Đồng Minh ngồi xuống, chậm rãi lần tràng hạt trên tay: "Sư phụ ở lâu ngoài biển, tin tức bế tắc, tại sao con không nói từ đầu?"

Tạ Doãn đặt cốc trà lạnh băng xuống, lại bóp một đoạn Giao Hương.

Ngón tay tái xanh của Y chốc chốc gõ lên góc bàn, qua một lát mới như tìm được đề tài, nói: "Năm đó Lương Thiệu thân mang trọng bệnh, biết mình không còn nhiều thời gian, bèn sai người áp chế tin tức, viết một bức mật thư gửi cho con, nhờ con vào Thục Sơn mời Cam Đường tiên sinh xuống núi."

Đồng Minh gật đầu: "Không sai, đúng là có chuyện này."

Tạ Doãn khẽ nhướng một bên hàng mày dài, chậm rãi nói: "Tuy con đi nhưng vẫn luôn nghi hoặc, canh cánh trong lòng."

Đồng Minh: "Sao?"

Tạ Doãn: "Con sinh hơi muộn, không hiểu lắm ân oán của thế hệ trước, chỉ biết Lương đại nhân là người theo phái bảo vệ hoàng tộc. Mà Cam Đường tiên sinh tuy là đệ tử tâm đắc trước đây của ông nhưng đã ân đoạn nghĩa tuyệt với ông từ lâu, không gặp nhau nữa, đúng không? Hoàng thượng và Cam Đường tiên sinh, ai gần ai xa, vừa nhìn là biết ngay, nên con luôn lấy làm lạ, khi đó vì sao Lương Thiệu muốn giao thế lực cũ của mình ở Giang Nam cho Cam Đường tiên sinh mà không trực tiếp giao cho hoàng thượng? Trước kia Lưu hoàng thúc gởi gắm cho thừa tướng là vì Hậu Chủ “không phò tá nổi”, nhưng đương kim hoàng đế đang tuổi tráng niên, tài năng to lớn, dã tâm bừng bừng, đâu cần phó thác cho người khác?"

Hai hàng mày trắng bạc phơ của Đồng Minh khẽ cau.

Tạ Doãn lại nói: "Đó là chuyện kỳ lạ thứ nhất. Chu tiên sinh đại tài, sau khi vào triều liền như cá gặp nước, nháy mắt đã nắm thế cục Nam Bắc vào lòng bàn tay. Sau đó ông dốc lòng dốc sức, trải qua ba năm nghỉ ngơi dưỡng sức, ông và Phi Khanh tướng quân Văn Dục một văn một võ, đoạt liên tiếp mấy thành trì nơi biên cảnh, giết một Bắc Đẩu, đại phá thần thoại bất bại của Bắc quân, chiến dịch này có thể nói là vô tiền khoáng hậu, kinh tài tuyệt diễm. Chỉ có một tiếc nuối là trong quá trình này, Ngô Phí tướng quân và ẩn sĩ Tề môn lần lượt bại lộ, Ngô tướng quân lấy thân tuẫn quốc, Tề môn sụp đổ."

"Sau khi Ngô tướng quân chết, con côi của Ngô gia bị Bắc Đẩu Lộc Tồn truy sát, lúc đó trong thành Hoa Dung, mọi người tụi con đều mơ mơ hồ hồ, con, A Phỉ, thậm chí là người 48 trại đích thân đến Động Đình đón người Ngô gia, đều chẳng ai biết Cừu Thiên Cơ truy sát mấy cô nhi quả phụ ấy rốt cuộc vì điều gì. Mấy chuyện này từng chuyện từng chuyện đều như chẳng biết đâu mà lần, kỳ thực nếu ngẫm kỹ sẽ thấy rất nhiều điều đáng nói."

Đồng Minh đại sư tuy thích ẩn dụ ý thiền nhưng là kiểu ý thiền gió mát nước trôi “đến từ đâu đi về đó”, lão nhân gia là một hoàng thân quốc thích tiền nhiệm, không thể lĩnh hội được những tâm tư cong cong quẹo quẹo của các hoàng thân quốc thích đương nhiệm, suy tư chốc lát vẫn không thu hoạch được gì, đành cười khổ nói với Tạ Doãn: "A di đà Phật, xem ra lão nạp an phận một góc, làm một lão hòa thượng chỉ biết tụng kinh niệm Phật là một hành vi sáng suốt."

Tạ Doãn nghiêm mặt nói: "Sư phụ, tạm chưa nói tới danh sách của Lưu thống lĩnh, “Hải Thiên Nhất Sắc” trong giang hồ bắt nguồn từ võ lâm Trung Nguyên, mà mấy năm nay võ lâm Trung Nguyên gió yên sóng lặng, chưa từng có ai tiết lộ mảy may. Con nhận nguyện vọng của tiểu sư thúc, truy tra Hải Thiên Nhất Sắc nhiều năm, thậm chí còn tạo quan hệ tốt với Nghê Thường phu nhân nhưng vẫn không thể có được chút manh mối nào từ bà. Bắc Đẩu làm sao mà biết?"

Đồng Minh đại sư nói: "Chuyện này cũng dễ nói, năm xưa Thanh Long chúa hại chết Sơn Xuyên kiếm Ân đại hiệp, e vì nghe lời đồn “Hải Thiên Nhất Sắc” là bí bảo của võ lâm nên mới muốn có được vỏ Sơn Xuyên kiếm trong tay Ân đại hiệp."

"Không sai." Tạ Doãn nói: "Lời đồn này đến nay vẫn còn, ngay cả Bắc Đẩu cũng tin như vậy. Lộc Tồn muốn độc chiếm nó, Tham Lang khinh thường nó, Cự Môn và Tào Ninh lấy nó làm mồi nhử, xách động Minh Phong lâu của 48 trại, Văn Khúc muốn tìm nó để kéo dài tính mạng cho Tào Trọng Côn … Nhưng sư phụ à, vấn đề là, Người nói năm xưa trong tay Nam đao và Sơn Xuyên kiếm có bí bảo võ lâm thì hợp tình hợp lý, nhưng Ngô Phí tướng quân thì sao? Một võ tướng to như ông ấy xưa nay không qua lại gì với giang hồ, sao lại dính líu tới “Hải Thiên Nhất Sắc” trên giang hồ? Điều này trước khi Ngô cô nương bị truy sát, con vạn lần cũng không nghĩ tới, nhưng lạ là Bắc Đẩu lại biết."

Tạ Doãn không đợi Đồng Minh đại sư trả lời, nói tiếp: "Sau đó con nghĩ, hoặc là bản thân Ngô tướng quân không cẩn thận để lộ bí mật “Hải Thiên Nhất Sắc” - nhưng khả năng này rất thấp, ông ấy ẩn mình trong Bắc triều hơn hai mươi năm, luôn thận trọng tỉ mỉ, ngay cả với vợ con cũng chưa từng thẳng thắn về “Hải Thiên Nhất Sắc”, sao lại dễ dàng lộ cho Bắc Đẩu? Do đó chỉ có một cách giải thích, chính là sau lưng chuyện này còn có một người khác, người này cũng tham gia vào minh ước Hải Thiên Nhất Sắc, đồng thời vô cùng sợ nó."

Đồng Minh: "Sợ, sao lại nói vậy?"

"Giả như có một chuyện con không muốn người khác biết, thế mà người tham dự lại quá đông, ngoại trừ người nắm giữ hoa văn sóng nước, còn có đông đảo thích khách nấp trong bóng tối làm chứng, dù chứng cứ trong tay mỗi người đều không đầy đủ, vả lại có một phần đã chết không đối chứng, nhưng con không biết giữa họ liệu có mối liên hệ yếu ớt nào không, hễ con ra tay với một người trong số họ sẽ rất dễ bứt dây động rừng, đến lúc đó có khả năng chuyện sẽ phát triển theo hướng con không mong muốn nhất, thế con nên làm gì?" Giọng Tạ Doãn vô cùng nhẹ nhàng: "Con không thể mạo hiểm, chỉ có khuấy cho đục nước, dùng một lời đồn trông có vẻ hợp lý hơn, khiến người ta đổ xô vào, thúc đẩy các nơi tin nó là thật, sau đó, có người đấu đá, có người lợi dụng nó để mưu cầu chuyện khác… cứ thế, con sẽ có cơ hội đục nước béo cò, mượn đao giết người, thế nào sư phụ, thủ đoạn này nghe có quen không?"

Đồng Minh lắc đầu nói: "Không thể tưởng tượng nổi, nghe những lời của con thật khiến người ta không rét mà run."

Tạ Doãn: "Ngay cả “lời đồn” để khuấy đục nước này cũng có sẵn, ít nhất Thanh Long chúa Trịnh La Sinh luôn tin tưởng sâu sắc chưa từng nghi ngờ."

Mùi Giao Hương vô cùng nồng nặc, ngửi lâu, mũi cũng trở nên tê dại.

Hai sư đồ ngồi đối diện nhau, hồi lâu không nói tiếng nào, chỉ nghe tiếng tràng hạt trong tay Đồng Minh va chạm lẫn nhau.

Không biết qua bao lâu, Đồng Minh mới nói: "An Chi, con có từng nghĩ những thứ này đều là suy đoán không? Liệu có phải vì con luôn canh cánh trong lòng về những gì Triệu Uyên làm năm xưa nên không khỏi cực đoan, cho rằng mọi việc đều là âm mưu, mà hễ là âm mưu thì ắt có một phần của ông ta? Theo như con nói, năm xưa Thanh Long chúa hại Sơn Xuyên kiếm, Bắc Đẩu vây công Nam đao, Hoắc bảo chủ hạ độc hãm hại Hoắc lão bảo chủ, cũng đều là mưu lược một tay ông ta bày ra? Điều này không khỏi quá … Triệu Uyên năm đó chẳng qua chỉ là một đứa trẻ tan nhà nát cửa mà thôi."

"Không sai." Tạ Doãn nói: "Nếu con đoán không sai, người bắt đầu năm xưa không phải là hoàng thúc đó của con, mà là người định ra minh ước Hải Thiên Nhất Sắc."

Đồng Minh: "Con nói Lương Thiệu."

..............

"“Lương… công thân…” thân gì? Thân khải?" Bóng đêm mê ly, trong sơn cốc Tề môn bó đuốc nghiêm chỉnh, cả người Lý Thịnh dán vào cái hộp gỗ móc ra được từ cấm địa Tề môn, Y dành cả một ngày, cuối cùng nạy được bản đầu tiên của hộp gỗ, lộ chút đầu mối, phát hiện bên trong là một xấp thư dày.

Phế vật họ Lý tạm thời không dám đụng lung tung chỗ khác, nhìn qua lỗ hổng nhỏ mở ra ấy phí sức chín trâu hai hổ mới đọc được ba chữ trên thư.

Những người khác thoạt đầu còn xúm lại xem, nhưng không bao lâu liền chán quá bỏ đi. Ưng Hà Tòng cho rắn ăn, Dương Cẩn và Văn Dục phụng mệnh tới đưa tiền thì vây quanh Chu Phỉ “rèn giũa” đao pháp, Ngô Sở Sở cầm giấy bút ngồi bên cạnh xem chiến, vừa nghe Lý Nghiên giảng giải vừa đưa bút ghi chú nhanh.

Chu Phỉ cầm một cây gậy gỗ, chống lại một đao một kiếm của Văn tướng quân và Dương chưởng môn, nàng nghiêng người xuyên qua giữa hai người, thân hình loáng cái tránh được bội kiếm của Văn tướng quân từ phía sau đánh úp tới. Dương Cẩn giơ đao chém, Chu Phỉ đưa một chiêu “Phá” từ dưới lên, đâm thẳng vào sống đao Y, trường đao Dương Cẩn đi nghiêng, vừa vặn chạm phải bội kiếm của Văn tướng quân chưa kịp thu thế, công lực hai người tương đương, đồng thời tê tay, mỗi người đều thoái lui hai bước.

"Không đánh nữa." Văn Dục thở hổn hển thu kiếm lại: "Trường Giang sóng sau xô sóng trước, ta già rồi. Đa tạ Chu cô nương chỉ giáo, nếu cô tìm ta báo mối thù gãy kiếm năm xưa thì ta chống không nổi đâu. Lý công tử vừa nói gì nhỉ? “Lương công thân khải”?"

Lý Thịnh lật hộp gỗ qua cho ông xem, hỏi: "Lương công này là chỉ ai? Không phải Lương tướng gia năm xưa chứ?"

Văn Dục nhận khăn từ tay thân binh lau mồ hôi trên mặt, đáp: "Không phải không có khả năng, Lương công thời trẻ kết giao rất rộng, có giao tình với rất nhiều tiền bối, nếu không thì năm xưa hoàng thượng xuôi nam tìm đâu ra nhiều cao thủ hộ giá như vậy chứ? Còn Đại Dược cốc nữa, đến nay rất nhiều thứ của Đại Dược cốc đều được giữ ở chỗ ông."

Lời này vừa thốt, tất cả mọi người đều nhìn sang, ngay cả Ưng Hà Tòng cũng ngẩng đầu.

Lý Thịnh không kìm được hỏi: "Với tổ phụ con cũng vậy?"

"Ừ." Văn Dục ngồi xuống bên đống lửa: "Giao tình với Lý lão trại chủ thì đặc biệt rất nặng, nghe nói năm xưa Chu tiên sinh được lão trại chủ đưa đến chỗ Lương công đi học."

Chương 156: Bạch Cốt Mê Tung

Chu Phỉ bật thốt: "Hả, gì?"

Lý Thịnh cũng đặt cái hộp khiến Y đau đầu bó tay kia xuống, Lý Nghiên lập tức bỏ Ngô Sở Sở qua một bên, hí hửng sáp lại, chen Lý Thịnh qua bên cạnh chờ nghe.

Ai ngờ Văn Dục lại khoát tay cười nói: "Ôi, bàn tán thượng quan sau lưng đâu có được? Không nói."

Văn tướng quân quá tuổi trung niên, tướng mạo đường đường, dù trong hay ngoài nước đều uy danh hiển hách, trông rất đường hoàng, ai ngờ lại là một kẻ đê tiện nói giữa chừng rồi bỏ chạy?

Lý Nghiên vội nài nỉ: "Tướng quân, miệng tụi con kín lắm, ông cứ nói chút chút thôi, chắc chắn không có người ngoài nghe đâu."

Hai người ngoài là Dương Cẩn và Ưng Hà Tòng nhìn nhau, không biết mình có nên cút xa chút hay không.

Lý Nghiên càng sốt ruột, Văn Dục lại càng thấy vui, cố ý nghiêm mặt lắc đầu không chịu nói: "Không tốt, không tốt."

Tuy 48 trại không tới mức môn quy nghiêm ngặt nhưng trong lòng tiểu bối, đại đương gia là chí cao vô thượng. Dù sao ba người bọn Chu Phỉ từ nhỏ chưa bao giờ dám có ý đồ nghe chuyện của trưởng bối.

Lý Nghiên tò mò đến khó chịu, vội nói: "Không tốt mà ông còn nhắc làm gì? Văn tướng quân, sao ông có thể như vậy chứ!"

Văn Dục không kìm được bật cười: "Hôm nay nếu ta không nói ra gì đó thì mấy đứa không để ta đi chứ gì?"

Chu Phỉ nghe vậy, lẳng lặng nhấc trường côn chắn bên cạnh, rất có ý “ông cứ đi thử xem”.

"Tha mạng, tha mạng." Văn Dục trêu tiểu cô nương đủ mới thong thả nói: "Được rồi, thật ra cũng không có gì, Chu tiên sinh cũng chỉ tình cờ nhắc với ta thôi, năm ông ấy còn nhỏ gặp phải thiên tai nhân họa, cửa mất nhà tan, ngẫu nhiên được Lý lão trại chủ đi ngang qua cứu, mang về nhà chăm sóc mấy năm. Chu tiên sinh vốn xuất thân thư hương môn đệ, sách từng đọc qua là không quên được, sau đó tuổi tác lớn hơn, Lý lão trại chủ lo trong trại không có danh sư sẽ làm lỡ dở đời ông ấy, nên mới đưa ông ấy đến Lương gia ở Giang Nam."

Lý Nghiên: "A? Vậy chẳng phải cô cô và cô phụ đã quen nhau từ rất nhỏ sao? Đó là thanh mai trúc mã rồi?"

Văn Dục cười không nói.

Chu Phỉ hỏi: "Nói vậy thư phòng ở nhà ta ban đầu vốn là của cha ta?"

Lý Nghiên vội nói tiếp: "Cô phụ rời khỏi Thục Sơn năm bao nhiêu tuổi?"

Chu Phỉ không biết nhớ ra gì, lại nói: "Mẹ ta hồi nhỏ có bắt nạt cha ta không?"

Văn Dục: "…"

Lý Thịnh không hề muốn nghe ngóng tình sử của trưởng bối, lý trí muốn hỏi rõ Lương Thiệu và Lý lão trại chủ là bằng hữu cũ thì tại sao năm đó Tạ Doãn mang lệnh bài của Lương công đến 48 trại lại suýt bị cô cô chém.

Nhưng cổ Y ngỏng dài ra hai trượng, không chen lời được.

Lý Nghiên: "Đúng rồi, vậy cô cô gả cho cô phụ khi nào, tướng quân, cô phụ có nói với ông những điều này không?"

Chu Phỉ ho khan một tiếng, dùng gậy gỗ chọt lưng Lý Nghiên.

Lý Nghiên không quay đầu, khoát tay đẩy gậy của Chu Phỉ ra: "Đợi tí, muội hỏi …"

Lời còn chưa dứt, phía sau muội ấy có người khoan thai tiếp lời: "Cái này thì chưa nói."

Lý Nghiên nhảy dựng lên như thỏ bị đâm mông, yếu ớt xoay người: "… Cô phụ."

Chu Dĩ Đường khoanh tay trong tay áo, mặt tuy không có vẻ tức giận nhưng không ai dám làm càn. Thân binh xách đèn theo bên cạnh ông cúi đầu ra sức đếm kiến.

Chu Phỉ lớn từng này chưa bao giờ bị lúng túng như vậy, nàng ngẩng đầu nhìn ngọn cây rồi lại nghiêng đầu nhìn Lý Thịnh, bị Lý Thịnh trừng thì cúi đầu cùng đếm kiến với tiểu thân binh.

Chu Dĩ Đường nói với Văn Dục: "Ta muốn an bài xong bên này, hành quân càng nhanh càng tốt, vốn định tìm cậu thương lượng nhưng thấy cậu lâu không về trướng nên mới qua đây xem."

Văn Dục đưa tay cọ râu trên môi, đứng dậy như người không liên quan: "Phiền tiên sinh rồi."

Chu Dĩ Đường cúi đầu, nhìn Chu Phỉ, chợt nói: "Mẹ con không được chiều từ nhỏ như con đâu, lúc nhỏ cũng chưa từng bắt nạt người khác."

Chu Phỉ: "…"

"Cô phụ." Lý Thịnh cuối cùng cũng tìm được cơ hội nói chuyện, tận dụng hỏi: "Lương công và 48 trại chúng ta sau đó có ân oán gì ạ?"

Chu Dĩ Đường dừng bước.

Tuy mấy năm gần đây Lý Thịnh dần bắt đầu tham gia công việc trong trại nhưng khi trò chuyện với Chu Dĩ Đường, Y vẫn có chút căng thẳng không rõ, thấy ông không lên tiếng, Y vội nói: "Cũng không phải chuyện gì quan trọng, kỳ thực con chỉ tùy tiện …"

"Năm đó lão trại chủ bị Bắc Đẩu ám hại, trọng thương quay về, Tào Trọng Côn đương nhiên không chịu buông tha 48 trại." Chu Dĩ Đường nhả chữ rất chậm, giống như châm chước từng con chữ: "Nhân lúc trong trại hỗn loạn, Tào Trọng Côn lại dùng danh nghĩa diệt phỉ phát binh đánh Thục Trung, lão trại chủ thực hết cách, vào lúc nguy cấp nhất, từng cầu viện với Lương công … với triều đình."

Chu Phỉ nghe đến đó, lòng bỗng dưng thắt lại.

Không biết tại sao, tuy nàng chưa bao giờ gặp vị ông ngoại qua đời từ rất sớm này, nhưng nàng chợt cảm thấy năm chữ “cầu viện với triều đình” vô cùng nặng nề. Ông dẫn một đám người ở Thập Vạn Đại Sơn một tay dựng lên chốn đào nguyên lánh nạn, tự chế nhạo bản thân là “phụng chỉ làm phỉ”, lập ba lời thề “không thẹn”, tuy cũng có giao tình với Lương Thiệu, cũng có công hộ tống ấu đế xuôi nam, nhưng Chu Phỉ tin một cách không lý do, rằng có lẽ ông không muốn mở miệng với họ, rốt cuộc bị ép tới mức nào mới nói ra hai chữ “cầu viện”?

Bốn bề yên tĩnh, ngay cả Lý Nghiên cũng dè dặt nín thở.

Hồi lâu, Chu Dĩ Đường mới nói tiếp: "Lúc đó triều đình loạn trong giặc ngoài, cũng đang lúc rối ren, Lương công … Lương công … vì đại cục, thực không thể ra sức. Khi ấy ta tuổi trẻ nóng tính, vì chút tình riêng mà tự ý giở tiểu xảo, trộm binh phù, lừa lấy năm vạn tinh binh."

Văn Dục khẽ nói: "Năm đó 48 trại ở Thục Trung nhất hô bá ứng và Thiên Khiếm là hai thành lũy lớn bảo vệ cơ nghiệp triều ta, môi hở răng lạnh, Chu tiên sinh dọa lui Bắc quân chưa hẳn không phải là kế lâu dài."

"Đa tạ cậu gỡ tội giúp ta." Chu Dĩ Đường cười ngắn ngủi, lại nói: "Ta tự thẹn … với nhiều năm dạy dỗ của Lương công, liền tự bỏ chức quan, phế võ công, trả lại sở học cả đời, trốn vào 48 trại. Ân oán kỳ thực không thể nói rõ, cô cô con có lẽ chỉ tình cờ nhớ lại chuyện xưa, có chút canh cánh trong lòng? Được rồi, nói người đã mất không hay lắm, mấy ngày nay loạn lạc, nghỉ ngơi sớm đi."

Nói xong, ông vỗ cánh tay Chu Phỉ, mang Văn Dục xoay người rời đi.

..............

Trong thư phòng lạnh lẽo ở bờ Đông Hải, nắp và tách trà trong tay Tạ Doãn khẽ chạm nhau vang một tiếng nhỏ: "Con biết, lúc tin dữ của Lý lão trại chủ đột nhiên truyền đến thì cùng năm đó Chu tiên sinh “cạo xương lóc thịt trả ân sư” thoái ẩn Thục Trung, mãi đến khi Lương Thiệu chết cũng không ra mặt nữa. Với sự thông minh của ông, có lẽ đã nhận ra được gì đó, nội tình bên trong, e là Lý đại đương gia cũng chưa chắc biết rõ. Cam Đường tiên sinh luôn ngầm nhận mình “phản bội sư môn”, nhưng nếu thật là vậy, vì sao Lương Thiệu trước khi chết lại giao toàn bộ gia sản của mình vào tay ông? Rốt cuộc là ai thẹn với ai, con nghĩ vừa nhìn là biết. “Kiêu Sầu” mà Hoắc lão bảo chủ trúng là thứ hiếm, không thoát khỏi quan hệ với di vật của Dược cốc. Và còn Sơn Xuyên kiếm … cái chết của Sơn Xuyên kiếm là điển hình nhất, thoạt trông là vì “tội có vật quý”, nhưng ngẫm kỹ thì vật quý này từ đâu ra? Lời đồn Hải Thiên Nhất Sắc là bí bảo võ lâm từ đâu mà có, lấy gì làm chứng?"

Lúc Cốc Thiên Toàn cấu kết Minh Phong lâu xâm phạm 48 trại từng nhắc, Minh Phong lâu có được Quy Dương đan thất truyền, Phong Vô Ngôn được che chở, Vũ Y ban bỗng dưng lợi hại đến vô ảnh đi vô tung, Mộc Tiểu Kiều tiến bộ võ công vượt bậc … tất cả đều khiến người ta suy nghĩ xa xôi.

Hèn gì lời đồn về bí bảo võ lâm lại xôn xao.

Thù lao mà Lương Thiệu trả, chẳng những có thể khiến thích khách nhận tiền giết người cam nguyện chịu điều động, mà còn nửa che nửa đậy dệt ra một tấm lưới lớn khổng lồ, có thể phát huy đầy đủ trí tưởng tượng tam sao thất bản của người giang hồ.

Đồng Minh lắc đầu: "Đương nhiên có chút căn cứ, nhưng lão nạp nghe thì e vẫn là suy đoán của con chiếm đa số, dù sao chết không đối chứng. Ta hỏi con, nếu năm đó thực là Lương Thiệu, tại sao ông ấy lại mặc cho hoa văn sóng nước lưu lạc khắp nơi?"

Tạ Doãn nói: "Không sai, tại sao ông ấy lại mặc cho hoa văn sóng nước lưu lạc khắp nơi? Tại sao lại mời những người mà thân phận khiến người ta phải suy nghĩ tới làm “nhân chứng”? Thích khách, hạng người móc tim của núi Hoạt Nhân Tử Nhân … nếu không phải danh tiếng của “Viên Hầu song sát” quá kém thì chắc hẳn những nhân chứng này đã gộp đủ tất cả thích khách nổi danh trong thiên hạ. Nếu chỉ vì bảo vệ bí mật thì chẳng phải càng liên lụy ít người càng tốt hay sao? Những bậc tiền bối vang danh giang hồ như Sơn Xuyên kiếm sẽ quan tâm tới thích khách ư, “cái gai” này rốt cuộc là mắc vào cổ họng ai?"

Hàng mày rủ xuống của Đồng Minh khẽ dao động: "Ý con là …"

"Lý đại đương gia của 48 trại, nhi tử của Sơn Xuyên kiếm, nữ nhi của Ngô tướng quân, thậm chí Hoắc gia bảo chủ Hoắc Liên Đào, có người giang hồ, có người bình thường, có người tốt, cũng có người xấu, nhưng không một ai trong họ biết hoa văn sóng nước rốt cuộc là gì. Có lẽ các vị tiền bối ký minh ước Hải Thiên Nhất Sắc từng giao hẹn với nhau, rằng việc này sẽ chấm dứt ở đời mình, có lẽ vì sợ rước họa cho con cái. Tóm lại, hoa văn sóng nước được truyền lại, nhưng nội dung minh ước thì không. Người biết con đang nghi ngờ chuyện gì không, thưa sư phụ?"

Đồng Minh cười khổ: "Bây giờ ta đã không biết là “Bạch cốt truyện” của con ly kỳ hay chuyện mà con nói ly kỳ nữa. Con muốn nói gì?"

"Dù gom đủ hoa văn sóng nước cũng không thể ghép ra nội dung minh ước, “nhân chứng”, “hoa văn sóng nước” thần bí, thích khách lưu lạc giang hồ khiến người ta vĩnh viễn không tìm được … đều là cái gai mà Lương Thiệu cắm trong lòng “người đó”, để ông ta ăn ngủ không yên."

Đồng Minh: "Vì sao ăn ngủ không yên?"

Tạ Doãn chậm rãi giơ thẳng một ngón tay đặt bên môi mình, nhỏ giọng: "Sư phụ, chuyện này không thể nói từ miệng con, dù nơi này chỉ có con và Người cũng không thể."

Lúc lập ra Hải Thiên Nhất Sắc, Kiến Nguyên Đế Triệu Uyên chẳng qua chỉ là một đứa trẻ được mọi người bảo vệ xuôi nam, một đứa trẻ thì có thể có nhược điểm lớn cỡ nào mà đến nay vẫn ăn ngủ không yên?

Trừ phi …

Cổ họng Đồng Minh đại sư khẽ nhúc nhích, hồi lâu mới gật nhẹ đầu, nói tiếp: "Con nói Lương Thiệu lập mưu hại chết bạn cũ Sơn Xuyên kiếm, giết người diệt khẩu, nhưng để lại hoa văn sóng nước và nhân chứng để kiềm chế một bên khác. Ông ấy là vì điều gì?"

Tạ Doãn lắc đầu: "Con không biết."

Im lặng chốc lát, Tạ Doãn lại nói: "Nghe nói năm xưa… khi Tào thị chưa bắt đầu làm phản, Lương công là phần tử trung kiên của tân đảng, lúc đó ông ấy trẻ tuổi nhiệt huyết, rất hợp rơ với tiên đế cố chấp muốn thúc đẩy nền chính trị mới. Sau đó tiên đế đắc tội quần thần, bị ép vạn bất đắc dĩ mới đày Lương Thiệu đến Giang Nam, vốn định tạm giáng sau thăng, chờ thời cơ chín muồi sẽ triệu ông ấy về, ai ngờ lần từ biệt đó lại thành vĩnh biệt. Cả đời Lương công chưa từng lưu luyến vinh hoa phú quý, thê tử mất sớm, ở góa nhiều năm, chỉ có một nhi tử, nghe nói vị công tử đó vốn cũng trẻ tuổi anh tài, khi chưa nhược quán đã lập được chiến công, gặp lúc Tào Trọng Côn làm phản, hắn theo quân lên bắc, duyên trời run rủi vào trong nhánh tiểu đội làm mồi nhử, cuối cùng chết tha hương nơi đất khách, hài cốt không còn. Người nói Lương Thiệu là vì điều gì ư? Con không biết, con chỉ cảm thấy cả đời ông ấy thực sự rất bận, ngay cả sau khi chết cũng …"

Ánh mắt Đồng Minh đại sư nhìn quyển “Bạch cốt truyện”: "Sau khi chết thế nào?"

Tạ Doãn lần này trầm mặc rất lâu.

Đồng Minh nói: "An Chi, chắc chắn con còn biết gì đó."

Tạ Doãn: "Chuyện hài cốt trong mộ Lương Thiệu không cánh mà bay, không phải A Phỉ nói cho con biết. A Phỉ không thích nói với người khác chuyện mình từng làm, con thậm chí không biết đích thân nàng đi xới mộ Lương Thiệu."

Tràng hạt xoay chầm chậm trong tay Đồng Minh chợt dừng lại.

Tạ Doãn dùng âm lượng gần như thì thầm nói: "Là chính mắt con nhìn thấy."

Lão hòa thượng Đồng Minh sống đến tuổi này, tu nửa cuộc đời, từng thấy nhiều chuyện lạ thế gian, nhưng lại vì một câu cực nhẹ này của Y mà run rẩy.

"Lúc đó Chu tiên sinh bận lo liệu nơi tiền tuyến, Hoắc gia bảo phát thiệp mời rộng rãi, dẫn tới rất nhiều người nhàn rỗi tụ tập ở Động Đình. Hoắc Liên Đào tự cao tự đại, ăn no rửng mỡ, còn kinh động đến Bắc Đẩu, lúc đó có lời đồn nói là Bắc Đẩu mượn chuyện để mưu lợi cho mình, tìm cớ để ra tay với các “danh môn đại phái”. Con vừa khéo nghe nói … chê cười rồi, đúng là hơi “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”." Tạ Doãn cười tự giễu: "Con chạy về hướng Nhạc Dương, thuận đường đến mộ Lương công, muốn tiện thể ghé thắp nén nhang."

Đồng Minh sững sờ, tiếp đó than: "Hóa ra con đã sớm biết vị trí mộ Lương công, vì sao chưa bao giờ nhắc tới? Trong tay ông ấy có rất nhiều di vật của Dược cốc, lỡ như có cách giải Thấu Cốt Thanh thì sao?"

Tạ Doãn cười nói: "Lúc đó con cảm thấy làm một phế nhân cũng rất tốt, không ngờ còn có ngày dùng Thôi Vân chưởng … chúng ta không nói chuyện này nữa. Con ở gần mộ Lương công bất ngờ phát hiện một nhóm người hành tung bí hiểm quẩn quanh chỗ đó. Sư phụ có lẽ biết, mộ Lương công ở chỗ giao Nam Bắc, là hàng xóm láng giềng với mộ y quan của Lương công tử tuẫn quốc năm xưa, vị trí rất nhạy cảm, phản ứng đầu tiên của con lúc đó chính là “Bắc Đẩu lại giở trò gì đây”, bèn ỷ vào khinh công mình tốt mà bám theo. Chúng quẩn quanh gần mộ Lương công hai ngày, đêm đó đào lên, lật tung hết cả."

Đồng Minh đại sư nói: "A di đà Phật, người chết là lớn nhất, Tham Lang không khỏi khinh người quá đáng."

"Đúng vậy, vào thời điểm đó, chẳng phải bọn Bắc Đẩu Thẩm Thiên Khu lần lượt bao vây Hoắc gia bảo, thành Hoa Dung, thiêu chết Hoắc lão bảo chủ, lại một mạch truy sát con côi của Ngô tướng quân sao? Vậy lúc đó, họ tiện tay trộm mộ, bất kể là tìm gì, dù sao nghe cũng hợp tình hợp lý, đúng không?" Tạ Doãn cười ý tứ sâu xa: "Tiếc rằng con chỉ là một thư sinh “tay trói gà không chặt”, muốn bảo vệ thể diện người chết cũng lực bất tòng tâm. Bọn người đó xới tung một trận, con không biết họ có tìm được đồ họ muốn hay không, dù sao cuối cùng họ kéo thi thể về cơ bản chỉ còn lại xương trắng ra, quất roi đánh cho hả giận."

Đồng Minh đại sư tâm tính hiền lành, nghe lời ấy, liên tục niệm Phật hiệu.

"Làm cho hài cốt loạn tùng phèo, sau đó thủ lĩnh nọ lấy từ trong ngực ra một lá cờ lệnh Bắc Đẩu, dùng đá đè lại, đặt cạnh thi thể." Tạ Doãn nói: "Giống như chỉ sợ người ta không biết Thẩm Thiên Khu tự tiện xông vào biên cảnh Nam Bắc, đào mộ người khác, sỉ nhục thi thể vậy."

Đồng Minh đại sư nghe ra nghĩa bóng của Y, há hốc mồm: "Chuyện này …"

"Nếu lúc đó chỉ có một mình con ở đó thì đã không có những chuyện về sau." Tạ Doãn tự giễu: "Dù sao con nhát lắm, bất quá đợi chúng đi xa, con lại ra dọn xác cho Lương công thôi, ai ngờ không biết trùng hợp thế nào mà có một người khác cũng ở đó, đồng thời lộ diện vô cùng chính trực, quát hỏi họ là ai, sao lại không biết xấu hổ như vậy, ngay cả danh của Bắc Đẩu mà cũng dám nhận liều … về sau con mới biết, đạo trưởng ngốc ấy chính là Xung Tiêu đạo trưởng của Tề môn."

Đồng Minh “a” một tiếng.

"Xung Tiêu đạo trưởng lúc đó quá nửa cho rằng chúng là bọn tặc vặt vãnh trên giang hồ, rảnh rỗi đi chơi trò đào mộ, ngờ đâu hai bên vừa ra tay, đạo trưởng mới phát hiện mình khinh địch. Bọn áo đen đào mộ ai nấy đều là cao thủ, cao thủ không hiếm thấy, nhưng cao thủ có thể phối hợp ăn ý nhịp nhàng như vậy chắc chắn không nhiều, giữa họ không cần giao lưu ngôn ngữ, từng ánh mắt từng dấu tay đều hoàn mỹ. Mà dấu tay ấy lại để lại manh mối, con vừa hay từng thấy trước đây, còn nhìn hiểu."

Đồng Minh đại sư vội nói: "Con từng thấy ở đâu?"

Tạ Doãn đáp rõ từng chữ một: "Đại nội."

Chương 157: Bỏ Lỡ

Đồng Minh nói: "Ý con là, người hầu thân cận của thiên tử đào mộ Lương công, còn muốn giá họa cho Bắc Đẩu, lôi người chết ra quất roi trút giận?"

Tạ Doãn nhẹ nhàng hà hơi, bờ Đông Hải khí hậu ôn hòa, hơi thở Y phả ra mang theo hàn khí li ti, Y chậm rãi xoa tay mình, qua một lúc mới lên tiếng: "Không, không phải trút giận, hoàng thượng không phải loại người hành động theo cảm tính, vả lại dù thực muốn trút giận cũng sẽ tự mình quất roi chứ không phải nhờ người làm giúp."

Y đứng dậy, khép chặt áo bào, từ từ bước đi trong thư phòng: "Con nghi ngờ họ không thu hoạch được gì trong mộ chủ nhân, nên cho rằng trên thi thể Lương Thiệu có bí ẩn gì đó. Lúc ấy con thấy Xung Tiêu đạo trưởng thực không chống đỡ nổi, không nhẫn tâm nhìn ông ấy hồ đồ chết ở đấy nên muốn thử."

Đồng Minh đại sư không hề bất ngờ: "Thế là con tự dưng xuất hiện, cướp thi thể kia đi."

"Người hiểu con chỉ có ân sư." Tạ Doãn cong khóe mắt: "Con che mặt, ỷ mình khinh công tốt, đi một mạch lên phía bắc, bọn áo đen đào mộ và đạo trưởng đều không biết con theo phe phái nào, sau khi sững sờ thì đều đuổi theo con, vả lại còn là đuổi tận không buông, may mà Lương công đã gầy thành một bộ xương, bằng không đoạn đường ấy con thực sự cõng không nổi."

Đồng Minh đại sư lắc đầu: "Lại mồm mép rồi."

Tạ Doãn cười, nói: "Con bị họ dây dưa ròng rã ba ngày, làm thế nào cũng không cắt đuôi được, lúc đó con bắt đầu nghi ngờ bộ xương trắng ấy thật sự có bí ẩn gì hay không. Có điều sau này nghĩ lại, nói không chừng bọn tặc đào mộ kia mới đầu chỉ hơi nghi nghi, nhưng sau đó đạo trưởng và con lần lượt bước ra phá rối đã làm chắc chắn thêm sự nghi ngờ của họ. Đạo trưởng thấy con đi mãi về phía bắc, hẳn cho rằng bọn tặc đào mộ kia và con là Bắc Đẩu giả gặp Bắc Đẩu thật, còn bọn lén lút làm tặc đào mộ kia thì đại khái đều cho rằng con và đạo trưởng là do phương bắc phái tới, phân chia không đều nên đồng đội phản bội nhau … ha ha, khỏi nói loạn cỡ nào."

Tạ Doãn tuy mặt mày hốc hác nhưng nhắc tới những chuyện thiếu niên gà bay chó chạy thì ánh sáng trong mắt không mảy may ảm đạm, có lẽ dù hôn mê khi trúng Thấu Cốt Thanh lạnh lẽo, Y vẫn có thể nhớ lại những năm tháng mạo hiểm và vui vẻ ấy hết lần này đến lần khác để giết thời gian, tuyệt đối không cô quạnh.

"Con chạy một mạch tới địa giới Bắc triều, bọn áo đen có lẽ sắp điên, ngay cả biên giới cũng không quan tâm, bám sau con như chó điên, trèo non lội suối đều không cắt đuôi được, lúc con đang sầu thì không ngờ gặp đám tay sai của Chu Tước chúa nhe nanh múa vuốt đánh cướp dọc đường. Bản thân Chu Tước chúa nổi tiếng “không phân thị phi tốt xấu” đã lâu, thuộc hạ cũng chẳng khác gì, thấy đám trộm mộ kia quá kiêu ngạo liền cho rằng họ tới phá đám, thế là đánh nhau hỗn loạn tưng bừng. Con và Lương công thấy trời ban duyên này, lập tức cùng nhau đánh bài chuồn."

Tính Tạ Doãn nói nghiêm chỉnh chưa tới hai câu là bắt đầu mồm mép, Đồng Minh đại sư lười quản Y: "Sau đó thì sao?"

"Sau đó con đi bậy đi bạ lại đi vào sơn cốc lao tù của Chu Tước chúa, chậc, đúng là khiến người ta than thở." Tạ Doãn lắc đầu: "Sơn cốc lao tù đó canh phòng nghiêm ngặt, con cõng theo Lương công hơi phiền phức, bèn thương lượng với ông ấy, tạm thời thu xếp cho ông ấy ở trong một khe hẹp của sơn cốc mà không ai vào được … ơ, không đúng, là con không vào được, chứ con thấy rong tinh đó chui vào chui ra đâu có trở ngại gì. Lúc đó tối om om, con không nhìn thấy rõ, không chú ý phía dưới khe hẹp còn có “động tiên” khác, Lương công vừa vào liền hụt chân rớt xuống."

Đồng Minh: "…" Tiểu tử này toàn làm chuyện gì thế không biết.

Tạ Doãn sờ mũi: "Lần này ông ấy rơi xuống, muốn móc ra nữa thật không dễ, con đang sầu não thì không may bị thủ vệ trong cốc phát hiện."

Đồng Minh đại sư bất lực nói: "Với năng lực độc hành ngàn dặm của con mà không thể chạy à?"

Tạ Doãn than thở: "Thường ngày thì không thành vấn đề, ai ngờ hôm đó ra cửa không xem hoàng lịch, đúng lúc Chu Tước chúa Mộc Tiểu Kiều tọa trấn sơn cốc, mà tính Chu Tước chúa … ha ha, chắc Người cũng có nghe, để tránh tranh chấp và đổ máu không cần thiết, con đành chủ động bị bắt thôi. Chu Tước chúa thấy con thái độ tốt, cho rằng con chỉ là một tiểu tặc, sai người soát người con được năm vụn bạc và một đồng tiền rồi hạ lệnh ném con vào ngục tối, “tiểu tặc” không có tư cách được ở trên mặt đất, con bị họ ném vào một hầm dưới đất, vừa hay làm hàng xóm với Lương công, cũng trong cái rủi có cái may ... không cần phí công đào ông ấy ra nữa, cũng không cần lo bị đám tặc đào mộ thần thông quảng đại kia bắt. Người đuổi theo con đương nhiên không chịu để yên, quanh quẩn gần sơn cốc mãi không đi, Chu Tước chúa nhận ra có thế lực như vậy quấy rối, lần đầu tiên ở lại sơn cốc lâu đến mười ngày, Xung Tiêu đạo trưởng đại khái cũng bị hắn bắt nhầm vào lúc đó, còn bọn tặc áo đen đào mộ thì người chết kẻ bị thương, mấy ngày sau cũng yên tĩnh lại, không dám xuất hiện nữa."

Mặt Đồng Minh đại sư hiện chút ý cười, nói: "A di đà Phật, ta thấy chưa chắc, e là con nhận ra Chu Tước chúa ở sơn cốc nên mới nghĩ ra cách mượn thanh đao này."

Tạ Doãn: "Bất kể Người tin hay không tin, lần đó đúng là ý trời."

Nói rồi không biết nghĩ đến điều gì, thần sắc Y dịu đi, khóe môi thoáng nở nụ cười, qua hồi lâu, Y hỏi: "Sư phụ, nếu con uống vị thuốc thứ ba, liệu kịp gặp A Phỉ không? Lần trước bỏ lỡ rồi, lần sau mà bỏ lỡ thì không biết phải đợi tới mấy kiếp sau nữa."

Môi Đồng Minh đại sư khẽ cử động, chưa kịp lên tiếng thì Tạ Doãn thấy sắc mặt ông không ổn, vội ra vẻ ung dung: "Có điều sống chết là một, cuối cùng sẽ có ngày trăm sông đổ về một biển, cùng lắm chỉ trăm năm, dù sao cũng không đáng ngại, không cần lo lắng. Vả lại … biết đâu nàng đột nhiên nảy ra ý muốn đi dạo Đông Hải, qua hai ngày là tới ngay cửa thì sao? Thiên ý xưa nay luôn khó liệu, bằng không sao lúc đó nàng lại trùng hợp theo sau chân Lương công, rơi vào hang đá nhỏ ấy chứ?"

Đồng Minh đại sư cúi đầu niệm Phật hiệu.

Đúng lúc này, bên ngoài chợt truyền đến một tràng tiếng bước chân, hai người trong thư phòng đồng thời sững sờ, lát sau nghe Lưu Hữu Lương cao giọng nói: "Điện hạ, Đồng Minh đại sư, ngoài đảo có khách tới."

Lời này vừa dứt, dù là “cư sĩ nghĩ thoáng” tâm rộng như trời đất thì thần sắc cũng thay đổi liên tục mấy lần.

Tạ Doãn lúc đó như bị nghẹn, kéo mở cửa phòng, hỏi: "Là ai?"

Song … thiên ý xưa nay luôn khó liệu, mười phần hết chín chẳng như mong.

Sau hai khắc, khách không mời mà đến lên đảo, nhưng người đó không phải Chu Phỉ.

Một loạt thị vệ đại nội tinh anh quỳ trước thư phòng nhỏ đơn sơ cũ kỹ của Tạ Doãn.

Trần Tuấn Phu chậm rãi xách con thoi dài mà ông dùng để đan lưới đánh cá qua, đứng dựa vào cạnh cửa không nói lời nào, thân hình thầy đồ Lâm lóe lên, rơi xuống nóc thư phòng, hai sợi râu dê lay động, hỏi: "Hôm nay không phải tết nhất lễ lạc, các ngươi tới làm gì?"

Dù Tạ Doãn lang thang bên ngoài quyết không hồi cung, Triệu Uyên cũng chưa bao giờ quên làm màu ngoài mặt, lễ tết chắc chắn sẽ phái người tới thăm hỏi, thực hiện cuộc đối thoại thừa thãi theo thông lệ với Tạ Doãn “về nhà ăn Tết không” “không”.

Thị vệ thủ lĩnh kia đáp: "Bẩm điện hạ, quân đội chúng ta gần đây sắp lên phía bắc, chinh phạt bọn giặc, khôi phục sơn hà, nơi này tuy ngoài biển nhưng dẫu sao vẫn nằm trong phạm vi thế lực của Bắc tặc, để phòng ngừa Tào thị chó cùng rứt giậu, hoàng thượng ra lệnh chúng tôi bí mật đón Đoan vương điện hạ hồi cung."

Lời hắn chưa dứt, trước mặt đột nhiên có một bóng người lóe lên, thầy đồ Lâm như ma quỷ, không biết thế nào đã đến ngay gần phía trước hắn.

Thị vệ thủ lĩnh giật mình, ngửa ra sau theo bản năng, nắm lấy bội kiếm bên hông.

"Chó cùng rứt giậu?" Thầy đồ Lâm ngoài cười trong không cười: "Ba lão già sắp xuống lỗ bọn ta còn chưa chết đâu, để chúng tới thử xem."

Thị vệ kia vội nói: "Tiền bối hiểu lầm, hoàng thượng còn nói, chúng ta nói không chừng ít ngày nữa là có thể thu phục cố đô, nhớ năm xưa khi điện hạ rời cung còn là một đứa trẻ được người ta bế, ngài không muốn về nhà xem sao?"

Trần Tuấn Phu nói: "Đoan vương điện hạ bệnh tật quấn thân, không thích hợp đi xe mệt nhọc."

Thị vệ: "Hoàng thượng chính vì lo lắng điều này nên lệnh chúng tôi chuẩn bị xe ngựa theo nghi thức thánh giá, phái mười vị thái y đi cùng …"

Thầy đồ Lâm thổi râu trừng mắt ngắt lời: "Thái y? Hứ, thái y của các ngươi toàn là bọn giá áo túi cơm!"

"Lâm sư thúc." Tạ Doãn khoát tay: "Không cần gây khó người làm chân chạy, hoàng thượng xưa nay đối đãi với con rất tốt, phiền chư vị nhọc tâm, nghi thức thánh giá quá mức vượt quyền, ta tuyệt đối không dám nhận, nếu có thể giản lược một chút, ta về thăm tiểu thúc cũng được."

Thị vệ bị thầy đồ Lâm làm khó bây giờ thở hổn hển mừng rỡ: "Vâng, tiểu nhân nghe chỉ thị, đa tạ Đoan vương điện hạ."

Đồng Minh đại sư cau mày: "An Chi…"

Tạ Doãn cảm thấy hơi nước trong gió biển thổi tới đã ngưng tụ thành băng quanh thân Y ngay tại chỗ, Y như mang theo một mùa đông giá buốt không gạt đi được.

Đúng rồi, thế cục Nam Bắc sắp đổi thay, Triệu Uyên càng đến gần vương tọa đại nhất thống thì hoa văn sóng nước hẳn càng là cái gai trong cổ họng.

May mà “con côi của Ý Đức thái tử” như Y không còn sống được bao lâu, Triệu Uyên vẫn phải diễn đủ vở kịch “trả ngai” cuối cùng cho người đứng sau màn trong suy nghĩ của ông ta, đưa cho đứa con côi chính thống như Y một kết cục rồi mới tiện khóc lóc “bất đắc dĩ không trâu bắt chó đi cày” “nhận mệnh của trời”.

Tạ Doãn nói: "Sư phụ, đồ nhi phải đi một chuyến xa nhà, trước khi đi, phiền người sắc cho con vị thuốc cuối cùng."

................

Khi ở Kim Lăng đang chuẩn bị đón Đoan vương về, thì Chu Phỉ vẫn đang không biết gì cả, chia tay mọi người, định đi tới Đông Hải.

Lý Thịnh làm chủ đón các lưu dân về 48 trại, mấy năm nay chiến hỏa liên miên, ngay cả 48 trại cũng rất khó giữ được sự thảnh thơi uống trà nghe sách như trước đây, bách tính dưới núi thưa thớt, không ít nơi hoang vu tiêu điều.

Lý Thịnh nói: "Những người này huynh sẽ mang đi, chuyến này huynh và A Nghiên ra ngoài quá lâu, lại không có tin tức, đại cô cô e là sẽ lo lắng."

"Thay muội nói với mẹ một tiếng … thôi bỏ đi, bà ấy chắc chắn không lo lắng cho muội đâu." Chu Phỉ nói: "Nói muội mới làm thịt Cự Môn và Phá Quân, lần sau gặp Vũ Khúc, chắc chắn sẽ băm ông ta ra báo thù cho Vương lão phu nhân, ngày về chưa định, có việc thì truyền tin cho muội qua trạm ngầm."

Kể từ khi nàng chỉ hái hai hoa ở Tú Sơn Đường, Lý Thịnh rất không ưa đức hạnh thối “ngông không giới hạn” của nàng, tới nay vẫn hễ thấy là ngứa răng. Tiếc là ngứa đến mấy cũng đánh không lại, chỉ có thể tự mình liếm láp, Y lườm nàng rồi im lặng bỏ đi trước mặt Chu Phỉ, nói với Ưng Hà Tòng: "Ưng huynh định thế nào? Hộp gỗ kia ta vẫn chưa giải được, huynh đồng hành với bọn ta không? Có thể giúp nghiên cứu chút ít."

Ưng Hà Tòng không nói gì, gật đầu.

Dương Cẩn: "Vậy ta …"

Lý Thịnh: "Lần trước Dương huynh đến Thục Trung là chuyện ba bốn năm trước rồi, huynh luôn là bằng hữu tốt của 48 trại chúng tôi, nếu không có chỗ khác để đi, chi bằng ghé qua một thời gian?"

Dương Cẩn do dự, đưa mắt nhìn các lưu dân tha thiết mong mỏi một nơi yên ổn, Y lắc đầu.

Mấy dược nông kia ai nấy đều chỉ biết chút công phu quyền cước, trong loạn thế Trung Nguyên này cũng chẳng mạnh hơn đám lưu dân mặc người ta làm thịt đó là bao. Nghĩ đến đây, Dương Cẩn hơi hối hận. Vị chưởng môn không đáng tin, vì tìm người so đao mà bỏ nhà ra đi ấy không ngờ lại nói: "Không được, ta đi lâu lắm rồi, phải về trông đám dược nông kia."

Lý Thịnh sững sờ.

Ưng Hà Tòng chợt nói: "Kình Vân Câu có phải có một vị lão tiền bối thắt bím đầy đầu, thích đi du lịch khắp nơi ở Trung Nguyên không?"

Dương Cẩn: "Ừ, đó là sư bá ta, chưởng môn đời trước, thích nuôi rắn giống ngươi, có điều ông lớn tuổi lắm rồi, mấy năm trước đã qua đời."

Ưng Hà Tòng chắp tay với Y: "Tương lai nhất định sẽ đi tế bái, khi Dược cốc xảy ra chuyện, tuy ta may mắn chạy thoát nhưng cửu tử nhất sinh, may được vị tiền bối ấy cứu giúp, tặng ta rắn độc bên người."

Dương Cẩn à lên không mấy khách sáo với người khác, Y khoát tay: "Không sao, không cần đa tạ, lão nhân gia luôn thích lo chuyện bao đồng, vả lại rất tôn sùng quý phái, sau khi về thổn thức rất nhiều năm, cứ nhắc mãi “Đại Dược cốc” đến khi chết …"

Dương Cẩn nói tới đây chợt dừng lại.

Y chợt nhớ, Kình Vân Câu nằm ở Nam Cương, không tranh với đời, không trọng văn cũng không trọng võ, các đời chưởng môn đều say mê y độc, chưởng môn phải là người có trình độ tốt nhất trong những người cùng thế hệ, hình như từ sau khi sư bá đi du lịch trở về mới thình lình đổi thành tỷ võ chọn chưởng môn.

Lúc nhỏ Y sợ rắn, lại không học được sách thuốc, mỗi ngày chỉ biết múa đao múa thương, quan hệ với người khác có thể tưởng tượng được … sau đó lại bắt đầu từ khi nào, mọi người nỗ lực thử tiếp nhận một kẻ khác thường như Y?

Hóa ra Đại Dược cốc diệt vong trong một đêm đã để lại dư âm lan đến cả Nam Cương, bất giác Y đã được trưởng bối và người cùng thế hệ giao trọng trách bảo vệ Dược cốc, thế nhưng Y lại chỉ say mê đao thuật của bản thân, phiền chán mà lâm trận bỏ chạy!

Dương Cẩn bừng tỉnh khỏi giấc mộng dài, ngây người hồi lâu, đột nhiên vỗ mạnh lên trán mình, quay đầu bỏ đi: "Ta cáo từ trước."

Nói xong, Y leo lên ngựa chạy đi nhanh như chớp, trong lúc vội vã chỉ kịp gật đầu với Chu Phỉ, quên mất chuyện tìm nàng so đao.

Mọi người chia nhau ba ngả, tự mình xuất phát.

Lại qua hai ngày, đại quân được nghỉ ngơi ngắn ngủi nhanh như chớp từ sơn cốc hướng về phía sau lưng Tào quân.

Chương 158: Bắc Đẩu Chuyển Hướng (*)

(*) Bắc Đẩu chuyển hướng là dấu hiệu khi trời sắp sáng.

Tháng chín mùa thu năm Kiến Nguyên thứ hai mươi lăm, đây là mùa thay y phục, sương bắt đầu giăng.

Mồng ba, thư từ hai viên đại tướng Bắc Đẩu Cự Môn và Phá Quân đã muộn ba ngày, Tào Ninh liên tiếp phái hai nhóm thám báo đi thúc giục, tiếc rằng ba ngày không đủ đi về nên đến nay vẫn chưa có được hồi âm.

Bắc Đoan vương Tào Ninh hơi đứng ngồi không yên, chạng vạng tản bộ trong doanh trại, chợt thấy lá cây rời cành, lòng bỗng dưng thấp thỏm, hắn ta khom người nhặt chiếc lá khô, nhìn chằm chằm những gân lá cằn cỗi bên trên, lật tới lật lui xem chốc lát.

Thân binh theo hầu không hiểu ra sao, không dám giục, khó hiểu nhìn chiếc lá rồi lại nhìn Đoan vương.

"“Càn thượng Khôn hạ, thiên địa bĩ.”" Tào Ninh cuốn lá khô trong lòng bàn tay, từ từ vò nát: "“Bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai” (*)."

(*) Phần mô tả quẻ “Thiên địa bĩ” trong “Kinh Dịch”, nghĩa: bất lợi cho đạo chính của quân tử, cái lớn đi, cái nhỏ lại. (theo “Kinh Dịch – Đạo của người quân tử” của Nguyễn Hiến Lê).

Thân binh khó hiểu: "Vương gia, ngài nói gì ạ?"

Mắt Tào Ninh bị đống thịt mỡ trên mặt chen thực không còn chỗ đặt, thoạt nhìn như hai đường dao cắt, hơi không cẩn thận là có thể lâu ngày sinh tình nối nó lại, ánh sáng bên trong cũng bị ép thành một đường cực nhỏ, càng làm lóa mắt người ta, hắn ta ngẩng đầu nhìn sắc trời ảm đạm, lẩm bẩm: "Quẻ nói rằng ta nên sớm rút lui …"

Tuổi Tào Ninh không lớn nhưng bụng dạ rất thâm sâu, người bên cạnh chưa bao giờ dám vọng ngôn suy đoán hắn ta nghĩ gì. Thân binh nọ đột nhiên nghe hỏi, nhất thời không biết nên lắc đầu hay gật đầu, mồ hôi sắp tuôn ra, lắp bắp: "Chuyện này … vương gia …"

Nhưng dường như Tào Ninh chỉ tự lẩm bẩm chứ không hề muốn nghe đáp án, chưa chờ người nọ nói xong, Tào Ninh chợt quay đầu nói: "Đi xem xem thư của Cốc Thiên Toàn tới chưa? Lập tức sai người nhóm lửa nấu cơm, giờ dậu ba khắc hôm nay nếu thư của Cốc Thiên Toàn vẫn chưa tới thì gác lại kế hoạch ban đầu, chúng ta nhổ trại rời đi."

Câu này thân binh nghe hiểu, hắn lập tức như được đại xá, đáp vâng rồi nhanh chân bỏ chạy.

Thư của Cốc Thiên Toàn e chỉ người chết mới có thể nhận.

Tào Ninh quyết đoán, không chút dây dưa dài dòng, nói giờ dậu ba khắc đi là không đợi thêm khắc nào, nhổ trại lên đường ngay trong đêm.

Còn lỡ như bọn Cốc Thiên Toàn giữ nguyên kế hoạch đánh lén đại quân Nam triều sau lưng, đánh được một nửa, phát hiện viện quân phe mình không tới sẽ rơi vào kết cục gì? Tào Ninh không ngó ngàng tới.

Xuất thân của hắn ta chịu đủ dè bỉu, cộng thêm ngoại hình thế này, dường như đã định sẵn vô duyên với ngai bảo tọa. Khi còn sống, Tào Trọng Côn rất không thích hắn ta, căn bản không muốn nhìn đứa thứ tử này, nền tảng khiến Tào Ninh sống yên ổn nhiều năm nay, toàn bộ đều do hắn ta lên chiến trường từ nhỏ, dùng quân công chân thật để đổi lấy.

Tào Ninh không hẳn kỳ tài ngút trời, nhưng hắn ta như con chim én trên biển, luôn có thể đánh hơi được mùi gió bão.

Bắc quân nhổ trại đi nhanh trong đêm, thế nhưng trời không chiều người, họ vừa xuất phát không lâu, trời liền đổ mưa rả rích.

“Mưa đêm núi Ba” có thể đầy tràn ao thu, nơi đây tuy cách Thục Trung một khoảng nhưng thế mưa thu chẳng kém là bao. Tốc độ hành quân của Tào Ninh khó tránh bị chậm lại không ít, trời như bị dột, quá nửa đêm mà nước mưa chẳng những không có xu thế dừng, ngược lại càng lúc càng mạnh, cùng với sấm chớp đan xen.

Bắc quân đi tới một chỗ sơn cốc hẹp dài, quân tiên phong vừa vào núi liền có một tia chớp to chiếu sáng nửa bầu trời, tiếng sấm rền trong cốc va đập vào vách núi như tiếng trống ầm ầm từ dưới đất vọng lên.

Một lính truyền lệnh vượt lên mọi người như phát điên, từ chỗ chủ soái chạy dọc một hơi về phía trước, la lên: "Dừng! Dừng! Vương gia có lệnh, đội sau chuyển thành đội trước, đi vòng lại!"

Lại một tiếng sấm “đùng đoàng” át tiếng la của tên lính truyền lệnh.

Ánh chớp như ánh đao.

..............

"Đêm mồng ba tháng chín, quân tinh nhuệ Bắc quân gặp phục kích gần chỗ giao giới, tan tác ngàn dặm, thương vong nặng nề, không biết chết bao nhiêu người, máu bắn vào nước mưa thành một con sông đỏ chảy mãi về đông, nước sông ngòi ngoài trăm dặm đều đỏ chót, chạy thật xa vẫn có thể nghe tiếng ma kêu quỷ khóc!"

Trong một tửu điếm tồi tàn hở hang bốn phía ở ngoại thành Lư Châu, mấy hán tử Hành Tẩu Bang từ nam chạy tới bắc làm ăn dừng lại nghỉ chân tụ tập cùng nhau, vừa gặm bánh thô vừa bàn tán thời cuộc, thường xuyên phát biểu một vài lời khiến người ta dở khóc dở cười.

"Xàm xí, bày đặt ma kêu quỷ khóc, ngươi nghe à?"

"Nhà một biểu thúc bà con xa của ta ở bển, chính tai lão nhân gia nghe đấy!"

"Ta thấy người ta là sợ ngươi ở lì hoài không đi nên mới dọa ngươi thôi."

"Ngươi …"

Chu Phỉ yên tĩnh ngồi một bên, chờ nước hơi đục trong chén lắng xuống cho sạch, xem những tiếng ồn ào xung quanh như gió thoảng qua tai. Không phải nàng không quan tâm chiến cuộc, thật sự là dọc đường nàng đã nghe quá nhiều, nói hươu nói vượn kiểu gì cũng có, lúc thì nói Chu đại nhân thần thông quảng đại, dâng nước lũ cuốn trôi Tào quân, lúc thì nói sơn cốc nơi Tào quân đi qua có ma quái giữ Bắc quân ở lại làm kẻ thế mạng, vân vân và mây mây… nàng hết cách, chỉ đành mắt điếc tai ngơ.

"Đợi đã, hai vị ca ca khoan tranh cãi. Vậy Tào Ninh gặp mai phục, rốt cục có chết chưa?"

Đám người liền yên tĩnh, mấy vị ban nãy bàn tán khí thế ngút trời đều ngậm miệng.

Lúc này, một ông lão ngồi trong góc lên tiếng xa xăm: "Tào Ninh e chạy rồi."

Giọng ông lão vô cùng đặc biệt, như đồ sắt rỉ sét ma sát trên giấy nhám, khiến người nghe toàn thân khó chịu. Tay nâng chén của Chu Phỉ dừng lại, nhìn theo hướng âm thanh, thấy diện mạo ông lão ấy vô cùng xấu xí, nửa bên mặt kể cả cổ có một vết sẹo hung hiểm, nhìn ra được là sẹo do đao kiếm để lại, ngoài ra, hai bên thái dương của ông hơi lồi lên, ánh sáng trong mắt nội liễm, hẳn là có trình độ về nội công.

Chu Phỉ vừa liếc mắt, ông lão liền lập tức nhận ra, sau khi đối mắt thì gật nhẹ đầu với nàng rồi nói tiếp: "Trừ thám báo ra, Chu đại nhân đôi lúc cũng sai phái những người như chúng ta giúp ông tra xét động tĩnh trong dân gian, lão hủ già mà chưa chết, rảnh rỗi không có gì làm, tình cờ giúp làm chân chạy một chuyến, có nhận ra vài lá cờ trong quân đội. Ngày đó chắc chắn là bí mật mai phục, ta đúng lúc ở gần đấy nhưng hoàn toàn không nhận ra gì cả, nửa đêm nghe tiếng đánh nhau, bèn vội vội vàng vàng đội mưa lên núi thăm dò xem, thấy vương kỳ của Tào thị Bắc quân bị vây trong sơn cốc, sau chốc lát liền ngã. Trận chiến đó đánh cả một đêm, khắp sơn cốc đều là thi thể dính bùn, cũng có kẻ nhân đêm tối bỏ chạy, sau khi xong việc, theo quy củ của Văn tướng quân là phải gom tù binh lại rồi treo đầu lâu của mấy tên đại tướng Bắc quân lên thật cao, ta qua lại nhìn hết ba lần, không thấy Tào Ninh."

Bên cạnh có người cung kính nói: "Lão tiền bối, ông nhận ra được Tào Ninh à?"

Người kia đáp: "Có gì mà không nhận ra, nghe nói đầu Tào Ninh bự gấp hai đầu bình thường, nếu ta ở đó, ta cũng sẽ nhận ra!"

Mọi người lại bắt đầu nhao nhao bàn tán xem với cái đầu của Tào Ninh thì làm sao mới có thể chạy đi mà không khiến người ta chú ý, Chu Phỉ thấy ông lão để lại tiền rượu rồi chậm rì rì khoác áo tơi, chỗ hổ khẩu ông đầy vết chai, màu da sẫm hơn chỗ khác không ít, nàng không kìm được bật thốt: "Tiền bối từng luyện Hành Sơn kiếm pháp?"

Cái này là nàng thấy trong đống ghi chép lung tung của Ngô Sở Sở, nghe nói kiếm của Hành Sơn kiếm phái năm xưa có kiểu dáng đặc biệt, chuôi hơi cong, vừa khéo kẹp vào hổ khẩu, lâu ngày, nơi đó sẽ bị mài thành đen.

Ông lão dừng lại, lát sau mới khẽ nói: "Thời nay không ngờ còn người trẻ nhớ được Hành Sơn Nam Nhạc."

Mật đạo Hành Sơn có ơn cứu mạng với nàng, Chu Phỉ vốn định nói câu gì đó với ông, lại cảm thấy lão nhân gia đứng mà mình ngồi thì không thích hợp, định đứng dậy thì thấy ông đội nón lên đầu che lại, cười lớn nói: "Được, chỉ cần có người nhớ, truyền thừa của Nam Nhạc ta không tính là đứt đoạn!"

Nói xong, không chờ Chu Phỉ đáp, ông đã bước hai bước rời khỏi tửu điếm tồi tàn, nhẹ nhàng rời đi.

Đúng lúc này, có mấy nghệ nhân lang thang hát khúc bước vào. Mọi người đã nói chán chuyện tiền tuyến Nam Bắc, bèn giục họ hát ca khúc mới, Chu Phỉ rót nước trà đã lắng lại vào trong ấm nước, bỏ xuống vài đồng tiền, băng qua đám đông ồn ào, định lên đường thì thấy người kéo đàn vái mọi người xung quanh, nói: "Chư vị đại gia nể mặt, chúng tiểu nhân vừa nghe được khúc mới, hôm nay xin bêu xấu trước chư vị đại gia, hát vẫn chưa quen, xin thông cảm nhiều."

Chu Phỉ đã đến cửa, huýt một tiếng sáo dài gọi ngựa của mình chạy đi ăn cỏ quay về, vừa kéo dây cương định đi thì nghe tiếng người bên trong vọng ra: "… Đoạn khúc này nghe nói vẫn do Vũ Y ban làm, lời ca vẫn là sách của Thiên Tuế Ưu, tên “Bạch cốt truyện”, chính là một câu chuyện kỳ quái …"

Chu Phỉ: "Huuuu …"

Đám người lỗ mãng Hành Tẩu Bang mặc kệ “Bách Tuế Ưu” hay “Thiên Tuế Ưu”, chỉ một mực giục, giọng ca khàn khàn hơi lạc điệu yếu ớt vang lên. Chu Phỉ nán lại ở cửa, nghe từ đầu tới cuối câu chuyện quỷ quái: xương trắng sau khi khởi tử hoàn sinh mạo hiểm đi khắp nơi tìm phần mộ của chính mình, vì ngoại hình khủng bố nên khuấy cho tứ phương sợ hãi bất an, cuối cùng tìm được nơi chôn thây của mình thì phát hiện phần mộ đó đã bị một bộ hài cốt khác đội vàng đeo ngọc tu hú chiếm tổ, bèn tung người nhảy vào nước sông cuồn cuộn đổ ra biển cả, đi theo con sóng lớn, biến thành tinh quái dưới sông.

Chu Phỉ cau mày, cảm giác loại chuyện lan man vô căn cứ này y hệt bộ “Hàn nha thanh” trước đó, không giống như người khác mạo danh ngụy tạo.

Cho nên là Tạ Doãn tự viết?

Tạ Doãn tỉnh rồi?

Y cả ngày lạnh co ro như chim cút, sao còn nhàn hạ viết thứ đồ chơi này?

Viết thì viết, Y không ra ngoài, cũng không cần lộ phí, vì sao muốn đem nó hát truyền đi vào thời khắc mấu chốt này?

Và phần cuối nữa ... “sông dài đổ ra biển cả, mênh mông hướng tới màu trời”, thực nghe kiểu gì cũng thấy nó vi diệu sao sao đó, vừa hợp với “Hải Thiên Nhất Sắc”.

Xương trắng biến mất trong mộ huyệt của chính mình, phép ẩn dụ tu hú chiếm tổ, Hải Thiên Nhất Sắc …

Nháy mắt, trong đầu Chu Phỉ lướt qua vô số ý nghĩ, nàng chợt tung người lên ngựa, ra roi thúc ngựa rời đi.

Một canh giờ sau, Chu Phỉ chạy tới trạm ngầm gần nhất của 48 trại, còn chưa kịp nói rõ ràng đã lấy lệnh bài ra, thuần thục viết một phong thư, dặn dò: "Thay ta đưa tới Nam quốc tử giám, tìm Lâm Chân Giảng."

Trạm ngầm vâng lời, Chu Phỉ lập tức định rời đi.

Nàng đang định đi ra ngoài, vừa khéo một chân chạy đưa tin từ bên ngoài chạy về, suýt đụng phải nàng.

Người đưa tin vội nói: "Vị sư muội này cẩn thận. Có ba bức thư gửi tới, hai bức là mật thư báo cho đại đương gia kết quả “xem mạch” và một bức thư riêng mang theo tín vật từ phía đông, vừa vặn gom đưa về trại, gửi cho Chu …"

Bước chân Chu Phỉ chợt dừng.

..............

Lúc này, trong một viện nhỏ bình thường ở nam thành cố đô.

Tiểu viện bày trí vô cùng đơn giản, trồng vài cây tùng bách, gắng gượng được chút sắc xanh già cỗi trong gió thu tiêu điều, một nam tử râu tóc trắng xám ngồi xếp bằng trong viện, đầu tóc rối bời, gầy gò, cụt một tay, hai nếp nhăn pháp lệnh trên mặt hằn sâu như khắc, trên mặt mơ hồ có khí tím tỏa ra. Cả viện mang hơi thở sát phạt ác liệt cuồn cuộn khó tả, một con chim sẻ đậu bên tường viện, nhanh chóng chịu không nổi, hoảng hốt vỗ cánh phành phạch bay đi.

Đột nhiên, nam tử cụt tay chợt mở mắt, ánh mắt như chớp bắn về phía cửa, ngoài cửa có một tên áo đen Bắc Đẩu đang định mở miệng, bị ánh mắt ngầm mang sát ý của ông ta liếc qua, lập tức chân mềm nhũn, quỳ phịch xuống, để lộ người phía sau mặc quan bào đỏ thẫm ... Vũ Khúc Đồng Khai Dương.

Đồng Khai Dương chê tên áo đen vướng víu, đẩy hắn qua một bên, sải bước xông vào trong viện: "Đại ca, huynh nghe nói chưa?"

Nam tử cụt tay chính là Tham Lang Thẩm Thiên Khu.

Thẩm Thiên Khu kiêu ngạo khó thuần, là thủ lĩnh Bắc Đẩu, cả đời chỉ trung thành với một mình Tào Trọng Côn. Từ sau khi ngụy đế bệnh nặng mấy năm trước, không thể lo liệu chính vụ, ông ta cũng lười giao thiệp với các quan viên văn võ từ trên xuống dưới trong triều mà mỗi người đều có dụng ý riêng, dứt khoát đóng cửa từ chối tiếp khách, dần dần ít giao du với bên ngoài, không lộ mặt nữa.

Thẩm Thiên Khu chậm rãi thu hồi tư thế ngũ tâm hướng thiên, lẳng lặng đứng dậy, chỗ ông ta vừa ngồi, đá lõm vào một mảng, hơn nữa không hề có vết nứt!

Con ngươi Đồng Khai Dương rụt lại, nhỏ giọng: "Chúc mừng đại ca lại có tiến bộ, sắp thành thần công."

"Ta không luyện võ công thì làm gì?" Thẩm Thiên Khu lạnh nhạt nói: "Đệ làm gì gấp gáp hoảng hốt thế, nghe nói gì rồi?"

Đồng Khai Dương đè thấp giọng: "Đoan vương binh bại, tiền tuyến tan tác ngàn dặm, Chu Tồn tiến quân thần tốc, nội trong ba ngày đã hạ liên tiếp mấy thành, viện quân căn bản không tới kịp, buổi triều hôm nay ầm ĩ cả lên."

Mặt Thẩm Thiên Khu không biểu cảm: "Hai phế vật Cốc Thiên Toàn và Lục Dao Quang kia chết rồi?"

Đồng Khai Dương: "… Chết rồi."

Bước chân Thẩm Thiên Khu khựng lại, chợt xoay người.

Chương 159: Nổi Gió

Thẩm Thiên Khu luôn cảm thấy trong bảy người Bắc Đẩu, chỉ có một người rưỡi là Đồng Khai Dương và Sở Thiên Quyền xứng nói chuyện với ông ta ... Đồng Khai Dương là một, Sở Thiên Quyền là thái giám nên chỉ tính là rưỡi.

Còn mấy kẻ khác, từ nhân phẩm tới năng lực đều là hàng phế vật.

Nhân phẩm tạm thời không bàn, dù sao họ cũng không phải hạng người danh môn chính phái mua danh chuộc tiếng, không cần chú ý quá nhiều đạo nghĩa rỗng tuếch, cao ngạo khoe khoang hay không từ thủ đoạn chẳng qua là phong cách làm việc mà thôi, mỗi hoa hợp mắt mỗi người, không có gì phân cao thấp cả. Nhưng nếu ngay cả nền tảng để an thân ... chút công phu đó cũng luyện không xong, thì không còn gì để nói.

Chết cũng đáng, bị coi thường cũng đáng.

Hạng người tầm mắt hạn hẹp, theo bàng môn tả đạo như Liêm Trinh, Lộc Tồn, nhiều năm ăn mày quá khứ, không chút tiến bộ, hạng người chỉ biết nịnh bợ khắp nơi như Cự Môn, và Phá Quân nổi danh chỉ thêm cho đủ số trong Bắc Đẩu … mấy kẻ này Thẩm Thiên Khu đều chẳng ưa ai, ngày thường vô cùng khinh bỉ họ, rảnh rỗi thì dựa theo chiều cao mà xách ra trào phúng một phen tiêu khiển, lúc này vừa nghe Cự Môn và Phá Quân chết, đầu tiên ông ta sững sờ, sau đó thuận miệng cười lạnh.

Cười xong, Thẩm Thiên Khu mặt không biểu cảm đi mấy bước, lúc sắp vào phòng mới hơi ngừng lại, giống như sực tỉnh cơn mơ, nói: "… Nói vậy, Cự Môn và Phá Quân cũng mất rồi, bảy người năm xưa được hoàng thượng gom lại với nhau trong lúc gấp gáp, bây giờ chẳng phải chỉ còn ta và đệ sao?"

Đồng Khai Dương sững sờ, sau đó nói: "Đại ca, bảy người chúng ta là do tiên đế gom, không phải đương kim hoàng thượng."

Thẩm Thiên Khu ngẩn ngơ, lòng chợt dâng lên chút muộn phiền, “ừ” một tiếng rồi im lặng.

Đồng Khai Dương bước lên mấy bước, nhỏ giọng: "Đại ca, lần này chúng ta hầu như mất hết quân tinh nhuệ, Đoan vương sống chết không rõ, đệ thấy hoàng thượng như hồn vía lên mây, e là không ổn."

Thẩm Thiên Khu hờ hững: "Chuyện này liên quan gì tới ta, ta chỉ biết giết người, không biết đánh trận. Sao hả, thái … hoàng thượng muốn ta đi đánh trận à?"

Đồng Khai Dương cười khổ: "Ai có thể sai phái được lão nhân gia huynh chứ? Lúc nãy trên đường tới, đệ nghe nói Binh bộ đang cấp bách điều người từ quân đội các nơi đi trợ giúp, nhưng lòng quân đã lung lay, sao chống được Chu Tồn? Vả lại đệ còn nghe nói trong quân đang đồn đại xôn xao, bảo là hoàng thượng không tha cho đệ đệ ruột, nhiều lần cố ý khất lương thảo nên mới dẫn tới tiền tuyến thất bại, bằng không với tài năng của Đoan vương, sao lại thua thảm đến vậy?"

Vẻ mặt Thẩm Thiên Khu chẳng sao cả: "Ồ, nói vậy chẳng phải sắp vong quốc rồi sao?"

Đồng Khai Dương: "Đại ca!"

Thẩm Thiên Khu hơi nhướng một bên mày, đi vào phòng, dùng một tay còn lại rót cho Đồng Khai Dương chén nước.

Đồng Khai Dương lơ đãng bưng lên nhấp một hớp, suýt phun tại chỗ. Thẩm Thiên Khu rót cho hắn ta chén nước lạnh cóng, không có chút vụn trà cứng nào bên trong, nước lạnh trong veo, soi được cả vết nứt nơi đáy chén.

Nhìn gian thư phòng tiếp khách lớn này của Thẩm Thiên Khu, trừ sáng sủa sạch sẽ ra thì gần như có thể nói là chỉ có bốn vách tường, không bày biện đồ trang trí gì cả, trên giá sách đặt thưa thớt vài điển tịch võ học, không chừng là tự ông ta viết, một cái bàn gỗ dỏm đặt ngang trước người, mặt bàn tích đủ bụi bặm cả trăm năm, nhìn rất có “tính đàn hồi”.

Thư phòng yên tĩnh, không có tên hầu lanh lợi, cũng không có nha hoàn xinh đẹp, Đồng Khai Dương hếch mũi thật cao cũng không ngửi được chút hơi người. Hắn ta không khỏi tuyệt vọng, cảm thấy hôm nay e là không có ý tưởng gì từ chỗ Thẩm Thiên Khu rồi.

Một người xem như quyền cao chức trọng mà có thể sống nghèo kiết như vầy, thì có lẽ là tiết kiệm tự nghiêm khắc bản thân, cũng có lẽ là tâm như đá tảng, không gì lay động được.

Tuy có câu “tổ phá, trứng không còn”, nhưng nhân vật như Thẩm Thiên Khu há có thể xem như “trứng”? Dù Tào thị vong quốc, Triệu Uyên truy sát ông ta khắp nước, đối với ông ta cũng không có gì uy hiếp.

Quả nhiên, Thẩm Thiên Khu nói: "Vong quốc thì vong quốc, ta là con chó của tiên đế, ông ấy đã chết, cũng không để lại di ngôn bảo ta bán mạng cho triều đình kế tiếp, vậy những chuyện khác đều không liên quan gì tới ta. Đệ còn chuyện gì khác không? Nếu không thì lo chính sự của đệ đi, đừng quấy rầy sự thanh tịnh của ta."

Đồng Khai Dương: "…"

Hắn ta đang vắt óc nghĩ mấy câu giải thích thì đột nhiên, Thẩm Thiên Khu ngẩng đầu, ánh mắt như khoan thép xuyên qua cửa gỗ và tiểu viện bắn thẳng ra ngoài.

Đồng Khai Dương ngẩn người, khó hiểu nhìn theo ánh mắt Thẩm Thiên Khu, qua một lát mới nhận ra tiếng bước chân vô cùng nhẹ, hắn ta lập tức không khỏi xấu hổ, loáng thoáng cảm giác được từ sau khi Thẩm Thiên Khu mặc kệ chuyện phàm tục, dường như đã bước lên một bậc thang mà họ sờ không tới trong đạo võ học.

Thẩm Thiên Khu ngồi yên không nhúc nhích, nhẹ nhàng phẩy ống tay áo, cửa thư phòng tự kẽo kẹt mở ra, lúc này một bóng người xuất hiện nơi cửa viện.

Thẩm Thiên Khu nheo mắt nói: "Không ngờ phủ của Thẩm mỗ cũng có khách không mời mà đến, chuyện này đúng là mới mẻ."

Người ngoài viện nghe tiếng, trước khi bước vào, thân hình người đó đã đập vào mắt hai vị Bắc Đẩu. Người đó mặc áo vải phong trần mệt mỏi, đầu đội một cái nón khổng lồ che được cả cằm, toàn thân được che kín mít, nhưng vẫn có thể khiến người ta vừa liếc mắt là nhận ra ngay thân phận. Người có thể mập đến cỡ này dẫu sao cũng không nhiều.

Đồng Khai Dương chợt đứng dậy, thất thanh: "Đoan vương gia!"

Tào Ninh gỡ nón ra.

Mặt hắn ta béo mập, vốn giống một cái bánh bao lớn sạch sẽ không tỳ vết, nhưng lúc này khắp mặt đều là vết bẩn và vết thương, thành một cái bánh bao bẩn bị người ta chém mấy nhát, còn bị quăng vào bùn lăn một vòng.

Dù chật vật thành như vậy, vai của hắn ta vẫn thẳng, lê cái chân bị thương đi từ từ nhưng vẫn rất ung dung.

"Chó nhà có tang, không mời mà tới." Tào Ninh chắp tay qua loa, than thở: "Khiến hai vị chê cười rồi."

Thẩm Thiên Khu nâng chén nước lạnh, dưới mông như nặng nghìn cân, ngồi không nhúc nhích.

Đồng Khai Dương không dám lên mặt như Thẩm Thiên Khu, vội nghênh đón Tào Ninh vào phòng.

Tào Ninh lê cái chân bị thương, xua tay từ chối nâng đỡ, nói “quấy rầy” rồi nhích từng bước từng bước vào thư phòng của Thẩm Thiên Khu.

Thẩm Thiên Khu nhìn hắn ta, nói rất không khách sáo: "Tứ chi cậu vốn nặng hơn người thường, công phu lại qua quít bình thường, lần này chân bị thương đến gân cốt, sau đó lại liên tiếp bôn ba, khí huyết ngưng trệ không thông, ta thấy sau này chưa chắc có thể phục hồi, không chừng sẽ què luôn."

Thần sắc Tào Ninh không đổi, cười nói: "Thẩm tiên sinh, một người nếu có bề ngoài như ta thì có hay không có cái chân què cũng không ảnh hưởng gì."

Đồng Khai Dương sợ Thẩm Thiên Khu lại nói năng lỗ mãng, vội xen lời: "Vương gia sao lại đi đường một mình, nếu đã thoát hiểm, vì sao không về triều?"

"Hoàng huynh muốn thu binh quyền của ta từ lâu, nhưng mãi không có lý do, khó khăn lắm mới tóm được một cơ hội như thế, hắn sẽ không chịu để yên." Tào Ninh ngồi xuống, ghế gỗ cũ kêu cót két, hắn ta cười tự giễu, lại nói: "Lần này ta bị bắt nhược điểm, không có gì đáng nói. Mấy năm nay ít nhiều ta cũng tích góp được một số người, lúc hốt hoảng bại lui chưa kịp bàn giao xong, hoàng thượng tất nhiên không sai phái được họ, vào lúc mấu chốt này, chắc chắn càng giận ta hơn, một khi ta lộ mặt, trừ nhận tội và bị cách chức giam lỏng ở kinh thành thì không có kết cục khác. Chuyện này cũng không có gì, chỉ là những “tướng dùng được” trên tay hoàng thượng chẳng qua là hạng người Triệu Quát (*) thôi, nếu cứ để mặc hắn hồ đồ tiếp thì e …"

(*) Triệu Quát: một vị tướng thời Xuân Thu, chỉ giỏi đánh giặc bằng mồm, nói chuyện binh pháp thì thao thao bất tuyệt nhưng thực sự ra trận thì thua tan tác.

Đồng Khai Dương nghe lời này của hắn ta sai sai, có ý như đại địch trước mắt mà huynh đệ chỉ lo bất hòa nhau, lập tức không dám nói tiếp, dùng khóe mắt liếc Thẩm Thiên Khu, thấy thủ lĩnh Bắc Đẩu vẫn bưng chén trà lạnh ngồi ngay ngắn, không chút dao động.

Thư phòng nhất thời vắng lặng, Tào Ninh cũng không tức giận, hắn ta hơi dừng lại, đưa tay vào trong ngực, lấy ra một cái ấn riêng bị mẻ một góc, đặt lên bàn.

Trên cái ấn nhỏ ấy khắc bốn chữ “tứ hải phục tùng”, đã có chút năm tháng, hoa văn rồng trên con ấn bị người ta đụng vô số lần, ma sát bóng lưỡng.

Thẩm Thiên Khu thấy cái ấn ấy, sắc mặt chợt thay đổi.

"Vật này do tiên phụ hoàng khắc khi chưa xưng đế, sau đó thành lập Bắc Đẩu, liền xem nó như hiệu lệnh." Tào Ninh nhìn chằm chằm Thẩm Thiên Khu, nói rõ từng chữ: "Không sai, phụ hoàng để tất cả lại cho đại ca ta, chỉ giao cái ấn này cho ta."

Lúc Tào Trọng Côn chết, Bắc Đẩu bảy người đã mất đi ba, còn lại Cự Môn, Vũ Khúc và Phá Quân đều có chức quan trong người, không còn chịu cái ấn riêng chả ra sao ấy ràng buộc, người bị nó ảnh hưởng, thực tế chỉ có mỗi Thẩm Thiên Khu không chịu lo chuyện bao đồng.

Thẩm Thiên Khu tính tình quái gở, tuy võ công cao cường nhưng chưa chắc chịu gia nhập vào phân tranh giữa huynh đệ Tào thị, thực không có tác dụng gì. Tào Trọng Côn giữ ông ta lại cho Tào Ninh, chắc chỉ nghĩ dù không thích thế nào đi nữa, Tào Ninh cũng là nhi tử ruột của mình, đến lúc vạn bất đắc dĩ, mong có thể bảo vệ hắn ta một mạng.

Ánh mắt Thẩm Thiên Khu dừng trên cái ấn nhỏ đó chốc lát, hỏi: "Cậu muốn ta giúp giết đại ca cậu?"

Tào Ninh cười nói: "Dù ta ngốc đến đâu cũng biết Thẩm tiên sinh chắc chắn sẽ không làm ra chuyện trái tâm ý phụ hoàng như vậy, huống hồ ngoại địch ngay trước mắt, ta cũng không điên đến thế."

Sắc mặt Thẩm Thiên Khu thoáng dễ coi hơn chút, ông ta suy nghĩ rồi hỏi: "Chẳng lẽ cậu muốn lấy thủ cấp Chu Tồn giữa thiên quân vạn mã?"

Tào Ninh lắc đầu: "Tạm chưa nói hành động này có thể thành công hay không, dù giết được thì Nam triều Triệu thị cũng đã làm to, không có Chu Tồn, còn có Văn Dục, còn có người khác, số phận một khi xoay chuyển, không phải giết một hai người là có thể ngừng thế suy tàn của nó."

Thẩm Thiên Khu hơi ngửa mặt ra sau, đợi Tào Ninh nói tiếp.

Tào Ninh ép giọng xuống rất nhỏ, nói rõ từng chữ một: "Thẩm tiên sinh còn nhớ chuyện năm xưa Lý thị ám sát phụ hoàng ta chứ?"

..............

Kim Lăng.

Chu Phỉ nghe danh Nam đô đã lâu nhưng chưa từng đích thân đến, ngoại thành có không ít người đi dạo mùa thu, khắp nơi nước chảy quanh co róc rách, lắng đọng phồn hoa lâu đời, đường xá khúc khuỷu khó tìm, nàng quanh co vòng vèo cả ngày mới đại khái phân rõ được đông tây nam bắc.

Chu Dĩ Đường có phủ đệ ở Nam đô, chỉ là Chu Phỉ ở trạm ngầm Lư Châu thình lình nhận được thư của Đồng Minh đại sư nên mới đột ngột đổi đường đến Kim Lăng, chưa kịp nói với Chu Dĩ Đường một tiếng, cũng không muốn gây phiền phức cho ông, nên trực tiếp dừng chân trong trạm ngầm của 48 trại ở Kim Lăng.

Trạm ngầm ở Kim Lăng là một tiệm son phấn, ngày ngày luôn có hương thơm lãng đãng, các sư huynh ở đây lâu, nói chuyện đều trở nên nhẹ nhàng, hoàn toàn không nhìn ra mùi giang hồ dân dã, bản thân họ cũng cười nói hương dịu dàng ở Nam đô quá hao mòn chí khí.

Nghĩ đến Kiến Nguyên hoàng đế ở nơi này ăn ngon mặc đẹp mấy chục năm mà vẫn một lòng một dạ muốn làm mưa làm gió, nhớ mãi không quên chuyện khôi phục sơn hà, đủ thấy người này chắc chắn là một nhân vật tung hoành thiên hạ.

Chu Phỉ hỏi thăm được vị trí của “Đoan vương phủ”, bèn ỷ mình khinh công trác tuyệt, vào dò xét mấy vòng từ trong ra ngoài, thấy Triệu Uyên diễn trò rất đồng bộ, phái người sửa sang lại hoàn toàn cả dinh thự và hoa viên vương phủ, ngày ngày đều có nô bộc mới được đưa tới, trông coi bảo vệ nhà cửa, chỉnh sửa sân sướng … còn có một đám lớn các thị nữ xinh đẹp cao thấp mập ốm đủ cả, trông rất ra dáng.

Nhưng chủ nhân nơi này mãi không thấy tăm hơi.

Chu Phỉ làm kẻ lén lút thậm thụt nhiều ngày, ban ngày dạo chơi vương phủ, ban đêm về trạm ngầm, mà mãi vẫn không đợi được Tạ Doãn, không khỏi hơi bực dọc, khó tránh nghĩ theo chiều hướng xấu, lúc thì nghi Tạ Doãn liệu có thể chịu nổi lặn lội đường xa hay không, lúc thì nghi vị hoàng thúc tâm cơ thâm trầm của Y đối xử với Y không tốt. Có lần nửa đêm tỉnh lại, Chu Phỉ hốt hoảng nảy ra một ý nghĩ không biết từ đâu: liệu Tạ Doãn có phải đã chết hay không?

Hương son ngọt ngào theo gió đêm từ ngoài cửa sổ thổi tới, lay động cái chuông nơi hiên nhà, pha lẫn tiếng nước chảy dưới cầu đá trong hậu viện, bản thân nó đã giống như một giấc mộng.

Chu Phỉ ngồi ngơ ngác rất lâu, giật mình hoàn hồn, lòng không đau đến tê tâm liệt phế, nhưng như có tảng đá chặn trong ngực, khiến nàng sắp không thở nổi.

Nàng thực sự không nằm được nữa, bèn lặng lẽ búi tóc qua loa, nhảy ra cửa sổ, nhẹ nhàng lên nóc nhà, đi về phía Đoan vương phủ.

Chu Phỉ vốn định lên nóc gian phòng khí phái nhất vương phủ ngồi một lát, ai ngờ đi chuyến này lại thấy Đoan vương phủ xa xa đèn đuốc sáng trưng.

Tim nàng chợt đập mạnh, quen đường quen nẻo tìm một nơi ẩn nấp. Từ trên cao nhìn xuống, nàng thấy một đám thị vệ phong trần mệt mỏi vội vàng đưa xe ngựa vào, họ vừa tới là những quà tặng theo sau như nước chảy, đèn lồng đong đưa, cả con đường đều bị kinh động, tôi tớ được phái ra thi nhau nghểnh cổ về phía tòa nhà ma Đoan vương phủ bị bỏ trống hơn mười năm.

Chợt, Chu Phỉ thấy một bóng người quen thuộc xuống xe ... chính là Lưu đại thống lĩnh nàng cứu được từ tay Đồng Khai Dương.

Không ít người vây tới trò chuyện với ông, Lưu Hữu Lương làm thống lĩnh cấm vệ trong vương cung Bắc triều nhiều năm, ứng phó loại tình huống này đương nhiên thành thạo điêu luyện, tuy không nói nhiều nhưng vừa lộ diện liền trấn áp được khung cảnh hỗn loạn, nhanh chóng chỉ huy vương phủ đâu ra đấy.

Lưu Hữu Lương được ba vị lão tiền bối tán tiên Bồng Lai nhờ vả, dọc đường chăm sóc Tạ Doãn, bận bịu đến hơn nửa đêm mới thu xếp xong ở Đoan vương phủ, cuối cùng cũng được nghỉ ngơi chút đỉnh trước hừng đông, ai ngờ ông vừa vào phòng liền bỗng dưng sợ hãi vô cớ.

Ông từ cố đô chạy trốn một mạch tới Tế Nam ngay dưới mắt Đồng Khai Dương, hoàn toàn nhờ chút trực giác ấy cứu mạng, đầu óc hỗn loạn của Lưu Hữu Lương dâng lên một tầng ý lạnh, nắm lấy bội kiếm bên hông.

Nhưng chưa đợi ông mở miệng quát hỏi thì nghe phía sau có người lễ độ gõ cửa mấy cái.

Lưu Hữu Lương toát mồ hôi lạnh toàn thân, người đã ở ngay phía sau mà ông không hề nghe thấy chút tiếng vang nào!

Ông lập tức rút bội kiếm ra hai tấc, quay phắt đầu lại, sững sờ.

"Chu … Chu cô nương?"

Chương 160: Chấn Động

Tạ Doãn nghe báo, liền đặt quyển sách tiêu khiển trên đầu sang một bên, ra ngoài làm lễ gặp mặt theo những lễ nghi phiền phức mà dường như Y đã quen từ thuở lọt lòng.

Triệu Uyên mang theo một đám người thanh thế to lớn tới, chưa chờ Tạ Doãn vái xong đã vội vàng đích thân dìu Y dậy, cười nói: "Ở chỗ tiểu thúc chính là về nhà, về nhà làm gì phức tạp thế?"

Triệu Uyên mặc thường phục, dáng cao gầy, mặt như dao khắc, người đã quá tuổi trung niên nhưng mặt không hề hiện ra dấu vết tuổi tác, mi mắt ông vô cùng dày, thường xuyên phủ bóng râm lên con ngươi, làm tôn lên ánh mắt hơi trầm của ông, lúc ông nhìn người khác sẽ vô cớ khiến người ta căng thẳng. Nhưng lúc ông cười lại lộ vẻ vô cùng nho nhã thân thiết, hoàn toàn không còn vẻ kiêu ngạo cao cao tại thượng của bậc cửu ngũ chí tôn.

Triệu Uyên đưa tay kéo Tạ Doãn, đồng thời không kiêng kỵ hàn khí Thấu Cốt Thanh ngày càng dày đặc trên người Y, nhưng Tạ Doãn thấy đầu ngón tay quen sống trong nhung lụa của hoàng thượng bị đông đến trắng bệch, Y khéo léo tránh ra, cười không để bụng: "Lễ không thể bỏ."

Triệu Uyên thấy vậy, dùng mu bàn tay áp lên trán Y, vô cùng lo lắng thở dài, đám thái y phía sau vội vã tiến lên vây quanh Tạ Doãn.

Tạ Doãn phối hợp chìa cổ tay ra, nhưng cổ tay quý giá của Nam Đoan vương chỉ có một, không đủ chia, các thái y đành xếp hàng lần lượt từng người, có hỏi han, có quan sát, vô cùng bận bịu, hành hạ đủ một phen, lại cùng nhau cáo lỗi, tụ tập sang một bên hội chẩn y như thật. Lúc này đương nhiên phải tránh không để quý nhân nghe, nhưng tai Tạ Doãn quá thính, nghe rõ mồn một trận khẩu chiến của các thái y bên ngoài không sót một chữ, thực không nhịn được cười, làm như họ chữa được thật ấy.

Tạ Doãn mới tới kinh, còn chưa kịp sờ cửa Đoan vương phủ, Triệu Uyên liền nôn nóng sai người đón Y vào cung ở tạm, không biết là để thể hiện sự xem trọng và ân sủng, hay muốn xem rốt cuộc Y có ngáp ngáp sắp ngủm như lời đồn hay không.

Tiếc rằng trước khi xuất phát, Đồng Minh đại sư đã cho Y uống vị thuốc thứ ba, cộng thêm truyền nhân Thôi Vân chưởng chính quy nội lực thâm hậu, lúc này trông cực kỳ có tinh thần, không biết Triệu Uyên nhìn có thất vọng lắm không.

Tạ Doãn sống đến mức này, đã không quá để ý cách nhìn của người khác nữa, lúc được hồi quang phản chiếu, Y cũng lười giả bộ như liễu rủ héo úa, thấy không có chuyện gì khác, Y liền vừa nghe các thái y chí chóe, vừa qua quít đáp lời tán gẫu chuyện nhà mang hơi hướm chính trị của Triệu Uyên.

Triệu Uyên rất biết dẫn dắt đề tài, lúc thì hỏi Y những chuyện lý thú giang hồ, chuyện đơn giản thì Tạ Doãn sẽ thuận miệng trả lời, còn chuyện dài quá thì Y lười lôi thôi dông dài, thoái thác nói mình ẩn cư Bồng Lai, không rõ lắm chuyện bên ngoài.

Hai người như hai con hồ ly khoác lớp da người, một người nói, một người đáp qua loa, trông vô cùng hòa thuận vui vẻ.

Chợt, Tạ Doãn vốn nhàm chán vô vị bỗng hơi cử động lỗ tai, chén trà đưa đến bên môi khựng lại, hàn ý trên người nhanh chóng bao phủ, làm mất đi hơi nóng hầm hập trên chén trà, một tiểu thái giám thấy vậy, vội hoảng hốt tiến lên thay trà.

Tạ Doãn hơi nheo mắt, ngẩng đầu liếc mắt lên xà ngang.

Triệu Uyên cười nói: "Năm xưa lúc con vừa hồi kinh chưa có phủ đệ riêng, chính là ở nơi này, ba năm trước nó được tân trang lại một lần nhưng đồ đạc vẫn không thay đổi, có cảm giác thân thiết không?"

Tạ Doãn cười, đón lấy chén trà mà tiểu thái giám mới thay, nhìn chằm chằm màu máu hiện lên ngắn ngủi trên đầu ngón tay mình, chợt cố ý vạch áo cho người xem lưng: "Đúng rồi, hoàng thúc, mấy năm nay con không ra khỏi Bồng Lai, tin tức ách tắc nên vẫn chưa biết, Minh Sâm xuất cung xây phủ à? Ở đâu thế ạ?"

Triệu Uyên hơi khựng lại.

Tạ Doãn cười chân thành, không lộ chút sơ hở nào: "Lát nữa con đi thăm đệ ấy."

"Minh Sâm ấy mà …" Triệu Uyên thu hồi tầm mắt, bình tĩnh thổi bọt trên nước trà: "Rất chẳng ra sao, lớn đầu rồi chứ đâu có nhỏ, cả ngày nóng nảy bộp chộp, không làm chuyện đứng đắn gì hết, từ sáng đến tối chỉ muốn chạy bên ngoài, ta đang giam nó lại đọc sách. Lát nữa ta gọi nó vào, nếu con rảnh rỗi thì thay ta quản giáo nó là tốt nhất."

Tạ Doãn liền nói: "Cũng phải, năm đó chuyện đệ ấy làm ở Vĩnh Châu đúng là chả ra sao, con cái đều là của nợ mà, hoàng thúc."

Y nói liên tiếp hai câu có hàm ý, có thể nói là sỉ nhục, tuy Triệu Uyên vẫn duy trì được vẻ mặt nhưng không còn khí thế tán gẫu tiếp như ban nãy nữa.

Hai người đều im lặng chốc lát, Triệu Uyên lúc này mới nhận ra ý Tạ Doãn là nói chuyện hoài phiền quá nên mới cố ý không giữ mồm giữ miệng, ngầm tiễn khách. Không phải ông không biết nghe lời đoán ý, chỉ là đã kế vị mấy chục năm, Triệu Uyên đã quen làm một hoàng đế, quen với việc dù người bên dưới có ý đồ riêng thì khi nói chuyện với ông cũng sẽ thận trọng dè dặt, hoảng hốt lo sợ, trông mong moi móc được gì đó từ miệng ông, chứ hiếm ai chê ông nói nhiều.

Kiến Nguyên hoàng đế trầm mặc chốc lát rồi đứng dậy nói: "Nói chuyện với con cũng lâu, không còn sớm, tiểu thúc không quấy rầy con nghỉ ngơi nữa."

Tạ Doãn uể oải đứng dậy cung kính đưa tiễn, ngay cả một câu tạ ơn dư thừa cũng không có.

Triệu Uyên khoát tay, đi tới cửa mới như chợt nhớ ra điều gì, nói với Tạ Doãn bên cạnh đang vẻ mặt phiêu diêu: "Quân đội triều ta từng bước ép sát, đã gần đến cố đô, nghịch tặc Tào thị chỉ là châu chấu cuối thu, không đáng lo, mồng ba tháng sau là ngày gì, con nhớ chứ?"

"Ngày Tào thị ép vua thoái vị, ngày giỗ của tiên đế." Tạ Doãn đáp, không ngẩng đầu, sau đó cười: "Hoàng thúc chuyện phiếm với con hơn nửa ngày, có phải quên mất chính sự rồi không?"

Triệu Uyên lơ câu cay nghiệt này, chỉ nói: "Cũng là ngày giỗ của cha con. E bọn Chu khanh chưa chắc kịp đánh tới kinh thành, nhưng ta định vào ngày đó làm lễ tế, nếu liệt tổ liệt tông trên trời có thiêng, phù hộ quân ta khôi phục sơn hà, khiến nghịch tặc đền tội, thiên hạ bá tánh an ổn, lại có trăm năm thịnh thế."

Tạ Doãn gật đầu nói: "Ừm, cũng tốt, tính ra cũng không còn mấy ngày, điệt nhi vẫn có thể tham gia, tránh chết sớm quá không kịp ngày."

Khóe mắt Triệu Uyên khẽ giật, hồi lâu, ông nhỏ giọng: "Lúc nãy nghe con nói chuyện cổ trùng khống chế người, thực là sởn cả da gà, nhưng ngẫm lại không phải không có lý."

Tạ Doãn hơi ngước mắt.

"Khi con đứng nơi đây, cảm giác dưới bầu trời bốn bề bát ngát, nhưng vừa bước chân ra, lại thấy đường càng ngày càng hẹp." Triệu Uyên nói: "Con được đặt lên đài cao, được tôn sùng, bị ép phải đi về phía trước, đường xá vừa lầy lội vừa không thấy ánh mặt trời, nhưng con cũng biết con không thể quay đầu. Mỗi khi nửa đêm tỉnh mộng, con đều hận không thể mở mắt là quay về lúc mới chào đời, tinh khôi sạch sẽ, thẳng thắn vô tư, muốn đi đâu thì đi đó."

Tạ Doãn không nói lời nào.

"Nhưng con không về được, ngự tọa long liễn này chính là cổ." Triệu Uyên dừng lại, bóp nhẹ vai Tạ Doãn, cảm giác hàn ý Thấu Cốt Thanh như con dao nhỏ phá tung lớp vải vóc dày ghim vào lòng bàn tay đau như kim châm, ông nói tiếp: "Thôi, không nói mấy lời chán chường đó nữa. Lúc ấy ta ở trong triều, bắc có cường địch, trong không trợ thủ, bốn bề thọ địch, chỉ có con bên cạnh nghe mấy câu oán giận mà ta không thể nói với người ngoài, mấy năm nay … bất kể con tin hay không … ta thật sự hi vọng con có thể sống tốt. Vật báu trong thiên hạ, con cần gì cứ bảo họ tìm, hoàng thúc nợ con."

Tạ Doãn: "Không dám, hoàng thượng quá lời."

Triệu Uyên nhìn Y sâu sắc, thấy Y cúi đầu, toàn thân từ trên xuống dưới viết đầy ba chữ “mau mau cút” khó chơi, cuối cùng ông thở dài, xoay người rời đi, bóng lưng có chút cô đơn.

Tạ Doãn lập tức xoay người cho lui hết mọi người rồi mới lên tiếng: "Rốt cuộc là vị bằng hữu nào tự ý xông vào cung cấm?"

Trong phòng trống rỗng không có động tĩnh.

Tạ Doãn chờ chốc lát, lại cười nói: "Các hạ xuất quỷ nhập thần, nếu không muốn bị ta phát hiện, ban nãy chắc chắn đã không cố ý lộ sơ hở, sao bây giờ lại không chịu ra gặp?"

Trên xà nhà có thứ gì đó va vào nhau vang một tiếng khẽ, không nghe thấy tiếng bước chân người đó rơi xuống đất, đối với cao thủ như vậy mà nói, cố ý cho chút động tĩnh tương đương với lịch sự gõ cửa, Tạ Doãn nghe tiếng, quay đầu lại, ngỡ ngàng.

Một người rất quen thuộc mà xa lạ đang khoanh tay trước ngực, như bỗng dưng rơi vào giữa cung điện xa hoa, nhìn ngó xung quanh không hề khách sáo, sau đó ánh mắt lại dời về người Tạ Doãn.

Yết hầu Tạ Doãn hơi cử động, ánh mắt người kia như mang theo đốm lửa, châm ngọn lửa hừng hực trên người Y.

Người đó nói: "Đoan vương điện hạ, hơn ba năm không gặp, cuối cùng cũng thấy huynh đứng dậy, món nợ bị ta đánh chuẩn bị thế nào rồi?"

.............

Lúc này, trong một nơi hoang vu dưới chân rặng núi, nhóm Lý Thịnh cuối cùng đã vào địa giới Thục Trung, vì đã bỏ lỡ đầu đêm nên đành qua đêm nơi hoang dã.

Lưu dân quanh năm sống lang thang, cơ thể vốn yếu ớt, lúc trước vì vùng vẫy muốn sống nên liều mạng chống đỡ tinh thần, bây giờ tìm được chốn về và chỗ dựa tin cậy, nhất thời hưng phấn quá độ, tinh thần buông lỏng, không ít người ngã xuống, may có Ưng Hà Tòng đi theo, không để họ bệnh chết trước khi có cuộc sống mới.

Mọi người không thể cưỡi ngựa, còn vừa đi vừa nghỉ, rất lề mề, tới bây giờ vẫn chưa đến 48 trại.

Lý Nghiên không biết lấy từ đâu được mấy hạt thông, vứt vào lửa nướng, cực kỳ nhàm chán tự lột ăn. Muội ấy nhìn quanh bốn phía, mọi người dường như đều rất bận, không ai chơi với mình.

Theo truyền thuyết, vào đêm khuya yên tĩnh, khi thiếu niên hiệp sĩ ngủ ngoài trời nơi hoang dã, không phải đều nâng chén với trăng, xúc động hát vang sao? Nhưng Lý Nghiên nghểnh dài cổ nhìn quanh một vòng, phát hiện các “thiếu niên hiệp sĩ” bên cạnh đều “chong đèn đọc sách” bên lửa trại!

Ưng Hà Tòng như sắp chui vào trong mớ chữ vu độc thần bí, nhiều lần cúi đầu suýt cháy luôn tóc.

Lý Thịnh dựa vào dưới một thân cây, lật qua lật lại vật lộn với cơ quan của cái hộp gỗ, chốc chốc lại dùng que gỗ nhỏ vẽ vẽ dưới đất.

Ngô Sở Sở đưa tay lấy cái ấm nước, ngón tay nhón trên miệng ấm, nhờ ngón tay hơi ướt vuốt ngòi bút, mi mắt rủ xuống múa bút thành văn.

Lý Nghiên sáp lại, tựa cằm lên vai Ngô Sở Sở, nhìn nàng ấy phân tích tỉ mỉ dưới tên “Thái Sơn”, ghi lại nguồn gốc và tinh hoa võ thuật được lưu truyền lại của phái này, Lý Nghiên không nhịn được ngáp một cái, nói: "Võ công phái Thái Sơn chung hệ với Thiên Chung, thô lắm, không phải người cao to thô kệch có thiên phú dị bẩm thì toàn là luyện nhiều được ít, muội thấy họ trừ đặc biệt chịu đòn giỏi ra, hình như không lợi hại chỗ nào, Sở Sở tỷ, thứ này tỷ chưa luyện bao giờ, thế mà nhẫn nại chỉnh lý phết."

Lý Thịnh bị muội ấy đột nhiên lên tiếng ngắt ngang dòng suy nghĩ, không ngẩng đầu nói: "Lý đại trạng, câm miệng."

Lý Nghiên bất mãn hét: "Bầu trời đầy sao như gội, mọi người tán gẫu với nhau không tốt sao? Muội nói này, mọi người ai nấy có phải đều lọt nhầm kịch bản không, chúng ta rõ ràng là “du hiệp chí dị”, thế mà mọi người lại diễn thành “cột tóc đâm đùi” (*)?"

(*) Du hiệp chí dị: ghi lại những chuyện lạ lý thú về du hiệp; Cột tóc đâm đùi: chỉ sự khắc khổ học tập.

Ngô Sở Sở bị Lý Nghiên kéo lắc lư, đành tạm dừng bút.

Tuy bị quấy rầy nhưng Ngô Sở Sở không nhẫn tâm lạnh nhạt Lý Nghiên, bèn tìm đề tài nói chuyện theo ý muội ấy: "Mấy năm đầu nơi biên cảnh tổng cộng chỉ có mấy chỗ là luôn giằng co, ngươi tiến ta lùi, nhưng lần này đánh bại Tào Ninh, tỷ cảm thấy nhóm Chu đại nhân giống như đục một cái lỗ trên tường đồng vách sắt, tiến triển cực nhanh, tốc độ hành quân còn nhanh hơn chúng ta về nhà, dọc đường nghe các tin tức vặt … mọi người nói xem, nếu thật đánh về cố đô, sau này sẽ là thiên hạ thái bình đúng không?"

Ưng Hà Tòng cảm thấy lời này của nàng ấy vô cùng ngây thơ buồn cười, lạnh lùng nói: "Thái bình có ích gì chứ, thứ nên mất đã mất từ lâu rồi."

Ngô Sở Sở tốt tính, không chấp nhặt với Y, nghiêm túc trả lời: "Mất thì có thể tìm về, thực tìm không được thì có thể xây lại, Ưng công tử không ngại nề hà nghiên cứu di tích của Lữ quốc sư, cũng không phải vì truyền thừa di sản của tiền nhân sao?"

Ưng Hà Tòng gượng gạo: "Ta chỉ là không muốn để người ta sau này nhắc tới Dược cốc lại nói chúng ta ngay cả chút Thấu Cốt Thanh cỏn con cũng không giải được."

Y nhắc tới chuyện này, mọi người lập tức nhớ tới Chu Phỉ đi Bồng Lai một mình, tức thời không ai nói tiếp.

Ưng Hà Tòng lẳng lặng lấy xác con Niết Bàn cổ mẫu sắp khô quắt khô queo kia ra ngắm nghía.

Lý Thịnh thở dài, dời mắt khỏi cái hộp gỗ, ngửa đầu nhìn phía chân trời, bầu trời như nóc lều, Bắc Đẩu lặng lẽ treo trên đó, vô cùng chói mắt, nhìn kỹ một lát, luôn có cảm giác như nó đang chầm chậm di chuyển. Trong lòng Y bỗng nảy lên một ý nghĩ, hỏi không đâu vào đâu: "Trận pháp cấm địa Tề môn dùng tại sao là “Bắc Đẩu đổi chiều”?"

Lý Nghiên và Ưng Hà Tòng mắt to trừng mắt nhỏ, không biết Y đang nói gì.

Ngược lại Ngô Sở Sở ngẫm nghĩ rồi nói: "Lúc nhỏ ta xem sách cổ, trong sách nói, khi màn đêm sắp đến, Bắc Đẩu thăng lên đế cung, xoay vòng liên tục, mãi đến hôm sau đổi chiều rơi xuống, lùi về trước ánh nắng ban mai. Nếu để ta miễn cưỡng chắp vá thì đại khái là ý “trời sắp sáng”, là điềm lành …"

Nàng ấy chưa nói hết thì thấy Lý Thịnh vùng bật dậy như cương thi.

Ngô Sở Sở: "Sao thế?"

Lý Thịnh chợt cúi đầu nhìn hộp gỗ trong tay mình: "Ta biết rồi!"

Lý Nghiên không hiểu gì cả: "Ca, huynh biết gì?"

"Cơ quan hộp gỗ!" Lý Thịnh nói nhanh: "Hóa ra là vậy, mười hai ván hoạt động, mỗi ván động một lần, chứng tỏ một canh giờ, tinh tượng và trận pháp tương ứng đương nhiên cũng sẽ thay đổi theo … ta nói mà, sao lại tính kiểu nào cũng tính không ra chứ!"

Y căn bản không để ý người khác, vừa nhanh chóng tính toán trên mặt đất, vừa lẩm bẩm gì đó nghe không hiểu.

Mọi người thấy Y như vậy đều xúm lại, không dám thở mạnh, nhìn Lý Thịnh gỡ tấm ván gỗ bên ngoài hộp.

Gỡ xong mười hai ván gỗ khóa cùng nhau, lộ ra bên trong là một cái hộp nhỏ có khe hở.

Lý Thịnh thở phào một hơi dài, cảm thấy vai cứng như không phải của mình, chưa kịp nói gì thì cái hộp gỗ ấy tự nứt ra.

Lý Thịnh kêu nhỏ một tiếng, tưởng mình chạm phải cơ quan gì làm hộp tự hủy, toi bao công sức, đang luống cuống tay chân thì thư trong hộp rơi ào ào ra như tuyết, chính giữa lăn ra một quyển trục, mở ra trên mặt đất …

Chương 161: Giật Mình Tỉnh Mộng

A, coi chừng lửa!

"Cầm đồ cũng cầm không xong, bộ tay huynh không có kẽ hả?" Lý Nghiên cướp lấy quyển trục trước khi nó lăn vào lửa, trượng nghĩa giơ chân, hiểm hóc chặn nó lại, sau đó chí chóe nhảy tưng tưng dập lửa trên giày.

Ngô Sở Sở bước tới nhặt quyển trục lên, cẩn thận phủi bụi, thấy đó là một bức tranh cũ, vẽ chân dung một người khiến người ta không biết đâu mà lần, nét bút vô cùng đơn giản, không chút trau chuốt, rất giống ảnh chân dung thời xưa dùng khi tuyển chọn quan lại hoặc cung nữ.

Tranh vẽ một đứa trẻ khoảng 10 tuổi, trông hơi ngây thơ, ở góc viết ngày tháng năm sinh của cậu, không có họ tên.

Mọi người quay mặt nhìn nhau.

Ưng Hà Tòng hỏi: "Đây là gì?"

Lý Nghiên đọc ra tiếng: "“Năm Vĩnh Bình thứ hai mươi mốt.” Năm Vĩnh Bình thứ hai mươi mốt là năm nào?"

"Vĩnh Bình là niên hiệu của tiên đế." Ngô Sở Sở thuận miệng giải thích, sau đó nói: "Nếu người này sinh ra vào năm Vĩnh Bình thứ hai mươi mốt, thì bây giờ chắc gần 40 tuổi, lạ thật, người này có gì đặc biệt ư? Vì sao Tề môn phí công cất giữ bức tranh này như vậy … A!"

Lý Thịnh vội hỏi: "Sao?"

Ngô Sở Sở đột nhiên chỉ vào dấu ấn trên quyển trục: "Đây là ấn của cha ta!"

Ngô tướng quân luôn đóng vai một nhân vật thần bí khó lường, dường như ông vừa thuộc về Hải Thiên Nhất Sắc của triều đình, vừa thuộc về Hải Thiên Nhất Sắc của giang hồ, cuộc đời ông như một câu đố kiệm lời, ngay cả trong từng con chữ lời nhắn để lại cũng không đủ để đưa ra một đáp án lờ mờ, vợ con đều chưa từng thật sự hiểu ông.

"Không chỉ quyển trục đó, ta thấy phần lớn thư ở đây đều là của Ngô tướng quân viết cho Xung Vân đạo trưởng. Kể ra lúc đó thân phận Ngô tướng quân bại lộ và nơi ở ẩn của Tề môn bị phát hiện gần như là chuyện chân trước chân sau, giữa Ngô tướng quân và Tề môn luôn có liên hệ, cũng không ngoài dự liệu." Lý Thịnh quỳ xuống, cẩn thận thu gom mớ thư rơi đầy đất: "Ơ … năm thứ nhất, trước năm thứ nhất cũng có một lá “Lương công thân khải”, lạ thật, tại sao thư gửi cho Lương Thiệu lại xen lẫn trong đây?"

Ngô Sở Sở vô thức nắm chặt vạt áo mình.

Lý Thịnh chợt nhớ ra gì đó, ngẩng đầu hỏi nàng ấy: "Ngô cô nương, chúng tôi có thể xem không?"

Mọi người lúc này mới nhớ ra, những lá thư này tuy đều là di tích, nhưng là thư của vong phụ Ngô Sở Sở, tùy tiện xem trước mặt nàng ấy hình như không hay lắm.

Ngô Sở Sở thử mỉm cười đáp lại nhưng không quá thành công.

Kể từ khi Hải Thiên Nhất Sắc bùng phát lần đầu tiên, những câu chuyện quá khứ dường như đều trở nên không quang minh lỗi lạc, không ai biết Trung Vũ tướng quân Ngô Phí gần như được truyền tụng thành “Quan nhị gia tại thế” đóng vai gì trong đó, mà những thứ này dẫu sao cũng là mật thư …

Lý Nghiên muốn nói gì đó thì bị ánh mắt Lý Thịnh ngăn lại.

Lý Thịnh nhìn sắc mặt Ngô Sở Sở, ngập ngừng: "Nếu không thích hợp, chúng tôi …"

"Không sao cả, xem đi." Ngô Sở Sở chợt ngắt lời Y: "Từ nhỏ cha đã nói với ta “không chuyện gì là không thể cho người khác biết”, ta tin ông ấy."

Nói rồi nàng ấy nửa quỳ dưới đất, tự mình mở lá thư viết cho Lương Thiệu, thấy bên trong không có mở đầu, cũng không có lạc khoản, nét bút thậm chí hơi lộn xộn, viết gần như vô lễ: “Giấy chung quy không gói được lửa, Lương công, hà tất chấp mê bất ngộ!”

Ngô Sở Sở vừa nói xong “không có chuyện gì là không thể cho người khác biết” liền bị cha đẻ dán vào mặt câu “giấy không gói được lửa”, lập tức tay run lên, lá thư tuột tay bay ra ngoài, may mà Ưng Hà Tòng ở bên cạnh chụp lấy.

Ưng Hà Tòng chưa bao giờ biết nhìn sắc mặt người khác, nói: "Lá thư này viết cho Lương Thiệu nhưng cuối cùng không đến tay Lương Thiệu, mà Ngô tướng quân và Xung Vân đạo trưởng của Tề môn luôn giữ liên lạc, bởi vậy chúng ta liệu có thể suy đoán, rằng năm xưa Tề môn lợi dụng mật đạo ẩn nấp, vô hình chính là đường dây liên lạc giữa Ngô tướng quân và Lương Thiệu?"

Y kẹp lá thư giữa ngón tay quơ quơ, lại nói: "“Giấy không gói được lửa” và “chấp mê bất ngộ” nói rõ lúc đấy Lương Thiệu chắc chắn đang che giấu gì đó, sau khi Ngô tướng quân biết thì phản đối kịch liệt, thậm chí mạo hiểm viết một lá thư sinh thêm chuyện như vậy để chất vấn, mà Xung Vân đạo trưởng lại chặn lá thư này, tại sao? Sợ họ xảy ra tranh chấp hai bên? Ta cảm thấy chỉ xét những từ ngữ trên lá thư này, tuy không quá khách sáo nhưng cũng không phải chỉ thẳng vào mũi mắng, Lương đại nhân chắc không tới mức nổi cơn thịnh nộ chứ nhỉ."

Lý Thịnh chợt nói: "Xem thư viết khi nào?"

Lý Nghiên vội vàng nhặt một lá thư lăn xuống, đọc: "“Năm Kiến Nguyên … thứ hai”, ca, năm Kiến Nguyên thứ hai làm sao? Huynh còn chưa ra đời đấy."

Lý Thịnh nhìn Ngô Sở Sở, Ngô Sở Sở lập tức hiểu ý, đưa tay quẹt vành mắt đỏ hồng, lật tìm trong đống ghi chú dày cộm của mình về võ lâm, lát sau nói: "Năm Kiến Nguyên thứ hai … A! Lý lão trại chủ chết do Bắc Đẩu ám hại, đại đương gia ám sát Tào Trọng Côn không thành."

Lý Thịnh: "Còn nữa không?"

"Ưm, hình như … đợi đã, truyền nhân Bắc đao vào Trung Nguyên, đả thương Sơn Xuyên kiếm, sau đó …" Ngô Sở Sở tâm tư nhạy bén, nói đến đây thì rùng mình dừng lại, bốn người đưa mặt nhìn nhau chốc lát, Ngô Sở Sở nhìn quanh, thấy các lưu dân đồng hành cách đó không xa đều đã ngủ say, xung quanh không có người ngoài, lúc này nàng ấy mới nhỏ giọng: "Cho nên mọi người đang nghĩ, chuyện của lão trại chủ và Sơn Xuyên kiếm có liên quan với Lương … Lương tướng gia, Xung Vân đạo trưởng lén chặn thư này, thực ra là để bảo vệ cha ta?"

"Vẫn chưa thể kết luận." Lý Thịnh suy nghĩ, lắc đầu, mở lá thư khác.

Mọi người lúc này đã hoàn toàn không còn buồn ngủ, ngay cả Lý Nghiên như khỉ mẹ cũng ngoan ngoãn im lặng giúp mở thư.

Ngô Phí tướng quân là nho tướng, lại là chuyên gia binh pháp, thời trẻ có duyên quen biết Xung Vân đạo trưởng của Tề môn chuyên gia trận pháp, hai người lập tức vừa gặp như đã quen thân… chỉ có điều kể từ khi Ngô tướng quân giả vờ nương nhờ Tào thị, sự liên lạc ngoài mặt giữa hai người liền đứt đoạn, Ngô Sở Sở không hề biết phụ thân còn có một người bằng hữu cũ như vậy.

Lấy năm Vĩnh Bình thứ ba mươi hai làm ranh giới, quá nửa thông tin về trước là tâm sự giữa bằng hữu với nhau, đa phần đều tràng giang đại hải, lúc thì thảo luận trận pháp, lúc thì lo nước lo dân, Ngô tướng quân trẻ tuổi năm ấy còn phát biểu vài câu của người ngoài nghề về chính trị mới quá khích của tiên đế.

Nhưng sau năm ba mươi hai, chỉ qua thư cũng có thể nhìn ra được bầu không khí đột nhiên trở nên căng thẳng, cả năm chỉ có vài lá thư, một lá viết lúc đầu xuân, viết qua loa đơn giản kể những sóng ngầm cuồn cuộn trong triều, bản thân vô cùng bất an, sau đó hơn nửa năm Ngô tướng quân hoàn toàn không có tin tức, đến tháng chạp lại thình lình gửi liên tiếp ba lá thư khẩn cho Xung Vân đạo trưởng.

"Tháng chạp năm đó có lẽ là lúc Tào Trọng Côn dẫn người đi ép vua thoái vị." Lý Thịnh đặt ba lá thư của Ngô tướng quân cùng một chỗ.

Lá thư thứ nhất giọng điệu khá nôn nóng, hiển nhiên là chuyện xảy ra thình lình, Ngô tướng quân không phản ứng kịp, sau đó lá thư thứ hai bình tĩnh hơn nhiều, lúc này tiên đế đã băng hà, Ngô Phí có nhắc trong thư, là họ sẽ không tiếc bất cứ giá nào để bảo vệ thái tử, không ít nét chữ đã bị nhòe, không biết có phải năm xưa từng ướt nước mắt hay không. Sau đó là lá thư thứ ba, hiển nhiên, chuyện của họ không như ý, Đông cung gặp nạn, thái tử tuẫn quốc, tiểu hoàng tôn không rõ tung tích, cuối cùng họ chỉ bảo vệ được đứa con thơ của tiên đế …

Lý Nghiên xen vào: "Cho nên sau khi Xung Vân đạo trưởng nhận được thư của Ngô tướng quân mới tụ tập nhóm Ân đại hiệp và gia gia ra tay hộ tống?"

"Ừ." Lý Thịnh nhìn chằm chằm lá thư thứ ba, lơ đãng đáp.

Lý Nghiên chọt Y: "Huynh lại làm sao thế? Nói tiếng người coi?"

Lý Thịnh bị chọt lung lay, hiếm khi không chấp nhặt với muội ấy, nhìn một câu trong thư như có điều suy nghĩ --- “Tiểu điện hạ kinh hãi, bi hận đan xen, trong lúc lang thang thì sốt cao, mê man không tỉnh.”

"Đây là tháng giêng năm Vĩnh Bình thứ ba mươi ba - cũng chính là năm đầu Kiến Nguyên."

Ưng Hà Tòng mở mấy lá thư phía sau, sau đoạn binh hoang mã loạn ngắn ngủi cuối năm ba mươi hai, Ngô Phí tướng quân căn bản không còn nói mấy lời tán gẫu linh tinh nữa, dùng từ đơn giản trực tiếp, liên tiếp mấy lá thư qua lại đều chỉ có thể xem là ghi chép, chuyện thương lượng thì vô cùng cẩn thận. Bọn Lý Thịnh chỉ có thể thấy thư gửi đến chứ không thấy thư gửi đi, nhưng vẫn như chứng kiến được toàn bộ quá trình xuôi nam hùng vĩ năm xưa.

"Lúc đó họ chắc là chia hai đường xuống Giang Nam, Lương đại nhân triệu tập binh mã nửa giang sơn phía nam lên bắc, ngang nhiên lấy Thiên Khiếm làm ranh giới, phân Nam Bắc cai trị. Khi đấy Bắc quân đuổi tận không buông, cho nên họ chia quân hai đường, một đường lấy thị vệ đại nội và tàn dư ngự lâm quân để ngụy trang, một đường khác là mấy đại cao thủ hộ tống tiểu hoàng tử chân chính, nhằm bảo đảm an toàn, kế hoạch này chỉ có rất ít người biết, bao gồm cả mấy nhánh quân tiên phong lên bắc tiếp ứng lúc đó." Lý Thịnh nói: "Chỉ e đến chết họ vẫn tưởng người mình liều mạng hộ tống là tiểu hoàng tử chân chính. Đợi đã, nghe nói năm đó Lương công tử cũng vì yểm trợ hoàng tử mà mang binh dẫn dụ Bắc quân, cuối cùng tuẫn quốc … người hắn yểm trợ chắc không phải …"

Ưng Hà Tòng: "Nếu là ta, ta cũng sẽ làm vậy. Các ngươi đừng quên, trên tay Tào Trọng Côn ngoại trừ binh lính thì còn có Bắc Đẩu. Mấy tên chó săn đó giết một đứa trẻ giữa đám tàn binh bại tướng rất dễ dàng, ngược lại nếu đi theo bên cạnh bọn Sơn Xuyên kiếm, tuy không phô trương cũng chưa chắc thoải mái, nhưng có mấy đại cao thủ bảo vệ thì không ai có thể đến gần, Thẩm Thiên Khu năm xưa cũng không thể, vả lại mấy người giang hồ như họ mang theo một đứa trẻ, vừa đi nhanh vừa không bắt mắt, Bắc quân căn bản không lưu ý tới."

Ngô Sở Sở chợt nói: "Có đáng tin không? Ta từng gặp Thẩm Thiên Khu, ông ta cực kỳ hung ác, nếu ông ta thật ra tay thì vừa thăm dò là biết thật giả ngay, vở kịch này há chẳng phải diễn hỏng sao? Đến lúc đó đại quân Bắc triều hoàn hồn quay đầu vây giết, mà viện quân phía Nam lại không biết chân tướng, căn bản không kịp cứu viện, chỉ dựa vào mấy cao thủ, không chặn được đại quân triều đình."

Điều này họ đã lĩnh hội sâu sắc, nếu không phải cấm địa Tề môn cho họ chỗ trốn, thì với võ công hiện tại của Chu Phỉ còn suýt bị bắn thành nhím nữa là, huống hồ người khác.

Lý Nghiên lẩm bẩm: "Sao Ngô tướng quân không viết rõ trong thư nhỉ?"

Ưng Hà Tòng: "Thế này là rất rõ rồi, cô xem, trong thư nhắc “chư vị, việc không thể chậm trễ, vạn lần cẩn thận” và cả “ấu chúa đột nhiên gặp đại biến, xin thông cảm nhiều”, đủ để chứng minh Lý huynh suy đoán rất đúng."

Ngô Sở Sở: "Nhưng …"

Lý Thịnh chợt nhớ ra gì đó, ngẩng phắt đầu: "Khoan đã, đương kim hoàng thượng sinh năm nào?"

Câu hỏi này không có đầu đuôi gì hết, mọi người nhất thời ngẩn người.

Lý Nghiên chớp mắt: "Hoàng thượng? Hoàng thượng sinh năm nào, ai mà biết?"

Ngô Sở Sở và Ưng Hà Tòng đều là người tâm tư tỉ mỉ, lập tức nghe ra ý ngầm của Lý Thịnh, đồng thời nhìn về phía bức tranh vẽ kia.

Ngô Sở Sở nhẹ giọng nói: "Hoàng thượng sinh năm nào chúng ta không biết, nhưng thường nghe người ta nói, khi hoàng thượng xuôi nam chẳng qua chỉ khoảng 10 tuổi …"

Thiếu niên sinh năm Vĩnh Bình thứ hai mươi mốt, vào năm thứ ba mươi hai là vừa khéo xấp xỉ tuổi đương kim hoàng thượng. Một đứa trẻ không ai biết tên vì sao còn vẽ chân dung cạnh ngày tháng năm sinh … để chứng minh nó giống ai?

Tư ấn của Ngô tướng quân định ra hai tuyến đường một ngầm một lộ để xuôi nam vì sao lại xuất hiện trên bức chân dung này?

Lý Nghiên cau mày: "Cũng tức là nói, năm xưa họ vì bảo vệ hoàng tử mà đưa một đứa trẻ vô tội ra làm mồi nhử?"

Ba người cùng đưa mắt nhìn Lý Nghiên.

"Nhìn muội làm gì?" Lý Nghiên khó hiểu: "Bất kể nói thế nào thì như vậy cũng quá đáng mà? Sau này đứa trẻ đó sẽ ra sao?"

"Không …" Lý Thịnh nói một cách khó khăn: "A Nghiên, vấn đề không phải ở đây."

Lý Thịnh nhẹ giọng nói: "Vấn đề là, năm xưa sau khi hai lộ binh mã ở Giang Hoài hội hợp với đại quân do Lương đại nhân triệu tập, đứa trẻ trong bức tranh này chưa từng xuất hiện, không có ghi chép, không ai quen biết, không ai biết nó từng tồn tại …"

“Tiểu điện hạ kinh hãi, sốt cao mê man …”

Giấy không gói được lửa.

Hải Thiên Nhất Sắc …

Hải Thiên Nhất Sắc …

Lý Thịnh giật mình, gần như không dám nghĩ tiếp, khẽ cắn lưỡi mình, nhỏ giọng: "Thu dọn hết, chuyện hôm nay, đừng ai nói ra ngoài, mọi người về hết đi, tự ta đưa những thứ này cho cô phụ. Không ai được nói ra ngoài một chữ nào hết, Lý đại trạng, muội nghe rõ chứ?"

Lý Nghiên: "…"

Ba người kia đều sởn gai ốc, chỉ có Lý Nghiên còn mơ mơ hồ hồ, lúc này, dị biến phát sinh, một bóng đen hiện ra nhanh đến khó tin, ngay cả Lý Thịnh cũng không chống đỡ kịp, nó đã đến ngay trước mắt.

Lý Nghiên theo bản năng đẩy Ngô Sở Sở sang bên cạnh, rút đao, đao chưa kịp đẩy ra liền cảm giác một sức mạnh khổng lồ ập vào ngực, muội ấy ảo giác như cột sống ngực và xương sườn của mình đều bị ép biến dạng, chưa thốt tiếng nào thì trước mắt tối sầm, lùi liên tiếp về sau mười mấy bước, ngồi phịch xuống đất.

Lúc này, Lý Thịnh và Ưng Hà Tòng đã giao thủ với kẻ mới tới, thấy kẻ đó toàn thân quấn trong bộ hắc bào, không thấy rõ đầu đuôi, gầy như một bộ xương, nhưng võ công cao khó tưởng, Lý Thịnh và Ưng Hà Tòng bị hắn ta ép luống cuống tay chân, không hề có sức đánh trả.

Kẻ đó duỗi bàn tay khô gầy, một phát nắm lấy kiếm Lý Thịnh, tay áo dài phất lên, vứt Y ra xa hơn một trượng, sau đó túm ngực Ưng Hà Tòng.

Cả người Ưng Hà Tòng bị hắn ta nhấc bổng, rắn độc trên người thế mà không dám ló đầu trước kẻ lạ mặt này.

Quái nhân đưa tay vào ngực Y, xách ra con Niết Bàn cổ mẫu được bọc kín mít, phát ra tiếng cười to chói tai khủng bố không giống tiếng người, nói: "Hóa ra là vậy, ha ha, hóa ra là vậy!"

Nói xong, hắn ta cầm lấy con Niết Bàn cổ mẫu, ném Ưng Hà Tòng thở không ra hơi, lên xuống hai cái liền biến mất trong màn đêm!

Chương 162: Tình Sâu Đậm

"Kia là ... khụ khụ khụ!" Ưng Hà Tòng nằm dưới đất, hồi lâu không thở nổi, cổ đau rát, Y chỉ bị quái nhân xách lên chốc lát và bị ấn mấy dấu tay xanh tím, thế mà ho chết đi sống lại.

Ngô Sở Sở tuy thân thủ kém nhất, nhưng được Lý Nghiên đẩy ra sớm nhất, lúc này ngược lại không sao cả, nàng ấy bò dậy vẫn chưa hết kinh hãi, vừa kéo Lý Nghiên vừa nói: "Mọi người có thấy tay người đó không?"

Quái nhân nhìn không thấy mặt mũi nhưng tay duỗi ra lại dài hết hồn, da thịt khô quắt thâm đen dính lên xương, giữa cánh tay và bàn tay có thể nhìn rõ từng chỗ nối xương.

Ngô Sở Sở: "Thực giống y những cương thi bị Niết Bàn cổ hút khô ấy!"

Giọng Ưng Hà Tòng khàn khàn: "Không cần giống, đó chính là Niết Bàn cổ chúa ... Ân Bái."

"Là Ân Bái." Lý Thịnh trầm giọng: "Ta từng giao thủ với những dược nhân của hắn ta, ai nấy đều công lực thâm hậu, nhưng... shhh... đều toát mùi thối rữa."

Ngô Sở Sở vội nói: "Vậy những lời chúng ta mới nói chẳng phải bị hắn ta nghe hết rồi sao?"

Lý Thịnh cẩn thận hoạt động sau lưng đau nhức, nghe vậy cúi đầu nhìn lướt qua cuộn tranh và những mật thư chết người. Ân Bái không đụng tới chúng, ban nãy hắn ta đột nhiên xuất hiện lại đột nhiên rời đi, mọi hành động đều giống như cổ trùng lên não, chỉ nôn nóng cướp con mẫu trùng chết ngắt, toàn thân đều toát vẻ điên rồ.

"Đừng hoảng." Lý Thịnh định thần lại, nhỏ giọng: "Chúng ta cũng đoán bừa thôi, ngay cả chúng ta cũng không tính là có chứng cứ, Ân Bái càng không có, Niết Bàn cổ mẫu chết không phải hoàn toàn không ảnh hưởng tới Ân Bái, ta thấy thần trí hắn ta không rõ ràng lắm, người như vậy dù ra ngoài nói hươu nói vượn cũng không ai nghe đâu."

Ưng Hà Tòng cười lạnh: "Năm xưa khi gọi Niết Bàn cổ lên người mình thì hắn ta đã không có thứ gọi là "thần trí" rồi."

Lý Thịnh nói nhanh: "Chuyện này quan trọng, chỉ sợ đêm dài lắm mộng, không thể dây dưa nữa, như vậy ... A Nghiên, Ngô cô nương, hai người tiếp tục dẫn các lưu dân lên đường, trở về nói hết đầu đuôi chuyện này cho đại cô cô, bây giờ ta lập tức mang cái hộp gỗ Tề môn này đi tìm cô phụ ... Ưng huynh, Ân Bái cướp Niết Bàn cổ mẫu, lại nghe những lời chúng ta nói, ta nghi ngờ lúc này hắn ta muốn đi Kim Lăng hoặc cố đô, mà độ khả thi của Kim Lăng lớn hơn."

"Ta biết rồi." Ưng Hà Tòng gật đầu: "Ta sẽ đi Kim Lăng xem thử, ta cũng muốn biết hắn ta cầm một con sâu chết thì có thể giở trò gì."

"Cảm phiền rồi, A Nghiên, đưa khối Ngũ Bức lệnh của muội ra đây." Lý Thịnh gật đầu, bảo Lý Nghiên giao ra lệnh bài dơi đỏ mang theo bên người rồi gỡ bảng tên bên hông mình xuống, gộp lại đưa hết cho Ưng Hà Tòng, căn dặn: "Trước tiên liên hệ Hành Tẩu Bang để họ tìm Dương Cẩn, Kình Vân Câu đều là người Nam Cương, đời đời làm bạn với độc trùng và khí độc, chắc chắn có bản lĩnh đặc biệt trong phương diện phòng độc trấn cổ, rắn của huynh sợ Ân Bái, nếu gặp hắn ta, khó tránh sẽ chật vật. Với lại đừng quên cầm bảng tên của ta tìm trạm ngầm trong trại, liên hệ với A Phỉ, người trong trại chúng ta khi hành tẩu bên ngoài, bất kể là ai, đến nơi nào cũng biết trạm ngầm ở nơi đó, họ sẽ liên hệ được. Võ công tên Ân Bái này quá mức tà môn, lỡ hắn ta nổi điên lên thì cũng có người có thể kiềm chế hắn ta."

Ưng Hà Tòng đã quen ngàn dặm độc hành, tay bị nhét hai tín vật, lại bị đổ đầy tai những lời căn dặn, lúc này có chút bối rối.

Đầu tiên bảo Y tìm Kình Vân Câu, sau đó bảo Y triệu hồi Chu Phỉ, nghe giống như Lý Thịnh không hề tin tưởng trình độ y độc của Y, lại cảm thấy võ công của Y cũng không tốt nốt, nhưng không biết có phải vì giọng điệu Lý Thịnh quá chân thành tha thiết hay không, Ưng Hà Tòng không hề cảm thấy không thoải mái.

Lý Thịnh vỗ vai Y, lướt qua Ưng Hà Tòng, nhìn các lưu dân bị động tĩnh ban nãy đánh thức, nói: "Một cây làm chẳng nên non, huynh đệ."

Ưng Hà Tòng sững sờ, ngón tay cầm Ngũ Bức lệnh và bảng tên nắm chặt, tiếp đó nhìn sâu sắc Lý Thịnh, khẽ gật đầu, xoay người rời đi.

Các phương thế lực hoặc sáng hoặc tối nhao nhao lên đường, mục tiêu nhắm về cùng một hướng: Nam đô Kim Lăng.

.............

Mà trong thành Kim Lăng vẫn là sắc thu an lành.

Chạng vạng, tà dương dần tắt, tiếng phượng tiêu vang vọng, chiếc đèn hoa sen đầu tiên được thắp sáng bên bờ sông Tần Hoài khẽ đong đưa, ánh sáng nhạt lan tỏa, lá xào xạc rơi xuống nước gần bờ đê rồi lặng yên không bóng dáng.

Trong thành cung, trăm năm phồn hoa tươi đẹp chưa thay, tường cao ngói trổ chạy dài xa xa, hồn phách Tạ Doãn vốn chìm trong cơ thể lạnh băng như thoát xác tung ra, lảo đảo giữa hiên nhà chạm trổ và trụ ngọc, va phải thềm son và lưu ly ngang dọc bốn phía, khóc lóc không chịu về.

Bình thường giữa các cao thủ nếu không có địch ý với nhau, vì lịch sự, họ có thể gây ra chút tiếng động khẽ khi ẩn nấp, hoặc hơi tạo ra chút sơ hở, đây gọi là "ném đá", một là để chào hỏi, hai là để thăm dò đối phương sâu cạn. Nếu bị người ta nói toạc ra chỗ ẩn thân, gọi tiếng đầu tiên, người ẩn thân thông thường sẽ không phản ứng, vì nếu tình cờ gặp phải kẻ lõi đời mà võ công chẳng ra sao, đối phương có thể chỉ thuận miệng nói bừa thôi, bị lừa xuất hiện thì quá ngu. Đây là bài bản.

Tạ Doãn mới đầu còn tưởng là một cao nhân nghịch ngợm nào đó lẻn vào trong cung đùa giỡn. Ai ngờ bị ý trời khó đoán làm choáng váng.

Chu Phỉ kỳ thực cũng không phải dùng bài bản giang hồ tới trêu Tạ Doãn, sự thật là sau khi nàng nghe Lưu Hữu Lương nói Tạ Doãn trực tiếp vào cung liền không kìm được, tự ý xông vào cung cấm, lang thang cả ngày mà chẳng thu hoạch được gì, vốn đã bình tĩnh lại định rời đi, nào ngờ đúng lúc thấy nơi đây có nhiều đại nội thị vệ canh gác, nhất thời nổi lòng hiếu thắng tinh nghịch, định chuồn vào chơi một chuyến ngay dưới mắt các cao thủ.

Nàng mang vài phần đắc ý thành công lên xà nhà, vừa nhìn liền thấy ngay người nào đó, suýt trượt chân rơi xuống, lúc này mới có "ném đá".

Chờ Tạ Doãn dăm ba câu đuổi Triệu Uyên đi, cho lui hạ nhân rồi nói toạc ra chỗ ẩn thân của nàng, Chu Phỉ không hề phản ứng ngay, là vì sau khi nàng thấy Tạ Doãn, người bị cứng đờ rất lâu, vô thức ép tê một chân mình.

Nhưng nàng không định để lộ sự thực mình ngu ngốc lang thang bên ngoài một ngày một đêm, bây giờ sau lưng còn toát mồ hôi lạnh, bởi vậy nàng trưng bản mặt tỉnh lình, ung dung bước đến chỗ Tạ Doãn, vờ như rất thân quen và hờ hững quơ quơ tay trước mặt Y: "Sao, lại hôn mê à?"

Tạ Doãn nắm lấy tay nàng, sau đó bị chênh lệch nhiệt độ to lớn làm giật mình hoàn hồn, vội buông ra.

Mồm miệng ba hoa như giấu gai của Y ban nãy dùng đối phó Triệu Uyên giờ dường như dính lại, hơi đơ ra, ngây ngẩn hồi lâu mới liều mạng gom góp hồn phách đang du đãng trên đỉnh đầu về, lắc đầu cười khan, tìm đề tài nói: "Bao nhiêu năm không gặp, sao vừa gặp ta lại hung dữ thế?"

Chu Phỉ: "Là huynh nhiều năm không gặp ta, chứ ta luôn có thể nhìn thấy huynh."

Nói xong, nàng lại hơi cắn lưỡi, bổ sung một câu: "Nhìn tới mức phiền chết đi được."

Khóe môi Tạ Doãn như sông băng đầu xuân, nhanh chóng tan chảy theo thời gian, từ từ tan thành nụ cười xấu xa đúng chuẩn: "Gì? Tại hạ hoa nhường nguyệt thẹn mà có thể nhìn phiền thì cô muốn nhìn gì? Thiên tiên chắc?"

Chu Phỉ: "..."

Chó không đổi được tánh ăn gì đó, Tạ Doãn không sửa được miệng mồm đê tiện.

Tạ Doãn bật cười, Chu Phỉ không nhìn nổi, quay đầu muốn quay lại xà nhà thì bị Y gọi lại.

"A Phỉ." Tạ Doãn đưa ngón tay lạnh băng khều đuôi tóc dài bay lên của nàng, vừa chạm vào liền thả ra, Y nói khẽ: "Ta nhớ cô lắm."

Bước chân Chu Phỉ khựng lại.

Nàng cảm nhận được hơi thở lạnh băng đang kiềm chế gom lại, dè dặt giữ khoảng cách với nàng, Tạ Doãn kéo nàng qua chỗ ống tay áo dày nhất, nói: "Trước đây ta có nói với cô chưa nhỉ, mười phần mỹ vị nhân gian thì năm phần là ở Kim Lăng?"

Chu Phỉ: "Huynh còn vừa gặm cái bánh bao tạp vừa ăn nói bừa bãi, nói muốn mời ta đến tửu lâu ngon nhất Kim Lăng."

Tạ Doãn: "Vậy còn chờ gì nữa?"

Một khắc sau, hai người không coi hoàng cung đại nội ra gì, nhảy khỏi thành cung, men theo chỗ náo nhiệt chạy ra ngoài.

Trời đã lạnh nhưng hoa đăng như ban ngày, hơi nước lượn lờ bốn phía, vây quanh người Tạ Doãn, nhanh chóng ngưng kết thành vụn băng nhỏ li ti, Y băng như tia chớp qua đám đông, dẫn đường phía trước, không ôn chuyện với Chu Phỉ, cũng không hỏi nàng tới làm gì, bỏ đi mọi thứ ngọn nguồn nguyên do, chỉ đắm mình vào hiện tại không rõ là mơ hay thực.

Dọc đường Y nói nhỏ với đồ nhà quê Chu Phỉ chưa vào thành bao giờ, chỉ điểm về phong cảnh đế đô, mới đầu Chu Phỉ còn nghe tai có tai không, mãi đến khi Tạ Doãn chỉ vào một tiệm son phấn nói: "Cô nhìn căn tiệm không bắt mắt kia xem, cái tên "Nhị Thập Tứ Kiều" cũng là có sự tích riêng, nghe nói 200 năm trước có một vị mỹ nhân tuyệt sắc lưu lạc phong trần, một khúc "Nhị thập tứ kiều" vang danh thiên hạ, sau đó hồng nhan dần tàn, cuối cùng thỏa hiệp với trần thế, được một phú hộ bỏ tiền ra chuộc, trước khi đi, nàng ấy ở nơi này thổi tiêu cả đêm, người đời sau rung động với chuyện này nên mở tiệm son phấn ở đây, lấy tiếng tiêu làm tên, với ý "phù sinh nhược mộng, hồng nhan bất lão"."

Chu Phỉ: "..."

Tạ Doãn rung đùi đắc ý than: "Tiểu mỹ nhân biến thành đại mỹ nhân mà vẫn không hiểu phong tình gì hết."

Chu Phỉ câm nín chốc lát, lành lạnh nói: "... Vậy à? Ta còn tưởng tiệm "Nhị Thập Tứ Kiều" này là trạm ngầm của trại ta chứ."

Tạ Doãn chém gió xàm bị người ta vạch trần ngay tại chỗ lại không hề lúng túng, ngược lại chắp tay cười nói: "Chậc, năm xưa có người ở cổng nhà mình mà không biết vào thế nào, dọc đường kể 32 điển cố Thục Trung, trong đó 28 cái là tự bịa ..."

Y nói chưa dứt lời đã bay vút ra ngoài như một làn gió, Quá Vô Ngân dường như còn hơn hẳn năm xưa, một con cún dạo chơi trên mấy tảng đá xanh nghi hoặc ngẩng đầu nhìn quanh nhưng ngay cả cái bóng cũng không thấy. Chu Phỉ tuy không có khinh công tuyệt đỉnh hòa làm một cùng gió mát như Y nhưng cũng đuổi theo không hề phí sức.

Bước chân Tạ Doãn dừng bên cạnh một tửu lâu nhỏ bên bờ sông, Y đứng ở đầu cầu, sương mù trắng xóa trong nước lượn lờ bao quanh, Tạ Doãn nhặt một hòn sỏi nhỏ dưới đất, bắn cực kỳ tinh chuẩn vào lỗ đèn lồng treo cao, kế đó ngoắc tay với Chu Phỉ, chợt nhảy lên, khéo léo điểm lên cây quế ở xung quanh, hương thơm ngào ngạt tỏa ra lác đác, Y bồng bềnh đáp xuống nóc tòa nhà lầu ba, trên nóc nhà này có một "nhã gian", ngăn ra một chỗ nhỏ, bàn ghế đầy đủ, tiếc là không có thang, phàm là người khinh công hơi kém sẽ không thể lên đây.

Tạ Doãn thò đầu ra nói với Chu Phỉ: "Lên đây, để ý đừng ..."

Lời Y chưa dứt, Chu Phỉ đã lưu loát hạ xuống phía sau Y: "Đừng gì?"

"Đừng đụng làm kêu chuông trên nóc, bằng không họ sẽ không dâng rượu cho cô." Tạ Doãn khựng lại, từ từ nói nốt câu của mình xong mới khẽ nói: "Trần sư thúc nói cô tiến bộ thần tốc, ngay cả thầy đồ Lâm cũng sợ cô, mới đầu ta còn tưởng ông ấy khen quá lời, bây giờ xem ra, ta cũng sắp sợ cô rồi."

Lúc này, trong nhã gian nóc nhà vang một tiếng "cọt kẹt", tấm gỗ dưới bàn mở ra từ bên dưới, một hộp cơm ba tầng từ dưới đáy bàn đưa ra, tiếp theo là một bình rượu.

Tạ Doãn tự làm trước, bưng đồ nhắm lên bàn, nói với Chu Phỉ: "Đây là tửu lâu ngon nhất Kim Lăng, mời."

Nhưng Chu Phỉ không di chuyển, chút ý cười loáng thoáng trên mặt nàng nhạt đi: "Ta tìm tới cấm địa Tề môn, thấy di tích cũ của Lữ quốc sư, tình cờ hiểu được yếu quyết của Khô Vinh chân khí, nhưng ..."

Một ly rượu chợt bay tới, ngắt lời Chu Phỉ, nàng quơ tay đón lấy theo bản năng, một giọt cũng không rơi ra, Chu Phỉ ngẩn người, chỉ cảm thấy hương rượu mang theo chút hàn ý phả vào mặt.

Tạ Doãn nhẹ giọng: "Giờ lành cảnh đẹp mà nói mấy thứ phá hoại không khí này, có phải cô muốn tìm phạt không?"

Chu Phỉ ngơ ngác ngẩng đầu, Tạ Doãn chạm ánh mắt nàng, chợt giơ tay che ngực, bóp cổ tay nói: "Ôi đời người nhiều nỗi hận, hận hoa quế thơm nồng, hận đêm lành ngắn ngủi, hận mẫu đơn không hương, rượu hoa điêu khó say, đại mỹ nhân quấy nhiễu giấc mộng ba năm của ta ở ngay trước mắt mà không cưới được, chậc, đời có gì vui?"

Chu Phỉ: "..."

Tạ Doãn lại chợt quay đầu nháy mắt với nàng: "Nếu mỹ nhân chịu hôn ta một cái là ta có thể nhắm mắt rồi."

Chu Phỉ: "Có phải huynh muốn lăn từ nóc nhà xuống không?"

Tạ Doãn cười to: "Đầu chúc xuống dưới à? Không được, bất nhã lắm."

Nói rồi Y kéo Chu Phỉ vào chỗ ngồi, vắt đôi chân dài không chút hình tượng lên xà gỗ của "nhã gian nóc nhà", xa xa thuyền hoa đã mở, trong ánh sáng dập dềnh sóng nước thoáng vẳng tiếng sênh ca, Y đưa mắt nhìn, rượu trong ly nơi tay nháy mắt đã kết sương, hồi lâu Y mới nói: "Lúc nãy là đùa đấy, có thể làm lỡ dở cô ba năm, ta đã có thể tiếu ngạo cửu tuyền rồi."

Ánh nước trong mắt Chu Phỉ lóe lên, sau đó nàng cười nhạo: "Bớt dát vàng lên mặt mình đi, không có huynh, bộ ta không sống nổi ba năm này hả?"

Tạ Doãn: "Không có ta, cô không cần đối đầu với Vũ Khúc, không cần phải đi cấm địa Tề môn cửu tử nhất sinh..."

Chu Phỉ nghiêm túc nói tiếp: "Phải, cũng chưa chắc luyện thành thần công cái thế đạp lên Bắc Đẩu."

Tạ Doãn im lặng chốc lát, kinh ngạc quay đầu nhìn nàng: "Trời ơi, không biết xấu hổ kìa, thật có phong thái của ta thời trẻ!"

Chu Phỉ bật cười không tiếng động.

Lúc này, không biết là ai ăn no rửng mỡ, không phải lễ tết gì mà thả pháo hoa nhỏ trên mặt nước, nháy mắt soi sáng một mảng, Tạ Doãn bị ánh sáng ấy quấy nhiễu, hơi nghiêng đầu, chợt cảm giác một vị ngọt cực nhạt mang hơi thở thiếu nữ nhanh chóng áp tới, môi như bị lông vũ lướt qua.

Tạ Doãn chợt ngừng hô hấp, đờ đẫn.

Chương 163: Sương Mù

Qua một lúc lâu, hai người không ai lên tiếng, gió trên sông quẩn quanh nóc nhà, bốn bề yên tĩnh chỉ còn tiếng nước.

Chiếc thuyền hoa ban nãy đã lướt đi, mà Tạ Doãn vẫn ngây ngốc nhìn chằm chằm mặt nước đen sì, phảng phất như nơi đó sắp nở ra một đóa hoa quỳnh xoay chuyển giữa úa tàn và nở rộ.

Chu Phỉ lơ đãng uống hết cả bình rượu, mãi đến khi trong bình rót không ra giọt nào, nàng mới phát hiện không nếm được vị gì, uống cả vò rượu ngon như lừa uống, thuần túy là lãng phí tâm tư chủ quán.

Nàng chợt thấy rất xấu hổ, vụt đứng dậy, Tạ Doãn như mọc mắt trên lỗ tai, nắm lấy cổ tay nàng.

Trừ phi đang bị truy sát, bằng không Tạ Doãn hiếm khi có vẻ mặt nghiêm nghị đến thâm trầm như vậy, chắc là Y cảm thấy đời mình đã có quá nhiều lúng túng, không cần quá nghiêm túc nữa, chỉ có thể tiếp tục bỡn cợt với đời, để mình và người khác đều có thể dễ chịu hơn.

Y nắm rất chặt, đầu ngón tay hơi trắng bệch, căng thẳng hỏi: "Cô có dự tính gì?"

Chu Phỉ rất muốn lừa mình dối người nói một câu “ta sẽ ở Kim Lăng một thời gian”, nhưng nàng biết, Tạ Doãn không phải hỏi dự tính gần mà là dự tính sau khi Y chết.

Nàng cố ý lảng tránh, cố ý giả ngu, nhưng khi nhìn đôi mắt trong veo phản chiếu ánh sáng kia, cuối cùng nàng vẫn cắn chặt răng, gian nan dời ánh mắt, nhìn thẳng vào chân tướng xấu xí.

Hồi lâu, Chu Phỉ mới nói: "Ta không biết, có lẽ xem cha ta có sai phái gì không, nếu không có, hai cái đầu Bắc Đẩu còn lại kia, ta lấy chắc rồi. Chờ rõ ràng những ân oán cũ, có lẽ ta sẽ về 48 trại, giúp Sở Sở chỉnh lý những thứ thất truyền, khi cần sẽ làm tay chân cho trại, sau đó… sau đó có lẽ thiên hạ thái bình?"

"Ừ." Khóe môi Tạ Doãn nở nụ cười kỳ lạ: "Tiền nhân đã trải sẵn đường rồi, còn gì mà không thái bình? Ta có thể xin cô một chuyện không?"

Chu Phỉ nhìn Y, cảm thấy ngoại trừ gầy thì dáng vẻ đó gần như không khác mấy với 8 năm trước khi Y di chuyển giữa dây trận, Y giống như một người bị định hình bởi thời gian ngắn ngủi và trải nghiệm quá nhiều.

Tạ Doãn cố ý gây chuyện, cười với nàng: "Ta muốn xin cô gả cho một trượng phu đoản mệnh, để 20 năm sau ta còn có thể lại đi tìm cô."

Chu Phỉ dùng sức rút tay mình ra, nhưng ngón tay Tạ Doãn như biến thành một lao tù chạy không thoát, cứng đờ giữa không trung không nhúc nhích, nàng chợt run lên, tất cả thói quen ẩn giấu và cảm xúc nội liễm đều hội tụ thành mạch nước ngầm mãnh liệt thanh thế to lớn va chạm qua lại trong lồng ngực chật hẹp của nàng.

Hai tay Tạ Doãn nâng cổ tay Chu Phỉ lên, cúi đầu áp tay nàng lên trán mình, khẽ nói: "Đừng khóc, ngày tháng gặp nhau giữa người với người tổng cộng chỉ trong chốc lát, khóc một khắc sẽ ít đi một khắc, nghĩ vậy, há chẳng phải lỗ lắm sao? Cô và ta chưa từng đầu bạc, đã có thể xem như bầu bạn bên nhau cả đời, có thủy có chung, nói ra không phải cũng là may mắn ư? Đâu cần sống đến 70-80 tuổi chứ."

Chu Phỉ chợt vung Y ra: "Huynh mới khóc thì có."

"Được, Chu đại hiệp sao lại khóc chứ? Dù sao cũng là thiên hạ đệ nhất “đạp lên Bắc Đẩu” mà." Tạ Doãn hơi dừng lại, vô cùng thông minh bổ sung: "Tuy là tự phong."

Vì câu “thông minh” này mà Đoan vương điện hạ quý giá khiến các thái y tranh cãi ầm ĩ bị rượt đánh tám con phố.

Tục ngữ có câu “thời gian là vàng”, gần như nó đã trở thành lời nhạt nhẽo mà bọn trẻ con không muốn nghe, lúc nhỏ Chu Phỉ ngủ gật trong thư phòng Chu Dĩ Đường, thường xuyên bị nghe quở câu này, trước nay nàng luôn nghe tai trái ra tai phải, nhưng khi nàng lớn đến tuổi này lại bất giác lĩnh hội được ý nghĩa thấm thía trong câu nói ấy.

Họ chỉ có chút thời gian, giống như đồng tiền nhẵn thính trong tay thần giữ của nghèo kiết, càng đếm càng ít, càng đếm càng giật gấu vá vai, hận không thể mỗi đồng tiền đều nở ra tám cánh hoa, để cắt mỗi khoảnh khắc thành vô số phân đoạn nhỏ.

Ban ngày, Tạ Doãn ở trong cung rất bận, thường xuyên phải ứng phó cả đám người ... quan chức Lễ bộ liên tu bất tận, thái y vô dụng, và bản thân Triệu Uyên.

Triệu Uyên dường như muốn lấy lòng Tạ Doãn, thậm chí thả trưởng hoàng tử Triệu Minh Sâm bị giam nhiều năm ra ngoài, vả lại còn ba ngày hai bận gọi Minh Sâm vào cung, để một kẻ mặt mày hốc hác và một kẻ bệnh tật xanh xao diễn trò huynh đệ tình thâm thỏa thích.

Những lúc thế này, Chu Phỉ luôn ở trên xà nhà xem Triệu gia diễn trò, Tạ Doãn và nàng đã thương lượng ngắn ngủi ra một bộ thế tay đặc biệt, Tạ Doãn thường xuyên vừa giả vờ đứng đắn lá mặt lá trái với người khác, vừa dùng tay sau lưng nói lời thật lòng chanh chua với Chu Phỉ, nhiều lần chọc cho kẻ làm quân tử leo xà nhà như nàng suýt bại lộ.

Chờ đuổi đám người rỗi hơi đó đi, Tạ Doãn sẽ không xem hoàng cung đại nội ra gì, dẫn Chu Phỉ đi chơi khắp nơi trong thành Kim Lăng.

Bài bản của công tử quần là áo lượt, bài bản của hiệp khách giang hồ … cái nào Y cũng biết, cái nào Y cũng có thể làm, đồng thời dùng tốc độ nhanh nhất dạy hư Chu Phỉ. Nếu không phải Thấu Cốt Thanh trên người Tạ Doãn phát tác càng lúc càng dày đặc, mỗi ngày đều suy nhược đi thấy rõ, thì những ngày này thực có thể xem như tốt đẹp.

Càng gần ngày ba tháng chạp ... ngày nhục nhã của quốc gia, nơi ở tạm của Đoan vương cũng càng náo nhiệt, lễ phục long trọng và đồ vật cứ tuôn vào như nước chảy, mà trong ngoài triều đình cũng không biết từ đâu xuất hiện một lời đồn, nói hoàng thượng đón Đoan vương về vào thời khắc mấu chốt này, e có ý muốn lập thái tử.

Hiệu quả của lời đồn này không hề nhỏ, trước cửa phủ Tạ Doãn cơ hồ đông như trẩy hội, ồn ào khiến Y rất phiền, suýt muốn phá hỏng “đại điển tế tổ” của Triệu Uyên, đành ngày ngày giả bệnh, đóng cửa từ chối tiếp khách.

Mồng một tháng chạp, đại điển tế tổ đã sắp xếp xong xuôi, chỉ chờ ngày các nơi chính thức hóa trang lên sân khấu.

Lúc này, tiền tuyến truyền về tin chiến thắng, tàn binh bại tướng Bắc triều hốt hoảng tập hợp lại căn bản như giấy, thậm chí hơi nghe thấy động tĩnh đại quân Nam triều là chạy mất dép, Chu Dĩ Đường trong vòng mấy tháng ép thẳng tới vương đô. Kim Lăng cả năm hiếm thấy mấy hạt tuyết thế mà lại rơi một trận tuyết nhỏ, tuy rất yếu, vừa rơi xuống đất liền tan, nhưng những người mượn danh “thụy tuyết” (*) để ca tụng công đức thì nhiều vô số kể.

(*) Thụy tuyết: tuyết rơi đúng lúc.

Đến đây, thiên thời địa lợi nhân hòa với Triệu Uyên gần như đủ cả.

Nhưng Triệu Uyên có vẻ càng bất an hơn xưa, lúc tới thăm bệnh như thường lệ, vừa chuyện phiếm mấy câu với Tạ Doãn thì có một nam tử dáng vẻ thị vệ đại nội vội vã tiến vào, khom lưng nói bên tai Triệu Uyên. Người này chắc là tâm phúc của Triệu Uyên, dùng công phu kiểu “truyền âm nhập thế”, không lộ ra chút nào, lời còn chưa dứt, sắc mặt Triệu Uyên thay đổi, ông đứng phắt dậy, thậm chí không nói với Tạ Doãn câu nào, xoay người đi ngay.

Tạ Doãn giả vờ tiễn ông, lặng lẽ ra dấu tay với Chu Phỉ, nghe một tiếng vang nhỏ liền biết Chu Phỉ đã nghe lời đuổi theo. Y đứng ở cửa như có điều suy nghĩ, nhẹ nhàng khép lại ngoại bào, lúc này vừa khéo một tiểu thái giám vào thu dọn dụng cụ uống trà bưng khay ly khom người đi ra, khi hành lễ vô tình nhìn Tạ Doãn, lập tức sợ kêu “á” lên, khay ly trong tay rơi xuống đất vỡ tan, tiểu thái giám quỳ xuống run lẩy bẩy: "Điện ... điện hạ …"

Tạ Doãn lúc này mới hoàn hồn, cúi đầu nhìn, phát hiện đầu ngón tay cứng ngắc của mình lại nứt ra, da tróc thịt bong, thế mà Y lại chẳng hề thấy đau, còn lỡ tay quẹt làm cổ ngoại bào bị nhuốm đỏ một mảng, giống như vừa quét qua cổ.

..............

Cùng lúc đó, Chu Phỉ lặng lẽ bám theo Triệu Uyên.

Triệu Uyên cực kỳ sợ chết, các loại thị vệ và cao thủ đại nội hoặc sáng hoặc tối vây mỗi góc lại chật cứng, dù Chu Phỉ võ công cao cũng thực toát một lớp mồ hôi lạnh, nhiều lần suýt bị phát hiện, khó khăn lắm mới tới gần tẩm cung Triệu Uyên. Nàng cũng không có cách gì tốt, vì phòng ngừa ám sát mà trong vòng ba trượng chung quanh nơi Triệu Uyên ở, cây nào cao quá gối đều bị chặt trụi hết!

Thị vệ vây quanh bốn phía tẩm cung như thùng sắt, còn có người qua lại tuần tra.

Chu Phỉ lần đầu tiên thấy đại nhân vật sợ chết đến mức long trọng như vậy, mới đầu cảm thấy Triệu Uyên hơi buồn cười, nhưng sau chốc lát, nàng cười không nổi, lòng nổi lên rất nhiều nghi hoặc. Đội hộ vệ được huấn luyện nghiêm chỉnh như vầy không thể nào là vội vàng tập kết, Triệu Uyên đường đường là một hoàng đế, nhưng ông đã sống trong nỗi hoang mang lo sợ tột cùng thế này bao lâu rồi?

Rốt cuộc ông đang sợ ai?

Giống như có người ghim chữ “thích khách” vào đầu ông vậy.

Đúng lúc này, trong tẩm cung xa xa truyền đến tiếng đồ vật rơi vỡ, Chu Phỉ cau mày, thấy mấy thị vệ mặc cẩm bào đen vội vã rời đi, nàng lập tức tránh lao tù bằng biển người mà Triệu Uyên tự tạo cho bản thân, đuổi theo mấy kẻ áo đen kia.

Mấy kẻ đó khinh công rất tốt nhưng chẳng thấm gì so với cao thủ chân chính, Chu Phỉ đuổi theo vô cùng nhẹ nhàng, thấy mấy thị vệ đó trong thời gian cực ngắn đã mang theo một đám người, thanh thế to lớn ra khỏi cung, chạy tới một nhà dân ở ngoại thành.

Vài người ăn mặc như tiểu thương bình thường nói với thị vệ dẫn đầu: "Người luôn ở đây, xác định, chúng tôi luôn theo dõi nơi này."

Người nào?

Chu Phỉ nấp trong bóng tối nhìn theo hướng ngón tay “tiểu thương” chỉ, thấy đó là một tòa trạch viện, trong viện trồng đầy hoa, vào mùa đông lạnh lẽo vẫn tỏa hương thơm ngát, mấy dây hoa từ trong tường viện bò ra, để lộ xuân sắc khắp vườn, càng lộ vẻ kỳ dị.

Không biết tại sao, khu vườn đầy hoa này khiến Chu Phỉ thấy quen quen.

Sau đó, hắc y thị vệ dẫn đầu ra lệnh một tiếng, mọi người bao vây tiểu viện, thô bạo phá cửa xông vào.

… Sau đó đồng thời ngẩn ngơ.

Trong tiểu viện hoàn toàn yên tĩnh, giá treo quần áo vẫn còn, nhưng trang phục bên trên đã không còn bóng dáng, vài chiếc lông đuôi chim rơi xuống đất, dưới bóng hoa um tùm là một chiếc xích đu nhỏ khẽ đong đưa trong gió.

Giống y như đúc tiểu viện của Vũ Y ban biến mất trong một đêm ở thành Thiệu Dương năm xưa!

Lúc này, giọng nữ cao cao từ xa truyền tới, hát: “Sông dài đổ ra biển cả, mênh mông hướng tới màu trời …”

Hắc y thị vệ quát to: "Đuổi theo!"

Mọi người cùng xông lên đuổi theo hướng tiếng hát. Chu Phỉ lúc này mới từ từ bước khỏi chỗ ẩn thân, nàng không lo lắng, trò người đi nhà trống là tuyệt kỹ của Vũ Y ban, mà giọng hát ban nãy dù hóa thành tro nàng cũng nhớ: chính là đại ma đầu Mộc Tiểu Kiều.

Một Nghê Thường phu nhân, một Chu Tước chúa, hai vị tiền bối ấy nếu cùng gây chuyện thì dù gọi hết đám giá áo túi cơm bên cạnh Triệu Uyên ra cũng chưa chắc bắt được … vấn đề là, đây lại là chuyện gì?

Chu Phỉ chui vào tiểu viện không một bóng người của Vũ Y ban, thấy cánh cửa bên trong khép hờ, lư hương vừa cháy hết vẫn chưa tan mùi, trong ly còn chút rượu dưới đáy, trên tường đối diện cửa lớn là hai thanh gỗ treo một đao một kiếm, ở giữa kẹp một tờ giấy.

Chu Phỉ cẩn thận lấy tờ giấy ấy xuống, thấy bên trên viết: “Vũ Y ban mang “Bạch cốt truyện” đến kinh, dâng quà cho Đại Chiêu thịnh thế.”

Chương 164: Mây Đen

Giọng Mộc Tiểu Kiều như hạt cỏ gieo mầm khắp nơi, trong một đêm, dường như đâu đâu cũng hát “Bạch cốt truyện” thần bí, tình thế phát triển quá nhanh, thậm chí muốn cấm đã không còn kịp, cấm quân nhất thời thần hồn nát thần tính, hễ nghe tiếng hát là chạy đi bắt người.

Nhưng dù là hạng đào kép cũng không thể vô duyên vô cớ bắt bừa, Kim Lăng xưa nay nhã khí, văn nhân thi khách, quan to quý nhân có trào lưu kết giao cùng các danh kỹ và đào kép nổi tiếng, cấm vệ vừa xuất hiện, lập tức dấy lên một làn sóng lớn, vì mấy năm gần đây thủ đoạn Triệu Uyên cứng rắn nên không ai dám công khai chất vấn, nhưng lời bàn luận sau lưng lại ầm ĩ xôn xao.

Triệu Uyên đêm đó đại nộ, giận đám thuộc hạ vô dụng giấu đầu hở đuôi, lôi thống lĩnh cấm vệ ra đánh 30 gậy, qua ngày kế tiếp, Triệu Uyên lộ diện trên triều đình, nín thinh không đề cập tới chuyện cấm quân bắt người, chỉ vô cùng chân tình bày tỏ những hồi ức về nỗi nhục quốc gia và mối thù nhà cùng những gian truân vất vả của bản thân hơn 20 năm qua, cuối cùng nhẹ nhàng buông một câu, để tưởng nhớ nỗi nhục năm xưa, kể từ tháng chạp, trong cung cấm âm nhạc.

Người tinh ranh đương nhiên nghe lời biết được ý ngầm, sau khi hạ triều về nhà liền thi nhau báo cho các thân thích bằng hữu, thế là Kim Lăng đêm đêm sênh ca bỗng trở nên im ắng về đêm, vào đêm trước đại điển tế tổ lộ ra sự an bình kỳ lạ.

Lại thêm một ngày lạnh lẽo âm u, Chu Phỉ dạo một vòng trong thành Kim Lăng, không tìm được tung tích đám Nghê Thường phu nhân, chạng vạng nàng lại lẻn vào hoàng cung. Nàng dự liệu được Tạ Doãn e là không thể xuất cung, nên muốn đi thăm Y, vốn muốn hỏi vụ “Bạch cốt truyện” rốt cuộc là sao, nhưng phát hiện thái độ Tạ Doãn khác thường, nghỉ ngơi rất sớm, chỉ để lại cho nàng tờ giấy, nói là muốn cùng Triệu Uyên diễn xong màn kịch “lập thái tử”, sau này có thể tự do xuất cung dẫn nàng đi chơi, bảo nàng về trước.

Chu Phỉ vo tờ giấy của Y, đặt vào đèn lồng đốt, ngồi trên nóc cung điện cao cao một lát, mãi không thấy ánh trăng, khóe mắt nàng bỗng dưng giật giật, nàng tung người nhảy vào màn đêm, lên xuống mấy cái liền không còn bóng dáng.

Mà Tạ Doãn “nghỉ ngơi rất sớm” đột nhiên mở mắt giữa tầng tầng màn trướng.

Nhờ ánh sáng nhạt, Y thấy trên người mình bỗng dưng nhiều thêm không ít miệng vết thương lớn nhỏ, từ đầu ngón tay bây giờ đã lan đến vai và ngực, mùi máu nhàn nhạt lượn lờ quanh người Y, phảng phất như đang nói rõ đại nạn của thân xác huyết nhục kéo dài hơi tàn này sắp đến.

Lúc mới xuất hiện tình huống này, Triệu Uyên nổi giận, các thái y sợ đến suýt treo cổ tập thể, nhưng thực sự bó tay hết cách, đành xử lý các vết máu ngày càng nhiều của Y theo cách xử lý vết thương đao kiếm thông thường.

Tạ Doãn cẩn thận trở mình, ngửa mặt nhìn màn trướng, lòng uể oải tính toán, Triệu Uyên nghe “Bạch cốt truyện” e là ngủ không được, ông cũng đáng thương quá, tế tổ thôi mà, một mặt lo “Bạch cốt truyện” bỗng dưng xuất hiện có mưu đồ quấy rối gì không, một mặt lo vở kịch “lập thái tử” mình dày công chuẩn bị còn chưa mở màn thì “thái tử” đã bị nứt thành con diều rách.

Chậc, nhọc tâm nhiều quá.

...............

Đêm đó, nơi góc đường Kim Lăng ẩm ướt, trong góc một tửu lâu nhỏ chưa đóng cửa vẫn sáng đèn.

Ở đấy có một nam tử ăn mặc như phú thương, thân thể béo mập, một người chiếm hết chỗ của hai người, đang từ tốn bưng chén rượu nhạt, gắp thức ăn ăn, vô cùng thong thả.

Tiểu nhị ngáp cả ngày thêm rượu cho hắn ta, chợt hai nam tử trung niên bước theo cầu thang gỗ của tửu lâu lên lầu, nhìn trang phục thì chắc là hộ vệ của phú thương kia. Một người trong đó dáng cao gầy, mặt có vài nếp nhăn như dao khắc, thoạt nhìn bình thường không có gì lạ, nhưng trong khoảnh khắc tiểu nhị bắt gặp ánh mắt ông ta liền giật mình bị dọa, tay run lên, đổ rượu ra bàn.

Phú thương có thân hình vô cùng phúc hậu kia thấy vậy khoát tay nói: "Lui xuống đi, không gọi thì không cần lên."

Tiểu nhị như được đại xá, không kêu tiếng nào, chạy đi như một làn khói.

“Phú thương” lúc này mới nói: "Thẩm tiên sinh, Đồng đại nhân, mời ngồi."

Hóa ra đây chính là nhóm Tào Ninh.

Đồng Khai Dương nheo mắt nhìn hướng tiểu nhị kia rời đi, nói: "Thằng nhóc của Hành Tẩu Bang, võ công chẳng ra sao nhưng đúng là rất thông minh."

Tào Ninh nói: "Chỉ là bị khí tức của Thẩm tiên sinh dọa sợ thôi, không cần chú ý. Bây giờ trong thành Kim Lăng ngư long hỗn tạp, loại người gì cũng có, chúng ta đại ẩn vu thị (*), không hề bắt mắt. Sao rồi?"

(*) Đại ẩn vu thị (tức ‘tiểu ẩn vu dã, đại ẩn vu thị’ hoặc ‘tiểu ẩn ẩn vu dã, trung ẩn ẩn vu thị, đại ẩn ẩn vu triều’): một tư tưởng triết học Đạo gia, ý nói cuộc sống ẩn dật không nhất thiết phải sống nơi rừng núi, đẳng cấp cao hơn chính là sống ẩn dật nơi phố thị phồn hoa, dù trong hoàn cảnh như vậy vẫn giữ được tâm thanh bình yên ả.

"Không còn hát khúc nữa."

Đồng Khai Dương rót ra hai chén rượu, trước tiên cung kính đặt một chén trước mặt Thẩm Thiên Khu, nhưng Thẩm Thiên Khu không hề nể mặt, nhận chén rồi trực tiếp đổ rượu ra ngoài cửa sổ, tự thay bằng chén nước.

May mà Đồng Khai Dương quen biết ông ta nhiều năm, sớm biết ông ta có tính tình thối nên không để tâm, ngược lại cười nói: "Đại ca thế này là đến cảnh giới phản phác quy chân (*) “thanh thủy khứ điêu sức” rồi (**)."

(*) Phản phác quy chân: khôi phục trạng thái ban đầu, điểm cao nhất cũng chính là điểm xuất phát, trong võ học thường dùng để nói về cảnh giới ‘tối thượng’, không còn phụ thuộc vào những thứ bề ngoài.

(**) Thanh thủy khứ điêu sức: câu này ghép loạn câu thơ của Lý Bạch “thanh thủy xuất phù dung, thiên nhiên khứ điêu sức” (nước trong nở ra hoa sen, thiên nhiên không cần trang sức gì, bản thân nó vốn đã đẹp), câu thơ ghép lại mang ý: nước trong không cần thêm gì nữa, chỉ nước thôi là đủ.

Thẩm Thiên Khu không phản ứng với câu nịnh nọt này của hắn ta, chỉ nói: "Triệu Uyên muốn ngày mai tuyên chỉ sắc lập thằng cháu đoản mệnh kia làm thái tử ở đại điển tế tổ, các ngươi không phải nói thằng nhãi đó trúng Thấu Cốt Thanh nhiều năm rồi ư, sao vẫn chưa chết? Liêm Trinh quả nhiên là phế vật chết không hết tội."

Tào Ninh nói: "Triệu Uyên chính vì thấy thằng cháu này ốm đau dặt dẹo nên mới dám lập làm thái tử, vừa khéo hôm nay lập thái tử, ngày mai thái tử chết queo, ông ta có thể giả mù sa mưa khóc lóc một hồi, xem như “trả ngai” không có kết quả, sau này ông ta càng là một hoàng đế danh chính ngôn thuận."

Đồng Khai Dương khó hiểu: "Triệu Minh Doãn chẳng qua là con côi của thái tử chứ đâu phải thái tử thật do Triệu gia sắc phong, Triệu Uyên thân là trưởng bối, đứng ra nhận ngọc tỷ làm hoàng đế trong thời kỳ quyền biến thì có gì danh bất chính ngôn bất thuận?"

Tào Ninh: "Nếu không phải Triệu Uyên suốt ngày treo hai chữ “trả ngai” bên mép, lại muốn bịt tai trộm chuông làm nghi thức “tế tổ” rồi “lập thái tử”, thì đã chẳng ai nói ông ta không chính thống. Theo ta thấy, Triệu Uyên cũng xem như đại nhân vật đương thời, nhưng không hiểu sao lại để tâm thái quá một số chuyện, thậm chí hơi mất chừng mực … nói không chừng trong này thực có gì đó mà chúng ta không biết. Ta thấy vị “Tạ huynh” dùng tên giả nhiều năm kia cũng không phải đèn cạn dầu, có lẽ không muốn buông tay khỏi nhân gian sớm, bằng không hà tất làm ra một “Bạch cốt truyện” vào thời khắc mấu chốt này chứ? Khà khà, Triệu gia của Nam triều đúng là khiến người ta suy nghĩ miên man mà."

Thẩm Thiên Khu ở bên cạnh thờ ơ uống nước lạnh, Đồng Khai Dương lại nói: "Đôi chú cháu này đúng thú vị, hai bên đều hận đối phương không thể mau mau chết, thế mà còn sáp lại với nhau cùng diễn trò hòa thuận lập thái tử truyền ngôi, chẳng lẽ tương lai thái tử không chết thì Triệu Uyên thật truyền ngôi cho hắn à?"

Thẩm Thiên Khu hừ lạnh: "Nói mấy chuyện vô dụng này làm gì, ta muốn biết, nếu ta lấy cái đầu trên cổ Triệu Uyên, há chẳng phải hời cho con ma bệnh kia sao?"

"Hời cho hắn?" Tào Ninh cười nói: "Thẩm tiên sinh, ta “mất tích” lâu như vậy, binh quyền trong tay đều hời cho hoàng huynh ta, kết quả thì sao?"

Đồng Khai Dương vội nói: "Nguyện nghe tỏ tường."

"Hai đảng cũ mới phương nam đấu nhau từ tiền triều cho tới giờ, vương đô bị họ làm mất một lần rồi, trước mắt gió đông mới áp chế được gió tây. Chu Tồn biết mình căn cơ bất ổn nên chưa bao giờ chịu đại diện cho tân đảng, toàn đặt bản thân vào vị trí kẻ dưới để xông pha chiến đấu, bây giờ lại càng ở nơi tiền tuyến xa tầm tay với, phàm Triệu Uyên có gì bất trắc thì vị điện hạ kia …"

Tào Ninh lắc đầu, cười nói: "Nếu hắn thật có quyết đoán khơi lên một tràng gió tanh mưa máu, mạnh mẽ đàn áp mọi người ở Kim Lăng, thì năm xưa sao bị hoàng thúc của mình hại tới mức đó? Hoàng đế sớm đã đổi người rồi. Cục diện trước mắt đối với Triệu Uyên là động không bằng tĩnh, đối với chúng ta vừa hay ngược lại, nước càng đục càng dễ bắt cá, người của ta vẫn ở trong quân, triệu tập họ chẳng qua là chuyện một hai lá thư mà thôi, chỉ cần đủ loạn, chúng ta chưa chắc không thể trở mình."

Đồng Khai Dương nhạy bén, đương nhiên nghe ra được “chúng ta” không phải chỉ Bắc triều, mà là chỉ bản thân Tào Ninh.

Câu chuyện đại khái là vầy: Bắc đế vô năng, ghen ghét huynh đệ, dẫn đến tiền tuyến bại trận, bản thân tốt nhất cũng nhếch nhác chết dưới móng sắt phục quốc của người Nam. Ngược lại Đoan vương gia sau khi bị hãm hại lưu lạc trong dân gian lại đi lối đặc biệt, mang theo hai đại cao thủ, dùng chiêu rút củi đáy nồi, triệt để khuấy đục nước của hai miền nam bắc, chỉ cần làm thỏa đáng, vẫn có thể đông sơn tái khởi.

Đến lúc đó, sẽ không còn ai nhớ hắn ta xuất thân từ tiện tỳ kỹ nữ, không còn ai nhớ di chiếu thiên vị rõ ràng của Tào Trọng Côn.

Đồng Khai Dương nhỏ giọng nói: "Bên kia không ít người đòi công với điện hạ …"

Tào Ninh khẽ cười: "Sao thiếu hai vị được chứ …"

Lời hắn ta chưa dứt, Thẩm Thiên Khu đã không kiên nhẫn nghe, uống một hơi hết nước lạnh, ngắt lời Tào Ninh: "Ta thấy ấn chủ cũ nên nghe lệnh của cậu là lẽ đương nhiên, nhưng chỉ nghe cậu sai phái một lần này thôi, về sau hai chúng ta không ai nợ ai, không cần cho ta công gì cả."

Nói xong, ông ta tự đứng dậy bỏ đi.

Lúc này, một tràng tiếng bước chân rõ rệt trên đường phố như ruột dê dưới tửu lâu vọng đến.

Thẩm Thiên Khu không biết tại sao, quay đầu nhìn theo tiếng bước chân kia, thấy ở đầu tảng đá xanh hiện ra ánh nước, một nữ tử trẻ cầm đèn lồng giấy chậm rãi bước qua, dáng người nàng nhỏ nhắn thanh tú, không khác gì các nữ tử Giang Nam đầy đường, mặc loại váy dài uyển chuyển thịnh hành đương thời. Nàng cúi đầu, đi không nhanh, bước thẳng tới cửa sau một tiệm bán son phấn, người trong nhà đại khái là nghe tiếng bước chân nên đã mở sẵn cửa chờ nàng, dạy dỗ nữ tử đi về muộn mấy câu, nữ tử im lặng không lên tiếng, treo đèn lồng ở cửa, sau đó “két” một tiếng, người nhà đưa tay đóng cửa lại.

Mãi đến khi bóng người biến mất, Thẩm Thiên Khu mới khó hiểu thu hồi tầm mắt, không biết tại sao mình cứ nhìn chằm chằm một tiểu nha đầu không rõ dung nhan.

Sau đó ông ta mặc kệ sắc mặt Tào Ninh và Đồng Khai Dương, xoay người tự bỏ đi.

Thẩm Thiên Khu không thấy, khi ông ta vừa rời cửa sổ thì cánh cửa đóng lại kia liền mở ra.

Chu Phỉ vô cùng cảnh giác nhìn quanh thăm dò qua khe cửa.

Người của trạm ngầm bên cạnh dùng giọng mềm mại đã bị người bản địa đồng hóa hỏi: "Sao thế, có người à?"

Chu Phỉ do dự lắc đầu, ban nãy nàng bỗng dưng rợn tóc gáy, hôm nay nàng vào cung tìm Tạ Doãn nên không mang theo đao, bằng không thì mới nãy có khi nàng đã rút đao ra rồi.

Đang lúc buồn bực thì quản sự của trạm ngầm Kim Lăng bước nhanh tới, nhỏ giọng nói: "A Phỉ, sao giờ mới về, có người mang theo vật này tìm cô, cô xem có biết không?"

Ông giao một cái bọc cho nàng, Chu Phỉ cúi đầu nhìn, thấy đồ trong bọc là nhuyễn giáp Thải Hà mà nàng cởi đưa cho Ngô Sở Sở ở cấm địa Tề môn.

Chu Phỉ: "Người đó đâu rồi? Có chuyện gì?"

"Đang đợi cô ở phía trước, gấp lắm, xem ra là có chuyện quan trọng, cô mau lên!"

Rất nhanh, người ngủ không được không chỉ có Triệu Uyên.

Nhưng bất luận phàm nhân trằn trọc trở trăn thế nào, mặt trời vẫn nhô lên như thường lệ.

Sáng hôm sau, còn chưa quá canh tư, Kim Lăng liền trở nên bận bịu.

Trời vẫn còn tối đen, Tạ Doãn vừa nhắm mắt dưỡng thần vừa để mặc bọn hạ nhân loay hoay chải đầu rửa mặt.

Đột nhiên, cung nữ chải đầu cho Y kêu “á” một tiếng, quỳ phịch xuống: "Nô tỳ đáng chết!"

Tạ Doãn không cần nhìn cũng biết là xảy ra chuyện gì, Y đưa tay sờ sau gáy, quả nhiên sờ ra được vết máu, chắc chắn là da thịt đột nhiên bị nứt, dọa tiểu cô nương, Y nhẹ nhàng khoát tay: "Không sao, cứ chải tiếp đi, lát nữa hết chảy máu thì tìm thứ gì đó che lại giúp ta."

Đúng lúc Triệu Uyên vừa bước một chân qua ngưỡng cửa, bước chân dừng lại.

Triệu Uyên biết Tạ Doãn chính là Thiên Tuế Ưu, cũng từng nghi ngờ “Bạch cốt truyện” là do Y làm, nhưng nếu là như vậy, vì sao Y dám dửng dưng ký tên?

Huống hồ với tình hình trước mắt của Y, cả Thái y viện đều bó tay hết cách, từ đầu đến chân đều viết bốn chữ “không sống lâu nữa”, lẽ nào Y còn có thể mưu đồ gì?

Tạ Doãn điềm nhiên hành lễ vấn an ông, nói: "Bệ hạ, hôm nay ngài sắc phong thái tử, nếu ngày mai thái tử chết, liệu người ta có nói là vị trí này quá quý, mệnh cách không đủ cứng sẽ không trấn áp được không nhỉ? Vậy sau này không ai dám làm thái tử cho ngài nữa rồi."

Y thậm chí còn không xưng hô “hoàng thúc” như năm xưa nữa.

Sắc mặt Triệu Uyên thay đổi mấy lần, bỗng nhiên nói: "Minh Doãn, con có tâm nguyện gì?"

Tạ Doãn hỏi một đằng đáp một nẻo: "Lương tướng năm xưa có tâm nguyện gì?"

Triệu Uyên trầm mặc rất lâu, nói: "Lương khanh hi vọng thiên hạ thái bình, nam bắc nhất thống, có người có thể kế thừa di chí của Lương khanh và tiên đế, đừng vì kết cục năm xưa thảm khốc mà chùn bước."

Tạ Doãn nghe vậy gật đầu: "Xem ra bệ hạ đều làm được rồi."

Vẻ mặt Triệu Uyên vẫn vô cùng căng thẳng như cũ.

"Con quả thực có nguyện vọng." Tạ Doãn cho lui đám hạ nhân vây quanh, cung kính khom người với Triệu Uyên.

"Con mong bệ hạ có thể có thủy có chung, đừng quên trái tim thuở đầu, đừng phụ lòng Lương công nhiều năm phò tá; cũng mong bạn bè thân thích và người trong tâm khảm đều bình an đến già, sống lâu trăm tuổi; còn về “màu trời” hay “nước biển”, đều đã do người thích hợp bảo quản cả rồi."

Câu cuối cùng đặc biệt đòi mạng.

Lời Tạ Doãn vừa ngưng, Y lại nói: "Đâm lao theo lao, chưa chắc là không thể, thiên tử có ánh sáng tử vi hộ thể, hà tất để ý bạch cốt yêu ma nho nhỏ?"

Triệu Uyên không thốt nên lời.

"Nguyện bệ hạ thiên thu vạn đại." Tạ Doãn ngẩng đầu cười với ông ta: "Thời gian sắp đến rồi, hoàng thúc, chúng ta đi thôi."

Chương 165: Đột Ngột

Tạ Doãn mới đầu còn tưởng chỉ là trời chưa tỏ, nhưng hóa ra là vẫn chưa sáng.

Mộc Tiểu Kiều và Nghê Thường phu nhân phiêu bạt lúc ẩn lúc hiện hát “Bạch cốt truyện” mới ra, sau đó lại bồng bềnh rời đi, để lại cho cấm vệ kinh thành một vấn đề hóc búa. Tuy được một câu của Tạ Doãn “đâm lao theo lao chưa chắc là không thể” bảo đảm, nhưng Triệu Uyên vẫn sai người giới nghiêm, như bước đi trên băng mỏng.

Tạ Doãn mặc lễ phục rườm rà, cảm giác vết nứt trên cổ sắp bị mũ miện ép toác ra, may mà lúc này tốc độ chảy máu của Y cực chậm, chỉ một lát là đông lại, Y ở một bên thờ ơ lạnh nhạt nhìn Triệu Uyên tế cáo tổ tiên.

Nghi thức vừa chán vừa dài, Y nghe mà buồn ngủ, không nhịn được nghĩ, nếu tiên đế trên trời thật sự có linh, e là bị lải nhải tới phiền.

Mùa đông Kim Lăng ẩm ướt mà âm u lạnh lẽo, tuy không có gió tây giá buốt như cố đô nhưng cũng không hề dễ chịu, qua không lâu lại có một cơn tuyết nhỏ như rắc muối, văn võ bá quan mỗi người mỗi ý đồ riêng ai nấy đều bị lạnh run cầm cập, bên cạnh là Triệu Minh Sâm dẫn một đám hoàng tử lớn nhỏ xếp hàng chỉnh tề, vô tình bắt gặp ánh mắt Tạ Doãn, lập tức liền dời đi.

Tạ Doãn lười đoán đệ ấy đang nghĩ gì, Tạ Doãn không giống người khác, tuyết rơi lên người Y không hề bị tan, nhanh chóng đóng một lớp mỏng, Y đã không còn cảm giác được nóng lạnh, cảm thấy tim đập càng lúc càng chậm, lòng xuất thần lan man, nhẩm tính thời gian của mình, nghĩ --- E đời này mình không về được cố đô rồi.

Chợt Triệu Uyên kéo Y.

Tạ Doãn hoàn hồn, phát hiện đã tới khâu này, Y cảm thấy chân hơi tê, khó khăn lắm mới vững bước bước về trước mấy bước, thuận thế quỳ xuống.

Triệu Uyên nhìn Y sâu sắc, lớn tiếng nói: "Hoàng huynh của trẫm năm xưa bị kẻ gian hãm hại, thân nhân ly tán, trẫm trẻ người non dạ, nhận nhiệm vụ lúc nguy nan …"

Tạ Doãn mặt không đổi sắc lắng nghe, nhìn cấm vệ đông nghịt, thầm nghĩ --- Nơi thế này e là A Phỉ không tới được, cũng tốt, cho nàng khỏi thấy bộ dạng ngốc nghếch của mình.

"Lo liệu quốc chính hơn 20 năm, thức khuya dậy sớm, hoảng hốt lo âu …"

Một cảm giác khó tả dâng lên trong ngực Tạ Doãn, đầu tiên là tê ngứa, qua một lát Y mới phản ứng lại, đó là cảm giác nhoi nhói như kim châm, từ từ lan khắp toàn thân dưới trang phục hoa lệ, trước mắt Tạ Doãn hơi mơ hồ.

"Trẫm vì đức mỏng, không dám tham quyền luyến vị, muốn phó thác cơ đồ to lớn cho hiền điệt của tiên hoàng huynh, tuân thiên tự, cung cảnh mệnh … (*)"

(*) Thiên tự: thế hệ đế vương theo thứ tự của trời cao an bài, thứ tự của tự nhiên; cảnh mệnh: thiên mệnh khi trao vị trí đế vương.

Tạ Doãn chậm rãi thả tia chân khí cuối cùng trong khí hải phảng phất như còn mang chút hơi ấm dư âm, đưa nó đi khắp kinh mạch héo mòn có còn hơn không, lòng tìm vui trong đau khổ --- Nếu mình chết ở đây là bệ hạ đẹp mặt, may mà sáng sớm đã đưa Hi Vi ra ngoài cho A Phỉ rồi.

"Khâm thử."

Tạ Doãn hơi ngước mắt, vụn tuyết đọng dưới mí mắt Y rơi xuống, lướt qua sống mũi, đổ ào ào vào trong vạt áo cũng lạnh băng của Y.

"Thần…" Tạ Doãn nặng nề cử động cổ họng mình: "Thần không dám phụng chiếu."

Lời này vừa thốt, Tạ Doãn không biết mình ù tai nghe không rõ hay đám người ngốc nghếch bên cạnh không ngờ tới đáp án này mà đều sững sờ, tóm lại là bốn bề yên tĩnh, nghe được cả tiếng kim rơi, một cơn gió lạnh lẽo từ trên tế đàn trời đất cao cao quét xuống, Tạ Doãn bình tĩnh như trái tim lúc lên lúc xuống của Y, thong thả điềm tĩnh nói: "Thần phụ kỳ vọng của thúc phụ tổ tiên, văn không thành võ không đạt, tài hoa không đủ, đức hạnh không đoan chính, lục nghệ không thông, thân thể không khỏe mạnh, sợ …"

Triệu Uyên chợt quát: "Minh Doãn!"

"Sợ không có tướng phúc trạch thâm hậu." Tạ Doãn ngó lơ, từ từ nói nốt lời của mình, tiếp đó ngẩng đầu: "Thần…"

Đúng lúc này, đột nhiên có người hừ lạnh ngắt lời Tạ Doãn.

Âm thanh kia dường như cách rất xa, lại dường như ngay sát bên tai, khàn khàn như trong cổ có hai mảnh sắt gỉ sét.

Tim Triệu Uyên đập mạnh, ngẩng phắt đầu nhìn, thấy xa xa có một người như bóng ma lay động trên lọng ngự liễn cao cao, người đó chỉ điểm nhẹ mũi chân trên lọng cao trượng tám, toàn thân bọc trong hắc y, áo bào rộng lớn phần phật bay theo gió.

Tất cả cấm vệ đồng loạt căng thẳng, không ai biết người này đến từ lúc nào, lên trên đó khi nào! Thống lĩnh áo đen ép giọng: "Bắt."

Cấm vệ tiến thoái không tiếng động, kỷ luật nghiêm minh, chữ “bắt” chưa rơi xuống đất, tất cả cung tiễn thủ đã xoay người vào vị trí, bốn tiểu đội đồng thời bao vây lại, mũi tên thứ nhất vút qua nền trời đêm mờ mờ. “Bóng ma” kia chuyển động!

Hắn ta như đám mây đen từ trên lọng cao khoan thai hạ xuống, ống tay áo vung ra như đẩy một bức tường vô hình, ngăn mũi tên và cấm vệ như thủy triều lại, miệng cao giọng rít lên, không ít quan văn bình thường thân thể chẳng ra sao lập tức bị âm thanh kia làm váng đầu hoa mắt, nhất thời không đứng vững được.

Một thị vệ tiến lên hai bước, đỡ lấy Triệu Uyên: "Hoàng thượng, xin di giá trước!"

Bóng ma kia lên tiếng, giọng khàn khàn u ám nói rõ từng chữ: "Các ngươi tưởng người xuôi nam quay về thật là hoàng đế của các ngươi ư? Ha ha ha, nực cười, chết rồi sao không thử hỏi Sơn Xuyên kiếm, vì sao bị diệt khẩu?"

Toàn thân Triệu Uyên chấn động, giống như bị người khác cưỡng chế nhổ cái vảy ngược đi, mặt lập tức xanh trắng.

Một bàn tay lạnh lẽo khẽ nắm khuỷu tay ông, có thứ gì đó lướt qua khóe mắt, ông chợt quay đầu thấy đó là thân vương, mũ miện nặng nề bay ngang ra ngoài, đánh vào đùi “bóng ma” một cách cực kỳ xảo quyệt, đánh hắn ta rớt xuống từ giữa không trung!

Tạ Doãn thở nhẹ ra một làn hơi trắng, đẩy Triệu Uyên tới thị vệ phía sau: "Kẻ điên nói bậy bạ mê hoặc người khác."

“Bóng ma” vừa tiếp đất, lập tức rơi vào giữa vòng vây cấm vệ, thương trận lập tức áp tới, “bóng ma” lảo đảo hai bước, mũ trùm đầu rơi xuống, lộ ra một gương mặt khô quắt đáng sợ!

Tất cả da thịt hắn ta đều dính chặt vào đầu, cánh môi khô nứt lộ dấu vết hàm răng, mạch máu và kinh mạch xanh tím như bò sát đóng dưới lớp da mỏng gần như trong suốt, đáng sợ nhất là, ngay cái cổ mảnh như thể một tay là có thể nắm chặt có hình dáng một con sâu to cỡ bàn tay lồi ra từ dưới da!

Tạ Doãn thở dài, cách đám đông trùng điệp, kêu lên rất khẽ: "Ân Bái."

Mấy thị vệ xông lên: "Điện hạ, xin mau mau rời khỏi chốn thị phi!"

Ân Bái cười to sang sảng: "Đã gọi là “Niết Bàn” thì sao chết dưới tay phàm nhân các ngươi được, ta vẫn là người đứng đầu độc bộ thiên hạ!"

Tạ Doãn dịch một bước nhưng hơi lảo đảo, dường như lúc nãy đánh Ân Bái đã tiêu hao hết sức lực toàn thân Y, được thị vệ cuống quít đỡ: "Điện hạ!"

Ân Bái vừa ló mặt là giống như trời giáng đại yêu quái, dọa cho hiện trường hỗn loạn, Triệu Uyên vừa được thị vệ vây quanh đưa đi, vừa lớn tiếng quát bảo họ chăm sóc Tạ Doãn.

Tạ Doãn cảm thấy dở khóc dở cười, không biết tại sao, Y không bao giờ phân biệt được chân tình và giả ý của bệ hạ.

Giữa lòng người và lòng người, cách xa thiên sơn vạn thủy vậy ư?

"Không cần sợ." Tạ Doãn nói rất nhỏ: "Con nói đâm lao theo lao, thì chính là đâm lao theo lao."

Thị vệ đỡ Y không nghe rõ: "Điện hạ?"

Tạ Doãn khẽ khoát tay, tự mình đứng vững, gắng gượng một hơi: "Bảo vệ hoàng thượng."

Cùng lúc đó, ở một nơi trên lầu cao, Tào Ninh nghe một tên áo đen Bắc Đẩu tiến lên rỉ tai, chợt cười nói: "Sao lại là hắn? Ôi, ta luôn cho rằng ta sinh không gặp thời, hóa ra phong thủy thay đổi, Triệu Uyên cũng có ngày hôm nay. Nói với Thẩm tiên sinh, thời cơ không thể mất, không cần quan tâm kế hoạch ban đầu, thấy sao tiện thì làm."

Tên áo đen gật đầu, dán vào mặt tường trượt xuống như một cái bóng, chớp mắt liền mất dạng.

Triệu Uyên từ khi kế vị tới nay chưa từng chật vật như vậy, trong lúc bước chân hốt hoảng, ông mơ hồ sinh ra ảo giác, phảng phất như lại quay về trên con đường chạy trốn hơn 20 năm trước.

Ông quên cố hương mình, chỉ nhớ từ nhỏ được nuôi trong phủ một vị quan nhỏ bé vô danh ở kinh thành dưới thời Vĩnh Bình, xét bối phận thì vị quan nhỏ ấy là thúc thúc bà con xa của ông, có tiểu nữ nhi gả vào cung làm thứ phi không được sủng ái. Phụ mẫu ông đều mất, bị thân thích đùn đẩy tới lui, vì tướng mạo ông có vài phần tương tự với tiểu hoàng tử của nương nương nên được vị thúc thúc ấy nhận về nuôi dưỡng, muốn để ông làm bạn chơi với tiểu hoàng tử.

Nhưng tiểu hoàng tử yếu ớt nhiều bệnh hình như không cần một người bạn chơi ở ngoài cung, ông chỉ từng gặp mặt vị điện hạ ấy một lần, vốn tưởng rằng cả đời này mình phải học hành tử tế, thi lấy công danh, dựa dẫm vào chút hoàng thân xa xôi ấy để tương lai được ít chiếu cố không đáng kể. Ngờ đâu một khi phong vân biến chuyển, ông ngơ ngơ ngác ngác được người khác chưng diện sửa soạn rồi đẩy lên đường xuôi nam.

Người nào người nấy đều xưng ông là “điện hạ”, cung kính với ông, chỉ có ông là sợ muốn chết, cực kỳ nhạy cảm ý thức được rằng mình là một tấm bia sống.

Dọc đường đi, nơi nơi đều là người chết, vô số lần ông bị đánh thức khỏi cơn mơ, co rúm lại trong ánh đao bóng kiếm, khẩn cầu trời cao cho ông chút may mắn, để ông có thể sống thêm một ngày …

"Thích khách! Bảo vệ hoàng thượng!"

Tiếng kêu sợ hãi chợt kéo căng thần kinh Triệu Uyên, ông chợt hoàn hồn, thấy có hai kẻ áo đen không biết từ đâu xuất hiện, lao vào giữa thị vệ.

"Bắc Đẩu! Là Bắc Đẩu!"

"Bảo vệ hoàng thượng!"

Vô số đôi tay xung quanh ông đẩy tới đẩy lui, cửu ngũ chí tôn thành “hoa” trong trò chơi đánh trống chuyền hoa, Triệu Uyên khác với Tạ Doãn học nghệ ở Đông Hải từ nhỏ, tuy ông cũng có sư phụ dạy võ nhưng chẳng qua chỉ học thứ công phu rèn luyện sức khỏe kiểu như cưỡi ngựa bắn cung mà thôi. Ông lảo đảo, lòng chợt dâng lên chút mờ mịt, thầm nghĩ --- Tại sao là hôm nay? Vì ta không phải chính thống, cho nên “tế tổ” bừa sẽ gặp báo ứng ư?

"Hoàng thượng, di giá qua bên này!" Trong cơn hỗn loạn, không biết là ai kéo ông, che chở ông thoát khỏi đao kiếm của bọn áo đen Bắc Đẩu thế tới hung hăng. Đều là cấm vệ như nhau, Triệu Uyên không nghi ngờ gì, bất giác đi theo.

...............

Tối hôm qua Chu Phỉ ở trạm ngầm đợi được Ưng Hà Tòng phong trần mệt mỏi tới, đầu tiên là thình lình bị Y đổ đầy tai về mật thư của cấm địa Tề môn và đủ loại suy đoán, đầu như to ra không chỉ ba vòng, bệnh cũ mù đường suýt tái phát ngay tại chỗ, đến khi nghe đoạn Ân Bái thì như sét đánh, bật hỏi: "Gì? Ân Bái? Hắn ta chưa chết? Hắn ta cướp con sâu chết đó làm gì? Lẽ nào hắn ta có thể phục sinh Niết Bàn cổ mẫu?"

Hỏi Ưng Hà Tòng thì gì cũng không biết, nhưng Chu Phỉ lập tức không ngồi yên được, mới đầu còn miễn cưỡng lý trí, ngờ đâu nửa đêm canh ba có một cung nhân tự dưng đưa tới một thanh trường đao.

Chu Phỉ cầm thanh đao khắc chữ “Hi Vi” ngẩn người hồi lâu, đột nhiên như bị điên, giục Ưng Hà Tòng ra ngoài ngay trong đêm, đi khắp nơi tìm Ân Bái không biết trốn nơi nào. Nàng còn nghĩ ra một ý tưởng dở hơi: trên người Ân Bái có thứ gì đó không biết, mà thứ đó khiến tất cả sâu rắn nhường bước tránh lui, vậy chi bằng bảo Ưng Hà Tòng dẫn nàng đi thả rắn, vì rắn của Độc lang trung rất nghe lời, bảo chạy đâu là chạy đó, nếu tới chỗ nào mà bầy rắn nổi điên thì chỗ đó chắc chắn có tung tích của Ân Bái.

Ưng Hà Tòng nghe ý tưởng “tuyệt diệu” này, cho rằng cô nàng họ Chu e bị bệnh không nhẹ, nhưng Y đánh không lại nàng, chỉ đành khuất phục.

Hai người họ tìm từ nửa đêm tới hừng đông như mò kim đáy biển, tìm mãi trong giờ giới nghiêm của cấm vệ nên còn phải lén la lén lút, nhưng không tìm được cọng lông nào của Ân Bái.

Chu Phỉ nóng nảy ép hỏi Ưng Hà Tòng:
"Thằng oắt Lý Thịnh kia nói đúng không đó?"

Đột nhiên, họ thấy rất nhiều cấm vệ quân mặc giáp đen như lâm đại địch chạy về hướng tế đàn trời đất ở thành nam.

Chương 166: Sao Dời

Gió tuyết càng mạnh hơn ban nãy, Tạ Doãn nghe tiếng rít lung tung rất có lực xuyên thấu của gã điên Ân Bái, lòng chán nản vô vị, Y muốn bỏ lại đám người này để đi gặp Chu Phỉ, nếu còn không gặp thì Y sẽ đi không nổi nữa mất.

Khinh công của Y độc bộ thiên hạ, được xưng Phong Quá Vô Ngân, nếu ngòi bút của Ngô cô nương đủ công chính thì khinh công kinh diễm nhất võ lâm Trung Nguyên trăm năm nay ắt có một chỗ cho Y. Nhưng bây giờ Y chỉ có thể dùng nó để né tránh đám người dư thừa này, ban nãy sau khi lướt khỏi đám đông trong tiếng hô kinh sợ, Y không còn sức đâu để “đằng vân giá vụ” nữa, chỉ có thể nép vào tường bước từng bước một, cố sức lết đôi chân nhích về phía trước.

Đột nhiên, không biết từ đâu truyền tới một tiếng rống: "Cẩu hoàng đế chết rồi!"

Tạ Doãn sững sờ, Y hít sâu một hơi, áp trán vào tường đá, lại hít sâu một hơi nữa, đầu ngón tay nứt nẻ trở nên vô cùng thê thảm.

Không đúng. --- Tạ Doãn thầm nhủ --- Ân Bái là bất ngờ, nhưng những người khác là có mưu đồ trước.

Chu tiên sinh chỉ còn cách cố đô trong gang tấc, hai thế hệ vất vả tranh đấu, vô số người xả thân, từ bỏ tên tuổi mới đi đến bước ngày hôm nay …

Y chết không đáng tiếc, nhưng sao có thể nhìn họ sắp thành lại bại?

Toàn thân Y đang run rẩy, máu chảy nhanh chóng bị đông, để lại vết tay máu trên tường đá xám xanh, tiếp đó Y nắm chặt ngón tay máu me đầm đìa, xoay người vút về phía âm thanh trong sương tuyết bay lả tả.

Lúc Triệu Uyên nhận ra điều bất thường thì đã muộn.

Cấm vệ bên cạnh ông càng lúc càng ít, một “cấm vệ” luôn theo bên cạnh thình lình giơ đao chém về phía lưng ông, nháy mắt không biết Triệu Uyên lấy đâu ra sức, bất ngờ lao về trước với tư thế bất nhã, tránh được một đao trí mạng, quát: "To gan!"

“Thị vệ” ấy cười khẽ, từ từ nhấc ống tay áo lên, lộ ra ký hiệu Bắc Đẩu.

“Đồng bọn” đột nhiên phản bội, bảy tám thị vệ còn lại bên cạnh Triệu Uyên vội vây lại thành vòng, bảo vệ hoàng đế ở giữa, kẻ áo đen Bắc Đẩu kia đột nhiên cười, một tràng tiếng bước chân truyền đến, có người cười nói: "Tham kiến bệ hạ, bệ hạ, chúng ta đã hơn 20 năm không gặp nhau rồi nhỉ?"

Đầu Triệu Uyên ong lên.

Cuối hẻm nhỏ, một bộ y phục đỏ chói mắt hiện ra, người tới nhẹ nhàng cười nói: "Bắc Đẩu Vũ Khúc Đồng Khai Dương tham kiến bệ hạ."

Triệu Uyên cắn răng, bò dậy từ dưới đất, tự mình đứng vững rồi lạnh lùng hỏi: "Tào Ninh đâu?"

Đồng Khai Dương cười nói: "Sao, bệ hạ muốn ôn chuyện để câu giờ, đợi người tới cứu à? Vậy thì chúng tôi …"

Nói tới đây, hắn ta đã đến gần ngay trước mặt, Triệu Uyên căn bản ngay cả bóng người cũng chưa nhìn rõ thì một cấm vệ đã đầu mình hai ngả ngay trước mắt, dòng máu còn mang hơi ấm bắn lên người lên mặt Triệu Uyên, mùi tanh ập tới, Triệu Uyên cả kinh lùi về sau một bước, lưng đụng vào tường.

Đồng Khai Dương vung giọt máu trên thanh trọng kiếm, cười gằn: "… quá lỗ rồi."

Những cấm vệ này tuy đều là trong trăm người chọn một nhưng há là đối thủ của Đồng Khai Dương, chỉ trong thời gian hai câu nói là đều biến thành thi thể, lúc này dù Triệu Uyên có tài kinh thiên vĩ địa thế nào cũng không nhịn được cảm giác mình đã đến bước đường cùng.

Đồng Khai Dương rất muốn thưởng thức bộ dạng sợ hãi mà cố nhịn của Triệu Uyên thêm một lát, nhưng cũng biết rõ Triệu Uyên giảo hoạt, để phòng đêm dài lắm mộng, hắn ta không nói tiếng nào, giơ kiếm đâm thẳng về phía cái cổ yếu ớt bằng phẳng của người đàn ông kia.

Triệu Uyên không nhịn được nhắm mắt lại.

Đúng lúc này, một cơn gió cực nhỏ lướt qua, mặt Triệu Uyên như bị giáng một bạt tai, bị cơn gió lướt qua ấy làm đau rát. Ông giật mình, chợt ngước mắt nhìn, trọng kiếm của Đồng Khai Dương bị khối băng nhỏ làm lệch đi!

Đồng Khai Dương bỗng xoay người, thấy trên tường trong hẻm nhỏ có một người không biết đã đứng đó từ khi nào, phảng phất như một cơn gió thổi qua là có thể rơi xuống, bộ hoa phục long trọng ướt đẫm kéo dài trên đất, mũ cài tóc đã bị ném mất lúc đánh Ân Bái, tóc tai hỗn loạn, trên người phủ một lớp tuyết mịn bất kể thế nào cũng không tan được, như một mảng trắng lốm đốm … nhưng toàn thân Y vẫn như một công tử văn nhã ngồi ngay ngắn thổi sáo trên lầu cao mặc kệ gió mát thổi qua.

Con ngươi Đồng Khai Dương co lại, hơi khựng rồi mới thận trọng gọi: "Tạ công tử? Hay Đoan vương … thái tử điện hạ?"

Tạ Doãn cảm giác từng chút từng chút sức của mình đều bị ép ra từ trong xương, bởi vậy không dám lãng phí, chỉ hơi mỉm cười nhìn hắn ta.

Con ngươi Đồng Khai Dương xoay chuyển, nói: "Sao thế, ta giết ông ta, chẳng phải điện hạ vừa hay có thể danh chính ngôn thuận đăng cơ sao? Bắc triều sắp đổ, Bắc Đẩu nổi điên ám sát Nam đế … nghe có gì không thích hợp với ngài đâu?"

Môi Triệu Uyên cử động, dường như muốn gọi một tiếng “Minh Doãn”, nhưng không biết sao lại không thốt nên lời.

Đồng Khai Dương cười nói: "Ta đang giúp ngài đấy, điện hạ, chẳng lẽ ngài vẫn muốn ngăn ta ư?"

Nụ cười của Tạ Doãn hơi lớn, đôi môi tái nhợt như nhuốm chút màu máu, Y hơi nghiêng người, bỏ đi cái áo khoác ngoài với tay áo rộng rườm rà trên người, nhẹ nhàng ngồi trên đầu tường, nói với Đồng Khai Dương: "Ngươi cứ thử xem."

Người này nhìn kiểu gì cũng giống con ma bệnh, ngồi trên tường như có thể bị gió tuyết cuốn đi bất cứ lúc nào, ngón tay nứt nẻ không rõ nguyên nhân, mu bàn tay máu me đầm đìa bị Y trây trét bừa lên cổ tay áo trắng, toàn thân lộ vẻ yếu ớt gần đất xa trời.

Nhưng câu “thử xem” của Y vừa dứt, Đồng Khai Dương lại không dám di chuyển.

Hai người một ngồi một đứng, cứ thế giằng co nhau.

Không biết qua bao lâu, hoa tuyết rơi trên đầu Tạ Doãn biến mái tóc dài của Y từ “lốm đốm” thành “trắng xóa”, Đồng Khai Dương suýt nghi ngờ Y đã bị đóng băng.

Đột nhiên, một tiếng còi dài từ xa vọng tới.

Là quân hiệu!

Có tiếng người truyền đi theo gió: "…Vào thành!"

"Quân Dương Châu vào thành rồi!"

Con ngươi Tạ Doãn khẽ chuyển động, sắc mặt Đồng Khai Dương chợt thay đổi. Trước mắt đang là thời chiến, Triệu Uyên không thể vì một lần tế tổ mà điều động quân đội địa phương, người có thể tự ý làm chủ việc này tất nhiên là Chu Tồn!

Lần hành động này của họ bị lộ rồi!

Kế tiếp, tiếng bước chân trật tự đều đặn truyền đến, Đồng Khai Dương vô thức nắm chặt thanh trọng kiếm trong tay, hét lớn một tiếng, lao ra. Thấy hắn ta muốn chạy, Tạ Doãn cũng không ngăn cản.

Ai ngờ bước chân hắn ta vừa trượt đi thì tiếng hét thảm vang lên, tiếng bước chân chỉnh tề trong hẻm nhỏ hỗn loạn, tiếng la giết chỉ ồn ào chốc lát rồi im bặt, sau đó “phịch” một tiếng, xác một cấm vệ bị ném vào. Đồng Khai Dương đầu tiên sững sờ, sau đó thấy người tới thì mừng rỡ: "Đại ca!"

Thẩm Thiên Khu cụt tay từ từ bước tới.

Tạ Doãn lặng lẽ thở dài, đối mắt với Triệu Uyên. Làm hết sức người nhưng vẫn phải nghe theo mệnh trời, xem ra khí số đã tận thật rồi.

Trên người Thẩm Thiên Khu không có chút hơi nước nào, bất kể là vụn tuyết hay nước mưa dường như đều tự động tránh ông ta ra, ông ta đứng đó, mặt đất cũng phải quỳ bái cúi mình dưới chân.

Thẩm Thiên Khu lạnh lùng liếc Đồng Khai Dương: "Phế vật."

Lời còn chưa dứt, bóng ông ta đã đến trước mặt Triệu Uyên, lần này Triệu Uyên đúng là ngay cả cơ hội hoảng sợ cũng không có.

Tạ Doãn vốn cho rằng mình kéo thân thể tàn tạ này tới đây, phát huy chút sức tàn lực kiệt giả làm người rơm dọa “quạ” mà thôi, vạn lần không ngờ mình phải đích thân ra tay, Y bị ép từ trên tường vút xuống, cắn lưỡi mình, dồn tu vi cả đời vào một chưởng Thôi Vân hoàn chỉnh, cái chân tê dại không còn sức nữa. Y đánh Thẩm Thiên Khu một chưởng từ xa, mình thì khuỵu luôn dưới đất.

Dù là lúc đèn cạn dầu thì Thôi Vân chưởng cũng không tầm thường, Thẩm Thiên Khu bị ép nghiêng người dịch đi hai bước, tóc chậm rãi tung bay, vừa nhìn liền biết Tạ Doãn chỉ là nỏ mạnh hết đà, lập tức mỉm cười, nhẹ nhàng nói: "Đáng tiếc."

Mắt Đồng Khai Dương sáng lên, không chần chừ nữa, trọng kiếm tiến về phía lưng Tạ Doãn. Thẩm Thiên Khu dời mắt qua hướng khác, lao tới cổ Triệu Uyên.

Đúng lúc này, ánh đao cực sáng lóe lên, nhắm thẳng vào con ngươi Thẩm Thiên Khu.

Khóe mắt Thẩm Thiên Khu nhảy lên, ông ta chợt rút tay về, đồng thời, Đồng Khai Dương cảm thấy kiếm mình chém vào người Tạ Doãn mà như chém vào thứ gì đó rất cứng, mũi kiếm sượt qua rồi trượt đi, ngay cả một sợi tóc cũng không thương tổn được!

Hóa ra trong nháy mắt, có người ném một chiếc nhuyễn giáp trắng bạc vào giữa Đồng Khai Dương và Tạ Doãn, nhuyễn giáp đó không biết làm từ vật gì, vô cùng tà môn, vừa khít dán vào sau lưng Tạ Doãn, giúp Y cản một chiêu kiếm.

Tạ Doãn cũng không chống đỡ nổi nữa, tư thế nửa quỳ ngã ập sang một bên, lặng lẽ kêu: A Phỉ.

Chu Phỉ mặt không cảm xúc giơ ngang Hi Vi, tim đập điên cuồng.

Nếu nàng tới muộn một chút, chỉ một chút thôi …

Thẩm Thiên Khu trước mắt … quả thực rất khác với Thẩm Thiên Khu năm đó ở cùng nàng trong sơn cốc Mộc Tiểu Kiều, thậm chí là Thẩm Thiên Khu nàng gặp trong thành Hoa Dung. Trường đao trong tay nàng gần như run rẩy, đó là chiến ý chỉ bị ép ra khi đối diện với kẻ địch sinh tử, không cách nào diễn tả.

Đã thế bên cạnh còn có một Đồng Khai Dương luôn nhìn chằm chằm.

Chu Phỉ gần như có thể đếm được tiếng hít thở của bản thân, từ khi sinh ra tới nay, lần đầu tiên nàng hối hận vì mình đùa chém gió hơi quá trớn, còn nói gì mà “đạp lên Bắc Đẩu, thiên hạ đệ nhất”.

Quả thực giống như đang tự tạo nghiệt trong vận mệnh.

Thẩm Thiên Khu nheo mắt đánh giá nàng rất lâu, nhận ra nàng: "Là ngươi!"

Tuy Chu Phỉ lòng như lửa đốt nhưng đã quyết định thua người không thua trận, nghe vậy chỉ cười lạnh chứ không lên tiếng.

Đồng Khai Dương nói: "Đại ca, nha đầu này nhiều lần phá hỏng chuyện tốt của chúng ta, không thể giữ ả lại, huynh và đệ liên …"

Thẩm Thiên Khu chợt khoát tay ngắt lời hắn ta.

"Tránh ra." Tham Lang lạnh lùng nói.

Giữa tuyệt đỉnh cao thủ luôn có sự cảm ứng không nói rõ được, Thẩm Thiên Khu vất vả tu luyện nhiều năm sau cánh cửa trong tiểu viện, đã bước nửa bước vào cảnh giới võ si, niềm hối hận lớn nhất trong đời là luyện thành thần công muộn, năm xưa không thể đường đường chính chính phân cao thấp cùng cao thủ đẳng cấp hàng đầu cuối cùng là Đoàn Cửu Nương, tới nỗi trước mắt thiên hạ to lớn nhưng không biết đi đâu tìm đối thủ. Lúc này vừa gặp Chu Phỉ, ông ta lập tức quăng hết Tào Ninh hay ám sát Nam đế ra sau ót.

"Phá Tuyết đao?" Thẩm Thiên Khu hỏi, thấy Chu Phỉ gật đầu, gương mặt quanh năm không cảm xúc của ông ta lộ chút ý cười: "Được, năm xưa vì nửa cái bánh bao mà giữ lại mạng cho ngươi, là vận may của ta."

Đồng Khai Dương vội nói: "Đại ca, chúng ta còn …"

Thẩm Thiên Khu: "Cút."

Lời ông ta chưa dứt, Kỳ Bộ dưới chân đã trở nên ác liệt, trước tiên ông ta tung một chưởng không phân địch ta đẩy Đồng Khai Dương ra, sau đó không biến chiêu mà trực tiếp quét về phía Chu Phỉ.

Nội lực hùng hậu gần như đạt đến mức tự nhiên và đao Vô Thường đánh giáp lá cà.

Ngân hà như thác đổ va vào cơn gió Bất Chu phiêu diêu bất định nhất, xoay chuyển giữa khô vinh, sáng tắt không ngừng.

Ngực Triệu Uyên nghẹt thở, bị hai đại cao thủ tác động trong con hẻm nhỏ hẹp, không chịu nổi nữa, ngất đi.

Đồng Khai Dương phiền muộn vì bệnh cao thủ không đúng lúc của Thẩm Thiên Khu, sau khi chật vật lảo đảo đứng vững thì thầm nhủ --- Muốn đánh tới kiếp nào chứ? Lão rùa làm hỏng việc này!

Thấy quân Dương Châu đã vào thành, nếu họ không thể tốc chiến tốc thắng giết Triệu Uyên thì chỉ có một con đường chết, Đồng Khai Dương xem xét thời thế mà quyết đoán, nhắm chuẩn thời cơ, ngay lúc Chu Phỉ và Thẩm Thiên Khu tách ra, hắn ta quả quyết vung trọng kiếm đánh lén qua.

Chu Phỉ bị Thẩm Thiên Khu hất ra nửa vòng, đang hướng về trước theo quán tính, không ngờ còn có vụ này, nhất thời không thắng được, vừa vặn lao vào mũi kiếm hắn ta, muốn tránh đã không còn kịp!

Thẩm Thiên Khu giận dữ gầm lên một tiếng.

Tạ Doãn trừng mắt sắp nứt nhưng Y đã kiệt sức, dùng hết toàn lực cũng không thể di chuyển một tấc nào, ói ra một ngụm máu, đám rêu xanh dở sống dở chết nơi góc tường bị nhuộm đỏ một mảng.

Thình lình một dải lụa dài xuất hiện cuốn lấy eo Chu Phỉ, nháy mắt kéo nàng về sau hai bước, vạt áo trước của nàng rách một vệt dài khoảng nửa tấc.

Chu Phỉ lùi về sau liên tiếp ba bước mới đứng vững, nghe người tới dịu dàng nói: "Ơ kẻ không biết xấu hổ kia, đại ca ngươi bảo ngươi cút mà ngươi còn ì ra đó."

Chu Phỉ ngẩng phắt đầu, là Nghê Thường phu nhân!

Người còn lại nói: "Ta không muốn cứu tên hoàng đế vứt đi này, các ngươi cứ đánh, ta xem náo nhiệt thôi."

Chu Phỉ: "Chu Tước chúa."

Mộc Tiểu Kiều hừ một tiếng, gảy gảy lúc có lúc không đàn tì bà trong tay.

Giọng người thứ ba nói: "Ta tới đây, đồ đỏ, ngươi dùng trọng kiếm, ta dùng đao, phụng bồi tới cùng."

Chu Phỉ: "… Cả Dương huynh nữa."

Dương Cẩn gật đầu với nàng, nói đơn giản: "Đám dược nông giúp gã nuôi rắn kia tìm Ân Bái rồi."

Bốn người chia bốn góc, cứ thế vây hai đại Bắc Đẩu lộng hành 20 năm vào giữa.

Chu Phỉ chợt quay đầu nhìn Tạ Doãn, trong mắt Tạ Doãn còn chút ánh sáng nhạt, khóe môi rướm máu nhưng mắt mỉm cười, im lặng cử động môi, dùng khẩu hình nói với nàng: Thiên hạ đệ nhất cho ta xem với.

Vành mắt Chu Phỉ thoắt đỏ.

Tiếng đao kiếm, tiếng tuyết rơi … đều bắt đầu xa dần, tầm mắt Tạ Doãn từ từ mờ đi.

Áo đỏ, Nghê Thường, đàn tỳ bà của đại ma đầu, gương mặt đen của tiểu ca Nam Cương … dần dần trong thế giới của Y trở nên tĩnh lặng.

Cuối cùng, chỉ còn lại ánh đao của Hi Vi.

Tạ Doãn thầm nhủ: 20 năm sau, ta đi tìm cô nhé …

Y đoán Chu Phỉ nghe được.

Chương 167: Từ Từ Quay Về

"Vốn tưởng chỉ qua đây phỉ nhổ cẩu hoàng đế một lần, không ngờ lại đuổi kịp hai vị đại lão xa xôi tới tìm chết." Nghê Thường phu nhân nói: "Lần này thật có thể có oán báo oán, có thù báo thù rồi."

Mộc Tiểu Kiều ở bên cạnh giễu cợt: "Lão thái bà, bà làm rùa rụt cổ hơn 20 năm, luyện ra đức hạnh này, phải dựa vào đám hậu bối mới dám ló đầu khoe chút uy phong, có tiền đồ lắm, nếu ta là bà, ta sớm đã đập đầu đi chết rồi."

Nghê Thường phu nhân liếc xéo, nhưng sợ gã điên này hễ mất hứng liền từ trợ thủ biến thành phá đám, nên bà nhịn không tranh hơn thua miệng lưỡi với hắn, đành trút giận lên người Đồng Khai Dương.

Thấy tình thế nghịch chuyển, Thẩm Thiên Khu hét dài một tiếng, không quan tâm Đồng Khai Dương bị ba người vây công, ông ta tung người lên bức tường, nơi giẫm qua trực tiếp hóa thành bột mịn, trên tường nháy mắt có nhiều thêm một dãy hố chỉnh tề.

Chu Phỉ theo sát phía sau, tuyết vụn yếu ớt của Giang Nam bị chân khí liên tiếp xung kích, đột ngột trở nên hung dữ, đánh vào tay Chu Phỉ, để lại miệng vết thương nhỏ li ti.

Động tĩnh phá nhà của họ cuối cùng cũng kinh động đến cấm vệ và quân Dương Châu, từ trên cao nhìn xuống là có thể thấy phần lớn quân đội đang chạy về phía này.

Thẩm Thiên Khu đứng trên đầu tường, nhìn Triệu Uyên hôn mê bất tỉnh rồi lại nhìn Chu Phỉ, chợt nói: "Mạng Triệu Uyên lớn thật."

Chu Phỉ nói: "Năm xưa ở cố đô, mẹ ta đại khái cũng từng cảm thán như vậy về Tào Trọng Côn."

Thẩm Thiên Khu nở nụ cười keo kiệt: "Ồ, nói vậy là phong thủy luân chuyển rồi?"

Chu Phỉ không đáp, nàng chĩa mũi đao Hi Vi xuống, làm một nghi thức mở đầu thông thường của vãn bối khi thỉnh giáo tiền bối: "Tiền bối, mời."

Thẩm Thiên Khu dùng ánh mắt kỳ lạ đánh giá Chu Phỉ, nàng rất đẹp không có gì nghi ngờ, cô nương trẻ tuổi đều không xấu vào đâu được, nhưng kỳ lạ là, nàng trông không phải dạng nữ tử đầy anh khí, ngũ quan có vài phần giống Chu Dĩ Đường, lại mang theo nét mềm mại tinh tế đặc trưng của nữ tử Thục Trung, rất có dáng mặt mày như họa, so với khi nàng tự dưng xông vào ngục tối của đại ma đầu mấy năm trước thì đã mất đi khí chất trẻ con, lúc nàng không nói tiếng nào cũng không động đao thì trầm mặc và điềm đạm.

Thẩm Thiên Khu cảm thấy mình nằm mơ cũng chẳng ngờ sẽ có một ngày, một nữ tử “trầm mặc và điềm đạm” như thế xách trường đao đứng trước mặt ông ta, còn cả gan ngông cuồng bảo ông ta xuất chiêu trước.

Thẩm Thiên Khu nói: "Lão hủ cả đời tự đắc với Kỳ Bộ trắng đen trùng điệp, 360 ý biến ảo… vốn tưởng rằng độc bộ thiên hạ, nào ngờ hôm nay gặp kỳ phùng địch thủ, may mắn thay."

Mũi đao Chu Phỉ không nhúc nhích.

Cổ tay áo Thẩm Thiên Khu phồng lên, không gió tự bay, mũi chân chậm rãi vẽ một vòng trên tường, bàn tay gầy gò duy nhất đưa ra trước người: "Có thể gạt những kẻ tạp nham, cùng người đồng đạo đường đường chính chính phân cao thấp, không uổng công ta ngồi khô khan nhiều năm như vậy."

Chu Phỉ thình lình nói: "Nghe nói Đoàn Cửu Nương chết dưới tay ông, nhưng ta không cảm thấy năm xưa ông có thể thắng được bà ấy."

Mặt Thẩm Thiên Khu không biến sắc: "Lúc đó ta là thủ lĩnh Bắc Đẩu, chức trách tại thân, đương nhiên có điều phải suy tính cân nhắc, không thể hoàn toàn tập trung vào đạo võ học, hồi tưởng lại, ta không thể dùng tuyệt kỹ để chiến một trận với tuyệt đỉnh cao thủ năm xưa, đến nay vẫn là điều tiếc nuối."

"Hay cho câu “tiếc nuối”." Chu Phỉ lạnh lùng nói: "Đánh không lại thì ám hại, lấy danh nghĩa đẹp là “chức trách tại thân”, đánh lại thì trở mặt thành “kỳ phùng địch thủ”. Tiền bối, tuy thỉnh thoảng làm việc ta cũng thích đầu cơ trục lợi, không tính là chính phái, nhưng kiên quyết không dám làm “người đồng đạo” với ông …"

Lời nàng chưa dứt, Thẩm Thiên Khu bỗng tung ra một chưởng. Động tác của ông ta không nhanh nhưng Chu Phỉ cảm thấy quanh thân như bị một loại nội tức vô hình nào đó phong bế, tiến thoái lưỡng nan, rơi vào thế khó, không thể không ngậm miệng.

Đầu óc Chu Phỉ nhạy bén, chợt đánh vỏ đao Hi Vi ra ngoài, vỏ đao ấy bắn vào không trung như chạm phải bức tường vô hình, bay xuống đất một cách kỳ lạ, Chu Phỉ không chút suy nghĩ, từ trên tường phóng xuống theo sát vỏ đao, thoát được khốn cảnh, đồng thời, nàng lưu loát trở tay tung một đao “Trảm”.

Thẩm Thiên Khu khẽ quát, ép lòng bàn tay xuống, một chưởng hùng hậu không giống như sức người lần nữa phong bế mọi đường đi của nàng. Tảng đá xanh bị ép lõm, đây gọi là “thân sa ngục tù”.

Trong ngõ hẹp, Chu Phỉ căn bản không có không gian né tránh, tựa như có một cái chùy lớn vô hình giữa không trung, bên tai nàng vang một tiếng nhỏ, khóe mắt Chu Phỉ liếc thấy mặt đất bị ép cong vẫn đang khuếch trương ra ngoài, đã ép tới ngọc bội trên người Triệu Uyên rơi xuống, uy lực như bàn long biến hình.

Nàng thường đi đao theo thế hiểm, tránh trái tránh phải chưa chắc sẽ bị Thẩm Thiên Khu làm bị thương, nhưng người khác thì chưa chắc, huống hồ vừa động thủ đã bị đối phương áp chế, không khỏi quá uất ức.

Chu Phỉ chợt ứng biến ngược với ban nãy, dám dùng “Trảm” tự quyết không đổi, mạnh mẽ chống lại chưởng của Tham Lang.

Chưởng phong và Hi Vi sắp va nhau, như chuẩn bị phân cao thấp ngay tại chỗ.

Thẩm Thiên Khu tuy đánh giá cao Chu Phỉ, nhưng phân nửa trong đó là nể mặt Phá Tuyết đao gia truyền của nàng, chứ không cho rằng một tiểu cô nương có thể cùng ông ta đấu tranh trực diện.

Nhưng liền sau đó, Thẩm Thiên Khu sững sờ, vào khoảnh khắc trường đao và chưởng phong va nhau, ông ta cảm nhận rõ rệt một đao khí thế hung hăng ấy chỉ là hư ảo, sức mạnh thình lình từ cực mạnh chuyển sang cực nhẹ, nhẹ nhàng trượt khỏi chưởng phong của ông ta, sau đó trở mình biến hóa, từ cực suy chuyển sang cực thịnh, hóa thành “Phá” tự quyết giữa không trung, trường đao như rắn độc lao thẳng vào mặt ông ta!

Thẩm Thiên Khu hơi không nhìn rõ một chiêu cực quỷ quyệt này đã ra như thế nào, trong tình thế cấp bách, ông ta giơ cánh tay cụt của mình lên, dùng cái móc dài trên đó kẹp lấy Hi Vi, móc sắt không chịu nổi va chạm với bảo đao, vết nứt lập tức lan ra dày đặc như mạng nhện.

Thẩm Thiên Khu đột nhiên ý thức được gì đó, sắc mặt thay đổi, lẩm bẩm: "Khô Vinh thủ …"

Khô Vinh thủ mai danh ẩn tích mấy chục năm, mãi đến khi bà điên Đoàn Cửu Nương hiện thân trong thành Hoa Dung mới khiến người ta loáng thoáng nhớ về những vinh quang kiêu hùng một thuở.

Nhưng bà điên ấy chẳng phải đã chết rồi sao?

Khô Vinh thủ chẳng phải sớm đã thất truyền sao?

Trước mắt Thẩm Thiên Khu chợt lóe lên hình ảnh cái đầu chết không nhắm mắt kia, ông ta nghiến ra mấy chữ từ kẽ răng: "Không thể nào!"

Mũi đao Chu Phỉ quơ nhẹ qua, ngay lúc ông ta nói “không thể nào”, nàng lại lần nữa xoay vòng giữa hai cấp thịnh suy, lấy “Khô Vinh” làm hồn, lấy “Bất Chu Phong” làm xác, đẩy ra một đao lơ lửng khiến người ta không thể nào tránh được.

Móc sắt lập tức nát đến không thể nát hơn, sắt nổ văng tứ tung, Thẩm Thiên Khu không chịu nổi, lùi liên tục năm bước, tay cụt hơi run, thần sắc thay đổi mấy lượt, chưa kịp nói gì thì bỗng có người hô lớn: "Cẩn thận!"

Chu Phỉ và Thẩm Thiên Khu đồng thời cả kinh, ngẩng đầu nhìn chỉ thấy một bóng đen khổng lồ như bướm đêm hạ xuống giữa hai người, đúng lúc chắn giữa họ trong ngõ hẹp.

“Bướm đêm” đầu tiên nhìn Chu Phỉ, Chu Phỉ bị cái mặt đầu lâu thình lình xuất hiện đó dọa giật mình, giơ Hi Vi ngang trước người theo bản năng: "Ai?"

“Bướm đêm” ngó lơ nàng, Chu Phỉ lúc này mới nhận ra hắn ta đang nhìn chăm chú phía sau mình.

“Bướm đêm” mặt đầu lâu mở hai cánh môi la lên: "Chết rồi, ha ha! Báo ứng!"

Chu Phỉ rất muốn quay đầu xem hắn ta nói ai “chết rồi”, nhưng bất kể gã mặt đầu lâu kỳ dị này hay Bắc Đẩu Tham Lang ở cách đó không xa đều khiến nàng không dám phân tâm.

Ánh mắt “bướm đêm” chợt dời về nhìn sâu sắc Chu Phỉ một cách khó tin, Chu Phỉ sững sờ, cảm giác ánh mắt của gã điên này khiến nàng có cảm giác quen thuộc khó tả, chưa đợi nàng hồi tưởng kỹ thì bướm đêm mặt đầu lâu quay đầu nhìn Thẩm Thiên Khu, miệng rít vang: "Bắc Đẩu à?"

Thẩm Thiên Khu cau mày: "Người tới là ai?"

Bướm đêm hoàn toàn phớt lờ, không nói lời nào, trực tiếp lao về phía Thẩm Thiên Khu.

Sắc mặt Thẩm Thiên Khu trầm xuống, đánh ra một chưởng ngay ngực, đánh cho người nọ thông từ trước ra sau ngực, Chu Phỉ ở gần nghe được cả tiếng xương vỡ nát.

Mặt đầu lâu gầy đến kinh người, sau lưng lồi ra không tự nhiên, xương trắng bị gãy đâm thủng cả da và áo ngoài, kéo theo nội tạng máu me đầm đìa.

Dù là Chu Phỉ không sợ trời không sợ đất, thấy cảnh đó cũng không khỏi hơi buồn nôn.

Càng ly kỳ hơn là, “bướm đêm” bị đánh thành như vậy mà chưa chịu chết!

Hắn ta như không sợ đau, không sợ đánh, chết cũng không hàng, vác thân thể nát bấy xương tiến nhanh hai bước, cúi đầu cắn cánh tay cụt của Thẩm Thiên Khu.

"Dược nhân!" Chu Phỉ đột nhiên tìm được nguồn cơn cảm giác quen thuộc ban nãy.

Thẩm Thiên Khu vừa kinh hãi vừa tức giận mắng một tiếng, dùng sức lực man rợ muốn khử gã điên này, cái cổ yếu ớt của gã mặt đầu lâu bị ông ta vặn một đường lớn.

Nếu là người bình thường bị gãy cổ thì sớm đã chết tới không thể chết hơn, nhưng gã mặt đầu lâu không biết là yêu nghiệt phương nào, mệnh môn như mọc ở trên răng, thấy đầu sắp rớt xuống mà vẫn cắn chặt quyết không buông.

Thẩm Thiên Khu mạnh mẽ vận khí một hơi, muốn đánh nát cái đầu lâu yêu nghiệt nhưng một hơi này của ông ta còn chưa vận lên cổ họng thì toàn thân đột nhiên run rẩy.

Tiếp đó, đường đường là Tham Lang lại hét thảm trước mặt mọi người.

Một luồng khí màu tím đen dâng lên theo cánh tay ông ta, Thẩm Thiên Khu đã mất một tay, cái móc dài vốn thay thế cánh tay lại không khéo bị Chu Phỉ đánh nát, trong tình thế cấp bách, không kịp làm tráng sĩ chặt tay.

Khí đen như rồng, nháy mắt vượt qua vai, vọt lên cổ và mặt ông ta!

Chu Phỉ: "…"

Mũi đao trong tay nàng còn chưa kịp chĩa xuống đã bị biến cố này dọa ngây người.

Thẩm Thiên Khu vừa hét thảm vừa va lung tung khắp nơi, tường thấp bốn phía đều gặp tai ương bởi chân khí trút xuống của ông ta, Chu Phỉ bị ép lùi về sau, ngay cả Triệu Uyên hôn mê cũng bị đánh thức, không may đúng lúc bị Chu Phỉ lùi giẫm trúng bắp chân, lập tức rên thành tiếng.

Chu Phỉ trong lúc hỗn loạn mới nhìn thấy nhân vật quý giá này, lập tức hiểu ngay “bướm đêm” ban nãy nhìn gì phía sau nàng, nàng nhấc tay lấy Hi Vi đè lại bả vai Triệu Uyên, nói khẽ: "Hoàng thượng, ta thấy ông nên tiếp tục giả chết thì tốt hơn đấy."

Nửa câu sau bị chìm trong tiếng tường đá đổ nát, Thẩm Thiên Khu ban nãy liều chết giãy giụa, bướm đêm mặt đầu lâu đương nhiên đứng mũi chịu sào, xương cốt toàn thân hắn ta như mấy cọng rơm rạ không xếp tốt vào nhau, đâm áo bào rộng rách tứ tung.

Nhưng toàn thân Thẩm Thiên Khu như bị thứ gì đó từ từ hút cạn, cấp tốc khô héo dưới ánh mắt trừng chằm chằm của bọn Chu Phỉ, da dán chặt vào xương, khô từ tay đến cổ, cuối cùng bất động, im lặng ngã ngửa ra sau, nhào xuống đất cùng với con “bướm đêm” cứ cắn chặt không buông.

Mãi đến lúc này, Ưng Hà Tòng la to “cẩn thận” ban nãy mới thở hồng hộc dẫn theo một đám cấm vệ chạy tới.

Chu Phỉ nhìn con “bướm đen” sắp tan nát kia rồi lại nhìn Ưng Hà Tòng, chợt hiểu ra gì đó: "Chẳng lẽ… hắn ta… hắn ta là…"

Ưng Hà Tòng liếc ba người đã khống chế được Đồng Khai Dương, thở hổn hển chốc lát, nói: "Điên rồi, gã Ân Bái đó tuyệt đối là điên rồi! Hắn ta dùng cổ độc còn sót lại trên người mình để nuôi xác cổ mẫu, không biết dùng phương pháp kỳ quái gì mà luyện hóa được xác cổ mẫu kia hút vào trong cơ thể …"

Chu Phỉ ngắt lời Y: "Đợi đã, nghe không hiểu."

Ưng Hà Tòng nói không kiên nhẫn: "Ta nói hắn ta tự nuôi bản thân thành một con cổ mẫu, hiểu chưa?!"

Lúc này, Thẩm Thiên Khu chắc chắn đã ngỏm, Ân Bái “trở mình”, lăn xuống khỏi người ông ta, lộ khuôn mặt đầy máu, ngửa mặt lên trời ngã nhoài ra đất.

Hắn ta thực như con quỷ sống, mọi người bị động tĩnh này làm giật mình, các cấm vệ ào ào xông tới, dìu Triệu Uyên lảo đảo đứng dậy bảo vệ.

Chu Phỉ giơ tay chắn Ưng Hà Tòng ra sau, nhìn hắn ta đầy cảnh giác, nhưng lại cảm thấy Ân Bái phảng phất như đang cười.

Chu Phỉ thử thăm dò đi về trước vài bước, đứng trước mặt Ân Bái.

Ân Bái hình như nhận ra nàng, cố duỗi cái tay còn lại, chỉ vào Chu Phỉ, rồi lại khó khăn vòng một vòng cung chỉ về mình.

"Ngươi … ngươi gì?" Chu Phỉ cau mày khó hiểu, thấy Ân Bái run rẩy giơ móng vuốt, cứ chỉ vào chính mình, lòng nàng chợt lóe lên một ý nghĩ, thử thăm dò: "Ngươi muốn nói ngươi là … Ân Bái?"

Ân Bái chấn động mạnh toàn thân, vô thức co giật giãy giụa trên đất như cá chết, nhưng ánh sáng trong mắt lại hừng hực.

Chu Phỉ cúi đầu nhìn hắn ta, ngẫm nghĩ rồi nói: "Ngươi tên Ân Bái, con của Ân Văn Lam, người duy nhất may mắn sống sót của Ân gia trang, được Bắc đao Kỷ Vân Trầm nuôi lớn, xuất thân từ …"

Nàng ngừng nói, thấy Ân Bái không biết lấy từ đâu ra một thanh vỏ kiếm dính đầy vết máu, từ từ đẩy về phía Chu Phỉ nửa tấc.

Chỉ là một cái hộp đựng kiếm, mà Sơn Xuyên kiếm chết vì nó, Thanh Long chúa chết vì nó, Xung Vân đạo trưởng cũng chết vì nó.

Ân Bái bảo vệ cái vỏ kiếm đầy hiềm nghi ấy cả đời, đến nay dường như cuối cùng cũng hiểu, nó không phải là đồ của hắn ta.

Chu Phỉ hơi dừng lại: "… xuất thân từ …"

Bàn tay như khung xương ấy chợt buông thõng, đập làm bay lên một vòng bụi nhỏ.

Chu Phỉ: "… danh môn chính phái."

Ánh sáng điên cuồng trong mắt Ân Bái và vết máu nơi khóe môi cùng ảm đạm, không biết có nghe hết câu “cái quan định luận” (*) của nàng không.

(*) Cái quan định luận: lời nhận xét, bàn luận về một con người khi người ấy chết.

Chu Phỉ ngẩn ngơ nhìn thi thể không còn giống hình người ấy, lòng nhất thời không biết có cảm nghĩ gì, Ưng Hà Tòng đẩy nàng ra, vội lao tới trước thi thể Ân Bái, không biết lấy từ đâu ra một cái bình nhỏ đặc chế, không hề bận tâm tới “người chết là lớn nhất”, dùng đao khoét tim Ân Bái, một luồng máu đen tanh hôi lập tức tuôn ào ạt vào trong bình nhỏ.

"Đây … đây là thiên hạ chí độc - Niết Bàn cổ." Ưng Hà Tòng nhảy dựng lên tại chỗ, giơ cái bình nhỏ bốc mùi kỳ dị kia lên cho Chu Phỉ xem, trên gương mặt nhếch nhác của Y như đốt lên một đốm lửa: "Mau lên! Không phải cô tự xưng mình học được “âm dương nhị khí” gì đó của Tề môn sao?"

Chu Phỉ lẳng lặng nhìn Y, không nhúc nhích.

Ngũ quan lục giác của nàng nhạy cảm cỡ nào, tiếng tuyết rơi trong chu vi mấy trượng nàng còn nghe rõ rành rành, sao không biết người ấy sớm đã không còn hơi thở chứ.

Ưng Hà Tòng nắm lấy bả vai, hét to vào tai nàng: "Mau lên! Cô đờ ra đó làm gì!"

Chu Phỉ rút tay mình ra, cúi đầu tránh ánh mắt Y, nhỏ giọng nói: "Muộn rồi."

Ưng Hà Tòng sững sờ chốc lát: "Ta …"

Chu Phỉ khẽ mím môi: "Bỏ đi, xem như số mệnh vậy, không có gì nuối …"

Ưng Hà Tòng chưa đợi nàng nói xong đã quát to ngắt lời nàng: "Ta là đại phu, ta còn chưa nói muộn mà!"

Y kéo Chu Phỉ lại chỗ Tạ Doãn: "Ta là truyền nhân chính tông của Đại Dược cốc, Dược cốc của ta có năng lực khởi tử hoàn sinh, ta nói chữa được là chữa được!"

Chu Phỉ: "Ưng huynh …"

"Y trúng Thấu Cốt Thanh lâu cả 10 năm, lạnh hơn người khác, hơi thở cũng yếu hơn người khác, thì sao chứ? Cô chưa từng nghe nói người cũng bị đóng băng sao?"

Bước chân Chu Phỉ hơi lảo đảo, nàng muốn nói với Ưng Hà Tòng, năm xưa khi ở ngoài thành Vĩnh Châu, nàng buột miệng mắng Đại Dược cốc “chỉ là hư danh” là giận cá chém thớt, nói không lựa lời, chứ không phải lời thật lòng.

Ưng Hà Tòng đẩy thẳng nàng đến trước mặt Tạ Doãn, Tạ Doãn im lặng nằm đó, mặt quay về hướng ban nãy nàng đứng với Thẩm Thiên Khu, khóe môi dường như còn vương chút ý cười.

Ưng Hà Tòng chợt hỏi rõ từng chữ: "Chu Phỉ! Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ của cô đâu?"

Chu Phỉ nghe câu ấy, cuối cùng không khỏi nước mắt như mưa.

Ưng Hà Tòng hất vạt áo quỳ xuống đất, quyết đoán rạch bàn tay Tạ Doãn, bày Y ra tư thế ngũ tâm hướng thiên, lại nhỏ cổ độc trí mạng lên: "Trước tiên đẩy cổ độc vào kinh thủ huyết âm tâm bào, trực tiếp đưa vào tâm mạch, chỉ có nội lực hai loại khô vinh nương tựa mới có thể đưa cổ độc vào rồi lại đưa ra, cổ độc không vào thì vô dụng, vào rồi không ra được thì mất mạng, tẩy tủy ba lần … ta nói nè, cô còn sức chứ?"

Sau khi rời khỏi cấm địa Tề môn, Chu Phỉ biết rõ không có hi vọng nhưng dọc đường vẫn không tự nhủ nhẩm đi nhẩm lại nhiều lần phương pháp “âm dương nhị khí trừ độc” mà Lữ quốc sư ghi lại, nghe Y nói, nàng gần như vô thức làm theo.

Nghe nói nếu dùng ngoại lực cưỡng chế đả thông kinh mạch người chết thì cũng có thể có chút động tĩnh.

Cổ độc đầy chai chia ra ba lần được đẩy vào cơ thể Tạ Doãn từng chút một, đến khi không còn thừa một giọt nào, máu đen lại bị ép ra lần nữa, đám Nghê Thường phu nhân cũng không ai dám quấy rối, vây quanh bên cạnh hộ pháp, ngay cả Triệu Uyên cũng không nói gì, chỉ quát bảo đám cấm vệ và quân đội lui hết ra ngoài hẻm nhỏ.

Cổ độc đầy chai vào thế nào ra thế nấy, nhưng Tạ Doãn vẫn không có chút động tĩnh.

Trong ngày đông lạnh lẽo mà toàn thân Chu Phỉ như mới nhúng từ nước ra, mồ hôi tuôn ướt đẫm, một cơn gió lạnh thổi qua, nàng mờ mịt thu công, không tự chủ rùng mình, vốn định đứng dậy nhưng vì mất sức mà lảo đảo, chật vật ngồi phịch xuống đất.

Nghê Thường phu nhân không nhìn nổi nữa, tiến lên một bước, ôm lấy Chu Phỉ từ phía sau, nhỏ nhẹ nói: "Con à …"

Đúng lúc này, Ưng Hà Tòng nói: "Đừng nhúc nhích, mau nhìn kìa!"

Chỗ lòng bàn tay Tạ Doãn bị rạch, dưới lớp da trắng nhợt nhạt từ từ có máu chảy ra.

Đầu tiên là hơi ửng đỏ, sau đó giống như bị thứ gì đó hòa tan, hiện ra từng giọt máu li ti.

Chương 168: Kết

Ba tháng sau khi Tào Ninh bị bắt, lính liên lạc cấp báo tám trăm dặm đập mở cổng thành Kim Lăng, xông vào nhanh như chớp, người đi đường hai bên thi nhau tránh ra, không ít người hay hóng hớt ló đầu nhìn hướng con ngựa kia lao đi, xôn xao bàn tán.

Vài canh giờ sau, tin tức như lửa lan trên giấy, nhanh chóng quét tan sương mù sáng sớm đầu xuân, được truyền tai nhau khắp đầu đường cuối ngõ: vương đô đã bị thu phục.

Mấy mươi năm loạn lạc, rất nhiều người đã chết, đã không thể đợi được ngày này, người còn sống thì tóc mai cũng đã pha sương, hoặc mất người thân, hoặc xa bạn cũ.

Non sông hoang phế tiêu điều, muôn dân trăm họ chịu nhiều phân ly.

Một ông lão tóc hoa râm chợt lảo đảo chạy ra đường cái, nằm rạp xuống khóc ròng.

Ưng Hà Tòng nhìn, dứt khoát đưa tay đóng cửa sổ, đưa một đơn thuốc cho Chu Phỉ trong tiếng người huyên náo: "Đổi đơn thuốc này thử xem. Cô thật muốn đi gấp thế à? Người vẫn chưa tỉnh, để Y tĩnh dưỡng không tốt sao?"

Chu Phỉ nói: "Đêm dài lắm mộng. Dù sao ai cũng thấy Ân Bái giao vỏ Sơn Xuyên kiếm cho ta, “vị kia” trước mắt nhờ cha ta đánh lại giang sơn cho ổng, đám bị thịt bên người lại không làm gì được ta, ta tới lui ra vào vẫn xem như trót lọt, nhưng dây dưa nữa thì khó nói lắm."

Ưng Hà Tòng nhịn hồi lâu vẫn không nhịn được bản tính chua ngoa đanh đá, xỉa xói nàng một câu: "Cô mà sợ ổng à?"

"Sợ chứ, sao lại không sợ?" Mặt Chu Phỉ không cảm xúc: "Lỡ ổng đi tìm chết mà phạm vào đồ của ta, ta chắc chắn sẽ không tha cho ổng giống mấy đại hiệp vì nước vì dân như bọn ông ngoại ta đâu, lỡ ta đâm ổng ba đao sáu lỗ, há chẳng phải là phá hủy khổ tâm nhiều năm của mọi người ư? Vậy sao ta an tâm được chứ?"

Ưng Hà Tòng: "…"

Chu cô nương từng gác đao lên cổ hoàng đế, sau đó mấy lần trắng trợn kháng chỉ ngó lơ đế vương triệu kiến, bây giờ còn định không thèm nói tiếng nào bắt cóc Đoan vương điện hạ suýt trở thành thái tử đi … nghe nói một loạt hành động có thể xưng là “yêu nữ” hắc đạo này của nàng suýt khiến Mộc Tiểu Kiều xem như tri kỷ.

Ưng Hà Tòng luôn tưởng là nói điêu quá mức, bây giờ xem ra có khi là thật chứ chẳng chơi.

Y hỏi: "Nếu thật … cô thật dám coi trời bằng vung mà hành thích vua à?"

Chu Phỉ không trả lời thẳng, chỉ trầm mặc một lát, nói: "Quá nhiều người mệt mỏi vì danh tiếng, nhất cử nhất động đều nằm trong toan tính của người khác. Ngươi đoán xem tại sao Lương Thiệu lại tìm những kẻ không chính không tà như bọn Mộc Tiểu Kiều làm “nhân chứng” cho Hải Thiên Nhất Sắc? Quân tử sợ tiểu nhân, tiểu nhân sợ lưu manh, đơn giản vậy thôi."

Ưng Hà Tòng: "Nhưng …"

"Nhưng Lương Thiệu không hề muốn bảo toàn tính mạng cho những quân tử kia, thậm chí kẻ ông muốn giết người diệt khẩu nhất chính là bản thân ông, nhưng ông lại lợi dụng bọn lưu manh và hoa văn sóng nước chỉ có ý nghĩa tượng trưng dệt nên một bệnh đa nghi khổng lồ, để sau khi ông chết nhiều năm mà Triệu … vị kia không mảy may dám chệch khỏi chính kiến do ông để lại, đủ thấy ông đã thành công. Bây giờ khắp nơi vẫn đang lan truyền khúc hát “Bạch cốt truyện” mà vị kia không dám công khai cấm, vừa không tìm được thi thể Lương Thiệu vừa không tìm được hoa văn sóng nước … ha ha, cũng phải cân nhắc chứ." Chu Phỉ lắc đầu cười, thu lại đơn thuốc mà Ưng Hà Tòng đưa cho, quơ quơ với Y: "Đa tạ, ngươi có dự tính gì?"

Ưng Hà Tòng: "Ta đã đáp ứng lời mời của Dương huynh, đến Kình Vân Câu sống một thời gian, học hỏi với người đồng đạo nhiều hơn."

"Tốt quá, xem như Đại Dược cốc dọn tới Nam Cương, hợp làm một với Tiểu Dược cốc, sau này đỡ phải phân lớn nhỏ gì nữa, để các hậu bối sinh sau đẻ muộn đỡ phải khốn đốn." Chu Phỉ: "Núi xanh còn đó, nước biếc chảy dài, tương lai có đến Thục Trung, ta mời ngươi uống …"

Nàng vốn muốn nói “mời ngươi uống rượu”.

Ai ngờ Ưng Hà Tòng lại hất mặt lên tại chỗ, nói: "Rượu làm tổn hại đến khứu giác và vị giác, ta không uống rượu, chỉ nếm thuốc."

Chu Phỉ nói không thiện ý: "Ờ, vậy ngươi khỏi tới."

Nói xong, nàng xách Hi Vi, xoay người rời khỏi tửu lâu nhỏ trong nỗi hưng phấn huơ tay múa chân của đám đông, dáng người lóe lên liền không còn tung tích. Các đại nội thị vệ phụng mệnh truy theo nàng khó khăn lắm mới đuổi kịp, nhưng còn chưa thấy hôm nay nàng mặc y phục gì thì lại bị lạc mất, thực khóc không ra nước mắt.

Cách ngày, một chiếc xe ngựa chậm rãi rời kinh, không chào hỏi ai.

Bên trường đình quan đạo, liễu nhỏ xanh um, thỉnh thoảng có người rề rà lưu luyến tiễn biệt nơi đây, dần dà, xung quanh có các quán trà mọc lên cho khách dừng chân nghỉ lại.

Một cơn mưa xuân vừa qua, đất đai lầy lội, bên cạnh có người đưa tiễn người thân đang lệ rơi ướt áo, quán trà thành nơi tránh nắng cho các hán tử Hành Tẩu Bang thuộc đội xe ngựa, mấy hán tử mỗi người một bát trà thô, hăng say bàn tán.

"Cho nên thái tử đó vẫn chưa lập thành! Vì sao vậy?"

"Hầy, thì nói là Bắc Đẩu ám sát bệ hạ nên hỏng thôi."

"Hỏng vẫn có thể lập tiếp, rõ ràng là Đoan vương điện hạ kiên quyết từ chối không chịu nhận."

"Chậc, ta còn nghe nói …"

Trong lúc họ nói chuyện, một chiếc xe ngựa từ từ đi qua, Chu Phỉ từ trên xe nhảy xuống.

Trên đường đâu đâu cũng là nam nhân hôi thối phong trần mệt mỏi, ít khi thấy đại cô nương xinh đẹp, lời tán dóc linh tinh của các hán tử im bặt, cùng nhau duỗi dài cổ ngóng.

Chu Phỉ bước vào nói: "Ông chủ, phiền cho ít nước … nước lạnh, có gì ăn không? Không kén chọn, gói lại một ít."

Ngay cả ông chủ quán trà cũng ít khi thấy nữ tử xinh đẹp, vội ân cần lo liệu cho nàng. Chu Phỉ đa tạ, lại quay về xe ngựa.

Chờ nàng đi xa, mấy người ban nãy tán dóc như thật mới vừa lưu luyến nhìn theo bánh xe vừa nói tiếp: "Ta nghe nói Đoan vương điện hạ mắc bệnh nặng, e không sống được bao lâu."

Hán tử kia tự cảm thấy đã ép giọng xuống rất thấp nhưng Chu Phỉ vẫn nghe được, sắc mặt nàng lập tức ảm đạm, không kìm được trở tay vén màn xe.

Không ngờ mới nhìn một cái, tay nàng run lên, quăng màn xe trở lại.

Nàng nhìn tay mình một cách khó tin, qua một lát mới như sợ làm kinh động thứ gì đó, lại vén màn xe lên từng tí từng tí.

Lần này, nàng xác định mắt mình không bị hoa.

Người trong xe luôn hôn mê bất tỉnh không biết đã mở mắt từ khi nào, đang mỉm cười nhìn bóng lưng nàng, vừa mở miệng, giọng Y vô cùng yếu ớt nhưng lời nói lại không chịu đàng hoàng: "Sao 20 năm không thấy già gì hết… nàng rốt cuộc là rong ở sông nào thành tinh thế?"

Chu Phỉ nắm chặt Hi Vi trong tay, nhất thời không thốt nên lời.

Tạ Doãn hỏi: "Tuyết Kim Lăng tan rồi à? Cuối cùng ta cũng thấy hơi ấm áp lại rồi."

"Ừ, xuân đã về."

Chương 169: Ngoại Truyện 1

Chu Phỉ vừa về cái rột, ngay cả nước cũng chưa kịp uống đã bị đại đương gia gọi đi.

Lý Cẩn Dung làm việc gọn gàng, không nhiều lời thừa thãi, chỉ hất cằm về phía bàn, nói với Chu Phỉ: "Phiền toái con chuốc lấy, tự đi mà giải quyết."

Chu Phỉ: "…"

Nàng bước tới lật thử, thực muốn điên. Trên bàn nhỏ để một xấp dày toàn là chiến thư, chưa kể đủ loại kiểu chữ con nít xiêu vẹo và chữ viết sai của đại hiệp, thì mấy chiến thư này có chung một kiểu, giống như cả đám đều nhờ cùng một tiên sinh viết.

Một Dương Cẩn yên tĩnh thì có hàng ngàn hàng vạn “Dương Cẩn” khác chờ ngoài cổng núi.

Chu Phỉ không nhịn nổi nữa: "Mẹ, 48 trại có thể lập lại quy củ người không liên quan không được vào không?"

Lý Cẩn Dung đưa tay chỉ nàng: "Bớt nói nhảm."

Chu Phỉ đành kẹp xấp chiến thư dưới nách, nổi giận đùng đùng đi xuống núi.

Các “đại hiệp” tới khiêu chiến kỳ thực không nhiều, phần lớn là nghe ngóng được nàng không có nhà nên mới chạy tới đưa chiến thư, đưa xong là chạy về khoác lác với người khác “ta đây từng một mình khiêu chiến Nam đao, chậc, dọa cho nàng ta không dám ứng chiến luôn”.

Nhưng mấy kẻ ngốc thật thà cũng không phải ít, chẳng hạn năm vị đợi dưới núi này.

Sư huynh canh gác thấy nàng thì cười hì hì nói mát: "A Phỉ à, vừa về hả? Huynh cùng họ đợi muội hết hai cái nửa tháng rồi đấy!"

Chu Phỉ liếc xéo huynh ấy.

Nàng vừa lộ diện, năm “đại hiệp” khiêu chiến ào ạt đứng dậy, đầu tiên là dùng ánh mắt khó tin đánh giá đại cô nương không lưng hùm cũng chẳng eo gấu trước mặt chốc lát, vài tiểu thanh niên đỏ mặt, những câu vốn học thuộc sẵn suýt chết non trong bụng, hồi lâu mới có một người lắp ba lắp bắp nói: "Các… các hạ… không, cô nương, cô chính là Nam đao tự tay giết bảy … bảy đại Bắc Đẩu sao?"

"Bảy Bắc Đẩu, có một người ta căn bản chưa từng gặp đã rơi đầu, hai người bị người của chúng chó cắn chó hại chết, còn hai người bị kẻ thù tìm tới cửa làm thịt, một người đi ám sát hoàng đế, bị mấy vị tiền bối liên thủ bắt lại, đã bị trảm, chỉ có một người đầu bị úng nước, võ công kém nhất, nghe đồn là nhờ quan hệ bám váy nên mới có chân trong Bắc Đẩu, là do ta giết ... còn là ngay lúc ông ta khinh địch."

Năm đại hiệp nhìn nhau chốc lát, có ba người không giữ được nét mặt, cúi đầu nói với nàng “đắc tội rồi”, rút khỏi vòng chiến, chân bỏ đi như bôi dầu.

Vì không hiểu sao mọi người lại cho rằng, một cô nương tuổi tác không lớn, nếu không phải tướng mạo kỳ dị như dạ xoa thì võ công thông thường đều không quá lợi hại. Người gặp được Chu Phỉ sẽ tự động nghi ngờ lời đồn đại trên giang hồ về “Nam đao” là không thể tin hết, kế đó nghe nàng nói thì rất nhiều người đều tin chắc suy đoán của bản thân “Nam đao chỉ là lời đồn nhảm” không chút nghi ngờ, tới mức thường xuyên bỏ qua câu “chỉ có một người… là do ta giết”, cũng không ai muốn đi truy cứu vì sao nàng lại rõ như lòng bàn tay về nguyên nhân cái chết của đám Bắc Đẩu.

Cứ thế, những người có chút tên tuổi trong giang hồ và những người tuổi tác hơi lớn đều sẽ tự phụ thân phận mà không động thủ với nàng nữa.

Loại thành kiến khó hiểu này khiến nàng bớt đi không ít phiền toái, may mà Chu Phỉ không quá để ý người khác nhìn nàng thế nào.

Dẫu sao đao của một người có sắc bén hay không, kẻ địch biết là đủ rồi.

Chu Phỉ dùng miệng lưỡi và khuôn mặt giải quyết ba người, còn lại hai người, một người cảm thấy mình đến cũng đến rồi, không mài giũa tí thì uổng sức trẻ chạy không một chuyến, còn một người trông ngốc nghếch giống người phiên bang như Dương Cẩn. Chu Phỉ dùng thời gian một nén nhang, Hi Vi còn chưa ra khỏi vỏ đã giải quyết xong hai người này ... hai vị “đại hiệp” một người bị đập mẻ nửa cái răng cửa, một người bị vỏ kiếm chọc vào bụng, ói chết đi sống lại.

Chu Phỉ hờ hững chắp tay, khách sáo qua loa: "Đa tạ, vào trong trại ta uống chén trà không?"

Hai vị đại hiệp chạy trốn còn nhanh hơn ba vị lâm trận lùi bước trước đó, nháy mắt liền không còn bóng dáng.

Chu Phỉ chán ngắt thở dài, cúi đầu đi vào trại, cảm giác dạo này đại đương gia luôn cố ý kéo nàng đi.

Thái độ của Lý Cẩn Dung là “người tới là khách”, chịu nể mặt cho Đoan vương điện hạ dừng chân ở 48 trại mà không có bất kỳ dị nghị gì. Một mặt bà chưa bao giờ thể hiện rõ ràng sự bất mãn của mình, mặt khác lúc sai Chu Phỉ đi làm này, lúc sai Chu Phỉ đi làm nọ, đại đương gia lên cơn thì ngay cả loại việc nhảm ruồi vốn nên giao cho Lý Thịnh như đi tặng quà mừng thọ bạn cũ cũng giao cho nàng, cứ không cho nàng rảnh rỗi để có tiếp xúc gì với Tạ Doãn.

Chu Phỉ thầm nhủ --- Không biết lần này có thể cho mình ở nhà được mấy ngày đây.

Đúng lúc này, phía sau nàng chợt có người ho khẽ một tiếng, cố ý giả giọng: "Các hạ chính là Nam đao tự tay giết bảy đại Bắc Đẩu sao?"

Chu Phỉ giật mình, với công lực của nàng mà không hề nghe thấy người phía sau tới gần khi nào!

Tay cầm đao của nàng đột nhiên siết lại, quay phắt đầu qua, thấy một người quen thuộc đầu đội nón rộng vành, tay cầm một cái quạt “Đời người chẳng được trăm năm”, mỉm cười dùng quạt đẩy nón lên, nở nụ cười ló răng. Chưa đợi Chu Phỉ đáp, Y liền xoay người, bắt chước tư thế đứng không hiếu khách của Chu Phỉ, ngửa đầu lên, hắng giọng, thao thao bất tuyệt nói lại đoạn ban nãy của nàng không sai một chữ.

Chu Phỉ: "… Sao chàng lại ở đây?"

Tạ Doãn cười nói: "Ta chủ động xin ra trận, xuống núi giúp đại đương gia quản lý sản nghiệp dưới chân núi."

Vẻ mặt Chu Phỉ nghi hoặc, không hiểu sao Y lại ăn no rửng mỡ đi tìm việc để làm.

Tạ Doãn vẫy tay với vị sư huynh gác cổng tò mò nhìn sang bên này, lại nhỏ giọng nói: "Ta không ở trong trại cũng tốt cho nàng có thể ở trong trại yên ổn được vài ngày. Cũng tiện cho ta ở dưới chân núi thần không biết quỷ không hay chặn đường tài lộ của người khác, đúng không? Đi."

Chu Phỉ nghe mà sững sờ, vô thức hỏi ngược lại: "Về nhà?"

"Về cái quỷ á!" Tạ Doãn nắm tay nàng, bay vút đi.

Tay Y vẫn hơi lạnh hơn người bình thường nhưng không còn là người băng nữa, “chạy mất dép” đại pháp xuất thần nhập hóa, nghiễm nhiên cao hơn trước đây một bậc.

Chu Phỉ vừa mới nói chữ “đợi” thì đã bị Y kéo đi hơn mấy trượng.

Từ sau khi 48 trại đại loạn đã qua mấy năm, đất đai cháy trụi đã nhú chồi non, vết thương khắc sâu đã đóng vảy, cũng đủ cho nơi này lại tụ tập hơi người mới, khiến những trà lâu tửu quán đã đóng cửa dần dần khai trương lại, còn mời lão tiên sinh kể chuyện trước đây về.

Đặc biệt là sau khi Tạ Doãn tiếp quản, gần như đều có chút tươi tốt phồn vinh.

"Đi đâu?" Chu Phỉ hỏi: "Ta không muốn nghe mấy tiểu khúc xàm của chàng đâu."

Từ sau khi định cư ở Thục Trung, “Thiên Tuế Ưu” tiên sinh hễ rảnh rỗi là thường xuyên linh cảm dạt dào, viết vài đoạn cho người dưới núi hát, dần dà tụ tập cả đám người hâm mộ, sắp tự lập thành gánh hát của riêng mình, hát đến mức Thục Trung dường như sắp ngang vai ngang vế với cả Vũ Y ban. Chu Phỉ đoán Lý Cẩn Dung chướng mắt Tạ Doãn, không phải không có lý do ở mặt này.

Tạ Doãn không trả lời, tự đưa nàng tới một cửa tiệm nhỏ.

Chu Phỉ ngạc nhiên: "May đồ?"

"Ừ." Tạ Doãn quen đường quen nẻo đưa tay gõ cửa, thò đầu nói: "Vương thẩm, may xong chưa?"

Thợ may già đều không thẳng lưng lên được, lúc làm việc, đôi mắt già cả phải kê sát vào mũi kim mới có thể may, bà thấy Tạ Doãn thì rất vui vẻ: "Tới rồi à? Tốt, tốt!"

Bà vừa nói vừa chạy vội vào, lát sau bê từ sau tấm bình phong ra một xấp y phục đỏ chói mắt, Chu Phỉ sững sờ, thấy bà thợ may già đứng trước mặt nàng, rung mở đồ ra ... là một chiếc váy đỏ rực như lửa.

"Vị công tử này thật tinh mắt, may đồ cho cô nương đây, đẹp lắm, mau xem nè."

Chu Phỉ chợt giống như bị bỏ thuốc câm, không nói tiếng nào đứng đờ ra đó, ngoan ngoãn cho bà thợ may cầm cái váy ướm tới ướm lui trên người nàng.

Bà thợ may nắm tay nàng nói: "Nếu có chỗ nào không vừa thì đưa lại cho Vương thẩm sửa nhé."

Chu Phỉ còn chưa nói gì, Tạ Doãn bên cạnh liền chậm rì rì chen vào: "Không cần, kích cỡ ta liếc mắt qua là biết, không sai đâu."

Chu Phỉ: "…"

Bà thợ may ngẩn người, sau đó bụm mặt cười.

Chưa đợi Chu Phỉ thẹn quá hóa giận, Tạ Doãn đã chuồn mấy bước ra khỏi tiệm, miệng còn nói: "Đừng đánh đừng đánh, ta còn muốn cho nàng biết một chuyện tốt nè."

Chu Phỉ cẩn thận để bà thợ may già giúp nàng gói lại chiếc váy đỏ rồi mới đi ra ngoài hỏi: "Chuyện tốt gì?"

Tạ Doãn cười nói: "Cha nàng sắp về rồi."

Chu Phỉ giật mình.

"Mấy ngày trước, đại đương gia đã tập hợp năm tín vật hoa văn sóng nước với nhau, phát hiện in lên giấy vừa đúng thành một đường vòng cung gợn sóng." Tạ Doãn nói: "Khác với ấn nhỏ mà các nàng tìm được năm đó từ nhân chứng - chẳng hạn Minh Phong lâu, “hoa văn sóng nước” của nhân chứng không có đường cong. Mẹ nàng đưa tờ giấy in hoa văn sóng nước đó ra ngoài, do đích thân ta đưa đến trạm ngầm, muốn đưa tới kinh thành. Nàng nghĩ xem, đại đương gia không có khả năng vô duyên vô cớ đùa họ chơi, nên ta đoán cha nàng e sắp treo ấn từ quan rồi, muốn xin hoàng đế được tự do."

Chu Phỉ càng nghe mắt càng sáng, lúc này, một bóng người như chó hoang thoát cương chạy tới, kêu loạn khắp đường: "A Phỉ! A Phỉ!"

Chính là Lý Nghiên.

Lý Nghiên vừa thấy Chu Phỉ và Tạ Doãn đứng bên đường thì vội nói: "A Phỉ, đại đương gia bảo tỷ đi …"

Sáu chữ này khiến mắt Chu Phỉ đen lại.

Lý Nghiên: "… đón cô phụ!"

Chu Phỉ kinh ngạc: "Gì? Nhanh vậy?"

Tạ Doãn ở bên cạnh cười: "Ta nói sao sáng nay lại thấy chim hỉ thước chứ, không uổng công ta dậy sớm rửa mặt thay y phục, hóa ra là ông trời nhắc nhở ta sắp gặp …"

Chu Phỉ trừng Y.

Tạ Doãn ho khẽ một tiếng, nuốt xưng hô phía sau về, đồng thời nháy mắt vô cùng bỡn cợt với nàng, bình tĩnh chỉnh lại áo mũ, đi phía trước: "Mời A Nghiên cô nương dẫn đường, chúng ta cùng đi nghênh đón."

Lúc này, Tạ Doãn tự cho là cuối cùng cũng đợi được cứu tinh e vẫn chưa biết mỗi lần Chu Dĩ Đường nhìn thấy Hi Vi sẽ có sắc mặt gì.

Ôi, đường của Y còn dài lắm.

Chương 170: Ngoại Truyện 2

"Thật hay giả vậy?" Chu Phỉ sững sờ, qua một lát mới hơi không yên tâm hỏi: "Nhưng Lý bà bà trước nay không phải luôn lười gánh chuyện sao? Mẹ tỷ nói thế nào?"

"Cô cô nói họ muốn làm gì thì làm, chỉ cần đừng đưa người vào 48 trại gây loạn là được." Lý Nghiên lách người ngồi chung một tảng đá với Chu Phỉ, hai tay cầm con sò nướng thịt ra thịt, nước ra nước, thổi hai cái rồi đổ hết vào miệng, bỏng suýt trào nước mắt, “ưm ưm” hồi lâu mới run run phun được một câu: "Ngon, ngon quá xá, tỷ phu, ngon quá trời quá đất luôn á!"

Tạ Doãn yên lặng ngồi bên đống lửa nướng sò, đây là một công việc tỉ mỉ, một mình Y nướng không kịp cho hai vị này ăn, bận cả nửa ngày mà bản thân vẫn chưa được con nào, trong tay chỉ còn lại con cuối cùng, vừa định cho vào miệng thì bị tiếng “tỷ phu” thình lình của Lý Nghiên làm cho mở cờ trong bụng, tự động nhường con cuối cùng cho muội ấy.

Lý Nghiên vui vẻ nhận lấy, không hề khách sáo, chỉ hận miệng không đủ lớn, không thể nhét hết đồ ăn Đông Hải cho vào bụng mang đi.

Lý Nghiên thỏa mãn ăn xong con cuối cùng, tiện tay ném vỏ xuống biển rồi nhảy xuống khỏi tảng đá, hỏi: "Muội truyền lời xong rồi, tỷ, đến lúc đó tỷ đi không?"

Chu Phỉ: "Chuyện của Sở Sở, tỷ đập nồi bán sắt cũng phải đi, huống hồ lại không xa."

Vừa nói xong, Trần Tuấn Phu cách đó không xa vẫy tay với Lý Nghiên, hỏi: "Tiểu nha đầu, ăn cá khô không?"

Lý Nghiên nghe nói liền chạy vội qua, bỏ lại tỷ phu tuấn tú và tỷ tỷ càng tuấn tú hơn, không chút do dự lao về phía ông cụ hơn trăm tuổi.

Năm Nam Bắc nhất thống, Triệu Uyên đổi niên hiệu là “Càn Phong”, hiện đang là năm Càn Phong thứ hai, Tạ tam công tử đã trải qua hai năm gian khổ, ôm đồm hết mấy việc lặt vặt không ai muốn quản của 48 trại, cuối cùng mới đổi được Lý đại đương gia mở một mắt nhắm một mắt với Y.

Mùa thu năm ấy, Chu Phỉ cùng Tạ Doãn về Đông Hải thăm các sư trưởng và cúng tổ tiên.

“Tổ tiên” tổng cộng có hai vị, một vị là tiểu sư thúc đã xả thân cứu Tạ Doãn, vị còn lại là Lương Thiệu.

Thi thể của Lương thừa tướng bị Mộc Tiểu Kiều vô tình làm nổ mất, cả sơn cốc đều thành tro bụi, cuối cùng cát bụi quay về với cát bụi, Tạ Doãn giúp ông lập một mộ y quan đơn giản trên đảo Bồng Lai.

Lương công khi còn sống oanh oanh liệt liệt, tính hết mọi bề, chết rồi cũng nên được thanh tĩnh.

Hai người thăm các lão nhân rồi đi quét mộ xong xuôi, vừa toan đi thì Lý Nghiên không mời mà tới, còn mang đến một lời nhắn. Ngô Sở Sở mấy năm nay đi khắp nơi thu thập chỉnh lý di tích các phái, đã hơi có chút thành quả, đúng lúc Lý Thịnh thường xuyên bị Lý Cẩn Dung thả ra ngoài đi liên lạc các nơi, giao du khá rộng, không hiểu sao Y nảy ý nghĩ đứng ra giúp Ngô Sở Sở phát thiệp mời, định trung thu năm nay tổ chức một hội “dùng võ kết bạn”, không chiêu trò gì hết, chỉ nói là mấy năm nay chỉnh lý lại điển tịch khắp nơi, muốn mượn cơ hội này mời mọi người tới uống ly rượu nhạt, ai muốn tới thì tới cho vui, biết đâu lại gặp được bằng hữu cũ và kết giao thêm bằng hữu mới.

Địa điểm được chọn là Liễu gia trang, lần đầu tiên Lý Thịnh bộc lộ tài năng là lần vây công 18 dược nhân ở Liễu gia trang, kể từ đó, Y và Liễu lão gia đã thành bạn vong niên.

Thiệp mời và tin tức do Hành Tẩu Bang giúp tung ra ngoài, vốn tưởng rằng người hưởng ứng rất ít, cùng lắm chỉ có vài bằng hữu cũ tới góp vui, ai ngờ không biết sao lại làm to lên, một truyền mười, mười truyền trăm, hào kiệt tứ phương lũ lượt kéo tới Liễu gia trang, còn náo nhiệt hơn trò hề mà Hoắc Liên Đào năm xưa tổ chức ở thành Vĩnh Châu. Liễu gia trang nhỏ bé đã không đủ an bài, các khách điếm lớn nhỏ ở Tế Nam phủ đều chật kín, đầy đường đều là người giang hồ ngoại hình khác biệt, khiến Lý Thịnh hơi hoảng, bất đắc dĩ mới phái Lý Nghiên đi gọi “Nam đao” Chu Phỉ qua giữ thể diện cho Y.

"Chuyện này à, thực ra không bất ngờ." Tạ Doãn nói: "Nhiều năm nay, trước tiên là núi Hoạt Nhân Tử Nhân, sau đó là bọn Bắc Đẩu, Ân Bái hoành hành ngang ngược, thù hận chất chồng suốt mấy đời, khắp nơi đều là chướng khí mịt mù, khó khăn lắm bọn đại ma đầu mới chết hết, vũng nước võ lâm Trung Nguyên cũng nên hết cơn bĩ cực tới hồi thái lai. Ca ca nàng luận tâm cơ, luận thủ đoạn, luận xuất thân, luận bối cảnh đều không thiếu gì cả, càng hiếm có là làm người lại khiêm tốn, không quá coi trọng bản thân, nghe nói danh tiếng rất cao trong những người thế hệ trước, ai cũng khen Y, lần này e là các đại môn phái cố ý thêm dầu vào lửa."

Chu Phỉ kinh ngạc: "Chẳng lẽ họ vẫn muốn nâng huynh ấy thành một Sơn Xuyên kiếm à?"

Tạ Doãn hỏi: "Có gì không thể?"

Chu Phỉ luôn cảm thấy hơi kỳ diệu, nàng chưa từng thấy phong thái của Sơn Xuyên kiếm năm xưa, chỉ nghe người này nói vài câu, người kia nói vài câu, rồi từ dăm câu vài lời đó thu được một ấn tượng mơ hồ: vị tiền bối ấy đức cao vọng trọng, một thanh trọng kiếm trấn trụ toàn bộ yêu ma quỷ quái Trung Nguyên.

Trong lòng nàng, nếu nói Ân đại hiệp là núi cao ngưỡng vọng, thì gã họ Lý là đống đất vướng chân, nếu nói Ân đại hiệp là thánh thú trấn thủ một phương, thì gã họ Lý là con cún con hoang run cầm cập sủa ăng ẳng… Tóm lại, ngoại trừ đều là người, đều là nam, hình như không có điểm gì chung, nàng thực hơi khó mà tưởng tượng.

Chu Phỉ suy tư chốc lát, lo lắng nói: "Huynh ấy? Võ công chẳng ra làm sao, chỉ biết khua môi múa mép, lỡ bị người ta ghét hãm hại, ngay cả âm mưu quỷ kế cũng không cần dùng, trực tiếp đánh chết cũng chẳng phải chuyện gì to tát."

Tạ Doãn: "…"

Hèn gì Lý thiếu gia rõ ràng trẻ tuổi nhiệt huyết mà lại có khí chất “siêu nhiên” không xem trọng bản thân, hóa ra là từ nhỏ trưởng thành trong hoàn cảnh hiểm ác thế này.

Chu Phỉ xoay Hi Vi trong tay một vòng, nói như rất chê phiền: "Chậc, ta vẫn nên phái mấy người cho huynh ấy thêm can đảm thì hơn."

Tạ Doãn vội tận dụng nịnh nọt: "Chu đại hiệp vũ nội vô song, thiên hạ vô địch."

Chu Phỉ luôn cảm thấy câu này nghe lạ lạ, họ Tạ hình như lại đang mỉa mai nàng thì phải, nàng nhìn Y với ánh mắt nghi ngờ.

Lúc nàng ngẩng đầu lộ cái cằm nhọn, mắt nửa nhắm nửa mở hơi nhướng lên, là một tiểu mỹ nhân rất không dễ dụ, Tạ Doãn giả vờ vô tội đối mắt với nàng chốc lát rồi không nhịn được, tay và miệng cùng đê tiện, Y hơi khom người nắm cằm Chu Phỉ, nói nhỏ: "Nếu ta sớm biết Chu đại hiệp này cuối cùng hời cho ta, thì năm xưa lúc xông vào sông Tẩy Mặc ban đêm, ta nhất định sẽ ăn mặc chưng diện cho đẹp chút, khinh công cũng nhất định có thể phóng khoáng hơn chút."

Chu Phỉ như cười như không: "Đi gặp rong tinh thì chàng muốn chưng diện thành gì?"

Tạ Doãn đảo mắt, khom lưng ghé bên tai nàng nói gì đó, không biết là hạ lưu vô sỉ thế nào mà nói xong liền lập tức nhảy vọt đi, vừa vặn tránh thoát chuôi đao của Chu Phỉ chỉa vào bụng Y.

Y đưa tay xoa ngực nói: "Tiểu sinh đã cầu hôn sáu lần, bị cha mẹ nàng nhét cho 12 cây đinh cứng mềm, làm miệng đầy răng sắt, ai dè cưới về nhà rồi ngày ngày bị đánh, khổ quá á à a …"

Mấy chữ cuối cùng, Tạ Doãn đặt ra thêm làn điệu, vừa nói vừa hát cũng không làm trở ngại Y nhảy ra xa hơn trượng trong nháy mắt, còn quay đầu nói với Chu Phỉ: "Triệu Uyên đến nay vẫn bị khúc “Bạch cốt truyện” của ta hát làm ngủ không yên, nếu nàng còn bắt nạt ta nữa, ngày mai ta sẽ viết “Nam đao truyện” vạch trần vị đại hiệp nào đó bề ngoài đạo mạo mà hễ nói một câu không hợp là ngược đãi đánh đập thư sinh yếu đuối … ha ha, A Phỉ, khinh công của nàng cần luyện thêm đấy."

Khinh công của Chu Phỉ quả thực không bằng Y, dẫu sao nàng bẩm sinh kém cỏi, dưới cổ chẳng phải chân.

Hai người một đuổi một chạy, chớp mắt đã chạy nửa cái đảo.

Bỗng bước chân Tạ Doãn dừng lại, điểm nhẹ lên một tảng đá như không hề dùng sức, không làm kinh động bụi bặm bên trên, Y chắp tay sau lưng vẫy Chu Phỉ.

Chu Phỉ ló đầu nhìn, phát hiện hai người đã bất giác đến chỗ hai nấm mộ.

Hai tấm bia đá hàng xóm láng giềng này ở nơi ba mặt là đá, giống như bị đá ngầm san sát của thiên nhiên vây thành một mảng thiên địa nhỏ, vô cùng u tịch, một mặt rộng rãi hướng về phía Đông Hải mênh mang, vừa nhìn là có thể thấy nơi trời biển giao nhau.

Đồng Minh đại sư đang cầm cây chổi dài nhàn nhã quét bụi trên hai tấm bia mộ.

Lão tăng và bia đá trong tiếng sóng biển rì rào toát lên cảm giác yên bình khó tả.

Tạ Doãn ra dấu với Chu Phỉ, nắm tay nàng lướt nhẹ qua một bên, hai người vòng đi sau tảng đá lớn, không quấy rầy Đồng Minh đại sư.

Đi xa rồi, Tạ Doãn mới nhẹ nhàng nói: "Sư phụ ta thân phận đặc thù, nhánh của họ từ sau khi vong quốc luôn ẩn cư ở Đông Hải Bồng Lai, mấy vị sư thúc khác đều là hậu nhân của trung thần theo hầu năm xưa, nếu không vì ta thì lão nhân gia sẽ không rời đảo, chỉ có mấy vị sư thúc thỉnh thoảng ra ngoài làm chân chạy vặt. Năm xưa Trần sư thúc nhiều lần được Sơn Xuyên kiếm nhờ vả làm giúp ông ấy mấy thứ như khôi giáp binh khí, nàng biết đấy, bản tính Trần sư thúc lười xã giao, đều là tiểu sư thúc thay ông làm người sai vặt đưa tin, thường xuyên qua lại nên có chút giao tình với Ân đại hiệp."

Nói tới đây Chu Phỉ đã hiểu, nàng nói tiếp: "Sau đó ông ấy nghi ngờ cái chết của Ân đại hiệp?"

Tạ Doãn gật đầu: "Sơn Xuyên kiếm, Nam đao … lão Nam đao, và chuyện của ta khi đó nữa, đến lúc chết ông ấy vẫn luôn canh cánh trong lòng, di nguyện là muốn ta đi truy tra Hải Thiên Nhất Sắc, tìm một lời ăn nói … bây giờ hai người họ làm hàng xóm láng giềng, hẳn là có thể mặt đối mặt ăn nói với nhau rồi."

Bước chân Chu Phỉ hơi khựng lại.

Hải Thiên Nhất Sắc như một cái cớ mà tất cả mọi người đều ngầm hiểu trong lòng, kiềm chế lẫn nhau, tất cả mọi người đều muốn lợi dụng cái cớ này mà giữ kín như bưng.

48 trại vốn đã đông người, sau đó Chu Dĩ Đường lại mang về một nhóm tâm phúc, có thể nói là đông người phức tạp, có mấy lời đến nay nàng vẫn chưa có cơ hội hỏi rõ, lúc này đang ở đỉnh Đông Hải, tầm nhìn bốn phương rộng rãi, vừa nhìn là nắm được tất thảy, nàng mới châm chước từ ngữ, hàm súc nói: "Vị kia thật sự không phải họ Triệu à?"

Tạ Doãn hơi cong khóe mắt, cũng trả lời hàm súc: "Mấy thế hệ Triệu gia bọn ta do dự thiếu quyết đoán, lòng dạ đàn bà, đặc biệt dễ máu nóng lên đầu, phàm việc gì cũng nghĩ như lẽ đương nhiên, bản lĩnh ngâm gió ngợi trăng thì không tệ, lý luận suông khua môi múa mép cũng là cao thủ, nhưng không đem ra thực tế được. Từ tiên đế đến cha ta rồi đến ta đều là một kiểu, chưa từng cho ra nhân vật xuất sắc."

Chu Phỉ quay đầu nhìn quanh theo bản năng, nhưng tầm mắt bị mộ bia ngăn lại, nàng nhìn hai cái mộ bia hàng xóm ấy: "Lương Thiệu rốt cuộc mưu đồ gì?"

Tạ Doãn khẽ nói: "Lúc đó tên đã lên cung, phía nam trù tính rất lâu, tập kết mấy vạn đại quân, bứt dây là sẽ động rừng, một khi bị phát hiện … chắc chắn tứ phương hỗn loạn, Đại Chiêu thật sự vong quốc."

Chu Phỉ kinh ngạc: "Bên kia không ai họ Triệu, chẳng phải cũng là vong quốc sao?"

Tạ Doãn vươn người, đưa tay biếng nhác khoác vai Chu Phỉ: "Bản đồ chưa từng thay đổi, văn võ toàn triều chưa từng đổi chí, giang sơn chưa từng đổi họ, quan trọng nhất là, những nguyện vọng năm xưa của tiên đế có không gian thực hiện, tân chính mà tiên đế và Lương công luôn tâm niệm có thể thực thi ở Giang Nam. Khi tân đế còn nhỏ chỉ có thể dựa vào Lương Thiệu, khi cánh ngài ấy cứng rồi, dù Lương Thiệu đã chết cũng có Hải Thiên Nhất Sắc âm hồn bất tán, ngài ấy chỉ có thể bước tiếp trên con đường định sẵn, nội trong hai đời, thiên hạ ắt an định, đến lúc đó nàng đứng trên mỏm đá nhìn về đông, mênh mông một mảng, trời biển nối liền, có gì khác biệt?"

Tạ Doãn nói rất hời hợt, ngữ khí trầm bổng du dương, chỉ thiếu cái bàn nhỏ và cái kinh đường mộc là có thể thu tiền thưởng, đích thân biểu diễn cho Chu Phỉ xem hậu nhân Triệu thị là thứ bùn nhão không thể trát tường thế nào.

Tiếp đó, móng vuốt Y lại vô cùng không quy củ gãi gãi cằm Chu Phỉ, sáp lại bên tai nàng nói: "Chúng ta đi Liễu gia trang trước, đợi xem xong náo nhiệt, ta dẫn nàng đi cố đô chơi nhé? Qua mùa đông, chúng ta lại đi tái ngoại ngắm cỏ non và dê con."

Chu Phỉ đập móng vuốt Y ra: "Cút, có làm gì nghiêm túc chút được không? Chỉ biết chơi thôi, nếu đại đương gia có việc sai ta …"

Tạ Doãn cười híp mắt ngắt lời nàng, thong thả bổ sung: "Còn có thể dùng giá cao mua vài con dê nướng ngay tại chỗ, ngoài cháy trong mềm, không cần bỏ thêm nhiều hương liệu, chỉ tí muối thôi là đã thơm ngon vô cùng."

Chu Phỉ: "… Để ta viết thư báo mẹ ta một tiếng."

***** HẾT *****

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro