k54cd1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương mở đầu

NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA

CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

1. Chủ nghĩa Mác - Lênin và ba bộ phận cấu thành

* Chủ nghĩa Mác - Lênin "là hệ thống quan điểm và học thuyết" khoa hoc của C. Mác, Ph. Ăngghen và sự phát triển của Lênin; được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại; là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.

* Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin với tư cách là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người thì có thể thấy nội dung của chủ nghĩa Mác - Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản thống nhất biện chứng với nhau, đó là: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học.

+ Triết học Mác - Lênin: là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và nhận thức thực tiễn cách mạng.

+ Kinh tế chính trị: nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

+ Chủ nghĩa xã hội khoa học: nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa - bước chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản, từ vương quốc của tính tất yếu mù quáng sang vương quốc tự do của con người.

Như vậy, mặc dù ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin có đối tượng nghiên cứu cụ thể khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống lý luận khoa học thống nhất - đó là khoa học về sự giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.

Ngày nay, có nhiều học thuyết với lý tưởng nhân đạo về giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới là học thuyết khoa học nhất, chắc chắn nhất và chân chính nhấ để thực hiện lý tưởng ấy.

2. Khái lược sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin

a) Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác - Lênin

* Điều kiện kinh tế - xã hội

+ Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp được thực hiện trước tiên ở nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII. Cuộc cách mạng công nghiệp không những đánh dấu bước chuyển hóa từ nền sản xuất thủ công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.

+ Mâu thuẫn sâu sắc giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa với quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ qua cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 và hàng loạt các cuộc đấu tranh của công nhân chống lại chủ nghĩa tư bản, tiêu biểu là: cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt Liôn (Pháp) năm 1831, 1834; phong trào Hiến chương (Anh) từ năm 1835 đến năm 1848; cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt Silêdi (Đức) năm 1844...Đó là những bằng chứng lịch sử thể hiện giai cấp vô sản đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.

+ Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan là nó phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời là sự đáp ứng yêu cầu khách quan đó; đồng thời chính thực tiễn cách mạng đó cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác.

* Tiền đề lý luận

- Triết học cổ điển Đức

+ Hê ghen phê phán phương pháp siêu hình, diễn đạt nội dung của phép biện chứng thông qua các quy luật, phạm trù  C. Mác và Ph. Ăngghen đã phê phán tính chất duy tâm trong triết học Hêghen  kế thừa phép biện chứng của ông  xây dựng phép biện chứng duy vật.

+ Với Phoiơbắc, C. Mác và Ph. Ăngghen đã: phê phán hạn chế về phương pháp, quan điểm xã hội..; các ông đánh giá cao vai trò tư tưởng của Phoiơbắc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, khẳng định giới tự nhiên là tính thứ nhất, tồn tại vĩnh viễn, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Chủ nghĩa duy vật vô thần của Phoiơbắc tạo tiền đề quan trọng cho bước chuyển của C. Mác và Ph. Ăngghen từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật  tiền đề lý luận quan trọng của quá trình chuyển từ lập trường chủ nghĩa dân chủ - cách mạng sang lập trường chủ nghĩa cộng sản.

- Kinh tế chính trị cổ điển Anh

A . Xmit và Đ. Ricácđô: xây dựng học thuyết về giá trị lao động, mở đầu lý luận về giá trị trong kinh tế chính trị học.

+ Mặt tích cực: các ông đã đưa ra những kết luận quan trọng về giá trị và nguồn gốc của lợi nhuận, về tính chất quan trọng hàng đầu của quá trình sản xuất, về quy luật kinh tế khách quan.

+ Mặt hạn chế: không thấy được tính lịch sử của giá trị, không thấy được mâu thuẫn của hàng hóa và sản xuất hàng hóa, không thấy được tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa cũng như không phân biệt được sản xuất hàng hóa giản đơn với sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa; chưa phân biệt được chính xác những biểu hiện của giá trị trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

 C. Mác kế thừa những yếu tố khoa học trong lý luận về giá trị lao động và những tư tưởng tiến bộ của các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh, đồng thời khắc phục những bế tắc của họ, xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư, luận chứng khoa học về bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản và nguồn gốc kinh tế của sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản cũng như sự ra đời tất nhiên của chủ nghĩa xã hội.

- Chủ nghĩa xã hội không tưởng (H. Xanh Ximông, S. Phuriê, R. Ooen)

Tinh thần nhân đạo và những quan điểm đúng đắn của các nhà lý luận chủ nghĩa xã hội không tưởng về lịch sử, về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội tương lai đã trở thành một trong nhưng tiền đề lý luận quan trọng cho sự ra đời của lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội trong chủ nghĩa Mác.

* Tiền đề khoa học tự nhiên, làm tiền đề luận cứ, minh chứng và khẳng định tính đúng đắn về thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác.

+ Quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: chứng minh khoa học về sự không tách rời, sự chuyển hóa lẫn nhau và được bảo toàn của các hình thức vận động của vật chất.

+ Thuyết tiến hóa: đem lại cơ sở khoa học về sự phát sinh, phát triển đa dạng bởi tính di truyển, biến dị và mối liên hệ hữu cơ giữa các loài thực vật, động vật trong quá trình chọn lọc tự nhiên.

+ Thuyết tế bào: xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc, hình thái và cấu tạo vật chất của cơ thể thực vật, động vật và giải thích quá trình phát triển trong mối liên hệ của chúng.

Những thành tựu khoa học trên đã bác bỏ tư duy siêu hình và quan điểm thần thoại về vai trò của Đấng sáng tạo; khẳng định tính đúng đắn quan điểm về thế giới vật chất vô cùng, vô tận, tự tồn tại, tự vận động, tự chuyển hóa của thế giới quan duy vật biện chứng; khẳng định tính khoa học của tư duy biện chứng duy vật trong nhận thức và thực tiễn.

Như vây, sự ra đời của chủ nghĩa Mác là hiện tượng hợp quy luật; nó vừa là sản phẩm của tình hình kinh tế - xã hội đương thời, của tri thức nhân loại thể hiện trong các lĩnh vực khoa học, vừa là sản phẩm năng lực tư duy và tinh thần nhân văn của những người sáng lập ra nó.

b) Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác

Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác do C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện diễn ra:

• Từ những năm 1842 - 1843  1847 - 1848

• Sau từ năm 1849  1895 phát triển sâu sắc hơn, hoàn thiện hơn.

- Những tác phẩm: "Bản thảo kinh tế - triết học 1844", "Gia đình thần thánh"(C. Mác - Ph. Ăngghen), "Luận cương về Phoiơbắc" (C.Mác, 1845), "Hệ tư tưởng Đức" (C. Mác - Ph. Ăngghen,1845 - 1846)  thể hiện việc C. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa tinh hoa quan điểm duy vật và phép biện chứng của các bậc tiền bối để xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật.

- Tác phẩm "Sự khốn cùng của triết học"(C. Mác,1847), "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" (C. Mác - Ph. Ăngghen,1848), đã trình bày như một chỉnh thể các quan điểm nền tảng với ba bộ phận lý luận cấu thành.

+ "Sự khốn cùng của triết học" - đề xuất những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa xã hội khoa học và bước đầu thể hiện tư tưởng về giá trị thặng dự.

+ "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" - là văn kiện có tính cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác. Trong tác phẩm này, cơ sở triết học được thể hiện sâu sắc trong sự thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị - xã hội; bước đầu chỉ ra những quy luật vận động của lịch sử - tư tưởng cơ bản về lý luận hình thái kinh tế - xã hội; xã hội có giai cấp  lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử đấu tranh giai cấp, giai cấp vô sản chỉ có thể giải phóng mình nếu đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể nhân loại.

 Với những quan điểm cơ bản này, C. Mác và Ph. Ăngghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.

- Tác phẩm "Tư bản" - lý luận về giá trị thặng dư.

+ Mở đường cho sự hình thành hệ thống lý luận kinh tế chính trị mới trên trường giai cấp vô sản.

+ Củng cố, phát triển quan điểm duy vật lịch sử một cách vững chắc thông qua lý luận về hình thái kinh tế - xã hôi.

+ Trình bày về chủ nghĩa xã hội khoa học thông qua việc làm sáng tỏ quy luật hình thành, phát triển và diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản; sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội và sứ mệnh lich sử của giai cấp công nhân.

- Tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Gôta" (C. Mác, 1875), đề cập những vấn đề: Nhà nước chuyên chính vô sản, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, những giai đoạn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa cộng sản..

c) Giai đoạn bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác

- Bối cảnh lịch sử và nhu cầu bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác.

+ Những năm cuối của thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang một giai đoạn mới là giai đoạn chủ nghĩa đế quốc: bản chất bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ rõ nét; mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản ngày càng sâu sắc mà điển hình là mâu thuẫn giai cấp giữa vô sản và tư sản.

+ Sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, của khoa học tự nhiên  một số nhà khoa học tự nhiên, do bấp bênh về phương pháp luận triết học duy vật nên rơi vào tình trạng khủng hoảng về thế giới quan  chủ nghĩa duy tâm lợi dụng.

+ Là thời kỳ chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi vào nước Nga. Để bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp tư sản, những trào lưu tư tưởng như chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại...đã mang danh đổi mới chủ nghĩa Mác để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa Mác.

 Cần phải khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên để rút ra những kết luận về thế giới quan và phương pháp luận, phải thực hiện cuộc đấu tranh lý luận để chống sự xuyên tạc và phát triển chủ nghĩa Mác đã được thực tiễn nước Nga đặt ra.

Hoạt động của Lênin đã đáp ứng được nhu cầu lịch sử này.

- Vai trò của Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác

• Thời kỳ 1993 - 1907

• Thời kỳ 1907 - 1917

• Thời kỳ sau khi cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thành công (1917) đến khi Lênin từ trần (1924)

* Những năm 1893 - 1907 là những năm V. I.Lênin tập trung chống phái dân túy - tác phẩm " Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao"(1894), ông phê phán tính chất duy tâm và những sai lầm của phái này khi nhận thức những vấn đề lịch sử - xã hội, vạch ra ý đồ của họ khi muốn xuyên tạc chủ nghĩa Mác, đồng thời đưa ra nhiều tư tưởng về tầm quan trọng của lý luận, của thực tiễn và mối quan hệ của họ.

+ Tác phẩm "Làm gì" (1902), V. I.Lênin phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về các hình thái đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trước khi giành chính quyền, đề cập đến đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng, nhấn mạnh quá trình hình thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản,

+ Tác phẩm "Hai sách lược của đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng dân chủ"(1905): vấn đề phương pháp cách mạng, nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan, vai trò của quần chúng nhân dân, vai trò của Đảng chính trị..trong cách mạng tư sản giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.

* Những năm 1907 - 1917

+ Tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán"(1909) - đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, những nguyên tắc của nhận thức...V. I.Lênin đã bảo vệ thành công mà còn phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới.

+ Tác phẩm "Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác"(1913) - trình bày về nguồn gốc lịch sử, bản chất và kết cấu của chủ nghĩa Mác.

+ Tác phẩm "Bút ký triết hoc" (1914 - 1916) - về phép biện chứng.

+ Tác phẩm "Nhà nước và Cách mạng"(1917) - trình bày về nhà nước chuyên chính vô sản và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

* Cách mạng Tháng Mười Nga thành công mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu. V. I.Lênin đã tổng kết thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân, tiếp tục bảo vệ phép biện chứng mácxít, đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa chiết trung và thuyết ngụy biện đồng thời phát triển chủ nghĩa Mác...thể hiện qua một loạt các tác phẩm " Bệnh ẫu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản" (1920), "Lại bàn về công đoàn", " Về tình hình trước mắt và về những sai lầm của các đồng chí Tơrotxki và Bukharin" (1921), " Về chính sách kinh tế mới" (1921), "Bàn về thuế lương thực" (1921)...

Với những cống hiến trên, tên tuổi của V. I.Lênin đã gắn liền với chủ nghĩa này, đánh dấu bước phát triển toàn diện của chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác - Lênin.

d) Chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới

- Cuộc cách mạng tháng Ba năm 1871 ở Pháp  nhà nước chuyên chính vô sản (Công xã Pari) được thành lập.

- Tháng 8 / 1903, chính đảng vô sản đầu tiên của giai cấp vô sản được xây dựng theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Đảng Bônsêvich Nga lãnh đạo cuộc cách mạng Nga năm 1905.

- Tháng 10 / 1917 cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản thắng lợi mở ra một kỷ nguyên mới cho nhân loại, chứng minh tính hiện thực của chủ nghĩa Mác - Lênin trong lịch sử.

- Năm 1919 Quốc tế cộng sản được thành lập 1922 Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết ra đời.

 Những sự kiên trên đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân toàn thế giới, thức tỉnh, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa.

 Vai trò định hướng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đem lại những thành quả to lớn cho sự nghiệp vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

- Những năm 90 thuộc thế kỷ XX, hệ thống XHCN bị khủng hoảng và rơi vào giai đoạn thoái trào song tư tưởng CNXH vẫn được khẳng định ở nhiều quốc gia và chiều hướng đi theo con đường XHCN vẫn lan rộng ở các nước khu vực Mỹ - latin.

- Ngày nay, xã hội có nhiều biến đổi nhanh chóng và đa dạng đến đâu thì bản chất của phương thức sản xuất TBCN vẫn không thay đổi  việc bảo vệ, kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và đổi mới công việc xây dựng CNXH trở thành vấn đề cấp bách trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.

I. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU MÔN HỌC "NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN".

1. Đối tượng, mục đích của việc học tập, nghiên cứu

- Đối tượng: của việc học tập và nghiên cứu môn học "Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin" là những quan điểm cơ bản, nền tảng củ chủ nghĩa Mác - Lênin trong phạm vi ba bộ phận lý luận cấu thành nó.

+ Trong pham vi lý luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin , đó là những nguyên lý về thế giới quan và phương pháp luận chung nhất, bao gồm những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học.

+ Trong phạm vi lý luận kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là học thuyết về giá trị (giá trị lao động); học thuyết giá trị thặng dư; học thuyết về CNTB độc quyền và CNTB độc quyền nhà nước; khái quát những quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất tư bản từ giai đoạn hình thành đến giai đoạn phát triển của nó.

+ Trong phạm vi chủ nghĩa xã hội khoa học, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa; phản ánh các quy luật kinh tế, chính trị - xã hội của quá trình hình thành, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và định hướng cho hoạt động của giai cấp công nhân trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.

- Mục đích:

+ Nắm vững những quan điểm khoa học, cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin.

+ Hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, nền tảng tư tưởng của Đảng.

+ Trên cơ sở đó xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cách mạng, xây dựng niềm tin và lý tưởng cách mạng.

+ Vận dụng sáng tạo nó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, trong rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, đáp ứng yêu cầu của con người Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

2. Một số yêu cầu cơ bản về phương pháp học tập, nghiên cứu

- Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản cảu chủ nghĩa Mác - Lênin cần phải hiểu đúng đắn tinh thần thực chất của nó; chống xu hướng kinh viện, giáo điều.

- Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin phải đặt chúng trong mối liên hệ với các luận điểm khác, ở các bộ phận cấu thành khác để thấy sự thống nhất trong tính đa dạngvà nhất quán của mỗi tư tưởng nói riêng, của toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung.

- Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin để hiểu rõ hơn cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, nền tảng tư tưởng của Đảng; vì vậy, phải gắn những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn thời đại.

- Quá trình học tập, nghiên cứu đồng thời cũng phải là quá trình giáo dục, tự giáo dục, tu dưỡng và rèn luyện để từng bước hoàn thiện mình.

- Quá trình học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng phải là quá trình tổng kết kinh nghiệm để góp phần phát triển tính khoa học và tính nhân văn vốn có. Mặt khác, phải đặt nó trong lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại.

Phần thứ nhất

THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC

CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Chương I

CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

1. Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bảnc của triết học.

Ph. Ăngghen viết: "Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại", giữa ý thức và vật chất, giữa tinh thần và giới tự nhiên".

Vấn đề cơ bản của triết học được phân tích trên hai mặt:

- Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức: cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào?

- Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?

 Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là xuất phát điểm của các trường phái lớn:

• Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

• Khả tri luận và bất khả tri luận.

• Chủ nghĩa nhị nguyên và hoài nghi luận.

* Chủ nghĩa duy vật là trường phái xuất phát từ quan điểm: bản chất của thế giới là vật chất, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất có trước và quyết định ý thức.

* Chủ nghĩa duy tâm là trường phái xuất phát từ quan điểm: bản chất thế giới là ý thức; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai, ý thức có trước và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội của nó; đó là:

+ Sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức và đồng thời thường gắn với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động.

+ Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cũng có mối liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển.

Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực; chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh thần, ý thức ấy được quan niệm là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước tồn tại độc lập với giới tự nhiên và con người.

Chủ nghĩa duy vật và sự tồn tại, phát triển của nó có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời thường xuyên gắn liền với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử.

2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng - hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật

- Chủ nghĩa duy vật chất phác: là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại.

+ Thừa nhận tính thứ nhất của vật chất,

+ Đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của vũ trụ.

 Nhận thức của các nhà duy vật cổ đại mang nặng tính trực quan nên những kết luận của họ về thế giới còn ngây thơ, chất phác.

- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: thể hiện khá rõ từ thế kỷ XV  XVIII và đỉnh cao vào thế kỷ XIX. Chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc của cơ học cổ điển,

- Chủ nghĩa duy vật biện chứng: là hình thức thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng từ năm 40 củ thế kỷ XIX, sau đó được V. I.Lênin kế thừa và phát triển.

+ Kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng triệt để những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời.

+ Khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại  đạt tới trình độ là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử  phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển  chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.

II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

1. Vật chất

a) Phạm trù vật chất

Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử triết học trên 2500 năm.

- Chủ nghĩa duy tâm quan niệm bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần, còn vật chất chỉ được quan niệm là sản phẩm của một bản nguyên tinh thần ấy.

- Chủ nghĩa duy vật quan niệm: bản chất của thế giới, thực thể của thế giới là vật chất - cái tồn tại vĩnh viễn, tạo nên mọi sự vật, hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.

- Các nhà duy vật trước Mác quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên, sản sinh ra vũ trụ.

+ Thời cổ đại: Phái Ngũ hành ở Trung Quốc quan niệm vật chất là Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ / Phái Nyaya Vai'sêsika ở Ấn Độ lại quan niệm đó là anu . Ở Hy Lạp , thuộc phái Mile, Talet cho rằng chất đầu tiên đơn thuần là nước, hay không khí ( Anaximen) , Hêraclit lại quan niệm nó là lửa , Đêmôcrit thì khẳng định đó là nguyên tử.

+ Thế kỷ XVII, XVIII quan niệm về vật chất như trên của các nhà duy vật về cơ bản vẫn không thay đổi, như: Ph. Bêcon, R. Đềcactơ hiểu vật chất là các hạt; T. Hốp , Đ. Điđro lai cho rằng vật chất chính là các vật thể riêng lẻ...

 Nhận xét: Các nhà triết học duy vật trước Mác đã đồng nhất vật chất với vật thể.

+ Không hiểu được bản chất của các hiện tượng ý thức cũng như mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.

+ Không có cơ sở để xác định những biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội  không có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề xã hội  quan điểm duy vật nửa vời, không triệt để.

- Sự phát triển của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đặc biệt là phát minh của Rơnghen , Béccơren , Tômxơn ...những phát minh này đã bác bỏ quan điểm của các nhà duy vật về những chất được coi là "giới hạn tột cùng"  khủng hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý học  chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất "phi vật chất" của thế giới, khẳng định vai trò của các lực lượng siêu nhiên đối với quá trình sáng tạo thế giới.

- Lênin đã tiến hành tổng kết những thành tựu của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Từ nhu cầu chống chủ nghĩa duy tâm  Định nghĩa vật chất:

" Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác".

 Nội dung định nghĩa vật chất:

- Thứ nhất, cần phải phân biệt được "vật chất" với tư cách là phạm trù triết học với những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.

+ Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi, còn tất cả những sự vật, những hiện tượng là những dạng cụa thể của vật chất nên nó có quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa .

+ Vì vậy không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.

- Thứ hai, đặc trưng cơ bản của vật chấ là thuộc tính khách quan, tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người, cho dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.

- Thứ ba:

+ Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người.

+ Ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.

 Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của Lênin:

+ Phân biệt được sự khác nhau giữa vật chất và vật thể  khắc phục được hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn chế duy tâm trong quan niệm về lịch sử của chủ nghĩa duy vật trước Mác.

+ Định nghĩa vật chất của Lênin đã giải đáp duy vật khoa học nội dung vấn để cơ bản cảu triết học. Nó khẳng định vật chất là cái có trước, quyết định so với ý thức là cái có sau, cái bị quyết định. Đồng thời khẳng định khả năng con người có thể nhận thức được thực tại khách quan thông qua sự "chép lại, chụp lại, phản ánh" của con người đối với thực tại khách quan.

b) Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: vận động là phương thức tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất

- Vân động - là phương thức tồn tại của vật chất

Ph. Ăngghen định nghĩa: "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể cả sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy".

+ Vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không gian mà là "mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ".

+ Vận động là "phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất" nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình.

+ Vận động của vật chất là tự thân vận động.

+ Sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vận động.

Ph. Ăngghen phân chia vận động thành năm hình thức vận động cơ bản:

+ Vận động cơ giới: sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.

+ Vận động vật lý: vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt, điện...

+ Vận động hóa: sự biến đổi của các chất vô cơ, hữu cơ trong quá trình hóa hợp và phân giải.

+ Vận động sinh học: sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen...ví dụ: quá trình đồng hóa, dị hóa của cơ thể sống..

+ Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa..của đời sống xã hội, ví dụ như sự thay đổi của các hình thái kinh tế - xã hội như hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa  hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.

Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa là phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.

+ Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định chứ không xảy ra với tất cả các hình thức vận động.

+ Đứng im là tạm thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhất định, chỉ là xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.

+ Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định, vận động chưa làm thay đổi cơ bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.

Ví dụ: Đứng im trong tàu nhưng lại cùng tàu chuyển động

- Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất

+ Mọi dạng cụ thể của vật chất tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái..) với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy gọi là không gian.

+ Sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa..những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.

Vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau; không có vật chất tồn tại ngoài không gian và thời gian; cũng không có không gian, thời gian tồn tại ở ngoài vật chất vận động.

+ Không gian và thời gian có tính chất sau:

• Tính khách quan

• Tính vĩnh cửu

• Tính vô tận và vô hạn

• Không gian luôn có ba chiều (dài, rộng, cao) còn thời gian có tính một chiều (từ quá khứ  tương lai).

c) Tính thống nhất vật chất của thế giới

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất:

+ Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước, tồn tạo khách quan, độc lập với ý thức của con người.

+ Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và không bị mất đi.

+ Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.

2. Ý thức

a) Nguồn gốc của ý thức

Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội:

* Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con người và hoạt động của bộ óc đó cũng có mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc của con người tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tao.

- Về bộ óc người: ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc.

Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo. Đó là mối quan hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thông qua hoạt động của các cảm giác đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên quá trình phản ánh.

+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.

+ Những điểm được tái tạo ở dạng vật chất nhận sự tác động bao giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất tác động.

+ Những đặc điểm mang thông tin ấy được gọi là cái phản ánh.

+ Còn dạng vật chất tác động được gọi là cái được phản ánh.

 Cái phản ánh và cái được phản ánh không tách rời nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Cái được phản ánh là những dạng cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ là đặc điểm chứa đựng thông tin của dạng vật chất đó (cái được phản ánh) ở một dạng vật chất khác (dạng vật chất nhận sự tác động).

+ Phản ánh thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hoá học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo (phản ánh ý thức).

• Phản ánh vật lý, hoá học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Phản ánh vật lý, hoá học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa (thay đổi kết cấu, vị trí, tính chất lý - hoá qua quá trình kết hợp, phân giải các chất) khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật chất tác động.

• Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh. Phản ánh sinh học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ.

• Phản ánh tâm lý là phản ánh của động vật có hệ thần kinh trung ương được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.

• Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ óc người - phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh năng động, sáng tạo này được gọi là ý thức.

* Nguồn gốc xã hội của ý thức: là lao động và ngôn ngữ. Hai yếu tố này vừa là nguồn gốc, vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.

• Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người.

+ Là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên.

 Là quá trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại dáng đi thẳng bằng hai chân, giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát triển não bộ...của con người.

+ Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, làm thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát đựoc.

 Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của cảm giác  tác động vào con người  thông qua hoạt động của não bộ con người  tạo khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.

Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông qua quá trình lao động.

• Ngôn ngữ: là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.

+ Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động.

+ Lao động ngay từ đầu mang tính tập thể  mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để biểu đạt  nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động.

Nhờ ngôn ngữ, con người có thể giao tiếp, trao đổi, khái quát, tổng kết, đúc kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác.

b) Bản chất và kết cấu của ý thức

* Bản chất của ý thức

"Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan".

- Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện:

+ Ở khă năng hoạt động tâm - sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện nghĩa của thông tin được tiếp nhận.

+ Ở quá trình con người tạo ra những giả tượng, giả thuyết, huyền thoại...trong đời sống tinh thần của mình.

+ Khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.

- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu..) của con người.

Theo C. Mác, ý thức "chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc của con người và được cải biến đi trong đó".

Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội - sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định.

 Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.

* Kêt cấu của ý thức

Theo các yếu tố cơ bản hợp thành ý thức thì ý thức bao gồm 3 yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể bao gồm những yếu tố khác.

- Tri thức: là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.

+ Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng.

+ Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức.

+ Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển.

Theo C. Mác: "phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức".

Phân loại tri thức:

• Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức có: tri thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về nhân văn.

• Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức có: tri thức đời thường và tri thức khoa học; tri thức kinh nghiệm và tri thưc lý luận; tri thức cảm tính và tri thức lý tính...

- Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con ngưòi trong các quan hệ.

+ Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh.

+ Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người.

+ Tình cảm là yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn.

+ Phân loai tình cảm có: tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo...

- Ý chí: là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích của con người.

+ Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và hoàn cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chon.

+ Ý chí là quyền lực của con người đối với mình: nó điều khiển hành vi để con người hướng đế mục đích một cách tự giác; nó cho phép con ngưòi kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình.

+ Giá trị chân chính của ý thức chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa của mục đích của mục đích mà ý chí hướng đến.

Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.

3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn trong mối quan hệ đó vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức.

a) Vai trò của vật chất đối với ý thức

- Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.

+ Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người thì mới có ý thức.

+ Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức đều, hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất nên vật chất là nguồn gốc của ý thức.

+ Ý thức là cái phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.

b) Vai trò của ý thức đối với vật chất

Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

- Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người.

+ Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo  Ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan  Trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp... để thực hiện mục tiêu của mình.

- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực:

+ Sự tác động tích cực của ý thức ở chỗ khiến con ngưòi nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình  thế giới được cải tạo.

+ Sự tác động tiêu cực của ý thức ở chỗ: ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật  hành động của con người đi ngược các quy luật khách quan tác động tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, hiện thực khách quan.

Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người.

4. Ý nghĩa phương pháp luận

Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tiễn khách quan, tôn trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.

Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan mà căn bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, của xã hội.

Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy.

 Cần phải tôn trọng tri thức khoa học, tích cực học tập, nghiên cứu.

 Phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành củng cố nhân sinh quan cách mạng,... để thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.

Phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược... Đây cũng là quá trình chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động...trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Chương II

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng

a) Khái niệm biện chứng, phép biện chứng

- Biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ tương tác, chuyển hoá và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.

Biện chứng bao gồm biện chứng chủ quan và biện chứng khách quan:

+ Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất.

+ Biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào đời sống ý thức của con người.

Theo Ph. Ăngghen: "Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên.

- Phép biện chứng: là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy, phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép siêu hình.

- Phép siêu hình: phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng thái cô lập và bất biến.

b) Các hình thức cơ bản của phép biện chứng

Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức cơ bản: phép biện chứng chất phát thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật trong chủ nghĩa Mác - Lênin.

- Phép biện chứng chất phác thời cổ đại:

Là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong lịch sử triết học

+ Ở Trung Quốc: "biến dịch luận" (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ) và "ngũ hành luận" (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất bản thể trong vũ trụ) của Âm dương gia.

+ Trong triết học Ấn Độ: tư tưởng biện chứng ở triết học Phật giáo, với các phạm trù "vô ngã", "vô thường", "nhân duyên"...

+ Trong triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện một cách sâu sắc tinh thần của phép biện chứng tự phát (Aristotle, Hêraclits..).

+ Những tư tưởng biện chứng đó về căn bản vẫn còn mang tính chất ngây thơ, chất phác, tự phát và trừư tượng.

Phép biện chứng chất phác cổ đại nhận thức đúng đắn về tính biện chứng của thế giới nhưng bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác ngây thơ, không dựa trên những thành tựu phát triển của khoa tự nhiên.

Từ cuối thế kỷ XV, khoa học tự nhiên phát triển mạnh  thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình thống trị trong tư duy triết học và nghiên cứu khoa học

 Không còn phù hợp khi nghiên cứu quá trình thống nhất của các đối tượng trong mối liên hệ  ra đời hình thức tư duy mới bằng tư duy biện chứng.

- Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức: được khởi đầu từ Cantơ và hoàn thiện ở Hêghen.

Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thống.

Ở Hêghen: ông coi biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của "ý niệm tuyệt đối", coi biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan.

Các nhà triết học duy tâm Đức, mà đỉnh cao là Hêghen đã xây dựng phép biện chứng duy tâm với hệ thống phạm trù, quy luật chung, có lôgíc chặt chẽ của ý thức, tinh thần.

- Phép biện chứng duy vật:

Đó là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa trên tinh thần phê phán đối với phép biện chứng cổ điển Đức.

Là sáng tạo của C. Mác và Ăngghen mà sau này được Lênin kế thừa và phát triển.

2. Phép biện chứng duy vật

a) Khái niệm phép biện chứng duy vật

Ph. Ăngghen khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, đã nhấn mạnh: "Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến"

Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển. V. I.Lênin khẳng định: "Trong số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dười hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng"...

b) Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật

- Xét từ kết cấu nội dung, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin có hai đặc trưng cơ bản sau:

+ Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học.

+ Hai là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin có sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan (duy vật biện chứn) và phương pháp luận (biện chứng duy vật), do đó nó không chỉ dừng lại ở sự giải thích về thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.

- Vai trò: của phép biện chứng duy vật:

+ Giữ vai trò đặc biệt quan trong trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin.

+ Tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.

+ Là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.

II. CÁC NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

a) Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến

Trong lịch sử triết học, khi xem xét về mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới có nhiều quan điểm khác nhau:

- Những người theo quan điểm siêu hình:

+ Phủ nhận mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.

+ Các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, không quy định, không tác động lẫn nhau.

+ Các sự vật, hiện tượng không có khả năng chuyển hoá lẫn nhau.

Ví dụ: Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính của con người tách rời nhau, không có mối liên hệ gì,...

- Những người theo quan điểm biện chứng:

+ Thừa nhận mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.

+ Các sự vât, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại.

+ Có khả năng chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng.

Ví dụ: Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau.

* Khái niệm mối liên hệ: Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.

Ví dụ: Môi trường có ảnh hưởng to lớn đến con người và hoạt động của con người cũng tác động trở lại to lớn đến sự biến đổi của môi trường.

Ví dụ : Trong cấu tạo bản thân một con người, giữa các cơ quan như hô hấp, tuần hoàn, bài tiết, thần kinh, sinh sản,...tất cả đều có mối liên hệ mật thiết với nhau.

* Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng, đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng.

Ví dụ : Trong tự nhiên có mối liên hệ giữa động vật với thực vật, giữa cơ thể sống với môi trường.../Trong xã hội, có mối liên hệ giữa con người với con người... ; Trong tư duy, mối liên hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính,...

b) Tính chất của mối liên hệ

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng mối liên hệ có ba tính chất cơ bản sau: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

- Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện:

+ Theo quan điểm duy vật biện chứng: các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan, là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý thức của con người.

Ví dụ: Xét mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, cụ thể như: mối quan hệ giữa người nông dân và người thợ may trong quan hệ trao đổi hàng hoá lẫn nhau  tạo ra mối liên hệ và mối liên hệ này mang tính khách quan...

+ Mối liện hệ mang tính khách quan bởi vì các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới đa dạng, phong phú, khác nhau song chúng đều là những dạng cụ thể của thế giới vật chất.

- Tính phổ biến của mối liên hệ

+ Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác đồng thời cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.

Ví dụ :Mối liên hệ có ở trong bản thân một con người và giữa người này với người khác.

+ Mối liên hệ có ở tất cả mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Ví dụ: Trong giới tự nhiên, giữa động vật và thực vật, giữa cơ thể sống và môi trường có quan hệ với nhau/ Trong đời sống xã hội, giữa các cá nhân - giữa các tập đoàn người - giữa các quốc gia có quan hệ với nhau (quan hệ giữa người với người trong sản xuất...)/ Trong lĩnh vực nhận thức, giữa các hình thức của nhận thức - giữa các giai đoạn của nhận thức cũng có quan hệ với nhau, (từ không biết  biết ít  biết nhiều)...

- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện

+ Các sự vật khác nhau, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó.

+ Cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vị trí, vai trò khác nhau.

+ Có nhiều loại mối liên hệ chứ không chỉ có một cặp mối liên hệ, đó là :

* Liên hệ bên trong - Liên hệ bên ngoài.

* Liên hệ chủ yếu - Liên hệ thứ yếu.

* Liên hệ bản chất - Liên hệ không bản chất.

* Liên hệ tất nhiên - Liên hệ ngẫu nhiên.

* Liên hệ trực tiếp - Liên hệ gián tiếp.

Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một sự vật (ví dụ: đồng hoá với dị hoá,...). Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau (cơ thể sống với môi trường,...) Nhìn chung không giữ vao trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.

+ Các cặp mối liên hệ cũng có mối liên hệ biện chứng với nhau.

+ Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì nó chỉ là một hình thức, một bộ phân, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến.

+ Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau, tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động, phát triển của chính các sự vật.

Ví dụ: Cùng một đối tượng là con người khi xét mối quan hệ với môi trường thì đó là mối liên hệ bên ngoài nhưng khi xét trong quá trình đồng hoá với dị hoá của cơ thể con người thì đó lại là mối liên hệ bên trong.

+ Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể.

+ Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.

c) Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, sự chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.

- Quan điểm toàn diện đòi hỏi: trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xét xem sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật này với các sự vật khác  Trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về các sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của thực tiễn đời sống.

Ví dụ: Xem xét và đánh giá sự tồn tại và bản chất của con người phải xem xét trên toàn diện các mối quan hệ của con người ấy.

Ví dụ: Muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa học triết học, chúng ta phải tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức khoa học khác, với tri thức cuộc sống và ngược lại

- Còn đòi hỏi phân biệt từng mối liên hệ để thấy rõ yêu cầu, vai trò khác nhau của từng loại mối liên hệ với sự vật.

- Trong hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện chỉ ra rằng khi tác động vào sự vật, con người không chỉ chú ý đến những mối liên hệ nội tại mà còn phải chú ý mối liên hệ với các sự vật khác.

- Phải sự dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất.

Ví dụ: Để đạt mục tiêu là học sinh giỏi thì bản thân mỗi học sinh phải biết kết hợp đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau mới đưa lại hiệu quả cao nhất.

Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời gian khác nhau, các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.

+ Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong nhận thức và xử lý các tình huống tromg hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn.

+ Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn.

+ Khi nhận thức sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.

Ví dụ: Để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước ta cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và trong khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng đã bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.

2. Nguyên lý về sự phát triển

a) Khái niệm về sự phát triển

Trong lịch sử phát triển khi xem xét về sự phát triển của các sự vật và hiện tượng trong thế giới hiện thực đã có nhiều quan điểm khác nhau:

* Quan điểm siêu hình:

+ Phủ nhận sự phát triển.

+ Xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật.

+ Xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co, phức tạp.

+ Họ cho rằng nguyên nhân sự phát triển của sự vật, hiện tượng là do sự tác động từ bên ngoài.

* Quan điểm biện chứng:

+ Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng cho rằng mọi sự vật đều nằm trong khuynh hướng chung của sự phát triển.

+ Xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt dẫn tới sự sự ra đời của cái mới thay thế cho cái cũ.

+ Sự phát triển không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có những lúc có bước thụt lùi tạm thời.

+ Sự phát triển theo quan điểm biện chứng là kết quả của quá trình thay đổi dần về lượng dẫn đến những thay đổi dần dần về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn, tiến bộ hơn.

+ Họ cho rằng nguyên nhân của sự phát triển nằm trong bản thân của sự vật, giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật, tự thân vận động, tự thân phát triển.

Ví dụ: Hạt thóc  cây lúa  hạt thóc mới

* Khái niệm sự phát triển theo quan điểm biện chứng:

Sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.

+ Khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm vận động (biến đổi) nói chung.

+ Vận động có các khuynh hướng: vận động đi lên, vận động đi xuống (thụt lùi), vận động theo chu kỳ (tuần hoàn).

+ Sự phát triển chỉ là một trường hợp vận động, đó là vận động đi lên, có sự ra đời của cái mới cao hơn thay thế cho cái cũ.

+ Đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện của sự vật.

+ Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật: là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.

b) Tính chất của sự phát triển

Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

- Tính khách quan của sự phát triển

+ Biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng.

+ Do mâu thuẫn bên trong sự vật quy định: đó là quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng đó.

 Phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người, dù con người có muốn hay không, sự vật vẫn phát triển theo khuynh hướng chung của thế giới vật chất.

Ví dụ: Chủ nghĩa xã hội phủ định chủ nghĩa tư bản là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản, vốn có trong lòng xã hội tư bản.

- Tính phổ biến của sự phát triển

Được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy, trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó; trong mỗi quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.

Ví dụ: + Trong tự nhiên, sự phát triển của thực vật như từ Rêu  Quyết hạt trần  hạt kín...Sự phát triển của động vật từ động vật không xương sống  động vật có xương sống.

+ Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội / hay sự phát triển của xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên và cải biến xã hội cũng như bản thân con người.

+ Sự phát triển của tư duy thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, chính xác hơn về thế giới khách quan (từ không biết  biết ít  biết nhiều)..

- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển

+ Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau.

Ví dụ: Ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ở thế hệ trước.

+ Do tồn tại ở thời gian, không gian khác nhau, sự vật sẽ phát triển khác nhau.

Ví dụ: Hạt giống được gieo trồng ở không gian, thời gian khác nhau sẽ có sự phát triển khác nhau

Ví dụ: Trong thời đại ngày nay, thời gian CNH - HĐH đất nước của các quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các quốc gia đã thực hiện chúng.

+ Đồng thời ở trong quá trình phát triển, sự vật còn chịu tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của các điều kiện, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.

c) Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển

Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.

- Vì mọi sự vật và hiện tượng đều nằm trong quá trình biến đổi phát triển nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm phát triển.

+ Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến đối lập với sự phát triển.

Ví dụ: Nếu chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thứ khoa học về sự vật hay hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, xã hội và nhân văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ.

+ Quan điểm phát triển luôn đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên. Phát triển là một quá trình biện chứng bao hàm tính thuận nghịch đầy mâu thuẫn, vì vậy đòi hỏi chúng ta phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển.

+ Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển cần phải đặt quá trình đó trong nhiều giai đoạn khác nhau, trong mỗi quan hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai trên cơ sở khuynh hướng phát triển đi lên.

 Tìm ra phương thức nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển tuỳ theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống con người.

+ Đồng thời, phải phát huy vai trò nhân tố chủ quan của con ngưòi để thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng theo đúng quy luật.

Như vậy, với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử- cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân con người. Song để thực hiện được chúng mỗi con người cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình.

III. CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định.

Trong Toán học có phạm trù "số", "hình", "điểm".../ trong Vật lý có phạm trù "khối lượng", "vận tốc".../ trong Kinh tế học có phạm trù "hàng hóa", "giá trị"...

Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Các phạm trù của triết học được dùng làm công cụ để nhận thức thế giớim làm phương pháp luận chung cho các khoa học cụ thể.

Quan hệ giữa phạm trù của khoa học và phạm trù của triết học là quan hệ giữa cái riêng và cái chung.

Ví dụ: Trong triết học có phạm trù "vật chất", "ý thức", "vận động", "hình thái kinh tế - xã hội"...

1. Cái riêng và cái chung

a) Phạm trù cái riêng, cái chung

+ Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định..

Ví dụ: cái chén, cái bát, cái bàn...

+ Phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố, những quan hệ...tồn tại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.

Ví dụ: những cái bàn đều được làm từ gỗ.

+ Cái đơn nhất, đó là những đặc tính, những tính chất,..chỉ tồn tại ở một sự vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.

Ví dụ: thủ đô Hà Nội là một "cái riêng", ngoài điểm chung giống các thành phố khác của VN, còn có những cái riêng như có phố cổ, có Hồ Gươm, có những nét văn hoá truyền thống mà chỉ ở HN mới có, đó là cái đơn nhất.

b) Quan hệ biện chứng giữa "cái riêng" và "cái chung".

- Cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan, vì nó là biểu hiện tính hiện thực tất yếu, độc lập với ý thức con người.

- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình; cái chung không tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng mà nó phải tồn tại trong từng cái riêng cụ thể, xác định.

Ví dụ 1: Không có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt cụ thể. Nhưng cây cam, cây quýt...nào cũng có rễ, thân, cành , lá, có quá trình đồng hoá và dị hoá để duy trì sự sống.

Ví dụ 2: Thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động. Vận động lại tồn tại dưới các hình thức riêng biệt như vận động vật lý, vận động hoá học..

- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung; không có cái chung nào tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung, mà tất yếu nó phải tồn tại trong mối liên hệ với cái chung.

Ví dụ 1: Mỗi con người là một cái riêng nhưng mỗi con người lại không thể tồn tại độc lập, không có liên hệ (với cái chung) với xã hội và tự nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong mỗi chúng ta.

Ví dụ 2: Các chế độ kinh tế - chính trị riêng biệt đều bị chi phối bởi các quy luật chung của xã hội như: quy luật QHSX phù hợp với LLSX.

- Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bởi vì, cái riêng là tổng hợp của cái chung và cái đơn nhất; còn cái chung biểu hiện tính phổ biến, tính quy luật của nhiểu cái riêng.

Ví dụ: Người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn...còn có đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của văn hoá làng xã, của tập quán lâu đời của dân tộc, của điều kiện tự nhiên của đất nước, nên rất cần cù lao động, có khả năng chịu đựng được những khó khăn trong cuộc sống.

- Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện xác định.

Ví dụ: chủ nghĩa xã hội khi mới xuất hiện chỉ là bóng ma ám ảnh Châu Âu  là cái đơn nhất. Sang thế kỷ XX trở thành hệ thống trên toàn thế giới  cái chung. Giờ CNXH suy thoái  đơn nhất.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Cần phải nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng cụ thể trong các hoạt động của con người; không nhận thứac được cái chung thì trong thực tiễn giải quyết mỗi cái riêng, mỗi trường hợp cụ thể sẽ vấp phải những sai lầm, mất phương hướng. Muốn nắm được cái chung thì cần phải xuất phát từ những cái riêng bởi cái chung không tồn tại trừu tượng ngoài những cái riêng.

- Cần phải được cá biệt hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể; khắc phục bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc hoặc cục bộ, địa phương trong vận động mỗi cái chung để giải quyết mỗi trường hợp cụ thể.

- Trong hoạt động và thực tiễn, cần phải biết tận dụng các điều kiện cho sự chuyển hoá giữa cái đơn nhất và cái chung theo những mục đích nhất định, bởi vì giữa cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện cụ thể.

2. Nguyên nhân và kết quả

a) Phạm trù nguyên nhân, kết quả

- Phạm trù nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau thì gây nên một sự biến đổi nhất định.

- Phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất phát do sự tác động giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng tạo nên.

Ví dụ 1: sự tương tác giữa dòng điện và dây tóc bóng đèn là nguyên nhân làm cho bóng đèn phát sáng. Còn sự phát sáng của bóng đèn là kết quả của sự tương tác giưac dây tóc và bóng đèn.

Ví dụ 2: Hiện tượng trái đất nóng lên là do hàng năm con người thải vào trái đất một lượng lớn khi cácbon (khí cacbon có tác dụng giữ hơi nóng của mặt trời lại -> nóng lên.

- Nguyên cớ là cái không có mối liên hệ bản chất với kết quả (là những quá trình xay ra đồng thời với quan hệ nhân - quả nhưng không tham gia vào quan hệ nhân - quả hoặc chỉ có ý nghĩa như nguyên nhân bề ngoài).

- Điều kiện là những yếu tố bên ngoài tác động tới sự hình thành kết quả (là những quá trình xảy ra liên hệ mật thiết với quan hệ nhân - quả. Nó có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm những tác động của sự vật hoặc nó có vai trò làm nên, làm cơ sở cho quan hệ nhân - quả).

b) Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả

Nguyên nhân sinh ra kết quả, cho nên nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Tuy nhiên, chỉ có mối quan hệ tất yếu về thời gian mới là quan hệ nhân quả.

- Tính phức tạp của mối quan hệ nhân quả: một nguyên nhân có thể có sinh ra một hoặc nhiều kết quả, và một kết quả có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân tạo nên. Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì xu hướng hình thành kết quả nhanh hơn, còn nếu tác động ngược chiều thì sẽ hạn chế hoặc triệt tiêu sự hình thành kết quả.

- Phân loại nguyên nhân: do tính chất và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả nên có nhiều loại nguyên nhân.

- Vị trí mối quan hệ nhân quả là có tính tương đối. Có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân nhưng trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Trong sự vận động của thế giới vật chất, không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng.

- Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng khi xuất hiện thì nó tác động (ảnh hưởng) trở lại đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.

Ví dụ: Trình độ dân trí thấp do kinh tế kém phát triển, ít đầu tư cho giáo dục  cản trở việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất  kìm hãm sản xuất phát triển/ Trình độ dân trí cao là kết quả của chính sách phát triển kinh tế và giáo dục đúng đắn,<-> dân trí cao  tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế và giáo dục.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì mối liên hệ nhân - quả có tính khách quan nên cần phải tìm nguyên nhân của các sự vật, hiện tượng dẫn đến kết quả trong thế giới hiện thực khách quan chứ không phải ở ngoài thế giới đó.

- Vì mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, đa dạng nên phải phân biệt chính xác các loại nguyên nhân để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể trong nhận thức và thực tiễn.

- Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải có cách nhìn toàn diện và lịch sử cụ thể trong phân tích, giải quyết và ứng dụng quan hệ nhân - quả.

3. Tất nhiên và ngẫu nhiên

a) Phạm trù tất nhiên, ngẫu nhiên

- Phạm trù tất nhiên dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của sự vật, hiện tượng quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy ra như thế, chứ không thể khác.

- Phạm trù ngẫu nhiên dùng để chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài quyết định, cho nên, nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.

Ví dụ 1: Kết quả thi cử cao hay thấp của mỗi người là do năng lực học tập của họ quyết định, đó là tất nhiên. Còn việc đi thi gặp nam hay nữ, thi phòng nào, thầy nào coi thi là hiện tượng ngẫu nhiên đối với kết quả thi đó.

Ví dụ 2: Bóng đèn sáng là ngẫu nhiên trong dây dẫn. Nhưng nếu dòng điện tác dụng lên dây dẫn bóng đèn  bóng đèn sáng là tất nhiên.

Ví dụ 3: Ánh sáng và tiếng nổ xảy ra là tất nhiên do nguyên nhân bên trong cơ bản là sự phóng điện giữa hai đám mây mang điện tích trái dấu tiếp xúc nhau. Nhưng tiếng nổ và ánh chớp xảy ra tại thời điểm nào đó, trong không gian nào đó lại là cái ngẫu nhiên so với nguyên nhân nói trên, tức là nguyên nhân đó trở thành nguyên nhân bên ngoài đối với chúng.

- Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có nguyên nhân. Nguyên nhân cơ bản, bên trong gắn với tất nhiên, còn nguyên nhân bên ngoài gắn với ngẫu nhiên.

b) Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên

- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và có vai trò nhất định đối với sự phát triển của sự vật và hiện tượng, trong đó tất nhiên đóng vai trò quyết định.

- Tất nhiên và ngẫu nhiên là hai mặt vừa thống nhất vừa đối lập. Vì vậy, không có cái tất nhiên thuần tuý và ngẫu nhiên thuần tuý. Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, là cái bổ sung cho tất nhiên.

- Ranh giới giữa cái tất nhiên và ngẫu nhiên có tính chất tương đỗi. Trong những điều kiện xác định, chúng chuyển hoá lẫn nhau, tất nhiên trở thành ngẫu nhiên và ngẫu nhiên trở thành tất nhiên.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không thể căn cứ vào cái ngẫu nhiên. Tuy nhiên không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, không tách rời cái tất nhiên. Cần xuât phát từ cái ngẫu nhiên để đạt đến cái tất nhiên, và khi dựa vào cái tất nhiên phải chú ý đến cái ngẫu nhiên.

- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoáa lẫn nhau. Vì vậy, cần tạo ra nhưng điều kiên nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hoá của chúng theo múc đích nhất định.

4. Nội dung và hình thức

a) Phạm trù nội dung, hình thức

- Phạm trù nội dung dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng.

- Phạm trù hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng đó, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.

Ví dụ: Cuốn sách Triết học Mác - Lênin: Nội dung là những quan niệm, quy định, phương pháp, phạm trù...nói về triết học Mác - Lênin. Còn hình thức chính là sự liên kết các yếu tố, các mặt..của nội dung.

- Cần phân biệt hình thức bề ngoài - hình thức không tất yếu của sự vật, hình thức bên trong - là hình thức tất yếu. Không nên hiểu hình thức là cái "áo khoác" lên sự vật

b) Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức

- Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức

+ Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau, vì vậy không có một hình thức nào không chứa đựng nội dung, đồng thời không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức nhất định.

+ Cùng một nội dung có thể biểu hiện trong nhiều hình thức, và cùng một hình thưc có thể chứa đựng nhiều nội dung.

- Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là mối quan hệ biện chứng trong đó nội dung quyết định hình thức và hình thức tác động trở lại nội dung.

+ So với hình thức, nội dung bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là khuynh hướng biến đổi, còn hình thức là mặt tương đối ổn định trong mỗi sự vật, hiện tượng.

+ Nôi dung thay đổi buộc hình thức phải thay đổi theo cho phù hợp.

+ Nội dung quyết định những hình thức nhưng hình thức cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Hình thức phù hợp với nội dung thì sẽ thúc đẩy nội dung phát triển. Nếu hình thức không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển nội dung.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, không được tách rời giữa nội dung và hình thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt đó.

- Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng thì trước hêt phải căn cứ vào nội dung. Muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung của nó.

- Trong thực tiễn cần phát huy tác dụng tích cực của hình thức đối với nội dung trên cơ sở tạo ra tính phù hợp của hình thức với nội dung; mặt khác cũng cần phải thực hiện những thay đổi đối với hình thức không còn phù hợp với nội dung, cản trở sự phát triển nội dung.

5. Bản chất và hiện tượng

a) Phạm trù bản chất, hiện tượng

- Phạm trù bản chất dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng đó.

- Phạm trù hiện tượng dùng để chỉ sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ đó trong những điều kiện xác định.

Ví dụ: Bản chất của CNXH là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, là sự bóc lột giá trị thặng dư...còn hiện tượng của bản chất ấy là những cuộc khủng hoảng kinh tế, tình trạng cá lớn nuốt cá bé, tự do cạnh tranh, bần cùng hóa giai cấp vô sản...

b) Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng

Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, la hai mặt của vừa thống nhất, vừa đối lập với nhau.

+ Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:

- Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của một bản chất nhất định. Không có bản chất tồn tại thuần túy tách rời hiện tượng, cũng như không có hiện tượng lại không biểu hiện của một bản chất nào đó.

- Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Khi bản chất mất đi thì hiện tượng cũng mất theo.

V. I.Lênin viết: "Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất".

+ Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng

Sự đối lập của mâu thuẫn biện chứng thể hiện: bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt phong phú và đa dạng. Bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài. Bản chất là cái tương đối ổn định còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện tượng bên ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau mới nhận thức đúng bản chất.

- Bản chất phản ánh tính tất yếu, tính quy luật nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào bản chất chứ không căn cứ vào hiện tượng thì mới có thể đánh giá một cách đầy đủ, chính xác về sự vật, hiện tượng đó.

6. Khả năng và hiện thực

a) Phạm trù khă năng, hiện thực

- Hiện thực là phạm trù chỉ những cái đang tồn tại trên thực tế.

- Khả năng là phạm trù chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trên thực tế, nhưng sẽ xuất hiện, sẽ tồn tại thực sự khi có các điều kiện tương ứng.

b) Quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực

Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, không tách rời nhau, luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau:

- Khả năng chuyển hóa thành hiện thực và hiện thực lại chứa đựng những khả năng mới; khả năng mới, trong những điều kiện nhất định lại chuyển hóa thành hiện thực...

- Trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, hiện tượng, có thể tồn tại một hoặc nhiều khả năng: khả năng thực tế, khả năng tất nhiên, khả năng ngẫu nhiên, khả năng gần, khả năng xa...

- Trong đời sống xã hội, khả năng chuyển hóa thành hiện thực phải có điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ quan là tính tích cực xã hội của ý thức chủ thể con người để chuyển hóa khả năng thành hiện thực. Điều kiện khách quan là sự tổng hợp các mối quan hệ hoàn cảnh, không gian, thời gian để tạo nên sự chuyển hóa đó.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Trong hoạt động và nhận thức cần phải dựa vào hiện thực để xác lập nhận thức và hành động.

- Trong nhận thức và thực tiễn cũng cần phải nhận thức toàn diện các khả năng từ trong hiện thực để có được phương pháp hoạt động thực tiễn phù hợp với sự phát triển trong những hoàn cảnh nhất định.

- Tích cực phát huy vai trò chủ quan trong việc nhận thức và thực tiễn để biến khả năng thành hiện thực theo mục đích nhất định.

IV. NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

Phân loại quy luật:

- Căn cứ vào mức độ của tính phổ biến:

+ Những quy luật riêng.

+ Những quy luật chung

+ Những quy luật phổ biến.

- Căn cứ váo lĩnh vực tác động:

+ Những quy luật tự nhiên.

+ Những quy luật xã hội.

+ Những quy luật của tư duy.

Với tư cách là một khoa học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển, phép biện hứng duy vật nghiên cứu những quy luật chung nhất, tác động trong toàn bộ các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của con người, đó là: quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định.

1. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại

a) Khái niệm chất, lượng

- Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác.

Ví dụ 1: Cách mạng vô sản và cách mạng tư sản là hai cuộc cách mạng khác nhau về chất.

Ví dụ 2: Mỗi nguyên tố hoá học là một chất riêng: Fe, Cu...

+ Chất của sự vật là do những thuộc tính vốn có của sự vật tạo thành.

+ Khái niệm chất không đồng nhất với khái niệm thuộc tính.

+ Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Thuộc tính cơ bản tạo thành chất của sự vật, hiện tượng, những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của nó thay đổi.

Ví dụ: Phương trình phản ứng hoá học: Fe + H2SO¬4  FeSO4 + H2↑

+ Những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.

Ví dụ: Chất của một con người cụ thể chỉ được bộc lộ thông qua sự tác động qua lại trong quan hệ của người đó với người khác, với môi trường xung quanh, thông qua lời nói và việc làm.

+ Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản của sự vật phải tuỳ theo quan hệ cụ thể của sự phân tích; cùng một thuộc tính trong quan hệ này là cơ bản thì trong quan hệ khác có thể là không cơ bản.

Ví dụ: Trong mối quan hệ với động vật thì các thuộc tính như khả năng chế tạo, sử dụng công cụ lao động, có tư duy là thuộc tính cơ bản của mỗi con người, còn những thuộc tính khác là không cơ bản / Trong mối quan hệ giữa những con người cụ thể với nhau thì những thuộc tính con người về nhân dạng, dấu vân tay lại trở thành thuộc tính cơ bản.

+ Chất của sự vật không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành nó mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối liên hệ cụ thể  Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và thuộc tính cũng chỉ có ý nghĩa tương đối.

+ Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất, mà có nhiều chất, tuỳ thuộc vào mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác.

+ Chất không tồn tại thuần tuý tách rời sự vật, biểu hiện thuộc tính tương đối của nó.

- Khái niệm lượng: dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.

 Một sự vật có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự vật.

Ví dụ: Đối với mỗi quốc gia, lượng là dân số, lãnh thổ của nước ấy.

Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội hay tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật chỉ có ý nghĩa tương đối: có thể trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác là lượng.

b) Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng

- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng.

- Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng.

- Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là độ.

Ví dụ: Nung một thỏi thép trong lò, nhiệt độ của lò là hàng trăm, hàng nghìn độ  vẫn ở trạng thái rắn  lượng tích lũy tiếp  giới hạn nhất định (độ)  vượt qua nó  chất mới (rắn  lỏng).

* Khái niệm Độ: chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chứ chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.

- Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút.

- Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.

Ví dụ: Nước: dưới 0º 0ºC  100ºC  trên 100ºC

(rắn) (lỏng) (khí)

sự thay đổi về chất

Ở ví dụ trên: Độ là khoảng giới hạn trong đó nhiệt độ của nước chưa đạt tới 0ºC và trên 100ºC; Điểm nút là nhiệt độ 0ºC và 100ºC.

- Sự thay đổi về lượng khi đạt đến điểm nút, với những điều kiện xác định tất yếu sẽ dẫn tới sự ra đời của chất mới. Đấy chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật.

* Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.

- Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra dưới nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác...

- Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển đồng thời đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật.

- Khi chất mới ra đời, sẽ tác động trở lại lượng mới. Chất mới tác động tới lượng mới làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.

Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì bất kỳ sự vật nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, cho nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải coi trong cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng của sự vật, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật.

- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo điều kiện, mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật.

- Trong công tác thực tiễn cần khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh, tư tưởng bảo thủ hữu khuynh  cần tôn trong tính khách quan của quy luật này.

- Vì bước nhảy của sự vật rất phong phú, đa dạng, do vậy trong nhận thức và thực tiễn vần có sự vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể.

- Cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa tự lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất.

2. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật ở vị trí "hạt nhân" của phép biện chứng duy vật.

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của sự vật chính là xuất phát từ các mâu thuẫn khách quan, vốn có của nó.

a) Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn

- Khái niệm mâu thuẫn, dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và đấu tranh, chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

- Khái niệm "mặt đối lập" dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau.

Ví dụ: trong nguyên tử có điện tích âm và điện tích dương; trong một cơ thể sống có đồng hóa và dị hóa/ trong hoạt động kinh tế và xã hội có sản xuất và tiêu dùng...

- Các tính chất chung của mâu thuẫn:

+ Mâu thuẫn có tính khách quan.

+ Mâu thuẫn có tính phổ biến.

+ Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú: mâu thuẫn bên trong - mâu thuẫn bên ngoài; mâu thuẫn cơ bản - mâu thuẫn không cơ bản; mâu thuẫn chủ yếu - mâu thuẫn thứ yếu...

b) Quá trình vận động của mâu thuẫn

Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau.

- Khái niệm "thống nhất của các mặt đối lập" dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự đồng nhất của nó.

- Khái niệm "đấu tranh của các mặt đối lập" dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập.

Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng.

- Trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự đấu tranh giữa chúng là tuyệt đối, còn sự thống nhất giữa chúng là tương đối, có điều kiện, tam thời; trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng.

Sự tác động qua lại dẫn đến chuyển hoá giữa các mặt đối lập là một quá trình. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành hai mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và khi điều kiện đã chín muồi thì chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành, và quá trình tác động, chuyển hoá giữa hai mặt lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển. Bởi vậy, sự liên hệ, tác động và chuyển hoá giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển trong thế giới. V. I.Lênin khẳng định: "Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập".

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì mâu thuẫn có tính khách quan, phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển.

- Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và phương pháp giải quyết phù hợp.

- Trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định, những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.

- Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn.

- Mọi mâu thuẫn dứt khoát phải được giải quyết thông qua con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập, tránh khuynh hướng thủ tiêu mâu thuẫn, hoặc tìm cách điều hoà mâu thuẫn dưới hình thức này hay khác.

3. Quy luật phủ định của phủ định

a) Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng

Thế giới vận động và phát triển không ngừng, vô cùng, vô tận. Sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi, được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật trong quá trình vận động, phát triển của nó. Sự thay thế đó gọi là sự phủ định.

Mọi quá trình vận động và phát triển trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy đều diễn ra thông qua những sự phủ định, trong đó có những sự phủ định chấm dứt sự phát triển, nhưng cũng có những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật. Những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật được gọi là sự phủ định biện chứng.

Ví dụ: Hạt thóc  cây lúa hạt thóc mới

(phủ định lần 1) (phủ định lần 2)

+ Phủ định lần 1: Cây lúa phủ định hạt thóc bình thường

+ Phủ định lần 2: Những hạt thóc mới phủ định cây lúa.

+ Theo cách diễn đạt lôgic thì lần 1 là sự phủ định, lần 2 là phủ định của phủ định. Ở đây thể hiện tính chu kỳ của sự phát triển. Từ một điểm xuất phát (hạt thóc ban đầu), trải qua hai lần phủ định (cây lúa phủ định hạt thóc và những hạt thóc mới phủ định cây lúa), sự vật dường như lặp lại khi ở điểm xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn.

* Khái niệm phủ định: là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.

* Khái niệm phủ định biện chứng: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ.

- Phủ định biện chứng có 2 đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.

+ Phủ định biện chứng có tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng, nó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong bản thân sự vật, tạo khả năng ra đời của cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của chính bản thân sự vât. Vì thế phủ định biện chứng cũng chính là sự tự thân phủ định.

Ví dụ 1: CNXH phủ định CNTB là kết quả của sự phủ định những mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản.

Ví dụ 2: Những định luật và học thuyết khoa học ngày nay càng phát triển là kết quả của quá trình phủ định của những tri thức đúng đắn, sâu sắc đối với những tri thức sai lầm hoặc kém sâu sắc, không đầy đủ trước kia..

+ Phủ định biện chứng mang tính kế thừa: kế thừa những nhân tố hợp quy luật và loại bỏ nhân tố phản quy luật. Phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạh trơn cái cũ, mà trái lại cái mới ra đời trên cơ sở những hạt nhân hợp lý của cái cũ để phát triển thành cái mới tạo nên tính liên tục của sự phát triển. Đó là sự phủ định mà trong đó cái mới hình thành và phát triển tự thân, thông qua quá trình lọc bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực.

Ví dụ 1: Trong sinh vật, các giống loài đều phát triển theo quy luật di truyền, các thế hệ con cái đều kế thừa các yếu tố tích cực của các thế hệ bố mẹ, học thuyết gen đã chứng minh điều đó.

Ví dụ 2: Trong nhận thức, triết học Mác - Lênin ra đời, nó đã kế thừa mọi giá trị tư tưởng của quá khứ mà trực tiếp từ các giá trị của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, CNXH không tưởng Pháp...

Bởi vậy, phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên trong giữa cái cũ và cái mới, là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.

b) Phủ định của phủ đinh

- Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một quá trình vô tận, tạo nên khuynh hướng của sự vật từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn, diễn ra có tính chất chu kỳ theo hình thức "xoáy ốc".

- Trong chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát triển của sự vật, mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của nó. Trải qua nhiều lần phủ định, tức "phủ định của phủ định" sẽ tất yếu dẫn đến kết quả là sự vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật.

- Tính chất chu kỳ của các quá trình phát triển thường diễn ra theo hình thức "xoáy ôc", đó cũng chính là tính chât "phủ định của phủ định". Theo tính chất này, mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường trải qua hai lần phủ định cơ bản với ba hình thái tồn tại chủ yếu của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển, nhờ kế thừa được những nhân tố tích cực và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ định.

- Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự phát triển: đó không phải là sự phát triển theo hình thức một con đường thẳng, mà là phát triển theo hình thức con đường "xoay ốc".

+ Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện chứng của sự phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc, dường như lặp lại, nhưng với một trình độ cao hơn.

+ Sự tiếp nối của các vòng trong đường xoáy ốc phản ánh quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Trong quá trình phát triển của sự vật, phủ định biện chứng đã đóng vai trò là những "vòng khâu" của quá trình đó.

Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó tròng sự vật mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

- Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu thế vận động, phát triển của sự vật - "xoáy ốc".

- Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác động tới sự phát triển, phù hợp với yêu cầu hoạt động nhận thức biểu hiện của thế giới khoa học và nhân sinh quan cách mạng trong hoạt động và thực tiễn.

- Cần nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi.

 Cần khắc phục tư tương bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với quy luật phủ định của phủ định.

- Phải có quan điểm biện chứng trong quá trình kế thừa sự phát triển  phải khắc phục tư tưởng tả khuynh và hữu khuyh.

 Cần biết kế thừa tinh hoa của cái cũ, những yếu tố, hạt nhân hợp lý, tránh thái độ phủ định sạch trơn.

IV. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG

1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn với nhận thức

a) Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn

* Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

- Thực tiễn là hoạt động của con người, là loại hoạt động mà con ngưòi sử dụng công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo những mục đích của mình.

- Thực tiễn là những hoạt động đặc trưng và bản chất của con người - hoạt động tự giác, có ý thức của con người.

- Hoạt động thực tiễn mang tính sáng tạo và có tính mục đích, tính lịch sử - xã hội.

- Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, có 3 hình thức cơ bản sau:

+ Hoạt động sản xuất vật chất

+ Hoạt động chính trị - xã hội

+ Thực nghiệm khoa học

 Ba hình thức hoạt động của thực tiễn có chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay thế nhau, có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất có vai trò quan trọng nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động thực tiễn khác.

b) Nhận thức và các trình độ nhận thức

* Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó.

* Quan điểm trên đây về nhận thức cũng chính là quan niệm duy vật biện chứng về bản chất của nhận thức. Quan niệm này ra đời xuất phát từ 4 nguyên tắc cơ bản sau:

- Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người.

- Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức của con người. Coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì con người không thể nhận thức được mà chỉ có những cái con người chưa nhận thức được.

- Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều; từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc, toàn diện.

- Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

* Với quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức nhất định phải là một quá trình, đó cũng là quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận; từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học.

+ Nhận thức kinh nghiệm: là loại nhận thức hình thành sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học

 Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có 2 loại là tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.

+ Nhận thức lý tính (lý luận): là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng.

Nhận thức kinh nghiêm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau nhưng có quan hệ biện chứng với nhau. Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận; nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể; nó gắn trực tiếp với hoạt động thực tiễn tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái quát thành lý luận mới. Còn lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống của con người. Thông qua đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất trở thành cái khái quát, phổ biến.

+ Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học): là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật.

 Mang tính phong phú, nhiều vẻ, gắn liền với những quan niệm sống thức tế hàng ngày/ chi phối thường xuyên và phổ biến hoạt động của con ngưòi trong xã hội.

+ Nhận thức khoa học: là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng logic là các khái niệm, phạm trù và các quy luật khoa học.

 Nhận thức khoa học có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, hệ thống, có căn cứ và có tính khoa học.

 Nhận thức khoa học có vai trò to lớn trong hoạt động thực tiễn, trong thời đại khoa học và công nghệ.

Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau.

c) Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

- Thực tiễn là cơ sở, là nền tảng của nhận thức.

- Thực tiễn là động lực của nhận thức: thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức  do đó hình thành, phát triển kho tàng tri thức của loại người.

- Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngay càng được hoàn thiện, năng lực tư duy lôgic không ngừng được củng cố và phát triển, các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng "nối dài" các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.

- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đạt được trong nhận thức. Đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung, hoàn chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.

 Phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn.

2. Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý

a) Quan điểm của Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý.

Nhận thức là quá trình diễn ra rất phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu khác nhau. Trong "Bút ký triết học" V. I.Lênin đã khái quát con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan.

* Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính (trực quan cảm tính đến tư duy trừu tượng).

- Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn nhận thức mà con người trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự vật nhằm nắm bắt các sự vật ấy.

 Trực quan sinh động bao gồm 3 hình thức: cảm giác, tri giác, biểu tượng

+ Cảm giác: là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng khi chúng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Là hình ảnh sơ khai nhất, đơn giản nhất của các quá trình nhận thức nhưng nếu không có nó thì sẽ không có bất cứ nhận thức nào về sự vật khách quan.

V. I.Lênin nói: "cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan".

+ Tri giác: là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện của sự vật khách quan, cụ thể, cảm tính; nó được hình thành trên cơ sở liên kết, tổng hợp những cảm giác về sự vật đó.

 So với cảm giác, tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật nhưng nó vẫn chỉ là sự phản ánh đối với những biểu hiện bề ngoài của sự vật khách quan, chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật khách quan.

+ Biểu tượng: là sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan vốn đã được phản ánh bởi cảm giác và tri giác; nó là hình ảnh phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính. Đặc điểm của biểu tượng là có khả năng tái hiện những hình ảnh mang tính chất biểu tượng về sự vật khách quan, nó có tính chất liên tưởng về bề ngoài,  có tính chất của những sự trừu tượng hoá về sự vật, là tiền đề của những sự trừu tượng hóa của giai đoạn nhận thức lý tính.

Vậy là ở giai đoạn nhận thức cảm tính, nhận thức vẫn chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật khách quan mà mới chỉ lý giải được đúng đắn các hiện tượng được phản ánh, phục vụ nhu cầu hoạt động thực tiễn, cải biến sáng tạo ra thế giới khách quan.

- Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức, đó là sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật khách quan.

Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng.

Nhận thức lý tính được thực hiện với 3 hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán, suy luận.

+ Khái niệm: là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của các sự vật hay một lớp sự vật.

Ví dụ: khái niệm vật chất phản ánh đặc điểm chung, phổ biến của tất cả các dạng khác nhau của vật chất, đó là thuộc tính tồn tại khách quan không lệ thuộc vào cảm giác con người.

+ Phán đoán: là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính được hình thành thông qua việc liên kết các khái niệm lại với nhau theo phương thức khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức.

Ví dụ: Đảng cộng sản Việt Nam là một Đảng trong sạch, vững mạnh.

Phán đoán gồm: phán đoán đơn nhất (ví dụ: đường dẫn điện); phán đoán đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại); phán đoán phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện).

+ Suy lý: là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình thành trên cơ sở liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật.

Ví dụ: Nếu liên kết phán đoán "Kim loại thì dẫn điện" với phán đoán "Đồng là kim loại"  Đồng dẫn điện.

* Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức

+ Nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính.

+ Nhận thức lý tính nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, giúp cho nhận thức cảm tính có được sự định hướng đúng đắn và trở nên sâu sắc hơn.

+ Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức về đối tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì con người vẫn chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức đó có chân thực hay không -> nhận thức phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức, suy đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.

b) Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn

* Khái niệm chân lý: được dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan mà sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn

* Các tính chất của chân lý:

- Tính khách quan của chân lý: là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực tế khách quan.

Ví dụ: Luận điểm cho rằng "trái đất quay xung quanh mặt trời" là một chân lý.

- Chân lý có tính tuyệt đối và tương đối - Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan / Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoang toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của những tri thức với hiện thực khách quan.

Tính tương đối và tuyệt đối của chân lý không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, tính tuyệt đối của chân lý là tổng số các tính tương đối. Mặt khác, trong mỗi chây lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tương đối.

- Chân lý có tính cụ thể: là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Điều đó có nghĩa là tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể, xác định.

* Vai trò của chân lý với thực tiễn

- Chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công và có tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.

- Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ song trùng trong quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý phát triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.

 Cần xuất phát từ thực tiễn để có được chân lý  vận dụng chân lý vào thực tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội.

- Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào hoạt động kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả những hoạt động đó về thực chất là phát huy vai trò của chân lý khoa học trong thực tiễn ngày nay.

Chương III

CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

I. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó

a) Sản xuất vật chất và phương thức của nó

- Sản xuất là một loại hình hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người, bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản thân con người.

* Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.

 Sản xuất vật chất là hoạt động có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo.

- Một quá trình sản xuất được tạo nên từ 3 yếu tố:

• Sức lao động của người lao động: Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực của con người có khả năng có khả năng được vận dụng, sử dụng trong các quá trình sản xuất vật chất; Lao động là một loại hoạt động đặc trưng của con người, đó chính là quá trình con người vận dụng sức lao động để tạo nên sức mạnh cải biến thực tế các đối tượng trong quá trình sản xuất vật chất.

• Đối tượng lao động: Chính là những tồn tại của thế giới tự nhiên mà con người tác động vào chúng trong quá trình lao động

• Tư liệu lao động: là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng trong quá trình lao động để tác động vào đối tượng lao động.

* Khái niệm phương thức sản xuất: dùng để chỉ những cách thức mà con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.

 Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa.

- Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.

Trong sản xuất, con người có quan hệ song trùng, một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên, tức là LLSX, mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là QHSX.

b) Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại, phát triển của xã hội

- Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội.

+ Sản xuất vật chất là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người.

+ Sản xuất vật chất là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.

- Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với trình độ phát triển của nền sản xuất và quá trình biến đổi, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.

+ Trình độ phát triển cảu phương thức sản xuất thể hiện sự phát triển của đất nước.

+ Các vấn đề của đời sống xã hội đều bắt nguồn từ thực trạng của nền sản xuất vật chất của xã hội đó: sản xuất vật chất  thiết lập quan hệ sản xuất  nảy sinh những mối quan hệ khác: chính trị, pháp luật..=> sản xuất vật chất làm biến đổi tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.

+ Phương thức sản xuất hiện đại  nền sản xuất vật chất phát triển.

- Lịch sử phát triển của nhân loại theo sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất. Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất yếu khách quan của quá trình phát triển xã hội loài người từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn: "phương thức sản xuất Á Châu, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đai". Trong mỗi cộng đồng có sự đan xen giữa các phương thức sản xuất trong một thời kỳ phát triển hoặc có những bước bỏ qua một hay một vài phương thức sản xuất nào đó và tiến thẳng lên phương thức sản xuất cao hơn  thể hiện tính thống nhất và tính đa dạng của quá trình biến đổi, phát triển, tạo nên tính chất phong phú của lịch sử nhân loại.

- Dù lịch sử của mỗi cộng đồng người có phát triển phong phú, đa dạng như thế nào, thậm chí có những giai đoạn phát triển qua những con đường vòng nhưng rốt cuộc lịch sử vẫn tuân theo xu hướng chung là phát triển theo chiều hướng đi lên từ phương thức sản xuất ở trình độ thấp lên trình độ cao.

2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

a) Khái niệm lực lượng sản xuất (LLSX), quan hệ sản xuất (QHSX).

* LLSX chính là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.

 LLSX có tính sáng tạo và tính sáng tạo đó có tính lịch sử.

 Trình độ phát triển của LLSX phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người.

+ LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên

+ LLSX bao gồm 2 nhân tố:

- Người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức của người lao động).

- Tư liệu lao động (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất...).

 Trong các nhân tố tạo thành LLSX thì nhân tố "người lao động" là nhân tố giữ vai trò quyết định vì suy đến cùng thì các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người. Còn trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của LLSX.

* Quan hệ sản xuất (QHSX) là mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).

- QHSX bao gồm: Quan hệ sở hữu về tư liệu lao động; Quan hệ trong tổ chức - quản lý quá trình sản xuất; Quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó.

 Ba mối quan hệ này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, chi phố và tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.

- Có 2 hình thức sở hữu cơ bản trong lịch sử: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng.

b) Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX

* Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó LLSX quyết định QHSX và QHSX tác động trở lại LLSX.

- LLSX và QHSX là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó LLSX là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn QHSX là hình thức kinh tế của quá trình đó.

+ Mọi sự kết hợp các nhân tố của quá trình sản xuất đó tạo ra năng lực thực tiễn cải biến đối tượng vật chất tự nhiên đều diễn ra trong những hình thức kinh tế nhất định.

+ Mọi quá trình sản xuất diễn ra trong đời sống hiện thực đều có nội dung vật chất của nó.

 LLSX và QHSX tồn tại trong sự quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau.

+ QHSX phù hợp với LLSX thể hiện trên 3 phương diện: sở hữu TLSX, tổ chức - quản lý, phân phối  có như vậy, LLSX mới có thể được duy trì, khai thác, sử dụng và không ngừng phát triển. Ngược lại, LLSX chỉ có thể được duy trì, khai thác - sử dụng và phát triển trong một hình thái kinh tế nhất định, không thể tồn tại LLSX bên ngoài các hình thức kinh tế nhất định.

- Mối quan hệ thống nhất giữa LLSX và QHSX tuân theo nguyên tắc khách quan:

+ QHSX phụ thuộc vào thực trạng phát triển thực tế của LLSX hiện thực trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định. (bởi vì, QHSX chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất còn LLSX là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó).

+ QHSX luôn có tác động trở lại LLSX theo hai hướng tích cực và tiêu cực.

* Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất nó bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.

+ LLSX của xã hội được bảo tồn, khai thác - sử dụng, phát triển trong quá trình sản xuất và tái sản xuất.

+ Tính ổn định phù hợp của QHSX với LLSX càng cao  LLSX càng phát triển  khả năng phá vỡ sự thống nhất của nó với những hình thức kinh tế hiện thực.

+ Những hình thức kinh tế hiện thực này  kìm hãm sự phát triển  mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX  phải thiết lập mối quan hệ thống nhất giữa LLSX và QHSX theo nguyên tắc QHSX phù hợp với nhu cầu phát triển của LLSX.

Như vậy, mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tế của quá trình sản xuất xã hội  Sự vận động của mâu thuẫn này đi từ sự thống nhất  khác biệt và đối lập  xuất hiện nhu cầu: QHSX phù hợp với LLSX; tuân theo quy luật " từ sự thay đổi về lượng  sự thay đổi về chất và ngược lại"...; tuân theo quy luật phủ định của phủ định ==> Quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội vừa diễn ra tiệm tiến, tuần tự, lại có tính nhảy vọt  đột biến  kế thừa đạt trình độ cao hơn.

- Quá trình QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX  tác động

 tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối với sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội; sự vận động và phát triển của toàn bộ đời sống xã hội; sự vận động và phát triển của lịch sử nhân loại từ phương thức sản xuất thấp  phương thức sản xuất cao; là cơ sở để giải thích một cách khoa học về nguồn gốc sâu xa của toàn bộ các hiện tượng xã hội và các sự biến trong đời sống chính trị, văn hoá của các công đồng người trong lịch sử.

II. BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG

1) Khái niệm cơ sở hạ tầng (CSHT) và kiến trúc thượng tầng (KTTT)

a) Khái niệm CSHT

Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.

+ CSHT của một xã hội, trong toàn bộ sự vận động của nó, được tạo lên bởi các QHSX thống trị, QHSX tàn dư và QHSX mới tồn tại dưới hình thức mầm mống, đại biểu cho sự phát triển của một xã hội tương lai. Trong đó, QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các QHSX khác, định hướng sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế của một xã hội nhất định.

 QHSX, với LLSX, nó giữ vai trò là hình thức kinh tế  duy trì, phát huy, phát triển LLSX; với quan hệ chính trị, xã hội  nó là cơ sở hình thành kết cấu kinh tế, cơ sở thiết lập KTTT xã hội.

b) Khái niệm kiến trúc thượng tầng

Khái niệm: KTTT dùng để chỉ toàn bộ hệ thống các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị- xã hội tương ứng, được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.

+ KTTT của một xã hội bao gồm: hệ thống các hình thái ý thức xã hội (hình thức ý thức chính trị, pháp quyển, tôn giáo...) Và các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng của chúng (nhà nước, chính đảng, giáo hội,..)

+ Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt là trong các xã hội hiện đại, hình thái ý thức chính trị và pháp quyền cùng hệ thống thiết chế, tổ chức chính đảng và nhà nước là hai thiết chế, tổ chức quan trọng nhất trong hệ thống KTTT của xã hội.

+ Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực và thực thi quyền lực đặc biệt của xã hội trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp. Nhà nước là công cụ quyền lực thực hiện chuyên chính giai cấp của giai cấp thống trị - giai cấp nắm giữ được tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nó chính là chủ thể thực sự của quyền lực nhà nước.

2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

CSHT và KTTT là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội - đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội, chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau trong đó CSHT đóng vai trò quyết định đối với KTTT và đồng thời KTTT thường xuyên có sự tác động trở lại CSHT kinh tế của xã hội.

a) Vai trò quyết định của CSHT và KTTT:

+ Mỗi CSHT sẽ sản sinh ra một KTTT tương ứng phù hợp.

+ Những biến đổi trong CSHT  biến đổi trong KTTT.

+ Tính mâu thuẫn trong CSHT được phản ánh thành mâu thuẫn trong hệ thống KTTT.

+ Sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ xã hội và những xung đột lợi ích chính trị - xã hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giành lợi ích trong cơ sở kinh tế của xã hội.

+ Giai cấp nắm giữ quyền sở hữu TLSX của xã hội đồng thời cũng là giai cấp nắm được quyền lực nhà nước trong KTTT còn các giai cấp và tầng lớp khác ở vào địa vị phụ thuộc đối với quyền lực nhà nước.

+ Các chính sách và pháp luật của nhà nước phản ánh nhu cầu thống trị về kinh tế của giai cấp nắm giữ những TLSX chủ yếu của xã hội...

Như vậy, CSHT quyết đinh KTTT; KTTT là sự phản ánh đối với CSHT, phụ thuộc vào CSHT.

+ Tính chất phụ thuộc của KTTT vào CSHT có nguyên nhân từ tính tất yếu kinh tế đối với toàn bộ các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, dù đó là lĩnh vực thực tiễn chính trị, pháp luật,...hay lĩnh vực sinh hoạt tinh thần của xã hội.

+ Tính tất yếu kinh tế lại phụ thuộc vào tính tất yếu của nhu cầu duy trì và phát triển của LLSX khách quan của xã hội.

 Thực chất, đó là mối quan hệ phụ thuộc của các hình thái ý thức xã hội vào tồn tại vật chất của xã hội.

b) Vai trò tác động trở lại của KTTT với CSHT

+ Sự tác động tích cực của KTTT đối với CSHT, trước hết được thể hiện ở chức năng chính trị - xã hội của nó. Đó là, KTTT sẽ bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển CSHT sinh ra nó. Đồng thời đấu tranh xoá bỏ CSHT và KTTT cũ.

+ Các bộ phận khác nhau của KTTTđều tác động đến CSHT bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trong, có tác dụng to lớn nhất và trực tiếp nhất đối với CSHT.

+ Trong mỗi chế độ xã hội, KTTT có quá trình biến đổi riêng. Quá trình đó phù hợp với CSHT thì sự tác động của nó đối với CSHT càng có hiệu quả. Ngược lại, quá trình đó không theo cùng chiều với quy luật vận động của CSHT, thì nó sẽ cản trở sự phát triển của CSHT.

Tuy nhiên, sự tác động của KTTT đối với CSHT dù diễn ra với những xu hướng khác nhau, mức độ khác nhau nhưng rốt cuộc nó không thể giữ vai trò quyết định đối với CSHT kinh tế của xã hội; CSHT kinh tế của xã hội vẫn mở đường đi cho nó theo tính tất yếu kinh tế của nó.

III. TỒN TẠI XÃ HỘI QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC XÃ HỘI VÀ TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI

1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội

a) Khái niệm tồn tại xã hội(TTXH) và ý thức xã hội (YTXH)

* Khái niệm TTXH dùng để dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.

+ Các yếu tố cơ bản tạo thành TTXH bao gồm: phương thức sản xuất vật chất, các yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý và dân cư.

* Khái niệm YTXH: dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ TTXH và phản ánh TTXH trong những giai đoạn phát triển nhất định.

YTXH khác ý thức cá nhân: Ý thức cá nhân là mặt tinh thần của đời sống cá nhân riêng biệt, phản ánh những điều kiện vật chất và sinh hoạt vật chất của cá nhân đó.

Giữa YTXH và ý thức cá nhân có sự thống nhất biện chứng nhưng không đồng nhất. Mối quan hệ giữa YTXH và ý thức cá nhân thuộc mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.

• Cấu trúc của YTXH:

- Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, YTXH bao gồm: Ý thức chính trị; ý thức pháp quyền; ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo; ý thức thẩm mỹ; ý thức khoa học...

- Theo trình độ phản ánh của xã hội đối với TTXH  YTXH được phân biệt thành: YTXH thông thường; ý thức xã hội lý luận.

+ YTXH thông thường: là toàn bộ những tri thức, những quan niệm...của những con người trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hoá thành lý luận.

+ Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hoá, khái quát hoá thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạn trù, quy luật.  Ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng.

- Theo hai trình độ và hai phương thức phản ánh đối với TTXH  YTXH phân thành: Tâm lý xã hội, Hệ tư tưởng xã hội

+ Tâm lý xã hội: là toàn bộ đời sống tình cảm, tâm trạng, khát vọng, ý trí..của những cộng đồng người nhất định; là sự phản ánh trực tiếp và tự phát đối với hoàn cảnh sống của họ.

+ Hệ tư tưởng xã hội là toàn bộ các hệ thống quan niệm, quan điểm xã hội như: chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo..là sự phản ánh gián tiếp và tự giác đối với tồn tại xã hội.

• Trong xã hội có giai cấp thì YTXH có tính giai cấp, hệ tư tưởng thống trị xã hội bao giờ cũng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội, nó ảnh hưởng đến ý thức của các giai cấp trong đời sống xã hội.

b) Vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH

Chủ nghĩa duy vật cho rằng: đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống xã hội; rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng; tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất.

Chủ nghĩa duy vật cho rằng TTXH quyết định YTXH, YTXH là sự phản ánh của TTXH, phụ thuộc vào TTXH. Mỗi khi TTXH, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, văn hoá, nghệ thuật...tất yếu sẽ biến đổi theo.

• TTXH quyết định YTXH thể hiện ở các điểm:

- TTXH là cơ sở, là nguồn gốc của sự ra đời YTXH.

- TTXH quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm của YTXH.

- TTXH thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của YTXH. Đương nhiên mức độ, nhịp độ thay đổi của các yếu tố của YTXH diễn ra khác nhau.

- TTXH quyết định YTXH không phải một cách giản đơn, trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian.

- TTXH quyết định YTXH nhưng không phải bất cứ tư tưởng, quan điểm, lý luận nào cũng nhất thiết phải phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.

2. Tính độc lập tương đối của YTXH

YTXH do TTXH quy định. Nhưng nó không hoàn toàn thụ động mà nó có tính năng động, có tính độc lập tương đối trong sự phát triển của mình. Tính độc lập tương đối trong sự phát triển của mình. Tính độc lập tương đối đối của YTXH biểu hiện ở những mặt sau:

- YTXH thường lạc hậu hơn so với TTXH: là do

+ Bản chất của YTXH chỉ là sự phản ánh của TTXH cho nên nói chung YTXH chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của TTXH.

+ Sự biến đổi của TTXH do sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của hoạt động thực tiễn, diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức không thể phản ánh kịp  trở nên lạc hậu.

+ Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái YTXH.

+ YTXH luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn, những giai cấp nhất định  những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.

- YTXH có thể vượt trước TTXH

Xuất phát từ sự thừa nhận tính tích cực, sáng tạo của ý thức mà chủ nghĩa duy vật lịch sử thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng tiến bộ có thể đóng vai trò tiên phong, mở đường, có thể vượt trước sự phát triển của TTXH, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra.

-YTXH có tính kế thừa trong sự phát triển của nó

+ Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước - tính kế thừa thể hiện rõ trong tập quán, truyền thống văn hoá - xã hội.

+ Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển  giải thích một tư tưởng nào đó không chỉ chú ý đến quan hệ kinh tế hiện có mà phải chú ý đến các giai đoạn trước.

+ Tính kế thừa của ý thức xã hội gắn liền với tính giai cấp. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước.

- Sự tác động qua lại giữa các hình thái YTXH trong sự phát triển của chúng.

Thông thường ở mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và có tác động mạnh mẽ đến các hình thái YTXH khác.

Ví dụ: Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt to lớn / Ở Tây Âu trung cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần của xã hội.

+ Ngày nay, trong sự tác động qua lại giữa các hình thái YTXH, ý thức chính trị thường có vai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.

- YTXH có khả năng tác động trở lại TTXH

+ Trong xã hội có giai cấp, YTXH mang tính giai cấp, có ý thức tư tưởng tiến bộ cách mạng, có ý thức tư tưởng lạc hậu. Những ý tưởng tư tưởng tiến bộ cách mạng phản ánh đúng quy luật phát triển của xã hội thì có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển, ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.

+ Vai trò, tác dụng của YTXH đối với sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó nảy sinh những tư tưởng nhất định và vai trò lịch sử của giai cấp dương cao ngọn cờ tư tưởng đó, vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đó với nhu cầu phát triển của xã hội, vào mức độ tư tưởng đó đựoc thâm nhập vào quần chúng nhân dân.

Tóm lại, mối quan hệ giữa TTXH và YTXH là mối quan hệ biện chứng, YTXH phụ thuộc TTXH nhưng có tính độc lập tương đối. Nếu chỉ thấy TTXH quyết định YTXH một cách giản đơn, máy móc sẽ rời vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, nếu tuyệt đối hoá vai trò của YTXH, không thấy vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH sẽ rời vào chủ nghĩa duy tâm.

=> Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa TTXH và YTXH có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.

+ Quan điểm duy vật macxit về "tính quyết định của TTXH đối với YTXH và tính độc lập tương đối của YTXH" là một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử; là một trong những cơ sở phương pháp luận căn bản của hoạt động nhận thức và thực tiễn.

+ Việc nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội cần phải căn cứ vào TTXH để làm nảy sinh nó.

+ Cần phải giải thích các hiện tượng đó từ các phương diện khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tương đối của chúgn.

+ Trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới cần phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt TTXH và YTXH, trong đó việc thay đổi TTXH cũ là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi YTXH cũ.

+ Phải thấy được mối quan hệ tác động hai chiều giữa TTXH và YTXH.

IV. HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ CỦA SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

1. Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội

• Khái niệm: Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ây.

• Kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội

Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, bao gồm 3 yếu tố sau: LLSX, QHSX, KTTT. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại với nhau, thống nhất với nhau.

+ LLSX là nền tảng vật chất - kỹ thuật của hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội xét đến cùng là do LLSX quyết định.

+ QHSX tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. QHSX là quan hệ kinh tế cơ bản quyết định mọi quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt chế độ này với chế độ khác và cũng là tiêu chuẩn cho mọi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.

+ KTTT được hình thành và phát triển phù hợp với CSHT, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển CSHT sinh ra nó.

Ngoài 3 yếu tố trên, hình thái kinh tế - xã hội còn bao gồm: quan hệ dân tộc, quan hệ giai đình và các sinh hoạt xã hội khác.

2. Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội

- Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan,... trước hết và cơ bản nhất là quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và quy luật KTTT phù hợp với CSHT.

- Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của LLSX của xã hội.

- Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại, và do đó là sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là: sự tác động của các quy luật khách quan  quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội: nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, tương lai là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

- Sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương quan lực lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyển thống văn hóa của mỗi cộng đồng người trong lịch sử...

 Tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có thể diễn ra với những hình thức, con đường, bước đi khác nhau, tạo nên tính phong phú, đa dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân loại.

2. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội

- Không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng hoặc ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất của xã hội với cốt lõi của nó là trình độ phát triển của LLSX hiện thực.

- Để lý giải chính xác đời sống xã hội cần phải sử dụng phương pháp luận trừu tượng hóa khoa học - đó là cần phải xuất phát từ QHSX hiện thực của xã hội để tiến hành phân tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa học...) của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.

- Muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội.

V. VAI TRÒ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI CÓ ĐỐI KHÁNG GIAI CẤP

1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

a) Khái niệm giai cấp

Trong tác phẩm "Sáng kiến vĩ đại", Lênin định nghĩa "Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn người to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng".

Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.

* Khái niệm tầng lớp xã hội: thường được sử dụng để chỉ sự phân tầng, phân lớp, phân nhóm giữa những con người trong cùng một giai cấp theo địa vị và sự khác biệt cụ thể của họ trong giai cấp đó như: tầng lớp công nhân làm thuê lao động giản đơn, lao động phức tạp, lao động chuyên gia... mặt khác, khái niệm cũng còn được dùng để chỉ những nhóm người ngoài kết cấu các giai cấp trong một xã hội nhất định như: tầng lớp công chức, tri thức, tiểu nông...

b) Nguồn gốc của giai cấp

- Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hoá giai cấp trong xã hội chính là:

+ Do sự ra đời và tồn tại của chế độ tư hữu tư nhân về TLSX, đặc biệt là đối với những TLSX chủ yếu của xã hội, bởi vì chỉ có trong điều kiện đó mới có khả năng khách quan làm phát sinh và tồn tại sự phân biệt địa vị của các tập đoàn người trong quá trình sản xuất xã hội  khả năng tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động thặng dư của tập đoàn khác.

+ Sự phát triển của LLSX  năng suất lao động tăng lên  thời gian lao động có thể chia thành hai phần là: lao động tất yếu và lao động thặng dư  sự dư thừa của cải

 ra đời và tồn tại chế độ tư hữu tư nhân về TLSX  tuân theo quy luật khách quan: quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.

- Con đường hình thành, phát triển giai cấp ở các cộng đồng người trong lịch sử ở hai hình thức cơ bản:

+ Hình thức hình thành, phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu với sự tác động của quy luật kinh tế phân hoá những người sản xuất hàng hoá trong nội bộ cộng đồng xã hội.

+ Trong thực tế, lịch sử còn diễn ra quá trình tác động đồng thời của cả hai nhân tố đó.

2. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

- Khái niệm đấu tranh giai cấp dùng để chỉ "cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản"

- Các hình thức đấu tranh giai cấp: tuỳ theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những phạm vi và trình độ khác nhau như: đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị,.. đấu tranh dân tộc, đấu tranh tôn giáo, văn hoá...

- Nhà nước - công cụ chuyên chính giai cấp ra đời và tồn tại không phải để giải quyết mâu thuẫn mà là để duy trì trật tự xã hội trong điều kiện mâu thuẫn không thể giải quyết được. Nhà nước là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp.

+ Các kiểu nhà nước trong lịch sử trên 2000 năm qua: Nhà nước chủ nô thời cổ đại, nhà nước phong kiến thời trung cổ và nhà nước tư sản ở các nước tư bản từ thời cận đại đến nay.

+ Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới, là "nửa nhà nước", "nhà nước không còn nguyên nghĩa đen của nó", tồn tại trong thời kỳ quá độ lên CHXH, là công cụ bạo lực có tổ chức và công cụ quản lý kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

- Đấu tranh giai cấp là phương thức, động lưc cơ bản của sự tiến bộ, phát triển xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân hoá thành đối kháng giai cấp.

+ Đấu tranh giai cấp phát triển đến đỉnh cao sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. PTSX mới ra đời đã thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội  đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp.

+ Khi cuộc đấu tranh giai cấp chưa dẫn đến cách mạng xã hội thì nó vẫn là động lực thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển vì nó buộc giai cấp thống trị phải thường xuyên đổi mới cách thức quản lý sản xuất, ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, cải tạo chính bản thân giai cấp cách mạng.

+ Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho PTSX mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng.

+ Đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực cơ bản của sự phát triển lịch sử mà còn là phương thức cơ bản của sự tiến bộ và phát triển xã hội trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

=> Như vậy, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, phương thức và động lực cơ bản nhất của sự tiến bộ, phát triển xã hội là sự vận động của mâu thuẫn trong PTSX, trong bản thân nền vật chất của xã hội, nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân hoá giai cấp thì mâu thuẫn đó lại được bộc lộ và biến thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong đời sống chính trị - xã hội  Mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế chỉ được giải quyết thông qua giải quyết mâu thuẫn đối kháng giai cấp trên lĩnh vực chính trị - xã hội.

 Mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp trở thành cơ chế chính trị - xã hội để giải quyết mâu thuẫn trong PTSX, thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển của LLSX, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có giai cấp

a) Khái niệm cách mạng xã hội và nguyên nhân của nó

- Khái niệm CMXH dùng để chỉ bước chuyển biến lớn của lịch sử phát triển xã hội loài người - đó là bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội ở trình độ thấp lên một hình thái kinh tế - xã hội ở một trình độ cao hơn, được tiến hành trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,..của xã hội.

- Khái niệm "cải cách xã hội" dùng để chỉ những cuộc cải biến diễn ra trên một hay một số lĩnh vực của đời sống xã hội, trong phạm vi một hình thái kinh tế - xã hội, nhằm hoàn thiện hình thái kinh tế - xã hội đó, như: cải cách thể chế kinh tế, cải cách nền giáo dục...

- Khái niêm đảo chính dùng để chỉ những sự biến tranh giành địa vị, quyền lực nhà nước giữa các lực lượng chính trị (thường là trong cùng một giai cấp) và với chủ trương không thay đổi bản chất chế độ hiện thời, nó có thể được tiến hành dưới hình thức bạo lực hoặc phi bạo lực vũ trang.

* Nguyên nhân sâusắc của cách mạng xã hội là từ mâu thuẫn gay gắt:

+ Trong bản thân nền sản xuất vật chất của xã hội, tức mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển của LLSX với sự kìm hãm của QHSX đã lỗi thời  đấu tranh giai cấp  bùng nổ cách mạng

+ Sự phát triển nhận thức và tổ chức của giai cấp cách mạng - giai cấp đại biểu cho PTSX mới tiến bộ hơn  tạo ra sự phát triển của phong trào đấu tranh giai cấp từ tự phát đến tự giác, khi có sự kết hợp chín muồi của các nhân tố khách quan và chủ quan  tạo được thời cơ cách mạng  cách mạng sẽ bùng nổ và có khả năng thành công.

c) Vai trò của CMXH đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

- CMXH giữ vai trò là phương thức, động lực của sự phát triển xã hội. Không có những cuộc CMXH trong lịch sử thì không thể diễn ra quá trình thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn.

- Cuộc CMXH thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; cuộc cách mạng xoá bỏ chế độ nô lệ và thay thế nó bằng chế độ phong kiến; cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa; cuộc cách mạng vô sản thực hiện xoá bỏ chế độ chuyên chính tư sản, xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa - đây là cuộc cách mạng vĩ đại nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại, làm thay đổi hoàn toàn bản chất chế độ chính trị xã hội cũ, xoá bỏ triệt để nguồn gốc chế độ tư hữu sản sinh đối kháng giai cấp đã từng tồn tại hàng ngàn năm trong lịch sử nhân loại .

VI. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỦ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN

1. Con người và bản chất con người

a) Khái niệm con người

Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội

* Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau:

- Thứ nhất, con người là kết quả tiến hoá và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hoá của các loài.

- Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là thân thể vô cơ của con người", là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài và phát triển của môi trường tự nhiên  giữa con người và giới tự nhiên có quan hệ song trùng, quy định tác động lẫn nhau giữa sự tồn tại của con người, loài người và sự tồn tại khác của giới tự nhiên.

* Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác độ:

- Một là, chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loại động vật để tiến hoá và phát triển thành người.

- Hai là, sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi  con người cũng có sự thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.

Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó.

b) Bản chất của con người

* Trong "Luận cương về Phoiơbắc", C. Mác nói: " bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng cố hữu, của cá nhân riêng biêt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội".

+ Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong mọi điều kiện lịch sử - cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (quan hệ giai cấp - dân tộc - thời đại - kinh tế - chính trị..)

+ Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Mác - Lênin không phủ nhận mặt tự nhiên, trong đời sống con người. Triết học Mác - Lênin chỉ muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hêt ở bản chất xã hội. Mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội.

* Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.

- Không có giới hạn tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.

- Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.

+ Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Bản chất con người không phải là hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.

 Đây là biện chứng của mối quan hệ giữa con người - chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định bởi chính lịch sử đó.

Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.

=> Ý nghĩa phương pháp luận;

- Để lý giải một cách khoa học những vấn đề con người thì không thể chỉ đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế - xã hội của nó.

- Đồng lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực sáng tạo lịch sử của con người, vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.

- Sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội.

2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân

a) Khái niệm quần chúng nhân dân

* Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phải nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế - chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.

* Những lực lượng cơ bản tạo thành cộng đồng quần chúng nhân dân bao gồm:

- Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần.

- Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức bóc lột, đối kháng với cộng đồng nhân dân.

- Những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội.

b) Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử.

Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử; do đó, lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.

 Vai trò của quần chúng nhân dân trong việc sáng tạo lịch sử thể hiện:

- Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở sự tồn tại và phát triển của xã hội.

- Quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội; là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp "kiểm chứng" các giá trị tinh thần đã được các thế hệ và các cá nhân sáng tạo ra trong lịch sư; hoạt động của quần chúng nhân dân là cơ sở hiện thực có ý nghĩa quyết định và là cội nguồn phát sinh những sáng tạo văn hóa tinh thần của xã hội  phục vụ hoạt động của quần chúng nhân dân.

- Quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng và cả các cuộc cải cách trong lịch sử.

* Khái niệm cá nhân: dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cộng động xã hội nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến.

 Mỗi cá nhân là một chỉnh thể thống nhất, vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.

+ Vĩ nhân: là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật...

+ Lãnh tụ: là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên.

Để trở thành lãnh tụ gắn bó với quần chúng, được quần chúng nhân dân tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có phẩm chất cơ bản sau:

+ Có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của lịch sử.

+ Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào việc giải quyết những nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của lịch sử.

+ Gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi ích của quần chúng nhân dân.

Như vậy, tuyệt đối hoá vai trò của quần chúng nhân dân mà bỏ quên vai trò của cá nhân, hoặc tuyệt đối hoá vai trò của cá nhân, thủ lĩnh, lãnh tụ, vĩ nhân mà xem thường vai trò của quần chúng nhân dân thì đều là không biện chứng trong việc nghiên cứu về lịch sử, và do đó không thể lý giải chính xác tiến trình vận động, phát triển của lịch sử nhân loai nói chung cũng như mỗi cộng đồng xã hội nói riêng.

* Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân phụ thuộc vào điều kiện khách quan và chủ quan, đó là: trình độ phát triển của PTSX, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp hay lực lượng xã hội, trình độ tổ chức xã hội, bản chất của chế độ xã hội... Do vậy việc phân tích vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân cần phải đứng trên quan điểm toàn diện, phát triên và lịch sử - cụ thể.

* Ý nghĩa phương pháp luận

- Việc lý giả một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân đã xoá bỏ được sai lầm của chủ nghĩa duy tâm đã từng thống trị lâu dài trong lịch sử nhận thức về động lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người, đồng thời đem lại một phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu và đáng giá vai trò của mỗi cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.

- Lý luận về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân đã cung cấp một phương pháp luận khoa học để các Đảng cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa - đó là sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, trên cơ sở đó tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp nhằm tạo ra động lực to lớn trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đi tới thắng lợi cuối cùng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro