IV. Kế hoạch De Lattre De Tassigny

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

IV. Kế hoạch De Lattre DeTassigny

Jean De Lattre DeTassigny (1889-1952) sinh ra trong một gia đình địa chủ quý tộc. Ông tốt nghiệp trường võ Saint Cyr với quân hàm Trung úy. Ông được mệnh danh là “nhân tài quân sự số một”, “đệ nhất công thần” của nước Pháp. Ông là một viên tướng rất tự tin, nguyên tắc của ông là “không thắng sẽ không đánh”.

Là một Đại tướng năm sao, đã 62 tuổi, tháng 11-1950, Chính phủ Pháp bổ nhiệm ông làm Cao ủy kiêm Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Viễn Đông. Ngày 17-12-1950, Đờ Lát đáp máy bay xuống Sài Gòn. Ngày 19-12-1950, ông về Hà Nội và đưa ra kế hoạch mang tên mình - kế hoạch Đờ Lát.

1.  Hoàn cảnh ra đời

Thất bại ở biên giới 1950 đã gây nên sự đảo lộn lớn về chiến lược, chiến thuật của thực dân Pháp. Pháp buộc phải bố trí lại quân lực, thay đổi chỉ huy, thay đổi chiến thuật và ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự về chiến lược đánh mất thế chủ động chiến lược. Ngược lại, từ năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn về chính trị, ngoại giao và quân sự. Uy tín và địa vị của Nhà nước ta được nâng cao trên trường chính quốc tế. Sau khi thiết lập được quan hệ ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của bạn bè không chỉ về tinh thần mà cả vật chất. Năm 1950, hàng viện trợ của Trung Quốc bắt đầu được chuyển đến Việt Nam

Trước tình thế đó, thực dân Pháp nhận thấy khó có thể tiếp tục cuộc chiến tranh nếu không có sự giúp sức của đế quốc Mĩ . Vì vậy, dù mâu thuẫn với Mĩ, thực dân Pháp vẫn buộc phải dựa vào Mĩ, cầu xin viện trợ Mĩ để theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Về phía đế quốc Mĩ, nhân lực Pháp thất bại ở mặt trận Biên giới, chúng tăng thêm viện trợ cho Pháp và can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến tranh Đông Dương, nhằm ngăn chặn phong trào cách mạng lan xuống Đông Nam Á, từng bước thay chân Pháp, độc chiếm Đông Dương.

Tháng 12-1950, Mĩ, Pháp cùng với các Chính phủ bù nhìn Việt, Miên, Lào kí “Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương”. Với Hiệp định này, Mĩ cam kết sẽ viện trợ quân sự cho chính quyền bù nhìn ba nước để phòng thủ Đông Dương. Cuối tháng 1-1951, Thủ tướng Pháp Plêven và Tổng Tham mưu trưởng quân đội viễn chinh Pháp Ala hội đàm với Tổng thống Mĩ Truman về viện trợ cho Đông Dương. Pháp yêu cầu Mĩ cung cấp tối đa vũ khí và các trang bị cần thiết cho quân đội bù nhìn.

Tháng 9-1951, Mĩ và Chính phủ bù nhìn Bảo Đại kí hiệp ước tay đôi dưới tên gọi “Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt Mĩ”, nhằm chuyển thẳng một phần viện trợ của Mĩ cho Chính phủ Bảo Đại. Thông qua đó, Mĩ từng bước nắm chặt ngụy quyền Bảo Đại. Tháng 12-1951, Mĩ cùng Bảo Đại kí tiếp bản “Hiệp nghị an ninh chung”.

Dựa vào các bản hiệp định trên, viện trợ của Mĩ chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong ngân sách chiến tranh Đông Dương:

·                         Năm 1950: 52 tỉ phrăng (19% ngân sách)

·                         Năm 1951: 62 tỉ phrăng (16% ngân sách )

·                         Năm 1952: 200 tỉ phrăng (35% ngân sách)

·                          Năm 1953: 285 tỉ phrăng (43% - )

Được Mĩ viện trợ, Pháp tập trung lực lượng phòng ngự và bình định vùng tạm chiếm, nhất là khu vực đồng bằng Bắc Bộ; đồng thời chuẩn bị mở các cuộc phản công với hi vọng giành lại quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Ngày 6-12-1950, Chính phủ Pháp cử Đại tướng De Lattre De Tassigny  (De Lattre de Tassigny) - Tư lệnh lục quân Khối Tây Âu - sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, kiêm Cao uỷ Đông Dương. Vạch ra kế hoạch De Lattre De Tassigny .

2.  Nội dung kế hoạch De Lattre De Tassigny  

Kế hoạch De Lattre De Tassigny  bao gồm 4 điểm chính sau:

-         Phát triển quân ngụy với qui mô lớn nhất (dự kiến 4 sư đoàn do sỹ quan Pháp chỉ huy) để thay thế quân Âu Phi chiếm đóng. Tập trung các tiểu đoàn Âu Phi tổ chức thành những binh đoàn cơ động và quân dù dự bị chiến lược

-         Xây dựng phòng tuyến (dự kiến 1230 công sự bê tông) vây quanh đồng bằng Bắc Bộ (Hòn Gai-Đông Triều-Lục Nam-Bắc Giang-Bắc Ninh-Sơn Tây-Hà Đông-Ninh Bình) nhằm ngăn chặn cuộc tiến công của chủ lực đối phương vào đồng bằng, đồng thời làm căn cứ bàn đạp cho các cuộc tấn công ra vùng  do đối phương kiểm soát.

-         Đẩy mạnh càn quét bình định qui mô lớn, dài ngày, nhằm ổn định hậu phương, củng cố chính quyền bản xứ ở cơ sở, bao vây, triệt phá và cướp bóc kinh tế, dồn làng tập trung dân, bắt lính

-         Xin thêm viện trợ Mỹ(và Anh), đặt Đông Dương vào kế hoạch chống cộng chung của Pháp-Mỹ ở Đông Nam Á.

Tư tưởng chủ đạo của kế hoạch Đờ Lát là tập trung nỗ lực của đội quân viễn chinh Pháp vào chiến trường Bắc Bộ, làm cho Bắc Bộ trở thành "cái then cửa" của vùng Đông Nam Á chống lại phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ ở khư vực này. Tiếp theo kế hoạch Rơ ve, Kế hoạch Đờ Lát càng thể hiện rõ sự can thiệp của Mĩ vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương và viện trợ Mĩ từ lúc này đã trở thành một điều kiện hết sức quan trọng để thực hiện Kế hoạch Đờ Lát.

3. Quá trình thực hiện Kế hoạch Đờ Lát

Về chính trị, với việc Bảo Đại lên ngôi "Quốc trưởng" và chính phủ Trần Văn Hữu làm lễ tuyên thệ (3-1951), thực dân Pháp coi như đã hoàn thành việc lập chính quyền tay sai. Chúng ra sức tuyên truyền cho nền độc lập giả hiệu và tô son trát phấn cho chính quyền bù nhìn. Để tập trung quyền hành trong tay, Trần Văn Hữu lần lượt thanh trừng lực lượng Đại Việt của Nguyễn Hữu Trí ở Bắc Bộ, cách chức Phan Văn Giáo, thủ hiến Trung phần, bao vây phong toả vùng kiểm soát của lực lượng Cao Đài, thay thế khu tự trị công giáo" ở Bùi Chu, Phát Diễm bằng tổ chức hành chính quân sự của ngụy quyền. Chính phủ Trần Văn Hữu tiếp tục công nhận các công sở do Pháp bàn giao, tổ chức bộ máy hành chính từ tỉnh, huyện xuống tới xã, thôn trong vùng tạm chiếm.

Cùng với việc củng cố bộ máy ngụy quyền, thực dân Pháp và tay sai còn tập hợp và tranh thủ các đảng phái phản động; đồng thời tổ chức thêm nhiều đoàn thể tổ chức chính trị lừa bịp như "Thanh niên kháng chiến hải ngoại", "Thanh niên lao động", "Thanh niên diệt cộng", "Đoàn thanh niên kiến quốc"... để lôi kéo quần chúng, phá hoại kháng chiến. Chúng dùng bọn cha cố phản động nắm giáo dân, bắt phu, bắt lính, phá hoại việc thực hiện các chính sách của ta, nhất là ở những vùng tập trung đồng bào công giáo.

Ở vùng Tây Nguyên, thực dân Pháp nham hiểm và xảo quyệt đẩy mạnh việc thực hiện "ba chính sách lớn" (chính sách có mặt; chính sách muối, kí ninh, dụng cụ và chính sách không can thiệp) để khống chế nhân dân các dân tộc vùng Tây Nguyên. Thông qua bộ máy cai trị từ tỉnh xuống buôn làng, qua các cuộc hành quân và nhất là bằng chính sách độc quyền nắm và phân phát muối, thuốc chữa bệnh, công cụ sản xuất, thực dân Pháp ra sức kìm kẹp nhân dân, buộc họ phải theo chúng chống lại kháng chiến.

Trong các vùng tạm chiếm, với việc đẩy mạnh thực hiện chính sách "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của thực dân Pháp, nhân dân ta phải đóng góp rất nặng nề. Ở Bắc Bộ, ngoài việc tăng các loại thuế, thực dân Pháp đặt ra nhiều thứ thuế mới: thuế đò, thuế bến, thuế nhà ngói dọc đường, thuế binh bị quốc phòng... Chúng còn triệt để thi hành chính sách "tam quang" (cướp sạch, đất sạch, phá sạch), hòng triệt phá nguồn cung cấp cho kháng chiến. Tháng 3-1951, ở Bắc Bộ, thực dân Pháp mở chiến dịch cướp phá thóc lúa. Chúng ra lệnh binh lính phải theo dõi từng bước việc gặt hái của nông dân, kiểm soát chặt chẽ các chợ và đường giao thông, bắt nông dân phải tập trung thóc gạo bán cho nhà chức trách. Mỗi khi càn quét, chúng ra sức cướp phá; không lấy được hết, chúng đổ thóc gạo xuống sông, ao, hồ. Ở một số nơi, chúng bắt dân tập trung thóc gạo lên đồn rồi phát ăn từng ngày, cho quân "gặt cướp" ở các vùng giáp ranh

Ở vùng Bình - Trị - Thiên, thực dân Pháp liên tiếp tiến hành các "trận phá lúa", các "chiến dịch vét thóc gạo". Tại Liên khu V, địch tiến hành cuộc "chiến tranh gạo" rất gay gắt hòng bao vây lương thực vùng tự do. Tại Nam Trung Bộ, địch càn quét dữ dội vùng đồng bằng tạm chiếm ven biển, nhất là ở Ninh Thuận, Khánh Hoà để vơ vét thóc gạo. Hàng ngàn dân bị dồn vào các "khu chiêu an", "khu tập trung". Nhiều cơ sở kháng chiến bị vỡ. Hệ thống đồn lốt tháp canh của địch trước đây bố trí theo tuyến, nay chuyển sang bố từ theo diện. Phong trào kháng chiến ở Liên khu V, nhất là ở vùng tạm chiếm đứng trước nhiều khó khăn gay gắt. Lúc này ta chỉ nắm được 9.000 trên tổng số 180.000 dân ở Khánh Hoà, 10.000 trên 12.000 dân ở Ninh Thuận và 40.000 trên 950.000 dân ở Bình Thuận 1. Hầu hết thóc gạo, lương thực trong vùng tạm chiếm đều bị giặc Pháp chiếm đoạt, làm cho nạn đói trở nên trầm trọng. Ở Nam Bộ, thực dân Pháp kiểm soát được phần lớn mạng lưới giao thông, nên càng đẩy mạnh “chiến tranh kinh tế”. Chúng thường xuyên cho tàu chiến tiến sâu vào các sông và kênh rạch, bắn phá bừa bãi các làng xóm ven sông, gây cho nhân dân ta nhiều tổn thất về người và cửa.

Dựa vào viện trợ của Mĩ, thực dân Pháp đẩy nhanh việc xây dựng quân đội ngụy, hoàn chỉnh hệ thống vành đai phòng thủ bao quanh đồng bằng và trung du Bắc Bộ.

Tháng 5-1951, Bộ Quốc phòng ngụy được tổ chức lại, đặt bên cạnh cơ quan cố vấn Pháp do tướng Đờ Latua (De Latour) phụ trách. Từ sau khi Bảo Đại kí đạo dụ "tổng động viên" (15-7-1951), giặc Pháp và ngụy quyền tay sai ráo riết thực hiện dồn dân, bắt lính. Kết hợp với biện pháp vây bắt, cưỡng bức, chúng dùng nhiều thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo thanh niên vào lính. Bằng những thủ đoạn này, trong đợt tổng động viên, địch đã bắt được 6 vạn người vào lính và tốp sĩ quan người Việt đầu tiên được tập trung huấn luyện, làm nòng cốt xây dựng "quân đội quốc gia". Sau sáu tháng kể từ khi ban hành lệnh "tổng động viên", "quân dội quốc gia" đã có 45 tiểu đoàn, tăng 24 tiểu đoàn so với đầu năm 1951, trong đó có 28 tiểu đoàn được tổ chức thành 4 sư đoàn bộ binh. Các sư đoàn này đều do sĩ quan Pháp chỉ huy và chịu sự chỉ huy hành quân của các bộ chỉ huy quân sự các miền của Pháp.

Một số cơ quan và đơn vị binh chủng được tổ chức, như công binh, pháo binh, nha quân cụ, toà án quân sự, hiến binh quốc gia... Các trường huấn luyện sĩ quan cũng được chấn chỉnh lại. Trường võ bị liên quân ở Huế chuyển vào Đà Lạt. Một trường võ bị đào tạo sĩ quan trù bị được mở tại Nam Định. Các sĩ quan trù bị sau khi huấn luyện được đưa về các đơn vị tiểu đoàn Việt Nam (BVN), thay thế các sĩ quan người Pháp. Một số trường đào tạo hạ sĩ quan và chỉ huy chuyên môn cũng được mở.

Song song với việc xây dựng và phát triển lực lượng chính quy, Pháp và tay sai cũng chú ý chấn chỉnh và tăng cường tổ chức quân sự. Ở các địa phương. Ở tỉnh, thường có một đại đội bảo chính đoàn, đặt bên cạnh tiểu đội quân Liên hiệp Pháp. Ở quận, có từ một đến hai trung đội do quận trưởng chỉ huy. Ở tổng, tổng dũng nắm các đội hương dũng, các đội vũ trang ở thôn ấp. Tất cả các lực lượng này vẫn phải đặt dưới sự điều khiển của cơ quan chỉ huy quân sự của Pháp ở địa phương.

Lực lượng ngụy quân mới xây dựng chủ yếu làm nhiệm vụ chiếm đóng, thay thế cho lực lượng quân viễn chinh rút ra làm nhiệm vụ tác chiến. Nhờ đó, thực dân Pháp đã rút được một bộ phận quân tinh nhuệ tổ chức thành các binh đoàn cơ động làm nhiệm vụ tác chiến trên các chiến trường. Đến tháng 10-1951, trên toàn Đông Dương, Pháp đã tổ chức được 7 binh đoàn cơ động (GM) và 9 tiểu đoàn dù dự bị chiến lược, nâng lực lượng cơ động chiến lược lên gấp ba lần so với năm 1950. Mặc dù vậy, để đối phó với chiến tranh du kích phát triển ngày càng mạnh mẽ ở vùng sau lưng địch và giữ đất ở vùng đồng bằng đông dân nhiều của, thực dân Pháp vẫn phải dành phần lớn binh lực để làm nhiệm vụ chiếm đóng. Năm 1951, lực lượng chiếm đóng tăng từ 77 tiểu đoàn lên 109 tiểu đoàn chính quy, chiếm 67% tổng số quân toàn Đông Dương.

Coi chiến trường Bắc Bộ là "cái then cửa của vùng Đông Nam Á", thực dân Pháp bố trí ở chiến trường này một binh lực khá lớn: 54% lực lượng pháo binh và lính dù, 50% lực lượng pháo binh, 42% cơ giới thiết giáp, 71 % lực lượng công binh 1.

Tại Bắc Bộ, Pháp tiếp tục xây dựng tuyến phòng thủ mạnh gồm hệ thống công sự bằng bê tông cốt thép (boongke) gồm 800 lô cột lập thành hàng chục cứ điểm lớn, nhỏ do 25 tiểu đoàn lính Âu - Phi tinh nhuệ chiếm đóng, kéo dài từ Hòn Gai, Đông Triều, Lục Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh, qua Vĩnh Phúc, Sơn Tây, Hà Đông, đến Ninh Bình. Ở vòng ngoài, song song với phòng tuyến boongke là một "vành đai trắng" có chiều rộng từ 5 - 10 km.

Trên khắp chiến trường từ Nam đến Bắc, quân địch đẩy mạnh bình định ở những vùng chúng kiểm soát. Chúng liên tiếp mở các chiến dịch càn quét với quy mô lớn. Ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, dựa vào tổ chức ngụy quyền và lực lượng phản động trong các giáo phái, địch mở các cuộc hành quân "diệt du, quét cán, càn thanh" (diệt du kích, quét cán bộ, càn thanh niên), đồng thời đánh phá vùng du kích của ta.

Ở vùng biển Hải Phòng, Kiến An, địch khẩn trương xây dựng thêm nhiều công sự boongke kiểu mới, mở rộng sân bay Cát Bi nhằm biến khu vực Hải Phòng - Kiến An - Đồ Sơn - Quảng Yên thành "pháo đài mạnh ven biển". Chúng thay đổi chỉ huy và càn quét dữ dội, đánh phá các cơ sở của ta.

Tại Nam Sách (Hải Dương), ngụy quyền tổ chức thí điểm đội "quân thứ hành chính lưu động" (GAMO), một tổ chức hành chính - chính trị - quân sự chuyên làm nhiệm vụ bình định, thành phần gồm sĩ quan, binh lính, gián điệp, chỉ điểm, nhân viên hành chính, y tế giáo đục, văn hoá... Thông qua đội quân này, chúng truy quét cơ sở kháng chiến, lập lại ngụy quyền, dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo quần chúng.

Ở Thái Bình, Hà Nam, Hà Đông... địch ráo riết thực hiện thủ đoạn "chiêu an". Chúng thành lập các tổ chức cứu tế xã hội", "trại hồi cư”, "hội giúp đỡ đồng bào hồi cư” nhằm mua chuộc, lôi kéo cán bộ và nhân dân ở vùng tự do về vùng tạm chiếm. Chúng dồn dân vào các khu tập trung gọi là "đại xã" để dễ dàng kìm kẹp, khống chế nhân dân và cô lập lực lượng kháng chiến.

Tại vùng đồng bằng Nam Trung Bộ, Pháp phát triển đồn bốt, tháp canh, kết hợp quân ứng chiến với quân chiếm đóng; rào làng, dồn dân, tập trung lúa của dân vào đồn, phát triển tề điệp để khống chế và kiểm soát dân. Ở vùng chiếm đóng Bắc Quảng Nam, đầu năm 1950 có 125 tháp canh, đến cuối năm tăng lên 174; ở Khánh Hoà, năm 1951 địch đóng 109 đồn và 213 tháp canh, lùa dân vùng này đi gặt lúa vùng khác đưa về đồn, tối bắt dân ngủ ở đồn. Ở Ninh Thuận, địch bắt dân rào hết các làng 

Đối với Tây Nguyên, để nắm được địa bàn chiến lược quan trọng này, từ tháng 2-1951, thực dân Pháp đã tách Tây Nguyên khỏi Trung phần, thành lập khu độc lập trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy quân viễn chinh. Tại đây, chúng thành lập các trung đội "xung kích xuyên sơn”, các tiểu đoàn sơn chiến gồm người dân tộc ít người để tác chiến ở vùng núi. Ngoài ra, chúng còn thực hiện một thủ đoạn mới rất thâm độc là phát triển các ổ vũ trang phản động ở các địa phương, gọi là Gum để biến dần người dân bình thường thành người lính chống lại kháng chiến.

Tại Nam Bộ, cùng với chính sách kìm kẹp và cướp đoạt,Pháp và tay sai ra sức lợi dụng các tôn giáo để mê hoặc và lôi kéo quần chúng chống lại kháng chiến. Chúng thành lập các đội quân giáo phái và chuyển giao cho Bộ tham mưu ngụy chỉ huy để sử dụng vào kế hoạch bình định, càn quét. Bằng nhiều thủ đoạn nham hiểm và tàn bạo, đến cuối năm 1951, thực dân Pháp đã bắt hàng vạn thanh niên, có cả thiếu niên 14 - 15 tuổi, vào lính. Trong các thành phố lớn, địch cũng ráo riết bình định. Ở Hà Nội, từ tháng 7-1951, tiếp theo những cuộc vây càn lớn, địch chuyển sang đánh phá sâu vào các tổ chức của ta. Chúng cài cắm tay chân vào các đoàn thể, các cơ sở kháng chiến của ta để hoạt động phá hoại. Một số đơn vị bảo chính đoàn được chúng điều động trở lại đóng bốt để làm chỗ dựa cho bọn tay sai lập hội tề, bảo an: ở thành phố Hải Phòng, ngoài hàng ngàn lính cơ động, còn có cả một hệ thống cảnh sát, mật vụ, chỉ điểm cài cắm khắp các ngõ phố, nhà máy , bến cảng . . .

Thực dân Pháp còn huy động lực lượng cơ động mở các cuộc càn lớn để tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta, phá nát các làng chiến đấu và căn cứ du kích dập tắt phong trào chiến tranh du kích đang ngày một lan rộng ở khắp các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Kế hoạch De Lattre De Tassigny  đã gây cho ta nhiều khó khăn mới, nhất là ở vùng sau lưng địch. Tại một số vùng, nhiều làng xóm bị tàn phá, cơ sở kháng chiến bị tổn thất, phong trào đấu tranh của nhân dân bị giảm sút. Chỉ riêng cuộc càn quét của địch vào đầu tháng 10-1951, chúng đã chiếm lại khu vực ba huyện Tiên Hưng - Duyên Hà - Hưng Nhân, với 363 làng, gồm 280.000 dân. Căn cứ du kích liên hoàn ba huyện ở phía bắc tỉnh Thái Bình trở thành vùng tạm chiếm.

Tuy nhiên, các thủ đoạn mà Pháp tiến hành chỉ mang đến những thắng lợi nhất định, chưa theo đúng những gì mà giới cầm quyền Pháp hi vọng. Quyền chủ động chiến lược vẫn nằm trong quân ta. Từ cuối 1950 đến giữa năm 1951 quân ta liên tiếp mở các chiến dịch lớn: Trần Hưng Đạo, Đường 18, Quang Trung,…gây trở gại lớn cho Pháp trong việc thực hiện kế hoạch De Lattre De Tassigny .Trong hoàn cảnh ấy, những người cầm đầu Chính phủ Pháp muốn có một thắng lợi quân sự vang dội để vừa xoa dịu dư luận, trấn an tinh thần binh sĩ, vừa để tranh thủ viện trợ của Mĩ. Đờ Lát quyết định đánh chiếm Hòa Bình. Chỉ sau mấy ngày địch chiếm đóng, thị xã Hoà Bình bị vây chặt trong một vòng đai lửa của quân ta, khiến địch phải núp kín dưới hầm. Trên phòng tuyến sông Đà, nhiều đoàn tàu chiến của địch bị đánh đắm. Các vị trí kiên cố nhất, như Ba Vì, Đá Chông, Tu Vũ lần lượt bị quân ta tiêu diệt.

Trải qua hơn hai tháng chiến đấu (từ ngày 10-12-1951 đến 25-2- 1952), trên cả hai mặt trận, quân và dân ta đã tiêu diệt và bắt khoảng 22.000 địch. Riêng mặt trận vùng sau lưng địch, tá đã tiêu diệt 15.000 tên; san phẳng, bức hàng và bức rút hơn 1.000 đồn bốt, tháp canh của địch (chiếm 2/3 tổng số đồn bốt, tháp canh). Ta đã giải phóng hoàn toàn khu vực Hoà Bình - Sông Đà rộng 2.000 km2, với 15 vạn dân; làm chủ hoàn toàn phía tây đồng bằng Bắc Bộ; bảo vệ toàn vẹn con đường giao thông chiến lược của kháng chiến từ Việt Bắc đến Nam Bộ; phá tan âm mưu thâm độc chia rẽ đồng bào các dân tộc và chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch ở Hoà Bình. Các căn cứ du kích được mở rộng và nối liền thành một thế liên hoàn từ Bắc Giang xuống Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Hàm Đông. Phần lớn kết quả bình định đồng bằng Bắc Bộ trong cả năm 1951 của địch bị phá vỡ. Âm mưu phản công tiêu diệt bộ đội chủ lực ta, giành lại quyền chủ động chiến lược của địch bị đập tan.

Chiến thắng Hoà Bình là chiến thắng quân sự lớn nhất của ta từ sau chiến thắng Biên giới thu - đông 1950. Nó đã làm tan vỡ toàn bộ kế hoạch quân sự của Tướng De Lattre De Tassigny , cắt đứt mọi hi vọng giành quyền chủ động của quân Pháp từ đó về sau. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro