k54cd2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phần thứ hai

HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

Chương IV

HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ

Số tiết của chương:

Số tiết giảng:

Số tiết thảo luận, tự học:

A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU:

- Sinh viên nắm được điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa.

- Nắm được khái niệm hàng hóa, hai thuộc tính của hàng hóa, mối quan hệ biện chứng giữa hai thuộc tính của hàng hóa, tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.

- Nắm được nội dung lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa.

- Nắm được lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ.

- Nắm được các chức năng của tiền tệ.

- Nắm được nội dung của quy luật giá trị, tác động của quy luật giá trị.

B. NỘI DUNG BÀI GIẢNG

I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, ĐẶC TRƯNG VÀ ƯU THẾ CỦA SẢN XUẤT HÀNG HOÁ

1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá

Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá.

- Sản xuất tự cấp tự túc là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra là nhằm thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất.

- Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.

Sản xuất hàng hoá ra đời, tồn tại khi có đủ hai điều kiện sau:

 Thứ nhất: Có sự phân công lao động xã hội.

Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá sản xuất, là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, nghề khác nhau. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất sẽ làm một công việc cụ thể, vì vậy chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Song trong cuộc sống của mỗi con người lại cần đến rất nhiều sản phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu, đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, phải trao đổi sản phẩm cho nhau..

 Phân công lao động xã hội là cơ sở, tiền đề của sản xuất hàng hoá. Là điều kiện cần nhưng chưa đủ.

 Thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất (Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, hay tính chất tư nhân của quá trình lao động).

+ LLSX phát triển  chế độ tư hữu về TLSX cũng phát triển và có những hình thức khác nhau.

+ Do các quan hệ sở hữu khác nhau về TLSX quyết định, nên trong thực tiễn đã dẫn đến sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá  xác định người sở hữu TLSX là người sở hữư sản phẩm lao động.

 Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về TLSX đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện ấy, người này muốn dùng sản phẩm của người khác thì phải thông qua sự mua - bán hàng hoá, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hoá.

2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá

- Thứ nhất, do mục đích của sản xuất hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để thoả mãn nhu cầu của người khác, của thị trường. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.

- Thứ hai, cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi con người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất - kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng xuất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và thu lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy LLSX phát triển mạnh mẽ.

- Thứ ba, sự phát triển của sản xuất hàng hóa với tính chất "mở" của các quan hệ hàng hoá tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển. Từ đó, taọ điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân.

Hạn chế: sản xuất hàng hoá  sự phân hoá giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá hoại môi trường sinh thái...

II. HÀNG HOÁ

1. Hàng hóa và hai thuộc tính hàng hoá

a) Khái niệm hàng hoá: Hàng hóa là sản phẩm của lao động, nó có thể thoả mãn nhu cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.

Khi nghiên cứu PTSX TBCN, Mác bắt đầu bằng sự phân tích hàng hoá. Lí do:

- Hàng hóa là hình thái biểu hiện phổ biến nhất của của cải trong xã hội tư bản.

- Hàng hoá là hình thái nguyên tố của của cải, là tế bào kinh tế trong đó chứa đựng mọi mầm mống mâu thuẫn của PTSX TBCN.

- Phân tích hàng hoá nghĩa là phân tích giá trị - phân tích cái cơ sở của tất cả các phạm trù chính trị kinh tế học của PTSX TBCN. Nếu không có sự phân tích này, sẽ không thể hiểu được, không thể phân tích đựơc giá trị thặng dư là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa tư bản và những phạm trù khác như lợi nhuận, lợi tức, địa tô...

b) Hai thuộc tính của hàng hoá

* Giá trị sử dụng:

Với tư cách là giá trị sử dụng, hàng hoá trước hết "là một vật nhờ thuộc tính của nó mà thoả mãn được bất cứ loại nhu cầu nào của con người", không kể nhu cầu đó được thoả mãn một cách trực tiếp, nếu vật ấy là một tư liệu sinh hoạt, gián tiếp nếu vật ấy là một tư liệu sản xuất.

- C. Mác nói: "là giá trị sử dụng, thì các hàng hoá trước hết khác nhau về chất", ví dụ: giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết bị... để sản xuất...Và ngay mỗi một vật cũng có thể có nhiều thuộc tính tự nhiên khác nhau, do đó nó có nhiều giá trị sử dụng hay công dụng khác nhau: gạo có thể dùng nấu cơm, nhưng gạo cũng có thể dùng làm nguyên vật liệu trong ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế,..

- Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát hiện ra được hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học kỹ thuật.

- Giá trị sử dụng hay công dụng của hàng hoá là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hoá quyết định  giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Ví dụ: thuộc tính tự nhiên của gạo là để nuôi sống con người và chính nhờ có công dụng đó, gạo trở thành một giá trị sử dụng.

- Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nó là nội dung vật chất của của cải, không kể hình thức xã hội của của cải đó như thế nào.

* Giá trị hàng hoá:

- Giá trị trao đổi: Mác viết "giá trị trao đổi trước hết biểu hiện ra là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ trao đổi lẫn nhau giữa những giá trị sử dụng thuộc loại khác nhau".

Ví dụ: 1 mét vải = 10 kg thóc

- Giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá, còn giá trị trao đổi chẳng qua chỉ là hình thái biểu hiện của giá trị hàng hoá.

Như vậy, thuộc tính tự nhiên của hàng hoá là giá trị sử dụng, thuộc tính xã hội của hàng hoá là hao phí lao động kết tinh trong nó và là giá trị. Bất kỳ một vật nào muốn trở thành hàng hoá đều phải có đủ hai thuộc tính trên: Giá trị sử dụng và giá trị, nếu thiếu một trong hai thuộc tính đó, sản phẩm không thể là hàng hoá được.

c) Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá

- Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Trong đó, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị ra bên ngoài.

- Hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Tính đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: người này làm ra hàng hoá đem bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hoá do mình làm ra, nếu họ có chú ý đến giá trị sử dụng cũng chính là để có được giá trị. Ngược lại, người mua hàng hoá lại chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hoá, nhưng muốn tiêu dùng giá trị sử dụng đó người mua phải trả giá trị của nó cho người bán đã. Nghĩa là quá trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực hiện giá trị sử dụng: giá trị được thực hiện trước, sau đó giá trị sử dụng mới được thực hiện.

2. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa

a) Lao động cụ thể

Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương pháp, phương tiện và kết quả riêng.

Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế, đối tượng lao động là gỗ, phương pháp của anh ta là các thao tác về cưa, về bào, khoan, đục; phương tiện được sử dụng là cái cưa, cái đục, cái bào, cái khoan; kết quả lao động là tạo ra cái bàn, cái ghế.

- Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể càng nhiều loại càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau. Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Lao động cụ thể là một phạm trù vinh viễn tồn tại gắn liền với vật phẩm song hình thức của lao động cụ thể có thể thay đổi.

- Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng do nó sản xuất ra. Giá trị sử dụng của các vật thể hàng hóa bao giờ cũng do hai nhân tố hợp thành: vật chất và lao động. Lao động cụ thể của con người chỉ thay đổi hình thức tồn tại của vật chất, làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người mà thôi.

b) Lao động trừu tượng

Lao động của người sản xuất hàng hóa, nếu coi là sự hao phí óc, sức thần kinh và cơ bắp nói chung của con người, chứ không kể đến hình thức cụ thể của nó như thế nào, thì gọi là lao động trừu tượng.

- Lao động trừu tượng chính là lao động hao phí đồng chất của con người.

- Lao động trừu tượng chỉ có trong nền sản xuất hàng hóa, do mục đích của sản xuất là để trao đổi  phải quy các lao động cụ thể vốn khác nhau thành một thứ lao động cụ thể đồng chất có thể trao đổi với nhau, tức lao động trừu tượng.

- Lao động trừu tượng tạo ra giá trị, làm cơ sở cho sự ngang bằng trong trao đổi. Lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hóa.

 Lao động cụ thể chỉ là một trong hai nhân tố tạo thành giá trị sử dụng thì lao động trừu tượng là nhân tố duy nhất tạo ra giá trị của hàng hóa. Giá trị của mọi hàng hóa chỉ là sự kết tinh của lao động trừu tượng.

 Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận; nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự. Giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược nhau: khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống.

Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của người sản xuất hàng hóa.

3. Lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa

Giá trị hàng hóa được xét cả về mặt chất và mặt lượng:

- Giá trị được xét về mặt chất: Chất giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa hao phí để tạo ra hàng hóa.

- Lượng giá trị hàng hóa là do lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hóa đó quyết định.

a) Thước đo lượng giá trị của hàng hóa

- Đo lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hóa bằng thước đo thời gian như: một giờ lao động, một ngày lao động...Do đó lượng giá trị của hàng hóa cũng do thời gian lao động quyết định.

Mác viết: "chỉ có số lượng lao động, hay thời gian lao động tất yếu, trong một xã hội nhất định để sản xuất một vật phẩm, mới là cái quyết định số lượng giá trị".

Như vậy, thước đo giá trị của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Mác cho rằng: thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.

b) Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa

- Thứ nhất, năng suất lao động

+ Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

+ Có hai loại năng suất lao động, đó là: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội.

+ Năng suất lao động có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính là năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại năng suất lao động xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống thì ta phải tăng năng suất lao động xã hội.

+ Năng suất lao động lại tùy thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.

+ Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, là sự căng thẳng mệt nhọc của người lao động

- Thứ hai, mức độ phức tạp của lao động: lao động giản đơn và lao động phức tạp

+ Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được.

+ Lao động phức tạp: là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề.

Mác viết: "lao động phức tạp...chỉ là bội số của lao động giản đơn, hay nói cho đúng hơn, là lao động giản đơn nhân bội lên...".

Như vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.

c) Cấu thành (Cơ cấu) lượng giá trị hàng hóa

Cơ cấu lượng giá trị hàng hó bao gồm 2 bộ phận: 1) Bộ phận giá trị cũ (ký hiệu là c) và 2) Bộ phận giá trị mới ( ký hiệu là v + m).

Ký hiệu là W = c + v + m

Sự kết tinh của lao động quá khứ trong giá trị của TLSX chính là giá trị cũ, còn lao động sống hao phí trong quá trình sản xuất ra sản phẩm chính là giá trị mới.

III. TIỀN TỆ

1. Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ

a) Sự phát triển các hình thái giá trị

* Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:

Đây là hình thái phôi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hóa, khi trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác.

Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc

+ Hình thái giá trị của 1m vải ở đây là hình thái tương đối.

+ 10 kg thóc trong mối quan hệ với vải, nó chỉ biểu hiện giá trị của vải nên nó là hình thái ngang giá của giá trị của vải.

- Hình thái giá trị tương đối và hình thái vật ngang giá là hai mặt liên quan với nhau, không thể tách rời nhau, đồng thời là hai cực đối lập của một phương trình giá trị.

- Hình thái vật ngang giá của giá trị, có ba đặc điểm: giá trị sử dụng của nó trở thành hình thức biểu hiện giá trị; lao động cụ thể trở thành hình thức biểu hiện lao động trừu tượng; lao động tư nhân trở thành hình thức biểu hiện lao động xã hội.

Trong hình thái giản đơn, giá trị của một hàng hóa chỉ được phát hiện ở một hàng hóa nhất định khác với nó, chứ không biểu hiện ở mọi hàng hóa khác.

* Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng:

- Khi LLSX phát triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hóa này có thể quan hệ với nhiều hàng hóa khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng.

Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc hoặc

= 2 con gà hoặc

= 0,1 chỉ vàng hoặc

=........

Như vậy, hình thái giá trị vật ngang giá đã được mở rộng ra ở nhiều hàng hóa khác nhau.

* Hình thái chung của giá trị:

Sự phát triển cao hơn nữa của LLSX và phân công lao động xã hội, hàng hóa được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn. Nhu cầu trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn, người có vải muốn đổi thóc nhưng người có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì thế việc trao đổi trực tiếp không còn thích hợp và gây trở ngại cho trao đổi. Trong trường hợp đó người ta phải đi con đường vòng, mang hàng hóa của mình đổi lấy thứ hàng hóa mà nó được nhiều người ưa chuộng, rồi đem hàng hóa đó đổi lấy hàng hóa mà mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại ở thứ hàng hóa được nhiều người ưa chuộng, thì hình thái trung gian của giá trị xuất hiện.

Ví dụ:

= 1m vải

.v.v...

Ở đây, tất cả các hàng hóa đều biểu thị giá trị của mình ở cùng một thứ hàng hóa đóng vai trò là vật ngang giá chung. Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn định ở một thứ hàng hóa nào. Các địa phương khác nhau thì hàng hóa dùng làm vật ngang giá chung cũng khác nhau.

* Hình thái tiền tệ:

Khi LLSX và phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, sản xuất hàng hóa và thị trường ngày càng mở rộng, thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khăn, do đó đòi hỏi khách quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.

Ví dụ:

= 0,1 chỉ vàng (vàng trở thành tiền tệ)

....

Lúc đầu có nhiều loại kim loại đóng vai trò là tiền tệ, nhưng về sau được cố định ở kim loại quý: vàng, bạc và cuối cùng là vàng. Sở dĩ bạc và vàng đóng vai trò tiền tệ là do những ưu điểm của nó như: thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, không hư hỏng, với một lượng và thể tích nhỏ nhưng chứa đựng một giá trị lớn.

Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa, khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hóa được phân thành hai cực: một bên là các hàng hóa thông thường còn một bên là hàng hóa (vàng) đóng vai trò tiền tệ. Đến đây giá trị các hàng hóa đã có một phương tiện biểu hiện thống nhất. Tỷ lệ trao đổi được cố định lại.

b) Bản chất của tiền tệ

Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hóa làm vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác; nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.

2. Các chức năng của tiền tệ

a) Thước đo giá trị:

- Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa. Muốn đo lường giá trị của các hàng hóa, bản thân tiền tệ cũng phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hóa không cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng tượng.

+ Giá trị hàng hóa được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa. Hay nói cách khác, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.

+ Giá cả hàng hóa chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau:

• Giá trị hàng hóa.

• Giá trị của tiền.

• Quan hệ cung - cầu về hàng hóa.

Nhưng vì giá trị hàng hóa là nội dung của giá cả, nên trong 3 nhân tố có ảnh hưởng đến giá cả của hàng hóa nêu trên thì giá trị vẫn là nhân tố quyết định giá cả.

Để tiền làm được chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được quy định một đơn vị tiền tệ nhất định làm tiêu chuẩn đo lường giá cả của hàng hóa. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ, ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau

Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước đo giá trị. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hóa khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ.

b) Phương tiện lưu thông

Để làm chức năng lưu thông hàng hóa đòi hỏi phải có tiền mặt.Trao đổi hàng hóa lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hóa.

- Công thức lưu thông hàng hóa là: H - T - H

Khi tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian và không gian

- Tiền là hình thức biểu hiện giá trị của hàng hóa, nó phục vụ cho sự vận động của hàng hóa.

- Mác cho rằng số lượng tiền tệ cho lưu thông do ba nhân tố quy định: số lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường, giá cả trung bình của hàng hóa, và tốc độ lưu thông của những đơn vị tiền tệ cùng loại. Sự tác động của ba nhân tố này đối với khối lượng tiền tệ cần cho lưu thông diễn ra theo quy luật phổ biến là: "Tổng số giá cả của hàng hóa chia cho số vòng lưu thông của các đồng tiền cùng loại trong một thời gian nhất định".

Nếu ký hiệu:

T là số lượng tiền tệ cần cho lưu thông.

H là số lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường.

Gh là giá cả trung bình của 1 hàng hóa.

G là tổng số giá cả của hàng hóa.

N là số vòng lưu thông của các đồng tiền cùng loại.

Có thể diễn đạt quy luật này bằng các công thức sau:

T = =

 Điều kiện: tất cả các nhân tố nói trên phải được xem xét trong cùng một thời gian và trên cùng một không gian.

+ Số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông lại tỷ lệ nghịch với số vòng quay của đồng tiền.

+ Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén. Dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ giá trị.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình trạnh này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy.

c) Phương tiện thanh toán:

Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng...

- Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến trình độ nào đó, tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định hình giá cả hàng hóa.

Nhưng vì là mua bán chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán.

 Tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt.

- Trong việc mua bán chịu thì người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.

- Công thức số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông sẽ được triển khai như sau:

Nếu ký hiệu:

Gc là tổng số giá hàng hóa bán chịu.

Tk là tổng số tiền khấu trừ cho nhau.

Ttt là tổng số tiền thanh toán đến kỳ hạn trả.

Ta có:

T =

d) Phươnh tiện cất trữ:

Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.

 Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại nếu sản xuất giảm lượng hàng hóa lại ít thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.

e) Tiền tệ thế giới

- Khi trao đổi hàng hóa vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã hội.

- Năm chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hóa quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa.

IV.QUY LUẬT GIÁ TRỊ

1. Nội dung của quy luật giá trị

Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.

- Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hóa không phải được quyết định bởi hao phí lao động xã hội cần thiết.

 Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.

- Trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá.

- Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, hay giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại.

Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá trị trên thị trường tách rời nhau với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá trị thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác động.

2. Tác động của quy luật giá trị

Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:

- Thứ nhất: Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa

+ Điều tiết sản xuất tức là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu.

+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt.

 Sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiế nền kinh tế hàng hóa.

- Thứ hai: Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển

Trong hoạt động kinh doanh, do điểu kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh mạnh mẽ càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là LLSX xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.

- Thứ ba: Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành người giàu, người nghèo

Quá trình cạch tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang thiết bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm TLSX, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc rủi ro trong kinh doanh nên bị thua nỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.

 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của những quy luật giá trị:

+ Quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển.

+ Phân hóa xã hội thành kẻ giàu, người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.

C. CÂU HỎI ÔN TẬP

Chương V

HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

Số tiết của chương:

Số tiết giảng:

Số tiết thảo luận, tự học:

A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU:

- Sinh viên nắm được nội dung sự chuyển hóa tiền thành tư bản.

- Nắm được nội dung quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trong xã hội tư bản.

- Nắm được bản chất tiền công trong chủ nghĩa tư bản.

- Nắm được quá trình lưu thông của tư bản và giá trị thặng dư.

- Nắm được các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư.

B. NỘI DUNG BÀI GIẢNG:

I. SỰ CHUYỂN HÓA TIỀN THÀNH TƯ BẢN

1. Công thức chung của tư bản

Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa, là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người khác.

- Sự vận động của đồng tiền thông thường và đồng tiền tư bản có sự khác nhau hết sức cơ bản.

+ Trong lưu thông hàng hóa giản đơn thì tiền được coi là tiền thông thường, vận động theo công thức: H - T - H

 tiền tệ ở đây không phải là tư bản, mà chỉ là tiền tệ thông thường với đúng nghĩa của nó. Ở đây tiền tệ chỉ là phương tiện để đạt tời một mục đích bên ngoài lưu thông. Hình thức lưu thông này thích hợp với nền sản xuất nhỏ của những người thợ thủ công và nông dân.

+ Tiền được coi là tư bản, thì vận động theo công thức: T - H - T

- So sánh hai công thức lưu thông trên ta thấy có:

+ Những điểm giống nhau (về hình thức): Cả hai sự vận động, đều do hai giai đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đoạn đều có hai nhân tố vật chất đối diện nhau là tiền và hàng, và hai người có quan hệ kinh tế với nhau là người mua và người bán.

+ Những điểm khác nhau (về chất):

• Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng việc bán (H - T) và kết bằng biệc mua (T - H). Điểm xuất phát và điểm kết thúc của quá trình đều là hàng hóa, còn tiền chỉ đóng vai trò trung gian.

• Ngược lại, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng việc mua (T - H) và kết thúc bằng việc bán (H - T). Tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc của quá trình, còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian; tiền ở đây không phải là chi ra dứt khoát mà chỉ là ứng ra rồi thu về.

• Mục đích của lưu thông hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu, nên các hàng hóa trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau. Sự vận động sẽ kết thúc ở giai đoạn thứ hai, khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng mà người đó cần đến.

• Còn mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm do đó số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T - H - T', trong đó T' = T + T. Số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra ( T), C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Số tiền ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản.

Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích của lưu thông tư bản là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư nên sự vận động của tư bản là không có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.

C. Mác gọi công thức chung của tư bản là: T - H - T'

2. Mâu thuẫn của công thức chung

Bản chất của công thức T - H - T' (Trong đó T' = T + T), là giá trị đẻ ra giá trị thặng dư. Những giá trị thặng dư do đâu mà có?

- Các nhà kinh tế học tư sản đã cố tình chứng minh rằng quá trình lưu thông đẻ ra giá trị thặng dư, nhằm mục đích che dấu nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.

- Thực ra trong lưu thông, dù người ta trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra giá trị mới, do đó cũng không tạo ra giá trị thặng dư.

* Trường hợp trao đổi ngang giá:

Nếu hàng hóa được trao đổi ngang giá, thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, về mặt giá trị sử dụng, thì cả hai bên trao đổi đều có lợi vì có được những hàng hóa thích hợp với nhu cầu của mình.

* Trường hợp trao đổi không ngang giá:

Có thể có ba trường hợp xảy ra:

- Trường hợp thứ nhất: giả định rằng có một nhà tư bản nào đó có hành vi bán hàng hoá cao hơn giá trị 10% chăng hạn. Giá trị hàng hoá của anh ta là 100 đồng sẽ được bán cao lên 110 đồng và do đó thu được 10 đồng giá trị thặng dư. Nhưng trong thực tế không có nhà tư bản nào lại chỉ đóng vai trò là người bán hàng, mà lại không là người đi mua các yếu tố sản xuất để sản xuất ra các hàng hoá đó. Vì vậy đến lượt anh ta là người mua, anh ta sẽ phải mua hàng hoá cao hơn giá trị 10%, vì các nhà tư bản khác bán các yếu tố sản xuất cũng muốn bán cao hơn giá trị 10% để có lời. Thế là 10% nhà tư bản thu được khi bán, sẽ mất đi khi anh ta là người mua. Hành vi bán hàng hoá cao hơn giá trị đã không hề mang lại một chút giá trị thặng dư nào.

- Trường hợp thứ hai: Giả định rằng lại có một nhà tư bản nào đó, có hành vi mua hàng hoá thấp hơn giá trị là 10%, để đến khi bán hàng hoá theo giá trị anh ta thu đựoc 10% là giá trị thặng dư. Trong trường hợp này cũng vậy, cái mà anh ta thu được khi mua rẻ sẽ bị mất đi khi anh ta là người bán vì cũng phải bán thấp hơn giá trị thì các nhà tư bản khác mới mua. Rút cục giá trị thặng dư vẫn không hề đẻ ra từ hành vi mua rẻ.

- Trường hợp thứ ba: Giả định rằng trong xã hội tư bản lại có một số kẻ giỏi lừa bịp, lừa lọc, bao giờ hắn cũng mua được rẻ và bán được đắt. Nếu khi mua, hắn ta đã mua rẻ được 5 đồng, thì khi bán, hắn cũng bán đắt được hơn 5 đồng. Rõ ràng 10 đồng giá trị thặng dư mà hắn thu được là do trao đổi không ngang giá. Sự thực thì 5 đồng thu được do mua rẻ và 5 đồng hắn kiếm đựoc do bán đắt cũng chỉ là số tiền hắn lường gạt đựoc của người khác.

Nhưng nếu xét chung cả xã hội, thì cái giá thặng dư mà hắn thu được lại chính là cái mà người khác mất đi, do đó tổng số giá trị hàng hoá trong xã hội không vì hành vi cướp đoạt, lường gạt của hắn mà tăng lên. Giai cấp tư sản không thể làm giầu trên lưng bản thân mình.

C. Mác đã chỉ rõ: " Lưu thông hay trao đổi hàng hoá không sáng tạo ra giá trị nào cả".

Như vậy lưu thông đã không đẻ ra giá trị thặng dư. Vậy phải chăng giá trị thặng dư có thể đẻ ra ở ngoài lưu thông?

Ngoài lưu thông, xem xét 2 trường hợp:

+ Ở ngoài lưu thông, nếu người trao đổi vẫn đứng một mình với hàng hoá của anh ta, thì giá trị của những hàng hoá ấy không hề tăng lên một chút nào.

+ Ở ngoài lưu thông, nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm giá trị mới cho hàng hoá, thì phải bằng lao động của mình. Chẳng hạn, người thợ giầy đã tạo ra một giá trị mới bằng cách lấy da thuộc để làm ra giầy. Trong thực tế, đôi giầy có giá trị lớn hơn da thuộc vì nó đã thu hút nhiều lao động hơn, còn giá trị của bản thân da thuộc vẫn y như trước, không tự tăng lên.

"Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông".

Đó chính là mâu thuẫn chứa đựng trong công thức chung của tư bản. Để giải quyết những mâu thuẫn này, C. Mác chỉ rõ " phải lấy những quy luật nội tại của lưu thông hàng hoá làm cơ sở...".

3. Hàng hoá sức lao động

a) Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa

C. Mác chỉ rõ: "Muốn rút ra được một giá trị trao đổi từ trong giá trị sử dụng của một hàng hoá, thì kẻ có tiền phải có cái may mắn là phát hiện ra được ở giữa lưu thông, ngay trên thị trường, một hàng hoá mà giá trị sử dụng có cái đặc tính là sinh ra giá trị trao đổi, khiến cho tiêu dùng nó, có nghĩa là thực hiện lao động và do đó sáng tạo ra giá trị".

 Thứ hàng hoá đặc biệt đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường. Như vậy, sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện tiên quyết để tiền biến thành tư bản.

- Theo Mác: "Sức lao động đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích".

- Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hoá trong những điều kiện nhất định sau đây:

+ Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hoá.

+ Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, họ trở thành người "vô sản", để tồn tại buộc anh ta phải bán sức lao động của mình để sống.

Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Tuy nhiên, để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ phải phát triển tới một mức độ nhất định.

b) Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động

Cũng giống như mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.

- Giá trị hàng hoá sức lao động: do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định.

+ Thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của người công nhân (những tư liệu sinh hoạt nhất định về ăn, mặc, ở, học nghề,... Ngoài ra người lao động còn phải thoả mãn những nhu cầu của gia đình và con cái anh ta nữa). Vì việc sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động có nghĩa là việc duy trì cuộc sống của bản thân người lao động.

+ Hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt, khác với các hàng hoá thông thường là ở chỗ nó còn bào hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.

+ Lượng giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành:

• Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân.

• Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân.

• Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái ngưòi công nhân.

=> Như vậy: giá trị của hàng hoá sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình anh ta cả về mặt vật chất lẫn tinh thần.

- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động

Hàng hóa sức lao động không chỉ có giá trị, mà còn có giá trị sử dụng như bất kì một hàng hoá thông thường nào.

+ Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân.

+ Quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hoá sức lao động khác với quá trình tiêu dùng hàng hoá thông thường ở chỗ: hàng hoá thông thường sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian.

+ Quá trình tiêu dùng hàng hoá sức lao động là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hoá nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hoá sức lao động.

Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt.

 Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của tư bản. Chính đặc điểm này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hoá thành tư bản.

II. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG XÃ HỘI TƯ BẢN

1. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sự dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư

- Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư.

- Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.

- Quá trình sản xuất trong xí nghiệp tư bản đồng thời là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động và tư liệu sản xuất mà nhà tư bản đã mua, nên nó có các đặc điểm sau:

+ Một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản.

+ Hai là, sản phẩm là do lao động của người công nhân tạo ra, nhưng không phụ thuộc về công nhân mà thuộc sở hữu của nhà tư bản.

Ví dụ: Lấy việc sản xuất sợi của một nhà tư bản:

Giả định để sản xuất 10 kg sợi, cần 10 kg bông và giá 10 kg bông là 10$. Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn máy móc là 2 $; giá trị sức lao động trong một ngày là 3 $ và ngày lao động là 12 giờ; trong một giờ lao động, người công nhân tạo ra một lượng giá trị là 0,5 $; cuối cùng giả định trong quá trình sản xuất sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết.

 Với giả định như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 6 giờ, thì nhà tư bản phải ứng ra là 15 $ và giá trị của sản phẩm mới (10 kg sơi) mà nhà tư bản thu được cũng là 15 $. Như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm đủ bù đắp lạo giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động tất yếu, thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư bản.

Song trên thực tế, việc sử dụng sức lao động trong ngày đó là thuộc quyền của nhà tư bản.

Nếu nhà tư bản bắt công nhân lao động 12 giờ trong ngày như đã thoả thuận thì:

Chí phí sản xuất Giá trị sản phẩm mới (20 kg sơi)

- Tiền mua bông (20 kg): 20 $

- Tiền hao mòn máy móc: 4 $

- Tiền mua sức lao động trong 1 1 ngày: 3 $

- Giá trị của bông được chuyển vào sợi: 20kg

- Giá trị của máy móc được chuyển vào sơi: 4 4$

- Giá trị mới do lao động của công nhân tạo

ra trong 12 giờ lao đông: 6 $

Tổng cộng: 27 $ Tổng cộng: 30 $

Như vậy, toàn bộ chi phí sản xuấta mà nhà tư bản bỏ ra là 27 $, còn giá trị của sản phẩm moíư (20 kg sơi) do công nhân sãn xuất ra trong 12 giờ lao động là 30 $. Vậy 27 $ ứng trước đã chuyển hoá thành 30 $, đã đem lại một giá trị thặng dư là 3 $. Do đó tiền tệ ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản.

 Kết luận:

+ Một là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (20 kg sợi), chúng ta thấy có hai thành phần: Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao dộng cụ thể của công nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ (trong ví dụ là 24 $). Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất ra giá trị mới (trong ví dụ là 6 $). Phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.

Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao đông do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới.

+ Hai là, ngày lao động của công nhân bao giờ cũng được chia thành hai phần: phần ngày lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động cần thiết. Phần còn lại của ngày lao động gọi là thời gian thặng dư, và lao động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động thặng dư.

+ Ba là, sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta nhận thấy mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản đã được giải quyết: Việc chuyển hóa của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hóa đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hoá đặc biệt đó trong sản xuât, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới chuyển thành tư bản.

2. Bản chất của tư bản. Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến

a) Bản chất của tư bản

Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê

 Bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.

b) Tư bản bất biến và tư bản khả biến

* Tư bản bất biến: Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn và chuyển vào sản phẩm, tức là không thay đổi về lượng giá trị của nó, được C. Mác gọi là tư bản bất biến, ký hiệu là C.

* Tư bản khả biến: Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng, được C. Mác gọi là tư bản khả biến, ký hiệu là V.

 Tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiều được để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.

3. Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư

a) Tỷ suất giá trị thặng dư

Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.

Nếu ký hiệu m' là tỷ suất giá trị thặng dư, thì m' được xác định theo công thức:

hoặc theo công thức:

b) Khối lượng giá trị thặng dư

- Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến đã được sử dụng.

Nếu ký hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư, thì M được xác định bằng công thức:

M = m' x V

Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng, vì trình đọ bóc lột sức lao động càng tăng.

4. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và giá trị thặng dư siêu ngạch

a) Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

- Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.

Ví dụ: Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau:

thời gian lao động tất yếu thời gian lao động thặng dư

Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không thay đổi, vẫn là 4 giờ. Khi đó ngày lao động được chia như sau:

thời gian lao động tất yếu thời gian lao động thặng dư

Do đó tỷ suất giá trị thặng dư là:

Như vậy khi kéo dài thời gian tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gain lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên năng suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây tỷ suất giá trị thặng dư là 100%, nay là 150%.

- Sản xuất giá trị thặng dư tương đối

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường đon lao động vẫn như cũ.

Ví dụ: Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó được biểu diễn như sau:

thời gian lao động tất yếu thời gian lao động thặng dư

Do đó tỷ suất giá trị thặng dư là:

Giả định rằng ngày lao động không đổi nhưng bây giờ công nhân chỉ cần làm 3 giờ lao động đã tạo ra được một lượng giá trị mới bằng với sức lao động của mình. Do đó tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó được biểu diễn như sau:

thời gian lao động tất yếu thời gian lao động thặng dư

Do đó bây giờ giá trị tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:

Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.

 Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động

Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân  Phải tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân hay tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.

=> Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Giai đoạn đầu sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, nhưng đến giai đoạn sau, khi kỹ thuật phát triển thì sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu.

b) Giá trị thặg dư siêu ngạch

Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó.

 Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng  Đó là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối

+ Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.

+ Giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được  biểu hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Còn giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được  biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê mà trực tiếp biểu hiện sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản.

Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động giảm giá trị hàng hoá.

5. Sản xuất giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản

Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo C. Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

+ Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên.

+ Phương tiện, thủ đoạn để đạt được mục đích là: tăng cường bóc lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.

 Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản.

Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định nhưng về bản chất bóc lột thì không thay đổi. Trong điều kiện ngày nay, sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới:

+ Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối lượng thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động  chi phí lao động sống tring một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại thay thế được nhiều lao động sống hơn.

+ Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi lớn: lao động trí tuệ tăng lên và thay thế cho lao đọng giản đơn, lao động cơ bắp.

+ Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng được mở rộng dười nhiều hình thức khác nhau: xuất khẩu tư bản và hàng hóa, trao đổi khong ngang giá...lợi nhuận siêu ngạch,... các nước tư bản phát triển đã bòn rút chất xám, hủy hoại môi sinh, cũng như cội rễ đời sống văn hóa của các nước lạc hậu, chậm phát triển.

' III. TIỂN CÔNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

1) Bản chất kinh tế của tiền công

Công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nhất định, sản xuất ra một lượng hàng hoá hay hoàn thành một số công việc nào đó thì nhà tư bản trả cho công nhân một số tiền nhất định gọi là tiền công

 Hiện tượng đó làm cho người ta nhầm tưởng rằng tiền công là giá cả của lao động. Sự thật thì tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động, vì lao động không phải là hàng hoá. Sở dĩ như vậy là vì:

- Nếu lao động là hàng hoá, thì nó phải có trước, phải được vật hoá trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để cho lao động vật hoá được là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất, thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất ra, chứ không bán "lao động".

- Việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về lý luận sau đây:

+ Thứ nhất, nếu lao động là hàng hoá và nó được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bản không thu được lợi nhuận (giá trị thặng dư); điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.

+ Thư hai, còn nếu "hàng hoá lao động" được trao đổi không ngang giá để có giá thặng dư cho nhà tư bản, thì phải phủ nhận quy luật giá trị.

- Nếu lao động là hàng hoá, thì hàng hóa đó cũng phải có giá trị. Nhưng lao động là thực thẻ và là thước đo nội tại của giá trị, nhưng bản thân lao động thì không có giá trị. Vì thế, lao động không phải là hàng hoá, cái mà công nhân bán cho nhà tư bản chính là sức lao động. Do đó tiền công mà nhà tư bản phải trả cho công nhân là giá cả của sức lao động.

Vậy bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động, hay còn được gọi là giá cả của hàng hóa sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài thành giá cả của lao động.

 Hình thức biểu hiện đó đã gây ra sự nhầm lẫn. Điều đó là do những thực tế sau đây:

+ Thứ nhất, đặc điểm của hàng hoá sức lao động là không bao giờ tách rời khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, tức là lao động cho nhà tư bản, do đó bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị cho lao động.

+ Thứ hai, đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có tiền sinh sống, do đó bản thân công nhân cũng tưởng rằng mình bán lao động. Còn đối với nhà tư bản bỏ tiền ra là để có lao động, nên cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao động.

+ Thứ ba, lượng của tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số lượng sản phẩm sản xuất ra, điều đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả lao động.

 Tiền công đã che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao động không được trả công, do đó tiền công che đậy mất bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

2) Hai hình thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản:

Tiền công có hai hình thức cơ bản là tiền công tính theo thời gian và tiền công tính theo sản phẩm.

- Tiền công tính theo thời gian, là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều tuỳ theo thời gian lao động của công nhân (giờ, ngày, tháng) dài hay ngắn.

 Muốn đánh giá chính xác mức tiền công không chỉ căn cứ vào tiền công ngày, mà phải căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động --> giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian.

- Tiền công tính theo sản phẩm, là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc là số lượng công việc đã hoàn thành.

Mỗi sản phẩm được trả theo đơn giá nhất định, đơn giá tiền công là tiền công trả cho thời gian lao động cần thiết sản xuất ra một sản phẩm. Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuyển hoá của tiền công tính theo thời gian.

 Thực hiện tiền công tính theo sản phẩm, giúp:

• Giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý, giám sát quá trình lao động của công nhân được dễ dàng hơn

• Giúp kích thích công nhân lao động tích cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được tiền công cao hơn.

3) Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế

- Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản.

 Tiền công được sử dụng để tái sản xuất sức lao động nên tiền công danh nghĩa phải được chuyển hoá thành tiền công thực tế.

- Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.

 Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, nên có thể tăng lên hay giảm xuống tuỳ theo sự biến động của quan hệ cung - cầu về hàng hoá sức lao động trên thị trường

 Tiền công là giá cả của sức lao động, nên sự vận dộng của nó gắn liền với sự biến đổi của giá trị sức lao động.

Lượng giá trị sức lao động chịu ảnh hưởng của các nhân tố tác động ngược chiều nhau:

• Nhân tố làm tăng giá trị sức lao động như: sự nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động, sự tăng cường độ lao động và sự tăng lên của nhu cầu cùng với sự phát triển của xã hội.

• Nhân tố làm giảm giá trị sức lao động, đó là sự tăng năng suất lao động làm cho giá cả tư liệu tiêu dùng rẻ đi.

Tuy nhiên, C.Mác đã vạch ra xu hướng của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là nâng cao mức tiền công trung bình mà là hạ thấp mức tiền công ấy.

IV. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ THÀNH TƯ BẢN - TÍCH LŨY TƯ BẢN

1. Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản

* Nét điển hình của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự lặp đi lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn trước, với một tư bản lớn hơn trước.

- Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay sự chuyển hóa giá trị thặng dư trở lạo thành tư bản gọi là sự tích lũy tư bản. Như vậy, thực chất của sự tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư trở lại thành tư bản, hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư.

 Kết luận:

+ Thứ nhất, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư và tư bản tích lũy chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản.

+ Thư hai, quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa.

 Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của nhà chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư.

* Quy mô tích lũy tư bản không ngừng tăng lên những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản được chia làm hai trường hợp:

+ Một là, trường hợp khối lượng giá trị thặng dư không đổi thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành 2 quỹ: quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản

+ Hai là, nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Trong trường hợp này, khối lượng giá trị thặng dư bị phụ thuộc vào những nhân tố sau:

- Trình độ bóc bột sức lao động bằng những biện pháp: tăng cường đọ lao động, kéo dài ngày lao động, cắt giảm tiền lương của công nhân.

- Trình độ năng suất lao động xã hội: năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên làm tăng quy mô của tích lũy/.

- Sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng

Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của chúng lại chỉ bị khấu hao từng phần sự hoạt động này của máy móc được xem như là sự phục vụ không công tư bản lợi dụng những thành tựu đó  quy mô của tích lũy tư bản càng lớn.

- Quy mô của tư bản ứng trước

Với trình độ bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết đinh. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột càng được lớn, do đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích lũy tư bản.

2. Tích tụ tư bản và tập trung tư bản

Trong quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản.

- Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư trong một xí nghiệp nào đó, nó là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản. Tích lũy tư bản xét về mặt làm tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt là tích tụ tư bản.

- Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn.

Tích tụ và tập trung tư bản có điểm giống nhau là chúng đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt. Nhưng giữa chúng lại có những điểm khác nhau:

+ Một là, nguồn gốc để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, do đó tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, đồng thời làm tăng quy mô của tư bản xã hội. Còn nguồn gốc để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội, do đó tập trung tư bản chỉ là tăng quy mô của tư bản cá biệt, mà không làm tăng quy mô của tư bản xã hội.

+ Hai là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, xét về mặt đó, nó phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa tư bản và lao động: nhà tư bản tăng cường bóc lột lao động làm thuê để tăng quy mô của tích tụ tư bản. Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội do cạnh tranh mà dẫn đến sự liên kết hay sáp nhập, xét về mặt đó, nó phản ánh trực tiếp quan hệ cạnh tranh trong nội bộ giai cấp các nhà tư bản; đồng thời nó cũng có tác động đến mối quan hệ giữa tư bản và lao động.

Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ với nhau và tác động thúc đẩy nhau. Tích tụ làm tăng quy mô tư bản cá biệt khiến cho cạnh tranh gay gắt hơn, dẫn đến sự tập trung tư bản. Tập trung tư bản tạo ra điều kiện để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư và đẩy mạnh tích tụ tư bản.

3. Cấu tạo hữu cơ của tư bản

Trong quá trình tích lũy tư bản, tư bản chẳng những tăng lên về quy mặt quy mô, mà còn không ngừng biến đổi trong cấu tạo của nó. C. Mác phân biệt cấu tạo kỹ thuật, cấu tạo giá trị, va cấu tạo hữu cơ của tư bản.

- Về mặt hình thái hiện vật, mỗi tư bản đều bao gồm tư liệu sản xuất và sức lao động để vận dụng những tư liệu sản xuất đó. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó trong quá trình sản xuất gọi là cấu taọ kỹ thuật của tư bản.

- Cấu tạo về mặt giá trị, mỗi tư bản đều chia làm hai phần: tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản bất biến và số lượng giá trị của tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất gọi là cấu tạo giá trị của tư bản.

Ví dụ: một tư bản mà đại lượng của nó là 12.000$, trong đó giá trị của tư liệu sản xuất là 10.000$, còn giá trị sức lao động là 2.000$, thì cấu tạo giá trị của tư bản đó là 10.000$ : 2.000$ = 5 : 1.

- Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật của tư bản quyết định và phản ánh những sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.

Cấu tạo hữu cơ của tư bản thay đổi tùy theo mức độ phát triển của lực lượng sản xuất.

IV. QUÁ TRÌNH LƯU THÔNG CỦA TƯ BẢN VÀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ

1. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản

a) Tuần hoàn của tư bản

Tư bản công nghiệp (với nghĩa các ngành sản xuất vật chất) trong quá trình tuần hoàn đều vận động theo công thức:

T - H SLĐ

...SX...H' - T'

TLSX

Sự vận động này trải qua ba giai đoan: hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất.

- Giai đoạn thứ nhất - giai đoạn lưu thông

+ Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường các yếu tố sản xuất để mua tư liệu sản xuất và sức lao động.

+ Quá trình lưu thông đó được biểu thị như sau:

T - H SLĐ

TLSX

+ Giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ, chức năng giai đoạn này là mua các yếu tố cho quá trình sản xuất, tức là biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất.

- Giai đoạn thứ hai - giai đoạn sản xuất:

H TLSX .....SX....H'

SLĐ

+ Trong giai đoạn này, tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất (TBSX), có chức năng thực hiện sự kết hợp hai yếu tố TLSX và SLĐ để sản xuất ra hàng hóa mà trong giá trị của nó có giá trị thặng dư.

+ Giai đoạn này có ý nghĩa quyết định nhất, nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất TBCN.

- Giai đoạn thứ ba - giai đoạn lưu thông:

+ Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa, chức năng là thực hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất ra.

+ Trong giai đoạn nay, nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng. Hàng hóa của nhà tư bản được chuyển hóa thành tiền.

Tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả ba giai đoạn ta có công thức sau:

SLĐ

T - H .....SX....H' - T'

TLSX

Vậy, tuần hoàn tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức năng khác nhau để rồi lại quay trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.

Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành một cách bình thường khi hai điều kiện sau đây được thỏa mãn: 1) các giai đoạn của chúng đều diễn ra liên tục ; 2) các hình thái tư bản cùng tồn tại và được chuyên hóa một cách đều đặn.

 Phù hợp với ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản có ba hình thái của tư bản công nghiêp: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa.

b) Chu chuyển của tư bản

* Chu chuyển của tư bản :

Sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới và thường xuyên lặp đi lặp lại, thì gọi là chu chuyển của tư bản.

- Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông :

+ Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm ở trong lĩnh vực sản xuất.

Thời gian sản xuất bao gồm: thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất.

Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của nhiều nhân tố như: tính chất của ngành sản xuất, quy mô hoặc chất lượng các sản phẩm, sự tác động của quá trình tự nhiên đối với sản xuất, năng suất lao động và tình trạng dự trữ các yếu tố sản xuất.

+ Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông.

Thời gian lưu thông gồm: thời gian mua và thời gian bán hàng hóa

Thời gian lưu thông dài hay ngắn phụ thuộc vào các nhân tố: thị trường xa hay gần, tình hình thị trường xấu hay tốt, trình độ phát triển của vận tải và giao thông.

* Tốc độ chu chuyển của tư bản là số vòng (lần) chu chuyển của tư bản trong một năm. Ta có công thức số vòng chu chuyển của tư bản như sau:

n = CH / ch

Trong đó: n là số vòng (hay số lần) chu chuyển của tư bản ; CH là thời gian trong một năm ; ch là thời gian cho một vòn chu chuyển của tư bản.

Ví dụ: một tư bản có thời gian 1 vòng chu chuyển là 6 tháng thì tốc độ chu chuyển trong năm là:

n = 12 tháng / 6 tháng = 2 vòng

tốc độ chu chuyển của tư bản tỉ lệ nghịch với thời gian 1 vòng chu chuyển của tư bản  muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và thời gain lưu thông của nó.

c) Tư bản cố định và tư bản lưu động

* Tư bản cố định: là bộ phận chủ yếu của tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng... tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất.

Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và nó bị hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Có hai loại hao mòn:

- Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể nhận thấy. Hao mòn hữu hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định dần hao mòn đi tới chõ hỏng và phải được thay thế.

- Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị. Hao mòn vô hình xảy ra ngay cả khi máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương nhưng công suất cao hơn

 để tránh hao mòn vô hình, các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc...nhằm tận dụng máy móc trong thời gian càng ngắn càng tốt.

Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trong để tăng quỹ khấu hao tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên tránh được thiệt hai hao mòn hữu hình do tự nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó mà có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh.

* Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động...giá trị của nó được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi một quá trình sản xuất, khi hàng hóa được bán xong.

- Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định,

- Tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm  tiết kiệm được tư bản ứng trước, làm cho tỷ suất giá trị thặng dư trong năm tăng lên.

2. Tái sản xuất và lưu thông của tư bản xã hội

a) Một số khái niệm cơ bản của tái sản xuất tư bản xã hội

* Tổng sản phẩm xã hội: là toàn bộ sản phẩm mà xã hội sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Tổng sản phẩm xã hội được xét cả về mặt giá trị và hiện vật.

- Về mặt giá trị, tổng sản phẩm xã hội được cấu thành bởi 3 bộ phận:

+ Phần thứ nhất là giá trị bù đắp cho tư bản bất biến (C) hay những giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong sản xuất.

+ Phần thứ hai là giá trị bù đắp cho tư bản khả biến (V) hay là giá trị của toàn bộ sức lao động xã hội đã tiêu hao.

+ Phần thứ ba là giá trị của sản phẩm thặng dư (m). Khoản giá trị này do lao động thặng dư của xã hội tạo lên.

 Giá trị của tổng sản phẩm xã hội: c + v + m

- Về mặt hiện vật, tổng sản phẩm xã hội gồm có tư liệu sản xuất và tư liệu sản phẩm di hình thức tự nhiên của nó quyết định (ví dụ như sắt, thép...chỉ có thể dùng vào cho sản xuất, bánh mì chỉ dùng để ăn..).

* Hai khu vực của nền sản xuất xã hội

Tổng sản phẩm xã hội về mặt hiện vật được C.Mác phân chia thành hai loại là tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng  do đó nền sản xuất xã hội được chia thành hai khu vực :

- Khu vực I: Sản xuất tư liệu sản xuất.

- Khu vực II: Sản xuất tư liệu tiêu dùng.

 Trên thực tế thì ranh giới giữa khu vực I và khu vực II không phải lúc nào cũng rõ ràng.

* Tư bản xã hội

Tư bản xã hội là tổng hợp các tư bản cá biệt của xã hội vận động đan xen nhau, liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Tham gia vận động của tư bản xã hội có cả tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp, tư bản ngân hàng...

* Những giả định của C. Mác khi nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội

- Toàn bộ nền kinh tế trong nước là nền kinh tế TBCN thuần túy, nghĩa là mối quan hệ kinh tế trong xã hội chỉ bao gồm có mối quan hệ giữa nhà tư bản và công nhân.

- Hàng hóa luôn được mua và bán theo đúng giá trị, giá cả phù hợp với giá trị.

- Cấu tạo hưu cơ tư bản không đổi

- Toàn bộ tư bản cố định đều chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm trong một năm.

- Không xét đến ngoại thương.

b) Điều kiện thực hiện trong tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tư bản xã hội

- Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất giản đơn

Trong tái sản xuất giản đơn, toàn bộ giá trị thặng dư được sử dụng hết cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản. Vì vậy, để nghiên cứu điều kiện thực hiện tổng sản phẩm xã hội, quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng trong tái sản xuất giản đơn, C. Mác đã đưa ra mô hình:

+ Khu vực I: 4000c + 1000v + 1000m = 6000 (tư liệu sản xuất).

+ Khu vực II: 2000c + 500v + 500m = 3000 (tư liệu tiêu dùng).

Tổng sản phẩm xã hội là 9000.

 Điều kiện cơ bản để thực hiện trong tái sản xuất giản đơn tư bản xã hội sẽ là:

I (v + m) = II c

- Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất mở rộng

+ Muốn có tái sản xuất mở rộng phải biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản bất biến phụ thêm (c) và tư bản khả biến phụ thêm (v), nhưng các bộ phận giá trị phụ thêm đó phải tìm được nguồn cung về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng phụ thêm dưới hình thái vật chất tương ứng với nhu cầu của nó.

+ Do việc cung cấp tăng thêm về số lượng tư liệu sản xuất có vai trò quyết định nhất đối với tái sản xuất mở rộng, nên C. Mác đã đưa ra mô hình của tái sản xuất mở rộng đối với tư bản xã hội như sau:

Khu vực I: 4000c + 1000v + 1000m = 6000 (tư liệu sản xuất).

Khu vực II: 1500c + 750v + 750m = 3000(tư liệu tiêu dùng).

Điều kiện cơ bản để thực hiện trong tái sản xuất mở rộng tư bản xã hội là:

I (v + m) > IIc

c) Sự phát triển của V. I. Lênin đối với lý luận sản xuất tư bản xã hội của C. Mác

V.I. Lênin đã áp dụng lý luận của C. Mác về tái sản xuất tư bản xã hội để nghiên cứu sự hình thành thị trường tư bản chủ nghĩa.

 kết luận: « Sản xuất tư liệu sản xuất để tạo ra tư liệu sản xuất nhanh nhất, sau đến sản xuất tư liệu sản xuất để tạo ra tư liệu tiêu dùng; và cuối cùng chậm nhất là sự phát triển của sản xuất tư liệu tiêu dùng ».

3. Khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản

a) Bản chất và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản

Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của LLSX với chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về TLSX chủ yếu của xã hội. Mâu thuẫn này biểu hiện ra thành các mâu thuẫn sau:

- Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội.

- Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn của tư bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hóa.

- Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp lao động làm thuê.

 Cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên nổ ra vào năm 1825 ở nước Anh và cuộc khủng hoảng đầu tiên diễn ra trên quy mô thế giới nổ ra vào năm 1847.

c) Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản

- Chu kỳ kinh tế của CNTB là khoảng thời gian nền kinh tế TBCN vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau.

- Chu kỳ kinh tế gồm bốn giai đoạn:

+ Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới, ở giai đoạn này, hàng hóa ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Tư bản mất khả năng thanh toán các khoản nợ, phá sản, LLSX bị phá hoại nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.

+ Tiêu điều: đặc điểm ở giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ, không còn tiếp tục đi xuốn nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hóa được đem bán hạ giá... để thoát khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư bản còn trụ lại được tìm cách giảm chi phí bằng cách hạ thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân...tạo điều kiện cho sự phục hồi chung của nền kinh tế.

+ Phục hồi: là giai đoạn mà các xí nghiệp khôi phục và mở rộng sản xuất. Công nhân lại được thu hút vào việc làm; mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật giá tăng lên, lợi nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.

+ Hưng thịnh: là giai đoan sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu kỳ trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí nghiệp được mở rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó, lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mời.

V. CÁC HÌNH THÁI TƯ BẢN VÀ CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

1. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận

a) Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa

Muốn tạo ra giá trị hàng hóa, tất yếu phải chi phí một số lao động nhất định, gọi là chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ và lao động hiện tại. Lao động quá khứ (lao động vật hóa), tức là giá trị của tư liệu sản xuất (c), lao động hiện tại (lao động sống) tức là lao động tạo ra giá trị mới ( v + m).

Chi phí lao động đó là chi phí thực tế của xã hội, tạo ra giá trị hàng hóa(W).

Công thức: W = c + v + m

Về mặt lượng : Chi phí thực tế = giá trị hàng hóa

* Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hóa. Ký hiệu là k :

k = c + v (trong đó c là TLSX, v là sức lao động)

- Khi xuất hiện chi phí sản xuất TBCN, thì công thức giá trị hàng hóa (W = c + v + m ) sẽ chuyển thành W = k + m

- Giữa chi phí thực tế và chi phí sản xuất TBCN có sự khác nhau về cả mặt lượng và chất

+ Về mặt lượng: chi phí sản xuất TBCN luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế:

(c + v) < (c + v + m)

+ Về mặt chất: chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đúng, đầy đủ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tạo ra giá trị hàng hóa, còn chi phí sản xuất TBCN (k) chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư bản mà thôi, nó không tạo ra giá trị hàng hóa.

 Sự xuất hiện phạm trù chi phí sản xuất TBCN che dấu nguồn gốc bóc lột của CNTB  toàn bộ chi phí sản xuất TBCN sinh ra giá trị thặng dư.

b) Lợi nhuận

- Giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuât TBCN luôn luôn có khoảng chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hóa (giả định giá cả = giá trị), nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra, mà còn thu về được một số tiền lời ngang bằng với m. Số tiền này được gọi là lợi nhuận, ký hiệu là: p

- Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hóa là lợi nhuận.

Nếu ký hiệu lợi nhuận là p thì công thức:

W = c + v + m = k + m, bây giờ sẽ chuyển thành: W = k + p

 Vậy giữa p và m có gì giống và khác nhau?

Giống nhau: cả lợi nhuận (p) và giá trị thặng dư (m) đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân.

Khác nhau:

+ Về mặt lượng: giữa lợi nhuận (p) và giá trị thặng dư (m) thường không bằng nhau, lợi nhuận có thể cao hơn, thấp hơn hoặc ngang bằng với giá trị thặng dư, điều này phụ thuộc vào giá bán hàng hóa do quan hệ cung cầu quy định.

+ Về mặt chất: thực chất lợi nhuận và giá trị thặng dư đều là một, lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư.

Phạm trù giá trị thặng dư phản ánh đúng nguồn gốc và bản chất của nó là kết quả của sự chiếm đoạt lao động không công của công nhân.

Phạm trù lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư.

c) Tỷ suất lợi nhuận

- Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.

- Nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p' ta có:

- Lợi nhuận là hình thức chuyển hóa của giá trị thặng dư, nên tỷ suất lợi nhuận cũng là sự chuyển hóa của tỷ suất giá trị thặng dư, vì vậy giữa m' và p' có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đồng thời có sự khác nhau cả về chất và lượng:

+ Về mặt lượng: p' luôn luôn nhỏ hơn m' vì:

, còn +Về mặt chất: m' phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê, còn p' không thể phản ánh được điều đó, mà chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản.

d) Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận

- Tỷ suất giá trị thặng dư: tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn và ngược lại.

- Cấu tạo hữu cơ của tư bản: trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi, nếu cấu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.

- Tốc độ chu chuyển của tư bản: nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn, thì tần suất sản sinh ra giá trị thặng dư trong năm của tư bản ứng trước càng nhiều lần, giá trị thặng dư theo đó mà tăng lên làm cho tỷ suất lợi nhuận cũng càng tăng.

- Tiết kiệm tư bản bất biến: trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến không đổi, nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn.

Vì theo công thức:

Rõ ràng khi m thay đổi và v không đổi, nếu c càng nhỏ thì p' càng lớn.

2. Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất

a) Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường

* Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh trnah giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.

- Biện pháp cạnh tranh: các nhà tư bản thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa đó để thu được lợi nhuận siêu ngạch.

- Kết quả: hình thành lên giá trị xã hội (giá trị thị trường) của từng loại hàng hóa. Điều kiện sản xuât trung bình trong một ngành thay đổi do kỹ thuật sản xuất phát triển, năng suât lao động tăng lên, giá trị xã hội của hàng hóa đó giảm xuống.

b) Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành lợi nhuận bình quân

* Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn, tức là, nơi nào có tỷ suất lợi nhuận cao hơn.

- Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, tức là phân phối tư bản (c và v) vào các ngành sản xuất khác nhau.

- Kết quả: hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất.

Ví dụ:

Ngành sản xuất Chi phí sản xuất m'(%) Khối lượng (m) P'

Cơ khí 80 c + 20 v 100 20 20

Dệt 70 c + 30 v 100 30 30

Da 60 c + 40 v 100 40 40

 trong ví dụ trên cùng một lượng tư bản đầu tư nhưng do cấu tạo hữu cơ khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.

* Sự tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi cả tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của ngành. Sự tự do di chuyển tư bản này chỉ tạm thời dừng lại khi tỷ suất lợi nhuận ở tất cả các ngành đều xấp xỉ bằng nhau  kết quả là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.

* Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị thặng dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu là ( )

Nếu ký hiệu là ( ) là tỷ suất lợi nhận bình quân thì:

( ) =

Theo thí dụ trên thì: ( )

* Lợi nhuận bình quân là lượng lợi nhuận bằng nhau của những tư bản bằng nhau, đầu tư vào những ngành khác nhau, bất kể cấu tạo hữu cơ của tư bản như thế nào. Ký hiệu là

= x k

Theo ví dụ trên thì lợi nhuận bình quân của cả 3 ngành đều tính được như sau:

= 30% x 100 = 30

4. Sự chuyển hoá của giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất

- Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân.

Giá cả sản xuất = k +

- Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất gồm có: đại công nghiệp, cơ khí TBCN phát triển; sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất, quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác.

 giá cả hàng hoá xoay quanh giá cả sản xuất.

 xét về mặt lượng, tổng giá cả sản xuất luôn bằng tổng giá trị hàng hoá: trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong giá cả sản xuất; giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.

- Quá trình hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất có thể tóm tắt ở bảng sau đó:

Ngành

sản xuất Tư bản bất biến Tư bản khả biến m với m' = 100% Giá trị hàng hoá (%)

Giá cả

sản xuất của hàng hoá Chênh lệch giữa giá cả sản xuất và giá trị

Cơ khí 80 20 20 120 30 130 + 10

Dệt 70 30 30 130 30 130 0

Da 60 40 40 140 30 130 - 10

Tổng số 210 90 90 390 90 390 0

 Trong giai đoạn cạnh tranh tự do của CNTB, khi giá trị thặng dư chuyển hoá thành lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng hoá chuyển hóa thành giá cả sản xuất và quy luật giá trị cũng biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất.

3. Sử phân chia giá trị thặng dư giữa các tập đoạn tư bản

a) Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thượng nghiêp

- Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản?

+ Trong CNTB, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra và phục vụ quá trình lưu thông hàng hóa của tư bản công nghiệp.

+ Công thức: T - H - T'

 hàng hoá được chuyển chỗ 2 lần: 1) từ tay nhà tư bản công nghiệp sang tay nhà tư bản thương nghiệp; 2) từ tay nhà tư bản thương nghiệp sang tay người tiêu dùng  tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông và không bao giờ mang hình thái là tư bản sản xuất cả.

- Lợi nhuận thương nghiệp?

+ Lợi nhuận thương nghiệp là một phần của giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhượng lại cho nhà tư bản thương nghiệp, để nhà tư bản thương nghiệp bán hàng cho mình.

Ví dụ: Một nhà tư bản công nghiệp có một lượng tư bản ứng trước là 900, trong đó phân chia thành 720 c + 180 v. Giả định m' = 100% thì giá trị hàng hoá sẽ là:

720 c + 180 v + 180 m = 1080

Tỷ suất lợi nhuận công nghiệp là: p'CN = = 20%

 Nhà tư bản thương nghiệp tham gia vào kinh doanh, giả sử họ ứng ra 100 tư bản để kinh doanh. Như vậy, tổng tư bản ứng ra của cả 2 nhà tư bản công nghiệp và thương nghiệp sẽ là: 900 + 100 = 1000, và tỷ suất lợi

=

 theo tỷ suất lợi nhuận chung này thì nhà tư bản công nghiệp chỉ thu được lợi nhuận bằng 10% của tư bản ứng ra trước (tức là bằng 10% của 900, bằng 162) và nhà tư bản công nghiệp sẽ bán hàng hóa cho nhà tư bản thương nghiệp theo giá: 900 + 162 = 1062

 Còn nhà tư bản thương nghiệp sẽ bán hàng hóa cho người tiêu dùng theo giá bằng giá trị hàng hóa đó, tức là 1080

 Chênh lệch giữa giá bán và giá mua của nhà tư bản thương nghiệp chính là lợi nhuận thương nghiệp. Trong ví dụ này, lợi nhuận thương nghiệp sẽ là: P thương nghiêp = 1080-1062 = 18

 khoản lợi nhuận thương nghiệp 18 này cũng tương ứng với tỷ suất 18% của tư bản thương nghiệp ứng trước.

b) Tư bản cho vay và lợi tức cho vay

* Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản?

+ Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ của nó cho người khác sử dụng trong một thời gian nhằm nhận được số tiền lời nhất định. Số tiền lời đó được gọi là lợi tức. Ký hiệu là (z)

+ Đặc điểm: đối với tư bản cho vay thì quyền sử dụng tư bản tách rời quyền sở hữu tư bản; tư bản cho vay là hàng hóa đặc biệt.

+ Công thức: T - T', trong đó T' = T + z

* Lợi tức và tỷ suất lợi tức

- Lợi tức: (z) chính là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào lượng tư bản tiền tệ mà nhà tư bản cho vay đã bỏ ra cho nhà tư bản đi vay sử dụng.

+ Nguồn gốc của lợi tức cũng chính là từ giá trị thặng dư do công nhân làm thuê sáng tạo ra từ trong lĩnh vực sản xuất  tư bản cho vay cũng gián tiếp bóc lột công nhân làm thuê thông qua nhà tư bản đi vay.

+ Vì là một phần của lợi nhuận bình quân, nên thông thường, giới hạn của lợi tức phải ở trong khoảng: 0 < z <

- Tỷ suất lợi tức: là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay (thường tính theo tháng, quý, năm...).

+ ký hiệu tỷ suất lợi tức là z' , ta có:

+ Từ giới hạn của lợi tức, giới hạn của tỷ suất lợi tức cũng phải ở trong khoảng: 0 < z' <

+ tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào các nhân tố sau đây:

• Một là, tỷ suất lợi nhuận bình quân.

• Hai là, tỷ lệ phân chia lợi nhuận bình quân thành lợi tức và lợi nhuận của nhà tư bản hoạt động.

• Ba là, quan hệ cung cầu về tư bản cho vay.

c) Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa. Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng

* Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa

- Tín dụng tư bản chủ nghĩa là hình thức vận động của tư bản cho vay

- Hai hình thức tín dụng cơ bản:

+ Tín dụng thương nghiệp: là hình thức tín dụng giữa các nhà tư bản trực tiếp hình kinh doanh, mua bán chịu hàng hóa với nhau.

+ Tín dụng ngân hàng: là quan hệ vay mượn thông qua ngân hàng làm môi giới. Đây là hình thức tín dụng giữa ngân hàng với các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh và các tầng lớp dân cư khác trong xã hội.

* Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng

- Ngân hàng tư bản chủ nghĩa là tổ chức kinh doanh tư bản tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay.

+ Ngân hàng có 2 nghiệp vụ: nhận gửi và cho vay

+ Trong nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng trả lợi tức cho người gửi tiền; còn ngân hàng trong nghiệp vụ cho vay, ngân hàng thu lợi tức của người đi vay. Về nguyên tắc lợi tức cho vay phải cao hơn lợi tức nhận gửi.

- Lợi nhuận ngân hàng: là sự chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi trừ đi những chi phí về nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng cộng với các thu nhập khác về kinh doanh tư bản tiền tệ.

+ Lợi nhuận ngân hàng ngang bằng với lợi nhuận bình quân

 nhờ có ngân hàng mà các nhà tư bản có điều kiện mở rộng sản xuất nhanh chóng hơn, có điều kiện tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác,...

* Phân biệt tư bản ngân hàng với tư bản cho vay:

- Tư bản cho vay là tư bản tiềm thế, tư bản tài sản, là tư bản không hoạt động  không tham gia vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Lợi tức - thu nhập của tư bản cho vay chỉ là một phần của lợi nhuận bình quân.

- Tư bản ngân hàng là tư bản chức năng, tư bản hoạt động nên tư bản ngân hàng cũng có tham gia vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Trong tự do cạnh tranh, lợi nhuận ngân hàng cũng ngàng bằng với lợi nhuận bình quân.

d) Công ty cổ phần. Tư bản giả và thị trường chứng khoán

* Công ty cổ phần:

- Công ty cổ phần là một loại hình xí nghiệp lớn mà vốn của nó được hình thành từ sự đóng góp của nhiều người thông qua việc phát hành cổ phiếu.

+ Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá do công ty cổ phần phát hành ghi nhận quyền sở hữu cổ phần của người mua cổ phiếu (được gọi là cổ đông), đồng thời còn đảm bảo cho cổ đông có quyền được lĩnh một phần thu nhập của công ty (cổ tức) căn cứ vào giá trị cổ phần và tình hình sản xuất kinh doanh của công ty.

+ Cổ phiếu được mua, bán trên thị trường chứng khoán theo giá cổ phiếu.

+ Giá trị cổ phiếu phụ thuộc vào 2 nhân tố:

• Một là, mức cổ tức mà cổ phiếu mang lại. Mức cổ tức càng cao thì giá cổ phiếu càng lớn và ngược lại.

• Hai là, tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hầng. Tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng càng cao thì giá cổ phiếu càng thấp và ngược lại.

* Tư bản giả

- Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức các chứng khoán có giá và mang lại thu nhập cho nguời sỏ hữu các chứng khoán đó.

+ Có 2 loại chứng khoán phổ biến là: cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành và trái phiếu.

+ Trái phiếu cũng có 2 loại:

• Loại do các doanh nghiệp phát hành, gọi là trái phiếu công ty hay trái phiếu doanh nghiệp với tư cách là những chứng khoán có giá trị chứng nhận khoản tiền vay nợ của doanh nghiệp đối với người mua trái phiếu. Nguời mua trái phiếu không phải là cổ đông  hết thời hạn sở hữu trái phiếu, họ có quyền được hoàn trả lại số tiền đã mua trái phiếu theo mệnh giá kèm theo khoản lợi tức gọi là lợi tức trái phiếu.

• Loại do chính phủ hay nhà nước phát hành gọi là trái phiếu chính phủ. Công trái về bản chất cũng là một loại trái phiếu chính phủ

 Về cơ bản, trái phiếu chính phủ cũng giống trái phiếu doanh nghiệp. Sự khác nhau tập trung ở chỗ: chủ nợ của trái phiếu doanh nghiệp là doanh nghiêp, còn chủ nợ của trái phiếu chính phủ (hay công trái) chính là nhà nước.

+ Tư bản giả có những đặc điểm sau:

• Một là, có thể mang lại thu nhập cho người sở hữu nó.

• Hai là, có thể mua bán được.

• Ba là, vì là tư bản giả nên sự tăng hay giảm giá mua bán của nó trên thị trường không cần sự thay đổi tương đương của tư bản thật.

* Thị trường chứng khoán

- Thị trường chứng khoán là nơi mua bán các chứng khoán.

- Thị trường chứng khoán được phân thành 2 cấp độ: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.

+ Thị trường sơ cấp là thị trường mùa bán các chứng khoán trong lần phát hành đầu tiên.

+ Thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán và thường được thực hiện thông qua các sỏ giao dịch chứng khoán  Việc mua và bán này có thể diễn ra làm nhiều lần trên một đơn vị chứng khoán.

 Thị trường chứng khoán là thị trường phản ứng rất nhạy bén đối với các thay đổi của nền kinh tế  thị trường chứng khoán như là "phong vũ biểu" của nền kinh tế.

e) Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa

* Sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp

- So với lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp, QHSX TBCN trong nông nghiệp xuất hiện muộn hơn.

- Trong lịch sử, QHSX TBCN hình thành trong nông nghiệp theo hai con đường điển hình:

+ Thứ nhất, dần dần chuyển nền nông nghiệp địa chủ phong kiến sang kinh doanh theo PTSX TBCB sử dụng lao động làm thuê. Ví dụ như ở Đức, Italia, Nga Sa hoàng...

+ Thứ hai, thông qua cuộc cách mạng dân chủ tư sản, xoá bỏ chế độ canh tác ruộng đất theo kiểu phong kiến, phát triển CNTB trong nông nghiệp. Ví dụ như ở Pháp, Anh...

* Bản chất của chủ địa tô TBCN

- Địa tô TBCN là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ.

- Phân biệt địa tô TBCN với địa tô phong kiến.

+ Điểm giống nhau: đều là sự hiện thực về mặt kinh tế của quyền sở hữu về ruộng đất. Cả hai đều là kết quả của sự bóc lột đối với người lao động nông nghiêp.

+ Điểm khác nhau:

• Về mặt chất: địa tô phong kiến chỉ phản ánh quan hệ sản xuất giữa hai giai cấp: địa chủ và nông dân, trong đó địac chủ trực tiếp bốc lột nông dân; còn địa tô TBCN phản ánh quan hệ sản xuất giữa ba giai cấp: địa chủ, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê, trong đó địa chủ gián tiếp bóc lột công nhân nông nghiệp làm thuê thông qua nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp.

• Về mặt lượng, địa tô phong kiến bao gồm toàn bộ sản phẩm thặng dư do nông dân tạo ra, có khi còn lấn sang cả phần sản phẩm cần thiết; còn địa tô TBCN chỉ là một phần của sản phẩm thặng dư, đó là phần sản phẩm tương ứng với phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp.

* Các hình thức địa tô TBCN

- Địa tô chênh lệch: là phần địa tô thu được ở trên những ruộng đất có lợi thế về điều kiện sản xuất (độ mầu mỡ của đất đai tốt hơn, vị trí gần thị trường, gần đường hơn, hoặc ruộng đất được đầu tư để thâm canh). Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung được quy định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình.

Hay có thể định lượng, Địa tô chênh lệch = giá cả sản xuất chung - giá cả sản xuất cá biệt

+ Trong nông nghiệp giá cả sản xuất sẽ do điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất quy định.

+ Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch.

 Địa tô chênh lệch gắn với chế độ độc quyền kinh doanh ruộng đất theo lối tư bản chủ nghĩa.

 Sự tồn tại của lợi nhuận trong nông nghiệp có tính ổn định và lâu dài vì nó dựa trên tính cố định của ruộng đất và độ màu mỡ tự nhiên của đất đai  Lợi nhuận siêu ngạch này sẽ chuyển hoá thành địa tô chênh lệch.

+ Có 2 loại địa tô chênh lệch, là địa tô chênh lệch (I) và địa tô chênh lệch (II).

• Địa tô chênh lệch I là địa tô chênh lệch thu được trên những ruộng đất có độ màu mỡ tự nhiên thuộc loại trung bình và tố, có vị trí gần thị trường hoặc gần đường giao thông.

Ví dụ:

Loại

Ruộng TB

đầu

Sản lượng

(tạ) Giá cả sx

cá biệt

Giá cả sx chung Địa tô

chênh lệch

Của

tổng

sản phẩm

Của 1

tạ Của

1 tạ Của

tổng sản phẩm

Tốt 100

20 6 120 20 30 180 60

T.B 100 20 5 120 24 30 150 30

Xấu 100 20 4 120 30 30 120 0

• Địa tô chênh lệch II là địa tô chênh lệch thu được do thâm canh mà có.

Thâm canh là việc đầu tư thêm tư bản vào một đơn vị diện tích đất để nâng cao chất lượng canh tác của đất, nhằm tăng tốc độ màu mỡ trên thửa ruộng đó, nâng cao sản lượng trên một đơn vị diện tích.

- Địa tô tuyệt đối:

+ Là loại địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp đều phải nộp cho địa chủ, cho dù ruộng đất là tốt hay xấu. Đây là loại địa tô thu trên mọi thứ đất.

Ví dụ: Có 2 nhà tư bản nông nghiệp và công nghiệp đều ứng ra một lượng tư bản là 100; cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp là 3/2; cấu tạo hữu cơ của tư bản trong công nghiệp đều bằng 4/1; tỷ suất giá trị thặng dư trong ả 2 ngành nông nghiệp và công nghiệp đều bằng nhau, bằng 100%; thì giá trị và giá trị thặng dư được sản xuất ra ở từng lĩnh vực là:

Trong nông nghiệp: 60 c + 40 v + 40 m = 140

Trong công nghiệp: 80 c + 20 v+ 20 m = 120

 Giả sử tỷ suất lợi nhuận bình quân của xã hội ở mức 20%, có nghĩa là tương ứng với lượng tư bản ứng ra là 100 thì lợi nhuận bình quân thu được sẽ là 20 và và giá sản xuất chung sẽ băng: 100 + 20 = 120

 Tồn tại sự chênh lệch giữa giá trị nông sản phẩm và giá cả sản xuất chung là: 140 - 120 = 20

Kết luận: Địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp luôn thấp hơn cấu tạo hữu cơ của tư bản trong công nghiệp, nó là số chênh lệch giữa giá trị nông sản phẩm và giá cả sản xuất chung.

+ Địa tô tuyệt đối có điểm giống nhưng cũng có điểm khác biệt với địa tô chênh lệch.

• Điểm giống nhau: về thực chất, địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch đều là lợi nhuận siêu ngạch, đều có nguồn gốc từ giá trị thặng dư, đều là kết quả của sự chiếm đoạt lao động thặng dư của công nhân nông nghiệp làm thuê.

• Điểm khác biêt: độc quyền kinh doanh ruộng đất theo kiêu TBCN là nguyên nhân sinh ra địa tô chênh lệch, còn độc quyền tư hữu về ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối. Vì vậy việc xoá bỏ chế độ độc quyền tư hữu về ruộng đất chính là cơ sở để xoá bỏ địa tô tuyệt đối, khi đó giá cả nông sản phẩm sẽ hạ xuống và có lợi cho người tiêu dùng.

Ngoài 2 loại địa tô chủ yếu là địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối, trong thực tế còn tồn tại một số loại địa tô khác như: địa tô đất xây dựng, địa tô hầm mỏ, địa tô độc quyền...

* Giá cả ruộng đất

- Giá cả ruộng đất là một phạm trù kinh tế bất hợp lý, nhưng nó ẩn dấu một quan hệ kinh tế hiện thức.

- Giá cả ruộng đất là hình thức địa tô tư bản hoá. Bởi ruộng đất đem lại địa tô, tức là đem lại một thu nhập ổn định bằng tiền nên nó được xem như một loại tư bản đặc biệt. Còn địa tô được xem như là lợi tức của tư bản đó --> do vậy giá cả ruộng đất chỉ là giá mua quyền thu địa tô do ruộng đất mang lại theo tỷ suất lợi tức hiện hành. -> nó tỷ lệ thuận với địa tô và tỷ lệ nghịch với tỷ suất lợi tư bản gửi vào ngân hàng.

Ví dụ: Một mảnh đất hàng năm đem lại một địa tô là 200 USD, tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng là 5%, thì giá cả mảnh đất là:

Vì với số tiền 4000 USD đó đem gửi ngân hàng với lãi suất 5%/năm cũng thu được một lợi tức 200USD ngang bằng địa tô thu được khi cho thuê ruộng đất.

 Ý nghĩa của lý luận địa tô TBCN của Mác đã:

+ Vạch rõ bản chất QHSX TBCN trong nông nghiệp.

+ Là cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách thuế đối với nông nghiệp và các ngành khác có liên quan đến đất đai có hiệu quả hơn.

C. CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: Điều kiện quyết định để biến tiền thành tư bản là gì? Phân tích điều kiện biến sức lao động thành hàng hóa và hai thuộc ti nhs của hàng hóa sức lao động? Hàng hóa sức lao động có đặc điểm gì khác với hàng hóa thông thường?

Câu 2: Giá trị thặng dư được sản xuất ra như thế nào? Hãy nêu các kết luận rút ra từ sự nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư? Các bộ phận khác nhau của tư bản có vai trò ntn trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư?

Câu 3: Trình bày hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. Vì sao nói giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối? Hãy nêu sự giống nhau và sự khác nhau giữa giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối?

Câu 4: Vì sao nói sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của CNTB. Hãy nêu nội dung và vai trò của quy luật giá trị thặng dư?

Câu 5: Phân tích bản chất của tiền công, mối quan hệ giữa tiền công với giá trị sức lao động và những nhân tố ảnh hưởng đến tiền công thực tế trong CNTB?

Câu 6: Phân tích thực chất, động cơ của tích lũy tư bản và các nhân tố quyết địn quy mô của nó. Hãy nêu ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu?

Câu 7: Tích tụ tư bản là gì? Tập trung tư bản là gì ? Phân tích sự giống và khác nhau giữa tích tụ và tập trung tư bản ?

Câu 8: Trình bày tuần hoàn tư bản và cho biết những điều kiện cần thiết để tuần hoàn tư bản vận động liên tục ? Thời gian chu chuyển của tư bản ?

Câu 9: Phân tích căn cứ phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động ? Nêu các giải pháp khắc phục hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình tư bản cố định ?

Câu 10: Thế nào là tổng sản phẩm xã hội, tư bản xã hội ? Trình bày điều kiện thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tư bản xã hội ?

Câu 11: Phân tích nguyên nhân, tính chu kỳ và hậu quả của khủng hoảng kinh tế ?

Câu 12 : Trình bày sự khác biệt giữa chi phí sản xuất tư bản với chi phí thực tế ? Giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư ?

Câu 13: Phân tích quá trình cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá trị thị trường ?

Câu 14: Trình bày sự hình thành tỷ suất lợi nhuận, lợi nhuận bình quân và sự chuyển hóa giá trị hàng hóa thành giá cả sản xuất ?

Câu 15: Phân tích bản chất của tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp ?

Câu 16: Phân tích đặc điểm của tư bản cho vay và các nhân tố ảnh hưởng đến sự vận động của lợi tức và tỷ suất lợi tức ?

Câu 17: Phân tích bản chất và các hình thức của địa tô TBCN ?

Chương VI

HỌC THUYẾT KINH TẾ VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

Số tiết của chương:

Số tiết giảng:

Số tiết thảo luận, tự học:

A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU:

- Sinh viên nắm được những nội dung chính của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

- Nắm được những nội dung chính của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

- Nắm được những nội dung chính những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại.

- Nắm được những vai trò, hạn chế và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản.

 Vận dụng phân tích một số vấn đề thực tiễn đang đặt ra?

B. NỘI DUNG BÀI GIẢNG:

I. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN

1. Nguyên nhân chuyển biến của chủ nghĩa tư bản từ cạnh tranh tự do sang độc quyền

Cạnh tranh tự do sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất phát trỉen đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền.

Chủ nghĩa tư bàn độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do những nguyên nhân chủ yếu sau:

- Sự phát triển của LLSX dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn.

-Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học mới xuất hiện như lò luyện kim mời Bét - sơ - me, Mác - tanh, Tô - mat... đã tạo ra sản lượng mới gang thép với chất lượng cao; phát hiện ra hoá chất mới như axít sunphuaric (H2SO4) thuốc nhuộm...; máy móc mới ra đời: động cơ điezen, máy phát điện, máy tiện, máy phay... phát triển những phương tiện vận tải mới: xe, hơi, máy điện, máy bay...; và đặc biệt là đường sắt....những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích luỹ tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.

- Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật kinh tế của CNTB như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích luỹ...ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.

- Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích luỹ để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn.

- Sự phát triển của hệ thống tín dụng TBCN toàn thế giới TBCN làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tích tụ và tập trung tư bản.

V.I.Lênin khẳng định: "cạnh tranh tự do đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một múc độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền"

2. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền

a)Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền

- Tích tụ và tập trung sản xuất cao cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.

- Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.

- Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo hình thức liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Những hình thức độc quyền cơ bản là: các - ten, tơ - rớt, công - xoóc - xi - om, công - gơ - lô - mê - rát.

+ Các - ten là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệp nghị thoả thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán... các nhà tư bản tham gia Các - ten vẫn độc lập về sản xuất và thương nghiệp. Họ chỉ cam kết làm đúng hiệp nghị, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của hiệp nghị. Vì vậy, Các - ten là liên minh độc quyền không vững chắc. Trong nhiều trường hợp, những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đã rút ra khỏi Các - ten, làm co các - ten thường tan vỡ trước kỳ han.

+ Xanh - đi - ca là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn các - ten. Các xí nghiệp tham gia xanh - đi - ca vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về lưu thông: mọi việc mua - bán do một ban quản trị chung của Xanh -đi-ca đảm nhận. Mục đích của Xanh - đi - ca là thống nhất đầu mối mua - bán để mua nguyên liệu với giá rẻ. bán hàng hoá với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.

+ Tờ - rớt là một hình thức độc quyền cao hơn các - ten và xanh - đi - ca, nhằm thống nhất cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý. Các nhà tư bản tham gia Tờ - rớt trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.

+ Công - xoóc - xi - om là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và có quy mô lớn hơn các hình thức độc quyền trên. Tham gia công - xoóc - đi - om không chỉ có các nhà tư bản lớn mà còn có cả các xanh - đi - ca, tờ - rớt, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiều liên kết dọc như vậy, một Công - xoóc - xi - om có thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch sù.

b) Tư bản tài chính là bọn đầu sỏ tài chính

Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng

 làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp  ngân hàng bắt đầu có vài trò mới: từ chỗ chỉ là kẻ trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế TBCN

+ Các tổ chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ cho mình.

+ Quá trình độc quyền hoá trong công nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính.

V.I.Lênin nói: "Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà công nghiệp"

 sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và tài chính của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính:

+ Bọn đầu sở tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công ty gốc ("công ty mẹ"), thống trị được công ty khác, gọi là "công ty con"; "công ty con" đến lượt nó lại chi phối các "công ty cháu" cũng bằng cách như thế...--> Nhờ vậy có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp gấp nhiều lần.

+ Ngoài "chế độ tham dự", bọn đầu sở tài chính còn sử dụng những thủ đoạn như lập công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dich, đầu cơ ruộng đất... đê thu được lợi nhuận độc quyền cao.

+ Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sở tài chính thống trị về mặt chính trị và các mặt khác.

Về mặt chính trị, bọn đầu sở tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng.

 Sự thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ chủ nghĩa phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc lột các nước đang phát triển và chậm phát triển.

c) Xuất khẩu tư bản

V.I.Lênin chỉ ra rằng, xuất khẩu hàng hoá là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.

- Vào cuối thế kỷ XIX đầu thê kỷ XX. xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu vì:

+ Một số nước phát triển đã tích luỹ được một khối lượng tư bản lớn và có một số "tư bản thừa" tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận so với đầu tư ở trong nước.

+ Nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại rất thiếu tư bản, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.

- Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) và xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp).

+ Xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng cũng có những xí nghiệp toàn bộ vốn của công ty nước ngoài.

+ Xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp) là hình thức tư bản được thực hiện dưới hình thức cho chính phủ, thành phố, hay một ngân hàng ỏ nước ngoài vay tư bản tiền tệ có thu lãi.

- Thực hiện các hình thức xuất khẩu tư bản trên, xét về chủ sở hữu tư bản, có thể phân tích thành xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước.

+ Xuât khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn vốn từ ngân quỹ của mình để đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản; hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự.

• Về kinh tế: xuât khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo ra môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân. Nhà nước tư bản viện trợ không hoàn lại cho nước nhập khẩu tư bản để ký được những hiệp định thương mại và đầu tư có lợi...

• Về chính trị: viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm duy trì và bảo vệ chế độ ch ính trị "thân cận" đã lung lay ở các nước nhập khẩu tư bản, tăn cường sự phụ thuộc của các nước đó vào các nước đế quốc, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, tạo điều kiện cho tư nhân xuất khẩu tư bản.

• Về quân sự: viện trợ của tư bản nhà nước nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải cho các nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình...

+ Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân thực hiện. Hình thức này có đặc điểm cơ bản là nó thường được đầu tư vào những ngành knh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao, dưới hình thức các hoạt động cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia.

 là sự mở rộng quan hệ sản xuất TBCN ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới

d) Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền

- Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu  sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền  hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.

+ Do lực lượng sản xuất phát triển cao đòi hỏi ngày càng phải có nhiều nguồn nguyên liệu và nơi tiêu thụ; mặt khác, do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch thúc đẩy tư bản độc quyền tăng cường tăng cường bành trướng ra nước ngoài, cần có thị trường ổn định thường xuyên.

+ Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền quốc gia  thỏa hiệp, ký các hiệp định  hình thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng các - ten, xanh - đi - ca, tơ - rớt..

đ) Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc

- Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân chia thế giới về lãnh thổ. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: " CNTB phát triển càng cao, nguyên liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trên toàn thế giới càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn."

- Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bởi vì thuộc địa là nơi bảo đảm nguồn nguyên liệu và thị trường thường xuyên, là nơi tương đối an toàn trong cạnh tranh, bảo đảm thực hiện đồng thời những mục đích về kinh tế, quân sự và chính trị.

- Sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của CNTB đã tất yếu  chiến tranh đòi phân chia lại thế giới  cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914 - 1918/ cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai 1939 - 1945.

 bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến xâm lược.

3. Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền

a) Quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền

- Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyên đối lập với cạnh tranh tự do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh, trái lại với nó còn làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn hơn.

- Có nhiều loại cạnh tranh: cạnh tran giữa những người sản xuất n hỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ trong giai đoạn cạnh tranh tự do. Ngoài ra còn có thêm các loại cạnh tranh sau:

+ Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độc quyền.

+ Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau.

+ Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền.

b) Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.

- Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc quyền; giá cả độc quyền thấp khi mua và giá cả độc quyền cao khi bán  trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị biểu hiện ra thành quy luật giá cả sản xuất, thì trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.

- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân  giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền biểu hiện ra là quy luật lợi nhuận độc quyền cao.

 Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp độc quyền, một phần lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp không độc quyền...

II. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

1. Nguyên nhân hình thành và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

a) Nguyên nhân hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

- Một là, tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung của sản xuất càng cao, do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, yêu cầu kế hoạch hóa tập trung từ một trung tâm.

- Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, ...đòi hỏi nhà nước tư sản phải đứng ra đảm nhiệm kinh doanh các ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.

- Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động  Nhà nước phải có những chính sách để xoa dịu những mâu thuẫn đó như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội..

- Bốn là, cùng với xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới  phải có sự phối hợp giữa các quốc gia tư sản để điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế.

b) Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

* Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.

- Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc).

- Nó là kết quả của 3 quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh kinh tế của độc quyền tư nhân với sức mạnh chính trị của nhà nước trong một thể thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.

CNTB nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ không phải là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của CNTB.

- Trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quá trình kinh tế, vài trò của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật

 sau này, cùng với sự phát triển của CNTB độc quyền, nhà nước còn có vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các biện pháp đòn bẩy kinh tế vào tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng.

=> CNTB độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất TBCN nhằm duy trì sự tồn tại của CNTB, làm cho CNTB thích nghi với điều kiện lịch sử mới.

2. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

a) Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức dộc quyền và nhà nước

- Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các hội chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau, thí dụ: Liên đoàn công nghiệp Italia, tổ chức liên hợp công nghiệp Đức, Liên đoàn công thương Anh...

 Các hội chủ xí nghiệp này trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho CNTB độc quyền nhà nước.

- Các hội chủ hoạt động như là các cơ quan tham mưu cho nhà nước, chi phối đường lối kinh tế, đường lối chính trị của nhà nước tư sản  lái hoạt động của nhà nước theo hướng có lợi cho tầng lớp tư bản độc quyền

 Vai trò: là những chính phủ đằng sau chính phủ, một quyền lực thực tế đằng sau quyền lực của chính quyền.

- Thông qua các hội chủ, các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau, các quan chức và nhân viên được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền, giữ chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự, hoặc trở thành những người đỡ đầu các tổ chứ độc quyền.

 Tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.

b) Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước

* Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.

- Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần cho hoạt động của bộ máy nhà nước, mà bao gồm cả những xí nghiệp nhà nước trong công nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông vận tải, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội... trong đó ngân sách nhà nước là một bộ phận quan trọng nhất.

- Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây dựng xí nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phần của các xí nghiệp tư nhân; mở rộng xí nghiệp nhà nước bằng vốn tích luỹ của các xí nghiệp tư nhân...

- Sở hữu nhà nước thực hiện các chức năng sau:

+ Một là, mở rộng sản xuất TBCN, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của CNTB

+ Hai là, giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi để đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn.

+ Ba là, làm chỗ dựa về kinh tế cho nhà nước để nhà nước điều tiết một số quá trình kinh tế phục vụ lợi ích của tầng lớp tư bản độc quyền.

 Sở hữu nhà nước phản ánh xuyên tạc bản chất của chế độ sở hữu tư nhân TBCN, vì nó biểu hiện tính xã hội.

c) Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản

V.I. Lênin viết: "sự tập trung và quốc tế hoá của tư bản ngày càng có những quy mô rất lớn. CNTB độc quyền biến thành CNTB độc quyền nhà nước; do tình thế thúc bách nên trong nhiều nước đã phải thi hành việc điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối ".

- Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản là một tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội theo hướng có lợi cho tầng lớp tư bản độc quyền.

Hệ thống điều tiết kinh tế của CNTB độc quyền nhà nước cũng được bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế..với nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chính...

- Điều tiết trên mọi lĩnh vực: chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát, chính sách tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội, chính sách đối ngoại...

- Các công cụ chủ yếu dùng để điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế là: ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ - tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch hay chương trình hoá kinh tế và các công cụ hành chính - pháp lý.

III. NHỮNG NÉT MỚI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI

1. Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất

- Thứ nhất, cách mạng công nghệ thông tin (IT) và công nghệ cao phát triển mạnh mẽ như sinh học, vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, hàng không vũ trụ... bùng nổ một cac trào mới mỏ ra không gian rộng lớn mới cho sự phát triển của sức sản xuất.

- Thứ hai, giáo dục được tăng cường và tố chất của người lao động được nâng lên rõ rệt.

- Thứ ba, kinh tế tăng trưởng nhanh, năng suất lao động được nâng cao.

2. Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức

Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất, 200 năm trước thúc đẩy CNTB chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp; cách mạng IT hiện nay đang thúc đẩy nền kinh tế TBCN chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.

- Trong kinh tế tri thức, vài trò của tri thức và kỹ thuật đã cao hơn các yếu tố như nguồn tài nguyên tự nhiên và vốn, trở thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất. Vận hành của kinh tế tri thức chủ yếu không còn do người lao động cơ bắp thao tác máy móc, mà chủ yếu do những người lao động trí óc trong các ngành thiết kế, nghiên cứu phát triển cũng như truyền bá tri thức thúc đẩy.

- Sáng tạo kỹ thuật và sáng tạo cơ chế đóng vai trò then chốt trong phát triển kinh tế tri thức.

- Cùng với sự chuyển đổi loại hình kinh tế, kết cấu ngành nghề của CNTB cũng được điều chỉnh và nâng cấp hơn, chuyển sang dịch vụ hóa và công nghệ cao hóa.

3. Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp

- Thứ nhất, quan hệ sở hữu cũng có những thay đổi, biểu hiện nổi bật là sự phân tán quyền nắm cổ phiếu tăng lên.

- Thứ hai, kết cấu giai cấp cũng đã có những thay đổi lớn, các giai câp, tầng lớp, đoàn thể xã hội và tập đoàn cũng tồn tại và tác động lẫn nhau. Nổi bật nhất là sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu (hay còn gọi là giai cấp trung sản), chiếm khoảng 40 - 50% dân số.

- Thứ ba, cùng với sự tăng trưởng của sản xuất và sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất, thu nhập bằng tiền lương của người lao động cũng có được mức tăng trưởng khá lớn.

Vậy là, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản vẫn tồn tại nhưng nhờ những điều chỉnh của TBCN về QHSX, mà bắt nguồn từ quan hệ sở hữu mà đã phần nào xoa dịu được tính gay gắt của mâu thuẫn này  CNTB muốn tồn tại và phát triển được phải lo giải quyết các vấn đề xã hội, giải quyết mối quan hệ giữa tư bản và lao động, song song với sự phát triển của nhanh chóng của LLSX và cuộc đấu tranh bền bỉ của giai cấp công nhân.

4. Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến đổi lớn

- Thứ nhất, doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết lập cơ cấu tổ chức hàng ngang và mạng lưới.

- Thứ hai, dùng công nghệ cao cải cách cơ chế quản lý sản xuất.

- Thứ ba, thực hiện cải cách quản lý lao động, lấy con người làm gốc, yêu cầu đối với công nhân chủ yếu không phải là điều kiện thể lực mà là phải có kỹ năng và tri thức cao hơn, để họ phát huy tính chủ động và sáng tạo, tự nâng cao năng suất lao động và tăng cường thể chế cạnh tranh của doanh nghiệp.

- Thứ tư, thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp, xuất hiện xu thế hai loại hình lớn hóa và nhỏ hóa cùng hỗ trợ nhau tồn tại.

5. Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường

- Thứ nhất, kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế, nhằm nâng cao sức cạnh tranh tổng thể của quốc gia.

- Thứ hai, sự lựa chọn chính sách thực dụng.

- Thứ ba, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế khác nhau của từng thời kỳ, vận dụng linh hoạt chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, kịp thời điều chỉnh mâu thuẫn cung cầu trong xã hội và mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội khác nhau.

6. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, là lực lương chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế

Các công ty xuyên quốc gia (TNC) là các công ty tư bản độc quyền, bành trướng thế lực ra nước ngoài dười hình thức cài cắm nhánh.

Do có thế lực kinh tế, chính trị hùng mạnh, hệ thống sản xuất. tiêu thụ, dịch vụ, nghiên cứu khoa hoc, thông tin toàn cầu hóa, các TNC đã có tác động lớn đến các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và thế lực của họ đã thâm nhập các lĩnh vực trên toàn thế giới. Thể hiện ở những điểm sau:

- Các công ty xuyên quốc gia đã thúc đẩy toàn cầu hóa sản xuất và nguồn vốn, thúc đẩy mạnh mẽ phân công lao động quốc tế sâu sắc hơn, dựa vào nhau trong đời sống kinh tế, thúc đẩy buôn bán quốc tế phát triển nhanh.

- Truyền bá khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý trên phạm vi toàn cầu, tạo không gian rộng lớn để phát triển lực lượng sản xuất và điều chỉnh quan hệ tư bản chủ nghĩa trên quy mô quốc tế.

- Chiếm đoạt thị trường toàn cầu, xuất khẩu vốn và hàng hóa trên quy mô lớn, thu về nhiều ngoại tệ, phát triển thực lực trong nước, tăng cường kiểm soát của tư bản độc quyền trên phạm vi toàn cầu.

- Tạo cơ hội và cả những thách thức to lớn cho các quốc gia đang phát triển.

- Ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Các TNC thao túng nguồn vốn tín dụng quốc tế khổng lồ, hình thành thị trường tiền tệ lớn, trở thành các nhà kinh doanh ngoại tệ lớn nhất và lực lượng chủ yếu thúc đẩy lưu thông vốn trên toàn thế giới, ảnh hưởng trực tiếp đến việc ổn định thị trường tiền tệ và cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.

7. Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhà nước của các quốc gia TBCN ngày càng chú trọng phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy, những xung đột kinh tế như chiến tranh mậu dịch, chiến tranh tỷ giá hối đoái, chiến tranh lãi suất mà trước đây thường có giữa các nước phương Tây đã giảm xuống.

Tăng cường điều tiết và phối hợp quốc tế có vai trò không thể xem nhẹ trong việc xoa dịu mâu thuẫn bên trong và bên ngoài của các nước TBCN, tạo không gian phát triển rộng lớn hơn cho CNTB.

IV. VAI TRÒ, HẠN CHẾ VÀ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

Hai xu thế: phát triển nhanh chóng và trị trệ thối nát được thể hiện rõ qua vai trò và hạn chế của chủ nghĩa tư bản như sau:

1. Vai trò của CNTB đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội

CNTB phát triển qua hai giai đoạn: CNTB cạnh tranh tư do và CNTB độc quyền mà nấc thang tột cùng của nó là CNTB độc quyền nhà nước.

Vai trò tích cực đối với sự phát triển sản xuất, đó là:

- Sự ra đời của CNTB đã giải phóng loài người khỏi "đêm trường trung cổ" của xã hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hoá TBCN, chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại: dưới tác động của quy luật giá trị thặng dư và quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá, CNTB đã làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng của cải, vật chất khổng lồ - "CNTB ra đời chưa đầy 100 năm mà đã tạo ra một khối lượng của cải vật chất khổng lồ bằng tất cả các thế hệ trước đây cộng lại" ( "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản"- 1848).

- Phát triển lực lượng sản xuất

+ Quá trình phát triển của CNTB đã làm cho LLSX phát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ công lên kỹ thuật cơ khí (thời kỳ của C. Mác và Lênin) và ngày này các nước TBCN cũng đang là những quốc gia đi đầu trong việc tự động hoá, tin học hoá và công nghệ hiện đại.

+ Giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người.

- Thực hiện xã hội hoá sản xuất

+ CNXH đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh và đạt tới mức điển hình nhất trong lịch sử.

+ Xã hội hoá sản xuất cả chiều rộng và chiều sâu: đó là sự phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất tập trung với quy mô hợp lý, chuyên môn hoá sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc, ..--> làm cho các quá trình sản xuất phân tán được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, thành một quá trình sản xuất xã hôi.

- CNTB thông qua cuộc cách mạng công nghiệp đã lần đầu tiên biết tổ chức lao động theo kiểu công xưởng và do đó đã xây dựng được tác phong công nghiệp cho người lao động, làm thay đổi nề nếp thói quen của người lao động sản xuất nhỏ trong xã hội phong kiến.

- CNTB lần đầu tiên trong lịch sử đã thiết lập lên nền dân chủ tư sản, nền dân chủ tư sản này tuy chưa phải là hoàn hảo song so với thể chế chính trị trong các xã hội phong kiến, nô lệ,... vẫn tiến bộ hơn rất nhiều vì nó được xây dựng trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thân thể của cá nhân.

=> Với những thành tựu và đóng góp trên, sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là sự chuẩn bị tốt nhất những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của CNXH trên phạm vi toàn thế giới.

2. Hạn chế của chủ nghĩa tư bản

- Trước hết, về lịch sử ra đời của CNTB:

+ CNTB ra đời gắn liền với quá trình tích luỹ nguyên thuỷ của CNTB  đó là quá trình tích luỹ tiền tệ nhờ vào những biện pháp ăn cướp, tước đoạt đối với những người sản xuất hàng hoá nhỏ và nông dân tự do; nhờ những hoạt động buôn bán, trao đổi không ngang giá, qua đó mà thực hiện sự bóc lột, nô dịch đối với những nươc lạc hậu.

+ Về quá trình tích luỹ nguyên thuỷ của CNTB, C. Mác cho rằng, đó là lịch sử đầy máu và bùn nhơ, không giống như một câu chuyện tình ca, nó được sử sách ghi chép lại bằng những trang đẫm máu và lửa không bao giời phai.

- Cở sở cho sự tồn tại và phát triển của CNTB là quan hệ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê.  sự bất bình đẳng, phân hoá xã hội vẫn là điều không tránh khỏi.

- Các cuộc chiến tranh thế giới với mục đích tranh giành thị trường, thuộc địa và khu vực ảnh hưởng đã để lại cho loài người những hậu quả nặng nề: hàng triệu người vô tội đã bị giết hại, sức sản xuất của xã hội bị phá huỷ, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới bị kéo lùi lại hàng chục năm.

Ngày nay, chính CNTB là thủ phạm châm ngòi cho những xung đột quân sự vũ trang giữa các quốc gia.

- CNTB sẽ phải chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra hố ngăn cách giữa các nước giàu và các nước nghèo trên thế giới (thế kỷ XVIII chênh lệch về mức sống giữa nước giàu nhất và nước nghèo nhất mới chỉ là 2,5 lần, hiện nay số chênh lệch ấy là 250 lần).

- Trong những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới thứ ba bị trì trệ, suy thoái. Ví dụ:.." ở một vài nước Mỹ La Tinh, GNP theo đầu người hiện nay thấp hơn so với 10 năm trước đây, ở nhiều nước Châu Phi, nó còn thấp hơn cách đây 20 năm".

- Các cường quốc tư bản độc quyền hàng ngày mấy thế kỷ nay đã tăng cường vơ vét tài nguyên, bóc lột nhân công các nước ngheo và tìm cách khống chế họ trong vòng phụ thuộc thông qua các con đường xuất khẩu tư bản, viện trợ, cho vay...--> Các nước nghèo không những bị cạn kiệt về tài nguyên mà còn mắc nợ không trả được, điển hình là các quốc gia ở Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh. Ở Braxin người ta tính ra riêng số lãi mà Braxin phải trả trong năm 1988 bằng 288 triệu xuất lương tối thiểu hay bằng xây nhà cho 30 triệu người, trong khi đó ước tính khoảng 2/3 dân Braxin thiếu ăn.

3. Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản

Những thành tựu và hạn chế trên đây của CNTB bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của CNTB: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hoá cao của LLSX với quan hệ sở hữu tư nhân TBCN về TLSX.

- CNTB càng phát triển, tính chất và trình độ xã hội hoá của LLSX ngày càng cao thì quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về TLSX ngày càng trở nên chật hẹp so với nội dung vật chất ngày càng lớn lên của nó.

 CNTB phát triển đến một chừng mực nhất định, quan hệ sở hữu tư nhân TBCN sẽ bị phá vỡ và thay vào đó là một quan hệ sở hữu mới - sở hữu xã hội (sở hữu công cộng) về TLSX được xác lập để đáp ứng yêu cầu phát triển của LLSX  PTSX TBCN sẽ bị thủ tiêu và một PTSX mới - PTSX cộng sản chủ nghĩa sẽ ra đời và phụ định PTSX TBCN.

- PTSX TBCN không tự tiêu vong và PTSX cộng sản chủ nghĩa cũng không tự phát hình thành mà phải được thực hiện thông qua cuộc cách mạng xã hội, trong đó giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội này chính là giai cấp công nhân.

C. CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: Phân tích nguyên nhân chuyển biến của CNTB từ cạnh tranh tự do sang độc quyền? Trình bày những đặc điểm kinh tế cơ bản của CNTB độc quyền?

Câu 2: Phân tích mối quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh, sự biểu hiện của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn CNTB độc quyền?

Câu 3: Phân tích nguyên nhân hình thành và bản chất của CNTB độc quyền nhà nước? Trình bày những biểu hiện chủ yếu của CNTB độc quyền nhà nước?

Câu 4: Trình bày những nét mới trong sự phát triển của CNTB hiện đại?

Câu 5: Phân tích vai trò, hạn chế và xu hướng vận động của CNTB?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro