Im lặng phần 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Cuốn sách bạn sắp đọc dưới đây chính là bản dịch của anh Nguyễn Tiến Đạt. Vì mình muốn đọc quyển sách này nên đã post lên đây, và vì đã có người khác post phần đầu nên mình chỉ post phần còn lại mà thôi. Đây là facebook người dịch cho những ai quan tâm :)http://facebook.com/akachan.raionThực sự thì anh Đạt là một hình mẫu truyền động lực đối với mình. Một người đáng ngưỡng mộ :)

7

TẠI SAO PHỐ WALL SỤP ĐỔ VÀ WARREN BUFFETT THÀNH CÔNG?

Người Hướng Nội và Hướng Ngoại Suy Nghĩ (và Xử lý Dopamine) Khác Nhau Như Thế Nào

Tocqueville

đã thấy rằng kiểu sống với liên tục những hành động và quyết định, được đồng hành bởi tính dân chủ và tính chuyên nghiệp của người Mỹ đặt nặng ưu tiên vào sự mạnh bạo và sẵn sàng của suy nghĩ, những quyết định nhanh chóng, vào việc biết nắm thời cơ ngay tức khắc-và tất cả những hoạt động này đều không thuận lợi cho những sự cân nhắc kỹ lưỡng, những soạn thảo tỉ mỉ, và những sự chính xác trong suy nghĩ.

-

RICHARD HOFSTADTER,

trong cuốn

"

Anti-Intellectualism in America

"

Chỉ vừa ngay sau thời điểm 7:30 ngày 11 tháng 12 năm 2008, năm của cuộc sụp đổ chứng khoán kỷ lục, điện thoại của tiến sĩ Janice Dorn đổ chuông. Các thị trường chứng khoán đã bắt đầu mở cửa trở lại trên khu vực Bờ Đông, chỉ để đón nhận tiếp một cơn thảm họa khác nữa. Giá nhà ở tăng nhanh đột biến, thị trường tín dụng đóng băng, và tập đoàn GM thì đang bấp bênh trên bờ vực phá sản.

Dorn nhận cuộc điện thoại từ phòng ngủ của mình, như bà hay làm, vẫn đang mang tai nghe gắn microphone và nhoài mình trên tấm mền xanh của mình. Căn phòng được trang trí rất xuềnh xoàng. Thứ rực rỡ nhất trong căn phòng này chính là Dorn, với mái tóc đỏ rực buông dài, nước da trắng ngà, và cặp kính viền dầy, trông bà như một phiên bản lớn tuổi của Lady Godiva vậy. Dorn có một bằng Tiến sĩ ngành khoa học thần kinh, với chuyên ngành giải phẫu não. Bà đồng thời cũng là một bác sỹ y khoa được đào tạo về bệnh học tâm thần, một nhà đầu tư tích cực vào thị trường vàng, và một "bác sĩ tâm lý tài chính", đã từng tư vấn cho ước tính gần sáu trăm nhà giao dịch.

"Chào Janice!", người gọi đến vào buổi sáng hôm đó nói, một người đàn ông với giọng nói tự tin có tên Alan. "Cô có chút thời gian nói chuyện không?"

Tiến sĩ Dorn không có thời gian. Là một nhà giao dịch luôn tự hào với việc ra vào thị trường cứ mỗi nửa giờ, bà đang rất nóng lòng muốn đầu tư ngay. Nhưng Dorn cảm thấy như có một cảm giác tuyệt vọng trong giọng nói của Alan. Bà đồng ý nói chuyện.

Alan là một người miền trung Tây sáu mươi tuổi, người mà Alan có ấn tượng là

dạng người hết sức tốt bụng, thật thà, chăm chỉ và trung thành. Ông có thái độ hồ hởi và đầy tự tin của một người hướng ngoại, và ông đã duy trì thái độ vui vẻ đó ngay cả trong lúc kể cho Dorn về câu chuyện thảm họa của mình. Alan cùng vợ đã làm lụng chăm chỉ suốt cả một đời, và xoay sở cất giữ được khoảng một triệu đô-la để dưỡng già. Nhưng bốn tháng trước đó ông đã có một ý tưởng rằng, bất chấp việc không có chút kinh nghiệm nào trong thị trường chứng khoán, ông sẽ mua một trăm ngàn đô-la cổ phiếu của GM, dựa trên những báo cáo cho rằng chính phủ Mỹ có thể sẽ trợ giúp cho ngành công nghiệp xe hơi. Ông tự tin rằng đây sẽ là một khoản đầu tư không-thể-lỗ được.

Sau khi việc mua bán đã thành công, các phương tiện đại chúng bỗng dưng thông báo rằng việc chính phủ Mỹ trợ giúp cho thị trường xe hơi có lẽ sẽ lại không xảy ra nữa. Cả thị trường vội bán tống tháo cổ phiếu của GM, và giá cổ phiếu rớt thảm hại. Nhưng Alan mơ tưởng đến niềm sung sướng của việc thắng lớn. Nó thật đến nỗi ông như có thể chạm thấy được. Ông vẫn giữ chặt đám cổ phiếu và không chịu bán ra. Giá cổ phiếu thì cứ giảm, giảm nữa, và tiếp tục giảm cho đến khi Alan cuối cùng cũng phải bán, với một mức lỗ khổng lồ.

Mọi chuyện còn tệ hơn nữa. Khi luồng tin tức tiếp theo gợi ý rằng sự trợ giúp của chính phủ rút cục sẽ vẫn xảy ra thôi, Alan lại đầy hào hứng như cũ, và quyết định đầu tư thêm một trăm nghìn đô-la nữa, mua thêm nhiều cổ phiếu hơn với mức giá đang rất thấp. Nhưng điều tương tự như lần trước lại xảy ra: sự trợ giúp của chính phủ bắt đầu trở nên không chắc chắn.

Alan suy luận rằng giá không thể xuống thấp hơn được nữa. Ông giữ lại cổ phiểu, nhấm nháp ý tưởng về việc ông và vợ sẽ vui sướng đến đâu khi được thoải mái tiêu tất cả chỗ tiền ông sẽ tạo ra. Lại một lần nữa giá cổ phiếu xuống thấp hơn. Khi cuối cùng nó chạm đến mức bảy đô-la một cổ phiếu, Alan mới bán. Và rồi lại mua lại một lần nữa, trong một cơn phấn khích, khi ông nghe được tin rằng gói trợ giúp từ chính phủ rút cuộc rồi sẽ đến thôi...

Đến thời điểm giá cổ phiếu của GM rơi xuống chỉ còn hai đô một cổ phiếu, Alan đã mất bảy trăm ngàn đô-la Mỹ, tức 70% món tiền dưỡng già của ông.

Ông trở nên hoàn toàn suy sụp. Ông hỏi Dorn liệu bà có cách nào giúp ông gỡ gạc lại món tiền đã mất không. Bà không có cách nào hết. "Nó đã mất hẳn rồi", bà bảo với ông. "Ông sẽ không bao giờ kiếm lại được số tiền đó đâu".

Alan hỏi rằng ông ấy đã làm sai ở đâu.

Dorn có rất nhiều ý tưởng về việc này. Là một người không chuyên, ngay từ đầu Alan đã không nên tham gia buôn bán cổ phiếu mới phải. Và ông đã lại mạo hiểm quá nhiều tiền; lẽ ra ông chỉ nên giới hạn mức thử của mình ở mức 5% món tiền để dành của ông, tức tối đa là 50.000 đô mà thôi. Nhưng vấn đề lớn nhất có lẽ nằm ngoài tầm kiểm soát của Alan: Dorn tin rằng ông ấy đã phải trải qua một mức cao hơn bình thường rất nhiều của một thứ mà các nhà tâm lý học vẫn gọi là "sự nhạy cảm về phần thưởng" (reward sensitivity).

Một người nhạy-cảm-về-phần-thưởng sẽ có ham muốn rất mạnh mẽ trong việc tìm kiếm phần thưởng-từ việc được thăng cấp cho đến trúng số, cho đến một buổi tối chơi bời thật thỏa thích với bạn bè. Sự nhạy cảm về phần thưởng tạo động lực để chúng ta theo đuổi những mục tiêu như tiền bạc hay tình dục, địa vị hay quyền lực xã hội. Nó thúc giục chúng ta leo lên các bậc thang và với tới những nhánh cây ở xa hơn nữa, để thu gom được những trái ngon nhất của cuộc sống.

Nhưng đôi lúc chúng ta lại quá nhạy cảm với các phần thưởng. Sự nhạy cảm với phần thưởng, khi quá độ, có thể lôi con người ta vào đủ loại rắc rối. Chúng ta có thể trở nên hết sức hào hứng trước viễn cảnh của những phần thưởng hấp dẫn, như thắng lớn trên thị trường chứng khoán, đến mức chúng ta dám chấp nhận những sự mạo hiểm lớn khổng lồ và tảng lờ đi những cảnh báo nguy hiểm rất hiển nhiên ngay trước mắt.

Alan đã được cho xem vô khối các dấu hiệu nguy hiểm như thế, nhưng ông đã quá bị hớp hồn bởi viễn cảnh thắng lớn đến độ không thể thấy chúng. Quả thực, ông đã rơi vào quy luật điển hình của một sự nhạy cảm phần thưởng đang làm loạn: tại đúng những thời điểm khi mà các dấu hiệu nguy hiểm cho thấy nên chậm lại, ông lại tăng tốc lên-đổ đi những đồng tiền ông không thể để mất được, vào hàng loạt những cuộc mua bán chỉ dựa trên suy đoán của mình.

Lịch sử ngành tài chính đầy ắp các ví dụ về những người chơi đã tăng tốc trong khi đúng ra họ nên đạp phanh. Các nhà kinh tế học hành vi (behavioral economists) đã từ lâu để ý thấy rằng các giám đốc điều hành khi mua các công ty khác thường quá phấn khích trong việc muốn đánh bại đối thủ cũng muốn mua đến độ bỏ qua những dấu hiệu cho thấy rằng họ đang trả giá quá cao. Điều này xảy ra thường xuyên tới mức nó có cái tên: "cơn sốt của giao dịch", theo sau bởi "lời nguyền của kẻ chiến thắng". Vụ sát nhập giữa AOL và Time Warner, thứ đã làm sụt giảm giá trị cổ phiếu của Time Warner tới 200 tỷ đô-la Mỹ, là một ví dụ điển hình. Đã có rất nhiều cảnh báo cho thấy rằng cổ phiếu của AOL, thứ được dùng làm đơn vị thanh toán cho cuộc sát nhập, đã được định giá quá cao; ấy vậy nhưng ban giám đốc của Time Warner vẫn quyết định nhất trí hoàn toàn với thỏa thuận.

"Tôi đã làm thế với mức độ hào hứng và nhiệt thành như lần đầu tiên tôi làm tình cách đây hơn bốn mươi hai năm vậy", Ted Turner, thành viên của ban giám đốc, và là một trong những cổ đông lớn nhất, kêu lên. "TED TURNER: NÓ CÒN TUYỆT HƠN CẢ SEX", tờ New York Post hôm sau đó giật tít này, thông báo rằng thỏa thuận đã được ký kết; một cái tiêu đề chúng ta sẽ còn trở lại bởi sức mạnh của nó trong việc lý giải tại sao những người thông minh lại đôi lúc có thể quá nhạy-cảm-với-phần-thưởng.

Có thể bạn sẽ thắc mắc điều này thì có liên quan gì đến tính hướng nội với hướng ngoại. Chẳng phải tất cả chúng ta đều có những lúc nhất thời bồng bột hay sao?

Câu trả lời là đúng vậy, chỉ trừ việc là một số trong chúng ta làm thế nhiều hơn những người khác. Dorn đã để ý thấy rằng các khách hàng hướng ngoại của bà thường có xu hướng cao là người nhạy-cảm-cao-với-phần-thưởng, trong khi những người hướng nội thường có xu hướng để tâm nhiều hơn đến các dấu hiệu nguy hiểm. Họ thành công hơn trong việc điều hòa tham vọng hoặc cảm giác phấn khích của mình. Họ tự bảo vệ bản thân mình tốt hơn trước những hậu quả xấu. "Những nhà giao dịch hướng nội tôi từng làm việc với thường sẽ rất hay nói 'OK, Janice, tôi có cảm thấy niềm hưng phấn đang trào dâng đây, nhưng tôi hiểu rằng tôi không thể hành động dựa vào chúng được'. Những người hướng nội giỏi hơn nhiều trong việc vạch ra một kế hoạch, theo sát một kế hoạch, và rất giữ kỷ luật".

Để hiểu tại sao người hướng nội và người hướng ngoại lại phản ứng khác nhau trước viễn cảnh về phần thưởng, Dorn nói, ta cần phải biết một chút về cấu trúc của não bộ. Như chúng ta đã thấy ở

chương 4

,

hệ viền (limbic system)

của chúng ta, thứ chúng ta chia sẻ chung với những loài động vật có vú nguyên thủy nhất, và là thứ Dorn gọi là phần "bộ não cổ xưa", điều khiển cảm xúc và bản năng. Nó bao gồm nhiều lớp cấu trúc, trong đó có cả thùy hạnh nhân (amygdala), và nó có liên kết tương tác rất chặt chẽ với vùng nhân não nucleus accumbens, đôi lúc còn được gọi là trung khu khoái cảm của não. Chúng ta đã biết về mặt lo lắng của bộ não cổ xưa khi khám phá vai trò của thùy hạnh nhân đối với mức độ phản ứng cao và sự hướng nội. Giờ chúng ta sẽ sắp sửa được thấy mặt tham lam của nó.

Bộ não cổ xưa, theo như Dorn, luôn luôn bảo với chúng ta: "Đúng, đúng, đúng! Ăn nữa đi, uống nữa đi, quan hệ tình dục nữa đi, mạo hiểm thật nhiều vào, cứ lao đến với tất cả mọi sự hưng phấn mà ngươi có đi, và nhất là, đừng có nghĩ!". Phần tìm-kiếm-phần-thưởng, yêu-khoái-cảm (pleasure-loving) này của bộ não cổ xưa là thứ Dorn tin rằng đã xúi giục Alan đối xử với số tiền tiết kiệm cả đời của mình như những đồng xèng trong casino.

Chúng ta cũng đồng thời có một "bộ não mới" gọi là neocortex, thứ đã tiến hóa hàng nghìn năm sau hệ viền. Phần não mới chịu nhiệm vụ suy nghĩ, lên kế hoạch, xử lý ngôn ngữ, và đưa ra quyết định-một vài trong số những khả năng quan trọng nhất khiến chúng ta là con người. Mặc dù bộ não mới cũng đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống cảm xúc của chúng ta, vai trò chính của nó vẫn là lý trí. Công việc của nó, theo Dorn, bao gồm việc nói: "Không, không, không! Đừng có làm việc đó, bởi vì nó nguy hiểm, không hợp lý một chút nào cả, và nó cũng không có lợi cho anh, hay cho gia đình anh, hay cho cả xã hội".

Vậy phần neocortex của Alan đã ở đâu khi ông đuổi theo những món hời cổ phiếu không hề có kia?

Bộ não cổ xưa và bộ não mới có làm việc chung với nhau, nhưng không phải lúc nào cũng hiệu quả. Đôi lúc chúng thực tế là mâu thuẫn với nhau, và thế là quyết định của chúng ta là kết quả của việc bên nào đưa ra tín hiệu mạnh hơn. Vậy nên trong khi bộ não cổ xưa của Alan gửi những tin nhắn dồn dập tới bộ não mới, bộ não mới hẳn đã làm đúng như cách một neocortex nên làm: nó bảo bộ não cổ xưa hãy chậm lại một chút đi. Nó nói: Cẩn thận đó! Coi chừng đó! Nhưng rút cục thì nó vẫn thua trong trò chơi kéo co này.

Tất cả chúng ta đều có phần bộ não cổ xưa, tất nhiên. Nhưng cũng như việc thùy hạnh nhân của một người có-mức-độ-phản-ứng-cao thì nhạy cảm trước cái mới hơn nhiều so với một người bình thường, thì người hướng ngoại có vẻ cũng dễ bị đánh gục hơn bởi khao khát tìm-kiếm-phần-thưởng của bộ não cổ xưa như vậy, so với người hướng nội. Trên thực tế, một số nhà khoa học đã bắt đầu khám phá ý tưởng cho rằng sự nhạy cảm với phần thưởng không chỉ là một đặc tính thú vị của sự hướng ngoại; nó còn là thứ khiến người hướng ngoại là người hướng ngoại. Người hướng ngoại, nói cách khác, được định nghĩa bởi xu hướng của họ trong việc tìm kiếm phần thưởng, từ danh hiệu đứng đầu cho đến cảm giác thăng hoa về tình dục, cho đến tiền bạc. Họ đã được chứng minh là có tham vọng kinh tế, chính trị, và khoái lạc chủ nghĩa (hedonistic) lớn hơn nhiều so với người hướng nội; kể cả sự quảng giao của họ cũng chỉ là một sản phẩm phụ của sự nhạy-cảm-với-phần-thưởng của họ, nếu dựa trên góc nhìn này- người hướng ngoại giao tiếp nhiều, bởi vì tận hưởng những mối quan hệ giữa người với người là cảm giác đặc biệt tuyệt vời.

Ẩn sau tất cả những sự tìm-kiếm-phần-thưởng này là gì? Chìa khóa có vẻ nằm ở cảm xúc tích cực. Người hướng ngoại thường có xu hướng trải nghiệm nhiều khoái cảm và hào hứng hơn là người hướng nội-những cảm xúc mà được kích hoạt, như nhà tâm lý học Daniel Nettle giải thích trong cuốn sách tuyệt vời của ông về tâm lý, "để phản ứng lại với việc theo đuổi hoặc nắm bắt một vài nguồn tài nguyên nào đó có giá trị. Sự hào hứng tăng dần cho đến thời điểm được dự đoán là sẽ nắm bắt được nguồn tài nguyên này. Niềm vui thì xuất hiện sau khi đã nắm bắt thành công". Người hướng ngoại, nói một cách khác, thường luôn ở trong một trạng thái cảm xúc ta có thể gọi là "say"-một cơn lốc của cảm xúc hứng khởi, đầy năng lượng. Đây là một cảm giác chúng ta đều biết và yêu thích, nhưng không nhất nhiết ở cùng một mức độ, hay cùng một tần suất: người hướng ngoại có vẻ có mức độ say sưa cao hơn, và thường xuyên hơn nhiều trong việc theo đuổi và đạt được mục tiêu của mình.

Nền tảng cơ bản của sự say sưa này có vẻ là một mức độ hoạt động cao của một mạng lưới các thành phần trong não-thường được gọi là "hệ thống phần thưởng"-bao gồm phần orbitofrontal cortex, phần nucleus accumbens, và phần thùy hạnh nhân. Công việc của hệ thống phần thưởng là khiến chúng ta hào hứng về một món hời tiềm năng nào đấy; các thí nghiệm với máy fMRI đã chỉ ra rằng hệ thống này được kích hoạt bởi đủ loại nhân tố hấp dẫn khác nhau, từ kỳ vọng được nhấp một ngụm Kool-Aid, cho tới tiền, cho tới tranh ảnh về những người hấp dẫn.

Các nơ-ron truyền đạt tín hiệu trong hệ thống phần thưởng hoạt động thông qua một neurotransmitter-một chất hóa học có nhiệm vụ trung chuyển thông tin giữa các tế bào não-có tên dopamine. Dopamine là chất hóa học phần thưởng được giải phóng ra để đáp lại những khoái cảm được dự đoán là sẽ tới. Một số nhà khoa học tin rằng não bạn càng phản ứng mạnh với dopamine, hay mức độ dopamine bạn có sẵn để giải phóng ra càng cao, bạn sẽ càng có xu hướng theo đuổi những phần thưởng như tình dục, sô-cô-la, tiền bạc và địa vị. Cơ quan thích ứng nằm giữa não đảm nhiệm hoạt động về dopamine ở chuột khiến chúng hào hứng chạy quanh cái chuồng không cho đến khi chúng gục xuống vì chết đói. Cocaine và heroin, những thứ giúp kích thích các nơ-ron giải phóng dopamine ở người, có thể khiến con người ta đạt trạng thái cực kỳ hưng phấn và sung sướng trong một thời gian ngắn.

Sự dẫn truyền dopamine của người hướng ngoại có vẻ hoạt động tích cực hơn của người hướng nội. Mặc dù mối quan hệ chính xác giữa tính hướng ngoại, dopamine, và hệ thống phần thưởng chưa được công bố chắc chắn, những khám phá bước đầu đã rất đáng kinh ngạc. Trong một thí nghiệm, Richard Depue, một nhà sinh vật học thần kinh (

<em style="font-family: Cambria, serif; font-size: 11pt; line-height: 200%;">neurobiologist

) tại Đại học Cornell, đã tiêm một liều amphetamine, thứ thuốc làm kích hoạt hệ thống dopamine, vào một nhóm người hướng nội và hướng ngoại; và ông đã khám phá ra rằng người hướng ngoại có mức độ phản ứng cao hơn hẳn. Một nghiên cứu khác khám phá thấy rằng những người hướng ngoại thắng trong các trò cá cược có nhiều hoạt động ở những khu vực nhạy-cảm-với-phần-thưởng của não hơn nhiều những người thắng cuộc mà là người hướng nội. Một nghiên cứu khác nữa lại chỉ ra rằng phần

<em style="font-family: Cambria, serif; font-size: 11pt; line-height: 200%;">medial orbitofrontal cortex

, một thành phần quan trọng trong hệ thống phần thưởng chạy bằng dopamine của não, ở người hướng ngoại thì to hơn so với ở người hướng nội.

Ngược lại, người hướng nội "có mức độ phản ứng thấp hơn" trong hệ thống phần thưởng, nhà tâm lý học Nettle viết, "và do đó ít mạo hiểm theo đuổi những dấu hiệu [của phần thưởng] hơn". Họ sẽ, "như mọi người, thỉnh thoảng cũng bị cuốn vào sex, vào các bữa tiệc, vào địa vị và danh vọng, nhưng những gì họ lao tới sẽ tương đối nhỏ, thế nên họ sẽ không phải gãy chân mới tới được chúng". Nói ngắn gọn lại, người hướng nội chỉ đơn giản là không "say sưa" dễ dàng như vậy.

Theo một vài nghĩa nào đó, những người hướng ngoại quả thực là may mắn: những cơn say sưa có một phẩm chất bọt-sâm-panh tuyệt vời. Nó tiếp nhiên liệu để chúng ta làm việc hết sức và chơi hết mình. Nó cho chúng ta lòng dũng cảm để nắm lấy các cơ hội. Cơn say sưa cũng đồng thời khiến chúng ta làm những việc mà trong trường hợp khác sẽ là quá khó khăn, như diễn thuyết chẳng hạn. Hãy thử tưởng tượng bạn bỏ rất nhiều công sức vào chuẩn bị một bài nói về một chủ đề mà bạn quan tâm. Bạn truyền đạt được trọn vẹn thông điệp của mình tới người nghe, và khi bạn kết thúc toàn bộ khán giả đứng hết lên, tiếng vỗ tay của họ không ngớt và chân thành. Một người này có thể rời khỏi căn phòng và nghĩ, "Mình mừng là mọi người đã hiểu được điều mình muốn nói, nhưng mình cũng thật vui vì mọi chuyện đã kết thúc; giờ mình có thể quay lại với cuộc sống thường ngày của mình rồi". Một người khác, nhạy cảm hơn với sự say sưa, có thể sẽ ra về với cảm giác: "Thật là một hành trình tuyệt vời! Anh có nghe thấy tiếng vỗ tay tán thưởng đấy không? Anh có thấy biểu hiện trên nét mặt của họ không, khi tôi đề cập đến luận điểm làm-thay-đổi-cuộc-đời đó ấy? Điều này quả thực quá tuyệt vời!".

Nhưng cơn say sưa cũng có những mặt trái đáng kể. "Tất cả mọi người đều cho rằng ưu tiên hơn vào các cảm xúc tích cực là tốt, nhưng điều đó không đúng", giáo sư tâm lý học Richard Howard nói với tôi, khi chỉ đến ví dụ về các chiến thắng bóng đá thường kết thúc trong bạo lực và tài sản bị hư hại. "Rất nhiều hành vi phản-xã hội (antisocial) và tự-hủy-hoại-bản-thân (self-defeating) đều xuất phát từ những người luôn phóng đại các cảm xúc tích cực".

Một bất lợi khác của sự say sưa là ở mối liên hệ của nó với sự mạo hiểm-đôi lúc là những sự mạo hiểm cực kỳ lớn. Sự say sưa có thể khiến chúng ta lờ đi những dấu hiệu nguy hiểm mà đúng ra chúng ta cần nên để tâm tới. Khi Ted Turner (người có vẻ là một người hướng nội cực kỳ) so sánh thỏa thuận mua bán AOL-Time Warner với trải nghiệm về sex đầu tiên của mình, có lẽ khi đó ông đang nói với chúng ta rằng ông đã ở trong cùng một trạng thái tâm lý say sưa ông đã từng trải qua khi là một thiếu niên đang cực kỳ háo hức về việc được dành một đêm với bạn gái mới của mình đến nỗi cậu ta không hề nghĩ ngợi gì nhiều về các hậu quả có thể. Sự mù quáng trước nguy hiểm này có thể lý giải tại sao những người hướng ngoại lại có xu hướng cao hơn người hướng nội trong việc bị chết bởi tai nạn giao thông khi đang lái xe, bị nằm viện do hậu quả của tai nạn hoặc chấn thương, hút thuốc, quan hệ tình dục không an toàn, tham gia những trò chơi mạo hiểm, ngoại tình, cho đến tái hôn. Nó đồng thời cũng giúp giải thích tại sao những người hướng ngoại là thường có xu hướng thái-quá-tin (định nghĩa bởi lòng tự tin cao hơn nhưng không đi kèm năng lực cao hơn) cao hơn nhiều so với người hướng nội.

Lý thuyết về sự hướng ngoại này vẫn còn khá mới, và nó không hoàn toàn là chắc chắn. Chúng ta không thể nói mọi người hướng ngoại đều luôn không ngừng kiếm tìm những phần thưởng, hay tất cả người hướng nội đều đạp phanh trước mọi rắc rối. Tuy vậy, lý thuyết này vẫn gợi ý rằng chúng ta nên suy nghĩ lại về việc người hướng nội và người hướng ngoại đóng vai trò như thế nào trong chính cuộc sống của họ, cũng như trong các tổ chức. Nó gợi ý rằng khi đến thời điểm phải đưa ra quyết định nhóm, người hướng ngoại sẽ được lợi nhiều hơn nếu anh ta chịu lắng nghe người hướng nội-đặc biệt là khi họ đã nhìn thấy trước những vấn đề sắp xảy đến.

Trong cơn thức tỉnh trước cuộc đại khủng hoảng năm 2008, một thảm họa kinh tế gây ra một phần bởi những mạo hiểm thiếu tính toán và sự mù quáng trước những mối nguy hiểm, xu hướng phổ biến là việc cân nhắc xem liệu chúng ta đã có thể làm tốt hơn với nhiều phụ nữ và ít đàn ông hơn-hoặc ít testosterone hơn-ở phố Wall không. Những, có lẽ chúng ta cũng nên hỏi rằng điều gì đã có thể xảy ra nếu có thêm một vài người hướng nội cầm lái-và bớt đi thật nhiều dopamine.

Vài nghiên cứu cũng đã gián tiếp trả lời câu hỏi này. Giáo sư Camelia Kuhnen của Đại học Kellogg về Quản lý (Kellogg School of Management) đã khám phá thấy rằng dạng gen điều hòa dopamine (DRD4), thường được gắn với dạng hướng ngoại tìm-kiếm-cảm-giác-mạnh, là một dấu hiệu rõ rệt để nhận biết những người sẽ dám chơi lớn trên thị trường tài chính. Ngược lại, những người với dạng gen điều hòa serotonin, được liên kết với tính hướng nội và sự nhạy cảm, ít mạo hiểm về mặt tài chính hơn những người khác tới 28%. Người ta cũng đồng thời phát hiện ra rằng những người này hoạt động có hiệu quả hơn các đồng bạn của mình ở các thể loại trò chơi cá cược cần đến việc đưa ra quyết định chính xác, phức tạp. (Khi phải đối mặt với việc khả năng chiến thắng là rất thấp, những người với dạng gen này sẽ thường có xu hướng tránh lựa chọn thiếu an toàn; nhưng khi có khả năng chiến thắng cao, họ lại trở nên tương đối chấp nhận mạo hiểm). Một nghiên cứu khác, tiến hành trên sáu mươi tư nhà giao dịch (traders) khác nhau tại một ngân hàng đầu tư, đã khám phá thấy rằng những nhà giao dịch thành công nhất thường là những người hướng nội có trạng thái tâm lý ổn định nhất.

Người hướng nội đồng thời cũng có vẻ làm tốt hơn người hướng ngoại trong việc trì hoãn phần thưởng tức thời để hướng đến món lợi lâu dài, một kỹ năng sống quan trọng, liên quan tới thành hay bại ở gần như tất cả mọi việc, từ một điểm số SAT cao hơn, một mức thu nhập lớn hơn hay một tỷ lệ cân nặng-chiều cao phù hợp hơn. Ở một nghiên cứu, các nhà khoa học cho các tình nguyện viên được lựa chọn giữa một phần thưởng nhỏ nhưng có thể được nhận ngay lập tức (một phiếu quà tặng khi mua hàng trên Amazon), hoặc một phiếu mua hàng lớn hơn nhiều sẽ được nhận sau hai đến bốn tuần tiếp theo. Công bằng mà nói, phần thưởng lớn trong tương lai gần, nhưng không phải ngay lập tức, rõ ràng là lựa chọn hấp dẫn hơn. Nhưng rất nhiều người lại ngả theo lựa chọn "Tôi muốn nó ngay lập tức"-và khi họ quyết định như thế, một máy quét não đã khám phá ra rằng hệ thống phần thưởng của họ đã được kích hoạt. Những người kìm mình lại trong hai tuần để đợi phần thưởng lớn cho thấy có nhiều hoạt động hơn ở phần prefrontal cortex-bộ phận ở bộ não mới có nhiệm vụ thuyết phục chúng ta đừng có làm những việc như gửi những email thiếu suy xét, hay ăn quá nhiều bánh sô-cô-la. (Một nghiên cứu tương tự cũng gợi ý rằng nhóm đầu tiên thường có xu hướng cao là người hướng ngoại, và nhóm sau thường là người hướng nội).

Hồi những năm 1990, khi tôi còn là một nhân viên cấp thấp trong một hãng luật tại phố Wall, tôi đã từng là thành viên của một đội luật sư có nhiệm vụ đại diện cho một ngân hàng khi họ đang cân nhắc việc mua lại một số nợ từ những người cho vay khác. Công việc của tôi chỉ thuần túy yêu cầu chăm chỉ-kiểm tra lại tất cả các giấy tờ để xem liệu các món nợ đều đã được tiến hành với đúng thủ tục hợp lệ cần thiết hay chưa. Liệu những người vay đã được thông báo về mức lãi họ sẽ phải chịu khi trả tiền chưa? Rằng mức lãi này sẽ tăng dần theo thời gian?

Đám giấy tờ này hóa ra lại đầy ắp những điểm bất thường. Nếu tôi ở trong địa vị của những người bên ngân hàng, hẳn điều này sẽ làm tôi cực kỳ, cực kỳ lo lắng. Nhưng khi đội ngũ pháp lý của chúng tôi tổng kết những mối nguy tiềm tàng lại với họ trong buổi họp, những người bên ngân hàng có vẻ hoàn toàn không có một chút dao động. Họ nhìn thấy món lợi tiềm tàng lớn từ việc mua lại các khoản vay này với giá quá rẻ, và họ vẫn muốn tiếp tục tiến hành thỏa thuận. Ấy vậy nhưng chính những cách tính toán sai lầm kiểu "có mạo hiểm mới có phần thưởng" này đã góp phần dẫn đến thảm bại của rất nhiều ngân hàng trong cuộc Đại Suy thoái năm 2008.

Cũng trong cùng khoảng thời gian tôi làm công việc đánh giá mức độ rủi ro của các khoản vay này, tôi cũng được nghe một câu chuyện lúc đó đang lan truyền khắp phố Wall, về một cuộc cạnh tranh giữa các ngân hàng đầu tư để tranh lấy một doanh nghiệp đầy uy tín. Mỗi ngân hàng lớn này đều gửi một tiểu đội các nhân viên giỏi nhất của mình đi để thuyết phục khách hàng chọn mình. Mỗi đội sử dụng những công cụ quen thuộc: spread sheets, pitch books, và các bài thuyết trình bằng PowerPoint. Nhưng đội chiến thắng đã thêm vào một vũ khí đặc biệt của riêng họ: họ chạy vào phòng, đội những chiếc mũ bóng chày đồng phục, và áo phông in lớn ba con chữ FUD, viết tắt của Fear, Uncertainty, and Doubt (Sợ hãi, Không chắc chắn, và Ngờ vực). Trong trường hợp này, ba chữ FUD đã bị gạch đè lên bởi một dấu X đỏ lớn. Đội đó, những kẻ đánh bại FUD, đã chiến thắng cuộc thi.

Coi thường sự Sợ hãi, Không chắc chắn, Ngờ vực-và cả những người thường hay trải nghiệm nó-là thứ đã dẫn đến sự sụp đổ của phố Wall-Boykin Curry, giám đốc quản lý của công ty đầu tư Eagle Capital và là người đã chứng kiến tận mắt thảm họa năm 2008, nói. Quá nhiều quyền lực được tập trung vào tay những người thích-mạo-hiểm hung hăng. "Trong hai mươi năm, ADN của hầu hết mọi cơ quan tài chính.... đều bị biến dạng đến nguy hiểm", ông nói với tạp chí Newsweek khi cuộc khủng hoảng đạt đến đỉnh cao. "Mỗi lần ai đó trên bàn họp đòi phải có thêm nhiều đầu tư, nhiều mạo hiểm hơn nữa, một vài năm sau đó đã chứng tỏ rằng họ "đúng". Những người sau đó liền tự tin hơn, họ được thăng chức và có thêm nhiều quyền kiểm soát tài chính hơn nữa.

Trong lúc đó, bất cứ ai ở địa vị lãnh đạo mà tỏ ra chần chừ, do dự, đòi nên cẩn trọng hơn, đều được chứng tỏ là "sai". Dạng người cẩn trọng do đó càng lúc càng bị dọa nạt, bị gạt ra khỏi các cuộc thăng chức. Họ mất quyền kiểm soát tài chính. Điều này xảy ra mỗi ngày ở gần như mọi cơ quan tài chính, lặp đi lặp lại, cho đến lúc chúng ta chỉ còn lại một dạng người duy nhất làm tất cả mọi công việc lãnh đạo.

Curry là một người tốt nghiệp từ Trường Đại Học Kinh Tế Harvard và, với vợ mình, Celerie Kemble, một nhà thiết kế đến từ quận Palm Beach, là những nhân vật quan trọng trên cả chính trường và xã hội trường của New York. Nói thế để thấy rằng ông có vẻ là một người dẫn đầu trong thứ mà ông gọi là một đám đông "ào lên - giành lấy hung hăng", và ít khả năng là một người ủng hộ cho sự quan trọng của người hướng nội. Nhưng có một điều ông không hề thấy xấu hổ khi nói ra, đấy chính là giả thuyết của ông cho rằng chính những người hướng ngoại mạnh mẽ mới là những kẻ đã tạo ra cuộc sụp đổ tài chính toàn cầu.

"Những người với kiểu tính cách chắc chắn thì có được quyền điều khiển tài chính và các cơ quan và quyền lực", Curry nói với tôi. "Và những người bẩm sinh đã cẩn thận và hướng nội hơn, đã sâu sát hơn trong suy nghĩ của họ thì bị lãng quên và đẩy sang một bên".

Vincent Kaminski, một giáo sư kinh tế tại Đại học Rice, người từng đảm nhiệm chức vụ giám đốc quản lý nghiên cứu cho Enron, công ty đã có vụ phá sản nổi đình đám vào năm 2001 vì hậu quả của những chiến lược kinh doanh thiếu thận trọng, đã kể với báo The Washington Post một câu chuyện tương tự-về một nền văn hóa kinh doanh nơi những người thích-mạo-hiểm hung hăng tận hưởng địa vị quá cao so với những người hướng nội thận trọng. Kaminski, một người đàn ông ăn nói nhỏ nhẹ và tính tình thận trọng, là một trong số rất ít những người hùng trong vụ xì-căng-đan của tập đoàn Enron. Ông đã nhiều lần cố lên tiếng cảnh báo với các lãnh đạo cấp cao về việc công ty đang lao vào những dự án đủ mạo hiểm để đe dọa đến sự tồn tại của cả tập đoàn. Khi những người đứng đầu không chịu lắng nghe, ông từ chối ký đồng ý vào những thỏa thuận nguy hiểm này, và ra lệnh cho đội của ông không được phép tham gia vào chúng. Công ty tước đoạt vị trí của ông để huy động toàn bộ mọi nhân sự tham gia những dự án này.

"Đã có một vài lời phàn nàn, Vince, rằng anh đang không hỗ trợ mọi người thực hiện các thỏa thuận", tổng giám đốc tập đoàn Enron nói với ông; dựa theo "Âm mưu của những Tên Ngốc" ("Conspiracy of Fools"), cuốn sách kể về vụ xì-căng-đan Enron. "Thay vào đó, anh lại đang dành hết thời gian của mình hành động như một viên cảnh sát. Chúng tôi không cần các cảnh sát, Vince".

Nhưng họ thực sự có cần, và vẫn cần những người như vậy. Khi cuộc khủng hoảng tín dụng đe dọa sự sống còn của một vài trong số những ngân hàng lớn nhất Phố Wall vào năm 2007, Kaminski thấy điều tương tự lại đang xảy ra một lần nữa. "Cứ cho là chưa phải tất cả mọi con quỷ ở Enron đều đã bị trục xuất hết", ông nói với tờ Post vào tháng Mười một năm đó. Vấn đề ở chỗ, ông giải thích, không phải chỉ là quá nhiều người đã không nhận ra mối hiểm họa các ngân hàng đang chịu mà không hay biết. Nó còn ở chỗ những người nhận ra các mối hiểm họa đó thì liên tục bị lãng quên-một phần là bởi họ có dạng tính cách không phù hợp. "Đã rất nhiều lần tôi ngồi đối diện với một nhà buôn năng lượng và tôi sẽ nói, "Việc kinh doanh của ông sẽ đổ vỡ tan tành hết nếu điều này, điều này xảy ra". Và nhà buôn đó sẽ bắt đầu la hét vào mặt tôi và nói rằng tôi là một kẻ ngu ngốc, rằng một tình huống như thế chắc chắn sẽ không bao giờ xảy ra. Vấn đề là, về một mặt, bạn có một "kẻ cầu mưa" luôn kiếm được về cho công ty rất nhiều tiền và được đối xử như một siêu sao; ở mặt kia bạn có một tên nhát gan và hướng nội. Vậy bạn nghĩ ai sẽ thắng?"

Nhưng chính xác thì làm thế nào cảm giác say sưa lại làm ảnh hưởng đến việc đưa ra những quyết định sáng suốt? Làm thế nào mà khách hàng của Dorn, Alan, lại bỏ qua những dấu hiệu nguy hiểm cực kỳ lớn kia đến mức mất tới 70% tiền tiết kiệm cả đời của mình? Thứ gì đã thúc giục con người ta hành động như thể Sợ hãi, Không chắc chắn, và Ngờ vực không hề tồn tại?

Một loạt các thí nghiệm cực kỳ đáng kinh ngạc của Joseph Newman, một nhà tâm lý đang công tác Đại học Wisconsin, đã đưa ra một câu trả lời cho vấn đề này. Hãy thử tưởng tượng bạn được mời tới phòng thí nghiệm của Newman để tham gia vào một nghiên cứu của ông. Bạn ở đó để chơi một trò chơi: bạn càng ghi được nhiều điểm, bạn càng thắng được nhiều tiền. Mười hai chữ số khác nhau sẽ nháy lên trên màn hình, mỗi lần một số, không theo một thứ tự nhất định nào hết. Bạn được đặt tay trên một cái nút bấm, như những chương trình trò chơi trên truyền hình, và bạn có thể bấm nó mỗi khi có một số phù hợp hiện lên. Nếu bạn bấm nút khi có một số "tốt" chạy qua, bạn ghi được điểm; nếu bạn bấm nút cho một số "xấu", bạn mất điểm; và nếu bạn không hề bấm nút một lần nào, sẽ chẳng có điều gì xảy ra hết. Bằng việc thử đi thử lại nhiều lần, bạn sẽ học được rằng 4 là một con số tốt và 9 là một số xấu. Vậy nên lần tiếp theo khi bạn thấy số chín quét qua trên màn hình, bạn sẽ biết là không được bấm nút.

Ấy vậy nhưng đôi lúc người ta vẫn bấm nút cho cả những số xấu, kể cả khi đúng ra họ biết rõ là không nên. Người hướng ngoại, đặc biệt là những người hướng ngoại đặc biệt bốc đồng, có xu hướng phạm phải lỗi này cao hơn gấp nhiều lần so với người hướng nội. Tại sao? Ừm, theo như lời của các nhà tâm lý học John Brebner và Chris Cooper, những người đã chứng minh rằng người hướng ngoại nghĩ ít hơn và hành động nhanh hơn trong những tác vụ như thế này, thì: người hướng nội được "thiết kế ra để điều tra kỹ càng", còn người hướng ngoại thì "được thiết kế ra để hành động nhanh chóng".

Nhưng điều thú vị hơn ở kiểu hành vi khó hiểu này không phải là ở việc người hướng ngoại làm gì trước khi họ ấn nhầm nút, mà là ở việc họ làm gì sau đó. Khi người hướng nội ấn nút cho số 9 và nhận ra họ đã mất một điểm, họ chủ ý chậm lại trước khi chuyển sang số tiếp theo, như thể để nghiền ngẫm lại xem điều gì đã xảy ra sai. Nhưng những người hướng ngoại thì không những không chậm lại, họ thực tế còn tăng tốc nhanh hơn.

Điều này có vẻ kỳ lạ; tại sao bất cứ ai lại muốn làm như vậy? Newman giải thích rằng nó thực ra vô cùng hợp lý. Nếu bạn hoàn toàn tập trung vào việc đạt được mục tiêu của bạn, như những người hướng ngoại nhạy-cảm-với-phần-thưởng cảm thấy, bạn sẽ không muốn có bất cứ thứ gì ngáng đường mình-bất kể là những lời can ngăn hay là những con số chín. Bạn sẽ tăng tốc trong một nỗ lực để húc đổ tất cả những rào cản trên con đường tiến tới chiến thắng của mình.

Ấy vậy nhưng đây lại là một bước đi sai lầm đến cực kỳ nghiêm trọng, bởi vì bạn càng dừng lại lâu để xử lý những thông tin phản hồi về bất ngờ hay tiêu cực, bạn càng dễ rút ra được bài học từ nó. Nếu bạn bắt ép những người hướng ngoại phải dừng lại để suy nghĩ, Newman nói, họ cũng sẽ làm tốt trong trò chơi bấm số này như những người hướng nội vậy. Nhưng, nếu để mặc cho họ một mình, họ sẽ không dừng lại. Và thế là họ không học được cách tránh những rắc rối đang ở ngay trước mắt. Newman nói rằng đây chính xác là điều có thể xảy ra với những người hướng ngoại như Ted Turner khi đặt giá mua một công ty trên bàn đấu giá. "Khi một người trả giá quá cao", ông nói với tôi, "đó là vì họ đã không kiềm chế những hành động mà đúng ra họ đã nên kiềm chế. Họ đã không cân nhắc những thông tin mà đúng ra đã nên được cân nhắc thật cẩn thận trước khi đưa ra quyết định".

Những người hướng nội, ngược lại, từ trong thể tạng họ đã được lập trình để từ chối những phần thưởng-để giết chết sự say sưa của họ, bạn có thể nói vậy-và rà soát tìm kiếm những vấn đề đặng kịp thời xử lý. "Ngay khi họ cảm thấy mình đang quá phấn khích", Newman nói, "họ sẽ đạp phanh và nghĩ lại về những vấn đề được coi là nhỏ nhặt nhưng có thể thực chất lại hết sức quan trọng. Người hướng nội cứ như là đã được trui rèn và tập luyện rất cẩn thận, để mỗi khi họ thấy bản thân đang tập trung hoặc quá phấn khích với một mục tiêu nào đó, sự cảnh giác của họ lập tức tăng lên".

Người hướng nội đồng thời cũng hay so sánh những thông tin mới với kỳ vọng ban đầu của họ, ông nói. Họ sẽ tự vấn bản thân: "Đây có phải là điều mà ban đầu mình nghĩ sẽ xảy ra không? Đây có là điều nên xảy ra hay không?". Và khi tình huống vượt ra khỏi dự tính, họ kết hợp cảm giác thất vọng trong khoảnh khắc đó (khi mất điểm) với bất cứ thứ gì đang diễn ra trong môi trường xung quanh họ vào thời điểm họ thất vọng (bấm nhầm số chín). Sự liên kết này cho phép họ có thể có những dự đoán chính xác hơn về việc phải phản ứng thế nào với những dấu hiệu cảnh báo nguy hiểm tương tự trong tương lai.

Việc người hướng nội thường chần chừ xông tới trước không chỉ là một cách giúp họ tránh trước những rủi ro; nó đồng thời cũng đền đáp xứng đáng cho họ trong những công việc liên quan đến trí óc. Đây là một số điều chúng ta biết về mức độ thể hiện của người hướng nội và hướng ngoại trong những thao tác giải quyết vấn đề phức tạp. Người hướng ngoại có điểm số cao hơn người hướng nội ở tiểu học, nhưng người hướng nội lại thể hiện xuất sắc hơn người hướng ngoại ở trường phổ thông và đại học. Ở cấp đại học, sự hướng nội thường đem đến kết quả học thuật cao hơn khả năng hiểu (cognitive ability). Một nghiên cứu trên 141 sinh viên đại học đã kiểm tra kiến thức của họ trong hai mươi lĩnh vực khác nhau, từ nghệ thuật cho đến thiên văn học cho đến số liệu thống kê, đã khám phá ra rằng người hướng nội hiểu biết nhiều hơn người hướng ngoại về tất cả các lĩnh vực này. Người hướng nội nhận được một số lượng bằng tốt nghiệp, vị trí dẫn đầu của học bổng National Merit Scholarship, chìa khóa Phi Beta Kappa lớn hơn gấp nhiều lần so với người hướng ngoại. Họ vượt mặt người hướng ngoại trong bài kiểm tra về Đánh Giá Khả Năng Tư Duy Suy Xét Watson-Glaser (the Watson-Glaser Critical Thinking Appraisal test), một công cụ đánh giá khả năng tư duy suy xét được các doanh nghiệp thường xuyên sử dụng để tuyển nhân viên và thăng chức. Họ đã được chứng minh là rất vượt trội trong lĩnh vực mà các nhà tâm lý học gọi là "giải quyết những vấn đề sâu sắc" ("insightful problem solving").

Câu hỏi là: Tại sao?

Người hướng nội không thông minh hơn người hướng ngoại. Theo một bài kiểm tra mức độ IQ, cả hai loại đều thông minh như nhau. Và trong rất nhiều loại công việc, đặc biệt là các công việc cần phải thực hiện dưới áp lực thời gian hoặc xã hội hay phải làm nhiều việc cùng lúc (multitasking), người hướng ngoại làm tốt hơn nhiều. Người hướng ngoại giỏi hơn người hướng nội trong việc giải quyết tình trạng quá tải thông tin. Sự thường xuyên nghiền ngẫm của người hướng nội chiếm rất nhiều năng lực nhận thức (cognitive capacity), dựa theo Joseph Newman. Ở bất cứ tác vụ nào, ông nói, "nếu chúng ta có 100% năng lực nhận thức, một người hướng nội có thể chỉ dành tối đa 75% cho tác vụ và 25% ngoài tác vụ, trong khi một người hướng ngoại có thể có đến 90% cho tác vụ". Có điều này là bởi vì hầu hết mọi tác vụ đều hướng đến một mục đích cụ thể. Người hướng ngoại có vẻ dành toàn bộ năng lực nhận thức của mình cho mục đích trước mắt, trong khi người hướng nội chia cả năng lực nhận thức cho việc giám sát xem tác vụ đang được tiến hành ra sao.

Nhưng người hướng nội có vẻ tính toán cẩn thận hơn so với người hướng ngoại, như nhà tâm lý học Gerald Matthews đã miêu tả trong công trình của ông. Những người hướng ngoại có xu hướng cao sẽ chọn con đường nhanh-và-thiếu-trung-thực (quick-and-dirty approach) để giải quyết vấn đề, đổi sự chính xác lấy tốc độ, càng tiến tới thì càng mắc phải nhiều sai lầm hơn, và bỏ tất cả khi vấn đề có vẻ quá khó giải quyết hoặc khiến họ không thể chịu nổi nữa. Những người hướng nội thì suy nghĩ kỹ trước khi họ hành động, tiêu hóa thông tin thật cẩn thận, dành thời gian giải quyết vấn đề lâu hơn, ít bỏ cuộc hơn, và làm việc chính xác hơn. Người hướng nội và hướng ngoại cũng đồng thời tập trung sự chú tâm của mình theo những cách khác nhau: nếu bạn để mặc cho họ một mình, người hướng nội sẽ thường ngồi lại ngẫm nghĩ về nhiều chuyện, tưởng tượng ra các thứ, nhớ lại về các sự kiện trong quá khứ của họ, và lên kế hoạch cho tương lai. Người hướng ngoại lại thường có xu hướng tập trung nhiều hơn vào thứ đang xảy ra xung quanh họ. Cứ như thể người hướng ngoại đang nhìn vào thứ "what is" (cái gì đây), trong khi các đồng bạn hướng nội của họ thì đang tự hỏi "what if"(sẽ thế nào nếu).

Sự đối lập trong cung cách giải quyết vấn đề của người hướng nội và hướng ngoại đã được quan sát trong rất nhiều bối cảnh khác nhau. Ở một thí nghiệm, các nhà tâm lý học đã cho năm mươi người một trò chơi xếp hình rất khó, yêu cầu họ giải thử, và phát hiện ra rằng người hướng ngoại có xu hướng cao gấp nhiều lần người hướng nội trong việc bỏ cuộc giữa chừng. Trong một thí nghiệm khác, giáo sư Richard Howard cho nhiều người hướng ngoại và hướng nội một loạt các mê cung in trên giấy, và phát hiện thấy rằng những người hướng nội thường giải được các mê cung này chính xác hơn, nhưng họ đồng thời cũng dành một lượng thời gian lớn hơn gấp nhiều lần để xem xét thật kỹ càng mê cung trước khi bắt đầu tiến vào nó. Điều tương tự cũng xảy ra khi những nhóm người hướng nội và hướng ngoại được cho tham gia Raven Standard Progressive Matrices, một bài kiểm tra trí thông minh bao gồm năm phần, với mức độ khó của vấn đề tăng dần lên. Những người hướng ngoại có xu hướng làm tốt hơn ở hai phần đầu tiên, có lẽ là vì khả năng dễ dàng tập trung vào mục tiêu cụ thể của họ. Nhưng ở ba mức câu hỏi khó hơn, khi sự kiên trì mới là thứ đáng giá, những người hướng nội lại thể hiện tốt hơn họ một cách nổi trội hơn hẳn. Đến mức độ câu hỏi cuối cùng, là mức có những vấn đề phức tạp nhất, những người hướng ngoại dễ dàng bỏ cuộc hoàn toàn hơn nhiều so với những người hướng ngoại.

Người hướng nội đôi lúc thậm chí còn thể hiện vượt trội hơn người hướng ngoại trong những tác vụ giao tiếp xã hội mà yêu cầu đến cả tính kiên trì. Giáo sư môn Quản lý tại trường Wharton, Adam Grant (người đã tiến hành những nghiên cứu về khả năng lãnh đạo như đã được miêu tả trong

chương 2

), một lần đã nghiên cứu về những đặc điểm tính cách của các nhân viên một tổng đài điện thoại. Grant dự đoán rằng những người hướng ngoại sẽ là những người bán hàng qua điện thoại xuất sắc hơn, nhưng hóa ra chẳng hề có một mối liên hệ nào giữa mức độ hướng ngoại và kỹ năng chuyên nghiệp trong việc tiếp thị qua điện thoại.

"Những người hướng ngoại sẽ tạo ra những cuộc điện thoại cực kỳ tuyệt vời", Grant nói với tôi, "nhưng rồi một vật sáng đẹp đẹp nào đấy lăn ngang qua trên đường đi của họ, và thế là họ mất tập trung ngay lập tức". Người hướng nội thì ngược lại, "sẽ nói hết sức nhỏ nhẹ, nhưng bum, bum, bum, họ cứ làm hết cú này đến cú khác ngon lành. Họ rất tập trung và kiên định". Những người hướng ngoại duy nhất thể hiện tốt hơn được những người này là những người đồng thời cũng có mức độ tận tụy cao bất thường. Sự kiên trì của người hướng nội là đối thủ còn hơn cả xứng đáng với sự say sưa của người hướng ngoại, ngay cả trong những tác vụ mà khả năng giao tiếp xã hội tốt có thể là một lợi thế lớn.

Sự kiên trì không phải là một thứ lộng lẫy gì. Nếu thiên tài là một phần trăm cảm hứng và chín mươi chín phần trăm mồ hôi khó nhọc, vậy thì với tư cách một nền văn hóa, chúng ta có vẻ chỉ ngưỡng mộ một phần trăm kia mà thôi. Chúng ta thích sự lộng lẫy, choáng ngợp của nó. Nhưng sức mạnh vĩ đại thực sự nằm ở chín mươi chín phần trăm kia cơ.

"Không phải là vì tôi quá thông minh gì đâu", Einstein, người cũng là một người hướng nội hoàn hảo, nói. "Chỉ là tôi dừng lại với vấn đề lâu hơn thôi".

Tất cả những điều này đều không phải để phê phán những người cứ mải miết tiến tới trước quá nhanh, cũng không phải để mù quáng tán dương dạng người hay suy nghĩ và cẩn trọng. Mục đích ở đây là để chỉ ra rằng: chúng ta thường đánh giá quá cao sự say sưa và bỏ qua những rủi ro của tính nhạy-cảm-với-phần-thưởng. Chúng ta cần có một sự cân bằng giữa hành động và suy ngẫm.

Ví dụ, nếu bạn đang tuyển mộ nhân viên cho một ngân hàng đầu tư, giáo sư quản lý Kuhnen bảo tôi, bạn sẽ muốn chọn không chỉ những người thuộc dạng nhạy-cảm-với-phần-thưởng, những người có khả năng cao sẽ thu được lợi nhuận lớn trên thị trường đầu cơ, mà còn cả những người luôn ở trong trạng thái tâm lý ổn định nữa. Bạn sẽ muốn đảm bảo rằng những quyết định tập thể quan trọng phải phản ánh ý kiến của cả hai loại người, chứ không chỉ một loại. Và bạn sẽ muốn đảm bảo rằng những cá nhân trong nhóm nhạy-cảm-với-phần-thưởng hiểu rõ sở thích cảm xúc của mình, và có thể hạ bớt chúng xuống để phù hợp với điều kiện của thị trường.

Nhưng không chỉ có những nhà tuyển dụng mới hưởng lợi từ việc quan sát kỹ hơn các nhân viên của mình. Chúng ta cũng cần phải đồng thời quan sát kỹ hơn chính bản thân mình nữa. Hiểu rõ vị trí của chúng ta trên thang đo mức độ nhạy-cảm-với-phần-thưởng cho chúng ta sức mạnh để sống cuộc sống của chúng ta tốt hơn.

Nếu bạn là một người hướng ngoại yêu thích cảm giác say sưa, vậy thì bạn thật may mắn khi sẽ được tận hưởng rất nhiều cảm xúc tích cực. Hãy tận dụng chúng tối đa: xây dựng mọi thứ, truyền cảm hứng cho người khác, nghĩ lớn (think big). Thành lập một công ty, mở một trang web, xây dựng một ngôi nhà trên cây thật công phu cho các con bạn. Nhưng bạn cũng cần phải biết rằng bạn đang làm việc với một gót chân Asin mà bạn cần phải học cách để bảo vệ. Hãy tự rèn luyện bản thân để dành năng lượng cho những gì thực sự có ý nghĩa, thay vì tập trung chúng vào những hoạt động có vẻ như sẽ mang lại cho bạn tiền bạc, danh tiếng hoặc hứng khởi tức thời. Hãy tự dạy chính mình cách dừng lại và suy ngẫm trước những dấu hiệu cảnh báo cho thấy rằng mọi thứ đang không xảy ra theo đúng cách bạn mong muốn. Học hỏi từ những sai lầm của bạn. Tìm kiếm các đối tác (từ vợ/chồng cho đến bạn bè, cho đến bạn làm ăn), những người có thể giúp khống chế bạn và bù đắp cho những điểm yếu của bạn.

Và khi đến lúc để đầu tư, hay để làm bất cứ thứ gì khác mà cần đến một sự cân bằng khôn ngoan giữa rủi ro và phần thưởng, hãy biết kiểm soát bản thân. Một cách tốt để làm điều này là đảm bảo rằng bạn đang không vây quanh mình với hàng loạt hình ảnh của phần thưởng vào thời điểm phải đưa ra quyết định tối quan trọng. Kuhnen và Brian Knutson đã phát hiện ra rằng những người đàn ông khi được cho xem những bức hình khiêu gợi ngay trước khi họ cá cược sẽ có xu hướng mạo hiểm nhiều hơn là những người được cho xem những bức ảnh về những vật bình thường như bàn hay ghế. Đấy là vì việc mong chờ trước phần thưởng-bất cứ phần thưởng gì, kể cả những thứ hoàn toàn không liên quan tới chủ đề trước mắt-đều làm phấn khích hệ thống phần thưởng bị điều khiển bởi dopamine của chúng ta, và khiến chúng ta hành động hấp tấp hơn. (Đây có lẽ là luận điểm hiệu quả nhất cho đến giờ cho việc cấm văn hóa phẩm khiêu dâm ở nơi làm việc).

Và nếu bạn là một người hướng nội hầu như miễn dịch với sự nhạy cảm quá độ trước phần thưởng? Ở cái nhìn đầu tiên, các nghiên cứu về dopamine và sự say sưa có vẻ ám chỉ rằng người hướng ngoại, và chỉ mình người hướng ngoại mà thôi, là được thôi thúc mãnh liệt để làm việc bởi cảm giác hưng phấn họ có được khi theo đuổi một mục tiêu. Là một người hướng nội, tôi rất lúng túng trước ý tưởng này, khi tôi lần đầu tiên biết đến nó. Nó không phản ánh đúng những trải nghiệm của riêng tôi. Tôi yêu công việc của mình, và vẫn luôn như vậy. Tôi thức dậy vào mỗi sáng cảm thấy vô cùng hứng khởi muốn bắt đầu làm việc. Vậy thứ gì đã thôi thúc những người như tôi?

Một câu trả lời đấy là kể cả khi giả thuyết về sự nhạy-cảm-với-phần-thưởng ở người hướng ngoại là đúng, chúng ta cũng không thể nói chắc được rằng mọi người hướng ngoại đều luôn nhạy cảm hơn với phần thưởng và thờ ơ hơn với rủi ro; hay rằng mọi người hướng nội đều luôn không có cảm giác gì trước những động cơ thúc đẩy và luôn cảnh giác trước những hiểm họa. Ngay từ thời của Aristotle, các triết gia đã quan sát thấy rằng hai chế độ này-tiếp cận những thứ có vẻ sẽ cho ta cảm giác thích thú, và tránh xa những thứ có thể sẽ mang đến cho ta đau đớn-nằm ở cốt lõi của mọi hoạt động của con người. Với tư cách một nhóm, những người hướng ngoại thường có xu hướng là dạng tìm-kiếm-phần-thưởng nhiều hơn, nhưng mọi cá thể con người đều có một hỗn hợp của riêng mình giữa xu hướng "tiếp cận" và xu hướng "lảng tránh", và đôi lúc hỗn hợp này khác nhau tùy thuộc vào từng hoàn cảnh. Thực vậy, rất nhiều nhà tâm lý học tính cách đương thời sẽ nói rằng sự cảnh-giác-trước-nguy-hiểm có vẻ là một đặc điểm của một nét tính cách khác, có tên "neuroticism", hơn là của đặc tính hướng nội. Cơ chế trao thưởng và đe dọa của cơ thể cũng có vẻ làm việc độc lập với nhau, vậy nên một con người có thể khá nhạy cảm, hoặc không nhạy cảm, với cả các phần thưởng lẫn các hiểm họa.

Nếu bạn muốn xác định xem liệu mình định-hướng-bởi-phần-thưởng, định-hướng-bởi-đe-dọa, hay cả hai, hãy thử hỏi bản thân xem liệu những nhóm câu nói dưới đây có đúng với bạn hay không:

Nếu bạn được định-hướng-bởi-phần-thưởng:

1.

Khi tôi có được thứ gì đó mà tôi muốn, tôi cảm thấy rất phấn khích và tràn đầy năng lượng.

2.

Khi tôi muốn một thứ gì đó, tôi thường làm hết sức mình để đạt được nó.

3.

Khi tôi thấy một cơ hội cho một thứ gì đó tôi thích, tôi lập tức cảm thấy phấn khích.

4.

Khi có điều tốt xảy đến với tôi, tôi bị ảnh hưởng rất mạnh mẽ.

5.

Tôi có rất ít nỗi sợ hãi nếu so sánh với các bạn tôi.

Nếu bạn được định-hướng-bởi-đe-dọa:

1.

Những lời phê bình hoặc mắng mỏ làm tôi khá là tổn thương.

2.

Tôi thấy khá là lo lắng hoặc buồn bã khi tôi nghĩ hoặc biết rằng có ai đó đang giận tôi.

3.

Nếu tôi tin rằng có điều gì đó rất xấu đang sắp sửa xảy ra, tôi sẽ đứng ngồi không yên.

4.

Tôi cảm thấy lo lắng khi nghĩ rằng mình đã làm thật vô cùng kém cỏi trong một việc quan trọng nào đó.

5.

Tôi luôn lo lắng về việc mắc phải sai lầm.

Nhưng tôi tin rằng một lời giải thích quan trọng khác cho việc những người hướng nội yêu thích công việc của mình có thể đến từ một nhánh nghiên cứu rất khác, tiến hành bởi nhà tâm lý học nổi tiếng Mihaly Csikszentmihalyi, về tình trạng mà ông gọi là "phiêu" (flow). Phiêu là trạng thái hoàn hảo khi mà bạn cảm thấy hoàn toàn nhập tâm vào một hoạt động nào đấy-dù đó có là bơi đường dài hay viết bài hát, đấu vật sumo hay sex. Trong trạng thái phiêu, bạn không buồn chán cũng không lo lắng, và bạn không hề tự thắc mắc về việc liệu mình làm có đủ tốt hay không. Hàng nhiều giờ cứ thế trôi qua mà bạn không hề nhận ra.

Chìa khóa quan trọng để dẫn đến phiêu là việc theo đuổi một hoạt động nào đấy vì chính nó, không phải vì phần thưởng mà nó có thể mang lại. Mặc dù trạng thái phiêu không phụ thuộc vào việc là người hướng ngoại hay người hướng nội, rất nhiều những trải nghiệm phiêu mà Csikszentmihalyi đã viết về đều được thực hiện trong trạng thái đơn độc, hoàn toàn không liên quan gì tới việc tìm-kiếm-phần-thưởng: đọc sách, chăm sóc một vườn cây, thực hiện một chuyến thám hiểm trên biển một mình. Phiêu thường xuất hiện, ông viết, trong những điều kiện mà ở đó con người "cảm thấy độc lập với môi trường xã hội tới mức mà họ không còn phản ứng chỉ với những phần thưởng và những hình phạt của nó nữa. Để đạt được sự tự do đó, một người phải học được lấy cách tự trao thưởng cho chính mình".

Theo một nghĩa nào đấy, Csikszentmihalyi đã vượt qua cả Aristotle; ông ấy đang nói với chúng ta rằng có những hoạt động mà không phải là về tiếp cận hay lảng tránh, mà là về một thứ sâu sắc hơn nhiều: cảm giác đủ đầy đến từ việc được đắm mình trong một hoạt động nằm ngoài chính bạn. "Các lý thuyết tâm lý học thường mặc định rằng chúng ta được thôi thúc hành động bởi một trong hai điều: hoặc bởi nhu cầu loại bỏ những điều kiện tiêu cực như cảm giác đói hoặc sự sợ hãi", Csikszentmihalyi viết, "hoặc bởi sự kỳ vọng vào những phần thưởng tương lai như tiền bạc, địa vị, hay sự kính trọng". Nhưng ở trạng thái phiêu, "một người có thể làm việc suốt cả ngày đêm cho đến tận cùng, mà không vì một lý do nào khác hơn là chỉ để tiếp tục làm việc".

Nếu bạn là một người hướng nội, hãy tìm lấy sự phiêu bằng cách dùng những tài năng thiên phú của chính bạn. Bạn có sức mạnh của sự kiên trì, của quyết tâm để giải quyết những vấn đề phức tạp, và sự sáng suốt để tránh những hố bẫy có thể dễ dàng làm người khác vấp ngã. Bạn tận hưởng cảm giác tự do khỏi sức cám dỗ của những phần thưởng phù phiếm như tiền bạc hay địa vị. Thực sự, thử thách lớn nhất cả bạn có lại là ở việc khai thác được toàn bộ sức mạnh của chính bạn. Bạn có thể đã quá bận rộn với việc cố cư xử cho giống một người hướng ngoại nhiệt tình, nhạy-cảm-với-phần-thưởng đến độ bạn tự đánh giá thấp những tài năng của mình, hay cảm thấy bị đánh giá thấp bởi những người xung quanh bạn. Nhưng khi bạn tập trung vào một dự án mà bạn thực sự quan tâm tới, bạn có thể sẽ thấy rằng năng lượng của bạn dường như là vô tận.

Vậy nên hãy trung thành với con người thật của bạn. Nếu bạn thích làm mọi việc một cách chậm mà chắc, đừng để những người khác khiến bạn cảm thấy mình phải chạy đua với họ. Nếu bạn yêu thích bề sâu, đừng cố ép bản thân đi tìm bề rộng. Nếu bạn ưa giải quyết từng việc một hơn là làm nhiều việc cùng lúc (multitasking), hãy cứ làm mọi thứ theo cách của bạn. Việc gần như là miễn dịch với cám dỗ từ phần thưởng cho bạn một sức mạnh không thể đong đếm được để làm chính bạn. Việc sử dụng sự tự do đó để đạt được hiệu quả cao nhất là phụ thuộc hoàn toàn vào chính bạn.

Tất nhiên, mọi thứ không phải lúc nào cũng luôn dễ dàng. Khi viết đến chương này, tôi có trao đổi thư với Jack Welch, cựu chủ tịch tập đoàn General Electric. Ông vừa mới xuất bản một chuyên mục mới trên tạp chí điện tử BusinessWeek có tên "Giải Phóng Người Hướng Ngoại Bên Trong Bạn", trong đó ông kêu gọi những người hướng nội hãy hành động giống người hướng ngoại hơn trong công việc. Tôi đề xuất rằng những người hướng ngoại đôi lúc cũng cần hành động giống người hướng nội hơn nữa, và chia sẻ với ông một vài ý tưởng mà tôi mà vừa đọc được về việc Phố Wall có thể đã thu được thêm lợi thế nào nếu có thêm nhiều người hướng nội ở vị trí cầm lái. Welch đã rất ngạc nhiên. Nhưng, ông nói, "những người hướng ngoại sẽ tranh cãi rằng họ chưa bao giờ nghe thấy những người hướng nội lên tiếng bao giờ".

Luận điểm của Welch cũng rất công bằng. Người hướng nội cần tin vào chính họ nhiều hơn nữa, và chia sẻ những ý tưởng của mình mạnh mẽ hết mức họ có thể. Điều này không có nghĩa là phải bắt chước người hướng ngoại; các ý tưởng cũng có thể được chia sẻ một cách nhỏ nhẹ, chúng cũng có thể được truyền đạt thông qua chữ viết, có thể được đóng gói thành những bài giảng được chuẩn bị cẩn thận, có thể được trợ giúp bởi những đồng minh. Bí quyết dành cho người hướng nội là phải biết trân trọng phong cách riêng của họ, thay vì tự cho phép mình bị cuốn theo những tiêu chuẩn áp đảo thông thường. Câu chuyện về những phi vụ đã dẫn đến cuộc Đại Khủng hoảng năm 2008 được điểm bởi, tiếc thay, cả những người thuộc dạng cẩn trọng nhưng lại đã chọn những mạo hiểm không đáng có, như cựu chủ tịch của Citigroup, Chuck Prince, một cựu luật sư đã vay những món nợ đầy rủi ro, đưa vào một thị trường đang thất bại bởi, ông nói, "khi chừng nào nhạc còn đang được chơi, bạn buộc phải đứng dậy và nhảy thôi".

"Những người ban đầu rất cẩn trọng dần trở nên hiếu thắng, hung hăng hơn", Boykin Curry nhận xét về hiện tượng này. "Họ nói: 'Ê, những người hung hăng hiếu thắng đang được thăng cấp còn tôi thì không, vậy nên cả tôi cũng sẽ trở nên hung hăng hiếu thắng hơn nữa".

Nhưng câu chuyện về những cuộc khủng hoảng tài chính còn bao gồm cả những câu chuyện ngoài lề về những người đã nổi tiếng vì (và có thể đã thu được lợi từ) việc dự đoán trước được chúng-và những câu chuyện như vậy thường là về những người đã trân trọng Sợ hãi, Không chắc chắn, và Ngờ vực; hoặc là những người thích kéo kín rèm cửa văn phòng của mình, cách ly bản thân khỏi dư luận đám đông và áp lực ngang hàng, tập trung hoàn toàn vào sự đơn độc. Một trong số ít những nhà đầu tư đã xoay sở để phát triển thành công được trong cuộc Đại Khủng Hoảng năm 2008 là Seth Klarman, chủ tịch một quỹ an toàn (hedge fund) có tên Baupost Group. Klarman được biết đến với việc không ngừng thể hiện vượt trội trên thị trường, trong khi vẫn liên tục tránh được những rủi ro, và với việc luôn giữ một phần lớn lượng tài sản của ông ở dạng tiền

mặt. Trong vòng hai năm kể từ cuộc khủng hoảng năm 2008, khi hầu hết các nhà đầu tư đều lũ lượt rời bỏ các quỹ an toàn, Klarman gần như đã làm tăng gấp đôi lượng tài sản của Baupost, tới mức 22 tỉ đô-la.

Klarman đã làm được điều này nhờ dùng đến một chiến lược đầu tư dựa trực tiếp vào Sợ hãi, Không chắc chắn, và Ngờ vực. "Tại Baupost, chúng tôi đều là người hâm mộ lớn của nỗi sợ, và trong ngành đầu tư, rõ ràng là thà sợ còn tốt hơn là cảm thấy hối tiếc", ông đã từng viết vậy trong một lá thư gửi các nhà đầu tư. Klarman là "một kẻ giỏi lo lắng đẳng cấp thế giới", theo như nhận xét của báo the New York Times, trong mộ bài báo năm 2007 có tên "Nhà Quản Lý Run Sợ Trước Thị Trường, Nhưng Vẫn Chinh Phục Được Nó" ("Manager Frets Over the Market, But Still Outdoes It"). Ông có riêng một con ngựa đua với cái tên "Hãy đọc phần Chú Thích".

Trong suốt nhiều năm trước thảm họa 2008, Klarman "là một trong số rất ít người vẫn trung thành với một thông điệp cẩn trọng và có vẻ hơi hoang tưởng", Boykin Curry nói. "Khi mọi người khác còn đang ăn mừng, ông ấy có lẽ đang lo cất giữ hàng chồng cá thu đóng hộp trong tầng hầm, để chuẩn bị cho ngày tận thế. Rồi, khi tất cả mọi người đang hoảng loạn, ông ấy lại bắt đầu mua vào. Đó không chỉ là phân tích nữa; đó là bản chất cảm xúc của ông ấy. Chính cái thái độ đã giúp Seth nhìn thấy cơ hội ở những nơi không ai thấy lại là thứ khiến ông bị coi là xa cách, thiếu thân thiện, hay quá thẳng thắn. Nếu bạn là dạng người như vậy, bạn có thể sẽ gặp khó khăn để leo lên đỉnh tháp quyền lực của giới kinh doanh. Seth có lẽ sẽ không thể làm tốt được với tư cách một quản lý bán hàng. Nhưng ông ấy lại là một trong những nhà đầu tư tuyệt vời nhất của thời đại chúng ta".

Tương tự, trong cuốn sách của mình về những sự kiện đã dẫn đến cuộc khủng hoảng 2008, có tên "The Big Short", Michael Lewis đã giới thiệu ba trong số ít người đủ thông thái để thấy trước được thảm họa đang sắp tới. Một trong số đó là một giám đốc quỹ an toàn đơn độc có tên Michael Burry, người tự miêu tả mình là "luôn hạnh phúc với chính tâm trí mình", và là người đã dành hàng nhiều năm trước cuộc thảm họa ở một mình trong văn phòng tại San Jose, California, đọc qua hàng loạt báo cáo tài chính và phát triển góc nhìn riêng của mình về những rủi ro ở thị trường. Hai người còn lại là những nhà đầu tư rất vụng về trong giao tiếp có tên Charlie Ledley và Jamie Mai, những người mà toàn bộ chiến lược kinh doanh của họ dựa hoàn toàn vào Sợ hãi, Không chắc chắn, và Ngờ vực: họ đặt cược vào những nơi có một số những nhược điểm, nhưng sẽ đền đáp lại thỏa đáng nếu có những biến đổi lớn nhưng đột ngột xuất hiện trên thị trường. Nó không chỉ là một chiến lược đầu tư, mà hơn cả thế, nó còn là một triết lý sống nữa-một niềm tin rằng mọi cơ sở đều không chắc chắn như vẻ ngoài của nó gợi ý.

Điều này "hợp với tính cách của hai người họ", Lewis viết. "Họ không bao giờ cần phải chắc chắn về bất cứ thứ gì. Cả hai đều thiên về việc cảm thấy rằng mọi người, và mở rộng ra là cả thị trường, đều luôn quá chắc chắn về những thứ về bản chất hoàn toàn không hề chắc chắn một chút nào cả". Kể cả sau khi đã được chứng minh là đúng với những khoản đầu tư vào năm 2006 và 2007 đi ngược lại quy tắc thị trường thông thường, và kiếm được 100 triệu đô-la nhờ chúng, "họ thực sự dành thời gian băn khoăn về việc tại sao những người đã đưa ra quyết định hoàn toàn chính xác (như, chính họ vậy) vẫn có thể giữ được khả năng thiếu tự tin, hay nghi ngờ và thiếu chắc chắn đã giúp họ đưa ra quyết định đúng".

Ledley và Mai hiểu rõ giá trị của sự thiếu tự tin từ trong bản chất của mình, nhưng những người khác thì lại e sợ chúng tới mức họ từ bỏ cơ hội đầu tư cùng hai người họ-và kết quả là hy sinh hàng triệu đô-la chỉ vì định kiến của họ với Sợ hãi, Không chắc chắn, và Ngờ vực. "Điều tuyệt vời nhất ở Charlie Ledley," Boykin Curry, một người biết rất rõ ông, nói, "đấy là việc ở đây bạn có một nhà đầu tư vô cùng tài năng, nhưng lại cực kỳ thận trọng, dè dặt. Nếu bạn đang lo ngại về những rủi ro có thể gặp phải, không còn ai khác tốt hơn để bạn tìm đến xin lời khuyên nữa. Nhưng ông ấy cực kỳ tệ trong việc nâng mức tiền, bởi ông có vẻ chần chừ, lo sợ về tất thảy mọi thứ. Những khách hàng tiềm năng đều sẽ bước ra khỏi văn phòng của Charlie, sợ phải đưa ông ấy tiền bởi họ nghĩ ông ấy thiếu niềm tin. Trong lúc đó, họ đổ tiền vào những quỹ điều hành bởi các nhà quản lý khác, những người luôn thể hiện sự tự tin và chắc chắn đến tột độ của mình.

Tất nhiên, khi nền kinh tế đổi chiều, nhóm những người tự tin đã làm mất khoảng một nửa lượng tiền của các khách hàng của họ, trong khi Charlie và Jamie thì đã kiếm được cả một gia tài. Bất cứ ai dùng những quy chuẩn xã hội thông thường để đánh giá các quản lý tài chính đều đã đi đến chính xác một kết luận sai lầm".

Một ví dụ khác, lần này là từ vụ sụp đổ thị trường năm 2000 của Bong bóng Dot-com, có liên quan đến một người tự-nhận-mình là hướng nội ở Omaha, Nebraska, nơi ông được biết đến rộng rãi với việc tự giam mình trong phòng làm việc của mình suốt nhiều tiếng đồng hồ liền liên tiếp không nghỉ.

Warren Buffett, nhà đầu tư huyền thoại và là một trong những người giàu có nhất hành tinh, đã dùng chính xác những đặc điểm chúng ta đã khám phá trong chương này-sự kiên trì thông minh, cách suy nghĩ cẩn trọng, và khả năng phát hiện cũng như hành động căn cứ vào những dấu hiệu nguy hiểm-để kiếm được hàng tỉ đô-la cho bản thân ông và những người góp cổ phần cho công ty của ông, Berkshire Hathaway. Buffett được biết đến với khả năng suy nghĩ cẩn thận trong khi những người khác xung quanh ông thì mất hết cả đầu óc. "Thành công trong việc đầu tư không có liên quan tới trình độ IQ", ông đã nói vậy. "Một khi bạn đã có một mức thông minh trung bình rồi, cái bạn cần là một tính cách có thể khống chế được những cảm giác thôi thúc thường khiến những người khác rơi vào rắc rối trong đầu tư".

Cứ mỗi mùa hè kể từ năm 1983, ngân hàng đầu tư Allen & Co. lại tổ chức một cuộc hội thảo kéo dài một tuần tại Sun Valley, Idaho. Đây không phải chỉ là một cuộc hội thảo tầm thường nào. Nó là một đại yến tiệc, đại nhạc hội, với những bữa tiệc xa xỉ, những chuyến đi vượt thác sôi động, những hoạt động trượt băng, đi xe đạp leo núi, câu cá sông, cưỡi ngựa, và cả một đội quân người trông trẻ để chăm sóc cho con cái của các vị khách mời. Chủ nhà phục vụ trong ngành công nghiệp truyền thông, và danh sách khách mời trong quá khứ bao gồm cả những tỷ phú báo chí, minh tinh Hollywood, và các ngôi sao của Thung lũng Silicon, với những cái tên nổi tiếng như Tom Hanks, Candice Bergen, Barry Diller, Rupert Murdoch, Steve Jobs, Diane Sawyer, và Tom Brokaw.

Vào tháng Bảy năm 1999, dựa theo cuốn tiểu sử xuất sắc của Buffett do Alice Schroeder viết, cuốn "The Snowball",ông đã là một trong số các khách mời. Ông đã đến dự sự kiện này năm này qua năm khác với toàn bộ gia đình mình đi cùng, đáp xuống bằng máy bay phản lực Gulfstream và ở cùng các khách VIP khác trong một nhóm căn hộ cao cấp nhìn xuống sân golf. Buffett yêu chuyến đi nghỉ hàng năm đến Sun Valley này, coi nó như một dịp tuyệt vời để gia đình ông tụ tập và để ông có cơ hội gặp lại những người bạn cũ của mình.

Nhưng vào năm nay không khí có đôi chút khác biệt. Đó là thời điểm đỉnh cao của cuộc bùng nổ công nghệ (technology boom), và có những khuôn mặt mới trên bàn họp-lãnh đạo của những công ty công nghệ đã trở nên giàu có và đầy quyền lực gần như chỉ sau một đêm, và những nhà đầu tư mạo hiểm đã rót vốn cho họ. Những người này đang thắng lớn. Khi nhà nhiếp ảnh nổi tiếng Annie Leibovitz xuất hiện để chụp ảnh "Biệt đội Toàn-siêu-sao" cho tạp chí Vanity Fair, một số trong số họ đã vận động hành lang để được xuất hiện trong tấm ảnh. Họ chính là tương lai, họ tin là vậy.

Buffett đã quả quyết không tham gia cùng nhóm người này. Ông là một nhà đầu tư kiểu truyền thống, không để mình bị cuốn vào việc hào hứng suy đoán về các công ty với triển vọng kiếm tiền không chắc chắn. Một số coi ông là kẻ thuộc về quá khứ hủ lậu. Nhưng Buffett vẫn đủ quyền lực để được trao vị trí phát biểu một bài phát biểu quan trọng trong ngày cuối cùng của cuộc hội thảo.

Ông đã suy nghĩ rất lâu và rất nhiều về bài nói này, và dành hàng nhiều tuần liền chuẩn bị cho nó. Sau khi làm nóng đám đông với một câu chuyện đầy khiêm tốn về bản thân-Buffett đã từng rất e sợ nói trước đám đông cho đến khi ông tham gia một khóa học của Dale Carnegie-ông nói với đám đông, với sự chi tiết rất cẩn thận, phân tích rất sáng suốt, lý do tại sao thị trường công nghệ mới nổi sẽ không tồn tại lâu. Buffett đã nghiên cứu các dữ liệu, ghi lại các dấu hiệu nguy hiểm, và rồi dừng lại để suy ngẫm xem chúng có nghĩa là gì. Đó là lời dự đoán công khai đầu tiên của ông trong suốt ba mươi năm.

Các khán giả không mấy hào hứng, dựa theo lời của Schroeder. Buffett đang dội một gáo nước lạnh lên những cái đầu đầy háo hức của họ. Họ vỗ tay khi ông kết thúc, nhưng khi gặp mặt riêng, nhiều người đã bác bỏ ý kiến của ông. "Ôi, ông già Warren", họ nói. "Một người đàn ông thông minh, nhưng lần này thì ổng trật lất rồi".

Buổi tối hôm đó, cuộc hội thảo kết thúc với một màn trình diễn pháo hoa rực rỡ. Như thường lệ, sự kiện này đã thành công mỹ mãn. Nhưng thứ quan trọng nhất đã xảy ra trong cuộc gặp mặt này-việc Warren Buffett cảnh báo đám đông về những dấu hiệu nguy hiểm của thị trường-đã không được tiết lộ cho đến tận một năm sau đó, khi bong bóng dot-com vỡ, đúng như lời ông đã nói.

Niềm tự hào của Buffett không chỉ ở tất cả những thành tựu trong quá khứ mà ông đã đạt được, mà còn ở cả việc luôn nghe theo tấm "thẻ ghi điểm" bên trong chính mình nữa. Ông chia thế giới thành hai nửa: những người lắng nghe lời mách bảo từ bản năng của họ, và những người bước theo đám đông. "Tôi cảm thấy rằng mình luôn tự chống lưng cho chính mình", Buffett nói về cuộc đời của mình với tư cách một nhà đầu tư, "có một Nhà nguyện Sistina ở đó, và tôi đang mải mê vẽ nó. Tôi sẽ rất thích nếu ai đó đi qua và nói 'Woa, bức tranh kia đẹp phết đấy chứ'. Nhưng nó là bức tranh của tôi, và khi có ai đó nói 'Sao ông không dùng thêm màu đỏ đi, thay vì cứ dùng mãi màu xanh thế?', thì tạm-biệt nhé. Nó là bức tranh của tôi. Và tôi không quan tâm người ta bán nó vì cái gì. Bản thân bức tranh sẽ không bao giờ được hoàn thiện hết. Đó chính là một trong những điểm tuyệt vời của nó".

Phần

B

a

CÓ PHẢI MỌI NỀN VĂN HÓA ĐỀU CÓ

KHUÔN MẪU HƯỚNG NGOẠI LÝ TƯỞNG?

8
QUYỀN LỰC MỀM

Người Mỹ Gốc Châu Á và Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng

Bằng một cách nhẹ nhàng, bạn có thể làm rúng động cả thế giới.

-

MAHATMA GANDHI

Đó là một ngày mùa xuân tràn đầy nắng năm 2006, và Mike Wei, một học sinh năm cuối gốc Trung Quốc tại trường cấp III Lynbrook, gần Cupertino, California, đang kể với tôi về trải nghiệm của cậu với tư cách một học sinh người Mỹ gốc Á. Mike bận từ đầu đến chân trong bộ trang phục đậm chất Mỹ: quần ka-ki, áo khoác gió, và mũ lưỡi trai bóng chày; nhưng khuôn mặt hiền lành, nghiêm túc cùng bộ râu lưa thưa cho cậu vẻ ngoài của một nhà triết học tương lai, và cậu nói nhỏ nhẹ đến nỗi tôi phải cúi người tới trước để có thể nghe được cậu.

"Ở trường", Mike nói, "tôi thích nghe giáo viên giảng và làm một học sinh tốt, hơn là làm 'cây hài' trong lớp hay là tương tác với các bạn cùng lớp khác. Nếu sôi nổi, la hét, hay chơi đùa trong lớp sẽ làm ảnh hưởng đến sự tiếp nhận việc học của tôi, thì sẽ tốt hơn nhiều nếu tôi tập trung vào việc học".

Mike đề cập đến chuyện này với thái độ bình thản như-chuyện-đương-nhiên, nhưng cậu có vẻ cũng biết việc này kỳ lạ đến thế nào theo tiêu chuẩn Mỹ. Thái độ này của cậu đến từ cha mẹ cậu, cậu giải thích. "Nếu tôi có thể lựa chọn giữa việc làm gì đó cho bản thân mình, như đi chơi với bạn bè tôi, và với việc ở nhà và học bài, tôi sẽ nghĩ đến cha mẹ mình. Điều đó giúp tôi có lại được quyết tâm để học. Cha tôi luôn nói rằng công việc của ông là lập trình máy tính, còn công việc của tôi là học".

Mẹ của Mike cũng dạy cậu bài học tương tự bằng chính hành động của bà. Là một cựu giáo viên toán, đã phải làm người giúp việc khi cả gia đình di cư tới đất Mỹ, bà đã ghi nhớ từ ngữ tiếng Anh mỗi ngày trong khi rửa chén đĩa. Bà rất ít nói, Mike kể, và hết sức quyết tâm. "Theo đuổi việc học của bạn như vậy thực sự rất đặc trưng cho kiểu sống Trung Quốc. Mẹ tôi có một dạng sức mạnh mà không phải ai cũng có thể thấy được".

Theo tất cả mọi nghĩa, Mike đều đã khiến cha mẹ mình được tự hào. Địa chỉ thư điện tử của cậu là "A-student", học sinh đạt toàn điểm A, và cậu vừa giành được một vị trí quý giá tại Đại học Stanford. Cậu là dạng người chín chắn, tận tụy mà bất cứ cộng đồng nào cũng có thể tự hào nhận lấy về mình. Ấy vậy nhưng, theo một bài báo có tên "The New White Flight" đăng trên tờ Wall Street Journal chỉ sáu tháng trước đó, các gia đình da trắng đang lũ lượt rời bỏ Cupertino, chính xác là vì những đứa trẻ như Mike. Họ đang chạy trốn khỏi những điểm số cao chót vót và những thói quen học tập "kinh hoàng" của rất nhiều học sinh Mỹ gốc Á. Bài báo nói rằng các bậc cha mẹ da trắng sợ rằng con cái họ không thể theo kịp bạn bè gốc Á về mặt học tập. Trích lời một học sinh từ một trường cấp III tại địa phương gần đó: "Nếu bạn là người gốc Á, bạn chỉ cần xác nhận là bạn thông minh. Còn nếu bạn da trắng, bạn sẽ phải chứng tỏ điều đó".

Nhưng bài báo đó không đi sâu vào làm rõ điều gì tạo ra những thành tích thuộc hàng siêu sao này. Tôi rất tò mò không biết liệu khả năng học tập của học sinh thị trấn liệu có phản ánh một nền văn hóa được cách ly khỏi những điều tệ nhất của Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng hay không

-

và nếu vậy, cảm giác khi sống ở một nơi như thế sẽ như thế nào. Tôi quyết định sẽ tới tận nơi và tìm hiểu.

Từ cái nhìn đầu tiên, Cupertino có vẻ như là hiện thân của Giấc mơ Mỹ. Rất nhiều gia đình thuộc thế hệ thứ nhất hoặc thứ hai của những người nhập cư từ châu Á sinh sống ở đây và làm việc tại các công sở công nghệ cao tại địa phương.

Trụ sở của Apple Computer tại số 1 Infinite Loop nằm trong thị trấn này. Trụ sở của Google tại Mountain View thì chỉ cách đó mấy con đường. Những chiếc xe được chăm sóc cẩn thận lướt êm ru trên những đại lộ; một vài khách bộ hành ít ỏi ăn vận trong những màu sắc rực rỡ và màu trắng vui tươi. Những ngôi nhà loại bình-thường-không-có-gì-đặc-sắc ở đây có giá không rẻ, nhưng những người mua nó nghĩ như thế là xứng đáng, vì thế tức là đưa được các con họ vào hệ thống trường công nổi tiếng ở đây, với số lượng các học sinh tốt nghiệp vào được những trường Ivy League rất cao. Trong số 615 học sinh tốt nghiệp khóa 2010 tại trường trung học Cupertino's Monta Vista High School (mà theo trang web của trường thì 77% trong số đó là người Mỹ gốc Á; bản thân trang web này cũng có một số phần được viết bằng cả hai thứ tiếng Anh và Trung Quốc), 53 người đã được lọt vào danh sách vòng bán kết để nhận học bổng National Merit Scholarship. Tổng điểm trung bình của các học sinh Monta Vista đã tham gia vào kỳ thi SAT năm 2009 là 1916/2400, cao hơn mức trung bình trên toàn nước Mỹ tới 27%.

Những học sinh được nể trọng nhất tại trường trung học Monta Vista này không nhất thiết phải là dạng giỏi thể thao hay hoạt bát, năng nổ, theo lời một học sinh tôi gặp ở đây. Trái lại, họ chăm chỉ học tập, và đôi lúc rất ít nói. "Thông minh ở đây thực sự còn được ngưỡng mộ nữa, kể cả khi bạn có hơi dị một chút", một học sinh Mỹ gốc Hàn năm hai tên Chris nói với tôi. Chris kể lại về trải nghiệm của một người bạn của cậu, đã cùng gia đình chuyển đến sống hai năm tại một thị trấn ở Tennessee, nơi có rất ít người Mỹ gốc Á sinh sống. Ở Tennessee, "có những người thông minh đến kinh hoàng, nhưng họ luôn luôn cô độc một mình. Ở đây, những người rất thông minh thường có rất nhiều bạn, bởi họ có thể giúp đỡ mọi người trong công việc".

Thư viện với cư dân Cupertino đóng vai trò như là khu trung tâm mua sắm hay sân vận động với cư dân các thị trấn khác vậy: một trung tâm không chính thức cho cuộc sống tại địa phương. Các học sinh trung học vui vẻ gọi việc học bằng cái tên "going nerding". Bóng bầu dục hay cổ vũ (cheerleading) không hẳn là những hoạt động nhận được nhiều sự tôn trọng. "Đội bóng bầu dục của bọn tôi chơi dở ẹc", Chris vui vẻ nói. Mặc dù thành tích gần đây của đội bóng ấn tượng hơn những gì Chris nói, việc có một đội bóng bầu dục "dở ẹc" có vẻ có một ý nghĩa rất lớn đối với cậu."Bạn thậm chí sẽ không thể đoán được họ là thành viên đội bóng bầu dục", cậu giải thích. "Họ không mặc áo đồng phục đội bóng đi học, và cũng không túm tụm lại thành từng nhóm lớn. Khi một trong các bạn tôi tốt nghiệp, họ bật một video trong buổi lễ, và bạn tôi đã kêu lên: "Tớ không thể tin được là họ lại cho cả bọn đội bóng với cả mấy cô hoạt náo viên vào trong video đấy". Đó chỉ đơn giản không phải là trọng tâm chính của thị trấn này".

Ted Shinta, một giáo viên và cố vấn cho Đội Robot tại trường Monta Vista High School, cũng kể với tôi những điều tương tự. "Khi tôi còn học cấp III", anh kể, "bạn không được khuyến khích đi bỏ phiếu cho các cuộc bầu cử học sinh nếu bạn không phải thành viên một đội thể thao nào đấy của trường. Ở phần lớn các trường cấp III, bạn luôn có một nhóm cực kỳ nổi tiếng thống trị các học sinh khác. Nhưng ở đây các học sinh trong những nhóm như thế không có một quyền lực gì đối với các học sinh còn lại. Toàn bộ tập thể học sinh đều quá thiên về giáo dục để có những chuyện như thế".

Purvi Modi, cố vấn học tập tại một trường đại học trong vùng, cũng đồng ý như vậy. "Tính hướng nội không phải là thứ bị coi thường ở đây", bà nói với tôi. "Nó được chấp nhận. Trong một số trường hợp, nó còn được hết sức nể trọng và ngưỡng mộ nữa. Ở đây, sẽ rất ngầu nếu bạn là nhà vô địch giải thi đấu cờ vua, hay chơi trong đội nhạc của trường". Ở đây cũng có một phổ hướng nội-hướng ngoại như ở bất cứ nơi nào khác vậy, nhưng có vẻ dân số ở đây được phân bố hơi nghiêng hơn một vài độ về phía "hướng nội" trên thang đo thì phải. Một cô gái trẻ, là người Mỹ gốc Trung Quốc đang sắp bắt đầu năm nhất tại trường đại học danh giá East Coast, cũng nhận thấy hiện tượng này sau khi gặp mặt một số bạn cùng lớp tương lai của mình trên mạng, và khá lo lắng về cuộc sống tương lai giai đoạn hậu-Cupertino của mình."Tôi đã gặp một vài người trong số họ trên Facebook", cô nói, "và họ thực sự là quá khác biệt. Tôi rất ít nói và trầm tính. Tôi không phải kẻ hay đi tiệc hay giao du nhiều như vậy, nhưng tất cả mọi người ở đó đều có vẻ rất quảng giao và mọi thứ. Nó chỉ là rất khác so với các bạn của tôi. Tôi thậm chí còn không dám chắc liệu mình sẽ kiếm được người bạn nào ở đó hay không nữa".

Một trong những người cô nói chuyện cùng trên Facebook sống ở khu Palo Alto khá gần đó, và tôi hỏi liệu cô sẽ phản ứng thế nào nếu người đó mời cô đến chơi dịp nghỉ hè.

"Tôi có lẽ sẽ không đến đâu", cô nói. "Được gặp gỡ họ rồi mọi thứ thì đúng là rất thú vị, nhưng mẹ tôi sẽ không muốn tôi ra ngoài nhiều như vậy, bởi tôi còn phải học".

Tôi vô cùng kinh ngạc trước cảm giác về nghĩa vụ đạo hiếu rõ rệt của cô gái, và mối quan hệ của nó với việc cô ưu tiên việc học cao hơn việc giao du xã hội. Nhưng điều này không hề là gì bất thường ở Cupertino. Rất nhiều thanh thiếu niên người Mỹ gốc Á ở đây nói với tôi rằng họ vẫn học trong suốt cả kỳ nghỉ hè theo yêu cầu của cha mẹ, đến mức từ chối cả những lời mời đến dự tiệc sinh nhật trong tháng Bảy, chỉ để họ có thể học vượt hơn trong môn Tích phân sắp bắt đầu vào tháng Mười sắp tới.

"Tôi nghĩ đó là vì nền văn hóa của chúng tôi", Tiffany Liao, một học sinh sắp sửa tốt nghiệp vùng Swarthmore có cả bố và mẹ đều đến từ Đài Loan, giải thích. "Học tập giỏi, sống tốt, không tạo điều tiếng gì. Chúng tôi đã được định từ bẩm sinh để trầm tính hơn rồi. Khi còn nhỏ, mỗi khi nào phải đến nhà các bạn của bố mẹ tôi mà không muốn nói chuyện, tôi sẽ mang theo một cuốn sách. Nó như một tấm khiên chắn vô cùng an toàn, và họ sẽ bảo: "Con bé lúc nào cũng học!". Và đó là một lời khen đấy".

Thật khó để có thể tưởng tượng các bậc cha mẹ người Mỹ khác ngoài Cupertino sẽ có thể cười được khi đứa trẻ của họ cắm cúi đọc sách ở nơi đông người, trong khi tất cả những người khác tụ tập quanh bàn tiệc thịt nướng. Nhưng những bậc cha mẹ đã được giáo dục tại các quốc gia châu Á một thế hệ trước đây rất có thể đã được dạy theo cách học tĩnh lặng hơn này khi họ còn trẻ. Ở rất nhiều lớp học ở Đông Á, chương trình truyền thống tập trung rất nhiều vào việc nghe, viết, đọc và ghi nhớ. Nói chuyện đơn giản không phải là một trọng tâm, thậm chí còn bị ngăn cản.

"Cách dạy ở quê nhà rất khác với ở đây", Hung Wei Chien, một bà mẹ ở vùng Cupertino đã từ Đài Loan tới Mỹ vào năm 1979 để theo học đại học tại UCLA (Đại học California, Los Angeles), nói. "Ở đó, bạn học một môn học, và người ta kiểm tra bạn. Ít nhất là khi tôi lớn lên, bạn không đi lệch khỏi chương trình quá nhiều, và người ta không cho phép học sinh nói năng huyên thuyên. Nếu bạn đứng dậy và bắt đầu nói lung tung, bạn sẽ bị phạt".

Hung là một trong số những người vui vẻ, hướng ngoại nhất mà tôi từng được gặp; dựa vào những cử chỉ lớn, thân thiện, dễ gần và những tràng cười sảng khoái. Mặc quần tập chạy, giày thể thao và trang sức màu hổ phách, cô chào tôi với một cái ôm thật chặt, và lái xe đưa tôi đến một tiệm bánh để ăn sáng. Chúng tôi cắm đầu vào những đĩa bánh của mình, vui vẻ nói chuyện.

Nói vậy để thấy rằng ngay cả đến người như Hung cũng phải trải qua cú sốc văn hóa khi lần đầu tiên bước vào một lớp học kiểu Mỹ. Cô đã coi việc tham gia vào bàn luận cùng lớp học là vô ý thức, bởi cô không muốn làm lãng phí thời gian của các bạn cùng lớp. Và hẳn nhiên rồi, cô vừa nói vừa cười lớn, "tôi đã là người ít nói nhất trong lớp. Ở UCLA, giáo sư sẽ bắt đầu giờ học bằng cách nói, "Hãy cùng thảo luận nào!". Tôi sẽ chỉ ngồi nhìn các bạn mình trong khi họ nói huyên thuyên, và vị giáo sư thì quá là kiên nhẫn, lắng nghe từng người một". Cô làm điệu bộ gật gật đầu một cách khôi hài, bắt chước vị giáo sư đáng kính đang chăm chú lắng nghe các sinh viên.

"Tôi đã nhớ mình kinh ngạc đến thế nào. Nó là một lớp học về ngôn ngữ, nhưng các học sinh thậm chí còn đang không bàn luận về ngôn ngữ nữa!". Tôi đã nghĩ, "Ồ, hóa ra ở Mỹ, chỉ cần bạn mở miệng ra và bắt đầu nói, bạn sẽ ổn cả".

Nếu Hung đã choáng ngợp với cách tham gia lớp học kiểu Mỹ, thì rất có khả năng là các giáo viên của cô cũng bối rối như vậy về việc ngần ngại nói trong lớp của cô. Đúng hai mươi năm sau khi Hung chuyển tới nước Mỹ, tờ San Jose Mercury News cho đăng một bài báo có tên "Va chạm trong truyền thống dạy giữa Đông và Tây" ("East, West Teaching Traditions Collide"), khám phá sự phiền muộn của các giáo sư về sự ngần ngại của sinh viên gốc Á như Hung trong việc tham gia nhiều hơn vào các lớp học tại đại học California. Một giáo sư nhắc đến một rào cản khác biệt tạo ra bởi các học sinh Châu Á quá nể trọng các giáo viên của mình. Một giáo sư khác thì thề rằng sẽ khiến việc tham gia vào thảo luận cùng với lớp thành một phần trong điểm số, để bắt các học sinh gốc Á phải nói nhiều hơn trong lớp. "Bạn có nghĩa vụ phải tự hạ thấp bản thân xuống trong cách học Trung Quốc, bởi những nhà tư tưởng khác giỏi hơn bạn nhiều", nói một giáo sư thứ ba. "Đây là một vấn đề đã tồn tại lâu năm trong các lớp học mà học sinh người Mỹ gốc Á chiếm áp đảo".

Bài báo này tạo ra một phản ứng rất lớn trong cộng đồng người Mỹ gốc Á. Một số nói rằng các trường đại học nói đúng, rằng các học sinh gốc Á cần phải thích nghi với tiêu chuẩn học tập của phương Tây. "Người Mỹ gốc Á đã để mọi người khác giẫm đạp lên họ quá nhiều, chỉ vì họ quá tĩnh lặng", một độc giả của trang web có cái tên mỉa mai

ModelMinority.com

nói. Những người khác lại cảm thấy rằng học sinh gốc Á không nên bị ép phải nói và phải cư xử theo cung cách phương Tây. "Có lẽ thay vì cố thay đổi cách học của họ, các trường đại học nên học cách lắng nghe âm thanh của sự tĩnh lặng", Heejung Kim, một nhà tâm lý văn hóa tại Đại học Stanford, viết trong bài báo tranh cãi rằng nói chuyện không phải bao giờ cũng là một hành động tích cực.

Làm thế nào mà người Châu Á và người phương Tây có thể cùng nhìn vào đúng cùng một kiểu tương tác trong lớp học, và một nhóm sẽ gọi nó là "tham gia thảo luận cùng lớp", trong khi nhóm kia sẽ là "nói huyên thuyên"? Tờ The Journal of Research in Personality đã đăng một câu trả lời cho câu hỏi này dưới dạng một tấm bản đồ thế giới, vẽ bởi nhà tâm lý học nghiên cứu (research psychologist) Robert McCrae. Bản đồ của McCrae thoạt trông có vẻ giống một thứ gì đó bạn hay thấy trong các cuốn sách giáo khoa địa lý, nhưng nó được xây dựng, ông nói, "không phải dựa trên lượng mưa hay mật độ dân số, mà là mức độ và loại tính cách", và những mảng màu xám thẫm và xám nhạt của nó-thẫm cho hướng ngoại, nhạt cho hướng nội-hé lộ một bức tranh "khá là rõ ràng: Châu Á.... là hướng nội, Châu Âu hướng ngoại". Nếu tấm bản đồ này có bao gồm cả nước Mỹ, nó sẽ được phủ một màu xám thẫm. Cư dân Mỹ là một phần trong số những người hướng ngoại nhất trên thế giới này.

Tấm bản đồ của McCrae có vẻ là một nỗ lực hoành tráng khác trong việc định kiến văn hóa (cultural stereotyping). Việc gộp cả một lục địa vào một kiểu tính cách là một hành động khái quát quá tổng quan: bạn có thể tìm thấy những người ồn ào ở Trung Hoa đại lục cũng dễ dàng như khi bạn tìm ở Atlanta, Georgia vậy. Cũng như vậy, tấm bản đồ không chỉ ra được những khác biệt nhỏ nhưng quan trọng về văn hóa trong mỗi một quốc gia hoặc khu vực. Người ở Bắc Kinh vẫn khác so với người ở Thượng Hải, và cả hai còn khác hơn nữa khi so sánh với người ở Seoul hay Tokyo. Tương tự, việc miêu tả người châu Á là "model minority"-hình mẫu thiểu số-kể cả khi nó có hàm ý khen ngợi-cũng vẫn hạn chế và cao ngạo như bất cứ lời miêu tả nào mà giảm thiểu những cá nhân xuống chỉ còn thành một tập hợp các tính cách đã được tri nhận của cả cộng đồng. Và có lẽ cũng không ổn khi nhìn nhận Cupertino như là một lò ấp cho những kẻ vượt trội về mặt học tập, bất kể là dẫu với nhiều người, điều này có đáng hãnh diện đến thế nào.

Nhưng mặc dù tôi không muốn cổ vũ cho những định kiến cứng nhắc về các quốc gia hoặc dân tộc, cũng sẽ thật là đáng tiếc nếu bỏ qua hoàn toàn chủ đề về khác biệt văn hóa và tính hướng nội: có rất nhiều phương diện trong phong cách văn hóa và tính cách của châu Á mà phần còn lại của thế giới có thể và nên học hỏi. Các học giả đã từ hàng nhiều thập kỷ nay đã nghiên cứu sự khác biệt về mặt văn hóa trong loại tính cách, đặc biệt là giữa phương Đông và phương Tây, và đặc biệt là về sự hướng nội-hướng ngoại, một cặp tính cách mà các nhà tâm lý học-những người gần như không bao giờ nhất trí được với nhau về một vấn đề gì khi bàn đến việc phân loại tính cách con người-đều tin rằng là một thứ nổi bật và có thể thấy được ở mọi nơi trên thế giới.

Phần lớn các nghiên cứu này cho về những kết quả tương tự với tấm bản đồ của McCrae. Ví dụ, một nghiên cứu so sánh các trẻ em từ tám tới mười tuổi giữa Thượng Hải và bắc Ontario, Canada đã thấy rằng ở Canada, những em nhỏ nhút nhát, rụt rè và nhạy cảm thường bị các bạn cùng lứa khác xa lánh; nhưng ở Trung Quốc lại được coi là dạng bạn được ưa thích. Những em này cũng có khả năng được chọn cho các vị trí lãnh đạo cao hơn những người khác. Những trẻ em Trung Quốc nhạy cảm và trầm lặng, ít nói được gọi là dongshi ("đổng thế"

-

thấu hiểu thế thái nhân tình), một từ ngữ phổ biến dùng để khen ngợi.

Tương tự, học sinh phổ thông ở Trung Quốc nói lại với các nhà nghiên cứu rằng các em thích những người bạn "khiêm tốn" và "vị tha", "trung thực" và "chăm chỉ" hơn; trong khi học sinh phổ thông ở Mỹ thì lại tìm kiếm những người bạn "vui vẻ", "nhiệt tình" và "dễ gần". "Sự đối lập quả là đáng kinh ngạc", Michael Harris Bond, một nhà tâm lý học giao thoa văn hóa (cross-cultural psychologist) tập trung vào Trung Quốc, nói. "Người Mỹ đặt trọng tâm vào khả năng hòa đồng (sociability), và ưu ái những nét tính cách giúp cho việc hòa đồng trở nên dễ dàng, vui vẻ. Người Trung Quốc thì đặt trọng tâm vào những nét tính cách sâu sắc hơn, tập trung vào những đức hạnh và thành quả về mặt đạo đức".

Một nghiên cứu khác yêu cầu những người Mỹ gốc Á và người Mỹ gốc Âu cùng nói lớn suy nghĩ của mình khi phải giải quyết những vấn đề tư duy phức tạp, và phát hiện thấy rằng người gốc Á làm tốt hơn rất nhiều khi họ được phép suy nghĩ trong im lặng, trong khi những người da trắng lại thể hiện tốt hơn khi họ được nói trong khi suy nghĩ về vấn đề.

Những kết quả này hẳn sẽ không gây ngạc nhiên cho bất cứ ai đã quen thuộc với thái độ của người châu Á trước việc nói: nói chuyện là chỉ để cho việc giao tiếp những thông tin cần-phải-biết; tĩnh lặng và nội quan (introspection) là những dấu hiệu của suy nghĩ sâu sắc. Lời nói là những vũ khí nguy hiểm, có thể để lộ ra những thứ tốt nhất không nên được nói ra. Chúng làm tổn thương người khác, và có thể khiến chính người nói chúng phải rơi vào rắc rối. Ví dụ, hãy thử cân nhắc đến những câu tục ngữ đến từ phương Đông dưới đây:

Gió gào thét, nhưng ngọn núi thì vẫn lặng thinh.

-TỤC NGỮ NHẬT BẢN

Người biết thì không nói

Kẻ nói thì không biết

-LÃO TỬ, Đạo Lão

Mặc dù tôi không hề chủ ý cố gắng để quan sát sức mạnh kỷ luật của sự im lặng, việc sống một mình tự động giúp tôi kìm lại mình khỏi tội lỗi của việc nói.

- KAMO NO CHOMEI, người sống ẩn dật tại Nhật Bản vào thế kỷ 12

Và hãy so sánh chúng với các câu tục ngữ sau đây từ phương Tây:

Là một kẻ điêu luyện trong lời nói tức là người sẽ là một kẻ mạnh, bởi sức mạnh của một người nằm ở đầu lưỡi, và ngôn từ là thứ hùng mạnh hơn mọi chiến trận trên đời.

-MAXIMS OF PTAHHOTEP, 2400 trước Công Nguyên

Nói cũng chính là văn minh. Ngôn từ, thậm chí là từ ngữ đối địch nhất, cũng vẫn chứa đựng sự liên lạc-chính sự im lặng mới là thứ cô lập chúng ta.

-THOMAS MANN, The Magic Mountain

Bánh xe nào kẽo kẹt thì mới được tra dầu.

[1]

-TỤC NGỮ MỸ

Điều gì ẩn giấu đằng sau những thái độ quá sức khác biệt này? Một câu trả lời đến từ sự trọng việc học ở khắp các nước châu Á, đặc biệt là các nước trong vành đai Khổng giáo như Trung Quốc, Nhật Bản, Nam-Bắc Triều Tiên và Việt Nam. Tới tận ngày hôm nay, tại một số ngôi làng ở Trung Quốc, người ta vẫn đặt những bức tượng các thí sinh đã đỗ kỳ thi

jinshi

(

進士

-

tiến sĩ) của triều Minh cách đây đến hàng trăm năm. Sẽ dễ hơn rất nhiều để đạt được sự trọng vọng này nếu bạn-cũng như một vài trong số những đứa trẻ ở

Cupertino-dành cả kỳ nghỉ hè của mình để học.

Một lời giải thích khác đó là danh tính nhóm (group identity). Rất nhiều nền văn hóa châu Á được định-hướng-đồng-đội (team-oriented), nhưng không phải theo cách mà những người phương Tây vẫn nghĩ về đội (team). Các cá nhân ở châu Á tự nhìn nhận mình như một phần của một tập thể lớn hơn-dù đó có là gia đình, công ty, hay cộng đồng-và cực kỳ đề cao sự hòa thuận bên trong nhóm của họ. Họ thường đặt ham muốn của mình xuống dưới nguyện vọng của nhóm, chấp nhận vị trí của của mình trong hệ thống thứ bậc của nó.

Văn hóa phương Tây, ngược lại, được xây dựng xung quanh cá nhân. Chúng ta tự nhìn nhận mình như những đơn-vị-tự-thân (self-contained units); số mệnh của chúng ta là tự thể hiện bản thân, là theo đuổi vận may của chính mình, là được tự do khỏi mọi sự ràng buộc phi lý, là để đạt được thứ mà chúng ta, và chỉ chúng ta mà thôi, được đưa đến thế giới này để làm. Chúng ta có thể quảng giao và dễ gần và mọi thứ, nhưng chúng ta không đầu hàng trước những ý muốn của tập thể, hay ít nhất chúng ta cũng không thích nghĩ rằng chúng ta hay làm thế. Chúng ta yêu quý và kính trọng cha mẹ mình, nhưng thể hiện thái độ khinh khỉnh trước những ý tưởng như đạo hiếu, với sự ám chỉ của nó về sự lệ thuộc và ràng buộc. Khi chúng ta tụ tập lại với những người khác, chúng ta làm thế với tư cách những đơn-vị-tự-thân chơi đùa với nhau, cạnh tranh với nhau, nổi trội lên so với nhau, giành giật các vị trí với nhau, và phải, yêu thương nhau. Thậm chí ngay cả Thiên Chúa của người phương Tây cũng là người quả quyết, nói lớn, và thống trị; con trai ngài, Jesus, là một người hiền lành và dịu dàng, nhưng đồng thời cũng là một người đầy thuyết phục, lôi cuốn đám đông (Jesus Christ Superstar).

Thế nên cũng hợp lý khi người phương Tây đề cao sự bạo dạn và kỹ năng ngôn ngữ, những nét tính cách giúp khuyến khích cá tính cá nhân; trong khi những người châu Á quý trọng sự tĩnh lặng, khiêm tốn, và sự nhạy cảm, những thứ giúp khuyến khích sự đoàn kết của nhóm. Nếu bạn sống trong một môi trường tập thể, vậy thì mọi thứ sẽ suôn sẻ hơn với bạn rất nhiều nếu bạn cư xử với những dè dặt và kiềm chế, thậm chí quy phục.

Sự khác nhau trong sở thích ở mỗi nhóm này được minh chứng rõ ràng qua một nghiên cứu dùng máy fMRI mới đây, trong đó các nhà nghiên cứu cho mười bảy người Mỹ và mười bảy người Nhật xem những bức hình những người đàn ông trong các tư thế thể hiện quyền thế (khoanh tay trước ngực, gồng cơ bắp, hai chân đứng dang rộng trên mặt đất) và các tư thế yếu thế (hai vai buông xuôi, hai tay đan vào nhau buông xuống trước bụng dưới, hai chân khép chặt). Họ thấy rằng các bức ảnh với tư thế uy quyền kích hoạt trung khu khoái cảm trong não những người Mỹ, trong khi các bức ảnh chỉ tư thế yếu thế có tác dụng tương tự với những người Nhật.

Từ góc nhìn của người phương Tây, thật khó có thể hiểu được có gì hấp dẫn đến vậy ở việc đầu hàng trước ý muốn của những người khác. Nhưng những thứ trông như sự lệ thuộc yếu đuối trong cái nhìn của người phương Tây lại hoàn toàn có thể được coi như phép lịch sự căn bản với rất nhiều người châu Á. Don Chen, cậu sinh viên người Mỹ gốc Trung của Đại học Luật Harvard mà chúng ta đã gặp trong

chương 2

, kể với tôi rằng vào lúc đó, anh đang chia sẻ căn hộ của mình với một nhóm những người bạn châu Á khác, cộng thêm một người bạn da trắng thân thiết của anh, một người hiền lành, dễ gần mà Don tin rằng sẽ hòa đồng được ngay với mọi người.

Mâu thuẫn xuất hiện khi người bạn da trắng để ý thấy bát đĩa bẩn đang chất đống trong bồn rửa, và yêu cầu những người bạn châu Á ở cùng nhà của mình hãy cùng làm phần công việc rửa bát đã được phân chia đồng đều giữa mọi người đi. Đó không phải là một yêu cầu đòi hỏi gì vô lý cả, Don nói, và bạn anh nghĩ anh ấy đã dùng những ngôn từ một cách hết sức lịch sự và tôn trọng. Nhưng những người bạn ở cùng gốc châu Á của anh thì không cho là vậy. Với họ, anh chàng này hiện lên như một kẻ lỗ mãng, cục cằn và cáu bẳn. Một người châu Á trong hoàn cảnh đó, Don nói, sẽ cẩn thận hơn với giọng điệu của mình. Anh ấy sẽ thể hiện sự không hài lòng của mình dưới dạng một câu hỏi, chứ không phải một lời yêu cầu và một mệnh lệnh. Hoặc anh ấy thậm chí sẽ không hề nói gì về nó hết. Không đáng chỉ vì một vài cái đĩa bẩn mà làm chia rẽ cả tập thể.

Nói một cách khác, thứ với người phương Tây trông như sự tôn trọng thái quá của những người châu Á, thực ra lại là một biểu hiện lo lắng sâu sắc cho cảm giác của những người khác. Như nhà tâm lý học Harris Bond đã nhận xét: "Chỉ có những người đến từ một truyền thống thẳng thắn, bộc trực mới gọi cách nói chuyện [của người châu Á] là "khiêm tốn"". Trong truyền thống gián tiếp này, nó có thể được gọi là "tôn vinh quan hệ" (relationship honouring). Và tôn vinh quan hệ có thể tạo nên những cách ứng xử xã hội (social dynamics) mà có thể sẽ rất đáng kinh ngạc dưới góc nhìn của phương Tây.

Ví dụ, chính bởi tôn vinh quan hệ mà hội chứng rối loạn lo lắng giao tiếp ở Nhật Bản, được biết đến với cái tên taijin kyofusho, không phải thể hiện dưới dạng lo lắng thái quá về việc tự làm bản thân xấu hổ như ở nước Mỹ, mà là về việc làm xấu hổ những người khác. Chính bởi tôn vinh quan hệ mà các nhà tu hành Phật giáo ở Tây Tạng có thể tìm thấy sự an lành trong tâm trí (và mức độ hạnh phúc kỷ lục, như đã đo thấy được trong các kết quả quét não) bằng cách thiền định tĩnh lặng với tình thương. Và chính bởi tôn vinh quan hệ mà các nạn nhân của vụ ném bom Hiroshima xin lỗi lẫn nhau vì đã sống sót. "Sự lễ độ, phép lịch sự của họ từ lâu đã được biết đến, nhưng trái tim của họ thì chưa", nhà văn tiểu luận Lydia Millet viết. " 'Tôi xin lỗi', một người trong số họ vừa nói vừa cúi gập người, trong khi lớp da trên cánh tay anh vẫn đang bong ra từng mảng lớn. 'Tôi thật ân hận khi mình vẫn còn sống trong khi con của bạn thì không'. 'Tôi xin lỗi', một người khác thành thực nói, với đôi môi đã sưng to bằng quả cam, khi anh nói với một đứa bé đang khóc bên người mẹ đã mất của mình. 'Tôi xin lỗi vì tôi đã không thể mất đi mạng sống của mình thay cho bà ấy'".

Mặc dù sự tôn vinh quan hệ của phương Đông thật đáng ngưỡng mộ và đẹp đẽ, thì sự tôn trọng của phương Tây dành cho tự do cá nhân, tự thể hiện bản thân, và định mệnh cá nhân cũng vậy. Điểm quan trọng ở đây không phải ở việc cái nào ưu việt hơn so với cái nào, mà là ở việc sự khác biệt sâu sắc giữa hai hệ giá trị văn hóa đã có một tác động mạnh mẽ lên kiểu tâm lý tính cách được ưa thích bởi mỗi nền văn hóa. Ở phương Tây, chúng ta thuận theo Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng, trong khi ở hầu hết các quốc gia phương Đông (ít nhất là trước khoảng thời gian phương Tây hóa của vài thập kỷ gần đây), im lặng là vàng. Hai góc nhìn đối lập này ảnh hưởng đến thứ chúng ta sẽ nói ra khi các bạn ở cùng nhà với chúng ta để chén đĩa bẩn chất đống trong bồn rửa-và cả việc chúng ta có nói hay không, và nói những gì trong một lớp học ở đại học.

Hơn thế nữa, chúng nói với chúng ta rằng Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng cũng không quá thiêng liêng đến mức không thể thay đổi được như chúng ta vẫn nghĩ. Thế nên nếu như, thẳm sâu từ tận bên trong, bạn đã nghĩ rằng chuyện những người bạo dạn và quảng giao áp đảo những người khép kín và nhạy cảm là lẽ đương nhiên, và rằng Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng là thứ bẩm sinh của nhân loại; tấm bản đồ về phân bố tính cách của Robert McCrae đề xuất một sự thật hoàn toàn khác: đó là mỗi loại cách sống-tĩnh lặng và hay nói, cẩn trọng và táo bạo, rụt rè và cởi mở-đều là những đặc trưng cho mỗi nền văn minh hùng mạnh của riêng chúng.

Nghịch lý thay, trong số những người gặp nhiều khó khăn nhất với việc trung thành với sự thật này có cả những thiếu niên Mỹ gốc Á đến từ Cupertino. Một khi họ đã đến tuổi trưởng thành và phải rời bỏ thị trấn quê nhà của mình, họ thấy một thế giới nơi việc nói lớn và dõng dạc là tấm vé tới danh tiếng và tiền bạc. Họ dần tiến đến chỗ sống với một ý thức kép-nửa châu Á, nửa Mỹ-với mỗi bên lại liên tục chất vấn bên kia. Mike Wei, cậu học sinh năm cuối cấp III đã nói với tôi rằng cậu thà ở nhà học còn hơn là giao du với bạn bè, là một ví dụ hoàn hảo cho sự mâu thuẫn tư tưởng này. Khi chúng tôi lần đầu gặp mặt, cậu vẫn còn là học sinh năm cuối cấp III, vẫn đang nép mình trong cái vỏ kén Cupertino. "Bởi vì chúng tôi đặt rất nhiều trọng tâm vào việc học", Mike khi đó nói với tôi, đề cập đến những người châu Á nói chung, "giao du xã hội không phải là một phần quan trọng trong cuộc sống của chúng tôi".

Khi tôi gặp lại Mike lần nữa vào mùa thu một năm sau đó, vào năm học đầu tiên của cậu tại Stanford, nơi chỉ cách Cupertino có hai mươi phút lái xe nhưng là cả một thế giới khác biệt về dân số, cậu trông có vẻ bồn chồn không yên. Chúng tôi gặp nhau tại một quán café ngoài trời, ngay cạnh một bàn lớn gồm toàn những người trẻ

cả nam lẫn nữ ra dáng vận động viên đang liên tục rộ lên những tràng cười lớn. Mike hất đầu về phía nhóm những vận động viên, tất cả họ đều là người da trắng. Người da trắng, anh nói, dường như có vẻ "ít lo lắng hơn về việc người khác có thể nghĩ những thứ họ đang nói là quá ồn ào, hoặc quá ngu ngốc". Mike rất ức chế với sự hời hợt của những cuộc trò chuyện bên-bàn-ăn trong đại sảnh, và với những thứ "ngớ ngẩn" thường thế chỗ cho việc thảo luận trong những buổi seminar năm nhất. Anh dành thời gian rảnh của mình chủ yếu với những sinh viên châu Á khác, một phần là bởi họ có "cùng mức độ thích giao du" giống anh. Những người không-phải-châu-Á thường khiến anh cảm thấy như thể anh cần phải "thật hưng phấn hoặc thật háo hức, kể cả khi điều đó có thể không đúng với con người thật của tôi".

"Ký túc xá của tôi có bốn người gốc Á, trên tổng số năm mươi người", anh nói với tôi. "Tôi cảm thấy thoải mái nhất khi ở quanh họ. Có một anh chàng này tên Brian, và anh ta khá là trầm tính. Tôi có thể nói anh chàng đó có phẩm chất châu Á, kiểu khá là rụt rè nhút nhát, và tôi cảm thấy thoải mái hơn khi ở bên anh ta vì điều đó. Tôi thấy như mình có thể là chính mình ở bên một người như vậy. Tôi không cần phải cố làm gì đó chỉ để ra vẻ ngầu, trong khi xung quanh những nhóm người không phải gốc châu Á hay những người ồn ào khác, tôi luôn cảm thấy mình phải diễn một vai nào đấy".

Mike có vẻ không tán đồng phong cách đối thoại theo kiểu phương Tây, nhưng anh thừa nhận rằng có đôi lúc chính anh cũng ước mình có thể ồn ào và cởi mở được như vậy. "Họ thoải mái hơn với tính cách của riêng mình", anh nói về những người bạn cùng lớp người da trắng. Người châu Á "không phải không thoải mái với việc họ là ai, mà là không thoải mái với việc thể hiện họ là ai. Trong một nhóm, luôn luôn có một áp lực phải hòa đồng. Nếu họ không thể theo kịp được điều đó, bạn có thể thấy ngay nó trên mặt họ".

Mike kể với tôi về một sự kiện giúp các sinh viên năm nhất làm quen với nhau nhiều hơn mà anh đã tham gia, một cuộc "scavenger hunt" (đại để: đi tìm kho báu) ở San Francisco, với mục đích chính là để khuyến khích các sinh viên bước ra khỏi vùng an toàn của mình nhiều hơn. Mike là người châu Á duy nhất trong một nhóm ồn ào, một vài trong số họ đã khỏa thân chạy dọc một con phố của San Francisco và cross-dress (mặc những trang phục của giới tính đối lập với giới tính của mình) trong một cửa hàng bách hóa tại địa phương trong cuộc săn tìm kho báu này. Một cô gái đã tới một khu trưng bày của hãng Victoria's Secret và trút bỏ hết quần áo, chỉ còn mỗi đồ lót. Khi Mike kể lại về những sự kiện này, tôi đã nghĩ hẳn anh sẽ nói với tôi rằng nhóm của anh đã đi quá giới hạn, đã hành động thiếu đứng đắn, không phù hợp. Nhưng anh đã không bày tỏ thái độ phê phán với những người khác. Anh bày tỏ thái độ phê phán với chính mình.

"Khi những người khác làm những việc như thế, có một khoảnh khắc tôi đã cảm thấy rất không thoải mái với nó. Nó cho thấy những giới hạn của bản thân tôi. Đôi lúc tôi cảm thấy như họ tốt hơn, giỏi hơn mình vậy".

Mike cũng nhận được những thông điệp tương tự từ các giáo sư của mình. Một vài tuần sau sự kiện định hướng đầu năm, cố vấn học tập năm nhất của anh-một giáo sư tại đại học Y khoa Stanford-mời một nhóm sinh viên tới nhà bà. Mike đã hy vọng có thể gây được ấn tượng tốt, nhưng anh không thể nghĩ ra cái gì để nói cả. Những sinh viên khác có vẻ không có chút khó khăn gì trong việc bông đùa và hỏi những câu hỏi thông minh. "Mike, hôm nay em ồn ào quá đấy", vị giáo sư nói đùa khi anh chào tạm biệt. Anh rời nhà bà, cảm thấy rất tệ về bản thân. "Những người không nói sẽ được xem là yếu đuối hoặc kém cỏi", anh kết luận một cách hối hận.

Để chắc chắn, những cảm xúc này không phải là hoàn toàn mới đối với Mike. Anh cũng đã trải nghiệm những dấu hiệu nhỏ của chúng khi còn ở trường trung học. Cupertino có thể có một cung cách đạo đức gần như đúng kiểu Khổng giáo với việc đề cao sự tĩnh lặng, chăm học và tôn vinh quan hệ, nhưng nó cũng chịu ảnh hưởng từ Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng như mọi nơi khác. Tại khu trung tâm mua sắm tại địa phương một buổi chiều trong tuần, những thiếu niên Mỹ gốc Á vênh váo với kiểu tóc vuốt nhọn hoắt lớn tiếng gọi những cô gái đánh-mắt, đùa-cợt trong những chiếc áo hai dây. Vào một buổi sáng thứ Bảy tại thư viện, một vài thanh thiếu niên miệt mài học tập trong góc, nhưng những người khác thì túm tụm lại với nhau bên những bàn lớn đầy ồn ã và náo nhiệt. Rất ít trong số những thiếu niên Mỹ gốc Á tôi đã được tiếp xúc tại Cupertino muốn tự nhận mình là "hướng nội", kể cả khi những lời tự miêu tả bản thân của họ khớp hoàn toàn

với từ ngữ này. Trong khi hoàn toàn thuận theo hệ giá trị của cha mẹ, họ cũng có vẻ chia thế giới ra thành kiểu người châu Á "truyền thống" và người châu Á "siêu sao". Kiểu truyền thống thì luôn cúi đầu và làm bài tập đầy đủ. Kiểu siêu sao thì có thành tích học tập cao, nhưng cũng bông đùa trong lớp, thách thức các giáo viên của họ, và khiến mọi người phải chú ý tới mình.

Rất nhiều học sinh cố ý tỏ ra năng động, quảng giao hơn cha mẹ mình, Mike nói với tôi. "Họ nghĩ cha mẹ mình đã quá tĩnh lặng, và họ muốn bù đắp cho điều này bằng cách trở nên quảng giao hơn". Một vài trong số các vị cha mẹ cũng bắt đầu thay đổi các giá trị của mình. "Các bậc phụ huynh người châu Á đang bắt đầu thấy rằng im lặng quá không có ích lợi, và họ khuyến khích con cái mình nên tham gia những buổi hùng biện và tranh luận", Mike nói. "Chương trình hùng biện và tranh luận của chúng tôi là chương trình lớn thứ hai trên toàn California, để giúp thanh thiếu niên có cơ hội được tiếp xúc với việc nói lớn và thuyết phục".

Tuy vậy, khi tôi lần đầu gặp Mike ở Cupertino, cảm giác của anh về bản thân và các giá trị của anh vẫn còn khá nguyên vẹn. Anh biết mình không nằm trong số những người châu Á siêu sao-anh tự cho mình điểm 4 trên mức thang nổi tiếng từ 1 đến 10-nhưng có vẻ thoải mái với việc là chính mình. "Tôi thà ở bên những người với tính cách chân thật hơn", khi đó anh nói với tôi, "và điều đó thường dẫn tôi đến với những người trầm tính. Rất khó để có thể vừa vui vẻ ồn ào trong khi tôi đang cố trở nên thông thái".

Quả thực vậy, Mike có lẽ đã may mắn khi được tận hưởng cuộc sống trong chiếc vỏ kén Cupertino lâu tới vậy. Những đứa trẻ Mỹ gốc Á lớn lên trong những cộng đồng đậm chất Mỹ hơn thường phải đối mặt với những vấn đề giống như Mike đã phải đối mặt ở Stanford sớm hơn nhiều trong cuộc đời chúng. Một nghiên cứu so sánh những thiếu niên Mỹ gốc Âu và các thiếu niên Mỹ gốc Á thuộc thế hệ thứ hai trong quãng thời gian năm năm đã phát hiện ra rằng: những người Mỹ gốc Á có xu hướng hướng nội rõ ràng hơn nhiều những bạn cùng tuổi của mình trong những năm dậy thì-và phải trả giá với sự tự tin vào bản thân của mình khi lớn lên. Trong khi những trẻ hướng nội mười hai tuổi người Mỹ gốc Trung cảm thấy rất ổn về bản thân-có lẽ do chúng vẫn đánh giá bản thân bằng hệ giá trị truyền thống của cha mẹ mình-đến lúc đạt đến tuổi mười bảy và đã được tiếp xúc nhiều hơn với Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng của nước Mỹ, mức độ tự-tin-vào-bản-thân của các em này đã hạ xuống một cách đột ngột.

Với những thiếu niên Mỹ gốc Á, cái giá phải trả cho việc không thể hòa đồng là cảm giác luôn bồn chồn không yên trong giao tiếp. Nhưng khi chúng lớn lên, chúng có thể sẽ còn phải trả cái giá đấy với mức lương của mình nữa. Nhà báo Nicholas Lemann từng một lần phỏng vấn một nhóm người Mỹ gốc Á về chủ đề "chủ nghĩa hiền tài" (meritocracy-một hệ thống xã hội nơi những người có thực tài sẽ được trọng dụng) cho cuốn sách của ông, The Big Test. "Một cảm giác thường xuyên xuất hiện", ông viết, "đấy là chủ nghĩa hiền tài kết thúc khi trường học kết thúc, và kể từ sau đó, những người châu Á bắt đầu tụt lại phía sau bởi họ không có đúng phong cách văn hóa phù hợp để tiến xa hơn: quá bị động, không

gật-đầu-cười-rạng-rỡ-khi-gặp-lướt-bạn-ở-hành-lang

".

Tôi đã gặp rất nhiều người làm việc tại Cupertino đang phải chật vật khổ sở với vấn đề này. Một bà nội trợ giàu có tâm sự với tôi rằng tất cả các ông chồng bà biết trong vùng này gần đây đều đã chấp nhận những công việc ở Trung Quốc, và hiện giờ đang phải di chuyển qua lại giữa Cupertino và Thượng Hải, một phần là vì phong cách tĩnh lặng của họ cản trở họ trong việc tiến thân tại địa phương. Những công ty Mỹ "nghĩ họ không thể đảm đương công việc được", cô nói, "bởi vì việc thuyết trình. Trong kinh doanh, bạn cần phải tập hợp rất nhiều thứ vớ vẩn vô nghĩa lý lại với nhau và thuyết trình (present) về nó. Chồng tôi luôn luôn chỉ nói ngay vào ý chính và thế là hết. Khi bạn nhìn vào những công ty lớn, gần như không có một lãnh đạo cấp cao nhất nào là người gốc châu Á cả. Họ sẽ tuyển dụng những người có lẽ chẳng biết chút gì về kinh doanh cả, nhưng lại có thể làm những bài thuyết trình rất tốt".

Một kỹ sư phần mềm kể với tôi việc anh đã bị tảng lờ nhiều như thế nào ở chỗ làm, khi so sánh với những người khác, "đặc biệt là với người gốc châu Âu, những người thường xuyên nói mà không nghĩ trước". Ở Trung Quốc, anh nói, "Nếu bạn tĩnh lặng, bạn sẽ được nhìn như một người thông thái. Ở đây thì hoàn toàn khác hẳn. Ở đây mọi người thích nói lớn. Kể cả khi họ có một ý tưởng, dù nó vẫn chưa thực sự thành hình lắm, họ vẫn sẽ nói nó ra. Nếu tôi có thể khá hơn trong việc giao tiếp, công việc của tôi chắc chắn sẽ được thừa nhận nhiều hơn. Mặc dù sếp của tôi trân trọng tôi, ông ấy vẫn không biết là tôi đã làm công việc của mình một cách tuyệt vời đến thế nào".

Viên kỹ sư sau đó tâm sự rằng anh đã tìm học cách để tỏ ra hướng ngoại kiểu Mỹ từ một giáo sư giao tiếp gốc Đài Loan tên Preston Ni. Tại Đại học Foothill, chỉ ngay gần Cupertino, Ni tổ chức những buổi seminar kéo dài cả ngày có tên "Thành công trong giao tiếp dành cho những người làm việc chuyên nghiệp đến từ nước ngoài". Lớp học được quảng cáo online thông qua một nhóm tại địa phương có tên "Hiệp Hội Nói Lớn Thung Lũng Silicon"(Silicon Valley SpeakUp Association) , với nhiệm vụ "giúp những người làm việc chuyên nghiệp đến từ nước ngoài có thể thành công trong cuộc sống thông qua việc nâng cao hàng loạt các kỹ năng mềm". ("Nói lên suy nghĩ của bạn!", một dòng chữ in lớn trên trang chủ của tổ chức. "Cùng nhau, tất cả mọi người đều đạt được nhiều hơn tại SVSpeakup").

Tò mò về việc nói lên suy nghĩ của một người sẽ như thế nào từ góc nhìn châu Á, tôi cũng đăng ký một lớp và, một sáng thứ Bảy vài tuần sau, đã ngồi trong một phòng học hiện đại, ánh sáng của vùng núi Bắc California rọi chiếu qua những ô kính cửa sổ dày. Có khoảng mười lăm học sinh tổng cộng, rất nhiều trong số đó đến từ các quốc gia châu Á, nhưng cũng có một số người đến từ Đông Âu và Nam Mỹ nữa.

Giáo sư Ni, một người đàn ông dáng vẻ thân thiện, bận bộ đồ comple theo kiểu phương Tây, cà vạt màu vàng với hình vẽ một thác nước kiểu Trung Quốc, và một nụ cười hiền lành, bắt đầu lớp học bằng một lời khái quát tổng quan nền văn hóa kinh doanh của nước Mỹ. Ở Hoa Kỳ, ông cảnh báo, bạn cần tới phong cách cũng như cần tới trình độ vậy, nếu bạn muốn tiến xa. Có thể điều này là không công bằng, và có thể nó không phải là cách tốt nhất để đánh giá tường tận hết cống hiến của một người, "nhưng nếu bạn không có sức thu hút, bạn có thể là người xuất sắc nhất trên thế giới và vẫn không nhận được sự trân trọng như bạn xứng đáng".

Điều này khác với ở rất nhiều nền văn hóa khác, Ni nói. Khi một lãnh tụ Đảng Cộng Sản ở Trung Quốc phát biểu, ông ta sẽ đọc nó, thậm chí không phải từ một màn hình nhắc lời trước mặt (teleprompter), mà là cầm một tờ giấy để đọc. "Nếu ông ta là lãnh đạo, tất cả mọi người có nghĩa vụ phải lắng nghe".

Ni yêu cầu một người xung phong, và đưa Raj, một kỹ sư phần mềm khoảng hai mươi mấy tuổi gì đó người Ấn Độ, hiện đang làm việc tại một công ty lớn nằm trong top các công ty Fortune 500, tới trước cả lớp. Raj mặc bộ đồng phục của thung lung Silicon với áo cài khuy thông thường và quần ka-ki, nhưng ngôn ngữ cơ thể của anh tỏ rõ vẻ rất phòng thủ. Anh đứng với hai tay khoanh trước ngực thủ thế, di di chân trên sàn với đôi bốt leo núi của mình. Trước lúc đó, khi chúng tôi đi vòng quanh phòng để tự giới thiệu bản thân, anh đã nói với tôi, bằng một giọng run rẩy khá căng thẳng từ hàng ghế sau của mình, rằng anh muốn học "cách làm thế nào để có thể bắt đầu nhiều cuộc trò chuyện hơn", và làm thế nào để "cởi mở hơn".

Giáo sư Ni yêu cầu Raj kể với cả lớp về kế hoạch của anh cho phần còn lại của tuần đó.

"Tôi sẽ đi ăn tối với một người bạn", Raj trả lời, trong lúc chỉ nhìn chăm chăm vào Ni, tiếng của anh nhỏ đến nỗi gần như không nghe thấy gì, "và sau đó có lẽ ngày mai tôi sẽ đi bộ đường dài (hiking)".

Giáo sư Ni yêu cầu anh thử nói lại một lần nữa.

"Tôi sẽ đi ăn tối với một người bạn", Raj nói, "và rồi, lầm bầm, lầm bầm, lầm bầm, tôi sẽ đi bộ đường dài".

"Ấn tượng của tôi về bạn", giáo sư Ni nhẹ nhàng nói với Raj, "là tôi có thể giao cho bạn rất nhiều công việc để làm, nhưng tôi sẽ không phải chú ý đến bạn quá nhiều. Hãy nhớ, ở Thung lũng Silicon, bạn có thể là người thông minh nhất, giỏi giang nhất, nhưng nếu bạn không thể thể hiện bản thân bằng cách nào khác hơn là trưng ra công việc của mình, bạn sẽ bị đánh giá thấp. Rất nhiều người làm việc chuyên nghiệp đến từ nước ngoài đã phải trải nghiệm điều này; bạn vẫn là một kẻ làm công cấp cao, thay vì là một nhà lãnh đạo".

Cả lớp cùng gật gù cảm thông.

"Nhưng có một cách để là chính mình", Ni tiếp tục, "đó là để cho nhiều phần hơn nữa của bản thân bạn được thể hiện ra thông qua giọng nói. Rất nhiều người chấu Á chỉ dùng một vài cơ bắp ít ỏi mỗi khi họ phải nói. Vậy nên chúng ta sẽ bắt đầu với việc tập hít thở".

Với điều đó, ông hướng dẫn Raj nằm xuống ngửa mặt lên, và bắt đầu đọc lớn năm nguyên âm trong tiếng Anh Mỹ. "A ... E ... U ... O ... I ...", Raj phát âm, giọng anh vang lên từ sàn lớp học. "A ... E ... U ... O ... I ... A ... E ... U ... O ... I ..."

Cuối cùng, giáo sư Ni tuyên bố Raj đã sẵn sàng để đứng dậy một lần nữa.

"Nào, giờ bạn đã có kế hoạch thú vị gì sau giờ học này chưa?", ông hỏi, vỗ tay khuyến khích.

"Tối nay tôi sẽ tới chỗ bạn mình để ăn tối, và ngày mai tôi sẽ đi bộ đường dài với một người bạn khác". Giọng của Raj đã lớn và rõ hơn trước, và cả lớp vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt.

Bản thân vị giáo sư là một hình mẫu cho những gì có thể xảy ra nếu bạn thực sự cố gắng. Sau buổi học, tôi tìm đến gặp ông tại văn phòng của ông, và ông kể với tôi về việc ông đã từng nhút nhát rụt rè đến đâu khi ông mới đến Mỹ-về việc ông đã tự đặt mình vào những tình huống, như trại hè hoặc các trường kinh tế, nơi ông có thể luyện tập một phong cách hướng ngoại cho đến khi nó trở nên tự nhiên hơn như thế nào. Đến thời điểm này ông đã có những chương trình tư vấn và huấn luyện rất thành công, với khách hàng bao gồm cả những công ty như Yahoo!, Visa hay Microsoft, dạy những kỹ năng mà ông đã bỏ rất nhiều công sức vất vả để tự mình học lấy được.

Nhưng khi chúng tôi bắt đầu bàn đến khái niệm của người châu Á về "quyền lực mềm"- thứ Ni gọi là khả năng lãnh đạo "bằng nước, thay vì bằng lửa"- tôi bắt đầu thấy một mặt khác mà ở ông đã không bị ấn tượng lắm bởi phong cách giao tiếp phương Tây. "Ở các nền văn hóa châu Á", Ni nói, "thường có một cách mềm mỏng, nhẹ nhàng để có được thứ bạn muốn. Không phải lúc nào nó cũng là hung hăng, nhưng nó có thể rất quyết tâm và rất khéo léo. Đến cuối cùng, rất nhiều thứ đã được đạt được nhờ nó. Sức mạnh hung hăng đè bẹp bạn; còn quyền lực mềm thì chinh phục bạn" ("Aggressive power beats you up; soft power wins you over.").

Tôi hỏi vị giáo sư những ví dụ thực tế về quyền lực mềm, và mắt ông sáng lên khi ông kể cho tôi về những khách hàng của ông mà sức mạnh của họ nằm ở ý tưởng và trái tim họ. Rất nhiều trong số những người này là những nhà tổ chức của các hội nhóm nhân viên-các nhóm phụ nữ, nhóm đa sắc tộc-những người đã thành công trong việc vận động mọi người bằng niềm tin của chính mình hơn là bằng năng lượng của sự hào hứng. Ông cũng nhắc đến những nhóm như Hội các bà mẹ chống lại việc lái xe khi say xỉn (Mothers Against Drunk Driving)-những nhóm người đã làm thay đổi cuộc sống của biết bao người bằng sức mạnh của mình không phải thông qua sức thu hút, mà là bằng sự quan tâm của mình. Những kỹ năng giao tiếp của họ đủ tốt để truyền đạt thông điệp của họ, nhưng sức mạnh thật sự của họ đến từ năng lực.

"Về dài hạn", Ni nói, "nếu ý tưởng của bạn tốt, mọi người sẽ ủng hộ. Nếu mục đích của bạn là chính đáng và bạn đặt cả trái tim vào đó, đây gần như sẽ là một quy luật luôn đúng: bạn sẽ thu hút được những người muốn chia sẻ mục đích của bạn. Quyền lực mềm chính là sự kiên trì một cách tĩnh lặng. Những người tôi đang nghĩ đến đều rất kiên trì trong những tương tác hàng ngày, người-với-người của họ. Dần dần họ xây dựng được một đội của mình". Quyền lực mềm, Ni nói, được vận dụng bởi những người mà chúng ta ngưỡng mộ trong suốt lịch sử: Mẹ Teresa, Phật Tổ, Gandhi.

Tôi đã kinh ngạc khi Ni nhắc đến Gandhi. Tôi đã yêu cầu hầu hết các học sinh trung học ở Cupertino tôi gặp kể ra một nhà lãnh đạo họ ngưỡng mộ, và rất nhiều trong số họ nêu tên Gandhi. Chính xác thì điều gì ở ông đã khơi truyền cảm hứng ở họ nhiều đến vậy?

Gandhi

[1]

, theo như cuốn tự truyện của ông, là một người nhút nhát, rụt rè và ít nói từ trong bản chất. Khi còn là một đứa trẻ, ông e sợ tất cả mọi thứ: trộm cướp, ma, rắn, bóng tối, và đặc biệt là những người khác. Ông vùi đầu vào sách vở, và chạy một mạch về nhà ngay khi giờ học kết thúc vì sợ phải nói chuyện với ai đó. Kể cả khi đã là một thanh niên trẻ, khi ông được bầu vào vị trí lãnh đạo đầu tiên của mình tại Hội Đồng Lãnh Đạo của Tổ Chức Những Người Ăn Chay (Executive Committee of the Vegetarian Society), ông luôn đến dự đầy đủ tất cả các buổi họp, nhưng chưa bao giờ dám cất tiếng phát biểu vì quá nhút nhát, rụt rè.'

"Anh nói chuyện với tôi rất ổn mà", một trong các thành viên hỏi ông, tỏ vẻ không hiểu, "nhưng tại sao anh chưa bao giờ mở miệng ra trong những buổi họp hội đồng thế? Anh là một kẻ lười biếng". Khi có một diễn biến chính trị xảy ra trong hội đồng, Gandhi có những ý kiến của riêng mình về vấn đề, nhưng lại quá sợ để có thể nói lên chúng. Ông viết các suy nghĩ của mình ra giấy, dự định sẽ đọc chúng trong buổi họp. Nhưng cuối cùng ông quá nhút nhát đến mức thậm chí không thể làm thế.

Gandhi, dần dần qua thời gian, đã học được cách khống chế nỗi sợ của mình, nhưng ông chưa bao giờ có thể hoàn toàn vượt qua chúng. Ông không thể nói mà không có sự chuẩn bị trước; ông tránh việc phải phát biểu bất cứ khi nào có thể. Kể cả trong những năm cuối đời, ông viết, "Tôi không nghĩ mình có thể hay thậm chí sẽ bao giờ muốn giữ cho cuộc gặp gỡ của những người bạn chỉ có nói chuyện".

Nhưng sự rụt rè, nhút nhát của ông còn đến cùng với một thứ sức mạnh của riêng ông-một dạng kiềm chế mà chỉ có thể hiểu rõ nhất thông qua việc tìm hiểu kỹ những góc khuất ít người biết tới trong câu chuyện cuộc đời Gandhi. Khi còn là một chàng trai trẻ, ông quyết định đi tới Anh để học luật, làm trái lại với ý muốn của các lãnh đạo giai cấp Bania của ông (vaiśya, giai cấp thương gia, là giai cấp thứ ba của xã hội Ấn). Những thành viên giai cấp này bị cấm ăn thịt, và các lãnh đạo tin rằng việc ăn chay là không thể ở Anh. Nhưng Gandhi ngay từ đầu đã thề với người mẹ yêu quý của mình là sẽ tránh xa khỏi thịt rồi, nên ông không thấy có mối nguy hiểm gì trong chuyến đi cả. Ông nói vậy với Sheth, người đứng đầu cộng đồng.

"Anh nhất định sẽ chống lại mệnh lệnh của cộng đồng phải không?", Sheth hỏi.

"Tôi thực sự không còn cách nào khác", Gandhi trả lời. "Tôi nghĩ cộng đồng không nên can thiệp vào chuyện này".

Bùm! Ông bị khai trừ-một phán quyết còn kéo dài hiệu lực cho tới tận khi ông đã trở về từ Anh vài năm sau đó, với triển vọng thành công rực rỡ của một luật sư nói-tiếng-Anh trẻ. Cộng đồng bị chia làm hai phe trong vấn đề xử lý ông. Một bên muốn trọng dụng ông; bên kia muốn gạt ông ra. Điều này có nghĩa là Gandhi thậm chí còn không được phép ăn hay uống tại nhà những người cùng giai cấp với mình, trong đó có cả chị ruột và cha mẹ vợ của ông.

Một người khác ở trong vị thế này, Gandhi biết, sẽ phản đối và đòi được tái gia nhập. Nhưng ông không thể thấy làm thế thì có ý nghĩa gì. Ông biết rằng tranh đấu chỉ tạo ra hận thù. Thay vào đó, ông làm theo mong muốn của Sheth và giữ một khoảng cách, kể cả với chính gia đình mình. Chị ruột ông và gia đình thông gia của ông đều sẵn sàng chứa chấp ông trong nhà họ một cách bí mật, nhưng ông đã từ chối.

Kết quả của sự phục tùng này? Cộng đồng không những không còn làm phiền ông, mà những thành viên của nó-trong đó có cả những người đã từng trực tiếp khai trừ ông-còn giúp ông trong những công tác chính trị sau này nữa, mà không đòi hỏi điều gì đáp lại. Họ đối xử với ông với tình cảm và sự hào phóng. "Đó là niềm tin của tôi", Gandhi sau này viết, "rằng tất cả mọi điều tốt đẹp này đều là nhờ vào sự bất-kháng-cự (non-resistance) của tôi. Nếu tôi đã khích động về việc gia nhập lại cộng đồng, nếu tôi đã cố gắng để chia rẽ nó ra thành nhiều phe nhóm hơn nữa, nếu tôi đã khiêu khích các lãnh đạo, thì họ chắc chắn sẽ trả thù, và thay vì việc tránh xa khỏi cơn bão dữ, khi trở về từ Anh hẳn tôi sẽ thấy mình ở giữa lòng một cơn lốc xoáy của những sự giận dữ sôi sục".

Quy luật này-quyết định chấp nhận điều mà một người khác ở vào vị thế mình chắc chắn sẽ thách thức-cứ lặp đi và lặp lại nữa trong suốt cuộc đời Gandhi. Khi còn là một luật sư trẻ tại Nam Phi, ông đã xin được nhận vào một quán bar tại địa phương. Hội đồng Luật tại đó không muốn có thành viên là người gốc Ấn, và tìm cách cản trở quá trình xin việc của ông, bằng cách yêu cầu bản sao của một văn bằng lúc đó đang được lưu giữ tại Tòa Án Tối Cao Bombay, và do đó không thể chạm tới được. Gandhi rất giận dữ; ông biết quá rõ lý do thực của những rào cản này là sự phân biệt chủng tộc. Nhưng ông không để những cảm xúc của mình thể hiện ra. Thay vào đó ông cố thương thuyết một cách bình tĩnh, cho tới khi Hội đồng Luật đồng ý chịu chấp nhận một bản cam kết từ ông.

Đến ngày ông phải tuyên thệ bản cam kết của mình, thẩm phán chính yêu cầu ông phải gỡ bỏ khăn cuốn đầu. Gandhi lúc đó đã nhìn thấy giới hạn thực sự của bản thân. Ông biết rằng lúc này kháng cự sẽ là chính đáng, nhưng ông tin vào cách chiến đấu của riêng mình, và chấp nhận gỡ bỏ khăn đội đầu xuống. Các bạn của ông không hài lòng với điều này. Họ nói ông quá yếu đuối, rằng ông nên đứng lên bảo vệ niềm tin của mình mới phải. Nhưng Gandhi thì thấy rằng ông đã học được cách "trân trọng vẻ đẹp của sự thỏa hiệp".

Nếu khi kể cho bạn câu chuyện này mà tôi bỏ qua không nhắc đến tên của Gandhi, cũng như những thành tựu sau này của ông, bạn chắc sẽ coi ông như một kẻ hết sức thụ động. Và ở phương Tây, thụ động là không thể chấp nhận được. "Thụ động" (passive), theo định nghĩa của từ điển tiếng Anh Merriam-Webster, có nghĩa là "hành động dựa theo một tác nhân từ bên ngoài". Nó cũng đồng thời có nghĩa là "dễ bảo, dễ phục tùng" (submissive). Bản thân Gandhi thì phủ nhận hoàn toàn cụm từ "phản kháng thụ động" (passive resistance), thứ ông liên kết với sự yếu đuối; thay vào đó ưa thích hơn từ satyagraha, thuật ngữ ông dùng với ý nghĩa "sự cứng rắn trong hành trình tìm kiếm sự thật" (firmness in pursuit of truth).

Nhưng như từ ngữ satyagraha đã ám chỉ, sự thụ động của Gandhi không hề đồng nghĩa với sự yếu đuối. Nó có nghĩa là tập trung vào một mục tiêu tối thượng, và từ chối dành năng lượng cho những cuộc đấu đá tranh cãi không cần thiết trên đường đi. Sự biết kiềm chế, như Gandhi tin, là một trong những tài sản lớn nhất của ông. Và nó được sinh ra từ chính tính rụt rè nhút nhát của ông:

"Tôi đã bằng một cách rất tự nhiên luyện được thói quen kiềm chế những suy nghĩ của mình. Một từ ngữ thiếu suy nghĩ rất hiếm khi thoát ra khỏi đầu lưỡi hay ngọn bút của tôi. Kinh nghiệm đã dạy tôi biết rằng im lặng là một phần của thứ kỷ luật tinh thần cần thiết của một kẻ yêu sự thật. Chúng ta thấy có rất nhiều người nói quá nhiều vì thiếu kiên nhẫn. Tất cả những việc nói chuyện này gần như chẳng đem lại lợi ích lớn lao gì cho thế giới cả. Nó chỉ làm tiêu tốn thời gian một cách không cần thiết mà thôi. Sự rụt rè nhút nhát của tôi trong thực tế đã là tấm khiên chắn an toàn cho tôi. Nó đã cho tôi trưởng thành. Nó đã giúp tôi rất nhiều trong khả năng nhận thức rõ ràng về sự thật của tôi".

Quyền lực mềm không phải chỉ giới hạn trong những hình mẫu đạo đức như Mahatma Gandhi. Ví dụ, hãy cân nhắc đến sự xuất sắc "kinh hoàng" của người châu Á trong những lĩnh vực như toán hay khoa học. Giáo sư Ni đã định nghĩa quyền lực mềm là "kiên trì một cách tĩnh lặng", và dấu hiệu này nằm ở trọng tâm của sự xuất sắc học thuật, cũng như nó nằm ở trọng tâm của những thắng lợi chính trị của Gandhi vậy. Kiên trì một cách tĩnh lặng đòi hỏi sự tập trung được duy trì một cách liên tục-và trên thực tế là sự kiềm chế phản ứng của bản thân với những nhân tố kích thích từ bên ngoài.

Bài thi TIMSS (Trends in International Mathematics and Science Study-Các xu hướng Nghiên Cứu Toán học và Khoa học Quốc Tế) là một bài kiểm tra toán và khoa học tiêu chuẩn hóa, tổ chức mỗi bốn năm một lần cho trẻ em từ khắp nơi trên thế giới. Sau mỗi bài kiểm tra, các nhà nghiên cứu lại mổ xẻ các kết quả, so sánh trình độ thể hiện giữa học sinh đến từ các quốc gia khác nhau; và các nước châu Á như Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản và Đài Loan đều liên tục đứng nhất trong danh sách này. Ví dụ, vào năm 1995, năm đầu tiên cuộc thi TIMSS được tổ chức, Hàn Quốc, Singapore, và Nhật Bản là những nước có số điểm toán trung bình của học sinh cấp II cao nhất, và nằm trong top 4 thế giới về khoa học. Vào năm 2007, khi các nhà nghiên cứu thống kê xem có bao nhiêu đứa trẻ trong một nước đạt đến được mức "Advanced International Benchmark"-một dạng tước vị siêu sao đối với các học sinh toán-họ thấy rằng hầu hết những người đứng đầu đều tập trung trong chỉ một vài quốc gia nhất định ở châu Á, và có khoảng 40 tới 45 phần trăm học sinh lớp tám tại Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore đã giật được danh hiệu này. Trên toàn thế giới, tỷ lệ phần trăm trung bình các học sinh vượt qua được mức "Advanced International Benchmark" chỉ là khoảng 5 phần trăm với học sinh lớp bốn, và 2 phần trăm với học sinh lớp tám.

Làm thế nào để giải thích được sự khác biệt quá lớn về kết quả giữa học sinh châu Á và phần còn lại của thế giới này? Hãy cân nhắc đến một chi tiết thú vị sau trong bài kiểm tra TIMSS. Các học sinh làm bài kiểm tra này cũng đồng thời được hỏi một loạt các câu hỏi chán ngắt về họ, từ việc họ thích học khoa học đến thế nào, cho đến liệu số đầu sách ở nhà họ có đủ chất đầy từ ba giá sách trở lên không. Để làm hết bảng câu hỏi này tốn khá lâu, và bởi vì nó không tính vào điểm cuối cùng, rất nhiều học sinh đã bỏ trống không làm những câu hỏi này. Bạn cần phải khá là kiên trì mới có thể trả lời hết tất cả mọi câu hỏi trong đám này. Nhưng hóa ra, theo một nghiên cứu của giáo sư giảng dạy (education professor) Erling Boe, những quốc gia có học sinh trả lời nhiều hơn những câu hỏi trong bảng này cũng đồng thời là những quốc gia có số lượng học sinh đạt thành tích cao trong bài thi TIMSS lớn hơn. Nói một cách khác, những học sinh xuất sắc có vẻ không chỉ sở hữu năng lực tư duy cao để có thể giải được những bài toán và bài khoa học khó, mà đồng thời còn có cả một nét tính cách hữu ích khác: kiên trì một cách tĩnh lặng.

Các nghiên cứu khác cũng đã tìm thấy mức độ kiên trì cao bất thường thậm chí ở cả những trẻ em châu Á còn rất nhỏ. Ví dụ, nhà tâm lý học nhà tâm lý học giao thoa văn hóa (cross-cultural psychologist) Priscilla Blinco đã cho các em học sinh lớp Một người Mỹ và người Nhật một trò chơi xếp hình không thể giải được, yêu cầu các em làm việc một mình trong im lặng, mà không có sự trợ giúp nào từ các đứa trẻ khác hay giáo viên, và rồi so sánh xem liệu chúng chịu cố gắng trong bao lâu trước khi đầu hàng. Các em bé người Nhật Bản dành trung bình là 13,93 phút để cố giải trò chơi xếp hình này trước khi bỏ cuộc, trong khi những trẻ em Mỹ chỉ dành có 9,47 phút. Không đến 27% trong số các học sinh Mỹ kiên trì được lâu như mức trung bình của các học sinh Nhật-và chỉ có 10% học sinh Nhật bỏ cuộc sớm như mức trung bình của các học sinh Mỹ. Blinco gán các kết quả này cho đức tính kiên trì của người Nhật Bản.

Sự kiên trì một cách tĩnh lặng ở người châu Á, cũng như ở những người Mỹ gốc Á nữa, không chỉ giới hạn trong những lĩnh vực như toán hay khoa học. Vài năm sau chuyến thăm đầu tiên của tôi tới Cupertino, tôi gặp lại Tiffany Liao, cô nữ sinh trung học năm cuối tại Swarthmore năm nào, người luôn được cha mẹ khen ngợi vì thích đọc sách, kể cả ở những nơi công cộng, khi còn là một cô bé. Khi chúng tôi gặp lần đầu tiên, Tiffany còn là một cô nữ sinh mặt trẻ măng, mới mười bảy tuổi và đang trên đường tới cánh cổng trường đại học. Cô nói với tôi khi đó rằng cô rất háo hức được tới Bờ Đông và được gặp gỡ nhiều người mới, nhưng cô đồng thời cũng sợ phải sống ở một nơi không ai uống trà trân châu (bubble tea), thứ thức uống nổi tiếng được phát minh ở Đài Loan.

Giờ Tiffany đã là một cô sinh viên năm cuối đại học với đầy kinh nghiệm và một vốn hiểu biết sâu rộng. Cô đã đi du học tại Tây Ban Nha. Cô ký dưới những ghi chép của mình với dòng chữ phảng phất một chút chất châu Âu: "Abrazos, Tiffany." ("Ôm nhé, Tiffany"-tiếng Tây Ban Nha). Trên tấm ảnh đại diện Facebook của cô, vẻ ngoài trẻ con đã biến mất, được thay bằng một nụ cười vẫn hiền lành và thân thiện, nhưng cũng đầy hiểu biết nữa.

Tiffany đang trên con đường để đạt được ước mơ của mình là làm một nhà báo; cô vừa được bầu làm tổng biên tập cho tờ báo của trường đại học. Cô vẫn tự miêu tả bản thân là một người nhút nhát và rụt rè-cô cảm thấy mặt nóng rực khi lần đầu tiên phải nói trước đám đông, hay phải nhận cuộc gọi từ một người lạ-nhưng cô đã dần trở nên thoải mái hơn với việc nói của mình. Cô tin rằng "những nét tính cách tĩnh lặng" của mình, như cách cô gọi nó, chính là thứ đã giúp cô trở thành tổng biên tập. Với Tiffany, quyền lực mềm có nghĩa là luôn lắng nghe một cách chăm chú, ghi chép một cách thật cẩn thận, và tiến hành những nghiên cứu một cách sâu sắc về các đối tượng mình định phỏng vấn trước khi gặp mặt họ trực tiếp. "Quá trình này đã đóng góp vào thành công của tôi với tư cách một nhà báo", cô viết trong thư cho tôi. Tiffany đã tiến tới chỗ trân trọng sức mạnh của sự tĩnh lặng.

Khi tôi lần đầu tiên gặp Mike Wei, cậu sinh viên Stanford đã ước gì mình cũng có thể cởi mở được như những người bạn cùng lớp mình, anh đã nói rằng không hề có thứ gì gọi là một "nhà lãnh đạo tĩnh lặng" (a quiet leader) cả. "Làm cách nào anh có thể cho người ta biết anh có niềm tin nếu anh cứ giữ im lặng về nó chứ?", anh hỏi. Tôi trấn an anh rằng mọi việc không hẳn như vậy, nhưng Mike có vẻ có quá nhiều niềm tin tĩnh lặng của riêng anh về việc người tĩnh lặng không có khả năng thể hiện niềm tin của mình, đến độ tôi phải tự hỏi liệu anh có thực sự có lý hay không.

Nhưng đó là trước khi tôi được nghe giáo sư Ni nói về quyền lực mềm theo cách của người châu Á, trước khi tôi đọc về khái niệm satyagraha của Gandhi, trước khi tôi cân nhắc về tương lai tươi sáng của Tiffany với tư cách một nhà báo. Niềm tin là niềm tin, các thiếu niên ở Cupertino đã dạy tôi, bất kể nó có được thể hiện ra ở mức độ ồn ào hay im lặng thế nào đi chăng nữa.

Phần

B

ốn

LÀM THẾ NÀO ĐỂ YÊU,

LÀM THẾ NÀO ĐỂ LÀM VIỆC

9
KHI NÀO THÌ BẠN NÊN TỎ RA HƯỚNG NGOẠI HƠN MỨC BẠN THỰC SỰ LÀ?

Với một người, có bao nhiêu nhóm người khác nhau mà ý kiến từ họ anh ta tôn trọng, thì tương ứng sẽ có bấy nhiêu diện mạo xã hội khác nhau anh ta tự khoác lấy cho mình. Thông thường, với mỗi nhóm người khác nhau như thế, anh ta sẽ thể hiện ra một phần khác nhau của con người mình.

-

WILLIAM JAMES

Hãy gặp giáo sư Brian Little, cựu giảng viên môn tâm lý học tại Đại học Harvard, và là người sở hữu giải thưởng 3M Teaching Fellowship, một giải thưởng đôi lúc được đề cập đến như giải Nobel trong lĩnh vực giảng dạy đại học. Vóc người thấp, rắn chắc, đeo kính và có một vẻ ngoài dễ mến, giáo sư Little có một chất giọng nam trầm đầy ấn tượng, một thói quen đột nhiên cất tiếng hát và nhún nhảy theo đầy ngẫu hứng trên bục giảng, và một phong cách nhấn mạnh các phụ âm, kéo dài các nguyên âm theo đúng kiểu các diễn viên Mỹ ngày xưa. Người ta thường miêu tả ông như một sự giao thoa giữa Robin Williams và Albert Einstein, và khi ông kể một chuyện cười mà làm các khán giả của mình bật cười thích thú, một điều rất thường xuyên xảy ra, ông thậm chí trông còn vui hơn cả bọn họ nữa. Các lớp học của ông ở Harvard luôn quá tải số lượng sinh viên đăng ký học, và mỗi buổi học như thế thường luôn kết thúc với cảnh cả khán phòng đứng dậy và vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt.

Trái ngược lại, người đàn ông tôi sắp miêu tả dưới đây có vẻ thuộc về một giống loài hoàn toàn khác hẳn với giáo sư Little: ông sống cùng với vợ trong một ngôi nhà rất kín đáo, trên hai mẫu đất gần một cánh rừng hẻo lánh ở Canada. Ông thỉnh thoảng có con cái và các cháu đến thăm, nhưng trừ những lúc đó ra, ông thường xuyên ở một mình. Ông dành thời gian rảnh của mình để viết nhạc, đọc và viết sách cũng như các bài báo, và gửi các email dài, mà ông gọi là "e-pistles" cho các bạn mình. Khi ông phải giao thiệp, ông thường chọn những cuộc gặp gỡ một-đối-một. Tại các bữa tiệc, ông nhanh chóng bắt cặp lấy một ai đó để nói chuyện một cách nhẹ nhàng, tĩnh lặng ngay khi ông có thể, hoặc kiếm cớ lẩn ra ngoài một mình "để hít thở chút không khí trong lành". Khi bị buộc phải dành quá nhiều thời gian bên ngoài để giao thiệp xã hội, hay phải ở trong bất cứ tình huống có dính dáng đến xung đột nào, ông thực sự có thể phát bệnh.

Liệu bạn có ngạc nhiên không nếu tôi nói với bạn rằng vị giáo sư đại hoạt náo và kẻ lánh đời thích cuộc sống trí óc kia là một, và là hai phần của cùng một người đàn ông? Có lẽ là không, nếu bạn cân nhắc đến việc mỗi chúng ta đều cư xử khác nhau tùy thuộc vào các tình huống khác nhau. Nhưng nếu ngay từ đầu chúng ta có khả năng thay đổi cách hành xử của mình một cách linh hoạt đến thế, vậy thì cố gắng nêu ra sự phân biệt giữa người hướng nội với người hướng ngoại có còn nghĩa lý gì nữa không? Có phải chính ý tưởng về sự hướng nội-hướng ngoại chỉ đơn giản là một sự phân đôi lưỡng cực hoàn toàn: người hướng nội là những nhà hiền triết thông thái, người hướng ngoại thì là những nhà lãnh đạo đầy dũng cảm? Người hướng nội là những nhà thơ hay những kẻ mọt sách, người hướng ngoại là những vận động viên thể thao hay thành viên các đội cổ vũ (cheerleader)? Không phải tất cả chúng ta đều có một chút của cả hai phía hay sao?

Các nhà tâm lý học gọi đây là cuộc tranh luận về "con người-tình huống" (person-situation): Liệu ở một con người, những nét tính cách cố định có thực sự tồn tại, hay chúng sẽ thay đổi khi các tình huống xung quanh người đó thay đổi? Nếu bạn nói chuyện với giáo sư Little, ông sẽ nói với bạn rằng bất chấp tính cách hoạt náo và thành tích dạy học đầy ấn tượng của ông, ông vẫn là một người hoàn-toàn, từ-trong-ra-ngoài, một-trăm-phần-trăm hướng nội, không chỉ trong cách ứng xử, mà còn cả trong tâm lý học hệ thần kinh của ông nữa (ông đã làm bài kiểm tra "nhỏ nước chanh lên lưỡi" như tôi đã miêu tả trong

chương 4

, và tiết nước bọt ngay tức khắc). Điều này có vẻ đặt ông hoàn toàn nghiêng về phía "con người" trong cuộc tranh luận "con người-tình huống": Little tin rằng những nét tính cách cố định thực sự có tồn tại, rằng chúng định hình cuộc đời chúng ta theo những cách rất sâu sắc, rằng chúng hoạt động dựa trên những cơ chế sinh lý học, và rằng chúng tồn tại khá là ổn định trong suốt cuộc đời của một con người. Những người ủng hộ quan điểm này có những hậu thuẫn rất lớn: Hippocrates, Milton, Schopenhauer, Jung, và gần đây nhất là các nhà nghiên cứu đang sử dụng máy fMRI và các thí nghiệm về mức độ dẫn truyền của da.

Ở phía bên kia của cuộc tranh luận là một nhóm các nhà tâm lý học được biết đến với cái tên Người theo chủ nghĩa Tình huống (situationists). Chủ nghĩa Tình huống (situationism) chỉ ra rằng những từ ngữ phổ quát hóa về con người, trong đó có cả những từ ngữ chúng ta hay dùng để miêu tả lẫn nhau-nhút nhát, hung hăng, tận tụy, dễ mến-đều chỉ dễ gây nhầm lẫn. Không hề có một bản thể nội tại (core self); chỉ có một tập hợp đa dạng những bản thể khác nhau cho từng Hoàn cảnh X, Y, Z khác nhau. Quan điểm của những người theo chủ nghĩa Tình huống lên đến đỉnh cao vào năm 1968, khi nhà tâm lý học Walter Mischel cho xuất bản cuốn sách "Tính cách và Đánh giá" (Personality and Assessment), thách thức ý tưởng về những nét tính cách cố định. Mischel tranh luận rằng nhân tố tình huống có thể giúp dự đoán hành vi của những người như Brian Little tốt hơn nhiều so với thứ được gọi là "nét tính cách cố định".

Trong vài thập kỷ sau đó, Chủ nghĩa Tình huống thắng thế. Quan điểm hậu hiện đại về bản thể con người xuất hiện trong khoảng thời gian này, chịu ảnh hưởng từ những nhà lý luận như Erving Goffman, tác giả của cuốn "Sự Có Mặt của Bản thể trong Cuộc sống Hàng ngày" (The Presentation of Self in Everyday Life), đề xuất rằng cuộc sống giao tiếp xã hội là một màn trình diễn, và những tấm mặt nạ ta mang trong sự giao tiếp xã hội đều là các bản thể thật của ta. Rất nhiều nhà nghiên cứu nghi ngờ việc liệu những nét tính cách có tồn tại vì một ý nghĩa nào không. Các nhà nghiên cứu tâm lý học khi đó gặp khá nhiều khó khăn để kiếm việc.

Nhưng cũng giống như việc cuộc tranh luận về tự nhiên-nuôi dưỡng đã được thế chỗ bởi khái niệm về "mức độ phản ứng" (interactionism)-tri thức mới cho ta biết rằng cả hai tác nhân đều có đóng góp vào việc ta là ai, và thực sự còn có tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng nữa-thì cuộc tranh luận con người-tình huống cũng đã bị thế chỗ bởi một hiểu biết sâu sắc hơn. Các nhà tâm lý học tính cách thừa nhận rằng chúng ta cảm thấy hòa đồng hơn vào lúc 6 giờ tối và cảm thấy muốn ở một mình hơn vào lúc 10 giờ tối, và rằng sự biến đổi này là có thật, và có phụ-thuộc-vào-tình-huống. Nhưng họ đồng thời cũng nhấn mạnh rằng có rất nhiều bằng chứng đã xuất hiện ủng hộ giả thiết rằng bất chấp những sự thay đổi này, thật sự vẫn có thứ gọi là "một tính cách cố định" (a fixed personality).

Ngày nay, ngay cả Mischel cũng thừa nhận rằng những nét tính cách thực sự có tồn tại, nhưng ông tin rằng chúng thường xuất hiện theo những quy luật nhất định. Ví dụ, một số người tỏ ra hung hăng áp đảo đối với các đồng bạn và cấp dưới, nhưng lại hết sức ngoan ngoãn với các nhân vật có quyền lực cao hơn mình; một số khác thì lại ngược lại. Những người "nhạy-cảm-với-việc-bị-chối-bỏ" sẽ nồng ấm và tình cảm khi họ cảm thấy an toàn, hung dữ và kiểm soát nếu họ cảm thấy mình đang bị chối bỏ.

Nhưng sự thỏa hiệp thoải mái này đem đến một cơ số vấn đề về ý chí tự do mà chúng ta đã khám phá ở

chương 5

. Chúng ta biết rằng có những giới hạn sinh lý học về việc chúng ta là ai và chúng ta hành xử như thế nào. Nhưng liệu chúng ta có nên thử cố gắng dao động các hành vi của mình trong khả năng giới hạn có thể, hay chúng ta chỉ nên đơn giản là chính bản thân mình? Đến mức nào thì việc cố kiểm soát các hành vi của bản thân là vô nghĩa, hoặc vượt quá sức của chúng ta?

Nếu bạn là một người hướng nội trong nước Mỹ liên hiệp (corporate America), liệu bạn có nên cố để dành con người thật của mình cho chỉ những ngày nghỉ cuối tuần yên tĩnh, và dành tất cả những ngày còn lại trong tuần cố gắng hết sức để "lao ra ngoài đó, hòa nhập, nói thường xuyên hơn, và kết nối với đồng đội của bạn và những người khác, khai thác tất cả năng lượng và tính cách mà bạn có thể có", như Jack Welch đã khuyên trong chuyên trang điện tử của tờ BusinessWeek? Nếu bạn là một sinh viên đại học hướng ngoại, liệu bạn có nên để dành con người thật của mình cho những ngày nghỉ cuối tuần náo nhiệt, và dành toàn bộ những ngày còn lại trong tuần cố gắng tập trung cho việc học? Liệu mọi người có thể tùy chỉnh được tính cách của họ theo cách này hay không?

Câu trả lời tốt duy nhất tôi đã được nghe cho những câu hỏi này đến từ giáo sư Brian Little.

Vào buổi sáng ngày 12 tháng Mười, năm 1979, Little ghé thăm trường Đại học Quân đội Hoàng gia Saint-Jean (Royal Military College Saint-Jean) bên bờ sông Richelieu, nằm cách Montreal bốn mươi km về phía Nam, để phát biểu một bài nói trước một nhóm các sĩ quan quân đội cấp cao. Đúng như một người hướng nội được kỳ vọng sẽ làm, ông đã chuẩn bị kỹ càng cho bài nói, không chỉ luyện nói trước những ý kiến của mình, mà còn đảm bảo rằng ông có thể trích dẫn những nghiên cứu mới nhất. Kể cả trong khi đang thực hiện bài nói của mình, ông vẫn đang trong trong trạng thái mà ông gọi là "trạng thái hướng nội kinh điển", liên tục rà soát các khán giả và phát hiện mọi dấu hiệu tỏ ra không thích thú dù nhỏ nhất nào, để đưa ra những tùy chỉnh kịp thời-một số liệu nghiên cứu ở chỗ này, một chút hài hước ở chỗ kia.

Bài phát biểu đã thành công mỹ mãn (đến mức từ đó ông được mời đến phát biểu hàng năm). Nhưng lần tiếp theo ông được mời tới trường đại học này, ông đã phải phát hoảng: họ mời ông cùng dùng bữa trưa với những người đứng đầu trường. Little phải thực hiện một bài nói nữa vào buổi chiều hôm đó, và ông biết rằng nói chuyện phiếm trong suốt một tiếng rưỡi trước đó sẽ đánh gục ông hoàn toàn. Ông cần có thời gian để nạp lại năng lượng cho màn trình diễn vào buổi chiều của ông.

Nhanh trí, ông thông báo ngay rằng mình có một niềm đam mê rất lớn với thiết kế tàu thủy, và hỏi các vị chủ nhà đã mời mình rằng liệu ông có thể nhân cơ hội được đến thăm trường này mà chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những con tàu trên sông Richelieu được không. Sau đó ông dành toàn bộ hơn một tiếng ăn trưa của mình đó để đi bộ dọc bờ sông Richelieu, với một vẻ hàm ơn trân trọng trên khuôn mặt ông.

Suốt hàng nhiều năm sau đó, Little vẫn trở lại ngôi trường này để phát biểu, và suốt hàng nhiều năm đó, ông luôn thả bước dọc bờ sông Richelieu, tận hưởng "thú vui" không có thật này của ông-cho đến ngày ngôi trường này chuyển địa điểm tới một địa điểm khác, lần này không còn sông suối gì hết nữa. Bị mất đi cái cớ hoàn hảo bấy lâu của mình, giáo sư Little quay về với kế sách rút lui duy nhất mà ông có thể kiếm được-nhà vệ sinh nam. Sau mỗi bài phát biểu, ông sẽ nhanh chóng chạy ngay tới nhà vệ sinh và trốn vào một buồng kín. Một lần, một viên sĩ quan phát hiện thấy giày của Little qua khe hở dưới một cánh cửa, liền bắt đầu tán gẫu với ông một cách hăng say; bởi vậy từ những lần sau đó Little luôn co hai chân lên đạp vào bức vách buồng vệ sinh để chúng không bị nhìn thấy. (Ẩn thân trong nhà vệ sinh là một hiện tượng phổ biến đến bất ngờ, như bạn có thể cũng đã biết nếu bạn là một người hướng nội. "Sau mỗi bài nói, tôi luôn ở trong buồng vệ sinh số chín", Little một lần từng nói với Peter Gzowski, một trong những người dẫn chương trình talk-show nổi tiếng nhất Canada. "Còn tôi, sau mỗi show truyền hình như thế này, tôi ở trong buồng vệ sinh số tám", Gzowski trả lời ngay, không mất đến một giây.

Bạn có thể tự hỏi tại sao một người hướng nội mạnh đến như giáo sư Little lại có thể xoay sở để nói trước đám đông tốt đến thế. Câu trả lời, ông nói, rất đơn giản, và nó có liên quan tới một nhánh nghiên cứu tâm lý học mới mà gần như do ông một mình ông tạo ra, gọi là Lý Thuyết Về Nét Tính Cách Tự Do (Free Trait Theory). Little tin rằng những nét tính cách cố định và những nét tính cách tự do cùng tồn tại. Theo Lý Thuyết Về Nét Tính Cách Tự Do, chúng ta từ bẩm sinh, cũng như được nền văn hóa mà chúng ta lớn lên trong đó trang bị cho một số nét tính cách nhất định-ví dụ, tính hướng nội-nhưng chúng ta cũng có thể và thực sự có hành động vượt ra khỏi những nét tính cách cố định này, khi phải phục vụ cho "những dự án cá nhân cốt lõi" (core personal projects).

Nói một cách khác, người hướng nội hoàn toàn có khả năng hành động được như người hướng ngoại, nếu đó là vì những công việc mà họ cho là quan trọng, những người mà họ yêu quý, hay bất cứ điều gì mà họ đề cao. Lý Thuyết Về Nét Tính Cách Tự Do giải thích tại sao một người hướng nội có thể tổ chức một bữa tiệc bất ngờ cho người vợ hướng ngoại của mình, hay tham gia hội phụ huynh ở trường con gái mình. Nó lý giải việc làm thế nào mà một nhà khoa học hướng ngoại có thể cư xử đúng mực, khá khép kín trong phòng thí nghiệm của bà; làm thế nào một người dễ tính có thể tỏ ra rất cứng đầu trong một buổi thương lượng hợp đồng kinh doanh; và làm thế nào một người chú luôn cáu cẳn, cằn nhằn có thể cư xử rất dịu dàng với cô cháu gái bé nhỏ của ông khi đưa cô bé đi ăn kem. Như những ví dụ này đã gợi ý, Lý Thuyết Về Nét Tính Cách Tự Do áp dụng được vào rất nhiều bối cảnh khác nhau, nhưng nó đặc biệt liên quan tới những người hướng nội sống dưới Khuôn Mẫu Hướng Ngoại Lý Tưởng.

Dựa theo Little, cuộc sống của chúng ta sẽ được cải thiện đến đáng kinh ngạc nếu chúng ta tham gia vào những dự án cá nhân cốt lõi mà chúng ta coi là giàu ý nghĩa, có thể giải quyết được, không quá căng thẳng, và khi làm nó chúng ta có thể được ủng hộ bởi những người khác. Khi một ai đó hỏi ta: "Mọi thứ dạo này thế nào?", chúng ta có thể đưa ra một câu trả lời buột miệng nào đấy, nhưng câu trả lời thực sự của chúng ta sẽ là kết quả của việc các dự án cá nhân cốt lõi của chúng ta đang tiến hành tốt đến đâu.

Đó là lý do tại sao giáo sư Little, một người hoàn toàn hướng nội, lại có thể giảng bài với niềm đam mê lớn đến vậy. Như một Socrates của thời hiện đại, ông yêu các học sinh của mình một cách sâu sắc; khai mở tâm trí cho họ và chăm lo đến việc tiến bộ của họ là hai trong số những dự án cá nhân cốt lõi của ông. Khi Little làm việc ở trường Harvard trong văn phòng của mình, các sinh viên sẽ xếp hàng dài ngoài hành lang như thể ông đang phát miễn phí vé đi xem đại nhạc hội nhạc Rock vậy. Trong suốt hơn hai mươi năm, các sinh viên đã nhờ ông viết hàng vài trăm lá thư tiến cử mỗi năm. "Brian Little là vị giáo sư hấp dẫn, hoạt náo, và quan tâm tới học sinh nhiều nhất mà tôi từng được gặp", một sinh viên đã viết như vậy về ông. "Tôi thậm chí không biết nên bắt đầu từ đâu để giải thích về bao nhiêu cách mà giáo sư đã có tác động tới cuộc đời tôi". Vậy là, với Brian Little, việc bỏ thêm thật nhiều nỗ lực cần thiết để kéo dãn bản thân ra khỏi giới hạn là hợp lý, khi thấy rằng dự án cá nhân cốt lõi của ông-khai sáng tất cả tâm trí của họ-đã đạt được thành quả.

Từ cái nhìn đầu tiên, Lý Thuyết Về Nét Tính Cách Tự Do có vẻ trái ngược với một phần rất được trân trọng trong di sản văn hóa của chúng ta. Lời khuyên thường-xuyên-được-trích-dẫn của Shakespeare: "To thine own self be true" (be true to your own self-hãy sống thật với chính mình) đã ăn sâu vào trong ADN của chúng ta. Rất nhiều trong số chúng ta không thoải mái với ý tưởng khoác lấy lên mình một diện mạo giả trong bất cứ một khoảng thời gian nào. Và nếu chúng ta cố hành động vượt ra ngoài tính cách thật của mình bằng cách tự thuyết phục bản thân rằng bản-thể-giả-hiệu kia mới là bản thể thật của chúng ta, ta có thể kết cục là hoàn toàn kiệt sức mà chẳng hiểu tại sao. Điều thiên tài ở lý thuyết của Little là ở chỗ nó giải quyết sự thiếu thoải mái này gọn gàng đến thế nào. Phải, chúng ta chỉ đơn giản đang giả vờ là người hướng ngoại mà thôi, và phải, sự thiếu xác thực này có thể không đúng đắn về mặt đạo đức (đó là còn chưa kể đến vắt kiệt hết sức lực tinh thần của chúng ta); nhưng nếu nó là để phục vụ cho tình yêu hoặc một tiếng gọi của công việc, vậy thì chúng ta cũng chỉ đang làm đúng theo điều mà Shakespeare đã khuyên mà thôi.

Khi mọi người đã trở nên thuần thục trong việc thực hành những nét tính cách tự do, sẽ khó để có thể tin rằng họ đang hành động vượt ra ngoài tính cách thật của họ. Các sinh viên của giáo sư Little thường tỏ ra ngờ vực khi ông bảo với họ rằng mình là một người hướng nội. Nhưng Little hoàn toàn không phải là một trường hợp duy nhất; rất nhiều người, đặc biệt là những người trong vai trò lãnh đạo, cũng đều tham gia đến một mức độ nào đấy vào việc giả-vờ-là-người-hướng-ngoại này. Ví dụ, hãy cân nhắc đến người bạn của tôi, Alex, nhà lãnh đạo quảng giao, lịch thiệp của một công ty dịch vụ tài chính, người đã đồng ý thực hiện một cuộc phỏng vấn hoàn toàn cởi mở, thẳng thắn; với điều kiện sống chết là không được để lộ danh tính thật của anh. Alex nói với tôi rằng giả-vờ-hướng-ngoại là một thứ anh đã tự dạy mình từ năm lớp Bảy, khi anh nhận ra rằng những đứa trẻ khác đang lợi dụng anh.

"Tôi đã từng là người dễ tính hiền lành nhất mà bạn sẽ muốn biết", Alex nhớ lại, "nhưng thế giới thì không như vậy. Vấn đề là nếu bạn chỉ là một đứa dễ tính hiền lành, đời sẽ đè bạn bẹp rúm. Tôi từ chối sống một cuộc đời nơi mọi người đều có thể dẫm đạp lên tôi. Tôi lúc đó nghĩ, OK, thế giải pháp ở đây có thể là gì? Và chỉ có duy nhất một mà thôi. Tôi cần phải có tất cả mọi người trong lòng bàn tay của tôi. Nếu tôi muốn làm một người dễ tính hiền lành, tôi cần phải nắm gọn cả cái trường này".

Nhưng làm thế nào để đi từ A đến B? "Tôi đã nghiên cứu cách ứng xử xã hội của cộng đồng, chắc chắn là nhiều hơn bất cứ ai bạn đã từng gặp", Alex nói với tôi. Anh quan sát cách mọi người nói, cách họ di chuyển-đặc biệt là các tư thế uy quyền của nam giới. Anh điều chỉnh tác phong của mình, cho phép anh vẫn có thể tiếp tục là một thiếu niên bản chất nhút nhát, hiền lành, nhưng không còn bị lợi dụng nữa. "Bất cứ thứ khó khăn gì có thể khiến bạn bị đè bẹp, tôi sẽ tự bảo, "Mình cần phải học cách làm được cái này". Vậy nên cho đến giờ, tôi đã được trang bị cho chiến tranh. Bởi vì chỉ có thế, người ta mới không dám đụng đến bạn".

Alex cũng đồng thời tận dụng những thế mạnh tự nhiên của mình. "Tôi đã học được rằng bọn con trai về cơ bản chỉ làm có một thứ: chúng đuổi theo tụi con gái. Chúng giành được họ, chúng đánh mất họ, rồi chúng bàn luận về họ. Tôi tự nghĩ, "Thật là lòng vòng. Tôi thật sự thích con gái". Sự gần gũi sẽ đến từ đó chứ đâu. Vậy nên thay vì ngồi lê và tán gẫu về tụi con gái, tôi tìm hiểu họ. Tôi sử dụng việc có các mối quan hệ tốt với tụi con gái, cộng thêm việc giỏi thể thao, để nắm gọn tụi con trai trong lòng bàn tay tôi. Ồ, và thỉnh thoảng, bạn cũng phải đấm một đứa nào đó. Tôi cũng làm cả cái đó nữa".

Ngày hôm nay Alex có một tác phong làm việc thân thiện, dễ gần, huýt-sáo-khi-làm-việc. Tôi chưa bao giờ thấy anh ở trong tâm trạng xấu. Nhưng bạn sẽ thấy sự hung hăng tự-dạy-mình của anh ấy thế nào nếu bạn có bao giờ thử chống đối lại anh trên bàn đàm phán. Và bạn sẽ thấy bản thể hướng nội của anh ấy, nếu bạn có bao giờ có kế hoạch dùng bữa tối một lần với anh.

"Tôi thực sự có thể sống hàng nhiều năm trời không cần có bất cứ một người bạn nào, ngoại trừ vợ và các con tôi", anh nói. "Cứ thử nhìn cậu với tôi mà xem. Cậu là một trong số những người bạn thân nhất của tôi, và có bao nhiêu lần chúng ta thực sự nói chuyện-khi cậu gọi tôi nào! Tôi không thích giao thiệp. Mơ ước của tôi là được sống biệt lập trên một mảnh đất hàng nghìn mẫu với chỉ gia đình tôi. Bạn sẽ không bao giờ thấy một đội các thể loại bạn bè trong giấc mơ đó của tôi đâu. Vậy nên bất chấp bất kể thứ gì cậu nhìn thấy nơi diện mạo xã hội của tôi, tôi là một kẻ hướng nội. Tôi nghĩ rằng về bản chất tôi vẫn là con người như trước giờ tôi vẫn luôn là. Nhút nhát rụt rè đến kinh hoàng, nhưng tôi đã có cách để bù đắp được cho nó".

Nhưng bao nhiêu trong số chúng ta thực sự có khả năng hành động vượt ra ngoài tính cách đến được mức độ như vậy (tạm thời, hãy bỏ qua câu hỏi rằng liệu bạn có muốn làm thế hay không?). Giáo sư Little tình cờ là một nhà biểu diễn cực kỳ tài giỏi, và rất nhiều CEO của các công ty lớn cũng vậy. Thế còn những người còn lại thì sao?

Một vài năm trước, một nhà tâm lý học nghiên cứu (research psychologist) tên Richard Lippa quyết tâm tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi này. Ông gọi một nhóm những người hướng nội tới phòng thí nghiệm của mình và nhờ họ cư xử như những người hướng ngoại trong khi giả vờ đang dạy một giờ toán. Rồi sau đó ông và các đồng nghiệp của mình, với máy quay phim trong tay, đo lại độ dài các sải bước của họ, lượng giao tiếp bằng mắt họ thực hiện với các "học sinh", tỷ lệ thời gian họ dành để nói chuyện, tốc độ và âm lượng khi nói của họ, và độ dài tổng cộng của mỗi buổi học. Họ cũng đồng thời đánh giá xem về tổng quát, đối tượng đã tỏ ra hướng ngoại được đến thế nào, dựa vào giọng nói và ngôn ngữ cơ thể của họ.

Và rồi Lippa lặp lại chính xác quy trình đó, lần này với những người hướng ngoại thực thụ, và so sánh các kết quả. Ông khám phá ra rằng dù cho nhóm sau có tạo ra ấn tượng hướng ngoại hơn, một vài trong số các kẻ-hướng-ngoại-giả-vờ vẫn thực sự đã diễn một cách thuyết phục đến bất ngờ. Có vẻ như là hầu hết chúng ta đều biết đóng giả đến một mức độ nào đấy. Bất kể chúng ta có nhận thức được hay không việc độ dài các sải bước của chúng ta, hay lượng thời gian chúng ta dành để nói chuyện và mỉm cười đánh dấu chúng ta là người hướng nội hay hướng ngoại; thì chúng ta vẫn biết các điều đó một cách vô thức.

Mặc dù vậy, chúng ta cũng chỉ có thể khống chế việc tự-thể-hiện-bản-thân này đến một giới hạn nhất định. Điều này một phần là bởi một hiện tượng có tên "rò rỉ hành vi" (behavioral leakage) của chúng ta; trong đó, bản chất thật của chúng ta bị rò rỉ ra ngoài thông qua những ngôn ngữ cử chỉ vô thức: một cái nhìn ra ngoài thoáng chút lơ đãng, vào cái lúc mà nếu là một người hướng ngoại thực sự sẽ phải giữ ánh nhìn thẳng vào mắt khán giả; hoặc một bước chuyển khéo léo trong cuộc đối thoại để đẩy gánh nặng của việc nói sang cho người khán giả, trong khi nếu là một người hướng ngoại thực sự, người diễn giả hẳn sẽ phải muốn giữ quyền được nói lâu hơn một chút nữa.

Vậy thì làm thế nào mà một vài trong số những kẻ giả-vờ-là-người-hướng-ngoại của Lippa có thể tới gần với mức điểm số của những người hướng ngoại thực thụ đến vậy? Hóa ra, những người hướng nội mà đặc biệt giỏi trong việc đóng giả người hướng ngoại thường có điểm số rất cao trong một nét tính cách mà các nhà tâm lý học gọi là "tự-giám-sát-bản-thân" (self-monitoring). Những người tự-giám-sát-bản-thân rất thành thục trong việc tự điều chỉnh hành vi của bản thân theo như yêu cầu giao tiếp của tình huống. Họ tìm kiếm những dấu hiệu để chỉ cho họ nên hành xử như thế nào. Khi ở Rome, họ sẽ cư xử như người Rome; như cách nhà tâm lý học Mark Snyder, tác giả của các cuốn sách "Diện Mạo Công Cộng" (Public Appearances), Thực Tại Riêng Tư (Private Realities), và là người sáng lập ra Thang Đo Mức Độ Tự-giám-sát-bản-thân (Self-Monitoring Scale), đã nói.

Một trong những người tự-giám-sát-bản-thân một cách hiệu quả nhất mà tôi từng biết là một người đàn ông tên Edgar, một nhân vật nổi tiếng và rất được quý mến trong xã hội New York. Ông và vợ đều đặn cả tổ chức lẫn tham dự rất nhiều những buổi gây quỹ lớn, tham gia các sự kiện xã hội khác gần như mọi buổi tối trong tuần. Ông là loại người thành-đạt-mà-lập-dị (enfant terrible) với những "chiêu trò" quái đản luôn là chủ đề bàn tán ưa thích của mọi người. Nhưng Edgar lại là một người công khai thừa nhận mình là người hướng nội. "Tôi thà ngồi đọc sách và nghĩ ngợi về các thứ còn hơn rất nhiều phải tiếp chuyện với mọi người", ông bảo.

Ấy vậy nhưng tiếp chuyện với mọi người là một việc ông làm rất thường xuyên. Edgar được nuôi lớn trong một gia đình cực kỳ quảng giao, những người kỳ vọng ông phải biết tự-giám-sát-bản-thân, và ông được thôi thúc làm điều đó. "Tôi yêu thích chính trị", ông nói. "Tôi thích các chính sách, thích việc khiến mọi thứ xảy ra, tôi muốn thay đổi thế giới theo cách của riêng tôi. Vậy nên tôi cố ý làm những thứ trái tự nhiên kiểu thế. Tôi không thật sự thích làm khách tại một bữa tiệc của ai đó, bởi vì khi đó tôi phải tỏ ra hoạt náo, hấp dẫn. Nhưng tôi sẽ tổ chức những bữa tiệc của riêng mình, vì nó đặt anh ở ngay tâm điểm của mọi thứ, mà anh hoàn toàn không cần phải là một người quảng giao chút gì cả".

Nhưng khi ông phải có mặt ở các bữa tiệc của những người khác, Edgar sẽ đi rất xa để đóng thật đạt vai của mình. "Suốt cả những năm đại học, và thậm chí tới cả gần đây, trước mỗi khi tôi tới một bữa tối hay một tiệc rượu cocktail, tôi sẽ thủ sẵn một tấm thẻ giấy nhỏ, trên đó ghi khoảng ba đến năm câu chuyện vui hóm hỉnh, có liên quan đến bối cảnh xung quanh. Tôi sẽ nghĩ ra chúng trong một ngày trước đó-nếu có ý tưởng nào xuất hiện, tôi sẽ ghi chúng lại. Rồi, đến bữa tiệc đó, tôi sẽ đợi đến đúng thời cơ thích hợp và tung chúng ra. Đôi lúc tôi phải kiếm cớ lỉnh vào nhà vệ sinh và lôi đám thẻ giấy này ra để học thuộc lại những câu chuyện nhỏ nhỏ của mình".

Dù vậy, dần dần, Edgar cũng thôi không mang những tấm thẻ giấy tới các bữa tiệc nữa. Ông vẫn tự coi mình là một người hướng nội, nhưng đã hòa nhập quá sâu vào vai diễn hướng ngoại của mình đến độ việc kể chuyện vui bắt đầu tới với ông một cách tự nhiên. Quả thực vậy, những người tự-giám-sát-bản-thân nhiều nhất không chỉ thường giỏi trong việc tạo ra hiệu quả và cảm xúc như mong muốn trong một tình huống nhất định-họ còn đồng thời ít căng thẳng hơn khi làm thế nữa.

Đối ngược lại với những Edgar của thế giới, những người ít tự-giám-sát-bản-thân lại xây dựng hành vi của mình dựa trên chiếc la bàn nội tại của chính họ. Họ có số lượng hành vi cũng như số mặt nạ xã hội sẵn có trong tay ít hơn nhiều. Họ ít nhạy cảm hơn với các dấu hiệu giao tiếp (thứ có thể nhắc họ nên làm gì thì sẽ thích hợp hơn với cuộc giao tiếp), như việc bạn được kỳ vọng sẽ kể bao nhiêu câu chuyện vui tại một bữa tiệc tối; cũng như ít hứng thú hơn với việc đóng-vai, kể cả khi họ nhận biết được các dấu hiệu giao tiếp. Cứ như thể những người ít tự-giám-sát-bản-thân (low self-monitors, hay LSM) và những người hay tự-giám-sát-bản-thân (high self-monitors, hay HSM) hợp với những đối tượng khán giả khác nhau, như Snyder đã nói: một người là các đối tượng bên trong, người còn lại hướng ra các đối tượng bên ngoài.

Nếu bạn muốn biết mức độ tự-giám-sát-bản-thân của mình mạnh đến đâu, dưới đây là một vài câu hỏi trong Thang Đo Mức Độ Tự-giám-sát-bản-thân của Snyder.

·

Khi bạn không chắc liệu nên hành xử thế nào trong một tình huống giao tiếp nhất định, bạn có quan sát cách cư xử của những người xung quanh không?

·

Bạn có hay tìm kiếm lời khuyên từ bạn bè trong việc chọn phim, sách hay nhạc không?

·

Bạn có hay cư xử rất khác nhau trong các tình huống khác nhau, hay với những nhóm người khác nhau không?

·

Bạn có thấy bắt chước người khác là một việc khá dễ dàng với bạn không?

·

Bạn có bao giờ lừa gạt người khác bằng cách tỏ ra thân thiện, trong khi thực ra có thể bạn không ưa họ chút nào?

·

Bạn có hay "diễn trò" để gây ấn tượng, hay để tạo tiếng cười khi giao tiếp với người khác không?

·

Có phải đôi lúc bạn hiện ra trong mắt người khác như một kẻ phải trải qua những cảm xúc sâu sắc, mãnh liệt hơn nhiều những gì bạn thực sự trải qua?

Càng trả lời "có" với những câu hỏi này nhiều, mức độ tự-giám-sát-bản-thân của bạn càng cao.

Giờ bạn hãy tự hỏi bản thân những câu hỏi này xem:

·

Có phải các hành động và lời nói của bạn nói chung thường là đại diện cảm xúc, thái độ, hay niềm tin thực sự bên trong của bạn?

·

Bạn có bao giờ cảm thấy rằng bạn chỉ có thể tranh cãi cho những ý tưởng bạn đã tin vào từ trước?

·

Có phải bạn thường từ chối thay đổi ý kiến, hay cách làm việc của mình nếu chỉ để làm vừa lòng ai đó, hoặc khiến họ có cảm tình hơn với bạn?

·

Bạn có ghét những trò chơi như charades (một người chơi dùng điệu bộ, cử chỉ diễn lại một từ ngữ bí mật, để cho các người chơi khác đoán xem từ đó là gì), hay diễn kịch ứng tác (diễn kịch không kịch bản, người diễn tự ứng biến ra nội dung ngay trong khi diễn)?

·

Bạn có gặp hay khó khăn không trong việc thay đổi cách nói năng, hành xử của mình cho phù hợp với những nhóm người khác nhau và các hoàn cảnh khác nhau?

Bạn càng có xu hướng trả lời "có" cho những câu hỏi trong nhóm thứ hai này nhiều, bạn có mức độ tự-giám-sát-bản-thân càng thấp.

Khi giáo sư Little giới thiệu ý tưởng về việc tự-giám-sát-bản-thân với các lớp học về tâm lý học tính cách của ông, một số sinh viên đã tranh luận rất hăng về việc liệu làm một người tự-giám-sát-bản-thân có đạo đức hay không. Một số cặp đôi "lẫn lộn"-người HSM và LSM yêu nhau-thậm chí đã chia tay vì điều này, ông nghe mọi người nói lại vậy. Với những người hay tự-giám-sát-bản-thân, những người ít tự-giám-sát-bản-thân có vẻ quá cứng nhắc và vụng về trong giao tiếp. Với những người ít tự-giám-sát-bản-thân, những ai hay tự-giám-sát-bản-thân có thể hiện lên như là những kẻ luôn sẵn lòng tuân thủ, thiếu chính kiến và dối trá-"họ thực dụng nhiều hơn là nguyên tắc", theo lời của Mark Snyder. Quả thực vậy, những người HSM đã được chứng minh là giỏi nói dối hơn những người LSM, một điêu có vẻ ủng hộ cho quan điểm về đạo đức của những người ít tự-giám-sát-bản-thân.

Nhưng Little, một người đàn ông tốt bụng, mực thước về đạo đức lại tình cờ là một người cực kỳ hay tự-giám-sát-bản-thân, lại có cái nhìn khác. Ông coi việc tự-giám-sát-bản-thân là một hành vi thể hiện sự khiêm tốn. Nó là về việc thích nghi bản thân với những tiêu chuẩn thông thường của hoàn cảnh, hơn là "kéo mọi thứ về nhu cầu và quan tâm của riêng mình". Không phải tất cả mọi hành động tự-giám-sát-bản-thân đều chỉ là diễn kịch, ông nói, hay đều là để kiểm soát môi trường xung quanh. Một phiên bản hướng nội hơn của nó có thể không phải là để tìm-kiếm-sự-chú-ý, mà là để tránh những tình huống gây xấu hổ trong giao tiếp xã hội. Khi giáo sư Little thực hiện được một bài nói tuyệt vời, đó một phần là vì ông đã tự-giám-sát-bản-thân từng khoảnh khắc một, liên tục kiểm tra các khán giả của mình để phát hiện ngay từng dấu hiệu vui thích, hoặc chán chường dù là nhỏ nhất, để từ đó điều chỉnh việc thuyết trình của ông cho phù hợp.

Vậy nếu bạn có thể đóng giả, nếu bạn có thể làm chủ kỹ năng diễn xuất, có thể chú tâm đến từng biến đổi nhỏ nhất trong cuộc giao tiếp, và nếu bạn sẵn sàng thuận theo những tiêu chuẩn giao tiếp thông thường mà việc tự-giám-sát-bản-thân yêu cầu; câu hỏi đặt ra là: liệu bạn nên làm thế không? Câu trả lời là: chiến lược Nét Tính Cách Tự Do có thể đạt hiệu quả khi được dùng hợp lý, nhưng sẽ là thảm họa nếu dùng quá độ.

Gần đây tôi có tham gia một buổi nói chuyện cùng một nhóm các khách mời tại Đại học Luật Harvard. Buổi phát biểu này nằm trong chuỗi sự kiện kỷ niệm 55 năm ngày phụ nữ được nhận vào trường học Luật. Các nữ cựu học sinh từ khắp nơi trên cả nước tập hợp về trường để cùng chúc mừng. Chủ đề của bài nói là "Với một Giọng Nói Khác: Những Chiến Lược để Tự Trình Diễn Bản Thân Một Cách Hiệu Quả" ("In a Different Voice: Strategies for Powerful Self-Presentation"). Có bốn diễn giả: một luật sư bào chữa, một thẩm phán, một huấn luyện viên chuyên về đào tạo kỹ năng nói trước đám đông, và tôi. Tôi đã chuẩn bị những ý kiến của mình một cách kỹ lưỡng; tôi biết vai diễn mà mình muốn đóng là gì.

Vị huấn luyện viên kỹ năng nói-trước-đám-đông bắt đầu trước. Cô phát biểu về việc làm thế nào để thực hiện một bài nói có thể khiến người nghe phải bất ngờ, choáng ngợp. Vị thẩm phán, một người Mỹ gốc Hàn, nói về sự khó chịu đến thế nào khi mọi người luôn mặc định rằng người gốc châu Á luôn trầm tính và chỉ biết có học, trong khi sự thực thì cô là một người rất hoạt bát, năng nổ và quả quyết. Vị luật sư, một cô gái có cơ thể nhỏ bé, mái tóc vàng và hăng hái tranh luận đến đáng kinh ngạc, thì kể về một lần khi cô thẩm vấn nhân chứng trước tòa đã hăng tới mức quan tòa phải can thiệp "Lùi lại một chút đi, cô hổ!" ("Back down, tiger!").

Khi tới lượt tôi, tôi nhắm các ý kiến của mình tới những người phụ nữ nhất định trong số khán giả, những người không tự nhìn mình như những cô hổ, như những kẻ hoạt-bát-năng-nổ-quả-quyết, hay những người khiến người khác phải "bất ngờ, choáng ngợp". Tôi nói rằng năng lực thương thuyết và đàm phán không phải là thứ bẩm sinh, như màu tóc vàng hay hàm răng thẳng, và rằng nó không chỉ độc quyền thuộc về những người lên-giọng-và-đấm-xuống-mặt-bàn hùng hổ. Bất cứ ai cũng có thể là một nhà đàm phán xuất sắc, tôi nói với họ, và sự thực là thường sẽ có lợi hơn khi bạn tĩnh lặng và lịch sự, khi bạn lắng nghe nhiều hơn là nói, và khi bạn ưa thích sự hài hòa hơn là mâu thuẫn. Với phong cách này, bạn có thể chủ động tấn công mà vẫn không làm kích động đến cái tôi của đối tác của bạn. Và bằng cách lắng nghe, bạn có thể hiểu ra được điều gì đang thực sự thôi thúc người đang đàm phán với bạn, và có thể đưa ra những giải pháp sáng tạo có thể làm hài lòng cả hai bên.

Tôi cũng đồng thời chia sẻ một vài mẹo tâm lý để cảm thấy bình tĩnh và tự tin hơn trong những tình huống đáng sợ, như là chú ý đến vẻ mặt và tư thế cơ thể của bạn khi bạn cảm thấy thực sự tự tin, và rồi áp dụng lại đúng những tư thế đó khi bạn cần tỏ ra tự tin. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng áp dụng những thay đổi nhỏ về cơ thể này-như mỉm cười chẳng hạn-giúp chúng ta thấy mạnh mẽ và hạnh phúc hơn, trong khi nhăn nhó sẽ khiến chúng ta cảm thấy tệ đi.

Như một lẽ tự nhiên, khi buổi nói chuyện kết thúc và các khán giả tới gần để nói chuyện thêm với các diễn giả, chính những người hướng nội và giả-vờ-hướng-ngoại đã tìm đến tôi. Trong số họ, có hai người mà tôi đặc biệt nhớ nhất.

Người đầu tiên là Alison, một luật sư bào chữa. Alison có một vóc người thon thả và phục sức, kiểu tóc đều được chăm sóc rất kỹ lưỡng; nhưng khuôn mặt cô thì nhợt nhạt, và có vẻ không vui. Cô đã là một luật sư biện hộ cho cùng một hãng luật đã được hơn mười năm rồi. Giờ cô đang xin ứng cử vào vị trí tổng tư vấn pháp lý (general counsel) cho hàng loạt công ty lớn, điều có vẻ là một bước đi tiếp theo rất hợp lý, chỉ trừ có một việc rằng tình cảm của cô rõ ràng không để ở đó. Và dĩ nhiên, cô không nhận được một lời mời nhận việc nào. Với trình độ và năng lực của bản thân, cô luôn dễ dàng tiến vào được đến vòng phỏng vấn cuối cùng, nhưng đều chỉ để bị loại ra ngay phút cuối. Và cô biết lý do tại sao, đó là vì những người đứng đầu công việc tuyển dụng cô đã từng tham gia phỏng vấn với đều cho cô cùng một phản hồi giống hệt nhau: cô thiếu một tính cách phù hợp cho công việc này. Alison, một người tự-miêu-tả-bản-thân là hướng nội, có vẻ đau khổ khi cô kể lại về phán quyết gay gắt đó.

Người cựu học sinh thứ hai, Jillian, giữ một vị trí cấp cao tại một tổ chức bảo vệ môi trường mà cô rất yêu quý. Jillian hiện lên như một người hiền lành, vui vẻ, và rất bình dị. Cô may mắn được dành hầu hết thời gian của mình nghiên cứu và viết những giấy tờ chính sách về các chủ đề mà cô thực sự quan tâm tới. Dù vậy, đôi lúc, cô cũng phải tham gia các cuộc họp với hội đồng, và phải thuyết trình. Mặc dù cô cảm thấy hết sức thỏa mãn sau những cuộc họp này, cô không thích thú lắm với vị trí trung tâm của sự chú ý, và muốn xin lời khuyên của tôi về việc làm thế nào để giữ vẻ ngoài bình tĩnh, tự nhiên khi cô cảm thấy sợ.

Đâu là sự khác biệt giữa Alison và Jillian? Cả hai đều là những người giả-vờ-hướng-ngoại (pseudo-extrovert), và bạn có lẽ sẽ nói rằng Alison đang cố gắng nhưng vẫn thất bại, trong khi Jillian thì đang thành công. Nhưng vấn đề thực sự của Alison lại là ở chỗ cô đang cố hành xử vượt ra khỏi tính cách thật của mình chỉ để phục vụ cho những dự án cô không thực sự quan tâm tới. Cô không thích luật. Cô đã chọn trở thành một luật sư biện hộ chỉ vì cô thấy có vẻ đây là việc những người luật sư thành công và xuất sắc nhất làm, vậy nên sự giả-vờ-hướng-ngoại của cô không hề được hỗ trợ bởi những giá trị tinh thần sâu sắc hơn. Cô không tự bảo mình rằng "Mình đang làm cái này là để thúc đẩy những công việc mà mình thực sự quan tâm sâu sắc tới", và "khi nào xong cái công việc này, mình sẽ quay trở lại với tính cách thật của mình". Thay vào đó, cô lại tự tâm niệm với bản thân: "Con đường tới thành công phải là trở thành dạng người không phải mình". Đây không còn là sự tự-giám-sát-bản-thân nữa, đây là sự tự-chối-bỏ-bản-thân. Trong khi Jillian hành động vượt ra khỏi tính cách thật của mình vì những công việc xứng đáng, mà tạm thời cần đến một sự định hướng khác; Alison lại thực sự tin rằng có gì đó sai lầm từ trong bản chất với việc là chính bản thân mình.

Hóa ra, không phải lúc nào cũng dễ dàng để nhận diện được các các dự án cá nhân cốt lõi của bản thân mình. Và nó có thể đặc biệt khó khăn với những người hướng nội, những người đã dành phần lớn thời gian trong cuộc đời họ cố thay đổi bản thân theo tiêu chuẩn hướng ngoại, đến độ khi họ phải chọn một sự nghiệp, hoặc một nghĩa vụ cá nhân, họ hoàn toàn cảm thấy ổn với việc bỏ qua hoàn toàn sở thích thật sự của bản thân. Họ có thể sẽ không thấy thoải mái ở trường luật hay trường y, hay ở bộ phận marketing của một công ty, nhưng cũng chẳng khó chịu gì hơn cảm giác không thoải mái mà họ đã quen trải qua từ trường phổ thông ngày trước, hay ở các trại nghỉ hè.

Tôi, cũng vậy, đã một thời từng ở trong vị trí này. Tôi rất thích được hoạt động trong lĩnh vực luật, và đã có thời điểm tôi thuyết phục được bản thân mình rằng tôi thực sự muốn làm một luật sư biện hộ. Tôi cực kỳ muốn tin vào điều đó, bởi đến lúc đó tôi đã đầu tư hàng nhiều năm vào việc học tại đại học luật và thực tập tại các công ty; và cũng có rất nhiều điều về luật ở phố Wall có sức hấp dẫn lớn với tôi. Các đồng nghiệp của tôi là những người giàu tri thức, hiền lành, và cẩn trọng (hầu hết). Tôi có một mức lương khá tốt. Tôi có một văn phòng trên tầng thứ bốn mươi hai của một cao ốc chọc trời, với tầm nhìn ra tượng đài Nữ thần Tự Do. Tôi thich thú tận hưởng cái ý nghĩ rằng mình có thể thành công trong một môi trường đầy năng động thế này. Và tôi cũng khá giỏi trong việc hỏi những câu "nhưng" và "nếu thế thì sao", những thứ rất quan trọng trong quá trình suy nghĩ của hầu hết mọi luật sư.

Phải mất đến gần một thập kỷ tôi mới nhận ra rằng luật chưa bao giờ là dự án cá nhân của tôi, chưa bao giờ, dù chỉ suýt soát. Ngày nay, tôi có thể nói với bạn không một chút chần chừ rằng thứ gì mới là các dự án cá nhân cốt lõi của tôi: chồng và các con tôi; việc viết lách; và khuyến khích các giá trị được nhắc đến trong cuốn sách này. Một khi tôi đã nhận ra điều đó, tôi phải thay đổi. Tôi nhìn lại những năm tháng làm một luật sư phố Wall của mình như thể nhìn về quãng thời gian tôi đã sống ở một nước khác. Nó rất lôi cuốn, rất hấp dẫn, và tôi đã có cơ hội được gặp rất nhiều người thú vị mà nếu làm khác chắc chắn tôi sẽ không bao giờ có thể biết họ. Nhưng tôi vẫn luôn luôn là một kẻ không được sống ở nơi thực sự của mình.

Đã dành rất nhiều thời gian tự định hướng cho việc chuyển đổi sự nghiệp của mình, cũng như đã tư vấn cho rất nhiều người trải qua các giai đoạn chuyển đổi sự nghiệp của họ; tôi nhận ra rằng có ba bước quan trọng để nhận diện được các dự án cá nhân cốt lõi của riêng bạn:

Đầu tiên, hãy nghĩ lại về những gì bạn từng thích làm khi còn nhỏ. Bạn đã trả lời câu hỏi "sau này lớn lên mình muốn làm gì" như thế nào? Câu trả lời cụ thể mà bạn đưa ra có thể trật lất hết, nhưng niềm ước muốn ẩn giấu đằng sau nó thì không. Nếu bạn đã muốn làm một người lính cứu hỏa, vậy việc làm lính cứu hỏa có ý nghĩa gì đối với bạn? Một người tốt luôn giải cứu những ai đang gặp nạn? Một kẻ không sợ hãi chút gì trước hiểm nguy? Hay chỉ đơn giản là cảm giác thích thú khi được lái chiếc xe tải chữa cháy? Nếu bạn đã muốn làm một vũ công, có phải là vì bạn sẽ được mặc đồ đẹp, hay vì bạn khao khát tiếng vỗ tay tán thưởng, hay đó chỉ đơn giản vì niềm vui được lượn múa qua lại với tốc độ nhanh đến chóng mặt? Có khi bạn của hồi đó đã biết nhiều hơn về bản thân bạn hơn là bạn của bây giờ đấy.

Thứ hai, hãy để tâm tới công việc khiến bạn bị thu hút nhất. Ở hãng luật cũ của tôi, tôi chưa một lần nào tình nguyện tham gia một vụ tranh tụng luật doanh nghiệp nào, nhưng tôi lại đã dành rất nhiều thời gian làm công việc miễn phí cho một tổ chức phi lợi nhuận về khả năng lãnh đạo của nữ giới. Tôi cũng đồng thời tham gia vào vài hội đồng của hãng luật với nhiệm vụ đào tạo, rèn luyện, và phát triển các luật sư trẻ cho hãng. Giờ, chắc bạn cũng có thể đoán từ cuốn sách này, tôi không phải dạng người thích hợp với những hội đồng. Nhưng mục tiêu của những hội đồng này thúc đẩy tôi, vậy nên tôi đã làm như thế.

Cuối cùng, hãy để tâm tới những gì khiến bạn ghen tỵ. Đố kỵ hay ghen tỵ là một thứ cảm xúc xấu xí, nhưng nó nói lên sự thật. Bạn hầu hết sẽ ghen tỵ với những ai có thứ mà bạn thèm muốn. Tôi đã đối mặt với sự ghen tỵ của riêng mình sau khi một vài trong số các bạn cùng lớp tại đại học luật ngày trước của tôi tụ tập lại và so sánh thành tích về sự nghiệp giữa các cựu học sinh. Họ nói với sự ngưỡng mộ, và phải, cả ghen tỵ nữa, khi kể về một người bạn cùng lớp hiện giờ đang thường xuyên được biện hộ ở Tòa Án Tối Cao (Supreme Court). Phản ứng đầu tiên của tôi là không tán thành. Cô ấy càng có nhiều uy quyền thì càng tốt cho cô ấy chứ sao! Có gì mà ghen tỵ! Tôi nghĩ vậy, và tự đắc ý với bản thân vì sự cao thượng của mình. Nhưng rồi tôi nhận ra sự hào phóng của tôi cũng đến rất là rẻ mạt thôi, bởi ngay từ đầu tôi cũng đã chẳng có ước muốn được làm luật sư biện hộ ở Tòa Án Tối Cao, hay thậm chí là làm bất cứ cái gì liên quan đến nghề luật sư rồi. Khi tôi tự hỏi bản thân mình là thế ai mới là người khiến tôi ghen tỵ, câu trả lời đến ngay tức khắc. Đó là những người bạn học đại học cũ của tôi giờ đã trở thành những tác giả sách hay những nhà tâm lý học. Ngày nay, tôi đang theo đuổi một phiên bản của riêng mình ở cả hai vai trò này.

Nhưng kể cả nếu bạn có kéo dãn bản thân ra để phục vụ cho một dự án cá nhân cốt lõi, bạn cũng sẽ không muốn hành động vượt ra ngoài tính cách quá nhiều, hoặc trong thời gian quá dài. Bạn có còn nhớ những cuộc "trốn chạy" tới nhà vệ sinh giữa mỗi bài nói chuyện của giáo sư Little không? Những cuộc bỏ trốn đó nói với chúng ta rằng: nghịch lý thay, cách tốt nhất để hành động vượt ra ngoài tính cách là trung thành với con người thật của bạn đến hết mức có thể-bắt đầu bằng việc tạo ra càng nhiều "điểm hồi phục" ("restorative niche") càng tốt trong cuộc sống hàng ngày của bạn.

"Điểm hồi phục" là từ ngữ giáo sư Little dùng để chỉ nơi mà bạn tới khi bạn muốn trở về với con người thật của mình. Nó có thể là một không gian vật lý, ví dụ như một con đường bên bờ sông Richelieu, hoặc một thứ về mặt tinh thần, như những khoảng nghỉ yên tĩnh bạn dành cho mình giữa những phiên bán hàng qua điện thoại. Nó có thể có nghĩa là hủy bỏ những kế hoạch giao thiệp của bạn vào dịp cuối tuần trước một buổi họp quan trọng tại chỗ làm; tập luyện yoga hoặc thiền; hay lựa chọn việc trao đổi qua email thay vì gặp gỡ trực tiếp tại công ty. (Kể cả với những người con gái thời nữ hoàng Victoria, những người mà công việc luôn là phải sẵn sàng dành thời gian cho gia đình và bạn bè, cũng được kỳ vọng là phải rút lui về để nghỉ ngơi mỗi buổi chiều).

Bạn lựa chọn điểm hồi phục khi bạn trở về với văn phòng riêng của mình và khép chặt cửa lại (nếu bạn đủ may mắn để có một văn phòng riêng) trong khoảng nghỉ giữa các cuộc họp. Bạn thậm chí có thể tạo ra một điểm hồi phục ngay giữa một cuộc họp, bằng cách cẩn thận lựa chọn nơi bạn sẽ ngồi, và khi nào cũng như bằng cách nào bạn sẽ tham gia vào cuộc bàn luận. Trong cuốn hồi ký của mình, "Trong một thế giới không chắc chắn" (In an Uncertain World), Robert Rubin, Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ (treasury secretary) dưới thời tổng thống Bill Clinton, miêu tả lại cách ông "luôn muốn ở thật xa vị trí trung tâm, bất kể có là ở trong Phòng Bầu dục hay trong văn phòng của một nhà lãnh đạo cấp cao nào đấy, chỗ ngồi quen thuộc của tôi vẫn là ở tận phía cuối bàn họp. Cái khoảng cách vật lý xa xa một chút đó khiến tôi cảm thấy thoải mái hơn, và cho phép tôi đọc được bầu không khí của căn phòng, và bình luận từ một góc nhìn hơi xa cách một chút. Tôi không lo lắng lắm về chuyện bị bỏ qua. Bất kể vị trí đứng hay ngồi của bạn có xa cách đến thế nào đi nữa, bạn vẫn luôn có thể nói, "Ngài Tổng thống, tôi nghĩ thế này, thế kia, hoặc thế nào đó".

Chúng ta đều có thể sẽ thu được lợi ích nếu, trước khi chấp nhận một công việc mới, chúng ta đánh giá sự có mặt (hoặc không có mặt) của những điểm phục hồi, với cùng một mức độ cẩn thận cũng như khi chúng ta cân nhắc về chế độ nghỉ thai sản hay kế hoạch bảo hiểm sức khỏe vậy. Những người hướng nội nên tự hỏi bản thân mình: Liệu công việc này có cho phép mình được dành thời gian cho những hoạt động trong vòng tính cách của mình không, ví dụ như đọc, lên kế hoạch, viết, hay làm nghiên cứu? Liệu mình sẽ có một không gian làm việc riêng tư chứ, hay sẽ phải là đối tượng cho những đòi hỏi liên tục từ một văn phòng mở? Nếu công việc không cho tôi đủ các điểm phục hồi, thì ít nhất liệu tôi cũng có thể có đủ thời gian rảnh vào các buổi tối hay các ngày nghỉ cuối tuần để tự thưởng chúng cho mình chứ?

Những người hướng ngoại cũng sẽ muốn tìm kiếm các điểm phục hồi nữa. Liệu công việc có bao gồm được nói chuyện, di chuyển, và gặp gỡ những người mới không? Liệu không gian làm việc có đủ kích thích không? Nếu công việc không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu này, thì ít nhất giờ giấc làm việc cũng đủ linh hoạt để tôi có thể đi xả hơi thoải mái sau mỗi giờ làm chứ? Hãy cân nhắc lời mô tả công việc thật cẩn thận. Một người phụ nữ đặc biệt hướng ngoại tôi phỏng vấn đã từng rất phấn khích về một vị trí "tổ chức cộng đồng" (community organizer) cho một trang web về cách nuôi dạy con cái, cho đến khi cô nhận ra rằng để làm công việc này, cô sẽ phải ngồi trước màn hình máy tính đủ tám tiếng mỗi ngày.

Cũng có những lúc mọi người tìm thấy điểm phục hồi ở những công việc họ ít ngờ đến nhất. Một trong các đồng nghiệp cũ của tôi là một luật sư biện hộ đã dành hầu hết thời gian của mình trong tĩnh lặng tuyệt đối để nghiên cứu và viết các biên bản pháp lý. Bởi vì hầu hết các vụ của cô đều được dàn xếp ổn thỏa cả, cô ít khi phải tới tòa tới mức cô chẳng bận tâm đến việc phải sử dụng các kỹ năng giả-vờ-hướng-ngoại của mình nữa. Một trợ lý quản lý hành chính nhân sự (administrative assistant) hướng nội khác tôi từng phỏng vấn thì đã mở rộng trải nghiệm văn phòng của mình thành một công việc làm-từ-xa-tại-nhà thông qua mạng Internet, cung cấp các dịch vụ thanh toán (clearinghouse) và tổ chức đào tạo, huấn luyện công tác trợ lý "qua mạng". Và trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ gặp một người bán hàng siêu sao, đã phá vỡ kỷ lục bán hàng của công ty ông suốt năm này qua năm khác bằng cách kiên định trung thành với con người hướng nội thực của mình. Cả ba người này đều đã chọn những ngành nghề chắc chắn rất hướng ngoại, và sáng tạo lại chúng bằng hình ảnh của chính họ, để họ có thể hành động trong vòng tính cách của mình nhiều nhất có thể, từ đó biến đổi rất hiệu quả mỗi ngày làm việc của họ thành một điểm phục hồi khổng lồ.

Nhưng, tìm kiếm những điểm phục hồi cũng không phải lúc nào cũng dễ dàng. Có thể bạn muốn được yên tĩnh đọc sách bên cạnh lò sưởi vào những tối thứ Bảy, nhưng giả sử nếu vợ bạn muốn dành thời gian những buổi tối cuối tuần đó để gặp gỡ những người bạn (trong số rất nhiều bạn bè) của cô ấy thì sao? Có thể bạn muốn rút lui về ốc đảo riêng của văn phòng mình giữa những phiên bán hàng qua điện thoại, nhưng sẽ thế nào nếu công ty của bạn vừa chuyển đổi thành một văn phòng mở? Nếu bạn có ý định luyện tập những nét tính cách tự do, bạn sẽ cần đến sự giúp đỡ từ bạn bè, gia đình, và các đồng nghiệp. Đó cũng là lý do tại sao giáo sư Little lại kêu gọi tất cả chúng ta, với sự tha thiết mãnh liệt, hãy cùng tham gia vào một "Thỏa thuận Về Nét Tính Cách Tự Do" ("a Free Trait Agreement").

Đây chính là miếng ghép cuối cùng cho Lý Thuyết Về Nét Tính Cách Tự Do. Một Thỏa thuận Về Nét Tính Cách Tự Do công nhận rằng mỗi chúng ta đều có những lúc phải cư xử vượt ra ngoài tính cách thật của mình-để đổi lấy việc chúng ta sẽ được là chính mình trong suốt quãng thời gian còn lại trong ngày. Sẽ là một Thỏa thuận Về Nét Tính Cách Tự Do nếu người vợ muốn đi chơi mỗi tối thứ Bảy và người chồng muốn thư giãn bên lò sưởi cùng vạch ra một thời gian biểu: một nửa thời gian chúng ta sẽ đi chơi, một nửa thời gian còn lại chúng ta sẽ ở nhà. Sẽ là một Thỏa thuận Về Nét Tính Cách Tự Do khi bạn có tới tham dự lễ tặng quà cho cô dâu (wedding shower), có tới tham dự lễ đính hôn, và có tới tham dự cả tiệc ăn mừng "chia tay độc thân" của người bạn hướng ngoại của bạn; nhưng cô ấy sẽ hiểu nếu bạn bỏ qua ba ngày tụ tập ngay trước ngày cưới của cô ấy, vì đó đã là giới hạn của bạn rồi.

Bạn thường sẽ có thể thương lượng về Thỏa thuận Về Nét Tính Cách Tự Do với bạn bè và người yêu của bạn, những người các bạn muốn chiều lòng và những người yêu con người thật, trong-vòng-tính-cách thật của bạn. Về công việc của bạn thì có hơi khó khăn hơn một chút, khi hầu hết các công ty vẫn chưa suy nghĩ theo cách này. Tạm thời, vào lúc này, có lẽ bạn sẽ phải tác động dần dần một cách gián tiếp. Nhà tư vấn sự nghiệp (career counselor) Shoya Zichy kể với tôi về câu chuyện của một trong những khách hàng của cô, một chuyên viên phân tích tài chính (financial analyst) hướng nội phải làm việc trong một môi trường nơi cô hoặc phải thuyết trình trước khách hàng, hoặc phải liên tục nói chuyện với các đồng nghiệp cứ đều đặn ra vào văn phòng của cô liên tục. Cô mệt mỏi tới mức đã tính tới chuyện nghỉ việc-cho đến khi Zichy gợi ý rằng cô nên thương lượng để có thêm thời gian nghỉ ngơi.

Giờ thì, người phụ nữ này làm việc cho một ngân hàng phố Wall, không phải một nền văn hóa thuận lợi cho một cuộc thảo luận thẳng thắn về nhu cầu của những người đặc biệt hướng nội. Vậy nên cô rất cẩn thận cân nhắc cách mình sẽ yêu cầu như thế nào. Cô nói với sếp của mình rằng bản chất công việc của cô-phân tích và lên chiến lược-đòi hỏi những quãng thời gian yên tĩnh để cô có thể tập trung. Một khi cô đã đưa yêu cầu của mình về mặt thực tế, sẽ dễ hơn để xin thứ cô cần về mặt tâm lý: hai ngày mỗi tuần không phải đến chỗ làm. Sếp của cô đồng ý.

Nhưng người mà bạn có thể ký một Thỏa thuận Về Nét Tính Cách Tự Do tốt nhất-sau khi đã vượt qua được sự chống trả của người đó-là chính bạn.

Hãy giả sử như bạn đang độc thân. Bạn không thích khung cảnh quán bar, nhưng bạn khát khao sự gần gũi thân mật, và bạn muốn ở trong một mối quan hệ lâu dài mà trong đó, bạn có thể chia sẻ những buổi tối ấm cúng và những cuộc nói chuyện dài với người bạn đời của bạn, với chỉ một vài người bạn thân. Để đạt được điều này, bạn tự thỏa thuận với bản thân rằng bạn sẽ bắt mình phải tới những sự kiện xã hội, vì chỉ bằng cách này bạn mới có thể hy vọng tìm thấy một người bạn tình và có thể giảm thiểu số lần bạn phải đi tham gia những sự kiện tụ tập thế này về lâu về dài. Nhưng trong khi theo đuổi mục tiêu này, bạn cũng sẽ chỉ tham gia các sự kiện xã hội nhiều đến khi nào bạn vẫn còn cảm thấy thoải mái với nó mà thôi. Bạn sẽ quyết định trước số lượng đó là gì-một lần một tuần, một lần một tháng, hay một lần một quý. Và khi bạn đã đáp ứng đủ mức chỉ tiêu này rồi, vậy thì bạn đã giành được một cách xứng đáng quyền được ở nhà mà không cần cảm thấy tội lỗi.

Hoặc có lẽ bạn đã luôn mơ về việc được xây dựng một công ty nhỏ của riêng mình, làm việc từ nhà để bạn có thể dành nhiều thời gian hơn cho bạn đời và các con của mình. Bạn biết bạn sẽ cần phải làm một số công tác tạo quan hệ, vậy nên bạn tạo lập một Thỏa thuận Về Nét Tính Cách Tự Do với chính mình: bạn sẽ đi tới một buổi sự kiện xã hội mỗi tuần. Tại mỗi sự kiện đó bạn sẽ có ít nhất một cuộc đối thoại thực sự (vì điều này đến với bạn dễ dàng hơn là "chiếm lĩnh cả căn phòng"), và tiếp tục cuộc nói chuyện với người đó vào ngày hôm sau. Sau đó, bạn sẽ được về nhà, và sẽ không cảm thấy tệ về bản thân nữa khi bạn khước từ những cơ hội tạo quan hệ đến sau đó.

Giáo sư Little biết quá rõ điều gì sẽ xảy ra khi bạn thiếu một Thỏa thuận Về Nét Tính Cách Tự Do với chính mình. Bên cạnh những cuộc dạo chơi tới bờ sông Richelieu hoặc các cuộc bỏ trốn tới nhà vệ sinh, ông từng một lần đã cố theo đuổi một lịch làm việc kết hợp những yếu tố kích thích năng lượng nhất của cả tính hướng nội lẫn tính hướng ngoại. Về mặt hướng ngoại, những ngày ấy của ông ấy bao gồm những buổi giảng và nói chuyện không ngừng nghỉ, các cuộc gặp gỡ với sinh viên, giám sát các buổi thảo luận nhóm, và viết tất cả những lá thư tiến cử đó. Về mặt hướng nội, ông đảm nhận những trách nhiệm đó một cách cực kỳ, cực kỳ nghiêm túc.

"Một cách để nhìn vào chuyện này", ông bảo, "là nói rằng tôi đã hành xử như một người cực kỳ hướng ngoại, nhưng, tất nhiên, nếu tôi là một người hướng ngoại thật tôi thì tôi đã chọn viết những lá thư tiến cử nhanh hơn, ít phức tạp hơn; đã không đầu tư thời gian nhiều đến thế vào việc chuẩn bị các bài giảng và phát biểu; và các sự kiện xã hội đã không làm tôi kiệt sức đến thế". Ông đồng thời cũng phải chịu đựng một lượng nhất định thứ mà ông gọi là "danh tiếng hiểu lầm" ("reputational confusion"), trong đó ông được biết đến như một người siêu hướng ngoại sôi nổi, và danh tiếng đó cứ tự nó lớn lên mãi. Đây là hình ảnh con người ông mà những người khác biết, vậy nên nó là hình ảnh mà ông cảm thấy mình có nghĩa vụ phải duy trì.

Dần dần, như một lẽ tự nhiên, giáo sư Little bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và kiệt sức, không chỉ về mặt tinh thần mà còn cả về mặt thể chất nữa. Nhưng không hề gì cả. Ông yêu các học sinh của mình, yêu lĩnh vực nghiên cứu của mình, ông yêu tất cả. Cho tới tận ngày ông phải nằm trong phòng khám bác sĩ với chứng bệnh viêm phổi kép (double pneumonia), ông vẫn còn quá bận rộn để có thể nhận ra. Vợ ông đã phải lôi ông tới đó bất chấp ông phản đối, và cũng may là bà đã làm thế. Theo lời bác sĩ, nếu chần chừ lâu thêm nữa, rất có thể ông đã mất mạng.

Chứng viêm phổi kép và một lịch làm việc quá tải có thể xảy đến với bất kỳ ai, tất nhiên, nhưng với Little, nó là hậu quả của việc cư xử vượt ra ngoài tính cách thật của mình quá lâu, mà lại không có đủ những điểm phục hồi. Khi sự tận tụy của bạn thúc ép bạn nhận lấy nhiều việc hơn mức bạn có thể đảm đương, hứng thú làm việc của bạn sẽ bắt đầu giảm đi hẳn, kể cả ở những công việc mà bình thường rất thu hút bạn. Bạn đồng thời cũng sẽ mạo hiểm cả sức khỏe thể chất của mình nữa. "Lao động cảm xúc" ("emotional labor"), tức lượng công sức chúng ta bỏ ra để điều khiển và thay đổi cảm xúc của chúng ta, có liên kết chặt chẽ với stress, sự mệt mỏi, và thậm chí cả những dấu hiệu thể chất như làm gia tăng nguy cơ các bệnh tim mạch nữa. Giáo sư Little tin rằng việc hành động vượt ra ngoài tính cách quá lâu có thể đồng thời còn làm gia tăng các hoạt động ở hệ thần kinh vô thức (autonomic nervous system), thứ, đến lượt nó, lại làm suy yếu các chức năng miễn dịch của cơ thể.

Một nghiên cứu đáng lưu tâm đã gợi ý rằng những người thường xuyên đè nén các cảm xúc tiêu cực thường không sớm thì muộn sẽ làm rò rỉ các cảm xúc này ra ngoài theo những cách không ngờ đến được nhất. Nhà tâm lý học Judith Grob đã từng yêu cầu mọi người che giấu cảm xúc thật của họ khi cô cho họ xem những hình ảnh các cảnh tượng kinh tởm. Cô thậm chí còn cho họ ngậm bút trong miệng để họ không cau mày. Cô phát hiện ra rằng nhóm này báo cáo lại rằng họ ít thấy kinh tởm hơn bởi các bức ảnh so với nhóm được thoải mái phản ứng một cách tự nhiên. Tuy vậy, sau đó, nhóm người phải che giấu cảm xúc thật của họ phải chịu đựng những phản ứng phụ. Trí nhớ của họ bị tổn thương, và những cảm xúc tiêu cực mà họ phải che giấu có vẻ đã ảnh hưởng tới quan điểm của họ. Ví dụ, khi Grob yêu cầu họ điền vào chỗ trống trong từ "gr_ss", họ có xu hướng cao hơn những người khác trong việc điền là "gross" (tức "kinh tởm"), thay vì "grass" (tức "cỏ"). "Những người thường [che giấu cảm xúc thật của họ] một cách thường xuyên", Grob kết luận, "có thể sẽ bắt đầu nhìn thế giới theo một cách tiêu cực hơn".

Đó là lý do tại sao những ngày này, giáo sư Little đang ở trong trạng thái phục hồi, nghỉ hưu khỏi công việc ở trường đại học, và thoải mái dành thời gian tại công ty của vợ ông tại căn nhà của họ ở một vùng nông thôn Canada. Little nói rằng vợ ông, Sue Phillips, giám đốc của Trường Chính Sách Công Cộng Và Quản Lý Nhân Sự tại Đại học Carleton (School of Public Policy and Administration at Carleton University), giống ông nhiều đến mức họ không cần một Thỏa thuận Về Nét Tính Cách Tự Do để điều hành mối quan hệ của họ. Nhưng Thỏa thuận Về Nét Tính Cách Tự Do của ông với chính ông thì có, nó cho ông được tiếp tục "làm những công việc học thuật và chuyên môn", nhưng không "ở lại quá nhiều hơn mức cần thiết".

Sau đó, ông sẽ trở về nhà và thu mình lại bên ngọn lửa lò sưởi ấm áp, cùng với Sue.

10

KHOẢNG CÁCH TRONG GIAO TIẾP (THE COMMUNICATION GAP)

Làm Thế Nào Để Nói Chuyện Với Người Có Dạng Tính Cách Đối Ngược Với Bạn

Sự gặp gỡ giữa hai dạng tính cách cũng giống như sự tiếp xúc giữa hai chất hóa học vậy; nếu có bất cứ phản ứng nào xảy ra, cả hai đều sẽ bị biến đổi.

-CARL JUNG

Nếu người hướng nội và người hướng ngoại là hai phương Bắc-Nam của tính cách-hai cực của cùng một phổ-vậy thì làm thế nào họ có thể hòa thuận với nhau được? Ấy vậy nhưng hai dạng người này lại rất hay thường bị thu hút tới với nhau-trong tình bạn, trong công việc, và đặc biệt là trong tình yêu. Những cặp đôi này có thể tận hưởng niềm thích thú lớn và sự ngưỡng mộ cao dành cho nhau, theo đúng nghĩa là người này giúp hoàn thiện người kia. Một bên thường lắng nghe, một bên thì hay nói; một người nhạy cảm với vẻ đẹp, nhưng cũng nhạy cảm với đầu rơi máu chảy, người còn lại thì vui vẻ lao cho hết ngày của mình; một người trả các hóa đơn, còn người kia thì sắp xếp lịch đi chơi của bọn trẻ. Nhưng nó cũng có thể tạo ra rắc rối, khi thành viên của các cặp khác dấu này đi theo những hướng đối nhau.

Greg và Emily là một ví dụ về một cặp hướng nội-hướng ngoại, rất yêu thương nhau và cũng rất hay làm cho nhau phải phát điên. Greg, người mới vừa tròn ba mươi, có cách đi nhún nhảy, một mái tóc đen dày liên tục rủ xuống trước mắt, và một nụ cười lớn luôn chỉ chực xuất hiện. Hầu hết mọi người đều miêu tả anh là một người quảng giao. Emily, một cô gái già dặn ở độ tuổi hai mươi bảy, thì lại khác; Greg hướng ra ngoài nhiều đến đâu thì cô độc lập, tách mình ra nhiều đến đấy. Lễ độ và ăn nói nhỏ nhẹ, cô thường cuốn mái tóc màu nâu đỏ của mình gọn ghẽ vào một búi tóc phía sau, và thường ngước lên nhìn mọi người từ dưới một ánh mắt thu mình.

Greg và Emily bù trừ cho nhau một cách tuyệt đẹp. Không có Greg, Emily có thể sẽ quên việc phải ra khỏi nhà, chỉ trừ để đến chỗ làm. Nhưng không có Emily, Greg có thể sẽ thấy-một cách khá là nghịch lý với một con người giao tiếp nhiều như anh-cô độc.

Trước khi họ gặp nhau, hầu hết các bạn gái của Greg đều là những người hướng ngoại. Anh nói anh thích thú các mối quan hệ kiểu đó, nhưng anh chưa bao giờ có cơ hội hiểu rõ được những người bạn gái của mình, bởi vì họ luôn bận rộn "lên kế hoạch gặp gỡ với vô số nhóm người". Anh nói về Emily với một cảm giác kính phục, như thể cô có thể tồn tại một cách sâu sắc hơn nhiều vậy. Anh đồng thời cũng miêu tả cô như là một chiếc mỏ neo để cả thế giới của anh chuyển động theo xung quanh đó.

Emily, đến phần mình, thì vô cùng quý trọng bản tính sôi nổi tự nhiên của Greg; anh khiến cô cảm thấy hạnh phúc và yêu cuộc sống này hơn. Cô đã luôn luôn bị người hướng ngoại thu hút, những người mà cô nói "đảm nhiệm hết mọi khó khăn của công việc bắt đầu một cuộc đối thoại. Với họ, nó hoàn toàn không phải là một việc khó khăn gì hết".

Vấn đề nằm ở chỗ trong gần như suốt năm năm của cuộc hôn nhân của họ, Greg và Emily đã có không phiên bản này thì phiên bản khác của cùng một cuộc cãi vã. Greg, một nhà tổ chức sự kiện âm nhạc (music promoter) với rất nhiều bạn bè, muốn tổ chức những bữa tiệc tối tại nhà mỗi thứ Sáu-những buổi tụ tập tự nhiên, không trịnh trọng, đầy hào hứng với hàng đống đĩa pasta và vô số những chai rượu vang. Anh đã quen với việc tổ chức những buổi tiệc-tối-ngày-thứ-Sáu thế này từ khi còn là sinh viên năm cuối đại học, với anh nó đã trở thành điểm nhấn quan trọng nhất trong một tuần, và là một phần quan trọng trong danh tiếng của anh.

Emily đã đi đến chỗ căm ghét những sự kiện hàng tuần như thế này. Là một luật sư đại diện chăm chỉ cho một bảo tàng nghệ thuật, và là một người rất ưa sự kín đáo, riêng tư, điều cuối cùng trên đời cô muốn làm khi trở về nhà là tham gia vào những sự kiện giải trí. Ý tưởng của cô về một khởi đầu hoàn hảo cho một kỳ nghỉ cuối tuần là một buổi tối yên tĩnh tại rạp chiếu phim, chỉ mình cô và Greg.

Đây dường như là một mâu thuẫn không thể nào giải quyết được: Greg muốn năm mươi hai bữa tiệc tối mỗi năm, Emily thì không muốn một bữa tiệc nào cả.

Greg nói rằng Emily nên nỗ lực cố gắng hơn nữa. Anh buộc tội cô là đang trở thành một kẻ khó gần, phản xã hội (anti-social). "Em không hề trốn tránh giao tiếp, hay phản xã hội", cô nói. "Em yêu anh, em yêu gia đình mình, và em có những người bạn thân của em. Em chỉ không yêu những bữa tiệc tối mà thôi. Người ta không liên kết được với nhau tại những bữa tiệc đó-họ chỉ giao thiệp mà thôi. Anh là người may mắn vì em dành trọn tất cả năng lượng của em cho anh. Còn anh, anh vung vãi năng lượng của mình ra khắp xung quanh cho tất cả mọi người".

Nhưng Emily sẽ sớm rút lui, một phần vì cô ghét cãi vã, nhưng cũng vì cô không thực sự chắc chắn vào bản thân. "Có lẽ mình đúng là trốn tránh giao tiếp, phản xã hội thật", cô nghĩ. "Có lẽ có gì đó không ổn ở mình". Mỗi lần cô và Greg tranh cãi về chuyện này, trong tâm trí cô lại tràn ngập trở lại những ký ức về những ngày còn nhỏ: về việc tới trường với cô đã khó khăn hơn rất nhiều so với cô em gái vững vàng hơn về mặt cảm xúc của cô như thế nào; về việc cô đã lo lắng hơn những người khác đến đâu về những vấn đề giao tiếp, như làm thế nào để có thể từ chối khi một ai đó mời cô đi chơi với tập thể sau giờ học trong khi cô chỉ muốn về nhà. Emily có rất nhiều bạn-cô luôn luôn có tài năng trong việc kết bạn-nhưng cô chưa bao giờ tụ tập đi lại cùng cả nhóm như nhiều người.

Emily đã thử đề xuất một sự thỏa hiệp: Sẽ thế nào nếu Greg có thể tổ chức những buổi tiệc tối của anh ấy thoải mái bất kể khi nào cô có việc phải đi vắng, hay trở về thăm em gái mình? Nhưng Greg không muốn tổ chức các bữa tiệc tối đó một mình. Anh yêu Emily và muốn ở bên cô, và tất cả mọi người khác cũng vậy, một khi họ đã có cơ hội hiểu cô. Vậy thì tại sao Emily lại phải rút lui?

Câu hỏi này, với Greg, không chỉ là về vấn đề về tình cảm. Việc phải ở một mình với anh như một loại

Kryptonite

vậy; nó khiến anh cảm thấy yếu đuối. Anh đã mong đợi đến một cuộc sống hôn nhân của những cuộc phiêu lưu được chia sẻ bởi cả hai vợ chồng. Anh đã tưởng tượng đến một cặp đôi luôn ở trung tâm của mọi thứ. Và dù anh sẽ không bao giờ thừa nhận điều này với chính mình, nhưng với anh, hôn nhân có nghĩa là không bao giờ phải ở một mình nữa. Nhưng giờ Emily giờ lại đang nói với anh rằng anh nên giao thiệp mà không có cô. Anh cảm thấy như thể cô đang rút lui khỏi một phần căn bản của cuộc hôn nhân vậy. Và anh tin rằng quả thật có điều gì đó không ổn với vợ mình.

"Liệu có gì đó không ổn với mình không?". Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi Emily tự hỏi mình câu hỏi này, hay khi Greg nhắm lời buộc tội này vào cô. Có lẽ sự hiểu lầm phổ biến nhất-và gây thương tổn nhiều nhất-về các dạng tính cách, đấy là: người người nội là những kẻ anti-social (phản xã hội); còn người hướng ngoại là những người

pro-social

-có nghĩa là quan tâm đến người khác

. Nhưng như chúng ta đã thấy, cả hai công thức này đều sai cả; cả người hướng ngoại và người hướng nội đều social (giao tiếp, tương tác), theo những cách khác nhau. Thứ các nhà tâm lý gọi là "nhu cầu gần gũi" (

"the need for intimacy"

) có mặt ở cả người hướng nội và người hướng ngoại, như nhau. Trên thực tế, những người mà đề cao nhất sự gần gũi lại thường không phải là, như cách nhà tâm lý

David Buss

đã nói, "những người hướng ngoại ồn ào, quảng giao, sức-sống-của-bữa-tiệc". Họ thường sẽ có xu hướng cao hơn ở bên một nhóm nhỏ những người bạn thân nhất định, ưa thích "những cuộc nói chuyện chân thành và có ý nghĩa hơn là những bữa tiệc hoạt náo". Họ có xu hướng cao hơn là những người như Emily.

Ngược lại, những người hướng ngoại cũng không hẳn kiếm tìm sự gần gũi từ những hoạt động giao du của họ. "Những người hướng ngoại cần đến người

khác như một diễn đàn để đáp ứng nhu cầu về ảnh hưởng xã hội (

social impact

)

của họ, hệt như việc một vị tướng cần những binh lính để đáp ứng nhu cầu lãnh đạo của ông ấy vậy", nhà tâm lý học

William Graziano

nói với tôi. "Khi những người hướng ngoại xuất hiện tại một bữa tiệc, tất cả mọi người ở đó đều sẽ biết là anh ấy hoặc cô ấy đã tới".

Nói một cách khác, mức độ hướng ngoại của bạn có vẻ sẽ ảnh hưởng đến việc bạn có bao nhiêu bạn, nhưng nó không quyết định được việc bạn sẽ là một người bạn tốt đến đâu. Trong một nghiên cứu trên 132 sinh viên tại Đại học

Humboldt

ở Berlin, các nhà tâm lý học

Jens Aspendorf

Susanne Wilpers

đã quyết định tìm hiểu về tác động của những nét tính cách khác nhau lên mối quan hệ của các sinh viên với gia đình và bè bạn của họ. Họ tập trung vào cái gọi là các nét tính cách Ngũ Đại (

Big Five

): Mức Độ Hướng Nội-Hướng Ngoại (

Introversion-Extroversion

); Mức Độ Dễ Chịu (

Agreeableness

); Mức Độ Cởi Mở với các Trải Nghiệm (

Openness to Experience

); Mức Độ Tận Tụy (

Conscientiousness

); và Mức Độ Ổn Định về mặt Cảm Xúc (

Emotional Stability

). (Rất nhiều các nhà tâm lý học tin rằng tính cách con người có thể được chia thành năm nhóm dấu hiệu tính cách lớn này).

Aspendorf

Wilpers

dự đoán rằng những sinh viên hướng ngoại sẽ có khả năng kết bạn mới dễ dàng hơn những người hướng nội, và đó chính xác là điều đã xảy ra. Nhưng nếu những người hướng nội quả thực là antisocial và những người hướng ngoại pro-social, vậy thì chắc bạn sẽ thấy những sinh viên với các mối quan hệ hòa thuận, ổn định nhất cũng đồng thời sẽ là những người hướng ngoại nhất. Nhưng đây hoàn toàn không phải điều đã xảy ra. Thay vào đó, các sinh viên với những mối quan hệ ít mâu thuẫn nhất lại là những người có điểm cao cho Mức Độ Dễ Chịu (

agreeableness

). Những người dễ chịu là những người nồng ấm về mặt tình cảm, ủng hộ người khác, và yêu thương người khác; các nhà tâm lý học tính cách đã phát hiện ra rằng nếu bạn đặt những người này trước một màn hình toàn chữ là chữ, họ sẽ chú tâm lâu hơn những người khác vào các chữ như quan tâm, an ủi, và giúp đỡ; và dừng lại nhanh hơn nhiều những người khác ở các từ như bắt cóc, tấn công hay quấy rối. Cả người hướng nội lẫn người hướng ngoại đều có khả năng đạt được Mức Độ Dễ Chịu cao như nhau; không có mối liên hệ nào giữa tính hướng ngoại và mức độ dễ chịu cả. Điều này giải thích tại sao một số người hướng ngoại rất thích những sự kích thích từ việc giao tiếp, nhưng lại không hòa thuận lắm với những người gần gũi nhất với mình.

Điều này cũng giúp giải thích tại sao một số người hướng nội-như Emily, người mà tài năng trong tình bạn của cô đã gợi ý rằng cô là một người đặc biệt dễ chịu-hào phóng chia sẻ sự quan tâm của mình tới với gia đình và những người bạn thân, nhưng ghét nói chuyện phiếm. Vậy nên khi Greg dán nhãn Emily là "antisocial", anh đã sai lầm. Emily đã nuôi dưỡng cuộc hôn nhân của cô theo đúng cách bạn sẽ mong chờ một người hướng nội dễ chịu sẽ làm, đó là biến Greg trở thành trung tâm trong vũ trụ giao tiếp của cô.

Chỉ trừ những lúc cô không làm thế. Emily có một công việc đòi hỏi cao, và có những lúc khi về nhà buổi tối cô chỉ còn lại rất ít năng lượng. Cô luôn hạnh phúc khi được nhìn thấy Greg, nhưng đôi lúc cô chỉ muốn được ngồi cạnh anh và đọc sách hơn là ra ngoài ăn tối và có những cuộc chuyện trò huyên náo. Chỉ đơn giản được ở bên anh là quá đủ rồi. Với Emily, đây là điều hoàn toàn tự nhiên, nhưng Greg lại cảm thấy tổn thương khi thấy rằng Emily có thể nỗ lực cố gắng hướng ngoại vì các đồng nghiệp của cô, nhưng không thể làm tương tự vì anh.

Đây là một cách hành xử phổ biến đến đau đớn trong các cặp đôi hướng ngoại-hướng nội mà tôi phỏng vấn: những người hướng nội thì tuyệt vọng mong muốn những khoảng thời gian thư giãn và sự thấu hiểu từ người bạn đời của mình; những người hướng ngoại thì khát khao sự bầu bạn, và giận dỗi khi những người khác có vẻ đang hưởng lợi từ "bản thế tốt đẹp nhất" của người bạn đời của họ.

Có thể rất khó khăn cho những người hướng ngoại để hiểu được rằng người hướng nội cần nạp lại năng lượng nhiều đến thế nào sao một ngày bận rộn. Chúng ta đều dễ dàng cảm thông được với người bạn đời thiếu ngủ khi họ trở về nhà, quá mệt để thậm chí có thể nói; nhưng lại khó khăn hơn nhiều trong việc chấp nhận được rằng việc bị quá kích thích từ môi trường cũng có thể làm cạn kiệt sức lực họ nhiều ngang mức như vậy.

Cũng có thể rất khó khăn cho người hướng nội để hiểu được rằng im lặng có thể gây tổn thương nhiều đến thế nào. Tôi đã từng phỏng vấn một người phụ nữ tên Sarah, một giáo viên tiếng Anh sôi nổi và rất năng động. Chồng cô là Bob, một người hướng nội là trưởng khoa một trường luật, luôn bận rộn dành hầu hết thời gian của mình tổ chức các hoạt động gây quỹ, và luôn đổ gục mỗi khi về nhà. Sarah đã bật khóc bởi nỗi ức chế và sự cô độc khi cô kể cho tôi về cuộc hôn nhân của mình.

"Khi làm việc, anh ấy năng động đến đáng kinh ngạc", cô kể. "Tất cả mọi người đều nói với tôi rằng anh ấy vui tính đến đâu, và rằng tôi thật may mắn khi cưới được anh ấy. Còn tôi thì chỉ muốn bóp cổ ngay họ. Mỗi tối, ngay sau khi chúng tôi đã dùng bữa xong, anh ấy sẽ đứng bật dậy và lau dọn nhà bếp. Sau đó anh ấy sẽ đọc báo một mình và làm việc với các bức ảnh của anh ấy, một mình. Tới khoảng chín giờ, anh ấy sẽ vào phòng ngủ và muốn xem tivi, và muốn ở bên cạnh tôi. Nhưng kể cả vào lúc đó anh ấy cũng không thực sự ở bên tôi. Anh ấy muốn tôi ngả đầu vào vai anh ấy khi chúng tôi cùng dán mắt vào màn hình tivi. Nó chỉ là một phiên bản người lớn của hai đứa trẻ ngồi chơi cạnh nhau, nhưng đứa nào lo chuyện của đứa nấy". Sarah đang cố thuyết phục Bob thay đổi sự nghiệp. "Tôi nghĩ chúng tôi sẽ có một cuộc sống tuyệt vời nếu anh ấy có một công việc mà anh ấy có thể ngồi bên chiếc máy tính cả ngày, nhưng anh ấy cứ kiên quyết làm các hoạt động gây quỹ", cô nói.

Ở những cặp đôi nơi người con trai là người hướng nội và người con gái là người hướng ngoại, như với Sarah và Bob, chúng ta thường nhầm lẫn giữa xung đột tính cách với sự khác biệt về giới tính, và buông ra lời khuyên thông thái quen thuộc là "Sao Hỏa" cần phải rút lui về hang động của mình khi "Sao Kim" muốn tương tác

[1]

. Nhưng bất kể lý do cho những sự khác biệt về nhu cầu giao tiếp này có là gì-bất kể là giới tính hay tính cách-điều quan trọng cần nhớ là ta có thể giải quyết chúng. Trong cuốn sách của mình, "

The Audacity of Hope

" chẳng hạn, Tổng thống Obama đã tâm sự rằng ở giai đoạn đầu của cuộc hôn nhân giữa ông và

Michelle

, ông đang làm việc với bản thảo cuốn sách đầu tiên của mình, và "thường sẽ dành cả buổi tối trong văn phòng làm việc; thứ tôi coi là mộtchuyện rất bình thường, nhưng lại khiến

Michelle

cảm thấy cô đơn". Ông gán phong cách này của mình với yêu cầu đòi hỏi cao của việc viết sách, cũng như việc đã được nuôi dưỡng như một người con một; và rồi nói rằng ông và

Michelle

đã dần học, qua nhiều năm tháng chung sống, cách để đáp ứng nhu cầu của nhau, và học nhìn chúng như những yêu cầu chính đáng.

Người hướng nội và người hướng ngoại cũng có thể gặp rất nhiều khó khăn trong việc hiểu cách giải quyết vấn đề của nhau. Một trong các khách hàng của tôi là một luật sư ăn mặc rất gọn gàng có tên Celia. Celia muốn ly hôn, nhưng sợ phải nói cho chồng cô biết. Cô có các lý do xác đáng cho quyết định của mình, nhưng cô biết anh sẽ cầu xin cô ở lại, và cô sẽ suy sụp với đầy cảm giác tội lỗi. Hơn tất cả, Celia muốn thông báo tin này của mình một cách nhẹ nhàng, cảm thông nhất hết mức có thể.

Chúng tôi quyết định sẽ chia vai tập dượt cuộc hội thoại này của họ, với tôi đóng vai chồng của cô:

"Em muốn kết thúc cuộc hôn nhân này", Celia nói. "Lần này em thực sự nghiêm túc về chuyện đó".

"Anh đã làm tất cả mọi thứ anh có thể để giữ mọi thứ lại với nhau", tôi cầu xin. "Sao em có thể làm thế này với anh chứ?"

Celia suy nghĩ một lúc.

"Em đã dành rất nhiều thời gian suy nghĩ kỹ về chuyện này, và em tin rằng đây là quyết định đúng", cô trả lời bằng một giọng chắc chắn.

"Anh có thể làm gì không để khiến em đổi ý định?" tôi hỏi.

"Không gì cả", Celia nói thẳng thừng.

Dừng lại một chút để cảm nhận những gì chồng cô ấy sẽ phải cảm nhận, tôi đã bị sốc. Cô ấy quá máy móc, quá thiếu nhẹ nhàng. Cô ấy đang sắp sửa ly dị với tôi cơ mà-tôi, người chồng của cô ấy trong suốt mười một năm qua! Chẳng lẽ cô ấy không có một chút quan tâm nào hay sao?

Tôi yêu cầu Celia thử lại một lần nữa, lần này hãy thể hiện ra một chút cảm xúc nữa.

"Tôi không thể", cô nó. "Tôi không thể làm được".

Nhưng cô ấy đã làm. "Em muốn chấm dứt cuộc hôn nhân này", cô nhắc lại. Giọng cô như nấc nghẹn bởi nỗi buồn. Cô bắt đầu òa lên khóc không thể kiềm chế được.

Vấn đề của Celia không phải là sự thiếu cảm xúc, mà ở chỗ làm thế nào để thể hiện ra được cảm xúc mà không trở nên mất kiềm chế. Với tay lấy một tờ khăn giấy, cô nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, và quay trở lại với tác phong lạnh lùng, bình-thản-kiểu-luật-sư của mình. Đây là hai chế độ mà cô có thể truy cập dễ dàng nhất-áp đảo cảm xúc hoặc lạnh lùng vô cảm.

Tôi kể với các bạn câu chuyện về Celia vì, theo rất nhiều cách, cô giống với Emily cũng như nhiều người hướng nội khác tôi từng phỏng vấn. Emily đang nói với Greg về những bữa tiệc tối, không phải về chuyện ly hôn, nhưng phong cách đối thoại của cô phảng phất giống với của phong cách của Celia. Khi cô và Greg bất đồng, giọng nói của cô trở nên chậm, đều hơn và bình thản, thái độ cũng trở nên một chút xa cách hơn. Điều Emily đang muốn làm là giảm thiểu tối đa sự gây hấn-cô rất không thoải mái với những cơn giận dữ-nhưng cô lại hiện ra như là đang rút lui về mặt cảm xúc. Trong lúc đó, Greg lại đang làm chính xác điều ngược lại, càng tập trung vào việc giải quyết vấn đề giữa họ, anh càng lúc càng lên giọng và nghe có vẻ hung hăng hơn khi nói. Emily càng có vẻ như đang rút lui, Greg càng cảm thấy cô độc, rồi tổn thương, rồi giận dữ. Greg càng trở nên giận dữ, Emily lại càng thấy tổn thương và chán nản hơn, và thế lại cô lại càng thu mình vào sâu hơn. Chẳng mấy chốc họ đã bị khóa chặt trong một vòng lặp hủy diệt không thể thoát ra được, một phần là bởi cả hai người đều tin rằng mình đang tranh cãi theo một phong cách hợp lý.

Cách ứng xử này có lẽ sẽ không gây bất ngờ cho những ai đã quen thuộc với mối quan hệ giữa tính cách và những phương pháp giải quyết vấn đề trái ngược nhau. Cũng như đàn ông và phụ nữ thường có những cách khác nhau để giải quyết mâu thuẫn, giữa những người hướng nội và hướng ngoại cũng vậy. Các nghiên cứu đã gợi ý rằng loại đầu tiên thường có xu hướng tránh mâu thuẫn, trong khi loại thứ hai lại thiên về giải quyết vấn đề bằng cách đối diện trực tiếp với nó-họ thường rất thoải mái với những kiểu bất đồng trực diện, thậm chí cả những tình huống dễ dẫn đến cãi nhau.

Đây là hai cách tiếp cận tuyệt đối trái ngược nhau, vậy nên chúng hẳn nhiên sẽ tạo ra va chạm và xích mích. Nếu Emily không ghét xung đột nhiều đến thế, cô đã không phản ứng mạnh tới vậy trước cách tiếp cận kiểu đối-đầu-trực-diện của Greg; và nếu Greg có tác phong hòa nhã hơn một chút, biết đâu anh đã có thể thấy trân trọng hơn nỗ lực của Emily trong việc cố giữ cho mọi thứ bình ổn. Khi hai người đã có phong cách giải quyết xung đột phù hợp với nhau, một trận cãi vã có thể là dịp để mỗi bên hiểu hơn cách nhìn của người kia. Nhưng Greg và Emily có vẻ lại hiểu nhau ít hơn đi mỗi lần họ xảy ra tranh cãi, khi mỗi người lại cãi nhau theo những cách mà người kia không tán thành.

Liệu họ thậm chí có còn ít thích nhau hơn một chút mỗi lần như thế không, ít nhất là trong lúc cãi nhau? Một nghiên cứu tuyệt vời tiến hành bởi nhà tâm lý học

William Graziano

gợi ý rằng câu trả lời cho câu hỏi này có thể là: Có.

Graziano

đã chia một nhóm sáu mươi mốt học sinh nam thành các đội để chơi một trò chơi bóng bầu dục giả lập. Một nửa số ứng viên được được giao cho chơi theo một cách đề cao sự cộng tác, trong đó họ được bảo: "Bóng bầu dục có ích lợi cho chúng ta, bởi vì để chiến thắng được trong bóng bầu dục, các thành viên trong đội phải phối hợp với nhau thật tốt". Nửa còn lại được cho chơi theo một cách nhấn mạnh vào sự cạnh tranh, ganh đua giữa các đội. Mỗi học sinh sau đó được cho xem những thông tin giả lập về các đồng đội và các đối thủ của họ ở các đội khác, sau đó họ được yêu cầu đánh giá xem họ cảm thấy thế nào về các cầu thủ kia.

Sự khác biệt giữa những người hướng nội và những người hướng ngoại là không thể tin được. Những người hướng nội được yêu cầu chơi theo cách cộng tác đánh giá tất cả các cầu thủ khác-không chỉ các đồng đội, mà cả các đối thủ của họ nữa-tích cực hơn so với những người hướng nội chơi theo cách cạnh tranh. Những người hướng ngoại thì làm chính xác điều ngược lại: họ đánh giá tất cả các người chơi khác tích cực hơn khi họ được chơi theo cách cạnh tranh. Khám phá này có vẻ tiết lộ một điều rất quan trọng: người hướng nội thích những người họ gặp trong các bối cảnh thân thiện; người hướng ngoại thì lại ưa những ai cạnh tranh với họ.

Một thí nghiệm khác, trong đó robot được cho tương tác với những bệnh nhân đột quỵ trong những bài tập phục hồi chuyển động, cũng cho những kết quả tương tự đến đáng ngạc nhiên. Các bệnh nhân là người hướng nội phản hồi lại tốt hơn, và tương tác lâu hơn với những con robot được thiết kế để nói với một cung cách nhẹ nhàng, vỗ về khích lệ: "Tôi biết là nó rất khó khăn, nhưng nhớ rằng nó là để tốt cho chính ông", và "Tuyệt lắm, cứ tiếp tục làm tốt như thế nhé!". Những người hướng ngoại, ngược lại, lại luyện tập một cách chăm chỉ hơn khi con robot dùng những ngôn ngữ có tính cổ vũ, tiếp sức, hùng hổ hơn: "Anh có thể làm tốt hơn thế, tôi biết chắc mà!", và "Tập trung vào việc luyện tập đi!".

Những khám phá này gợi ý rằng có thể Greg và Emily đang phải đối mặt với một thử thách khá thú vị. Nếu Greg thích người khác hơn khi họ hành xử mạnh bạo hay cạnh tranh quyết liệt, và nếu Emily cảm thấy tương tự với những người hay khuyến khích, cộng tác hơn, vậy làm thế nào để họ có thể đi đến một thỏa hiệp cho thế bế tắc về các bữa tiệc tối của họ-và đi đến đó bằng một cách hòa bình?

Một câu trả lời thú vị đến từ một nghiên cứu về kinh tế tại Đại học Michigan, không phải về các cặp đôi với tính cách trái ngược nhau, mà là về các nhà đàm phán (

negotiators

) đ

ến từ những nền văn hóa khác nhau-trong trường hợp này là người Châu Á và người Israel. Sáu mươi sáu sinh viên Thạc sĩ chuyên ngành Quản trị Kinh Doanh (

MBA

) đến từ Hồng Kông hoặc Israel được yêu cầu hãy tưởng tượng họ đang sắp sửa làm lễ cưới trong một vài tháng tới, và muốn kết thúc việc sắp xếp với nơi đặt thức ăn cho buổi tiệc cưới. Buổi "họp" này được thực hiện thông qua video.

Một vài trong số các sinh viên được cho xem một đoạn video mà trong đó viên giám đốc công ty đồ ăn rất thân thiện và hay cười; trong khi những người khác được xem một đoạn video nơi viên giám đốc liên tục thể hiện thái độ khó chịu và đối đầu với người sinh viên. Nhưng thông điệp của bên sản xuất đồ ăn trong cả hai phiên bản đều giống hệt nhau: Có một cặp vợ chồng sắp cưới khác cũng đang rất hứng thú với cùng ngày cưới đó, nên giá phải bị đẩy lên. Hoặc là bên anh chấp nhận, hoặc là không gì cả.

Các sinh viên đến từ Hồng Kông phản ứng rất khác với những sinh viên đến từ Israel. Những sinh viên châu Á này dễ đồng ý với yêu cầu của các viên giám đốc thân thiện hơn rất nhiều so với yêu cầu từ các đối tác hung hăng; chỉ có 14 phần trăm là sẵn sàng làm việc với các viên giám đốc tỏ ra khó chịu, trong khi 71 phần trăm chấp nhận thỏa thuận từ người đối tác hay cười. Nhưng những người Israel thì có xu hướng chấp nhận thỏa thuận từ cả hai loại đối tác như nhau. Nói một cách khác, với những nhà thương thuyết người châu Á, phong cách cũng quan trọng không kém gì nội dung, trong khi những người Israel thì chú tâm nhiều hơn vào thông tin đang được truyền tải. Họ không bị tác động bởi cả sự thương cảm lẫn sự hung hăng trong cách thể hiện.

Lời giải thích cho sự khác biệt quá rõ rệt này có lẽ có liên quan đến việc hai nền văn hóa định nghĩa sự tôn trọng như thế nào. Như chúng ta đã thấy từ

chương 8

, rất nhiều người châu Á thể hiện sự tôn trọng bằng cách giảm thiểu tối đa mâu thuẫn. Nhưng những người Israel, theo các nhà nghiên cứu, "thường không nhìn nhận [sự bất đồng] như là một dấu hiệu của sự thiếu tôn trọng, mà là một tín hiệu cho thấy phía bên kia đã lo lắng và hết lòng quan tâm tới công việc đang được bàn thảo".

Chúng ta cũng có thể nói điều tương tự về Greg và Emily. Khi Emily hạ giọng và tiết chế cảm xúc của mình trong lúc tranh cãi với Greg, cô ấy nghĩ mình đang thể hiện sự tôn trọng bằng cách không thể hiện cảm xúc tiêu cực ra ngoài. Nhưng Greg thì lại nghĩ cô ấy đang rút lui, hoặc tệ hơn, là cô ấy chẳng thèm quan tâm. Tương tự, khi Greg để cho cơn giận của mình bùng nổ, anh phỏng đoán rằng Emily sẽ cảm thấy, cũng như anh cảm thấy, rằng đây là một cách thể hiện chân thành và lành mạnh trong cuộc hôn nhân hết mực gắn bó của họ. Nhưng với Emily, cứ như thể Greg bỗng đột nhiên quay sang cáu giận với cô vậy.

Trong cuốn sách của mình: "Giận Dữ: Thứ Cảm Xúc Bị Hiểu Nhầm" (

Anger: The Misunderstood Emotion

), tác giả

Carol Tavris

đã thuật lại câu chuyện về một con rắn hổ mang rất thích cắn người dân làng nọ. Một ngày, một vị

swami

-một người đã đạt được sự tự chủ-thuyết phục con rắn rằng cắn người là sai trái. Con rắn thề sẽ thôi không làm thế nữa, và thực hiện đúng như lời thề. Chẳng mấy chốc, những đứa trẻ trong làng trở nên dạn dần với con rắn, và bắt đầu bày những trò đánh đập hành hạ nó. Bị đau đớn và cả người đẫm đầy máu, con rắn kêu than với vị

swami

về việc phải giữ lời hứa đã dẫn nó đến kết quả như thế nào.

"Ta nói ngươi không được cắn", vị

swami

đáp, "nhưng ta chưa bao giờ nói ngươi không được rít"

"Rất nhiều người, cũng giống như con rắn của vị

swami

, không phân biệt được giữa tiếng rít và cú cắn",

Tavris

nói.

Rất nhiều người-như Greg và Emily. Cả hai đều có thể học được rất nhiều từ câu chuyện của vị

swami

: với Greg là hãy thôi cắn, với Emily là hãy biết được rằng cũng sẽ không sao nếu anh ấy-và cả chính cô nữa-rít.

Greg có thể bắt đầu bằng việc thay đổi những nhận định của anh về sự giận dữ. Anh vẫn tin, như phần lớn chúng ta đều tin, rằng trút bỏ cơn giận sẽ giúp chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Thứ "lý thuyết trút bỏ" này-rằng cơn giận cứ tích tụ lớn dần trong chúng ta và đến một lúc nào đấy chúng có thể được xả ra ngoài một cách lành mạnh-đã xuất hiện từ tận thời Hy Lạp cổ đại, được làm sống dậy trở lại bởi nhà tâm lý học

Freud

, và bắt đầu trở nên nổi tiếng từ giai đoạn "let it all hang out" (hãy thoải mái thể hiện cảm xúc thật của bạn) của những năm 1960, với những liệu pháp như đấm bao cát và "primal scream". Nhưng "lý thuyết trút bỏ" chỉ đơn giản là một myth-một điều được rộng rãi tin tưởng, một điều nghe có vẻ rất có lý, nhưng rốt cục vẫn hoàn toàn không hề có thật. Hàng rất rất nhiều các nghiên cứu đã chỉ ra rằng: trút giận không hề làm dịu cơn giận dữ; nó trái lại còn khơi thêm cho nó.

Chúng ta sẽ đều được tốt hơn nếu chúng ta không để cho bản thân mình rơi vào trạng thái giận dữ. Đáng kinh ngạc là, các nhà khoa học thần kinh (

neuroscientists

) thậm chí đã thấy rằng những người sử dụng chất Botox

[2]

, thứ ngăn cản họ thể hiện nét mặt giận dữ, có vẻ ít có xu hướng giận dữ hơn những người không sử dụng nó, bởi vì chỉ hành động cau mày thôi cũng đã đủ kích hoạt thùy hạnh nhân sản sinh ra những cảm xúc tiêu cực rồi. Và sự giận dữ không chỉ có tác hại tàn phá trong chỉ một khoảnh khắc lúc đó; mà hàng nhiều ngày sau đó, người tỏ ra giận dữ vẫn còn phải sửa chữa những tổn thương trong quan hệ mà mình đã gây ra với những người khác. Bất chấp ảo tưởng rất nổi tiếng về những cuộc ân ái nồng cháy ngay sau khi cãi nhau nảy lửa, rất nhiều cặp đôi lại nói rằng họ cần khá lâu thời gian mới có thể có lại cảm giác yêu thương với đối tác của mình.

Greg có thể làm gì để lấy lại bình tĩnh khi anh thấy cơn giận của mình đang bắt đầu tích tụ? Anh có thể thử hít một hơi thật sâu. Anh ấy có thể tạm nghỉ mười phút. Và anh ấy có thể tự hỏi mình rằng thứ đang làm cho anh bực tức đến vậy có thực sự quan trọng hay không. Nếu là không, vậy thì anh ấy có thể để nó qua một bên. Nhưng nếu nó thực sự quan trọng, vậy thì anh ấy sẽ muốn diễn đạt nhu cầu của mình không phải dưới dạng những công kích cá nhân, mà là những lời bàn luận trung tính. "Em thật là phản xã hội!" có thể được chuyển thành "Liệu chúng ta có thể tìm ra cách nào sắp xếp các ngày nghỉ cuối tuần mà vừa ý cả hai đứa mình không?".

Lời khuyên này vẫn đúng kể cả khi Emily không phải là một người hướng nội nhạy cảm (không ai, hướng nội hay hướng ngoại, lại thích bị áp đảo hoặc bị thiếu tôn trọng), vậy nhưng tình cờ vợ Greg lại là một người phụ nữ đặc biệt nhạy cảm với sự giận dữ. Vậy nên anh cần phải đáp lại người vợ tránh-xung-đột mà anh có, không phải một người vợ thích-đối-đầu-trực-diện mà có thể anh đã muốn, dù chỉ trong khoảnh khắc tức giận của cuộc cãi vã, là vợ mình.

Giờ hãy xem đến phần của Emily. Cô ấy có thể làm những gì khác đi? Cô ấy đã đúng khi phản đối khi Greg cắn-khi anh tấn công một cách không công bằng-thế nhưng còn những lúc anh rít thì sao? Emily có thể đối diện với phản ứng phản tác dụng của chính mình với sự giận dữ, trong đó có xu hướng rơi vào một vòng lặp của cảm giác tội lỗi và quay về trạng thái phòng thủ. Chúng ta đã biết từ

chương 6

rằng rất nhiều người hướng nội đã quen từ bé với những cảm giác tội lỗi rất mạnh mẽ; chúng ta cũng biết rằng chúng ta thường có xu hướng ước đoán phản ứng của những người khác bằng những phản ứng của riêng chúng ta. Bởi vì một người tránh-xung-đột như Emily sẽ không bao giờ "cắn" hay thậm chí là rít trừ khi Greg thực sự đã làm gì đó vô cùng kinh khủng; tới một mức độ nào đó, cô sẽ cảm nhận việc "cắn" của anh ấy có nghĩa là mình đang cực kỳ có tội lỗi-một tội lỗi gì đó, bất cứ thứ gì, ai biết được. Cảm giác tội lỗi của Emily sẽ khó chịu tới mức không thể chịu đựng nổi, tới mức cô sẽ có xu hướng chối bỏ sự xác đáng trong tất cả mọi lời khẳng định từ Greg-cả những cái thực sự xác đáng lẫn những cái bị phóng đại lên bởi sự giận dữ. Điều này, tất nhiên, lại dẫn đến một vòng lặp đau đớn khác là cô ấy thì đóng chặt sự đồng cảm tự nhiên của mình lại, còn Greg thì bị tổn thương vì cảm thấy mình đang không được lắng nghe.

Vậy Emily cần phải chấp nhận rằng mọi thứ đều ổn khi có những lúc cô là người sai. Lúc đầu cô có thể sẽ lúng túng khi không biết lúc nào mình sai thật và lúc nào thì mình không sai; việc Greg thể hiện sự phàn nàn của anh với cảm xúc mãnh liệt như vậy có thể khiến cho việc phân biệt này trở nên khá khó khăn. Nhưng Emily phải cố gắng không được để mình bị kéo vào bãi lầy này. Khi Greg đưa ra một luận điểm xác đáng, cô nên công nhận nó, không phải chỉ để làm một đối tác tốt của chồng cô, mà còn là để tự dạy bản thân cô rằng mọi thứ đều ổn kể cả khi mình sai. Điều này có nghĩa là cô sẽ ít bị tổn thương hơn, và cô dễ có thể chống trả lại nữa-khi những lời buộc tội của Greg là thực sự không công bằng.

Chống trả lại? Nhưng Emily ghét mâu thuẫn và cãi vã.

Không sao. Cô chỉ cần trở nên thoải mái hơn với âm thanh tiếng rít của chính mình mà thôi. Những người hướng nội có thể sẽ do dự khi phải phá vỡ sự hài hòa yên bình, nhưng, như con rắn trở nên bị động, họ cũng nên lo lắng với cùng một mức độ như thế về những lời nói cay độc từ phía người bạn đời của họ. Và chống trả lại cũng không nhất thiết sẽ dẫn đến sự trả thù, như Emily vẫn lo sợ; thay vào đó nó có thể khuyến khích Greg rút lui lại nữa. Cô không cần phải thể hiện mọi thứ một cách quá hoành tráng. Thông thường, chỉ một câu "Cái đó không ổn với em" chắc nịch là được.

Thỉnh thoảng, Emily cũng có thể sẽ muốn bước ra ngoài vùng an toàn của mình một chút, và thể hiện sự giận dữ của riêng mình. Hãy nhớ rằng, với Greg, có tranh cãi tức là có sự liên hệ. Cũng hệt như cách các vận động viên hướng ngoại trong trò chơi bóng bầu dục cảm thấy có thiện cảm cao hơn với những đối thủ của mình, Greg có thể sẽ cảm thấy gần gũi hơn với Emily nếu cô có thể khoác lên mình dù chỉ một chút vẻ ngoài của một người chơi nhiệt thành, sẵn sàng để chiếm lĩnh cả sân đấu.

Emily cũng có thể vượt qua sự khó chịu của bản thân cô trước cách hành xử của Greg, bằng cách tự nhắc mình rằng anh ấy thực sự không hung hăng như những gì anh ấy thể hiện ra. John, một người hướng nội tôi phỏng vấn, có một mối quan hệ rất đẹp với người vợ nóng tính của mình, đã kể với tôi với việc anh ấy đã học để làm điều này như thế nào sau hai mươi lăm năm kết hôn:

Khi Jennifer bắt đầu truy đuổi tôi về việc gì đó, cô ấy thực sự sẽ truy đuổi tôi. Nếu tôi đi ngủ mà chưa dọn bếp, buổi sáng hôm sau cô ấy sẽ hét lên với tôi: "Cái bếp này quá bẩn thỉu!". Tôi bước vào và nhìn xung quanh cái bếp. Có khoảng ba hay bốn cái cốc bỏ ngoài chưa rửa, chỉ có thế, chẳng có gì mà bẩn thỉu cả. Nhưng những tấn bi kịch khi cô ấy phát điên lên như thế này là rất tự nhiên với cô ấy. Đó chỉ là cách cô ấy nói, "Trời ơi, khi nào có cơ hội, em sẽ rất cảm kích nếu anh có thể dọn dẹp lại cái bếp kỹ hơn một chút xíu nữa". Nếu cô ấy đã nói như thế với tôi, tôi sẽ đáp lại là "Anh rất sẵn lòng, và anh rất xin lỗi là mình đã không làm thế sớm hơn". Nhưng bởi vì cô ấy tấn công tôi như vũ bão với thứ năng lượng kiểu đoàn-tàu-hỏa-đang-lao-hai-trăm-dặm-một-giờ đó, tôi lại muốn thể hiện ra là mình cũng khó chịu, muốn nói, "Thế à, tệ nhỉ". Nhưng lý do tôi không làm thế là gì chúng tôi đã cưới nhau được hai mươi lăm năm rồi, và tôi đã đi đến mức hiểu được rằng Jennifer không đẩy tôi vào một tình thế đe-dọa-đến-mạng-sống khi cô ấy nói theo cách như vậy.

Vậy bí quyết để liên hệ với người vợ mạnh mẽ của anh là gì? Anh cho cô ấy biết rằng những lời nói của cô là không thể chấp nhận được, nhưng anh đồng thời cũng cố gắng lắng nghe ý nghĩa của chúng. "Tôi cố gắng sử dụng sự đồng cảm của tôi", anh nói. "Tôi loại bỏ giọng điệu của cô ấy ra khỏi lời nói. Tôi loại bỏ những sự tấn công ra khỏi cảm giác của tôi, và tôi cố gắng để hiểu điều cô ấy muốn nói với mình".

Và điều Jennifer muốn nói, ẩn dưới những từ ngữ dồn-dập-như-đoàn-tàu-hỏa-đang-lao của cô, thường chỉ là rất đơn giản: Hãy tôn trọng em. Hãy chú tâm đến em. Hãy yêu em.

Greg và Emily giờ đã có những hiểu biết quý giá về việc làm thế nào để dàn xếp được sự khác biệt giữa hai người họ. Nhưng vẫn còn một câu hỏi nữa họ cần trả lời: Chính xác thì tại sao họ lại cảm nhận về những bữa tiệc tối ngày thứ Sáu đó khác nhau đến thế? Chúng ta biết rằng hệ thần kinh của Emily rất dễ rơi vào trạng thái quá tải khi cô bước vào một căn phòng chật kín toàn người là người. Và chúng ta cũng biết rằng Greg cảm thấy hoàn toàn ngược lại: được thôi thúc phải tới với những người khác, với những cuộc trò chuyện, những sự kiện, bất cứ thứ gì giúp anh có cái cảm giác được-nạp-lại-dopamine, tiến-lên-và-đoạt-lấy-nó mà những người hướng ngoại luôn khao khát. Nhưng ta hãy đào sâu một chút nữa về bản chất của những cuộc tán gẫu trong tiệc rượu cocktail. Chìa khóa để bắc cầu cho sự khác biệt giữa Greg và Emily nằm ở những chi tiết nhỏ hơn.

Vài năm trước, ba mươi hai cặp người hướng nội và người hướng ngoại, tất cả đều chưa từng gặp nhau bao giờ, được yêu cầu tiến hành nói chuyện qua điện thoại trong một vài phút. Đây là một phần trong loạt thí nghiệm được tiến hành bởi nhà khoa học thần kinh (

neuroscientist

) có tên tiến sĩ

Matthew Lieberman

, khi đó vẫn còn là một học viên cao học tại Harvard. Khi họ cúp máy, họ được yêu cầu thực hiện một bảng câu hỏi chi tiết, đánh giá việc họ cảm thấy và cư xử như thế nào trong lúc đối thoại. Bạn thích đối tác trò chuyện của mình tới mức độ nào? Bạn đã tỏ ra thân thiện đến đâu? Bạn muốn tương tác thêm với người đó đến mức nào? Họ cũng đồng thời được yêu cầu đặt mình vào tình huống của người đối thoại cùng họ: Đối tác trò chuyện của bạn có vẻ thích bạn tới mức độ nào? Cô ấy nhạy cảm với bạn tới đâu? Hoặc cô ấy khích lệ, cổ vũ cuộc nói chuyện tới mức độ nào?

Lieberman

và các đồng sự của ông so sánh các câu trả lời, và đồng thời cũng lắng nghe lại băng ghi âm những cuộc trò chuyện qua điện thoại đó, và đưa ra đánh giá riêng của họ về việc mỗi bên thích bên kia tới mức độ nào. Họ phát hiện thấy rằng những người hướng ngoại thường chính xác hơn nhiều những người nội trong việc phán đoán xem người bên kia có thích nói chuyện với mình hay không. Những khám phá này gợi ý rằng người hướng ngoại giỏi hơn trong việc giải mã những tín hiệu giao tiếp so với người hướng nội. Thoạt tiên, điều này có vẻ không có gì đáng ngạc nhiên,

Lieberman

viết; nó chỉ nhắc lại những suy đoán thông thường của xã hội về việc người hướng ngoại đọc các tình huống giao tiếp giỏi hơn. Vấn đề duy nhất, như

Lieberman

đã chỉ ra thông qua một biến tấu khác của thí nghiệm của mình, rằng những suy đoán này chưa hẳn đã luôn chính xác.

Lieberman

và các đồng sự của ông yêu cầu một nhóm nhỏ các ứng viên nghe lại đoạn băng ghi âm chính cuộc đối thoại mà họ vừa thực hiện-trước khi điền vào bảng câu hỏi đánh giá. Ở nhóm này, ông nhận thấy rằng không có sự khác biệt nào giữa người hướng ngoại và người hướng nội trong khả năng phán đoán liệu người bên kia có thích nói chuyện với mình hay không. Câu hỏi là: Tại sao?

Câu trả lời: đó là vì các ứng viên đã nghe lại băng ghi âm cuộc đối thoại được phép giải mã các tín hiệu giao tiếp trong khi không phải làm gì khác cùng lúc. Và những người hướng nội cũng là những giải mã viên rất tốt, dựa theo một vài nghiên cứu được tiến hành trước thí nghiệm của

Lieberman

. Một trong các nghiên cứu đó thậm chí còn khám phá ra được rằng người hướng nội còn có thể giải mã tình huống tốt hơn người hướng ngoại nữa.

Nhưng các nghiên cứu này chỉ đo đạc việc những người hướng nội giỏi quan sát các tình huống giao tiếp thế nào, chúng không đo đạc việc họ tham gia vào các tình huống giao tiếp đó tốt đến đâu. Việc tham gia yêu cầu những yêu cầu những thứ từ não rất khác so với việc chỉ quan sát. Nó yêu cầu một dạng multitask trong não bộ: khả năng xử lý những thông tin ở bộ nhớ ngắn hạn ngay lập tức mà không bị mất tập trung bởi những thứ khác, cũng như không bị quá căng thẳng. Đây lại chính là dạng chức năng của não mà người hướng ngoại làm cực kỳ giỏi. Nói một cách khác, người hướng ngoại thường quảng giao hơn, bởi vì não của họ giỏi hơn trong việc giải quyết những vụ tranh giành giữa các nhân tố khác nhau để giành lấy sự tập trung của họ-đây cũng chính xác là thứ mà các cuộc trò chuyện trong-bữa-tiệc-tối cần đến. Ngược lại, người hướng nội thường cảm thấy bị đẩy lùi bởi những sự kiện xã hội, bởi chúng bắt họ phải chú tâm đến quá nhiều người cùng một lúc.

Hãy cân nhắc đến chuyện chỉ một tương tác xã hội đơn giản nhất-giao tiếp giữa chỉ hai người với nhau-cũng cần đến hàng loạt thao tác khác nhau rồi: giải nghĩa những gì người kia đang nói; đọc ngôn ngữ cơ thể và biểu cảm trên nét mặt của họ; mượt mà đổi vai giữa nói và nghe; đáp lại lời người kia nói; đánh giá xem liệu người kia có đang hiểu điều mình nói không; quyết định xem người kia có đang thích nói chuyện với mình hay không, và, nếu không, tìm xem làm thế nào có thể cải thiện tình hình hoặc rút lui khỏi cuộc nói chuyện. Cứ nghĩ đến việc phải cần đến bao nhiêu nơ-ron não để tung hứng chừng đấy công việc cùng một lúc xem! Và đây mới chỉ là trong một cuộc nói chuyện một-đối-một thôi đấy. Giờ hãy tưởng tượng loại thao tác multitask cần đến trong một bối cảnh nhóm, như ở một bữa tiệc tối chẳng hạn, thì sẽ còn đến thế nào.

Vậy nên khi những người hướng nội đảm nhận vai trò người quan sát, như khi họ viết tiểu thuyết, hoặc suy ngẫm về lý thuyết trường thống nhất (

unified field theory

)-hoặc trở nên đặc biệt ít nói tại những bữa tiệc tối-họ không phải đang thể hiện một sự thiếu nỗ lực hay thiếu năng lượng. Họ chỉ đơn giản đang làm điều phù hợp nhất với bản chất sinh học của họ mà thôi.

Thí nghiệm của Lieberman giúp chúng ta hiểu rõ hơn điều gì khiến những người hướng nội gặp khó khăn trong giao tiếp. Tuy vậy, nó không chỉ cho chúng ta thấy bằng những cách nào, người hướng nội cũng có thể tỏa sáng.

Hãy cân nhắc đến câu chuyện về một anh chàng với vẻ ngoài thiếu quyết đoán tên Jon Berghoff. Jon là một người hướng nội điển hình, hướng nội ngay từ vẻ ngoài của anh trở đi: gầy gò, thanh mảnh; mũi và gò má cao; luôn trong tâm trạng suy nghĩ nghiêm túc gì đó, trên khuôn mặt là một cặp kính dày. Anh không phải là kẻ hay nói gì cho lắm, và những lúc anh nói thì anh đều đã cân nhắc trước cực kỳ kỹ lưỡng, đặc biệt là khi anh ở trong một nhóm: "Nếu tôi ở trong cùng một căn phòng với mười người khác, và tôi có thể lựa chọn giữa việc nói chuyện hay không nói chuyện", anh nói, "tôi sẽ là người không nói chuyện. Khi mọi người hỏi, 'Sao anh ấy không nói gì cả thế?', tôi sẽ là người họ đang nói tới".

Jon đồng thời cũng là một người bán hàng cực kỳ xuất sắc, và đã là như thế kể từ khi anh còn ở tuổi thiếu niên. Vào mùa hè năm 1999, khi vẫn còn là học sinh năm nhất trung học, anh đã bắt đầu làm công việc của một nhà phân phối cấp thấp, bán các sản phẩm nhà bếp của hãng Cutco. Công việc này yêu cầu anh đến tận từng nhà khách hàng, chào bán dao làm bếp. Đó là một trong những tình huống bán hàng thân mật nhất có thể có, không phải trong những phòng họp lớn, mà là trong căn bếp của một khách hàng tiềm năng, chào bán cho họ những sản phẩm họ sẽ dùng hàng ngày để giúp đưa thực phẩm lên bàn ăn.

Trong vòng tám tuần đầu tiên của công việc, anh đã bán được lượng dao tương đương với 50.000 đô la Mỹ. Anh một bước bước lên trở thành một trong những đại diện bán hàng xuất sắc nhất của cả công ty, vượt qua hơn 40.000 nhân viên mới được tuyển dụng cùng năm đó. Đến năm 2000, Jon đã kiếm về cho công ty hơn 135.000 đô la Mỹ, và đến lúc đó đã phá vỡ hơn hai mươi lăm kỷ lục bán hàng ở cấp khu vực cũng như trên toàn quốc. Trong khi đó, ở trường học, anh vẫn là một cậu chàng ngại giao tiếp, thích ẩn mình trong thư viện vào giờ ăn trưa. Nhưng cho đến năm 2002 anh đã tìm kiếm, tuyển dụng, và huấn luyện cho hơn chín mươi người đại diện bán hàng khác, và gia tăng địa phận bán hàng của công ty lên đến hơn 500% so với một năm trước đó. Kể từ đó, Jon đã khởi động chương trình "Global Empowerment Coaching", dịch vụ huấn luyện kỹ năng cá nhân và kỹ năng bán hàng của riêng anh. Tới ngày hôm nay, anh đã thực hiện hàng trăm bài phát biểu, seminar đào tạo, và tư vấn cá nhân cho hơn 30.000 người bán hàng và các giám đốc khắp nơi.

Đâu là bí mật thành công của Jon? Một gợi ý quan trọng đến từ một thí nghiệm bởi nhà tâm lý học phát triển (developmental psychologist) Avril Thorne, giờ là một giáo sư tại Đại học California, Santa Cruz. Thorne tập hợp năm mươi hai phụ nữ trẻ tuổi-hai mươi sáu trong số đó là người hướng nội, hai mươi sáu người còn lại hướng ngoại-và giao cho mỗi người họ vào hai cặp nói chuyện khác nhau. Mỗi người sẽ có mười phút để đối thoại với một đối tác có cùng loại tính cách với với mình, sau đó thực hiện một cuộc trò chuyện với độ dài tương đương với dạng tính cách trái ngược với mình. Các cộng sự của Thorne ghi âm lại các cuộc đối thoại, và sau đó yêu cầu những người tham gia nghe lại băng ghi âm cuộc trò chuyện của mình.

Quá trình này tiết lộ một vài khám phá khá ngạc nhiên. Những người hướng nội và người hướng ngoại đều tham gia vào cuộc trò chuyện nhiều như nhau, cho thấy rằng ý tưởng "người hướng nội luôn nói ít hơn" là không đúng. Nhưng những cặp hướng nội thường có xu hướng tập trung vào chỉ một hoặc hai chủ đề nói chuyện rất nghiêm túc, trong khi những cặp hướng ngoại chọn những chủ đề nhẹ nhàng và đa dạng hơn nhiều. Thông thường, những người hướng nội bàn luận về các vấn đề, hoặc các xung đột họ gặp phải trong cuộc sống của họ: trường học, công việc, tình bạn, vân vân. Có lẽ bởi sự ưa thích về những cuộc trò chuyện về rắc rối này, họ thường có xu hướng nhận lấy vai người khuyên bảo, lần lượt tư vấn cho nhau về vấn đề đang được nhắc đến. Những người hướng ngoại, ngược lại, lại thường có xu hướng cao hơn trong việc đưa ra những thông tin thông thường về bản thân họ, để nhanh chóng thiết lập điểm chung với người kia: "Ồ, chị mới nuôi một chú cún à? Một người bạn của em cũng có một bể cá biển cực kỳ hoành tráng luôn!".

Nhưng điểm đặc biệt thú vị nhất trong thí nghiệm của Thorne là việc hai dạng quý trọng lẫn nhau nhiều đến thế nào. Những người hướng nội khi nói chuyện với người hướng ngoại đã chọn những chủ đề vui tươi hơn, họ cũng báo cáo lại là họ bắt đầu cuộc nói chuyện dễ dàng hơn, và miêu tả việc trò chuyện với những người hướng ngoại như "một hít khí thở trong lành" ("a breath of fresh air"). Ngược lại, người hướng ngoại cảm thấy rằng họ có thể thư giãn nhiều hơn với những đối tác là người hướng nội, và cảm thấy thoải mái hơn trong việc tâm sự những rắc rối của họ. Họ không cảm thấy áp lực phải cố tỏ ra vui vẻ một cách giả tạo.

Đây là những kiến thức về giao tiếp rất bổ ích. Người hướng nội và người hướng ngoại thấy khá khó chịu về nhau, nhưng nghiên cứu của Thorne đem lại gợi ý về việc mỗi bên có thể đem lại cho bên kia nhiều thế nào. Người hướng ngoại cần biết rằng người hướng nội-những người thường có vẻ khinh khỉnh coi thường hoặc cao ngạo-có thể lại quá là hạnh phúc khi được dẫn theo tới những nơi vui-vẻ-nhẹ-nhàng, không quá nghiêm túc; và người hướng nội, những người đôi lúc cảm thấy sự ưa thích nói về những vấn đề và rắc rối của mình có thể khiến họ trở nên đáng chán, nên biết rằng họ đang khiến cho những người khác cảm thấy an toàn để cũng nói chuyện nghiêm túc hơn.

Nghiên cứu của Thorne cũng đồng thời giúp chúng ta hiểu hơn về thành công đáng kinh ngạc của Jon Berghoff. Anh đã biến niềm ham thích với những chủ đề trò chuyện nghiêm túc của mình, cộng với việc nhận lấy vai trò "người khuyên bảo" thay vì "người thuyết phục" trong cuộc nói chuyện, thành một dạng liệu pháp trị liệu tâm lý cho những khách hàng tương lai của anh. "Tôi từ lâu đã sớm khám phá ra rằng người ta mua hàng từ tôi không phải bởi họ hiểu tôi đang bán gì", Jon giải thích. "Họ mua vì họ cảm thấy tôi đang hiểu họ".

Jon đồng thời cũng thu được lợi ích từ xu hướng tự nhiên của anh trong việc đặt rất nhiều câu hỏi và lắng nghe kỹ càng từng câu trả lời. "Tôi đi đến được mức có thể bước vào nhà một ai đó, và thay vì cố thuyết phục chào bán họ mua dao, tôi hỏi họ cả trăm câu hỏi một lúc. Tôi có thể duy trì cả một cuộc đối thoại chỉ bằng cách hỏi đúng các câu hỏi". Ngày nay, trong những lớp huấn luyện kỹ năng của mình, Jon cũng làm điều tương tự. "Tôi cố truy cập vào bước sóng của người tôi đang làm việc với. Tôi chú tâm vào những năng lượng họ đang phát ra. Tôi có thể làm thế rất dễ bởi ngay từ đầu tôi đã luôn ở trong đầu mình rất nhiều rồi".

Nhưng không phải kỹ năng bán hàng cần rất nhiều khả năng làm mọi người phấn khích, khiến họ hào hứng hay sao? Theo Jon thì không. "Rất nhiều người tin rằng để bán được hàng thì cần phải là một người nói nhanh, hoặc là một người biết cách dùng tác phong hấp dẫn để thu hút khách hàng. Những thứ đó cần đến một kiểu giao tiếp hướng ngoại. Trong công việc bán hàng, có một sự thật mà ai cũng biết rằng "chúng ta có đến hai tai và chỉ có một miệng mà thôi, bởi vậy nên hãy dùng chúng theo đúng tỷ lệ hợp lý". Tôi tin rằng trong những thứ khiến một ai đó thật sự giỏi trong việc bán hàng hay tư vấn-thứ số một, quan trọng nhất đấy là họ phải thực sự giỏi trong việc lắng nghe. Khi tôi nhìn vào những người bán hàng đứng đầu trong công ty của tôi, không một cái nào trong số những phẩm chất hướng ngoại đó lại là chìa khóa dẫn đến thành công của họ cả".

Và giờ hãy quay trở lại với tình huống bế tắc giữa Greg và Emily. Chúng ta cho đến giờ đã thu thập được hai mảnh thông tin quan trọng: thứ nhất, sự chán ghét của Emily dành cho việc multitask giữa các cuộc đối thoại là thật, và có thể lý giải được; và thứ hai, khi những người hướng nội được thoải mái trò chuyện theo cách riêng của họ, họ sẽ tạo những kết nối sâu sắc và thú vị với những người khác.

Chỉ khi họ đã chấp nhận hai thực tế trên thì Greg và Emily với có thể tìm ra một cách để phá vỡ thế bế tắc này của họ. Thay vì chỉ chú tâm vào vấn đề số lượng các bữa tiệc tối họ nên có, họ nên bắt đầu bàn luận cả về hình thức của các bữa tiệc này nữa. Thay vì xếp mọi người ngồi tất cả quanh một bàn tròn lớn, thứ sẽ yêu cầu đến việc multitask qua lại giữa đủ các cuộc chuyện trò giữa tất cả mọi người mà Emily cực kỳ ghét, tại sao lại không phục vụ bữa tối theo phong cách tiệc đứng (buffet), với mọi người ăn và chuyện trò tán gẫu theo những nhóm nhỏ trên ghế sofa hoặc nệm trải trên sàn? Điều này sẽ giúp Greg được mặc sức tung hoành ở vị trí trung tâm căn phòng quen thuộc của anh ấy, và giúp Emily được ở vị trí quen thuộc của cô bên rìa căn phòng, nơi cô có thể có những cuộc chuyện trò gần gũi, thân mật, một-đối-một mà cô thực sự ưa thích.

Khi vấn đề này đã được giải quyết, cặp đôi này giờ đã được tự do để bàn luận về câu hỏi lớn hơn, gai góc hơn, đó là: họ nên tổ chức bao nhiêu bữa tiệc là vừa? Sau một hồi bàn qua luận lại, họ đồng ý với nhau về mức hai buổi tối mỗi tháng-tức hai mươi tư bữa tiệc tối mỗi năm-thay vì năm mươi hai. Emily thực sự vẫn không hào hứng gì với những sự kiện kiểu này. Nhưng cô thỉnh thoảng vẫn thích thú với nó bất chấp bản tính của mình. Và Greg thì được tổ chức những buổi tiệc tối mà anh vẫn luôn vô cùng thích thú, được sống đúng với danh tiếng của mình, và được ở bên người anh yêu thương nhất-tất cả trong cùng một lúc.

11

VỀ NHỮNG NGƯỜI THỢ LÀM GIẦY VÀ NHỮNG VỊ TƯỚNG

Làm thế nào Để Nuôi Dạy Những Đứa Con Trầm Tính Của Bạn, trong một Thế Giới Không Thể Nghe Thấy Chúng

Với bất cứ thứ gì còn non trẻ và mỏng manh, phần quan trọng nhất của công việc là ở sự khởi đầu của nó; bởi đó là thời điểm khi tính cách được thành hình, và ấn tượng mà ta mong đợi sẽ được tiếp nhận tuyệt đối hơn cả.

-

PLATO, Cộng Hòa (The Republic)

Mark Twain đã từng kể câu chuyện về một người đi khắp cả thế giới để tìm cho được vị tướng vĩ đại nhất từng sống trên đời. Khi người đó nhận được tin rằng người ông muốn tìm đã chết và tới thiên đường rồi, ông du hành tới tận Cổng Thiên đường để tìm vị tướng kia. Thánh Peter chỉ cho ông tới một người đàn ông dáng vẻ hết sức tầm thường.

"Đây đâu phải là vị tướng vĩ đại nhất trong tất cả các vị tướng!" người nọ phản đối. "Tôi biết người này khi ông ta còn sống ở trần thế, và ông ta chỉ là một người thợ làm giày bình thường thôi!".

"Ta biết điều đó", thánh Peter nói, "nhưng nếu khi còn sống ông ta đã làm một vị tướng, thì ông ta sẽ là người vĩ đại nhất trong số họ".

Tất cả chúng ta nên nhận biết những người thợ làm giày mà đúng ra đã có thể là những vị tướng vĩ đại. Điều đó có nghĩa là tập trung vào những đứa trẻ hướng nội, những người mà tài năng của họ thường bị che giấu, bất kể là ở nhà, ở trường học, hay trên sân chơi.

Hãy cân nhắc đến câu chuyện cảnh báo này, được kể cho tôi bởi tiến sĩ Jerry Miller, một nhà tâm lý học trẻ em (child psychologist) tại Trung Tâm Trẻ Em và Gia Đình (Center for the Child and the Family) tại Đại học Michigan. Tiến sĩ/Bác sĩ Miller có một bệnh nhân tên Ethan, một cậu bé được bố mẹ mang tới để nhờ bác sĩ chữa trị trong bốn dịp khác nhau. Mỗi lần, hai vị phụ huynh lại nói lên cùng một nỗi sợ rằng có gì đó không ổn với con của họ. Và mỗi lần, tiến sĩ Miller lại phải trấn an họ rằng Ethan là một đứa trẻ hoàn toàn bình thường.

Lý do cho nỗi lo sợ này của họ bắt đầu cũng rất đơn giản. Ethan khi đó đã 7 tuổi, và đứa em trai 4 tuổi của cậu bé đã đánh thắng cậu bé vài lần rồi. Ethan không hề đánh lại. Cha mẹ cậu-cả hai đều thuộc dạng người quảng giao, lãnh-đạo với những chức vụ cấp cao tại các tập đoàn lớn và một niềm đam mê lớn cho các môn thể thao thi đấu golf và tennis-đều thấy ổn với sự hung hăng của đứa con út, nhưng lo sợ về sự thụ động của Ethan có thể "sẽ trở thành câu chuyện cuộc đời nó" sau này.

Khi Ethan lớn dần lên, bố mẹ cậu vẫn nỗ lực vô vọng trong việc gửi gắm tinh thần chiến đấu vào trong cậu. Họ gửi cậu đến sân đấu bóng chày và sân vận động bóng đá, nhưng Ethan chỉ muốn về nhà và đọc sách. Cậu thậm chí còn không hề cạnh tranh ở trường học. Mặc dù rất thông minh, cậu vẫn là một học sinh chỉ giành chủ yếu điểm B. Cậu đã có thể làm tốt hơn, nhưng chọn việc tập trung vào các thú vui của mình, đặc biệt là việc lắp ghép mô hình xe hơi. Cậu có một vài người bạn thân thiết, nhưng chưa bao giờ nhiệt tình tham gia vào những hoạt động tương tác tập thể trong lớp. Không thể nào lý giải nổi hành vi khó hiểu của con, bố mẹ của Ethan lo sợ rằng cậu có thể đã bị tự kỷ.

Nhưng vấn đề của Ethan, tiến sĩ Miller nói, không phải là hội tự kỷ, mà là trường hợp điển hình của một ca lệch tông giữa bố mẹ và con cái. Ethan cao, gầy gò, và không hề có vóc dáng thể thao; cậu trông hệt như một tên mọt sách điển hình. Bố mẹ cậu đều rất mạnh mẽ, rất quảng giao, những người "luôn luôn cười, luôn luôn nói chuyện với người khác trong lúc kéo Ethan đi sau họ".

Hãy so sánh những lo lắng của họ về Ethan với sự đánh giá từ tiến sĩ Miller: "Cậu bé ấy là một đứa trẻ kiểu Harry Potter điển hình-luôn luôn đọc", tiến sĩ Miller nói một cách phấn khởi. "Cậu bé thích thú với bất kể dạng chơi nào cần đến nhiều trí tưởng tượng. Cậu ấy thích chế tạo, lắp ghép mọi thứ. Cậu bé đó có rất nhiều thứ cậu muốn nói cho bạn biết về. Cậu nhóc chấp nhận cha mẹ cậu nhiều hơn mức họ chịu chấp nhận cậu. Cậu không hề đánh giá họ là "có bệnh lý về tính cách", chỉ là khác biệt so với cậu mà thôi. Một đứa trẻ như thế trong một gia đình khác sẽ là một đứa con hoàn toàn kiểu mẫu".

Nhưng cha mẹ của Ethan thì chưa bao giờ nhìn được cậu bé dưới góc nhìn đó. Điều cuối cùng tiến sĩ Miller nghe được từ họ là bố mẹ cậu cuối cùng đã tham vấn một nhà tâm lý học khác, người đồng ý sẽ "chữa trị" cho con trai họ. Và bây giờ đến lượt tiến sĩ Miller lại là người lo lắng về Ethan.

"Đây rõ ràng là một ca bệnh 'iatrogenic'", ông nói. "Đó là khi không phải vì bệnh, mà chính hành động điều trị mới là thứ khiến bạn phát bệnh. Ví dụ điển hình là khi bạn dùng liệu pháp điều trị để cố biến một đứa trẻ đồng tính trở thành "thẳng". Tôi rất lo cho cậu bé đó. Bố mẹ cậu là những người quan tâm và thực sự có ý tốt. Họ cảm thấy rằng nếu không có điều trị, họ sẽ không thể chuẩn bị đủ tốt cho con mình sau này khi nó vào đời. Rằng thằng bé cần nhiều lửa hơn nữa trong nó. Có lẽ đoạn cuối đó cũng có một phần đúng; tôi không biết nữa. Nhưng dù đúng hay không, tôi thực tâm tin rằng thay đổi được cậu bé là chuyện không thể. Tôi lo rằng họ sẽ đang từ việc có một đứa trẻ hoàn toàn khỏe mạnh lại gây ra thương tổn nặng nề cho cảm giác về bản thân (sense of self) của cậu bé mà thôi".

Tất nhiên, không nhất thiết phải có sự lệch tông lớn đến vậy mỗi khi một cặp bố mẹ hướng ngoại có một đứa con hướng nội. Với một chút để tâm và thấu hiểu, bất cứ bậc cha mẹ nào cũng có thể hợp tông với con cái mình dù chúng có bất cứ dạng tính cách nào, tiến sĩ Miller nói. Nhưng cha mẹ cần phải nín nhịn sở thích riêng của mình một chút, để có thể nhìn thấy được thế giới từ góc nhìn của đứa con trầm tính của mình.

Hãy thử xem xét tình huống của Joyce và cô con gái bảy tuổi của cô, Isabel. Isabel là một cô bé có vóc dáng nhỏ nhắn, mới học lớp hai, thích đi xăng-đan lấp lánh và đeo những vòng tay nhiều màu bằng cao su tới trường. Cô bé có vài người bạn rất thân mà bé rất tin tưởng, và cô bé hòa đồng được với hầu hết những đứa trẻ khác trong lớp. Isabel là dạng người sẽ vòng tay ôm lấy một người bạn vừa trải qua một ngày không hay; cô bé thậm chí còn đem tặng quà sinh nhật của mình cho quỹ từ thiện nữa. Đó là lý do tại sao mẹ cô bé, Joyce, một người phụ nữ cuốn hút, tốt bụng với một khiếu hài hước xuất sắc và một thái độ "cái gì cũng chơi hết", lại lúng túng đến vậy trước rắc rối của Isabel tại trường học.

Ở lớp một, Isabel thường trở về nhà mà đắm chìm trong lo lắng về một kẻ bắt nạt bạn khác trong lớp, người sẽ hét những câu bình phẩm rất ác độc vào bất cứ ai đủ nhạy cảm để thấy bất bình về hành động của con bé. Kể cả khi đứa bé thích bắt nạt kia hay thích ăn hiếp những bạn khác, Isabel vẫn dành hàng giờ phân tích ý nghĩa từng từ trong lời nói của kẻ bắt nạt, xem ý định thực sự của cô bé đó là gì, kể cả việc liệu kẻ bắt nạt đó có phải chịu đựng gì ở nhà không để đến mức khiến nó hành xử kinh khủng đến vậy ở trường học.

Khi đã lên đến lớp hai, Isabel bắt đầu yêu cầu mẹ mình đừng sắp xếp lịch chơi của cô bé với các bạn khác mà không tham khảo với cô bé trước. Thông thường cô bé sẽ thích ở nhà hơn. Khi Joyce đến đón Isabel ở trường, cô thường thấy những bé gái khác tụ tập lại thành từng nhóm và Isabel thì đứng tách riêng một chỗ trên sân chơi, ném bóng vào rổ một mình. "Con bé chỉ đơn giản là không chịu tham gia với những đứa trẻ khác. Tôi đã phải dừng việc tới đón con một thời gian", Joyce nhớ lại. "Nó là một cảnh tượng quá buồn khi phải chứng kiến". Joyce không thể hiểu được tại sao cô con gái dễ thương, tốt bụng của mình lại muốn dành nhiều thời gian đến vậy để ở một mình. Cô lo lắng là có gì đó không ổn với Isabel. Bất chấp về việc cô vẫn luôn tin rằng con gái mình có một bản tính cảm thông tự nhiên, nhỡ ra có khi nào Isabel lại không có khả năng liên hệ với người khác thì sao?

Chỉ đến khi tôi đưa ra gợi ý rằng có thể cô bé của Joyce là một người hướng nội, và giải thích từ đó có nghĩa là gì, Joyce mới bắt đầu suy nghĩ khác đi về những gì Isabel trải nghiệm ở trường học. Và từ góc nhìn của Isabel, mọi thứ thực ra chẳng hề đáng lo ngại một chút nào cả. "Cháu cần một khoảng nghỉ khỏi trường học", sau này cô bé nói với tôi. "Ở trường học rất khó khăn bởi vì có rất nhiều người trong cùng một phòng, vậy nên nó khiến mình cảm thấy rất là mệt. Cháu sẽ phát hoảng nếu mẹ cháu lên kế hoạch đi chơi với các bạn mà không nói với cháu trước, bởi vì cháu không muốn làm tổn thương các bạn ấy. Nhưng cháu thấy thà ở nhà còn thích hơn. Ở nhà bạn, cháu sẽ phải làm những thứ người khác muốn cháu làm. Cháu vẫn thích đi đây đi đó chơi với mẹ cháu sau giờ học, vì cháu có thể học được rất nhiều từ mẹ. Mẹ đã sống lâu hơn cháu nhiều. Chúng cháu (mẹ và cô bé) có những cuộc nói chuyện sâu sắc. Cháu thích có những cuộc nói chuyện sâu sắc, bởi vì nó khiến người ta cảm thấy hạnh phúc hơn".

[1]

Isabel đang nói với chúng ta, bằng tất cả sự thông thái của tuổi-lên-lớp-hai của cô bé, rằng những người hướng nội liên hệ với những người khác. Tất nhiên là họ có chứ. Họ chỉ là làm điều đó theo cách riêng của họ mà thôi.

Giờ khi Joyce đã hiểu được nhu cầu của Isabel, mẹ và con gái đã có thể cùng vui vẻ suy nghĩ cùng nhau, để đưa ra các chiến lược phù hợp để giúp Isabel có thể tận hưởng những ngày đi học của mình tốt hơn. "Trước kia, tôi có lẽ sẽ bắt Isabel phải ra ngoài và gặp gỡ mọi người vào tất cả mọi lúc nào rảnh rỗi, nhồi nhét vào tất cả những giờ trống ngoài giờ học của con bé với đủ các thể loại hoạt động", Joyce nói. "Giờ tôi đã hiểu được rằng việc đi học với con bé đã rất căng thẳng rồi, vậy nên chúng tôi cùng suy tính với nhau xem việc giao du đến mức độ bao nhiêu là hợp lý, và khi nào thì nên giao du". Joyce không phiền lòng chuyện Isabel muốn ở trong phòng mình một mình sau giờ học, hay rời khỏi một bữa tiệc sinh nhật sớm hơn một chút so với những đứa trẻ khác. Cô đồng thời cũng hiểu được rằng vì bản thân Isabel không thấy điều này có gì là vấn đề cả, nên cũng chẳng có lý do gì mà cô lại phải coi nó là vậy.

Joyce đồng thời cũng đã có được những kiến thức sâu hơn về việc làm thế nào để giúp cô con gái bé bỏng của mình quản lý chuyện giao thiệp trên sân chơi tốt hơn. Một lần, Isabel rất lo lắng về chuyện nên chia sẻ thời gian của cô bé giữa các bạn thế nào khi một số người bạn của bé không ưa lẫn nhau. "Bản năng đầu tiên của tôi", Joyce nói, "sẽ là nói 'Ôi, đừng có lo! Cứ chơi hết với tất cả đi!'. Nhưng giờ tôi đã hiểu rằng Isabel là một dạng người khác. Con bé gặp khó khăn trong việc vạch ra chiến lược để có thể giao tiếp với tất cả chừng đấy người cùng lúc khi ở trên sân chơi. Vậy nên chúng tôi cùng bàn luận về việc con bé sẽ chơi cùng với ai và vào lúc nào, và chúng tôi tập dượt trước những gì con bé có thể nói với các bạn để giúp các bạn làm lành với nhau".

Một lần khác, khi Isabel đã lớn hơn một chút, cô bé cảm thấy rất buồn khi các bạn của cô bé ngồi ở hai bàn khác nhau trong phòng ăn trưa. Ở một bàn là những người bạn trầm tính hơn của cô bé, bàn còn lại là những kẻ hướng ngoại của lớp học. Isabel miêu tả nhóm thứ hai là "ồn ào, luôn luôn nói chuyện-Ôi!". Nhưng cô bé buồn bởi người bạn thân nhất của cô bé, Amanda, rất thích ngồi ở "bàn của bên điên", kể cả khi cô bé này cũng là bạn với các bé gái khác ở "bàn của bên thoải mái và bình tĩnh hơn" nữa. Isabel cảm thấy rất phân vân. Cô bé nên ngồi đâu đây?

Ý nghĩ đầu tiên của Joyce là cái "bàn của bên điên" nghe có vẻ vui hơn nhiều. Nhưng cô hỏi Isabel là cô bé thích bên nào hơn. Isabe suy nghĩ trong một phút rồi nói, "Có lẽ thỉnh thoảng con sẽ qua ngồi với Amanda, nhưng con thực sự thích được yên tĩnh hơn một chút, và được tạm nghỉ vào giờ trưa khỏi tất cả mọi thứ".

"Tại sao con lại muốn làm thế chứ? " Joyce nghĩ. Nhưng cô đã kịp kìm mình lại trước khi nói lớn câu đấy ra. "Mẹ nghĩ thế cũng được", cô nói với Isabel. "Nhưng bạn Amanda cũng vẫn quý con mà. Bạn ấy chỉ rất thích bàn bên kia mà thôi. Nhưng điều đó không có nghĩa là bạn ấy không thích con. Và con cũng nên có cho mình những khoảng thời gian bình yên tĩnh lặng mà con cần nữa".

Hiểu rõ sự hướng nội, Joyce nói, đã thay đổi hoàn toàn cách cô làm mẹ-và cô không thể tin được là mình đã mất lâu đến thế để nhận ra điều đó. "Khi tôi thấy Isabel sống thật tuyệt vời khi được là chính mình, tôi tôn trọng nó, kể cả khi cả toàn bộ thế giới có nói với con bé rằng nó nên ngồi ở bàn bên kia. Trên thực tế, nhìn cái bàn đó từ con mắt của con giúp tôi suy nghĩ lại về việc những người khác có thể nhìn nhận tôi như thế nào, và việc tôi nên nhìn nhận rõ và quản lý được chế độ mặc định hướng ngoại của mình, để không lỡ mất cơ hội ở bên những người như cô con gái tuyệt vời của tôi".

Joyce cũng đồng thời đã đi đến chỗ trân trọng cách sống nhạy cảm của Isabel. "Isabel có một tâm hồn rất chín chắn", cô nói. "Bạn sẽ quên mất việc con bé mới chỉ là một đứa trẻ. Khi tôi nói chuyện với con, tôi không cảm thấy mình bị thu hút vào việc dùng cái kiểu nói đặc biệt người ta vẫn dùng để nói với trẻ con, và tôi cũng không thay đổi cách dùng từ ngữ của mình. Tôi nói chuyện với con bé như cách tôi sẽ nói chuyện với bất kỳ người lớn nào. Con bé rất nhạy cảm, rất giàu lòng quan tâm tới người khác. Nó lo lắng cho sự hạnh phúc của những người khác. Con bé cũng có thể dễ dàng bị áp đảo hoàn toàn bởi một thứ gì đó, nhưng tất cả những đặc điểm này đi cùng với nhau, và tôi yêu tất cả chúng ở con gái mình".

Joyce là một người mẹ tận tâm như mọi người mẹ

khác

mà tôi đã từng gặp, nhưng cô đã gặp phải đôi chút khó khăn trong việc nuôi dạy con gái mình, bởi sự khác biệt trong tính cách giữa họ. Liệu cô đã có thể tận hưởng một sự hòa hợp tự nhiên hơn giữa cha mẹ-con cái nếu bản thân cô cũng là một người hướng nội không? Không nhất thiết. Các bậc cha mẹ hướng nội cũng có thể phải đối mặt với những khó khăn của riêng họ. Đôi lúc những ký ức đau khổ về thủa nhỏ có thể là thứ rào cản lớn nhất.

Emily Miller, một nhân viên xã hội (social worker) tại Ann Arbor, Michigan, có kể với tôi về một cô bé cô đã từng chữa trị, Ava, người có tính rụt rè cao tới mức nó khiến cô bé không thể kết bạn hay tập trung trong lớp được. Gần đây, cô bé đã khóc khi được mời tham gia một nhóm cùng hát trước lớp, và mẹ cô bé, Sarah, đã quyết định tìm đến sự trợ giúp của Miller. Khi Miller yêu cầu Sarah, một nhà báo kinh tế thành đạt, cùng tham gia như một người cộng tác trong việc chữa trị của Ava, Sarah đã bật khóc. Bản thân cô cũng đã từng là một đứa trẻ rụt rè nhút nhát, và cô cảm thấy tội lỗi khi tin rằng mình đã truyền cho Ava gánh nặng kinh khủng này của mình.

"Giờ tôi đã có thể che giấu nó tốt hơn, nhưng tôi cũng không khác gì con gái mình vậy", cô giải thích. "Tôi có thể tiếp cận bất cứ ai, nhưng chỉ khi tôi đang trốn đằng sau cuốn sổ ghi chép của nhà báo mà thôi".

Phản ứng của Sarah không phải là quá lạ thường gì với những bậc cha mẹ giả-hướng-ngoại của những đứa trẻ rụt rè, nhút nhát, Miller nói. Sarah không chỉ đang sống lại tuổi ấu thơ của chính mình, mà cô còn đang suy đoán rằng Ava hẳn phải đang trải qua những thứ tương đương như trong những ký ức tệ nhất của cô vậy. Nhưng Sarah cần phải hiểu rằng cô và Ava không phải là một, kể cả khi họ có vẻ cùng thừa hưởng một tính khí giống nhau. Thứ nhất, Ava còn chịu ảnh hưởng từ cả bố cô bé nữa, cũng như đủ thứ nhân tố từ môi trường bên ngoài khác, nên tính khí của cô bé chắc chắn sẽ có một cách thể hiện khác với Sarah. Đau khổ trong quá khứ của Sarah không nhất thiết cũng sẽ phải lặp lại ở con gái cô, và thực tế sẽ là rất có hại cho Ava khi cứ mặc định suy đoán như vậy. Với sự định hướng đúng đắn, Ava có thể đạt đến điểm khi sự nhút nhát rụt rè của cô bé chẳng còn là gì hơn là một sự phiền phức nhỏ nhặt và thỉnh thoảng mới xuất hiện.

Nhưng kể cả các bậc cha mẹ như Emily, những người vẫn còn rất nhiều việc phải làm để nâng cao sự tự tin của chính mình, cũng có thể giúp đỡ con cái mình cực kỳ lớn, theo lời Miller. Lời khuyên từ những bậc cha mẹ biết trân trọng cảm giác của con cái mình là vô cùng đáng tin cậy. Nếu con trai bạn cảm thấy lo lắng về ngày đi học đầu tiên của mình, sẽ rất có ích khi cho cậu bé biết rằng bạn cũng đã từng cảm thấy tương tự khi bạn bắt đầu đi học, và thậm chí bây giờ thỉnh thoảng vẫn cảm thấy vậy, ở chỗ làm; nhưng hứa với con rằng mọi việc sẽ dần trở nên dễ dàng hơn theo thời gian. Kể cả khi cậu bé không tin bạn, bạn cũng sẽ đưa ra tín hiệu rằng bạn hiểu và chấp nhận cậu bé.

Bạn đồng thời cũng có thể dùng sự đồng cảm của mình để giúp bản thân quyết định khi nào thì bạn nên khuyến khích con đối mặt với nỗi sợ của mình, và khi nào thì việc này sẽ là vượt quá sức chịu đựng của con. Ví dụ, Sarah có thể biết rằng việc hát trước lớp sẽ là một bước đi quá đột ngột và quá lớn để Ava có thể làm ngay lập tức. Nhưng cô cũng có thể đồng thời cảm thấy rằng hát ở nơi riêng tư với với nhóm nhỏ và gần gũi và hiểu con gái mình, hay với những người bạn đáng tin cậy của cô bé, sẽ là một bước tiến đầu tiên có thể xử lý được, kể cả khi Ava có thể phản đối lúc đầu. Cô có thể, nói một cách khác, ngầm cảm nhận được khi nào thì cần thúc ép Ava, và đến mức độ nào thì là hợp lý.

Nhà tâm lý học Elaine Aron, người mà các công trình về tính nhạy cảm tôi đã miêu tả ở

chương 6

, có đề xuất một số câu trả lời mới cho những câu hỏi này khi bà viết về Jim, một trong những người cha tuyệt vời nhất mà bà biết. Cô con gái đầu tiên, Betsy, thì giống hệt anh, nhưng người con cái thứ hai, Lily, thì nhạy cảm hơn-một nhà quan sát sắc sảo, nhưng cũng đầy lo lắng về thế giới của cô bé. Jim là một người bạn của Aron, vậy nên anh biết tất cả về tính hướng nội và sự nhạy cảm. Anh trân trọng cách sống của Lily, nhưng cùng lúc đó cũng không muốn cô bé lớn lên thành một người luôn rụt rè, nhút nhát.

Vậy nên, Aron viết, anh "quyết tâm giới thiệu cô bé tới với mọi điều vui thú mới của cuộc sống, từ những làn sóng biển, leo cây, và những món ăn mới trong các dịp đại gia đình đoàn tụ, bóng đá, và khuyến khích cô bé đa dạng hóa tủ quần áo của cô bé thay vì chỉ mặc một loại trang phục thoải mái duy nhất. Ở hầu hết mọi trường hợp, Lily lúc đầu nghĩ những trải nghiệm mới lạ này không phải là một ý hay, và Jim luôn luôn tôn trọng ý kiến của cô bé. Anh không bao giờ bắt ép con phải làm gì, mặc dù anh có thể rất có sức thuyết phục. Anh chỉ đơn giản là chia sẻ góc nhìn của anh về một tình huống với cô bé-cả sự an toàn lẫn những điều vui thú được bao gồm trong đó, hay sự tương đồng của nó với những thứ mà cô bé đã thích từ trước đó. Anh sẽ đợi đến khi thấy tia sáng lấp lánh trong mắt con gái mình nói rằng cô bé muốn tham gia cùng những người khác, kể cả khi cô bé chưa thể làm điều đó.

"Jim luôn luôn đánh giá những tình huống này rất cẩn trọng, để đảm bảo rằng cô bé sẽ không tuyệt đối chỉ thấy sợ hãi, mà còn có thể trải nghiệm cảm giác vui thích và thành công nữa. Đôi lúc anh giữ con gái lại cho đến khi cô bé chắc chắn đã rất sẵn sàng. Trên tất cả, anh luôn giữ sự mâu thuẫn ở bên trong, không để cho nó trở thành mâu thuẫn giữa anh và con gái... Và nếu cô bé hay bất kỳ ai khác có bình luận về sự trầm tính hay sự lưỡng lự, chần chừ của cô, câu trả lời ngay lập tức của Jim sẽ là "Đó chỉ đơn giản là phong cách của con thôi. Những người khác có thể có phong cách khác của họ. Nhưng đây là phong cách của con. Con thích làm mọi thứ từ từ và chắc chắn". Jim đồng thời cũng biết rằng một phần trong phong cách của cô bé là làm bạn với bất cứ ai bị những người khác trêu chọc, làm những công việc của mình một cách rất cẩn thận, để ý tới mọi thứ đang diễn ra trong gia đình, và làm một nhà chiến thuật bóng đá giỏi nhất trong toàn bộ giải đấu của cô bé.

Một trong những điều tuyệt vời nhất bạn có thể làm cho một đứa trẻ hướng nội là giúp đỡ nó trong việc phản ứng với những điều mới lạ. Hãy nhớ rằng người hướng nội phản ứng không chỉ với những người mới gặp, mà còn với cả những nơi chốn mới và các sự kiện mới. Vậy nên đừng nhầm lẫn giữa sự thận trọng của con bạn trong những tình huống mới với việc nó không có khả năng liên hệ với những người khác. Nó đang co mình lại khỏi những điều mới hay sự kích thích quá độ, chứ không phải rút lui khỏi việc quan hệ với mọi người. Như chúng ta đã thấy từ chương trước, mức độ hướng nội-hướng ngoại không liên quan tới việc một người có dễ chịu hay không trong mắt người khác, hay việc người đó có thích sự gần gũi, thân mật với người khác không. Người hướng nội cũng có xu hướng cao hệt như người bên cạnh họ trong việc muốn tìm kiếm sự bầu bạn từ những người khác, mặc dù sẽ thường ở mức độ nhỏ hơn.

Chìa khóa ở đây là ở việc giúp con bạn tiếp xúc dần dần với những tình huống mới và những người mới-hãy để tâm tôn trọng các giới hạn của con, kể cả chúng có vẻ hơi cẩn trọng đến quá đáng. Điều này sẽ khiến con tự tin hơn là hoặc bảo vệ nó một cách thái quá, hoặc thúc ép nó quá nhiều. Hãy cho con biết rằng cảm giác của con là bình thường và tự nhiên, nhưng đồng thời cũng giúp con hiểu rằng thực sự chẳng có gì đáng để sợ cả: "Bố/Mẹ biết có thể sẽ hơi kỳ khi phải chơi chung với ai đó con chưa từng gặp bao giờ, nhưng bố/mẹ cá là cậu bạn ấy sẽ rất thích được chơi đua xe cùng với con nếu con rủ bạn ấy". Hãy đi từ từ ở tốc độ của con bạn, đừng thúc giục nó. Nếu nó còn quá nhỏ, hãy giúp giới thiệu bước đầu với cậu bé kia nếu bạn thấy cần thiết. Và hãy ở lại gần bên con-hoặc, trong trường hợp con còn thực sự rất nhỏ, hãy giúp đỡ con một cách nhẹ nhàng, khích lệ từ phía sau-cho đến chừng nào con bạn còn có thể thu được lợi ích từ việc có bạn ở gần bên. Khi cậu bé của bạn quyết định sẽ mạo hiểm bước ra ngoài vùng an toàn của mình khi giao tiếp, hãy cho con biết bạn ngưỡng mộ nỗ lực của con: "Mẹ thấy con đã chủ động tới làm quen với các bạn mới ngày hôm qua. Mẹ biết điều đó có thể rất khó khăn, và mẹ tự hào về con".

Mọi thứ cũng tương tự như thế với các tình huống mới. Hãy tưởng tượng một đứa trẻ sợ biển hơn nhiều những bạn cùng lứa khác của nó. Những bậc cha mẹ giàu suy nghĩ sẽ nhận ra rằng nỗi sợ này là tự nhiên, và thậm chí còn là thông thái nữa; biển cả thực sự là chứa đầy nguy hiểm. Nhưng họ sẽ không cho phép cô bé dành cả kỳ nghỉ hè chỉ chơi trên những bãi cát, và họ cũng sẽ không đột ngột quẳng con xuống nước và kỳ vọng rằng nó sẽ bơi. Thay vào đó, họ ra tín hiệu cho thấy rằng họ hiểu nỗi bất an của con, trong khi vẫn khích lệ con tiến từng bước nhỏ một. Có thể họ sẽ chơi trên bờ cát trong một vài ngày với tiếng sóng biển vỗ bờ còn ở cách xa một khoảng cách an toàn. Rồi một ngày họ sẽ tiếp cận bờ nước, có lẽ với đứa trẻ ngồi trên vai một trong hai cha mẹ. Họ đợi cho đến khi thời tiết êm ả, hoặc khi sóng thấp, để khuyến khích con nhúng xuống nước chỉ một ngón chân, rồi cả bàn chân, rồi ngập tới đầu gối. Họ không vội vàng, không thúc giục; mỗi bước thật nhỏ đó của họ cũng là một bước nhảy khổng lồ trong thế giới của đứa trẻ rồi. Rồi đến cuối cùng thì cô bé con đó cũng đã học bơi được như một con cá, thì cô bé ấy sẽ đạt đến một bước chuyển quan trọng không chỉ trong mối quan hệ giữa cô bé với nước, mà cả với nỗi sợ của chính cô bé nữa.

Dần dần con bạn sẽ thấy rằng cũng đáng để đấm thủng bức tường của sự thiếu thoải mái ban đầu để tới được tới sự vui thích ở phía bên kia. Cô bé sẽ học được cách tự đấm thủng bức tường đó bằng chính sức mình. Như tiến sĩ Rubin, giám đốc Trung Tâm về Trẻ em, Các mối Quan Hệ và Văn hóa (the Center for Children, Relationships and Culture) tại Đại học Maryland, viết: "Nếu bạn luôn luôn giữ vững việc giúp đỡ con bạn học cách điều khiển cảm xúc và hành vi của mình bằng một cách nhẹ nhàng và khích lệ, một điều khá là kỳ diệu sẽ bắt đầu xuất hiện: đến một lúc, bạn sẽ có thể thấy con gái mình bắt đầu tự khẽ trấn an bản thân: "Đám trẻ kia có vẻ đang chơi rất vui. Mình cũng có thể tới đó". Cậu bé hoặc cô bé đó đang học cách tự điều khiển nỗi sợ và sự lo lắng của chính mình".

Nếu bạn muốn con bạn học được những kỹ năng này, đừng bao giờ để cô bé nghe thấy bạn gọi cô bé bằng những từ ngữ "nhút nhát/rụt rè": cô bé sẽ tin vào tên gọi đó và bắt đầu coi sự luôn căng thẳng, lo lắng của mình là một tính cách cố định hơn là một cảm xúc tự cô bé có thể điều khiển. Bản thân cô bé cũng biết rất rõ rằng "nhút nhát, rụt rè" (shy) là một từ ngữ tiêu cực trong xã hội của chúng ta. Trên tất cả, tuyệt đối đừng bao giờ làm con phải thấy hổ thẹn với sự nhút nhát, rụt rè của mình.

Nếu bạn có thể, sẽ là tốt nhất nếu dạy cho con những kỹ năng tự-thuyết-phục-bản-thân từ khi con còn rất nhỏ, khi những dị nghị về việc ngần ngại trong giao tiếp vẫn còn chưa nhiều. Hãy làm tấm gương cho con qua việc chào những người mới quen một cách bình tĩnh và thân thiện, và qua việc tụ tập với những người bạn của chính bạn. Tương tự, hãy mời một vài bạn cùng lớp của con tới nhà bạn chơi. Nhẹ nhàng cho con biết rằng khi con ở cùng những người khác, con không được thì thầm hay túm lấy ống quần bạn mỗi khi con cần giao tiếp với bạn về một nhu cầu gì đó; con cần phải nói lớn. Hãy đảm bảo rằng những đối tác giao tiếp của con bạn đều dễ chịu thân thiện, bằng cách chọn lấy những đứa trẻ không quá hung hăng, và những nhóm chơi sẽ tạo cảm giác thân thiện cho con. Cho con chơi với những đứa bé nhỏ tuổi hơn nếu điều này giúp cậu bé tự tin hơn; hoặc với những đứa trẻ lớn tuổi hơn nếu điều này giúp cậu nhóc có động lực phấn đấu.

Nếu cậu nhóc không chơi được với một đứa trẻ nào đó, đừng cố bắt ép nó; bạn sẽ muốn hầu hết mọi trải nghiệm giao tiếp đầu tiên của con đều là những trải nghiệm tích cực. Hãy sắp xếp để con bước vào các môi trường giao tiếp mới càng từ từ càng tốt. Khi bạn và con tới một bữa tiệc sinh nhật, ví dụ vậy, hãy nói trước với con về việc bữa tiệc sẽ trông như thế nào, và đứa trẻ nên chào các bạn khác ra sao ("Đầu tiên hãy nói 'Chúc mừng sinh nhật nhé, Joey', sao đó nói 'Chào, Sabrina'"). Và hãy đảm bảo rằng bạn sẽ tới đó từ sớm. Sẽ dễ hơn nhiều khi là một trong những vị khách đến đầu tiên, như thế con bạn có thể cảm thấy như thể những người khác đang gia nhập vào một không gian mà mình đang "sở hữu", thay vì phải "đột nhập" vào một nhóm đông đúc đã ở đó từ trước.

Tương tự, nếu con bạn lo lắng về việc năm học mới sắp bắt đầu, hãy đưa con tới xem trước phòng học và, lý tưởng nhất, sẽ là gặp gỡ một-đối-một với giáo viên cũng như những người lớn với vẻ ngoài thân thiện khác, ví dụ như hiệu trưởng hoặc những giáo viên tư vấn (guidance counselors), nhân viên bảo vệ và nhân viên phục vụ căng-tin. Bạn có thể nhẹ nhàng đề cập đến chuyện này: "Con chưa bao giờ nhìn thấy phòng học mới của con nhỉ? Sao giờ chúng ta không lái xe tới và tạt vào nhìn qua đó một chút?". Cùng tìm hiểu trước xem phòng vệ sinh ở đâu, nội quy để ra vào đó là gì, từ lớp học tới căng-tin đi đường nào, và xe buýt của trường sẽ đón con ở chỗ nào sau khi tan học. Sắp xếp các ngày đi chơi của con trong kỳ nghỉ hè với những đứa trẻ hợp tính con trong lớp.

Bạn cũng đồng thời có thể dạy con những chiến lược giao tiếp đơn giản để giúp con vượt qua những khoảnh khắc khó xử. Hãy khuyến khích con tỏ ra tự tin kể cả khi con không thực sự cảm thấy như vậy. Ba lời nhắc đơn giản để nhớ là: mỉm cười, đứng thẳng người, và khi nói không lảng tránh ánh nhìn của đối phương. Dạy con bạn cách tìm kiếm những khuôn mặt thân thiện trong một đám đông. Bobby, một em bé ba tuổi, không tới trường mẫu giáo trong thành phố của mình bởi vì tới giờ ra chơi cả lớp rời bỏ không gian khép kín an toàn của phòng học và chơi trên sân thượng với những đứa trẻ lớn hơn ở các lớp trên. Cậu bé cảm thấy bị đe dọa tới mức cậu chỉ muốn tới trường vào những hôm trời mưa khi không phải lên chơi trên sân thượng nữa. Cha mẹ cậu đã giúp cậu tìm hiểu xem những đứa trẻ nào cậu có thể thấy thoải mái khi chơi cùng, cũng như giúp cậu bé hiểu rằng có một đám trẻ lớn hơn chơi bời ồn ã xung quanh không nhất thiết phải làm hỏng cuộc chơi vui của chính cậu.

Nếu bạn thấy mình chưa sẵn sàng cho tất cả những điều này, hoặc tin rằng đứa trẻ của bạn có thể cần thêm những trải nghiệm luyện tập nhiều hơn nữa, hãy hỏi bác sĩ nhi khoa địa điểm của một lớp dạy kỹ năng giao tiếp (social skills workshop) tại nơi bạn sống. Những lớp học này dạy trẻ em cách gia nhập nhóm, tự giới thiệu bản thân với những người bạn mới, và cách đọc ngôn ngữ cơ thể cũng như biểu hiện trên nét mặt. Và họ có thể giúp con bạn định hướng ở thứ mà với rất nhiều trẻ em hướng nội là phần khó nhất trong cuộc sống giao tiếp của chúng: những ngày đi học ở trường.

Đó là một buổi sáng thứ Ba vào tháng Mười, và các lớp năm tại một trường tiểu học công tại thành phố New York đang bắt đầu một bài học về ba nhánh chính của chính phủ Mỹ. Bọn trẻ ngồi xếp-chân-bằng-tròn trên một tấm thảm trong một góc phòng thắp đèn sáng rực rỡ, trong khi giáo viên của các em, ngồi trên một chiếc ghế với cuốn sách giáo khoa trước mặt, dành một vài phút để giải thích những khái niệm cơ bản. Sau đó là thời gian cho các hoạt động nhóm để áp dụng bài học.

"Lớp học trở nên rất bừa bãi lộn xộn sau giờ ăn trưa", cô giáo nói. "Có kẹo cao su dính dưới đáy bàn, bao bì thức ăn ở khắp mọi nơi, và bim bim thì rơi đầy trên sàn. Chúng ta đâu muốn lớp học mình bừa bãi lộn xộn đến vậy, phải không?"

Các học sinh lắc đầu, không.

"Hôm nay chúng ta sẽ làm gì đó về chuyện này-cùng với nhau", cô giáo nói.

Cô chia lớp thành ba nhóm, mỗi nhóm bảy em: một nhóm "lập pháp" (legislative), với nhiệm vụ ban hành những điều luật về nội quy ứng xử trong giờ ăn trưa; một nhóm "hành pháp" (executive), những người phải quyết định xem sẽ thực thi những luật đã được đưa ra như thế nào; và một nhóm "tư pháp" (judicial), những người sẽ phải đưa ra một hệ thống để xét xử các bạn trẻ đã ăn uống bừa bãi.

Bọn trẻ hào hứng chia ra về các nhóm của mình, ngồi tụ tập lại thành ba cụm lớn. Không cần phải dịch chuyển bất cứ một bộ bàn ghế nào cả. Vì hầu hết chương trình được thiết kể để thuận tiện cho hoạt động nhóm, các bàn học đã được sắp xếp sẵn thành từng "khối" bảy bàn cả rồi. Cả căn phòng rộ lên tiếng bàn luận sôi nổi. Một vài đứa trẻ ban nãy trong giờ học tỏ vẻ buồn chán muốn chết trong bài giảng kéo dài mười phút, giờ cũng đang hăng say tranh luận với các bạn khác trong nhóm mình.

Nhưng không phải tất cả các em đều như vậy. Khi bạn nhìn tổng thể tất cả bọn trẻ như một khối lớn, đây có vẻ như một căn phòng đầy ắp các chú cún con đang chơi đùa hết sức vui vẻ. Nhưng khi bạn chú tâm vào từng cá nhân-những đứa trẻ như Maya, một cô bé tóc đỏ cột sau gáy, đeo kính gọng kim loại, và một nét biểu cảm mơ mộng trên mặt-bạn sẽ có một bức tranh hoàn toàn khác biệt.

Ở nhóm của Maya, nhóm "hành pháp", mọi người đều tranh nhau nói cùng một lúc. Maya thì rút lui về phía sau. Samantha, cao lớn và béo tốt trong chiếc áo phông màu tím của em, đảm nhận nhiệm vụ điều hành "phiên họp". Cô bé lôi từ trong từ trong ba-lô của mình ra một túi bánh mì và nói: "Chỉ ai đang cầm chiếc túi này mới được nói nhé!". Các học sinh chuyền tay nhau cái túi bánh mì từ ba-lô của cô bé, và lần lượt đóng góp suy nghĩ của mình. Chúng nhắc tôi nhớ đến những đứa trẻ trong "Chúa Ruồi" (The Lord of the Flies) khi chuyền tay nhau một-cách-dân-chủ chiếc vỏ ốc để lần lượt nói, ít nhất là trước khi mọi thứ trở nên hỗn loạn.

Maya có vẻ hoàn toàn chìm trong sợ hãi khi chiếc túi tới được tay cô bé.

"Tớ đồng ý", cô bé nói, rồi vội vàng dúi nó cho người ngồi cạnh, như thể cái túi là một củ khoai tây đang nóng rẫy lên vậy.

Chiếc túi đi vòng quanh bàn vài lần liền. Mỗi lần Maya đều chuyền nó ngay cho bạn ngồi bên cạnh của mình, không nói gì hết. Cuối cùng thì cuộc thảo luận cũng kết thúc. Maya có vẻ căng thẳng. Chắc cô bé thấy xấu hổ, tôi đoán vậy, khi biết mình chẳng tham gia được gì cả. Samantha đọc từ quyển sổ của cô bé danh sách các cơ cấu hành pháp mà cả nhóm vừa nghĩ ra xong.

"Quy tắc thứ nhất", cô bé nói. "Nếu bạn phạm luật, bạn sẽ không được ra chơi..."

"Khoan đã!" Maya ngắt lời. "Tớ có một ý này!"

"Nói đi," Samantha nói, có vẻ hơi có chút thiếu kiên nhẫn. Nhưng Maya, như rất nhiều người hướng nội nhạy cảm, có vẻ đã quá quen thuộc với những dấu hiệu không hài lòng dù là nhỏ nhất từ người khác, nhận biết ngay được sự sắc lạnh trong giọng nói của Samantha. Cô bé mở miệng ra để nói, nhưng lại cúi mặt thật thấp, chỉ để nói ra một thứ gì đó lẩm bẩm không nghe ra được. Không ai có thể nghe rõ cô bé vừa nói gì. Cũng không một ai thèm cố gắng làm thế. Cô bé nổi tiếng nhất trong nhóm-vượt xa hàng năm ánh sáng so với những đứa trẻ khác, với vóc dáng thon gọn và bộ trang phục hợp thời trang-thở dài ngao ngán. Maya nói nhỏ dần vì lúng túng, và cô bé nổi tiếng thì nói, "OK, Samantha, cậu có thể tiếp tục đọc đi được rồi đấy".

Giáo viên sau đó yêu cầu nhóm "hành pháp" tóm tắt lại công việc của họ. Tất cả mọi người đều tranh nhau để nói. Tất cả mọi người, trừ Maya. Samantha lại đảm nhận công việc điều hành như thường lệ, giọng nói của cô bé vượt trội lên so với những bạn khác, cho đến khi cả nhóm đều chịu yên lặng. Bản báo cáo của cô bé không hợp lý gì cho lắm, nhưng cô bé tỏ ra tự tin và thân thiện, dễ gần tới mức nó có vẻ chẳng còn quan trọng nữa.

Maya, về phần mình, lại ngồi thu mình lại ở ngoài lề của nhóm, viết đi viết lại tên mình trên cuốn tập, với những con chữ in hoa lớn thật đậm nét, như thể để khẳng định lại danh tính thật của chính mình, trước hết là với chính bản thân cô bé.

Trước đó, giáo viên của Maya đã nói với tôi rằng cô bé thực ra là một học sinh có tư duy và cực thông minh, thường luôn tỏa sáng trong những bài tập viết tiểu luận của mình. Cô bé cũng là một vận động viên bóng mềm (softball, một trò chơi gần tương tự với bóng chày) bẩm sinh. Và cô bé rất tốt bụng với các bạn khác, thường gợi ý các bạn học còn kém để mình giúp đỡ, kèm cặp về mặt học tập. Nhưng không một cái nào trong số những phẩm chất tích cực của Maya được thể hiện rõ ra trong buổi sáng hôm đó.

Bất cứ bậc cha mẹ nào cũng sẽ không thể lấy làm vui lòng khi biết rằng đây lại là trải nghiệm về học tập, về giao tiếp, và về chính bản thân của con mình. Maya là một người hướng nội; cô bé đã phải ở trong môi trường không dành cho mình, trong một lớp học ồn ào và quá kích thích, nơi những bài học được dạy trong những nhóm lớn. Giáo viên của cô bé nói với tôi rằng cô bé sẽ có thể làm tốt hơn rất nhiều trong một môi trường bình tĩnh, nơi cô bé có thể làm việc với những đứa trẻ khác "có cùng mức độ chăm chỉ và để tâm tới từng chi tiết nhỏ", và nơi mà phần lớn nhất trong ngày sẽ được dành cho các hoạt động cá nhân. Maya cần phải học cách khẳng định bản thân mạnh mẽ hơn trong nhóm, tất nhiên, nhưng liệu những trải nghiệm như tôi đã chứng kiến có thể dạy cô bé kỹ năng ấy không?

Sự thật là rất nhiều trường học được thiết kế để dành cho người hướng ngoại. Những người hướng nội cần đến những cách giảng dạy khác với người hướng ngoại, các học giả về giáo dục Jill Burruss và Lisa Kaenzig tại Đại học William and Mary đã viết vậy. Và quá thường xuyên, "người học tiếp nhận được rất ít, chỉ trừ việc liên tục được khuyên là phải trở nên quảng giao và hòa đồng hơn".

Chúng ta thường có xu hướng quên rằng không có gì tuyệt-đối-thiêng-liêng, bất-khả-xâm-phạm ở việc học theo nhóm lớn cả, và rằng chúng ta sắp xếp học sinh như vậy không phải vì nó là cách tốt nhất để học, mà vì nó giúp tiết kiệm chi phí, và nếu không thì chúng ta phải làm gì với tụi nhỏ khi những người lớn phải đi làm đây? Nếu đứa trẻ của bạn thích làm việc độc lập và giao tiếp theo kiểu một-đối-một, vậy thì chẳng có gì không ổn với cô bé cả; cô bé chỉ đơn giản là không phù hợp với mô hình giáo dục đang thắng thế hiện giờ mà thôi. Mục đích của trường học nên là để chuẩn bị cho bọn trẻ tốt nhất cho phần còn lại của cuộc đời chúng, nhưng quá thường xuyên, thứ bọn trẻ cần phải chuẩn bị lại là để sống sót qua được chính những ngày học ở trường.

Môi trường ở trường học có thể rất phi tự nhiên, đặc biệt là từ góc nhìn của một đứa trẻ hướng nội yêu thích làm việc tập trung vào những dự án cậu bé đặc biệt quan tâm tới, hay chỉ giao tiếp với một hay hai người bạn trong cùng một thời điểm thôi. Buổi sáng, cửa xe buýt mở và thả đám hành khách của nó xuống vào một đám đông ồn ào, chen lấn xô đẩy. Các lớp học lý thuyết thì bị thống trị bởi những cuộc thảo luận nhóm, nơi giáo viên thúc ép cậu phải nói lớn. Cậu ăn trưa trong những tiếng nói chuyện ầm ĩ của căng-tin, nơi cậu phải chen lấn để có được một chỗ ngồi trong một bàn ăn chật kín người. Tệ hơn cả, có rất ít thời gian để suy nghĩ hay sáng tạo. Kết cấu của một ngày gần như được đảm bảo để triệt tiêu dần năng lượng của cậu hơn là kích thích nó.

Tại sao chúng ta có thể chấp nhận thứ tình huống một-kích-cỡ-cho-tất-cả này như một điều hiển nhiên, trong khi chúng ta biết quá rõ rằng người lớn chúng ta đâu có tự tổ chức mình theo cách này? Chúng ta thường trầm trồ ngưỡng mộ trước việc những đứa trẻ hướng nội, mọt sách khi lớn lên bỗng "lột xác" trở thành những người lớn tự tin và hạnh phúc. Chúng ta thích nghĩ về nó như một quá trình tiến hóa kỳ diệu. Tuy nhiên, có lẽ không phải đứa trẻ đã thay đổi, mà là chính môi trường xung quanh nó kìa. Khi đã là người lớn, họ được quyền chọn lựa sự nghiệp, bạn đời, và những nhóm bè bạn phù hợp với tính cách họ nhất. Họ không bị bắt buộc phải sống trong bất cứ nền văn hóa nào họ không thích nữa. Các nghiên cứu trong lĩnh vực được biết đến với cái tên "độ tương hợp giữa con người-môi trường" ("person-environment fit") cho thấy rằng con người ta thành công khi, theo lời của nhà tâm lý học Brian Little, họ "được tham gia vào những công việc, những vai trò hoặc những bối cảnh phù hợp với tích cách của họ". Điều ngược lại cũng đồng thời đúng: trẻ em sẽ ngừng học khi chúng cảm thấy mình bị đe dọa về mặt cảm xúc.

Không ai hiểu điều này rõ hơn LouAnne Johnson, một cựu sĩ quan hải quân và giáo viên nổi tiếng vì đã đào tạo được một vài trong số những thiếu niên gặp nhiều rắc rối nhất tại hệ thống trường công ở California (Michelle Pfeiffer đã đóng vai cô trong bộ phim "Dangerous Minds"). Tôi tới thăm Johnson tại căn nhà của cô ở New Mexico, để tìm hiểu nhiều hơn về kinh nghiệm dạy trẻ em ở đủ mọi loại tính cách.

Johnson rất có kỹ năng trong việc làm việc với những trẻ em nhút nhát, rụt rè-một điều không hề là tình cờ. Một trong những kỹ năng của cô là chia sẻ với các học sinh việc bản thân cô cũng đã từng bẽn lẽn, nhút nhát đến đâu. Ký ức sớm nhất về trường học của cô là việc bị bắt phải đứng trên ghế khi còn học mẫu giáo vì cô chỉ thích ngồi trong góc và đọc sách, và giáo viên của cô khi đó muốn cô "tương tác với các bạn" nhiều hơn nữa. "Rất nhiều trẻ em nhút nhát, rụt rè sẽ rất sung sướng khi khám phá ra rằng giáo viên của các em cũng đã từng rụt rè, nhút nhát như các em bây giờ vậy", cô nói với tôi. "Tôi nhớ một cô bé hết sức nhút nhát trong lớp tiếng Anh ở cấp III của tôi, người mà mẹ của cô bé đã cảm ơn tôi hết sức vì tôi đã bảo với cô bé rằng tôi tin về sau sau này nữa em chắc chắn sẽ thành công lớn trong cuộc sống, vậy nên đừng có lo ngại kể cả khi em không tỏa sáng ở trường học. Mẹ cô bé nói rằng một lời bình luận đó của tôi thôi đã thay đổi hoàn toàn thái độ đối với cuộc sống của con gái bà. Hãy tưởng tượng-một lời nói bình thường như thế cũng có thể có sức tác động lớn tới vậy lên một đứa trẻ dịu dàng, rụt rè".

Khi khuyến khích các trẻ em rụt rè, nhút nhát nói, Johnson cho biết, sẽ có ích nếu đưa ra những chủ đề có sức lôi cuốn tới mức các em quên mất cả nỗi sợ của mình. Cô đưa ra lời khuyên là nên yêu cầu các em học sinh bàn luận về những chủ đề "nóng" như "Con trai có cuộc sống dễ dàng hơn nhiều con gái". Johnson, người thường xuyên là một thực hiện những bài phát biểu về giáo dục, bất chấp nỗi sợ nói trước đám đông mãn tính của mình, biết rõ ràng rằng điều này có hiệu quả đến thế nào. "Tôi vẫn chưa thể vượt qua hết sự nhút nhát, rụt rè của mình", cô nói. "Nó vẫn ngồi đó trong một góc, cất tiếng gọi tôi. Nhưng tôi rất tâm huyết với việc thay đổi các trường học của chúng ta, vậy nên niềm đam mê của tôi đã chiến thắng sự nhút nhát rụt rè mỗi khi tôi bắt đầu một bài nói. Nếu bạn tìm thấy một thứ gì đó giúp kích thích lòng đam mê trong bạn, hay cung cấp cho bạn một thử thách hấp dẫn, bạn sẽ quên đi mất bản thân trong một lúc. Nó cứ như là một kỳ nghỉ của cảm xúc vậy".

Nhưng đừng mạo hiểm bắt các em phải diễn thuyết trước lớp, trừ khi bạn đã cung cấp đủ cho các em những công cụ cần thiết để biết, với sự tự tin hợp lý, rằng mọi thứ sẽ suôn sẻ cả. Hãy cho các em tập luyện với một thành viên khác và trong những nhóm nhỏ, và nếu chúng vẫn còn quá hoảng sợ thì đừng bắt ép chúng. Các chuyên gia tin rằng những trải nghiệm tiêu cực về nói trước đám đông khi còn nhỏ có thể để lại nỗi sợ sân khấu kéo dài cả đời.

Vậy kiểu môi trường học tập như thế nào sẽ là tốt nhất cho những Maya của thế giới này? Trước hết là một vài gợi ý cho các giáo viên:

·

Đừng nghĩ về sự hướng nội như thứ gì đó cần được chữa trị. Nếu một đứa trẻ hướng nội cần sự giúp đỡ ở các kỹ năng giao tiếp, hãy dạy nó hoặc gợi ý một nơi đào tạo nào đó bên ngoài lớp học, cũng hệt như cách bạn sẽ làm khi một em học sinh cần được phụ đạo thêm về toán hay ngoại ngữ vậy. Nhưng hãy mừng cho các em vì việc là chính bản thân các em. "Lời góp ý điển hình nhất trong học bạ của rất nhiều trẻ em là 'Tôi ước gì Molly có thể nói nhiều hơn nữa trong lớp'".

Pat Adams, cựu hiệu trưởng của trường chuyên

Emerson (Emerson School for gifted students) tại Ann Arbor, Michigan nói với tôi. "Nhưng ở đây, chúng tôi có một hiểu biết rằng rất nhiều trẻ em có cách sống nội tâm. Chúng tôi có khuyến khich các em ra khỏi vỏ nhiều hơn, nhưng chúng tôi cũng không quá quan trọng chuyện đó. Chúng tôi coi các học sinh hướng nội đơn giản như những người có một phong cách học khác".

·

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng một phần ba tới một phần hai trong chúng ta là người hướng nội. Điều này có nghĩa là bạn có nhiều học sinh hướng nội trong lớp hơn là bạn nghĩ. Kể cả từ những độ tuổi rất nhỏ, một số người hướng nội đã rất giỏi trong việc cư xử như những người hướng ngoại, khiến cho việc xác định được họ khó khăn hơn nhiều. Hãy cân bằng giữa các phương pháp dạy để phục vụ đúng nhu cầu của tất cả các em trong lớp của bạn. Người hướng ngoại thích được chuyển động, những kích thích, và các công việc hoạt động nhóm. Người hướng nội thì ưa những giờ giảng bài, những quãng thời gian nghỉ ngơi yên tĩnh, và những dự án độc lập. Hãy hòa trộn chúng một cách công bằng.

·

Những người hướng nội thường có một hoặc hai niềm đam mê sâu sắc mà đôi khi không được các bạn bè của họ chia sẻ. Đôi lúc họ còn bị người xung quanh khiến mình cảm thấy thật quái đản vì có những niềm ham thích mạnh mẽ tới vậy, trong khi trên thực tế các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chính dạng xúc cảm mãnh liệt này lại là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển tài năng sau này. Hãy khen ngợi những em học sinh này vì niềm đam mê của các em, khuyến khích chúng, và giúp chúng tìm ra những người bạn có cùng đam mê, nếu không phải trong phòng học, thì là ở bên ngoài.

·

Một chút công việc hoạt động nhóm là hoàn toàn ổn với người hướng nội, thậm chí là còn có ích cho họ nữa. Nhưng nó nên được diễn ra trong những nhóm nhỏ-cặp đôi hoặc nhóm ba người mà thôi-và nên được thiết kế rõ ràng để mỗi đứa trẻ đều biết vai trò của mình.

Roger Johnson, đồng giám đốc của Trung Tâm Học Tập Cộng Tác (Cooperative Learning Center) tại Đại học Minnesota, nói rằng những hoạt động nhóm quy mô nhỏ, được quản lý tốt là đặc biệt có ích cho những trẻ em rụt rè, hoặc hướng nội, bởi "họ thường hết sức thoải mái nói chuyện với một hoặc hai người bạn cùng lớp để trả lời một câu hỏi, hoặc để hoàn tất một công việc, nhưng sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện giơ tay hoặc đứng lên nói trước cả lớp. Việc những học sinh này có cơ hội 'phiên dịch' những suy nghĩ của mình thành ngôn ngữ là hết sức quan trọng". Hãy tưởng tượng xem trải nghiệm của Maya có thể đã khác đến đâu nếu nhóm của cô bé nhỏ hơn, và nếu ai đó đã bỏ chút thời gian để nói rằng: "Samantha, cậu sẽ đảm trách nhiệm vụ điều hành cuộc hội thảo. Maya, còn việc của cậu là ghi chép lại ý kiến của tất cả mọi người và đọc lại cho cả nhóm nhé".

·

Mặt khác, cũng hãy nhớ đến cả nghiên cứu về Luyện Tập Có Chủ Đích của

Anders Ericsson ở

chương 3

. Trên rất nhiều lĩnh vực, sẽ không thể đạt được trình độ lão luyện nếu không biết cách làm việc một mình. Hãy để cả các học sinh hướng ngoại của mình học tập từ những học sinh hướng nội. Hãy dạy tất cả bọn trẻ cách làm việc độc lập.

·

Đừng xếp những học sinh ít nói vào các khu vực "hoạt động mạnh" trong lớp, giáo sư giao tiếp (

communications professor

) James McCroskey nói. Họ sẽ không nói nhiều hơn khi ở trong những khu vực đó; họ sẽ chỉ cảm thấy bị đe dọa nhiều hơn và sẽ gặp khó khăn hơn trong việc cố tập trung. Hãy khiến mọi thứ dễ dàng hơn để trẻ em hướng nội có thể tham gia cùng với lớp, nhưng đừng quá thúc ép. "Bắt ép những trẻ đang đặc biệt sợ hãi phải nói trước lớp là có hại", McCroskey viết. "Nó sẽ làm gia tăng sự sợ hãi và suy giảm sự tự tin".

·

Nếu trường của bạn có một chính sách tuyển sinh chọn lọc, hãy nghĩ kỹ hai lần trước khi đưa ra quyết định nhập học cho bọn trẻ dựa trên thành tích của các em trong những hoạt động nhóm. Rất nhiều trẻ em hướng nội thu mình lại vào vỏ ốc trong những nhóm người lạ, và bạn thậm chí sẽ không thể nhìn ra những đứa trẻ đó sẽ có thể thể hiện tốt đến thế nào khi chúng thấy thư giãn và thoải mái.

Và sau đây là một vài gợi ý dành cho các ông bố bà mẹ. Nếu bạn đã đủ may mắn để có quyền lựa chọn việc con bạn sẽ đi học ở đâu, bất kể là bằng cách tìm kiếm các trường chuyên đặc biệt (magnet school), chuyển nhà tới nơi gần một trường công mà bạn thích, hay gửi con tới một trường tư hoặc một trường xứ đạo (parochial school) nào đó, bạn có thể tìm kiếm một ngôi trường mà:

·

tưởng thưởng cho những niềm ham thích cá nhân và chú trọng vào phát triển sự tự lập

·

thực hiện những hoạt động nhóm ở mức độ vừa phải và trong những nhóm nhỏ, được điều hành kỹ lưỡng

·

đề cao những đức tính như sự tốt bụng, quan tâm, cảm thông, tư cách công dân tốt

·

cương quyết có những lớp học và hành lang đúng nề nếp, kỷ luật

·

được tổ chức thành những lớp học nhỏ, yên tĩnh

·

chọn các giáo viên có khả năng thấu hiểu một tính cách nhút nhát/nghiêm túc/hướng nội/nhạy cảm

·

tập trung những hoạt động học tập/thể thao/ngoại khóa vào những chủ đề đặc biệt hấp dẫn với con bạn

·

thực thi mạnh mẽ những chương trình chống nạn bắt nạt học đường

·

chú trọng vào việc xây dựng một nét văn hóa khoan dung và thực tế

·

thu hút những trẻ em có cùng sở thích, ví dụ như những em ham học, những em có thiên hướng nghệ thuật hoặc những em ham mê thể thao, tùy vào sở thích của con bạn.

Tự tay lựa chọn một trường cho con có thể là việc bất khả thi với rất nhiều gia đình. Nhưng bất kể trường bạn chọn là gì, vẫn còn có rất nhiều thứ bạn có thể làm để giúp đứa con hướng nội của bạn thành công. Tìm hiểu xem những môn học nào làm con hăng hái nhất, và để cho con thoải mái học chúng; hoặc với sự trợ giúp từ các gia sư, hoặc với những chương trình ngoại khóa như hội chợ khoa học (science fairs) hay các lớp viết sáng tạo (creative writing). Đối với những hoạt động nhóm, hãy tập cho con biết cách tìm kiếm những vai trò thích hợp với mình trong những nhóm lớn hơn. Một trong những ưu điểm của hoạt động nhóm, kể cả với người hướng nội, là nó đem đến rất nhiều vị trí khác nhau để mỗi người lựa chọn. Hãy thúc giục con bạn chiếm thế chủ động, và giành lấy trách nhiệm làm người-ghi-chép, người-vẽ-tranh, hoặc bất kể vai trò gì hấp dẫn con bạn nhiều nhất. Sự tham gia với tập thể sẽ trở nên thoải mái hơn nhiều khi con biết rõ rằng mình sẽ đóng góp điều gì cho cả nhóm.

Bạn cũng có thể đồng thời giúp con tập nói lớn dõng dạc hơn. Cho con biết rằng sẽ ổn nếu con cần có thời gian để tập hợp suy nghĩ của mình trước mỗi khi nói, kể có khi trông có vẻ như thể mọi người khác đang rất nôn nóng muốn được nhảy vào cuộc tranh luận. Cùng lúc đó, hãy khuyên con rằng đóng góp ý kiến ngay từ đầu cuộc thảo luận thì sẽ dễ hơn nhiều so với việc đợi tất cả mọi người nói xong trước và để cho áp lực cứ tăng dần khi con đợi đến lượt mình. Nếu con không chắc phải nói gì, hoặc không thoải mái với việc phải mạnh mẽ đứng lên nói, hãy giúp con sử dụng đúng thế mạnh của mình. Liệu con có xu hướng hay hỏi những câu hỏi sâu sắc không? Hãy khen ngợi phẩm chất này ở con, và dạy con rằng đặt ra những câu hỏi tốt thường hữu ích hơn là đưa ra những câu trả lời. Liệu con có thường nhìn mọi thứ từ góc nhìn độc đáo của riêng mình hay không? Hãy dạy con điều này có giá trị thế nào, và bàn luận với con về việc con có thể chia sẻ quan điểm của mình với các bạn khác ra sao.

Hãy khám phá những tình huống có thật trong cuộc sống: ví dụ, bố mẹ của Maya có thể cùng ngồi xuống với con và tìm xem làm cách nào cô bé có thể xử lý những bài tập nhóm-tư-pháp khác đi. Hãy thử nhập vai (role-play) cùng con tập dượt xem, trong những tình huống càng cụ thể càng tốt. Maya có thể tập dượt trước để biết xem những từ ngữ như thế nào sẽ phải dùng khi nói "Tớ sẽ là người ghi chép!", hoặc "Sẽ thế nào nếu chúng ta đặt ra luật là bất cứ ai ném vỏ bánh kẹo lên sàn sẽ phải dành mười phút trong giờ ăn trưa để nhặt rác?".

Điều khó của việc này là ở chỗ khiến Maya cởi mở hơn và kể lại cho bạn những gì diễn ra trong mỗi ngày học của cô bé. Kể cả khi chúng thường hay cởi mở với cha mẹ, nhiều đứa trẻ vẫn sẽ không chia sẻ về những trải nghiệm khiến chúng thấy xấu hổ. Đứa trẻ của bạn càng nhỏ, cô bé càng có khả năng cởi mở cao hơn với cha mẹ, bởi thế bạn nên bắt đầu chu trình này càng ở những năm đầu tiên con đi học càng tốt. Hãy hỏi con bạn những thông tin này bằng một cách nhẹ nhàng, không phán xét, với thông tin cụ thể, rõ ràng. Thay vì hỏi "Ngày hôm nay của con thế nào?", hãy thử "Hôm nay con được làm gì trong giờ học Toán?". Thay vì hỏi "Con có thích cô giáo của con không?", hãy hỏi "Con thích điểm gì ở cô giáo?". Hãy để con có thời gian suy nghĩ trước khi trả lời. Tránh việc hỏi, bằng cái giọng lạc quan thái quá của cha mẹ ở khắp mọi nơi, rằng "Hôm nay con đến trường có vui không?!". Cô bé sẽ cảm thấy áp lực phải trả lời là "có".

Nếu cô bé vẫn không muốn nói, vậy thì hãy đợi con. Đôi lúc cô bé sẽ cần hàng giờ để giảm bớt sức ép trước khi cảm thấy sẵn sàng. Bạn có thể sẽ thấy rằng cô bé chỉ cởi mở trong những khoảnh khắc ấm cúng, thư giãn, như lúc đi tắm hoặc giờ đi ngủ. Nếu đó là tình huống, hãy đảm bảo rằng bé có thêm nhiều khoảnh khắc thoải mái như thế nữa trong ngày. Và nếu con bạn chịu tâm sự với những người khác, như một người trông trẻ đáng tin cậy, một người cô/dì, hoặc một người anh/chị lớn tuổi hơn của mình, nhưng lại không phải với bạn, vậy thì hãy dẹp lòng tự trọng của bạn qua một bên và kiếm tìm sự giúp đỡ.

Cuối cùng, cố gắng đừng quá lo lắng nếu tất cả các dấu hiệu đều gợi ý rằng đứa trẻ hướng nội của bạn không phải là cô bé/cậu nhóc nổi tiếng nhất trường. Sẽ là cực kỳ quan trọng cho tính cách và sự phát triển trong giao tiếp của con nếu nó có một hay hai tình bạn gắn bó khăng khít, các nhà tâm lý học phát triển ở trẻ em đã nói với chúng ta như vậy, nhưng nổi tiếng thì không hẳn là cần thiết. Rất nhiều trẻ em hướng nội lớn lên trở thành những người có kỹ năng xã hội xuất sắc, mặc dù họ thường có xu hướng tham gia vào các nhóm theo cách riêng của họ-đợi một lúc trước khi họ nhảy vào, hoặc tham gia chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Không sao hết. Con bạn cần học những kỹ năng giao tiếp và kết bạn, chứ không cần trở thành học sinh quảng giao nhất trường. Điều này không có nghĩa là sự nổi tiếng thì không có gì là vui. Bạn có lẽ sẽ ước muốn điều đó cho con, cũng hệt như việc bạn mong ước con có một vóc dáng ngoại hình đẹp, một bộ óc thông minh, hay một tài năng thể thao nào đấy. Nhưng hãy đảm bảo rằng bạn đang không áp đặt những mong muốn của riêng mình lên con, và hãy nhớ rằng có rất nhiều con đường để dẫn đến một cuộc sống thỏa mãn.

Rất nhiều trong số những con đường đó nằm ở những đam mê bên ngoài trường học. Trong khi những người hướng ngoại có xu hướng cao hơn trong việc nhảy từ thú vui này sang sở thích nọ, người hướng nội thường rất trung thành với niềm yêu thích của mình. Điều này cho họ một lợi thế khổng lồ khi họ lớn lên, bởi vì lòng tự tin thực sự đến từ năng lực và hiệu quả làm việc cao, chứ không phải ngược lại. Các nhà nghiên cứu đã tìm ra rằng việc tham gia sâu sắc và trung thành với một hoạt động nào đấy đã được chứng minh là một con đường để dẫn tới hạnh phúc. Những tài năng và niềm đam mê được phát triển đầy đủ có thể là một nguồn tự tin cực lớn cho con bạn, bất kể việc cậu bé có cảm thấy mình khác các bạn đến thế nào.

Ví dụ, Maya, cô bé đã lặng thinh tới vậy trong nhóm "hành pháp", thích về nhà ngay sau mỗi giờ học và đọc sách. Nhưng cô bé cũng đồng thời thích môn bóng mềm, với tất cả những áp lực giao tiếp và áp lực thành tích của nó. Cô bé vẫn nhớ được ngày cô bé được chọn gia nhập đội sau khi đã tham gia các buổi thi tuyển. Maya đã sợ đến điếng người, nhưng cô bé cũng đồng thời cảm thấy rất mạnh mẽ-đủ mạnh để quật trúng trái bóng với một cú đánh quyết đoán, đầy uy lực. "Cháu đoán tất cả những lần luyện tập đó cuối cùng đã có kết quả rồi", cô bé nhớ lại sau đó. "Lúc đó cháu đã không thể ngừng mỉm cười được. Cháu đã vô cùng vui sướng và tự hào-và đó là một cảm giác cháu sẽ không bao giờ quên".

Tuy vậy, với các bậc làm cha mẹ, không phải lúc nào cũng dễ dàng để biết được đâu là nơi những cảm giác hài lòng mãnh liệt này sẽ xuất hiện. Ví dụ, bạn có thể sẽ cảm thấy mình nên khuyến khích con chơi bất cứ môn thể thao nào có thể giúp nó cải thiện tình bạn và danh tiếng ở nơi gia đình bạn sống. Và điều đó là hoàn toàn ổn, nếu thằng bé cũng thấy thích và chơi giỏi được môn thể thao đó, như Maya với môn bóng mềm vậy. Những môn thể thao đồng đội có thể là một nguồn lợi tuyệt vời cho bất kỳ ai, đặc biệt là cho những em mà trong các tình huống khác sẽ không thoải mái với việc gia nhập nhóm. Nhưng hãy để cho đứa trẻ của bạn được tự chọn trước những hoạt động nào mà nó thích nhất. Nó có thể sẽ không thích bất cứ môn thể thao đồng đội nào, và điều đó cũng chẳng sao hết. Hãy giúp con tìm lấy những hoạt động nơi con sẽ được gặp gỡ những đứa trẻ khác, nhưng đồng thời cũng có rất nhiều không gian riêng cho mình. Hãy trau dồi thế mạnh trong tính cách thiên bẩm của đứa bé. Nếu niềm đam mê của nó có vẻ quá cô độc theo ý bạn, hãy nhớ rằng kể cả những hoạt động rất solo như vẽ tranh, thiết kế máy móc, hay viết văn sáng tạo (creative writing) cũng có thể đưa đến những cộng đồng với những người cùng sở thích đầy nhiệt huyết khác.

"Tôi biết những em nhỏ đã tìm được những người khác", tiến sĩ Miller nói, "bằng cách chia sẻ những sở thích quan trọng nhất với mình: chơi cờ, những trò chơi nhập vai phức tạp, thậm chí là bàn luận về những mối quan tâm chung sâu sắc như toán hay lịch sử". Rebecca Wallace-Segall, người dạy một lớp viết sáng tạo dành cho trẻ em và thiếu niên, và là giám đốc của tổ chức Writopia Lab tại New York, nói rằng những học sinh đăng ký các lớp học của cô "thường không phải là những đứa trẻ sẽ sẵn sàng nói hàng giờ về thời trang hay những người nổi tiếng. Những đứa trẻ đó ít có xu hướng tới những nơi như nơi đây, có lẽ là bởi chúng ít thích thú với việc phân tích và đào sâu suy nghĩ hơn-đó không phải là "vùng an toàn" của chúng. Những đứa trẻ bị-gọi-là nhút nhát ở đây thường rất "khát" được thảo luận và đưa ra những ý tưởng mới, phân tích tìm tòi chúng, hành động theo chúng, và, nghịch lý thay, khi chúng được tương tác với nhau theo cách này, chúng không hề tỏ ra nhút nhát và rụt rè một chút nào cả. Chúng đang kết nối với nhau, nhưng ở một lĩnh vực sâu sắc hơn nhiều, một nơi mà nhiều bạn cùng lứa khác của chúng sẽ coi là 'chán phèo' hoặc 'nghĩ đến là thấy mệt'". Và những đứa trẻ này cũng có 'chui ra khỏi vỏ' khi chúng thấy sẵn sàng; phần lớn các em ở Writopia đọc những tác phẩm của mình tại các hiệu sách ở địa phương, và một số lượng lớn đến kinh ngạc các em này đã giành được những giải thưởng cấp quốc gia danh giá trong các cuộc thi viết.

Nếu con bạn có xu hướng phải chịu đựng khi bị kích thích quá độ, vậy thì cũng sẽ là một ý hay nếu bạn cho con chọn những hoạt động như nghệ thuật hay chạy đường dài, những môn phải ít phải chịu áp lực khi thể hiện/biểu diễn hơn. Nhưng dù vậy, nếu cô bé lại bị thu hút bởi những hoạt động mà cần đến việc biểu diễn, bạn vẫn có thể giúp con tỏa sáng.

Khi còn là một đứa trẻ, tôi rất yêu thích môn trượt băng nghệ thuật. Tôi có thể dành hàng giờ liền trên sân băng, lượn theo những hình số tám, xoay tròn liên tục một cách vui vẻ, hay nhảy vọt mình lên bay trong không trung. Nhưng vào ngày thi đấu, tôi đã là một thảm họa. Tôi đã không hề ngủ một đêm trước đó, và đã thất bại tệ hại trong những pha biểu diễn mà trước đó khi tập tôi có thể làm được dễ dàng. Đầu tiên tôi tin điều mọi người nói với tôi-rằng đó là vì tôi đã lo lắng quá nhiều trước giờ thi đấu, hệt như mọi người khác. Nhưng rồi lâu sau đó, tôi được xem một cuộc phỏng vấn trên tivi với vận động viên trượt băng đoạt huy chương vàng Katarina Witt. Cô nói rằng những căng thẳng trước thi đấu lại là thứ cho cô sự phấn khích cô cần để thắng được chiếc huy chương vàng kia.

Tôi khi đó đã biết rằng mình và Katrina là hai dạng sinh vật khác nhau hoàn toàn, nhưng phải tốn đến hàng chục năm sau đó tôi mới hiểu ra được tại sao. Nỗi căng thẳng của cô ấy chỉ êm nhẹ vừa đủ để kích thích khiến cô thấy háo hức, còn của tôi thì siết chặt tới mức đủ làm tôi nghẹt thở. Vào lúc đó, người mẹ rất quan tâm của tôi đã hỏi ý kiến các bà mẹ có con cùng đi thi trượt băng khác về việc con gái của họ đương đầu với áp lực trước khi thi như thế nào, và quay trở về với những hiểu biết mới mà bà hy vọng sẽ khiến tôi thấy tốt hơn. Con bé

Kristen nó cũng đang sợ lắm

, mẹ bảo vậy. Và mẹ của Renée cũng bảo rằng nó đã rất sợ đêm trước hôm thi đấu. Nhưng tôi biết rõ Kristen và Renée, và tôi chắc chắn là họ không hề hoảng sợ đến mức nhiều như tôi.

Tôi nghĩ có lẽ sẽ có ích nếu khi đó tôi thấu hiểu về bản thân mình hơn. Nếu bạn là phụ huynh của một vận động viên trượt băng tương lai, hãy giúp cô bé chấp nhận rằng cô bé sẽ rất hoảng sợ trước giờ thi đấu, nhưng đừng khiến con tin rằng những sự lo lắng đó sẽ ảnh hưởng đến thành tích thi đấu của con. Điều cô bé đó sợ nhất là thất bại ngay giữa chốn đông người. Cô bé cần "gây tê" dần chính mình với nỗi sợ này, bằng cách trở nên quen với việc thi đấu, và kể cả với việc thất bại nữa. Hãy khuyến khích cô bé tham gia những cuộc thi đấu chứa ít rủi ro ở thật xa nhà, nơi cô bé sẽ là một người không ai biết và có thua cũng không sợ bị bẽ mặt với người quen. Hãy đảm bảo là cô bé đã được tập luyện kỹ càng. Nếu cô bé đang có ý định thi đấu trên một sân băng không quen thuộc, cố gắng để cô bé được tập luyện trước trên đó vài lần. Hãy nói với con về tất cả những khả năng xấu có thể xảy ra, và cách giải quyết chúng: OK, kể cả nếu con thất bại và về cuối thì sao nào? Liệu Trái Đất có bị hủy diệt không?. Và hãy giúp con tưởng tượng trong đầu thật cụ thể cảm giác sẽ thế nào khi con biểu diễn màn thi đấu của mình thật xuất sắc.

Giải phóng một niềm đam mê có thể làm thay đổi cả một cuộc đời, không chỉ trong quãng thời gian con bạn ở tiểu học hay trung học hay phổ thông, mà còn xa hơn nữa nhiều. Hãy cân nhắc đến câu chuyện của David Weiss, một tay trống và là một nhà báo âm nhạc chuyên nghiệp. David là một ví dụ rõ ràng về việc một ai đó khi lớn lên có thể cảm thấy như

Charlie Brown, nhưng khi trưởng thành vẫn tạo dựng được cho mình một cuộc đời đầy ắp sáng tạo, hiệu quả công việc, và đầy ý nghĩa. Anh có một tập hợp bạn bè rất lớn và thú vị, và sống ở thành phố New York, mà theo ý anh là nơi sôi động nhất cho một kẻ đam mê âm nhạc. Nếu bạn đánh giá cuộc sống bằng thang đo điển hình về tình yêu và công việc, vậy thì David chắc chắn là một thành công rực rỡ.

Nhưng, ít nhất là với David, không phải lúc nào cũng rõ ràng rằng rồi một ngày cuộc sống của anh sẽ thành công tới vậy. Khi còn nhỏ, anh đã từng rất nhút nhát, rụt rè và vụng về trong giao tiếp. Những thứ hấp dẫn với anh nhất, âm nhạc và viết lách, lại không có giá trị gì trong mắt những người anh coi là quan trọng nhất với mình khi đó: các bạn cùng lứa của anh. "Mọi người luôn nói với tôi: 'Đây là những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời em đấy!'", anh nhớ lại. "Và tôi sẽ tự nghĩ với mình: 'Em hy vọng là không!'. Tôi ghét trường học. Tôi còn nhớ mình đã nghĩ, tôi chắc chắn sẽ phải kiếm cách rời khỏi nơi đây. Khi tôi lớp Sáu, bộ phim '

Revenge of the Nerds

' được công chiếu, và tôi trông không khác gì một kẻ vừa bước ra từ dàn nhân vật của bộ phim. Tôi biết mình thông minh, nhưng tôi đã lớn lên ở vùng ngoại ô Detroit, nơi cũng giống như chín mươi chín phần trăm còn lại của cả nước Mỹ: nếu bạn có ngoại hình ưa nhìn và có chơi thể thao, sẽ không có ai làm phiền bạn. Nhưng khi bạn có vẻ quá thông minh, đấy lại sẽ không phải là thứ khiến bọn trẻ kính trọng bạn. Chúng sẽ lại có xu hướng cố gắng "vùi dập" bạn vì điều đó nữa. Thông minh là khả năng tuyệt vời nhất của tôi, và tôi chắc chắn đã rất thích thú sử dụng nó, nhưng nó đồng thời cũng là thứ bạn phải cố gắng kiềm chế và giấu giếm thật cẩn thận".

Vậy làm thế nào mà anh đã từ đó mà tới được đây? Chìa khóa cho tương lai tuyệt vời của David chính là ở dàn trống. "Đến một thời điểm", David nói, "tôi bỗng hoàn toàn vượt qua được tất cả những thứ kìm kẹp thủa nhỏ đó của tôi. Và tôi biết chính xác lý do tại sao: đó là vì tôi đã bắt đầu chơi trống. Những chiếc trống là nguồn cảm hứng của tôi. Chúng là Yoda của tôi. Khi tôi còn ở cấp II, ban nhạc jazz của bên trường cấp III tới biểu diễn cho chúng tôi, và tôi nghĩ ngay rằng trong cả đám đó, người ngầu nhất trong tương lai dài thật dài sau này sẽ là người chơi trống. Với tôi, những tay trống cũng giống như những vận động viên thể thao vậy, nhưng là những vận động viên âm nhạc, và tôi thì yêu âm nhạc".

Lúc đầu, với David, chơi trống hầu hết chỉ là để được chấp nhận về mặt xã hội: từ khi bắt đầu chơi trống, anh đã không còn bị đuổi ra khỏi các bữa tiệc bởi đám dân chơi thể thao lực lưỡng đô con to gấp đôi anh nữa. Nhưng chẳng mấy chốc, nó trở thành một thứ sâu sắc hơn nhiều. "Tôi đột nhiên nhận ra rằng đây cũng là một hình thức thể hiện bản thân thông qua nghệ thuật, và nó đã khiến tôi kinh ngạc vô cùng. Khi đó tôi mười lăm tuổi. Và đó là lúc tôi quyết định sẽ tiếp tục mãi mãi theo đuổi nó. Cả cuộc đời tôi đã được thay đổi nhờ dàn trống của tôi, và nó vẫn chưa hề dừng lại, cho tới tận hôm nay".

David vẫn nhớ chính xác cảm giác thế nào khi mình vẫn còn chín tuổi. "Tôi cảm thấy như giờ mình có thể liên hệ trực tiếp với người đó, bản thể quá khứ của tôi ấy", anh nói. "Bất kể khi nào tôi làm gì đó mà tôi nghĩ là thật ngầu, ví dụ như là tôi đang ở thành phố New York trong một căn phòng đầy người, và tôi đang phỏng vấn

Alicia Keys chẳng hạn, tôi sẽ gửi ngược một thông điệp về quá khứ tới người đó, và cho cậu bé ấy biết rằng mọi thứ rồi đều sẽ trở nên tốt đẹp cả. Tôi cảm thấy rằng khi tôi 9 tuổi, tôi đã nhận được những tín hiệu từ chính mình trong tương lai, và đó là một trong những lý do đã giúp tôi có được sức mạnh để không bỏ cuộc. Tôi đã có thể tạo ra được một vòng lặp kỳ diệu này giữa tôi bây giờ và tôi của hồi đó".

Một điều khác nữa đã cho David sức mạnh, đấy là cha mẹ của anh. Họ ít tập trung vào việc phát triển sự tự tin của anh hơn là đảm bảo rằng anh sẽ tìm được cách để làm việc thật hiệu quả. Không quan trọng thứ anh ham thích là gì, miễn là anh theo đuổi nó và thích thú khi làm nó. Cha của anh là một người hâm mộ bóng bầu dục cuồng nhiệt, David nhớ lại, nhưng "người cuối cùng trên đời sẽ hỏi tôi 'Sao con lại không ở trên sân bóng bầu dục chứ?' là bố tôi". Có một thời gian David luyện tập chơi piano, rồi đàn viôlôngxen (cello). Khi anh thông báo với cha mẹ rằng anh muốn chuyển sang chơi trống, họ đã rất ngạc nhiên, nhưng không hề lưỡng lự hay do dự. Họ trân trọng niềm đam mê mới của anh. Đó chính là cách họ trân trọng con trai mình.

Nếu câu chuyện về sự biến đổi kỳ diệu của

David Weiss nhắc bạn nhớ lại về chính cuộc đời mình, có một lý do cho điều đó. Đây là một ví dụ hoàn hảo cho thứ nhà tâm lý học Dan McAdams gọi là một câu chuyện cuộc đời cứu rỗi (a redemptive life story)-và là một dấu hiệu của tinh thần lành mạnh và sự hạnh phúc.

Tại Trung tâm Nghiên Cứu về Cuộc Sống Foley (

the Foley Center for the Study of Lives

)

tại Đại học

Northwestern

,

McAdams nghiên cứu những câu chuyện mọi người kể về chính mình. Chúng ta đều viết những câu chuyện cuộc đời của mình như những cuốn tiểu thuyết, McAdams tin là vậy, với mở đầu, mâu thuẫn, những bước ngoặt định mệnh (turning point), và kết thúc. Và cách chúng ta miêu tả về các khó khăn trong quá khứ ảnh hưởng sâu sắc đến việc chúng ta thỏa mãn đến đâu với cuộc sống hiện tại của chúng ta. Những người không hạnh phúc thường có xu hướng nhìn những khó khăn trong quá khứ này như những tạp chất làm phá hỏng những thứ đúng ra đã có thể rất hạnh phúc ("Tôi không bao giờ còn như trước được nữa sau ngày vợ tôi bỏ tôi ra đi"); trong khi những người lớn có hiệu quả làm việc cao lại nhìn chúng như những điều phúc lành được cải trang thành điều không may ("Cuộc ly hôn là điều đau đớn nhất đã từng xảy ra với tôi, nhưng tôi hạnh phúc hơn nhiều với người vợ mới của tôi hiện giờ). Những người sống được nhiều nhất cuộc sống của mình nhận ra rằng cuộc sống-trao lại cho gia đình, xã hội, và ở mức độ cuối cùng nhất, cho chính họ-thường tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống trong chính những chướng ngại của nó. Theo một cách nào đó, McAdams đã thổi một luồng sinh khí mới vào một trong những tri thức cổ vĩ đại nhất của thần thoại phương Tây: đó là nơi làm chúng ta vấp ngã chính là nơi cất giấu những kho báu của chúng ta.

Với rất nhiều người hướng nội như David, tuổi thiếu niên là nơi vấp ngã lớn nhất, là bụi rậm rối loạn và tối tăm của sự tự tin thấp thảm hại và những nỗi lo lắng về kém giao tiếp ám ảnh thường trực. Ở trung học cơ sở và phổ thông, thứ đáng giá nhất là sự hoạt bát và tính quảng giao; những phẩm chất như sâu sắc và nhạy cảm thì không có giá trị gì mấy. Nhưng rất nhiều người hướng nội đã thành công trong việc tạo nên những câu chuyện cuộc đời tuyệt vời như của David Weiss: những khoảnh khắc Charlie Brown của chúng ta là cái giá cần thiết chúng ta cần trả, để có thể được thoải mái, hạnh phúc chơi những chiếc trống của chúng ta suốt hàng thập kỷ sau đó trong tương lai.

KẾT LUẬN

Xứ sở Diệu Kỳ

Xã hội của chúng ta chỉ tôn vinh và đề cao cách sống hướng ngoại, coi đó là chuẩn mực đạo đức. Chúng ta ngăn cản, kiềm chế con người trong hành trình khai phá cõi nội tâm, hành trình kiếm tìm một trọng tâm thực sự bên trong mình. Do đó, chúng ta tự đánh mất trọng tâm của mình, và rồi lại phải bỏ công kiếm tìm nó một lần nữa.

-

ANAÏS NIN

Bất kể bạn có phải là một người hướng nội, hay là một người hướng ngoại yêu quý, gắn bó hoặc cộng tác với một người hướng nội; tôi đều hy vọng rằng bạn sẽ thấy những hiểu biết được trình bày trong cuốn sách này hữu ích với cuộc sống riêng của mình. Dưới đây là một phác thảo sơ bộ để bạn mang theo bên mình:

Tình cảm mới là thứ thực sự quan trọng, bạn không cần bắt buộc phải hòa đồng với tất cả. Trân trọng những người bạn gắn bó và thương yêu; cộng tác với những đồng nghiệp mà bạn yêu mến và tôn trọng. Kiếm tìm trong tất cả những người mới quen biết, ai là người bạn yêu quý, và ai là người làm bạn thấy thích thú mỗi khi ở bên. Và đừng bận tâm đến việc phải làm thân với tất cả mọi người. Có thêm những mối quan hệ quả thực đem lại cho ta nhiều hạnh phúc, điều này đúng với cả những người hướng nội; nhưng hãy nhớ rằng, chất luôn cao hơn lượng.

Bí quyết của cuộc sống là bạn phải biết đặt mình dưới đúng loại ánh sáng thích hợp. Với một số người, đó là ánh hào quang của sân khấu; với một số khác, đó lại là ánh đèn học bên một chiếc bàn giấy. Hãy tận dụng sức mạnh bẩm sinh của chính mình-sức mạnh của sự nhẫn nại và chuyên cần, của khả năng tập trung cao độ, của cái nhìn thấu hiểu bản chất, và của sự nhạy cảm, tinh tế-và dùng chúng để làm những việc mà bạn ưa thích, những công việc thực sự có ý nghĩa: giải quyết vấn đề; đào sâu tư duy; hay sáng tạo nghệ thuật.

Hãy cố tìm ra và làm điều phù hợp nhất với năng lực của bản thân mà bạn có thể cống hiến cho xã hội. Hãy cứ làm, kể cả khi nếu việc đó đòi hỏi bạn phải diễn thuyết trước đông người, gặp gỡ và tạo dựng các mối quan hệ, hay bất kỳ một hoạt động nào khác khiến bạn cảm thấy không thoải mái. Nhưng hãy chấp nhận rằng chúng sẽ rất khó khăn; vậy nên hãy tìm cách rèn luyện và phát triển những kỹ năng để khiến chúng dễ dàng hơn, và hãy tự tưởng thưởng cho mình khi công việc khó khăn đó đã hoàn tất.

Bỏ công việc làm dẫn chương trình TV đi nếu nó không phải thứ bạn muốn, thay vào đó hãy đi lấy một tấm bằng về khoa học nhân văn. Nhưng nếu dẫn chương trình TV lại là việc bạn ưa thích, thì hãy học cách tạo cho mình một tác phong thật hướng ngoại để vượt qua được những khó khăn của công việc. Hãy nhớ quy tắc này khi tạo lập một mối quan hệ: một mối quan hệ chân tình đáng giá gấp trăm lần một đống những tấm danh thiếp lạnh lẽo. Hãy về nhà thật nhanh sau giờ làm, ngả người ra thoải mái trên chiếc ghế sofa. Hãy tận lực khai thác những "điểm phục hồi".

Tôn trọng nhu cầu giao tiếp của những người bạn yêu thương; và tôn trọng ở chính bạn niềm ham thích hướng đến sự tĩnh lặng, đơn độc (hoặc ngược lại, nếu bạn là một người hướng ngoại).

Hãy dùng thời gian rảnh của mình làm những thứ mà bạn thích, chứ không phải những thứ mà bạn nghĩ mình nên làm. Hãy cứ ở nhà vào dịp Năm mới, nếu đó là điều làm bạn thấy thoải mái. Dẹp hết những cuộc họp hội đồng. Băng qua đường thật nhanh để khỏi phải tán gẫu những câu chuyện vô nghĩa với một người quen nào đấy có thể tình cờ bắt gặp bạn. Đọc sách đi. Nấu ăn. Hoặc chạy bộ. Viết một cuốn sách. Hãy tự đặt ra một thỏa thuận với bản thân về một số lượng tối thiểu những sự kiện xã hội bạn phải tham gia, để đổi lại không phải cảm thấy tội lỗi khi rút lui khỏi các sự kiện khác.

Nếu con bạn là một đứa trẻ trầm tính, hãy giúp đỡ để chúng có thể ứng phó tốt với những tình huống bất ngờ hay những người chúng mới gặp lần đầu; nhưng ngoài những việc đó ra, xin hãy cứ để cho chúng là chính mình. Hãy vui mừng khi con mình có một tư duy độc đáo. Hãy tự hào bởi chúng sẽ có một lương tâm lành vững và những tình bạn trung thành. Đừng mong cho chúng biết chạy theo số đông; thay vào đó, xin hãy tạo điều kiện để chúng có thể theo đuổi đam mê của chính mình. Và hãy mừng cho con khi chúng gặt hái được thành quả từ những đam mê đó, dẫu cho chúng có là thành quả trên dàn trống của một ban nhạc, thành quả ở môn bóng mềm, hay thành quả trên những trang sách.

Nếu bạn là một giáo viên, hãy luôn trân trọng những học sinh hòa đồng, thân thiện và có ý thức tham gia cùng tập thể. Nhưng hãy đừng lãng quên cả những học sinh nhút nhát, hiền lành, thích làm việc độc lập; những em có niềm đam mê xuất phát hoàn toàn từ sở thích của bản thân với các dung dịch hóa học, với sơ đồ phân loại điểu học của loài vẹt, hay với nền nghệ thuật của thế kỷ 19. Đó chính là những nghệ sĩ, những kỹ sư, những bộ óc của tương lai.

Nếu bạn là một nhà quản lý, hãy nhớ rằng, một phần hai tới một phần ba trong số nhân lực của bạn rất có thể là những người hướng nội, bất kể là họ có thể hiện ra ngoài điều đó hay không. Hãy nghĩ thật kỹ trước khi bạn quyết định không gian làm việc của văn phòng công ty mình. Đừng mong chờ việc những người hướng nội sẽ hào hứng về những "văn phòng mở" hoàn toàn không có biên giới, hay, cũng như thế, về những bữa tiệc, hay những hoạt động xây dựng nhóm (team-building). Hãy biết dùng đúng sức mạnh của những người hướng nội-đây là những người sẽ giúp bạn trong những hoạt động phải đào sâu suy nghĩ: tư duy và phân tích, xây dựng chiến lược kinh doanh, giải quyết những vấn đề phức tạp, và tìm thấy mỏ vàng ở những nơi bạn ít ngờ tới nhất.

Và, hãy biết nhận rõ sự nguy hiểm của Tư duy Nhóm Mới. Nếu sự sáng tạo là thứ mà bạn cần, hãy yêu cầu các nhân viên của bạn làm việc một cách độc lập trước khi chia sẻ ý kiến của họ. Nếu bạn muốn trí tuệ của đám đông, hãy tập hợp họ lại qua mạng Internet, hoặc yêu cầu họ trình bày ý tưởng dưới dạng viết, và đảm bảo rằng mỗi người chỉ được biết đến ý tưởng của người khác sau khi tất cả mọi người đều đã có cơ hội được đóng góp ý kiến của riêng mình. Giao tiếp mặt-đối-mặt đúng là rất quan trọng, bởi nó xây dựng lòng tin giữa các thành viên, nhưng ảnh hưởng của đám đông cũng tạo nên những cản trở không thể tránh khỏi tới tư duy sáng tạo. Hãy sắp xếp để các nhân viên chỉ phải giao tiếp một-đối-một, hoặc trong những nhóm nhỏ, thân thiện. Đừng nhầm lẫn giữa khả năng hùng biện và sự tự tin với những ý tưởng tốt. Nếu bạn có một tập thể nhân viên xông xáo, hăng hái, chủ động (và tôi hy vọng là bạn có một tập thể như thế), hãy nhớ rằng họ có thể sẽ hoạt động tốt hơn dưới sự điều hành của một lãnh đạo hướng nội biết lắng nghe, hơn là dưới sức ảnh hưởng mạnh mẽ của một người hướng ngoại sôi nổi thu hút và kiểm soát đám đông.

Bất kể bạn là ai, hãy nhớ đinh ninh rằng hình thức không phải bao giờ cũng hoàn toàn phản ánh nội dung. Có một số người hành xử như những người hướng ngoại, nhưng những nỗ lực đó làm tiêu tốn của họ rất nhiều năng lượng, làm sai lệch tính xác thực trong các hành động, thậm chí gây ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất của họ. Những người khác có vẻ thiếu hòa đồng và ít thân thiện; chẳng cần gì đến ai; nhưng cõi tư duy của họ lại là miền đất vô cùng rộng lớn và đầy hấp dẫn. Vậy nên nếu lần tới bạn gặp một ai đó với gương mặt bình thản và một giọng nói nhỏ nhẹ, hiền lành; có thể ngay lúc đó, trong đầu cô ấy đang phá giải một phương trình, sáng tác một bản xô-nát, hoặc thiết kế một chiếc mũ. Cô ấy, rất có thể, đang khai phá sức mạnh của sự lặng im.

Chúng ta đã biết đến trong truyền thuyết và trong truyện cổ tích rằng có rất nhiều loại sức mạnh khác nhau trên thế giới này. Đứa trẻ này có thể được trao cho một thanh gươm ánh sáng, trong khi với đứa trẻ kia, đó lại là sự giáo dục từ một vị pháp sư tài ba. Bí quyết thực sự không phải là cố tập hợp tất cả mọi loại sức mạnh khác nhau mà bạn có thể tiếp cận, mà là sử dụng thật đúng và tốt loại sức mạnh mà bạn được thiên phú cho. Những người hướng nội là những người được trao cho chiếc chìa khóa giúp mở cánh cửa tới những khu vườn bí mật rộng lớn và màu mỡ. Sở hữu một chiếc chìa khóa như vậy cũng giống như Alice khi cô bé rơi xuống Hang thỏ. Alice không hề lựa chọn việc mình sẽ đến Xứ sở Diệu kỳ-nhưng cô bé vẫn biến chuyến đi đó trở thành một cuộc phiêu lưu mới lạ, kỳ diệu, và độc nhất của riêng mình.

Lewis Carroll cũng là một người hướng nội đấy, tiện thể bạn cũng nên biết. Nếu không có ông, chúng ta đã chẳng có "Alice ở Xứ sở Diệu kỳ". Và nếu bạn đã đọc đến đây, thì chắc điều này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên nữa nhỉ?

Lời đề tặng

Ông tôi là một người đàn ông với giọng nói nhỏ nhẹ và một cặp mắt hiền từ; cùng một niềm đam mê mãnh liệt với sách và những ý tưởng. Ông luôn xuất hiện trong bộ đồ comple đen, và có một cách khéo léo đến tuyệt vời để tìm thấy và khen ngợi bất cứ thứ gì đáng khen ngợi ở mọi người, đặc biệt là trẻ nhỏ. Ở khu Brooklyn nơi ông phụng sự với tư cách thầy tu rabbi (một thầy đạo Do Thái), trên hè phố luôn có một hàng dài những người đàn ông với những chiếc mũ đen, những phụ nữ với váy dài chấm gối, và cả những đứa trẻ ngoan ngoãn và lễ phép-mặc dù có thể không phải lúc nào chúng cũng như vậy. Trên đường đến nhà thờ để giảng đạo, ông tôi sẽ luôn chào những người đi qua, từ tốn khen ngợi trí thông minh của một đứa trẻ này, chiều cao của đứa kia, hay hiểu biết của một đứa khác về những tình hình thời sự. Trẻ em yêu quý ông, người kinh doanh kính trọng ông, và những kẻ lạc lối tìm đến ông.

Nhưng thứ mà ông thích làm nhất là đọc sách. Trong căn hộ nhỏ của mình, nơi kể từ sau khi góa vợ ông đã sống một mình suốt hàng chục năm, tất cả mọi đồ đạc đều phải rời bỏ công dụng ban đầu của chúng để phục vụ như những chỗ đễ chứa đựng hàng chồng sách. Ông tôi sẽ ngồi đó, dưới hàng ánh đèn huỳnh quang sáng rực rỡ bên chiếc bàn bếp, nhấp một ngụm trà Lipton và nhấm nháp một miếng bánh ngọt, với một cuốn sách để mở rộng trước mặt trên tấm khăn trải bàn trắng muốt. Trong những bài giảng đạo của mình, ông sẽ chia sẻ với các đạo hữu thành quả từ những cuốn sách mới mình đã nghiền ngẫm nghiên cứu suốt một tuần trước đó. Ông là một người nhút nhát, luôn gặp khó khăn khi phải nhìn thẳng vào mắt khán giả, nhưng luôn rất tự tin và không ngần ngại trong hành trình khai phá tôn giáo và tri thức của mình. Khi ông nói, người kéo đến đông tới độ người ta chỉ có thể đứng chen chúc trong phòng giảng đạo chật chội để được nghe ông.

Những thành viên còn lại trong gia đình tôi đều chịu ảnh hưởng từ ông. Trong nhà chúng tôi, đọc sách là hoạt động gia đình thường xuyên nhất. Cứ mỗi chiều thứ Bảy chúng tôi sẽ túm tụm với nhau lại bên những cuốn sách, trong căn phòng nghỉ của gia đình. Đó là điều tuyệt vời nhất của cả hai thế giới: Bạn có được cảm giác ấm áp an toàn khi có gia đình ở bên, nhưng bạn cũng được tung hoành khắp nơi trong mảnh đất phiêu lưu rộng lớn ngay trong chính tâm trí mình.

Vậy nhưng đến những năm sắp bước vào tuổi thành niên, tôi đã bắt đầu phải tự hỏi liệu tất cả những việc ham thích đọc sách này có đánh dấu tôi là "quá khác biệt" trong mắt mọi người khác không, một nghi ngờ có vẻ đã được xác thực trong một chuyến đi cắm trại với lớp năm tôi mười tuổi, khi tôi thấy một cô bé với cặp mắt kính dày, trán cao, kiên quyết từ chối buông quyển sách mình đang đọc xuống để tham gia cùng mọi người vào ngày đầu tiên (cũng là quan trọng nhất) của kỳ cắm trại, và ngay lập tức đã bị tẩy chay, những ngày cắm trại còn lại với cô bé ấy phải nói là một địa ngục bởi sự cách ly của xã hội. Tôi cũng cực kỳ muốn được đọc sách lúc đó, nhưng đã quyết định sẽ không chạm đến những cuốn sách mình mang theo trong balô (một việc khiến tôi cảm thấy rất tội lỗi, như thể những cuốn sách ấy cần đến tôi, và tôi đã lại bỏ rơi chúng). Tôi đã thấy cô bé cứ tiếp tục đọc đó bị coi là "mọt sách" và "nhút nhát"; những đặc điểm mà chính tôi cũng có, và biết rằng mình phải tìm cách để che giấu.

Sau kỳ nghỉ hè đó, tôi bắt đầu thấy có chút kém thoải mái hơn với sở thích đọc sách của mình. Đến cấp III, rồi đến đại học, và rồi đến khi làm một luật sư trẻ, tôi đã luôn cố gắng hết sức để khiến mình trông có vẻ hướng ngoại hơn và ít "mọt sách" hơn mình thực sự là.

Nhưng rồi khi lớn dần lên, tôi học tập từ chính tấm gương của ông mình. Ông tôi là một người trầm tính, và là một người vĩ đại. Khi ông mất ở tuổi 94, sau sáu mươi hai năm đứng sau bục giảng kinh, sở cảnh sát thành phố New York đã phải cấm tất cả mọi phương tiện lưu thông trên các con đường xung quanh khu Brooklyn nơi ông sống, để có thể có chỗ đứng cho hàng đoàn dài những người đến tiễn đưa ông lần cuối cùng. Ông hẳn sẽ phải rất ngạc nhiên nếu được biết điều này. Đến bây giờ, tôi vẫn nghĩ, một trong những điều vĩ đại nhất ở ông chính là sự khiêm tốn của mình.

Cuốn sách này được dành tặng, bằng tất cả tình yêu, đến gia đình tuổi ấu thơ của tôi. Tới mẹ của con, với lòng nhiệt thành vô bờ bến của mình về những cuộc nói chuyện nhẹ nhàng bên bàn ăn; mẹ đã tặng cho chúng con tình thân gia đình ấm áp. Con thật may mắn khi đã có một người mẹ tận tâm với gia đình mình đến nhường vậy. Tới bố của con, một bác sĩ tận tụy, người đã bằng hành động của chính mình dạy cho con niềm vui khi ngồi hàng giờ bên bàn học, săn đuổi kiến thức; nhưng cũng là người sẵn sàng ngừng tay khỏi công việc, để giới thiệu với con một bài thơ yêu thích, hay một thí nghiệm khoa học hấp dẫn. Tới anh và chị của em, người tới ngày hôm này vẫn chia sẻ với em sự nồng ấm yêu thương khi được lớn lên trong gia đình nhỏ và trong căn nhà đầy không khí văn chương của chúng ta. Tới bà của con, vì sự quả quyết, dũng cảm, và tình yêu thương bà đã dạy cho chúng con.

Và để tưởng nhớ tới người ông đã khuất của con, người đã nói bằng cách thật tuyệt vời của mình, ngôn ngữ của sự lặng im.

Vài ghi chú về

các

từ ngữ

'

Introvert

'

'Extrovert'

Cuốn sách này là về sự hướng nội (introversion) từ một góc nhìn văn hóa. Mối quan tâm chủ yếu của nó là về sự phân cực đã có từ rất lâu giữa "con người của hành động" (man of action) và "con người của suy nghĩ" (man of contemplation), và về việc chúng ta có thể giúp thế giới này trở nên tốt hơn đến thế nào nếu có một sự cân bằng hơn về quyền lực giữa hai loại người này. Nó chú tâm vào những người tự nhận ra mình đang nằm đâu đó trong tập hợp những phẩm chất sau: thích suy nghĩ sâu sắc, vận dụng trí óc, ham đọc sách, khiêm tốn, nhạy cảm, thận trọng, nghiêm túc, hay trầm ngâm, tinh tế khôn khéo, sống nội tâm, hướng vào bên trong, hiền lành, điềm tĩnh, thích tìm sự đơn độc, nhút nhát rụt rè, ngại mạo hiểm, dễ bị tổn thương bởi lời lên án hoặc xúc phạm (thin-skinned). "Im lặng" cũng còn là về tập hợp những người đối lập hoàn toàn với những con người kể trên nữa: những "con người của hành động", những người sôi nổi tự tin, quảng giao, thân thiện và dễ gần, thích giao tiếp, dễ phấn khích, thích áp đảo và chi phối, mạnh mẽ quả quyết, chủ động, thích mạo hiểm, không ngại bị lên án hay xúc phạm (thick-skinned), hướng ra bên ngoài, vui vẻ nhẹ nhàng không quá nghiêm túc, gan dạ, và thoải mái khi ở vị trí trung tâm của mọi sự chú ý.

Đây là những phạm trù rất rộng lớn, tất nhiên. Rất ít cá nhân nào lại nhận diện mình hoàn toàn chỉ thuộc về một nhóm này hoặc một nhóm kia. Nhưng hầu hết chúng ta đều nhận ra những dạng người này ngay lập tức, bởi họ đóng những vai trò rất có ý nghĩa trong nền văn hóa của chúng ta.

Các nhà tâm lý học tính cách hiện nay có thể có khái niệm về sự hướng nội và hướng ngoại khác với cách tôi dùng trong cuốn sách này. Những người ủng hộ cách phân loại Ngũ Đại (Big Five) thường coi những nét tính cách như xu hướng thiên về tư duy, có một thế giới nội tâm phong phú, một lương tâm mạnh mẽ, có một vài mức độ lo lắng (đặc biệt là sự nhút nhát), và một bản chất ngại-mạo-hiểm như là những thứ thuộc về các lĩnh vực tâm lý khá tách biệt với tính hướng nội. Với họ, những đặc điểm tính cách này có thể rơi vào nhóm "mức độ cởi mở với trải nghiệm" (openness to experience), "mức độ tận tụy" (conscientiousness), và "mức độ dễ hoảng loạn lo lắng" (neuroticism).

Cách dùng từ ngữ "hướng nội" (introvert) của tôi là cố ý dùng theo một nghĩa rộng hơn, lấy từ những kiến thức trong tâm lý học Ngũ Đại, nhưng đồng thời cũng bao gồm cả những suy nghĩ của tâm lý học Jung (Jungian psycology) về thế giới nội tâm "hấp dẫn đến vô tận" và những trải nghiệm độc lập của người hướng nội; các nghiên cứu của Jerome Kagan về mức độ phản ứng và lo lắng cao (xin xem

chương 4

5

); các công trình của Elaine Aron về sự nhạy cảm trong xử lý thông tin từ thụ cảm (sensory processing sensitivity), và mối quan hệ của nó với sự tận tụy, những cảm xúc mạnh mẽ, sự hướng vào bên trong, và mức độ sâu sắc trong việc xử lý thông tin/cảm giác (xin xem

chương 6

); cũng như rất nhiều các nghiên cứu khác về sự kiên trì và mức độ tập trung của người hướng nội trong việc giải quyết vấn đề, rất nhiều trong số chúng đã được tóm tắt một cách tuyệt vời trong các công trình của Gerald Matthews (xin xem

chương 7

).

Quả thực vậy, trong hơn ba nghìn năm, nền văn minh phương Tây đã liên kết những phẩm chất trên đây với hàng loạt các tính từ.

Như nhà nhân chủng học C. A. Valentine đã viết:

Các truyền thống văn hóa phương Tây bao gồm cả sự đa dạng trong con người cá nhân, thứ có vẻ đã tồn tại rất lâu, đã lan truyền và bám rễ sâu sắc trong văn hóa. Dạng thức phổ biến nhất của nó là khái niệm về "con người của hành động", một con người thực dụng, thực tế, hoặc quảng giao, trong thế trái ngược với "con người của suy nghĩ", kẻ tư duy, người mơ mộng, kẻ lý tưởng hóa, hoặc những cá nhân nhút nhát rụt rè. Những danh tính được dùng rộng rãi nhất gắn với truyền thống này là "người hướng ngoại" và "người hướng nội".

Cách định nghĩa của Valentine về sự hướng nội bao gồm cả những dấu hiệu mà các nhà tâm lý hiện nay sẽ phân loại vào "mức độ cởi mở với trải nghiệm" ("kẻ tư duy", "kẻ mơ mộng"), "mức độ tận tụy" ("lý tưởng hóa"), và "mức độ dễ hoảng loạn lo lắng" ("những cá nhân nhút nhát rụt rè").

Một loạt các nhà thơ, nhà khoa học, và các triết gia cũng đồng thời có xu hướng gộp các đặc điểm tính cách này lại với nhau. Suốt từ sách "Chúa sáng thế" (Genesis), cuốn sách đầu tiên trong Kinh Thánh, chúng ta đã có Jacob thích tư duy (một "người đàn ông lặng lẽ ở trong lều", người sau này trở thành "Israel", nghĩa là "kẻ vật lộn với Chúa") trong cuộc đấu anh em với người anh trai của ông, Esau hung hăng (một "thợ săn tài năng" và "con người của nơi đất rộng"). Trong quá khứ xa xưa điển hình, những người thầy thuốc Hippocrates và Galen đã đưa ra tuyên bố nổi tiếng là tính cách chúng ta-và cả định mệnh của chúng ta-là một hệ quả đặc biệt của những loại dịch cơ thể của chúng ta, rằng việc có thừa máu và "mật vàng" giúp chúng ta lạc quan hoặc nóng tính (tức hướng ngoại ổn định hoặc hướng ngoại lo lắng); và việc có nhiều đờm dãi cùng "mật đen" khiến chúng ta bình tĩnh hoặc u sầu (tức hướng nội ổn định hoặc hướng nội lo lắng). Aristotle đã ghi lại rằng một tính cách hay u sầu thường đi cùng với sự nổi tiếng trong những lĩnh vực như triết học, thơ ca hay các môn nghệ thuật (ngày nay chúng ta có thể phân loại điều này vào nhóm

"mức độ cởi mở với trải nghiệm"

). Nhà thơ thế kỷ mười bảy John Milton khi viết Il Penseroso ("Kẻ Tư duy") và L'Allegro ("Người Vui vẻ") đã so sánh "con người hạnh phúc" vui vẻ ở thôn quê và hào hứng khi ở thành thị với "con người suy nghĩ" thường rảo bước trầm ngâm qua những khu rừng đêm và nghiên cứu trong những "tòa tháp cô độc". (Lại một lần nữa, ngày nay, những lời miêu tả của Il Penseroso sẽ đúng không chỉ với tính hướng nội mà còn cả với

"mức độ cởi mở với trải nghiệm"

"

mức độ

dễ hoảng loạn lo lắng"

nữa). Triết gia người Đức thế kỷ mười chín Schopenhauer đã đối chiếu giữa những "người tinh thần tốt" (đầy sinh lực, chủ động, và dễ cảm thấy chán) với loại người ưa thích của ông, "người thông minh" (nhạy cảm, giàu trí tưởng tượng, và u sầu). "Hãy nhớ kỹ lấy điều này, tất cả những con người của hành động kiêu hãnh kia!", người đồng hương của ông, Heinrich Heine, tuyên bố. "Tất cả các người rốt cuộc thì cũng chẳng là gì ngoại trừ là những công cụ vô thức cho những con người của tư duy!".

Bởi vì sự phức tạp trong các cách định nghĩa này, lúc đầu tôi đã định sáng tạo ra cách gọi tên của riêng mình cho tập hợp những nét tính cách này. Sau cùng thì tôi lại quyết định không làm thế, một lần nữa cũng lại bởi vì những lý do văn hóa: các từ ngữ introvert (hướng nội) và extrovert (hướng ngoại) có lợi thế là được biết đến rộng rãi và có tính khơi gợi cao. Mỗi lẫn tôi thốt ra chúng tại một bữa tiệc tối, hoặc với một người ngồi cùng hàng ghế trên máy bay, lập tức có ngay một cơn lũ ào ạt những lời tâm sự và chiêm nghiệm đến từ họ. Cũng vì những lý do tương tự, tôi đã chọn dùng cách viết phổ thông "extrovert" thay vì "extravert"như bạn vẫn hay thấy xuất hiện nhiều trong những văn bản nghiên cứu khoa học.

Lời ghi nhận

Tôi sẽ không thể hoàn tất được Im lặng nếu không có sự giúp đỡ của vô số bạn bè, người thân trong gia đình, cũng như các đồng nghiệp, trong đó bao gồm: Richard Pine, còn được biết đến (với tôi) như "Super-Agent RSP": người đại diện văn học (literary agent) thông minh nhất, hiểu biết nhất, và tốt bụng nhất mà một tác giả sách có thể hy vọng được làm việc với. Richard hoàn toàn tin vào Im lặng, thậm chí còn rất lâu trước cả tôi. Và anh vẫn tiếp tục giữ niềm tin đó, trong suốt 7 năm trời ròng rã mà tôi cần để tiến hành các nghiên cứu và viết nó. Tôi coi anh không chỉ như một người đại diện, mà còn là một đồng sự trong sự nghiệp của tôi. Tôi cũng đồng thời rất vui khi được làm việc với đội ngũ ở InkWell Management, trong đó có Ethan Bassoff, Lyndsey Blessing, và Charlie Olsen.

Tại nhà xuất bản Crown (Crown Publishers), tôi đã có vinh hạnh được làm việc cùng Molly Stern phi thường và tập thể nhân viên siêu-hạng của cô. Rachel Klayman thì có lẽ phải là biên tập viên xuất sắc và tận tâm nhất trong cả ngành công nghiệp xuất bản. Cô đã ở đó từ hai giờ chiều cho tới hai giờ sáng, phát hiện từng chỗ sai nhỏ trong cách lập luận và từng lỗi bé nhất trong cách diễn đạt của tôi, và đã đấu tranh cho cuốn sách này một cách không mệt mỏi. Tôi đồng thời cũng vô cùng biết ơn sự hào phóng vô cùng của Mary Choteborsky và Jenna Ciongoli, cùng với tài năng biên tập đến tuyệt vời của họ. Và tôi cũng đã rất may mắn được làm việc cùng với một biên tập viên bên ngoài như Peter Guzzardi, người có một năng lực bẩm sinh cực tốt trong việc khiến những lời phê bình nghe thật dễ chịu. Xin gửi lời cảm ơn từ tận đáy lòng tới tất cả các bạn. Cuốn sách này sẽ chỉ bằng một góc cái bóng của nó bây giờ nếu không có những nỗ lực của mọi người.

Cũng đặc biệt cảm ơn Rachel Rokicki và Julie Cepler cho sự sáng tạo và nhiệt tình họ đã mang tới cho mục đích của Im lặng. Và cảm ơn cả Patty Berg, Mark Birkey, Chris Brand, Stephanie Chan, Tina Constable, Laura Duffy, Songhee Kim, Kyle Kolker, Rachel Meier, Annsley Rosner, và tất cả mọi người khác nữa trong tập thể tuyệt vời ở Crown.

Tôi cũng đã hết sức may mắn được cộng tác với Joel Rickett, Kate Barker cùng toàn bộ các thành viên xuất sắc của Viking/Penguin U.K.

Những con người tuyệt vời ở TED đã trân trọng ý tưởng trong cuốn sách này, và cho tôi một cơ hội để nói về chúng tại buổi hội thảo tại TED Long Beach vào năm 2012. Tôi rất biết ơn Chris Anderson, Kelly Stoetzel, June Cohen, Tom Rielly, Michael Glass, Nicholas Weinberg và toàn thể TED team.

Brian Little, người mà các công trình tôi đã trích dẫn ở

chương 9

, đã trở thành một người thầy và một người bạn tuyệt vời của tôi. Tôi gặp Brian ở giai đoạn đầu trong công tác nghiên cứu của mình, khi tôi đến xin ông một cuộc phỏng vấn. Ông đã cho tôi không chỉ cuộc phỏng vấn mà cả, trong các năm sau đó, một lớp seminar của riêng tôi về tâm lý học tính cách. Tôi tự hào khi được là một trong số rất nhiều học trò và bạn của của ông.

Elaine Aron, người có công trình tôi đã trích dẫn ở

chương 6

, đã truyền cảm hứng cho tôi rất nhiều với công trình cả đời của bà; và đã cho tôi rất nhiều thời gian, kiến thức, và cả các câu chuyện cuộc đời của bà nữa.

Tôi đã nhờ đến sự ủng hộ và những lời khuyên hữu ích của vô số bạn bè, trong đó có: Marci Alboher, Gina Bianchini, Tara Bracco, Janis Brody, Greg Bylinksy, David Callahan, Helen Churko, Mark Colodny, Estie Dallett, Ben Dattner, Ben Falchuk, Christy Fletcher, Margo Flug, Jennifer Gandin Le, Rhonda Garelick, Michael Glass, Vishwa Goohya, Leeat Granek, Amy Gutman, Hillary Hazan-Glass, Wende Jaeger-Hyman, Mahima Joishy, Emily Klein, Chris Le, Rachel Lehmann-Haupt, Lori Lesser, Margot Magowan, Courtney Martin, Fran và Jerry Marton, Furaha Norton, Elizabeth O'Neill, Wendy Paris, Leanne Paluck Reiss, Marta Renzi, Gina Rudan, Howard Sackstein, Marisol Simard, Daphna Stern, Robin Stern, Tim Stock, Jillian Straus, Sam Sugiura, Tom Sugiura, Jennifer Taub, Kate Tedesco, Ruti Teitel, Seinenu Thein, Jacquette Timmons, Marie Lena Tupot, Sam Walker, Daniel Wolff, và Cali Yost. Đặc biệt, đặc biệt cực kỳ cảm ơn tới Anna Beltran, Maritza Flores, và Eliza Simpson.

Tôi đặc biệt biết ơn sự kiên nhẫn của một vài trong số những người bạn lâu nhất và thân thiết nhất của tôi: Mark Colodny, Jeff Kaplan, Hitomi Komatsu, Cathy Lankenau-Weeks, Lawrence Mendenhall, Jonathan Sichel, Brande Stellings, Judith van der Reis, Rebecca và Jeremy Wallace-Segall, và Naomi Wolf, người vẫn ở gần bên tôi dù chúng tôi không có mấy thời gian trò chuyện, chứ chưa nói đến chuyện đến thăm nhau trong suốt những năm tôi viết cuốn sách này và sinh hai con của tôi.

Cám ơn cả các bạn nữa, những đồng thành viên với tôi tại Invisible Institute, những người đã thường xuyên cho tôi cảm hứng và liên tục khiến tôi kinh ngạc: Gary Bass, Elizabeth Devita-Raeburn, Abby Ellin, Randi Epstein, Sheri Fink, Christine Kenneally, Judith Matloff, Katie Orenstein, Annie Murphy Paul, Pamela Paul, Joshua Prager, Alissa Quart, Paul Raeburn, Kathy Rich, Gretchen Rubin, Lauren Sandler, Deborah Siegel, Rebecca Skloot, Debbie Stier, Stacy Sullivan, Maia Szalavitz, Harriet Washington, và Tom Zoellner.

Cho những nguồn cảm hứng mà tôi sẽ sẵn sàng đóng hộp lại và bán nếu có thể, xin cám ơn những chủ nhân của căn nhà nhỏ tại Amagansett: Alison (Sunny) Warriner và Jeanne Mclemore. Vì lý do tương tự với Evelyn và Michael Polesny, chủ sở hữu của quán café kỳ diệu Doma Café tại Greenwich Village, nơi tôi đã viết hầu hết cuốn sách này.

Cũng đồng thời cám ơn những người đã giúp đỡ trên rất nhiều phương diện để cuốn Im lặng có thể được ra mắt độc giả: Nancy Ancowitz, Mark Colodny, Bill Cunningham, Ben Dattner, Aaron Fedor, Boris Fishman, David Gallo, Christopher Glazek, Suzy Hansen, Jayme Johnson, Jennifer Kahweiler, David Lavin, Ko-Shin Mandell, Andres Richner, JillEllyn Riley, Gretchen Rubin, Gregory Samanez-Larkin, Stephen Schueller, Sree Sreenivasan, Robert Stelmack, Linda Stone, John Thompson, Charles Yao, Helen Wan, Georgia Weinberg, và Naomi Wolf.

Tôi nợ một món nợ đặc biệt lớn với những người tôi đã trích dẫn, một vài trong số họ đã trở thành bạn của tôi: Michel Anteby, Jay Belsky, Jon Berghoff, Wayne Cascio, Hung Wei Chien, Boykin Curry, Tom DeMarco, Richard Depue, Tiến sĩ Janice Dorn, Anders Ericsson, Jason Fried, Francesca Gino, Adam Grant, William Graziano, Stephen Harvill, David Hofmann, Richard Howard, Jadzia Jagiellowicz, Roger Johnson, Jerry Kagan, Guy Kawasaki, Camelia Kuhnen, Tiffany Liao, Richard Lippa, Joanna Lipper, Adam McHugh, Mike Mika, Emily Miller, Jerry Miller, Quinn Mills, Purvi Modi, Joseph Newman, Preston Ni, Carl Schwartz, Dave Smith, Mark Snyder, Jacqueline Strickland, Avril Thorne, David Weiss, Mike Wei, và Shoya Zichy.

Còn rất nhiều, rất nhiều người nữa mà tên họ không được nhắc đến trong Im lặng, nhưng đã rất hào phóng cho tôi thời gian và hiểu biết của họ, thông qua các cuộc phỏng vấn và những phương pháp tương tự khác, và những người đã giúp thay đổi lớn các suy nghĩ của tôi: Marco Acevedo, Anna Allanbrook, Andrew Ayre, Dawn Rivers Baker, Susan Blew, Jonathan Cheek, Jeremy Chua, Dave Coleman, Ben Dattner, Matthew Davis, Scott Derue, Carl Elliott, Brad Feld, Kurt Fischer, Alex Forbes, Donna Genyk, Carole Grand, Stephen Gerras, Lenny Gucciardi, Anne Harrington, Naomi Karten, James McElroy, Richard McNally, Greg Oldham, Christopher Peterson, Lise Quintana, Lena Roy, Chris Scherpenseel, Hersh Shefrin, Nancy Snidman, Sandy Tinkler, Virginia Vitzthum, E. O. Wilson, David Winter, và Patti Wollman. Xin cám ơn tất cả.

Trên tất cả tôi cám ơn gia đình mình: Lawrence và Gail Horowitz, Barbara Schnipper, và Mitchell Horowitz, những người tôi đã viết về trong

Lời đề tặng

; Lois, Murray, và Steve Schnipper, những người đã khiến thế giới này trở thành một nơi ấm áp hơn; Steve và Gina Cain, những người anh chị em tuyệt vời của tôi tại bờ Tây, và người không ai sánh bằng, Heidi Postlewait.

Đặc biệt cám ơn tới Al và Bobbi Cain, những người đã cho tôi những lời khuyên, các địa chỉ liên lạc, và những tư vấn chuyên môn quý giá trong quá trình tôi viết và nghiên cứu, và là những người đã liên tục khiến tôi hy vọng rằng một ngày nào đó tôi cũng sẽ là một người thông gia tận tâm và hỗ trợ cho một người trẻ nào đó như họ đã làm với tôi vậy.

Và cho Gonzo yêu thương của tôi (a.k.a. Ken), người có thể là kẻ hào phóng nhất trên Trái Đất, và cũng là người bảnh bao nhất. Trong suốt những năm tôi viết cuốn sách này, anh đã biên tập bản thảo giúp tôi, mài sắc các ý tưởng giúp tôi, pha trà cho tôi, chọc cho tôi cười, mang cho tôi sôcôla, chăm sóc vườn cây của chúng tôi, làm lộn tung cả thế giới của anh lên để tôi có thời gian viết lách, giữ cho cuộc sống của chúng tôi luôn rực rỡ và vui tươi, và đã đưa chúng tôi biến khẩn cấp khỏi Berkshires. Anh cũng, tất nhiên, cho tôi Sammy and Elishku, những "kẻ" đã chất đầy ngôi nhà chúng tôi với xe tải đồ chơi, và chất đầy trái tim chúng tôi bằng tình yêu.

Chú thích

GIỚI THIỆU: HAI CỰC BẮC-NAM CỦA TÍNH CÁCH CON NGƯỜI

1.

Montgomery, Alabama. Ngày 1 tháng Mười Hai, năm 1955: For an excellent biography of Rosa Parks, see Douglas Brinkley, Rosa Parks: A Life (New York: Penguin, 2000). Most of the material in Quiet about Parks is drawn from this work.

A note about Parks: Some have questioned the singularity of her actions, pointing out that she'd had plenty of civil rights training before boarding that bus. While this is true, there's no evidence, according to Brinkley, that Parks acted in a premeditated manner that evening, or even as an activist; she was simply being herself. More important for Quiet's purposes, her personality did not prevent her from being powerful; on the contrary, it made her a natural at nonviolent resistance.

2.

"Hai cực Bắc-Nam của tính cách":

Winifred Gallagher (quoting J. D. Higley), "How We Become What We Are," The Atlantic Monthly, September 1994. (Higley was talking about boldness and inhibition, not extroversion and introversion per se, but the concepts overlap in many ways.)

3.

Nó điều khiển việc chúng ta thực hiện thường xuyên đến đâu các hoạt động như tập thể thao: Robert M. Stelmack, "On Personality and Arousal: A Historical Perspective on Eysenck and Zuckerman,"; Marvin Zuckerman và Robert M. Stelmack, On the Psychobiology of Personality: Essays in Honor of Marvin Zuckerman (San Diego: Elsevier, 2004), trang 22. Caroline Davis, "Motivations to Exercise as a Function of Personality Characteristics, Age, and Gender," Personality and Individual Differences 19, no. 2 (1995): trang 165-174.

4.

ngoại tình: Daniel Nettle, Personality: What Makes You the Way You Are (New York: Oxford University Press, 2007), trang 100. See also David P. Schmitt, "The Big Five Related to Risky Sexual Behaviour Across 10 World Regions: Differential Personality Associations of Sexual Promiscuity and Relationship Infidelity," European Journal of Personality 18, no. 4 (2004): trang 301-319.

5.

làm việc hiệu quả mà không cần ngủ: William D. S. Killgore, "The Trait of Introversion-Extraversion Predicts Vulnerability to Sleep Deprivation," Journal of Sleep Research 16, no. 4 (2007): trang 354-363. Xem cả Daniel Taylor và Robert M. McFatter, "Cognitive Performance After Sleep Deprivation: Does Personality Make a Difference?" Personality and Individual Differences 34, no. 7 (2003): trang 1179-1193; và Andrew Smith và Andrea Maben, "Effects of Sleep Deprivation, Lunch, and Personality on Performance, Mood, and Cardiovascular Function," Physiology and Behavior 54, no. 5 (1993): trang 967-972.

6.

học từ những sai lầm trong quá khứ: Xem

chương 7

.

7.

đặt những canh bạc lớn trên thị trường chứng khoán: Xem

chương 7

.

8.

làm một nhà lãnh đạo giỏi: Xem

chương 2

.

9.

đặt những câu hỏi như : "Nếu trong trường hợp đó thì mọi việc sẽ ra sao?": Xem

chương 3

chương 7

.

10.

những chủ đề được nghiên cứu nhiều nhất: As of May 2, 2010, in the PSYCINFO database, there were 9,194 entries on "extraversion," 6,111 on "introversion," and 12,494 on the overlapping subject of "neuroticism." There were fewer entries for the other "Big 5" personality traits: openness to experience, conscientiousness, and agreeableness. Similarly, as of June 14, 2010, a Google scholar search found about 64,700 articles on "extraversion," 30,600 on "extroversion," 55,900 on "introversion," and 53,300 on "neuroticism." The psychologist William Graziano, in an e-mail dated July 31, 2010, refers to introversion/extroversion as "the 300 lb. gorilla of personality, meaning that it is big and cannot be ignored easily."

11.

trong Kinh Thánh: Xem "A Note on Terminology."

12.

một số nhà nghiên cứu tâm lý tiến hóa: Xem

chương 6

.

13.

một phần ba cho tới một phần hai dân số nước Mỹ là những người hướng nội: Rowan Bayne, in The Myers-Briggs Type Indicator: A Critical Review and Practical Guide (London: Chapman and Hall, 1995), 47, finds the incidence of introversion at 36 percent, which is in turn determined from Isabel Myers's own study from 1985. A more recent study, published by the Center for Applications of Psychological Type Research Services in 1996, sampled 914,219 people and found that 49.3 percent were extroverts and 50.7 percent were introverts. See "Estimated Frequencies of the Types in the United States Population," a brochure published by the Center for Application of Psychological Type (CAPT) in 1996 and 2003. That the percentage of introverts found by these studies rose from 36 percent to 50.7 percent doesn't necessarily mean that there are now more introverts in the United States, according to CAPT. It may be "simply a reflection of the populations sampled and included." In fact, a wholly separate survey, this one using the Eysenck Personality Inventory and Eysenck Personality Questionnaire rather than the Myers-Briggs test, indicates that extraversion scores have increased over time (from 1966 to 1993) for both men and women: see Jean M. Twenge, "Birth Cohort Changes in Extraversion: A Cross-Temporal Meta-Analysis, 1966-1993," Personality and Individual Differences 30 (2001): 735-48.

14.

Mỹ là một trong số những nước hướng ngoại nhất trên thế giới: This has been noted in two studies: (1) Juri Allik and Robert R. McCrae, "Toward a Geography of Personality Traits: Patterns of Profiles Across 36 Cultures," Journal of Cross-Cultural Psychology 35 (2004): 13-28; and (2) Robert R. McCrae and Antonio Terracciano, "Personality Profiles of Cultures: Aggregate Personality Traits," Journal of Personality and Social Psychology 89:3 (2005): 407-25.

15.

Người hay nói, ví dụ: William B. Swann Jr. and Peter J. Rentfrow, "Blirtatiousness: Cognitive, Behavioral, and Physiological Consequences of Rapid Responding," Journal of Personality and Social Psychology 81, no. 6 (2001): 1160-75.

16.

Tốc độ nói cũng ảnh hưởng: Howard Giles and Richard L. Street Jr., "Communicator Characteristics and Behavior," in M. L. Knapp and G. R. Miller, eds., Handbook of Interpersonal Communication, 2nd ed. (Thousand Oaks, CA: Sage, 1994), 103-61. (But note some good news for introverts: slow speech can be perceived as honest and benevolent, according to other studies.)

17.

người nói lớn thường được đánh giá là thông minh hơn: Delroy L. Paulhus and Kathy L. Morgan, "Perceptions of Intelligence in Leaderless Groups: The Dynamic Effects of Shyness and Acquaintance," Journal of Personality and Social Psychology 72, no. 3 (1997): 581-91.

18.

một nghiên cứu không chính thức: Laurie Helgoe, Introvert Power: Why Your Inner Life Is Your Hidden Strength(Naperville, IL: Sourcebooks, 2008), 3-4.

19.

định luật vạn vật hấp dẫn: Gale E. Christianson, Isaac Newton (Oxford University Press, Lives and Legacies Series, 2005).

20.

thuyết tương đối: Walter Isaacson, Einstein: His Life and Universe (New York: Simon & Schuster, 2007), 4, 12, 18, 2, 31, etc.

21.

"The Second Coming" của W. B. Yeats: Michael Fitzgerald, The Genesis of Artistic Creativity: Asperger's Syndrome and the Arts (London: Jessica Kingsley, 2005), 69. Xem cả Ira Progoff, Jung's Psychology and Its Social Meaning (London: Routledge, 1999), 111-12.

22.

các bản dạ khúc của Chopin: Tad Szulc, Chopin in Paris: The Life and Times of the Romantic Composer (New York: Simon & Schuster, 2000), 69.

23.

bộ tiểu thuyết "Đi tìm thời gian đã mất" của Proust: Alain de Botton, How Proust Can Change Your Life (New York: Vintage International), 1997.

24.

Peter Pan: Lisa Chaney, Hide-and-Seek with Angels: A Life of J. M. Barrie (New York: St. Martin's Press, 2005), 2.

25.

các tiểu thuyết "Một chín tám tư" và "Trại súc vật" của Orwell: Fitzgerald, The Genesis of Artistic Creativity, 89.

26.

Charlie Brown: David Michaelis, Schulz and Peanuts: A Biography (New York: Harper, 2007).

27.

"Schindler's List", "E.T.", và "Close Encounters of the Third Kind": Joseph McBride, Steven Spielberg: A Biography (New York: Simon & Schuster, 1997), 57, 68.

28.

Google: Ken Auletta, Googled: The End of the World as We Know It (New York: Penguin, 2009), 32

29.

Harry Potter: Interview of J. K. Rowling by Shelagh Rogers and Lauren McCormick, Canadian Broadcasting Corp., October 26, 2000.

30.

"Cả E=mc2 lẫn 'Thiên đường đã mất' đều không": Winifred Gallagher, I.D.: How Heredity and Experience Make You Who You Are (New York: Random House, 1996), 26.

31.

phần lớn các giáo viên tin rằng: Charles Meisgeier et al., "Implications and Applications of Psychological Type to Educational Reform and Ren

32.

Carl Jung đã xuất bản một cuốn sách bom tấn: Carl G. Jung, Psychological Types (Princeton, NJ: Princeton University Press, 1971; originally published in German as Psychologische Typen [Zurich: Rascher Verlag, 1921]), see esp. 330-37.

33.

phần lớn các trường đại học và các công ty, tập đoàn hàng đầu trên thế giới: E-mail to the author, dated July 9, 2010, from Leah L. Walling, director, Marketing Communications and Product Marketing, CPP, Inc.

34.

người hướng nội và hướng ngoại cần những mức độ kích thích khác nhau ... Rất nhiều người sợ nói chuyện phiếm: Xem PHẦN HAI: "BẢN CHẤT SINH HỌC CỦA BẠN, BẢN CHẤT THỰC SỰ CỦA BẠN?"

35.

hướng nội không phải là một từ đồng nghĩa với ẩn dật hay khinh người.: Introversion is also very different from Asperger's syndrome, the autism spectrum disorder that involves difficulties with social interactions such as reading facial expressions and body language. Introversion and Asperger's both can involve feeling overwhelmed in social settings. But unlike people with Asperger's, introverts often have strong social skills. Compared with the one third to one half of Americans who are introverts, only one in five thousand people has Asperger's. See National Institute of Neurological Disorders and Stroke, Asperger Syndrome Fact Sheet,

http://www.ninds.nih.gov/disorders/asperger/detail_asperger.htm

.

36.

người hướng nội vô cùng rõ rệt, E. M. Forster: Sunil Kumar, A Companion to E. M. Forster, vol. 1 (New Delhi: Atlantic Publishers and Distributors, 2007).

37.

"tình yêu giữa người với người ở sắc thái tuyệt đối nhất của nó.": E. M. Forster, Howards End (London: Edward Arnold, 1910).

38.

Nhút nhát, rụt rè là nỗi sợ sự không chấp nhận của xã hội: Elaine N. Aron et al., "Adult Shyness: The Interaction of Temperamental Sensitivity and an Adverse Childhood Environment," Personality and Social Psychology Bulletin 31 (2005): 181-97.

39.

đôi lúc chúng giao nhau: Many articles address this question. See, for example, Stephen R. Briggs, "Shyness: Introversion or Neuroticism?" Journal of Research in Personality 22, no. 3 (1988): 290-307.

40.

"Một kẻ như thế chắc chắn sẽ chỉ có thể kết thúc mình trong một nhà thương điên": William McGuire and R. F. C. Hall, C. G. Jung Speaking: Interviews and Encounters (Princeton, NJ: Princeton University Press, 1977), 304.

41.

Phần Lan là một quốc gia nổi tiếng hướng nội: Aino Sallinen-Kuparinen et al., Willingness to Communicate, Communication Apprehension, Introversion, and Self-Reported Communication Competence: Finnish and American Comparisons. Communication Research Reports, 8 (1991): 57.

42.

Rất nhiều người hướng nội cũng "đặc biệt nhạy cảm":Xem

chương 6

.

CHƯƠNG 1: THE RISE OF THE "MIGHTY LIKEABLE FELLOW"

1.

Thời gian: năm 1902... đã từng kìm chân chính ông trong quá khứ: Giles Kemp and Edward Claflin, Dale Carnegie: The Man Who Influenced Millions (New York: St. Martin's Press, 1989). The 1902 date is an estimate based on the rough contours of Carnegie's biography.

3.

"Trong những ngày mà phòng tắm và đàn piano còn là những thứ vô cùng xa xỉ": Dale Carnegie, The Quick and Easy Way to Effective Speaking (New York: Pocket Books, 1962; revised by Dorothy Carnegie from Public Speaking and Influencing Men in Business, by Dale Carnegie).

4.

"Nền Văn Hóa Của Đức Tính" sang "Nền Văn Hóa Của Tính Cách": Warren Susman, Culture as History: The Transformation of American Society in the Twentieth Century (Washington, DC: Smithsonian Institution Press, 2003), 271-85. See also Ian A. M. Nicholson, "Gordon Allport, Character, and the 'Culture of Personality,' 1897-1937," History of Psychology 1, no. 1 (1998): 52-68.

5.

Thậm chí từ ngữ tính cách (personality) vẫn còn chưa tồn tại trong tiếng Anh cho đến tận thế kỷ thứ 18: Susman, Culture as History, 277: The modern idea of personality emerged in the early twentieth century and came into its own only in the post-World War I period. By 1930, according to the early personality psychologist Gordon W. Allport, interest in personality had reached "astonishing proportions." See also Sol Cohen, "The Mental Hygiene Movement, the Development of Personality and the School: The Medicalization of American Education," History of Education Quarterly 32, no. 2 (1983), 123-49.

6.

Vào năm 1790, chỉ có khoảng 3% ... hơn một phần ba dân số toàn quốc đã là những cư dân thành thị: Alan Berger, The City: Urban Communities and Their Problems (Dubuque, IA: William C. Brown Co., 1978). See also Warren Simpson Thompson et al., Population Trends in the United States (New York: Gordon and Breach Science Publishers, 1969).

7.

"Tất cả chúng ta không thể đều sống hết ở thành phố": David E. Shi, The Simple Life: Plain Living and High Thinking in American Culture (Athens, GA: University of Georgia Press, 1985), 154.

8.

"Lý do một người này được thăng chức hay một người khác bị xã hội tảng lờ và tẩy chay": Roland Marchand, Advertising the American Dream: Making Way for Modernity, 1920-1940 (Berkeley: University of California Press, 1985), 209.

9.

The Pilgrim's Progress: John Bunyan, The Pilgrim's Progress (New York: Oxford University Press, 2003). See also Elizabeth Haiken, Venus Envy: A History of Cosmetic Surgery (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1997), 99.

10.

một con người vô cùng khiêm tốn ... "không bao giờ bị vấy bẩn bởi uy quyền": Amy Henderson, "Media and the Rise of Celebrity Culture," Organization of American Historians Magazine of History 6 (Spring 1992).

11.

Một cuốn sách khuyên bảo khá nổi tiếng xuất bản năm 1899: Orison Swett Marden, Character: The Grandest Thing in the World (1899; reprint, Kessinger Publishing, 2003), 13.

12.

Nhưng đến năm 1920, những cuốn sách tự-giúp-đỡ-bản-thân nổi tiếng ... "Đó là cách xây dựng danh tiếng cho một nhân cách": Susman, Culture as History, 271-85.

14.

Tạp chí Success và cả tuần báo The Saturday Evening Post: Carl Elliott, Better Than Well: American Medicine Meets the American Dream (New York: W. W. Norton, 2003), 61.

15.

một kỹ năng bí ẩn khác có tên "sức quyến rũ": Susman, 279.

16.

"Những người đi ngang qua ngoài phố": Hazel Rawson Cades, "A Twelve-to-Twenty Talk," Women's Home Companion, September 1925: 71 (cited by Haiken, p. 91).

17.

hết thảy người dân Mỹ đều bị ám ảnh bởi những minh tinh màn bạc: In 1907 there were five thousand movie theaters in the United States; by 1914 there were 180,000 theaters and counting. The first films appeared in 1894, and though the identities of screen actors were originally kept secret by the film studios (in keeping with the ethos of a more private era), by 1910 the notion of a "movie star" was born. Between 1910 and 1915 the influential filmmaker D. W. Griffith made movies in which he juxtaposed close-ups of the stars with crowd scenes. His message was clear: here was the successful personality, standing out in all its glory against the undifferentiated nobodies of the world. Americans absorbed these messages enthusiastically. The vast majority of biographical profiles published in The Saturday Evening Post and Collier's at the dawn of the twentieth century were about politicians, businessmen, and professionals. But by the 1920s and 1930s, most profiles were written about entertainers like Gloria Swanson and Charlie Chaplin. (See Susman and Henderson; See also Charles Musser, The Emergence of Cinema: The American Screen to 1907 [Berkeley: University of California Press, 1994], 81; and Daniel Czitrom, Media and the American Mind: From Morse to McLuhan [Chapel Hill: University of North Carolina Press, 1982, p. 42].)

18.

"Giấy mỏng vân lụa của Eaton's Highland": Marchand, Advertising the American Dream, 11.

19.

"Khắp nơi xung quanh, mọi người đều đang âm thầm đánh giá bạn": Jennifer Scanlon, Inarticulate Longings: The Ladies' Home Journal, Gender, and the Promises of Consumer Culture (Routledge, 1995), 209.

20.

"Những ánh mắt vô cùng nghiêm khắc đang bủa vây lấy bạn ngay chính lúc này đây!": Marchand, Advertising the American Dream, 213.

21.

"Đã bao giờ thử tự chào bán chính bạn cho chính bạn chưa?": Marchand, 209.

22.

"Hãy để gương mặt của bạn bộc lộ sự tự tin, chứ không phải lo lắng!": Marchand, Advertising the American Dream, 213.

23.

"khát khao được hạnh phúc, được thành công, được chiến thắng": This ad ran in Cosmopolitan, August 1921: 24.

24.

"Tôi phải làm thế nào để có thể trở nên nổi tiếng hơn đây?": Rita Barnard, The Great Depression and the Culture of Abundance: Kenneth Fearing, Nathanael West, and Mass Culture in the 1930s (Cambridge, UK: Cambridge University Press, 1995), 188. See also Marchand, Advertising the American Dream, 210.

25.

-

cả hai giới tính đều thể hiện phần nào sự kín đáo, dè dặt ... có thể bị coi là "lạnh nhạt"

: Patricia 26 A. McDaniel,Shrinking Violets and Caspar Milquetoasts: Shyness, Power, and Intimacy in the United States, 1950-1995(New York: New York University Press, 2003), 33-43.

26.

Vào thập kỷ 1920, nhà tâm lý học có tầm ảnh hưởng ... "Nền văn minh đương đại của chúng ta ... có vẻ đặt giá trị cao hơn vào những con người hùng hổ": Nicholson, "Gordon Allport, Character, and the Culture of Personality, 1897-1937," 52-68. See also Gordon Allport, "A Test for Ascendance-Submission,"Journal of Abnormal & Social Psychology 23 (1928): 118-36. Allport, often referred to as a founding figure of personality psychology, published "Personality Traits: Their Classification and Measurement" in 1921, the same year Jung published Psychological Types. He began teaching his course "Personality: Its Psychological and Social Aspects" at Harvard University in 1924; it was probably the first course in personality ever taught in the United States.

27.

Chính Jung ... "khơi dậy rất nhiều ác cảm của xã hội với loại người này": C. G. Jung, Psychological Types(Princeton, NJ: Princeton University Press, 1990; reprint of 1921 edition), 403-5.

28.

Hội chứng IC, như nó sau này được biết đến rộng rãi ... "miễn là bạn có đủ chất để chống lưng cho nó": Haiken, 27 Venus Envy, 111-14.

29.

bất chấp giọng điệu lạc quan của bài báo này ... "Một tính cách lành mạnh cho mọi con em của chúng ta": McDaniel, Shrinking Violets, 43-44.

30.

Những bậc phụ huynh-hoàn toàn có ý tốt ... đồng ý rằng: Encyclopedia of Children and Childhood in History and Society: "Shyness,"

http://www.faqs.org/childhood/Re-So/Shyness.html

.

31.

Một số còn ngăn cấm... để các em học được cách hòa nhập vào với: David Riesman, The Lonely Crowd(Garden City, NY: Doubleday Anchor, reprinted by arrangement with Yale University Press, 1953), esp. 79-85 and 91. See also "The People: Freedom-New Style," Time, September 27, 1954.

32.

Những trẻ em hướng nội ... "sự phát triển tính tình bất bình thường nào": William H. Whyte, The Organization Man (New York: Simon & Schuster, 1956; reprint, Philadelphia: University of Pennsylvania Press, 2002), 382, 384.

33.

Tổng Giám Sự Hành Chính (provost) của đại học Harvard, Paul Buck: Jerome Karabel, The Chosen: The Hidden History of Admission and Exclusion at Harvard, Yale, and Princeton (Boston: Houghton Mifflin, 2005), 185, 223.

34.

"Chúng tôi gần như không có việc gì để dùng đến những loại người người hướng nội 'siêu thông minh'": Whyte, The Organization Man, 105.

35.

Vị trưởng khoa này ... "và sẽ đỡ hơn rất nhiều nếu họ có thể tạo một ấn tượng tốt": Whyte, The Organization Man, 212.

36.

"Cùng bán IBM": Hank Whittemore, "IBM in Westchester-The Low Profile of the True Believers." New York, May 22, 1972. The singing ended in the 1950s, according to this article. For the full words to "Selling IBM," see

http://www.digibarn.com/collections/songs/ibm-songs

.

37.

Những người còn lại trong biên chế nhân viên ... quảng cáo in của Equanil nói rõ: Louis Menand, "Head Case: Can Psychiatry Be a Science?" The New Yorker, March 1, 2010.

38.

Vào những năm 1960, quảng cáo thuốc an thần Serentil: Elliott, Better Than Well, xv.

39.

Hướng ngoại là thành tố có trong cả từng nhiễm sắc thể của mỗi chúng ta: Kenneth R. Olson, "Why Do Geographic Differences Exist in the Worldwide Distribution of Extraversion and Openness to Experience? The History of Human Emigration as an Explanation," Individual Differences Research 5, no. 4 (2007): 275-88. See also Chuansheng Chen, "Population Migration and the Variation of Dopamine D4 Receptor (DRD4) Allele Frequencies Around the Globe," Evolution and Human Behavior 20 (1999): 309-24.

40.

đế chế La Mã, nơi có những người mà với họ hình phạt nặng nề nhất là bị trục xuất ra khỏi thành phố: Mihalyi Csikszentmihalyi, Flow: The Psychology of Optimal Experience (New York: Harper Perennial, 1990), 165.

41.

Thậm chí cả những cuộc phục hưng Thiên Chúa giáo ở Mỹ, từ tận giai đoạn thời kỳ Đại Tỉnh Thức đầu tiên: Long before that silver-tongued Chautauqua speaker turned Dale Carnegie's world upside down, religious revivals were taking place under huge tents all over the country. Chautauqua itself was inspired by these "Great Awakenings," the first in the 1730s and 1740s, and the second in the early decades of the nineteenth century. The Christianity on offer in the Awakenings was new and theatrical; its leaders were sales-oriented, focused on packing followers under their great tents. Ministers' reputations depended on how exuberant they were in speech and gesture.

The star system dominated Christianity long before the concept of movie stars even existed. The dominant evangelist of the First Great Awakening was a British showman named George Whitefield who drew standing-room-only crowds with his dramatic impersonations of biblical figures and unabashed weeping, shouting, and crying out. But where the First Great Awakening balanced drama with intellect and gave birth to universities like Princeton and Dartmouth, the Second Great Awakening was even more personality-driven; its leaders focused purely on drawing crowds. Believing, as many megachurch pastors do today, that too academic an approach would fail to pack tents, many evangelical leaders gave up on intellectual values altogether and embraced their roles as salesmen and entertainers. "My theology! I didn't know I had any!" exclaimed the nineteenth-century evangelist D. L. Moody.

This kind of oratory affected not only styles of worship, but also people's ideas of who Jesus was. A 1925 advertising executive named Bruce Fairchild Barton published a book called The Man Nobody Knows. It presented Jesus as a superstar sales guy who "forged twelve men from the bottom ranks of business into an organization that conquered the world." This Jesus was no lamb; this was "the world's greatest business executive" and "The Founder of Modern Business." The notion of Jesus as a role model for business leadership fell on extraordinarily receptive ears. The Man Nobody Knowsbecame one of the best-selling nonfiction books of the twentieth century, according to Powell's Books. See Adam S. McHugh, Introverts in the Church: Finding Our Place in an Extroverted Culture (Downers Grove, IL: IVP Books, 2009), 23-25. See also Neal Gabler, Life: The Movie: How Entertainment Conquered Reality (New York: Vintage Books, 1998), 25-26.

42.

những cư dân Mỹ bắt đầu ngưỡng mộ hành động: Richard Hofstadter, Anti-Intellectualism in American Life (New York: Vintage Books, 1962); see, for example, pp. 51 and 256-57.

43.

chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1828: Neal Gabler, Life: The Movie, 28.

44.

John Quincy Adams, tình cờ: Steven J. Rubenzer et al., "Assessing the U.S. Presidents Using the Revised NEO Personality Inventory," Assessment 7, no. 4 (2000): 403-20.

45.

"Sự tôn trọng mà chúng ta có dành cho những tính cách cá nhân": Harold Stearns, America and the Young Intellectual(New York: George H. Duran Co., 1921).

46.

"Thật kỳ lạ khi nghĩ về mức độ chú ý": Henderson, "Media and the Rise of Celebrity Culture."

47.

đi lang thang như những đám mây trôi vô định: William Wordsworth, "I Wandered Lonely as a Cloud," 1802.

48.

đắm mình trong sự tĩnh lặng của Walden Pond: Henry David Thoreau, Walden, 1854.

49.

Số lượng những người Mỹ tự coi mình là nhút nhát, rụt rè: Bernardo Carducci and Philip G. Zimbardo, "Are You Shy?" Psychology Today, November 1, 1995.

50.

"Chứng rối loạn lo lắng xã hội" ... một phần năm dân số: M. B. Stein, J. R. Walker, and D. R. Forde, "Setting Diagnostic Thresholds for Social Phobia: Considerations from a Community Survey of Social Anxiety,"American Journal of Psychiatry 151 (1994): 408-42.

51.

Phiên bản mới nhất của cuốn Diagnostic and Statistical Manual (DSM-IV): American Psychiatric Association, Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 4th ed. (DSM-IV), 2000. See 300.23, "Social Phobia (Social Anxiety Disorder)": "The diagnosis is appropriate only if the avoidance, fear, or anxious anticipation of encountering the social or performance situation interferes significantly with the person's daily routine, occupational functioning, or social life, or if the person is markedly distressed about having the phobia.... In feared social or performance situations, individuals with Social Phobia experience concerns about embarrassment and are afraid that others will judge them to be anxious, weak, 'crazy,' or stupid. They may fear public speaking because of concern that others will notice their trembling hands or voice or they may experience extreme anxiety when conversing with others because of fear that they will appear inarticulate.... The fear or avoidance must interfere significantly with the person's normal routine, occupational or academic functioning, or social activities or relationships, or the person must experience marked distress about having the phobia. For example, a person who is afraid of speaking in public would not receive a diagnosis of Social Phobia if this activity is not routinely encountered on the job or in the classroom and the person is not particularly distressed about it."

52.

"Sẽ là không đủ... nếu bạn chỉ có thể ngồi bên bàn máy tính": Daniel Goleman, Working with Emotional Intelligence (New York: Bantam, 2000), 32.

53.

vẫn chiếm vị trí hàng đầu trong số các sách bán chạy nhất: See, for example,

http://www.nationalpost.com/Business+Bestsellers/3927572/story.html

.

54.

"tất cả mọi nói chuyện đều là để bán hàng và tất cả mọi sự bán hàng đều phải qua nói chuyện": Michael Erard, Um: Slips, Stumbles, and Verbal Blunders, and What They Mean (New York: Pantheon, 2007), 156.

55.

với hơn 12.500 câu lạc bộ trải khắp 113 nước khác nhau trên thế giới:

http://www.toastmasters.org/MainMenuCategories/WhatisToastmasters.aspx

(accessed September 10, 2010).

56.

Video quảng cáo cho website của Toastmasters:

http://www.toastmasters.org/DVDclips.aspx

(accessed July 29, 2010). Click on "Welcome to Toastmasters! The entire 15 minute story.

CHƯƠNG 3: KHI SỰ CỘNG TÁC GIẾT CHẾT TÍNH SÁNG TẠO

1.

"Tôi là một con ngựa chỉ có thể mang một bộ yên cương": Albert Einstein, in "Forum and Century," vol. 84, pp. 193-94 (the thirteenth in the Forum series Living Philosophies, a collection of personal philosophies of famous people, published in 1931).

2.

"5 tháng Ba, 1975": The story of Stephen Wozniak throughout this chapter is drawn largely from his autobiography, iWoz (New York: W. W. Norton, 2006). The description of Woz as being the "nerd soul" of Apple comes from

http://valleywag.gawker.com/220602/wozniak-jobs-design-role-overstated

.

3.

một loạt các nghiên cứu về bản chất của tính sáng tạo: Donald W. MacKinnon, "The Nature and Nurture of Creative Talent" (Walter Van Dyke Bingham Lecture given at Yale University, New Haven, Connecticut, April 11, 1962). See also MacKinnon, "Personality and the Realization of Creative Potential," Presidential Address presented at Western Psychological Association, Portland, Oregon, April 1964.

4.

Một trong những khám phá quan trọng nhất của họ: See, for example, (1) Gregory J. Feist, "A Meta-Analysis of Personality in Scientific and Artistic Creativity," Personality and Social Psychology Review 2, no. 4 (1998): 290-309; (2) Feist, "Autonomy and Independence," Encyclopedia of Creativity, vol. 1 (San Diego, CA: Academic Press, 1999), 157-63; and (3) Mihaly Csikszentmihalyi, Creativity: Flow and the Psychology of Discovery and Invention (New York: Harper Perennial, 1996), 65-68. There are some studies showing a correlation between extroversion and creativity, but in contrast to the studies by MacKinnon, Csikszentmihalyi, and Feist, which followed people whose careers had proven them to be exceptionally creative "in real life," these tend to be studies of college students measuring subjects' creativity in more casual ways, for example by analyzing their personal hobbies or by asking them to play creativity games like writing a story about a picture. It's likely that extroverts would do better in high-arousal settings like these. It's also possible, as the psychologist Uwe Wolfradt suggests, that the relationship between introversion and creativity is "discernable at a higher level of creativity only." (Uwe Wolfradt, "Individual Differences in Creativity: Personality, Story Writing, and Hobbies,"European Journal of Personality 15, no. 4, [July/August 2001]: 297-310.)

5.

Hans Eysenck: Hans J. Eysenck, Genius: The Natural History of Creativity (New York: Cambridge University Press, 1995).

6.

"Sự sáng tạo-trái tim của một nền kinh tế tri thức": Malcolm Gladwell, "Why Your Bosses Want to Turn Your New Office into Greenwich Village," The New Yorker, December 11, 2000.

7.

"Không ai trong chúng ta thông minh bằng tất cả chúng ta": Warren Bennis, Organizing Genius: The Secrets of Creative Collaboration (New York: Basic Books, 1997).

8.

"Michelangelo cũng phải có những phụ tá": Clay Shirky, Here Comes Everybody: The Power of Organizing Without Organizations (New York: Penguin, 2008).

9.

họ càng lúc càng tổ chức nhân sự của mình thành những teams (đội, nhóm): Steve Koslowski and Daniel Ilgen, "Enhancing the Effectiveness of Work Groups and Teams," Psychological Science in the Public Interest 7, no. 3 (2006): 77-124.

10.

Tới năm 2000, theo ước tính đã có: Dennis J. Devine, "Teams in Organizations: Prevalence, Characteristics, and Effectiveness," Small Group Research 20 (1999): 678-711.

11.

ngày nay gần như tất cả bọn họ đều làm thế: Frederick Morgeson et al., "Leadership in Teams: A Functional Approach to Understanding Leadership Structures and Processes," Journal of Management 36, no. 1 (2010): 5-39.

12.

91% các quản lý cấp cao tin tưởng rằng: Ibid.

13.

Chuyên viên tư vấn Stephen Harvill nói với tôi rằng: Author interview, October 26, 2010.

14.

trên 70% nhân viên ngày nay: Davis, "The Physical Environment of the Office." See also James C. McElroy and Paula C. Morrow, "Employee Reactions to Office Redesign: A Naturally Occurring Quasi-Field Experiment in a Multi-Generational Setting," Human Relations 63, no. 5 (2010): 609-36. See also Davis, "The Physical Environment of the Office": open-plan offices are "the most popular office design" today. See also Joyce Gannon, "Firms Betting Open-Office Design, Amenities Lead to Happier, More Productive Workers," Post-Gazette (Pittsburgh), February 9, 2003. See also Stephen Beacham, Real Estate Weekly, July 6, 2005. The first company to use an open plan in a high-rise building was Owens Corning, in 1969. Today, many companies use them, including Proctor & Gamble, Ernst & Young, GlaxoSmithKline, Alcoa, and H. J. Heinz.

http://www.owenscorning.com/acquainted/about/history/1960.asp

. See also Matthew Davis et al., "The Physical Environment of the Office: Contemporary and Emerging Issues," in G. P. Hodgkinson and J. K. Ford, eds., International Review of Industrial and Organizational Psychology, vol. 26 (Chichester, UK: Wiley, 2011), 193-235: "... there was a 'widespread introduction of open-plan and landscaped offices in North America in the 1960s and 1970s.' " But see Jennifer Ann McCusker, "Individuals and Open Space Office Design: The Relationship Between Personality and Satisfaction in an Open Space Work Environment," dissertation, Organizational Studies, Alliant International University, April 12, 2002 ("the concept of open space design began in the mid 1960s with a group of German management consultants," citing Karen A. Edelman, "Take Down the Walls," Across the Board 34, no. 3 [1997]: 32-38).

15.

Lượng diện tích dành cho một nhân viên đã giảm: Roger Vincent, "Office Walls Are Closing in on Corporate Workers," Los Angeles Times, December 15, 2010.

16.

"Đã có một bước chuyển từ 'Tôi làm việc' sang 'Chúng Tôi làm việc'": Paul B. Brown, "The Case for Design," Fast Company, June 2005.

17.

Đối thủ cạnh tranh với ông, hãng nội thất văn phòng Herman Miller, Inc.: "New Executive Office-scapes: Moving from Private Offices to Open Environments," Herman Miller Inc., 2003.

18.

Vào năm 2006, Trường Kinh Tế Ross trực thuộc Đại học Michigan: Dave Gershman, "Building Is 'Heart and Soul' of the Ross School of Business,"

mlive.com

, January 24, 2009. See also Kyle Swanson, "Business School Offers Preview of New Home, Slated to Open Next Semester," Michigan Daily, September 15, 2008.

19.

Theo một bản điều tra toàn quốc tiến hành năm 2002: Christopher Barnes, "What Do Teachers Teach? A Survey of America's Fourth and Eighth Grade Teachers," conducted by the Center for Survey Research and Analysis, University of Connecticut, Civic Report no. 28, September 2002. See also Robert E. Slavin, "Research on Cooperative Learning and Achievement: What We Know, What We Need to Know,"Contemporary Educational Psychology 21, no. 1 (1996): 43-69 (citing 1993 national survey findings that 79 percent of elementary school teachers and 62 percent of middle school teachers made sustained use of cooperative learning). Note that in "real life," many teachers are simply throwing students into groups but not using "cooperative learning" per se, which involves a highly specific set of procedures, according to an e-mail sent to the author by Roger Johnson of the Cooperative Learning Center at the University of Minnesota.

20.

"cách học 'cộng tác' ": Bruce Williams, Cooperative Learning: A Standard for High Achievement(Thousand Oaks, CA: Corwin, 2004), 3-4.

21.

Janet Farrall và Leonie Kronborg: Janet Farrall and Leonie Kronborg, "Leadership Development for the Gifted and Talented," in Fusing Talent-Giftedness in Australian Schools, edited by M. McCann and F. Southern (Adelaide: The Australian Association of Mathematics Teachers, 1996).

22.

"Đằng nào thì các nhân viên bây giờ cũng đã bê cả cuộc đời của họ lên Facebook và Twitter rồi": Radio interview with Kai Ryssdal, "Are Cubicles Going Extinct?", Marketplace, from American Public Media, December 15, 2010.

23.

Một lượng đặc biệt lớn những người yêu thích máy tính thời kỳ đầu tiên: Sarah Holmes and Philip L. Kerr, "The IT Crowd: The Type Distribution in a Group of Information Technology Graduates," Australian Psychological Type Review 9, no. 1 (2007): 31-38. See also Yair Amichai-Hamburger et al., " 'On the Internet No One Knows I'm an Introvert': Extraversion, Neuroticism, and Internet Interaction,"CyberPsychology and Behavior 5, no. 2 (2002): 125-28.

24.

"Ai trong giới công nghệ cũng đều biết một lẽ hiển nhiên rằng mã nguồn mở thu hút những người hướng nội": Dave W. Smith, e-mail to the author, October 20, 2010.

25.

"Làm thế nào cậu bé đó, người tôi đã từng đánh bại trước đó rất dễ dàng": See Daniel Coyle, The Talent Code (New York: Bantam Dell, 2009), 48.

26.

ba nhóm người chơi violin chuyên nghiệp: K. Anders Ericsson et al., "The Role of Deliberate Practice in the Acquisition of Expert Performance," Psychological Review 100, no. 3 (1993): 363-406.

27.

"Nghiêm túc tự học một mình": Neil Charness et al., "The Role of Deliberate Practice in Chess Expertise,"Applied Cognitive Psychology 19 (2005): 151-65.

28.

Các sinh viên đại học hay tự học một mình: David Glenn, "New Book Lays Failure to Learn on Colleges' Doorsteps," The Chronicle of Higher Education, January 18, 2001.

29.

Thậm chí kể cả những vận động viên xuất sắc của các môn thể thao đồng đội: Starkes and Ericsson, "Expert Performance in Sports: Advances in Research on Sports Expertise," Human Kinetics (2003): 67-71.

30.

Trong rất nhiều lĩnh vực, Ericsson nói với tôi: Interview with the author, April 13, 2010.

31.

cần khoảng mười ngàn giờ Luyện Tập Có Chủ Đích: By the age of eighteen, the best violinists in the Berlin Music Academy study had spent an average of over 7,000 hours practicing alone, about 2,000 hours more than the good violinists, and 4,000 hours more than the music teachers.

32.

"lòng ham thích tò mò và việc quá tập trung vào một sở thích có vẻ rất lạ với những người đồng trang lứa của họ": Csikszentmihalyi, Creativity, 177.

33.

"bởi việc tập chơi nhạc hay học toán": Ibid., 65.

34.

Madeleine L'Engle: Ibid., 253-54.

35.

"Ngài Babbage kính mến": Charles Darwin, The Correspondence of Charles Darwin Volume 2: 1837-1843(Cambridge, England: Cambridge University Press, 1987), 67.

36.

Trò Chơi Cuộc chiến Lập Trình: These are described in Tom DeMarco and Timothy Lister, Peopleware: Productive Projects and Teams (New York: Dorset House, 1987).

37.

Một khối lượng khổng lồ thông tin về các văn phòng mở: See, for example, the following: (1) Vinesh Oommen et al., "Should Health Service Managers Embrace Open Plan Work Environments? A Review," Asia Pacific Journal of Health Management 3, no. 2 (2008). (2) Aoife Brennan et al., "Traditional Versus Open Office Design: A Longitudinal Field Study," Environment and Behavior 34 (2002): 279. (3) James C McElroy and Paula Morrow, "Employee Reactions to Office Redesign: A Naturally Occurring Quasi-Field Experiment in a Multi-Generational Setting," Human Relations 63 (2010): 609. (4) Einar De Croon et al., "The Effect of Office Concepts on Worker Health and Performance: A Systematic Review of the Literature," Ergonomics, 48, no. 2 (2005): 119-34. (5) J. Pejtersen et al., "Indoor Climate, Psychosocial Work Environment and Symptoms in Open-Plan Offices," Indoor Air 16, no. 5 (2006): 392-401. (6) Herman Miller Research Summary, 2007, "It's All About Me: The Benefits of Personal Control at Work." (7) Paul Bell et al., Environmental Psychology(Lawrence Erlbaum, 2005), 162. (8) Davis, "The Physical Environment of the Office."

38.

con người có thể học tốt hơn sau khi đi dạo: Marc G. Berman et al., "The Cognitive Benefits of Interacting with Nature," Psychological Science 19, no. 12 (2008): 1207-12. See also Stephen Kaplan and Marc Berman, "Directed Attention as a Common Resource for Executive Functioning and Self-Regulation,"Perspectives on Psychological Science 5, no. 1 (2010): 43-57.

39.

Một nghiên cứu khác, lấy từ trên 38,000 lao động trí thức: Davis et al., "The Physical Environment of the Office."

40.

Kể cả khả năng multitask ... cũng chỉ là một nhầm tưởng sai lầm: John Medina, Brain Rules (Seattle, WA: Pear Press, 2008), 87.

41.

Backbone Entertainment: Mike Mika, interview with the author, July 12, 2006.

42.

Reebok International: Kimberly Blanton, "Design It Yourself: Pleasing Offices Laid Out by the Workers Who Use Them Can Be a Big Advantage When Companies Compete for Talent," Boston Globe, March 1, 2005.

43.

Trong suốt mười năm, kể từ năm 2000: TEDx Midwest Talk, October 15, 2010. Also, e-mail to the author, November 5, 2010.

44.

Kafka, ví dụ: Anthony Storr, Solitude: A Return to the Self (New York: Free Press, 2005), 103.

45.

Thậm chí cả con người vui vẻ hơn Kafka rất nhiều có tên Theodor Geisel: Judith Morgan and Neil Morgan, Dr. Seuss and Mr. Geisel: A Biography (New York: DaCapo, 1996).

46.

người làm quảng cáo huyền thoại Alex Osborn: Alex Osborn, Your Creative Power (W. Lafayette, IN: Purdue University Press, 1948).

47.

group brainstorming không thực sự có hiệu quả: Marvin D. Dunnette et al., "The Effect of Group Participation on Brainstorming Effectiveness for Two Industrial Samples," Journal of Applied Psychology 47, no. 1 (1963): 30-37.

48.

khoảng bốn mươi thí nghiệm khác: See, for example, Paul A. Mongeau and Mary Claire Morr, "Reconsidering Brainstorming," Group Facilitation 1, no. 1 (1999): 14. See also Karan Girotra et al., "Idea Generation and the Quality of the Best Idea," Management Science 56, no. 4 (April 2010): 591-605. (The highest level innovation comes from a hybrid process in which people brainstorm on their own before sharing ideas with colleagues.)

49.

"những doanh nhân hẳn phải mất trí rồi": Adrian Furnham, "The Brainstorming Myth," Business Strategy Review 11, no. 4 (2000): 21-28.

50.

brainstorm qua mạng Internet: Paul Mongeau and Mary Claire Morr, "Reconsidering Brainstorming."

51.

Điều tương tự cũng đúng với các nghiên cứu mang tính hàn lâm: Charlan Nemeth and Jack Goncalo, "Creative Collaborations from Afar: The Benefits of Independent Authors," Creativity Research Journal 17, no. 1 (2005): 1-8.

52.

tin rằng nhóm của họ làm việc tốt hơn nhiều: Keith Sawyer, Group Genius: The Creative Power of Collaboration (New York: Basic Books, 2007), 66.

53.

nỗi sợ bị bẽ mặt ở nơi công cộng: Susan K. Opt and Donald A. Loffredo, "Rethinking Communication Apprehension: A Myers-Briggs Perspective," Journal of Psychology 134, no. 5 (2000): 556-70.

54.

hai đội bóng rổ của NCAA

: James C. Moore and Jody A. Brylinsky, "Spectator Effect on Team Performance in College Basketball," Journal of Sport Behavior 16, no. 2 (1993): 77.

55.

Nhà kinh tế học hành vi Dan Ariely: Dan Ariely, "What's the Value of a Big Bonus?" New York Times, November 19, 2008.

56.

Gregory Berns: The Solomon Asch and Gregory Berns experiments are described in Gregory Berns,Iconoclast: A Neuroscientist Reveals How to Think Differently (Boston, MA: Harvard Business Press, 2008), 59-81. See also Sandra Blakeslee, "What Other People Say May Change What You See," New York Times, June 28, 2005. And see Gregory S. Berns et al., "Neurobiological Correlates of Social Conformity and Independence During Mental Rotation," Biological Psychiatry 58 (2005): 245-53.

57.

hoạt động mạnh ở thùy hạnh nhân: In fact, in some iterations of the experiment, where the volunteers played with a group of computers rather than with a group of people, their amygdalae stayed quiet even when they disagreed with the computers. This suggests that people who don't conform suffer not so much the fear of being wrong as the anxiety of being excluded from the group.

58.

tương tác mặt-đối-mặt trực tiếp giúp gây dựng niềm tin: Belinda Luscombe, "Why E-Mail May Be Hurting Off-Line Relationships," Time, June 22, 2010.

59.

rằng dân số đông đúc có liên quan mật thiết đến mức độ sáng tạo: Jonah Lehrer, "How the City Hurts Your Brain,"Boston Globe, January 2, 2009.

60.

tạo ra những văn phòng mở "linh hoạt": Davis et al., "The Physical Environment of the Office."

61.

Tại Pixar Animation Studios Bill Capodagli, "Magic in the Workplace: How Pixar and Disney Unleash the Creative Talent of Their Workforce," Effectif, September/October 2010: 43-45.

62.

Tương tự, ở Microsoft: Michelle Conlin, "Microsoft's Meet-My-Mood Offices," Bloomberg Businessweek, September 10, 2007.

CHƯƠNG 4: LIỆU TÍNH CÁCH CÓ PHẢI LÀ SỐ PHẬN?

Một ghi chú chung về chương này: Chương 4 có đề cập đến các công trình của nhà tâm lý học Jerome Kagan về mức độ phản ứng cao (high reactivity). Một số nhà tâm lý học hiện đại sẽ cho rằng đây là một điểm giao nhau giữa tính hướng nội và một đặc điểm tính cách khác có tên "dễ hoảng loạn lo lắng" (neuroticism). Vì để đảm bảo mục đích dễ đọc, tôi đã không giải thích sự phân biệt này trong văn bản.

1.

Ở một trong những nghiên cứu như vậy, bắt đầu từ năm 1989: This study is discussed at length in Jerome Kagan and Nancy Snidman, The Long Shadow of Temperament (Cambridge, MA: Harvard University Press, 2004).

2.

"Lời miêu tả của Carl Jung về tính hướng nội và hướng ngoại": Ibid., 218.

3.

Tom, khép kín, và Ralph, hướng ngoại: Jerome Kagan, Galen's Prophecy (New York: Basic Books, 1998), 158-61.

4.

Một số người nói rằng tính khí là nền móng: See

http://www.selfgrowth.com/articles/Warfield3.html

.

5.

một cơ quan rất quan trọng trong não bộ: Kagan and Snidman, The Long Shadow of Temperament, 10.

6.

Khi cái đĩa bay đồ chơi kia trông có vẻ như nó đang lao thẳng vào giữa mặt bạn:

This image comes from an online video with Joseph Ledoux, a scientist at NYU who studies the neural basis of emotions, especially fear and anxiety. See "Fearful Brain in an Anxious World," Science & the City,

http://www.nyas.org/Podcasts/Atom.axd

(accessed November 20, 2008).

7.

"sự chú tâm đề phòng": "Psychotherapy and the Highly Sensitive Person", tác giả: Elaine N. Aron, (New York: Routledge, 2010), trang 14.

8.

Chúng thực sự chuyển động mắt nhiều hơn:

Various studies have documented these tendencies in high-reactive children. See, for example, Jerome Kagan, "Reflection-Impulsivity and Reading Ability in Primary Grade Children," Child Development 363, no. 3 (1965): 609-28. See also Ellen Siegelman, "Reflective and Impulsive Observing Behavior," Child Development 40, no. 4 (1969): 1213-22. These studies use the term "reflective" rather than "high-reactive," but it's a safe bet that they're talking about the same group of children. Siegelman describes them as "preferring low-risk situations generally but choosing harder, more solitary intellectual tasks ... less motorically active, and more cautious" (p. 1214). (Similar studies have been done on adults; see

chapters 6

and

7

.)

9.

Các trẻ em có mức độ phản ứng cao cũng đồng thời có xu hướng suy nghĩ và cảm xúc sâu sắc: Elaine Aron, The Highly Sensitive Child: Helping Our Children Thrive When the World Overwhelms Them (New York: Broadway Books), 2002.

10.

Nếu một đứa bé có mức độ phản ứng cao vô tình làm hỏng đồ chơi của một đứa bé khác: See the studies by Grazyna Kochanska referred to in chapter 6.

11.

một nhóm trẻ em nên chia sẻ một thứ đồ chơi mà ai cũng muốn như thế nào: Winifred Gallagher (quoting Kagan), "How We Become What We Are." The Atlantic Monthly, September 1994.

12.

mắt xanh, hay bị dị ứng... gầy và có khuôn mặt dài hơn so với những người khác: Kagan, Galen's Prophecy, 160-61.

13.

Cứ lấy các bộ phim của Disney làm ví dụ: Ibid., 161.

14.

tính hướng nội và hướng ngoại có nền tảng sinh lý học: David G. Winter, Personality: Analysis and Interpretation of Lives (New York: McGraw-Hill, 1996), 511-16.

15.

có khoảng 40 đến 50 phần trăm là do di truyền: Thomas J. Bouchard Jr. and Matt McGue, "Genetic and Environmental Influences on Human Psychological Differences," Journal of Neurobiology 54 (2003): 4-5.

16.

thuyết ưu sinh và thuyết Người da trắng thượng đẳng của Đức Quốc Xã: This has been written about in various places including, for example, Peter D. Kramer, Listening to Prozac (New York: Penguin, 1993), 150.

17.

"Tôi đã bị lôi tuột đi, dẫu có gào thét hay đấm đá cũng vô ích, bởi chính những số liệu của tôi": Gallagher (quoting Kagan), "How We Become What We Are."

18.

Những phát hiện của ông về những trẻ em có mức độ phản ứng cao: Kramer, Listening to Prozac, 154.

19.

Kagan đưa tôi vào văn phòng của ông bên trong Sảnh Đường William James: I conducted a series of interviews with Jerome Kagan between 2006 and 2010.

20.

đã từng tự miêu tả bản thân khi còn nhỏ là một cậu bé luôn lo lắng: Jerome Kagan, An Argument for Mind (New Haven, CT: Yale University Press, 2006), 4, 7.

21.

sợ nói trước đám đông là nỗi sợ số một ở Mỹ: Victoria Cunningham, Morty Lefkoe, and Lee Sechrest, "Eliminating Fears: An Intervention that Permanently Eliminates the Fear of Public Speaking," Clinical Psychology and Psychotherapy 13 (2006): 183-93.

22.

Hội chứng sợ phát biểu trước đông người có rất nhiều nguyên do: Gregory Berns, Iconoclast: A Neuroscientist Reveals How to Think Differently (Boston, MA: Harvard Business Press, 2008), 59-81.

23.

những người hướng nội đặc biệt sợ nói trước đám đông hơn nhiều so với những người hướng ngoại.: Susan K. Opt and Donald A. Loffredo, "Rethinking Communication Apprehension: A Myers-Briggs Perspective," Journal of Psychology 134, no. 5 (2000): 556-70. See also Michael J. Beatty, James C. McCroskey, and Alan D. Heisel, "Communication Apprehension as Temperamental Expression: A Communibiological Paradigm," Communication Monographs 65 (1998): 197-219. See also Peter D. Macintyre and Kimly A. Thivierge, "The Effects of Speaker Personality on Anticipated Reactions to Public Speaking," Communication Research Reports 12, no. 2 (1995): 125-33.

24.

, trung bình khoảng một nửa trong số các lý do tạo nên sự đa dạng: David G. Winter, Personality, 512.

25.

do nhiệt độ hay độ ẩm: Natasha Mitchell, "Jerome Kagan: The Father of Temperament," radio interview with Mitchell on ABC Radio International, August 26, 2006 (accessed at

http://www.abc.net.au/rn/allinthemind/stories/2006/1722388.htm

).

26.

"leo qua hàng rào... nguy hiểm và phấn khích": Gallagher (quoting Lykken), "How We Become What We Are."

27.

"Trường đại học luôn đầy những người hướng nội": Interview with the author, June 15, 2006.

28.

nếu được nuôi dưỡng bởi những gia đình quan tâm nhiều đến con cái... "các nhánh khác nhau trên cùng một cành cây tính cách": Winifred Gallagher, I.D.: How Heredity and Experience Make You Who You Are (New York: Random House, 1996), 29, 46-50. See also Kagan and Snidman, The Long Shadow of Temperament, 5.

29.

cơ chế để trẻ em đạt được cảm giác về sai-đúng của mình: Grazyna Kochanska and R. A. Thompson, "The Emergence and Development of Conscience in Toddlerhood and Early Childhood," in Parenting and Children's Internalization of Values, edited by J. E. Grusec and L. Kucynski (New York: John Wiley and Sons), 61. See also Grazyna Kochanska, "Toward a Synthesis of Parental Socialization and Child Temperament in Early Development of Conscience," Child Development 64 no. 2 (1993): 325-47; Grazyna Kochanska and Nazan Aksan, "Children's Conscience and Self-Regulation," Journal of Personality 74, no. 6 (2006): 1587-1617; Grazyna Kochanska et al., "Guilt and Effortful Control: Two Mechanisms That Prevent Disruptive Developmental Trajectories," Journal of Personality and Social Psychology 97, no. 2 (2009): 322-33.

30.

bi kịch của một tính cách táo bạo và tràn đầy năng lượng: Gallagher, I.D., 46-50.

31.

mang tên "Lý Thuyết Hoa Phong Lan"": David Dobbs, "The Science of Success," The Atlantic magazine, 2009. See also Jay Belsky et al., "Vulnerability Genes or Plasticity Genes?" Molecular Psychiatry, 2009: 1-9; Michael Pluess and Jay Belsky, "Differential Susceptibility to Rearing Experience: The Case of Childcare," The Journal of Child Psychology and Psychiatry 50, no. 4 (2009): 396-404; Pluess and Belsky, "Differential Susceptibility to Rearing Experience: Parenting and Quality Child Care," Developmental Psychology 46, no. 2 (2010): 379-90; Jay Belsky and Michael Pluess, "Beyond Diathesis Stress: Differential Susceptibility to Environmental Influences," Psychological Bulletin 135, no. 6 (2009): 885-908; Bruce J. Ellis and W. Thomas Boyce, "Biological Sensitivity to Context," Current Directions in Psychological Science 17, no. 3 (2008): 183-87.

32.

trở nên tuyệt vọng, lo lắng, và sợ sệt: Aron, Psychotherapy and the Highly Sensitive Person, 3. See also A. Engfer, "Antecedents and Consequences of Shyness in Boys and Girls: A 6-year Longitudinal Study," in Social Withdrawal, Inhibition, and Shyness in Childhood, edited by K. H. Rubin and J. B. Asendorpf (Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum, 1993), 49-79; W. T. Boyce et al., "Psychobiologic Reactivity to Stress and Childhood Respiratory Illnesses: Results of Two Prospective Studies,"Psychosomatic Medicine 57 (1995): 411-22; L. Gannon et al., "The Mediating Effects of Psychophysiological Reactivity and Recovery on the Relationship Between Environmental Stress and Illness," Journal of Psychosomatic Research 33 (1989): 165-75.

33.

Quả thực thế, một phần tư trong số những đứa trẻ có-mức-độ-phản-ứng-cao của Kagan: E-mail from Kagan to the author, June 22, 2010.

34.

được dạy bảo tốt, được cha mẹ quan tâm, và có một môi trường gia đình ổn định: See, for example, Belsky et al., "Vulnerability Genes or Plasticity Genes?", 5. See also Pluess and Belsky, "Differential Susceptibility to Rearing Experience: The Case of Childcare," 397.

35.

Chúng tốt bụng, tận tình và cẩn thận: Aron, The Highly Sensitive Child.

36.

Chúng không nhất thiết sẽ trở thành những lớp trưởng, khối trưởng: Author interview with Jay Belsky, April 28, 2010.

37.

thế giới của loài khỉ rhesus: Stephen J. Suomi, "Early Determinants of Behaviour: Evidence from Primate Studies," British Medical Bulletin 53, no. 1 (1997): 170-84 ("high-reactive infants cross-fostered to nurturant females actually appeared to be behaviourally precocious.... These individuals became especially adept at recruiting and retaining other group members as allies in response to agonistic encounters and, perhaps as a consequence, they subsequently rose to and maintained top positions in the group's dominance hierarchy.... Clearly, high-reactivity need not always be associated with adverse short- and long-term outcomes," p. 180). See also this video on the Atlantic Monthlywebsite: (

http://www.theatlantic.com/magazine/archive/2009/12/the-science-of-success/7761/

), in which Suomi tells us that "the monkeys who had that same short allele and grew up with good mothers had no problems whatsoever. They turned out as well or better than monkeys who had the other version of this gene." (Note also that the link between the short allele of the SERT gene and depression in humans is well discussed but somewhat controversial.)

38.

có liên kết với mức độ phản ứng cao và tính cách hướng nội: Seth J. Gillihan et al., "Association Between Serotonin Transporter Genotype and Extraversion," Psychiatric Genetics 17, no. 6 (2007): 351-54. See also M. R. Munafo et al., "Genetic Polymorphisms and Personality in Healthy Adults: A Systematic Review and Meta-Analysis," Molecular Psychiatry 8 (2003): 471-84. And see Cecilie L. Licht et al., "Association Between Sensory Processing Sensitivity and the 5-HTTLPR Short/Short Genotype."

39.

suy đoán rằng những cá thể khỉ rhesus có-mức-độ-phản-ứng-cao này: Dobbs, "The Science of Success."

40.

cô gái vị thành niên với alen ngắn trong gen SERT... ít lo lắng hơn so với những người khác sau những ngày bình yên: Belsky et al., "Vulnerability Genes or Plasticity Genes?"

41.

nhưng điều này chỉ tiếp tục đúng khi chúng lên năm tuổi: Elaine Aron, Psychotherapy and the Highly Sensitive Person, 240-41.

42.

tốt hơn nhiều so với những đứa trẻ khác: Boyce, "Psychobiologic Reactivity to Stress and Childhood Respiratory Illnesses: Results of Two Prospective Studies." See also W. Thomas Boyce and Bruce J. Ellis, "Biological Sensitivity to Context: I. Evolutionary-Developmental Theory of the Origins and Functions of Stress Reactivity," Development and Psychopathology 27 (2005): 283.

43.

Alen ngắn trong gen SERT cũng đồng thời: See Judith R. Homberg and Klaus-Peter Lesch, "Looking on the Bright Side of Serotonin Transporter Gene Variation," Biological Psychiatry, 2010.

44.

"những thủy thủ luôn quá bận rộn nhìn xuống dưới làn nước": Belsky et al., "Vulnerability Genes or Plasticity Genes?"

45.

"Công sức và nỗ lực họ bỏ ra thực sự có thể tạo nên sự khác biệt": Author interview with Jay Belsky, April 28, 2010.

CHƯƠNG 5: VƯỢT QUA CẢ TÍNH CÁCH

1.

"Sự thích thú xuất hiện ở chính biên giới": Mihaly Csikszentmihalyi, Flow: The Psychology of Optimal Experience (New York: Harper Perennial, 1990), 52.

2.

căn phòng không cửa sổ cùng Tiến sĩ Carl Schwartz: I conducted a series of interviews with Dr. Schwartz between 2006 and 2010.

3.

dấu vết của tính cách có mức độ hướng ngoại cao hoặc thấp chưa bao giờ biến mất ở tuổi trưởng thành: Carl Schwartz et al., "Inhibited and Uninhibited Infants 'Grown Up': Adult Amygdalar Response to Novelty," Science 300, no. 5627 (2003): 1952-53.

4.

Nếu bạn từng là một đứa bé có-mức-độ-phản-ứng-cao: For a good overview of the relationship between the amygdala and the prefrontal cortex, see Joseph Ledoux, The Emotional Brain: The Mysterious Underpinnings of Emotional Life (New York: Simon & Schuster, 1996), chapters 6 and 8. See also Gregory Berns,Iconoclast: A Neuroscientist Reveals How to Think Differently (Boston, MA: Harvard Business Press, 2008), 59-81.

5.

tự-nói-chuyện-với-bản-thân để định tâm lại trong những tình huống gây căng thẳng: Kevin N. Ochsner et al., "Rethinking Feelings: An fMRI Study of the Cognitive Regulation of Emotion," Journal of Cognitive Neuroscience 14, no. 8 (2002): 1215-29.

6.

các nhà khoa học đã sắp xếp để một con chuột: Ledoux, The Emotional Brain, 248-49.

7.

Hans Eysenck: David C. Funder, The Personality Puzzle (New York: W. W. Norton, 2010), 280-83.

8.

Hơn thế nữa, mức độ phấn khích cao trong não không phải lúc nào cũng: E-mail from Jerome Kagan to the author, June 23, 2010.

9.

Và cũng có rất nhiều loại phấn khích nữa: E-mail from Carl Schwartz to the author, August 16, 2010. Also note that introverts seem not to be in a baseline state of high arousal so much as susceptible to tipping over into that state.

10.

những người hâm mộ bóng đá cuồng nhiệt luôn thèm muốn sự phấn khích đến tột độ: E-mail from Jerome Kagan to the author, June 23, 2010.

11.

người hướng nội đúng là nhạy cảm hơn so với người hướng ngoại: This has been written about in many places. See, for example, Robert Stelmack, "On Personality and Arousal: A Historical Perspective on Eysenck and Zuckerman," in On the Psychobiology of Personality: Essays in Honor of Marvin Zuckerman, edited by Marvin Zuckerman and Robert Stelmack (Pergamon, 2005), 17-28. See also Gerald Matthews et al.,Personality Traits (Cambridge, UK: Cambridge University Press, 2003), 169-70, 186-89, 329-42. See also Randy J. Larsen and David M. Buss, Personality Psychology: Domains of Knowledge About Human Nature (New York: McGraw Hill, 2005), 202-6.

12.

nước chanh: Funder, The Personality Puzzle, 281.

13.

mức âm lượng được chọn bởi những người hướng ngoại: Russell G. Geen, "Preferred Stimulation Levels in Introverts and Extroverts: Effects on Arousal and Performance," Journal of Personality and Social Psychology 46, no. 6 (1984): 1303-12.

14.

. Họ có thể săn tìm những ngôi nhà dựa trên tính cách của các thành viên trong gia đình: This idea comes from Winifred Gallagher, House Thinking: A Room-by-Room Look at How We Live (New York: Harper Collins, 2006).

15.

những người hướng nội hoạt động hiệu quả hơn người hướng ngoại khi thiếu ngủ: William Kilgore et al., "The Trait of Introversion-Extraversion Predicts Vulnerability to Sleep Deprivation," Journal of Sleep Research 16, no. 4 (2007): 354-63.

16.

Những người hướng ngoại ngái ngủ đằng sau vô-lăng: Matthews, Personality Traits, 337.

17.

Sự quá-phấn-khích có thể làm ảnh hưởng tới khả năng tập trung: Gerald Matthews and Lisa Dorn, "Cognitive and Attentional Processes in Personality and Intelligence," in International Handbook of Personality and Intelligence, edited by Donald H. Saklofske and Moshe Zeidner (New York: Plenum Press, 1995): 367-96. Or, as the psychologist Brian Little puts it, "extraverts often find that they are able to handle cramming for speeches or briefings in a way that would be disastrous for introverts."

18.

sâu thêm vào trạng thái kinh sợ, khiếp hãi, và hổ thẹn: Berns, Iconoclast, 59-81.

CHƯƠNG 6: "FRANKLIN LÀ NHÀ CHÍNH TRỊ, NHƯNG ELEANOR NÓI RA TỪ LƯƠNG TÂM"

1.

"Một người đàn ông rụt rè, nhút nhát chắc chắn sẽ rất ghét": Charles Darwin, The Expressions of the Emotions in Man and Animals (Charleston, SC: BiblioBazaar, 2007), 259.

2.

Buổi sáng Chủ Nhật ngày lễ Phục Sinh, 1939, tại Đài Tưởng Niệm Lincoln, Mỹ: My description of the concert is based on film footage of the event.

3.

Và nó đã có thể sẽ không bao giờ tới, nếu không có Eleanor Roosevelt... hát tại Đài Tưởng Niệm Lincoln: Allida M. Black, Casting Her Own Shadow: Eleanor Roosevelt and the Shaping of Postwar Liberalism (New York: Columbia University Press, 1996), 41-44.

4.

"Có một thứ gì đó rất đặc biệt": The American Experience: Eleanor Roosevelt (Public Broadcasting System, Ambrica Productions, 2000). See transcript:

http://www.pbs.org/wgbh/amex/eleanor/filmmore/
transcript/transcript1.html

.

5.

Họ gặp nhau khi ông mới hai mươi tuổi: Blanche Wiesen Cook, Eleanor Roosevelt, Volume One: 1884-1933(New York: Viking Penguin, 1992), esp. 125-236. See also The American Experience: Eleanor Roosevelt.

6.

công trình khoa học đầu tiên của bà được xuất bản năm 1997: Elaine N. Aron and Arthur Aron, "Sensory-Processing Sensitivity and Its Relation to Introversion and Emotionality," Journal of Personality and Social Psychology 3, no. 2 (1997): 345-68.

7.

Khi còn là một cô bé... Bà quyết định phải tìm hiểu cho ra: The biographical information about Aron comes from (1) interview with the author, August 21, 2008; (2) Elaine N. Aron, The Highly Sensitive Person: How to Thrive When the World Overwhelms You (New York: Broadway Books, 1996); (3) Elaine N. Aron,The Highly Sensitive Person in Love: Understanding and Managing Relationships When the World Overwhelms You (New York: Broadway Books, 2000).

8.

Trước tiên Aron phỏng vấn ba mươi chín người... một bóng đèn điện hơi một chút quá sáng.: Aron and Aron, "Sensory-Processing Sensitivity." See also E. N. Aron, "Revisiting Jung's Concept of Innate Sensitiveness," Journal of Analytical Psychology 49 (2004): 337-67. See also Aron, The Highly Sensitive Person.

9.

Họ cảm giác những xúc cảm cực kỳ mạnh: In laboratory studies, looking at pictures designed to create strong positive or negative emotions, they reported feeling more emotionally aroused than nonsensitive people. See B. Acevedo, A. Aron, and E. Aron, "Sensory Processing Sensitivity and Neural Responses to Strangers' Emotional States," in A. Aron (Chair), High Sensitivity, a Personality/Temperament Trait: Lifting the Shadow of Psychopathology, symposium presented at the Annual Meeting of the American Psychological Association, San Diego, California, 2010. See also Jadzia Jagiellowicz, Arthur Aron, Elaine Aron, and Turhan Canli, "Faster and More Intense: Emotion Processing and Attentional Mechanisms in Individuals with Sensory Processing Sensitivity," in Aron,High Sensitivity.

10.

một nhóm các nhà khoa học tại Đại học Stony Brook: Jadzia Jagiellowicz et al., "Sensory Processing Sensitivity and Neural Responses to Changes in Visual Scenes," Social Cognitive and Affective Neuroscience, 2010, doi.10.1093/scan/nsq001.

11.

vọng lại những khám phá của Kagan: Jerome Kagan, "Reflection-Impulsivity and Reading Ability in Primary Grade Children," Child Development 363, no. 3 (1965): 609-28. See also Ellen Siegelman, "Reflective and Impulsive Observing Behavior," Child Development 40, no. 4 (1969): 1213-22.

12.

"Nếu bạn nghĩ theo những cách phức tạp hơn": Interview with the author, May 8, 2010.

13.

đặc biệt cảm thông: Aron and Aron, "Sensory-Processing Sensitivity." See also Aron, "Revisiting Jung's Concept of Innate Sensitiveness." See also Aron, The Highly Sensitive Person. And see the following fMRI studies: Acevedo, "Sensory Processing Sensitivity and Neural Responses to Strangers' Emotional States." And see Jadzia Jagiellowicz, "Faster and More Intense: Emotion Processing and Attentional Mechanisms in Individuals with Sensory Processing Sensitivity." Note that many personality psychologists who subscribe to the "Big 5" theory of personality associate empathy not with sensitivity (a construct that is gaining attention, but is relatively less well known than the Big 5), but with a trait known as "Agreeableness" and even extroversion. Aron's work does not challenge these associations, but expands them. One of the most valuable aspects of Aron's work is how radically, and fruitfully, she reinterprets personality psychology.

14.

những người có những gen di truyền thường được gắn với tính nhạy cảm và tính hướng nội: Seth J. Gillihan et al., "Association Between Serotonin Transporter Genotype and Extraversion," Psychiatric Genetics 17, no. 6 (2007): 351-54. See also M. R. Munafo et al., "Genetic Polymorphisms and Personality in Healthy Adults: A Systematic Review and Meta-Analysis," Molecular Psychiatry 8 (2003): 471-84.

15.

cho họ xem những bức ảnh về các khuôn mặt sứt sẹo: David C. Funder, The Personality Puzzle (New York: W. W. Norton, 2010), citing A. R. Hariri et al., "Serotonin Transporter Genetic Variation and the Response of the Human Amygdala," Science 297 (2002): 400-403.

16.

những khuôn mặt người đang thể hiện những trạng thái cảm xúc mạnh mẽ: Acevedo, "Sensory Processing Sensitivity and Neural Responses to Strangers' Emotional States." See also Jadzia Jagiellowicz, "Faster and More Intense: Emotion Processing and Attentional Mechanisms in Individuals with Sensory Processing Sensitivity."

17.

Vào năm 1921, FDR mắc căn bệnh bại liệt ... người dân Mỹ đang phải chịu đựng khổ sở ra sao.: Cook, Eleanor Roosevelt, Volume One, 125-236. See also The American Experience: Eleanor Roosevelt.

18.

Một người phụ nữ tốt bụng đưa một món đồ chơi cho một đứa bé... "mối quan hệ tốt với cha mẹ, thầy cô và bạn bè": Grazyna Kochanska et al., "Guilt in Young Children: Development, Determinants, and Relations with a Broader System of Standards," Child Development 73, no. 2 (March/April 2002): 461-82. See also Grazyna Kochanska and Nazan Aksan, "Children's Conscience and Self-Regulation,"Journal of Personality 74, no. 6 (2006): 1587-1617. See also Grazyna Kochanska et al., "Guilt and Effortful Control: Two Mechanisms That Prevent Disruptive Developmental Trajectories," Journal of Personality and Social Psychology 97, no. 2 (2009): 322-33.

19.

một nghiên cứu mà Đại học Michigan tiến hành năm 2010: S. H. Konrath et al., "Changes in Dispositional Empathy in American College Students Over Time: A Meta-Analysis," Personality and Social Psychology Review, August 2010, e-publication ahead of print (accessed at

http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/20688954

).

20.

có liên hệ với sự thịnh hành của các phương tiện truyền thông xã hội: Pamela Paul, "From Students, Less Kindness for Strangers?" New York Times, June 25, 2010.

21.

khi các bạn của cô bị trêu chọc: Elaine Aron, The Highly Sensitive Child (New York: Random House, 2002), 18, 282-83.

22.

tiểu thuyết gia Eric Malpass: Eric Malpass, The Long Long Dances (London: Corgi, 1978).

23.

Những người hướng nội có-mức-độ-phản-ứng-cao ra mồ hôi nhiều hơn: V. De Pascalis, "On the Psychophysiology of Extraversion," inOn the Psychobiology of Personality: Essays in Honor of Marvin Zuckerman, edited by Marvin Zuckerman and Robert M. Stelmack (San Diego: Elsevier, 2004), 22. See also Randy J. Larsen and David M. Buss,Personality Psychology: Domains of Knowledge About Human Nature (New York: McGraw-Hill, 2005),199.

24.

những kẻ điên rồ/sociopaths nằm ở điểm cực xa nhất trên thang đo mức độ "mát"/cool này: Van K. Tharp et al., "Autonomic Activity During Anticipation of an Averse Tone in Noninstitutionalized Sociopaths," Psychophysiology 17, no. 2 (1980): 123-28. See also Joseph Newman et al., "Validating a Distinction Between Primary and Secondary Psychopathy with Measures of Gray's BIS and BAS Constructs," Journal of Abnormal Psychology 114 (2005): 319-23.

25.

những kẻ điên rồ/sociopaths là những kẻ có thùy hạnh nhân bị tổn thương: Yaling Yang et al., "Localization of Deformations Within the Amygdala in Individuals with Psychopathy," Archives of General Psychiatry 66, no. 9 (2009), 986-94.

26.

Máy phát hiện nói dối ... thí nghiệm mức độ dẫn truyền của da: They also measure breathing, pulse rate, and blood pressure.

27.

bởi mức nhịp tim "siêu cool" của ông trong khi cất cánh: Winifred Gallagher, I.D.: How Heredity and Experience Make You Who You Are (New York: Random House, 1996), 24.

28.

Corine Dijk: Corine Dijk and Peter J. De Jong, "The Remedial Value of Blushing in the Context of Transgressions and Mishaps," Emotion 9, no. 2 (2009): 287-91.

29.

"Một cái đỏ mặt xuất hiện ngay trong hai hoặc ba giây": Benedict Carey, "Hold Your Head Up: A Blush Just Shows You Care," New York Times, June 2, 2009: D5.

30.

"Bởi vì không thể nào điều khiển việc đỏ mặt theo ý muốn được": Ibid.

31.

Keltner đã tìm kiếm nguồn gốc của cảm giác xấu hổ ở con người ... vẫn còn tốt hơn là để tâm quá ít: Dacher Keltner, Born to Be Good: The Science of a Meaningful Life (New York: W. W. Norton, 2009), 74-96.

32.

"Loại người 'nhạy cảm' hoặc 'phản ứng' ... 'cơ hội chỉ đến gõ cửa một lần thôi": Elaine Aron, "Revisiting Jung's Concept of Innate Sensitiveness," 337-67.

33.

hai mươi bảy đặc điểm: Author interview with Elaine Aron, August 21, 2008.

34.

khi 30 phần trăm còn lại là những người hướng ngoại: Aron, Psychotherapy and the Highly Sensitive Person, 5.

35.

Hơn một trăm giống loài khác ... những gì đang xảy ra xung quanh mình: Max Wolf et al., "Evolutionary Emergence of Responsive and Unresponsive Personalities," Proceedings of the National Academy of Sciences 105, no. 41 (2008): 15825-30. See also Aron, Psychotherapy and the Highly Sensitive Person, 2.

36.

có nhóm của riêng chúng: David Sloan Wilson, Evolution for Everyone: How Darwin's Theory Can Change the Way We Think About Our Lives (New York: Bantam Dell, 2007), 110.

37.

"quy luật bù-trừ" (trade-off theory) trong tiến hóa: Daniel Nettle, "The Evolution of Personality Variation in Humans and Other Animals," American Psychologist 61, no. 6 (2006): 622-31.

38.

Khi Wilson thả những chiếc bẫy bằng kim loại: Wilson, Evolution for Everyone, 100-114.

39.

một loài động vật có tên Trinidadian guppy: Nettle, "The Evolution of Personality Variation in Humans and Other Animals," 624. See also Shyril O'Steen et al., "Rapid Evolution of Escape Ability in Trinidadian Guppies,"Evolution 56, no. 4 (2002): 776-84. Note that another study found that bold fish do better with predators (but these were cichlids in fish tanks, not pike in streams): Brian R. Smith and Daniel T. Blumstein, "Behavioral Types as Predictors of Survival in Trinidadian Guppies," Behavioral Ecology 21, no. 5 (2010): 65-73.

40.

cộng đồng du canh du cư: Dan Eisenberg et al., "Dopamine Receptor Genetic Polymorphisms and Body Composition in Undernourished Pastoralists: An Exploration of Nutrition Indices Among Nomadic and Recently Settled Ariaal Men of Northern Kenya," BMC Evolutionary Biology 8, no. 173 (2008), doi:10.1186/1471-2148-8-173. See also:

http://machineslikeus.com/news/adhd-advantage-nomadic-tribesmen

.

41.

những con người hướng ngoại có nhiều bạn tình hơn ... cũng có xu hướng phạm tội nhiều hơn. Nettle, "The Evolution of Personality Variation in Humans and Other Animals," 625. See also Daniel Nettle, Personality: What Makes You the Way You Are (New York: Oxford University Press, 2007).

42.

Như Jung đã suy đoán từ gần một thế kỷ trước đây: Carl Jung, Psychological Types, vol. 6 of The Collected Works of C. G. Jung (Princeton, NJ: Princeton University Press, 1971), 559.

43.

những đặc điểm tính cách giúp nâng cao khả năng sinh tồn của cả tập thể: See, for example, Nicholas Wade, "The Evolution of the God Gene," New York Times, November 15, 2009.

44.

"Hãy giả sử trong một đàn linh dương": Elaine Aron, "Book Review: Unto Others: The Evolution and Psychology of Unselfish Behavior," January 2007, Comfort Zone Online:

http://www.hsperson.com/pages/3Feb07.htm

.

45.

"những thành viên "diều hâu" và "bồ câu" của một giống loài: Elaine Aron, "A Future Headline: 'HSPs, the Key to Human Survival?' " August 2007, Comfort Zone Online:

http://www.hsperson.com/pages/1Aug07.htm

.

46.

Chim bạc má lớn (great tit birds): Nettle, "The Evolution of Personality Variation in Humans and Other Animals," 624-25. See also Sloan Wilson, Evolution for Everyone, 110.

47.

"Nếu bạn gửi một người hướng nội tới một buổi lễ hay một sự kiện": David Remnick, "The Wilderness Campaign," The New Yorker, September 13, 2004.

48.

"Hầu hết mọi người trong giới chính trị": John Heilemann, "The Comeback Kid," New York magazine, May 21, 2006.

49.

"Nó là về sự sống còn của cả hành tinh": Benjamin Svetkey, "Changing the Climate," Entertainment Weekly, July 14, 2006.

50.

"nhóm "các vị vua chiến binh" và "những người quân sư giáo sĩ"": Aron, "Revisiting Jung's Concept of Innate Sensitiveness."

CHƯƠNG

7: TẠI SAO PHỐ WALL SỤP ĐỔ VÀ WARREN BUFFETT THÀNH CÔNG?

1.

Chỉ vừa ngay sau thời điểm 7:30

: Alan's story and the description of Dorn and her house are based on a series of telephone and e-mail interviews with the author, conducted between 2008 and 2010.

2.

Lịch sử ngành tài chính đầy ắp các ví dụ

: There are also many examples from military history. "Hurrah, boys, we've got them!" General Custer famously shouted at the battle of Little Bighorn in 1876-just before his entire unit of two hundred men was wiped out by three thousand Sioux and Cheyenne. General MacArthur advanced in the face of repeated Chinese threats of attack during the Korean War, costing almost 2 million lives with little strategic gain. Stalin refused to believe that the Germans would invade Russia in 1941, even after

ninety

warnings of an impending attack. See Dominic D. P. Johnson,

Overconfidence and War: The Havoc and Glory of Positive Illusions

(Cambridge, MA: Harvard University Press, 2004).

3.

Vụ sát nhập giữa AOL và Time Warner

: Nina Monk,

Fools Rush In: Steve Case, Jerry Levin, and the Unmaking of AOL Time-Warner

(New York: HarperCollins, 2005).

4.

Họ tự bảo vệ bản thân mình tốt hơn

: The psychology professor Richard Howard, in an interview with the author on November 17, 2008, notes that introverts tend to down-regulate positive emotions and extroverts tend to up-regulate them.

5.

hệ viền (limbic system) của chúng ta

: Note that these days many scientists dislike the phrase "limbic system." This is because no one really knows which parts of the brain this term refers to. The brain areas included in this system have changed over the years, and today many use the term to mean brain areas that have something to do with emotion. Still, it's a useful shorthand.

6.

"Không, không, không! Đừng có làm việc đó"

: See, for example, Ahmad R. Hariri, Susan Y. Bookheimer, and John C. Mazziotta, "Modulating Emotional Responses: Effects of a Neocortical Network on the Limbic Systems,"

NeuroReport

11 (1999): 43-48.

7.

thứ khiến người hướng ngoại là người hướng ngoại

: Richard E. Lucas and Ed Diener, "Cross-Cultural Evidence for the Fundamental Features of Extraversion,"

Journal of Personality and Social Psychology

79, no. 3 (2000): 452-68. See also Michael D. Robinson et al., "Extraversion and Reward-Related Processing: Probing Incentive Motivation in Affective Priming Tasks,"

Emotion

10, no. 5 (2010): 615-26.

8.

Họ đã được chứng minh là có tham vọng kinh tế, chính trị, và khoái lạc chủ nghĩa (hedonistic) lớn hơn nhiều

: Joshua Wilt and William Revelle, "Extraversion," in

Handbook of Individual Differences in Social Behavior

, edited by Mark R. Leary and Rich H. Hoyle (New York: Guilford Press, 2009), 39.

9.

Chìa khóa có vẻ nằm ở cảm xúc tích cực

: See Lucas and Diener, "Cross-Cultural Evidence for the Fundamental Features of Extraversion." See also Daniel Nettle,

Personality: What Makes You the Way You Are

(New York: Oxford University Press, 2007).

10.

Nền tảng cơ bản của sự "say sưa"

: Richard Depue and Paul Collins, "Neurobiology of the Structure of Personality: Dopamine, Facilitation of Incentive Motivation, and Extraversion,"

Behavioral and Brain Sciences

22, no. 3 (1999): 491-569. See also Nettle,

Personality: What Makes You the Way You Are

.

11.

Dopamine là "chất hóa học phần thưởng"

: Depue and Collins, "Neurobiology of the Structure of Personality: Dopamine, Facilitation of Incentive Motivation, and Extraversion." See also Nettle,

Personality: What Makes You the Way You Are

. See also Susan Lang, "Psychologist Finds Dopamine Linked to a Personality Trait and Happiness,"

Cornell Chronicle

28, no. 10 (1996).

12.

những khám phá bước đầu đã rất đáng kinh ngạc

: Some of the findings in this line of research have been contradictory or have not been replicated, but together they pose an important avenue of inquiry.

13.

. Trong một thí nghiệm, Richard Depue

: Depue and Collins, "Neurobiology of the Structure of Personality: Dopamine, Facilitation of Incentive Motivation, and Extraversion."

14.

những người hướng ngoại thắng trong các trò cá cược

: Michael X. Cohen et al., "Individual Differences in Extraversion and Dopamine Genetics Predict Neural Reward Responses,"

Cognitive Brain Research

25 (2005): 851-61.

15.

Một nghiên cứu khác nữa lại chỉ ra rằng phần medial orbitofrontal cortex

: Colin G. DeYoung et al., "Testing Predictions from Personality Neuroscience: Brain Structure and the Big Five,"

Psychological Science

21, no. 6 (2010): 820-28.

16.

người hướng nội "có mức độ phản ứng thấp hơn" ... "không phải gãy chân mới tới được chúng"

: Nettle,

Personality: What Makes You the Way You Are

.

17.

"Điều này quả thực quá tuyệt vời!"

: Michael J. Beatty et al., "Communication Apprehension as Temperamental Expression: A Communibiological Paradigm,"

Communication Monographs

65 (1988): reporting that people with high communication apprehension "value moderate ... success less than do those low in the trait."

18.

"Tất cả mọi người đều cho rằng ưu tiên hơn vào các cảm xúc tích cực là tốt"

: Richard Howard interview with the author, November 17, 2008. Howard also pointed to this interesting take by Roy F. Baumeister et al., "How Emotions Facilitate and Impair Self-Regulation," in

Handbook of Emotion Regulation

, edited by James J. Gross (New York: Guilford Press, 2009), 422: "positive emotion can sweep aside the normal restraints that promote civilized behavior."

19.

Một bất lợi khác của sự say sưa

: Note that this sort of risk-taking behavior

is in what Daniel Nettle (

Personality: What Makes You the Way You Are

, 83) calls "the shared territory" of extroversion and another personality trait, conscientiousness. In some cases conscientiousness is the better predictor.

20.

chết bởi tai nạn giao thông khi đang lái xe ... cho đến tái hôn

: Nettle,

Personality: What Makes You the Way You Are

. See also Timo Lajunen, "Personality and Accident Liability: Are Extroversion, Neuroticism and Psychoticism Related to Traffic and Occupational Fatalities?"

Personality and Individual Differences

31, no. 8 (2001): 1365-73.

21.

những người hướng ngoại là thường có xu hướng thái-quá-tin

: Peter Schaefer, "Overconfidence and the Big Five,"

Journal of Research in Personality

38, no. 5 (2004): 473-80.

22.

chúng ta đã có thể làm tốt hơn với nhiều phụ nữ

: See, for example, Sheelah Kolhatkar, "What if Women Ran Wall Street?"

New York Magazine

, March 21, 2010.

23.

một dấu hiệu rõ rệt để nhận biết những người sẽ dám "chơi lớn" trên thị trường tài chính

: Camelia M. Kuhnen and Joan Y. Chiao, "Genetic Determinants of Financial Risk Taking,"

PLoS ONE

4(2): e4362. doi:10.1371/journal.pone.0004362 (2009). See also Anna Dreber et al., "The 7R Polymorphism in the Dopamine Receptor D4 Gene (DRD4) Is Associated with Financial Risk Taking in Men."

Evolution and Human Behavior

30, no. 2 (2009): 85-92.

24.

Khi phải đối mặt với việc khả năng chiến thắng là rất thấp

: J. P. Roiser et al., "The Effect of Polymorphism at the Serotonin Transporter Gene on Decision-making, Memory and Executive Function in Ecstasy Users and Controls,"

Psychopharmacology

188 (2006): 213-27.

25.

Một nghiên cứu khác, tiến hành trên sáu mươi tư nhà buôn khác nhau

: Mark Fenton O'Creevy et al.,

Traders: Risks, Decisions, and Management in Financial Markets

(Oxford, UK: Oxford University Press, 2005), 142-43.

26.

trì hoãn phần thưởng tức thời để hướng đến món lợi lâu dài, một kỹ năng sống quan trọng,

: Jonah Lehrer, "Don't,"

The New Yorker

, May 18, 2009. See also Jacob B. Hirsh et al., "Positive Mood Effects on Delay Discounting,"

Emotion

10, no. 5 (2010): 717-21. See also David Brooks,

The Social Animal

(New York: Random House, 2011), 124.

27.

Ở một nghiên cứu, các nhà khoa học cho các tình nguyện viên được lựa chọn

: Samuel McClure et al., "Separate Neural Systems Value Immediate and Delayed Monetary Rewards,"

Science

306 (2004): 503-7.

28.

Một nghiên cứu tương tự cũng gợi ý rằng

: Hirsch, "Positive Mood Effects on Delay Discounting."

29.

Ấy vậy nhưng chính những cách tính toán sai lầm

: Wall Street's judgment was clouded by a strange brew of (1) lemming-like behavior, (2) the opportunity to earn large transaction fees, (3) the fear of losing market share to competitors, and (4) the inability to properly balance opportunity against risk.

30.

Quá nhiều quyền lực được tập trung vào tay những người thích-mạo-hiểm hung hăng

: Interview with the author, March 5, 2009.

31.

"Trong hai mươi năm, ADN"

: Fareed Zakaria, "There Is a Silver Lining,"

Newsweek

, October 11, 2008.

32.

Vincent Kaminski

: Steven Pearlstein, "The Art of Managing Risk,"

The Washington Post

, November 8, 2007. See also Alexei Barrionuevo, "Vincent Kaminski: Sounding the Alarm But Unable to Prevail," in "10 Enron Players: Where They Landed After the Fall,"

The New York Times

, January 29, 2006. And see Kurt Eichenwald,

Conspiracy of Fools: A True Story

(New York: Broadway, 2005), 250.

33.

. Hãy thử tưởng tượng bạn được mời tới phòng thí nghiệm của Newman

: C. M. Patterson and Joseph Newman, "Reflectivity and Learning from Aversive Events: Toward a Psychological Mechanism for the Syndromes of Disinhibition,"

Psychological Review

100 (1993): 716-36. Carriers of the s-variant of the 5HTTLPR polymorphism (which is associated with introversion and sensitivity) have also been show to be faster to learn to avoid penalizing stimuli in passive avoidance tasks. See E. C. Finger et al., "The Impact of Tryptophan Depletion and 5-HTTLPR Genotype on Passive Avoidance and Response Reversal Instrumental Learning Tasks,"

Neuropsychopharmacology

32 (2007): 206-15.

34.

người hướng nội được "thiết kế ra để điều tra kỹ càng"

: John Brebner and Chris Cooper, "Stimulus or Response-Induced Excitation: A Comparison of the Behavior of Introverts and Extroverts,"

Journal of Research in Personality

12, no. 3 (1978): 306-11.

35.

bạn càng dễ rút ra được bài học từ nó

: Indeed, it's been shown that one of the crucial ways that we learn is to analyze our mistakes. See Jonah Lehrer,

How We Decide

(New York: Houghton Mifflin Harcourt, 2009), 51.

36.

Nếu bạn bắt ép những người hướng ngoại phải dừng lại để suy nghĩ ... phản ứng thế nào với những dấu hiệu cảnh báo nguy hiểm tương tự trong tương lai

: Interview with the author, November 13, 2008. Another way to understand why some people worry about risks and others ignore them is to go back to the idea of brain networks. In this chapter I focused on the dopamine-driven reward system and its role in delivering life's goodies. But there's a mirror-image brain network, often called the loss avoidance system, whose job is to call our attention to risk. If the reward network chases shiny fruit, the loss avoidance system worries about bad apples.
The loss avoidance system, like the reward network, is a double-edged sword. It can make people anxious, unpleasantly anxious, so anxious that they sit out bull markets while everyone else gets rich. But it also causes them to take fewer stupid risks. This system is mediated in part by a neurotransmitter called serotonin-and when people are given drugs

like Prozac (known as selective serotonin reuptake inhibitors) that affect the loss avoidance system, they become more blasé about danger. They also become more gregarious. These features coincide uncannily, points out the neurofinance expert Dr. Richard Peterson, with the behavior of irrationally exuberant investors. "The characteristics of decreased threat perception and increased social affiliation [resulting from drugs like Prozac] mirror the decreased risk perception and herding of excessively bullish investors," he writes. "It is as if bubble investors are experiencing a partial deactivation of their brains' loss avoidance systems."

37.

mức độ thể hiện của người hướng nội và hướng ngoại trong những thao tác giải quyết vấn đề phức tạp

: Dalip Kumar and Asha Kapila, "Problem Solving as a Function of Extraversion and Masculinity,"

Personality and Individual Differences

8, no. 1 (1987): 129-32.

38.

Người hướng ngoại có điểm số cao hơn

: Adrian Furnham et al., "Personality, Cognitive Ability, and Beliefs About Intelligence as Predictors of Academic Performance,"

Learning and Individual Differences

14 (2003): 49-66. See also Isabel Briggs Myers and Mary H. McCaulley,

MBTI Manual: A Guide to the Development and Use of the Myers-Briggs Type Indicator

(Palo Alto, CA: Consulting Psychologists Press, 1985), 116; see also the Myers 1980 study referred to in Allan B. Hill, "Developmental Student Achievement: The Personality Factor,"

Journal of Psychological Type

9, no. 6 (2006): 79-87.

39.

Một nghiên cứu trên 141 sinh viên đại học

: Eric Rolfhus and Philip Ackerman, "Assessing Individual Differences in Knowledge: Knowledge, Intelligence, and Related Traits,"

Journal of Educational Psychology

91, no. 3 (1999): 511-26.

40.

. Người hướng nội nhận được một số lượng bằng tốt nghiệp, vị trí dẫn đầu của học bổng National Merit Scholarship, chìa khóa Phi Beta Kappa lớn hơn gấp nhiều lần so với người hướng ngoại

: G. P. Macdaid, M. H. McCaulley, and R. I. Kainz,

Atlas of Type Tables

(Gainesville, FL: Center for Applications of Psychological Type, 1986), pp. 483-85. See also Hill, "Developmental Student Achievement."

41.

Họ vượt mặt người hướng ngoại trong bài kiểm tra về Đánh Giá Khả Năng Tư Duy Suy Xét Watson-Glaser

: Joanna Moutafi, Adrian Furnham, and John Crump, "Demographic and Personality Predictors of Intelligence: A Study Using the NEO Personality Inventory and the Myers-Briggs Type Indicator,"

European Journal of Personality

17, no. 1 (2003): 79-84.

42.

Người hướng nội không thông minh hơn người hướng ngoại

: Author interview with Gerald Matthews, November 24, 2008. See also D. H. Saklofske and D. D. Kostura, "Extraversion-Introversion and Intelligence,"

Personality and Individual Differences

11, no. 6 (1990): 547-51.

43.

đặc biệt là các công việc cần phải thực hiện dưới áp lực thời gian hoặc xã hội hay phải làm nhiều việc cùng lúc

: Gerald Matthews and Lisa Dorn, "Cognitive and Attentional Processes in Personality and Intelligence,"

in

International Handbook of Personality and Intelligence

, edited by Donald H. Saklofske and Moshe Zeidner (New York: Plenum Press, 1995), 367-96. See also Gerald Matthews et al.,

Personality Traits

(Cambridge, UK: Cambridge University Press, 2003), ch. 12.

44.

tập trung sự chú tâm của mình theo những cách khác nhau ... tự hỏi "what if"

: Debra L. Johnson et al., "Cerebral Blood Flow and Personality: A Positron Emission Tomography Study,"

The American Journal of Psychiatry

156 (1999): 252-57. See also Lee Tilford Davis and Peder E. Johnson, "An Assessment of Conscious Content as Related to Introversion-Extroversion,"

Imagination, Cognition and Personality

3, no. 2 (1983).

45.

một trò chơi xếp hình rất khó

: Colin Cooper and Richard Taylor, "Personality and Performance on a Frustrating Cognitive Task,"

Perceptual and Motor Skills

88, no. 3 (1999): 1384.

46.

một loạt các mê cung in trên giấy

: Rick Howard and Maeve McKillen, "Extraversion and Performance in the Perceptual Maze Test,"

Personality and Individual Differences

11, no. 4 (1990): 391-96. See also John Weinman, "Noncognitive Determinants of Perceptual Problem-Solving Strategies,"

Personality and Individual Differences

8, no. 1 (1987): 53-58.

47.

Raven Standard Progressive Matrices

: Vidhu Mohan and Dalip Kumar, "Qualitative Analysis of the Performance of Introverts and Extroverts on Standard Progressive Matrices,"

British Journal of Psychology

67, no. 3 (1976): 391-97.

48.

những đặc điểm tính cách của các nhân viên một tổng đài điện thoại

: Interview with the author, February 13, 2007.

49.

nếu bạn đang tuyển mộ nhân viên cho một ngân hàng đầu tư

: Interview with the author, July 7, 2010.

50.

những người đàn ông khi được cho xem những bức hình khiêu gợi

: Camelia Kuhnen et al., "Nucleus Accumbens Activation Mediates the Influence of Reward Cues on Financial Risk Taking,"

NeuroReport

19, no. 5 (2008): 509-13.

51.

mọi người hướng ngoại đều luôn

... luôn cảnh giác trước những hiểm họa

: Indeed, many contemporary personality psychologists would say that threat-vigilance is more characteristic of a trait known as "neuroticism" than of introversion per se.

52.

sự cảnh-giác-trước-nguy-hiểm có vẻ là một đặc điểm của một nét tính cách khác

: But harm avoidance is correlated with both introversion and neuroticism (both traits are associated with Jerry Kagan's "high reactivity" and Elaine Aron's "high sensitivity"). See Mary E. Stewart et al., "Personality Correlates of Happiness and Sadness: EPQ-R and TPQ Compared,"

Personality and Individual Differences

38, no. 5 (2005): 1085-96.

53.

"Nếu bạn muốn xác định xem"

: can be found at

http://www.psy.miami.edu/faculty/ccarver/sclBISBAS.html

.

I first came across this scale in Jonathan Haidt's excellent book,

The Happiness Hypothesis: Finding Modern Truth in Ancient Wisdom

(New York: Basic Books, 2005), 34.

54.

"cảm thấy độc lập với môi trường xã hội"

: Mihalyi Csikszentmihalyi,

Flow: The Psychology of Optimal Experience

(New York: Harper Perennial, 1990), 16.

55.

"Các lý thuyết tâm lý học thường mặc định rằng"

: Mihalyi Csikszentmilhalyi,

The Evolving Self: A Psychology for the Third Millennium

(New York: Harper Perennial, 1994), xii.

56.

bạn có thể sẽ thấy rằng năng lượng của bạn dường như là vô tận

: The same goes for happiness. Research suggests that buzz and other positive emotions seem to come a little easier to extroverts, and that extroverts as a group are happier. But when psychologists compare happy extroverts with happy introverts, they find that the two groups share many of the same characteristics-self-esteem; freedom from anxiety; satisfaction with their life work-and that those features predict happiness more strongly than extroversion itself does. See Peter Hills and Michael Argyle, "Happiness, Introversion-Extraversion and Happy Introverts,"

Personality and Individual Differences

30 (2001): 595-608.

57.

"Giải Phóng Người Hướng Ngoại Bên Trong Bạn"

:

BusinessWeek

online column, November 26, 2008.

58.

Chuck Prince

: For an account of Chuck Prince's persona, see, for example, Mara Der Hovanesian, "Rewiring Chuck Prince,"

Bloomberg BusinessWeek

, February 20, 2006.

59.

Seth Klarman

: For information on Klarman, see, for example, Charles Klein, "Klarman Tops Griffin as Investors Hunt for 'Margin of Safety,' "

Bloomberg BusinessWeek

, June 11, 2010. See also Geraldine Fabrikant, "Manager Frets Over Market but Still Outdoes It,"

New York Times

, May 13, 2007.

60.

Michael Lewis

: Michael Lewis,

The Big Short: Inside the Doomsday Machine

(New York: W. W. Norton, 2010).

61.

Warren Buffett

: Warren Buffett's story, as related in this chapter, comes from an excellent biography: Alice Schroeder,

The Snowball: Warren Buffett and the Business of Life

(New York: Bantam Books, 2008).

62.

"thẻ ghi điểm"

: Some psychologists would relate Warren Buffett's self-direction not necessarily to introversion but to a different phenomenon called "internal locus of control."

CHƯƠNG

8:

QUYỀN LỰC MỀM

1.

Mike Wei

: The interviews with Mike Wei and others from Cupertino, related throughout this chapter, were conducted with the author at various stages between 2006 and 2010.

2.

, theo một bài báo có tên "The New White Flight"

: Suein Hwang, "The New White Flight,"

Wall Street Journal

, November 19, 2005.

3.

53 người đã được lọt vào danh sách vòng bán kết để nhận học bổng National Merit Scholarship ... cao hơn mức trung bình trên toàn nước Mỹ tới 27 phần trăm.

: Monta Vista High School website, as of May 31, 2010.

4.

Nói chuyện đơn giản không phải là một trọng tâm

: Richard C. Levin, "Top of the Class: The Rise of Asia's Universities,"

Foreign Affairs

, May/June 2010.

5.

tờ San Jose Mercury News cho đăng một bài báo

: Sarah Lubman, "East West Teaching Traditions Collide,"

San Jose Mercury News

, February 23, 1998.

6.

"các trường đại học nên học cách lắng nghe âm thanh của sự tĩnh lặng"

: Heejung Kim, "We Talk, Therefore We Think? A Cultural Analysis of the Effect of Talking on Thinking,"

Journal of Personality and Social Psychology

83, no. 4 (2002): 828-42.

7.

Tờ The Journal of Research in Personality đã đăng

: Robert R. McCrae, "Human Nature and Culture: A Trait Perspective,"

Journal of Research in Personality

38 (2004): 3-14.

8.

Cư dân Mỹ là một phần trong số những người hướng ngoại nhất trên thế giới này.

: See, for example, David G. Winter,

Personality: Analysis and Interpretation of Lives

(New York: McGraw-Hill, 1996), 459.

9.

một nghiên cứu so sánh các trẻ em từ tám tới mười tuổi

: Xinyin Chen et al., "Social Reputation and Peer Relationships in Chinese and Canadian Children: A Cross-Cultural Study,"

Child Development

63, no. 6 (1992): 1336-43. See also W. Ray Crozier,

Shyness: Development, Consolidation and Change

(Routledge, 2001), 147.

10.

học sinh phổ thông ở Trung Quốc nói lại với các nhà nghiên cứu

: Michael Harris Bond,

Beyond the Chinese Face: Insights from Psychology

(New York: Oxford University Press, 1991), 62.

11.

Một nghiên cứu khác yêu cầu những người Mỹ gốc Á và người Mỹ gốc Âu

: Kim, "We Talk, Therefore We Think?"

12.

thái độ của người châu Á trước việc nói

: See, for example, Heejung Kim and Hazel Markus, "Freedom of Speech and Freedom of Silence: An Analysis of Talking as a Cultural Practice," in

Engaging Cultural Differences in Liberal Democracies

, edited by Richard K. Shweder et al. (New York: Russell Sage Foundation, 2002), 432-52.

13.

những câu tục ngữ đến từ phương Đông

: Some of these come from the epigraph of the article by Heejung Kim and Hazel Markus, cited above.

14.

kỳ thi jinshi (

進士

-

tiến sĩ) của triều Minh

: Nicholas Kristof, "The Model Students,"

New York Times

, May 14, 2006.

15.

các tư thế thể hiện quyền thế

: Jonathan Freeman et al., "Culture Shapes a Mesolimbic Response to Signals of Dominance and Subordination that Associates with Behavior,"

NeuroImage

47 (2009): 353-59.

16.

"Chỉ có những người đến từ một truyền thống thẳng thắn"

: Harris Bond,

Beyond the Chinese Face

, 53.

17.

taijin kyofusho

: Carl Elliott,

Better Than Well: American Medicine Meets the American Dream

(New York: W. W. Norton, 2003), 71.

18.

các nhà tu hành Phật giáo ở Tây Tạng có thể tìm thấy sự an lành trong tâm trí

: Marc Kaufman, "Meditation Gives Brain a Charge, Study Finds,"

Washington Post

, January 3, 2005.

19.

"Sự lễ độ, phép lịch sự của họ từ lâu đã được biết đến"

: Lydia Millet, "The Humblest of Victims,"

New York Times

, August 7, 2005.

20.

phương Tây hóa

: See, for example, Xinyin Chen et al., "Social Functioning and Adjustment in Chinese Children: The Imprint of Historical Time,"

Child Development

76, no. 1 (2005): 182-95.

21.

Một nghiên cứu so sánh những thiếu niên Mỹ gốc Âu và các thiếu niên Mỹ gốc Á

: C. S. Huntsinger and P. E. Jose, "A Longitudinal Investigation of Personality and Social Adjustment Among Chinese American and European American Adolescents,"

Child Development

77, no. 5 (2006): 1309-24. Indeed, the same thing seems to be happening to Chinese kids

in China

as the country Westernizes, according to a series of longitudinal studies measuring changes in social attitudes. While shyness was associated with social and academic achievement for elementary school children as recently as 1990, by 2002 it predicted peer rejection and even depression. See Chen, "Social Functioning and Adjustment in Chinese Children."

22.

Nhà báo Nicholas Lemann

: "Jews in Second Place,"

Slate

, June 25, 1996.

23.

"A ... E ... U ... O ... I"

: These vowels were presented out of the usual sequence at Preston Ni's seminar.

24.

Gandhi, theo như cuốn tự truyện của ông

: The story of Gandhi related in this chapter comes primarily from

Gandhi: An Autobiography: The Story of My Experiments with Truth

(Boston: Beacon Press, 1957), esp. 6, 20, 40-41, 59, 60-62, 90-91.

25.

Bài thi TIMSS

: I originally learned about this from Malcom Gladwell,

Outliers: The Story of Success

(New York: Little Brown and Company, 2008).

26.

Ví dụ, vào năm 1995, năm đầu tiên cuộc thi TIMSS được tổ chức

: "Pursuing Excellence: A Study of U.S. Eighth-Grade Mathematics and Science Teaching, Learning Curriculum, and Achievement in International Context, Initial Findings from the Third International Mathematics and Science Study," U.S. Department of Education, National Center for Education Statistics, Pursuing Excellence, NCES 97-198 (Washington, DC: U.S. Government Printing Office, 1996).

27.

Vào năm 2007, khi các nhà nghiên cứu thống kê

: TIMSS Executive Summary. The nations whose students fill out more of the questionnaire also tend to have students who do well on the TIMSS test: Erling E. Boe et al., "Student Task Persistence in the Third International Mathematics and Science Study: A Major Source of Achievement Differences at the National, Classroom and Student Levels" (Research Rep. No. 2002-TIMSS1) (Philadelphia: University of Pennsylvania, Graduate School of Education, Center for Research and Evaluation in Social Policy). Note that this study was based on 1995 data.

28.

nhà tâm lý học giao thoa văn hóa (cross-cultural psychologist) Priscilla Blinco

: Priscilla Blinco, "Task Persistence in Japanese Elementary Schools," in

Windows on Japanese Education

, edited by Edward R. Beauchamp (Westport, CT: Greenwood Press, 1991). Malcolm Gladwell wrote about this study in his book

Outliers

.

CHAPTER 9: KHI NÀO THÌ BẠN NÊN TỎ RA HƯỚNG NGOẠI HƠN MỨC BẠN THỰC SỰ LÀ?

1.

Hãy gặp giáo sư Brian Little

: The stories about Brian Little throughout this chapter come from numerous telephone and e-mail interviews with the author between 2006 and 2010.

2.

Hippocrates, Milton, Schopenhauer, Jung

: Please see A Note on the Words

Introvert

and

Extrovert

for more on this point.

3.

Walter Mischel

: For an overview of the person-situation debate, see, for example, David C. Funder,

The Personality Puzzle

(New York: W. W. Norton, 2010), 118-44. See also Walter Mischel and Yuichi Shoda, "Reconciling Processing Dynamics and Personality Dispositions,"

Annual Review of Psychology

49 (1998): 229-58. In further support of the premise that there truly is such a thing as a fixed personality: We know now that people who score as introverts on personality tests tend to have different physiologies and probably inherit some different genes from those who measure as extroverts. We also know that personality traits predict an impressive variety of important life outcomes. If you're an extrovert, you're more likely to have a wide circle of friends, have risky sex, get into accidents, and excel at people-oriented work like sales, human resources, and teaching. (This doesn't mean that you

will

do these things-only that you're more

likely

than your typical introvert to do them.) If you're an introvert, you're more likely to excel in high school, in college, and in the land of advanced degrees, to have smaller social networks, to stay married to your original partner, and to pursue autonomous work like art, research, math, and engineering. Extroversion and introversion even predict the psychological challenges you might face: depression and anxiety for introverts

(think Woody Allen); hostility, narcissism, and overconfidence for extroverts (think Captain Ahab in

Moby-Dick

, drunk with rage against a white whale).
In addition, there are studies showing that the personality of a seventy-year-old can be predicted with remarkable accuracy from early adulthood on. In other words, despite the remarkable variety of situations that we experience in a lifetime, our core traits remain constant. It's not that our personalities don't evolve; Kagan's research on the malleability of high-reactive people has singlehandedly disproved this notion. But we tend to stick to predictable patterns. If you were the tenth most introverted person in your high school class, your behavior may fluctuate over time, but you probably still find yourself ranked around tenth at your fiftieth reunion. At that class reunion, you'll also notice that many of your classmates will be more introverted than you remember them being in high school: quieter, more self-contained, and less in need of excitement. Also more emotionally stable, agreeable, and conscientious. All of these traits grow more pronounced with age. Psychologists call this process "intrinsic maturation," and they've found these same patterns of personality development in countries as diverse as Germany, the UK, Spain, the Czech Republic, and Turkey. They've also found them in chimps and monkeys.

This makes evolutionary sense. High levels of extroversion probably help with mating, which is why most of us are at our most sociable during our teenage and young adult years. But when it comes to keeping marriages stable and raising children, having a restless desire to hit every party in town may be less useful than the urge to stay home and love the one you're with. Also, a certain degree of introspection may help us age with equanimity. If the task of the first half of life is to put yourself out there, the task of the second half is to make sense of where you've been

4.

cuộc sống giao tiếp xã hội là một màn trình diễn

: See, for example, Carl Elliott,

Better Than Well: American Medicine Meets the American Dream

(New York: W. W. Norton, 2003), 47.

5.

Jack Welch đã khuyên trong chuyên trang điện tử của tờ BusinessWeek

: Jack Welch, "Release Your Inner Extrovert,"

BusinessWeek

online, November 26, 2008.

6.

Lý Thuyết Về Nét Tính Cách Tự Do (Free Trait Theory)

: For an overview of Free Trait Theory, see, for example, Brian R. Little, "Free Traits, Personal Projects, and Ideo-Tapes: Three Tiers for Personality Psychology,"

Psychological Inquiry

7, no. 4 (1996): 340-44.

7.

"To thine own self be true" (be true to your own self-hãy sống thật với chính mình)"

: Actually, this advice comes not so much from Shakespeare as from his character Polonius in

Hamlet

.

8.

một nhà tâm lý học nghiên cứu (research psychologist) tên Richard Lippa

: Richard Lippa, "Expressive Control, Expressive Consistency, and the Correspondence Between Expressive

Behavior and Personality,"

Journal of Behavior and Personality

36, no. 3 (1976): 438-61. Indeed, psychologists have found that some people who claim not to be shy in a written questionnaire are quite adept at concealing those aspects of shyness that they can control consciously, such as talking to members of the opposite sex and speaking for long periods of time. But they often "leak" their shyness unwittingly, with tense body postures and facial expressions.

9.

các nhà tâm lý học gọi là "tự-giám-sát-bản-thân" (self-monitoring)

: Mark Snyder, "Self-Monitoring of Expressive Behavior,"

Journal of Personality and Social Psychology

30, no. 4 (1974): 526-37.

10.

họ còn đồng thời ít căng thẳng hơn khi làm thế nữa.

: Joyce E. Bono and Meredith A. Vey, "Personality and Emotional Performance: Extraversion, Neuroticism, and Self-Monitoring,"

Journal of Occupational Health Psychology

" 12, no. 2 (2007): 177-92.

11.

"Điểm hồi phục" là từ ngữ giáo sư Little dùng

: See, for example, Brian Little, "Free Traits and Personal Contexts: Expanding a Social Ecological Model of Well-Being," in

Person-Environment Psychology: New Directions and Perspectives

, edited by W. Bruce Walsh et al. (Mahwah, NJ: Lawrence Erlbaum Associates, 2000).

12.

"một "Thỏa thuận Về Nét Tính Cách Tự Do" ("a Free Trait Agreement")"

: See, for example, Brian Little and Maryann F. Joseph, "Personal Projects and Free Traits: Mutable Selves and Well Beings," in

Personal Project Pursuit: Goals, Action, and Human Flourishing

, edited by Brian R. Little et al. (Mahwah, NJ: Lawrence Erlbaum Associates, 2007), 395.

13.

"Lao động cảm xúc" ("emotional labor")"

: Howard S. Friedman, "The Role of Emotional Expression in Coronary Heart Disease," in

In Search of the Coronary-Prone: Beyond Type A

, edited by A. W. Siegman et al. (Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum Associates, 1989), 149-68.

14.

những người thường xuyên đè nén các cảm xúc tiêu cực

: Melinda Wenner, "Smile! It Could Make You Happier: Making an Emotional Face-or Suppressing One-Influences Your Feelings,"

Scientific American Mind

, October 14, 2009,

http://www.scientificamerican.com/article.cfm?id=smile-it-could-make-you-happier

.

CHƯƠNG

10: KHOẢNG CÁCH TRONG GIAO TIẾP

1.

những người mà đề cao nhất sự gần gũi

: Randy J. Larsen and David M. Buss,

Personality Psychology: Domains of Knowledge About Human Nature

(New York: McGraw-Hill, 2005), 353.

2.

"

N

hững người hướng ngoại

cần đến người khác như một diễn đàn"

: E-mail from William Graziano to the author, July 31, 2010.

3.

Trong một nghiên cứu trên 132 sinh viên

: Jens B. Aspendorf and Susanne Wilpers, "Personality Effects on Social Relationships,"

Journal of Personality and Social Psychology

74, no. 6 (1998): 1531-44.

4.

nét tính cách Ngũ Đại (Big Five)

: Agreeableness is defined later in this chapter. "Openness to Experience" measures curiosity, openness to new ideas, and appreciation for art, invention, and unusual experiences; "Conscientious" people are disciplined, dutiful, efficient, and organized; "Emotional Stability" measures freedom from negative emotions.

5.

đặt những người này trước một màn hình

: Benjamin M. Wilkowski et al., "Agreeableness and the Prolonged Spatial Processing of Antisocial and Prosocial Information,"

Journal of Research in Personality

40, no. 6 (2006): 1152-68. See also Daniel Nettle,

Personality: What Makes You the Way You Are

(New York: Oxford University Press, 2007), chapter on agreeableness.

6.

Cả người hướng nội lẫn người hướng ngoại đều có khả năng đạt được Mức Độ Dễ Chịu cao như nhau

: Under the "Big Five" definitions of personality, extroversion and agreeableness are by definition orthogonal. See, for example, Colin G. DeYoung et al., "Testing Predictions from Personality Neuroscience: Brain Structure and the Big Five,"

Psychological Science

21, no. 6 (2010): 820-28: "Agreeableness appears to identify the collection of traits related to altruism: one's concern for the needs, desires, and rights of others (as opposed to one's enjoyment of others, which appears to be related primarily to Extraversion)."

7.

đối diện trực tiếp với nó

: See, for example: (1) Donald A. Loffredo and Susan K. Opt, "Argumentation and Myers-Briggs Personality Type Preferences," paper presented at the National Communication Association Convention, Atlanta, GA; (2) Rick Howard and Maeve McKillen, "Extraversion and Performance in the Perceptual Maze Test,"

Personality and Individual Differences

11, no. 4 (1990): 391-96; (3) Robert L. Geist and David G. Gilbert, "Correlates of Expressed and Felt Emotion During Marital Conflict: Satisfaction, Personality, Process and Outcome,"

Personality and Individual Differences

21, no. 1 (1996): 49-60; (4) E. Michael Nussbaum, "How Introverts Versus Extroverts Approach Small-Group Argumentative Discussions,"

The Elementary School Journal

102, no. 3 (2002): 183-97.

8.

Một nghiên cứu tuyệt vời tiến hành bởi nhà tâm lý học William Graziano

: William Graziano et al., "Extraversion, Social Cognition, and the Salience of Aversiveness in Social Encounters,"

Journal of Personality and Social Psychology

49, no. 4 (1985): 971-80.

9.

robot được cho tương tác với những bệnh nhân đột quỵ

: See Jerome Groopman, "Robots That Care,"

The New Yorker

, November 2, 2009. See also Adriana Tapus and Maja Mataric, "User Personality Matching with Hands-Off Robot for

Post-Stroke Rehabilitation Therapy," in

Experimental Robotics

, vol. 39 of

Springer Tracts in Advance Robotics

(Berlin: Springer, 2008), 165-75.

10.

một nghiên cứu về kinh tế tại Đại học Michigan

: Shirli Kopelman and Ashleigh Shelby Rosette, "Cultural Variation in Response to Strategic Emotions in Negotiations,"

Group Decision and Negotiation

17, no. 1 (2008): 65-77.

11.

Trong cuốn sách của mình: "Giận Dữ: Thứ Cảm Xúc Bị Hiểu Nhầm"

: Carol Tavris,

Anger: The Misunderstood Emotion

(New York: Touchstone, 1982).

12.

Nhưng "lý thuyết trút bỏ" chỉ đơn giản là một myth

: Russell Geen et al., "The Facilitation of Aggression by Aggression: Evidence against the Catharsis Hypothesis,"

Journal of Personality and Social Psychology

31, no. 4 (1975): 721-26. See also Tavris,

Anger

.

13.

những người sử dụng chất Botox

: Carl Zimmer, "Why Darwin Would Have Loved Botox,"

Discover

, October 15, 2009. See also Joshua Ian Davis et al., "The Effects of BOTOX Injections on Emotional Experience,"

Emotion

10, no. 3 (2010): 433-40.

14.

ba mươi hai cặp người hướng nội và người hướng ngoại

: Matthew D. Lieberman and Robert Rosenthal, "Why Introverts Can't Always Tell Who Likes Them: Multitasking and Nonverbal Decoding,"

Journal of Personality and Social Psychology

80, no. 2 (2006): 294-310.

15.

Nó yêu cầu một dạng multitask trong não bộ

: Gerald Matthews and Lisa Dorn, "Cognitive and Attentional Processes in Personality and Intelligence," in

International Handbook of Personality and Intelligence

, edited by Donald H. Saklofske and Moshe Zeidner (New York: Plenum, 1995), 367-96.

16.

giải nghĩa những gì người kia đang nói

: Lieberman and Rosenthal, "Why Introverts Can't Always Tell Who Likes Them."

17.

thí nghiệm bởi nhà tâm lý học phát triển (developmental psychologist) Avril Thorne

: Avril Thorne, "The Press of Personality: A Study of Conversations Between Introverts and Extraverts,"

Journal of Personality and Social Psychology

53, no. 4 (1987): 718-26.

CHƯƠNG

11: VỀ NHỮNG NGƯỜI THỢ LÀM GIẦY VÀ NHỮNG VỊ TƯỚNG

Some of the advice in this chapter is based on interviews I conducted with many caring teachers, school administrators, and child psychologists, and on the following wonderful books:

Elaine Aron,

The Highly Sensitive Child: Helping Our Children Thrive When the World Overwhelms Them

(New York: Broadway Books), 2002.

Bernardo J. Carducci,

Shyness: A Bold New Approach

(New York: Harper Paperbacks, 2000).

Natalie Madorsky Elman and Eileen Kennedy-Moore,

The Unwritten Rules of Friendship

(Boston: Little Brown, 2003).

Jerome Kagan and Nancy Snidman,

The Long Shadow of Temperament

(Cambridge, MA: Harvard University Press, 2004).

Barbara G. Markway and Gregory P. Markway,

Nurturing the Shy Child

(New York: St. Martin's Press, 2005).

Kenneth H. Rubin,

The Friendship Factor

(New York: Penguin, 2002).

Ward K. Swallow,

The Shy Child: Helping Children Triumph Over Shyness

(New York: Time Warner, 2000).

1.

Mark Twain đã từng kể câu chuyện

: This comes from Donald Mackinnon, who believed (but was not 100 percent certain) that Mark Twain told this story. See Donald W. MacKinnon, "The Nature and Nurture of Creative Talent," (Walter Van Dyke Bingham Lecture given at Yale University, New Haven, CT, April 11, 1962).

2.

câu chuyện cảnh báo ... tiến sĩ Jerry Miller

: I conducted several in-person and e-mail interviews with Dr. Miller between 2006 and 2010.

3.

Emily Miller

: I conducted several interviews with Emily Miller between 2006 and 2010.

4.

Elaine Aron

: Elaine N. Aron,

Psychotherapy and the Highly Sensitive Person

(New York: Routledge, 2010), 18-19.

5.

tiến sĩ Jerry Miller

: Rubin,

The Friendship Factor

.

6.

"người học tiếp nhận được rất ít"

: Jill D. Burruss and Lisa Kaenzig, "Introversion: The Often Forgotten Factor Impacting the Gifted,"

Virginia Association for the Gifted Newsletter

21, no. 1 (1999).

7.

Các chuyên gia tin rằng những trải nghiệm tiêu cực về nói trước đám đông

: Gregory Berns,

Iconoclast: A Neuroscientist Reveals How to Think Differently

(Boston, MA: Harvard Business Press, 2008), 77.

8.

Người hướng ngoại thích được chuyển động, những kích thích, và các công việc hoạt động nhóm

: Isabel Myers et al.,

MBTI Manual: A Guide to the Development and Use of the Myers-Briggs Type Indicator

, 3rd ed., 2nd printing (Palo Alto, CA: Consulting Psychologists Press, 1998), 261-62. See also Allen L. Hammer, ed.,

MBTI Applications: A Decade of Research on the Myers-Briggs Type Indicator

(Palo Alto, CA: Consulting Psychologists Press, 1996).

9.

điều kiện tiên quyết cho sự phát triển tài năng

: See chapter 3, especially on the work of Anders Ericsson.

10.

"họ thường hết sức thoải mái nói chuyện với một hoặc hai người bạn"

: E-mail from Roger Johnson to the author, June 14, 2010.

11.

Don't seat quiet kids in "high interaction" areas

: James McCroskey, "Quiet Children in the Classroom: On Helping Not Hurting,"

Communication Education

29 (1980).

12.

nhưng nổi tiếng thì không hẳn là cần thiết

: Rubin,

The Friendship Factor

: "Research findings do not suggest that popularity is the golden route to all manner of good things. There simply is not much evidence that it guarantees social or academic success in adolescence, young adulthood, or later life.... If your child finds one other child to befriend, and the pair clearly have fun together and enjoy each other's company and are supportive companions, good for him. Stop worrying. Not every child needs to be part of a big, happy gang. Not every child needs many friends; for some, one or two will do."

13.

tham gia sâu sắc và trung thành với một hoạt động nào đấy

: I. McGregor and Brian Little, "Personal Projects, Happiness, and Meaning: On Doing Well and Being Yourself,"

Journal of Personality and Social Psychology

74, no. 2 (1998): 494-512.

14.

nhà tâm lý học Dan McAdams

: Jack J. Bauer, Dan P. McAdams, and Jennifer L. Pals, "Narrative Identity and Eudaimonic Well-Being,"

Journal of Happiness Studies

9 (2008): 81-104.

VÀI GHI CHÚ V

CÁC T

NG

'INTROVERT' VÀ 'EXTROVERT'

1.

nhà nhân chủng học C. A. Valentine

: C. A. Valentine, "Men of Anger and Men of Shame: Lakalai Ethnopsychology and Its Implications for Sociological Theory,"

Ethnology

no. 2 (1963): 441-77. I first learned about this article from David Winter's excellent textbook,

Personality: Analysis and Interpretation of Lives

(New York: McGraw-Hill, 1996).

2.

Aristotle

:

Aristoteles, Problematica Physica

XXX, 1 (Bekker 953A 10 ff.), as translated in Jonathan Barnes,

The Complete Works of Aristotle, the Revised Oxford Translation II

(Princeton, N.J.: Bollingen, 1984).

3.

John Milton

: Cited in David G. Winter,

Personality: Analysis and Interpretation of Lives

(New York: McGraw-Hill, 1996), 380-84.

4.

Schopenhauer

: Arthur Schopenhauer, "Personality, or What a Man Is," in

The Wisdom of Life and Other Essays

(New York and London: Dunne, 1901), 12-35 (original work published 1851); cited in Winter,

Personality

, 384-86.

IM LẶNG

--------------------------------------------------------------

dịch bởi:

Nguyễn Tiến Đạt (sutucon)

https://www.facebook.com/akachan.raion

[1]

Chú thích của tác giả: Một vài người khi đọc cuốn sách này trước khi nó được xuất bản đã bình luận rằng đoạn trích trên từ Isabel không thể nào là thật được-"không một đứa bé mới học lớp hai nào lại nói kiểu này cả!". Nhưng đó quả thực là những gì cô bé đã nói với tôi.

[1]

Ám chỉ đến cuốn sách nổi tiếng "Men Are from Mars, Women Are from Venus" (Tạm dịch: Đàn ông đến từ sao Hỏa, đàn bà đến từ sao Kim) của tác giả John Gray, hướng dẫn cách để nam giới và nữ giới có thể hiểu được nhau, đưa ra những giải pháp cụ thể để giải quyết những vấn đề phát sinh do sự khác biệt tâm lý giữa Nam và Nữ về mọi phương diện. (Nguồn:

Wikipedia

)

[2]

Botox là tên thương hiệu của sản phẩm Botulinum Toxin type A do công ty Allergan (Mỹ) sản xuất. Lúc đầu, các nhà phẫu thuật mắt và não dùng nó để làm tê liệt các cơ bắp, không cho chúng co giật vì tác dụng chính của Botox là ngăn chặn luồng xung động thần kinh, làm yếu phần cơ mặt dưới lớp da. (

Nguồn:

http://dantri.com.vn/lam-dep/botox-phep-mau-trong-tre-hoa-da-163352.htm

)

[1]

Mahātmā Gāndhī (2 tháng 10 năm 1869 - 30 tháng 1 năm 1948), nguyên tên đầy đủ là Mohandas Karamchand Gandhi, là anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân. Trong suốt cuộc đời, ông phản đối tất cả các hình thức khủng bố bạo lực và thay vào đó, chỉ áp dụng những tiêu chuẩn đạo đức tối cao. Nguyên lí bất bạo lực (còn gọi là bất hại) được ông đề xướng với tên Chấp trì chân lí (sa. satyāgraha) đã ảnh hưởng đến các phong trào đấu tranh bất bạo động trong và ngoài nước cho đến ngày nay, bao gồm phong trào Vận động Quyền công dân tại Hoa Kỳ (American Civil Rights Movement) được dẫn đầu bởi Martin Luther King, Jr. (Nguồn:

Wikipedia

)

[1]

The squeaky wheel gets the grease

-

Những kẻ lớn tiếng (đòi hỏi giúp đỡ) thì mới được giúp đỡ tối đa. Châm ngôn cho những ai nhút nhát, e ngại phải lên tiếng xin trợ giúp. Giống câu "Con khóc mẹ mới cho bú" trong tiếng Việt.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro