ích lợi giới hạn-Áo-Carl Menger, B.Bawerk, V. Wiser

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

8.2.1. Thuyết "Ích lợi giới hạn" của trường phái thành Viên (Áo)

Được phát triển từ tư tưởng của nhà kinh tế học người Đức Herman Gossen (1810-1858)

ông đã đưa ra định luật nhu cầu và tư tưởng về ích lợi giới hạn. Từ đó các nhà kinh tế của trường

phái thành Viên (Áo) đã phát triển thành lí thuyết kinh tế "ích lợi giới hạn".

8.2.1.1. Lí thuyết sản phẩm kinh tế

(Các đại biểu: Carl Menger, B.Bawerk, V. Wiser)

Nội dung cơ bản của lý thuyết này là:

+ Đưa ra khái niệm "sản phẩm kinh tế" thay cho phạm trù "hàng hóa". Để được coi là sản

phẩm kinh tế sản phẩm phải có đủ 4 tính chất, đó là:

- Có khả năng thỏa mãn nhu cầu hiện tại của con người.(Nhu cầu không còn thì sản phẩm

mất đặc tính kinh tế, hoặc sản phẩm hỏng không thỏa mãn nhu cầu thì cũng không là sản phẩm

kinh tế).

- Công dụng của nó con người phải biết rõ (vì sản phẩm trong tự nhiên rất nhiều).

- Phải ở trong tình trạng có khả năng sử dụng được (không ở dạng tiềm năng).

- Số lượng của nó có giới hạn (ở tình trạng khan hiếm, nếu vật phẩm quá dư thừa sẽ không

phải là sản phẩm kinh tế ).

+ Sản phẩm kinh tế có hai đặc tính "Ích lợi giới hạn" và "Giá trị giới hạn", đây chính là cơ

sở xây dựng lí thuyết "ích lợi giới hạn và giá trị".

8.2.1.2. Lí thuyết ích lợi giới hạn và giá trị

* Về "Ích lợi giới hạn":

+ Ích lợi là đặc tính cụ thể của vật, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, ích lợi

có nhiều loại, như sau:

- Ích lợi khách quan: là ích lợi vốn có của vật chất (ví dụ: củi đốt thì nóng lên).

- Ích lợi chủ quan: là ích lợi được sử dụng theo yêu cầu con người (ví dụ: con người dùng

sức nóng của củi đốt để sưởi ấm , nấu ăn, ...).

- Ích lợi cụ thể: là ích lợi của số lượng vật phẩm mà người ta có thể đo lường được (ví dụ:

quần áo để mặc, gạo để ăn, ...).

+ Theo đà thỏa mãn nhu cầu, ích lợi có xu hướng giảm dần. Cùng với đà tăng lên của vật

phẩm để thỏa mãn nhu cầu thì "mức bão hòa" về vật phẩm tăng lên còn "mức độ cấp thiết" của

nhu cầu giảm xuống. Do đó theo đà thỏa mãn nhu cầu tăng thì ích lợi của vật có xu hướng giảm

(vật phẩm sau đưa ra thỏa mãn nhu cầu có ích lợi ít hơn vật phẩm trước) .

- Với số lượng vật phẩm nhất định, vật phẩm cuối cùng để thỏa mãn nhu cầu sẽ là "vật

phẩm giới hạn", ích lợi của nó là "ích lợi giới hạn", nó quyết định ích lợi chung của tất cả các vật

phẩm khác.

Vậy: ích lợi giới hạn là ích lợi của vật phẩm cuối cùng đưa ra thỏa mãn nhu cầu, ích lợi đó

là nhỏ nhất, nó quyết định ích lợi của tất cả các vật phẩm khác.

+ Nội dung quy luật "ích lợi giới hạn" ngày càng giảm:

Theo đó, số lượng sản phẩm kinh tế càng ít thì "ích lợi giới hạn" càng lớn. Sản phẩm kinh

tế tăng thì tổng ích lợi tăng còn "ích lợi giới hạn" giảm, có thể dẫn tới 0 (ví dụ: nước quá nhiều,

không còn khan hiếm thì chỉ còn ích lợi trừu tượng).

Nhận xét: Có sự tách rời giá trị và ích lợi.

* Lý thuyết giá trị (Giá trị giới hạn):

Nội dung chủ yếu của lý thuyết này như sau:

+ Đưa ra lý thuyết giá trị - ích lợi (giá trị - chủ quan): (phủ nhận lý thuyết giá trị - lao động

của kinh tế tư sản cổ điển cổ điển và lý luận giá trị của Mác) Theo đó "ích lợi giới hạn" quyết

định giá trị của sản phẩm kinh tế, đó là "giá trị giới hạn", nó quyết định giá trị của tất cả các sản

phẩm khác (ích lợi của vật quyết định giá trị - ở đây là: "ích lợi giới hạn"). Muốn có nhiều giá trị

phải tạo ra sự khan hiếm.

+ Về Giá trị trao đổi (GTTĐ): Ngược với A.X cho rằng GTTĐ là khách quan, Menger (một

nhà kinh tế học trường phái cổ điển mới) cho rằng GTTĐ là chủ quan, sở dĩ hai người trao đổi sản

phẩm cho nhau là vì cả hai đều tin rằng sản phẩm mà mình bỏ ra đối với mình ít giá trị hơn sản

phẩm mà mình thu về (ở đây có sự so sánh các sản phẩm, nếu có lợi mới trao đổi, căn cứ vào nhu

cầu bản thân).

+ Hai điều kiện để hành vi trao đổi được thực hiện:

- Cả hai đều có lợi trong trao đổi.

- Sản phẩm dư thừa của người này là khan hiếm của người kia và ngược lại.

+ Các hình thức giá trị:

- Giá trị khách quan: xuất phát từ tác dụng của một vật mang lại cho ta kết quả cụ thể (than

đốt cho nhiệt lượng), đây là mối quan hệ người với vật và kết quả xuất phát từ việc sử dụng vật,

không bao hàm những phán đoán chủ quan của con người.

- Giá trị chủ quan: xuất phát từ sự tiêu dùng những kết quả mà sản phẩm mang lại cho con

người quy định sử dụng nó như thế nào (nhiệt lượng đốt than sử dụng vào việc gì).

Từ đó phân chia giá trị sử dụng và giá trị trao đổi thành: giá trị sử dụng chủ quan, giá trị

trao đổi chủ quan, giá trị sử dụng khách quan, giá trị trao đổi khách quan.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro