Inferno chương 1-12

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1:

Ký ức chầm chậm phục hồi... như bong bóng sủi lên từ thẳm sâu của một

c

ái giếng không đáy.

Một phụ nữ che mạng.

Robert Langdon đăm đăm nhìn người phụ nữ phía bên kia con sông nước đỏ sánh như máu.ở bờ bên đó, người phụ nữ đứng đối diện anh, bất động, trang nghiêm, gương mặt ấn dưới tấm mạng che. Tay cô giữ chặt một mảnh vải taỉnỉa màu lam, đang được cô giơ cao lên để tỏ lòng tôn kính với biển xác chết dưới chân mình. Mùi tử khí nồng nặc khắp nơi.

Hãy tìm kiểm, người phụ nữ thì thào. Và anh sẽ thấy.

Langdon nghe thấy những từ ấy như thể người phụ nữ nói ngay trong đầu anh. "Cô là 

ai?",

 anh gọi to, nhưng giọng anh không hề phát thành tiếng.

Thời gian đang cạn dần, người ấy thì thào. Hãy tìm kiểm và sẽ thấy.

Langdon nhích một bước về phía sông, nhưng anh nhìn thấy rõ nước đỏ như máu và quá sâu, không thể lội qua. Khi Langdon ngước mắt nhìn lại người phụ nữ che mạng thì những xác người dưới chân cô đã nhân lên vô khối. Giờ có đến cả trăm, có khi hàng nghìn, một số vẫn còn sống, đang quằn quại trong đau đớn, chịu

đựng những cái chểt không dễ gì nghĩ ra 

được... 

bị lừa thiêu đốt, bị vùi lấp trông phân thối, xâu xé lẫn nhau. Anh có thể nghe rõ những tiếng kêu thảm thỉểt của con người vang vọng trên mặt nước.

Người phụ nữ tiến về phía anh, chìa hai cánh tay mảnh mai như thể đang cầu xỉn sự giúp đỡ.

"Cô là 

ai?",

 Langdon lại gọi to

Đáp lại, người phụ nữ giơ 

tay và từ từ 

gỡ tấm mạng khỏi mặt mình. Bà ấy đẹp mê hồn, nhưng già 

hơn Langdon 

hình dung - có lẽ đã ngoài sáu mươi, oai nghiêm và rắn rỏi, 

giống 

nnư một bức tượng không nhuốm màu thời gian. Bà ấy có cái cằm 

cương nghị, 

đôi mắt sâu thẳm có hồn, và mái tóc bạc dài với những lọn quăn 

buông 

xõa xuống bờ

 vai. C

ổ bà ấy đeo một miếng bùa bằng lam ngọc hình một con rắn quấn quanh cây quyền trượng.

Langdon có cảm giác mình đã biểt bà ấy... tin tưởng bà. Nhưng bằng cách nào? Tại sao lại như vậy?

Lúc này bà ấy chỉ tay vào một đôi chân đang giãy giụa, thò ngược lên từ dưới đất, rõ ràng là chân của một sinh lỉnh bất hạnh nào đó bị chôn ngược đầu tới tận thắt lưng. Phần đùi tái nhợt của người đó có một con chữ duy nhất - vỉểt bằng bùn -

R ư? Langdon ngẫm nghĩ, đầy phân vân. Giống như trong... Robert ư? "Không lẽ đó là... mình?"

Gương mặt người phụ nữ không hé lộ gì cả. Hãy tìm và sẽ thấy, bà ấy nhắc lại.

Không hề báo trước, người bà ấy bắt đầu tỏa ra một thứ ánh sáng màu trắng... càng lúc càng sáng hơn. cả cơ thể bà bắt đầu rung lên dữ dội, và sau đó, kèm theo một tiếng nổ lớn, bà vỡ tan thành cả nghìn mảnh ánh sáng.

Langdon hét lên, choàng tỉnh.

Căn phòng sáng trưng. Chỉ có mình anh. Mùi cồn y tể nồng gắt trong không khí và đâu đó có tiếng máy phát ra những âm thanh trùng khớp với nhịp tỉm của anh. Langdon cố gắng nhúc nhích cánh tay phải, nhưng một cơn đau nhói khiển anh đành thúc thủ. Anh nhìn xuống phía dưới và thấy một ống truyền dính chặt lấy lớp da cánh tay mình.

Mạch anh đập rộn, và cỗ máy cũng giữ đúng nhịp, phát ra những tiếng kêu nhanh hơn.

Mình đang ở đâu thể nhỉ? Có chuyện gì không biết?

Gáy Langdon nhói lên một con đau buốt. Rất cấn thận, anh đưa cánh tay còn lại chạm vào mặt mình, cố gắng định vị nguồn gốc cơn đau đầu. Bên dưới mái tóc rối bù, anh sờ thấy những nốt u cứng ngắt của hàng chục mũi khâu đã đóng vảy vì máu khô.

Anh nhắm mắt, cố gắng nhớ lại vụ tai nạn.

Không nhớ được gì cả. Trống rỗng hoàn toàn.

Nghĩ đi.

Chỉ có bóng tối mịt mùng.

Một người đàn ông mặc đồ thanh trùng bước vội vào, chắc chắn vì thấy màn hình cảnh báo nhịp tỉm đập nhanh của Langdon. ông ấy có bộ râu dày, ria cũng rậm, và đôi mắt dịu dàng toát ra vẻ điềm tĩnh ân cần bên dưới đôi lông mày rậm.

"Đã có chuyện., gì vậy?", Langdon gắng gượng. "Tôi bị tai nạn à?"

Người đàn ông râu rặm đưa một ngón tay lên môi và sau đó chạy vội ra ngoài, gọi một ai đó dưới sảnh.

Langdon xoay đầu, cử động đó gây ra một cơn đau nhói lan khắp người anh. Anh hít mấy hơi thật sâu để cơn đau dịu đi. Sau đó, rất nhẹ nhàng và cấn thận, anh quan sát không gian vô trùng xung quanh mình.

Căn phòng bệnh viện này có một giường đơn. Không hoa hòe gì cả. Không bảng hiệu, Langdon nhìn thấy quần áo mình trên chiếc bàn quầy gần đó, gấp gọn trong một túi nhựa trong. Tất cả đều dính máu.

Chúa ơi. Chắc chắn là rất tệ.

Giờ Langdon chậm rãi xoay đầu về phía ô cửa sổ cạnh giường. Bên ngoài trời tối om. Đang đêm. Tất cả những gì Langdon có thể nhìn thấy trên kính là hình phản

chiểu của anh - một kẻ xa lạ nhợt nhạt, xanh xao và mệt mỏi, người đầy ống và dây nhợ, xung quanh là các thiết bị y tể.

Có tiếng nói tiến lại gần trong hành lang, và Langdon đưa mắt trở lại căn phòng. VỊ bác sĩ đã quay lại, đi cùng với một người phụ nữ.

Cô ấy có vẻ như mới ngoài ba mươi một chút. Cô mặc bộ đồ thanh trùng màu xanh da trời và buộc gọn mái tóc vàng thành một túm đuôi ngựa đung đưa sau gáy theo nhịp chân của cô.

"Tôi là bác sĩ Sỉenna Brooks", cô nói, nhìn Langdon mỉm cười ngay khi vừa bước vào. "Tôi sẽ làm việc cùng bác sĩ Marconi tối nay."

Langdon yểu ớt gật đầu.

Cao ráo và uyển chuyển, bác sĩ Brooks di chuyển với dáng vẻ dứt khoát của một vận động viên. Ngay cả khi trong bộ đồ thanh trùng kì cục, ở cô vẫn toát lên vẻ thanh thoát, thướt tha. Mặc dù Langdom có thể thấy rõ là cô không hề trang điểm nhưng nước da của cô vẫn có vẻ mịn màng lạ thường, với khỉểm khuyết duy nhất là một nốt ruồi duyên nhỏ xíu ngay phía trên môi. Đôi mắt cô, dù có màu hạt dẻ dịu dàng, dường như sắc sảo đến kỳ lạ, như thể chúng từng chứng kiến nhiều trải nghiệm mà một người trạc tuổi cô hiểm có dịp được tao ngộ.

"Bác sĩ Marconi không nói được nhiều tiếng Anh", cô lên tiếng và ngồi xuống cạnh anh. "Và ông ấy đề nghị tôi giúp điền mẫu đơn nhập viện cho anh." Cô lại mỉm 

cười.

"Cảm ơn cô", Langdon rên ri.

"Được rồi", cô lên tiếng, giọng toát lên sự tháo vát ân cần. "Tên anh là gì nhỉ?" Anh phải mất một lúc mới trả lời được: "Robert... Langdon".

Co rọi đèn soi vào mắt anh. "Nghề nghiệp?"

Thông tin này được đưa ra còn chậm hơn nữa. "Giáo sư. Lịch sử nghệ thuật... và biểu tượng học. Đại học Harvard."

Bác sỉ Brooks hạ đèn xuống, vẻ ngạc nhiên. V

 bác sĩ với đôi mày rậm trông cũng bất ngờ không kém.

"Anh là... người Mỹ à?"

Langdon ngơ ngác nhìn cô.

"Chỉ là...", cô ngập ngừng. "Tối qua lúc anh đến đây, anh không hề có giấy tờ tùy thân. Lúc ấy anh mặc đồng phục Harris Tvveed và đi giày lười hiệu Someset, cho nên chúng tôi đoán anh là người Anh."

"Tôi là người Mỹ", Langdon quả quyết với cô, nhưng anh quá mệt không thể giải thích được rằng anh rất chuộng quần áo may đo riêng.

"Anh có thấy đau chỗ nào không?"

"

 đầu tôi", Langdon đáp, cái đầu vẫn đang nhoi nhói của anh gặp ánh đèn rọi

sáng quắc càng thêm khó ch

u. May thay, bác sĩ Brooks bỏ đèn vào túi, cầm lấy cổ tay Langdon và kiểm tra mạch đập.

"Lúc tỉnh lại, anh la hét dữ dội", cô nói. "Anh có nhớ tại sao không?"

Langdon vụt nhớ lại hình ảnh kỳ quái về người phụ nữ đeo mạng với những xác người quằn quại xung quanh. Hãy tìm và sẽ thấy. "Tôi gặp một cơn ác mộng."

"Như thế nào?"

Langdon kể lại cho cô nghe.

Nét mặt của bác sĩ Brooks vẫn thản nhiên khi cô ghi chép trên kẹp hồ sơ. "Anh có nghĩ được điều gì gợi ra một hình ảnh khinh khủng như vậy không?"

Langdon lục lại ký ức rồi lắc đầu, động tác ấy khiển anh đau nhói như bị búa nện.

"Được rồi, anh Langdon", cô nói, vẫn hý hoáy viết, "Có vài câu hỏi thông thường dành cho anh. Hôm nay là thứ mấy trong tuần rồi?".

Langdon nghĩ một lúc. "Thứ bảy. Tôi nhớ lúc sớm hôm nay mình đang đi bộ qua khuôn viên,chuấn bị có một loạt tiết giảng buổi chiều... đó là điều cuối cùng tôi nhớ được. Tôi bị ngã phải không?"

"Chúng ta sẽ nói sau. Anh có biết mình đang ở đâu không?"

Langdon cố phán đoán. "Bệnh viện Đa khoa Massachusetts phải không?"

Bác sỉ Brooks lại ghi chép: "Và chúng tôi có cần gọi ai đó cho anh không? vợ? Hoặc con cái?"

"Không có ai cả", Langdon đáp lại theo bản năng. Anh luôn thích sự tĩnh mịch và độc lập mà mình có nhờ lựa chọn cuộc sống độc thân, mặc dù anh phải thừa nhận rằng, trong tình huống hiện tại, anh thèm có được một gương mặt quen thuộc ở bên cạnh. "Tôi có thể gọi cho một vài đồng nghiệp, nhưng tôi ổn mà."

Bác sỉ Brooks ngừng ghi chép, và vị bác sĩ lớn tuổi hơn tiến lại gần. ông ấy vuốt vuốt đôi mày rầm về phía sau, móc từ trong túi một chiếc máy ghi âm nhỏ và đưa cho bác sĩ Brooks. Cô gật đầu hiểu ý và xoay lại phía bệnh nhân của mình.

"Anh Langdon, tối nay khi anh đến đây, anh cứ lấm bẩm nhắc đi nhắc lại một điều gì đó." Cô liếc nhìn bác sỉ Marconi đang giơ chiếc máy ghi âm kỹ thuật số ra và bấm nút.

Một đoạn ghi âm bắt đầu chạy, và Langdon nghe thấy giọng nói nhát gừng của minh, lặp đi lặp lại cùm từ: "Rất... xỉn lỗi. Rất... xỉn lỗi."

"Theo tôi nghe", người phụ nữ nói, "giống như anh đang nói "Rất xỉn lỗi. Rất xỉn I

Langdon tán thành, nhưng anh lại không hề nhớ gì về chuyện đó.

Bác sỉ Brooks đăm đăm nhìn anh với ánh mắt cực kỳ đáng ngại. "Anh có ý tưởng gì về lý do tại sao anh lại nói câu này không? Anh xỉn lỗi vì điều gì đó chăng?"

Khi Langdon lục lại những chỗ tối nhất trong ký ức của mình, anh lại nhìn thấy người phụ nữ che mạng. Bà ấy đang đứng trên bờ một con sông đỏ máu với những xác người xung quanh. Mùi tử khí quay trở lại.

Bỗng nhiên Langdon thấy ngập trong một cảm giác rất bản năng về sự nguy hiểm... không chỉ cho chính anh... mà cho tất cả mọi người. Tiếng máy theo dõi nhịp tỉm của anh tăng vọt. Các cơ trong người anh cứng lại, và anh gắng ngồi dậy.

Bác sỉ Brooks vội ấn mạnh tay lên ức Langdon, ép anh nằm xuống. Cô liếc nhanh về phía vị bác sĩ râu rặm lúc này đang bước về phía cái bàn quầy kể bên và bắt đầu chuẩn bị thứ gì đó.

Bác sỉ Brooks ghé sát người xuống Langdon, thì thào. "Anh Langdon, tâm lý lo lắng là chuyện rất bình thường với những ca chấn thương não, nhưng anh cần giữ cho mạch đập giảm xuống. Đừng cử động. Đừng kích động. Hãy nằm yên và nghĩ ngơi. Anh sẽ ổn thôi. Trí nhớ của anh sẽ dần dần hồi phục."

Giờ vị bác sĩ kia quay lại cùng một ống tiêm và trao cho bác sĩ Brooks. Cô bơm toàn bộ số thuốc bên trong vào ống truyền của Langdon.

"Chỉ là một liều an thần nhẹ để anh bình tĩnh lại", cô giải thích, "Và cũng để giảm đâu nữa". Cô đứng lên. "Anh sẽ ổn thôi, anh Langdon. Hãy ngủ đi. Nểu anh cần gì, hãy bấm cái nút bên cạnh giường."

Cô tắt đèn và rời đi cùng với bác sĩ râu rậm.

Trong bóng tối, Langdon cảm nhận rõ chất thuốc đang ngấm qua cơ thể anh gần như ngay tức thì, kéo thân xác anh chìm trở lại cái giếng sâu mà anh vừa ngoi lên. Anh cố chống lại cảm giác đó, cố mở to mắt trong bóng tối của căn phòng. Anh gắng ngồi dậy, nhưng có cảm giác cơ thể mình giống như cả khối xỉ măng.

Khỉ nhúc nhích, Langdon lại thấy mình nhìn ra ô cửa sổ. Đèn đóm đã tắt cả, và trong ô kính tối đen, hình ảnh phản chiểu của anh đã biển mất, thay vào đó là đường chân trời sáng lên phía xa.

Xen giữa những chóp nhọn và mái vòm nhấp nhô, nối bật trong tầm nhìn của Langdon là một mặt nền tráng lệ. Tòa nhà là một pháo đài đá rất uy nghi với lan can hình chữ V và ngọn tháp cao đến gần trăm mét phình ra ở gần đỉnh, tạo thành một khối đồ sộ có lỗ châu mai.

Langdon ngồi thẳng dậy trên giường, cơn đau như nổ tung trong đầu anh. Anh gắng nén cơn đau giần giật dữ dội và đăm đăm nhìn ngọn tháp.

Langdon biết rất rõ công trình trung cổ này.

Nó là thứ độc nhất vô nhị trên thể giới.

Tiếc thay, nó còn nằm cách xa Massachusetts tới bốn nghìn dặm.

Bên ngoài, cửa sổ phòng anh, ấn kín trong bóng tối của tòa nhà V

a Torregalli(4), một phụ nữ có vóc dáng khỏe mạnh thong dong đấy chiếc mô tô BMW tiến tới với

sự tập trung cao độ của một con beo đang rình mồi. Ánh mắt của ả sắc lạnh. Mái tóc cắt ngắn kiểu đầu đinh của ả nối bật trên phần cổ áo dựng ngược của bộ đồ lái xe bằng da đen. Ả kiểm tra lại vũ khí giảm thanh của mình, và chăm chú nhìn lên ô cửa sổ nơi ánh đèn Robert Langdon vừa tắt.

Chập tối nay, nhiệm vụ ban đầu của ả đã thất bại thảm hại.

Tiếng gù của một con bồ câu lẻ đàn đã làm thay đối mọi việc.

Giờ ả đến để giải quyết mọi thứ cho êm đẹp.

4)B

ệt th

 Torregall

 (hay lâu đài Torre Gall

) là

một phần của hệ thống pháo đài ở vùng Soffiano, thuộc gia tộc Nerl

. Đ

ế

n th

ế

 kỷ 17, quyền sở hữu thuộc về gia tộc Gall

 và đến năm 1868, nơi này trở thành tài sản của Paolo Gent

le Farinola, người cho xây lại các phần tường có lỗ châu mai theo phong cách Trung cổ. Năm 1991, nó được công nhận là di tích lịch sử nghệ thuật và hiện nằm trong chế độ công quản.

Chương 2:

Mình đang ở Florence ư!?

Đầu Robert Langdon đau như búa bổ. Lúc này anh đang ngồi thẳng trên chiếc giường bệnh, liên tục nhấn nút gọi bác sĩ. Bất chấp số thuốc an thần trong cơ thể, tim anh vẫn đập rộn.

Bác sĩ Brooks vội vã chạy vào, túm tóc đuôi ngựa của cô đung đưa “Anh ổn chứ?”

Langdon lắc đầu đầy hoang mang. “Tôi đang ở…Ý à?”

“Tốt rồi”, cô nói. “Anh đang dần nhớ lại.”

“Không!” Langdon chỉ tay ra ngoài cửa sổ về phía tòa lâu đài uy nghi phía xa. “Tôi nhận ra cung điện Vecchio.”

Bác sĩ Brooks bật đèn sáng trở lại, và đường chân trời của Florence biến mất. Cô đến bên giường anh, dịu dàng nói khẽ. “Anh Langdon, không cần phải lo lắng như vậy. Anh đang tạm thời bị mất trí nhớ, nhưng bác sĩ Marconi khẳng định chức năng não bộ của anh vẫn ổn.”

Vị bác sĩ rậm râu cũng chạy xộc vào, rõ ràng ông cũng nghe thấy tiếng nút gọi. Ông kiểm tra máy theo dõi nhịp tim của Langdon trong khi đó nữ bác sĩ trẻ nói liến thoắng với ông bằng thứ tiếng Ý rất trôi chảy, hình như về việc Langdon đã “ kích động “ như thế nào khi biết mình ở Ý …

Kích động ư? 

Langdon giận dữ nghĩ thầm. Chết sững thì đúng hơn! Andrenalin trào dâng trong cơ thể anh lúc này đang đối chọi với thuốc an thần. “Có chuyện gì xảy ra với tôi?”, anh gặng hỏi. “Hôm nay là thứ mấy?”

“Mọi thứ đều ổn”, cô đáp. “Mới rạng sáng. Thứ Hai, ngày Mười tám tháng Ba.”

Thứ hai.

Langdong cố ép bộ óc đang đau nhói tua lại

hình

ảnh 

cuối cùng

anh có

thể nhớ ra - lạnh lẽo và tăm tối bước

đi một mình qua khuôn viên Harvard để tới buổi giảng bài tối thứ Bảy. Tức

là đã hai ngày trước ư?! Một cơn đau nhức buốt hơn níu chặt lấy Lanqdon khi anh cố nhớ lại bất kỳ chi tiết nào kể từ buổi lên lớp hoặc sau đó. Chẳng nhớ được gì. Tiếng máy theo dõi nhi.p tim của anh tăng nhanh.

Vị bác sĩ lớn tuổi gãi gãi chòm râu và tiếp tục điều chỉnh thiết bị trong khi bác sĩ Brooks ngồi xuống bên cạnh Langdon.

"Anh sẽ ổn thôi", cô trấn an anh, giọng rất dịu dàng. "Chúng tôi chấn đoán anh bị suy yếu ký ức cũ, một chứng rất phố biến khi bị chấn thương vùng đầu. Ký ức về vài ngày qua của anh có thể lộn xộn hoặc biến mất, nhưng anh không hề bị tổn thương nào vĩnh viễn." cô ngừng lại. "Anh có nhớ được tên tôi không? Tôi đã nói với anh lúc tôi mới vào đây."

Langdon nghĩ một lúc, "Sỉenna". Bác sĩ Sỉenna Brooks.

Cô mìm cười. "Thấy không? Anh đã hình thành trí nhớ mới." cơn đau đầu khiến Langdon gần như không chịu nổi, và tầm nhìn rất gần của anh vẫn mờ nhòa. "Có chuyện gì...vậy? Làm thế nào tôi đến được đây?"

"Tôi nghĩ anh nên nghỉ ngơi, và có lẽ..."

"Làm sao tôi đến được đây?", anh gặng hỏi, máy theo dõi nhịp tim càng nhanh thêm.

"Được rồi, hãy thở đều nào", bác sĩ Brooks nói, trao đối với đồng nghiệp cái nhìn lo lắng. "Tôi sẽ nói với anh." Giọng cô trở nên nghiêm túc thấy rõ. "Anh Langdon, ba giờ trước, anh lảo đảo bước vào phòng cấp cứu, trên đầu có một vết thương đang chảy máu, và anh ngã gục ngay lập tức. Không có người nào biết anh là ai hay làm cách nào anh tới được đây. Anh cứ lầm bầm bằng tiếng Anh cho nên bác sĩ Marconi đề nghị tôi hỗ trợ. Tôi từ Anh tới đây nghỉ phép."

Langdon cảm thấy như thể mình vừa tỉnh lại trong một bức tranh của Max Emst*. Mình làm quái gì ờ Ý chứ? Thông thường Langdon vẫn tới đây vào mỗi dịp tháng Sáu để dự một hội thảo về nghệ thuật, nhưng giờ mới là tháng Ba.

(* Max Emst: ( 1891-1976 ) là họa sĩ, nhà điêu khắc và là nhà thơ người Đức. ỏng được coi làmột trong những nhà tiên phong của phong trào Dada vàchủ n ghĩa siêu thực.)

Thuốc an thần giờ có tác dụng mạnh hơn, và anh cảm thấy như thế lực hút trái đất đang tăng dần lên theo từng giây, ghìm chặt anh xuống tấm đệm. Langdon cố cưỡng lại, ngấng cao đầu, gắng giữ tỉnh táo.

Bác sĩ Brooks nghiêng người về phía anh, như một thiên thần che chắn. "Nào, anh Langdon", cô thì thầm. " Chấn thương đầu rất nhạy cảm trong vòng hai mươi 

tư 

giờ đầu tiên. Anh cần nghỉ ngơi, hoặc anh sẽ bị chấn thương nghiêm trọng đấy."

Đột ngột có tiếng nói lại xạo vang lên trong hệ thống liên lạc của căn phòng. "Bác sĩ Marconi?"

Vị bác sĩ có râu nhấn một chiếc nút trên tường và trả lời, "vâng?".

Giọng trong hệ thống liên lạc nói bằng tiếng Ý rất nhanh. Langdon không thể nghe được họ nói gì, nhưng anh nhìn thấy hai vị bác sĩ trao đổi một cái nhìn đầy ngạc nhiên. Hay báo nguy chăng?

"Chờ chút", Marconi đáp, kết thúc cuộc trò chuyện.

"Có chuyện gì vậy?", Langdon hỏi.

Đôi mắt của bác sĩ Brooks dường như hơi nheo lại một chút. "Nhân viên lễ tân bộ

phận chăm sóc đặc biệt ấy mà. Có người tới thăm anh."

Một tia hi vọng rọi qua trạng thái chếnh chóng của Langdon. "Tin vui đấy! Có lẽ người này biết chuyện gì đã xảy ra với tôi."

Trông Brooks không chắc chắn lắm. "Hơi lạ là lại có ai đến đây. Chính chúng tôi còn không thể biết tên anh, và thậm chí anh còn chưa được đăng kí vào hệ thống."

Langdon cố chống chọi lại tác dụng của các loại thuốc giảm đau và loay hoay tìm cách ngồi thắng lại trên giường. "Nếu có ai đó biết tôi ờ đây, nhất dịnh người đó phải biết đã có chuyện gì xảy ra!"

Bác sĩ Brooks liếc nhìn bác sĩ Marconi, ông lập tức lắc đầu và liếc đồng hồ đeo tay. Cô quay lại phía Langdon.

"Đây là khoa chăm sóc đặc biệt", cô giải thích. "Không ai được phép vào, sớm nhất cũng phải tới 9 giờ sáng. Một lát nữa bác sĩ Marconi sẽ ra xem vị khách kia là ai và người đó muốn gì."

"Thế còn điều tôi muốn thì sao?", Langdon vặn hỏi.

Bác sĩ Brooks kiên nhẫn mìm cười và hạ giọng, cúi xuống sát hơn. "Anh Langdon, có vài việc trong tối nay mà anh chưa biết...liên quan đến chuyện xảy ra với anh. Và trước khi anh trò chuyện với bất kỳ ai, tôi nghĩ tốt hơn cả là anh nên có đầy đủ mọi dữ kiện. Rất tiếc tôi không nghĩ là anh đã đủ khỏe mạnh để..."

"Dữ kiện gì 

cơ?",

 Langdon thắc mắc, cố nhòm dậy thêm. Đường ống truyền dịch trên cánh tay anh nhói lên, và cơ thể anh ngã vật xuống như thể nặng đến vài trăm cân. "Tất cả những gì tôi biết là tôi đang nằm trong một bệnh viện ờ Florence và xuất hiện trong khi lặp đi lặp lại mấy chữ "rất xin lỗi...""

Một ý nghĩ đáng sợ vụt hiện ra trong tâm trí anh.

"Hay là tôi phải chịu trách nhiệm trong một vụ tai nạn xe hơi?", Langdon hỏi. "Tôi làm ai đó bị thương à?!"

"Không, không", bác sĩ Brooks đáp, "Tôi không nghĩ vậy!"

"Vậy thì chuyện gì đây?", Langdon cố nài, nhìn cả hai vị bác sĩ đầy giận dữ. "Tôi có quyền được biết chuyện gì đang xảy ra!"

Im lặng kéo dài, và cuối cùng bác sĩ Marconi miễn cưỡng gật đầu với cô đồng nghiệp trẻ trung quyến rũ. Bác sĩ Brooks thở hắt ra và tiến lại sát bên giường của anh hơn. "Được rồi, đế tôi kể lại cho anh những gì tôi biết..., và anh cần lắng nghe một cách bình tĩnh, được chứ?"

Langdon gật mạnh khiến một cơn đau buốt lan khắp đầu anh. Anh không quan tâm lắm mà chăm chú chờ nghe câu trả lời.

"Vấn đề đầu tiên là thế này...vết thương ờ đầu anh không phải do một vụ tai nạn gây ra."

"Tốt quá, nhẹ cả người."

"Không đơn giản thế đâu. Thực tế, vết thương của anh là do một phát đạn."

Màn hình theo dõi nhi.p tim của Langdon nhảy nhanh hơn, "Xỉn lỗi tôi nghe không rõ!"

Bác sĩ Brooks nói điềm tĩnh nhưng nhanh gọn. "Một viên đạn sượt qua đình đầu anh và chắc chắn khiến anh bị chấn động. Rất may mắn là anh còn sống. Chì thấp xuống một phân nữa thì..." Cô lắc đầu.

Langdon đăm đăm nhìn cô vẻ không tin. Có ai đó bắn mình ư?

Phòng 

đợi 

vang lên những tiếng đôi co đầy giận dữ. Có vẻ như ai đó thăm Langdon không muốn phải chờ đợi. Gần như ngay lập tức, Langdon nghe thấy ờ đầu kia hành lang có tiếng cánh cửa nặng nề bật tung. Anh cố nhìn cho tới khi thấy một bóng người đang tiến dần tới trong hành lang.

Người phụ nữ đó mặc toàn đồ da đen. Dáng cô ta rắn chắc và khỏe khoắn với kiểu đầu đinh. Cô ta di chuyển rất thư thái, cứ như thể đôi chân không hề chạm đất, và cô ta nhắm thắng về phía phòng của Langdon.

Không chút do dự, bác sĩ Marconi bước qua cừa hành lang để chắn lối đi của vị k hách. "Dừng lại!", người đàn ông ra lệnh, bàn tay vươn ra như một viên cảnh sát.

Kẻ lạ mặt vẫn không hề chùn bước, rút ra một khấu sung giảm thanh. Ả nhắm thắng vào ngực bác sĩ Marconi và nã đạn.

Có tiếng gió rít.

Langdon kinh hãi chứng kiến khi bác sĩ Marconi lảo đảo bước lùi vào phòng, ngã vật xuống sàn, tay ôm chặt lấy ngực, chiếc áo choàng trắng của ông đẫm máu.

Chương 3:

Năm dặm ngoài khơi nước Ý, chiếc du thuyền sang trọng dài hơn bảy mươi mốt mét* mang tên The Mendacium chạy băng băng qua màn sương trước lúc rạng đông xuất hiện trên những lớp sóng dập dềnh của biền Adriatic. Phần thân thon của con tàu được sơn màu xám chì, khiến nó có khí sắc không mãy thân thiện rãt đặc trưng của một con tàu quân

thõng đo lường Anh-Mỹ. Để tiện cho độc giả theo dõi, người dịch đã chuyển sang hệ đo lường tương ứng thông dụng ớ Việt Nam. VD, ở đây là 237 foot tương đương 71.1m ( 1 foot ~0.3m)

Với giá hơn 300 triệu đô la Mỹ, con tàu tự hào với đầy đủ tiện nghi thông dụng - phòng tắm hơi, bể bơi, rạp chiếu phim, tàu ngầm cá nhân, và cả sân trực thăng. Tuy nhiên, những thứ lặt vặt cần dung hằng ngày của con tàu lại ít được chủ nhân quan tâm. Vị chủ nhân này nhận con tàu năm năm về trước, sau đó lập tức phá bỏ hầu hết tiện nghi này để lâp đặt một trung tâm chỉ huy điện tử cấp quân sự bậc nhất.

Được kết nối với ba đường truyền vệ tinh chuyên dụng và một loạt trạm tiếp sóng mặt đãt, phòng điêu khiển trên tàu The Mendacium có đội ngũ nhân viên hơn hai mươi người - gồm kỹ thuật viên, chuyên gia phân tích, chuyên gia điêu phôi tác chiến họ sống luôn trên tàu và giữ liên lạc thường xuyên với nhiều trung tâm tác chiến trên bộ của tổ chức.

Bộ phận an ninh thường trực trên tàu gồm một đơn vị binh sĩ tinh anh được huấn luyên bài bản về quân sự, hai hệ thống dò tìm tên lửa, và một kho vũ khí tối tân và bộ phận nhân viên hỗ trợ khác - đầu bếp, tạp vụ, và phục vụ - nâng tổng số người trên tàu lên hơn bốn mươi. Thực tế, tàu The Mendacium chính là tòa văn phòng di động giúp chủ nhân của nó điều hành cả để chế của mình.

Được các nhân viên xem như "Thị Trưởng", chủ nhân con tàu là một người đàn ông nhỏ thó với làn da sạm nắng và cặp mắt sâu hoắm, vẻ ngoài không lấy gì đánh thuê vô cảm, kẻ tiếp tay cho tội ác, tên tay sai của quỳ dữ - nhưng ông ta không phải là hạng nào trong số này. Đơn giản là Thị trưởng cung cấp cho khách hàng cơ hội để theo đuổi tham vọng và dục vọng của họ bất chấp hậu quá, còn việc vốn dĩ con người ai cũng mâc sai lầm thì không phải vãn đề làm ông ta bận tâm.

Mặc kệ việc bị người ta chi trích và phản đối, kim chỉ nam đạo đức của Thị trưởng là một ngôi sao cố định.

- Ông ta tạo dựng danh tiếng và đế chế của mình dựaa— trên hai nguyên tắc vàng.

Không bao giở đưa ra lời hứa nếu không thể giữ lời.

Và không bao giờ nói dối khách hàng.

Chưa từng.

Trong sự nghiệp của mình, Thị trưởng chưa bao giờ thất hứa hay vi phạm thỏa thuận làm ăn. Lời nói của ông ta có thế đem thế chấp Ngân hàng được - một Trong sự nghiệp của mình, Thị trưởng chưa bao giờ thãt hứa hay vi phạm thỏa thuận làm ăn. Lời nói của ông ta có thế đem thế chấp Ngân hàng được - một vật bảo đảm tuyệt đối - và mặc dù chắc chắn có những hợp đồng ông ta lây làm tiếc vì đã thực hiện nhưng nuõt lời trước những hợp đồng đó chưa bao giờ là lựa chọn của ông ta cả.

Sáng hôm nay, khi bước ra ban công phòng ngủ trên du thuyên của mình, Thị trưởng phóng tầm mắt vê —Phía măt hiển đang nổi sóng và cố gắng xua đi mối băn khoăn đang cuộn lên trong long.

 Những quyết định trong quá khứ chính là các kiến trúc sư cho hiện tại của chúng ta.

Những quyết định trong quá khứ của Thị trưởng đã giúp ông ta luôn giành thế chủ động trong bãt kì hoàn cảnh khó khăn nào và thoát ra ở thê thượng phong. Tuy nhiên, ngày hôm nay, lúc nhìn qua cửa sổ vê phía những ánh đèn của lục địa phía xa, ông ta lại cảm thây bức bôi lạ thường.

—Một năm trước cũng trên chính con tàu này ông ta đã có một quyết định mà những dây mơ rễ má lằng nhằng của nó giờ đây đang đe dọa lật tung mọi thứ ông ta từng xây dựng. Ta đã đồng ý cung cấp dịch vụ cho nhầm người mãt rồi. Thời điểm đó, Thị trưởng không có cách nào biết được đều ấy, và lúc này việc tính toán sai lần đó kéo theo cả chuỗi thách thức chưa từng có, buộc ông ta phải phái một số đặc  vụ ngoại tuyến giỏi nhất của mình "vào trận", với mệnh lệnh "làm bãt cứ việc gì cần thiết" để giữ con thuyền đang chao đảo của ông ta không bị lật úp.

Lúc này, Thị trưởng đang đợi nghe tin từ một đặc vụ rất đặc biệt.

Vayentha, ông ta nghĩ thầm, nhớ tới hình ánh một chuyên gia đầu đinh rắn rỏi. Vayentha, người luôn phục vụ ông ta đâu ra đấy cho tới sứ mệnh lần này tôi qua cô ta đã phạm một sai lầm với những hậu quả kinh khủng. Sáu tiếng qua quả là một cuộc ganh đua quyết liệt, một nỗ lực tuyệt vọng nhằm tái kiểm soát tình hình.

Vayentha nói cô ta phạm lỗi chỉ đơn giản là do không may mán - con chim cất tiếng kêu không đúng lúc.

Tuy nhiên, Thị trưởng không tin vào may rủi. Mọi việc ông ta làm đều được sắp xếp để loại bỏ yếu tố ngẫu nhiên và may rủi. Quyền kiểm soát là chuyên môn cùa Thị trưởng - tiên liệu mọi khả năng dự đoán mọi phản ứng, và nhào nặn thực tiễn theo đúng kết quả mong muốn, ông ta có hồ sơ không tì vết về những phi vụ thành công và kín tiếng, cùng một danh sách khách hàng quen thân đáng nể - những tủ phú, chính trị gia, tộc trưởng Hồi giáo, và thậm chí các nhân viên Chính phủ.

Phía đông, quầng sáng nhờ nhờ đầu tiên của buổi sớm bắt đầu nuốt chửng những vì sao thấp nhất ở đường chân trời. Thị trưởng đứng trên sàn tàu và kiên nhẫn đợi Vayentha thông báo rằng sứ mệnh của cô ta đã tiên triển đúng như kẽ hoạch.

Chương 4:

Trong khoảnh khắc, Langdon cảm thấy như thể thời gian ngừng lại.

Bác sĩ Marconi nằm bất động trên sàn, máu tuôn ra từ ngực ông. Langdon cố cưỡng lại tác dụng của thuốc an thần trong cơ thể, ngước mắt nhìn lên kẻ ám sát đầu đinh lúc này vẫn đang sải bước ngoài hành lang, băng qua nốt mấy thước cuối cùng để tiếp cận khuôn cửa bỏ ngỏ vào phòng anh, Khi gần đến ngưỡng cửa, ả nhìn về phía Langdon và lập tức chĩa vũ khí về hướng anh...nhắm thẳng vào đầu.

Mình sắp chết, Langdon nhận ra như vậy. ở đây và ngay lúc này.

Một tiếng đập chát chúa vang lên trong phòng bệnh chật hẹp.

Langdon giật nảy, chắc chắn anh đã bị va đập, nhưng tiếng ồn đó không phải là tiếng súng của kẻ tấn công. Thay vào đó, tiếng đập ấy là tiếng đóng cảnh của thép nặng nề của phòng bệnh khi bác sĩ Brooks lao người vào cửa và xoay ổ khóa.

Đôi mắt dại đi vì sợ hãi, bác sĩ Brooks lập tức thụp xuống bên cạnh người đồng nghiệp đẫm máu của mình, cố gắng bắt mạch. Bác sĩ Marconi thổ ra một búng

máu, tràn dọc từ má xuống bộ râu dày. Rồi ông lả đi.

"Enrico, đừng! Xin anh!", cô kêu lên.

Bên ngoài, cả loạt đạn nổ chát chúa nhằm vào lớp vỏ kim loại phía ngoài ô cửa. Tiếng chuông báo động vang lên khắp hành lang.

Bằng cách nào đó, cơ thể Langdon hoạt động trở lại, hoảng hốt và đầy bản năng, lấn át tác dụng của thuốc an thần. Trong lúc lóng ngóng leo ra khỏi giường, một cảm giác đau như phải bỏng xé qua cánh tay phải của anh. Trong khoảnh khắc, Langdon nghĩ một viên đạn đã xuyên qua cửa và trúng anh, nhưng khi nhìn xuống, anh nhận ra cây kim truyền vừa bung khỏi mình. Đường ống nhựa thòi ra từ một cái lỗ trên cánh tay, và dòng máiu nóng hổi đang chảy ngược ra khỏi ống.

Giờ thì Langdon hoàn toàn tỉnh táo.

Bác sĩ Brooks vẫn quỳ sụp bên cạnh xác Marconi, cố bắt mạch cho ông, nước mắt không ngừng trào ra. Sau đó, như thế có một công tắc vừa nhảy bên trong, cô đứng lên và quay lại phía Langdon. Vẻ mặt cô biến đổi ngay trước mắt anh, những nét trẻ trung như đanh lại với tất cả vẻ điềm tĩnh của một bác sĩ cấp cứu dày dạn đang phải xử lý một tình huống khủng hoảng.

"Theo tôi", cô ra lệnh.

Bác sĩ Brooks nắm lấy tay Langdon và kéo anh băng qua phòng. Tiếng súng và tình trạng hỗn loạn vẫn tiếp tục trong hành lang khi Langdon lảo đảo bước đi trên đôi chân còn chưa vững. Đầu óc rất tỉnh táo nhưng cơ thế nặng như đeo đá c ủa anh lại phản ứng rất chậm. Đi nào! Sàn nhà lát đá hoa lạnh ngắt dưới gan bàn chân, và bộ quần áo bệnh viện mỏng manh không đủ dài để che kín thân hình hổn 1m80. Anh có thế cảm nhận được máu đang trào ra từ cánh tay và chảy xuống bàn tay mình.

Đạn vẫn tiếp tục bay tới ổ khóa nặng nề, bác sĩ Brooks đẩy vội Langdon vào một phòng tắm nhỏ. Cô định vào theo thì chợt dừng lại, nhìn xung quanh rồi chạy trớ lại phía quầy nhặt lấy chiếc áo hiệu Harris Tweed đẫm máu của anh.

cứ mặc xác cái áo khoác chết tiệt của tôi đi!

Cô quay lại, tay khư khư chiếc áo khoác và nhanh nhẹn khóa cửa phòng tắm.

Vừa lúc, cánh cửa phòng ngoài bật tung.

Cô bác sĩ trẻ đã nắm quyền kiếm soát. Cô bước vội qua gian phòng tắm nhỏ tới ô cửa thứ hai, giật tung ra và dẫn Langdon vào phòng hồi sức liền kề. Tiếng súng vang lên phía sau họ khi bác sĩ Brooks ghé đầu ra ngoài hành lang, nhanh chóng kéo tay Langdon và lôi anh băng ngang hành lang lọt vào khu vực cầu thang. Cử động đột ngột làm Langdon chóng mặt, anh cảm thấy có thế bất tỉnh bất kỳ lúc nào.

Mười lăm giây tiếp theo là tình trạng mờ nhòe...đi xuống cầu thang...trượt chân... ngầ. Cơn giật giật trong đầu Langdon gần như không thế chịu nổi. Thị lực của anh lúc này dường như còn mờ nhòe hơn, các cơ bắp rã rời, mỗi cử động đều có cảm giác như một phản ứng rất chậm trễ.

Và lúc này khi trời lạnh hẳn lên.

Mình đã ra ngoài.

Khi bác sĩ Brooks đẩy anh rời xa khỏi tòa nhà dọc theo một con hẻm tối om, Langdon giẫm phải thứ gì đó sắc cạnh và ngã chúi xuống, đập mạnh vào vỉa hè. Cô cố gắng giúp anh đứng dậy, miệng rủa thành tiếng chuyện anh vẫn chịu tác động của thuốc an thần.

Khi họ tới gần cuối hẻm, Langdon lại vấp lần nữa. Lần này cô để mặc anh nằm trên đất, chạy băng ra phố và thét gọi ai đó ớ phía xa. Langdon có thế nhận ra ngọn đèn màu xanh lục nhòe nhòe của một chiếc taxi đỗ ngay phía trước bệnh viện. Chiếc xe không hề di chuyến, rõ ràng người lái xe đang say ngủ. Bác sĩ Brooks hét to và khua khoắng tay. Cuối cùng, đèn pha taxi bật lên và xe chầm chậm lăn bánh về phía họ.

Trong hẻm phía sau Langdon, có tiếng cánh cửa bật tung, tiếp theo là tiếng những bước chân đang tiến đến rất gấp gáp. Anh ngoảnh lại và nhìn thấy cái bóng đem thẫm đang lao vọt về phía mình. Langdon cố gắng đứng dậy, nhưng cô bác sĩ đầ ôm lấy anh, đẩy anh vào ghế sau của chiếc taxi hiệu Fiat. Anh buông nửa người trên ghế, nửa trên sàn xe trong khi bác sĩ Brooks chồm lên, dùng tay giật cho cửa đóng lại.

Người tài xế ngái ngủ ngoái lại và trợn mắt nhìn cặp đôi kỳ quặc vừa chen lên xe

mình - một phụ nữ tóc đuôi ngựa trẻ trung mặc quần áo bác sĩ và một người đàn ông mặc đồ bệnh nhân với cánh tay chảy máu. Anh ta sắp lên tiếng yêu cầu họ cuốn xéo ra khỏi xe thì gương bên sườn xe vồ tan. Người phụ nữa mặc đồ da đen chạy phăm phăm ra khỏi hẻm, tay chĩa súng. Khẩu súng ngắn của ả lại nhả đạn lần nữa vừa lúc bác sĩ Brooks nhấn đầu Langdon xuống. Cửa sổ sau vỡ tan, mảnh kính rơi xuống người họ rào rào.

Người lái xe không cần ai thúc giục thêm. Anh ta đạp mạnh chân ga, chiếc taxi phóng vọt đi.

Langdon vẫn trong trạng thái lơ mơ. Ai đó đang tìm cách giết mình ư?

Khi họ đã ngoặt qua góc đường, bác sĩ Brooks ngồi dậy và nắm lấy cánh tay chảy máu của Langdon. Đường ống nhựa thò ra từ cái lỗ trên da thịt anh.

"Nhìn ra ngoài cửa đi", cô ra lệnh.

Langdon tuân theo. Bên ngoài, những tấm bia mộ ma quái vùn vụt trôi qua trong bóng tối. Dường như họ đang băng qua một nghĩa địa. Langdon cảm thấy những ngón tay của cô bác sĩ nhẹ nhàng nắm lấy ống nhựa và sau đó, không hề báo trước, cô giật mạnh ra.

Một cơn đau buốt chạy thẳng lên đầu Langdon. Anh cảm thấy mắt mình mờ đi, và sau đó mọi thứ tối đen.

Chương 5:

Tiếng chuông điện thoại vang lên khiến Thị trưởng rời mắt khỏi màn sương êm đềm trên biển Adriatic, ông ta nhanh nhẹn bước vào văn phòng riêng.

Rất đúng lúc, ông ta nghĩ, vẻ háo hức chờ đợi tin báo.

Màn hình máy tính trên bàn làm việc của ông ta chớp chớp bật lên, thông báo rằng cuộc gọi đến từ một điện thoại mã hóa giọng nói cá nhân hiệu Sectra Tiger XS của Thụy Điển, đã được gửi lại qua bốn thiết bị tiếp sóng không thể truy ra dấu vết trước khi kết nối vào tàu của ông ta.

Ông ta nhấc ống nghe. "Thị trưởng đây", ông ta trả lời, chậm rãi và cấn trọng. "Nói đi!"

"Tôi Vayentha đây", giọng bên kia đáp lại.

Thị trưởng cảm nhận rõ sắc thái bồn chồn khác thường trong ngữ điệu của ả.

Các đặc vụ hiếm khi trực tiếp nói chuyện với Thị trưởng, và hiếm khi vẫn được làm việc cho ông ta sau một thất bại giống như tối qua. Tuy nhiên, Thị trưởng đã yêu cầu một đặc vụ tại đó giúp khắc phục biến cố, và Vayentha là người thích

hợp nhất cho công việc này.

"Tôi có tin mới", Vayentha nói.

Thị trưởng im lặng, cảm nhận của ông ta về ả vẫn nguyên vẹn.

Khi ả nói, ngữ điệu hoàn toàn vô cảm, thể hiện rõ một cố gắng ở tầm cổ chuyên gia. "Langdon đã trốn thoát", cô ta nói. "Anh ta có người."

Thị trưởng ngồi xuống mặt bàn và im lặng một lúc khá lâu. "Hiểu", cuối cùng ông ta nói. "Tôi cho rằng anh ta sẽ tìm tới cơ quan chức năng sớm nhất có thể."

Phía dưới Thị trưởng hai tầng, ở trung tâm kiếm soát an ninh của con tàu chuyên gia điều phối cao cấp Laurence Knowlton ngồi trong buồng      nhận   ra cuộc gọi mã hóa của Thị trưởng đã

chấm dứt. Anh ta hy vọng tin tốt lành, vẻ căng thăng của Thị trưởng thấy rất rõ suốt hai ngày qua, và mọi nhân viên điều hành trên tàu đều cảm thấy chắc chắn có một tác vụ rất quan trọng nào đó đang diễn ra.

Nguy cơ đang quá cao, và tốt hơn cả là lúc này Vayentha thu xếp ổn thỏa.

Knowlton đã quen với việc hỗ trợ những kế hoạch được xây dựng kỹ lưỡng, nhưng riêng kịch bản này lại chẳng đi đến đâu, và Thị trưởng phải đích thân tham chiến.

Chúng ta đã tiến vào một lãnh thổ chưa có tên trên bản đồ.

Mặc dù có đến nửa tá nhiệm vụ khác đang được tiến hành trên khắp thế giới, n hưng tất cả đều do những văn phòng ngoại tuyến khác nhau của Consortium thực hiện, giúp Thị trưởng và bộ sậu của ông ta trên con tàu The Mendacium rảnh rang tập trung vào sứ mệnh này.

Khách hàng của họ đã nhảy lầu tự sát vài ngày trước tại Florence, nhưng Consortium vẫn còn nợ người đó vô số công việc - những nhiệm vụ cụ thế người ấy đã giao phó cho tổ chức này bất kế tình hình thế nào - và Consortium lúc nào cũng vậy, phải tuân thủ mà không được nghi vấn gì cả.

Mình cũng nhận được mệnh lệnh, Knowlton nghĩ thầm, và hoàn toàn chấp hành. Anh ta ra khỏi gian buồng lắp kính chống đạn của mình, đi bộ qua mấy buồng nữa - một số nhìn xuyên qua được, một số lắp kính mờ - nơi các nhân viên tác vụ đang xử lý các mảng khác nhau của cùng nhiệm vụ này.

Knowlton bước qua lớp không khí điều hòa của phòng điều khiến chính, gật đầu với tốp kỹ thuật, và bước vào một khoang nhỏ có lối đi riêng cất giữ hơn chục cái két. Anh ta mở một cái két và lấy những thứ bên trong ra - lần này, chỉ là một thẻ nhớ màu đỏ thẫm. Theo miếng giấy ghi nhiệm vụ đính kèm, thẻ nhớ này chứa một tệp video lớn, vị khách hàng đã chỉ đạo họ chuyến cho các cơ quan truyền thông lớn vào một thời điếm cụ thế lúc sáng mai.

Việc gửi tệp ẩn danh vào sáng mai rất đơn giản, nhưng theo quy trình chung cho tất cả các tệp số hóa, lưu đồ đã đánh dấu tệp này cho mục duyệt lại ngày hôm nay - hai mươi tư tiếng trước khi gửi - để đảm bảo Consortium có đủ thời gian thực hiện bất kỳ quy trình giải mã, biên soạn cần thiết nào, hoặc những bước chuẩn bị quan trọng khác trước khi chuyến tệp vào đúng thời điếm.

Loại trừ hết mọi may rủi.

Knowlton quay lại gian buồng trong suốt của mình và đóng cánh cửa kính nặng nề lại, tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài.

Anh ta bật công tắc trên tường, gian buồng lập tức trở nên mờ đục. Đế đảm bảo tính bảo mật, tất cả các buồng vách kính trên tàu The Mendacium đều được tạo bằng loại kính SPD thông minh. Độ trong suốt cửa kính được kiếm soát dễ dàng bằng cách vận hành hoặc loại bỏ một dòng điện, giúp điều chỉnh thẳng hàng hoặc làm lộn xộn hàng triệu phân tử hình que nhỏ xíu lơ lửng trong tấm kính.

Chia thành từng ngăn là một nền tảng trong Consortium.

Chỉ biết nhiệm vụ của mình. Không chia sẻ gì hết.

Lúc này, Knowlton ngồi gọn trong không gian riêng, cắm thẻ nhớ vào máy tính và chọn tệp để bắt đầu công việc thẩm định.

Lập tức màn hình của anh ta chuyến sang màu đen...và loa bắt đầu phát ra những âm thanh khe khẽ của nước chảy. Một hình ảnh từ từ xuất hiện trên màn hình...không có hình dạng xác định và lờ mờ. Từ trong nền tối dần định hình một khung cảnh...bên trong một hang đá...hay gian buồng rất lớn. Nền không gian đó là nước, giống như một cái hồ ngầm. Điều rất lạ là nước có vẻ được chiếu sáng...

Trong khi âm thanh nước chảy vẫn tiếp tục, máy quay bắt đầu lia xuống dưới hà hạ thấp dần theo chiều dọc, hướng thẳng tới mặt nước được chiếu sáng rồi lao xuyên qua. Tiếng nước róc rách biến mất, thay bằng tiếng óc ách rất lạ phía dưới. Giờ thì máy quay đã chìm nghỉm, tiếp tục tiến xuống, di chuyến vài thước trong nước rồi dừng lại, lấy nét vào phần nền hang phủ đầy bùn đất.

Trên nền có bắt vít một tấm biến hình chữ nhật bằng titan tỏa ánh sáng lờ mờ.

Tấm biến có dòng chữ khắc.

TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY,

THẾ GIỚI THAY ĐỒI MÃI MÃI.

Phần dưới tấm biến có khắc một cái tên và ngày tháng.

Đó là tên vị khách hàng của họ.

Ngày tháng...chính là ngày mai.

Chương 6

Lúc này Langdon cảm thấy có bàn tay rắn chắc nâng anh dậy...lay anh tỉnh cơn mê rồi giúp anh ra khỏi taxi. Anh cảm thấy vỉa hè lạnh ngắt bên dưới hai bàn chân trần.

Được thân hình mảnh mai của bác sĩ Brooks dìu đỡ, Langdon bước lảo đảo dọc theo lối đi vắng vẻ giữa hai tòa nhà. Không khí buổi sớm mai làm chiếc áo bệnh nhân của anh căng phồng, và Langdon cảm thấy lạnh ở những chỗ anh biết lẽ ra không cảm nhận được.

Thuốc an thần anh uống khi còn ở bệnh viện khiến cho cả suy nghĩ và thị lực của anh đều nhạt nhòa, mờ mịt. Langdon cảm thấy như đang ở dưới nước, cố gắng quờ quạng tìm lối thoát trong một thế giới lờ mờ, nhớp nháp. Bác sĩ Brooks vẫn xốc anh đi tới, dìu anh bằng một sức mạnh kinh ngạc.

"Cầu thang", cô nói, và Langdon nhận ra họ đã tới lối vào bên hông một tòa nhà.

Langdon bám lấy tay vịn và cố lê bước leo lên trong trạng thái chóng mặt, mỗi bước phải mất một lúc khá lâu. Cớ thể anh nặng trịch. Giờ thì bác sĩ Brooks phải đấy anh. Khi họ lên được chiếu nghỉ, cô bấm vài con số trên một phím khóa cũ rỉ

sét và cánh cửa xè xè mở ra.

Không khí bên trong không ấm hơn là bao, nhưng so với vỉa hè gồ ghề bên ngoài, nền gạch lát dưới lòng bàn chân anh lúc này giống như tấm thảm mềm. Bác sĩ Brooks dẫn Langdon tới một thang máy nhỏ và giật mạnh cửa sập, kéo anh vào trong buồng thang chỉ bằng cố một quầy điện thoại. Không khí bên trong có mùi thuốc lá MS - một mùi hương ngòn ngọt pha chút đắng thường gặp ở Ý, không khác gì mùi café espresso. Thứ mũi đó giúp đầu óc  Langdong tinh táo chút ít. Bác sĩ Brooks nhãn nút, và đâu đó phía trên đầu họ, bánh răng rệu rạo bắt đầu uể oải vận hành.

Dịch chuyển lên trên

Buồng thang máy lắc lư và rung bần bật khi kẽo kẹt chạy lên trên. Vì bốn vách chỉ toàn những tấm kim loại nên Langdon nhìn rõ không gian bên trong đường ống thang máy lướt đều đều trước mắt. Cho dù vẫn đang trong trạng thái nửa tinh nửa mê, cảm giác sợ hãi muôn thưở của Langdon đối với những không gian khép kín vẫn nguyên vẹn và rõ rệt.

Đừng nhìn!

Anh dựa vào vách, cố gắng lấy lại nhịp thở. Trán anh đau nhói, và khi nhìn xuống dưới, anh thấy ống tay áo Harris Tweed của mình được buộc vội vàng quanh cánh tay giống như một dải băng. Phần còn lại của áo khoác kéo lê phía sau anh, ngay trên mặt đất, te tua và bẩn thỉu.

Anh nhắm mắt lại để cố chống chọi với cơn đau như búa bổ ở đầu, nhưng bong tối lại nhấn chìm anh lần nữa.

Một hình ảnh quen thuộc hiện ra - người phụ nữ che mạng đẹp như tượng với chiếc bùa và mái tóc bạch kim tết thành từng lọn quăn. Như lần trước, bà ấy đứng trên bờ dòng sông máu với những xác người quằn quại vây quanh. Bà nói với Langdon, giọng nài nỉ.

Hãy tìm kiếm và sẽ thấy!

Langdon cảm giác rất rõ ràng là phải phải cứu bà ấy...cứu tất cả bọn họ. Những đôi chân chống ngược lên trời, đã bị vùi lấp một nửa, cứ lần lượt theo nhau... mềm oặt xuống.

Bà là ai? Anh cố gắng gọi trong lặng câm. Bà muốn điều gì?!

Mái tóc bạch kim bắt đầu lòa xòa bay trong gió nóng rực. Thời gian của chúng ta

đang cạn dần, bà ấy thì thào, tay chạm vào chiếc vòng cổ có gắn bùa. Rồi đột ngột bà ấy nổ tung thành một cột lửa chói lòa, lan nhanh qua dòng sông, bao bọc lấy bọn họ.

Langdon hét lên, mở choàng mắt ra.

Bác sĩ Brooks nhìn anh lo lắng, "Sao vậy?"

"Tôi cứ bị ảo giác!", Langdon kêu lên. "vẫn là cảnh tượng ấy."

"Người phụ nữ tóc bạc ư? Và toàn những xác chết phải không?"

Langdon gật đầu, mồ hôi đọng thành giọt trên trán anh.

"Anh sẽ ổn thôi", cô trấn an anh, mặc dù chính giọng cô cũng run run. "Những hình ảnh xuất hiện đi xuất hiện lại là điều thường thấy với chứng mất trí. Chức năng não bộ giúp sắp xếp và phân loại ký ức của anh nhất thời bị chấn động, và vì thế nó biến mọi thứ thành một hình ảnh duy nhất."

"Không phải là hình ảnh đẹp đẽ cho lắm", anh nói.

"Tôi biết, nhưng cho Tôi khi anh lành bệnh, trí nhớ của anh sẽ lộn xộn và không

được sắp xếp - quá khứ, hiện tại và khả năng tưởng tượng sẽ lẫn lộn với nhau. Tình trạng tương tự cũng xảy ra trong các giấc mơ."

Buồng thang máy lắc lư rồi dừng lại, và bác sĩ Brooks kéo cánh cửa xếp ra. Họ lại đi bộ, lần này dọc một hành lang hẹp, tối om. Họ đi qua một ô cửa sổ, phía bên ngoài bong, các nóc nhà tối thẫm ở Florence bắt đầu hiện rõ trong ánh sáng lúc sắp rạng đông, ở đầu kia hành lang, bác sĩ Brooks quỳ rạp xuống, tìm chìa khóa bên dưới một chậu cây trồng có vẻ thiếu nước và mở một cánh cửa.

Căn hộ rất nhỏ, không khí bên trong rõ ràng có sự tương phản giữa mùi nến hương vanilla và mùi thảm cũ. Đồ đạc và các tác phẩm nghệ thuật trang trí đều giản tiện ở mức tối đa - cứ như thể được bài trí cho một buổi bán đồ cũ vậy. Bác sĩ Brooks điều chỉnh bộ ổn nhiệt, và các lò sưởi bắt đầu hoạt động.

Cô đứng im một lúc và nhắm mắt lại, thở mạnh ra, như để trấn tính. Sau đó cô quay lại và giúp Langdon vào gian bếp nhỏ giản dị, nơi có chiếc bàn bọc formica và hai ghế tựa mỏng manh.

Langdon cố nhích về phía chiếc ghế với hy vọng ngồi xuống đó, nhưng bác sĩ Brooks nắm lấy cánh tay anh và dung tay kia mở một ngăn kéo tủ. Tủ gần như trống không...bánh quy giòn, vài gói mỳ ống, một lon Coke, và một chai Nodoz.

Cô lấy cái chai và đổ sáu viên thuốc vào lòng bàn tay Langdon. "Chất caffeine", cô nói. "Dành cho những lúc Tôi phải làm ca đêm giống như tối nay."

Langdon bỏ thuốc vào miệng và liếc nhìn quanh để tìm nước uống.

"Cứ nhai cả đi", cô nói. "Thuốc sẽ có tác dụng nhanh hơn và giúp khắc chế thuốc an thần."

Langdon bắt đầu nhai và ngay lập tức phải nhăn mặt. Thuốc đắng nghét, rõ ràng là nên nuốt tất tần tật. Bác sĩ Brooks mở tủ lạnh và đưa cho Langdon chai San Pellegrino còn một nửa. Anh uống luôn một hơi dài đầy biết ơn.

Lúc này cô bác sĩ tóc đuôi ngựa mới nắm lấy cánh tay phải của Langdon và gỡ bỏ đoạn băng gạc buộc tạm bằng áo khoác rồi đặt lên bàn bếp. Sau đó cô cẩn thận kiểm tra vết thương. Lúc cô nắm lấy cánh tay trần của anh, Langdon cảm nhận rõ hai bàn tay mảnh mai của cô run run,

"Anh sẽ sống", cô tuyên bố.

Langdon hy vọng cô không sao. Anh có thể hiểu được những gì cả hai người vừa phải chịu đựng. "Bác sĩ Brooks", anh nói, "chúng ta cần gọi cho ai đó. Lãnh sự...cảnh sát. Bất cứ ai".

Cô gật đầu nhất trí. "Mà này, anh có thể thôi gọi Tôi bằng bác sĩ Brooks được rồi - tên Tôi là Sienna".

Langdon gật đầu. "Tôi tên là Robert." Dường như mối quan hệ họ vừa xây đắp được trong quá trình trốn chạy để giữ mạng sống đã giúp họ bảo đảm cho việc tiết lộ tên thật của nhau. "Cô nói cô là người Anh."

"Xét về dòng máu thì đúng."

"Tôi không hề nhận ra tí âm sắc nào."

"Vâng", cô đáp. "Tôi đã phải cố gắng làm mất giọng."

Langdon định thắc mắc tại sao nhưng Sienna đã ra hiệu cho anh đi theo. Cô dẫn anh theo một hành lang hẹp tới buồng tắm nhỏ, tối lờ mờ. Nhờ tấm gương phía trên bồn rửa mặt, Langdon thoáng nhìn thấy được hình ảnh mình, lần đầu tiên kể từ lúc anh thấy nó trong ô cửa sổ phòng bệnh.

Tệ quá. Mái tóc đen rậm của Langdon bết lại, còn đôi mắt thì đỏ ngầu và mệt mỏi. Đám râu ria lởm chởm che kín cả cằm anh.

Sienna vặn vòi nước và hướng dẫn Langdon đưa cánh tay bị thương vào làn nước lạnh như đá. Đau buốt, nhưng anh nhăn mặt cố giữ nguyên tay ở đó.

Sienna lấy một cái khăn rửa mặt còn mới và thấm ít xà phòng sát khuẩn. "Có lẽ anh nên quay mặt đi."

"Không sao đâu. Tôi không ngại chuyện..."

Sienna bắt đầu chà xát rất mạnh, và cơn đâu ghê gớm làm cánh tay Langdon tê dại. Anh nghiến chặt răng để cố không hét lên phản kháng.

"Anh không cần tiêm thuốc", cô nói, chà xát mạnh tay hơn. "Thêm nữa, nếu anh định gọi cho chính quyền, anh sẽ cần cảnh giác hơn lúc này đấy. Không có gì sản sinh ra adrenalin nhiều bằng cơn đau đâu."

Langdon cố gắng chịu đựng chà xát trong khoảng mười giây thì buộc phải giật mạnh tay ra. Đủ rồi! Phải thừa nhận, anh cảm thấy khỏe khoắn và tinh táo hơn, cơn đau ở cánh tay anh lúc này hoàn toàn lấn át cơn đau đầu.

"Tốt rồi", cô nói, tắt vòi nước và thấm khô cánh tay anh bằng một chiếc khăn sạch. Sau đó Sienna dán một miếng băng gạc lên tay anh, nhưng khi cô làm việc đó, Langdon phát hiện ra một chi tiết khiến anh bị sao nhãng - một điều khiến anh rất không vui.

Trong suốt gần bốn mươi năm, Langdon luôn đeo chiếc đồng hồ Chuột Mickey cổ lỗ sĩ chỉ dân sưu tầm đồ cổ mới mua, một món quà của ba mẹ anh. Gương mặt mỉm cười và đôi tay vẫy lia lịa của Mickey luôn là thứ hằng ngày nhắc nhở anh thường xuyên cười và đón nhận cuộc sống nhẹ nhàng hơn.

"Đồng hồ...của Tôi", Langdon lắp bắp, "Mất rồi!". Không có nó, anh bỗng thấy thiếu vắng. "Lúc đến bện viện Tôi có đeo nó không?"

Sienna ném về phía anh cái nhìn ngờ vực, rõ ràng thắc mắc tại sao anh lại có thể lo lắng về một thứ tầm thường như vậy. "Tôi không nhớ anh có cái đồng hồ nào cả. Anh lau sạch người đi. Tôi sẽ quay lại sau mấy phút và chúng ta sẽ nghĩ cách tìm kiếm trợ giúp cho anh". Cô quay đi, nhưng dừng lại ở ngưỡng cửa, nhìn thẳng vào mắt anh trong gương. "Và trong lúc Tôi đi, Tôi khuyên anh nên suy nghĩ xem tại sao lại có người muốn giết anh. Tôi đoán đó sẽ là câu hỏi đầu tiên chính quyền đặt ra."

"Đợi đã, cô định đi đâu?"

"Anh không thể cứ cởi trần như thế mà nói chuyện với cảnh sát được. Tôi sẽ đi tìm một ít quần áo cho anh. Hàng xóm của Tôi cũng bằng cỡ anh, ông ấy đi vắng, và Tôi cho mèo của ông ấy ăn. Ông ấy nợ Tôi."

Nói xong, Sienna bỏ đi.

Robert Langdon quay lại tấm gương nhỏ phía trên bồn rửa mặt và nhận ra ngay người đang đăm đăm nhìn lại mình. Có ai đó muốn mình phải chết. Anh lại nghe thấy những tiếng lầm bầm lúc mê sảng của mình vang lên trong tâm trí.

Rất xin lỗi. Rất xin lỗi.

Anh soát lại ký ức để nhớ lại chút gì đó..-bất kỳ điều gì, song chỉ thấy trống rỗng. Tất cả những gì Langdon biết là anh đang ở Florence và bị một vết thương ở đầu do đạn bắn.

Lúc đăm đăm nhìn vào đôi mắt mệt mỏi của chính mình, Langdon lờ mờ tự hỏl liệu có khi nào anh choàng tinh trên chiếc ghế đọc sách ở nhà, chộp lấy một ly martini đã cạn và quyển Những linh hồn chết, chỉ để nhắc mình nhớ rằng không bao giờ nên trộn lẫn rượu Bombay Sapphire với Gogol.

Chương 7:

Langdon lột bỏ chiếc áo choàng bệnh viện loang máu và quấn khăn tắm quanh hông. Sau khi vả nước lên mặt, anh cẩn thận sờ những mũi khâu ở phía sau đầu. Phần da rất đau, nhưng khi anh vuốt phần tóc bết lại che lên chỗ đó, vết thương gần như biến mất. Mấy viên caffeine đang phát huy tác dụng , và cuối cùng anh cảm thấy màn sương bắt đầu tan.

Nghĩ xem Robert. Hãy cố nhớ xem!

Buồng tắm không có cửa sổ đột nhiên giống như một buồng giam kín, Langdon bước ra hành lang, theo bản năng lần về phía cột sáng tự nhiên phát ra qua một cách cửa mở hé mé bên kia. Căn phòng giống như một nơi ngồi học tạm bợ, với cái bàn rẻ tiền, cái ghế quay đã cũ, những quyển sách được phân loại vút trên sàn, và thật mừng...có cả một ô cửa sổ.

Langdon tiến về phía có ánh sáng ban ngày.

ở phía xa, phần mặt trời xứ Tuscany nhô lên chỉ vừa bắt đầu chạm đến những

ngọn tháp cao nhất của thành phố đang tỉnh giấc- lầu chuông,        tháp Tu viện

Badia, tháp Bảo tàng Bargello. Langdon tì trán lên ô kính mát lạnh. Không khí tháng Ba hanh và lạnh, càng làm ánh sáng mặt trời lúc này đã len lỏi đến các sườn đồi thêm mạnh mẽ.

Ánh sáng của người họa sĩ, người ta gọi nó như vậy.

ở trung tâm đường chân trời, một mái vòm khổng lồ lợp ngói đó vươn lên sừng

sững, trên đỉnh trang trí một quả cầu bằng đồng mạ vàng lóa sáng như đèn hiệu, vương cung Thánh đường Brunelleschi* đã tạo nên lịch sử kiên trúc bằng

việc kiên tạo mái vòm khổng lồ của Thánh đường, và giờ đây, hơn năm trăm năm sau, công trình cao hơn một trăm mười bốn mét ây vẫn đứng vững, một công trình khổng lồ bất di bất dịch trên nền Quảng trường Nhà thờ lớn - Quảng trường Duomo.

Tại sao mình lại ở Florence?

*Filippo Brunelleschi ( 1377- 1446 ) là một trong những kiến trúc sư và kỹ sư hàng đâu của thời Phục Hưng Ý. ông nôi tiêng nhât với việc phát hiện ra luật xa gần ( phối cánh ) cũng như kiên tạo mái vòm vương cung Thánh đường Florence. Ông cũng có nhiều thành tựu về kiên trúc, điêu khăc, toán học và cả thiêt kê tàu.

Với Langdon, một người suốt đời đam mê nghệ thuật Ý, Florence đã trở thành một trong những điểm đên yêu thích của anh ở châu Âu. Đây là thành phô nơi Michelangelo từng chơi đùa trên đường phô khi còn nhỏ, và nơi trào lưu Phục Hưng Ý được khởi xướng trong những xưởng nghệ thuật. Đây là Florence, với những phòng trưng bày thu hút hàng triệu du khách đên đê chiêm ngưỡng bức Thân Vệ Nữ chào đời của Botticelli, Li truyền tin của Leonardo, và niềm tự hào của thành phố - bức tượng David.

Langdon đã bị bức tượng David của Michelangelo hút hồn ngay lần đầu tiên nhìn thấy tác phẩm lúc còn niên thiếu...khi bước vào Học viện Mỹ thuật ( Accademia delle Belle Arti )...chầm chậm đi qua phòng trưng bày Prigioni* tối mờ còn nguyên sơ của Michelangelo... Và sau đó cảm thấy ánh mắt mình bị kéo lên trên, không cưõng được, vẽ phía kiệt tác cao hơn năm mét. Vóc dáng hoàn hảo và hệ cơ bắp tuyệt vời của David khiến hầu hết du khách lần đầu đến thăm đều phải giật mình, nhưng với Langdon, chính tư thế của David mới là điều khiến anh thấy. Michelangelo đã phát huy truyền thống tương phản kinh điển để tạo ra ảo giác rằng David đang nghiêng về bên phải, chân trái gần như không chịu lực, trong khi thực tế chân trái của tượng lại chống đỡ hàng tấn đá cẩm thạch.

Tượng David đã thắp lên trong Langdon nhận thức đầu tiên về sức mạnh của nghệ thuật điêu khắc. Lúc này, Langdon băn khoăn liệu mình có tới thăm kiệt tác này trong mấy ngày qua, nhưng ký ức duy nhất anh có thể nhớ được là tỉnh dậy trong bệnh viện và nhìn thấy vị bác sĩ vô tội bị sát hại ngay trước măt mình. Rất xin lỗi. Rất xin lỗi.

Cảm giác tội lỗi khiến anh thấy buồn nôn. Mình đã làm gì?

Lúc đứng bên cửa sổ, tầm nhìn ngoại biên của anh vẫn nhận ra hình dáng một máy tính xách tay để trên bàn bên cạnh mình. Langdon đột nhiên nhận ra rằng, bất kỳ chuyện gì xảy ra với anh tối qua cũng đều có thể được đưa tin.

Nếu có thể truy cập Internet, mình sẽ tìm ra câu trả lời.

Langdon ngoảnh về phía cửa sổ và gọi to: "Sienna!".

Im lặng. Cô ây vẫn ở bên căn hộ của ông hàng xóm và tìm kiếm quần áo.

Tin chắc Sienna sẽ thông cảm cho hành vi xâm nhập máy tính, Langdon mở máy và bấm nút nguồn.

*Prigioni ( Tù nhân ) là tên gọi gian trưng bày bốn tác phẩm điêu khắc ( Quattro Prigioni) của Michelangelo, vốn ban đầu được làm cho mộ của Giáo hoàng Julius II. Sở dĩ có tên gọi này là vì các nhân vật trong tác phâm như đang cố gắng thoát ra khỏi khối đá cẩm thạch tạc họ. Michelangelo mất khi chưa kịp hoàn thành chúng, ở đây còn có tượng Thánh Metthew cũng của Michelangelo và các bức vẽ của những họa sỹ cùng thời với Michelangelo, như Ghirlandaio và Andrea del Sarto.

Màn hình nền của Sienna nhấp nháy – vẫn là nền "mây xanh dương" căn bản của Windows. Langdon lập tức vào trang tìm kiếm Google phiên bản Ý và gõ dòng chữ Robert Langdon,

Giá mà sinh viên của mình có thể nhìn thấy mình lúc này, anh nghĩ trong lúc bắt đầu tìm kiếm. Langdon thường xuyên phê bình sinh viên về việc Google chính bản thân họ - một trò rỗi hơi kỳ quặc mới cho thấy nỗi ám ảnh về danh tiếng cá nhân hiện có vẻ thịnh hành trong giới trẻ Mỹ.

Một trang kết quả tìm kiếm xuất hiện - hàng trăm đầu mục có liên quan đên Langdon, sách và các bài giảng của anh. Không phải thứ mình tìm kiếm.

Langdon thu hẹp phạm vi tìm kiếm bằng cách chọn nút thời sự.

Một trang mới xuất hiện: Kết quả tin tức cho "Robert Langdon".

Ký tặng sách: Robert Langdon sẽ xuất hiện...

Robert Langdon xuất bản sách nhập môn vê Biểu tượng cho...

Bản danh sách dài vài trang, và Langdon chẳng thấy gì gần đây – chắc chắn không có gì giúp giải thích tình huống khó chịu hiện nay của anh. Chuyện gì xảy ra tối qua? Langdon tiếp tục truy cập vào trang web The Florentine, một tờ báo tiếng Anh xuất bản tại Florence. Anh lướt qua các nhan đề, các mục tin nóng, và chuyên trang của cảnh sát, chỉ tìm thấy những bài viết về một vụ cháy chung cư, một vụ thụt két Chính phủ, và những vụ phạm tội vặt đã được sàng lọc.

Chẳng có gì sao?!

Anh dừng lại ở đoạn tin nóng về một quan chức thành phố chết vì đột quỵ đêm qua tại quảng trường bên ngoài nhà thờ lớn. Tên của vị quan chức chưa được công bố, nhưng cũng chưa có hành động tội ác nào bị tình nghi.

Cuối cùng, chẳng biết làm gì khác, Langdon đăng nhập vào tài khoản thư điện tử trường Harvard và kiểm tra tin nhắn, băn khoăn liệu mình có thể tìm được câu trả lời ở đó hay không. Tất cả những gì anh tìm được là cả chuỗi thư từ các đồng nghiệp, sinh viên, và bạn bè, rất nhiều thư trong số đó đề cập những cuộc hẹn gặp trong tuần tới.

Có vẻ như chẳng có ai biết mình biến mất.

Langdon tắt máy tính và đóng màn hình lại, tâm trạng càng lúc càng không chắc chắn. Anh định rời đi thì một thứ đập vào măt. Ở góc bàn của Sienna, trên chồng tạp chí và tài liệu y khoa cũ, có một bức ảnh chụp lấy ngay. Bức ảnh ghi lại hình ảnh Sienna Brooks và vị bác sĩ đồng nghiệp có râu của cô đang cười với cô trong một hàng lang bệnh viện.

Bác sĩ Marconi, Langdon nghĩ, lòng cảm thấy có lỗi khi anh nhặt tấm ảnh lên xem.

Lúc đặt tấm ảnh trở lại chồng sách, anh ngạc nhiên nhận ra cuốn sách nhỏ màu vàng trên cùng - một quyển chương trình biểu diễn đã cũ của Nhà hát Langdon Globe. Theo tờ bìa, đây là tác phẩm Giấc mộng đêm hè của Shakespeare...được dàn dựng gần hai mươi lăm năm trước...

Trên quyển chương trình là một lời nhắn viết tay nguệch ngoạc bằng bút viết bản Magic Marker: Em yêu, đừng bao giờ quên em là một phép màu.

Langdon nhặt quyển chương trình lên, và một tập bài báo đã được cắt rời rơi xuống mặt bàn. Anh vội vàng sắp xếp lại, nhưng khi mở đến trang kẹp tập bài báo, anh sững lại.

Anh đăm đăm nhìn bức ảnh chụp diễn viên nhí đóng vai nhân vật tiểu yêu Puck ranh mãnh Shakespeare. Bức ảnh có hình một bé gái chưa tới năm tuôi, với mái tóc vàng óng buộc kiêu đuôi ngựa quen thuộc.

Dòng chữ bên dưới bức ảnh ghi: Một minh tinh ra đời.

Nội dung bài viết nói về một thần đồng sân khấu - Sienna Brooks - với chỉ số IQ ngoại hạng, có khả năng ghi nhớ lời thoại của tất cả nhân vật chỉ trong một đêm và trong những buổi diễn tập đầu tiên, đã thường xuyên nhắc vở cho các diễn viên khác. Sở thích của cô bé năm tuổi này là đàn vĩ cầm, cờ vua, sinh học và hóa học. Là con của cặp vợ chồng giàu có sống ở vùng ngoại ô Blackheath của London, cô bé đã nổi danh trong giới khoa học. Lên bốn tuôi, cô đã đánh bại một đại kiện tướng cờ vua và còn có khả năng đọc thạo bảng ba thứ tiếng.

Chúa ơi, Langdon nghĩ. Sienna. Chuyện này giải thích được vài điều đây.

Langdon nhớ lại một trong những sinh viên đã tốt nghiệp nổi tiếng nhất của Harvard từng là thần đông có tên Saul Kripke, lúc lên sáu tuổi đã tự học tiếng Do Thái và đọc được tất cả sách của Descartes khi mới mười hai tuôi. Gần đây hơn, Langdon nhớ có đọc về một hiện tượng thần đồng khác có tên Moshe Kai Cavalin, người có bằng đại học với điểm trung bình 4.0, giành danh hiệu quốc gia về võ thuật khi mới mười một tuổi và xuất bản một cuốn sách nhan đề Chúng ta có thể làm được lúc mười bốn tuổi.

Langdon nhặt một bài viết khác lên, bài báo có bức ảnh Sienna lúc bảy tuôi: TIỂU THIÊN TÀI CÓ IQ 208.

Langdon không hề biêt rằng chỉ số IQ thậm chí có thể lên cao đến mức đó. Theo bài viết, Sienna Brooks là một cây vĩ cầm bậc thầy, có thể thành thạo một ngôn ngữ chỉ trong một tháng, và đang tự dạy mình giải phẫu học, và sinh lý học.

Anh xem một bài viết khác cắt ra từ một tạp chí y học: TƯƠNG LAI CỦA TƯ DUY: KHÔNG PHẢI MỌI BỘ ÓC ĐỀU ĐƯỢC TẠO RA GIỐNG NHƯ NHAU.

Bài viết này có ảnh của Sienna, lúc này có lẽ đã mười tuổi, vẫn là một cô bé tóc vàng, đứng bên cạng một cỗ máy y tế lớn. Bài viết có cả đoạn phỏng vấn một bác sĩ, người giải thích rằng các ảnh chụp PET tiểu não của Sienna cho thấy cơ quan này có cấu tạo khác hẳn những tiểu não khác, trong trường hợp của cô thì đây là một cơ quan lớn hơn, thon gọn hơn, có khả năng xử lý nội dung, hình ảnh - không gian theo những cách thức hầu hêt người khác không thể thực hiện được. Vị bác sĩ cho rằng ưu thế sinh lý học của Sienna là nhờ mức tăng tế bào thần kinh cao vọt một cách khác thường ở não, giống như một ô ung thư, chỉ khác ở chỗ nó làm tầng các mô não có ích chứ không phải những tê bào ung thư nguy hiểm.

Langdon lại tìm được một bài báo từ một tờ báo của thị trấn.

LỜI NGUYỀN CỦA SỰ KIỆT XUẤT

Lần này không có bức ảnh nào, nhưng bài viết nói đến một thiên tài nhỏ tuổi, Sienna Brooks, người đã cố găng theo học ở các trường bình thường nhưng luôn bị các học sinh khác dè bỉu vì cô không thể thích ứng. Bài viết nói về tình trạng cô lập mà những thanh niên có tài nhưng các kỹ năng xã hội không tương xứng với trí thông minh của họ và thường xuyên cảm thấy bị tẩy chay.

Sienna, theo bài viết này, đã bỏ trốn khỏi nhà năm lên tám tuôi, và đủ thông minh đê tự sống mà không bị phát hiện suốt mười ngày. Người ta tìm thấy cô bé trong một khách sạn hạng sang ở London, nơi cô giả vờ là con gái của một vị khách, đánh cắp được chìa khóa, và đặt phòng bằng tài khoản của người khác. Rõ ràng cô đã có cả tuần đọc toàn bộ một nghìn sáu trăm trang cuốn Giải phẫu học của Gray. Khi giới chức hỏi tại sao cô lại đọc những là liệu y khoa đó, cô bảo họ rằng cô muốn tìm hiểu xem có chuyện gì không ổn với bộ óc của mình.

Trong lòng Langdon rất có cảm tình với cô gái nhỏ. Anh không thể hình dung nổi một đứa trẻ cảm thấy cô độc như thế nào vì quá khác biệt như vậy. Anh gấp những bài báo, dừng lại ngắm bức ảnh Sienna lúc năm tuổi đóng vai Puck. Nghĩ đến cuộc gặp gỡ siêu thực sáng nay của anh với Sienna, Langdon phải thừa nhận rằng, dường như cô phù hợp một cách kỳ lạ với vai một tiểu yêu tinh ranh mãnh trong mơ. Langdon chỉ mong rằng anh, giống như các nhân vật trong vở kịch, lúc này có thể tỉnh lại và vờ coi như những trải nghiệm gần đây nhất của mình chỉ là một giấc mơ.

Langdon cẩn thận sắp xếp tất cả các bài báo về đúng chỗ và gấp quyển chương trình biểu diễn lại, lòng chợt cảm thấy buồn khi nhìn thấy dòng chữ trên bìa lần nữa: Em yêu, đừng bao giờ quên em là một phép màu.

Anh nhìn xuống, biểu tượng quen thuộc trên trang bìa của tập tài liệu. Đó chính là đồ hình Hy Lạp vẫn thường trang trí ở hầu hêt các cuốn chương trình biểu diễn trên khắp thế giới - một biểu tượng đã hai nghìn năm trăm tuổi, đồng nghĩa với sân khấu kịch.

Cặp đôi mặt nạ bi hài.

Langdon nhìn hai gương mặt biểu tượng cho Hài kịch và Bi kịch đang đăm đăm nhìn mình, và đột nhiên anh nghe thây tiêng vo ve rất lạ trong tai - cứ như thê có một đường dây dãn đang từ từ kéo căng trong óc anh vậy. Một cơn đau chợt bùng lên trong đâu. Hình ảnh một chiêc mặt nạ bông bênh ngay trước măt anh. Langdon thd hôn hẽn, giđ tay lên, ngôi xuông chiêc ghê tực và nhăm nghiên măt lại, hai tay ôm chặt lây đâu.

Trong vùng tôi của anh, những hình ảnh kỳ quái lại quay cuông trở lại...dữ dội và sông động.

Người phụ nữ tóc bạc và chiêc bùa đang gọi anh từ phía bên kia dòng sông máu. Tiêng kêu tuyệt vọng của bà xuyên qua bâu tử khí, át hắn tiêng kêu của những kẻ bị hành hạ và đang hâp hôi, những kẻ mà măt anh có thể thây rõ đang cô quẫy đạp trong đau đớn. Langdon lại nhìn thây đôi chân chông lên trời có vẽ chữ R, cái xác bị chôn vùi một nửa với đôi chân quãy đạp điên cuông, tuyệt vọng trong không khí.

Hãy tìm và sẽ thây! Người phụ nữ nói về phía Langdon. Thời gian đang cạn dần!

Langdon lại cảm nhận đước nhu cầu khẩn thiết phải giúp đỡ bà ấy...giúp tất cả. Anh cuống cuồng gọi to về phía người phụ nữ ở bên kia dòng sông máu. Bà là ai?!

Một lần nữa, người phụ nữ vươn tay vén mạng che, đê lộ gương mặt ấn tượng mà Langdon đã thấy trước đó.

Ta là sự sống, bà ấy đáp.

Không hề báo trước, một cái bóng khổng lồ xuất hiện trên bầu trời phía trên

người phụ nữ - chiếc mặt nạ đáng sợ với cái mũi chim dài và đôi măt xanh lè dữ dằn nhìn chòng chọc vào Langdon.

Và...ta là cái chết, giọng nói vỡ òa.

Chương 8

Langdon mở choàng mắt và hít một hơi thảng thốt. Anh vẫn ngồi nguyên bên bàn của Sienna, tay ôm đầu, tim đập loạn xạ.

Chuyện quái quỷ quỷ gì đang xảy ra với mình thế này?

Hình ảnh người phụ nữa tóc bạc và cái mặt nạ có mỏ cứ lởn vởn trong tâm trí anh. Ta là sự sống. Ta là cái chết. Anh cố gắng xua đi hình ảnh đó, nhưng có cảm giác như nó đã bám rễ vĩnh viễn vào tâm trí mình. Trên bàn phía trước mặt, hai cái mặt nạ trên bìa quyển chương trình biểu diễn đăm đăm nhìn anh.

Trí nhớ của anh sẽ lộn xộn và không được sắp xếp, Sienna từng nói như vậy.

Quá khứ, hiện tại và khả năng tưởng tương sẽ bị lẫn lộn với nhau.

Langdon cảm thấy chóng mặt.

Đâu đó trong căn hộ, có tiếng điện thoại đổ chuông. Đó là tiếng chuông kiểu cũ, lanh lảnh, vọng đến từ gian bếp.

"Sienna!", Langdon gọi to và đứng dậy.

Không có tiếng đáp. Cô ấy vẫn chứa về. Chỉ sau hai hồi chuông, cơ chế trả lời tự động được kích hoạt.

"Xin chào, Tôi nghe", giọng Sienna nghe đầy vui vẻ trong tin nhắn trả lời. "Xin

hằy để lại tin nhắn hoặc gọi lại sau."

Có tiếp bíp, và một phụ nữ vẻ hoảng loạn có chất giọng Đông Âu khá nặng bắt đầu để lại lời nhắn. Giọng bà ấy vang vọng ra tận hành lang.

Sienna, Danikova đây! Cô ở đâu rồi? Kinh khủng lắm! Bác sĩ Marconi bạn cô, chết rồi! Bệnh viện đang náo loạn! Cảnh sát đến đây rồi! Mọi người khai với họ rằng cô chạy ra ngoài và tìm cách cứu bệnh nhân! Tại sao thế? Cô không hề biết anh ta. Giờ cảnh sát muốn nói chuyện với cô đây! Họ đẫ thấy hồ sơ nhân vỉên rồỉ biết thông tin trong đó đều sai - địa chỉ sai, không có số điện thoại, thị thực làm việc giả - cho nên hôm nay họ không tìm ra cô, nhưng rồi họ sẽ tìm ra đây! Tôi cố gắng báo trước cho cô. Rất tỉếc, Sienna."

Cuộc gọi kết thúc.

Langdon lại cảm thây noi ân hận chiếm ngự lấy anh. Căn cứ vào lời lẽ của tin nhăn, bác sĩ Marconi, đã cho phép Sienna làm việc tại bệnh viện. Giờ đây sự xuât hiện của Langdon đầ khiên cho Marconi mât mạng, còn hành động bản năng cứu một người xa lạ của Sienna đầ dẫn tới những hệ quả nghiệt ngã cho tương lai của cô.

Đúng lúc đó thì có tiêng cửa đóng mạnh ờ phía bên kia căn hộ.

Cô ây trở lại rôỉ.

Một lát sau, tiêng mày trả lời tự động được bật lên. "Sienna, Danikova đây! Cô ờ đâu rỏi?"

Langdon nhăn mặt, biêt rõ nội dung Sienna săp nghe thây. Trong khi máy bật lại tin nhăn, Langdon nhanh tay cât quyên chương trình biêu diễn, săp xêp lại mặt bàn. Sau đó, anh luồn qua sách đê trờ lại phòng tăm, cảm thây bôi rỗi vì đã lờ mờ biêt vê quá khứ của Sienna.

Mười giây sau, có tiêng gỗ nhẹ vào cửa phòng tăm.

"Tôi đê quân áo của anh trên tay năm cửa" Sienna nói, giọng mang ý trêu chọc. "Cảm ơn cô rât nhiêu" Langdon đáp.

"Khi nào xong, anh ra ngoài bêp nhé" cô nói tỉêp. "Có thứ rât quan trọng Tôi cân cho anh xem trước khi chúng ta gọi cho ai đó."

Sienna mệt mỏi lân qua sảnh vê gian buông ngủ giản dị trong căn hộ. Cô lây từ tủ quần áo chiêc quân jeans xanh và áo len, mang tât cả vào buông tăm riêng.

Đăm đăm nhìn bóng mình trong gương, cô giơ tay năm lây bím tóc đuôi ngựa dày dặn vàng óng vào kéo mạnh, khiên cho mái tóc giả tuột khỏi mảng da đâu trọc lóc.

Cô gái ba mươi hai tuôi không có tóc đăm đăm nhìn mình trong gương.

Sienna đã trải qua không ít thử thách trong cuộc đời, và mặc dù đầ cô rèn bản t hân luôn dựa vào trí tuệ đê vượt qua khó khăn, nhưng tình thê khó xử hiện tại cũng khiên cô chân động mạnh vê mặt tình cảm.

Cô đặt mái tóc giả sang bên và rửa mặt mũi, tay chân. Sau khi lau khô, cô thay quần áo và đội tóc giả trờ lại, chỉnh cho ngay ngăn. Sienna hiêm khi châp nhận chuyện than thân trách phận, nhưng giờ đây, khi nước măt đang dâng lên từ sâu thẵm trong lòng, cô biêt mình không thê làm gì khác ngoài việc đê cho nó trào

Và cô khóc.

Cô khóc vì cuộc sống mà cô không thể kiêm soát nổi.

Cô khóc vì người thầy bị sát hại ngay trước mắt cô.

Cô khóc vì cảm giác cô độc kinh khủng chiếm ngự trong tim cô.

Nhưng, trên hết thảy, cô khóc cho tương lai...bỗng chốc cô cảm giác thật bất ổn.

Chương 9

Ở sàn dưới chiếc thuyền sang trọng The Mendacium, chuyên gia điều phối Laurence Knowlton ngồi trong gian buồng kính kín mít của mình, đăm đăm nhìn màn hình máy tính mà không sao tin nổi đoạn video mà vị khách hàng của họ gửi lại.

Theo kế hoạch mình phải đưa thứ này cho giới truyền thông vào sáng mai ư?

Trong suốt mười năm làm việc cho Consortium, Knowton đã thực hiện đủ mọi nhiệm vụ kỳ quặc mà anh ta biết rõ đều thuộc loại bất chính và phi pháp.Làm việc trong lĩnh vực không lấy gì làm sạch sẽ về mặt đạo đức là chuyện bình thường tại Consortium - một tổ chức với nền tảng đạo đức duy nhất là sẽ làm bất kỳ việc gì để giữ lời hứa với khách hàng.

Tuân thủ.Không hỏi.Bất kể chuyện gì.

Thế nhưng, kịch bản đăng tải video này khiến Knowlton không yên tâm. Trước đây, cho dù có phải thực hiện nhiệm vụ kỳ quặc đến đâu anh ta cũng luôn hiểu lý do...nắm chắc động cơ... hiểu rõ kết quả dự kiến. 

Đoạn video đang tạm dừng.

Có gì đó rất khác thường.

Khác hẳn.

Ngồi lại bên máy tính, Knowlton cho video chạy lại lần nữa, hy vọng thêm một giây xem lại có thể hé thêm chút ánh sáng. Anh ta bật to tiếng và đắm mình vào đoạn video dài chín phút.

Vẫn như lần trước, video bắt đầu với tiếng vỗ khe khẽ trong một không gian kín đầy nước chìm vào thứ ánh sáng đỏ bí ẩn. Một lần nữa, máy quay lia xuống dưới, xuyên qua mặt nước được chiếu sáng để hiện rõ nền hang đầy bùn. Và một lần nữa, Knowlton đọc được nội dung trên tấm biển chìm dưới nước.• • •

TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY MAI,

THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.

Thật đáng ngại là tấm biển bóng loáng đó lại ký tên vị khách của Consortium.Ngày này lại là ngày mai... khiến cho Knowlton càng lúc càng lo lắng. Nhưng chính những gì tiếp theo mới thực sự khiến Knowlton hoảng hồn.

Lúc này máy quay lia ngang sang trái, cho thấy một thứ đáng chú ý lững lờ dưới nước ngay bên cạnh tấm biển.

Ở đây, được cột chặt xuống nền bằng một sợi dây ngắn, là một quả cầu bằng nhựa mỏng đang bập bềnh. Mỏng manh và lập lờ như một bong bóng xà phòng ngoại cỡ, khối cầu trong suốt đó lơ lửng như một trái bóng chìm dưới nước... không phải được bơm đầy khí helium, mà là một thứ chất lỏng màu vàng nâu sền sệt. Cái túi vô định hình này căng phồng, có đường kính khoảng 30 centimet, và bên trong lớp màng trong suốt, đám chất lỏng xỉn màu dường như đang cuộn xoáy chầm chậm, tựa hồ mắt một cơn bão đang âm thầm mạnh dần.

Lạy Chúa, Knowlton nghĩ thầm, cảm thấy lạnh buốt. Cái túi đáng ngờ kia thậm chí trông càng đáng ngại hơn trong lần xuất hiện thứ hai.

Hình ảnh từ từ chuyển sang nền đen.

Một hình ảnh mới xuất hiện - vách hang ẩm ướt, phản chiếu bóng nước hắt ánh sáng nhảy nhót. Trên vách xuất hiện một bóng đen... bóng một người... đứng trong hang.

Nhưng đầu người này hình thù... méo mó.

Thay vì có mũi, người này có một cái mỏ dài... cứ như thế một nửa người gã là chim.

Khi gã cất tiếng nói, giọng gã nghèn nghẹt... và gã nói bằng giọng điệu hùng biện rất lạ... ngữ điệu đều đặn... như thể gã là người lĩnh xướng trong một dàn hợp xướng cổ điển nào đó.

Knowlton ngồi bất động, hơi thở nặng nề, trong khi bóng đen có mỏ kia nói.

"Ta là Vong linh.

Nếu các người đang xem đoạn phim này, tức là cuối cùng linh hồn ta đã yên nghỉ.

Bị xua đuổi xuống dưới mặt đất, ta đành phải nói chuyện với thế giới từ sâu thẩm trong lòng đất, lẩn trốn đến lòng hang tăm tối này, nơi thứ nước đỏ như máu tích tụ trong cái đầm không một ánh sao phản chiếu.

Nhưng đây là thiên đường của ta... nơi nuôi dưỡng hoàn hảo đứa con yếu ớt của Hỏa ngục.

Ít lâu nữa các ngươi sẽ biết đến thứ ta để lại.

Nhưng, ngay tại đây, ta cảm nhận được bước chân của những linh hồn ngu dốt truy lùng ta... sẵn sàng không từ mọi cách để ngăn cản hành động của ta.

Hãy tha thứ cho chúng, có lẽ các người nói vậy, vì chúng không biết chúng làm gì. Nhưng lịch sử sẽ đến khi ngu dốt không còn là một tội lỗi có thể tha thứ nữa... khi chỉ có trí tuệ mới có quyền được miễn thứ.

Bằng sự thuần khiết của lương tri, ta để lại cho các người toàn bộ món quà của Hy vọng, của cứu rỗi, của ngày mai.

Nhưng vẫn có kẻ săn đuổi ta như một con chó, được tiếp sức bằng niềm tin tự cho là đúng rằng ta là kẻ điên rồ. Có mỹ nhân tóc bạc dám gọi ta là quái vật! Cũng như lũ giáo sĩ đui mù vận động cho cái cái chết của Copernicus, mụ phỉ báng ta là quỷ dữ, sợ rằng ta đã nhìn ra Chân lý.

Nhưng ta không phải là nhà tiên tri.

Ta chính là sự cứu rỗi của các người. Ta là Vong linh."

Chương 10

"Anh ngồi đi", Sienna nói."Tôi có vài câu hỏi cho anh."

Khi vào bếp, Langdon cảm thấy chân mình bước vững vàng hơn. Lúc này anh mặc bộ đồ hiệu Brioni của người hàng xóm vừa như in. Ngay cả đôi giày mềm cũng rất thoải mái, và trong đầu, Langdon đã có lưu ý sẽ đổi sang đi giày Ý khi trở về nhà.

Nếu mình về được nhà, anh nghĩ bụng.

Sienna đã thay đổi hẳn - một vẻ đẹp tự nhiên. Cô vừa đổi sang chiếc quần bò rất tôn dáng và áo len màu kem, cả hai thứ trang phục như càng làm thân hình yểu điệu của cô thêm nổi bật. Mái tóc cô vẫn vấn ra sau thành đuôi ngựa, và khi không còn vẻ quyền uy nhờ những vật dụng ngành y, dường như cô yếu đuối hơn. Langdon nhận thấy đôi mắt cô sưng đỏ, như thể cô vừa khóc, và cảm giác tội lỗi lại xâm chiếm lấy anh.

"Sienna, Tôi rất xin lỗi. Tôi đã nghe hết lời nhắn trên điện thoại.Tôi không biết phải nói sao."

"Cám ơn anh", cô đáp."Nhưng lúc này chúng ta cần tập trung vào chính bản thân anh.Anh ngồi đi." 

Lúc này giọng cô rắn rỏi hơn, gợi nhớ đến những bài báo mà Langdon vừa đọc về trí tuệ và thời niên thiếu sớm phát triển của cô.

"Tôi cần anh suy nghĩ", Sienna nói, tay ra hiệu cho anh           ngồi."Anh có nhớ làm thế nào chúng ta tới được căn hộ này không?"

Langdon không dám chắc câu hỏi này có liên quan đến tình huống trước mắt."Trên một chiếc ta xi", anh nói, ngồi xuống bên bàn."Có người bắn chúng ta."

"Bắn anh,thưa Giáo sư. Chúng ta cần phải rõ ràng về chuyện đó."

"Vâng. Xin lỗi."

"Thế anh có nhớ được có mấy phát súng lúc chúng ta còn trên taxi không?. 

Câu hỏi ngớ ngẩn. "Có, hai phát. Một trúng gương bên hông xe, và một bắn vỡ cửa kính sau".

"Tốt lắm, giờ thì anh nhắm mắt lại!"

Langdon nhận ra cô đang kiểm tra trí nhớ của mình. Anh bèn nhắm mắt lại.

"Tôi đang mặc đồ gì?"

Langdon có thể nhìn rõ cô. "Giày đế bằng màu đen, quần bò xanh, và áo len cổ chữ V màu kem. Tóc cô vàng, dài đến vai, vấn ra phía sau.Mắt cô màu nâu."

Langdon mở mắt và ngắm cô, rất hài lòng khi trí nhớ thị giác của mình vẫn hoạt động bình thường.

"Tốt lắm. Khả năng nhận thức thị giác của anh rất tốt, càng xác nhận chứng mất trí của anh đã không còn, và anh không hề bị thương tổn gì vĩnh viễn liên quan đến quá trình ghi nhớ.Anh có nhớ được điều gì mới về mấy ngày qua không?"

"Thật tiếc là không hề. Thế nhưng tôi lại nhìn thấy những hình ảnh ấy lúc cô ra ngoài."

Langdon kể cho cô nghe hình ảnh ảo giác về người phụ nữ che mạng, người chết, và những đôi chân có chữ R bị chôn vùi một nửa quẫy đạp.Rồi anh kể cho cô về cái mặt nạ có mỏ kỳ quái lơ lửng trên bầu trời.

"Ta là cái chết ư?", Sienna hỏi, vẻ mặt bồn chồn.

"Vâng, đó là những gì nó nói."

"Được rồi... Tôi đoán như thế cũng giống "Ta là Vishnu, kẻ hủy diệt thế giới"."

Người phụ nữ trẻ vừa dẫn lại lời Robert Oppenheimer lúc ông ta thử nghiệm quả bom nguyên tử đầu tiên.

"Còn cái mặt nạ mắt xanh lè... mũi hình mỏ chim ư?", Sienna nói, vẻ khó hiểu. "Anh có ý tưởng gì để lý giải tại sao trí nhớ anh ghi ra hình ảnh đó không?"

"Chẳng có ý tưởng gì cả, nhưng kiểu mặt nạ đó rất thịnh hành thời trung cổ", Langdon dừng lại. "Người ta gọi đó là mặt nạ dịch hạch."

Trông Sienna mất bình tĩnh một cách kỳ lạ."Mặt nạ dịch hạch ư?"

Langdon giải thích nhanh gọn rằng trong thế giới biểu tượng của anh, hình dáng đặc thù của chiếc mặt nạ mỏ chim gần như đồng nghĩa với Cái chết Đen - trận đại dịch tràn qua châu Âu vào thế kỷ XIV, giết một phần ba dân số ở vài vùng. Hầu hết mọi người tin rằng chữ "đen" trong tên gọi chỉ tình trạng da thịt nạn nhân tím đen lại do hoại tử và xuất huyết dưới da, nhưng thực tế từ đen là để chỉ nỗi khiếp sợ mà dịch bệnh này gieo rắc trong dân chúng.

"Cái mặt nạ mỏ dài đó", Langdon nói, "được các bác sĩ bệnh dịch hạch thời trung cổ đeo để ngăn không cho bệnh xâm nhập vào lỗ mũi họ trong lúc điều trị người bị nhiễm bệnh.Còn giờ đây, cô chỉ nhìn thấy chúng được dùng làm phục trang trong lễ hội Venice Carnevale - lời nhắc nhở kì khôi về một giai đoạn đen tối trong lịch sử nước Ý".

"Và anh chắc chắn mình nhìn thấy cái mặt nạ như thế trong ảo ảnh của mình chứ?", Sienna hỏi, lúc này giọng cô run run. "Một mặt nạ của bác sĩ bệnh dịch hạch thời trung cổ à?"

Langdon gật đầu.Một cái mặt nạ mỏ chim thì khó mà nhầm lẫn được.

Cách Sienna nhíu mày khiến Langdon có cảm giác rằng cô đang cố nghĩ ra cách tốt nhất để nói với anh vài tin không hay."Và người phụ nữ cứ nhắc anh 'tìm kiếm và sẽ thấy' phải không?"

"Đúng, vẫn như lúc trước.Nhưng vấn đề là tôi không rõ mình cần tìm cái gì."

Sienna từ từ thở hắt ra một hơi dài, nét mặt hết sức nghiêm trọng. "Tôi nghĩ có lẽ tôi biết. Và thêm nữa... Tôi nghĩ có thể anh cũng đã tìm thấy nó."

Langdon trợn mắt nhìn."Cô đang nói gì thế?!"

"Robert, đêm qua khi anh tới bệnh viện, anh mang theo một thứ rất không bình thường trong túi áo khoác. Anh còn nhớ nó là gì không?"

Langdon lắc đầu.

"Anh mang theo một vật... một vật khá đáng chú ý. Tôi tình cờ thấy nó khi chúng tôi lau rửa cho anh." Cô làm hiệu về phía chiếc áo Harris Tweed dính máu của Langdon, vẫn còn nằm trên bàn."Nó vẫn trong túi áo đấy, nếu anh có ý định nhìn xem."

Vẻ ngập ngừng, Langdon nhìn chiếc áo.Ít nhiều điều đó giải thích tại sao cô ấy quay lại vì chiếc áo của mình.Anh vớ lấy chiếc áo khoác dính máu và lần tìm các túi, từng cái một.Chẳng có gì cả.Anh lục lại lần nữa.Cuối cùng, anh nhún vai quay về phía cô."Ở đây chẳng có gì hết."

"Thế còn túi bí mật thì sao?"

"Cái gì? Áo khoác của tôi làm gì có túi bí mật."

"Không ư?"Trông cô rất bối rối."Vậy cái áo này... là của người khác ư?"

Đầu óc Langdon lại rối tung lên. "Không, đây là áo khoác của tôi."

"Anh chắc chứ?"

Quá chắc, anh nghĩ bụng. Thực tế, nó là hiệu Camberley mà tôi ưa chuộng đấy.

Anh lật ngược lớp lót áo và chìa cho Sienna xem nhãn hiệu có mang biểu tượng mà anh ưa chuộng trong thế giới thời trang - quả cầu của hãng Harris Tweed được trang trí mười ba viên đá quý hình khuy cùng một chữ thập Maltese trên đinh.

Hãy để người Scot triệu hồi các chiến binh Thiên Chúa giáo trên mảnh vải dệt chéo.

"Nhìn cái này đi", Langdon nói, tay chỉ hai chữ cái R.L.được thêu bằng tay thêm vào nhãn hiệu. Anh luôn thích thú những mẫu may đo của Harris Tweed, và vì lý do ấy, anh thường trả thêm tiền để người ta thêu chữ cái tên anh vào nhãn hiệu, ờ trường đại học, nơi hàng trăm chiếc áo khoác vải len liên tục được cởi ra rồi mặc vào trong phòng ăn và trên giảng đường, Langdon không hề muốn bị mặc nhầm áo do cẩu thả.

"Tôi tin anh", cô nói, cầm lấy chiếc áo khoác từ tay anh. "Giờ anh nhìn đây."

Sienna mở rộng chiếc áo khoác để lộ lớp lót gần gáy.Chỗ đó, được giấu kín trong lớp vải lót, là một cái túi khá lớn có hình thù rất gọn ghẽ.

Thế quái nào nhỉ?!

Langdon chắc chắn rằng anh chưa bao giờ nhìn thấy cái túi này trước đó.

Cái túi có một đường chỉ giấu kín, được may rất khéo.

"Nó không hề có ở đó lúc trước!", Langdon dứt khoát.

"Vậy thì tôi đoán rằng anh chưa bao giờ nhìn thấy... thứ này đúng không?"

Sienna thò tay vào túi và moi ra một vật kim loại rất đẹp mà cô nhẹ nhàng đặt vào tay Langdon.

Langdon trợn mắt nhìn xuống vật đó với vẻ hoang mang cực độ.

"Anh có biết thứ này là gì không?", Sienna hỏi.

"Không../', anh lắp bắp. "Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này."

"Chà, thật không may, tôi lại biết rõ đây là gì. Và tôi tin chắc nó chính là lý do có người tìm cách giết anh."

Lúc này điều phối viên Knowlton đang đi đi lại lại trong buồng riêng trên tàu The Mendacium, càng lúc càng thấy bồn chồn khi nghĩ đến đoạn video anh ta được giao phải cung cấp cho cả thế giới biết vào sáng mai.

Ta là Vong linh ư?

Có tin đồn rằng vị khách hàng đặc biệt này bị sang chấn tâm thần trong mấy tháng qua, nhưng đoạn video dường như xác định những lời đồn đó là không có cơ sở.

Knowlton biết mình có hai lựa chọn.Anh ta có thể chuẩn bị phát tán đoạn video vào ngày mai như đã hứa, hoặc có thể mang nó lên gác gặp Thị trưởng để đưa ra ý kiến về quyết định thứ hai.

Mình đã biết ý kiến của ông ấy rồi, Knowlton nghĩ bụng, vì chưa bao giờ thấy Thị trưởng có hành động gì khác ngoài những việc đã hứa với khách hàng.Ông ấy sẽ bảo mình cung cấp đoạn video này cho thế giới, không cần hỏi làm gì...và ông ấy sẽ nổi điên với mình vì việc này.

Knowlton hướng sự chú ý trở lại đoạn video đã được tua đến một vị trí đặc biệt đáng lo ngại. Anh ta bắt đầu cho chạy lại, và cái hang có thứ ánh sáng kỳ dị xuất hiện kèm tiếng nước róc rách. Bóng người hiện ra lù lù trên vách hang đang nhỏ nước - một gã đàn ông cao lớn với cái mỏ chim dài.

Bằng chất giọng nghèn nghẹt cái bóng quái dị cất tiếng.

"Đã đến thời kỳ Tăm tối mới.

Nhiều thế kỷ trước, châu Âu chìm sâu trong cảnh khốn cùng - dân chúng túm tụm với nhau, chết đói, chìm trong tội lỗi và vô vọng. Họ giống như một cánh rừng chật chội, ngột ngạt vì những kẻ vô dụng, chờ đợi tia sét của Chúa trời - tia lửa sẽ làm đám cháy bùng lên, lan rộng trên mặt đất và thiêu sạch đám vô dụng, một lần nữa đưa ánh mặt trời tới những gốc cây khỏe mạnh.

Chọn lọc là Quy luật Tự nhiên của Chúa trời.

Hãy tự hỏi bản thân, sau Cái chết Đen là gì?

Tất cả chúng ta đều biết câu trả lời.

Thời kỳ Phục Hưng.

Sự tái sinh.

Luôn là như thế.Tỉếp sau cái chết là sự sinh sôi.

Để đến được Thiên đường, con người phải đi qua Hỏa ngục.

Điều này, thầy đã dạy cho chúng ta.

Thế mà kẻ ngu dốt tóc bạc lại dám gọi ta là quái vật ư? Chắc mụ vẫn không hiểu rõ môn toán học của tương lai chăng? Cả những điều kinh hoàng mà nó sẽ mang theo nữa?

Ta là Vong linh.

Ta là sự cứu rỗi của các người.

Và vì thế ta đứng lên, sâu trong lòng hang này, phóng mắt nhìn qua đầm nước

không một ánh sao phản chiếu.Tại đây, trong dinh lũy đã bị nhấn chìm này, Hỏa ngục cháy âm ỉ bên dưới làn nước.

Sớm muộn nó sẽ bùng lên thành ngọn lửa.

Và đến khi đó, chẳng có gì trên trái đất có thể ngăn được nó."

Chương 11

Vật nằm trong bàn tay Langdon nặng hơn hẳn so với kích thước của nó. Thon và trơn láng, cái hình trụ bằng kim loại nhẵn thín ấy dài khoảng mười lăm phân và tròn cả hai đầu, giống như một quả ngư lôi thu nhỏ.

"Trước khi mạnh tay cầm vào thứ đó", Sienna lên tiếng, "Có lẽ anh cần nhìn mặt bên kia đã". Cô mỉm cười với anh nhưng khá căng thẳng. "Anh nói anh là giáo viên về các biểu tượng phải không?"

Langdon chăm chú nhìn lại cái ống trụ, xoay nó trong lòng bàn tay cho tới khi một biểu tượng màu đỏ tươi hiện rõ bên hông ống.

Cơ thể anh ngay lập tức cứng đờ.

Khi còn là sinh viên ngành biểu tượng học, Langdon đã biết rằng một số hình ảnh ghê gớm có sức mạnh gieo rắc nỗi sợ hãi ngay lập tức vào tâm trí con người...nhưng cái biểu tượng trước mắt anh thì khỏi phải nói. Phản ứng của anh hoàn toàn mang tính bản năng và ngay tức thì, anh đặt cái ống lên bàn rồi ngồi phịch xuống ghế.

Sienna gật đầu, "Vâng, phản ứng của tôi cũng y như vậy."

Dấu hiệu trên ống là một biểu tượng ba nhánh đơn giản.

Biểu tượng khét tiếng này, như Langdon từng đọc được, do Dow Chemical nghĩ ra vào những năm 1960, để thay thế cho chuỗi đồ họa cảnh báo được sử dụng không mấy hiệu quả trước đó. Như tất cả những biểu tượng thành công khác, biểu tượng này đơn giản, đặc trưng và dễ tạo. Khéo léo khơi gợi mối liên hệ đặc trưng với mọi thứ, từ cặp càng cua đến những phi tiêu

của ninja, biểu tượng "nguy hiểm sinh học" hiện đại này trở thành một nhãn hiệu toàn cầu truyền tải ý nghĩa nguy hiểm trong mọi ngôn ngữ.

"Cái ống nhỏ xíu này là một ống tuýp sinh học", Sienna nói. "Nó dùng để mang những chất nguy hỉểm. Chúng tôi thỉnh thoảng nhìn thấy chúng trong lĩnh vực y khoa. Bên trong là lớp bọt bao bọc lấy ống chất mẫu để có thể mang đi an toàn. Trong trường hợp này..." Cô chỉ vào biểu tượng nguy hiểm sinh học. "Tôi đoán là một tác nhân hóa học chết người...hoặc có thể là một loại virus?", cô ngừng lại. "Các mẫu Ebola(1) đầu tiên được mang về từ Châu Phi trong một cái ống y hệt như thế."

Đây không phải toàn bộ những gì Langdon muốn nghe. "Nhưng nó làm cái quái gì trong áo khoác của tôi chứ! Tôi là một giáo sư lịch sử nghệ thuật mà, tại sao tôi lại mang cái thứ này?"

Hình ảnh những xác người quằn quại lại lóe lên trong trí anh...và lơ lửng phía trên là cái mặt nạ dịch hạch.

Rất xin lỗi. Rất xin lỗi!

"Cho dù thứ này từ đâu đến", Sienna nói, "nó cũng là một vật có độ bền cao. Titan lót chì. Gần như không thể xuyên thủng, thậm chí bằng phóng xạ. Tôi đoán là vấn đề cấp Chính phủ." Cô chỉ vào ô màu đen to bằng con tem ngay bên cạnh biểu tượng nguy hiểm sinh học. "Xác nhận bằng dấu tay. Bảo đảm an ninh trong trường hợp bị thất lạc hoặc đánh cắp. Những ống như thế này chỉ một người đặc biệt mới mở được."

Mặc dù Langdon cảm giác đầu óc mình lúc này đang làm việc với tốc độ bình

thường nhưng anh vẫn thấy như thể đang phải cố hết sức. Mình đang mang theo một ống tuýp niêm phong bằng vân tay.

"Khi tôi phát hiện cái ống này trong áo khoác của anh, tôi muốn cho riêng bác sĩ Marconi xem, nhưng tôi không có cơ hội làm vậy lúc anh chưa tỉnh lại. Tôi đã định thử đặt tay anh lên cái ô kia trong lúc anh đang bất tỉnh, nhưng tôi lại không rõ thứ gì trong ống, và..."

"Ngón tay tôi ư?", Langdon lắc đầu. "Làm sao có chuyện thứ này được lập trình để tôi là người mở nó chứ. Tôi có biết gì về hóa sinh đâu. Tôi chưa từng có thứ gì như thế này cả."

"Anh chắc chứ?"

Langdon rất chắc chắn. Anh vươn tay và đặt ngón cái của mình vào ô vuông. Chẳng có gì xảy ra cả. "Thấy chưa? Tôi đã nói..."

Cái ống titan phát ra tiếng kêu rất to, và Langdon giật tay về như phải bỏng. Khốn nạn. Anh đăm đăm nhìn cái ống như thể nó sắp tự mở toang ra và bắt đầu xì ra một thứ khí độc chết người. Sau ba giây, nó lại phát ra tiếng động, rõ ràng đang tự khóa lại.

Không nói gì, Langdon quay sang nhìn Sienna.

Cô bác sĩ trẻ thở hắt ra, trông bệch bạc. "Chà, rõ ràng chính anh là người được chỉ định mang nó đi rồi."

Với Langdon, toàn bộ tấn kịch này thật phi lý. "Không thể như thế. Trước hết, làm cách nào tôi tha được mẫu kim loại này qua chốt an ninh sân bay chứ?"

"Có lẽ anh bay bằng máy bay riêng? Hoặc có lẽ người ta giao cho anh khi anh đến Ý?"

"Sienna, Tôi cần gọi cho lãnh sự. Ngay bây giờ."

"Anh không nghĩ chúng ta cần mở nó ra trước đã à?"

Trong đời mình, Langdon từng có một số hành động hấp tấp, nhưng mở một vật chứa chất độc ngay trong bếp của người phụ nữ này không phải là một trong những hành động như thế. "Tôi sẽ bàn giao thứ này cho giới chức trách. Ngay bây giờ!"

Sienna mím chặt môi, suy tính về mọi khả năng. " Được rồi, nhưng ngay khi thực hiện cuộc gọi đó, anh phải tự giải quyết. Tôi không can dự vào. Đương nhiên anh không thể gặp họ ở đây. Hoàn cảnh di trú của tôi ở Ý...rất phức tạp."

Langdon nhìn vào mắt Sienna. "Tất cả những gì tôi biết, Sienna, là cô đã cứu mạng tôi. Tôi sẽ giải quyết chuyện này đúng như ý muốn của cô."

Cô gật đầu cảm ơn và bước lại phía cửa sổ, chăm chú nhìn xuống con phố phía dưới. "Được rồi, chúng ta cần làm như thế này nhé!"

Sienna nhanh nhẹn vạch ra một kế hoạch. Nó rất đơn giản, khôn khéo và an toàn.

Langdon đổi cô bật chế độ chặn hiển thị người gọi trong điện thoại di động và bấm số. Các ngón tay của cô thanh mảnh nhưng di chuyển rất có chủ định.

"Thông tin thuê bao phải không?", Sienna nói bằng giọng Ý không thể chê vào đâu. "Xin cho tôi số máy của Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Firenze được không?"

Cô đổi và sau đó nhanh nhẹn viết ra một số điện thoại.

"Rất cảm ơn", cô đáp và ngắt máy.

Sienna chìa số điện thoại cho Langdon cùng với            điện thoại của cô. "Anh nói đi.Anh nhớ phải nói gì chưa?"

"Trí nhớ của tôi tốt mà", anh mỉm cười nói trong lúc bấm số máy ghi trên mẩu giấy. Đường dây bắt đầu đổ chuông.

Chẳng thấy gì cả.

Anh chuyển sang chế độ loa ngoài và đặt điện thoại lên bàn để Sienna cũng có thể nghe được. Đáp lời là một tin nhắn đã ghi âm sẵn, cung cấp thông tin chung về các dịch vụ lãnh sự và giờ làm việc, tức là phải sau 8 giờ 30 phút sáng.

Langdon nhìn đồng hồ trên bàn. Mới chỉ có sáu giờ sáng.

"Nếu đây là tình huống khẩn cấp", đoạn ghi âm tự động nói, "quý vị có thể gọi tới số 7-7 để báo với nhân viên trực đêm".

Langdon lập tức bấm số máy lẻ.

Đường dây lại đổ chuông.

"Lãnh sự quán Hoa Kỳ xin nghe", một giọng nói mệt mỏi trả lời bằng tiếng Ý. "Tôi là nhân viên trực đây".

"Anh nói được tiếng Anh chú?", Langdonhỏi bằng tiếng Ý.

"Đương nhiên", người đàn ông bên kia đáp lại bằng tiếng Anh Mỹ. Giọng anh ta có vé khó chịu vì bị đánh thức. "Tôi giúp gì được anh?"

"Tôi là công dân Mỹ đang có mặt ở Florence và tôi bị tấn công.Tên tôi là Robert Langdon."

"Xin cho biết số hộ chiếu", người đàn ông ngáp nghe rõ mồn một.

"Tôi bị mất hộ chiếu. Tôi nghĩ nó bị đánh cắp. Tôi bị bắn vào đầu. Tôi ở trong bệnh viện. Tôi cần giúp đỡ."

Nhân viên trực đột nhiên tinh ngủ hẳn. "Thưa ông! Ông vừa nói ông bị bắn phải không? Xin ông nói lại họ tên đầy đủ được không?"

"Robert Langdon"

Có một tiếng sột soạt trên đường dây và sau đó Langdon nghe rõ tiếng ngón tay của người đàn ông gõ lách cách trên bàn phím. Tiếng máy tính kêu "ping". Tạm dừng. Rồi lại nghe tiếng ngón tay trên bàn phím. Lại một tiếng "ping". Tiếp đến là ba tiếng "pỉng" chói lói.

Tạm dừng lâu hơn.

"Thưa ông?", người đàn ông lên tiếng. "Tên ông là Robert Langdon phải không?" "Vâng, đúng vậy. Và Tôi đang gặp rắc rối."

"Được rồi, thưa ông, tên ông được đánh dấu lưu ý, và tôi được chỉ dẫn lập tức nối máy cho ông với Chánh văn phòng của Tổng lãnh sự." Người đàn ông ngừng lại, như thể chính anh ta cũng không tin nổi. "Xin hãy giữ máy!"

"Đợi đã! Anh có thể cho tôi biết../'

Đường dây lại đổ chuông.

Bốn lần đổ chuông và máy được nối.

"Collins nghe đây", một giọng cộc cằn vang lên.

Langdon hít một hơi thật sâu, cố gắng nói thật bình tĩnh và rõ ràng. "Thưa ngài Collins, tên tôi là Robert Langdon. Tôi là một công dân Mỹ đang có mặt tại Florence. Tôi bị bắn. Tôi cần giúp đỡ. Tôi muốn được tới Lãnh sự quán Hoa Kỳ ngay lập tức. Ngài có thể giúp tôi được không?"

Không chút do dự, giọng nói bên kia đáp lại. "Ơn Chúa là anh vẫn còn sống, anh Langdon. Chúng tôi đang tìm kiếm anh."

(1) Ebola là loại virus gây bệnh sốt xuất huyết ở người và các loại linh trưởng.

Chương 12

Lãnh sự quán biết mình ở đây ư?

Tin ấy khiến Langdon thấy nhẹ cả người. Ngài Collins - người tự giới thiệu là chánh văn phòng của Lãnh sự quán - nói chuyện với giọng chắc nịch, chuyên nghiệp, nhưng cũng có vẻ rất gấp gáp. "Anh Langdon, anh và tôi cần nói chuyện ngay lập tức. Và nhất định không phải trên điện thoại."

Đến lúc này, dù vẫn chưa hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra, nhưng Langdon không có ý định ngắt lời.

"Tôi sẽ cho người đến đón anh ngay", Collins nói. "Anh ở chỗ nào?"

Sienna lo lắng di chuyển vị trí, cố lắng nghe cuộc trao đổi trên loa điện thoại. Langdon gật đầu trấn an cô, tỏ ý hoàn toàn tuân thủ theo đúng kế hoạch của cô.

"Tôi đang ở một khách sạn nhỏ có tên Pensione la Firorentina", Langdon nói, đánh mắt sang bên kia phố về phía khách sạn cũ kỹ Sienna đã chỉ cho mình trước đó. Anh nói cho Collins địa chỉ phố.

"Được rồi", người đàn ông trả lời. 

"Đừng di chuyển. Cứ ở trong phòng anh. Sẽ có người đến đón ngây bây giờ. Phòng nào nhỉ?"

Langdon quyết định. "Ba mươi chín."

"Được rồi. Hai mươi phút", Collins hạ giọng. "Anh Langdon, dù anh bị thương và hơi rối trí, nhưng tôi cần biết...anh vẫn còn giữ chứ?"

Còn giữ. Langdon cảm thấy câu hỏi này, dù khó hiểu, song chỉ có thể mang một nghĩa. Mắt anh lia tới chỗ cái ống nằm trên bàn bếp. "Vâng, thưa ngài. Tôi vẫn còn giữ."

Collỉns thở phào rõ to. "Lúc không nghe được tin gì của anh, chúng tôi cứ nghĩ...

Chà, nói thật, chúng Tôi nghĩ đến chuyện xấu nhất. Tôi yên tâm rồi. Cứ ở yên chỗ anh. Đừng di chuyến. Hai mươi phút thôi. Sẽ có người tới gõ cửa phòng anh." Collins ngắt máy.

Langdon cảm thấy hai vai mình nhẹ nhõm hẳn, lần đầu tiên kế từ khi anh tỉnh dậy trong bệnh viện. Lãnh sự quán biết rõ chuyện gì đang xảy ra, và chỉ lát nữa mình sẽ có câu trả lời. Langdon nhắm mắt lại và thở ra từ từ, lúc này gần như an tâm. Cơn đau đầu dần tan biến.

"Chà, rất MI6", Sienna lên tiếng, giọng nửa đùa nửa thật. 

"Anh là điệp viên à?"

Lúc này Langdon chẳng rõ mình là gì nữa. Chuyện mất trí nhớ hai ngày và thấy mình trong một tình thế khó nhận diện làm anh khó hiểu, nhưng anh vẫn ở đây... Hai mươi phút nữa sẽ có cuộc gặp với một quan chức tòa Lãnh sự Hoa Kỳ trong một khách sạn xập xệ.

Chuyện gì đang xảy ra ở đây nhỉ?

Anh liếc nhìn Sienna, nhận ra họ sắp sửa đường ai nấy đi nhưng vẫn có cảm giác họ chưa xong việc. Anh lại nhớ tới vị bác sĩ râu rậm ở bệnh viện, nằm chết trên sàn ngay trước mắt cô. "Sienna", anh thì thầm, "bạn của cô...bác sĩ MarconL.Tôi cảm thấy thật kinh khủng".

Cô gật đầu quả quyết.

"Và tôi rất xin lỗi vì đã kéo cô vào vụ này. Tôi biết tình thế của cô tại bệnh viện rất bất thường, và nếu có điều tra..." Tiếng anh tắt dần.

"Không sao", cô nói. "Tôi không lạ gì chuyện phải di chuyển."

Langdon cảm nhận được trong đôi mắt xa xăm của Sienna, mọi thứ với cô đều đã thay đổi vào sáng nay. Cuộc sống của chính Langdon lúc này cũng đang hỗn loạn, nhưng anh cảm thấy trái tim mình đang hướng về phía người phụ nữ này.

Cô ấy đã cứu mạng mình...và mình đã hủy hoại cuộc sống của cô ấy.

Họ ngồi im lặng suốt một phút, không khí giữa hai người càng lúc càng nặng nề, như thể cả hai đều muốn nói, nhưng lại chẳng biết nói gì. Suy cho cùng, họ là những những người xa lạ trong một hành trình ngắn ngủi và kỳ lạ vừa đi tới ngã ba đường, và giờ đây mỗi người đều cần tìm một lối đi riêng.

"Sienna", cuối cùng Langdon lên tiếng, "Khi tôi giải quyết xong chuyện này với Lãnh sự quán, nếu có việc gì cần tôi giúp, xin hãy..."

"Cảm ơn anh", cô thì thầm, và buồn bã hướng mắt ra phía cửa sổ.

***

Từng phút trôi qua, Sienna Brooks lơ đễnh nhìn ra ngoài cửa sổ gian bếp và tự hỏi ngày hôm nay rồi sẽ dẫn cô tới đâu. Cho dù là ở đâu, cô đều hiểu rõ rằng đến cuối ngày, thế giới của cô sẽ khác hẳn.

Cô biết, có lẽ chỉ là cảm xúc dâng trào nhất thời, nhưng cô thấy mình bị cuốn hút trước vị giáo sư người Mỹ một cách kỳ lạ. Ngoài vẻ điển trai, dường như anh còn sở hữu một trái tim nhân hậu. Trong cuộc sống tương lai, biết đâu Robert Langdon còn có thế là người cô gắn bó cùng.

Anh ấy sẽ chẳng bao giờ muốn mình, cô nghĩ bụng. Mình đã bị hủy hoại rồi.

Trong lúc cố nén tình cảm lại, bên ngoài cửa sổ có gì đó khiến cô chú ý. Cô thẳng người lên, áp mặt vào kính và đăm đăm nhìn xuống phố. "Robert, nhìn xem!"

Langdon phóng mắt nhìn xuống chiếc xe máy hiệu BMW đen bóng dưới phố vừa đỗ xịch trước khách sạn Penssỉone la Fiorentina. Người điều khiến xe dong dỏng và mạnh mẽ, mặc bộ đồ da đen và gỡ chiếc mũ bảo hiếm đen bóng ra, Sienna có thế thấy rõ Langdon nín thở.

Cái đầu đinh của người phụ nữ kia không lẫn đi đâu được.

Ả rút ra khẩu súng quen thuộc, kiểm tra bộ phận giảm thanh, và đút súng vào túi áo khoác. Sau đó, với vẻ uyển chuyển chết người, ả bước vào khách sạn.

"Robert", Sienna thì thào, giọng cô căng lên vì sợ hãi. "Chính phủ Mỹ vừa cử  người tới giết anh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro