huy12345

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 11.  Chủ trương của Đảng về Công nghiệp hóa XHCN thời kỳ trước đổi mới của Đảng CSVN?

Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của

Đảng (9/1960). Trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25 năm tiến hành công

nghiệp hóa qua 2 giai đoạn: từ 1960 – 1975 triển khai ở miền Bắc và từ 1975 – 1985

thực hiện trên phạm vi cả nước.

Ở miền Bắc: Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc đặc điểm miền Bắc, trong

đó đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ

nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ  nghĩa. Đại hội  III của

Đảng khẳng định: muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con

đường nào khác, ngoài con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Tức là khẳng

định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội

ở nước ta. Đại hội cũng chỉ rõ, để thực hiện được mục tiêu trên thì vấn đề quan trọng

có tính chất quyết định là thực hiện trang bị kỹ  thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc

dân, thực hiện cơ giới hóa sản xuất, từ đó nâng cao năng suất lao động.

Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng đã xác định công nghiệp hóa xã

hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở

nước ta. Quan điểm đúng đắn này được khẳng định nhiều lần trong tất cả các Đại hội

của Đảng.

Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được Đại hội III xác

định là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu xây

dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài,

phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.

Để chỉ đạo thực hiện công nghiệp, hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa III)

nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:

-  Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.

-  Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.

-  Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển

công nghiệp nặng.

-  Ra sức phát triển công nghiệp trung ương đồng thời đẩy mạnh phát

triển công nghiệp địa phương

Trên phạm vi cả nước: Sau Đại thắng mùa xuân 1975, cả nước độc lập, thống

nhất và quá độ  lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện đặc

điểm, tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội IV của Đảng (12/1976) đề ra đường

lối công nghiệp hóa xã hội chủ  nghĩa là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ

nghĩa, xây dựng cơ sở  vật chất  –  kỹ  thuật của chủ  nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế

nước ta từ sản xuất nhỏ  lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công   56

nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,

kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp thành một cơ cấu kinh tế công – nông

nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp

kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống

nhất”. Đường lối này nhất  trí với những nhận thức cơ bản về  công nghiệp hóa  ở

miền Bắc trước đây đồng thời có sự phát triển thêm.

Từ  thực tiễn chỉ đạo công nghiệp hóa 5 năm (1976 – 1981), Đảng rút ra kết

luận: từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi

của công nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường.

Với cách đặt vấn đề như trên, Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982) đã xác định trong

chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt

trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng

và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức,

nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội

V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây

là sự điều chỉnh đúng đắn bước đi của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt

Nam. Tiếc rằng, trên thực tế chúng ta không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan

trọng này.

Câu 12: Công nghiệp hóa là gì? Phân tích mục tiêu, quan điểm của Đảng CSVN trong đường lối CNH, HĐH thời kỳ đổi mới?

-Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, xã hội từ dưa vào lao động thủ công là chính sang  dựa vào lao động kết hợp cùng với phương tiện, phương pháp công nghệ, kỹ thuật, tiên tiến hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao.

-Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại  hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế  hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng-an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh

Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể. Đại  hội X xác định mục tiêu đẩy mạng công nghiệp hóa,  hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại

-Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong nước và quốc tế, Đảng ta nêu ra những quan điểm  mới chỉ đạo quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Một là, công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đại hội X của Đảng nhận định rằng khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và bật  trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó,nước ta cần phải và có thể tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lực chọn con đường phát triển kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa.

Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bố nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, còn thời kỳ đổi mới được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trường. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế thị trường không những khai thác được có hiệu quả mọi nguồn nhân lực trong nền kinh tế, mà còn sử dụng chúng có hiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước.

Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa hiện đại  hóa đất nước cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo

Bốn là, khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất,nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới.

Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Môi trường tự nhiên và sự đa dạng sinh học là môi trường sống va hoạt động kinh tế của con người. Bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo vệ tồn đa dạng sinh học, chính là bảo vệ điều kiện sống của con người và cũng là nội dung của sự phát triển bền vững.

Câu 15: Thể chế kinh tế là gì? Phân tích những chủ trương cụ thể nhằm hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay?

1. Thể chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ và

hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao

dịch, trao đổi trên thị trường.

Thể chế kinh tế thị trường bao gồm:

-  Các quy tắc về  hành vi kinh tế  diễn ra trên thị  trường  –  các bên

tham gia thị trường với tư cách là các chủ thể thị trường.

-  Cách thức thực hiện các quy tắc nhằm đạt được mục tiêu hay kết

quả mà các bên tham gia thị trường mong muốn.

-  Các thị  trường – nơi hàng hóa được giao dịch, trao đổi trên cơ sở

các yêu cầu, quy định của luật lệ  (các thị  trường quan trọng như

hàng hóa và dịch vụ, vốn, lao động, công nghệ, bất động sản…).

2.  Một số chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa:

a.  Thống nhất nhận thức về nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội

chủ nghĩa:

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là làm cho

nó phù hợp với các yêu cầu và nguyên tắc của kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa, làm cho nó vận hành thông suốt và có hiệu quả.

b.  Hoàn thiện thể  chế  về  sở hữu và các thành phần kinh tế, loại hình

doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh:

Hoàn thiện thể chế về sở hữu:

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên sự tồn tại khách quan

nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp.

c.  Hoàn thiện thể  chế  đảm bảo đồng bộ  các yếu tố  thị  trường và phát

triển dồng bộ các loại thị trường:

-  Hoàn thiện thể  chế  về  giá, cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong

kinh doanh.

-  Hoàn thiện hệ  thống luật pháp, cơ chế, chính sách cho hoạt động và

phát triển lành mạnh của thị  trường

-  Xây dựng đồng bộ  luật pháp, cơ chế, chính sách quản lý, hỗ  trợ các tổ

chức nghiên cứu,  ứng dụng, chuyển giao công nghệ

d.  Hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã

hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ  môi

trường:

-  Thực hiện chính sách khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực

hiện giảm nghèo,

-  Xây dựng hệ  thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt phù hợp với

yêu cầu của kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

 Phát triển đa dạng các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo,

hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, chăm sóc các đối tượng bảo trợ

xã hội.

-  Hoàn thiện luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường, có chế  tài đủ

mạnh đối với các trường hợp vi phạm, xử  lý triệt để  những điểm ô

nhiễm môi trường nghiêm trọng và ngăn chặn để không phát sinh thêm.   80

e.  Hoàn thiện thể  chế  về  vai trò lãnh  đạo của Đảng, quản lý của nhà

nước và sự tham gia của các tổ chức quần chúng vào quá trình phát

triển kinh tế - xã hội:

-  Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện rõ ở chỗ chỉ đạo nghiên cứu lý luận

và tổng kết thực tiễn để xác định rõ, cụ thể và đầy đủ hơn mô hình kinh

tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa, đặc biệt những nội dung

định hướng xã hội chủ nghĩa để tạo ra sự đồng thuận trong xã hội.

-  Đổi mới và nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước. Vai

trò kinh tế của nhà nước thể hiện rõ ở chỗ phát huy mặt tích cực và hạn

chế, ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để

nền kinh tế  thị  trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và

hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.

-  Các tổ  chức dân cử, tổ  chức chính trị  -  xã hội, tổ  chức xã hội, nghề

nghiệp và nhân dân có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế  thị

trường định hướng xã hội chủ  nghĩa.

Câu 14: Phân tích quá trình hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội X:

Đại hội IX của Đảng (3/2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa là mô hình tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội. Đó  là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế  thị  trường,

có sự  quản lý của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ  nghĩa. Đây là bước

chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản

lý sang coi kinh tế  thị  trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển

theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Đại hội IX xác

định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa

tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi

phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Trong nền kinh tế đó,

các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất, phát

triển nền kinh tế, để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng

cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trên

cả 3 mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích

cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân

làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều kiện

cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.

Nói kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nói đến kinh tế không

phải là kinh tế  tự  nhiên, tự  cấp tự  túc, cũng không phải kinh tế  kế  hoạch hóa tập

trung, cũng không phải là kinh tế  thị  trường tư bản chủ  nghĩa và cũng chưa hoàn

toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ

nghĩa. Tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” làm cho mô hình kinh tế  thị  trường ở

nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. 

Kế  thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ  thêm nội dung cơ

bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế  thị  trường ở nước ta,

thể hiện ở 4 tiêu chí:

-  Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ  lực lượng sản xuất và không ngừng nâng

cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người

vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả

hơn”

Mục tiêu trên thể  hiện rõ mục đích phát triển kinh  tế  vì con người, giải

phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi người,

mọi người đều được hưởng những thành quả phát triển. Ở đây thể hiện sự khác biệt

với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ  lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát

triển chủ nghĩa tư bản.

-  Về phương hướng phát triển: phát triển các thành phần kinh tế, trong đó

kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày

càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế

là nhằm giải phóng mọi tiềm năng để phát triển trong mọi thành phần kinh tế, trong

mỗi cá nhân và mọi vùng miền… phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền

kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là

công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì

mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để giữ vai trò

chủ đạo kinh tế nhà nước phải nắm được các vị  trí then chốt của nền kinh tế bằng

trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không

phải dựa vào bao cấp, cơ chế xin – cho hay độc quyền kinh doanh. Mặc khác, tiến

lên chủ nghĩa xã hội đặc ra yêu cầu nền kinh tế phải được dựa trên nền tảng của sở

hữu toàn dân các tư liệu sản xuất chủ yếu.

-  Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã

hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn

kết chặt chẽ  và đồng bộ  với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải

quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.

Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội vừa bảo đảm sự phát triển bền vững

vừa thể hiện rõ định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, hạn chế tác động tiêu

cực của kinh tế thị trường, thực hiện mục tiêu phát triển con người.

Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua

chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả  lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội.

Đồng  thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển còn thực hiện phân

phối theo định mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.  

- Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai

trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự

lãnh đạo của Đảng.

Vai trò quản lý điều tiết nền kinh tế của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng

là sự thể hiện rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa và cũng là sự khác biệt cơ bản giữa

kinh tế  thị  trường tư bản chủ  nghĩa với kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ

nghĩa. Sự quản lý, điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật đảm bảo

mục đích của nền kinh tế, sự  vận động của chế  độ  sở  hữu, phân phối theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị

trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi con người.

Những tiêu chí trên vửa thể  hiện tính định hướng xã hội chủ  nghĩa của nền

kinh tế thị trường ở nước ta, vừa thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

Câu 10: Phân tích nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của ĐCSVN trong công cuộc kháng chiến và bảo vệ tổ quốc.

   Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng Sản Việt Nam, người đại biểu trung thành cho những lợi ích sống còn của cả dân tộc Việt Nam, một đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập,tự chủ, sáng tạo. Không thể nào không kể đến cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh của nhân dân và quân đội cả nước, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ và hàng trục triệu đồng bào yêu nước ở Miền nam ngày đêm đối mặt với quân thù, xứng đáng với danh hiệu “ Thành đồng Tổ quốc”. Bên cạnh đó là công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa của đông bào và chiến sĩ miền Bắc, một hậu phương vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn ở miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Quan trọng hơn mà không thể thiếu là tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự ủng hộ nhiệt tình của Chính phủ và nhân dân tiến bộ trên thế giới kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.

   Thắng lợi sư nghiệp cách mạng có ý nghĩa vô cùng to lớn. Đối với đất nước, nó đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, 30 năm chiến tranh cách mạng, 115 năm chống đế quốc thực dân phương Tây, quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, đưa lạo độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên hòa bình, thống nhất cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội; tăng them sức mạnh vật chất, tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, để lại niềm tự hào sâu sắc và kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước giai đoạn sau; góp phần quan trọng vào việc nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.

   Đối với thế giới mà nói,việc thắng lợi của cách mạng đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới kể từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, bảo vệ vững chắc tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ nghĩa xã hội; làm phá sản các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài; góp phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ tự do và hòa bình phát triển của nhân dân thế giới.

   Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn  sâu sắc. Một là, đề ra và thực hiện đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ. Đường lối đó thể hiện ý chí và nguyện vọng thiết tha của nhân dân miền Bắc, nhân dân miền nam và của cả dân tộc Việt Nam, phù hợp với các trào lưu của cách mạng thế giới nên đã động viên đến mức độ cao nhất  lực lượng của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại, tạo nến sức mạnh tổng hợp để chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược. Hai là, tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc, kiên định tư tưởng chiến lược tiến công, quyết đánh quyết thắng. Tư tưởng đó là một nhân tố hết sức quan trọng để hoạch định đúng đắn đường lối, chủ trương, biện pháp đánh Mỹ, nhân tố đưa cuộc chiến đấu của dân tộc ta đi tới thắng lợi. Ba là, thực hiện chiến tranh nhân dân, tìm ra biện pháp chiến đấu đúng đắn sáng tạo. Để chống lại kẻ địch xâm lược hùng mạnh, phải thực hiện chiến tranh nhân dân. Đồng thời phải chú trọng tổng kết thực tiễn để tìm ra phương pháp đấu tranh, phương pháp chiến đấu đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo. Bốn là, trên cơ sở đường lối, chủ trương chiến lược chung đúng đắn phải có công tác tổ chức thực  hiện giỏi, năng động, sáng tạo của các cấp bộ đảng trong quân đội, của các nghành, các địa phương, thực hiện phương châm giành thắng lợi từng bước để đi đến thắng lợi hoàn toàn. Năm là, phải hết sức coi trọng công  tác xây dựng Đảng, xây dựng lược lượng cách mạng ở cả hậu phương và tiền tuyến; phải thực hiện liên minh ba nước Đông Dương và tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ ngày càng to lớn của các nước xã hôi chủ nghĩa, của nhân dân và chính phủ các nước yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#huy