II. Kế hoạch Lơclec

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Philippe De Hautecloquye Loclec (1902-1947), xuất thân trong một gia đình quý tộc, tốt nghiệp trường võ bị Saint khóa 109 (1922-1924). Ông là một người rất tâm đắc với quan điểm của Đờ Gôn, được Đờ Gôn cử làm Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Viễn Đông (8-1945), đại diện cho nước Pháp trong lễ tiếp nhận đầu hàng của Nhật. Tháng 10-1945, ông chỉ huy quân đội Pháp với nhiệm vụ đánh chiếm Đông Dương. Loclec chết trong một tai nạn phi cơ và được truy thăng làm Thống chế Pháp năm 1952.

Sau Chiến tranh thế giới II, ông được Đờ Gôn giao trách nhiệm đem quân chiếm lại các thuộc địa Pháp ở Đông Dương. Khi đến Đông Dương, Loclec đã đề ra kế hoạch mang tên mình.

1. Hoàn cảnh ra đời

Ngày 17-8-1945, Uỷ ban Quốc phòng Pháp quyết định thành lập lực lượng viễn chinh Pháp ở Viễn Đông (sau đổi là đạo quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông) đưa sang Đông Dương. Tướng Lơclec (Leclerc) được cử làm Tổng chỉ huy lực lượng lục quân Pháp ở Viễn Đông. Đô đốc D’Argenlieu được cử làm Cao uỷ kiêm Tổng Tư lệnh Hải quân Pháp ở Viễn Đông. Uỷ ban hành động giải phóng Đông Dương được cải tổ thành Uỷ ban Đông Dương do Đờ Gôn (De Gaulle) làm Chủ tịch. Lơclec đã vạch ra kế hoạch chiếm lại Đông Dương.

2. Nội dung kế hoạch Lơclec

Kế hoạch Lơclec bao gồm 2 kế hoạch nhỏ:

Ø     Kế hoạch 1( chung cho toàn Đông Dương):

-         Dựa vào quân Anh nhanh chóng làm chủ toàn bộ vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 16 ( trong vòng 1 tháng).

-         Thả dù càng nhiều càng tốt nhân viên dân sự và lực lượng quân sự xuống vùng quân Tưởng kiểm soát ở bắc vĩ tuyến 16.

-         Tranh thủ mọi cơ hội để duy trì và khẳng định chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, trước hết là đối với Đồng Minh

-         Từng bước giành lại vùng do quân Tưởng kiểm soát, theo khả năng các đợt tăng viện.

-         Tùy hoàn cảnh mà thương thuyết trên bình diện chính trị với tất cả các nhân vật bản sứ.

Ø     Kế hoạch 2 (9-1945) đối với Nam Kì :

-         Lợi dụng sự có mặt của quân Anh và Nhật, chiếm đóng khu tam giác Sài Gòn - Biên Hòa-Thủ Dầu Một.

-         Sau khi có viện binh, đánh chiếm các đô thị và đường Giao thông quan trọng, lập các cứ điểm quân sự, khống chế các vùng cao su và lúa gạo

-         Hòa nhập với các đợt tăng viện, đánh chiếm tiếp các vùng còn lại, thiết lập các bộ máy quân sự, chính trị, rải quân ra bình định, khống chế, trước hết là các trung tâm chính trị, kinh tế quan trọng.

 3. Việc triển khai kế hoạch và kết quả

Thực hiện kế hoạch trên, từ ngày 13 đến ngày 22-8-1945, một số tên quan thuộc địa cũ, trong đó có Métxme (Messmer) mang danh nghĩa Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Bắc Kì , đã nhảy dù xuống miền Bắc nước ta, liên lạc với tàn binh, tù binh, Pháp kiều và bọn tay sai nhằm lập lại bộ máy cai trị. Ngày 22-8-1945, Xanhtơni (Sainteny) cùng với một số sĩ quan Pháp từ Côn Minh (Vân Nam) theo phái đoàn đầu tiên của cơ quan tình báo chiến lược (OSS) của Mĩ (do Trung uý Patti cầm đầu) đến Hà Nội. Cao uỷ D’Argenlieu và Tư lệnh tối cao các lực lượng Pháp Lơclec đã được lệnh của Đờ Gôn phải tìm cách khôi phục lại chủ quyền của Pháp trên các lãnh thổ liên bang Đông Dương mà không được cam kết bất cứ điều gì đối với phía Việt Minh. Vào thời điểm này, khu vực Bắc Đông Dương kể từ vĩ tuyến 16 trở ra có gần 30.000 người Pháp, trong đó có 20.000 người đã bị quân Nhật bắt tập trung tại Hà Nội từ ngày 9-3-1945. Xêđi (Cédille), Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Nam Đông Dương, nhảy dù xuống Hớn Quản, được quân Nhật đưa về Sài Gòn. Hai chiếc tàu Pháp chạy trốn Nhật sau cuộc đảo chính 9-3-1945, từ vùng biển Quảng Đông trở lại Đông Bắc Việt Nam, đổ quân lên đảo Cô Tô và đảo Vạn Hoa. Những toán tàn binh Pháp ở Trung Lào, Hạ Lào được tập hợp lại, chiếm đóng một số cao điểm trên các trục đường số 7, 8, 9, 12 và dọc biên giới Việt - Lào, làm bàn đạp chuẩn bị tấn công các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam

Tuy nhiên, Ở miền Bắc, cuối tháng 8-1945, những tên Pháp nhảy dù xuống các nơi đều bị quân và dân ta chặn đánh. Các đơn vị Giải phóng quân Hải Phòng, Quảng Yên chặn đánh các tàu Crayxắc (Crayssac) và Phơrênôn (Frénohls), tiêu diệt địch ở Vạn Hoa và Cô Tô. Ở Bắc Trung Bộ, Giải phóng quân Nghệ An và Hà Tĩnh chặn đánh địch trên biên giới Việt - Lào tại các vị trí: Mường Xén (Đường số 7), Napê (Đường số 8), Banaphào (Đường số 12). Trên Đường số 9, Giải phóng quân Quảng Trị, Thừa Thiên phối hợp với bộ đội Lào đánh địch ở Pha Lan, Mường Phin, Đồng Hến, không cho chúng tiến sang các tỉnh Bắc Trung Bộ. Tại miền Nam, Xêđi nhân danh uỷ viên Cộng hoà Pháp ở miền Nam Đông Dương đã đàm phán với Uỷ ban nhân dân Nam Bộ trên cơ sở nội dung bản Tuyên bố ngày 24-3-1945 về vấn đề Đông Dương của Đờ Gôn, mà không đề cập đến nền độc lập của Việt Nam, nên đã không đạt được kết quả.

Như vậy, âm mưu của thực dân Pháp muốn nhanh chóng thiết lập lại nền thống trị ở Đông Dương đã không thực hiện được. Đầu tháng 9-1945, D’Argenlieuvà Lơclec phải điều chỉnh kế hoạch: Dựa vào quân Anh gấp rút chiếm Nam Bộ, lấy đó làm bàn đạp đánh chiếm phần còn lại của Đông Dương, lập chính phủ "Nam Kì  tự trị", thành lập Liên bang Đông Dương. Chúng vừa ráo riết chuẩn bị lực lượng, vừa khiêu khích ta để tạo cớ cho quân Đồng minh can thiệp.

Ngày 2-9-1945, trong lúc nhân dân Sài Gòn mít tinh mừng ngày Độc lập, một số lính Pháp núp trong Nhà thờ Đức Bà bắn lén vào đám đông, làm 47 người chết, nhiều người bị thương. Ngày 4-9-1945, Grêxi (Gracey), Tư lệnh sư đoàn 20 quân đội Hoàng gia Anh, trưởng phái bộ Đồng minh, lấy cớ trật tự Sài Gòn không đảm bảo, đã hạ lệnh cho tư lệnh quân đội Nhật Bản ở Đông Nam Á đưa 7 tiểu đoàn từ các tỉnh Nam Bộ về Sài Gòn.

Hành động khiêu khích của quân Pháp đã gây nên làn sóng công phẫn trong các tầng lớp nhân dân. Đêm 4-9, vào lúc 22 giờ, công nhân Sài Gòn tổ chức cuộc mít tinh trước trụ sở Tổng Công đoàn Nam Bộ, tuyên thệ trước bàn thờ Tổ quốc: "Quyết cùng anh em lao động không nản chí trước khó khăn, không lùi bước trước nguy hiểm để cùng đồng bào bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn non sông". Ngày 6-9-1945, phái bộ Anh gồm 30 sĩ quan, do một đại tá cầm đầu vừa đến Sài Gòn đã ra lệnh cho quân Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát trong thành phố, đòi các lực lượng vũ trang cách mạng nộp vũ khí. Ngày 12-9, một lữ đoàn thuộc Sư đoàn 20 quân đội Hoàng gia Anh đến nước ta với nhiệm vụ giải giáp quân Nhật và kéo theo sau là một đại đội thuộc Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 của Pháp.

Tại Sài Gòn, quân Anh ngang nhiên tước vũ khí của quân Nhật trang bị cho tù binh Pháp (bị Nhật bắt giam từ sau ngày 9-3-1945), dùng quân Pháp thay quân Nhật canh gác một số vị trí. . . Những đơn vị nhỏ bộ binh và xe bọc thép của Pháp được tăng thêm 1.400 lính do Nhật giam giữ được Anh thả ra và trang bị lại. Ngày 14-9, Grêxi ra thông cáo cấm nhân dân ta mang vũ khí và biểu tình. Ngày 15-9, y ra lệnh tước vũ khí của lực lượng vũ trang Việt Nam. Ngày 17-9, Grêxi lại ra lệnh giới nghiêm, đình bản tất cả báo chí ở Nam Bộ. Ngày 19-9, Xem tổ chức họp báo, tuyên bố: "Việt Minh không đại diện cho nhân dân Việt Nam và bất lực trong việc giữ gìn trật tự. Pháp có nhiệm vụ lập lại trật tự…”

Ngày 20-9, phái bộ Anh tuyên bố giữ quyền kiểm soát Sài Gòn, đòi thả những người Pháp đang bị giam giữ, đòi đặt công an của Việt Nam dưới quyền chỉ huy của họ và buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rút hết lực lượng vũ trang ra khỏi thành phố. . .  

Đêm 22 rạng 23-9-1945, được sự giúp đỡ của quận Anh, thực dân Pháp cho quân đánh úp trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.

Giữ vững lời Thề Độc lập, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, với vũ khí chủ yếu là gậy tầm vông, cùng nhân dân Nam bộ đã anh dũng đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Các chiến sĩ lực lượng vũ trang của ta đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp vừa cập bến Sài Gòn, đánh kho tàng, phá nhà giam...

Suốt hạ tuần tháng 9-1945, các trận đánh liên tiếp diễn ra ở khu Tân Định, Cầu Muối, Cầu Lái Thiêu... Phối hợp chặt chẽ với các cuộc chiến đấu của lực lượng vũ trang, nhân dân Sài Gòn đã triệt nguồn tiếp tế của địch, dựng chướng ngại vật và chiến luỹ trên đường phố. Giường, tủ, bàn, ghế và tất cả những thứ gì có thể ngăn cản được bước tiến của quân thù đều được ném ra mặt đường. Nhiều cây to trên dọc các đường phố được đốn chặt, hình thành những vật chướng ngại.

Chỉ trong vòng một tuần lễ, cuộc chiến đấu cửa quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn đã đẩy địch vào tình trạng khó khăn: 138 xí nghiệp và công sở lớn, 22 kho tàng, 4 chợ, 30 tàu lớn, 51 tàu nhỏ, 200 xe hơi và một số cầu bị đốt phá. Gần 300 tên giặc bị tiêu diệt. Sau 8 ngày gây hấn, thực dân Pháp chỉ chiếm đóng được các vị trí, công sở then chết ở khu vực trung tâm thành phố. Phạm vi kiểm soát của địch bị thu hẹp. Cả thành phốkhông còn điện, nước; chợ không họp, các cửa hàng đóng cửa, lương thực, thực phẩm cạn dần; lực lượng bị dàn mỏng; viện binh chưa tới kịp. Bọn Việt gian ra mặt hoạt động đã bị thanh niên ta truy bắt, nghiêm trị... Trước tình hình đó, thực dân Pháp nhờ Grêxi làm trung gian, xin thương lượng với Uỷ ban nhân dân Nam Bộ.

Mặc dù biết âm mưu của thực dân Pháp là hoà hoãn để chờ viện binh, nhưng phía ta cũng cần có thời gian chuẩn bị lực lượng để đối phó với các đợt tấn công mới của địch. Do vậy, chúng ta chấp nhận ngừng bắn một tuần để thương lượng. Cuộc thương lượng bắt đầu từ ngày 2-10-1945, với sự có mặt của Grêxi. Lập trường hai bên trái ngược nhau: Phía ta đòi Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam, công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu; đình chỉ xung đột và rút quân vềcác vị trí trước ngày 23-9-1945. Phía Pháp đòi ta chấp nhận bản Tuyên bố ngày 24-3-1945 của Đờ Gôn. Cuộc đàm phán tạm dừng và sau đó tiếp tục diễn ra trong ngày 6 và 8-10, nhưng vẫn không đi đến kết quả. Pháp đề nghị kéo dài thời gian ngừng bắn thêm hai ngày nữa.

Ngày 10-10-1945, chấm dứt thời gian ngừng bắn, quân Pháp đã được tăng thêm viện binh ra sức phá vây, mở rộng phạm vi chiếm đóng. Quân Anh lấy danh nghĩa Đồng minh đi tước vũ khí quân Nhật ở các thị xã miền Đông Nam Bộ (Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh) nhằm giúp Pháp mở rộng khu vực chiếm đóng các ,tỉnh xung quanh Sài Gòn. Từ ngày 23-10, được tăng thêm quân tiếp viện, trong đó có binh đoàn thiết giáp, nên chúng phá vỡ được vòng vây xung quanh Sài Gòn, đánh chiếm một số thị xã miền Trung Nam Bộ, nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta.

Trải qua một tháng bao vây, chặn đánh địch trong thành phố, chiến đấu trong điều kiện không cân sức, lực lượng vũ trang thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tỏ rõ tinh thần quyết chiến quyết thắng của dân tộc Việt Nam. Cuộc kháng chiến của quân và dân Sài Gòn đã kiềm chế quân địch dài ngày, làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp, tạo điều kiện cho các tỉnh Nam Bộ có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến.

Sau khi nhận thêm quân tiếp viện, đồng thời tiếp tục dựa vào quân Anh và Nhật, Pháp vừa mở rộng phạm vi chiếm đóng ở Nam Bộ, vừa từng bước thực hiện kế hoạch đánh ra Nam Trung Bộ. Tuy nhiên, đến cuối tháng 1-1946, quân Pháp mới chiếm được các tỉnh miền Tây Nam Bộ (Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Trà Vinh, Hà Tiên, Sóc Trăng, Bạc Liêu), chưa ổn định được tình hình ở Sài Gòn - Chợ Lớn và một số thành phố, thị xã. Lực lượng kháng chiến của ta vẫn làm chủ một số vùng nông thôn Nam Bộ. Các tỉnh Nam Bộ củng cố lại lực lượng vũ trang, tăng cường trang bị vũ khí, xây dựng căn cứ để kháng chiến lâu dài.

Đầu tháng 2-1946, sau khi được tăng viện binh, thực dân Pháp gấp rút chiếm đóng vùng nông thôn Nam Bộ. Chúng mở hàng loạt cuộc hành quân "bình định" trên các khắp các tỉnh Nam Bộ. Lực lượng của ta bị tổn thất nhiều, chính quyền và đoàn thể Cứu quốc ở nhiều nơi bị tan vỡ. Trên các vùng chiếm được, quân địch chia thành các chiến khu, đóng đồn bốt, khống chế hoạt động chống đối của nhân dân. Vừa hành quân chiếm đóng các vùng đất của ta, thực dân Pháp vừa ráo riết xúc tiến thành lập chính phủ bù nhìn. Ngay từ tháng 10-1945, Xêđi âm mưu lập một hội đồng tư vấn gồm 80 người và giao cho NguyễnVăn Thinh vận động các nhà trí thức tham gia, nhưng không thành công. Phần đông trí thức tỏ thái độ bất hợp tác với Pháp. Đến tháng 2-1946, Xêđi mới lập được hội đồng tư vấn gồm 12 thành viên là người Pháp và người Việt mang quốc tịch Pháp. Ngoài ra, thực dân Pháp còn tiến hành tuyển quân, tập hợp bọn tay sai để thành lập chính quyền bù nhìn ở các thị trấn, thị xã. Chúng tìm cách lôi kéo một số người trong các đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Thiên Chúa và cả lực lượng Bình Xuyên... để chống lực lượng kháng chiến.

Từ hạ tuần tháng 10-1945, Pháp mở rộng chiến tranh ra các tỉnh Nam Trung Bộ, đổ bộ lên Nha Trang (22-10), nhưng đã vấp phải sức chiến đấu của bộ đội ở khu nhà ga, nhà máy điện, Viện Paxtơ... Sau đó,bị quân ta hình thành thế bao vây tiêu hao và giam chân  trong thành phố. kế hoạch của quân Pháp dùng Nha Trang làm bàn đạp mở rộng đánh chiếm các tỉnh cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã thất bại.

Cuối tháng 1-1946 , sau khi chiếm được Buôn Ma Thuột, đồng thời với các cuộc hành quân đánh chiếm các tỉnh còn lại của miền Tây Nam Bộ, địch tập trung 10.000 quân, mở chiến dịch (Gaur) từ phía nam đánh ra, Tây Nguyên đánh xuống và từ biển đánh vào các tỉnh Nam Trung Bộ. Lượng vũ trang của ta chặn đánh nhưng cuối cùng phải rút lui. Sau khi chiếm Phan Rang, quân Pháp đánh ra Nha Trang, đánh vào Phan Thiết. Trong điều kiện chiến đấu không cân sức, sau một số trận đánh trả, quân ta phải rút khỏi Nha Trang, để lại một bộ phận lập tuyến chặn địch ở Đèo Cả. Ở Nam Trung Bộ Pháp đã chiệm được các thị xã, thị trấn và một số trục đường giao thông lớn. Nhưng tại các vùng nông thôn ở Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, chính quyền cách mạng, các đoàn thể Cứu quốc và lực lượng vũ trang của ta vẫn làm chủ.

Như vậy, 5 tháng phát động chiến tranh (từ tháng 9-1945 đến tháng 2- 1946) tuy làm chủ được các đô thị và đường giao thông quan trọng nhưng Pháp vẫn không thể nào bình định được các vùng nông thôn và đi đến đâu cũng vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của nhân dân ta. Chiến tranh ngày một lan rộng và kéo dài theo hướng mà Pháp không hề muốn. Về cơ bản kế hoạch Loclec đã thất bại.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro