kaka ho chi minh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

2.2       Hành trình tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Mình

Từ khi học thuyết Mác-Lê nin ra đời đến nay đã có nhiều người tiếp cận, nhưng không phải ai cũng thành công, thậm chí có người còn phản bội lại nó. Điều đó phụ thuộc vào phẩm chất cá nhân của từng người. Hồ Chí Minh đã đến và tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lê nin bằng con đường riêng của mình.

Sau Điều ước Pa-tơ-nốt năm 1884, thực dân Pháp đã hoàn thành về cơ bản quá trình bình định và chính thức xác lập ách thống trị trên đất nước Việt Nam. Nước ta trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt, trở thành mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu. Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ càng gay gắt. Đây là trở lực lớn, kìm hãm sự phát triển của xã hội Việt Nam. Chỉ có giải quyết thành công những mâu thuẫn trên đây - đồng nghĩa tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, thì xã hội Việt Nam mới tiếp tục phát triển.

Các nhà yêu nước đương thời đã dự lập nhiều con đường, cách thức hành động khác nhau để cứu nước và giải phóng dân tộc. Khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân Đảng tiến hành thất bại, đã đánh dấu sự kết thúc cho những nỗ lực kiểu cũ của phong trào yêu nước Việt Nam. Từ đó đòi hỏi phải có sự tìm tòi mới và một trong những hướng tìm đường cứu nước mới chính là vận động thanh niên xuất dương ra các nước.

Đương thời, Nhật Bản dưới triều đại Minh Trị thiên hoàng, cùng với tiếng vang của cách mạng Tân Hợi (Trung Hoa dân quốc) có sức hút lớn đối với các chí sĩ Việt Nam yêu nước. Nhà cách mạng Phan Bội Châu chủ trương dựa vào viện trợ từ bên ngoài để mong thực hiện cuộc cải cách ở trong nước và đã chủ xướng phong trào Đông Du. Nhà chí sĩ Phan Chu Trinh thì chủ trương dựa vào Pháp, tiến hành đấu tranh nghị trường theo phương châm “Pháp - Việt đề huề” để cải thiện dân sinh, tiến tới đòi lại quyền tự chủ cho dân tộc… Tất cả các cuộc khảo nghiệm tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc của các nhà yêu nước tiền bối đều không thành công. Cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Yêu cầu khách quan, cấp bách của cách mạng Việt Nam là phải tìm được con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại để mở đường cho dân tộc Việt Nam phát triển đi lên.

Mặc dù rất khâm phục lòng yêu nước và đánh giá cao những cống hiến của các bậc cách mạng tiền bối cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng bằng dự cảm chính trị thiên tài, Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này) đã nhận thấy những hạn chế và bế tắc về mục tiêu và phương pháp cách mạng của các nhà yêu nước đương thời nên khó đi đến thành công. Người quyết định đi tìm con đường cứu nước mới. Nhưng đi đâu, làm gì để cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách nô lệ, lầm than của chủ nghĩa thực dân, đế quốc? Khác hẳn với các nhà yêu nước tiền bối, Người đã chọn hướng con đường cứu nước của mình sang phương Tây với bến đỗ đầu tiên trong hành trình là nước Pháp. Đây không phải là hành động ngẫu nhiên, tự phát của Người, mà là sự lựa chọn, trăn trở; một quyết tâm lớn, nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam.

Ngày 5 tháng 6 năm 1911, trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville) của hãng Năm sao, từ bến cảng Nhà Rồng (thành phố Sài Gòn), người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (bí danh Văn Ba) rời Tổ quốc bắt đầu cuộc hành trình lịch sử đi tìm đường cứu nước.

Không chọn sang Nhật Bản hay Trung Hoa dân quốc như các chí sĩ yêu nước đương thời, Nguyễn Tất Thành chọn hướng sang phương Tây. Chính từ những nhận thức về bối cảnh đất nước, về văn minh phương Tây, văn hóa Pháp khi Người còn ở độ tuổi niên thiếu và thời gian học ở Trường Quốc học Huế, đã thôi thúc Người muốn tìm hiểu về nước Pháp để xem đằng sau những từ “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” là cái gì. Người cho rằng: “Muốn đánh hổ thì phải vào hang hổ!”. Mặt khác, chính chủ nghĩa thực dân Pháp đang thống trị Việt Nam, cho nên Người quyết chí đến Pháp để trực tiếp xem xét, nghiên cứu. Năm 1923, Người kể lại cho một nhà báo Nga Xô-viết: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn náu sau những chữ ấy”. Lần khác, Người trả lời một nhà văn Mỹ: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.

Mục đích sang phương Tây của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thể hiện tầm nhìn vượt trội so với các nhà yêu nước đương thời. Trong khoảng 10 năm (1911 - 1920), Người đã đi qua hàng chục quốc gia, từ các nước tư bản phát triển đến các nước thuộc địa ở châu Phi, châu Mỹ La-tinh. Người vừa phải tìm việc làm để kiếm sống, vừa tự học tập, tìm hiểu tình hình chính trị - xã hội của nước sở tại và các nước tư bản chủ nghĩa khác và tham gia hoạt động yêu nước ở nước ngoài. Đến đâu Người cũng quan sát kỹ lưỡng, so sánh, nhận xét, đi sâu tìm hiểu cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao động, để tìm hiểu sâu về nền văn hóa của các nước tư bản phát triển thờì đó và thực chất của nền văn minh dựa trên chế độ người bóc lột người, chứ không phải đi cầu ngoại viện theo con đường “ỷ Pháp cầu tiến” của nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh... Người hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và rút ra những nhận xét rất sâu sắc: Ở đâu, chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu, giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị bóc lột dã man. Vì thế, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn. Người viết: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Từ kết luận này đã đặt cơ sở cho phát triển quan điểm đúng đắn của Người về bạn, thù và sớm hình thành tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, về sự đoàn kết cách mạng ở chính quốc với cách mạng thuộc địa.

Trong những năm ở nước Mỹ và nước Pháp, Người dành nhiều thời gian tìm hiểu về các cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới là cách mạng Mỹ (1776) với bản “Tuyên ngôn Độc lập” và cách mạng tư sản Pháp (1789) bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền”. Người rất khâm phục tinh thần cách mạng ở những nước này, nhưng không thể đi theo con đường của họ được. Bởi vì, như Người đã nói: “Kách mệnh Mỹ cũng như kách mệnh Pháp là kách mệnh tư bản, kách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Bằng nhãn quan chính trị sắc sảo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt trên hẳn tư duy tìm đường cứu nước của các nhà cách mạng tiền bối. Người đã kiên quyết không lựa chọn con đường cách mạng tư sản, bởi theo Người, đó là những cuộc cách mạng “không đến nơi”, không triệt để vì nó không hề đề cập đến vấn đề giải phóng mọi tầng lớp nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột, bất công.

Phương thức để đạt được mục đích cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh so với các nhà cách mạng tiền bối và đương thời cũng có sự khác biệt và độc đáo. Cụ Phan Chu Trinh sang nước Pháp nhờ cậy vào Hội nhân quyền của Pháp. Cụ Phan Bội Châu sang Nhật Bản mưu cầu vào lòng “hằng tâm hằng sản” của nhiều người trợ giúp. Nhưng Người ra đi tìm đường cứu nước bằng chính bàn tay lao động và trí tuệ của mình; thông qua con đường “vô sản hóa” đi đến nhiều nước, Người vừa tích cực học tập, nghiên cứu, vừa tìm cách đấu tranh với những kẻ xâm lược đất nước mình ở ngay chính quốc. Tháng 6 năm 1919, khi các nước đế quốc thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội nghị ở Véc-xây (Versailles) nước Pháp để mục đích phân chia lại thế giới, Người đã chớp lấy cơ hội đó để cùng với một số nhà yêu nước khác tại Pháp, gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 tám điểm, tố cáo chính sách của thực dân Pháp và đòi chính phủ Pháp phải thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Sự kiện trên đã gây tiếng vang lớn trong thế giới thuộc địa. Bản Yêu sách phản ánh nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam nhưng không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc càng nhận rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc với những lời tuyên bố về quyền tự do của các dân tộc chỉ là trò lừa bịp; và Người đã rút ra bài học vô cùng giá trị là: Sự nghiệp giải phóng dân tộc mình chủ yếu phải do dân tộc mình quyết định, phải trông cậy vào lực lượng của chính mình, chứ không phải dựa chủ yếu vào bên ngoài… Qua sự kiện đó càng khẳng định sự nhạy cảm về chính trị, tính chủ động, khôn khéo, sắc bén trong đấu tranh cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt lên trên tầm nhìn của các nhà chí sĩ yêu nước đương thời; đồng thời, đánh dấu sự tiếp cận gần hơn chủ nghĩa Mác - Lênin của Người.

 Một sự độc đáo nữa của Hồ Chí Minh là Người ra đi nước ngoài không phải bằng một sự trợ giúp nào. Cụ Phan Chu Trinh sang Pháp nhờ vào Hội nhân quyền của Pháp. Cụ Phan Bội Châu sang Nhật nhờ vào lòng "hằng tâm hằng sản" của nhiều người. Còn Nguyễn Tất Thành ra đi bằng chính sức lao động của mình. Người chấp nhận cuộc đời lao động chân tay rẻ mạt của một người vô sản làm thuê để kiếm sống. Và bằng con đường "vô sản hóa" đó, Người đã đặt chân lên hầu khắp các lục địa - điều mà chưa một nhà cách mạng nào cho đến lúc bấy giờ làm được. Các Mác, Lê nin dù có đi nhiều nơi, nhưng cũng chưa đến phương Đông. Chủ tịch Mao Trạch Đông trong cuộc đời của mình chỉ có một lần duy nhất đi ra nước ngoài là đến Liên xô năm 1957 để dự Hội nghị các Đảng cộng sản và công nhân các nước họp ở Mát-xcơ-va. Có thể nói Hồ Chí Minh đã làm một cuộc khảo sát có một không hai về chủ nghĩa thực dân, về các chính quốc và thuộc địa.

Cần nói thêm rằng, trong thời gian từ khi Người đặt chân lên đất Pháp cho đến khoảng 10 năm sau đó, ở Pháp cũng như ở châu Âu chủ nghĩa cơ hội đang hoành hành. Nhưng nhờ phương pháp đi vào quần chúng "bên dưới" mà Hồ Chí Minh không sa vào chủ nghĩa cơ hội. Nhờ vậy, Người đã thâm nhập vào đời sống thực tế của quần chúng lao động, hiểu sâu sắc cuộc sống của họ. Từ đó Người khái quát: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản". Đây là một bước phát triển mới về nhận thức của Hồ Chí Minh. Nhận thức đó đã đưa Hồ Chí Minh đến gần với chủ nghĩa Mác-Lê nin.

Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo (L’Humanité) Pháp, Người được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin. Bản Luận cương của V.I. Lênin như luồng ánh sáng mặt trời chiếu rọi vào trí tuệ và tâm hồn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, đem đến cho Người một nhãn quan chính trị mới. Nguyên Cố Tổng bí thư Trường Chinh đã khẳng định: “Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa đến với Người như một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách mạng mà Người hằng nung nấu”.

Sự kiện được đọc bản bản Luận cương của V.I. Lênin, cùng với những hoạt động sát cánh với các tầng lớp công nhân, trí thức Pháp và các đại biểu thuộc địa, cùng đồng bào mình trên đất Pháp trước đó, là tiền đề có tính quyết định việc Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) và thành lập Đảng Cộng sản Pháp, tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII tổ chức ở thành phố Tua (Tours), tháng 12/1920. Người đã trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.

Trước đó Hồ Chí Minh từng đọc "Tư bản" và một số tác phẩm của Các Mác trước khi đọc Luận cương của Lê nin. Nhà sử học Mỹ William J.Duiker cho biết: "Một lần Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu Jean Longuet (cháu ngoại của Các Mác - chú thích của người viết) giải thích về học thuyết Mác, Jean Longuet lưỡng lự và nói rằng câu hỏi quá phức tạp và gợi ý Nguyễn đọc bộ Tư bản của Mác. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc đã đến thư viện gần Quảng trường Italia mượn tác phẩm đồ sộ đó để đọc cùng với số tác phẩm mác xít khác". Sau này Người thừa nhận đó là bộ sách "gối đầu giường" của mình. Tuy nhiên, Người vẫn chưa nhận ra con đường cứu nước, bởi bộ sách đồ sộ này của Mác không có dòng nào về thuộc địa, về cách mạng giải phóng dân tộc - điều mà Người quan tâm bậc nhất. Chỉ đến khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất luận cương các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa do Lê nin viết chuẩn bị trình Đại hội II Quốc tế cộng sản, Người mới phát hiện ra con đường giải phóng dân tộc. Bởi vì, vấn đề thuộc địa và giải phóng dân tộc là một trong những nội dung quan trọng của Luận cương.

Từ đó, Người tin theo Quốc tế III (Quốc tế III cũng đưa vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa vào chương trình nghị sự. Sau đó, Người có điều kiện nghiên cứu kỹ hơn chủ nghĩa Mác-Lê nin trong khoảng thời gian từ giữa năm 1923 đến cuối năm 1924 khi học ở Đại học Phương Đông. Đến đây, Người thực sự trở thành "người học trò nhỏ" của Mác-Lê nin và chủ nghĩa Mác-Lê nin trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro