Huy động vốn of cty cổ phần

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

BÀI LÀM 

I.Khái quát về công ty cổ phần và một số vấn đề về huy động vốn trong công ty cổ phần: 

1.Khái quát về công ty cổ phần: 

Với tính chất như một hiện tượng kinh tế - xã hội, Công ty cổ phần nói riêng cũng như các loại hình công ty nói riêng đã trở thành một thực thể pháp lí. Trong khoa học pháp lí, hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau lại có các định nghĩa khác nhau về công ty cổ phần. Pháp luật hiện hành của Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về công ty cổ phần mà chỉ đưa ra những dấu hiệu để nhận biết công ty cổ phần. Khoản 1 Điều 77 Luật doanh ngiệp 2005 có quy định rõ: 

"Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: 

a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; 

b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; 

c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; 

d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này". 

2.Khái niệm về vốn và cấu trúc vốn của công ty cổ phần: 

Vốn của doanh nghiệp nói chung là giá trị được tính bằng tiền của những tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng của hợp pháp của doanh nghiệp, được doanh nghiệp sử dụng trong kinh doanh. Có thể nói vốn là nhân tố cơ bản không thể thiếu của tất cả các doanh nghiệp. Cũng như các chủ thể kinh doanh khác, để tiến hành các hoạt động kinh doanh, công ty cổ phần phải có vốn. Là loại hình công ty đối vốn điển hình nên vấn đề vốn của công ty cổ phần là vấn đề hết sức phức tạp. Vốn của công ty cổ phần có thể được tiếp cận dưới nhiều góc độ, dựa trên những tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành vốn, vốn của công ty cổ phần được chia thành: vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn tín dụng (vốn vay). 

Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành từ nguồn đóng góp của cổ đông và vốn do công ty cổ phần tự bổ sung từ lợi nhuận của công ty. 

Vốn tín dụng: là nguồn vốn hình thành từ việc đi vay dưới các hình thức khác nhau: vay ngân hàng, vay của các tổ chức, cá nhân khác hoặc vay bằng cách phát hành trái phiếu. 

Điều quan trọng là công ty cổ phần phải có một tỉ lệ vốn vay trên vốn cổ phần hợp lí để phản ánh thế mạnh tài chính của công ty, vừa tạo niềm tin cho các đối tác của mình.

II.Huy động vốn trong công ty cổ phần: 

Các chủ thể kinh doanh thường muốn có nguồn vốn lớn để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Công ty thường có hai cách để huy động vốn: tăng vốn chủ sở hữu và tăng vốn vay. 

Theo Luật doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh "không được quyền phát hành bất kì loại chứng khoán nào" (Khoản 3 Điều 130 và Khoản 2 Điều 141). Khả năng huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có nhiều thuận lợi hơn nhưng cũng "không được phát hành cổ phần" (Khoản 3 Điều 38). Công ty cổ phần khẳng định sự lí tưởng hơn trong mô hình kinh doanh của mình bằng quyền phát hành chứng khoán được quy định trong Khoản 3 Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005: "Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn". Trong các loại chứng khoán ấy, cổ phiếu là công cụ riêng của công ty cổ phần, nó đem đến ưu thế rất lớn cho công ty cổ phần nhờ khả năng thu hút vốn dễ dàng: có thể huy động được một nguồn vốn lớn do mở rộng đối tượng huy động; có thể giảm chi phí huy động vốn do tiếp cận trực tiếp với người đầu tư;... 

Cấu trúc vốn của công ty cổ phần rất linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người đầu tư. 

Phần vốn của cổ đông có thể tự do chuyển nhượng thông qua việc chuyển quyền sở hữu cổ phần (trừ một số trường hợp do pháp luật quy định) mà biểu hiện hình thức là chuyển nhượng cổ phiếu. Tính chuyển nhượng cổ phiếu mang lại cho nền kinh tế sự vận động nhanh chóng của vốn đầu tư mà không phá vỡ tính ổn định của tài sản công ty. Việc chuyển vốn đươi hình thức này rất dễ dàng và thuận lợi thông qua thị trường chứng khoán. 

Mặt khác, cổ phần có mệnh giá nhỏ kết hợp với tính thanh khoản và chuyển nhượng đã khuyến khích mọi tầng lớp dân chúng đầu tư. 

Những đặc điểm cơ bản đó đã góp phần đưa công ty cổ phần trở thành một hình thức tổ chức kinh doanh có khả năng huy động một số lượng vốn lớn ngầm chảy trong các tầng lớp dân cư, khả năng tích tụ và tập trung vốn với quy mô khổng lồ, có thể coi là lớn nhất trong các loại hình doanh nghiệp hiện nay.

III. Một số hình thức huy động vốn của công ty cổ phần 

1.Phát hành cổ phiếu (Vốn chủ sở hữu hay vốn tự có): 

a. Khái niệm cổ phần, cổ phiếu: 

* Cổ phần: 

Thuật ngữ cổ phần được sử dụng khá rộng rãi trên thế giới và gắn liền với công ty cổ phần. Pháp luật của các quốc gia khác nhau đều quy định cho phép công ty cổ phần phát hành nhiều loại cổ phần khác nhau. Luật doanh nghiệp Việt Nam quy định rất rõ ràng và cụ thể các loại cổ phần mà công ty cổ phần được phép phát hành, đó là: cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. 

Cổ phần phổ thông (còn gọi là cổ phần thường) là nền tảng của công ty cổ phần. Cổ phần phổ thông tạo cho người sở hữu những quyền và lợi ích cơ bản khi đầu tư vào công ty cổ phần. Đặc trưng của cổ phần phổ thông là gắn với quyền bỏ phiếu và được xác lập theo nguyên tắc "mỗi cổ phần một lá phiếu". Cổ phần phổ thông không thể chuyển thành cổ phần ưu đãi. Khoản 1 Điều 78 Luật doanh nghiệp 2005 quy định cổ phần phổ thông là loại cổ phần bắt buộc phải có khi thành lập công ty cổ phần.  

Cổ phần phổ thông có hai loại: cổ phần phổ thông của cổ đông phổ thông và cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập. 

Cổ phần phổ thông của cổ đông phổ thông là loại cổ phần thông dụng nhất. Người sở hữu cổ phần này được hưởng đầy đủ quyền và lợi ích của một cổ đông. Nghĩa vụ của cổ đông phổ thông cũng được pháp luật quy định chặt chẽ trong Điều 80 Luật doanh nghiệp 2005: 

"Nghĩa vụ của cổ đông phổ thông: 

1. Thanh toán đủ số cổ phần cam kết mua trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. 

Không được rút vốn đã góp bằng cổ phần phổ thông ra khỏi công ty dưới mọi hình thức, trừ trường hợp được công ty hoặc người khác mua lại cổ phần. Trường hợp có cổ đông rút một phần hoặc toàn bộ vốn cổ phần đã góp trái với quy định tại khoản này thì thành viên Hội đồng quản trị và người đại diện theo pháp luật của công ty phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi giá trị cổ phần đã bị rút. 

2. Tuân thủ Điều lệ và Quy chế quản lý nội bộ công ty. 

3. Chấp hành quyết định của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị. 

4. Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty. 

5. Cổ đông phổ thông phải chịu trách nhiệm cá nhân khi nhân danh công ty dưới mọi hình thức để thực hiện một trong các hành vi sau đây: 

a) Vi phạm pháp luật; 

b) Tiến hành kinh doanh và các giao dịch khác để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác; 

c) Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn trước nguy cơ tài chính có thể xảy ra đối với công ty". 

Khi đầu tư bằng mua cổ phần phổ thông, cổ đông phổ thông phải chịu rủi ro cao, họ sẽ không nhận được lợi tức nếu công ty thua lỗ. Nhưng bù lại, tính tự do chuyển nhượng, mua bán trên thị trường của loại cổ phần này đem đến lợi thế trong việc tập trung và huy động vốn rất lớn. 

Với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập, Khoản 1 Điều 84 Luật doanh nghiệp 2005 có quy định: "Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh". Khác với cổ phần phổ thông của cổ đông phổ thông, tính tự do chuyển nhượng của cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập bị hạn chế. 

Ngoài cổ phần phổ thông là cổ phần bắt buộc, công ty cổ phần có quyền lựa chọn và phát hành các loại cổ phần ưu đãi tùy thuộc vào các điều kiện cụ thể của mỗi công ty nhằm thiết lập cơ cấu vốn linh hoạt phù hợp với yêu cầu phát triển của mình. Thông thường, cổ phần ưu đãi được công ty sử dụng để tăng vốn khi tỉ trọng nợ đã quá cao làm giảm vị thế tín dụng của công ty. Khoản 2 Điều 78 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: "Công ty cổ phần có thể có cổ phần ưu đãi. Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi. 

Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau đây: 

a) Cổ phần ưu đãi biểu quyết; 

b) Cổ phần ưu đãi cổ tức; 

c) Cổ phần ưu đãi hoàn lại;  

d) Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định". 

Cổ phần ưu đãi biểu quyết là "cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ty quy định" (Khoản 1 Điều 81). Theo Khoản 3 Điều 78 Luật doanh nghiệp 2005 thì: "Chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông". 

Cổ phần ưu đãi cổ tức là "cổ phần được trả cổ tức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm" (Khoản 1 Điều 82). Cổ tức được chia hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Dưới góc độ này ta thấy cổ phần ưu đãi cổ tức mang đặc tính của một trái khoán. Loại cổ phần này có sức hút đông đảo các nhà đầu tư chỉ quan tâm đến lợi nhuận. 

Cổ phần ưu đãi hoàn lại là "cổ phần được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại" (Khoản 1 Điều 83). Khả năng rút vốn dễ dàng, linh động khi có nhu cầu là động lực cơ bản thúc đẩy các nhà đầu tư sở hữu loại cổ phần này. 

Điều lệ công ty quy định cụ thể hoặc Đại hội đồng cổ đông quyết định người được quyền mua hai loại cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại. 

* Cổ phiếu: 

Cổ phiếu là một loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành chứng nhận việc góp vốn vào công ty của các cổ đông. Cổ phiếu chính là bằng chứng chứng minh quyền sở hữu cổ phần của cổ đông công ty. 

Khoản 1 Điều 85 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: 

"Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu phải có các nội dung chủ yếu sau đây: 

a) Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; 

b) Số và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; 

c) Số lượng cổ phần và loại cổ phần; 

d) Mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu; 

đ) Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân; tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh của cổ đông là tổ chức đối với cổ phiếu có ghi tên; 

e) Tóm tắt về thủ tục chuyển nhượng cổ phần; 

g) Chữ ký mẫu của người đại diện theo pháp luật và dấu của công ty; 

h) Số đăng ký tại sổ đăng ký cổ đông của công ty và ngày phát hành cổ phiếu; 

i) Các nội dung khác theo quy định tại các điều 81, 82 và 83 của Luật này đối với cổ phiếu của cổ phần ưu đãi". 

Đối với các loại cổ phiếu ưu đãi thì phải có thêm các điều kiện ưu đãi. Trường hợp cổ phiếu bị mất, rách, bị cháy hay bị tiêu hủy dưới hình thức khác thì cổ đông được công ty cấp lại cổ phiếu theo đề nghị của cổ đông đó. Đối với cổ phiếu có giá trị danh nghĩa trên 10 triệu đồng Việt Nam, trước khi tiếp nhận đề nghị cấp cổ phiếu mới, người đại diện theo pháp luật của công ty có thể yêu cầu chủ sở hữu cổ phiếu đăng thông báo về việc cổ phiếu bị mất, bị cháy hoặc bị tiêu hủy dưới hinh thức khác. Quy định như vậy sẽ bảo vệ được quyền lợi của cả nhà đầu tư và công ty với tư cách là một tổ chức phát hành. 

b.Phát hành cổ phiếu: 

Phát hành cổ phiếu là việc chào bán cổ phần của công ty cổ phần cho người đầu tư nhằm đáp ứng yêu cầu về vốn của công ty. Kết quả của việc chào bán cổ phần sẽ đảm bảo huy động vốn điều lệ trong quá trình thành lập công ty hoặc sẽ làm tăng vốn điều lệ của công ty trong trường hợp công ty đang hoạt động. 

Việc phát hành cổ phiếu có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông hiện có trong công ty hay có thể dẫn đến thay đổi vị thế của từng cổ đông. Do vậy, việc quyết định loại cổ phần, tổng số cổ phần của từng loại được chào bán sẽ do Đại hội đồng cổ đông quyết định còn Hội đồng quản trị quyết định thời điểm, phương thức và giá chào bán cổ phần trong số cổ phần được quyền chào bán. 

Về giá chào bán cổ phần, Luật doanh nghiệp 2005 quy định rất chặt chẽ, đảm bảo quyền lợi cho đa số cổ đông. Ngoài quy định về "giá không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán" như tại Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp 2005 còn bổ sung "hoặc giá trị được ghi trong sổ sách của cổ phần tại thời điểm gần nhất" và ngoại trừ các trường hợp sau: 

- Cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải là cổ đông sáng lập; 

- Cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỉ lệ cổ phần hiện có của họ ở công ty; 

- Cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh. Trong trường hợp này, số chiết khấu hoặc tỉ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của số cổ đông đại diện cho ít nhất 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết; 

Điều lệ công ty có thể quy định thêm các trường hợp khác và mức chiết khấu trong các trường hợp đó. 

Giá thị trường của cổ phần là giá giao dịch trên thị trường chứng khoán hoặc giá do một tổ chức định giá chuyên nghiệp xác định. Trên thực tế ở nước ta hiện nay, đa số công chúng đều chưa hiểu hết về việc bán đấu giá qua thị trường chứng khoán. Do đó, để thu hút đầu tư, các công ty cổ phần đã kinh doanh hiệu quả và ổn định nên áp dụng phương pháp bán theo giá cố định. Giá cố định là giá bình quân gia quyền được xác định từ kết quả bán đấu giá. Bán theo giá này vẫn đảm bảo được nguyên tắc bán cổ phần theo giá thị trường và không hề có ưu đãi cho các nhà đầu tư. 

Người mua cổ phần trở thành cổ đông của công ty kể từ thời điểm cổ phần được thanh toán đủ và những thông tin về người mua được ghi đúng, ghi đủ vào sổ đăng kí cổ đông. Sau khi cổ phần được bán, công ty phải phát hành và trao cổ phiếu cho người mua. Pháp luật ràng buộc trách nhiệm của những người quản lí công ty khi có sai sót trong nội dung và hình thức cổ phiếu nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của người sở hữu cổ phiếu đó: "Trường hợp có sai sót trong nội dung và hình thức cổ phiếu do công ty phát hành thì quyền và lợi ích của người sở hữu nó không bị ảnh hưởng. Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty phải liên đới chịu trách nhiệm về thiệt hại do những sai sót đó gây ra đối với công ty" (Khoản 2 Điều 85 Luật doanh nghiệp 2005). Công ty có thể bán cổ phần mà không trao cổ phiếu. Trường hợp này, các thông tin về cổ đông được ghi vào sổ đăng kí cổ đông là đủ để chứng thực quyền sở hữu cổ phần của cổ đông. 

"Cổ phần, trái phiếu của công ty cổ phần có thể được mua bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác quy định tại Điều lệ công ty và phải được thanh toán đủ một lần" (Theo Điều 89 Luật doanh nghiệp 2005). 

c. Quy định của pháp luật về phát hành cổ phiếu: 

Phát hành cổ phiếu có thể diễn ra nhiều lần. Có thể chia thành các trường hợp: phát hành cổ phiếu lần đầu để huy động vốn thành lập công ty và phát hành cổ phiếu trong quá trình hoạt động của công ty. 

- Phát hành cổ phiếu lần đầu tiên khi thành lập công ty: 

Khi thành lập, công ty cổ phần phải huy động vốn góp của các cổ đông. Pháp luật quy định các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng kí mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán. Trong trường hợp các cổ đông sáng lập không đăng kí mua hết số cổ phần được quyền chào bán thì số cổ phần còn lại phải được chào và bán hết trong thười hạn 3 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận kinh doanh. Vì vậy, tối thiểu các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ 20% số cổ phiếu dự tính phát hành, số cổ phiếu còn lại sẽ được phát hành để huy động đủ số vốn điều lệ. Các cổ đông sáng lập phải thực hiện nguyên tắc nhất trí về số lượng cổ phần, loại cổ phần dự kiến chào bán. 

Luật doanh nghiệp 2005 quy định rõ trách nhiệm của các cổ đông sáng lập về tính chính xác, trung thực đối với giá trị tài sản góp vốn được giới hạn trong phạm vi các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng số chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn kết thúc định giá. Những người cam kết mua cổ phần còn phải thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty theo đúng quy định tại Khoản 1 Điều 29 Luật doanh nghiệp 2005: 

"a) Đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 

Việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ; 

b) Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản. 

Biên bản giao nhận phải ghi rõ tên và địa chỉ trụ sở chính của công ty; họ, tên, địa chỉ thường trú, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số quyết định thành lập hoặc đăng ký của người góp vốn; loại tài sản và số đơn vị tài sản góp vốn; tổng giá trị tài sản góp vốn và tỷ lệ của tổng giá trị tài sản đó trong vốn điều lệ của công ty; ngày giao nhận; chữ ký của người góp vốn hoặc đại diện theo uỷ quyền của người góp vốn và người đại diện theo pháp luật của công ty; 

c) Cổ phần hoặc phần vốn góp bằng tài sản không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng chỉ được coi là thanh toán xong khi quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản góp vốn đã chuyển sang công ty". 

- Phát hành cổ phiếu trong quá trình hoạt động của công ty: 

Trong quá trình hoạt động, cổ phiếu cũng trở thành một trong những phương tiện để huy động vốn rất hiệu quả. Việc phát hành thêm cổ phiếu sẽ làm tăng độ tín nhiệm cho công ty. Cổ phần là lớp nệm bảo vệ cho các chủ nợ, nhờ vậy khả năng vay nợ được mở rộng. Hơn nữa, vốn chủ sở hữu tăng tạo ra một lá chắn chống lại sự phá sản của công ty. Thực chất việc phát hành cổ phiếu trong trường hợp này là việc công ty chào bán cổ phần để huy động vốn. 

Theo pháp luật Việt Nam, phát hành cổ phiếu có thể thực hiện bằng hai phương thức: 

+) Phát hành riêng lẻ: là hình thức phát hành trong đó cổ phiếu có thể được bán cho phạm vi một số người nhất định với số lượng hạn chế, thông thường bán cho những người trong công ty. 

Luật doanh nghiệp 2005 lần đầu tiên đưa ra quy định về việc công ty phát hành thêm cổ phần phổ thông và chào bán cổ phần đó cho tất cả các cổ đông theo tỉ lệ cổ phần hiện có tại công ty: 

"a) Công ty phải thông báo bằng văn bản đến các cổ đông theo phương thức bảo đảm đến được địa chỉ thường trú của họ. Thông báo phải được đăng báo trong ba số liên tiếp trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày thông báo. 

b) Thông báo phải có họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân; tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh của cổ đông là tổ chức; số cổ phần và tỷ lệ cổ phần hiện có của cổ đông tại công ty; tổng số cổ phần dự kiến phát hành và số cổ phần cổ đông được quyền mua; giá chào bán cổ phần; thời hạn đăng ký mua; họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của công ty. Thời hạn xác định trong thông báo phải hợp lý đủ để cổ đông đăng ký mua được cổ phần. Kèm theo thông báo phải có mẫu phiếu đăng ký mua do công ty phát hành; 

c) Cổ đông có quyền chuyển quyền ưu tiên mua cổ phần của mình cho người khác; 

d) Nếu phiếu đăng ký mua cổ phần không được gửi về công ty đúng hạn như thông báo thì cổ đông có liên quan coi như đã không nhận quyền ưu tiên mua. Trường hợp số lượng cổ phần dự định phát hành không được cổ đông và người nhận chuyển quyền ưu tiên mua đăng ký mua hết thì số cổ phần dự kiến phát hành còn lại sẽ do Hội đồng quản trị quản lý. Hội đồng quản trị có thể phân phối số cổ phần đó cho cổ đông của công ty hoặc người khác theo cách thức hợp lý với điều kiện không thuận lợi hơn so với những điều kiện đã chào bán cho các cổ đông, trừ trường hợp Đại hội đồng cổ đông có chấp thuận khác hoặc cổ phần được bán qua trung tâm giao dịch chứng khoán" (Khoản 2 Điều 87). 

Quy định này thực sự có một bước phát triển hơn so với Luật doanh nghiệp trước đó. Tuy nhiên trình tự thủ tục, điều kiện, ... chào bán cổ phiếu riêng lẻ Luật doanh nghiệp 2005 không trực tiếp quy định mà do Chính phủ sẽ có hướng dẫn cụ thể. 

+) Phát hành cổ phiếu ra công chúng: là phương thức phát hành trong đó cổ phiếu được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn nhà đầu tư với khối lượng cổ phiếu phát hành đạt được một tỉ lệ quy định nhất định và phải dành một tỉ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ. 

Theo Khoản 6 Điều 87 Luật doanh nghiệp, điều kiện, phương thức và thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng thực hiện theo quy định của Luật chứng khoán. Ngoài ra, công ty còn phải thực hiện chế độ báo cáo, công bố thông tin và chịu sự giám sát chặt chẽ theo quy định của pháp luật. Điều đó xuất phát từ lí do để cổ phiếu hay trái phiếu của công ty phát hành ra không phải là sản phẩm của trò lừa đảo hoặc của chủ thể có dự án đầu tư kém hiệu quả, gây lãng phí cho nền kinh tế, đồng thời để bảo vệ lợi ích cho nhà đầu tư. 

Việc phát hành cổ phiếu ra công chúng là việc tạo hàng hóa để giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán (thị trường tập trung). Phát hành cổ phiếu ra công chúng được chia làm 2 trường hợp: Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng là việc phát hành trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu tiên được bán cho công chúng đầu tư. Phát hành thêm cổ phiếu là việc phát hành cổ phiếu bổ sung cho công chúng đầu tư. 

Công ty cổ phần muốn phát hành cổ phiếu ra công chúng phải đáp ứng các yêu cầu về vốn, thời gian hoạt động, đội ngũ quản lí, hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính khả thi của dự án sản xuất trong tương lai được quy định rõ trong Khoản 1 Điều 12 Luật chứng khoán 2006: 

"Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng bao gồm: 

a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán; 

b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán; 

c) Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua" 

Việc quy định như trên nhằm đảm bảo chất lượng và số lượng cổ phiếu phát hành của công ty cổ phần để có thể giao dịch trên thị trường chứng khoán. Nếu công ty cổ phần có số vốn điều lệ quá nhỏ, làm ăn không có lãi thì không tạo niềm tin cho người đầu tư và cổ phiếu của công ty niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ không có tính thanh khoản cao. 

Sau khi công ty cổ phần đã hội đủ các điều kiện trên thì công ty lập hồ sơ gửi Ủy ban chứng khoán Nhà nước để xin được cấp giấy phép phát hành. Khoản 1 Điều 13 Luật chứng khoán 2006 quy định: 

"Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng gồm có: 

a) Giấy đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng; 

b) Bản cáo bạch; 

c) Điều lệ của tổ chức phát hành; 

d) Quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng; 

đ) Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có)". 

Điều đáng chú ý nhất trong hồ sơ xin phép phát hành là bản cáo bạch. Theo Khoản 1 và Điểm a Khoản 3 Điều 15 Luật chứng khoán 2006 thì nội dung bản cáo bạch gồm: 

- Thông tin tóm tắt về tổ chức phát hành bao gồm mô hình tổ chức bộ máy, hoạt động kinh doanh, tài sản, tình hình tài chính, Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc và cơ cấu cổ đông (nếu có); 

- Thông tin về đợt chào bán và chứng khoán chào bán bao gồm điều kiện chào bán, các yếu tố rủi ro, dự kiến kế hoạch lợi nhuận và cổ tức của năm gần nhất sau khi phát hành chứng khoán, phương án phát hành và phương án sử dụng tiền thu được từ đợt chào bán; 

- Báo cáo tài chính của tổ chức phát hành trong hai năm gần nhất theo quy định tại Điều 16 của Luật này;  

- Các thông tin khác quy định trong mẫu Bản cáo bạch. 

- Đối với việc chào bán cổ phiếu ra công chúng, Bản cáo bạch phải có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Giám đốc tài chính hoặc Kế toán trưởng của tổ chức phát hành và người đại diện theo pháp luật của tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành chính (nếu có). Trường hợp ký thay phải có giấy uỷ quyền. 

Trong thời gian Ủy ban chứng khoán Nhà nước xem xét cấp giấy phép phát hành, công ty cổ phần và các đối tượng liên quan chỉ được sử dụng trung thực và chính xác các thông tin trong bản cáo bạch đã gủi Ủy ban chứng khoán Nhà nước để thăm dò thị trường. Tổ chức phát hành không được trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các hoạt động mang tính quảng cáo, chào mời công chúng đầu tư mua cổ phiếu và phân phối cổ phiếu ra công chúng dưới bất cứ hình thức nào. 

Sau khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, trong thời hạn 30 ngày, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xem xét và cấp Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng. Trường hợp từ chối, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do (Khoản 1 Điều 20 Luật chứng khoán 2006). 

Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng có hiệu lực, tổ chức phát hành phải công bố Bản thông báo phát hành trên một tờ báo điện tử hoặc báo viết trong ba số liên tiếp (Khoản 3 Điều 20 Luật chứng khoán 2006). 

Sau khi nhận được giấy phép phát hành cổ phiếu và công bố, công ty cổ phần tiến hành phân phối cổ phiếu, được quy định trong Điều 21 Luật chứng khoán 2006: 

"1.Việc phân phối chứng khoán chỉ được thực hiện sau khi tổ chức phát hành bảo đảm người mua chứng khoán tiếp cận Bản cáo bạch trong hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng được công bố tại các địa điểm ghi trong Bản thông báo phát hành. 

2.Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải phân phối chứng khoán công bằng, công khai và bảo đảm thời hạn đăng ký mua chứng khoán cho nhà đầu tư tối thiểu là hai mươi ngày; thời hạn này phải được ghi trong Bản thông báo phát hành. 

Trường hợp số lượng chứng khoán đăng ký mua vượt quá số lượng chứng khoán được phép phát hành thì tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải phân phối hết số chứng khoán được phép phát hành cho nhà đầu tư tương ứng với tỷ lệ đăng ký mua của từng nhà đầu tư. 

3.Tiền mua chứng khoán phải được chuyển vào tài khoản phong toả mở tại ngân hàng cho đến khi hoàn tất đợt chào bán và báo cáo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. 

4.Tổ chức phát hành phải hoàn thành việc phân phối chứng khoán trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng có hiệu lực. Trường hợp tổ chức phát hành không thể hoàn thành việc phân phối chứng khoán ra công chúng trong thời hạn này, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xem xét gia hạn việc phân phối chứng khoán nhưng tối đa không quá ba mươi ngày. Trường hợp đăng ký chào bán chứng khoán cho nhiều đợt thì khoảng cách giữa đợt chào bán sau với đợt chào bán trước không quá mười hai tháng. 

5 Tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt chào bán cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, kèm theo bản xác nhận của ngân hàng nơi mở tài khoản phong toả về số tiền thu được trong đợt chào bán. 

6.Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải chuyển giao chứng khoán hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán cho người mua trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán". 

Trước khi hoàn thành việc phân phối cổ phiếu ra công chúng, trong những trường hợp cụ thê, công ty phát hành có thể bị đình chỉ đợt phát hành (Điều 22 Luật chứng khoán). 

Trong trường hợp đó, người đầu tư có quyền hủy bỏ việc mua cổ phiếu hoặc trả lại cổ phiếu đã mua và công ty phát hành và các tổ chức liên quan phải hoàn trả tiền cho các nhà đầu tư trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu. 

Ngoài ra, công ty phát hành bị thu hồi giấy phép phát hành trong những trường hợp sau: 

-Tổ chức phát hành tự nguyện xin rút giấy phép phát hành. 

-Tổ chức phát hành không khắc phục được những trường hợp bị đình chỉ giấy phép phát hành. 

-Tổ chức phát hành vi phạm pháp luật, vi phạm cá quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán gây thiệt hại nghiêm trọng cho nhà đầu tư. 

-Khi có kiến nghị thu hồi Giấy phép phát hành của cơ quan pháp luật. 

Trường hợp giấy phép phát hành bị thu hồi, người đầu tư có quyền hủy bỏ việc đăng kí mua cổ phiếu hoặc trả lại cổ phiếu đã mua. 

2. Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng: 

a. Phát hành trái phiếu: 

* Trái phiếu: 

Theo Khoản 3 Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn. Cùng với số cổ phiếu là công cụ huy động vốn chủ sở hữu, công ty cổ phần có thể sử dụng trái phiếu để vay vốn trung hạn và dài hạn, đáp ứng cho nhu cầu về vốn kinh doanh có lúc vượt ngoài khả năng tài chính của các cổ đông. 

Theo Khoản 3 Điều 6 Luật chứng khoán 2006: "Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành". 

Như vậy, khác với cổ phiếu (là chứng từ xác nhận cổ phần trong công ty), trái phiếu chỉ xác nhận quyền của người sở hữu trái phiếu được trả nợ gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu. Quan hệ giữa người sở hữu trái phiếu với công ty là quan hệ giữa chủ nợ với con nợ. Với tư cách là một loại chứng chỉ xác nhận lợi ích tài sản, trái phiếu là phần thứ hai trong cơ cấu vốn của công ty có liên quan đến việc hình thành thị trường chứng khoán. 

Trái phiếu của công ty phát hành có đặc điểm: 

-Trái phiếu có thời gian đáo hạn. Khi đến thời điểm đáo hạn, người chủ sở hữu trái phiếu được hoàn trái. 

-Trái phiếu có lợi tức cố định, tiền lãi phải trả cho chủ sở hữu không phụ thuộc vào mức lợi nhuận của công ty. Có nghĩa là kết quả sản xuất kinh doanh của công ty không ảnh hưởng đến lợi ích của người sở hữu trái phiếu. 

-Người sở hữu trái phiếu không có quyền tham gia biểu quyết các vấn đề của công ty.  

-Trái phiếu đem lại cho người chủ sở hữu quyền ưu tiên về phân chia lợi nhuận cũng như quyền ưu tiên về phân chia tài sản khi công ty giải thể hoặc phá sản. 

-Trái phiếu có thể tự do chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán. 

Khác với các hình thức vay nợ khác, trái phiếu có khả năng trao đổi. Chủ sở hữu trái phiếu cho công ty phát hành vay vốn bằng mua trái phiếu, có quyền giữ lại hoặc bán đi bất cứ lúc nào (trên thụ trường thứ cấp) mà không phải chờ đến kì thanh toán. Còn trong trường hợp khi ngân hàng cho vay một khoản tiền thì ngân hàng phải ghi vào trong sổ sách và lưu giữ cho tới khi khoản nợ đó được thanh toán, do đó có mối quan hệ ràng buộc hơn giữa người đi vay và người cho vay. Bằng cách này, trái phiếu tạo điều kiện cho công ty phát hành có thể vay dài hạn trong khi người sở hữu trái phiếu vẫn có thể thu hồi vốn bất cứ khi nào với điều kiện có sự tồn tại và hoạt động của thị trường chứng khoán thứ cấp. 

Mệnh giá trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu khi phát hành. Trái phiếu có mệnh giá là 100.000 đồng Việt Nam và bội số của 100.000 đồng Việt Nam. 

Theo quy định của pháp luật "Công ty cổ phần có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty" (Khoản 1 Điều 88 Luật doanh nghiệp 2005). 

Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của cùng một công ty phát hành theo các điều kiện dã quy định trước. Ưu điểm của loại trái phiếu này là người mua được hưởng sự an toàn đầu tư và sau một thời gian nhất định tăng cơ hội kiếm lời nếu giá cổ phiếu tăng trên thị trường. Việc phát hành cổ phiếu chuyển đổi là một cách thức để huy động vốn khi công ty chưa thể phát hành cổ phiếu ngay do bản thân dự án đầu tư mới không thể sinh lãi ngay lập tức để có mức cổ tức cổ phiếu như hiện tại. 

Các loại trái phiếu khác theo điều lệ của công ty có thể là: 

Trái phiếu dự phần: là loại trái phiếu cho phép chủ sở hữu có cơ hội thu được một phần lợi nhuận từ việc kinh doanh của công ty phát hành. Loại trái phiếu này gần giống với cổ phiêu ưu đãi. 

Trái phiếu có thể thu hồi: là loại trái phiếu trên đó có điều khoản quy định công ty phát hành có thể mua lại trái phiếu trước thời hạn của trái phiếu. 

* Phát hành trái phiếu: 

Phát hành trái phiếu là cách thức vay vốn, theo đó người vay phát hành một chứng chỉ thường là với một mức lãi suất xác định, đảm bảo thanh toán vào một thời hạn xác định trong tương lai. Người mua trái phiếu sẽ trở thành chủ nợ của công ty, nhận được một mức lãi suất cố định và thanh toán khoản vay khi đáo hạn. Phát hành trái phiếu là một trong những cách thức vay vốn quan trọng của công ty cổ phần. Kết quả của việc phát hành trái phiếu sẽ làm tăng vốn vay của công ty. 

Phương thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu là phương thức ưu việt dành cho những công ty cổ phần có dự án kinh doanh dài hạn với một mức lãi suất thích hợp nhỏ hơn lãi suất công ty phải đi vay ngân hàng nhưng lại cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm để thu hút các nhà đầu tư. Điều này vừa có lợi cho công ty phát hành cũng như các nhà đầu tư do bỏ qua chi phí trung gian. 

* Quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu: 

Công ty cổ phần có thể phát hành trái phiếu theo hai phương thức là phát hành riêng lẻ và phát hành rộng rãi. 

Điều kiện phát hành trái phiếu ra công chúng đối với công ty cổ phần được quy định cụ thể trong Khoản 2 Điều 12 Luật chứng khoán 2006: 

"2. Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng bao gồm:  

a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán; 

b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm; 

c) Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán được Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty thông qua; 

d) Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác" 

Sau khi công ty cổ phần đã hội đủ các điều kiện trên thì công ty lập hồ sơ gửi Ủy ban chứng khoán Nhà nước để xin được cấp giấy phép phát hành. Khoản 2 Điều 13 Luật chứng khoán 2006 quy định: 

"Hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng gồm có: 

a) Giấy đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng; 

b) Bản cáo bạch; 

c) Điều lệ của tổ chức phát hành; 

d) Quyết định của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty thông qua phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán trái phiếu ra công chúng; 

đ) Cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác; 

e) Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có)". 

Trường hợp công ty cổ phần phát hành trái phiếu có đảm bảo thì phải nêu rõ tỉ lệ đảm bảo và liệt kê chi tiết tài sản đảm bảo trong hồ sơ xin phép phát hành và có tài liệu hợp lệ chứng minh những tài sản bảo đảm này thuộc quyền sở hữu của mình hoặc của người thứ ba (trong trường hợp bảo lãnh) và có đủ giá trị thanh toán trái phiếu. Tài sản đảm bảo phải đáp ứng các yêu cầu sau: 

- Nếu tài sản đảm bảo là các loại trái phiếu chính phủ, các loại trái phiếu khác được cac tổ chức bảo lãnh thanh toán cả tiền gốc và lãi vô điều kiện thì giá trị tài sản đảm bảo tối thiểu phải bằng tổng giá trị trái phiếu và giá trị đó được tính theo giá thấp nhất của một trong các giá: giá thị trường, mệnh giá, giá mua tài sản đảm bảo đó bao gồm cả lãi hoặc phần chiết khấu được nhận cho đến ngày xin phép phát hành. 

- Nếu tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, các cơ sở sản xuất kinh doanh như nhà máy, khách sạn, cửa hàng, nhà kho, các công cụ, máy móc thiết bị gắn liền với nhà máy, tàu biển, máy bay thì giá trị các tài sản đảm bảo trên tối thiểu phải bằng 1,5 lần tổng số giá trị trái phiếu. Việc định giá phải do cơ quan định giá tài sản có thẩm quyền tiến hành. Việc định giá này có giá trị không quá 12 tháng kể từ ngày định giá. Trong số các tài sản trên trừ quyền sử dụng đất thì số còn lại phải có hợp đồng bảo hiểm tài sản. 

Trường hợp phát hành trái phiếu chuyển đổi, công ty phải nêu rõ điều khoản mua hoặc chuyển đổi trong hồ sơ xin phép phát hành: 

- Điều kiện, thời hạn tiến hành mua hoặc chuyển đổi. 

- Tỷ lệ chuyển đổi và phương pháp tính giá mua hoặc chuyển đổi. 

- Phương pháp tính và đền bù thiệt hại trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu không phát hành được cổ phiếu để đáp ứng được quyền mua hoặc chuyển đổi. 

- Các điều kiện khác (nếu có). 

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Ủy ban chứng khoán phải cấp giấy phép phát hành cho công ty, trường hợp không cấp phải giải thích lí do bằng văn bản. 

Việc phân phối, tiêu thụ cũng như đình chỉ phát hành trái phiếu được quy định như đối với cổ phiếu. 

b. Tín dụng ngân hàng: 

Huy động vốn thông qua hình tức tín dụng ngân hàng là một hình thức huy động vốn phổ biến được các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng áp dụng trên thực tế. Thông qua hình thức này, công ty cổ phần có thể có được các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đáp ứng được yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh. 

Việc huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn đối với các công ty có uy tín, có quan hệ lâu dài với ngân hàng. Bên cạnh đó cơ chế cho vay hiện nay đang tạo cho việc huy động vốn qua ngân hàng có ưu điểm, ưu việt hơn mà huy động vốn bằng trái phiếu không có như khi vay ngân hàng nếu đến hạn trả công ty chưa có khả năng trả nợ thì có thể xin gia hạn nợ; trong khi nếu công ty phát hành trái phiếu thì phải có nghĩa vụ hoàn trả các khoản lãi và gốc khi trái phiếu đến hạn thanh toán. 

Để huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng, công ty phải đáp ứng được các điều kiện nhất định như có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sử dụng vốn khả thi và có tài sản bảo đảm cho khoản vay bằng biện pháp cầm cố, thế chấp hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng trừ trường hợp công ty được ngân hàng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Công ty vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận; hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. 

Có hai hình thức cho vay vốn là vay có bản đảm và vay không có bảo đảm. 

+) Cho vay có bảo đảm là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của công ty cổ phần được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của công ty hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của công ty, tài sản hình thành từ vốn vay và tài sản của bên bảo lãnh dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với tổ chức tín dụng. 

Việc đề ra những biện pháp bảo đảm bằng tài sản là biện pháp hữu hiệu để ngân hàng dễ dàng thu hồi vốn cho vay đồng thời khuyến khích công ty cổ phần hoạt động có hiều quả. Theo Khoản 1 Điều 3 Nghị định 178/1999/NĐ-CP thì: 

"1. Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản: 

a) Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay; 

b) Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; 

c) Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay". 

- Thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng là việc công ty cổ phần (bên vay vốn) dùng tài sản là bất động sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng. Bất động sản ở đây có thể là nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, các cơ sở sản xuất kinh doanh, khách sạn, cửa hàng ... Tài sản dùng để thế chấp là những tài sản có giá trị lớn và khó chuyển dịch được. Chính vì đặc điểm này mà ngân hàng thường quản lí tài sản thế chấp thông qua giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 

- Cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng là việc công ty cổ phần có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho ngân hàng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tài sản cầm cố ở đây là động sản như phương tiện vận tải, máy móc thiết bị dùng cho sản xuất kinh doanh, vật tư hàng hóa, ... Khi cầm cố tài sản, công ty có nghĩa vụ giao tài sản cho ngân hàng, nếu tài sản có đăng kí quyền sở hữu thì giữa ngân hàng và công ty có thể thỏa thuận tài sản do công ty giữ hoặc giao cho bên thứ ba giữ, ngân hàng sẽ quản lí gián tiếp tài sản đó thông qua bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản. 

- Bảo lãnh vay vốn ngân hàng là việc bên thứ ba (pháp nhân hoặc cá nhân) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho công ty cổ phần (bên vay vốn) nếu khi đến hạn trả nợ mà công ty không trả được toàn bộ số nợ hay một phần nợ vay cho ngân hàng. Bên bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình. Ngân hàng và bên bảo lãnh có thể thỏa thuận biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. 

Khi vay vốn có các biện pháp bảo đảm bằng tài sản trên, công ty và ngân hàng phải lập hợp đồng bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Việc kiểm tra tính hợp pháp và điều kiện của tài sản đảm bảo tiền vay do ngân hàng thực hiện. 

Theo quy định của pháp luật, việc xác định tài sản đảm bảo tiền vay được thực hiện theo Điều 8 Nghị định 178/1999/NĐ-CP: 

"1. Tài sản bảo đảm tiền vay phải được xác định giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm; việc xác định giá trị tài sản tại thời điểm này chỉ để làm cơ sở xác định mức cho vay của tổ chức tín dụng, không áp dụng khi xử lý tài sản để thu hồi nợ. Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay phải được lập thành văn bản riêng kèm theo hợp đồng bảo đảm. 

2. Đối với tài sản bảo đảm tiền vay không phải là quyền sử dụng đất, thì việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay do các bên thoả thuận, hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm xác định, có tham khảo đến các loại giá như giá quy định của nhà nước (nếu có), giá mua, giá trị còn lại trên sổ sách kế toán và các yếu tố khác về giá. 

3. Giá trị quyền sử dụng đất thế chấp được xác định như sau: 

a) Đất được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; đất ở; đất chuyên dùng; đất mà tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác hoặc được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất hoặc tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó không do ngân sách Nhà nước cấp; đất mà hộ gia đình, cá nhân nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác hoặc được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, thì giá trị quyền sử dụng đất thế chấp được xác định theo giá đất của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành áp dụng tại thời điểm thế chấp; 

b) Đất được Nhà nước cho hộ gia đình, cá nhân thuê mà đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê; đất được Nhà nước cho tổ chức kinh tế thuê đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê mà tiền thuê đất đó không do ngân sách Nhà nước cấp; đất được Nhà nước cho hộ gia đình, cá nhân thuê đã trả tiền thuê đất cho nhiều năm mà thời gian thuê đất đã trả tiền còn lại ít nhất là 5 năm; đất được Nhà nước cho tổ chức kinh tế thuê đã trả tiền thuê đất cho nhiều năm mà thời gian thuê đất đã trả tiền còn lại ít nhất là 5 năm và tiền thuê đất đó không do ngân sách Nhà nước cấp, thì giá trị quyền sử dụng đất thế chấp gồm tiền đền bù thiệt hại khi được Nhà nước cho thuê đất (nếu có) và tiền thuê đất đã trả cho Nhà nước sau khi trừ đi tiền thuê đất đã trả cho thời gian đã sử dụng; 

c) Đất được Nhà nước cho tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thuê, khi thế chấp giá trị quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc sở hữu của mình đã đầu tư xây dựng trên đất đó, thì giá trị quyền sử dụng đất thế chấp được xác định theo số tiền thuê đất đã trả cho Nhà nước sau khi trừ tiền thuê đất đã trả cho thời gian đã sử dụng; 

d) Đất được Nhà nước giao cho tổ chức kinh tế không thu tiền sử dụng đất để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối; đất được Nhà nước cho tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân thuê đã trả tiền thuê đất hàng năm hoặc đã trả tiền thuê đất cho nhiều năm mà thời gian thuê đất đã trả tiền còn lại dưới 5 năm, thì giá trị tài sản thế chấp không tính giá trị quyền sử dụng đất;  

đ) Trường hợp thế chấp giá trị quyền sử dụng đất mà người thuê đất được miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp luật, thì giá trị quyền sử dụng đất thế chấp được tính theo giá trị thuê đất trước khi được miễn, giảm. 

4. Việc thế chấp giá trị quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản gắn liền, thì giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bao gồm giá trị quyền sử dụng đất và giá trị tài sản gắn liền với đất.  

5. Giá trị tài sản cầm cố, thế chấp được xác định bao gồm cả hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản đó nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. 

Trong trường hợp tài sản thế chấp là toàn bộ bất động sản có vật phụ, thì giá trị của vật phụ cũng thuộc giá trị tài sản thế chấp; nếu chỉ thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì giá trị vật phụ chỉ thuộc giá trị tài sản thế chấp khi các bên có thoả thuận".

- Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc công ty cổ phần dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với ngân hàng. Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của công ty cổ phần mà giá trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của tổ chức tín dụng.  

Điều kiện về chủ thể và tài sản để vay vốn được quy định cụ thể tại Điều 15 Nghị định 178/1999/NĐ-CP: 

"Điều kiện đối với khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay 

Khi tổ chức tín dụng cho khách hàng vay theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Nghị định này, thì khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay phải có đủ các điều kiện sau đây: 

1. Đối với khách hàng vay  

a) Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng; 

b) Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ; 

c) Có dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi, có khả năng hoàn trả nợ; hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật; 

d) Có mức vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 50% vốn đầu tư của dự án. 

2. Đối với tài sản  

a) Tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm bảo đảm tiền vay phải xác định được quyền sở hữu hoặc được giao quyền sử dụng; giá trị, số lượng và được phép giao dịch. Nếu tài sản là bất động sản gắn liền với đất thì phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với khu đất mà trên đó tài sản sẽ được hình thành và phải hoàn thành các thủ tục về đầu tư xây dựng theo quy định của pháp luật; 

b) Đối với tài sản mà pháp luật có quy định phải mua bảo hiểm, thì khách hàng vay phải cam kết mua bảo hiểm trong suốt thời hạn vay vốn khi tài sản đã được hình thành đưa vào sử dụng". 

+) Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: 

Công ty cổ phần cũng có thể được ngân hàng lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất khi đáp ứng đủ các yêu cầu quy định tại Điều 20 Nghị định 178/1999/NĐ-CP: 

"1. Khách hàng vay phải có đủ các điều kiện sau đây: 

a) Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi;  

b) Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi, có khả năng hoàn trả nợ; hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật; 

c) Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ;  

d) Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản quy định tại điểm này. 

2. Đối với khách hàng vay là doanh nghiệp, ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này còn phải có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi trong hai năm liền kế với thời điểm xem xét cho vay". 

c. Tín dụng thuê mua: 

Trên thực tế nhiều doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng khó tiếp cận vốn vay ngân hàng. Sự ra đời của các công ty cho thuê tài chính là một giải pháp để tài trợ vốn trung hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp. 

Cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng được pháp luật lần đầu tiên ghi nhận tại Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990 với tên gọi là hoạt động thuê mua tài chính. Tuy nhiên, phải đến khi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định 149/QĐ-NH5 ngày 27/5/1995, sau đó là Nghị định 64/CP của Chính phủ ngày 9/10/1995 và Thông tư 03/TT-NH5 của Ngân hàng Nhà nước ngày 9/2/1996, thì hoạt động này mới được sự điều chỉnh cụ thể của pháp luật. Sau khi Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004) được ban hành, hoạt động cho thuê tài chính ngày càng được điều chỉnh một cách chi tiết và hệ thống (tại Điều 20, Điều 61 đến Điều 63). Các văn bản dưới luật lần lượt ra đời để cụ thể hoá Luật các tổ chức tín dụng, trong đó đáng chú ý nhất là Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam. 

Cho thuê tài chính vừa là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, vừa là một dạng cho thuê tài sản mà theo đó, tổ chức tín dụng cho khách hàng quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian nhất định, với điều kiện khách hàng phải trả tiền thuê (Đại học Huế, TS. Võ Đình Toàn (chủ biên), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, NXB CAND, 2005, tr.163). Tuy nhiên, không phải một giao dịch cho thuê tài sản nào của tổ chức tín dụng cũng được coi là cho thuê tài chính (Quyết định 731/2004/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày 15/6/2004). Xét về mặt bản chất, giao dịch cho thuê tài chính có những đặc điểm nổi bật sau đây:  

- Cho thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một tài sản cụ thể. Khác với các hình thức cấp tín dụng khác mà theo đó, tổ chức tín dụng chuyển giao một khoản tiền, trong hình thức cấp tín dụng cho thuê tài chính, tổ chức tín dụng tiến hành cấp tín dụng bằng cách chuyển giao cho khách hàng (bên thuê) một tài sản cụ thể (máy móc, dây chuyền sản xuất, phương tiện vận tải hoặc động sản khác) để bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Bên thuê có nghĩa vụ trả toàn bộ tiền thuê theo thoả thuận. Tính chất thanh toán trọn vẹn của giao dịch cho thuê tài chính cho thấy bản chất tín dụng của hoạt động này. Tổ chức tín dụng được bảo đảm về khả năng hoàn trả của khách hàng đối với khoản tín dụng đã chuyển giao thông qua quyền nhận tiền thuê. Cũng tương tự như pháp luật một số quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam ghi nhận cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, nhằm phù hợp với đặc điểm của đối tượng cho thuê là những động sản có giá trị, thời gian cần thiết để khấu hao thường từ một năm trở lên.  

- Cho thuê tài chính là hình thức cho thuê mà hầu hết các quyền năng của chủ sở hữu (bên cho thuê) được chuyển giao cho bên thuê. Khác với các hình thức thuê tài sản thông thường theo quy định của pháp luật dân sự, trong hoạt động cho thuê tài chính, bên cho thuê thường chỉ giữ quyền sở hữu "danh nghĩa" đối với tài sản cho thuê (quyền này cho phép tổ chức tín dụng có thể thu hồi tài sản cho thuê nếu bên thuê vi phạm hợp đồng), còn những quyền năng cụ thể đối với tài sản cho thuê được chuyển giao hầu như hoàn toàn cho bên thuê. Điều này được lý giải bởi bản chất tín dụng của hoạt động cho thuê tài chính: Tổ chức tín dụng chỉ quan tâm đến khả năng thu hồi cả gốc và lãi của khoản tín dụng, còn việc sử dụng khoản tín dụng được cấp là quyền của bên nhận tín dụng (bên thuê). Đặc điểm này đã được Uỷ ban về chuẩn mực kế toán quốc tế ghi nhận: "Cho thuê tài chính là loại cho thuê có khả năng dịch chuyển về cơ bản tất cả những rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản". 

Cụ thể hoá những đặc trưng của nghiệp vụ cho thuê tài chính, quy định của pháp luật hiện hành ghi nhận giao dịch cho thuê tài chính phải có một trong những dấu hiệu sau đây (Khoản 2 Điều 1 Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính):  

- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên;  

- Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại;  

- Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê;  

- Tổng số tiền thuê tài sản theo thoả thuận. Ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.  

Cho thuê tài chính được phân loại thành nhiều phương thức tuỳ theo từng tiêu chí phân loại. Một số tài liệu phân loại cho thuê tài chính dựa theo nguồn gốc sở hữu hoặc nguồn gốc tài chính của tài sản thuê mà theo đó, cho thuê tài chính bao gồm: Cho thuê đơn giản, cho thuê hợp vốn, cho thuê bắc cầu, bán và cho thuê lại ... (Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, NXB CAND, năm 2005, tr.266). Tuy nhiên, để làm nổi bật bản chất tín dụng, hoạt động cho thuê tài chính có thể được phân loại như sau:  

Cho thuê tài chính không hoàn lại tài sản thuê là phương thức cho thuê tài chính mà theo đó, bên thuê có quyền sở hữu tài sản thuê khi chấm dứt hợp đồng thuê. Khi kết thúc hợp đồng, bên cho thuê có nghĩa vụ tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết để chuyển giao quyền sở hữu cho bên thuê. Đối với phương thức này, số tiền thuê thường không thấp hơn giá trị tài sản thuê tại thời điểm giao kết hợp đồng và khi chuyển giao quyền sở hữu, bên thuê chỉ phải thanh toán theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực của tài sản tại thời điểm chuyển giao.  

Cho thuê tài chính có hoàn lại tài sản thuê là phương thức cho thuê tài sản mà theo đó, tài sản thuê không đương nhiên được chuyển giao quyền sở hữu khi chấm dứt hợp đồng thuê. Với phương thức cho thuê này, số tiền thuê có thể thấp hơn giá trị của tài sản tại thời điểm thuê. Khi kết thúc hợp đồng thuê, bên thuê có quyền thuê tiếp hoặc mua lại tài sản thuê. Giá chuyển nhượng (nếu có) sẽ được các bên thương lượng dựa trên giá trị còn lại của tài sản thuê.

III.Một số nhận xét về các qui định của pháp luật về huy động vốn trong công ty cổ phần 

1. Về vốn chủ sở hữu: 

Mặc dù các quy định của pháp luật về huy động vốn chủ sở hữu đã có nhiều điểm tiến bộ, tạo được những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhưng bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế không tránh khỏi. 

Theo Khoản 1 Điều 85 Luật doanh nghiệp 2005 quy định một trong những nội dung chủ yếu mà cổ phiếu phải có là "mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu", nghĩa là cổ phiếu bắt buộc phải có mệnh giá. Có thể hiểu mệnh giá là cách thức góp vốn, cũng là cơ sở cho chủ nợ nhìn vào để đòi nợ và chỉ có ý nghĩa khi công ty cổ phần phát hành cổ phiếu lần đầu. Cổ phiếu khi được bán trên thị trường có thể có một giá cao hơn hay thấp hơn mệnh giá, vậy là có sự tách biệt giữa mệnh giá và giá thị trường nhưng tính chất bình đẳng của việc góp vốn vẫn được duy trì, bởi giữa những người mua với nhau không có gì khác biệt (họ đều phải trả số tiền như nhau để được sở hữu cổ phiếu). Vì vậy, việc định giá cho cổ phiếu có lẽ là không cần thiết. 

Ngoài ra, ta cũng có thể đa dạng hóa các loại cổ phiếu ưu đãi để tạo sự hấp dẫn với người đầu tư như ở một số nước có nền kinh tế chuyển đổi tương tự Việt Nam, đặc biệt là các nước trong khu vực ASEAN đã áp dụng: cổ phần ưu đãi dồn lãi, cổ phần ưu đãi dự phần được chia cổ tức, cổ phần ưu đãi mua lại, cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi, cổ phần ưu đãi phức hợp, cổ phần ưu đãi hàng đầu, cổ phần ưu đãi để trống ... 

2. Về vốn tín dụng: 

a.Trái phiếu: 

Cũng giống như cổ phiếu, các loại trái phiếu có lẽ vẫn chưa thực sự thu hút các nhà đầu tư. Để tạo thêm hàng cho thị trường trái phiếu_một thị trường mà các doanh nghiệp Việt Nam còn bỏ ngỏ, pháp luật nên có những quy định về quyền phát hành "các loại trái phiếu khác" giải thích rõ hơn Khoản 1 Điều 88 Luật doanh nghiệp 2005. Có thể đưa ra một số loại trái phiếu khác như: trái phiếu không trả lãi, trái phiếu trả lãi theo thu nhập, trái phiếu lãi suất thả nổi, trái phiếu có quyền bán trước khi đáo hạn ... 

Trong quy định về phát hành trái phiếu của Luật doanh nghiệp 2005 tại Điểm b Khoản 2 Điều 88 "Việc phát hành trái phiếu cho các chủ nợ là tổ chức tài chính được lựa chọn không bị hạn chế bởi các quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này" nhưng hiện nay chưa có khái niệm chính thức về tổ chức tài chính. Văn bản hướng dẫn cần có những giải thích và quy định rõ hơn. 

b.Tín dụng ngân hàng: 

Đây là một hình thức huy động vốn khá phổ biến và được không chỉ công ty cổ phần mà các doanh nghiệp khác áp dụng. Tuy nhiên, hình thức này cũng tồn tại những hạn chế không tránh khỏi như hệ thống văn bản pháp luật còn chồng chéo, thủ tục cho vay phức tạp, ... Hơn nữa khi doanh nghiệp vay vốn thì khoản vay thường lớn nên lãi suất cao, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải chịu áp lực trả lãi và thời hạn trả. Mặt khác, nguồn vốn của ngân hàng thương mại là nguồn tài trợ ngắn hạn nên doanh nghiệp chỉ được vay 12 tháng. Điều này gây khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp khi đi vay vốn ngân hàng. 

c.Tín dụng thuê mua: 

Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không mấy quan tâm đến loại hình dịch vụ này, nguyên nhân có thể là vì: doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn hạn chế; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh nghiệp còn yếu; giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...) hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng. Như vậy, nếu tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay ngân hàng, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm... của bên cho thuê phải bỏ ra.  

Một nguyên nhân rất đáng được quan tâm là hành lang pháp lý về cho thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định cần phải được luật hóa. Các quy định về sở hữu, về tổ chức, hoạt động, vốn điều lệ... trong các văn bản còn nhiều vấn đề phải bàn. Ví dụ như quy định về vốn điều lệ là 50 tỉ đồng đối với công ty trong nước và 5 triệu USD đối với công ty nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không phù hợp. Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật khi quy định về cho thuê tài chính đã không phân định triệt để các khái niệm liên quan đến sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình cho thuê tài chính, giá trị cho thuê tối đa... gây cản trở đối với hoạt động cho thuê tài chính. 

Vì vậy phải từng bước sửa đổi, bổ sung các quy định về hoạt động liên quan đến dịch vụ cho thuê tài chính trong Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo quy định tại Nghị định số 16/2001/NĐ-CP đối tượng tài sản để cho thuê tài chính chỉ là các động sản, đây là một trong những bất cập cần được sửa đổi.  

Ngoài ra, các quy định về phương thức xử lý, quản lý, sử dụng, trích khấu hao tài sản thuê tài chính cũng nên chỉnh sửa cho phù hợp với thông lệ quốc tế...

Tóm lại, công ty cổ phần là loại hình công ty chiếm ưu thế ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Ưu điểm nổi bật của công ty cổ phần là khả năng công khai huy động vốn, tạo lập nguồn vốn khổng lồ vào đầu tư, kinh doanh và sự mềm dẻo trong việc sử dụng vốn phù hợp với hoạt động kinh doanh của công ty. Nhận thức và vận dụng linh hoạt những ưu thế đó sẽ phát huy được hết khả năng vốn có của mô hình kinh doanh này, phục vụ cho yêu cầu phát triển của đất nước. 

Nhưng quy định mới trong Luật doanh nghiệp 2005 về công ty cổ phần, đặc biệt là những quy định về cơ chế góp vốn và huy động vốn của nó đã tỏ ra thông thoáng, mềm dẻo hơn, tạo hành lang pháp lí an toàn cho sự ra đời và hoạt động của công ty cổ phần. Sự ra đời và ngày càng phát triển của thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã tạo điều kiện cho công ty cổ phần huy động vốn có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu về vốn để hoạt động kinh doanh. 

Tuy nhiên, thực tế cho thấy ban hành pháp luật đã là cả một quá trình rất phức tạp nhưng triển khai thi hành lại còn khó khăn hơn rất nhiều. Để những quy định về huy động vốn của công ty cổ phần đi vào thực tế cuộc sống và phát huy có hiệu quả đòi hỏi sự hỗ trợ về rất nhiều mặt cũng như những hướng dẫn cụ thể từ phía Nhà nước.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro